Upload
phamphuc
View
218
Download
3
Embed Size (px)
Citation preview
LỜI CAM ĐOAN
Tên tôi là: Chử Thị Thùy Linh Mã số học viên: 138440301020
Lớp: 21KHMT21
Chuyên ngành: Khoa học Môi trường Mã số: 60520320
Khóa học: 21 đợt 2
Tôi xin cam đoan quyển luận văn được chính tôi thực hiện dưới sự hướng
dẫn của TS. Bùi Thị Kim Anh và PGS.TS. Bùi Quốc Lập với đề tài nghiên cứu
trong luận văn “Nghiên cứu xử lý nước thải chứa kim loại nặng (Cr, Ni) bằng mùn
cưa kết hợp với hệ thống đất ngập nước nhân tạo”.
Đây là đề tài nghiên cứu mới, không trùng lặp với các đề tài luận văn nào
trước đây, do đó không có sự sao chép của bất kì luận văn nào. Nội dung của luận
văn được thể hiện theo đúng quy định, các nguồn tài liệu, tư liệu nghiên cứu và sử
dụng trong luận văn đều được trích dẫn nguồn.
Nếu xảy ra vấn đề gì với nôi dung luận văn này, tôi xin chịu hoàn toàn trách
nhiệm theo quy định./.
NGƯỜI VIẾT CAM ĐOAN
LỜI CẢM ƠN
Lời đầu tiên của luận văn này tôi xin chân thành cảm ơn TS. Bùi Thị Kim
Anh, phòng Thủy sinh học Môi trường, Viện Công nghệ Môi trường và
PGS.TS Bùi Quốc Lập, bộ môn Khoa học Môi trường, trường Đại học Thủy
Lợi. Thầy Cô đã tận tình hướng dẫn và giúp đỡ tôi trong suốt quá trình thực
hiện luận văn.
Tôi cũng xin chân thành cảm ơn các anh chị phòng Thủy sinh học Môi
trường, Viện Công nghệ Môi trường, đã nhiệt tình chỉ bảo và tạo mọi điều
kiện cho tôi trong suốt quá trình làm luận văn.
Dù đã có nhiều cố gắng, song do năng lực còn hạn chế nên trong luận văn
này của tôi chắc chắn không thể tránh khỏi thiếu sót. Tôi mong nhận được ý
kiến đóng góp của các Thầy Cô và các bạn để luận văn này được hoàn chỉnh
hơn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, ngày 01 tháng 06 năm 2015 Học viên cao học
Chử Thị Thùy Linh
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ..................................................................................................................... 2
DANH MỤC HÌNH .................................................................................................... 3
DANH MỤC BẢNG ................................................................................................... 4
CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN CÁC VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU ................................... 4
1.1. Tổng quan về kim loại nặng ................................................................................. 4
1.1.1. Nguồn gốc phát sinh kim loại nặng và ảnh hưởng của nó đối với môi
trường ................................................................................................................ 4
1.1.2. Các phương pháp xử lý ô nhiễm kim loại nặng .................................... 11
1.2. Khái quát về sử dụng mùn cưa trong xử lý nước thải chứa kim loại nặng ........ 17
1.2.1. Quá trình thủy phân mùn cưa ................................................................ 18
1.2.2. Tình hình sử dụng các hợp chất hữu cơ khác nhau để làm nguồn
Cacbon và chất khử trong xử lý nước thải chứa KLN và giàu sunfat............... 20
1.2.3. Sử dụng mùn cưa như chất hấp phụ sinh học để xử lý nước ................ 21
1.3. Tình hình nghiên cứu ở nước ngoài ................................................................... 22
1.3.1. Sử dụng mùn cưa để xử lý KLN ............................................................. 22
1.3.2. Sử dụng công nghệ đất ngập nước nhân tạo (Constructed wetland) ...... 24
1.4. Tình hình nghiên cứu ở Việt Nam ..................................................................... 25
1.4.1. Sử dụng mùn cưa để xử lý KLN ........................................................... 25
1.4.2. Tình hình sử dụng công nghệ đất ngập nước nhân tạo để xử lý KLN .. 26
CHƯƠNG 2: VẬT LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU ............................ 28
2.1. Vật liệu nghiên cứu ............................................................................................ 28
2.1.1. Mùn cưa .................................................................................................. 28
2.1.2. Thực vật thủy sinh: Cây Sậy ................................................................... 28
2.1.3. Đá, cát, sỏi… ........................................................................................... 29
2.2. Địa điểm nghiên cứu .......................................................................................... 29
2.3. Phương pháp nghiên cứu .................................................................................... 29
2.3.1. Phương pháp điều tra, khảo sát ............................................................... 29
2.3.2. Nghiên cứu kế thừa các tài liệu liên quan ............................................... 30
2.3.3. Phương pháp phân tích đánh giá trong phòng thí nghiệm. ..................... 30
2.3.4. Sử dụng các phương pháp bố trí thí nghiệm logic để đánh giá ảnh hưởng
của các yếu tố liên quan đến hiệu quả xử lý kim loại nặng. ............................. 31
2.3.5. Thiết kế hệ modul xử lý và xác định các thông số công nghệ của quy
trình ................................................................................................................... 33
CHƯƠNG 3: KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN ............................................................ 40
3.1. Hàm lượng KLN trong nước thải tại làng nghề cơ kim khí Phùng Xá, Thạch
Thất, Hà Nội. ............................................................................................................. 40
3.2. Kết quả nghiên cứu quá trình thủy phân của mùn cưa trong PTN ..................... 41
3.2.1 Sự biến động của COD trong môi trường ................................................ 38
3.2.2 Hàm lượng rượu etylic, methanol, axetic axit theo thời gian thí nghiệm 39
3.3. Khả năng xử lý ô nhiễm Cr, Ni trong nước của mùn cưa ở quy mô PTN. ........ 40
3.3.1. Thí nghiệm so sánh hiệu quả xử lý của đá vôi, mùn cưa và hỗn hợp đá
vôi mùn cưa ....................................................................................................... 40
3.3.2. Đánh giá khả năng xử lý hỗn hợp Cr, Ni của đá vôi và mùn cưa theo thời
gian thí nghiệm. ................................................................................................. 45
3.3.3. Xác định liều lượng mùn cưa trong hệ xử lý .......................................... 50
3.4. Quy trình công nghệ xử lý nước thải chứa Cr, Ni bằng mùn cưa phối hợp với
thực vật thủy sinh ở qui mô pilot. ............................................................................. 53
3.4.1. Nhu cầu oxi hóa học (COD – Chemical Oxygen Demand) .................... 53
3.4.2. Hiệu quả loại bỏ SO42- ............................................................................ 55
3.4.3. Hiệu quả loại bỏ Cr6+ .............................................................................. 57
3.4.4. Hiệu quả xử lý Cr3+ ................................................................................. 59
3.4.5. Hiệu quả loại bỏ Ni2+ .............................................................................. 61
KẾT LUẬN ............................................................................................................... 63
TÀI LIỆU THAM KHẢO ......................................................................................... 69
DANH MỤC HÌNH Hình 1.1: Sơ đồ dây chuyền công nghệ mạ điện 6
Hình 1.2: Thành phần của gỗ 17
Hình1.3: Công thức hóa học của xelulô 18
Hình 1.4: Tác dụng của từng enzym trong xenlulô 18
Hình 1.5: Quá trình thủy phân xenlulô 19
Hình 1.6 Nước thải ADM trước xử lý (năm 1995) và sau xử lý 24
Hình 2.1: Cây sậy (Phragmites australis) 28
Hình 2.2: Hình ảnh nguyên liệu đầu vào 31
Hình 2.3: Sơ đồ hệ thống kết hợp đá vôi và mùn cưa 34
Hình 3.1: Hình ảnh mùn cưa trước và sau 2 tháng thủy phân 38
Hình 3.2: Đồ thị thể hiện sự biến động COD trong quá trình phân hủy xenlulô trong các thí nghiệm. 39
Hình 3.4: Hiệu suất xử lý Cr3+ ở nồng độ 20 mg/l (CT1) và 35 mg/l (CT2) theo thời gian thí nghiệm 42
Hình 3.5: Hiệu suất xử lý Ni2+ ở nồng độ 20mg/l (CT1) và 35mg/l (CT2) theo thời gian thí nghiệm 43
Hình 3.6: Hiệu suất xử lý Cr6+,Cr3+, Ni theo nồng độ và thời gian thí nghiệm từ 0.5 đến 8h 48
Hình 3.7: Hiệu suất xử lý Cr6+,Cr3+, Ni theo nồng độ và thời gian thí nghiệm từ 10h đến 72h 49
Hình 3.8: Hiệu suất xử lý Cr6+ , Cr3+, Ni2+ theo liều lượng mùn cưa 51
Hình 3.9: Hàm lượng COD biến động theo thời gian tại các chặng của bể xử lý 53
Hình 3.10: Hàm lượng sunfat biến động theo thời gian của hệ thống xử lý 55
Hình 3.11: Hàm lượng Cr6+ biến động theo thời gian tại các chặng của bể xử lý 58
Hình 3.12: Hàm lượng của Cr3+ biến động theo thời gian tại các chặng 60
Hình 3.13: Hàm lượng của Ni2+ biến động theo thời gian tại các chặng 62
DANH MỤC BẢNG
Bảng 1.1 Khử kim loại nặng trong bể với bùn hoạt tính 13
Bảng 3.1 Kết quả khảo sát nước thải làng nghề Phùng Xá 36
Bảng 3.2 Kết quả phân tích sản phẩm cảa quá trình trao đổi chất 40
Bảng 3.3 Hiệu quả loại bỏ hỗn hợp Cr, Ni theo thời gian thí nghiệm 45
Bảng 3.4 Khả năng loại bỏ Cr, Ni của hỗn hợp đá vôi mùn cưa theo các liều lượng
mùn cưa. 51
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Ô nhiễm kim loại nặng (KLN) trong đất và nước đang là vấn đề trầm trọng
đối với nhiều nước trên thế giới cũng như ở Việt Nam. Điều này đã và đang thu hút
sự quan tâm đặc biệt của các nhà khoa học do đây là loại ô nhiễm rất phức tạp, ngày
càng phổ biến và tiềm ẩn nhiều nguy cơ đối với sự sống của sinh vật nói chung và
của con người nói riêng. Tại Việt Nam, nước thải của một số ngành công nghiệp
như mạ điện, luyện kim, sơn, khai thác chế biến crôm, thuộc da, khai thác mỏ…
chứa nhiều kim loại nặng gây ô nhiễm môi trường. Đặc biệt, nước thải của một số
làng nghề kim cơ khí chứa hàm lượng KLN, sulfat, nitrat, amoni…rất cao. Cả nước
có khoảng 1450 làng nghề thì 100% các làng nghề được điều tra đều gây ô nhiễm
môi trường. Các làng nghề sử dụng lượng lớn hoá chất và thải ra môi trường khối
lượng nước thải không nhỏ có độ độc hại cao, chứa nhiều kim loại nặng như: Fe,
Cr, Ni, Zn, CN. Cụ thể, mỗi ngày làng nghề cơ kim khí Phùng Xá, Thạch Thất, Hà
Nội ước tính thải ra khoảng 5000m3 nước thải các loại. Các loại nước thải này có
hàm lượng Cr, Ni, Pb, Cd, COD, sulfat, nitrate, amoni vượt TCCP nhiều lần [6].
Hiện có nhiều phương pháp được áp dụng để xử lý nước thải nhiễm KLN
như hóa học, hóa lý và sinh học. Mặc dù xử lý nước thải nhiễm KLN bằng các
phương pháp hóa học và hóa lý (kết tủa hóa học, oxy hóa-khử, trao đổi ion, keo tụ
tạo bông cặn, hấp phụ, xử lý điện hóa, sử dụng màng,…) đạt tiêu chuẩn môi trường
cho phép nhưng các phương pháp này đều có chi phí xử lý cao do sử dụng hóa chất,
vật liệu đắt tiền, đồng thời tạo ra lượng cặn lớn từ kết tủa kim loại và hóa chất tồn
dư gây ô nhiễm thứ cấp cho môi trường. Trong nước thải của các cơ sở trên ngoài
hàm lượng KLN cao còn có các hợp chất hữu cơ, các ion sulfat, nitrate, amoni,…lẫn
trong nước và phương pháp hóa lý khó loại bỏ tạp chất này. Các phương pháp hoá
học phù hợp để xử lý kim loại trong các nguồn nước thải công nghiệp vì hiệu quả
của phương pháp đạt cao khi trong nước có nồng độ cao của kim loại cần xử lý. Tuy
nhiên, trong thực tế vẫn còn những tồn tại khi sử dụng các phương pháp này. Đó là,
do thành phần ô nhiễm của các dòng thải rất phức tạp, tồn tại nhiều yếu tố cản trở,
2
nên hiệu quả xử lý không triệt để. Do vậy, trong thực tế, sau khi xử lý bằng các biện
pháp hóa học lại phải cần đến các biện pháp xử lý bổ sung nhằm loại bỏ nốt lượng
kim loại vẫn còn dư lại trong nước sau xử lý. Do nồng độ dư của kim loại trong
nước là rất nhỏ nên việc loại bỏ nốt là vô cùng khó khăn. Các phương pháp hóa học
không còn tác dụng trong khi các biện pháp sinh học có thể mang lại hiệu quả.
Sử dụng phương pháp sinh học (sử dụng thực vật thủy sinh, vật liệu hấp phụ
sinh học và vi sinh vật đặc hiệu) để xử lý ô nhiễm KLN có nhiều ưu điểm như dễ
ứng dụng, chi phí thấp và thân thiện với môi trường. Phương pháp này đã được
nhiều nước quan tâm nghiên cứu và ứng dụng trong xử lý nước thải ô nhiễm KLN
như ở Nhật Bản, Đức, Thái Lan, Trung Quốc,... Trong nghiên cứu này, mùn cưa từ
các quá trình chế biến gỗ sẽ được sử dụng với cả hai mục đích là hấp phụ và chuyển
hóa sinh học KLN trong nước thải.
Chính vì vậy, em lựa chọn đề tài “Nghiên cứu xử lý nước thải chứa kim
loại nặng (Cr, Ni) bằng mùn cưa kết hợp với hệ thống đất ngập nước nhân tạo”
để nghiên cứu trong luận văn thạc sỹ của mình, đây là một đối tượng nghiên cứu rất
mới ở Việt Nam và trên thế giới. Có thể kết hợp mùn cưa với hệ thống đất ngập
nước nhân tạo để làm tăng hiệu quả xử lý kim loại nặng có trong nước thải.
2. Mục đích của đề tài
- Đánh giá hiện trạng ô nhiễm Cr, Ni,... trong nước thải của làng nghề cơ kim khí
Phùng Xá, Thạch Thất, Hà Nội.
- Nghiên cứu quy trình công nghệ xử lý nước thải chứa Cr, Ni bằng mùn cưa phối
hợp với thực vật thủy sinh.
3. Các tiếp cận và phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp điều tra khảo sát: Thực hiện việc điều tra, khảo sát nguồn thải gây
ô nhiễm Cr, Ni,... của làng nghề cơ kim khí Phùng Xá, Thạch Thất, Hà Nội.
- Phương pháp tổng hợp và kế thừa: Nghiên cứu kế thừa các tài liệu liên quan đến
mùn cưa và thực vật dùng để xử lý ô nhiễm KLN.
- Phương pháp phân tích và đánh giá số liệu: Đánh giá hàm lượng KLN bằng
phương pháp quang phổ hấp thụ nguyên tử và đo quang. Phân tích đánh giá một
3
số các chỉ tiêu COD, H2S, một số chất hữu cơ hòa tan trong nước... theo các
phương pháp phân tích thông dụng hiện hành.
- Phương pháp thực nghiệm khoa học: Sử dụng các phương pháp bố trí thí nghiệm
logic để đánh giá ảnh hưởng của các yếu tố liên quan đến hiệu quả xử lý kim
loại nặng. Các phương pháp xác định một số thông số công nghệ của quy trình
(tốc độ dòng chảy, thời gian lưu, hiệu suất xử lý, các thông số thiết kế bể xử lý...).
- Phương pháp lấy ý kiến chuyên gia: xin ý kiến đóng góp từ các thầy cô, những
người có liên quan và hiểu biết về lĩnh vực nghiên cứu.
4. Kết quả dự kiến đạt được
- Đánh giá về hiện trạng ô nhiễm Cr, Ni... trong nước thải tại làng nghề cơ kim
khí Phùng Xá, Thạch Thất, Hà Nội.
- Báo cáo phân tích kết quả nghiên cứu về quá trình thủy phân của mùn cưa trong
phòng thí nghiệm qua từng nguồn vi sinh vật sử dụng.
- Đánh giá hàm lượng Cr, Ni và mùn cưa ban đầu lên hiệu quả xử lý ô nhiễm ở
quy mô phòng thí nghiệm.
- Xây dựng được quy trình công nghệ xử lý nước thải chứa Cr, Ni bằng mùn cưa
phối hợp với thực vật thủy sinh. Đánh giá hiệu quả xử lý KLN của quy trình.
4
CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN CÁC VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
1.1. Tổng quan về kim loại nặng
1.1.1. Nguồn gốc phát sinh kim loại nặng và ảnh hưởng của nó đối với môi trường
a. Nguồn gốc phát sinh kim loại nặng
Kim loại nặng trong môi trường được tạo ra từ hai nguồn chủ yếu là nguồn tự
nhiên (các hoạt động của núi lửa, lắng đọng từ khí quyển, sự phong hóa của đá mẹ
và khoáng vật,…) và nguồn nhân tạo (hoạt động nông nghiệp, công nghiệp, khai
khoáng, giao thông…). Con người là nguyên nhân chủ yếu làm tăng hàm lượng kim
loại nặng trong môi trường do quá trình phát thải nước thải độc hại không xử lý
hoặc xử lý không đạt yêu cầu. Một số nơi ô nhiễm KLN thường gặp là ở các lưu
vực nước gần các khu công nghiệp, làng nghề và khu vực khai thác khoáng sản.
Khu công nghiệp:
Các quá trình sản xuất công nghiệp, quá trình khai khoáng, quá trình tinh chế
quặng, kim loại, sản xuất kim loại thành phẩm... là các nguồn chính gây ô nhiễm
kim loại nặng trong môi trường nước. Thêm vào đó, các hợp chất của kim loại nặng
được sử dụng rộng rãi trong các ngành công nghiệp khác như thuộc da, cao su, dệt,
giấy, luyện kim, mạ điện,... cũng là nguồn đáng kể gây ô nhiễm kim loại nặng.
• Nguồn phát sinh Crôm:
Crôm nói chung được biết đến trong các sản phẩm mạ crôm. Hầu hết, các quặng
crôm sản xuất được sử dụng trong sản xuất thép không rỉ. Tuy nhiên, crôm kim loại
là chất không độc hại, chỉ các hợp chất của crôm dưới dạng ion Cr3+, Cr6+ mới có
độc tính. Trong môi trường nước, crôm chủ yếu xuất hiện dưới dạng Cr3+, Cr6+.
Trong đó, Cr6+ xuất hiện trong nước thải dưới dạng các hợp chất CrO42- (pH >7) và
Cr2O72- (pH≤ 7). Các hợp chất của crôm được thêm vào nước làm lạnh để ngăn
chặn sự ăn mòn. Chúng được sử dụng trong các quá trình sản xuất như:
- Tạo màu, nhuộm
- Điện cực nhôm và các quá trình mạ kim loại và mạ điện khác
- Trong các ngành công nghiệp hóa chất
5
Trong các ngành công nghiệp thì ngành sản xuất ôtô cần nhiều các sản phẩm mạ
crôm nhất. Nguồn gốc chính gây ô nhiễm crôm trong môi trường là việc thải các
hợp chất crôm được sử dụng trong quá trình mạ.
Cr3+ xuất hiện trong nước thải phần lớn là do quá trình khử Cr6+ trong nước thải
công nghiệp. Tuy nhiên, trong các nước thải mạ vẫn có chứa Cr3+ kể cả khi chưa
khử.
• Nguồn phát sinh Niken:
Nước thải chứa niken chủ yếu có nguồn gốc từ nước thải mạ điện, trong công
nghiệp mạ điện niken thường tồn tại chủ yếu dưới dạng muối niken sunfat, clorua,
hay citrat. Ngoài ra Niken còn có trong một số các ngành công nghiệp sau:
- Công nghiệp sản xuất pin, ắc quy
- Công nghiệp luyện kim
- Công nghiệp dầu mỏ và các sản phẩm từ dầu mỏ
Đặc biệt, trong các công nghiệp sản xuất hợp kim có chứa niken, theo thống kê trên
thế giới thì có tới 75% niken được sản xuất là từ các sản phẩm hợp kim như hợp
kim thép, hợp kim đồng - niken, niken kim loại và các hợp kim khác.
Khu vực khai thác khoáng sản
Nước thải từ các khu mỏ khai thác và chế biến khoáng sản thường có khối lượng
lớn, chứa nhiều chất ô nhiễm như As, NH4+, Pb, Fe, Cr, Zn, NO3
-, Mn,.... Nước thải
này thường không được xử lý, xả thẳng ra môi trường nên đã tác động xấu tới môi
trường đất, nước mặt và nước ngầm.
Các nguồn gây ô nhiễm nước từ các hoạt động khai thác khoáng sản thường là:
- Nước thải mỏ (nước ngấm vào mỏ trong quá trình khai thác).
- Các khu vực bãi thải và bãi chôn lấp chất thải.
- Các dòng chảy mang theo chất bẩn từ các tuyến đường vận tải.
- Quá trình tuyển khoáng.
- Nước chảy tràn từ các vùng khai thác và các công trường.
Tính độc của các kim loại nặng trong nước không chỉ phụ thuộc vào nồng độ
kim loại mà còn phụ thuộc vào các nhân tố khác như pH, độ cứng của nước, sự linh
6
động của kim loại, dạng tồn tại của kim loại… Sự ô nhiễm kim loại nặng trong
nước thường gắn liền với dòng thải axit mỏ. Nồng độ của các kim loại nặng trong
nước thải trên có hàm lượng cao.
Các làng nghề tái chế kim loại:
Đề tài nghiên cứu này chủ yếu tập trung vào ô nhiễm kim loại nặng từ nước thải
của các làng nghề cơ kim khí. Để tìm hiểu về nguồn phát sinh kim loại nặng, sơ đồ
dây chuyền công nghệ của công nghệ xi mạ, một trong những hoạt động chính gây
ra ô nhiễm kim loại nặng ở làng nghề cơ kim khí là một nghiên cứu cần thiết:
Hình 1.1 Sơ đồ dây chuyền công nghệ mạ điện
Nguyên liệu đầu vào:
Kim loại từ chi tiết máy móc, vật dụng gia đình, lon nước ngọt, lon bia, sắt vụn,
sắt thép phế liệu, đồng, pin ắc quy, lò xo, ống bơ, vỏ thùng sơn, hộp hóa chất, máy
móc cũ, sắt gỉ…
7
Nhiên liệu sử dụng:
Nhiên liệu chính được sử dụng là than và thường là than có chất lượng thấp, củi,
dầu FO. Trong đó, than là nhiên liệu được sử dụng nhiều nhất.
Ngoài ra, quá trình làm sạch sản phẩm bằng hóa học và điện hóa còn sử dụng
một số hóa chất như H2SO4, HCl, NaOH… hay CN- trong quá trình mạ.
Nhận xét: Dựa theo quy trình trên, ta nhận thấy đặc trưng của nước thải ngành
mạ là chứa hàm lượng cao các KLN như Cr, Ni, Zn, Cu…tùy theo từng vật liệu
mạ.
b. Ảnh hưởng của kim loại nặng đến môi trường
Ảnh hưởng đến môi trường:
- Ảnh hưởng đến hệ sinh thái: Các thành phần kim loại nặng ảnh hưởng rất lớn
tới quá trình sinh trưởng phát triển của người, động vật và thực vật. Với nồng độ
KLN đủ lớn, sinh vật có thể bị chết hoặc bị thoái hoá, với nồng độ nhỏ có thể gây
ngộ độc mãn tính hoặc tích tụ sinh học.
