216
Ñòa chí Quaûng Ngaõi Trang 1 PHN V THÀNH PHQUNG NGÃI VÀ CÁC HUYN TRONG TNH *Thành phQung Ngãi * Huyn Bình Sơn * Huyn Sơn Tnh * Huyn Tư Nghĩ a * Huyn Nghĩ a Hành * Huyn Mðức * Huyn ðức Ph* Huyn Trà Bng * Huyn Tây Trà * Huyn Sơn Hà * Huyn Sơn Tây * Huyn Minh Long * Huyn Ba Tơ * Huyn Lý Sơn

Các Huyện - Thành phố

  • Upload
    vukhue

  • View
    232

  • Download
    1

Embed Size (px)

Citation preview

Page 1: Các Huyện - Thành phố

Ñòa chí Quaûng Ngaõi Trang 1

PHẦN V

THÀNH PHỐ QUẢNG NGÃI VÀ

CÁC HUYỆN TRONG TỈNH

*Thành phố Quảng Ngãi

* Huyện Bình Sơn

* Huyện Sơn Tịnh

* Huyện Tư Nghĩa

* Huyện Nghĩa Hành

* Huyện Mộ ðức

* Huyện ðức Phổ

* Huyện Trà Bồng

* Huyện Tây Trà

* Huyện Sơn Hà

* Huyện Sơn Tây

* Huyện Minh Long

* Huyện Ba Tơ

* Huyện Lý Sơn

Page 2: Các Huyện - Thành phố

Ñòa chí Quaûng Ngaõi Trang 2

Phần này viết về các huyện và thành phố Quảng Ngãi. Nếu ở 4 phần trước ñối

tượng xem xét là các lĩnh vực, các ngành ñược ñề cập chung trong phạm vi toàn tỉnh Quảng Ngãi, thì phần này ñối tượng xem xét lại là từng huyện và thành phố.

Mỗi huyện, thành phố là một bộ phận hợp thành, vừa có nét chung của toàn tỉnh Quảng Ngãi, vừa có ñặc thù riêng của nó. Cụ thể hóa nét chung của tỉnh và nói ñược nét riêng của từng bộ phận là hết sức cần thiết, nhất là khi bạn ñọc muốn tiếp cận riêng ñối với một huyện nào ñó, hoặc một mặt cụ thể nào ñó thể hiện ở một huyện hay thành phố Quảng Ngãi.

Mỗi huyện và thành phố Quảng Ngãi, do vậy, sẽ ñược viết riêng và ñược ñề cập ñến các ñặc ñiểm về hành chính - tự nhiên - dân cư, truyền thống, kinh tế, văn hóa - xã hội của huyện hay thành phố ấy. Nói cách khác, ñây là cách tiếp cận ở nhiều phương diện khác nhau ñối với từng thực thể (huyện, thành phố).

Trong khi chú trọng tiếp cận về nhiều mặt khác nhau, khi cần thiết, các dữ liệu sẽ ñược so sánh với cái chung của toàn tỉnh hoặc các ñơn vị bạn ñể thấy nét ñặc thù.

Các lĩnh vực, các dữ liệu của từng huyện và thành phố Quảng Ngãi ñược ñề cập sẽ phối hợp cả xưa và nay, cả ñồng ñại và lịch ñại, trong ñó thứ tự thông thường là trình tự thời gian - cái có trước ñề cập trước, cái có sau ñề cập sau.

Các dữ liệu ñược ñề cập nếu ñã ñược viết chi tiết ở các chương, phần trước, thì ở ñây sẽ không ñi sâu vào chi tiết và xét cần sẽ có chỉ dẫn ñến chương, phần ñể tiện cho bạn ñọc tra cứu.

Phần này sắp xếp các huyện, thành phố chủ yếu dựa vào vị trí ñịa lý và phần nào là vai trò của nó. Theo ñó, thành phố tỉnh lỵ sẽ ưu tiên xếp trước, kế ñến là các huyện ñồng bằng, các huyện miền núi (ñều từ Bắc vào Nam) và huyện hải ñảo. Cụ thể như sau: 1) Thành phố QUẢNG NGÃI; 2) Huyện BÌNH SƠN; 3) Huyện SƠN TỊNH; 4) Huyện TƯ NGHĨA; 5) Huyện NGHĨA HÀNH; 6) Huyện MỘ ðỨC; 7) Huyện ðỨC PHỔ; 8) Huyện TRÀ BỒNG; 9) Huyện TÂY TRÀ; 10) Huyện SƠN HÀ; 11) Huyện SƠN TÂY; 12) Huyện MINH LONG; 13) Huyện BA TƠ; 14) Huyện LÝ SƠN.

Page 3: Các Huyện - Thành phố

Ñòa chí Quaûng Ngaõi Trang 3

THÀNH PHỐ QUẢNG NGÃI

THÀNH PHỐ QUẢNG NGÃI là ñơn vị hành chính trực thuộc tỉnh Quảng Ngãi, ñược ñặt làm tỉnh lỵ. Thành phố Quảng Ngãi nằm ở phía ñông tỉnh, hữu ngạn sông Trà Khúc, tại tọa ñộ ñịa lí 180o48’ð và 15o08’B. Ba phía ñông, tây, nam ñều giáp huyện Tư Nghĩa, phía bắc giáp huyện Sơn Tịnh (qua sông Trà Khúc); có Quốc lộ 1 và ñường sắt Thống Nhất chạy qua. Diện tích: 37,12km². Dân số: 122.567 người (năm 2005). Mật ñộ dân số: 3.302 người/km²(1). ðơn vị hành chính trực thuộc gồm 2 xã (Nghĩa Dũng, Nghĩa Dõng); 8 phường (Nguyễn Nghiêm, Trần Hưng ðạo, Lê Hồng Phong, Trần Phú, Chánh Lộ, Quảng Phú, Nghĩa Lộ, Nghĩa Chánh), với 166 thôn, tổ dân phố; trong ñó:

Phường Nguyễn Nghiêm có 13 tổ dân phố, tên gọi theo thứ tự từ tổ 1 ñến tổ 13;

Phường Trần Hưng ðạo có 18 tổ dân phố, tên gọi theo thứ tự từ tổ 1 ñến tổ 18;

Phường Lê Hồng Phong có 14 tổ dân phố, tên gọi theo thứ tự từ tổ 1 ñến tổ 14;

Phường Trần Phú có 24 tổ dân phố, tên gọi theo thứ tự từ tổ 1 ñến tổ 24;

Phường Chánh Lộ có 20 tổ dân phố, tên gọi theo thứ tự từ tổ 1 ñến tổ 20;

Phường Quảng Phú có 26 tổ dân phố, tên gọi theo thứ tự từ tổ 1 ñến tổ 26;

Phường Nghĩa Lộ có 22 tổ dân phố, tên gọi theo thứ tự từ tổ 1 ñến tổ 22;

Phường Nghĩa Chánh có 19 tổ dân phố, tên gọi theo thứ tự từ tổ 1 ñến tổ 19;

Xã Nghĩa Dũng có 6 thôn, tên gọi theo thứ tự từ thôn 1 ñến thôn 6;

Xã Nghĩa Dõng có 4 thôn, tên gọi theo thứ tự từ thôn 1 ñến thôn 4.

ðịa hạt thành phố Quảng Ngãi có dân cư, hình thành làng mạc từ lâu ñời. Nơi ñây ñược ñặt làm tỉnh lỵ từ năm 1807, nhưng do hoàn cảnh lịch sử, vị trí ñịa lý, thành phố Quảng Ngãi vẫn là một ñô thị phát triển muộn so với nhiều ñô thị khác trong nước. Sự phát triển muộn xét về mặt nào ñó có một số thuận lợi nhất ñịnh, nhưng bao trùm vẫn là một khó khăn lớn trên ñường phát triển.

Về hành chính, thành phố Quảng Ngãi trải qua nhiều thay ñổi qua các thời kỳ lịch sử.

Toàn bộ ñịa hạt thành phố Quảng Ngãi xưa kia ñều thuộc huyện Chương Nghĩa.

Page 4: Các Huyện - Thành phố

Ñòa chí Quaûng Ngaõi Trang 4

Tỉnh thành Quảng Ngãi

Vùng trung tâm nội thị của thành phố Quảng Ngãi vốn là xã Chánh Mông (sau ñổi là Chánh Lộ), tổng Nghĩa Hạ, huyện Chương Nghĩa. Từ năm Gia Long thứ 6 (1807), tỉnh thành Quảng Ngãi ñược dời về ñây. Năm Gia Long thứ 14 (1815), thành ñược xây bằng ñá ong. Thành có 3 cửa: Tây, ðông, Bắc (chưa rõ vốn có cửa Nam hay không); tỉnh thành do các kiến trúc sư Pháp theo giúp Gia Long thiết kế ñược xây dựng theo kiểu vôbăng (vauban) của Pháp, bình ñồ vuông, chu vi 500 trượng hai thước (2000m); cao một trượng (4m), bốn phía có hào thành áp sát bờ thành rộng 5 trượng (20m). Thành có một trục dọc xẻ ñôi thành từ cửa Tây ñến cửa ðông (nay là ñường Lê Trung ðình), chia thành ra hai phần nam, bắc, trong ñó phần phía nam nhỏ bằng 1/2 của phần phía bắc. Từ ngoài vào thành có cầu bắc qua hào, có cổng thành. Các cơ quan ñầu não của tỉnh nằm gọn trong thành. Theo trục ñường từ phía tây ñ i xuống phía ñông, phía tay trái (phần phía bắc) ở giữa có dinh Tuần vũ, phía tây là dinh Án sát, phía ñông có dinh Lãnh binh, nhà lao, nhà thương ở phía sau; từ khi thực dân Pháp ñô hộ, có thêm Nhà Dây thép (Bưu ñ iện), Sở Lục lộ... Phía tay phải (phần phía nam ñường) có Hành cung (nơi vua ngự trên ñường công cán), ñối diện với dinh Tuần vũ; về sau, ở phía ñông có tòa Công sứ, phía tây có ñồn Khố Xanh. Theo tài liệu Quảng Ngãi tỉnh chí do Tuần vũ Quảng Ngãi Nguyễn Bá Trác chủ trương, biên soạn năm 1933, tại nội thành Quảng Ngãi có số nhà tư là 87 nóc với số người là 584 người, nhà tranh làm liền kề bên nhau của các công chức làm việc trong thành. Thời Nhật chiếm ñóng, quân Nhật ñóng quân cố thủ trong thành khi Cách mạng tháng Tám bùng nổ, sau phải rút ñi. Năm 1947, thành ñược san bằng ñể thực hiện tiêu thổ kháng chiến.

Về tỉnh thành Quảng Ngãi trước khi dời về xã Chánh Mông, sách ðại Nam nhất thống chí cũng như các sách cổ khác ñều ghi là ở xã Phú Nhơn, huyện Bình Sơn (nay thuộc huyện Sơn Tịnh), ñầu niên hiệu Gia Long (1802) dời ñến xã Phú ðăng huyện Chương Nghĩa. Xã Phú Nhơn nay thuộc thị trấn huyện lị Sơn Tịnh, nằm ở bắc sông Trà Khúc, gần sát với tỉnh lỵ Quảng Ngãi ngày nay. Tuy vậy, ở ñây không còn dấu vết gì vì có lẽ tỉnh thành hồ i ấy chỉ xây dựng tạm bợ. Còn Phú ðăng có thể là một ñịa ñ iểm cách thành phố Quảng Ngãi 10km về phía ñông, nằm bên sông Phú Thọ. Sách bản ñồ cổ Lê Hoàng triều kỷ có ghi rõ bên dòng sông này có nhà kho Phú ðăng (Phú ðăng khố). Nơi ñây xưa là ñược coi là cảng biển chính của tỉnh Quảng Ngãi. Tuy vậy, cho ñến nay chưa thấy dấu vết nào của tỉnh thành, có lẽ vì tỉnh thành ñược ñặt ở ñây trong một thời gian quá ngắn ngủi (1802 - 1807) nên chưa kịp xây dựng gì.

Hiện nay, dù không còn, nhưng dấu vết xưa của thành Quảng Ngãi ở Chánh Lộ vẫn còn rõ. ðó là các hào thành, các ñịa ñiểm Cửa Tây, Cửa ðông, Cửa Bắc. Khuôn viên nội thành nay là một số cơ quan của tỉnh và khu dân cư.

Tỉnh lỵ Quảng Ngãi dời về xã Chánh Mông tính ñến năm 2007 là tròn 200 năm, tính từ năm 1807. Nhưng tỉnh thành Quảng Ngãi chỉ là một phần nhỏ của xã Chánh Mông, ñịa bàn thành phố Quảng Ngãi ngày nay rộng lớn hơn nhiều.

Page 5: Các Huyện - Thành phố

Ñòa chí Quaûng Ngaõi Trang 5

ðịa bàn thành phố Quảng Ngãi

ðịa bàn thành phố Quảng Ngãi ngày nay khá rộng, gồm các thôn xã xưa: xã Ba La, thôn Ngọc Án, xã Chánh Mông, châu Vạn Tượng, xã Thu Phố, xã ðại Nham, châu Phù Khế thuộc các tổng Nghĩa Hạ, Nghĩa Châu của huyện Chương Nghĩa. Xã Chánh Mông nguyên có tên là xã Cù Mông, ñời Gia Long thuộc tổng Trung, sau thuộc về tổng Nghĩa ðiền huyện Chương Nghĩa, có 815 mẫu ruộng ñất. ðời Minh Mạng, Cù Mông ñổi là Chánh Mông. ðời vua ðồng Khánh (1885 - 1888) ñể tránh tên húy, xã Chánh Mông ñổi tên là xã Chánh Lộ. Xã Ba La ñời vua Gia Long thuộc về tổng Trung, sau thuộc tổng Nghĩa Hạ, huyện Chương Nghĩa, có 698 mẫu ruộng ñất. Châu Vạn Tượng cũng thuộc tổng Trung, sau về tổng Nghĩa Hạ, ñời Gia Long có gần 123 mẫu ruộng ñất. Xã Thu Phố ñời Gia Long thuộc tổng Thượng, sau thuộc về tổng Nghĩa Trung, có 216 mẫu ruộng ñất. ðến trước năm 1945, diện tích xã Thu Phố có ñến 1.532 mẫu Trung Bộ với số dân 3.036 người. Xã Ngọc Án vốn chỉ là lưu dân ngụ cư. Xã ðại Nham và châu Phù Khế nhỏ hẹp, nằm sát bãi sông Trà Khúc. ðô thị Quảng Ngãi manh nha hình thành ở phía tây thành, gọi là Chánh Lộ phố. Cho ñến năm 1933, các tác giả Quảng Ngãi tỉnh chí chép rằng "Thành phố Quảng Ngãi số nhà ñếm ñược là 331 cái và số người là 1.378 người, vừa lớn, nhỏ, ñàn ông, ñàn bà". Ngày 14.5 Âm lịch năm Bảo ðại thứ 9 (25.6.1934) có dụ số 23 của vua Bảo ðại quyết ñịnh thiết lập một ñô thị trung tâm cùng tên, thay cho tỉnh thành Quảng Ngãi "bị tước danh tịch". ðô thị này mở rộng lên hướng tây, rộng 133ha 2.462m2, thuộc xã Chánh Mông và xã Thu Phố, phía tây ñến ga và ñường sắt Quảng Ngãi (vừa mới xây dựng). ðến trước năm 1945, ở xã Chánh Lộ, bên ngoài tỉnh thành có Chánh Lộ phố gồm các phường: Bắc Môn, Bắc Lộ, Nam Lộ, sau ñó có thêm phường Thu Lộ.

Sau Cách mạng tháng Tám 1945, Chánh Lộ phố ñược quyết ñịnh thành lập ñơn vị thị xã Quảng Ngãi trực thuộc tỉnh. Các làng xã khác (như ñã kể trên) vẫn thuộc huyện Tư Nghĩa. Sau kháng chiến toàn quốc bùng nổ (tháng 12.1946), thực hiện tiêu thổ kháng chiến, các cơ quan tỉnh sơ tán về các vùng quê xa, ñơn vị thị xã Quảng Ngãi nhập chung với xã Nghĩa Lộ huyện Tư Nghĩa..

Sau Hiệp ñịnh Giơnevơ 1954, chính quyền Sài Gòn thành lập xã Cẩm Thành với 4 ấp: Bắc Môn, Bắc Lộ, Nam Lộ, Thu Lộ. Theo Nghị ñịnh số 314-BNV/HC/Nð ngày 12.6.1958 của Bộ trưởng Bộ Nội vụ Việt Nam Cộng hòa (chính quyền Sài Gòn) thì Cẩm Thành vẫn thuộc quận (huyện) Tư Nghĩa, có ghi chú thêm: "xã này có thể ñặt trực thuộc tòa tỉnh trưởng". Nhưng theo các văn bản hành chính, cho ñến tháng 3.1975 các vùng ven vẫn thuộc quận (huyện) Tư Nghĩa.

