30
Thảo luận chi tiết và phân tích kỹ lưỡng về Windows domain. Trong một số bài trước của loạt bài này các bạn đã được giới thiệu một số khái niệm về domain (miền, tức là một vùng mạng được quan tâm nhất định) và domain controller (bộ quản lý miền). Tiếp tục với những kiến thức cơ sở nhất, hôm nay chúng tôi giới thiệu với bạn đọc một khái niệm khác: Windows domain. Có một số điều đã quen và cũng có một số điểm mới khác. Chúng ta hãy cùng xem chúng là cái gì. Như đã giải thích trong phần 5, domain bây giờ không còn lạ lẫm gì với các bạn. Microsoft đưa ra khái niệm domain đầu tiên trong Windows NT Server. Vào thời kỳ đó, mỗi domain là một vùng riêng biệt, thường sở hữu tất cả tài khoản người dùng của toàn bộ công ty. Một quản trị viên phải hoàn toàn điều khiển domain và dữ liệu bên trong nó. Nhưng đôi khi domain đơn riêng rẽ không mang tính thiết thực. Chẳng hạn, nếu một công ty có chi nhánh ở một vài thành phố khác nhau. Khi đó mỗi chi nhánh cần sẽ cần phải có một domain riêng, gây lãng phí và rất tốn kém. Trường hợp phổ biến khác là khi một công ty mua lại công ty khác. Tất nhiên hai công ty thường có hai domain khác nhau. Khi sát nhập lại thành một, chẳng nhẽ lại phải tiếp tục duy trì hai domain riêng như vậy. Nhiều khi người dùng ở miền này cần truy cập tài nguyên trên miền khác. Trường hợp này không phải hiếm gặp. Đưa ra giải pháp

Domain controler

Embed Size (px)

Citation preview

Page 1: Domain controler

Thảo luận chi tiết và phân tích kỹ lưỡng về Windows domain.

Trong một số bài trước của loạt bài này các bạn đã được giới thiệu một số khái niệm về domain (miền, tức là một vùng mạng được quan tâm nhất định) và domain controller (bộ quản lý miền). Tiếp tục với những kiến thức cơ sở nhất, hôm nay chúng tôi giới thiệu với bạn đọc một khái niệm khác: Windows domain. Có một số điều đã quen và cũng có một số điểm mới khác. Chúng ta hãy cùng xem chúng là cái gì.

Như đã giải thích trong phần 5, domain bây giờ không còn lạ lẫm gì với các bạn. Microsoft đưa ra khái niệm domain đầu tiên trong Windows NT Server. Vào thời kỳ đó, mỗi domain là một vùng riêng biệt, thường sở hữu tất cả tài khoản người dùng của toàn bộ công ty. Một quản trị viên phải hoàn toàn điều khiển domain và dữ liệu bên trong nó.

Nhưng đôi khi domain đơn riêng rẽ không mang tính thiết thực. Chẳng hạn, nếu một công ty có chi nhánh ở một vài thành phố khác nhau. Khi đó mỗi chi nhánh cần sẽ cần phải có một domain riêng, gây lãng phí và rất tốn kém. Trường hợp phổ biến khác là khi một công ty mua lại công ty khác. Tất nhiên hai công ty thường có hai domain khác nhau. Khi sát nhập lại thành một, chẳng nhẽ lại phải tiếp tục duy trì hai domain riêng như vậy.

Nhiều khi người dùng ở miền này cần truy cập tài nguyên trên miền khác. Trường hợp này không phải hiếm gặp. Đưa ra giải pháp cho vấn đề này, Microsoft đã tạo các trusts hỗ trợ cho việc truy cập dễ dàng hơn. Bạn có thể hình dung hoạt động của trust cũng giống như công việc bảo vệ an ninh ở sân bay vậy.

Tại Mỹ, hành khách thường phải xuất trình bằng lái xe cho nhân viên an ninh sân bay trước khi lên các chuyến bay nội địa. Giả sử bạn dự định bay tới một nơi nào đó trong địa phận nước Mỹ. Nhân viên an ninh tại sân bay không biết bạn là ai và chắc chắn là không tin bạn. Nhưng họ tin chính quyền bang Nam Carolina, nơi bạn sinh sống, xác nhận nhân thân và cấp bằng lái xe cho bạn. Do đó bạn có thể trình bằng lái xe Nam

Page 2: Domain controler

Carolina và nhân viên an ninh sân bay sẽ cho phép bạn lên máy bay mặc dù họ không cần tin cá nhân bạn là ai.

Domain trust cũng hoạt động theo cách như vậy. Giả sử bạn là người quản trị một domain có chứa tài nguyên mà người dùng ở domain khác cần truy cập. Nếu bạn không phải là quản trị viên trong foreign domain thì bạn không có quyền điều khiển ai là người được cấp tài khoản người dùng trong domain đó. Nếu tin tưởng quản trị viên của domain bạn muốn có mối liên hệ, bạn có thể thiết lập một trust (có thể hiểu là một uỷ thác) để domain của bạn "uỷ thác" các thành viên của mình trở thành thành viên của domain kia. Foreign domain được gọi là domain "được uỷ thác".

Trong bài trước tôi đã nhấn mạnh rằng domain controller cung cấp dịch vụ thẩm định chứ không phải là dịch vụ cấp phép. Điều này hoàn toàn đúng ngay cả khi các quan hệ uỷ thác được thiết lập. Thiết lập quan hệ uỷ thác tới foreign domain không cung cấp cho người dùng trong domain đó quyền truy cập vào bất cứ tài nguyên nào trong miền của bạn. Bạn vẫn phải gán quyền cho người dùng như đối với người dùng trong domain riêng của mình.

Ở phần đầu của bài này chúng ta có nói rằng trong Windows NT, mỗi domain là một môi trường riêng rẽ, tự chứa các nội dung bên trong và các uỷ thác được tạo ra theo kiểu cho phép người dùng ở domain này truy cập tài nguyên trong domain khác. Các khái niệm đó cho đến nay vẫn đúng một phần, nhưng mô hình domain thì thay đổi một cách đáng kinh ngạc khi Microsoft tạo ra Active Directory. Chắc bạn vẫn còn nhớ Active Domain được giới thiệu đầu tiên trong Windows 2000 và hiện nay vẫn còn được dùng trong Windows Server 2003. Chắc chắn Active Directory sẽ quay trở lại sớm trong Longhorn Server, phiên bản hệ điều hành server mới nhất sắp ra mắt của Microsoft.

Một trong những điểm khác nhau chính giữa domain kiểu Windows NT và domain Active Directory là chúng không còn duy trì tình trạng hoàn toàn riêng rẽ nữa. Trong Windows NT, không có cấu trúc mang tính tổ chức cho các domain. Từng domain hoàn toàn độc lập với nhau. Còn trong môi trường Active Directory, cấu trúc có tổ chức chính được biết đến là forest (kiểu cấu trúc rừng). Một forest có thể chứa nhiều nhánh (tree) domain.

