Upload
leemizh
View
149
Download
1
Embed Size (px)
Citation preview
MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU 1
Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ CHÍNH
SÁCH BỒI THƯỜNG, HỖ TRỢ VÀ TÁI ĐỊNH CƯ ĐỐI VỚI
NGƯỜI DÂN BỊ THU HỒI ĐẤT Ở VIỆT NAM
6
1.1. Thu hồi đất và người dân bị thu hồi đất 6
1.2. Chính sách bồi thường, hỗ trợ và tái định cư đối với người dân bị thu hồi
đất ở việt nam
13
1.3 Kinh nghiệm về bồi thường, hỗ trợ và tái định cư đối với người dân bị thu
hồi đất
35
Ch¬ng 2: THỰC TRẠNG CHÍNH SÁCH BỒI THƯỜNG, HỖ TRỢ VÀ
TÁI ĐỊNH CƯ ĐỐI VỚI NGƯỜI DÂN BỊ THU HỒI ĐẤT
TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH QUẢNG NINH
45
2.1. Điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội của tỉnh Quảng Ninh ảnh hưởng đến
chính sách bồi thường, hỗ trợ, tái định cư đối với người dân bị thu hồi đất
đai
45
2.2. Thực trạng triển khai chính sách bồi thường, hỗ trợ và tái định cư đối với
người dân bị thu hồi đất theo Luật Đất đai 2003 trên địa bàn tỉnh Quảng
Ninh
48
2.3. Đánh giá chính sách bồi thường, hỗ trợ và tái định cư đối với người dân bị
thu hồi đất trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh thời gian qua
63
Chương 3: QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN CHÍNH SÁCH
BỒI THƯỜNG, HỖ TRỢ VÀ TÁI ĐỊNH CƯ ĐỐI VỚI NGƯỜI
DÂN BỊ THU HỒI ĐẤT TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH QUẢNG NINH
86
3.1. Mục tiêu, quan điểm hoàn thiện chính sách bồi thường, hỗ trợ và tái định
cư dối với người dân bị thu hồi đất trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh thời gian
tới
86
3.2. Giải pháp hoàn thiện chính sách bồi thường, hỗ trợ, tái định cư đối với 89
1
người dân bị thu hồi đất ở tỉnh Quảng Ninh
KẾT LUẬN 116
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 117
2
DANH MỤC CÁC BẢNG
Số hiệu
bảng
Tên bảng Trang
2.1 Tổng hợp kết quả thực hiện công tác bồi thường, hỗ trợ của các dự
án trong 5 năm (từ năm 2005 - 2009)
65
2.2 Tổng hợp tình hình phân bổ các dự án trên địa bàn toàn tỉnh thời
gian 5 năm từ (2005 - 2009)
67
2.3 Tổng hợp số dự án theo nguồn vốn đầu tư 68
DANH MỤC CÁC HÌNH
Số hiệu
hình
Tên hình Trang
2.1 Số lượt đơn thư, khiếu nại, tố cáo gửi đến Ủy ban nhân dân tỉnh
Quảng Ninh
83
2.2 Các dạng tranh chấp, khiếu nại, tố cáo về đất đai 84
2.3 Khiếu nại hành chính đối với bồi thường, tái định cư khi nhà nước
thu hồi đất
85
3
MỞ ĐẦU
4
1. Tính cấp thiết của đề tài
Đất đai có tầm quan trọng to lớn đối với người dân cả về phương diện
nơi ở lẫn tư liệu sản xuất. Ở nước ta, Hiến pháp quy định đất đai thuộc sở hữu
toàn dân và ủy quyền cho Nhà nước quản lý, Nhà nước giao cho dân cư sử
dụng. Từ khi chính thức giao đất cho người dân, Nhà nước ta đã tuyên bố bảo
hộ quyền sử dụng chính đáng đất của dân cư. Tuy nhiên, trong quá trình phát
triển kinh tế nói chung, công nghiệp hóa, hiện đại hóa nói riêng, trên lãnh thổ
nước ta đã, đang và sẽ có hàng ngàn dự án đầu tư xây dựng chiếm đất ở và đất
sản xuất của dân cư. Sự xuất hiện của các công trình này là tất yếu bởi chúng
cần thiết cho tăng trưởng kinh tế và cải thiện điều kiện chung, nhưng người
dân bị thu hồi đất để xây dựng công trình thì bị thiệt thòi và cuộc sống bị
xáo trộn.
Để bù đắp cho họ một phần thiệt thòi đó, trong những năm gần đây
Nhà nước ta đã ban hành chính sách bồi thường, hỗ trợ và tái định cư dành
cho các hộ dân bị thu hồi đất. Chính sách này đã giúp cho người dân bị thu
hồi đất bước đầu ổn định trở lại cuộc sống. Tuy nhiên, một bộ phận không
nhỏ trong số các hộ dân bị thu hồi đất còn bức xúc do tiền bồi thường không
tương xứng với giá thị trường, chính sách bồi thường chưa hợp lý, việc tái
định cư và hỗ trợ người dân đến nơi ở mới chưa thật sự hiệu quả...Thực tế đó
đòi hỏi Nhà nước ta phải tiếp tục đổi mới chính sách bồi thường, hỗ trợ và tái
định đối với người dân bị thu hồi đất.
Nằm trong bối cảnh chung đó, tỉnh Quảng Ninh cũng gặp nhiều khó
khăn khi xây dựng và triển khai chính sách bồi thường, hỗ trợ và tái định cư
trên địa bàn. Tuy công tác bồi thường, hỗ trợ và tái định cư trong những năm
gần đây ở tỉnh Quảng Ninh đã được cải thiện hơn trước rất nhiều, nhưng cả
trong nội dung chính sách lẫn trong tổ chức thực hiện vẫn còn nhiều vướng
5
mắc, vừa làm chậm tiến độ giải phóng mặt bằng, chậm tiến độ thực hiện dự
án đầu tư, vừa ảnh hưởng đến hiệu quả sử dụng vốn, hiệu quả của nền kinh tế.
Vì thế, việc tìm kiếm cơ sở lý luận và giải pháp để nâng cao hiệu quả, hiệu
lực và tác động xã hội tích cực của chính sách bồi thường, hỗ trợ và tái định
cư là nhiệm vụ cấp thiết của chính quyền tỉnh.
Với mong muốn đóng góp một phần nhỏ bé vào công cuộc tìm tòi đó
học viên lựa chọn đề tài "Chính sách bồi thường, hỗ trợ và tái định cư đối
với người dân bị thu hồi đất trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh" làm đối tượng
nghiên cứu trong luận văn tốt nghiệp.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Trước đây đã có một số công trình nghiên cứu chính sách đền bù thiệt
hại khi Nhà nước thu hồi đất (nay là chính sách bồi thường, hỗ trợ và tái định
cư khi Nhà nước thu hồi đất) theo Nghị định số 22/1998/NĐ-CP ngày
24/11/1998 của Chính phủ "về đền bù thiệt hại khi Nhà nước thu hồi đất phục
vụ cho lợi ích quốc phòng, an ninh, lợi ích quốc gia, lợi ích công cộng" theo
tinh thần Luật Đất đai năm 1993, Luật Đất đai sửa đổi, bổ sung năm 1998.
Trong thời gian gần đây, cũng có một số tác giả nghiên cứu về các vấn
đề khác nhưng có liên quan đến công tác bồi thường, hỗ trợ và tái định cư đối
với người dân bị thu hồi đất theo Luật Đất đai năm 2003 và các văn bản
hướng dẫn thi hành Luật Đất đai năm 2003 như:
Luận văn thạc sĩ: "Vận dụng Lý luận của C.Mác về giá cả ruộng đất
vào định giá đất ở Việt Nam", của Phan Văn Ninh, Học viện Chính trị Quốc
gia Hồ Chí Minh, năm 2004;
Luận văn thạc sĩ: "Nguồn lực tài chính từ đất đai trong nền kinh tế
nước ta hiện nay" của Trần Đức Thắng, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí
Minh, năm 2005;
6
Luận văn: "Quản lý nhà nước đối với thị trường bất động sản trên địa
bàn thành phố Hồ chí Minh", của Trần Văn Điển, Học viện Chính trị Quốc
gia Hồ Chí Minh, năm 2004;
Luận văn: "Giải pháp tài chính nhằm thúc đẩy sự phát triển của thị
trường bất động sản ở Việt Nam", của Lê Mạnh Dân, Trường Đại học Kinh tế
quốc dân, năm 2004
Ngoài ra, cũng có một số luận văn khác nghiên cứu về chính sách thu
tiền sử dụng dụng đất, lệ phí trước bạ... Những vấn đề này có liên quan chặt
chẽ đến công tác bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất.
Tuy nhiên, dưới góc độ chuyên ngành quản lý kinh tế thì đến nay chưa
có công trình nào nghiên cứu chuyên sâu về "Chính sách bồi thường, hỗ trợ
và tái định cư đối với người dân bị thu hồi đất trên địa bàn tỉnh Quảng
Ninh", đặc biệt là trên góc độ lý luận.
3. Mục tiêu và nhiệm vụ của luận văn
Mục tiêu của luận văn là làm rõ cơ sở lý thuyết của chính sách bồi thường,
hỗ trợ và tái định cư đối với người dân bị Nhà nước thu hồi đất và kiến nghị
giải pháp thực tiễn nhằm hoàn thiện chính sách bồi thường, hỗ trợ và tái định
cư đối với người dân bị Nhà nước thu hồi đất trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh.
Để hoàn thành mục tiêu nêu trên luận văn có nhiệm vụ:
Hệ thống hóa cơ sở lý thuyết của chính sách bồi thường, hỗ trợ và tái
định cư đối với người dân bị Nhà nước thu hồi đất ở nước ta;
Tổng thuật kinh nghiệm thực hiện chính sách bồi thường, hỗ trợ và tái
định cư đối với người dân bị Nhà nước thu hồi đất của một số địa phương
trong nước và rút ra bài học kinh nghiệm cho Quảng Ninh;
Phân tích, chỉ ra điểm hợp lý và chưa hợp lý của chính sách bồi
thường, hỗ trợ và tái định cư đối với người dân bị Nhà nước thu hồi đất trên
địa bàn tỉnh Quảng Ninh hiện nay;
7
Kiến nghị định hướng và giải pháp cơ bản hoàn thiện chính sách bồi
thường, hỗ trợ và tái định cư đối với người dân bị Nhà nước thu hồi đất trên
địa bàn tỉnh Quảng Ninh.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
Đối tượng nghiên cứu trong luận văn là chính sách bồi thường, hỗ trợ
và tái định cư đối với người dân mất đất trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh. Ở đây,
chính sách bồi thường, hỗ trợ và tái định cư đối với người dân bị Nhà nước
thu hồi đất trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh là sự cụ thể hóa các chính sách
chung của Luật Đất đai, các Nghị định và các thông tư hướng dẫn thi hành
cho phù hợp với tình hình thực tế của tỉnh Quảng Ninh cũng như tuân thủ chế
độ phân cấp quản lý đất đai, tài chính của Nhà nước. Nói cách khác, ngoài các
quy định chung đã được quy định để thực hiện thống nhất trong phạm vi toàn
quốc, luận văn còn căn cứ vào tình hình thực tế của địa phương, đồng thời có
khảo sát một số chính sách do Uỷ ban nhân dân các tỉnh, thành phố khác.
Trong quá trình tổ chức thực hiện, tỉnh Quảng Ninh rất chú trọng đến công tác
kiểm tra, giám sát để kịp thời điều chỉnh, bổ sung trong quá trình thực hiện.
Nội hàm chính sách bao gồm cả nội dung chính sách lẫn phương thức tổ chức
thực hiện chính sách.
Thời gian khảo sát chủ yếu từ ngày 01 tháng 7 năm 2004 - ngày Luật
Đất đai năm 2003 có hiệu lực thi hành trở lại đây.
5. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn dựa trên lập trường của chủ nghĩa Mác - Lênin, đường lối
luật pháp của Nhà nước ta để xem xét chính sách bồi thường, hỗ trợ và tái
định cư đối với người dân bị Nhà nước thu hồi đất. Điểm tựa quan trọng của
cách tiếp cận này là đất đai thuộc sở hữu toàn dân và Nhà nước xã hội chủ
nghĩa phải có trách nhiệm với người dân có đất bị thu hồi.
8
Trong các phân tích sâu sẽ kết hợp phương pháp tổng hợp với phương
pháp phân tích, phương pháp quy nạp và ngoại suy để đánh giá tiến trình lịch
sử cụ thể của chính sách bồi thường, hỗ trợ và tái định cư đối với người dân bị
Nhà nước thu hồi đất ở Quảng Ninh.
Đặc biệt, tiêu chí đánh giá chính sách chủ yếu dựa vào kết quả thực
tiễn gắn với điều kiện của Quảng Ninh.
6. Những đóng góp khoa học của luận văn
Đưa ra các căn cứ khoa học của chính sách bồi thường, hỗ trợ và tái
định cư đối với người dân bị thu hồi đất.
Chỉ ra điểm hợp lý và chưa hợp lý của hệ thống chính sách bồi
thường, hỗ trợ và tái định cư đối với người dân bị Nhà nước thu hồi đất hiện
tại ở Quảng Ninh.
Kiến nghị hệ thống giải pháp hoàn thiện chính sách bồi thường, hỗ trợ
và tái định cư đối với người dân bị thu hồi đất trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh
trong những năm tới.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội
dung của luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chính sách bồi
thường, hỗ trợ và tái định cư đối với người dân bị thu hồi đất ở Việt Nam.
Chương 2: Chính sách bồi thường, hỗ trợ và tái định cư đối với người
dân bị thu hồi đất trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh.
Chương 3: Định hướng và giải pháp hoàn thiện chính sách bồi
thường, hỗ trợ và tái định cư đối với người dân bị thu hồi đất trên địa bàn tỉnh
Quảng Ninh.
9
Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
VỀ CHÍNH SÁCH BỒI THƯỜNG, HỖ TRỢ VÀ TÁI ĐỊNH CƯ
ĐỐI VỚI NGƯỜI DÂN BỊ THU HỒI ĐẤT Ở VIỆT NAM
1.1. THU HỒI ĐẤT VÀ NGƯỜI DÂN BỊ THU HỒI ĐẤT
1.1.1. Đất đai trong đời sống kinh tế xã hội
Bao đời nay đất đai đã được thừa nhận là tài nguyên vô cùng quý giá,
là tư liệu sản xuất đặc biệt không thể thay thế của sản xuất nông nghiệp, lâm
nghiệp, là thành phần quan trọng hàng đầu của môi trường sống, là địa bàn
phân bổ các khu dân cư, xây dựng các cơ sở kinh tế công nghiệp, dịch vụ, văn
hoá, xã hội, an ninh và quốc phòng.
Ngày nay, khi dân số trên trái đất tăng lên, đất đai càng có ý nghĩa to
lớn trong sự nghiệp phát triển kinh tế xã hội của đất nước và cải thiện chất
lượng sống cho người dân. Có lẽ vì tầm quan trọng như thế của đất đai nên
Hiến chương về đất (đã được Uỷ ban các Bộ trưởng Châu Âu biểu quyết tại
Nghị quyết số 19 năm 1972) đã tuyên bố như sau: "Ruộng đất là một trong
những của cải quý nhất của loài người, nó tạo điều kiện cho sự sống của thực
vật, động vật và con người trên mặt đất" [22, tr. 22].
Và trước chúng ta hàng trăm năm Wiliam Petty đã từng khẳng định:
"Đất là cha, lao động là mẹ của mọi của cải" [19, tr. 189].
Ở nước ta, do điều kiện lịch sử, tự nhiên quy định đất đai có tầm quan
trọng đặc biệt:
Trước hết đất đai là nguồn tài nguyên số một của ngành nông nghiệp,
lĩnh vực không chỉ cung cấp gần 1/4GDP mà còn nuôi sống hơn một nửa dân
số nước ta. Hơn nữa trên mặt đất, trong lòng đất cũng chứa đựng nguồn tài
10
nguyên phong phú là điều kiện tiên quyết để đất nước khai thác sử dụng cho
phát triển công nghiệp, dịch vụ. Cho đến nay, giá trị khai thác từ đất còn
chiếm tỷ trọng lớn trong tổng giá trị gia tăng của đất nước ta.
Với vai trò là tư liệu sản xuất đặc biệt, đất đai tham gia vào quá trình
sản xuất tạo ra của cải vật chất đảm bảo nhiều nhu cầu của con người mà
trước hết là ăn, ở, mặc.
Ngày nay, với sự tiến bộ của khoa học kỹ thuật, các vật phẩm phục vụ
cho con người ngày một đa dạng và phong phú, song nhu cầu các sản phẩm
được tạo ra từ đất vẫn không giảm.
Đất đai là địa điểm, mặt bằng xây dựng cơ sở sản xuất kinh doanh,
phân bổ lực lượng sản xuất và phân bổ dân cư, nhà xưởng, kho tàng, bến bãi,
cửa hàng, xây dựng các công trình cơ sở hạ tầng... Nói cách khác, đất với tư
cách mặt bằng diễn ra các hoạt động kinh tế ngày càng trở nên khan hiếm so
với nhu cầu phát triển kinh tế. Chính vì thế cuộc đấu tranh nội bộ để giành
quyền sử dụng đất phù hợp với lợi ích của mỗi người và nhóm người ngày
càng căng thẳng. Trong bối cảnh đó quyền sử dụng đất trở thành hình thức cất
trữ tài sản của nhiều nhà đầu cơ đất.
Đất đai là môi trường con người xây dựng nhà ở, các công trình văn hoá,
y tế, giáo dục,... Chính vì thế đất là điều kiện để tạo dựng các điều kiện sinh hoạt
trực tiếp như phân bổ dân cư, để tổ chức các hoạt động xã hội, xây dựng cơ sở
quốc phòng, an ninh và các hoạt động khác phục vụ cuộc sống của con người.
Đất đai là cơ sở để phát triển các hệ bảo tồn sinh thái như: trồng rừng,
khoanh nuôi tái tạo rừng, giữ gìn nguồn nước, vệ sinh môi trường. Đây là
những hoạt động có tầm quan trọng hàng đầu để bảo tồn môi trường sống của
con người và sinh vật ở bất cứ nước nào nói chung và Việt Nam nói riêng.
Tóm lại, dưới giác độ Tổ quốc, đất đai là toàn bộ lãnh thổ gắn liền với
chủ quyền của một quốc gia. Không thể quan niệm về một quốc gia không có
11
đất đai. Chủ quyền của một quốc gia trước hết là chủ quyền về lãnh thổ của
mình. Vì vậy, đất đai được coi là yếu tố cơ bản nhất xác định vị trí chủ quyền
lợi ích của một quốc gia, một dân tộc, yếu tố cơ bản xác định cội nguồn của
một con người. Dưới giác độ phát triển kinh tế, đất đai là nguồn lực hàng đầu
để phát triển bền vững. Dưới giác độ lợi ích, đất đai là tài sản. Đất đai không
chỉ tạo nguồn thu từ đất cho ngân sách nhà nước mà còn là tài sản thế chấp,
vay vốn của các doanh nghiệp, cá nhân dùng đất đai để góp vốn liên doanh.
Ngày nay đất đai trở nên khan hiếm so với nhu cầu nên cần được quản
lý, sử dụng hiệu quả.
1.1.2. Thu hồi đất
1.1.2.1. Khái niệm thu hồi đất
Cho đến nay, về cơ bản, mọi khoảnh đất có thể sử dụng vào phát triển
kinh tế (trừ phần mặt biển sở hữu chung) đều đã có chủ. Theo cách hiểu thông
dụng truyền thống, người chủ đất có mọi quyền đối với đất thuộc sở hữu của
mình, đặc biệt là quyền sử dụng, thu lợi và trao đổi. Trong xã hội hiện đại, do đất
vừa là tài sản, vừa là môi trường sống chung nên chủ sở hữu đất đã bị Nhà nước
lấy bớt một số quyền đối với đất, ví dụ như quyền tùy ý sử dụng đất đã bị bó hẹp
trong quy hoạch không gian chung, trong các quy định về bảo vệ môi trường.
Tuy bị thu bớt một số quyền như thế, người nắm giữ quyền sở hữu đất vẫn có
nhiều đặc quyền, trong đó các quyền cơ bản là: Sử dụng phục vụ nhu cầu của
mình, thu lợi trên đất, trao đổi với người khác với tư cách hàng hóa độc lập.
Ở các nước duy trì sở hữu tư nhân đối với đất đai, người chủ đất nắm
toàn bộ các quyền về đất. Khi đó, nếu Nhà nước hoặc cá nhân khác muốn sử
dụng đất đó phải mua hoặc thuê lại. Ở các nước này không có khái niệm Nhà
nước thu hồi lại đất.
Ở các nước duy trì sở hữu toàn dân đối với đất đai như nước ta, xuất
hiện khái niệm giao và thu hồi đất. Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ
12
nghĩa Việt Nam năm 1992 nêu rõ: " Đất đai, rừng núi, sông hồ, nguồn nước,
tài nguyên trong lòng đất, nguồn lợi ở vùng biển, thềm lục địa,… đều thuộc
sở hữu toàn dân. Nhà nước giao đất cho các tổ chức và cá nhân sử dụng ổn
định lâu dài" [15, tr. 19].
Điều 5, Luật Đất đai (2003) quy định:
- Đất đai thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước đại diện chủ
sở hữu.
- Nhà nước thực hiện quyền định đoạt đối với đất đai như sau:
+ Quyết định mục đích sử dụng đất.
+ Quy định về hạn mức giao đất và thời gian sử dụng đất.
+ Quyết định giao đất, cho thuê đất, thu hồi đất, cho phép
chuyển mục đích sử dụng đất.
+ Định giá đất [18, tr. 7]
Như vậy, thu hồi đất là quyền lực của Nhà nước ta được quy định
trong luật căn cứ vào vị thế đại diện chủ sở hữu toàn dân đối với đất đai. Thu
hồi đất là việc các cơ quan nhà nước thu hồi quyền sử dụng đất của những cá
nhân và tổ chức nào đó để giao cho cá nhân hoặc tổ chức khác sử dụng hiệu
quả hơn hoặc để Nhà nước sử dụng vào mục đích chung.
Thu hồi đất hiểu theo nghĩa này, khác với thu hồi đất của chủ cho thuê
đất khi hết kỳ hạn thuê. Thu hồi đất ở đây là hành vi lấy lại quyền sử dụng đất
đã giao của Nhà nước để sử dụng vào mục đích khác. Người bị thu hồi đất
không có vị thế giao kết hợp đồng của người thuê, không có quyền từ chối
chuyển giao quyền sử dụng đất cho Nhà nước, thậm chí không có quyền thỏa
thuận giá cả đền bù. Trong khi đó đối với người bị thu hồi đất, thường là nông
dân, quyền sử dụng đất có ý nghĩa quan trọng đối với họ, nhiều trường hợp là
sống còn. Do đó đi đôi với thu hồi đất, Nhà nước phải có chính sách hỗ trợ,
bồi thường và tái định cư đối với người bị thu hồi đất.
13
1.1.2.2. Sự cần thiết thu hồi đất
Các quan hệ về sở hữu và sử dụng đất đai luôn gắn chặt với lịch sử và
chế độ chính trị của một nước. Ở nước ta, sau khi Quốc hội ban hành Luật
Đất đai năm 1993, hầu hết đất đai có thể sử dụng đã được giao cho các gia
đình và các tổ chức khác nhau kèm theo việc quy định mục đích sử dụng cho
từng loại đất. Sau khi đất đã được giao hết, về cơ bản quyền sử dụng đất và
mục đích sử dụng đất đã được định vị. Tuy nhiên, trong quá trình công nghiệp
hóa, đô thị hóa, nhiều khoảnh đất cần phải thay đổi mục đích sử dụng và có
thể phải chuyển giao chủ sử dụng mới. Chính vì thế có hoạt động thu hồi đất.
Điều 38, Luật Đất đai 2003 quy định Nhà nước thu hồi đất trong các
trường hợp sau đây:
- Chuyển đất sang sử dụng vào mục đích quốc phòng, an
ninh, lợi ích quốc gia, lợi ích công cộng, phát triển kinh tế.
- Sử dụng đất không đúng mục đích, không hiệu quả. Đất
lấn chiếm. Đất được Nhà nước giao.
- Đất không sử dụng [18, tr. 18].
Trong luận văn này chỉ quan tâm đến thu hồi đất đã được giao cho
người dân sử dụng và còn trong thời hạn giao đất. Lý do Nhà nước thu hồi
loại đất này thường là:
- Thay đổi quy hoạch, cần chuyển mục đích sử dụng đất.
- Xây dựng các công trình công cộng, an ninh, quốc phòng.
- Xây dựng các khu đô thị và khu công nghiệp tập trung.
Trong quá trình công nghiệp hóa, đô thị hóa ở nước ta, việc thu hồi
đất nông nghiệp chuyển sang làm đường, xây dựng các khu công nghiệp và
khu đô thị hiện đại sẽ còn tiếp tục. Đi đôi với quá trình thu hồi đất đó, số
lượng người dân bị thu hồi đất sẽ ngày càng tăng mà nếu không có chính sách
14
hợp lý, bài bản, dài hạn với họ thì nguy cơ bùng phát các vụ khiếu kiện, điểm
nóng sẽ nhiều hơn.
1.1.3. Tác động của việc thu hồi đất đối với đời sống của người
mất đất
Đất đai vừa là tư liệu sản xuất, vừa là môi trường sống của người dân.
Do đó mất đất, đồng nghĩa với mất chỗ ở, mất nơi tổ chức hoạt động sản xuất
kinh doanh. Nói cách khác, việc thu hồi đất của Nhà nước đã ảnh hưởng bất
lợi đến người dân bị mất đất trên các phương diện sau đây.
1.1.3.1. Mất chỗ ở
Chỗ ở của người dân không chỉ đơn thuần là nơi họ ăn, ngủ mà còn
gắn với tài sản, môi trường, các mối quan hệ kinh tế, xã hội, văn hóa đã gắn
họ với địa bàn đó. Khi thu hồi đất, Nhà nước không chỉ thu hồi quyền sử dụng
diện tích đất, mà còn tước đi của họ cơ hội tiếp nối cuộc sống quen thuộc của họ,
buộc họ phải chuyển sang một địa bàn mới với các quan hệ và cơ hội không
giống trước. Đối với những người khó thích nghi với điều kiện mới, nhất là đối
với nông dân đã trên 40 tuổi, đối với những người gắn với làng nghề truyền
thống…, thì việc di dời là một biến cố nặng nề. Nhiều người chưa được chuẩn bị
sẵn cho việc di chuyển như vậy nên tương lai của họ sẽ khó khăn hơn. Hơn nữa,
khi chuyển nhà, các chi phí phát sinh do cần xây dựng lại nhà cửa, vườn tược,
tạo dựng hạ tầng sinh hoạt, dịch vụ chung… khá lớn, nếu không có sự hỗ trợ
bên ngoài, nhiều người dân mất đất không thể tự giải quyết được. Đặc biệt,
khi di dời bất đắc dĩ chỗ ở do đất bị thu hồi, nhiều người dân có tâm lý không
thoải mái, tâm lý bị thua thiệt. Nếu không có sự đả thông tư tưởng và một số
hình thức bồi thường thích hợp, những người dân mất chỗ ở có thể bị kích
động, phản ứng tiêu cực với chính sách thu hồi đất của Nhà nước.
1.1.3.2. Mất tư liệu sản xuất
Đất bị thu hồi là đất nông nghiệp hay phi nông nghiệp đều là tư liệu
sản xuất quan trọng của người sử dụng đất cũ. Khi Nhà nước thu hồi có bồi
15
thường bằng diện tích đất khác đi chăng nữa cũng làm cho người bị mất đất
thua thiệt trên các phương diện: mất địa thế của địa điểm đã quen dùng; mất
một phần thành quả đầu tư vào đất. Chính vì vậy, người sử dụng đất không
muốn giao đất cho Nhà nước nếu không được bồi thường xứng đáng.
Ngay cả khi Nhà nước bồi thường xứng đáng bằng tiền cho người có đất
bị thu hồi thì họ cũng mất việc làm do không còn địa bàn. Nếu Nhà nước bồi
thường cho họ một diện tích đất ở nơi khác thì họ cũng mất chi phí xây dựng
lại từ đầu hoạt động sản xuất kinh doanh với nhiều điểm bất lợi hơn trước.
Sự mất mát, thua thiệt, tâm lý lo sợ tương lai không rõ ràng khiến
nhiều người tìm mọi cách để không phải giao đất cho Nhà nước, từ vận động
hành lang quy hoạch đến chây ì, phản đối tập thể… Muốn thu hồi đất hiệu
quả, Nhà nước phải có phương án giải quyết thỏa đáng các mâu thuẫn này.
1.1.3.3. Bức xúc vì phân chia lợi ích không công bằng
Do chuyển mục đích sử dụng đất hoặc xây dựng cơ sở hạ tầng trên đất
thu hồi sẽ làm cho một số chủ thể kinh tế có lợi ích tăng lên (ví dụ như doanh
nghiệp nhận đất xây khu đô thị, người có đất hai bên đường mới làm…) đi đôi
với thua thiệt trông thấy của người mất đất dẫn đến các xung đột lợi ích gay
gắt. Người mất đất sẽ càng cảm thấy mình bị đối xử bất công hơn khi hàng
xóm của mình giàu lên không nhờ công sức của họ mà nhờ đất của mình bỏ ra
làm đường, hoặc sẽ phẫn nộ khi giá bồi thường cho họ thấp hơn nhiều giá đất
doanh nghiệp bán cho họ…
Công tác tái định cư khó khăn cũng làm cho người dân bị mất đất
thua thiệt. Do nhiều địa phương thiếu quỹ đất nông nghiệp để bồi thường
thích đáng cho nông dân, nên nhiều nông dân, sau khi nhận tiền đền bù, đã
không có công ăn việc làm, không có kinh nghiệm kinh doanh nên tiền bồi
thường nhanh chóng tiêu hao. Nơi ở mới nhiều khi không được xây dựng cơ
sở hạ tầng hoàn thiện làm cho cuộc sống của họ càng khó khăn hơn. Chính vì
16
thế, nhiều người dân mất đất, hoặc rơi vào nghèo khó, hoặc rơi vào tệ nạn xã
hội, trở thành gánh nặng cho chính họ và cho xã hội.
Ngoài ra, việc thu hồi đất không chỉ gây tác động bất lợi cho người mất
đất mà còn tạo thêm sức ép cho Nhà nước về phương diện tài chính, quản lý
và điều hành. Chính vì thu hồi đất có nhiều tác động không mong muốn như
vậy nên Nhà nước, một mặt phải có quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất hợp lý,
dài hạn, ổn định, nhằm hạn chế xáo trộn; mặt khác, phải xây dựng chính sách
bồi thường, hỗ trợ và tái định cư đối với người dân bị mất đất một cách hợp lý.
1.2. CHÍNH SÁCH BỒI THƯỜNG, HỖ TRỢ VÀ TÁI ĐỊNH CƯ ĐỐI VỚI
NGƯỜI DÂN BỊ THU HỒI ĐẤT Ở VIỆT NAM
1.2.1. Khái niệm chính sách bồi thường, hỗ trợ và tái định cư đối
với người dân bị thu hồi đất
Chính sách bồi thường, hỗ trợ và tái định cư đối với người dân bị thu
hồi đất là một dạng chính sách công có nội dung liên quan đến nhiều lĩnh vực
giáp ranh như đất đai, tài chính, an ninh, chính trị… Giống như các chính
sách công khác, có nhiều quan niệm khác nhau về chính sách bồi thường, hỗ
trợ và tái định cư đối với người dân bị thu hồi đất. Một số người cho rằng
quyền sử dụng đất là hàng hóa nên Nhà nước cần đối xử với người có đất bị
thu hồi như là bên bán quyền sử dụng đất. Quan niệm này quá cực đoan,
không phù hợp với chế độ sở hữu toàn dân vế đất đai và chế độ quản lý theo
mục đích sử dụng đất của Nhà nước ta. Một số người khác cho rằng, đất đai
thuộc quyền quản lý của Nhà nước, các cơ quan nhà nước có thẩm quyền thu
hồi đất theo luật và chỉ bồi thường theo quy định của Nhà nước. Quan niệm
này quá cứng nhắc, không phù hợp với chủ trương sử dụng thị trường để điều
tiết việc sử dụng đất có hiệu quả ở nước ta.
Quan điểm trong luận văn này cho rằng, về mặt lý luận, có thể coi
chính sách bồi thường, hỗ trợ và tái định cư là một dạng chính sách đặc biệt
17
của Nhà nước thể hiện cách ứng xử vừa đại diện cho chủ sở hữu đất đai, vừa
phản ánh thái độ của cơ quan được xã hội trao quyền quản lý đất đai, vừa bao
hàm nội dung điều hòa lợi ích theo hướng bảo đảm quyền lợi chính đáng của
các bên liên quan phục vụ mục tiêu hiệu quả kinh tế xã hội và công bằng,
trong đó các cơ quan nhà nước sử dụng nhiều công cụ tổ chức, tài chính, giá
cả để đạt được các mục tiêu của mình. Khi bàn về chính sách bồi thường, hỗ
trợ và tái định cư phải chú ý các phương diện sau:
- Về mặt quan điểm, chính sách bồi thường, hỗ trợ và tái định cư phải
kết hợp hợp lý các yêu cầu quản lý hành chính với các yêu cầu của cơ chế
quản lý thị trường trong xác định mức bồi thường và các thủ tục liên quan. Ở
đây nhấn mạnh hai yêu cầu: dân chủ và công bằng. Yêu cầu dân chủ là khi
xác định mức bồi thường, phương thức bồi thường, hỗ trợ và tái định cư phải
tham vấn ý kiến người mất đất và thể hiện được ý kiến, nguyện vọng của họ
một cách hợp lý. Yêu cầu công bằng là khi phân chia lợi ích, phải đảm bảo
các bên được hưởng lợi ích phù hợp với đóng góp của họ. Phần lợi ích thuộc
xã hội phải được sử dụng chung một cách công khai, minh bạch.
- Về mặt chủ thể: Chế độ phân cấp cho các cơ quan nhà nước trong
việc thu hồi, bồi thường, hỗ trợ, tổ chức tái định cư phải rõ ràng, trách nhiệm,
quyền hạn, lợi ích tương xứng, có sự phối hợp và kiểm tra giám sát chặt chẽ
nhằm hạn chế tối đa sự lạm quyền tư lợi.
- Về mặt mục tiêu: Cần kết hợp hài hòa mục tiêu của người sử dụng
đất, của xã hội và người dân, trong đó ưu tiên cao nhất cho việc sử dụng có
hiệu quả quỹ đất phục vụ đời sống người dân.
- Về mặt công cụ và cơ chế tác động: Cần phối hợp hài hòa với nhau
có tính đến các giới hạn về sử dụng đất, ngân sách nhà nước và năng lực tổ
chức thực hiện của các chủ thể.
Nói tóm lại, chính sách bồi thường, hỗ trợ và tái định cư là tổng thể
các quan niệm, chủ trương, phương tiện và hành động của các cơ quan nhà
18
nước trong lĩnh vực bồi thường, hỗ trợ và tái định cư đối với những người dân
có đất bị thu hồi nhằm đạt tới sự hài hòa, hợp lý về lợi ích, hiệu quả và phát
triển bền vững.