Tháng 5.1965 (trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước), phía kháng chiến thành lập ñơn vị thị xã Quảng Ngãi ñể ñẩy mạnh phong trào cách mạng trong ñô thị. Từ năm 1968, ở phía kháng chiến, ñịa bàn thị xã Quảng Ngãi ngoài 4 ấp nội thị ñược tính gồm cả xã Nghĩa Lộ, xã Nghĩa ðiền, xã Nghĩa Dõng (huyện Tư Nghĩa) và thôn ðông Dương của xã Tịnh Ấn (huyện Sơn Tịnh).

Page 6: Các Huyện - Thành phố

Ñòa chí Quaûng Ngaõi Trang 6

Sau ngày thị xã Quảng Ngãi ñược giải phóng (24.3.1975), ñơn vị hành chính ñược ñiều chỉnh, gồm 4 phường, 3 xã như sau: ấp Bắc Môn ñổi thành phường Lê Hồng Phong; ấp Bắc Lộ ñổi thành phường Trần Hưng ðạo; ấp Nam Lộ ñổi thành phường Nguyễn Nghiêm; ấp Thu Lộ ñổi thành phường Trần Phú; xã Nghĩa Lộ (xã Tư Chánh thời chính quyền Sài Gòn); xã Nghĩa ð iền (xã Tư Quang thời chính quyền Sài Gòn); xã Nghĩa Dõng (xã Tư Bình thời chính quyền Sài Gòn). Riêng thôn ðông Dương trả về cho xã Tịnh Ấn.

Ngày 12.2.1976, thị xã Quảng Ngãi hợp nhất với huyện Tư Nghĩa thành thị xã Quảng Nghĩa với số xã phường kể trên và 11 xã của huyện Tư Nghĩa. Tháng 3.1979, xã Nghĩa Lộ tách lập thành 2 xã Nghĩa Lộ, Nghĩa Chánh.

Cuối năm 1981, thị xã Quảng Nghĩa tái lập thành 2 ñơn vị: thị xã Quảng Ngãi và huyện Tư Nghĩa và có sự ñiều chỉnh ñịa giới hành chính so với trước. Thị xã Quảng Ngãi có 4 phường (Lê Hồng Phong, Trần Hưng ðạo, Nguyễn Nghiêm, Trần Phú) và 5 xã (Quảng Phú, Nghĩa Lộ, Nghĩa Chánh, Nghĩa Dũng, Nghĩa Dõng). Trong ñó, xã Quảng Phú mới thành lập gồm 3 thôn của xã Nghĩa ðiền (một phần xã Nghĩa ðiền giao về cho huyện Tư Nghĩa) là Thu Phổ ðông, Thu Phổ Tây, Thạch Phổ (các thôn này trước năm 1945 thuộc xã Thu Phố); xã Nghĩa Dũng ñược tách từ xã Nghĩa Dõng cũ, xã Nghĩa Dõng tương ñương với xã Ba La xưa, xã Nghĩa Dũng tương ñương với châu Vạn Tượng và một phần xã Ba La, các làng ðại Nham, Phù Khế.

Tháng 7.1989, tỉnh Quảng Ngãi ñược tái lập. Thị xã Quảng Ngãi trở thành tỉnh lỵ như trước. Tháng 7.1991, xã Nghĩa Lộ ñược tách lập làm phường Chánh Lộ và xã Nghĩa Lộ. Năm 1994, xã Nghĩa Lộ ñổi thành phường Nghĩa Lộ. Xã Quảng Phú cũng ñược ñổi là phường Quảng Phú.

Cho ñến cuối năm 2004, thị xã Quảng Ngãi có 8 phường, 2 xã (như ñã kể trên). Các khối phố ñổi ra nhiều tổ dân phố. Năm 2002, thị xã Quảng Ngãi ñược công nhận ñô thị loại 3 và ñến ngày 26.8.2005 có Nghị ñịnh của Chính phủ thành lập thành phố trực thuộc tỉnh.

Về tự nhiên,(2). Phía ñông - ñông nam núi Bút có hòn Nghiên, quen gọ i là hòn Mu Rùa, hiện có một ñơn vị ñiện lực ñóng. Phía nam - tây nam có một gò ñồi, xưa gọi là núi Sơn Xuyên (vì có ñàn Sơn Xuyên thờ sông núi), sau gọi là Quy Sơn, vì có Quy Sơn Tự do Nguyễn Hữu Mưu lập từ ñời Nguyễn. Núi Trấn Công, tục gọi là núi Ông hay núi Ông Trấn, trước kia gọi là núi Phước hay Phước Lãnh, hay Ngũ Phước, tương truyền có nhiều dơi, là loài vật ñược xem gắn với phúc. Núi nằm ở phía tây thành phố thuộc phường Quảng Phú, chân ngâm vào sông Trà Khúc. Núi Trấn Công xưa có lăng thờ Trấn Quận công Bùi Tá Hán, danh tướng ñời Lê Trung hưng. Về sau, do xây dựng Nhà máy ðường Quảng Ngãi nên ñền thờ phải dời về Rừng Lăng. ðại bộ phận ñất ñai của thành phố Quảng Ngãi là ñồng bằng, có ñộ cao từ 4 - 9m so với mặt biển, trong ñó vùng phía tây (phường Quảng Phú) cao hơn cả.

Page 7: Các Huyện - Thành phố

Ñòa chí Quaûng Ngaõi Trang 7

Khí hậu thành phố Quảng Ngãi mang ñặc trưng chung của vùng ñồng bằng ven biển tỉnh Quảng Ngãi.

Về dân cư: Tính ñến năm 2005, cư dân thành phố Quảng Ngãi có 122.567 người. Diện tích tự nhiên, dân số, mật ñộ dân số cụ thể của từng xã, phường như sau(3):

TT Xã, phường Diện tích tự nhiên (km2)

Dân số (người)

M ật ñộ dân số (người/km2)

1 Phường Lê Hồng Phong 3,38 8.234 2.436 2 Phường Trần Phú 2,179 14.281 6.551 3 Phường Trần Hưng ðạo 0,52 10.309 19.810 4 Phường Nguyễn Nghiêm 0,525 10.094 19.194 5 Phường Nghĩa Lộ 4,01 14.461 3.607 6 Phường Chánh Lộ 2,57 13.462 5.368 7 Phường Quảng Phú 7,27 17.648 2.426 8 Phường Nghĩa Chánh 4,03 12.682 3.143 9 Xã Nghĩa Dõng 6,06 10.537 1.736 10 Xã Nghĩa Dũng 6,62 10.860 1.640

Tổng số 37,12 122.567 3.302

Trong số 122.567 người dân ở thành phố Quảng Ngãi thời ñ iểm năm 2005, chỉ có 425 người Hrê, 110 người Cor, 1 người Ca Dong (từ các huyện miền núi trong tỉnh) mà phần nhiều trong số này là lớp trẻ ñang theo học trường dân tộc nội trú tỉnh (nằm trên ñịa bàn phường Quảng Phú) và 28 người thuộc các dân tộc khác theo vợ, chồng về thành phố sinh sống.

Tuyệt ñại ña số dân cư ở thành phố Quảng Ngãi là người Việt. Xưa kia, trên ñịa bàn này có lớp dân cư cổ sinh tụ là người Chăm. Về sau, thị xã Quảng Ngãi có thêm một ít người Việt gốc Hoa, Ấn kiều. Thời thuộc Pháp có thêm một số quan chức Pháp, thời chính quyền Sài Gòn kiểm soát có một số viên chức dân sự và quân sự Mỹ; từ sau 1975, có thêm một số ñồng bào dân tộc thiểu số miền núi trong tỉnh và từ các tỉnh khác về cư ngụ, nhưng ñều không nhiều(4).

Thời chính quyền Sài Gòn, vào khoảng giữa năm 1962, vùng nội thành Quảng Ngãi gồm 4 ấp có số dân 8.816 người với 1.737 gia ñình. Cụ thể: ấp Bắc Môn có 1.128 người với 225 gia ñình; ấp Bắc Lộ có 2.432 người với 535 gia ñình; ấp Nam Lộ có 3.793 người với 666 gia ñình; ấp Thu Lộ có 1.363 người với 311 gia ñình.

Vùng ngoại thành có tổng cộng 23.314 người với 4.503 gia ñình. Cụ thể: xã Tư Quang (chỉ tính hai ấp Thu Phổ ðông, Thu Phổ Tây, sau này là phường Quảng Phú) có 5.671 người với 824 gia ñình; xã Tư Bình (sau này là hai xã Nghĩa Dõng, Nghĩa Dũng) có 7.055 người với 1.673 gia ñình; xã Tư Chánh (sau này là các phường Nghĩa Chánh, Nghĩa Lộ, Chánh Lộ) có 10.588 người với 2.206 gia ñình.

Page 8: Các Huyện - Thành phố

Ñòa chí Quaûng Ngaõi Trang 8

Tổng cộng cả vùng nội và ngoại thành (tính theo ñịa bàn thành phố Quảng Ngãi ngày nay) có 32.130 người với 6.240 gia ñình.

Vào thời ñiểm chiến tranh nổ ra ác liệt, dân cư các huyện trong tỉnh tập trung ở ñịa hạt thành phố rất ñông. Vào thời ñiểm tháng 5.1972, ở xã Cẩm Thành (nội thị) có ñến 46.714 người, xã Tư Chánh có 36.615 người, xã Tư Quang có 17.834 người, xã Tư Bình có 9.881 người, tổng cộng cả nội thị và ngoại vi có ñến 111.044 người. ðến năm 1975, giải phóng toàn tỉnh, số dân tạm trú lần lượt trở về quê cũ(5).

Cư dân thành phố Quảng Ngãi xưa có người Chăm qua các dấu tích còn sót lại. Cư dân Việt làm nông và dấu ấn nông nghiệp cho ñến nay vẫn còn rất rõ. Thành phố Quảng Ngãi ñược ñô thị hóa khá muộn, nên các ngành nghề công nghiệp, thương mại, dịch vụ cũng chỉ mới hình thành và phát triển vào cuối thế kỷ XX về sau và ñang có xu hướng tăng nhanh. Dân cư Việt ở thành phố Quảng Ngãi xưa vốn giỏi về nghề nông, ñặc biệt giỏ i về việc làm bờ xe nước dọc sông Trà Khúc. Người dân ở ñây cũng rất hiếu học, với nhiều người học giỏi, ñỗ ñạt cao, trong ñó nổi bật có các "danh tộc", như tộc Bùi (của Bùi Tá Hán), tộc Tạ (của Tạ Tương ở Nghĩa Lộ), tộc Nguyễn ở Vạn Tượng, Nghĩa Dũng (của Nguyễn Duy Cung), tộc Nguyễn ở Ba La (Nghĩa Dõng)… Một ñặc ñiểm quan trọng của cư dân thành phố Quảng Ngãi ngày nay là tỉ lệ cư dân chuyển từ các huyện về khá cao, do tốc ñộ ñô thị hóa ñang diễn ra tương ñối nhanh. Sự biến ñổi dân số ở thành phố Quảng Ngãi là số dân di chuyển cơ học nhiều, do vậy bên cạnh việc xem xét mức ñộ tăng giảm dân số tự nhiên, sự tăng giảm (cả chuyển ñ i và chuyển ñến) dân số cơ học là không thể bỏ qua.

* * *

Về truyền thống yêu nước của cư dân thành phố Quảng Ngãi, người ta thấy có những dấu hiệu có thể là dấu vết của phong trào Tây Sơn thế kỷ XVIII qua các ñịa danh như Tàu Tượng, bãi Ông Bành, Bàu Voi, khu Mả Voi, có thể là những dấu tích về tượng binh thời Tây Sơn. Trong phong trào Cần vương (1885 - 1896), các thủ lĩnh Lê Trung ðình, Nguyễn Tự Tân, Nguyễn Bá Loan, Thái Thú, Trần Du... ñều lấy tỉnh thành Quảng Ngãi làm mục tiêu tấn công và ñều ñược sự ủng hộ của dân cư ở quanh vùng. Ông Bùi Phụ Cát người xã Thu Phố vận ñộng hương binh ở xã, ông Nguyễn Viện người xã Chánh Mông nằm trong phiên chế triều ñình ñều hưởng ứng cuộc khởi nghĩa của Lê Trung ðình, Nguyễn Tự Tân tháng 7.1885 và bị chém, bị giam cầm ñến chết. Trong phong trào Duy tân ñầu thế kỷ XX, ñịa bàn thành phố Quảng Ngãi là một trọng tâm hoạt ñộng và có cơ sở của phong trào, như hoạt ñộng của Tú tài Trần Kỳ Phong (người Châu Me, Bình Sơn), Cử nhân Lê Tựu Khiết (người An Ba, Nghĩa Hành)... Năm 1908, dân cư ở các huyện trong tỉnh Quảng Ngãi rầm rộ kéo về tỉnh thành ñể "cự sưu khất thuế" (chống sưu thuế) thành biển người vây bọc lấy tỉnh thành, với sự tham gia ủng hộ và giúp ñỡ của rất ñông người dân sở tại. Trong phong trào Việt Nam Quang phục Hộ i, các chí sĩ lãnh ñạo phong trào ở Quảng Ngãi cũng xác ñịnh mục tiêu tấn công thành Quảng Ngãi,

Page 9: Các Huyện - Thành phố

Ñòa chí Quaûng Ngaõi Trang 9

nhưng cuộc khởi nghĩa chiếm thành năm 1916 bại lộ và hàng loạt chí sĩ ñã hy sinh vì nước ngay tại ñây. Tỉnh thành Quảng Ngãi cũng là nơi giam cầm nhiều chiến sĩ cộng sản, trong ñó có nhiều người là cán bộ lãnh ñạo, kể từ 1930, trong số ñó có ñồng chí Nguyễn Nghiêm - Bí thư ñầu tiên của ðảng bộ tỉnh và nhiều người ñã hy sinh tại ñây. Trong kháng chiến chống Pháp, thành Quảng Ngãi ñược san phẳng ñể thực hiện tiêu thổ kháng chiến. Trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, ñịa bàn thành phố Quảng Ngãi là nơi có trung tâm ñầu não của ñịch ở tỉnh Quảng Ngãi, nhưng phong trào yêu nước và cách mạng vẫn phát triển: phong trào bí mật hoạt ñộng ngay trong nội thị, vùng ven, các phong trào ñấu tranh công khai chống Mỹ và chính quyền Sài Gòn, cuộc tấn công và nổi dậy Tết Mậu Thân 1968, cuộc biểu tình lớn năm 1974.

Thành phố Quảng Ngãi là quê hương, nơi hoạt ñộng của các nhân vật lưu danh trong lịch sử như Bùi Tá Hán, Nguyễn Duy Cung… ðơn vị thị xã Quảng Ngãi ñã ñược Chủ tịch nước phong tặng danh hiệu Anh hùng Lực lượng Vũ trang nhân dân ngày 29.4.2000; hai xã Nghĩa Dũng, Nghĩa Dõng ñược phong tặng danh hiệu cao quý này ngày 22.8.1998. Thành phố Quảng Ngãi có 40 bà mẹ ñược phong tặng danh hiệu cao quý Bà mẹ Việt Nam Anh hùng.

* * *

Về kinh tế, thành phố Quảng Ngãi là nơi tập trung các hoạt ñộng kinh tế, là trung tâm kinh tế của tỉnh Quảng Ngãi xưa và nay. Tuy vậy, do hoàn cảnh là một ñô thị phát triển muộn, nông nghiệp ở ñịa bàn thành phố Quảng Ngãi trước ñây còn chiếm một tỷ trọng ñáng kể. Hiện nay, cơ cấu kinh tế chuyển ñổi dần và các lĩnh vực công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp - thương mại - dịch vụ ñã chiếm một tỷ lệ cao trong cơ cấu kinh tế.

Tốc ñộ tăng trưởng kinh tế hằng năm ở thành phố Quảng Ngãi trong giai ñoạn 2000 - 2004 là 14,67%. Cơ cấu kinh tế ở thành phố Quảng Ngãi hiện nay ñược xác ñịnh là: công - thương - nông nghiệp.

Nghề nông

Nghề nông tuy không còn chiếm tỉ trọng cao trong kinh tế, nhưng là ngành kinh tế lâu ñời nhất và vẫn là nguồn sống quan trọng của một bộ phận dân cư ở thành phố Quảng Ngãi ngày nay. Nếu xét ở quá khứ chưa xa, thì nghề nông càng có vai trò quan trọng và có nhiều ñ iều ñáng chú ý. ðất ñai ở ñịa bàn thành phố ñược phù sa sông Trà Khúc bồi ñắp hằng năm, khá màu mỡ. Ngoài việc trồng lúa, mía, nhiều cây trồng vật nuôi khác cũng rất ñáng kể. Thời Pháp thuộc, ở gần cầu Trà Khúc có bãi ñất trồng thí nghiệm giống lúa mới, có trại thí nghiệm nuôi tằm, có Sở Thú y ñể chọn giống, phòng chữa bệnh trâu, bò, heo.