Page 3: Domain controler

Bạn có thể hình dung domain tree cũng giống như cây gia đình (hay còn gọi là sơ đồ phả hệ). Một cây gia đình gồm có: cụ, kỵ, ông bà, cha mẹ rồi đến con cái... Mỗi thành viên trong cây gia đình có một số mối quan hệ với thành viên ở trên và bên dưới. Domain tree cũng tương tự như vậy. Bạn có thể nói vị trí của một domain bên trong cây bằng cách nhìn vào tên nó.

Các miền Active Directory dùng tên theo kiểu DNS, tương tự như tên dùng cho website. Bạn hãy nhớ lại, trong phần 3 của loạt bài này tôi đã giải thích các server DNS xử lý đường dẫn URL cho trình duyệt Web như thế nào. Kỹ thuật giống như vậy cũng được dùng nội bộ trong môi trường Active Directory. DNS là tên viết tắt của Domain Name Server (Máy chủ tên miền). Một DNS server là thành phần bắt buộc cho bất kỳ triển khai Active Directory nào.

Để biết hoạt động đặt tên miền diễn ra như thế nào, chúng ta hãy cùng xem quá trình thiết lập một mạng riêng ra sao. Domain chính trong mạng tôi lấy ví dụ có tên production.com. Tôi không thực sự sở hữu tên miền Internet production.com, nhưng điều đó không thành vấn đề vì miền này hoàn toàn riêng tư và chỉ có thể truy cập được từ bên trong mạng riêng của tôi.

Miền production.com được coi là domain mức đầu. Nếu đây là miền Internet, nó sẽ không giữ vị trí này nữa mà chỉ được xem là domain con của .com. Khi đó .com mới thực sự là domain mức đầu bảng. Mặc dù có một số điểm khác nhau không quan trọng lắm, nhưng nguyên tắc cơ bản giống như vậy vẫn được giữ nguyên. Tôi có thể dễ dàng tạo một domain con của production.com bằng cách tạo tên miền khác trong production.com, ví dụ sales.production.com chẳng hạn. Thậm chí còn có thể tạo một domain "cháu" như widgets.sales.production.com. Bạn có thể dễ dàng nói vị trí của một domain bên trong domain tree, chỉ cần nhìn vào số khoảng cách trong tên của miền.

Như trước đã đề cập, một forest Active Directory có thể chứa một số domain tree. Bạn không bị giới hạn tạo các single domain tree trong forest này. Mạng riêng của tôi dùng hai domain tree: production.com và test.com. Domain test.com bao gồm tất cả server trong quá trình thử nghiệm với một số kỹ thuật khác nhau. Còn production.com domain chứa các server thực sự dùng trong hoạt động kinh doanh. Domain này là mail server và một số file server.

Page 4: Domain controler

Điểm đáng chú ý là khả năng tạo nhiều cây domain, cho phép bạn phân tách được mạng của mình, làm cho nó có ý nghĩa nhất với khả năng quản lý trong tương lai. Ví dụ, giả sử một công ty có năm văn phòng ở năm thành phố khác nhau. Công ty có thể dễ dàng tạo một rừng Active Directory gồm năm cây domain, mỗi cây cho một thành phố. Lúc đó mỗi chi nhánh trên một thành phố sẽ cần một quản trị viên. Và quản trị viên đó hoàn toàn tự do tạo các domain con cho domain tree của họ nếu thấy cần thiết.

Ưu điểm của kiểu cấu trúc này là tất cả domain đều nằm trong một forest chung. Điều này có nghĩa là hoạt động quản trị điều khiển từng domain riêng hay các domain tree được phân phối cho từng quản trị viên ở mỗi thành phố khác nhau. Còn quản trị viên forest cuối cùng sẽ duy trì hoạt động điều khiển toàn bộ domain trong forest. Hơn nữa, các mối quan hệ uỷ thác được đơn giản hoá rất hiệu quả. Mọi domain trong forest thiết lập các uỷ thác tự động tới domain khác. Và nó hoàn toàn có thể thiết lập các trust này với forest hoặc domain mở rộng.

Sự cần thiết của các FSMO role

Trong các phần trước của loạt bài này, chúng ta đã được biết đến Active Directory, với một rừng (forest) các cây miền (domain tree), trong đó tên của mỗi miền cũng đồng thời là vị trí của chúng trong forest. Với cấu trúc cây phân tầng tự nhiên của Active Directory, bạn có thể dễ dàng đoán biết được các miền ở gần phía trên là những miền quan trọng nhất (đôi khi có các Domain Controller bên trong các miền đó). Trong bài này chúng ta sẽ thảo luận quy tắc các Domain Controller riêng lẻ phải tuân thủ bên trong Active Directory forest.

Trước đây, chúng ta có nói về các miền bên trong Windows NT. Cũng giống như Active Directory, Windows NT domain hỗ trợ sử dụng đa Domain Controller. Xin nhớ rằng Domain Controller chịu trách nhiệm thẩm định thông tin đăng nhập của người dùng. Do đó, nếu Domain Controller không hoạt động, sẽ không có bất kỳ ai được phép đăng nhập vào mạng. Microsoft nhận thức sớm được điều này nên thiết kế Windows cho phép sử dụng đa Domain Controller cùng một lúc. Nếu một Domain Controller bị hỏng,

Page 5: Domain controler

Domain Controller khác có thể thay thế nó, giúp hoạt động thẩm định đăng nhập mạng không bị gián đoạn. Có nhiều Domain Controller cũng cho phép miền liên quan đến hoạt động tải được chia sẻ bởi đa máy tính, tránh đẩy gánh nặng lên toàn bộ một server đơn.

Mặc dù Windows NT hỗ trợ đa Domain Controller trong một miền, nhưng luôn có một Domain Controller được xem là quan trọng nhất. Người ta gọi đó là Primary Domain Controller (máy điều khiển miền chính) hay PDC. Bạn có thể nhớ lại là, một Domain Controller bao gồm một cơ sở dữ liệu chứa tất cả thông tin tài khoản người dùng bên trong miền (tất nhiên còn nhiều thứ khác). Cơ sở dữ liệu này được gọi là Security Accounts Manager, hay SAM.

