Upload
others
View
13
Download
0
Embed Size (px)
Citation preview
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG
PHAN VĨ PHƯƠNG UYÊN
DIỄN NGÔN TRUYỆN KỂ TRONG
TIỂU THUYẾT ĐÊM THÁNH NHÂN CỦA
NGUYỄN ĐÌNH CHÍNH
Chuyên ngành: Văn học Việt Nam
Mã số: 60 22 01 21
TÓM TẮT LUẬN VĂN THẠC SĨ
KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
Đà Nẵng, Năm 2015
Công trình được hoàn thành tại
ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG
Người hướng dẫn khoa học: TS. NGUYỄN THANH TRƯỜNG
Phản biện 1: TS. NGUYỄN KHẮC SÍNH
Phản biện 2: PGS.TS. HỒ THẾ HÀ
Luận văn được bảo vệ trước Hội đồng chấm Luận văn tốt
nghiệp thạc sỹ Khoa học Xã hội và Nhân văn họp tại Đại học
Đà Nẵng vào ngày 5 tháng 12 năm 2015
Có thể tìm luận văn tại:
- Trung tâm Thông tin - Học liệu, Đại học Đà Nẵng
- Thư viện trường Đại học Sư phạm, Đại hoc Đà Nẵng
1
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
1.1. Trong khoa học nghiên cứu văn học, diễn ngôn truyện kể
đã trở thành hệ thống lí thuyết được nhiều nhà nghiên cứu, phê bình
quan tâm. Tiếp nhận tác phẩm văn học theo quan niệm diễn ngôn
truyện kể không đơn thuần chỉ nghiên cứu trên bề mặt mà “độ rơi” của
nó chính là vấn đề ngoài và sau văn bản. Điều này hứa hẹn mở ra
những chiều kích trong lí giải và khám phá “cái khác” từ nhiều điểm
nhìn tham chiếu. Vận dụng lí thuyết diễn ngôn truyện kể trong khảo
sát văn bản nghệ thuật không ngoài mục đích đi đến khẳng định giá trị
của tác phẩm cũng như tài năng và phong cách của nhà văn.
1.2. Với sự đổi mới trong tư duy nghệ thuật, Nguyễn Đình
Chính đã tạo dựng thành công những lớp diễn ngôn khác nhau cho
đứa con tinh thần của mình. Theo đó, từ quyền năng trần thuật của
người kể chuyện là những biến thể diễn ngôn dẫn dụ người đọc đi vào
những “mê lộ” của một thế giới đa sắc màu – thế giới thực/ phi thực;
thế giới của sự đổ vỡ, đứt gãy nhưng vẫn thấm đẫm tình yêu thương
đồng vọng trong sâu thẳm mỗi bản thể người.
1.3. Nghiên cứu diễn ngôn truyện kể trong tiểu thuyết Đêm
thánh nhân còn giúp chúng tôi hướng tới đánh giá những thành công
trong kĩ thuật viết của nhà văn. Đó là những sáng tạo nghệ thuật được
chuyển hóa linh hoạt thông qua đường dẫn không – thời gian trần
thuật; là tính đa thanh trong giọng điệu và phương thức tổ chức lời
trần thuật hấp dẫn. Đi vào khám phá những bình diện nghệ thuật này
sẽ góp phần vào khẳng định tài năng của người nghệ sĩ trong hành
trình sáng tạo nghệ thuật. Đây cũng là một trong những lý do nữa
khiến cho chúng tôi chọn “Diễn ngôn truyện kể trong tiểu thuyết Đêm
Thánh nhân của Nguyễn Đình Chính” làm đề tài luận văn.
2
2. Lịch sử vấn đề
2.1. Từ những bài viết nhận diện về hành trình sáng tạo
Trong bài viết Nguyễn Đình Chính, kẻ mang bố ra đùa, Đỗ
Minh Tuấn đã cho bạn đọc biết đến chân dung Nguyễn Đình Chính từ
tinh thần đến sự nghiệp sáng tác. Nhà văn Hòa Vang trong bài Chính
mía ở Đêm thánh nhân đã chia sẻ với bạn đọc về những cảm nhận của
mình khi đọc Đêm thánh nhân. Tác giả Đặng Tiến với công trình
nghiên cứu Một thành tựu của văn chương huyền ảo đã phân tích sâu
sắc giá trị mà Đêm thánh nhân mang lại. Ngoài ra còn có Hoàng Hữu
Các trong Trò chuyện với Đêm Thánh nhân cho rằng Đêm thánh nhân
là một cuốn tiểu thuyết in đậm dấu ấn cá tính sáng tạo của tác của
nhà văn.
2.2. Đến những công trình, bài viết nghiên cứu có tính
gợi mở
Đến với tiểu thuyết Đêm thánh nhân, đã có không ít những
bài viết đề cập đến các yếu tố liên quan đến nghệ thuật xây dựng diễn
ngôn truyện. Có thể nhắc đến Đặng Tiến trong bài viết Một thành tựu
văn chương kỳ ảo với nhận diện về cái độc đáo của tác phẩm ở
phương diện không gian; nhà thơ Văn Cầm Hải trong bài 240 phút
mạo hiểm cùng Nguyễn Đình Chính khai thác nghệ thuật thể hiện
trong tiểu thuyết thông qua đường dẫn không – thời gian tâm lý và kỳ
ảo; hay Thái Phan Vàng Anh với bài nghiên cứu Thời gian trần thuật
trong tiểu thuyết Việt Nam đương đại đã đánh giá cao thành công của
tiểu thuyết Đêm thánh nhân trên phương diện nghệ thuật lắp ghép,
đồng hiện điện ảnh. Nhìn chung, vấn đề diễn ngôn truyện kể trong
Đêm Thánh nhân ít nhiều đã được đề cập đến nhưng mới chỉ dừng lại
ở những nhận định có tính khái quát. Tuy nhiên, đây là những gợi ý
quý báu cho chúng tôi tiếp tục nghiên cứu triển khai luận văn này.
3
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là “Diễn ngôn truyện kể
trong tiểu thuyết Đêm Thánh nhân của Nguyễn Đình Chính”.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi khảo sát của luận văn là tiểu thuyết Đêm thánh nhân
do Nhà xuất bản Văn học, Hà Nội xuất bản năm 2008.
Trong luận văn, chúng tôi còn khảo sát một số tiểu thuyết của
các tác giả khác có liên quan đến phạm vi nghiên cứu của đề tài.
4. Phương pháp nghiên cứu
Trong luận văn, chúng tôi sử dụng một số phương pháp
nghiên cứu sau: Phương pháp thống kê, phân loại; Phương pháp phân
tích, tổng hợp; Phương pháp so sánh, đối chiếu, Phương pháp hệ
thống và Phương pháp sử dụng lý thuyết tự sự học.
5. Đóng góp của luận văn
Đây là công trình đầu tiên tìm hiểu một cách hệ thống diễn
ngôn truyện kể trong Đêm thánh nhân của Nguyễn Đình Chính.
