Upload
others
View
12
Download
0
Embed Size (px)
Citation preview
CHƠN PHÁP LƯU TRUYỀN Cao Đài Tam Kỳ Phổ Độ
1
CHƠN PHÁP LƯU TRUYỀN
Chúng tôi nhận được bản soft copy “Chơn Pháp Lưu Truyền” là
nhờ cô Ngô Mỹ Hạnh ở Biên Hòa đã bỏ công copy và gửi cho
chúng tôi. Nhận thấy giá trị quý báu của quyển Kinh, chúng tôi
phát nguyện đánh lại vào máy vi tính để có thể đưa lên mạng phân
phát cho mọi người cùng đọc và tìm hiểu.
Vì đánh máy lại nên e rằng không tránh khỏi được những lỗi lầm.
Xin quí vị độc giả niệm tình tha thứ và đồng thời xin chỉ bảo những
chỗ sai lầm để chúng tôi có thể sửa chữa và bổ túc.
Xin chân thành cảm tạ,
Viễn Lưu, Jun/25/2014.
Email: [email protected]
*Hình đồ bổ túc của ĐH. Hồ Đạo Hạnh ở cuối sách, 07/01/2016
--oOo--
LỜI NÓI ĐẦU Xưa Thánh Nhơn nói rằng:
“Vạn lý hữu bổn mạt sự hữu chung thỉ, sở tri tiền hậu tắc cận đạo
hỉ”. Nghĩa là: Hầu hết các lý sự trên đời này, đều có cái gốc ngọn
của nó, đều có cái trước sau của nó.
Nếu ai mà biết được đầu đuôi manh mối ấy thì ắt gần với Đạo vậy.
Mà nay như hầu hết nhơn loại đã đi sâu vào lò (Hậu-Thiên-Bát-
Quái) cứ lăn lộn theo nếp sống hiện sinh của khoa học vật chất hóa
con người toàn diện, nên lý trí hữu hạn lấn áp tinh-thần vô song,
tương tranh thì nhiều, mà tương trợ lại ít.
Nay xét thấy kỳ ba này, Đức Thượng-Đế mở lượng Từ-Bi ân xá,
khai Huỳnh-Đạo đặng độ dẫn các Linh-căn Nguyên-Chưởng tu
hành theo Tân-Pháp mà trở về ngôi xưa vị cũ hiệp cùng Đức
Thượng-Đế.
Nhưng: Lý đạo rất u-huyền thâm viễn khó hiểu khó tầm. Nó lại
đòi hỏi rất nhiều công trình, móc moi từng khối óc, tìm kiếm đủ
sách cũ kinh xưa, mới truy nguyên lý-đạo hầu đoạt-vị thành công.
Chúng tôi toàn thể Tịnh Trường không nệ tài hèn trí mọn, mạo
muội nói lên những sự học tầm lời dạy của Tiên-ngôn Thánh-ngữ,
chớ sự thật chúng tôi cũng còn mang xác phàm phu tục tánh nào có
biết chi đâu mà nói lên những lời cao thượng.
Nhưng: hằng ái ngại trong lòng rằng “Thân tằm lo trả nợ dâu” nên
chẳng nại gian lao khổ khó, bao quản đêm ngày với tấm lòng tận
tụy hy-sinh, để đền đáp Tứ-Ấn trọng đại vậy thôi.
CHƠN PHÁP LƯU TRUYỀN Cao Đài Tam Kỳ Phổ Độ
2
Nay chúng tôi tham khảo Thánh-Giáo tri tầm Thiên-cơ diệu lý,
đặng làm tài liệu lưu truyền Chơn-Pháp để lại hậu lai, cho xứng với
công các Đấng Thiêng-Liêng đã từ lâu chỉ giáo.
Kể từ lúc sơ khởi ban đầu, tự nhiên Thiên-cơ tuần hườn, chuyển
phục, “Vật cực tắc phản” thì ra cơ Tạo-Hóa hóa sanh có đủ huyền
linh, nhưng cũng phải tuân y luật chung tùy duyên nhứt lý.
Phải đi theo Thiên-cơ động-tịnh chuyển-biến, rồi “Nhứt bổn tán ư
vạn thù” và vạn thù cũng phải qui hườn về nhứt bổn vậy.
Nhưng: Trước khi Vô-Cực thủ xuất (Xưng-Tôn) rồi lần lần đến
Lưỡng-Nghi, mới có Âm Dương phân biệt, kế đến vô số mãn khai,
sanh-sanh hóa-hóa.
Nay bằng muốn trở về chỗ vạn thù qui nhứt, thì cũng phải thuận
tùng theo Thiên-lý mà qui hiệp nhứt nguyên, nhưng các Thánh-
Giáo các kinh xưa, cũng đã dạy hết không sót một lời, mà rất thâm
u huyền-bí, khuất ẩn lộn-xộn đuôi-đầu khó tầm khó hiểu, khó ráp
đặng máy Thiên-cơ.
Nên ơn Trên hằng dạy đi dạy lại, không ngoài “Cơ Nhứt-bổn Tán
vạn thù” đến cùng cực rồi vạn thù cũng phải qui về nhứt bổn, mới
đắc quả thành công chỗ Thiên-cơ chuyển phục, mà qui hườn như
nhứt mới được cho.
Nay chúng tôi cố gắng đem hết khả năng sưu tập kinh sách theo sự
hiểu biết hữu hạn, mà sắp bày Đạo-lý tuần tự theo lớp lang đuôi đầu
từ sơ-thỉ khai Trời lập Đất, đến cơ phản bổn hườn nguyên, Thiên-
Địa-Nhơn tam-tài giả hiệp, là cơ phanh tu thể luyện theo các Đấng
ban truyền tự bấy lâu nay, cho khỏi phụ ơn các Đấng đó vậy.
Nếu chúng tôi có điều chi thiếu xót, mong quí Đại-Đức Cao-Minh
bổ cứu cho rất mong thay!
BAN PHỔ-MINH CHƠN-ĐẠO
TRƯỜNG TỊNH CAO-MINH-QUANG
LỚP SIÊU-HÌNH THƯỢNG-HỌC CHƠN-ĐẠO VÔ VI
Ngày 01-11 Đông-Chí Bá-Nhựt Trúc-Cơ
Niên Đạo 48 Nhâm Tý 1972-1973
Tài liệu học tập trong Trường Chơn-Đạo lớp Bá-Nhựt Trúc-Cơ.
Kỳ Đông-Chí do toàn cả Tịnh Trường luận giải, sắp thành trật tự
lớp lang sau trước. Theo sự học tập trong kinh sách của các Đấng,
để Lưu-Truyền Chơn-Pháp di-tích hậu lai.
THÁNH TỰA PHÂN MINH
TRƯỜNG-CANH THÁI-BẠCH
--oOo--
THI
-Nhựt thường viên mãn túc chơn dương.
Nghĩa: Mặt Nhựt đầy tròn không khuyết là vì chơn dương đầy đủ,
như thế mãi vận hành.
- Nguyệt khuyết âm trầm tại thiếu dương.
Nghĩa: Mặt Nguyệt khi khi khuyết đầy vơi không chừng là vì Mặt-
Nguyệt thiếu phần chơn dương, cho nên phải chịu khi đầy khi vơi
luân chuyển.
- Nhãn định nội quang hà hữu ám.
Nghĩa: Cặp Thần-quang bế lại soi rọi nơi tâm, tuy tối: Nhưng trong
lòng không tối dẫn sáng soi Ngũ-tạng phân minh, biết chỗ thiếu hầu
bổ-túc, biết chỗ thừa mà chuyên chế để điều-hòa Ngũ-tạng, đó là
quan sát nội tâm không bao giờ mờ ám.
- Tâm vô xúc ngoại thị tiên phương
Nghĩa: Lòng của Chư Hiền thông sáng suốt, chỉ giữ-gìn Phật tại
tâm trung, không bao giờ ngoại cảm, tức là: Một phương tiên dược
Tịnh Trường an dưỡng.
- Tinh thần yểu yểu tầm tu chứng
Nghĩa: Tịnh tâm êm lặng diệu diệu thâm thâm, lặng lẽ tầm đường
giải thoát, không giao động bên ngoài, từ tiếng nghe nhỏ nhặt đó là:
Chứng vị của lòng tu.
- Vật thể sinh-sinh chướng ngại trường.
Nghĩa: Nếu tâm không tịnh-định, bao tiếng động bên ngoài, tâm
vẫn phát sinh nhiều tư tưởng, đó là một chướng ngại của người
đang thu hấp.
- Bá niệm mạc hành nan đắc lộ.
CHƠN PHÁP LƯU TRUYỀN Cao Đài Tam Kỳ Phổ Độ
3
Nghĩa: Dầu cho muôn ngàn câu niệm, nhưng chưa đạt được một
điểm gì, tất nhiên không sao đạt được Đạo-Pháp mầu vi tối trọng.
- Nhứt ngôn đạt Đạo thử năng phương.
Nghĩa: Một câu niệm nhưng được đạt thành Chánh-Pháp, đó là:
Một phương thức đạt quả vị của lòng chơn thật kết quả lòng tu.
Giờ Bần-Đạo chiếu điển vô-hình cùng Chư-Hiền trong giờ xuất
Tịnh, đây là Bần-Đạo giải phớt qua cho chư hiền cần trau luyện, để
khai thác thêm những điều huyền-bí trong những câu văn, lúc điều
hành tịnh-định đừng sơ sót, e một ngày gần đây khó đạt được công
tu bao năm đã rủ vào xác đất, như vậy bao vọng ước phải trôi đi, rồi
phải hoài công tu của đời thừa hành của Đạo-Pháp, nhưng: Về phần
Tịnh-Trường Nhứt-Ngoạt chia ra đôi phần:
1. Về phần Tịnh-Dưỡng trí để trưởng dưỡng thân tâm, hầu bổ
túc nhục thân trong khi đã gặp phần suy kém.
2. Phần khác thì Chư-Hiền phác họa Chương-Trình tạo căn-cơ
lưu-hành bút-tích, đó là điều cần thiết Lưu-Truyền, nhưng mà
Chư-Hiền nên hội ý tế nhị trong Chương-trình vận dụng về khai
thông hậu nhân, để tránh điều ngăn chận. Vì sự ngăn chận vô tình
mà Chư-Hiền chưa đạt tròn lý cao siêu, một khoảng đường dội lại
chận ngừng, đó là phần ngưng trệ giao động lòng mình, lằn điển
quang chuyển qua thiếu phần cực thịnh, tức không đạt thành quả
vị đề tài khai thông, dù những đề tài đã bao năm học tập Lưu-
Truyền nói cảm-ứng cho thế nhân Đạo-Pháp trong quảng đường
cấu tạo để phát triển chương trình Đạo-Đức.
Kìa trước một ánh bình quang chói rọi xẹt vào, hòa chung nhau
đốm lửa còn lấp-le, như vậy cũng gọi là đạt được phần nào trong
tâm trung thu-thập. Giờ Bần-Đạo diễn dụ tiền đàn, sau Thiên-
Mạng hội ý sắp xếp tinh-thần kết chặt để tạo thành mối tương-
quang lưu lại cho hậu nhân là điều tối cần cho thế hệ. Giờ Bần-
Đạo chiếu sắc tiền đàn điển chỉ dẫn
Bài:
Giờ mãn Tịnh Trường-Canh rọi bút
Nơi Tam-Thanh trong lúc đêm nồng.
Điển Thiên quá khứ khai thông
Hiệp cùng nhơn điển chơn đồng diễn ra.
Lưu lại thế trần mà ghi nhớ
Sức Trường-Canh điển trở thiên môn
Lòng hằng tịnh-định triêu-hôn
An thần định trí chơn hồn thanh cao.
Đàn ngày 15-09 AL Năm Quý Sửu 1973
--oOo--
ĐẠI ĐẠO TAM KỲ PHỔ ĐỘ
CÔNG BÌNH BÁC ÁI TỪ-BI
TIÊN THIÊN HƯ VÔ
Chiếu theo lời Lý-Đại Tiên-Trưởng dạy.
Đàn 01-06-48 Quý Sửu 1973
Giờ Bần-Đạo chuyển qua trên đài Thiên-Đạo.
Một ý chí chơn thành, một linh tâm phát xuất, lòng đã phát huệ,
“kiến vật vô nhơn kiến, kiến tánh vô nhơn tri”.
Như thế khác phần phàm thể, dụng tánh điều hành, dụng tâm tiếp
ứng.
Đó là mục đích khai thông tư-tưởng, đạo pháp hoằng dương lòng
sở nguyện của Thiên Mạng Chư Hiền định Lưu-Truyền Chơn-
Pháp, thì văn tự phải kiện toàn.
1. Nhứt ngôn yếu lý, nhứt ngôn thành.
2. Nhứt ngôn bại lý, nhứt ngôn hoại.
Vậy phần này, Bần-Đạo trao quyền cho Tịnh-Trường, từ hướng
dẫn cho đến tất cả, đồng chung nghiên-cứu sẽ ban hành Chơn-
Pháp cho chư Thiên Mạng trung đàn.
Chiếu-Y-Lịnh GIÁO TÔNG chỉ-phán.
Tịnh-Trường Đồng Kính Bái.
--oOo--
CHƠN PHÁP LƯU TRUYỀN Cao Đài Tam Kỳ Phổ Độ
4
CHƠN-PHÁP LƯU-TRUYỀN THIÊN-KINH DIÊU DỤNG
(Cửu-Chuyển Khai-Thiên)
CHƯƠNG I
KHAI TRỜI DỰNG ĐẤT SANH HÓA MUÔN LOÀI
Vô-cực-Đồ Cửu-Chuyển Tịnh-Động sanh cơ.
THI
Càn khôn cơ nhứt chuyển
Vô cực Đồ nhứt quyện
Vô sắc thị Diêu-Trì
Niệm quang Cổ Mẫu Biến.
BÀI
Cơ nhứt chuyển Càn-Khôn Vũ-Trụ
Vô-Cực-Đồ chứa đựng Âm-Dương
Vô sắc tượng thể Diêu-Trì
Trong bờ Kim-Mẫu động thành biến đi
Trái lại: người tu luyện đến mức nầy kêu là hườn về khí Vô-Cực
(Hườn-Vô).
Từ thuở Hồng-Mông dị phán, thì Vô-Cực xưng Tôn, ban đầu thủ
xuất, vòng Vô-Cực bằng vàng chứa đựng hai khí, (Hư-Linh) nóng
lạnh lẫn lộn ở trong bầu Vô-Cực, nên kêu là Kim-Mẫu bao trùm
hai khí dường thể ao sâu, mờ mờ mịch-mịch lấn qua ép lại, diêu-
động bất mãn nên gọi Diêu-Trì Kim-Mẫu là Mẹ, là cái gốc sáng
tạo ra Trời Đất cùng vạn vật muôn loài, do hai khí Hư-Linh chứa
đựng trong ao Diêu-Trì, rồi Kim-Mẫu ngoại tịnh nội động bất
mãn, hai khí đun đẩy nhau đến cực độ, mới gom lại thành Hư-Linh
hai khối tẻ ra mà đun nấu bờ vàng đến cùng cực. (Vật cực tắc phản
ắt có biến sanh).
Đến khi lập thành xong Trời đất
Ngài phân ra tứ chất khí quang
Tứ trụ trấn vị chủ đàn
Khí quang tứ hướng phục hoàn lập nguyên
Trụ một điểm Huyền-Thiên Thượng-Đế
Là khí huyền lập để cao ngôi
Huyền-Thiên chưởng chấp phân rồi.
Thứ ngôi lập vị chủ ngôi Cao-Đài.
Trụ hai điểm mở khai từ chỗ
Là Hồng-Quân Lão-Tổ phổ thông
Phân từ cực phẩm khí hồng
Vô-minh điểm sắc ấn đồng Hồng-Quân
Trụ ba điểm tự xưng chánh giáo
Đông dương Thiên công tạo lập thành
Tượng đồ ứng chiếu khí thanh
Do trong khí tượng lập thành mỗi quan
Trụ bốn điểm Mẫu-Hoàng tượng ảnh
Tây-Vương-Mẫu Thánh Đức truyền
Khí bạch sắc chiếu hườn nguyên
Huyền-Hồng Thanh-Bạch tứ kiên phô trương
Còn chính Trung-Ương Thái-Cực
Ngài mới xưng danh đức Thánh-Hoàng
Đó là Ngũ-Khí gia ban
Triều ngương trưng tượng Thánh-Hoàng tá danh.
Các vế thi bài để chứng minh cho những hình đồ từ cửu-chuyển
lập thành Trời đất đã soạn ra đây đều do một vị Tiên mới Thiện-
Hỏa Chơn-Thiên chỉ dạy.
Về phần Cửu-Chuyển lập thành Trời đất và sanh hóa muôn loài
trong cơ Tạo-Hóa sanh ra vạn vật.
Nên người tu cần học cho hiểu biết cơ Trời đất, rồi mới rõ trong
cơ thể con người hầu ráp máy Thiên-cơ mà đắc thành quả vị. Vì
Trời người đồng nhứt lý, vậy người tu đơn luyện đạo, cần phải học
hiểu cho tột lý mới thông cơ Tạo-Hóa, mà làm theo Thiên lý lưu
hành mới mong thành đạt được.
CHƠN PHÁP LƯU TRUYỀN Cao Đài Tam Kỳ Phổ Độ
5
Vì trong cơ Tạo Thiên lập địa do Đức Đạo-Tổ Thái-Thượng dùng
cơ động tịnh mà phân lập Lưỡng-nghi, tứ-tượng ngũ-hành thành
Bát-Quái, xong rồi mới có ngày đêm sáng tối đặng dưỡng dục
sanh hóa muôn loài.
Vì Đức Ngài là Giáo-Chủ Đạo-Tiên, nay bằng ai tu hành theo
Tiên-Đạo cũng đều phải tuân y theo luật tuần hườn của Thiên-cơ
diệu-lý mới được cho.
Trái lại: Người tu đến mức nầy kêu là Ngũ-Khí Triều-Ngươn hay
là Ngũ-Hành hiệp nhứt.
--oOo--
CƠ LỤC, THẤT, BÁT, CỬU, CHUYỂN LẬP THÀNH BÁT-
QUÁI
TIÊN-THIÊN, HÓA-SANH VẠN VẬT MUÔN LOÀI
Lục Chuyển: thành Càn, Khôn
Thất Chuyển: thành Đoài, Cấn
Bát Chuyển: thành Ly, Khảm
Cửu-Chuyển: thành Chấn, Tốn
Khi lập ngôi thứ nhứt của Đức Thượng-Đế là ngôi Thái-Cực rồi,
lại động sanh dương làm hỏa, mà hỏa là Thần-Linh của Đức
Thượng-Đế. Vì vậy mà Đơn thơ gọi Thượng-Đế là (Mộc). Vì Mộc
năng sanh hỏa. Rồi đến cực tịnh mà sanh Âm, Âm tức là tinh, tinh
thuộc thủy, mà tinh là Chơn-Linh của Đức Diêu-Trì Kim-Mẫu, là
Mẹ linh hồn của chúng sanh đó. Vì kim năng sanh thủy nên kêu
Kim-Mẫu là Mẹ vậy. Đó là ngôi thứ nhứt của Thượng-Đế là Thái-
Cực sanh ra, hình nó tròn ở giữa lăn trong vòng Vô-Cực.
Rồi Âm Dương mới giao cảm cùng nhau mà sanh ra vạn vật. Vì
lớn như Càn-Khôn Võ-Trụ, nhỏ nhít tế vi như một tế bào cũng
phải chịu dưới Nhị thể Âm Dương giao cảm, đặng làm căn bản
cho Ngươn-Khí, rồi cứ vận chuyển trong ngôi Thái-Cực, một
động, một tịnh mà sanh ra hai Ngươn-Khí là Thái-Âm và Thái-
Dương tức là Càn Tam Liên và Khôn Lục-Đoạn, hai khí ấy cũng
giao cảm nhau, mà sanh ra hai khí Thiếu Âm trung hư là Quẻ Ly,
và thiếu Dương trung mãn là Quẻ Khảm mà hiệp lại thành hai quẻ
Khảm Ly đối diện, cùng kết lại với hai khí Thái Âm và Thái
Dương, là thành Tứ-Tượng ra Bát-Quái Tiên Thiên, mà tạo thành
Càn-Khôn Võ-Trụ cùng vạn vật muôn loài.
Khi lập thành Bát-Quái xong rồi Đức Thượng-Đế mới tuần tự cho
Bát-Phẩm Chơn-Hồn xuống đầu thai trong thế giới hữu hình nầy
mà tấn hóa học hỏi cho khôn ngoan đến khi nào được chí thiện chí
mỹ sẽ trở về nguyên-vị mà hiệp nhứt với Đại Linh-Quang của
Thượng-Đế. Bát-Phẩm Chơn-Hồn:
1. Vật chất hồn (Kim thạch sắt đá) 2. Thảo mộc hồn
3. Thú vật hồn 4. Nhơn hồn
5. Thần hồn 6. Thoát hồn
7. Tiên hồn 8. Phật hồn.
Rồi Đức Thượng Đế hóa chơn linh phân ra làm 12 vị Chơn Nhơn
để cai trị Thập-Nhị Thời-Thần là: Tý, Sửu, Dần, Mẹo, Thìn, Tỵ,
Ngọ, Mùi, Thân, Dậu, Tuất, Hợi. Đó là 12 địa chi. Vì thế con số 12
là con số riêng của Thượng-Đế. Xong rồi:
1. Trên Trời có Nhựt, Nguyệt, Tinh, Thần, Phong, Vân, Lôi, Võ.
2. Dưới Đất có Sơn, Xuyên, Thảo, Mộc, Kim, Thạch, Hườn, Châu,
do Bát-Phẩm Chơn-Hồn đầu sanh ra trước hết là vật chất Kim-
Thạch núi non sanh kim loại. Kim sanh thủy là rịn ra nước thành
sông rạch biển dã.
3. Có nước rồi Thảo-Mộc hồn mới sanh cây cối Lâm-Tòng cỏ hoa
đủ loại mới có sâu bọ dế trùn.
4. Thú vật hồn trong các loại cây cối nước non đất đá tổng hợp tinh
hoa, liên hòa cùng Âm Dương mà sanh ra phi cầm tẩu thú, từ Tý
hội và Sửu hội đến Dần hội. Trời sanh người là Nhơn Hồn.
5. Đến Dần hội thì Đức Thái-Thượng vận chuyển Ngũ-Hành khai
Thiên tịch địa xong rồi kết Nhơn Hồn xuất thế, là Bàng-Cổ-Thuần-
dương thủ xuất trong đá nở ra làm căn cội cho loài người do 2 khí
Âm-Dương hội lại lâu đời mà thành Tiên sanh Chơn-Nhơn vậy.
