30
ĐẠI HC HUTRƯỜNG ĐẠI HC KHOA HC ------ TRN THQUCHÂU CHÍNH SÁCH “ĐÓNG CỬA” VÀ “MỞ CỬA” CA TÂY BAN NHA THUỘC ĐỊA PHILIPPINES TCUI THKXVI ĐẾN CUI THKXIX Chuyên ngành: Lch sthế gii Mã s: 62 22 03 11 TÓM TT LUN ÁN TIẾN SĨ LỊCH SHU- NĂM 2018

CHÍNH SÁCH “ĐÓNG CỬA” VÀ “MỞ C A TÂY BAN NHA THU A … · 2020-02-20 · bộ máy chính quyền và thâu tóm toàn bộ quan hệ đối ngoại của Philippines

  • Upload
    others

  • View
    2

  • Download
    0

Embed Size (px)

Citation preview

Page 1: CHÍNH SÁCH “ĐÓNG CỬA” VÀ “MỞ C A TÂY BAN NHA THU A … · 2020-02-20 · bộ máy chính quyền và thâu tóm toàn bộ quan hệ đối ngoại của Philippines

ĐẠI HỌC HUẾ

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC

------

TRẦN THỊ QUẾ CHÂU

CHÍNH SÁCH “ĐÓNG CỬA” VÀ “MỞ CỬA”

CỦA TÂY BAN NHA Ở THUỘC ĐỊA PHILIPPINES

TỪ CUỐI THẾ KỈ XVI ĐẾN CUỐI THẾ KỈ XIX

Chuyên ngành: Lịch sử thế giới

Mã số: 62 22 03 11

TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ LỊCH SỬ

HUẾ - NĂM 2018

Page 2: CHÍNH SÁCH “ĐÓNG CỬA” VÀ “MỞ C A TÂY BAN NHA THU A … · 2020-02-20 · bộ máy chính quyền và thâu tóm toàn bộ quan hệ đối ngoại của Philippines

Công trình được hoàn thành tại: Trường Đại học Khoa học – Đại học Huế.

Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. Đặng Văn Chương

Phản biện 1:

Phản biện 2:

Phản biện 3:

Luận án sẽ được bảo vệ tại Hội đồng chấm luận án cấp Đại học Huế

tại ........................................................................................................

Vào hồi: .......... giờ..........ngày..........tháng..........năm........................

Có thể tìm hiểu luận án tại:

- Thư viện Trường Đại học Khoa học, Đại học Huế

- Thư viện Quốc Gia Việt Nam

Page 3: CHÍNH SÁCH “ĐÓNG CỬA” VÀ “MỞ C A TÂY BAN NHA THU A … · 2020-02-20 · bộ máy chính quyền và thâu tóm toàn bộ quan hệ đối ngoại của Philippines

MỤC LỤC

MƠ ĐÂU............................................................................................ 1 1. Lí do chọn đề tài ................................................................................................... 1 2. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu ....................................................................... 3 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ....................................................................... 4 4. Các nguồn tài liệu ................................................................................................. 5 5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu ................................................. 5 6. Đóng góp của luận án ........................................................................................... 6 7. Kết cấu luận án ..................................................................................................... 6 CHƯƠNG 1. TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU .......... 7 1.1. Tình hình nghiên cứu đề tài ở trong nước ..................................................... 7 1.2. Tình hình nghiên cứu đề tài ở nước ngoài ..................................................... 8 1.3. Nhận xét về kết quả nghiên cứu và những vấn đề đặt ra cho luận án ........ 12 CHƯƠNG 2. CHÍNH SÁCH “ĐÓNG CỬA” CỦA TÂY BAN

NHA Ơ THUỘC ĐỊA PHILIPPINES (1593-1762) ...................... 13 2.1. Cơ sở hình thành và bối cảnh Tây Ban Nha thực thi chính sách “đóng cửa” .... 13

2.1.1. Quá trình xác lập quyền cai trị của Tây Ban Nha ở

Philippines (1521-1571) ................................................................ 13 2.1.2. Chính sách thương mại của Tây Ban Nha ở thuộc địa

Philippines trong những thập niên đầu cai trị (1571-1593) ........... 13 2.1.3. Sự gia tăng những mối đe dọa an ninh chính trị và sức ép

cạnh tranh thương mại từ bên ngoài .............................................. 13 2.1.4. Truyền thống độc quyền thương mại của nhà nước Tây Ban

Nha và ảnh hưởng của “Chủ nghĩa trọng thương” ......................... 14 2.2. Nội dung và quá trình triển khai thực hiện chính sách “đóng cửa”. ............ 14

2.2.1. Chính sách hạn chế, độc quyền thương mại ........................ 14 2.2.2. Chính sách hạn chế nhập cư, kiểm soát chặt chẽ đối với di trú

của người nước ngoài .................................................................... 15 CHƯƠNG 3. TỪ NỚI LỎNG “ĐÓNG CỬA” ĐẾN CHÍNH

SÁCH “MƠ CỬA” CỦA TÂY BAN NHA Ơ THUỘC ĐỊA

PHILIPPINES (1764-1898) ............................................................ 16 3.1. Nhân tố tác động đến sự thay đổi chính sách “đóng cửa” sang “mở cửa” 16

3.1.1. Sự kém hiệu quả trong quản lí độc quyền và sự suy yếu của

đế chế Tây Ban Nha trong thế kỷ XVIII, XIX ............................... 16 3.1.2. Sự ra đời của tư tưởng kinh tế chính trị mới ở châu Âu vào

thế kỷ XVIII ................................................................................... 17

Page 4: CHÍNH SÁCH “ĐÓNG CỬA” VÀ “MỞ C A TÂY BAN NHA THU A … · 2020-02-20 · bộ máy chính quyền và thâu tóm toàn bộ quan hệ đối ngoại của Philippines

3.1.3. Anh xâm chiếm Manila (1762-1764) và nhu cầu phục hồi

thương mại quốc tế, duy trì quyền cai trị của Tây Ban Nha ở

Philippines ..................................................................................... 17 3.2. Nội dung và quá trình triển khai thực hiện của chính sách “mở cửa” ......... 17

3.2.1. Chính sách nới lỏng “đóng cửa” (1764-1789) ..................... 17 3.2.1. Chính sách “mở cửa hạn chế” (1789-1833) ........................ 18 3.2.2. Chính sách “mở cửa rộng rãi” (1834-1898) ........................ 19

CHƯƠNG 4. NHẬN XÉT VỀ CHÍNH SÁCH “ĐÓNG CỬA”

VÀ “MƠ CỬA” CỦA TÂY BAN NHA Ơ THUỘC ĐỊA

PHILIPPINES................................................................................. 20 4.1. Chính sách “đóng cửa” và “mở cửa” là kết quả của tác động nội tại với bối

cảnh quốc tế, khu vực ............................................................................................. 20 4.2. Tây Ban Nha đã chú trọng mục tiêu chính trị, tôn giáo hơn lợi ích kinh tế

trong quá trình thực thi chính sách “đóng cửa” và “mở cửa” ở Philippines .... 20 4.3. Khoảng cách lớn giữa ban hành và thực thi chính sách “đóng cửa” ở thuộc

địa Philippines ......................................................................................................... 20

4.4. Chính sách “đóng cửa” và “mở cửa” ở thuộc địa Philippines nằm trong

“quỹ đạo” chung của đế chế Tây Ban Nha ........................................................... 21 4.5. Tác động ........................................................................................................... 21

4.5.1. Đối với Philippines .............................................................. 21 4.5.2. Đối với Tây Ban Nha ........................................................... 21

KẾT LUẬN ..................................................................................... 22

DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ LIÊN QUAN

ĐẾN LUẬN ÁN ...................................................................................

Page 5: CHÍNH SÁCH “ĐÓNG CỬA” VÀ “MỞ C A TÂY BAN NHA THU A … · 2020-02-20 · bộ máy chính quyền và thâu tóm toàn bộ quan hệ đối ngoại của Philippines

1

MỞ ĐẦU

1. Lí do chọn đề tài

Có lẽ nhiều người sẽ ngạc nhiên khi biết rằng châu Âu vào đầu thế

kỉ XV là một vùng trì trệ và khốn khổ, khi họ đang phục hồi sau những

thiệt hại của Cái Chết Đen- đại dịch đã làm giảm một nửa dân số. Cuộc

chiến tranh trăm năm (1337-1453) giữa Anh và Pháp đang tiếp diễn.

Một số vương quốc trên bán đảo Iberia vẫn chịu sự cai trị của tín đồ Hồi

giáo. Các vùng phồn thịnh nhất của châu Âu thực sự chỉ còn những thành

bang Bắc Italy là Florence, Genoa, Pisa, và Venice. Những người giàu trí

tưởng tượng nhất cũng không thể nghĩ rằng châu Âu sẽ vươn lên thống trị

thế giới trong bốn thế kỉ tiếp theo. Bằng cách nào châu Âu có thể chinh

phục được các đế chế phương Đông vĩ đại, thần phục châu Phi, châu Mĩ

và châu Úc? Nhà khoa học người Mỹ Jared Diamond trong bài tiểu luận

mang tựa đề How to get Rich năm 1999 đã lý giải như sau: “trên bình

nguyên phía Đông của lục địa Âu Á, các đế chế phương Đông vững như

bàn thạch đã bóp nghẹt mọi canh tân; trong khi đó tại rìa phía Tây trập

trùng đồi núi và bị chia cắt bởi những con sông, nhiều nền quân chủ và

các thành bang đều tham gia vào hoạt động cạnh tranh và giao lưu đầy

sáng tạo”1. Hẳn là đó là một câu trả lời chưa đầy đủ về vấn đề lớn của

lịch sử nhưng phải thừa nhận đó là căn nguyên sâu xa nhất.

Sự cạnh tranh đưa đến sự xác lập vị trí thống trị của châu Âu được

mở đầu bằng sự ganh đua quyết liệt giữa hai quốc gia trên bán đảo Iberia

trong “kỉ nguyên khám phá” (Age of Discovery) vào cuối thế kỉ XV.

Với người châu Âu, việc tìm ra tuyến đường biển mới không chỉ là sự

“phô trương quyền thế” mà còn để vượt trước các đối thủ khác cả về

kinh tế, lẫn về chính trị. Nó là một cuộc tranh giành không gian hoặc

đúng hơn là cuộc tranh giành vàng, gia vị và hương liệu giữa các nước

châu Âu. Mặc dù nằm ở vùng Viễn Đông xa xôi, Đông Nam Á vẫn bị

lôi cuốn vào vòng xoáy của sự tranh giành thương mại và sự thiết lập

thuộc địa của các đế chế thực dân với những người tiên phong Bồ Đào

Nha và Tây Ban Nha.

