33
ĐỘC LẬP DÂN TỘC GẮN LIỀN VỚI CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Tại thủ đô nước Pháp, từ năm 1921, Nguyễn Ái Quốc đã từng phân tích những lý do lịch sử và khẳng định: “Chủ nghĩa cộng sản dễ dàng vào Châu á, dễ dàng hơn là ở Châu âu” (I, 35). Người còn nói: “ Ngày mà hàng trăm triệu nhân dân Châu á bị tàn sát và áp bức thức tỉnh để gạt bỏ sự bóc lột đê tiện của bọn thực dân lòng tham không đáy, họ sẽ hình thành một lực lượng khổng lồ, và trong khi thủ tiêu một trong những điều kiện tồn tại của chủ nghĩa tư bản là chủ nghĩa đế quốc, họ có thể giúp đỡ những người anh em mình ở phương Tây trong nhiệm vụ giải phóng hoàn toàn” (I, 36). Ngay tại thời điểm đó, Hồ Chí Minh đã xác định mục tiêu chiến lược của cách mạng Việt Nam là hướng tới xây dựng chủ nghĩa cộng sản, mà trước hết là tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa. Quyết định đó của Người là cơ sở khách quan và khoa học. Trong một loạt bài viết hồi đó, đặc biệt là trong hai tác phẩm “Bản án chế độ thực dân Pháp” (1925) và “Đường Kách mệnh” (1927), Nguyễn Ái Quốc một mặt tố cáo sự bóc lột thậm tệ nhân dân các nước thuộc địa và cả ở chính quốc của chủ nghĩa đế quốc thực dân, mặt khác tuyên truyền chủ nghĩa Lê nin một cách nhiệt huyết và với niềm tin vô hạn, đồng thời kêu gọi nhân dân lao động bị áp bức đoàn kết cùng nhau đánh đổ chủ nghĩa tư bản và xây dựng nền hòa bình thế giới. Người hiểu rằng, chỉ có con đường duy nhất là làm cách mạng thì mới giành được độc lập cho dân tộc, và làm theo cách mạng tháng Mười Nga thì mới đem lại tự do và hạnh phúc cho dân mình. Điều này có nghĩa rằng, đối với các dân tộc thuộc địa, trong đó có Việt Nam, tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa trước hết phải tiến hành cách mạng giải phóng dân tộc. Vì vậy, người chủ trương “ làm tư sản dân quyền cách mạng vá thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản” (III, 1). Đây là một trong những luận điểm hết sức sáng tạo trong tư tưởng Hồ Chí Minh khi Người vận dụng chủ nghĩa Mác – lê nin vào thực

ĐỘC LẬP DÂN TỘC GẮN LIỀN VỚI CHỦ NGHĨA XÃ HỘI

Embed Size (px)

Citation preview

Page 1: ĐỘC LẬP DÂN TỘC GẮN LIỀN VỚI CHỦ NGHĨA XÃ HỘI

ĐỘC LẬP DÂN TỘC GẮN LIỀN VỚI CHỦ NGHĨA XÃ HỘI

Tại thủ đô nước Pháp, từ năm 1921, Nguyễn Ái Quốc đã từng phân tích những lý do lịch sử và khẳng định: “Chủ nghĩa cộng sản dễ dàng vào Châu á, dễ dàng hơn là ở Châu âu” (I, 35). Người còn nói: “ Ngày mà hàng trăm triệu nhân dân Châu á bị tàn sát và áp bức thức tỉnh để gạt bỏ sự bóc lột đê tiện của bọn thực dân lòng tham không đáy, họ sẽ hình thành một lực lượng khổng lồ, và trong khi thủ tiêu một trong những điều kiện tồn tại của chủ nghĩa tư bản là chủ nghĩa đế quốc, họ có thể giúp đỡ những người anh em mình ở phương Tây trong nhiệm vụ giải phóng hoàn toàn” (I, 36). 

Ngay tại thời điểm đó, Hồ Chí Minh đã xác định mục tiêu chiến lược của cách mạng Việt Nam là hướng tới xây dựng chủ nghĩa cộng sản, mà trước hết là tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa. Quyết định đó của Người là cơ sở khách quan và khoa học. Trong một loạt bài viết hồi đó, đặc biệt là trong hai tác phẩm “Bản án chế độ thực dân Pháp” (1925) và “Đường Kách mệnh” (1927), Nguyễn Ái Quốc một mặt tố cáo sự bóc lột thậm tệ nhân dân các nước thuộc địa và cả ở chính quốc của chủ nghĩa đế quốc thực dân, mặt khác tuyên truyền chủ nghĩa Lê nin một cách nhiệt huyết và với niềm tin vô hạn, đồng thời kêu gọi nhân dân lao động bị áp bức đoàn kết cùng nhau đánh đổ chủ nghĩa tư bản và xây dựng nền hòa bình thế giới. Người hiểu rằng, chỉ có con đường duy nhất là làm cách mạng thì mới giành được độc lập cho dân tộc, và làm theo cách mạng tháng Mười Nga thì mới đem lại tự do và hạnh phúc cho dân mình. Điều này có nghĩa rằng, đối với các dân tộc thuộc địa, trong đó có Việt Nam, tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa trước hết phải tiến hành cách mạng giải phóng dân tộc. Vì vậy, người chủ trương “ làm tư sản dân quyền cách mạng vá thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản” (III, 1).

Đây là một trong những luận điểm hết sức sáng tạo trong tư tưởng Hồ Chí Minh khi Người vận dụng chủ nghĩa Mác – lê nin vào thực tiễn cách mạng Việt Nam. 

Cách mạng là sự đồi mới đổi mới toàn diện trên cơ sở phá bỏ tận gốc chế độ xã hội cũ lạc hậu, phản động. cuộc cách mạng nào cũng mang tính chất đó.Đảm bảo mọi quyền lợi ra sao, như thế nào ?....lại là một vấn đề khác. Mác đã nói: sự nghiệp cách mạng là của quần chúng. Hy vọng được hưởng những thành quả của cách mạng, nên quần chúng tham gia cách mạng như ngày hội và sẵn sàng hy sinh xương máu chi cách mạng. Tuy nhiên, khảo sát từ thực tiễn, từ đầu những năm 20 của thế kỷ XX Nguyễn Ái Quốc đã rút ra nhận xét xác đáng: “cách mệnh Pháp cũng như cách mệnh Mỹ,nghĩa là cách mệnh tư bản, cách mệnh không đến nơi, tiếng là cộng hòa và dân chủ, kỳ thực trong thì nó tước lục ( tước đoạt ) công nông,ngoài thi nó áp bức thuộc địa. kách mệnh đã 4 lần rồi, mà nay công nông Pháp hẵng còn phải mưu cách mệnh lần nữa mới hằng mong thoát khỏi áp bức. kách mệnh An Nam nên nhớ những điều ấy” (II, 274 ). Người đi đến khẳng định: “ trong thế giới bây giờ chỉ có kách mệnh Nga là đã thành công, và thành công đến nơi.( thành công triệt để ), nghĩa là dân chúng được hưởng cái hạnh phúc tự do,bình đẳng thật,không phải tự do và bình đẳng giả dối như chủ nghĩa đế quốc Pháp khoe khoe khoang bên An Nam”…. “ kách mệnh Nga dạy cho chúng ta rằng muốn kách mệnh thành công thì phải (dựa

Page 2: ĐỘC LẬP DÂN TỘC GẮN LIỀN VỚI CHỦ NGHĨA XÃ HỘI

vào ) dân chúng ( công nông ) làm gốc, phải có đảng vững bền,phải bền gan, phải hy sinh, phải thống nhất.Nói tóm lại là phải theo chủ nghĩa Mã Khắc Tư( tức chủ nghĩa Mác ) và Lê nin” (II, 280 ). 

Như vậy,ngay từ khi tiếp cận chủ nghĩa Mac – Lênin,Nguyễn Ái Quốc đã tiếp thu và chấp nhận tính hiện đại của học thuyết chủ nghĩa xã hội khoa học, bởi Người nhận thức rằng, chỉ có chủ nghĩa này mới có thể giúp các dân tộc thuộc địa tiến hành giành độc lập hoàn toàn và từ đó đưa nhân dân của mình tiến tới tới tự do,hạnh phúc thực sự. Và, cũng vì vậy,ngay từ khi đó,trong tư tưởng Hồ Chí Minh đã xác lập một cách bền vững luận điểm độc lập dân tộc luôn gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Hồi đó, Nguyễn Ái Quốc đã viết: “ Cuộc cách mạng vô sản không thể thắng lợi ở các nước nông nghiệp và nửa nông nghiệp nếu như giai cấp vô sản cách mạng không được quần chúng nông dân ủng hộ tích cực . đó là một sự thực hiện nhiên đối với cả hai cuộc cách mạng – cách mạng tư sản dân quyền và cách mạng vô sản. Trong thời kỳ cách mạng tư sản dân quyền,cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản để thực hiện các khẩu hiệu của mình và chuyển cuộc cách mạng tư sản dân quyền thành cách mạng vô sản không thể giành được thắng lợi hoàn toàn nếu không có khối liên minh cách mạng của giai cấp vô sản và nông dân,nếu không có sự tham gia tích cực của quần chúng nông dân bị áp bức vào việc thực hiện những khẩu hiệu của cách mạng” (II, 413 ). 

