51
UBND TỈNH TRÀ VINH ĐẠI HỌC QUỐC GIA TPHCM SỞ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ TRƯỜNG ĐẠI HỌC BÁCH KHOA HỒ SƠ THUYẾT MINH ĐỀ TÀI THIẾT KẾ HỆ THỐNG KIỂM TRA MỘT SỐ CHỈ SỐ MÔI TRƯỜNG NUÔI TÔM TỰ ĐỘNG SỬ DỤNG HỆ THỐNG THÔNG TIN DI ĐỘNG VÀ CẢM BIẾN QUANG PHỔ KHÔNG TIẾP XÚC Cơ quan chủ trì đề tài: Trường Đại học Bách Khoa – Đại học Quốc gia TPHCM Chủ nhiệm đề tài: TS. Phạm Quang Thái Cơ quan quản lý đề tài: Sở Khoa học và Công nghệ tỉnh Trà Vinh TPHCM, 10/2017

HỒ SƠ THUYẾT MINH ĐỀ TÀI THIẾT KẾ HỆ THỐNG KIỂM TRA …€¦ · THUYẾT MINH ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU ỨNG DỤNG VÀ PHÁT TRIỂN CÔNG NGHỆ CẤP TỈNH

  • Upload
    others

  • View
    15

  • Download
    1

Embed Size (px)

Citation preview

  • 0

    UBND TỈNH TRÀ VINH ĐẠI HỌC QUỐC GIA TPHCM

    SỞ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ TRƯỜNG ĐẠI HỌC BÁCH KHOA

    HỒ SƠ THUYẾT MINH ĐỀ TÀI

    THIẾT KẾ HỆ THỐNG KIỂM TRA MỘT SỐ CHỈ SỐ MÔI TRƯỜNG

    NUÔI TÔM TỰ ĐỘNG SỬ DỤNG HỆ THỐNG THÔNG TIN DI ĐỘNG

    VÀ CẢM BIẾN QUANG PHỔ KHÔNG TIẾP XÚC

    Cơ quan chủ trì đề tài: Trường Đại học Bách Khoa – Đại học Quốc gia

    TPHCM

    Chủ nhiệm đề tài: TS. Phạm Quang Thái

    Cơ quan quản lý đề tài: Sở Khoa học và Công nghệ tỉnh Trà Vinh

    TPHCM, 10/2017

  • 1

    Biểu B1-2a-TMĐTCN

    THUYẾT MINH

    ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU ỨNG DỤNG

    VÀ PHÁT TRIỂN CÔNG NGHỆ CẤP TỈNH

    I. THÔNG TIN CHUNG VỀ ĐỀ TÀI

    1 Tên đề tài: Thiết kế hệ thống kiểm tra một số chỉ số

    môi trường nuôi tôm tự động sử dụng hệ thống thông

    tin di động và cảm biến quang phổ không tiếp xúc

    1a Mã số (được cấp khi Hồ sơ

    trúng tuyển)

    2 Thời gian thực hiện: 24 tháng 3 Cấp quản lý

    (Từ tháng 11 /2017 đến tháng 11 /2019)

    Quốc gia Bộ

    Tỉnh Cơ sở

    4 Tổng kinh phí thực hiện: 780.773.000 đồng, trong đó:

    Nguồn Kinh phí (đồng)

    Từ Ngân sách nhà nước: 780.773.000

    Ngoài ngân sách nhà nước: 0

    - Từ nguồn tự có của tổ chức 0

    - Từ nguồn khác 0

    5 Phương thức khoán chi:

    Khoán đến sản phẩm cuối cùng Khoán từng phần, trong đó:

    - Kinh phí khoán: ………….....đồng

    - Kinh phí không khoán: ……………….. đồng

    6

    Thuộc Chương trình (Ghi rõ tên chương trình, nếu có), Mã số:

    Thuộc dự án KH&CN

    Độc lập

    Khác

    7 Lĩnh vực khoa học

  • 2

    Tự nhiên; Nông, lâm, ngư nghiệp;

    Kỹ thuật và công nghệ; Y dược.

    8 Chủ nhiệm đề tài

    Họ và tên: Phạm Quang Thái..................................................................................................

    Ngày, tháng, năm sinh: 01/01/1981............................ Giới tính: Nam / Nữ:

    Học hàm, học vị/ Trình độ chuyên môn: tiến sĩ.....................................................................

    Chức danh khoa học: ...................................................Chức vụ: giảng viên..........................

    Điện thoại: Tổ chức: (08)38647256 Nhà riêng: .......................... Mobile: 0936686131

    Fax:.................................................. E-mail: [email protected]...............................

    Tên tổ chức đang công tác: Trường Đại học Bách Khoa – Đại học Quốc gia TPHCM

    Địa chỉ tổ chức: 268, Lý Thường Kiệt, P14, Q10, TPHCM...................................................

    Địa chỉ nhà riêng: S2, Ba Vì, P15, Q10, TPHCM..................................................................

    9 Thư ký đề tài

    Họ và tên: Nghị Vĩnh Khanh..................................................................................................

    Ngày, tháng, năm sinh: 25/06/1979....................... Nam/ Nữ: Nam........................................

    Học hàm, học vị/ Trình độ chuyên môn: thạc sĩ......................................................................

    Chức danh khoa học: ........................ Chức vụ: Trưởng Ban Phát triển Hệ thống CNTT

    Điện thoại: Tổ chức: 0743 855245 -281 Nhà riêng: ................... Mobile: 0908378540......

    Fax: .................................................. E-mail: [email protected]...........................

    Tên tổ chức đang công tác: Trường Đại học Trà Vinh..........................................................

    Địa chỉ tổ chức: 126 Nguyễn Thiện Thành, khóm 4, phường 5, TP Trà Vinh, tỉnh Trà Vinh

    Địa chỉ nhà riêng: 112/A1, Trần Phú, P2, TP Trà Vinh........................................................

    10 Tổ chức chủ trì đề tài

    Tên tổ chức chủ trì đề tài: Trường Đại học Bách Khoa – Đại học Quốc gia TPHCM

    Điện thoại: (08)38647256 ............ Fax: (08) 38653823........................................................

    Website: www.hcmut.edu.vn.................................................................................................

    Địa chỉ: 268 Lý Thường Kiệt, Quận 10, TP Hồ Chí Minh.....................................................

    Họ và tên thủ trưởng tổ chức: GS.TS Vũ Đình Thành...........................................................

    Số tài khoản: 3713.0.1056923................................................................................................

    Kho bạc nhà nước/Ngân hàng: Kho bạc Nhà nước TP.HCM................................................

    11 Các tổ chức phối hợp chính thực hiện đề tài (nếu có)

    1. Tổ chức 1 : Trường Đại học Trà Vinh..............................................................................

  • 3

    Tên cơ quan chủ quản: Uỷ Ban Nhân Dân tỉnh Trà Vinh.......................................................

    Điện thoại: 0743 855245.................. Fax: ..............................................................................

    Địa chỉ: 126 Nguyễn Thiện Thành, khóm 4, phường 5, TP Trà Vinh, tỉnh Trà Vinh............

    Họ và tên thủ trưởng tổ chức: TS. Phạm Tiết Khánh........................................................

    Số tài khoản: ..........................................................................................................................

    Ngân hàng: .............................................................................................................................

    12 Các cán bộ thực hiện đề tài

    (Ghi những người có đóng góp khoa học và chủ trì thực hiện những nội dung chính thuộc tổ

    chức chủ trì và tổ chức phối hợp tham gia thực hiện đề tài, không quá 10 người kể cả chủ nhiệm đề

    tài. Những thành viên tham gia khác lập danh sách theo mẫu này và gửi kèm theo hồ sơ khi đăng ký)

    TT Họ và tên,

    học hàm học vị

    Tổ chức

    công tác

    Nội dung,

    công việc chính tham gia

    Thời gian làm việc

    cho đề tài

    (Số tháng quy đổi2)

    1 TS. Phạm

    Quang Thái

    Trường Đại

    học Bách

    Khoa

    TPHCM

    Chủ nhiệm đề tài, tham gia

    vào toàn bộ các nội dung của

    đề tài

    6

    2 TS. Hà Hoàng

    Kha

    Trường Đại

    học Bách

    Khoa

    TPHCM

    Thành viên nghiên cứu

    chính, tham gia vào toàn bộ

    các nội dung của đề tài

    8

    3 TS. Trịnh Xuân

    Dũng

    Trường Đại

    học Bách

    Khoa

    TPHCM

    Thành viên nghiên cứu

    chính, tham gia vào toàn bộ

    các nội dung của đề tài

    7

    4 ThS. Nghị Vĩnh

    Khanh

    Trường Đại

    học Trà Vinh

    Thư ký khoa học, tham gia

    vào toàn bộ các nội dung của

    đề tài

    12

    II. MỤC TIÊU, NỘI DUNG KH&CN VÀ PHƯƠNG ÁN TỔ CHỨC THỰC HIỆN ĐỀ TÀI

    13 Mục tiêu của đề tài (Bám sát và cụ thể hoá định hướng mục tiêu theo đặt hàng)

    1. Thiết kế hệ thống cảm biến đo đạc đo đạc 07 chỉ tiêu sau: Ammonia (NH3), Nitrate (NO3-),

    Oxy hòa tan (DO), pH, nhiệt độ, độ mặn, H2S. Trong đó, 03 chỉ tiêu là Ammonia, Nitrate và

    DO được đo bằng cảm biến quang phổ không tiếp xúc, trường hợp không thể đo thành công

    DO bằng cảm biến quang phổ không tiếp xúc thì có thể dùng cảm biến ion để tích hợp, 04

    chỉ tiêu còn lại pH, nhiệt độ, độ mặn, H2S sẽ dùng các cảm biến đã có trên thị trường để tích

    hợp cho hệ thống.

    2. Thiết kế hệ thống kiểm tra một số thông số môi trường nuôi tôm tự động qua hệ thống thông

    2 Một (01) tháng quy đổi là tháng làm việc gồm 22 ngày, mỗi ngày làm việc gồm 8 tiếng

  • 4

    tin di động hướng tới khả năng nâng cao hàm lượng công nghệ cao trong nông nghiệp, hỗ trợ

    khả năng phát triển kinh tế bền vững và kiểm tra chất lượng môi trường nước.

    14 Tình trạng đề tài

    Mới Kế tiếp hướng nghiên cứu của chính nhóm tác giả

    Kế tiếp nghiên cứu của người khác

    15 Tổng quan tình hình nghiên cứu, luận giải về mục tiêu và những nội dung nghiên cứu

    của đề tài

    15.1 Đánh giá tổng quan tình hình nghiên cứu thuộc lĩnh vực của đề tài

    Ngoài nước (Phân tích đánh giá được những công trình nghiên cứu có liên quan và những kết

    quả nghiên cứu mới nhất trong lĩnh vực nghiên cứu của đề tài; nêu được những bước tiến về

    trình độ KH&CN của những kết quả nghiên cứu đó)

    Đối với các hệ thống cảm biến chất lỏng, phương pháp tiếp cận có thể được phân chia thành ba

    loại chủ yếu: độ dẫn điện, chỉ thị màu và quang phổ.