Trên chuyến hành trình hướng về phương Đông nhằm tìm kiếm con

đường đến quần đảo hương liệu Moluccas, Magellan đã đặt chân đến

quần đảo Philippines vào năm 1521. Sau 43 năm phát hiện và khám phá,

Tây Ban Nha chính thức tiến hành xâm lược và thôn tính Philippines

1 Dẫn theo Furguson, Nail (2017), Văn minh phương Tây và phần còn lại

của thế giới, Nxb Hồng Đức, tr.51

Page 6: CHÍNH SÁCH “ĐÓNG CỬA” VÀ “MỞ C A TÂY BAN NHA THU A … · 2020-02-20 · bộ máy chính quyền và thâu tóm toàn bộ quan hệ đối ngoại của Philippines

2

thông qua cuộc viễn chinh của Lopez de Legazpi năm 1564, đến năm

1571 về cơ bản Tây Ban Nha đã chinh phục được Philippines (trừ các

quốc gia Hồi giáo ở phía Nam).

Song song với quá trình xâm chiếm, Tây Ban Nha bắt đầu thiết lập

bộ máy chính quyền và thâu tóm toàn bộ quan hệ đối ngoại của

Philippines. Vào thời kì đầu của sự thống trị, để cạnh tranh với “người

láng giềng” Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha theo đuổi chính sách khuyến

khích thương mại, thu hút các nhà buôn châu Á đến Philippines. Trong

môi trường buôn bán tự do, Manila phát triển thịnh vượng, trở thành

trung tâm của các hoạt động thương mại giữa châu Á và châu Mĩ, được

mệnh danh là “hòn ngọc phương Đông”.

Từ cuối thế kỷ XVI, Tây Ban Nha chuyển sang chính sách “đóng

cửa”, cô lập thuộc địa Philippines. Chính sách này được thực hiện một

cách nghiêm ngặt thông qua các biện pháp như hạn chế hoạt động ngoại

thương của Philippines với các nước, độc quyền sản xuất và tiêu thụ

nhiều mặt hàng công nghiệp, ngăn cấm người nước ngoài sinh sống ở

Philippines. Từ nửa sau thế kỷ XVIII, Tây Ban Nha dần từ bỏ “đường

lối cô lập” chuyển sang “đường lối cởi mở” trong quan hệ với các quốc

gia. Việc “mở cửa” đã thúc đẩy sự phát triển kinh tế Philippines, xuất

khẩu tăng lên và những sản phẩm sản xuất trong nước đã dần thay thế

hàng hóa nước ngoài. Vậy, tại sao Tây Ban Nha lại thực hiện hai chính

sách khác nhau trong quá trình cai trị Philippines? Chính sách “đóng-

mở” cửa thuộc địa Philippines có phải chỉ do ý muốn chủ quan của thực

dân Tây Ban Nha hay còn do những nhân tố khách quan tác động? Mục

đích của Tây Ban Nha khi thực hiện những chính sách này là gì? Đó là

vì lợi ích kinh tế hay chính trị, tôn giáo? Các phương diện và mức độ

thực hiện các chính sách đó như thế nào? Và chính sách đó đã tác động

ra sao đến Philippines và Tây Ban Nha? Làm sáng tỏ những câu hỏi này

luận án sẽ có những đóng góp về cả phương diện khoa học và thực tiễn.

Về góc độ khoa học, nghiên cứu chính sách “đóng cửa” và “mở

cửa” của Tây Ban Nha ở thuộc địa Philippines chúng ta sẽ góp phần lí

giải sâu sắc hơn những chính sách của Tây Ban Nha đối với thuộc địa

Philippines dưới tác động của các nhân tố nội tại (Tây Ban Nha và

Philippines) và quốc tế. Qua đó, giúp chúng ta rút ra những đặc điểm và

tác động của chính sách “đóng cửa” và “mở cửa” đối với Tây Ban Nha

và Philippines. Đồng thời, nghiên cứu đề tài này chúng ta có cơ sở để

nhìn nhận khách quan hơn những tương đồng và khác biệt trong chính

Page 7: CHÍNH SÁCH “ĐÓNG CỬA” VÀ “MỞ C A TÂY BAN NHA THU A … · 2020-02-20 · bộ máy chính quyền và thâu tóm toàn bộ quan hệ đối ngoại của Philippines

3

sách “đóng cửa” và “mở cửa” ở các nước Đông Nam Á từ thế kỷ XVI

đến thế kỷ XIX.

Về góc độ thực tiễn, làm rõ chính sách “đóng cửa” và “mở cửa” của

Tây Ban Nha ở Philippines thời thuộc địa là góp phần làm phong phú

thêm bức tranh “đóng cửa” – “mở cửa” ở thời đại châu Á phải đối mặt

với sự xâm lược của chủ nghĩa thực dân phương Tây. Đó là việc một

nước thực dân là chủ thể thực hiện chính sách “đóng cửa” và “mở cửa”

ở một nước thuộc địa.

Từ những lý do nói trên, chúng tôi quyết định chọn vấn đề “Chính sách

“đóng cửa” và “mở cửa” của Tây Ban Nha ở thuộc địa Philippines từ cuối

thế kỷ XVI đến cuối thế kỷ XIX” làm đề tài luận án tiến sĩ thuộc Chuyên

ngành Lịch sử thế giới, mã số 62.22.03.11 nhằm làm rõ tính đặc thù và bản

chất chính sách thuộc địa của Tây Ban Nha ở Philippines nói chung, chính

sách đối ngoại nói riêng, từ đó góp phần nhận diện, so sánh các chính sách

thuộc địa của Phương Tây ở Đông Nam Á cũng như trên thế giới thế kỷ

XVI-XIX.

2. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu

2.1. Mục tiêu nghiên cứu

Trên cơ sở hệ thống hóa chính sách “đóng cửa” và “mở cửa” của

Tây Ban Nha ở thuộc địa Philippines từ cuối thế kỷ XVI đến thế kỷ

XIX, luận án sẽ làm rõ bức tranh toàn cảnh cũng như chỉ ra bản chất của

chính sách cai trị và tác động của nó đối với Tây Ban Nha và

Philippines.

2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu

Để hoàn thành những mục tiêu trên, chúng tôi sẽ thực hiện các

nhiệm vụ cơ bản sau:

- Phân tích bối cảnh lịch sử và nguyên nhân chủ yếu đưa đến việc

Tây Ban Nha chinh phục Philippines và thực hiện chính sách “đóng

cửa” và “mở cửa” tại thuộc địa này.

- Làm rõ những nội dung cơ bản chính sách “đóng cửa” và “mở

cửa” của Tây Ban Nha ở Philippines (cuối thế kỷ XVI – cuối thế kỷ

XIX) trên hai phương diện chủ yếu là chính sách thương mại và chính

sách đối với vấn đề di trú của người nước ngoài.

- Rút ra những đặc điểm trong chính sách “đóng cửa” và “mở

cửa” của Tây Ban Nha ở thuộc địa Philippines.

- Phân tích những tác động, hệ quả của những chính sách này đối

với Tây Ban Nha và Philippines trong giai đoạn nghiên cứu

Page 8: CHÍNH SÁCH “ĐÓNG CỬA” VÀ “MỞ C A TÂY BAN NHA THU A … · 2020-02-20 · bộ máy chính quyền và thâu tóm toàn bộ quan hệ đối ngoại của Philippines

4

3. Đôi tương và phạm vi nghiên cứu

3.1. Đối tượng nghiên cứu

Luận án tập trung nghiên cứu về chính sách “đóng cửa” và “mở

cửa” của Tây Ban Nha ở thuộc địa Philippines trong ba thế kỷ (từ cuối

thế kỉ XVI đến cuối thế kỉ XIX). Vì vậy, để xác định rõ đối tượng

nghiên cứu, trước hết chúng ta phải làm rõ nội hàm hai khái niệm cơ bản

của luận án đó là “đóng cửa” và “mở cửa”.

Chính sách “đóng cửa” (closed-door policy) có nghĩa là các chủ thể

chính trị hạn chế (limit/restrict) quan hệ thương mại, ngoại giao với bên

ngoài, kiểm soát gắt gao vấn đề di trú quốc tế và thực hiện công việc

quốc gia một cách bí mật. Khi đề cập đến khái niệm chính sách đóng

cửa của một quốc gia, chúng ta hiểu đó không phải là một chính sách cụ

thể vào một thời điểm lịch sử nào đó, mà là một nội dung bao quát toàn

bộ quan hệ đối ngoại của cả một thời kì.

Chính sách “mở cửa” (open-door policy) có nội hàm trái ngược với

khái niệm chính sách “đóng cửa” nói trên. Đó là các chủ thể chính trị

khuyến khích những quốc gia khác thiết lập quan hệ ngoại giao, thương

mại và đầu tư với quốc gia của mình và mọi người được tự do đến sống

và làm việc tại quốc gia đó.

Từ những khái niệm và cách hiểu trên, để làm rõ chính sách “đóng

cửa” và “mở cửa”, luận án tập trung vào hai phương diện nghiên cứu

chủ yếu đó là chính sách thương mại và chính sách di trú đối với người

nước ngoài của Tây Ban Nha ở thuộc địa Philippines từ cuối XVI đến

cuối XIX.

3.2. Phạm vi nghiên cứu

- Về phạm vi thời gian, luận án nghiên cứu gần như trọn vẹn thời

kì thống trị của Tây Ban Nha ở Philippines từ cuối thế kỷ XVI đến

cuối thế kỷ XIX. Trong đó chúng tôi tập trung vào những mốc thời

gian quan trọng như sau: Năm 1593: mốc khởi đầu của chính sách

“đóng cửa” thuộc địa Philippines. Năm 1764: mốc khởi đầu cho sự

chuyển biến từ nới lỏng “đóng cửa” sang chính sách “mở cửa” của

Tây Ban Nha ở Philippines. Năm 1789: mốc khởi đầu cho chính sách

“mở cửa” thuộc địa.

- Về phạm vi không gian, tập trung chủ yếu trên lãnh thổ quần đảo

Philippines (trừ vùng Hồi giáo ở phía Nam không chịu sự thống trị của

người Tây Ban Nha). Ngoài ra, vì đây là đề tài nghiên cứu có liên quan

đến vấn đề đối ngoại, nên chúng tôi luôn đặt thuộc địa Philippines trong

Page 9: CHÍNH SÁCH “ĐÓNG CỬA” VÀ “MỞ C A TÂY BAN NHA THU A … · 2020-02-20 · bộ máy chính quyền và thâu tóm toàn bộ quan hệ đối ngoại của Philippines

5

bối cảnh quốc tế, khu vực và cả chính quốc, đặc biệt là sự tranh giành

độc quyền thương mại giữa Tây Ban Nha với các nước Bồ Đào Nha, Hà

Lan, Anh, Mĩ ở Đông Nam Á từ thế kỷ XVI đến thế kỷ XIX.

