Đầu Tư Trực Tiếp Của Doanh Nghiệp Việt Nam Vào CHDCND Lào

Embed Size (px)

Citation preview

  • 8/18/2019 Đầu Tư Trực Tiếp Của Doanh Nghiệp Việt Nam Vào CHDCND Lào

    1/112

     

    LUẬN VĂN:

    Đầu tư trực tiếp của doanh nghiệp Việt

    Nam vào Cộng hoà dân chủ nhân dân Lào 

  • 8/18/2019 Đầu Tư Trực Tiếp Của Doanh Nghiệp Việt Nam Vào CHDCND Lào

    2/112

     

    MỞ ĐẦU 

    1. Tính cấp thiết của đề tài

    Trong bối cảnh toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay, đầu tư trực tiếp

    nước ngoài (Foreign Direct Investment: FDI) là vấn đề mang tính chất toàn cầu và là xu

    thế chung của các quốc gia trong khu vực và trên thế giới. Thực hiện FDI là nhằm mở

    rộng thị trường, nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh, tận dụng nguồn tài nguyên,

    nguyên liệu tại chỗ, tiết kiệm chi phí vận chuyển hàng hoá, tránh được chế độ giấy phép

    xuất khẩu trong nước và tận dụng quota xuất khẩu của nước nhận đầu tư để mở rộng thị

    trường, tiếp cận người tiêu dùng, nâng cao trình độ khoa học công nghệ, năng lực quản lývà trình độ tiếp thị giữa các quốc gia. Ngày nay, tùy thuộc vào nhu cầu, khả năng và điều

    kiện của mỗi nước mà hoạt động FDI cân bằng và song hành với việc thu hút FDI.

    Việt Nam đến nay trải qua hơn 20 năm đổi mới đã và đang thành công trong việc

    thu hút và sử dụng có hiệu quả nguồn vốn FDI. Song dưới tác động của xu thế hội nhập

    kinh tế quốc tế và đứng trước việc là một thành viên của WTO, nhiều doanh nghiệp Việt

     Nam (DNVN) đã mạnh dạn đầu tư trực tiếp ra nước ngoài. Hiện nay, DNVN đã có mặt tại

    nhiều nước và vùng lãnh thổ thuộc năm châu lục mà lớn nhất là Cộng hoà Dân chủ nhân dân

    (CHDCND) Lào.

    Việt Nam và Lào là hai nước láng giềng vốn có quan hệ hữu nghị truyền thống từ

    lâu đời. Hai nước có chung 2.067km đường biên giới, sự gần gũi về trình độ phát triển và

    lịch sử văn hoá cùng với sự tương đồng về việc lựa chọn mục tiêu, con đường phát triển

    trong đấu tranh giải phóng dân tộc cũng như trong quá trình xây dựng, phát triển đất nước

    trở thành một trong những nhân tố mang ý nghĩa quyết định tạo lập mối quan hệ hữu nghịViệt – Lào.

    Với bề dày truyền thống hữu nghị, hợp tác và giúp đỡ lẫn nhau, quan hệ hợp tác

    kinh tế và đầu tư giữa Việt Nam và Lào cũng đã được thiết lập từ lâu, có nhiều bước phát

    triển và khá toàn diện. Đặc biệt, trong những năm gần đây, ngoài những lĩnh vực hợp tác

    truyền thống, hai bên tập trung chú ý nhiều hơn đến hợp tác đầu tư, liên doanh liên kết

    giữa các doanh nghiệp của Việt Nam và Lào từ trung ương cho đến địa phương theo

    hướng thiết thực và hiệu quả. Ngay từ năm 1987, khi Luật đầu tư nước ngoài của Việt

  • 8/18/2019 Đầu Tư Trực Tiếp Của Doanh Nghiệp Việt Nam Vào CHDCND Lào

    3/112

     

     Nam được ban hành, các DNVN đã tìm kiếm cơ hội đầu tư sang Lào nhất là một số

    doanh nghiệp tư nhân của những địa phương có đường biên giới với Lào đã thực hiện

    một số dự án FDI vào Lào theo thoả thuận hợp tác song phương giữa chính quyền địa

     phương hai nước. Từ khi Lào có Luật đầu tư nước ngoài (1988), FDI của DNVN vào Lào

    ngày càng tăng.

    Tuy nhiên, hoạt động FDI của DNVN vào Lào chưa tương xứng với mối quan hệ

    "đặc biệt" giữa hai nước. Đứng trước xu thế mở cửa, hội nhập trên thế giới và tình hình

    thực tiễn ở Việt Nam, Đảng và Nhà nước ta đã ban hành nhiều chủ trương, chính sách,

     pháp luật hướng dẫn và quản lý hoạt động đầu tư nước ngoài nói chung, FDI nói riêng

    qua các kỳ Đại hội của Đảng. Đến nay, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X

    tiếp tục khẳng định và chỉ rõ: "Khuyến khích các doanh nghiệp Việt Nam hợp tác liên

    doanh với doanh nghiệp nước ngoài và mạnh dạn đầu tư ra nước ngoài” [7, tr.115].

    Từ những lý do nêu trên, việc nghiên cứu đề tài "Đầu tư trực tiếp của doanh

    nghiệp Việt Nam vào Cộng hoà dân chủ nhân dân Lào”  được tác giả chọn làm luận văn

    thạc sĩ của mình.

    2. Tình hình nghiên cứu 

    Xung quanh chủ đề nghiên cứu đã có một số công trình nghiên cứu khoa học được

    đăng tải như:

    - Ban Tuyên giáo Trung ương, Trung tâm thông tin công tác tuyên giáo , Tình hình

    đầu tư ra nước ngoài của Việt Nam và những giải pháp chiến lược, Tạp chí Tư liệu báo

    cáo viên, số 10 , 2008 .

    - Vũ Xuân Bình, Đầu tư trực tiếp nước ngoài - nguồn tiềm năng quan trọng đối với

     phát triển kinh tế - xã hội ở Việt Nam, Tạp chí Giáo dục lý luận, số 6 ,2002 .

    - Bua Khăm Thip Pha Vong, Đầu tư trực tiếp nước ngoài trong việc phát triển kinh

    tế ở Cộng hoà dân chủ nhân dân Lào, Luận án tiến sĩ kinh tế, Hà Nội, 2000.

    - Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Kỷ yếu đề tài khoa học cấp Bộ năm

    1999 – 2000, Quan hệ giữa Việt Nam và Lào trong giai đoạn hiện nay, Hà Nội, 2000.

    - Nguyễn Hữu Hiểu, Giải pháp tài chính thúc đẩy doanh nghiệp Việt Nam đầu tư

    trực tiếp ra nước ngoài, Tạp chí Kinh tế và Dự báo, số 4 ,2005.

  • 8/18/2019 Đầu Tư Trực Tiếp Của Doanh Nghiệp Việt Nam Vào CHDCND Lào

    4/112

     

    - Lê Thị Thanh Huyền, Các doanh nghiệp Việt Nam tăng cường đầu tư ra nước

    ngoài, Tạp chí Tài chính, số 2 ,2006.

    - Nguyễn Thị Hường, Khuyến khích các doanh nghiệp Việt Nam đầu tư trực tiếp ra

    nước ngoài nhằm chủ động hội nhập kinh tế quốc tế , Tạp chí Kinh tế và Dự báo, số 5

    ,2006.

    - Khay Kham Van Na Vong Sy,  Mở rộng quan hệ kinh tế giữa Cộng hoà dân chủ

    nhân dân Lào với các nước láng giềng trong giai đoạn hiện nay, Luận án tiến sĩ kinh tế,

    Hà Nội, 2002.

    - Trần Lãm, Đầu tư trực tiếp nước ngoài tại các nước ASEAN , Tạp chí Kinh tế và

    Dự báo, số 12 (260), 1994.

    - Nguyễn Thanh Long, Quan hệ kinh tế giữa Việt Nam với Lào và Cămpuchia

    trong điều kiện mở rộng phân công lao động quốc tế XHCN , Luận án PTS, Hà Nội, 1987.

    - Lê Tự Minh và Nguyễn Minh Phong, Hỗ trợ các doanh nhân Việt Nam đầu tư ở

    nước ngoài - sự cần thiết mở rộng thị trường xuất khẩu của Việt Nam, Tạp chí Thương

    mại, số 8 ,2003.

    - Hà Phương, Thúc đẩy đầu tư ra nước ngoài để chủ động hơn với thế giới, Tạp chí Nghiên cứu và Dự báo, số 16 ,2008.

    - Đinh Trọng Thịnh , Đầu tư của doanh nghiệp Việt Nam vào Trung Quốc - thực

    trạng và giải pháp, Tạp chí Nghiên cứu kinh tế, số 344/1,2006.

    - PGS.TS Đinh Trọng Thịnh, Thúc đẩy doanh nghiệp Việt Nam đầu tư trực tiếp ra

    nước ngoài, Nxb Tài chính, Hà Nội, 2006.

    - Việt Tuấn, Doanh nghiệp đầu tư ra nước ngoài - những vấn đề đặt ra, Tạp chí Tài

    chính, số 9, 2006.

     Nhìn chung, các công trình trên tiếp cận dưới những góc độ khác nhau cả lý luận và thực tiễn về

    đầu tư nước ngoài. Song chưa có công trình nào đi sâu nghiên cứu về FDI của DNVN vào CHDCND Lào

    dưới góc độ kinh tế chính trị.

    3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 

    3.1. Mục đích nghiên cứu 

  • 8/18/2019 Đầu Tư Trực Tiếp Của Doanh Nghiệp Việt Nam Vào CHDCND Lào

    5/112

     

    Phân tích, đánh giá thực trạng đầu tư trực tiếp của DNVN vào CHDCND Lào. Từ

    đó đề xuất một số giải pháp chủ yếu nhằm đẩy mạnh đầu tư trực tiếp của DNVN vào

    CHDCND Lào trong thời gian tới.

    3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu 

    - Làm rõ một số lý luận chung về FDI.

    - Làm rõ sự cần thiết về đầu tư trực tiếp của DNVN vào CHDCND Lào.

    - Phân tích, đánh giá thực trạng đầu tư trực tiếp của DNVN vào CHDCND Lào.

    - Đề xuất một số giải pháp chủ yếu nhằm đẩy mạnh đầu tư trực tiếp của DNVN vào

    CHDCND Lào.4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 

    4.1. Đối tượng nghiên cứu 

    Đề tài nghiên cứu đầu tư trực tiếp của DNVN vào CHDCND Lào.

    4.2. Phạm vi nghiên cứu 

    Thời gian nghiên cứu chủ yếu từ năm 2001 đến 2008 (có khảo sát hoạt động đầu tư

    trực tiếp của DNVN vào CHDCND Lào từ năm 1999 đến 2001).

    5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu 

    5.1. Cơ sở lý luận 

    Luận văn được nghiên cứu dựa trên các học thuyết kinh tế của Chủ nghĩa Mác –

    Lênin, các học thuyết kinh tế hiện đại; các quan điểm, chủ trương, đường lối, chính sách

    của Đảng và Nhà nước Việt Nam.

    5.2. Phương pháp nghiên cứu 

    Luận văn sử dụng các phương pháp như: trừu tượng hoá khoa học, phân tích tổnghợp, thống kê so sánh, lô gíc và lịch sử. Gắn lý luận với thực tiễn để làm sáng tỏ vấn đề.