Quan điểm này về sau được Hồ Chí Minh cụ thể hóa, đặc biệt trong “ Chương trình Việt Minh” (III, 583-586), trong bài báo “Dân Vận” (V, 698-700),cũng như ở nhiều bài nói,bài viết khác, đều nhằm vận động quần chúng nhân dân, đối với Việt Nam lúc bấy giờ đại bộ phận nông dân, ủng hộ và tham gia cách mạng, họ không những được bảo đảm mọi quyền lợi mà còn được Đảng lãnh đạo với mục đích: “ Kháng chiến thẳng lợi, kiến quốc thành công, thực hiện dân chủ mới,tiến đến chủ nghĩa xã hội,rồi đến chủ nghĩa cộng sản” (VII, 243 ). Dưới hình thức “thường thức chính trị” ( VII, 201-251), Hồ Chí Minh giải thích một loạt khái niệm một cách giản dị và đặt ra những nhiệm vụ hết sức cụ thể để cán bộ,đảng viên tuyên truyền mục đích của Đảng ( lúc này là Đảng Lao động Việt Nam ). Người khẳng định,ngươi cày có ruộng ( “canh giả hữu kỳ điền” ) chỉ là một chính sách dân chủ, nhưng dưới chế độ dân chủ mới,về kinh tế,Đảng có nhiệm vụ lãnh đạo “phát triển nông nghiệp,công nghệ, thủ công,thương nghiệp,giao thông vận tải,để cải tiến kinh tế và tài chính của nhà nước,cải thiện đời sống của nhân dân” trên cơ sở năm loại kinh tế khác nhau: kinh tế quốc doanh; hợp tác xã; kinh tế của cá nhân, nông dân và thủ công nghệ; tư bản tư nhân; và, tư bản nhà nước (ngày nay gọi là kinh tế nhiều thành phần). Người phân tích,loại đầu thuộc về chủ nghĩa xã hội và là “lãnh đạo”,loại thứ hai và ba là nửa chủ nghĩa xã hội,hai loại cuối đương nhiên là chủ nghĩa tư bản. Người còn nhấn mạnh,việc xây dựng kinh tế phải gắn mật thiết với xây dựng quân đội,xây dựng chính quyền,xây dựng văn hóa và phát động quần chúng triệt để để thi hành chính sách ruộng đất. Có thể hiểu “dân chủ mới” là thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội,mà Việt Nam cũng như các nước Đông Âu,Trung Quốc phải kinh qua,do hoàn cảnh lịch sử ở các nước này nên,đa số từ nền nông nghiệp lạc hậu đi lên,quy định. Đây là một nhận thức rất mới của Hồ Chí Minh về quy luật phát triển các phương thức sản xuất,các chế độ kinh tế -xã hội trong lịch sử xã hội loài người. Đây cũng là sự vận dụng sáng tạo học thuyết

Page 3: ĐỘC LẬP DÂN TỘC GẮN LIỀN VỚI CHỦ NGHĨA XÃ HỘI

chủ nghĩa xã hội khoa học Mác-Lênin vào hoàn cảnh Việt Nam. Năm 1960, trong bài viết “ Ba mươi năm hoạt động của Đảng” (X, 7-22),Hồ Chí Minh phát biểu quan điểm,tư tưởng và quyết tâm của Đảng là nhất định đưa miền Bắc tiến lên chủ nghĩa xã hội,và người chỉ ra “đặc điểm to nhất của ta trong thời kỳ quá độ là từ một nước nông nghiệp lạc hậu tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội không phải kinh qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa”. Hai nhiệm vụ,xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và tiếp tục hoàn thành cách mạng dân chủ ở miền nam, “đều nhằm mục tiêu chung là: củng cố hòa bình,thực hiện thống nhất nước nhà trên nền tảng độc lập và dân chủ”.

Như vậy là,trong bất kỳ hoàn cảnh nào của mỗi giai đoạn,của từng thời kỳ cách mạng Việt Nam,Hồ Chí Minh cũng kiên trì giữ vững quan điểm “độc lập tự dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội”. Lập trường trước sau như một của Người là có cơ sở lý luận và thực tiễn,phù hợp với quy luật khách quan,có giá trị bổ sung vào học thuyết Mác-Lênin và có thể áp dụng rộng rãi đối với các nước có hoàn cảnh tương tự Việt Nam trên con đường tiến hành cách mạng dân tộc dân chủ và xây dựng chủ nghĩa xã hội. Con đường đi lên chủ nghĩa xã hội trong thời đại ngày nay là tất yếu,vì theo Hồ Chí Minh,chỉ có chủ nghĩa xã hội (và chủ nghĩa cộng sản) mới có khả năng giải quyết mâu thuẫn về quyền tư hữu tư liệu sản xuất,cái mà từ đó sinh ra mâu thuẫn giai cấp và tình trạng khủng hoảng về mọi mặt trong lòng chủ nghĩa tư bả. Và điều quan trọng hơn,chỉ có chủ nghĩa xã hội mới thực hiện được mục tiêu: “Ai cũng no ấm,sung sướng,tự do,ai cũng có thông thái đạo đức” (VII, 251).Luận điểm “độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội” hình thành ở thành phố Hồ Chí Minh từ rất sớm.trong tác phẩm “Đường kách mệnh”, Nguyễn Ái Quốc dành hẳn một chương viết về “hợp tác xã” (II,313-318) ,mà theo Người hợp tác xã là loại kinh tế nửa xã hội chủ nghĩa và là “góp gạọ thổi cơm chung” cho khỏi hao của,tốn công,lại có nhiều phần vui vẻ,cũng có nghĩa rằng hợp tác xã vừa có ý nghĩa một loại hình tổ chức sản xuất ( thuộc phạm trù kinh tế) vừa bao hàm cả ý nghĩa xã hội. Đúc rút từ lịch sử hình thành và phát triển loại thành phần kinh tế này, Nguyễn Ái Quốc chỉ ra rằng,hợp tác xã trước là có ích lợi cho dân,sau là bớt sức bóp nặn của tụi tư bản và đế quốc chủ nghĩa”. Với Việt Nam,đại bộ phận dân số là nông dân với nền sản xuất chủ yếu là nông nghiệp và khá phát triển các hoạt động thương nghiệp,tiểu thủ công nghiệp,việc áp dụng loại hình hợp tác xã là phù hợp và rất cần thiết. Về cách tổ chức hợp tác xã,Người viết: “ Không phải làng nào cũng phải lập mỗi làng mỗi hợp tác xã. Cũng không phải mỗi làng phải lập cả mấy hợp tác xã. Cũng không phải có hợp tác xã này thì không lập hợp tác xã kia.Chẳng qua theo hoàn cảnh nơi nào lập được hợp tác xã nào và có khi hai hợp tác xã –mua và bán –lập chung cũng được”.

Hồ Chí Minh bàn về hợp tác xã hội trước khi dân tộc giành được độc lập. Đó là tầm nhìn chiến lược . Luôn luôn nghĩ vê quyền lợi của nước, của dân Ngươi sớm ý thức tìm phương cáchto63 chức nhân dân để họ tự giác cải thiên điều kiện lao động, cải thiện đời sống của chính họ và đấu tranh chống sự bóc lột của giai cấp thống trị . Bàn về hợp tác xã, Người đã trang bị cho quần chúng nhân dân cả lý luân va vũ khí đê ho chuẩn bị tiến hành cách mạng giải phóng dân tộc và dần tiên lên xây dựng chủ nghĩa xã hội .Hợp tác xã càng phát triển rộng rãi thì cách mạng càng đông lực lượng và càng bền vững về mọi phương diện (tất nhiên là trong điều kiên của chế độ dân chủ mới , trong đó kinh tế quốc doanh là chủ đạo). Chuẩn bị xây dựng hợp tác xã cũng là

Page 4: ĐỘC LẬP DÂN TỘC GẮN LIỀN VỚI CHỦ NGHĨA XÃ HỘI

một yếu tố quan trọng để xây dựng một nền kinh tế tự chủ. Nghiên cứu những tinh hoa mà nền văn minh nhân loại đã đạt được, hiểu rõ bản chât va những ích lợi do chúng đem lại,vận dụng chúng có chọn lọc vào con đường cch1 mạng của nước mình, trực tiếp giúp cho dân mình cải tạo xã hội và cải tạo chính bản thân họ để vươn tới cuộc sống mới , đó là nét đặc sắc , độc đáo trong tư tưởng và hành động cách mạng của Hồ Chí Minh. Đấu tranh đánh đổ cái cũ lạc hậu, phản động, đồng thời tiến hành xây dựng cái mớ tiên tiến là phương châm ứng sử , là phương pháp tư duy đúng đắn , xuyên suốt cuộc đời cách mạng của Hồ Chí Minh . Đó chính la cốt lõi của luận điểm kết hợp dộc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội trong tư tưởng Hồ Chí Minh.

Nghiên cứu và vân dụng chủ nghĩa xã hội khoa học Mác – Lê nin, hơn ai hết Hồ Chi Minh thấu triết rằng :trong xu thế của thời đại , cách mạng Việt Nam muốn đi đến thắng lợi hoàn toàn , thì con đường đi lên chủ nghĩa xã hội là tất yếu ,vấn đề còn lại là chọn các bước đi thích hợp, các biện pháp , phương pháp thích hợp để đảm bảo thắng lợi cho cung thời kỳ , từng giai đoạn . Phải am hiểu sâu sắc, tinh tường , nắm trắc cái nền tảng , gốc gác , cái cơ bản , chính yếu của học thuyết Mác – Lênin, một học thuyết đồ sộ có tác dụng cải tạo thế giới một cách triệt để , thì Hồ Chí Minh mới nói và viết những vấn đề to lớn , phức tạp một cách đơn giản , mạch lạc, sáng sủa, dễ hiểu ,dễ đi vào long người. Hồ Chí Minh có lối tư duy và diễn đạt khác người, khó có ai bắt trước nổi; cái khác người ấy lại không xa lạ với quảng đại quần chúng lao động nghèo khổ, nên họ tiếp thu nhanh , nhớ lâu va dễ làm theo . Bởi, tư tưởng Hồ Chí Minh gần với nguyện vọng của người lao động , lý luân đấy mà như không lý luận. Người toàn dùng “ chữ nhỏ ” thôi mà toàn dùng những “chuyện “ lớn , rất lớn . Tư tưởng Hồ Chí Minh là tổng hòa những mạch tư duy của người về những vấn đề , những lĩnh vực khác nhau, hòa quyện trong nhau thành một dòng chủ đạo là độc lập dân tôc và chủ nghĩa xa hội . cách mang Việt Nam muốn đi đến thắng lợi hoàn toàn , thì toàn bộ tiến trình của nó và ở tưng bước đi cụ thể của nó không thể tách rời , không được tách rời hai nhiệm vụ cách mạng dân tộc và cách mạng xã hội chủ nghĩa . Phát biểu ngắn gọn và súc tích về sự nghiệp báo chí cách mạng của mình , tại Đại hội lần thứ hai Hội nhà báo Việt Nam ,ngày 6 tháng 4 năm 1959 Chủ tịch Hồ Chí Minh nói: “vê nội dung viết , mà các cô các chú gọi là “đề tài “, thi tất cả đề tài Bác viết chỉ có một “đề tài “:chống thực dân đê quốc , chống phong kiến địa chủ , tuyên truyền độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội . Duyên nợ của Bác đối với báo chí là như vậy đó “ (IX , 419 ).