CHƠN PHÁP LƯU TRUYỀN Cao Đài Tam Kỳ Phổ Độ
6
Đến thời kỳ nầy Đạo-Huỳnh khai sáng phục hồi Thượng-cổ: Đa
Tạ, Đa Tạ. Thiên, Địa linh Phật, Tiên, Thánh, Thần lai tá trợ.
Vậy ai là bậc hữu căn hữu phước, nhớ bổn nguyện xưa, hãy nương
theo đạo mạch phản bổn hườn nguyên, phục hồi Thượng-Cổ, thì
trước tầm học Chơn-truyền Bá-Nhựt Trúc-Cơ phân hào định Quái,
chiết Khảm Điền Ly, cho Càn-Khôn định vị Cửu-chuyển hườn
Đơn, song tu tánh Mạng, bế Tử-Lộ-Khai sanh Môn, mà qui hồi cựu
vị đền trả nợ Tứ-Ân, cứu Cửu-Huyền, độ Thất-Tổ đồng siêu thăng
về Cực-Lạc. Đó là thuận tùng Thiên-Lý vậy.
Tóm lại: Nay đã đến thời kỳ mạt hạ Thiên Khai Huỳnh-Đạo tức là
đời tận diệt. Hạ ngươn cuối tận, thì con người phải cần tịnh tu cho
thuận theo Thiên-Lý, nếu không sẽ bị tán tiêu theo lằn Âm-Khí
trong lò Hậu-Thiên Bát-Quái của thế hệ vật chất điêu tàn, nên
người cần phải học hiểu máy Trời mà cầu phương giải thoát mới
được chứng quả an nhàn mà tiêu diêu tự tại.
ĐỒ VÔ CỰC SỐ 1 TỊNH CƠ
Trở thành sang động cơ nhị chuyển: (Đồ số 2) tiếp Hồng-Mông
biến chuyển hai khí Hư-Linh đốt bờ Kim-Mẫu, chảy thành khối
Kim-Quang hóa hình tam giác Kim-Chuyển hiện ra (Móng-Bạc)
ba màu Vàng-Xanh-Đỏ hiện.
CƠ NHỊ CHUYỂN ĐỒ SỐ 2
THI
Càn-khôn cơ nhị chuyển
Thái-Cực trung nhứt khí
Thái-Thượng thị pháp danh
Huỳnh-Quang thành hữu thỉ
Thái-Thượng-Đạo-Quân
Cơ nhị-chuyển thành Móng-Bạc
Do Hư-Linh khai hoát căn nguyên
Bạch nhựt thanh Tạo-hóa liền
Kim-quang Huỳnh-Đạo cơ nguyên Kiện toàn
Mới xuất lộ Kim-Quang linh sắc
Hiện Móng-Bạc qui tắc cơ mầu
Ba màu ứng chiếu cao sâu
CHƠN PHÁP LƯU TRUYỀN Cao Đài Tam Kỳ Phổ Độ
7
Đỏ-Vàng-Xanh tượng gồm thâu quang thần
Điển Hư-Linh chuyển đàn Bắc-Cực
Chạy dòng theo đúng mức cơ thiên
Đến phương giáp mí nối liền
Thành hình vô cực Kim-Chuyên tịnh hành.
THÁI-CỰC-TỊNH-CƠ-TAM-CHUYỂN
ĐỒ SỐ 3
Rồi Móng-Bạc Tam-Giác Kim-Chuyển nổ tung bầu Vô-Cực ra
muôn đạo Kim-Quang chiếu ánh hào quang sáng cả không gian thì
khối Kim-Quang rút vào giữa trung tâm mà thành hình Thái-Cực.
BÀI
Cơ Tam chuyển phân danh Thái-Cực
Thiên Đồ xây cho tức Hư-Vô
Căn cứ tại Vô-Cực-Đồ
Vô-Cực Chơn-Tịnh động đồ hà-phanh
Nung nấu đến Kim hành xẹt lộ
Ánh Kim-Quang khắp chỗ sáng hừng
Muôn ngàn ánh chiếu tượng trưng
Chưa phân Thiên-Địa hội chừng điểm ra.
THÁI-CỰC-ĐỘNG-CƠ-TỨ-CHUYỂN ĐỒ-SỐ 4
THÁI-THƯỢNG-TRUNG-GIAN-THỦ-XUẤT-PHÂN-LƯỠNG-
NGHI
Ngài dùng điển lực phi thường xé một lằn kinh tâm, làm hình
trạng Thái-Cực-Đồ, danh là sắc thái tức thị Đạo-Quân.
THI
Càn-khôn cơ tứ sanh
Hữu tượng lưỡng-nghi thành
Vô động huyền hồng chuyển
Giáng thăng Xích-Hắc-Huỳnh
CHƠN PHÁP LƯU TRUYỀN Cao Đài Tam Kỳ Phổ Độ
8
BÀI
Đồ số bốn phân minh Thái-Thượng,
Xưng Lão-Quân hình tượng hoát khai
Bẩm khí Vô Cực thường ngày
Trung Tâm hấp thụ-Đắc tài Tiên-Thiên.
ĐỒ SỐ 5: NGŨ-CHUYỂN
HOÀNG CỰC ÂM DƯƠNG TỊNH-CƠ HÓA NGŨ-HÀNH
Thái-Thượng dùng kinh tâm trạng thái
Băng ngan qua biến tại cực vô
Biến sanh ra Thái-Cực-Đồ
Danh đề sắc Thái điểm vô thường hành.
Ngược lại người tu đến mức này kêu là Quy Tam-Bửu (Tinh-Khí-
Thần) hiệp đảnh nên gọi Tam-Huê đứng vào Bực Tam-Tài Huyền-
Huỳnh-Hồng, (Thiên, Nhơn, Địa).
THI
Càn khôn ngũ chuyển sanh
Hoàng-Cực hóa ngũ-hành
Xích-Hắc Thanh-Bạch sắc
Ngũ quang bổn vô hình
Do công đức Thiên-Triền phục mạng
Thái-Cực thiên căn bản chủ trương
Phân minh tứ trí khí tri tường,
Huyền-Hồng Thanh-Bạch biểu dương Trung-Huỳnh
Đến khi lập thành xong Trời đất
Ngài phân ra tứ chất khí quang
Tứ trụ trấn vị chủ đàn
Khí quang tứ hướng phục hoàn lập nguyên
Trụ một điểm Huyền-Thiên Thượng-Đế
Là khí huyền lập để cao ngôi
Huyền-Thiên chưởng chấp phân rồi.
Thứ ngôi lập vị chủ ngôi Cao-Đài.
Trụ hai điểm mở khai từ chỗ
Là Hồng-Quân Lão-Tổ phổ thông
Phân từ cực phẩm khí hồng
Vô-minh điểm sắc ấn đồng Hồng-Quân
Trụ ba điểm tự xưng chánh giáo
Đông dương Thiên công tạo lập thành
Tượng đồ ứng chiếu khí thanh
Do trong khí tượng lập thành mỗi quan
CHƠN PHÁP LƯU TRUYỀN Cao Đài Tam Kỳ Phổ Độ
9
Trụ bốn điểm Mẫu-Hoàng tượng ảnh
Tây-Vương-Mẫu Thánh Đức truyền
Khí bạch sắc chiếu hườn nguyên
Huyền-Hồng Thanh-Bạch tứ kiền phô trương
Còn chính giữaTrung-Ương Thái-Cực
Ngài mới xưng danh đức Thánh-Hoàng
--oOo--
CHƯƠNG II
LUẬN VỀ KIẾP NHƠN SINH TRONG VÒNG ĐỊNH LUẬT
DINH HƯ TIÊU-TRƯỞNG
Về sự sanh sản ra con người do chỗ tinh Cha huyết Mẹ, giao hiệp
nhau mà thành hình thể cũng trong vòng Cửu-Chuyển chín tháng
cưu mang, cũng y như Cửu-Chuyển khai Thiên lập Địa vậy. Nên
Trời Đất là đại Võ-Trụ, còn Nhơn-thân con người là tiểu Võ-Trụ.
Nên nói Nhơn thân Tiểu Thiên-Địa.
Vậy trước khi con người chưa phát tình dục thì còn lặng yên trong
khí Vô-Cực. Rồi Vô-Cực, cực tịnh niệm sanh, là lúc người Mẹ tịnh
niệm mà Hàm-Linh Xung-Động, trong Noãn-Châu biến chuyển
khiến cơ thể dục giao, lại gặp lúc người Cha qui đầu bộc khởi, hạo
khí sanh Dương dục tình phát động, Phụ Mẫu tương giao Dương thí
Âm thọ tình ý dung hòa, tinh huyết hợp giao, Âm Dương bao bọc
lẫn nhau ở trong Noãn-Châu giữa bầu Vô-Cực, tức thị Thái-Cực-
Đồ.
Rồi hết tịnh đến động, động tịnh bất mãn trong Cửu-Chuyển chín
tháng mười ngày mà tạo thành hình thể của con người, có đủ bá hài
tứ thể bì bao khổng khiếu, xuất thế chào đời đặng học hỏi tình đời
lý đạo, cho hoạt bát thâm uyên, mà trở về ngôi Tiên Thánh Phật.
Đây là luật Tạo-Hóa Thiên-sanh Địa-Thành.
1. Thiên-nhứt sanh Thủy là tinh Cha hiệp cùng huyết Mẹ cấu giao
rồi ngưng lại tịnh yên trong Noãn-Châu tháng thứ nhứt chuyển sanh
biến hóa tứ thể bá hài. Ở trên sanh con ngươi bên mắt tả, ở dưới
sanh tại Bàng-Quang (Bong bóng).
2. Địa-nhị sanh Hỏa là phần huyết Mẹ ở trên cái bao con mắt hữu,
ở dưới sanh Tâm-Linh (trái tim).
3. Thiên-Tam sanh Mộc phần tinh Cha, ở trên sanh tròng đen con
mắt tả, ở dưới sanh Đởm (cái mật).
4. Địa-Tứ sanh Kim phần huyết Mẹ, ở trên sanh tròng trắng con
mắt hữu, ở dưới sanh Phế (cái phổi).
5. Thiên-Ngũ sanh Thổ phần tinh Cha, ở trên sanh da bao con mắt
tả, ở dưới sanh Vị-bào (bao-tử).
6. Địa-Lục thành Quí-Thủy phần huyết Mẹ, ở trên thành con
ngươi bên mắt hữu, ở dưới thành Thận đường (trái cật).
7. Thiên-Thất thành Bính-Hỏa phần tinh Cha, ở trên thành cái bao
con mắt tả, ở dưới thành Tiểu trường (ruột non).
8. Địa-Bát thành Ất-Mộc phần huyết Mẹ, ở trên thành tròng đen
con mắt hữu, ở dưới thành Can (lá gan).
CHƠN PHÁP LƯU TRUYỀN Cao Đài Tam Kỳ Phổ Độ
10
9. Thiên-Cửu thành Canh-Kim phần tinh Cha, ở trên thành tròng
trắng con mắt tả, ở dưới thành Đại-trường (ruột già)
10. Địa-Thập thành Mồ-Thổ phần huyết Mẹ, ở trên thành cái bao
con mắt hữu, ở dưới thành Tỳ (lá lách hay lá mía).
Đó là trong Cửu-Chuyển đủ chín tháng mười ngày mới nói Thập-
Ngoạt hoài thai, là trong vòng mười tháng mà sanh đủ bá hài tứ thể,
bì mao, khổng khiếu rồi mới phá bào thai là bầu Vô-Cực mà tung ra
xuất thế chào đời, đặng học hỏi điều hay lẽ dở, hầu tiến bộ đến khi
nào được hoàn toàn chơn thiện mỹ, lo tu sửa tánh lành luyện thành
xá lợi quang, mà hồi về nguyên bổn là Tiên-Nhơn đó. Lúc con
người ở trong thai bào thì còn ở về khí Tiên-Thiên Vô-Cực nên
không ăn mà lớn, không thở mà sống, bởi hai mạch Nhâm-Đốc còn
nối liền nhau nên hơi thở đi vòng theo đó mới kêu là (Thai Tức) hơi
thở trong thai mà cũng kêu là Nội-Tức (thở bên trong).
Khi phá thai bào vừa ra khỏi lòng Mẹ thì bị khí Hậu-Thiên nó phủ
lên, tức thì giựt mình rống khóc oa-oa-oa, làm cho hai mạch Nhâm-
Đốc vì đó mà chia lìa ra, rồi phải thở khí Hậu-Thiên nơi mũi miệng.
Dường ấy mới có thọ mạng ngắn dài, theo cơ Tuần-Hườn của
Tạo-Hóa, do luận thiện ác mà thưởng phạt sống dai hoặc chết yểu.
Nếu con người không biết hướng thiện tầm tu, thì sẽ bị Lạc-Thơ
phàm đạo biến chuyển thuần âm, mà khắc lại trở hại bản thân, hễ
lành thì thăng, còn dữ thì đọa.
Và con người hồi mới sơ sanh bổn tánh còn thiện lương thuần mỹ,
rồi từ một tuổi đến năm tuổi tánh chất còn ở trong khí Tiên-Thiên,
Hà-Đồ, nên còn thuần chơn chất phát. Rồi từ sáu tuổi trở lên lại
theo khí chất của Ngũ-Hành Hậu-Thiên Lạc-Thơ chuyển biến mới
có tánh nhiễm việc gần thấy việc xa, làm cho nhứt dạ sanh bá kế,
nhứt bổn tán vạn thù, mới có sanh đều tội phước, thiện ác theo báo
ứng như bóng theo hình, rồi phải chịu trong cảnh luân hồi mãi-mãi.
Mà Ngũ-hành Tiên-Thiên là Hà-Đồ sanh Ngũ-Ngươn trong Ngũ-
Tạng như:
1. Nhâm-Thủy ở cung Khảm (Thận) sanh ngươn tinh.
2. Đinh-Hỏa ở cung Ly (Tâm) sanh ngươn Thần.
3. Giáp-Mộc ở cung Chấn (Can) sanh ngươn tánh.
4. Tân-Kim ở cung Đoài (Phế) sanh ngươn tình.
5. Mồ-Thổ ở trung ương (Tỳ) sanh ngươn khí.
Đó là Ngũ-Khí của Tiên-Thiên hóa thành Ngũ-Ngươn hay Ngũ-
Vận biến thành Hậu-Thiên hay Lạc-Thơ.
1. Quí-Thủy ở Bàng-Quang sanh trược tinh
2. Bính-Hỏa ở Tiểu-Trường sanh thức Thần
3. Ất-Mộc ở Đởm sanh vu-hồn.
4. Canh-Kim ở Đại-Trường sanh quỉ phách.
5. Kỷ-Thổ Trung Huỳnh ở vị bao-tử sanh vọng ý.
Vậy là trọn về Hậu-Thiên Lạc-Thơ đã thành trong Ngũ-Tạng và
Lục-Phủ của con người, rồi hóa ra Ngũ-Thức sanh Ngũ-Dục trong
Ngũ-Ngươn mà thông lưu vận hành toàn cả châu thân, đặng điểm
nhuận bá hài bổn thể, bì mao khổng khiếu của con người.
Trong cơ thể con người có ba trăm sáu mươi lăm lóng xương và
tám mươi bốn ngàn lỗ chơn lông, bì mao khổng khiếu đó là Hà-Đồ
sanh tánh vậy, mà sanh Thánh hay Phàm cũng đều do nơi đó cả.
Con người có Ngũ-Thức Ngũ-Dục thì cũng do Lạc-Thơ khí chất
của Hậu-Thiên biến ra phàm tánh, tức là Phụ Mẫu tánh chi (Là gốc
của Cha Mẹ truyền sang) mà phải chịu khiển xiêng thọ khổ.
Mà Ngũ-Hành Hậu-Thiên Lạc-Thơ nó lại tương khắc lẫn nhau, rất
có hại cho cơ thể lắm vậy.
1. Trung-Ương Thổ-Khứ khắc Bắc-Phương Nhâm-Thủy. Là
vọng ý sanh tạp niệm dục tình thì thận Thủy bị hao kém.
2. Bắc-Phương Thủy-Khứ khắc Nam-Phương Đinh-Hỏa. Thì
dục tình sanh Hỏa vọng làm cho Tâm-Hỏa bị suy mòn.
3. Nam-Phương Hỏa-Khứ khắc Tây-Phương Tân-Kim. Là Hỏa
vọng làm việc mệt nhọc thì Phế bị hư hoại.
4. Tây-Phương Kim-Khứ khắc Đông-Phương Ất-Mộc. Khí
phể bị lao nhọc còn gắng gượng thì Đởm bị tiết hao.
5. Đông-Phương Mộc-Khứ khắc Trung-Ương Kỷ-Thổ. Rồi
vọng ý phát sanh làm hại cho Vị là bao tử hư suy mất ăn
quên ngủ, đó là Ngũ-Dục dấy khởi, Ngũ-Khí tiêu hao, Ngũ-
CHƠN PHÁP LƯU TRUYỀN Cao Đài Tam Kỳ Phổ Độ
11
Tạng xiêu bè thì ôi! Còn chi cuộc đời, sống cũng như chết
có thú vị chi đâu?
Mà nay Nhơn sanh hầu hết chín chục phần trăm đã lâm vào tình
trạng: Danh lợi, ái-ân, sắc-tài, tửu-khí, chạy theo Ngũ-Dục mà
chẳng kể tu kỷ luyện thân, chỉ lo sung bổ cho xác thân giả tạm chớ
không chú trọng tinh-thần Đạo-Đức, mất hẳn tình thương không
còn đồng chủng chẳng kể đồng bào, nồi da xáo thịt. Thì ôi! Làm
sao hưởng được cảnh vui an nhàn lạc, của đời Thượng-Ngươn
Chúa-Thánh tôi hiền, tiêu diêu tự tại muôn đời ngàn kiếp há chẳng
quí sao?.
Vì Ngũ-Ngươn là Chơn-Tánh bổn sơ, bởi động-tịnh mới sanh ra
Thức-Tánh trược mạng, nên phải chịu xuất thế chào đời, rồi cũng
do chỗ động tịnh ấy mà biến sanh ra muôn ngàn chuyện khúc khổ.
Vậy khá ẩn tâm tầm cho rõ căn nguyên động-tịnh, mà lo tu phản
bổn hườn sơ, đặng có ra cho khỏi vòng tử sanh lục đạo luân hồi, thì
phải mau mau dẹp cái máy sanh-tử đó đi cho rồi, vì hữu sanh thì
hữu tử, mà vô sanh thì ắt vô tử vậy.
Muốn đoạn dứt luân hồi thì phải mau dứt Lục-Căn, vì Lục-Căn
thông Lục-Trần, nên thường gây duyên nghiệp do tâm tự tạo! Vậy
hãy mau dứt hết sự ham muốn cho rồi đi. Đó là cách dẹp máy luân
hồi, thì còn chi nữa mà nói (luân-hồi). Nhưng nay đã đến thời kỳ
tận diệt cuộc Dinh-Hư-Tiêu-Trưởng sắp bày, mà người người còn
mê mẩn đắm say, theo Tửu-Khí, Sắc-Tài nào có hay sự đời là bể
khổ, cơ xáo lộn biến thiên đã đến, đó là nạn muôn vật phải chịu
cảnh tiêu diệt đọa đày trong cõi Thiên-Địa luân hồi. Cơ Mạt-Kiếp
cận kề, nếu người không lo hành Đạo-Đức mến chuộng tinh thần, lo
cho ích nước lợi dân, để làm điều hung ác bạc mê say vật chất, mến
tình đời xa đường Thiên-Đạo thì phải chung chịu trong cơ biến đổi
của cuộc tang thương, bằng thức tỉnh tầm tu theo Đại-Đạo học
đường, là (Minh-Đức Tân-Dân, chí ư chí thiện). Đó là phương pháp
thoát ra khỏi đường sanh tử luân hồi vĩnh viễn vậy.
THI
Tỉnh đời tầm đạo thoát nàn tai
Giác thể lo tu trở gót quầy
Mê mến hồng trần thân khổ lụy.
Ấp yêu danh lợi phải tàn phai
Trăm năm lẩn quẩn đường sanh tử
Ngàn tuổi luyện tu bậc sĩ tài.
Đắc pháp thăng Thiên thành Chánh quả
Đạo thành muôn thuở ngự Bồng-Lai.
Nay đến lớp Hạ-Ngươn tận diệt kiếp số đa mang đưa đẩy con
người vào đường thống khổ, nên chi: Đức Chí-Tôn Thượng-Đế
không nỡ để cho đám con cả hiền lẫn dữ, chung lộn trong lò Hậu-
Thiên tận diệt hay sao?
Than ôi! ách nước tai Trời dồn dập nào là nắng lửa mưa dầu, đó là
cái họa chung cả nhơn loại. Hiềm vì cuộc truy hoan biến đổi, cả
đoàn người sao cứ chen lẫn mãi vào nẻo lợi-danh, cư sâu xé dựt
dành vì sắc tài tửu khí mới có gây tai họa cho xã hội nhơn quần
phải chịu lầm than khổ sở.
Ôi! kẻ trí hiếp người ngu, hễ khôn thì còn dại thì mất, mạnh đặng
yếu thua, nào để chút tâm ái vật yêu nhơn, miễn mặc đẹp vợ con
phu phỉ, quên đường Đạo-Đức nên phải chịu tiều-tụy tinh-thần mà
bao nỡ dùi thân lấp thể!
Nếu ai là người tỉnh ngộ, sớm thấy cuộc đời nào khác chi phù vân
mộng ảo, thoạt có thoạt không, sớm đổi chiều dời, ắt cuộc tang
thương nào đâu tránh khỏi!
Nay Đức Thượng-Đế xót thương hồng trần lắm khổ nên ân xá mở
đạo kỳ ba, mà độ dẫn đoàn con hiếu cảm biết nghe lời giáo huấn mà
phản bổn hườn nguyên về nơi cảnh Bồng-Lai toại hưởng.
Hỡi ai sớm biết tỉnh ngộ xét suy, tri tầm coi nơi đâu mà có khổ và
chết, thì ắt sẽ thấy rõ là do chỗ Lạc-Thơ phàm đạo, tương khắc làm
cho ngũ-tạng bị hao mòn, rồi tâm linh mê muội mới lưu lãng vọng
tình tạp niệm mà ra. Mọi sự khúc khổ mà có ra đây, cũng vì chỗ
dục, mà có ra mảnh thân Tứ-Đại nầy, rồi bá hài vạn cốt chi thể của
con người cũng do gốc Hà-Đồ Tiên-Thiên và Hậu-Thiên Lạc-Thơ
biến dịch chuyển di mà thành ra (Nhứt bổn tán ư vạn thù) làm cho
con người phải chịu luân vơi trong vòng sanh tử mà thôi.
CHƠN PHÁP LƯU TRUYỀN Cao Đài Tam Kỳ Phổ Độ
12
Tại sao con người cứ vẫn ham mê danh lợi ái ân, sắc tài, tửu khí,
nó làm cho con người mất hẳn cái bổn tánh chơn nguyên thuần mỹ.