    6. Kết cấu của luận văn

     Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, đề tài gồm 3 chương,

    8 tiết.

  • 8/18/2019 Đầu Tư Trực Tiếp Của Doanh Nghiệp Việt Nam Vào CHDCND Lào

    6/112

     

  • 8/18/2019 Đầu Tư Trực Tiếp Của Doanh Nghiệp Việt Nam Vào CHDCND Lào

    7/112

     

    Chương 1 

    NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN

    VỀ ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP CỦA DOANH NGHIỆP VIỆT NAM VÀO CỘNG HOÀ

    DÂN CHỦ NHÂN DÂN LÀO

    1.1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ FDI

    1.1.1. Khái niệm và đặc điểm FDI

    1.1.1.1. Khái niệm FDI  

    FDI là hình thức đầu tư dài hạn của cá nhân hay công ty nước này vào nước khác

     bằng cách thiết lập cơ sở sản xuất, kinh doanh. Cá nhân hay công ty nước ngoài đó sẽ

    nắm quyền quản lý cơ sở sản xuất kinh doanh này. Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO)

    đưa ra định nghĩa như sau về FDI: “Đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) xảy ra khi một nhà

    đầu tư từ một nước (nước chủ đầu tư) có được một tài sản ở một nước khác (nước thu hút

    đầu tư) cùng với quyền quản lý tài sản đó. Phương diện quản lý là thứ để phân biệt FDI

    với các công cụ tài chính khác. Trong phần lớn trường hợp, cả nhà đầu tư lẫn tài sản mà

    người đó quản lý ở nước ngoài là các cơ sở kinh doanh. Trong những trường hợp đó, nhàđầu tư thường hay đựoc gọi là "công ty mẹ" và các tài sản được gọi là "công ty con" hay

    "chi nhánh công ty".

    Theo Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF): " Đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) là một tác vụ

    đầu tư bao hàm một quan hệ dài hạn, phản ánh một lợi ích lâu bền của một thực thể cư

    ngụ tại một nước gốc(nhà đầu tư trực tiếp) đối với một thực thể cư ngụ tại một nuớc khác

    (doanh nghiệp tiếp nhận đầu tư).”

     Ngân hàng Pháp Quốc (Banque de France) định nghĩa:

    Một đầu tư là đầu tư trực tiếp nước ngoài khi nào:

    (a) Thiết lập được một pháp nhân hoặc một chi nhánh ở nước ngoài;

    (b) Nắm giữ được một tỷ lệ có ý nghĩa về vốn, cho phép nhà đầu tư nước

    ngoài có quyền kiểm soát việc quản lý doanh nghiệp nước ngoài tiếp nhận đầu

    tư (tham gia bằng hoặc trên 10%);

  • 8/18/2019 Đầu Tư Trực Tiếp Của Doanh Nghiệp Việt Nam Vào CHDCND Lào

    8/112

     

    (c) Các khoản cho vay hoặc ứng trước ngắn hạn của nhà đầu tư cho công

    ty tiếp nhận đầu tư một khi đã thiết lập giữa hai bên mối quan hệ công ty mẹ

    và chi nhánh [30, tr.114].

    Theo Giáo trình Kinh tế chính trị Mác – Lênin (Dùng cho các khối ngành không

    chuyên Kinh tế - Quản trị kinh doanh trong các trường đại học, cao đẳng) của Bộ Giáo

    dục và Đào tạo thì:

    Đầu tư trực tiếp nước ngoài là hình thức đầu tư mà quyền sở hữu và

    quyền sử dụng quản lý vốn của người đầu tư thống nhất với nhau, tức là người

    có vốn đầu tư trực tiếp tham gia vào việc tổ chức quản lý và điều hành dự án

    đầu tư, chịu trách nhiệm về kết quả, rủi ro trong kinh doanh và thu lợi nhuận

    [3, tr.326].

     Nghị định 78/2006/NĐ – CP quy định về đầu tư trực tiếp ra nước ngoài chỉ rõ: "Đầu

    tư trực tiếp ra nước ngoài là việc nhà đầu tư chuyển vốn đầu tư ra nước ngoài để thực

    hiện hoạt động đầu tư và trực tiếp tham gia quản lý hoạt động đầu tư đó ở nước ngoài”.

    Dù có nhiều cách định nghĩa khác nhau về FDI nhưng đa số các định nghĩa FDI đều

     bao hàm một số nội dung cơ bản sau đây:Thứ nhất , chủ đầu tư là người nước ngoài.

    Thứ hai, chủ đầu tư nước ngoài trực tiếp quản lý, điều hành các hoạt động sản xuất

    kinh doanh ở nước ngoài.

    Thứ ba, mục đích của hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài là nhằm mục đích sinh

    lợi.

    Tóm lại, FDI là hình thức chủ đầu tư nước ngoài bỏ ra toàn bộ hoặc một phần vốn

    đủ lớn vào các dự án để thiết lập các cơ sở sản xuất kinh doanh nhằm giành quyền quản

    lý và trực tiếp điều hành đối tượng mà họ đã bỏ vốn ra đầu tư nhằm mục đích thu được

    lợi nhuận từ những hoạt động đầu tư đó ở nước ngoài. FDI là quá trình trong đó một hay

    nhiều bên (có quốc tịch khác nhau) cùng góp vốn để xây dựng và triển khai một dự án

    đầu tư nhằm đưa lại lợi ích cho tất cả các bên tham gia. Yếu tố nước ngoài của đầu tư

    trực tiếp thể hiện sự khác nhau về mặt quốc tịch của các bên tham gia đầu tư với những

    đặc thù riêng về sự can thiệp của chủ đầu tư nước ngoài vào quá trình sản xuất kinh

  • 8/18/2019 Đầu Tư Trực Tiếp Của Doanh Nghiệp Việt Nam Vào CHDCND Lào

    9/112

     

    doanh; về tính chất lâu dài của dự án; về sự gắn liền với quá trình chuyển giao công nghệ,

    kinh nghiệm… Mọi hoạt động FDI đều nhằm mục đích sinh lợi.

    1.1.1.2. Đặc điểm của FDI  

    FDI là một hình thức đầu tư quốc tế đưa vốn ra nước ngoài tiến hành các hoạt động

    sản xuất kinh doanh với nhiều mục đích khác nhau về kinh tế, chính trị hoặc mục đích

    nào khác… Nhưng dù với mục đích nào thì FDI đều có đặc điểm:

    Thứ nhất , về nguồn vốn: chủ đầu tư trực tiếp nước ngoài phải đóng một lượng vốn

    tối thiểu theo quy định của từng nước qua đó họ có quyền được trực tiếp tham gia điều

    hành đối tượng mà họ bỏ vốn tham gia đầu tư. Nhà đầu tư tự chịu trách nhiệm về hiệuquả hoạt động của nguồn vốn. Thay vì nhận được lãi suất trên số vốn đầu tư, nhà đầu tư

    sẽ nhận được phần lợi nhuận thích đáng khi dự án hoạt động đầu tư có hiệu quả.

    Ở các nước phát triển nói chung, lượng vốn đầu tư phải chiếm trên 10% cổ phần của

    xí nghiệp nước ngoài thì mới được xem là đầu tư trực tiếp. Phần vốn tối thiểu thay đổi

    tuỳ theo từng nước từ 10 đến 25%. Có nước quy định là 25%, hoặc có nước quy định có

    cổ phần tuy dưới 25% nhưng nếu có một trong những điều kiện sau đây đều được xem là

    đầu tư trực tiếp: cử nhân viên quản lý hoặc nhân viên kỹ thuật đến xí nghiệp đầu tư, cungcấp kỹ thuật, cung cấp nguyên liệu; mua sản phẩm của xí nghiệp, giúp đỡ tiền vốn, cho

    vay hoặc đầu tư theo hình thức thương mại có hoàn trả [6, tr.12].

    Vốn FDI thể hiện ở các hình thức: ngoại tệ, máy móc, thiết bị, vật tư nguyên liệu,

    nhiên liệu, hàng hoá thành phẩm, hàng hoá bán thành phẩm; giá trị quyền sở hữu công

    nghiệp, bí quyết kỹ thuật, quy trình công nghệ, dịch vụ kỹ thuật, quyền sở hữu trí tuệ; các

    tài sản khác.

     Nguồn vốn FDI bao gồm vốn góp để hình thành vốn pháp định, vốn vay hoặc vốn

     bổ sung từ lợi nhuận của doanh nghiệp để triển khai mở rộng dự án.

    Thứ hai, về quyền điều hành quản lý: chủ đầu tư nước ngoài trực tiếp điều hành

    hoặc tham gia quản lý và điều hành quá trình thực hiện vận hành dự án đầu tư tuỳ theo tỷ

    lệ góp vốn. Nếu nhà đầu tư nước ngoài đầu tư 100% vốn thì công ty, xí nghiệp, doanh

    nghiệp đó hoàn toàn do chủ đầu tư nước ngoài trực tiếp điều hành hoặc thuê người quản

    lý điều hành.

  • 8/18/2019 Đầu Tư Trực Tiếp Của Doanh Nghiệp Việt Nam Vào CHDCND Lào

    10/112

     

    Thứ ba, về mặt chuyên môn: thông qua hoạt động FDI, nước tiếp nhận đầu tư có thể

    tiếp thu khoa học công nghệ, bí quyết kỹ thuật tiên tiến, kinh nghiệm tổ chức quản lý hiện

    đại của nước đi đầu tư hoặc nước đi đầu tư sẽ tận dụng được sự ưu tiên, điều kiện thuận

    lợi mà nước tiếp nhận đầu tư trực tiếp dành cho mình để phát huy lợi thế về nguồn nhân

    lực trình độ cao, phương tiện đầu tư…mà khi đầu tư trong nước sẽ không có được.

    Thứ tư , về mặt hoạt động: FDI đi vào sản xuất hàng hoá hoặc dịch vụ.

    Thứ năm, về phân chia lợi nhuận: lợi nhuận thu được từ kết quả hoạt động đầu tư,

    lãi hoặc lỗ được phân chia theo tỷ lệ góp vốn trong vốn pháp định sau khi đã trừ đi thuế

    lợi tức và các khoản đóng góp khác cho nước tiếp nhận đầu tư theo quy định của nước

    tiếp nhận đầu tư.

    1.1.2. Các hình thức FDI 

    1.1.2.1. Doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài

    Doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài là doanh nghiệp do chủ đầu tư nước ngoài đầu

    tư toàn bộ vốn pháp định để thành lập doanh nghiệp. Doanh nghiệp 100% vốn nước

    ngoài có đặc điểm:

    - Doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài là một pháp nhân của nước nhận đầu tưnhưng toàn bộ doanh nghiệp hoàn toàn thuộc quyền sở hữu của tổ chức, cá nhân người

    nước ngoài và do bên nước ngoài tự thành lập, quản lý và chịu trách nhiệm về kết quả

    kinh doanh.

    - Hình thức pháp lý của doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài do nhà đầu tư nước

    ngoài lựa chọn trong khuôn khổ pháp luật của nước tiếp nhận đầu tư.

