88
ỦY BAN NHÂN DÂN TỈNH QUẢNG NAM (Dự thảo lần 2) CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập - Tự do - Hạnh phúc Quảng Nam, ngày tháng năm 2014 ĐỀ ÁN BỔ SUNG QUỸ TÊN ĐƯỜNG TỈNH QUẢNG NAM (Kèm theo Tờ trình số /TTr-UBND ngày tháng năm 2014 của UBND tỉnh Quảng Nam 1. Đặt vấn đề: Sau 15 năm tái lập tỉnh, mạng lưới giao thông của tỉnh Quảng Nam phát triển mạnh, đều khắp và ngày càng hoàn thiện. Trong số các đường phố tại các đô thị đã hoàn thành, hiện có 199 đường đã được đặt tên ở thành phố Tam Kỳ, thành phố Hội An, thị trấn Vĩnh Điện (Điện Bàn), Hà Lam (Thăng Bình), Đông Phú (Quế Sơn), Núi Thành (Núi Thành) và Khâm Đức (Phước Sơn). Qua các lần bổ sung, Quỹ tên đường hiện tại về cơ bản đã đáp ứng được nhu cầu đặt tên đường tại các đô thị trong tỉnh. Tuy nhiên, trong Quỹ tên đường hiện nay vẫn chưa có tên của một số danh nhân có công lớn đối với công cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc vừa mới qua đời; các danh nhân gắn với những chiến công của các địa phương trong các cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ (do các địa phương đề xuất); các danh nhân là người Quảng Nam có những đóng góp trên các lĩnh vực văn hóa, xã hội; những danh nhân có công trong công cuộc bảo vệ biên cương, biển đảo của Tổ 1

Đề án bổ sung Quỹ tên đường tỉnh Quảng Nam

Embed Size (px)

Citation preview

Page 1: Đề án bổ sung Quỹ tên đường tỉnh Quảng Nam

ỦY BAN NHÂN DÂNTỈNH QUẢNG NAM

(Dự thảo lần 2)

CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAMĐộc lập - Tự do - Hạnh phúc

Quảng Nam, ngày tháng năm 2014

ĐỀ ÁNBỔ SUNG QUỸ TÊN ĐƯỜNG TỈNH QUẢNG NAM(Kèm theo Tờ trình số /TTr-UBND ngày tháng năm 2014

của UBND tỉnh Quảng Nam

1. Đặt vấn đề:

Sau 15 năm tái lập tỉnh, mạng lưới giao thông của tỉnh Quảng Nam phát triển mạnh, đều khắp và ngày càng hoàn thiện. Trong số các đường phố tại các đô thị đã hoàn thành, hiện có 199 đường đã được đặt tên ở thành phố Tam Kỳ, thành phố Hội An, thị trấn Vĩnh Điện (Điện Bàn), Hà Lam (Thăng Bình), Đông Phú (Quế Sơn), Núi Thành (Núi Thành) và Khâm Đức (Phước Sơn). Qua các lần bổ sung, Quỹ tên đường hiện tại về cơ bản đã đáp ứng được nhu cầu đặt tên đường tại các đô thị trong tỉnh. Tuy nhiên, trong Quỹ tên đường hiện nay vẫn chưa có tên của một số danh nhân có công lớn đối với công cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc vừa mới qua đời; các danh nhân gắn với những chiến công của các địa phương trong các cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ (do các địa phương đề xuất); các danh nhân là người Quảng Nam có những đóng góp trên các lĩnh vực văn hóa, xã hội; những danh nhân có công trong công cuộc bảo vệ biên cương, biển đảo của Tổ quốc; một số địa danh, sự kiện gắn với quá trình phát triển lịch sử của địa phương.... do đó, việc bổ sung Quỹ tên đường là việc làm cần thiết, làm cơ sở cho việc đặt tên đường tại các đô thị trong tương lai.

2. Căn cứ pháp lý lập Đề án:

- Nghị định số 91/2005/NĐ-CP ngày 11/7/2005 của Chính phủ về việc ban hành Quy chế đặt tên, đổi tên đường, phố và công trình công cộng.

- Thông tư số 36/2006/TT-BVHTT ngày 20/3/2006 của Bộ Văn hóa - Thông tin (nay là Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch) hướng dẫn thực hiện một số điều của Quy chế đặt tên, đổi tên đường, phố và công trình công cộng.

3. Nguyên tắc xây dựng Quỹ tên đường:Quỹ tên đường được xây dựng trên cơ sở tuân thủ các nguyên tắc sau đây:

1

Page 2: Đề án bổ sung Quỹ tên đường tỉnh Quảng Nam

- Tên các danh nhân, các anh hùng liệt sĩ, các nhà hoạt động chính trị, văn hóa, khoa học. Chỉ chọn những người đã qua đời để đưa vào Quỹ.

- Các sự kiện lịch sử trọng đại của đất nước.

- Các địa danh quan trọng gắn với lịch sử văn hóa của đất nước và địa phương.

- Các nhân vật, sự kiện còn có ý kiến tranh luận, chưa thống nhất thì không đưa vào Quỹ tên đường.

4. Hiện trạng Quỹ tên đường:Trong Quỹ tên đường đã được Hội đồng nhân dân thông qua tại các kỳ

họp, thể hiện qua các Nghị quyết số 18/2001/NQ-HĐND ngày 22/02/2001, Nghị quyết số 73/2003/NQ-HĐND ngày 06/8/2003, Nghị quyết số 109/2008/NQ-HĐND ngày 30/7/2008, Nghị quyết số 127/2008/NQ-HĐND ngày 11/12/2008, Nghị quyết số 49/2012/NQ-HĐND ngày 19/9/2012 của HĐND tỉnh, bao gồm 473 tên.

Kỳ này, UBND tỉnh kính trình Hội đồng nhân dân tỉnh thông qua việc bổ sung 61 tên danh nhân, sự kiện, địa danh vào Quỹ tên đường của tỉnh.

Nếu được Hội đồng nhân dân tỉnh thông qua, Quỹ tên đường của tỉnh sẽ có 534 tên. Trong đó:

- Danh nhân người Quảng Nam có 162 tên, chiếm tỉ lệ: 30,3%;

- Danh nhân của đất nước có 321 tên, chiếm tỉ lệ: 60,1%;

- Sự kiện, địa danh, mỹ từ có 51 tên, chiếm tỉ lệ: 9,6%.

5. Bổ sung Quỹ tên đường năm 2014:Để đáp ứng nhu cầu sử dụng tên danh nhân, sự kiện của địa phương và tên

của các danh nhân có những đóng góp cho tiến trình lịch sử, cách mạng Việt Nam trong đặt tên đường tại các thành phố, thị trấn của tỉnh Quảng Nam thời gian tới, UBND tỉnh kính trình HĐND tỉnh xem xét bổ sung 61 tên địa danh, sự kiện, danh nhân vào Quỹ tên đường, gồm: 41 danh nhân tỉnh Quảng Nam (chiếm tỷ lệ 67,2% ), 12 danh nhân ngoài tỉnh Quảng Nam (chiếm tỷ lệ 19,7%) và 8 tên địa danh, sự kiện (chiếm 13,1%).

5.1. Tên đường:

TT TÊN ĐƯỜNG TT TÊN ĐƯỜNG1 Nguyễn Thị Ba 3 Thu Bồn2 Nguyễn Thị Bảy 4 Đoàn Bường

2

Page 3: Đề án bổ sung Quỹ tên đường tỉnh Quảng Nam

5 Phạm Thị Cộng 34 Lê Văn Tâm6 Lê Đình Chinh 35 Lê Tự Nhất Thống7 Đinh Đạt 36 Trần Thu8 Võ Nguyên Giáp 37 Lưu Quang Thuận9 Nguyễn Thị Hồng 38 Lương Đình Thự10 Trần Hớn 39 Nguyễn Thược11 Trần Huỳnh 40 Lê Thiệt12 Nguyễn Quý Hương 41 Nguyễn Công Tòng13 Ngô Viết Hữu 42 Đoàn Xuân Trinh14 Phan Khôi 43 Hồ Truyền15 Nguyễn Lai 44 Lê Thanh Trường16 Hoàng Văn Lai 45 Ngô Tuận17 Thạch Lam 46 Hàn Mặc Tử18 Lê Đình Lý 47 Nguyễn Đình Tựu19 Chu Huy Mân 48 Trịnh Uyên20 Bùi Thế Mỹ 49 Lê Tấn Viễn21 Nguyễn Mỹ 50 Lưu Quang Vũ22 Nguyễn Thanh Năm 51 Trương Thị Xáng23 Lương Khắc Ninh 52 Quách Xân24 Phan Nhu 53 Nguyễn Văn Xuân25 Huỳnh Thị Nhuận 54 Căn Zơh26 Trần Đình Phong 55 10 tháng 327 Thân Cảnh Phúc 56 26 tháng 328 Phan Quang 57 18 tháng 729 Nguyễn Quyền 58 Hoằng Hóa30 Dương Thị Xuân Quý 59 Thọ Xuân31 Nguyễn Sinh Sắc 60 Nga Sơn32 Trần Ngọc Sương 61 Trường Sơn33 Trần Quốc Tảng

5.2. Tiểu sử danh nhân, sự kiện:

1. Nguyễn Thị Ba (1952 - 1973): Liệt sĩ; Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân

Anh hùng Nguyễn Thị Ba sinh năm 1952 tại xã Điện Hồng, huyện Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam; tham gia cách mạng năm 1965 trong lực lượng du kích xã Điện Hồng; năm 1967, làm Xã đội trưởng xã Điện Hồng.

3

Page 4: Đề án bổ sung Quỹ tên đường tỉnh Quảng Nam

Tháng 10 năm 1970, chị chỉ huy đội du kích xã Điện Hồng phục kích, tiêu diệt gọn một trung đội lính Mỹ tại ngã ba Trùm Giao. Đây được coi là một trong những trận đánh xuất sắc của du kích Điện Bàn, tạo niềm tin và khí thế cho quân và dân địa phương nổi dậy đánh địch.

Năm 1972, chị gia nhập bộ đội địa phương huyện Điện Bàn. Ngày 20/4/1973, trên đường đi trinh sát, gặp địch phục kịch, chị cùng đồng đội đánh trả quyết liệt và đã anh dũng hy sinh.

Trải qua 8 năm tham gia cách mạng, Anh hùng Nguyễn Thị Ba đã tham gia và chỉ huy đơn vị chiến đấu hàng trăm trận, tiêu diệt nhiều lực lượng và phương tiện chiến tranh của địch.

Ngày 06/11/1978, liệt sĩ Nguyễn Thị Ba được Chủ tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam truy tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân.

(Nguồn: Quảng Nam - chân dung Anh hùng thời đại Hồ Chí Minh)

2. Nguyễn Thị Bảy (1948 - 1970): Liệt sĩ; Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân.

Anh hùng Nguyễn Thị Bảy sinh năm 1948 tại xã Đại Minh, huyện Đại Lộc, tỉnh Quảng Nam. Khi hy sinh, là Tiểu đội trưởng, Đại đội 2 bộ đội địa phương huyện Đại Lộc.

Chị tham gia lực lượng du kích xã từ năm 17 tuổi; năm 18 tuổi làm Xã đội phó xã Đại Minh. Trong vai trò này, chị tham gia và chỉ huy nhiều trận đánh Mỹ - Ngụy khi địch tiến công vào xã Đại Minh và vùng B Đại Lộc. Trong đó, tiêu biểu là các trận đánh địch tại Gò Đình và cầu Ái Nghĩa vào đầu năm 1968; trận phục kích tại khe Bò (Đại Đồng) tiêu diệt 20 tên địch.

Từ năm 1965 - 1970, Nguyễn Thị Bảy góp phần tiêu diệt hơn 150 lính Mỹ - Ngụy, bắn cháy 01 máy bay, thu và phá hủy nhiều phương tiện chiến tranh của địch.

Ngày 21 tháng 10 năm 1970, trong một trận chống càn tại vùng B Đại Lộc, tiểu đội của Nguyễn Thị Bảy đã chiến đấu vô cùng dũng cảm, đánh lui nhiều đợt tấn công của địch, giữ vững trận địa. Tiểu đội trưởng Nguyễn Thị Bảy đã anh dũng hy sinh trong một đợt đánh trả quân địch.

Với những thành tích trong chiến đấu, Nguyễn Thị Bảy đã được tặng thưởng 6 Huân chương Giải phóng các loại, 4 danh hiệu Dũng sĩ diệt Mỹ…. Ngày 30 tháng 8 năm 1995, liệt sĩ Nguyễn Thị Bảy được Chủ tịch nước Cộng

4

Page 5: Đề án bổ sung Quỹ tên đường tỉnh Quảng Nam

hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam truy tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân.

(Nguồn: Quảng Nam - chân dung Anh hùng thời đại Hồ Chí Minh)

3. Thu Bồn (1935 - 2003): Nhà thơ hiện đại

Nhà thơ Thu Bồn tên thật là Hà Đức Trọng, sinh năm 1935 tại xã Điện Thắng, huyện Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam.

Ông tham gia cách mạng từ năm 13 tuổi, làm liên lạc cho đơn vị bộ đội địa phương huyện Điện Bàn. Sau năm 1954, ông cùng đơn vị tập kết ra Bắc, được cử đi học và trở thành giáo viên Trường Sĩ quan Lục quân.

Thu Bồn được kết nạp hội viên Hội Nhà văn Việt Nam năm 1962. Cũng trong năm này, ông tình nguyện trở về chiến trường miền Nam chiến đấu, được cử vào chiến trường Tây Nguyên. Chính những ngày tháng ác liệt đó, ông đã viết nên tác phẩm Trường ca chim Ch’rao, tác phẩm được coi là mở đầu cho một thời kỳ phát triển mới của thơ ca chống Mỹ, đồng thời cũng khẳng định vị trí của nhà thơ trong nền thơ ca Việt Nam hiện đại.

Ngoài sáng tác thơ, Thu Bồn còn nổi tiếng với các tiểu thuyết như Chớp trắng (1970), Những đám mây màu cánh vạc (1975)…Trong sự nghiệp sáng tác ông đã được tặng nhiều giải thưởng, như: Giải thưởng Văn nghệ Nguyễn Đình Chiểu (1965) với tác phẩm Trường ca chim Ch’rao; Giải thưởng về thơ của báo Hà Nội Mới; Giải thưởng Nhà nước về Văn học nghệ thuật năm 2001.

(Nguồn: Địa chí Quảng Nam - Đà Nẵng, NXB KHXH)

4. Đoàn Bường (1933 - 1985): Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân

Anh hùng Đoàn Bường sinh năm 1933 tại xã Bình Triều, huyện Thăng Bình, tỉnh Quảng Nam.

Ông tham gia du kích xã từ năm 1951; bị địch bắt giam từ năm 1957 - 1960. Ra tù, ông tiếp tục tham gia lực lượng du kích. Từ năm 1966 - 1978, ông tham gia quân đội, làm trợ lý công binh bộ đội địa phương. Ông đã tham gia nhiều trận đánh và nghiên cứu, sáng tạo nhiều cách đánh giặc bằng vũ khí tự tạo. Trong điều kiện thiếu thốn vũ khí, ông đã vận động nhân dân thu lượm bom, đạn lép của địch và cải tiến làm thành hàng nghìn quả mìn; hướng dẫn du kích lấy thuốc súng để làm ra hàng vạn quả lựu đạn và thủ pháo. Nhờ đó, lực lượng vũ trang và du kích trên địa bàn đã tổ chức được nhiều trận đánh với hiệu quả cao. Bản thân Đoàn Bường cũng tham gia nhiều trận đánh mìn, phóng bom, gài lựu đạn, tiêu diệt 93 tên địch, phá hủy 13 xe bọc thép. Tiêu biểu là trận đánh 2 chi

5

Page 6: Đề án bổ sung Quỹ tên đường tỉnh Quảng Nam

đội xe bọc thép của địch tại xã Bình Phú (tháng 2 năm 1969), Đoàn Bường đã tổ chức gài mìn thành một tuyến dài chặn địch, phá hủy 8 chiếc, buộc địch phải bỏ dở trận càn.

Với những thành tích trong chiến đấu, Đoàn Bường đã được tặng thưởng nhiều Huân, Huy chương các loại; 9 danh hiệu Dũng sĩ diệt Mỹ. Ngày 06 tháng 11 năm 1978, Đoàn Bường được Chủ tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam phong tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân.

(Nguồn: Lịch sử Đảng bộ huyện Thăng Bình)

5. Phạm Thị Cộng (1902 - 1992): Bà Mẹ Việt Nam anh hùng

Mẹ Phạm Thị Cộng sinh năm 1902, quê ở làng Châu Bí, xã Điện Tiến, huyện Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam. Cả cuộc đời Mẹ cống hiến cho cách mạng, nhất là những năm đen tối, địch đánh phá cơ sở ác liệt. Mẹ đào hầm bí mật, nấu cơm và nuôi giấu cán bộ.

Mẹ Phạm Thị Cộng là người phụ nữ kiên cường trong đấu tranh chính trị, đi đầu trong đấu tranh phá ấp chiến lược, xúc dân, càn phá. Từ năm 1960 đến năm 1965 Mẹ nhiều lần bị địch bắt, bị tra tấn nhưng vẫn một mực không khai. Bọn địch phải nể sợ trước tinh thần và ý chí bất khuất của mẹ Cộng.

Mẹ Phạm Thị Cộng có một người con trai duy nhất cũng hy sinh trong cuộc kháng chiến chống Mỹ. Mẹ đã được truy tặng danh hiệu Bà mẹ Việt Nam anh hùng.

Khi Mẹ Phạm Thị Cộng mất, đồng đội đến viếng hương đã tặng câu liễn với bốn chữ “Đăng huy bất tức” (Ngọn đèn không tắt), ghi nhận tấm lòng và sự cống hiến suốt cả cuộc đời cho cách mạng của Mẹ.

(Nguồn: Lịch sử Đảng bộ huyện Điện Bàn)

6. Lê Đình Chinh (1960-1978): Liệt sĩ, Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân trong cuộc chiến tranh bảo vệ biên giới phía Bắc của Tổ quốc

Anh hùng Lê Đình Chinh sinh năm 1960, quê ở xã Hoằng Quang, huyện Hoằng Hóa, trú quán tại nông trường Sông Âm, huyện Ngọc Lặc, tỉnh Thanh Hóa.

Lê Đình Chinh nhập ngũ ngày 16/2/1975 khi mới 15 tuổi. Sau thời gian huấn luyện, Lê Đình Chinh được biên chế vào đại đội 6, tiểu đoàn 2, trung đoàn 12, Bộ Tư lệnh Công an nhân dân vũ trang (nay là Bộ đội biên phòng), tham gia chiến đấu trong chiến tranh biên giới Tây Nam.

6

Page 7: Đề án bổ sung Quỹ tên đường tỉnh Quảng Nam

Ngày 25 tháng 8 năm 1978, quân Trung Quốc vượt biên giới sang Việt Nam hành hung cán bộ, phụ nữ và nhân dân địa phương. Lê Đình Chinh đã đánh trả, bằng tay không đánh gục hàng chục tên địch nhưng đã anh dũng hy sinh khi mới tròn 18 tuổi.

Lê Đình Chinh là chiến sĩ Công an nhân dân vũ trang đầu tiên hy sinh trong cuộc chiến tranh bảo vệ biên giới phía Bắc của Tổ quốc năm 1979, trở thành một trong những biểu tượng anh hùng của thế hệ thanh niên Việt Nam; đã nêu tấm gương sáng ngời về chủ nghĩa anh hùng cách mạng trong chiến đấu bảo vệ Tổ quốc. Ngay sau khi Lê Đình Chinh hy sinh, Trung ương Đoàn Thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh đã kịp thời tuyên dương công trạng và truy tặng Huy hiệu “Vì thế hệ trẻ”; đồng thời phát động trong thế hệ trẻ Việt Nam phong trào “Sống, chiến đấu rực lửa anh hùng như Lê Đình Chinh”. Hiện nay, nhiều tỉnh, thành phố đã lấy tên Lê Đình Chinh để đặt tên đường, tên trường học, nông trường.

Ngày 31 tháng 10 năm 1978, liệt sĩ Lê Đình Chinh được Chủ tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam truy tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân.

(Nguồn: Lịch sử Bộ tư lệnh Bộ đội biên phòng)

7. Đinh Đạt (1930 - 1967): Liệt sĩ; Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân

Anh hùng Đinh Đạt sinh năm 1930 tại xã Bình Hải, huyện Thăng Bình, tỉnh Quảng Nam. Khi hy sinh, ông là Thuyền trưởng tàu không số - Hải quân nhân dân Việt Nam. Ông tham gia cách mạng từ năm 1947, năm 1954, ông tập kết ra Bắc và sau đó trở thành thuyền trưởng của đoàn tàu không số, chuyên chở vũ khí chi viện cho chiến trường miền Nam. Từ năm 1963 - 1966, ông đã tham gia 11 chuyến thành công, chở được một khối lượng lớn vũ khí và nhiều đồng chí cán bộ Trung ương vào Nam, ra Bắc. Bên cạnh đó, ông còn tiên phong mở 02 bến mới với nhiều khó khăn, phức tạp và nguy hiểm; xung phong lái con tàu sắt đầu tiên chở vũ khí vào Nam, tạo ra phong trào dùng tàu sắt thay tàu gỗ, mang lại hiệu quả to lớn.