- Ảnh hưởng trực tiếp đối với cá và thức ăn, đầu độc các sinh vật làm mất các
nguồn phù du để nuôi cá, gây bệnh cho cá và biến đổi các tính chất hoá lý của
nước. Khi phân tích thành phần cơ thể của sinh vật có tiếp xúc với nước thải chứa
kim loại nặng, các nhà khoa học đã khẳng định hàm lượng cao của các kim loại
nặng trong nước thải mạ điện đã ảnh hưởng xấu tới cả hệ sinh thái.
- Ảnh hưởng tới hệ thống cống thoát nước, nước ngầm, nước mặt. Nước thải
công nghiệp có tính axit ăn mòn các đường ống dẫn bằng kim loại, bê tông. Mặt
khác, do các quá trình xà phòng hoá tạo thành váng ngăn của quá trình thoát nước,
làm giảm sự thâm nhập của oxi không khí vào nước thải, cản trở quá trình tự làm
sạch. Các ion kim loại nặng khi thâm nhập vào bùn trong các mương thoát nước
còn ức chế hoạt động của các vi sinh vật kị khí làm mất khả năng hoạt hoá của
bùn.
- Ô nhiễm nước ngầm và nước bề mặt có thể xảy ra do quá trình ngấm và chảy
tràn của nước thải mạ điện. Ngoài ra, nó còn ảnh hưởng tới chất lượng sản suất
8
như: làm giảm năng suất nuôi trồng, làm hỏng đất, giảm chất lượng sản phẩm,
biến đổi đến hệ sinh vật, tăng mầm bệnh [7, 21].
Ảnh hưởng đến sức khỏe con người:
Các ion kim loại nặng Pt, Cu, Cr, Ni... có thể gây bệnh viêm loét dạ dày, viêm
đường hô hấp, bệnh ezima, ung thư...
Có 4 loại bệnh có tỷ lệ mắc cao tại nhóm làng nghề cơ kim khí, tái chế kim loại
là bệnh phổi thông thường, bệnh tiêu hóa, bệnh về mắt và phụ khoa, bệnh ung thư
phổi (0,35÷1%) và lao phổi (0,4÷0,6%). Tại 7 điểm nghiên cứu, các nhà khoa học
cho thấy đều xuất hiện các trường hợp ung thư phổi, tỷ lệ mắc ung thư và chết cao
nhất là ở làng nghề Vân Chàng và Tống Xá (Nam Định). Người lao động thì tiếp
xúc trực tiếp khi làm việc, người dân xung quanh thì chịu ảnh hưởng do khói, khí
thải, nước thải phát sinh từ các cơ sở.
Người dân tại các làng nghề tái chế kim loại cho biết, nếu rửa tay bằng nước
mưa trên mái nhà đổ xuống thì 15 phút sau da sẽ bị phồng rộp do axit xút ăn da và
kim loại nặng ngấm vào. Không khí xung quanh thì ngột ngạt và khó thở. Khói
xông vào mắt gây cay mắt, nhiều người phải đeo khẩu trang đi ngủ do mùi phát ra
từ các cơ sở sản xuất.
Không chỉ có vậy, nhiều phụ nữ sinh non hoặc con chết yểu, đặc biệt là các ca
đẻ quái thai có chiều hướng tăng lên trong những năm gần đây. Tuổi thọ trung bình
của người dân tại làng nghề cũng thấp hơn nhiều so với tuổi thọ trung bình cả nước.
Trẻ em cũng chậm lớn hơn so với nơi khác… Từ những dẫn chứng trên có thể thấy,
sự ảnh hưởng nghiêm trọng của ô nhiễm kim loại nặng tại làng nghề đến sức khỏe
người dân cũng như với môi trường tại địa phương. Chúng ta cần đưa ra biện pháp
khắc phục tình trạng trên, đảm bảo sức khỏe cho người dân, bảo vệ môi trường,
thực hiện mục tiêu phát triển bền vững.
• Ảnh hưởng của crôm:
Crôm có số thứ tự 24, thuộc phân nhóm phụ nhóm VI trong bảng hệ thống tuần
hoàn Mendeleev. Crôm là kim loại nặng màu trắng bạc có ánh xanh, độ cứng rất
9
cao chịu mài mòn tốt. Trọng lượng nguyên tử 52,01. Nhiệt độ nóng chảy 1750 ÷
1800oC.
Trong tự nhiên crôm có nhiều trong khoáng vật Cromit (FeCrO3), trong một số
loại đá xe cpentin (1800mg/kg) đá granit (5mg/l). Trong đất crôm có hàm lượng
thấp (2 ÷ 6 mg/l).
Trong nước crôm thường ở dạng Cr3+ và Cr6+, nhưng Cr3+ thường gặp hơn.
Nguồn gốc của chúng là từ chất thải công nghiệp như: công nghiệp mạ, sơn, đốt
nhiên liệu hoá thạch, thuộc da...Với nồng độ 0,1mg/l crôm đã có tác động xấu đến
các vi sinh vật trong nước, trong khoảng nồng độ 0,03 ÷ 0,32mg/l chúng kìm hãm
sự phát triển của tảo.
Cr3+ cần thiết cho cơ thể nếu thiếu nó sẽ không chuyển hoá được đường glucô
và rối loạn một vài quá trình trao đổi chất khác. Mức độ an toàn phải dùng tối thiểu
là 0,05 ÷ 0,2mg/l.ngày.
Cr6+ có tính độc cao (hơn 100 lần so với Cr3+). Nguy hiểm hơn là khả năng hấp
thụ Cr6+ của con người cũng tốt hơn Cr3+. Cr6+ gây độc cho gan, thận, tim, rối loạn
hô hấp. Nếu nhiễm độc mãn tính có thể gây viêm da, loét da. Người hay động vật
hít phải Cr6+ sẽ bị ung thư. Đối với những người làm việc trong điều kiện phải tiếp
xúc với các hợp chất crôm thì các hợp chất này thường tụ đọng ở lớp da có thể gây
ra bệnh viêm da, viêm chàm da dị ứng hoặc nếu lớp da bị rách, xước sẽ bị thấm
xung quanh các vết rách đó.
Theo tổ chức Y tế thế giới (WHO), nồng độ crôm tối đa cho phép trong nước
uống là 0,05mg/l. Nồng độ Cr6+ cho phép trong nước thải công nghiệp loại A theo
QCVN 40:2011 là 0,01 – 0,02 mg/l, đối với loại B là 0,04 – 0,05mg/l. Với Cr3+
nồng độ cho phép trong nước thải công nghiệp loại A theo QCVN 40:2011 là 0,05 –
0,1mg/l; loại B là 0,5 – 1mg/l [7, 30].
• Ảnh hưởng của Niken:
Niken có số thứ tự 28 thuộc nhóm VII trong bảng tuần hoàn và có khối
lượng nguyên tử là 58,7. Niken là kim loại trắng, bạc, dẻo, dễ cán, dát, rèn và đánh
bóng. Trọng lượng riêng ở 20oC là 8,9g/cm3, nhiệt độ nóng chảy từ 1425 ÷ 1455oC.
10
Niken thường tồn tại ở hóa trị II. Trên trái đất niken nằm dưới dạng đồng vị
bền, tập chung chủ yếu ở trong quặng sunphua đồng niken. Nước thải từ các khu
công nghiệp, các nhà máy luyện kim, mạ điện và các khu khai thác mỏ niken đã đưa
vào nguồn nước một lượng niken đáng kể. Trong nước sinh hoạt (nước máy) do quá
trình hoà tan từ các thiết bị, hàm lượng Ni có thể đạt 1mg/l. Thức ăn hằng ngày
cũng có Ni, lượng Ni xâm nhập vào cơ thể từ 0,1 ÷ 0,3mg/ngày.
Niken là kim loại có tính linh động cao trong môi trường nước, có khả năng
tạo phức chất khá bền với các hợp chất hữu cơ tự nhiên hoặc tổng hợp. Nó được
tích tụ trong các chất sa lắng, trong cơ thể thực vật bậc cao và một số loại thủy sinh.
Niken có tính độc cao với cá, phụ thuộc vào chất lượng nước ở đó. Nồng độ Ni trên
30µg/l gây tác hại cho các cơ thể sống bậc thấp trong nước.
Đối với gia súc, thực vật, vi sinh vật, Ni được xem là thành phần vi lượng,
còn đối với cơ thể người điều đó chưa rõ ràng. Ảnh hưởng phổ biến nhất do tiếp xúc
với Ni là “chứng ngứa Ni” ở dạng viêm da chủ yếu xảy ra ở những người làm mạ
Ni nhưng ở mức độ nhạy cảm khác nhau. Chứng này xảy ra rất nhiều trong điều
kiện độ ẩm và nhiệt độ cao, do da bị ẩm, chủ yếu ở bàn tay và cánh tay. Ngộ độc Ni
do hô hấp gây khó chịu, buồn nôn, đau đầu nếu kéo dài ảnh hưởng đến phổi hệ thần
kinh trung ương, gan và thận [7].
Hợp chất Ni thực sự nguy hiểm là Cacbonyl Niken (Ni(CO)4) được sản sinh
với số lượng lớn trong quá trình tinh luyện Ni. Cacbonyl Niken là chất lỏng nặng,
không màu, dễ thăng hoa ở nhiệt độ thường. Nghiên cứu cho biết sự lắng đọng
Cacbonyl Niken trong điều kiện ẩm của dịch phổi đã gây kích ứng xung huyết và
phù nề ở phổi. Giới hạn ngưỡng độc trong không khí của Cacbonyl Niken là
0,001ppm. Đó là nồng độ bình quân tối đa mà người công nhân có thể tiếp xúc qua
8 giờ làm việc mà không tổn hại tới sức khỏe.
Nồng độ Ni cho phép trong nước uống được WHO quy định là 20µg/l. Theo
QCVN 40:2011 nồng độ Ni cho phép với nước thải công nghiệp loại A và B là
0,1mg/l [9, 30].
11
1.1.2. Các phương pháp xử lý ô nhiễm kim loại nặng a. Phương pháp hoá, lý học
Phương pháp hóa - lý học bao gồm: trao đổi ion, thẩm thấu ngược, kết tủa, trung
hòa, keo tụ tạo bông cặn, xử lý điện hóa, sử dụng màng…Trong đó, phương pháp
trung hòa và kết tủa thường được ứng dụng thực tế còn một số phương pháp khác
chưa được ứng dụng rộng rãi vì các chỉ tiêu kinh tế kĩ thuật còn thấp, triển khai
công nghệ khó khăn, có nhiều thông số nên khó điều khiển, các phương pháp này
mới chỉ nghiên cứu ở quy mô phòng thí nghiệm.
• Phương pháp trung hòa
Nước thải sản xuất của nhiều làng nghề cơ kim khí có chứa axit hoặc kiềm. Để
ngăn ngừa hiện tượng xâm thực và tránh cho các quá trình sinh hóa trong bể mạ,
người ta phải tiến hành trung hòa các loại nước thải đó, làm cho một số muối kim
loại nặng lắng xuống và tách ra. Trong các loại nước thải nếu pH = 6,5÷8,5 thì được
coi là đã trung hòa. Có nhiều phương pháp trung hòa như: trung hòa bằng cách trộn
trực tiếp nước thải chứa axit và kiềm. Trong bể mạ chủ yếu là có chứa axit nên khi
trung hòa cần cho thêm kiềm, để trung hòa các loại axit vô cơ có thể dùng bất kỳ
loại kiềm nào có ion OH- để trung hòa các loại axit hữu cơ thường dùng vôi tôi (từ
5÷10%) hoặc dung dịch vôi tôi với nước amoniac NH4OH 25% sẽ tạo thêm điều
kiện cho quá trình sinh hóa giảm được lượng cặn vôi.
VD: H2SO4 + Ca(OH)2 = CaSO4 + 2H2O
H2SO4 + CaCO3 = CaSO4 + CO2 + H2O
H2SO4 + NaOH = NaHSO4 + H2O
NaHSO4 + NaOH = Na2SO4 + H2O
Phương pháp trung hòa hầu như áp dụng rộng rãi và có tính khả thi cho xử lý
nước thải chứa kim loại nặng trong các phân xưởng mạ điện. Đa số dung dịch mạ
điện đều có tính axit hoặc bazo vì vậy trước khi thải ra hệ thống thoát nước thì
người ta dùng vôi để trung hòa axit hoặc bazo đậm đặc.
• Phương pháp khử kết tủa
12
Trong xử lý nước thải chứa kim loại nặng Cr, Ni…người ta thường phải khử
Cr+6 về Cr+3, sau đó tách Cr+3 ở dạng axit kết tủa. Phương pháp này bao gồm ba giai
đoạn:
- Giai đoạn điều chỉnh pH
- Giai đoạn khử
- Giai đoạn kết tủa
Giai đoạn điều chỉnh pH được thực hiện bằng cách bổ sung axit vào nước thải
sao cho pH = 2- 3, ở điều kiện này sự khử Cr+6 thành Cr+3 có hiệu quả rất cao. Thực
tế, người ta thường dùng nước thải có nồng độ axit cao để trung hòa với dòng thải
cần xử lý crôm để giảm giá thành xử lý, thường dùng những chất khử: Na2S,
Na2SO3, NaHSO3, FeSO4, khí SO2, Na2S2O3…
Để tiết kiệm trong công đoạn kết tủa người ta thường trộn lẫn dòng thải có chứa
niken với nước tẩy rửa là dung dịch kiềm ở công đoạn khác để đưa pH = 10÷11, ở
điều kiện này kết tủa niken sẽ đạt hiệu quả cao hơn.
NiSO4 + Ca(OH)2 = Ni(OH)2 + CaSO4
Việc xử lý các ion kim loại nặng Cr, Ni…đều có chung giai đoạn kết tủa các
hidroxit kim loại ở pH = 9÷11. Như vậy, để đảm bảo pH của dòng thải ra môi
trường, người ta điều chỉnh độ pH của nước thải sau xử lý bằng cách tận dụng dung
dịch ở công đoạn tẩy rửa chi tiết bằng dung dịch axit để tính đến chỉ tiêu kinh tế.
Phương pháp khử kết tủa rất phổ biến trong xử lý nước thải mạ điện vì khử trực tiếp
các ion kim loại độc hại đặc biệt với ion Cr có hiệu quả làm sạch đến 99%. Chỉ tiêu
kinh tế phù hợp, triển khai công nghệ khá đơn giản và đạt hiệu quả công suất cao,
cho phép tái sử dụng nước đã xử lý. Các thông số công nghệ ít nên rất dễ điều
khiển. Nước thải sau khi xử lý đạt loại B TCVN 5945/1995 (đảm bảo chỉ tiêu thải ra
nguồn nước mặt của hệ thống thoát nước chung).
• Phương pháp trao đổi ion
Trao đổi ion là một trong những phương pháp đã được áp dụng vì nó có hiệu
quả tương đối cao và có thể thu được các sản phẩm có giá trị về kinh tế.
13
Bản chất của quá trình là sự trao đổi lẫn nhau của các ion có cùng điện tích trên
bề mặt chất rắn và trong dung dịch khi tiếp xúc với nhau. Các chất này gọi là các
ionit (không tan trong nước). Trong đó, các chất có khả năng hút ion dương gọi là
cationit (mang tính kiềm).
Phản ứng trao đổi ion xảy ra do hiệu số thế hóa của các ion trao đổi:
mA + RmB mRA + B
Động lực của quá trình này giống như quá trình hấp phụ các chất từ dung dịch. Tốc
độ của quá trình do cơ chế khuyếch tán quyết định (thiết bị gián đoạn)
b. Phương pháp sinh học
Xử lý nước thải chứa kim loại nặng bằng biện pháp sinh học dựa trên nguyên tắc
sử dụng một số loài thực vật, vi sinh vật và một số chất có nguồn gốc sinh học để
hấp phụ, hấp thụ và chuyển hóa sinh học KLN trong nước thải.
Theo nghiên cứu, hiện nay người ta đã tìm được rất nhiều loài thực vật, vi sinh
vật và chất hấp phụ sinh học có khả năng xử lý kim loại nặng tốt. Đáng chú ý có
một số vi sinh vật có thể tích lũy kim loại nặng từ hàng chục đến hàng trăm lần so
với hàm lượng có trong môi trường. Chẳng hạn như Pseudomonas fluorosen sinh
trưởng trong môi trường tổng hợp có Pb(COOH)2 thì lượng Pb tích luỹ được đến
1/3 trọng lượng khô. Vi khuẩn Bacillus có khả năng hấp thụ 178 mg Cr/g sinh khối
khô.
Bảng 1.1 Khử kim loại nặng trong bể với bùn hoạt tính.[21]
Nước thải vào Nước thải ra
Crôm 2,2mg/l 0,9mg/l
Đồng 0,5mg/l 0,1mg/l
Kẽm 0,7mg/l 0,4mg/l
Sử dụng bùn hoạt tính (sinh khối vi sinh vật) để thu gom kim loại nặng cũng
là một trong những biện pháp xử lý nước thải sinh hoạt chứa kim loại nặng. Bùn
hoạt tính ở bể thứ cấp có thành phần giống với axit humic mà axit này có nhiều
nhóm chức năng nối với kim loại. Khi qua hệ thống xử lý, các ion này sẽ bị giữ lại
14
trong bùn. Tuy nhiên, ban đầu kim loại nặng thường gây độc với hệ sinh hóa hiếu
khí cũng như kị khí của bùn hoạt tính, khi đã thích nghi vi sinh vật có khả năng chịu
được nồng độ KLN tương đối cao.
Phương pháp sinh học được coi là phương pháp kinh tế, thân thiện với môi
trường, thích hợp cho việc xử lý ở những nơi có hàm lượng kim loại nặng thấp và
thường là công đoạn sau cùng của quá trình xử lý nước thải. Đặc điểm của phương
pháp này là nước thải phải có nồng độ kim loại nặng nhỏ hơn 60mg/l và phải bổ
sung đủ chất dinh dưỡng N, P, các nguyên tố vi lượng cần thiết cho sự phát triển
của các tác nhân sinh học. Sử dụng phương pháp sinh học đòi hỏi thời gian nhiều
hơn các phương pháp khác vì cần thời gian lưu dài.
• Phương pháp hấp phụ và hấp thụ sinh học
Hấp phụ và hấp thụ sinh học (biosorption and bioabsorption): Hấp phụ và
hấp thụ kim loại bằng nguyên liệu sinh học như thực vật thủy sinh (tảo, bèo cái, rau
muống, rau ngổ...) hay vật liệu sinh học (sinh khối của nấm, tảo, vi khuẩn và các
phế liệu của công nghiệp lên men, chế biến thủy sản, sản xuất nông nghiệp...).
Đây là phương pháp được sử dụng rộng rãi cho phép xử lý nước thải chứa
một hoặc nhiều loại ô nhiễm khác nhau cả khi nồng độ các chất ô nhiễm trong nước
rất thấp, khi đó dùng các phương pháp khác thì hiệu suất xử lý nước rất thấp (thậm
chí không đạt) và chi phí cao.
Kĩ thuật hấp phụ sinh học thường được nhiều tác giả sử dụng. Các vật liệu
sinh học có nguồn gốc từ sinh khối tảo, nấm, vi khuẩn... được sử dụng để hấp phụ
thu hồi kim loại nặng. Chẳng hạn như đối với tảo, người ta thấy rằng sự hấp thu
sinh học các ion kim loại nặng nhờ tảo tốt hơn so với sự kết tủa hoá học ở khả năng
thích nghi với sự thay đổi pH và nồng độ kim loại nặng, tốt hơn phương pháp trao
đổi ion và thẩm thấu ngược ở khả năng nhạy cảm với sự hiện diện của chất rắn lơ
lửng, các chất hữu cơ và sự hiện diện của các kim loại khác. Tuy nhiên, để thuận
tiện cho quá trình xử lý và thu gom KLN, sinh khối tảo thường được cố định với
chất mang (silicagel, polyacryamide, polyvinyl...). Đã có nhiều nghiên cứu về khả
năng cố định tế bào vi tảo lên các chất mang khác nhau. Có nghiên cứu cho thấy khi
15
cố định tế bào tảo Chlorella vulgaris lên chất mang alginate, phức hợp này có khả
năng hấp thu Cu nhanh chóng (với hơn 90% ion Cu trong dung dịch được hấp thụ
trong vòng 3 giờ). Hay sử dụng chế phẩm AlgaSORB (cũng là từ sinh khối tảo
Chlorella vulgaris) có khả năng xử lý nước thải chứa KLN có nồng độ từ 1 ÷
100mg/l với năng suất xử lý tới 380 lít/phút [9].
Thực vật thuỷ sinh cũng có khả năng tích lũy kim loại nặng. Chúng có thể
hút, giữ, hấp thụ kim loại nặng qua từng phần hoặc toàn bộ cơ thể như thân, rễ của
chúng. Ưu điểm của thực vật thuỷ sinh là tốc độ tăng sinh khối nhanh, bộ rễ phát
triển mạnh và được coi như là bộ lọc các chất vô vơ và hữu cơ rất tốt. Mặt khác
trong quá trình quang hợp thực vật thuỷ sinh sử dụng CO2 và làm tăng lượng ôxy
hòa tan trong môi trường nước thải cần thiết cho quá trình nitrat hoá và ôxy hóa
hiếu khí các KLN cũng như các chất hữu cơ khác. Kim loại nặng thường được
chuyển vào thực vật thuỷ sinh từ các lông rễ đến hệ thống mạch rễ và từ đó tới các
cơ quan của cây. Quá trình trao đổi hấp thụ xảy ra với tốc độ lớn trong giai đoạn rễ
sinh trưởng và phát triển mạnh.
Có rất nhiều loài thực vật thuỷ sinh có khả năng tích luỹ kim loại nặng như
bèo tây, bèo cái, rong đuôi chó, lau sậy... Với mỗi loại thực vật và kim loại khác
nhau thì khả năng tích lũy cũng khác nhau trong các bộ phận của cây. Ví dụ, cà
chua hấp thụ và tích lũy Pb, Cd, As, Zn chủ yếu ở trong rễ và một phần trong quả.
Trong khi đó, rễ cây cải củ tích lũy các kim loại này ít hơn trong lá.
Bằng thực nghiệm, một số tác giả đã chứng minh vai trò quan trọng của thực
vật thuỷ sinh trong việc tích lũy vào cơ thể của chúng các KLN khác nhau. Chẳng
hạn cây Bèo lục bình có khả năng hấp thụ Pb, Cr, Ni, Fe, Zn trong môi trường nước
thải mạ điện. Trong khi cây Rong đuôi chó và Bèo tấm lại có khả năng giảm thiểu
được Fe, Cu, Pb và Zn trong nước hồ Bảy Mẫu. Một loại thực vật nổi trên mặt nước
– cây Najas graminea Del., đã được các nhà khoa học Đài Loan sử dụng để xử lý
Cu, Zn, Pb, Cd. Đây là loại thực vật có khả năng hấp thụ KLN mạnh, đặc biệt là với
Pb, dễ nuôi trồng và thu hoạch. Một loài thủy sinh vật khác là Rau Muống (Ipomea
aquatica Firsk), có khả năng tích lũy Cu, Ni, Cr và Zn. Qua hệ thống rễ, rau muống
16
có năng tích lũy 0,552mg Cu; 0,213 mg Ni; 0,090mg Cr và 0,009mg Zn trên 1 gam
sinh khối khô trong vòng 48 giờ ở nồng độ kim loại là 5mg/l [21].