Page 10: Các Huyện - Thành phố

Ñòa chí Quaûng Ngaõi Trang 10

Người nông dân ở các làng quê xưa chủ yếu trồng lúa, mía, ngô, rau, ñậu (ở ven sông) ñể sinh sống. Người dân các làng ở thành phố xưa vốn tự hào về những ñồng lúa rộng, ñất ñai màu mỡ, như về cánh ñồng Ba La:

Ba La chạy tới Cù Mông

Chạy quanh chạy quéo cũng về ñồng Ba La.

Lúa là cây lương thực chính. Sản lượng lúa cả năm 2005 ñạt 8.175,10 tấn, tổng sản lượng lương thực có hạt là 11.953 tấn. Do là nơi tập trung lao ñộng phi nông nghiệp rất lớn nên bình quân lương thực ñầu người chỉ ñạt 97kg, ñất nông nghiệp chỉ có 1.714,9ha. Trong sản lượng lương thực, ngô 3.549,4 tấn (chiếm gần 1/3). Cây mía vẫn ñược duy trì ở mức thấp với chỉ 100ha. Cây lạc có 130ha với sản lượng 305,10 tấn, rau 24.850,10 tấn (trong ñó xã Nghĩa Dũng 13.060 tấn, Nghĩa Dõng 6.252,20 tấn). Trong ñiều kiện một thành phố ñang ñô thị hóa, thì diện tích ñất nông nghiệp ngày càng thu hẹp, thời ñiểm năm 2005, diện tích ñất nông nghiệp còn 1.662,78ha, trừ 570,58ha ñất trồng cây lâu năm, chỉ còn gần 1.100ha ñất trồng cây hàng năm. Trong số ấy, các phường ở khu vực trung tâm là Lê Hồng Phong, Trần Phú, Trần Hưng ðạo, Nguyễn Nghiêm có diện tích không ñáng kể, mỗi xã, phường còn lại có từ 150 - 400ha.

Các vật nuôi chính là trâu, bò, heo, gà. Tuy vậy, với ñiều kiện ñất canh tác chật hẹp, chăn nuôi cũng khó phát triển. Tính ở thời ñiểm năm 2005, thành phố chỉ có 212 con trâu, 6.910 con bò, 27.015 con lợn. Về gia cầm có số lượng tương ñối nhiều, gà 61.600 con, vịt 10.400 con. Trong nông nghiệp, việc làm thuỷ lợi từ xưa ñã khá nổi bật với các bờ xe nước ở dọc hữu ngạn sông Trà Khúc, với việc ñào kênh Tư Nghĩa (nối sông Trà Khúc với sông Bàu Giang) ở phía tây thành phố trong kháng chiến chống Pháp, với việc ñào ñắp kênh mương Thạch Nham sau năm 1975. Về bờ xe nước, năm 1939 ở Thu Phố từng có bờ xe nước 9 bánh, tưới ñược 150 mẫu ruộng, số hoa lợi thu ñược 20.184 ang lúa, tiền làm xe, số lợi nhuận ñều cao nhất trong tỉnh Quảng Ngãi(6). Ở Ba La xưa từng có bờ xe ñôi. Năm 1888, ông Võ Văn Giu quê làng Ba La xin dựng xe nước ở Chánh Lộ, cũng là bờ xe ñôi, ñể tưới cho ñồng lúa Bàu Lân, Thông Viên, Cổ ðồng. Xe nước tiếp tục ñược dựng ñặt hằng năm cho tới sau năm 1975 mới chấm dứt. Xưa kia, ñịa hạt thành phố Quảng Ngãi còn khá nhiều rừng như rừng Lăng, rừng trên núi Thiên Bút, có cả thú rừng (ở Thu Phổ vẫn còn lưu dấu chân hổ trên khu mộ cụ Bùi Tá Triều, ñời vua Minh Mạng). Hiện nay, ở núi Ông, núi Bút ñã và ñang hình thành các lâm viên rừng trồng. Ngoài việc làm nông, người nông dân trên ñịa bàn xưa kia còn tiến hành ñánh bắt cá trên sông Trà như một nguồn thu nhập ñáng kể. Cho ñến nay, quá trình ñô thị hóa khiến ñất ñai canh tác bị dần thu hẹp. Nông nghiệp chủ yếu duy trì ở các phường xã vùng ven như phường Quảng Phú phía tây, xã Nghĩa Dũng, xã Nghĩa Dõng ở phía ñông, phường Nghĩa Lộ, Chánh Lộ ở phía nam. Ở các xã Nghĩa Dũng, Nghĩa Dõng, bên cạnh việc duy trì nghề nông với canh tác còn mang ñậm dấu ấn cổ truyền (có cải tiến), người ta còn chú ý ñến phát triển công thương

Page 11: Các Huyện - Thành phố

Ñòa chí Quaûng Ngaõi Trang 11

nghiệp, dịch vụ, kinh tế vườn, thâm canh trồng rau xanh, trồng hoa, cây cảnh... cung cấp cho vùng nội thị một lượng nông sản hàng hóa rất ñáng kể.

Tính ñến năm 2005, trong tổng số 47.561 lao ñộng ở thành phố Quảng Ngãi, lao ñộng nông nghiệp chiếm 5.100 người, tuy tỷ lệ chỉ trên 10%, nhưng về số lượng vẫn khá lớn.

Tiểu thủ công nghiệp

Trong hoạt ñộng kinh tế xưa kia, ở ñịa bàn thành phố Quảng Ngãi hoạt ñộng kinh tế tiểu thủ công nghiệp cũng khá ñáng kể. Tập ðịa dư tỉnh Quảng Ngãi của Nguyễn ðóa và Nguyễn ðạt Nhơn viết năm 1939 ghi nhận nghề làm ñường cát, ñường phèn ở Vạn Tượng, Chánh Lộ, nghề dệt ở Chánh Lộ, nghề mộc ở tỉnh lỵ "Tại tỉnh lỵ có vài ba cửa hàng ñóng bàn ghế theo kiểu tân thời, ñánh xia bóng nhoáng trông rất ñẹp" (trang 20). Nhưng nổi tiếng nhất là các nghề làm ñường muỗng và các nghề phổ biến khác, sản xuất các loại ñường kẹo ñặc sản như ñường phèn, ñường phổi ở Ba La, Vạn Tượng, các món ăn ñặc sắc như cá bống sông Trà, don Vạn Tượng.

Anh ñi anh nhớ quê nhà

Nhớ con cá bống sông Trà kho tiêu.

(ca dao)

Con gái còn son không bằng tô don Vạn Tượng.

(ngạn ngữ)

Trải qua thời gian, các nghề thủ công truyền thống ở thành phố Quảng Ngãi vẫn ñược duy trì, ñồng thời các nghề mới hình thành, thịnh hành như các nghề may mặc, nhôm sắt, ñồ gỗ... phổ biến trong phạm vi gia ñình, nhưng cũng ñã có nhiều cơ sở trở thành doanh nghiệp. ðặc biệt, nghề chế biến món bò khô Quảng Ngãi ñã nổi tiếng không chỉ ở thị trường trong tỉnh mà sản phẩm của nó còn lan ra nhiều vùng trong nước.

ðiều ñáng lưu ý là các ngành nghề thủ công cổ truyền chế biến ñường kẹo ñặc sản như kẹo gương, ñường phèn, ñường phổi, mạch nha... từ vùng ven và các vùng quê trong tỉnh Quảng Ngãi có xu hướng hộ i tụ về thành phố Quảng Ngãi, trong khi ở quê gốc chỉ hoạt ñộng cầm chừng hoặc gần như không còn. Môi trường thành phố Quảng Ngãi có thể là mảnh ñất tốt ñể các nghề này duy trì và phát triển trong ñiều kiện mới. Hiện trên ñịa bàn thành phố Quảng Ngãi có nhiều cơ sở chế biến và nhiều cửa hàng bán các món ñặc sản như bánh nổ, bánh in, bò khô, các loại ñường phèn, ñường phổi, kẹo gương, mạch nha, cá bống sông Trà khá thịnh ñạt. ðây cũng chính là một ñiều kiện ñể thành phố ña dạng hóa các ngành nghề.

Page 12: Các Huyện - Thành phố

Ñòa chí Quaûng Ngaõi Trang 12

Công nghiệp

Mặc dù là ngành sản xuất hình thành muộn nhưng công nghiệp ở thành phố Quảng Ngãi có sự phát triển nhanh và rõ nét nhất. Trước kia, cơ sở công nghiệp ở thành phố Quảng Ngãi hầu như không có. ðến thời chính quyền Sài Gòn quản lý, cơ sở công nghiệp ñáng kể duy nhất xuất hiện là Nhà máy ñường Thu Phổ, Công ty ðường Quảng Ngãi, xây dựng ở chân núi Ông. Từ năm 1975, các ngành nghề công nhiệp mới dần hình thành và khu công nghiệp Quảng Phú ở phía tây thành phố ñược thành lập. ðây là một trong ba khu công nghiệp tập trung do tỉnh Quảng Ngãi ñầu tư xây dựng. Tính ñến năm 2005, khu công nghiệp này có 8 doanh nghiệp nhà nước với số lao ñộng trên 6.000 người. Khu công nghiệp Quảng Phú chủ yếu là công nghiệp chế biến thực phẩm như ñường, kẹo, sữa, nước uống, hải sản ñông lạnh... Thành phố Quảng Ngãi cũng xúc tiến ñể hình thành hai cụm công nghiệp tập trung là cụm công nghiệp Thiên Bút với diện tích 50ha và cụm công nghiệp Yên Phú diện tích 30ha. Thống kê cho thấy ñến hết năm 2005, thành phố Quảng Ngãi có 1.704 cơ sở sản xuất công nghiệp, trong ñó có 5 doanh nghiệp nhà nước do Trung ương quản lý, 4 doanh nghiệp nhà nước do ñịa phương quản lý, 1.649 doanh nghiệp cá thể, 46 doanh nghiệp tư nhân, tổng số cơ sở tăng 2.000 so với năm 2000. Lao ñộng sản xuất công nghiệp cá thể là 6.300 người. Giá trị sản xuất công nghiệp trên ñịa bàn thành phố theo giá hiện hành năm 2005 là 2.250.270 triệu ñồng, chiếm trên 2/3 giá trị sản xuất công nghiệp trên ñịa bàn toàn tỉnh và tăng khoảng 3/5 so với chính thành phố năm 2000 (934.850 triệu ñồng)(7).

Thương mại, dịch vụ, du lịch

Hoạt ñộng thương mại, dịch vụ, du lịch ngày càng chiếm vị trí nổi bật ở thành phố Quảng Ngãi. Xưa ở ñịa bàn các làng quê nơi ñây ñều có chợ: chợ Ông Bố (phía tây), chợ Ba La (phía ñông), chợ Gò Quán (phía nam), chợ Phú Mỹ Hạ... và lớn nhất là chợ Chánh Lộ, sau trở thành chợ tỉnh, nơi hội tụ việc mua bán của toàn tỉnh. Sách L’ Annam en 1906 chép "Chợ tỉnh (Chánh Lộ xã) cung cấp ñược khá tốt và có tầm quan trọng ñến các vùng lân cận của thành". ðến năm 1933, các tác giả Quảng Ngãi tỉnh chí có ghi chép về số thuế của chợ tỉnh là 1.353,6 ñồng (tiền ðông Dương), cao vượt trội so với các chợ khác trong tỉnh. Sách ðịa dư tỉnh Quảng Ngãi của Nguyễn ðóa và Nguyễn ðạt Nhơn xuất bản năm 1939 mô tả về không khí buôn bán ở ñây: "Thành phố Quảng Ngãi cũng là nơi hội hiệp các công sở lớn như Tòa sứ, dinh Quan Tuần, ñồn Khố xanh... dân cư trù mật khoảng trên 3.000 người. Con ñường cửa Tây phố xá ñông ñúc, buôn bán ñồ tạp hóa, quang cảnh ngày ñêm có vẻ náo nhiệt". Các nhà buôn ở thành phố hồi này phần lớn là Hoa kiều, Ấn kiều. Trong số các hiệu buôn của người Việt nổi tiếng có các hiệu Quảng ðông An, Quảng Hòa Tế, Mỹ ðông An, Lợi An, Phạm Hoè... Phía bắc tỉnh thành có bến Tam Thương, có sông ðào ñể ghe thuyền vào ra buôn bán (sông ðào ñược ñào từ năm 1938). Chợ tỉnh xưa xây dựng ở phía tây tỉnh thành, giữa vùng sầm uất nhất ở nộ i thị, sau này mở rộng ra ñến phố Nguyễn Nghiêm ở phía nam. Ngoài chợ, việc buôn bán, làm dịch vụ rải rác ở khắp các phố phường. Xưa trong thời Pháp thuộc ở ñô thị Quảng Ngãi, dịch vụ mới manh nha phát triển như dịch vụ

Page 13: Các Huyện - Thành phố

Ñòa chí Quaûng Ngaõi Trang 13

xe kéo, xe ngựa, cắt tóc, may mặc. Cho ñến nay, các dịch vụ trở nên ña dạng hơn nhiều và ngày càng tiếp cận với nhu cầu nhiều mặt của cuộc sống hiện ñại. ðặc biệt sự phát triển của ngành dịch vụ ăn uống, giải trí, nhà nghỉ, khách sạn. Thành phố Quảng Ngãi vẫn là ñiểm ñầu mối dẫn ñến các ñiểm tham quan - du lịch trong tỉnh: ñ i Sa Cần - Dung Quất, ñi dầu mố i Thạch Nham, ñ i Thiên Ấn - Sơn Mỹ - Mỹ Khê - Ba Làng An, ñi Phú Thọ - Cổ Luỹ, ñi Nhà lưu niệm Phạm Văn ðồng, ñi Bảo tàng Khởi nghĩa Ba Tơ... ñều trong khoảng vài ba mươi ñến 60km. Năm 2005, có 7.214 cơ sở kinh doanh thương mại - dịch vụ với 12.146 lao ñộng.

Thành phố Quảng Ngãi có Quốc lộ 1 và ñường sắt Bắc - Nam chạy qua. Ga Quảng Ngãi là ga chính trong tỉnh, phục vụ hành khách ñi ra Bắc, vào Nam. ðường sắt ñược xây dựng từ thời Pháp thuộc, ga Quảng Ngãi hoàn thành từ năm 1935, bấy giờ quen gọ i là ga Ông Bố (gần chợ Ông Bố). Quốc lộ 1 ñoạn qua thành phố Quảng Ngãi có tên là ñường Quang Trung, sau này xây ñường cao tốc ở phía ñông gọi là ñường tránh ñông, có cầu Trà Khúc II xây dựng từ năm 2004. Từ thành phố Quảng Ngãi theo Quốc lộ 1 có thể vào Nam ra Bắc rất thuận tiện. Thời ñường bộ chưa phát triển, ñường thuỷ vẫn ñóng vai trò quan trọng ở thành phố Quảng Ngãi, với ñò ngang Trà Khúc nối ñường Thiên Lý, ñò dọc từ bến Tam Thương lên nguồn xuống biển. Về ñường không, thời Pháp thuộc (năm 1920), có một chiếc máy bay ñáp thử xuống xã Thu Phố (nay thuộc xã Quảng Phú), nơi mà sau này, trong thời kỳ ñất nước bị chia cắt, chính quyền Sài Gòn ñã xây dựng sân bay. Sân bay Quảng Ngãi thời kỳ này khá nhộn nhịp, nhưng kể từ sau năm 1975 ñã ngưng hoạt ñộng. Hoạt ñộng giao thông - vận tải ở thành phố Quảng Ngãi ngày nay chủ yếu dựa vào hệ thống ñường sắt và ñường bộ.

Các dịch vụ, cơ sở hạ tầng khác

Thời phong kiến, ñường Thiên Lý Bắc - Nam ñi qua thành phố Quảng Ngãi, nhưng ở ñây không có dịch trạm. Thời Pháp thuộc, thực dân thiết lập "Nhà dây thép" trong nội thành Quảng Ngãi. ðến thời chính quyền Sài Gòn quản lý, Nhà Bưu ñiện tỉnh ñược xây dựng ở vị trí ngày nay (ñường Phan ðình Phùng), Bưu ñiện thành phố (nằm ở ñường Quang Trung), có hệ thống phục vụ thông tin khá tốt trên ñịa hạt thành phố và trong toàn tỉnh. Số ñiện thoại thuê bao trên ñịa bàn thành phố ñạt 18.588 máy vào năm 2005.