Năm 1967, trong một chuyến tàu chở vũ khí vào chiến trường khu V (Quảng Ngãi), tàu của ông bị kẻ thù phát hiện. Ông đã chiến đấu và anh dũng hy sinh.

7

Page 8: Đề án bổ sung Quỹ tên đường tỉnh Quảng Nam

Ngày 20 tháng 9 năm 2011, liệt sĩ Đinh Đạt đã được Chủ tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam truy tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân.

(Nguồn: Truyền thống lịch sử Quân chủng Hải quân)

8. Võ Nguyên Giáp (1911 - 2013): Đại tướng; nguyên Tổng Tư lệnh Quân đội nhân dân Việt Nam

Đại tướng Võ Nguyên Giáp sinh ngày 25/8/1911 tại xã Lộc Thủy, huyện Lệ Thủy, tỉnh Quảng Bình.

Từ năm 1925 đến 1926, ông tham gia phong trào học sinh ở Huế, năm 1927 tham gia Đảng Tân Việt cách mạng (một tổ chức tiền thân của Đảng Cộng sản Đông Dương, nay là Đảng Cộng sản Việt Nam).

Năm 1930, ông bị địch bắt và kết án 2 năm tù. Sau khi ra tù, ông tiếp tục hoạt động tuyên truyền, gây cơ sở cách mạng trong thanh niên, học sinh. Năm 1936, ông hoạt động trong phong trào dân chủ bán hợp pháp của Đảng ở Hà Nội; là biên tập viên các báo của Đảng: “Tiếng nói của chúng ta”, “Tiến lên”, “Tập hợp”, “Thời báo”, “Tin tức”... Tham gia phong trào Đông Dương đại hội, ông được bầu làm Chủ tịch Ủy ban báo chí Bắc Kỳ.

Tháng 6/1940, Võ Nguyên Giáp được kết nạp vào Đảng Cộng sản Đông Dương và được cử sang Trung Quốc gặp lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc. Đầu năm 1941, ông về nước, tham gia công tác chuẩn bị khởi nghĩa vũ trang ở căn cứ địa Cao-Bắc-Lạng.

Tháng 12/1944, Võ Nguyên Giáp được lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc giao nhiệm vụ thành lập Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân.

Tháng 4/1945, tại Hội nghị Quân sự Bắc Kỳ, Võ Nguyên Giáp được cử vào Ủy ban Quân sự Bắc Kỳ. Từ tháng 5/1945, ông là Tư lệnh các lực lượng vũ trang cách mạng mới, thống nhất thành Việt Nam giải phóng quân; tháng 6/1945, ông được lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc giao nhiệm vụ thành lập Ủy ban Chỉ huy lâm thời Khu giải phóng.

Tháng 8/1945, Võ Nguyên Giáp được cử vào Ban Chấp hành Trung ương Đảng và Ủy ban Khởi nghĩa toàn quốc. Tại Đại hội Quốc dân Tân Trào, ông được bầu vào Ủy ban dân tộc giải phóng Việt Nam; là Bộ trưởng Bộ Nội vụ trong Chính phủ lâm thời nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa và được bổ sung vào Thường vụ Ban Chấp hành Trung ương Đảng.

8

Page 9: Đề án bổ sung Quỹ tên đường tỉnh Quảng Nam

Tháng 3/1946, ông là Chủ tịch Quân sự, Ủy viên trong Chính phủ Liên hiệp; khi thành lập Quân ủy Trung ương, được cử làm Bí thư Quân ủy Trung ương. Tháng 10/1946, là Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, được Chủ tịch Hồ Chí Minh ủy quyền làm Tổng Chỉ huy Quân đội nhân dân và Dân quân tự vệ Việt Nam. Tháng 1/1948, Võ Nguyên Giáp được phong quân hàm Đại tướng, Tổng Tư lệnh Quân đội nhân dân Việt Nam.

Tháng 2/1951, tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ II của Đảng, Võ Nguyên Giáp được bầu làm Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng và được Ban Chấp hành Trung ương bầu vào Bộ Chính trị.

Từ tháng 9/1955 đến tháng 12/1979, Võ Nguyên Giáp là Phó Thủ tướng, kiêm Bộ trưởng Bộ Quốc phòng.

Tháng 9/1960, tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III của Đảng, Võ Nguyên Giáp được bầu lại vào Ban Chấp hành Trung ương, được Ban Chấp hành Trung ương bầu vào Bộ Chính trị.

Tháng 12/1976, tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV của Đảng, Võ Nguyên Giáp được bầu lại vào Ban Chấp hành Trung ương, được Ban Chấp hành Trung ương bầu vào Bộ Chính trị.

Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ V và lần thứ VI của Đảng, Võ Nguyên Giáp được bầu lại vào Ban Chấp hành Trung ương.

Từ tháng 1/1980, Võ Nguyên Giáp là Phó Thủ tướng thường trực; từ tháng 4/1981 đến tháng 12/1986, là Phó Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng (nay là Phó Thủ tướng Chính phủ); là đại biểu Quốc hội từ khóa I đến khóa VII.

Ngày 04/10/2013, Đại tướng Võ Nguyên Giáp từ trần tại Hà Nội.

Do công lao to lớn đối với sự nghiệp cách mạng của Đảng và dân tộc, uy tín lớn trong và ngoài nước, Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã được Đảng, Nhà nước tặng thưởng Huân chương Sao Vàng, Huân chương Hồ Chí Minh, Huy hiệu 70 năm tuổi Đảng và nhiều huân, huy chương cao quý khác của Việt Nam và quốc tế.

(Nguồn: Lịch sử Quân đội nhân dân Việt Nam)

9. Nguyễn Thị Hồng (1925 - 1968): Liệt sĩ, Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân

Anh hùng Nguyễn Thị Hồng sinh năm 1925 tại xã Điện Trung, huyện Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam; hy sinh khi đang dẫn đầu lực lượng đấu tranh chính trị của quần chúng nhân dân Điện Bàn.

9

Page 10: Đề án bổ sung Quỹ tên đường tỉnh Quảng Nam

Bà Nguyễn Thị Hồng tham gia nuôi giấu cán bộ hoạt động bí mật tại địa phương từ năm 1954 - 1965. Đặc biệt, trong thời gian địch tăng cường càn quét, đánh phá phong trào cách mạng, bà đã bị địch bắt giam tới 11 lần. Mặc dù bị tra tấn dã man, nhưng bà vẫn một mực trung thành với cách mạng, không khai báo, đảm bảo an toàn cho cán bộ và các cơ sở bí mật..

Trong cuộc Tổng tấn công và Nổi dậy mùa Xuân 1968, bà được giao nhiệm vụ vận động nhân dân một số xã của huyện Điện Bàn xuống đường đấu tranh chống Mỹ - Ngụy và đánh chiếm quận lỵ. Bà đã dẫn đầu đoàn quân chính trị hơn 1000 người kéo xuống quận lỵ Vĩnh Điện và đã anh dũng hy sinh trước mũi súng của kẻ thù.

Ngày 20 tháng 12 năm 1994, liệt sĩ Nguyễn Thị Hồng được Chủ tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam truy tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân.

(Nguồn: Quảng Nam - chân dung Anh hùng thời đại Hồ Chí Minh)

10. Trần Hớn (1934 - 1970): Liệt sĩ; Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân

Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân Trần Hớn sinh năm 1934 tại làng Tân An, xã Bình Minh, huyện Thăng Bình, tỉnh Quảng Nam. Ông hy sinh khi đang làm Trưởng ban an ninh xã Bình Đào, huyện Thăng Bình.

Ông tham gia cách mạng từ năm 1954; được kết nạp vào Đảng năm 1966. Sau năm 1954, ông tham gia hoạt động bí mật; là người có nhiều kinh nghiệm cũng như chiến công trong công tác diệt ác, phá kềm. Ông cùng đồng đội đã chiến đấu nhiều trận, tiêu diệt nhiều lực lượng địch, đặc biệt tiêu diệt các tên ác ôn, có nợ máu với nhân dân.

Tháng 3 năm 1970, ông bị địch bắt khi đang giữ chức vụ Trưởng Ban an ninh xã Bình Đào (Thăng Bình). Trước những đòn tra tấn dã man của kẻ thù, ông vẫn ngoan cường chịu đựng để bảo vệ đồng đội và cơ sở. Ông đã hy sinh trước mũi súng của kẻ thù.

Năm 2011, liệt sĩ Trần Hớn đã được Chủ tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ký quyết định truy tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân.

(Nguồn: Quảng Nam - chân dung Anh hùng thời đại Hồ Chí Minh)11. Trần Huỳnh (1858 - 1916):

Trần Huỳnh, sinh năm 1858 tại làng Tân An Tây, nay thuộc xã Tiên Thọ, huyện Tiên Phước, tỉnh Quảng Nam.

10

Page 11: Đề án bổ sung Quỹ tên đường tỉnh Quảng Nam

        Trong các năm 1905-1908, ông cùng với các chí sĩ Lê Cơ ở Phú Lâm, Lê Vĩnh Huy ở Thạnh Bình, Phan Quang ở Cẩm Y đứng ra tiến hành cải cách làng quê mình bằng việc lập trường Tân Xuân dạy chữ Quốc ngữ, trường Dục Thanh dạy võ dân tộc cho thanh niên trai tráng địa phương nhằm mưu việc nước về sau…

         Tháng 8 năm 1915, hưởng ứng lời kêu gọi khởi nghĩa do vua Duy Tân và hai chí sĩ xứ Quảng là Thái Phiên và Trần Cao Vân chủ trương, Ban chỉ huy khởi nghĩa tổng Phước Lợi chính thức được thành lập, do Trần Huỳnh làm Tổng lãnh binh và Trần Tùy Vân làm Phó lãnh binh. Một tháng sau, Đội phục quốc quân được thành lập tại nhà Trần Huỳnh với khoảng 30 người tham gia ban đầu, đến cuối năm lên gấp đôi. Ngoài ra, Đội còn vận động thành lập được 22 đội dân binh ở các xã, thôn gồm khoảng 350 người; tất cả lấy rừng dương gò Chùa làm địa điểm tập luyện quân.

           Chiều ngày 3 tháng 5 năm 1916, theo kế hoạch của cuộc Khởi nghĩa Duy Tân, gần 1.000 dân binh tập trung về căn cứ Gò Chùa (còn gọi là Gò Đỏ) để làm lễ tế cờ xuất quân. Lễ khao quân được tiến hành tại nhà Trần Huỳnh, sau đó tiến về phía phủ đường Tam Kỳ.

          Tuy nhiên, do kế hoạch của cuộc Khởi nghĩa Duy Tân đã bị bại lộ ở kinh thành Huế nên thực dân Pháp đã nhanh chóng đàn áp. Trần Huỳnh và nhiều chỉ huy nghĩa binh khác bị giặc bắt. Trong lao tù, mặc dù bị tra tấn, dụ dỗ nhưng Trần Huỳnh vẫn tỏ ra khẳng khái nhận hết trách nhiệm về mình.

         Ngày 27 tháng 5 năm 1916, thực dân Pháp đã mở phiên xét xử Trần Huỳnh và các đồng chí của ông. Tuy chúng tuyên án đày biệt xứ ông lên Buôn Ma Thuột, nhưng sau đó đã lén lút đưa ông đi xử chém tại Chợ Củi (huyện Điện Bàn).

(Nguồn: Quảng Nam đất nước và nhân vật)

12. Nguyễn Quý Hương (1906 - 1988): Nhà trí thức yêu nước, nhà báo.Nguyễn Quý Hương sinh năm 1906 tại làng Mỹ Thạch, xã An Mỹ Đông,

phủ Tam Kỳ (nay là Phường Tân Thạnh, thành phố Tam Kỳ). Thuở nhỏ, ông học ở trường tỉnh Quảng Nam, sau đó tiếp tục ra học ở Hội An, Đà Nẵng và Huế. Ông đỗ tú tài lúc 18 tuổi, sau ra Hà Nội học Cao đẳng Đông Dương. Năm 1926 ở Hà Nội, ông tham gia bãi khóa truy điệu Phan Châu Trinh, bị đuổi học, trở về quê; ông làm Phó Hội trưởng “Hội Đức, Trí, Thể dục Tam Kỳ”, bị Pháp bắt giam ở Hội An và đày lên làm lao công ở Bà Nà, Đà Nẵng.

11

Page 12: Đề án bổ sung Quỹ tên đường tỉnh Quảng Nam

Năm 1927, được thả tự do, ông ra Huế gặp Phan Bội Châu, Huỳnh Thúc Kháng, được giao làm Tổng thư ký toà soạn báo Tiếng Dân. Cùng với việc lo bài vở đăng báo, ông viết nhiều thể loại xã luận, bình luận chính trị về các vấn đề trong nước và ở Trung Kỳ, nghiên cứu những vấn đề tư tưởng, chính trị, học thuật của nước ngoài. Ông còn cộng tác với các báo Nhành Lúa của Hải Triều, Viên Âm của Lê Đình Thám.

Ông tham gia vận động thành lập Hội nhà báo, nhằm tập hợp, tuyên truyền giác ngộ và bảo vệ quyền lợi cho báo giới, dưới sự lãnh đạo của Xứ uỷ Trung Kỳ. Ông tranh cử vào Viện dân biểu Trung Kỳ và trúng ở hạt 5 tỉnh Quảng Nam; trong hoạt động tiếp xúc với cử tri và các hội nghị của Viện dân biểu, ông luôn luôn bênh vực dân nghèo, đứng về phía tiến bộ chống Pháp và tay sai.

Sau cách mạng tháng 8/1945, ông làm Chánh Văn phòng kiêm Trưởng phòng báo chí Bộ Tài chính trong Chính phủ lâm thời nước Việt Nam dân chủ cộng hoà. Ông được cử vào các tỉnh Nam Trung bộ công tác và tham gia kháng chiến, làm Tổng thư ký báo Đoàn kết kháng chiến, Kinh tế miền Nam, Trung bộ Nam phần công báo. Năm 1954, ông cùng vợ được bố trí ở lại hoạt động hợp pháp. Năm 1955, ông ra Huế tổ chức xuất bản báo Công lý và làm chủ bút. Ông ủng hộ phong trào hoà bình và có quan điểm chính trị đối lập với chính quyền tay sai, ông bị bắt giam cùng cả gia đình ở Lao Thừa Phủ, bị quản thúc để đe dọa và mua chuộc, ông thẳng thắn từ chối chức vụ tỉnh trưởng của Ngô Đình Diệm. Không mua chuộc được ông, chúng vu cáo ông chống chế độ và ông bị bắt giam lần thứ hai, đến năm 1960.

Ra tù, ông vào Sài Gòn làm chủ bút tờ Dân chí, đến tháng 9/1961 thì bị đóng cửa. Năm 1965, ông cùng với những trí thức yêu nước ở Sài Gòn thành lập “Phong trào dân tộc tự quyết”, “Uỷ ban vận động hoà bình” chống Mỹ và chính quyền Sài Gòn, xuất bản đặc san Tự quyết. Ông và vợ bị bắt giam lần thứ ba và bị kết án 10 năm tù, đày đi Côn Đảo. Năm 1975, được giải phóng, ông tham gia UBMTTQ Việt Nam thành phố Hồ Chí Minh cho đến lúc qua đời vào năm 1988.

(Nguồn: Địa chí Quảng Nam - Đà Nẵng)

13. Ngô Viết Hữu (1948 - 1972): Liệt sĩ; Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân

12

Page 13: Đề án bổ sung Quỹ tên đường tỉnh Quảng Nam

Anh hùng Ngô Viết Hữu sinh năm 1948 tại xã Quế Hiệp, huyện Quế Sơn, tỉnh Quảng Nam. Ông hy sinh khi đang là Trưởng ban đặc công - Tỉnh đội Quảng Nam.

Ông tham gia và chỉ huy đơn vị đánh nhiều trận, tiêu diệt hàng trăm tên địch; riêng ông đã tiêu diệt được khoảng 80 tên, thu 10 súng. Trong chiến đấu, ông luôn nêu cao tinh thần tiến công địch đến cùng; hai lần bị thương nặng phải đi điều trị, nhưng sau đó ông kiên quyết xin trở về đơn vị tiếp tục chiến đấu.

Tháng 4/1972, trong trận đánh vào cứ điểm Chà Vu (Quảng Nam), ông chỉ huy đơn vị tiêu diệt một đại đội địch và đã anh dũng hy sinh.

Ngày 03/6/1976, Chủ tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã ký quyết định truy tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân cho liệt sĩ Ngô Viết Hữu.

(Nguồn: Quảng Nam - chân dung Anh hùng thời đại Hồ Chí Minh)

14. Phan Khôi (1887 - 1959): Nhà văn, nhà báo

Nhà văn, nhà báo Phan Khôi sinh năm 1887 ở làng Bảo An, nay thuộc xã Điện Quang, huyện Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam. Ông là cháu ngoại của Tổng đốc Hoàng Diệu.

Sau khi đỗ tú tài năm 18 tuổi, ông bỏ lối học khoa cử. Năm 1906, ông ra Hà Nội học tiếng Pháp, tham gia phong trào Duy Tân và dạy học tại trường Đông Kinh nghĩa thục. Khi phong trào Duy Tân bị đàn áp, ông bị bắt đưa về giam tại nhà lao Hội An cho đến năm 1911.

Sau cách mạng tháng Tám năm 1945, ông ra Hà Nội và tham gia kháng chiến. Ông cũng là hội viên Hội Nhà văn Việt Nam.

Phan Khôi được coi là một nhà báo tài năng, tích cực tiếp thu nhiều tư tưởng mới từ bên ngoài; đồng thời luôn phê phán một cách hài hước thói hư tật xấu của quan lại phong kiến và thực dân Pháp; phê phán thẳng thắn chính sách cai trị của người Pháp trên đất nước Việt Nam. Suốt cuộc đời sáng tác, ông đã để lại hàng ngàn bài báo, tác phẩm văn học thể hiện một kiến thức uyên thâm trên nhiều lĩnh vực thuộc văn hóa, văn nghệ, với một khẩu khí thẳng thắn, bênh vực những cái đúng. Ông được coi là người khởi xướng ra phong trào thơ mới với bài thơ Tình già nổi tiếng. Ông mất năm 1959 tại Hà Nội. Hiện nay, thành phố Đà Nẵng đã đặt tên đường Phan Khôi.

(Nguồn: Quảng Nam đất nước và nhân vật)

13

Page 14: Đề án bổ sung Quỹ tên đường tỉnh Quảng Nam

15. Nguyễn Lai (1902 - 1984): Nghệ sĩ nhân dân; Diễn viên, Đạo diễn nghệ thuật sân khấu Tuồng

Nghệ sĩ nhân dân Nguyễn Lai sinh năm 1902 tại làng An Quán, nay thuộc xã Điện Phương, huyện Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam.

Ông đến với bộ môn nghệ thuật Tuồng từ sớm; năm 20 tuổi bắt đầu đóng những vai diễn đầu tiên trên sân khấu; năm 27 tuổi đã trở thành diễn viên Tuồng nổi tiếng. Năm 1934, ông cùng nghệ sĩ Ngô Thị Liễu thành lập gánh hát Tân Thành Ban với chủ trương cách tân sân khấu hát bội; đồng thời tổ chức lưu diễn ở nhiều nơi.

Sau Cách mạng Tháng 8 năm 1945, nghệ sĩ Nguyễn Lai tiếp tục hoạt động trên sân khấu hát bội và là một trong những người sáng lập Đoàn tuồng Liên khu V.

Năm 1954, ông tập kết ra Bắc; tiếp tục hoạt động ở Đoàn tuồng Liên khu V, đồng thời tham gia giảng dạy - làm Chủ nhiệm khoa Tuồng ở Trường Nghệ thuật sân khấu; cùng tham gia chỉnh lý một số vở Tuồng cổ.

Sau năm 1975, ông tham gia giảng dạy và đào tạo diễn viên cho Đoàn tuồng Quảng Nam - Đà Nẵng.

Nguyễn Lai là người có nhiều đóng góp cho nghệ thuật Tuồng Việt Nam nói chung, của Quảng Nam - Đà Nẵng nói riêng. Với những đóng góp cho bộ môn nghệ thuật này, năm 1983 nghệ sĩ Nguyễn Lai đã được Nhà nước phong tặng danh hiệu Nghệ sĩ nhân dân.

Hiện nay, thành phố Đà Nẵng đã đặt tên đường Nguyễn Lai. (Nguồn: Địa chí Quảng Nam - Đà Nẵng)

16. Hoàng Văn Lai (1923 - 1978): Liệt sĩ; Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân; nguyên Trưởng ty Công an tỉnh Quảng Nam – Đà Nẵng

Anh hùng Hoàng Văn Lai sinh năm 1923 tại xã Đại Thắng, huyện Đại Lộc, tỉnh Quảng Nam. Khi hy sinh, ông đang là Trưởng ty Công an tỉnh Quảng Nam – Đà Nẵng.