Trong Windows NT, PDC lưu trữ bản copy chính của cơ sở dữ liệu. Các Domain Controller khác trong miền Windows NT được gọi là Backup Domain Controller (Domain Controller dự trữ), hay BDC. Mỗi lần thực hiện thay đổi trên cơ sở dữ liệu của Domain Controller, thay đổi này sẽ được ghi vào PDC. Sau đó PDC sao chép thay đổi ra tất cả các BDC khác trong miền. Theo nghĩa thông thường, PDC chỉ là Domain Controller trong miền Windows NT, là miền mà các bản update có thể được sử dụng. Nếu PDC bị lỗi, sẽ có cách thức điều khiển từ xa một BDC tới PDC, cho phép Domain Controller hoạt động theo đúng chức năng của nó trong miền, nhưng chỉ với vai trò PDC.

Các miền Active Directory hơi khác một chút. Active Directory sử dụng mô hình sao chép đa chủ, tức là mọi Domain Controller trong miền đều có thể ghi. Ở đây không còn khái niệm PDC hay BDC. Nếu một người quản trị cần thực hiện thay đổi trên cơ sở dữ liệu Active Directory, thay đổi này được áp dụng cho bất kỳ Domain Controller nào trong miền, và sau đó được sao chép tới các Domain Controller còn lại.

Mô hình sao chép đa chủ được đánh giá là ý tưởng không tồi. Nó mở ra cánh cửa mới cho các thay đổi mâu thuẫn trái chiều. Chẳng hạn, chuyện gì sẽ xảy ra nếu hai quản trị viên khác nhau áp dụng các thay đổi mâu thuẫn cho hai Domain Controller rải rác ở hai vị trí trong cùng một thời điểm?

Page 6: Domain controler

Thông thường, Active Directory dành quyền ưu tiên cho các thay đổi mới nhất. Nhưng trong một số trường hợp, phương pháp này không thể giải quyết được xung đột nghiêm trọng. Do đó, Microsoft đưa ra gợi ý là tốt hơn hết bạn nên ngăn ngừa xung đột từ khi chúng chớm xuất hiện hoặc chưa xuất hiện, còn hơn là giải quyết chúng sau khi đã xảy ra.

Trong các trường hợp này, Windows cung cấp cho chúng ta giải pháp chỉ định một số Domain Controller thực hiện vai trò Flexible Single Master Operation (FSMO). Về cơ bản, sử dụng FSMO có nghĩa là các miền Active Directory hỗ trợ đầy đủ mô hình sao chép đa chủ, ngoại trừ trong một số trường hợp riêng nhất định, miền được khôi phục sử dụng mô hình đơn chủ. Có ba vai trò FROM khác nhau được gán ở mức domain, và hai vai trò bổ sung gán ở mức forest.

Các FSMO role được đặt ở đâu?

Hầu hết các role (vai trò) FSMO đều chỉ chú trọng đến bản thân chúng. Nhưng thông tin cho bạn biết Domain Controller nào sở hữu các role nào cũng hết sức quan trọng. Mặc định, Domain Controller đầu tiên trong rừng sở hữu 5 role. Khi các domain bổ sung được tạo, Domain Controller đầu tiên sẽ mang trực tuyến đến cho từng miền sở hữu 3 role FSMO mức domain.

Lý do quan trọng để biết Domain Controller nào nắm giữ các role nào là bởi thiết bị phần cứng sau này sẽ bị lão hoá và cuối cùng cũng buộc phải loại bỏ. Một trường hợp trước đây tôi từng chứng kiến, một quản trị viên mạng chuẩn bị triển khai mạng Active Directory cho công ty của anh ta. Trong thời gian chờ server mới được đưa đến, quản trị viên cài đặt Windows trên một PC cũ để thử nghiệm một số chức năng quản lý Active Directory khác nhau.

Cuối cùng các server mới đến, quản trị viên cấu hình chúng với vai trò Domain Controller trong miền đã được tạo thay vì tạo một rừng mới. Tất nhiên, như thế tức là chiếc PC cũ nắm giữ các role FSMO. Mọi thứ hoạt động tốt cho đến khi quản trị viên quyết định loại bỏ PC cũ khỏi mạng. Anh ta ngưng sử dụng server này, cũng chưa phải là vấn đề. Nhưng thiếu kinh nghiệm hơn là anh ta format lại ổ cứng của máy. Vô số vấn đề đột nhiên diễn ra liên tục trên Active Directory. Nếu quản trị viên nhận ra rằng máy

Page 7: Domain controler

mà anh ta loại bỏ khỏi miền đang nắm giữ domain và các role FSMO của forest, anh ta có thể tránh được tất cả vấn đề đang diễn ra. Trong trường hợp này, bạn cần nắm giữ lại cá role FSMO từ server chết để mạng có thể phục hồi lại các hoạt động bình thường.

FSMO Role, chúng là gì?

Chúng ta sẽ thảo luận chức năng cụ thể của các FROM role này trong phần sau của loạt bài này. Ở đây tôi chỉ muốn lướt qua khái niệm cơ bản, giúp bạn hình dung xem chúng là gì. Như đã nói ở trên, có ba role mức domain và hai role mức forest.

Các role mức miền bao gồm: Relative identifier, Primary Domain Controller Emulator và Infrastructure Master. Các role mức rừng gồm Schema Master và Domain Naming master. Dưới đây là bản mô tả tóm tắt chức năng của các role này:

Schema Master: quản lý bản sao của cơ sở dữ liệu Active Directory.

Domain Naming Master: quản lý danh sách các miền trong rừng.

Relative Identifier Master: chịu trách nhiệm đảm bảo cho tất cả đối tượng Active Directory trong một miền đều được nhận mã số nhân dạng bảo mật duy nhất.

Primary Domain Controller Emulator: hoạt động như một Primary Domain Controller trong các miền có Domain Controller chạy Windows NT.

Infrastructure Master: Chịu trách nhiệm cập nhật thông tin nhân dạng bảo mật của một đối tượng và phân biệt tên trong tham chiếu chéo đối tượng miền.

Page 8: Domain controler

Sự quan trọng của Role

Trong phần trước của bài này, chúng tôi đã giải thích về các miền Active Directory sử dụng mô hình đa master ngoại trừ trong các tình huống đặc biệt quan trọng để tránh xung đột. Trong các tình huống này, Windows sẽ hoàn nguyên mô hình đơn master trong một bộ điều khiển miền đơn thực hiện với tư cách thẩm định đơn nhất cho sự thay đổi theo yêu cầu. Các bộ điều khiển miền này dùng để giữ FSMO role (Flexible Single Operations Master).

Như những gì chúng tôi đã giải thích trong phần 7, có 5 FSMO role khác nhau. Hai role tồn tại tại mức forest và 3 tồn tại ở mức miền (domain). Các role mức forest gồm có Schema Master và Domain Naming master, trong khi đó các role FSMO mức miền lại gồm Relative Identifier Master, Primary Domain Controller (PDC) Emulator và Infrastructure Master.