Nhà máy ñiện trước kia, sau này là ð iện lực Quảng Ngãi có trụ sở trên ñường Trần Hưng ðạo. Nguồn ñiện mới manh nha từ trước 1945, ñến sau 1954 mới có sự phát triển nhất ñịnh nhưng còn rất hạn chế. ðến thời kỳ ñất nước thống nhất, khi có ñiện lưới quốc gia, mới hoàn toàn phủ ñiện trên toàn thành phố. Mạng lưới ñiện ở thành phố Quảng Ngãi dần dần ñược cải tạo, nâng cấp ñể ñảm bảo về kỹ thuật, an toàn, tiết kiệm.

Lĩnh vực tài chính, từ thời Pháp thuộc ở ñịa hạt thành phố Quảng Ngãi cũng ñã có ngân hàng cho vay nhưng còn nhỏ nhoi, không ñáng kể. Hệ thống tài chính, ngân hàng của tỉnh ñặt ở thành phố Quảng Ngãi trải qua thời gian, ñến nay ñã phát triển mạnh, bao gồm: Ngân hàng Nhà nước nằm trên ñường Nguyễn Thuỵ; Ngân

Page 14: Các Huyện - Thành phố

Ñòa chí Quaûng Ngaõi Trang 14

hàng Công thương, Ngân hàng ðầu tư và phát triển, Kho bạc Nhà nước ñều nằm trên ñường Hùng Vương - trục chính của thành phố; Ngân hàng Nông nghiệp, Ngân hàng Phục vụ người nghèo nằm trên ñường Trần Hưng ðạo - gần sát Ngã Năm cũ. Sự kinh doanh tài chính ñã phát triển khá tốt.

Thành phố Quảng Ngãi là nơi tập trung các hoạt ñộng kinh tế của toàn tỉnh, là ñầu tàu thúc ñẩy sự phát triển kinh tế trong toàn tỉnh Quảng Ngãi. Thành phố ñang trong quá trình "lột xác", ñô thị hóa ñể ñáp ứng yêu cầu phát triển chung.

* * *

Về văn hóa, thành phố Quảng Ngãi là trung tâm văn hóa của tỉnh Quảng Ngãi xưa nay, còn lưu giữ nhiều giá trị văn hóa cổ truyền quý báu.

Khuôn viên Bệnh viện ða khoa tỉnh (ñường Hùng Vương) vốn là nền tháp Chánh Lộ, một tháp có tầm quan trọng trong hệ thống ñền tháp Chăm, với phong cách ñộc ñáo, gọi là phong cách Chánh Lộ. Từ thời Pháp thuộc, các nhà khảo cổ học ñã tìm thấy ở ñây nhiều tượng ñá ñộc ñáo, phần lớn ñưa về lưu giữ ở Bảo tàng ðiêu khắc Chăm (thành phố ðà Nẵng) và sau này trong khi ñào móng, các hiện vật khác cũng xuất lộ, như các sư tử ñá, tấm lanhtô ñá có khắc văn bia bằng tiếng Chăm ñược ñưa về Bảo tàng tổng hợp Quảng Ngãi.

Trải năm, sáu thế kỷ trên mảnh ñất này, văn hóa Việt cũng lưu lại nhiều di tích quý giá. ðền Bùi Tá Hán nguyên xây dựng năm 1909 ở núi Phước Lãnh (từ ngày có ñền gọi là núi Ông hay núi Trấn Công), rộng rãi bề thế. Sau năm 1962, chính quyền Sài Gòn xây dựng Nhà máy ðường Quảng Ngãi ở ñây, ñền phải dời về Rừng Lăng, cách nửa cây số về hướng tây. Tại ñây vốn có mộ Bùi Tá Hán, có bia mộ do 4 nhà nho nổ i tiếng ở Quảng Ngãi ñứng ra xây dựng từ năm 1849. ðền thờ còn lưu giữ ñược nhiều hiện vật quý như tượng Bùi Tá Hán và tượng Xích Y hầu, 23 bản sắc phong của các triều vua phong cho Bùi Tá Hán và con trai là Bùi Tá Thế(8). Thuở xưa, ở các làng xã ñều có ñình làng, nổi tiếng nhất là ñình Chánh Lộ và ñình Ba La. ðình Chánh Lộ ñược xây dựng rất quy mô, bề thế, nằm ở góc ñông bắc của ngã tư chính. Năm 1936, sau dụ của vua Bảo ðại về việc thiết lập ñô thị trung tâm Quảng Ngãi, một số kẻ buôn bán câu kết với viên Công sứ Pháp ñương nhiệm ñịnh xóa sổ ñình, nhập vào ñô thị Quảng Ngãi. Nhưng dân làng Chánh Lộ ñã ñấu tranh quyết liệt ñể bảo vệ ñình. Sau Cách mạng tháng Tám 1945, ñình Chánh Lộ là nơi triển lãm tranh ảnh của tỉnh Lê Trung ðình. ðình Ba La làm bằng gỗ mít, rất rộng (Rộng thình thình như cái ñình Ba La - ngạn ngữ), sau Cách mạng tháng Tám cũng ñược tận dụng cho việc công. ðến năm 1947, thực hiện tiêu thổ kháng chiến, cả hai ñình này cùng với nhiều ñình khác bị dỡ bỏ. Ngoài ra, còn có thể kể về ñình làng Thu Phố, ở phía tây ñường sắt hiện nay. ðình này có thể ñược dựng khá muộn, khoảng năm Canh Ngọ (1810 hoặc 1870), quanh có la thành, có bình phong, bên trái là nhà hộ i, bên phải là hưởng ẩm, toàn nhà tranh. ðình gần chợ ông Bố, mặt quay hướng tây, ñược tu bổ vào năm Khải ðịnh thứ nhất (1916), nay không còn.

Page 15: Các Huyện - Thành phố

Ñòa chí Quaûng Ngaõi Trang 15

Di tích thành quách thì có thành Quảng Ngãi, nay chỉ còn lại một ít dấu vết như bờ thành, hào thành. Ở khoảng giữa phường Chánh Lộ tại xóm Tư Văn có văn miếu huyện Chương Nghĩa. Văn miếu ñược xây dựng từ năm Tự ðức thứ 8 (1855), do văn thân trong huyện quyên tiền cất dựng. Văn miếu có bình ñồ vuông, mỗi cạnh khoảng 10m, có xây thành bao quanh, trước cổng miếu có ghi 4 chữ "Văn kỳ tại tư" (文 其 在 斯) lấy từ sách Luận ngữ - có nghĩa là ñây có thể là ñất văn vậy. Bên trong có xây nhà bia, có tấm bia ñá non nước, mặt trước cũng ghi bốn chữ "Văn kỳ tại tư", mặt sau ghi niên ñại dựng bia là năm Thành Thái thứ 9 (1898).

Thành phố Quảng Ngãi vốn bao gồm nhiều làng quê trù phú, ở ñây cũng còn lưu lại nhiều kiến trúc nhà rường, rất tiêu biểu cho nền kiến trúc của người Việt ở Quảng Ngãi. Xét về di sản kiến trúc thì ở thành phố di sản kiến trúc Pháp không ñáng kể, di sản kiến trúc ñình không còn, nên di sản kiến trúc nhà rường còn tồn tại thật sự là di sản quý, rất ñáng ñể bảo tồn. Văn hóa làng xã vẫn còn dấu ấn ñậm nét, nhất là vùng ven, gồm các xã phía ñông và các thôn ở phía tây thành phố như Nghĩa Dũng, Quảng Phú. Các tập tục, lễ hội, tín ngưỡng của cư dân nơi ñây không khác mấy với các làng quê khác trong tỉnh Quảng Ngãi. Trong di sản văn hóa phi vật thể trên ñịa hạt thành phố Quảng Ngãi ngày nay, ñáng chú ý có các tri thức, kinh nghiệm của các làng nghề ñường kẹo ñặc sản, các món ăn ñặc sản: ñường phèn, ñường phổi, kẹo gương, cá bống sông Trà kho tiêu, cá thài bai, lịch...

Trong quá trình ñấu tranh chống ngoại xâm, ñịa bàn thành phố Quảng Ngãi cũng ñể lại nhiều di tích quý báu như di tích Nhà lao Quảng Ngãi thời Pháp thuộc, di tích 4 dũng sĩ Nghĩa Dũng, di tích 68 liệt sĩ Xuân Mậu Thân...

Từ sau Cách mạng tháng Tám 1945, nền văn hóa cách mạng ñã từng bước hình thành ở thành phố Quảng Ngãi, với các hoạt ñộng xây dựng ñời sống mới, bãi bỏ các tập tục lạc hậu, xây dựng phong trào văn hóa văn nghệ. Văn hóa ñô thị bắt ñầu manh nha, trong khi yếu tố văn hóa làng xã vẫn tiếp tục duy trì. Cũng từ sau Cách mạng tháng Tám 1945, thành phố Quảng Ngãi là một trong những nơi sản sinh các văn nghệ sĩ có tên tuổi trong nước như họa sĩ ðường Ngọc Cảnh, Nghệ sĩ nhân dân Trà Giang, Nghệ sĩ nhân dân Lệ Thi, Nghệ sĩ ưu tú Văn Khánh, Giáo sư Tiến sĩ Lâm Tô Lộc, nhà thơ Nguyễn Viết Lãm(9). Dưới sự quản lý của chính quyền Sài Gòn, thị xã Quảng Ngãi còn tiếp thu văn hóa du nhập từ các nước tư bản, trong ñó không ít các sản phẩm ñộc hại, lai căng. Từ sau 1975, thị xã Quảng Ngãi lại tiếp tục xây dựng văn hóa mới theo hướng dân tộc, hiện ñại. Việc xây dựng nếp sống văn minh ñô thị, giữ gìn vệ sinh môi trường là một vấn ñề nổi cộm trong thời kỳ ñô thị hóa và cơ sở hạ tầng chưa ñồng bộ. Bên cạnh các thiết chế văn hóa của tỉnh, thành phố Quảng Ngãi có thư viện, có ñài truyền thanh, nằm ở ñường Quang Trung, các xã, phường có khu sinh hoạt văn hóa. Các di tích lịch sử - văn hóa và danh lam thắng cảnh lần lượt ñược lập hồ sơ xếp hạng, tôn tạo. Phong trào văn nghệ, phong trào thể dục, thể thao quần chúng ở thị xã Quảng Ngãi ñược duy trì và phát triển. Phòng Văn hóa - Thông tin - Thể dục thể thao (trụ sở ở ñường Phan Chu Trinh) là cơ quan tham mưu cho Uỷ ban nhân dân thành phố quản lý nhà nước trên

Page 16: Các Huyện - Thành phố

Ñòa chí Quaûng Ngaõi Trang 16

lĩnh vực này. Cơ sở hạ tầng ñô thị từng bước ñược cải thiện. Các công viên, quảng trường, nơi vui chơi giải trí ñã ñược xây dựng như Công viên Ba Tơ phía nam cầu Trà Khúc, ñê bao sông Trà, Quảng trường tỉnh, Khu thể thao Diên Hồng.

Về giáo dục, vùng tỉnh lỵ xưa là ñịa bàn mà dân cư có tinh thần hiếu học, ñã ñược ghi nhận là nơi có nhiều người ñỗ ñạt cao thời Nho học. Riêng làng Chánh Mông (Chánh Lộ) có ñến 12 người thi ñỗ Cử nhân trở lên trong thời nhà Nguyễn, là làng có số lượng khoa bảng cao nhất trong tỉnh Quảng Ngãi; làng Ba La có 5 người thi ñỗ, làng Vạn Tượng có 2 người thi ñỗ, làng Thu Phổ có 3 người thi ñỗ. Trong số 22 người ñỗ Cử nhân trở lên, có 1 Tiến sĩ (Tạ Tương), 1 Phó bảng (Lê Văn Vịnh), 3 Giải nguyên (Bùi Phụ Truyền, Tạ Hàm, Phạm Trinh), 3 Á nguyên (Nguyễn Duy Cung, Phạm Viết Duy, ðồng Cát Phủ). Trong số các nhà khoa bảng có Nguyễn Duy Cung là một chí sĩ Cần vương nổ i tiếng về khí tiết, thể hiện trong bài Huyết lệ tâm thư(10). Thời thuộc Pháp, thị xã Quảng Ngãi có các trường Nam Tiểu học, Cẩm Bàn, Mai Xưa. Thời kháng chiến chống Pháp, thị xã có Trường Trung học Lê Khiết thời kỳ mới thành lập. Thời chính quyền Sài Gòn quản lí, trên ñịa bàn thị xã tập trung nhiều trường Trung học của tỉnh, như các trường Trung học Trần Quốc Tuấn, Nữ Trung học, Hùng Vương, Bồ ðề, Kim Thông, Chấn Hưng, trường Nông Lâm Súc. Sau 1975, thị xã Quảng Ngãi có các trường: Cao ñẳng Sư phạm, Trung cấp Y tế, Cao ñẳng Cộng ñồng thuộc hệ chuyên nghiệp; các trường Trung học phổ thông Trần Quốc Tuấn, Lê Khiết, Lê Trung ðình, Hoàng Văn Thụ, Nguyễn Bỉnh Khiêm, Trung học nội trú dân tộc… và là nơi ñang xây dựng Trường ðại học Phạm Văn ðồng. Mỗ i xã phường ñều có trường phổ thông cơ sở. Học sinh trên ñịa bàn thị xã học giỏi, nhiều người thành ñạt.

ðây cũng là quê hương của những nhà nghiên cứu tên tuổi như các Giáo sư Tiến sĩ Lâm Tô Lộc, Nguyễn Tấn ðắc, Tiến sĩ Phan Thị Phi Phi...

Về y tế, thành phố Quảng Ngãi là nơi ñóng Bệnh viện ða khoa tỉnh (trên ñường Hùng Vương), có Trung tâm y tế thành phố và các ñơn vị chăm sóc sức khỏe của tỉnh, của thành phố. ðể chăm sóc sức khoẻ, từ xưa người dân thị xã chủ yếu dùng ðông y, ñến thời Pháp thuộc du nhập thêm Tây y. Các cơ sở ðông, Tây y song song tồn tại ñến nay. Việc thực hiện công tác dân số, gia ñình khá tốt.

Về vấn ñề nhân lực, thị xã Quảng Ngãi là nơi tập trung cao nhân lực của toàn tỉnh và có xu hướng ngày càng phát triển mạnh lao ñộng trí tuệ. Tuy vậy, một bộ phận quan trọng trong cư dân lao ñộng chân tay, trong ñó số lao ñộng nông nghiệp vẫn chiếm một phần không nhỏ. Trong các vấn ñề xã hội ở thành phố Quảng Ngãi, vấn ñề công ăn việc làm ñặc biệt nổ i cộm, vì có số người thiếu việc làm khá ñông. Tình trạng nghèo ñói, các tệ nạn xã hộ i cũng là những vấn ñề rất ñáng quan tâm. Số hộ nghèo ở thành phố còn khoảng 4,85% (theo chuẩn cũ), tuy nhiên, việc vượt lên cuộc sống cao hơn còn là một trở lực lớn. Thành phố Quảng Ngãi là nơi tập trung nhiều thành phần dân cư trong và ngoài tỉnh Quảng Ngãi, các dịch vụ phát triển ñồng thời kéo theo một số tệ nạn xã hộ i như trộm cắp, mại dâm, cờ bạc... ñòi hỏi phải ñược chú ý và tìm ra biện pháp quản lý, giải quyết.

Page 17: Các Huyện - Thành phố

Ñòa chí Quaûng Ngaõi Trang 17

(1) Số liệu của Niên giám Thống kê tỉnh Quảng Ngãi 2005.

(2) Xem chương XXV: Di chỉ khảo cổ, di tích lịch sử - văn hoá, danh thắng.

(3) Nguồn: Niên giám thống kê thành phố Quảng Ngãi.

(4) Theo Nguyễn ðóa - Nguyễn ðạt Nhơn trong tập ðịa dư tỉnh Quảng Ngãi (sñd) thì vào thời ñiểm 1938, trong tổng số 447.994 người của tỉnh Quảng Ngãi có 482 người Tàu, 157 người Pháp, 5 người Ấn ðộ; trong ñó "người Pháp hầu hết là những quan văn, võ trú tại t ỉnh lỵ hoặc tại các cửa, các ñồn", người Tàu chủ yếu trú ở tỉnh lỵ và Thu Xà.

(5) Cao Chư: Từ tỉnh thành ñến thành phố Quảng Ngãi, Nxb ðà Nẵng, 2006, tr. 80, 81, 82.

(6) Nguyễn ðóa - Nguyễn ðạt Nhơn: ðịa dư tỉnh Quảng Ngãi, Imprimerie Marade (Vien-de) Huế, 1939.