Năm 23 tuổi, ông thoát ly gia đình, tham gia kháng chiến chống Pháp. Sau năm 1954 ông tập kết ra Bắc; khi trở lại chiến trường miền Nam, ông tham gia chiến đấu trong đội ngũ Tiểu đoàn 25 - Tỉnh đội Quảng Nam. Năm 1967, ông được điều chuyển sang làm Bí thư Huyện ủy huyện Duy Xuyên, một trong những địa phương mà Mỹ và chính quyền Sài Gòn tập trung quân đội chà xát, càn quét ác liệt. Ông đã góp phần cùng Huyện ủy hoàn thành tốt nhiệm vụ lãnh

14

Page 15: Đề án bổ sung Quỹ tên đường tỉnh Quảng Nam

đạo quân và dân trong huyện tiêu diệt địch, bảo vệ căn cứ cách mạng. Sau đó, ông được giao nhiệm vụ làm Trưởng ban An ninh tỉnh Quảng Đà…

Đà Nẵng giải phóng, Ty An ninh Quảng Đà được thành lập, cấp trên giao nhiệm vụ Trưởng ty cho ông. Tiếp đó, UBND Cách mạng lâm thời Khu Trung Trung Bộ quyết định hợp nhất tỉnh Quảng Nam và Đặc khu Quảng Đà thành tỉnh Quảng Nam - Đà Nẵng. Hai Ty An ninh Quảng Đà và Quảng Nam cũng sáp nhập thành Ty Công an Quảng Nam - Đà Nẵng, Hoàng Văn Lai tiếp tục được giao nhiệm vụ Trưởng ty.

Dưới sự chỉ đạo sâu sát của ông và các lãnh đạo của Ty Công an Quảng Nam - Đà Nẵng, chỉ trong một thời gian ngắn, lực lượng an ninh đã tóm gọn hàng loạt tên phản động đầu sỏ, phá vụ nội gián mang tên "Đại Sơn" ở Khu Đoàn Thanh niên Quảng Đà và vụ hoạt động của  tổ chức phản động "Mặt trận cứu quốc"…

Tháng 7 năm 1978, trên đường đi thị sát tình hình nhằm chuẩn bị cho cuộc tấn công vào hang ổ phản động, ông hy sinh trên đường đi công tác. Năm 2011, liệt sĩ Hoàng Văn Lai đã được truy tặng danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân. Hiện nay, thành phố Đà Nẵng đã đặt tên đường Hoàng Văn Lai.

(Nguồn: Lịch sử Công an nhân dân Quảng Nam - Đà Nẵng)

17. Thạch Lam (1910 - 1942): Nhà văn

Nhà văn Thạch Lam, tên thật là Nguyễn Tường Vinh, sau đổi là Nguyễn Tường Lân, sinh năm 1909 (có sách nói ông sinh năm 1910) tại làng Cẩm Phô, nay thuộc phường Cẩm Phô, thành phố Hội An, tỉnh Quảng Nam trong một gia đình danh gia vọng tộc, với nhiều người từng là đại thần dưới triều Nguyễn.

Thuở nhỏ, Thạch Lam sống với gia đình ở quê ngoại (huyện Cẩm Giàng, tỉnh Hải Dương), sau đó theo cha chuyển sang Thái Bình tiếp tục học bậc tiểu học. Lớn lên, ông cùng gia đình chuyển ra Hà Nội, học trường Canh nông, rồi trường Trung học Albert Saraut. 

Thạch Lam bắt đầu hoạt động văn học từ 1932, là thành viên của Tự lực văn đoàn. Ông tham gia biên tập các tờ tuần báo Phong hóa, Ngày nay. Thạch Lam mất vì bệnh lao năm 1942 tại Hà Nội.

Tác phẩm chính: Các tập truyện ngắn Gió đầu mùa (1937), Nắng trong vườn (1938), Sợi tóc (1942), tiểu thuyết Ngày mới (1939), tập tiểu luận Theo dòng (1941), tập bút ký Hà Nội băm sáu phố phường (1943). 

15

Page 16: Đề án bổ sung Quỹ tên đường tỉnh Quảng Nam

Hiện nay, thành phố Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh, Đà Nẵng và một số tỉnh đã đặt tên đường Thạch Lam.

(Nguồn: Danh nhân Việt Nam)

18. Lê Đình Lý (1790 - 1858): Người chỉ huy trận đánh Pháp đầu tiên ở Đà Nẵng

Lê Đình Lý sinh năm 1790 tại huyện Phù Mỹ, tỉnh Bình Định. Ông gia nhập quân đội của triều đình nhà Nguyễn vào năm 1829. Do có công ổn định vùng đất biên giới thuộc các tỉnh Hà Tiên, An Giang…, ông được phong chức Đề đốc, được triều đình cho ghi công, khắc tên vào súng đồng “Thần uy phục viễn”.

Năm 1858, khi thực dân Pháp nổ súng xâm lược Đà Nẵng, trên cương vị Tổng thống quân vụ đại thần, ông đã chỉ huy quân và dân Đà Nẵng tiến hành cuộc kháng chiến chống Pháp. Giữa lúc cuộc chiến đấu đang diễn ra ác liệt, ông bị trọng thương và hy sinh ngay tại mặt trận Đà Nẵng.

Sau cái chết của ông, triều đình Nguyễn cử Nguyễn Tri Phương thay ông, tiếp tục chỉ huy cuộc chiến đấu chống Pháp tại Đà Nẵng.

Hiện nay, thành phố Đà Nẵng đã đặt tên đường Lê Đình Lý. (Nguồn: Địa chí Quảng Nam - Đà Nẵng)

19. Chu Huy Mân (1913–2006): Đại tướng; nguyên Tư lệnh Quân khu V

Ông tên thật là Chu Văn Điều, sinh  năm 1913 tại tại xã Yên Lưu, nay là xã Hưng Hòa, thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An.

Ông tham gia cách mạng năm 1929, vào Đảng năm 1930. Trong cao trào Xô viết Nghệ Tĩnh, ông tham gia đội Tự vệ đỏ và là đội phó đội tự vệ xã, sau đó làm Bí thư chi bộ xã (năm 1933), Bí thư Huyện ủy huyện Hưng Nguyên, tỉnh Nghệ An (năm 1936).

Từ 1937 đến năm 1940, ông bị thực dân Pháp bắt giam nhiều lần ở nhà lao Vinh, đến năm 1940 đưa đi giam ở Đắc Lay rồi Đắc Tô thuộc tỉnh Kon Tum. Năm 1943, ông vượt ngục, tiếp tục hoạt động cách mạng, tham gia Ban Việt Minh và Tỉnh ủy Quảng Nam, sau đó làm Phó Bí thư Tỉnh ủy Quảng Nam.

Sau Cách mạng tháng Tám 1945, ông giữ các chức vụ: Chính trị viên Tỉnh đội Quảng Nam; sau đó làm Chủ tịch Ủy ban Quân chính 4 tỉnh Trung Bộ, Trưởng ban Kiểm tra Đảng, Ủy viên Quân khu Việt Bắc.

16

Page 17: Đề án bổ sung Quỹ tên đường tỉnh Quảng Nam

Từ năm 1947 đến năm 1949 làm Trung đoàn trưởng, Bí thư Trung đoàn ủy các Trung đoàn 72, Trung đoàn 74 Cao Bằng và Trung đoàn 174 Cao - Bắc - Lạng. Tháng 5-1951, ông làm Phó Chính ủy, sau đó làm Chính ủy Đại đoàn 316, Bí thư Đảng ủy Đại đoàn 316, tham gia Chiến dịch Điện Biên Phủ năm 1954.

Năm 1957, ông giữ chức Chính ủy Quân khu IV; năm 1958, là Chính ủy Quân khu Tây Bắc kiêm Bí thư Khu ủy Tây Bắc.

Năm 1961, ông làm Trưởng đoàn Cố vấn chuyên gia giúp Cách mạng Lào xây dựng lực lượng vũ trang, giữ cương vị Đoàn trưởng Đoàn 100 (Đoàn chuyên gia Quân sự Việt Nam tại Lào).

Năm 1961 ông làm Tư lệnh kiêm Chính ủy, Bí thư Đảng ủy Quân khu 4. Tháng 8-1965, làm Tư lệnh kiêm Chính ủy, Bí thư Đảng ủy Mặt trận B3 - Tây Nguyên.

Từ năm 1967 đến năm 1975, ông là Tư lệnh Quân khu 5, Phó Bí thư Đảng ủy Quân khu, Chính ủy chiến dịch Huế- Đà Nẵng.

Từ 1975 đến 1976, ông là Chính uỷ kiêm Tư lệnh, Bí thư Đảng ủy Quân khu 5.

Đại hội Đảng lần thứ IV năm 1976, ông được bầu vào Ban Chấp hành Trung ương và Trung ương bầu làm Ủy viên Bộ Chính trị, Phó Bí thư Đảng ủy Quân sự Trung ương, Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị (1977-1986).

Ông là Đại biểu Quốc hội các khoá II, VI, VII; Phó Chủ tịch Hội đồng Nhà nước khóa VII (1981-1986; Ủy viên Bộ Chính trị khoá IV, V.

Ông mất năm 2006 tại Hà Nội.(Nguồn: Lịch sử QĐND Việt Nam)

20. Bùi Thế Mỹ (1904 - 1943): Nhà báo; nhà yêu nước Việt Nam nửa đầu thế kỷ 20

Nhà báo Bùi Thế Mỹ, bút danh Lan Đình, sinh năm 1904 tại làng Phú Nhuận, nay thuộc xã Duy Tân, huyện Duy Xuyên, tỉnh Quảng Nam.

Sau khi đậu bằng Thành Chung ở Huế, ông vào Sài Gòn viết báo và trở thành một nhà báo có tên tuổi giai đoạn trước khi chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ. Ông từng làm chủ bút nhiều tờ báo: Đông Pháp thời báo, Trung lập, Tân Thế kỷ, Thần chung và là Chủ nhiệm tờ Dân báo.

Trong cao trào Dân chủ những năm 1936 - 1939, Bùi Thế Mỹ cùng với nhiều nhà trí thức khác, bao gồm cả những đảng viên Đảng Cộng sản Đông Dương thành lập các tổ chức yêu nước; từng bị thực dân Pháp trục xuất khỏi Sài Gòn do tham gia các hoạt động yêu nước.

17

Page 18: Đề án bổ sung Quỹ tên đường tỉnh Quảng Nam

Nhà báo Bùi Thế Mỹ được đánh giá là một cây bút xông xáo và sắc sảo, không khoan nhượng đối với những trò mị dân của chính quyền thực dân và luôn đấu tranh chống lại những nhà văn, nhà báo làm tay sai cho thực dân.

Hiện nay, thành phố Đà Nẵng đã đặt tên đường Bùi Thế Mỹ. (Nguồn: Quảng Nam đất nước và nhân vật )

21. Nguyễn Mỹ (1935 - 1971): Liệt sĩ; nhà thơNhà thơ Nguyễn Mỹ sinh năm 1935 tại xã An Nghiệp, huyện Tuy An,

tỉnh Phú Yên.

Năm 16 tuổi ông vào bộ đội, chiến đấu ở chiến trường Nam Trung Bộ. Năm 1954, ông tập kết ra Bắc, công tác ở đoàn Văn công Tây Nguyên, học lớp báo chí của Trường Tuyên huấn Trung ương rồi về công tác ở nhà xuất bản Phổ thông.

Năm 1968, Nguyễn Mỹ trở lại chiến trường miền Nam làm phóng viên báo Cờ giải phóng Trung Trung Bộ, thuộc Ban Tuyên truyền Văn nghệ khu V. Ông hy sinh ngày 16 tháng 5 năm 1971 tại huyện Trà My (Quảng Nam), khi đang trên đường công tác.

Trong cuộc đời sáng tác của mình, nhà thơ Nguyễn Mỹ đã để lại tác phẩm nổi tiếng “Cuộc chia ly màu đỏ”. Ông được truy tặng Giải thưởng Nhà nước về văn học nghệ thuật năm 2007.

Hiện nay, thành phố Đà Nẵng, thành phố Hồ Chí Minh và một số tỉnh đã đặt tên đường Nguyễn Mỹ.

(Nguồn: Lịch sử Hội nhà văn Việt Nam)

22. Nguyễn Thanh Năm (1938 - 1998):

Nguyễn Thanh Năm, tên thường gọi là Năm Dừa, sinh năm 1937 tại làng Cẩm Sa, xã Điện Nam, huyện Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam.

Sau Hiệp định Giơnevơ năm 1954, ông thoát ly theo cách mạng, làm giao liên và sau đó trở thành Đội trưởng Đội công tác, tham gia xây dựng cơ sở cách mạng tại Điện Bàn - địa phương mà kẻ địch tập trung đánh phá ác liệt nhất qua các chiến dịch “Tố cộng, diệt cộng”; sau ông được bầu vào Huyện ủy Điện Bàn.

Tại Đại hội Đảng bộ tỉnh Quảng Nam - Đà Nẵng (tháng 01 năm 1961, Nguyễn Thanh Năm được bầu vào Tỉnh ủy. Năm 1962, do sức khỏe giảm sút, ông được tổ chức đưa ra Bắc điều dưỡng.

18

Page 19: Đề án bổ sung Quỹ tên đường tỉnh Quảng Nam

Năm 1964, Nguyễn Thanh Năm trở lại chiến trường và ông đã có nhiều đóng góp cho việc mở rộng vùng giải phóng của Quảng Nam trong giai đoạn Mỹ mở rộng chiến tranh. Khi quân Mỹ trực tiếp đổ bộ vào miền Nam, ông được giao nhiệm vụ làm Bí thư Khu I Hòa Vang, Bí thư Quận ủy quận Nhất, quận Nhì - những quận trung tâm của Đà Nẵng. Ông trực tiếp xây dựng và chỉ huy lực lượng biệt động thành, nắm và chỉ đạo Tổng hội sinh viên học sinh Đà Nẵng. Ông còn trực tiếp xâm nhập vào thợ máy, bà con tiểu thương ở các chợ, nội thành, gặp gỡ các nhà công thương và trí thức yêu nước, động viên họ tham gia vào sự nghiệp chống Mỹ, cứu nước. Kẻ thù đã từng treo giải thưởng lớn để bắt ông.

Ông mất năm 1998 tại Đà Nẵng.

  (Nguồn: Quảng Nam - chân dung Anh hùng thời đại Hồ Chí Minh)

23. Lương Khắc Ninh (1862 - 1943): Nhà văn, nhà báo

Lương Khắc Ninh sinh năm 1862 tại làng An Hội, nay thuộc thành phố Bến Tre, tỉnh Bến Tre; quê gốc ở làng Bảo An, nay thuộc huyện Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam.

Ông tốt nghiệp trung học tại trường   Le Myre De Vilers  (Mỹ Tho), rồi làm việc tại sở Thương chánh Bến Tre từ năm 1880 đến năm 1883. Năm 1889, ông làm thông ngôn tại tòa án Bến Tre, từng làm thành viên Hội đồng quản hạt Bến Tre. Năm 1900, ông bỏ lên Sài Gòn viết báo. Năm 1901, ông làm chủ bút cho tờ Nông cổ mín đàm, được xem là tờ báo kinh tế đầu tiên bằng Quốc ngữ tại Việt Nam.

Năm 1902, ông đắc cử vào Hội đồng Quản hạt Nam Kỳ, sau được bổ nhiệm làm thành viên của Hội đồng Tư vấn Đông Dương.

Tuy là người có danh tiếng, từng làm nghị viên hội đồng nên người đương thời gọi ông là Hội đồng Ninh, tuy vậy hoạt động chính của ông vẫn là trong ngành báo chí hơn là chính trị. Tháng 10 năm 1908, ông làm chủ bút tờ Lục tỉnh tân văn từ số 51, thay cho khi chủ bút trước là Trần Chánh Chiếu bị chính quyền thuộc địa Pháp bắt.

Thông qua mục Thương cổ luận (Bàn luận về nghề buôn bán) trên Nông cổ mín đàm, Lương Khắc Ninh chủ trương cổ động mạnh mẽ cho việc phát triển nghề nông và kêu gọi thành lập những công ty thương nghiệp để thoát ra khỏi sự bóc lột trên thương trường của người Hoa kiều. Ông có cái nhìn sáng suốt về nguyên nhân nghèo khó của người Việt và của Việt Nam lúc đó. Một số học giả

19

Page 20: Đề án bổ sung Quỹ tên đường tỉnh Quảng Nam

đánh giá lời kêu gọi của ông đến nay vẫn còn giá trị. Ngay từ số đầu tiên, mục Thương cổ luận đã tuyên chiến với quan niệm cũ bằng lời khẳng định: Sự đại thương là đệ nhứt cách giúp cho dân phú quốc cường.

Đi ngược lại truyền thống tự tôn của giới trí thức Nho học, Lương Khắc Ninh, một trí thức xuất thân từ Nho học và Tây học, đã không ngần ngại phơi bày và phân tích, mổ xẻ trên báo chí những thói hư tật xấu của người Việt, cả trong tư duy lẫn trong hành xử... Mục đích tối thượng của ông không phải để khinh miệt, chối bỏ, mà để chỉ ra những lực cản hữu hình và vô hình đã và đang ngăn trở dân tộc mình dấn bước trên con đường canh tân để cho dân phú quốc cường.

Năm 1922, ông dẫn đầu một đoàn hát bội sang lưu diễn tại Pháp nhân có hội chợ đấu xảo tại Marseille. Tại đây, ông đã nhiều lần tiếp xúc và trao đổi về quan điểm, đường lối cứu nước với chí sĩ Phan Châu Trinh và tỏ ra rất kính trọng và khâm phục tài năng chí sĩ họ Phan trong đường lối giành độc lập dân tộc. Cũng tại Pháp, ông từng viết một bức thư gửi vua Khải Định, bấy giờ cũng đang ở Pháp, khuyên vua nên tiếp thu và thực thi quan điểm của Phan Châu Trinh.

Sau khi ở Pháp về, ông vẫn tiếp tục cộng tác với các báo ở Sài Gòn và thường đi diễn thuyết nhằm cổ động cho phong trào duy tân, tự cường. Ông mất năm 1943.

Hiện nay, thành phố Đà Nẵng, Tp Hồ Chí Minh và một số tỉnh đã đặt tên đường Lương Khắc Ninh.

(Nguồn: Quảng Nam đất nước và nhân vật)

24. Phan Nhu (1926 - 1967): Liệt sĩ; Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân

Anh  hùng Phan Nhu ( Tức A Ma Lê) sinh năm 1926, tại xã Bình Nguyên, huyện Thăng Bình, tỉnh Quảng Nam. Dân tộc Kinh. Khi hy sinh, ông đang là Bí thư Huyện ủy huyện 5, tỉnh Đắc Lắc.

Cách mạng tháng Tám thành công, Phan Nhu nhập ngũ tham gia chiến đấu trên chiến trường Quảng Nam. Năm 1950 theo yêu cầu nhiệm vụ, ông được điều về tỉnh Đắc Lắc trực tiếp làm Bí thư chi bộ xã Ta Bol, huyện Ma Đrắc. Trận đánh đầu tiên của lực lượng vũ trang tỉnh Đắc Lắc vào ngày 27 tháng 10 năm 1960 đã tiêu diệt 1 trung đội địch, thu toàn bộ vũ khí ở Buôn Hoang đã có tác động lớn đến phong trào đồng khởi giành chính quyền trong toàn tỉnh. Cuối

20

Page 21: Đề án bổ sung Quỹ tên đường tỉnh Quảng Nam

năm 1965, Phan Nhu được giao làm Bí thư huyện ủy Huyện 5, là địa bàn chiến lược để tổ chức lực lượng đánh vào thị xã Ban Mê Thuột. Phan Nhu đã chỉ đạo xây dựng lực lượng, tiến hành 3 mũi giáp công, phát triển phong trào du kích chiến tranh, bảo vệ hành lang, tổ chức chuyển vũ khí cho tỉnh và khu. Phan Nhu có công lớn trong lãnh đạo đấu tranh chính trị, binh vận, giải phóng một vùng rộng lớn sát thị xã, quận lỵ  trong hai năm 1964 - 1965. Tháng 11 năm  1967, trên đường đi công tác, Phan Nhu bị địch phục kích và đã anh dũng  hy sinh.

Phan Nhu là cán bộ Đảng, cán bộ quân đội ưu tú ở Đắc Lắc và Tây Nguyên. Từ năm 1950 đến năm 1967, ông đã gắn bó và chỉ đạo phong trào cách mạng góp phần tích cực đưa phong trào của tỉnh từ chỗ non yếu nhất của Khu 5 lên ngang tầm  với phong trào chung của liên khu.

Ngày 20 tháng 12 năm 1994, liệt sĩ Phan Nhu được truy tăng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân. 

   (Nguồn: Quảng Nam - chân dung Anh hùng thời đại Hồ Chí Minh)

25. Huỳnh Thị Nhuận (1950 - 1968): Liệt sĩ, Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân

Anh hùng Huỳnh Thị Nhuận sinh năm 1950 tại xã Bình Nam, huyện Thăng Bình, tỉnh Quảng Nam.

Chị tham gia cách mạng từ năm 1965, trong đội du kích xã Bình Nam. Đầu năm 1966, được chuyển về Ban Giao bưu tỉnh. Với tinh thần dũng cảm, mưu trí, chị đã thực hiện nhiều chuyến công tác vẫn chuyển công văn, tài liệu an toàn, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ.

Tháng 6 năm 1968, trong một đợt càn quét của địch vào cơ quan của Ban Giao bưu (trạm B23 tại Kỳ Yên - Tam Kỳ), chị bị địch bắt sau khi đã phân tán, cất giấu toàn bộ tài liệu. Chúng đưa chị lên trực thăng định chở về căn cứ Chu Lai. Khi máy bay đang ở độ cao khoảng 1500m, Huỳnh Thị Nhuận đã nhảy khỏi máy bay và anh dũng hy sinh.