Quả thực tôi đã cân nhắc xem có cần phải thảo luận hay không về FSMO role quá sớm trong loạt bài viết này. Rốt cuộc thì tôi cũng đã quyết định bởi FSMO role là rất quan trọng trong việc hỗ trợ chức năng Active Directory.

Tôi chắc bạn có thể biết, Active Directory đòi hỏi các dịch vụ DNS phải có thể truy cập và mỗi miền phải có ít nhất một bộ điều khiển miền. Khi một mạng nào đó dựa trên Active Directory được khởi tạo ban đầu thì bộ điểu khiển miền đầu tiên hầu như được cấu hình để thực hiện với tư cách là máy chủ DNS của mạng. Bộ điều khiển miền tương tự cũng được gán cho tất cả 5 FSMO role. Nếu các miền khác được tạo bên trong forest thì bộ điều khiển miền đầu tiên bên trong mỗi miền sẽ cấu hình FSMO role cho miền đó. Các FSMO role mức forest chỉ được cấu hình trên bộ điều khiển miền đơn mà không quan tâm đến số lượng miền trong một forest.

Tôi nói cho bạn điều này vì muốn nhắc về những gì sẽ xảy ra nếu một bộ điều khiển miền đang cấu hình FSMO role bị lỗi. Nếu bộ điều khiển miền gồm có các FSMO role mức forest bị lỗi thì bạn cần phải chú ý làm rạch ròi vấn đề. Không phải tất cả FSMO role đều có vai trò quan trọng đối với hoạt động của mạng mà chỉ có bộ điều khiển miền cấu hình FSMO role mức forest mới thường xuyên cấu hình các dịch vụ DNS - dịch vụ

Page 9: Domain controler

được xem là rất quan trọng đối với Active Directory. Nếu dịch vụ DNS được cấu hình trên một máy chủ riêng biệt và các miền bên trong mỗi forest có nhiều hơn một bộ điều khiển miền thì có thể sẽ không cần lưu ý đến lỗi (trừ khi bạn có phần mềm kiểm tra để cảnh báo đã bị lỗi)

Bình thương sẽ không có hậu quả ngay lập tức xảy ra đối với một FSMO role lỗi, nhưng một số triệu chứng lạ sẽ phát triển sau đó nếu vấn đề vẫn không được sửa. Trong trường hợp này, việc biết được các dấu hiệu của một FSMO role bị lỗi là rất quan trọng. Và cũng quan trọng đối với bạn đó là làm thế nào để xác định được máy chủ nào đang cấu hình mỗi FSMO role. Bằng cách đó, nếu các triệu chứng hợp với một lỗi FSMO role xuất hiện thì bạn có thể kiểm tra xem máy chủ đang cấu hình FSMO role có phải bị lỗi hay không và sau đó có thể xử lý sự cố cho máy chủ đó.

Schema Master

Active Directory không thực sự là một thứ gì ngoài cơ sở dữ liệu, cũng giống như cơ sở dữ liệu khác, Active Directory có một giản đồ. Tuy nhiên lại không giống như các cơ sở dữ liệu khác, giản đồ của Active Directory không phải giản đồ tĩnh. Có một số hoạt động cần thiết mở rộng giản đồ. Ví dụ, việc cài đặt Exchange Server cần giản đồ Active Directory để được mở rộng. Bất kỳ thời điểm nào diễn ra sự thay đổi giản đồ Active Directory thì những thay đổi đó cũng được áp dụng cho Schema Master.

Schema Master là một thành phần rất quan trọng của các FSMO role, vì vậy Microsoft để ẩn nó không cho nhìn thấy. Nếu cần phải tìm máy chủ nào đang cấu hình Schema Master role thì bạn phải đưa đĩa CD cài Windows Server 2003 và kích đúp vào file ADMINPAK.MSI trong thư mục I386. Khi thực hiện điều đó, Windows sẽ khởi chạy Administration Tools Pack Setup Wizard. Theo cửa sổ wizard để cài đặt gói các công cụ quản trị.

Khi quá trình cài đặt được hoàn tất, bạn đóng Setup wizard và mở Microsoft Management Console bằng cách nhập vào dòng lệnh MMC trong cửa số lệnh RUN. Khi cửa sổ được mở, chọn Add/Remove từ menu File. Sau khi chọn xong, cửa sổ sẽ hiển thị trang thuộc tính của thành phần Add/Remove. Kích chuột vào nút Add để xuất hiện

Page 10: Domain controler

một danh sách có sẵn các mô đun. Chọn mô đun Active Directory Schema trong danh sách và kích vào nút Add, sau đó nhấn Close và nút OK.

Bây giờ mô đun đã được tải ra, kích chuột phải vào Active Directory Schema và chọn Operations Master từ menu chuột phải. Một hộp thoại sẽ xuất hiện, hộp thoại này thông báo cho bạn biết rằng máy chủ nào đang cấu hình với tư cách là Schema Master của forest.

Domain Naming Master

Như tôi đã giải thích, một rừng Active Directory có thể gồm nhiều miền. Việc kiểm tra các miền này là công việc của Domain Naming Master. Nếu Domain Naming Master bị lỗi thì nó không thể tạo và gỡ bỏ các miền cho tới khi Domain Naming Master quay trở lại trực tuyến.

Để xác định máy chủ nào đang hoạt động như Domain Naming Master cho một forest, mở Active Directory Domains and Trusts, khi cửa sổ này được mở, kích chuột phải vào Active Directory Domains and Trusts và chọn Operations Masters. Sau khi chọn xong, Windows sẽ hiển thị Domain Naming master.

Relative Identifier (Bộ nhận dạng quan hệ)

Active Directory cho phép quản trị viên tạo các đối tượng Active Directory trên bất kỳ bộ điều khiển miền nào. Mỗi một đối tượng phải có một số hiệu nhận dạng quan hệ duy nhất để ngăn chặn các bộ nhận dạng quan hệ khỏi bị giống nhau, Relative Identifier Master chỉ định một nhóm bộ nhận dạng quan hệ cho mỗi một điều khiển miền. Khi một đối tượng mới được tạo trong một miền, bộ điều khiển miền mà đối tượng đang tạo sẽ lấy một trong những bộ nhận dạng quan hệ của nó ra khỏi nhóm và gán cho đối tượng. Khi một nhóm được khai thác hết thì bộ điều khiển miền phải liên lạc với Relative Identifier Master để có thêm bộ nhận dạng quan hệ. Như vậy, triệu chứng cuối cùng của Relative Identifier Master lỗi là hoàn toàn bất lực trong việc tạo các đối tượng trong Active Directory.

Page 11: Domain controler

Để xác định máy chủ nào đang thực hiện như bộ nhận dạng quan hệ cho một miền, hãy mở Active Directory Users and Computers. Khi cửa số này được mở, kích chuột phải vào danh sách miền hiện hành và chọn Operations Masters. Windows sẽ hiển thị trang thuộc tính của Operations Masters. Trong cửa sổ này bạn có thể chọn bộ điều khiển miền nào đang thực hiện như bộ nhận dạng quan hệ bằng cách quan sát ở tab RID của trang thuộc tính.