    - Chủ đầu tư nước ngoài có quyền điều hành toàn bộ doanh nghiệp. Phần kết quả

    kinh doanh của doanh nghiệp sau khi hoàn thành nghĩa vụ tài chính với nước sở tại là

    thuộc sở hữu hợp pháp của nhà đầu tư nuớc ngoài.

    - Chủ đầu tư nước ngoài tự quyết định các vấn đề trong doanh nghiệp và các vấn đề

    liên quan để sản xuất kinh doanh nhằm đạt hiệu quả cao nhất trong khuôn khổ pháp luật

    của nước sở tại.

    1.1.2.2. Doanh nghiệp liên doanh 

  • 8/18/2019 Đầu Tư Trực Tiếp Của Doanh Nghiệp Việt Nam Vào CHDCND Lào

    11/112

     

    Doanh nghiệp liên doanh là doanh nghiệp được thành lập do một hoặc nhiều chủ

    đầu tư nước ngoài góp chung vốn với doanh nghiệp nước sở tại trên cơ sở hợp đồng liên

    doanh. Hình thức doanh nghiệp liên doanh có đặc điểm:

    - Về mặt pháp lý: Doanh nghiệp liên doanh là một pháp nhân của nước nhận đầu tư,

    hoạt động theo luật pháp của nước nhận đầu tư. Hình thức liên doanh do các bên tự thoả

    thuận, phù hợp với các quy định pháp luật của nước nhận đầu tư. Quyền lợi và nghĩa vụ

    của các bên và quyền quản lý doanh nghiệp liên doanh phụ thuộc vào tỷ lệ góp vốn và

    được ghi trong hợp đồng liên doanh và điều lệ của doanh nghiệp.

    - Về mặt tổ chức: Các bên cùng tham gia điều hành doanh nghiệp, chia lợi nhuận và

    chịu rủi ro theo tỷ lệ góp vốn của mỗi bên. Tuỳ theo quy định của từng quốc gia mà có

    mức góp vốn tối đa và tối thiểu vào vốn pháp định của chủ đầu tư nước ngoài. Quy định

    mức góp vốn tối đa nhằm bảo vệ chủ quyền quốc gia, dân tộc và cũng do nước sở tại

    không quá thiếu vốn. Quy định mức góp vốn tối thiểu nhằm mục đích thu hút càng nhiều

    càng tốt (Việt Nam quy định mức góp vồn tối thiểu của chủ đầu tư nước ngoài là 30%

    vốn pháp định của doanh nghiệp liên doanh). Hội đồng quản trị của doanh nghiệp là mô

    hình chung cho mọi hình thức doanh nghiệp liên doanh không phụ thuộc vào quy mô,lĩnh vực, ngành nghề. Đây là cơ quan quản lý cao nhất của doanh nghiệp liên doanh.

    - Về mặt kinh tế: luôn có sự gặp gỡ và phân chia lợi ích một cách hài hoà giữa các

     bên trong liên doanh và cả các bên đứng sau liên doanh.

    - Về tổ chức điều hành: quyết định sản xuất kinh doanh dựa vào các quy định pháp

    lý của nước nhận đầu tư mà lựa chọn, vận dụng nguyên tắc nhất trí hay quá bán.

    1.1.2.3. Đầu tư theo hợp đồng  

    Đầu tư theo hợp đồng bao gồm các hình thức:

    * Hợp đồng hợp tác kinh doanh(Contractual Business co-operation: BBC)

    BBC là hình thức đầu tư được ký giữa cơ quan nhà nước có thẩm quyền và nhà đầu

    tư để xây dựng, kinh doanh công trình kết cấu hạ tầng trong một thời hạn nhất định; hết

    thời hạn, nhà đầu tư chuyển giao không bồi hoàn công trình đó cho bên tiếp nhận đầu tư.

    BBC phải có sự tham gia của bên hợp danh là nước tiếp nhận đầu tư. Nhà đầu tư

    được ký kết hợp đồng BBC để hợp tác sản xuất phân chia lợi nhuận, phân chia sản phẩm

  • 8/18/2019 Đầu Tư Trực Tiếp Của Doanh Nghiệp Việt Nam Vào CHDCND Lào

    12/112

     

    và các hình thức hợp tác kinh doanh khác. Đối tượng, nội dung hợp tác, thời hạn kinh

    doanh, quyền lợi, nghĩa vụ, trách nhiệm của mỗi bên, quan hệ hợp tác giữa các bên và tổ

    chức quản lý do các bên thoả thuận giá trị trong hợp đồng. Hợp đồng này khác với các

    loại hợp đồng khác đó là nó phân chia kết quả kinh doanh và trách nhiệm của các bên cụ

    thể được ghi trong hợp đồng không áp dụng đối với hợp đồng thương mại, hợp đồng giao

    nhận sản phẩm, mua thiết bị trả chậm và các hợp đồng khác không phân chia lợi nhuận.

     Nội dung chính của BBC bao gồm: quốc tịch, địa chỉ, đại diện có thẩm quyền của các

     bên hợp danh; mục tiêu và phạm vi kinh doanh; sản phẩm tiêu thụ chủ yếu, tỷ lệ xuất

    khẩu và tiêu thụ sản phẩm trong nước; quyền và nghĩa vụ của các bên hợp danh; đóng

    góp của các bên hợp danh, phân chia kết quả kinh doanh, tiến độ thực hiện hợp đồng.

    Trong quá trình kinh doanh, các bên hợp danh được phép thoả thuận thành lập ban

    điều phối để theo dõi giám sát công việc thực hiện hợp đồng. Mỗi bên hợp danh phải chịu

    trách nhiệm về mọi hoạt động của mình trước pháp luật và có nghĩa vụ tài chính tuỳ theo

     bên tiếp nhận đầu tư quy định. Trong quá trình hoạt động các bên hợp danh được quyền

    chuyển nhượng vốn cho các đối tượng khác nhưng phải ưu tiên cho các đối tượng đang

    hợp tác. Đặc điểm của hình thức BBC:

    - Hai bên hợp tác kinh doanh trên cơ sở văn bản hợp đồng phân định trách nhiệm,

    nghĩa vụ và quyền lợi.

    - Không thành lập pháp nhân mới.

    - Thời hạn hợp đồng do hai bên thoả thuận, khi hết thời hạn hiệu lực thì các bên

    không còn ràng buộc về mặt pháp lý.

    - Vốn kinh doanh không nhất thiết phải đề cập trong bản hợp đồng.

    * Hợp đồng Xây dựng – Kinh doanh – Chuyển giao (Building – Opeate –

    Transfer: BOT). 

    BOT là hình thức đầu tư được ký giữa cơ quan nhà nước có thẩm quyền và nhà

    đầu tư để xây dựng, kinh doanh công trình kết cấu hạ tầng trong một thời hạn nhất định;

    hết thời hạn nhà đầu tư chuyển giao không bồi hoàn hoặc với một giá tượng trưng công

    trình đó cho nước tiếp nhận đầu tư.

  • 8/18/2019 Đầu Tư Trực Tiếp Của Doanh Nghiệp Việt Nam Vào CHDCND Lào

    13/112

     

     Đặc điểm của hình thức BOT:

    - Nguồn vốn thực hiện: 100% vốn nước ngoài hoặc bằng vốn nước ngoài cộng với

    vốn của chính phủ, của các tổ chức, cá nhân nước tiếp nhận đầu tư.

    - Các chủ đầu tư tổ chức xây dựng, kinh doanh trong một thời gian đủ để thu hồi

    vốn đầu tư và lợi nhuận hợp lý.

    - Chuyển giao cho nước tiếp nhận đầu tư toàn bộ công trình, dự án đã xây dựng,

    kinh doanh.

    * Hợp đồng Xây dựng – Chuyển giao – Kinh doanh (Building – Transfer – Opeate:

     BTO).

    BTO là hình thức đầu tư được ký giữa cơ quan nhà nước có thẩm quyền và nhà

    đầu tư để xây dựng công trình kết cấu hạ tầng; sau khi xây dựng xong nhà đầu tư nước

    ngoài chuyển giao công trình đó cho nước tiếp nhận đầu tư. Chính phủ nước tiếp nhận

    đầu tư sẽ cùng với nhà đầu tư nước ngoài khai thác công trình đó trong một thời gian nhất

    định đủ để thu hồi vốn và đảm bảo có lãi.

    * Hợp đồng Xây dựng – Chuyển giao (Building – Transfer:BT).

    BT là hình thức đầu tư được ký giữa cơ quan nhà nước có thẩm quyền của nước tiếpnhận đầu tư và nhà đầu tư nước ngoài để xây dựng công trình kết cấu hạ tầng; sau khi xây

    dựng xong nhà đầu tư nước ngoài chuyển giao công trình đó cho nước tiếp nhận đầu tư.

    Chính phủ nước tiếp nhận đầu tư tạo điều kiện cho nhà đầu tư nước ngoài thực hiện dự án

    khác để thu hồi vốn đầu tư và có lợi nhuận hợp lý hoặc thanh toán cho nhà đầu tư nước

    ngoài theo thoả thuận trong hợp đồng BT.

    1.1.2.4. Đầu tư thực hiện sáp nhập và mua lại(Mergers & Acquisition: M&A) 

    FDI thông qua M&A là hình thức nhà đầu tư nước ngoài được quyền sáp nhập và

    mua lại công ty, chi nhánh ở nơi đầu tư. Điều kiện sáp nhập, mua lại công ty, chi nhánh

    theo quy định của pháp luật về cạnh tranh và pháp luật khác có liên quan của nước tiếp

    nhận đầu tư.

    Theo pháp luật Việt nam hiện hành, hoạt động M&A được hiểu là hoạt động sáp

    nhập và mua lại doanh nghiệp và được xem xét dưới nhiều góc độ: như một trong các

    hành vi tập trung kinh tế được điều chỉnh bởi pháp luật cạnh tranh, như một trong những

  • 8/18/2019 Đầu Tư Trực Tiếp Của Doanh Nghiệp Việt Nam Vào CHDCND Lào

    14/112

     

    hình thức tổ chức lại doanh nghiệp được điều chỉnh theo pháp luật về doanh nghiệp và

    như một trong những hình thức đầu tư trực tiếp được điều chỉnh theo pháp luật về đầu tư.

    Luật Đầu tư năm 2005 lần đầu tiên quy định “Đầu tư thực hiện việc sáp nhập và

    mua lại doanh nghiệp” như một trong những hình thức đầu tư trực tiếp. Theo đó, đầu tư

    trực tiếp được thực hiện dưới các hình thức: (i) đóng góp vốn để thành lập doanh nghiệp

    mới hoặc để tham gia quản lý hoạt động đầu tư; (ii) mua toàn bộ hoặc một phần doanh

    nghiệp đang hoạt động ; (iii) mua cổ phiếu để thôn tính hoặc sáp nhập doanh nghiệp.