    Đối với phương pháp tiếp cận đầu tiên, các ion hòa tan trong dung môi sẽ làm thay đổi độ dẫn

    điện. Điện áp của môi trường chứa ion sẽ thay đổi tùy thuộc vào hàm mũ của mật độ ion tương

    ứng, tuân theo phương trình Nernst. Các cảm biến sử dụng phương pháp này thường là các điện

    cực được nhúng trực tiếp vào chất cần đo đạc. Ví dụ, điện cực làm bằng thủy tinh là thiết bị phổ

    biến để đo đạc độ pH của dung dịch theo phương pháp này [1]. Điện cực Clark là phương pháp

    phổ biến để đo đạc nồng độ oxy trong môi trường [2]. Điện cực Clark, sử dụng vàng và bạch kim

    cho cathode và bạc cho anode, có thể dùng để đo đạc trong cả môi trường khí và lỏng (chẳng hạn

    như mẫu máu). Việc sử dụng các điện cực này có một số hạn chế nhất định. Điện cực thủy tinh

    đo pH có đáp ứng chậm, không phù hợp với nhiệt độ hoạt động cao, dễ bị nhiễu điện từ và có

    kích thước lớn. Trong khi đó, điện cực Clark có thể hoạt động ở nhiệt độ cao và kích thước nhỏ

    gọn hơn, nhưng lại làm hư hại mẫu dung dịch sau khi đo xong và dễ bị nhiễu bởi các chất như

    chlorine, ozone hay nitrogen oxide.

    Các cảm biến dùng điện cực có thể được giảm kích thước bằng cách kết hợp với công nghệ điện

    tử. Chẳng hạn, linh kiện FET có mức độ dẫn điện tùy thuộc vào điện áp trên chân điều khiển.

    Chân điều khiển này được kết nối với các màng mỏng bằng chất nhạy với ion cần đo đạc [3].

    Chẳng hạn, màng carbon nanotube dùng để chế tạo cảm biến pH [4] và silicon nanowire dùng để

    chế tạo cảm biến Al2O3 [5]. Khi dung dịch cần đo đạc tiếp xúc với chất cách điện tạo nên các

    màng mỏng này, các tương tác ion tương ứng sẽ diễn ra và làm thay đổi độ dẫn điện. Điện áp

    thay đổi ở chân dẫn sẽ làm thay đổi tương ứng dòng điện qua FET. Các thông số khác như độ

    mặn, nitrate và ammonia cũng có thể được đo đạc theo phương pháp đo đạc độ dẫn điện [6].Tuy

    nhiên, các thiết bị này bị sai số nếu thời gian sử dụng lâu, mà nguyên nhân chủ yếu là sự thay đổi

    độ từ trễ và đáp ứng dòng-áp theo nhiệt độ môi trường.

    Nhìn chung, do bản chất là đo đạc điện tích của ion sinh ra trong quá trình tương tác giữa điện

    cực và chất cần cảm biến, các hệ thống đo đạc này đều không bền. Hiện tượng ăn mòn điện cực

    khiến yêu cầu bảo trì và bảo dưỡng đầu đo rất nghiêm ngặt. Trong các hệ thống đo đạc tự động từ

  • 5

    xa, các yêu cầu như bảo quản trong môi trường khép kín, lau chùi đầu đo và cân chỉnh hệ thống

    theo điều kiện thời tiết là rất khó khăn. Một số đầu đo chỉ hoạt động được sau khi mẫu đo đã

    được xử lý trước một tuần [7]. Hơn nữa, do tất cả các ion đều dẫn điện, các điện cực này thường

    được phủ các lớp màng / hóa chất có tương tác mạnh với chất cần đo đạc để loại đi nhiễu do các

    ion không mong muốn sinh ra. Kết quả là mỗi đầu cảm biến chỉ đo được một thông số. Đối với

    môi trường nuôi tôm cần nhiều thông số như yêu cầu thực tế, hệ thống sử dụng các cảm biến này

    sẽ trở nên cồng kềnh và đắt tiền.

    Đối với cách tiếp cận thứ hai, sự thay đổi màu sắc hoặc cường độ ánh sáng do hiện tượng huỳnh

    quang của chất chỉ thị được dùng để xác định và ước lượng nồng độ chất cần đo đạc. Hiện tượng

    này có thể được giải thích ngắn gọn như sau: một phân tử có thể hấp thụ năng lượng từ một

    photon ánh sáng để chuyển sang trạng thái kích thích. Sau một thời gian ngắn, phân tử này trở về

    trạng thái bình thường và sinh ra một photon có năng lượng nhỏ hơn photon ban đầu. Sự thay đổi

    bước sóng phát xạ này gọi là hiện tượng dịch bước sóng Stokes. Khi chất chỉ thị màu được pha

    vào dung dịch cần đo đạc, sự tương tác của chúng khiến tính chất huỳnh quang của chất chỉ thị

    màu thay đổi. Sự thay đổi về màu sắc này có thể được quan sát bằng mắt thường hoặc bằng các

    cảm biến màu sắc và so sánh với màu sắc chuẩn để ước lượng nồng độ chất đã tương tác với chất

    chỉ thị. Đối với cảm biến oxy, một phương pháp đo đạc khác cũng có cùng bản chất là đo đạc sự

    giảm cường độ ánh sáng của đầu cảm biến. Tương tác giữa oxy và các phân tử cảm biến khiến

    các phân tử này mất năng lượng và giảm đi ánh sáng huỳnh quang hoặc lân tinh quang ban đầu.

    Do cần pha chất chỉ thị màu vào dung dịch cần đo đạc, tính chất huỳnh quang của chất chỉ thị có

    thể bị thay đổi bởi các yếu tố khác trong dung dịch. Lượng chỉ thị màu cần được xác định chính

    xác trước khi pha. Ngoài ra, cường độ màu sẽ thay đổi theo thời gian do mật độ chất chỉ thị

    khuếch tán dần trong dung dịch. Để giảm sai số, các đầu đo pH hoặc oxy sử dụng phương pháp

    này được bao bọc bởi màng polymer hoặc sol-gel [8]. Các phân tử chất chỉ thị màu bị giam giữ

    và chỉ tương tác trong một không gian định trước. Cách làm này tuy giảm được sự thay đổi màu

    sắc theo thời gian nhưng lại làm tăng giá thành cảm biến.

    Hầu hết việc đo đạc các chất hiện nay cho môi trường thủy sinh nói chung và cho ao tôm nói

    riêng sử dụng các test kit. Phương pháp đo đạc bằng test kit này về bản chất chính là phương

    pháp dùng chất chỉ thị màu. Nhìn chung, do chất chỉ thị màu sẽ mất đi sau mỗi lần đo, việc sử

    dụng cảm biến loại này cho quá trình theo dõi chất lượng nước trong đầm tôm gặp một số trở

    ngại. Trở ngại đầu tiên là chất chỉ thị màu phải được mua bổ sung thường xuyên để đo đạc. Dung

    dịch sau khi đã qua thêm chất chỉ thị màu cũng phải bỏ đi. Điều này làm tăng chi phí sử dụng và

    ảnh hưởng xấu đến môi trường. Một số chất chỉ thị màu có độc tính và có khả năng ảnh hưởng

    xấu đến người thực hiện thao tác đo đạc. Trở ngại tiếp theo là việc theo dõi theo thời gian thực

    không thể thực hiện được. Cụ thể, sau khi chất chỉ thị màu đã tương tác với chất cần đo đạc,

    chẳng hạn như oxy, sự tăng hay giảm lượng oxy sau đó vài phút không xác định được nữa do các

    chất chỉ thị màu đã mất đi. Đối với các hệ thống giám sát và kiểm tra từ xa bằng hệ thống điều

    khiển tự động, yêu cầu thay đổi chất chỉ thị màu thường xuyên khiến hệ thống trở nên phức tạp

    và cồng kềnh. Các đầu đo dùng màng polymer hoặc sol-gel có thể đo đạc được nhiều lần hơn.

    Tuy nhiên, do có cùng bản chất là mỗi lần đo đạc một lượng chất chỉ thị màu sẽ mất đi, nên cảm

    biến sẽ mất dần độ nhạy theo thời gian.

    Như vậy, có thể thấy rằng nguyên nhân chủ yếu của các khó khăn khi sử dụng phương pháp tiếp

    cận thứ nhất và thứ hai nằm ở việc phần tử dùng để cảm biến cần tiếp xúc trực tiếp với dung dịch

    cần cảm biến. Việc tiếp xúc trực tiếp này dẫn đến các thay đổi về tính chất hóa-lý của đầu cảm

  • 6

    biến và làm giảm tuổi thọ hoặc làm phức tạp hệ thống.

    Phương pháp sử dụng phổ quang dựa vào hai hiện tượng: hiện tượng hấp thụ photon của các liên

    kết phân tử và hiện tượng tán xạ Raman. Trong đó, hiện tượng hấp thụ chuyển đổi năng lượng

    photon hấp thụ thành nhiệt độ và hiện tượng tán xạ Raman chuyển đổi photon hấp thụ thành

    photon Stokes. Về bản chất, hai hiện tượng này đều xuất phát từ quá trình chuyển đổi năng lượng

    giữa các trạng thái rung động rời rạc của phân tử [9]. Vùng ánh sáng hồng ngoại (bước sóng từ

    750 nm đến 1 mm), có thể được chia ra làm ba vùng chính là vùng hồng ngoại xa (FIR 16000 nm

    – 1 mm), hồng ngoại trung (MIR 2500-16000 nm) và hồng ngoại gần (NIR 750-2500 nm). Vùng

    bước sóng gần đó là vùng ánh sáng khả kiến (Visible – VIS 450-750 nm) và cực tím (Ultraviolet

    – UV 200-450 nm). Tần số căn bản cho các rung động phân tử chủ yếu xảy ra trong vùng MIR.

    Các liên kết X-H, X-H2 và X-H3 với X là C, N hoặc O có các rung động không điều hòa và xảy

    ra trong vùng NIR. Cường độ rung động trong vùng UV-VIS-NIR thấp hơn nhiều lần vùng MIR

    và thường chồng lấn nhau về tần số. Vùng FIR thường ít được xét đến khi đo đạc rung động phân

    tử.

    Như vậy, phổ hấp thụ ở vùng MIR ít chồng lấn và có thể sử dụng để phân biệt các phân tử dễ

    dàng hơn. Tuy nhiên, nước hấp thụ rất mạnh các bước sóng ở vùng này. Do đó, các cảm biến sử

    dụng MIR có độ xuyên thấu rất thấp khi sử dụng cho dung dịch. Độ dày của dung dịch đo đạc

    cần thấp ở mức vài micromet. Ngoài ra, dung dịch cảm biến cần được loại bớt các thành phần để

    giảm độ phức tạp trong đo đạc. Màng polymer cũng được sử dụng để cô lập các thành phần cần

    đo đạc như các phương pháp dùng chất chỉ thị màu. Trong vùng UV-VIS-NIR, khả năng hấp thụ

    của nước thấp hơn. Do đó, mẫu đo đạc có thể dày hơn và việc đo đạc có thể tiến hành trực tiếp

    không cần qua các bước chuẩn bị như vùng MIR. Tuy nhiên, phổ hấp thụ hoặc bức xạ của các

    phân tử lại chồng lấn lên nhau trong khu vực này và làm phức tạp quá trình đo đạc. Thông

    thường các phương pháp tính toán cho hàm đa biến dựa theo thống kê như multiple linear

    regression (MLR), principal component analysis (PCA), và partial least squares regression (PLS)

    cần được áp dụng để phân tích và tìm kiếm các thành phần độc lập trong dữ liệu đo đạc. Phổ

    Raman không chồng lấn tương tự như vùng MIR nhưng các bước sóng tán xạ Raman lại ít bị hấp

    thụ như vùng NIR. Do đó, kỹ thuật cảm biến bằng Raman có thể được dùng để hỗ trợ cho vùng

    NIR. Tuy nhiên, hệ thống Raman cần quy định chặt chẽ hơn về chất lượng nguồn phát xạ cũng

    như bộ thu [10]. Đo đạc bằng hệ thống Raman thông thường có sai số lớn do hiện tượng huỳnh

    quang của các phần tử hữu cơ trong nước. Đo đạc bằng các hệ thống Raman nâng cao có độ

    chính xác tốt nhưng lại tốn kém do yêu cầu thiết bị quang học và điện tử có tốc độ đáp ứng nhanh

    hoặc do yêu cầu thay đổi liên tục vùng tiếp xúc với dung dịch đo.