6. Cấu trúc luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Tài liệu tham khảo, nội dung
chính của luận văn được triển khai trong 3 chương:
Chương 1. Diễn ngôn truyện kể trong Đêm thánh nhân của
Nguyễn Đình Chính nhìn từ phương diện người kể chuyện
Chương 2. Diễn ngôn truyện kể trong Đêm thánh nhân của
Nguyễn Đình Chính nhìn từ phương thức tổ chức không - thời gian
trần thuật
Chương 3. Diễn ngôn truyện kể trong Đêm thánh nhân của
Nguyễn Đình Chính nhìn từ phương thức tổ chức lời trần thuật và
giọng điệu trần thuật
4
CHƯƠNG 1
DIỄN NGÔN TRUYỆN KỂ TRONG ĐÊM THÁNH NHÂN CỦA
NGUYỄN ĐÌNH CHÍNH NHÌN TỪ PHƯƠNG DIỆN
NGƯỜI KỂ CHUYỆN
1.1. DIễN NGÔN VÀ DIễN NGÔN TRUYệN Kể
1.1.1. Khái niệm diễn ngôn
Từ cách tiếp cận ngôn ngữ học, phong cách học, xã hội học,
văn học đã cung cấp cho chúng ta các góc nhìn khác nhau về diễn ngôn:
diễn ngôn như là cấu trúc của ngôn ngữ/ lời nói, diễn ngôn như là lời
nói – tư tưởng hệ, diễn ngôn như là công cụ để kiến tạo tri thức và thực
hành quyền lực, và diễn ngôn là quy tắc mang đậm cá tính sáng tạo.
Dựa trên những nghiên cứu đi trước, chúng tôi hiểu: Diễn ngôn là một
thuật ngữ liên ngành (trong đó có văn học); là một đơn vị biểu đạt trên
câu, nó nhờ đường dẫn ngôn ngữ chuyển tải nội dung đời sống rộng lớn
và trở thành các sự kiện; là sản phẩm của hoạt động giao tiếp gắn liền
với ngữ cảnh, thời đại, môi trường văn hóa – xã hội đặc trưng. Nó tồn
tại ngoài đường biên của ngôn ngữ, xâm lấn vào nhiều lĩnh vực xã hội,
dung chứa những khối lượng tri thức, lịch sử và thẩm thấu trong nó
những giá trị tư tưởng của thời đại.
1.1.2. Diễn ngôn truyện kể
Diễn ngôn truyện kể đã được đề cập đến thông qua một số công
trình nghiên cứu về các phương diện của diễn ngôn như F. Stanzel đề ra
khái niệm “tình huống kể” (narrative situation), Todorov đi sâu vào
nghiên cứu cấu trúc của diễn ngôn không gian và thời gian trong diễn
ngôn, hay E. Benveniste cho rằng một tác phẩm văn học có hai dạng
thức, “nó đồng thời vừa là câu chuyện được kể và là một diễn ngôn”.
G.Genette viết rằng: “truyện kể, đối với tôi chỉ là một hình thức của
diễn ngôn”, “truyện kể là một diễn ngôn”, diễn ngôn này được Genette
khảo sát ở các bình diện ngôi kể, người kể, vai kể, trật tự và tình huống
5
trần thuật, thức, giọng, tiêu cự hoá, diễn ngôn của người kể và diễn
ngôn của các nhân vật.
Từ cách phân loại và nhận diện của các nhà nghiên cứu trên,
chúng tôi nhận thấy diễn ngôn truyện kể được sử dụng chỉ hình thức
(cấu trúc) của tác phẩm tự sự, bao gồm các yếu tố văn bản, tác giả,
độc giả, vai, người kể, điểm nhìn, giọng, thức kể chuyện... Diễn ngôn
truyện kể có chức năng diễn giải, chỉ dẫn, định hướng cho mọi nấc
thang giá trị trong và ngoài văn bản. Các hình thức diễn ngôn truyện
kể tạo sinh ra nhiều giá trị, cho phép xây dựng nên một chiến lược
phát ngôn nghệ thuật hướng về một thế giới mới – vượt thoát khỏi
hiện thực trong ý thức tìm kiếm cái hằng tại dựa trên sự khác biệt của
tính “hư cấu” nghệ thuật. Lúc này diễn ngôn truyện kể phát huy quyền
lực tối ưu, hướng tới lí giải bản chất thế giới thực tại.
1.2. HÌNH THÁI DIễN NGÔN NGÔI TRUYệN Kể TRONG ĐÊM
THÁNH NHÂN CủA NGUYễN ĐÌNH CHÍNH
1.2.1. Người kể chuyện ngôi thứ nhất – phức hợp ngôi kể
diễn ngôn trong diễn ngôn
a. Người kể chuyện ngôi thứ nhất với điểm nhìn bên trong
Người kể chuyện ngôi thứ nhất dạng cố định trong Đêm thánh
nhân là kiểu người kể chuyện ngôi “tôi” trùng khít hoàn toàn với nhân
vật chính của sự việc, để nhân vật được tự do thuật lại chuyện của
mình, bộc bạch tâm sự, nghĩ suy quanh câu chuyện đó. Tiêu biểu cho
ngôi kể này là việc nhà văn để nhân vật Mùi cá ngạnh tự kể tất cả
những sự việc xảy ra trong gia đình hay ông phó Thực, người trải qua
những cung bậc nỗi đau của cuộc đời, kể chuyện như trút hết ruột gan
khiến người đọc dường như đang nhịp bước cùng nhân vật trải qua
nhiều nỗi đau xót xa. Hình thức trần thuật này tạo ra ảo giác ở độc giả
về tính khách quan của nội dung câu chuyện và thể hiện đậm nét dấu
ấn chủ quan của người kể chuyện.
6
Người kể chuyện ngôi thứ nhất dạng bất định trong Đêm
thánh nhân là hình thức trần thuật có nhiều vai ở ngôi thứ nhất kể
những chuyện khác nhau từ những điểm nhìn khác nhau. Nổi bật là
câu chuyện của bà Phạm Thị Nhàn đã được Nguyễn Đình Chính xử lý
thành công qua nghệ thuật kể chuyện ở ngôi thứ nhất với hai chủ thể
xưng tôi – cái tôi “kép”. Các lớp diễn ngôn của tác giả, bà Nhàn và bà
Hạnh được lồng kết trong nhau giúp người đọc dễ dàng thâm nhập vào
thế giới nội cảm đầy phức tạp và bí ẩn của nhân vật qua lời kể chân
thực của chính họ. Dạng thức trần thuật này là minh chứng tiêu biểu
cho đặc điểm của diễn ngôn truyện kể tạo tính trùng phức ở lời diễn
trong ngôi kể, khiến cho mạch truyện kể đa ngôn và không trở nên
nhàm chán, một chiều mà phong phú, sống động hơn.
b. Người kể chuyện ngôi thứ nhất với điểm nhìn bên ngoài
Trong Đêm thánh nhân, đôi khi chủ thể trần thuật chỉ giữ vai
trò là người quan sát, chứng kiến, kể lại câu chuyện và hạn chế đến
mức thấp nhất sự tham gia của bản thân vào câu chuyện khi kể. Như
khi Chế Bồng Thớt xưng “tôi” – cái tôi nhân chứng giữ vai trò chủ
đạo trong truyện kể về Phạm Văn Cổn, không áp đặt cái nhìn cá nhân
vào quá trình diễn biến của câu chuyện, tuy nhiên cũng có xen lẫn
điểm nhìn, cảm xúc của người trần thuật. Ngoài ra còn có tình huống
truyện kể người kể không xưng tôi, chỉ đích danh là cô Thương Ơi,
nhưng người kể hoàn toàn đứng ngoài sự vận động của các sự kiện,
các tình tiết. Lối kể chuyện ngôi thứ nhất với điểm nhìn bên ngoài đã
đem lại cho truyện một kết cấu năng động, diễn biến của các sự kiện,
biến cố ít có ai đoán trước được sẽ như thế nào.