    Trên thế giới M&A có một số đặc điểm: (i) hầu hết các vụ sáp nhập, mua lại này

    đều được diễn ra giữa các công ty của các nước phát triển. Theo Báo cáo đầu tư thế giới

    của UNCTAD, chỉ có 8% các vụ sáp nhập lớn diễn ra ở các quốc gia nằm ngoài các nước

    công nghiệp hóa. Các vụ sáp nhập lớn thường diễn ra ở Anh và Mỹ và bên cạnh việc điều

    tiết bằng luật cạnh tranh là điều chỉnh việc mua bán sáp nhập bằng các tiền lệ; ở châu Âu

    lục địa thường chỉ diễn ra các vụ sáp nhập, mua bán nhỏ; (ii) chủ yếu là sáp nhập, mua

     bán các công ty nhỏ và có tính chất gia đình; (iii) các vụ sáp nhập, mua lại thường chỉ tập

    trung vào một số ít ngành ngân hàng, công nghiệp dầu khí, các công ty dược phẩm, công

    nghệ thông tin và ngành công nghiệp ô tô với sự chi phối bởi những hoàn cảnh cụ thể liênquan đến một ngành công nghiệp nhất định. Ở các ngành khác, các vụ M&A lớn ít diễn

    ra. Vì vậy, chúng ta cần phải thận trọng khi kết luận rằng chúng ta đang chứng kiến một

    xu hướng toàn cầu đang lan rộng và có ảnh hưởng tới tất cả các ngành công nghiệp; (iiii)

    hình thức M&A không chỉ chiếm tỉ trọng lớn trong FDI của các nước phát triển mà còn là

    một hình thức đầu tư hiệu quả để thâm nhập vào nền kinh tế các nước đang phát triển và

    chuyển đổi. Ảnh hưởng của nó luôn mang tính hai mặt và không đồng đều. Một mặt nó giúp

    các công ty lớn mở rộng thị trường, tăng quyền sở hữu nhưng mặt khác lại đặt ra cho nước

    nhận đầu tư phải cân nhắc giữa cái giá phải trả và cái lợi được hưởng.

    Trên thế giới, M&A được xem xét, điều tiết chủ yếu từ góc độ của pháp luật về

    cạnh tranh. Nhìn chung các điều khoản về sáp nhập, mua lại trong Luật cạnh tranh ở các

    nước trên thế giới không có tính bắt buộc. Cụ thể là không cần thiết phải rà soát một cách

    hệ thống và thông qua tất cả các vụ sáp nhập, mua lại. Yêu cầu thông báo về mọi vụ sáp

    nhập, mua lại sẽ tạo ra gánh nặng không đáng có cho cơ quan quản lý, làm phát sinh các

  • 8/18/2019 Đầu Tư Trực Tiếp Của Doanh Nghiệp Việt Nam Vào CHDCND Lào

    15/112

     

    khoản chi phí không hợp lý và làm chậm quá trình sáp nhập, mua lại. Có thể rút ra kết

    luận như sau:

    - Quan niệm phổ biến về M&A trên thế giới được hiểu bao gồm không chỉ sáp

    nhập, mua lại mà còn gồm cả hợp nhất và giành quyền kiểm soát đối với doanh nghiệp.

    - Phân tích về M&A, chúng ta thấy đó không phải là hoạt động đầu tư theo nghĩa

    thông thường mà về bản chất đó là sự tối ưu hoá đầu tư. Chỉ có mua lại, giành quyền

    kiểm soát mới thực sự là bỏ vốn để tiến hành hoạt động đầu tư.

    1.1.3. Vai trò của FDI 

    1.1.3.1. Đối với nước đầu tưFDI ngày càng có vai trò to lớn đối với việc thúc đẩy quá trình phát triển kinh tế và

    thương mại ở các nước đầu tư.

    Thứ nhất, FDI giúp cho nước đầu tư sử dụng có hiệu quả nguồn lực tài chính "dư

    thừa ” tương đối trong nước, nâng cao tỷ suất lợi nhuận đầu tư; đồng thời khai thác có

    hiệu quả lợi thế của quốc gia trên trường quốc tế.

    Khi đầu tư trực tiếp ra nước ngoài, các quốc gia này sẽ đem các nguồn lực có lợi

    thế của mình để tiến hành đầu tư và có thể sẽ thu được lợi nhuận lớn hơn khi đầu tư trong

    nước. Với môi trường kinh doanh mới, lành mạnh ở nhiều nước khác nhau trên thế giới,

    trình độ quản lý doanh nghiệp, quản lý quá trình đầu tư ngày càng hiện đại nên những

    nguồn lực “dư thừa” mà nhà đầu tư đem đi đầu tư sẽ được khai thác, sử dụng có hiệu quả

    hơn. Các nguồn lực sẽ được khai thác tối đa trong môi trường kinh doanh rộng lớn hơn,

    với mật độ cạnh tranh thấp hơn với những ngành mà quốc gia đó có thế mạnh.

    Thứ hai, FDI giúp cho nước đầu tư tìm kiếm và tận dụng được các nguồn lực ở

    nước ngoài một cách có hiệu quả hơn ở trong nước, xây dựng được thị trường cung cấp

    đầu vào ổn định với giá cả hợp lý.

     Nguồn lực và khả năng khai thác các nguồn lực là vấn đề quan trọng để giảm thiểu

    chi phí trong quá trình sản xuất kinh doanh của mỗi doanh nghiệp, góp phần đắc lực cho

    doanh nghiệp nâng cao sức cạnh tranh và tăng lợi nhuận. Tuy nhiên, sự phân bổ nguồn

    lực và khả năng khai thác các nguồn lực này tại mỗi quốc gia khác nhau là rất khác nhau.

    Do vậy, mới dẫn đến tình trạng là có những nơi “thừa” tương đối và “thiếu” tương đối

  • 8/18/2019 Đầu Tư Trực Tiếp Của Doanh Nghiệp Việt Nam Vào CHDCND Lào

    16/112

     

    các nguồn lực. Khi tiến hành sản xuất kinh doanh, mỗi nhà quản lý đều phải luôn tìm

    cách tối thiểu hoá chi phí và tối đa hoá lợi nhuận nên họ cố gắng sử dụng các nguồn lực sao

    cho có hiệu quả nhất và đầu tư trực tiếp ra nước ngoài là một giải pháp.

    Thứ ba, FDI giúp cho các nhà đầu tư mở rộng thị trường xuất khẩu, tiêu thụ sản

     phẩm.

    FDI là một cách để thâm nhập vào thị trường nước ngoài. Thâm nhập thị trường

    nước ngoài theo cách này sẽ giúp người tiêu dùng nước sở tại làm quen với sản phẩm của

    nước đầu tư do vậy góp phần mở rộng thị trường xuất khẩu cho sản phẩm, thúc đẩy hoạt

    động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Thâm nhập thị trường nước ngoài đồng

    nghĩa với việc thị trường tiêu thụ sản phẩm của các doanh nghiệp nước đầu tư sẽ được

    nhiều người sử dụng hơn, nâng cao khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp, đồng thời uy

    tín các doanh nghiệp của nước đầu tư cũng được nâng lên, khả năng phát triển doanh

    nghiệp ngày càng lớn. Mặt khác, thông qua uy tín của các doanh nghiệp mà vị thế của quốc

    gia đó trên trường quốc tế nói chung, trong đầu tư trực tiếp nước ngoài nói riêng ngày càng

    được nâng cao, quốc gia đó sẽ có tiếng nói mạnh mẽ và có trọng lượng trong các diễn đàn

    kinh tế và các tổ chức kinh tế thế giới.Thứ tư, FDI giúp các nước đầu tư tránh được hàng rào thuế quan và hàng rào bảo

    hộ phi thuế quan của nước tiếp nhận đầu tư.

    Do nhiều lý do khác nhau, cả lý do hợp lý và bất hợp lý, hầu hết các quốc gia trên

    thế giới kể cả các nước phát triển và đang phát triển đều sử dụng hàng rào thuế quan, hạn

    ngạch, giấy phép nhập khẩu để kiểm soát việc xuất nhập khẩu hàng hoá và dịch vụ.

    Thông thường, chính phủ các nước kiểm soát thương mại quốc tế nhằm mục đích tăng

    thu ngân sách, bảo hộ các ngành công nghiệp và thực hiện các mục tiêu chính sách kinh

    tế của mình.

     Ngoài rào cản truyền thống là sử dụng thuế quan, nhiều nước trên thế giới còn sử

    dụng một số hàng rào phi thuế quan sau đây:

    - Biện pháp hành chính: sử dụng các quy định bắt buộc để phân biệt, đối xử chống

    lại sự xâm nhập của hàng hoá nước ngoài, bảo vệ hàng hoá ở trong nước. Ví dụ: Nhật

  • 8/18/2019 Đầu Tư Trực Tiếp Của Doanh Nghiệp Việt Nam Vào CHDCND Lào

    17/112

     

    Bản quy định cấm nhập khẩu đậu lạc có chứa Apflatoxin, Pháp không cho nhập khẩu thịt

     bò có chất tăng trọng.

    - Rào cản kỹ thuật (Technological Barrier to Trade: TBT): đây là hàng rào quy định

    về hệ thống quản trị chất lượng, môi trường, đạo đức kinh doanh, điểm kiểm soát tới hạn

    … đối với các doanh nghiệp khi thâm nhập vào thị trường. Hệ thống này bao gồm:

    + Hệ thống quản trị chất lượng (ISO 9001. 2000): hệ thống này quan tâm chủ yếu

    đến các lĩnh vực về chất lượng. Các doanh nghiệp áp dụng hệ thống này sẽ đáp ứng yêu

    cầu của khách hàng trong và ngoài nước; nâng cao tinh thần làm việc, tinh thần đoàn kết

    của nhân viên trong doanh nghiệp; vượt qua rào cản trong thương mại quốc tế, gia tăng

    thị phần, lợi nhuận và phát triển bền vững. Sản phẩm của doanh nghiệp nào được cấp

    giấy chứng nhận ISO 9001: 2000 sẽ dễ dàng thâm nhập vào thị trường các nước phát

    triển. Hiện nay có trên 140 quốc gia áp dụng hệ thống này.

    + Hệ thống quản trị môi trường (ISO 14001: 2000): hệ thống này xem xét vấn đề

     bảo vệ môi trường của tổ chức doanh nghiệp và của sản phẩm. Thị trường thế giới hiện

    nay rất chú trọng đến vấn đề môi trường, quan tâm những sản phẩm "xanh và sạch”. Mức

    độ ảnh hưởng đến môi trường của sản phẩm có vai trò to lớn đối với sức cạnh tranh củasản phẩm đó trên thị trường.

    + Hệ thống thực hành sản xuất tốt (Good Manufacturing Practices: GMP): hệ thống

    này xem xét vấn đề đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm, đặc biệt là dược phẩm. Sản

     phẩm muốn thâm nhập thị trường các nước phải áp dụng GMP.

    + Hệ thống phân tích mối nguy và điểm kiểm soát tới hạn (Hazrd Analysis Critical

    Control Point: HACCP): đây là những yêu cầu bắt buộc đối với các doanh nghiệp chế

     biến hàng thuỷ sản nếu muốn thâm nhập vào các thị trường lớn như Mỹ, EU, Nhật Bản,

    Australia, Canada…

    + Tiêu chuẩn về trách nhiệm xã hội (SA 8000): đây là tiêu chuẩn dựa trên công ước

    quốc tế về lao động, quy định cấm nhập khẩu hàng hoá mà trong quá trình sản xuất có sử

    dụng lao động trẻ em, lao động cưỡng bức, phân biệt đối xử, bắt người lao động làm việc

    quá thời hạn cho phép của Luật lao động. Ngoài ra, nhiều quốc gia còn sử dụng một số hệ

  • 8/18/2019 Đầu Tư Trực Tiếp Của Doanh Nghiệp Việt Nam Vào CHDCND Lào

    18/112

     

    thống khác như: QS 9000 áp dụng cho các doanh nghiệp sản xuất ô tô; Q-Base áp dụng

    cho các doanh nghiệp nhỏ và vừa.