    Điểm lợi thế đặc biệt của phương pháp đo đạc quang phổ vùng UV-VIS-NIR và Raman và khả

    năng đo đạc không tiếp xúc và đo đạc được nhiều thông số cùng một lúc. Chẳng hạn, trong [11],

    một hệ thống đo đạc quang phổ Raman đã được dùng để đo đạc nồng độ oxy hòa tan và nitrogen

    trong nước. Do đặc thù cần đo đạc trên diện rộng ở các khu vực địa hình phức tạp, nhóm tác giả

    trong [11] đã giải quyết vấn đề bằng cách quét laser cường độ cao ở bước sóng 364-390 nm từ

    máy bay và thu thập bước sóng tán xạ Stokes. Trong một báo cáo khác [12], nhu cầu oxy hóa học

    (Chemical oxygen demand – COD), một trong các thông số quan trọng nhất để khảo sát tình hình

    ô nhiễm nước biển, đã được đo đạc bằng phổ UV-VIS và tính toán PLS. Một báo cáo khác [13]

    sử dụng phương pháp tương tự đã đo đạc được ba thông số cùng một lúc là nồng độ nitrate, COD

    và tổng lượng organic carbon (TOC) của nước biển. Hướng cảm biến tương tự cũng được công

    bố cho nước thải để đo COD [14] bằng phổ UV-VIS kết hợp phân tích MLR hay đo dư lượng

  • 7

    dầu nhờn và nước tẩy [15] bằng phân tích PCA.

    Tuy nhiên, phương pháp này cũng tồn tại một số nhược điểm. Đầu tiên là độ chính xác của

    phương pháp thông thường dừng lại ở mức parts per million (mg/l) và phụ thuộc rất nhiều vào

    thuật toán phân tích thành phần độc lập. Điểm yếu thứ hai sự chồng lấn phổ trong vùng UV-VIS-

    NIR. Phổ rung động trong vùng này phụ thuộc rất nhiều vào liên kết giữa các phân tử vô cơ và

    nước. Do đó, nếu như hai chất có dạng liên kết giống nhau (như NaCl và KCl) được hòa tan cùng

    một lúc vào nước, phổ của chúng sẽ chồng lấn lên nhau và rất khó để phân biệt. Một số ion

    không có bước sóng hấp thụ mạnh trong vùng UV-VIS khiến việc đo đạc rất khó khăn.

    Theo như hiểu biết của nhóm tác giả, hiện nay chưa có công bố quốc tế nào về hệ thống kiểm tra

    môi trường nước với các điều kiện chuyên biệt cho ứng dụng nuôi tôm sử dụng cảm biến quang

    không tiếp xúc. Các nghiên cứu chủ yếu là đo đạc một số chất rời rạc trong các môi trường như

    nước biển, nước thải hoặc trong phòng thí nghiệm.

    Trong nước (Phân tích, đánh giá tình hình nghiên cứu trong nước thuộc lĩnh vực nghiên cứu

    của đề tài, đặc biệt phải nêu cụ thể được những kết quả KH&CN liên quan đến đề tài mà các cán

    bộ tham gia đề tài đã thực hiện. Nếu có các đề tài cùng bản chất đã và đang được thực hiện ở

    cấp khác, nơi khác thì phải giải trình rõ các nội dung kỹ thuật liên quan đến đề tài này; Nếu

    phát hiện có đề tài đang tiến hành mà đề tài này có thể phối hợp nghiên cứu được thì cần ghi rõ

    Tên đề tài, Tên Chủ nhiệm đề tài và cơ quan chủ trì đề tài đó)

    Theo số liệu tổng hợp của Trung tâm tin học và thống kê của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông

    thôn (NN&PTNT), diện tích nuôi trồng thủy sản ở nước ta hiện nay khoảng hơn 1 triệu ha, với

    sản lượng ước đạt 3,2 triệu tấn năm 2013. Trong chiến lược phát triển của ngành thủy sản đến

    năm 2020, tôm nước lợ (tôm sú, tôm chân trắng) được xem là những đối tượng chủ lực do có lợi

    thế về xuất khẩu sản phẩm sang thị trường quốc tế.

    Theo Hiệp hội chế biến và Xuất khẩu thủy sản Việt Nam (VASEP), diện tích nuôi tôm nước lợ ở

    nước ta năm 2013 ước đạt 666 nghìn ha với sản lượng tôm nuôi khoảng 541 nghìn tấn. Việt Nam

    hiện nay là một trong 5 quốc gia đứng đầu trên thế giới về sản lượng tôm nuôi và giá trị xuất

    khẩu từ mặt hàng tôm đông lạnh của nước ta năm 2013 đạt hơn 3 tỷ USD.

    Phần lớn diện tích nuôi tôm nước lợ ở nước ta là ở dạng quảng canh cải tiến và nuôi kết hợp. Xu

    thế thâm canh hóa ở các trang trại nuôi tôm đang tăng dần trong những năm qua, nhằm tăng năng

    suất, sản lượng tôm nuôi. Đến năm 2020, diện tích nuôi tôm công nghiệp dự kiến đạt khoảng 140

    nghìn ha, chiếm khoảng 21 % so với tổng diện tích nuôi tôm nước lợ hiện tại. Trong quá trình

    nuôi trồng thủy sản này, thức ăn chiếm khoảng 50% chi phí và thuốc, hóa chất, chế phẩm sinh

    học chiếm thêm 25% chi phí. Thức ăn sử dụng cho nuôi tôm chủ yếu là thức ăn công nghiệp.

    Thuốc, hóa chất và chế phẩm sinh học để quản lý môi trường, dịch bệnh và tăng cao sức đề

    kháng cho tôm nuôi.

    Điều này dẫn đến các nguy hiểm tiềm tàng về ô nhiễm môi trường như chất thải dinh dưỡng dư

    thừa, thuốc, hóa chất và mầm bệnh [16]. Về chất dinh dưỡng dư thừa, một lượng lớn các chất

    dinh dưỡng trong thức ăn tôm không được hấp thụ vào cơ thể chúng mà bị thải ra môi trường

    xung quanh dưới dạng thức ăn dư thừa, phân và chất thải. Mỗi tấn tôm sẽ thải khoảng 16,8 –

    157,2 kg nitrogen và 2,3 – 45,9 kg phosphorus ra môi trường dẫn đến gia tăng nồng độ ammonia,

  • 8

    nitrite, nitrate v.v.

    Các kết quả điều tra cho thấy có ít nhất 186 loại (32 kháng sinh) dùng trong nuôi tôm và 98 loại

    (39 kháng sinh) dùng trong sản xuất tôm giống. Có 74 loại thuốc và hóa chất được sử dụng trong

    nuôi tôm tại 2 tỉnh Sóc Trăng và Bạc Liêu, trong đó có 20 loại thuốc và hóa chất dùng cho diệt

    tạp và tẩy trùng; 19 loại kháng sinh; 10 loại hóa chất dùng để xử lý đất và nước; 10 loại men vi

    sinh và một số loại thuốc và hóa chất khác như phân bón, sản phẩm dùng để tăng cường hệ miễn

    dịch bổ sung vào thức ăn cho tôm. Việc này có thể gây ra những rủi ro về tác động gây độc, gây

    chết cho các sinh vật tự nhiên, tạo nên những dòng vi sinh vật kháng thuốc, ảnh hưởng tới sức

    khỏe của công nhân làm việc trực tiếp cũng như sức khỏe người tiêu dùng.

    Tại Việt Nam, dựa vào điều kiện khí hậu và tình hình khảo sát giống vật nuôi, bộ Nông nghiệp và

    phát triển nông thôn (NNPTNT) đã ban hành Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về cơ sở nuôi tôm

    nước lợ - Điều kiện bảo đảm vệ sinh thú y, bảo vệ môi trường và an toàn thực phẩm [17]. Trong

    đó, các quy định về địa điểm nuôi, cơ sở hạ tầng, hoạt động nuôi trồng và quy định về chất thải

    đều có các thông số cụ thể. Bảng chuẩn quy định chất lượng nước trong ao nuôi như sau [17]:

    Bảng 1:

    TT Thông số Đơn vị Giá trị cho phép

    1 Oxy hòa tan mg/l >3.5

    2 pH 7-9, dao động trong

    ngày không quá 0.5

    3 Độ mặn Phần nghìn 5-35

    4 Độ kiềm mg/l 60-180

    5 Độ trong Cm 20-50

    6 NH3 mg/l

  • 9

    Đưa lên mắt ngắm và đọc số trên thang đo, chỉnh tiêu cự sao cho số thấy rõ nhất.

    Sau khi đo xong lấy giấy thấm chậm lên bề mặt cho khô trước khi bảo quản máy hoặc thực

    hiện lần đo khác

    Khi nồng độ muối của dung dịch quá cao, trên màn hình quan sát chỉ xuất hiện màu trắng.

    Độ chính xác từ 0.1-1‰. Nước thông thường do có nhiều tạp chất, nên khi xem trên khúc

    xạ kế sẽ có nồng độ nhỏ hơn 0.

    Bảo quản khúc xạ kế trong hộp kèm theo và để nơi thoáng mát, không được để vô nước.

    Oxy hòa tan (DO): các hộ nuôi thường chọn mua các loại máy đo oxy cầm tay hoặc bỏ túi. Loại

    máy này có độ phân giải cao (0.1mg/lít), song giá cũng cao từ vài triệu đến vài chục triệu, lại khó

    sử dụng và bảo quản. Ngoài ra, các hộ nuôi cũng có thể mua hộp test oxy sử dụng để đo hằng

    ngày, tuy độ chính xác không cao bằng máy nhưng dễ sử dụng, rẻ tiền khoảng vài trăm nghìn và

    dễ bảo quản.

    Cách đo đạc DO bằng test kit:

    Rửa lọ thủy tinh nhiều lần bằng mẫu nước cần kiểm tra, sau đó đổ đầy mẫu nước đến mép

    lọ. Lau khô bên ngoài lọ.

    Lắc đều chai thuốc thử trước khi sử dụng. Nhỏ 6 giọt thuốc thử số 1 và 6 giọt thuốc thử số 2

    vào lọ chứa mẫu nước cần kiểm tra, đậy nắp lọ thử ngay sau khi nhỏ (phải đảm bảo không

    có bất kỳ bọt khí nào trong lọ), lắc đều, sau đó mở nắp lọ ra.

    Đặt lọ thử nơi nền trắng của bảng so màu, so sánh màu kết tủa của lọ với các cột màu và

    xác định nồng độ oxy (mg/l). Nên thực hiện việc so màu dưới ánh sáng tự nhiên, tránh ánh

    sáng mặt trời trực tiếp chiếu vào.

    Làm sạch trong và ngoài lọ thủy tinh bằng nước máy trước và sau mỗi lần kiểm tra.

    Các giá trị đo rời rạc là: 2 mg/l, 4 mg/l, 6 – 8 mg/l. Như vậy không có giá trị cụ thể ở mức

    ngưỡng 3.5 mg/l. Ở các mức lân cận sai số đo đạc là 2 mg/l.