Nhơn chi sơ tánh bổn thiện, mà hấp thụ chi cái giả dung trược khí
bẩn nhơ, làm cho bổn thể suy đồi, cũng vì bị Hậu-Thiên tạp hỏa dục
tình vọng ý, xâm nhập vào cơ thể đều là trược khí toàn âm, thì há
lại chẳng chết sao? Ôi! Chơn-Linh đã mất, thì cái chết ấy là cái máy
luân hồi như sóng dậy ba đào, đưa nhồi từ lượng, tấp qua khỏa lại
luân chuyển không ngừng, làm cho chìm đắm linh-căn trong sông
mê biển khổ, nên mới nói lưu lãng vào đường luân-hồi sanh-tử vậy.
Mà sao con người vẫn lấy cái khổ làm vui? Thiệt là vì khổ trung vi
lạc, ấy là cũng do nghiệp vô minh vô âm chất, mà không biết chỗ
căn-nguyên chơn lý số của thế hệ dịch từ, bao hàm vạn tượng mà ra
đến đổi, luân hồi cổn-cổn, chuyển kiếp man man cũng chẳng hề
nao!.
Nên Tam-Giáo đã nhiều lần chỉ dạy, mà đời đà chẳng kể, chỉ cứ
toan lòng độc ác, ngang dọc trong cõi trần ai, mới chịu dưới pháp
luật hình, để phạt răn lòng tà vạy. Cơ báo ứng không sai, cân
Thiêng-Liêng đâu xê xích đặng. Hễ làm lành thì gặp phước, toan
làm dữ thì họa lai, hễ nhơn nào thì quả nấy.
Chưởng hoa đắc hoa còn chưởng đậu mà đắc hoa xưa nay chưa hề
có thấy. Như người làm lành thì được phước, còn kẻ nào ác dữ thì
mắc họa chẳng sai. Bởi vậy Tam-Giáo Thánh-Nhơn thấy đời lầm
lạc, cứ gây tạo nghiệp luân hồi, chuyển kiếp mà đền bồi tội trước,
nên mới ra đời để phát hưng cái lý-thuyết Đạo-Đức tinh-thần mà
dìu dắt đám lương nhân thoát ra khỏi lòng trần giam hãm, dạy cho
chúng sanh ăn ở theo luật Thiên-nhiên, chỉ tâm pháp bí truyền hầu
phanh luyện đặng có siêu phàm nhập Thánh.
Vì đã sanh đứng làm người là chúa tể của muôn vật sao chẳng tầm
máy bí nhiệm của Thiên-cơ đặng tu hành thoát ra cho khỏi phạm vi
chật hẹp, để chi chịu mãi tội tình đày-đọa luân hồi chuyển kiếp, lúc
thì mang vi cánh hồi lại sừng lông, Ôi thảm! Ôi thảm!.
Luật tấn hóa của con người nó cứ từ-từ mà tăng tiến mãi, nếu
không chịu tiến ắt sẽ bị thối hóa trở lại.
Vậy người là gốc của muôn vật, muôn vật là ngọn của loài người,
nên mới làm chúa cả vạn vật. Nếu ai làm người đốn ngộ, tầm tu cho
phục hườn về cảnh Tiên-Thiên chánh-khí hầu chứng quả Bồ-Đề, y
như thỉ sơ chơn chưởng nhập cảnh Hư-Vô Thiên, mới siêu thoát
được khỏi bến luân hồi, hầu hết trầm luân trong cõi uế-trược trần
nhơ nầy. Thì phải mau mau hoàn diện hồi đầu, vạn tất vi thiện cùng
hồi quang nội chiếu diệt dứt phàm tâm vạn duyên đốn tuyệt, rồi
thanh khí sẽ hườn nguyên và Ngũ-Hành cũng qui nhứt, đó là đã dẹp
được hết cái máy Luân-Hồi rồi, sau sẽ học các pháp luyện tu hườn
đơn Cửu-Chuyển, đoạn dứt dâm căn y như hồi mới sơ sanh.
Vậy Trời Đất là gốc loài người, còn loài người là ngọn của Trời
Đất. Nên con người không vì lý do gì mà kỳ thị ngoại cuộc, không
nhập đạo tầm tu phản bổn, đặng trở về gốc là Trời Đất mà hườn
nguyên cựu vị, để chạy theo chi phàm tình thế cuộc, đa kiếp nhiễm
trần lao, cho phiền não đa đoan vô minh mãn tệ, thành ra quên hết
cả căn nguyên, vì chỗ nhiễm trần mà sanh ra nịch ái, lưu lãng, sanh-
tử, tử-sanh tranh giành hơi thở chỗ ở miếng ăn mà tiều tụy tinh-
thần, lần lần thêm hư thế cuộc. Than ôi! đến cái chết đã kề bên mà
cũng không biết đường về, rồi đành cam chịu nghiêng ngã theo cơ
luân-hồi của phàm tình thế sự, mà chịu lấy lẽ báo ứng của luật tuần
hườn vay trả, trả vay, vần theo chỗ thuận hành của ngoại cơ Thiên
chuyển trong Võ-Trụ Càn Khôn. Ôi! Rất thảm thương thay!
Nay đức Thượng Đế dĩ đức háo sanh, cải cựu hoán tân, ân xá
muôn loài, lập ra Cao-Đài Tân-Pháp mà độ dẫn con cái của Ngài trở
về ngôi xưa vị cũ, vì đời Hạ-Ngươn đã đến cơ tận diệt diễn tuồng,
hãy gấp rút học tu cho kịp kỳ Long-Hoa Đại-Hội, vì trước khi đầu
thai xuống thế có thề trên Thiên-Cung sẽ lo tu trở lại, còn ghi chép
trong Thiên-Thơ rành rạnh kia mà.
Thật quí quá thay cho cái đạo! vi diệu thay cho cái Đạo. Gẫm lại
trong khoảng Trời Đất này, con người muốn làm một việc vẻ-vang
Đệ-Nhứt, thì có chi cho bằng đọc sách, còn trong hạng người đọc
sách mà muốn nên bậc cao thượng thì có chi bằng học đạo.
Nên các bậc Thánh Chúa Đế-Vương đã lo đạo làm Vua mà lại
gồm cả đạo làm Thầy, dạy dẫn ăn ở theo điều Đạo-Đức. Nên được
CHƠN PHÁP LƯU TRUYỀN Cao Đài Tam Kỳ Phổ Độ
13
an ban Tế thế vĩnh cửu trường lưu nơi nơi an lạc, cổ phúc ca ngâm
Thánh-Vương chi đức.
Vả chăng Đạo như con đường cái, thì có phải khó biết đâu? Lỗi tại
người không cần đến nó mà thôi, chớ cần chắc đặng. Nên bậc
Thiên-Tử mà đặng đạo thì gìn giữ được thiên hạ, các chư hầu mà
đặng đạo thì giữ được đất nước. Công-Khanh Đại-Phu mà đặng đạo
thì giữ được cửa nhà, kẻ sĩ thứ đặng đạo thì gìn giữ được thân mình,
cho nên đạo cả vô danh mà hằng bền hằng còn, người Quân Tử chỉ
lo cho được cái đạo nầy, còn công danh phú quý đều coi như phù
vân, mặc nó lại lại đi đi, trong lòng vẫn không không chẳng có chút
nào xao-động cả.
Vậy học đạo là học cái ở nơi ta. Tâm phải mở rộng tha thứ cho
mọi người mọi vật, thân phải được tươi nhuần, bịnh có thể mạnh,
chết có thể khỏi. Sự ích như thế này, thì còn sự ích lợi nào hơn nữa
đâu?
Nên trước khi muốn hành đạo, cần phải lập căn khí cao và phải
siêng đọc kinh sách nhiều. Nếu căn khí chẳng cao thì có mong gì
xuất thế được, còn chểnh mảng không đọc kinh sách thì không thể
thấy lý mà biết ngay được, và nếu không gặp Thầy sớm thì hay lầm
vào nẻo Bàng-Môn, vậy hành giả cần nên cẩn-thận, tạo đủ các điều
kiện học tập chắc chắn sẽ đắc thành đạo quả chẳng sai.
Nên có câu “Tu hành chẳng Phật thì Tiên, không Vương thì Bá
cũng nền Công Khanh”. Chỉ e cho con người không trọn đủ tín
thành mà thiệt lòng tu học đó thôi, chớ thành tâm thì chắc đặng.
PHÚ LỐI VĂN
---***---
- Ôi! ai là người học đạo quyết chí tu Tiên,
- Mau chỉnh đốn ý tư riêng đừng biết đến
- Tu thì phải chí công đừng trễ trện.
- Nếu dần dà ắt không khỏi bến Luân-Hồi.
- Hễ quyết tu muôn việc hãy thôi thôi
- Đoạn cho dứt oan-gia cùng nghiệp báo
- Ở trần thế trược thanh còn lộn lạo
- Biết tu thì học cho thạo cách phân thanh
- Gắng chí Tâm Trời Phật cũng sẵn dành
- Ngôi vị cũ trở về an lạc cảnh
- Nợ trần thế trả rồi mới rảnh
- Lo trau giồi quét cho sạch sánh sành sanh
- Làm sao cho tâm chí đặng thanh
- Vào Bá-Nhựt Chí-Đông thâu điển báu.
- Kết linh dược linh đơn cấu tạo
- Yểu minh hình lặng lẽ kiếm mò trăng
- Đáy biển sâu hăng hái ráng tầm phăng
- Trăm ngày tịnh trì tâm yên lặng gió
- Đông chí đến lần dò học hỏi
- Bí diệu tìm chủng tử được an nhàn
- Thành đạo rồi trực chỉ đến Tây-Phang
- Cảm thấy rõ Ngọc-Hoàng tâm ấn khuyết.
--oOo--
CHƯƠNG III --oOo—
TRI HÀNH HIỆP NHỨT Nay bằng ai thức tỉnh tình đời là giả tạm trong giấc mộng huỳnh
lương, thì khá mau lo tầm tham cầu học hỏi, cho rõ lẽ giả chơn, thì
phải cần sự học làm đầu, để khai thông tâm trí mới có hiểu biết mà
thực hành.
Ở trên đời này có chi quí hơn là sự học đâu? Nhưng: Học chữ
nghĩa, học văn chương, học thi phú, đó là hữu dụng đầu tiên của sự
học, để gầy tạo công danh tại thế cũng rất hay cho kiếp người lắm
đó, nhưng hữu dụng trong thời giả tạm của xác thân ngắn ngủi mà
thôi, thoảng mãn ngày qua tháng lại, chưa rồi với ý nguyện, thì quỷ
vô thường lại đến, rồi phải đành cam lộ thượng huỳnh tuyền lưỡng
thủ không. Nghĩa là: Khi chết chỉ có hai tay không với muôn điều
tội lỗi theo mình mà thôi! Dầu tiền muôn bạc vạn cũng không
CHƠN PHÁP LƯU TRUYỀN Cao Đài Tam Kỳ Phổ Độ
14
chuộc đặng mạng sống và tội tình, thì rất than ôi! Đáng tiếc lắm
thay! . .
Sao bằng học Đạo mầu, trước độ được mình và Cửu-Huyền Thất-
Tổ, sau độ cả quần linh sanh chúng mới là hay tột đỉnh vậy.
ĐỨC THÁNH XƯA CÓ DẠY: 5 ĐIỀU MỤC SAU ĐÂY:
Một Bác học chi: Nghĩa là học cho sâu rộng các lý các sự trên trần
thế nầy, dầu hay, dầu dở cũng đều làm bài học cho ta được, nếu hay
thì ta tiến tới mà hành y, còn dở thì hãy cố tránh xa ra cho khỏi điều
phiền lụy. Nên bất luận kinh sách nào trong Tam-Giáo ngoại Cửu-
Lưu cũng đều nên học cả, vậy mới đạt lý Thiên-Minh mà thấy xa
hiểu rộng và lịch lãm tình đời lý đạo, được vậy sự hỏi mới cao sâu,
đó là (cách vật).
Hai Thẫm vân chi: là học phải hỏi cho sâu xa mới tránh được sự
nghi nan ngờ vực, nó sẽ làm ngăn cản bước đường tiến bộ của mình
mà trở thành lầm lạc, đó là (trí tri).
Ba Thận tư chi: phải cẩn thận mà suy nghĩ cho chính chắn kỹ
càng, coi sao phải sao quấy, rồi mới vững lập trường mà thực hành
đúng mức mới là (thành ý được).
Bốn Minh biện chi: phải biện minh lẽ thiện ác, chánh tà, quán xét
sự vật cho rõ lý tình, hầu nhận định được đường lối cao siêu chơn
lý đạo, mới gọi (Chánh tâm).
Năm Đốc hành chi: là bắt tay vào việc mà thi-hành ngay liền, chớ
không còn ngần ngại gì nữa và phải gấp rút (tu thân).
Rồi phải lo tri tầm Tánh-Mạng mà hạ thủ xuống tay công phu liền,
chớ không còn ngần ngại gì nữa mà để cho mất thì giờ thêm. Nên
có câu: (Triêu văn đạo, tịch tử khả hỉ), là sớm mơi nghe được đạo,
chiều chết cũng vui.
Còn việc tu hành bất luận già hay trẻ gì cũng đều tu được cả càng
sớm càng hay. Nếu người còn nhỏ tuổi mà lo tu, là bậc Thượng-
Đức vì tinh huyết còn đầy đủ, chưa kém suy hao hớt hay tiết lậu ra
ngoài y như trai đồng nhân mười sáu tuổi.
Còn phần già Lão là bậc Hạ-Đức, vì đã mất Đức, bị tinh hao huyết
kém rất khó tu. Vậy nên cần phải chấp Đức lại, lo công quả bố thí
cho cảm động lòng Trời sẽ vào tu học theo Tân-Pháp Cao-Đài,
dụng lấy chỗ động tịnh của Âm-Dương mà hườn sanh trở lại cho
đặng y như hồi còn trai trẻ, thì phải tốn nhiều công mới được.
Đức Phật có nói rằng:
Chớ đợi đến già mà niệm Phật
Thiếu chi mồ trẻ đã qua đời.
Nghĩa là: Kiếp người sanh có hạn, còn tử lại không kỳ, mà nay hẹn
để già sẽ tu biết mai nầy còn sống được không, lại có thi rằng:
THI
Người sanh trăm tuổi là hạng cao
Thọ yểu cùng không hiểu đặng nào
Sáng sớm ngoài đường còn cỡi ngựa
Chiều vào trong quách xác khô khao
Gia tài con vợ đều buôn ráo
Tội nghiệp theo mình chịu chớ sao.
Nếu sớm ăn năn noi bước đạo
Đắc thành quả vị mới là cao.
Xét lại kiếp người trăm năm như nháy mắt, lệ tợ thoi đưa, như
chiêm bao bay bổng thấy đó mất đó có chắc gì đâu? Mà nay đã già
rồi thì còn làm gì thêm được nữa. Vì từ 60 tuổi mỗi năm thấy mỗi
già, qua 70 tuổi mỗi tháng thấy mỗi già, đến 80 tuổi mỗi ngày thấy
mỗi già thêm hoài, nên càng lớn tuổi chừng nào lại càng thấy mau
già thêm hơn mãi mãi. Than ôi! Tuổi chẳng chờ ta rồi kế tiếp theo
bịnh tật liên-miên thì đời sống trở thành vô dụng kế chết.
Vậy từ đây về sau, nếu sống thêm được ngày nào, ấy là Trời ban
ân cho ngày nấy, thì hà lại dám để cho nó luống mất đi hay sao? Mà
dầu cho có được Đạo nữa thì cũng trễ lắm rồi khá dám để cho trễ
nữa hay sao? Thế nên người trí chẳng để mất thời giờ, kể dông
không tính hai lần.
Hễ ngày nay biết Đạo, thì ngày nay lo hạ thủ xuống tay liền, còn
giờ này biết Đạo, tức là giờ hạ thủ đó. Nếu nói nay chưa rảnh để
chờ khi khác, thì e cho đến chừng muốn thi-hành lại không có đủ
CHƠN PHÁP LƯU TRUYỀN Cao Đài Tam Kỳ Phổ Độ
15
thì giờ mà thi-hành đó. Tại sao vậy? Vì Tam-Bửu đã tiêu hao hết
rồi, thì há chẳng trễ muộn lắm sao?
Mà con người chỉ có Tam-Bửu là: Tinh, Khí, Thần rất nên hệ
trọng cho việc tu hành, nếu để đợi đến già rồi, thì e cho Tinh khô, e
cho Khí tận, e cho Thần lìa ắt cái chết đã đến rồi, làm sao mà tu cho
kịp. Than ôi! Lão hỉ thị thùy chi khiên rồi !!!
Vậy ai là người Thượng-Sĩ thông minh đĩnh ngộ, Đạo-Đức siêu
quần nên tùng sanh nhựt vãng nguyệt lai, mà giải thoát tục trần hầu
về nơi Thánh Đạo cho kịp kỳ ân xá Đạo khai.
Còn bậc Hạ-Sĩ chấp Đức, Tam-Bửu không đầy đủ mà phải bị tiêu
vong khá học cho thông, nên tùng cơ Đạo mà chấp Đức lại cho kịp
lúc tuổi già, nếu để âm dương tiêu trưởng rành phân, thì mau dùng
tấn Hỏa thối Phù mà dưỡng nuôi Âm Dương trở lại.
1. Như trăng ngày 30 kíp sang mùng một mới tượng một chút
Dương, ví như con người trong thai mới tượng. Đến 3 tuổi 960
ngày mới có một điểm Tinh.
2. Mồng 1 đến mồng 3 thì sanh đặng nhứt Dương như người 1 tuổi
biến Khôn thành Quẻ Phục.
3. Nguyệt từ mồng 3 đến mồng 7 có hai Dương là biến Phục thành
Lâm. Như người từ 5 tuổi 4 tháng mới có 2 điểm Tinh.
4. Nguyệt từ mồng 8 được tam Dương biến Lâm thành Thới,
người đặng 8 tuổi mới có đặng 3 điểm Tinh.
5. Nguyệt từ ngày mồng 10 có được tứ Dương biến Thới thành
Tráng. Người đặng 11 tuổi có đặng 4 điểm Tinh.
6. Nguyệt ngày 14 được ngũ Dương biến Tráng thành Ương,
người được 13 tuổi 4 tháng có 5 điểm Tinh.
7. Nguyệt ngày 16 được Lực Dương biến Ương thành Càn. Người
16 tuổi có được 6 điểm tinh, thì Càn-Khôn chói rạng, lục Dương
trưởng thành, tinh thần đầy đủ, nếu sớm biết Đạo là bậc Thượng-
Đức chi nhơn, bằng trì hưỡn chẳng lo.
8. Qua 24 tuổi lại biến sanh một Hào-Âm, thì như nguyệt ngày 18
khuyết 1 Dương, biến Càn thành Quẻ Cấu.
9. Đến 32 tuổi sanh 2 điểm Âm, thì như nguyệt đến ngày 21
khuyết hết 2 Dương, thì Quẻ Cấu biến Độn.
10. Đến 40 tuổi sanh 3 điểm Âm, ắt khó hườn lại rồi. Nhưng gắng
công lâu ngày thì ắt cũng được mà rất khó khăn lắm lắm. Như
nguyệt đến ngày 23 khuyết 3 điểm Dương biến Độn thành Bỉ.
11. Đến 48 tuổi sanh 4 Âm, như nguyệt đến ngày 25 biến Bỉ thành
Quan.
12. Đến 56 tuổi sanh 5 Âm như nguyệt đến ngày 28 có Ngũ-Âm
biến Quan thành Bát.
13. Đến 64 tuổi Lục-Âm toàn tột, tinh thần đã hết Lục-Dương tiêu
hao mòn mõi, thì ô hô! Lâm mạng chung thời. Như nguyệt đến
ngày 30 ánh sáng đã tắt nhìn Trời tối đen Quẻ-Bát thành Khôn-Vi-
Địa. Trăng đã hết rồi. Nơi con người tuy tinh đã hết nhưng cũng hơi
hám sót lại chút ít chơn Dương, nếu có học đạo luyện tu cũng có
thể dụng lấy âm trung luyện phản thành dương cũng được. Nhưng
rất khó thay, nếu chí đức gắng công phục hồi thì cũng đoạt thành
Thần-Đạo, rất thảm thương thay!
Nên bộ máy con người cũng ví như mặt trăng trên trời, hễ có sanh
thì có diệt. Nếu nay con người muốn trường tồn mãi mãi thì học
theo mặt Nhựt, mà Đạo nhựt thường hành.
Tại sao Nhựt thường tròn thường đầy? Còn Nguyệt thường tán
thường tiêu?
Vì mặt Nhựt hay giữ được mức độ chơn thường, mỗi ngày cứ đi
đúng y theo độ số của nó, và đứng ngay một chỗ mà vận động chơn
Dương chi khí, nên được thường tròn đầy.
Còn trái lại mặt Nguyệt thường tán thường tiêu, vì mặt Nguyệt
phần nhiều âm khí nặng nề, chậm lụt hơn mặt Nhựt, nên không giữ
được mức chơn thường, mỗi ngày thường đi chậm hơn mặt Trời,
nên lúc mới sanh thì có được chút Dương rồi lần-lần lớn lên đầy đủ
tròn sáng đến rằm 16 thì tột độ của ánh Dương khí, vì không giữ
được mức chơn thường như mặt Trời, nên lần-lần sụt mất hào
Dương hao kiệt, rồi Âm khí lấn lên làm cho đen tối trở lại. Đến 30
là chết mất. Qua mồng một tượng sanh trở lại như ở trong thai bào,
rồi lần lần lại lớn sáng ra, cứ hết sáng đến tối rồi hết tối đến sáng, vì
vậy mới có lưng đầy tròn khuyết mãi mãi.
CHƠN PHÁP LƯU TRUYỀN Cao Đài Tam Kỳ Phổ Độ
16
Con người cũng thế, chẳng khác mặt Trăng trên Trời, hễ chết đầu
sanh trở lại, nên kêu là luân hồi.
Nếu con người muốn khỏi lưng đầy tròn khuyết như mặt Trăng,
thì phải học theo Đạo Nhựt thường hành như mặt Trời, cứ giữ một
bực trung bình sòng phẳng một chiều, không trồi, không sụt, không
xê, không dịch, không lúc ít hồi nhiều, không chênh không lệch,
không phiền não, không không hết ráo, mọi việc đều không, cứ giữ
đạo trung dung mà thường hành, thì sẽ được sáng sủa tròn đầy như
mặt Nhựt, không còn chết đi sống lại như mặt Trăng, đó là bằng
chứng đắc quả vậy.