(7) Theo Niên giám thống kê tỉnh Quảng Ngãi năm 2005 (so với Niên giám thống kê thành phố Quảng Ngãi có sự chênh lệch chút ít). Riêng số liệu về lao ñộng sản xuất công nghiệp cá thể, chúng tôi theo số liệu trong Niên giám thống kê thành phố Quảng Ngãi.

(8) Xem Chương XXV: Di chỉ khảo cổ, di tích lịch sử - văn hoá, danh thắng.

(9) Xem Chương XXVI : Văn học và Chương XXVII : Nghệ thuật.

(10) Xem Chương XI : Các nhân vật lịch sử tiêu biểu và Chương XXVI : Văn học.

Page 18: Các Huyện - Thành phố

Ñòa chí Quaûng Ngaõi Trang 18

HUYỆN BÌNH SƠN

BBBBÌNH SƠN là một huyện ñồng bằng ven biển, cửa ngõ phía bắc tỉnh Quảng

Ngãi. Phía ñông giáp biển ðông; phía tây giáp huyện Trà Bồng; phía nam giáp huyện Sơn Tịnh; phía bắc giáp huyện Núi Thành (tỉnh Quảng Nam); có Quốc lộ 1 và ñường sắt Thống Nhất chạy qua. Diện tích: 466,77km2(1). Dân số: 180.045 người(2). Mật ñộ dân số: 386 người/km2(3). ðơn vị hành chính trực thuộc gồm 1 thị trấn (Châu Ổ huyện lị; thành lập 4.1986), 24 xã (Bình Thới, Bình ðông, Bình Thạnh, Bình Chánh, Bình Nguyên, Bình Khương, Bình An, Bình Trị, Bình Hải, Bình Thuận, Bình Dương, Bình Phước, Bình Trung, Bình Hòa, Bình Long, Bình Minh, Bình Phú, Bình Chương, Bình Thanh ðông, Bình Thanh Tây, Bình Hiệp, Bình Mỹ, Bình Tân, Bình Châu) với 99 thôn, tổ dân phố; trong ñó:

Thị trấn Châu Ổ có 4 tổ dân phố, tên gọi theo thứ tự từ tổ 1 ñến tổ 4;

Xã Bình Thới có 2 thôn: An Châu, Giao Thuỷ;

Xã Bình ðông có 3 thôn: Sơn Trà, Tân Hy, Thuận Hòa;

Xã Bình Thạnh có 4 thôn: Vĩnh An, Hải Ninh, Trung An, Vĩnh Trà;

Xã Bình Chánh có 3 thôn: Mỹ Tân, ðông Bình, Bình An Nội;

Xã Bình Nguyên có 5 thôn: Trì Bình, Châu Tử, Phước Bình, Nam Bình 1, Nam Bình 2;

Xã Bình Khương có 5 thôn: Thanh Trà, Phước An, Trà Lăm, Bình Yên, Tây Phước;

Xã Bình An có 6 thôn: Tây Phước, Tây Phước 2, An Lộc, Thọ An, An Khương, Phúc Lâm;

Xã Bình Trị có 3 thôn: An Lộc, Phước Hòa, Lệ Thuỷ;

Xã Bình Hải có 4 thôn: Vạn Tường, Thanh Thuỷ, An Cường, Phước Thiện;

Xã Bình Thuận có 5 thôn: Thuận Phước, ðông Lỗ, Tuyết Diêm 1, Tuyết Diêm 2, Tuyết Diêm 3;

Xã Bình Dương có 2 thôn: ðông Yên, Mỹ Huệ;

Xã Bình Phước có 4 thôn: Phú Lâm 1, Phú Lâm 2, Phước Thọ 1, Phước Thọ 2;

Xã Bình Trung có 6 thôn: Tiên ðào, ðông Thuận, Tây Thuận, Phú Lễ 1, Phú Lễ 2, Phú Lộc;

Page 19: Các Huyện - Thành phố

Ñòa chí Quaûng Ngaõi Trang 19

Xã Bình Hòa có 4 thôn, tên gọi theo thứ tự từ thôn 1 ñến thôn 4;

Xã Bình Long có 6 thôn: Long Xuân, Long Bình, Long Mỹ, Long Hội, Long Yên, Long Vĩnh;

Xã Bình Minh có 4 thôn: Tân Phước, Lộc Thinh, Phước An, Mỹ Long;

Xã Bình Phú có 2 thôn: An Thạnh, Phú Nhiêu;

Xã Bình Chương có 4 thôn: An ðiềm 1, An ðiềm 2, Ngọc Trì, Nam Thuận;

Xã Bình Thanh ðông có 3 thôn: Tham Hộ i 1, Tham Hội 2, Tham Hộ i 3;

Xã Bình Thanh Tây có 3 thôn: Thanh Thiện, Phước Hòa, An Quang;

Xã Bình Hiệp có 2 thôn: Xuân Yên, Liên Trì;

Xã Bình Mỹ có 3 thôn: Phước Tích, An Phong, Thạch An;

Xã Bình Tân có 4 thôn: Liêm Quang, Nhơn Hòa 1, Nhơn Hòa 2, Diên Lộc;

Xã Bình Châu có 8 thôn: Tân ðức, Châu Me, Châu Bình, Thuận Biển, Thuận Nông, ðịnh Tân, Phú Quý, An Hải.

Bình Sơn có chiến thắng Vạn Tường nổi tiếng vào tháng 8.1965, trận ñánh phủ ñầu ñầu tiên của quân dân ta vào ñội quân viễn chinh Mỹ xâm lược, mở ra khả năng Việt Nam có thể ñánh thắng ñế quốc Mỹ xâm lược.

Ngày nay, Bình Sơn có Khu Kinh tế Dung Quất với nhà máy lọc dầu ñầu tiên của Việt Nam nằm trong vùng kinh tế trọng ñiểm miền Trung. Tình hình kinh tế - xã hội ñã và ñang có nhiều bước tiến nhanh chóng.

* * *

Về hành chính: ðời nhà Hồ ñất Bình Sơn mang tên là huyện Trì Bình trong châu Tư, thuộc lộ Thăng Hoa. ðến ñời nhà Lê, huyện Bình Sơn mang tên là huyện Bình Dương, sau ñổi thành huyện Bình Sơn thuộc phủ Tư Nghĩa. ðến ñời vua ðồng Khánh huyện Bình Sơn có 6 tổng với 158 xã, thôn, trại, phường, ấp, vạn, ty.

ðến năm 1890, các làng, xã, ấp phía nam tách ra thành lập châu Sơn Tịnh, huyện Bình Sơn ñổi gọi là phủ Bình Sơn. Phủ Bình Sơn có 5 tổng Bình ðiền, Bình Hà, Bình Thượng, Bình Trung, Lý Sơn, với 84 làng.

Sau Cách mạng tháng Tám 1945, phủ Bình Sơn lấy tên là phủ Nguyễn Tự Tân, một thủ lĩnh nghĩa quân chống Pháp, hy sinh vì nước năm 1885. ðến tháng 6.1946, phủ Nguyễn Tự Tân ñổi gọ i là huyện Bình Sơn. Sau khi cắt phần ñất phía tây giao

Page 20: Các Huyện - Thành phố

Ñòa chí Quaûng Ngaõi Trang 20

cho huyện Trà Bồng, huyện Bình Sơn hợp nhất các làng xã nhỏ thành 19 xã lớn ñều lấy chữ Bình làm ñầu: Bình Khương, Bình Lâm, Bình Chương, Bình Minh, Bình Trung, Bình Thới, Bình Lập, Bình Dương, Bình Tân, Bình Phú, Bình Thạnh, Bình Hiệp, Bình Thanh, Bình Hòa, Bình Châu, Bình Trị, Bình Hải, Bình ðông, và xã hải ñảo Lý Sơn.

Năm 1952, xã Bình Lâm nhập về huyện Trà Bồng. Sau mấy lần nhập xã, chia xã, ñến năm 1954, huyện Bình Sơn có 25 xã.

Thời chính quyền Sài Gòn kiểm soát, ñổi tên huyện Bình Sơn thành quận Bình Sơn và ñặt lại tên cho 25 xã cũng lấy chữ Bình làm ñầu: xã Bình Khương ñổi thành xã Bình Phiên, xã Bình An ñổi là xã Bình Thượng, xã Bình Minh ñổi là xã Bình Tuy, xã Bình Mỹ ñổi là xã Bình Tuyến, xã Bình Nguyên ñổi là xã Bình Thắng, xã Bình Trung ñổi là xã Bình Thành, xã Bình Chương ñổi là xã Bình Khánh, xã Bình Thạnh ñổi là xã Bình Sa, xã Bình Chánh ñổi là xã Bình Nghĩa, xã Bình Dương ñổi là xã Bình Thủy, xã Bình Thới ñổi là xã Bình Vân, xã Bình Long ñổi là xã Bình Phương, xã Bình Hiệp ñổi là xã Bình Liên, xã Bình Thuận, Bình ðông nhập chung và ñổi là xã Bình Giang, xã Bình Trị ñổi là xã Bình Thông, xã Bình Phước ñổi là xã Bình Lãnh, xã Bình Thanh ñổi là xã Bình Hoàng, xã Bình Hải ñổi là xã Bình Thiện, xã Bình Hòa ñổi là xã Bình Kỳ, xã Bình Phú ñổi là xã Bình Ân, xã Bình Tân ñổi là xã Bình Nam, xã Bình Châu ñổi là xã Bình ðức, xã Bình Vĩnh ñổi là xã Lý Vĩnh, xã Bình Yến ñổi là xã Lý Hải.

Các cấp bộ ðảng và từ 1964 có chính quyền cách mạng, ta vẫn gọ i là huyện Bình Sơn và tên các xã có từ thời kháng chiến chống Pháp.

ðể tiện việc chỉ ñạo tổ chức kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, trong những năm 1961 - 1965 và 1970 - 1975, Tỉnh ủy Quảng Ngãi quyết ñịnh nhập các xã phía ñông Quốc lộ 1 của huyện Bình Sơn cùng các xã phía ñông huyện Sơn Tịnh lập thành huyện ðông Sơn trực thuộc tỉnh, các xã phía tây vẫn gọi là huyện Bình Sơn.

Sau ngày giải phóng 1975 ñất nước thống nhất, huyện Bình Sơn và các xã chính thức trở về tên cũ ñã có trong kháng chiến chống Pháp.

ðến năm 1993, hai xã ñảo Bình Vĩnh, Bình Yến tách khỏi huyện Bình Sơn lập thành huyện Lý Sơn trực thuộc tỉnh. Từ ñó ñến năm 2004, một số xã chia thành hai ñơn vị. Huyện Bình Sơn hiện có 1 thị trấn và 24 xã với 99 thôn, tổ dân phố.

Về tự nhiên: Bình Sơn có một ñịa hình ña dạng có thể phân chia làm ba vùng, mỗi vùng có ñặc ñiểm thổ nhưỡng khác nhau: 1) Vùng trung du bán sơn ñịa gồm các xã phía tây giáp Trà Bồng, có nhiều núi ñá, ñất bazan; 2) Vùng châu thổ dọc hai bên bờ sông Trà Bồng, gần sông, ñược phù sa bồi ñắp hằng năm, xa sông là ñất pha cát; 3) Vùng ñồi thấp nhấp nhô và những trảng cát rộng giáp với tỉnh Quảng Nam, nố i với bờ biển phía ñông. Vùng này cũng có ñất bazan xen lẫn với sa khoáng.

Page 21: Các Huyện - Thành phố

Ñòa chí Quaûng Ngaõi Trang 21

Núi ñồi : Bình Sơn có nhiều núi cao thấp trải dài từ phía ñông huyện Trà Bồng ra ñến bờ biển ðông: núi ðồng Tranh ở Thọ An cao 785m, các núi Chớp Vung, Thình Thình (Sâm Hộ i), Ba Bì, núi ðất, núi Răm, núi Sơn, núi Lớn, núi Cổ Ngựa, núi Trì Bình (tục gọi là núi Cấm), Xuân An, An Lộc, Tam Thao, An Hải, Kiền Kiền, núi Gió, Nam Châm, Cà Ty… cao trên dưới 100m; hầu như xã nào cũng có ñồi gò.

Sông suối: Sông Trà Bồng là một trong bốn con sông lớn của Quảng Ngãi, phát nguyên từ vùng núi cao Trà Bồng chảy xuyên qua huyện Bình Sơn khoảng 25km theo hướng ñông - tây, ñến thôn Giao Thủy (xã Bình Thới) chảy theo hướng ñông bắc rồi ñổ ra cửa Sa Cần. Sông Trà Bồng từ xưa là ñường thủy quan trọng trong việc giao lưu xuôi - ngược; là một trong những nguồn nước quan trọng nhất cho sản xuất nông nghiệp và sinh hoạt.

Thác Vực Bà ở Bình Minh, vừa là một cảnh ñẹp, vừa là nơi nhân dân thường dùng giỏ bắt cá nhảy.

Suối Ngọc Trì từ Tịnh Trà (huyện Sơn Tịnh) chảy ra Bình Chương ñổ vào sông Trà Bồng, là một nguồn nước quan trọng ñối với một số xã phía tây huyện.

Bờ biển: Bình Sơn có bờ biển dài 54km và chính là ñoạn bờ biển khúc khuỷu nhất trong tỉnh Quảng Ngãi với nhiều mũi ñất và vũng vịnh, có các cửa biển Sa Cần, vũng Quýt (Dung Quất), cửa Sa Kỳ (giáp với huyện Sơn Tịnh), các vịnh Việt Thanh, Nho Na. Các cửa biển và vịnh này, từ xưa ñã phát triển nghề ñánh bắt, chế biến hải sản, vận chuyển hàng hóa bằng ñường biển. Từ ñầu thế kỷ XXI, Dung Quất ñược xây dựng thành cảng biển nước sâu, trong vùng nội ñịa thì xây dựng Khu Kinh tế Dung Quất.

ðồng bằng: Hai bên bờ sông Trà Bồng là vùng ñồng bằng tươi tốt nhất. Các vùng xa sông ñất ñai thường cằn cỗi, thiếu nước. ðất canh tác ở Bình Sơn thích hợp cho việc trồng lúa nước, khoai, sắn, mía, dâu, dưa hấu…

Về tình hình sử dụng ñất năm 2005 như sau: 1) ðất nông nghiệp 21.729,895ha (46,55%); 2) ðất lâm nghiệp 9.876,39ha (21,16%); 3) ðất khu dân cư 1.493,21ha

(3,21%); 4) ðất chuyên dùng 4.278,96ha (9,16%); 5) ðất chưa sử dụng 9.298,54ha (19,92%).

Rừng núi: Trước kia vùng núi cao phía tây Bình Sơn có nhiều gỗ quý thuộc nhóm I, có voi, hổ, nai, khỉ, trăn. Ngày nay chỉ còn một ít gỗ quý, không còn voi, hổ. Từ sau ngày hoàn toàn giải phóng ñến nay, Bình Sơn ñã trồng mới hàng vạn hécta rừng (nhiều nhất là bạch ñàn, chè, cao su, ñiều) và khoanh nuôi tái sinh hàng vạn hécta rừng khác; mỗ i năm khai thác khoảng 10.000m3 gỗ các loại (nhiều nhất là bạch ñàn), trên 10 vạn cây tre, lồ ô, trên 26 vạn ster củi và một số trầm hương, sa nhân, mật ong… Dưới lòng ñất vùng rừng núi phía tây huyện có quặng sắt, từ thế kỷ XVIII, XIX ñã ñược khai thác dùng rèn công cụ sản xuất, vũ khí, ñã có ñịa danh Lò Thổi.

Page 22: Các Huyện - Thành phố

Ñòa chí Quaûng Ngaõi Trang 22

Biển: Biển và ven biển Bình Sơn chứa nhiều tài nguyên, nhất là các loại hải sản. Cát ven biển có thể phục vụ công nghệ chế biến thủy tinh. Vùng biển Bình Sơn có nhiều tiềm năng về du lịch.

Khí hậu: Nhìn chung, tình hình khí hậu Bình Sơn thuận lợi cho sản xuất và sinh hoạt. Tuy nhiên, cứ vài ba năm thường có một trận lũ lụt lớn hoặc một trận bão biển và mấy năm gần ñây thường xảy ra hạn hán gây nhiều thiệt hại cho sản xuất nông nghiệp, nhiều thiệt hại về người và tài sản cho ngư dân vùng biển.