     Ngoài hàng rào thuế quan, hạn ngạch, và một số hình thức phi thuế quan thì chi phí

    vận tải cũng là một bộ phận cấu thành rào cản thương mại. Các loại sản phẩm, hàng hoá

    như: khoáng sản, xi măng, vật liệu xây dựng… có hàm lượng giá trị tương đối thấp, lại

    cồng kềnh nên chi phí vận chuyển chúng thật sự đã làm giảm lợi nhuận biên của nhà sản

    xuất và là trở ngại thực sự cho việc xuất khẩu. Trong các trường hợp như vậy, các nhà

    sản xuất thay vì xuất khẩu hàng hoá, họ xuất khẩu tư bản hay đầu tư trực tiếp nước ngoài

    để giảm chi phí và tránh được hàng rào bảo hộ thương mại của các nước, dễ dàng hơn

    trong việc đưa hàng hoá thâm nhập vào thị trường nước ngoài.

    FDI còn giúp cho các nước đầu tư bành trướng sức mạnh về kinh tế, nâng cao uy tín

    về chính trị. Thông qua FDI, các chủ thể đầu tư khẳng định được khả năng, bản lĩnh và

    trình độ của mình nói riêng, của quốc gia nói chung đối với nước tiếp nhận đầu tư và thế

    giới.

    Thứ năm, FDI giúp cho các nước đầu tư kéo dài chu kỳ sống của sản phẩm, khắc

     phục tình trạng “lão hoá” của sản phẩm, tạo điều kiện để đổi mới công nghệ, đổi mới cơcấu sản xuất thông qua việc di chuyển công nghệ, máy móc, trang thiết bị cũ đã hao mòn

    vô hình sang các nước tiếp nhận đầu tư.

    Trong giai đoạn đầu vòng đời của sản phẩm mới, giai đoạn thử nghiệm sản xuất

    được tiến hành tập trung tại chính quốc gia đó ngay cả khi chi phí sản xuất ở bên ngoài

    thấp hơn. Trong giai đoạn này, để thâm nhập thị trường nước ngoài, các doanh nghiệp có

    thể thực hiện xuất khẩu trực tiếp sản phẩm.

    Khi sản phẩm đã trở nên tiêu chuẩn hoá trong giai đoạn phát triển, sản phẩm đã

    “bão hoà” ở thị trường trong nước đòi hỏi phải chấm dứt chu kỳ sản xuất và kinh doanh

    sản phẩm đó trên thị trường nước này. Nhưng đối với thị trường ở những nước khác, nó

    vẫn có thể tiếp tục “sống” và đem lại hiệu quả cho nhà sản xuất. Trong trường hợp này,

    các nhà sản xuất sẽ tích cực đẩy mạnh đầu tư trực tiếp ra nước ngoài nhằm tận dụng lợi

    thế chi phí thấp (yếu tố đầu vào, ưu đãi của nhà nước tiếp nhận đầu tư) và quan trọng hơn

    là nhằm ngăn chặn khả năng mất thị trường vào tay các nhà sản xuất địa phương. Các nhà

  • 8/18/2019 Đầu Tư Trực Tiếp Của Doanh Nghiệp Việt Nam Vào CHDCND Lào

    19/112

     

    sản xuất sẽ tiến hành di chuyển máy móc, thiết bị và công nghệ sản xuất sang các nước

    đó để sản xuất, kéo dài “tuổi thọ” của sản phẩm. Hơn nữa, với sự phát triển như vũ bão

    của tiến bộ khoa học công nghệ trên thế giới hiện nay, nhiều máy móc, thiết bị nhanh

    chóng bị hao mòn vô hình mặc dù về mặt vật chất và công nghệ nó vẫn còn tương đối

    mới. Để có thể áp dụng các tiến bộ mới về khoa học công nghệ vào doanh nghiệp thay

    thế cho các máy móc, thiết bị đã bị hao mòn vô hình, các doanh nghiệp tìm những quốc

    gia thích hợp để di chuyển các máy móc, thiết bị này đến đầu tư. Điều này sẽ mang lại lợi

    nhuận kép cho các nhà đầu tư nước ngoài.

    Thứ sáu, thông qua FDI, các nước thực hiện đầu tư có thể tạo ra nhu cầu mới và

    nâng cao chất lượng nguồn nhân lực trong quản lý sản xuất, trong kỹ thuật sản xuất đối

    với lực lượng lao động ở trong nước thông qua đòi hỏi của nhà đầu tư trực tiếp ra nước

    ngoài đối với lực lượng lao động.

    Quá trình đẩy mạnh đầu tư trực tiếp ra nước ngoài luôn gặp phải sự cạnh tranh gay

    gắt đến từ các nhà đầu tư nước ngoài khác ở nơi đầu tư. Để chiến thắng trong cạnh tranh,

    mở rộng sản xuất tăng lợi nhuận, các nhà đầu tư nước ngoài tích cực cải tiến kỹ thuật,

    nâng cao trình độ công nghệ, hợp lý hoá sản xuất, tăng năng suất lao động. Mặt khác, cácnước tiếp nhận đầu tư luôn đặt ra hàng rào tiêu chuẩn kỹ thuật, vì vậy để thâm nhập được

    vào thị trường đó, các chủ đầu tư nước ngoài phải không ngừng nâng cao trình độ công

    nghệ, trình độ nguồn nhân lực, trình độ tổ chức quản lý sản xuất. Kết quả là trình độ

    nguồn nhân lực của các doanh nghiệp ngày càng cao, đáp ứng yêu cầu đòi hỏi của sản

    xuất.

    Thứ bảy, thông qua FDI, nước thực hiện đầu tư có điều kiện học hỏi kinh nghiệm

    của nơi tiếp nhận đầu tư trong việc xây dựng và hoạch định chính sách quản lý kinh tế,

    tạo lập môi trường cạnh tranh bình đẳng, công bằng của các chủ thể khác trên thị trường

    trong nước.

    Xu hướng FDI hiện nay không chỉ có chiều từ các nước phát triển sang các nước

    đang phát triển mà còn có chiều từ các nước đang phát triển sang các nước phát triển. Khi

    tích cực đầu tư trực tiếp vào các nước phát triển, nước đầu tư sẽ học hỏi được trình độ

    khoa học kỹ thuật công nghệ, trình độ tổ chức quản lý sản xuất-kinh doanh, học hỏi kinh

  • 8/18/2019 Đầu Tư Trực Tiếp Của Doanh Nghiệp Việt Nam Vào CHDCND Lào

    20/112

     

    nghiệm xây dựng, hoạch định chiến lược kinh doanh dài hạn, kinh nghiệm xử lý ngắn

    hạn linh hoạt…từ các nền kinh tế có trình độ phát triển cao hơn mình.

    Tóm lại, việc tiến hành FDI giữa các nước trên thế giới với nhau tất yếu dẫn đến có

    sự di chuyển các nguồn lực tài chính, công nghệ, kỹ năng, bí quyết, kinh nghiệm từ quốc

    gia này sang quốc gia khác. Sự di chuyển này vừa có tác động tích cực lẫn tiêu cực đến

    sự phát triển kinh tế - xã hội của mỗi quốc gia, vì vậy mỗi quốc gia cần có sự cân nhắc

    trên cả hai khía cạnh, vừa sử dụng các nguồn lực trong nước tham gia vào các hoạt động

    hợp tác quốc tế; vừa khai thác và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực từ bên ngoài thông

    qua hoạt động FDI phục vụ cho sự phát triển kinh tế - xã hội của quốc gia mình.

    1.1.3.2. Đối với nước tiếp nhận đầu tư  

    Từ sau chiến tranh thế giới thứ hai, nhất là từ những năm 70 của thế kỷ XX đến

    nay, hướng vận động của FDI không chỉ theo một chiều từ các nước phát triển sang các

    nước đang và chậm phát triển mà đã có sự chảy ngược vốn FDI từ các nước đang phát

    triển sang các nước phát triển. Dòng vốn FDI đa chiều, đan xen vào nhau, định hướng

    vào các khâu có giá trị cao trong chuỗi gia tăng giá trị của chủ đầu tư để khai thác được

    lợi thế so sánh ở các địa bàn khắp thế giới. Đối với cả hai đối tượng tiếp nhận FDI là các

    nước phát triển và các nước đang phát triển thì FDI đều có vai trò quan trọng đặc biệt.

    * Đối với các nước phát triển. 

    Theo đánh giá của một số nhà kinh tế thế giới, việc các nước phát triển (Mỹ, Tây

    Âu, Nhật Bản…) tích cực thu hút FDI vào mang lại nhiều lợi ích cho nền kinh tế các

    nước đó hơn là mặt hại.

    Thứ nhất, FDI giúp các nước phát triển giải quyết những vấn đề khó khăn về kinh tế

    như tiền lương, việc làm, lạm phát…

    FDI vào các nước phát triển sẽ làm tăng tiền vốn trên đầu người lao động, giúp

    người lao động tiếp cận với công nghệ mới, như vậy nó có xu hướng làm tăng tiền

    lương của công nhân có tay nghề. Trên thực tế, các công ty nước ngoài thường đầu tư

    vào các ngành tập trung nhiều vốn và có tiền lương cao ở các nước phát triển. Ví dụ ở

    Mỹ, đối với các ngành công nghiệp có quy mô và trình độ cao, công nhân làm việc

    trong các công ty nước ngoài tại Mỹ có mức lương trung bình cao hơn gần 30% so với

  • 8/18/2019 Đầu Tư Trực Tiếp Của Doanh Nghiệp Việt Nam Vào CHDCND Lào

    21/112

     

    các công ty trong nước. Còn trong các ngành phi chế tạo, mức lương của các công ty

    nước ngoài ở Mỹ thường cao hơn 7 – 8 % so với các công ty trong nước của Mỹ [25,

    tr.25].

    Các công ty nước ngoài thường tập trung đầu tư vào các khu vực, địa phương có

    thu nhập thấp ở các nước phát triển nhưng trả lương cao hơn so với các công ty trong

    nước trong cùng một khu vực, một địa phương. Điều này đã làm cho số người lao động

    trong các công ty nước ngoài tăng lên nhanh hơn so với các công ty trong nước. Kết quả

    là, hiệu ứng tăng lương của các công ty nước ngoài sẽ “chảy tràn” sang các công ty trong

    nước của các nước phát triển.

    Thứ hai, FDI giúp các nước phát triển đẩy mạnh xuất nhập khẩu, tăng thu ngân sách

    dưới hình thức các loại thuế để cải thiện tình hình bội chi ngân sách.