Primary Domain Controller Emulator

Xuyên suốt loạt các bài viết này, tôi đã nói về role mà Primary Domain Controller (PDC) hoạt động trong môi trường Windows NT. Role của PDC emulator được tạo để cho phép các bộ điều khiển miền Active Directory cùng tồn tại với các bộ điều khiển miền Windows NT. Ý tưởng cơ bản ở đây là khi một tổ chức đang nâng cấp từ Windows NT lên Windows 2000 hoặc Windows Server 2003 thì PDC là bộ điều khiển miền đầu tiên được nâng cấp. Ở điểm này, bộ điều khiển miền được nâng cấp gần đây hoạt động như một bộ điều khiển miền Active Directory và một PDC cho các bộ điều khiển miền vẫn đang chạy Windows NT.

Role của PDC emulator ngày nay càng không liên quan nhiều hơn bởi vì rất ít các tổ chức sử dụng Windows NT Server. Nếu bạn cần chỉ định máy chủ nào trong miền đang cấu hình role của PDC Emulator dù cho bạn có thể thực hiện điều đó bằng cách mở Active Directory Users and Computers. Khi cửa số này được mở, bạn kích chuột phải vào miền hiện hành và chọn Operations Masters. Windows sẽ hiển thị trang thuột tính của Operations Masters. Bạn có thể xác định bộ điều khiển miền nào đang hành động như PDC Emulator bằng cách quan sát tại tab PDC của trang thuộc tính.

Infrastructure Master

Trong môi trường Active Directory, một forest có thể gồm nhiều miền. Tất nhiên ngụ ý của nó là các miền Active Directory không hoàn toàn mà các thực thể độc lập mà chúng đôi khi phải truyền thông với phần còn lại của forest. Đây chính là nơi mà Infrastructure Master diễn ra. Khi bạn tạo, thay đổi hoặc xóa một đối tượng bên trong một miền, sự thay đổi sẽ được truyền một cách tự nhiên xuyên suốt miền. Vấn đề là phần còn lại của

Page 12: Domain controler

forest không biết đến sự thay đổi này. Đây chính là công việc của Infrastructure Master, làm thế nào để cho phần còn lại của forest biết được có sự thay đổi.

Nếu máy chủ Infrastructure Master bị lỗi thì các thay đổi đối tượng sẽ không thể nhìn thấy trong đường biên miền. Ví dụ, nếu bạn đã đặt lại tên cho một tài khoản người dùng thì tài khoản người dùng vẫn sẽ xuất hiện với tên cũ khi được xem từ các miền khác trong forest.

Để xác định máy chủ nào đang thực hiện với tư cách Infrastructure Master cho một miền, mở Active Directory Users and Computers. Khi cửa số này được mở, bạn kích chuột phải vào danh sách miền hiện hành và chọn Operations Masters, Windows sẽ hiển thị trang thuộc tính của Operations Masters. Bạn có thể xác định được bộ điều khiển miền nào đang thực hiện với tư cách Operations Master bằng cách nhìn vào tab Infrastructure của trang thuộc tính.

Trong phần 8 của loạt bài này, chúng tôi đã giải thích cho các bạn về đối tượng tham chiếu giao thức LDAP trong Active Directory bởi tên phân biệt của chúng, mỗi một đối tượng trong thư mục có tên riêng của chính nó. Trong phần 9 này, chúng tôi muốn tiếp tục giới thiệu cho các bạn về các tên phân biệt như thế nào.

Trước khi bắt đầu

Trước khi bắt đầu, chúng tôi muốn nhắc lại rằng các tên phân biệt không duy nhất có trong Active Directory. Microsoft đã xây dựng Active Directory để lợi dụng các chuẩn công nghiệp được sử dụng bởi nhiều công ty khác như Novell và IBM. Bằng cách nghiên cứu về chúng, bạn không chỉ có được sự chuẩn bị tốt hơn cho việc quản lý Active Director mà còn có được một mức thân thiện nhất định nếu bạn đã từng được yêu cầu làm việc với hệ điều hành mạng không phải của Microsoft.

Các nguyên tắc đặt tên cơ bản

Page 13: Domain controler

Các tên phân biệt với nhau nhờ thuộc tính, các thuộc tính này được gán giá trị. Mỗi một tên phân biệt thường gồm có nhiều cặp giá trị thuộc tính, bạn hãy xem một tên đơn giản.

CN=User1, CN=Users, DC=Contoso, DC=com

Trong ví dụ này, tên được tạo thành từ 4 cặp thuộc tính/ giá trị khác nhau, mỗi một cặp được phân biệt với nhau bằng dấu phẩy. Cặp thuộc tính/ giá trị thứ nhất là CN=USER1. Trong cặp này, CN (viết tắt cho Common Name) là thuộc tính và User1 là giá trị. Các thuộc tính và giá trị luôn luôn phân biệt với nhau bởi dấu bằng (=), còn các cặp thuộc tính/ giá trị được phân biệt với nhau bằng dấu phẩy (,).

Các tên phân biệt

Khi bạn xem tên CN=User1, CN=Users, DC=Contoso, DC=com, mọi thứ trở thành rõ ràng ngay lập tức. Nếu quan sát kỹ hơn tên phân biệt này thì bạn có thể nhận ra rằng nó là hệ có thứ bậc. Trong trường hợp riêng này, DC=com thể hiện mức cao của thứ bậc. DC=Contoso thể hiện mức thứ hai. Bạn có thể nói rằng COM và Contoso là các miền bởi vì cả hai sử dụng thuộc tính DC. Thứ bậc miền ‘nhại lại’ thứ bậc miền được sử dụng bởi các máy chủ DNS (bạn đã được giới thiệu về thứ bậc DNS trong các bài trước)

Bạn cần phải hiểu thứ bậc tên này làm việc như thế nào vì hai lý do. Thứ nhất, hiểu thứ bậc tên bạn có thể biết chính xác nơi một đối tượng cụ thể được định vị bên trong thư mục. Lý do khác là hiểu được bản chất của thứ bậc thư mục vì đôi khi các đường tắt sẽ được sử dụng để thay cho tên đầy đủ.

Để rõ hơn những gì đang nói, chúng ta hãy xem xét thêm về ví dụ trên: CN=User1, CN=Users, DC=Contoso, DC=com. Tên phân biệt này được gán cho mỗi một tài khoản người dùng (chính xác hơn là một đối tượng người dùng) có tên User1. Phần còn lại trong tên cho chúng ta biết vị trí của đối tượng trong thứ bậc thư mục.

