Upload
others
View
0
Download
0
Embed Size (px)
Citation preview
CHƯƠNG I MÉT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ MÔI TRƯỜNG KINH DOANH
QUỐC TẾ CỦA DOANH NGHIỆP
I. XUẤT KHẨU _ LOẠI HÌNH KINH DOANH CHỦ YẾU TRONG KINH DOANH QUỐC TẾ CỦA DOANH NGHIỆP.
1.KHÁI NIỆM VÀ CÁC HÌNH THỨC KINH DOANH QUỐC TẾ.
1.1. Khái niệm kinh doanh quốc tế.
Kinh doanh quốc tế đã xuất hiện rất sớm cùng với quá trình trao đổi, mua bán hàng
hoá giữa hai hay nhiều quốc gia. Cùng với sự ra đời và phát triển của chủ nghĩa tư
bản, kinh doanh quốc tế và các hình thức kinh doanh doanh quốc tế ngày càng
được mở rộng và phát triển. Với những lợi thế của mình về vốn, công nghệ, trình
độ quản lý ... Các công ty đa quốc gia và xuyên quốc gia trên thế giới đã và đang
nâng cao vị thế và tăng thị phần của mình trong khu vực và trên thế giới nói chung.
Ngày nay, dưới sự tác động mạnh mẽ của các xu hướng vận động của nền
kinh tế thế giới, đặc biệt là sự tác động ngày càng tăng của xu thế khu vực hoá và
toàn cầu hoá đối với nền kinh tế từng quốc gia và thế giới, hoạt động kinh doanh
quốc tế và các hình thức kinh doanh quốc tế ngày càng đa dạng, phong phú và
đang trở thành một trong những nội dung cực kỳ quan trọng trong quan hệ kinh tế
quốc tế.
Kinh doanh quốc tế là một hoạt động rất hấp đẫn. Nó thể hiện sự kết hợp
chặt chẽ và tối ưu các khoa học quản lý kinh tế với các hoạt động kinh doanh, giữa
nghệ thuật kinh doanh với các yếu tố khác của từng quốc gia, quốc tế như yếu tố
luật pháp, kinh tế, văn hoá, chính trị ... Hơn nữa, hoạt động kinh doanh quốc tế
nhằm từng bước khắc phục sự suy thoái nền kinh tế của mỗi quốc gia, khai thác lợi
thế so sánh của từng quốc gia về các nguồn lực cho sự phát triển, góp phần cải
thiện đời sống nhân dân, gia tăng tiến bộ xã hội và góp phần thúc đẩy các quốc gia
tiến tới xã hội công bằng, văn minh.
Trong những điều kiện lịch sử mới, vấn đề mở cửa nền kinh tế đang trở nên
cấp bách và đang tạo cho nhiều quốc gia những cơ hội thuận lợi trong quá trình
đẩy mạnh sự phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội. Tuy nhiên, trong điều kiện này mỗi
quốc gia đang phải đứng trước những thử thách mới như phải đương đầu với cuộc
cạnh tranh gay gắt, khốc liệt hơn diễn ra trên khu vực và toàn cầu, những rủi ro
trong nền kinh tế đang là sức Ðp rất lớn đối với từng quốc gia và các doanh nghiệp
sản xuất kinh doanh.
Kinh doanh quốc tế là toàn bộ các giao dịch, kinh doanh được thực hiện
giữa các quốc gia nhằm thoả mãn các mục tiêu của các doanh nghiệp, cá nhân và
các tổ chức kinh tế xã hội. Hoạt động kinh doanh quốc tế diễn ra giữa hai hay
nhiều quốc gia và trong môi trường kinh doanh mới và xa lạ. Vì vậy, các doanh
nghiệp kinh doanh không nên lấy kinh nghiệm kinh doanh nội địa để áp đặt hoàn
toàn cho kinh doanh với nước ngoài. Muốn kinh doanh ở nước ngoài một cách hiệu
quả, trước hết phải nghiên cứu môi trường kinh doanh nơi mà doanh nghiệp muốn
thâm nhập hoạt động.
Kinh doanh quốc tế được tiến hành bởi các nhà kinh doanh tư nhân và các
doanh nghiệp Nhà nước nhằm đáp ứng các mục tiêu và mục đích của họ. Mục đích
kinh doanh của tư nhân chủ yếu là nhằm tối đa hoá lợi nhuận hoặc ổn dịnh lợi
nhuận. Vì vậy sự thành công hay thất bại của các nhà kinh doanh tư nhân trong
hoạt động kinh doanh quốc tế phụ thuộc cơ bản vào nguồn lực ở nước ngoài, vào
mức tiêu thụ hàng hoá, vào giá cả hàng hoá và khả năng cạnh tranh với các đối tác
quốc tế. Còn kinh doanh của các doanh nghiệp Nhà nước, chính phủ có nhiều mục
tiêu khác nhau như mục tiêu kinh tế, chính trị, văn hoá, ngoại giao...Do đó, kinh
doanh của các doanh nghiệp Nhà nước, chính phủ có thể hoặc không hoàn toàn
hướng tới lợi nhuận. Trên góc độ một doanh nghiệp (xí nghiệp, công ty , hãng ) mà
xét, để đạt được bất kì mục đích nào của mình, doanh nghiệp cần phải cân nhắc,
lùa chọn những hình thức kinh doanh quốc tế cho phù hợp. Sự lùa chọn hình thức
kinh doanh phù hợp phụ thuộc vào mục đích hoạt động của doanh nghiệp, vào môi
trường và thị trường mà doanh nghiệp đang hoạt động hoặc muốn thâm nhập. Các
điều kiện môi trường kinh doanh quốc tế không chỉ ảnh hưởng đến việc lùa chọn
các hình thức kinh doanh, mà còn ảnh hưởng đến các chức năng hoạt động của
doanh nghiệp như chức năng sản xuất, marketing, tài chính, kế toán... Ngược lại,
sự hoạt động của doanh nghiệp kinh doanh quốc tế cũng có những tác động nhất
định đối với môi trường nhằm hoà nhập với những thay đổi của môi trường.
1.2. Các hình thức kinh doanh quốc tế.
Khi tiến hành kinh doanh quốc tế, các doanh nghiệp phải lùa chọn các hình thức
kinh doanh phù hợp với môi trường và khả năng của mình, doanh nghiệp phải xem
xét, cân nhắc tính đến các mục đích kinh doanh, các nguồn và khả năng của mình.
Đồng thời, doanh nghiệp phải nghiên cứu đánh giá các nhân tố thuộc về môi
trường kinh doanh (môi trường bên trong, môi trường bên ngoài).
Các hình thức kinh doanh quốc tế chủ yếu gồm :
1.2.1. Xuất nhập khẩu hàng hoá.
Đây là một trong những hình thức kinh doanh chủ yếu và quan trọng nhất, nó
phản ánh quan hệ thương mại, buôn bán giữa các quốc gia trong phạm vi khu vực
và thế giới. Hình thức kinh doanh xuất nhầp khẩu thường là hoạt động kinh doanh
quốc tế cơ bản của một quốc gia, nó là chiếc chìa khoá mở ra những giao dịch kinh
tế quốc tế cho một quốc gia, tạo ra nguồn thu chi ngoại tệ chủ yếu của một nước
khi tham gia vào hoạt động kinh tế quốc tế.
Kinh doanh xuất nhập khẩu cũng chính là một hoạt động kinh doanh quốc tế
đầu tiên của một doanh nghiệp. Hoạt động này được tiếp tục ngay cả khi doanh
nghiệp đã đa dạng hoá các hoạt động kinh doanh của mình.
Kinh doanh xuất nhập khẩu thường diễn ra các hình thức sau : xuất nhập
khẩu hàng hoá hữu hình, hàng hoá vô hình (dịch vô) ; xuất nhập khẩu trực tiếp do
chính các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh hàng xuất khẩu đảm nhiệm ; xuất
nhập khẩu gián tiếp (hay uỷ thác) do các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh, tổ
chức kinh doanh trung gian đảm nhận. Gắn liền với xuất nhập khẩu hàng hoá hữu
hình ngày nay xuất nhập khẩu dịch vụ rất phát triển.
1.2.2. Hợp đồng hợp tác kinh doanh.
Cấp giấy phép : là hợp đồng thông qua đó một công ty (người cấp giấy
phép) trao quyền sử dụng những tài sản vô hình cho một công ty khác (người được
cấp giấy phép) trong một khoảng thời gian nhất định và người được cấp giấy phép
thường phải trả tiền bản quyền cho người cấp giấy phép.
Đại lý đặc quyền : là hình thức hoạt động kinh doanh mà qua đó một công
ty cho một đối tác độc lập quyền sử dụng nhãn hiệu mẫu mã và nó là một tài sản
cần thiết cho việc kinh doanh của phía đối tác và công ty vẫn tiếp tục thực hiện sự
giúp đỡ hoạt động kinh doanh của các đối tác Êy và công ty cũng nhận được một
khoản tiền từ đối tác Êy.
Hợp đồng quản lý : là những hợp đồng thông qua đó một công ty thực hiện
việc giúp đỡ một công ty khác bằng việc cung cấp những nhân viên quản lý nhằm
hỗ trợ thực hiện những chức năng quản lý tổng quát hoặc chuyên môn sâu trong
một khoảng thời gian đặc biệt để thu được một khoản tiền thù lao nhất định từ sự
giúp đỡ đó.
Hợp đồng theo đơn đặt hàng : Đây là hợp đồng thường diễn ra đối với các
dự án lớn và các sản phẩm gồm nhiều chi tiết, bộ phận phức tạp đến mức mà một
công ty (hay doanh nghiệp) duy nhất khó có thể thực hiện được.
Hợp đồng xây dựng và chuyển giao : Hợp đồng này thường áp dụng đối
với các doanh nghiệp xây dựng. Dự án xây dựng và chuyển giao liên quan với một
hợp đồng nhằm xây dựng những tiện nghi hoạt động, sau đó chuyển giao cho
người chủ để thu được một khoản tiền thù lao khi những công trình này sẵn sàng đi
vào hoạt động. Các doanh nghiệp thực hiện các hợp đồng xây dựng và chuyển giao
thường là những nhà sản xuất các thiết bị công nghiệp và họ sẽ cung cấp một thiết
bị của mình cho dù án. Những doanh nghiệp này chủ yếu là những doanh nghiệp
xây dựng, ngoài ra cũng có thể là những doanh nghiệp tư vấn, nhà sản xuất. Khách
hàng của những dự án xây dựng và chuyển giao này thường là một cơ quan Nhà
nước họ ra sắc lệnh buộc một sản phẩm nhất định nào đó phải được sản xuất ở địa
phương và dưới sự bảo trợ của họ.
Đầu tư nước ngoài :
Đầu tư nước ngoài là một quá trình trong đó hai hay nhiều bên có quốc tịch
khác nhau cùng nhau góp vốn để xây dựng và triển khai một dự án đầu tư nào đó
nhằm mang lại lợi Ých cho tất cả các bên. Nói cách khác, đầu tư nước ngoài là quá
trình di chuyển vốn giữa các quốc gia nhằm tìm kiếm lợi Ých thông qua các hoạt
động sử dụng vốn ở nước ngoài.
Đầu tư trực tiếp là một bộ phận của đầu tư nước ngoài, nó được thực hiện
khi sự điều khiển, quản lý gắn liền với quá trình đầu tư, tức gắn quyền sở hữu và
quyền sử dụng vốn của người đầu tư với nhau.
Đây là hình thức cao nhất của kinh doanh quốc tế. Đầu tư trực tiếp có những
đặc điểm chủ yếu sau.
Chủ đầu tư có quyền điều khiển, quản lý đối với tài sản đầu tư.
Là hình thức chuyển giao lớn về vốn, công nghệ, nhân lực và trình độ quản
lý, vì chủ yếu do các doanh nghiệp và cá nhân thực hiện.
Đưa các doanh nghiệp vươn tới thị trường nước ngoài.
Tiêu thụ sản phẩm trực tiếp ở nước ngoài lớn hơn xuất khẩu.
Chủ đầu tư có thế sở hữu toàn bộ hay một bộ phận tài sản đầu tư...
Hoạt động kinh doanh quốc tế thông qua đầu tư trực tiếp chính là việc thành
lập các công ty liên doanh (liên doanh công ty với công ty hoặc chính phủ với công
ty) hoặc thành lập ra các chi nhánh sở hữu hoàn toàn theo luật đầu tư nước ngoài
tại Việt Nam gọi là xí nghiệp 100% vốn nước ngoài.
Cùng với đầu tư trực tiếp, đầu tư gián tiếp có vai trò cực kỳ quan trọng đối
với các quốc gia và hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp có yếu tố quốc tế. Đầu
tư gián tiếp cũng là một loại hình đầu tư nước ngoài mà quyền sở hữu tách rời
quyền sử dụng vốn (hay tài sản) đầu tư. Người có vốn không trực tiếp tham gia vào
việc tổ chức, quản lý điều hành dự án đầu tư, họ thu lợi dưới hình thức lợi tức cho
vay hoặc lợi tức cổ phần.
Các doanh nghiệp và tư nhân tiến hành đầu tư gián tiếp thông qua hình thức
mua cổ phiếu, trái phiếu ở thị trường chứng khoán. Đầu tư gián tiếp đóng vai trò
quan trọng và không thể thiếu được đối với các hoạt động của doanh nghiệp, nhằm
mở rộng và phát triển các hình thức và hoạt động kinh doanh quốc tế.
Tuỳ thuộc vào môi trường kinh doanh cụ thể, căn cứ vào mục đích và khả
năng sẵn có của mình mà doanh nghiệp đưa ra các quyết định lùa chọn đúng đắn
các hình thức kinh doanh và khẳng định hình thức kinh doanh nào là thích hợp và
là chủ yếu nhằm đạt được hiệu quả cao trong hoạt động của họ.
2. XUẤT KHẨU - VAI TRÒ CỦA HOẠT ĐỘNG XUẤT KHẨU.
2.1. Khái niệm về xuất khẩu.
Xuất khẩu là quá trình tổ chức đưa hàng hoá và dịch vụ ra nước ngoài. Hoạt động
xuất khẩu là nguồn chính tăng thu ngoại tệ phục vụ cho nhập khẩu và sản xuất kinh
doanh, ngoài ra còn phục vụ cho mục đích chi tiêu khác mang tính chất quốc tế.
Hoạt động xuất khẩu là hoạt dộng giao dịch buôn bán giữa các bên có quốc
tịch khác nhau. Thị trường của nó vô cùng lớn, phương thức thanh toán rất đa
dạng, đồng tiền thanh toán là ngoại tệ mà chủ yếu là ngoại tệ mạnh... Mỗi quốc gia
khác nhau lại có những tập quán buôn bán khác nhau và có luật xuất nhập khẩu
không giống nhau ...
Hoạt động xuất khẩu là hình thức quan trọng của kinh doanh quốc tế đã xuất
hiện từ lâu và ngày càng phát triển. Tuy hình thức cơ bản là trao đổi hàng hoá, dịch
vụ giữa các nước nhưng hiện nay nó đã biểu hiện dưới các hình thức khác nhau.
Hoạt động xuất khẩu diễn ra trên mọi lĩnh vực, mọi loại hình kinh tế và hàng hoá
thì rất da dạng từ hàng hoá tiêu dùng đến những hàng hoá có kỹ thuật cao.
2.2. Vai trò của hoạt động xuất khẩu.
Là mét trong những nội dung cơ bản của hoạt động kinh doanh đối ngoại, xuất
khẩu trở thành phương tiện thúc đẩy phát triển kinh tế. Sự tăng trưởng kinh tế đòi
hỏi rất nhiều điều kiện, những điều kiện chủ yếu có thể là : nhân lực, tài nguyên,
vốn, kỹ thuật. Song hầu hết các nước đang phát triển đều thiếu vốn, kỹ thuật và
thừa lao động. Những yếu tố cơ bản này chưa đáp ứng được thì buộc phải nhập từ
bên ngoài, nhưng điều quan trọng là phải có ngoại tệ.
Trong điều kiện nền kinh tế nhỏ, công nghệ lạc hậu thì xuất khẩu chỉ trông
chờ vào những sản phẩm sẵn có trong nước, chủ yếu là những mặt hàng nông lâm
hải sản, những mặt hàng thủ công mỹ nghệ, các đặc sản và các khoáng sản. Với
điều kiện như vậy xuất khẩu những mặt hàng sẵn có trong nước là điều kiện cần
thiết để có thể thu ngoại tệ.
Thực tiễn đã cho thấy xuất khẩu là một trong những mòi nhọn có ý nghĩa
quyết định tới quá trình phát triển kinh tế của một nước, điều đó được thể hiện;
Xuất khẩu tạo ra vốn chủ yếu cho nhập khẩu để phục vụ công nghiệp hoá,
hiện đại hoá đất nước. Công nghiệp hoá với những bước đi phù hợp là con đường
tất yếu để khắc phục tình trạng nghèo nàn lạc hậu. Tuy nhiên công nghiệp hoá,
hiện đại hoá đất nước đòi hỏi phải có tiềm lực lớn, vốn lớn để nhập khẩu những
máy móc thiết bị, công nghệ kỹ thuật tiên tiến.
Nguồn vốn nhập khẩu có thể huy động từ các hình thức như :
Đầu tư nước ngoài.
Vay nợ, viện trợ.
Thu từ xuất khẩu.
Các nguồn vốn đầu tư nước ngoài, vay nợ, viện trợ... tuy quan trọng nhưng
cũng phải trả dù bằng cách này hay cách khác. Nguồn vốn quan trọng nhất và cơ
bản nhất chỉ có thể trông chờ vào xuất khẩu. Ở các nước kém phát triển một trong
những nguyên nhân chủ yếu là thiếu tiềm lực về vốn. Trong khi đó nguồn vay nước
ngoài thường không ổn định, chỉ tăng lên khi nước chủ nhà có những chính sách
ưu đãi khác hoặc có mối quan hệ chặt chẽ ...
Xuất khẩu đóng góp vào quá trình chuyển dịch kinh tế, thúc đẩy sản xuất
phát triển. Cơ cấu kinh tế trên thế giới đã và đang có những thay đổi mạnh mẽ, đó
là thành quả của cuộc cách mạng khoa học hiện đại. Sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế
trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá phù hợp với xu hướng phát triển của
nền kinh tế thế giới là tất yếu của các quốc gia đang phát triển và kém phát triển.
Có hai cách nhìn nhận về tác động của xuất khẩu đối với sản xuất và chuyển
dịch cơ cấu kinh tế :
Mét là : Xuất khẩu chỉ là việc tiêu thụ các sản phẩm thừa do sản xuất vượt
quá nhu cầu nội địa. Trong trường hợp nền kinh tế còn lạc hậu và chậm phát triển,
sản xuất về cơ bản vẫn chưa đủ tiêu dùng, nếu chỉ thụ động chờ ở sự thừa ra của
sản xuất thì xuất khẩu chỉ ở quy mô nhỏ và tăng trưởng chậm.
Hai là : Coi thị trường thế giới là hướng quan trọng để tổ chức sản xuất.
Quan điểm này tác động tích cực đến sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế, thúc đẩy sản
xuất phát triển, nó được thể hiện ở :
Xuất khẩu tạo điều kiện cho các ngành cùng có cơ hội phát triển. Chẳng
hạn khi phát triển ngành dệt xuất khẩu thì các ngành như chế biến nguyên liệu
bông, ngành may mặc ... còng có cơ hội phát triển.
Xuất khẩu tạo điều kiện mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm, góp phần ổn
định sản xuất.
Xuất khẩu là phương tiện cơ bản để tạo vốn, thu hót kỹ thuật, công nghệ
mới từ nước phát triển nhằm hiện đại hoá nền kinh tế nội địa, tạo năng lực sản xuất
mới.
Với đặc điểm của đồng tiền thanh toán là ngoại tệ với một hoặc cả hai bên,
xuất khẩu làm tăng dự trữ ngoại tệ cho quốc gia. Đặc biệt đối với nước nghèo đồng
tiền có giá trị thấp thì đó là nhân tố có tác động rất tích cực tới cung cầu ngoại tệ
tạo điều kiện cho sản xuất trong nước phát triển. Đồng thời nó cũng là nhân tố
quyết định tới sự tăng trưởng và phát triển nền kinh tế. Thực tế cho thấy những
nước phát triển là những nước có nền ngoại thương mạnh và năng động.
Xuất khẩu tác động trực tiếp tới việc giải quyết công ăn việc làm và cải
thiện đời sống nhân dân :
Tác động của xuất khẩu ảnh hưởng rất nhiều đến lĩnh vực của cuộc sống. Sản
xuất hàng xuất khẩu sẽ thu hót được hàng triệu lao động, tạo ra thu nhập ổn định.
Xuất khẩu còn tạo ra nguồn vốn để nhập khẩu vật phẩm tiêu dùng thiết yếu để
phục vụ đời sống, đáp ứng nhu cầu ngày càng phong phú hơn trong tiêu dùng của
nhân dân.
Xuất khẩu là cơ sở để mở rộng và thúc đẩy quan hệ kinh tế quốc tế của mỗi
quốc gia. Đồng thời nó cũng là yếu tố quan trọng thúc đẩy hội nhập vào nền kinh
tế khu vực và trên thế giới.
II. MÔI TRƯỜNG KINH DOANH QUỐC TẾ CỦA DOANH NGHIỆP VÀ NHỮNG NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN MÔI TRƯỜNG KINH DOANH CỦA DOANH NGHIỆP.
1. MÔI TRƯỜNG KINH DOANH QUỐC TẾ CỦA DOANH NGHIỆP.
ôi trường kinh doanh quốc tế là tổng thể các môi trường thành phần trong
và ngoài nước như môi trường kinh tế, chính trị, pháp luật, văn hoá, địa
lý, lịch sử, cạnh tranh, tài chính ... chóng tác động và chi phối mạnh mẽ đến những
hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, buộc các doanh nghiệp phải tự điều chỉnh
các mục đích, các hình thức hoạt động, các hoạt động chức năng của mình cho
thích ứng nhằm nắm bắt được cơ hội kinh doanh và đạt hiệu quả cao trong kinh
doanh.
M
Môi trường kinh doanh quốc tế với tư cách là một chỉnh thể thống nhất,
trong đó các môi trường thành phần là những bộ phận không tách rời, giữa chúng
có những tác động qua lại lẫn nhau. Môi trường kinh doanh là toàn bộ những điều
kiện bên trong và bên ngoài nước có ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh của
doanh nghiệp, chi phốii đến kết qủa kinh doanh của nó, tức là chi phối đến sự
thành công hay thất bại của doanh nghiệp trong kinh doanh. Chính vì vậy khi tiến
hành hoạt động kinh doanh doanh nghiệp cần phải có những kiến thức cơ bản về
địa lý, lịch sử, chính trị, kinh tế, văn hoá, pháp luật ... Từ đó, tuỳ thuộc vào môi
trường kinh doanh cụ thể doanh nghiệp tự điều chỉnh các hoạt động chức năng,
biện pháp và hình thức hoạt động của chính mình sao cho phù hợp với môi trường
ở đó doanh nghiệp đang hoạt động để tăng cơ hội, giảm thách thức, đạt hiệu quả
cao trong kinh doanh. Khi xem xét, phân tích môi trường kinh doanh các nhà kinh
doanh cần phải thống nhất một số quan điểm sau:
Thứ nhất, môi trường kinh doanh không phải là cố định mà luôn biến đổi.
Vì vậy, khi phân tích đáng giá môi trường kinh doanh đòi hỏi phải đứng trên quan
điểm động, phải tìm hiểu và nắm bắt những thông tin thường xuyên và kịp thời để
có những hoạt động thích ứng, phù hợp. Một nhà kinh doanh cần phải dự đoán
được những sự thay đổi của môi trường kinh doanh trong tương lai.
Thứ hai, môi trường kinh doanh là sự đan xen của các môi trường thành
phần, các môi trường thành phần có tác động ảnh hưởng lẫn nhau. Phân tích đánh
giá môi trường phải xem xét đánh giá một cách tổng thể trong mối tương quan giữa
các môi trường thành phần.
Thứ ba, ngày nay các doanh nghiệp không chỉ kinh doanh trong nước hoặc
một số nước mà kinh doanh ở rất nhiều nước. Và cùng với xu thế hội nhập hoá thì
các doanh nghiệp cần phải đánh giá phân tích môi trường kinh doanh cả môi
trường trong nước và môi trường kinh doanh quốc tế nói chung. Khác với hoạt
động kinh doanh trong nước, hoạt động kinh doanh quốc tế buộc các nhà quản lý,
các doanh nghiệp phải làm việc trong môi trường kinh doanh mới và phức tạp hơn.
Sự khác nhau giữa các nước về địa lý, lịch sử, văn hoá, kinh tế, chính trị, luật pháp
là những nhân tố chủ yếu làm cho môi trường kinh doanh giữa các nước khác
nhau.
Quan hệ giữa mục đích kinh doanh, hình thức kinh doanh, hoạt động chức
năng và các nhân tố thuộc về môi trường kinh doanh của doanh nghiệp được thể
hiện qua sơ đồ sau.