    Bảo quản: đóng nắp chai thuốc thử ngay sau khi sử dụng, lưu trữ nơi thoáng mát và để tránh

    xa tầm tay trẻ em.

    pH: trên thị trường cung cấp chủ yếu 3 loại thiết bị đo là máy đo 3 chỉ tiêu (nhiệt độ, pH và DO),

    bút đo pH và hộp test pH. Đối với các hộ nuôi tôm, để thuận tiện cho việc sử dụng, tốn ít tiền mà

    vẫn đảm bảo độ chính xác thường dùng bút đo pH (giá khoảng một triệu đồng một chiếc) hoặc

    hộp test pH của các hãng trong và ngoài nước (giá vài trăm nghìn đồng một hộp).

    Cách đo pH dùng bút đo:

    Ngâm đầu bút vào nước cất và lau khô bằng giấy.

    Ngâm đầu bút pH vào dung dịch cần đo. Khuấy nhẹ và đợi cho tới khi thông số ổn định

    (khoảng 30 giây).

    Sau khi sử dụng xong, vệ sinh đầu bút bằng nước sạch rồi lau khô và đóng nắp lại.

    Đầu bút đo cần được chỉnh lại sau một số lần đo bằng cách calip trong dung dịch chuẩn pH

    6.86 và pH 4.0.

    Độ sai số khoảng 0.1 đơn vị.

  • 10

    Cách đo pH dùng test kit:

    Làm sạch lọ thủy tinh bằng mẫu nước trong hồ cần kiểm tra, sau đó đổ đầy 5ml mẫu nước

    trong hồ vào lọ. Lau khô bên ngoài lọ.

    Lắc đều chai thuốc thử trước khi sử dụng. Nhỏ 4 giọt thuốc thử vào lọ thủy tinh chứa mẫu

    nước cần kiểm tra, đóng nắp lọ, lắc nhẹ rồi mở nắp ra.

    So sánh kết quả thử nghiệm với bảng so màu: đặt lọ thủy tinh vào vùng trắng của bảng so

    màu, đối chiếu giữa kết quả thử nghiệm với bảng so màu rồi xem giá trị pH tương ứng. Sai

    số là 0.5 đơn vị.

    Làm sạch trong và ngoài lọ thủy tinh bằng nước máy trước và sau mỗi lần kiểm tra.

    Bảo quản: đóng nắp chai thuốc thử ngay sau khi sử dụng, lưu trữ nơi thoáng mát và để tránh

    xa tầm tay trẻ em.

    Nhiệt độ thông thường được đo bằng nhiệt kế (giá vài chục nghìn đồng một chiếc). Tầm sai số

    khoảng 0.1-0.2 độ.

    NH3 (ammonia) là khí độc sinh ra quá trình bài tiết của tôm và quá trình phân hủy các hợp chất

    hữu cơ như sinh vật chết, thức ăn thừa... trong nước. Amoniac tồn tại dưới dạng NH4+ và NH3;

    trong đó chỉ có NH3 gây độc cho tôm. Cụ thể việc đo đạc như sau:

    Đo đạc ammonia bằng test kit:

    Làm sạch trong và ngoài lọ thủy tinh bằng nước máy trước và sau mỗi lần kiểm tra. Lắc đều

    các chai thuốc thử trước khi sử dụng.

    Rửa lọ thủy tinh nhiều lần bằng mẫu nước cần kiểm tra, sau đó đổ đầy 5ml mẫu nước vào

    lọ. Lau khô bên ngoài lọ.

    Cho 6 giọt thuốc thử của chai thuốc thử 1 vào lọ thủy tinh chứa mẫu nước cần kiểm tra,

    đóng nắp và lắc đều.

    Mở nắp, cho 6 giọt thuốc thử của chai thuốc thử 2 vào lọ, đóng nắp và lắc đều rồi mở nắp

    ra.

    Cho tiếp 6 giọt thuốc thử của chai thuốc thử 3 vào lọ, đóng nắp lọ, lắc đều. Nếu mẫu thử là

    nước ngọt thì chỉ dùng 3 giọt ở mỗi chai thuốc thử 1, 2 và 3.

    Sau 5 phút, đối chiếu màu của dung dịch với bảng màu.

    Việc tính toán nồng độ NH3 chỉ thực hiện được khi biết độ pH và đối chiếu với giá trị NH4+,

    các giá trị rời rạc đo đạc được như bảng 2. Trong đó, tầm sai số ở mốc 0.3 mg/l do sai số

    liền kề của pH và NH4+ trong tầm -0.25 mg/l đến +0.45 mg/l. Để dung hòa, chúng tôi chọn

    giá trị sai số là 0.25 mg/l.

    Bảng 2: giá trị ammonia đo đạc bằng test kit [18]

    Giá trị NH4+

    sau khi so màu

    Độ pH

    Giá trị NH3

    thực tế 7,0 7,5 8,0 8,5 9,0

    0,5 0,003 0,009 0,03 0,08 0,18

  • 11

    1,0 0,006 0,02 0,05 0,15 0,36

    1,5 0,01 0,03 0,11 0,30 0,72

    5,0 0,03 0,09 0,27 0,75 1,80

    10,0 0,06 0,17 0,53 1,51 3,60

    Bảo quản: đóng nắp chai thuốc thử ngay sau khi sử dụng, lưu trữ nơi thoáng mát, tránh ánh

    nắng mặt trời và để tránh xa tầm tay trẻ em.

    Thuốc thử số 3 có chứa sodium hydroxide và sodium hypochlorite dể cháy và rất hại cho

    mắt. Tránh tiếp xúc trực tiếp vào mắt, da và quần áo. Trường hợp thuốc thử này tiếp xúc với

    mắt, nên rửa ngay với thật nhiều nước và nên làm theo lời khuyên của bác sĩ.

    NO2 chủ yếu sinh ra do quá trình phân hủy chất thải của tôm và lượng thức ăn thừa. Trong nước,

    NO2 luôn tồn tại dưới dạng ion và có thể gây độc cho tôm. Lựa chọn hiện nay để đo NO2 là các

    bộ test kit của các hãng sản xuất trong và ngoài nước với giá vài trăm nghìn đồng một hộp.

    Đo đạc nitrate bằng test kit:

    Làm sạch trong và ngoài lọ thủy tinh bằng nước máy trước và sau mỗi lần kiểm tra. Lắc đều

    chai thuốc thử trước khi sử dụng.

    Rửa lọ thủy tinh nhiều lần bằng mẫu nước cần kiểm tra, sau đó đổ 5ml mẫu nước vào lọ.

    Lau khô bên ngoài lọ.

    Nhỏ 5 giọt thuốc thử số 1 và 5 giọt thuốc thử số 2 vào lọ chứa mẫu nứơc cần kiểm tra.

    Đóng nắp lọ và lắc nhẹ. Mở nắp ra.

    Chờ 3-5 phút, sau đó đem đối chiếu với bảng so màu. Nên thực hiện việc so màu dưới ánh

    sáng tự nhiên, tránh ánh sáng mặt trời trực tiếp chiếu vào.

    Hàm lượng nitrate sau khi so màu chỉ phân biệt được một số mức: 5.0 mg/l, 1.0 mg/l, 0.5

    mg/l, 0.3 mg/l và nhỏ hơn 0.1 mg/l. Như vậy, sai số đo đạc ở vùng 0.3 mg/l là 0.2 mg/l.

    Bảo quản: đóng nắp chai thuốc thử ngay sau khi sử dụng, lưu trữ nơi thoáng mát và để tránh

    xa tầm tay trẻ em.

    Thuốc thử số 1 có chứa hydrochloric acid gây kích thích mắt, hệ hô hấp và da, rất có hại

    cho mắt. Trường hợp thuốc thử này tiếp xúc với mắt, nên rửa ngay với thật nhiều nước và

    nên làm theo lời khuyên của bác sĩ.

    Đo đạc H2S bằng test kit

    Cho 5 ml nước vào ống nghiệm. Thêm 7 giọt Thuốc thử 1 và 7 giọt Thuốc thử 2. Đậy nắp.

    Lật ngược ống. Nước chuyển sang màu hồng, rồi màu vàng nhạt hay màu xanh nếu có H2S.

    Chờ 3 phút. Thêm 7 giọt Thuốc thử 3. Kết tủa trắng xuất hiện. Lắc kỹ cho kết tủa tan hết.

    Đưa ống mẫu vào ống so màu. Tháo nắp. Hướng ống so màu ra ngoài sáng, đồng thời để

    đáy ống nghiệm chiếu trên gương giữa bảng màu.

    Tìm màu giống nhất. Ghi nhận nồng độ sunphua tổng. Tra bảng để xem nồng độ H2S.

  • 12

    Đối với phương pháp đo đạc dùng cảm biến ion, các thiết bị chủ yếu được cung cấp bởi các hãng

    chuyên về thiết bị quan trắc môi trường nước ngoài thông qua các công ty kinh doanh sản phẩm

    trong nước. Một số sản phẩm chỉ tập trung vào việc thu thập dữ liệu từ các cảm biến, báo động và

    quản lý dữ liệu. Loại thiết bị này không kèm cảm biến mà chỉ tập trung vào việc truyền dẫn và hệ

    thống vi xử lý. Một trong các thiết bị có mặt trên thị trường là YSI 5200A Multiparameter

    Monitoring and Control Instrument [19]. Thiết bị này cho phép kết nối với các cảm biến DO, pH,

    ORP, độ dẫn điện, nhiệt độ (người dùng phải tự cấu hình giao tiếp thiết bị).

    Hình 1: thiết bị YSI 5200A Multiparameter Monitoring and Control Instrument [19]

    Một số sản phẩm khác tích hợp nhiều cảm biến ion vào một thiết bị đo và người dùng cần nhúng

    trực tiếp thiết bị vào nước để tiến hành đo đạc. Một số sản phẩm hiện có trên thị trường là hệ

    thống đo đạc đa chỉ tiêu chất lượng nước EXO của YSI (Mỹ) [20] hoặc hệ thống đo chất lượng

    nước đa chỉ tiêu – Aquaread [21]. Trong đó, các cảm biến đo được tích hợp vào cùng một bộ thu

    xử lý dữ liệu đa thông số và hoạt đông độc lập. Bộ thiết bị được thiết kế cho quan trắc nước mặt,

    ngước ngầm và cả nước biển với khả năng quan trắc nhiều chỉ tiêu theo độ sâu. Tất cả các đầu đo

    tiếp xúc trực tiếp với dòng nước.

    Hình 2: Hệ thống Giám sát đa chỉ tiêu chất lượng môi trường nước EXO [20]

  • 13

    Hình 3: Hệ thống đo chất lượng nước đa chỉ tiêu - Aquaread [21]

    Giá thành của các hệ thống trên không được công bố trên các trang web bán hàng tại Việt Nam.

    Tuy nhiên, trong các công bố ngoài nước, giá thành các hệ thống trên dao động từ EUR 4000-

    12000 (khoảng 100-300 triệu VND) tùy vào số lượng thông số có thể đo đạc [22]. Khi mua tại

    Việt Nam, giá thành dự kiến của các hệ thống này sẽ cao hơn khoảng 2-3 lần con số trên do các

    khoảng khác như thuế, tiền dịch vụ và tiền bảo trì, bảo hành.

    Như vậy, có thể thấy rằng việc kiểm tra và kiểm soát môi trường nước là yêu cầu hết sức quan

    trọng để quyết định chất lượng cũng như bảo đảm lợi nhuận cho người nuôi trồng. Tuy nhiên,

    thực tế đo đạc lại đòi hỏi quá nhiều thiết bị khác nhau. Hơn nữa, đa phần các phương thức đo đạc

    đang sử dụng hiện nay dùng phương pháp chỉ thị màu hoặc đo nồng độ ion. Như đã trình bày

    phía trên, phương pháp dùng chỉ thị màu làm thay đổi cả chất chỉ thị lẫn mẫu thử và không thể

    dùng để theo dõi tự động từ xa theo thời gian. Đồng thời, chất chỉ thị màu cần được mua mới

    thường xuyên trong quá trình đo đạc. Các cảm biến đo điện áp dựa trên nồng độ ion yêu cầu bảo

    trì, bảo quản thường xuyên và có giá thành rất cao. Độ nhạy của các cảm biến này cũng giảm dần

    theo thời gian do ion hóa khi tiếp xúc trực tiếp với dung dịch cần đo đạc.