--oOo--
VỀ PHẦN HỌC
TRƯỚC PHẢI HỌC NGŨ-HÀNH BÁT-QUÁI
Thiên Can Địa Chi, tương sanh, tương khắc, bốn mùa tám tiết 24
khí, ngoại thân và nội thể. Đó là điều nên hiểu trước nhứt của người
tu, thì trí huệ mới dễ mở khai thông tư-tưởng, thì đường tu mới
sáng tỏ.
PHẦN NGŨ-HÀNH CÓ NĂM HÀNH
1. Kim: Là kim loại như: Vàng, Bạc, Đồng, Thau, Chì, Kẽm, Thiếc,
Sắt, Thép, Gang, Nhôm và I-nóc.
2. Mộc: Mộc là các loại cây cỏ hoa lá, rau cải.
3. Thủy: Thủy là các thứ nước mưa, nước sông, nước biển, suối
rạch, ao, hồ, đầm.
4. Hỏa: Hỏa là lửa Trời, lửa điển, lửa đá, lửa củi.
5. Thổ: Thổ là đất núi, đất đá, đất set, đất bùn, đất sình.
PHẦN THỨ TỰ CỦA NGŨ-HÀNH:
O Nhứt Thủy: tánh nó trầm trọng nên đi xuống.
O O Nhì Hỏa: tánh nó hướng thượng đi lên
O O O Tam Mộc: tánh nó cứng và chắc
O O O O Tứ Kim: tánh nó cứng chắc và dẻo dai
O O O O O Ngũ Thổ: tánh nó bao dung 4 hành kia vì Đức nó
rộng lớn hơn hết.
Thánh nhân đã có ngụ ý mà sắp thành thứ tự của nó như vậy, dầu
muôn đời cũng không xê-dịch được.
NGŨ-HÀNH TƯƠNG SANH:
1. Kim sanh Thủy: Các loại kim khí đều rịn mồ hôi mà sanh ra
nước.
2. Thủy sanh Mộc: Có nước các loại cây mới sống được.
3. Mộc sanh Hỏa: Cây đốt ra lửa hay lấy lửa trong cây.
4. Hỏa sanh Thổ: Lửa đốt ra tro thành đất.
5. Thổ sanh Kim: Các hầm mỏ kim loại đều ở trong đất sanh ra cả.
NGŨ-HÀNH TƯƠNG KHẮC:
1. Kim khắc Mộc: Các loại kim khí như: dao, búa, cưa, đục, khoan
dùi, đều làm cho cây chết.
2. Mộc khắc Thổ: Các loại cây cỏ đều chăm rễ ăn đất hao lủng hết
chất.
3. Thổ khắc Thủy: Là nước càn ngập đến lấy đất đắp ngăn nước lại
để trị nó.
4. Thủy khắc Hỏa: Nước tưới lửa tắt, nước trị được lửa.
5. Hỏa khắc Kim: Lửa đốt Kim mềm và chảy ra nước.
MƯỜI THIÊN CAN: NĂM ÂM DƯƠNG
Giáp, Ất, Bính, Đinh, Mồ, Kỷ, Canh, Tân, Nhâm, Quí
(Có gạch là dương)
THIÊN CAN THUỘC NGŨ-HÀNH Ở NGŨ-PHƯƠNG ĂN VỚI
NĂM MÀU:
Đông-Phương Giáp-Ất thuộc Mộc màu (xanh)
Tây-Phương Canh-Tân thuộc Kim màu (trắng)
Nam-Phương Bính-Đinh thuộc Hỏa màu (đỏ)
CHƠN PHÁP LƯU TRUYỀN Cao Đài Tam Kỳ Phổ Độ
17
Bắc-Phương Nhâm-Quý thuộc Thủy màu (đen)
Trung-Ương Mồ-Kỷ thuộc Thổ màu (vàng)
THIÊN CAN TƯƠNG SANH:
Giáp-Ất (Mộc) sanh Bính-Đinh (Hỏa)
Bính-Đinh (Hỏa) sanh Mồ-Kỷ (Thổ)
Mồ-Kỷ (Thổ) sanh Canh-Tân (Kim)
Canh-Tân (Kim) sanh Nhâm-Quý (Thủy)
Nhâm-Quý (Thủy) sanh Giáp-Ất (Mộc)
THIÊN CAN TƯƠNG KHẮC:
Giáp-Ất (Mộc) khắc Mồ-Kỷ (Thổ)
Mồ-Kỷ (Thổ) khắc Nhâm-Quý (Thủy)
Nhâm-Quý (Thủy) khắc Bính-Đinh (Hỏa)
Bính-Đinh (Hỏa) khắc Canh-Tân (Kim)
Canh-Tân (Kim) khắc Giáp-Ất (Mộc)
MƯỜI HAI ĐỊA CHI: SÁU ÂM SÁU DƯƠNG
Tý, Dần, Thìn, Ngọ, Thân, Tuất, (thuộc Dương)
Sửu, Mẹo, Tỵ, Mùi, Dậu, Hợi (thuộc Âm)
ĐỊA CHI NGŨ-HÀNH:
Hợi-Tý thuộc (Thủy), Dần-Mẹo thuộc (Mộc)
Thân-Dậu thuộc (Kim), Tỵ-Ngọc thuộc (Hỏa)
Thìn-Tuất-Sửu-Mùi thuộc (Thổ)
ĐỊA CHI TƯƠNG SANH:
Hợi-Tý (Thủy) sanh Dần-Mẹo (Mộc)
Dần-Mẹo (Mộc) sanh Tỵ-Ngọ (Hỏa)
Tỵ-Ngọ (Hỏa) sanh Thìn-Tuất- Sửu-Mùi (Thổ)
Thìn-Tuất-Sửu-Mùi (Thổ) sanh Thân-Dậu (Kim)
Thân-Dậu (Kim) sanh Hợi-Tý (Thủy).
ĐỊA CHI TƯƠNG KHẮC:
Hợi-Tý (Thủy) khắc Tỵ-Ngọ (Hỏa)
Tỵ-Ngọ (Hỏa) khắc Thân-Dậu (Kim)
Thân-Dậu (Kim) khắc Dần-Mẹo (Mộc)
Dần-Mẹo (Mộc) khắc Thìn-Tuất-Sửu-Mùi (Thổ)
Thìn-Tuất-Sửu-Mùi (Thổ) khắc Hợi-Tý (Thủy)
BÁT-QUÁI TRÊN HÌNH LƯNG QUI: CÓ 8 QUÁI LÀ:
Càn Khảm Cấn Chấn Tốn Ly Khôn Đoài
Thiên Thủy Sơn Lôi Phong Hỏa Địa Trạch
Trời Nước Núi Sấm Gió Lửa Đất Đầm
BÁT-QUÁI THUỘC NGŨ-HÀNH:
Càn-Đoài thuộc (Kim) Khôn-Cấn thuộc (Thổ)
Khảm thuộc (Thủy) Ly thuộc (Hỏa)
Chấn-Tốn thuộc (Mộc)
SỐ THỨ-TỰ CỦA BÁT-QUÁI TIÊN-THIÊN:
Càn Nhứt, Đoài Nhì, Ly Tam, Chấn Tứ,
Tốn Ngũ, Khảm Lục, Cấn Thất, Khôn bát.
*****
BÀI
--oOo--
PHỤC HY THỈ SÁNG
BÁT-QUÁI TIÊN-THIÊN
HÀ-ĐỒ TƯỢNG-SỐ
CHƠN PHÁP LƯU TRUYỀN Cao Đài Tam Kỳ Phổ Độ
18
Quái chấn Đông-Bắc ngưỡng du
Tây Nam hạ đoạn Tốn phù nhị dương.
Đây là lúc Ngũ-Đế Cổ-Thánh Phục-Hy đi tuần thú trên sông
Mạnh Tân, tức là sông Huỳnh Hà, gặp một con thú đầu rồng
Mình ngựa, trên lưng có điểm kêu là Long-Mã phụ Đồ Thơ
BÀI
--oOo--
TRƯỜNG THIÊN
Tiên-Thiên đồ quái trình tường
Huyền cơ Đại-Đạo miên trường giáo dân
Tam tài lý số mới phân
Hào ly chẳng lọt như cân song bằng
Hồng-Mông điềm ứng lành thay
Phục-Hi Long-Mã phụ rày Âm Dương
Vẽ ra Bát-Quái khôn lường
Phân minh Trời-Đất định đường cửu qui
Tam-Liên Càn-Quái dương nghi
Bắc-Khôn lục đoạn gọi thì Lão âm
Trung hư Ly-Quái đông tầm
Khảm là trung mãn Quái nằm phía Tây
Đông Nam Đoài thượng khuyết đây
Tây Bắc phúc bồn Cấn rày Khôn ngăn.
--oOo--
TRONG MÌNH LONG –MÃ CÓ VẰN ĐIỂM NHƯ:
Số 1 là số 6 thuộc (Thủy) ở nơi sau lưng, số 2 là số 7 thuộc (Hỏa)
ở trước lưng, số 3 là số 8 thuộc (Mộc) ở bên vai tả, số 4 là số 9
thuộc (Kim) ở bên vai hữu, số 5 là số 10 thuộc (Thổ) ở ngay giữa
lưng.
Vì gặp trên sông Huỳnh-Hà nên kêu là Hà-Đồ
Phần Hà-Đồ Tương-Sanh như dưới đây:
1. Trung ương (Thổ) khứ Đông-Phương sanh Giáp Ất (Mộc)
2. Đông-Phương (Mộc) khứ Nam-Phương sanh Bính-Đinh (Hỏa)
3. Nam-Phương (Hỏa) khứ Tây-Phương sanh Canh-Tân (Kim)
4. Tây-Phương (Kim) khứ Bắc-Phương sanh Nhâm-Quý (Thủy)
5. Bắc-Phương (Thủy) khứ Trung-Ương sanh Mồ-Kỷ (Thổ)
Đó là sanh tam ngũ số của Ngũ-Hành Tiên-Thiên như:
Mộc-Hỏa nhứt gia, Kim-Thủy nhứt gia, Nhì-Thổ nhứt gia cứ tròn
vòng như vậy hoài thì chơn khí của Ngũ-hành tương sanh vậy.
TRỜI ĐẤT NGƯỜI ĐỀU LIÊN ĐỚI NHAU:
Trời có Tiên-Thiên ngũ khí thuộc Ngũ-Hành:
1. Khinh khí màu (xanh) 2. Dưỡng khí màu (vàng)
3. Đạm khí màu (đỏ) 4. Thán khí màu (trắng)
5. Huyền khí màu (đen)
ĐẤT CÓ NGŨ-PHƯƠNG THUỘC NGŨ-HÀNH:
1. Đông-Phương Giáp-Ất (Mộc), Khinh khí màu (xanh)
2. Tây-Phương Canh-Tân (Kim), Thán khí màu (trắng)
3. Nam-Phương Bính-Đinh (Hỏ), Đạm khí màu (đỏ)
4. Bắc-Phương Nhâm-Quý (Thủy), Huyền khí màu (đen)
5. Trung-Ương Mồ-Kỷ (Thổ), Dưỡng khí màu (vàng)
CHƠN PHÁP LƯU TRUYỀN Cao Đài Tam Kỳ Phổ Độ
19
Còn con người có Ngũ-Tạng thuộc Ngũ-Hành:
1. Can và Đởm thuộc (Mộc) Phong khí màu (xanh)
2. Tâm và Tiểu-Trường thuộc (Hỏa) Hỏa khí màu (đỏ)
3. Phế và Đại-Trường thuộc (Kim) Táo khí màu (trắng)
4. Thận và Bàng-Quang thuộc (Thủy) Hàn khí màu (đen)
5. Tỳ và Vị thuộc (Thổ) Thấp khí màu (vàng)
Vì thế nếu người không biết tu kiêng cử theo giáo điều giới răn
cấm kỵ, thì sẽ bị cơ Tạo-Hóa vận hành mà thâu lấy Ngũ-Khí ở năm
tạng của ta phải bị hao mòn, mà sanh điều bịnh hoạn liên-miên, kế
chết, và còn mắc tội với Trời Đất là khác.
VẬY NGƯỜI TU CẦN PHẢI GIỮ NĂM ĐIỀU NÀY ĐẶNG
CỨU ĐỜI ĐỘ THẾ.
1. Nếu chẳng răn sát sanh thì mất lòng nhơn, mà không nhơn thì bị
khuyết Can và Đởm nó thuộc Mộc, vì ở trên Trời sao Tuế-Tinh
phải động, thì ở dưới đất có tai nạn xáo lộn ở Phương-Đông, rồi bá
tánh ở đây phải bị khổ sở, chết chóc bất an vì chiến tranh đạo tặc,
thất mùa đói khát v.v.
2. Nếu chẳng răn trộm cắp thì mất điều nghĩa, mà không nghĩa thì
bị hại Phế và Đại Trường nó thuộc Kim, vì ở trên Trời sao Thái-
Bạch phải động, thì ở dưới đất có tai nạn xáo trộn ở Phương Tây rồi
bá tánh ở đây bị khổ sở, chết chóc bất an vì chiến tranh đạo tặc, thất
mùa đói khát v.v.
3. Nếu chẳng răn tà dâm thì mất chữ lễ, mà không lễ thì bị khuyết
Tâm và Tiểu Trường nó thuộc Hỏa, vì ở trên trời sao Dinh-Hoặc
phải động, thì ở dưới đất có tai nạn xáo trộn ở Phương-Nam, rồi bá
tánh ở đây bị khổ sở, chết chóc bất an vì chiến tranh đạo tặc, thất
mùa đói khát v.v.
4. Nếu chẳng răn rượu thịt thì bị mất trí khôn, mà không trí thì bị
Thận và Bàng-Quang nó thuộc Thủy, vì ở trên Trời các Thần-Tinh
phải động, thì ở dưới đất có tai nạn xáo trộn ở Phương-Bắc, rồi bá
tánh ở đây bị khổ sở, chết chóc bất an vì chiến tranh đạo tặc, thất
mùa đói khát v.v.
5. Nếu chẳng răn nói dối thì bị mất tín, mà không tín thì khuyết Tỳ
và Vị nó thuộc Thổ vì ở trên Trời sao Trấn-Tinh phải động, thì ở
dưới đất có tai nạn xáo trộn ở Trung-Ương, rồi bá tánh ở đây bị khổ
sở, chết chóc bất an vì chiến tranh đạo tặc, thất mùa đói khát v.v.
Vì thế người tu cần ngăn ngừa các điều răn ấy để tịnh an, thì cơ
thể sẽ được kiện toàn bồi bổ lại. Là Trời Đất cũng an hòa, và cõi
trần này cũng được an tịnh mà trở thành Cực-Lạc tại thế. Nên nói
Đạo cứu đời là đây vậy.
Nếu người người đều tu tịnh luyện cho an thần nhập định, thì khỏi
phạm năm bộ sao trên Trời và năm Phương dưới Đất. Rồi năm tạng
được tươi nhuần mà thần an khí định, sẽ phát ra điển lực thanh cao
hiệp cùng Trời Đất, thì Thế-Giới được an bình nơi nơi lạc nghiệp
mưa thuận gió hòa ca ngâm cổ-phúc, an hưởng cõi đời Thượng-
Ngươn Thánh-Đức. Vậy mới gọi cứu đời độ thế, làm cho cõi đời
xáo lộn trở lại cảnh thanh bình an lạc.
Còn trái lại người mà không tin Đạo lý cứ chạy theo thị dục, dụng
ý tư riêng của cá tánh, bắt bẻ giới răn, cứ vi phạm Thiên-Cơ hoài thì
khó mong thoát khỏi cảnh đời tận diệt, vì nạn chiến tranh chết chóc
cũng do chỗ tư tâm bản ngã mà ra, thì dầu cho Đạo lý có siêu quần
đến mức nào, cũng khó cứu vãn cuộc đời như thế ấy, ắt phải chịu
trong cơ Trời Đất khắc hại mà diệt vong thì ô hô! “Tam thốn khí tại
Thiên ban dụng, nhứt đáng vô thường vạn sự hưu”, thì sự điêu tàn
của cõi đời trong vòng tận diệt khó bề cứu chữa mà thôi !!!
Kệ rằng:
Nhứt thiết chúng sanh vô sát nghiệp
Thập phương hà xứ tận đao binh
Gia gia hộ hộ đồng tu thiện
Thiên hạ hà sầu bất thái bình
CÒN SỐ THIÊN SANH ĐỊA THÀNH CỦA HÀ-ĐỒ LÀ:
1. Thiên-Nhứt sanh (Nhâm-Thủy) Ngươn-Tinh, Bàng Quang
2. Địa-Lục thành (Quí-Thủy) Ngươn-Huyết, Thận
3. Thiên-Tam sanh (Giáp Mộc) Đởm
4. Địa-Bát thành (Ất Mộc) Can
CHƠN PHÁP LƯU TRUYỀN Cao Đài Tam Kỳ Phổ Độ
20
5. Thiên-Ngũ-sanh (Mồ Thổ) Vị, bao tử
6. Địa-Thập thành (Kỷ Thổ) Tỳ, lá lách hay lá mía
7. Địa-Nhị sanh (Đinh Hỏa) Tâm, thức thần
8. Thiên-Thất thành (Bính Hỏa) Tiểu trường
9. Địa-Tứ sanh (Tân-Kim) Phế
10. Thiên-Cửu thành (Canh Kim) Đại trường, quỉ phách.
Đó là bắt đầu từ Hồng-Mông phân phán chí hậu, rồi Càn Khôn áo
hết khí Tiên-Thiên, trở thành Hậu-Thiên Quái-Hào Khảm-Ly chánh
vị, do Văn-Vương họa Quái soạn ra vì (Càn-Khôn đà thất chánh)
mới giao qua (Khảm-Ly) là thuận sanh nhơn vật nên bị hao tán tiêu
mòn đó vậy.
--oOo--
VĂN VƯƠNG ĐỒ THUYẾT
BÁT-QUÁI HẬU-THIÊN
LẠC THƠ BIẾN SỐ
Bát-Quái phương-vị của Hậu-Thiên-Lạc-Thơ lúc vua Hạ-Võ đi trị thủy trên sông
Lạc, gặp một con Linh-Quy có những vết lưng phân ra tám Quái: Càn, Khảm,
Cấn, Chấn, Tốn, Ly, Khôn, Đoài.
Đến nhà Châu Văn-Vương ở nơi Dũ Lý 7 năm mới chấn chỉnh lại Tiên-Thiên
Bát-Quái làm ra Hậu-Thiên là (Hà-Đồ biến làm Lạc-Thơ)
Nên hình Lạc-Thơ sắp theo chữ Tính ( ), có 9 Cung như hình lưng
qui. Theo thứ tự của Lạc-Thơ lấy con số 5 ở giữa, đó là trong con
số 15 ở trung tâm Hà-Đồ làm nòng cốt như cái nhân của Vũ-Trụ.
Nên con số 5 ở giữa Lạc-Thơ đầu đội (9) chơn đạp (1) 2 và 4 làm
vai, bên tả 3, bên hữu 7, 6 và 8 làm 2 chơn.
Cách sắp đặt hình Lạc-Thơ như vậy, còn số thứ tự 8 Quái nằm
trong Lạc-Thơ như: Nhứt Khảm, Nhì Khôn, Tam Chấn, Tứ Tốn,
Ngũ Trung, Lục Càn, Thất Đoài, Bát Cấn, Cửu Ly.
(Số này bất di bất dịch)
4 9 2
3 5 7
8 1 6
Lấy theo ma phương, cứ cộng theo hàng ngang, hàng dọc, hàng
xéo, hàng vuông cũng đều được con số 15 tất cả. Vì con số 15 là
con số trung tâm của Hà-Đồ vậy.
PHƯƠNG VỊ CỦA BÁT QUÁI HẬU-THIÊN LÀ:
Càn tam liên Tây-Bắc Tuất-Hợi
Khảm trung mãn chánh Bắc ư Tý
Cấn phúc uyển Đông-Bắc Sửu-Dần
Chấn ngưỡng bồn chánh Đông đương Mẹo
Tốn hạ đoạn Đông-Nam Thìn-Tỵ
Ly trung hư chánh Nam ư Ngọ
Khôn lục đoạn Tây-Nam Mùi-Thân
Đoài thượng khuyết chánh Tây đương Dậu.
CHƠN PHÁP LƯU TRUYỀN Cao Đài Tam Kỳ Phổ Độ
21
Đây là Thánh ý Vua Phục-Hy sáng chế ra Quái Tiên-Thiên và
Hậu-Thiên Hào-Quái cho Dân gian để biết mà tầm Thiên-Lý, lấy
những dấu chẵn lẻ nơi hình con Long-Mã có phụ Đồ-Thơ tại sông
Mạnh Tân, có đủ Âm Dương nhị khí mà định ra Hà-Quái, lấy chỗ
động tịnh chẵn lẻ của Tứ-Tượng mới phân biệt được lẽ phù trầm hư
thiệt do khí tượng chẳng đổi.
Trong 1 năm có 4 mùa 12 tháng theo Địa-chi.
Tháng Giêng Dần, tháng Hai Mẹo thuộc (Mộc)
“ Ba Thìn “ Tư Tỵ thuộc (Thổ-Hỏa)
“ Năm Ngọ “ Sáu Mùi thuộc (Hỏa-Thổ)
“ Bảy Thân “ Tám Dậu thuộc (Kim)
“ Chín Tuất “ Mười Hợi thuộc (Thổ-Thủy)
“ 11 Tý “ 12 Sửu thuộc (Thủy-Thổ)
PHẦN BỐN MÙA NHƯ:
Mùa Xuân tháng 1 tháng 2 Dần Mẹo thuộc (Mộc) tháng 3 Thìn
thuộc (Thổ) Quí Xuân.
Mùa Hạ tháng 4 tháng 5 Tỵ Ngọ thuộc (Hỏa) tháng 6 Mùi thuộc
(Thổ) Quí Hạ.
Mùa Thu tháng 7 tháng 8 Thân Dậu thuộc (Kim) tháng 9 Tuất thuộc
(Thổ) Quí Thu.
Mùa Đông tháng 10 tháng 11 Hợi Tý thuộc (Thủy) tháng 12 Sửu
thuộc (Thổ) Quí Đông.
PHẦN TÁM TIẾT NHƯ:
Mùa Xuân có 2 tiết: Lập-Xuân, Xuân-Phân
Mùa Hạ có 2 tiết: Lập-Hạ, Hạ-Chí
Mùa Thu có 2 tiết: Lập-Thu, Thu-Phân
Mùa Đông có 2 tiết: Lập-Đông, Đông-Chí.