Page 14: Domain controler

Nếu bạn đang cố nói với một ai đó về vấn đề này thì có thể tình cờ đề cập đến nó như User1. Đôi khi LDAP cũng thực hiện tương tự như vậy. Điều này hoàn toàn có thể vì nó không cần thiết phải cung cấp thông tin về vị trí của đối tượng trong thứ bậc nếu vị trí đã được biết.

Ví dụ, nếu chúng tôi đang thực hiện một số hoạt động trên các đối tượng người dùng được đặt trong thư mục Users trong miền Contoso.com thì có thực sự cần thiết để tuyên bố rõ ràng rằng các đối tượng đều được đặt trong Users của miền Contoso.com hay không?

Trong tình huống này cũng như vậy, tên phân biệt thường được thay thế bởi Relative Display Name (viết tắt là RDN). Trong trường hợp CN=User1, CN=Users, DC=Contoso, DC=com, thì RDN là CN=User1. RDN luôn luôn được phân biệt của bộ nhận dạng rõ ràng nhất. Nó là cặp giá trị/ thuộc tính bên trái nhất trong tên phân biệt. Phần khác của tên phân biệt cũng được biết đến như tên cha. Trong trường hợp điển hình này, tên cha sẽ là CN=Users, DC=Contoso, DC=com.

Trước khi tiếp tục, chúng tôi muốn đề cập một vấn đề là Microsoft thường thiên về sử dụng định dạng tên khác nhau hơn là một số nhà sản xuất hệ điều hành mạng khác. Như những gì bạn đã thấy, các tên của Microsoft thiên về dựa vào container và miền. Không có gì sai với định dạng này bởi vì nó chiếu theo RFC 2253 để thiết lập các nguyên tắc cho tên riêng biệt.

Một số hệ điều hành mạng khác thiên về dựa trên các thứ bậc tên riêng biệt của họ trên các công ty và quốc gia hơn là các container và miền. Trong các kiểu tên đó, thuộc tính O được sử dụng để chỉ định tên tổ chức (công ty) và chữ cái C được sử dụng để chỉ định tên quốc gia. Bằng sử dụng quy ước đặt tên này, tên riêng biệt CN=User1, CN=Users, DC=Contoso, DC=com sẽ như sau:

CN=User1, O=Contoso, C=US

Hãy nhớ rằng cả hai định dạng này đều tuân theo RFC 2253, nhưng chúng không thể thay đổi cho nhau. Nhiệm vụ của tên là để miêu tả một đối tượng và vị trí của nó bên

Page 15: Domain controler

trong thư mục. Lý do về 2 định dạng tên khác nhau là Microsoft đã xây dựng thư mục của họ khác so với các đối thủ cạnh tranh khác.

Các kí tự đặc biệt trong tên

Cho đến giờ chúng ta mới chỉ thấy các dấu phẩy và dấu bằng có ý nghĩa đặc biệt trong phần nội dung của tên. Tuy nhiên còn có một số kí tự đặc biệt khác mà phần trên chúng tôi chưa giới thiệu. Các kí tự đặc biệt đó gồm có dấu cộng, dấu lớn hơn, nhỏ hơn, số, dấu trích dẫn và dấu xổ ngược - back slash (\). Chúng tôi sẽ không giới thiệu hết các kí tự đặc biệt này mà chỉ tập trung vào giới thiệu cho các bạn dấu back slash. Dấu này cho phép bạn đưa ra một lệnh LDAP để bỏ qua kí tự theo sau. Điều này cho phép lưu các kí tự bị cấm trong thư mục của bạn.

Để rõ hơn nó được sử dụng như thế nào, chúng ta hãy xem xét một tên đầy đủ được biểu diễn với tên và họ cách nhau bằng dấu phẩy. Tuy nhiên LDAP không cho phép bạn sử dụng lệnh CN=Smith, John vì dấu phẩy được sử dụng bởi LDAP để phân biệt các cặp thuộc tính/ giá trị. Nếu muốn lưu giá trị Smith, John trong thư mục, bạn có thể thực hiện bằng các tạo một dấu back slash như dưới đây:

CN=Smith\, John

Trong lệnh ở trên, dấu back slash làm cho LDAP phải coi dấu phẩy là dữ liệu chứ không phải là một phần của cú pháp câu lệnh. Cách khác để thực hiện điều này là dùng dấu trích dẫn. Mọi thứ bên trong dấu trích dẫn đều được coi như dữ liệu.

Có một quy tắc đặc biệt với việc sử dụng dấu back slash bên trong các dấu trích dẫn. Dấu back slash có thể được sử dụng để áp đặt LDAP bỏ qua các dấu back slash khác. Để đơn giản, nếu bạn cần gộp một dấu back slash vào phần dữ liệu thì đơn giản bạn chỉ cần sử dụng hai dấu back slash thay cho một dấu. Các trường hợp sự dụng dấu back slash giữa dấu trích dẫn được xem như không hợp lệ

Page 16: Domain controler

Thông tin về Active DirectoryTrong các phần gần đây của loạt bài bài này, chúng tôi đã giới thiệu nhiều về Active Directory và cách nó làm việc với các bộ điều khiển miền mạng. Bạn cũng đã được giới thiệu qua các phần trước rằng Active Directory về cơ bản là một cơ sở dữ liệu gồm có nhiều đối tượng khác nhau như tài khoản người dùng và tài khoản máy tính. Trong phần này, chúng tôi sẽ tiếp tục giới thiệu cho các bạn Active Directory được cấu trúc như thế nào. Nếu đã từng sử dụng Microsoft Access hoặc SQL Server thì bạn hoàn toàn có thể mở cơ sở dữ liệu và quan sát các thực thể bên trong nó. Mặc dù vậy, không có công cụ quản trị nào được sử dụng để quản lý Active Directory có thể cho bạn xem được toàn bộ cơ sở dữ liệu của Active Directory. Thay vì đó, Microsoft đã cung cấp một số công cụ khác nhau tương ứng với một lĩnh vực cụ thể của cơ sở dữ liệu. Với một quản trị viên, công cụ quản trị có thể sử dụng thường là Active Directory Users and Computers console.

Bạn có thể truy cập Active Directory Users and Computers console từ bộ điều khiển miền của Windows Server 2003 bằng cách chọn Active Directory Users and Computers từ menu Start / All Programs / Administrative Tools của máy chủ. Giao diện của nó được thể hiện như những gì bạn thấy trong hình A.

Hình A: Giao diện Active Directory Users and Computers là một công cụ

quản trị chính cho việc quản lý các đối tượng Active Directory.