- Phạm vi nội dung: Trong suốt hơn ba thế kỉ (1571-1898) cai trị ở

Philippines, về phương diện đối ngoại, chính sách của Tây Ban Nha ở

thuộc địa Philippines có thể chia thành hai giai đoạn lớn: (1)1593-1762

chính sách “đóng cửa”, cô lập Philippines; và (2) 1789-1898 chính sách

“mở cửa” Philippines. Tuy nhiên, trong quá trình nghiên cứu chúng tôi

nhận thấy rằng việc chuyển từ chính sách “đóng cửa” sang “mở cửa”

thực chất nó còn phải trải qua một giai đoạn “chuyển tiếp” (Transition

period) từ 1764 đến 1789. Vì thế, chúng tôi sẽ trình bày nội dung này

vào trong giai đoạn trước khi Tây Ban Nha chính thức đưa ra chính sách

“mở cửa” thuộc địa Philippines vào năm 1789.

4. Các nguồn tài liệu

Để hoàn thành luận án này chúng tôi đã khai thác và sử dụng các

nguồn tài liệu chủ yếu sau đây:

- Tài liệu gốc

+ Các sắc lệnh của Hoàng gia Tây Ban Nha, thư từ trao đổi giữa vua

Tây Ban Nha với quan chức ở Philippines về các vấn đề thuộc địa;

những ghi chép của những nhà du hành châu Âu về tình trạng Nhà nước,

cư dân, thương nhân ở Philippines, những ghi chép của Tổng đốc

Antonio de Morga về quan hệ của quần đảo Philippines với các nước

trong khu vực; sắc lệnh thành lập công ty Hoàng gia Philippines năm

1785 và mở cửa cảng Manila đối với các nước châu Á của vua Charles

III (1759-1788).

- Tài liệu nghiên cứu thứ cấp Đó là nguồn tài liệu của các nhà nghiên cứu Tây Ban Nha,

Philippines, Anh, Hà Lan (đa phần đã được dịch sang tiếng Anh). Đó là

các sách chuyên khảo, bài viết đăng trên các tạp chí chuyên ngành (chủ

yếu là PhilippineStudies), báo cáo tham luận tại các cuộc hội thảo khoa

học của các nhà nghiên cứu đã công bố. Ngoài ra, còn có các luận án

tiến sĩ, luận văn thạc sĩ đã bảo vệ thành công trong và ngoài nước.

- Tài liệu internet: chủ yếu các website đăng tải sách, bài báo điện

tử chuyên về Philippines thời kì Tây Ban Nha.

5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu

5.1. Phương pháp luận

- Quán triệt quan điểm duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của

Page 10: CHÍNH SÁCH “ĐÓNG CỬA” VÀ “MỞ C A TÂY BAN NHA THU A … · 2020-02-20 · bộ máy chính quyền và thâu tóm toàn bộ quan hệ đối ngoại của Philippines

6

Chủ nghĩa Mác – Lênin trong phân tích, đánh giá các nội dung, đặc

điểm, tính chất và tác động của các sự kiện lịch sử.

- Do thuộc địa Philippines thời kì Tây Ban Nha vừa tham gia vừa

chịu sự tác động của những chuyển biến quốc tế và sự xáo trộn trong quan

hệ truyền thống giữa các nước trong khu vực nên chúng tôi vận dụng

quan điểm hệ thống luôn để soi xét các vấn đề trình bày trong luận án.

5.2. Phương pháp nghiên cứu

- Là một đề tài lịch sử, mặc nhiên phương pháp lịch sử, phân tích

mối liên hệ giữa các sự kiện lịch sử cả đồng đại và lịch đại luôn là dòng

mạch chính trong luận án. Trong chừng mực nhất định, những phương

pháp nghiên cứu khác như: phương pháp so sánh, phương pháp thống

kê, phương pháp sơ đồ hóa cũng được vận dụng.

- Chính sách “đóng cửa” và “mở cửa” là một hệ thống, được tập

hợp bởi nhiều bộ phận kinh tế, chính trị, xã hội cấu thành, luận án không

chỉ tập trung phân tích các chính sách trên các lĩnh vực cụ thể mà còn đi

sâu xem xét sự tác động tương hỗ giữa các thành tố.

6. Đóng góp của luận án

- Luận án là công trình nghiên cứu về chính sách cai trị của Tây Ban

Nha ở thuộc địa Philippines nói chung và chính sách đối ngoại nói riêng với

một cách tiếp cận mới qua hai giai đoạn chính “đóng cửa” và “mở cửa”.

- Luận án đã chỉ ra và phân tích các sự kiện lịch sử cơ bản liên quan

đến ba vấn đề chủ yếu: (1) những nguyên nhân dẫn đến chính sách

“đóng cửa”, “mở cửa” của Tây Ban Nha ở thuộc địa Philippines; (2)

Những chính sách cụ thể đối với vấn đề ngoại thương và vấn đề người

nước ngoài ở Philippines; (3) Những đặc điểm và tác động của những

chính sách đó đối với Philippines và Tây Ban Nha.

7. Kết cấu luận án

Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo và phụ lục, nội

dung luận án được chia làm 4 chương:

Chương 1. Tổng quan tình hình nghiên cứu đề tài

Chương 2. Chính sách “đóng cửa” của Tây Ban Nha ở thuộc địa

Philippines (1593-1762)

Chương 3. Từ nới lỏng “đóng cửa” đến chính sách “mở cửa” của

Tây Ban Nha ở thuộc địa Philippines (1764-1898)

Chương 4. Nhận xét về chính sách “đóng cửa” và “mở cửa” của

Tây Ban Nha ở thuộc địa Philippines

Page 11: CHÍNH SÁCH “ĐÓNG CỬA” VÀ “MỞ C A TÂY BAN NHA THU A … · 2020-02-20 · bộ máy chính quyền và thâu tóm toàn bộ quan hệ đối ngoại của Philippines

7

CHƯƠNG 1. TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU

1.1. Tình hình nghiên cứu đề tài ở trong nước

Lịch sử Philippines nói chung và chính sách cai trị của Tây Ban

Nha ở Philippines nói riêng từ lâu đã nhận được sự quan tâm nghiên

cứu của các học giả Việt Nam. Kết quả của những công trình nghiên

cứu có thể phân thành ba nhóm chính:

Nhóm thứ nhất: Những công trình viết về lịch sử - văn hóa

Philippines

Cuốn Lịch sử Philippines: từ thế kỷ XV-XVI đến những năm

1980 (1993) của Huỳnh Văn Tòng; cuốn Lịch sử Philippines (2007) của

Cao Minh Chơng, cuốn Tìm hiểu lịch sử văn hóa Philippines, tập 1

(1996) của Đức Ninh chủ biên và cuốn Tìm hiểu lịch sử văn hóa

Philippines, tập 2 (2001) của Trung tâm KHXH & NVQG - Viện Đông

Nam Á. Đây là những công trình nghiên cứu về lịch sử và văn hóa của

Philippines viết theo lối thông sử nên có ưu điểm là mang tính hệ thống,

đề cập đến tình hình Philippines từ thời tiền Tây Ban Nha, quá trình xâm

lược đến chính sách cai trị của Tây Ban Nha. Tuy vậy do khai thác nguồn

tài liệu còn ít ỏi nên mỗi vấn đề chỉ được trình bày trong những trang viết

ngắn, mang tính sơ lược.

Nhóm thứ hai: Những công trình viết về chính sách cai trị của

Tây Ban Nha ở thuộc địa Philippines

Trên tạp chí nghiên cứu Đông Nam Á, trong những năm trở lại

đây, rải rác có một số bài viết mang tính gợi mở một số khía cạnh liên

quan trực tiếp đến đề tài. Bài viết So sánh chế độ cai trị của của Tây

Ban Nha và Mỹ ở Philippines dưới thời thuộc địa của Trần Khánh;

Chính sách hạn chế thương mại của Tây Ban Nha ở thuộc địa

Philippines (1593-1834) của Đặng Văn Chương – Hà Thị Thơm; Tranh

giành thương mại và thiết lập chế độ cai trị thuộc địa của Tây Ban

Nha ở Philipin thế kỷ XVI-XIX của Bùi Văn Hào – Trần Khánh;

Thương cảng Manila (Philippines) thế kỷ XVII; Người Hoa ở

Philippines dưới thời thuộc Tây Ban Nha (1565-1898) của Dương Văn

Huy; Manila và dòng chảy bạc Tân thế giới thế kỷ XVI-XVIII của

Hoàng Anh Tuấn, Nguyễn Minh Nguyệt. Những bài viết này góp phần

làm sáng tỏ vị trí của Manila trong thương mại Philippines và thương

mại thế giới vào thế kỷ XVI, XVIII. Các tác giả đã chỉ ra rằng, trong

suốt thời kỳ này, Manila chính là trạm trung chuyển hàng hóa giữa hai

thị trường Đông Á và thuộc địa châu Mĩ thông qua thương mại thuyền

Page 12: CHÍNH SÁCH “ĐÓNG CỬA” VÀ “MỞ C A TÂY BAN NHA THU A … · 2020-02-20 · bộ máy chính quyền và thâu tóm toàn bộ quan hệ đối ngoại của Philippines

8

buồm lớn Manila galleon. Ngoài ra, những bài viết này còn bước đầu đề

cập đến chính sách “đóng cửa” của Tây Ban Nha ở thuộc địa

Philippines, rõ ràng nhất là chính sách hạn chế thương mại và chính

sách phân biệt đối xử với người Hoa.

Nhóm thứ ba: Các công trình đề cập đến lịch sử Philippines thời

kì Tây Ban Nha trong tổng thể khu vực Đông Nam Á.

Cuốn Lịch sử Đông Nam Á (2005) của Lương Ninh (cb) – Đỗ Thanh

Bình – Trần Thị Vinh; Cuốn Đông Nam Á trong thời kì thuộc địa và

phong trào giải phóng dân tộc” (từ đầu thế kỉ XVI đến 1945) của Trần

Khánh (cb) nằm trong bộ sách Thông sử Đông Nam Á. Hai công trình

này cũng đã bước đầu trình bày về quá trình xâm chiếm, sự thiết lập chế

độ cai trị và tình hình Philippines dưới sự thống trị của Tây Ban Nha trong

tổng thể khu vực Đông Nam Á.

Nếu hai công trình kể trên lấy lịch sử các quốc gia Đông Nam Á làm

đối tượng nghiên cứu chủ yếu thì công trình Quan hệ của Nhật Bản với

Đông Nam Á thế kỷ XV-XVII (2003) của Nguyễn Văn Kim lại đặt các

nước ở Đông Nam Á thời Trung-Cận đại trong quan hệ với Nhật Bản.

Trong công trình này có bài viết Quan hệ của Nhật Bản với Phillipin

thế kỷ XVI – XVII. Đây là một trong những bài viết hiếm hoi nghiên

cứu về quan hệ của Philippines với các nước trong khu vực thời thuộc

Tây Ban Nha.