Sơ đồ 01:KDQT- Hoạt động và ảnh hưởng KDQT- Ho¹t ®éng vµ
¶nh hëng
ẢNH HƯỞNG
HOẠT ĐỘNG
Môc tiªu - Ph¸t triÓn viÖc b¸n hµng- §¹t ®îc nguån lùc- §a d¹ng ho¸
m«i trêng bªn ngoµi
- §Þa lý - LÞch sö - ChÝnh trÞ- Kinh tÕ - V¨n ho¸- LuËt ph¸p
ph¬ng tiÖn ho¹t ®éng - NhËp khÈu - XuÊt khÈu Chøc n¨ng - VËn chuyÓn - S¶n xuÊt - CÊp giÊy phÐp kinh doanh - TiÕp thÞ- Hîp ®ång qu¶n lý - KÕ to¸n - X©y dùng vµ chuyÓn giao - Tµi chÝnh- §Çu t trùc tiÕp -
m«i trêng c¹nh tranh
- Tèc ®é thay ®æi s¶n phÈm - Qui m« s¶n xuÊt tèi u- Sè lîng ngêi tiªu dïng- Sè lîng hµng ho¸ ®îc mua bëi mçi kh¸ch hµng- TÝnh ®ång nhÊt gi÷a c¸c kh¸ch hµng- Sù c¹nh tranh gi÷a ngêi trong níc vµ ngêi ngoµi níc- Chi phÝ vËn chuyÓn s¶n phÈm
Đứng trên các giác độ khác nhau người ta chia môi trường kinh doanh quốc tế
thành các môi trường thành phần khác nhau. Nếu nhìn vào sơ đồ trên thì ta có thể
chia môi trường kinh doanh quốc tế thành hai môi trường chủ yếu : Môi trường bên
ngoài va môi trường cạnh tranh.
a. Môi trường bên ngoài :
Môi trường bên ngoài là tổng thể các điều kiện bên ngoài của doanh nghiệp mà nó
ảnh hưởng đến sự thành công trong doanh nghiệp của họ. Vì lý do đó những hoạt
động kinh doanh quốc tế diễn ra trong khung cảnh lớn của môi trường quốc tế,
những nhà quản lý của họ phải có những kiến thức thực tế về những khoa học xã
hội cơ bản bao gồm : Địa lý, lịch sử, chính trị, kinh tế, pháp lý, văn hoá...
Kiến thức về địa lý là rất quan trọng vì nó giúp cho các nhà quản lý xác
định vị trí, số lượng, chất lượng nguồn tài nguyên của thế giới và khả năng khai
thác của doanh nghiệp. Do sự mất cân đối trong việc phân phối các nguồn tài
nguyên nên việc sản xuất các sản phẩm và dịch vụ khác nhau phải được thực hiện
ở các nơi khác nhau trên thế giới.
Hiểu biết tốt về kiến thức lịch sử cho phép các nhà quản lý có được những
ghi phép hệ thống và các việc đánh giá các ý tưởng, các thể chế. Xem lại quá khứ
các nhà kinh doanh quốc tế sẽ hiểu rõ hơn các chức năng của hoạt động kinh doanh
ở nước ngoài trong hiện tại. Như vậy lịch sử chính là sự tích luỹ những kinh
nghiệm của con người, nó xác định cách sống hôm nay của chúng ta. Quá trình
phát triển của kỹ thuật và tục lệ đã mở rộng phạm vi hoạt động kinh doanh.
Kiến thức chính trị đang và sẽ đóng một vai trò quan trọng đối với việc
định hướng kinh doanh toàn cầu. Khoa học chính trị mô tả mối quan hệ giữa các tổ
chức kinh doanh và chính trị quốc gia. Nó cũng giúp giải thích những mẫu hình về
cách cư xử của Chính phủ với các công ty kinh doanh trong những lĩnh vực mà lợi
Ých có thể mâu thuẫn. Sự lãnh đạo chính trị ở mọi quốc gia xem xét đến việc cho
phép các doanh nghiệp quốc tế hoạt động hay không ? và nếu có thì hoạt động thế
nào ?...
Luật pháp trong nước và quốc tế xác định cái mà nhà quản lý công ty được
hay không được làm :
Ảnh hưởng của các công ty quốc tế đối với nền kinh tế của nước mà công
ty hoạt động và nước mình.
Hệ quả của chính sách kinh tế của một nước đối với công ty kinh doanh
quốc tế. Lý thuyết kinh tế cũng giải thích lý do một nước lại trao đổi sản phẩm và
dịch vụ đối với nước khác. Lý do sự chuyển vốn và nhân lực từ nước này sang
nước khác trong lúc hoạt động kinh doanh đang diễn ra. Tại sao đồng tiền của một
nước lại có mức giá nào đó so với đồng tiền của nước khác. Kinh tế học cung cấp
cho chóng ta một cái nền tảng để hiểu tại sao, ở đâu và khi nào một quốc gia có thể
sản xuất sản phẩm hoặc dịch vụ rẻ hơn một nước khác.
Qua nghiên cứu về văn hoá, các nhà quản lý hiểu rõ hơn giá trị, thái độ và
niềm tin của con người liên hệ đến họ và mục tiêu của họ. Như vậy sẽ cải thiện
được khả năng của các nhà quản lý trong khi hoạt động ở các xã hội khác nhau, am
hiểu về truyền thống văn hoá của các quốc gia khác nhau để có những chính sách
sản phẩm cho phù hợp...
b. Môi trường cạnh tranh.
Mỗi doanh nghiệp và mỗi ngành công nghiệp đều có môi trường cạnh tranh khác
nhau, nó có thể biến động rất nhiều từ nước này sang nước khác. Hệ qủa là một số
doanh nghiệp có thể tận dụng những cơ hội ở nước ngoài tốt hơn những doanh
nghiệp khác và một vài doanh nghiệp gặp phải vấn đề cạnh tranh quốc tế lớn hơn
rất nhiều so với những doanh nghiệp chỉ hoạt động ở thị trường nội địa. Những
dạng thích hợp nhất cho cơ hội kinh doanh quốc tế như hoạt động xuất khẩu nó có
thể rất khác nhau giữa các doanh nghiệp và sản phẩm, cũng như giữa các quốc gia
diễn ra việc kinh doanh ở nước ngoài.
2. CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN MÔI TRƯỜNG KINH DOANH QUỐC TẾ CỦA
DOANH NGHIỆP.
2.1. Các nhân tố bên ngoài.
2.1.1. Nhân tố luật pháp.
Mét trong những bộ phận của môi trường bên ngoài ảnh hưởng đến hoạt động kinh
doanh quốc tế của doanh nghiệp đó là hệ thống luật pháp. Vì vậy, hoạt động kinh
doanh quốc tế đòi hỏi nhà quản lý phải quan tâm và nắm vững luật pháp : Luật
quốc tế và luật của từng quốc gia mà doanh nghiệp đang và sẽ hoạt động, cũng như
mối quan hệ luật pháp tồn tại giữa các nước này cũng như giữa các nước trong khu
vực khác nhau. Luật quốc tế và luật của từng quốc gia cũng ảnh hưởng trực tiếp
đến tình hình và kết quả hoạt động của doanh nghiệp. Nói cách khác, luật pháp qui
định và cho phép các lĩnh vực, những hoạt động và những hình thức kinh doanh
nào mà doanh nghiệp có thể thực hiện kinh doanh và những lĩnh vực nào, những
hoạt động nào, những hình thức nào, những mặt hàng nào doanh nghiệp không
được phép tiến hành hoặc được phép tiến hành nhưng có hạn chế ở quốc gia đó hay
cũng như khu vực đó nói chung.
Mỗi một quốc gia có một hệ thống luật pháp riêng để điều chỉnh các hoạt
động kinh doanh quốc tế, nó gồm luật thương mại (luật xuất nhập khẩu hàng hoá,
dịch vô ...), luật đầu tư nước ngoài, luật thuế, pháp luật ngân hàng ... Giữa các
nước thường tiến hành kí kết các hiệp định, hiệp ước và dần hình thành nên luật
khu vực và luật quốc tế. Thực tế thế giới trong những năm qua đã chỉ ra rằng sự
xuất hiện của các liên minh kinh tế, liên minh chính trị, liên minh thuế quan... đã
xuất hiện những thoả thuận mới, có tính chất song phương hoặc đa phương, tạo
điều kiện thuận lợi hơn cho kinh doanh buôn bán trong khu vực và trên thế giới. Vì
vậy, có thể khẳng định rằng chỉ trên cơ sở nắm chắc hệ thống luật pháp của từng
quốc gia và các hiệp định giữa các nước mới cho phép doanh nghiệp đưa ra những
quyết định đúng đắn trong việc lùa chọn quốc gia, khu vực kinh doanh, hình thức
kinh doanh, mặt hàng kinh doanh ... chủ yếu nhằm tăng lợi nhuận và hạn chế rủi
ro.
Pháp luật của một quốc gia cũng có liên hệ và ảnh hưởng đến tình hình kinh
doanh giữa các nước với nhau. Trong điều kiện này buộc các quốc gia phải điều
chỉnh hoạt động của mình cho thích ứng, các doanh nghiệp phải phản ứng linh hoạt
để đáp ứng nhanh với những qui định mới về luật ở các quốc gia mà mình đang
hoạt động ở đó.
2.1.2. Nhân tố chính trị.
Nhân tố chính trị đã và sẽ tiếp tục đóng vai trò quan trọng trong kinh doanh, đặc
biệt đối với hoạt động kinh doanh quốc tế. Tính ổn định về chính trị của các quốc
gia sẽ là một trong những nhân tố thuận lợi cho các doanh nghiệp hoạt động trong
môi trường nước ngoài. Không có sự ổn định về chính trị thì sẽ không có điều kiện
để ổn định để phát triển kinh tế, lành mạnh hoá xã hội. Chính vì vậy, khi tham gia
kinh doanh trên thị trường thế giới, doanh nghiệp phải am hiểu môi trường chính trị
ở các quốc gia, ở các nước trong khu vực mà doanh nghiệp muốn hoạt động. Sự ổn
định chính trị được biểu hiện ở chỗ : thể chế, quan điểm chính trị có được đa số
nhân dân đồng tình hay không, hệ thống chính trị, đặc biệt là đảng cầm quyền có
đủ uy tín và độ tin cậy đối với nhân dân và các doanh nghiệp, công ty ở trong và
ngoài nước hay không...
2.1.3. Nhân tố kinh tế.
Hoạt động trong môi trường kinh doanh quốc tế, các doanh nghiệp buộc phải có
những kiến thức nhất định về kinh tế. Các kiến thức về kinh tế sẽ giúp các nhà
quản lý, kinh doanh xác định được : mét mặt, những ảnh hưởng của doanh nghiệp
đổi với nền kinh tế nước chủ nhà và nước sở tại ; mặt khác, cũng thấy được ảnh
hưởng của những chính sách kinh tế của một quốc gia đối với hoạt động của doanh
nghiệp.
Tính ổn định hay bất ổn định về kinh tế và chính sách kinh tế của một quốc
gia nói riêng, của các quốc gia trong khu vực và trên thế giới nói chung có tác động
trực tiếp đến hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp trên thị trường nước ngoài.
Tính ổn định về kinh tế trước hết và chủ yếu là ổn định nền tài chính quốc gia, ổn
định tiền tệ, khống chế lạm phát. Đây là các vấn đề mà các doanh nghiệp rất quan
tâm và ái ngại vì nó liên quan trực tiếp đến kết quả hoạt động kinh doanh của
doanh nghiệp ở nước ngoài.
Nhân tố cơ bản tác động đến sự hoạt động của kinh tế thị trường là quyền
tối cao của khách hàng. Theo P. Samuelson đấy là một “ông vua”, quyền tối cao
của khách hàng là quyền tự do của người tiêu dùng, nó tác động đến sản xuất thông
qua sự lùa chọn của họ.
2.1.4. Nhân tố văn hoá.
Việc buôn bán, kinh doanh của doanh nghiệp đều được điều chỉnh bởi con người.
Vì vậy, doanh nghiệp phải cân nhắc sự khác nhau giữa những nhóm dân téc và xã
hội để dự đoán, điều hành các mối quan hệ và hoạt động của mình. Sự khác nhau
về con người đã làm gia tăng những hoạt động kinh doanh khác nhau ở nhiều quốc
gia trên thế giới. Điều đó buộc các nhà quản lý, các nhà kinh doanh phải có sự am
hiểu về văn hoá của nước sở tại, văn hoá của từng khu vực trên thế giới.
Văn hoá được hiểu như một tổng thể phức tạp, bao gồm ngôn ngữ, niềm tin,
nghệ thuật, đạo đức, luật pháp, phong tục và tất cả các khả năng khác mà con
người có được. Văn hoá qui định hành vi của mỗi con người, thông qua mối quan
hệ giữa người với người trong tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội.
Do có sự khác nhau về nền văn hoá đang tồn tại giữa các quốc gia, cho nên
các nhà kinh doanh phải sớm có những quyết định có hay không tham gia kinh
doanh ở môi trường đó. Điều này trong một chõng mực nào đó tuỳ thuộc vào sự
chấp nhận của doanh nghiệp đối với môi trường văn hoá nước ngoài. Nhân tố văn
hoá nổi bật nhất là tập quán, lối sống, tôn giáo và ngôn ngữ. Các nhân tố này được
coi là “hàng rào chắn” các hoạt động giao dịch kinh doanh. Mỗi quốc gia, thậm chí
trong từng vùng quốc gia, các dân téc khác nhau có tập quán (sản xuất, tiêu dùng,
kinh doanh, giao tiếp...), lối sống và ngôn ngữ riêng, do đó các nhà kinh doanh cần
phải biết rõ và hành động cho phù hợp với từng hoàn cảnh của môi trường mới...
Thị hiếu tập quán của người tiêu dùng còn ảnh hưởng đến nhu cầu, vì mặc
dù hàng hoá có chất lượng tốt nhưng nếu không được người tiêu dùng ưa chuộng
thì cũng khó được họ chấp nhận. Vì vậy, nếu nắm bắt được thị hiếu, tập quán của
người tiêu dùng thì doanh nghiệp kinh doanh có thể mở rộng khối lượng cầu một
cách nhanh chóng. Chính thị hiếu và tập quán của người tiêu dùng mang đặc điểm
riêng của từng vùng, từng châu lục, từng dân téc và chịu ảnh hưởng của các yếu tố
văn hoá, lịch sử, tôn giáo.
Ngôn ngữ cũng là một yếu tố quan trọng trong nền văn hoá của từng quốc
gia. Nã cung cấp cho các nhà quản lý kinh doanh một phương tiện quan trọng để
giao tiếp trong quá trình kinh doanh quốc tế. Đối với một công ty kinh doanh quốc
tế, hoạt động kinh doanh muốn mở rộng, trước hết đòi hỏi phải hiểu được ngôn
ngữ.
Tôn giáo cũng có liên quan và ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động hàng ngày
của các cá nhân và các tổ chức trong xã hội. Bởi vậy, các doanh nghiệp kinh doanh
quốc tế cần phải hiểu biết các loại tôn giáo và vai trò của chúng trong xã hội, nơi
mà doanh nghiệp tổ chức các hoạt động kinh doanh. Tôn giáo có thể ảnh hưởng
đến hoạt động hàng ngày của con người và do đó ảnh hưởng đến hoạt động kinh
doanh. Chẳng hạn : ngày nghỉ, kỳ nghỉ, lễ kỷ niệm...
2.1.5. Nhân tố địa lý.
Mỗi một nước khác nhau có vị trí địa lý khác nhau, mỗi nước hay mỗi khu vực có
vị trí địa lý thuận lợi về mặt này hay mặt khác. Tuy nhiên cũng có nước có vị trí
đặc biệt thuận lợi, chẳng hạn như Singapore. Song hầu như mỗi nước chỉ có một số
mặt lợi thế nào đó. Chính vì vị trí địa lý khác nhau cho nên dẫn đến có lợi thế tuyệt
đối, lợi thế tương đối giữa các quốc gia, các khu vực trên toàn thế giới. Lợi thế về
vị trí địa lý có thể là địa tô chênh lệch, sự giàu có hay nghèo nàn về tài nguyên
thiên nhiên, điều kiện khí hậu, sự ảnh hưởng của thiên tai... Bởi vậy, khi tham gia
hoạt động kinh doanh quốc tế các nhà quản lý phải nắm chắc được vị trí địa lý của
từng nước, từng khu vực mà mình đang và sẽ hoạt động, phải phân tích được
nguồn tài nguyên, sự khai thác cùng với khả năng khai thác của từng nước và từng
khu vực. Từ đó có những chính sách sản phẩm, hình thức kinh doanh phù hợp với
từng khu vực địa lý.
2.1.6. Nhân tố lịch sử.
Lịch sử là quá khứ, nhưng “ nếu ai vội quên đi quá khứ thì người đó sẽ phải chấp
nhận quá khứ một lần nữa”. Lịch sử của mỗi quốc gia khác nhau là không giống
nhau, lịch sử là sự tích luỹ những kinh nghiệm của con người, xem xét lịch sử sẽ
biết được các ý tưởng kinh doanh, triết lý kinh doanh, thãi quen, tục lệ, sự trung
thực hay không trung thực trong kinh doanh ... để từ đó lùa chọn được các quốc gia
mà doanh nghiệp có thể kinh doanh, đặt mối quan hệ lâu dài hay tạm thời...
2.2. Các nhân tố thuộc về môi trường cạnh tranh.
Sự khác nhau truyền thống giữa kinh doanh nội địa và kinh doanh quốc tế là ở chỗ
kinh doanh quốc tế thường có khoảng cách địa lý lớn hơn, xa hơn. Điều đó làm cho
công ty kinh doanh quốc tế luôn gặp phải khó khăn hơn, vì họ phải chi phí nhiều
hơn cho hoạt động, khó khăn trong việc mở rộng các hình thức kinh doanh của
công ty. Tuy nhiên, ngày nay do sự phát triển nhanh chóng và hiện đại của thông
tin và giao thông vận tải đã làm cho những khó khăn về khoảng cách và địa lý bị
giảm dần.
Sù phát triển mạnh mẽ của khoa học và công nghệ đã góp phần làm tăng
khả năng cạnh tranh của một công ty. Sù can thiệp và giúp đỡ nhiều hay Ýt của
chính phủ trong chõng mực nhất định đã thúc đẩy hay cản trở hoạt động kinh
doanh, đồng thời cũng thúc đẩy hay kìm hãm việc áp dụng những thành tựu của
cách mạng khoa học và công nghệ ở doanh nghiệp. Việc áp dụng có hiệu quả
những thành tựu của khoa học, công nghệ tiên tiến sẽ góp phần giúp doanh nghiệp
giảm bớt những rủi ro trong các hoạt động kinh doanh quốc tế. Ngày nay, với bối
cảnh của nền kinh tế thế giới, cạnh tranh quốc tế đang tiếp tục mở rộng và phát
triển. Trong điều kiện này, nhiều công ty có khả năng nắm bắt nhanh được những
cơ hội kinh doanh ở nước ngoài hơn trước đây. Sự tác động mạnh mẽ của những
xu hưởng vận động chủ yếu của nền kinh tế thế giới đã và đang thúc đẩy hầu hết
các công ty lớn của nhiều quốc gia tham gia mạnh mẽ vào hoạt động kinh doanh
quốc tế. Điều đó được giải thích bởi các lý do sau đây :
Các sản phẩm mới đang được quốc tế hoá một cách nhanh chóng.
Các công ty kinh doanh trong nước cũng buộc phải đối đầu với các nhà
kinh doanh quốc tế.
Các công ty có thể tiến hành sản xuất kinh doanh các sản phẩm của họ ở
nhiều nước khác nhau.
Trong nền kinh tế thị trường, công cụ được các công ty và các nhà kinh
doanh sử dụng rộng rãi trong phân tích môi trường cạnh tranh là mô hình của
Micheal Porter. Theo ông môi trường cạnh tranh được hình thành bởi những nhân
tố chủ yếu mà ông gọi là 5 lực lượng cạnh tranh trên thị trường cạnh tranh. Bất kỳ
doanh nghiệp công nghiệp nào cũng phải tính toán cân nhắc tới trước khi có những
quyết định lùa chọn phương hướng, nhiệm vụ phát triển của mình. 5 lực lượng
cạnh tranh cơ bản đó là:
Sơ đồ 02 : Mô hình 5 sức mạnh của Micheal Porter
Sức
Ðp
của
n
hà
cung
ứn
g
Sức
Ðp
của
các
doan
h ng
hiệ
p hi
ện
tại
Sức
Ðp
của
ngườ
i tiê
u dù
ng
Năm lực lượng cạnh này tồn tại trong một thể thống nhất tạo thành môi trường
cạnh tranh, quyết định tính chất, qui mô của cạnh tranh và khả năng thu lợi nhuận
của các doanh nghiệp.
Sức Ðp của các đối thủ cạnh tranh hiện tại.
Cạnh tranh giữa các doanh nghiệp hiện có trên thị trường là một trong những
yếu tố phản ánh bản chất của môi trường này. Sự có mặt của các đối thủ cạnh tranh
chính trên thị trường và tình hình hoạt động của chúng là lực lượng tác động trực
tiếp mạnh mẽ, tức thì tới quá trình hoạt động của các doanh nghiệp. Mỗi thị trường
bao gồm rất nhiều các doanh nghiệp khác nhau, nhưng thường trong đó chỉ một số
đóng vai trò chủ chốt như những đối thủ cạnh tranh chính có khả năng chi phối,
khống chế thị trường. Nhiệm vụ của mỗi doanh nghiệp là tìm kiếm thông tin, phân
tích đánh giá chính xác khả năng của những đối thủ cạnh tranh thích hợp với hoàn
cảnh môi trường chung. Mức độ, qui mô cạnh tranh giữa các doanh nghiệp đang
hoạt động phụ thuộc vào:
Trình độ tập trung hoá sản xuất kinh doanh.
Sè lượng đối thủ cạnh tranh.
Dung lượng thị trường và năng lực sản xuất.
Sù đe doạ của các đối thủ canh tranh tiềm Èn sẽ nhảy vào thị trường.
Những doanh nghiệp mới tham gia thị trường trực tiếp làm tăng tính chất và
qui mô cạnh tranh trên thị trường do tăng năng lực sản xuất và khối lượng sản xuất.
Trong quá trình vận động của lực lượng thị trường, trong từng giai đoạn thường có
những đối thủ cạnh tranh mới gia nhập thị trường và những đối thủ yếu hơn rót ra
khỏi thị trường. Cạnh tranh sẽ loại bỏ những doanh nghiệp yếu kém không thích
nghi với môi trường đồng thời làm tăng khả năng của một số doanh nghiệp khác.
Đó là qui luật khách quan. Điều này buộc các doanh nghiệp phải tính toán cân nhắc
đánh giá khả năng sản xuất của các đối thủ tiềm Èn và có những quyết định chiến
lược phù hợp trong sản xuất kinh doanh của mình. Để chống lại các đối thủ cạnh
tranh tiềm Èn, các doanh nghiệp thường thực hiện các chiến lược như phân biệt sản
phẩm, nâng cao chất lượng, bổ sung những đặc điểm mới của sản phẩm và không
ngừng cải tiến, hoàn thiện sản phẩm nhằm làm sản phẩm của mình có những đặc
điểm khác biệt hoặc nổi trội hơn trên thị trường, hoặc phấn đấu giảm chi phí sản
xuất, tiêu thụ, phát huy lợi thế qui mô, hoàn thiện hệ thống phân phối sản phẩm ...
Sức Ðp cạnh tranh của các doanh nghiệp mới gia nhập thị trường phụ thuộc chặt
chẽ vào những đặc điểm kinh tế - kỹ thuật và mức độ hấp dẫn của thị trường đó.
Mỗi doanh nghiệp đều có mức độ trở ngại khác nhau đối với các đối thủ tiềm Èn
muốn tham gia vào thị trường
Sức Ðp của những nhà cung ứng
Những người cung ứng cũng có sức mạnh thoả thuật rất lớn. có rất nhiều cách
khác nhau mà những người cung ứng có thể tác động vào khả năng thu lợi nhuận
của doanh nghiệp. Họ có thể nâng giá hoặc giảm chất lượng những vật tư kỹ thuật
mà họ cung ứng hoặc đồng thời thực hiện cả hai. Khi những nhà cung ứng thuộc về
một vài doanh nghiệp lớn, nắm trong tay đại đa số nguồn vật tư thiết bị chủ yếu thì
khả năng tác động của họ lớn lơn rất nhiều. Điều này có thể xảy ra nếu mức độ tập
trung hoá trong nghành cung ứng cao hơn nghành sản xuất chế biến, hoặc là sự
khan hiếm của các nguồn vật tư thay thế, tính chất và tầm quan trọng của nguồn
vật tư .
Sức Ðp của khách hàng.
Sức mạnh của khách hàng thể hiện ở chỗ họ có thể buộc các nhà sản xuất phải
giảm giá bán sản phẩm thông qua việc tiêu dùng Ýt sản phẩm hơn hoặc đòi hỏi
chất lượng sản phẩm cao hơn. Nếu khách hàng mua với khối lượng lớn, tính tập
trung của khách hàng cao hơn so với các doanh nghiệp trên thị trường, sản xuất sẽ
tăng lên.