Sự phối hợp hai hình thức trần thuật ngôi thứ nhất khiến
những câu chuyện trong Đêm thánh nhân không tách rời mà luôn
được đan cài vào nhau rất linh hoạt, kéo người đọc lại gần với thế giới
nghệ thuật của tác phẩm đồng thời tạo sự sinh động cho đời sống bên
7
trong văn bản nghệ thuật, mặt khác tạo sự luân phiên điểm nhìn, góp
phần làm cho thế giới nội tâm nhân vật được xem xét dưới nhiều góc
độ và hiện lên một cách tự nhiên hơn. Đó chính là thế mạnh của kết
cấu phức hợp diễn ngôn trong diễn ngôn, góp phần tạo dựng cho hình
thái truyện kể chạm đến lằn ranh sáng tạo của nghệ thuật tự sự.
1.2.2. Người kể chuyện ngôi thứ ba – chủ thể chính của
diễn ngôn truyện kể
a. Người kể chuyện ngôi thứ ba với điểm nhìn bên trong
Trong Đêm thánh nhân, đôi khi người kể chuyện dựa vào cảm
nhận, suy nghĩ, phạm vi ý thức của nhân vật về thế giới xung quanh để
kể câu chuyện. Đặc điểm này thể hiện qua việc nhà văn để cho bác sĩ
Cần soi rọi vào tận những ngõ ngách tâm can mình, để chất vấn – dằn
vặt – đau xót – suy tư qua những dạng thức độc thoại nội tâm của
nhân vật. Ngoài ra trong một số trường hợp, Nguyễn Đình Chính cũng
tạo nên tính song đối trong luân phiên điểm nhìn giữa các nhân vật
trong cùng một câu chuyện (chuyện về cô Lũy) để khai thác thấu đáo
các khía cạnh tâm lý, tình cảm sâu kín của nhân vật. Với điểm nhìn
bên trong, Nguyễn Đình Chính dường như đã đóng dấu vào bản đồ
tâm thức của nhân vật, qua đó tái hiện được đời sống nội tâm của nhân
vật một cách sâu sắc, toàn vẹn.
b. Người kể chuyện ngôi thứ ba với điểm nhìn bên ngoài
Trong Đêm thánh nhân còn có hình thức tự sự mà người kể
chuyện không xuất hiện trực tiếp trong tác phẩm, kể theo điểm nhìn
của chính mình, mang tư cách là chủ thể chính của diễn ngôn truyện
kể. Có khi chủ thể trần thuật đứng ngoài để kể về những lát cắt của
cuộc sống khó khăn, tách biệt khỏi xã hội của trại cùi An Nan, hay có
khi người kể để câu chuyện được triển khai và tự phát triển nhờ vào
cuộc hội thoại giữa các nhân vật như bác sĩ Cần với bà Nhàn, giữa bác
sĩ Cần với Thạch gà gáy. Lúc này, người kể chuyện hoàn toàn đứng
8
ngoài câu chuyện, chính người đọc sẽ nhận biết được các tầng ý nghĩa
sâu xa của truyện kể trên những lớp tình huống truyện. Có thể thấy
Nguyễn Đình Chính đã vận dụng điểm nhìn linh hoạt – liên tục thay
đổi điểm nhìn trần thuật để tạo sự tươi mới cho lối kể. Cùng là ngôi kể
thứ ba nhưng có lúc, người kể với vị thế của “cái tôi bên ngoài” tác
phẩm, cũng có lúc, người kể nấp sau nhân vật, nhìn mọi việc dưới góc
nhìn của nhân vật. Việc sử dụng hình thức trần thuật này giúp Đêm
thánh nhân không tạo cảm giác nhàm chán mà trái lại vẫn có sức hấp
dẫn mới mẻ, sự lôi cuốn, mời gọi bạn đọc khám phá.
Hình thức luân phiên điểm nhìn trong Đêm thánh nhân khiến
người đọc liên tưởng đến tiểu thuyết Số đỏ của nhà văn Vũ Trọng
Phụng. Tuy nhiên, điểm làm nên sự khác biệt trong Đêm thánh nhân
là tác giả tiểu thuyết đã xây dựng thành công hệ thống người kể
chuyện mang tính phức hợp theo hình thức diễn ngôn trong diễn ngôn,
đa dạng và toàn năng hơn. Sự đan cài hai hình thức trần thuật ngôi thứ
nhất hỗ trợ cho ngôi thứ ba và luân phiên điểm nhìn bên trong – bên
ngoài, cho phép người kể có thể kể về nhiều chuyện, nhiều người, cả
những bí mật trong tâm hồn con người, cho phép nhà văn Nguyễn
Đình Chính có cơ hội quan sát toàn diện cuộc sống và số phận con
người để phản ánh nó vào tác phẩm một cách cụ thể, khách quan.
CHƯƠNG 2
DIễN NGÔN TRUYệN Kể TRONG ĐÊM THÁNH NHÂN CủA
NGUYễN ĐÌNH CHÍNH NHÌN Từ PHƯƠNG THứC
Tổ CHứC KHÔNG - THờI GIAN TRầN THUậT
2.1. DIễN NGÔN Tổ CHứC KHÔNG GIAN TRầN THUậT
2.1.1. Không gian lịch sử – sự kiện
Không gian xã hội trong tiểu thuyết Đêm thánh nhân là một
hình thức tồn tại đa dạng, bao gồm cuộc sống của những tầng lớp
người và mối quan hệ giữa cá nhân này với cá nhân khác, thế hệ này
9
với thế hệ khác. Đó là không gian của những năm tháng chiến tranh
khốc liệt, chứa đựng trong ấy là ngập tràn những con người mang số
phận bi thương nhưng đồng thời cũng là minh chứng hào hùng cho sự
anh dũng của họ. Có khi đó là những cảnh sinh hoạt, những phong tục
độc đáo của các dân tộc trên khắp đất nước như bầu không khí sôi nổi
chợ tình của người Mán, người Mèo, lễ bỏ mả của tộc người Giarai
Mthur. Hay đôi khi lại bó hẹp trong không gian của đời sống gia đình,
nơi những con người như Mùi cá ngạnh được thử thách bản lĩnh và
lòng bao dung của số phận. Dõi theo Đêm thánh nhân, có thể thấy các
nhân vật dường như luôn hối hả trong hành trình vượt qua những bất
an, chênh vênh của cuộc sống để với hi vọng tìm được một chốn “an
cư” cho tâm hồn mình. Không gian của đời sống xã hội, của gia đình
đã trở thành chuyến tàu chở các nhân vật trong hành trình sống đau
đớn nhưng mang đậm tinh thần nhân bản đó.