    Thương mại của một nước có thể tăng hay giảm phụ thuộc vào những thay đổi của

    FDI. Sở dĩ thương mại có quan hệ với FDI là vì có việc chuyển các bán thành phẩm từ

    một chi nhánh của một công ty đa quốc gia (MNCs) sang một nước khác, hoặc việc

    chuyển một thành phần từ công ty chế tạo sang công ty phân phối ở nước khác. FDI vào

    tăng thì nhập khẩu của nước đó tăng, như vậy giữa FDI và nhập khẩu có tác động bổsung. Mặt khác, FDI vào tăng, nhất là đầu tư vào các ngành chế tạo làm tăng xuất khẩu

    các sản phẩm chế tạo của nước đó làm cho FDI và xuất khẩu có tác động bổ sung lẫn

    nhau.

    Thứ ba, FDI tác động đến nghiên cứu và phát triển (Research & Develop) của các

    doanh nghiệp nhất là các MNCs cả trong và ngoài nước.

    Theo một số nghiên cứu và đánh giá của nhiều nhà kinh tế, các công ty và các

    ngành công nghiệp có lượng R&D cao thường thu được nhiều đầu tư nước ngoài hơn. Tỷ

    lệ giữa R&D với doanh thu, mức lương bình quân và tỷ lệ giữa người quản lý với tổng số

    lao động có liên quan tới xu hướng thu hút FDI của các doanh nghiệp hoặc các ngành

    công nghiệp. Điều này có thể được lý giải là vì R&D là một trong những yếu tố thu hút

    FDI. R&D có thể thu hút FDI và FDI có thể làm tăng những nhân tố thúc đẩy R&D.

    R&D đóng vai trò trung tâm trong việc làm tăng đồng thời năng suất lao động hoặc tính

    đa dạng của sản phẩm ở nhiều nước. Như vậy, R&D của nhiều công ty và các chi nhánh

  • 8/18/2019 Đầu Tư Trực Tiếp Của Doanh Nghiệp Việt Nam Vào CHDCND Lào

    22/112

     

    có lãi suất tăng dần, những công ty có mức độ R&D cao có nhiều động lực để tăng FDI,

    và những công ty có nhiều FDI sẽ có nhiều yếu tố khuyến khích tăng cường các hoạt

    động R&D.

    Thứ tư, FDI tạo ra môi trường cạnh tranh thúc đẩy sự phát triển kinh tế và thương

    mại của các nước phát triển.

    FDI vào các nước phát triển từ những nước có trình độ kinh tế cao, nhất là các nhà

    đầu tư trong nhóm nước G7 sẽ tạo ra một sự cạnh tranh quyết liệt giữa các nhà đầu tư

    trong nước và nước ngoài trong cùng một ngành, lĩnh vực. Chính sự cạnh tranh này là

    động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế, thương mại của các nước phát triển-nước tiếp

    nhận đầu tư.

    * Đối với các nước đang phát triển.

    FDI là nguồn lực hết sức quan trọng đối với sự phát triển kinh tế của các nước đang

     phát triển. Một trong những nhân tố để các nước đang phát triển đạt được tốc độ tăng

    trưởng kinh tế cao, nhanh và ổn định là chính sách thu hút và sử dụng FDI một cách hợp

    lý. FDI đối với các nước đang phát triển thực sự trở thành lực lượng vật chất quan trọng

    mở ra hướng đi lên của các nền kinh tế chậm và đang phát triển, góp phần khởi động choquá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở các nước này.

    Thứ nhất, FDI góp phần bổ sung cho nguồn vốn trong nước.

    Trong các lý luận về tăng trưởng kinh tế, nhân tố vốn luôn được đề cập đến như một

    yếu tố quan trọng để tăng trưởng kinh tế. Theo nghĩa rộng vốn được hiểu là toàn bộ của

    cải vật chất do con người tạo ra, tích luỹ lại và những yếu tố tự nhiên được sử dụng vào

    quá trình sản xuất. Theo nghĩa hẹp, vốn là một trong những yếu tố đầu vào phục vụ cho

    quá trình sản xuất. Theo nghĩa này, vốn tồn tại dưới hai hình thức: vốn hiện vật và vốn tài

    chính. Khi một nền kinh tế muốn tăng trưởng nhanh hơn, nó cần nhiều vốn hơn nữa. Đối với

    nền kinh tế của các nước đang phát triển thì nguồn vốn trong nước còn hạn hẹp. Do vậy,

    nguồn vốn bên ngoài, đặc biệt là nguồn vốn FDI có vai trò quan trọng đối với sự nghiệp

    công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở các nền kinh tế này.

    Thứ hai, FDI giúp tiếp thu công nghệ và bí quyết quản lý.

  • 8/18/2019 Đầu Tư Trực Tiếp Của Doanh Nghiệp Việt Nam Vào CHDCND Lào

    23/112

     

    Trong một số trường hợp, vốn cho tăng trưởng dù thiếu vẫn có thể huy động được

     phần nào bằng "chính sách thắt lưng buộc bụng". Tuy nhiên, công nghệ và bí quyết quản

    lý thì không thể có được bằng chính sách đó. Thu hút FDI từ các công ty đa quốc gia sẽ

    giúp một nước có cơ hội tiếp thu công nghệ và bí quyết quản lý kinh doanh mà các công

    ty này đã tích lũy và phát triển qua nhiều năm và bằng những khoản chi phí lớn. Tuy

    nhiên, việc phổ biến các công nghệ và bí quyết quản lý đó đối với nước thu hút đầu tư

    còn phụ thuộc rất nhiều vào năng lực tiếp thu của nước tiếp nhận.

    Thứ ba, FDI giúp tham gia mạng lưới sản xuất toàn cầu.

    Khi thu hút FDI từ các công ty đa quốc gia, không chỉ xí nghiệp có vốn đầu tư của

    công ty đa quốc gia, mà ngay cả các xí nghiệp khác trong nước có quan hệ làm ăn với xí

    nghiệp đó cũng sẽ tham gia vào quá trình phân công lao động khu vực. Chính vì vậy,

    nước thu hút đầu tư sẽ có cơ hội tham gia mạng lưới sản xuất toàn cầu, tạo điều kiện

    thuận lợi cho việc đẩy mạnh xuất khẩu.

    Thứ tư, FDI giúp tăng số lượng việc làm và góp phần đào tạo nâng cao trình độ

    người lao động.

    Một trong những mục đích của FDI là khai thác các điều kiện để đạt được chi phísản xuất thấp nên xí nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài sẽ thuê mướn nhiều lao động địa

     phương. Thu nhập của một bộ phận dân cư địa phương được cải thiện sẽ đóng góp tích

    cực vào tăng trưởng kinh tế của địa phương. Trong quá trình làm việc, người lao động

    được đào tạo các kỹ năng nghề nghiệp, mà trong nhiều trường hợp là mới mẻ và tiến bộ

    đối với các nước đang phát triển thông qua thu hút FDI. Điều này tạo ra một đội ngũ lao

    động có kỹ năng cho nước tiếp nhận FDI. Không chỉ có lao động thông thường, mà cả

    các nhà chuyên môn địa phương cũng có cơ hội làm việc và được bồi dưỡng nghiệp vụ ở

    các xí nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài.

    Thứ năm, FDI giúp tăng nguồn thu ngân sách.

    Đối với nhiều nước đang phát triển, hoặc đối với nhiều địa phương, thuế do các xí

    nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài nộp là nguồn thu ngân sách quan trọng.

    Thứ sáu, FDI giúp chuyển dịch cơ cấu kinh tế .

  • 8/18/2019 Đầu Tư Trực Tiếp Của Doanh Nghiệp Việt Nam Vào CHDCND Lào

    24/112

     

    Hầu hết ở các nước đang phát triển nền kinh tế đang còn ở trong tình trạng sản xuất

    nhỏ, lạc hậu. Sự gia tăng FDI vào nền kinh tế các nước này đã gây nên những biến

    chuyển tích cực các ngành kinh tế làm cho tỷ trọng nông nghiệp trong GDP giảm, tỷ

    trọng công nghiệp và dịch vụ trong GDP ngày càng tăng.

    Dòng FDI đổ vào các nước đang phát triển cũng như bất cứ nơi nào khác trước hết

     phải tìm nơi đầu tư thuận lợi nhất. Các nhà đầu tư thường lựa chọn vùng hoặc khu vực

    lãnh thổ, những nơi có kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội tương đối thuận lợi (giao thông

    vận tải thuận tiện, dân cư đông đúc, có trình độ tiếp thu công nghệ…) hình thành nên các

    khu công nghiệp tập trung, các khu chế xuất, khu đô thị sầm uất. Các khu công nghiệp

    tập trung, khu chế xuất, khu công nghệ cao… một mặt tạo thuận lợi cho sản xuất do thu

    hút được công nghệ tiên tiến, giảm chi phí sản xuất, tạo thuận lợi cho công tác quản lý

    nhà nước trong đầu tư… thì mặt khác nó còn có sức lan toả ưu điểm ra các vùng xung

    quanh tạo được các vệ tinh "rò rỉ công nghệ” ra ngoài hàng rào Khu công nghiệp và tạo

    nên các vùng kinh tế công nghiệp khá rộng lớn. Sự gia tăng các khu công nghiệp, khu chế

    xuất là kết quả tác động của FDI hình thành các khu kinh tế mới, thúc đẩy quá trình phân

    công lao động trong nước và giữa các nước trong khu vực, hội nhập vào sự phân công laođộng trên phạm vi thế giới.

    Với sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành, vùng làm cho tỷ trọng lao động trong

    nông nghiệp giảm tương đối, tỷ trọng lao động trong công nghiệp và dịch vụ tăng lên

    tương đối và tuyệt đối. Đặc biệt, hình thành đội ngũ lao động có tay nghề cao về chuyên

    môn kỹ thuật và đội ngũ lao động quản lý có khả năng thay thế chuyên gia nước ngoài

    trong một số lĩnh vực.

    Thứ bảy, FDI thúc đẩy tăng nhanh kim ngạch xuất khẩu.

    Quá trình gia tăng FDI làm tăng quy mô sản xuất, đổi mới công nghệ…đã khiến cho

    các quốc gia này tăng nhanh tỷ trọng xuất khẩu trong tổng sản phẩm quốc dân, đồng thời

    thay đổi cơ cấu mặt hàng xuất khẩu theo hướng tăng sản phẩm có hàm lượng công nghệ

    và giá trị cao.

     Như vậy, FDI đóng vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy nền kinh tế các nước

    đang phát triển tăng trưởng nhanh và ổn định. FDI góp phần đổi mới cơ cấu kinh tế theo

  • 8/18/2019 Đầu Tư Trực Tiếp Của Doanh Nghiệp Việt Nam Vào CHDCND Lào

    25/112

     

    hướng hiện đại, làm gia tăng nhanh xuất – nhập khẩu, giải quyết việc làm cho người lao

    động. FDI đã trở thành một hoạt động mang tính quốc tế và là xu hướng chung trong bối

    cảnh hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay.

    Tuy nhiên, thực tiễn ở các nước tiếp nhận FDI cho thấy, bên cạnh những tác động

    tích cực là chủ yếu thì FDI cũng có những tác động tiêu cực trên một số nội dung sau

    đây:

    * FDI tác động đến cơ cấu kinh tế các nước nhận đầu tư làm cho cơ cấu kinh tế các

    nước này không hợp lý, phát triển không đồng đều giữa các ngành, vùng; giữa thành thị

    và nông thôn.