    Về các đề tài nghiên cứu trong nước, có rất nhiều đề tài nghiên cứu về môi trường nuôi tôm cũng

    như ảnh hưởng của môi trường lên chất lượng và sức khỏe của tôm. Về hệ thống cảm biến, hầu

    hết các hệ thống nghiên cứu trong nước hoặc sản phẩm trong nước bán trên thị trường đều tập

    trung vào thiết kế phần mạch điều khiển, giao tiếp với cảm biến có sẵn hoặc tập trung vào phần

    mềm truyền nhận dữ liệu cảm biến đã đo đạc [23, 24]. Điều này cũng dễ hiểu vì việc thiết kế

    mạch giao tiếp với một loại tín hiệu vật lý duy nhất là dòng điện / điện áp từ các cảm biến tương

    đối dễ dàng. Việc truyền nhận tín hiệu là bài toán chung cho tất cả các hệ thống điều khiển và đã

    được chuẩn hóa trên rất nhiều hệ thống viễn thông sẵn có. Ví dụ, bộ phận Nghiên cứu & Triển

    khai, Phòng thí nghiệm công nghệ Nano – ĐH Quốc gia TP.HCM đã chế tạo thiết bị kiểm tra

    nguồn nước tự động, có thể kiểm tra chất lượng nước trong vòng vài phút, giúp người nuôi tôm

    có thể dễ dàng hơn trong việc kiểm soát quá trình nuôi tôm của mình [25]. Thiết bị được thiết kế

    có hình dạng như một con rùa nước, được trang bị các đầu dò cảm biến cùng hệ thống phân tích

    các chỉ số nước tự động như oxy hòa tan, độ dẫn điện, độ mặn, nồng độ NH3, NO2 trong nước.

    Khi sử dụng, thiết bị sẽ được thả trên mặt nước ao nuôi để đo và lấy nước ở nhiều vị trí khác

    nhau. Với nhiều đầu dò cảm biến, thiết bị có thể đo được nhiều thông số nguồn nước trong cùng

  • 14

    một thời điểm. Các chỉ số phân tích này có thể thay đổi được tùy theo yêu cầu và tùy chỉnh của

    mỗi người dân. Sau khi phân tích về tình trạng nguồn nước, dữ liệu sẽ được ghi lại và truyền về

    máy tính thông qua mạng di động không dây để người sử dụng theo dõi tình trạng nguồn nước.

    Trong một đề tài tương tự của Đại học Trà Vinh, “Ứng dụng công nghệ điện tử và thông tin để

    quản lý một số chỉ số môi trường trong ao nuôi tôm nước 1ợ ở tỉnh Sóc Trăng”, một hệ thống

    kiểm tra môi trường nước cũng đã được thiết kế. Trong hệ thống này, thay vì nhúng trực tiếp vào

    ao nuôi, nước trong ao sẽ được bơm với khối lượng nhỏ và trữ vào một bình lọc tạm thời. Trong

    bình lọc này, các cảm biến oxy hòa tan, độ đục, độ pH v.v sẽ đo đạc các thông tin tương ứng và

    truyền về cho máy tính trung tâm cũng thông qua hệ thống thông tin di động. Chủ nhiệm đề tài là

    TS. Nguyễn Thiện Nghĩa và một trong các thành viên tham gia thực hiện là ThS. Nghi Vĩnh

    Khanh. ThS. Nghi Vĩnh Khanh đồng thời cũng là thành viên nghiên cứu của đề tài trong thuyết

    minh này. Hệ thống được phát triển ở đại học Trà Vinh đã nhận thấy được điểm yếu trong việc

    nhúng trực tiếp thiết bị đo đạc vào ao tôm là độ bền của cảm biến không bảo đảm. Tuy nhiên, do

    vẫn sử dụng phương pháp đo đạc ion, các cảm biến này vẫn cần nhúng trực tiếp vào nước. Bằng

    cách bơm nước vào một bình kín để đo đạc, sau đó bơm nước cất vào ngâm giữ cảm biến giữa

    các lần đo, thời gian sử dụng và độ nhạy của cảm biến đã được cải thiện so với cách giữ nguyên

    hệ thống nhúng vào nước ao tôm như cách thiết kế của Phòng thí nghiệm công nghệ Nano. Tuy

    nhiên, cách làm này lại đòi hỏi phải bổ sung nước cất trong quá trình hoạt động, cũng như chỉ có

    thể kéo dài chứ không tránh được hiện tượng ion hóa đầu đo.

    15.2 Luận giải về việc đặt ra mục tiêu và những nội dung cần nghiên cứu của đề tài

    (Trên cơ sở đánh giá tình hình nghiên cứu trong và ngoài nước, phân tích những công trình

    nghiên cứu có liên quan, những kết quả mới nhất trong lĩnh vực nghiên cứu đề tài, đánh giá

    những khác biệt về trình độ KH&CN trong nước và thế giới, những vấn đề đã được giải quyết,

    cần nêu rõ những vấn đề còn tồn tại, chỉ ra những hạn chế cụ thể, từ đó nêu được hướng giải

    quyết mới - luận giải và cụ thể hoá mục tiêu đặt ra của đề tài và những nội dung cần thực hiện

    trong đề tài để đạt được mục tiêu)

    Qua các đánh giá và tổng hợp về tình hình nghiên cứu trong nước và ngoài nước, có thể rút ra

    một số ý sau:

    -Việc kiểm tra chất lượng môi trường nước trong ao nuôi tôm là hết sức cần thiết. Trong

    quá trình chuẩn bị cơ sở nuôi tôm, các thông số môi trường giúp người đầu tư quyết định

    được các khoản cần cải thiện và mức độ cải thiện môi trường cho phù hợp. Trong quá trình

    nuôi tôm, việc theo dõi thông số môi trường thường xuyên là liên tục giúp phát hiện kịp thời

    các biến đổi xấu trong đầm tôm và hỗ trợ người nuôi trồng có được các quyết định cụ thể,

    kịp thời và chính xác. Trong quá trình thu hoạch và tiêu thụ sản phẩm, hệ thống dữ liệu môi

    trường đo đạc và thu thập được là các yếu tố định lượng giúp người nuôi tôm bảo đảm chất

    lượng sản phẩm.

    -Có rất nhiều thông số cần kiểm tra theo yêu cầu thực tế, với các tính chất về hóa lý khác

    nhau. Chẳng hạn, các chỉ tiêu cần kiểm tra bao gồm cả các chất hữu cơ (như NH3) và vô cơ

    (như độ mặn). Trong môi trường nước, ammonia bao gồm cả dạng không ion hóa (NH3) và

    cả ion hóa (NH4+). Nitrate (NO3) có thể là ion của nhiều loại muối nitrate khác nhau như

    NaNO3, KNO3, NH4NO3 v.v. với các đặc tính cảm biến gần tương tự nhau. pH là tổng nồng

  • 15

    độ ion H+ và OH-, xuất hiện từ rất nhiều chất khác nhau hòa tan trong nước. Độ mặn của

    nước lại được đo đạc chủ yếu qua ion Cl-. Trong khi đó, nhiệt độ nước tăng giảm có thể làm

    thay đổi gần như tất cả các yếu tố trên. Điểm khó khăn này thể hiện rõ ràng bằng việc thống

    kê các nghiên cứu ngoài nước về cảm biến chất lượng nước đã đề cập. Trong đó, các hệ

    thống chỉ dừng lại ở việc đo đạc một số chất nhất định ở điều kiện ổn định về nhiệt độ, pH

    và độ đục của dung dịch, chứ không bao gồm tất cả các yếu tố cần thiết cho nuôi tôm.

    -Các phương pháp đo đạc sử dụng trên thực tế hiện nay gặp khó khăn trong điều kiện nuôi

    tôm ở Việt Nam. Trong cả các nghiên cứu khoa học và thực tế sử dụng, các cảm biến hiện

    nay ứng dụng cho việc nuôi tôm chủ yếu tập trung vào dùng chất chỉ thị. Đối chiếu với các

    yếu tố cần đo đạc theo yêu cầu của bộ NNPTNT, nồng độ NH3, NO3 và pH đều cần đến

    chất chỉ thị màu. Nồng độ oxy hòa tan dùng cách đo đạc điện áp ion và độ mặn dùng cách

    đo đạc chiết xuất qua khúc xạ kế. Cách làm này tuy có giá thành thấp nhưng dẫn đến nhiều

    bất cập trong quá trình sử dụng. Cụ thể, người dân cần mua sắm nhiều bộ đo khác nhau cho

    mỗi thông số đo đạc. Đối với mỗi loại thiết bị, người dùng cần được hướng dẫn cách sử

    dụng và bảo quản khác nhau. Việc phụ thuộc quá nhiều vào con người dẫn đến các bất cập

    khác như tốn chi phí nhân lực, đào tạo và thời gian, trong khi các sai số chủ quan tăng lên

    bởi các sai sót trong quá trình đo thủ công vào bảo quản thiết bị. Điểm bất lợi tiếp theo là

    chi phí mua sắm thiết bị đo tăng theo thời gian do lệ thuộc nhiều vào việc dùng chất chỉ thị

    màu vốn không thể tái sử dụng. Việc dùng chất chỉ thị màu còn tiềm ẩn nguy cơ khác về

    mặt rác thải hóa chất và độc tính trong quá trình đo. Cách làm hiện nay cũng gặp trở ngại

    cho việc theo dõi tự động và từ xa. Để có thể theo dõi từ xa và tự động theo thời gian, các

    phương pháp dùng hộp test như hiện nay là không phù hợp. Ngược lại, phương pháp đo đạc

    dùng cảm biến ion có độ chính xác cao và có thể hỗ trợ đo đạc từ xa. Tuy nhiên, các

    phương pháp đo điện áp ion đòi hỏi bảo trì, bảo dưỡng liên tục trong quá trình vận hành.

    Các hệ thống đo đạc dùng ion thường là thiết bị chuyên dùng cho công nghiệp hoặc quan

    trắc môi trường và có giá thành cao nếu sử dụng sẽ làm tăng giá thành và giảm khả năng

    cạnh tranh của sản phẩm nông nghiệp. Các điểm yếu này thể hiện rõ qua các hệ thống đo

    đạc môi trường đầm tôm tự động đã sử dụng và công bố ở Việt Nam.

    Như vậy, có thể thấy rằng một hệ thống kiểm tra môi trường nước nuôi tôm cần hai yếu tố sau để

    có thể đáp ứng được nhu cầu đo đạc và kiểm soát tự động từ xa: (i) đo đạc đa số các chất theo

    yêu cầu của bộ NNPTNT chỉ dùng một tính chất hóa / lý chung nhất và (ii) hạn chế tối đa việc đo

    đạc bằng chất chỉ thị màu hoặc đo điện tích ion.

    Việc đo đạc các chất dựa trên một tính chất duy nhất giúp giảm được độ phức tạp về mặt phần

    cứng của hệ thống. Việc hoạt động dựa trên một nguyên lý đồng thời giúp quá trình triển khai,

    hướng dẫn và sử dụng đơn giản hơn. Hạn chế đo đạc bằng chất chỉ thị màu hoặc điện tích ion tạo

    điều kiện thuận lợi cho hoạt động tự động và theo dõi liên tục theo thời gian.