1.2.2. Mục tiêu, nguyên tắc xây dựng chính sách bồi thường, hỗ
trợ, tái dịnh cư đối với người dân bị thu hồi đất ở Việt Nam
1.2.2.1. Mục tiêu của chính sách bồi thường, hỗ trợ, tái dịnh cư đối
với người dân bị thu hồi đất ở Việt Nam
* Mục tiêu thứ nhất của chính sách bồi thường, hỗ trợ và tái định cư là
đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của người sử dụng đất, người sở hữu nhà ở.
Về mặt lịch sử, đất đai là thành quả xây dựng và bảo vệ của nhiều thế
hệ liên kết trong một quốc gia. Theo ý nghĩa đó đất đã là tài sản chung. Chế
độ xã hội chủ nghĩa ở nước ta đã hiện thực hóa quan hệ pháp lý của tài sản
chung đó. Tuy nhiên, sử dụng đất đai lại phân cấp cho các tổ chức và các gia
đình riêng rẽ. Vì thế cần có cơ chế phân định hợp lý quyền hạn, trách nhiệm,
lợi ích của xã hội (đại diện là Nhà nước) và công dân trong quan hệ đất đai.
Điều 5 Luật Đất đai năm 2003 của nước ta đã quy định: "Đất đai thuộc
sở hữu toàn dân do Nhà nước đại diện chủ sở hữu... Nhà nước trao quyền sử
dụng đất thông qua hình thức giao đất, cho thuê đất, công nhận quyền sử dụng
đất đối với người đang sử dụng đất ổn định; quy định quyền và nghĩa vụ của
người sử dụng đất" [18, tr. 9]
Như vậy: Về mặt pháp lý, dù người sử dụng đất được hưởng thành
quả từ việc sử dụng đất vào các hoạt động kinh tế, xã hội nhưng đất đai phải
được sử dụng nhằm mục đích phục vụ sự tồn tại và phát triển của xã hội mà
Nhà nước là người đại diện. Mục tiêu của xã hội là đất chung phải được sử
dụng sao cho phục vụ tốt nhất cho phát triển kinh tế, kiến thiết xã hội xã hội
chủ nghĩa và cải thiện chất lượng sống nói chung của dân cư. Vì thế đất phải
được sử dụng theo quy hoạch và kế hoạch chung của Nhà nước.
19
Tuy nhiên, các cơ quan nhà nước thường không phải là người sử dụng
trực tiếp đất. Người dân mới là người khai thác quỹ đất. Họ chỉ khai thác quỹ
đất hiệu quả khi quyền lợi của họ được tôn trọng và bảo hộ. Làm sao để mục
tiêu chung của xã hội và mục tiêu riêng của người sử dụng đất hài hòa với
nhau tạo điều kiện cho phát triển nhanh, bền vững là mục tiêu quan trọng của
chính sách bồi thường, hỗ trợ và tái định cư. Ở đây, xử lý tốt mối quan hệ
giữa quyền sở hữu và quyền sử dụng đất cũng như vận dụng các công cụ tổ
chức, tuyên truyền, tài chính của chính sách bồi thường, hỗ trợ và tái định cư
là rất quan trọng.
Quyền sở hữu và quyền sử dụng đất có mối quan hệ chặt chẽ với
nhau. Quyền sở hữu toàn dân về đất đai ở nước ta là quyền sở hữu về mặt
pháp lý (Nhà nước quy định trách nhiệm của mình cũng như quyền lợi và
nghĩa vụ của người sử dụng đất). Các tổ chức, hộ gia đình, cá nhân được giao
quyền sử dụng đất thực tế và phải thực hiện các nghĩa vụ đối với Nhà nước.
Nếu quan hệ này được thiết lập hợp lý thì chính sách bồi thường, hỗ trợ và tái
định cư sẽ dễ triển khai hơn.
Ở nước ta, Nhà nước còn nắm một phần quyền sử dụng đất về mặt
pháp lý, tức nắm quyền quy định mục đích sử dụng cho các thửa đất theo quy
hoạch. Nhà nước nắm quyền này là để định hướng sử dụng đất đai cho phù
hợp với lợi ích của toàn xã hội về các phương diện đảm bảo an ninh lương
thực, cân đối các nhu cầu sử dụng đất, sử dụng đất hiệu quả, hạn chế tình
trạng đất để hoang hoá, vô chủ, sử dụng lãng phí, không bảo vệ đất,... Nhà
nước giao đất cho các tổ chức, hộ gia đình và cá nhân để đảm bảo đất có chủ
sử dụng thực sự và hiệu quả. Ngoài ra, Nhà nước giao quyền sử dụng đất
đúng mục đích cũng tạo điều kiện cho thị trường quyền sử dụng đất sau khi
hoạt động để khuyến khích sử dụng đất hiệu quả.
Trong rất nhiều mối quan hệ chồng chéo đó, làm thế nào để bảo đảm
lợi ích hợp lý giữa xã hội và cá nhân là vấn đề vô cùng phức tạp. Song, nếu
20
không giải quyết được các quan hệ này thì chính sách bồi thường, hỗ trợ và
tái định cư sẽ khó triển khai. Bởi vì, Luật Đất đai ở nước ta quy định khi Nhà
nước thu hồi đất để sử dụng vào mục đích quốc phòng, an ninh, lợi ích quốc
gia, lợi ích công cộng và phát triển kinh tế thì Nhà nước có trách nhiệm bồi
thường, hỗ trợ và tái định cư cho người dân bị mất đất.
Vậy bồi thường, hỗ trợ và tái định cư như thế nào để đảm bảo sự hài
hòa lợi ích?
Thông thường, việc bồi thường, hỗ trợ và tái định cư phải đáp ứng các
yêu cầu:
- Tạo điều kiện để người bị mất đất có cuộc sống bằng hoặc tốt hơn
trước khi mất đất.
- Điều tiết phần lợi ích gia tăng không do các cá nhân tạo ra về ngân
sách nhà nước.
- Tạo điều kiện để người sử dụng đất sau này hoàn thành mục tiêu đã
được xã hội chấp thuận.
- Bảo tồn được quỹ đất và môi trường.
* Mục tiêu thứ hai của chính sách bồi thường, hỗ trợ và tái định cư là
khuyến khích người dân giao đất.
Vì đất là điều kiện để xây dựng kết cấu hạ tầng, xây dựng khu đô thị,
là điều kiện để thực hiện các dự án kinh tế, xã hội, quốc phòng nên chính sách
bồi thường, hỗ trợ và tái định cư phải hướng đến khuyến khích người dân tự
nguyện giao đất.
Trên thực tế, người dân không muốn giao đất vì việc mất đất ảnh
hưởng xấu đến cuộc sống của họ. Để họ tự nguyện và nhanh chóng giao đất,
chính sách bồi thường, hỗ trợ và tái định cư không những phải có mức bồi
thường, hỗ trợ, hợp lý, phải tổ chức tốt công việc tái định cư, mà còn phải
cung cấp cho người mất đất đầy đủ thông tin trung thực để họ tự quyết định.
21
Ngoài ra chính sách bồi thường, hỗ trợ và tái định cư phải được hoạch
định và thực hiện nhất quán, tránh các mâu thuẫn, xung đột trong quá trình
triển khai.
Nếu chính sách bồi thường, hỗ trợ và tái định cư không đáp ứng mục
tiêu này, quá trình thu hồi đất sẽ nảy sinh rất nhiều khó khăn không đáng có
như khiếu kiện, chống đối, chây ì, chậm tiến độ giải phóng mặt bằng.
* Mục tiêu thứ ba của chính sách bồi thường, hỗ trợ và tái định cư là
ổn định cuộc sống, ổn định việc làm cho người dân bị mất đất.
Việc thu hồi đất ở nước ta không hoàn toàn mang tính thị trường nên
quan tâm đến cuộc sống của người dân bị mất đất là một mục tiêu quan trọng.
Để ổn định cuộc sống cho người mất đất cần xây dựng khu tái định cư đồng
bộ, có cơ sở hạ tầng kinh tế, xã hội, văn hóa ít nhất không được thấp hơn địa
điểm cũ, nhất là các dịch vụ thiết yếu như giao thông, điện, nước, y tế, giáo
dục, hành chính...
Ở nước ta, mục tiêu này thường khó hoàn thành do kinh phí của Nhà
nước cấp eo hẹp và do tổ chức thiếu chặt chẽ. Nếu khu tái định cư không
được xây dựng tốt thì dân chúng sẽ bất mãn, hậu quả là họ không di dời.
Để ổn định lâu dài cho người dân bị mất đất, cần tạo điều kiện cho họ
có việc làm thông qua các chương trình đào tạo, hỗ trợ đầu tư, lập nghiệp
hoặc xúc tiến việc làm. Trên thực tế việc làm của cơ quan tái định cư và
người dân không trùng khớp, do dịch vụ hỗ trợ không phù hợp với điều kiện
của người dân.
* Mục tiêu thứ tư của chính sách bồi thường, hỗ trợ và tái định cư là
góp phần thực hiện quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất đai, xây dựng và phát
triển nhà ở, phát triển kinh tế - xã hội.
Quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất là công cụ Nhà nước bố trí, sắp xếp
các loại đất và nhà ở cho đối tượng sử dụng theo không gian và thời gian phù
22
hợp với mục tiêu sử dụng đất hiệu quả và thực hiện thành công chiến lược
phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất sau
khi đã được xây dựng có căn cứ khoa học và phù hợp với quy hoạch tổng thể
phát triển kinh tế -xã hội của đất nước là phương án sử dụng đất tốt nhất để
Nhà nước và nhân dân thực hiện.
Để chính sách bồi thường, hỗ trợ và tái định cư góp phần thực hiện
quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất cần chủ động hoạch định chính sách cụ thể
cho các khu đất ở, các dự án xây dựng vùng, phát triển các ngành nghề khác
nhau như nông nghiệp, công nghiệp, xây dựng, dịch vụ hoặc là việc chuyển
các loại đất khác nhau sang các mục đích sử dụng khác nhau để tạo điều kiện
thuận lợi cho thực hiện. Nói cách khác, trước khi mở rộng một con đường,
xây dựng một khu đô thị mới hay xây dựng khu công nghiệp, xây dựng khu
chung cư cao tầng, xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng v.v... cần tuân thủ quy
hoạch trong việc lựa chọn sử dụng các khu đất mới hoặc lấy các khu đất đang
sử dụng vào một mục đích cụ thể nào đó để sử dụng cho các mục đích khác
trên cơ sở đó xây dựng các định mức, phương thức bồi thường, hỗ trợ và tái
định cư thích hợp. Không nên xây dựng chính sách bồi thường, hỗ trợ và tái
định cư một cách tùy tiện. Khi tính tiền bù đắp thiệt hại cho người sử dụng đất
do bị thu hồi đất để sử dụng vào mục đích quốc phòng, an ninh, lợi ích quốc
gia, lợi ích công cộng và phát triển kinh tế, các cơ quan liên quan phải căn cứ
vào quy hoạch để xem xét tính hợp lý của khu tái định cư cũng như để điều
hòa lợi ích phát sinh theo quy hoạch.
1.2.2.2. Nguyên tắc xây dựng chính sách bồi thường, hỗ trợ và tái
định cư đối với người dân bị thu hồi đất
* Nguyên tắc công bằng
Đây là nguyên tắc quan trọng hàng đầu quyết định thành công của chính
sách bồi thường, hỗ trợ và tái định cư. Nếu chính sách công bằng những người
bị thu hồi đất sẽ tự nguyện chấp hành. Ngược lại, họ sẽ chống đối, chính sách
23
bồi thường, hỗ trợ và tái định cư hoặc thất bại, hoặc trả giá đắt. Công bằng ở đây
là công bằng về chính sách, công bằng về chế độ, về đơn giá, về mức bồi thường,
hỗ trợ, về đối tượng thụ hưởng,... Công bằng không có nghĩa là cào bằng bình
quân. Để có chính sách công bằng phải họach định chính sách sát thực tế, xem
xét lợi ích một cách phân minh. Nguyên tắc công bằng phải được quán triệt và
thực hiện nhất quán từ trên xuống dưới, từ dưới lên trên. Ví dụ, hai hộ liền kề
có nguồn gốc đất như nhau, quá trình sử dụng như nhau, điều kiện hạ tầng như
nhau thì giá bồi thường và mức bồi thường phải như nhau. Hai hộ dân, một hộ
ở tỉnh này, một hộ ở tỉnh kia đều bị thu hồi nhà 2 tầng đã được cơ quan nhà
nước có thẩm quyền cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà
thì phải được bồi thường 100% giá trị đất ở, 100% giá trị tài sản.
* Nguyên tắc hiệu quả
Nguyên tắc này đòi hỏi người có thẩm quyền thực thi chính sách bồi
thường, hỗ trợ và tái định cư phải cân nhắc tính toán kỹ càng về mọi mặt trước
khi quyết định. Hiệu quả ở đây được hiểu trước hết là hiệu quả về kinh tế sau đó
là hiệu quả về mặt xã hội (ổn định tình hình, ổn định đời sống). Nói cách khác,
phải tạo được sự đồng thuận của người dân trong vùng dự án. Nguyên tắc hiệu
quả phải đạt được cả trong ngắn hạn cũng như trong dài hạn. Tuyệt đối không vì
lợi ích trước mắt mà không tính đến lợi ích lâu dài cho các thế hệ sau.
* Nguyên tắc dân chủ
Nguyên tắc này đòi hỏi trong hoạch định chính sách bồi thường, hỗ trợ
và tái định cư phải tham khảo ý kiến của dân cư, nhất là những người chịu ảnh
hưởng trực tiếp. Khi quyết định phải theo nguyên tắc thiểu số phục tùng đa số,
tập thể bàn bạc cân nhắc kỹ trước khi quyết định. Tuyệt đối không được áp đặt
quyết định từ một phía, không được tuyệt đối hoá vai trò của cá nhân cán bộ có
chức quyền. Dân chủ nhưng phải tập trung, đồng thời tập trung nhưng phải dân
chủ cả ở khâu hoạch định chính sách cũng như thực hiện chính sách, phải đối xử
với mọi người một cách bình đẳng, tôn trọng quyền và nghĩa vụ của họ.
24
* Nguyên tắc tiết kiệm ngân sách nhà nước
Nguyên tắc này đòi hỏi người có thẩm quyền, người thực thi công vụ
có quyền quyết định chi ngân sách nhà nước phải hết sức tiết kiệm, không
được lãng phí. Vì ngân sách nhà nước có hạn, mà nguồn tiền để bồi thường,
hỗ trợ và tái định cư lại rất lớn. Tiết kiệm chi phí bồi thường, hỗ trợ và tái
định cư nhưng vẫn phải đảm bảo yêu cầu về lợi ích của người dân và điều
kiện sống của họ. Tiết kiệm không có nghĩa là bớt xén, là thực hiện không
đúng chế độ chính sách. Tiết kiệm là tổ chức công việc bồi thường, hỗ trợ và
tái định cư một cách khoa học, quy củ, tránh làm rồi sửa, phá.
* Nguyên tắc hỗ trợ người khó khăn
Nguyên tắc này hướng tới việc thực hiện các chính sách xã hội đối
với các trường hợp đặc thù, có hoàn cảnh đặc biệt. Đó chính là tinh thần
tương thân tương ái, lá lành đùm lá rách, là bản chất tốt đẹp của xã hội ta.
Những nguyên tắc cơ bản nêu trên đều có vị trí quan trọng và có mối
quan hệ mật thiết với nhau, hỗ trợ nhau, ràng buộc nhau. Trong quá trình cụ
thể hoá chính sách và tổ chức thực hiện ở địa phương phải tôn trọng các
nguyên tắc nêu trên. Tuyệt đối không được xem nhẹ nguyên tắc này, xem
nặng nguyên tắc kia mà ngược lại, phải căn cứ vào chế độ chính sách của nhà
nước và tình hình thực tiễn ở địa phương để vận dụng một cách linh hoạt
nhằm đạt mục tiêu của chính sách bồi thường, hỗ trợ và tái định cư là ổn định
tình hình, phát biển bền vững và công bằng xã hội.
1.2.3. Nội dung của chính sách bồi thường, hỗ trợ và tái định cư
đối với người dân bị thu hồi đất ở Việt Nam
1.2.3.1. Quy định mức và phương thức bồi thường khi thu hồi đất
Ở các nước có kinh tế thị trường và sở hữu tư nhân về đất đai, Nhà
nước tiến hành thương lượng với dân để mua lại đất (chứ không phải thu lại)
theo giá hai bên chấp nhận được. Mặc dù tính cưỡng chế rất ít được thể hiện,
25
nhưng đa phần dân cư cũng chấp nhận bán lại đất cho Nhà nước vì mục đích
chung. Ở nước ta, do đất đai thuộc sở hữu toàn dân nên khi thu hồi đất, Nhà
nước không mua lại đất của người đang sử dụng mà chỉ bồi thường cho người
sử dụng theo các mức và chế độ khác nhau tùy theo từng thời kỳ lịch sử.
* Giai đoạn thực hiện Luật Đất đai năm 1988
Giai đoạn này, Hội đồng Bộ trưởng ban hành Quyết định 186/HĐBT
ngày 31/5/1990 Quy định về việc đền bù thiệt hại đối với đất nông nghiệp và
đất có rừng. Tinh thần của Quyết định này là người sử dụng đất nông nghiệp,
đất có rừng vào mục đích khác phải đền bù thiệt hại về đất nông nghiệp, đất
có rừng cho Nhà nước và đền bù thiệt hại về tài sản cho người có đất bị thu
hồi để giao cho người sử dụng. Mức đền bù do Nhà nước quy định theo từng
loại đất và tài sản trên đất.
* Giai đoạn thực hiện Luật Đất đai năm 1993
Giai đoạn này, Chính phủ ban hành Nghị định số 90/CP ngày
17/8/1994 về đền bù thiệt hại khi nhà nước thu hồi đất; Nghị định số
22/1998/NĐ CP ngày 24/4/1998 về đền bù thiệt hại khi nhà nước thu hồi đất
để sử dụng vào mục đích quốc phòng, an ninh, lợi ích quốc gia, lợi ích công
cộng thay thế cho Nghị định số 90/CP. Tinh thần cơ bản của 2 Nghị định này
như sau:
- Về đền bù đất:
Nghị định số 90/CP quy định, người bị thu hồi đất được đền bù thiệt
hại về đất theo giá đất do Nhà nước quy định tại Nghị định số 87/CP ngày
17/8/1994 của Chính phủ. Còn Nghị định số 22/1998/NĐ CP thì quy định
người bị thu hồi đất được đền bù thiệt hại về đất theo giá đất do nhà nước quy
định tại Nghị định số 87/CP ngày 17/8/1994 nhân với hệ số K (K là hệ số điều
chỉnh với giao động từ - 0,25 đến 2,7 lần). Như vậy, so với Nghị định số
90/CP thì giá đất để đền bù đối với người dân bị thu hồi đất đã được điều
26
chỉnh linh hoạt hơn (Hệ số K do Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quy định cho phù
hợp với tình hình thực tiễn của từng dự án). Vậy là, từ 1993-2003 giá đền bù
thiệt hại về đất đã từng bước tiến dần đến giá thực tế để đảm bảo quyền lợi
cho người bị thu hồi đất vì thực tiễn diễn ra việc mua bán, chuyển nhượng
quyền sử dụng đất với mức giá cao hơn giá đất do Chính phủ quy định tại
Nghị định số 87/CP ngày 17/8/1994.
- Về đền bù tài sản:
Người bị thu hồi đất có tài sản là nhà cửa, vật kiến trúc, cây trồng trên
đất thì được đền bù theo các quy định sau đây:
Thời điểm thực hiện Nghị định số 90/CP: Việc đền bù thiệt hại về
tài sản được thực hiện theo nguyên tắc đền bù theo giá trị còn lại (giá trị thực
tế) không phân biệt là công trình của Nhà nước, của doanh nghiệp hay của
người dân.
Thời điểm thực hiện Nghị định số 22/1998/NĐ-CP việc đền bù thiệt
hại về tài sản được phân thành hai loại; loại có công trình kiên cố thì đền bù
theo giá trị còn lại của công trình nhân với đơn giá xây dựng mới của công
trình có tiêu chuẩn kỹ thuật tương đương; loại có công trình đơn giản như nhà
cấp 4, nhà tạm mức đền bù tính bằng 100% giá trị xây dựng mới của công
trình có tiêu chuẩn kỹ thuật tương đương.
Như vậy, so với Nghị định số 90/CP, Nghị định số 22/1998/NĐ-CP đã
có sự phân biệt về mức đền bù giữa công trình kiên cố với công trình không
kiên cố theo hướng ủng hộ những người nghèo (nhà cấp 4, nhà tạm thì không
phân biệt nhà mới hay nhà cũ đều được đền bù bằng 100% giá trị xây mới của
công trình có tiêu chuẩn kỹ thuật tương đương).
* Giai đoạn thực hiện Luật Đất đai năm 2003
Giai đoạn này, Chính phủ ban hành Nghị định số 197/2004/NĐ-CP
ngày 03/12/2004 về bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi nhà nước thu hồi
27
đất; Nghị định số 84/2007/NĐ-CP ngày 25/5/2007 Quy định bổ sung về việc
cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, thu hồi đất, thực hiện quyền sử dụng
đất, trình tự, thủ tục bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi Nhà nước thu hồi
đất và giải quyết khiếu nại về đất đai; Nghị định số 69/2009/NĐ-CP ngày
13/8/2009 Quy định bổ sung về quy hoạch sử dụng đất, giá đất, thu hồi đất, bồi
thường, hỗ trợ và tái định cư. Tinh thần chung của những Nghị định này là:
- Phạm vi điều chỉnh:
Nghị định số 197/2004/NĐ-CP của Chính phủ có phạm vi điều chỉnh
rộng hơn Nghị định số 22/1998/NĐ-CP của Chính phủ như: Ngoài quy định
bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất để sử dụng vào
mục đích quốc phòng, an ninh, lợi ích quốc gia, lợi ích công cộng như Nghị
định số 22/1998/NĐ-CP, Nghị định số 197/2004/NĐ-CP còn quy định bồi
thường, hỗ trợ và tái định cư đối với các dự án phát triển kinh tế theo Điều 36
Nghị định số 181/2004/NĐ-CP ngày 29/10/2004 về hướng dẫn thi hành Luật
Đất đai; quy định đối với những dự án sử dụng nguồn vốn hỗ trợ phát triển
chính thức (ODA), nếu việc bồi thường, hỗ trợ và tái định cư theo yêu cầu của
nhà tài trợ khác với quy định tại Nghị định này thì trước khi ký điều ước quốc
tế, cơ quan chủ quản đầu tư phải báo cáo Thủ tướng Chính phủ xem xét,
quyết định. Trường hợp điều ước quốc tế mà Việt Nam đã ký kết hoặc gia
nhập có quy định khác với quy định tại Nghị đinh này thì áp dụng theo quy
định của điều ước quốc tế đó.
Đồng thời, Nghị định số 197/2004/NĐ-CP cũng quy định các trường
hợp không thuộc phạm vi áp dụng Nghị định này như:
Cộng đồng dân cư xây dựng, chỉnh trang các công trình phục vụ lợi
ích chung của cộng đồng bằng nguồn vốn đóng góp của nhân dân hoặc nhà
nước hỗ trợ;
Khi nhà nước thu hồi đất không thuộc trường hợp đã giao cho người
dân sử dụng.
28
- Bồi thường về đất:
Đây là nội dung quan trọng nhất, phức tạp nhất. Nội dung này quy
định về trình tự, thủ tục, nguyên tắc và phương pháp xác định nguồn gốc sử
dụng đất đối với các trường hợp sử dụng đất mà không có một trong các loại
giấy tờ về quyền sử dụng đất theo quy định tại Khoản 1, 2 và khoản 5 Điều 50
của Luật Đất đai;
Quy định rõ những trường hợp được bồi thường, những trường hợp
không được bồi thường nhưng được hỗ trợ;
Quy định những trường hợp không được bồi thường và cũng không
được hỗ trợ;
Quy định về bồi thường đất ở, đất nông nghiệp và các loại đất khác;
Quy định về diện tích đất được bồi thường là đất ở cho các trường hợp
sử dụng đất cụ thể;
Quy định về nghĩa vụ tài chính và các khoản phải trừ đối với các
trường hợp sử dụng đất ở nhưng chưa hoàn thành nghĩa vụ tài chính đối với
nhà nước theo phương pháp khấu trừ trực tiếp trên phương án bồi thường;
Quy định nguyên tắc, phương pháp xác định giá đất ở để tính bồi
thường cho sát với giá thị trường trong điều kiện bình thường;
Quy định rõ mức hỗ trợ cụ thể đối với một số trường hợp cụ thể như
diện tích hỗ trợ, mức hỗ trợ đối với đất vườn, ao liền kề với đất ở trong cùng
một thửa đất có nhà ở;
Quy định trách nhiệm của các bên trong việc bồi thường chậm thì xử
lý về giá như thế nào;
Quy định tỷ lệ phân chia đất ở trong trường hợp người sử dụng đất là
thuê của nhà nước, nhà chung cư cao tầng; quy định tỷ lệ bồi thường đối với
các loại đất mà Nhà nước chỉ thu hồi tạm thời để phục vụ cho thi công; quy
29
định xử lý về bồi thường, hỗ trợ với một số trường hợp đặc biệt như nhà thầu
thi công gây mất an toàn cho hộ dân, làm mất đường đi, gây ngập úng thì việc
bồi thường, hỗ trợ được tiến hành như thế nào; v.v...
- Bồi thường về tài sản:
Tài sản của hộ gia đình, cá nhân xây dựng trên đất đủ điều kiện được
bồi thường thì được bồi thường 100% theo giá trị xây mới của công trình có
tiêu chuẩn kỹ thuật tương đương, không phân biệt quy mô, kết cấu, thời gian
xây dựng (trước đây Nghị định số 90/CP chỉ đền bù theo giá trị còn lại; Nghị
định số 22/1998/NĐ-CP đền bù theo theo chất lượng còn lại đối với nhà kiên
cố như nhà mái bằng, nhà tầng, nhà biệt thự còn nhà cấp 4 và nhà tạm thì
được đền bù 100% theo giá xây mới);
Quy định về việc tính đơn giá vận chuyển đối với những công trình có
thể tháo dời để di chuyển;
Quy định xử lý đối với các trường hợp nhà và công trình chỉ bị phá dỡ
một phần mà phần còn lại vẫn sử dụng được thì xác định như thế nào và bồi
thường, hỗ trợ ra sao;
Quy định về bồi thường cây trồng, vật nuôi, đình chùa, miếu, nhà thờ
họ tộc, quy định xử lý đối với tài sản sau thu hồi có giá trị lớn thì phải thu hồi
và tổ chức bán đấu giá để giảm trừ tiền đầu tư cho công trình.
1.2.3.2. Quy định hỗ trợ người bị thu hồi đất
Nội dung này quy định về hỗ trợ của Nhà nước khi di chuyển đối với
các trường hợp hộ gia đình, cá nhân bị thu hồi đất ở phải di chuyển đến nơi ở
mới (khu tái định cư) thì được hỗ trợ về tiền để di chuyển đồ dùng gia đình,
hỗ trợ gạo, hỗ trợ tiền thuê nhà ở tạm trong thời gian xây nhà mới tại khu tái
định cư;
Quy định hỗ trợ ổn định đời sống;
30
Quy định chuyển đổi nghề và tạo việc làm đối với trường hợp nhà
nước thu hồi đất nông nghiệp, đất lâm nghiệp, đất làm muối, đất nuôi trồng
thuỷ sản thì áp dụng các hình thức chuyển nghề như: đào tạo nghề, hỗ trợ
bằng đất sản xuất kinh doanh như xây kiốt để bán hàng, hỗ trợ bằng đất ở kết
hợp với sản xuất kinh doanh;
Quy định hỗ trợ đối với đất công ích của xã, phường, thị trấn; quy
định về hỗ trợ tiền đất tái định cư đối với trường hợp người bị thu hồi đất
không đủ tiền để mua đất tại khu tái định cư;
Quy định mức hỗ trợ bằng tiền đối với trường hợp hộ gia đình, cá
nhân tự tìm đất tái định cư (không vào khu tái định cư tập trung do nhà nước
xây dựng).
Điểm rất lưu ý trong phần nội dung hỗ trợ là quy định về "Hỗ trợ
khác". Tức là ngoài những quy định hỗ trợ kể trên, căn cứ tình hình thực tế
chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh quyết định "hỗ trợ khác" cho phù hợp với
tình hình thực tiễn tại địa phương. Nội dung này được coi là điểm nút để tháo
gỡ ách tắc trong công tác bồi thường hỗ trợ nhằm ổn định đời sống và sản
xuất cho người dân bị thu hồi đất.
1.2.3.2. Quy định phương thức và mức tài trợ tái định cư
Nội dung tái định cư quy định về điều kiện bắt buộc phải xây dựng
các khu tái định cư đa dạng về diện tích, kích thước. Cụ thể, khu tái định cư
phải được xây dựng đồng bộ về cơ sở hạ tầng (mặt bằng, hệ thống hạ tầng,
cấp thoát nước, cây xanh, thông tin liên lạc...).
Khu tái định cư phải được chuẩn bị trước khi tiến hành công tác bồi
thường, giải phóng mặt bằng. Các khu tái định cư phải được lập theo trình tự
về đầu tư xây dựng. Việc bố trí tái định cư phải đảm bảo nguyên tắc ưu tiên
hộ chấp hành, hộ gia đình chính sách và phải được thực hiện một cách công
khai, dân chủ để mọi người dân bị thu hồi đất biết, có điều kiện tham gia, lựa
31
chọn. Tuyệt đối không được áp đặt, không được bố trí tái định cư trái với các
nguyên tắc nêu trên.
1.2.4. Các nhân tố ảnh hưởng đến chính sách bồi thường, hỗ trợ
và tái định cư đối với người dân bị thu hồi đất
1.2.4.1. Cơ sở pháp lý liên quan đến việc thu hồi đất
Chính sách bồi thường, hỗ trợ và tái định cư đối với người dân bị thu hồi
đất là chính sách công liên quan đến nhiều cơ quan và lĩnh vực quản lý nhà
nước, nên cần dựa trên cơ sở pháp lý đầy đủ, nhất quán, có hiệu lực thực thi cao.
Cơ sở pháp lý quan trọng nhất là Luật Đất đai. Đây là căn cứ pháp lý
nền tảng để người thực hiện chính sách bồi thường, hỗ trợ và tái định cư dựa
vào khi xác định cách thức bồi thường, mức bồi thường, giá bồi thường và các
biện pháp hỗ trợ di chuyển, chuyển đổi nghề nghiệp và tạo việc làm, hỗ trợ ổn
định sản xuất và đời sống cho người dân bị thu hồi đất.
Cơ sở pháp lý quan trọng thứ hai là văn bản luật về tổ chức nhà nước.
Bởi vì, để công tác bồi thường, giải phóng mặt bằng thực hiện nhanh, chính xác
và có hiệu quả thì chính sách bồi thường, hỗ trợ và tái định cư phải được hoạch
định ở cấp có đủ thông tin, thẩm quyền và giao cho cấp có năng lực thực hiện.
Ngược lại, nếu chính sách bồi thường, hỗ trợ và tái định cư không được hoạch
định và thực hiện như vậy sẽ gặp nhiều khó khăn vướng mắc, thậm chí thất bại.
Cơ sở pháp lý quan trọng thứ ba là văn bản luật về quản lý tài chính
công. Bởi vì chính sách bồi thường, hỗ trợ và tái định cư liên quan đến nhiều
chính sách khác như chính sách tài chính trong việc giao đất, cho thuê đất,
chuyển mục đích sử dụng đất, chuyển nhượng đất; chính sách thuế đất; chính
sách định giá đất v.v... Ngoài ra các quy định về chi ngân sách nhà nước hỗ
trợ quá trình thu hồi đất cũng có vai trò quan trọng, quyết định tỷ lệ bồi
thường giữa những người sử dụng đất có nguồn gốc khác nhau, quyết định
các mức bồi thường khác nhau....
32
1.2.4.2. Quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất, xây dựng và phát triển
nhà ở
Ở nước ta quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất và quy hoạch xây dựng là
một công cụ của Nhà nước nhằm thống nhất quản lý đất đai và xây dựng công
trình trên đất. Thông qua công tác quy hoạch sử dụng đất, quy hoạch xây
dựng, Nhà nước thực hiện chủ trương phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội, bảo
vệ môi sinh, môi trường, điều chỉnh việc sử dụng đất đai, xây dựng v.v... ngăn
chặn những tiêu cực trong sử dụng đất đai và trong xây dựng các bất động
sản. Các quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất của Nhà nước đều căn cứ vào chiến
lược phát triển kinh tế - xã hội;
Căn cứ vào điều kiện và thực trạng sử dụng đất đai, gắn với quy hoạch
xây dựng Quy hoạch chỉ ra tổng thể quỹ đất sử dụng vào xây dựng đô thị, quỹ
đất xây dựng kết cấu hạ tầng kỹ thuật, các công trình công cộng, lợi ích quốc
gia, quốc phòng, an ninh, quỹ đất xây dựng khu dân cư nông thôn, đất dùng
cho phát triển các ngành kinh tế, văn hóa, giáo dục, y tế, xã hội, thể dục thể
thao. Cụ thể hơn, Nhà nước còn quy hoạch từng khu đất, từng lô đất của từng
vùng, từng đô thị, từng khu dân cư nông thôn, khu phát triển công nghiệp,
thương mại, dịch vụ. Trên cơ sở quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất, quy hoạch
xây dựng, các ngành, các địa phương, các tổ chức, hộ gia đình cá nhân được
Nhà nước giao đất hoặc cho thuê đất phải triển khai sử dụng đất theo đúng
quy hoạch và quy chuẩn xây dựng.
Việc đền bù, hỗ trợ, tái định cư phải theo quy hoạch, Kế hoạch sử dụng
đất đai. Các công trình xây dựng, phát triển nhà ở không đúng theo quy hoạch
thường không được hưởng chính sách bồi thường, hỗ trợ và tái định cư. Chính vì
vậy mức độ khoa học, chuẩn xác, đúng đắn và ổn định của quy hoạch, kế hoạch
sử dụng đất ảnh hưởng rất lớn đến chính sách bồi thường, hỗ trợ và tái định cư.
Nếu khi lập quy hoạch, kế hoạch không tính toán, cân nhắc kỹ khiến
cho quy hoạch, kế hoạch không khoa học, không khả thi, tùy tiện thay đổi thì
33
việc hoạch định và thực thi chính sách bồi thường, hỗ trợ và tái định cư sẽ gặp
gấp bội khó khăn. Nếu quy hoạch, kế hoạch khiến phải thu hồi nhiều đất đai
thuộc khu dân cư, những công trình lớn thì chi phí bồi thường, giải phóng mặt
bằng sẽ rất lớn.
Ngược lại, nếu quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất đai, xây dựng và phát
triển nhà ở ổn định, được tiến hành bài bản, nhất quán, được công khai cho
toàn dân biết, thì chính sách bồi thường, hỗ trợ và tái định cư sẽ thuận lợi hơn.
1.2.4.3. Hoạt động giao đất, cho thuê đất, cấp giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất và quyền sở hữu nhà
Hoạt động giao đất, cho thuê đất quyết định đến tiến độ của công tác
bồi thường, giải phóng mặt bằng. Nếu hoạt động giao đất, cho thuê đất tiến
hành nhanh thì công tác bồi thường sẽ tiến hành nhanh và ngược lại. Trong
quá trình giao đất, cho thuê đất hoạt động thẩm duyệt giữ vai trò quan trọng
và mất nhiều thời gian do liên quan đến nhiều ngành, nhiều cấp. Nếu hoạt
động này được đẩy nhanh thì quá trình bồi thường sẽ thuận lợi hơn.
Cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và quyền sở hữu nhà ở cũng
có vai trò quan trọng trong việc xác định tính hợp pháp của đất và tài sản gắn
liền với đất để làm căn cứ xác định thửa đất đó có được bồi thường hay
không. Trong quá trình cấp chứng nhận quyền sử dụng đất và quyền sở hữu
nhà ở thì hoạt động điều tra, đo đạc, làm các thủ tục nhà đất giữ vai trò quyết
định. Nếu các hoạt động này làm có chất lượng việc bồi thường sẽ dễ dàng hơn.
1.2.4.4. Nguồn vốn để thực hiện công tác bồi thường, giải phóng
mặt bằng
Nguồn vốn để thực hiện công tác bồi thường, giải phóng mặt bằng bao
gồm vốn từ ngân sách nhà nước, vốn của chủ dự án và các nguồn vốn khác.
Vốn từ Ngân sách nhà nước là cơ bản, quan trọng, chiếm tỷ trọng lớn
và thường được bố trí cho những công trình trọng điểm như giao thông, thuỷ
34
điện, đê điều, điện, nước, sân bay, bến cảng, các công trình an sinh xã hội
v.v... Đây là những công trình có số vốn lớn, thời gian thu hồi vốn lâu.
Các nguồn vốn khác, bao gồm vốn của các doanh nghiệp, vốn vay của
các tổ chức phi chính phủ; vốn nhận viện trợ từ nước ngoài và vốn huy động
từ sự đóng góp của nhân dân đều là những nguồn vốn quan trọng và ngày
càng chiếm tỷ trọng lớn trong cơ cấu nguồn vốn.
Nguồn vốn để thực hiện công tác bồi thường, giải phóng mặt bằng là
một trong những nhân tố quyết định đến tiến độ của công tác giải phóng mặt
bằng. Thực tiễn cho thấy, rất nhiều công trình do thiếu vốn hoặc bố trí vốn
không kịp thời nên quá trình thực hiện đã phát sinh rất nhiều vướng mắc. Về
nguyên tắc ngay sau khi phương án bồi thường được phê duyệt thì phải chi trả
ngay tiền bồi thường cho các hộ gia đình, cá nhân bị thu hồi đất nhưng do
không có tiền hoặc thiếu tiền nên không chi trả kịp thời. Đến khi có tiền chi
trả thì giá đất, giá vật liệu xây dựng tăng cao, người dân không nhận tiền và
đề nghị phải tính trượt giá (tính lại theo giá thị trường) làm nảy sinh thêm vô
vàn khó khăn.
1.2.4.5. Chính sách định giá quyền sử dụng đất của Việt Nam
Điều 11 Nghị định số 69/2009/NĐ-CP của Chính phủ quy định:
1. Khi Nhà nước giao đất có thu tiền sử dụng đất không
thông qua hình thức đấu giá quyền sử dụng đất hoặc đấu thầu dự án
có sử dụng đất, cho thuê đất, phê duyệt phương án bồi thường, hỗ
trợ và tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất và trường hợp doanh
nghiệp Nhà nước tiến hành cổ phần hóa lựa chọn hình thức giao đất
mà giá đất do Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quy định tại thời điểm giao
đất, cho thuê đất, thời điểm quyết định thu hồi đất, thời điểm tính
giá đất vào giá trị doanh nghiệp cổ phần hóa chưa sát với giá
chuyển nhượng quyền sử dụng đất thực tế trên thị trường trong điều
kiện bình thường thì Ủy ban nhân dân cấp tỉnh căn cứ vào giá
35
chuyển nhượng quyền sử dụng đất thực tế trên thị trường để xác
định lại giá đất cụ thể cho phù hợp.
2. Giá đất cụ thể được xác định lại theo quy định tại khoản 1
Điều này không bị giới hạn bởi các quy định tại khoản 5 Điều 1
Nghị định số 123/2007/NĐ-CP ngày 27 tháng 7 năm 2007 của
Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số
188/2004/NĐ-CP ngày 16 tháng 11 năm 2004 về phương pháp xác
định giá đất và khung giá các loại đất [18, tr. 311].
Giá của quyền sử dụng đất là căn cứ quan trọng để tính mức bồi
thường. Ở nước ta Nhà nước quy định giá quyền sử dụng đất có tính đến giá
thị trường. Cách làm này đáp ứng yêu cầu bảo đảm lợi ích cho người sử dụng
đất nhưng gây khó khăn cho xác định mức đền bù. Ví dụ, khi xác định giá đất
để tính mức bồi thường cán bộ thực hiện bồi thường phải nắm được giá thị
trường. Với chế độ sở hữu tư nhân, đất đai có thể được mua bán tự do dẫn đến
đất đai có "Giá trị trao đổi". Giá trị của đất đai được biểu hiện dưới hình thức
tiền tệ, đó cũng chính là "Giá cả của đất đai" và cũng là "Giá đất" mà chúng ta
thường gọi. Ở Việt Nam không có giá đất, chỉ có giá quyền sử dụng đất theo
mục đích.
Về lý thuyết, giá đất phụ thuộc vào độ màu mỡ của đất, vị trí của lô
đất, cung cầu trên thị trường, khả năng sinh lợi của đất; loại, cấp hạng, vị thế
khu vực của đất… Giá thực tế trên thị trường là kết quả tổng hợp của các yếu
tố trên đây và bên trong đó còn chịu tác động của nhiều yếu tố khác như: sự
khan hiếm, lòng ham muốn, khả năng mua, có thị trường hay không vv... Ở
nước ta Nhà nước có chính sách quy định về nguyên tắc và các phương pháp
xác định giá. Có phương pháp được áp dụng phổ biến để định giá cho nhiều
loại đất, nhưng cũng có phương pháp chỉ sử dụng trong phạm vi hẹp để định
giá một vài loại đất đai đặc thù. Tuy nhiên, trong công tác định giá không
phải mỗi phương pháp định giá chỉ sử dụng riêng, mà còn có sự kết hợp giữa
36
các phương pháp. Điều này càng làm cho việc xác định giá thêm khó khăn.
Các phương pháp định giá chủ yếu bao gồm:
* Phương pháp so sánh trực tiếp
Phương pháp này là phương pháp xác định mức giá thông qua việc
tiến hành phân tích các mức giá thực tế đã chuyển nhượng trên thị trường của
các thửa đất tương tự (nhà ở hoặc đất đai trống) để so sánh, xác định giá của
thửa đất cần định giá. Đây là phương pháp hay được sử dụng nhất để định giá
thửa đất là nhà ở hoặc đất trống ở các khu vực dân cư hoặc thương mại dịch vụ.
* Phương pháp thu nhập
Phương pháp này là một phương pháp định giá được sử dụng để ước
tính giá trị thị trường của một tài sản dựa trên các thu nhập mà tài sản đó đem
lại hoặc có khả năng đem lại trong tương lai. Giá trị tài sản được ước tính
bằng việc vốn hoá thu nhập ước tính trong tương lai kể cả tổng thu nhập hoặc
thu nhập ròng. Phương pháp này được áp dụng chủ yếu để định giá những
thửa đất có khả năng cho thu nhập hoặc có khả năng sinh lời như khách sạn,
nhà hàng, đất xây dựng các khu công nghiệp.
* Phương pháp chiết trừ
Phương pháp này là phương pháp xác định giá đất của thửa đất có tài
sản gắn liền với đất bằng cách loại trừ phần giá trị tài sản gắn liền với đất ra
khỏi tổng giá trị đất (bao gồm giá trị của đất và giá trị của tài sản gắn liền với
đất). Phương pháp này thường được sử dụng trong trường hợp không có đủ số
liệu về giá thị trường của thửa đất trống tương tự để áp dụng phương pháp so
sánh trực tiếp, trong khi đó có thể thu thập số liệu về giá thị trường của các
thửa đất có tài sản gắn liền với đất tương tự với thửa đất cần xác định giá.
* Phương pháp thặng dư
Phương pháp này là phương pháp xác định giá đất của thửa đất trống
có tiềm năng phát triển theo quy hoạch hoặc được phép chuyển đổi mục đích
37
sử dụng để sử dụng tốt nhất bằng cách loại trừ phần chi phí ước tính để tạo ra
sự phát triển ra khỏi tổng giá trị phát triển giả định của thửa đất. Phương pháp
này thường được áp dụng trong trường hợp xác định giá đất của các thửa đất
trống có tiềm năng phát triển do thay đổi quy hoạch hoặc do chuyển mục đích
sử dụng đất trong khi không có giá chuyển nhượng quyền sử dụng đất tương
tự trên thị trường để áp dụng phương pháp so sánh trực tiếp.
Nói chung, định giá quyền sử dụng đất làm căn cứ tính bồi thường là
khâu khó khăn, phức tạp nhất ở nước ta hiện nay.
1.2.4.6. Năng lực tổ chức thực hiện của cơ quan thực thi chính sách
bồi thường, hỗ trợ và tái định cư
Năng lực tổ chức thực hiện của cơ quan thực thi chính sách bồi
thường, hỗ trợ và tái định cư có ảnh hưởng không nhỏ đến tiến độ, chất lượng
của công tác bồi thường, giải phóng mặt bằng. Nếu cơ quan này có đủ quyền
hạn và con người đồng thời có sự phối hợp một cách đồng bộ, thống nhất giữa
các ngành, các cấp và đặc biệt nếu nhận được sự quan tâm, chỉ đạo thường
xuyên, liên tục của cấp uỷ đảng, sự vào cuộc quyết liệt của cả hệ thống chính
trị cộng với đội ngũ cán bộ làm công tác bồi thường có ý thức trách nhiệm,
công tác tuyên truyền vận động phổ biến chính sách của Nhà nước được làm
tốt thì công tác bồi thường, tái định cư được thực hiện tốt và ngược lại.
Ngoài ra, còn phải kể đến sự hợp tác từ phía những người dân có đất
bị thu hồi. Nếu người dân có ý thức trách nhiệm tốt thì công tác giải phóng
mặt bằng sẽ nhanh chóng. Ngược lại, nếu họ cố ý kéo dài thời gian, không
chịu thực hiện những quy định của Nhà nước thì công tác bồi thường, tái định
cư sẽ rất khó thực hiện.
Ngoài những nhân tố rất cơ bản nêu trên thì điều kiện tự nhiên, điều
kiện kinh tế, điều kiện xã hội cũng có ảnh hưởng không nhỏ đến chính sách
bồi thường, hỗ trợ và tái định cư đối với người dân bị thu hồi đất ở Việt Nam.
38
1.3. KINH NGHIỆM VỀ BỒI THƯỜNG, HỖ TRỢ VÀ TÁI ĐỊNH CƯ ĐỐI
VỚI NGƯỜI DÂN BỊ THU HỒI ĐẤT
1.3.1. Kinh nghiệm về bồi thường, hỗ trợ và tái định cư quốc tế
1.3.1.1. Chính sách bồi thường, hỗ trợ và tái định cư ở Trung Quốc
Ở Trung Quốc, có thể nói, mục tiêu bao trùm lên chính sách bồi
thường, hỗ trợ và tái định cư là hạn chế đến mức tối đa việc thu hồi đất, giải
tỏa mặt bằng, cũng như số lượng người bị ảnh hưởng bởi việc thu hồi đất để
thực hiện dự án đầu tư. Nếu như việc thu hồi đất là không thể tránh khỏi thì
có sự chuẩn bị cẩn thận phương án đền bù, trên cơ sở tính toán đầy đủ lợi ích
của Nhà nước, tập thể và cá nhân, đảm bảo cho những người bị thu hồi đất có
thể khôi phục lại hoặc cải thiện mức sống so với trước khi bị thu hồi đất.
Pháp luật Trung Quốc quy định, khi Nhà nước thu hồi đất thì người sử
dụng đất sau đó có trách nhiệm bồi thường cho người sử dụng đất trước.
Người bị thu hồi đất được thanh toán ba loại tiền: Tiền bồi thường đất, tiền trợ
cấp về tái định cư, tiền bồi thường hoa màu trên đất. Cách tính tiền bồi
thường đất và tiền trợ cấp tái định cư căn cứ theo tổng giá trị tổng sản lượng
của đất những năm trước đây rồi nhân với hệ số. Tiền bồi thường cho hoa
màu, cho các loại tài sản trên đất được tính theo giá cả hiện tại.
Mức bồi thường cho giải tỏa mặt bằng được thực hiện theo nguyên tắc
đảm bảo cho người dân có cuộc sống bằng hoặc cao hơn nơi ở cũ. Việc quản
lý giải phóng mặt bằng được giao cho các cục quản lý tài nguyên đất ở địa
phương đảm nhiệm. Tổ chức, cá nhân được quyền sử dụng thửa đất sẽ trả tiền
thuê cho đơn vị giải tỏa mặt bằng.
Việc bồi thường nhà ở cho dân ở thành phố khác với việc bồi thường
cho dân ở nông thôn, bởi có sự khác nhau về hình thức sở hữu đất đai ở thành
thị và nông thôn. Nhà ở của người dân thành phố, Nhà nước bồi thường bằng
tiền là chính, với mức giá do thị trường đất đai quyết định qua các tổ chức
39
trung gian để đánh giá, xác định giá. Với người dân nông thôn, Nhà nước thực
hiện theo những cách thức rất linh hoạt, theo đó, mỗi đối tượng khác nhau sẽ
có cách bồi thường khác nhau: tiền bồi thường về sử dụng đất; tiền bồi
thường về hoa màu; bồi thường tài sản tập thể.
Theo đánh giá của một số chuyên gia tái định cư, sở dĩ Trung Quốc có
những thành công nhất định trong công tác bồi thường, hỗ trợ và tái định cư là
do đã làm tốt các việc sau đây:
Thứ nhất, đã xây dựng các chính sách và thủ tục rất chi tiết, ràng buộc
đối với các hoạt động tái định cư, đảm bảo mục tiêu tạo cơ hội phát triển cho
người dân tái định cư, tạo các nguồn lực sản xuất cho những người tái định cư.
Thứ hai, năng lực thể chế của các chính quyền địa phương khá mạnh.
Chính quyền cấp tỉnh chịu trách nhiệm hoàn toàn trong việc thực hiện chương
trình bồi thường hỗ trợ tái định cư.
Thứ ba, quyền sở hữu đất đai tập thể làm cho việc thực hiện bồi
thường hỗ trợ tái định cư có nhiều thuận lợi, đặc biệt là ở nông thôn. Tiền đền
bù cho đất đai bị mất không trả cho từng hộ gia đình mà được cộng đồng sử
dụng để tìm kiếm, phát triển đất đai mới hoặc mua của các cộng đồng sở tại
hay dùng để phát triển kết cấu hạ tầng. Chính quyền thôn, xã chịu trách nhiệm
phân chia cho các hộ bị ảnh hưởng.
Bên cạnh những thành công như vậy, chính sách bồi thường, hỗ trợ và
tái định cư của Trung Quốc cũng bộc lộ những tồn tại nhất định mà chủ yếu là
vấn đề việc làm; tốc độ tái định cư chậm, thiếu đồng bộ, thực hiện giải phóng
mặt bằng trước khi xây xong nhà tái định cư [4, tr. 5-7].
1.3.1.2. Chính sách bồi thường, hỗ trợ và tái định cư của Singapore
Ở Singapore mức đền bù thiệt hại căn cứ vào giá trị đất đai của chủ sở
hữu. Các chi phí tháo dỡ, di chuyển hợp lý, chi phí mua vật tư thay thế, thuế
sử dụng nhà mới…đều được tính toán cân đối trong mức đền bù. Nếu người
40
dân không tin tưởng Nhà nước, có thể thuê một tổ chức định giá tư nhân để
định giá lại và chi phí do Nhà nước chịu. Kinh nghiệm xác định giá đền bù
cho thấy, Nhà nước Singapore đền bù giá thấp hơn giá hiện tại, vì giá đất đai
hiện tại đã bao gồm giá trị gia tăng do Nhà nước đầu tư hạ tầng, do đó Nhà
nước điều tiết một phần giá trị đã đầu tư. Nhà nước không đáp ứng yêu cầu
đền bù theo giá trong tương lai.
Ngoài ra, các yếu tố sau đây cũng được xem xét khi đền bù: giá trị đất
gia tăng do công trình công cộng đi ngang qua, Nhà nước sẽ điều tiết; ngược
lại công trình công cộng ảnh hưởng xấu đến thửa đất (như tiếng ồn, khói bụi,
người ngoài có thể nhìn vào nhà…), Nhà nước sẽ tăng đền bù; công trình cắt
manh mún thửa đất hiện hữu, chi phí để hoàn tất thủ tục cho thửa đất còn lại
do Nhà nước đài thọ.
Tuy nhiên, cũng có những yếu tố không chấp nhận khi tính mức đền
bù là: đòi được thưởng để di dời sớm hoặc muốn ở lại chỗ cũ nên đòi tăng đền
bù mới chịu đi; đòi bồi thường vào việc đầu tư thêm vào căn nhà, sau khi đã
có quyết định giải tỏa, trừ khi căn nhà quá tệ cần được sơn sửa lại. Trong
vòng 2 năm công bố giải tỏa mà cố ý xây dựng nhà lớn đẹp để đòi đền bù; đòi
đền bù theo giá đã mua (ý định đầu cơ đất đai); hoạt động kinh doanh nhưng
không có giấy phép, không có căn cứ pháp lý để đền bù; tổ chức, cá nhân sử
dụng đất đai bất hợp pháp. Ngoài ra, sự gia tăng giá đất trong vòng 7 năm do
sự phát triển của hạ tầng công cộng cũng được xem xét điều tiết.
Phương thức thanh toán khi đền bù là trả trước 20% khi chủ nhà thực
hiện việc tháo dỡ, phần còn lại trả khi hoàn tất việc di dời. Nếu hộ gia đình có
nhu cầu cấp bách về nhà ở, sẽ thu xếp cho thuê với giá phù hợp.
Ngoài ra, Nhà nước Singapore còn có các chính sách hỗ trợ khác đảm
bảo quyền lợi của chủ đất phải di dời. Trong quá trình đền bù, chủ đất có
quyền khiếu kiện về giá trị đền bù. Hội đồng đền bù sẽ là tổ chức quyết định
41
giá trị đền bù đối với người khởi kiện. Nếu chủ đất vẫn không đồng ý có thể
đưa vụ việc lên Tòa Thượng thẩm.
Ở Singapore không có trường hợp người nông dân tự chuyển nhượng
đất đai cho nhà đầu tư để xây dựng các khu dân cư như ở Việt Nam. Lý do là
thời gian sử dụng đất đai khác nhau và Nhà nước không cho phép. Mọi việc
làm thay đổi mục đích sử dụng phải thông qua cơ quan nhà nước. Nhà nước
đóng vai trò trung gian giữa người sử dụng đất và chủ đầu tư, tránh những
tiêu cực trong việc đền bù giải tỏa và không để ảnh hưởng xấu đến việc thực
hiện dự án theo quy hoạch nói riêng và phát triển kinh tế nói chung.
Nhìn chung, chính sách đền bù ở Singapore được tiến hành thận trọng,
nhất là đất đai của tư nhân, với các văn bản luật quy định chặt chẽ, tạo điều kiện
thuận lợi và chính sách đền bù công bằng đối với mọi tổ chức, cá nhân, do đó
tạo được sự đồng thuận cao trong xã hội. Việc giải tỏa di dời ít làm xáo trộn
công ăn việc làm của người dân (do đất đai nước Singapore quá nhỏ bé nên
việc đi lại thuận tiện). Tỷ lệ cưỡng chế không đáng kể, dưới 1%. [4, tr. 15-16].
1.3.2. Kinh nghiệm của một số địa phương trong nước
1.3.2.1. Kinh nghiệm của Đà Nẵng
Thành phố Đà Nẵng đã và đang được đánh giá là thành phố thực hiện
tốt nhất cả nước về công tác bồi thường, giải phóng mặt bằng. Theo đánh giá của
Giáo sư, Tiến sỹ Trịnh Duy Luân, Viện Xã hội học - Viện Khoa học Xã hội
Việt Nam, thì trong vấn đề thu hồi đất đai, giải phóng mặt bằng và tái định cư
có đến 92% người dân thành phố Đà Nẵng sẵn sàng chấp hành" [3, tr. 20].
Có được kết quả tốt như vậy là do thành phố đã làm tốt những công
việc sau:
Một là, trong quá trình kiểm đếm đất đai, vật kiến trúc, cây cối hoa
màu làm cơ sở để lập phương án bồi thường, hỗ trợ và tái định cư, đại đa số
các hộ gia đình trong diện bồi thường giải phóng mặt bằng đã được tham gia.
42
Điều này cho thấy mức độ công khai hóa rất cao của chính quyền thành phố.
Vì thế, quá trình giải tỏa, chỉnh trang đô thị diễn ra tương đối suôn sẻ, rất ít
những vụ khiếu kiện căng thẳng và hầu như không có điểm nóng. Với ý thức
vì sự phát triển chung của thành phố, rất nhiều người dân đã tự nguyện hiến
đất đai cho Nhà nước mở đường. Từ sự tự nguyện của người dân, các công
trình đã tiết kiệm được khoảng từ 25 - 40% kinh phí đầu tư.
Tại buổi trao đổi với đoàn công tác do ông Phạm Quang Nghị Bí thư
Thành uỷ Hà Nội dẫn đầu vào học tập kinh nghiệm của thành phố Đà Nẵng
về công tác quy hoạch, quản lý đất đai, bồi thường giải phóng mặt bằng, Bí
thư Thành uỷ Đà Nẵng đã "tiết lộ": lãnh đạo thành phố rất quan tâm đến công
tác bồi thường, giải phóng mặt bằng. Trước khi triển khai dự án, lãnh đạo
thành phố đã trực tiếp gặp gỡ, đối thoại, vận động người dân trong vùng dự
án. Nếu có từ 80% hộ dân trong diện giải toả thống nhất thực hiện dự án theo
chủ trương thì dự án sẽ được triển khai. Người dân hiểu rằng hiến một phần
đất đai cho Nhà nước họ sẽ thu lợi sau khi đường sá được mở mang do giá trị
nhà, đất của họ sẽ tăng lên. Về việc này, ông Phạm Quang Nghị Bí thư Thành
uỷ Hà Nội đánh giá: Chủ trương, chỉ đạo thực hiện công tác quy hoạch, quản
lý đô thị và xây dựng hạ tầng của Đà Nẵng thể hiện sự nhất quán, kiên quyết,
thống nhất trong các cấp, ngành và tập trung vào một đầu mối. Đồng thời thể
hiện tính năng động, sáng tạo trong việc dự liệu những vấn đề phát sinh trong
cơ chế kinh tế thị trường, sử dụng quỹ đất đai để tạo ra giá trị, điều hoà các lợi
ích, đảm bảo quyền lợi của người dân.
Việc làm trên của thành phố đã đồng thời đạt được 3 mục tiêu sau:
- Khai thác quỹ đất hai bên đường có thể bù đắp chi phí cho dự án
gồm cả tiền làm đường lẫn tiền bồi thường, không còn tình trạng 80% chi phí
dự án dành cho bồi thường, hỗ trợ và tái định cư;
- Không xảy ra bất công bằng trong thu hồi đất đai vì không xảy ra
trường hợp người có đất trước đây ở mặt tiền nay thuộc lộ giới thì mất hết,
43
người trước đây ở phía sau nay lại được ra mặt tiền và được giá đất tăng lên
rất cao;
- Hai bên đường sẽ được quy hoạch lại hiện đại, không để có những
nhà siêu mỏng như Hà Nội. Ví dụ, một con đường dự kiến lộ giới 50 m thì
phải lên kế hoạch thu hồi 150m, Nhà nước sẽ quy hoạch 2 bên đường để khai
thác hợp lý, người có đất ở phía sau vẫn cứ ở phía sau. Cách làm này bảo đảm
hiệu quả cả về kinh tế, xã hội và môi trường.
Hai là, thành phố Đà Nẵng sớm ban hành rõ ràng đơn giá bồi thường,
hỗ trợ đối với từng loại đất đai, từng vị trí đất đai, từng loại nhà cửa, vật kiến
trúc, từng loại cây cối, hoa màu… tạo thuận lợi cho quá trình thực hiện và
kiểm tra giám sát của người dân.
Ba là, trong công tác giải phóng mặt bằng, ngoài các chính sách chung
do Nhà nước quy định, thành phố cũng có những vận dụng sáng tạo cho phù
hợp với tình hình sử dụng đất đai tại địa phương, tập quán sinh sống của
người dân từng vùng đáp ứng nhu cầu, nguyện vọng của nhân dân. Việc làm
này đảm bảo sự công bằng, khách quan và có tính chất động viên, khuyến
khích người bị thu hồi đất nhanh chóng thực hiện giải tỏa, bàn giao mặt bằng
đúng tiến độ.
Bốn là, ở mỗi dự án thành phố đều thành lập Hội đồng giải phóng mặt
bằng. Nếu là dự án lớn liên quan đến nhiều quận, huyện thì do một phó chủ
tịch Uỷ ban nhân dân thành phố làm Chủ tịch hội đồng, các chủ tịch quận,
huyện làm phó. Với các dự án vừa và nhỏ liên quan đến nhiều quận, huyện thì
ranh giới dự án thuộc địa phương nào sẽ do địa phương đó làm Chủ tịch Hội
đồng. Nếu dự án nằm gọn trong địa bàn một quận, huyện thì do chủ tịch quận,
huyện đó đảm nhiệm, các chủ tịch các xã, phường liên quan làm thành viên.
Do đó, mọi vấn đề liên quan đến đền bù giải toả, bố trí tái định cư đều có sự
tham gia trực tiếp của chính quyền địa phương từ lúc bắt đầu cho đến khi kết
thúc dự án.
44
Năm là, thành phố Đà Nẵng là địa phương đầu tiên trong cả nước có
lịch tiếp dân của Chủ tịch Uỷ ban nhân dân Thành phố theo định kỳ hàng
tháng để lắng nghe nguyện vọng, giải quyết những vấn đề bức xúc của người
dân. Các buổi tiếp và trả lời chất vấn công dân được truyền hình trực tiếp để
người dân theo dõi, tham gia ý kiến. Điều này, thể hiện rõ sự quan tâm và
chịu trách nhiệm rất cao của người đứng đầu thành phố [3, tr. 9-13].
1.3.2.1. Kinh nghiệm Thành phố Hồ Chí Minh
Thành phố Hồ chí Minh là trung tâm văn hoá chính trị của các tỉnh
phía Nam, rất năng động trong phát triển kinh tế và hoạt động phù hợp với cơ
chế thị trường. Trong giai đoạn 2004, rất nhiều doanh nghiệp thành phố Hồ
Chí Minh đã nêu ý kiến ủng hộ mạnh mẽ cơ chế thỏa thuận, tạo điều kiện cho
doanh nghiệp thương thảo trực tiếp với người có đất. Sau năm 2004 nhiều dự
án thuộc diện Nhà nước thu hồi đất nhưng đã tự nguyện xin được áp dụng cơ
chế thỏa thuận.
Thành phố Hồ chí Minh là địa phương có diện tích đất chuyển sang sử
dụng cho mục đích phi nông nghiệp lớn nhất so với các địa phương trong cả
nước. Giai đoạn 2001- 2005 chuyển khoảng 18.000ha đất nông nghiệp và đất
chưa sử dụng sang đất công nghiệp dịch vụ và khu đô thị.
Lãnh đạo thành phố đã có cách tiếp cận đất đai rất phù hợp với kinh tế
thị trường. Trên cơ sở ý kiến của người dân, từ đầu năm 2007, Hội đồng nhân
dân thành phố đã có nghị quyết thực hiện bồi thường về đất theo giá thị
trường và cần phải có sự tham gia định giá của các tổ chức hoạt động chuyên
nghiệp trong lĩnh vực thẩm định giá đất. Đến nay, tất cả các trường hợp bồi
thường về đất đều được các tổ chức cung cấp dịch vụ bất động sản thực hiện
thẩm định giá và đó là cơ sở để Ủy ban nhân dân thành phố quyết định về giá
đất để tính bồi thường, hỗ trợ và tái định cư. Hiện nay, ở thành phố Hồ Chí
Minh có 02 tổ chức cung cấp dịch vụ thẩm định giá chủ yếu là Trung tâm tư
vấn dịch vụ thẩm định giá- đơn vị sự nghiệp thuộc Bộ Tài chính và Trung tâm
45
thẩm định giá miền Nam - một đơn vị sự nghiệp thuộc Sở Tài chính Thành
phố Hồ Chí Minh. Theo giám đốc các Trung tâm này thì:
Cơ chế định giá phù hợp với thị trường trước khi Ủy ban nhân dân
thành phố quyết định giá để tính bồi thường là cách triển khai rất khách quan,
bảo đảm được tính đồng thuận giữa cơ quan nhà nước với người bị thu hồi đất.
Giá đất nông nghiệp được xác định theo phương pháp thu nhập không
phù hợp với giá đất trên thị trường, nhất là trường hợp đất nông nghiệp đã có
quy hoạch chuyển sang sử dụng vào mục đích phi nông nghiệp
Áp dụng phương pháp so sánh để định giá đất phi nông nghiệp khi đã
có dự án đầu tư cũng gặp nhiều khó khăn vì khó tìm ra được đất phi nông
nghiệp tương tự với dự án đầu tư tương tự.
Người bị thu hồi đất cũng sử dụng dịch vụ định giá từ các tổ chức dịch
vụ công nhưng hiện nay chúng ta chưa có quy định về cách thức giải quyết
các tranh chấp về giá sau định giá giữa các tổ chức.
Thành phố Hồ chí Minh cũng là nơi đã chấp nhận nhiều doanh nghiệp
ngoài nhà nước tham gia dịch vụ bồi thường, giải phóng mặt bằng. Năm
2007, Ủy ban nhân dân thành phố đã cho phép Tổng Công ty bồi thường, giải
phóng mặt bằng- một doanh nghiệp cổ phần được cung cấp dịch vụ bồi
thường, hỗ trợ và tái định cư để giải phóng mặt bằng như một mô hình thí
điểm. Sự thực đây là mô hình mới, doanh nghiệp ngoài nhà nước được cung
cấp dịch vụ để làm cầu nối giữa cơ quan nhà nước với người dân bị thu hồi
đất. Trong phỏng vấn trực tiếp, Giám đốc Tổng Công ty nói rằng: Tổng công ty
đã cung cấp dịch vụ bồi thường, hỗ trợ và tái định cư để giải phóng mặt bằng
cho 4 dự án lớn, hiện Tổng Công ty hoạt động rất hiệu quả. Hiện Tổng công
ty đã nhận đặt hàng của nhiều doanh nghiệp, không chỉ doanh nghiệp nhà
nước mà của cả các doanh nghiệp không phải của nhà nước. Thời gian thực
hiện luôn ngắn hơn thời gian do bộ máy nhà nước thực hiện [2, tr. 7- 9].
46
1.3.3. Bài học bổ ích rút ra cho tỉnh Quảng Ninh
Thực tiễn sinh động trong thực hiện chính sách bồi thường, hỗ trợ và
tái định cư cả ở nước ngoài và trong nước phân tích ở phần trên đã cung cấp
cho tỉnh Quảng Ninh các bài học có thể vận dụng sau đây:
Thứ nhất, chính sách nhất quán. Dù theo chính sách phân cấp rộng rãi
của Trung Quốc hay theo chính sách tập trung cao như Singapore thì điều
kiện để thực hiện chính sách bồi thường, hỗ trợ và tái định cư phải dựa trên
các quan điểm và nguyên tắc nhất quán. Sự nhất quán nguyên tắc thị trường
và Nhà nước Trung ương đứng ra giải quyết mọi vấn đề liên quan thông qua
một chính sách bồi thường, hỗ trợ và tái định cư thống nhất đã làm cho chính
sách này thực hiện nghiêm chỉnh. Sự nhất quán nguyên tắc thuê đất và phân
cấp rộng rãi cho cơ sở cũng làm cho vấn đề bồi thường, hỗ trợ và tái định cư
vô cùng phức tạp của Trung Quốc có thể thực hiện được mà không gây rối
loạn hoặc ngừng trệ. Tính nhất quán của chính quyền Đà Nẵng cũng đem lại
thành công như vậy.
Thứ hai, chính quyền địa phương, chủ thể thực thi chính sách bồi
thường, hỗ trợ và tái định cư, phải biết cách cụ thể hóa chính sách chung cho
phù hợp với điều kiện thực tế tại địa phương. Ví dụ, cùng trong một nước
nhưng Đà Nẵng và Thành phố Hồ Chí Minh đã có cách làm khác nhau nhưng
đều thành công do biết cách cụ thể hóa chính sách chung. Các thôn xã của
Trung Quốc cũng hành động rất phù hợp với sở nguyện của dân cư địa phương.
Thứ ba, để thành công, chính quyền phải có năng lực tổ chức thực
hiện, nhất là quyết tâm tháo gỡ khó khăn một cách hợp lý và khéo léo. Trung
Quốc đã buộc các nhà đầu tư được giao đất chia xẻ lợi ích với người bị thu
hồi đất. Singapore, mặc dù rất kiên quyết trong thu hồi và giao đất sử dụng
đúng quy hoạch nhưng cũng cho người bị thu hồi đất cơ chế thỏa thuận lại
hoặc kiện tụng trước tòa. Chính quyền Đà Nẵng đã quyết tâm vào cuộc thông
qua các cuộc gặp mặt của lãnh đạo chính quyền và cưỡng chế cần thiết như
47
một biện pháp răn đe kịp thời. Thành phố Hồ Chí Minh sẵn sàng xác định lại
giá đất đền bù khi giá đã xác định trở nên lạc hậu...
Thứ tư, kế hoạch, chương trình giải phóng mặt bằng, bồi thường, hỗ
trợ và tái định cư phải được hoạch định cụ thể, chi tiết, khoa học, hợp lý, công
tâm và phải được công khai hóa để người bị thu hồi đất nhận thức đúng thực
chất vấn đề, tự nguyện hợp tác thực hiện. Thành phố Đà Nẵng là nơi thành
công nhờ làm theo cách này.
Thứ năm, điều hòa lợi ích hợp lý giữa các chủ thể liên quan đến thu
hồi đất để giảm bức xúc xã hội và giải phóng mặt bằng nhanh, chủ động sử
dụng đất đã thu hồi. Thành phố Đà Nẵng đã áp dụng nguyên tắc người di dời
và người ở lại có lợi ích ngang nhau nên giảm tác động tiêu cực của thu hồi
đất. Singapore đã đền bù cho người di dời quyền lợi thỏa đáng nên cũng
không làm mâu thuẫn nảy sinh.
48
Chương 2
THỰC TRẠNG CHÍNH SÁCH BỒI THƯỜNG, HỖ TRỢ
VÀ TÁI ĐỊNH CƯ ĐỐI VỚI NGƯỜI DÂN BỊ THU HỒI ĐẤT
TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH QUẢNG NINH
2.1. ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN, KINH TẾ, XÃ HỘI CỦA TỈNH QUẢNG
NINH ẢNH HƯỞNG ĐẾN CHÍNH SÁCH BỒI THƯỜNG, HỖ TRỢ, TÁI ĐỊNH CƯ
ĐỐI VỚI NGƯỜI DÂN BỊ THU HỒI ĐẤT ĐAI
2.1.1. Điều kiện tự nhiên, xã hội của tỉnh Quảng Ninh
Quảng Ninh là tỉnh miền núi ven biển, thuộc vùng duyên hải Đông
bắc Việt Nam, gồm hai miền: Đông Quảng Ninh và Tây quảng Ninh. Miền
Đông trước đây là tỉnh Hải Ninh cũ. Khu vực miền Tây gồm hai tỉnh Quảng
Yên và đặc khu Hồng Gai được hợp nhất thành tỉnh Quảng Hồng. Năm 1948
liên tỉnh Quảng Hồng được chia lại thành tỉnh Quảng Yên và đặc khu Hồng
Gai. Năm 1955, tỉnh Quảng Yên và đặc khu Hồng Gai hợp nhất trở lại, lập ra
khu Hồng Quảng. Đầu năm 1964 hợp nhất hai tỉnh Hải Ninh và Hồng Quảng
thành tỉnh Quảng Ninh.