Độc lập dân tộc và chu nghĩa xã hội , như Hồ Chí Minh đã nói, đó là :” Nước ta hoàn toàn độc lập , dân ta được hoàn toàn tự do , đồng bào ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành “. Lời nói đó không chỉ là “sự ham muốn tột bậc “ của người , nó là mục đích cuối cùng của cách mạng , của con đường cách mạng mà người lựa chọn và dẫn dắt toàn dân thực hiện . Lịch sử cách mạng của dân tộc trên thế giới , kể cả thành công và thất bại , dã giúp Hồ Chí Minh lựa chọn con đường đi của cách mạng Việt Nam . thực tiễn của cách mạng tháng Mười Nga đã giúp Hồ Chí Minh khẳng định con đường đi của cách mạng Việt Nam . Người viết về cách mạng tháng Mười và một tình cảm sâu đậm:” Như ánh mặt trời rạng đông xua tan bóng tối . Cuộc cách mạng tháng mười đã chiếu rọi ánh sáng mới vào lịch sử loài người “, và :Cách mạng tháng mười đã chứng tỏ có khả năng lật đổ nền chuyên chính của bọn bóc lột , xây dựng xã hội xã hội chủ

Page 5: ĐỘC LẬP DÂN TỘC GẮN LIỀN VỚI CHỦ NGHĨA XÃ HỘI

nghĩa , một xã hội bảo đảm cho đất nước phát triển rực rỡ một cách nhanh chóng chưa từng thấy , đưa quần chúng lao động đến một cuộc sống xứng đáng , vẻ vang và ngày cang phồn vinh, làm cho người lao động có một Tổ quốc tư do, hạnh phúc và hùng cường , hướng tới những chân trời tươi sáng , mà trước kia không thể nghĩ tới “ (VIII, 558 – 560). Ngày trước , đọc “Luận cương về vấn đề thuộc địa” của Lênin , chủ nghĩa yêu nước của Nguyễn Ái Quốc được tiếp sức và phát triển tư duy nên tầm cao mới ; sau này , thực tiễn trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô với những thành tựu chói sáng càng thúc giục Hồ Chí Minh phấn đấu vì mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội .

Tính biện chứng của độc lập dân tộc gắn liền chủ nghĩa xã hội là một khách quan , tất yếu; có giành được độc lập dân tộc thì mới có điều kiện , nên tảng để tiến hành xây dựng chủ nghĩa xã hội . (Điều này không chỉ đúng với các dân tộc thuộc địa , mà còn đúng với cả các nước tư bản phát triển trong việc chính đảng của giai cấp công nhân có giành được lại được quyền lãnh đạo về tay giai cấp mình không , để từ đó xây dựng chế độ xã hội mới , thiết lập một phương thức sản xuất mới . Thực tế cho thấy , ngoài Cuộc cách mạng tháng Mười Nga , phong trào cộng sản ở các nước tư bản chủ nghĩa chưa đủ sức mạnh để lật nhào chế độ tư bản , đánh đổ phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa ). Tiến hành xây dựng chủ nghĩa xã hội , một mặt la điều kiện để đảm bảo cho những giá trị mà cách mạng dân tộc dân chủ đạt được , mặt khác đem lại cho quần chúng nhân dân lao động những điều kiện phát triển mới , có tương lai , có hiện thực nhìn thấy được . 

Tiến hành cuộc cách mạnh xã hối chủ nghĩa , chính đảng của giai cấp công nhân lãnh đạo của giai cấp mình tiến hành một cuộc đổi mới toàn diện , đổi mới tận gốc chế độ bóc lột , trực tiếp là chủ nghĩa tư bản , tiêu diệt nó bằng cách , như cách nói của Nguyễn Ái Quốc là cắt đứt cả hai cái vòi của con đỉa đế quốc thực dân , bắt tay vào xây dựng phương thức sản xuất mới – phương thức sản xuất xã hội chủ nghĩa – một hình thái kinh tế - xã hội tiến bộ để tiến tới chủ nghĩa cộng sản trên phạm vi toàn thế giới . Trái lại với nền kinh tế tư bản chu nghĩa – nền kinh tế dựa vào bóc lột giai cấp công nhân ngày càng nặng nề , sự bần cùng hóa quần chúng lao động và sự cướp bóc của dân tộc bị nô dịch , nền kinh tế xã hội chủ nghĩa nhằm thỏa mãn những nhu cầu vật chất và văn hóa ngày càng cao của nhân dân lao động trên cơ sợ nhà nước dân chủ nhân dân lắm quyền sở hữu về vật tư sản xuất , đẩy mạnh công nghiệp hóa , không ngừng tăng năng xuất lao động và phát triển văn hóa . Hay nói cách khác , nền kinh tế xã hội chủ nghĩa phải đảm bảo :quan hệ sản xuất phải phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất ; vì vậy tiến hành đồng thời ba cuộc cách mạng ; cách mạng quan hệ sản xuất , cách mạng khoa học – kỹ thuật và cách mạng tư tưởng văn hóa trong đó cách mạng khoa học – kỹ thuật là then chốt – là đòi hỏi khách quan , có tính quy luật .

Thực tiễn cuộc đời hoạt động cách mạng của Hồ Chí Minh đã chứng minh chân thực và hùng hồn sự kiên định của Người về lập trường độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội . Sự kiên định của người xuất phát từ nhân cách “cách mạng tiên cách tâm”, từ sự kết tinh văn hóa nhân loại , từ truyền thống đến hiện đại . Khát vọng của người là khát vọng chung của nhân loại cần

Page 6: ĐỘC LẬP DÂN TỘC GẮN LIỀN VỚI CHỦ NGHĨA XÃ HỘI

lao . Người đấu tranh vì nền tự do của dân tộc mình và vì nền hòa bình thế giới . Người dẫn dắt cách mang Việt Nam đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác và làm phong phú thêm chủ nghĩa Lênin , góp phần to lớn vào phong trào cộng sản và công nhân quốc tế . Kết quả hoạt động của người ở mỗi thời kỳ cách mạng Việt Nam đều đóng những giấu son vào lịch sử dân tộc . Đó là sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam năm 1930 và mười lăm năm sau là sự ra đời của nước Việt Nam độc lập . Thời kỳ này (từ năm 1911, đặc biệt sau năm 1919 ), tư tưởng Hồ Chí Minh hình thành và cơ bản hoàn thiện v07i1 một loạt luận điểm cách mạng sáng tạo , xác lập cho một cách mạng Việt Nam một đường hướng rõ nét nhất quán từ lý luận đến hành động cách mạng . Đường lối khang chiến - kiến quốc của Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa do Chủ tịch Hồ Chí Minh lãnh đạo tiếp tục thực hiên tư tưởng độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội và được nâng lên thành chủ nghĩa nhân đạo – lấy nhân nghĩa thắng hung tàn . Cuộc kháng chiến trường kỳ đã huy động toàn dân tham gia , dựa vào long dân , sức dân để chiến thắng quân xâm lược , chắc thắng mới đánh và đã đánh là thắng lợi . Toàn dân hưởng ứng lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Thi đua là yêu nước , yêu nước phải thi dua “ – thi đua đánh giặc va thi đua sản xuất . “Tăng gia sản xuất phải đi đôi với thực hanh tiết kiệm”, không chỉ là tinh thần tự lực tự cường mà còn là thước đo về đạo đức cách mạng . Hiếm có những dân tộc nào như Việt Nam co được một cuộc thi đua rầm rộ như thế , một cuộc thi đua biểu thị sức mạnh của dân tộc và mang tính chất , đặc điểm của xã hội xã hội chủ nghĩa , vì mỗi người dân đều biết đặt lợi ích dân tộc , lợi ích cách mạng nên trên hết thảy , sẵn sàng hy sinh lợi ích cá nhân , gia đình , làng xóm để giữ vững nền độc lập – tự do , “thà chết chứ không chịu làm nô lệ “ , “Tổ quốc hay là chết “.Chiến thắng Điện Biên Phủ , ngày 7 tháng 5 năm 1954 , mở ra cho cách mạng Việt Nam một thời kỳ mới . hơn lúc nào hết , tư tưởng dộc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội càng được thăng hoa lên đỉnh cao là chủ nghĩa anh hùng cách mạng – anh hung trong xây dựng chủ nghĩa xã hội, anh hùng trong chiến đấu chống đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai . Đồng bào và chiến sĩ hai miền, tiền tuyến và hậu phương , cùng thi đua và làm hậu thuẫn cho nhau để hoàn thành sự nghiệp giải phóng miền Nam , tiến tới thống nhất nước nhà và cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội . Cũng chưa có một dân tộc nào trên thế giới thực hiện thắng lợi tư tưởng độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội như ở Việt Nam, điều này lý giải vì sao Việt Nam, một nước đất không rộng , người không đông, điều kiện kinh tế - xã hội nghèo nàn, lạc hậu, tiêm lực quân sự nhỏ bé , lại chiến thắng hai đế quốc to là Pháp và Mỹ. Với ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội , Đảng cộng sản Việt Nam đã lãnh đạo nhân dân Việt Nam tiến hành thắng lợi hai cuộc chiến tranh vệ quốc vĩ đại kéo dài ròng rã suốt ba mươi năm, làm nên một Việt Nam huyền thoại trong thế kỷ XX.

Tuy nhiên , thật không đầy đủ và thiếu khách quan nếu không phân tích mối quan hệ biện chứng giữa cách mạng Việt Nam và cách mạng thế giới . 

Ngay từ những ngày đầu trên đường tim sư thật về khẩu hiệu : Bình đẳng , Tự do, Bác ái , Nguyễn Ái Quốc đã ý thức sâu sắc rằng:muốn giành lại được độc lập cho dân tộc thì phải liên minh với nhân dân lao động các nước thuộc địa, với giai câp vô sản thế giới , phải tạo ra một lực lượng ủng hộ và đấu tranh cho nền hòa bình có quy mô toàn cầu . Đi khắp thế giới , thâm nhập

Page 7: ĐỘC LẬP DÂN TỘC GẮN LIỀN VỚI CHỦ NGHĨA XÃ HỘI

vào đời sống người lao động , tham gia hoạt động trong các tổ chức cách mạng liên hệ chặt chẽ với các nhân sĩ trí thức ở nhiều lĩnh vực , và đặc biết là hoạt động báo chí , với trí tuệ và nhân cách , đạo đức của mình , Nguyễn Ái Quốc đã tạo nên một sức hút mạnh mẽ sự đồng cảm, sự hiểu biết lẫn nhau , quy tu lương tri vê phía minh . Kết quả đó không chỉ giúp Người vượt qua những thách thức trong ba mươi năm bôn ba đất khách quê người và giúp Ngươi hình thanh , hoàn thiện hệ thống lý luân cách mạng , ma sau này còn giúp dân tộc ta không lẻ loi , đơn chiếc trong cả kháng chiến cứu nước và kiến thiết nhà nước nhà . Trong bất kỳ hoàn cảnh nào , Việt Nam luôn luôn có những người bạn sát cánh bên mình.