Nếu như không gian trong Số đỏ của Vũ Trọng Phụng có độ
nén chặt và hiện ra một ở một số bối cảnh điển hình gắn với loại người
thượng lưu tư sản thành thị thì những gì đọng lại trong bức tranh toàn
cảnh về không gian lịch sử – sự kiện trong Đêm thánh nhân lại mở ra
một thế giới rộng lớn. Tiểu thuyết Đêm thánh nhân chứa trong nó
những cuộc tìm kiếm bản thể. Vì thế, không gian lịch sử – sự kiện đã
làm nền để tạo nên mạch dẫn xuyên suốt trong nhiều trang tiểu thuyết,
và trong hành trình đó, nó như người bạn sẻ chia với cái tôi đi tìm bản
ngã, đi tìm lí tưởng cho mình của các nhân vật.
2.1.2. Không gian tâm lí
Không gian tâm lí trong Đêm thánh nhân đan bện bên trong
tâm giới nhân vật, trong tiềm thức của người kể chuyện. Đôi khi, nhà
văn dồn nhân vật vào một không gian khung cảnh cụ thể để xây dựng
nên một không gian bản thể, như khi bác sĩ Cần đứng trước ngôi mộ
của Thạc gà gáy, ông cảm thấy “nỗi buồn như con giun đất lấm láp cứ
10
từ từ bò từ gan lên phổi lên tim lên óc”. Lúc này, không gian tâm lý
như chiếc nôi nâng đỡ cho trạng thức tâm hồn con người trở về trong
diễn cảm hiện sinh. Cũng có khi, không gian ấy mang đậm dấu ấn của
những hồi tưởng xa xăm, mảnh ký ức trong tâm hồn cha Tạc lần lượt
hiện thức về kỷ niệm khi cha mới mười lăm tuổi lần đầu tiên được
sống trong hơi thở đàn bà khiến cảm xúc sôi sục bên trong tâm hồn.
Chính nhờ lớp không gian tâm lý này mà các nhân vật quay về ký ức
để đối diện với tất cả, để được sống thật với chính mình dù chỉ một
lần. Đó còn là không gian của những khát khao trong mộng mị, nơi
Nguyễn Đình Chính để những nhân vật như cha Tạc quay quắt trong
giấc mơ kỳ quái, trong dòng tâm trạng khát gợi, trở về tìm kiếm tận
cùng nơi hữu thể, cái năng lực sinh tồn. Bên cạnh đó là sự xuất hiện
dày đặc của không gian màn đêm, nơi các nhân vật tìm về với chính
mình, với nỗi buồn luôn chất chứa ở một góc nào đó của tâm hồn.
Không gian tâm lý trong Đêm thánh nhân góp phần đào sâu thêm thế
giới nội tâm nhân vật, mở rộng không gian tác phẩm vào chiều hướng
nội và kéo thời gian hành động của nhân vật, làm cho đời sống nội
tâm của nhân vật phong phú, sinh động hơn. Những trang văn thấm
đẫm cảm xúc của không gian tâm lý còn giúp người đọc như được soi
thấu vào cái bản nguyên trong tự ngã của mỗi con người.
2.1.3. Không gian huyền bí, kì ảo
Tiểu thuyết Đêm thánh nhân chứa đựng nhiều yếu tố kỳ ảo tạo
nên không gian đa chiều của những giấc mơ và linh hồn, của cõi âm
và cõi dương đan cài nhau, hư và thực, của đời sống tâm linh. Yếu tố
kỳ ảo xâm lấn vào mọi ngõ ngách của đời sống và tâm hồn nhân vật
qua sự chuyển động đột biến của linh hồn, những người đã chết như
ông Từ, Thạc gà gáy có thể quay về bộc lộ tâm khiến cảm giác lưỡng
lự của bạn đọc hoàn toàn bị khuất phục. Không gian của đời sống tâm
linh còn được thể hiện qua khát khao nơi hữu thể người được lắng
11
lòng trong không gian thanh tịnh của chùa chiền, của nhà thờ, để chạm
ngưỡng tới những chân giá trị sống; hay sự xuất hiện của thế lực kì ảo,
lạ lùng, giống như là số mệnh, dường như luôn có một thế lực bí ẩn
dõi theo cuộc sống của các nhân vật, quyết định vận mệnh của họ, nói
hộ, thực hiện hộ những điều mà họ mong mỏi; hay ở môtip nhân quả,
những nhân vật mà như cách gọi của Nguyễn Đình Chính là những
“thánh nhân” đều có trong họ những khả năng phi thường để vượt qua
những nanh vuốt của cái ác. Suy nghiệm để rồi triết thuyết về đức tin
tôn giáo, về những thế lực siêu nhiên, môtíp nhân quả… như một trợ
lực tinh thần, hướng thượng và bảo dưỡng tính thiện trong con người
như vậy, nhà văn đã chạm được đến tận sâu cái “gốc rễ” nhân tính
người.
Bức hình của cuộc sống với vô vàn mảnh ghép không gian
trong Đêm thánh nhân được tiểu thuyết gia Nguyễn Đình Chính xây
dựng vô cùng khéo léo. Tất cả những hình sắc không gian nhiều màu
sắc đã bện chặt vào nhau để tạo thành một bức tranh xã hội rộng lớn
nhưng lại ẩn chìm trong nó biết bao số phận nhỏ bé, chất chứa đau
thương của những kiếp người.
Đi sâu vào tìm hiểu hình tượng không gian trong Đêm thánh
nhân, người đọc vẫn nhận thấy nghệ thuật miêu tả không gian của tiểu
thuyết vẫn còn một số hạn chế nhất định. Ở một số trang viết trong
việc xử lí các lớp không gian trần thuật chưa thực sự theo kịp thế giới
siêu nhiên huyền bí. Tuy nhiên, điều quan trọng là Đêm thánh nhân đã
xây dựng được các mặt cắt không gian khá đa dạng, gắn liền với đời
sống, tâm lý nhân vật, tạo nên một “mê lộ” dẫn dắt người đọc nhọc
nhằn đi vào khám phá những góc khuất trong tâm hồn của con người.
2.2. DIễN NGÔN Tổ CHứC THờI GIAN TRầN THUậT
2.2.1. Thời gian niên biểu - song hành hai lớp thời gian
bên ngoài và bên trong
12
a. Thời gian niên biểu bên ngoài
Thông qua bảng khảo sát về thời gian niên biểu bên ngoài
trong tiểu thuyết Đêm thánh nhân, có thể thấy các sự kiện gắn với thời
gian niên biểu bên ngoài không hiển thị xuyên suốt các chương mà chỉ
được nhắc đến qua một số sự kiện tiêu biểu trong 5 chương (trong
tổng số 22 chương) của tác phẩm. Những sự kiện lịch sử xã hội làm
tiền đề, đẩy nhân vật rơi vào bước ngoặt của số phận, đem đến cho
người đọc sự hình dung cụ thể về cuộc sống của con người qua các
chặng đường lịch sử của đất nước. Đó là những con người hy sinh
xương máu trong chiến tranh vì độc lập nước nhà (Tuấn, Xuân), là
những người thời hậu chiến không thể hòa nhập với cuộc sống (Mùi
cá ngạnh, Chế Bồng Thớt, ông Cổn), là những người mang trong mình
tư tưởng nặng nề của giai đoạn tiến lên xã hội chủ nghĩa (bà Nhàn, bà
Ngót). Yếu tố thời gian lịch sử đã trở thành phương tiện để nhà văn
khái quát thành phông nền – lý do thúc đẩy sự nảy sinh các vấn đề của
đời sống con người trong những thăng trầm của dòng chảy lịch sử
dân tộc.