Các chất hấp phụ để tách các kim loại nặng trong nước thải mạ điện oxit
nhôm, than hoạt tính, mùn cưa, zeoxit… Khi chất hấp phụ đã bão hòa người ta phải
tiến hành hấp phụ (tái sinh). Phương pháp này hấp phụ được 85 – 95% các chất hữu
cơ và màu. Đối với kim loại nặng như Ni, Cr, Cu… thì khả năng hấp phụ là:
- Khử Cr6+ bằng ôxit nhôm đạt hiệu suất hấp phụ cao (90%) và tái sinh ôxit nhôm
bằng HCl. Dung lượng hấp phụ tại pH = 4 - 6 là 11,7mg/l. Thực nghiệm chứng
tỏ rằng có thể loại bỏ 97% muối Cr3+ và Cr6+ trong nước thải bằng hấp phụ bởi
than hoạt tính tốc độ hấp phụ ion tăng lên theo qui luật số mũ với sự giảm pH,
than hoạt tính hấp phụ tốt hơn rất nhiều lần khi nồng độ Cr thấp nhất (Cr6+ loại
bỏ 97,4%), Cr3+ loại bỏ 99,3%.
- Mùn cưa khi hấp phụ bão hòa các ion kim loại được thu gom, sấy khô và đốt thì
có thể thu hồi được kim loại, mạt cưa rẻ, dễ kiếm, ứng dụng nhiều. Phương pháp
này được các nhà khoa học L.a.Vorapano và SG.Rupanopskaisi hoàn thiện. Hai
nhà khoa học này tiến hành với dung dịch ban đầu để thí nghiệm kalibicrômat,
(nồng độ Cr 52mg/cm3). Nồng độ kim loại được xác định bằng máy so màu và
kiểm tra độ kiềm, độ axit của dung dịch bằng máy đo pH.
• Chuyển hóa sinh học
Chuyển hóa sinh học (biotransformation): Chuyển hóa sinh học là quá trình
khử các ion kim loại nặng hóa trị cao, độc hại về dạng muối kim loại bền vững
thông qua phản ứng trực tiếp với enzyme hay phản ứng gián tiếp với các sản phẩm
trao đổi chất do vi sinh vật đặc hiệu tạo ra (Ví dụ: ion sulfide tạo ra trong quá trình
khử sulfate phản ứng với ion kim loại tạo kết tủa kim loại dưới dạng sulfide).
Nhiều nhà khoa học trên thế giới đã nghiên cứu và chứng minh được vai trò
của vi sinh vật khử sunfat trong xử lý nước thải nhiễm KLN. Ở Mỹ, năm 1988-
2000, các tác giả đã ứng dụng thành công vi khuẩn này để xử lý nước thải nhiễm
Cr6+. Khả năng loại bỏ 70mg Zn/l và 2mg Cd/l đã được các nhà khoa học Brazil
minh chứng trong mô hình dòng chảy ngược kị khí (UASB) [29].
17
Trong nghiên cứu này, mùn cưa từ các quá trình chế biến gỗ được sử dụng
với cả hai mục đích trên là làm nhiệm vụ hấp phụ và chuyển hóa sinh học KLN
trong nước thải. Đây là một đối tượng nghiên cứu rất mới ở Việt Nam và trên thế
giới. Có thể kết hợp mùn cưa với hệ thống đất ngập nước nhân tạo để làm tăng hiệu
quả xử lý KLN trong nước.
1.2. Khái quát về sử dụng mùn cưa trong xử lý nước thải chứa kim loại nặng
Hiện nay, người ta thường sử dụng mùn cưa làm chất hấp phụ kim loại nặng.
Về bản chất, mùn cưa có thành phần chính là xenlulô, thông qua quá trình thủy
phân dưới tác dụng của các enzym nó sẽ chuyển hóa thành glucozơ và tiếp tục
chuyển hóa thành các chất hữu cơ có mạch cacbon ngắn. Một số nghiên cứu đã sử
dụng mùn cưa từ các quá trình chế biến gỗ với cả hai mục đích là làm nhiệm vụ hấp
thụ và chuyển hóa sinh học KLN trong nước thải. Đây là một đối tượng nghiên cứu
rất mới ở Việt Nam và trên thế giới.
Trong mùn cưa, cellulose là hợp chất hữu cơ chiếm nhiều nhất sau đó là lignin,
ngoài ra còn một phần rất nhỏ các chất khác. Thông thường trong mùn cưa có thành
phần tùy thuộc vào từng loại gỗ, biến động như sau: Lignin: 15 - 20%;
Hemixenlulozo: 25 – 35 %; Xenlulô: 40 - 50%
\
Hình 1.2 Thành phần của gỗ
18
1.2.1. Quá trình thủy phân mùn cưa Xenlulô là hợp chất hữu cơ có công thức cấu tạo (C6H10O5)n, và là thành
phần chủ yếu của thành tế bào thực vật, gồm nhiều cellobiose liên kết với nhau. Các nhóm OH ở hai đầu mạch có tính chất hoàn toàn khác nhau, cấu trúc tại C1 có tính khử trong đó OH có tính chất của rượu.
Hình1.3 Công thức hóa học của xenlulô Enzym thủy phân
Theo nghiên cứu của các tác giả Goksoyr và Eriksen, Bisaria và Ghose, hệ enzym thủy phân cellulose gồm 3 enzym chủ yếu là Exoglucanase, Endoglucanase và Beta-glucosidase. Sự thủy phân cellulose là sự kết hợp của 3 loại enzyme trên. Đầu tiên enzym EG tấn công vào giữa xenlulô và giải phóng các đầu cuối của chuỗi. Tiếp sau đó là enzym CBH tiếp tục phân cắt để tạo sản phẩm cuối là cellobiose. Việc phân cắt cuối cùng tạo thành glucose nhờ vào enzym thứ 3 β-glucosidase.
Hình 1.4 Tác dụng của từng enzym trong xenlulô
19
Mặc dù enzyme cellulase được nghiên cứu sau các enzyme khác như protease,
amylase (những năm1980)…nhưng đã đóng vai trò quan trọng trong nhiều lĩnh vực
đời sống. Enzyme cellulase được ứng dụng trong nhiều lĩnh vực như xử lý phế
phẩm nông nghiệp, trong các ngành công nghiệp như trong sản xuất bia, chất tẩy,
dệt, giấy, thực phẩm và cả trong y dược…(Kirk et al., 2002), (Cherry và Fidantsef,
2003).
Các sản phẩm chính của quá trình thủy phân mùn cưa
• Phân hủy xenlulo:
Hình 1.5 Quá trình thủy phân xenlulô
Methanogenesis CH4
Me2
MeS (s)
Quá trình khử sunfat SO4
2-
H2S
CO2
Acetat CO2
H2 Lactat CO2
Quá trình lên men
Phân hủy xenlulô
Thủy phân cellobiose
Glucozơ
Cellobiose
Xenlulô
20
• Hemixenluloza:
Hemixenluloza là nguồn cacbon phổ biến thứ hai trong cây. Sự phân hủy
hemicellulose là giống với quá trình phân hủy xenlulô, chỉ khác một chút là quá
trình phân cắt thành phân tử nhỏ hơn diễn ra bên ngoài tế bào và đường tạo ra sẽ
phân chuyển vào tế bào cho việc đồng hóa hoặc dị hóa. Mặc dù sự phân hủy
hemixenluloza nhanh hơn sự phân hủy xenlulô, các tế bào vẫn sử dụng các đường
đơn như cơ chất sau đó mới đến các phân tử hemixenluloza [32].
• Phân hủy lignin:
Quá trình phân cắt lignin cũng tương tự như xenlulô, hemixenluloza. Tuy nhiên,
quá trình phân hủy khó hơn. Lignin bền với các tác động của enzym, lignin gần như
không hòa tan trong nước, dung môi thông thường và axit. Lignin chỉ hòa tan ở
trong môi trường kiềm với nhiệt độ và áp suất rất cao.
1.2.2. Tình hình sử dụng các hợp chất hữu cơ khác nhau để làm nguồn Cacbon và chất khử trong xử lý nước thải chứa KLN và giàu sunfat.
Hiện nay, trên thế giới đã có rất nhiều các công trình nghiên cứu sử dụng các
hợp chất hữu cơ khác nhau để làm nguồn cacbon và chất khử trong quá trình xử lý
nước thải chứa KLN và giàu sulfat. Trong phương pháp này, vi sinh vật sẽ thúc đẩy
quá trình khử sulfat thành sulfur, một mặt loại bỏ sulfat, mặt khác sulfur được tạo
thành sẽ kết tủa với ion kim loại nặng thành sulfur kim loại nặng hoặc hydroxyt
dưới dạng kết tủa, qua đó kim loại nặng được loại bỏ.
Theo cách tiếp cận sử dụng vi khuẩn khử sunfat để xử lý tại Việt Nam, một số
tác giả trong nước đã có những thành công nhất định khi xử lý ô nhiễm KLN. Lại
Thúy Hiền và cs (2003) đã ứng dụng thành công phương pháp dòng chảy ngược kị
khí (UASB) để xử lý hỗn hợp KLN (Cr, Ni, Fe, Zn, Cu, Mn) trong nước thải làng
nghề cơ khí Vân Chàng, Nam Định bằng vi khuẩn KSF nội tại. Kết quả cho thấy,
hiệu quả xử lý kim loại nặng lên tới 97 - 99 % sau 1 tháng thí nghiệm. Nước thải
sau xử lý đạt tiêu chuẩn Việt Nam cho nước thải công nghiệp loại B (TCVN
5945_1995). Phạm Hương Sơn và cs (2003) đã xử lý nước thải nhân tạo có bổ sung
21
10ppm Cu và 10ppm As bằng công nghệ khử sulfate. Sau 40 ngày thí nghiệm 96-
99% Cu và As đó được loại bỏ.
Mùn cưa bổ sung vào hệ thống xử lý có vai trò rất quan trọng. Đây chính là
một nguồn cacbon hữu cơ để các vi sinh vật khử sunfat tiếp nhận dễ dàng, thúc đẩy
quá trình khử sunfat thành sunfua; khi ion sunfua được hình thành sẽ loại bỏ các ion
KLN bằng cách kết tủa chúng. Chúng ta có thể tạo ra được nguồn cacbon mạch
ngắn như glucozo, rượu etylic, acid acetic,… tại chỗ từ nguồn vật liệu rẻ tiền (mùn
cưa) thông qua quá trình thủy phân bằng vi sinh vật. Ngoài ra, mùn cưa còn được
dùng làm vật liệu lọc và hấp phụ các chất kết tủa, KLN và các chất rắn lơ lửng để
làm sạch nước.
Sau khi dùng mùn cưa theo cách tiếp cận trên để xử lý thì hầu hết KLN sẽ bị
giảm thiểu đáng kể. Một số chất còn lại sau quy trình như H2S, các chất hữu cơ còn
dư, VSV gây bệnh... sẽ được xử lý qua hệ thống đất ngập nước nhân tạo. Phương
pháp này khắc phục được các vấn đề mà các công trình nghiên cứu trước đây không
giải quyết được là xử lý được cả các anion cũng như các ion KLN. Trong quá trình
này, nguồn cacbon được cung cấp phong phú và dồi dào nên hiệu quả xử lý KLN sẽ
cao.
1.2.3. Sử dụng mùn cưa như chất hấp phụ sinh học để xử lý nước ô nhiễm KLN.
Trong những năm gần đây, các nghiên cứu loại bỏ KLN bằng các vật liệu rẻ
tiền, sẵn có trong tự nhiên là một trong những hướng nghiên cứu triển vọng. Trên
thế giới đã có nhiều công trình nghiên cứu về hiệu quả của việc sử dụng than hoạt
tính sản xuất từ mùn cưa, vỏ dừa, vỏ trấu, vỏ cà phê,…để loại bỏ KLN trong nước.
Việc sử dụng mùn cưa làm vật liệu hấp phụ để loại bỏ ion KLN có một số ưu
điểm như tốc độ xử lý nhanh, tuy nhiên khi sử dụng phương pháp này, phải chú ý
đến khả năng hấp phụ của loại mùn cưa. Chúng phụ thuộc vào điều kiện nhiệt độ.
Khi nhiệt độ thấp quá trình hấp phụ xảy ra mạnh nhưng nếu quá cao thì có thể diễn
ra quá trình giải hấp phụ [Meier, Babenzien et al. 2004]. Ngoài ra nó còn có nhược
điểm là chỉ sử dụng cho việc loại bỏ các ion KLN có hàm lượng thấp và trong quá
22
trình xử lý, đến một lúc nào đó dung lượng hấp phụ đạt tới bão hoà thì cần phải có
một lượng hoá chất như HCl, HNO3 hay EDTA để giải hấp phụ. Như vậy, cần phải
có chi phí bổ sung cho quá trình xử lý và phải tiếp tục xử lý dịch hấp phụ nên các
chi phí bổ sung tốn kém.
1.3. Tình hình nghiên cứu ở nước ngoài 1.3.1. Sử dụng mùn cưa để xử lý KLN
Một số công trình nghiên cứu của Mỹ và Nhật Bản đã công bố có thể sử
dụng mùn cưa làm vật liệu để hấp phụ một số ion kim loại như Co, Pb, Cr, Ni,...Tuy
nhiên, để thực hiện quá trình hấp phụ trên các tác giả đã tiến hành thực nghiệm
trong điều kiện nhiệt độ rất cao và phải đầu tư thiết bị tốn kém.
Nghiên cứu của Bulut và cs (2007), đã khẳng định mùn cưa của cây óc chó
có thể được sử dụng để hấp phụ Cd, Pb và Ni trong nước thải. Ở cùng một lượng
mùn cưa như nhau thì hiệu quả hấp phụ Pb = Cd > Ni. Evans T và cs (2012), đã
nghiên cứu về khả năng hấp phụ Cd của mùn cưa từ cây thông và thấy rằng hiệu
quả xử lý Cd trong nước thải của mùn cưa phụ thuộc vào liều lượng hấp phụ, pH và
hàm lượng chất ô nhiễm ban đầu [27]. Kishor Kumar Singh (2011) đã thành công
khi sử dụng mùn cưa như là một chất hấp phụ sinh học để xử lý ô nhiễm KLN trong
nước mưa trên đường cao tốc. Kết quả chỉ ra rằng, tuy tốc độ hấp phụ các ion KLN
tương đối cao, nó có thể loại bỏ được khoảng 90% ion kim loại sau 30 phút, nhưng
dung lượng hấp phụ thấp chỉ đạt được cao nhất 24,5 mg/g đối với Zn [28]. Krowiak
và cs (2013) đã tiến hành nghiên cứu loại bỏ Cu và Cr bằng mùn cưa của cây gỗ sồi
bằng phương pháp hấp phụ, kết quả chỉ ra rằng hiệu quả loại bỏ ion Cu và Cr đạt
cao nhất tại pH = 5 và dung lượng hấp phụ cao nhất đạt ở nhiệt độ 20°C là 30,22
mg/g đối với Cu2+ ion và 41,86 mg/g đối với Cr3+ ion.
Batzias và cộng sự đã nghiên cứu sử dụng mùn cưa từ gỗ sồi đã qua xử lý
bằng muối để hấp phụ methylen xanh [25]. Kết quả cho thấy hiệu suất hấp phụ của
mùn cưa rất tốt và tuân theo phương trình Freundlich.
Nhóm nghiên cứu của đại học Virginia, Mỹ đã dùng mùn cưa và đất sét để
lọc nước sạch. Theo đó, đất sét lấy ở địa phương được trộn với mùn cưa và nước
23
theo tỷ lệ thích hợp, ép vào khuôn rồi cho vào lò nung. Mùn cưa bị cháy trong quá
trình nung sẽ để lại những lỗ trống li ti trong cấu trúc bộ lọc gốm. Chúng đủ lớn cho
phép nước được lọc qua với tốc độ 3 lít/giờ và đủ nhỏ để giữ lại các tạp chất. Bên
cạnh đó, một phần mùn cưa khi cháy sẽ có tác dụng như than hoạt tính nên khử mùi
khá tốt.
Nghiên cứu của Craig A.Mc Cauley và cs. (2009) về 6 biện pháp sinh học kỵ
khí sử dụng vật liệu chất thải hữu cơ và kiềm để loại bỏ kim loại và sulfate trong
nước thải acid mỏ. Kết quả cho thấy, hiệu quả xử lý sulfate trung bình được đạt là
87,6- 98%. Đối với kim loại hiệu suất đạt được từ 98,5 - 99,9%.
Hệ thống xử lý nước thải axit mỏ (AMD) tại khu mỏ Wheal Jane (Cornwall,
Anh): AMD thải từ mỏ khai thác kẽm và một số kim loại khác, có pH ở khoảng 3 và
hàm lượng các ion kim loại nặng rất cao (sắt: 161,3 mg/l, nhôm: 12,4 mg/l, kẽm:
41,9 mg/l, sulfate: 1094 mg/l). Khu mỏ đã ngừng hoạt động từ 1991 nhưng lượng
AMD tích tụ trong thời gian dài hoàn toàn chưa xử lý. Người ta dự định sẽ xây
dựng một hệ thống xử lý 50-165 m3 nước thải/ngày đêm. Hệ thống bao gồm nhiều
bể xử lý, bắt đầu bằng các bể đá vôi để tăng pH lên tới mức xấp xỉ 5, sau đó chuyển
sang các bể sinh học có SRB để loại sulfate và kim loại nặng. Bể kỵ khí khử sulfate
sử dụng mùn cưa làm giá thể, đồng thời tạo nguồn cơ chất cho vi khuẩn phát triển,
dự kiến có thể hoạt động ổn định trong thời gian 30 năm. Kết quả thu được trong
thời gian nghiên cứu từ 2000-2002 cho thấy hệ thống có thể loại được tới 55-99%
kẽm và 27-62% sulfate. Tuy nhiên, bài học kinh nghiệm rút ra từ quá trình nghiên
cứu vận hành hệ thống xử lý này là hệ thống không có nguồn SRB chịu pH thấp để
duy trì hoạt động, do vậy pH vẫn chưa được xử lý tối ưu (chỉ đạt tới mức 5,9) và
hàm lượng Fe2+ trong nước thải còn cao do sulfide sắt bị hòa tan một phần tại pH
axit này (Whitehead et al.,2005).
West Fork Mine (Misouri, USA): AMD từ mỏ khai thác chì và kẽm, có hàm
lượng kim loại ở mức chì 0,6mg/l và sulfate 180mg/l (quy định nước thải ra phải đạt
mức < 0,035mg/l đối với chì). Hệ thống xử lý AMD quy mô pilot được thiết lập cho
khu mỏ này với công suất 110-270 m3/ngày đêm đã có kết quả xử lý rất tốt, hàm
24
lượng chì còn ở mức 0,02mg/l. Trên cơ sở hệ thống pilot này, hệ xử lý AMD thực tế
đã được triển khai trên diện tích 2 ha, có công suất 6500-8200m3/ngày đêm. Trong
hệ thống này, bể phản ứng sinh học chứa SRB được bổ sung giá thể là mùn cưa và
cỏ cùng với đá vôi, có khả năng duy trì hoạt tính của vi khuẩn trong thời gian 30
năm. Hệ thống bắt đầu vận hành từ năm 1996 đến nay, đạt hiệu quả tốt với nước
đầu ra có hàm lượng các chất ô nhiễm ở mức chì 0,027 – 0,05mg/l, kẽm < 0,05mg/l,
sulfate < 140mg/l, pH xấp xỉ 7,8 (đạt mức quy định của NPDES Gusek, 2005)
Hình 1.6 Nước thải ADM trước xử lý (năm 1995) và sau khi xử lý (năm 2001) bằng
hệ thống trên
1.3.2. Sử dụng công nghệ đất ngập nước nhân tạo (Constructed wetland) để xử lý ô nhiễm KLN.
Các vùng đất ngập nước tự nhiên từ xa xưa đã được sử dụng để làm sạch
nước thải nhưng chúng có một số hạn chế trong quá trình vận hành do khó kiểm
soát về chế độ thủy lực và có khả năng ảnh hưởng xấu vì thành phần nước thải đến
môi trường sống của động vật hoang dã và hệ sinh thái trong đó.
Công nghệ đất ngập nước nhân tạo (bãi lọc trồng cây) là công nghệ xử lý sinh
thái được xây dựng nhằm khắc phục những nhược điểm nhưng vẫn bảo tồn được
những ưu điểm của bãi đất ngập nước tự nhiên. Các nghiên cứu trên thế giới đã cho
thấy, công nghệ trên rất thích hợp cho xử lý nước thải tại các khu vực dân sinh, khu
công nghiệp và các làng nghề nơi có quỹ đất rộng. Việc phát triển công nghệ đất
25
ngập nước nhân tạo có ý nghĩa giúp phục hồi các khu vực đất ngập nước bị mất đi
do quá trình đô thị hóa và công nghiệp hóa.
Đối với công nghệ này thì việc khảo sát tìm kiếm được các loài thực vật có
khả năng siêu tích lũy các chất ô nhiễm, tạo môi trường và bề mặt cho các vi sinh
vật phát triển là rất quan trọng. Ngày nay, danh mục trên 450 loài thực vật có khả
năng hấp thụ cao KLN đã được công bố.
Phương pháp dùng cây lau, sậy xử lý nước thải do Giáo sư Kathe Seidel
người Đức đưa ra từ những năm 60 của thế kỷ 20. Các cánh đồng lau sậy có thể xử
lý được nhiều loại nước thải có chất độc hại khác nhau và nồng độ ô nhiễm lớn.
Hiệu quả xử lý nước thải công nghiệp có chứa kim loại thì hiệu quả xử lý COD,
BOD5, crôm, đồng, nhôm, sắt, chì, kẽm đạt 90-100%. Đến năm 2006, chỉ riêng ở
Mỹ và Canada đã có hàng ngàn hệ thống xử lý nước thải (thành phố, công nghiệp,
khai thác mỏ...) bằng công nghệ sử dụng TVTS đang hoạt động. Hiện tại, đã có rất
nhiều bằng phát minh sáng chế về công nghệ sử dụng thực vật để xử lý ô nhiễm
KLN.
1.4. Tình hình nghiên cứu ở Việt Nam 1.4.1. Sử dụng mùn cưa để xử lý KLN
Ở Việt Nam, việc sử dụng vật liệu từ các phụ phẩm nông nghiệp để hấp phụ
các KLN ứng dụng trong xử lý môi trường còn rất ít được quan tâm nghiên cứu.
PGS.TS Phan Thị Bình và cs. đã tổng hợp và nghiên cứu vật liệu composit
polyanilin từ vỏ đỗ để ứng dụng hấp phụ ion Cu2+ trong nước, polyanilin từ mùn cưa
có kích thước nano để hấp phụ Cr6+.
PGS. TS. Nguyễn Văn Nội và cs. đã nghiên cứu sử dụng mùn cưa biến tính
để xử lý nước bị ô nhiễm dầu. Trong hội thi sáng tạo KH&KT dành cho học sinh
phổ thông năm 2013, đề tài của học sinh Trường THPT Chu Văn An (Hà Nội) vừa
xuất sắc giành giải nhất toàn cuộc hôm 31/3, là dự án nghiên cứu công nghệ xử lí
nước thải phòng thí nghiệm bằng đá vôi và mùn cưa [40]. Tuy nhiên, những kết quả
nghiên cứu về mùn cưa tại nước ta chỉ là những nghiên cứu ban đầu mang tính chất
26
thăm dò. Do vậy, đây thực sự là một vấn đề mới, nhiều tiềm năng để nghiên cứu và
khám phá.
Theo cách tiếp cận sử dụng vi khuẩn khử sunfat để xử lý, một số tác giả
trong nước đã có những thành công nhất định khi xử lý ô nhiễm KLN. Lại Thúy
Hiền và cs (2003) đã ứng dụng thành công phương pháp dòng chảy ngược kị khí
(UASB) để xử lý hỗn hợp KLN (Cr, Ni, Fe, Zn, Cu, Mn) trong nước thải làng nghề
cơ khí Vân Chàng, Nam Định bằng vi khuẩn KSF nội tại. Kết quả cho thấy, hiệu
quả xử lý kim loại nặng lên tới 97-99 % sau 1 tháng thí nghiệm. Nước thải sau xử lý
đạt tiêu chuẩn Việt Nam cho nước thải công nghiệp loại B (TCVN 5945_1995).