“Cách mạng Việt Nam là một bộ phận của cách mạng thế giới “ – đó là một luận điểm hết sức sáng tạo của Hồ Chí Minh khi Người tiếp thu của chủ nghĩa Mác Lênin. Người nhận thức rằng :” Thế giới chỉ có hòa bình cuối cùng khi cả các dân tộc tự mình thỏa thuận với nhau cùng tiêu diệt con quái vật đế quốc chủ nghĩa ở khắp mọi nơi mà họ gặp nó “ (I , 27). Điều này các nhà yêu nước Việt Nam theo chủ nghĩa dân tộc (khác với chủ nghĩa dân tộc) trước Hồ Chí Minh chưa thấy được . Họ chủ chương dựa vào Pháp hoặc Nhật , chứ không phải đoàn kết với người giai cấp vô sản và nhân dân lao động thế giới để tiến hành giải phóng dân tộc , nen đã thất bại . Ngược lại Hồ Chí Minh chủ chương xây dựng từ lực lượng từ quần chúng nhân dân trong nước , tuyên truyền và giác ngộ họ, đưa họ hòa nhập vào dòng thác cách mạng thế giới , tạo nên sức mạnh vô địch . Vì vậy , cách mạng Việt Nam do Hồ chí Minh cầm lái vừa có đặc điểm dân tộc vừa mang tính thời đại, có phương hướng rõ rệt và mỗi bước phát triển đều vững chắc nhờ các biện pháp tổ chức khoa học , khôn khéo . Mỗi quan hệ giữa cách mạng dân tộc và cách mạng thế giới được Hồ Chí Minh củng cố và thúc đẩy không ngừng . Người không chỉ tuyên truyền để các chiến sĩ cộng sản thế giới hiểu về nỗi khổ cực của người Việt Nam trong cảnh mất nước phải làm nô lệ , vận động họ ủng hộ cuộc cách mạng ở các nước thuộc địa , mà còn nhiệt tình và chân thành vận động giáo dục nhân dân Việt Nam ủng hộ các cuộc cách mạng , các phong trào đấu tranh của các dân tộc khác với cách mạng Trung Quốc , Người Viết :” Phong trào giải phóng của Việt Nam là đội quân đồng minh trong cuộc kháng chiến chống Nhật và Trung Quốc . Về tinh thần cũng như về vật chất , chúng ta đều cần phải cổ vũ và giúp đỡ “ (III, 184 – 185). Với cách mạng Cuba: “Việt Nam ta với Cuba cùng chung một kẻ thù là đế quốc Mỹ . Cho nên nhân dân ta càng nhiệt liệt ủng hộ Cuba anh em và tin chắc rằng nhân dân Cuba nhất định sẽ thắng “ (, 631).

Hồ Chí Minh có một niềm tin đặc biệt vào tinh thần đoàn kết quốc tế vô sản , vì đó là sự đoàn kết của những người lao động cần lao sống trong cảnh áp bức chỉ có một khát vọng duy nhất là được giải phóng được hưởng những quyền của con người . Họ đi theo cách mạng và trở thành lực lượng lòng cốt của cách mạng , họ dám hy sinh tính mạng vì mục đích cao đẹp của cách mạng , bởi họ biết rằng họ chẳng mất gi cả ngoài xiềng xích , gông cùm mà chủ nghĩa đế quốc đeo vào cổ họ. Do vậy, đoàn kết dân tộc , đoàn kết giai cấp và đoàn kết quốc tế luôn gắn bó vói nhau, là động lực đưa cách mạng tới thành công. Hồ Chí Minh nói: “ Đoàn kết , đoàn kết , đại đoàn kết . Thành công, thành công , đại thành công” nghĩa là như vậy . “ Đoàn kết “ bao hàm cả ý nghĩa sức mạnh của tổ chức. 

Page 8: ĐỘC LẬP DÂN TỘC GẮN LIỀN VỚI CHỦ NGHĨA XÃ HỘI

Cách mạng Việt Nam là cuộc cách mạng có tổ chức, tổ chức rất chặt chẽ và ở trình độ cao , tổ chức trong lý luận và trong thực tiễn hoạt động , tổ chức trong xây cái mới và chống cái lạc hậu , tổ chức trong đời sống vật chất và trong đời sống văn hóa . Chỉ có tổ chức theo tinh thần cách mạng như vậy mới giành được thắng lợi hoàn toàn , bởi cách tổ chức ấy là một khoa học và có tính kỷ luật cao, vận dụng không chỉ trong cách mạng giải phóng dân tộc mà còn trong cách mạng xã hội chu nghĩa . Cách tộ chúc ấy là nền tảng đễ thực hiện dân chủ rộng rãi trong toàn xã hội . Muốn giành được độc lập dân tộc và sau đó xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội đều phải có lực lượng cách mạng và trí thức cách mạng. Chính đảng của giai cấp vô sản có nhiệm vụ xây dựng lực lượng và tuyên truyền , giáo dục quần chúng nhân dân hiểu biết , nâng cao sự hiểu biết về cách mạng, tức là giác ngộ họ nhận thức đầy đủ về nghĩa vụ và quyền lợi đối với cuộc cách mạng mà họ tự nguyện đứng vào hàng ngũ tranh đấu . Sự nghiệp năm mươi năm hoạt động báo chí trong cuộc đời cách mạng của mình, Hồ Chí Minh thể hiện rõ quan điểm, lập trường cách mạng một cách triệt để và Người đã để lại một di sản tinh thần vô giá – đó là tư tưởng Hồ Chí Minh. 

Đoàn kết các dân tộc bị áp bức và toàn thể lao động trong cuộc đấu tranh cách mạng vì một nền hòa bình thế giới đã trở thành một nguyên lý của chủ nghĩa Mác – Lênin – Lênin dã thực hiện thành công cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa ở nước Nga tư bản . Sự thành công ấy khuyến khích các dân tộc trên thế giới vùng dậy , nó là hạt nhân cho một hệ thống xã hội chủ nghĩa hình thành và phát triển . Những thành tựu to lớn của Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu đạt được trong bảy mươi năm của thế kỷ XX là một hiện thực không thể xóa nhòa . Mặc dù tan rã , nhưng hình ảnh sinh động của một Liên bang Xô viết vẫn còn và sẽ còn mãi mãi trong trí nhớ của lịch sử tiến hóa nhân loại ;và , nó sẽ trở lại , phổ biến trên toàn cầu , bởi những người cộng sản chân chính và toàn thể nhân loại tiến bộ đều hiểu rằng :sự tan rã của Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu sụp đổ vào cuối thế kỷ XX , về khách quan là do lực lượng đế quốc quốc tế tập trung phá hoại , lũng đoạn . Về chủ quan là do sư phân liệt trong bản thân nội bộ phong trào cộng sản quốc tế , lam mất đi sự đoan kết trong sáng đã hình thành trong thực tiễn đấu tranhcach1 mạng . Là một chiến sĩ cộng sản lỗi lạc , có nhiều đóng góp quý báu xây dựng đoàn kết quốc tế , hơn ai hết Hồ Chí Minh rất xót xa , đau lòng trước sư rạn nứt và mâu thuẫn giữa các đảng anh em, Người thấy trước nguy cơ và hậu quả của sư rạn nứt này . Trước lúc đi xa , Người căn dặn những người cộng sản Việt Nam :

“Tôi mong rằng Đảng ta sẽ ra sức hoạt động , góp phần đắc lực vào việc khôi phục lại khối đoàn kết giữa các đảng anh em trên nền tảng chủ nghĩa Mác – Lênin và chủ nghĩa quốc tế vô sản , có lý , có tình .

Tôi tin chắc rằng các đảng anh em và các nước anh em nhất định sẽ phải đoàn kết lại “ (XII , 511 – 512). 

Tư tưởng đoàn kết của Hô Chí Minh – đoàn kết dân tộc , đoàn kết giai cấp , đoàn kết quốc tế - vừa là mục tiêu chiến lược , vừa là động cơ , phương pháp , biện pháp trong thực hiện đồng thời

Page 9: ĐỘC LẬP DÂN TỘC GẮN LIỀN VỚI CHỦ NGHĨA XÃ HỘI

hai cuộc cách mạng – độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam . Kỷ niệm 30 năm ngày thành lập đảng , Hồ Chí Minh nói : “Nhưng thắng đế quốc và phong kiến là tương đối dễ ; thắng bân cùng và lạc hậu còn khó hơn nhiều. Ngày nay ở miền bắc hoàn toàn giải phóng , Đảng đoàn kết và lãnh đạo nhân dân ta thi đua kiến thiết chủ nghĩa xã hội , xây dựng đời sống vui tươi , no ấm và mỹ tục thuần phong. Hễ còn có một người Việt Nam nào bị bóc lột , bị nghèo nàn, thì Đảng vẫn đau thương, cho đó là vì mình chưa làm tròn nhiệm vụ . Cho nên Đảng vừa lo tính công việc lớn như đổi nền kinh tế và văn hóa lạc hậu của nước ta thành một nền kinh tế văn hóa tiên tiến , Đồng thời lại luôn luôn quan tâm đến những việc nhỏ như tương cà mắm muối cần thiết cho đời sống hàng ngày của nhân dân . Cho nên Đảng ta vĩ đại vì nó bao trùm cả nước , đồng thời vi nó gần gũi tận trong long của mỗi đồng bào ta. 

Đảng ta vĩ đại thật , vì ngoại lợi ích của giai cấp , của nhân dân , của dân tộc , Đảng ta không có lợi ích gi khác . 

Nhiệm vụ hiện nay của đảng ta là lãnh đạo nhân dân đẩy mạnh thi đua tăng gia sản xuất , thực hành tiết kiệm để xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc làm cơ sở vững chắc cho cuộc đấu tranh thực hiện thống nhất nước nhà “ (X , 4 ). Đoạn văn trên đây là một sự đúc kết sinh động , thể hiện những luận điểm cơ bản tư tưởng của Hồ Chí Minh . Ở đây đặc biệt toát lên mục tiêu và nội dung của chủ nghĩa xã hội một cách đầy đủ , toàn diện và thiết thực ; nó cũng toát lên tính lôgic biện chứng trong lý luận của Người , một cách tư duy trong sáng , mạch lạc dưới một hình thức giản dị nhưng có giá trị triết lý sâu sắc của một nhà hiền triết phương Đông. Cách tư duy của Hồ Chí Minh hàm ẩn bên trong những yếu tố cấu thành của một học thuyết mang đậm tính nhân văn , nhân đạo , mà hình thức diễn đạt giản dị bề ngoài chưa hẳn đã nhận thấy ngay được . Toàn bộ các tác phẩm , những bài viết , bài nói của Người cũng nhu lối sống nếp sống trong đời sống hàng ngày của Người đều thấm đượm chủ nghĩa nhân văn , nhân đạo cao cả ấy . Không phải ngẫu nhiên trong tuyên truyền chủ nghĩa xã hội và giáo dục đạo đức cách mạng , Hồ Chí Minh lại diễn ra những lời dạy của các nhà tư tưởng tiền bối với một sự đúc kết cô đọng :

“Chúa Giêsu dạy :Đạo đức là bác ái .Phật Thích ca dạy :Đạo đức là từ bi .