Phía bắc Quảng Ninh giáp tỉnh Quảng Tây Trung Quốc với đường biên
giới dài 132km. Hướng Đông nhìn ra vịnh Bắc Bộ với hải giới 250km là một
phần bờ biển quốc gia, chứa đựng nhiều cảnh đẹp kỳ thú của vùng Đông Bắc
Tổ quốc. Phía Tây Bắc giáp Lạng Sơn với địa giới dài 160km. Phía Tây giáp
tỉnh Bắc Ninh. Phía Nam giáp Hải Phòng, Hải Dương và Hưng Yên với tổng
chiều dài địa giới phía Tây Nam là 108km. Chiều từ Bắc xuống Nam dài 102km,
từ Đông sang Tây dài 195km, tổng chiều dài ranh giới Quảng Ninh là 550km.
Dân số toàn tỉnh Quảng Ninh hiện nay có 1.144.381 người, trong đó
nữ có 558.793 người. Tỷ lệ dân số sống ở khu vực thành thị của Quảng Ninh
đứng thứ 3 trên toàn quốc (sau Thành phố Hồ Chí Minh và thành phố Đà Nẵng).
49
Dân số thành thị là 575.939 người (chiếm tỷ lệ 50,3%). Dân số ở khu vực
nông thôn là 568.442 người. Tỷ lệ tăng dân số bình quân từ năm 1999 đến
2009 là 1,3%. Quảng Ninh có 22 dân tộc, song chỉ có 6 dân tộc có số người
đạt một nghìn trở lên, cư trú thành những cộng đồng có ngôn ngữ, có bản sắc
dân tộc rõ nét. Quảng Ninh có 243.833,2 ha rừng và đất rừng (chiếm 40%
diện tích đất tự nhiên toàn tỉnh), trong đó rừng tự nhiên chiếm khoảng 80%.
Quảng Ninh có quỹ đất dồi dào với 611.081,3 ha, trong đó 75,370ha đất nông
nghiệp đang sử dụng, 146.019 ha đất lâm nghiệp với nhiều diện tích đất có thể
trồng cỏ phù hợp cho chăn nuôi, khoảng gần 20.000 ha có thể trồng cây ăn
quả [24, tr. 22].
Về giao thông, Quảng Ninh có trục lộ quan trọng nối với Hà Nội bằng
ba tuyến Hải Phòng, Hải Dương, Bắc Ninh; đường 18 nối với đường 5 Hà
Nội- Hải Phòng; đường 10 nối với đồng bằng Bắc Bộ; đường 4 nối Cao Bằng
với Lạng Sơn. Được sự quan tâm của Chính phủ, trong thời gian vừa qua, rất
nhiều công trình giao thông trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh đã, đang và sẽ được
nâng cấp như tuyến đường 18A Cẩm Phả - Móng Cái, tuyến đường 4B, tuyến
đường sắt Uông Bí Hạ Long, Hạ Long - Cái Lân v.v...
Về truyền thống cách mạng, Quảng Ninh có truyền thống yêu nước,
chí kiên cường bất khuất, tinh thần đoàn kết, cần cù sáng tạo.
2.1.2. Điều kiện kinh tế của tỉnh Quảng Ninh
Theo báo cáo chính trị của Ban chấp hành tỉnh Đảng bộ lần thứ XII
(nhiệm kỳ 2006- 2010) thì trong 5 năm gần đây tốc độ tăng trưởng kinh tế của
tỉnh luôn duy trì ở mức cao và ổn định. Tổng sản phẩm GDP tăng bình quân
12,75%/năm. GDP bình quân đầu người năm 2009 khoảng 1000đôla/người.
Tổng thu ngân sách trên địa bàn tăng bình quân 10,65%/năm, trong đó thu nội
địa chiếm 21,95%/năm. Từ năm 2003 đến nay nguồn thu nội địa đã đáp ứng
được nhu cầu chi và có đóng góp tích cực cho ngân sách Trung ương.
50
Nhiệm kỳ 2006 - 2010 Quảng Ninh đã triển khai xây dựng tuyến chuyển
tải điện 500kv Hà Đông- Hoành Bồ, nâng cấp tuyến điện 110kv, 220kv hiện
có, mở rộng nhà máy nhiệt điện Uông Bí 2, xây dựng mới nhà máy nhiệt điện
Mông Dương - thị xã Cẩm Phả, Hà Khánh - thành phố Hạ Long, triển khai
xây dựng cụm công nghiệp tầu thủy huyện Yên Hưng, hoàn thành việc xây dựng
nhà máy xi măng Thăng Long và Hạ Long, Lam Thạch, Cẩm Phả, xây dựng
khu công nghiệp cảng biển huyện Hải Hà, các khu chế xuất theo quy hoạch đã
được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt dọc tuyến quốc lộ 18A, tập trung cải
tạo hệ thống hạ tầng phục vụ cho các hoạt động du lịch trên Hạ Long, đẩy
nhanh tiến độ quy hoạch và triển khai các dự án đầu tư khu kinh tế Vân Đồn
v.v...Tất cả các dự án, các công trình thời kỳ 2006- 2010 nêu trên, đều phải
thực hiện một khối lượng rất lớn công tác bồi thường, giải phóng mặt bằng.
2.1.3. Những thuận lợi và khó khăn ảnh hưởng đến chính sách
bồi thường, hỗ trợ và tái định cư đối với người dân bị thu hồi đất ở
Quảng Ninh
2.1.3.1. Thuận lợi
Với điều kiện tự nhiên- xã hội và kinh tế như đã nêu ở trên, tỉnh
Quảng Ninh có những thuận lợi cơ bản sau:
Thứ nhất, có tiềm năng thế mạnh về công nghiệp than, công nghiệp
cảng biển và đặc biệt là lợi thế về du lịch với nhiều danh lam thắng cảnh nổi
tiếng thế giới như Vịnh Hạ Long, khu du lịch quốc tế Tuần Châu, Chùa Đồng
Yên Tử thị xã Uông Bí, Chùa Cái Bầu huyện Vân Đồn và đặc biệt là khu kinh
tế Vân Đồn đã và đang được đầu tư rất lớn, là điểm đến của nhiều nhà đầu tư
quốc tế với những dự án lớn đầy triển vọng.
Thứ hai, nguồn tài nguyên thiên nhiên phong phú, lực lượng lao động
dồi dào, sự quan tâm giúp đỡ thường xuyên, liên tục của các ngành, các cấp ở
Trung ương.
51
2.1.3.2. Khó khăn
Bên cạnh những thuận lợi trên, Quảng Ninh cũng có những khó khăn như:
Thứ nhất, diện tích đất đai có thể sử dụng bắt đầu khan hiếm, điều
kiện địa chất, địa hình khí hậu phức tạp gây nhiều trở ngại cho việc mở mang
phát triển đô thị, xây dựng các công trình khác phục vụ cho sự phát triển kinh
tế - xã hội.
Thứ hai, là tỉnh miền núi, nhiều dân tộc, dân cư phân bố không đồng
đều, hệ thống giao thông còn thiếu thốn, thu nhập của người dân chưa cao.
Thứ ba, ngân sách của tỉnh còn khá hạn hẹp, khó khăn khi phải chi các
khoản lớn.
2.2. THỰC TRẠNG TRIỂN KHAI CHÍNH SÁCH BỒI THƯỜNG, HỖ TRỢ
VÀ TÁI ĐỊNH CƯ ĐỐI VỚI NGƯỜI DÂN BỊ THU HỒI ĐẤT THEO LUẬT ĐẤT
ĐAI 2003 TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH QUẢNG NINH
2.2.1. Ban hành văn bản cụ thể hóa chính sách của Trung ương về
bồi thường, hỗ trợ và tái định cư đối với người dân bị thu hồi đất ở
Quảng Ninh
Triển khai Luật Đất đai năm 2003 và các văn bản hướng dẫn thi hành
luật như: Nghị định số 181/2004/NĐ-CP ngày 29/10/2004 về thi hành Luật
Đất đai; Nghị định số 197/2004/NĐ-CP ngày 03/12/2004 về bồi thường, hỗ
trợ và tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất; Nghị định số 188/2004/NĐ-CP
ngày 06/11/2004 về phương pháp xác định giá đất và khung giá các loại đất;
Nghị định số 198/2004/NĐ-CP ngày 03/12/2004 về thu tiền sử dụng đất; Nghị
định số của Chính phủ số 17/2006/NĐ-CP ngày 27 tháng 01 năm 2006 về sửa
đổi, bổ sung một số điều của các nghị định hướng dẫn thi hành Luật Đất đai
và Nghị định số 187/2004/NĐ-CP về việc chuyển công ty Nhà nước thành
công ty cổ phần; Nghị định số 123/2007/NĐ-CP ngày 27/7/2007 của Chính
phủ về sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 188/2004/NĐ-CP ngày
52
16/11/2004 về phương pháp xác định giá đất và khung giá các loại đất; Nghị
định số 84/2007/NĐ-CP ngày 25/5/2007 quy định bổ sung về việc cấp giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất, thu hồi đất, thực hiện quyền sử dụng đất, trình
tự, thủ tục bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất và giải
quyết khiếu nại về đất đai; Bồi thường, hỗ trợ về đất đai; Nghị định số
69/2009/NĐ-CP ngày 13/8/2009 của Chính phủ quy định bổ sung về quy
hoạch sử dụng đất, giá đất, thu hồi đất, bồi thường, hỗ trợ và tái định cư; các
Thông tư hướng dẫn thi hành các Nghị định này, tỉnh Quảng Ninh đã ban
hành rất nhiều văn bản cụ thể hóa cho phù hợp với đặc thù của tỉnh nhà. Về
bồi thường, hỗ trợ và tái định cư đối với người dân bị thu hồi đất, tỉnh đã ban
hành Quyết định số 1122/2005/QĐ- UB ngày 20/4/2005; Quyết định số
4466/QĐ- UB ngày 01/12/2005 sửa đổi, bổ sung một số điều của Quyết định
số 1122/2005/QĐ- UB của Ủy ban nhân dân tỉnh. Đặc biệt ngày 18/02/2010
Ủy ban nhân dân dân tỉnh Quảng Ninh đã ban hành bản quy định mới về
chính sách bồi thường, hỗ trợ và tái định cư kèm theo Quyết định số
499/2010/QĐ- UB, thay thế các quyết định nêu trên.
Nội dung cơ bản của bản quy định kèm theo Quyết định số
499/2010/QĐ- UB của Ủy ban nhân dân tỉnh Quảng Ninh gồm 8 chương, 68
điều. Dưới đây là một số nội dung cơ bản quan trọng của bản quy định này.
2.2.1.1. Bồi thường, hỗ trợ về đất
- Xác định loại đất để bồi thường là đất ở hay đất vườn là nội dung cơ
bản, quan trọng nhất. Để xác định được đất ở, mức bồi thường (tỷ lệ bồi
thường) thỏa đáng, tỉnh Quảng Ninh quy định như sau:
- Xác định diện tích đất ở căn cứ vào giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất đã cấp theo đúng quy định của pháp luật về đất đai. Trường hợp chưa
được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thì căn cứ hạn mức giao đất ở
hoặc hạn mức công nhận đất ở cho hộ gia đình, cá nhân do Ủy ban nhân dân
tỉnh quy định tại thời điểm có quyết định thu hồi đất.
53
- Vị trí, ranh giới phần đất ở trong thửa đất có nhà ở được xác định
theo vị trí, ranh giới ghi trên giấy tờ về quyền sử dụng đất. Trường hợp chưa
có giấy tờ về quyền sử dụng đất hoặc có giấy tờ nhưng trong giấy không ghi
rõ vị trí, ranh giới phần diện tích đất ở trong thửa đất có nhà ở thì Phòng Tài
nguyên và Môi trường cấp huyện và Ủy ban nhân dân cấp xã xác định rõ vị
trí, ranh giới phần diện tích đất ở làm cơ sở xác định bồi thường, hỗ trợ đất ở
và các loại đất khác trong cùng thửa đất có diện tích đất ở.
- Hộ gia đình, cá nhân đã được bồi thường, hỗ trợ về đất ở do ảnh
hưởng bởi các dự án trước, phần diện tích đất còn lại sau khi bị thu hồi chưa
được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nay lại bị thu hồi tiếp để giải
phóng mặt bằng thì diện tích đất ở để bồi thường, hỗ trợ là diện tích đất thực
tế bị thu hồi nhưng tối đa chỉ bằng hạn mức giao đất ở, công nhận đất ở xác
định ở trên trừ (-) đi diện tích đất ở đã được bồi thường, hỗ trợ của các dự án
trước. Phòng Tài nguyên và Môi trường cấp huyện chủ trì, phối hợp với Ủy
ban nhân dân cấp xã và tổ chức được giao nhiệm vụ bồi thường, hỗ trợ và tái
định cư xác định diện tích đất ở để bồi thường.
- Giá đất để tính bồi thường, hỗ trợ được xác định theo nguyên tắc sát
với giá thị trường trong điều kiện bình thường và không bị giới hạn bởi khung
giá của Chính phủ. Rút kinh nghiệm các địa phương quy định giá đất ở trong
bảng giá đất chỉ bằng khoảng 70% giá thị trường khiến người dân yêu cầu
phải điều chỉnh giá đất (không chấp nhận giá đất do Ủy ban nhân dân tỉnh ban
hành theo quy định của Luật Đất đai), tỉnh Quảng Ninh quy định phải xác
định được giá đất ở sát với giá thị trường trong điều kiện bình thường.
- Quy định cách xác định giá đất đai ở để tính hỗ trợ đất đai nông
nghiệp trong khu dân cư.
+ Hộ gia đình, cá nhân khi bị thu hồi đất vườn, ao trong cùng thửa đất
có nhà ở trong khu dân cư nhưng không được công nhận là đất ở; đất vườn,
54
ao trong cùng thửa đất có nhà ở riêng lẻ; đất vườn, ao trong cùng thửa đất có
nhà ở dọc kênh mương và dọc tuyến đường giao thông thì ngoài việc được bồi
thường theo giá đất nông nghiệp trồng cây lâu năm còn được hỗ trợ bằng 50%
giá đất ở của thửa đất đó; diện tích được hỗ trợ là diện tích thực tế bị thu hồi
nhưng tối đa không quá 05 lần hạn mức giao đất ở tại địa phương. Giá đất ở
để tính hỗ trợ là giá bồi thường của thửa đất ở đó.
+ Hộ gia đình, cá nhân bị thu hồi đất nông nghiệp trong địa giới hành
chính phường, trong khu dân cư thuộc thị trấn, khu dân cư nông thôn; thửa
đất nông nghiệp tiếp giáp với ranh giới phường, ranh giới khu dân cư có đủ
điều kiện được bồi thường thì ngoài việc được bồi thường theo giá đất nông
nghiệp cùng mục đích sử dụng còn được hỗ trợ như sau:
+ Đối với đất lâm nghiệp, đất bãi triều: Hỗ trợ bằng 20% giá đất ở
trung bình các mức giá đất ở theo diện tích đất ở trong ranh giới khu đất dự án
bị thu hồi.
+ Đối với đất nông nghiệp còn lại: Hỗ trợ bằng 35% giá đất ở trung
bình các mức giá đất ở theo diện tích đất ở trong ranh giới khu đất dự án bị
thu hồi.
+ Trường hợp khu vực thực hiện dự án không có đất ở bị thu hồi thì
giá đất ở để tính hỗ trợ tính theo phương pháp trung bình các mức giá đất ở
liền kề với khu đất bị thu hồi (nếu không có liền kề thì lấy các mức giá đất ở
gần nhất xung quanh ranh giới khu vực đất bị thu hồi để thực hiện dự án).
Diện tích đất ở để tính là diện tích đất ở theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất, trường hợp chưa được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất lấy theo
hạn mức đất ở Ủy ban nhân dân tỉnh quy định đối với thửa đất đó. Ủy ban
nhân dân cấp huyện có trách nhiệm xác định các mức giá và diện tích đất ở để
làm cơ sở tính hỗ trợ.
+ Giá đất ở trung bình để tính hỗ trợ được tính theo công thức sau:
55
∑
∑
=
==n
i
n
i
Si
giSiG
1
1
.
Hay Sn...2S1S
gn.Sn...2g.2S1g.1SG
++++++=
Trong đó:
G : Là giá đất ở bình quân để tính hỗ trợ; gi: Giá đất ở thửa đất thứ i
g1: Giá đất ở của thửa đất thứ nhất; gn: Giá đất ở của thửa đất thứ n.
Si: Diện tích đất ở của thửa đất thứ i; S1: Diện tích đất ở của thửa đất
thứ nhất; Sn: Diện tích đất ở của thửa đất thứ n.
i: Thửa đất ở thứ i; n: Số thửa đất ở làm căn cứ tính hỗ trợ [27, tr. 19-20].
+ Giá đất ở áp dụng để tính hỗ trợ là giá đất trong bảng giá đất hàng
năm do Ủy ban nhân dân tỉnh quy định.
+ Diện tích được hỗ trợ theo diện tích đất thực tế bị thu hồi nhưng
không quá 05 lần hạn mức giao đất ở theo quy định của Ủy ban nhân dân tỉnh
tại thời điểm thu hồi đất. Trường hợp khu đất bị thu hồi có nhiều hạn mức
giao đất ở khác nhau, thì hạn mức giao đất ở để tính hỗ trợ là trung bình cộng
các hạn mức giao đất ở trong khu đất bị thu hồi đó.
+ Khu dân cư thuộc thị trấn, khu dân cư nông thôn được xác định theo
ranh giới của thửa đất có nhà ở ngoài cùng của làng, bản, thôn, ấp, buôn,
phum, sóc và các điểm dân cư tương tự.
- Quy định xử lý một số trường hợp cụ thể về bồi thường, hỗ trợ về
đất đai.
+ Đối với đất ở: Diện tích đất còn lại sau thu hồi nhỏ hơn diện tích tối
thiểu được phép xây dựng nhà ở, nếu người bị thu hồi đất có yêu cầu Nhà
nước thu hồi phần diện tích còn lại thì cơ quan nhà nước có thẩm quyền ra
quyết định thu hồi đất để sử dụng theo quy hoạch chi tiết đô thị và quy hoạch
56
điểm dân cư nông thôn. Việc bồi thường, hỗ trợ về đất thực hiện theo quy
định chung.
Trường hợp diện tích đất ở còn lại lớn hơn diện tích tối thiểu được
phép xây dựng nhà ở nhưng không phù hợp với quy hoạch hoặc không đủ
điều kiện để xây dựng nhà ở thì được bồi thường, hỗ trợ theo mức chung.
Hộ gia đình, cá nhân bị thu hồi đất ở hoặc diện tích đất ở còn lại
không đủ diện tích xây dựng nhà ở theo quy định nhưng phần diện tích đất
nông nghiệp, đất vườn, ao liền kề với đất ở còn lại phù hợp với qui hoạch thì
được phép chuyển mục đích sử dụng đất theo quy định của Ủy ban nhân dân
tỉnh về hạn mức đất ở và thực hiện tái định cư tại chỗ. Hộ gia đình, cá nhân
phải thực hiện nghĩa vụ tài chính về đất đối với Nhà nước.
+ Đối với đất nông nghiệp: diện tích đất nông nghiệp còn lại không
còn điều kiện để canh tác thì được bồi thường hoặc hỗ trợ theo mức chung.
Diện tích đất nông nghiệp còn lại đủ hay không đủ điều kiện để canh tác do
Ủy ban nhân dân cấp huyện xác định.
- Diện tích đất ở, đất nông nghiệp sau khi đã bồi thường, hỗ trợ giao
cho Ủy ban nhân dân cấp xã quản lý. Trường hợp các hộ tự chuyển nhượng
cho nhau thì không được bồi thường, không được hỗ trợ.
- Trường hợp thu hồi đất mà diện tích đo đạc thực tế khác với diện tích
ghi trên giấy tờ về quyền sử dụng đất thì thực hiện bồi thường, hỗ trợ như sau:
+ Nếu diện tích đo đạc thực tế nhỏ hơn diện tích ghi trên giấy tờ về
quyền sử dụng đất mà phần diện tích thiếu này không do chuyển nhượng, cho
tặng, có ranh giới rõ ràng và người sử dụng đất đã nộp thuế hàng năm đầy đủ
với Nhà nước thì phần diện tích thiếu đó được hỗ trợ bằng 70% theo đơn giá
bồi thường đất nông nghiệp; nếu có nộp thuế cho Nhà nước nhưng nộp không
đầy đủ thì chỉ được hỗ trợ 50% theo giá bồi thường đất nông nghiệp. Nếu
không nộp thuế thì không được hỗ trợ.
57
+ Nếu diện tích đo đạc thực tế nhiều hơn diện tích ghi trên giấy tờ về
quyền sử dụng đất thì thực hiện như quy định.
- Đối với diện tích đất nông nghiệp được Nhà nước cấp giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất sử dụng ổn định lâu dài mang tên một chủ hộ (hộ
chính chủ). Tại thời điểm có quyết định thu hồi đất các cặp vợ chồng đã tách
hộ và đang sử dụng một phần diện tích đất nông nghiệp mang tên hộ chính
chủ tại thời điểm có Quyết định thu hồi đất thì Ủy ban nhân dân cấp xã xác
nhận làm cơ sở để bồi thường, hỗ trợ cho các cặp vợ chồng đã tách hộ (nếu hộ
chính chủ đồng ý).
- Diện tích đất ngoài phạm vi thu hồi theo quyết định thu hồi đất,
trong quá trình thi công dự án bị ảnh hưởng như ngập úng, vùi lấp… thì chủ
dự án có trách nhiệm khôi phục lại hiện trạng như cũ, nếu không khôi phục
được thì báo cáo cấp có thẩm quyền quyết định thu hồi đất tạm thời và thực
hiện bồi thường như quy định.
2.2.1.2. Bồi thường, hỗ trợ về tài sản
- Tỉnh Quảng Ninh quy định việc bồi thường, hỗ trợ đối với nhà và
công trình bị phá dỡ một phần theo nguyên tắc sau:
+ Nhà, công trình bị cắt xén, phá dỡ một phần mà phần còn lại không
đảm bảo khả năng chịu lực thì được bồi thường toàn bộ nhà, công trình;
+ Nhà bị cắt xén, phá dỡ một phần mà phần còn lại còn sử dụng được
nhưng diện tích còn lại chỉ còn cầu thang, nhà vệ sinh thì được bồi thường
toàn bộ diện tích nhà.
+ Nhà bị cắt xén, phá dỡ một phần mà phần còn lại còn sử dụng được
thì ngoài việc được bồi thường phần diện tích bị cắt xén tính đến chỉ giới thu
hồi đất còn được tính bồi thường bổ sung theo quy định của quy chế.
+ Bồi thường bổ sung phần nhà, công trình bị ảnh hưởng do cắt xén,
phá dỡ: Nhà, công trình bị cắt xén, phá dỡ một phần thì ngoài phần bồi
58
thường diện tích phá dỡ đến chỉ giới cắt xén theo quy hoạch, còn được bồi
thường bổ sung theo quy định sau:
Đối với nhà khung bê tông cốt thép hoặc kết cấu khung thép thì diện
tích sàn xây dựng được bồi thường bổ sung tính từ chỉ giới thu hồi đất đến
khung kết cấu chịu lực gần nhất;
Đối với nhà kết cấu xây gạch chịu lực bị cắt xén một phần, không ảnh
hưởng tới an toàn của căn nhà thì diện tích sàn xây dựng được bồi thường bổ
sung bằng chiều rộng mặt đứng nhà trước khi cắt xén nhân với chiều sâu bằng
1m và nhân với số tầng nhà bị cắt xén.
+ Bồi thường hoàn trả mặt đứng ngôi nhà:
Nhà, công trình bị cắt xén, phá dỡ một phần mà phần còn lại vẫn sử
dụng được thì ngoài việc bồi thường theo quy định nêu trên còn được bồi
thường hoàn trả mặt đứng nhà, công trình theo công thức sau:
Gmđ = Bmđ x Gbđ x Smđ x T
Gmđ: Giá trị phần mặt đứng được bồi thường hoàn trả,
Bmđ: Chiều rộng mặt đứng được xác định như sau:
Bằng chiều rộng mặt đứng nhà trước khi cắt xén trong trường hợp
chiều rộng mặt đứng tại vị trí cắt theo chỉ giới quy hoạch nhỏ hơn chiều rộng
mặt đứng nhà trước khi cắt xén,
Bằng chiều rộng mặt đứng nhà tại vị trí cắt theo chỉ giới quy hoạch
trong trường hợp chiều rộng mặt đứng tại vị trí cắt theo quy hoạch lớn hơn
hoặc bằng chiều rộng mặt đứng nhà trước khi cắt xén.
Gbđ: Đơn giá bồi thường theo quy định của Ủy ban nhân dân tỉnh tính
trên một mét vuông sàn xây dựng.
Smđ: Chiều sâu được quy định bằng 1m,
T: Số lượng tầng bị cắt xén.
59
- Việc bồi thường một phần hoặc toàn bộ công trình quy định này do
Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp huyện quyết định.
- Tùy theo tính chất hợp pháp, hợp lệ của tài sản xây dựng trên đất để
xác định mức bồi thường, hỗ trợ.
Thông thường, chỉ có những tài sản bất hợp pháp xây dựng trên đất
không đủ điều kiện để bồi thường, xây dựng sau ngày 01/7/2004 thì không
được bồi thường. Tùy từng điều kiện cụ thể, xem xét quyết định mức hỗ trợ
cho phù hợp. Về nguyên tắc chỉ xem xét bồi thường, hỗ trợ về đất, tài sản, cây
trồng trên đất thuộc phạm vi thu hồi của dự án. Không bồi thường, không hỗ
trợ về đất và tài sản có trên đất ngoài ranh giới dự án thu hồi. Một số tình
huống cụ thể về việc bồi thường, hỗ trợ đối với nhà, công trình ngoài phạm vi
thu hồi đất nhưng do thi công thực hiện dự án làm ảnh hưởng đến nhà, công
trình nằm ngoài diện tích thu hồi đất thì thực hiện bồi thường, hỗ trợ như sau:
+ Làm mất an toàn cho nhà, công trình thì phải đầu tư xây dựng để
đảm bảo an toàn cho nhà, công trình. Trường hợp không có giải pháp đảm
bảo an toàn cho nhà, công trình thì thực hiện bồi thường, hỗ trợ và tái định cư
theo quy định hiện hành tại thời điểm thu hồi đất.
+ Làm mất đường đi của chủ sở hữu nhà, công trình thì phải làm lại
đường đi. Trường hợp không khắc phục được đường đi, thì thực hiện bồi thường,
hỗ trợ và tái định cư theo quy định hiện hành tại thời điểm thu hồi đất.
+ Gây thiệt hại do thi công công trình:
Gây ngập úng, làm giảm chất lượng nhà, công trình và cây trồng thì
được bồi thường phần tài sản, cây trồng thực tế bị thiệt hại và được chủ đầu tư
xử lý chống ngập úng.
Gây rạn nứt, sạt lở, đổ nhà, công trình thì được bồi thường theo thực
tế bị thiệt hại.
+ Chủ đầu tư có trách nhiệm thực hiện bồi thường cho chủ sở hữu tài
sản bị ảnh hưởng bởi dự án với những quy định nêu trên.
60
2.2.1.3. Chính sách tái định cư
Hộ gia đình, cá nhân khi bị Nhà nước thu hồi đất ở được bố trí tái định
cư khi có một trong các điều kiện sau:
- Hộ gia đình, cá nhân phải di chuyển chỗ ở do bị thu hồi hết đất ở mà
không có chỗ ở nào khác trong địa bàn xã, phường, thị trấn nơi có đất bị thu
hồi (trừ trường hợp hộ gia đình, cá nhân không có nhu cầu tái định cư).
- Hộ gia đình, cá nhân bị thu hồi đất mà phần diện tích đất ở còn lại sau
thu hồi không đủ điều kiện để ở theo quy định của Ủy ban nhân dân cấp tỉnh mà
không có chỗ ở nào khác trong địa bàn xã, phường, thị trấn nơi có đất bị thu hồi.
- Hộ gia đình, cá nhân sử dụng đất ở nằm trong hành lang an toàn khi xây
dựng công trình công cộng có hành lang bảo vệ an toàn phải di chuyển chỗ ở mà
không có chỗ ở nào khác trong địa bàn xã, phường, thị trấn nơi có đất bị thu hồi.
- Trường hợp trong hộ gia đình có nhiều thế hệ (nhiều cặp vợ chồng
theo Luật hôn nhân và gia đình) cùng chung sống đủ điều kiện tách hộ hoặc
có nhiều hộ gia đình có chung quyền sử dụng.
* Quy định về bố trí tái định cư
Trường hợp hộ gia đình, cá nhân được bồi thường đất ở, được giao
đất tái định cư tại khu tái định cư do Nhà nước đầu tư cơ sở hạ tầng hoặc khu
tái định cư do Nhà nước quy hoạch nhưng chưa đầu tư cơ sở hạ tầng (gọi
chung là khu tái định cư do Nhà nước quy hoạch), thì diện tích đất ở được bố
trí tại khu tái định cư do Nhà nước quy hoạch thực hiện như sau:
- Trường hợp diện tích đất ở được bồi thường nhỏ hơn hoặc bằng 1,5 lần
hạn mức giao đất ở, hạn mức công nhận đất ở nơi có đất bị thu hồi do Ủy ban
nhân dân tỉnh quy định thì được một (01) ô đất tái định cư.
- Trường hợp diện tích đất ở được bồi thường lớn hơn từ 1,5 lần đến
2,5 lần hạn mức giao đất ở, hạn mức công nhận đất ở nơi có đất bị thu hồi do
Ủy ban nhân dân tỉnh quy định thì được hai (02) ô đất tái định cư.
61
- Trường hợp diện tích đất ở được bồi thường lớn hơn 2,5 lần hạn mức
giao đất ở, hạn mức công nhận đất ở nơi có đất bị thu hồi do Ủy ban nhân dân
tỉnh quy định thì được bố trí tối đa ba (03) ô đất tái định cư.
- Trường hợp trên một thửa đất có nhà ở, có nhiều thế hệ (nhiều cặp
vợ chồng theo Luật hôn nhân và gia đình) cùng chung sống, có diện tích đất ở
được bồi thường nhỏ hơn hoặc bằng 1,5 lần hạn mức giao đất, hạn mức công
nhận đất ở tại nơi có đất bị thu hồi do Ủy ban nhân dân tỉnh quy định thì được
bố trí tối đa không quá hai (02) ô đất tái định cư kể cả hộ chính chủ.
Trường hợp diện tích đất ở bị thu hồi lớn hơn 1,5 lần đến 2,5 lần hạn
mức giao đất, hạn mức công nhận đất ở tại nơi có đất bị thu hồi do Ủy ban
nhân dân tỉnh quy định thì được bố trí tối đa không quá ba (03) ô đất tái định
cư kể cả hộ chính chủ.
Trường hợp đặc biệt diện tích đất ở được bồi thường lớn hơn 2,5 lần
hạn mức giao đất ở, hạn mức công nhận đất ở nơi có đất bị thu hồi và có từ 04
cặp vợ chồng (theo Luật Hôn nhân và gia đình) trở nên thì Ủy ban nhân dân
cấp huyện báo cáo Ủy ban nhân dân tỉnh xem xét quyết định [27, tr. 45].
- Đối với các dự án đầu tư xây dựng kinh doanh hạ tầng thu hồi đất
của các hộ dân để thực hiện dự án: Chủ dự án có nghĩa vụ dành quỹ đất ở
trong quỹ đất kinh doanh của dự án ở những vị trí thuận tiện, có lợi thế để bố
trí tái định cư cho các hộ bị thu hồi đất đủ điều kiện được bố trí tái định cư do
ảnh hưởng của dự án và được thể hiện trong phương án bồi thường tổng thể.
- Hộ gia đình, cá nhân sử dụng đất ở khi Nhà nước thu hồi thuộc đối
tượng không được bồi thường về đất theo quy định tại khoản 2 Điều 14 Nghị
định số 197/2004/NĐ-CP mà không còn nơi ở nào khác thì tuỳ từng trường
hợp cụ thể Uỷ ban nhân dân cấp huyện xem xét giao 01 (một) ô đất tái định
cư và phải nộp tiền sử dụng đất theo giá đất do Ủy ban nhân dân tỉnh quy định
theo Điều 11 Nghị định số 69/2009/NĐ-CP của Chính phủ. Trường hợp này
không được hỗ trợ tái định cư theo Điều 19 Nghị định số 69/2009/NĐ-CP.
62
- Nhà nước khuyến khích hộ gia đình, cá nhân tự tìm đất xây dựng nhà
ở khi Nhà nước thu hồi đất ở phải di chuyển đến nơi ở mới phù hợp với kế
hoạch, qui hoạch sử dụng đất được cấp có thẩm quyền phê duyệt theo nguyên
tắc tự nguyện.
- Thu tiền sử dụng đất khi cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho
hộ gia đình, cá nhân nhận đất tại các khu tái định cư:
+ Hộ gia đình, cá nhân được Nhà nước giao đất ở tại các khu tái định
cư đều phải nộp tiền sử dụng đất theo giá đất do Ủy ban nhân dân tỉnh quy
định tại thời điểm giao đất. Trường hợp vị trí đất Ủy ban nhân dân tỉnh chưa
quy định giá hoặc đã quy định nhưng chưa sát với giá chuyển nhượng quyền
sử dụng đất thực tế trên thị trường trong điều kiện bình thường tại thời điểm
giao đất thì Ủy ban nhân dân cấp huyện xây dựng giá thu tiền sử dụng, báo
cáo hội đồng thẩm định giá đất của tỉnh trình Ủy ban nhân dân tỉnh phê duyệt.
+ Đối với các dự án đầu tư xây dựng kinh doanh hạ tầng thu hồi đất ở
của các hộ dân để thực hiện dự án: Chủ dự án có trách nhiệm xây dựng
phương án giá đất để bố trí tái định cư báo cáo Ủy ban nhân dân cấp huyện
nơi thực hiện trình Hội đồng thẩm định giá đất tỉnh để trình Ủy ban nhân dân
tỉnh phê duyệt.
- Hỗ trợ bằng tiền cho hộ gia đình, cá nhân bị thu hồi đất ở, đủ điều
kiện được bố trí tái định cư:
+ Hộ gia đình, cá nhân nhận đất ở tại khu tái định cư mà số tiền được
bồi thường, hỗ trợ về đất nhỏ hơn giá trị một suất đất ở tái định cư tối thiểu thì
được hỗ trợ khoản chênh lệch đó; trường hợp không nhận đất ở tại khu tái
định cư thì được nhận tiền tương đương với khoản chênh lệch đó.
Giá trị một suất đất ở tái định cư tối thiểu được xác định theo giá đất ở
tại khu tái định cư do Ủy ban nhân dân tỉnh quy định nhân với diện tích một
suất đất ở tái định cư tối thiểu là 60m2.