Phạm Hương Sơn và cs (2003) đó xử lý nước thải nhân tạo có bổ sung 10ppm Cu và
10ppm As bằng công nghệ khử sulfate. Sau 40 ngày thí nghiệm 96-99% Cu và As
đó được loại bỏ.
1.4.2. Tình hình sử dụng công nghệ đất ngập nước nhân tạo để xử lý KLN
Kết quả nghiên cứu trong nhiều năm cho thấy, ở Việt Nam một số loài thực
vật có thể đóng vai trò tích cực trong xử lý ô nhiễm KLN đã được biết đến. Tuy
nhiên, phương pháp xử lý nước thải bằng các bãi lọc ngầm trồng cây còn khá mới
mẻ, bước đầu đang được một số trung tâm công nghệ môi trường và trường đại học
áp dụng thử nghiệm.
Một số tác giả trong nước đã chứng minh được vai trò quan trọng của một số
thực vật thuỷ sinh trong việc tích luỹ vào cơ thể của chúng các kim loại nặng khác
nhau. Chẳng hạn cây bèo Tây có khả năng hấp thụ Pb, Cr, Ni, Zn và Fe trong nước
thải công nghiệp [17], cây cải soong có thể xử lý được Cr và Ni từ nước thải mạ
điện. Trong khi Rong đuôi chó và bèo Tấm lại có khả năng giảm thiểu được Fe, Cu,
Pb và Zn có trong hồ Bẩy Mẫu, Hà Nội [6,12].
Các cán bộ nghiên cứu của Viện Công nghệ môi trường đã và đang có những
nghiên cứu hệ thống một số loài thực vật thuỷ sinh như bèo tây, bèo cái, rau muống,
bèo tấm, ngổ, sậy,... để đánh giá đặc điểm sinh học, tính chống chịu và khả năng
loại bỏ N-NH4+, N-NO3
-, Phốtpho, COD cũng như kim loại nặng (Cr, Ni, Pb) từ
nước thải công nghiệp mạ điện và nước thải chế biến thuỷ sản. Kết quả bước đầu
27
cho thấy, các loài thực vật này có độ tăng trưởng cao, khả năng chống chịu tương
đối tốt và tham gia tích cực vào việc giảm thiểu ô nhiễm môi trường [12,17]. Một
nhóm tác giả khác đã nghiên cứu thử nghiệm loại bỏ Cu, As, Pb từ nước thải của
khu vực mỏ tuyển thiếc tại Thái Nguyên bằng các loại cây như bèo tây, bèo cái, sậy,
ngổ, bèo hoa dâu, rau muống. Kết quả bước đầu cho thấy bèo tây có khả năng loại
bỏ Cu, As, Pb hiệu quả nhất. Lê Văn Cát và cs 2008 [6] nghiên cứu khả năng loại
bỏ đồng thời amoni và asen từ nước ô nhiễm bằng cây cỏ trồng thuỷ canh (Typha
canna và cỏ Voi Elephant ). Tác giả cho rằng có thể sử dụng kỹ thuật này ở quy mô
gia đình để lọc nước ngầm nhiễm amoni và asen. PGS.TS. Nguyễn Việt Anh [3],
chủ nhiệm đề tài hợp tác nghiên cứu giữa Trường Đại học Tổng hợp Lin Koeping
(Thuỵ Điển) và Trung tâm Kỹ thuật Môi trường đô thị và khu công nghiệp về “Xử
lý nước thải sinh hoạt bằng bãi lọc trồng cây” cho biết nhóm nghiên cứu của ông đã
tiến hành thử nghiệm thành công bãi lọc ngầm trồng cây có dòng chảy thẳng đứng
sử dụng các vật liệu sỏi, gạch để xử lý nước thải sau bể tự hoại với các loài cây như
cỏ nến (Typha angustifolia), sậy (Phragmites karka), thuỷ trúc (Cyperus
alternifolius) v.v…
Đề tài này tập trung nghiên cứu về khả năng xử lý nước thải chứa KLN (Cr,
Ni) của mùn cưa và hệ thống đất ngập nước nhân tạo. Sau khi dùng đá vôi, mùn cưa
để xử lý thì hầu hết KLN sẽ bị giảm thiểu đáng kể. Một số chất còn lại sau quy trình
như H2S, các chất hữu cơ còn dư, VSV gây bệnh,... sẽ được xử lý qua hệ thống đất
ngập nước nhân tạo. Phương pháp này khắc phục được các vấn đề mà các công
trình nghiên cứu trước đây không giải quyết được là xử lý được cả các anion cũng
như các ion KLN. Trong quá trình này, nguồn cacbon được cung cấp phong phú và
dồi dào nên hiệu quả xử lý KLN sẽ cao.
28
CHƯƠNG 2: VẬT LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Vật liệu nghiên cứu 2.1.1. Mùn cưa
Lựa chọn mùn cưa từ các xưởng sản xuất đồ gỗ, có hàm lượng lignin thấp và
không chứa các chất ức chế vi sinh vật. Các loại mùn cưa được sử dụng trong thí
nghiệm là gỗ sồi Nga và Mỹ.
Thành phần hóa học của mùn cưa là lignin: 15 - 20%; Hemixenluloza: 17 - 35
%; xenlulô: 40 - 50%. Mùn cưa được nghiền nát, sàng qua lưới có kích cỡ lỗ 1-3
mm
2.1.2. Thực vật thủy sinh: Cây Sậy Cây Sậy (Phragmites australis), họ hòa thảo (Poaceae). Sậy là cây thảo
nhiều năm, cao 2-4m, mọc nơi đất ẩm ven suối, ao hồ, khắp Việt Nam.
Hình 2.1 Cây sậy (Phragmites australis)
Phương pháp dùng cây sậy để xử lý nước thải do Giáo sư Kathe Seidel người
Đức đưa ra từ những năm 60 của thế kỷ 20. Khi nghiên cứu khả năng phân huỷ các
29
chất hữu cơ của cây cối, ông nhận thấy điểm mạnh của phương pháp này chính là
tác dụng đồng thời giữa rễ, cây và các vi sinh vật tập trung quanh rễ. Trong đó, loại
cây có nhiều ưu điểm nhất là cây sậy.
2.1.3. Đá vôi
Đá được sử dụng trong nghiên cứu là loại đá thường dùng trong xây dựng.
Đá được rửa sạch trước khi bổ sung vào hệ thống.
Đá vôi có tác dụng làm tăng pH của nước thải nhờ phản ứng của CaCO3 với
kim loại. Ngoài ra, do đá có khả năng kết tủa một số kim loại hóa trị 2 và 3 nên có
tác dụng làm giảm tải lượng kim loại nặng cho các bể mùn cưa và bể wetland trong
hệ thống xử lý, đồng thời là vật liệu cho màng vi sinh vật bám dính và phát triển.
2.2. Địa điểm nghiên cứu
Nghiên cứu được thực hiện tại Viện Công nghệ môi trường, Viện Hàn lâm
Khoa học và Công nghệ Việt Nam và Trại Thực nghiệm sinh học Cổ Nhuế, Từ
Liêm, Hà Nội.
2.3. Phương pháp nghiên cứu 2.3.1. Phương pháp điều tra, khảo sát:
Mẫu được lấy tại các ao, mương tiếp nhận nước thải mạ của các hộ và cơ sở sản
xuất cơ kim khí làng nghề Phùng Xá theo:
- TCVN 6663-1:2011 (ISO 5667-1:2006) – Chất lượng nước – Phần 1: Hướng
dẫn lập chương trình lấy mẫu và kỹ thuật lấy mẫu
- TCVN 6663-3:2008 (ISO 5667-3:2003) - Chất lượng nước - Lấy mẫu.
Hướng dẫn bảo quản và xử lý mẫu
Quy trình lấy mẫu:
- Thời gian lấy mẫu: có thể lấy mẫu lúc trời mát, nhiệt độ 27-30oC để
thích hợp với nhiệt độ phòng thí nghiệm.
- Mỗi mẫu có ghi kèm nhãn, trên đó ghi thời gian và điều kiện lấy mẫu.
- Bảo quản mẫu: thời gian vận chuyển mẫu đến phòng thí nghiệm ngắn,
mẫu được đựng vào lọ nhựa và bọc trong túi nilon màu đen, dùng
30
HNO3 chỉnh về pH = 2, mẫu được bảo quản trong tủ lạnh trước khi
phân tích.
2.3.2. Nghiên cứu kế thừa các tài liệu liên quan
Cơ sở của phương pháp là thu thập, nghiên cứu tất cả các tài liệu có liên
quan tới vấn đề nghiên cứu, các quy định, tiêu chuẩn môi trường cho các mục đích
khác nhau. Hệ thống các số liệu rời rạc sẵn có về vật liệu và phương pháp xử lý
nước thải chứa kim loại nặng bằng mùn cưa, thực vật và các tài liệu cần thiết khác.
2.3.3. Phương pháp phân tích đánh giá trong phòng thí nghiệm.
- Các chỉ tiêu như hàm lượng oxy hòa tan (DO, pH, nhiệt độ, được đo trực tiếp
bằng máy TOA (Model WQC-22A của hãng TOA Nhật Bản), máy đo DO cầm
tay (Oxi 330 WTW, CHLB Đức), máy đo pH và nhiệt độ cầm tay (pH 320
WTW, CHLB Đức).
- Các chỉ tiêu COD, SO43-, H2S, Ni, Cr6+, Cr3+ được phân tích theo các phương
pháp chuẩn [31] cụ thể như sau:
+ Xác định nhu cầu oxy hóa học (COD) bằng phương pháp Bicromat.
+ Cr6+, cromat hoặc bicromat xác định được bằng phương pháp đo quang khi
cho phản ứng với diphenylcarbazide trong môi trường axit, hợp chất tạo thành có
màu đỏ tím, có cường độ hấp thụ cực đại tại sóng 540nm.
+ Cr3+ được xác định giống phương pháp phân tích Cr6+, trước đó Cr3+ được oxy
hóa với kali permanganate để trở về dạng Cr6+. Sau quá trình oxy hóa, lượng
permanganate dư được khử với natri azid (NaN3).
+ Hàm lượng Ni trong mẫu thực vật và một số mẫu nước được phân tích bằng
phương pháp quang phổ hấp thụ nguyên tử (AAS).
Việc đo quang được tiến hành trên máy quang phổ (Spectrophotometer) của hãng
Pharmacia và Shimadzu. Việc ủ và phá mẫu cho xác định COD tiến hành trên máy
COD Reactor của hãng HACH (Mỹ)
- Chỉ tiêu H2S và SO42- được xác định bằng phương pháp đo khối lượng, cụ thể là:
31
+ Xác định lượng SO42- bằng cách xác định khối lượng BaSO4 kết tủa. Để kết tủa
hoàn toàn dung dịch chứa SO42-, một lượng BaCl2 dư được thêm vào nước đã được
acid hóa với HCl và được giữ ở gần điểm sôi. Việc mẫu được acid hóa là để loại trừ
kết tủa BaCO3 có thể xảy ra ở nhiệt độ cao đối với nước có độ kiềm cao.
+ Khi nồng độ H2S cao, ta chuyển H2S thành H2SO4 sau đó xác định lượng SO42-
rồi suy ra nồng độ H2S ban đầu.
2.3.4. Sử dụng các phương pháp bố trí thí nghiệm logic để đánh giá ảnh hưởng của các yếu tố liên quan đến hiệu quả xử lý kim loại nặng.
Thí nghiệm 1: Nghiên cứu quá trình thủy phân của mùn cưa trong phòng thí nghiệm.
Hình 2.2 Hình ảnh nguyên liệu đầu vào lấy tại các xưởng sản xuất đồ gỗ
Việc nghiên cứu hiệu quả của quá trình thủy phân mùn cưa được tiến hành
trên 15 bình có dung tích là 3 lít. Mỗi một thí nghiệm được lặp lại 03 lần. Mùn cưa
được lấy từ gỗ sồi với kích thước 1-3 mm. Vi sinh vật thủy phân cellulose được lấy
từ chế phẩm Sagi-bio (mật độ VSV khoảng 108 CFU/g), VSV thủy phân cellulose
phân lập từ mùn cưa cũng có mật độ VSV khoảng 108 CFU/ml (VSV từ mùn cưa)
và phân bò. Thí nghiệm gồm 05 công thức như sau:
- Đối chứng: 200g mùn cưa + 2, 02 lít nước
- Thí nghiệm 1: 200g mùn cưa + 2 lít nước + 20g chế phẩm Sagi-bio
- Thí nghiệm 2: 200g mùn cưa + 2 lít nước + 20ml VSV từ mùn cưa
32
- Thí nghiệm 3: 200g mùn cưa + 2 lít nước + 20g phân bò
- Thí nghiệm 4: 200g mùn cưa + 2 lít nước + 10ml VSV từ mùn cưa + 10g
phân bò Thí nghiệm 2: So sánh khả năng xử lý Cr, Ni của đá, mùn cưa và hỗn hợp đá cộng mùn cưa.
Thí nghiệm này được tiến hành nhằm đánh giá hiệu quả xử lý của từng loại
vật liệu. Dựa trên kết quả thu được, chúng tôi sẽ chọn được công thức tốt nhất dùng
để xử lý hai kim loại trên. Thí nghiệm được bố trí 6 bình như nhau, mỗi bình gồm
1kg mùn cưa đã thủy phân sau 03 tháng trộn lẫn với 6kg đá vôi. Lượng Cr3+, Cr6+
và Ni được bổ sung vào thí nghiệm theo các nồng độ khác nhau tương ứng dưới
dạng CrCl3.6H2O, K2Cr2O7 và NiSO4.7H2O.
Các dải nồng độ Cr6+, Cr3+ và Ni được thiết lập lần lượt trong thí nghiệm là
100, 20 và 20mg/l (TN1); 175, 35 và 35mg/l (TN2). Pha 03 hóa chất trên theo các
nồng độ mong muốn trong 2 lít dung dịch. Nước thải có pH = 4. Sau mỗi khoảng
thời gian là 30 phút, 1h, 2h, 4h, 6h, 8h, 10h, 12h, 24h, 48h và 72h lấy 30ml mẫu từ
các thí nghiệm để phân tích hàm lượng kim loại trong đó để đánh giá hiệu quả xử
lý.
Thí nghiệm 3: Đánh giá khả năng xử lý hỗn hợp Cr, Ni của đá vôi và mùn cưa theo thời gian thí nghiệm.
Thí nghiệm này được tiến hành nhằm xác định thời gian cần thiết để loại bỏ
hỗn hợp kim loại của đá vôi, mùn cưa trong điều kiện phòng thí nghiệm. Thí
nghiệm được bố trí 9 bình như nhau, mỗi bình gồm 1kg mùn cưa đã thủy phân sau
03 tháng trộn lẫn với 6kg đá vôi. Lượng Cr3+, Cr6+ và Ni được bổ sung vào thí
nghiệm theo các nồng độ khác nhau tương ứng dưới dạng CrCl3.6H2O, K2Cr2O7 và
NiSO4.7H2O.
Các dải nồng độ Cr6+, Cr3+ và Ni được thiết lập trong các thí nghiệm tương
ứng là 25, 5 và 5mg/l (TN1); 50, 10 và 10mg/l (TN2); 75, 15 và 15mg/l (TN3); 100,
20 và 20mg/l (TN4); 125, 25 và 25mg/l (TN5); 150, 30 và 30mg/l (TN6); 175, 35
33
và 35mg/l (TN7); 200, 40 và 40mg/l (TN8); 225, 45 và 45mg/l (TN9). Pha 03 hóa
chất trên
theo các nồng độ đã thiết lập trong 2 lít dung dịch. Nước thí nghiệm có pH =
4. Sau mỗi khoảng thời gian là 30 phút, 1h, 2h, 4h, 6h, 8h , 10h, 12h, 24h, 48h và
72h. Lấy 30ml mẫu từ các thí nghiệm để phân tích hàm lượng kim loại trong đó để
đánh giá hiệu quả xử lý.
Thí nghiệm 4: Xác định liều lượng mùn cưa trong hệ xử lý
Thí nghiệm này được tiến hành nhằm xác định khả năng xử lý cực đại và
hiệu quả xử lý khi tăng dần lượng mùn cưa trong điều kiện phòng thí nghiệm. Thí
nghiệm được bố trí 15 bình như nhau, mỗi kim loại nặng được thử nghiệm trong 05
bình có lượng mùn cưa là 0,25g, 0,5g, 0,75g, 1g, 1,25g mùn cưa đã thủy phân sau
03 tháng trộn lẫn với lượng đá vôi là 5g. Lượng Cr3+, Cr6+ và Ni được bổ sung vào
thí nghiệm theo các nồng độ khác nhau tương ứng dưới dạng CrCl3.6H2O, K2Cr2O7
và NiSO4.7H2O.
Các dải nồng độ Cr6+, Cr3+ và Ni được thiết lập trong thí nghiệm là 300, 50
và 50. Pha 03 hóa chất trên theo các nồng độ đó trong 0,5 lít dung dịch. Nước thải
thí nghiệm có pH = 4. Sau mỗi khoảng thời gian là 4h, 8h, 12h và 24h, lấy 10ml
mẫu từ các thí nghiệm để phân tích hàm lượng kim loại trong đó để đánh giá hiệu
quả xử lý.
2.3.5. Thiết kế hệ modul xử lý và xác định các thông số công nghệ của quy trình
Dựa trên những kết quả nghiên cứu trong phòng thí nghiệm, với mong muốn
đánh giá khả năng, hiệu quả của từng chỉ tiêu trong quá trình xử lý nước thải mạ
điện theo các chặng của hệ thống, chúng tôi đã thiết kế một hệ thống xử lý dựa trên
đặc tính của từng modul sử dụng phương pháp hóa học, sinh học kỵ khí và hệ thống
constructed wetland. Thiết bị nghiên cứu được đưa ra bao gồm 2 bể: bể 1 chứa đá
vôi mùn cưa với kích thước bể dài 100cm, rộng 25cm và cao 50cm được làm bằng
thép không gỉ được kết nối với 1 bể wetland được xây bằng bê tông với kích thước
bên trong của bể: chiều dài 180cm, chiều rộng 50cm và chiều cao 50cm, 1 bể
wetland chúng tôi trồng loại cây sậy mật độ 15cm × 15cm.
34
Bể 1 được chia làm 2 ngăn, ngăn 1 có chiều dài 25cm và ngăn 2 có chiều dài 75cm, chúng được phân cách bằng lưới thép không gỉ có kích cỡ lỗ Φ = 3mm. Trong đó, ngăn đầu của bể được đổ đầy 80kg đá vôi, ngăn còn lại của bể chứa hỗn hợp đá vôi và mùn cưa trộn với tỉ lệ: 124kg đá vôi/34kg mùn cưa, thể tích nước rỗng của bể là 25L. Mực nước được đưa vào bể 1 thấp hơn so với bề mặt của đá vôi khoảng 2cm. Bể wetland mực nước cao 40cm được mô tả trong hình 2.3 dưới đây:
Hình 2.3 Sơ đồ hệ thống kết hợp đá vôi và mùn cưa xử lý nước thải mạ điện
(1-thùng chứa nước đầu vào; 2-bể xử lý bằng đá vôi; 3-bể đá vôi mùn cưa; 4-bơm) Nước thải được bơm liên tục vào hệ thống. Hệ thống gồm 3 bể xử lí: một bể bằng đá vôi, một bể xử lí hỗn hợp mùn cưa đá vôi và một bể wetland
Lưu lượng đầu vào F= 50 L/ngày, (tương đương thời gian lưu trong bể đá vôi + đá vôi - mùn cưa - vi sinh 0,5 ngày; thời gian lưu trong bể wetland khoảng 2,65 ngày).
Việc nuôi cấy vi sinh vật trong bể đá vôi mùn cưa được tiến hành ở phần
trên: Mùn cưa sau khi được thủy phân trong thời gian 3 tháng dưới tác động của vi
sinh vật sẽ được sử dụng trong hệ thống xử lí nước thải.
Đầu vào Đầu vào
WL
Đá vôi ø10 – 28 mm
Đá vôi + Mùn cưa
2
1
2 3
4
35
35
36
CHƯƠNG 3: KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN
3.1. Hàm lượng KLN trong nước thải tại làng nghề cơ kim khí Phùng Xá, Thạch Thất, Hà Nội.
Tại một số làng nghề tái chế kim loại nặng thuộc Hà Nội hay Hà Tây như
làng nghề Duyên Thái, Phùng Xá, Thanh Thùy và Chàng Sơn, nước thải từ các
phân xưởng mạ đều có pH thấp và hàm lượng cao các kim loại nặng như Cr, Ni,
Zn,…. Dưới đây là kết quả thu mẫu nước thải tại cống thải của một số cơ sở mạ
điện tại làng nghề cơ kim khí Phùng Xá, Thạch Thất, Hà Nội:
Bảng 3.1 Kết quả khảo sát nước thải tại làng nghề Phùng Xá
Thông số
đánh giá
Địa điểm
khảo sát
Cr 3+
(mg/l)
Cr6+ (
mg/)
Fe
(mg/)
Ni
(mg/)
Zn
(mg/)
SO42-
(mg/l)
pH
COD
(mg/l)
Xưởng mạ 1, Phùng Xá, Thạch Thất
25 31 0,4 8 5 226 3.5 175
Xưởng mạ 2, Phùng Xá, Thạch Thất
36 57 0,3 16 12 345 3.8 227
Mương đầu nguồn tiếp nhận nước
thải của làng nghề Phùng
Xá
0,2
0,4
0,5
0,33
8
57
5,4
77
QCVN 40: 2011 1 0,1 5 0,5 3 0,5 5,5 ÷ 9 50
Kết quả phân tích chất lượng nước tại Phùng Xá cho thấy hàm lượng sắt và
chỉ tiêu pH trong nước luôn đạt QCCP; tuy nhiên, COD, SO42- luôn vượt QCCP,
trong đó COD = 175-227 mg/l tại điểm xả của hai xưởng mạ 1 và 2, vượt QCCP
3,5-4,5 lần. Ngay tại mương đầu nguồn tiếp nhận nước thải của làng nghề Phùng Xá
thì chỉ tiêu này cũng vượt 1,5 lần QCCP.
37
Đặc biệt là hàm lượng SO42- vượt rất nhiều lần QCCP (từ 452-690 lần tại
điểm xả của xưởng mạ và 114 lần tại mương tiếp nhận nước thải của làng). Ngoài
ra, trong nước thải có chứa nhiều ion kim loại như Zn2+, Cr3+, Cr6+, Ni2+,… sinh ra
từ hoạt động thu mua nguyên liệu và quá trình gia công, mạ kim loại. Kết quả phân
tích cho thấy các KLN trong nước thải tại làng nghề Phùng Xá có hàm lượng rất lớn
như Cr3+ m= 2,5-3,6 g/l; Cr6+ = 31-57mg/l; Ni = 8-16mg/l; Zn = 5-12mg/l, các chỉ
tiêu này đều vượt QCCP nhiều lần. Trong đó, các chỉ tiêu thuộc phạm vi nghiên cứu
như Cr3+ vượt QCVN 40:2011 (B) trên 25 lần, hàm lượng Cr6+ vượt trên 31 lần,
hàm lượng Ni vượt trên 16 lần. Đây là làng nghề tái chế kim loại có công nghệ
tương đối lạc hậu và không có hệ thống xử lý nước thải. Vì vậy, các dòng thải này
đổ ra các nguồn tiếp nhận sẽ gây ô nhiễm môi trường nước và đất.