Huỳnh Thị Nhuận đã được tặng thưởng nhiều Huân, Huy chương các loại. Năm 2001, liệt sĩ Huỳnh Thị Nhuận đã được Chủ tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam truy tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân.

(Nguồn: Quảng Nam - chân dung Anh hùng thời đại Hồ Chí Minh)

26. Trần Đình Phong (1843 - 1909): Nhà giáo triều Nguyễn; Người có công đào tạo nhiều danh nhân Quảng Nam

21

Page 22: Đề án bổ sung Quỹ tên đường tỉnh Quảng Nam

Trần Đình Phong, hiệu là Mã Sơn, sinh năm 1843 tại làng Yên Mã, nay thuộc huyện Yên Thành, tỉnh Nghệ An.

Ông thi đỗ Cử nhân khoa Bính Tý (1876) và đỗ Tiến sĩ năm 1879. Cuộc đời làm quan của ông trải các chức: Tri phủ Kiến An kiêm nhiệm phủ Bình Giang (Hải Dương); Tri phủ Thọ Xuân (Thanh Hóa); thăng Thị giảng học sĩ; năm 1898 làm Đốc học tỉnh Quảng Nam.

Trong thời gian làm Đốc học tỉnh Quảng Nam, ông đã trực tiếp giảng dạy ở trường tỉnh (Trường Đốc), ông là người có tinh thần yêu nước, lòng tự tôn dân tộc, con ông là Trần Đình Phiên tham gia phong trào Đông Du, sau cộng sự với cụ Huỳnh Thúc Kháng làm báo Tiếng Dân. Trần Đình Phong đã có công đào tạo nhiều danh nhân đất Quảng như Trần Quý Cáp, Phan Châu Trinh, Huỳnh Thúc Kháng, Nguyễn Đình Hiến, Phạm Tuấn… được học trò kính trọng.

Năm 1905, ông được thăng chức Tế tửu Quốc Tử Giám. Thời gian này, ông tham gia biên soạn nhiều sách của Quốc sử quán triều Nguyễn như: Quốc triều hình luật, Quốc triều chính biên toát yếu.

Đối với vùng đất Quảng Nam, ngoài việc có công đào tạo nhiều sĩ tử có tài năng và khí phách, ông còn để lại tác phẩm Quảng Nam tỉnh phú - khái quát về lịch sử hình thành và các điều kiện về tự nhiên, tài nguyên, văn hóa, con người, đặc biệt là về truyền thống yêu nước và hiếu học.

Hiện nay, thành phố Đà Nẵng, tỉnh Nghệ An đã đặt tên đường Trần Đình Phong.

(Nguồn: Địa chí Quảng Nam - Đà Nẵng)

27. Thân Cảnh Phúc: Tướng nhà Lý; người có công trong cuộc kháng chiến chống Tống và bảo vệ biên cương Tổ quốc

Thân Cảnh Phúc (không rõ năm sinh năm mất) còn có tên là Cảnh Nguyên, Đạo Nguyên hay Cảnh Long, biệt danh Phò mã Áo chàm, tương truyền có thể là Thân Vũ Thành (theo thần tích các đền thờ về nhân vật này dọc bờ sông Lục Ngạn), là tù trưởng động Giáp châu Lạng tức châu Quang Lang (ngày nay thuộc Lạng Sơn). Ông sinh ra trong gia đình nhiều đời làm thổ mục ở Động Giáp (là một phần phía Nam tỉnh Lạng Sơn và một phần phía Bắc của tỉnh Bắc Giang). Ông là người dân tộc Tày, vốn gốc họ Giáp, sau lấy công chúa Thiên Thành nhà Lý, được vua nhà Lý đổi sang họ Thân và phong chức Tri châu.

Thân Cảnh Phúc lãnh đạo một đội quân người dân tộc dựa vào rừng núi, dùng chiến thuật du kích chống Tống, chiến đấu sau lưng đạo quân nhà

22

Page 23: Đề án bổ sung Quỹ tên đường tỉnh Quảng Nam

Tống đến khi hy sinh, góp phần không nhỏ vào cho chiến thắng của nhà Lý trước nhà Tống năm 1077 ở phòng tuyến sông Như Nguyệt.

Tháng 11 năm 1066, Thân Cảnh Phúc được vua Lý Thánh Tông gả con gái là công chúa Thiên Thành.

Sau khi được làm Phò mã, Thân Cảnh Phúc được phong làm Châu mục Lạng Châu.

Năm 1075, Thân Cảnh Phúc cùng các tù trưởng Vi Thủ An, Tông Đản, Lưu Kế Tông, Hoàng Kim Mãn chỉ huy bộ binh đánh thẳng lên thành Ung Châu, phối hợp với đạo quân của Thái uý Lý Thường Kiệt đi bằng đường thuỷ tấn công Liêm Châu, phá cuộc chuẩn bị xâm lược nước Đại Việt của nhà Tống.

Mùa xuân năm 1077, 30 vạn quân Tống do Quách Quỳ và Triệu Tiết chỉ huy, theo đường ải Nam Quan (Lạng Sơn) ồ ạt tấn công Đại Việt. Tới khu vực ải Chi Lăng, quân Tống gặp sự kháng cự quyết liệt của quân dân động Giáp do Thân Cảnh Phúc chỉ huy. Nhưng trước thế giặc mạnh, Thân Cảnh Phúc phải cho dân quân động Giáp rút lui vào rừng núi để bảo toàn lực lượng. Sau khi rút lui, Thân Cảnh Phúc cùng các tù trưởng khác đã tổ chức dân binh dùng chiến thuật du kích tiêu hao sinh lực quân Tống, quấy rối vùng sau lưng của chúng, góp phần làm chậm sức tiến của quân Tống, giúp cho quân đội chính quy của nhà Lý do Lý Thường Kiệt chỉ huy chặn quân Tống tại phòng tuyến sông Như Nguyệt (sông Cầu).

Trong vùng tạm chiếm, ông thực hiện vườn không nhà trống, địch đến ông “cho dân rút hết vào rừng, chỉ để một vài người ốm yếu ở nhà”, giặc phải thừa nhận: “Lưu Kỷ, Thân Cảnh Phúc đều cầm cường binh”.

Trong một trận chiến đấu ở vùng Lục Ngạn (Bắc Giang), Thân Cảnh Phúc đã hy sinh.

Hiện nay, thành phố Đà Nẵng, thành phố Hà Nội, tỉnh Bắc Giang đã đặt tên đường Thân Cảnh Phúc.

(Nguồn: Địa chí tỉnh Bắc Giang)

28. Phan Quang (1873 - 1939): Tiến sĩ triều Nguyễn

Phan Quang sinh năm 1873 tại xã Quế Châu, huyện Quế Sơn, tỉnh Quảng Nam ngày nay.

Khoa thi Giáp Ngọ 1894, ông đậu Cử nhân tại trường thi Thừa Thiên; khoa thi Mậu Tuất 1898, ông đỗ Tiến sĩ, một trong những “Ngũ phụng tề phi” của Quảng Nam. Cuộc đời làm quan của ông trải các chức: Tri huyện Lệ Thủy,

23

Page 24: Đề án bổ sung Quỹ tên đường tỉnh Quảng Nam

Bố Trạch (Quảng Bình); Án sát Bình Định; Tham tri bộ Hình. Năm 1939 ông về hưu, được tặng hàm Lễ bộ Thượng thư. Người đương thời thường gọi ông là cụ Thượng Phước Sơn để phân biệt các nhân vật nổi tiếng đương thời là Hà Đình Nguyễn Thuật và Trung Lộc Nguyễn Đình Hiến.

Các con của ông sau này đều có những đóng góp cho nước nhà trên các lĩnh vực văn học, báo chí (nhà văn Phan Du), lịch sử (Giáo sư Phan Khoang) và quân sự (Thiếu tướng Phan Xuân).

Hiện nay, thành phố Đà Nẵng đã đặt tên đường Phan Quang. (Nguồn: Quảng Nam đất nước và nhân vật )

29. Nguyễn Quyền (1869 - 1941): Chí sĩ yêu nước; người sáng lập phong trào Đông Kinh nghĩa thục

Nguyễn Quyền, hiệu là Đông Đường, sinh năm 1869 tại làng Thượng Trì, nay thuộc huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh. Do ông từng đỗ Tú tài khoa Tân Mão năm 1891, được bổ làm Huấn đạo tỉnh Lạng Sơn, nên người đương thời thường gọi ông là Huấn Quyền.

Năm 1907, ông từ quan rồi cùng với Lương Văn Can lập trường Đông Kinh nghĩa thục ở Hà Nội, cổ động canh tân, học chữ Quốc ngữ. Lương Văn Can đứng tên làm Hiệu trưởng trường còn ông làm Giám học của trường này. Sau 9 tháng trường đã bị đóng cửa.

Ngoài trường Đông Kinh, Nguyễn Quyền cũng là người đứng ra lập hãng Hồng Tân Hưng bán hàng công nghệ nội hoá với mục đích tự cường kinh tế và cạnh tranh với các hãng buôn ngoại quốc. Năm 1908, nhân xảy ra vụ Hà thành đầu độc, thực dân Pháp lấy cớ bắt đóng cửa trường Đông Kinh và ông bị bắt giam ở Hỏa Lò (Hà Nội), kết án khổ sai chung thân rồi đem đày ra Côn Đảo.

Năm 1910 ông được tha về, nhưng bị “an trí” tại Bến Tre cùng với một số chí sĩ khác như Dương Bá Trạc, Võ Hoành... Năm 1920 ông đến Rạch Giá, Sa Đéc rồi về sống tại Bến Tre và mất tại đây.

Hiện nay, thành phố Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh và nhiều tỉnh đã đặt tên đường Nguyễn Quyền.

(Nguồn: Lịch sử phong trào Đông du)

30. Dương Thị Xuân Quý (1941 - 1969): Liệt sĩ; nhà văn

24

Page 25: Đề án bổ sung Quỹ tên đường tỉnh Quảng Nam

Dương Thị Xuân Quý sinh năm 1941 tại Hà Nội, quê gốc thôn Phú Thị, xã Mễ Sở, huyện Văn Giang, tỉnh Hưng Yên. Ông nội bà là cụ Dương Trọng Phổ, một chí sĩ yêu nước của phong trào Đông Kinh Nghĩa Thục.

Tốt nghiệp khóa Báo chí do Ban Tuyên giáo Trung ương tổ chức, Dương Thị Xuân Quý nhận công tác làm phóng viên báo Phụ nữ Việt Nam từ năm 1961 đến năm 1968. Năm 1968, Dương Thị Xuân Quý gửi con gái mới 16 tháng tuổi cho mẹ, tình nguyện vào chiến trường miền Nam; nhận nhiệm vụ phóng viên tạp chí Văn nghệ Giải phóng Trung Trung bộ (thuộc Ban Tuyên huấn Khu V).

Đêm 8 tháng 3 năm 1969, bà đã hy sinh tại thôn Thi Thại, nay thuộc xã Duy Thành, huyện Duy Xuyên, trong một trận càn của quân Đại Hàn.

Ngay trong những ngày tháng chiến đấu gian khổ, trong nỗi nhớ con của người mẹ trẻ, bà vẫn cho ra đời những sáng tác, trong đó bao gồm những sáng tác về cuộc chiến đấu và những vùng đất, con người Quảng Nam, như “Tiếng hát trong hang đá”, “Hoa rừng”, “Niềm vui thầm lặng”... Năm 2007 nhà văn, liệt sĩ Dương Thị Xuân Quý đã được truy tặng giải thưởng Nhà nước về văn học nghệ thuật.

Hiện nay, thành phố Đà Nẵng đã đặt tên đường Dương Thị Xuân Quý. (Nguồn: Chân dung nhà văn Việt Nam)

31. Nguyễn Sinh Sắc (1862 - 1929):

Nguyễn Sinh Sắc, thường gọi là Cụ Phó bảng, sinh năm 1862 tại Nam Đàn, tỉnh Nghệ An. Ông là thân sinh của Nguyễn Sinh Cung - tức Chủ tịch Hồ Chí Minh.

Thuở nhỏ ông nổi tiếng thông minh. Năm 1894 ông đỗ Cử nhân. Năm sau không đậu kỳ thi Hội, dù gia cảnh nghèo, nhưng ông quyết tâm theo đuổi khoa cử; năm 1901, ông đỗ Phó bảng. Với quan niệm học để làm người chớ không phải học để làm quan, trong hoàn cảnh đất nước bị thực dân Pháp đô hộ, sau khi đỗ đạt, ông đã hai lần từ chối ra làm quan, sống thanh đạm bằng nghề dạy học, nghiên cứu tân thư, kết bạn tâm giao với các sĩ phu yêu nước như Phan Bội Châu, Vương Thúc Quý, Phan Chu Trinh… và đặc biệt chú tâm dạy dỗ con cái.

Năm 1906, khi không còn lý do thoái thác, ông đành phải ra nhận chức Hành tẩu bộ Lễ; năm 1909, ông được đưa vào Bình Khê (Bình Định) nhận chức Tri huyện. Ông thường giao du với các nhà Nho yêu nước ở địa phương, cho những nông dân thiếu tiền thuế, những người tham gia phong trào chống thuế… đang bị giam cầm, trốn thoát. Ông đứng về phía nông dân chống lại giai cấp

25

Page 26: Đề án bổ sung Quỹ tên đường tỉnh Quảng Nam

thống trị. Nhân vụ một tên cường hào bị ông bắt giam rồi chết sau khi thả ra hai tháng, ông bị triều đình phạt 100 trượng, sau giáng bốn cấp và thải hồi. Ông vào Phan Thiết tháng 3/1911, rồi đến Sài Gòn, cùng Nguyễn Tất Thành xuống Mỹ Tho gặp Phan Chu Trinh, trong lúc Phan Chu Trinh đang chuẩn bị sang Pháp.

Ông đi khắp các tỉnh Nam Bộ và đôi lần sang tận Campuchia. Đến đâu ông cũng tìm cách quan hệ với các nhà sư, nhà Nho yêu nước, chính trị phạm của các phong trào Cần Vương, Đông Du, Duy Tân. Năm 1917, ông về Cao Lãnh, kết thân với nhiều nhà Nho yêu nước trong đó có ông Lê Văn Đáng, Trần Bá Lê, Võ Hoành. Ông Trần Bá Lê cất cho ông một gian nhà nhỏ để ông xem mạch cho toa và dạy nghề thuốc. Ông ở Cao Lãnh đến hết năm 1919.

Ông quan hệ với nhiều tổ chức Việt Nam Thanh niên cách mạng đồng chí Hội ở đồng bằng sông Cửu Long và thường xuyên bị mật thám bám sát theo dõi. Đầu năm 1928, ông về ở Cao Lãnh. Tổ chức Việt Nam Thanh niên cách mạng đồng chí Hội ở Cao Lãnh, đứng đầu là Phạm Hữu Lầu, cho người sắp xếp đưa ông về ở nhà ông Năm Giáo. Hàng ngày ông đến tiệm thuốc bắc Hằng An Đường ở chợ Cao Lãnh làm nghề thuốc giúp đỡ dân nghèo. Tháng 11/1929, ông qua đời, được đồng bào Hoà An, Cao Lãnh chôn cất bên cạnh chùa Hoà Long (phường 4, thành phố Cao Lãnh ngày nay).

Hiện nay, thành phố Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh và nhiều tỉnh đã đặt tên đường Nguyễn Sinh Sắc.

(Nguồn: Địa chí tỉnh Nghệ An)

32. Trần Ngọc Sương (1949 - 1972): Liệt sĩ; Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân

Anh hùng Trần Ngọc Sương sinh năm 1949 tại xã Tiên Thọ, huyện Tiên Phước, tỉnh Quảng Nam. Khi hy sinh, ông là thiếu uý, Huyện đội phó huyện Tiên Phước.

Ông nhập ngũ tháng 1 năm 1968, cho đến khi hy sinh, anh đã tham gia đánh 170 trận, đều dũng cảm, mưu trí, chỉ huy linh hoạt, dẫn đầu đơn vị vượt qua mọi khó khăn, ác liệt; đã chỉ huy đơn vị diệt hơn 1.000 tên địch, phá huỷ nhiều phương tiện chiến tranh, hỗ trợ đắc lực cho phong trào đấu tranh của nhân dân trong huyện. Riêng anh diệt 430 tên địch (có 47 Mỹ), phá huỷ 4 xe bọc thép, bắn rơi 1 máy bay lên thẳng.

Ngày 12 tháng 5 năm 1972, trong một trận đánh, Trần Ngọc Sương đã anh dũng hy sinh.

26

Page 27: Đề án bổ sung Quỹ tên đường tỉnh Quảng Nam

Với những thành tích trong chiến đấu và chỉ huy chiến đấu, Trần Ngọc Sương đã được tặng thưởng Huân chương Chiến công giải phóng hạng nhất, nhiều bằng khen, 6 lần được tặng danh hiệu Dũng sỹ diệt Mỹ. Ngày 6 tháng 11 năm 1978, liệt sĩ Trần Ngọc Sương đã được Chủ tịch nước Công hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam truy tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân.

(Nguồn: Lịch sử đảng bộ huyện Tiên Phước)

33. Trần Quốc Tảng (1252 - 1313): Danh tướng triều Trần; người có công trấn giữ vùng biển, đảo phía Đông Bắc của Tổ quốc

Trần Quốc Tảng được phong tước Hưng Nhượng Vương, là con trai thứ ba của Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn. Từ nhỏ, ông đã nổi danh là người “Tính khí mạnh mẽ, thích trừ bọn bạo ngược”.

Trong cuộc kháng chiến chống quân Nguyên - Mông xâm lược lần thứ hai (1885), ông tập hợp quân từ trang ấp của mình để tham gia, góp phần chiến thắng quân giặc. Sau đó, ông được vua Trần ban đất lập ấp ở vùng Tĩnh Bang (Quảng Ninh), trấn giữ vùng đất Cửa Suốt - cửa ngõ phía Đông Bắc của Tổ quốc. Năm 1287, khi quân Nguyên - Mông vào xâm lược nước ta lần thứ ba, Trần Quốc Tảng được giao trấn giữ các đồn dọc biên giới phía Đông Bắc, chặn đường tiến của giặc.

Sau chiến thắng quân Nguyên - Mông, triều đình bình công xét thưởng, Trần Quốc Tảng được phong làm Tiết độ sứ.

Tháng 3 năm 1313, Hưng Nhượng Vương Trần Quốc Tảng qua đời. Vua Trần Minh Tông đã truy tặng ông chức Thái úy và cho lập đền thờ tại vùng Cửa Ông (Quảng Ninh) và sắc phong Thượng đẳng thần.

Hiện nay, thành phố Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh và nhiều tỉnh đã đặt tên đường Trần Quốc Tảng.

(Nguồn: Giáo trình Lịch sử Việt Nam)

34. Lê Văn Tâm (1945 - 1968): Liệt sĩ; Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân

Anh hùng Lê Văn Tâm sinh năm 1945 tại xã Tam Mỹ, huyện Núi Thành, tỉnh Quảng Nam. Khi hy sinh, ông là Xã đội trưởng xã Tam Mỹ.

Ông tham gia du kích xã từ năm 1962; sau đó làm Xã đội trưởng xã Tam Mỹ. Anh đã tham gia và chỉ huy lực lượng du kích xã tiêu diệt gần 400 tên địch,

27

Page 28: Đề án bổ sung Quỹ tên đường tỉnh Quảng Nam

tạo điều kiện cho phong trào đấu tranh của nhân dân trong xã phát triển mạnh mẽ. Bản thân Lê Văn Tâm diệt 49 tên, trong đó có 31 tên Mỹ.

Ngày 15 tháng 8 năm 1968, trên đường đi nắm tình hình địch nhằm lập kế hoạch diệt ác, phá kèm, ông lọt vào trận phục kích của địch. Ông đã đánh trả quyết liệt và anh dũng hy sinh.

Với những thành tích đặc biệt xuất sắc trong chiến đấu và chỉ huy chiến đấu, Lê Văn Tâm đã được tặng thưởng 3 Huân chương Giải phóng các loại, 4 danh hiệu Dũng sĩ diệt Mỹ…. Ngày 06 tháng 11 năm 1978, liệt sĩ Lê Văn Tâm đã được Chủ tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam truy tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân.

(Nguồn: Quảng Nam - chân dung Anh hùng thời đại Hồ Chí Minh)

35. Lê Tự Nhất Thống (1954 - 1971): Liệt sĩ; Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân

Anh hùng Lê Tự Nhất Thống sinh năm 1954 tại xã Điện Thắng, huyện Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam. Khi hy sinh, anh đang là thôn đội trưởng du kích.

Anh tham gia cách mạng - làm liên lạc khi mới 10 tuổi ; 14 tuổi tham gia du kích xã Điện Thắng. Trong quá trình chiến đấu, Lê Tự Nhất Thống đã tham gia hơn 30 trận đánh, cùng đơn vị tiêu diệt 156 tên địch; riêng anh tiêu diệt hơn 70 tên, thu và phá hủy nhiều vũ khí và phương tiện chiến tranh của địch; trong đó tiêu biểu là trận tiêu diệt một tiểu đội lính Mỹ vào tháng 11 năm 1970.