Sù xuất hiện của các sản phẩm thay thế.
Những sản phẩm thay thế cũng là một trong những lực lượng tạo nên sức Ðp
của cạnh tranh lớn đối với các doanh nghiệp trên thị trường mức độ sẵn có của
những sản phẩm thay thế cho biết giới hạn trên của giá cả sản phẩm trên thị trường.
Khi giá của một sản phẩm tăng quá cao khách hàng sẽ chuyển sang sử dụng những
sản phẩm thay thế. Đối sách cơ bản của các doanh nghiệp và thực hiện chiến lược
phân biệt sản phẩm nhằm tạo cho sản phẩm có chất lượng khác biệt hẳn sản phẩm
thay thế hoặc làm tăng chi phí của khách hàng khi họ chuyển sang sử dụng sản
phẩm thay thế. Sự sẵn có của những sản phẩm thay thế trên thị trường là một mối
đe doạ trực tiếp đến khả năng phát triển, khả năng cạnh tranh và mức độ lợi nhuận
của các doanh nghiệp.
Ngoài những nhân tố trên tác động ảnh hưởng đến môi trường cạnh tranh có
thể còn là : tốc độ thay đổi sản phẩm ; qui mô sản xuất tối ưu ; số lượng người tiêu
dùng ; chi phí vận chuyển sản phẩm ....
III. SỰ CẦN THIẾT PHẢI TẠO DỰNG MÔI TRƯỜNG KINH DOANH THUẬN LỢI CHO CÁC DOANH NGHIỆP ĐỂ THÚC ĐẨY CÁC HOẠT ĐỘNG KINH DOANH QUỐC TẾ.
1. NHỮNG XU THẾ BIẾN ĐỔI CỦA MÔI TRƯỜNG KINH DOANH TOÀN CẦU HIỆN
NAY.
1.1. Biến đổi trong tư duy và triết lý kinh doanh toàn cầu.
Thị trường toàn cầu là mảnh đất tốt cho sự hoạt động của các chủ thể kinh doanh
quốc tế có tính cá thể, liên kết đa dạng, nhiều chiều và khác biệt về mức độ. Nền
tảng của kiểu loại tư duy mới là kỹ thuật phân tích kinh doanh, tạo khả năng dự
đoán các sự kiện kinh doanh tương lai khác một cách cơ bản với loại kỹ thuật mô
tả trước đây, chỉ cho phép doanh gia hướng vào quá khứ. Con người với tiềm lực
chất xám được coi là nguồn lực cơ bản để phát triển. Doanh nhân là líp người được
đề cao trong xã hội do họ có vai trò to lớn trong việc thay đổi cơ bản môi trường
kinh doanh. Những chuẩn mực của các doanh nhân hiện đại như họ là những người
cao vọng, dám chấp nhận rủi ro, có lòng tự tin và có đầu óc nhậy bén được coi là
những cá tính quý hiếm - mét loại tài sản vô hình quan trọng quyết định bản chất
của cách ứng xử trong kinh doanh và sự sống còn của công ty trong dài hạn. Khai
thác các mối liên hệ, phụ thuộc lẫn nhau và phụ thuộc lẫn nhau hoàn toàn giữa các
quốc gia đang trở thành “chất đốt trong” cho sự vận hành của guồng máy kinh tế
của các nước. Các nền kinh tế của các quốc gia hiện nay được “lớn lên” trong sự
phụ thuộc lẫn nhau cao độ. Triết lý Phương Đông được dùa vào kinh doanh toàn
cầu như là “kim chỉ Nam” có hiệu quả trong hoạt động của các công ty, các tập
đoàn kinh doanh hiện nay.
1.2. Công nghệ và nghệ thuật kinh doanh là yếu tố thống trị thị trường.
Thị trường thế giới là một tập hợp các mối quan hệ đa dạng, đan xen lẫn nhau
giữa người bán và người mua. Trong một thị trường dày đặc những mối quan hệ.
Như vậy, công nghệ là hình mẫu và nghệ thuật kinh doanh là Èn dụ. Nếu một công
ty hay một tập đoàn có công nghệ cao nhưng nghệ thuật kinh doanh không tinh xảo
thì vẫn chưa phải là hình mẫu trong kỷ nguyên kinh doanh hiện đại. Doanh số, lợi
nhuận - những tham số cơ bản đánh giá hiệu qủa kinh doanh, trong những trường
hợp đó hiển nhiên không thể có những con số “đẹp”. Ngược lại, có nghệ thuật kinh
doanh “sắc nét” nhưng công nghệ còn lạc hậu thì kinh doanh thiếu đi “cốt vật chất”
quyết định sự tồn tại lâu bền của công ty trên thị trường.
1.3. Hoạt động kinh doanh quốc tế diễn ra có tính chất “gia tốc” và xuất hiện sự
đột biến trong tăng trưởng kinh tế.
“ Trước mắt chúng ta đang diễn ra một cuộc cách tân công nghệ kỳ diệu và những
biến đổi xã hội lớn lao”- trong cuốn sách Mười xu hướng vận động mới của nền
kinh tế thế giới của tác giả John Naisbitt và Pitrica Aburdenne. Đây là nét mới của
bộ mặt xã hội hiện đại...
Nhật Bản sau thế chiến thứ hai, từ một nước bị tàn phá nặng nề trở thành một
siêu cường trên thế giới. Mấy năm qua nền kinh tế Nhật Bản đã lặng lẽ đặt những
bước chân khổng lồ lên toàn bộ nền kinh tế thế giới. Các nước Nics đang trở thành
đối trọng quan trọng trong nền kinh tế thế giới với tham vọng lớn sánh vai với các
trung tâm thế giới : Tây Âu, Bắc Mỹ, Nhận Bản. Châu Âu đang tìm thấy chính
mình với tỷ lệ hàng hoá chế biến xuất khẩu đứng hàng đầu thế giới. Trung Quốc -
người khổng lồ với 1/5 dân số thế giới đã đạt tốc độ tăng trưởng bình quân của
tổng sản phẩm quốc nội những năm gần đây ở mức hai con số. Việt Nam - với một
thành công lớn lao của công cuộc đổi mới, tốc độ tăng trưởng trong những năm
gần đây đạt trên dưới 9%/năm...
Tất cả các hoạt động kinh doanh diễn ra sôi động, khẩn trương chưa từng thấy
trên qui mô toàn cầu mà có thể diễn ra dưới đáy của đại dương hoặc cả trên khoảng
không vũ trụ...
1.4. Mức độ nhận biết và khả năng phản ứng với cơ hội trên thị trường.
Hầu hết các công ty muốn tồn tại trên thị trường phải tìm mọi cách để phát hiện ra
các cơ hội kinh doanh và tìm cách phản ứng với cơ hội đó. Mức độ nhận biết cơ
hội tuỳ thuộc vào kỹ năng, kỹ xảo phân tích và dự đoán thị trường. Các thế lực
cạnh tranh, các mối đe doạ, thế mạnh, điểm yếu và cơ hội của từng công ty phải
được thường xuyên khảo sát cẩn thận và đầy đủ. Nhưng nếu chỉ nhận biết cơ hội
thì có nghĩa là mới dừng lại quan niệm : các doanh gia đều bình đẳng trước cơ hội
mà việc phản ứng với cơ hội là nhân tố quyết định sự tồn tại của công ty trên thị
trường.
1.5. Đạo đức kinh doanh đang được đề cập đến như một chuẩn mực của kinh
doanh hiên đại.
Khắp nơi trên thế giới đang vang lên tiếng kêu gọi quốc tế về bảo vệ giá trị của
con người, đề cao các giá trị văn hoá dân téc và nhân văn quốc gia, bảo vệ thuần
phong mỹ tục của giống nòi, hướng con người đến cái “thánh thiện” cao cả. Mọi
hoạt động kinh doanh, một mặt, phải tuôn theo tính khắt khe của “luật chơi” thị
trường ; mặt khác, phải bảo vệ giá trị của con người, giữ gìn bản sắc dân téc và
truyền thống văn hoá của cộng đồng... Đạo đức kinh doanh còn thể hiện trong việc
tôn trọng và chấp hành đúng nguyên tắc cùng có lợi. Đạo đức được đề cao trong xã
hội kinh doanh hiện đại gắn liền với việc đề cao “chữ tín” trong kinh doanh.
1.6 Tình hình khủng hoảng tài chính tiền tệ ở Đông Nam Á.
TÝnh đến tháng 01/1998 khủng hoảng tiền tệ ở Đông Nam Á khiến cho giá trị
đồng tiền của các nước này bị mất giá nhiều so với đồng đôla Mỹ : Đồng bạt bị
mất giá 112%, đồng ringit 84%, đồng Rupiah 248%, đồng Pêsô 70%, đồng đôla
Singapore và đồng Yên Nhật khoảng 20%, đồng Won 100%. Điều này làm cho các
nhà đầu tư Mỹ và Châu Âu là những người thường có cái nhìn toàn cục sẽ rút vốn
của họ để chuyển sang các vùng khác ngoài Châu Á, chẳng hạn sang Mỹ, Đông Âu
hoặc Mỹ LaTinh. Còn các nhà đầu tư Châu Á sẽ chuyển vốn của mình sang các thị
trường khác ngoài Đông Nam Á là nơi Ýt bị ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài
chính tiền tệ hơn, chẳng hạn HôngKông, Trung Quốc, Ên Độ. Theo một số chuyên
gia đánh giá thì cuộc khủng hoảng không đáng lo ngại mấy, vì đây sẽ là điều kiện
tốt cho các nước này xuất khẩu, sản xuất sẽ tăng làm tiền đề cho nền kinh tế tăng
trưởng.
Do các đồng tiền bị mất giá nên giá thành các hàng ngoại nhập dùng làm
yếu tố đầu vào cho sản xuất công nghiệp và nông nghiệp ở Đông Nam Á trở nên
đắt đỏ hơn. Điều đó dẫn đến mức giá của các hàng hoá nhu yếu phẩm sẽ tăng lên
và lạm phát có thể xảy ra ở mức cao hơn bình thường ở tất cả các nước Đông Nam
Á. Lạm phát ở Thái Lan từ 5,8% lên 6,5% (tăng 0,7%), ở Singapore tăng 1,1%, ở
Philipines tăng từ 5% lên 7,5%, ở Indonesia tăng từ 10% đến 12%, Trung Quốc và
Hàn Quốc tăng 2%, Nhật Bản tăng từ 0,2% lên 0,8%. Với sự mất giá hơn 100%
của các đồng tiền Đông Á, khu vực tư nhân nói chung đã có nguy cơ lỗ nặng ở các
khoản nợ nước ngoài và dẫn đến phải tuyên bố phá sản hàng loạt.
Mọi người đều nhận thấy rằng, tất cả các nền kinh tế Đông Á hiện đang lâm
vào cuộc khủng hoảng tiền tệ đều có tăng trưởng kinh tế trong năm 1997 và 1998
thấp hơn so với 1996. Trung bình tốc độ tăng trưởng các nền kinh tế Đông Á trong
năm 1997 là 5% so với 8,2% của năm 1996. Mức tăng trưởng của Thái Lan là
xuống mức thấp nhất 0% của năm 1997 so với mức 8,3% của năm 1996 dự tính
năm 1998 là 1%, Indonesia có mức tăng trưởng vào khoảng 5,9%, năm 1997 so với
mức 7,8% của năm 1996 và đến năm 1998 chỉ số này sẽ chỉ còn 0,4%, còn
Malaysia mức tăng trưởng có tụt chút Ýt, đạt 7% của năm 1997 so với mức 8,2%
của năm 1996 và sẽ tụt xuống còn 2,5% năm 1998. Trong khu vực Đông nam Á
chỉ có Philipines là mức tăng trưởng của năm 1997 Ýt thay đổi so với năm 1996
(5% của năm 1997 so với 5,5% của năm 1996 và đến năm 1998 là 4% chỉ sụt đi
chút Ýt nếu so với các nước khác), Singapore cũng là nước Ýt chịu sự khủng
hoảng nên mức tăng trưởng của năm 1997 là 7,3% so với 8% của năm 1996. Tuy
nhiên đến năm 1998 mức tăng trưởng này sẽ giảm nhiều và chỉ đạt 4,2%. Nhật bản,
một nước có nền kinh tế mạnh nhất Châu Á có mức tăng trưởng 0% so với 2,5%
của năm 1996 và sẽ nhích lên 1% trong năm 1998. Hàn quốc có mức tăng trưởng là
6% của năm 1997 so với 6,9% trong năm 1996, nhưng sang năm 1998 nền kinh tế
này dự kiến chỉ tăng 2,5%.
Hiện tại trong khu vực Đông bắc Á có Trung quốc, Hồng kông, Đài loan là
những nước Ýt có những biến động về tăng trưởng, Trung quốc hạ từ 9,8% trong
năm 1996 xuống 8,8% trong năm 1997, Hồng kông sau khi chuyển về Trung quốc
đạt mức 5,3% trong năm 1997 so với 4,9% năm 1996.
Khi tăng trưởng kinh tế có nguy cơ chậm lại do các vụ phá giá đồng tiến và
sự sụp đổ của các thị trường chứng khoán, và khi các nước cắt giảm chi tiêu, nạn
thất nghiệp tăng lên thì tất cả các yếu tố này sẽ khiến cho nhiệm vụ điều hành
chính trị trở nên khó khăn hơn nhiều. Nếu như tình hình kinh tế không được cải
thiện thì tình hình chính trị của các nước trong khu vực sẽ rất khó khăn, dân chúng
tỏ ra không khoan nhường đối với các hoạt động điều hành kém hiệu quả của chính
phủ và nạn tham nhòng. Điều đó buộc chính phủ phải cải tổ cơ cấu chính trị để
lãnh đạo tốt hơn và củng cố nền tảng kinh tế ... dẫn đến môi trường kinh doanh ở
khu vực này bị thay đổi rất lớn.
2. THỰC TRẠNG HÀNG CÔNG NGHIỆP XUẤT KHẨU CỦA VIỆT NAM TRÊN THỊ
TRƯỜNG THẾ GIỚI.
rong một thế giới vận động với tốc độ cao như vậy, nhìn lại việc xuất khẩu
hàng hoá của Việt Nam, chóng ta không khỏi “chạnh lòng”.T
Cho đến nay trên thị trường thế giới bước đầu xuất hiện một số mặt hàng
công nghiệp xuất khẩu của Việt Nam được coi là chủ lực như dầu mỏ, than đá, dệt
may, giầy dép...và một số mặt hàng của các xí nghiệp liên doanh. Hàng công
nghiệp của Việt Nam đã có mặt trên hầu hết các châu lục, tuy nhiên tỷ trọng còn
rất nhỏ, song đó cũng là điểm mạnh đáng tự hào. Bởi vì Việt Nam đang chập
chững bước đầu tiên hội nhập vào nền kinh tế thế giới.
Bên cạnh những điểm mạnh, thị trường hàng công nghiệp Việt Nam cũng
biểu hiện những hạn chế sau đây :
Thị trường hàng công nghiệp xuất khẩu còn quá nhỏ bé, manh mún, rời rạc
và chưa ổn định. Hàng công nghiệp xuất khẩu của Việt Nam khó có thể duy trì
được thị phần nếu có sự cạnh tranh gay gắt về tất cả các loại hàng công nghiệp từ
các nước khác, đặc biệt là hàng công nghiệp dệt từ Thái Lan,Trung Quốc. Sự yếu
kém trong khả năng cạnh tranh của hàng hoá công nghiệp xuất khẩu Việt Nam thể
hiện : hàng công nghiệp Việt Nam vẫn chưa dược coi là ngang hàng, bằng vai với
hàng hoá các nước khác, đặc biệt là các nước trong khu vực.
Cơ cấu hàng xuất khẩu của Việt Nam mặc dù có sự cải thiện đáng kể song
tỷ lệ hàng nguyên liệu thô vẫn là chủ yếu, một phần quan trọng là hàng dệt may,
giầy dép và hàng công nghiệp thực phẩm dành để trả nợ nước ngoài. Cơ cấu xuất
khẩu chưa được ổn định, có thể thay đổi khi có sự tác động của các loại nhân tố về
thị trường, cạnh tranh hay có sự thay đổi trong thị hiếu người tiêu dùng ở các Châu
lục khác nhau.
Chất lượng hàng hoá công nghiệp nói chung vẫn chưa cao so với mặt hàng
tương tự xuất khẩu từ các nước khác, đặc biệt là từ các nước trong khu vực châu Á.
Giá cả hàng hoá còn khá cao vì chịu ảnh hưởng của các loại chi phí ; cả chi phí sản
xuất và chi phí lưu thông. Chưa có mặt hàng công nghiệp xuất khẩu nào của Việt
Nam có “danh tiếng” trên thị trường thế giới.
Hàng công nghiệp xuất khẩu của Việt Nam chịu sự cạnh tranh ráo riết của
các loại hàng hoá tương tự từ các nước khác và về thực chất thì khả năng cạnh
tranh về chất lượng, giá cả, điều kiện giao hàng, thanh toán, vận tải hàng công
nghiệp xuất khẩu của Việt Nam chưa ngang bằng với các nước xuất khẩu các mặt
hàng tương tự.
Chưa có những hợp đồng lớn và dài hạn về hàng công nghiệp xuất khẩu.
Các hợp đồng xuất khẩu nhỏ, rời rạc và có tính chất “vụ việc” vẫn là phổ biến.
Kiểu làm ăn “chộp giật” vẫn còn tồn tại...
3. THỰC TRẠNG MÔI TRƯỜNG KINH DOANH QUỐC TẾ CỦA CÁC DOANH
NGHIỆP VIỆT NAM HIỆN NAY.
ôi trường kinh doanh của các doanh nghiệp Việt Nam hơn 10 năm đổi mới
đã có những thay đổi quan trọng theo hướng ngày càng mở rộng tính chủ
động sáng tạo của doanh nghiệp, của các thành phần kinh tế khác nhau trong kinh
doanh. Nhờ đó đã thúc đẩy quá trình kinh doanh của các doanh nghiệp đang phát
triển có hiệu quả hơn, cho đến nay đã có hàng nghìn doanh nghiệp trong đó có
khoảng hơn 50% các doanh nghiệp làm ăn có lãi so với hơn 30% doanh nghiệp làm
ăn có lãi trong những năm đầu mới mở cửa. Tuy tỷ lệ và mức lãi còn thấp. Nhưng
đó cũng là một tiến bộ đáng ghi nhận, đã tạo điều kiện cho nền kinh tế nước ta đạt
tốc độ tăng trưởng khá, kìm chế được lạm phát, đưa nước ta ra khỏi cuộc khủng
hoảng kinh tế - xã hội. Chuẩn bị bước sang giai đoạn đưa nước ta ra khỏi nước
nghèo, kém phát triển.
M
Việc chủ động tạo dựng môi trường kinh doanh thuận lợi ở các doanh nghiệp đã quyết định tối ưu 3 vấn đề kinh tế cơ bản : sản xuất cái gì?, sản xuất như thế nào?, sản xuất cho ai?. Nhờ đó mà hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp phát triển nhanh, có hiệu quả kinh tế cao.
Bên cạnh những tiến bộ trong việc tạo dựng môi trường kinh doanh thuận lợi ở các doanh nghiệp hơn 10 năm đổi mới. Chúng ta thấy còn nhiều doanh nghiệp
còn gặp nhiều khó khăn trở ngại, còn gần 50% doanh nghiệp kinh doanh chưa có lãi, thậm chí còn nhiều doanh nghiệp bị lỗ, phá sản và có nguy cơ phá sản. Nguyên nhân của tình hình này do nhiều nguyên nhân khách quan và chủ quan tác động, trong đó có nguyên nhân môi trường kinh doanh chưa tốt.
CHƯƠNG IIPHÂN TÍCH THỰC TRẠNG MÔI TRƯỜNG KINH DOANH CỦA HOẠT ĐỘNG XUẤT KHẨU ĐÁ ỐP LÁT Ở CÔNG TY
MIDECO
I. GIỚI THIỆU MỘT SỐ NÉT VỀ CÔNG TY MIDECO.
1. SỰ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CỦA CÔNG TY MIDECO
Công ty phát triển khoáng sản (MIDECO ) được thành lập vào tháng
2/1989, trực thuộc tổng cục mỏ địa chất, sau đó được đăng ký lại theo thông báo số
131-TB ngày 29/08/1993 của Thủ tướng Chính phủ, quyết định số 255/CNNg-
TCNSĐT-QĐ ngày 20/05/1993 của Bộ trưởng Bộ công nghiệp nặng.
Công ty có trách nhiệm thăm dò, khai thác, chế biến và kinh doanh các loại
khoáng sản như thiếc, nikel, đồng, vàng và các loại đá ốp lát như đá granit, đá
marble.
Công ty phát triển khoáng sản bao gồm các đơn vị thành viên là các xí
nghiệp thăm dò địa chất, khai thác, chế biến, kinh doanh khoáng sản, phạm vi hoạt
động ở miền Bắc và Trung Việt Nam. Công ty có trụ sở đặt tại số 6- Phạm Ngò
Lão- Hà Nội. Tên giao dịch quốc tế của công ty là Mineral Development Company
- viết tắt là MIDECO.
Công ty chịu sự quản lý trực tiếp của Tổng công ty khoáng sản Việt Nam,
đồng thời chịu sự quản lý Nhà nước của các Bộ, Uỷ ban Nhà nước khác về các vấn
đề có liên quan theo qui định của pháp luật hiện hành. Công ty là một tổ chức kinh
doanh có tư cách pháp nhân, hạch toán kinh tế độc lập, được sử dụng con dấu
riêng, được mở tài khoản tại ngân hàng. Công ty được bộ thương mại cấp giấy
phép xuất nhập khẩu trực tiếp số 1.01.1024 cho phép xuất nhập khẩu các loại sản
phẩm kim loại và phi kim loại, vật tư máy móc phục vụ khai thác tuyển khoáng,
chế biến kim loại và phi kim loại. Hiện nay công ty là một đối tác của Việt Nam
với các công ty của Australia trong các liên doanh về đồng, vàng và nikel.
2. CÁC ĐẶC ĐIỂM KINH TẾ - KỸ THUẬT CHỦ YẾU CỦA CÔNG TY.
2.1. Đặc điểm về chức năng, nhiệm vụ, phạm vi hoạt động và quyền hạn của công
ty.
a, Nhiệm vụ.
Căn cứ vào chủ trương phát triển kinh tế của Nhà nước, vào kết quả điều tra,
nghiên cứu tình hình sản xuất và tiêu thụ các loại khoáng sản trên thế giới, xác
định đúng đắn khả năng, tiềm năng, nhu cầu của các tổ chức, đơn vị sản xuất kinh
doanh khoáng sản ở trong nước để xây dựng chiến lược tiêu thụ sản phẩm. Dùa
vào kết quả nghiên cứu thị trường trong và ngoài nước về các sản phẩm khoáng
sản và tư liệu sản xuất, tư liêu tiêu dùng phục vụ cho sản xuất kinh doanh khoáng
sản để xây dựng kế hoạch xuất nhập khẩu theo chương trình hàng năm đạt hiệu quả
kinh tế. Công ty có nhiệm vụ chính sau :
Xây dựng và thực hiện các chính sách về tài chính, tín dụng, giá cả và đầu
tư phát triển nhằm nâng cao sản lượng và chất lượng hàng xuất khẩu.
Nghiên cứu luật pháp quốc tế, các thông lệ kinh doanh, nắm vững nhu cầu,
thị hiếu, giá cả các loại sản phẩm khoáng sản, tư liệu sản xuất, tư liệu tiêu dùng
phục vụ sản xuất kinh doanh khoáng sản.
Nghiên cứu các đối tượng cạnh tranh để đưa ra các phương án xuất nhập
khẩu dữ vững các thị trường có lợi nhất.
Thực hiện tốt nhất các chính sách cán bộ, chế độ quản lý tài sản, tài chính,
lao động, tiền lương, quản lý và thực hiện phân phối theo lao động, không ngừng
đào tạo, bồi dưỡng nâng cao nghiệp vụ, trình độ văn hoá, tay nghề cho cán bộ công
nhân viên của công ty.
b. Chức năng.
Căn cứ vào phương hướng, mục tiêu, chiến lược kinh tế - xã hội của Nhà nước,
căn cứ vào nhu cầu, thị hiếu của khách hàng và khả năng, tiềm năng của các tổ
chức kinh doanh khoáng sản. Công ty MIDECO có các chức năng cơ bản sau :
Tiến hành việc sản xuất kinh doanh mặt hàng đá ốp lát, thực hiện việc thăm
dò, tìm kiếm các mỏ đá mới và đưa vào chế biến.
Thực hiện việc xuất khẩu khoáng sản ra thị trường nước ngoài, đặc biệt là
mặt hàng đá ốp lát.
Thực hiện kinh doanh hàng nhập khẩu: Nhằm thoả mãn tốt nhu cầu về sản
xuất, công ty đã tiến hành việc nhập khẩu vật tư hàng hoá thiết bị, chuyển giao
công nghệ, kinh nghiệm quản lý cho các đơn vị thành viên, thúc đấy hoạt động sản
xuất, tạo điều kiện thuận lợi trong vấn đề kinh doanh.