Quá trình thực dân hóa của Tây Ban Nha ở Philippines trong vòng 3

thế kỷ còn chứng kiến sự cạnh tranh quyết liệt với các thế lực Phương Tây

khác (Bồ Đào Nha, Hà Lan, Anh, Pháp). Điều này có thể nhận thấy qua

một số bài viết của tác giả Lê Thanh Thủy Tiếp xúc và hội nhập thương

mại ở Đông Nam Á từ thế kỷ XVI đến thế kỷ XIX (2007); Sự hình thành

đế chế Anh ở phương Đông và vai trò của Công ty Đông Ấn Anh thế kỷ

XVII – XIX (2009); Về sự thành lập công ty Đông Ấn Anh năm 1600

(2011). Đối với tác giả, những công trình nghiên cứu trên không chỉ là

nguồn tài liệu tham khảo cần thiết mà nó còn mở ra những hướng và

phương pháp tiếp hệ thống trong việc phân tích những vấn đề đặt ra của

luận án.

1.2. Tình hình nghiên cứu đề tài ở nước ngoài

Sự hiện diện của Tây Ban Nha ở quần đảo Philippines nói chung và

chính sách đối ngoại của Tây Ban Nha ở thuộc địa Philippines nói riêng

đã được nhiều nhà sử học châu Á, Âu, Mĩ quan tâm nghiên cứu qua

nhiều giai đoạn dưới nhiều góc độ khác nhau.

Page 13: CHÍNH SÁCH “ĐÓNG CỬA” VÀ “MỞ C A TÂY BAN NHA THU A … · 2020-02-20 · bộ máy chính quyền và thâu tóm toàn bộ quan hệ đối ngoại của Philippines

9

Nhóm thứ nhất: Các công trình đề cập đến công cuộc xâm chiếm

thuộc địa và tình hình kinh tế - chính trị - xã hội của Đế chế Tây Ban

Nha trong bối cảnh châu Âu từ thế kỉ XVI đến thế kỉ XIX Trước hết, phải kể đến những công trình “nhập môn” về Lịch sử

Tây Ban Nha như “Spain, A Modern History”) của Rhea Marsh Smith,

(1965) và “A History of Spain” của Charles E. Chapman, (1966) hay

cuốn “Tây Ban Nha –ba ngàn năm lịch sử” của nhà nghiên cứu lịch sử

Tây Ban Nha Antonio Dominguez Ortiz, được Nxb thế giới ấn hành

năm 2009. Bên cạnh khái quát toàn bộ lịch sử Tây Ban Nha theo biên

niên sử, các công trình này đã tập trung phân tích tình hình Tây Ban Nha

dưới triều đại Charles I (1516-1556), Philip II (1556-1598), thời kì

khủng hoảng và suy vong (1598-1700) và tình hình Tây Ban Nha trong

thế kỉ XVIII.

Tiếp đến là những công trình về lịch sử Tây Ban Nha thời kì Đế chế

như cuốn “Imperial Spain 1469-1716” của J.H.Elliot; Cuốn “Golden

Age Spain” của Henry Kamen đã trình bày một cách khái quát về quá

trình ra đời Chế độ chuyên chế Tây Ban Nha vào cuối thế kỷ XV và sự

hình thành của Đế chế Tây Ban Nha vào đầu thế kỷ XVI. Trong đó, tác

giả đã tập trung lý giải những nguyên nhân đưa đến sự suy tàn của Đế

chế Tây Ban Nha vào nửa sau thế kỷ XVII.

Công trình “Lịch sử ngoại giao cận đại (thê kỷ XVI-XVIII)” của

V.P.Pochemkin (2001) và công trình “Lịch sử chủ nghĩa tư bản từ

1500 đến 2000” của Michel Beard (2002) (cb), đã có nhìn nhận vĩ mô

về sự phát triển của các nước tư bản, tác giả cho rằng từ thế kỷ XVI đến

thế kỷ XIX các nước châu Âu đều bị chi phối bởi hai tư tưởng kinh tế

chính trị đó là Chủ nghĩa trọng thương (mercantilism) và Chủ nghĩa tự

do (Liberalism). Công trình còn dừng lại phân tích những biểu hiện suy

tàn của Tây Ban Nha vào cuối thế kỷ XVI, nửa đầu thế kỷ XVII. Thế kỉ

XVII, XVIII là thời kỳ suy tàn của đế chế Tây Ban Nha đánh dấu bằng

sự kiện cuộc chiến tranh kế vị Tây Ban Nha, đồng thời là thời kỳ mạnh

lên của chủ nghĩa tư bản Anh và sự tranh giành của Anh và Pháp trong

việc giành quyền thống trị châu Âu.

Nhóm thứ hai: Các công trình đề cập đến Lịch sử Philippines và

quan hệ Philippines với các nước trong khu vực thời kỳ thuộc địa Tây

Ban Nha Cho đến nửa sau thế kỷ XX, đầu thế kỷ XXI mới bắt đầu có nhiều

công trình nghiên cứu của các học giả Philippines được xuất bản. Tiêu

Page 14: CHÍNH SÁCH “ĐÓNG CỬA” VÀ “MỞ C A TÂY BAN NHA THU A … · 2020-02-20 · bộ máy chính quyền và thâu tóm toàn bộ quan hệ đối ngoại của Philippines

10

biểu là các tác giả Conrado, Benitez (1954), History of Philippines; Zaide; Alip, Eufronio.M (1964), Political and Cultural History of the Philippines; Zaide, Soria.M (1999), The Philippines – A Unique Nation; Zulueta, Francisco.M – Nebres, A. Briel (2003), Philippine History and Government through the Year; Zaide, Gregorio.F – Zaide, Sonia (2004), Philippine History and Government; Agoncillo, Teodoro.A (2006), History of the Filipino People; Costa, Horacio de la, S.J. (1992), Readings in Philippine History. Hầu hết những công trình này nghiên cứu lịch sử Philipines một cách hệ thống từ thời tiền sơ sử đến thời kì hiện đại. Trên cơ sở khai thác nhiều nguồn tài liệu phong phú về thời kì thuộc địa, các tác giả đã phần nào tái dựng lại một cách đầy đủ và sâu sắc lịch sử và xã hội Philippines từ thế kỷ XVI đến thế kỷ XIX.

Trong công trình “History of Philippines”, tác giả Conrado Benitez đã đề cập đến những mối quan hệ giữa thuộc địa Philppines với bên ngoài (outside relations) như Trung Quốc, Nhật Bản, Hà Lan và cuộc xâm chiếm Manila của Anh năm 1762. Trên cơ sở phân tích về hoạt động thương mại, tác giả đã bước đầu phân chia lịch sử Philippines thành hai thời kỳ, “thời kỳ hạn chế” (period of restrictions) và “thời kỳ tự do thương mại và cải cách chính trị” (period of commercial liberty and political reforms). Có thể nói, cách tiếp cận của Conrado Benitez đã gợi mở nhiều ý tưởng quan trọng cho vấn đề luận án đang nghiên cứu.

Nghiên cứu về lịch sử Philippines trọn vẹn trong thời kỳ Tây Ban Nha phải kể đến công trình “Spain in the Philippines” của Cushner, Nicholas P., SJ (1971). Trong đó, tác giả đã dành hai chương để trình bày về thương mại của Tây Ban Nha ở Philippines, chương 6 với tiêu đề “Trade and Finance” và chương 9 “Bourbon Reform and Foreign Merchants”. Qua cách phân chia và lý giải của tác giả, chúng ta có thể thấy rằng vào nửa sau thế kỷ XVIII, chính sách thương mại của Tây Ban Nha ở các thuộc địa Philippines có những bước chuyển tích cực.

Trong khi các công trình chuyên khảo về lịch sử Philippines còn hạn chế thì việc tiếp cận nguồn tài liệu các công trình nghiên cứu tổng thể về lịch sử khu vực Đông Nam Á là hết sức cần thiết. Công trình In Search of Southeast Asia – A Mordern History của nhóm tác giả Chandler, David. P; Roff, William.R; Smail, Jonh.R.W;…(1985), phần II với tựa đề New Challenges to Old Authority, đã phân tích những thách thức mới mà các chính quyền thuộc địa ở Đông Nam Á gặp phải thế kỷ XVIII, XIX, trong đó có chính quyền Tây Ban Nha ở thuộc địa Philippines.

Page 15: CHÍNH SÁCH “ĐÓNG CỬA” VÀ “MỞ C A TÂY BAN NHA THU A … · 2020-02-20 · bộ máy chính quyền và thâu tóm toàn bộ quan hệ đối ngoại của Philippines

11

Về quan hệ giữa Philippines với các nước trong khu vực, Tổng đốc Antonio de Morga (1559 - 1636) với tư cách là quan chức Tây Ban Nha ở thuộc địa Philippines, đồng thời là người viết sử đã xuất bản cuốn “Sucesos de las islas Filippinas” năm 1609 tại Mexico. Nội dung chính của cuốn sách đã đề cập đến lịch sử Philippines trong mối quan hệ với Moluccas, Xiêm, Campuchia, Nhật Bản và Trung Quốc vào cuối thế kỷ XVI.

Nhà sử học Tây Ban Nha Florentino Rodao Garcia công bố nhiều bài viết liên quan đến thời kì Tây Ban Nha ở Philippines: The Castilians discover Siam: Changing Visions and Self-Discovery, The Journal of the Siam Society (JSS), 95/2007; Departure from Asia: Spain in the Philippines and East Asia in the Nineteenth and Twentieth Centuries in trong sách Nation and Conflict in Modern Spain: Essays in Honour of Stanley G. Payne (2008). Những bài viết này đã bổ sung tài liệu về sự thống trị của Tây Ban Nha ở Philippines vào giai đoạn nửa sau thế kỷ XIX.

Các nhà nghiên cứu người Hà Lan, Mỹ, và một số nước khác cũng có những bài nghiên cứu đăng trên các tạp chí liên quan đến quan hệ Philippines – Hà Lan, Philippines – Nhật Bản, người Trung Quốc ở Philippines thời kì thuộc Tây Ban Nha: Laarhoven, Ruurdje and Pinowittermans (1985), “From Blockade to Trade: early Dutch Relations with Manila, 1600-1750”, Philippine Studies vol.33, no.4; Arensmeyer, Elliott C (1970); Chan, Albert (1978), “Chinese-Philippine Relations in the Late Sixteenth Century and to 1603”, Philippine Studies vol 26, no.1-2.

Nhóm thứ ba: Các công trình viết về tình hình kinh tế Philippines từ thế kỷ XVI đến thế kỷ XIX

Dưới góc nhìn của nhà kinh tế học, công trình After the Galleons của Benito J. Legarda, Jr. tái bản vào năm 1999 đã phân tích sâu sắc sự phát triển ngoại thương, chuyển biến kinh tế và kinh doanh ở Philippines vào thế kỷ XIX, sau khi thương mại thuyền buồm chấm dứt. Trong công trình của mình ông chỉ ra rằng “khác với các nước ở khu vực Đông Nam Á, động cơ đằng sau thúc đẩy sự phát triển thương mại Philippines không phải do chính quyền mà đến từ việc kinh doanh và vốn nhập khẩu thông qua hệ thống giá cả linh hoạt”. Có thể nói giáo sư Legarda đã nêu bật đặc điểm mang tính bản chất của quá trình “mở cửa” và hội nhập kinh tế của Philippines vào nửa sau thế kỷ XIX.