Khổng Tử dạy :Đạo đức là nhân nghĩa “ (VI , 225 ). Người rút ra từ các nhà tiền bối này cái bản chất nhất , cái tiến bộ nhất , cái con người nhất mà giá trị của chúng là để cải tạo xã hội , cải tạo con người , chứ người không đồng tình với phương pháp hành xử không mang tính cách mạng triệt để trong toàn bộ học thuyết của họ , mà chính giai cấp bóc lột ở mọi thời đại sau họ đã lợi dụng đưa con người vào sư mê hoặc , ngu tối , kéo lùi sự tiến bộ của xã hội loài người . Người ca ngợi sự vĩ đại của Lê nin :

“Không phải chỉ thiên tài của người , mà là tính coi khinhsu75 xa hoa , tinh thần yêu lao động , đời tư trong sáng , nếp sống giản dị , tóm lại là đạo đức vĩ đại và cao đẹp của người thầy , đã ảnh

Page 10: ĐỘC LẬP DÂN TỘC GẮN LIỀN VỚI CHỦ NGHĨA XÃ HỘI

hưởng lớn lao tới các dân tộc châu Á và đã khiến cho trái tim của họ hướng về người , không gì ngăn cản nổi “ (I , 295 ). 

Đạo đức cách mạng chính là gốc của đoàn kết , gốc của chủ nghĩa xã hội . Không có đạo đức cách mạng thì không thể tiến hành cách mạng . Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng , thì sức mạnh ấy chỉ có được khi đoàn kết họ lại thành một lực lượng có cùng ý chí và hành động hướng tới mục đích chung , biết đặt lợi ích của cá nhân dưới lợi ích của cách mạng . Phương châm “cách mạng tiên cách tâm” của Hồ Chí Minh là như vậy . Mỗi người tham gia vào cuộc cách mạng thì trước hết phải tự mình xóa bỏ những thói hư tật xấu thì mới có thể tiếp thu những cái tốt , cái đẹp , mới có thể giáo dục , vận động những người khác làm cách mạng . Do vậy , quần chúng nhân dân đi theo cách mạng , trước hết là họ nhận thấy người cách mạng có đạo đức – những người sẽ đem lại cho họ tương lai tốt đẹp hơn , rằng cuộc sống mới không chỉ cho họ đời sống tự do mà còn đảm bảo cơm no, áo ấm , quyền làm chủ, bình đẳng để tư do phát triển hết năng lực của mình . Xã hội ấy phải có một nền tảng đạo đức chung , một nền văn hóa thống nhất và bền vững . Nhận thức đúng đắn về một xã hội như vậy là cả một quá trình lâu dài và thường xuyên phải đấu tranh trên tinh thần vừa xây vừa chống , vừa kháng chiến vừa kiến quốc , tăng gia sản xuất phải đi đôi với thực hành tiết kiệm , nói phải đi đôi với làm , tự phê bình và phê bình, tóm lại là mọi người phải thi đua yêu nước . 

Lý luận của Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội trải ra trên một bình diện rộng lớn bao quát đầy đủ mọi vấn đề , mọi yếu tố và thiết thực ngay cho mỗi giai đoạn cách mạng cụ thể , đem lại những giá trị vật chất và tinh thần cho dân tộc và cho nhân dân . Vì thế , cứ trải qua mỗi chặng đường cách mạng , những thắng lợi đạt được đã nângvi5 thế của dân tộc nên tầm cao mới trên trường quốc tế và càng củng cố sự đoàn kết quốc tế đối với sự nghiệp cách mạng của nhân dân Việt Nam . Đây là bài học quý giá nhất , có tầm chiến lược lớn , được rút ra từ cách mạng Việt Nam đối với cách mạng ở các dân tộc khác . Độc lập tự chủ trong mọi hoàn cảnh , tự lực tự cường trong mọi điều kiện và là nhân tố tiến quyêt để xác lập mối đoàn kết giũa các dân tộc . Hồ Chí Minh viết :

“ Từng giọt nước nhỏ thấm vào lòng đất chảy về một hướng mới thành suối thành sông . Biết bao nhiêu giọt nước hợp lại mới thành biển cả . Một pho tượng hay một lâu đài cũng phải có một cái nền rất vững chắc mới đứng vững được . 

Nhưng người ta dễ nhìn thấy pho tượng và lâu đài mà không chú ý đến cá nền . Như thế là chỉ thấy cái ngọn mà không thấy cái gốc “ (XII, 594). 

Chủ tịch Hồ Chí Minh thường nhắc nhở: Đảng ta phải luôn luôn lấy chủ nghĩa Mác – Lênin làm nền tảng tư tưởng , làm kim chỉ lam cho mọi hành động . Người nói :

“ Thấm nhuần chủ nghĩa Mác – Lênin , tuyệt đối trung thành với lợi ích của giai cấp vô sản và của dân tộc ; giữ gìn sự đoàn kết nhất trí trong đảng và sự đoàn kết nhất trí giữa các đảng cộng

Page 11: ĐỘC LẬP DÂN TỘC GẮN LIỀN VỚI CHỦ NGHĨA XÃ HỘI

sản , giữa các nước trong đại gia đình xã hội chủ nghĩa , đó là cái đảm bảo chắc chắn nhất cho cách mạng thắng lợi .

Từ trước tới nay, đảng ta đã làm đúng như thế . Từ nay về sau , đảng ta nhất định làm đúng như thế (X,197- 198). 

“ Cái nền “, “cái gốc” mà Hồ Chí Minh thường nhắc nhở , được Người diễn đạt dưới nhiều khía cạnh và nhiều hình thức khác nhau , trong đó quan trọng nhất là chủ nghĩa Mác – Lênin và truyền thống quý báu của dân tộc . Luận điểm độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội đã hình thành trên cái nền vững chắc ấy và trở thành nhân tố quan trọng của tiến trình cách mạng Việt Nam. 

Page 12: ĐỘC LẬP DÂN TỘC GẮN LIỀN VỚI CHỦ NGHĨA XÃ HỘI

Nhân kỷ niệm 120 năm Ngày sinh của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Phó Giáo sư, tiến sĩ Tô Huy Rứa, Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Trung ương Đảng, Trưởng ban Tuyên giáo Trung ương, Chủ tịch Hội đồng Lý luận Trung ương đã có bài viết : “Những cống hiến to lớn của Chủ tịch Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc và Chủ nghĩa xã hội.” TTXVN trân trọng giới thiệu bài viết của giáo sư, tiến sĩ Tô Huy Rứa:

Với dân tộc Việt Nam, Hồ Chí Minh là sự kết tinh những gì tốt đẹp, ưu tú nhất của trí tuệ và tư tưởng, tình cảm và đạo đức, nhân cách và lối sống của con người và dân tộc Việt Nam. Người tiêu biểu cho cốt cách và bản lĩnh của dân tộc, cho bản sắc văn hoá của dân tộc Việt Nam từ truyền thống đến hiện đại. Tinh hoa của dân tộc, lương tâm và khí phách của thời đại đã được thể hiện chân thực và cảm động, trong sáng và đẹp đẽ, cao thượng và bất khuất qua con người, cuộc đời và sự nghiệp của Hồ Chí Minh.

Khi đã tìm thấy con đường cách mạng và nhận thức được chân lý của thời đại cách mạng nhờ giác ngộ chủ nghĩa Mác-Lênin, với sự thức tỉnh và cổ vũ của Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917, Nguyễn Ái Quốc-Hồ Chí Minh đã dồn tất cả nỗ lực và tinh lực của đời mình để thực hiện đến cùng lý tưởng và mục tiêu cách mạng: độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.

Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội là tư tưởng chủ đạo, là sợi chỉ đỏ xuyên suốt quá trình hình thành, phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh. Trong quá trình đó, Người vừa học tập và nghiên cứu lý luận, vừa tham gia các phong trào đấu tranh chính trị của công nhân và lao động ở những nơi Người đi qua, đã trực tiếp lăn lộn và trải nghiệm suốt mấy thập kỷ trong cuộc hành trình tìm đường cứu nước, cứu dân. 

Bằng con đường lao động, vô sản hóa, Người làm đủ mọi nghề, đi qua nhiều miền đất khác nhau, tham gia các sinh hoạt của công nhân, thợ thuyền, ở ngay sào huyệt của chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa thực dân, Người có điều kiện quan sát trực tiếp tình cảnh sống của những người lao động dưới ách áp bức bóc lột tàn bạo của tư bản ở chính quốc đối với các dân tộc thuộc địa và phụ thuộc.

Thực tiễn này đã giúp Người nhận rõ bản chất của chủ nghĩa tư bản và thực dân, cũng như hình thành ở Người tình hữu ái giai cấp đối với những người cùng khổ. Cũng chính thực tiễn này đã cung cấp cho Người những căn cứ để xác minh một sự thật mà Người đã từng hoài nghi về “Tự do - Bình đẳng - Bác ái” do giai cấp tư sản đưa ra.

Người muốn hiểu rõ đằng sau những lời đẹp đẽ trong châm ngôn tư sản ấy, thực chất của nó là cái gì? Mười năm đầu trong cuộc đi tìm chân lý tại chính quê hương của chủ nghĩa tư bản đã đem lại cho Người những thu hoạch lớn, những kết luận chính trị quan trọng, tác động sâu sắc đến tư tưởng, quan điểm, đường lối của Người. Đó là, ở đâu đâu đế quốc tư bản thực dân cũng dã man, tàn bạo, cũng đầy rẫy những quan hệ phi nhân tính; ở đâu đâu những người lao động nghèo khổ, bần cùng cũng là bạn bè, anh em, đồng chí của nhau, họ phải được tập hợp lại, chủ động

Page 13: ĐỘC LẬP DÂN TỘC GẮN LIỀN VỚI CHỦ NGHĨA XÃ HỘI

đấu tranh, “đem sức ta mà giải phóng cho ta.”

Trong quá trình tìm đường cứu nước cứu dân và định hình đường lối chính trị giải phóng, giành độc lập dân tộc, Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh không chỉ hoạt động ở châu Âu, ở các nước phương Tây tư bản chủ nghĩa, mà Người còn hoạt động ở phương Đông, châu Á, tìm hiểu thực tiễn các phong trào đấu tranh ở Trung Quốc và Thái Lan. 