b. Thời gian niên biểu bên trong
Thời gian niên biểu bên trong đầy chất triết lý và nặng trĩu
tâm trạng đã được chồng chất trong các lớp thời gian đa dạng của Đêm
thánh nhân. Qua bảng khảo sát có thể thấy cuộc đời bác sĩ Trương
Vĩnh Cần được miêu tả bằng những sự kiện không được kể theo thời
gian tuyến tính mà theo kiểu thời gian giãn cách, đảo ngược, từ hiện
tại đến quá khứ rồi lại trở về hiện tại, xây dựng được những tháng năm
biết nói – thời gian biết nói về nỗi khổ triền miên, bất tận của nhân vật
bác sĩ Cần. Ngược lại, thời gian niên biểu bên trong của nhân vật y sĩ
Sự được miêu tả qua những chỉ dẫn ngày tháng cụ thể đến lạnh người
thể hiện hiện tại đang vật vờ đi theo dòng trôi của năm tháng, là cái cớ
13
để cuộc đời con người chìm trong những dòng tâm trạng, những nỗi
đau khổ triền miên không dứt.
Bằng thủ pháp song hành hai lớp thời gian niên biểu bên trong
và bên ngoài, nhà văn Nguyễn Đình Chính đã giúp người đọc có cái
nhìn tương đối đầy đủ về hoàn cảnh xã hội được phản ánh trong tiểu
thuyết. Những lớp thời gian niên biểu bên ngoài – sự kiện lịch sử
trong từng giai đoạn đã tác động đến đời sống con người, từ đó tạo
nên được những lớp thời gian niên biểu bên trong, phản ánh thế giới
tinh thần con người trong những giai đoạn lịch sử, xã hội cụ thể, đồng
thời tạo được điểm nhấn, tạo được sự lôi cuốn, hấp dẫn cho người đọc
xuyên suốt tác phẩm.
2.1.2. Sai trật tự thời gian – lối trần thuật phi tuyến tính
a. Trần thuật theo kiểu đảo thuật
Sự pha trộn đan xen giữa hiện tại và quá khứ đã được nhà văn
Nguyễn Đình Chính dày công thể hiện trong Đêm thánh nhân. Lồng
vào hiện tại đang diễn ra, tác giả đưa nhân vật ngược dòng thời gian,
lướt qua những năm tháng cuộc đời và chỉ dừng lại ở những giai đoạn
có ý nghĩa nhất thông qua hồi tưởng và kể lại. Bác sĩ Trương Vĩnh
Cần bỗng nhiên có khả năng nhìn thấy những hồn ma, khiến ông rơi
vào cuộc sống rối ren, bất lực, chính lúc đó, ông lại nhớ về những ký
ức tuổi thơ trong trẻo vô âu vô lo. Ngược lại với bác sĩ Cần là Mùi cá
ngạnh, nhìn vào cuộc sống hiện tại ít ai ngờ anh lại phần quá khứ “bi
thảm nhất cuộc đời chó đẻ” với những nỗi đau tinh thần do hậu quả
chiến tranh để lại quá lớn. Nguyễn Đình Chính dường như vừa cho
nhân vật sống trọn vẹn trong những thời khắc đáng nhớ nhất với quá
khứ, vừa đặt nhân vật của mình trong mối liên hệ với hiện tại để từ
những dấu chỉ đó thôi thúc tinh thần tự thức trong bản mệnh người,
thế giới nhân vật trong tiểu thuyết Đêm thánh nhân như được hóa thân
14
trở về với chính con người mình, trở về trong khát vọng được vong
tồn trong cuộc sống thực tại.
b. Trần thuật theo kiểu dự thuật
Một trong những hình thức dự thuật nổi bật trong tiểu thuyết
Đêm thánh nhân là sự hiện diện của những giấc mơ. Giấc mơ không
chỉ là nơi con người tìm đến với những mong ước, khát khao, mà
thông qua đó, con người còn nhìn thấy được tương lai của họ. Căn
bệnh liệt dương oái ăm, mặc cảm, tủi nhục đeo bám bác sĩ Cần khiến
ông hay mơ những giấc mơ tính dục, đó như là một niềm khao khát
cháy bỏng ăn sâu vào tiềm thức, để rồi những dự thuật trong giấc mơ
đã trở thành hiện thực. Ngoài ra còn có kiểu dự thuật mở, chưa biết có
thể xảy ra hay không, như khi cô Thương Ơi mơ về tương lai các nhân
vật được gặp lại nhau, quây quần đầm ấm bên nhau vui vẻ, hạnh phúc.
Cách tổ chức diễn ngôn thời gian ở đây như là một dự thuật mở, qua
đó có thể chuyển tải được thông điệp thời gian tương lai của các nhân
vật chính là thước đo nghị lực của con người. Thông qua dự thuật về
tương lai, nhà văn muốn nói với chúng ta rằng, muốn đạt được cuộc
sống hạnh phúc thì con người phải có ý chí, nghị lực để vượt qua
những khó khăn, trắc trở của cuộc đời. Đây có thể xem là một lối “đi
tắt” để mở ra những cái kết khác nhau cho nhân vật, cũng là một kĩ
thuật có tính hiệu quả thẩm mỹ cao mà nhà văn đã dày công thể hiện
trong những trang viết của mình.
Qua khảo sát tiểu thuyết Đêm thánh nhân từ góc nhìn trần
thuật phi tuyến tính, có thể thấy những câu chuyện quá khứ, những sự
kiện nằm trong dự định thời tương lai được đặt vào dòng chảy bề bộn
của hiện tại hôm nay khiến thời gian như được kéo dãn ra và không
ngừng tiếp diễn. Cách tổ chức thời gian phi tuyến tính cho hiện thực
rộng hơn, hiện thực tâm hồn con người sâu hơn, dệt nên trong tiểu
thuyết Đêm thánh nhân một mạng lưới tâm lý truyện kể được “xem
15
như một ý thức về thời gian hoàn toàn rõ rệt và những mối liên hệ
không mập mờ giữa quá khứ, hiện tại và tương lai”.