Nhà sử học Tây Ban Nha, Maria Lourdres Diaz-Trechuelo với series bài viết về kinh tế Philippines thế kỷ XVIII đăng trên tạp chí

Page 16: CHÍNH SÁCH “ĐÓNG CỬA” VÀ “MỞ C A TÂY BAN NHA THU A … · 2020-02-20 · bộ máy chính quyền và thâu tóm toàn bộ quan hệ đối ngoại của Philippines

12

Philippines Studies: Diaz-Trechuelo, Maria Lourdres (1963), “The Economic Development of the Philippines in the Second Half of the Eighteenth Century”, Philippine Studies vol.11, no2; Diaz-Trechuelo, Maria Lourdres (1966) “Eighteenth century Philippine economy: Commerce”, Philippine Studies vol.14, no2. Trong bài nghiên cứu về thương mại Philippines thế kỷ XVIII, Diaz-Trechuelo đã phân tích chính sách hạn chế và độc quyền thương mại của Tây Ban Nha ở thuộc địa Philippines đối với các nước Phương Đông, Tân Tây Ban Nha và sự ra đời của Công ty Hoàng gia Philippines.

1.3. Nhận xét về kết quả nghiên cứu và những vấn đề đặt ra cho luận án Trên cơ sở trình bày một cách tổng quan tình hình nghiên cứu về

vấn đề Chính sách “đóng cửa” và “”mở cửa” của Tây Ban Nha ở thuộc địa Philippines, chúng ta có thể rút ra một số nhận xét sau đây:

Thứ nhất, ở trong nước số lượng công trình nghiên cứu liên quan đến vấn đề này còn quá ít ỏi: một số sách, bài viết nghiên cứu chính sách cai trị tổng thể của Tây Ban Nha ở thuộc địa Philippines. Chính sách đối ngoại của Philippines thời kì thuộc Tây Ban Nha chưa được chú ý nghiên cứu.

Thứ hai, ở nước ngoài số lượng công trình nghiên cứu liên quan đến vấn đề này khá phong phú, nhưng còn ít công trình có hướng tiếp cận gần với đề tài luận án.

Thứ ba, những công trình của các tác giả trong và ngoài nước là chất liệu quan trọng để chúng tôi thực hiện đề tài. Song để có thể giải quyết trọn vẹn vấn đề nghiên cứu, chúng tôi nhận thấy cần tập trung những nội dung sau đây: (1) Bối cảnh lịch sử hình thành chính sách “đóng cửa” của Tây Ban Nha ở thuộc địa Philippines từ cuối thế kỉ XVI đến năm 1762. (2) Những nhân tố tác động đến sự thay đổi từ chính sách “đóng cửa” sang “mở cửa” vào nửa sau thế kỉ XVIII. (3) Hệ thống hóa và phân tích những chính sách của Tây Ban Nha ở Philippines trên hai lĩnh vực thương mại và di trú của người nước ngoài. Từ nội dung nghiên cứu, chúng tôi sẽ rút ra những đặc điểm và đánh giá một cách toàn diện và khách quan về hệ quả của chính sách “đóng cửa” và “mở cửa” của Tây Ban Nha ở thuộc địa Philippines.

Page 17: CHÍNH SÁCH “ĐÓNG CỬA” VÀ “MỞ C A TÂY BAN NHA THU A … · 2020-02-20 · bộ máy chính quyền và thâu tóm toàn bộ quan hệ đối ngoại của Philippines

13

CHƯƠNG 2. CHÍNH SÁCH “ĐÓNG CỬA” CỦA

TÂY BAN NHA Ở THUỘC ĐỊA PHILIPPINES (1593-1762)

2.1. Cơ sở hình thành và bôi cảnh Tây Ban Nha thực thi chính sách “đóng

cửa”

2.1.1. Quá trình xác lập quyền cai trị của Tây Ban Nha ở Philippines

(1521-1571)

Sau khi hoàn thành công cuộc thống nhất đất nước vào cuối thế

kỷ XV, tận dụng những ưu thế về vị trí địa lý, những tiến bộ về mặt

khoa học kỹ thuật hàng hải và đặc biệt là nhằm cạnh tranh với người

Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha đã đẩy mạnh công cuộc khám phá địa lý

nhằm tìm kiếm những vùng đất mới, trong đó có Philippines.

Sau nhiều chuyến viễn chinh đến Philippines nhưng không thành

công, đến năm 1564, Tây Ban Nha mới chính thức tiến hành xâm

lược Philippines thông qua cuộc viễn chinh của Lopez de Legazpi,

đến năm 1571 về cơ bản Tây Ban Nha đã bình định xong phần lớn

lãnh thổ của quần đảo Philippines (trừ vùng Hồi giáo phía Nam).

2.1.2. Chính sách thương mại của Tây Ban Nha ở thuộc địa

Philippines trong những thập niên đầu cai trị (1571-1593)

Trong khoảng ba thập niên đầu của chế độ cai trị, để khai thác

nguồn lợi của thuộc địa và nhằm cạnh tranh với người láng giềng Bồ

Đào Nha, Tây Ban Nha đã chủ động xúc tiến quan hệ thương mại của

Philippines với các thuộc địa của họ ở châu Mĩ cũng như với một số

nước trong khu vực. Chính sách đó một mặt đã biến Manila thành hải

cảng phát triển thịnh vượng ở khu vực ĐNA “Manila như cái kho và

trung tâm phân phối về thương mại ở Viễn Đông và tạo ra những cơ

hội to lớn”, mặc khác lại tập trung sự chú ý của các nước đối với vị

trí của quần đảo này, đặc biệt là thủ đô Manila.

2.1.3. Sự gia tăng những mối đe dọa an ninh chính trị và sức ép cạnh

tranh thương mại từ bên ngoài

Chỉ 3 năm sau khi Tây Ban Nha hoàn thành công cuộc bình định

Philippines, năm 1574, hải tặc Trung Quốc là Lim – Ah – Hong đã

tấn công Manila. Lực lượng của họ đã giết chết chỉ huy người Tây

Ban Nha là Marshal Martin de Goiti, đốt cháy thành phố và thậm chí

xây dựng căn cứ địa ở ngay cửa sông Agno. Bên cạnh cuộc xâm

chiếm của Lim- Ah- Hong, sự gia tăng nhanh chóng của số lượng người

Hoa ở Philippines cũng khiến cho chính quyền Tây Ban Nha bắt đầu e

sợ. Về phía chính quyền Nhật Bản, do lo sợ việc gia tăng sự hiện diện

Page 18: CHÍNH SÁCH “ĐÓNG CỬA” VÀ “MỞ C A TÂY BAN NHA THU A … · 2020-02-20 · bộ máy chính quyền và thâu tóm toàn bộ quan hệ đối ngoại của Philippines

14

của thực dân Tây Ban Nha ở phương Đông, tháng 5-1592, Hideyoshi đã

phái sứ giả đến Manila yêu cầu người Tây Ban Nha phải cống nạp và

thần phục, nếu không ông sẽ đánh chiếm Philippines.

Sang thế kỉ XVII và thế kỉ XVIII, Tây Ban Nha không chỉ ứng

phó với mối đe dọa an ninh chính trị từ Trung Quốc, Nhật Bản mà

còn sức ép cạnh tranh thương mại với người Hà Lan và người Anh.

Không chỉ cạnh tranh thương mại, người Anh còn là thế lực đầu

tiên lật đổ sự thống trị chính quyền Tây Ban Nha ở Manila thông

qua cuộc chiến tranh năm 1762.

2.1.4. Truyền thống độc quyền thương mại của nhà nước Tây Ban

Nha và ảnh hưởng của “Chủ nghĩa trọng thương”

Từ năm 1503 một hệ thống thương mại độc quyền của Tây Ban

Nha với Tân thế giới hình thành và kéo dài trong suốt hai thế kỷ. Toàn

bộ việc buôn bán ở thuộc địa phải chịu sự kiểm soát của Sở thương mại

ở Seville đặt dưới quyền Hội đồng thuộc địa. Việc buôn bán trực tiếp

giữa Mexico và Peru hay các thuộc địa khác đều bị cấm.

Sự ra đời và phát triển hoàn chỉnh của học thuyết trọng thương

càng củng cố thêm chính sách độc quyền thương mại của Tây Ban Nha

bởi vì tư tưởng này cho rằng chính sách ngoại thương phải hướng tới

mục tiêu làm thế nào để mang được khối lượng lớn nhất có thể các kim

loại quý về nước và hạn chế tối đa xuất khẩu chúng.

Sự phát triển hưng thịnh của thương mại thuyền buồm Manila

galleon trong khoảng hai thập niên đầu thế kỷ XVI đã khiến cho hàng

hóa của các nước phương Đông, đặc biệt là tơ lụa Trung Quốc đến

Châu Mĩ và rất được ưa chuộng đồng thời tuyến thương mại này đã

làm cho một số lượng lớn bạc trắng từ Châu Mĩ chảy sang Phương

Đông, đặc biệt là vào thị trường Trung Quốc. Do vậy, để bảo vệ công

nghiệp tơ lụa và tầng lớp thương nhân độc quyền trong việc buôn bán

với thị trường châu Mĩ, Tây Ban Nha buộc phải đi đến chính sách hạn

chế thương mại ở thuộc địa Philippines.

2.2. Nội dung và quá trình triển khai thực hiện chính sách “đóng cửa”.

2.2.1. Chính sách hạn chế, độc quyền thương mại

2.2.1.1. Với thuộc địa Tây Ban Nha ở châu Mĩ

Để hạn chế hàng hóa phương Đông tràn ngập thị trường châu Mĩ,

bảo vệ công nghiệp và ngoại thương chính quốc, hoàng gia Tây Ban

Nha đã ban hành các sắc lệnh liên quan đến hoạt động Manila galleon

từ việc giới hạn trọng tải, giá trị và hàng hóa của các galleon đến hạn

Page 19: CHÍNH SÁCH “ĐÓNG CỬA” VÀ “MỞ C A TÂY BAN NHA THU A … · 2020-02-20 · bộ máy chính quyền và thâu tóm toàn bộ quan hệ đối ngoại của Philippines

15

chế thành phần tham gia vào Manila galleon. Điều này cho thấy về bản

chất thương mại Manila galleon là độc quyền của chính quyền Tây Ban

Nha ở Philippines và Mexico, được tiến hành bởi quan chức hoàng gia

và lợi nhuận thu được dồn vào tay người Tây Ban Nha gồm quan chức,

quân đội, tăng lữ và thương nhân độc quyền. Người Philippines, người

nước ngoài không tham gia trực tiếp vào buôn bán giữa Manila-

Acapulco.