Ngày 7 tháng 10 năm 1971, trong một trận chiến đấu tại quê hương Điện Thắng, Lê Tự Nhất Thống đã anh dũng hy sinh.

Với những thành tích trong chiến đấu, Lê Tự Nhất Thống đã được tặng thưởng nhiều Huân, Huy chương các loại; 6 lần là Dũng sĩ diệt Mỹ. Ngày 20 tháng 12 năm 1994, liệt sĩ Lê Tự Nhất Thống được Chủ tịch nước truy tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân.

(Nguồn: Quảng Nam - chân dung Anh hùng thời đại Hồ Chí Minh)

36. Trần Thu (1880 - 1918): Chí sĩ yêu nước phong trào Việt Nam Quang phục hội

Trần Thu sinh năm 1880, trong một gia đình làm nghề thầy thuốc, tại làng Ngọc Mỹ, xã Tam Phú, Tam Kỳ, Quảng Nam.

Tháng 9 năm 1915, Thái Phiên và Trần Cao Vân tập hợp các nhân sĩ yêu nước ở hầu hết các tỉnh miền Trung đứng ra thành lập tổ chức Việt Nam Quang Phục hội. Tại Quảng Nam, phong trào này đã phát triển rất mạnh và đều khắp,

28

Page 29: Đề án bổ sung Quỹ tên đường tỉnh Quảng Nam

nhiều cơ sở được xây dựng dưới sự lãnh đạo của nhiều sĩ phu như Phan Thành Tài, Mai Dị, Trương Bá Huy... Tại Tam Kỳ, phong trào diễn ra rầm rộ và quyết liệt với nhiều sĩ phu, nhân dân tham gia. Ông lấy danh nghĩa là thầy thuốc chữa bệnh cho dân nghèo, đi lại trong và ngoài tỉnh từ Thừa Thiên Huế đến Quảng Ngãi, Bình Định để bắt liên lạc, bàn kế hoạch chuẩn bị khởi nghĩa chống Pháp. Sau đó ông trở về quê nhà, cùng với các sĩ phu yêu nước đứng ra thành lập, vận động nhân dân tham gia khởi nghĩa. Khu vườn của nhà ông trở thành nơi hội họp, tập luyện dân binh, tích trữ lương thực chuẩn bị. Tại Tam Kỳ, chiều ngày 02/5/1916 các đội dân binh được vũ trang do ông chỉ huy bao vây phủ đường và đồn Đại Lý Tam Kỳ. Thực dân Pháp đưa quân tiếp viện, tấn công lực lượng khởi nghĩa, Trần Thu và các chí sĩ bị bắt giam, đày đi Lao Bảo (Quảng Trị). Sau hai năm bị giam cầm khổ sai, ông chết tại nhà tù Lao Bảo vào năm 1918.

Mộ ông đã được UBND tỉnh Quảng Nam xếp hạng di tích lịch sử cấp tỉnh.

(Nguồn: Lịch sử Đảng bộ thành phố Tam Kỳ)

37. Lưu Quang Thuận (1921-1981): Nhà văn, nhà viết kịch

Lưu Quang Thuận sinh năm 1921 tại thành phố Đà Nẵng, là cha của nhà thơ, nhà viết kịch nổi tiếng Lưu Quang Vũ. Thuở nhỏ, ông học Trường tiểu học tại Đà Nẵng; năm cuối cùng của bậc tiểu học ông ra Huế tham dự và đoạt giải nhất cuộc thi học sinh giỏi văn toàn miền Trung. Ngay từ lúc còn  đi học, ông đã có thơ và truyện ngắn được đăng báo ở Hà Nội, Sài Gòn.

Năm 1937, ông vào Sài Gòn dạy học và làm báo. Năm 1941, ông viết vở kịch đầu tay Chu Du đại chiến Uất Trì, được Hội Hướng đạo học sinh - sinh viên Đà Nẵng dàn dựng và biểu diễn nhiều lần ở Đà Nẵng, Hội An, …

Năm 1943, ông ra Hà Nội, tiếp tục viết báo, làm thơ và soạn kịch; sáng tác hàng loạt vở kịch thơ, kịch nói. Năm 1944, ông tham gia Ban kịch Anh Vũ do Thế Lữ chủ trì.

Năm 1946, ông tham gia kháng chiến chống Pháp; là một trong những người sáng lập Tạp chí Sân khấu và làm Giám đốc Việt Nam thư ấn cục của Chính phủ Việt Nam Dân chủ cộng hòa tại chiến khu Việt Bắc.

Năm 1948, ông hoạt động trong Đoàn kịch Chiến Thắng, sau chuyển về Đoàn Văn công nhân dân Trung ương năm 1951. Từ năm 1954 đến 1964, ông làm việc tại Đài Phát thanh Tiếng nói Việt Nam, NXB Văn học, Báo Văn nghệ. Từ năm 1965, ông công tác tại Nhà hát Chèo Việt Nam.

29

Page 30: Đề án bổ sung Quỹ tên đường tỉnh Quảng Nam

Lưu Quang Thuận là tác giả của khoảng 40 vở kịch, chèo... Các tác phẩm của ông được đánh giá là thấm đượm tình yêu non sông, nòi giống, lòng tự hào dân tộc và tinh thần chống ngoại xâm. Trong đó, hai tác phẩm chèo Tấm Cám và Mối tình Điện Biên của ông được đánh giá là những mốc son trong nghệ thuật chèo hiện đại Việt Nam. Ông đã được truy tặng Giải thưởng Nhà nước về văn học nghệ thuật.

Hiện nay, thành phố Đà Nẵng đã đặt tên đường Lưu Quang Thuận. (Nguồn: Quảng Nam đất nước và nhân vật)

38. Lương Đình Thự (1871 - 1917): Chí sĩ yêu nước phong trào Việt Nam Quang phục hội.

Lương Đình Thự sinh năm 1871 tại làng Quí Thượng, huyện Hà Đông, (nay là thôn 2, xã Tam Phú, Tam Kỳ, Quảng Nam). Xuất thân trong một gia đình nhà Nho nên sau này ông trở thành nhà giáo có uy tín trong làng.

Thân sinh ông đã từng tham gia các phong trào yêu nước như phong trào chống thuế (1908), phong trào Duy Tân nên ít nhiều đã tác động đến tinh thần yêu nước của ông ngay từ lúc thiếu thời. Sau khi trở thành nhà giáo, ông đã bắt đầu tham gia các cuộc đấu tranh đòi độc lập do những sĩ phu yêu nước khởi xướng.

Năm 1916, phong trào đấu tranh ở Tam Kỳ phát triển mạnh, ông cùng với Trịnh Uyên, Trần Thu, Nguyễn Thiện... vận động quần chúng ở vùng đông Tam Kỳ tham gia cuộc khởi nghĩa của Việt Nam Quang Phục hội. Tháng 5 năm 1916, ông cùng với các sĩ phu vận động nhân dân kéo về vây kín Phủ Đường và đồn Đại Lý Tam Kỳ. Với khí thế sục sôi đấu tranh của quần chúng, lực lượng khởi nghĩa đã tiến vào chiếm lấy phủ đường, nhưng sau đó thực dân Pháp điều động lực lượng để phản công, nhiều người lãnh đạo cuộc đấu tranh đã bị bắt, ông bị đày đi Lao Bảo và mất trong tù năm 1917.

Mộ ông đã được UBND tỉnh Quảng Nam xếp hạng di tích lịch sử cấp tỉnh.

(Nguồn: Lịch sử Đảng bộ thành phố Tam Kỳ)

39. Nguyễn Thược (1870 - 1918): Chí sĩ yêu nước phong trào Việt Nam Quang phục hội.

Nguyễn Thược sinh năm 1870, quê làng Ngọc Mỹ, xã Tam Phú, Tam Kỳ. Hưởng ứng phong trào Duy Tân do Thái Phiên và Trần Cao Vân lãnh đạo, tại phủ Tam Kỳ, ông cùng các một số sỹ phu yêu nước tích cực tham gia và vận động nhân dân chuẩn bị cho một cuộc khởi nghĩa quy mô chống lại thực dân

30

Page 31: Đề án bổ sung Quỹ tên đường tỉnh Quảng Nam

Pháp. Ở Tam Kỳ, Quảng Nam cuộc khởi nghĩa nổ ra vào ngày 03/5/1916, Nguyễn Thược cùng các sỹ phu khác đã dẫn theo các đội dân binh từ vùng Kim Đới, Ngọc Mỹ, Thượng Thanh, Hạ Thanh... phối hợp với các cánh quân khác bao vây Phủ đường và đồn Đại Lý. Nhưng do đã có sự chuẩn bị đối phó từ trước, thực dân Pháp nhanh chóng khống chế, đàn áp dã man và dập tắt cuộc khởi nghĩa. Nguyễn Thược bị bắt và lưu đày ở nhà tù Lao Bảo. Sau nhiều năm bị giam cầm và tra tấn, ông chết trong tù vào năm 1918.

Mộ ông đã được UBND tỉnh Quảng Nam xếp hạng di tích lịch sử cấp tỉnh.

(Nguồn: Lịch sử Đảng bộ thành phố Tam Kỳ)

40. Lê Thiệt (1940 - 1972): Liệt sĩ; Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân

Anh hùng Lê Thiệt sinh năm 1940 tại xã Quế Phú, huyện Quế Sơn, tỉnh Quảng Nam. Khi hy sinh, ông là Xã đội trưởng xã Quế Phú.

Ông tham gia du kích từ năm 1964; đã tham gia chiến đấu và chủ huy du kích xã đánh hàng trăm trận, tiêu diệt hàng ngàn tên địch. Bản thân ông đã diệt và làm bị thương gần 400 tên, bắn cháy 3 xe quân sự của địch. Tiêu biểu là trận đánh chi đội xe bọc thép của địch (tháng 2/1964), Lê Thiệt đã dùng mìn diệt 2 xe cùng toàn bộ lính trên xe; trận phục kích tiêu diệt địch ở cầu Hương An (3/1965); trận chống càn ở thôn Phú Hương (3/1971)….

Trong quá trình chiến đấu và chỉ huy chiến đấu, ông luôn thể hiện tinh thần dũng cảm, mưu trí, linh hoạt, không sợ hy sinh, được đồng đội và nhân dân quý mến.

Tháng 9/1972, trong một trận chiến đấu quyết liệt, ông đã anh dũng hy sinh tại quê hương Quế Phú. Ông đã được tặng thưởng nhiều Huân, Huy chương. Ngày 06 tháng 11 năm 1978, liệt sĩ Lê Thiệt đã được Chủ tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam truy tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân.

(Nguồn: Quảng Nam - chân dung Anh hùng thời đại Hồ Chí Minh)

41. Nguyễn Công Tòng: Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân

31

Page 32: Đề án bổ sung Quỹ tên đường tỉnh Quảng Nam

Anh hùng Nguyễn Công Tòng sinh năm 1935 tại xã Tam Nghĩa, huyện Núi Thành, tỉnh Quảng Nam. Khi được phong anh hùng, ông là đại đội trưởng đại đội 3, tiểu đoàn 93, trung đoàn 2, sư đoàn 3, Quân khu V.

Ông tham gia cách mạng từ cuộc kháng chiến chống Pháp. Sau năm 1954, ông tập kết ra Bắc; năm 1961 trở về quê hương chiến đấu. Từ năm 1961 đến năm 1966, ông đã tham đánh 31 trận, diệt và bắt sống nhiều tên địch.

Trong trận Thuần Mẫn, tháng 6-1965, ông đã chỉ huy 1 trung đội, đánh thẳng vào cơ sở chỉ huy chiến đoàn dù của quân ngụy. Trong lúc chiến đấu, thấy phân đội bạn gặp khó khăn, Nguyễn Công Tòng chủ động dẫn đơn vị sang đánh chi viện, bẻ gãy 3 đợt phản kích của địch. Kết quả trận đánh, trung đội của ông đã diệt gọn ban chỉ huy chiến đoàn dù địch, 1 trung đội thông tin, phá hủy 7 xe Jeep và xe GMC, bắn rơi 1 máy bay L19; cùng phân đội bạn diệt gọn 1 đại đội pháo gồm 5 khẩu pháo 105 ly. Đặc biệt khi vào trận, Nguyễn Công Tòng vừa chỉ huy chiến đấu, vừa tổ chức đưa thương binh về tuyến sau an toàn .

Tháng 11-1965, đơn vị tổ chức tập kích địch đóng trên đồi cao ở Gò Riêng, ông mưu trí chọn chỗ dốc cao hiểm, bất ngờ tấn công địch. Chỉ sau 15 phút, quân ta đã làm chủ trận địa, diệt gọn 1 đại đội biệt kích. Riêng phân đội của ông diệt 47 tên, bắt sống 7 tên. Ông đã được tặng thưởng Huân chương chiến công Giải phóng hạng nhất. Ngày 17 tháng 9 năm 1967, ông được Ủy ban trung ương Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam tặng thưởng Huân chương Quân công giải phóng hạng Ba và danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân.

(Nguồn: Quảng Nam - chân dung Anh hùng thời đại Hồ Chí Minh)

42. Đoàn Xuân Trinh: Nguyên Bí thư Chi bộ Đảng đầu tiên của huyện Quế Sơn

Đoàn Xuân Trinh sinh năm 1902 tại làng Hòa Mỹ, nay thuộc xã Quế Phú, huyện Quế Sơn, tỉnh Quảng Nam.

Trước khi đến với cách mạng, Đoàn Xuân Trinh từng dạy học tại Điện Bàn, Quế Sơn; từng tham gia phong trào đấu tranh đòi thả Phan Bội Châu và để tang Phan Châu Trinh.

Tháng 4 năm 1929, tại Dốc Tầng (Quế Sơn), Bí thư Tỉnh ủy Quảng Nam Phạm Thâm đã tổ chức một hội nghị, kết nạp Đoàn Xuân Trinh cùng một số đồng chí khác vào Đảng Cộng sản Việt Nam, đồng thời thành lập Chi bộ ghép Phú Trạch - Phương Trì - Hòa Mỹ, do Đoàn Xuân Trinh làm Bí thư. Đây là chi

32

Page 33: Đề án bổ sung Quỹ tên đường tỉnh Quảng Nam

bộ Đảng Cộng sản Việt Nam đầu tiên được thành lập trên địa bàn huyện Quế Sơn. Tháng 9 năm 1930, Tỉnh ủy Quảng Nam ra quyết định thành lập Huyện ủy Quế Sơn và chỉ định Đoàn Xuân Trinh là Bí thư Huyện ủy lâm thời.

Cuối năm 1930, Đoàn Xuân Trinh bị địch bắt và bị giam ở nhà lao Hội An. Cuối năm 1932, ông ra tù và tiếp tục tham gia phong trào cách mạng ở địa phương.

Trong Cách mạng tháng Tám năm 1945, ông tham gia khởi nghĩa cướp chính quyền ở địa phương. Kháng chiến chống Pháp bùng nổ, ông được bầu vào Ban Chấp hành Đảng bộ huyện; sau làm Giám đốc Ngân hàng Liên khu 5.

Năm 1954, ông tập kết ra Bắc, công tác tại Ngân hàng thành phố và mất tại Hà Nội.

(Nguồn: Lịch sử Đảng bộ huyện Quế Sơn)

43. Hồ Truyền (1920 - 1967): Liệt sĩ; nguyên Bí thư Huyện ủy Nam Tam Kỳ

Liệt sĩ Hồ Truyền sinh năm 1920 tại xã Tam Hải, huyện Núi Thành, tỉnh Quảng Nam. Khi hy sinh, ông đang làm Bí thư Huyện ủy Nam Tam Kỳ, phụ trách vành đai diệt Mỹ Chu Lai (nay là huyện Núi Thành).

Sau năm 1954, ông được phân công ở lại hoạt động bí mật. Đầu năm 1955, Tỉnh ủy Quảng Nam điều động và bổ sung Hồ Truyền vào Ban Thường vụ Huyện ủy Tam Kỳ và giữ chức Phó Bí thư Huyện ủy, trực tiếp xây dựng cơ sở cách mạng tại xã Tam Hải, Tam Hiệp, Tam Xuân, Tam Giang, Tam Quang.

Năm 1959, ông được bầu bổ sung vào Tỉnh ủy Quảng Nam và điều động làm Trưởng Ban cán sự huyện Tiên Phước

Từ năm 1960-1963, ông được bầu làm Bí thư Huyện ủy Tiên Phước. Với cương vị là cán bộ chủ chốt của huyện, ông đã cùng cán bộ và nhân dân trong huyện tổ chức thực hiện Nghị quyết của Huyện ủy là lập trung tâm lãnh đạo phong trào cách mạng trong tình hình mới. Quyết tâm giữ vững vùng căn cứ địa và phát triển vùng hậu phương, kêu gọi nhân dân chiến đấu anh dũng kiên cường với Đế quốc Mỹ và bọn tay sai, giành thắng lợi giải phóng các xã Tiên Lãnh, Tiên Ngọc, …. Đây là những địa bàn trọng yếu của căn cứ địa cách mạng, làm bàn đạp để bảo vệ cho hoạt động của Tỉnh ủy Quảng Nam

Năm 1965, Tỉnh ủy Quảng Nam đã điều động ông làm Bí thư Huyện ủy Nam Tam Kỳ (Núi Thành) để lãnh đạo phong trào cách mạng. Ông đã cùng với

33

Page 34: Đề án bổ sung Quỹ tên đường tỉnh Quảng Nam

Ban Thường vụ Huyện ủy lãnh đạo quân và dân trụ bám giữ đất, giữ làng xây dựng cơ sở cách mạng, đồng thời xây dựng Vành đai diệt Mỹ Chu Lai…

Năm 1967 trong một lần đi kiểm tra để chuẩn bị cho các trận đánh tiếp theo ở các xã vùng Đông của huyện, ông đã bị địch bao vây và hy sinh.

(Nguồn: Lịch sử Đảng bộ huyện Núi Thành)

44. Lê Thanh Trường (1950 - 1971): Liệt sĩ; Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân

Anh hùng Lê Thanh Trường sinh năm 1950 tại xã Quế Phú, huyện Quế Sơn, tỉnh Quảng Nam. Khi hy sinh đang làm Đội trưởng Đội trinh sát vũ trang - Ban an ninh tỉnh Quảng Nam.

Lê Thanh Trường tham gia lực lượng an ninh và được điều về Đội Trinh sát vũ trang của tỉnh từ năm 1964. Nêu cao tinh thần mưu trí, dũng cảm, anh đã tham gia chiến đấu 86 trận, tiêu diệt và làm bị thương gần 200 tên ác ôn, ngụy quân, ngụy quyền; trong đó tiêu biểu là trận tiêu diệt tên xã trưởng xã Kỳ Sơn (Tam Kỳ), một tên ác ôn khét tiếng và có nhiều nợ máu với nhân dân.

Ngày 7 tháng 8 năm 1971, quân Mỹ tổ chức cuộc càn quét, bao vây quy mô lớn vào khu căn cứ Tỉnh ủy Quảng Nam. Lúc này, trong vai trò là Đội trưởng Đội trinh sát vũ trang - Ban an ninh tỉnh Quảng Nam, Lê Thanh Trường đã chỉ huy đơn vị chiến đấu quyết liệt, đồng thời tổ chức sơ tán tài liệu và bảo vệ an toàn cho các đồng chí lãnh đạo. Sau nhiều trận chiến đấu bẻ gãy các đợt tiến công của địch, Lê Thanh Trường đã anh dũng hy sinh.

Ngày 03 tháng 8 năm 1995, liệt sĩ Lê Thanh Trường được Chủ tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam truy tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân.

(Nguồn: Quảng Nam - chân dung Anh hùng thời đại Hồ Chí Minh)

45. Ngô Tuận (1920 - 1958): Liệt sĩ; Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân

Anh hùng Ngô Tuận sinh năm 1920 tại làng Phương Trì, nay thuộc xã Quế Phú, huyện Quế Sơn, tỉnh Quảng Nam.

Ông tham gia cách mạng từ phong trào Dân chủ những năm 1936 - 1939 và trở thành thành viên chủ chốt của nhóm Thanh niên dân chủ tại địa phương.

34

Page 35: Đề án bổ sung Quỹ tên đường tỉnh Quảng Nam

Tháng 10 năm 1939, Ngô Tuận được kết nạp vào Đảng Cộng sản Đông Dương. Tháng 2 năm 1942 ông bị bắt và bị kết án hai năm tù giam; sau đó bị đưa đi an trí tại Huế. Khi Nhật đảo chính Pháp (3/1945), ông cùng các đồng chí của mình vượt ngục trở về, tiếp tục tham gia cách mạng.

Trong những năm kháng chiến chống Pháp, ông tham gia công tác Việt Minh ở xã; được bầu vào Đảng bộ huyện; sau được cử đi học ở trường Đảng Mác - Lê nin ở Trung Quốc…

Sau tháng 7 năm 1954, ông được phân công về công tác tại Quảng Nam; được bổ sung vào Ban Chấp hành Đảng bộ Quế Sơn và được cử làm Bí thư Huyện ủy. Đây là thời kỳ địch tăng cường đánh phá các cơ sở cách mạng với những đợt “Tố cộng, diệt cộng”. Với cương vị là Bí thư Huyện ủy, ông đã kiên trì trụ bám, lặn lội với phong trào, đồng thời củng cố, xây dựng và phát triển cơ sở trong vùng… Nhờ đó, phong trào cách mạng của Quế Sơn cơ bản vẫn được giữ vững, khi thế cách mạng của nhân dân vẫn được nuôi dưỡng. Kẻ thù cũng ra sắc truy tìm để bắt Ngô Tuận.