PHẦN 24 KHÍ NHƯ:
Tháng 1-2 Lập-Xuân, Vũ-Thủy, Kinh-Trập, Xuân-Phân
Tháng 3-4 Thanh-Minh, Cốc-Vũ, Lập-Hạ, Tiểu-Mãn
Tháng 5-6 Mang-Chủng, Hạ-Chí, Tiểu-Thử, Đại-Thử
Tháng 7-8 Lập-Thu, Xử-Thử, Bạch-Lộ, Thu-Phân
Tháng 9-10 Hàn-Lộ, Sương-Giáng, Lập-Đông, Tiểu-Tuyết
Thang 11-12 Đại-Tuyết, Đông-Chí, Tiểu-Hàn, Đại-Hàn
--oOo--
BÁT-QUÁI NHƠN THÂN Tâm thuộc (Hỏa) cung Ly, Can thuộc (Mộc) Chấn Tốn
Tỳ thuộc (Thổ) Khôn Cấn, Phế thuộc (Kim) Càn Đoài
Thận thuộc (Thủy) cung Khảm
Ngũ-Tạng thuộc Bát-Quái ăn với Ngũ-Hành
Ly Tâm Hỏa, Khảm Thận Thủy, Chấn Can Mộc,
Đoài Phế Kim, Cấn Bàng-Quang Thủy, Tốn Đởm Mộc,
Càn Tiểu Trường Kim, Khôn Đại Trường Hỏa.
CHƠN PHÁP LƯU TRUYỀN Cao Đài Tam Kỳ Phổ Độ
22
Cung Khảm tại Thận (Hắc Khí) sanh trược-tinh
Cung Chấn tại Can (Thanh Khí) sanh vu-hồn
Cung Đoài tại Phế (Bạch Khí) sanh quỉ-phách
Cung Ly tại Tâm (Xích Khí) sanh thức-thần
Trung-điền tại Tỳ (Huỳnh Khí) sanh Chơn-ý Mồ Thổ
NHƠN THÂN NGŨ TẠNG ĐỒ VÀ LỤC PHỦ
Lục Phủ ăn với Ngũ-Khí
Cung Càn tại (Tiểu Trường) Bạch-Hắc Khí
Cung Tốn tại (Đởm) Thanh-Xích Khí
Cung Khôn tại (Đại-Trường) Bạch-Xích Khí
Cung Cấn tại (Bàng-Quang) Thanh-Hắc Khí
Hạ-Điền-Vi (Bao-Tử) vọng-ý Kỷ-Thổ Huỳnh Khí.
--oOo--
TRONG THÂN NGƯỜI CÓ NGŨ-NGƯƠN
THUỘC NGŨ-HÀNH
1. Ngươn-Thần thuộc (Hỏa) 2. Ngươn-Khí thuộc (Thổ)
3.Ngươn-Tinh thuộc (Thủy) 4. Ngươn-Tình thuộc (Kim)
5. Ngươn-Tánh thuộc (Mộc)
TRỜI-ĐẤT-NGƯỜI ĐỒNG CHUNG MỘT LÝ
Người có Ngũ-Tạng, bậc chơn tu biết giữ gìn Ngũ-Tạng đắc thành
Tiên-Phật đó là Đạo vậy.
Vậy người phải ăn đủ năm chất để bổ cho năm Tạng là: mặn, ngọt,
đắng, cay, chua nếu thèm món nào, thì tất nhiên mình bị thiếu chất
đó.
1. Chất cay thuộc (Kim), đó giúp cho Phổi sinh khí khô ráo, mở
đường nhuận tả.
2. Chất chua thuộc (Mộc), đó làm cho Gan ấm áp có thể thâu liễm
rút lại và sáp lợi.
3. Chất mặn thuộc (Thủy), nó làm cho Thận được bền bỉ mềm mại
sanh hàn hóa khí.
4. Chất đắng thuộc (Hỏa), nó làm cho Tim được sanh ra khí nhiệt
và ráo.
5. Chất ngọt thuộc (Thổ), sanh khí ẩm thấp nó đi vô Tỳ là lá-lách.
NÊN ĂN NĂM SẮC ĐẬU THƯỜNG BỔ NĂM TẠNG:
1. Đậu xanh bổ được Can hay Đởm thuộc (Mộc)
2. Đậu trắng bổ được Phế và Đại-Trường thuộc (Kim)
3. Đậu đỏ bổ được Tâm và Tiểu-Trường thuộc (Hỏa)
4. Đậu đen, bổ được Thận và Bàng-Quang thuộc (Thủy)
5. Đậu vàng bổ được Tỳ và Vị thuộc (thổ)
CHƠN PHÁP LƯU TRUYỀN Cao Đài Tam Kỳ Phổ Độ
23
TRONG BỐN MÙA CÓ LIÊN QUAN VỚI NGŨ-TẠNG:
Nên món ăn có 5 sắc năm màu tương sanh hay tương khắc với
Ngũ-Tạng, tùy theo mùa tiết nên tăng hay giảm tùy nghi mà xử
dụng món ăn cho hợp thời.
1. Mùa xuân thuộc (Mộc) khắc Tỳ (Thổ), nên Can Đởm vượng, nên
Tỳ Vị suy, nên ăn vị ngọt và màu vàng nhiều, đặng bổ trợ cho Tỳ,
Vị được quân bình trở lại, và bớt ăn vị chua với màu xanh ít lại, kẻo
lâm vào tình trạng thái quá của Can-Đởm mà Tỳ-Vị thọ hại.
2. Mùa Hạ thuộc (Hỏa) nó khắc Phế thuộc (Kim), còn Tâm và Tiểu-
Trường thuộc (Hỏa) nên vượng. Trái lại Phế Đại-Trường Thận
(Thủy) với bàng-quang đều bị Tâm (Hỏa) nó tương khắc, phải nên
ăn vị cay, mặn màu đen với màu trắng nhiều, còn bớt ăn vị ngọt,
đắng màu vàng và màu đỏ ít lại, cho quân bình lại được Phế Tâm và
Tỳ Thận khỏi sanh điều khắc hại.
3. Mùa Thu thuộc (Kim) khắc Mộc, nên Phế với tiểu-trường vượng,
mà khắc với Can và Đởm phải bị suy, vậy phải ăn vị chua và màu
xanh nhiều đặng bổ sung cho Can-Đởm lại, trái lại bớt ăn vị cay và
màu trắng ít cho được sự quân bình Can-Đởm khỏi bị hại, mà sanh
bịnh.
4. Mùa Đông thuộc (Thủy) khắc Hỏa nên Thận Thùy và bàng-
quang vượng mà khắc với Tâm-Hỏa và đại trường phải bị suy, nên
ăn vị đắng và màu đỏ nhiều, để bổ sung cho Tâm và đại trường lại,
trái lại bớt ăn vị mặn và màu đen ít lại, cho quân bình Tâm trường
vô bịnh vậy.
Trước cần bổ dưỡng sau cần giữ gìn 10 điều tổn thì sự bổ dưỡng
mới có ấn chứng nên thế nhơn thường nói khéo giữ hơn là khéo tạo.
Nếu tạo mà không giữ gìn thì sẽ bị hư mất, rồi tạo hoài cũng không
đủ.
BÀI
Phần thập tổn tri tầm ngăn chận
1. Đi nhiều thì lần thốn tổn Gân
2. Đứng lâu Xương tổn lãnh phần
3. Ngồi lâu tổn Huyết truyền phân điểm này
4. Ngủ lâu thì gây Mạch tổn
5. Nghe lâu thời lại tổn Tinh
6. Xem lâu thì Thần tổn khó sinh
7. Nói lâu tổn Khí phân minh lối đường.
8. Ăn no thì Can Trường Tâm tổn
9. Lo nhiều thì khốn đốn cho Tỳ.
10. Dâm thì tổn Mạng tường tri.
Cần nên phân tách ấn ghi vào lòng.
THI
Năm sắc hoa lành nở ngổn ngang
Sáu mùi hương vị phất trung đàn
Son lòng chẳng vấy bùn nhơ vướng
Nhị trổ thơm tho thả cánh vàng
Đơm kết nụ bồng kìa quả đẹp
Nước phân vun tưới mới chu toàn
Trì tâm ngũ dục Ngũ-Ngươn biến
Định trí Lục-Căn lục đạo hàng.
(Đạo-Tổ)
LẠI CÒN CÁI HẠI CỦA THẤT TÌNH CŨNG CẦN NÊN GIỮ
--oOo--
Thất tình là: Hỉ, Nộ, Ái, Ố, Ai, Lạc, Cụ.
Hỉ là mừng, có hại cho (Tâm)
Nộ là giận, có hại cho (Can)
Ái là yêu, có hại cho (Thần)
Ố là ghét, có hại cho (Tình)
Ai là buồn, có hại cho (Phế và Tỳ)
Lạc là vui, sanh dục có hại cho (Thận-Dâm)
Cụ là sợ, có hại cho (Đởm-Mật)
Ấy là cái hại của thất tình nó khiến dẫn lòng người đó.
CHƠN PHÁP LƯU TRUYỀN Cao Đài Tam Kỳ Phổ Độ
24
CÒN LỤC DỤC Ở TRONG LỤC CĂN CÓ HẠI NHƯ:
--oOo--
Lục Căn là: Nhãn, Nhĩ, Tỉ, Thiệt, Thân, Ý.
Vậy người tu cần dẹp nó cho yên rồi thần mới được an, trí mới
được định mà tu hành, mới khỏi sa đọa vào vòng Lục đạo luân hồi.
Vì Lục-Căn nó sanh Lục-Thức, có Lục-Thức sanh Lục-Trần, có
Lục-Trần sanh Lục-Tặc, có Lục-Tặc sanh Lục-Thần, có Lục-Thần
liền sanh Lục-Đạo là sáu nẻo luân hồi đó.
Nên Trời Phật hằng dạy người tu phải đóng bế sau căn là: Nhãn
kiến Sắc, Nhỉ thinh Âm, Tỉ vị Hương, Thiệt vị Ngon, Thân xúc
Động, Ý móng Tưởng, Pháp.
Thế nên (thuận Thiên giả tồn, nghịch Thiên giả vong). Trước hết
con người mới sơ sanh, thì Ngươn-Thần chủ trương nơi tâm vị, lối
ấy thì Ngươn-Thần bất thức bất tri, vô-ưu, vô-lự, thì vạn thần đều
gom về căn cội, nên nhơn thân thường tịnh ấy là Nhơn chi sơ tánh
bổn thiện vậy.
Bởi bị Lục-Dục tương truyền, làm cho Ngươn-Thần thất vị, vọng
tâm sanh thức thần chủ sự vọng động, làm cho Càn-Khôn biến sanh
vạn tượng.
Hãy biết: Lục-Thức sanh thì Lục-Thần bị tiêu diệt, rồi Lục-Đạo,
làm sao tránh khỏi.
NẾU CON NGƯỜI CHẠY THEO LỤC-DỤC THÌ:
1. Là Mắt xem sắc đẹp lắm, mãi đến sau cái điểm Linh tánh phải
đọa vào đường Noãn sanh Địa-Ngục, biến làm loài Phi-Cầm chim
chóc đẻ trứng, mình mang những lông ngũ-sắc, xem coi tốt đến bực
nào?
2. Là Tai tham nghe tiếng tà chẳng nhàm, mãi đến sau cái điểm
Linh tánh phải đạo vào đường Thai sanh Địa-Ngục, biến làm loài
Tẩu-Thú đẻ con như Voi, Cọp, Ngựa, Bò, Trâu, Heo, Chó, đeo đầy
lục-lạc, chuông reo nghe ra hay đến bực nào?
3. Là Mũi tham ngửi mùi thơm và mùi thịt cá đắm mê chẳng dứt,
mãi đến sau cái Linh tánh phải sa đọa vào Thấp sanh Địa-Ngục,
biến làm loài Thủy-Tộc như: Cá Trạnh, Tôm, Cua thường ở nơi bùn
sình tanh hôi, đặng hửi coi ra mùi thích thú đến bực nào?
4. Là Lưỡi tham ưa nếm mùi Ngũ-Huân là Ngũ-Vị Tân, Hành, Hẹ,
Tỏi, Nén, và Kiệu, mỗi ngày ba bữa ăn chẳng nhàm, mãi đến sau
cái điểm Linh-tánh phải sa đọa vào Hóa sanh Địa-Ngục. Biến làm
loài sâu nhộng hóa bướm, hay muỗi mòng rận rệp ruồi lằng, lấy
miệng ra cắn người cắn vật mà hút máu tanh hôi coi ngon đến bực
nào?
5. Là Thân tham ưa xúc động đắm mê dâm dục chẳng biết nhàm,
mãi đến sau cái điểm Linh-tánh phải sa đọa nơi Âm-Đồ Địa-Ngục
biến làm gà vịt mỗi ngày giao cảm vô độ, như vậy duyệt ý coi khoái
sướng đến bực nào?
6. Là Tâm ý Pháp, lòng tham của chẳng nhàm, mãi đến sau cái
điểm Linh-tánh phải bị sa đọa nơi loài súc vật chuyên chở đồ nặng
trọn đời, cho người đi đây sang kia, hoặc của cải bạc vàng hàng hóa
ngọc ngà châu báu thường chẳng lìa thân cho thỏa mãn lòng tham,
coi giàu đến bực nào?
Tóm lại: Luân hồi quả báo đều do nơi người chạy theo sáu dục mà
đào tạo sáu nẻo luân hồi, vì bị thiên tánh cảm xúc Linh thần mà ra
đến thế, nên người luyện phải ráng dẹp trừ sáu mối dục này cho
sạch thì việc tu hành ắt khá đặng thành công mau chóng, ấy là dẹp
Lục-Đạo luân hồi rồi sẽ đặng tiêu diêu nơi miền Cực-Lạc.
Lại còn cái hại của Tam-Thi ở trong thân mình kêu là Tam-Độc
hay Tam-Bành cũng thế:
Thần Thượng-Thi là Bành-Cư cai quản người lành dữ chốn
Thượng-Tiêu ải (Ngọc-Chẩm).
Thần Trung-Thi, là Bành-Chấp cai quản người lành dữ chốn
Trung-Tiêu ải (Hiệp-Tích)
Thần Hạ-Thi, là Bành-Kiều cai quản người lành dữ chốn
Hạ-Tiêu ải (Vĩ-Lư)
Hễ đến ngày Canh-Thân, Giáp-Tý, thì về Trời tâu các việc lành
hay dữ của người làm. Nó lại có tay chơn bộ hạ là Cửu-Cổ, chín
con ma này làm hại chẳng ít, nó làm ngăn lấp chín Khiếu của con
CHƠN PHÁP LƯU TRUYỀN Cao Đài Tam Kỳ Phổ Độ
25
người, khiến cho khí chơn dương khó thăng lên ba ải. Mà Cửu-Cổ
có tên là:
Thứ nhứt Phục-Cổ ở ải Ngọc-Chẩm
Thứ hai Long-Cổ ở Khiếu Thiên-Trụ
Thứ ba Bạch-Cổ ở Khiếu Đào-Đạo
Thứ tư Nhục-Cổ ở Khiếu Thần-Đạo
Thứ năm Xích-Cổ ở ải Hiệp-Tích
Thứ sáu Cách-Cổ ở Khiếu Huyền-Xưu
Thứ bảy Phế-Cổ ở Khiếu Mạng-Môn
Thứ tám Vĩ-Cổ ở Khiếu Long-Hổ
Thứ chín Khương-Cổ ở ải Vĩ-Lư
Thần Tam-Thi thì ở ba ải, Cửu-Cổ ở chín Khiếu biến hóa đa đoan,
ẩn hiện mạt trắc, hoặc hóa gái tốt trai lành, làm cho nam mộng di
tinh, nữ phải bị bạch dâm vệ hạ, hoặc hóa Huyển-Cảnh khiến trong
giấc ngủ sanh ra nhiều phiền não sợ hãi kinh hồn hoảng vía, khiến
cho đạo cả khó thành.
TRONG ĐƠN KINH CÓ KỆ RẰNG:
Tam -Thi Cửu-Cổ ở trong mình
Ngăn lấp Huỳnh-Hà độc khí sinh
Hành giả đánh tan ba Động-Phủ
Cửu-Cổ tiêu diệt mới trường sanh.
Hựu: Ông Võ Cấu Tử
Thất tình lục dục ấy phong trần
Mưa lớn một đêm rửa sạch thân
Chờ đến Địa-Lôi vừa phát động
Ba thây quỉ trốn mới an thân.
Hựu: Ông Đạt-Ma Tổ-Sư
Nhứt dương sơ động dụng tâm tư
Chín quỉ, ba yêu mới khử trừ
Đến trận giữ gìn cho chính chắn
Đề phòng quan hệ chớ sật sừ
Vậy người tu phải cố gắng diệt trừ mấy mối hại to tác nầy cho hết
sạch, và quét tam tâm trừ tứ tướng, thì lòng dục sẽ lặng yên.
TAM TÂM LÀ
1. Phàm-Tâm là Thất tình (quá khứ Tâm)
2. Sắc-Tâm là Lục-Dục (hiện tại Tâm)
3. Huyết-Tâm là lòng dục (vị lai Tâm)
Còn Tứ-Tướng ở trong là Nhơn Tướng, Ngã Tương, Chúng Sanh
Tướng, Thọ Giả Tướng. Tứ-Tướng ngoài là: Nhãn, Nhỉ, Tỉ, Thiệt.
Vì lòng chưa lóng nên nhơn tâm chưa chết, thì đạo tâm khó sanh,
nên tượng con người sanh ra trong Trời Đất mà chẳng đặng thành
Tiên, Phật, Thánh Hiền ấy là: bởi chẳng hay trừ được Ngũ-Dục là:
Hỉ, Nộ, Ái, Lạc, Dục mà ra hư hại vậy.
Như quả trừ đặng Hỉ tình thì sẽ hóa thành Ngươn-Tánh.
“ Nộ tình “ Ngươn-Tình
“ Ái tình “ Ngươn-Tinh
“ Lạc tình “ Ngươn-Thần
“ Dục tình “ Ngươn-Khí
Như vậy Ngũ-Dục hóa Ngũ-Ngươn thì Tiên, Phật đâu có khó
thành.
ĐẠO NHO NÓI RẰNG
Giới thận hồ kỳ sở bất đổ
Khủng cụ hồ kỳ sở bất văn
Nghĩa là: Răn dè nơi chỗ chẳng thấy
E sợ nơi chỗ chẳng nghe.
(Tức là sợ khi vắng vẻ một mình không thấy ai, mà tâm sanh điều tà
vậy)
ĐẠO TIÊN NÓI RẰNG:
Hoảng hoảng, hốt hốt, yểu yểu, minh minh
Nghĩa là: Chán chán, nhán nhán, lu lu, mờ mờ.
CHƠN PHÁP LƯU TRUYỀN Cao Đài Tam Kỳ Phổ Độ
26
ĐẠO THÍCH NÓI RẰNG:
Không Mắt, Tai, Mũi, Lưỡi, Thân, Ý (lục-dục)
Không Sắc, Thinh, Hương, Vị, Xúc, Pháp (lục-thức)
Như chiếu theo Tam-Giáo mà giữ gìn làm y thì lòng tư dục nào
mà không trừ đặng. Tại sao Tam-Giáo đều dạy trừ lòng tư dục?
Vì lòng tư dục nó thuộc âm khí, nên mới dạy trừ bỏ nó, đặng giữ
gìn Thiên-Lý thuộc khí Dương mới dễ thăng lên mà thành Tiên, nếu
thuận theo khí âm thì bị trọng trược phải thành quỉ. Vì lẽ đó nên
người tu phải cần sớm tấn dương hỏa chiều thối âm phù (để dưỡng
dương diệt giả âm).
CHUNG LY TỔ SƯ KỆ RẰNG:
Luyện Tánh trước tua luyện Lão bành,
Một vầng Nga Nguyệt hướng khôn sanh
Âm phù lui tới Đơn Càn chính
Dương Hỏa đầy vơi Nguyệt lần sanh.
Đem Khảm lấp Ly về ngôi cũ
Cầm Ô bắt Thố phục sơ thành
Từ đây tránh khỏi đường Diêm-Chúa
Thành bậc Thần Tiên đến Ngọc-Thanh.
Trong Lạc-Thơ còn sanh âm khí dục vọng tham cầu của ngũ ma
như: Hai, Bốn, Sáu, Tám, Mười là Năm số Âm như:
1. Địa-Lục thành Quí-Thủy là tinh giao cảm, tánh tham sắc
đẹp.
2. Địa-Thất thành Đinh-Hỏa là Thần tư lự, tánh tham cầu
vinh qui.
3. Địa-Bát thành Ất-Mộc là Khí chất tánh tham cầu giàu có.
4. Địa-Cửu thành Tân-Kim là Tình Ái tánh tham cầu vọng
tình.
5. Địa-Thập thành Kỷ-Thổ là tư ý tánh hay tham cầu rượu
thịt, ưa cầu cao lớn lối, ấy là năm con ma trong khí Hậu-thiên, nó
làm cho tiêu hết khí Ngũ-Hành trong Ngũ-Tạng của thân mình.
Thứ Nhứt: Tham dâm hại tinh, thận (Thủy) bị suy kém.
Thứ Nhì: Tham sang hại thần, tâm (Hỏa) suy kém.
Thứ Ba: Tham giàu có hại tánh Can (Mộc) suy kém.
Thứ Tư: Tham sát sanh hại tinh Phế (Kim) kém.
Thứ Năm: Tham hờn giận hại khí, Tỳ (Thổ) suy kém.
Trừ các món hại được rồi, Bát-Quái sẽ thay hào đổi tượng trở lại
khí Tiên-Thiên, là Lạc-Thơ trở lại Hà-Đồ mà chứng quả Thần-Tiên
tọa vị.
Còn năm món Ngũ-Huân: Hẹ, Hành, Tỏi, Nén, Kiệu ráng mà
kiêng cử vì ăn nó thì sanh nhiều trược khí mà khó nổi luyện đơn
nên khá nhớ tiểu tâm kiêng cử vì nó hay sanh (Ngũ-Dục).
Thậm chí đến các món như: Trầu, Thuốc, Cà-phê, Trà các món
nầy nó làm cho kích-thích thần kinh của con người mà sanh ghiền
rồi sanh vọng niệm mà tổn hại tinh-thần, sanh điều trược nhiễm của
Hậu-Thiên lôi cuốn vào sông mê biển khổ.
CHƯƠNG IV TUÂN Y GIỚI LUẬT NHẬP THẤT LUYỆN TU
--oOo--
Người tu muốn cho có ấn chứng kết quả mỹ-mãn, thì trước hết
phải học Qui-Điều và gìn-giữ Tam-Qui, Ngũ-Giới Tứ-Đại và bài
thương yêu phải ghi nhớ nằm lòng.
TAM QUI LÀ:
1. Qui Y Phật: thường tồn Ngươn-Thần
2. Qui Y Pháp: thường gìn Ngươn-Khí
3. Qui Y Tăng: thường giữ Ngươn-Tinh
Đó là Tam-Qui.