Tái chế kim loại cần một số hoá chất như axit sunfuric, HCl, xút,…để làm
sạch bề mặt kim loại trước khi mạ. Lượng nước thải được hình thành từ công đoạn
rửa bề mặt, làm mát hay làm trơn các bề mặt kim loại cũng khá lớn, gây ô nhiễm
nguồn nước và ảnh hưởng đến sức khoẻ cộng đồng. Bảng 3.1 cho thấy nước thải ô
nhiễm tại các cơ sở mạ ở Phùng Xá, chủ yếu do các chất hữu cơ, axit và kim loại
nặng như Crôm và Niken.
Thành phần nước thải ở các cơ sở mạ có sự chênh lệch và không ổn định,
nó phụ thuộc vào điều kiện sản xuất và quy trình công nghệ cụ thể của từng cơ sở
sản xuất. Do sử dụng nhiều loại hoá chất trong quá trình gia công vật liệu nên độc
tính của nước thải mạ điện thể hiện qua hàm lượng cao của các ion kim loại nặng
như Cr+6, Ni+2 [19].
38
3.2. Kết quả nghiên cứu quá trình thủy phân của mùn cưa trong phòng thí nghiệm.
Hình 3.1 Hình ảnh mùn cưa trước và sau 2 tháng thủy phân
Hình 3.1 cho thấy mùn cưa sau thủy phân có các hạt nhỏ hơn, có cấu trúc
xốp, các hạt này có khả năng do các vi sinh vật hiếu khí và thiếu khí phân cắt cấu
trúc tạo ra dung dịch thủy phân, nhìn vào hình ta cũng thấy có các xơ gỗ to hơn, đây
là phần các vi sinh vật khó thủy phân hơn do cấu trúc thành phần lignin, cellulose,
hemicellulose ở các phần khác nhau của gỗ là khác nhau. Dựa trên màu sắc của
mùn cưa trong quá thủy phân, ta thấy có xảy ra sự phân cắt cellulose trong các thí
nghiệm. Mặt khác, thể tích của mùn cưa trong các bình thí nghiệm có xu hướng
tăng hơn so với ban đầu, chiều cao của mức mùn cưa trong bình tăng lên từ 2-3 cm.
Điều này là do các vi sinh vật có enzyme phân cắt hemicellulose, cellulose và lignin
đã làm cho cấu trúc của mùn cưa lỏng lẻo hơn và thể tích của mùn cưa ngâm trong
nước có xu hướng tăng lên.
3.2.1 Sự biến động của COD trong môi trường
Để đánh giá khả năng phân hủy của mùn cưa trong môi trường nước, chúng
tôi đã tiến hành phân tích hàm lượng COD trong các thí nghiệm. Mẫu được lấy sau
mỗi 1 tuần để phân tích.
39
Hình 3.2 Đồ thị thể hiện sự biến động COD trong quá trình phân hủy cellulose trong các thí nghiệm.
Hình 3.2 thể hiện sự biến động COD trong quá trình phân hủy cellulose trong
các thí nghiệm. Nhìn chung, giá trị COD dao động trong khoảng từ 523 đến 1170 và
không ổn định trong suốt quá trình thí nghiệm, COD có xu hướng giảm dần. Cấu
trúc của mùn cưa theo thời gian ngày càng lỏng lẻo vì cấu trúc liên kết của lignin,
cellulose, hemicellulose bị phân cắt nên khả năng phân hủy của vi sinh vật hiếu khí
tăng lên. Trong quá trình phân hủy đó thì hàm lượng cacbon mạch ngắn liên tục
được các vi sinh vật hiếu khí, các vi sinh vật kỵ khí và vi sinh vật khử sulphate sử
dụng một cách khá mạnh mẽ. Điều này thể hiện ở hàm lượng COD giảm hơn so với
ban đầu nhưng không hết hoàn toàn.
3.2.2 Hàm lượng rượu etylic, methanol, axetic axit theo thời gian thí nghiệm Kết quả tại bảng 3.2 chỉ ra rằng một số sản phẩm chính được tạo ra sau quá
trình thủy phân mùn cưa như Glucose, lactate, acetate, methanol, ethanol, các sản
phẩm này đóng vai trò làm nguồn cacbon cung cấp cho vi sinh hoạt động cũng như
là nguồn chất khử trong quá trình khử sunfat.
Trong quá trình nghiên cứu sử dụng các nguồn vi sinh vật khác nhau để thủy
phân cellulose như chế phẩm Sagi-bio, VSV thủy phân cellulose phân lập từ mùn
cưa, phân bò và VSV từ mùn cưa + phân bò, kết quả chỉ ra rằng: trong số các sản
COD
40
phẩm cacbon mạch ngắn thu được cho thấy hàm lượng của ethanol là chủ yếu, giá
trị cao nhất của nó đạt được khoảng 8,02 mg/ml khi sử dụng phân bò là nguồn cung
cấp vi sinh vật. Việc sử dụng phân bò làm nguồn cung cấp vi sinh vật cho quá trình
thủy phân cellulose cho hiệu quả cao hơn so với việc sử dụng chế phẩm VSV phân
lập được (giá trị tổng thu được là 10,09 mg/ml). Tổng một số hợp chất cacbon mạch
ngắn thu được cao nhất khi sử dụng đồng thời cả chế phẩm VSV phân lập được và
phân bò (giá trị cao nhất đạt khoảng 16,72 mg/ml).
Bảng 3.2 Kết quả phân tích sản phẩm của quá trình trao đổi chất
Mẫu
Hàm lượng trước thủy phân
(mg/ml)
Hàm lượng sau thủy phân
(mg/ml)
Đ/C TN1 TN2 TN3 TN4 Đ/C TN1 TN2 TN3 TN4
Glucose - - - 4,35 6,12 - - - - 4,8
Lactate - - 5,29 5,83 8,35 - - - 2,07 1,12
Acetate - - 1,49 1,02 7,73 - - - - 1,08
Methanol - - - 1,25 1,40 0,27, 1,29 1,42 - 3,03
Ethanol - - 4,77 5,29 0,00 1,58 7,67 6,27 8,02 6,69
Totals - - 11,55 17,74 23,6 1,85 8,96 7,69 10,09 16,72
3.3. Khả năng xử lý ô nhiễm Cr, Ni trong nước của mùn cưa ở quy mô phòng thí nghiệm. 3.3.1. Thí nghiệm so sánh hiệu quả xử lý của đá vôi, mùn cưa và hỗn hợp đá vôi mùn cưa
• Hiệu quả xử lý Cr6+
Kết quả thí nghiệm thể hiện trên hình 3.3 cho thấy, hiệu quả xử lý Cr6+ ở các
công thức khác nhau có sự khác biệt rõ rệt. Hiệu suất xử lý Cr6+ cao nhất tại thí
nghiệm sử dụng hỗn hợp đá và mùn cưa để xử lý, ở cả hai nồng độ Cr6+ ban đầu đưa
vào thí nghiệm là 100mg/l và 175mg/l, hiệu suất xử lý đều lên tới 100% vào thời
điểm sau 72h. Hiệu suất xử lý ở công thức chỉ sử dụng đá vôi là thấp nhất, hiệu suất
cao nhất là trên 20% ở hai nồng độ Cr6+ thí nghiệm.
41
0
10
20
30
40
50
60
70
80
90
100
0 0.5 1 2 4 6 8 10 12 24 48 72
Hiệ
u s
uất
xử
lý
(%
)
Thời gian thí nghiệm (h)
Đá
Mùn
Đá + mùn
0
10
20
30
40
50
60
70
80
90
100
0 0.5 1 2 4 6 8 10 12 24 48 72
Hiệ
u su
ất x
ử lý
(%
)
Thời gian thí nghiệm (h)
Đá
Mùn
Đá + mùn
Hình 3.3 Hiệu suất xử lý Cr6+ ở nồng độ 100 mg/l (CT1) và 175 mg/l (CT2) theo thời gian thí nghiệm.
Cụ thể hơn, trong công thức sử dụng hỗn hợp đá vôi và mùn cưa, hiệu suất
xử lý Cr6+ ban đầu rất nhanh, hiệu suất đạt tới 80% tại thời điểm 0,5h (CT1) và 2h
(CT2), sau đó hiệu suất có tăng nhưng chậm hơn ban đầu. Tại thời điểm 6h, hiệu
suất xử lý công thức bổ sung 100mg/l Cr6+ đạt 96,5% còn công thức bổ sung
175mg/l Cr6+ đạt 89,3%, tại thời điểm 24h, hiệu suất ở cả hai công thức đạt khoảng
99%. Hiệu suất đạt 100% tại CT1 là 48h và CT2 là 72h.
Ở công thức thí nghiệm chỉ sử dụng mùn cưa, hiệu suất xử lý cũng tăng theo
thời gian thí nghiệm tương tự như công thức hỗn hợp đá vôi, mùn cưa nhưng hiệu
quả kém hơn. Trong 0,5h đầu tiên, hiệu suất đã đạt tới gần 40% nhưng sau đó cũng
tăng chậm lại và đạt tương ứng ở CT1 và CT2 là 84,9% và 72,7% ở 8h. Khoảng
thời gian tiếp theo thì hiệu suất xử lý gần như không tăng nhiều ở CT2, đạt xấp xỉ
76%. Hiệu suất xử lý Cr6+ kém nhất là ở công thức thí nghiệm chỉ sử dụng đá vôi, ở
vị trí 0h hiệu suất xử lý là 2,9%, sau đó hiệu suất tăng chậm dần đều và đạt khoảng
18,8% (CT2) và 23% (CT1) trong giai đoạn từ 24h đến 72h.
Các kết quả thu được bên trên cho thấy, đặc biệt là tại mốc 6h đầu tiên, hiệu
quả xử lý ở thí nghiệm sử dụng hỗn hợp đá và mùn cưa đã đạt được 90%. Khoảng
thời gian tiếp theo thì hiệu suất tăng chậm hơn và ở thời gian từ 24h trở đi đến 72h
thì hiệu suất đạt được gần như tuyệt đối. Do vậy, khi ứng dụng vật liệu này để xử lý
CT1 CT2
42
trong thực tế, chúng ta cần cân nhắc hiệu quả xử lý cùng với thời gian xử lý để tiết
kiệm chi phí.
Hiệu quả xử lý Cr3+
Kết quả thí nghiệm thể hiện trên hình 3.4 cho thấy, hiệu quả xử lý Cr3+ ở các
công thức có sự khác nhau nhưng không đáng kể. Hiệu suất xử lý Cr3+ đạt mức cao
ở cả 03 thí nghiệm sử dụng đá, mùn cưa và hỗn hợp đá mùn cưa để xử lý, ở cả hai
nồng độ Cr3+ ban đầu đưa vào thí nghiệm là 20 và 35 mg/l, hiệu suất xử lý đều lên
tới 95-100% tại thời điểm 72h.
0
10
20
30
40
50
60
70
80
90
100
0 0.5 1 2 4 6 8 10 12 24 48 72
Hiệ
u su
ất x
ử lý
(%)
Thời gian(h))
Đá
Mùn
Đá + mùn
0
10
20
30
40
50
60
70
80
90
100
0 72 0,5 1 2 4 6 8 10 12 24 48
Hiệu
suấ
t xử
lý (%
)
Thời gian thí nghiệm (h)
Đá
Mùn
Đá + mùn
Hình 3.4 Hiệu suất xử lý Cr3+ ở nồng độ 20 mg/l (CT1) và 35 mg/l (CT2) theo thời
gian thí nghiệm
Cụ thể, trong công thức sử dụng hỗn hợp đá vôi và mùn cưa, hiệu suất xử lý
Cr3+ ban đầu tăng rất nhanh, hiệu suất CT1 đạt 80% và CT2 đạt 86% tại thời điểm
0,5h, sau đó hiệu suất có tăng nhưng chậm hơn ban đầu. Tại thời điểm 6h, hiệu suất
xử lý của công thức bổ sung 20mg/l Cr3+ đạt 95,7 % còn công thức bổ sung 35mg/l
Cr3+ đạt 95,3% và cùng đạt xấp xỉ 99% ở 10h và 100% ở 12h.
Ở công thức thí nghiệm chỉ sử dụng đá vôi, hiệu suất xử lý cũng tăng theo
thời gian thí nghiệm tương tự như công thức hỗn hợp đá vôi, mùn cưa nhưng hiệu
quả kém hơn. Trong 0,5h đầu tiên, hiệu suất đã đạt tới 40%, sau đó hiệu suất tiếp
tục tăng nhanh, đạt 80% tại 4h ở cả hai công thức. Hiệu suất đạt tương ứng ở CT1
và CT2 là 97,1 % và 96,6% ở 8h. Khoảng thời gian tiếp theo thì hiệu suất xử lý gần
CT2 CT1
43
như không tăng nhiều ở cả hai công thức. Hiệu suất xử lý Cr3+ kém nhất là ở công
thức thí nghiệm chỉ sử dụng mùn cưa, sau 8h hiệu suất xử lý Cr3+ đạt 89% ở CT1 và
đạt 87,6% ở CT2. Hiệu suất đạt khoảng 97% ở CT1 trong khoảng thời gian từ 12h
đến 48h, sau đó không có dấu hiệu tăng thêm. Ở CT2, hiệu suất đạt 95,6% ở thời
điểm 48h, sau đó có dấu hiệu suy giảm từ khoảng 48h đến 72h.
Các kết quả thu được bên trên cho thấy, trong khoảng thời gian từ 6h đến 8h,
hiệu suất xử lý ở cả 3 thí nghiệm sử dụng đá vôi, mùn cưa và hỗn hợp đá vôi mùn
cưa đã đạt xấp xỉ 90%. Khoảng thời gian tiếp theo thì hiệu suất tăng chậm hơn và ở
thời gian từ 24h trở đi đến 48h thì hiệu suất đạt được gần như tuyệt đối. Tuy nhiên,
với các thí nghiệm sử dụng đá vôi hoặc mùn cưa, từ khoảng thời gian 48h đến 72h
không có dấu hiệu tăng hiệu suất xử lý, thậm chí có dấu hiệu giảm đi.
• Hiệu quả xử lý Ni2+
Hình 3.5 Hiệu suất xử lý Ni2+ ở nồng độ 20mg/l (CT1) và 35mg/l (CT2) theo thời
gian thí nghiệm
Kết quả thí nghiệm thể hiện trên hình 3.5 cho thấy, hiệu quả xử lý Ni2+ ở các
công thức khác nhau có sự thay đổi rõ rệt.
Cụ thể, trong công thức sử dụng hỗn hợp đá vôi và mùn cưa, hiệu suất xử lý
Ni2+ ban đầu tăng rất nhanh, ngay khi tiếp xúc với hỗn hợp mùn cưa và đá vôi thì
hiệu suất xử lý Ni2+ đã đạt 81,5% ở CT1 và 64,6% ở CT2. Sau đó, đối với CT1 hiệu
suất xử lý có tăng nhưng chậm hơn và đạt 97,4% ở 2h. Đối với CT2 hiệu suất xử lý
44
tiếp tục tăng nhanh, đạt xấp xỉ 90,7% ở 0,5h, sau đó hiệu suất cũng tăng chậm dần
và tại thời điểm 2h đạt 95,6%. Tại thời điểm 8h, hiệu suất xử lý của công thức bổ
sung 35mg/l Ni2+ đạt 99,4 % còn công thức bổ sung 20mg/l Ni2+ đạt gần như tuyệt
đối là 99,9%. Hiệu suất xử lý Ni tại CT1 nhanh chóng đạt 100% ở thời điểm 10h và
tại CT2 ở thời điểm 24h.
Ở công thức chỉ sử dụng đá vôi, hiệu suất xử lý biến động khi thay đổi nồng
độ Ni2+. Trong công thức bổ sung 20mg/l Ni2+ hiệu suất xử lý gần như xấp xỉ với
hiệu suất xử lý bằng hỗn hợp mùn cưa đá vôi. Tuy nhiên, khi hàm lượng Ni2+ tăng
lên 35mg/l thì hiệu suất xử lý có suy giảm. Cụ thể, trong công thức bổ sung 35mg/l
Ni2+ tại thời điểm 0h hiệu suất đạt được khoảng 60,3%, tại 2h đạt 79,7%, thời điểm
8h đạt 90,6% và đạt hiệu suất tối đa ở thời điểm 72h là 94,3%. Hiệu suất xử lý kém
nhất ở thí nghiệm chỉ sử dụng mùn cưa để loại bỏ Ni, tại 0h hiệu suất đạt 49% đối
với CT1 và 46,6% đối với CT2. Hiệu suất tăng đều ở các giờ tiếp theo và đạt hiệu
suất tối đa tại thời điểm 72h là 97,5% với CT1 và 96,8% với CT2. Các kết quả thu
được bên trên cho thấy, đặc biệt là tại mốc 1h đầu tiên, hiệu quả xử lý ở thí nghiệm
sử dụng hỗn hợp đá và mùn cưa đã đạt hơn 90%. Khoảng thời gian tiếp theo thì
hiệu suất tăng chậm hơn và ở thời gian từ 10h đến 24h thì hiệu suất đạt được gần
như tuyệt đối.
Các kết quả trên tương tự như kết quả một số tác giả đã nghiên cứu về sử dụng các vật liệu mùn cưa, sơ dừa để xử lý kim loại nặng [Quang, 2009]. Các tác giả khác cũng thu được kết quả thời gian đầu hiệu suất xử lý thu được là rất nhanh nhưng để xử lý triệt để lượng kim loại nặng có trong dung dịch thì cần thời gian khá dài.
Một số tác giả trong và ngoài nước đã có các nghiên cứu minh chứng tại sao mùn cưa và đá vôi đều có hiệu quả xử lý Cr, Ni cao. Đá vôi vừa có khả năng xử lý kim loại nặng, mặt khác nó giúp làm tăng pH của môi trường axít, tạo điều kiện thuận lợi cho vi khuẩn khử sunfat hoạt động. Mùn cưa có thành phần chính là xenlulô, qua quá trình thủy phân xenlulô bằng vi sinh vật thành glucozơ, rồi tiếp tục chuyển hóa thành các hợp chất hữu cơ có mạch cacbon ngắn như rượu etylic, methanol, axit axetic...
45
Các vi sinh vật có thể sử dụng các hợp chất hữu cơ, cũng như hydro làm nguồn cacbon và năng lượng. Ở đây, các hợp chất giàu oxi như Nitrat, Nitrit và Sunfat đóng vai trò là chất nhận điện tử thông qua phương trình: SO4
2- + 2(CH2O) + 2H+→ H2S + 2CO2 + 2H2O SO4
2- + 4H2 + H+ → HS- + 4H2O Trong quá trình khử sulfat để tạo sulfur, tạo ra chất kiềm và về cơ bản các ion KLN sẽ tạo kết tủa sulfur của KLN và được loại bỏ khỏi dung dịch (Bhagat et al. 2004, Kaksonen and Puhakka 2007).
KLN2+ + S2- = KLN-S↓ KLN3+ + 3S2- + 3H2O = KLN(OH)3↓ + HS-
Nhiều nhà khoa học trên thế giới đã nghiên cứu và chứng minh được vai trò của vi khuẩn khử sunfat (SRB) trong xử lý nước thải nhiễm KLN. Ở Mỹ, năm 1988-2000, các tác giả đã ứng dụng thành công vi khuẩn này để xử lý nước thải nhiễm Cr6+. Khả năng loại bỏ 70mg Zn/l và 2mg Cd/l đã được các nhà khoa học Brazil minh chứng trong mô hình dòng chảy ngược kị khí (UASB) [27,34]. Hầu hết SRB có nhu cầu dinh dưỡng đơn giản và sinh trưởng tốt trong môi trường có nguồn cacbon/năng lượng ổn định (Postgate, 1984). Nguồn cacbon và điện tử thích hợp đối với SRB bao gồm các axit hữu cơ mạch ngắn như acetate, lactate, pyruvate và rượu (Hao và cs, 1996) Ở pH thấp, Cr6+ tồn tại ở dạng HCrO4
- , khi bề mặt của mùn cưa tích điện dương chúng sẽ bị hấp dẫn tích điện và bị khử xuống Cr3+ theo phương trình:
HCrO4- + 7H+ + 3e- = Cr3+ + 4H2O
Trong mùn cưa, ngoài thành phần chính là xenlulô vừa có khả năng hấp phụ và vừa có khả năng chuyển hóa KLN ra thì các thành phần khác như hemixenluloza, lignin, pentosan cũng có khả năng hấp phụ kim loại nặng rất tốt.
3.3.2. Đánh giá khả năng xử lý hỗn hợp Cr, Ni của đá vôi và mùn cưa theo thời gian thí nghiệm.
Bảng 3.3 Hiệu quả loại bỏ hỗn hợp Cr, Ni theo thời gian thí nghiệm
46
Thời gian
Mẫu Nồng độ (mg/l)
TN1 TN2 TN3 TN4 TN5 TN6 TN7 TN8 TN9
30 phút Cr6+ 4.54 12.21 13.40 19.20 22.40 27.80 40.30 47.50 58.60 Cr3+ 0.80 1.61 2.90 3.30 3.70 4.20 4.80 5.30 7.40 Ni2+ 0.40 0.80 1.20 1.40 1.90 2.50 2.90 5.80 7.50
1h Cr6+ 4.21 9.10 10.20 13.20 15.70 19.30 29.80 37.50 50.70 Cr3+ 0.41 1.35 1.70 2.50 3.10 3.70 4.20 4.60 5.80 Ni2+ 0.20 0.40 0.70 0.90 1.30 1.80 2.10 3.80 4.70
2h Cr6+ 3.51 8.80 10.90 12.10 15.30 17.80 34.70 34.90 45.80 Cr3+ 0.30 1.16 1.50 1.90 2.40 3.20 3.60 3.90 4.50 Ni2+ 0.00 0.20 0.30 0.50 0.70 1.20 1.70 2.70 3.60
4h Cr6+ 2.31 4.44 7.40 8.80 11.90 14.20 27.80 27.20 34.70 Cr3+ 0.10 0.70 0.90 1.30 1.90 2.40 2.90 3.20 3.60 Ni2+ 0.00 0.00 0.10 0.20 0.30 0.70 1.20 1.50 2.80
6h Cr6+ 1.65 3.50 4.30 4.90 6.30 9.50 19.60 23.20 30.40 Cr3+ 0.00 0.10 0.20 0.40 0.60 1.40 2.20 2.70 3.10 Ni2+ 0.00 0.00 0.00 0.00 0.10 0.40 0.70 0.90 1.80
8h Cr6+ 0.50 2.40 3.10 3.80 4.20 7.20 13.20 16.10 23.80 Cr3+ 0.00 0.00 0.00 0.10 0.30 0.30 0.50 1.20 1.90 Ni2+ 0.00 0.00 0.00 0.00 0.00 0.10 0.30 0.50 1.20
10h Cr6+ 0.25 1.60 2.30 2.80 3.10 5.40 7.50 10.70 19.50 Cr3+ 0.00 0.00 0.00 0.00 0.00 0.00 0.20 0.60 1.10 Ni2+ 0.00 0.00 0.00 0.00 0.00 0.00 0.10 0.30 0.70
12h Cr6+ 0.12 1.10 1.50 2.10 2.60 4.90 6.10 8.20 15.90 Cr3+ 0.00 0.00 0.00 0.00 0.00 0.00 0.00 0.30 0.50 Ni2+ 0.00 0.00 0.00 0.00 0.00 0.00 0.00 0.10 0.30
24h Cr6+ 0.10 0.30 0.40 0.70 0.80 1.20 4.10 5.80 7.70 Cr3+ 0.00 0.00 0.00 0.00 0.00 0.00 0.00 0.00 0.20 Ni2+ 0.00 0.00 0.00 0.00 0.00 0.00 0.00 0.00 0.10
48h Cr6+ 0.00 0.10 0.10 0.10 0.20 0.20 0.20 0.30 0.30 Cr3+ 0 0 0 0 0 0 0 0 0 Ni2+ 0 0 0 0 0 0 0 0 0
72h Cr6+ 0 0 0 0 0 0 0 0 0 Cr3+ 0 0 0 0 0 0 0 0 0 Ni2+ 0 0 0 0 0 0 0 0 0
47
Kết quả thu được ở bảng 3.3 cho thấy, hiệu quả loại bỏ Cr6+, Cr3+ và Ni của
đá vôi và mùn cưa khá cao. Đến 72h thì nồng độ kim loại ở trong các thí nghiệm là
không còn. Cụ thể:
- Đối với Cr6+: Nồng độ kim loại ở trong thí nghiệm tăng dần từ TN1 đến TN9,
hiệu quả xử lý tăng dần theo thời gian ở tất cả các thí nghiệm. Sau 30 phút, TN1 có
nồng độ Cr6+ thấp nhất (4,54mg/l), nồng độ tăng dần với các thí nghiệm sau, TN9
có nồng độ cao nhất (58,60mg/l). Đến thời điểm 48h nồng độ Cr6+ trong các thí
nghiệm còn lại không đáng kể, chỉ dao động trong khoảng 0,1 – 0,3mg/l và sau 72h
thì nồng độ đã hết hoàn toàn.