    Từ các lập luận trên, nhóm tác giả đề tài đề xuất một hệ thống đo đạc mới, chưa từng được công

    bố trước đây cho việc kiểm soát chất lượng nước ao tôm: hệ thống kiểm tra một số thông số môi

    trường nuôi tôm tự động sử dụng hệ thống thông tin di động và cảm biến quang phổ không tiếp

    xúc.

    Nguyên lý hoạt động của hệ thống cảm biến này dựa trên phương pháp đo đạc quang phổ hấp thụ

    hoặc tán xạ như đã trình bày trong mục trước. Bằng cách chiếu chùm sáng cường độ cao và có

    bước sóng phù hợp vào dung dịch cần đo đạc rồi đo cường độ ánh sáng từ dung dịch, thông tin

  • 16

    vật lý về phổ hấp thụ và tán xạ tổng cộng của dung dịch có thể được chuyển về dạng logic và

    truyền về máy tính điều khiển trung tâm ở dạng số. Dựa vào đặc tính hấp thụ và tán xạ ánh sáng

    của các liên kết hữu cơ và vô cơ hòa tan trong môi trường nước, thành phần các chất cần đo đạc

    có thể được cô lập và trích xuất dựa vào các thuật toán tìm thành phần độc lập. Sau đó, bằng cách

    áp dụng định luật Beer-Lambert về mối tương quan giữa mức độ hấp thụ và nồng độ, nồng độ

    các các thành phần trên sẽ được ước lượng thành thông số cụ thể.

    Điểm mạnh của việc sử dụng phổ quang làm dữ liệu cảm biến là tính đồng nhất về mặt phương

    pháp của hệ thống. Trong đề tài này, yêu cầu đặt ra là đo đạc độ pH, nồng độ oxy hòa tan, nhiệt

    độ, nồng độ nitrate nitrogen, nồng độ ammonia nitrogen, H2S và độ mặn. Trong đó, phổ quang

    hấp thụ hoặc phổ bước sóng tán xạ Stokes của đa số các thành phần trên đều có những vùng hấp

    thụ đặc trưng trong phổ UV-VIS-NIR. Như vậy, hệ thống cảm biến chỉ cần dùng nguồn sáng và

    bộ thu thích hợp để có thể thu được gần hết thông tin cho phân tích cảm biến. Do hạn chế tối đa

    sử dụng các phương pháp khác nhau cho việc đo đạc các chất khác nhau, hệ thống trở nên đơn

    giản. Hơn nữa, hệ thống có thể được mở rộng để phân tích cho các chất khác nếu cần thiết trong

    tương lai, trong khi các phương pháp truyền thống sử dụng chất chỉ thị màu hoặc điện áp ion rất

    đặc thù cho từng chất và chỉ có thể đo đạc một thông số tại một thời điểm.

    Điểm mạnh thứ hai của hệ thống chúng tôi đề nghị nằm ở khả năng đo đạc không tiếp xúc. Trong

    cách đo đạc sử dụng quang phổ, ánh sáng chỉ xuyên qua dung dịch cần đo đạc mà không làm thay

    đổi bất cứ thành phần hóa học nào. Việc đo đạc cũng có thể được thực hiện bằng các cảm biến

    quang nằm phía ngoài không gian chứa dung dịch. Bằng cách hạn chế tối đa tiếp xúc vật lý cũng

    như tương tác hóa học giữa hệ thống đo đạc và dung dịch cần đo đạc, việc bảo trì, bảo dưỡng

    cũng như yêu cầu thay thế thiết bị hao mòn được giảm đến mức tối thiểu. Ngoài ra, cách đo đạc

    bằng quang phổ này có thể được lặp lại theo thời gian đơn giản bằng cách đo lại quang phổ mà

    không cần phải sử dụng lại chất chỉ thị màu hoặc ngâm giữ đầu cảm biến trong dung môi trung

    tính.

    Như vậy, cả yêu cầu (i) về đồng nhất phương pháp và yêu cầu (ii) về hạn chế đo đạc tiếp xúc đều

    có thể thỏa mãn trong hệ thống chúng tôi đề nghị.

    Tuy nhiên, việc sử dụng đo đạc không tiếp xúc cũng có một số hạn chế. Như đã trình bày, về

    phương pháp đo đạc phổ quang, có hai cách tiếp cận là đo đạc hiện tượng hấp thụ photon của các

    liên kết phân tử và đo đạc hiện tượng tán xạ Raman. Việc lựa chọn phương pháp nào phụ thuộc

    rất nhiều vào chất cần đo đạc. Cụ thể như sau:

    -Độ oxy hòa tan: phân tử oxy có hai vùng hấp thụ chính trong phổ tần UV-VIS, một nằm

    sâu trong vùng cực tím và một nằm ở biên của vùng khả kiến. Trong [26], phổ hấp thụ vùng

    cực tím của oxy đã được xác định nằm ở 145 nm. Tuy nhiên, hơi nước cũng như các liên kết

    carbon dioxide khác gây can nhiễu rất nhiều lên vùng này. Trong [27], vùng hấp thụ ở 760

    nm đã được sử dụng để cảm biến oxy. Tuy nhiên, độ hấp thụ ở bước sóng 760 nm rất yếu.

    Do đó, cảm biến trong vùng này chỉ phát hiện được mật độ oxy cao, chẳng hạn như trong

    các ứng dụng về đo đạc nồng độ oxy trong khí quyển. Một số công bố khác [28, 29] dùng

    phổ hấp thụ này để đo đạc nồng độ oxy trong các môi trường khí khắc nghiệt có nhiệt độ

    cao chẳng hạn như khí thải động cơ hoặc lò đốt. Các thiết bị đo oxy không tiếp xúc bằng

    phổ hấp thụ thường yêu cầu laser công suất lớn, không gian đo đạc lớn và bộ thu có độ nhạy

    cao. Trong phương pháp đo đạc bằng tán xạ Raman, liên kết oxy có bước sóng Stokes nằm

    gần nước sóng Stokes của liên kết H-O-H, có độ dịch Stokes khoảng 1556 cm-1. Do đó,

  • 17

    đỉnh tán xạ này có thể được dùng để ước lượng nồng độ oxy hòa tan [11]. Trong [11] bước

    sóng Raman là 388 nm và công suất là 1W. Tuy nhiên, giới hạn dưới đo đạc được của nồng

    độ oxy là 10 mg/l.

    -Nồng độ ammonia (NH3): ammonia hấp thụ ánh sáng trong vùng cực tím (UV) và vùng

    hồng ngoại gần (NIR). Trong vùng cực tím, hấp thụ suất phát từ tương tác giữa các electron

    của phân tử ammonia với photon. Vùng hấp thụ trải rộng trong khoảng 180-210 nm với

    nhiều đỉnh hấp thụ liên tiếp rất đặc trưng [30, 31]. Khả năng hấp thụ ở vùng này khá lớn và

    đã được lợi dụng để cảm biến khí NH3 trong một số công bố [32, 33]. Trong vùng hồng

    ngoại gần, việc hấp thụ xảy ra chủ yếu cho tương tác giữa photon với cấu trúc phân tử của

    NH3, trong đó, các rung động do hấp thụ làm thay đổi khoảng cách giữa nguyên tử nitrogen

    và các nguyên tử hydrogen trong cấu trúc hình kim tự tháp của NH3. Do NH3 có một số

    mode dao động và xoay, nên các bước sóng hấp thụ sẽ ứng với một số bước sóng chính và

    các thành phần hài. Các vùng hấp thụ này nằm tập trung vào các vùng 2000 nm, 3000 nm

    và 5000-8000 nm. Tuy nhiên, phổ hấp thụ của vùng này rất yếu, bộ thu ánh sáng cho vùng

    này cũng đắt tiền và ít được sử dụng để làm cảm biến. Phương pháp Raman cũng đã được

    ứng dụng cho việc cảm biến NH3. Trong [34], nguồn laser công suất 400 mW ở bước sóng

    458 nm đã được sử dụng để đo đạc tán xạ Stokes của khí NH3. Tuy nhiên, tùy thuộc vào sự

    hiện diện của các tạp chất khác trong hỗn hợp, đỉnh phản xạ Stokes của NH3 bị thay đổi. Sự

    thay đổi này có thể được dùng để xác định sự hiện diện của NH3 trong nước tại khoảng cách

    tán xạ 1040 cm-1 hoặc 1641 cm-1. Các đỉnh tán xạ ở vùng 3231-3398 cm-1 có thể dùng để

    cảm biến khí NH3 dù bị lẫn vào tán xạ của hơi nước.

    -Nitrate (NO3): các cảm biến quang phổ cho nitrate thường lợi dụng vùng hấp thụ cực tím

    tập trung ở 220 nm [35, 36]. Các cảm biến này có khả năng cung cấp thông số nhanh tại

    điểm đo, nhưng có độ nhạy tối đa khoảng 210 nM. Nguyên nhân gây nhiễu chủ yếu đến từ

    các hợp chất hữu cơ và các anion khác như bromide và carbonate. Ngược lại, các hệ thống

    sử dụng tán xạ Raman ít ảnh hưởng bởi nhiễu hơn. Chẳng hạn, trong [37] một số nitrite,

    nitrate và sulfate dạng rắn và dạng lỏng có thể được cảm biến bằng bước sóng tán xạ

    Stokes. Trong đó, đỉnh của tán xạ do nitrate nằm ở 1050 cm-1 có độ rộng và vị trí thay đổi

    theo mật độ. Nhiều công bố khác [38, 39] cũng xác định được vùng tán xạ Stokes của các

    loại muối Clorides, Nitrates, Sulfates và Phosphates nằm tập trung trong vùng 1000 cm-1,

    cách xa khỏi bước sóng tán xạ Stokes của nước nằm trong vùng 3400 cm-1.

    -Độ mặn (NaCl): đặc điểm khác biệt của NaCl là hòa tan vào nước sẽ tạo thành các ion đơn

    nguyên không có liên kết. Do đó, bản thân NaCl khi hòa tan vào nước không tạo nên các

    đỉnh hấp thụ đặc trưng. Tuy nhiên, các ion này làm thay đổi ma trận liên kết cũng như các

    mode dao động cơ bản của nước và làm đặc tính hấp thụ ánh sáng của nước thay đổi. Như

    vậy, có thể xem phổ của nước mặn là tổng hợp của phổ nước cất và nước bị thay đổi đặc

    tính hấp thụ. Hấp thụ trong vùng cực tím của nước thay đổi rõ ràng nhất theo độ mặn ở 212

    nm [40]. Trong các công bố về đo đạc độ mặn ở vùng VIS-NIR [41-43], kết luận chung là

    bước sóng của nước có độ thay đổi mạnh nhất nằm ở vùng lớn hơn 650 nm. Các bước sóng

    có thể dùng để ước lượng là 720 nm và 755 nm. Các thông số hấp thụ cho toàn vùng VIS-

    NIR từ 400-14000 nm có thể được tham khảo trong [44]. Việc sử dụng tán xạ Raman cho

    đo đạc độ mặn gặp khá nhiều trở ngại do liên kết ion NaCl không tán xạ Raman. Hơn nữa,

    khi hòa tan vào nước, NaCl chuyển thành dạng ion Na+ và Cl-, cũng không tán xạ Raman.