PHẦN NGŨ-GIỚI CẤM LÀ:
1. Nhứt bất sát-sanh: Chẳng nên sát hại sanh vật, giết chết, hay
đánh đập làm cho đau đớn rên la, không những con người
hay cầm thú mà thôi, lần-lần cũng phải giữ đừng sát hại vô
CHƠN PHÁP LƯU TRUYỀN Cao Đài Tam Kỳ Phổ Độ
27
cớ đến côn-trùng thảo-mộc nữa. Nếu không răn thì mất lòng
nhơn rồi trong mình sẽ bị khuyết Mộc lâu ngày tại Can-
Đởm có hại.
2. Nhì Bất Du-Đạo: Chẳng nên trộm cướp hay lấy ngang,
lường gạt của người mượn vay không trả, chứa đồ gian và
lượm lấy của rơi, hoặc sanh lòng tham của quấy, hay để ý
hại người mà lợi cho mình, cờ gian bạc lận. Nếu không răn
thì mất điều nghĩa, rồi trong mình sẽ bị khuyết Kim thì Phế
và Đại-Trường phải có hại.
3. Tam Bất Tà Dâm: Cấm lấy vợ hoặc chồng người hay thả
theo đàng điếm, xúi giục người làm loạn luân thường, hoặc
thấy sắc đẹp mà dậy lòng tà, hay lấy lòng trêu-hoa ghẹo
nguyệt. Nếu không răn được ắt mất lễ, hễ mất lễ thì khuyết
Hỏa ắt Tâm và Tiểu-Trường có hại.
4. Tứ Bất Tửu-Nhục: Cấm uống rượu ăn thịt cá, làm rối loạn
tâm thần, hoặc miệng ước mơ đồ cao lương mỹ vị bụng tư
tưởng món này ngon hay vật kia quý lạ. Nếu không cử được
ắt bị mất trí: Không trí thì khuyết Thủy làm cho Thận và
Bàng-quang có hại.
5. Ngũ Bất Vọng Ngữ: Cấm xảo trá láo xược, nói xấu người
khoe mình bày lỗi người, chuyện phải nói quấy chuyện quấy
nói phải, ngạo báng, chê bai, nói hành kẻ khác, xúi giục
người hờn giận kiện thưa xa cách, ăn nói lỗ mãng thô tục,
chửi rủa người hay hủy báng Tôn-Giáo, hoặc nói ra không
giữ lời hứa. Nếu không răn được thì mất tín, không tín ắt
Thổ khuyết thì Tỳ-Vị sẽ bị thọ hại.
Vậy hãy khá nhớ để làm sự bổ khuyết cho năm tạng khỏi suy hư
mà lâm bịnh. Vì năm tạng khuyết thì Hạo-Nhiên chi-khí không
còn tồn tại nên người chơn tu chí đạo, lúc nào cũng phải chú
trọng lắm lắm.
PHẦN TỨ ĐẠI ĐIỀU QUI LÀ:
--oOo--
1. Phải tuân y lời dạy bề trên, chẳng hổ chịu cho bực thấp hơn
điều độ, lấy lễ hòa người, có lỡ lầm lỗi ăn năn chịu thiệt.
2. Chớ khoe tài, đừng kiêu ngạo, quên mình mà làm nên cho
người, giúp người nên đạo, đừng nhớ cừu riêng, chớ che lấp
người hiền.
3. Bạc tiền xuất nhập phân minh, đừng mượn vay không trả, đối
với bề trên thì đừng lờn dễ, trên dạy dưới lấy lễ, dưới gián trên
đừng thất lễ khiêm cung.
4. Trước mặt sau lưng cũng đồng một mực, đừng kính trước rồi
khi sau, đừng thấy đồng đạo tranh nhau mà ngồi xem không hề
để lời hòa giải, đừng lấy của chung làm của riêng, đừng vụ
riêng mà bỏ việc chung, pháp luật phải tuân, đừng lấy ý riêng
mà trái trên dễ dưới, đừng cậy quyền mà yểm tài người.
BÀI THƯƠNG YÊU:
Thầy là Cha của sự thương yêu, do bởi sự thương-yêu mới tạo
thành thế-giới và sanh sản các con. Vậy các con sản-xuất nơi sự
thương-yêu là cơ thể của sự sống còn.
Sự thương-yêu là giềng mối bảo sanh của Càn-Khôn Thế-Giới,
bởi thương-yêu mà vạn loài được hòa-bình Càn-Khôn an tịnh.
Đặng an tịnh mới không thù nghịch lẫn nhau, không thù nghịch
lẫn nhau mới không tàn hại nhau, không tàn hại nhau mới giữ
bền cơ sanh hóa.
Nghịch lại cơ sanh hóa là Quỉ-Vương là tay diệt hóa cũng như
có cái sống của Thầy, ắt có cái chết của Quỉ-Vương.
Quỉ-Vương giục sự ghét mà làm hại các con. Vì ghét nhau mà
vạn loại mới khi nhau mới nghịch nhau, mà càn hại lẫn nhau là
cơ diệt thế.
Vậy Thầy cấm các con từ đây: Ví không đủ sức thương nhau
thì cũng không được phép ghét nhau nghe à.
Tóm lại: Giới luật là khuôn vàng thước ngọc, để đưa người tu
đến nơi đến chốn tận thiện và tận mỹ.
CHƠN PHÁP LƯU TRUYỀN Cao Đài Tam Kỳ Phổ Độ
28
Khi giữ tròn qui giới rồi, hành giả cũng cần học thông rành
Cửu-Chuyển, để dọn mình vào Tịnh Bá-Nhựt-Trúc-Cơ tu hành
cho trúng cách Thượng-Thừa như:
1. Sơ Nhứt-Chuyển: dẹp hết Thất-Tình Lục-Dục, tập hơi thở điều
hòa tâm thần yên lặng, tinh khí thượng thăng, điều hành dinh-vệ.
2. Sơ Nhị-Chuyển: Bế Ngũ-Quan điều thần hiệp khí cho Tứ-Tổ
Qui-Gia, âm dương thăng giáng điều-hòa khai thông Cửu-Khiếu.
3. Sơ Tam-Chuyển: Khử trược lưu thanh cho Hậu-Thiên giáng
xuống, thần khí giao thông, thân thể nhẹ nhàng, hồn linh minh huệ,
cách-vật trí-tri Kim-Đơn thành tựu đắc Tha Tâm-Thông, mọi sự ở
thế gian đều thông hiểu hết, ấy là tròn xong Bá-Nhựt Trúc-Cơ. Kết
qua Thập-Ngoạt Hoài-Thai mới hoàn thành nhứt bộ.
4. Sang Tứ-Chuyển: Tịnh thủ Hư-Vô cho cơ Trời phát lộ bá mạch
lưu thông điều hòa thai tức, thoát khổ trần ai trong ngoài êm tịnh,
thất nhựt thể dương đó là Đại-Dược Kỳ-Xương, thân hình cường
tráng mạnh khỏe tốt tươi.
5. Ngũ-Chuyển: lo Nhũ-Bộ Tam-Niên tập hườn hư vô-cực điều
thần xuất xác, học pháp bí truyền, cao siêu xuất sắc trên cõi Thần
Tiên.
6. Đến Lục-Chuyển: tâm thần bất động, vô thân, vô thể, vô trần, vô
cấu, mọi việc đều không, không nhiễm bụi trần vào tâm đắc thành
nhị-bộ, suốt thông Giáo-Lý mở khiếu nhãn quang các hiện tượng
trên cõi siêu hình hay nơi trung giới đều nghe thấy hết. Ấy là triệu
chứng Thiên-Nhãn-Thông, Thiên-Nhĩ-Thông.
7. Sang Thất-Chuyển: hạo nhiên thường trụ trên Nê-Hườn tụ đảnh
Tam-Hoa, cởi bảy thể thoát ra thân xác, ngoại hữu thân hoạt bát cơ
thiên, côn lôn đảnh báo chỉ truyền, an thần nuôi dưỡng kiền-thiền
chớ sai.
8. Bát-Chuyển đắc Ngũ-Thông túc mạng, lọc âm dương hai tâm
thành cấu, hồn còn nương náo xác thân nhưng không dính líu bụi
trần vào tâm.
9. Đến Cửu-Chuyển: chín năm Diện-Bích, hườn vô rồi thì đắc Lục-
Thông, lần dò đến Lậu-Tận-Thông, Đơn-Thơ lai chiếu Ngọc-Kinh
Tiên-Tòa.
Vậy người tu luyện đạo trước phải dọn mình cho trong sạch, trí
não cho thanh cao học hành được mau nghe dễ nhớ, mới thoát được
cõi trần biển khổ sông mê mà khỏi luân hồi chuyển kiếp. Bởi xác
thân con người là Tứ-Đại giả-hiệp, mộng huyễn bào ảnh ráp thành,
không lâu dài bền bỉ.
Linh hồn chỉ mượn nó một thời gian trên cõi tạm để trả rồi nghiệp
quả, thì nó phải tan rã theo thể chất, còn Linh hồn trở lại cõi hư-vô
mà lãnh điều tội phước, an nhàn tự tại hay chuyển kiếp đầu thai,
đều do căn cơ sở tạo.
Nếu muốn được trường sanh bất diệt thì cần phải luyện Cửu-
Chuyển hườn đơn, Kim-thân bất hoại vĩnh kiếp trường tồn nơi Đào
nguyên Tử-Phủ mới tròn nợ Tứ-Ân.
Nay nhằm buổi Hạ-Ngươn Tam-Kỳ mạt hậu, Đạo-Giáo phát hưng,
ai là người hữu duyên tỉnh ngộ lo tu, học Tân-Pháp bí truyền luyện
đặng Thánh-Thai Phật-Tử, thì chẳng uổng kiếp làm người sanh trên
cõi tạm.
--oOo--
PHẦN TỊNH LUYỆN:
Phép tịnh luyện có hai mùa: Chánh-dương là Đông-Chí, Chánh-
Âm là Hạ-Chí.
Tiết Đông-Chí dương khí mới sơ sanh ở vào châu niên hành vận
trong 12 tháng thuộc 12 quẻ.
Nên tháng 11 là Tý Ngoạt thuộc quẻ Địa-Lôi-Phục, có nhứt dương
phục hồi trở lại thì vạn vật đều qui căn, nên cần phải nhập thất
luyện tu Tứ-thời phanh luyện đặng thâu hấp dương khí ấy để bồi bổ
sự hao khiếm khuyết của cơ thể lại, mà tạo thành Xá-Lợi Kim-Đơn.
Nhưng: Chánh tiết dương sanh vào ngày Chúa giáng sanh lễ Noel,
là ngày chơn dương xuất hiện, duy cũng có chậm mau, vì thời tiết
có khi sớm trễ, nên lúc thì trước lễ Noel 10 ngày, khi lại sau 8 ngày.
CHƠN PHÁP LƯU TRUYỀN Cao Đài Tam Kỳ Phổ Độ
29
Lấy theo quẻ thì Thiên-Nhứt sanh Thủy là thận Thủy phát hưng,
cũng như trai 16 tuổi qui đầu bộc khởi, dục ý dấy lên niệm sanh
tình tứ.
Còn gái 14 tuổi Xuân động Hàm-linh phát niệm ái ân ước mơ tình
dục, nên cần phải vào trong tịnh thất Bá-Nhựt Trúc-Cơ liễm thâu
chơn khí ấy thì đắc quả trường sanh, tức là Kim-Đơn Đại-Đạo.
Vì trong quẻ Phục có nhứt dương sơ động lấn dành hãm âm trong
thời Đông-Chí, nên có sanh đại tiết khí hành, khá cần đại tịnh Hư-
Vô thâu hườn dương ở tại Khảm-Cung, tức là Khôn làm Càn nhứt,
mà đắp vào cái tánh chơn dương đó lại.
Tháng 12 Sửu ngoạt quẻ Địa-Trạch-Lâm nhầm tiết Tiểu-Hàn, Đại-
Hàn, có nhị dương lấn thị âm lui, làm cho Thủy khí thăng lên Tâm
Vị; thì phải tịnh thường giữ chặt Tam-Quan (ba ải):
1. Vĩ-Lư, 2. Giáp-Tích, 3. Ngọc-Chẩm, đặng đưa dương khí vào
Thái-Cực-Đồ.
Tháng Giêng Dần ngoạt quẻ Địa-Thiên-Thái, tiết lập-xuân vũ-
thủy, thiên-khí giáng địa khí thăng, âm dương giao cảm Tâm-Thận
tương hòa, tam dương khai thái nên cần tịnh thủ cho Đơn-dược.
Tháng 2 Mẹo ngoạt quẻ Lôi-Thiên Đại-Tráng vào tiết Kinh-Trập
Xuân-Phân thiệt chánh khí xuân tươi nhuần mát mẻ muôn vật yên
vui tứ dương thuần thục mười phần xinh tươi, cần tịnh định cho khí
Linh-huyền nơi hạ điền cung Cấn thăng lên trung điền, rồi ráng tịnh
cho vong ngã mà thâu khách khí vào Huyền-Quang mà giúp thêm
cho chánh khí.
Tháng 3 Thìn ngoạt quẻ Trạch-Thiên-Khuyết, tiết Thanh-Minh
Cốc-Vũ, đến đây lại được ngũ dương vật người đều sung thanh, cần
tịnh thủ liễm thâu chơn khí để phòng âm thăng hầu nuôi lấy chơn
căn Linh-Chưởng.
Tháng 4 Tỵ ngoạt quẻ Càn-Vi-Thiên, tiết Lập-Hạ Tiểu-Mãn đúng
nên chánh khí thuần dương, đến đây chủ khách tương dương, 6 hào
dương đủ vào đường Thủy cung, cần đại định cho thường đề phòng
âm sanh, vì dương cực âm sanh khá biết.
BÀI
Cơ Bá nhựt nêu cao Đông-Chí
Tiết sang Đông yếu lý động cơ
Nhứt dương sanh động định giờ
Tiết trời giao chí đợi chờ qui căn
Cùng vạn vật thọ tăng bẩm chất
Thảo mộc đều gom tất tinh hoa
Hấp thụ đầy đủ chan hòa
Nhứt dương sanh khí đó là thuần cơ
Còn định chất thời giờ Đông-Chí
Phải phân theo tiết khí chậm mau
Mười ngày đi trước tiếp giao
Noel chuyển sắp đài cao tiết thời
Chậm tám ngày máy trời xoay trở
Đi theo vòng nên nhớ chủ căn
Là ngày chánh tiết nắm phăng
Đúng thời Đông-Chí qui căn đạo hành
Đông-Chí nhứt dương sanh vạn vật
Đều hấp thâu bẩm chất dương sanh
Trai thì hai tám là thành
Qui đầu bộc khởi động hành sơ khai
Nữ hai bảy nên tay nữ liệt
Hàm linh thông hiểu biết sự tình
Tự nơi Xuân-động tác hình
Biểu dương chí khí tượng hình tri cơ.
Mới điểm ngay Thiên-Thơ bất tử
Mối Đạo-vàng gìn giữ bao lâu
Trường-sanh Kim-Khí qui đầu
Đủ đầy đức tín phục hầu Trường-sanh.
CHƠN PHÁP LƯU TRUYỀN Cao Đài Tam Kỳ Phổ Độ
30
Vậy trước khi vào tịnh tọa theo Tân-Pháp của thoàn-môn cho có
điều chứng chỗ chánh đạo tu chơn luyện khí, định thần. Phải có
người hộ đạo có đủ tài đức hướng dẫn đến trước Thiên-bàn lập lời
đại-thệ cho thấu động lòng Trời, rồi Thần-Thánh Tiên-Phật mới
chứng tri hộ trợ thì sự học sẽ đem lại kết quả khả-quan, và phải có
đủ đức tin mạnh mẽ mới chẳng uổng công tu luyện ngàn năm một
kiếp.
Trước phải dọn mình cho trong sạch, đoạn tuyệt trần duyên và bảo
thủ giữ gìn chơn tánh lý của Ngũ-tướng cho hoàn toàn, sát Ngũ-ma
và bất tương quan đến xã-hội.
Cần yếu: phải đoạn tuyệt dâm thân, dâm tâm, làm cho hết khởi
niệm dâm, rồi vào tịnh thoàn sẽ đoạn dứt dâm căn mới được kết nên
thai Thánh, nhưng phải thoàn tọa cho thường, thì sẽ được ngoại-
tịnh nội-động, mới có triệu chứng chơn cơ phát hiện dương sanh, ắt
sẽ được thanh khí hườn nguyên túc bộ.
Mà phải trường chay giới sát luôn cho cảm động lòng trời, rồi
chơn cơ sẽ phát hiện đủ đầy duyên mãn, cần phải Hành-Trụ Tọa-
Ngọa định thần luôn luôn, mặc-mặc vô ngôn (làm thinh không nói)
hồi quang phản chiếu vào Tâm-điền.
Tóm lại: khi vào Bá-Nhựt thì không cần biết đến thế sự phàm tình,
cho đến Trời Đất gì cũng đều không hay biết chi chi hết ráo. Tập
quen được như vậy lâu ngày sẽ đặng có Thiên-Khí Thượng-Phù (là
thanh khí thăng lên), còn trược âm tạp hỏa hạ giáng, đó là chỗ nói
(chiết Khảm điền Ly) hay luyện hồn chế phách.
Đó là tròn xong lớp tu Đông-Chí, rồi nên tiếp hạ sang, vào mùa
Hạ-Chí nhứt âm sanh, vạn vật đều nhờ khí chơn âm ấy mà trưởng
thành, nên người tu phải vào tịnh thất thâu liễm chơn âm mà nuôi
dưỡng khí chơn dương đã thâu trong kỳ Đông-Chí cho được trường
tồn vĩnh-cửu mạnh mẽ thêm hơn.
Vì nếu có dương mà không âm thì sẽ bị cô dương đạo ắt khó
thành, còn có âm mà không dương thì ra cô âm đạo cũng không
thành được. Thế nên Âm Dương Nhị-Khí phải có đủ nửa cân tám
lượng hiệp thành một cân đại dược thì đạo ắt thành.
BẮT ĐẦU VÀO HẠ-CHÍ:
Vào Hạ-Chí tháng 5 Ngọ ngoạt quẻ Thiên-Phong-Cấu, tiết Mang-
Chủng Hạ-Chí khá tường, nơi Bắc-phương lai tận Nam-phương.
Thối-Phù Dương-cực lọc đường bổn âm (tịnh lọc khí thuần âm).
Thủ Huỳnh-đình gom dương khí vào tâm vị.
Tháng 6 Mùi ngoạt lâm Mạc-hạ quẻ Thiên-Sơn-Độn, tiết Tiểu-
Thử Đại-Thử nên trược âm thâm nhập trung tâm, khá tịnh thủ giữ
gìn tà khí nó phá rối làm cho Kim-Đơn khô héo, cần thủ Huyền-
Quang và nhị kiều cho lắm vì có nhị âm sanh tranh lấn hãm dương.
Tháng 7 Thân ngoạt quẻ Thiên-Địa-Bỉ, tiết Lập-Thu, Xử-Thử khí
thiên hạ giáng, địa khí xung lên, vậy nên đạo phải cần gìn thủ trung.
Nghĩa là: Đạo bất khả tu du ly giả: Là chẳng khá rời đạo vậy.
Tháng 8 Dậu ngoạt quẻ Phong-Địa-Quán, tiết Bạch-Lộ Thu-Phân
thần quang nhán sáng, cần phải thống hiệp tam chơn, không cho
ngoại trần âm khí nhiễm vào để giữ ánh minh cho sáng tỏ.
Tháng 9 Tuất ngoạt quẻ Sơn-Địa-Bát, tiết Hàn-Lộ Sương-Giáng
khí chất lờ mờ, anh nhi hiện lộ xuất hữu vô trung phải cần huân
chưng ngày giờ cẩn mật, cho hết tạp chất hầu đắc quả vô-hình phá
tướng.
Tháng 10 Hợi ngoạt quẻ Khôn-Vi-Địa tiết Lập-Đông Tiểu-Hàn thì
dương tuyệt Mạt-âm, phải cần hồi quang nội chiếu tịnh định diệt
trần tâm, để cần giữ ngươn tinh chánh khí.
Đến đây cần phải tập trung hết tinh-thần gom vào Thái dinh giữ
tánh không không cho châu nhi phục-thỉ đặng mạt âm xây đổ đến
giờ thuần dương, hễ mạt âm thì hỏa thượng nơi Can. Đó là Long-
Hổ vầy đoàn, âm dương hội hiệp thuần toàn lục âm. Nên cần giữ
tháng ngày mùa tiết mà luyện phanh hoán triệt Đất-Trời Âm-Dương
xoay trở chiều mơi, Càn-Khôn định vị thành thời ngôi Tiên.
THI
Ngôi tiên phải đoạt máy Âm-Dương
Nuôi khí dưỡng thần Đạo khuếch-trương
Báu vật gom về nơi huyệt cốc
CHƠN PHÁP LƯU TRUYỀN Cao Đài Tam Kỳ Phổ Độ
31
Vững lòng trọn kiếp đắc sanh trường.
HỰU
Trường sanh bất lão tại nơi ta
Luyện tánh tâm chơn thoát giái ba
Không mến trần gian không bợn tục
Không hờn không oán phép Tiên gia.
Khi hết tịnh rồi cứ hồi quang nội chiếu trong tứ oai nghi mà chờ
Thiên-cơ tái động, mới thành chiếu diệu linh quang huy hoàng linh
chơn vậy.
BÀI
Ngồi tịnh tọa tham thoàn luyện kỷ
Phải đúng giờ Ngọ Tý liễm thâu
Mẹo Dậu mộc dục đặng lâu
Ngươn khí tự nhập là đầu Hư-Vô
Khởi Hấp y Cực-đồ Tề-hạ
Phải ba hơi khí giả đến nơi
Nam-Mô-Cao nhớ y lời
Mật niệm ta hiểu ngoài đời nan tri
Hô củng ba hành y pháp độ
Đài-Tiên-Ông là chỗ rún lên
Nơi mũi thở chẳng lệch chênh
Như vậy ba lượt mới nên định thần
Cách ngồi tịnh đồng cân thân thể
Thòng hai chơn giụm để tréo lên
Chơn hình chữ bát làm nền
Lưng như gỗ thẳng phải quên việc trần
Tịnh Hư-Vô đắp lần Cơ-Trúc
Ngồi thiền định năm phút một giờ
Sửa ngay hô hấp chuyển cơ
Ngươn thần mở rộng Thiên-Thơ mật truyền
Có tính thiện mới yên tâm tánh
Diệt lục trần mới tránh khổ gay
Tròn ròng tánh thiện tâm chay
Thâu thanh diệt trược hằng ngày chớ quên.