Đầu tháng 11 năm 1958, khi đang ở nhà một cơ sở, Ngô Tuận đã bị phản bội, bị kẻ thù bao vây và bắt được. Trước những đòn tra tấn dã man và các thủ đoạn dụ dỗ, mua chuộc của kẻ thù, đồng chí vẫn kiên trung, không khai báo. Ông hy sinh trong nhà lao Quế Sơn.

Ngày 23 tháng 2 năm 2010, liệt sĩ Ngô Tuận đã được Chủ tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam truy tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân.

(Nguồn: Quảng Nam - Những tấm gương cộng sản)

46. Hàn Mặc Tử ( 1912 - 1940): Nhà thơ, người khởi đầu cho dòng thơ lãng mạn hiện đại Việt Nam

Hàn Mặc Tử, tên thật là Nguyễn Trọng Trí, sinh năm 1912 tại làng Lệ Mỹ, nay thuộc thành phố Đồng Hới, tỉnh Quảng Bình; lớn lên ở Quy Nhơn, tỉnh Bình Định.

Hàn Mặc Tử nổi danh trên thi đàn Việt Nam từ rất sớm, khi mới 16 tuổi. Ông cùng với các nhờ thơ Quách Tấn, Yến Lan, Chế Lan Viên được người đương thời ở Bình Định gọi là Bàn thành tứ hữu, nghĩa là bốn người bạn ở thành Đồ Bàn.

Ông cũng đã từng gặp gỡ Phan Bội Châu và chịu ảnh hưởng khá lớn của chí sỹ này. Ông được Phan Bội Châu giới thiệu bài thơ Thức khuya của mình lên

35

Page 36: Đề án bổ sung Quỹ tên đường tỉnh Quảng Nam

một tờ báo. Sau này, ông nhận một suất học bổng đi Pháp nhưng vì thân thiết với nhà chí sĩ yêu nước này nên việc du học của ông bị nhà cầm quyền Pháp đình lại. Ông quyết định vào Sài Gòn lập nghiệp, làm thơ, viết báo.

Cuối đời, do bệnh tật, ông đã quay về Quy Nhơn và vào nhà thương Quy Hòa; sau ông mất tại đây khi mới bước sang tuổi 28.

Hiện nay, thành phố Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh, Đà Nẵng và nhiều tỉnh đã đặt tên đường Hàn Mặc Tử.

(Nguồn: Thi nhân Việt Nam)

47. Nguyễn Đình Tựu (1828 - 1888): Nhà giáo triều Nguyễn

Nguyễn Đình Tựu, tự là Doãn Ngũ, Vọng Chi, sinh năm 1828 tại làng Hội An, nay thuộc xã Tiên Châu, huyện Tiên Phước, tỉnh Quảng Nam.

Ông đỗ Cử nhân khoa Tân Dậu (1861); đỗ Phó Bảng khoa Mậu Thìn (1868); làm quan trải các chức: Đốc học Quảng Nam, Tế tửu Quốc Tử giám (như Giám đốc Trường Đại học Quốc gia ngày nay), Thị giảng học sĩ - hàng tuần giảng sách cho vua. Ông còn được vua Tự Đức giao dạy học cho các hoàng tử Ưng Chân, Ưng Đăng.

Năm 1886, vua Đồng Khánh bổ nhiệm ông giữ chức Sơn phòng sứ Quảng Nam thay Tiến sĩ Trần Văn Dư. Theo Huỳnh Thúc Kháng, sau khi Nghĩa hội tan ra, các lãnh tụ của Nghĩa hội hy sinh, Nguyễn Đình Tựu đã đứng ra che chở, bảo lãnh nhiều thành viên khác.

Năm 1887, Nguyễn Đình Tựu về Huế và tiếp tục nhận chức Thị giảng, sau đó về làm Đốc học Quảng Nam cho đến khi qua đời (năm 1888).

Ông là người mô phạm khuôn mẫu, uyên bác nổi tiếng, đào tạo được nhiều nhà khoa bảng yêu nước đương thời.

(Nguồn: Địa chí Quảng Nam - Đà Nẵng)

48. Trịnh Uyên (1875 - 1916): Chí sĩ yêu nước phong trào Việt Nam Quang phục hội

Trịnh Uyên sinh năm 1875, quê làng Kim Đới, Tam Thăng, Tam Kỳ. Tháng 9 năm 1915, Thái Phiên và Trần Cao Vân đã cùng với nhiều sĩ phu các tỉnh lân cận đứng ra thành lập Việt Nam Quang Phục Hội, Trịnh Uyên cùng với một số người khác ở quê nhà đã tham gia. Tại Tam Kỳ phong trào phát triển khá

36

Page 37: Đề án bổ sung Quỹ tên đường tỉnh Quảng Nam

mạnh, ngày 03/5/1916, cuộc khởi nghĩa nổ ra, các cánh quân từ khắp nơi trong phủ đã đồng loạt kéo về bao vây phủ đường, trong đó có cánh quân vùng Đông Tam Kỳ do Trịnh Uyên lãnh đạo.

Trước khí thế sục sôi căm hờn của nhân dân, bọn quan lại và thực dân Pháp đã vội vàng lẩn trốn, cờ khởi nghĩa được kéo lên thay thế cờ Tam tài của Phủ Đường. Nhưng sau đó thực dân Pháp đã huy động lực lượng đến cứu viện cho đồng bọn và đàn áp cuộc khởi nghĩa, Trịnh Uyên bị hy sinh, lãnh binh Trần Huỳnh bị bắt và sau đó bị xử chém, các sĩ phu lần lượt bị bắt, tra tấn và lưu đày khắp các nhà lao.

Mộ ông đã được UBND tỉnh Quảng Nam xếp hạng di tích lịch sử cấp tỉnh.

(Nguồn: Lịch sử Đảng bộ thành phố Tam Kỳ)

49. Lê Tấn Viễn (1932 - 2000): Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân; người chỉ huy trận đánh của những Dũng sĩ Điện Ngọc

Lê Tấn Viễn (còn gọi là Lê Tấn Hiền, Bảy Hiền) sinh năm 1932 tại xã Điện Nam (nay là xã Điện Nam Bắc), huyện Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam.

Từ năm 15 tuổi, ông đã tham gia cách mạng, làm liên lạc và trinh sát cho bộ đội địa phương của huyện. Tuy tuổi còn nhỏ nhưng Viễn là một  thiếu niên dũng cảm, mưu trí, luồn lách qua các vùng trọng yếu của địch để chuyển tài liệu, đi trinh sát...

Đầu năm 1953, Lê Tấn Viễn được điều về Đại đội đặc công thuộc Tỉnh đội Quảng Nam; tham gia nhiều trận đánh ở Đại Lộc, Đà Nẵng. Tháng 4-1954, ông bị thương nặng khi tham gia tiêu diệt một đại đội địch tại Câu Lâu. Sau đó, ông tập kết ra Bắc.

Tháng 7-1959, sau khi trở về miền Nam, ông được Tỉnh ủy Quảng Nam giao nhiệm vụ huấn luyện lực lượng vũ trang các huyện Hiên, Giằng, Trà My và Tam Kỳ; tham gia trận đánh tiêu diệt đồn Bót Xít (huyện Giằng) và cứ điểm Ga Lâu (huyện Hiên)… Ngày 26 tháng 2 năm1964, ông chỉ huy một bộ phận gồm 7 chiến sĩ đặc công của tỉnh và một số cán bộ chính trị huyện Điện Bàn về xây dựng cơ sở ở vùng cát phía đông. Trong khi di chuyển, bộ phận công tác đã bị địch phát hiện và trận đánh nổi tiếng của những Dũng sĩ Điện Ngọc với hàng trăm tên địch đã diễn ra trong suốt một ngày.

Trận đánh ngày 26 tháng 2 năm 1964 tại giếng cạn Điện Ngọc đã đi vào lịch sử đánh giặc Mỹ của nhân dân Điện Bàn, thúc đẩy mạnh mẽ phong trào đấu

37

Page 38: Đề án bổ sung Quỹ tên đường tỉnh Quảng Nam

tranh cách mạng ở địa phương. Nơi diễn ra trận đánh đã được công nhận là Di tích lịch sử cấp quốc gia.

Ông mất năm 2000. Năm 2010, ông được truy tặng danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân.

(Nguồn: Lịch sử Đảng bộ huyện Điện Bàn)

50. Lưu Quang Vũ (1948 - 1988): Nhà thơ, nhà viết kịch

Nhà viết kịch Lưu Quang Vũ sinh năm 1948 tại xã Thiệu Cơ, huyện Hạ Hòa, tỉnh Phú Thọ; quê ở quận Hải Châu, thành phố Đà Nẵng; là con trai của nhà viết kịch nổi tiếng Lưu Quang Thuận.

Năm 1965 ông nhập ngũ, thuộc quân chủng Phòng không - Không quân. Từ năm 1970, sau khi xuất ngũ, ông tham gia viết báo và sáng tác văn chương.

Từ năm 1978, ông làm biên tập cho Tạp chí Sân khấu. Cũng trong năm này ông viết kịch bản đầu tay “Sống mãi tuổi 17”; tác phẩm được tặng Huy chương vàng tại Hội diễn sân khấu toàn quốc 1980.

          Năm 1985, trong Hội diễn sân khấu chuyên nghiệp toàn quốc, Lưu Quang Vũ có 8 vở kịch tham dự đều đạt giải (6 Huy chương vàng và 2 Huy chương bạc).

Trong sự nghiệp sáng tác, Lưu Quang Vũ đã viết hơn 50 kịch bản sân khấu, phần lớn đã được dàn dựng; với các vở nổi tiếng: Hồn Trương Ba da hàng thịt, Lời thề thứ 9, Bệnh sĩ…

Ngày 29/8/1988, ông qua đời cùng vợ (nhà thơ Xuân Quỳnh) và con trong một tai nạn giao thông. Với những cống hiến xuất sắc trên lĩnh vực sân khấu, năm 2000 Lưu Quang Vũ đã được truy tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh.

Hiện nay, thành phố Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh, Đà Nẵng và nhiều tỉnh đã đặt tên đường Lưu Quang Vũ.

(Nguồn: Quảng Nam đất nước và Nhân vật)

51. Trương Thị Xáng (1947 - 1965): Liệt sĩ; Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân

Anh hùng Trương Thị Xáng sinh năm 1947 tại xã Bình Giang, huyện Thăng Bình, tỉnh Quảng Nam.

38

Page 39: Đề án bổ sung Quỹ tên đường tỉnh Quảng Nam

Từ năm 1963 - 1965, chị hoạt động du kích, làm công tác binh - địch vận, nắm bắt tình hình diễn biến của địch để báo cáo cho tổ chức của ta. Cũng trong thời kỳ này, địch thường xuyên càn quét các xã vùng Đông của huyện Thăng Bình, trong đó Bình Giang là một trong những xã mà địch càn ác liệt nhất. Để đối phó, nhân dân thôn Bình Túy đã có sáng kiến đào một địa đạo bí mật trong lòng đất dài hơn 3km để làm nơi che giấu, nuôi dưỡng cán bộ.

Ngày 22/2/1965, địch dùng 3 tiểu đoàn chính quy và 1 tiểu đoàn địa phương quân mở trận càn quét mới đánh phá Bình Giang. Tại thôn Bình Túy, chúng đã phát hiện được miệng của địa đạo và ra sức tìm mọi cách để dụ dỗ cán bộ ta ra đầu hàng, đồng thời sử dụng xăng, khí độc đẩy xuống miệng địa đạo. Mặt khác, chúng bắt dân ra đào địa đạo, đánh đập những ai không thực hiện theo lệnh của chúng. Trong khi đó, dưới địa đạo có tổng cộng hơn 300 cán bộ từ tỉnh, huyện, xã và du kích địa phương đang tránh địch càn dưới đó.

Trong tình huống nguy hiểm ấy, Trương Thị Xáng cùng với một số phụ nữ mưu trí hướng dẫn nhân dân “người này đào một lát thì người kia lấp lại ba lát”. Do vậy, kẻ địch đã dùng báng súng, giày đinh đánh đập nhân dân, buộc phải đào cho được địa đạo. Chị giả vờ kêu la đau bụng, mọi người không đào nữa mà tập trung vào cứu chữa chị. Với cách này, chị đã kéo dài việc đào địa đạo đến tối, buộc địch phải thả dân về nhà.

Ngay trong đêm, bằng nhiều biện pháp khác nhau, chị cùng một số phụ nữ cơ sở của ta đã làm công tác binh - địch vận, vận động một số binh lính địch có cảm tình với cách mạng và hợp đồng giờ để đưa họ mang súng ra vùng giải phóng theo cách mạng. Đồng thời, chị xuống địa đạo chỉ lối cho hơn 300 cán bộ, chiến sỹ và du kích của ta ra khỏi địa đạo an toàn từ một cửa bí mật khác ven sông Trường Giang. Khi quay lại, do địch đã thay đổi lính trực nên thấy ánh đèn pin đã bắn vào. Chị hy sinh khi chưa tròn 18 tuổi, nhưng toàn bộ cán bộ, chiến sỹ, du kích của ta dưới địa đạo đã an toàn thoát khỏi trận càn.

Năm 2012, liệt sĩ Trương Thị Xáng đã được truy tặng danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân.

(Nguồn: Lịch sử Đảng bộ huyện Thăng Bình)

52. Quách Xân (1916 - 2000):

Quách Xân sinh năm 1916 tại xã Đại Lãnh, huyện Đại Lộc, tỉnh Quảng Nam.

39

Page 40: Đề án bổ sung Quỹ tên đường tỉnh Quảng Nam

Ông tham gia phong trào Việt Minh tại địa phương từ năm 1945; làm Bí thư kiêm Chủ tịch Ủy ban Kháng chiến Hành chính xã Đại Lãnh; sau đó làm Chủ tịch Ủy ban Kháng chiến Hành chính huyện Đại Lộc….

Năm 1953, khi Ban cán sự miền Tây tỉnh Quảng Nam được thành lập, ông được cử làm Ủy viên kiêm Bí thư Huyện ủy huyện Hiên (Đông Giang và Tây Giang hiện nay).

Sau Hiệp định Giơnevơ năm 1954, ông được bố trí ở lại miền Nam, phụ trách công tác giáo dục. Trong thời gian này, ông cùng một số đồng chí đã sáng tạo bộ chữ viết Cơ tu theo phiên âm từ mẫu tự Latinh. Đây là nhiệm vụ có ý nghĩa to lớn về chính trị và văn hóa.

Từ sau năm 1960, ông tham gia công tác ở Ban Tuyên huấn khu V, rồi Ban Miền núi khu V; được điều vào Trung ương Cục miền Nam, tham gia vận động đoàn kết các dân tộc Tây Nguyên. Sau đó, ông trở lại khu V, là Ủy viên Ban đại diện Chính phủ Cách mạng lâm thời cộng hòa miền Nam Việt Nam; làm Trưởng ban Giáo dục khu V.

Quách Xân là người có nhiều đóng góp cho công tác giáo dục và công tác vận động quần chúng, nhất là vận động đồng bào các dân tộc trên địa bàn tỉnh Quảng Nam trong những năm kháng chiến chống Mỹ, cứu nước. Ông mất năm 2000 tại Đà Nẵng.

(Nguồn: Địa chí Quảng Nam - Đà Nẵng)

53. Nguyễn Văn Xuân (1921 - 2007): Học giả; nhà Quảng Nam họcNguyễn Văn Xuân sinh năm 1921, quê Thanh Chiêm, xã Điện Phương,

huyện Điện Bàn.Lúc nhỏ, ông học ở quê, sau ra học ở Huế. Năm 16 tuổi, ông bắt đầu tự

học và tập viết văn.Năm 1939, truyện ngắn đầu tay của ông có tên là "Bóng tối và ánh sáng"

được chọn đăng trên tạp chí Thế giới (Hà Nội) và được trao giải nhất [1]. Sau đó, ông lần lượt cộng tác với các báo, như: Bạn dân (Hà Nội), Thế giới (Hà Nội), Mới (Sài Gòn), Văn Lang (tạp chí, Sài Gòn), Tiểu thuyết thứ Bảy (tạp chí, Hà Nội)...

Từ năm 1945 đến năm 1954, ông tham gia phong trào cách mạng ở Điện Bàn, làm Ủy viên kịch nghệ thuộc Hội Văn nghệ Quảng Nam, Ủy viên kịch nghệ thuộc Hội Văn nghệ liên khu V.

Sau năm 1954, ông ở lại Quảng Nam tham gia dạy học tại các trường tư và tiếp tục sáng tác.

40

Page 41: Đề án bổ sung Quỹ tên đường tỉnh Quảng Nam

Năm 1955, ông bị bắt giam ở nhà lao Thừa phủ (Huế), vì tham gia phong trào đấu tranh đòi thống nhất đất nước.

Ngoài công việc viết văn, ông còn dạy học tại các trường trung học tư thục Đà Nẵng, Đại học Văn khoa Huế, Đại Học Đà Nẵng.

Ông mất năm 2007 tại Đà Nẵng.Sự nghiệp học thuật của ông để lại nhiều công trình nghiên cứu có giá

trị: Phong trào Duy Tân ở Quảng Nam và nhiều công trình biên khảo về lịch sử, văn hóa về Quảng Nam.

(Nguồn: Địa chí Quảng Nam - Đà Nẵng)

54. Căn Zơh: Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân

Anh hùng Căn Zơ là người dân tộc Cơ tu, sinh năm 1897 tại làng A Ró, xã Chàvàl, huyện Nam Giang, tỉnh Quảng Nam.

Bà tham gia cách mạng từ sau Cách mạng tháng 8 năm 1945 và công tác tại Hội phụ nữ xã cho đến năm 1954. Từ năm 1954 - 1957, bà trực tiếp làm cơ sở nuôi giấu cán bộ trước chính sách khủng bố, đàn áp của kẻ thù.

Từ sau năm 1960, khi phong trào đấu tranh vũ trang kết hợp với đấu tranh chính trị được phát động, mặc dù tuổi đã cao nhưng bà vẫn hăng hái vận động đồng bào và trực tiếp tham gia phục vụ chiến đấu. Bà đã vận động nhân dân đóng góp hàng chục tấn gạo, hàng tạ muối cùng nhiều con gia súc, gia cầm khác. Năm 1970, mặc dù đã ngoài 70 tuổi, bà vẫn xung phong đi dân công. Việc làm của bà đã nêu gương và cổ động nhân dân trong vùng hăng hái tham gia vận chuyển vũ khí, lương thực phục vụ bộ đội chiến đấu.

Bà trở thành tấm gương tiêu biểu về tinh thần tận tụy, tích cực phục vụ kháng chiến của đồng bào các dân tộc vùng cao tỉnh Quảng Nam. Bà đã được tặng thưởng Huân chương Chiến công hạng Nhất; ngày 06 tháng 11 năm 1978, bà đã được Chủ tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam phong tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân.

(Nguồn: Quảng Nam - chân dung Anh hùng thời đại Hồ Chí Minh)

55. 10 tháng 3: Sự kiện lịch sử; ngày giải phóng huyện Tiên Phước - chiến thắng mở đầu cho cuộc Tổng tấn công và nổi dậy mùa xuân năm 1975 ở tỉnh Quảng Nam.

41

Page 42: Đề án bổ sung Quỹ tên đường tỉnh Quảng Nam

Nằm trong chủ trương của Bộ Chính trị, huyện Tiên Phước đã vinh dự được chọn làm mục tiêu chiến lược, phối hợp cùng với Buôn Mê Thuột là những chiến trường mở đầu cho cuộc Tổng tấn công và Nổi dậy mùa Xuân năm 1975, giải phóng miền Nam.

Vào lúc 4h30 phút ngày 10 tháng 3 năm 1975, quân và dân ta đã tiến công đánh chiếm quận lỵ Phước Lâm - Tiên Phước. Đến 14 giờ cùng ngày, toàn bộ huyện Tiên Phước đã được hoàn toàn giải phóng.

Chiến thắng ngày 10 tháng 3 giải phóng huyện Tiên Phước đã mở màn cho cuộc tấn công nổi dậy giải phóng tỉnh Quảng Nam, thành phố Đà Nẵng và vùng duyên hải miền Trung.  

(Nguồn: Lịch sử Đảng bộ huyện Tiên Phước)

56. 26 tháng 3: Ngày giải phóng các huyện Thăng Bình, Quế Sơn; Ngày thành lập Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh

- Ngày 26 tháng 3 năm 1975, hòa chung khí thế của quân và dân cả nước trong cuộc Tổng tấn công và nổi dậy, nhân dân các huyện Thăng Bình, Quế Sơn…, với sự giúp đỡ của các lực lượng vũ trang, đã vùng lên đánh sập toàn bộ ngụy quân, ngụy quyền từ huyện đến cơ sở, giành quyền làm chủ, kết thúc vẻ vang hơn 21 năm kháng chiến chống Mỹ.

- Từ ngày 20 đến ngày 26/3, tại Hội nghị Ban chấp hành Trung ương Đảng lần thứ 2, Trung ương Đảng đã giành một phần quan trọng trong chương trình làm việc để bàn về công tác thanh niên và đi đến những quyết định có ý nghĩa đặc biệt, như các cấp ủy Đảng từ Trung ương đến địa phương phải cử ngay các ủy viên của Đảng phụ trách công tác Đoàn. 