2.2.3. Tần suất thời gian – sự trùng lặp của cùng một
biến cố
Trong Đêm Thánh nhân, trần thuật trùng lặp được nhà văn sử
dụng để khắc họa một sự kiện hay một trạng thái tâm lý nào đó luôn
trở đi trở lại trong nội tâm của nhân vật. Qua bảng khảo sát có thể thấy
môtip giấc mơ xuất hiện lặp lại với tần suất liên tục, đến chín lần trong
tám chương. Sự xuất hiện lặp lại của môtip giấc mơ trên trục thời gian
đã tạo nên một đường dẫn trong tâm tưởng của người đọc, lôi kéo họ
vào một dòng chảy liên tục theo mạch ngầm của câu chuyện, khiến
người đọc ghi đậm dấu ấn trong tâm tưởng và dần dần hình thành một
cảm thức về dòng thời gian kỳ ảo hiện diện trong tâm lý khi dõi theo
Đêm thánh nhân. Bên cạnh đó, người đọc còn có dịp được chiêm
nghiệm, suy ngẫm bởi sự lặp lại của môtip linh hồn. Trên cơ sở khảo
sát văn bản chúng tôi nhận thấy, môtip hồn ma được lặp lại đến 14
lần xuyên suốt trong 8 chương truyện. Việc lặp lại sự xuất hiện của
môtip hồn ma nhiều lần và xuyên trục thời gian của truyện khiến
người đọc có cảm giác như đang trôi vào một thế giới kỳ ảo, đầy ma
quái. Hơn nữa tần suất thời gian xảy lặp/lặp đã quy chiếu cho các
dạng linh hồn xuất hiện không tuân theo trật tự của thời gian trần
thuật dẫn đến trục thời gian bị bẻ cong tạo nên sự lẫn lộn giữa hư và
thực, giữa người với ma. Một hiện tượng đáng chú ý khác trong kỹ
thuật xây dựng tần suất thời gian của Nguyễn Đình Chính đó là sự
hiện diện trùng lặp dày đặc của các con số 3, 7, 9 và đặc biệt là con
số 108, không chỉ là phương tiện mà đóng vai trò như một thành tố
kiến tạo nghĩa cho văn bản nghệ thuật. Những con số đã trở thành
những biểu tượng nghệ thuật ẩn, mang nhiều giá trị thẩm mĩ, góp phần
làm nên độ vang ngân cho các lớp văn bản trong tác phẩm.
16
Với sự thể hiện đa dạng những chiều kích khác nhau của thời
gian, nhà văn Nguyễn Đình Chính đã làm nổi bật lên một dòng thời
gian mang đậm dấu ấn số phận con người với sự tồn tại song hành của
hai lớp thời gian bên trong và bên ngoài, một dòng thời gian đa chiều
với trật tự phi tuyến tính và mang đậm tính hư ảo bởi sự lặp lại vô
thức của những giấc mơ, sự tồn tại của các linh hồn và những con số
đầy tính tâm linh. Thông qua lớp tổ chức chức diễn ngôn của dòng
thời gian, tác giả đã đi sâu vào khám phá những khoảng lặng trong
tâm hồn con người với những lát cắt vụn vỡ của dòng thời gian tâm
trạng. Cuộc sống hiện ra với những mảng màu sáng tối lẫn lộn, và con
người trong đó là những mảnh đời đầy ám ảnh, bi thương.
CHƯƠNG 3
DIễN NGÔN TRUYệN Kể TRONG ĐÊM THÁNH NHÂN CủA
NGUYễN ĐÌNH CHÍNH NHÌN Từ PHƯƠNG THứC Tổ CHứC
LờI TRầN THUậT VÀ GIọNG ĐIệU TRầN THUậT
3.1. LờI TRầN THUậT VÀ CÁC DIễN NGÔN
3.1.1. Lời gián tiếp – đan xen các kiểu diễn ngôn
Trong Đêm thánh nhân, bằng lời gián tiếp, Nguyễn Đình
Chính đã thể hiện được một cách đa dạng thế giới vật chất, cũng như
thế giới nội tâm của con người. Kiểu lời gián tiếp dùng để miêu tả thế
giới khách quan có tác động đến tâm trạng nhân vật, như một khung
cảnh bất chợt hiện lên trước mắt bác sĩ Cần khi ông đang lang thang
vô định, hay những đoạn miêu tả chân dung của nhân vật (cô Thương
Ơi, cô Liễu). Đây là lời gián tiếp thiên về diễn ngôn hội họa – vẽ nên
những sắc màu của phong cảnh, của vẻ ngoài con người. Lời văn gián
tiếp còn thể hiện qua lời kể của chủ thể trần thuật xưng “tôi” với điểm
nhìn hướng nội. Khi ông phó Thực bộc lộ suy nghĩ về quy luật của
cuộc sống, người đọc nhận thấy câu chuyện được trần thuật như một
17
lời tâm sự, bộc bạch nỗi lòng của chính người trong cuộc. Ngoài ra,
còn có kiểu lời gián tiếp chủ thể trần thuật để cho nhân vật (y sĩ Sự)
nêu lên những suy nghĩ của bản thân về diễn biến của sự việc. Đây là
kiểu lời gián tiếp phỏng theo lời nhân vật, tạo ra một điểm nhìn khác
bên cạnh điểm nhìn của chủ thể trần thuật vào đối tượng.
Trong tiểu thuyết Đêm thánh nhân, những lời gián tiếp thiên
về diễn ngôn hội họa, lời gián tiếp tâm lý được tổ chức đan xen trên
nền diễn ngôn điện ảnh được tổ chức đồng hiện với nhau đã làm tiền
đề dẫn dắt đời sống nhân vật phát triển, cũng như đi sâu vào thế giới
nội tâm của con người. Từ đó tạo nên những khoảng trắng để lôi kéo
người đọc thích thú tham gia vào hành trình của nhân vật và làm nền
tảng cho việc kiến tạo tình huống truyện, dẫn dụ người đọc sống trong
không gian gây cấn của Đêm thánh nhân
3.1.2. Lời trực tiếp – chồng xếp các lớp diễn ngôn
Lời trực tiếp trong Đêm thánh nhân trước hết thể hiện thông
qua những đối thoại về tư tưởng, về quan điểm nằm chính trong phát
ngôn của nhân vật, đồng thời cũng biểu hiện nội tâm, tình cảm của họ.
Như trong đoạn đối thoại giữa Dục Văn Bường và cô gái điếm, việc
chồng xếp các lớp diễn ngôn đa tạp đã lột tả được bản chất của cả hai
người, một người với bản chất dâm đãng, sành sõi trong món nghề
chơi gái và một người có cảnh ngộ khốn khổ, vì tiền mà bán mất nhân
phẩm. Một hình thái khác của dạng lời văn trực tiếp là lời nội tâm.
Đêm thánh nhân có rất nhiều tình tiết nương theo yếu tố tâm lý để kể
chuyện. Đó là những lời độc thoại của bác sĩ Cần khi ông nhìn thấy
luồng khí màu da cam hay lúc ông tự độc thoại với một sự vật tưởng
tượng trong trí óc. Không những vậy, khi đọc Đêm thánh nhân, ít
nhiều người đọc vẫn nhận thấy bóng dáng của chủ thể trần thuật thông
qua những lời bình luận, triết lý, hay những lời thể hiện cảm xúc của
mình đan lồng trong lời thể hiện nhân vật. Qua đó người đọc hiểu rõ
18
những trăn trở, những suy nghĩ của chủ thể trần thuật, thông qua lăng
kính của nhân vật, về cuộc sống về thế thái nhân tình.
Lời trực tiếp trong Đêm thánh nhân được sử dụng một cách đa
dạng, nhiều màu sắc. Nhờ thế mà chủ thể trần thuật thể hiện một thái
độ đồng cảm sâu sắc với nhân vật. Đồng thời, góp phần bổ sung và soi
sáng ý nghĩa chủ đề, nội dung tư tưởng cũng như thể hiện cái nhìn,
thái độ của nhà văn trước lẽ sống, nhân sinh.