Những cứ liệu từ thực tiễn đó giúp cho Người so sánh, phân tích, tìm ra những điểm tương đồng và khác biệt trong các kết cấu kinh tế - xã hội, các mâu thuẫn giai cấp và dân tộc ở những khu vực địa chính trị tiêu biểu, nơi diễn ra những phân hóa và mâu thuẫn giai cấp, dân tộc rất khác nhau giữa phương Tây và phương Đông, giữa các nước tư bản châu Âu với các nước châu Á đang còn tồn tại rất nhiều tàn tích phong kiến và đang là đối tượng khai thác, nô dịch của chủ nghĩa thực dân.

Mối quan tâm đặc biệt nổi bật của Người là tình hình Đông Dương, đặc biệt là Việt Nam khi đã mất độc lập chủ quyền và đang bị chủ nghĩa thực dân đè nén, thống trị. Do đó, đối với Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh, việc nghiên cứu, khảo sát thế giới, khu vực và quốc tế cũng chỉ nhằm hướng tới giải phóng và phát triển dân tộc mình, đặt cách mạng Việt Nam trong phong trào cách mạng thế giới, sao cho phù hợp với trào lưu, xu thế chung của lịch sử thế giới và thời đại.

Bước ngoặt lớn trong sự hình thành và phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh là khi Người giác ngộ chủ nghĩa Mác-Lênin và lựa chọn con đường cách mạng vô sản. Chỉ có cuộc cách mạng này mới giải phóng được giai cấp vô sản, giải phóng các dân tộc bị áp bức khỏi ách thống trị của đế quốc, thực dân, mới thực hiện được độc lập tự do, hoà bình và hạnh phúc cho các dân tộc.

Sự kiện lịch sử đánh dấu bước ngoặt đó là vào năm 1920, tại Đại hội lần thứ XVIII Đảng Xã hội Pháp họp ở thành phố Tours, Người đã cùng với những đại biểu ưu tú của giai cấp công nhân Pháp tán thành Quốc tế III và tham gia thành lập Đảng Cộng sản Pháp. Từ một người yêu nước tiến bộ, Người đến với chủ nghĩa Mác-Lênin, trở thành người chiến sĩ xã hội chủ nghĩa (Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.10, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1996, tr.241).

Năm 1923, Nguyễn Ái Quốc đến nghiên cứu, khảo sát trực tiếp tại nước Nga Xôviết của Lênin, thấy rõ sự sinh thành chủ nghĩa xã hội, nhất là những cải cách kinh tế với chính sách kinh tế mới (NEP) do Lênin khởi xướng làm hồi sinh nước Nga. Người có điều kiện nghiên cứu sâu hơn chủ nghĩa Lênin cũng như ảnh hưởng rộng lớn của Cách mạng Tháng Mười, mở ra thời đại mới - quá độ tới chủ nghĩa xã hội, bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa. 

Những tư tưởng đó đã được Người nghiền ngẫm sâu sắc, đã củng cố và khẳng định niềm tin của Người về cách mạng giải phóng dân tộc trong quỹ đạo của cách mạng vô sản, lực lượng lãnh đạo cuộc cách mạng đó chỉ có thể là giai cấp công nhân thông qua đội tiên phong của nó là Đảng Cộng sản. 

Page 14: ĐỘC LẬP DÂN TỘC GẮN LIỀN VỚI CHỦ NGHĨA XÃ HỘI

Như thế, từ 1911 đến 1920 là một thập kỷ Người tìm đường và đã thấy con đường sẽ đi. Từ 1920-1924 và sau đó từ 1925-1927 khi Người viết các tác phẩm lý luận, truyền bá chủ nghĩa Mác-Lênin vào Việt Nam, nhất là "Đường Kách mệnh" (1927), đó là một giai đoạn lịch sử đặc biệt, hình thành về cơ bản lý luận cách mạng giải phóng dân tộc của Người. Đó cũng là thời gian mà Người chuẩn bị về tư tưởng, chính trị và tổ chức cho sự ra đời chính dảng cách mạng kiểu mới ở Việt Nam. 

Tư tưởng và phương pháp cách mạng sáng tạo của Nguyễn Ái Quốc được thể hiện tập trung, cô đọng trong các văn kiện đầu tiên thành lập Đảng, do chính Người trực tiếp soạn thảo: Chánh cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt, Chương trình tóm tắt của Đảng, tháng 2/1930.

Các mốc thời gian và sự kiện sau đó phản ánh những hoạt động vô cùng phong phú, kiên định, tích cực sáng tạo, nhưng cũng đầy thử thách đối với Người. Chính thực tiễn lịch sử cách mạng đã là sự thẩm định khách quan, công tâm nhất đối với giá trị, sức sống, ý nghĩa tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Đây thực sự là điểm nổi bật về sức sáng tạo vượt trước của Hồ Chí Minh, về bản lĩnh Hồ Chí Minh. 

Cho đến khi Người về nước (1941) trực tiếp lãnh đạo cách mạng Việt Nam thì tư tưởng, phương pháp cách mạng đầy sáng tạo của Người mới được khẳng định đầy đủ, nhanh chóng đi vào thực tiễn, đem lại lời giải đúng đắn nhất về lý luận để thúc đẩy cách mạng trong thực tiễn. Đó chính là chân giá trị tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.

Những sáng tạo và cống hiến lịch sử của Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội thể hiện ở những điểm nổi bật sau đây:

Một là, nhận thức sáng tạo về chủ nghĩa Mác và chủ nghĩa Mác-Lênin. Nghiên cứu các tác phẩm kinh điển, Người nhận thấy một trong những ưu điểm đặc sắc nhất của lý luận Mác-Lênin là phép biện chứng. Đó là phép biện chứng của phát triển xã hội, là khoa học và cách mạng của sự phát triển, xóa bỏ trật tự xã hội cũ bất công, tàn bạo và hướng tới xây dựng trật tự xã hội mới, dân chủ, công bằng và nhân đạo, xứng đáng nhất với con người - đó là chủ nghĩa cộng sản. 

Người cũng đặc biệt đề cao học thuyết cách mạng của Lênin, cả trí tuệ khoa học, tính triệt để cách mạng lẫn đạo đức và nhân cách của người sáng lập ra học thuyết Đảng kiểu mới, lãnh đạo thành công cuộc cách mạng vĩ đại nhất trong lịch sử, biến chủ nghĩa xã hội từ một học thuyết lý luận thành hiện thực xã hội mới, một chế độ xã hội mới.

Người nhận rõ chủ nghĩa Mác-Lênin là biểu hiện và kết tinh tinh hoa trí tuệ và tư tưởng của thời đại, của văn hoá nhân loại. Song, Người cũng đặt ra một vấn đề hết sức nghiêm túc về nhận thức khoa học: “Mác đã xây dựng học thuyết của mình trên một triết lý nhất định của lịch sử, nhưng lịch sử nào? Lịch sử châu Âu. Mà châu Âu là gì? Đó chưa phải là toàn thể nhân loại” (Sđd, t.1,

Page 15: ĐỘC LẬP DÂN TỘC GẮN LIỀN VỚI CHỦ NGHĨA XÃ HỘI

tr.465). 

Người đặt vấn đề về sự cần thiết phải vận dụng quan điểm và phương pháp duy vật biện chứng của chủ nghĩa Mác để xem xét sự khác nhau cơ bản giữa kết cấu kinh tế và kết cấu giai cấp - xã hội giữa phương Tây với phương Đông. Người cũng nêu rõ, mai đây, khi chủ nghĩa tư bản phương Tây làm thay đổi phương Đông thì đấu tranh giai cấp có trở nên quyết liệt không? và Người khẳng định, đại thể là có, nếu xét gương của Nhật Bản. Người còn giải thích rằng, thật ra là có, vì sự Tây phương hóa ngày càng tăng và tất yếu của phương Đông - nói cách khác, chủ nghĩa Mác sẽ còn đúng cả ở đó (Sđd, t.1, tr.465). 

Nếu phân hoá giai cấp đã trở nên rõ rệt và đối kháng giai cấp từ sự phân hóa ấy là sâu sắc và gay gắt ở phương Tây trong nền sản xuất tư bản chủ nghĩa, thì ở phương Đông và Việt Nam lại không hẳn là như vậy. ở đây, nổi bật lên mâu thuẫn dân tộc và xã hội với chủ nghĩa tư bản, chủ nghĩa thực dân từ bên ngoài xâm lược vào chứ không phải là mâu thuẫn giai cấp. 

Do đó, nếu giải phóng giai cấp và đấu tranh giai cấp như một đặc trưng nổi bật và là một đòi hỏi bức xúc ở phương Tây tư bản chủ nghĩa, thì ở phương Đông, trong đó có Việt Nam lại nổi lên đặc trưng khác, đó là giải phóng dân tộc, là giải quyết mâu thuẫn dân tộc với chủ nghĩa tư bản, chủ nghĩa thực dân xâm lược để giành độc lập, xóa bỏ tình trạng thuộc địa và phụ thuộc dưới ách đô hộ, thống trị của thực dân.

Đó là lý do giải thích vì sao Người chủ trương đoàn kết tất cả các giai cấp trong dân tộc để tạo ra sức mạnh giải phóng. Trong khi tin tưởng chắc chắn rằng, lý luận của chủ nghĩa Mác là đúng đắn không chỉ ở phương Tây mà còn ở phương Đông, Người còn có dự báo đầy mẫn cảm rằng, chủ nghĩa cộng sản dễ áp dụng và cách mạng cộng sản chủ nghĩa dễ thành công hơn chính trong thực tiễn phương Đông, châu Á và Việt Nam. Một trong những cơ sở luận chứng cho giả thuyết đó là sức đoàn kết dân tộc, truyền thống cộng đồng đã tỏ ra rất gần gũi với bản chất của chủ nghĩa cộng sản.

Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh còn nêu ra một luận điểm rất khoa học và sáng tạo, tỏ rõ chính kiến độc lập đầy bản lĩnh của Người. Đó là, muốn áp dụng chủ nghĩa Mác, áp dụng lý thuyết cộng sản của Mác vào phương Đông và Việt Nam thì phải “xem xét lại chủ nghĩa Mác về cơ sở lịch sử của nó, củng cố nó bằng dân tộc học phương Đông. Dù sao thì cũng không thể cấm bổ sung “cơ sở lịch sử” của chủ nghĩa Mác bằng cách đưa thêm vào đó những tư liệu mà Mác ở thời mình không thể có được” (Sđd, t.1, tr.465). Người cũng xác định rằng, nhiệm vụ ấy đang đặt ra về mặt lý luận mà những người cộng sản phải đáp ứng.