Kềm ý mã mới yên Quân-Tử
Đạo tâm sanh diệt tử nhơn tâm
Nhơn tâm tử phách tán âm
Ngươn thần chủ sự đạo tâm đắc thành
Diệt lục thất khí thanh mới ở
Lục thất còn lỡ-dở đường tu
Tu nhờ tịnh ráng cần cù
Mỗi ngày bốn buổi công phu chớ rời
Vậy người tu cần phải gìn giữ sự công phu thường ngày như đạo
nhựt thường hành. Đến lâu ngày thì Khảm sẽ hồi Ly, làm cho Ly
trở thành Càn, tức là chơn dương và tinh-thần hườn nguyên hiệp
nhứt đầy đủ y như hồi thỉ sơ, sơ tạo bổn tánh thiện chơn cơ chánh
khí, mà theo buổi đầu là gốc Tiên-chơn, hoàn toàn thiện-mỹ.
Rồi Ly sẽ hồi Khảm biến Khảm thành Khôn tức thị chơn âm
thành. Thì ra dĩ dương diệt giả âm dỉ chơn âm mà dưởng lại dương,
mới có Miêu căn chơn chưởng Linh-tử phát hiện.
Nếu có đặng Âm-Dương hòa hiệp ở trong đạo tâm rồi, là nên chỗ
Đại-Đạo Tiên-Thiên chi khí phục hườn, ắt sẽ có linh-quang chơn
điển xuất hiện linh đài mà thăng phù nơi Hư-Không cảnh giới. Mà
Tiên-Thiên chi-khí là bổn-tánh chơn-như của Trời trường tồn vĩnh-
cửu.
CHƠN PHÁP LƯU TRUYỀN Cao Đài Tam Kỳ Phổ Độ
32
Nếu không tu luyện cho phục vô hườn hữu, thì sẽ bị Khảm-Ly
tương đối khắc hại lại bản thân ắt sẽ bị diệt vong không ai tránh
khỏi.
Nay bằng muốn tu cho được hườn nguyên phản bổn, thì trước phải
lo đoạn dứt máy luân hồi, cho không còn chuyển kiếp nữa, tức là
phải tu cơ siêu thoát tịnh luyện công-phu diệt trừ tâm-viên ý-mã,
lục-thất tiêu vong, thì phải tập lần lưỡng đoạn công-phu thỉ chung
như nhứt, tiên tấn dương hỏa hậu thối âm phù trong tứ-thời công
phu theo hình lục-âm lục-dương dưới đây mà hành sự.
HÌNH ĐỒ LỤC ÂM LỤC DƯƠNG:
Thập nhị quẻ tứ thời công-phu tấn dương hỏa, thối âm phù.
LỤC ÂM LỤC DƯƠNG
TAM QUAN CỬU KHIẾU ĐỒ
THI
Tý Địa-lôi tấn Vi-Lữ quan
Ngọ Thiên-phong thối đáo Nê-Hườn
Mẹo quái Lôi-Thiên lai Hiệp-Tích
Dậu thời Phong-địa hội Trung-gian
THI
Nam tử luyện tinh thủ thận đường
Tỳ-lư khí hải hộ Trung-ương
Nội-Ngoại dược phanh thâu Bắc-Cực
Vạn-Thù qui nhứt hiệp Thủy-xương
Khảm-ly chiết bổ thành Càn tượng
Càn-Khôn giao cấu cực minh chương
Thập-nhị thời trung vô giải đãi
Hỏa-phù ôn-dưỡng nạp Thuần-Dương
HỰU
Tả-hữu Âm Dương khả biệt tầm
Can-nhu tứ thể đạo hoằng tâm
Thượng-hạ lưỡng đồ phân nhị-bát
Tánh mạng Càn-Khôn Tỷ thận-tâm
Căn đề lư đảnh nghi tri thử
Mạng-môn Đơn-thất thủ Thân-chăm
Kim (Diên) Mộc (Hống) châu sa dược
Thủy ngân huyền diệu diệt phàm tâm.
(Đạo Tổ)
--oOo--
YẾU LÝ Nam thì giữ lấy bầy trâu
Nữ thì giữ lấy nhao đầu trấp môn
CHƠN PHÁP LƯU TRUYỀN Cao Đài Tam Kỳ Phổ Độ
33
Tấn dương hỏa từ Tý đến Tỵ làm cho âm trung phản dương, là tấn
tới chưn đức can nhu, ấy là chỗ dùng phục lấy khí Tiên-Thiên trở
lại, nhưng phải tấn cho đến chỗ Lục-dương thuần toàn tại Tỵ, là nơi
Càn kiện cao-minh mới thiệt chỗ công dương hỏa.
Mà phải lấy Hô làm Đại-Hào đưa ra năm bực, còn hấp làm Tiểu-
Hào thâu vào chín rún, cần nhớ tịnh trong giờ Tý phải nhíu Cốc-đạo
đặng bắt hạ Thước-Kiều, mà đưa hào dương qua Đốc Mạch mới
được, và phải dùng chơn ý mà đưa qua Vĩ-Lư quan mới lên Giáp-
tích rồi thẳng đến Ngọc-Chẩm quan là nơi Lục-dương Càn-kiện.
Trong kinh có nói chỗ này là: Cầu nại hà bắt ngang sông lớn, tội
nhơn qua óc rởn rùng mình, cọp đồng rắn sắt hãi kinh, sẩy chơn sụp
xuống Cua-kình rỉa thây. Nghĩa là: Lúc công-phu mà phải bị đọa sa
xuống cầu, thì ắt uổng công tu luyện, và có hại cho bản thân nữa.
Còn ngồi cũng quay mặt qua hướng Bắc, để kỉnh trọng tôn thờ
Đức Thượng-Đế, vì Đức Thượng-Đế ngự tại chánh hướng Bắc, nên
Đức Khổng-Tử thuở xưa nói: Lúc nửa đêm Trời chuyển mưa vần
vũ, thì Ngài mau mau ngồi dậy quay mặt về hướng Bắc, là cốt ý nói
chỗ đoạn nầy.
Nay ta tu hành cũng phải giữ lẽ khiêm-cung như bậc Thánh nhơn
thuở trước, vì giờ Tý dương sanh tại dưới trung tâm cung Khôn-vi-
Địa, nên giờ Tý dùng tấn dương hỏa 36 lần trong mỗi giờ từ Tý đến
Tỵ trọn đủ 6 giờ dương, lấy 6x36 = 216 hào.
BÀI
Tý tấn dương vòng tròn ba sáu
Khá bế nhâm di tháo chế hàn
Nghịch-hành chuyển-vận lục-quan
Châu hườn như nhứt tổ đàng cho xinh
Khá hết dạ Huỳnh-đình tụng niệm
Khỏi khổ mà ráng luyện cho thuần
Đó là lưỡng khí huân chưng
Chuyển bồi vận khí siêu quần là hay
Vậy mới biết tam tài chi đạo
Khá thâu về khí hạo Tiên-Thiên
Phải lo Khảm chiết Ly điền
Nhứt công dỉ mãn tiếp liền nhị công.
ĐÂY ĐÃ HẾT PHẦN TẤN DƯƠNG HỎA.
--oOo--
Thối âm phù từ Ngọ chí Hợi trong dương sanh âm, dùng đó mà
vận cho đến kỳ thuận nhu chi đức, là chỗ dùng chơn âm mà bảo
dưỡng lấy khí Tiên-Thiên.
Nhưng thối âm-phù cũng phải vận cho đến chỗ lục âm toàn tột,
đến nơi nhu thuận tại Hợi mới thiệt là chơn âm phù, mà phải dùng
Hấp làm Đại-Hào hít vô năm bậc cho chí rún, còn Hô làm Tiểu-Hào
đưa ra chí mũi, mà phải nhớ trụ lưỡi chống lên ổ gà là bắt thượng
Thước-Kiều đặng đưa Hào-âm về Nhâm-mạch, xuống Trung-chiên
đến Giáng-Tắc cung mà sanh dương trở lại.
Thế nên dương Hỏa, Âm-phù dùng trong tứ thời công phu Đại-
tịnh, công lực cũng đều đến chỗ can-nhu tương đương kiên thuận
khiêm toàn, dương trung hữu âm, âm trung hữu dương, âm dương
nhứt khí, đó là dấu có thai hườn trong Thái-Cực-Đồ hay là Huyền-
Quang nhứt khí. Đến giờ dậu công phu cũng y như giờ Ngọ, lấy
Hấp làm Đại-Hào, Hô làm Tiểu-Hào, đến đây tứ âm thuần nên
trang Nữ-Liệt, Đoài Tây-Gia-Nữ hiệp Đông-Xá-Lan tại Huỳnh
phòng kêu là (Long-Hổ hội).
BÀI
Ngọ thối phù chơn không xuất hữu
Âm-khí trong mới tựu dương-thuần
Lóng nghe ký-tế mà ngưng
Soi hồn cho rõ mấy từng Đẩu tinh
Dùng nhứt Bính quân bình phục chuyển
Dĩ Thất-tinh phản biến Càn-Khôn
CHƠN PHÁP LƯU TRUYỀN Cao Đài Tam Kỳ Phổ Độ
34
Tịnh tâm Mộc-dục độ hồn
Độ hà cậy thước vong tồn chớ kinh
Phải bền chí lặng thinh ôn dưỡng
Hai tám đây cân lượng cho đồng
Rồi sang qua phép tam thông
Mẹo khai tam số dưỡng phòng anh nhi.
Đem trạch nữ phùng kỳ nhứt số
Cậy Huỳnh-nương nâng đỡ dầy đôi
Thời này yếu diệu lắm ôi!
Thần minh phát chuyển phục hồi sơ công.
Mẹo chí Mùi gìn lòng chớ nhiễm
Cần phải lo phòng kiểm lúc nguy
Rồi sang trích hạ chi kỳ
Dậu thời Mộc dục chơn di cho rồng
Đem chơn khí vào trong chơn thất
Đóng lục căn Mộc ất lai hườn
Mới là biết đặng linh chơn
Thiên cơ huyền bí nổi cơn đó là
Vậy từ Tý chí Mẹo tấn Hỏa cho đủ tứ Dương, thuộc về lục dương
sơ sanh phân làm hai đoạn đến Tỵ. Từ Ngọ đến Dậu thì luyện thối
phù. Nghĩa là: luyện cho tuyệt âm đoạn rồi Mộc-Dục tại Dậu rồi từ
Dậu chí Hợi cũng hành công Thối-phù, mỗi thời là 24x6 = 144 hào.
Đến Dậu đây cũng gọi là ô-thố giao hòa tại huỳnh phòng hay
Thái-Cực-Đồ, nên kêu là hội. Thử-mễ Bửu-châu treo nơi Thái-
không tịch nhiên bất động, thường tịnh thường ứng, nó vốn là
lương tri lương năng bổn lai diện mục toàn hiện, nên gọi là Linh-
đơn đó. Nhưng ngoài bốn giờ đại tịnh ra thì mấy giờ kia cũng định
thần luôn luôn trong các huyệt ở tứ-Điệp để bảo dưỡng Linh-Đơn,
hoặc hành trụ Tọa-Ngọa, đi đứng nằm ngồi cũng định thần soi luôn
trong các huyệt, có câu:
Nhứt liệp Linh-đơn thâu nhập phúc
Thùy tri Ngã Mạng do Ngã-Bất do Thiên
Nên Thượng Tôn có dạy: Tịnh rồi định lại cho hoàn, là phải định
thần soi vào các huyệt, theo mỗi giờ trong đồ hình Lục-âm Lục-
dương đó, và thành hay không chỗ ngó là rồi, ngó sao chứng đặng
cao ngôi, ngó sao ma quỉ trì lôi sa vòng.
Là thủ cho trúng huyệt khiếu trong châu thân, chớ đừng để cho
Lục-Thất nó dẫn đi là bị nó trì lôi mà sa vòng Lục-đạo luân hồi.
Vậy dầu làm công việc gì đâu đâu cũng đều phải giữ định thần
luôn. Nên có câu: “Thủ-tắc-tồn Xả-tắc-vong”, vì đạo giả bất khả tu
du lu giã, lụ giã phi đạo giã.
Nghĩa là: Nếu giữ gìn kiên cố thì còn, bằng lãng quên thì mất, nên
đạo chẳng khá lìa xa, nếu lìa xa thì không phải đạo vậy. Bằng gắng
chí tu hành cho đúng mức y-khuôn của ơn trên chỉ dạy, lo Tứ-Thời
công phu cho đầy đủ tịnh định cho hoàn toàn, thì ngũ khí sẽ triều
ngươn và Tam-hoa Tụ-đảnh.
Thời Tý thuộc Thủy ở tại Khảm cung, nằm trong tạng thận làm
cho Hắc-khí qui về, là Hắc-đế Triều-ngươn tại Trung-ương Huỳnh-
Thổ.
Thời Mẹo thuộc Mộc ở tại Chấn-cung, nằm trong tạng Can làm
cho thanh khí qui về, là Thanh-Đế Triều-Ngươn.
Thời Ngọ thuộc Hỏa ở tại Ly cung nằm trong tạng Tâm làm cho
Xích-khí qui về, là Xích-đế Triều-ngươn.
Thời Dậu thuộc Kim ở tại Đoài-cung, nằm trong tạng Phế làm cho
Bạch-khí qui về là Bạch-đế Triều-Ngươn, ngươn tức là Trung-ương
Huỳnh-đế vậy.
Trong kinh dịch có 64 quẻ, nhưng về phần Tấn-hỏa, Thối-phù của
Tiên gia, chỗ Âm Dương tịnh động chuyển biến, Tả-chuyển, Hữu-
chuyển, rồi Hữu-chuyển Tả-chuyển cũng chỉ dùng 12 quẻ của 12
giờ trong một châu thiên Thời-nhựt, biến chuyển âm-dương thì đủ
số Hỏa-phù rồi.
CHƠN PHÁP LƯU TRUYỀN Cao Đài Tam Kỳ Phổ Độ
35
1. Như Tấn-dương thì khởi công tại giờ Tý ở Giáng-tắc
cung qua Vĩ-lư, nó thuộc quẻ Phục có một hào dương phái-phái ở
trong cung Khảm, nên phải bắt Hạ-thước-kiều làm liên lạc cho hào
dương đi qua Đốc-mạch mà thẳng đến Giáp-Tích, rồi đến Ngọc-
Chẩm tại Tỵ mới đúng chỗ lục dương càn kiện.
2. Kế qua thối âm phù thì khởi công tại giờ Ngọ ở Nê-hườn
cung xuống quan-ngươn thuộc quẻ Cấu có một hào âm phái phái
trong Nê-hườn, nên bắt Thượng-thước-kiều đưa hào âm qua tiền
nhâm, xuống trung chiên giờ Dậu, tuột đến giáng-cung giờ Hợi,
mới được lục-âm toàn tột, đặng sanh dương trở lại trong giờ Tý, cứ
vậy làm hoài cho đến khi thành tựu qui-nguyên vào Huyền-quan-
khiếu hay (Thái-Cực-Đồ) mà kết đơn hay Thánh thai.
Trong 12 quẻ có 6 quẻ âm và 6 quẻ dương:
6 quẻ dương là: Phục, Lâm, Thái, Tráng, Ương, Thiên.
6 quẻ âm là: Cấu, Độn, Bỉ, Quan, Bát, Địa
Tả dương Quái, dụng Tấn dương mà phục cái khí Tiên-Thiên trở
lại.
Hữu âm Quái, dụng thối âm phù mà nuôi dưỡng cái khí Tiên-
Thiên được bền bỉ.
Tóm lại: vào tu Bá-Nhựt phải cần vạn sự giai vong, bất tri Thiên-
địa thế sự như hà tại giả-đả, là muôn việc đều không còn biết đến
trong mắt tai hay trong tư tưởng nữa.
Giữ vậy lâu ngày sẽ được Thiên-khí Thượng thăng còn tạp-Hỏa sẽ
hạ giáng mà qui hườn về Chánh-pháp.
Đó là Đạo-pháp siêu quần của Tiên gia, các pháp đã minh chỉ rõ
ràng, nhưng: Phải giữ gìn trường chay giới sát, cho cảm động lòng
Trời rồi sẽ có Minh-Sư Thượng-Đế chỉ truyền thì nhập tịnh an thần
muôn điều không mất một, còn sự ở đời cũng phải cho có phước
huệ song toàn, mới có âm chất được tương phò mà cảm đến Hư-
không Thượng-giới, rồi Thần-Tiên sẽ chỉ dạy cách làm tiên, chẳng
có chi là khó cả.
BÀI:
Kinh Chơn pháp Lưu-truyền hậu thế
Bực Thượng-Thừa Chơn-Pháp ngộ tri
Kỉnh thành mộ ái hành-y
Trăm phần trăm đắc Huyền-vi nhiệm mầu
Đức Mẹ Diêu-Trì có dạy rằng:
Tập Thượng-Thừa ít dòng nhiều chữ
Không phải ai muốn giữ được đâu
Nhiệm-mầu lý đạo cao-sâu
Phát lời Đại-nguyện mới cầu Thiên-ngôn.
Nghĩa là: Pháp tự hành chỉ có bấy nhiêu đó, nếu làm xong công đắc
thành quả-vị được, lựa là phải học chi cho nhiều mà làm không rồi,
lại bỏ dở thì cũng như không học có ích gì đâu?
Nếu quyết chí tu hành phải lập lời Đại-Nguyện tu hành Thế-Thiên
Hành-Hóa, đại-Phật tuyên ngôn phổ-độ quần sanh mà đền ơn Tứ-
đại.
Trời Phật sẽ chứng minh mà ban bố điển lành xuống cho, ắt sẽ
được minh-tâm kiến tánh đạt huệ thiên-minh, mà tỏ ngộ Thiên ngôn
Thánh-ngữ.
Đức Đạt-Ma nói rằng: (Thiên-kinh vạn quyển tổng giai vô nhứt
tự) Nghĩa là: Ngàn kinh muôn sách, cộng lại không có một chữ, tức
là kinh Vô-tự vậy, chỉ dụng chỗ tâm không mà đạt lý đạo, là trở về
khí Vô-cực thì thành.
Nhưng: Tâm không đây không phải là vô tri vô giác, ví nó là
ngoan không, nên không có hột giống Như-Lai cũng không thành
được giống gì!
Chớ kỳ thiệt tâm không, tức là tâm toàn giác, không mê nhiễm,
không chấp cứ việc phàm tình thế sự, coi đời như phù vân mây nổi,
thoạt có thoạt không còn mất không chừng, nên cần phải phủi sạch
cái phàm tâm ấy, thì Thiên-tâm sẽ lộ ra, nên kêu là phàm tâm tử,
đạo tâm sanh.
Vậy khi vào tu đệ nhứt thoàn: Phải gắng chí làm sao phủi sạch hết
hồng trần thế sự, đốn tuyệt vạn duyên do tâm mục tương-y, hấp hô
hữu-độ, bất vọng ngoại trần, được vậy thì trong cơ thể sẽ có động
CHƠN PHÁP LƯU TRUYỀN Cao Đài Tam Kỳ Phổ Độ
36
mà xuất hiện Huyền-linh điển chiếu. Mà sự động đây tức là động
kiến Thiên-tâm, hoán trược hoàn thanh thâu chơn âm và diệt giả
dương mà hóa thành chơn dương, rồi giả âm nhờ Linh-điển chuyển
vận hóa thành chơn âm nơi tâm-vị mới vận chuyển cho lục-âm lục-
dương được thuần hoàn điều hòa nhau mà nên Chơn-đạo.
Mồ-Kỷ nhị Thổ kết thành minh châu mới trọn câu tịnh thoàn.
Khi mới vào tịnh thất ngồi tịnh định thân hình cho đoan trang,
nghiêm thân chi tướng, hình như cây khô không diêu không động,
ta người như một, muôn việc đều không tưởng nhớ chi-chi hết ráo,
được vậy mới là phương pháp vô-thượng của Tiên-gia bí-truyền.
Khi ngồi xong trước hết hít từ mũi chí rún và mật niệm: Nam-Mô-
Cao, rồi thở ra từ rún chí mũi niệm: Đài-Tiên-Ông ba hơi như vậy
rồi bắt đầu, hễ thời tấn dương thì một hít năm hà, đủ 36 lần, còn
thối âm thì năm hít một hà đủ 24 lần, tấn dương nhớ bắt Hạ-thước-
kiều, thối âm nhớ bắt Thượng-thước-kiều ở đằng trước có nói.
Các công việc xong rồi thì cứ làm thinh mà tịnh định, đừng tưởng
nhớ chi-chi nữa hết cũng không để ý vào đâu đâu, để tự nhiên như-
nhiên mà tịnh, hơi thở thì riêu-riêu nhẹ-nhẹ, không hô-hấp mạnh
như thường lệ, để trong tâm yên tịnh mắt ngó tai nghe trở vào trong
mà tự chuyển pháp-luân, tâm-tức tức-tâm, tức-tự tâm sanh, tâm-tức
tự sanh mỗi ngày theo 4 thời Tý, Ngọ, Mẹo, Dậu cứ tâm-tức tương
y cửu thành thắng định mà phanh luyện, cứ y vậy tịnh hành chẳng
nên vọng tưởng việc chi bên ngoài mà có hại cho việc công phu.
Được vậy lâu ngày tâm phàm phải chết rồi đạo tâm phục lại, vì
dục vọng đã bặt dứt thì sẽ hiện chơn tâm ra, rồi nhờ có chơn khí trở
về bổ nhuận, được lâu ngày mặt mày hình thể nở nang vui vẻ trong
lòng khoan-khoái lạ thường, kêu là lạc tại Kỳ-trung bởi chẳng còn
tư tưởng xấu-xa xâm nhiễm nữa.
Kế bước qua Đệ-nhị-Thoàn: Cứ tịnh tọa luôn luôn cho đúng ba
tháng dư ngày thì bổn chơn ngươn sẽ định an, rồi có Linh-điển hội
trợ điều hòa khí huyết thì tạp hỏa tán tiêu cho đến khi dâm thân
dâm tâm không còn bộc khởi nữa, thì Chánh-pháp nhãn tạng đã nên
rồi, ví có Nhị-âm tấn thì Giả-hỏa phải lui.
Điều cần yếu: Là phải bế môn tịnh khẩu, mà luyện lòng dứt tưởng
thì trăm điều y như ý nguyện, cứ một lòng Đại-tịnh Hư-vô thì hoàn
toàn nội cơ thoàn-định. Theo lối nầy Chơn-âm Chơn-dương nhờ
ngoại tịnh mà nội phát động nên hai khí đã về hòa hiệp nhau tại
Thái-Cực-Đồ, hoán trược hườn thanh phát sanh ra điển lực hóa khí
mà phụ trợ Thần-quang, rồi Thần-quang đặng mãnh lực sáng tỏ và
sung túc, mà sung đượm là nhờ được nhiều ngày trọn Tịnh Hư-vô.