Hoạt động trong lĩnh vực chuyển giao công nghệ từ nước ngoài, công ty
trực tiếp ký kết các chương trình hợp tác quốc tế và sản xuất kinh doanh khoáng
sản, cung ứng và tiêu thụ hàng tư liệu sản xuất và tư liệu tiêu dùng phục vụ cho sản
xuất kinh doanh khoáng sản. Công ty đại diện cho phía Việt Nam thực hiện các
phương án đầu tư của nước ngoài tại Việt Nam trong lĩnh vực thăm dò, khai thác
khoáng sản.
c. Quyền hạn.
Công ty phát triển khoáng sản là một tổ chức kinh tế có tư cách pháp nhân nên có
quyền hạn sau:
Quản lý và sử dụng có hiệu quả tài sản vốn, lao động hiện có, không ngừng
tăng thêm giá trị tài sản cố định và làm đầy đủ nghĩa vụ nép ngân sách nhà nước.
Tìm nguồn tài chính và kỹ thuật đầu tư vào thăm dò, khai thác chế biến
khoáng sản dưới các hình thức hợp tác liên doanh khác nhau phù hợp với luật công
ty và luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam, chịu trách nhiệm về việc thực hiện các
chính sách kinh tế, xã hội trong toàn công ty trước Bộ và Tổng công ty.
Được huy động vốn trong và ngoài nước phục vụ mục đích sản xuất kinh
doanh của công ty khi được phép của cơ quan cấp trên. Công ty có thể huy động
một phần vốn cổ phần tư nhân và tập thể đóng góp vào các đề án sản xuất kinh
doanh của công ty.
Tiếp xúc, đàm phán và ký kết hợp đồng với các tổ chức kinh tế trong và
ngoài nước, được cử người đi thăm quan, khảo sát, tham gia hội chợ, triển lãm ở
nước ngoài và được mời các chuyên gia, cố vấn nước ngoài vào tham gia trong lĩnh
vực đầu tư phát triển khai má.
Công ty được phép lùa chọn ngân hàng thuận lợi để giao dịch, được mở các
chi nhánh, cơ quan đại diện, cửa hàng, đại lý ở trong và ngoài nước.
Tham gia hội chợ, triển lãm, quảng cáo các mặt hàng kinh doanh của công
ty. Đề xuất với cấp trên các ý kiến sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện các qui chế, chính
sách trong lĩnh vực sản xuất kinh doanh khoáng sản.
Công ty phát triển khoáng sản được phép tổ chức khai thác và kinh doanh đá
ốp lát, đá khối, đá nguyên vật liệu xây dựng, thiếc, vonfran, vàng và các khoáng
sản khác cùng các mặt hàng chuyên dùng trong khai thác và chế biến khoáng sản .
d. Phạm vi hoạt động.
Mặt hàng chủ yếu mà công ty MIDECO tiến hành khai chế biến và kinh doanh
những năm qua là thiếc, vonfram, đá granite, đá marble... Nhưng trong năm gần
đây công ty đã xác định mặt hàng đá ốp lát có một thị trường phong phú nhiều tiềm
năng. Hơn nữa công ty đang được phép quản lý một số mỏ từ Miền Bắc đến Miền
Nam Trung Bộ nên công ty đã tập trung đầu tư, nâng cấp nhà xưởng, máy móc để
tập trung phát triển mặt hàng đá ốp lát.
Các mặt hàng mà công ty đang nhập khẩu chủ yếu là các thiết bị phục vụ
khai thác mỏ như máy ủi, máy xúc, máy khoan, các máy móc phục vụ gia công chế
biến đá như máy xẻ, máy đánh bóng, máy mài... cùng với các vật tư đi kèm.
Các mặt hàng mà công ty xuất khẩu là các mặt hàng đá ốp lát, đá khối xây
dùng ... và một số khoáng sản khác.
Công ty trực tiếp quan hệ, giao dịch với các cơ quan, tổ chức trong và ngoài
nước để ký các hợp đồng kinh tế, chuyển giao công nghệ, liên doanh liên kết, đầu
tư phát triển các hợp đồng dịch vụ vận tải, giao nhận bảo hiểm. Kết hợp chặt chẽ
với các đơn vị thành viên, các xí nghiệp trực thuộc để cùng xây dựng và thực hiện
chiến lược thị trường, chiến lược sản xuất kinh doanh của công ty.
Trong quá trình hoạt động của mình, công ty có thể mở rộng phạm vi hoạt
động không giới hạn địa bàn cũng như thành phần kinh tế.
2.2. Đặc điểm về bộ máy quản lý.
a. Cơ cấu tổ chức bộ máy quản lý.
Cơ cấu tổ chức bộ máy quản lý của công ty theo kiểu phân cấp quản lý. Đứng đầu
công ty là Giám đốc, Giám đốc công ty do Bộ trưởng Bộ công nghiệp nặng bổ
nhiệm. Giám đốc công ty tổ chức điều hành mọi hoạt động của công ty theo chế độ
thủ trưởng và chịu trách nhiệm toàn bộ trước Tổng công ty và Bộ công nghiệp
nặng cũng như tập thể CBCNV của công ty. Giúp việc cho Giám đốc có các Phó
Giám đốc và trưởng các phòng ban do Giám đốc đề nghị và được cấp trên bổ
nhiệm theo sự phân cấp của Bộ trưởng Bộ công nghiệp nặng.
Cơ cấu tổ chức của công ty gồm có:
Bé máy quản lý:
Giám đốc và các Phó Giám đốc.
Phòng kỹ thuật.
Phòng kinh doanh.
Phòng hành chính.
Phòng tài chính - kế toán.
Các chi nhánh.
Chi nhánh 1 của công ty tại số 3 Lê Lai - Đà Nẵng.
Chi nhánh 2 tại Quy Nhơn - Bình Định.
Chi nhánh 3 tại thị trấn Hát Lót - Sơn La.
Chi nhánh 4 tại huyện Võ Nhai - Bắc Thái.
Các xí nghiệp trực thuộc có:
Xí nghiệp MIDECO Thanh Hoá.
Xưởng đá ốp lát tại 76 Trường Chinh - Hà Nội.
Xí nghiệp MIDECO granite Tựu Liệt - Thanh Trì - Hà Nội.
Các xí nghiệp và các công ty liên doanh khai thác chế biến khoáng sản trong
nước.
Sơ đồ 03: Cơ cấu bộ máy quản lý của công ty.
b. Nhiệm vụ, chức năng của các phòng ban.
Phòng kỹ thuật.
Điều tra nghiên cứu địa chất các mỏ phục vụ cho sản xuất kinh doanh của
Công ty.
Làm luận án khả thi các mỏ.
Chuẩn bị thiết kế khai thác mỏ, giải quyết các thủ tục liên quan.
Phô trách an toàn vệ sinh môi trường các mỏ.
Lưu dữ các tài liệu về kỹ thuật mỏ địa chất.
Phòng kinh doanh.
Gi¸m ®èc
phã gi¸m ®èc qu¶n trÞ kinh doanh
phã gi¸m ®èckü thuËt s¶n xuÊt
phßng kinh
doanh
phßng tµi
chÝnh kÕ to¸n
phßng hµnh chÝnh
phßng kü
thuËt
c¸c xÝ nghiÖp
s¶n xuÊt
c¸c chi
nh¸nh
Làm công tác tiếp thị, chuẩn bị các hợp đồng xuất khẩu sản phẩm, các hợp
đồng tiêu thụ trong nước, các hợp đồng nhập các loại máy móc, vật tư cho sản xuất
kinh doanh của công ty.
Nghiệm thu chất lượng hàng xuất khẩu
Lập thủ tục xuất nhập khẩu hàng hoá vật tư.
Làm các đề án đầu tư mở rộng, nâng cấp, đổi mới thiết bị nhà xưởng.
Nghiên cứu áp dụng và cải tiến quy trình công nghệ sản xuất
Phòng tài chính - Kế toán:
Quản lý thu chi toàn công ty, lập kế hoạch báo cáo tài chính hàng tháng, quí,
năm
Tìm nguồn vốn đầu tư mới cho sản xuất kinh doanh của Công ty, khai thac
nguồn vốn để cung cấp vốn lưu động cho các đơn vị hoạt động.
Theo dõi, kiểm tra hiệu quả về sản xuất kinh doanh của các cơ sở trong công
ty.
Phòng hành chính:
Quản lý trụ sở nơi làm việc của công ty, quản lý máy móc thiết bị vật tư cho
văn phòng.
Soạn thảo các văn bản về hành chính, các loại văn bản báo cáo của công ty.
Tiếp đón các đoàn khách hội nghị do công ty tổ chức.
Xây dựng cơ cấu tổ chức nhân sự cho công ty.
Lập kế hoạch dài hạn và ngắn hạn của công ty về sản xuất kinh doanh.
Dùa trên cơ sở các hợp đồng đã ký, lập kế hoạch sản xuất kinh doanh cho
các cơ sở.
Theo dõi số lượng, tình trạng, khả năng sử dụng các loại vật tư, máy móc,
thiết bị.
Lập định mức sản lượng cho các loại sản phẩm chính và mức tiêu hao vật
tư cho các sản phẩm.
Về xây dựng cơ bản, phòng hành chính còn có chức năng lập kế hoạch xây
dựng cơ bản, cải tạo, mở rộng, sửa chữa, xây dựng mới các xí nghiệp, văn phòng
của công ty ... Tham gia ban quản lý các công trình xây dựng, giải quyết thủ tục về
xây dựng.
2.3. Đặc điểm về đội ngò lao động
Đội ngò lao động gián tiếp của công ty đều được đào tạo từ các trường đại học như
: Đại học mỏ địa chất, Đại học kinh tế, Đại học bách khoa, Đại học ngoại
thương...một số đã qua đào tạo chuyên ngành. Yêu cầu đối với đội ngò lao động
gián tiếp là phải có đủ năng lực, có trình độ chuyên môn vững vàng, năng động,
đồng thời hiểu rõ thị trường nội địa cũng như thị trường thế giới và có khả năng
đàm phán với nước ngoài.
Riêng đội ngò lãnh đạo là những cán bộ có kinh nghiệm, năng lực từ Tổng
công ty khoáng sản, Tổng cục mỏ địa chất đưa sang, đồng thời các cán bộ trẻ đủ
năng lực mới ra trường cũng được sử dụng hợp lý.
Đội ngò lao động trực tiếp là những người đã được đào tạo qua các trường
trung học dạy nghề về mỏ địa chất. Công ty cũng có đội ngò thợ xây dựng, ốp lát
có kinh nghiệm và trình độ nghề nghiệp. Đội ngò này đã được thực nghiệm và
khẳng định qua thời gian hoạt động của công ty vừa qua.
Bảng 1: Cơ cấu lao động của công ty qua các năm.
NĂM TỔNG SỐ LĐ GIỚI TÍNH VỊ TRÍ TRÌNH ĐỘ LĐ KHÁC
Nam Nữ Sản xuất
Quản lý
Sauđại học
Đại học
1990 20 16 4 0 20 4 4 121991 40 32 8 20 20 4 12 241992 40 32 8 20 20 4 12 241993 120 106 14 90 30 6 30 841994 120 106 14 90 30 6 30 841995 130 114 16 100 30 6 30 961996 130 114 16 100 30 6 30 961997 140 120 20 105 35 7 34 99
(Nguồn : Báo cáo tổng kết năm 1994 -1997)
2.4. Đặc điểm về qui trình chế biến đá ốp lát.
Việc chế biến đá ốp lát được tiến hành qua các công đoạn sau.
Công đoạn tạo phôi: Sau khi đưa đá khối từ mỏ về, phân loại kích thước của
đá khối và đưa vào máy cưa dàn hoặc cưa đĩa. Cưa đĩa dành cho sản phẩm đá tấm
có chiều rộng dưới 60 cm, cưa dàn dành cho những loại đá tấm có kích thước lớn
hơn.
Công đoạn mài: Sau khi bổ phôi xong đưa phôi vào mài. Công đoạn này
được thực hiện qua máy mài đầu vệ tinh với dụng cụ chính là đá mạt. Việc mài
bóng đá tấm được tiến hành từng bước qua nhiều cấp số hạt mài.
Công đoạn cắt cạnh: Sau khi đá được mài xong sẽ tiến hành việc cắt các
cạnh. Có hai loại máy cắt là máy cắt cạnh dọc và máy cắt cạnh ngang.
Công đoạn cuối: Sử dụng các máy móc thiết bị phụ trợ như máy mài cầm
tay, máy phun lửa, phun cát... tạo ra sản phẩm hoàn chỉnh, phù hợp với yêu cầu
của khách hàng.
Sơ đồ 04 : Sơ đồ qui trình chế biến đá ốp lát.
2.5. Đặc điểm về sản phẩm của công ty.
rong những năm gần đây chúng ta đã nghe nói nhiều đến mặt hàng đá ốp lát,
một mặt hàng đang có nhiều ở các công trình xây dựng ở Việt Nam cũng như
ở nước ngoài. Việc sử dụng đá ốp lát tạo cho công trình có vẻ trang nhã, sang
trọng, giúp cho công trình có độ bền vững lâu dài. Chính vì vậy khi nền kinh tế
phát triển, nhu cầu về xây dựng nhà cửa, cơ sở hạ tầng tăng lên thì nhu cầu sử dụng
mặt hàng đá ốp lát cũng tăng lên.
T
Trên thế giới, đá ốp lát được đưa vào sử dụng hàng trăm năm nay, nước đi đầu
trong lĩnh vực này là Italia. Nguồn nguyên liệu để sản xuất đá ốp lát và vật liệu tự
nhiên sẵn có ở khắp nơi, thực chất là đã bị hoá thạch do tác dộng của tự nhiên.
c«ng ®o¹n bæ ph«i
c«ng ®o¹n mµi
c«ng ®o¹n c¾t c¹nh
c«ng ®o¹n cuèi
s¶n phÈm
Nguồn nguyên liệu này được phân thành hai loại đá ganite và đá marble do đó các
sản phẩm sản xuất cũng có hai loại.
a) Đá marble (đá hoa cẩm thạch)
Đây là loại đá vôi biến chất, có mầu sắc đa dạng. Loại đá này đã được khai
thác chế biến và đưa vào sử dụng từ lâu đời. Tại Việt nam, người Pháp đã sử dụng
đá marble ốp các công trình công cộng ở các thành phố lớn. Lúc đó công nghệ
chế biến còn non kém nên chỉ sử dụng sản phẩm thô để bó lát vỉa hè, đường đi
trong vườn của các biệt thự là chủ yếu.
Ngày nay cùng với sự phát triển của đất nước, các công trình mọc lên ngày
càng nhiều, đá marble được nhiều khách hàng nhất là phía Bắc ưa chuộng sử dụng
bởi vì đá marble có giá thành sản phẩm thấp do việc khai thác nguyên liệu và chế
biến dễ dàng. Loại đá này được tiêu thụ mạnh trên thị trường Hà Nội. Nhưng ngoài
ưu điểm là giá thấp, màu sắc đa dạng thì đá marble cũng có những nhược điểm như
độ thấm nước cao, dễ bị ố, độ bóng của đá dễ bị mất theo thời gian. Những nhược
điểm này làm cho sản phẩm đá marble có lượng tiêu thụ giảm dần đi. Hiện nay để
khắc phục nhược điểm này, người ta đã tạo ra một loại hoá chất để chống thấm giữ
được độ bóng lâu hơn. Những loại hoá chất này chưa được phổ biến ở Việt Nam,
giá bán của nó cũng rất cao nên loại hoá chất này thường chỉ có các công trình của
nước ngoài sử dụng. Đá marble có độ cứng không cao nên được chế tác thành
nhiều loại, nhiều kiểu, phục vụ cho làm bồn hoa, đài phun nước, mặt bàn...
b, Đá granite (đá hoa cương)
Là loại đá có độ cứng cao, Ýt thấm nước, mầu sắc đồng nhất nhưng khá
phong phú. Vì ưu điểm này nên nó được sử dụng vào nhiều mục đích như lát cầu
thang, ốp tường, làm mặt bàn ... Đá granite là loại đá ốp lát cao cấp, nó có độ cứng
rất cao xét trong điều kiện kinh tế Việt Nam thì loại đá này có thể coi là đá quí téc
vì giá của nó rất cao, mặc dù ở Việt Nam giá của nó còn thấp hơn so với thị trường
thế giới. Sở dĩ giá cao là do nó có độ cứng tốt, hầu như vĩnh cửu, độ thấm nước Ýt,
màu sắc đẹp và tạo cho công trình thêm bền vững.
2.6. Đặc điểm về nguồn nguyên liệu và sự phân bố nguyên liệu.
Nguồn nguyên liệu để sản xuất các sản phẩm đá ốp lát của công ty là các loại đá
vôi đã bị hoá thạch. Các loại đá nguyên liệu của công ty có chất lượng cao, màu
sắc ổn định nhưng lại rất đa dạng và phong phú gồm những màu như : xanh, đỏ,
lục, tím vàng, đỏ rubi... Các loại màu này đang được ưa chuộng trên thị trường,
kích cỡ của các loại đá này cũng rất phong phó.
Nguồn nguyên liệu của công ty nằm rải rác ở các mỏ suốt từ Miền Bắc tới
Miền Trung, nhưng phần lớn chúng nằm tại các mỏ thuộc các tỉnh Thái Nguyên,
Ninh Bình, Thanh Hoá, Đà Nẵng... các mỏ đá mà MIDECO đang quản lý khai thác
nói chung có vị trí thuận lợi đối với việc vận tải. Hiện tại công ty đang sử dụng
phương tiện vận tải là tầu hoả để chở đá khối ra Hà Nội giảm được chi phí cho nhà
máy chế biến. Các mỏ đá khối lâu năm ở Quy Nhơn, Đà Nẵng là hai cảng biển lớn
nên việc xuất khẩu sản phẩm cũng có thuận lợi về vận chuyển.
II. PHÂN TÍCH TÁC ĐỘNG CỦA MÔI TRƯỜNG KINH DOANH ĐẾN HOẠT
ĐỘNG XUẤT KHẨU ĐÁ ỐP LÁT CỦA CÔNG TY MIDECO.
1. THỰC TRẠNG THAY ĐỔI MÔI TRƯỜNG KINH DOANH CỦA CÔNG TY TRONG
NHỮNG NĂM QUA.
ừ khi mới thành lập vào tháng 2/1989 công ty mới chỉ có hơn 10 người, đó là
những cán bộ có nhiều thành công trong nghiên cứu về lĩnh vực địa chất và
thạch học như : tiến sĩ Lê Thạc Xinh, tiến sĩ Đỗ Hải Dũng, tiến sĩ Trần Quốc Hải...
Mục đích ban đầu của công ty là giới thiệu cho các đối tác nước ngoài biết về
nguồn tài nguyên thiên nhiên dồi dào, phong phú và đa dạng của Việt Nam. Hướng
dẫn các đoàn khách đi thăm quan các mỏ khoáng sản của Việt Nam, kêu gọi họ
đầu tư vốn vào lĩnh vực khai thác, chế biến khoáng sản. Với số vốn ban đầu
T
khoảng 32 triệu VND bao gồm : 1 xe U oắt, 2 phòng làm việc. Qua cố gắng nỗ lực
tìm kiếm thị trường tiêu thụ sản phẩm tốt, thay đổi sản phẩm cho phù hợp với
người tiêu dùng, kịp thời thay đổi môi trường kinh doanh của công ty cho phù hợp
với sự biến động của thị trường. Và nhất là vào thời kỳ này mới chỉ là thời kỳ sơ
sinh của cơ chế thị trường theo phương châm đại hội VI của Đảng. Tuy vậy, công
ty cũng có những bước tiến đáng kể, chỉ qua một năm hoạt động tổng số vốn của
công ty đã lên đến 450 triệu VND. Tuy nhiên đối với các công ty lớn đã trải qua
nhiều năm hoạt động thì số vốn trên còn là rất nhỏ. Nhưng đối với công ty phát
triển khoáng sản thì đó là một thành công bước đầu đáng khích lệ.
Sang năm 1990, ngoài nhiệm vụ hướng dẫn các đoàn khách nước ngoài đi
thăm các mỏ để kêu gọi thu hót vốn đầu tư. Công ty đã mở rộng mối quan hệ trong
nước, mạnh dạn kêu gọi các doanh nghiệp trong nước cùng góp vốn để khai thác
các mỏ khoáng sản ở trong nước như mỏ vàng Suối Nhâu (Bắc Thái), mỏ vàng Na
Ca (Nghệ An) và thu gom quặng để tinh luyện xuất khẩu. Trong thời gian này biên
chế chính thức của công ty gồm 26 người, trong đó một giám đốc phụ trách chung,
một Phó Giám đốc phụ trách kỹ thuật, một Phó Giám đốc phụ trách kinh doanh và
các nhân viên phục vụ lễ tân, lái xe... Với tổ chức gọn nhẹ như vậy nhưng với lòng
nhiệt tình, hăng hái với công việc và với trình độ kỹ thuật cao, sự nhậy bén với môi
trường kinh doanh của lãnh đạo công ty. Bởi vậy cho đến tháng 3/1993 công ty đã
có số vốn là : - Vốn cố định : 613.153.115 VND
- Vốn lưu động : 2.141.681.930 VND
Trong những năm từ 1991-1993 ngoài những hoạt động nêu trên công ty đi
sâu vào tìm hiểu học hỏi công nghệ chế biến đá Granite và chế biến chúng phục vụ
nhu cầu xây dựng các công trình cao cấp của Nhà nước và xuất khẩu, tìm hiểu thị
trường đá Granite và đá Marble ở nước ngoài. Trong những năm đó ở trong do sự
phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế dẫn đến thu nhập trong nước tăng lên một cách
đáng kể và với chủ trương thu hót đầu tư nước ngoài của Nhà nước, cho nên các
chủ đầu tư nước ngoài ồ ạt đầu tư vào Việt Nam mà chủ yếu vào lĩnh vực khách
sạn. Dẫn đến, lĩnh vực xây dùng trong nước tăng lên rất mạnh cả về số lượng và
chất lượng. Về số lượng nhiều công trình lớn, nhỏ được xây dựng về chất lượng thì
đòi hỏi có các sản phẩm lát nền, ốp tường...cao cấp hơn. Do am hiểu thị trường,
tiếp cận được những thuận lợi của môi trường kinh doanh trong nước mà những
năm qua công ty đã phát triển và lớn mạnh lên rất nhiều. Sản phẩm của công ty đã
có uy tín trong nước và các nước khác biết đến. Cũng trong năm 1993 giá thiếc và
vonfram ở trên thế giới giảm đột biến. Quặng thiếc và vônfram trong nước do có
nhiều tổ chức và cá nhân thu gom nên lợi nhuận thu được từ nguồn này chưa cao.
Qua nghiên cứu thị trường trong và ngoài nước cùng với lợi thế của công ty, công
ty xét thấy sản xuất đá ốp lát để phục vụ cho các công trình trong nước và xuất
khẩu là một ngành mới mẻ và có thể mang lại lợi nhuận cao, dễ dàng trong khâu
quản lý, bảo vệ đồng thời tận dụng được nhiều nguồn lao động thủ công đến lao
động đòi hỏi có tay nghề cao. Đội ngò cán bộ chuyên viên của công ty lại am hiểu
kỹ thuật về địa chất, nắm bắt được chất lượng, trữ lượng của từng mỏ, cho nên sự
chuyển hướng kinh doanh của ban Giám đốc công ty trong thời gian này là rất phù
hợp.
Năm 1994 khi mà rất nhiều các cơ sở sản xuất gạch hoa lát nền, ốp tường và
một số công việc khác dẫn đến sự cạnh tranh trên thị trường nội địa rất gay gắt.
Trong lúc đó công ty đã tìm được một số đối tác nước ngoài có mối quan hệ từ
trước và mới có quan hệ mua sản phẩm của công ty. Trong năm này công ty đã
xuất khẩu ra các nước như : Thái Lan, Nhật Bản, Hà Lan, Indonesia, Hàn Quốc,
Pháp, Bỉ, Australia với tổng kim nghạch xuất khẩu là 269.809 USD.
Năm 1995 với lợi thế sản phẩm của mình, cùng với việc nước ngoài đầu tư
mạnh vào Việt Nam mà nhất là trong lĩnh vực khách sạn. Do vậy công ty đã quan
hệ và tìm kiếm được khách hàng cho nên tổng doanh thu tăng lên khá cao đạt
850.000 USD, song kim ngạch xuất khẩu trong tổng doanh thu rất thấp chỉ có
289.720 USD. Mét trong những nguyên nhân của vấn đề này là do ở thị trường
nước ngoài các sản phẩm đá của các nước nổi tiếng như Italia cũng đã nhảy vào
các thị trường truyền thống của công ty, cùng với vấn đề trên thì các sản phẩm thay
thế cũng phát triển mạnh và có chất lượng khá cao. Cho nên dẫn đến sự cạnh tranh
khốc liệt ở thị trường nước ngoài.
Năm 1996 công ty cũng gặp phải tình trạng như năm 1995. Song trong năm
này công ty có chủ trương mở rộng thêm một số cơ sở sản xuất, khai thác thêm
một số mỏ mới, nhập công nghệ chế tác hiện đại từ nước ngoài nhằm sản xuất ra
những sản phẩm có chất lượng cao đủ khả năng cạnh tranh với các sản phẩm của
các nước khác nhau trên thế giới, có thể giữ vững được thị trường truyền thống và
phát triển thêm các thị trường khác.