63
+ Trường hợp hộ gia đình, cá nhân bị thu hồi đất ở mà tự lo chỗ ở mà
không nhận khoản tiền hỗ trợ tái định cư quy định theo quy định trên thì được
hỗ trợ một suất đầu tư hạ tầng, mức hỗ trợ cụ thể tùy thuộc vào địa điểm từng
xã, phường, thị trấn.
- Hỗ trợ về chi phí xây dựng nhà ở và các công trình kiến trúc phục vụ
sinh hoạt nơi tái định cư được Nhà nước đầu tư xây dựng hạ tầng kỹ thuật
theo qui hoạch thiết kế được duyệt.
Trường hợp Nhà nước chậm bố trí đất tái định cư cho các hộ gia đình,
cá nhân thuộc diện được bố trí tái định cư vào khu đất ở do Nhà nước đầu tư
xây dựng hạ tầng kỹ thuật theo qui hoạch thiết kế được duyệt mà tại thời điểm
giao đất tái định cư nếu đơn giá bồi thường tài sản, vật kiến trúc theo quy định
của Ủy ban nhân dân tỉnh tăng so với đơn giá bồi thường tài sản, vật kiến trúc
trong phương án bồi thường, hỗ trợ và tái định cư đã phê duyệt thì được hỗ
trợ 100% số tiền chênh lệch.
2.2.1.4. Chính sách đào tạo nghề và tạo việc làm cho người dân bị
thu hồi đất đai
- Hỗ trợ chuyển đổi nghề bằng tiền, là việc chi trả bằng tiền mặt để hộ
gia đình, cá nhân tự học nghề, tự tìm kiếm việc làm. Hình thức hỗ trợ này,
được áp dụng phổ biến ở các địa phương trong tỉnh.
Ưu điểm của hình thức này: Tạo thế chủ động cho người dân bị thu
hồi đất tự chuyển đổi nghề, tự tìm kiếm việc làm cho phù hợp với trình độ học
vấn, lứa tuổi của từng người.
Nhược điểm của hình thức này: Khi nhận được tiền bồi thường, hỗ trợ
người dân đã không sử dụng khoản tiền này để học nghề và tìm kiếm việc làm
mà dùng số tiền này để xây dựng hoặc sửa chữa nhà ở, mua sắm phương tiện,
đồ dùng.
- Hỗ trợ chuyển đổi nghề và tạo việc làm bằng việc giao đất sản xuất
kinh doanh.
64
Ưu điểm của hình thức này: Các hộ dân có nguồn thu nhập ổn định từ
hoạt động sản xuất kinh doanh, khắc phục được nhược điểm của hỗ trợ bằng tiền.
Nhược điểm của hình thức này: Theo quy định của Luật Đất đai thì
thời hạn giao đất cho mục đích sản xuất kinh doanh đa là 70 năm nên không
nhận được sự đồng thuận của người dân bị thu hồi đất. Ngoài ra đối với
những địa phương không có quỹ đất thì không thực hiện được hình thức này.
- Hỗ trợ chuyển đổi nghề bằng hình thức giao đất ở.
Ưu điểm của hình thức này: Khắc phục được nhược điểm về thời hạn
giao đất của hình thức giao đất sản xuất kinh doanh vì thời hạn giao đất ở là
lâu dài.
Nhược điểm của hình thức này: Khó khăn về quỹ đất; tính toán phức
tạp, mất nhiều thời gian và công sức.
2.2.2. Thực trạng tổ chức thực hiện chính sách bồi thường, hỗ trợ và
tái định cư đối với người dân bị thu hồi đất trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh
2.2.2.1. Bộ máy thực hiện chính sách bồi thường, hỗ trợ và tái định
cư đối với người dân bị thu hồi đất trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh
Cơ cấu tổ chức bộ máy thực hiện chính sách bồi thường, hỗ trợ và tái
định cư đối với người dân bị thu hồi đất đai trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh được
tổ chức theo mô hình: Ở tỉnh, có Ban chỉ đạo bồi thường, hỗ trợ và tái định cư.
Trưởng Ban chỉ đạo là đồng chí Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh, phó ban chỉ đạo
là đồng chí Phó Bí thư Tỉnh ủy và đồng chí Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh,
Sở Tài nguyên và Môi trường là ủy viên thường trực, các ủy viên còn lại là Giám
đốc các sở, ngành ở tỉnh. Ở cấp huyện, thị xã, thành phố cũng thành lập Ban chỉ đạo
giải phóng mặt bằng cấp huyện, thành phần ban chỉ đạo tương tự như ở cấp tỉnh.
Ở cấp huyện có Ban giải phóng mặt bằng hoạt động theo chế độ chuyên trách.
Việc tổ chức thực hiện chính sách bồi thường, hỗ trợ và tái định cư đối
với người dân bị thu hồi đất trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh được giao cho Ủy
65
ban nhân dân các huyện, thị xã, thành phố nơi có đất bị thu hồi thực hiện trực
tiếp. Tỉnh chỉ giải quyết những phát sinh vướng mắc về cơ chế chính sách.
Những công việc huyện làm trực tiếp là tổ chức đo đạc, kiểm đếm, xác minh
nguồn gốc đất, tính toán lập phương án bồi thường, xác định tổng giá trị được
bồi thường, hỗ trợ, đối tượng được tái định cư.
Hội đồng thẩm định cấp huyện trực tiếp thẩm định phương án bồi
thường, hỗ trợ và tái định cư. Ban giải phóng mặt bằng cấp huyện hoàn thiện
phương án theo kết luận của Hội đồng thẩm định và trình Chủ tịch Ủy ban
nhân dân cấp huyện phê duyệt phương án bồi thường, hỗ trợ; tổ chức chi trả
tiền và bàn giao đất cho chủ dự án thực hiện.
Để đảm bảo cho công tác tổ chức thực hiện được nhanh, nhịp nhàng,
tỉnh Quảng Ninh đã quy định rõ trách nhiệm của Ủy ban nhân dân cấp tỉnh,
trách nhiệm của từng ngành, trách nhiệm Ủy ban nhân dân cấp huyện và xây
dựng quy chế phối hợp rõ ràng.
2.2.2.2. Chất lượng tổ chức thực hiện chính sách bồi thường, hỗ trợ và
tái định cư đối với người dân bị thu hồi đất trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh
Cán bộ làm công tác giải phóng mặt bằng ở các cấp, đặc biệt là cấp
huyện hầu hết là kiêm nhiệm và được trưng dụng từ nhiều ngành. Do đó, nhân
lực trực tiếp thực hiện chính sách bồi thường, hỗ trợ và tái định cư vừa thiếu,
vừa yếu, vừa không ổn định. Việc truyền đạt chính sách của Đảng và Nhà nước
đến với nhân dân chưa được thông suốt, chưa thuyết phục được nhân dân.
Trong khi đó, đây là công việc khó khăn phức tạp, phải tiếp xúc với nhiều đối
tượng có trình độ nhận thức khác nhau. Điều kiện và phương tiện làm việc của
các Ban thiếu thốn. Thù lao cho người làm công tác này chưa hợp lý, nên chưa
động viên được cán bộ tâm huyết với công việc, dẫn đến hiệu quả thấp.
Công tác bồi thường giải phóng mặt bằng hiện nay chủ yếu là do chính
quyền thực hiện. Cơ chế phối hợp với các tổ chức đoàn thể đã có nhưng chưa
được thực hiện tốt. Công tác vận động, thuyết phục, tuyên truyền chính sách
66
bồi thường của Đảng và Nhà nước chưa thường xuyên. Nội dung quy hoạch, kế
hoạch sử dụng đất, công khai quy hoạch, phân khu chức năng thực hiện chưa
đầy đủ. Nhiều nơi đã có quy hoạch nhưng lại chưa được tuyên truyền rộng rãi
đến nhân dân. Vì thế, khi thực hiện giải phóng mặt bằng người dân mới biết là
mình đã làm nhà hoặc trồng cây vào nơi quy hoạch. Đây cũng là một trở ngại
không nhỏ khi thực hiện công tác bồi thường. Nhiều phần tử xấu đã lợi dụng kẽ
hở này để trục lợi và lôi kéo nhân dân khiếu kiện, gây ra những căng thẳng bức
xúc trong xã hội. Công tác thống kê đất đai, tài sản, cây cối, hoa màu của người
có đất bị thu hồi chưa rõ ràng, rành mạch, dẫn đến việc lập phương án bồi
thường không đúng quy định, làm chậm tiến độ thẩm định. Nhiều trường hợp
hồ sơ chưa đầy đủ đã trình duyệt, làm cho quá trình thẩm định phải bổ sung
chỉnh sửa nhiều lần cũng làm chậm tiến độ thực hiện dự án.
Tiến độ thực hiện và chất lượng các khu tái định cư chưa đáp ứng
được yêu cầu nên đã phát sinh mâu thuẫn là không có đất để bố trí cho số hộ
thuộc diện tái định cư. Đến khi có đất để bố trí tái định cư thì đơn giá, chính
sách lại thay đổi do đó người dân không chấp nhận phương án bồi thường đã
phê duyệt. Đây là trở ngại lớn đã và đang làm chậm tiến độ công tác bồi
thường, giải phóng mặt bằng các dự án.
2.3. ĐÁNH GIÁ CHÍNH SÁCH BỒI THƯỜNG, HỖ TRỢ VÀ TÁI ĐỊNH
CƯ ĐỐI VỚI NGƯỜI DÂN BỊ THU HỒI ĐẤT TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH QUẢNG
NINH THỜI GIAN QUA
2.3.1. Thành công trong chính sách bồi thường, hỗ trợ và tái định
cư đối với người dân bị thu hồi đất trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh thời
gian qua
Thứ nhất, chính sách bồi thường, hỗ trợ và tái định cư đã tương đối
hợp lý, được nhân dân chấp nhận nên tỉnh đã giải phóng được nhiều mặt
bằng, tạo điều kiện cho hàng loạt các dự án triển khai đồng bộ, góp phần làm
thay đổi cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Cụ thể là:
67
- Trên cơ sở quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất và biểu giá đất, tỉnh
Quảng Ninh đã ban hành nhiều văn bản để cụ thể hóa chính sách bồi thường,
hỗ trợ và tái định cư của Trung ương cho phù hợp với tình hình thực tiễn tại
địa phương, từng bước đưa chính sách bồi thường của tỉnh thống nhất với
chính sách bồi thường của các tổ chức quốc tế. Những cố gắng đó đã góp
phần đảm bảo cho các dự án kinh tế và xã hội của Quảng Ninh có điều kiện
triển khai, góp vào tăng trưởng kinh tế và cải thiện đời sống của nhân dân.
Tính đến nay nhiều dự án lớn đã được triển khai trên địa bàn tỉnh
Quảng Ninh như dự án cải tạo và nâng cấp quốc lộ 18A đoạn Yên Hưng- Bãi
Cháy, Hạ Long- Cẩm Phả và Cẩm Phả- Móng Cái, Cầu Bãi Cháy. Các dự án
thuộc khu du lịch quốc tế Tuần Châu, thành phố Hạ Long, khu du lịch Bãi
Dài, huyện Vân Đồn, khu di tích Yên Tử cũng như các dự án đầu tư trong lĩnh
vực văn hóa, xã hội, giáo dục, y tế, thể dục, thể thao, khu công nghiệp, khu đô
thị, hệ thống giao thông khác.
- Nhìn chung chính sách bồi thường, hỗ trợ và tái định cư đối với
người dân bị thu hồi đất trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh đã tuân thủ chính sách
chung của Nhà nước về mục đích, nguyên tắc, phương thức và cơ sở tính
mức bồi thường, hỗ trợ. Nhiều nội dung giao quyền cho Ủy ban nhân dân
cấp tỉnh quyết định cho phù hợp với tình hình thực tiễn của địa phương cũng
được quy định cụ thể như: Quy định về hạn mức đất ở để tính bồi thường, quy
định về hạn mức đất nông nghiệp; quy định về giá gạo để tính hỗ trợ ổn định
đời sống; quy định về mức hỗ trợ di chuyển; quy định về xuất tái định cư tối
thiểu v.v...
- Để phù hợp với tình hình thực tiễn của địa phương, tỉnh quảng Ninh
đã cụ thể những nội dung mà Trung ương giao cho Ủy ban nhân dân cấp tỉnh,
thành phố trực thuộc Trung ương theo hướng đơn giản hóa, dễ hiểu, dễ làm,
hài hòa về lợi ích giữa nhà nước- nhà đầu tư- người bị thu hồi đất.
68
- Mặc dù một số nội dung trong chính sách của Trung ương còn có
điểm chưa phù hợp, không rõ ràng, nhưng tỉnh Quảng Ninh đã chủ động quy
định cho rõ ràng hơn tạo điều kiện thuận lợi trong quá trình thực hiện.
Ví dụ, cách xác định giá đất ở bình quân để tính hỗ trợ đất nông
nghiệp xen kẽ trong khu dân cư theo công thức nêu trên hoặc quy định cách
xác định diện tích đất ở để tính bồi thường trong trường hợp hộ gia đình, cá
nhân bị thu hồi đất ở nhiều dự án thì nguyên tắc chung là phải trừ đi phần
diện tích đất ở đã được bồi thường ở những dự án trước. Những quy định này
là công bằng, bình đẳng, công khai minh bạch. Những sáng tạo đó xuất phát
từ thực tiễn công tác tổ chức thực hiện và được Ủy ban nhân dân chấp thuận.
Bảng 2.1: Tổng hợp kết quả thực hiện công tác bồi thường, hỗ trợ
của các dự án trong 5 năm (từ năm 2005 - 2009)
Danh mục 2005 2006 2007 2008 2009
1. Số dự án thực hiện (dự án) 88 138 174 230 240
- Dự án đầu tư < 100 tỷ 86 134 168 220 228
- Dự án đầu tư > 100 tỷ 2,0 4,0 6,0 10 12
2. Diện tích đất bị thu hồi (ha) 245,8 252,8 306,4 391,2 599,6
- Đất nông nghiệp 212 229,2 278 355,2 556
- Đất ở 11,6 12,6 17,2 25 28,3
- Đất chuyên dùng 22,2 11 11,2 11 15,3
3. Kinh phí bồi thường, hỗ trợ (tỷ đồng) 60,2 104,8 139 213,6 356,6
- Về đất 31,4 57,4 81,2 130,6 189,8
- Về tài sản 25 41,8 49,6 72,8 141,6
- Hỗ trợ và chi khác 3,8 5,6 8,2 10,2 25,2
4. Số hộ được bồi thường, hỗ trợ (hộ) 3700 4900 6540 8100 9038
Hộ phải di chuyển chỗ ở (hộ) 114 208 276 318 514
Nguồn: Báo cáo tổng kết 5 năm thực hiện công tác bồi thường, hỗ trợ
và tái định cư trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh [28, tr. 6].
69
Bảng tổng hợp trên cho thấy: Dự án và kinh phí thực hiện năm sau cao
hơn năm trước, điều này cho thấy mức độ đầu tư và thu hút vốn trên địa bàn
tỉnh Quảng Ninh ngày càng tăng, thể hiện bức tranh sáng về tiềm năng phát
triển kinh tế của tỉnh Quảng Ninh. Đồng thời cũng cho thấy đóng góp của
công tác giải phóng mặt bằng để triển khai các dự án là rất lớn.
Thứ hai, chính sách bồi thường, hỗ trợ và tái định cư đã kết hợp khá
tốt với một số chính sách khác.
Vấn đề đặt ra là diện tích đất thu hồi thực hiện các dự án chủ yếu là
đất nông nghiệp, làm cho diện tích đất nông nghiệp ngày càng giảm, đồng
nghĩa với số lao động nông nghiệp dôi dư do không còn đất để canh tác ngày
càng nhiều. Vì vậy, cùng với việc thực hiện các dự án đầu tư tỉnh đã thực hiện
các chính sách như: Khuyến khích khai hoang phục hóa mở rộng diện tích đất
canh tác, bù đắp lại diện tích đất đã bị thu hồi do thực hiện các dự án đầu tư;
tiến hành chuyển đổi cơ cấu ngành, nghề theo hướng công nghiệp hóa, hiện
đại hóa; thành lập quỹ hỗ trợ để chuyển đổi ngành nghề cho phù hợp với yêu
cầu về trình độ học vấn, độ tuổi.
Những năm gần đây, trên địa bàn tỉnh số hộ phải di chuyển khỏi nơi ở
cũ đến nơi ở mới nhường đất cho thực hiện các dự án đầu tư diễn ra chủ yếu ở
đô thị, năm sau nhiều hơn năm trước đã làm gia tăng quỹ đất tái định cư và
phát sinh nhiều yêu cầu khác phải giải quyết như điện, đường, trường, trạm và
đặc biệt là vấn đề công ăn việc làm. Kinh phí bồi thường về tài sản cũng rất
lớn, năm sau cao hơn năm trước và gần tương đương với kinh phí bồi thường
về đất. Để giải quyết các yêu cầu này tỉnh Quảng Ninh đã phải nỗ lực rất lớn
trong việc huy động nguồn tài chính, phối hợp các cơ quan liên quan vào cuộc.
Nhờ những cố gắng như vậy tỉnh Quảng Ninh cơ bản đảm bảo được
cuộc sống của lao động nông nghiệp khi không còn đất để canh tác. Mặc dù
diện tích đất đai có hạn, số dự án ngày một tăng, số hộ dân phải di chuyển
ngày càng lớn, quỹ đất tái định cư ngày càng nhiều, nhưng do thực hiện tốt
70
quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất theo hướng sử dụng đất tiết kiệm và có hiệu
quả nên tỉnh Quảng Ninh vẫn đảm bảo được nhiệm vụ tái định cư cho các hộ
dân bị thu hồi đất.
Bảng 2.2: Tổng hợp tình hình phân bổ các dự án trên địa bàn toàn tỉnh
thời gian 5 năm từ (2005 - 2009)
Khu vực 2005 2006 2007 2008 2009
1. Thành phố Hạ Long 20 30 36 58 70
2. Thị xã Cẩm Phả 12 16 16 22 32
3. Thị xã Móng Cái 10 12 16 20 28
4. Thị xã Uông Bí 8 10 14 20 24
5. Huyện Đông Triều 6 12 18 22 30
6. Huyện Yên Hưng 4 10 16 16 20
7. Huyện Hoành Bồ 6 14 16 24 28
8. Huyện Tiên Yên 2 4 6 8 12
9. Huyện Ba Chẽ 2 4 4 6 8
10. Huyện Bình Liêu 2 4 4 6 8
11. Huyện Đầm Hà 4 4 10 10 12
12. Huyện Hải Hà 4 6 8 8 12
13. Huyện Cô Tô 6 8 6 6 10
14. Huyện Vân Đồn 2 4 4 4 6
Cộng tổng số dự án 88 138 174 230 300
Nguồn: Báo cáo tổng kết 5 năm thực hiện công tác bồi thường, hỗ trợ
và tái định cư trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh [28, tr. 7].
Số liệu tổng hợp trên cho thấy các dự án phân bố không đều giữa các địa
phương, phần lớn tập trung vào thành phố Hạ Long. thị xã Cẩm phả, thị xã Móng
Cái, thị xã Uông Bí, huyện Yên Hưng, Hoành Bồ và Đông Triều. Điều này cho
thấy mức độ phát triển giữa các địa phương, giữa các vùng là không đều. Những
địa phương có số dự án ít như: Bình Liêu, Ba Chẽ, Đầm Hà, Hải Hà... là những
địa phương có đường giao thông khó khăn, hầu hết những dự án đầu tư ở những
71
địa phương này là do ngân sách nhà nước đầu tư vào các lĩnh vực như trường
học, trạm y tế.... các địa bàn có nhiều dự án cũng là nơi đất chật, người đông,
quỹ đất để đền bù hạn hẹp. Mặc dù vậy chính quyền ở các địa phương này đã cố
gắng đảm bảo giải phóng được mặt bằng giao cho dự án, chứng tỏ nỗ lực cao
của họ trong xử lý chính sách bồi thường, hỗ trợ và tái định cư. Ví dụ như thành
phố Hạ Long, với 70 dự án, với số đất thu hồi và số tiền bồi thường rất lớn. Nếu
không tích cực và linh hoạt trong xử lý tình huống, thành phố Hạ Long không
thể hoàn thành khối lượng bồi thường, hỗ trợ và tái định cư lớn như thế.
Bảng 2.3. Tổng hợp số dự án theo nguồn vốn đầu tư
(Đơn vị tính: Tỷ đồng)
NGUỒN VỐN2005 2006 2007 2008 2009
Dự án
Số tiền
Dự án
Số tiền
Dự án
Số tiền
Dự án
Số tiền
Dự án
Số tiền
Ngân sách Trung ương
06 17 08 42.8 08 57.4 12 91.4 16 172.4
Ngân sách địa phương
30 21 44 22,2 52 22,4 60 23.6 78 66.2
Doanh nghiệp trong nước
44 13.4 82 31.6 108 45.8 150 81.4 194 97.8
Doanh nghiệp
Nước ngoài04 8.8 04 8,2 06 13.4 08 17.2 12 20.2
Cộng 84 60.2 138 104.8 174 139 230 213.6 300 356.6
Nguồn: Báo cáo tổng kết 5 năm thực hiện công tác bồi thường, hỗ trợ
và tái định cư trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh [28, tr. 8].
Bảng tổng hợp trên cho thấy, mặc dù số lượng các dự án đầu tư của
Trung ương không nhiều nhưng vẫn chiếm một tỷ trọng lớn trong tổng kinh
phí bồi thường, hỗ trợ của tất cả các năm. Năm 2009 ngân sách Trung ương
chiếm tới 48,34% trong khi đó ngân sách địa phương chỉ chiếm có 18,56%.
Điều đó cho thấy các dự án của Trung ương là những dự án lớn, giữ vai trò
quan trọng trong việc tạo lập các huyết mạch về giao thông.
72
So sánh nguồn vốn của các doanh nghiệp trong nước với nguồn vốn
của ngân sách Trung ương thì vốn của doanh nghiệp trong nước vẫn còn thấp.
Năm 2006 ngân sách Trung ương chiếm 40,83%, trong khi doanh nghiệp trong
nước chỉ chiếm 30,15%; năm 2007 ngân sách Trung ương chiếm 41,29% còn
doanh nghiệp trong nước chiếm 32,94%. năm 2008 ngân sách Trung ương
chiếm 42,79% còn doanh nghiệp trong nước chiếm 38,10%. Điều này cho
thấy nguồn vốn của các doanh nghiệp trong nước chưa đáp ứng đủ các nhu
cầu đầu tư trên địa bàn mà vẫn phải dựa chủ yếu vào nguồn vốn Trung ương
và một số nguồn vốn khác [28, tr. 9].
Các dự án đầu tư của doanh nghiệp trong nước trong thời gian qua chủ
yếu vẫn là lĩnh vực nhà đất. Điều này cho thấy khả năng thu hút về lao động
nhằm giải quyết việc làm cho dân bị mất đất là rất hạn chế. Đa phần dự án lấy
đất làm đường, ít tạo việc làm ổn định cho dân địa phương
Về tổ chức thực hiện chính sách bồi thường, hỗ trợ và tái định cư nhằm
giải phóng mặt bằng ở tỉnh Quảng Ninh đã làm tốt các công việc sau đây:
Một là, đã ban hành được một hệ thống văn bản đồng bộ trong lĩnh
vực quản lý đất đai nói chung, bồi thường, giải phóng mặt bằng nói riêng, áp
dụng thống nhất trên địa bàn toàn tỉnh.
Hai là, đã kiện toàn được đội ngũ cán bộ công chức có phẩm chất đạo
đức tốt, chuyên sâu về nghiệp vụ, tận tâm tận lực vì công việc, vì sự nghiệp
công nghiệp hóa, hiện đại hóa tỉnh nhà.
Ba là, chú trọng công tác tập huấn, bồi dưỡng kiến thức chuyên môn
nghiệp vụ cho đội ngũ những người làm công tác bồi thường, giải phóng mặt
bằng, để đội ngũ này có điều kiện cập nhật thường xuyên liên tục những nội
dung mới, đúng tinh thần của Luật Đất đai và phù hợp với tình hình thực tế
của địa phương.
Bốn là, chủ động giao trách nhiệm tổ chức thực hiện công tác bồi
thường, giải phóng mặt bằng cho Ủy ban nhân dân các huyện, thị xã, thành
73
phố. Tạo điều kiện cho các địa phương nêu cao tinh thần trách nhiệm và tính
chủ động trong thực hiện nhiệm vụ.
2.3.2. Nguyên nhân của những thành công trong thực thi chính
sách bồi thường, hỗ trợ và tái định cư ở tỉnh Quảng Ninh
Có nhiều nguyên nhân dẫn đến thành công trong thực thi chính sách
bồi thường, hỗ trợ và tái định cư ở Quảng Ninh thời gian qua. Có thể điểm
các nguyên nhân chủ yếu sau:
Trước hết, có được thành công đó là do Ủy ban nhân dân tỉnh và Tỉnh
ủy đã đầu tư đúng mức để hoạch định được chính sách bồi thường, hỗ trợ và
tái định cư rõ ràng, dễ hiểu, minh bạch, thể hiện được tâm tư của dân cư.
Chính sách bồi thường là chìa khóa, là linh hồn của công tác bồi
thường, hỗ trợ và tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất. Chính sách càng rõ
ràng, càng minh bạch, dễ hiểu, thể hiện được tâm tư nguyện vọng của đa số
người dân bị thu hồi đất, thiết thực với quyền lợi của người dân càng dễ thực
hiện. Đồng hành với chính sách ấy, quá trình thực hiện thật sự công khai,
minh bạch thì chính sách ấy chắc chắn đi vào cuộc sống.
Quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đòi phải thu hồi đất để thực
hiện các dự án đầu tư ngày càng nhiều và dự án chỉ có thể triển khai được nếu
giải phóng được mặt bằng và ngược lại, không giải phóng được mặt bằng
cũng có nghĩa là không triển khai được dự án hay nói cách khác là không đạt
được các mục tiêu kinh tế xã hội đã đặt ra. Nhận thức được tầm quan trọng số
một của chính sách bồi thường, hỗ trợ và tái định cư đối với sự nghiệp phát
triển kinh tế xã hội của tỉnh nhà. Những năm qua, Tỉnh ủy, Ủy ban nhân dân
tỉnh Quảng Ninh đã giành nhiều thời gian và công sức cho việc cụ thể hóa các
chính sách của Trung ương cho phù hợp với tình hình thực tiễn của địa
phương, chú trọng đến quyền và lợi ích của người bị thu hồi đất. Những nỗ
lực ấy đã được đền đáp với hàng loạt khu đô thị mới đã và đang dần được
74
hoàn thiện, nhiều khu công nghiệp quy mô vài trăm ha đang được lấp đầy,
nhiều con đường được cải tạo, nâng cấp đáp ứng cho nhu cầu đi lại ngày càng
thuận tiện của người dân. Đặc biệt là đời sống của nhân dân không ngừng
được cải thiện, phần lớn hộ thuộc diện giải phóng mặt bằng có cuộc sống ổn
định và tốt hơn cuộc sống ở nơi ở cũ.
Thứ hai, Ủy ban nhân dân tỉnh Quảng Ninh đã quy định giá đất và
định giá đất linh hoạt, sát thực tế.
Quy định giá đất và định giá đất để tính bồi thường là nội dung quan
trọng và phức tạp nhất trong công tác giải phóng mặt bằng. Theo quy định của
Luật Đất đai, giá đất do Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quy định vào ngày 01/01
hàng năm được sử dụng cho bẩy mục đích, trong đó có công tác bồi thường
giải phóng mặt bằng. Trước đây, do nhiều nguyên nhân khác nhau hầu hết các
tỉnh nói chung, trong đó có Quảng Ninh nói riêng quy định giá đất mới chỉ
bằng từ 50%- 70% giá trị thật của thửa đất. Vì vậy, khi thu hồi đất và bồi
thường với mức giá, nếu chỉ bằng từ 50%- 70% giá trị thật của thửa đất, thì
các hộ dân không đồng tình và phát sinh khiếu kiện. Để giải quyết tình trạng
này, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 69/2009/NĐ-CP quy định giá đất để
tính bồi thường phải sát với giá thị trường trong điều kiện bình thường và
không phụ thuộc vào khung giá của chính phủ (quy định này mâu thuẫn với
Luật Đất đai) [28, tr. 9].
Trong bối cảnh khó khăn đó, tỉnh Quảng Ninh đã linh hoạt quy định
giá bồi thường và giá đất tái định cư ở mức tương đồng, sát với giá chuyển
nhượng trên thị trường. Việc xác định giá đất được thực hiện công khai với sự
tham gia của các hộ dân thuộc diện được bồi thường dự án đồng thời cũng là
các hộ dân thuộc diện phải tái định cư. Quá trình này được thực hiện dưới
nhiều hình thức khác nhau như thu thập thông tin trực tiếp từ người bị thu hồi
đất được bồi thường và phải di chuyển để tái định cư; thuê các đơn vị có chức
năng về thẩm định giá xác định...
75
Việc quy định giá được thực hiện cẩn trọng, chi tiết, tỷ mỉ và công
khai. Quá trình thực hiện lấy ý kiến tham gia của người bị thu hồi đất. Những
trường hợp không hợp tác, không chấp nhận giá đất đã được quy định theo
nguyên tắc trên, tỉnh Quảng Ninh cương quyết áp dụng các quy định của pháp
luật để cưỡng chế thu hồi đất.
Thứ ba, tỉnh Quảng Ninh đã quy định đơn giá bồi thường, hỗ trợ phù
hợp với yêu cầu của dân cư.
* Bồi thường, hỗ trợ tài sản là vật kiến trúc: Trên thực tế, nhà cửa vật
kiến trúc bị thu hồi đất rất đa dạng và thường không có thiết kế, không có dự
toán chi tiết. Nếu kiểm đếm chi tiết để lập dự toán cho từng công trình thì mất
nhiều thời gian và công sức. Vì vậy, tỉnh đã xây dựng đơn giá bồi thường, hỗ
trợ về tài sản theo hướng xây dựng đơn giá bồi thường về phần thô công trình
theo mét vuông xây dựng. Ngoài ra, xây dựng các đơn giá bồi thường chi tiết
cho các phần công việc khác như bồi thường về cầu thang, sơn tường, nền,
trần nhà, v.v…Trong quá trình thực hiện nếu giá vật liệu biến động tăng thì
phải kịp thời điều chỉnh theo hệ số để đảm bảo quyền lợi cho người dân.
* Về giá cả cây cối hoa màu: Bảng giá bồi thường xác định cho cây
trồng theo quy trình kỹ thuật để cho năng suất sản lượng nhất định. Trên thực
tế các hộ dân thường trồng không theo quy trình kỹ thuật, nhưng lại đòi được
bồi thường theo giá cây trồng đúng quy trình kỹ thuật. Vì vậy, tỉnh đã quy
định đơn giá bồi thường đối với cây trồng đúng mật độ, đúng kỹ thuật và đơn
giá bồi thường đối với cây trồng không đúng tiêu chuẩn kỹ thuật. Quy định
đơn giá bồi thường theo từng nhóm như: nhóm cây lấy gỗ, nhóm cây ăn quả.
Đối với những loại hoa tỉnh quy định thành hai loại, loại trồng trong chậu thì
tính bồi thường công di chuyển, loại trồng dưới đất thì thực hiện bồi thường.
Riêng những loại cây cảnh có giá trị kinh tế cao thì thực hiện thu hồi và tổ
chức bán để giảm trừ kinh phí bồi thường.
76
* Đối với vật nuôi thủy sản: Việc kiểm đếm và tính giá bồi thường đối
với vật nuôi thủy sản cũng rất phức tạp. Vì vậy, tỉnh thông báo trước để người
dân tự thu hoạch trong một thời gian nhất định, sau đó kiểm đếm theo phương
pháp nội suy để quy ra số lượng.
Thứ tư, tỉnh Quảng Ninh chủ động chuẩn bị quỹ đất đai tái định cư
Theo quy định tại Nghị định 197/2004/NĐ-CP của Chính phủ, khu tái
định cư là điều kiện tiên quyết đã được đưa vào Luật và được cụ thể hóa bằng
Nghị định. Khu tái định cư phải được xây dựng trước khi tiến hành công tác
giải phóng mặt bằng và phải được xây dựng đồng bộ, bằng hoặc tốt hơn nơi ở
cũ. Thực tế trong thời gian qua do không làm tốt khâu này, nên không có quỹ
đất để bố trí tái định cư kịp thời, nên nhiều trường hợp đã phải lập lại phương
án hoặc điều chỉnh về giá đất cho sát với giá đất tại thời điểm bố trí tái định
cư vì giá đất tại thời điểm phê duyệt phương án bồi thường với giá đất tài thời
điểm bố trí tái định cư đã thay đổi. Từ thực tế đó, tỉnh cố gắng xây dựng
nhiều khu tái định cư, đa dạng về diện tích, kích thước, đa dạng về mức giá để
phù hợp với nhiều đối tượng được bồi thường.
Việc bố trí tái định cư bằng đất để hộ gia đình, cá nhân tự xây dựng
thực hiện đối với những khu vực ven đô, khu vực nông thôn. Đối với các khu
đô thị, đặc biệt là đô thị trung tâm thì xây dựng các chung cư cao cấp để tận
dụng những vị trí đất đẹp, đắc địa và để tiết kiệm đất cho các mục đích khác.
Thứ năm, khi gặp cản trở, Ủy ban nhân dân tỉnh đã tổ chức thực hiện
kiên quyết chính sách bồi thường, hỗ trợ và tái định cư
Người trực tiếp thực hiện công tác bồi thường, hỗ trợ và tái định cư có
vị trí đặc biệt quan trọng, quyết định đến việc thành công hay thất bại của
chính sách bồi thường, hỗ trợ. Đây là những người trực tiếp tiếp xúc với
người thu hồi đất. Vì vậy, yêu cầu đặt ra đối với đội ngũ này là phải am hiểu
về chính sách, thuần thục về kỹ năng thao tác, ứng xử và giải đáp nhanh
77
những thắc mắc, kiến nghị của người bị thu hồi đất, đồng thời, kịp thời báo
cáo đề xuất với cấp có thẩm quyền để điều chỉnh chính sách và đơn giá nếu
thấy không phù hợp với tình hình thực tế.
2.3.3. Những hạn chế của chính sách bồi thường, hỗ trợ và tái
định cư đối với người dân bị thu hồi đất trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh
thời gian qua
Chính sách bồi thường, hỗ trợ và tái định cư của Quảng Ninh, bên
cạnh những thành công cũng còn một số hạn chế cần phải tiếp tục bổ sung.
Những hạn chế đó là:
- Việc quy định và xác định giá đất để tính bồi thường, hỗ trợ và giá
đất để bố trí tái định cư còn chưa nhất quán nên gây khiếu kiện: Qua thống kê
và phân loại đơn thư khiếu nại, tố cáo của công dân về bồi thường, giải phóng
mặt bằng thì có tới 90% là khiếu nại về bồi thường đất, trong đó có trên 50% là
kiến nghị, khiếu nại về giá đất và hầu hết các khiếu nại của công dân là có cơ sở.
Theo quy định, giá đất để tính bồi thường phải sát với giá thị trường, trong điều
kiện bình thường. Nhưng rất khó để xác định được giá đất sát với giá thị trường
trong điều kiện bình thường, nhất là những nơi không có thị trường bất động
sản chính thống và việc mua bán trên thị trường chỉ là cá biệt. Như vậy, giữa
quy định của chính sách và khả năng thực hiện trong thực tiễn chưa hòa nhập
vào nhau khiến việc thực hiện chưa có căn cứ vững chắc gây thắc mắc.