    Các công bố đo đạc độ mặn bằng Raman [45], do đó, dựa vào sự thay đổi về đỉnh tán xạ

  • 18

    Stokes của nước ở vùng 3400 cm-1. Cụ thể, bước sóng tán xạ Stokes ở 3450 cm-1 ở dạng

    lỏng sẽ thay đổi phi tuyến theo nồng độ NaCl. Về lý thuyết, đỉnh tán xạ yếu của nước ở

    1640 cm-1 cũng có thể được sử dụng để ước lượng nồng độ NaCl. Tuy nhiên, nhóm tác giả

    chưa tìm được công bố nào sử dụng khu vực này. Trong đề tài này, độ mặn sẽ được đo đạc

    bằng các cảm biến ion có trên thị trường.

    -Độ pH (ion H+ và OH-): các ion H+ và OH- trong dung dịch nước không có đỉnh hấp thụ

    đặc trưng trong vùng UV-VIS. Theo tìm hiểu của nhóm tác giả, chỉ có một số ít công bố

    ước lượng trực tiếp độ pH từ quang phổ hấp thụ. Trong [46], phổ hấp thụ vùng NIR (1000-

    2500 nm) của dung dịch đã được sử dụng để ước lượng gần đúng độ pH thông qua sự thay

    đổi của phổ hấp thụ nước tương tự như trong trường hợp của NaCl. Nhóm tác giả cũng

    chưa tìm được công bố nào về việc đo đạc pH trực tiếp sử dụng tán xạ Raman. Theo hướng

    đo đạc phổ UV-VIS, hầu hết các công bố về đo đạc pH lợi dụng sự chuyển đổi màu sắc của

    chất chỉ thị màu và đo đạc sự chuyển đổi trong quang phổ của chất chỉ thị. Theo hướng đo

    đạc tán xạ Raman, hầu hết các công bố sử dụng thiết bị Raman với đầu đo bao phủ bằng các

    chất chỉ thị và đo đạc tán xạ của chất chỉ thị này. Các nguyên cứu về độ pH trong ao hồ [47]

    chỉ ra rằng: độ pH trong nước thay đổi tùy thuộc vào lượng CO2 trong nước. Vào ban ngày,

    các thành phần thực vật trong nước quang hợp và lượng CO2 giảm dần khiến độ pH của

    nước tăng dần. Về đêm, hiện tượng quang hợp ngưng lại nhưng quá trình hô hấp của các

    thành phần động vật vẫn diễn ra. Kết quả là nồng độ CO2 tăng lên và độ pH giảm xuống.

    Quá trình này lặp lại có tính chu kỳ và làm độ pH của nước ao hồ thay đổi trong ngày.

    Trong vùng UV, CO2 có một đỉnh hấp thụ chính ở 185 nm và một đỉnh hấp thụ nhỏ ở 235

    nm. Tùy thuộc vào quang trình, các bước sóng trong vùng 212-232 nm có thể được dùng để

    tìm CO2 [48]. Tuy nhiên, do đặc tính hấp thụ của nước mặn có dạng gần giống CO2 trong

    vùng này, việc phân tích sử dụng thuật toán tách tương quan thông thường gặp sai số lớn.

    Trong một số công bố khác, độ pH được đo đạc gián tiếp từ nồng độ oxy hòa tan [49] hoặc

    nitrate [50]. Ngoài ra, có sự tương quan giữa nồng độ ammonia [51] và pH. Các yếu tố này

    có thể được lợi dụng để ước lượng gián tiếp pH trong nước ao hoặc nước biển. Trong đề tài

    này, độ pH sẽ được đo đạc bằng các cảm biến ion có trên thị trường

    -Nhiệt độ: sự thay đổi nhiệt độ làm thay đổi hầu như toàn bộ các thông số cần đo đạc phía

    trên. Trong rất nhiều công bố về ảnh hưởng của nhiệt độ đến phổ hấp thụ, các thay đổi xảy

    ra trong vùng VIS [52] và NIR cho cả nước ngọt và nước mặn [53, 54]. Tán xạ Raman của

    nước ở 3200 cm-1 cũng có thể được dùng để ước lượng gián tiếp nhiệt độ [55]. Trong đề tài

    này, nhiệt độ sẽ được đo đạc bằng các cảm biến có trên thị trường

    Tóm tắt ngắn gọn về khả năng đo đạc các thông số theo yêu cầu của bộ NNPTNN bằng quang

    phổ như sau:

    Bảng 3:

    Thông số Hấp thụ UV

    (nm)

    Hấp thụ VIS

    (nm)

    Tán xạ Raman

    (cm-1)

    Oxy hòa tan 1556

    Ammonia 200-210 1650-3313

    Nitrate 220 1050

  • 19

    Độ mặn 212 720 và 755 3450

    pH

    Nhiệt độ

    Như vậy, có thể thấy rằng việc đo đạc các thông số về chất lượng nước của đầm tôm không tiếp

    xúc có các vấn đề trở ngại sau:

    -Phổ hấp thụ hoặc tán xạ của các chất chồng lấn lên nhau.

    -Độ oxy hòa tan rất khó đo đạc bằng phổ hấp thụ do rất khó tìm kiếm được nguồn sáng hoạt

    động thời gian dài và thủy tinh (ống đựng dung dịch, thấu kính) trong suốt tại 145 nm.

    Trong khi đó, độ hấp thụ tại 760 nm rất yếu.

    -Ngược lại, độ mặn rất khó đo đạc bằng tán xạ do bản thân ion Na+ và Cl- không tán xạ

    Raman.

    -Việc đo đạc bằng Raman có sai số lớn với giới hạn dưới khi đo đạc lớn hơn 10 mg/l. Như

    vậy, các nồng độ quá nhỏ như DO (3.5 mg/l), H2S (0.05 mg/l), NH3 và NO2 (0.3 mg/l) gần

    như không thể đo đạc được bằng hệ thống Raman thông thường. Các phương pháp khác

    như Raman trong miền thời gian cần thiết bị với tốc độ hoạt động dưới nano giây trong khi

    Raman tăng cường tán xạ phải thay đổi bề mặt tăng cường liên tục đều không phù hợp với

    yêu cầu và giá thành hệ thống.

    -Độ pH không thể đo đạc trực tiếp bằng quang phổ.

    -Nhiệt độ ảnh hưởng lên tất cả các thành phần cần đo đạc.

    Trong đề tài này, chúng tôi đề nghị phương pháp giải quyết như sau:

    -Sử dụng tính chất hấp thụ ở vùng phổ UV. Việc lựa chọn sẽ tùy thuộc vào khả năng tìm

    kiếm thiết bị, độ chính xác cũng như giá thành thiết bị. Trong đề tài này, mục đích hướng

    đến là một hệ thống đo đạc tích hợp đủ rẻ tiền để có thể phát triển thành sản phẩm cho các

    hộ nuôi tôm. Do đó, các linh kiện hoặc thiết bị quá đắt tiền không được sử dụng. Cách làm

    này sẽ ảnh hưởng đến độ chính xác, tuy nhiên, đây là tương nhượng có thể chấp nhận được.

    -Xây dựng thuật toán phân tích phổ. Như thể hiện trong bảng 2, vùng UV có sự chồng lấn

    phổ của khá nhiều chất cần đo như ammonia, nitrate và muối. Ngoài ra, các bộ thu và thủy

    tinh làm ống đựng dung dịch phổ biến chỉ hoạt động ở bước sóng từ 200 nm trở lên. Tuy

    nhiên, nhờ các đỉnh hấp thụ đặc trưng, các chất trong vùng này có thể phân biệt được bằng

    cách phân tích tương quan và tách tương quan tín hiệu. Đối với DO, chỉ có thể đo đạc với

    nồng độ tối thiểu khoảng 10mg/l bằng tán xạ Raman. Để có độ chính xác thấp hơn, cần pha

    thêm một lượng chất chỉ thị màu và theo dõi sự thay đổi phổ của chất chỉ thị màu hoặc dùng

    đo đạc ion. Do đó, nếu không thể phân tích phổ, DO sẽ được đo đạc bằng cảm biến ion có

    trên thị trường.

    -Độ pH, độ mặn và H2S sẽ được ước lượng bằng cảm biến ion.

    - Nếu xét về mặt toán học, nhiệt độ là biến số nằm trong phương trình ước lượng của tất cả

    các chất đã nêu. Như vậy, để giảm bậc bài toán và tăng độ chính xác trong ước lượng,

    chúng tôi sẽ sử dụng cảm biến nhiệt độ chịu ăn mòn cao cho hệ thống. Cách giải quyết đơn

  • 20

    giản này sẽ giúp giảm đáng kể độ phức tạp tính toán, độ phức tạp cũng như giá thành xây

    dựng phần mềm hệ thống.

    16 Liệt kê danh mục các công trình nghiên cứu, tài liệu có liên quan đến đề tài đã trích dẫn

    khi đánh giá tổng quan

    (Tên công trình, tác giả, nơi và năm công bố, chỉ nêu những danh mục đã được trích dẫn để luận

    giải cho sự cần thiết nghiên cứu đề tài).

    [1]. Jyotirmoy Bhardwaj; Karunesh K Gupta; Rajiv Gupta,"A review of emerging trends on

    water quality measurement sensors", 2015 International Conference on Technologies for

    Sustainable Development (ICTSD) Pages: 1 - 6, DOI: 10.1109/ICTSD.2015.7095919,

    2015

    [2]. Xu-dong Wanga, Otto S. Wolfbeis, "Optical methods for sensing and imaging oxygen:

    materials, spectroscopies and applications", Chem. Soc. Rev., 2014,43, 3666-3761, DOI:

    10.1039/C4CS00039K, 2014

    [3]. Z. Dong, U. Wejinya, J. Vaughan, and A. Albrecht, ‘Fabrication and testing of ISFET

    based pH sensor for microliter scale solution targets’, 2012 IEEE Nanotechnology

    Materials and Devices Conference (NMDC2012), Jan. 2012.

    [4]. K. Besteman, J.-O. Lee, F. Wiertz, H. Heering, and C. Dekker, ‘Enzyme-Coated Carbon

    Nanotubes as Single-Molecule Biosensors’, Nano Letters, vol. 3, no. 6, pp. 727–730, Jan.

    2003.

    [5]. J. Y. Oh, H.-J. Jang, W.-J. Cho, and S. Islam, ‘Highly sensitive electrolyte-insulator-

    semiconductor pH sensors enabled by silicon nanowires with Al2O3/SiO2 sensing

    membrane’, Sensors and Actuators B: Chemical, vol. 171–172, pp. 238–243, Jan. 2012.

    [6]. K. N. A. K. Adnan; N. Yusuf; H. N. Maamor; F. N. A. Rashid; S. W. M. Ismail; R.

    Thriumani; A. Zakaria; L. M. Kamarudin; A. Y. M. Shakaff; M. N. Jaafar; M. N.

    Ahmad, "Water quality classification and monitoring using e-nose and e-tongue in

    aquaculture farming", 2014 2nd International Conference on Electronic Design (ICED),

    Pages: 343 - 346, DOI: 10.1109/ICED.2014.7015827, 2014

    [7]. S. G. Honan; B. E. Bishop, "Low-Cost Salinity Sensor Increases Profitability and

    Environmental Sustainability for Small Plot Shrimp Farmers", 2011 IEEE Global

    Humanitarian Technology Conference, Pages: 56 - 61, DOI: 10.1109/GHTC.2011.90,

    2011

    [8]. J. Lin, “Recent development and applications of optical and fiber-optic pH sensors”,

    Trends Anal. Chem. 19 (2000) 541–552.

    [9]. Gowen, R. Tsenkova, M. Bruen, and C. O’donnell, "Vibrational Spectroscopy for

    Analysis of Water for Human Use and in Aquatic Ecosystems", Critical Reviews In

    Environmental Science And Technology Vol. 42 , Iss. 23,2012

    [10]. Li Z, Deen MJ, Kumar S, Selvaganapathy PR., "Raman spectroscopy for in-line water

  • 21

    quality monitoring--instrumentation and potential", Sensors (Basel). 2014 Sep

    16;14(9):17275-303. doi: 10.3390/s140917275.