3.3.3. Lời nửa trực tiếp – song hành hai hình thức diễn ngôn
Trong Đêm thánh nhân, Nguyễn Đình Chính thường sử dụng
lời văn nửa trực tiếp – lời kể gián tiếp nhưng ngữ điệu, ý thức là của
nhân vật. Đó là khi lời văn miêu tả trực tiếp kết hợp với các lời nửa
trực tiếp đặt trong ý thức của bác sĩ Cần diễn ra liên tục, thể hiện một
cách sinh động trạng thái ý thức nửa mê nửa tỉnh của nhân vật. Đôi lúc
chúng ta sẽ bắt gặp lời văn gián tiếp của chủ thể trần thuật kết hợp với
lời trực tiếp trong ý thức, nội tâm, cảm xúc của nhân vật, sự kết hợp
đan xen, hài hòa ấy tạo nên một sự đa thanh cho giọng văn. Bằng dạng
lời văn nửa trực tiếp này, nhân vật không chỉ được hiện lên qua cái
nhìn của chủ thể trần thuật còn có dịp tự bộc lộ những sắc thái, cảm
xúc bên trong của mình. Nguyễn Đình Chính đã sử dụng lời gián tiếp
song hành hai lớp diễn ngôn để kiến tạo nên sự tồn tại giữa thế giới
thực/phi thực. Sự song hành hai lớp diễn ngôn thể hiện sự vươn lên
thoát khỏi số phận, nhưng không đồng nghĩa với việc cắt đứt mọi mối
dây liên kết với hiện thực. Đó chính là lằn ranh tranh chấp giữa thực
và phi thực, nơi con người khao khát mơ mộng song cũng luôn cố
gắng hòa nhập với cuộc đời.
Trong tiểu thuyết Đêm thánh nhân, người kể chuyện đã sử
dụng nhiều hình thức lời văn nghệ thuật để kiến tạo hệ thống lời kể
của mình. Các loại lời gián tiếp, lời trực tiếp và lời nửa trực tiếp được
sử dụng phối hợp, đan xen nhau góp phần làm cho hiện thực được tái
19
tạo trong tác phẩm thêm sinh động và sâu sắc; đồng thời giúp nhà văn
Nguyễn Đình Chính bộc lộ ý đồ nghệ thuật, cũng như quan niệm nhân
sinh, thái độ đối với nhân vật của mình.
3.2. GIọNG ĐIệU TRầN THUậT – DIễN NGÔN ĐA THANH
3.2.1. Giọng lạnh lùng, tỉnh táo và điên loạn
Đọc tiểu thuyết Đêm thánh nhân, chúng ta dễ dàng nhận ra
một không khí trầm tĩnh, khách quan. Ta thường thấy có một người kể
chuyện khách quan (dù ở ngôi thứ nhất hay ngôi thứ ba) đang kể câu
chuyện với một giọng điệu tỉnh táo. Thậm chí ngay khi nhân vật đối
diện với cơn thập tử nhất sinh (bác sĩ Sự bị tai biến) thì người kể
chuyện cũng miêu tả một cách vô cảm. Cái vẻ khách quan lạnh lùng
của giọng điệu Nguyễn Đình Chính cũng được biểu hiện ở hiện thực
trần trụi mà nhà văn phản ánh. Trong Đêm thánh nhân, có những lúc
Nguyễn Đình Chính quan tâm tìm hiểu những điều vụn vặt, bình
thường trong xã hội. Nói về hiện thực này, Nguyễn Đình Chính
thường giữ một giọng điệu lạnh lùng. Nhưng cũng có những lúc,
giọng điệu này được sử dụng để khái quát xây dựng bức tranh xã hội
rộng lớn với các mối quan hệ phức tạp, chẳng hạn như thói quen gieo
tiếng ác của số đông con người. Trong Đêm thánh nhân, người đọc
còn bắt gặp giọng điệu có phần điên loạn. Đó là trong những giấc mơ
khao khát bản năng của các nhân vật, khi họ được sống với chính bản
thể của mình (cha Tạc) hay trong những cuộc giao hoan của các nhân
vật – nơi họ được sống với đúng bản năng của mình (cô Thoa, bác sĩ
Chiểu). Nhưng đằng sau những lời văn lạnh lùng, điên loạn khơi đến
tận cùng những ngõ ngách của con người trong cuộc sống, nhà văn để
con người tự ngộ ra, sống tốt đẹp hơn, biết quan tâm đến nhau hơn.
Đó cũng là tiếng nói đầy tính nhân văn toát ra từ những hình thái lời
văn tỉnh táo, thậm chí điên loạn được nhà tiểu thuyết đóng dấu trong
mỗi khuôn hình sắc giọng.
20
3.2.2. Giọng bỗ bã và giễu nhại
Trong Đêm thánh nhân, giọng điệu bỗ bã, đời thường xuất hiện
khá thường xuyên, là thứ ngôn ngữ của những con người sống dưới đáy
cùng của xã hội. Bằng giọng bỗ bã, nhà văn gần như xoá bỏ mọi khoảng
cách giữa văn học và cuộc đời. Như trong đoạn đối thoại giữa Thạc gà
gáy và bác sĩ Cần, với các từ ngữ đậm chất đời thường như “đụ”,
“đớp”, “hít”, “ỉa”, “đái” “chết tươi”… nhà văn Nguyễn Đình Chính
đã lột tả được đúng chất văn của cuộc đời. Nguyễn Đình Chính sẵn
sàng kết nhập lớp từ ngữ thông tục ở một giới hạn cho phép, không
làm ảnh hưởng tính thẩm mỹ của tác phẩm văn chương, mà vượt lên,
tác giả đã cấp cho những lớp từ ngữ thông tục tấm giấy thông hành
sinh thành nên những “khúc vĩ thanh”.
Trong Đêm thánh nhân có rất nhiều màn châm biếm giễu
nhại. Nguyễn Đình Chính sử dụng giọng điệu này khi kể về những kẻ
lớp trên của xã hội. Giọng điệu này thể hiện rõ nét qua những công
trình mà ông Bùi Thành Công xây dựng hay những việc mà y sĩ Sự
vẫn làm hàng ngày. Giọng điệu giễu nhại trong Đêm thánh nhân còn
được sử dụng trong những câu chuyện mang yếu tố tâm linh, thật là
hài kịch biết bao khi một nhà sư lại “tụt quần chổng mông” cho đàn bà
“rửa đít”. Việc châm biếm một số thành phần trong xã hội không phải
là nét mới trong văn học hậu hiện đại. Như Hồ Anh Thái với tiểu
thuyết SBC là săn bắt chuột đã xây dựng cả một thế giới nhân vật hiện
lên với sự lố lăng kệch cỡm. Thế nhưng trong Đêm thánh nhân, tiểu
thuyết gia đã làm nên một giọng điệu giễu nhại riêng, mang đậm dấu
ấn chủ thể bằng cách đa dạng hóa hình thức và các yếu tố được sử
dụng để phanh phui cho người đời nhiều mặt trái của con người, của
xã hội, lật mặt những thói đạo đức giả đang hoành hành trong
cuộc sống.