- Đối với Cr3+: Nồng độ Cr3+ trong các thí nghiệm cũng giảm dần theo thời gian
và giảm tương đối nhanh. Đến thời điểm 2h nồng độ Cr3+ ở TN1 đã không còn,
những thí nghiệm khác nồng độ đo được cũng khá thấp. Sau 24h nồng độ Cr3+ gần
như không còn và đến 48h thì nồng độ đo được trong các thí nghiệm bằng 0.
- Đối với Ni: Nồng độ ban đầu trong các thí nghiệm khá thấp nên hiệu quả xử lý
nhanh. Sau 8h đầu tiên nồng độ từ TN1 đến TN5 nồng độ đã hết, những thí nghiệm
khác cũng chỉ dao động 0,1 – 1,2mg/l. Như vậy, sau 24h thì nồng độ Ni hết hoàn
toàn ở các thí nghiệm trừ TN9 còn 0,1mg/l.
TN2 là thí nghiệm có nồng độ các kim loại ô nhiễm rất gần với nước thải tại một
số xưởng mạ. Dựa vào kết quả thu được ta thấy, sau thời gian 12h thì hàm lượng Cr
và Ni đều đạt tiêu chuẩn cho phép. Thậm chí, ở hàm lượng Cr3+ và Ni trong TN2 thì
sau 6h đã đạt được TCCP.
48
Hình 3.6 Hiệu suất xử lý Cr6+,Cr3+, Ni theo nồng độ và thời gian thí nghiệm từ 0.5 đến 8h
49
Hiệu suất xử lý ở 72h
0
10
20
30
40
50
60
70
80
90
100
TN1 TN2 TN3 TN4 TN5 TN6 TN7 TN8 TN9
Thí nghiệm
Hiệu
suất Cr+6
Cr+3
Ni+2
Hình 3.7 Hiệu suất xử lý Cr6+,Cr3+, Ni theo nồng độ và thời gian thí nghiệm từ 10 đến 72h
Kết quả thí nghiệm thể hiện trên hình 3.6 và 3.7 cho thấy hiệu quả xử lý của
từng kim loại ở từng thí nghiệm khác nhau có sự khác biệt.
Hiệu suất xử lý của Ni và Cr3+ nhanh hơn của Cr6+, tại 24h cả 2 kim loại trên
có đến 8 thí nghiệm đạt hiệu suất xử lý tuyệt đối, sau 48h thì hiệu suất của Ni và
50
Cr3+ đạt 100% ở cả 9 thí nghiệm, còn Cr6+ phải đến 72h mới đạt 100% ở tất cả thí
nghiệm.
Cụ thể hơn đối với từng kim loại trong từng thí nghiệm:
• Cr6+: Hiệu quả xử lý Cr6+ khi thay đổi nồng độ ban đầu đưa vào thí nghiệm là
khác nhau. Hiệu suất xử lý Cr6+ sau 30 phút đầu tiên ở 9 thí nghiệm đều rất
cao đạt từ 73 – 82%. Tuy nhiên, sau đó hiệu suất có tăng nhưng chậm dần,
phải sau 10h thì hiệu suất ở các thí nghiệm mới đạt trên 90% và đến 24h thì
hiệu suất đạt gần như tuyệt đối.
• Cr3+: Kết quả thí nghiệm thể hiện trên hình 3.6 và 3.7 cho thấy, hiệu suất xử
lý Cr3+ tăng dần theo thời gian và có sự khác nhau giữa các thí nghiệm. Hiệu
suất xử lý ở TN1 qua 1h là cao nhất đạt 91,8%, trong khi đó hiệu suất xử lý
từ TN2 – TN9 dao động trong khoảng 86,5 – 88,67%. Đến 4h thì cả 9 thí
nghiệm đều đạt hiệu suất xử lý trên 90% và đạt 100% sau 48h.
• Ni: hiệu suất xử lý Ni ở các thí nghiệm là rất cao, chỉ sau 30 phút đầu tiên
của thí nghiệm mà hiệu suất xử lý đã đạt trên 90% ở TN1 – TN7. Theo thời
gian hiệu suất xử lý Ni có tăng lên nhưng chậm hơn so với ban đầu. Tại mốc
2h thì TN1 đã đạt 100% hiệu suất xử lý, trong khi đó các thí nghiệm còn lại
hiệu suất xử lý cũng khá cao từ 92 – 98%. Nhưng để đạt được hiệu suất xử lý
tuyệt đối ở tất cả các thí nghiệm thì phải đợi đến 48h.
Các kết quả thu được bên trên cho thấy, đặc biệt là tại mốc 10h đầu tiên, hiệu
quả xử lý ở các thí nghiệm đã đạt được 90%. Khoảng thời gian tiếp theo thì hiệu
suất tăng chậm hơn và ở thời gian từ 48h trở đi thì hiệu suất đạt gần như tuyệt đối.
Do vậy, khi ứng dụng vật liệu này để xử lý trong thực tế, chúng ta cần cân nhắc
hiệu quả xử lý cùng với thời gian xử lý triệt để và tiết kiệm chi phí.
3.3.3. Xác định liều lượng mùn cưa trong hệ xử lý Kết quả thể hiện ở bảng 3.4 cho thấy, lượng mùn cưa càng nhiều thì khả năng
xử lý các kim loại trên càng nhanh và càng tốt. Sau 24h thí nghiệm, 1g mùn cưa có
thể loại bỏ được khoảng 140g Cr6+, 47,2g Cr3+ và 49g Ni2+ ra khỏi môi trường nước
51
Bảng 3.4 Khả năng loại bỏ Cr, Ni của hỗn hợp đá vôi mùn cưa theo các liều lượng mùn cưa.
Lượng
mùn cưa (g)
Hàm lượng Cr6+ (mg/l) Hàm lượng Cr3+(mg/l) Hàm lượng Ni2+ (mg/l)
4h 8h 12h 24h 4h 8h 12h 24h 4h 8h 12h 24h
0,25 169.4 148.5 142.3 139.4 40.7 36.6 18.3 17.5 6.7 5.9 5.6 5.4
0,5 145.7 122.4 97.5 74.2 31.5 22.9 14.1 11.7 6.1 5.2 3.8 3.5
0,75 122.7 92.1 66.1 23.4 27.3 20.1 11.4 6.6 5.4 4.1 2.3 1.8
1 104.8 88.6 36.8 10.9 23.1 18.2 9.6 2.8 4.9 2.3 1 0.9
1,25 72.1 46.8 24.3 3.1 20.5 10.6 4.3 1.2 3.1 1.3 0.9 0.5
0102030405060708090
100
4h 8h 12h 24h
Hiệ
u su
ất x
ử lý
(%
)
Thời gian
Hiệu suất xử lý Cr6+ theo lượng mùn cưa thí nghiệm
0,25 g0,5 g0,75 g1 g1,25 g
0102030405060708090
100
4h 8h 12h 24h
Hiệ
u su
ất x
ử lý
(%)
Thời gian
Hiệu suất xử lý Cr3+ theo lượng mùn cưa thí nghiệm
0,25 g0,5 g0,75 g1 g1,25 g
80828486889092949698
100
4h 8h 12h 24h
Hiệu
suấ
t xử
lý (%
)
Thời gian
Hiệu suất xử lý Ni2+ theo lượng mùn cưa thí nghiệm
0,25 g0,5 g0,75 g1 g1,25 g
Hình 3.8 Hiệu suất xử lý Cr6+ , Cr3+, Ni2+ theo liều lượng mùn cưa
52
Kết quả thí nghiệm trên hình 3.8 cho thấy hiệu suất xử lý Cr6+, Cr3+, Ni2+
bằng mùn cưa tăng nhanh rõ rệt, tốc độ phản ứng tỉ lệ thuận với liều lượng mùn cưa
cho vào. Cụ thể, trong thí nghiệm xử lý Cr6+, hiệu suất đạt cao nhất với mẫu thí
nghiệm cho 1,25g mùn cưa. Trong 4h đầu tiên, hiệu suất tăng nhanh chóng và đạt
76%, sau đó tăng đều nhưng chậm hơn ở các giờ tiếp theo. Hiệu suất đạt cực đại là
98,9% tại thời điểm 24h. Tương tự như vậy với các thí nghiệm có liều lượng mùn
cưa là 1g, 0,75g, 0,5g, 0,25g, hiệu suất xử lý Cr6+ cũng tăng nhanh trong 4h đầu và
tăng chậm hơn ở các giờ tiếp theo. Thí nghiệm với 0,25g mùn cưa cho hiệu suất xử
lý thấp nhất, đạt trên 40% trong 4h đầu tiên, sau đó hiệu suất tăng không đáng kể, ở
24h chỉ đạt xấp xỉ trên 50%.
Trong thí nghiệm xử lý Cr3+, tại thời điểm 4h hiệu suất tăng nhanh chóng lên
59% sau đó tăng chậm hơn và đạt 97,6% sau 24h. Hiệu suất xử lý thấp nhất là thí
nghiệm cho 0,25g mùn cưa, trong 4h đầu tiên hiệu suất chỉ đạt xấp xỉ 20%. Sau đó
tăng chậm, đến 8h chỉ tăng lên 26,8%, nhưng trong khoảng thời gian từ 8h đến12h
hiệu suất xử lý có dấu hiệu tăng nhanh, đạt 63,4% tại thời điểm 12h, sau đó thì gần
như tăng không đáng kể và đạt hiệu suất tối đa là 65% tại thời điểm 24h.
Trong thí nghiệm xử lý Ni2+, hiệu suất xử lý của mẫu chứa 1,25g mùn cưa là
93,8% tại thời điểm 4h. Sau đó tăng chậm dần và đạt 98,2% tại thời điểm 12h và xử
lý gần như tuyệt đối ở tại thời điểm 24h với hiệu suất đạt được là 99%. Tương tự
với các thí nghiệm cho 1h, 0,75g, 0,5g, 0,25g, hiệu suất cũng tăng lên nhanh chóng
trong 4h đầu tiên, sau đó thì tăng chậm hơn. Cho hiệu suất thấp nhất là thí nghiệm
với 0,25g mùn cưa, tuy nhiên hiệu suất đạt được cũng khá cao, trong 4h đầu tiên là
86,6% và đạt mức tối đa ở 12h là 89,2%.
Các kết quả thu được bên trên cho thấy, khả năng xử lý Cr6+, Cr3+, Ni2+ bằng
mùn cưa tỉ lệ thuận với liều lượng mùn cưa cho vào. Cụ thể, với thí nghiệm có liều
lượng mùn cưa cho vào là 1,25g thì hiệu suất xử lý cả 03 chất trên là cao nhất và thí
nghiệm cho 0,25g mùn cưa cho hiệu suất xử lý thấp nhất. Trong đó, hiệu quả xử lý
Ni2+ bằng mùn cưa đặc biệt rất tốt. Do vậy, khi ứng dụng mùn cưa để xử lý KLN
53
(Cr6+, Cr3+, Ni2+…) trong thực tế, chúng ta cần tính toán liều lượng mùn cưa thích
hợp để đạt hiệu quả cao mà vẫn tiết kiệm chi phí.
3.4. Quy trình công nghệ xử lý nước thải chứa Cr, Ni bằng mùn cưa phối hợp với thực vật thủy sinh ở qui mô pilot.
3.4.1. Nhu cầu oxi hóa học (COD – Chemical Oxygen Demand) Kết quả ở hình 3.9 chỉ ra hàm lượng nhu cầu oxy hóa học COD ở đầu vào,
các chặng 50cm, 100cm và đầu ra của hệ thống của quá trình nghiên cứu xử lý nước
thải. Từ kết quả COD cho thấy hàm lượng chất hữu cơ có trong nước thải tại đầu
vào khoảng 200 đến 250mg/L, nhưng trong hệ thống bể đá vôi mùn cưa, mặc dù
thời gian lưu chỉ có khoảng 0,5 ngày, hàm lượng COD tăng lên đáng kể tại chặng
50cm (giá trị đạt khoảng 800 đến 900mg/L), ở chặng 100cm (đầu ra của bể đá vôi
mùn cưa vi sinh và cũng là đầu vào của bể wetland) hàm lượng COD giảm xuống
còn khoảng 340 đến 400mg/L. Tuy nhiên sau khi đi qua bể wetland, (thời gian lưu
khoảng 2,65ngày), hàm lượng COD chỉ còn khoảng gần 50mg/L.
Hình 3.9 Hàm lượng COD biến động theo thời gian tại các chặng của bể xử lý
Trong hệ thống xử lý bằng đá vôi mùn cưa và vi sinh, hợp chất hữu cơ được
hình thành chủ yếu là do cellulose có trong mùn cưa bị thủy phân: đầu tiên cellulose
thủy phân thành glucozơ, sau đó tiếp tục lên men tạo thành rượu etylic, metanol,
54
axit axetic, axit lactic... theo các phương trình phản ứng sau (Reddy and Graetz
1988, Vymazal, Brix et al. 1998, Mitsch and Gosselink 2000):
(C6H10O5)n + nH2O → n C6H12O6
2C6H12O6 → 2C2H5OH + 2CO2
C2H5OH + O2 → CH3COOH + H2O
C6H12O6 3CH3COOH + H2
C6H12O6 2CH3CHOHCOOH
Mặt khác cacbon vô cơ ở dạng CO32-, HCO3
- với sự có mặt của vi sinh vật
chúng chuyển hóa thành các hợp chất hữu cơ mạch ngắn tan trong nước như axetat
theo phương trình phản ứng sau (Killham 1994):
CO32- + 2H2O → CH3OO- + OH-
Lượng cacbon này đóng vai trò rất quan trọng trong quá trình khử bằng vi
sinh vật. Một mặt nó đóng vai trò làm nguồn chất khử cho quá trình khử nitrat thành
nitơ, khử sunfat thành sunfur… mặt khác, nó đóng vai trò làm nguồn cacbon cho vi
sinh vật phát triển (Paul and Clark 1996, Nguyen, Dang et al. 2014).
CH3COOH + H2SO4 2CO2 + 2H2O + H2S
5 (CH2O) + 4NO3- + 4H+ 5CO2 + 7H2O + 2N2
Ở đầu ra của hệ thống đá vôi mùn cưa (chặng 100cm) cũng là đầu vào của hệ
thống wetland, hàm lượng COD giảm xuống còn khoảng 340 đến 400mg/L, điều
này có thể do một phần lượng cabon còn dư được sử dụng cho vi sinh vật phát triển,
một phần chuyển hóa thành CH4 và khi tiếp xúc với oxy không khí nó chuyển hóa
thành CO2.
(CH2O)n + O2 CO2 + H2O
CH3COOH + 4H2 2CH4 + 2H2O
55
Trong hệ thống wetland, với việc cung cấp oxy thông qua bộ rễ cây, nó là
nguồn chất oxy hóa rất hiệu quả cho việc loại việc loại bỏ các hợp chất hữu cơ
(Armstrong, Armstrong et al. 1990, Brix, Sorrell et al. 1996, Nguyen 2011), bởi vậy
sau khi đi qua hệ thống CW, COD được loại bỏ đáng kể, hàm lượng đầu ra của nó
chỉ còn khoảng 50mg/L.
Kết quả chỉ ra rằng với việc kết hợp hệ thống đá vôi mùn cưa, vi sinh vật và
hệ thống CW, lượng COD được tạo ra trong hệ thống đá vôi mùn cưa đủ cung cấp
cho các hoạt động khử sulfat, lượng COD còn dư trong hệ thống này được loại bỏ
rất hiệu quả ở hệ thống CW đạt được kết quả xử lý nước thải như mong đợi, đảm
bảo chỉ tiêu xả thải ra môi trường với thời gian lưu tương đối ngắn.
3.4.2. Hiệu quả loại bỏ SO42-
Kết quả nghiên cứu hiệu quả của hệ thống kết hợp đến việc loại bỏ sunfat
trong nước thải mạ điện được chỉ ra trong hình 3.10.
Hình 3.10 Hàm lượng sunfat biến động theo thời gian của hệ thống xử lý
Kết quả thể hiện trên hình 3.10 chỉ ra rằng có sự ảnh hưởng rõ rệt của cả 2 hệ
thống đặc biệt là ở hệ thống đá vôi mùn cưa và vi sinh vật đến việc loại bỏ ion sulfat
có trong nước thải.
56
Trong quá trình nghiên cứu, hàm lượng ion SO42- trong nước thải được loại
bỏ tương đối hiệu quả, nồng độ của chúng giảm đáng kể, đặc biệt tại hệ thống đá vôi
mùn cưa.
Tại bể đá vôi mùn cưa và vi sinh vật, nồng độ đầu vào dao động trong
khoảng 300 - 380mg/L, sau khi đi qua chặng 50cm (25cm chứa hoàn toàn là đá vôi
còn lại là đá vôi và mùn cưa đã thủy phân) hàm lượng của SO42- giảm đi đáng kể,
nồng độ của chúng chỉ còn lại trung bình khoảng 135mg/L và tương đối ổn định
trong suốt thời gian nghiên cứu. Ở chặng 50cm này khả năng loại bỏ của chúng đạt
khoảng gần 200mg/L. Ở chặng tiếp theo 100cm (ở đầu ra của bể đá vôi, mùn cưa
cũng là đầu vào của hệ thống wetland) nồng độ của SO42- chỉ còn lại trung bình
khoảng 32 - 41mg/L.
Sau khi nước thải đi qua hệ thống đá vôi, mùn cưa nước thải đầu ra của hệ
thống này được dẫn qua hệ thống wetland và lượng sulfat tiếp tục được loại bỏ. Tuy
nhiên, hiệu quả loại bỏ chậm hơn nhiều so với trong hệ thống đá vôi mùn cưa vi
sinh mặc dù thời gian lưu dài hơn là 2,6 ngày. Hàm lượng sulfat đầu vào của hệ
thống này khoảng 32mg/L, đầu ra chỉ còn khoảng 0,5mg/L.
Trong hệ thống xử lý, nước thải khi đi qua từng chặng, đặc biệt ở chặng chứa
đá vôi, SO42- được loại bỏ thông qua các quá trình tạo kết tủa với Ca2+ thành CaSO4
và cộng kết với các ion kim loại, ví dụ với ion sắt tạo thành sắt hydroxo sunfat
(Brady, Bigham et al. 1986) hay Schwertmannit, Jarosit, Basaluminit (Bigham,
Schwertmann et al. 1990, Bigham, Schwertmann et al. 1996, Rothenhöfer, Sabin et
al. 2000).
Trong khi đó ở chặng chứa đá vôi mùn cưa và vi sinh, do điều kiện thuận lợi
cho việc phát triển vi sinh, như giá trị pH, nguồn cacbon, nhiệt độ, vi khuẩn khử
sunfat... nên việc loại bỏ SO42- diễn ra thông qua cả quá trình hóa học, vật lý và sinh
học. Tuy nhiên, hiệu quả loại bỏ sulfat trong chặng này chủ yếu thông qua quá trình
sinh học (Nguyen 2011). Quá trình loại bỏ sunfat thông qua các quá trình sinh học
diễn ra như sau:
57
(CH2O)n + SO42- CO2 + S2- + H2O
H2 + SO42- S2- + H2O
Sau khi được loại bỏ đáng kể ở hệ thống đá vôi mùn cưa và vi sinh, ở chặng
tiếp theo, nước thải được dẫn qua hệ thống constructed wetland, trong hệ thống này
hiệu quả loại bỏ sulfat rất đáng kể. Quá trình loại bỏ sulfat trong hệ thống này có thể
diễn ra theo các quá trình tiếp nhận của cây, quá trình khử sulfat bằng vi sinh dị
dưỡng và tự dưỡng ở xung quanh bộ rễ (Middelburg 2000, Steudel 2000), quá trình
kết tủa, quá trình cộng kết... (Megonikal, Hines et al. 2004, Nguyen 2011).
Như vậy có thể thấy rằng, hiệu quả loại bỏ sulfat rất cao của hệ thống thông
qua quá trình sinh học, nó có tác động tích cực đến hiệu quả loại bỏ của các ion kim
loại nặng.
3.4.3. Hiệu quả loại bỏ Cr6+
Hiệu quả loại bỏ Cr6+ trong hệ thống xử lý được chỉ ra trong hình 3.11. Kết
quả chỉ ra rằng, với việc sử dụng các hệ thống kết hợp để xử lý nước thải mạ điện
đạt được hiệu quả rất lớn. Trong khi ở đầu vào hàm lượng của Cr6+ dao động trong
khoảng 50 - 60mg/L nhưng ở đầu ra hàm lượng của Cr6+ coi như không đáng kể, nó
dao động từ 0 - 0,2mg/L.
Ở chặng 50cm, theo thời gian hiệu quả xử lý giảm dần. Trong thời gian 36
ngày đầu vận hành, hàm lượng trung bình của nó còn từ 1,1 - 1,5mg/L, kết quả cho
thấy, ở giai đoạn này hiệu quả xử lý Cr6+ trong chặng 50cm rất tốt, nó có thể loại bỏ
đáng kể lượng Cr6+. Tuy nhiên, hiệu quả loại bỏ Cr6+ ở chặng này lại giảm đi theo
thời gian. Nguyên nhân có thể là ở giai đoạn đầu của quá trình vận hành, do CaCO3
được hòa tan bởi H+ tạo thành Ca2+ và CO32-.
CaCO3 + H+ Ca2+ + CO32-
Khi nước thải chứa Cr6+ đi qua chặng này, ion Ca2+ được tạo thành tiếp tục
phản ứng với một phần ion CrO42- để tạo thành kết tủa CaCrO4 và được loại bỏ theo
phương trình phản ứng sau:
Ca2+ + CrO42- CaCrO4
58
Mặt khác ở chặng này, các ion kim loại như Fe3+, Mn bị thủy phân và kết tủa ở dạng FeOOH hay Fe(OH)3 hoặc các dạng kết tủa khác, các kết tủa này đóng vai trò làm vật liệu hấp phụ ion Cr6+ rất hiệu quả (Masscheleyn, Pardue et al. 1992, DeLaune, Patrick et al. 1998). Ngoài ra ở phần cuối của chặng này một phần lượng hợp chất hữu cơ hòa tan được hình thành do quá trình thủy phân cellulose có trong mùn cưa bằng vi sinh, sản phẩm này tham gia phản ứng rất dễ dàng để tạo thành Cr3+, đồng thời các dạng khử khác như Fe2+, S2- được hình thành cũng tham gia vào quá trình loại bỏ Cr6+ thông qua phản ứng tạo Cr3+ (DeLaune, Patrick et al. 1998).