2.2.1.2. Với các nước châu Á

Do người Tây Ban Nha không được phép buôn bán trực tiếp với

các nước châu Á, họ buộc phải phụ thuộc vào các thương nhân châu Á

(Trung Quốc, Nhật Bản, Đông Nam Á) mang hàng hóa đến Manila. Để

đảm bảo sự độc quyền trong việc mua hàng hóa, Tây Ban Nha đưa ra

những qui tắc kĩ lưỡng khống chế việc buôn bán: (1) Mở một cảng duy

nhất là Manila để trao đổi hàng hóa. (2) Kiểm soát giá cả thông qua hệ

thống mua sĩ hàng hóa (Pancada). Mục đích của việc sử dụng hệ thống

Pancada là nhằm hạn chế việc bán lẻ hàng hóa cũng như việc tăng giá

bán một cách tùy tiện khi hàng hóa được nhập vào Manila. Đồng thời

với biện pháp này, những thương nhân châu Á không thể tham gia trực

tiếp vào thương mại Manila galleon cũng như nội thương Philippines

mà chỉ đóng vai trò là những người cung cấp hàng hóa.

2.2.1.3.Với thương nhân châu Âu

Từ cuối thế kỷ XVI đến năm 1789, Tây Ban Nha dùng mọi biện

pháp để ngăn chặn sự xâm nhập của người châu Âu vào các thuộc địa

Philippines dưới mọi hình thức. Tuy nhiên, từ giữa thế kỷ XVII đến

đầu thế kỷ XVIII, do những nhu cầu về trao đổi thương mại, nhiều toàn

quyền Philippines đã “cho phép” đi lại và “buôn bán ngầm” của người

Hà Lan, Anh đến Manila. Một trong những thỏa thuận ngầm là việc

kiềm chế sử dụng cờ châu Âu khi buôn bán với Manila. Ngoài ra,

người châu Á thường xuyên thay thế như là người dẫn đầu của việc

kinh doanh, trong khi những thương nhân châu Âu đóng vai trò như là

những người áp tải hàng hóa hoặc người phiên dịch, hoặc đơn giản tiếp

thu tên gọi của người châu Á.

2.2.2. Chính sách hạn chế nhập cư, kiểm soát chặt chẽ đối với di trú

của người nước ngoài

2.2.2.1 Trường hợp người Hoa

Trong số tất cả những người nước ngoài có mặt ở Philippines,

người Hoa chiếm số lượng đông đảo và có vai trò quan trọng đối với sự

Page 20: CHÍNH SÁCH “ĐÓNG CỬA” VÀ “MỞ C A TÂY BAN NHA THU A … · 2020-02-20 · bộ máy chính quyền và thâu tóm toàn bộ quan hệ đối ngoại của Philippines

16

phát triển của quần đảo nhưng họ cũng đồng thời mang đến những mối

đe dọa thường trực cho an ninh thuộc địa. Vì thế, chính quyền Tây Ban

Nha vẫn không hoàn toàn ngăn cấm người Hoa di trú đến Philippines,

thay vào đó họ có những biện pháp để kiểm soát chặt chẽ : (1) Áp dụng

hệ thống thuế riêng đối với người Hoa; (2) Hạn chế nhập cư; (3) Cải đạo

người Hoa sang Công giáo; và thậm chí là trục xuất và thảm sát nếu

người Hoa nổi dậy chống đối.

2.2.2.2. Trường hợp người Nhật

Do những thăng trầm trong quan hệ giữa hai chính quyền, người

Nhật ở Philippines cũng bị kiểm soát rất gắt gao. Đặc biệt từ năm 1639

cho đến 1868, do Nhật Bản thực thi chính sách đóng cửa, sự tiếp xúc

giữa Philippines và Nhật Bản là rất ít và chỉ được giới hạn đối với những

người Nhật bị đắm tàu hoặc mắc cạn. Người Nhật ở Philippines không

thể trở về nước tiếp tục mở những cửa hàng của họ ở Dailao, San

Miguel, San Roque gần Cavite và bị chính quyền Philippines giám sát

chặt chẽ, một số người Nhật cũng định cư ở Cebu và thành phố Vịnh ở

Laguna.

CHƯƠNG 3. TỪ NỚI LỎNG “ĐÓNG CỬA” ĐẾN CHÍNH SÁCH

“MƠ CỬA” CỦA TÂY BAN NHA Ơ THUỘC ĐỊA PHILIPPINES

(1764-1898)

3.1. Nhân tô tác động đến sự thay đổi chính sách “đóng cửa” sang “mở

cửa”

3.1.1. Sự kém hiệu quả trong quản lí độc quyền và sự suy yếu của

đế chế Tây Ban Nha trong thế kỷ XVIII, XIX

Với tư cách là quốc gia tiên phong trong công cuộc thám hiểm thế

giới và bành trướng thuộc địa, Tây Ban Nha trở thành cường quốc số

một ở châu Âu và thế giới trong thế kỉ XVI. Tuy vậy, từ thế kỉ XVII,

Tây Ban Nha bắt đầu bước vào thời kì “suy thoái” và khủng hoảng chính

trị - kinh tế kéo dài, quá trình này tiếp diễn trong thế kỉ XVIII, XIX. Hệ

quả của tình trạng này là việc Tây Ban Nha bất lực trong việc duy trì độc

quyền thương mại trong nội bộ đế chế của mình, buộc họ phải dựa vào

Pháp. Khi cuộc chiến tranh kế vị Tây Ban Nha kết thúc, với hiệp ước

Utrech, Tây Ban Nha thậm chí không thể ngăn chặn sự có mặt chính

thức của Anh đối với thương mại của Tây Ban Nha ở chính quốc và

thuộc địa.

Page 21: CHÍNH SÁCH “ĐÓNG CỬA” VÀ “MỞ C A TÂY BAN NHA THU A … · 2020-02-20 · bộ máy chính quyền và thâu tóm toàn bộ quan hệ đối ngoại của Philippines

17

3.1.2. Sự ra đời của tư tưởng kinh tế chính trị mới ở châu Âu vào thế

kỷ XVIII

Vào đầu thế kỷ XVIII, ở nhiều nước châu Âu, chủ nghĩa trọng

thương trọng kim dần bị thay thế bởi chủ nghĩa “thặng dư thương

mại” và sau đó là “tự do thương mại”. Ở Tây Ban Nha, nhiều ý tưởng

về cải cách kinh tế đã ra đời – thường gọi là trường phái “phản trọng

thương”. Trong xu thế đó, các Toàn quyền Tây Ban Nha ở Philippines,

đặc biệt là Basco y Vargas (1778-1787) bắt đầu tạo dựng những quy tắc

mới phù hợp với xu thế của thế giới, tập trung vào phát triển tài nguyên

thiên nhiên và nỗ lực tạo ra sự tác động có lợi cho sự phát triển của

nông nghiệp và công nghiệp thay vì chỉ tập trung vào thương mại trong

suốt 200 năm trước đó.

3.1.3. Anh xâm chiếm Manila (1762-1764) và nhu cầu phục hồi

thương mại quốc tế, duy trì quyền cai trị của Tây Ban Nha ở

Philippines

Trong lúc những thay đổi về chính sách kinh tế ở Philippines đang

được thúc đẩy thì một sự kiện chấn động xảy đến đó là cuộc tấn công

Manila của nước Anh năm 1762. Do thiếu thông tin và sự phòng bị,

chính quyền Tây Ban Nha ở Manila nhanh chóng thất thủ và Manila bị

người Anh chiếm đóng trong vòng 2 năm (5-10-1762 đến 31-5-1764).

Anh trao trả Manila lại cho Tây Ban Nha do hiệp ước Paris kết thúc

cuộc Chiến tranh Bảy năm được kí vào ngày 10-2-1763. Mặc dầu vậy,

sự rút đi của họ đã để lại cho chính quyền Tây Ban Nha những thách

thức lớn đòi hỏi họ phải có những đối sách phù hợp để tiếp tục duy trì sự

hiện diện ở tiền đồn Philppines.

3.2. Nội dung và quá trình triển khai thực hiện của chính sách “mở cửa”

3.2.1. Chính sách nới lỏng “đóng cửa” (1764-1789)

3.2.1.1. Trong thương mại

Bên cạnh việc tăng cường khả năng tự phòng thủ để đảm bảo an

toàn thuộc địa, đối mặt với vấn đề tái thiết thuộc địa sau chiến tranh,

dưới thời của Toàn quyền Francisco de la Torre (1764-1765), phụ trách

tài chính của Manila là Francisco Leandro de Viana đã đề nghị kế hoạch

phát triển kinh tế ở thuộc địa Philippines thông qua hai dự án lớn đó là

kết nối thương mại trực tiếp giữa Philippines với chính quốc và kế hoạch

phục hồi thương mại Philippines với các nước châu Á.

Page 22: CHÍNH SÁCH “ĐÓNG CỬA” VÀ “MỞ C A TÂY BAN NHA THU A … · 2020-02-20 · bộ máy chính quyền và thâu tóm toàn bộ quan hệ đối ngoại của Philippines

18

3.2.1.2. Trong chính sách đối với người Hoa

Để phục vụ cho “Kế hoạch tổng thể phát triển kinh tế Philippines”,

Toàn quyền Basco y Vargas đã được nhà vua chỉ dẫn cho phép số lượng

nhỏ người Hoa vào Philippines, chủ yếu là nông dân và thợ thủ công.

Chính quyền Tây Ban Nha đã kêu gọi “số lượng giới hạn” 4000 người

Hoa Thiên Chúa giáo định cư ở Philippines để lấp đầy những khoảng

trống mà những người bị trục xuất trước đó bỏ lại, đặc biệt là thợ sản

xuất gốm, thợ nhuộm, thợ đúc, thợ rèn, thợ mỏ, thợ mộc giỏi, nông dân

trồng dâu, dệt lụa. Chính sách dưới thời Toàn quyền Basco đã thu hẹp

khoảng cách giữa chính quyền Tây Ban Nha và những người Hoa có

tiềm năng nhập cư vào Manila.

3.2.1. Chính sách “mở cửa hạn chế” (1789-1833)

3.2.1.1. Đối với thương mại

Trong sự chuyển động của công cuộc cải cách thương mại của đế

chế Tây Ban Nha từ năm 1765, đến năm 1789, Tây Ban Nha ban hành

sắc lệnh “tự do thương mại” đối với Philippines. Nội dung quy định

“thuyền của bất cứ quốc gia nào đều được cho phép buôn bán với

Manila miễn là không mang hàng hóa từ châu Âu. Sắc lệnh này đã tạo

điều kiện thuận lợi cho việc tự do buôn bán đối với những hàng hóa

châu Á ở Philippines.

Vào đầu thế kỷ XIX, chính sách mở cửa thương mại được thúc đẩy

mạnh mẽ dưới sự tác động của những yếu tố cả trong lẫn ngoài đế chế

Tây Ban Nha. Thứ nhất, sự can dự của Anh và Pháp ở Đông Nam Á,

phản ánh một tham vọng thương mại và hàng hải mới dưới tác động của

cuộc cách mạng công nghiệp. Thứ hai, vào thời điểm này, phong trào

độc lập của Mexico vào năm 1820 đã tác động trực tiếp đến sự suy tàn

của đế chế Tây Ban Nha bởi vì cho đến lúc đó, Manila phụ thuộc vào

Mexico cả tài chính và chính trị. Tình hình đó buộc Tây Ban Nha phải

đưa ra sự hủy bỏ những hạn chế còn lại trong thương mại thuộc địa.