Được Bộ Chính trị Ban chấp hành Trung ương Đảng và Bác Hồ cho phép, theo đề nghị của Trung ương Đoàn thanh niên Lao động Việt Nam, Đại hội Đoàn toàn quốc lần thứ III, họp từ ngày 22 - 25/3/1961, đã quyết định lấy ngày 26/3/1931 làm ngày thành lập Đoàn.

(Nguồn: Lịch sử Đảng bộ huyện Quế Sơn, Thăng Bình; Lịch sử Đoàn TNCSHCM )

57. 18 tháng 7: Chiến thắng Nông Sơn - Trung Phước

Ngày 18 tháng 7 năm 1974, thực hiện chủ trương của Khu ủy và Bộ tư lệnh Quân khu V về đẩy mạnh chiến dịch Hè-Thu năm 1974, Tỉnh ủy Quảng Nam chủ trương phát động nhân dân nổi dậy tiêu diệt các đồn bốt, cứ điểm ở phía Tây Quốc lộ 1A, nhằm mở rộng vùng giải phóng, trong đó có cứ điểm

42

Page 43: Đề án bổ sung Quỹ tên đường tỉnh Quảng Nam

Nông Sơn - Trung Phước. Kết quả, quân và dân ta đã loại khỏi vòng chiến đấu hơn 1.000 tên địch; tiêu diệt 2 tiểu đoàn chủ lực, 2 đại đội bảo an, 13 trung đội dân vệ, nghĩa quân và toàn bộ bộ máy của địch. Huyện Nông Sơn với 13.000 dân được hoàn toàn giải phóng.

Chiến thắng Nông Sơn-Trung Phước đập tan tuyến phòng thủ phía Tây của địch, gây chấn động tinh thần quân địch trên chiến trường Quảng Nam-Đà Nẵng, tạo điều kiện hỗ trợ cho lực lượng chính trị và LLVT địa phương tiến công địch giành chính quyền ở nhiều nơi khác.

(Nguồn: Lịch sử LLVT tỉnh Quảng Nam)

58. Hoằng Hóa: Tên một huyện của tỉnh Thanh Hóa; huyện kết nghĩa với huyện Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam.

Hoằng Hóa là một huyện nằm ở ven biển phía đông của tỉnh Thanh Hóa, có diện tích khoảng hơn 224km2, dân số khoảng hơn 253.000 người; có Quốc lộ 1A và đường sắt Thống Nhất đi qua.

Thực hiện chủ trương của Bộ Chính trị và Ban Thống nhất Trung ương, ngày 12 tháng 3 năm 1960 tại thị xã Thanh Hóa, tỉnh Thanh Hóa, Lễ kết nghĩa giữa hai tỉnh Thanh Hóa và Quảng Nam đã được tổ chức. Việc kết nghĩa giữa hai tỉnh và các huyện, thị xã sau đó của hai tỉnh đã tạo nên sức mạnh tinh thần, vật chất to lớn, động viên và cổ vũ Đảng bộ và nhân dân hai tỉnh tích cực thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược của cách mạng cho đến ngày toàn thắng.

Nhằm đáp ứng nguyện vọng của nhân dân, ngày 20/7/1963 tại huyện Hoằng Hóa, Huyện ủy, Ủy ban hành chính huyện Hoằng Hóa đã tổ chức lễ kết nghĩa hai huyện Hoằng Hóa - Điện Bàn và phát động phong trào thi đua lao động

Kể từ ngày đó đến nay, Đảng bộ và nhân dân hai huyện vẫn tiếp nối xây dựng, phát triển mối quan hệ kết nghĩa bền chặt giữa hai địa phương.

(Nguồn: Lịch sử Đảng bộ huyện Điện Bàn)

59. Thọ Xuân: Tên một huyện của tỉnh Thanh Hóa; huyện kết nghĩa với huyện Quế Sơn, tỉnh Quảng Nam.

Thọ Xuân là một huyện nằm ở phía Tây của tỉnh Thanh Hóa; nơi khởi phát của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn trong lịch sử chống ngoại xâm của dân tộc Việt Nam, do Lê Lợi lãnh đạo và cũng là nơi phát tích của triều Hậu Lê.

43

Page 44: Đề án bổ sung Quỹ tên đường tỉnh Quảng Nam

Thực hiện chủ trương của Bộ Chính trị và Ban Thống nhất trung ương, ngày 12 tháng 3 năm 1960 tại thị xã Thanh Hóa, tỉnh Thanh Hóa, Lễ kết nghĩa giữa hai tỉnh Thanh Hóa và Quảng Nam đã được tổ chức. Việc kết nghĩa giữa hai tỉnh và các huyện, thị xã sau đó của hai tỉnh đã tạo nên sức mạnh tinh thần, vật chất to lớn, động viên và cổ vũ Đảng bộ và nhân dân hai tỉnh tích cực thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược của cách mạng cho đến ngày toàn thắng.

Ngày 20 tháng 11 năm 1968 tại huyện Thọ Xuân (Thanh Hóa), Lễ kết nghĩa giữa huyện Thọ Xuân (Thanh Hóa) và huyện Quế Sơn (Quảng Nam) được tổ chức. Từ đó cho đến khi kết thúc cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, huyện Thọ Xuân đã động viên sức người, sức của chi viện cho chiến trường miền Nam nói chung, chiến trường Quảng Nam - Đà Nẵng nói riêng. Đã có hàng trăm người con của Thọ Xuân hy sinh và nằm lại trên đất Quảng Nam.

(Nguồn: Lịch sử Đảng bộ huyện Quế Sơn)

60. Nga Sơn: Tên một huyện của tỉnh Thanh Hóa; huyện kết nghĩa với huyện Tiên Phước, tỉnh Quảng Nam.

Huyện Nga Sơn nằm ở cực đông bắc tỉnh Thanh Hoá, phía bắc và đông giáp tỉnh Ninh Bình và thị xã Bỉm Sơn, phía tây giáp huyện Hà Trung, phía nam giáp huyện Hậu Lộc. Diện tích tự nhiên: 144,95 km2, dân số: 142.526 người. Nơi đây có làng nghề dệt chiếu Nga Sơn nổi tiếng cả nước.

Thực hiện chủ trương của Bộ Chính trị và Ban Thống nhất Trung ương, ngày 12 tháng 3 năm 1960 tại thị xã Thanh Hóa, tỉnh Thanh Hóa, Lễ kết nghĩa giữa hai tỉnh Thanh Hóa và Quảng Nam đã được tổ chức. Sau đó, việc kết nghĩa giữa các huyện, thị xã đã được tổ chức. Tháng 7/1963 tại huyện Nga Sơn, Huyện ủy, Ủy ban hành chính huyện đã tổ chức lễ kết nghĩa hai huyện Nga Sơn và Tiên Phước. Kể từ ngày đó đến nay, Đảng bộ và nhân dân hai huyện vẫn tiếp nối xây dựng, phát triển mối quan hệ kết nghĩa bền chặt giữa hai địa phương. Trong kháng chiến chống Mỹ cứu nước, huyện Nga Sơn đã động viên sức người, sức của chi viện cho chiến trường miền Nam nói chung, chiến trường Quảng Nam - Đà Nẵng nói riêng. Đã có hàng trăm người con của Nga Sơn hy sinh và nằm lại trên đất Tiên Phước và Quảng Nam.

(Nguồn: Lịch sử Đảng bộ huyện Tiên Phước)

61. Trường Sơn: Tên gọi một dãy núi ở Việt Nam; tên một con đường

Dãy núi Trường Sơn là dãy núi dài nhất Việt Nam, dài khoảng 1.100 km, kéo dài từ thượng nguồn sông Cả trên đất Lào giáp Nghệ An tới tận cực nam

44

Page 45: Đề án bổ sung Quỹ tên đường tỉnh Quảng Nam

Trung Bộ. Nó bao gồm toàn bộ các dãy núi nhỏ hơn ở Bắc Trung Bộ và các khối núi, cao nguyênNam Trung Bộ, xếp thành hình cánh cung lớn mà mặt lồi quay ra Biển Đông. Dãy Trường Sơn được chia thành Trường Sơn Bắc và Trường Sơn Nam, ngăn cách bởi đèo Hải Vân và núi Bạch Mã.

Đường Trường Sơn - đường Hồ Chí Minh là mạng lưới giao thông quân sự chiến lược trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của nhân dân Việt Nam, chạy từ Bắc vào Nam, đi qua Hạ Lào và Campuchia. Tổng chiều dài của hệ thống đường Trường Sơn vào khoảng hai vạn km, với nhiều trục dọc, trục ngang. Hệ thống này cung cấp binh lực, lương thực và vũ khí khí tài để chi viện chiến trường miền Nam trong giai đoạn từ năm 1959 đến năm 1975.

Để ngăn chặn sự chi viện của miền Bắc cho miền Nam thông qua hệ thống đường Trường Sơn, đế quốc Mỹ đã ném xuống con đường nay hàng triệu tấn bom đạn, cùng một số lượng lớn chất độc hóa học và những phương tiện chiến tranh khác. Gần hai vạn cán bộ, chiến sĩ, thanh niên xung phong đã hy sinh cho sự tồn tại của con đường trong suốt 16 năm.

(Nguồn: Lịch sử Binh đoàn Trường Sơn)

Trên đây là Đề án bổ sung Quỹ tên đường năm 2014. Kính đề nghị Hội đồng nhân dân tỉnh thông qua.

45

Page 46: Đề án bổ sung Quỹ tên đường tỉnh Quảng Nam

PHẦN PHỤ LỤCPhụ lục 1:

QUỸ TÊN ĐƯỜNG TỈNH QUẢNG NAM

I. Quỹ tên đường đã có: (Theo Nghị quyết số 18/2001/NQ-HĐND ngày 22/02/2001, Nghị quyết số 73/2003/NQ-HĐND ngày 06/8/2003, Nghị quyết số 109/2008/NQ-HĐND ngày 30/7/2008, Nghị quyết số 127/2008/NQ-HĐND ngày 11/12/2008 và Nghị quyết số 49/2012/NQ-HĐND ngày 19/9/2012 của HĐND tỉnh Quảng Nam)

TT TÊN ĐƯỜNG TT TÊN ĐƯỜNG1 An Dương Vương 32 Đinh Lễ2 Âu Cơ 33 Đinh Liệt3 Bà Huyện Thanh Quan 34 Dương Văn An4 Bế Văn Đàn 35 Đoàn Thị Điểm5 Bùi Cầm Hổ 36 Đặng Trần Côn6 Bùi Thị Xuân 37 Đào Duy Từ7 Bùi Tá Hán 38 Đặng Tiến Đông8 Bùi Bằng Đoàn 39 Dương Khuê9 Bùi Tấn Diên 40 Đinh Công Tráng10 Bùi Chát 41 Đặng Huy Trứ11 Cao Lỗ 42 Duy Tân12 Chu Văn An 43 Đào Tấn13 Cao Bá Quát 44 Đặng Thái Thân14 Châu Thượng Văn 45 Đội Cấn15 Chu Mạnh Trinh 46 Dương Quảng Hàm16 Cầm Bá Thước 47 Đặng Thai Mai17 Cao Thắng 48 Đào Duy Anh18 Châu Văn Liêm 49 Đặng Văn Ngữ19 Chế Lan Viên 50 Đinh Đức Thiện20 Chu Cẩm Phong 51 Đội Cung21 Cao Sơn Pháo 52 Đinh Núp22 Công Nữ Ngọc Hoa 53 Đàm Quang Trung23 Cù Chính Lan 54 Đỗ Nhuận24 Dương Thanh 55 Đoàn Khuê25 Dương Đình Nghệ 56 Đặng Thùy Trâm26 Đinh Công Trứ 57 Đoàn Quý Phi27 Đinh Tiên Hoàng 58 Đỗ Thúc Tịnh28 Dã Tượng 59 Đỗ Đăng Tuyển29 Đoàn Nhữ Hài 60 Dương Thưởng30 Đặng Tất 61 Đỗ Thế Chấp31 Đặng Dung 62 Đỗ Trọng Hường

46

Page 47: Đề án bổ sung Quỹ tên đường tỉnh Quảng Nam

63 Đồng Phước Huyến 104 Kim Đồng64 Đỗ Quang 105 Khương Hữu Dụng65 Giang Văn Minh 106 Lạc Long Quân66 Hùng Vương 107 Lê Chân67 Hàn Thuyên 108 Lý Nam Đế68 Huyền Trân Công Chúa 109 Lê Đại Hành69 Hồ Hán Thương 110 Lý Thái Tổ70 Hồ Nguyên Trừng 111 Lý Thái Tông71 Hồ Xuân Hương 112 Lý Thánh Tông72 Hàm Nghi 113 Lý Nhân Tông73 Hoàng Bật Đạt 114 Lê Phụng Hiểu74 Hà Văn Mao 115 Lý Thường Kiệt75 Hoàng Hoa Thám 116 Lý Đạo Thành76 Hồ Tùng Mậu 117 Lê Phụ Trần77 Hà Huy Tập 118 Lê Văn Hưu78 Hoàng Minh Giám 119 Lê Lợi79 Hồ Đắc Di 120 Lê Lai80 Hà Huy Giáp 121 Lưu Nhân Chú81 Hải Triều 122 Lê Nhân Tông82 Hoàng Xuân Hãn 123 Lê Thánh Tông83 Hoàng Quốc Việt 124 Lương Thế Vinh84 Hoàng Văn Thụ 125 Lê Hữu Trác85 Huỳnh Tấn Phát 126 Lê Quý Đôn86 Hoàng Văn Thái 127 Lê Ngọc Hân87 Hoàng Sâm 128 Lê Ngô Cát88 Huy Cận 129 Lê Trung Đình89 Hương Hải Thiền Sư 130 Lương Văn Can90 Hoàng Diệu 131 Lương Ngọc Quyến91 Huỳnh Thúc Kháng 132 Lê Hồng Sơn92 Hoàng Dư Khương 133 Lê Hồng Phong93 Hoàng Hữu Nam 134 Lê Duẩn94 Hồ Nghinh 135 Lê Thiết Hùng95 Huỳnh Ngọc Huệ 136 Lê Đức Thọ96 Huỳnh Lý 137 Lê Thanh Nghị97 Hồ Thấu 138 Lưu Trọng Lư98 Hoàng Châu Ký 139 Lý Tự Trọng99 Hoàng Bích Sơn 140 Lê Trọng Tấn100 Hà Văn Trí 141 Lê Hiến Mai101 Huỳnh Thị Lựu 142 Lương Định Của102 Khúc Thừa Dụ 143 Lê Quang Đạo103 Khúc Hạo 144 Lưu Hữu Phước

47

Page 48: Đề án bổ sung Quỹ tên đường tỉnh Quảng Nam

145 Lê Anh Xuân 186 Nguyễn Cảnh Dị146 Lê Thị Hồng Gấm 187 Nguyễn Trãi147 Lê Tấn Trung 188 Nguyễn Chích148 Lê Văn Long 189 Nguyễn Xí149 Lê Thiện Trị 198 Nguyễn Phúc Tần150 Lê Vĩnh Khanh 199 Nguyễn Phúc Chu151 Lê Vĩnh Huy 200 Nguyễn Hữu Dật152 Lê Tấn Toán 201 Nguyễn Hữu Cảnh153 Lê Đỉnh 190 Ngô Sĩ Liên154 Lê Cơ 191 Nguyễn Bỉnh Khiêm155 Lê Bá Trinh 192 Nguyễn Quý Đức156 Lê Đình Dương 193 Nguyễn Nghiễm157 Lê Đình Thám 194 Nguyễn Gia Thiều158 Lê Quang Sung 195 Nguyễn Hoàng159 Lâm Quang Thự 196 Nguyễn Phúc Nguyên160 Lê Thị Xuyến 197 Nguyễn Phúc Lan161 Lê Văn Hiến 202 Nguyễn Cư Trinh162 Lê Trí Viễn 203 Nguyễn Thiếp163 Lưu Quý Kỳ 204 Ngô Văn Sở164 La Hối 205 Ngô Thì Nhậm165 Lê Văn Đức 206 Nguyễn Du166 Lê Độ 207 Nguyễn Công Trứ167 Lưu Ban 208 Nguyễn Văn Siêu168 Lương Như Bích 209 Nguyễn Tri Phương169 Mai Thúc Loan 210 Nguyễn Trường Tộ170 Mạc Đĩnh Chi 211 Nguyễn Cao171 Mai Xuân Thưởng 212 Nguyễn Khuyến172 Mạc Thị Bưởi 213 Nguyễn Lộ Trạch173 Mai Dị 214 Nguyễn Đình Chiểu174 Mẹ Thứ 215 Nguyễn Hữu Huân175 Mai Đăng Chơn 216 Nguyễn Trung Trực176 Ngô Quyền 217 Nguyễn Quang Bích177 Nguyễn Bặc 218 Nguyễn Thiện Thuật178 Ngô Chân Lưu 219 Nguyễn Xuân Ôn179 Nguyên Phi Ỷ Lan 220 Ngô Đức Kế180 Nguyễn Địa Lô 221 Nơ Trang Long (Lơng)181 Nguyễn Khoái 222 Nguyễn Thái Học182 Nguyễn Hiền 223 Nguyễn Khắc Nhu183 Nguyễn Trung Ngạn 224 Nguyễn Tất Thành184 Nguyễn Biểu 225 Nguyễn Văn Tố185 Nguyễn Cảnh Chân 226 Ngô Tất Tố

48

Page 49: Đề án bổ sung Quỹ tên đường tỉnh Quảng Nam

227 Nguyễn Phong Sắc 268 Nguyễn Trác228 Nguyễn Huy Tưởng 269 Nguyễn Thành Hãn229 Nguyễn Công Hoan 270 Nam Trân230 Nguyễn Lương Bằng 271 Nguyễn Xuân Nhĩ231 Nguyễn Khánh Toàn 272 Ngô Huy Diễn232 Nguyễn Đức Cảnh 273 Nguyễn Bá Phát233 Ngô Gia Tự 274 Nguyễn Văn Bổng234 Nguyễn Chí Diểu 275 Nguyễn Xuân Hữu235 Nguyễn Thị Thập 276 Nguyễn Huy Chương236 Nguyễn Bình 277 Nguyễn Khoa237 Nguyễn Sơn 278 Nguyễn Văn Hiệu238 Nguyễn Văn Huyên 279 Nguyễn Phan Vinh239 Nguyễn Thị Minh Khai 280 Nguyễn Văn Việt240 Nguyễn Duy Trinh 281 Nguyễn Văn Trỗi241 Nguyễn Hữu Thọ 282 Ông Ích Khiêm242 Nguyễn Tuân 283 Ông Ích Đường243 Nguyễn Văn Cừ 284 Phạm Tu244 Nguyễn Đỗ Cung 285 Phùng Hưng245 Nguyễn Chí Thanh 286 Phạm Ngũ Lão246 Nguyễn Chánh 287 Phạm Sư Mạnh247 Nguyễn Văn Linh 288 Phạm Văn Xảo248 Nam Cao 289 Phan Phu Tiên249 Nguyên Hồng 290 Phùng Khắc Khoan250 Nguyễn Thị Định 291 Phan Văn Lân251 Nguyễn Cơ Thạch 292 Phan Huy Ích252 Nguyễn Đình Thi 293 Phạm Đình Hổ253 Ngô Mây 294 Phan Huy Chú254 Nguyễn Viết Xuân 295 Phan Bá Vành255 Nguyễn Thái Bình 296 Phan Văn Trị256 Nguyễn Bá Ngọc 297 Phạm Bành257 Nguyễn An Ninh 298 Phan Đình Phùng258 Nguyễn Đức Trung 299 Phan Kế Bính259 Nguyễn Dục 300 Phan Bội Châu260 Nguyễn Tường Phổ 301 Phó Đức Chính261 Nguyễn Thành Ý 302 Phạm Hồng Thái262 Nguyễn Thuật 303 Phạm Văn Đồng262 Nguyễn Thích 304 Phạm Ngọc Thạch264 Nguyễn Duy Hiệu 305 Phùng Chí Kiên265 Nguyễn Hiển Dĩnh 306 Phạm Hùng266 Nguyễn Đình Hiến 307 Phan Anh267 Nguyễn Nho Túy 308 Phạm Huy Thông