Dân cư: Ở Bình Sơn xưa kia từng có các cộng ñồng dân cư cổ. Thời Tiền Sa Huỳnh và thời Văn hóa Sa Huỳnh, qua các di chỉ khảo cổ phát hiện ở Bình Châu, Gò Quê(4). Kế ñó là cư dân Chămpa. Về cư dân bản ñịa, có tộc người Cor ở các xã phía tây. Từ ñầu thế kỷ XV, người Việt ở Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ di cư ñến khai phá vùng ñất này, lập ấp, dựng làng, mở mang bờ cõi. Rồi người Hoa ở Trung Quốc cũng vào buôn bán làm ăn sinh sống ở ñây, chủ yếu là ở Châu Ổ.

ðến năm 2005, Bình Sơn có dân số 180.045 người (tính dân số trung bình trong năm), gồm: 179.545 người Việt, 435 người Cor, 65 người Hoa hoặc người Việt gốc Hoa và người các dân tộc khác.

Cư dân Bình Sơn chủ yếu sinh sống bằng nghề nông và ñánh bắt chế biến hải sản; một số ít có nghề làm ñồ gốm, ñồ gỗ, nghề rèn, ñan lát dụng cụ mây tre, nghề buôn bán nhỏ. Gần ñây có thêm nghề nuôi tôm, sửa chữa cơ khí nhỏ.

* * *

Huyện Bình Sơn có truy ền thống yêu nước từ khá sớm. Thế kỷ XVIII, nhân dân Bình Sơn tham gia phong trào khởi nghĩa nông dân Tây Sơn. Tuyền Tung ở phía tây huyện từng ñược xây dựng thành căn cứ của nghĩa quân Tây Sơn.

ðến thời thực dân Pháp ñánh chiếm nước ta, nhân dân Bình Sơn luôn có mặt trong các phong trào yêu nước, chống Pháp: phong trào Cần vương (1885 - 1896) do Lê Trung ðình, Nguyễn Tự Tân, Hà Trung Hậu chỉ huy; phong trào Duy tân "khai dân trí, chấn dân khí, hậu dân sinh", khất thuế - cự sưu (1904 - 1908) do Lê Ngung và Trần Kỳ Phong tham gia lãnh ñạo; phong trào Việt Nam Quang phục Hội (1912 - 1916) do Lê Ngung, Võ Quán, Võ Thị ðệ, Trần Thêm tham gia. ðầu năm 1921, cụ Trần Kỳ Phong từ ngục tù Côn ðảo trở về ñã truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin, Cách mạng tháng Mười Nga và con ñường cứu nước của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc trong trí thức, thanh niên và những người yêu nước ở Bình Sơn - Quảng Ngãi. Năm 1927, quần chúng yêu nước Bình Sơn hướng theo con ñường cách mạng dân tộc dân chủ, con ñường cách mạng vô sản do tổ chức Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên Quảng Ngãi hướng dẫn và lãnh ñạo. Các ông Trương Quang Trọng, Huỳnh Tấu là những người trực tiếp chỉ ñạo.

Page 23: Các Huyện - Thành phố

Ñòa chí Quaûng Ngaõi Trang 23

Sau khi ðảng bộ ðảng Cộng sản Việt Nam tỉnh Quảng Ngãi ra ñời, ở Bình Sơn ñã nổ ra nhiều cuộc mít tinh, biểu tình, tuần hành thị uy của ñông ñảo quần chúng ñấu tranh chống ñế quốc, phong kiến, ñòi ñộc lập cho dân tộc, ruộng ñất cho dân cày; hưởng ứng phong trào cách mạng của công nông Nghệ - Tĩnh, ủng hộ Liên bang Xô viết… Tiêu biểu là các cuộc ñấu tranh vào các ngày 01.5.1930, 14.7.1930, 01.8.1930… Cuối năm 1930, chi bộ ðảng Cộng sản ñầu tiên ở Bình Sơn ñược thành lập, kiêm nhiệm nhiệm vụ Ban Chấp hành lâm thời ðảng bộ huyện Bình Sơn, do ñồng chí Phạm Quang Lãng làm Bí thư. Sau ñó, Bình Sơn phát triển thêm nhiều ñảng viên mới, toàn huyện thành lập ñược ba chi bộ. ðảng bộ ñã trực tiếp lãnh ñạo ñẩy phong trào cách mạng trong huyện dâng cao từ ñầu năm 1931. Sau cao trào 1930 - 1931, vượt qua tổn thất hy sinh do ñịch ñàn áp khủng bố, ðảng bộ Bình Sơn tiếp tục lãnh ñạo nhân dân trong huyện ñấu tranh ñòi tự do, cơm áo, hòa bình (1936 - 1939), chống chiến tranh ñế quốc, chống phát xít (1939 - 1940), xây dựng Mặt trận Việt Minh và các ñoàn thể cứu quốc, tham gia sự nghiệp cách mạng giải phóng dân tộc (1941 - 1945). Trong cao trào Tổng khởi nghĩa tháng Tám 1945, ðảng bộ Bình Sơn lãnh ñạo nhân dân ñịa phương nổ i dậy lật ñổ chính quyền tay sai của Pháp, Nhật, giành chính quyền về tay nhân dân từ các xã miền núi ñến hải ñảo Lý Sơn trong các ngày 15 - 18.8.1945.

Sau Cách mạng tháng Tám 1945, chính quyền cách mạng ñược củng cố, Mặt trận Việt Minh, Liên Việt, các ñoàn thể cứu quốc ñã tập hợp hầu hết quần chúng vào các tổ chức cách mạng.

Trong tuần lễ "quyên vàng xây nền ñộc lập", nhân dân Bình Sơn ñã ñóng góp 5kg vàng, 700 ñồng bạc trắng, 1.240kg ñồng.

Trong kháng chiến chống Pháp, huyện Bình Sơn có nhiều thành tựu.

Sản xuất ñược ñẩy mạnh và tích cực ñóng góp nuôi quân ñánh giặc. Giáo dục nâng cao dân trí ñạt nhiều kết quả, nhất là xóa nạn mù chữ, mở nhiều lớp Bổ túc văn hóa, nhiều trường Tiểu học ở xã và trường Trung học ở huyện. Lực lượng dân quân du kích và làng chiến ñấu ñược xây dựng, ñánh bại các cuộc ñổ bộ càn quét của ñịch vào vùng ven biển.

Trong chi viện cho tiền tuyến, Bình Sơn ñã ñưa nhiều cán bộ tham gia chiến ñấu và công tác ở các chiến trường cực Nam Trung Bộ, Tây Nguyên, ðông Miên, Hạ Lào; ñưa hàng ngàn dân công phục vụ Chiến dịch ñông xuân 1953 - 1954 góp phần giải phóng tỉnh Kon Tum, bảo vệ vùng tự do Liên khu V; ñã ñóng góp hàng vạn tấn thóc thuế nông nghiệp phục vụ kháng chiến. ðảo Lý Sơn bị ñịch chiếm từ ngày 30.8.1950, nhưng cơ sở cách mạng, cán bộ ta vẫn bám ñịa bàn, lãnh ñạo nhân dân ñấu tranh chống ñịch ñến thắng lợi.

Trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, huyện Bình Sơn cũng có những ñóng góp nổi bật. Giữa tháng 12.1958, Huyện ủy rút một số thanh niên lên căn cứ, tổ chức các trại sản xuất, vừa sản xuất tự túc lương thực, vừa học tập chính trị, huấn luyện quân sự, tiến tới thành lập ñội vũ trang tuyên truyền của huyện. Bình Sơn

Page 24: Các Huyện - Thành phố

Ñòa chí Quaûng Ngaõi Trang 24

hưởng ứng cuộc Khởi nghĩa Trà Bồng và miền Tây Quảng Ngãi vào cuối tháng 8 ñầu tháng 9.1959, tấn công ñịch, phát ñộng quần chúng nổi dậy phá ách kìm kẹp của ñịch, giành quyền làm chủ một số nơi như Vĩnh An, Hải Ninh, Trung An…

ðến cuối năm 1964, hệ thống ấp chiến lược và bộ máy chính quyền ñịch ở các xã thôn khu tây và ñông Bình Sơn bị xóa sổ. Vùng giải phóng và vùng ta làm chủ mở rộng gần sát Quốc lộ 1.

Khi ñế quốc Mỹ chuyển sang chiến lược "chiến tranh cục bộ", Bình Sơn là ñịa bàn quân Mỹ xâm lược và quân chư hầu Nam Triều Tiên tràn vào ñầu tiên ở tỉnh Quảng Ngãi. Chúng gây nên nhiều tộ i ác trên mảnh ñất này, trong ñó có 2 vụ thảm sát lớn ở ñịa ñạo ðám Toái (Bình Châu) và ở Bình Hòa(5)

Cũng chính trên mảnh ñất này, quân dân ta vẫn giữ vững thế chủ ñộng tiến công, nên ñã có trận ñánh Mỹ ñầu tiên ở Bến Lăng, ñặc biệt là chiến thắng Vạn Tường, mở ra khả năng ta có thể ñánh thắng ñế quốc Mỹ xâm lược(6).

Các xã Bình ðông, Bình Thạnh, Bình Chánh, Bình Nguyên, Bình Trung… trở thành lũy thép trong vành ñai diệt Mỹ ở phía nam căn cứ Chu Lai của chúng. Nhiều trận ñánh thắng vang dội ñã diễn ra, nổ i bật nhất là trận ta tiêu diệt một tiểu ñoàn Mỹ trong cứ ñiểm Gò Sỏi (14.7.1966), các trận tiêu diệt từ một tiểu ñội ñến một trung ñội Mỹ ở Phước Hòa, Gò Chè, An Lộc… cuối năm 1966.

Trong thời kỳ ñịch thực hiện chiến lược "Việt Nam hóa chiến tranh", ðảng bộ và quân dân Bình Sơn vẫn kiên trì trụ bám, kiên ñịnh phương châm hai chân ba mũi giáp công, liên tục tấn công tiêu diệt ñịch, giữ vững vùng giải phóng. Chỉ tính các trận ñánh trong năm 1972 ở Bình Phước, Bình Trị, Bình Hải, Bình Phú, Bình Khương ta ñã tiêu diệt tiểu ñoàn Mãng xà vương 103, một ñại ñội bảo an, bốn trung ñội dân vệ của ñịch; diệt 276 tên, bắt sống 100 tên; phá rã khu ñồn Tiên ðào, Vĩnh Thất (ở Bình Trung)… Các xã tây Bình Sơn ñược xây dựng thành ñịa bàn vững chắc của huyện và là một trong những ñịa bàn ñứng chân của các lực lượng của tỉnh và Khu V.

Sau Hiệp ñịnh Pari 1973, quân dân Bình Sơn nắm vững thời cơ, ra sức củng cố, bổ sung lực lượng, liên tục tấn công quân ñội Sài Gòn, tiến lên tổng tấn công và nổi dậy vào mùa Xuân 1975 giải phóng toàn huyện.

ðến năm 2005, huyện Bình Sơn có 23 ñơn vị và 7 cá nhân ñược phong tặng danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân(7); 523 bà mẹ ñược phong tặng danh hiệu Bà mẹ Việt Nam Anh hùng.

Từ năm 1975, huyện Bình Sơn khắc phục hậu quả chiến tranh, tiến hành hợp tác hóa nông nghiệp, khôi phục và phát triển kinh tế xã hội trong cơ chế bao cấp, từng bước cải thiện ñời sống vật chất, văn hóa tinh thần cho nhân dân. Bình Sơn ñã ñưa hàng vạn thanh niên tòng quân nhập ngũ, tham gia bảo vệ quê hương ñất nước và làm nghĩa vụ quốc tế.

Page 25: Các Huyện - Thành phố

Ñòa chí Quaûng Ngaõi Trang 25

Từ năm 1986, thực hiện ñường lối ñổi mới của ðảng, Bình Sơn từng bước thoát dần cảnh nghèo ñói, lạc hậu, kinh tế xã hội phát triển tương ñối nhanh và toàn diện. Khu Kinh tế Dung Quất ñã và ñang ñược xây dựng là vận hội lớn vừa giúp Bình Sơn xóa ñói giảm nghèo, vừa tiến lên con ñường công nghiệp hóa, hiện ñại hóa nông nghiệp và nông thôn. Tình hình chính trị tư tưởng ngày càng ổn ñịnh, an ninh quốc phòng ñược giữ vững.

* * *

Bình Sơn vốn có một nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu, bị ảnh hưởng nặng nề của các cuộc chiến tranh. Từ năm 1975 ñến nay, huyện ñã từng bước khôi phục, xây dựng cơ cấu phát triển nông nghiệp toàn diện, khôi phục và phát triển các ngành nghề tiểu thủ công nghiệp, thương mại, dịch vụ. Từ năm 1998, Khu Kinh tế Dung Quất nằm trên ñịa hạt huyện ra ñời, tạo thuận lợi cho kinh tế Bình Sơn phát triển nhanh.

Nông nghiệp: Diện tích ñất sản xuất nông nghiệp ñến năm 2005 có 21.730ha. Trừ phần ruộng ñất nằm dọc hai bên sông Trà Bồng, phần lớn ñất ñai trong huyện Bình Sơn khô cằn, bạc màu, xưa kia nông dân ña phần làm lúa gieo mỗi năm một vụ và trồng các loại cây màu chịu hạn. Người dân Bình Sơn tập trung vào thủy lợi, chủ yếu là ñào ao, vét giếng, dùng cần vọt, gàu giai, gàu sòng, guồng ñạp nước ñể lấy nước tưới cho hoa màu cây trái. Thời kháng chiến chống Pháp, nhân dân ñắp ñập ðá Giăng, ñập Gia Hộ i ñể dẫn nước sông suối vào ruộng. Từ những năm 60, 70 thế kỷ XX, nhân dân dùng máy bơm chạy bằng dầu mazut, bằng xăng, nay phổ biến dùng bơm ñ iện, ñể ñưa nước vào ñồng ruộng. Từ năm 1993, hệ thống kênh mương thủy lợi Thạch Nham ñã vươn dài, ñưa nước sông Trà Khúc ñến ñồng ruộng Bình Sơn, biến hàng ngàn hécta ruộng gieo một vụ thành ruộng cấy hai vụ. Ngày nay, nhiều ñịa phương ñã dùng phương tiện cơ giới trong làm ñất, gặt, ñập lúa.

Cây lương thực ở Bình Sơn, trước kia ña phần là lúa gieo, ngô, sắn, khoai, chủ yếu là lúa. Cây thực phẩm có các loại ñậu. Sau ngày giải phóng, Bình Sơn trồng khá nhiều dưa hấu. Dưa hấu Bình Sơn ñã xuất ñi cả nước và sang cả Trung Quốc. Cây công nghiệp truyền thống có cây mía, dâu tằm, lạc, vừng, vài chục năm gần ñây thêm cây chè, cây bạch ñàn, cây ñiều, cây bông, cây cao su cho thu hoạch khá. Diện tích gieo trồng cây lương thực ở huyện Bình Sơn năm 2005 là 11.270ha, sản lượng lương thực 51.993 tấn, bình quân lương thực ñầu người cùng năm trong toàn huyện là 289kg, thuộc hạng thấp nhất trong các huyện ñồng bằng tỉnh Quảng Ngãi. Tuy nhiên, xét trong ñịa hạt huyện thì có xã vượt rất cao như xã Bình Thanh ðông bình quân lương thực ñầu người lên ñến 772kg, xã Bình Chương 581kg, xã Bình Thới 556kg, xã Bình Tân 516kg, xã Bình Khương 501kg; ngược lại, các xã ven biển chuyên nghề cá hay trồng các loại cây khác thường có bình quân lương thực rất thấp (dưới 100kg) như Bình ðông (63kg), Bình Thạnh (39kg), Bình Hải (46kg) và thị trấn Châu Ổ chuyên buôn bán (33kg), do vậy có sự chênh lệnh cao giữa các xã về

Page 26: Các Huyện - Thành phố

Ñòa chí Quaûng Ngaõi Trang 26

bình quân lương thực ñầu người. Trong thành phần lương thực có hạt thì ngô chiếm khoảng 1/10 về diện tích và sản lượng (1.375ha, 5.129 tấn).

Trong số cây công nghiệp ở Bình Sơn thì ñáng kể nhất là cây mía, cây sắn. Năm 2004, mía có diện tích 874ha, sản lượng 43.294 tấn. Mía trồng nhiều nhất ở các xã Bình Mỹ, Bình Tân, Bình Khương. Sắn năm 2005 có 1.990ha, sản lượng 36.417 tấn, ñược trồng nhiều nhất ở các xã Bình Minh, Bình Khương, Bình An, Bình Trung. ðậu phụng cũng là cây trồng ñáng kể với diện tích 1.195ha, sản lượng 2.120 tấn, nhiều nhất ở các xã Bình Trung, Bình Hòa, Bình Minh, Bình Thạnh.