Tóm lại: Đi, đứng, nằm ngồi đều phải định thần luôn luôn được
lâu ngày thì nội cơ sanh điển dồi dào, xung lên mà diệt trừ hỏa tánh,
hóa chơn thăng thượng Nê-Hườn-cung, tụ nơi đó mà sanh Minh-trí
(Là cốt Minh-Châu) hễ đặng có Minh-trí rồi thì tánh tình cao
thượng tư-tưởng siêu nhiên mà diệt trừ hạ trí.
Đệ Tam-Thoàn: Nhờ phương thường tịnh thường định mà được
thần khí tương thông điều-hòa dinh vệ, rồi Nhâm-Đốc lưỡng mạch
giao phản hậu thông-tiền, thì thần mới qui vào trung-ương (Hạ-
điền) Thái-Cực đồ là nơi Mồ-Kỷ-Thổ.
Và nhờ tịnh định mà lưỡng giả tăng tiến, chỉ có lưỡng khí cần âm-
dương tương hòa rồi thần khí tương liên mới có sanh lực, mà nhờ
có sanh lực mới đủ quyền diệt trừ làm cho:
- Giả-hỏa biến ra Chơn-hỏa.
- Giả-thủy biến thành Chơn-thủy.
Chơn Thủy-Hỏa đồng cân mới chiêu dinh thống vệ, thần khí tương
liên thấu nhập Trung-ương: Là (chiết Khảm điền Ly đó). Nhờ được
chiết Khảm điền Ly lâu ngày mà thần khí tựu thành linh-điển Thần-
quang, bèn tựu hiệp ở trong Thái-Cực-đồ hầu chờ ngày thăng
thượng Nê-Hườn-cung.
Khi thần khí ở trong Thái-Cực-Đồ có hỏa điển lực rồi, bèn rút giả
hỏa ở trong tâm vị xuống biến Chơn-hỏa đem vào khoảng giữa
thận. Khi hai khí Hỏa-Thủy ở tại trung-gian lưỡng thận rồi, thì
Linh-điển bèn tống Chơn-thủy lên Tâm-vị kéo Chơn-hỏa vào nội
thận, thì Thủy-hỏa điều hòa mà có linh Chơn điển ấy là Thủy-hỏa
Ký-tế vậy.
CHƠN PHÁP LƯU TRUYỀN Cao Đài Tam Kỳ Phổ Độ
37
Từ đây có Linh-điển rất dồi dào, mà thể chế được giả thần cư-ngu.
Ngươn-thần hườn cư mới an tịnh được.
Ấy nói: Nhà cũ không có tâm nhờ có tịnh-định lâu ngày mới qui vị
được, vì tánh nóng của tạp Hỏa tháo thứ chủ sự hư-hại cho ta, nó
làm chủ sự bấy lâu nay rối loạn nội tâm nên hết biết sanh tử là gì,
cứ lấy khổ làm vui mà toại chí (thiệt là: Dĩ khổ trung di lạc).
Nay nhờ tịnh định nên tán tiêu mà hết làm hại ta được nữa, thì bây
giờ Nhơn-tâm đã biến thành Thiên-tâm rồi, là ta đã có Linh-quang
điển ở tại bên trong đó. Rồi Linh-điển lại vận-dụng làm nội công
mà điều-hòa lưỡng chơn cho thành Chơn-điển nữa.
Điển hóa khí, khí hóa điển là nhờ thường tịnh và rút Thần-công
đem chơn khí thăng thượng Huỳnh-đình mà bổ dưỡng cho Ngươn-
Thần. Tuy là khí khi vận động chuyển luân ở ngoài mà khi vào
trong Thái-Cực-đồ lại hóa ra Chơn-thần mới thiệt là kỳ tài.
Qua Đệ-Tứ-Thoàn: Đến đây đã được 75 ngày là 2 tháng rưỡi thì
thấy trong mình Thần-khí sung-dinh điều-hòa kinh huyệt hô-hấp độ
lượng đều đều cho thân thể được tươi nhuận cả con người. Rồi
lưỡng khí đều vào trong Huyền-Quang khiếu nên Linh-điển thường
hoạt động cho Thần-khí chuyển luân đặng giao thông được tam
quan Cửu-khiếu mà lấy sanh lực của thiên nhiên đem về bồi bổ
Chơn-ngươn làm cho con người trở lại đồng nhan tươi đẹp và nay
đặng Thủy-thăng Huỳnh-đình cung và Hỏa giáng xuống Tắc-cung y
như hồi 16 tuổi Xuân xanh đó là phép (Chiết-Khảm Điền-Ly rồi).
Mà Chiết-Khảm Điền-Ly là đem lửa ở cung Ly (tâm) xuống ráp
vô cung Khảm (Thận Thủy). Rồi lấy nước ở Thận Thủy đun lên cho
nó trở về nhà cũ là cung Ly (Tâm) đó vậy.
Ấy là Thủy-Hỏa đồng cung, nhờ lấy Điển-lực của khí Hư-vô
chuyển vận cho nó điều hòa. Khi nó điều hòa được rồi, nhờ có
Linh-điển trong châu thân chuyển nó manh động theo lưỡng mạch
mà vào Huyền-quang khiếu hay Thái-Cực-Đồ.
Khi Linh-điển ở tại Huyền-quang khiếu thì nó qui tựu Tinh-huyết
mà hóa ra Ngươn-thần, rồi Ngươn-thần được đầy đủ, lại có sanh khí
bắt từ dưới rún trào lên họng (Huyền-Ưng) hơi ngọt ngọt
Thế ấy nên chậm chậm mà nuốt đem vào Thái-Cực-Đồ, nuốt lâu
càng hay, nếu mạnh mà mau thì nó chun vào Tỳ-lư Khí-hải lại càng
vô ích, nó sẽ hóa ra trược tinh, rồi sanh vọng tình mà xuất ngoại là
sa đọa Địa-ngục vậy.
Còn Ngươn-Thần nhờ tịnh an mà ngày càng sanh thêm lực,
chuyển vận cho Ngươn-Thần thêm điển lực dồi dào, rồi Linh-điển
bèn nhán sáng ra là có Linh-quang hiện vậy.
Rồi từ dưới Hạ-điền trong Huyền-quang-khiếu mà thông lên tới
ấn-đường Ngươn-môn, mới xuất hiện xuất ra ngoài, sẽ có Huỳnh-
quang nhị hiện đến Tam-hiện, vì đã gần đủ 300 Châu-thiên nên mới
có hiện xuất như vậy.
Đến đây là cảnh phải thôi lửa, kêu chỉ Hỏa-Hầu là đây, cứ giữ đại
tịnh Hư-vô mà chờ cho Huỳnh-quang tái hiện sẽ vận qua phép
Tiểu-châu-thiên.
Tại sao biết có đủ 300 Châu-thiên? Hễ có đủ 300 Châu-thiên y
như Nhựt-Nguyệt lưng hành theo vòng Trời-Đất, thì lại có phát ra 3
cảnh:
1. Tại Rún chung quanh nóng hổi dường như có bánh xe
lửa lăn qua kêu là (Tiễn-nhiệt-than)
2. Sau ót như có gió thổi ù ù mát mát và dường như (Có
tiếng chim cu kêu)
3. Tại giữa chân mày ấn-đường hiện ra điển-quang nhán
sáng như chớp, đó là dấu đã kết điển thai (Thai-tiên) là
nhờ Tịnh Nhứt-thoàn, Nhị-thoàn, Tam-thoàn từ 75 ngày
đến 100 ngày Bá-Nhựt Trúc-Cơ.
Nếu được có Huỳnh-quang tái hiện thì phải mau Tịnh-thủ Hư-vô
để tâm không là tốt. Chờ khi nào Huỳnh-quang xuất hiện rõ ràng sẽ
vận hành theo Tiểu-châu-thiên, bắt đầu từ 100 ngày tới 10 tháng
ôn-dưỡng Thánh thai tức là Ôn-dưỡng hỏa-phù vậy.
Vậy người tu Đại-Đạo phải cố gắng mình cho trong sạch, tánh ý
cho ôn hòa không buồn thương giận ghét, thì cõi lòng mới thanh
tịnh được.
CHƠN PHÁP LƯU TRUYỀN Cao Đài Tam Kỳ Phổ Độ
38
BÀI
Chước luyện kỷ đầu công trước nhứt
Tập hườn vô-cực vô minh
Là điều thắng định trường sinh
Hằng ngày kiên cố dương tinh lưu tồn
Mỗi triêu-tịch Thần-hồn trứ ý
Thời công phu tâm chí cho thanh
Giờ Dậu là giờ Âm sanh
Giờ Mẹo dương khởi vận hành cố tinh
Hợi giao Tý dương minh tấn hỏa
Ngọ đến Mùi thối hỏa âm phù
Tấn-thối cho biết Can-nhu
Can thì hữu tướng hóa nhu trở kiều
Tu phải thuận Thiên điều chi đức
Cần ăn chay lợi vật ái nhơn
Lòng hằng chí chánh chí chơn
Dầu lâm khổ hạnh chớ sờn chớ nao.
Tu chớ có cầu cao vọng ngữ
Tu cũng đừng gian lự tà dâm
Đêm ngày luyện tánh tu tâm
Lục-căn giái định Lục-trần ắt siêu
Giờ Tịnh-định như miêu bộ-thủ
Ngồi đoan trang thân thể chớ lay
Lưng ngồi cho thẳng cho ngay
Mắt xem đừng nháy ngó ngay đứng tròng
Êm êm phục vào trong nội chiếu
Tự nhiên thần yểu yểu phản quang
Ấy là Chánh-pháp nhãn tàng
Đừng bôn trứ ý hồi quang mắt lờ
Thêm động não thêm khờ hoại đạo
Dầu Hoa-Đà Tư-mạo khó chuyên
Muốn cầu chứng quả Kim-Tiên
Yếu cần Tuất Hợi tham thiền định thân
Sẽ thấy rõ Bửu-trân rất quí
Dễ đâu bày huyền-bí Thiên-cơ
Tu hành chớ khá u-ơ
Chuyên trì nhứt niệm có giờ ắt nên.
Chót lưỡi gác kề trên răng ngọc
Giữ cho thường hứng bộc cam-lồ
Nước hơi dùng ý đưa vô
Lưu vào giái địa chế hồ Quí-ly
Hễ thời chí thần tri khá nhớ
Kẻ phàm phu ú ớ nan thành
Ấy là dương động dược sanh
Thoạt nhiên phát hiện vận-hành Châu-Thiên
Ba hiệp vận Châu-thiên mới đúng
Hỏa khí về dưới rún Hạ-điền
Đây là mới phải Thanh nguyên
Trược nguyên khỏi lộn thanh truyền chuyển lên
Lại đến lúc bèn quên hơi thở
Đừng sợ mà lỡ vỡ công phu
Khí hồi mới tụ Hỏa-Châu
Kim-đơn vừa kết Đạo-mầu tự khai
Chừng nghe rõ bên tai như nổ
Ngồi định thần mắt đổ kim-quang
CHƠN PHÁP LƯU TRUYỀN Cao Đài Tam Kỳ Phổ Độ
39
Hạ điền như lửa phắt ngang
Sau lưng lưỡng thận nóng càng nước sôi
Sau ót gió từng hồi mát-mát
Nơi Ấn-đường mỏ ác như soi
Các điều ấn chứng hẳn hòi
Từ đây mới ắt có mòi trường sinh
Ấn-đường xảy dương minh phát hiện
Hiện hào-quang như điển xẹt ra
Hiện vừa lối bốn cùng ba
Biết là hỏa túc thì ta đã huề
Lần lần tựu Tam-Huê hiệp đảnh
Ngũ-khí truyền chót đảnh Côn-lôn
Muốn cho kiếp số trường tồn
Tịnh thân mười tháng thần hồn dưỡng an
Trong giác mê Ông Lê-Công-Cẩn chỉ rõ sự ấn chứng của lớp Bá-
Nhựt Trúc-Cơ. Đây hết phần Bá-Nhựt.
Từ đây cứ tịnh thủ Hư-vô, thường thường hồi-quang nội-chiếu
trong vòng 10 tháng có Ấn-chứng Thần-quang nhán sáng thì bổ thể
chơn ngươn được cường tráng và tươi nhuần sẽ đếm cảnh Tam-niên
cho có đặng Tam-thông, rồi cứ Tịnh-thủ Hư-vô và hồi-quang nội-
chiếu thường thường cho lục-trần êm bặt thì Lục-căn còn đâu mà
rối loạn chơn tánh nữa.
Cứ coi chừng hễ có động-cơ phát hiện thì rút thần công thâu về mà
nuôi Ngươn-thần, hễ Thần mạnh thì được tiêu-diêu sảng khoái.
Đệ-Ngũ-Thoàn: Đây đã qua một năm đến chín năm nếu có hiện
tượng dương điển động ra thì cứ rút Thần công và Đại-tịnh Hư-vô
hoài hoài là tốt. Chờ khi đặng siêu phàm hơn người thường và tròn
vẹn Ngũ-thông là đến cảnh xuất nhập Thần-quang ra vào trong bổn
thể xác phàm đặng dễ dàng đó là đắc thành Tiên vị, mà chứng làm
Đại-Giác Kim-Tiên thần thông quảng đại.
BÀI
Đây đến lớp hóa quang phục thực
Lại gia thêm Thất-nhựt thể-dương
Kêu là Đại-dược Kỳ-xương
Luyện thần cường tráng Trung-ương hóa hình
Dưỡng thai tại Huỳnh-đình Thập-ngoạt
Nuôi anh-nhi thông hoạt Tiên-Thiên
Bực nầy chứng bực Thần-Tiên
Ngũ-thông đã biết hậu tiền kiếp lai
Đã nghe thấy họa tai nhơn vật
Việc trên Trời dưới đất đều thông
Phải cần định tánh hườn không
Chuyền trì bồi dưỡng vun-trồng Chơn-ngươn
Tìm Tịnh xứ thâm sơn thắng cảnh
Hầu hóa-quang Thượng-đảnh xuất Thần
Đến đây nguy hiểm muôn phần
Ba năm Đại-định ân cần xuất thâu
Xuất Xá-lợi vô câu ắt biệt
Không giữ-gìn Yêu-nghiệt dẫn đi
Dời thần lự hiểm ngừa nguy
Đạo lành thố lộ Tiên-tri cho tường
Đắc quả vị Đế-vương khó sánh
Bậc Tiên-Thiên nhiếp chánh Kiền-khôn
Chín năm thêm định trường tồn
Không sanh không diệt thọ đồng Âm-Dương
CHƠN PHÁP LƯU TRUYỀN Cao Đài Tam Kỳ Phổ Độ
40
Ngồi một chỗ bốn phương khí thoại
Cả Tiên-Thiên Thế-Giới đều thông
Mạng đồng sánh với hư-không
Ngao du ba cõi thông đồng Thiêng-Liêng
Ngồi Đại-định thâm niên công đức
Mới được về Tây-Vức Liên-Đài
Hầu kề Đức-Phật Như-Lai
Chứng làm Bồ-Tát chuốt hài bước lên
Học đạo gắng cho nên mới đúng
Khó cũng đừng chán ngán mà thôi
Tới chẳng tới lui chẳng lui
Nửa chừng Quỉ kéo Ma lôi nan đào
Tu lập chí cam đao đoạn tuyệt
Lưới hồng trần giải quyết mới xong
Vợ-chồng danh lợi còn mong
Mẹ Cha còn tưởng thì lòng chẳng thanh
Tu còn ở canh-ranh với thế
Tu đừng toan mưu kế thua hơn
Hằng ngày tổn đức hao nhơn
Thần hao khí tán lắm cơn bạo tàn
Tầm Tịnh xứ thâm sang giác hải
Giả ngư-tiều tự tại tu thân
Phải thì làm nghĩa thi-ân
Không thì tự bảo lấy thân châu toàn
Muốn tu hiệp một đoàn chơn chánh
Mặc dầu ai Hiển-Thánh Thành-Tiên
Tiên là cội gốc Thiêng-Liêng
Tiên cao là Phật về miền Mật-đa
Y kinh sách Thích-Ca trung xuất
Tiên khai-Trời dựng đất chuyển luân
Khai Trời hiện có Hồng-Quân
Thành đạo dành sẵn ngôi quần giáo Tiên
Thái-Thượng Ngươn-Thỉ Thông-Thiên-Chủ
Là Tam-Thanh Giáo-Chủ Tiên-Gia
Hồng-Quân Tiên biến hà-sa
Như-Lai Phật-Giáo Thích-Ca Đạo-Tràng
Tạo riêng cảnh Niết-Bàn Tây-Vức
Là cao ngôi cao đức cao niên
Phật là Đại-Giác Kim-Tiên
Khác nào hai giống chớ riêng rộn ràng
Thương những kẻ nói ngang quá nghiệt
Học đạo mà chẳng biết giống-nòi
Sách kinh Tam-Giáo không coi
Đạo mình mình học trở xoi đạo mình
Đạo Tiên-Phật u-minh huyền-bí
Nào hỡi ai Tu-Sĩ chớ lầm
Thiệt là hai chữ thậm-thâm
Sâu xa nghĩa lý khó tầm Thiên-Cơ
Lời ngạn ngữ thô sơ thố lộ
Nét mực tào đau gỗ gỗ nên
Cầu cho Quốc-độ nhiều tên
Soi gương trí-huệ bước lên Thượng thừa.
Tóm lại vào tu Bá-Nhựt là đánh dẹp giặc lòng trừ yên ngủ ma
(Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ) vì năm con ma nầy nó làm hại năm
tạng của con người mà lại còn thêm quỉ Lục-dục Thất-tình, tam-tâm
CHƠN PHÁP LƯU TRUYỀN Cao Đài Tam Kỳ Phổ Độ
41
và tứ tướng các mối giặc nổi lên quấy phá, nếu dẹp trừ xong hết, thì
khí Hậu-Thiên phản hồi về khí Tiên-Thiên tức là bớt Hào đổi
Tượng làm cho Lạc-Thơ trở lại Hà-Đồ mà làm bậc kỳ nhân trong
thiên hạ.
Vậy Hào-quái thay đổi như dưới đây:
1. Là đem Hào-dương ở giữ Quái-Khảm trở về giữa Hào-âm của
Quái-Ly thì biến Quái-Ly thành Quái-Càn.
2. Đem Hào-âm giữa Quái-Ly trở về giữa Hào-dương của Quái-
Khảm thì biến Quái-Khảm thành Quái-Khôn.
3. Đem Hào-âm trên của Quái-Chấn trở về Hào-dương của Quái-
Đoài thì biến Quái-Đoài thành Quái-Khảm.
4. Đem Hào-dương dưới của Quái-Đoài trở về Hào-âm trên của
Quái-Chấn thì biến Quái-Chấn thành Quái-Ly.
5. Đem hai Hào-dương trên của Quái-Càn trở về hai Hào-âm trên
của Quái-Khôn thì biến Quái-Khôn thành Quái-Tốn.
6. Đem hai Hào-âm trên của Quái-Khôn trở về hai Hào-dương
trên của Quái-Càn thì biến Quái-Càn thành Quái-Chấn.
7. Đem Hào-âm trên và Hào-dương dưới của Quái-Chấn trở về
Hào-dương trên và Hào-âm dưới của Quái-Tốn thì biến Quái-
Chấn trở thành Quái-Cấn (Xem qua hình đồ thì biết).
Tức nhiên trở thành Bát-Quát Tiên-Thiên tỏ rõ: Càn-Khôn, Ly-
Khảm, Chấn-Tốn, Cấn-Đoài. Đó là thành Tiên Phật vậy.
LỚP SIÊU-HÌNH THƯỢNG-HỌC
CHƠN-PHÁP LƯU-TRUYỀN
BÁ-NHỨT CÔNG-LINH MẶC TRIỀU THƯỢNG-ĐẾ
PHẢN BỔN HƯỜN-NGUYÊN CAO-ĐÀI TÂN-PHÁP
--oOo- -
THI
Ban hành Chơn-Pháp ký lưu đời
Phổ-độ quần sanh chỉ tận nơi
Minh biện Thiên-cơ phân tỏ rõ
Chơn-truyền tu luyện hết đầy vơi
Đạo-Đời hai lẽ nương nhau bước
Thiên võng thoát ra mới thảnh thơi
Giác tỉnh thấy đời đâu mấy lát
Tin lành bố rải khắp cùng nơi
HỰU
Xả thân hành Đạo phải quên mình
Đại-Nguyện tu hành độ chúng sinh
Bá-Nhựt công linh lo tịnh tọa
Tam-Niên đại-định xuất anh-linh
Cổi rồi bảy thể muôn vàn nhẹ
Tự tại chín năm chiếu Ngọc-kinh
Đắc quả an nhàn nơi Cực-Lạc
Công thành Viên-mãn chốn Thiên-đình
HỰU
Người tu ở kiệm với ăn cần
Bớt sự tiêu xài khỏi cực thân
Xa-xí chi nhiều thêm khổ xác
Tương rau no bụng khỏe tinh-thần
Xác thân giả tạm không bền bỉ
Cõi Thánh an vui sớm liệu cần
Thoảng mãn ngày qua cùng tháng lại
Trì tâm luyện tánh lánh Hồng-Trần
--oOo--
BÁT-QUÁI NHỊ-THIÊN
TIÊN-HẬU GIAO-HỒI
1) Càn khôn tương thủ
2) Cấn chấn tương tâm
CHƠN PHÁP LƯU TRUYỀN Cao Đài Tam Kỳ Phổ Độ
42
CHUNG
--oOo--
DANH SÁCH QUÍ-VỊ HẢO-TÂM ỦNG HỘ TÀI VẬT
---****---
1. A. Liêm-Trinh-Tinh Gò-Vấp :1 hộp
giấy sáp
2. Đại Úy Lâm-Văn-Tường, Thánh Danh: Chơn-Đạt-Tâm 1
hộp giấy sáp.
3. Thanh-Huệ-Trí Đà-Lạt : 5.000$
4. Hồng-Thiện-Ngộ Hàng-Sanh : 1.000
5. Huỳnh-Hương-Lan Sài-Gòn : 2.000
6. Ngọc-Huỳnh-Thu Chợ Kinh (Long Hữu): 2.000
7. Thiên-Huệ-Quang Tam-Thanh : 2.000
8. Địa-Minh-Tinh Mỹ-An-Phú : 1.000
9. Thiện-Thành-Tín Khánh Hậu : 500
10. Thiên-Phước-Tinh Lợi-Bình-Nhơn : 500
11. Chơn-Kiến-Quang An-Lục-Long : 500
12. Ngọc-Đông-Lan Dương-Xuân-Hội : 500
13. Thiên-Đắc-Tinh Thủ-Tự Tam-Thanh : 200
155.000$
Mua giấy sáp và mực xóa hết thảy: 2.700
10.000 kỳ trước Huệ Hương in hết còn lại: 2.800$
--oOo—
LỤC ÂM LỤC DƯƠNG
TAM QUAN CỬU KHIẾU ĐỒ
Hình Đồ Bổ Túc của Đạo Hữu Hồ Đạo Hạnh, 07/01/2016