- Tiến độ giải ngân chưa kịp thời: rất nhiều dự án do không bố trí
được vốn kịp thời nên không có tiền để chi trả cho các hộ dân ngay sau khi
phương án bồi thường được phê duyệt, đến khi có tiền thì giá đất, giá vật liệu
xây dựng thay đổi nên người dân không chấp nhận phương án đã phê duyệt
trước đó khiến mọi việc lại quay trở về điểm xuất phát..
- Diện tích đất tính bồi thường và diện tích đất bố trí tái định cư chưa
ăn khớp với nhau: Diện tích đất để tính bồi thường là diện tích đất ở thực tế bị
78
thu hồi, có hộ 40m2, có hộ 70m2, có hộ 150m2, có hộ 400m2 v.v... nhưng khi
bố trí tái định cư thì thường chung một hạn mức 90m2 hoặc 60m2. Về lý luận
khi thu hồi đất ở, nhà nước bồi thường bằng tiền theo giá thị trường trong điều
kiện bình thường thì người bị thu hồi đất có thể xin nhà nước giao đất ở mới
tại khu tái định cư hoặc tự tìm mua nhà hoặc đất và như vậy áp lực về việc
đầu tư xây dựng các khu tái định cư sẽ giảm đi rất nhiều. Nhưng trên thực tế
do việc quy định giá đất để tính bồi thường và giá đất để bố trí tái định cư còn
nhiều bất hợp lý, dẫn đến bất bình đẳng về lợi ích, người bị thu hồi đất ở ít thì
lợi còn người bị thu hồi đất ở nhiều thì thiệt thòi khi so sánh, tính toán về giá
trị. Hộ bị thu hồi 400m2 đất ở và hộ bị thu hồi 40m2 đất ở cũng được bố trí
một ô đất tái định cư 90m2 như nhau là không công bằng [28, tr. 11].
- Việc xác định đâu là khu dân cư và giá đất ở để tính hỗ trợ đất nông
nghiệp xen kẽ trong khu dân cư còn quá phức tạp, bất nhất. Thuật ngữ "khu
dân cư" nghe rất quen thuộc nhưng đi vào chi tiết thì lại khó xác định. Cụ thể,
thế nào là khu dân cư, tiêu chí như thế nào thì được gọi là khu dân cư, hiện
chưa có văn bản nào giả thích đầy đủ về khái niệm này. Trong chính sách bồi
thường, Trung ương quy định "trường hợp khu dân cư chưa được phê duyệt
thì xác định theo ranh giới của thửa đất có nhà ở ngoài cùng".Vậy xác định
nhà ở ngoài cùng như thế nào? Những vấn đề này hiện chưa được nghiên cứu,
quy định rõ [28. tr. 11].
Việc xác định giá đất ở để tính hỗ trợ trong nhiều trường hợp này
cũng rất phức tạp và nhiều trường hợp giá đất ở để tính hỗ trợ lại cao hơn giá
bồi thường về đất ở. Đây là điểm bất hợp lý của chính sách dẫn đến bất bình
của người dân và gây thất thu cho ngân sách. Ví dụ, người sử dụng đất ở sau
ngày 15/10/1993 đến trước ngày 01/7/2004 thì về nguyên tắc nếu xin cấp giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất thì phải nộp nghĩa vụ tài chính đối với nhà
nước, mức phải nộp bằng 50% giá đất ở. Như vậy, có nghĩa là khi bồi thường
thì về đất ở chỉ được bồi thường bằng 50% giá đất ở. Giả sử giá đất ở là
79
1.000.000đ/m2 thì giá bồi thường trong trường hợp này là 500.000đ/m2.
Nhưng khi xác định giá đất ở bình quân để tính hỗ trợ đất nông nghiệp xen kẽ
trong khu dân theo công thức nêu ở phần trên bằng 4.000.000đ/m2, hỗ trợ
bằng 50% giá đất ở là 2.000.000đ/m2. Như vậy, trong trường hợp này giá trị 1
mét vuông đất ở thấp hơn giá một mét vuông đất nông nghiệp v.v...[28, tr. 12].
2.3.4. Các nguyên nhân chủ yếu dẫn đến những hạn chế trong
chính sách bồi thường, hỗ trợ và tái định cư đối với người dân bị thu hồi
đất trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh thời gian qua
Có khá nhiều nguyên nhân dẫn đến việc thực hiện chính sách bồi thường,
hỗ trợ và tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất xây dựng các dự án trên địa bàn
tỉnh Quảng Ninh gặp vướng mắc và bị hạn chế, dẫn đến tiến độ giải phóng
mặt bằng bị chậm. Dưới đây, xin nêu một số nguyên nhân cụ thể sau đây.
2.3.4.1. Chính sách chung của Nhà nước chưa hợp lý
Do chính sách đất đai của Nhà nước còn đang trong quá trình hoàn
thiện nên không tránh khỏi thiếu sót, thiếu đồng bộ, bất cập, thậm chí còn
nhiều mâu thuẫn. Vì thế, thực tiễn quản lý đất đai ở Quảng Ninh còn nhiều yếu
kém. Tình trạng lấn chiếm đất công, sử dụng đất sai quy hoạch diễn ra khá phổ
biến ở một số nơi. Việc giải quyết khiếu nại, tố cáo còn chậm, chưa dứt điểm,
đùn đẩy trách nhiệm, nhiều trường hợp còn oan sai. Những bất cập đó càng làm
cho công tác bồi thường, hỗ trợ và tái định cư trở nên phức tạp, nhất là những dự
án thu hồi diện tích lớn, phải di chuyển nhiều hộ dân hoặc những dự án thu hồi
đất nông nghiệp làm ảnh hưởng trực tiếp đến đời sống của người lao động.
Chính sách bồi thường của chính phủ cũng còn nhiều tồn tại và vướng
mắc gây khó khăn cho địa phương. Nguyên nhân chủ yếu của những tồn tại
này là do nhận thức chưa đúng, chưa đầy đủ về công tác bồi thường khi Nhà
nước thu hồi đất. Ngay ở Trung ương hiện vẫn còn có những quan điểm trái
ngược nhau:
80
Quan điểm thứ nhất cho rằng, đất đai thuộc sở hữu toàn dân do Nhà
nước thống nhất quản lý, do vậy Nhà nước có quyền thu hồi, có quyền ấn
định chính sách bồi thường trong đó có vấn đề về giá đất, mức bồi thường,
người dân phải thực hiện.
Theo quan điểm thứ hai, đất đai thuộc sở hữu toàn dân nhưng Nhà
nước đã giao cho hộ gia đình và cá nhân (đất nông nghiệp và đất ở) sử dụng
ổn định lâu dài. Nhà nước còn cho người được giao đất quyền sử dụng và
quyền chuyển nhượng đất. Do đó khi thu hồi đất Nhà nước phải bồi thường
đất và tài sản trên đất theo giá thỏa thuận.
Quan điểm thứ ba cho rằng, đất đai thuộc sở hữu toàn dân do Nhà
nước thống nhất quản lý. Nhà nước thực hiện giao đất lâu dài cho người sử
dụng đất, nhất là hộ gia đình, cá nhân đối với đất ở và đất nông nghiệp, tạo
điều kiện cho người sử dụng đất có điều kiện cải thiện đời sống. Khi Nhà
nước thu hồi đất, thì phải thực hiện bồi thường và giải quyết việc cho người bị
thu hồi đất một cách thỏa đáng.
Do chưa thống nhất được những quan niệm nêu trên, nên chính sách
bồi thường của Trung ương chưa nhất quán, nhiều nội dung quy định không
rõ ràng, chậm hướng dẫn nhưng hay thay đổi. Thậm chí còn nhiều nội dung
mâu thuẫn nhau.Ví dụ, Luật Đất đai 2003 quy định giá đất Nhà nước quy định
được sử dụng cho bẩy mục đích (tức là chỉ có duy nhất một giá đất được sử
dụng cho bẩy mục đích) nhưng khi triển khai các Nghị định hướng dẫn thì lại
quy định: "Khi Nhà nước giao đất có thu tiền sử dụng đất không thông qua
hình thức đấu giá quyền sử dụng đất hoặc đấu thầu dự án có sử dụng đất, cho
thuê đất, phê duyệt phương án bồi thường, hỗ trợ và tái định cư, khi Nhà nước
thu hồi đất và trường hợp doanh nghiệp nhà nước tiến hành cổ phần hóa lựa
chọn hình thức giao đất mà giá đất do Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quy định tại
thời điểm giao đất, cho thuê đất, thời điểm quyết định thu hồi đất, thời điểm
tính giá đất vào giá trị doanh nghiệp cổ phần hóa chưa sát với giá chuyển
nhượng quyền sử dụng đất thực tế trên thị trường trong điều kiện bình thường
81
thì Ủy ban nhân dân cấp tỉnh căn cứ vào giá chuyển nhượng quyền sử dụng
đất thực tế trên thị trường để xác định lại giá đất cụ thể cho phù hợp.
Giá đất cụ thể được xác định lại theo quy định nêu trên không bị giới
hạn bởi các quy định tại khoản 5 Điều 1 Nghị định số 123/2007/NĐ-CP ngày 27
tháng 7 năm 2007 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định
số 188/2004/NĐ-CP ngày 16 tháng 11 năm 2004 về phương pháp xác định
giá đất và khung giá các loại đất.
Liên quan đến giá đất cũng có rất nhiều quan điểm khác nhau, có quan
điểm cho rằng: Giá đất do Nhà nước quy định phải thuận cho việc thu thuế
chuyển quyền sử dụng đất, thu tiền khi giao đất, tính giá trị tài sản khi giao
đất, bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất. Theo quan điểm này thì giá đất phải
thấp hơn nhiều so với thực tế và phải ổn định trong một thời gian nhất định.
Lại có quan điểm cho rằng: Giá đất để thu thuế chuyển quyền, thu tiền
thuê đất, tính giá trị tài sản khi Nhà nước giao đất cần ổn định và thấp hơn
thực tế, có như vậy mới dễ thu thuế, thu tiền thuê đất, dễ kiểm tra, kiểm soát
và đảm bảo hiệu quả công tác thu. Còn giá để thu tiền sử dụng đất và giá để
tính bồi thường phải phù hợp với thực tế, nghĩa là hình thành 2 loại giá.
Trái ngược với những quan điểm nêu trên, quan điểm thứ 3 cho rằng:
Giá đất do Nhà nước quy định phải phù hợp với giá chuyển nhượng thực tế
trên thị trường và được dùng cho tất cả các mục đích như: Thu tiền sử dụng
đất, thu tiền khi giao đất, chuyển mục đích sử dụng, cho thuê đất, tính giá trị
tài sản khi giao đất, bồi thường thiệt hại khi Nhà nước thu hồi đất. Theo quan
điểm này thì hàng năm vào đầu năm Nhà nước phải có bảng giá đất phù hợp
công bố công khai cho nhân dân biết. Quan điểm này là phù hợp và đã được
Luật Đất đai năm 2003 thể hiện.
Giá đất là phức tạp nhưng phần đông những người làm công tác này
lại chưa được đào tạo cơ bản, điều đó đã dẫn đến không thấy hết đặc điểm
riêng biệt và tính chất phức tạp của giá đất, coi giá đất cũng như giá hàng hóa
82
thông thường. Chưa có các biện pháp hoàn thiện phương pháp xác định giá.
Người có trách nhiệm xây dựng chính sách, chỉ đạo hướng dẫn chưa đủ năng
lực phân tích, tổng hợp, chưa đưa ra được những biện pháp xử lý những vấn
đề thực tiễn đặt ra, chưa phát huy được sức mạnh của tập thể, còn mang nặng
tư duy của riêng mình trong xử lý.
Hoặc khi quy định về bồi thường, hỗ trợ đối với đất nông nghiệp xen kẽ
trong khu dân cư, thì không quy định rõ thế nào là khu dân cư. Theo quy định
của Trung ương, trường hợp khu dân cư chưa được phê duyệt thì xác định theo
ranh giới thửa đất có nhà ngoài cùng. Triển khai nội dung này vào thực tiễn mới
thấy bất cập, vậy khoanh ranh giới khu dân cư như thế nào với nhà ở của thửa
đất ngoài cùng. Bất cập này, tỉnh Quảng Ninh đã mời trực tiếp cơ quan soạn thảo
là Bộ Tài nguyên và Môi trường xuống để xác định cụ thể một vài dự án cụ thể
nhưng chính cơ quan soạn thảo cũng không xác định được. Tỉnh Quảng Ninh
cũng đã nhiều lần kiến nghị sửa đổi nhưng đến nay vẫn chưa được sửa đổi.
Quy trình xác định giá đất ở theo giá thị trường cũng thiếu cụ thể chưa
phù hợp với thực tiễn ở những tỉnh chưa có thị trường bất động sản, việc mua
bán chuyển nhượng chưa phổ biến v.v…
2.3.4.2. Nguyên nhân từ phía chính quyền tỉnh Quảng Ninh
* Chất lượng, tiến độ công tác hoàn thành và quản lý quy hoạch, kế
hoạch sử dụng đất chưa đáp ứng yêu cầu
Theo quy định, nguồn thu từ đất trước hết phải dành cho công tác
quản lý đất đai (công tác quy hoạch, cấp giấy...), nhưng nhiều năm trước đây,
nhiều địa phương đã không thực hiện nghiêm túc quy định này, mà giành
phần lớn nguồn thu này bố trí cho các danh mục đầu tư khác. Cách làm đó
gây rất nhiều khó khăn cho việc thiết lập hồ sơ ban đầu để xác định tính chất
pháp lý của các loại đất. Những biến động về đất đai do địa giới hành chính bị
chia cắt khi sáp nhập chia tách, phân bổ dân cư theo nhu cầu tự nhiên chưa
được theo dõi và quản lý chặt chẽ. Việc sử dụng đất không có giấy tờ hoặc có
83
giấy tờ nhưng không ghi đúng quy định vẫn còn nhiều. Quá trình cấp giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất chưa được thực hiện theo những tiêu thức thống
nhất. Biến động về đất đai là thường xuyên và liên tục song chưa được cập nhật
và theo dõi đầy đủ. Trong quá trình quản lý nhiều trường hợp đã phát hiện người
sử dụng đất vi phạm nhưng vì nhiều lý do khác nhau đã không tiến hành xử lý.
Trải qua nhiều thời kỳ thực hiện chính sách đất đai, việc điều động và bố trí
dân cư, điều chỉnh địa giới hành chính đã làm cho nhiều hộ gia đình, cá nhân
sử dụng đất không có giấy tờ hoặc có giấy tờ nhưng không được ghi đầy đủ
các yếu tố theo quy định, nhiều tồn tại chưa được giải quyết dứt điểm.
* Tiến độ đo đạc bản đồ địa chính để phân loại đất ở địa phương còn
chậm, chưa đáp ứng yêu cầu. Đối với đất ở của các hộ gia đình, việc cấp giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất cho nhân dân còn rất chậm. Cụ thể:
- Rất nhiều gia đình có nhà ở, đất ở cha truyền con nối, song vẫn chưa
được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Quá trình cấp giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất phải qua nhiều khâu, nhiều thủ tục, mất nhiều thời gian, làm
cho nhiều hộ gia đình sử dụng đất hợp pháp chán nản, ngại làm thủ tục cấp giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất. Hiện trạng này gây khó khăn lớn cho công tác
giải phóng mặt bằng các dự án. Luật Đất đai ra đời từ 1988 và các Luật Đất đai
sau này đều quy định việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho các hộ
gia đình, cá nhân. Nhưng đến nay, tỉ lệ hộ gia đình, cá nhân được cấp giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất còn rất thấp, nhất là đối với đất ở đô thị. Tính đến hết
năm 2009, ở đô thị tỉnh Quảng Ninh mới cấp được khoảng 90%.
- Việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất còn nhiều sai sót như:
Cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất vào đất hành lang giao thông đã được
giải tỏa; cấp lại quyền sử dụng đất khi chuyển từ bản đồ giải thửa sang bản đồ
địa chính nhưng không thu lại bìa cũ (Một thửa đất tồn tại hai bìa); Có trường
hợp đã thu hồi đất nhưng không thu hồi bìa đỏ; cũng có trường hợp thu hồi một
phần diện tích của các hộ nhưng bìa đỏ không được chỉnh lý theo diện tích
84
còn lại.... Do vậy khi tiến hành bồi thường giải phóng mặt bằng để xây dựng
các công trình gặp rất nhiều khó khăn và gây nhiều khiếu kiện trong nhân
dân.
Trên thực tế, có không ít hiện tượng lấn chiếm đất trái phép, làm nhà
trên đất nông nghiệp hoặc tự ý chia tách hộ. Khi biết có dự án tranh thủ làm
nhà, trồng cây để vụ lợi. Chính quyền địa phương biết nhưng không kiên
quyết xử lý, sự việc diễn ra ở nhiều nơi, làm cho sự việc càng trở lên phức tạp
khi xử lý bồi thường.
Một số cán bộ làm công tác đất đai ở cơ sở chưa nâng cao tinh thần
trách nhiệm, giải quyết công việc chưa thực sự có "tâm", cho rằng mình là
"ông này, bà nọ" gây khó khăn, tạo bất bình trong nhân dân. Khi tiến hành thủ
tục thu hồi đất, vì động cơ không trong sáng một số cán bộ đã làm sai lệch về
diện tích, loại hạng đất. Đến khi nhân dân phát hiện thì mới điều chỉnh, làm
cho nhân dân thiếu tin tưởng. Việc quản lý đất đai yếu kém đã tồn tại nhiều
năm, song các cấp tham mưu, nhất là chính quyền cơ sở vẫn chưa có những
đề xuất hữu hiệu để khắc phục dứt điểm những tình trạng trên.
* Năng lực tổ chức thực hiện chưa ngang tầm đòi hỏi của thực tiễn:
Hầu hết Hội đồng bồi thường ở các cấp được thành lập trên cơ sở trưng
dụng từ các ngành, làm việc theo chế độ kiêm nhiệm. Tính chủ động của cơ
quan thường trực phụ thuộc vào ý kiến của các thành viên, hội nghị nhiều người
nhưng người làm cụ thể thì ít, khó phát huy được tính chủ động và sáng tạo của
mỗi ngành và mỗi người. Hậu quả là tiến độ thực hiện dự án chưa đáp ứng theo
kế hoạch. Đội ngũ cán bộ làm công tác bồi thường còn yếu và thiếu ở tất cả các
huyện, thị xã và thành phố. Hầu hết đội ngũ cán bộ làm công tác này chưa
được đào tạo tại các trường chuyên nghiệp, việc bồi dưỡng kiến thức nghiệp
vụ từ Trung ương đến địa phương chưa được thường xuyên và thiếu tính kịp
thời. Cán bộ làm công tác bồi thường phải tiếp xúc với nhiều đối tượng rất
phức tạp, không ít những trường hợp cán bộ bị đe dọa, thậm chí bị đánh.
85
Điều kiện làm việc còn khó khăn, chính sách cho cán bộ làm công tác này
chưa cụ thể. Vì thế, không ít cán bộ ngại làm công việc này do ngại va chạm
với dân. Không ít địa phương đã sử dụng cán bộ mới, cán bộ hợp đồng để
thực hiện công việc này nên hiệu quả thấp, không đáp ứng được tiến độ dự án.
Bồi thường, hỗ trợ và tái định cư là vấn đề kinh tế- xã hội tổng hợp,
liên quan đến nhiều mặt đời sống xã hội, phụ thuộc vào nhiều quy định, nhiều
văn bản như Bộ luật Dân sự, Bộ luật Lao động, luật Ngân sách, Luật Đất đai,
luật Khiếu nại, tố cáo… Điều đó đòi hỏi những người thực hiện phải tập trung
rất nhiều thời gian cho việc nghiên cứu, tổng kết kinh nghiệm thì mới có khả
năng triển khai tốt được các văn bản trên vào cuộc sống. Đội ngũ làm công
tác bồi thường còn yếu và thiếu. Công tác tập huấn kiến thức cho đội ngũ này
lại không được làm thường xuyên, nội dung tập huấn còn sơ sài, chưa sát, khả
năng của người truyền tải kiến thức còn hạn chế khiến cán bộ không đáp ứng
yêu cầu chiếm số lượng lớn.
* Quỹ nhà đất phục vụ cho việc bố trí tái định cư còn bị hạn chế và
triển khai đầu tư xây dựng chậm:
Do phần lớn người bị thu hồi đất khi xây dựng các dự án trên địa bàn
tỉnh Quảng Ninh đều là hộ gia đình và một số là các tổ chức sản xuất kinh
doanh, nên khi thu hồi đất phải bố trí tái định cư hoặc địa điểm cho các tổ
chức di chuyển. Nhưng các địa phương hiện nay hầu như không có đủ quỹ
nhà đất để phục vụ tái định cư, mà giao cho chủ dự án tự đầu tư xây dựng nhà
hoặc tạo lập các điểm tái định cư khi thực hiện dự án đó. Vì thế việc bồi
thường phải chờ có nhà, đất bố trí tái định cư dẫn đến việc giải phóng mặt
bằng chậm. Theo báo cáo của Ủy ban nhân dân thành phố Hạ long, địa phương
có nhiều dự án nhất, mới có quỹ nhà đất đáp ứng được khoảng 40% cho nhu
cầu cần thiết để phục vụ tái định cư cho người bị thu hồi đất thuộc đối tượng
phải bố trí tái định cư theo kế hoạch thu hồi đất của thành phố. Chính việc
thiếu quỹ nhà đất để bố trí tái định cư nên việc giải phóng mặt bằng khi nhà
86
nước thu hồi đất để thực hiện các dự án đầu tư gặp nhiều vướng mắc.
2.3.4.3. Nguyên nhân từ phía đối tượng thụ hưởng chính sách
Do nhiều nguyên nhân khác nhau, số hộ gia đình cá nhân bị thu hồi
đất (đối tượng thụ hưởng chính sách) có xu hướng không đồng tình với chính
sách bồi thường, hỗ trợ và tái định cư, không đồng tình với đơn giá bồi
thường về đất ngày càng gia tăng, mặc dù các cấp chính quyền đã nhiều lần
gặp gỡ động viên, tuyên truyền giải thích nhưng cũng không tiến triển là bao.
Nhiều dự án đã phải tiến hành cưỡng chế để thu hồi đất ở phạm vi vài chục
hộ. Có lẽ nguyên nhân thật sự ở đây là chính sách bồi thường, hỗ trợ và tái
định cư chưa được dân đồng tình, cán bộ thiếu tin tưởng, hiệu lực chế tài thấp,
cách xử lý mâu thuẫn, có xu hướng làm cho hộ chây ỳ được lợi nhiều
hơn....Tâm lý người dân như vậy đã khiến nạn khiếu kiện về đất đai tăng
(xem Hình 2.1)
Tình trạng khiếu kiện của dân bắt nguồn từ hai nguyên nhân: Một là
quy định của pháp luật hiện hành có nhiều điểm chưa hợp lý, chưa phù hợp
với thực tế của cuộc sống; Hai là nhiều quy định của pháp luật chưa được các
cơ quan nhà nước ở địa phương thực hiện đầy đủ (do các quy định này mâu
thuẫn hoặc do quá khó để thực hiện).
87
Năm 2009
521442
1050 1065 1125
Năm 2008Năm 2007Năm 2006Năm 2005
Hình 2.1: Số lượt đơn thư, khiếu nại, tố cáo gửi đến Ủy ban nhân dân tỉnh
Quảng Ninh
Nguồn: [28, tr. 15].
Trong quá trình triển khai Luật Đất đai năm 2003, Thanh tra nhà nước
tỉnh được giao nhiệm vụ tiếp nhận và xử lý đơn thư khiếu nại, tố cáo của
người bị thu đất gửi đến Uỷ ban nhân dân tỉnh. Sau khi rà soát, phân loại,
đánh giá và phân tích nguyên nhân của các đơn nhận được, có thể phân tích
dữ liệu để chia nhóm các nguyên nhân gây ra khiếu nại, tố cáo về đất đai. Các
nguyên nhân được được thể hiện trong Hình 2.2 và Hình 2.3.
Khiếu nại hành chính về bồi thường tái định cư khi Nhà nước thu
hồi đất chiếm (70.64 %).
Tố các về vi phạm pháp luật của cán bộ quản lý và cơ quan hành
chính chiếm (10.03 %).
Khiếu nại về quyết định hành chính đối với giải quyết tranh chấp
đất đai chiếm (8.59 %).
Đòi lại đất cũ hiện người khác đang sử dụng chiếm (6.80 %).
• Các dạng khiếu nại, tố cáo khác chiếm (3.94 %)
88
Hình 2.2: Các dạng tranh chấp, khiếu nại, tố cáo về đất đai
Nguồn: [28, tr. 16].
• Khiếu nại về giá đất để tính giá trị bồi thường quá thấp so với giá
đất thực tế trên thị trường (70 %).
• Người sử dụng đất đã nhận bồi thường theo chính sách đất đai
trước đây, nay đòi bồi thường theo chính sách mới (20 %).
• Đòi bồi thường đối với đất Nhà nước đã thu hồi trong thời kỳ kinh
tế bao cấp nên chưa được bồi thường (6 %).
• Khiếu nại về việc chưa được giải quyết tái định cư khi bị thu hồi
toàn bộ đất ở, nhà ở (3 %).
• Khiếu nại, tố cáo đối với tình trạng bất công trong bồi thường, tái
định cư do có biểu hiện vi phạm pháp luật, tham nhũng (1 %)
89
Hình 2.3: Khiếu nại hành chính đối với bồi thường,
tái định cư khi nhà nước thu hồi đất
Nguồn: [28, tr. 17].
90
Chương 3
QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN CHÍNH SÁCH
BỒI THƯỜNG, HỖ TRỢ VÀ TÁI ĐỊNH CƯ ĐỐI VỚI NGƯỜI DÂN
BỊ THU HỒI ĐẤT TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH QUẢNG NINH
3.1. MỤC TIÊU, QUAN ĐIỂM HOÀN THIỆN CHÍNH SÁCH BỒI THƯỜNG,
HỖ TRỢ VÀ TÁI ĐỊNH CƯ DỐI VỚI NGƯỜI DÂN BỊ THU HỒI ĐẤT TRÊN ĐỊA
BÀN TỈNH QUẢNG NINH THỜI GIAN TỚI
3.1.1. Dự báo nhu cầu thu hồi đất để thực hiện các dự án ở tỉnh
Quảng Ninh
Cùng với sự phát triển của đất nước, những năm tới nhu cầu thu hồi
đất để mở rộng mặt bằng sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp khai thác
than, sản xuất vật liệu xây dựng, xây dựng các nhà máy điện, xi măng, chỉnh
trang đô thị, phát triển các khu đô thị mới, xây dựng các khu công nghiệp, khu
vui chơi giải trí trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh là rất lớn. Bên cạnh đó Trung
ương cũng sẽ đầu tư cải tạo và nâng cấp hàng loạt tuyến đường giao thông
như Quốc lộ 4B, đường 18A đoạn Uông Bí Hạ Long, xây dựng tuyến đường
cao tốc Hà Nội- Quảng Ninh, tuyến cao tốc Hạ Long- Móng Cái và nhiều
tuyến đường khác. Để triển khai có hiệu quả những dự án trên, công tác bồi
thường, giải phóng mặt bằng phải không ngừng được đổi mới. Cùng với nhu
cầu đầu tư trong nước, đầu tư nước ngoài vào Quảng Ninh dự báo cũng rất
lớn. Đặc biệt với khu kinh tế Vân Đồn, các nhà đầu tư nước ngoài rất quan
tâm đến dự án sân bay, các dự án du lịch sinh thái, các dự án khu nhà nghỉ cao
cấp, khách sạn, nhà hàng.
Với việc triển khai hàng loạt các dự án lớn như đã nêu ở trên, dự báo
về khả năng mất đất của một bộ phận dân cư là rất lớn.
91
3.1.2. Định hướng hoàn thiện chính sách bồi thường, hỗ trợ và tái
định cư đối với người dân bị thu hồi đất trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh
thời gian tới
3.1.2.1. Định hướng
Hoàn thiện chính sách bồi thường, hỗ trợ và tái định cư trên địa bàn
tỉnh Quảng Ninh những năm tới cần tập trung vào: Tháo gỡ những khó khăn
vướng mắc về cơ chế chính sách hiện đang tồn tại, ảnh hưởng đến tiến độ
công tác bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi nhà nước thu hồi đất; Tháo gỡ
những vướng mắc về thủ tục đầu tư, về huy động vốn; Tận dụng những điều
kiện sẵn có về đất để xây dựng các khu tái định cư theo nguyên tắc trải rộng
khắp nơi, đa dạng về diện tích, về mức giá phục vụ kịp thời công tác giải
phóng mặt bằng các công trình đang được triển khai.
3.1.2.2. Một số định hướng cụ thể
Để chính sách bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi nhà nước thu hồi
đất có thể thực hiện tốt thì cần phải thực hiện một số định hướng hoàn thiện
cụ thể như sau:
Một là, tiếp tục hoàn thiện và công bố công khai quy hoạch kế hoạch
sử dụng đất, quy hoạch mạng lưới hạ tầng kỹ thuật có tính xương sống tạo
động lực phát triển. Tập trung quy hoạch và đầu tư phát triển khu vực ven đô
để giãn dân giảm áp lực khu vực trung tâm, hạn chế thu hồi đất khu dân cư
truyền thống đã ở ổn định lâu đời. Khi quy hoạch các tuyến đường mới phải
tiến hành đồng thời với quy hoạch 2 bên đường để khai thác quỹ đất hai bên
đường theo nguyên tắc đấu giá quyền sử dụng đất.
Hai là, chú trọng công tác đầu tư, công tác bố trí di dân tái định cư
theo nguyên tắc khu tái định cư phải bằng hoặc tốt hơn nơi ở cũ. Chỉ áp dụng
hình thức chia lô khi giao đất có hạ tầng kỹ thuật thuộc khu vực ngoại thành,
khu vực nội thành chủ yếu bồi thường bằng tiền hoặc bằng nhà. Khuyến khích
92
hộ tái định cư di chuyển ra khu vực ngoại thành thông qua cơ chế giá và diện
tích đất. Các khu tái định cư phải gắn kết với các khu đô thị mới tạo điều kiện
để chuyển dịch cơ cấu kinh tế của từng địa bàn, từng đối tượng dân cư.
Ba là, tiếp tục rà soát cơ chế, chính sách của tỉnh theo nguyên tắc bảo
đảm hài hòa về lợi ích giữa nhà nước, nhà đầu tư và người dân bị thu hồi đất.
Quá trình thực hiện phải đảm bảo nguyên tắc: Công bằng, dân chủ, công khai,
có lý, có tình. Đối với dự án đầu tư không thuộc các công trình phục vụ lợi
ích quốc phòng, an ninh, lợi ích quốc gia, lợi ích công cộng và công trình
trọng điểm, thì khuyến khích chủ đầu tư thực hiện cơ chế thỏa thuận với
người sử dụng đất.
Bốn là, công tác thu hồi đất để thực hiện các dự án đầu tư phải được
chuẩn bị trước trên tất cả các phương diện như, phương án tái định cư,
phương án sử dụng lao động nơi thu hồi đất, các giải pháp để hướng nghiệp,
tạo việc làm mới cho người nông dân khi không còn đất để sản xuất. Đối với
các dự án đầu tư có ảnh hưởng lớn đến cơ cấu kinh tế - xã hội và đời sống dân
cư, trước khi quyết định đầu tư phải lấy ý kiến của nhân dân khu vực dự kiến
thu hồi đất để thực hiện dự án về mục đích, ý nghĩa, kế hoạch và thời gian
thực hiện dự án, chính sách bồi thường, giải phóng mặt bằng tái định cư để
tạo sự thống nhất cao.
Năm là, huy động sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị trong
công tác tổ chức thực hiện và công tác tuyên truyền, vận động, giải thích chế
độ chính sách. Giải quyết kịp thời đơn thư khiếu nại theo nguyên tắc giải
quyết dứt điểm vụ việc ngay từ cơ sở. Kiên quyết xử lý các trường hợp cố
tình vi phạm pháp luật trong quá trình tổ chức thực hiện công tác giải phóng
mặt bằng. Biện pháp thực hiện phải đồng bộ, thống nhất từ Trung ương đến
địa phương, thống nhất giữa các ngành các cấp. Kiên quyết thu hồi đất đối với
diện tích đất đã giao để hoang hoá, sử dụng sai mục đích.
93
3.2. GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN CHÍNH SÁCH BỒI THƯỜNG, HỖ TRỢ,
TÁI ĐỊNH CƯ ĐỐI VỚI NGƯỜI DÂN BỊ THU HỒI ĐẤT Ở TỈNH QUẢNG NINH
3.2.1. Nhóm giải pháp về quản lý đất đai
3.2.1.1. Tiếp tục đẩy mạnh công tác tuyên truyền, phổ biến các văn
bản pháp luật về đất đai nhằm hạn chế khiếu kiện khi hiểu sai luật
Phổ biến các văn bản pháp luật về đất đai đến tận người dân phải được
thực hiện thường xuyên, liên tục ở tất cả các cấp chính quyền cấp tỉnh, huyện,
xã để họ tự giác thực hiện. Trong công tác tuyên truyền cần chú ý kết hợp
nhiều loại hình, nhiều kênh thông tin khác nhau làm cho người dân đi từ hiểu
đến đồng tình và tự giác chấp hành chính sách đất đai ngày một tốt hơn. Đồng
thời, thông qua công tác tuyên truyền kịp thời sửa đổi, bổ sung để hoàn thiện
các văn bản đã ban hành thuộc thẩm quyền của Ủy ban nhân dân cấp tỉnh
như: hướng dẫn về giao đất, cho thuê đất, cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất; quy định về giá đất và phương pháp xác định giá các loại đất; quy chế về
đấu giá quyền sử dụng đất, đảm bảo đúng pháp luật về đất đai và phù hợp với
tình hình thực tế ở Quảng Ninh.
3.2.1.2. Đẩy mạnh công tác xây dựng quy hoạch, kế hoạch sử dụng
đất, khảo sát, đo đạc, lập bản đồ địa chính, kịp thời chỉnh lý những biến
động về đất đai làm căn cứ cho chính sách đền bù
Đây là công việc quan trọng và rất cần thiết để thực hiện quản lý nhà
nước về đất đai và là cơ sở để thực hiện việc giao đất, cho thuê đất, cấp giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất và giải quyết tranh chấp về đất đai.
Kế hoạch sử dụng đất là nội dung quan trọng hàng đầu của công tác
quản lý nhà nước về đất đai. Với nghĩa đó, tất cả các cấp từ tỉnh, huyện, xã
đều phải tiến hành rà soát, bổ sung, điều chỉnh quy hoạch cho phù hợp với
quy hoạch của cấp trên và thực tiễn đặt ra, trong đó chú ý đến việc quy hoạch
các khu công nghiệp, các khu dân cư để có căn cứ khi thu hồi và bồi thường.
94
Thực hiện nghiêm túc việc công khai quy hoạch để nhân dân biết theo
theo phương châm quy hoạch đất khu nào thì trước tiên nhân dân khu đó phải
được biết và biết trước. Tạo điều kiện để nhân dân kiểm tra, giám sát việc
thực hiện quy hoạch, ngăn chặn những trường hợp lấn chiếm đất trái phép, sử
dụng đất sai mục đích, tự ý làm nhà vào vùng quy hoạch đã được công bố.