Năm 1997 đây là một năm phát triển mạnh nhất của công ty từ trước tới
nay, với tổng doanh thu là 2.142.541 USD, xuất khẩu của công ty có tăng so với
năm trước nhưng còn chiếm một tỷ trọng quá nhỏ trong tổng doanh thu, giá trị kim
ngạch xuất khẩu chỉ đạt 376.673 USD, để có được những thắng lợi trên là do công
ty có những chính sách tạo dựng môi trường kinh doanh phù hợp với thị trường
trong nước và thị trường nước ngoài. Trong năm 1997 công ty có những thuận lợi :
Công ty đã hoàn thiện một dây chuyền công nghệ hiện đại, công suất lớn
nhập từ Italia để sản xuất đá tấm Granite. Sản phẩm qua dây chuyền này có độ
bóng cao, độ dày đồng đều, kích thước hình học chuẩn xác được khách hàng trong
và ngoài nước hài lòng, ưa thích.
Để có đủ nguyên liệu cung cấp cho nhà máy công ty đã đầu tư xây dựng và
mua sắm thiết bị khai thác nhập từ Nhật Bản cho một loạt mỏ như An Trường, Hòn
Chà, Thung Dược đưa công suất khai thác của các mỏ lên tối đa.
Trong sản xuất kinh doanh công ty luôn có sự quan tâm giúp đỡ của các cơ quan
chủ quản cấp trên như : Ngân hàng Nông nghiệp Hà Nội, Ngân hàng đầu tư và phát
triển Hà Nội, Cục đầu tư phát triển Bình Định và Hà Nội...
Các cán bộ của công ty đã đi học các líp đào tạo chuyên sâu về kinh doanh
quốc tế, tiếp xúc với các nhà kinh doanh nước ngoài và học hỏi được nhiều kinh
nghiệm trong kinh doanh. Tìm hiểu kỹ thị trường và thay đổi phương thức kinh
doanh cho phù hợp với từng thị trường nước ngoài...
Bên cạnh những thuận lợi nêu trên công ty còn gặp phải một số khó khăn
nhất định làm cho công ty không thực hiện được mục tiêu kế hoạch đặt ra, năm
1997 công ty chỉ đạt 64% kế hoạch. Những khó khăn đó là :
Trong năm 1997 công ty thực hiện nhiều hợp đồng cung cấp và xây lắp đá
ốp lát lớn chưa từng có từ trước tới nay như Đại Sứ Quán Óc, Trung tâm Hội nghị
quốc tế, Cung văn hoá hữu nghị... nhưng lại thiếu vốn lưu động trầm trọng, mặc dù
cuối năm 1996 công ty đã được bổ xung vốn lưu động nhưng cũng không đáp ứng
nổi nhu cầu vốn lưu động cho các hợp đồng lớn như vậy.
Nguồn vốn đầu tư cho việc thăm dò địa chất các mỏ đá khối bằng nguồn
vốn ngân sách Nhà nước không có một đồng nào, gây khó khăn lớn cho việc đánh
giá chất lượng, trữ lượng các mỏ nguyên liệu.
Nguồn vốn tín dụng với lãi suốt ưu đãi thường có thời hạn vay từ 3,5 đến 5
năm, với thời hạn như vậy là quá ngắn đối với ngành sản xuất vật liệu xây dựng có
công nghệ phức tạp và mới mẻ như đá ốp lát.
Mét số khó khăn lớn về thị trường tiêu thụ đá ốp lát và khủng hoảng tài
chính tiền tệ khu vực Đông Nam Á đã ảnh hưởng rất lớn đến doanh thu của công
ty. Khủng hoảng tiền tệ đã làm cho thị trường xuất khẩu không ổn định, nhiều hợp
đồng đã ký kết, thậm chí đã mở L/C hoặc đã ứng vốn trước vẫn không thực hiện
được nghiêm chỉnh mặc dù tỷ giá đôla Mỹ tăng lên ví dụ như ở Thái Lan, Hàn
Quốc, Indonesia...
Tại các địa phương việc tranh chấp mỏ ngày càng tăng làm cho công việc
sản xuất kinh doanh của các xí nghiệp gặp nhiều khó khăn, gây phiền hà, tốn kém
và mất thời gian cho các đơn vị thành viên.
Tóm lại : Qua xem xét về sự thay đổi môi trường kinh doanh của công ty phát
triển khoáng sản (MIDECO) từ khi thành lập đến nay, ta nhận thấy rằng công ty
đã có những chính sách khá phù hợp, thay đổi hoạt động kinh doanh của mình để
phù hợp và đáp ứng nhu cầu của thị trường trong nước cũng như ngoài nước. Do
đó doanh thu của công ty đã tăng mạnh theo các năm, sản phẩm của công ty đa có
uy tín trên thị trường trong nước và cũng đã được biết đến ở nhiều thị trường nước
ngoài. Nhưng nhìn chung thì chủ yếu ở thị trường trong nước còn ở thị trường
nước ngoài kim ngạch xuất khẩu vẫn rất thấp. Và nhất là thời gian gần đây, do
cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ ở Đông Nam Á làm cho môi trường kinh doanh
ở những nước mà đang là bạn hàng chủ yếu của công ty bị thay đổi. Cho nên công
ty cần phải có những chính sách, biện pháp thích hợp để tạo dựng môi trường kinh
doanh quốc tế của mình ngày một phù hợp và tốt hơn nữa nhằm đẩy mạnh hoạt
động xuất khẩu.
2. THỰC TRẠNG XUẤT KHẨU ĐÁ ỐP LÁT Ở CÔNG TY MIDECO.
2.1. Thị trường xuất khẩu.
Khi mà nền kinh tế của nước ta chuyển đổi từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung
quan liêu bao cấp sang nền kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo
định hướng xã hội chủ nghĩa thì hoạt động kinh doanh trở nên sôi động, sự cạnh
tranh ở thị trường trong nước và cả thị trường nước ngoài là hết sức khốc liệt. Các
công ty chủ động trong hoạt động kinh doanh của mình, không còn làm theo chỉ
thị, kế hoạch mà Nhà nước đặt ra. Trong lúc nền kinh tế thị trường ở Việt Nam còn
quá mới mẻ, các chính sách, các qui định của Nhà nước còn thiếu chặt chẽ, thiếu
hợp lý thì công ty MIDECO được thành lập. Những năm đầu khi mới thành lập
công ty chủ yếu sản xuất các mặt hàng phục vụ tiêu dùng trong nước. Qua một
năm hoạt động công ty không những sản xuất ra sản phẩm đủ phục vụ tiêu dùng
trong nước mà còn xuất khẩu. Với sự nhạy bén trong kinh doanh và sự điều chỉnh
phù hợp với những thay đổi của môi trường kinh doanh trong nước cũng như ngoài
nước. Cho nên đã phục vụ cho một số công trình lớn của Nhà nước và cũng đã
tham gia xuất khẩu.
Qua vài năm hoạt động, hiện nay sản phẩm của công ty đã có mặt ở nhiều
nước, chủ yếu ở Châu Á và Châu Âu.
Bảng 1 : Cơ cấu xuất khẩu theo thị trường của công ty MIDECO.
ST
T
NĂM 1994 1995 1996 1997
KHU VỰC TỔNG SÈ
(USD)
TT
%
TỔNG SÈ
(USD)
TT
%
TỔNG SÈ
(USD)
TT
%
TỔNG SÈ
(USD)
TT
%
1 KVỰC CHÂU Á 159896 59,3 196900 67,9 158806 68,
8
215497 57,2
2 KVỰC CHÂU ÂU 109413 40,5 92821 32,1 71914 31,
2
122067 32,4
3 KVỰC KHÁC 500 0,2 39109 10,4
TỔNG 269804 100 289720 100 230721 100 376673 100
(Nguồn : Báo cáo tổng kết năm 1994 - 1997)
Qua bảng trên ta thấy thị trường xuất khẩu của công ty nhìn chung có tăng
về số lượng, kim nghạch xuất khẩu tăng, mở rộng thêm thị trường. Đặc biệt năm
1997 đã tăng được thị phần của mình ở các thị trường cũ và phát triển thêm các thị
trường khác, nhưng nhìn chung những năm qua thị trường xuất khẩu của công ty
chủ yếu vẫn là thị trường Châu Á và Châu Âu. Tuy nhiên kim nghạch xuất khẩu
của công ty phát triển không đồng đều, năm 1995 tăng nhưng năm 1996 lại giảm
và sang năm 1997 lại tăng lên đáng kể. Trong sự giảm sút của năm 1996 là do
nhiều nguyên nhân, nhưng một trong những nguyên nhân quan trọng đó là môi
trường kinh doanh cả môi trường bên trong công ty, môi trường trong nước và môi
trường ngoài nước có sự thay đổi. Năm 1996 công ty chủ trương phát triển một số
cơ sở sản xuất nữa cho nên phải tập trung vốn và nhân lực vào đó. Mặt khác trên
thị trường đang xuất hiện một số sản phẩm thay thế mà chất lượng của nó cũng khá
cao. Cùng với những nguyên nhân trên là một số nước đang là bạn hàng của công
ty có thay đổi chính sách kinh tế của mình.
Bước sang đầu năm 1997 khi đã tạo dựng được một số cơ sở mới, hoạt động
sản xuất đi vào nề nếp, cùng với việc nhập khẩu các dây chuyền sản xuất hiện đại
và tuyển thêm công nhân có tay nghề cao, cho nên chất lượng sản phẩm cũng được
nâng cao, thị trường xuất khẩu tăng và một số bạn hàng cũ cũng nhập khẩu nhiều
hơn như : Thái Lan, Australia, Pháp... Nhưng đến cuối năm 1997 do cuộc khủng
hoảng tài chính ở Đông Nam Á đã làm cho môi trường kinh doanh ở đây thay đổi
và có ảnh hưởng đến môi trường kinh doanh ở khu vực cùng một số nước khác,
trong đó có Việt Nam dẫn đến ảnh hưởng tới việc sản xuất và xuất khẩu các sản
phẩm đá của công ty.
Xét về tổng thể thị trường xuất khẩu của công ty thì thị trường Châu Á vẫn
giữ một vai trò hết sức quan trọng. Năm 1994 thị trường khu vực Châu Á chiếm
59,3% trong kim ngạch xuất khẩu của công ty. Tỷ trọng này tiếp tục tăng lên trong
năm 1995 với mức là 67,9%, năm 1996 với mức 68,8% và năm 1997 là 57,2%
nhìn vào tỷ trọng kim ngạch xuất khẩu thì trong năm 1997 giảm nhưng xét về tổng
kim ngạch xuất khẩu thì tăng lênvà đạt là 215.479 USD.
Tỷ trọng kim ngạch xuất khẩu của công ty sang khu vực thị trường Châu Âu
có mức biến động, năm 1994 tỷ trọng là 40,5%, nhưng những năm tiếp theo lại
giảm xuống, năm 1995, 1996, 1997 tương ứng là 32,1%, 31,2%, 32,4%. Hiện nay
khu vực thị trường này còn đang chiếm một tỷ trọng nhỏ trong kim ngạch xuất
khẩu của công ty. Song tương lai thì thị trường này là khu vực thị trường lớn của
công ty, tuy nhiên thị trường này là một khu vực thị trường khó tính, nó luôn luôn
đòi hỏi phải nhập khẩu nhưng sản phẩm có chất lượng cao, mẫu mã đẹp, chủng
loại sản phẩm phong phú... Và nhất là hiện nay môi trường kinh doanh ở Châu Á
có biến động mạnh. Do đó thị trường Châu Âu sẽ là khu vực thị trường thuận lợi
và hấp dẫn đối với công ty.
Còn các thị trường khác chiếm một tỷ trọng rất nhỏ trong kim ngạch xuất
khẩu của công ty. Năm 1994 chỉ chiếm 0,2% trong tổng kim ngạch xuất khẩu, năm
1995,1996 lại không xuất khẩu được sản phẩm nào, nhưng năm 1997 các thị
trường này tăng lên một cách rõ rệt đã chiếm tới 10,4% kim ngạch xuất khẩu của
công ty. Điều này chứng tỏ công ty đã mở rộng được thị trường xuất khẩu của
mình, công ty đã có chính sách thay đổi sản phẩm của mình cho phù hợp với từng
khu vực thị trường khác nhau.
Trên đây là những nghiên cứu chung nhất về thị trường xuất khẩu của công
ty MIDECO. Muốn để cụ thể hoá hơn nữa chúng ta phải đi nghiên cứu chi tiết từng
thị trường xuất khẩu và xem xét sự biến động của từng thị trường.
Bảng 2 : Cơ cấu kim ngạch xuất khẩu theo thị trường của công ty MIDECO.
STT NĂM 1994 1995 1996 1997
THỊ TRƯỜNG
TỔNG SÈ
(USD)
TT
%
TỔNG SÈ
(USD)
TT
%
TỔNG SÈ
(USD)
TT
%
TỔNG SÈ
(USD)
TT
%
1 THÁI LAN 99636 36,9 127428 44 124192 53,8 133689 35,5
2 NHẬT BẢN 46686 17,3 38331 13,2 8611 3,7 14457 3,8
3 HÀ LAN 35000 13 24391 8,6 13373 5,8 37168 9,8
4 ĐÀI LOAN 7765 3,4
5 LUXAMBUA 67889 23,4 30214 13,1 6680 1,8
6 INDONESIA 6800 2,52 17371 6 8238 7,9 35761 9,5
7 PHÁP 51200 19 14060 6,1 16835 4,5
8 HÀN QUỐC 6726 2,5 81140 21,5
9 BỈ 23213 8,6 11840 3,1
10 LÀO 13770 4,8
11 BA LAN 14267 6,2
12 ÓC 800 0,18 39109,0
6
10,4
TKNXK 269809 100 289720 100 230720 100 376673 100
(Nguồn : Báo cáo tổng kết năm 1994 -1997)
Qua bảng trên ta thấy trong những năm 1994 - 1997 các thị trường Thái
Lan, Hà Lan, Indonesia là những thị trường tương đối ổn định và là những thị
trường chiếm một tỷ trọng lớn trong kim ngạch xuất khẩu của công ty. Đặc biệt với
thị trường Thái Lan luôn chiếm tỷ trọng cao nhất. Ở thị trường Thái Lan những
năm 1994 -1997 có tỷ trọng kim ngạch xuất khẩu tương ứng là 36,9%; 44%;
53,8%; 35,5%. Ở thị trường Indonesia tăng lên đáng kể, năm 1994, 1995, 1996 và
1997 với giá trị là 6800 USD, 17371 USD, 18238 USD và 35761 USD, tương ứng
với tỷ trọng kim ngạch xuất khẩu là 2,52%, 6%, 7,9% và 9,5%. Còn ở thị trường
Hà Lan thì có biến động không đều năm 1994 với giá trị xuất khẩu là 35000 USD
chiếm tỷ trọng 13% trong kim ngạch xuất khẩu, sang năm 1995,1996 giảm xuống
chỉ còn là 24391 USD, 13373 USD với tỷ trọng tương ứng là 6,8%, 5,8% và đến
năm 1997 tăng lên một cách đáng kể với giá trị là 37162 USD tương ứng với tỷ
trọng là 9,5% trong kim ngạch xuất khẩu của công ty. Thị trường Hàn Quốc là thị
trường khá hấp dẫn trong thời gian gần đây, trong năm 1997 công ty đã xuất khẩu
được 81139,6 USD sang thị trường này và chiếm một tỷ trọng khá lớn là 21,54%
trong tổng kim ngạch xuất khẩu, ở thị trường này chỉ có năm 1994 là công ty xuất
khẩu được còn năm 1995, 1996 thì không xuất khẩu được sản phẩm nào. Cùng với
thị trường Hàn Quốc thị trường Bỉ, Óc năm 1997 cũng nhập khá nhiều sản phẩm
của công ty và năm 1995,1996 thì cũng không nhập. Bên cạnh những thị trường
mới mở rộng thêm trong năm 1997 thì trong năm này công ty cũng bỏ lỡ mất 2 thị
trường là Đài Loan và Ba Lan, mà những thị trường này cũng rất hấp dẫn, là những
nước có nền kinh tế phát triển khá ổn định, chính sách kinh tế không khắt khe
lắm...
Tóm lại : Qua nghiên cứu thị trường xuất khẩu của công ty MIDECO cả về
khu vực thị trường và các thị trường cụ thể, tuy nhiên xét trên tỷ trọng của từng
khu vực và tỷ trọng của từng thị trường một theo từng năm thì cũng chưa phản ánh
hết được mức tăng, giảm hay ổn định. Nhưng nếu xét về tổng số giá trị USD đạt
được trên từng khu vực và từng thị trường cụ thể thì ta nhận thấy rằng đến năm
1997 công ty cũng đã đẩy nhanh được tốc độ xuất khẩu ở các thị trường truyền
thống và cũng đã mở rộng được sang thị trường khác. Nhưng ngược lại cũng có
những thị trường mà công ty đã bỏ lỡ không xuất khẩu sang được. Việc tăng kim
ngạch xuất khẩu trong năm 1997 chủ yếu vào những tháng đầu năm còn về cuối
năm thì chững lại. Có rất nhiều nguyên nhân làm giảm sút, song mét trong những
nguyên nhân đó là do môi trường kinh doanh bên trong và bên ngoài bị thay đổi
mà công ty chưa kịp thời nắm bắt và thay đổi cho phù hợp, chưa nghiên cứu và mở
rộng nhiều hơn nữa các thị trường xuất khẩu và chưa đa dạng hoá được sản phẩm
xuất khẩu ... Bởi vậy kim ngạch xuất khẩu của công ty có tăng song chưa có bước
đột biến và chưa ổn định theo từng năm.
2.2. Cơ cấu mặt hàng xuất khẩu.
Những năm đầu khi mới đi vào hoạt động công ty chủ yếu sản xuất các sản phẩm
phục vụ trong nước, đi vào thăm dò, khai thác các mỏ tự nhiên, dẫn khách nước
ngoài đi thăm quan các mỏ, giới thiệu với họ những tài nguyên hiếm có mà thiên
nhiên mang lại cho Việt Nam, đây là điểm lợi thế nhất của vị trí địa lý Việt Nam.
Khi đã tạo dựng được một số thuận lợi trong môi trường kinh doanh bên
trong và bên ngoài. Công ty đã đi vào khai thác, chế biến các sản phẩm đá mà chủ
yếu là đá Granite và đá Marble để xuất khẩu. Tuy nhiên các sản phẩm đá này có
thể khai thác xuất khẩu trực tiếp không cần qua chế biến. Để thấy được sự thay đổi
các mặt hàng xuất khẩu của công ty qua từng năm ta xem bảng dưới đây.
Bảng 3 : Cơ cấu mặt hàng xuất khẩu của công ty qua các năm
(trang bên)
Qua bảng 3 ta thấy rằng mặt hàng xuất khẩu của công ty còn rất nghèo nàn,
trong các mặt hàng của công ty thì chủ yếu là đá khối và đá tấm. Chúng chiếm một
tỷ trọng rất lớn trong kim ngạch xuất khẩu của công ty, đặc biệt là đá khối kim
ngạch xuất khẩu tăng dần theo các năm. Năm 1994, 1995, 1996 và 1997 với giá trị
xuất khẩu tương ứng là 86542 USD, 187728 USD, 151042 USD và 175395 USD,
tỷ trọng kim ngạch xuất khẩu tương ứng là 32,1%, 64,8%, 65,5% và 46,5%. Sở dĩ
đá khối có kim ngạch xuất khẩu cao là do công ty có nguồn nguyên liệu khá dồi
dào, màu sắc đa dạng, chất lượng cao... Đây là một lợi thế để công ty chiếm được
thị trường đá khối mà các nước khác kém lợi thế hơn.
Mặt hàng chiếm lợi thế thứ hai là đá tấm, kim ngạch xuất khẩu cũng khá
cao và khá ổn định theo các năm. Năm 1994, 1995, 1996 và 1997 với giá trị kim
ngạch xuất khẩu là 73854 USD, 101997 USD, 56810 USD và 74248 USD tương
ứng với tỷ trọng là 27,4%, 35,2%, 28,5% và 19,7%.
Năm 1997 công ty xuất khẩu thêm loại sản phẩm đá đục mà hai năm trước
1995,1996 công ty không xuất khẩu được sản phẩm nào, chỉ có năm 1994 xuất
khẩu được 51200 USD chiếm tỷ trọng là 19% trong kim ngạch xuất khẩu, nhưng
năm 1997 đã tăng lên đáng kể với giá trị là 100780 USD chiếm tỷ trọng là 26,8%.
Loại đá bồn hoa năm 1994 và năm 1996 xuất khẩu được với giá trị tương
ứng là 23213 USD và 10879 USD, song năm 1995 và 1997 lại không xuất khẩu
được sản phẩm nào.
Còn các loại đá khác chiếm một tỷ trọng rất nhỏ trong kim ngạch xuất khẩu
của công ty và không đồng đều theo các năm. Đây là điểm yếu của công ty trong
việc đa dạng hoá mặt hàng xuất khẩu, đa dạng hoá thị trường xuất khẩu. Nếu như
công ty khắc phục được những điểm yếu trên thì sẽ có cơ hội tăng kim ngạch xuất
khẩu, tăng lợi nhuận, giảm thách thức, giảm rủi ro, tăng khả năng cạnh tranh trên
trường quốc tế.
Như vậy qua việc nghiên cứu cơ cấu mặt hàng xuất khẩu của công ty ta có
thể kết luận rằng : Mặt hàng xuất khẩu chính của công ty là sản phẩm đá khối và
đá tấm. Trong đó tỷ trọng kim ngạch xuất khẩu đá tấm giảm dần, tỷ trọng kim
ngạch xuất khẩu đá khối lại tăng dần trong những năm từ 1994 - 1996, còn năm
1997 về giá trị kim ngạch xuất khẩu tăng nhưng về tỷ trọng lại giảm, bởi vì trong
năm này công ty xuất khẩu được nhiều đá đục và các loại đá khác. Thị trường xuất
khẩu các loại sản phẩm này rất khác nhau, cụ thể đối với sản phẩm đá khối thì thị
trường xuất khẩu chủ yếu là Nhật Bản và Thái Lan ngoài ra có thêm thị trường
Indonesia, Hà Lan... Thị trường xuất khẩu đá tấm lại thay đổi liên tục và đang có
xu hướng chuyển dần sang thị trường Châu Âu.
Kết luận : Bằng việc xem xét, nghiên cứu số liệu xuất khẩu của công ty phát
triển khoáng sản (MIDECO) qua 4 năm từ năm 1994 -1997, ta thấy rằng tình hình
xuất khẩu của công ty biến động liên tục qua các năm cả về giá trị kim ngạch xuất
khẩu, tỷ trọng kim ngạch xuất khẩu, thị trường xuất khẩu và mặt hàng xuất khẩu.
Tỷ trọng kim ngạch xuất khẩu trên tổng doanh thu của công ty theo các năm lại
giảm dần, năm 1994 tổng doanh thu là 510.000 USD trong đó xuất khẩu đạt
268.809 USD, năm 1995 tổng doanh thu là 850.000 USD trong đó xuất khẩu đạt
289.720 USD, năm 1996 tổng doanh thu là 889.859 USD trong đó xuất khẩu đạt
203.720 USD, năm 1997 tổng doanh thu là 2.142.541 USD trong đó xuất khẩu đạt
376.673 USD.
Thị trường xuất khẩu của công ty gồm : thị trường Châu Á mà chủ yếu là
Nhật Bản và Indonesia ; thị trường Châu Âu trong đó có Hà Lan, Pháp, Luxambua
và một số nước khác. Các thị trường của công ty tiêu thụ không đồng đều theo các
năm, có năm tiêu thụ nhiều có năm tiêu thụ Ýt, chỉ có một số thị trường tương đối
ổn định như Thái Lan, Nhật Bản, Indonesia, Hà Lan đây là những thị trường truyền
thống của công ty. Thị trường tiêu thụ lớn nhất của công ty là thị trường Thái Lan
với giá trị kim ngạch xuất khẩu của công ty luôn đứng hàng đầu và nhìn chung có
xu hướng tăng lên.
Mặt hàng xuất khẩu chính của công ty là đá khối và đá tấm, ngoài ra còn
một số sản phẩm khác như đá đục, đá bồn hoa... Trong tất cả các mặt hàng xuất
khẩu thì mặt hàng đá khối luôn chiếm một vị trí quan trọng trong kim ngạch xuất
khẩu của công ty, tiếp sau là sản phẩm đá tấm, còn các loại đá khác chiếm một
phần rất nhỏ trong kim ngạch xuất khẩu của công ty, nhưng các mặt hàng này có
xu hướng gia tăng trong thời gian tới.
Do những biến động trên thị trường và nhất là hiện nay các thị trường
truyền thống của công ty đang rơi vào cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ rất lớn,
cho nên các nước này đang có những chính sách rất khác nhau nhằm cứu vít nền
kinh tế của mình. Do vậy công ty cần phải đánh giá, xem xét, nghiên cứu kỹ thị
trường xuất khẩu, đa dạng hoá sản phẩm, cải tiến sản phẩm và tìm kiếm thêm thị
trường ... để đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu của mình.