Những luận điểm nêu trên được Nguyễn Ái Quốc nói rõ vào năm 1924, đủ thấy tư chất và bản lĩnh sáng tạo của người cộng sản trẻ tuổi với sức bay của tư duy và tư tưởng vượt trước thời đại như thế nào. Sau này, Người còn có nhiều luận điểm sáng tạo khác đối với việc nhận thức bản chất khoa học và cách mạng của chủ nghĩa Mác-Lênin.

Page 16: ĐỘC LẬP DÂN TỘC GẮN LIỀN VỚI CHỦ NGHĨA XÃ HỘI

Có thể nêu một vài thí dụ tiêu biểu. Người nhìn nhận chủ nghĩa Mác-Lênin trong dòng chảy của sự tiến hóa tư tưởng, biết thâu thái tất cả những gì tiến bộ, ưu tú, tinh hoa của tư tưởng, văn hóa nhân loại để vừa hiểu rõ sự phong phú của tư tưởng, văn hóa nhân loại, vừa thấy sự phát triển nhảy vọt của những tư tưởng mácxít vốn không tách rời, không ở bên ngoài mà ở trong tổng số và tổng hợp của toàn bộ những giá trị tinh hoa đó. 

Chẳng thế mà, trong khi tin và đi theo chủ nghĩa Mác - Lênin, Người vẫn rất trân trọng tư tưởng từ bi, bác ái của đạo Phật, khoan dung văn hóa cao cả của chúa Giêsu, tinh thần thực tiễn trong Tam dân chủ nghĩa của Tôn Trung Sơn. Với Hồ Chí Minh, chủ nghĩa Mác - Lênin không chỉ là khoa học và cách mạng, mà còn là đạo đức và văn hóa. Người đã từng chỉ rõ, đọc hàng trăm, hàng nghìn quyển sách Mác - Lênin mà ăn ở với nhau không có tình có nghĩa thì làm sao gọi là Mác - Lênin được. 

Người cũng là nhà tư tưởng mácxít nổi bật nhất khi tiếp cận chủ nghĩa xã hội, tiếp cận nền chính trị của giai cấp công nhân và bản chất của đảng cộng sản từ góc độ đạo đức học và văn hoá đạo đức. Người nói, chủ nghĩa xã hội đối lập với chủ nghĩa cá nhân, tư tưởng xã hội chủ nghĩa đối lập với tư tưởng cá nhân chủ nghĩa, chính trị cốt ở đoàn kết và thanh khiết, Đảng là đạo đức, là văn minh.

Chân lý - một vấn đề của nhận thức luận khoa học - được Hồ Chí Minh mở rộng sang bình diện đạo đức học. Cái gì tốt cho dân, có lợi cho dân, cái đó là chân lý. Phục vụ nhân dân, làm công bộc trung thành và tận tụy của dân là phục tùng chân lý cao nhất, là lựa chọn một lẽ sống cao thượng nhất.

Vận dụng chủ nghĩa Mác-Lênin, Người đặc biệt chú trọng yêu cầu sáng tạo, không máy móc rập khuôn, muốn vậy phải hiểu rõ đặc điểm, hoàn cảnh và những điều kiện lịch sử cụ thể. Người căn dặn chúng ta phải chú ý học tập kinh nghiệm của Liên Xô, Trung Quốc và các nước anh em, nhưng không được sao chép mà phải có tinh thần độc lập tự chủ. Người nói rõ, ta và Liên Xô rất khác nhau về trình độ phát triển, về lịch sử và văn hoá. Trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội, làm khác với Liên Xô vẫn là người mácxít.

Nhận thức đúng đắn và vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào hoàn cảnh, điều kiện lịch sử đặc thù của Việt Nam là điểm xuất phát về lý luận và thực tiễn, về ý thức hệ của Hồ Chí Minh. Đó chẳng những là cơ sở để có những phát kiến sáng tạo, những cống hiến của Hồ Chí Minh về tư tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, mà còn là sự cống hiến đặc sắc của Người, góp phần làm phong phú chủ nghĩa Mác - Lênin và kho tàng lý luận cách mạng thế giới.

Hai là, vạch trần bản chất của chủ nghĩa tư bản, chủ nghĩa đế quốc, thực dân và nêu lên tư tưởng về cách mạng giải phóng dân tộc ở thuộc địa phải phối hợp chặt chẽ với cách mạng vô sản ở chính quốc. Nguyễn Ái Quốc là người đã viết tác phẩm lý luận mácxít Bản án chế độ thực dân

Page 17: ĐỘC LẬP DÂN TỘC GẮN LIỀN VỚI CHỦ NGHĨA XÃ HỘI

Pháp rất nổi tiếng vào năm 1925. Tác phẩm này là một tổng kết lịch sử, một cáo trạng đối với chủ nghĩa thực dân, để sau đó 20 năm, vào năm 1945, Người viết nên Tuyên ngôn độc lập, khai sinh chế độ dân chủ cộng hoà của nước Việt Nam độc lập, đồng thời là cáo chung chế độ thực dân ở Việt Nam sau hơn 80 năm tồn tại của nó.

Người phân tích: “Chủ nghĩa tư bản là một con đỉa có một cái vòi bám vào giai cấp vô sản ở chính quốc và một cái vòi khác bám vào giai cấp vô sản ở các thuộc địa. Nếu người ta muốn giết con vật ấy, người ta phải đồng thời cắt cả hai vòi. Nếu người ta chỉ cắt một vòi thôi, thì cái vòi kia vẫn tiếp tục hút máu của giai cấp vô sản; con vật vẫn tiếp tục sống và cái vòi bị cắt đứt lại sẽ mọc ra” (Sđd, t.1, tr.298). 

Cách mạng phải có sự phối hợp ở cả chính quốc và thuộc địa, giống như một con chim hai cánh, một cánh vỗ ở thuộc địa, một cánh vỗ ở chính quốc. Sự diễn đạt cụ thể và giản dị trên đây đã hàm chứa tư tưởng về tính triệt để của cách mạng chống chủ nghĩa tư bản, thực dân và tính tất yếu của sự phối hợp các phong trào cách mạng vì mục tiêu giải phóng ở các nước thuộc địa, phụ thuộc và ở các nước tư bản chủ nghĩa. Đó là biểu hiện lập trường cách mạng triệt để và chủ nghĩa quốc tế của giai cấp công nhân trên toàn thế giới.

Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh đã nhận rõ, đối với những người lao động và vô sản ở khắp mọi nơi, dù màu da có khác nhau nhưng họ đều có chung một kẻ thù và cũng có chung một mục tiêu tranh đấu. Đế quốc thực dân ở đâu đâu cũng là ác quỷ, phải đánh đổ nó đi. Còn anh em vô sản ở đâu đâu cũng là bạn bè, anh em, đồng chí của nhau. Trên đời này, suy đến cùng, cũng chỉ có hai giống người: giống người bóc lột và giống người bị bóc lột. Mà cũng chỉ có một mối tình hữu ái là thật mà thôi: tình hữu ái vô sản (Sđd, t.1, tr.266).

Người đề cập tới tình hình Đông Dương và những cơ sở cho sự chín muồi cách mạng ở đó. Đó vừa là những khẳng định khoa học, vừa là những dự báo chính trị mẫn cảm. Người viết: “người Đông Dương không chết, người Đông Dương vẫn sống, sống mãi mãi. Sự đầu độc có hệ thống của bọn tư bản thực dân không thể làm tê liệt sức sống, càng không thể làm tê liệt tư tưởng cách mạng của người Đông Dương. Luồng gió từ nước Nga thợ thuyền, từ Trung Quốc cách mạng hoặc từ Ấn Độ chiến đấu đang thổi đến giải độc cho người Đông Dương” (Sđd, t.1, tr.28). 

Theo đánh giá của Người, “Đằng sau sự phục tùng tiêu cực, người Đông Dương giấu một cái gì đang sôi sục, đang gào thét và sẽ bùng nổ một cách ghê gớm, khi thời cơ đến. Bộ phận ưu tú có nhiệm vụ phải thúc đẩy cho thời cơ đó mau đến. Sự tàn bạo của chủ nghĩa tư bản đã chuẩn bị đất rồi. Chủ nghĩa xã hội chỉ còn phải làm cái việc là gieo hạt giống của công cuộc giải phóng nữa thôi” (Sđd, t.1, tr.28). Cho đến khi, Luận cương của Lênin được Người hấp thụ như tìm thấy cẩm nang đi đường, Người đã xác định rõ ràng con đường giải phóng dân tộc là con đường cách mạng vô sản.

Ba là, Nguyễn Ái Quốc-Hồ Chí Minh đã giải quyết thành công mối quan hệ giữa dân tộc với giai

Page 18: ĐỘC LẬP DÂN TỘC GẮN LIỀN VỚI CHỦ NGHĨA XÃ HỘI

cấp, giữa giải phóng dân tộc với giải phóng giai cấp trên lập trường giai cấp công nhân. Trong những năm 20 - 30 của thế kỷ XX, không phải tất cả những người cách mạng và yêu nước, dù đứng trên lập trường cộng sản, đã ý thức đầy đủ và thật sự quan tâm tới vận động cách mạng giải phóng dân tộc ở các thuộc địa. Song, đây lại là vấn đề cốt tử mà Nguyễn Ái Quốc đặc biệt chú ý, từ khi tham gia hoạt động trong Đảng Cộng sản Pháp.

Người đã thẳng thắn phê phán thái độ thờ ơ hoặc lãng quên phong trào cách mạng ở thuộc địa và đòi hỏi Đảng Cộng sản phải xác định rõ trách nhiệm của Đảng đối với việc thúc đẩy và phối hợp hành động với các phong trào cách mạng ở thuộc địa. Người đã sớm đi đến một kết luận quan trọng: sự nghiệp giải phóng dân tộc phải đồng thời gắn liền với sự nghiệp giải phóng giai cấp công nhân và giải phóng xã hội; cả hai cuộc giải phóng đó đều là sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân, là sự nghiệp của chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản.

Các bản tham luận nổi tiếng của Người tại Đại hội V Quốc tế Cộng sản (17/6 đến 8/7 năm 1924) đã chứng tỏ điều đó.

Những luận điểm sau đây cho thấy tính hệ thống và sự nhất quán của Hồ Chí Minh về vấn đề độc lập dân tộc và cách mạng vô sản: “Chỉ có giải phóng giai cấp vô sản thì mới giải phóng được dân tộc; cả hai cuộc giải phóng này chỉ có thể là sự nghiệp của chủ nghĩa cộng sản và cách mạng thế giới." (Sđd, t.1, tr.416) Chỉ có chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản mới giải phóng được các dân tộc bị áp bức và giai cấp công nhân trên thế giới,” “Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không có con đường nào khác con đường cách mạng vô sản.” (Sđd, t.9, tr.314)

Cái mới và bản lĩnh sáng tạo của Hồ Chí Minh về vấn đề độc lập dân tộc và cách mạng vô sản là ở chỗ:

- Không tách rời giai cấp khỏi dân tộc.