Chúng ta sẽ thảo luận quá trình tạo hoặc soạn thảo các đối tượng Active Directory sau, bây giờ chúng tôi sẽ giới thiệu kỹ hơn về giao diện này bởi vì nó giúp chúng ta khám phá một chút về cấu trúc của Active Directory. Nếu nhìn vào hình A thì bạn sẽ thấy được rằng ở đây có một số thư mục lớn, mỗi một thư mục này tương ứng với một loại đối tượng cụ thể. Mỗi đối tượng trong Active Directory đều được gán một kiểu đối tượng (được biết đến như là lớp đối tượng).

Mỗi đối tượng cũng có một số thuộc tính liên quan. Các thuộc tính cụ thể thay đổi phụ thuộc vào kiểu đối tượng.

Page 17: Domain controler

Ví dụ, thư mục Users chứa các tài khoản người dùng, tất cả được phân loại thành các đối tượng người dùng như trong hình B. Nếu kích chuột phải vào một trong các đối tượng người dùng này và chọn Properties từ menu chuột phải thì bạn sẽ thấy được trang thuộc tính của đối tượng (như trong hình C).

Hình B: Thư mục Users chứa các tài khoản người dùng,

tất cả được phân loại thành các đối tượng người dùng.

Hình C: Khi kích chuột phải vào một đối tượng người dùng và chọn

Properties thì bạn sẽ thấy trang thuộc tính của người dùng.

Nếu nhìn vào hình C thì bạn sẽ thấy rằng có một số trường thông tin khác nhau như tên, họ, số điện thoại… Mỗi trường đó tương ứng với một thuộc tính của một đối tượng. Mặc dù phần lớn các trường ở trong hình đều không phổ biến nhưng trong một số tình huống thực thì các trường này có thể được sử dụng để tạo thư mục cộng tác. Trong thực tế, nhiều ứng dụng được thiết kế để trích thông tin trực tiếp từ Active Directory. Ví dụ, Microsoft Exchange Server (sản phẩn e-mail server của Microsoft) tạo một danh sách địa chỉ toàn cục dựa trên nội dung của Active Directory. Danh sách này được sử dụng khi gửi các thông báo email đến người dùng khác trong công ty.

Nếu nhìn vào hình D, bạn sẽ thấy được một màn hình, trong đó chúng tôi đã thực hiện một tìm kiếm với tên Hershey, và Outlook đã trả toàn bộ danh sách địa chỉ toàn cục Global Address List gồm có tên Hershey. Không hề ngạc nhiên vì đây chỉ là một kết quả. Nếu nhìn vào phần kết quả của cửa sổ thì bạn sẽ thấy được nơi mà Outlook hiển thị tiêu đề của người dùng, số điện thoại doanh nghiệp và vị trí mà trường đó được phổ biến. Tất cả thông tin này đều được lấy từ Active Directory.

Page 18: Domain controler

Hình D

Nếu muốn thấy các thông tin chi tiết hơn về người dùng, bạn hãy kích chuột phải vào tên của người dùng và chọn Properties.Khi đó cửa sổ như hình E sẽ được hiển thị. Bạn hãy nhớ rằng đây không phải là một màn hình quản trị. Đơn giản đây chỉ là một màn hình mà bất kỳ người dùng nào trong công ty cũng có thể truy cập trực tiếp thông qua Outlook 2007 để tìm thông tin về các nhân viên khác.

Hình E: Xem thông tin Active Directory trực tiếp thông qua Microsoft Outlook

Xét cho cùng thì Outlook là một sản phẩm của Microsoft, vì vậy nó chỉ tạo một cảm giác rằng Outlook sẽ có thể lấy thông tin từ Active Directory, một phần của một sản phẩm khác của Microsoft. Tuy nhiên có rất nhiều người không nhận ra một điều, đó là khá dễ dàng cho bất cứ ai có sự cho phép thích hợp để lấy thông tin từ Active Directory. Thực tế, có rất nhiều sản phẩm của nhóm thứ ba được thiết kế để tương tác với Active Directory. Một trong số chúng có khả năng lưu dữ liệu trong các phần Active Directory đặc biệt.

Lý do nó hợp lý với bạn hoặc với các hãng phần mềm nhóm thứ ba khi tương tác với Active Directory là vì Active Directory được dựa trên một chuẩn đã biết. Active Directory được dựa trên một chuẩn có tên gọi là X.500. Chuẩn này cơ bản là một cách chung chung trong việc thực hiện dịch vụ thư mục. Microsoft không chỉ là một công ty tạo dịch vụ thư mục dựa trên dịch vụ này mà Novell ban đầu cũng đã tạo dịch vụ thư mục NetWare Directory Service trên chuẩn này.

Đây cũng là một cách trong việc truy cập vào thông tin dịch vụ thư mục. Trong môi trường Active Directory, việc truy cập thông tin thư mục liên quan đến việc sử dụng Lightweight Directory Access Protocol (LDAP). Giao thức LDAP chạy trên phần đỉnh của giao thức TCP/IP.

Page 19: Domain controler

Thứ đầu tiên mà bạn cần phải biết về giao thức LDAP là bất cứ tên nào được đặt cũng đều phải được phân biệt, bởi vì không có gì là ít quan trọng về nó (nó quan trọng hơn giao thức truy cập thư mục gốc, giao thức không được thiết kế để tận dụng ngăn xếp giao thức TCP/IP).

Mỗi đối tượng trong Active Directory đều được quy vào một tên phân biệt (thường được viết tắt là DN). Tên phân biệt được dựa trên vị trí của đối tượng bên trong thứ bậc thư mục. Có nhiều thành phần khác nhau trong tên phân biệt nhưng một số cái chung là một tên chung (được viết tắt là CN) và một miền tên (viết tắt là DC). Ví dụ, cho rằng miền Contoso.com gồm có một tài khoản có tên là User1 và tài khoản này được định vị trong thư mục Users. Trong trường hợp như vậy, tên phân biệt của tài khoản người dùng sẽ là:

CN=User1, CN=Users, DC=Contoso, DC=com

Active Directory Users và Computers ConsoleWindows Server 2003 có một số công cụ khác được sử dụng cho việc quản lý AD. Công cụ quản lý AD này cho phép bạn sử dụng hầu hết các nhiệm vụ quản lý hàng ngày đó là Directory Users và Computers console. Như tên của nó, công cụ này được sử dụng để tạo, quản lý và xóa các tài khoản người dùng và máy tính.

Bạn có thể truy cập vào công cụ này bằng cách kích chuột vào nút Start của máy chủ và từ menu Start tìm đến All Programs / Administrative Tools. Tùy chọn Active Directory Users and Computers ở gần phía trên của menu Administrative Tools. Bạn cần phải nhớ rằng chỉ có các bộ điều khiển miền mới có tùy chọn này, vì vậy nếu không quan sát thấy lệnh Active Directory Users and Computers thì bạn phải đăng nhập vào bộ điều khiển miền.