3. PHÂN TÍCH TÁC ĐỘNG CỦA SỰ THAY ĐỔI MÔI TRƯỜNG KINH DOANH ĐẾN
VIỆC SẢN XUẤT VÀ TIÊU THỤ SẢN PHẨM ĐÁ ỐP LÁT CỦA CÔNG TY MIDECO.
ông ty phát triển khoáng sản (MIDECO) là một trong những công ty hàng
đầu của Việt Nam về khai thác, chế biến và cung cấp đá ốp lát. Với đặc
điểm của sản phẩm là chủ yếu phục vụ cho xây dựng, nó không giống như các sản
phẩm khác hoặc như các sản phẩm tiêu dùng thông thường, việc tiêu dùng sản
phẩm này phụ thuộc rất nhiều vào đời sống kinh tế xã hội cả trong nước và ngoài
nước.
C
Sau khi Đại hội Đảng lần thứ IV với đường lối đổi mới, nền kinh tế nước ta
dần khôi phục, mức tăng trưởng ngày càng cao, đời sống nhân dân được cải thiện,
đó là điều kiện quan trọng cho sự phát triển của công ty. Từ khi thành lập, công ty
đã hướng hoạt động sản xuất của mình vào việc khai thác đá khối, chế tác đá khối
và đá tấm còn rất mới mẻ ở nước ta. Sau khi nghiên cứu kỹ thị trường trong nước
và ngoài nước công ty đã tìm thấy chỗ trống trên thị trường về sản phẩm đá ốp lát,
cho nên công ty đã thành lập các nhà máy sản xuất đá Granite và đá Marble. Qua
một thời gian hoạt động công ty đã nâng cao dần chất lượng của sản phẩm đáp ứng
nhu cầu trong nước và có thể xuất khẩu.
Mặt khác, việc đổi mới chính sách ngân hàng, tài chính, cắt bỏ bớt hàng rào
khắc nghiệt đã tạo điều kiện cho công ty vay vốn, được quyền tính toán sử dụng,
huy động vốn một cách hợp lý, giúp cho công ty có điều kiện tăng cường đổi mới
công nghệ, kỹ thuật, cải tạo và tăng thêm cơ sở vật chất, đảm bảo nguyên liệu để
đáp ứng nhu cầu tiêu dùng ngày càng tăng và đòi hỏi chất lượng cao.
Để thấy được điều đó ta hãy xem bảng các mặt hàng nhập khẩu sau.
Bảng 4 : Các mặt hàng nhập khẩu từ năm 1994 - 1997
STT Năm
Mặt hàng
1994 1995 1996 1997
(Nguồn : Báo cáo tổng kết năm 1994 -1997)
Nhờ việc nhập khẩu máy móc, thiết bị, dây chuyền sản xuất mới, cho nên
công suất và chất lượng được nâng cao, sản phẩm được tiêu thụ ngày một tăng (cả
tiêu thụ trong nước và xuất khẩu).
Năm 1991 - năm đầu tiên kinh doanh đá ốp lát, doanh thu tiêu thụ mặt hàng
này đã đạt được 156.069 USD. Một điểm thành công nữa trong năm 1991 là công
ty đã mở được văn phòng đại diện ở Quy Nhơn, Đà Nẵng để tăng cường công tác
điều hành hoạt động trong việc thăm dò mặt hàng đá Granite các màu, cũng trong
năm này công ty đã cử đoàn cán bộ đi tham khảo các vùng, lập bản đồ kế hoạch
vùng có trữ lượng triển vọng về đá Granite ở Quy Nhơn cũng như các loại đá khác
như đá Marble ở Thanh Hoá, Bắc Thái. Công ty đã tìm được 11 loại đá ốp lát và đã
đàm phán ký kết được 10 hợp đồng xuất khẩu ra nước ngoài với khối lượng lớn
chuẩn bị xuất khẩu trong năm 1992.
Với chính sách thu hót vốn đầu tư nước ngoài tại Việt Nam, các nhà đầu tư
nước ngoài đã đầu tư mạnh vào Việt Nam thành lập các xí nghiệp liên doanh, trụ
sở, văn phòng đại diện, xây dựng các khách sạn... cho nên nhu cầu đá ốp lát ngày
càng tăng. để đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng và đa dạng công ty đã mạnh dạn
nhập máy móc, công nghệ thay đổi sản phẩm để cho sản phẩm bền đẹp, đầy đủ
kích cỡ và màu sắc. Do đó, doanh thu trng các năm 1991 - 1993 tăng lên một cách
đáng khích lệ.
Bảng 5 : Doanh thu tiêu thụ đá ốp lát năm 1992
(Nguồn : Báo cáo tổng kết năm 1992 của công ty MIDECO)
Bảng 6 : Doanh thu tiêu thụ đá ốp lát năm 1993
(Nguồn : Báo cáo tổng kết năm 1993 của công ty MIDECO)
Trong năng 1992 để đáp ứng nhu cầu của khách hàng trong nước và để giới
thiệu sản phẩm của mình trên thị trường thế giới, công ty đã xây dựng xưởng thực
nghiệm tại 67 Trường Chinh - Hà Nội, tại đây cung cấp các sản phẩm đá ốp lát với
đủ loại kích cỡ, mầu sắc ra thị trường trong nước và ngoài nước. Với kiến thức và
trình độ của cán bộ quản lý công ty, với sự nhạy bén với cơ chế thị trường và nắm
bắt được cơ hội trong kinh doanh ngay năm 1991 công ty đã quan hệ với nhiều bạn
hàng nước ngoài và sang năm 1992 đã xuất khẩu được các loại đá Granite đỏ,
vàng, hồng ... phù hợp với từng thị trường nước ngoài.
Sù ổn định chính trị cùng với việc ban hành luật pháp, chính sách tạo ra
khuôn khổ pháp lý, hướng đi của xã hội. Việc mạnh dạn cắt bỏ ”bầu sữa” đã gần
như cạn kiệt của chế độ bao cấp, xác lập quyền tự chủ của các doanh nghiệp là một
yếu tố hết sức quan trọng thúc đẩy tự lực của công ty. Với điều kiện như vậy công
ty làm công tác xây dựng kế hoạch, kết hợp chặt chẽ giữa nhu cầu thị trường với
khả năng cũng như lợi thế của mình, bảo đảm tính tích cực, tính sát thực và tính
khả thi, nên khi thực hiện đạt được kết quả và hiệu quả cao.
Hiểu được đặc điểm của cơ chế thị trường ngay từ đầu công ty đã có chủ
trương nắm vững thị trường, quan tâm đến thị trường đầu ra và thị trường đầu vào,
thị trường các sản phẩm thay thế, các đối thủ cạnh tranh sẽ nhảy vào thị trường.
Với thời gian đầu lượng thông tin còn Ýt ỏi, mạng lưới tiêu thụ chưa được hình
thành ... Nhưng sau một thời gian hoạt động do những nỗ lực và cố gắng, sản phẩm
của công ty tiêu thụ ngày càng nhiều hơn và đặc biệt thị trường xuất khẩu của
chúng tôi ngày càng phong phó, doanh thu xuất khẩu mỗi năm một tăng. Để thấy
được điều đó chúng ta xem bảng đưới đây.
Bảng 7 : Tổng doanh thu và kim ngạch xuất khẩu của công ty từ năm 1994 -1997
đơn vị : USD
(Nguồn : Báo cáo tổng kết năm 1994 - 1997 của công ty MIDECO )
Để đạt được mức tiêu thụ khổng lồ trên là nhờ một phần vào điều kiện kinh
tế trong nước và ngoài nước. Trong nước khi chuyển đổi cơ chế thì mức tăng
trưởng kinh tế mỗi năm một cao, thu nhập bình quân đầu người tăng lên, mức sống
cao, nhu cầu tăng lên, đòi hỏi những sản phẩm có chất lượng cao, mẫu mã đẹp, có
thẩm mĩ... Ở nước ngoài, hầu hết các nước trong những năm gần đây đều có mức
tăng trưởng khá, nhất là những nước đang là bạn hàng của công ty như Thái Lan,
Nhật Bản, Indonesia, Hàn Quốc... Do đó, tiêu dùng sản phẩm của công ty tăng lên.
Ngoài những thuận lợi nêu trên, công ty đi sâu vào tổ chức sắp xếp lại sản
xuất, cải tổ mạnh mẽ về nhiều mặt trong đó có nhân sù : cho công nhân viên cán bộ
của công ty đi học để nâng cao tay nghề, trình độ tổ chức hoạt động kinh doanh và
học hỏi những kinh nghiệm kinh doanh... để tạo ra được sức mạnh đủ để cạnh
tranh trên thị trường trong nước cũng như quốc tế. Công ty đã thành lập thêm một
số cơ sở sản xuất kinh doanh và các xí nghiệp khai mỏ mới cùng với việc tổ chức
liên doanh liên kết, thành lập ra các xí nghiệp liên doanh cả liên doanh trong nước
và liên doanh với nước ngoài. Để nâng cao năng lực và hiệu quả của quản lý công
ty đã từng bước tinh giản bộ máy quản lý sao cho gọn nhẹ, đội ngò cán bộ quản lý
được trẻ hoá và nâng cao trình độ, các bộ phận từng bước được chuyên môn hoá và
hợp lý hoá. Chức năng lãnh đạo quản lý của Đảng, Giám đốc, các tổ chức quần
chúng được phân định rõ ràng, tránh bớt sự chồng chéo, không ăn khớp, tạo ra sự
đồng bộ trong chỉ đạo.
Trên cơ sở chính sách tiền lương có thay đổi cho phù hợp, công ty triển khai
mạnh mẽ việc phân phối tiền lương, tiền thưởng theo kết quả lao động (gắn chặt
với năng suất, chất lượng, tiết kiệm và hiệu quả công tác) đã tạo động lực cho các
cán bộ công nhân viên, gắn họ với công việc làm cho họ có sự say mê với công
việc, khuyến khích phát triển năng lực cá nhân... tạo động lực thúc đẩy phát triển
sản xuất, đạt được mục tiêu tăng sản lượng, chất lượng, giảm giá thành.
Đồng thời đẩy mạnh việc hạch toán kinh doanh, tính toán lỗ lãi để kịp thời
có biện pháp chỉ đạo sản xuất và xây dựng chiến lược phát triển. Cùng với sự ổn
định chính trị, với đường lối mở cửa, chính sách kinh tế đa phương, có môi trường
đầu tư hấp dẫn, chính sách đầu tư cởi mở đã có sức thu hót đầu tư nước ngoài vào
Việt Nam. Bắt nhịp với điều kiện này công ty chủ trương mở rộng liên doanh liên
kết để giải quyết khó khăn của mình là thiếu vốn, thiếu kỹ thuật và công nghệ tiên
tiến, thiếu kinh nghiêm quản lý, thừa lao động. Cho nên sau mấy năm hoạt động
công ty đã thành lập được hai liên doanh với nước ngoài.
Mét là công ty liên doanh vàng Bồng Miêu ; đây là công ty liên doanh giữa
Bong Mieu Holding Ltd, công ty phát triển khoáng sản (MIDECO) và công ty
khoáng sản Quảng Nam (DAMINCO). Tỷ lệ góp vốn của bên nước ngoài 80%,
bên Việt Nam 20%, trong đó công ty MIDECO 10% và là cơ quan đại diện cho
bên Việt Nam.
Tổng vốn đầu tư : 15.000.000 USD
- Vốn pháp định : 1.000.000 USD
Trong đó + Nước ngoài : 800.000 USD
+ Việt Nam : 200.000 USD
Công ty này thành lập với mục đích là thăm dò và khai thác vàng, song nó
cũng tạo điều kiện cho việc phát triển các sản phẩm đá truyền thống của công ty
MIDECO.
Hai là công ty liên doanh Nikel Bản Phóc ; đây là công ty liên doanh giữa
công ty Asian Mineral Resources Nikel Ltd (AMR), công ty MIDECO và xí
nghiệp cơ khí Sơn La. Tỷ lệ góp vốn bên nước ngoài 70%, bên Việt Nam công ty
MIDECO 20%, xí nghiệp cơ khí Sơn La 10%, đơn vị quản lý trực tiếp trong liên
doanh là công ty phát triển khoáng sản (MIDECO).
Tổng vốn đầu tư : 18.570.000 USD
- Vốn pháp định : 5.571.000 USD
Trong đó + Nước ngoài : 3.899.700 USD
+ Việt Nam : 1.671.300 USD
Công ty này chủ yếu đi vào thăm dò và khai thác các mỏ Nikel, nhưng bên
cạnh hoạt động chính của nó, liên doanh cũng phục vụ cho việc sản xuất kinh
doanh các sản phẩm đá của công ty MIDECO.
Đường lối kinh tế mở đã cho phép công ty tiếp xúc với nước ngoài, tìm
kiếm thị trường, công nghệ kỹ thuật mới, thu thập thông tin, mua bán trao đổi, học
tập kinh nghiệm để áp dụng vào thực tiễn của mình (công ty đã cử nhiều cá nhân
và đoàn đi thăm quan, khảo sát, quan hệ ngoại giao... và đã thu được kết quả tốt,
tiếp thu được kỹ thuật công nghệ hiện đại, cung cách quản lý cũng như cách tiếp
cận chiếm lĩnh thị trường).
Với sự phát triển mạnh mẽ của hàng hoá công nghiệp trong nước cũng như
trên toàn thế giới, cùng với cơ chế mở cũng đã khuyến khích phát triển sản xuất
kinh doanh, các doanh nghiệp được quyền tự do lùa chọn hình thức kinh doanh,
nghành nghề kinh doanh ... Cho nên tất cả các hàng hoá trên thị trường đều có thể
xảy ra sự cạnh tranh khốc liệt. Với sản phẩm đặc thù của công ty thời gian vừa qua
trong nước thì gần như độc quyền, còn trên thương trường quốc tế thì cũng có sự
cạnh tranh nhưng chưa mạnh mẽ lắm bằng các sản phẩm thiết yếu khác. Song có
thể nói hiện nay đời sống xã hội được nâng cao, nhu cầu đòi hỏi ngày một cao cả
về chất lượng cũng như số lượng, và cùng với sự nhạy bén trong kinh doanh thì sản
phẩm đá ốp lát sẽ trở thành một sản phẩm cạnh tranh khá khốc liệt trên thương
trường. Mặt khác với cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ Đông Nam Á vừa qua làm
cho môi trường kinh doanh ở khu vực này bị thay đổi. Các chính sách kinh tế thay
đổi, thắt chặt chi tiêu nhằm cứu vãn nền kinh tế đang tăng trưởng với con số rất
thấp thậm chí bằng 0%, mà những nước đang bị khủng hoảng nặng nề lại là những
bạn hàng truyền thống của công ty, cho nên nó có ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động
sản xuất kinh doanh của công ty. Điều này được thể hiện là cuối năm 1997 hầu như
công ty không xuất khẩu được sản phẩm của mình sang các thị trường này. Chẳng
hạn như : Indonesia, Hàn Quốc, Thái Lan... và mấy tháng đầu năm 1998 thì chưa
xuất khẩu được sản phẩm nào sang thị trường này.
Tóm lại : Môi trường kinh doanh có ảnh hưởng hết sức to lớn cho sự phát
triển của mỗi doanh nghiệp nói chung và của công ty phát triển khoáng sản
(MIDECO) nói riêng, môi trường kinh doanh thuận lợi là bệ phóng, điểm tựa vững
chắc cho sự vươn lên của mỗi doanh nghiệp, của công ty. Nếu môi trường kinh
doanh xấu không những kìm hãm, cản trở mà có khi còn làm cho công ty lâm vào
tình trạng phá sản. Mỗi thị trường khác nhau thì lại có một môi trường kinh doanh
không giống nhau, trong một môi trường kinh doanh thì cũng có những nhân tố tác
động tích cực cũng có những nhân tố tác động tiêu cực. Do đó công ty MIDECO
cần phải tạo dùng cho mình một môi trường kinh doanh nội bộ đủ mạnh, thay đổi
mục tiêu, hình thức hoạt động kinh doanh của mình cho phù hợp với những thay
đổi của môi trường kinh doanh bên ngoài để có cơ hội phát triển và có thể đứng
vững trên thương trường.
III. MỘT SỐ ĐÁNH GIÁ VỀ MÔI TRƯỜNG KINH DOANH VỚI HOẠT ĐỘNG
XUẤT KHẨU ĐÁ ỐP LÁT Ở CÔNG TY MIDECO.
1. NHỮNG ƯU ĐIỂM TRONG TẠO DỰNG MÔI TRƯỜNG KINH DOANH XUẤT
KHẨU CỦA CÔNG TY.
ua gần 10 năm hoạt động công ty phát triển khoáng sản (MIDECO) đã lớn
mạnh cả về số lượng và chất lượng :Q
Về số lượng : Ngay từ khi thành lập với số vốn Ýt ỏi, cán bộ công nhân
viên của công ty chỉ có hơn 10 người. Sau 1 năm hoạt động số vốn và nhân lực của
công ty đã tăng lên, và đến nay số vốn hoạt động của công ty cũng khá lớn, mở
rộng nhiều cơ sở sản xuất kinh doanh, khai thác mỏ, kết hợp với việc thành lập các
xí nghiệp mới là việc tham gia hai liên doanh với nước ngoài...
Về chất lượng : Sản phẩm của công ty mới đầu chỉ nhằm phục vụ tiêu dùng
trong nước, sau một thời gian hoạt động, cùng với việc nhập khẩu các loại máy
móc thiết bị hiện đại, phù hợp với điều kiện Việt Nam mà chất lượng sản phẩm của
công ty đã được nâng cao, đa dạng hơn, không những độc quyền ở thị trường trong
nước mà còn chiếm lĩnh được thị trường nước ngoài. Trước kia khi nói đến sản
phẩm đá ốp lát người ta thường nghĩ đến sản phẩm đá của một số đơn vị chế tác đá
khác. Nhưng ngày nay khi nói đến đá ốp lát là người ta nghĩ tới công ty phát triển
khoáng sản (MIDECO), điều đó chứng tỏ công ty đã có uy tín trên thị trường.
Để có được kết quả trên là nhờ một phần không nhỏ vào việc thay đổi môi
trường kinh doanh của mình cho phù hợp với môi trường trong nước và ngoài nước
và nhờ vào những mặt thuận lợi của môi trường kinh doanh tạo nên.
Để cho ngành công nghiệp Việt Nam phát triển và ngày càng lớn mạnh
Nhà nước đã có chủ trương tạo ra môi trường thuận lợi cho các doanh nghiệp hoạt
động để hạn chế khiếm khuyết của cơ chế thị trường, góp phần giảm bớt lãng phí
về tài nguyên và thời gian, tranh thủ đưa đất nước ta tiến nhanh trên con đường
công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
Sù “mở cửa”, “nới lỏng” tương đối sự can thiệp của Nhà nước làm cho
công ty có quyền chủ động trong việc hoạch định chính sách kinh doanh của mình,
có điều kiện quan hệ với nước ngoài một cách không hạn chế, theo phương châm
của Nhà nước ta là “ làm bạn với tất cả các nước không phân biệt đảng phái chính
trị”.
Với chính sách tài chính ngân hàng nới lỏng tạo điều kiện cho công ty vay
vốn phục vụ cho hoạt động sản xuất kinh doanh, mở rộng hoạt động kinh doanh
của mình.
Nền kinh tế đất nước và trong khu vực trong những năm gần đây phát triển
khá mạnh, nhất là Hàn Quốc, Thái Lan, Indonesia, Nhật Bản... mà các nước này lại
là bạn hàng truyền thống của công ty.
Chính sách thu hót đầu tư nước ngoài của Việt Nam có hiệu quả cao đã thu
hót được khối lượng vốn rất lớn đầu tư vào nước ta, loại hình đầu tư nước ngoài rất
đa dạng, trong đó đầu tư vào lĩnh vực khách sạn tương đối lớn tạo điều kiện cho
công ty cung cấp sản phẩm đá ốp lát của mình.
Môi trường kinh doanh của các nước là bạn hàng của công ty trong những
năm vừa qua là khá ổn định về tất cả các mặt chính trị, kinh tế xã hội, pháp luật...
Các nước nhập khẩu sản phẩm của công ty có một nền văn hoá khác biệt
không nhiều so với Việt Nam, cho nên công ty Ýt phải đương đầu với sự ảnh
hưởng của các nhân tố về văn hoá cả trong giao dịch và thiết kế sản phẩm.
Trong nước sản phẩm của công ty gần như độc quyền, sản phẩm cạnh tranh
với công ty rất Ýt mới chỉ là những sản phẩm thay thế.
Công ty đã có chính sách nhập khẩu công nghệ phù hợp, đào tạo được đội
ngò cán bộ công nhân viên giỏi về trình độ và tay nghề. Ban lãnh đạo của công ty
từng bước nâng cao trình độ của mình, không những giỏi kinh doanh trong nước
mà còn giỏi kinh doanh ngoài nước, chất lượng sản phẩm của công ty được nâng
cao, uy tín của công ty cũng được nâng lên.
2. NHỮNG TỒN TẠI TRONG VIỆC TẠO DỰNG MÔI TRƯỜNG KINH DOANH
THUẬN LỢI CHO CÔNG TY.
ừ khi chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường. Môi trường kinh doanh trong
nước cũng như môi trường kinh doanh nội bộ các doanh nghiệp có những
thay đổi. Tuy nhiên, bên cạnh những ưu điểm nêu trên thì nó vẫn còn một số tồn tại
mà ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp
cũng như ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động sản xuất kinh doanh đá ốp lát ở công
ty MIDECO. Có nhiều góc độ khác nhau để xem xét những tồn tại trong việc tạo
dựng môi trường kinh doanh thuận lợi cho công ty. Song ở đây ta có thể xem xét
trên hai góc độ chủ yếu là tồn tại về môi trường bên trong và tồn tại về môi trường
bên ngoài.
T
Những tồn tại về môi trường bên trong.
Mặc dù có những bước tiến đáng kể, công ty MIDECO lớn mạnh lên cả về số
lượng và chất lượng, sản phẩm của công ty đã được chấp nhận không những ở thị
trường trong nước mà cả thị trường nước ngoài. Song công ty vẫn gặp phải nhiều
vấn đề làm cho việc sản xuất kinh doanh không ổn định. Điều đáng lưu ý nhất là
hoạt động xuất khẩu, cả về mặt hàng xuất khẩu và thị trường xuất khẩu không đồng
đều theo các năm. Sản phẩm của công ty chưa phong phú mới chỉ ở hai sản phẩm
chủ yếu là đá Granite và đá Marble. Khả năng nắm bắt, xử lý thông tin và huy
động vốn còn chậm chưa thích hợp với cơ chế thị trường có sự cạnh tranh khốc liệt
như hiện nay cho nên dễ bị bỏ lỡ cơ hội. Chất lượng sản phẩm tuy đã được nâng
lên, nhưng so với các sản phẩm cùng loại trên thế giới thì chất lượng chưa cao... từ
đó dẫn đến khả năng cạnh tranh trên thị trường còn yếu.
Những tồn tại về môi trường bên ngoài.
Có thể nói hơn 10 năm đổi mới, môi trường kinh doanh trong nước có nhiều
biến đổi và từng bước hoàn thiện. Bên cạnh đó sự biến đổi của môi trường kinh
doanh vẫn gặp phải những vướng mắc nhất định về luật pháp, về các chính sách
kinh tế xã hội, về khoa học công nghệ, về thông tin... từ đó ảnh hưởng không nhỏ
đến hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty MIDECO.
3. NHỮNG NGUYÊN NHÂN CỦA TỒN TẠI.
ã nhiều nguyên nhân dẫn đến tình trạng môi trường kinh doanh chưa được
thuận lợi, trên các góc độ khác nhau người ta có thể đưa ra các nguyên nhân
khác nhau, ở đây có thể đưa ra các nguyên nhân sau :
C Về môi trường pháp lý : Hệ thống pháp luật trong nước chưa hoàn chỉnh,
trong những năm gần đây Nhà nước đã ban hành, sửa đổi một số luật và ban hành nhiều văn bản mới. Tuy nhiên vẫn còn thiếu một số bộ luật, đặc biệt là luật thương mại, luật hành chính, luật bản quyền... là những tài liệu rất cần thiết cho hoạt động và giao dịch của công ty. Bên cạnh đó việc kiểm tra, giám sát quá trình thực hiện luật và những giải pháp nhằm đảm bảo hiệu quả của các văn bản pháp lý một cách rộng rãi và bình đẳng cũng là điều cần quan tâm, thực hiện cho tốt hơn. Cũng chính pháp luật Việt Nam còn lỏng lẻo cho nên một số địa phương đã có tranh chấp mỏ với công ty.
Về môi trường kinh tế : Các loại thị trường chưa được hình thành đồng bé ; mức nhu cầu chưa cao (dung lượng thị trường còn nhỏ bé và phân tán) ; cơ sở hạ tầng kinh tế xã hội lạc hậu và đang bị xuống cấp nghiêm trọng gây cản trở cho hoạt động xuất khẩu ; các yếu tố tiền tệ, nguồn nguyên liệu ... vẫn ở tình trạng chưa ổn định vững chắn ; tích luỹ nội bộ còn nhỏ bé...