- Giải phóng dân tộc trên lập trường giai cấp công nhân, trên nền tảng ý thức hệ của giai cấp công nhân nên cách mạng giải phóng dân tộc với mục tiêu giành độc lập dân tộc phải do giai cấp công nhân và đội tiên phong của nó là Đảng Cộng sản lãnh đạo. Cũng do đó, con đường tiến lên của dân tộc và của xã hội Việt Nam chỉ có thể là con đường xã hội chủ nghĩa, gắn liền độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội bằng cách quá độ lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa.

Thực tiễn khẳng định, tư tưởng Hồ Chí Minh về giải phóng và phát triển đã mở ra con đường phát triển tốt đẹp nhất cho dân tộc Việt Nam: Độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Tư tưởng Hồ Chí Minh đã đặt nền móng lý luận cho cách mạng Việt Nam trong thời đại mới, đã tìm thấy con đường phát triển đúng đắn, hợp lý, có triển vọng nhất, phù hợp với trào lưu tiến hoá chung của nhân loại và xu thế phát triển của thời đại.

Page 19: ĐỘC LẬP DÂN TỘC GẮN LIỀN VỚI CHỦ NGHĨA XÃ HỘI

Bốn là, nhờ có lý luận và phương pháp cách mạng đúng đắn, Hồ Chí Minh đã cùng với Đảng lãnh đạo nhân dân và dân tộc ta đánh bại chủ nghĩa thực dân kiểu cũ và mới, đưa dân tộc ta vào hàng ngũ các dân tộc tiên phong của thế giới, xây dựng chủ nghĩa xã hội phù hợp với hoàn cảnh và điều kiện của nước ta. Tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội cũng có những nét sáng tạo đặc sắc, có giá trị và ý nghĩa hiện đại, không chỉ với nước ta mà còn đối với các nước xã hội chủ nghĩa khác trong loại hình “phát triển rút ngắn” và “quá độ gián tiếp,” do bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, thực hiện từng bước từ dân chủ nhân dân tới chủ nghĩa xã hội.

Trong di sản tư tưởng Hồ Chí Minh có cả một hệ vấn đề lý luận về chủ nghĩa xã hội, từ đặc trưng, bản chất, mục tiêu, con đường, phương thức, mô hình và bước đi cũng như những giải pháp xây dựng chủ nghĩa xã hội trong sự kết hợp giữa tính phổ biến với tính đặc thù, tính giai cấp - dân tộc - nhân dân với tính thời đại và tính nhân loại trong thế giới đương đại ngày nay.

Hồ Chí Minh đã phát triển lý luận chủ nghĩa xã hội khoa học bằng cách bổ sung một cách tiếp cận đạo đức học cũng đồng thời là một quan niệm cụ thể về chủ nghĩa xã hội. Người đã dự cảm từ rất sớm một vấn đề mà ngày nay ta càng thấy rõ tính hệ trọng đối với sự phát triển của chủ nghĩa xã hội: Không đánh bại chủ nghĩa cá nhân thì không thể xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội (Sđd, t.9, tr.291).

Cũng như vậy, không đảm bảo thực hành dân chủ rộng rãi thì không thể chống được quan liêu, lãng phí, tham ô, tham nhũng. Rõ ràng, chủ nghĩa xã hội là đối lập với chủ nghĩa cá nhân. Thành bại của chủ nghĩa xã hội tùy thuộc vào chỗ, những người xây dựng chủ nghĩa xã hội, nhất là đội ngũ tiên phong có đủ dũng khí và quyết tâm để đánh thắng thứ “giặc nội xâm” mà Người coi là kẻ thù nguy hiểm nhất hay không? 

Do đó, chủ nghĩa xã hội không chỉ là kinh tế - một nền kinh tế phồn vinh, giàu có, một thể chế chính trị dân chủ - pháp quyền, đảm bảo quyền làm chủ thực chất của nhân dân, một xã hội công bằng, bình đẳng cho sự phát triển hài hoà cá nhân và cộng đồng, mà còn là một nền tảng đạo đức trong sạch, thấm sâu vào các quan hệ xã hội lành mạnh, một hệ giá trị văn hoá nhân bản, nhân đạo và nhân văn, kết hợp được truyền thống, bản sắc dân tộc với những tinh hoa của thời đại vì độc lập - tự do - hạnh phúc cho mọi con người, mọi dân tộc.

Sự sâu sắc và tinh tế văn hóa, đặc biệt là văn hóa đạo đức của Hồ Chí Minh là ở chỗ, Người đem vào tiến trình xây dựng chủ nghĩa xã hội một nhiệm vụ chiến lược - “trồng người,” đào tạo, giáo dục, rèn luyện cán bộ, coi đó là công việc gốc của Đảng; và thực hành đạo đức cách mạng được Người quan tâm suốt đời như một chiến lược, cả tư tưởng lẫn hành động. 

Chiến lược đó là cốt lõi của chiến lược con người, chiến lược xây dựng, phát triển, đồng thời là chiến lược bảo vệ chủ nghĩa xã hội, làm cho cách mạng, Đảng cách mạng, người cách mạng, có sức mạnh tự bảo vệ. Điều đó cho thấy, tư duy chiến lược của Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội ở tầm thời đại và hiện đại như thế nào, nhất là đem tư tưởng của Người soi rọi vào tình hình hiện

Page 20: ĐỘC LẬP DÂN TỘC GẮN LIỀN VỚI CHỦ NGHĨA XÃ HỘI

nay cũng như trước những đòi hỏi mới của thời đại, trong xu thế toàn cầu hoá và trong bối cảnh hội nhập.

Người chỉ rõ, bản chất sâu xa và tính ưu việt nổi bật của chủ nghĩa xã hội là thực hiện và phát huy quyền làm chủ của nhân dân. Người khẳng định, không gì quý bằng dân, không gì mạnh bằng sức mạnh đoàn kết của nhân dân, và dân chủ là quý báu nhất trên đời của dân. Là chủ thể gốc của mọi quyền lực, nhân dân phải là chủ sở hữu đích thực của dân chủ, phải là chủ xã hội, chủ nhà nước, kiểm soát được nhà nước của mình và xã hội phải là một xã hội dân chủ. Người còn nhấn mạnh, thực hành dân chủ rộng rãi sẽ là chiếc chìa khóa vạn năng để giải quyết mọi khó khăn. Vậy là, Người đã thấy vai trò động lực của dân chủ đối với tiến bộ và phát triển, đối với chủ nghĩa xã hội.

Lý luận xây dựng chủ nghĩa xã hội của Hồ Chí Minh thấm nhuần sâu sắc không chỉ khoa học, cách mạng mà còn là đạo đức, là văn hóa, tức là nhân văn. Người từng nói, chủ nghĩa xã hội cộng với khoa học sẽ là nguồn sức mạnh vô tận, chắc chắn sẽ đưa loài người đến hạnh phúc vô tận (Sđd, t.9, tr.131). Phải xây dựng xã hội xã hội chủ nghĩa sao cho đời sống vật chất ngày càng tăng, đời sống tinh thần ngày càng tốt, xã hội ngày càng văn minh, tiến bộ. Tất cả đều nhằm vào hạnh phúc của nhân dân. Dân chỉ biết đến dân chủ khi dân được ăn no, mặc ấm. Chúng ta tranh được tự do, độc lập rồi mà dân vẫn cứ chết đói, chết rét, thì tự do, độc lập cũng không làm gì (Sđd, t.4, tr.152).

Mấu chốt của xây dựng chủ nghĩa xã hội, theo Hồ Chí Minh là phải dựa vào dân, đem tài dân, sức dân để làm lợi cho dân, để mưu cầu hạnh phúc cho dân. Việc gì có lợi cho dân phải quyết làm cho bằng được. Việc gì có hại tới dân phải quyết tránh cho bằng được. Quyền làm chủ của dân, hạnh phúc của dân, sự phát triển tự do, dân chủ, công bằng trong xã hội - đó là những giá trị đảm bảo cho chế độ phát triển bền vững và chủ nghĩa xã hội thực sự là một xã hội văn hóa cao, trong đó, con người là con người xã hội chủ nghĩa, nhân dân là chủ và làm chủ, dân tộc trở thành một dân tộc thông thái. 

Chủ nghĩa xã hội nhân dân và nhân văn trong chiều sâu triết lý nhân văn chủ nghĩa của Hồ Chí Minh là ở đó. Trong những tư tưởng hàm xúc đó đã toát lên đầy đủ những vấn đề cốt yếu về mục tiêu, bản chất, động lực, cách làm và bước đi của chủ nghĩa xã hội. Đó là chủ nghĩa xã hội Việt Nam theo tư tưởng Hồ Chí Minh. Đó cũng là một trong những cống hiến sáng tạo nổi bật của Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội.

Năm là, tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội thể hiện một quan hệ biện chứng, thấm nhuần sâu sắc quan điểm thực tiễn - phát triển và đổi mới. Những luận giải cô đọng, hàm xúc của Hồ Chí Minh cho thấy, độc lập dân tộc là tiền đề, là điều kiện của chủ nghĩa xã hội, đó là nền tảng chính trị, là cơ sở dân tộc và chủ quyền nhân dân của chủ nghĩa xã hội. 

Page 21: ĐỘC LẬP DÂN TỘC GẮN LIỀN VỚI CHỦ NGHĨA XÃ HỘI

Theo đó, chủ nghĩa xã hội sinh thành, phát triển và hoàn thiện là đảm bảo thực chất, đầy đủ và bền vững nhất của độc lập dân tộc. Đó cũng là thước đo dân chủ và tự do của phát triển xã hội, một xã hội văn minh, hiện đại mà lịch sử tìm thấy sự biểu hiện tốt nhất ở chủ nghĩa xã hội. 

Chủ nghĩa xã hội, đó cũng chính là cách thức tổ chức xã hội tốt nhất để làm cho Tổ quốc, đất nước, quốc gia - dân tộc trường tồn, con người cá nhân và cộng đồng xã hội được phát triển tự do, toàn diện mọi khả năng sáng tạo, được thụ hưởng hạnh phúc vật chất, tinh thần trong một môi trường lành mạnh, tốt đẹp nhất. Đó cũng chính là hàm ý sâu xa trong một chân lý lớn mà Hồ Chí Minh nêu ra: “Không có gì quý hơn độc lập tự do.” Giá trị ấy cũng chính là chủ nghĩa xã hội, một chủ nghĩa xã hội phát triển thông qua đổi mới, sáng tạo và hiện đại hóa./.