Công tác khảo sát, đo đạc lập bản đồ địa chính phải được coi trọng vì
đây là công việc cần thiết, là căn cứ quan trọng để Ủy ban nhân dân tỉnh tiến
hành các bước công việc một cách thuyết phục khi thực thi thu hồi đất và thực
hiện chính sách bồi thường, hỗ trợ và tái định cư cho người bịthu hồi đất.
3.2.1.3. Đẩy mạnh việc kê khai đăng ký đất đai, lập hồ sơ địa chính,
cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, xây dựng và quản lý tốt thị trường
bất động sản
Đây là nhóm giải pháp nhằm xác lập và giải quyết tốt mối quan hệ
giữa Nhà nước với người sử dụng đất theo pháp luật. Chúng ta chỉ có thể
quản lý tốt đất đai nếu như việc đăng ký đất đai, lập hồ sơ địa chính, cấp giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất đã hoàn thành và ngược lại.
Xây dựng và quản lý tốt thị trường bất động sản nhằm tạo thế chủ
động nắm quỹ đất theo quy hoạch, kế hoạch đã duyệt. Cung cấp cho nhu cầu
sử dụng đất của các tổ chức, hộ gia đình, cá nhân theo hình thức đấu giá công
khai. Tạo điều kiện thuận lợi cho người sử dụng tham gia vào thị trường bất
động sản, tránh hiện tượng mua bán đất ngầm như hiện nay. Khắc phục tình
trạng Nhà nước các cấp có thẩm quyền định giá đất có tính chất phân phối,
bao cấp.
3.2.1.4. Tăng cường công tác thanh kiểm tra tình hình quản lý và
sử dụng đất đồng thời giải quyết tốt đơn thư khiếu nại, tố cáo
Đây là nhiệm vụ không thể thiếu được trong công tác quản lý nhà
nước về đất đai. Đặc biệt, trong giai đoạn hiện nay- đất đai là một vấn đề hết
95
sức nhậy cảm, phức tạp. Sự yếu kém trong quản lý đất đai sẽ dẫn đến những
diễn biến phức tạp của đời sống xã hội, mất lòng tin của nhân dân. Vì vậy,
nhiệm vụ đặt ra đối với ngành Tài nguyên và Môi trường là phải phát hiện và
xử lý nghiêm minh, đúng pháp luật các hành vi sai phạm chính sách đất đai.
Hiện nay có rất nhiều sai phạm đang xảy ra trong quản lý và sử dụng đất
đai như giao đất không đúng thẩm quyền, tự ý chuyển mục đích sử dụng đất, lấn
chiếm đất công, vi phạm quy hoạch. Tất cả các sai phạm này cần phải được
xử lý một cách nghiêm minh, kịp thời, không để tình trạng khiếu nại, tố cáo
và tranh chấp đất đai kéo dài, vượt cấp. Đồng thời, phải xử lý nghiêm và kiên
quyết đưa ra khỏi bộ máy ngành địa chính những cán bộ thoái hóa biến chất.
3.2.1.5. Tăng cường sự lãnh đạo của các cấp ủy Đảng
Quản lý nhà nước về đất đai là công việc liên quan đến nhiều ngành,
nhiều cấp, do đó, cùng với việc tuyên truyền vận động nhân dân thực hiện
nghiêm chỉnh pháp luật đất đai của Nhà nước, lực lượng cán bộ công chức
Nhà nước cần phải gương mẫu để bằng hành động của mình cho nhân dân noi
theo. Vì vậy, các cấp ủy Đảng cần phải tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo nhằm
tổ chức và thực hiện tốt các mục tiêu mà Đảng và Nhà nước giao. Thực tế
quản lý nhà nước về đất đai ở Quảng Ninh cho thấy vai trò lãnh đạo của các
cấp ủy Đảng là rất quan trọng, là nhân tố quyết định sự thành công trong công
tác quản lý đất đai. Coi trọng công tác tuyên truyền giáo dục là tạo điều kiện
để "dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra". Và để tăng cường sự lãnh đạo
của Đảng trong lĩnh vực quản lý đất đai thì nhất thiết phải coi tình hình quản
lý sử dụng đất đai ở địa phương hàng năm là một chỉ tiêu để xét cơ sở Đảng
trong sạch vững mạnh.
Những giải pháp cơ bản nêu trên có quan hệ chặt chẽ với nhau, hỗ trợ
thúc đẩy nhau cùng thực hiện một mục tiêu là quản lý và sử dụng đất đai có
hiệu quả. Tăng cường sự lãnh đạo của các cấp ủy Đảng là để xây dựng chính
quyền trong sạch vững mạnh. Tuy nhiên, do điều kiện kinh tế còn có hạn, chúng
96
ta không thể cầu toàn ngay một lúc thực hiện tốt tất cả các giải pháp mà phải
căn cứ vào tình hình thực tế để lựa chọn giải pháp nào cần được ưu tiên.
3.3.2. Giải pháp hoàn thiện nội dung chính sách bồi thường, hỗ
trợ và tái định cư
Hoàn thiện phương thức tuyên truyền và triển khai chính sách chung
về bồi thường, hỗ trợ và tái định cư
Đây là nhiệm vụ quan trọng trong quá trình thực hiện dự án, quyết
định tiến độ cũng như khả năng thực hiện của dự án. Vì thế, đối với những
nội dung thuộc thẩm quyền của địa phương ban hành thì phải khẩn trương
nghiên cứu và cụ thể hóa cho phù hợp với những đặc thù của địa phương.
Tuyệt đối không được trái với những quy định của Trung ương và các văn
bản đã ban hành. Trên cơ sở đó, tiến hành triển khai đến tất cả các cấp, các
ngành, đến tất cả các cán bộ làm công tác bồi thường và đến từng người dân
trong diện giải tỏa. Trước khi truyền đạt đến người dân, cần phải có thời gian
cho cán bộ nghiên cứu trước rồi tập hợp để tập huấn thống nhất về cách hiểu,
nội dung, phương pháp truyền đạt. Quá trình truyền đạt, những vướng mắc
trong chính sách phải được tập hợp, được giải quyết bằng văn bản để đảm bảo
tính thống nhất, tránh trường hợp mỗi ngành, mỗi cấp, mỗi cán bộ có một
quan điểm một cách hiểu khác nhau. Khi đã thống nhất rồi thì phải tiếp tục
tuyên truyền, phổ biến sâu rộng đến nhân dân và phải được in thành tài liệu
gửi đến Ủy ban nhân dân cấp xã trước khi thu hồi đất để thực hiện dự án.
Chính sách bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi truyền đạt phải đầy
đủ và công khai đến các hộ dân có đất bị thu hồi để người dân có điều kiện
nghiên cứu, trên cơ sở đó có những thông tin phản hồi lại các cơ quan nhà
nước. Mọi thông tin mà người dân phản hồi lại, đặc biệt là những thông tin
không đồng tình, chưa thông suốt hoặc chưa hiểu về một nội dung nào đó,
phải được tập hợp một cách kỹ lưỡng và giao cho người có kinh nghiệm
97
chuyên sâu về lĩnh vực mà người dân có ý kiến nghiên cứu, đề xuất hướng
giải quyết. Nếu thấy ý kiến của người dân đúng thì phải khẩn trương trình cấp
có thẩm quyền sửa đổi, bổ sung cho kịp thời. Ngược lại, nếu thấy ý kiến của
người dân là không thỏa đáng thì phải tổ chức họp dân để giải thích. Người
được phân công giải thích phải là người am hiểu pháp luật, có trình độ chuyên
môn vững vàng, có khả năng truyền đạt và có tính thuyết phục cao đối với
nhân dân. Vì thế, những người làm công tác bồi thường, hỗ trợ và tái định cư
thì nên hạn chế tới mức tối đa sự thay đổi và cần phải bố trí những người có
thâm niên công tác, có khả năng tương đối toàn diện. Có như vậy mới tạo
được niềm tin đối với nhân dân về đường lối của Đảng, pháp luật của Nhà
nước, đồng thời mới thực hiện tốt quy chế dân chủ tại cơ sở, tránh được
những khiếu kiện trong nhân dân.
3.2.2.1. Hoàn thiện bồi thường đất và giá đất để tính bồi thường, hỗ
trợ và tái định cư
Chế độ bồi thường đất là nội dung lớn nhất, phức tạp nhất trong chính
sách bồi thường hiện nay. Như đã trình bày ở chương 2, nguyên nhân là do
chính sách đất đai ở nước ta đang trong quá trình hoàn thiện, nhiều tồn tại về
đất đai chưa được giải quyết. Vì vậy, yêu cầu đặt ra đối với chính sách bồi
thường về đất là phải được cụ thể một cách chi tiết, rõ ràng, dễ hiểu, hiểu theo
một nghĩa thống nhất và dễ thực hiện cho từng trường hợp cụ thể. Giải quyết
tốt về chính sách bồi thường, hỗ trợ về đất sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho các
bước công việc tiếp theo như bồi thường tài sản, chính sách hỗ trợ, chính sách
tái định cư. Vì vậy, ở Hội đồng bồi thường cấp huyện, thành viên phòng Tài
nguyên và Môi trường có năng lực về chuyên môn, nắm vững đường lối chủ
trương chính sách của Đảng, các vấn đề cụ thể về đất đai của địa phương
tham gia vào Hội đồng sẽ có ý nghĩa quan trọng, quyết định. Vì, nếu xác định
đúng nguồn gốc sử dụng đất, diện tích đất ở… thì phương án bồi thường sẽ
được lập đúng và ngược lại.
98
Xác định giá đất để tính bồi thường, nhất thiết phải tuân thủ theo quy
định tại Khoản 1, Điều 56 Luật Đất đai năm 2003 là:
Việc xác định giá đất của Nhà nước phải đảm bảo nguyên
tắc sát với giá chuyển nhượng quyền sử dụng đất thực tế trên thị
trường trong điều kiện bình thường; khi có chênh lệch lớn so với
giá chuyển nhượng quyền sử dụng đất thực tế trên thị trường thì
phải điều chỉnh cho phù hợp. Các thửa đất liền kề nhau, có điều
kiện kinh tế xã hội, kết cấu hạ tầng như nhau, có cùng mục đích sử
dụng hiện tại, cùng mục đích sử dụng theo quy hoạch thì mức giá
như nhau.Tại các khu vực giáp ranh giữa các tỉnh (thành phố trực
thuộc Trung ương) có điều kiện tự nhiên, kết cấu hạ tầng như nhau,
có cùng mục đích sử dụng hiện tại, cùng mục đích sử dụng theo
quy hoạch thì mức giá như nhau [18, tr. 26].
Thành lập và phát triển một số các đơn vị sự nghiệp hoặc doanh nghiệp
công ích thực hiện chức năng nhiệm vụ về định giá đất, tư vấn, cung cấp
thông tin về giá đất và giá bất động sản. Xây dựng chương trình thống kê theo
dõi cập nhật thường xuyên biến động giá đất của các khu vực, các loại đất,
từng khu dân cư, từng đường phố trong đô thị ở địa bàn địa phương mình.
Đồng thời khuyến khích mọi thành phần kinh tế phát triển các dịch vụ tư vấn,
định giá và cung cấp các thông tin về giá đất cho các đối tượng có nhu cầu.
Để bảo đảm có thông tin về giá đất một cách thường xuyên, chính xác, kịp
thời làm cơ sở, căn cứ thực tế phục vụ cho việc xác định giá đất của nhà nước
hàng năm cũng như điều chỉnh kịp thời giá đất của nhà nước quy định khi giá
chuyển nhượng quyền sử dụng đất trên thị trường có sự tăng giảm lớn và nhà
nước áp dụng các biện pháp điều tiết bình ổn giá đất để phục vụ mục tiêu phát
triển kinh tế xã hội trong trường hợp cần thiết. Bảo đảm và duy trì thường
xuyên sự phù hợp giữa giá đất tính bồi thường với giá chuyển nhượng quyền
sử dụng đất trên thị trường, góp phần đẩy nhanh tiến độ thực hiện thu hồi đất,
99
giải phóng mặt bằng khi nhà nước thu hồi đất để thực hiện các dự án xây
dựng cơ sở hạ tầng chỉnh trang phát triển đô thị.
Thực tế hiện nay cho thấy xu thế khi có dự án vào, giá đất ngay lập
tức được đẩy lên cao, phần chênh lệch này là do dự án đầu tư mà có. Vì thế,
để có quỹ đất tái định cư tại chỗ và tăng thu cho ngân sách thì giải pháp quan
trọng nên thực hiện là ngoài phần diện tích thu hồi thuộc phạm vi của dự án, nên
thu hồi thêm phần diện tích liền kề để tạo lập quỹ đất cho đầu tư xây dựng các
khu chung cư phục vụ cho tái định cư tại chỗ, diện tích thừa sau khi đã xây dựng
các khu chung cư thì tổ chức bán đấu giá để tăng thu cho ngân sách. Đồng thời
thực hiện chính sách điều tiết địa tô- phần chênh lệch đối với những người sử
dụng đất liền kề do đầu tư dự án mà có. Thực hiện tốt nguyên tắc này tạo ra
sự công bằng giữa người bị thu hồi đất và người sử dụng đất được ở lại.
3.2.2.2. Hoàn thiện chính sách bồi thường về tài sản và giá bồi
thường tài sản
Chính sách bồi thường, hỗ trợ về tài sản tuy không phức tạp như bồi
thường về đất nhưng cũng gặp nhiều khó khăn. Vì, trên thực tế tài sản của các
hộ gia đình, của các tổ chức rất đa dạng và phong phú. Vì thế, trong quá trình
kiểm đếm để lập phương án bồi thường một trong những yêu cầu đặt ra là phải
kiểm đếm chính xác, tính toán chi tiết, cụ thể, tỉ mỉ, không bỏ sót là yêu cầu
quan trọng. Đối với những tài sản là nhà cửa, vật kiến trúc, cây trồng trên đất sau
khi đã có quyết định thu hồi đất hoặc sau khi quy hoạch đã được công bố theo
quy định thì kiên quyết không bồi thường. Những tài sản gắn liền với đất
được tạo lập trước khi có quyết định thu hồi đất mà trái với mục đích sử dụng
đất đã được xác định trong quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất như làm nhà và
công trình trên đất nông nghiệp, đất trồng cây lâu năm thì cũng không bồi
thường.
Giá bồi thường về tài sản phải sát với giá thực tế trên thị trường trong
100
điều kiện bình thường. Khi có biến động tăng về giá thì phải kịp thời điều
chỉnh để đảm bảo quyền lợi cho người được bồi thường về tài sản.
3.2.2.3. Hoàn thiện chính sách tái định cư
* Hoàn thiện thủ tục xây dựng các khu tái định cư
Quy định ưu tiên và tạo điều kiện thuận lợi trong việc bố trí đất và giải
quyết các thủ tục đầu tư xây dựng nhà tái định cư trong thời gian ngắn nhất
cho các chủ dự án thực hiện xây dựng nhà tái định cư trong trường hợp quỹ
đất và nhà của địa phương chưa đủ để phục vụ bố trí tái định cư cho các dự án
mà giao cho chủ dự án tự lo nhà đất để bố trí cho các hộ gia đình bị thu hồi
đất để thực hiện dự án một cách kịp thời. Biện pháp này, giúp cho việc triển
khai thực hiện các dự án đầu tư khu tái định cư, điểm tái định cư, nhà tái định
cư được thực hiện trong thời gian nhanh nhất, bảo đảm có nhà đất để bố trí tái
định cư cho các hộ gia đình, cá nhân phải di chuyển chỗ ở khi bị thu hồi đất
để thực hiện dự án kịp thời theo đúng tiến độ phương án và kế hoạch giải
phóng mặt bằng và thực hiện đầu tư xây dựng của dự án.
* Đa dạng hơn các phương thức tạo lập quỹ nhà đất tái định cư
Việc tạo quỹ nhà đất tái định cư áp dụng cả việc đầu tư xây dựng mới,
mua lại nhà ở, đất ở đã được đầu tư xây dựng của các tổ chức kinh tế và quy
định các chủ dự án được giao đất thực hiện dự án xây dựng nhà ở để bán phải
dành một tỷ lệ nhà đất để làm quỹ nhà phục vụ cho tái định cư của địa
phương. Trong đầu tư xây dựng nhà đất tái định cư, thực hiện cả việc đầu tư
xây dựng các khu tái định cư, các điểm tái định cư và nhà tái định cư. Việc
đầu tư xây dựng các khu tái định cư, điểm tái định cư áp dụng cả ba hình thức
đấu thầu, chỉ định thầu và giao nhiệm vụ. Vốn để đầu tư xây dựng nhà đất tái
định cư sử dụng cả nguồn vốn ngân sách, cả nguồn vốn của các dự án, nguồn
tài trợ và huy động tạm thời vốn của các tổ chức kinh tế, đơn vị sản xuất kinh
doanh. Ở đô thị chủ yếu đầu tư xây dựng nhà để bố trí tái định cư. Có cơ chế
hỗ trợ thêm để khuyến khích các hộ gia đình tự lo tái định cư, v.v...
101
Để thực hiện tốt nhiệm vụ giải phóng mặt bằng góp phần tích cực vào
việc đẩy nhanh tiến độ thực hiện dự án, thì nhất thiết phải xây dựng trước các
khu tái định cư, đáp ứng yêu cầu của các hộ phải di chuyển để giải phóng mặt
bằng. Khu tái định cư phải đảm bảo có điều kiện bằng hoặc tốt hơn so với nơi
mà họ phải di dời để giải phóng mặt bằng.
Đồng thời với việc đầu tư xây dựng các khu tái định cư tập trung, tăng
mức hỗ trợ tái định cư tự tìm theo nguyên tắc hộ tự tìm đất tái định cư và hộ
tái định cư tập trung ngang bằng về lợi ích kinh tế để giảm áp lực cho các khu
tái định cư tập trung.
3.2.3. Cải tiến phương thức tổ chức thực hiện chính sách bồi
thường, hỗ trợ và tái định cư đối với người dân bị thu hồi đất trên địa
bàn tỉnh Quảng Ninh thời gian tới
Năng lực thực hiện chính sách và công tác tổ chức thực hiện bồi
thường, hỗ trợ và tái định cư khi nhà nước thu hồi đất có ảnh hưởng rất lớn
đến việc thực hiện chính sách bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi Nhà nước
thu hồi đất để thực hiện các dự án đầu tư. Với đội ngũ cán bộ làm công tác chỉ
đạo, hướng dẫn và cán bộ trực tiếp thực hiện áp dụng chính sách am hiểu và
nắm chắc các quy định của chính sách, có đủ trình độ năng lực, với các tổ
chức được giao thực hiện công tác bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi nhà
nước thu hồi đất để thực hiện dự án được tổ chức và thực hiện công việc có
tính chuyên môn hóa cao, với sự chỉ đạo và phối hợp giữa các cơ quan, đơn vị
có chức năng nhiệm vụ liên quan đến việc thực hiện chính sách chuẩn xác,
chặt chẽ và nhịp nhàng, thì việc triển khai thực hiện chính sách, việc áp dụng
chính sách sẽ diễn ra thuận lợi, loại bỏ được những vướng mắc phát sinh
không đáng có, bảo đảm cho quy trình thủ tục thực hiện đơn giản thuận tiện,
hạn chế được những khúc mắc, khiếu kiện gây kéo dài thời gian hoàn thành
việc thu hồi đất và giải phóng mặt bằng. Do vậy, thực hiện giải pháp này
trong thực hiện chính sách bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi nhà nước thu
102
hồi đất sẽ góp phần đẩy nhanh tiến độ thu hồi đất xây dựng các dự án. Để
thực hiện giải pháp này cần thực hiện các biện pháp cụ thể sau:
Một là, tăng cường tập huấn và bồi dưỡng chính sách, cách thức áp
dụng chính sách, giải quyết vướng mắc khi áp dụng chính sách, quy trình,
trình tự và các công việc cần thiết phải thực hiện khi áp dụng chính sách vào
từng dự án cụ thể để tổ chức thực hiện việc bồi thường hỗ trợ và tái định cư
cho những người bị thu hồi đất để thực hiện dự án. Trang bị đầy đủ kiến thức
về chính sách, phương pháp xử lý giải quyết các tình huống phát sinh và cách
thức triển khai tổ chức áp dụng chính sách khi nhà nước có quyết định thu hồi
đất để sử dụng đối với từng dự án cụ thể, bảo đảm cho đội ngũ cán bộ nắm
cặn kẽ các quy định của chính sách để áp dụng vào thực tế, có đầy đủ khả
năng để giải quyết các vướng mắc, tình huống phát sinh trong quá trình áp
dụng chính sách, tổ chức thực hiện chính sách một các bài bản, đúng quy
trình và đạt hiệu quả cao.
Hai là, Ủy ban nhân dân các huyện, thị xã, thành phố cần phải quan
tâm sớm thực hiện và đẩy mạnh việc thành lập một số tổ chức chuyên trách
như Tổ chức phát triển quỹ đất, Tổ chức quản lý và giải phóng mặt bằng đất
nhà nước thu hồi,... hoạt động theo cơ chế đơn vị sự nghiệp hoặc doanh
nghiệp công ích để quyết định giao cho các đơn vị này thực hiện công tác bồi
thường, hỗ trợ và tái định cư và giải phóng mặt bằng khi nhà nước có quyết
định thu hồi đất trên địa bàn địa phương, trong địa bàn khu vực quy hoạch đô
thị để giao cho các dự án sử dụng đầu tư xây dựng công trình xây dựng cơ sở
hạ tầng. Trên cơ sở đó từng bước chuyên môn hóa về công tác thực hiện bồi
thường, hỗ trợ và tái định cư và giải phóng mặt bằng khi nhà nước thu hồi đất
ở địa phương, đưa việc thực hiện chính sách bồi thường, hỗ trợ và tái định cư
và giải phóng mặt bằng khi nhà nước thu hồi đất ở đô thị đi vào nề nếp, góp
phần đẩy nhanh được tiến độ thực hiện thu hồi đất, nhất là thu hồi đất để xây
dựng cơ sở hạ tầng chỉnh trang phát triển đô thị.
103
Ba là, thường xuyên tổ chức các lớp bồi dưỡng về chuyên môn,
nghiệp vụ cho đội ngũ cán bộ làm công tác bồi thường, giải phóng mặt bằng
và các cán bộ có liên quan đến công tác này. Từng bước tạo lập đội ngũ cán
bộ có đủ trình độ và năng lực thực thi các nhiệm vụ cả trong chỉ đạo, hướng
dẫn và thực hiện chính sách bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi nhà nước thu
hồi đất để thực hiện các dự án đầu tư.
3.2.3.1. Kiện toàn bộ máy giúp việc Ủy ban nhân dân tỉnh tổ chức
thực hiện chính sách bồi thường, hỗ trợ và tái định cư đối với người dân bị
thu hồi đất trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh
* Kiện toàn bộ máy quản lý
Đây là vấn đề quan trọng hàng đầu có tính quyết định đến công tác bồi
thường, giải phóng mặt bằng. Bộ máy quản lý phải đảm bảo nguyên tắc tập
trung thống nhất từ Trung ương đến địa phương, phải phân công phân cấp rõ
ràng, quy định cụ thể quyền hạn cũng như trách nhiệm của các ngành, các
cấp, tránh tình trạng chồng chéo về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn. Đồng
thời phải có sự phối hợp chặt chẽ, thường xuyên liên tục giữa các cấp, các
ngành trong việc thực hiện công tác bồi thường, giải phóng mặt bằng.
* Cải tiến công tác cán bộ
Coi trọng công tác đào tạo, bồi dưỡng nâng cao năng lực, trình độ
chuyên môn, tinh thần trách nhiệm, phẩm chất đạo đức công chức thực thi
chính sách bồi thường, hỗ trợ và tái định cư. Quy định về chế độ khen thưởng
phù hợp để khuyến khích, động viên ý thức trách nhiệm của cán bộ. Đồng
thời cũng phải có những quy định nghiêm khắc để xử lý những trường hợp
cán bộ công chức lợi dụng quyền hạn, chức vụ, lợi dụng những kẽ hở của
chính sách và pháp luật mưu lợi riêng hoặc trường hợp cán bộ công chức
thiếu ý thức trách nhiệm, trây lười, ỷ lại, làm thiệt hại công sức, tiền của nhà
nước và nhân dân trong việc thực hiện công tác bồi thường, giải phóng mặt
104
bằng. Để làm tốt nội dung này, cần phải ban hành Quy chế tổ chức thực hiện
công tác bồi thường giải phóng mặt bằng trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh, theo
đó quy định rõ nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của các cấp, các ngành,
chủ đầu tư và các tổ chức, cá nhân có liên quan trong công tác bồi thường,
giải phóng mặt bằng.
3.2.3.2. Tăng cường chỉ đạo của Ủy ban nhân dân tỉnh đối với người
dân bị thu hồi đất trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh
Căn cứ chức năng, nhiệm vụ và thẩm quyền được Chính phủ giao, Ủy
ban nhân dân tỉnh ban hành đầy đủ các quy định cụ thể hóa chính sách; quy
định bảng giá đất, giá tài sản tính bồi thường; các biện pháp hỗ trợ ổn định
đời sống, sản xuất cho những người bị nhà nước thu hồi đất, các quy định cụ
thể về việc bố trí tái định cư cho các hộ gia đình bị thu hồi đất phải di chuyển
chỗ ở cho phù hợp với điều kiện thực tế ở địa phương, bảo đảm cho việc triển
khai áp dụng chính sách một cách thống nhất.
Những dự án quan trọng, diện tích thu hồi đất lớn, số hộ phải bồi
thường di chuyển nhiều, Ủy ban nhân dân tỉnh tổ chức giao ban mỗi tuần một
lần để nghe địa phương và các ngành báo cáo và kiểm điểm về tiến độ theo kế
hoạch đã phê duyệt để có chỉ đạo kịp thời. Những nội dung thuộc thẩm quyền
giải quyết của ngành nào thì ngành đó chủ động giải quyết, trường hợp vượt
quá thẩm quyền thì báo cáo Ủy ban nhân dân tỉnh giải quyết. Ví dụ vướng
mắc về cách xác định tài sản là vật kiến trúc, Sở xây dựng có trách nhiệm
hướng dẫn; vướng mắc về nguồn gốc đất, Sở Tài nguyên và Môi trường có
trách nhiệm hướng dẫn.
Thời gian ra văn bản chỉ đạo của Ủy ban nhân dân cấp tỉnh không quá
3 ngày làm việc kể từ ngày nhận được văn bản đề nghị giải quyết của địa
phương hoặc sở ngành. Cá biệt có những trường hợp Ủy ban nhân dân tỉnh ra
văn bản chỉ đạo ngay trong ngày. Thời gian các sở ngành giải quyết công việc
105
theo đề nghị của các địa phương về lĩnh vực ngành phụ trách tối đa không quá
5 ngày làm việc kể từ ngày nhận được văn bản đề nghị.
Văn bản chỉ đạo của Ủy ban nhân dân tỉnh hay văn bản hướng dẫn của
các ngành về một nội dung nào đó đều phải rõ ràng, cụ thể, minh bạch, đúng
chế độ chính sách, phù hợp với thực tiễn của địa phương. Không ra văn bản
chỉ đạo khi biết tính khả thi không cao.
Hàng tuần Ủy ban nhân dân các huyện, thị xã, thành phố báo cáo
nhanh tình hình thực hiện công tác bồi thường, giải phóng mặt bằng các dự án
lớn, quan trọng, khó khăn vướng mắc trong quá trình thực hiện và đề xuất
hướng giải quyết qua hòm thư điện tử về Sở Tài nguyên và Môi trường.
Hàng tháng Sở Tài nguyên và Môi trường, tổng hợp tình hình thực
hiện công tác bồi thường của các huyện, thị xã, thành phố đối chiếu với kế
hoạch đã phê duyệt xác định tiến độ thực hiện, nguyên nhân chậm tiến độ
thuộc về lỗi của người bị thu hồi đất hay thuộc về cơ quan thực hiện; trên cơ
sở đó đôn đốc các địa phương đẩy nhanh tiến độ thực hiện. Tổng hợp những
vướng mắc chung trình Ủy ban nhân dân tỉnh ban hành để áp dụng cho các dự
án trên địa bàn toàn tỉnh.
3.2.3.3. Tăng cường công tác phối hợp giữa các ngành trong việc
hướng dẫn thực hiện chính sách bồi thường, giải phóng mặt bằng đối với
người dân bị thu hồi đất
Chính sách bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi nhà nước thu hồi đất
là chính sách tổng hợp, liên quan đến nhiều lĩnh vực, nhiều ngành, nhiều cấp.
Do đó, để bản quy định chung về chính sách bồi thường, hỗ trợ và tái định cư
áp dụng chung thống nhất trên địa bàn toàn tỉnh thì giữa các cơ quan tham
mưu phải có sự phối hợp chặt chẽ trong việc nghiên cứu, hướng dẫn theo
ngành, lĩnh vực được phân công. Một sai lầm về chính sách dù nhỏ cũng để
106
lại những hậu quả không dễ gì khắc phục được vì chính sách chung về bồi
thường, hỗ trợ và tái định cư được phủ rộng trên phạm vi toàn tỉnh do đó phải
hết sức thận trọng về câu chữ để dễ hiểu và hiểu theo một nghĩa.
Quá trình tổ chức thực hiện chính sách và đơn giá bồi thường là quá
trình triển khai lý thuyết vào thực tiễn, công đoạn này khẳng định sự thành
công hay thất bại của chính sách, có phù hợp với thực tiễn hay không. Do đó,
những người trực tiếp thực hiện phải hiểu rõ về chính sách và đơn giá, phải có
sự phối hợp nhịp nhàng giữa các phòng ban thực hiện theo một chu trình khép
kín với những bước công việc do từng ngành đảm nhiệm đan xen nhau với
điểm kết thúc là người dân nhận tiền bồi thường, bàn giao mặt bằng và không
có khiếu nại, tố cáo.
Quá trình thực hiện, sự vào cuộc của các cơ quan kiểm soát, tòa án,
hội luật sư giữ vai trò rất quan trọng. Đây là những cơ quan bảo vệ pháp luật,
bảo vệ quyền và lợi ích của Nhà nước, nhà đầu tư và người bị thu hồi đất. Sự
vào cuộc tích cực của các cơ quan này giúp cho người tổ chức thực hiện, nhà
đầu tư và người bị thu hồi đất an tâm hơn, thận trọng hơn khi giải quyết công
việc theo chức năng, quyền và nghĩa vụ của từng chủ thể.
3.2.3.4. Đào tạo và đề cao đạo đức cán bộ quản lý đất đai, cán bộ
liên quan đến chính sách bồi thường, hỗ trợ, tái dịnh cư đối với người dân
bị thu hồi đất trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh
Chính sách bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất
là chính sách rất tổng hợp, do đó cán bộ làm công tác này phải được tuyển
chọn từ những phòng ban chuyên môn có kinh nghiệm thực tiễn. Đối với cán
bộ làm công tác đất đai và xây dựng nên tuyển chọn những cán bộ đã có thực
tiễn công tác ít nhất từ 5 năm trở nên, có phẩm chất đạo đức tốt, bản lĩnh
chính trị vững vàng.
Đi đôi với việc tuyển chọn đội ngũ cán bộ có trình độ về chuyên môn
107
nghiệp vụ, về phẩm chất đạo đức tốt, cần phải tăng cường công tác đào tạo,
tập huấn để cung cấp kiến thức cho đội ngũ những người làm công tác bồi
thường, giúp cho họ cập nhật được những kiến thức mới nhất. Đồng thời,
cũng thông qua tập huấn giúp cho họ có điều kiện giao lưu, học hỏi kinh
nghiệm lẫn nhau. Quá trình tập huấn chú trọng đến công tác kiểm tra về nhận
thức bằng việc kiểm tra cả về lý thuyết cũng như khả năng xử lý các tình
huống cụ thể. Quá trình này được tiến hành theo định kỳ, mỗi quý 1 lần.
Công tác thi đua khen thưởng được tiến hành mỗi năm một lần nhằm
động viên khen thưởng những địa phương, những cá nhân có thành tích xuất
sắc trong công tác bồi thường, qua đó nhắc nhở các đơn vị, các địa phương
thực hiện chưa tốt.
3.2.3.5. Thu hút dân cư và các tổ chức xã hội ủng hộ chính sách bồi
thường, hỗ trợ, tái dịnh cư đối với người dân bị thu hồi đất đai trên địa bàn
tỉnh Quảng Ninh
Rút kinh nghiệm từ thực tiễn những năm qua, tỉnh Quảng Ninh cần ý
thức được rằng công tác bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi nhà nước thu
hồi đất là công việc của cả cộng đồng. Các tổ chức đoàn thể như hội nông dân,
hội phụ nữ, đoàn thanh niên, mặt trận tổ quốc v.v... đều nghĩa vụ chung vai
góp sức tất cả vì tiến độ giải phóng mặt bằng để triển khai các dự án đầu tư.
Với ý thức đó, cả hệ thống chính trị ở Quảng Ninh nên vào cuộc một
cách quyết liệt từ khâu đầu tiên đến khâu kết thúc, nhất là khâu tuyên truyền,
giải thích, vận động, kêu gọi và khi cần thiết là đối thoại để người dân bị thu
hồi đất trên địa đầu bàn tỉnh Quảng Ninh hiểu, đồng tình ủng hộ các quyết
định thu hồi đất thực hiện các dự án đầu tư.
Song hành với việc tuyên truyền, vận động, tỉnh Quảng Ninh cũng
cương quyết áp dụng các biện pháp mạnh để giải tỏa mặt bằng đối với những
trường hợp cố tình chống đối, lợi dụng dân chủ để lôi kéo, kích động vì động
108
cơ xấu.
Cùng với việc tuyên truyền của các tổ chức đoàn thể, mặt trận là sự
kết hợp sử dụng các cơ quan tư vấn, truyền thông, báo chí cùng vào cuộc
nhằm phát huy sức mạnh tổng lực của cả hệ thống. Những gương tốt, người
tốt được biểu dương trên các phương tiện thông tin, báo, đài và cũng nên nêu
tên những người chưa chấp hành trên các phương tiện truyền thanh.
3.2.3.6. Đẩy mạnh việc phân cấp gắn với tăng cường trách nhiệm
của các cơ quan, đơn vị; công khai về chủ trương thu hồi đất về bồi
thường, hỗ trợ và tái định cư khi thu hồi đất
Việc thu hồi đất và bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi nhà nước thu
hồi đất liên quan đến nhiều cơ quan, tổ chức, đơn vị thực hiện; mỗi cơ quan,
tổ chức, đơn vị theo chức năng nhiệm vụ chuyên môn được giao có trách
nhiệm chỉ đạo, hướng dẫn, kiểm tra trong quá trình thực hiện. Việc thực hiện
chính sách bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi nhà nước thu hồi đất đòi hỏi
sự phối hợp và tổ chức thực hiện chặt chẽ và phải được giải quyết nhanh đối
với các phát sinh vướng mắc trong quá trình thực hiện. Chính vì thế, việc
phân cấp theo thẩm quyền và quy định trách nhiệm cụ thể đến từng cơ quan,
đơn vị, đặc biệt là các cơ quan, đơn vị ở địa phương nơi trực tiếp thực hiện là
quan trọng và cấp thiết. Thực hiện giải pháp này, nhằm tạo thế chủ động cho
các cơ quan, đơn vị trong việc giải quyết công việc theo thẩm quyền, hạn chế,
loại trừ việc đùn đẩy công việc; đồng thời xác định rõ trách nhiệm của cơ
quan, đơn vị, người đứng đầu cơ quan trong việc giải quyết các công việc,
không để sót các công việc và tránh tình trạng có một việc nhưng lại có hai ba
cơ quan, đơn vị cùng thực hiện mà không ai chịu trách nhiệm. Qua đó, giúp
cho việc thực hiện chính sách, việc tổ chức thực hiện công tác bồi thường, hỗ
trợ và tái định cư khi nhà nước thu hồi đất trên mỗi địa bàn quận, huyện, thị
xã, thành phố thuộc tỉnh được triển khai một cách đầy đủ nhất, với sự phối hợp
nhịp nhàng. Để thực hiện giải pháp này cần triển khai một số biện pháp sau:
109
Một là, quy định rõ chức năng, nhiệm vụ, trách nhiệm của từng ngành
với từng việc cụ thể; quy định trách nhiệm phối hợp, trình tự và thời gian giải
quyết công việc theo đề nghị của các địa phương. Phát huy tính năng động,
sáng tạo, quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm của mỗi cấp chính quyền, mỗi cơ
quan, đơn vị đảm bảo cho công tác giải phóng mặt bằng được tiến hành thuận
lợi, bảo đảm tiến độ đề ra.