49

Page 50: Đề án bổ sung Quỹ tên đường tỉnh Quảng Nam

309 Phan Trọng Tuệ 350 Trần Bình Trọng310 Phan Đình Giót 351 Trần Quốc Toản311 Phạm Nhữ Tăng 352 Trương Hán Siêu312 Phạm Phú Thứ 353 Tuệ Tĩnh313 Phạm Như Xương 354 Trần Nguyên Đán314 Phan Bá Phiến 355 Trần Khát Chân315 Phan Châu Trinh 356 Trần Nguyên Hãn316 Phan Thúc Duyện 357 Thân Nhân Trung317 Phan Thành Tài 358 Trịnh Hoài Đức318 Phan Văn Định 359 Trương Minh Giảng319 Phan Thêm 360 Tú Xương320 Phan Thanh 361 Trương Định321 Phan Tốn 362 Trần Xuân Soạn322 Phạm Khôi 363 Tống Duy Tân323 Phạm Phán 364 Tăng Bạt Hổ324 Phạm Trợ 365 Tôn Đức Thắng325 Phan Tình 366 Tản Đà326 Phan Tứ 367 Trịnh Đình Thảo327 Phan Ngọc Nhân 368 Trần Huy Liệu328 Phan Đăng Lưu 369 Trần Phú329 Quang Trung 370 Trường Chinh330 Quách Thị Trang 371 Trần Tử Bình331 Sư Vạn Hạnh 372 Thế Lữ332 Thi Sách 373 Tô Ngọc Vân333 Trưng Nữ Vương 374 Trần Đăng Ninh334 Triệu Quốc Đạt 375 Tạ Quang Bửu335 Triệu Nữ Vương 376 Trần Văn Giàu336 Tinh Thiều 377 Tô Hiệu337 Triệu Túc 378 Tôn Thất Tùng338 Triệu Quang Phục 379 Trần Đại Nghĩa339 Tông Đản 380 Trần Văn Trà340 Tô Hiến Thành 381 Tố Hữu341 Trần Thủ Độ 382 Tô Vĩnh Diện342 Trần Thái Tông 383 Trần Văn Ơn343 Trần Thánh Tông 384 Thích Quảng Đức344 Trần Nhân Tông 385 Trương Công Hy345 Trần Anh Tông 386 Trần Quang Diệu346 Trần Hưng Đạo 387 Thoại Ngọc Hầu347 Trần Quang Khải 388 Trần Trung Tri348 Trần Khánh Dư 389 Trần Văn Dư349 Trần Nhật Duật 390 Tuy Nhạc

50

Page 51: Đề án bổ sung Quỹ tên đường tỉnh Quảng Nam

391 Trần Thuyết 433 12 tháng 5392 Tiểu La 434 22 tháng 12393 Trần Cao Vân 435 3 tháng 2394 Trần Quý Cáp 436 24 tháng 3395 Thái Phiên 437 28 tháng 3396 Tống Phước Phổ 438 Bạch Đằng397 Trần Đình Đàn 439 Bình Than398 Trương Quang Giao 440 Cách Mạng Tháng Tám399 Thái Thị Bôi 441 Cấm Dơi400 Trương Bút 442 Chi Lăng401 Trần Đình Tri 443 Chiến Thắng403 Trần Tống 444 Chương Dương404 Trần Huấn 445 Cửa Đại405 Trương Chí Cương 446 Dũng Sĩ Điện Ngọc406 Trương Minh Lượng 447 Đà Nẵng407 Trần Tấn Mới 448 Điện Biên Phủ408 Trần Cảnh Trinh 449 Đoàn Kết409 Trần Thị Lý 450 Đông Kinh Nghĩa Thục410 Tống Văn Sương 451 Độc Lập411 Trương Minh Hùng 452 Đồng Khởi412 Ung Văn Khiêm 453 Đống Đa413 Vũ Văn Dũng 454 Giải Phóng414 Vũ Tông Phan 455 Hàm Rồng415 Võ Duy Dương 456 Hàm Tử416 Võ Văn Tần 457 Hoàng Sa417 Vương Thừa Vũ 458 Hòa Bình418 Vũ Trọng Phụng 459 Hòn Tàu419 Văn Tiến Dũng 460 Hữu Nghị420 Võ Văn Kiệt 461 Lam Sơn421 Văn Cao 462 Như Nguyệt422 Võ Thị Sáu 463 Núi Thành423 Văn Thị Thừa 464 Thanh Hóa424 Võ Chí Công 465 Thống Nhất425 Vũ Trọng Hoàng 466 Thượng Đức426 Võ Như Hưng 467 Tự Do427 Võ Thành Năm 468 Trường Sa428 Xuân Thủy 469 Vạn Kiếp429 Xuân Diệu 470 Vạn Xuân430 Yết Kiêu 471 Vân Đồn431 2 tháng 9 472 Xô Viết Nghệ Tĩnh432 18 tháng 8 473 Yên Thế

51

Page 52: Đề án bổ sung Quỹ tên đường tỉnh Quảng Nam

II. Quỹ tên đường bổ sung:

TT TÊN ĐƯỜNG TT TÊN ĐƯỜNG1 Nguyễn Thị Ba 32 Trần Ngọc Sương2 Nguyễn Thị Bảy 33 Trần Quốc Tảng3 Thu Bồn 34 Lê Văn Tâm4 Đoàn Bường 35 Lê Tự Nhất Thống5 Phạm Thị Cộng 36 Trần Thu6 Lê Đình Chinh 37 Lưu Quang Thuận7 Đinh Đạt 38 Lương Đình Thự8 Võ Nguyên Giáp 39 Nguyễn Thược9 Nguyễn Thị Hồng 40 Lê Thiệt10 Trần Hớn 41 Nguyễn Công Tòng11 Trần Huỳnh 42 Đoàn Xuân Trinh12 Nguyễn Quý Hương 43 Hồ Truyền13 Ngô Viết Hữu 44 Lê Thanh Trường14 Phan Khôi 45 Ngô Tuận15 Nguyễn Lai 46 Hàn Mặc Tử16 Hoàng Văn Lai 47 Nguyễn Đình Tựu17 Thạch Lam 48 Trịnh Uyên18 Lê Đình Lý 49 Lê Tấn Viễn19 Chu Huy Mân 50 Lưu Quang Vũ20 Bùi Thế Mỹ 51 Trương Thị Xáng21 Nguyễn Mỹ 52 Quách Xân22 Nguyễn Thanh Năm 53 Nguyễn Văn Xuân23 Lương Khắc Ninh 54 Căn Zơh24 Phan Nhu 55 10 tháng 325 Huỳnh Thị Nhuận 56 26 tháng 326 Trần Đình Phong 57 18 tháng 727 Thân Cảnh Phúc 58 Hoằng Hóa28 Phan Quang 59 Thọ Xuân29 Nguyễn Quyền 60 Nga Sơn30 Dương Thị Xuân Quý 61 Trường Sơn31 Nguyễn Sinh Sắc

52

Page 53: Đề án bổ sung Quỹ tên đường tỉnh Quảng Nam

Phụ lục 2CÁC DANH NHÂN, ĐỊA DANH, SỰ KIỆN ĐÃ ĐẶT TÊN ĐƯỜNG

TT TÊN ĐƯỜNG TT TÊN ĐƯỜNG 1 An Dương Vương 35 Hoàng Bích Sơn2 Âu Cơ 36 Hoàng Hoa Thám3 Bà Huyện Thanh Quan 37 Hoàng Văn Thụ4 Bà Triệu 38 Hồ Nghinh 5 Bế Văn Đàn 39 Hồ Xuân Hương6 Bùi Chát 40 Hùng Vương7 Bùi Thị Xuân 41 Huỳnh Ngọc Huệ8 Cao Hồng Lãnh 42 Huỳnh Thúc Kháng9 Cao Sơn Pháo 43 Huỳnh Lý10 Cầm Bá Thước 44 Huyền Trân Công Chúa11 Cao Thắng 45 Khương Hữu Dụng12 Châu Thượng Văn 46 La Hối13 Chế Lan Viên 47 Lê Duẩn14 Chu Văn An 48 Lê Đình Dương15 Công Nữ Ngọc Hoa 49 Lý Nam Đế16 Cù Chính Lan 50 Lê Trung Đình17 Dã Tượng 51 Lê Ngọc Hân18 Duy Tân 52 Lê Quý Đôn19 Đào Duy Từ 53 Lê Văn Hưu20 Đặng Dung 54 Lý Thường Kiệt21 Đặng Trần Côn 55 Lưu Quý Kỳ22 Đặng Văn Ngữ 56 Lê Văn Long23 Đinh Công Tráng 57 Lê Lợi24 Đinh Tiên Hoàng 58 Lưu Trọng Lư25 Đinh Núp 59 Lạc Long Quân26 Đinh Liệt 60 Lê Văn Hiến27 Đoàn Thị Điểm 61 Lê Quang Sung28 Đồng Phước Huyến 62 Lê Đình Thám29 Đỗ Quang 63 Lý Thái Tổ30 Đỗ Đăng Tuyển 64 Lê Thánh Tông31 Hà Huy Tập 65 Lê Hữu Trác32 Hoàng Diệu 66 Lê Hồng Phong33 Hoàng Hữu Nam 67 Lương Thế Vinh34 Hoàng Văn Thái 68 Lương Văn Can

53

Page 54: Đề án bổ sung Quỹ tên đường tỉnh Quảng Nam

69 Lê Cơ 107 Nguyễn Thuật70 Lâm Quang Thự 108 Nguyễn Thiện Thuật71 Lê Lai 109 Nguyễn Xuân Nhĩ72 Lê Bá Trinh 110 Nguyễn Nghiễm73 Lê Vĩnh Huy 111 Nguyễn Khuyến74 Lý Tự Trọng 112 Nguyễn Tri Phương75 Lương Như Bích 113 Nguyễn Khoa76 Mạc Đĩnh Chi 114 Nguyễn Trung Trực77 Mẹ Thứ 115 Nguyễn Bỉnh Khiêm78 Nguyễn Đình Chiểu 116 Ông Ích Khiêm79 Nguyễn Phúc Chu 117 Ông Ích Đường80 Nguyễn Văn Cừ 118 Phan Bội Châu81 Nguyễn Du 119 Phan Thúc Duyện82 Nguyễn Dục 120 Phạm Văn Đồng83 Nguyễn Thành Hãn 121 Phạm Khôi84 Nguyễn Thái Học 122 Phạm Ngũ Lão85 Nguyễn Thị Minh Khai 123 Phan Đăng Lưu86 Ngô Sĩ Liên 124 Phan Ngọc Nhân87 Nguyễn Văn Linh 125 Phạm Phán88 Nguyễn Phúc Nguyên 126 Phan Thành Tài89 Nguyễn Hiền 127 Phạm Nhữ Tăng90 Nguyễn Duy Hiệu 128 Phạm Ngọc Thạch91 Nguyễn Hoàng 129 Phạm Hồng Thái92 Ngô Quyền 130 Phan Thanh93 Nguyễn Phong Sắc 131 Phạm Phú Thứ94 Nguyễn Phúc Tần 132 Phan Tình95 Nguyễn Chí Thanh 133 Phan Bá Phiến96 Nguyễn Tất Thành 134 Phan Đình Phùng97 Nguyễn Trường Tộ 135 Phan Châu Trinh98 Nguyễn Trãi 136 Phan Tứ99 Nguyễn Văn Trỗi 137 Phạm Văn Xảo100 Nguyễn Công Trứ 138 Phạm Như Xương101 Nguyễn Tuân 139 Phạm Hồng Thái102 Ngô Gia Tự 140 Phan Văn Định103 Nguyễn Phan Vinh 141 Phan Tốn104 Nam Trân 142 Phan Đình Giót105 Nguyễn Đức Cảnh 143 Quang Trung106 Ngô Thì Nhậm 144 Trần Quý Cáp

54

Page 55: Đề án bổ sung Quỹ tên đường tỉnh Quảng Nam

145 Trường Chinh 173 Thích Quảng Đức146 Trương Chí Cương 174 Tôn Thất Tùng147 Trần Quang Diệu 175 Tô Vĩnh Diện148 Trần Nhật Duật 176 Trần Trung Tri149 Trần Văn Dư 177 Trần Quốc Toản150 Trần Hưng Đạo 178 Văn Cao151 Trương Định 179 Văn Thị Thừa152 Trương Minh Hùng 180 Võ Thành Năm153 Thoại Ngọc Hầu 181 Vũ Trọng Hoàng154 Trần Quang Khải 182 Xuân Diệu155 Tiểu La 183 Yết Kiêu156 Trương Minh Lượng 184 3 tháng 2157 Trần Thị Lý 185 24 tháng 3158 Trần Đại Nghĩa 186 28 tháng 3159 Tôn Đức Thắng 187 12 tháng 5160 Tuệ Tĩnh 188 18 tháng 8161 Trần Nhân Tông 189 Bạch Đằng162 Thái Phiên 190 Cấm Dơi163 Trần Phú 191 Chiến Thắng164 Trần Bình Trọng 192 Cửa Đại165 Trần Cao Vân 193 Dũng Sĩ Điện Ngọc166 Trưng Nữ Vương 194 Điện Biên Phủ167 Trần Thủ Độ 195 Hòn Tàu168 Trần Khánh Dư 196 Lam Sơn169 Trần Đình Tri 197 Núi Thành170 Trương Quang Giao 198 Thanh Hóa171 Trần Thuyết 199 Xô Viết Nghệ Tĩnh172 Trần Đình Đàn

55

Page 56: Đề án bổ sung Quỹ tên đường tỉnh Quảng Nam

Phụ lục 3: CÁC TÊN ĐƯỜNG TRONG QUỸ CHƯA SỬ DỤNG

TT TÊN ĐƯỜNG TT TÊN ĐƯỜNG1 Bùi Cầm Hổ 38 Hàn Thuyên2 Bùi Tá Hán 39 Hồ Hán Thương3 Bùi Bằng Đoàn 40 Hồ Nguyên Trừng4 Bùi Tấn Diên 41 Hàm Nghi5 Cao Lỗ 42 Hoàng Bật Đạt6 Cao Bá Quát 43 Hà Văn Mao7 Chu Mạnh Trinh 44 Hồ Tùng Mậu8 Châu Văn Liêm 45 Hoàng Minh Giám9 Chu Cẩm Phong 46 Hồ Đắc Di10 Dương Thanh 47 Hà Huy Giáp11 Dương Đình Nghệ 48 Hải Triều12 Đinh Công Trứ 49 Hoàng Xuân Hãn13 Đoàn Nhữ Hài 50 Hoàng Quốc Việt14 Đặng Tất 51 Huỳnh Tấn Phát15 Đinh Lễ 52 Hoàng Sâm16 Dương Văn An 53 Huy Cận17 Đặng Tiến Đông 54 Hương Hải Thiền Sư18 Dương Khuê 55 Hoàng Dư Khương19 Đặng Huy Trứ 56 Hồ Thấu20 Đào Tấn 57 Hoàng Châu Ký21 Đặng Thái Thân 58 Hà Văn Trí22 Đội Cấn 59 Huỳnh Thị Lựu23 Dương Quảng Hàm 60 Khúc Thừa Dụ24 Đặng Thai Mai 61 Khúc Hạo25 Đào Duy Anh 62 Kim Đồng26 Đinh Đức Thiện 63 Lê Chân27 Đội Cung 64 Lê Đại Hành28 Đàm Quang Trung 65 Lý Đạo Thành29 Đỗ Nhuận 66 Lê Phụ Trần30 Đoàn Khuê 67 Lưu Nhân Chú31 Đặng Thùy Trâm 68 Lê Nhân Tông32 Đoàn Quý Phi 69 Lê Ngô Cát33 Đỗ Thúc Tịnh 70 Lương Ngọc Quyến34 Dương Thưởng 71 Lê Hồng Sơn35 Đỗ Thế Chấp 72 Lê Thiết Hùng36 Đỗ Trọng Hường 73 Lý Thái Tông

56

Page 57: Đề án bổ sung Quỹ tên đường tỉnh Quảng Nam

37 Giang Văn Minh 74 Lý Thánh Tông75 Lý Nhân Tông 116 Nguyễn Hữu Cảnh76 Lê Phụng Hiểu 117 Nguyễn Cư Trinh77 Lê Đức Thọ 118 Nguyễn Thiếp78 Lê Thanh Nghị 119 Ngô Văn Sở79 Lê Trọng Tấn 120 Nguyễn Văn Siêu80 Lê Hiến Mai 121 Nguyễn Cao81 Lương Định Của 122 Nguyễn Lộ Trạch82 Lê Quang Đạo 123 Nguyễn Hữu Huân83 Lưu Hữu Phước 124 Nguyễn Quang Bích84 Lê Anh Xuân 125 Nguyễn Xuân Ôn85 Lê Thị Hồng Gấm 126 Ngô Đức Kế86 Lê Tấn Trung 127 Nơ Trang Long (Lơng)87 Lê Thiện Trị 128 Nguyễn Khắc Nhu88 Lê Vĩnh Khanh 129 Nguyễn Văn Tố89 Lê Tấn Toán 130 Ngô Tất Tố90 Lê Đỉnh 131 Nguyễn Huy Tưởng91 Lê Thị Xuyến 132 Nguyễn Công Hoan92 Lê Trí Viễn 133 Nguyễn Lương Bằng93 Lê Văn Đức 134 Nguyễn Khánh Toàn94 Lê Độ 135 Nguyễn Chí Diểu95 Lưu Ban 136 Nguyễn Thị Thập96 Mai Thúc Loan 137 Nguyễn Bình97 Mai Xuân Thưởng 138 Nguyễn Sơn98 Mạc Thị Bưởi 139 Nguyễn Văn Huyên99 Mai Dị 140 Nguyễn Duy Trinh100 Mai Đăng Chơn 141 Nguyễn Hữu Thọ101 Nguyễn Bặc 142 Nguyễn Đỗ Cung102 Ngô Chân Lưu 143 Nguyễn Chánh103 Nguyên Phi Ỷ Lan 144 Nam Cao104 Nguyễn Địa Lô 145 Nguyên Hồng105 Nguyễn Khoái 146 Nguyễn Thị Định106 Nguyễn Trung Ngạn 147 Nguyễn Cơ Thạch107 Nguyễn Biểu 148 Nguyễn Đình Thi108 Nguyễn Cảnh Chân 149 Ngô Mây109 Nguyễn Cảnh Dị 150 Nguyễn Viết Xuân110 Nguyễn Chích 151 Nguyễn Thái Bình111 Nguyễn Xí 152 Nguyễn Bá Ngọc112 Nguyễn Quý Đức 153 Nguyễn An Ninh113 Nguyễn Gia Thiều 154 Nguyễn Đức Trung114 Nguyễn Phúc Lan 155 Nguyễn Tường Phổ

57

Page 58: Đề án bổ sung Quỹ tên đường tỉnh Quảng Nam

115 Nguyễn Hữu Dật 156 Nguyễn Thành Ý157 Nguyễn Thích 198 Trần Thái Tông158 Nguyễn Hiển Dĩnh 199 Trần Thánh Tông159 Nguyễn Đình Hiến 200 Trần Anh Tông160 Nguyễn Nho Túy 201 Trương Hán Siêu161 Nguyễn Trác 202 Trần Nguyên Đán162 Ngô Huy Diễn 203 Trần Khát Chân163 Nguyễn Bá Phát 204 Trần Nguyên Hãn164 Nguyễn Văn Bổng 205 Thân Nhân Trung165 Nguyễn Xuân Hữu 206 Trịnh Hoài Đức166 Nguyễn Huy Chương 207 Trương Minh Giảng167 Nguyễn Văn Hiệu 208 Tú Xương168 Nguyễn Văn Việt 209 Trần Xuân Soạn169 Phạm Tu 210 Tống Duy Tân170 Phùng Hưng 211 Tăng Bạt Hổ171 Phạm Sư Mạnh 212 Tản Đà172 Phan Phu Tiên 213 Trịnh Đình Thảo173 Phùng Khắc Khoan 214 Trần Huy Liệu174 Phan Văn Lân 215 Trần Tử Bình175 Phan Huy Ích 216 Thế Lữ176 Phạm Đình Hổ 217 Tô Ngọc Vân177 Phan Huy Chú 218 Trần Đăng Ninh178 Phan Bá Vành 219 Tạ Quang Bửu179 Phan Văn Trị 220 Trần Văn Giàu180 Phạm Bành 221 Tô Hiệu181 Phan Kế Bính 222 Trần Văn Trà182 Phó Đức Chính 223 Tố Hữu183 Phùng Chí Kiên 224 Trần Văn Ơn184 Phạm Hùng 225 Trương Công Hy185 Phan Anh 226 Tuy Nhạc186 Phạm Huy Thông 227 Tống Phước Phổ187 Phan Trọng Tuệ 228 Thái Thị Bôi188 Phạm Trợ 229 Trương Bút189 Quách Thị Trang 230 Trần Tống190 Sư Vạn Hạnh 231 Trần Huấn191 Thi Sách 232 Trần Tấn Mới192 Triệu Quốc Đạt 233 Trần Cảnh Trinh193 Tinh Thiều 234 Tống Văn Sương194 Triệu Túc 235 Ung Văn Khiêm195 Triệu Quang Phục 236 Vũ Văn Dũng196 Tông Đản 237 Vũ Tông Phan

58

Page 59: Đề án bổ sung Quỹ tên đường tỉnh Quảng Nam

197 Tô Hiến Thành 238 Võ Duy Dương239 Võ Văn Tần 257 Độc Lập240 Vương Thừa Vũ 258 Đồng Khởi241 Vũ Trọng Phụng 259 Đống Đa242 Văn Tiến Dũng 260 Giải Phóng243 Võ Văn Kiệt 261 Hàm Rồng244 Võ Thị Sáu 262 Hàm Tử245 Võ Chí Công 263 Hoàng Sa246 Võ Như Hưng 264 Hòa Bình247 Xuân Thủy 265 Hữu Nghị248 2 tháng 9 266 Như Nguyệt249 22 tháng 12 267 Thống Nhất250 Bình Than 268 Thượng Đức251 Cách Mạng Tháng Tám 269 Tự Do252 Chi Lăng 270 Trường Sa253 Chương Dương 271 Vạn Kiếp254 Đà Nẵng 272 Vạn Xuân255 Đoàn Kết 273 Vân Đồn256 Đông Kinh Nghĩa Thục 274 Yên Thế

59