3.2.1.2. Đối với vấn đề di trú của người nước ngoài

Từ năm 1789, khi Manila mở cửa đối với ngoại thương, nhiều

người nước ngoài với nhiều quốc tịch khác nhau bắt đầu ghé thăm và

lưu lại ở Philippines, trong số đó có cả những người không theo Thiên

Chúa giáo. Tuy nhiên, Tây Ban Nha vẫn cấm người nước ngoài bán lẻ

hoặc đi đến các tỉnh để tiến hành buôn bán bất cứ loại hàng hóa nào.

Page 23: CHÍNH SÁCH “ĐÓNG CỬA” VÀ “MỞ C A TÂY BAN NHA THU A … · 2020-02-20 · bộ máy chính quyền và thâu tóm toàn bộ quan hệ đối ngoại của Philippines

19

3.2.2. Chính sách “mở cửa rộng rãi” (1834-1898)

3.2.2.1. Chính sách mở cửa cảng biển và cho phép sự thiết lập của

Lãnh sự, công ty nước ngoài

Sự chấm dứt Manila galleon năm 1815, sự thất bại trong kinh

doanh của Công ty Hoàng gia Philippines chứng tỏ rằng những nỗ

lực của Tây Ban Nha trong việc giữ độc quyền thương mại ở

Philippines hoàn toàn thất bại. Từ năm 1834 đến năm 1873, Tây Ban

Nha tuyên bố mở cửa nhiều cảng biển Philippines đối với thương mại

thế giới. Và đi cùng với việc mở cửa các cảng biển khác ở Philippines

thì các công ty của người châu Âu, Mỹ cũng được thành lập ở đó. Lãnh

sự và các công ty nước ngoài đóng vai trò thúc đẩy sự trao đổi

thương mại của thuộc địa Philippines với các nước, nhờ vậy thương

mại Philippines có sự gia tăng một cách nhanh chóng.

3.2.2.2. Chính sách tự do đầu tư sản xuất và xuất-nhập khẩu

Các thương nhân nước ngoài được cho phép đầu tư vốn và công

nghệ hiện đại vào sản xuất các mặt hàng chủ yếu ở Philippines, đó là

mía đường, thuốc lá và gai dầu. Điều này đưa đến sự mở rộng diện

tích trồng trọt và tạo ra nguồn cung cấp hàng hóa xuất khẩu dồi dào.

3.2.2.3. Chính sách giảm thuế thương mại

Để khuyến khích mở rộng thương mại, Tây Ban Nha ban hành

nhiều sắc lệnh chủ yếu nhắm vào sự hủy bỏ đối với thuế xuất khẩu và

giảm thuế đối với những hàng hóa được chở bằng thuyền quốc gia.

3.2.2.4. Chính sách tự do đi lại, định cư và kinh doanh đối với người

nước ngoài

Xuất phát từ những nỗ lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế

Philippines, từ cuối thế kỷ XVIII, chính sách của Tây Ban Nha đối với

người nước ngoài chuyển từ giới hạn sang khuyến khích nhập cư, tự do

đi lại, định cư, kinh doanh và sở hữu tài sản đã khuyến khích việc thu

hút nguồn lực từ nước ngoài. Đồng thời, việc áp dụng những yếu tố tiến

bộ của thời đại đã mở toang cánh cửa cho nền kinh tế Philippines hội

nhập vào dòng chảy thương mại thế giới.

Page 24: CHÍNH SÁCH “ĐÓNG CỬA” VÀ “MỞ C A TÂY BAN NHA THU A … · 2020-02-20 · bộ máy chính quyền và thâu tóm toàn bộ quan hệ đối ngoại của Philippines

20

CHƯƠNG 4. NHẬN XÉT VỀ CHÍNH SÁCH

“ĐÓNG CỬA” VÀ “MỞ CỬA” CỦA TÂY BAN NHA

Ở THUỘC ĐỊA PHILIPPINES

4.1. Chính sách “đóng cửa” và “mở cửa” là kết quả của tác động nội tại

với bôi cảnh quôc tế, khu vực Qua phân tích cơ sở, bối cảnh và các nhân tố tác động đến việc thực

thi Chính sách “đóng cửa và “mở cửa” cho phép chúng tôi đi đến nhận

định rằng những chính sách đó không phải xuất phát từ ý muốn chủ quan

của chính quyền Tây Ban Nha mà là kết quả của những tác động đan xen

phức tạp, trong đó nổi lên ba nhân tố chính: thứ nhất là ảnh hưởng của

các học thuyết kinh tế-chính trị châu Âu thế kỉ XVI-XIX. Thứ hai là địa

vị kinh tế, chính trị của Tây Ban Nha trong trật tự quốc tế. Và thứ ba là

quan hệ giữa chính quyền Tây Ban Nha với các nước trong khu vực, đặc

biệt là Trung Quốc, Nhật Bản.

4.2. Tây Ban Nha đã chú trọng mục tiêu chính trị, tôn giáo hơn lơi ích kinh

tế trong quá trình thực thi chính sách “đóng cửa” và “mở cửa” ở

Philippines Thông thường khi nói đến chính sách của một nước thực dân ở một

nước thuộc địa, chúng ta thường nhấn mạnh đến lợi ích kinh tế mà nó

mang lại cho chính quốc. Trong trường hợp Philippines, trong suốt thời

kì “đóng cửa”, thuộc địa này không những không mang lại lợi nhuận mà

còn trở thành gánh nặng tài chính đối với Tây Ban Nha. Rõ ràng, sự hiện

diện của Tây Ban Nha ở quần đảo này chính là muốn biến Philippines

thành phòng tuyến ngăn chặn dòng chảy bạc sang phương Đông, cũng

như dùng quần đảo này làm bàn đạp để chiếm các thị trường buôn bán ở

châu Á. Quan trọng hơn, Tây Ban Nha hướng đến sứ mệnh cao cả là

truyền bá đạo Thiên Chúa.

4.3. Khoảng cách lớn giữa ban hành và thực thi chính sách “đóng

cửa” ở thuộc địa Philippines Nghiên cứu quá trình thực thi chính sách “đóng cửa” và “mở cửa”

của Tây Ban Nha ở Philippines cho thấy một đặc điểm rất rõ rệt đó là sự

mâu thuẫn giữa ban hành và thực thi chính sách. Điều này bị chi phối

bởi hai yếu tố, đó là Philippines chịu sự cai trị gián tiếp thông qua phó

vương Mexico và những quan chức thuộc địa đã đặt lợi ích riêng lên trên các chính sách.

Page 25: CHÍNH SÁCH “ĐÓNG CỬA” VÀ “MỞ C A TÂY BAN NHA THU A … · 2020-02-20 · bộ máy chính quyền và thâu tóm toàn bộ quan hệ đối ngoại của Philippines

21

4.4. Chính sách “đóng cửa” và “mở cửa” ở thuộc địa Philippines nằm

trong “quỹ đạo” chung của đế chế Tây Ban Nha Mặc dù là tiền đồn xa xôi của Tây Ban Nha ở Viễn Đông và có

những đặc điểm tất riêng nhưng những chính sách áp dụng ở Philippines

về cơ bản nằm trong bối cảnh chung của Đế chế Tây Ban Nha. Trên

phương diện vĩ mô, chính sách thương mại của Tây Ban Nha cũng chia

thành hai giai đoạn cơ bản là “độc quyền” (từ giữa thế kỉ XVI đến 1764)

và giai đoạn “tự do” (từ 1765 đến cuối thế kỉ XIX).

4.5. Tác động

4.5.1. Đối với Philippines

4.5.2. Đối với Tây Ban Nha

Page 26: CHÍNH SÁCH “ĐÓNG CỬA” VÀ “MỞ C A TÂY BAN NHA THU A … · 2020-02-20 · bộ máy chính quyền và thâu tóm toàn bộ quan hệ đối ngoại của Philippines

22

KẾT LUẬN

1. Trong những chuyển biến lớn lao của lịch sử Tây Âu thời hậu

kỳ trung đại, Tây Ban Nha đã tận dụng được những lợi thế của mình để

nổi lên như một quốc gia tiên phong trong công cuộc phát kiến địa lý và

trở thành đế chế thực dân rộng lớn trong thế kỷ XVI. Chỉ trong vòng

chưa đầy 100 năm, Tây Ban Nha đã hoàn thành công cuộc thống nhất

đất nước và tạo dựng “đế chế toàn cầu đúng nghĩa” (Truly Global

Empire) đầu tiên trên thế giới. Quá trình bành trướng của Tây Ban Nha

được bắt đầu ngay sau khi Columbus phát hiện ra châu Mĩ năm 1492.

Song song với quá trình xâm chiếm và cướp bóc ở các nước Trung –

Nam Mĩ, Tây Ban Nha cũng đã “hướng tầm mắt” của mình đến Viễn

Đông, nơi sở hữu nhiều loại hàng hóa giá trị cho trao đổi thương mại

Đông – Tây. Trên con đường hướng về phương Đông để đến quần đảo

hương liệu Moluccas, Tây Ban Nha đã đặt chân đến quần đảo

Philippines vào năm 1521. Sau 44 năm phát hiện và khám phá, Legaspi

đã đổ bộ lên Cebu năm 1565. Từ thời điểm này, Philppines trở thành

một phần của đế chế Tây Ban Nha trong hơn 300 năm.

2. Mục tiêu của Tây Ban Nha trong quá trình xâm chiếm thuộc địa

gói gọn trong “3G” (Gold, God, Glory). Tuy nhiên, khác với các thuộc

địa Tây Ban Nha ở châu Mĩ, Philippines không sở hữu những mỏ vàng,

bạc có giá trị. Vì thế, khi quyết định xây dựng chỗ đứng chân vững chắc

ở Philippines, Tây Ban Nha có hai mục tiêu lớn. Thứ nhất, truyền bá

đức tin Thiên chúa giáo, cải đạo cho dân chúng Philippines, và các nước

ở Đông Ấn thông qua quan hệ thương mại. Thứ hai, dưới ánh sáng của

“học thuyết trọng thương”, Tây Ban Nha theo đuổi tham vọng trở thành

“đế chế thương mại”. Vì vậy, họ muốn sử dụng quần đảo này như là

một bàn đạp để tiến đến thiết lập một hệ thống thương mại thế giới giữa

Tây Ban Nha, Mexico và Viễn Đông (chủ yếu là Trung Quốc)

3. Trong thập niên đầu sau khi thiết lập địa vị thống trị ở

Philippines (1571-1582), để đối chọi với Bồ Đào Nha đồng thời mở

rộng ảnh hưởng đối với các quốc gia trong khu vực, Tây Ban Nha đã

thực hiện chính sách thu hút thương nhân châu Á đến Philippines buôn

bán đồng thời nỗ lực thiết lập quan hệ thương mại với Trung Quốc,

Nhật Bản. Cho đến năm 1582, hầu như chính quyền Tây Ban Nha

không thu thuế thương mại đối với hàng hóa của các nước đến buôn bán

ở thuộc địa Philippines. Chính sách đó một mặt đã biến Manila thành

hải cảng phát triển thịnh vượng ở khu vực ĐNA, mặc khác lại tập trung

Page 27: CHÍNH SÁCH “ĐÓNG CỬA” VÀ “MỞ C A TÂY BAN NHA THU A … · 2020-02-20 · bộ máy chính quyền và thâu tóm toàn bộ quan hệ đối ngoại của Philippines

23

sự chú ý của các nước đối vị trí của quần đảo này, đặc biệt là thủ đô

Manila.