    FDI là việc di chuyển vốn, công nghệ vào một hoạt động, một nơi nào đó nhằm

    mục đích thu lại lợi nhuận lớn hơn. Do đó, lĩnh vực đầu tư được lựa chọn thường là

    những ngành có khả năng mang lại lợi nhuận cao, thu hồi vốn đầu tư nhanh, hạn chế đầu

    tư ở những nơi còn xa lạ tránh rủi ro trong đầu tư. Bởi vậy, các nhà đầu tư chỉ quan tâm

    đầu tư vào những vùng có chi phí tư bản thấp, điều kiện sản xuất kinh doanh thuận lợi.

    Các nhà đầu tư sẽ không chịu bỏ vốn đầu tư vào những nơi khó khăn, chi phí tư bản cao

    mặc dù nước tiếp nhận đầu tư rất cần, thậm chí còn có nhiều chính sách ưu tiên, ưu đãihơn. Do cách đầu tư thiên lệch đó cùng với việc các nước tiếp nhận đầu tư không có một

    quy hoạch đầu tư cụ thể, khoa học dẫn tới sự đầu tư tràn lan làm cho cơ cấu kinh tế ở các

    nước nhận đầu tư không theo kịp tốc độ phát triển của đô thị hoá, kết cấu hạ tầng trở nên

     bất hợp lý, tác động xấu đến nền kinh tế, có khi còn lan sang cả lĩnh vực đời sống xã hội.

    Ví dụ, ở Thái Lan FDI tập trung đầu tư vào các đô thị, hạn chế đầu tư vào các vùng nông

    thôn hẻo lánh, thậm chí nông dân, nông thôn còn bị hy sinh quyền lợi cho quá trình công

    nghiệp hoá, đô thị hoá. Ở Thái Lan, khu Đông Bắc bị bỏ bê, 5% người giàu chiếm 20%

    tổng thu GDP, còn 40% người nghèo chỉ chiếm 10% tổng thu GDP. Những toà nhà chọc

    trời, những khu nghỉ mát xa hoa phục vụ cho người nước ngoài và tầng lớp giàu có mọc

    lên ngày càng nhiều ở các đô thị lớn, còn người nghèo, nông dân, nông thôn không hề

    giảm mà vẫn ngày càng tăng.

    * Công nghệ chuyển giao thường là lạc hậu và thiếu đồng bộ.

  • 8/18/2019 Đầu Tư Trực Tiếp Của Doanh Nghiệp Việt Nam Vào CHDCND Lào

    26/112

     

    Đi cùng với vốn FDI là quá trình chuyển giao công nghệ cho các nước nhận đầu tư.

    Tuy nhiên, sự chuyển giao công nghệ từ các nước phát triển sang các nước đang và kém

     phát triển thường là những công nghệ, thiết bị đã qua sử dụng, lạc hậu. Bởi vì, ở các nước

     phát triển thực hiện sự kiểm soát gắt gao những dự án, công nghệ gây ô nhiễm môi

    trường nên các nhà đầu tư FDI đã và đang đẩy mạnh chuyển giao những công nghệ độc

    hại sang các nước đang và kém phát triển, một mặt vừa không tốn chi phí tiêu huỷ, xử lý;

    mặt khác vừa tận thu hiệu quả lợi nhuận mà nó mang lại khi hoạt động ở nước ngoài.

    Mặt khác, do trình độ khoa học kỹ thuật – công nghệ ở các nước đang phát triển còn

    thấp nên không thể tiếp nhận và sử dụng được công nghệ quá hiện đại, vì vậy buộc các nước

    nhận đầu tư phải tiếp nhận những công nghệ đã qua sử dụng. Chính điều này đã làm cho các

    nước đang phát triển ngày càng lệ thuộc vào các nước đầu tư cả về phương diện tài chính lẫn

    kỹ thuật; đồng thời luôn ở trong tình trạng "bám đuổi" để tránh tụt hậu về kinh tế và kỹ thuật.

    * Cạn kiệt tài nguyên, ô nhiễm môi trường.

    Do trình độ khoa học kỹ thuật – công nghệ, trình độ tổ chức quản lý hoạt động FDI

    của các nước nhận đầu tư còn thấp nên tài nguyên thiên nhiên bị khai thác, bóc lột quá

    mức và nạn ô nhiễm môi trường diễn ra nghiêm trọng. Trong khi ở các nước phát triển,Luật bảo vệ tài nguyên môi trường ngày càng chặt chẽ, đòi hỏi về tiêu chuẩn an toàn và chi

     phí bảo vệ môi trường cao (thường chiếm 3% tổng vốn đầu tư mỗi dự án) thì khi đầu tư sang

    các nước đang phát triển, các thiết bị, công nghệ lạc hậu đó lại không được xử lý đúng mức.

    Ảnh hưởng về môi trường càng tăng lên khi chủ đầu tư không tự giác trong việc áp

    dụng các biện pháp xử lý chất thải, chất ô nhiễm theo quy định của nước nhận đầu tư,

    thậm chí còn tìm mọi cách để bỏ qua các khâu này một cách có chủ đích mà vụ việc Nhà

    máy Vedan thải nước không qua xử lý ra sông Thị Vải ở Việt Nam là một ví dụ. Người ta

    ước tính sau 10 năm thu hút FDI, GDP của các nước ASEAN tăng gấp 2 lần nhưng nạn ô

    nhiễm môi trường tăng gấp 5 lần. Sau 40 năm, diện tích rừng Đông Nam Á mất đi 1/3;

     biển mất đi 10% lượng thuỷ sản có thể đánh bắt.

    Dưới sự tác động của FDI, quá trình đô thị hoá diễn ra hết sức nhanh chóng dẫn đến

    một lượng lớn rác thải sinh hoạt, rác thải công nghiệp, khói bụi, tiếng ồn…tăng lên ảnh

    hưởng môi trường sống.

  • 8/18/2019 Đầu Tư Trực Tiếp Của Doanh Nghiệp Việt Nam Vào CHDCND Lào

    27/112

     

    * Ảnh hưởng đến một số mặt của đời sống xã hội.

    Do nhà đầu tư nước ngoài cố tình giữ độc quyền công nghệ, chỉ đào tạo công nhân

    làm việc theo bộ phận để giảm chi phí đào tạo và tránh mất cắp công nghệ hoặc tạo ra đối

    thủ cạnh tranh nên dẫn đến tình trạng vừa thừa lại vừa thiếu lao động. Thừa lao động giản

    đơn nhưng lại thiếu lao động kỹ thuật, lao động được đào tạo tay nghề cao. Quá trình

    chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng hiện đại, gia tăng những ngành công nghệ cao

    khiến các nước đang phát triển phải đối phó với khoảng cách ngày càng xa giữa cung và

    cầu về lao động kỹ thuật, lao động chất lượng cao.

    FDI vào các nước đang phát triển tăng lên, khu công nghiệp tập trung, khu chế xuất, đô

    thị hoá ngày càng tăng dẫn đến tình trạng diện tích đất bị thu hồi ngày càng lớn, một bộ phận

    dân cư bị thu hồi đất sẽ mất tư liệu sản xuất, thất nghiệp, gánh nặng giải quyết việc làm cho

    dân cư các khu công nghiệp sẽ tăng lên.

    Cùng với dòng vốn FDI là sự du nhập văn hoá, lối sống thực dụng, buông thả của

    các nước phương Tây. Nhiều tệ nạn xã hội nảy sinh như: cờ bạc, ma tuý, mại dâm, lây

    lan “căn bệnh thế kỷ”... Lao động trẻ em, phụ nữ bị bóc lột; lao động nhập cư và những

    người bị thải loại ra khỏi dây chuyền công nghệ hiện đại làm gia tăng đội quân thấtnghiệp.

    Chính sách ưu tiên, ưu đãi: miễn giảm thuế, tiền thuê đất, hồi hương vốn, lợi

    nhuận… của nhiều quốc gia nhằm thu hút FDI khiến cho việc thu ngân sách bị hạn chế,

    dẫn đến thâm hụt ngân sách phải vay nợ nước ngoài. Nếu không có sự tính toán và lựa

    chọn sẽ trở thành “con nợ” nước ngoài và từ đó làm tăng tính lệ thuộc vào bên ngoài.

     Như vậy FDI luôn có tính hai mặt vừa tích cực, lại vừa tiêu cực, do đó, bản thân

    mỗi một quốc gia khi đẩy mạnh hoạt động FDI cần phải tìm cách tối thiểu hoá tiêu cực,

    tối đa hoá tích cực đảm bảo mục tiêu của mình, bảo vệ quyền và lợi ích quốc gia cho dù

    đó là nước tiếp nhận đầu tư hay nước thực hiện đầu tư. Bởi lẽ, các thủ thuật khai báo “lời

    thật lỗ giả” để vừa thu hồi vốn đầu tư sớm, vừa trốn nghĩa vụ thuế; sự nhạy cảm đến lão

    luyện của các nhà đầu tư trong xử lý có lợi nhất cho mình trước nạn lạm phát và những

    dao động về lãi suất, về ngoại hối … không phải ít và không khỏi gây thua thiệt cho các

    quốc gia. Để khai thác các mặt tích cực và hạn chế các tác động tiêu cực cần:

  • 8/18/2019 Đầu Tư Trực Tiếp Của Doanh Nghiệp Việt Nam Vào CHDCND Lào

    28/112

     

    - Phải kết hợp nguồn vốn trong nước với sử dụng hợp lý và có hiệu quả nguồn vốn

    ngoài nước.

    - Sử dụng vốn nước ngoài, thu hút đầu tư trực tiếp của các nhà đầu tư nước ngoài và

    tìm cách hướng các đầu tư đó vào các lĩnh vực có lợi trước mắt và lâu dài cho nền kinh tế

    quốc dân trong một chiến lược dài hạn.

    - Biết lựa chọn các công nghệ cần nhập, không nhập những công nghệ quá cũ, gây ô

    nhiễm môi trường. Kết hợp nhập công nghệ với chủ động sáng tạo. Trên cơ sở nhập công

    nghệ, coi trọng tiếp thu, làm chủ, nâng cao công nghệ nhập và sáng tạo thành cái mới.

    - Xây dựng nguồn nhân lực chất lượng cao phù hợp với yêu cầu đầu tư.

    1.2. SỰ CẦN THIẾT VÀ NHỮNG NHÂN TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN ĐẦU TƯ

    TRỰC TIẾP CỦA DOANH NGHIỆP VIỆT NAM VÀO CỘNG HOÀ DÂN CHỦ

    NHÂN DÂN LÀO

    1.2.1. Sự cần thiết đầu tư trực tiếp của doanh nghiệp Việt Nam vào Cộng hoà

    Dân chủ nhân dân Lào

    1.2.1.1. Về khách quan

    FDI là một xu hướng tất yếu khách quan trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế

    hiện nay. Hoạt động FDI không chỉ có các nước phát triển đóng vai trò là chủ đầu tư mà

    trong những giai đoạn gần đây đã có sự tham gia tích cực của các nước đang phát triển

    vào hoạt động này. Thế giới đã, đang và sẽ phát triển theo xu thế mở cửa, hội nhập sâu

    hơn vào quan hệ kinh tế quốc tế, điều này đã biến nền kinh tế thế giới trở thành một

    mạng lưới rộng lớn, trong đó mỗi quốc gia đóng vai trò là một mắt lưới không thể thiếu.