Về chăn nuôi: Trước năm 1975, Bình Sơn có ñàn bò ta, heo cỏ, gà nhà, vịt. Từ năm 1980 ñến năm 2005, ñàn gia súc gia cầm Bình Sơn phát triển gần gấp ñôi. ðàn trâu ở Bình Sơn tương ñối ít, ñàn bò khá lớn với tổng số 50.402 con. Hầu hết các xã ñều có từ 1.000 con bò trở lên, trừ thị trấn Châu Ổ và xã Bình ðông. Các xã chăn nuôi bò nhiều nhất là Bình Minh (3.753 con), Bình Trung (3.452 con), Bình Chương (3.374 con), Bình Khương (3.254 con), Bình Long (3.150 con), Bình Nguyên (3.067 con). ðàn lợn cũng khá cao với 74.438 con, hầu hết các xã ñều có từ 1.500 con trở lên, cao nhất là các xã Bình Châu (6.250 con), Bình Dương (5.150 con), Bình Nguyên (4.875 con), Bình Trung (4.807 con).

Lâm nghiệp: Trước kia người dân Bình Sơn chỉ khai thác rừng tự nhiên (gỗ, củi, ñốt than). Trong chiến tranh, rừng bị tàn phá nghiêm trọng. Từ năm 1975 ñến nay, thực hiện dự án PAM, Bình Sơn ñã trồng mới hàng vạn hécta rừng, nhất là cây bạch ñàn, cây thông; khoanh nuôi, bảo vệ khôi phục hàng vạn hécta rừng cũ. Trong hai năm 2004 - 2005, toàn huyện ñã trồng 1.819ha rừng mới, khoanh nuôi tái sinh 4.308ha rừng cũ. Rừng Bình Sơn ñã cung ứng cho nhân dân gỗ, củi, tre, mây. Bình Sơn ñã cung cấp gỗ bạch ñàn cho Nhà máy chế biến dăm bạch ñàn ở Dung Quất ñể xuất khẩu.

ðánh bắt, nuôi trồng thủy hải sản: Trước kia, ngư dân Bình Sơn chỉ ñánh bắt hải sản trong lộng với ghe thuyền nhỏ. Từ sau năm 1975, Bình Sơn ngày càng có thêm tàu thuyền lớn ñánh bắt hải sản xa bờ. Năm 1980, toàn huyện có 5 chiếc tàu có công suất trên 50CV. ðến năm 2005, Bình Sơn có 950 tàu ñánh cá với tổng công suất 39.734CV, ngoài ra còn có 34 thuyền không ñộng cơ. Bình Sơn là huyện có năng lực ñánh bắt hải sản lớn nhất trong tỉnh Quảng Ngãi. Sản lượng khai thác hải sản năm 2005 là 23.451,6 tấn. Không chỉ các xã có ñường bờ biển, mà các xã có ñường sông, con lạch cũng có ñội tàu thuyền tham gia ñánh bắt, thậm chí lại là xã có năng lực ñánh bắt cao nhất: xã Bình Chánh có ñội tàu lớn nhất với 149 tàu, tổng công suất 13.240CV, khai thác ñược 10.561 tấn; xã Bình Châu có 256 tàu, tổng công suất 11.453CV, ñánh bắt ñược 4.210,6 tấn; xã Bình ðông có 141 tàu, công suất 5.150CV, ñánh bắt ñược 1.648,1 tấn; xã Bình Hải có 182 tàu, tổng công suất 4.517CV, ñánh bắt ñược 3.863,3 tấn; xã Bình Thuận có 113 tàu, tổng công suất 2.726CV, ñánh bắt ñược 1.328,5 tấn; xã Bình Thạnh có 74 tàu, tổng công suất 1.751CV, ñánh bắt ñược 1.501,5 tấn. Từ số liệu trên cho thấy, số tàu thuyền và tổng công suất tuy quan trọng nhưng không phải bao giờ cũng tương ứng với sản lượng ñánh bắt, bởi nó còn

Page 27: Các Huyện - Thành phố

Ñòa chí Quaûng Ngaõi Trang 27

tùy thuộc vào kinh nghiệm, sự may rủi. Tuy vậy, các xã kể trên là những xã có khả năng khai thác hải sản lớn nhất ở huyện Bình Sơn. Bên cạnh ñó còn có các xã tham gia khai thác hải sản ñáng kể là Bình Trị, Bình Dương, Bình Phước, Bình Phú. Tổng số hộ sống bằng nghề ñánh bắt hải sản toàn huyện là 5.032 hộ, với số lao ñộng 9.244 người, trong ñó xã Bình Hải có 1.060 hộ với 1.678 lao ñộng, xã Bình Chánh 985 hộ với 2.548 lao ñộng, xã Bình ðông có 765 hộ với 1.130 lao ñộng, xã Bình Thuận 705 hộ với 1.273 lao ñộng, xã Bình Châu có 795 hộ với 1.350 lao ñộng. Ngư dân xã Bình Hải có kinh nghiệm dùng cái bóng bắt cá mú khá hiệu quả. Ngoài khai thác sản vật biển, người dân vùng biển Bình Sơn còn phát triển nghề nuôi trồng thủy sản. Tổng số hộ chuyên về nuôi trồng thủy sản năm 2005 là 604 hộ với 760 lao ñộng, trong ñó nhiều nhất là ở các xã Bình Châu, Bình Dương, Bình ðông. Diện tích nuôi trồng thủy sản năm 2005 là 174,4ha (trong ñó nuôi tôm 162,4ha), sản lượng ñạt 241,32 tấn (trong ñó tôm 222,77 tấn).

Tiểu thủ công nghiệp - công nghiệp: Cư dân Bình Sơn có nhiều nghề thủ công truyền thống: ép mía nấu ñường thủ công ở nhiều làng xã, nghề gốm ở Mỹ Thiện, nghề ñúc ở Long Giang, nghề muố i, nghề làm mắm ở Diêm ðiền, ðịnh Tân, nghề dệt, nghề rèn ở một số làng xã khác… Từ năm 1975 ñến nay, các nghề ép mía nấu ñường thủ công, nghề gốm, nghề ñúc dần dần bị mai một, nhưng lại xuất hiện một số ngành nghề khác: làm gạch ngói, khai thác ñá cát sỏi phục vụ xây dựng, ñan lát mây tre, sản xuất ñồ gỗ, sửa chữa cơ khí nhỏ… ðến năm 2005, có 1.550 cơ sở sản xuất tiểu thủ công nghiệp cá thể với 2.700 lao ñộng, nhiều nhất ở thị trấn Châu Ổ và xã Bình Chánh. Giá trị sản xuất công nghiệp cá thể năm 2005 là 92.447 triệu ñồng.

Trên ñịa bàn huyện Bình Sơn có Khu Kinh tế Dung Quất ñang hình thành và phát triển, sẽ là ñộng lực quan trọng ñể huyện phát triển mạnh về công - thương nghiệp và dịch vụ.

Về ñ iện, từ năm 1980 Bình Sơn có máy phát ñ iện nhỏ, chủ yếu phục vụ cho thị trấn Châu Ổ. Từ năm 1990 ñến nay, ñiện lưới quốc gia ñã ñưa ñiện về khắp các xã, thôn phục vụ cho sản xuất và sinh hoạt. ðến năm 2005, ñã có trên 95% hộ gia ñình dùng ñiện.

Trong tiểu thủ công nghiệp và công nghiệp còn phải kể ñến hoạt ñộng xây dựng cơ bản và giao thông - vận tải ñã góp phần quan trọng thay ñổi diện mạo kinh tế, văn hóa của Bình Sơn.

Thương mại - dịch vụ: Ngày xưa, nghề buôn ở Bình Sơn ñã sớm phát triển, nhất là trên dọc Quốc lộ 1, dọc sông Trà Bồng và từ cảng Sa Cần, Sa Kỳ ñi các nơi bằng ñường biển. Hàng hóa tập trung và buôn bán tấp nập nhất là ở Châu Ổ. Các chợ: Châu Ổ, Thạch An, Nước Mặn, Gò Quán, ðịnh Tân là những trung tâm giao dịch buôn bán của cả huyện và các tiểu vùng.

Trong những năm kháng chiến (1945 - 1975), nghề buôn có bị hạn chế. Thời kỳ bao cấp (1975 - 1986), hầu hết hoạt ñộng thương mại - dịch vụ do kinh tế nhà nước

Page 28: Các Huyện - Thành phố

Ñòa chí Quaûng Ngaõi Trang 28

và kinh tế tập thể quản lý, nên không phát triển ñược mấy. Từ năm 1987 ñến nay, cơ chế kinh tế thị trường ra ñời, hoạt ñộng thương mại - dịch vụ ở Bình Sơn sôi ñộng hẳn lên. Thị trấn Châu Ổ và chợ Châu Ổ trở thành trung tâm buôn bán của toàn huyện. Từ ñây hàng hóa lưu thông ñến các chợ Thạch An, Thanh Trà (phía tây), chợ Nước Mặn (phía bắc), các chợ Bình Dương, Hàng Xoài, Gò Quán, ðịnh Tân (phía ñông), chợ Liên Trì (phía nam) rồi tỏa ñến khắp làng quê Bình Sơn. Năm 2005, huyện Bình Sơn có 5.450 cơ sở kinh doanh thương mại - dịch vụ cá thể với 7.224 lao ñộng, tổng mức bán lẻ hàng hóa và dịch vụ là 173.465 triệu ñồng.

Dịch vụ giao thông - vận tải ở Bình Sơn trước kia chỉ có một ít ghe thuyền vận tải ñường thủy. ðến năm 2005, có 97 ñầu xe ô tô vận tải hành khách và hàng hóa (cỡ nhỏ) hoạt ñộng trong phạm vi phía bắc tỉnh; mỗi năm có hàng trăm lượt tàu vận tải ñường biển qua cảng Dung Quất, cảng Sa Kỳ.

Từ sau ngày giải phóng ñến nay, mạng lưới bưu ñiện phát triển tương ñối hoàn chỉnh. ðến năm 2005, toàn huyện có 18/25 xã có bưu ñiện văn hóa xã, có 8.412 máy ñ iện thoại cố ñịnh (cứ 100 người có 4,6 máy), 502 máy ñ iện thoại di ñộng (cứ 22 người dân có một máy).

Bình Sơn có nhiều di tích lịch sử, văn hóa, có nhiều danh lam thắng cảnh có tiềm năng thu hút khách tham quan, du lịch văn hóa, du lịch sinh thái biển.

Các thống kê cơ bản về kinh tế 1980 - 2005

Chỉ tiêu ðơn vị tính 1980(8) 2005(9)

Diện tích lúa cả năm ha 11.428 9.895

Diện tích màu cả năm ha 5.673 3.895

Sản lượng lương thực quy thóc tấn 24.323 51.993

Lương thực bình quân/người kg 165 289

Diện tích cây công nghiệp:

- Mía ha 745 874

- Lạc ha 129 1.195

- Vừng (mè) ha không nắm ñược 231

Sản lượng cây công nghiệp

- Mía tấn 26.177 43.294

- Lạc tấn 127 2.120

- Vừng (mè) tấn không nắm ñược 71,32

ðàn trâu con 490 1.231

ðàn bò con 25.399 53.402

ðàn lợn con 34.079 74.438

ðàn gia cầm con 232.919 556.446

Diện tích rừng mới trồng ha 400 1.187

Khai thác gỗ m3 1.200 38.526

Page 29: Các Huyện - Thành phố

Ñòa chí Quaûng Ngaõi Trang 29

Chỉ tiêu ðơn vị tính 1980(8) 2005(9)

Sản lượng hải sản ñánh bắt tấn 4.500 23.452

Tổng giá trị sản xuất kinh tế tỷ ñồng 32 1.029(10)

- Nông, lâm, ngư tỷ ñồng 26 762,6

- Công nghiệp tiểu thủ công nghiệp

tỷ ñồng 2,5 92,9

- Thương mại dịch vụ tỷ ñồng 3,5 173,5

Tỷ trọng các ngành kinh tế

- Nông, lâm, ngư % 81,2 74,1

- Tiểu thủ công nghiệp - Công nghiệp

% 7,8 9

- Thương mại - dịch vụ % 11 16,8

Thu nhập bình quân ñầu người 1000 ñồng 222 5.700

Về ñường sá, ñường sắt xuyên Việt qua Bình Sơn dài 13,5km, có các ga Bình Sơn, Trì Bình; Quốc lộ 1 qua Bình Sơn 15km; ñường tỉnh có 4 tuyến với tổng chiều dài 77,82km; ñường huyện có 19 tuyến với tổng chiều dài 113km; ñường xã có 153 tuyến với tổng chiều dài 304,4km (trong ñó có 143km ñã ñược trải nhựa hoặc bêtông); ñường phục vụ Khu Kinh tế Dung Quất: Bình Long ñi Dung Quất 6,5km, Bình Hiệp ñi Dung Quất 24km, ñường nội bộ Khu Kinh tế Dung Quất và thành phố Vạn Tường gần 50km, tất cả ñều có mặt ñường rộng trên 10m và ñã ñược tráng nhựa.

* * *

Ở ñịa hạt huyện Bình Sơn, di sản văn hóa khá phong phú. Từ ñầu thế kỷ XX, những nhà khảo cổ học người Pháp ñã phát hiện ñược di tích Văn hóa Sa Huỳnh của cư dân cổ ở ven biển miền Trung. Sau năm 1975, các nhà khảo cổ học tiếp tục khai quật và nghiên cứu kỹ hơn về văn hóa Sa Huỳnh trên ñất Quảng Ngãi, trong ñó có nhóm di chỉ Bình Châu ở giai ñoạn trung kỳ ñồng thau. Tại ñây, các nhà khoa học ñã tìm thấy một số mộ chum chôn úp miệng, một phong cách táng thức cổ truyền; một số công cụ sản xuất bằng ñá, hoặc bằng ñồng thau (cuốc, rìu, dao, liềm, ñục, lao...)(11).

Về Văn hóa Chămpa, ở Bình Sơn có phế tích tháp Chăm ở Gò Sỏi.

Trong văn hóa Việt ở Bình Sơn thì vùng sông biển có hội ñua thuyền, hát bả trạo, có tục thờ cá Ông. Ở các làng xã Bình Sơn ñã từng có những ngôi nhà lá mái mát mùa hè, ấm mùa ñông, những ngôi ñình, chùa xây dựng ñẹp.

Người Cor ở Bình Sơn số lượng rất ít, có chung nét văn hóa của dân tộc Cor ở Trà Bồng, Tây Trà.

Page 30: Các Huyện - Thành phố

Ñòa chí Quaûng Ngaõi Trang 30

Ở Bình Sơn có An Hải sa bàn, Vu Sơn lộc trường; có ñèn biển Batângân, bãi tắm Khe Hai, chùa Thình Thình và nhiều di tích lịch sử - văn hóa có giá trị khác.

Hoạt ñộng văn hóa thông tin ở huyện Bình Sơn ngày nay có một số ñiểm ñáng chú ý: Các di tích lịch sử - văn hóa ở ñịa bàn huyện ñược tôn tạo, bảo vệ khá tốt, các thiết chế văn hóa như trung tâm văn hoá - thể thao huyện, thư viện huyện, hiệu sách… hoạt ñộng khá tốt; huyện có ñài truyền thanh huyện và 20 ñài truyền thanh xã, phong trào xây dựng nếp sống văn minh - gia ñình văn hóa, phong trào luyện tập thể thao ngày càng phát triển.

Huyện Bình Sơn là quê hương của những nhà hoạt ñộng văn hóa nổi tiếng trong nước như nhà thơ Tế Hanh, Giáo sư Nguyễn Lộc, Giáo sư Thế Bảo, Tiến sĩ Hoàng Lãi, Tiến sĩ Lê Minh Triết.

Giáo dục - ñào tạo: Thời kỳ Nho học, từ năm 1840 ñến năm 1906 toàn huyện Bình Sơn có 15 người ñậu Cử nhân tại các trường thi Hương ở Thừa Thiên, Bình ðịnh. Người ñỗ sớm nhất (năm 1840) là ông ðặng Công Tuấn (quê Châu Me, xã Bình Châu). Người ñỗ sau cùng (năm 1906) là ông Huỳnh Ngọc Trác (ở Thạch An, xã Bình Mỹ)(12). Huyện Bình Sơn cũng có khá nhiều người ñậu Tú tài.

Thời kỳ Tân học, toàn huyện chỉ có một trường Tiểu học. Số người có bằng Tiểu học, bằng Thành chung (tương ñương tốt nghiệp Trung học cơ sở ngày nay) rất ít, chỉ có một người ñậu Bác sĩ y khoa (Huỳnh Tấn ðối) và hai người ñậu Tú tài (tương ñương tốt nghiệp Trung học phổ thông ngày nay).

Từ sau Cách mạng tháng Tám 1945, ở Bình Sơn có phong trào xóa nạn mù chữ cho nhân dân ñạt kết quả khá cao. Năm 1948, xã Bình Chánh ñược công nhận xóa nạn mù chữ ñầu tiên ở Liên khu V.