Về môi trường khoa học - công nghệ : Tình trạng chung của nền kinh tế là trình độ khoa học - công nghệ thấp kém ; hệ thống thông tin kinh tế - kỹ thuật liên quan đến hoạt động xuất khẩu thường không đầy đủ, độ tin cậy thấp.
Về môi trường chính trị - xã hội : Những thành tựu của công cuộc đổi mới đã tạo nên thế và lực mới cho Việt Nam trên trường quốc tế. Nhưng đó mới chỉ là những kết quả ban đầu. Việt Nam đang trong quá trình hội nhập vào nền kinh tế của khu vực và trên thế giới, các thế lực thù dịch vẫn đang tiếp tục quá trình cản trở sự đi lên của Việt Nam bằng những âm mưu gây bất ổn định chính trị và xã hội.
Ngoài những nguyên nhân chủ yếu nêu trên còn có một số nguyên nhân khác nữa.
Hệ thống thuế vẫn chưa hoàn chỉnh, vẫn còn tình trạng thuế chồng lên thuế. Một sản phẩm xuất khẩu bị đánh thuế nhiều lần làm cho giá bán của sản phẩm tăng lên dẫn đến kém sức cạnh tranh.
Hiện nay công ty cũng gặp phải vấn đề khó khăn về vốn, mặc dù công ty đã có quan hệ rất tốt và được sự giúp đỡ của nhiều tổ chức ngân hàng, đồng thời chính sách ngân hàng có phần nới lỏng, song Nhà nước vẫn hạn chế vốn vay dài hạn, thường là vay ngắn hạnvà trung hạn, lãi suất cao lại thay đổi thường xuyên làm cho nhiều doanh nghiệp không chịu nổi. Đặc biệt đối với công ty MIDECO là công ty sản xuất vật liệu xây dựng đòi hỏi vốn lớn, thu hồi vốn chậm.
Sù tiến bộ vượt bậc của khoa học công nghệ làm cho công nghệ không những bị hao mòn hữu hình mà còn bị hao mòn vô hình và cùng với thời đại bùng nổ thông tin ngày nay. Do vậy vấn đề khó khăn đối với công ty MIDECO là áp dụng công nghệ như thế nào cho phù hợp, xử lý và sử dụng thông tin sao cho chính xác.
Mét vấn đề khó khăn lớn nhất trong hoạt động xuất khẩu của công ty là ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tiền tệ ở Châu Á vừa qua, làm cho đồng tiền của các nước trong khu vực bị mất giá rất lớn so với đồng đôla Mĩ, lạm phát tăng, nền kinh tế tăng trưởng thấp... Do đó môi trường kinh doanh ở khu vực bị thay đổi, chi tiêu bị thắt chặt, mà khi đồng tiền trong nước bị mất giá so với đồng ngoại tệ thì dẫn đến bất lợi cho nhập khẩu và có lợi cho xuất khẩu, cho nên nhập khẩu của các nước Châu Á sẽ giảm đáng kể, đây lại là thị trường xuất khẩu chính của công ty.
Mét vấn đề nữa gây khó khăn cho công ty là môi trường cạnh tranh mà đặc biệt là bị ảnh hưởng rất lớn của các sản phẩm thay thế. Hiện nay do nền kinh tế trong nước và khu vực bị đình trệ, trong khi đó sản phẩm của công ty có giá rất cao cho nên người tiêu dùng có thể chuyển sang dùng các loại đá khác.
CHƯƠNG IIIMỘT SÈ Ý KIẾN NHẰM TẠO DỰNG MÔI TRƯỜNG KINH DOANH
THUẬN LỢI ĐỂ THÚC ĐẨY HOẠT ĐỘNG XUẤT KHẨU CHO CÔNG TY MIDECO
I. PHƯƠNG HƯỚNG SẢN XUẤT KINH DOANH TRONG THỜI GIAN TỚI.
1. CÁC MỤC TIÊU CHIẾN LƯỢC CỦA CÔNG TY TỚI NĂM 2000 VÀ 2010.
ùng với sự phát triển của nền kinh tế quốc dân tốc độ xây dựng nhà cửa, cơ
sở hạ tầng tăng lên. Do đó nhu cầu về sản phẩm đá ốp lát đối với các công
trình xây dựng cũng tăng lên rất mạnh. Để đáp ứng nhu cầu này, đồng thời phục vụ
cho việc xuất khẩu và trong điều kiện nền kinh tế thị trường hoạt động kinh doanh
ngày càng mở rộng và phát triển. Thích ứng với xu hướng này, các doanh nghiệp ở
Việt Nam đang tăng dần khả năng hoà nhập của mình trước những điều kiện mới
của môi trường kinh doanh. Chỉ trên cơ sở tìm hiểu, phân tích đúng đắn môi trường
kinh doanh, các doanh nghiệp mới có thể đưa ra được một chiến lược kinh doanh
thích ứng nhằm đạt hiệu quả cao trong kinh doanh. Để có thể xây dựng được chiến
lược phát triển kinh doanh cần phải phân tích môi trường kinh doanh trong nước và
môi trường kinh doanh quốc tế ; đánh giá đúng khả năng thuận lợi và thách thức
của doanh nghiệp. Trên cơ sở đó, doanh nghiệp sẽ đưa ra được mục tiêu đúng đắn
và những giải pháp hữu hiệu, hoàn toàn có tính khả thi trong thực hiện chiến lược
kinh doanh đã đề ra. Để đạt được điều đó các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh đá
ốp lát ở Việt Nam cần đặt ra chiến lược kinh doanh lâu dài. Công ty MIDECO là
một trong những doanh nghiệp sản xuất kinh doanh mặt hàng này cũng đã và đang
đặt ra chiến lược sản xuất kinh doanh tới năm 2000 và 2010. Các chiến lược này
không nằm ngoài mục tiêu tăng lợi nhuận cho công ty, chúng được thể hiện dưới
các mục tiêu cụ thể sau :
C
Mở rộng thị trường cả về chiều rộng lẫn chiều sâu, tăng khối lượng sản
phẩm bán ra. Ở thị trường nội địa cần phải có biện pháp, chính sách phân phối sản
phẩm tới tận tay người tiêu dùng, tăng cường hoạt động quảng cáo và tìm hiểu nhu
cầu. Ngay ở trong các khách hàng truyền thống cũng cần phải đi sâu tìm hiểu nhu
cầu, đòi hỏi của họ về các chỉ tiêu sản phẩm để đáp ứng nhu cầu của họ. Đặc biệt
là các thành phố lớn có mật độ xây dựng cao. Ở thị trường nước ngoài, ngoài việc
củng cố các khu vực thị trường, các khách hàng truyền thống cần phải tận dụng các
lợi thế về sản phẩm như giá cả hợp lý, mầu sắc độc đáo, đa dạng, chất lượng cao ..
để tăng sức cạnh tranh của sản phẩm của công ty đối với các đối thủ cạnh tranh đặc
biệt là Trung Quốc, Ên Độ và Italia. Đáp ứng nhu cầu theo đòi hỏi của từng thị
trường, như người Châu Âu ưa chuộng các loại đá chế tác từ tấm có mặt sần, đục
chạm đòi hỏi nhiều lao động thủ công, đòi hỏi khắt khe về chất lượng, kích thước
tấm, khối lượng lớn, thời gian giao hàng nhanh.
Mở rộng sản xuất : tận dụng mọi nguồn vốn hiện có của công ty, vốn vay...
để mở rộng sản xuất, xây dựng các cơ sở, mua sắm các dây chuyền sản xuất mới,
nâng cao chất lượng kỹ thuật, mỹ thuật của sản phẩm. Đáp ứng nhanh chóng các
yêu cầu của khách hàng, tránh tình trạng khi ký hợp đồng lớn mới thu gom sản
phẩm vội vã, dẫn đến chất lượng không bảo đảm từ đó sẽ mất uy tín.
Đầu tư vốn, công nghệ hiện đại vào việc thăm dò, tìm kiếm các mỏ đá mới
để khai thác đưa vào sản xuất hoặc xuất khẩu trực tiếp. Việc thăm dò tìm kiếm các
mỏ phải được tiến hành liên tục để cung cấp nguyên liệu cho các cơ sở sản xuất và
xuất khẩu.
Khi Việt Nam chính thức trở thành thành viên của khối AFTA công ty sẽ
hướng thị trường xuất khẩu của mình vào các nước ASEAN vì khi đó sản phẩm
của công ty chỉ phải chịu một phần thuế nhập khẩu rất nhỏ hoặc không phải chịu
thuế, do đó sẽ tăng lợi nhuận, nhưng đồng thời công ty còn tiếp tục mở rộng thị
trường sang các khu vực mới.
Để đạt được các mục tiêu trên đây, công ty đã đặt ra các biện pháp sau :
Đối với thị trường nước ngoài : Phải đổi mới công tác nghiên cứu thị
trường, đưa ra các sản phẩm luôn phù hợp với thị hiếu của khách hàng. Muốn vậy
phải nắm vững thông tin về khách hàng, tìm hiểu rõ tình hình chính trị, thương
mại, chính sách buôn bán, vận tải của nước nhập khẩu. Trong việc lùa chọn khách
hàng cần nghiên cứu, tìm hiểu khả năng tài chính, lĩnh vực và uy tín kinh doanh
của họ.
Đối với thị trường trong nước : cần xâm nhập đi sâu vào các công trình liên
doanh, các cơ sở lớn vì đó là những khách hàng có nhu cầu sản phẩm đá ốp lát, tạo
ra ưu việt của sản phẩm để kích thích khách hàng. Cần tạo ra ưu thế cho khách
hàng thấy được là sản phẩm được làm ra từ chính nhà máy của công ty. Khách
hàng có thể kiểm tra, xem xét hàng ngay tại xưởng, tạo uy tín và thuận lợi của sản
phẩm đối với khách hàng, cũng cần đưa khách hàng có nhu cầu thăm quan nhà
máy, giới thiệu với họ về năng lực, công suất để họ có thể yên tâm khi đặt khối
lượng hàng lớn. Công ty cũng sẽ mở thêm một số cửa hàng, đại lý giới thiệu và
bán sản phẩm ở một số địa điểm khác để tăng cường ảnh hưởng của công ty và có
thể đáp ứng ngay nhu cầu của khách hàng.
Đối với vốn đầu tư cho công ty : Công ty sẽ tận dụng mọi nguồn vốn gồm
vốn do ngân sách cấp, lợi nhuận bỏ vào đầu tư, vốn vay... đồng thời thu hót vốn
bằng cách giới thiệu các ưu thế, thuận lợi về mọi mặt để cho các công ty nước
ngoài thấy được đây là cơ hội đầu tư không thể bỏ qua. Từ đó thu hót được nguồn
vốn đầu tư, công nghệ và kinh nghiệm quản lý của người nước ngoài. Bên cạnh đó
công ty cũng thực hiện việc vay vốn ngân hàng và các tổ chức khác để tạo ra
nguồn vốn dồi dào cho việc mở rộng sản xuất kinh doanh.
Đối với đội ngò cán bộ kinh doanh và đội ngò công nhân của công ty :
Công ty sẽ thường xuyên mở các líp đào tạo để nâng cao trình độ của cán bộ kinh
oanh, tay nghề của công nhân, từ đó có thể đáp ứng được công việc sản xuất kinh
doanh mặt hàng đá ốp lát vẫn còn mới mẻ ở Việt Nam. Đồng thời công ty cũng sẽ
gửi một số cán bộ sang thăm quan ở một số thị trường để học hỏi kinh nghiệm sản
xuất kinh doanh và quản lý của họ.
2. KẾ HOẠCH NĂM 1998.
2.1. Kế hoạch sản xuất kinh doanh của công ty.
Năm 1998 có những biến động lớn trên bình diện quốc tế, cuộc khủng hoảng tài
chính tiền tệ ở Châu Á đã làm cho nền kinh tế trong khu vực bị trì trệ và có ảnh
hưởng đến các khu vực khác trên thế giới. Trong bối cảnh đó Việt Nam cũng chịu
sự ảnh hưởng không nhỏ và nó cũng ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động sản xuất
kinh doanh của công ty MIDECO. Tuy vậy công ty vẫn đặt ra kế hoạch sản xuất
kinh doanh năm 1998 khá cao, cụ thể :
Sản phẩm sản xuất :
2.2. Dự kiến thị trường tiêu thụ sản phẩm.
Trong năm 1997 mục đích tăng cường xuất khẩu các sản phẩm đá ốp lát, nhất là đá
tấm lớn sang các nước đã từng có mối quan hệ bạn hàng tốt với công ty như Hàn
Quốc, đảo Reunon và các bạn hàng mới ở Châu Á và Châu Mỹ ; Đá khối sang các
nước như Thái Lan, Indonesia, Nhận Bản... Song mục tiêu của năm 1997 không
hoàn thành. Phần lớn là do môi trường kinh doanh ở các nước bạn hàng của công
ty thay đổi do khủng hoảng tài chính tiền tệ vào cuối năm 1997. Cuộc khủng hoảng
tài chính tiền tệ ở Châu Á đã làm cho đồng tiền của các nước trong khu vực bị
giảm mạnh so với đồng đola Mĩ. Tính đến tháng 1-1998 đồng bạt bị mất giá 112%,
đồng Won 100%, đồng đola Singapore và đồng yên Nhật giảm khoảng 20%... nên
nó đã làm cho việc xuất khẩu của công ty sang khu vực này gặp nhiều khó khăn.
Cho nên năm 1998, một mặt công ty vẫn tìm cách xuất khẩu sang thị trường này,
mặt khác nghiên cứu tìm kiếm thị trường các nước Châu Mĩ và Châu Âu.
Ở trong nước lượng tiêu thụ sản phẩm của các công trình do các đối tác
nước ngoài đầu tư vẫn có nhu cầu lớn, ngoài sản phẩm đá ốp lát công ty còn tăng
cường hoạt động Marketing để sản xuất các mặt hàng khoáng sản khác, cố gắng
đưa doanh thu xuất khẩu lên đến 1.500.000 USD, ngoài những công trình công ty
đang thực hiện dở dang, năm 1998 phòng kinh doanh đã xúc tiến chào hàng và đưa
ra danh mục các công trình làm cơ sở cho việc lập kế hoạch doanh thu năm 1998
toàn công ty.
Các tỉnh phía Bắc.
3. CÁC TIỀM NĂNG CỦA CÔNG TY MIDECO .
á ốp lát là một sản phẩm mới có, ngành sản xuất và kinh doanh đá ốp lát
còn non trẻ và đang từng bước khởi sắc. Từ khi Nhà nước có chính sách mở
cửa, tạo đà cho nền kinh tế nước nhà tăng trưởng, ngành công nghiệp chế biến đá
ốp lát đã từng bước phát triển mạnh mẽ cả về lượng và chất. Công ty MIDECO là
một trong những công ty của ngành công nghiệp này đã nắm bắt được thời cơ tạo
ra những bước tiến khá cao trong nghành công nghiệp chế biến đá ốp lát.
Đ
Công ty đã đầu tư một cách có hiệu quả vào các yếu tố quan trọng như
nghiên cứu thị trường, tiếp thị, tìm tòi và khai thác các mỏ đá. Đây là yếu tố quan
trọng giúp công ty phát triển mạnh mẽ, chủ động đầu tư vào quá trình sản xuất,
việc đầu tư có hiệu quả các máy móc thiết bị hiện đại của nước ngoài tạo cho sản
phẩm của công ty có chất lượng cao, mẫu đẹp, tăng thêm sức cạnh tranh trên thị
trường, sản phẩm của công ty đã có chỗ đứng trên trường quốc tế. Trong những
năm tới công việc sản xuất kinh doanh của công ty có thể phát triển mạnh mẽ bởi
lẽ công ty có nhiều tiềm năng trong việc sản xuất kinh doanh mặt hàng này. Những
tiềm năng này được thể hiện như sau :
Về nguồn nguyên liệu : Đây là vấn đề quan trọng đối với công ty, công ty
đã đầu tư vào thăm dò các mỏ đá được phát triển, các mỏ có trữ lượng lớn, chất
lượng cao, mầu sắc đa dạng. Hiện tại công ty đang quản lý một số mỏ ở Miền Bắc
và Trung Việt Nam. Đó là những mỏ có trữ lượng tương đối lớn, màu sắc đẹp đang
được thị trường ưa chuộng. Tổng công suất các mỏ đá khối của MIDECO có thể
đạt tới hơn 10.000 m3/ năm. Công ty cũng đã đầu tư nhiều vốn vào việc mua sắm
máy móc thiết bị khai thác các mỏ đá, các máy móc hiện đại này có thể tạo ra các
sản phẩm có chất lượng cao, kích thước phù hợp .
Về cơ sở sản xuất : Ở Hà Nội nói riêng và các thành phố khác nói chung
việc đòi hỏi vật liệu trang trí có chất lượng cao, mẫu mã đẹp là điều tất yếu. Đá ốp
lát là loại vật liệu trang trí đang được sử dụng ngày càng nhiều, để tiến theo đà phát
triển của xã hội đáp ứng nhu cầu của người tiêu dùng, công ty đã đầu tư vào việc
xây dựng, mở rộng sản xuất, đồng thời mua sắm các dây chuyền chế biến hiện đại
với tổng số vốn đầu tư hàng trăm tỷ đồng. Các sản phẩm của công ty sản xuất ra đã
có chất lượng cao, đa dạng, bảo đảm được độ bóng, độ bền, kích thước đá có thể
đạt tới bề rộng 1,6 - 1,8 m. Do có ưu thế như vậy nên công ty đã tạo được uy tín
trên thị trường và đã ký được những hợp đồng tiêu thụ lớn cả trong nước và ngoài
nước.
Về đội ngò cán bộ công nhân viên : Qua những năm hoạt động sản xuất
kinh doanh công ty đã có được đội ngò cán bộ kinh doanh và quản lý có trình độ
chuyên môn vững vàng, có nhiều kinh nghiệm trong hoạt động kinh doanh, tay
nghề công nhân được nâng cao. Đội ngò cán bộ năng động, hiểu biết rộng nên đã
có thể đàm phán trực tiếp với khách hàng nước ngoài mở rộng thị trường sang
nhiều khu vực. Đội ngò công nhân của công ty cũng có trình độ tay nghề cao, đã
tiếp xúc và sử dụng được các loại máy móc hiện đại, tạo ra sản phẩm có chất lượng
cao. Có thể nói nguồn nhân lực của công ty sẽ là một nguồn tài sản quý giá và đây
là một lợi thế để cho công ty có thể phát triển sản xuất kinh doanh trong tương lai .
Về thị trường tiêu thụ sản phẩm : Nhu cầu về đá ốp lát ở Việt Nam nói
riêng và trên thế giới nói chung ngày càng tăng lên. Do đó nó sẽ là điều kiện tốt để
công ty phát triển sản xuất. Công ty đã có mạng lưới tiêu thụ ở trong nước khá tốt,
các sản phẩm của công ty đã quen thuộc với người tiêu dùng Việt Nam. Đối với thị
trường nước ngoài công ty đã quan hệ với nhiều bạn hàng có tiềm năng lớn các bạn
hàng truyền thống của công ty cũng luôn giữ được mối quan hệ buôn bán tốt. Sản
phẩm của công ty cũng tạo được uy tín đối với các nhà nhập khẩu, đây là điều kiện
thuận lợi cho việc xuất khẩu cho những năm tới.
Ngoài những tiềm năng lớn trên đây công ty MIDECO cũng có những điều
kiện thuận lợi cho sự phát triển kinh doanh như :
Vị trí của công ty nằm ngay tại Hà Nội là trung tâm giao dịch lớn của cả
nước, là nơi khách hàng có nhiều thuận lợi để khảo sát tìm kiếm trước khi ký kết
hợp đồng mua bán.
Giá xuất khẩu sản phẩm của công ty còn tương đối rẻ so với các nước khác,
do đó sản phẩm của công ty cũng có lợi thế cạnh tranh so với sản phẩm của các
nước khác về giá thành .
Việc mở rộng quan hệ ngoại giao của Nhà nước với các nước khác cũng
như việc tham gia vào các tổ chức kinh tế quốc tế trong khu vực và toàn cầu, đặc
biệt Việt Nam là thành viên chính thức của ASEAN và việc tham gia vào khu vực
mậu dịch tự do AFTA trong thời gian tới sẽ là điều kiện thuận lợi cho sự phát triển
sản xuất kinh doanh đá ốp lát của công ty.
II. NHỮNG CƠ HỘI VÀ THÁCH THỨC ĐỐI VỚI CÔNG TY MIDECO .
1. NHỮNG CƠ HỘI.
rong những năm qua, công cuộc đổi mới đã làm cho đời sống kinh tế Việt
Nam khởi sắc và ngày càng năng động hơn. Cơ sở vật chất kỹ thuật và trình
độ khoa học công nghệ đã được nâng cao đáng kể. Thị trường trong nước tăng
T
nhanh, thị trường nước ngoài được mở rộng. Chính sách phát triển kinh tế hàng
hoá nhiều thành phần đang phát huy tác dụng tích cực trong việc huy động các
nguồn lực và phát huy lợi thế của đất nước, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp
vươn ra thị trường nước ngoài và tạo thuận lợi cho thu hót các nguồn lực từ bên
ngoài. Vị thế của đất nước trên trường quốc tế được cải thiện và củng cố.
Những thuận lợi Êy tạo nên cơ hội to lớn mà công ty phải biết nắm bắt. Sự
thành công của công ty và sự phát triển kinh tế xã hội của đất nước phụ thuộc vào
khả năng tận dụng cơ hội phát triển đang đến .
2. NHỮNG THÁCH THỨC .
rong điều kiện của nền kinh tế thị trường ngày nay, công ty gặp phải những
thách thức chủ yếu sau :T Đó là sự hội nhập vào đời sống kinh tế xã hội của khu vực và thế giới như :
gia nhập ASEAN, ký hiệp định khung với EU, tham gia AFTA, chuẩn bị gia nhập
WTO, triển khai quan hệ với Mỹ ... đòi hỏi phải phát triển thị trường trong nước,
cải tiến hệ thống luật lệ và cơ chế hoạt động liên quan đến giao lưu quốc tế, chấp
nhận cạnh tranh và mở rộng hợp tác quốc tế, do đó môi trường kinh doanh trong
nước sẽ bị thay đổi.
Thách thức về sự tụt hậu kinh tế vẫn là thách thức lớn nhất. Năng suất, chất
lượng và hiệu quả kinh tế còn rất thấp kém. Thãi quen sản xuất nhỏ, tình trạng
manh món, chia cắt rất đậm nét.
Nhiều chính sách kinh tế vĩ mô còn thiếu sót. Kinh nghiệm chỉ đạo điều
hành hoạt động kinh tế theo cơ chế thị trường còn yếu kém. Trình độ cán bộ còn
bất cập so với yêu cầu, tình trạng tham nhòng chưa bị ngăn chặn.
Việc mở rộng giao lưu với bên ngoài phải chú ý những thách thức với yêu
cầu giữ gìn bản sắc văn hoá, bảo vệ an ninh quốc gia, bảo vệ môi trường tự nhiên
và xã hội ...
III. MỘT SỐ Ý KIẾN VỀ TẠO LẬP VÀ PHÁT TRIỂN MÔI TRƯỜNG KINH
DOANH XUẤT KHẨU THUẬN LỢI CHO CÔNG TY MIDECO .
ừ thực tế sản xuất kinh doanh của công ty MIDECO, có thể đưa ra một số ý
kiến về tạo lập và phát triển môi trường kinh doanh thuận lợi cho các doanh
nghiệp nói chung và công ty MIDECO nói riêng.
T Môi trường luật pháp và chính sách.
Khi bước vào môi trường cạnh tranh khốc liệt của nền kinh tế thị trường,
nguyện vọng của các doanh nghiệp là muốn được mở rộng quyền tự chủ trong sản
xuất kinh doanh. Hiện nay quyền tự chủ trong sản xuất kinh doanh của các doanh
nghiệp Nhà nước còn rất nhiều vấn đề chưa khai thông. Mới chỉ xét riêng về môi
trường pháp luật đã thấy nhiều khó khăn nảy sinh : nước ta chưa có một khuôn khổ
pháp luật đầy đủ và có hiệu lực để đảm bảo vững chắc về mặt pháp lý cho các
doanh nghiệp không đi quá đà hoặc e dè, lo sợ ; chóng ta vẫn chưa có luật ngân
sách, luật kinh doanh, luật hành chính, luật kế toán, luật bản quyền... là những luật
cần thiết để cho doanh nghiệp Nhà nước hoạt động đúng khuôn khổ pháp luật.