Một thứ khác mà bạn phải chú ý đó là menu Administrative Tools gồm có một cặp công cụ AD khác: Active Directory Domains and Trusts và Active Directory Sites and Services. Chúng tôi sẽ giới thiệu các tiện ích này trong một số bài viết sau.

Page 20: Domain controler

Khi mở mục Active Directory Users and Computers, bạn sẽ thấy xuất hiện một màn hình giống như hình A dưới đây. Bạn có thể xem lại từ các phần trước trong loạt bài này, AD có forest, forest này gồm có một hoặc nhiều miền. Mặc dù forest thể hiện toàn bộ AD nhưng bảng điều khiển Active Directory Users and Computers không cho phép làm việc với AD ở mức forest. Giao diện này chỉ là một công cụ mức miền. Thực tế, nếu nhìn vào hình A bạn sẽ thấy production.com được đánh dấu. Production.com là một miền trên mạng của chúng tôi. Tất cả các mục khác được liệt kê bên dưới đều là đối tượng của miền AD cho từng miền.

Hình A: Giao diện Active Directory Users and Computers cho phép quản lý các miền riêng lẻ

Bạn có thể thấy rằng production.com là một trong các miền trên mạng của chúng tôi và không có miền nào khác được liệt kê trong hình A. Điều đó là vì Active Directory Users and Computers chỉ liệt kê một miền tại một thời điểm để giữ cho giao diện trông gọn gàng. Miền được liệt kê trong giao diện tương ứng với bộ điều khiển miền mà bạn đã đăng nhập. Ví dụ, trong khi viết bài này, tôi đã đăng nhập vào một trong các bộ điều khiển miền đó là production.com, vì vậy Active Directory Users and Computers sẽ kết nối đến miền production.com.

Vấn đề ở đây là các miền đó thường bị phân tán về mặt địa lý. Ví dụ, trong công ty lớn phải có các miền khác nhau cho mỗi văn phòng của công ty. Nếu lúc này bạn đang ở Miami, Florida và miền khác của công ty hiện diện cho một văn phòng tại Las Vegas, Nevada thì nó sẽ không phải di chuyển một quãng đường lớn dọc toàn nước Mỹ mỗi khi bạn cần quản lý miền Las Vegas.

Mặc dù Active Directory Users and Computers mặc định hiển thị miền có liên quan đến bộ điều khiển miền mà bạn đã đăng nhập, nhưng vẫn có thể sử dụng giao diện này để hiển thị bất kỳ miền nào mà bạn có quyền thao tác với chúng. Tất cả những gì cần phải làm lúc này là kích chuột phải vào miền đang được hiển thị, sau đó chọn lệnh Connect to Domain từ menu chuột phải. Khi thực hiện như vậy sẽ có một màn hình được hiển thị, màn hình này cho phép đánh vào đó tên miền mà bạn muốn kết nối hoặc kích vào nút Browse và duyệt miền.

Page 21: Domain controler

Khi một miền được đặt ở xa thì bạn có thể rất khó để đăng nhập trực tiếp vào bộ điều khiển miền. Ví dụ, tôi đã làm việc trong một số văn phòng, trong đó các bộ điều khiển miền được đặt trong các tòa nhà riêng biệt hoặc không có điều kiện thuận lợi cho tôi đăng nhập vào bộ điều khiển miền để thực hiện công việc bảo trì hàng ngày.

Tuy nhiên một tin tốt đó là không cần phải đăng nhập vào bộ điều khiển miền để truy cập vào giao diện Active Directory Users and Computers mà chỉ cần đăng nhập vào bộ điều khiển miền để truy cập vào giao diện Active Directory Users and Computers từ menu Administrative Tools. Bạn có thể truy cập giao diện này với tư cách máy chủ thành viên bằng cách nạp một cách thủ công nó vào Microsoft Management Console.

Để thực hiện điều đó, bạn nhập lệnh MMC vào cửa sổ lệnh RUN của máy chủ. Khi thực hiện xong máy chủ sẽ mở một Microsoft Management Console trống. Tiếp theo đó bạn chọn lệnh Add / Remove Snap-In từ menu File của giao diện điều khiển. Windows lúc này sẽ mở cửa sổ thuộc tính của Add / Remove Snap-In. Kích nút Add trên tab Standalone trong cửa sổ thuộc tính, bạn sẽ thấy một danh sách các snap-in có sẵn. Chọn tùy chọn Active Directory Users and Computers từ danh sách snap-in đó và kích Add, tiếp theo đó là Close và OK. Giao diện điều khiển lúc này sẽ được nạp.

Trong một số trường hợp load giao diện theo cách này có thể gây ra lỗi. Nếu bạn thấy xuất hiện lỗi và giao diện không cho phép quản lý miền sau khi kích chuột phải trên mục Active Directory Users and Computers và chọn lệnh Connect to Domain Controller từ menu chuột phải. Lúc này bạn có thể kết nối giao diện điều khiển đến một bộ điều khiển miền nào đó mà không cần đăng nhập vào bộ điều khiển miền đó. Bằng cách đó bạn sẽ có thể quản lý được miền giống như trong giao diện điều khiển của bộ điều khiển miền.

Kỹ thuật đó làm việc sẽ rất thú vị nếu bạn có một máy chủ , nhưng điều gì sẽ xảy ra nếu máy trạm làm việc của bạn đang sử dụng Windows Vista, và tất cả máy chủ đều nằm bên phía bên kia của tòa nhà.

Một trong những giải pháp đơn giản nhất để giải quyết vấn đề này đó là thiết lập một phiên RDP cho một trong những máy chủ. RDP là giao thức máy trạm từ xa (Remote

Page 22: Domain controler

Desktop Protocol). Giao thức này sẽ cho phép điều khiển từ xa các máy chủ trong tổ chức của bạn. Trong môi trường Windows Server 2003 bạn có thể kích hoạt một phiên từ xa bằng cách kích chuột phải vào My Computer và chọn lệnh Properties từ menu chuột phải. Khi đó bạn sẽ thấy đươc cửa sổ thuộc tính của hệ thống. Vào tab Remote và chọn hộp kiểm Enable Remote Desktop on this Computer (xem hình B).

Hình B: Cấu hình một máy chủ để hỗ trợ các kết nối máy trạm từ xa (Remote Desktop)

Để kết nối đến máy chủ từ máy Windows Vista, bạn chọn lệnh Remote Desktop Connection từ menu All Programs / Accessories. Khi thực hiện xong, bạn sẽ thấy màn hình xuất hiện như màn hình thể hiện dưới hình C. Lúc này hãy nhập vào tên máy chủ của bạn và kích nút Connect để thiết lập một phiên điều khiển xa.

Hình C: Có thể kết nối đến một máy chủ từ xa dễ dàng hơn bằng Windows Vista