Hai là, mở rộng và phát huy hơn nữa quy chế dân chủ trong việc thu
hồi đất, trong tổ chức thực hiện. Mở rộng và thực hiện nghiêm túc việc công
khai rộng rãi để mọi tổ chức, cá nhân đều biết từ quy hoạch sử dụng đất, kế
hoạch thu hồi đất xây dựng đô thị, xây dựng kết cấu hạ tầng kỹ thuật, công
khai phương án bồi thường, hỗ trợ và tái định cư. Ngăn chặn những tiêu cực
trong sử dụng đất, tạo sự đồng thuận để người dân tự giác chấp hành quyết
định thu hồi đất.
3.2.4. Giải pháp điều kiện
3.2.4.1. Sửa Luật Đất đai theo hướng sau
* Sửa đổi hệ thống quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất
Hệ thống quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất của nước ta có nguồn gốc
từ những tư duy của thời bao cấp, mang nặng tính chủ quan nhiều hơn khách
quan. Kết luận của mỗi bản quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất thường là một
bảng kê các loại đất, chỉ tiêu được chuyển từ loại đất này sang loại đất khác
và một danh sách các dự án được chấp thuận. Đối với quy hoạch sử dụng đất
đai, cái cần là sử dụng ở vị trí nào, vị trí nào được chuyển đổi thì lại không có.
Như vậy, cũng không thể nói về giao đất, cho thuê đất theo đúng quy hoạch
hay không đúng quy hoạch vì quy hoạch không chỉ ra vị trí.
Do đó, cần phải sửa đổi theo hướng quy hoạch sử dụng đất phải đi
theo hướng phân vùng sử dụng đất theo không gian, đâu là vùng chuyên lúa,
vùng rừng đặc dụng cần phải bảo vệ, giữ nguyên, đâu là vùng sẽ sử dụng để
110
phát triển đô thị, phát triển công nghiệp, cần phải cho chuyển đổi. Quy hoạch
phân vùng này nên được chuẩn bị đồng thời với quy hoạch phát triển kinh tế -
xã hội, sau đó mới triển khai quy hoạch xây dựng để cụ thể hóa từng vùng sử
dụng đất đã được phê duyệt.
* Sửa đổi hệ thống quản lý giá đất cho phù hợp với thị trường
Xây dựng cơ chế quản lý đối với hệ thống dịch vụ định giá đất, vì đó
chính là nơi cung cấp giá đất xác định theo thị trường cho cả cơ quan quản lý
lẫn doanh nghiệp và người dân có nhu cầu thẩm định về giá trị bồi thường khi
thấy chưa thỏa đáng. Tất nhiên, gắn với việc cung cấp dịch vụ định giá đất
phải chỉ định được cơ quan phán quyết cuối cùng khi có tranh chấp về giá đất.
Cơ quan phán quyết này có thể là trọng tài kinh tế hoặc tòa án kinh tế.
Theo cách thức quản lý này, phương án bồi thường, hỗ trợ và tái định
cư phải được xây dựng trên cơ sở giá định theo một tổ chức cung cấp dịch vụ
định giá. Hiện nay, Thành phố Hồ Chí Minh đã đưa quy trình định giá vào
trong trình tự, thủ tục thực hiện bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi Nhà
nước thu hồi đất. Trường hợp người bị thu hồi đất cảm thấy giá đất để tính bồi
thường chưa thỏa đáng cũng cần thuê dịch vụ định giá để xem có nên khiếu
nại hay không, khi khiếu nại cũng phải có căn cứ giá do tổ chức nào thẩm định.
* Đổi mới cơ chế chuyển đổi đất đai hiện vẫn là nội dung quan trọng,
khó khăn, phức tạp nhất
Cơ chế chuyển đổi đất đai bắt buộc do nhà nước thu hồi đất phải có
những nghiên cứu để làm giảm đi mức độ tham gia của các cơ quan hành
chính, tăng lên sự tham gia của các đơn vị dịch vụ công, doanh nghiệp, cộng
đồng dân cư nơi có đất v.v... Những nội dung cần xem xét bao gồm:
Thống nhất hình thức tổ chức phát triển quỹ đất là loại hình doanh
nghiệp nhà nước, thực hiện nhiệm vụ bồi thường, giải phóng mặt bằng cho
111
cả trường hợp thu hồi đất theo quy hoạch và thu hồi đất theo dự án đã được
giới thiệu địa điểm đầu tư (không sử dụng hình thức Ban bồi thường, giải
phóng mặt bằng do Ủy ban nhân dân cấp huyện thành lập như hiện nay). Tổ
chức phát triển quỹ đất được vay tiền từ hệ thống ngân hàng đầu tư phát
triển, quỹ đầu tư phát triển để thực hiện việc bồi thường, hỗ trợ và tái định
cư. Tổ chức phát triển quỹ đất là đơn vị thực hiện quyết định hành chính của
cơ quan nhà nước về thu hồi đất và là đơn vị phối hợp với các tổ chức xã
hội, cộng đồng dân cư để bảo đảm tính đồng thuận giữa các bên tham gia và
sự chia sẻ quyền lợi giữa các bên có chung quyền lợi, làm giảm được tác
động trực tiếp của bộ máy hành chính lên cơ chế chuyển đổi đất đai bắt buộc
do Nhà nước thu hồi đất.
Thực hiện chặt chẽ quy trình định giá đất theo giá thị trường do các tổ
chức định giá cung cấp dịch vụ để làm căn cứ cho cơ quan nhà nước quyết
định giá trị bồi thường, hỗ trợ và tái định cư.
Bổ sung thêm một số hình thức của quan hệ về đất đai giữa nhà đầu tư
và người sử dụng đất như ưu tiên cho người đang sử dụng đất được góp vốn
bằng quyền sử dụng đất hoặc được cho thuê đất với nhà đầu tư thay cho việc
Nhà nước quyết định thu hồi đất để giao cho nhà đầu tư.
Có quy định cụ thể về quy trình thực hiện chuyển đổi đất đai trong
trường hợp thực hiện các dự án có tác động lớn, trên diện rộng đến cộng đồng
dân cư như các dự án thủy điện lớn, dự án khai thác khoáng sản trên nguyên
tắc xem xét cụ thể chính sách chia sẻ lợi ích (cả bằng tiền và không bằng tiền)
giữa các bên tham gia, các bên có quyền lợi liên quan.
Có quy định cụ thể về quy trình chuyển đổi đất đai trong trường hợp
các dự án thực hiện chỉnh trang nâng cấp hạ tầng đô thị, khu dân cư nông
thôn, xây dựng lại các khu dân cư cũ nát trên nguyên tắc áp dụng chính sách
112
góp đất, điều chỉnh đất đai của những cư dân trong khu dân cư.
Cơ chế thỏa thuận cần đổi mới theo quy trình cụ thể gồm các bước:
Nhà đầu tư đăng ký thực hiện cơ chế thỏa thuận với Văn phòng đăng
ký đất đai đối với một khu vực đất phù hợp với quy hoạch sử dụng đất đã
được phê duyệt.
Nhà đầu tư thuê tư vấn định giá đất thực hiện định giá đất theo giá thị
trường đối với loại đất đang sử dụng và giá đất đối với loại đất sẽ chuyển đổi
mục đích sử dụng.
Nhà đầu tư thương thảo với người đang sử dụng đất để thống nhất
phương thức chuyển quyền sử dụng đất, giá đất tương ứng có sự chứng kiến
của đại diện cộng đồng dân cư, đại diện của Văn phòng đăng ký đất đai.
Khi không đạt được thỏa thuận với đại đa số người đang sử dụng đất
thì nhà đầu tư cần tìm khu vực đất khác phù hợp với dự án đầu tư của mình.
Khi nhà đầu tư đã nhận chuyển quyền được phần lớn đất cho dự án, còn
lại một phần đất không thể thương thảo thành công với người đang sử dụng đất
thì nhà đầu tư có thể đệ trình cơ quan nhà nước can thiệp bằng cơ chế chuyển đổi
đất đai bắt buộc đối với phần đất còn lại (kinh nghiệm từ thực tế hiện nay, các
nhà đầu tư đề nghị khi đã nhận chuyển quyền được khoảng 80% diện tích đất
thì cần trợ giúp của cơ quan nhà nước đối với 20% diện tích đất còn lại).
Vấn đề còn lại cần xem xét là lấy tiêu chí gì làm ranh giới giữa hai cơ
chế chuyển đổi đất đai bắt buộc và thỏa thuận đối với các dự án đầu tư thuần
túy vì mục đích lợi nhuận. Như hiện nay, dự án nhóm A được áp dụng cơ chế
bắt buộc, dự án dưới nhóm A được áp dụng cơ chế tự nguyện. Có thể lấy tiêu
chí vốn đầu tư như hiện nay hoặc có thể căn cứ mức độ ưu tiên đầu tư trong
quy hoạch phát triển kinh tế- xã hội.
* Sự bình đẳng về quyền giữa nhà đầu tư trong nước và nhà đầu tư
113
nước ngoài cũng cần xem xét, điều chỉnh trong sửa đổi, bổ sung Luật Đất đai
Sự sửa đổi này tạo nên bình đẳng trong áp dụng cơ chế chuyển đổi đất
đai bắt buộc do nhà nước thu hồi đất hay tự nguyện ở phần trên (hiện nay mọi
loại dự án có 100% vốn nước ngoài đều được áp dụng cơ chế Nhà nước thu
hồi đất để giao). Hệ thống quyền và nghĩa vụ của nhà đầu tư có thể được thiết
kế lại theo hướng sau:
Cho phép nhà đầu tư nước ngoài được nhận chuyển nhượng quyền sử
dụng đất, thuê đất, nhận góp vốn bằng quyền sử dụng đất trực tiếp từ hộ gia
đình, cá nhân đang sử dụng đất thuộc phạm vi dự án đầu tư đã được thống
nhất địa điểm với cơ quan quản lý nhà nước về đầu tư (tương đương như
quyền của nhà đầu tư trong nước theo pháp luật hiện hành). Quyền này của
nhà đầu tư nước ngoài chỉ được thực hiện trong phạm vi đất cho dự án đã
được phê duyệt, không được thực hiện ngoài phạm vi dự án.
Nhà đầu tư trong nước và nước ngoài đều được sử dụng đất có thời
hạn theo ba hình thức sau:
Một là, do được Nhà nước cho thuê đất trả tiền thuê đất một lần cho cả
thời gian thuê, được thực hiện các quyền giao dịch đối với đất đai;
Hai là, do được Nhà nước cho thuê đất trả tiền thuê đất hàng năm, chỉ
được thực hiện các quyền giao dịch đối với tài sản gắn liền với đất và Nhà
nước tiếp tục cho thuê đất đối với người mua tài sản;
Ba là, do nhận chuyển quyền sử dụng đất, mua tài sản gắn liền với đất
từ tổ chức kinh tế, hộ gia đình, cá nhân; trường hợp nhà đầu tư nhận chuyển
nhượng quyền sử dụng đất được sử dụng ổn định lâu dài từ hộ gia đình, cá
nhân thì thời hạn sử dụng đất là thời hạn dài nhất theo quy định của luật pháp,
hết thời hạn được kéo dài mà không phải thực hiện thêm bất kỳ nghĩa vụ tài
chính nào với Nhà nước (như quy định hiện hành đối với nhà đầu tư nước
ngoài nhưng lại giảm bớt quyền của nhà đầu tư trong nước).
114
* Những bức xúc trong quy trình giải quyết khiếu nại về đất đai sẽ
được giải quyết nếu có hệ thống cơ quan tài phán hành chính trực thuộc
Trung ương.
Cơ quan ban hành quyết định hành chính mà bị khiếu nại sẽ có trách
nhiệm giải quyết lần đầu, cơ quan tài phán hành chính ban hành quyết định
giải quyết cuối cùng nếu người khiếu nại tiếp tục không đồng ý với quyết
định giải quyết lần đầu. Cơ quan tài phán hành chính vừa là cơ quan có quyền
lực quyết định ở trung ương, phù hợp với nguyện vọng của người dân ở địa
phương, vừa là cơ quan giúp thêm tư liệu cho toà án nếu người khiếu kiện
tiếp tục không đồng ý với quyết định giải quyết cuối cùng mà khởi kiện ra tòa
án nhân dân.
3.2.4.2. Thay đổi một số chính sách quốc gia về bồi thường, hỗ trợ
và tái định cư đối với người dân bị thu hồi đất đai
* Không ngừng nâng cao hơn nữa hiệu lực áp dụng của chính sách
bồi thường hỗ trợ và tái định cư
Thực hiện giải pháp này nhằm làm cho chính sách chế độ về bồi
thường hỗ trợ và tái định cư khi nhà nước thu hồi đất luôn luôn phù hợp với
thực tế, kịp thời giải quyết được những vấn đề, những trường hợp phát sinh khi
thu hồi đất trong quá trình phát triển kinh tế xã hội của đất nước. Đồng thời bảo
đảm cho việc hiểu, áp dụng chính sách khi tổ chức thực hiện chính sách được
chuẩn xác, có đầy đủ căn cứ, cơ sở để xử lý những trường hợp cụ thể trong
thực tế mà chính sách chưa quy định rõ hoặc còn quy định chung; bảo đảm việc
thống nhất, thành thục và thông suốt trong áp dụng chính sách vào thực tiễn,
làm cho tính khả thi của chính sách đạt được ở mức độ cao, đem lại hiệu quả
thiết thực.
Do vậy, thực hiện giải pháp này trong thực hiện chính sách bồi
thường, hỗ trợ và tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất sẽ góp phần đẩy nhanh
115
tiến độ thu hồi đất thực hiện các dự án đầu tư. Để thực hiện giải pháp này cần
thực hiện các biện pháp cụ thể sau:
- Thường xuyên tổng hợp những vướng mắc trong quá trình thực hiện
về chính sách chế độ bồi thường hỗ trợ và tái định cư khi Nhà nước thu hồi
đất tại các địa phương, các dự án, để làm cơ sở bổ sung hoàn thiện hệ thống
cơ chế chính sách chế độ bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi Nhà nước thu
hồi đất. Thông qua việc tổng hợp những vướng mắc trong quá trình thực hiện
về chính sách chế độ bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi Nhà nước thu hồi
đất tại các địa phương và các dự án từ đó tìm ra, rút ra, xác định được những
quy định trong chính sách còn thiếu, còn chưa đầy đủ hoặc chưa thật sự khả
thi trong thực tế, những quy định còn chung chung chưa rõ và những quy định
chưa cụ thể, còn nhiều cách hiểu khác nhau khi áp dụng. Trên cơ sở đó các cơ
quan có chức năng nghiên cứu, đề xuất với cấp có thẩm quyền kịp thời bổ
sung thêm hoặc sửa đổi lại quy định trong chính sách đối với những quy định
còn thiếu, còn chưa đầy đủ hoặc chưa thật sự khả thi trong thực tế cho đầy đủ
hơn, phù hợp với thực tế hơn và kịp thời hướng dẫn đối với những quy định
còn chung chung chưa rõ và những quy định chưa cụ thể, còn nhiều cách hiểu
khác nhau khi áp dụng, để các địa phương, đơn vị thực hiện chính sách có căn
cứ, cơ sở giải quyết trong quá trình áp dụng chính sách.
- Tích cực nghiên cứu xây dựng và soạn thảo các tài liệu bổ trợ, hướng
dẫn về quy trình, trình tự mẫu trong tổ chức thực hiện công tác bồi thường, hỗ
trợ và tái định cư, như: tài liệu phổ biến chính sách, tài liệu hỏi đáp về chính
sách; văn bản hướng dẫn về những vấn đề vướng mắc khi thực hiện chính
sách; văn bản hướng dẫn trình tự thủ tục thực hiện công tác bồi thường, hỗ trợ
và tái định cư khi có quyết định thu hồi đất để bổ trợ cho việc phổ biến chính
sách sâu rộng hơn đến mọi người dân có nhu cầu tìm hiểu, giúp cho đội ngũ
cán bộ thực thi công tác bồi thường khi nhà nước thu hồi đất nắm vững các
quy định của chính sách, giúp cho việc áp dụng xử lý các trường hợp cụ thể
116
theo chính sách quy định ở các địa phương, các dự án đều thống nhất và bảo
đảm cho việc tổ chức thực hiện chính sách, áp dụng chính sách, thuận lợi,
nhanh chóng, thông suốt, hạn chế được tối đa các vướng mắc.
* Đẩy mạnh và đa dạng hóa các phương thức tạo lập quỹ nhà đất tái
định cư để phục vụ cho việc thu hồi đất thực hiện các dự án.
Do quỹ nhà đất tái định cư là một yếu tố ảnh hưởng lớn đến việc thực
hiện chính sách bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất, nên
cần thực hiện giải pháp này để có thể trong thời gian ngắn các địa phương có
thể và phải chuẩn bị được quỹ nhà đất đủ để phục vụ cho các dự án đã đề ra,
đồng thời các chủ dự án có thể trong thời gian nhanh nhất chuẩn bị ngay được
nhà, đất để bố trí tái định cư cho các hộ gia đình bị thu hồi đất ở phải di chuyển
chỗ ở theo yêu cầu của người bị thu hồi đất trong trường hợp địa phương chưa
có sẵn các khu tái định cư hoặc quỹ nhà đất để phục vụ cho việc tái định cư đối
với các dự án thu hồi đất không đủ. Để thực hiện giải pháp này Chính phủ cần
yêu cầu Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương quan tâm
và đẩy mạnh việc quy hoạch, triển khai thực hiện các dự án đầu tư xây dựng
các khu tái định cư để phục vụ cho nhiều dự án thu hồi đất ở trên địa bàn địa
phương; Ủy ban nhân dân cấp tỉnh phải sớm chỉ đạo hoặc giao nhiệm vụ cụ thể
cho các đơn vị trong tỉnh thực hiện các dự án đầu tư xây dựng các khu tái định
cư, đặc biệt là các khu nhà tái định cư trong đô thị hoặc khu quy hoạch đô thị
để phục vụ tái định cư cho các hộ gia đình bị thu hồi đất. Bảo đảm khi nhà
nước thu hồi đất có đủ nhà, đất để kịp thời bố trí cho các hộ gia đình cá nhân
phải di chuyển chỗ ở theo đúng tiến độ phương án và kế hoạch giải phóng mặt.
* Tăng cường áp dụng các biện pháp để bảo đảm sự phù hợp giữa giá
đất tính bồi thường với giá chuyển nhượng quyền sử dụng đất trên thị trường
Để thực hiện chính sách bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi Nhà
nước thu hồi đất được thuận lợi, hạn chế các vướng mắc phát sinh khi thực
117
hiện bồi thường, thì cần giữ được sự phù hợp giữa giá đất tính bồi thường với
giá chuyển nhượng quyền sử dụng đất trên thị trường, hay nói khác là phải
thường xuyên duy trì được giá đất tính bồi thường về đất khi nhà nước thu hồi
đất sát với giá chuyển nhượng quyền sử dụng đất trên thị trường trong điều
kiện bình thường. Thực hiện giải pháp này sẽ bảo đảm cho việc tổ chức thực
hiện bồi thường khi tính phương án bồi thường và chi trả tiền bồi thường cho
người bị thu hồi đất được người dân chấp thuận, đồng tình và chấp hành
nghiêm túc, hạn chế được hầu hết các thắc mắc khiếu kiện về giá đất.
- Nhà nước đẩy mạnh và mở rộng các điều kiện phát triển thị thường
bất động sản, khai thông các điều kiện pháp lý cho phép các tổ chức kinh tế,
hộ gia đình, cá nhân được thực hiện công khai các giao dịch về đất đai như
chuyển nhượng, cho thuê, góp vốn liên, doanh liên kết bằng giá trị quyền sử
dụng đất đang sử dụng hợp pháp cần có những quy định quản lý để hạn chế,
loại bỏ việc đầu cơ đất đai. Nên cho phép thành lập các trung tâm, sàn giao
dịch bất động sản và đất đai để các tổ chức và cá nhân thực hiện các giao dịch
đất đai một các công khai, thuận lợi. Nên quy định đơn giải hóa thủ tục cấp
giấy chứng nhận chuyển đổi, đăng ký quyền sử dụng đất cho các tổ chức, cá
nhân khi thực hiện chuyển nhượng, thuê lại hoặc nhận góp vốn liên doanh
liên kết bằng quyền sử dụng đất trên thị trường; đồng thời sử dụng một hệ
thống chính sách, biện pháp, và công cụ điều tiết tác động vào thị trường,
hướng dẫn thị trường, hướng dẫn giá cả v.v... Giải pháp này giúp Nhà nước
vừa thực hiện được vai trò quản lý về đất đai, vừa thu được các khoản nghĩa
vụ tài chính về đất đai của người sử dụng đất, vừa bảo đảm tạo điều kiện cho
các tổ chức, cá nhân sử dụng hiệu quả đất đai vào sản xuất kinh doanh. Đặc
biệt biện pháp này tạo điều kiện làm cho giá chuyển nhượng đất phản ánh sát
và đúng với giá trị thật của quyền sử dụng đất, loại trừ giá ảo trong chuyển
nhượng đất đai trên thị trường và hỗ trợ duy trì việc bình ổn giá đất trên thị
118
trường, góp phần bảo đảm sự phù hợp giữa giá đất tính bồi thường với giá
chuyển nhượng quyền sử dụng đất trên thị trường.
- Chính phủ chỉ đạo các địa phương nghiêm chỉnh thực hiện việc xác
định và quy định giá các loại đất cụ thể tại địa phương sát với giá chuyển
nhượng quyền sử dụng đất thực tế, không được quy định quá thấp; phải kịp
thời điều chỉnh ngay giá đất đã quy định và ban hành cho sát với giá chuyển
nhượng quyền sử dụng đất thực tế thị trường. Trong trường hợp giá chuyển
nhượng quyền sử dụng đất thực tế thị trường đã biến động tạo ra sự chênh
lệch tăng giảm trên 20% so với giá của nhà nước quy định mà Ủy ban nhân
dân cấp tỉnh đã ban hành. Đồng thời Ủy ban nhân dân các tỉnh cũng cần quán
triệt và nghiêm túc khi thực hiện xác định giá đất của nhà nước ban hành ở
địa phương theo đúng nguyên tắc xác định giá đất của Chính phủ đã quy định
và chủ động trong việc chỉnh giá đất theo quy định một cách kịp thời. Thực
hiện tốt biện pháp này cũng sẽ góp phần bảo đảm và duy trì thường xuyên sự
phù hợp giữa giá đất tính bồi thường với giá chuyển nhượng quyền sử dụng đất
trên thị trường, từ đó đẩy nhanh được tiến độ thực hiện thu hồi đất đối với các dự
án.
- Các cơ quan ở trung ương có chức năng tham mưu, quản lý cần tích
cực nghiên cứu, tổng hợp tình hình thực tế để trình Chính phủ cho phép Ủy
ban nhân dân cấp tỉnh thực hiện xác định và quyết định điều chỉnh về giá đất
áp dụng để tính bồi thường về đất khi nhà nước thu hồi đất, riêng biệt cho
từng khoảng thời gian trong năm hoặc để áp dụng cho từng dự án thu hồi đất
cụ thể, trong trường hợp giá đất của nhà nước quy định, Ủy ban nhân dân tỉnh
ban hành chưa sát với giá thị trường và tăng cường hỗ trợ (con người, thiết bị,
tài chính,..) cho công tác xác định giá đất tính bồi thường, để hạn chế bớt sự
ảnh hưởng của giá đất trên thị trường, sự vướng mắc khi phải điều chỉnh toàn
bộ bảng giá các loại đất của nhà nước quy định ở địa phương, bảo đảm thời
gian xác định, điều chỉnh giá đất bồi thường sát với gía chuyển nhượng thực
119
tế thuận tiện kịp thời. Biện pháp này cũng sẽ góp phần bảo đảm sự phù hợp
giữa giá đất tính bồi thường với giá chuyển nhượng quyền sử dụng đất trên thị
trường, trên cơ sở đó đẩy nhanh được tiến độ thực hiện thu hồi đất đối với các
dự án tại địa phương.
* Sửa đổi bổ sung các quy định về đất nông nghiệp xen trong khu dân
cư; đất vườn ao liền kề với đất ở
Đây là nội dung vướng mắc nhiều nhất không chỉ ở Quảng Ninh mà
qua trao đổi chúng tôi thấy vướng mắc này diễn ra ở tất cả các tỉnh thành
trong cả nước nhưng chậm sửa đổi, bổ sung và hiện nay tuy đã sửa đổi nhưng
vẫn còn vướng mắc và bế tắc xoay quoanh khái niệm khu dân cư và cách xác
định khu dân cư. Hiện nay, trong quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất của chúng
ta chưa chỉ ra được ranh giới của thôn, bản, xóm, khe, bun, sóc trên thực địa
do đó khi quy định khu dân cư là thôn, bản, xóm, khe, bun, sóc thì được tính
hỗ trợ hoặc quy định thửa đất tiếp giáp với thôn, bản, xóm, khe, bun, sóc thì
được hỗ trợ v.v... Theo chúng tôi nên bỏ cụm từ khu dân cư và việc hỗ trợ
được thực hiện bằng giá của chính thửa đất, mức cụ thể do Ủy ban nhân dân
cấp tỉnh quy định cho phù hợp với tình hình thực tiễn của từng địa phương.
3.2.4.3. Phân cấp minh bạch cho địa phương
So với chính sách bồi thường, giải phóng mặt bằng trước đây, hiện
nay Chính phủ đã phân cấp và giao cho Ủy ban nhân dân tỉnh cụ thể hóa
nhiều nội dung thuộc về cơ chế chính sách cho phù hợp với tình hình thực
tiễn tại địa phương như: Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quyết định hạn mức công
nhận là đất ở để tính bồi thường, mức hỗ trợ và các biện pháp hỗ trợ cụ thể
hoặc cho phép Ủy ban nhân dân cấp tỉnh ủy quyền cho Ủy ban nhân dân cấp
huyện thẩm định và phê duyệt phương án bồi thường v.v... Tuy nhiên, theo
chúng tôi để đẩy nhanh hơn nữa tiến độ công tác bồi thường, giải phóng mặt
bằng thì Trung ương cần phải khẩn trương sửa đổi những nội dung đang bất
cập về chính sách như đã phân tích và đề xuất ở chương 2; đồng thời phân cấp
120
mạnh hơn nữa cho các địa phương theo hướng Trung ương phân cấp cho tỉnh,
tỉnh phân cấp cho huyện và nhiều nội dung phân cấp cho cấp xã. Các nội dung
cụ thể như chính sách thưởng, chính sách tái định cư, chính sách hỗ trợ, kinh phí
chi cho công tác tổ chức thực hiện, trình tự tổ chức thực hiện Trung ương chỉ
nên định hướng "tạo khung" còn cụ thể để Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quyết
định không nên quy định cứng. Có như vậy, công tác bồi thường giải phóng
mặt bằng mới có thể đáp ứng được tiến độ triển khai các dự án, đáp ứng tiến
trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước trong thời kỳ mở cửa và hội nhập.
121
KẾT LUẬN
Là một chính sách công vốn phức tạp lại liên quan đến đất đai, lợi ích
trực tiếp của người dân, môi trường sống, công ăn việc làm của dân cư nên
càng phức tạp. Chính sách bồi thường, hỗ trợ và tái định cư đối với người dân
bị thu hồi đất là một chính sách như vậy. Chính sách này chịu ảnh hưởng của
chính sách đất đai, hệ thống pháp lý phức tạp, năng lực trình độ của cơ quan,
cán bộ Nhà nước, thái độ của dân cư... Nhưng dù phức tạp đến đâu chính sách
bồi thường, hỗ trợ và tái định cư cũng cần phải được hoạch định và tổ chức
thực hiện tốt nhằm hỗ trợ quá trình phát triển kinh tế - xã hội và đảm bảo điều
kiện sống cho dân cư.
Ở nước ta đã có nhiều địa phương thực hiện chính sách bồi thường, hỗ
trợ và tái định cư khá tốt như Thành phố Hồ Chí Minh, Thành phố Đà Nẵng. Kinh
nghiệm của Trung Quốc và Singapore cũng khá bổ ích. Tuy nhiên, việc thực hiện
chính sách bồi thường, hỗ trợ và tái định cư ở Quảng Ninh vẫn còn nhiều vấn đề
cần phải bàn. Bên cạnh các điểm mạnh như hệ thống văn bản khá hệ thống, toàn
diện, cách làm năng động, kết quả thu được đáng khích lệ. Quảng Ninh cũng gặp
khó khăn về xác định giá đất, về giải quyết lợi ích, về tái định cư. Vì thế thời
gian tới Quảng Ninh cần tiếp tục hoàn thiện chính sách bồi thường, hỗ trợ và tái
định cư hơn nữa, nhất là khi số dự án và quy mô thu hồi đất có xu hướng tăng lên.
Thời gian tới, ngoài các mục tiêu và hệ quan điểm tương đối rõ,
Quảng Ninh cần áp dụng ba nhóm giải pháp: hoàn thiện chính sách đất đai,
hoàn thiện từng cấu phần của chính sách bồi thường, hỗ trợ và tái định cư,
kiện toàn bộ máy thực hiện chính sách, trong đó các giải pháp nổi bật là cải
thiện chất lượng quản lý đất đai, chỉnh trang các văn bản pháp lý, tăng cường
hiệu lực của cơ quan thực hiện, lựa chọn và đào tạo cán bộ tốt....
Hy vọng rằng với những giải pháp đó việc thực hiện chính sách bồi
thường, hỗ trợ và tái định cư ở Quảng Ninh sẽ thu được nhiều thành tựu hơn.
122
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ Kế hoạch và Đầu tư - Viện Nghiên cứu Quản lý kinh tế Trung ương
(2002), Quá trình đổi mới về chế độ đất đai ở nông thôn Trung Quốc
trong thế kỷ vừa qua, Hà Nội.
2. Bộ Tài chính (2007), Công tác bồi thường, giải phóng mặt bằng tại Thành
phố Hồ Chí Minh, Tài liệu phục vụ Hội nghị hội thảo, tháng 11.
3. Bộ Tài nguyên và Môi trường (2009), Tài liệu phục vụ Hội nghị triển khai
Nghị định số 69/2009/NĐ-CP ngày 13/8/2009 của Chính phủ quy
định về quy hoạch sử dụng đất, giá đất, thu hồi đất, bồi thường, hỗ
trợ và tái định cư tổ chức tại thành phố Đà Nẵng, tháng 12.
4. Bộ Tài nguyên và Môi trường (2010), Kinh nghiệm về công tác bồi
thường, giải phóng mặt bằng của một số nước trên thế giới, Tài liệu
phục vụ Hội nghị hội thảo tổ chức tại Hà Nội, tháng 6
5. Chính phủ (1994), Nghị định số 90/CP ngày 17/8 về bồi thường thiệt hại
khi nhà nước thu hồi đất, Hà Nội.
6. Chính phủ (1998), Quyết định số 302/QĐ-TTg ngày 13/5 của Thủ tướng
Chính phủ về hệ số K (hệ số điều chỉnh giá đất ở), Hà Nội.
7. Chính phủ (1998), Nghị định số 17/1998/NĐ-CP ngày 21/3 về bổ sung hệ
số K (hệ số điều chỉnh giá đất ở), Hà Nội.
8. Chính phủ (1998), Nghị định số 22/1998/NĐ-CP ngày 24/4 về bồi thường
thiệt hại khi nhà nước thu hồi đất sử dụng vào mục đích quốc phòng,
an ninh, lợi ích quốc gia, lợi ích công cộng, Hà Nội.
9. Đảng Cộng sản Việt Nam (1991), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ VII, Nxb Sự thật, Hà Nội.
10.Đảng Cộng sản Việt Nam (1996), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
123
11.Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ IX, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
12.Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ X, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
13.Giáo trình Quản lý kinh tế (Chương trình Cao cấp lý luận chính trị) (2005),
Nxb Lý luận chính trị, Hà Nội.
14.Giáo trình Kinh tế phát triển (Chương trình Cao cấp lý luận chính trị) (2005),
Nxb Lý luận chính trị, Hà Nội.
15.Hiến pháp Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992 (1003),
Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
16.Hội đồng Bộ trưởng (1990), Quyết định số 186/HĐBT ngày 31/5 về bồi
thường đất nông nghiệp và đất có rừng khi chuyển sang sử dụng vào
mục đích khác, Hà Nội.
17.Luật Đất đai năm 1993 và Luật sửa đổi bổ sung một số Điều của Luật Đất
đai năm 1998, năm 2001 (2002), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
18.Luật Đất đai năm 2003 và các văn bản hướng dẫn thi hành (2009), Nxb Bản
đồ, Hà Nội.
19.C.Mác- Ph..Ăngghen (1979), Tuyển tập, tập 23, Nxb Sự thật, Hà Nội.
20.C.Mác - Ph.Ăngghen (1994), Toàn tập, tập 25/II, Nxb Chính trị quốc gia,
Hà Nội.
21.C.Mác - Ph.Ăngghen (1994), Toàn tập, tập 26, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
22.Những quy định về quản lý, sử dụng đất (1980), Nxb Nông nghiệp, Hà Nội.
23.Quốc hội (2004), Bộ Luật Dân sự, Hà Nội.
24.Thế và lực Quảng Ninh trước thềm thế kỷ XXI (2009), Nxb Hà Nội, Hà Nội.
25.Ủy ban nhân dân tỉnh Quảng Ninh (2004), Quyết định số 4005/2004/QĐ-UB
ngày 04/11 quy định về đơn giá bồi thường vật kiến trúc, cây trồng,
Quảng Ninh.
124
26.Ủy ban nhân dân tỉnh Quảng Ninh (2009), Quyết định số 4368/2009/QĐ-UB
ngày 31/12 quy định về giá các loại đất trên địa bàn tỉnh Quảng
Ninh, Quảng Ninh.
27.Ủy ban nhân dân tỉnh Quảng Ninh (2010), Quyết định số 499/2010/QĐ-UB
ngày 18/01 quy định về bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi nhà
nước thu hồi đất trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh, Quảng Ninh.
28.Ủy ban nhân dân tỉnh Quảng Ninh (2010), Báo tổng kết công tác bồi
thường, giải phóng mặt bằng 5 năm 2005- 2009, phương hướng
nhiệm vụ năm 2010, Quảng Ninh.
29."Văn kiện Đại hội tỉnh Đảng bộ Quảng Ninh lần thứ XII" (2005), Phụ san
báo Quảng Ninh, ngày 03/11.
30. Viện Nghiên cứu Địa chính và Viện Nghiên cứu khoa học thị trường giá
cả (2006), Thị trường bất động sản: thực trạng, nguyên nhân và
những giải pháp, Tài liệu Hội thảo khoa học.
125