CrO42- + (CH2O) Cr3+ + CO2 + H2O
CrO42- + H2S Cr3+ + SO4
2- + H2O
CrO42- + Fe2+ + H+ Cr3+ + Fe3+ + H2O
Trong thời gian vận hành từ 40 ngày đến 94 ngày, hàm lượng của nó giảm xuống còn từ 1,4mg/L tăng lên đến 11,6mg/L. Kết quả cho thấy, theo thời gian khả năng loại bỏ Cr6+ giảm dần, nguyên nhân chủ yếu có thể là với sự có mặt của ion Cr6+, nó ảnh hưởng đến quá trình phát triển của vi sinh vật nói chung và vi sinh vật khử sulfat nói riêng có trong hệ thống, do lượng S2- giảm dẫn đến quá trình khử Cr6+ Cr3+ giảm.
Hình 3.11 Hàm lượng Cr6+ biến động theo thời gian tại các chặng của bể xử lý
Ở chặng 100cm, hàm lượng của Cr6+ chỉ còn lại trong khoảng từ 0,2 -
1,9mg/L. Ở chặng này, hàm lượng COD thấp hơn so với ở chặng 50cm, giá trị của
59
nó chỉ khoảng 350mg/L, đồng thời hàm lượng sulfat ở chặng này cũng tương đối
thấp, giá trị trung bình khoảng 32mg/L, điều đó cho thấy hoạt động của vi sinh khử
sulfat thành sulfur ở chặng này khá tốt. Với sự gia tăng hàm lượng S2- và với hàm
lượng COD tương đối cao, chúng đóng vai trò làm nguồn chất khử thúc đẩy quá
trình loại bỏ Cr6+. Tuy nhiên hiệu quả loại bỏ của Cr6+ ở chặng này cũng giảm dần
theo thời gian. Nguyên nhân có thể do tạo ra nhiều kết tủa ở dạng keo, nó ngăn cản
va chạm giữa ion Cr6+ và các ion sulfur và các chất hữu cơ hòa tan, bởi vậy khi hàm
lượng của ion Cr6+ giảm đến mức nào đó thì tốc độ phản ứng giảm, bởi vậy Cr6+ vẫn
chưa bị loại bỏ hoàn toàn.
Ở hệ thống wetland, hàm lượng đầu vào của Cr6+ rất thấp, tuy nhiên chúng
tiếp tục được loại bỏ bởi vậy hàm lượng ở đầu ra của hệ thống này tiếp tục giảm.
Hàm lượng của chúng còn lại trong khoảng từ 0 - 0,2mg/L. Quá trình loại bỏ trong
hệ thống này có thể chủ yếu diễn ra quá trình hóa học như phản ứng oxy hóa khử,
phản ứng kết tủa và cộng kết (Bigham, Schwertmann et al. 1990, Bigham,
Schwertmann et al. 1996, Rothenhöfer, Sabin et al. 2000).
Tóm lại có thể sử dụng đá vôi mùn cưa vi sinh kết hợp với hệ thống
constructed wetland để loại bỏ Cr6+ ra khỏi hệ thống đạt hiệu quả rất cao với thời
gian lưu tương đối ngắn.
3.4.4. Hiệu quả xử lý Cr3+ Hiệu quả xử lý Cr3+ trong hệ thống xử lý được chỉ ra trong hình 3.12. Kết
quả chỉ ra rằng, với việc sử dụng đá vôi cũng như đá vôi và mùn cưa để xử lý nước
thải chứa Cr3+ đạt được hiệu quả rất lớn. Trong thời gian vận hành, hàm lượng đầu
vào của Cr3+ có khác nhau nhưng ở đầu ra lượng Cr3+ coi như không đáng kể. Ở
chặng 50cm hàm lượng đầu vào của Cr3+ khoảng 29-39mg/L. Trong khi đó, sau khi
đi qua chặng đầu tiên, hàm lượng của Cr3+ chỉ còn lại trong khoảng 0,1-1,9mg/L.
60
Hình 3.12 Hàm lượng của Cr3+ biến động theo thời gian tại các chặng của bể xử lý
Như vậy, nồng độ của Cr3+ ở chặng 50cm giảm vào khoảng từ 28 - 35mg/L.
Hiệu quả loại bỏ của Cr3+ ở chặng này đạt từ 95 - 99%. Ở chặng này, quá trình loại
bỏ của Cr3+ chủ yếu là do hình thành các kết tủa hydroxit để hình thành các muối
khó tan như HCr3(SO4)2(OH)6, KCr3(SO4)2(OH)6, Cr8O8(SO4)(OH)6… kết tủa
được tạo ra tiếp tục đóng vai trò làm chất hấp phụ, nó tiếp tục hấp phụ các ion kim
loại khác (Bigham, Schwertmann et al. 1990, Bigham, Schwertmann et al. 1996,
Rothenhöfer, Sabin et al. 2000):
Cr3+ + CO32- + H2O Cr(OH)3 + CO2
Cr3+ + S2- + H2O Cr(OH)3 + H2S
Trong khi đó, ở chặng 100cm hàm lượng đầu vào của Cr3+ cũng như tải lượng
đầu vào của nó tương đối thấp, ngoài ra ở chặng này hoạt động của vi sinh vật khử
sulfat rất tốt, điều này tác động đến việc hình thành sulfur qua đó làm tăng cường
khả năng loại bỏ Cr3+ trong hệ thống thông qua quá trình kết tủa (Bigham,
Schwertmann et al. 1990, Bigham, Schwertmann et al. 1996, Rothenhöfer, Sabin et
al. 2000). Ngoài ra với sự có mặt của mùn cưa, nó có diện tích bề mặt tương đối
lớn, nó đóng vai trò làm vật liệu hấp phụ ion kim loại nặng nói chung và ion Cr3+
nói riêng rất hiệu quả (Krowiak 2013; Gupta et al. 2009), qua đó làm tăng hiệu quả
loại bỏ Cr3+ đặc biệt khi hàm lượng đầu vào của chúng nhỏ. Kết quả cho thấy, ở
61
chặng này hàm lượng của Cr3+ chỉ còn lại từ 0,01 - 1,1mg/L, tỉ lệ loại bỏ cao nhất
của nó đạt 96%.
Ở hệ thống constructed wetland, sau khi đi qua hệ thống đá vôi mùn cưa và vi
sinh, ion Cr3+ được loại bỏ gần hết, bởi vậy hàm lượng đầu vào của hệ thống này
tương đối thấp, tuy nhiên trong hệ thống này ion Cr3+ tiếp tục được loại bỏ thông
qua các quá trình tiếp nhận của thực vật, kết tủa và hấp phụ. Kết quả cho thấy, ở đầu
ra của hệ thống hàm lượng của ion Cr3+ chỉ còn lại khoảng 0,004 - 0,6mg/L.
Tóm lại có thể sử dụng đá vôi mùn cưa vi sinh để loại bỏ Cr3+ ra khỏi hệ
thống, hiệu quả rất cao với thời gian lưu 0,5 ngày. Khi kết hợp với hệ thống
constructed wetland thì hiệu quả của nó còn cao hơn nữa, nước thải sau khi xử lý có
giá trị các nồng độ ô nhiễm thấp hơn nhiều so với tiêu chuẩn xả thải.
3.4.5. Hiệu quả loại bỏ Ni2+ Hiệu quả loại bỏ Ni trong hệ thống xử lý được chỉ ra trong hình 3.13. Kết
quả chỉ ra rằng, trong khi hàm lượng đầu vào của Ni2+ có khác nhau, chúng dao
động từ 10 - 13 mg/L nhưng ở đầu ra hàm lượng Ni2+ coi như không đáng kể. Hiệu
quả loại bỏ của hệ thống đạt khoảng 98 - 100%.
Ở chặng 50cm của hệ thống, kết quả chỉ ra rằng lượng Ni2+ đã được loại bỏ
khoảng từ 84 - 97%, hàm lượng của ion Ni2+ sau khi đi qua chặng này còn khoảng
0,32 - 1,90mg/L. Nguyên nhân là ở chặng này, đầu tiên ion Ni2+ đã kết hợp với các
ion CO32- và HCO3
- tạo kết tủa cacbonat, một phần ion Ni2+ tham gia vào quá trình
cộng kết và kết tủa cùng Fe, Cr3+. Lượng Ni2+ dư đi qua phần mùn cưa và vi sinh sẽ
tiếp tục kết tủa NiS khi va chạm với ion S2-.
Ni2+ + CO32- NiCO3
Ni2+ + HCO3- NiCO3 + H+
Ni2+ + S2- NiS
Theo các chặng hàm lượng của Ni2+ giảm liên tục, mặc dù hàm lượng của
chúng là không đáng kể. Ở chặng 100cm do hình thành sulfur thông qua hoạt động
của vi sinh nên hàm lượng của Ni2+ được loại bỏ chủ yếu thông qua quá trình kết
62
tủa sulfur, ngoài ra mùn cưa cũng đóng vai trò làm vật liệu hấp phụ ion Ni2+ trong
hệ thống (Singh 2011), bởi vậy hàm lượng Ni2+ ở chặng này còn lại không đáng kể.
So với hàm lượng của ion Cr3+, hàm lượng của ion Ni2+ thấp hơn nhiều, nguyên
nhân có thể do tích số tan của Ni2+ thấp hơn nhiều so với tích số tan của Cr(OH)3. Ở
chặng này, nồng độ của Ni2+ chỉ còn khoảng từ 0,1 đến 1,0mg/L, giá trị này thấp
hơn so với chỉ tiêu xả thải. Tuy nhiên, kết quả cũng chỉ ra rằng trong hệ thống này
hiệu quả loại bỏ Ni giảm dần theo thời gian. Nguyên nhân có thể ở hệ thống này do
xuất hiện các kết tủa keo nó ngăn cản sự va chạm giữa ion Ni2+ với ion S2- và bề
mặt của mùn cưa, bởi vậy hiệu quả loại bỏ của chúng giảm.
Hình 3.13 Hàm lượng của Ni2+ biến động theo thời gian tại các chặng của bể xử lý
Tại hệ thống CW nồng độ của ion Ni2+ đi vào rất nhỏ, tại đây ion Ni2+ tiếp tục
được loại bỏ, trái ngược với việc loại bỏ ion Cr6+, ion Cr3+ và ion sulfat, theo thời
gian vận hành, hàm lượng ion Ni2+ ở đầu ra gần như không còn, hàm lượng của
chúng nằm trong khoảng 0,1 - 0mg/L. Việc loại bỏ Ni2+ ở hệ thống này có thể do
quá trình tiếp nhận của thực vật, quá trình hấp phụ ở vùng rễ và quá trình kết tủa
sulfur và kết tủa cộng kết.
Kết quả chỉ ra rằng hàm lượng của ion Ni2+ ở đầu ra thấp hơn nhiều so với chỉ
tiêu của môi trường. Điều này cho thấy hệ thống xử lý kết hợp trên đem lại hiệu quả
rất cao.
63
KẾT LUẬN
Quá trình nghiên cứu sử dụng đá vôi mùn cưa kết hợp với hệ thống CW để xử lý nước thải có hàm lượng cao các kim loại nặng như Cr6+, Cr3+, Ni2+ và sunfat đã được tiến hành đồng bộ từ quy mô phòng thí nghiệm đến quy mô pilot.
Trong quá trình khảo sát đánh giá nguồn nước thải tại một số làng nghề và khu công nghiệp thì thấy rằng tại một số cơ sở mạ điện của làng nghề kim khí Phùng Xá, các chỉ tiêu thuộc phạm vi nghiên cứu như Cr3+ vượt QCVN 40:2011 (cột B) trên 25 lần, hàm lượng Cr6+ vượt trên 31 lần, hàm lượng Ni vượt trên 16 lần. Các dòng thải này nếu không được xử lý mà xả ra các nguồn nước tiếp nhận sẽ gây ô nhiễm nghiêm trọng môi trường nước và đất.
Một số kết quả trong phòng thí nghiệm: - Trong thí nghiệm đánh giá khả năng xử lý KLN của đá vôi, mùn cưa và hỗn
hợp đá vôi - mùn cưa thì công thức sử dụng đá vôi - mùn cưa cho hiệu quả xử lý Cr, Ni cao nhất (Với hàm lượng Cr6+, Cr3+, Ni2+ ban đầu tương ứng là 175, 35 và 35 mg/l thì Cr3+, Ni2+ được loại bỏ hoàn toàn sau 12h, Cr6+ chỉ còn lại hàm lượng rất nhỏ).
- Khi đánh giá hiệu quả xử lý kim loại qua thí nghiệm về liều lượng mùn cưa cho thấy, thí nghiệm có liều lượng mùn cưa cho vào là 1,25g thì hiệu suất xử lý Cr6+, Cr3+, Ni là cao nhất và thí nghiệm cho 0,25g mùn cưa cho hiệu suất xử lý thấp nhất. Sau 24h thí nghiệm, 1g mùn cưa có thể loại bỏ được khoảng 140g Cr6+, 47,2g Cr3+ và 49g Ni ra khỏi môi trường nước.
- Với hỗn hợp các kim loại nghiên cứu Cr6+, Ni và Cr3+ dao động tương ứng từ 25, 5 và 5 mg/l đến 225, 45 và 45mg/l thì ngay tại mốc 10h đầu tiên sau thí nghiệm, hiệu quả xử lý kim loại ở các thí nghiệm đã đạt được 90%.
Đối với pilot thử nghiệm, hệ thống xử lý kết hợp đá vôi mùn cưa với CW đã được vận hành liên tục. Các ion kim loại nặng Ni2+, Cr3+, Cr6+ đã được loại bỏ gần như hoàn toàn và đáp ứng được QCVN 40: 2011 dù hàm lượng đầu vào khá cao và thời gian lưu tương đối ngắn (0,5 ngày tại bể đá vôi mùn cưa và 2,65 ngày tại bể CW). Có thể triển khai được hệ thống xử lý này với qui mô lớn cho việc xử lý nước thải công nghiệp khác như nước thải axit mỏ, nước thải công nghiệp luyện kim.
64
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tài liệu tiếng Việt 1. Bui Thi Kim Anh, Dang Dinh Kim, Tran Van Tua, Nguyen Trung Kien, Do Tuan
Anh. 2011. Phytoremediation potential of indigenous plants from Thai Nguyen
province, Vietnam. Journal of Environmental Biology 32: 257-262.
2. Bui Thi Kim Anh, Dang Dinh Kim, P. Kuschk, T. V. Tua, N.T. Hue, N.N. Minh.
2013. Effect of soil pH on arsenic hyperaccumulation capacity in Pityrogramma
calomelanos L.”, Journal of Environmental Biology 34: 237-242.
3. Nguyễn Việt Anh, Viện Khoa học kỹ thuật môi trường (IESE) – Giới thiệu các
giải pháp công nghệ thoát nước và xử lý nước thải phân tán.
http://www.epe.edu.vn/images/news/Giai%20phap%20TNXLNT%20phan%20tan.p
df
4. Phan Thị Bình, Nguyễn Thị Hà, Cao Thị Bình, Tổng hợp và tính chất của vật liệu
composit Polyanilin/vỏ đỗ ứng dụng hấp phụ ion Cu(II) trong nước, Tuyển tập các
công trình Hội nghị khoa học và công nghệ hoá học hữu cơ toàn quốc lần thứ tư -
Hội Hoá học Việt Nam, 2007, Tr 802-807.
5. Thi Binh Phan, Ngoc Que Do and Thi Thanh Thuy Mai, The adsorption ability of
Cr(VI) on sawdust–polyaniline nanocomposite, Adv. Nat. Sci: Nanosci.
Nanotechnol. 1 (2010) 035006 (4pp)
6. Lê Văn Cát. 2008. Phát triển công nghệ xử lý đồng thời amoni và asen trong
nước ngầm bằng biện pháp kết hợp lọc- trồng cây nhằm phục vụ cấp nước sinh hoạt
cho hộ gia đình ở nông thôn (2007- 2008). Đề tài nghiên cứu khoa học cấp thành
phố.
7. Lê Văn Cát (1999). Cơ sở hoá học và kỹ thuật xử lý nước, NXB Thanh Niên Hà
Nôi. Trang 192÷216.
8. Hoàng Minh Châu, Từ Văn Mặc, Từ Vọng Nghi (2002), Cơ sở hoá học phân tích.
Nhà xuất bản KH&KT,Hà Nội.
9. Đặng Kim Chi, Nguyễn Ngọc Lân, Trần Tuệ Minh. 2005. Làng nghề Việt Nam
và môi trường. Nhà xuất bản khoa học và kỹ thuật.
65
10. Lại Thúy Hiền và cs. 2003. Nghiên cứu xử lý hỗn hợp KLN trong nước thải
làng nghề cơ khí Vân Chàng, Nam Định bằng vi khuẩn khử sunfua nội tại. Đề tài
cấp Viện KHCN Việt Nam.
11. Đặng Đình Kim. 2004. Khả năng ứng dụng thực vật thuỷ sinh trong xử lý ô
nhiễm các thuỷ vực. Hội thảo Khoa học “ứng dụng biện pháp sinh học năng cao
chất lượng nước hồ Hà Nội”. Liên hiệp các Hội KHKT Hà Nội, 9-2004
12. Đặng Đình Kim và cs., 2011. Nghiên cứu khả năng xử lý ô nhiễm KLN trong
đất tại các vùng khai thác khoáng sản bằng thực vật. Báo cáo tổng kết đề tài cấp nhà
nước KC08.08/06-10.
13. Phạm Luận (1998), Cơ sở lý thuyết của phương pháp phân tích phổ phát xạ và
hấp thụ nguyên tử. Phần I, Phần II. Trường đại học khoa học - tự nhiên, Hà Nội.
14. Nguyễn Văn Nội và nnk, Nghiên cứu sử dụng mùn cưa biến tính để xử lý nước
nhiễm dầu, 2001. Tuyển tập các công trình khoa học- Hội nghị khoa học kỷ niệm 45
năm thành lập Khoa Hoá học, Hà Nội, tr.130-133.
15. Phạm Thành Quân, Nguyễn Thượng Đẳng, Tống Thanh Danh, Nghiên cứu ứng
dụng mùn cưa và bông vải phế thải từ cây tràm bông vàng trong xử lý một số kim
loại nặng trong nước thải, Tạp chí hóa học, Vol.48, no.4C, pp. 490-495, 2010
16. Phạm Thành Quân, Tống Thanh Danh, Nguyễn Viết Đức, Nghiên cứu khả năng
xử lý kim loại nặng của mùn cưa cây tràm bông vàng bằng phương pháp hấp phụ và
trao đổi ion, Tạp chí hóa học, Vol.47, no.4A, pp. 714-718, 2009.
17. Trần Văn Tựa và cs. 2007. Nghiên cứu sử dụng các loài thực vật thuỷ sinh điển
hình cho xử lý nước thải công nghiệp chứa kim loại nặng và nước thải công nghiệp
chế biến thực phẩm. Đề tài cấp Viện KHCN Việt Nam.
18. Bộ công thương. Báo cáo “Nghiên cứu các hợp chất lignin để xử lý kim loại
nặng trong nước và nước thải”. Hà Nội 2010.
19. Trần Văn Thắng, Hà Thị An, Nguyễn Minh Tuyển (2001),Nghiên cứu khử Cr6+
tại công ty dụng cụ cơ khí xuất khẩu Hà Nội, Tạp chí Hoá học, T. 39, số 1, 2001, tr.
84-88.
66
20. Viện Khoa học và Công nghệ Môi trường, Báo cáo khoa học: “Hiện trạng môi
trường và sản xuất của các làng nghề thuộc ba tỉnh Hà Tây – Bắc Ninh – Hưng
Yên” tháng 12/2000.
21. Viện Khoa học và Công nghệ Môi trường, ĐHBKHN. Các giải pháp cải thiện
môi trường làng nghề tiểu thủ công nghiệp, Hà Nội 12/2000
22. Phạm Hồ Trương, 1993, Chuyển hóa phế liệu ligin - cellulose nhờ nấm sợi bằng
phương pháp lên men bán rắn, Luận án PTS.
23. Lê Ngọc Tú và các cộng sự, 1982, Enzym VSV tập II, nhà xuất bản khoa học kỹ
thuật.
24a. Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, 2006, Cẩm nang nghành lâm nghiệp,
chương trình hỗ trợ ngành lâm nghiệm và đối tác.
24b. Nhan Hồng Quang. 2009. Xử lý nước thải mạ điện chứa Cr bằng vật liệu Biomass. Tạp chí Khoa học và Công nghệ. Số 3 (32) 1-9.
Tài liệu tiếng Anh 25. Bhagat, M., et al. 2004. Precipitation of mixed metal residues from wastewater
utilizing biogenic sulphide." Miner. Eng.17; p: 925-932.
26. Beguin P, Aubert J. 1994. The biological degradation of cellulose. FEMS
Microbiol Rev 13; p: 25–58.
27. Evans T. Musapatika et al. 2012. Cobalt removal from wastewater using pine
sawdust. African Journal of Biotechnology. 11 (19), p: 9407-9415.
28. Kishor Kumar Singh et al. 2011. Abatement of toxic heavy metals from
highway runoff using sawdust as adsorbent. Journal of Chemical and
Pharmaceutical Research. 3 (1), p: 338 – 348.
29. Leustek, T., und Saito, K. (1999). "Sulfate transport and assimilation in plants."
Plant Physiol.120: 637-643.
30. Lawrence K. Wang, Yung-Tse Hung, Nazih K. Shammas (2010). Handbook of
Advanced Industrial and Hazardous Wastes Treatment. CRC Press Taylor &
Francis Group. pp 231-259
67
31. Preuß, V. (2004). "Konkurrenz zwischen Methanogenen und Desulfurikanten
bei der biochemischen Entsäuerung von Bergbauwässern bei Verwendung von
Methanol als C-und Energiequelle " BTU Cottbuswassertechnik und
Siedlungswasserbau56: 57-62.
32. The Decomposition of Cellulose. From Sylvia, D.M., Fuhrmann, J.J., Hartel,
P.G.,& Zuberer, D.A. (2005). Principles and Applications of Soil Microbiology.
2nd edition, pg. 298.
33. One Possible Pathway of Lignin Decomposition. From Sylvia, D.M., Fuhrmann,
J.J., Hartel, P.G.,& Zuberer, D.A. (2005). Principles and Applications of Soil
Microbiology. 2nd edition, pg. 304.
34. One Possible Pathway of Lignin Decomposition. From Sylvia, D.M., Fuhrmann,
J.J., Hartel, P.G.,& Zuberer, D.A. (2005). Principles and Applications of Soil
Microbiology. 2nd edition, pg. 304.
35. Schwenn, J. D. and W. J. Cram (1997). Assimilatory reduction of inorganic
sulphate.In: Sulphur metabolism in higher plants. The Netherlands, Backhuys
Publishers, Leiden: 39-58.