    [11]. De Young, R.; Ganoe, R., "Remote Sensing of Dissolved Oxygen and Nitrogen in Water

    using Raman Spectroscopy", American Geophysical Union, Fall Meeting 2013, abstract

    #OS53C-1708, 2013

    [12]. L. L. Wang, X. H. Liu, X. X. Shi, Y. R. Lu, Y. Qi, M. Y. Wang, "Study on Real-Time

    Monitoring of Seawater COD by UV-Vis Spectroscopy", Advanced Materials Research,

    Vols. 726-731, pp. 1534-1537, 2013

    [13]. Yingtian Hu; Yizhang Wen; Xiaoping Wang, "Detection of water quality multi-

    parameters in seawater based on UV-Vis spectrometry", OCEANS 2016 - Shanghai,

    Pages: 1 - 4, DOI: 10.1109/OCEANSAP.2016.7485737, 2016

    [14]. Tasnim Alam; Babak Rezania; Behraad Bahreyni, "A portable system for estimation of

    chemical oxygen demand in wastewater using ultraviolet-visible spectroscopy", 2015

    IEEE SENSORS, Pages: 1 - 4, DOI: 10.1109/ICSENS.2015.7370460, 2015

    [15]. N.D. Lourençoa, C.L. Chavesb, J.M. Novaisa, J.C. Menezesa, H.M. Pinheiroa, D.

    Dinizb, ""UV spectra analysis for water quality monitoring in a fuel park wastewater

    treatment plant", Chemosphere Volume 65, Issue 5, October 2006, Pages 786–791

    [16]. Viện nghiên cứu nuôi trồng thủy sản 1, Đề án kiểm soát ô nhiễm môi trường nuôi trồng

    thủy sản (tôm, cá tra) đến năm 2020, 2013

    [17]. Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về cơ sở nuôi tôm nước lợ - Điều kiện bảo đảm vệ sinh thú

    y, bảo vệ môi trường và an toàn thực phẩm, QCVN 02-19: 2014, BNNPTNT, 2014

    [18]. Sera, 2017, Sera ammonium/ammonia-Test (NH4/NH3) (website), Available:

    https://www.sera.de/us/product/sera-ammoniumammonia-test-nh4nh3/

    [19]. Xylem, 2017, YSI 5200A Multiparameter Monitoring and Control Instrument (website).

    Available: http://www.xylem-analytics.vn/productsdetail.php?YSI-5200A-

    Multiparameter-Monitoring-and-Control-Instrument-120

    [20]. ReecoTech, 2017, Hệ thống Giám sát đa chỉ tiêu chất lượng môi trường nước (website).

    Available: Xylem, 2017, YSI 5200A Multiparameter Monitoring and Control Instrument

    (website). Available: http://www.xylem-analytics.vn/productsdetail.php?YSI-5200A-

    Multiparameter-Monitoring-and-Control-Instrument-120

    [21]. QteTech, 2017, Thiết bị đo chất lượng nước đa chỉ tiêu - Aquaread (website). Available:

    http://www.qtetech.com.vn/Thiet-bi-do-chat-luong-nuoc-da-chi-tieu-Aquaread.htm

    [22]. Dương Thái Bình và Võ Minh Trí, "Mô hình trường 3D thông số môi trường ao nuôi

    thủy sản", Tạp chí Khoa học Trường Đại học Cần Thơ, 43, pp. 102-108, 2016

    [23]. Jordi Raich, Review of sensors to monitor water quality, ERNCIP thematic area

    'Chemical & biological risks in the water sector', deliverable D1 - task 1, 2013

    [24]. Nguyễn Văn Khanh, Nguyễn Văn Sắt, Nguyễn Tô Cương, Huỳnh Phú Châu, Trần Gia

    Bảo, "Hệ thống đo lường, giám sát và phân tích môi trường ao nuôi tôm công nghiệp",

    Hội nghị Toàn quốc lần thứ 8 về Cơ điện tử VCM2016, Đại học Cần Thơ, pp. 254-259,

    2016

  • 22

    [25]. Đại học Quốc gia TPHCM - Phòng thí nghiệm công nghệ Nano, 2017, Giới thiệu phòng

    thí nghiệm công nghệ Nano (website), Available:

    http://khcn.vnuhcm.edu.vn/Upload/2.%20PNT%20Cong%20nghe%20Nano.pdf

    [26]. P. B. Arnoudse, H. L. Pardue, J. D. Bourland, R. Miller and L. A. Geddes, Anal. Chem.,

    1992, 64, 200–204.

    [27]. L. Gianfrani, A. Sasso and G. M. Tino, Sens. Actuators, B, 1997, 39, 283–285.

    [28]. V. Weldon, J. O’Gorman, J. J. Pe ´rez-Camacho, J. Hegarty, J. C. Connolly and N. A.

    Morris, Sens. Actuators, B, 1997, 42, 163–168.

    [29]. C. Jia, H. Andreas, S. Rainer, F. Maximilian and A. Markus-Christian, Conference on

    Lasers and Electro-Optics/International Quantum Electronics Conference, 2009.

    [30]. Cheng, B.-M., Lu1, H.-C., Chen, H.-K., Bahou, M., Lee, Y.-P., Mebel, A. M., Lee, L. C.,

    Liang, M.-C. & Yung, Y. L. (2006). “Absorption cross sections of NH3 , NH2D, NHD2 ,

    and ND3 in the spectral range 140-220 nm and implications for planetary isotopic

    fractionation”, The Astrophysical Journal 647(2): 1535.

    [31]. Chambers, P., Lyons, W. B., Lewis, E., Sun, T. & Grattan, K. T. V. (2007). “The

    potential for development of an NH 3 optical fibre gas sensor”, Journal of Physics:

    Conference Series, Third International Conference on Optical and Laser Diagnostics,

    Vol. 012015

    [32]. Manap, H., Muda, R., O’Keeffe, S. &Lewis, E. (2009). “Ammonia sensing and a

    crosssensitivity evaluation with atmosphere gases using optical fiber sensor”, Procedia

    Chemistry, Proceedings of the Eurosensors XXIII conference, Vol. 1, pp. 959–962.

    [33]. Eckhardt, H. S., Klein, K.-F., Spangenberg, B., Sun, T. & Grattan, K. T. V. (2007).

    “Fibre-optic uv systems for gas and vapour analysis”, J. Phys.: Conf. 85: 012018.

    [34]. K. J. Schmidt, K. H. Michaelian, and G. R. Loppnow, "Identification of Major Species in

    Industrial Metal-Refining Solutions with Raman Spectroscopy", Applied Spectroscopy

    Vol. 53, Issue 2, pp. 139-143 (1999)

    [35]. M.S. Finch, D.J. Hydes, C.H. Clayson, W. Bernhard, J. Dakin, P. Gwilliam, Anal. Chim.

    Acta 377 (1998) 167.

    [36]. K.S. Johnson, L.J. Coletti, Deep-Sea Res. I 49 (2002) 129

    [37]. Rogelio Rodríguez et al, "Determination of lead ion removal from a flowing electrolyte

    in the presence of a magnetic field using Raman spectroscopy", 2015 Medical Physics,

    42, 6182

    [38]. Marc D. Fontana, Kawther Ben Mabrouk and Thomas H. Kauffmann, "Raman

    spectroscopic sensors for inorganic salts", Spectroscopic Properties of Inorganic and

    Organometallic Compounds : Techniques, Materials and Applications, Volume 44, 2013

    [39]. Thomas H. Kauffmann; Kawther Ben Mabrouk; Marc D. Fontana, "Raman probe for the

    simultaneous measurement of anion concentration in mixtures of salt solutions",

    SENSORS, 2013 IEEE, Pages: 1 - 4, DOI: 10.1109/ICSENS.2013.6688293, 2013

    [40]. Vito Di Noto and Mauro Mecozzi, "Determination of Seawater Salinity by Ultraviolet

  • 23

    Spectroscopic Measurements," Appl. Spectrosc. 51, 1294-1302 (1997)

    [41]. W. S. Pegau, D. Gray, and J. R. V. Zaneveld, “Absorption and attenuation of visible and

    near-infrared light in water: dependence on temperature and salinity,” Appl. Opt. 36(24),

    6035–6046 (1997).

    [42]. J. M. Sullivan, M. S. Twardowski, J. R. V. Zaneveld, C. M. Moore, A. H. Barnard, P. L.

    Donaghay, and B. Rhoades, “Hyperspectral temperature and salt dependencies of

    absorption by water and heavy water in the 400- 750 nm spectral range,” Appl. Opt.

    45(21), 5294–5309 (2006).

    [43]. R. Röttgers and R. Doerffer, “Measurements of optical absorption by chromophoric

    dissolved organic matter using a point-source integrating-cavity absorption meter,”

    Limnol. Oceanogr. Methods 5, 126–135 (2007).

    [44]. Rüdiger Röttgers, David McKee, and Christian Utschig, "Temperature and salinity

    correction coefficients for light absorption by water in the visible to infrared spectral

    region," Opt. Express 22, 25093-25108 (2014)

    [45]. Ivana Đuričković, Mario Marchetti, Rémy Claverie, Patrice Bourson, Jean-Marie

    Chassot, and Marc D. Fontana, "Experimental Study of NaCl Aqueous Solutions by

    Raman Spectroscopy: Towards a New Optical Sensor," Appl. Spectrosc. 64, 853-857

    (2010)

    [46]. Molt, K.; Cho, Y. J., "Analysis of aqueous solutions by near-infrared spectrometry

    (NIRS). I. Titrations of strong acids with strong bases", Journal of Molecular Structure,

    Volume 349, p. 345-348., 1995

    [47]. William A. Wurts, "Pond pH and Ammonia Toxicity", World Aquaculture, 34(2): 20-21

    [48]. Todd R. Martz, , Hans W. Jannasch, Kenneth S. Johnson, "Determination of carbonate

    ion concentration and inner sphere carbonate ion pairs in seawater by ultraviolet

    spectrophotometric titration", Marine Chemistry, Volume 115, Issues 3–4, 20 August

    2009, Pages 145–154

    [49]. L. W. Juranek, R. A. Feely, Denis Gilbert, Lisa A. Miller, "Real-time estimation of pH

    and aragonite saturation state from Argo profiling floats: Prospects for an autonomous

    carbon observing strategy", Geophysical Research Letters 38:L17603, DOI:

    10.1029/2011GL048580, 2011

    [50]. N. L. Williams, L. W. Juranek, K. S. Johnson, R. A. Feely, S. C. Riser, L. D. Talley, J. L.

    Russell, J. L. Sarmiento, R. Wanninkhof, "Empirical algorithms to estimate water

    column pH in the Southern Ocean", Geophysical Research Letters, Volume 43, Issue 7,

    2016, Pages 3415–3422

    [51]. Sasha D. HafnerEmail authorJohn J. MeisingerWalter MulbryShannon K. Ingram, "A

    pH-based method for measuring gaseous ammonia", Nutrient Cycling in

    Agroecosystems, March 2012, Volume 92, Issue 2, pp 195–205

    [52]. James M. Sullivan, Michael S. Twardowski, J. Ronald V. Zaneveld, Casey M. Moore,

    Andrew H. Barnard, Percy L. Donaghay, and Bruce Rhoades, "Hyperspectral

    temperature and salt dependencies of absorption by water and heavy water in the 400-

  • 24

    750 nm spectral range," Appl. Opt. 45, 5294-5309 (2006)