21
3.2.3. Giọng triết lí và nghiệm suy
Trong tiểu thuyết Đêm thánh nhân, khát vọng khám phá chiều
sâu cuộc sống đã đặt các nhân vật vào những suy tư, dằn vặt, những lý
giải về những vấn đề cốt lõi mang tính nhân sinh. Giọng điệu triết lý
nghiệm suy trong Đêm thánh nhân có khi phản ánh một phần bộ mặt
xã hội hiện đại với tất cả những phức tạp, đan xen giữa thiện và ác, tốt
và xấu. Cái chết là lẽ thường tình trong cõi nhân sinh, nhưng ở đây
qua nhân vật bà Nhàn, ông Cổn, Nguyễn Đình Chính đã để nhân vật
bác sĩ Cần chiêm nghiệm về những gánh nặng của con người trong
cuộc đời, đời người ngỡ như chết là hết, nhưng có những nỗi đau đớn,
những tủi nhục mà kiếp người đến tận lúc nhắm mắt xuôi tay cũng
không thể nào xóa nổi được. Đó là giọng nghiệm suy của Mùi cá
ngạnh về quy luật của của cuộc đời, hay là giọng triết lý chứa đầy sự
trải nghiệm của cụ cố họ Bùi. Các nhân vật trong tiểu thuyết Đêm
thánh nhân cũng có những triết lý về cuộc sống như đúng – sai, tốt –
xấu, trẻ – già… Những triết lý của các nhân vật trong tiểu thuyết Đêm
thánh nhân cho thấy họ là những con người có tư tưởng, có tâm hồn,
sống luôn trăn trở về những điều cốt lõi của cuộc sống. Tác phẩm là
một cuộc tìm kiếm bản thể đầy giằng xé, giọng điệu triết lý này đã
mang lại cho tiểu thuyết đương đại một âm sắc mới. Vì thế, tiểu thuyết
Đêm thánh nhân được Nguyễn Đình Chính tạo dựng có chiều sâu,
mang tính khái quát cao, thế giới nội tâm nhân vật được khai thác
sâu sắc.
Các giọng điệu trong tiểu thuyết Đêm thánh nhân được đan
xen vào nhau một cách đa dạng. Lối văn đa giọng điệu của Nguyễn
Đình Chính thể hiện sự sáng tạo không ngừng trong cách viết của ông.
Trong tiểu thuyết Đêm thánh nhân, giọng điệu đã mang đến nhiều sắc
thái cho tác phẩm và tạo nên nhiều cảm hứng khác nhau cho người
đọc. Những âm sắc của chất giọng khi vang lên đơn chiếc, khi lại va
22
siết trong nhau tạo cảm giác cho người đọc không khỏi chua xót ngậm
ngùi và day trở. Theo đó, tính đa âm sắc có được trong chất giọng trần
thuật của tiểu thuyết Đêm thánh nhân đã phần nào chạm đến cái sắc
giọng đặc trưng của tiểu dòng chảy thuyết đương đại – nơi kết tụ bởi
nhiều bản hợp âm.
23
KẾT LUẬN
1. Đọc tiểu thuyết Đêm thánh nhân, có thể thấy rõ quá trình vận
động về tư tưởng cũng như những trăn trở, tìm tòi phương hướng đổi
mới tiểu thuyết, cách tiếp cận đời sống và bút pháp sáng tạo nghệ thuật,
qua đó cũng có thể thấy được những giá trị tinh thần và tài năng của
Nguyễn Đình Chính trên con đường sáng tạo nghệ thuật.
2. Trong Đêm thánh nhân, Nguyễn Đình Chính luôn lựa chọn
ngôi kể kết hợp với điểm nhìn một cách linh động để xây dựng hình
tượng người kể chuyện phù hợp với nội dung tư tưởng và ý đồ nghệ
thuật của tác giả. Ngôi kể thứ ba là chủ thể chính của diễn ngôn truyện
kể, giúp nhà văn phản ánh hiện thực cuộc sống một cách chân thực và
khách quan nhất. Ở điểm nhìn này, tác giả đã thể hiện bức tranh hiện
thực cuộc sống và con người trong sự đa dạng nhiều chiều. Điểm nhìn
bên trong giúp nhà văn đi sâu khắc họa thế giới nội tâm con người.
Xuyên suốt toàn bộ tiểu thuyết Nguyễn Đình Chính là một cách nhìn
mới về hiện thực xã hội và con người, một quan niệm mới về nghệ
thuật. Con người hiện lên với tất cả tính đầy đặn và phong phú của nó,
vừa là con người xã hội, vừa là con người bản năng và con người của
tâm linh. Thế giới nhân vật trong tiểu thuyết Nguyễn Đình Chính thực
sự là thế giới “muôn mặt đời thường”.
3. Không gian và thời gian trần thuật trong tiểu thuyết Đêm
thánh nhân đều thể hiện rõ cá tính sáng tạo và dụng ý nghệ thuật của
Nguyễn Đình Chính. Thời gian niên biểu kết hợp song song hai lớp
bên trong và bên ngoài, thời gian phi tuyến tính và tần suất thời gian
trùng lặp của một biến cố được kết hợp đan xen, hòa quyện vào nhau.
Cùng với sự sáng tạo về thời gian là sự sáng tạo về không gian. Từ
không gian lịch sử – sự kiện đến không gian tâm lý và đặc biệt là
không gian huyền bí, kỳ ảo, nhà văn đã tạo cho nhân vật của mình
24
những môi trường phù hợp để bộc lộ cá tính, tâm trạng. Chính những
bình diện này đã mang đến những dấu ấn riêng trong nghệ thuật thể
hiện của Nguyễn Đình Chính
4. Lời trần thuật và giọng điệu trần thuật trong tiểu thuyết
Đêm thánh nhân có nhiều đổi mới. Sự kết hợp lời trần thuật phong
phú, được chọn lọc tỉ mỉ giữa lời gián tiếp, trực tiếp và nửa trực tiếp
và sự đa dạng của giọng điệu trần thuật đã xóa mờ khoảng cách giữa
người trần thuật và đối tượng trần thuật, tạo cho văn bản một tiếng nói
đa thanh, giàu cảm xúc, nhà văn có thể đối thoại trực tiếp với bạn đọc
về cuộc đời
5. Tiểu thuyết Đêm thánh nhân đã đem đến cho văn xuôi
đương đại những thể nghiệm mới lạ, đặc biệt là về phương diện diễn
ngôn truyện kể. Chính phương diện này đã góp phần quan trọng để
nhà văn phản ánh hiện thực cuộc sống và con người trong một cái
nhìn mới mẻ nhiều chiều đa dạng và phong phú. Nghiên cứu diễn
ngôn truyện kể trong tiểu thuyết Đêm thánh nhân, chúng tôi nhận thấy
mỗi trang văn của Nguyễn Đình Chính là một trang đời của số phận
những con người trong cuộc sống, qua đó thể hiện những trăn trở
không thôi của nhà văn về thế giới hiện sinh. Những trăn trở đó đã
giúp Nguyễn Đình Chính xây dựng nên một Đêm thánh nhân đầy sức
mê hoặc và lôi cuốn.