Kinh doanh đúng pháp luật bảo vệ môi trường cạnh tranh lành mạnh đang là
vấn đề thời sự đặt ra cho các nhà làm luật Việt Nam. Đành rằng các doanh nghiệp
Việt Nam nói riêng và con người Việt Nam nói chung không thể ngày một ngày
hai hình thành được ngay thãi quen làm việc theo pháp luật, nhưng trước tiên bản
thân hệ thống luật pháp phải được thực hiện nghiêm minh. Hiện nay trên thị
trường, hiện tượng làm hàng giả, bắt chước nhãn hiệu mẫu mã của các hãng nổi
tiếng đang làm tổn hại đến trật tự môi trường kinh doanh trong nước. Luật bảo hộ
quyền sở hữu nhãn hiệu và kiểu dáng công nghiệp đã có những vấn đề xử lý vi
phạm như thế nào mới là quan trọng. Thiết nghĩ thực hiện tốt công việc này cũng là
một cách thu hót vốn đầu tư nước ngoài, các nhà đầu tư yên tâm khi bỏ vốn đầu tư
vào để sản xuất kinh doanh ở Việt Nam, từ đó thúc đẩy sản xuất trong nước phát
triển theo, công ty MIDECO có cơ hội cung cấp sản phẩm của mình.
Kể từ khi Nhà nước thực hiện chính sách đổi mới sự can thiệp của Nhà
nước vào hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp đã từng bước xoá
bỏ, doanh nghiệp Nhà nước có nhiều quyền tự chủ trong các quyết định của mình
hơn. Tuy nhiên, những ảnh hưởng trong quan hệ giữa các xí nghiệp quốc doanh với
Nhà nước đối với việc mở rộng quyền tự chủ kinh doanh của doanh nghiệp vẫn còn
nhiều vấn đề phải giải quyết.
Doanh nghiệp Nhà nước là một tế bào của chế độ sở hữu toàn dân. Vì vậy,
nó phải có nghĩa vụ đối với xã hội, kế hoạch sản xuất của doanh nghiệp phải là bộ
phận hữu cơ của kế hoạch Nhà nước. Thực tiễn 50 năm qua chứng minh rằng
phương thức chỉ tiêu kế hoạch Nhà nước giao đã kìm hãm sự phát triển, tính năng
động sáng tạo của doanh nghiệp Nhà nước. Do vậy việc đổi mới quan hệ giữa
doanh nghiệp Nhà nước với Nhà nước phải đảm bảo các nguyên tắc sau :
Xí nghiệp phải được toàn quyền quyết định trong chiến lược sản xuất kinh
doanh. sản xuất cái gì?, như thế nào?, cho ai? Là do sự điều tiết của thị trường -
mét thực tế khách quan luôn biến động và tự điều chỉnh. Trên thực tế hiện nay các
doanh nghiệp Nhà nước còn quá lệ thuộc vào cơ quan chủ quản như : việc đầu tư
mua sắm thiết bị (bằng tiền vay ngân hàng) ; việc thay đổi mặt hàng hay thay đổi
hình thức kinh doanh phải mất một thời gian chờ đợi xin phép Cục, Bộ, Uỷ ban
nhân dân tỉnh mới được làm. Ai cũng biết thời cơ trong kinh doanh chỉ xuất hiện
trong chốc lát, chậm một bước coi như thất bại. Trong lĩnh vực này doanh nghiệp
Nhà nước luôn chậm chân hơn các doanh nghiệp ngoài quốc doanh.
Sù can thiệp của Nhà nước chỉ nên giới hạn ở những biện pháp kinh tế,
thông qua các đòn bẩy tài chính - tín dông : nâng hoặc hạ lãi suất tín dụng, tăng
hoặc giảm thuế, chính sách ưu đãi trong hàng rào thuế quan đối với hoạt động xuất
nhập khẩu .vv.. những biện pháp này được lùa chọn tuỳ theo đòi hỏi của tình hình
kinh tế vĩ mô, nhằm tác động vào nhiều hướng phát triển của nền kinh tế hoặc điều
chỉnh những mất cân đối lớn.
Hiện nay các cơ quan Nhà nước đều có các cơ quan chức năng chuyên kiểm
tra, thanh tra mọi hoạt động của doanh nghiệp (trong đó chủ yếu là hoạt động kinh
tế). Trước tiên cần phải khẳng định rằng Nhà nước sử dụng thanh tra như một
phương tiện nhằm kiểm sóat hoạt động của các doanh nghiệp là hoàn toàn cần thiết
và các doanh nghiệp cần phải tôn trọng và ủng hộ. Vấn đề đặt ra ở đây là cơ quan
thanh tra nên hiểu và thực hiện như thế nào cho đúng chức trách của mình và
không gây ảnh hưởng đến hoạt động của doanh nghiệp. Mục đích của công tác
thanh tra là giúp doanh nghiệp chấn chỉnh hoạt động, tránh sai sót và đạt hiệu quả
cao hơn. Bởi vì việc Nhà nước cho ra đời cả trăm công ty không khó, cái khó là
giúp công ty khẳng định mình trên thương trường không phải chỉ vì lợi Ých cục bộ
của một công ty, mà còn vì người lao động, vì sự phát triển chung của cả cộng
đồng.
Sù can thiệp của Nhà nước về chế độ tiền lương và các chính sách xã hội.
Theo cơ chế cũ, Nhà nước quản lý tiền lương đối với doanh nghiệp Nhà nước
thông qua việc xét duyệt quĩ tiền lương, tiền thưởng và biên chế cho các đơn vị sản
xuất kinh doanh. Việc duyệt quĩ tiền lương, tiền thưởng hàng năm từ duyệt định
mức, mức chi phí tiền lương cho một đơn vị sản phẩm ... tức là Nhà nước can thiệp
quá sâu vào hoạt động và phân phối của các đơn vị kinh tế quốc doanh.
Theo quyết định 217/HĐBT và điều lệ xí nghiệp quốc doanh của Hội đồng
Bộ trưởng, các xí nghiệp sản xuất kinh doanh thực sự có quyền tự chủ trong mọi
hoạt động kinh tế, trong đó có lĩnh vực lao động và tiền lương. Xí nghiệp quốc
doanh được quyền tuyển dụng lao động theo chế độ hợp đồng, theo nhu cầu đòi hỏi
của phương thức tổ chức sản xuất kinh doanh. Thu nhập của người lao động phụ
thuộc vào hiệu quả sản xuất kinh doanh của xí nghiệp và năng suất lao động của
từng người. Nhà nước chỉ nên qui định mức lương tối thiểu, không khống chế mức
thu nhập tối đa. Xí nghiệp có quyền sử dụng quĩ phóc lợi tập thể vào mục đích cải
thiện đời sống tinh thần, vật chất cho người lao động, xí nghiệp có trách nhiệm
đóng bảo hiểm xã hội theo qui định của Nhà nước.
Quyền tự chủ của doanh nghiệp Nhà nước được mở rộng đã tạo ra sự kích
thích bên trong cho các xí nghiệp, phát huy được tính năng động sáng tạo và tạo
tiền đề cho sự cạnh tranh kinh tế lành mạnh. Như vậy, việc quản ký Nhà nước xét
trên một phương diện đã được thay đổi và mang lại hiệu quả nhất định cho quản lý
vĩ mô ở các doanh nghiệp. Tuy nhiên trong quản lý vĩ mô của Nhà nước vẫn còn
nhiều thiếu sót, sơ hở tạo nên những rối loạn và làm cho hiệu quả kinh tế xã hội
tổng thể còn thấp, thể hiện ở một số điểm dưới đây :
Chưa phân định rõ quyền sở hữu Nhà nước, quyền sử dụng và quyền quản
lý của chủ doanh nghiệp và tập thể xí nghiệp về tài sản của Nhà nước. Do đó chưa
gắn được quyền lợi, nghĩa vụ và trách nhiệm của những người điều hành xí nghiệp,
doanh nghiệp Nhà nước.
Cần thiết phải cải cách bộ máy quản lý Nhà nước các cấp, cải cách thủ tục
hành chính trên địa bàn. Sự phân quá nhiều cấp quản lý trên địa bàn đã làm hạn
chế đến hiệu quả sản xuất kinh doanh của các đơn vị kinh tế cùng ngành, cùng một
chủ sở hữu dẫn đến không phát huy được nguồn lực, khả năng cạnh tranh của khu
vực kinh tế Nhà nước với các thành phần kinh tế khác sẽ yếu dần.
Hiện nay các cơ quan chức năng của Nhà nước hầu như không kiểm soát
nổi tình trạng hàng nhập lậu thuế từ nước ngoài. Hàng ngoại nhập chất lượng tốt,
giá phải chăng (vì không phải đóng thuế) thả sức dồn Ðp đánh bật hàng trong nước
ra khỏi thị trường. Nhà nước đã có biện pháp khuyến khích sản xuất trong nước
bằng chính sách thuế quan ưu đãi như không đánh thuế nhập khẩu máy móc
nguyên liệu thô ... Nhưng nếu hiện tượng hàng nhập lậu thuế không được ngăn
chặn, các doanh nghiệp Nhà nước Việt Nam sẽ khó mà phát triển sản xuất, mở
rộng thị trường. Điều này tất yếu hạn chế nhiều đến sự phát triển qui mô và số
lượng các doanh nghiệp ở nước ta.
Môi trường chính trị.
Sù ổn định chính trị ở mỗi quốc gia là yếu tố đầu tiên đảm bảo cho sự phát
triển về kinh tế. Một trong những lý do giải thích cho sự tăng trưởng và phát triển
mạnh của nền kinh tế Việt Nam là môi trường chính trị ổn định, bộ máy pháp
quyền của Nhà nước vững chắc, sẵn sàng đứng ra bảo vệ môi trường kinh doanh để
sản xuất kinh doanh diễn ra bình thường.
Trong vài năm gần đây, các doanh nghiệp nước ngoài xin đăng ký kinh
doanh tại Việt Nam (tài chính, sản xuất, dịch vụ, môi giới,...) ngày càng đông.
Phần lớn họ là những nhà kinh doanh vào Việt Nam với mục đích kinh doanh lành
mạnh, đúng pháp luật, nhưng không trách khỏi một số phần tử lừa đảo. Vấn đề này
đặt ra cho Nhà nước nên có một tổ chức tư vấn đặc trách hướng dẫn các doanh
nghiệp trong buôn bán kinh doanh với các đối tác nước ngoài ; cung cấp đầy dủ
những thông tin cần thiết về các đối tác nước ngoài cho các doanh nghiệp trong
nước.
Đặc biệt với công ty MIDECO mới thành lập, kinh nghiệm trên thương
trường còn rất Ýt và là một công ty nhỏ, mặt khác sản phẩm xuất khẩu của công ty
lại có trọng lượng lớn do vậy việc vận chuyển là hết sức khó khăn. Nếu thiếu công
tác tư vấn từ bên ngoài thì dễ dẫn đến thua thiệt.
Môi trường khoa học - công nghệ.
Sù tiến bộ của khoa học - công nghệ trên thế giới đã tác động hàng ngày,
hàng giê đến công việc kinh doanh của mỗi doanh nghiệp. Đứng trên góc độ của
mỗi nhà sản xuất hàng hoá, tốc độ phát triển của khoa học công nghệ được xem
như một động lực bắt buộc họ - những người sử dụng những thành tựu của khoa
học để sản xuất những sản phẩm hàng hoá phục vụ cho xã hội, phải không ngừng
cải tiến phương pháp quản lý, đẩy mạnh các hoạt động khuyến mại với mục đích
cuối cùng là nâng cao chất lượng phục vụ để tiêu thụ hàng hoá, rút ngắn thời gian
của chu trình sản xuất - tiêu thụ. Bởi vì, điều dễ hiểu là khoa học công nghệ phát
triển, tuổi thọ của máy móc thiết bị và sản phẩm cũng bị rút ngắn. Nếu các nhà sản
xuất không sử dụng hết công suất thiết bị thì sẽ rơi vào hao mòn vô hình - mét loại
hao mòn chỉ có ở thời đại mà khoa học kỹ thuật đã trở thành yếu tố của lực lượng
sản xuất. Ở công ty MIDECO mấy năm gần đây, do nhu cầu đòi hỏi nên đã nhập
máy móc thiết bị, gần đây nhất công ty đã nhập một dây chuyền sản xuất của Ý.
Do vậy, ban quản lý công ty phải có chính sách và biện pháp để sử dụng hết công
suất của máy, khấu hao phải hợp lý (cả hao mòn hữu hình và hao mòn vô hình),
đặc biệt là khấu hao vô hình, nó rất khó tính toán, cho nên phải tính toán thận trọng
tránh tình trạng “lãi giả lỗ thật”.
Thông tin là một bộ phận hợp thành của khoa học công nghệ. Trong thời đại
bùng nổ thông tin ngày nay, các doanh nghiệp đã nhận thức và coi trọng vai trò của
thông tin kinh tế. Vấn đề quan trọng là xử lý và sử dụng thông tin như thế nào cho
chính xác để phục vụ cho mục tiêu kinh doanh. Để hỗ trợ cho các doanh nghiệp sử
dụng các thông tin có Ých và loại trừ những thông tin thất thiệt, Nhà nước nên
thành lập các công ty tư vấn chuyên trách cho các doanh nghiệp, làm tốt công việc
này sẽ tránh cho các doanh nghiệp những sai lầm đáng tiếc thường xảy ra trong nền
kinh tế thị trường.
Môi trường kinh tế.
Sức mua là biểu hiện của môi trường kinh tế, nó tác động mạnh mẽ tới hoạt
động kinh doanh của công ty MIDECO.
Với bối cảnh của nền kinh tế trong nước và khu vực hiện nay. Trong nước
thì gần như chủ yếu là các công trình lớn của Nhà nước, các công trình của chủ đầu
tư nước ngoài tiêu dùng sản phẩm của công ty, còn hầu hết dân chúng một khối
lượng khách hàng khổng lồ thì gần như chưa tiêu dùng sản phẩm của công ty mà
chủ yếu tiêu dùng các sản phẩm đá khác. Một mặt, do giá thành của sản phẩm công
ty khá cao, bậc trung lưu ở Việt Nam cũng chưa giám sử dụng. Mặt khác, vấn đề
xây nhà ở của dân còn đang có nhiều lo ngại, người dân lo sợ bị quy hoạch cho nên
không giám xây dựng những nhà ở kiên cố, kiến trúc đẹp... Còn trong khu vực và
trên thế giới, do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ ở châu Á đã làm
cho giá trị đồng tiền giảm mạnh từ đó làm cho nền kinh tế bị đình trệ, việc nhập
khẩu hạn chế, ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động xuất khẩu của các đơn vị đang
xuất khẩu sang thị trường đó.
Trong bối cảnh hiện nay công ty MIDECO nên có chính sách nghiên cứu
mở rộng thị trường sang các khu vực châu Mỹ, châu Âu - là những khu vực có
tiềm năng kinh tế lớn, bên cạnh đó có thể chế tác ra các sản phẩm đá phục vụ cho
giới trung lưu trong nước.
Môi trường địa lý.
Nguồn tài nguyên thiên nhiên không phải là vô hạn, với sự khai thác ồ ạt như
hiện nay thì đây cũng là vấn đề đặt ra cho toàn xã hội, Nhà nước cần phải có biện
pháp để khắc phục tình trạng này. Trong cơ chế thị trường thì những sản phẩm có
triển vọng, mang lại lợi nhuận cao sẽ không tránh khỏi sự cạnh tranh trong tương
lai, sản phẩm đá ốp lát mới mẻ này là một ví dụ. Do vậy công ty cần phải nghiên
cứu, đánh giá trữ lượng thực chất của các mỏ để có chính sách khai thác cho hợp lý
và hiệu quả, dự kiến được những biện pháp đối phó với sự cạnh tranh trong tương
lai.
Cần phát triển hệ thống thông tin liên lạc phục vụ cho yêu cầu kinh doanh
của các doanh nghiệp. Để kinh doanh thành công trong điều kiện cạnh tranh trong
nước và quốc tế phát triển, các doanh nghiệp cần rất nhiều thông tin chính xác về
thị trường, thông tin về công nghệ, thông tin về người mua và bán, thông tin về các
đối thủ cạnh tranh, thông tin về tình hình cung cầu hàng hoá, dịch vụ, thông tin về
giá cả, thông tin về tỷ giá... không những thế các doanh nghiệp còn rất cần những
thông tin về những thành công hay thất bại của các doanh nghiệp trong nước và
quốc tế, biết được thông tin về các thay đổi chính sách của Nhà nước ... Nhu cầu
thực tế to lớn của các doanh nghiệp đòi hỏi phải phát triển hệ thống thông tin liên
lạc bằng nhiều hình thức khác nhau từ việc phát triển báo chí, truyền thanh, truyền
hình đến phát triển các hoạt động bưu chính viễn thông. Trong kinh doanh nếu biết
mình, biết người và nhất là biết được các đối thủ cạnh tranh thì sẽ có chính sách để
thắng lợi trong cạnh tranh, có chính sách phát triển quan hệ hợp tác mạnh mẽ, chặt
chẽ để hỗ trợ trong kinh doanh. Kinh nghiệm thành công của nhiều xí nghiệp cho
thấy nắm chắc được các thông tin cần thiết và biết xử lý các thông tin kịp thời đúng
đắn trong kinh doanh là một yếu tố, một điều kiện rất quan trọng để thắng lợi trong
cạnh tranh và kinh doanh đạt lợi nhuận cao. Nhưng cần phải nhấn mạnh rằng
những thông tin quí thì các đối thủ canh tranh lại rất bí mật, đó là bí mật nhà nghề,
bí mật về bí quyết kinh doanh, bí mật về công nghệ.... Bởi vậy, một vấn đề đặt ra
cho công ty MIDECO là phải nắm bắt và xử lý tất cả các thông tin có liên quan đến
hoạt động sản xuất kinh doanh của mình.
Phát triển công tác đào tạo lại, bồi dưỡng nâng cao trình độ cán bộ công
nhân viên hiện có, đào tạo mới một số cán bộ, công nhân viên có chất lượng cao
cho doanh nghiệp. Để kinh doanh đạt lợi nhuận cao, không còn con đường nào
khác, các doanh nghiệp phải sản xuất nhanh, sản xuất nhiều, sản xuất có chất
lượng tốt và sản xuất rẻ. Muốn vậy phải tăng năng suất lao động, nâng cao chất
lượng sản phẩm, hạ giá thành sản phẩm. Các doanh nghiệp chỉ có thể đạt được
điều đó khi hàm lượng chất xám, hàm lượng khoa học, công nghệ trong giá trị của
sản phẩm được nâng cao hay nói cách khác áp dụng khoa học - công nghệ, phương
pháp và phương tiện hiện đại, tiên tiến, phù hợp trong sản xuất kinh doanh, dịch vụ
và quản lý.
Nhưng để tiếp thu, sử dụng và quản lý được công nghệ, phương pháp và
phương tiện hiện đại, tiên tiến, phù hợp phải có người lao động đạt trình độ cao,
đặc biệt là đội ngò chủ doanh nghiệp, các chuyên gia đầu ngành, công nhân lành
nghề trong từng doanh nghiệp, đây là đội ngò lao động có ý nghĩa quyết định đến
sự thành công hay thất bại của doanh nghiệp. Nhu cầu đó cần phải thoả mãn bằng
nhiều cách và do nhiều nguồn đầu tư khác nhau, trong đó có cả của Nhà nước, của
doanh nghiệp, của người lao động. Đầu tư cho đào tạo lại, bồi dưỡng nâng cao và
đào tạo mới đội ngò cán bộ có chất lượng cao là nhu cầu cấp bách và cơ bản lâu
dài của các cơ quan Nhà nước, đây là người tổ chức và quyết định. Trong đó các
trường đại học, cao đẳng, trung học, dạy nghề có vai trò cực kỳ quan trọng trong
toàn bộ các khâu của quá trình đào tạo, từ khâu tuyển sinh đến đào tạo và kết thúc
quá trình đạo tạo. Về trường đại học cần nhấn mạnh vai trò quyết định trong việc
xác định mục tiêu, cơ cấu, kiến thức, qui trình đào tạo, nội dung, hình thức và
phương pháp đào tạo. Muốn có chất lượng đào tạo cao phải giải quyết những vấn
đề một cách đồng bộ, khi chất lượng đào tạo đã được nâng cao các doanh nghiệp
nói chung và công ty MIDECO nói riêng sẽ có điều kiện để tuyển chọn được
những cán bộ, công nhân giỏi về trình độ và tay nghề...
Công ty phải chủ động sáng tạo trong việc tạo ra môi trường hoạt động
kinh doanh thuận lợi cho mình. Trong đó phải nói đến việc tạo môi trường đầu ra
và đầu vào, đẩy nhanh tiến bộ khoa học, công nghệ, tổ chức lại sản xuất và quản lý
ngày càng hợp lý hơn, xây dựng đội ngò cán bộ vững vàng về chuyên môn và công
nhân lành nghề... Công ty có vai trò quyết định trong việc tạo môi trường cạnh
tranh và hợp tác để tồn tại và phát triển. Vai trò quyết định của công ty thể hiện
trên hai mặt, thứ nhất là biết khai thác và sử dụng hiệu quả những điều kiện, yếu tố
của môi trường bên ngoài, mặt thứ hai là công ty chủ động tạo ra những điều kiện,
yếu tố do chính bản thân mình để phát triển.
Để làm được những điều đó công ty cần có các giải pháp :
Một là : Công ty cần nghiên cứu thị trường tiêu thô : Sự tồn tại của công ty
là do thị trường tiêu thụ quyết định, công ty cần phgải xác định rõ về :
Nhu cầu của thị trường hiện tại.
Dù báo nhu cầu thị trường trong tương lai.
Khả năng chiếm lĩnh thị trường.
Khả năng cạnh tranh thị trường.
Trên cơ sở phân tích thị trường, công ty cần xác định được qui mô sản xuất
hàng năm. Trong dự báo cần phải tính đến các yếu tè :
Ảnh hưởng của giá cả đối với từng thị trường.
Ảnh hưởng của thu nhập đối với từng thị trường.
Các ảnh hưởng khác, sự biến đổi của nhu cầu thị trường.
Mức độ ảnh hưởng đối với sản phẩm đá ốp lát.
Hai là : Hình thành và xác định rõ ý đồ kinh doanh : Đó là xuất phát từ một
số nhu cầu mà công ty có thể thoả mãn hoặc một năng lực độc đáo riêng của công
ty. Khi dự tính được những nhu cầu và năng lực, như vậy vị trí của công ty được so
sánh, công ty đưa ra những biện pháp khác nhau để thoả mãn nhu cầu và so sánh
với khả năng của những doanh nghiệp cạnh tranh...
Ba là : Tạo sự tín nhiệm đối với công ty.
Để tồn tại và phát triển trong cơ chế thị trường công ty cần quan tâm đến uy
tín và ảnh hưởng của công ty mình trên thị trường. Có thể coi việc xây dựng tín
nhiệm là một trong những bí quyêt để công ty thành đạt. Trên thị trường sự tín
nhiệm đối với công ty gồm :
Tín nhiệm về chất lượng của sản phẩm.
Tín nhiệm về tác phong kinh doanh.
Tín nhiệm về sự phục vụ của công ty.
Bèn là : Nâng cao nghiệp vụ kinh doanh : Nghiệp vụ kinh doanh là toàn bộ
những biện pháp và phương pháp giao dịch nhằm kích thích nhu cầu thị trường
trong khi tiêu thụ hoá, đảm bảo tiêu thụ nhanh và thoả mãn nhu cầu thị trường. Nếu
áp dụng các biện pháp thích đáng và hợp lý trong nghiệp vụ kinh doanh thì sẽ đạt
được hiệu quả trong tiêu thụ sản phẩm.
Có rất nhiều biện pháp để nâng cao nghiệp vụ kinh doanh. Đối với mặt hàng
đá ốp lát có thể sử dụng những biện pháp sau:
Sử dụng hệ thống cửa hàng để tiêu thụ sản phẩm.
Tiêu thụ sản phẩm thông qua trưng bày mẫu.
Tiêu thụ sản phẩm thông qua quảng cáo.
...
Công ty muốn thành đạt cần áp dụng những biện pháp nghiệp vụ kinh doanh
phù hợp với điều kiện cụ thể của công ty và phù hợp với hoàn cảnh thị trường,
cùng một thời điểm phải kết hợp nhiều biện pháp khác nhau trong tiêu thụ mới đạt
kết quả cao.
Năm là : Tăng cường mở rộng mối quan hệ - cầu nối giữa công ty và xã hội:
Mặt hàng đá ốp lát là loại hàng hoá dùng để trang trí nội, ngoại thất công trình
làm cho vẻ đẹp của công trình được nâng cao. Trong điều kiện cạnh tranh công ty
cần phải có mối quan hệ chặt chẽ với khách hàng, tạo ra những khách hàng truyền
thống .
Sáu là : Sử dụng tối ưu cơ sở vật chất kỹ thuật của công ty.
Nhằm tạo ra sản phẩm có chất lượng cao đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của xã
hội. Đây là phần năng lực chủ quan của công ty quyết định sự tồn tại và chiến
lược kinh doanh lâu dài của công ty. Công ty cần có biện pháp trong khai thác
nguyên vật liệu, sử dụng lao động có tay nghề, có năng suất, sử dụng máy móc
công nghệ tiên tiến cùng với tổ chức quản lý tối ưu tạo điều kiện để công ty làm ra
những sản phẩm có chất lượng cao có uy tín trên thị trường. Với mặt hàng đá ốp lát
công ty cần phải có biện pháp và xây dựng chiến lược đa dạng hóa sản phẩm để
phù hợp với nhu cầu của từng thị trường.