36. Ola norrman, 1999, “home distillation handbook”, pp .141.
37. http://gchudu.blogspot.com/2012/05/chu-trinh-krebs.html
38. http://www.botanyvn.com/cnt.asp?param=news&newsid=1431
39. http://environment.about.com/od/pollution/a/top_10_polluted.htm (Blackmis)
40. http://www.khoahoc.com.vn/print/45557.aspx (Mun cua + da voi)
41.http://nongnghiep.vn/nongnghiepvn/72/45/68/31018/Co-Huong-BaiGiai-phap-
xu-ly-moi-chat-thai-chan-nuoi.aspx
42.http://nongnghiep.vn/nongnghiepvn/72/45/68/31018/Co-Huong-BaiGiai-phap-
xu-ly-moi-chat-thai-chan-nuoi.aspx
43. http://thietbiloc.com/tin-nuoc/503-xu-ly-nuoc-thai-bang-cay-say
J. Viet. Env.2014. Vol.6, No.1, pp.47-51 DOI: 10.13141/jve.vol6.no1.pp47-51
47
* Corresponding author E-mail: [email protected]
http://dx.doi.org/10.13141/JVE ISSN 2193-6471
Phytoremediation of heavy metal polluted soil and water in Vietnam Sử dụng thực vật để xử lý ô nhiễm kim loại nặng trong đất và nước tại Việt Nam
Research article
Bui, Thi Kim Anh1*, Dang, Dinh Kim1, Nguyen, Trung Kien1, Nguyen, Ngoc Minh2, Nguyen, Quang Trung1, Nguyen, Hong Chuyen1 and Chu, Thi Thuy Linh
1 Institute of Environmental Technology, VAST, 18 Hoang Quoc Viet, Cau Giay, Hanoi, Vietnam; 2 VNU University of Science, 334-Nguyen Trai, Hanoi, Viet Nam
Phytoremediation has been intensively studied during the past decade due to its cost-effectiveness and environmental harmonies. Most of the studies on treatment of heavy metal pollution in soil and water by plant species have been done in developed countries but are limited in Vietnam. In this study, we presented some research results of phytoremediation of polluted soils and water with heavy metals that were done by Institute of Environmental Technology for several last years. For treatment of heavy metal pollution in the water, some plants have great ability to accumulate heavy metals such as Vetiveria zizanioides, Phragmites australis, Eichhornia crassipes, Pistia stratiotes, Ipomoea aquatica, Nypa fruticans and Enhydra fluctuans. The heavy metal uptake into shoots and roots of 33 indigenous plant species in Thai Nguyen province was also determined. Two species of the plants investigated, Pteris vittata L. and Pityrogramma calomelanos L. were As hyperaccumulators, containing more than 0.1% As in their shoots while Eleusine indica, Cynodon dactylon, Cyperus rotundus and Equisetum ramosissimum accumulated very high Pb (0.15-0.65%) and Zn (0.22-1.56%) concentrations in their roots. Some experiments to clarify the potential of several plants as good candidates for phytoremediation of polluted soil by heavy metals were carried out in our institute.
Phương pháp sử dụng thực vật để xử lý ô nhiễm đã được nghiên cứu nhiều trong thập kỷ qua do chi phí thấp và thân thiện với môi trường. Hầu hết các nghiên cứu về xử lý ô nhiễm kim loại nặng trong đất và nước bằng thực vật đã được thực hiện ở các nước phát triển nhưng ít có tại Việt Nam. Trong nghiên cứu này, chúng tôi giới thiệu một số kết quả dùng công nghệ thực vật để xử lý ô nhiễm kim loại nặng trong đất và nước tại Viện Công nghệ môi trường trong những năm gần đây. Đối với xử lý ô nhiễm kim loại nặng trong nước, một số thực vật có khả năng tích lũy tốt kim loại nặng như Vetiveria zizanioides, Phragmites australis, Eichhornia crassipes, Pistia stratiotes, Ipomoea aquatica, Nypa fruticans và Enhydra fluctuans. Sự hấp thụ và tích lũy kim loại nặng trong phần trên mặt đất và rễ của 33 loài thực vật bản địa tại Thái Nguyên cũng đã được xác định. Hai loài thực vật khảo sát là Pteris vittata và Pityrogramma calomelanos là những loài siêu tích lũy As, chứa hơn 0,1% As trong phần trên mặt đất của cây. Eleusine indica, Cynodon dactylon, Cyperus rotundus và Equisetum ramosissimum tích lũy Pb (0,15-0,65%) và Zn (0,22-1,56%) rất cao trong rễ. Một số thí nghiệm đánh giá tiềm năng của một số thực vật là đối tượng tốt cho xử lý ô nhiễm kim loại nặng trong đất đã được tiến hành trong phòng thí nghiệm của Viện Công nghệ môi trường.
Keywords: Phytoremediation, heavy metal, pollution, potential plant.
48 * Corresponding author
E-mail: [email protected] http://dx.doi.org/10.13141/JVE
ISSN 2193-6471
1. Introduction Pollution of soil and water is now a global problem and attracted attention of many countries due to its harmful effects with many aspects of environment and human life. In Viet Nam, heavy metal pollution has been identified in many locations including urban areas as well as rural and mountainous ones. For example, in Hanoi, Van Dien industrial zone including Van Dien Batteries factory, Synthetic Paint factory, Van Dien Phosphate Company and also Orion Hanel industrial zone have high risk of lead contamination (Le Hien Thao, 2004). The contamination in traditional villages is also an urgent problem. There are about 1450 traditional villages, based on the survey results of 52 typical villages, of which 100% surveyed villages had caused environmental pollution. Typically, the village recycling lead from batteries of Chi Dao commune, Van Lam district, Hung Yen province has 25 lead production units. Every day, this commune produces 10 tons of lead and generates about 1 ton of toxic dust (Dang Kim Chi et al., 2005). During the production, traditional villages released a large amount of significantly toxic chemicals into the environment via wastewater including many heavy metals such as Fe, Cr, Ni, Zn, and CN. Mineral exploiting and processing industry discharge highly toxic substances such as Cd, Pb, Zn, Cu, As (Le Van Thanh et al, 2004). The average As concentration in waste stone samples was of 5000 mg/kg, exceeding the allowable standard of heavy metal in the soilmany times. The concentration of other heavy metals in the stone samples were also very high (Cu: 1260 mg/kg; Pb: 105 mg/kg; Cd: 0.5 mg/kg; Se: 17 mg/kg,...) (Tiberon mineral company, 2004). In some communes of Ha Nam province, 94.4% wells water samples had very high As concentration, with was exceeded national technical regulation on drinking water quality (Pham Hung Viet et al., 2004). There are many methods for treating heavy metal pollution. Although physicochemical methods are effective, they are complex, expensive, not environmental friendly and difficult to be applied on a large scale. Phytoremediation is cost effective, environmental friendly and most suitable for developing countries (Ghosh et al., 2005). At present, more than 500 plant species of metal and metalloid hyperaccumulators have been reported in literatures (Hemen Sarma, 2011). Phytoremediation of polluted soil and water is soon studied in many countries (Salt DE et al., 1995, Raskin I. et al., 1997, E. Lombi et al., 2001). However, in Viet Nam, this study has been started only in recent years and its practical application is still limited. Le Van Cat et al. (2008) researched on NH4
+ and As removal capability from contaminated water by Typha latifolia, Canna and Pennisetum purpureum. Le Duc et al. (2005) studied on Pb uptake of Ipomoea aquatica, Eichhornia crassipes and
Brassica juncea. Dang Thi An et al. (2007) identified heavy metal concentrations of some vegetables. Tran Kong Tau et al. (2005) indicated the accumulation ability of Cd and Zn in Calendula officinalis, Acanthopanax aculeatus. Tran Van Tua et al. (2008) researched on the tolerance and accumulation of Pb, Cd, Cr, Ni and Zn in some plant species. Diep Thi My Hanh et al. (2007) investigated the Pb accumulation of Lantana camara. In this paper, we present some research results of phytoremediation for polluted soil and water with heavy metals. 2. Materials and Methods 2.1. Plant species
Figure 1: Plant species used in our experiments – (a) Pityrogramma calomelanos; (b) Pteris vittata; (c) Eleusine indica; (d) Brassica juncea; (e) Pennisetum purpureum; (f) Pistia stratiotes; (g) Eichhornia crassipes; (h) Vetiveria zizanioide; (i) Phragmites australis
a b
c d
e f
g
h i
49 * Corresponding author
E-mail: [email protected] http://dx.doi.org/10.13141/JVE
ISSN 2193-6471
The plant species collected from contaminated sites and from the green house. Some plant species were used for experiments such as Ceratophyllaceae, Eichhornia crassipes, Pistia stratiotes, Phragmites australis, Vetiveria zizanioides, Brassica juncea, Lantana camara, Eleusine indica, Pennisetum purpureum, Pteris vittata and Pityrogramma calomelanos. Taxonomy of the plant species were done by Assoc. Prof. Nguyen Xuan Phuong from the Institute of Ecology and Biological Resources, VAST. The wastewater samples collected from electroplating industry and soil samples collected from the mining areas that were polluted by heavy metals served for the experiments. 2.2. Heavy metal concentration analysis Digestion of heavy metals was conducted using US EPA 3051 method. Concentrations of heavy metal in acid digests were quantified with an atomic absorption spectroscopy (AAS; AA-6800, Shimadzu, Japan) and on inductively coupled plasma-mass spectroscopy (ICP-MS, ELAN 9000, Perkin Elmer, USA).
3. Results and Discussions 3.1. Heavy metal removal from water by plants By experimental studies, we have demonstrated heavy metal uptake and accumulation in some aquatic plant species. For example, Eichhornia crassipes was likely to absorb Pb, Cr, Ni, Zn and Fe in industrial waste water, Nasturtium officinale L. could remove Cr and Ni from electroplating wastewater. Meanwhile, Ceratophyllum demersum L., Salvinia cucullata were likely to reduce Fe, Cu, Pb and Zn in Bay Mau lake, Hanoi.
The evaluation on ability to remove Cr, Ni in water of some plant species has been done. The plant species were capable of removing Cr and Ni from contaminated water. . The experiments on tolerance of 7 plant species were evaluated, plant was washed and grown in clean water before 3 days experimental set-up. There were seven treatments sets with five replicates for each. Each plastic pot contained 6 liter water medium, with 70 gram fresh weight (FW) plant. Cr and Ni concentrations in each pot
were 1, 3, 5, 7 and 10 mg / l. Preparing Cr6+, Cr3+ and Ni2+ sollutions by adding K2Cr2O7, CrCl3. 6H2O and NiSO4.7 H20, respectively. After 14 days experiment, the investigated plants were harvested and then washed with tap water to remove dust, rinsed with deionized water, and kept dried for 10 hour to evaluate the plant fresh weight. The results showed that the tolerance of these species can be arranged in the following order: Vetiveria zizanioides > Phragmites australis > Eichhornia crassipes > Pistia stratiotes > Ipomoea aquatica > Nypa fruticans > Enhydra fluctuans. A treating system of Cr and Ni in contaminated water was established at pilot scale by “root zone” technology. Two plant species have a high tolerance to Cr and Ni (Vetiveria zizanioides and Phragmites australis) were selected for further studies in pilot scale (0.5m3.day-1). This system worked continuously in 23 weeks (Inlet wastewater is a mixture of electroplating wastewater contained Cr and Ni and animal husbandry wastewater). This inlet wastewater contained average concentrations of Cr6+, Cr3+, Ni2+, COD, T-N as T-P as follows: 1.9, 3.2, 3.88, 111.4, 42 and 8 mg/l, respectively.
Figure 2: Ni2+ removing capacity of Vetiveria zizanioides and Phragmites australis Treatment system consists of 03 cement tanks, each tank can contain 0.5 m3 water with rock in the bottom and sand at the top. Control tank has no plant, The tanks growing Vetiveria zizanioides and Phragmites australis have plant density is 10 cm × 15 cm. Each tank has 108 plants, fresh weight of each branch is of 60 gram FW. After 23 weeks experiment at pilot scale, Ni treatment efficiencies of Vetiveria zizanioides, Phragmites australis and control reached 91.5%, 88.4% and 49.68%, respectively. Concentration of Ni2+ in outlet of the control, Vetiveria zizanioides and Phragmites australis were 1.95, 0.33 and 0.45 mg/l, respectively (Fig.2).
50
* Corresponding author E-mail: [email protected]
http://dx.doi.org/10.13141/JVE ISSN 2193-6471
Figure 3: Cr6+ (A) and Cr3+ (B) removing capacity of Vetiveria zizanioides and Phragmites australis
After 23 weeks experiment at pilot scale, Cr6+ treatment efficiencies of Phragmites australis and Vetiveria zizanioides were very high reaching 97.97% and 98.12%, respectively [Fig.3]. The Cr6+ concentration in inlet wastewater of 2 treatments was 1.92 mg/L, whereas the Cr6+ concentration in outlet of Vetiveria zizanioides and Phragmites australis tank were 0.053 and 0.047 mg/L respectively. The inlet Cr3+ concentration of Vetiveria zizanioides and Phragmites australis tank was 3.218 mg/l, outlet of Vetiveria zizanioides and Phragmites were 0.2 and 0.24 mg/l, respectively. The treatment efficiencies by Vetiveria zizanioides and Phragmites australis were 95.91% and 92.6%, respectively. The outlet concentrations of Cr6+ and Cr3+ were under the limitation for industrial wastewater according to Vietnam standard (TCVN 5945-2005). 3.2. Heavy metal removal from soil by plants 3.2.1. Screening potential plants for heavy metal removal A total of 33 different plant species samples were collected from four mining areas in Thai Nguyen province to identify the heavy metal concentrations in their roots and shoots. The collected plant species can grow at the mine tailings or in the soils affected by mining waste. The results showed that 2 ferns, Pteris vittata L. and Pityrogramma calomelanos L. were capable of accumulating high arsenic concentrations. As concentrations in shoot and root of Pteris vittata L. were 5876.5±99.6 and 2642.5±72.3 mgkg-1, respectively; while these figures of Pityrogramma calomelanos L. were 2426.3±104.5 and 2256±123.4 mgkg-1. Remarkably, a large amount of As from roots of these ferns was transposed to shoot, facilitating the removal of As from contaminated soil. The Zn accumulating ability in some investigated plant species was quite high, e.g. Equisetum ramosissimum, Cyperus rotundus. and Eleusine indica. with Zn accumulated in shoots at 1346.2±130.2,
1201.4±147.3 and 4346.8±157.9 mgkg-1, respectively and in roots at 3756.9±145.7, 2194.4±155.7 and 3108.7±213.5 mgkg-1 Zn, respectively. Our finding in Thai Nguyen province indicates that, two fern Pteris vittata L. and Pityrogramma calomelanos L. are suitable for As treatment in the mining soil of Ha Thuong, Dai Tu district, four grasses Eleusine indica, Cynodon dactylon, Cyperus rotundus. and Equisetum ramosissimumare the best at keeping Pb, Zn concentrations in their root. So we can use these grasses for phytostabilization of Pb and Zn in Tan Long, Dong Hy district. Based on the screening results, we carried out some experiment concerning with the potential plants as good candidates for phytoremediation of heavy metal polluted soil. 3.2.2. Brassica juncea
As, Pb and Cd accumulations of Brassica juncea were quite good. All 3 heavy metals (Cd, As and Pb) can be accumulated in roots more than in the shoots. In trace concentration, the heavy metals can stimulate plant growth but with higher concentrations (Cd> 25 ppm, As> 200 ppm and Pb from 2000 to 3000 ppm) they inhibited the plant from growing. When Pb concentration in soil was 3000 ppm, the Pb accumulation in shoots and roots were 202.9 and 2425.9 ppm, respectively. While As and Cd concentrations in the soil was 25 ppm, the content in shoots and roots were 185.6 and 228.9 ppm (for As); 185.6 and 228.9 ppm (for Cd), respectively. Brassica juncea can be used to remove As, Pb and Cd concentration in contaminated soil but it should be noted that this plant also a popular green vegetable for people. 3.2.3. Vetiveria zizanioides In soil contaminated with Pb from 1400.50 to 2530.10 mg / kg, Vetiveria zizanioides still grew well after 90-day treatment. Some charateristics of plant growing on Pb contaminated soil such as height, root length, biomass and the Chlorophyll concentration increased more than those
A B
51 * Corresponding author
E-mail: [email protected] http://dx.doi.org/10.13141/JVE
ISSN 2193-6471
on control soil (soil without Pb). Pb concentration analysis in soil after this experiment showed that, the Pb extraction effect from the contaminated soil by Vetiveria zizanioides could reach from 87% to 92.6%. However, the average Pb accumulation in its shoots and roots were not high being only 24 and 349 ppm, respectively. This species also can accumulate As and Cd taken from soil. Many our further experiment results showed that feasibility of using Vetiveria zizanioides as phytostabilization agent for Pb, Cd and As in contaminated soils. 3.2.4. Eleusine indica Eleusine indica can be used for remediating the soil contaminated with Pb and Zn. Results of the survey showed that this plant can grow in the waste area of lead, zinc processing factory. Analyzing Pb and Zn concentration in soil and plants showed that if soil contained 4316.96 ppm Pb, there would have 664.45 and 4638.17 ppm Pb in shoots and roots of the plant, respectively; if soil contained 1000 ppm Zn, there would have 761.6 and 2011.3 ppm in shoots and roots, respectively. Eleusine indica could grow well at the concentration of Pb and Zn in soil lower than 5000 and 1000 ppm, respectively. 3.2.5. Pennisetum purpureum When Pb concentration in the soil was 3600 ppm, Pb accumulated levels in shoot and root of the plant were 164.3 and 1009.1 ppm, respectively. When Cd concentration in soil was 31.5 ppm, the Cd accumulated concentrations in shoot and root of the species were 5.7 and 320.1, respectively. Some other result showed that, the grass accumulated Pb and Cd mainly in roots and the plant grown in the soil with higher heavy metal concentration could accumulate them higher in their biomass. 3.2.6. Pteris vittata and Pityrogramma calomelanos Two ferns Pteris vittata and Pityrogramma calomelanos can grow in the mining soil containing 15,146 ppm As. Although they are As hyperaccumulators, the plants still have ability to accumulate Cd, Pb and Zn. Pteris vittata and Pityrogramma calomelanos can tolerate 5000 and 4000 ppm Pb; 1200 and 300 ppm Cd, respectively. The highest level of As accumulation in Pteris vittata and Pityrogramma calomelanos are 6042 and 4034 ppm (in the fronds); 3756 and 2256 (in the roots), respectively. From 3 to 4 months after growing there is appropriate time for harvesting biomass plants if applied in practical processing. 4. Conclution Base on the evaluate Cr and Ni tolerance of seven potential plant species, two plant species having a highest
tolerance to Cr and Ni concentrations are Vetiveria zizanioides and Phragmites australis. Screening research of 33 plant species in Thai Nguyen province indicated that two ferns Pteris vittata and Pityrogramma calomelanos were suitable for As treatment in the mining soil of Ha Thuong, Dai Tu district. Four grasses like Eleusine indica, Cynodon dactylon, Cyperus rotundus and Equisetum ramosissimum were the best in accumulating Pb, Zn in their roots. Other investigated plant species like Brassica juncea, Pennisetum purpureum, Vetiveria zizanioides were potential to remediate the soil contaminated with As, Cd, Pb and Zn. Acknowledgments This research was funded by the Vietnam Academy of Science & Technology (VAST) and Vietnam National Foundation for Science & Technology Development (NAFOSTED). 5. References [1] Bui Thi Kim Anh, Dang Dinh Kim, Tran Van Tua,
Nguyen Trung Kien, Do Tuan Anh. 2011. Phytoremediation potential of indigenous plants from Thai Nguyen province, Vietnam. Journal of Environmental Biology 32: 257-262.
[2] Dang, T. A., Chu, T. T. H., Dao, T. C. T. 2007. Some characteristics of the flora in Pb-, Cd-polluted areas in Tan Long, Dong Hy, Thai Nguyen. Proceedings of the 2nd National Scientific Conference on Ecology and Biological Resources, Hanoi 26 October 2007 (Sections of Fauna and Flora of Vietnam & Ecology and Environment): 297-301 (in Vietnamese)
[3] Diep, T. M. H., Garnier, Z. E. 2007. Lantana camara L, - the plant species can accumulate Pb in the polluted soil. Science and Technology Development Journal 10(1):35-38 (in Vietnamese)
[4] Ghosh, M., Singh, S. P. 2005. A review on Phytoremediation of heavy metals and utilization of its byproduct. Applied Ecology and Environmental Research 3(1): 1-18
[5] Hemen, S. 2011. Metal Hyperaccumulation in plants: A review focusing on phytoremediation technology. J. Environ.Sci. Technol 4 (2): 118-138
[6] Le, D. 2005. Cu, Mn and Mo concentration in some main kind of soils in the south of Vietnam. Soil Science Journal 10:193-196 (in Vietnamese)
[7] Le, V. C., Tran, M. P., Le, V. L. 2008. Simultaneous removal of ammonium and arsenic from ground water by phytofiltration. Intern.Sci. Conference on “Chemistry for development and intergration, Sept.12-14/2008. Hanoi, Vietnam. Proceedings: 679-688 (in Vietnamese)
52 * Corresponding author
E-mail: [email protected] http://dx.doi.org/10.13141/JVE
ISSN 2193-6471
[8] Le, V. T. 2004. Mining exploitation and impact to the environment. Proceeding of mining technical science conference, the sixteenth. Cua Lo, 7/2004 (in Vietnamese)
[9] Nguyen, T. C., Tran, V. T., Dang, D. K., Do, T, A., Le, T. T. 2008. The study of Pb accumulation in polluted soil by Vetiver grass (Vetiveria zizanioides). Science and Technical Journal 46(6A): 26-26 (in Vietnamese)
[10] Raskin, I., Smith, R. D., Salt, D. E. 1997. Phytoremediation of metals: Using plants to remove pollutants from the environment, Curr. Opin. Biotechnol, 8(2): 221-226.
[11] Salt D.E., Blaylock M., Kumar P.B.A.N., Dushenkov V., Ensley B.D., Chet I. and Raskin I. 1995. Phytoremediation: A novel strategy for the removal of toxic metals from envrionmental using plants. Biotechnology, Vol. 13: 468-474.
[12] Tiberon mineral Ltd, 2004. Environmental impact assessment report of Nui Phao project, Dai Tu, Thai Nguyen (in Vietnamese)
[13] Tran, C. T., Dang, T. A., Dao, T. K. H. 2005. Some first results on Phytoremediation. Soil Science Journal 23: 156-158 (in Vietnamese)
[14] Tran, V. T., Nguyen, D. T., Do, T. A., Nguyen, T. K., Tran, N. N. 2008. Treatment of Ni and Cr contained wastewater by root zone method. Journal of Science and technology 46(6A): 40-45 (in Vietnamese).
[15] US EPA 3051 Method (1994). Microwave-assisted acid digestion of sediments, sludges, soils and oils (pp 1–14). Technical Report, Washington, District of Columbia.
[16] TCVN 5945-2005. Discharge standards for industrial waste water (in Vietnamese)
[17] Le Hien Thao.2004. Seminar on "Current status of heavy metal pollution in Vietnam", Institute of Environment and Natural Resources, VNU HCM, 6 pages (in Vietnamese)
[18] Dang Dinh Kim. 2010. Study on phytoremediation of heavy metal - contaminated soils in mining areas. National project KC08.04/06-10, (in Vietnamese)
[19] Dang Kim Chi, Nguyen Ngoc Lan, Tran Le Minh. 2005. Vietnam craft village and vnvironment, publishing by scientific and engineering, 391 pages.
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
AMD Acid Mine Drainage
CNMĐ
COD
Công nghiệp mạ điện
Chemical Oxygen Demand
CT Công thức
CW Constructed wetland
ĐC Đối chứng
KH&KT Khoa học và kỹ thuật
KLN Kim loại nặng
QCVN Quy chuẩn cho phép
TCCP Tiêu chuẩn cho phép
TCVN Tiêu chuẩn Việt Nam
TN Thí nghiệm
VSV Vi sinh vật
PHỤ LỤC
Hình 1. Hình ảnh mùn cưa trước và sau khi được bổ sung nước
Hình 2. Hình ảnh mẫu sau 30 ngày đặt thí nghiệm
Hình 3. Đối chiếu mẫu mùn cưa ban đầu và mẫu mùn cưa sau khi ngâm 73 ngày
Hình 4. Hình ảnh mùn cưa trước và sau 2 tháng thủy phân
Hình 5. Một số nghiên cứu trong phòng thí nghiệm
Hình 6. Thí nghiệm xử lý Ni, Cr3+ ở nồng độ 50-150mg/l trong phòng thí nghiệm
Hình 7. Thí nghiệm xử lý Cr6+ ở các vật liệu khác nhau, đá, mùn cưa và hỗn hợp đá
vôi, mùn cưa
Hình 8. Hệ thống xử lý nước thải chứa KLN ngoài trại thí nghiệm
Hình 9. Mô hình hệ thống xử lý nước thải chứa KLN ngoài trại thí nghiệm
Hình 10. Hệ thống xử lý nước thải chứa KLN ngoài trại thí nghiệm