4. Từ cuộc tấn công của hải tặc Trung Quốc đến kế hoạch xâm

chiếm của Thiên hoàng Nhật Bản cộng với những áp lực về vấn đề kinh

tế và sự nghi ngờ đối với những người nước ngoài là nguyên nhân chủ

yếu dẫn đến chính sách “đóng cửa” thuộc địa Philippines vào cuối thế kỉ

XVI. Trong gần hai thế kỉ chính quyền Tây Ban Nha thực thi chính sách

“đóng cửa” (1593-1762), ở Philippines chỉ tồn tại một hoạt động kinh tế

chủ yếu mang tính chất định kì đó là thương mại thuyền buồm Manila

galleon. Quan hệ thương mại với các nước trong khu vực (thương mại

nội Á) thường bị gián đoạn và không có sự kết nối để có thể tạo thành

một hệ thống các thương điếm của Tây Ban Nha ở châu Á như Bồ Đào

Nha, Anh, Hà Lan. Để đảm bảo sự độc quyền trong việc mua hàng hóa,

những qui tắc kĩ lưỡng khống chế việc buôn bán nội Á ra đời. Tây Ban

Nha chỉ mở một cảng duy nhất là Manila để trao đổi hàng hóa, áp dụng

hệ thống mua sĩ hàng hóa; những thương nhân châu Á không được phép

tham gia trực tiếp vào thương mại Manila Galleon cũng như nội thương

Philippines mà chỉ đóng vai trò là những người cung cấp hàng hóa;

người nước ngoài hầu như ngăn cản nhập cư trừ một số lượng hạn chế

người Hoa và người Nhật. Với chính sách “chia để trị”, Tây Ban Nha

ngăn cấm sự tiếp xúc của những cư dân bản xứ với những người nước

ngoài, cũng như giữa những người nước ngoài với nhau và thậm chí

giữa những người cùng dân tộc nhưng theo tôn giáo khác nhau.

5. Chịu tác động bởi những học thuyết kinh tế mới nổi lên ở châu

Âu vào nửa sau thế kỉ XVIII, sự hủy bỏ thương mại truyền thống

Manila galleon vào năm 1815 và sự tách rời của Mexico khỏi Tây Ban

Nha vào năm 1820, khiến cho Tây Ban Nha nhận thức được sự cần thiết

phải gắn kết vào quan hệ thương mại với các nước châu Á. Tây Ban

Nha bắt đầu chuyển từ chính sách “hạn chế” sang chính sách “tự do

thương mại” cũng như cho phép người nước ngoài thiết lập sự định cư ở

Philippines vào cuối thế kỉ XVIII. Tiến trình này bắt đầu một cách thận

trọng vào khoảng 50 năm (1789-1833) và “tự do hoàn toàn” từ 1834 trở

về sau với chính sách mở cửa các cảng biển cho và cho phép người

nước ngoài định cư bất cứ tỉnh nào trên lãnh thổ Philippines. Bước

chuyển này đã đưa đến sự thay đổi trong bản chất của thương mại

Philippines - từ “trung tâm phân phối hàng hóa” trở thành “thị trường

xuất-nhập khẩu thế giới”. Nếu như trước thế kỷ XIX, không có sản

Page 28: CHÍNH SÁCH “ĐÓNG CỬA” VÀ “MỞ C A TÂY BAN NHA THU A … · 2020-02-20 · bộ máy chính quyền và thâu tóm toàn bộ quan hệ đối ngoại của Philippines

24

phẩm nào của quần đảo đóng vai trò quan trọng trong trao đổi thương

mại giữa Philippines với Tân Tây Ban Nha và những nước khác trong

khu vực; cũng không có nguồn vốn đáng kể được đầu tư để khai thác

nguồn tài nguyên thiên nhiên của Philippines thì vào nửa sau thế kỷ

XIX, Philippines trở thành nước sản xuất mía đường, gai dầu, thuốc

nhuộm, thuốc lá hàng đầu trong khu vực, hầu hết sản phẩm được xuất

khẩu sang thị trường châu Âu và Mỹ. Tuy nhiên, sự tăng trưởng của

kinh tế Philippines vào giai đoạn này chủ yếu dựa vào sản xuất và xuất

khẩu nông sản, trong khi nguồn vốn, kỹ thuật công nghệ và thị trường

đều phụ thuộc bên ngoài. Có lẽ quan trọng nhất là chính quyền Tây Ban

Nha đã không tạo ra được một cơ sở hạ tầng xã hội, nhất là tạo dựng

tầng lớp nhà buôn, thương gia, nhà quản lý người bản địa. Trong khi đó,

tầng lớp trên như quan cai trị, tướng lĩnh trong quân đội và giáo chức

nhà thờ đã sử dụng quyền lực của mình, cùng với thương gia ngoại quốc

đã thao túng hệ thống thương mại và đầu tư phát triển. Điều này đưa đến

sự thất bại trong chính sách “mở cửa” thuộc địa của Tây Ban Nha.

6. Chính sách “mở cửa” đã tạo ra cơ hội cho sự nhập cư với số

lượng lớn người nước ngoài đến Philippines tham gia vào hoạt động

kinh tế. Khi người nước ngoài được tự do mở rộng địa bàn cư trú thì vai

trò của họ trong nền kinh tế của Philippines cũng thay đổi về chất.

Người nước ngoài bắt đầu bành trướng thế lực kinh tế của mình không

chỉ trên thương mại mà còn trong các lĩnh vực kinh tế khác. Những hoạt

động kinh tế của người nước ngoài đã đóng góp một phần to lớn vào sự

phát triển nền kinh tế Philippines.

7. Có thể nói, chính sách “đóng cửa” và “mở cửa” của Tây Ban

Nha ở Philippines dưới tác động của bối cảnh thế giới và khu vực đã

định hình những đặc điểm riêng về quan hệ đối ngoại của quần đảo này

thời kỳ thuộc địa. Đồng thời, chính sách đó đã đưa lại những hệ quả đối

với sự phát triển của Philippines trong nhiều thế kỷ. Thậm chí cho đến

khi nước này được Mĩ trao trả độc lập năm 1946, Philippines không có

nhiều mối liên hệ với các nước trong khu vực. Philipines trở thành một

quần đảo cô lập giữa các nước láng giềng, người Philippines phải mất

một thời gian dài tìm “nguồn gốc châu Á” của mình để thiết lập đặc tính

dân tộc. Điều đó cho chúng ta thấy được sự tai hại của việc bị nước khác

“đóng cửa”, cô lập và thấy được giá trị của việc “mở cửa” nhưng không

phải “mở cửa” bằng mọi giá, bằng sự buông xuôi.

Page 29: CHÍNH SÁCH “ĐÓNG CỬA” VÀ “MỞ C A TÂY BAN NHA THU A … · 2020-02-20 · bộ máy chính quyền và thâu tóm toàn bộ quan hệ đối ngoại của Philippines

DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ

LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN

1. Trần Thị Quế Châu (2014), “Vị trí thương nhân Trung Quốc trong

tuyến thương mại thuyền buồm giữa Manila (Philippines) và

Acapulco (Mexico) của Tây Ban Nha (1572-1815)”, Tạp chí Khoa

học và giáo dục Trường Đại học sư phạm Huế, số 2, Trang: 98-108.

2. Đặng Văn Chương, Trần Thị Quế Châu (2014), “Nguyên nhân dẫn

đến chính sách "đóng cửa" của Tây Ban Nha ở thuộc địa

Philippines cuối thế kỉ XVI”, Tạp chí Đông Nam Á, số 5, tr.26-34

3. Trần Thị Quế Châu (2014), “From “Closed-Door” and Isolation to

“Open-Door” and Intergration: Spain’s Policy in Colonial

Philippines, Nineteenth Century”, The 3rd International

Conference on “Asia Dynamic: Prospects and Challenges”

Mahasarakham, Thailand, tr.584-594

4. Trần Thị Quế Châu (2015), “Cuộc chiến tranh giữa Anh và Tây

Ban Nha ở Manila (1762-1764)”, Tạp chí Lịch sử Quân sự (Viện

Lịch sử Quân sự), Số: 11, tr. 71-75

5. Đặng Văn Chương, Trần Thị Quế Châu (2016), “Anh xâm chiếm

Manila (1762-1764) và tác động của nó đến chính sách của Tây

Ban Nha ở thuộc địa Philippines vào cuối thế kỉ XVIII”, Tạp chí

Nghiên cứu Châu Âu, 2016, Số: 2, tr.47-57.

6. Trần Thị Quế Châu (2016), “The Position of Moluccas in

Commercial Rivalry between Spain and Netherlands in East Asia

in Seventeenth Century”, The 4th International Conference on

"Language, Society, and culture in Asian Context, Malang,

Indonesia, tr.801-808

7. Đặng Văn Chương (chủ biên), Trần Đình Hùng, Trần Thị Quế

Châu, Lê Thị Quí Đức (2016), Chính sách "đóng cửa" và "mở

cửa" của một số quốc gia Đông Nam Á từ cuối thế kỷ XVIII đến

cuối thế kỷ XIX, Nxb TPHCM

8. Trần Thị Quế Châu (2017), “Hoạt động thương mại Philippines

thời kỳ thuộc địa Tây Ban Nha (XVI-XIX)”, Tạp chí Đại học Huế,

Tập 126, Số 6A, tr. 5-16

9. Trần Thị Quế Châu (2017), Những nhân tố tác động đến sự thay

đổi chính sách của Tây Ban Nha đối với người Hoa ở thuộc địa

Philippines từ 1767 đến 1898, Tạp chí Khoa học và giáo dục

Trường Đại học sư phạm Huế, số 3 (43), tr.100-110

Page 30: CHÍNH SÁCH “ĐÓNG CỬA” VÀ “MỞ C A TÂY BAN NHA THU A … · 2020-02-20 · bộ máy chính quyền và thâu tóm toàn bộ quan hệ đối ngoại của Philippines

10. Trần Thị Quế Châu (2018), “Chính sách của chính quyền Tây

Ban Nha đối với người Hoa ở thuộc địa Philippines (1571-

1898)”, Tạp chí Khoa học và Công nghệ Trường Đại học Khoa

học Huế, số 2, tr.83-93