    Vì vậy, các quốc gia phát triển cũng như các quốc gia đang phát triển tất yếu phải đẩymạnh đầu tư trực tiếp ra nước ngoài.

    Thứ nhất, tác động của toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế quốc tế.

    Toàn cầu hoá kinh tế là một hiện tượng thực tế đang ngay càng hiển hiện và lan toả

    khắp thế giới cả về chiều rộng lẫn chiều sâu. Xét về mặt lịch sử, ngay từ năm 1848 trong

    tác phẩm "Tuyên ngôn của Đảng cộng sản”, C.Mác và Ph.Ăng ghen đã nhận định:

    Đại công nghiệp đã tạo ra thị trường thế giới …Thị trường thế giới thúc

    đẩy cho thương nghiệp, hàng hải, những phương tiện lưu thông phát triển mau

  • 8/18/2019 Đầu Tư Trực Tiếp Của Doanh Nghiệp Việt Nam Vào CHDCND Lào

    29/112

     

    chóng lạ thường. Sự phát triển này tác động trở lại việc mở rộng công nghiệp;

    mà công nghiệp, thương nghiệp, hàng hải, đường sắt càng phát triển thì giai

    cấp tư sản càng lớn lên, làm tăng những tư bản của họ lên và đẩy các giai cấp

    do thời trung cổ để lại xuống phía sau [21, tr.70].

    Từ sự lớn lên đó, Tuyên ngôn của Đảng cộng sản tiên đoán rằng giai cấp tư sản sẽ

    toàn cầu hoá thị trường và sản xuất: "Vì luôn bị thúc đẩy bởi nhu cầu về những nơi tiêu thụ

    sản phẩm, giai cấp tư sản xâm lấn khắp toàn cầu. Nó phải xâm nhập vào khắp nơi, trụ lại ở

    khắp nơi và thiết lập mối liên hệ ở khắp nơi.

    Qua khai thác thị trường thế giới, giai cấp tư sản đã làm cho sản xuất và tiêu dùng

    của tất cả các nước mang tính chất thế giới… Những ngành công nghiệp dân tộc bị thay

    thế bằng những ngành công nghiệp mới, tức là những ngành mà việc du nhập chúng trở

    thành một vấn đề sống còn đối với tất cả các dân tộc văn minh, những ngành công nghiệp

    không dùng những nguyên liệu bản xứ mà dùng những nguyên liệu đưa từ những miền xa

    xôi nhất trên trái đất đến và sản phẩm làm ra không được tiêu thụ ngay trong xứ mà còn

    được tiêu thụ ở tất cả các nước trên trái đất” [21, tr.77 ]. Và từ đó sự phụ thuộc lẫn nhau

    giữa các dân tộc, các quốc gia sẽ hình thành "thay cho tình trạng cô lập trước kia của cácđịa phương và dân tộc vẫn tự cung tự cấp, ta thấy phát triển thành những quan hệ phổ

     biến, sự phụ thuộc phổ biến giữa các dân tộc” [21, tr.78].

    Đầu thế kỷ XX, trong tác phẩm "Chủ nghĩa đế quốc giai đoạn tột cùng của chủ

    nghĩa tư bản”, Lênin đã phân tích năm đặc điểm kinh tế cơ bản của chủ nghĩa đế quốc và

    nhận định rằng: chủ nghĩa đế quốc đã cột cả thế giới vào cỗ xe của nó, tức là đã gần như

    thực hiện một sự toàn cầu hoá đế quốc chủ nghĩa, đã chiếm đoạt hàng loạt nước thuộc địa

    trên khắp hành tinh và phân chia xong thị trường thế giới. Việc tiếp tục đấu tranh với

    nhau để tranh giành thị trường và thuộc địa, phân chia lại thế giới đã dẫn đến hai cuộc

    chiến tranh thế giới trong nữa đầu thế kỷ XX là những biểu hiện và hệ quả toàn cầu hóa

    của chủ nghĩa tư bản ở vào các thời điểm và giai đoạn phát triển đó.

    Sự ra đời của giai cấp công nhân trên toàn thế giới, sự thắng lợi của Cách mạng

    tháng Mười Nga và đưa đến sự ra đời của nhà nước Liên Xô cùng hệ thống các nước Xã

  • 8/18/2019 Đầu Tư Trực Tiếp Của Doanh Nghiệp Việt Nam Vào CHDCND Lào

    30/112

     

    hội chủ nghĩa; sự liên kết giữa giai cấp công nhân, nhân dân lao động các nước tư bản với

     phong trào đấu tranh của các dân tộc bị áp bức cũng là một biểu hiện của toàn cầu hoá.

     Năm 1972, trong tác phẩm "Principle of the world politics”, George Modelski lần

    đầu tiên nêu ra khái niệm “Toàn cầu hoá”(Globlisation) khi nói tới vấn đề liên minh Châu

    Âu lôi kéo các nước khác vào một hệ thống thương mại toàn cầu. Đến thập kỷ 80 của thế

    kỷ XX, thuật ngữ “Toàn cầu hoá” trở thành phổ biến. Xu thế toàn cầu hoá kinh tế là tất

    yếu nhưng chiều hướng phát triển của nó tuỳ thuộc vào lực lượng so sánh giữa các nước,

    giữa các lực lượng tham gia vào quá trình đó.

    Hiện nay, có nhiều định nghĩa về toàn cầu hoá của OECD, UNDP, UNTACD,

    IMF…nhưng tựu trung lại đều cho rằng: toàn cầu hoá kinh tế là những mối quan hệ kinh

    tế vượt ra khỏi biên giới quốc gia và phạm vi từng khu vực, lan toả ra phạm vi toàn cầu

    trong đó hàng hoá, vốn, tiền tệ, thông tin, lao động…vận động thông thoáng; sự phân

    công lao động mang tính quốc tế; mối quan hệ kinh tế giữa các quốc gia, khu vực đan xen

    nhau hình thành mạng lưới quan hệ đa tuyến, vận hành theo các "luật chơi” chung được

    hình thành qua sự hợp tác và đấu tranh giữa các thành viên của cộng đồng quốc tế. Trong

    xu thế ấy, các nền kinh tế quan hệ ngày càng mật thiết với nhau, tuỳ thuộc lẫn nhau.Chính điều đó đã thúc đẩy xu hướng đầu tư trực tiếp vào nhau giữa các quốc gia trên thế

    giới.

     Như vậy, toàn cầu hoá kinh tế luôn bao hàm bốn nội dung:

    - Các dòng hàng hoá, dịch vụ, kỹ thuật, vốn, nguồn nhân lực… ngày càng vượt biên

    giới quốc gia lưu thông trên phạm vi toàn cầu tự do hơn, linh hoạt hơn.

    - Sự liên kết chặt chẽ về kinh tế của các nước trên thế giới thành những kênh phân

     phối lưu thông các nguồn lực kinh tế trên toàn cầu, tạo nên sự phụ thuộc lẫn nhau giữa

    các nền kinh tế trên thế giới.

    - Toàn cầu hoá làm gia tăng sự liên kết kinh tế toàn cầu do đó rút ngắn khoảng cách

    giữa các quốc gia tạo nên sự ảnh hưởng, phụ thuộc lẫn nhau ngày càng chặt chẽ về sản

    xuất và thị trường, về vốn và công nghệ.

  • 8/18/2019 Đầu Tư Trực Tiếp Của Doanh Nghiệp Việt Nam Vào CHDCND Lào

    31/112

     

    - Nền kinh tế của các nước trên thế giới ngày càng mở cửa và hoà nhập với nhau.

    Sự phát triển của các nước trên thế giới và sự vận động của toàn bộ nền kinh tế thế giới

    ngày càng ảnh hưởng và chế ước nhau.

    Xu thế toàn cầu hoá kinh tế tạo ra khả năng tham gia vào quá trình phân công lao

    động và hợp tác quốc tế, sử dụng hiệu quả nguồn lực thế giới thông qua đầu tư trực tiếp

    ra nước ngoài. Với dòng chu chuyển vốn, công nghệ và sự tăng lên mạnh mẽ của quy mô

    đầu tư trực tiếp ra nước ngoài, các quốc gia (nhất là các quốc gia đang phát triển) có cơ

    hội mở rộng sản xuất tạo ra nhiều việc làm mới, thu hút nhiều lao động, góp phần thúc

    đẩy nhanh tăng trưởng kinh tế cải thiện đời sống nhân dân, đảm bảo sự ổn định xã hội.

    Thứ hai, sự phát triển kinh tế giữa các quốc gia trên thế giới là không đồng đều,

    khả năng khai thác các lợi thế vốn có của các quốc gia là không giống nhau.

    Các quốc gia phát triển đã và đang khai thác các thế mạnh của mình; còn các quốc

    gia đang phát triển thì sau một thời gian dài học hỏi các quốc gia phát triển trong lĩnh vực

    đầu tư đã tiến hành đầu tư sang các nước có trình độ kinh tế kém phát triển hơn và thậm

    chí là có đủ điều kiện để khai thác thế mạnh của mình đầu tư trở lại các nước phát triển.

    Các quốc gia phát triển có thế mạnh về vốn đầu tư lớn, trình độ khoa học công nghệ hiệnđại, phát triển ở mức cao nên có thể chiếm lĩnh và phát huy hiệu quả ở các quốc gia đang

     phát triển. Còn các quốc gia đang phát triển có lợi thế để phát huy ở các nước phát triển

    là môi trường kinh doanh ở các nước này rộng lớn khiến cho nhiều lĩnh vực đầu tư còn

     bị bỏ ngỏ; chi phí để thực hiện một số lĩnh vực đầu tư đối với họ còn tương đối cao so với

    các quốc gia đang phát triển khi các quốc gia này trực tiếp thực hiện chúng hoặc lợi

    nhuận biên cao hơn so với khi thực hiện ở chính quốc. Ví dụ: Mỹ là quốc gia đầu tư trực

    tiếp ra nước ngoài nhiều nhất thế giới, đồng thời cũng là quốc gia nhận đầu tư nước ngoài

    nhiều nhất.

    Thứ ba, các quốc gia đang phát triển trước đây phần lớn còn ở trong tình trạng

    trình độ kinh tế thấp, giai đoạn gần đây nhờ nỗ lực của chính phủ bản thân quốc gia và

    nguồn vốn nước ngoài mà các quốc gia này đã dần vươn lên về mọi mặt để có thể thực

    hiện đầu tư, phát triển các lợi thế của mình ở trong và ngoài nước.

  • 8/18/2019 Đầu Tư Trực Tiếp Của Doanh Nghiệp Việt Nam Vào CHDCND Lào

    32/112

     

    Vốn là một yếu tố quan trọng, trong nhiều trường hợp còn là yếu tố quyết định của

    đầu tư. Vốn là yêu cầu tối thiểu nhà đầu tư cần phải có khi tiến hành hoạt động đầu tư.

    Trước đây, các nước đang phát triển ở trong tình trạng nghèo nàn, lạc hậu, tỷ lệ tích luỹ,

    tiết kiệm thấp do đó không thể tiến hành đầu tư ra nước ngoài. Hơn nữa, các nước này

    còn mang nặng tâm lý: trong nước còn đang t