Trong kháng chiến chống Pháp, Bình Sơn có Trường cấp II Nguyễn Tự Tân; trong kháng chiến chống Mỹ, Bình Sơn cũng có trường cấp II ñã ñào tạo hàng trăm người ñạt trình ñộ cấp II (ngang lớp 7 hệ 10 năm trung học lúc bấy giờ), tạo nguồn cán bộ có học vấn cho huyện. Các xã hầu hết ñã có trường Tiểu học.

Từ năm 1975 ñến nay, sự nghiệp giáo dục - ñào tạo Bình Sơn phát triển khá nhanh. ðến năm 1990, về cơ bản xóa xong nạn mù chữ. Công tác bổ túc văn hóa cho cán bộ, công chức và thanh niên ñược ñẩy mạnh. Các cấp học Mầm non, Trung học cơ sở, Trung học phổ thông ñã ñịnh hình và phát triển tốt.

Thống kê cơ bản về giáo dục - ñào tạo ở Bình Sơn năm 1980 và năm 2004(13)

Cấp học Năm Trường

Lớp Giáo viên

Học sinh

Mầm non Mẫu giáo

1980(14

) 133 133 5.900

Page 31: Các Huyện - Thành phố

Ñòa chí Quaûng Ngaõi Trang 31

2005 17 184 202 4.189 Tiểu học

và Trung học cơ sở

1980 26 1.096

1.182 39.650

2005 57 1.06

6 1.434 35.207

Trung học phổ thông

1980 1 19 45 1.014

2005 4 153 257 7.551

Ngoài ra, Bình Sơn có khá nhiều học sinh, sinh viên ñã và ñang học tại các trường Trung học chuyên nghiệp, Cao ñẳng, ðại học trong tỉnh và trong nước; hàng trăm thanh niên ñang học tại trường dạy nghề Dung Quất.

Chăm sóc sức khỏe: Trước Cách mạng tháng Tám 1945, ở các làng quê Bình Sơn có một số thầy thuốc Bắc, thuốc Nam dùng y học cổ truyền chữa bệnh cho nhân dân. Từ những năm 30 của thế kỷ XX, ở Châu Ổ ñã xuất hiện một vài hiệu thuốc tân dược và trong huyện ñã có một số thầy thuốc Tây y lo việc chữa bệnh cho nhân dân. Trong kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ, nhiều thôn, xã hình thành vườn thuốc Nam, có những thầy thuốc ðông y chế biến ðông dược và chữa bệnh cho nhân dân. Thầy thuốc và các cơ sở y tế của cách mạng chữa bệnh cho nhân dân, cán bộ, chiến sĩ bằng tân dược. Từ những năm 60 của thế kỷ XX, Bình Sơn có trạm xá dân y huyện liên tục di chuyển ở vùng căn cứ; có A100 - cơ sở khám, chữa bệnh cho bộ ñội, thương binh ñặt ở các xã Bình Tân, Bình Phú, Bình Châu, sau ñổi gọi là Bệnh xá ðông Sơn (ñông Bình Sơn - Sơn Tịnh) với hàng chục bác sĩ, y sĩ, y tá, hộ lý.

Từ sau năm 1975, Bình Sơn tổ chức ñược phòng khám ðông y và một số cửa hàng dược ðông y ở các khu vực trong huyện. Bệnh viện huyện ñược xây dựng và phát triển. Tất cả các xã và thị trấn ñều có trạm y tế. Các cơ sở này ñã tích cực phục vụ việc chăm sóc sức khỏe cho nhân dân. Năm 2005, huyện Bình Sơn có 227 cán bộ y tế, trong ñó có 30 bác sĩ, có 16 bác sĩ tại các trạm y tế xã. Bình Sơn thực hiện việc xây dựng ba công trình vệ sinh, tổ chức phòng, chống dịch bệnh, thực hiện công tác dân số và kế hoạch hóa gia ñình có hiệu quả.

Một vài số liệu về ngành y tế Bình Sơn(15)

Chỉ tiêu ðơn vị tính 1980 2005

Cơ sở khám chữa bệnh Cơ sở 25 26 Cán bộ y tế Cán bộ 156 227

Trong ñó có bác sĩ Người 4 30 Y sĩ, Y tá, hộ lý, hộ sinh Người 152 189

Dược sĩ Người 0 8 Giường bệnh Giường 120 155

Tỷ lệ sinh tự nhiên % 2,8 1,28

Page 32: Các Huyện - Thành phố

Ñòa chí Quaûng Ngaõi Trang 32

Nhân lực và các vấn ñề xã hội (tính ñến năm 2005)

Nguồn lao ñộng: 97.591 người. Trong ñó, lao ñộng ñược phân bổ theo các ngành như sau: 1) Nông - lâm - ngư nghiệp 79.176 người; 2) Công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp 3.903 người; 3) Thương mại - dịch vụ 7.532 người; 4) Các ngành không sản xuất vật chất 3.141 người. Lực lượng lao ñộng thiếu việc làm là 3.839 người.

Các vấn ñề xã hội

Bình Sơn ñã và ñang thực hiện các chính sách xã hội cho 1.500 cán bộ hưu trí, 523 Bà mẹ Việt Nam Anh hùng, 7.248 gia ñình liệt sĩ, 1.800 thương binh.

Huy ñộng sức ñóng góp của các cơ quan, ñơn vị, cá nhân trong và ngoài huyện xây dựng ñược 566 ngôi nhà tình nghĩa cho các ñối tượng chính sách và 101 ngôi nhà tình thương cho người nghèo.

Phát triển các trang trại, làng nghề, cụm tiểu thủ công nghiệp, huy ñộng nhân lực tham gia xây dựng và phục vụ Khu Kinh tế Dung Quất, ñã giải quyết việc làm cho hàng vạn lao ñộng.

Tỷ lệ hộ ñói nghèo toàn huyện năm 1980 là gần 40%, ñến năm 2005 chỉ còn là 12% hộ nghèo (theo chuẩn cũ).

(1), (2), (3) Theo Niên giám thống kê huyện Bình Sơn năm 2005.

(4) Xem Chương XXV: Di chỉ khảo cổ, di tích lịch sử - văn hoá, danh thắng.

(5), (6) Xem Chương XXV: Di chỉ khảo cổ, di tích lịch sử - văn hoá, danh thắng.

(7) Như trên phần chung toàn tỉnh ñã ghi.

(8), (9) Năm 1980, theo Báo cáo của Ủy ban nhân dân huyện Bình Sơn. Năm 2005, theo Niên giám thống kê năm 2005 của Phòng Thống kê huyện Bình Sơn.

(10) Theo giá hiện hành.

(11) Xem Chương XXV: Di chỉ khảo cổ, di tích lịch sử - văn hoá, danh thắng.

(12) Cao Chư: Các nhà khoa bảng Nho học Quảng Ngãi 1819 - 1918, Nxb ðà Nẵng, 2001.

(13) Năm 1980 theo Báo cáo năm 1980 của Ủy ban nhân dân huyện Bình Sơn, năm 2005 theo Niên giám thống kê năm 2005 của Phòng thống kê huyện Bình Sơn.

Page 33: Các Huyện - Thành phố

Ñòa chí Quaûng Ngaõi Trang 33

(14) Bao gồm cả Lý Sơn.

(15) Năm 1980 theo Báo cáo của Uỷ ban nhân dân huyện Bình Sơn; năm 2005 theo Niên giám thống kê của Phòng Thống kê huyện Bình Sơn.

Page 34: Các Huyện - Thành phố

Ñòa chí Quaûng Ngaõi Trang 34

HUYỆN SƠN TỊNH

SƠN TỊNH là một huyện ñồng bằng ven biển nằm ở phía bắc tỉnh Quảng Ngãi.

Phía ñông giáp biển ðông; phía tây giáp hai huyện miền núi Trà Bồng, Sơn Hà; phía nam giáp huyện Tư Nghĩa và thành phố Quảng Ngãi (sông Trà Khúc là ranh giới tự nhiên); phía bắc giáp huyện Bình Sơn.

Hình thể huyện Sơn Tịnh có bề ngang (theo chiều nam - bắc) hẹp, bề dài (theo chiều ñông - tây) trải rộng từ chân dãy Trường Sơn giáp ñến biển; có Quốc lộ 1 và ñường sắt Bắc - Nam chạy qua ở giữa huyện. Diện tích tự nhiên: 343,57km2. Dân số: 194.738 người (năm 2005). Mật ñộ dân số: 566,8 người/km2(1). ðơn vị hành chính trực thuộc gồm 1 thị trấn (Sơn Tịnh huyện lị) và 20 xã (Tịnh Giang, Tịnh ðông, Tịnh Minh, Tịnh Bắc, Tịnh Hiệp, Tịnh Trà, Tịnh Bình, Tịnh Thọ, Tịnh Sơn, Tịnh Hà, Tịnh Ấn Tây, Tịnh Ấn ðông, Tịnh Phong, Tịnh An, Tịnh Châu, Tịnh Long, Tịnh Thiện, Tịnh Khê, Tịnh Kỳ, Tịnh Hòa), với 106 thôn; trong ñó:

Thị trấn Sơn Tịnh có 5 thôn: Liên Hiệp 1, Liên Hiệp 2, Trường Thọ ðông, Trường Thọ Tây, Quyết Thắng;

Xã Tịnh Giang có 5 thôn: Cù Và, ðông Hòa, An Hòa, An Kim, Phước Thọ;

Xã Tịnh ðông có 8 thôn: Thôn Giữa, Tân Phước, Tân An, Hưng Nhượng Nam, Hưng Nhượng Bắc, ðồng Nhơn Nam, ðồng Nhơn Bắc, An Bình;

Xã Tịnh Minh có 4 thôn: Minh Thành, Minh Khánh, Minh Long, Minh Trung;

Xã Tịnh Bắc có 3 thôn: Minh Lộc, Minh Mỹ, Minh Xuân;

Xã Tịnh Hiệp có 6 thôn: Vĩnh Tuy, Hội ðức, Phú Sơn, Mỹ Danh, Xuân Hòa, Xuân Mỹ;

Xã Tịnh Trà có 4 thôn: Thạch Nội, Phú Thành, Trà Bình, Khánh Mỹ;

Xã Tịnh Bình có 3 thôn: Bình Bắc, Bình Nam, Bình ðông;

Xã Tịnh Thọ có 5 thôn: Thọ ðông, Thọ Trung, Thọ Tây, Thọ Bắc, Thọ Nam;

Xã Tịnh Sơn có 5 thôn: Bình Thọ, Phước Lộc ðông, Phước Lộc Tây, An Thọ, Diên Niên;

Xã Tịnh Hà có 11 thôn: Hà Tây, Ngân Giang, Lâm Lộc Nam, Lâm Lộc Bắc, Hà Trung, Hà Nhai Nam, Hà Nhai Bắc, Thọ Lộc Tây, Thọ Lộc Bắc, Thọ Lộc ðông, Trường Xuân;

Page 35: Các Huyện - Thành phố

Ñòa chí Quaûng Ngaõi Trang 35

Xã Tịnh Ấn Tây có 4 thôn: Thống Nhất, Cộng Hòa 1, Cộng Hòa 2, ðộc Lập;

Xã Tịnh Ấn ðông có 6 thôn: Hòa Bình, Hạnh Phúc, ðoàn Kết, Bình ðẳng, ðộc Lập, Tự Do;

Xã Tịnh Phong có 6 thôn: Thế Lợi, Thế Long, Trường Thọ, Phú Lộc, Phong Niên Hạ, Phong Niên Thượng;

Xã Tịnh An có 4 thôn: An Phú, Ngọc Thạch, Long Bàn, Tân Mỹ;

Xã Tịnh Châu có 4 thôn: Phú Bình, Kim Lộc, Mỹ Lộc, Lệ Thuỷ;

Xã Tịnh Long có 4 thôn: Gia Hòa, Tăng Long, An Lộc, An ðạo;

Xã Tịnh Thiện có 4 thôn: Hòa Bân, Phú Vinh, Long Thành, Khánh Lâm;

Xã Tịnh Khê có 4 thôn: Tư Cung, Mỹ Lại, Trường ðịnh, Cổ Luỹ;

Xã Tịnh Kỳ có 3 thôn: Kỳ Xuyên, An Kỳ, An Vĩnh;

Xã Tịnh Hòa có 8 thôn: Diêm ðiền, Minh Quang, Phú Mỹ, Vĩnh Sơn, Trung Sơn, ðông Hòa, ðông Thuận, Xuân An.

Sơn Tịnh vốn có truyền thống văn hóa, truyền thống yêu nước từ lâu ñời, là nơi sản sinh nhiều nhân vật lịch sử, nhiều tướng lĩnh Quân ñội nhân dân Việt Nam, nơi có nhiều thắng cảnh và di tích, có núi Ấn sông Trà ñược coi như biểu tượng của Quảng Ngãi, có Khu chứng tích tội ác chiến tranh Sơn Mỹ ñược cả nước và thế giới biết ñến; là một huyện có tiềm năng phát triển kinh tế ña dạng.

* * *

Về hành chính: ðời nhà Hồ vùng ñất Sơn Tịnh ngày nay nằm trong huyện Trì Bình thuộc châu Tư, lộ Thăng Hoa. ðến ñời nhà Lê, huyện Trì Bình có tên là huyện Bình Dương, ñịa hạt huyện Sơn Tịnh sau này nằm trong huyện Bình Dương. Huyện Bình Dương sau ñổi tên là huyện Bình Sơn. ðến ñời vua ðồng Khánh, huyện Bình Sơn có 6 tổng với 158 xã, thôn, trại, ấp, phường, ty.

ðến năm 1890, các làng, xã, ấp phía nam huyện Bình Sơn ñược tách ra thành lập châu Sơn Tịnh thuộc Sơn phòng Nghĩa ðịnh. "Năm thứ 11 ñời vua Thành Thái (1899), cải làm huyện, trích 18 xã thôn tổng Bình Thượng huyện Bình Sơn và 8 xã thôn tổng Bình Trung nhập làm tổng Tịnh Thượng; lại trích 25 xã thôn tổng Bình Trung và 3 xã thôn tổng Bình Hạ nhập làm tổng Tịnh Trung thuộc về huyện này" (ðại Nam nhất thống chí - Quyển 6, bản năm Duy Tân 1909). Sau ñó, dưới thời vua Bảo ðại, tổng Bình Châu nhập về huyện Sơn Tịnh và ñổi tên là tổng Tịnh Châu. Năm 1932, huyện Sơn Tịnh ñổi gọi là phủ Sơn Tịnh. Phủ Sơn Tịnh có 4

Page 36: Các Huyện - Thành phố

Ñòa chí Quaûng Ngaõi Trang 36

tổng, là Tịnh Thượng, Tịnh Trung, Tịnh Hòa, Tịnh Châu, với 72 làng, xã, thôn, ấp, vạn, trại.

Sau Cách mạng tháng Tám 1945, phủ Sơn Tịnh lấy tên là phủ Trương Quang Trọng - tên của Bí thư Tỉnh bộ Việt Nam Cách mạng Thanh niên tỉnh Quảng Ngãi(2). ðến tháng 6.1946, phủ Trương Quang Trọng ñổi gọi là huyện Sơn Tịnh. Các làng xã nhỏ hợp nhất thành 12 xã lớn, lấy chữ Tịnh ñứng ñầu: Tịnh Giang, Tịnh Hiệp, Tịnh Thọ, Tịnh Minh, Tịnh Bình, Tịnh Sơn, Tịnh Hà, Tịnh Phong, Tịnh Ấn, Tịnh Thành, Tịnh Khê, Tịnh Hòa.

Trong những năm kháng chiến chống Pháp, việc tách nhập xã diễn ra như sau: xã Tịnh Giang tách thành hai xã Tịnh Giang, Tịnh ðông; xã Tịnh Hiệp tách thành hai xã Tịnh Hiệp, Tịnh Trà; xã Tịnh Minh tách thành hai xã Tịnh Minh, Tịnh Bắc; xã Tịnh Hòa tách thành hai xã Tịnh Hòa, Tịnh Kỳ; xã Tịnh Thành tách thành 8 xã Tịnh Tân, Tịnh Nhơn, Tịnh Thủy, Tịnh Châu, Tịnh Thiện, Tịnh Bân, Tịnh Long, Tịnh An. Sau ñó, 8 xã nhỏ ñược chia ra từ xã Tịnh Thành lại sáp nhập thành 4 xã: xã Tịnh Tân và xã Tịnh Nhơn nhập lại thành xã Tịnh An; xã Tịnh Châu và xã Tịnh Thủy nhập lại thành xã Tịnh Châu; xã Tịnh Thiện và xã Tịnh Bân nhập lại thành xã Tịnh Thiện; xã Tịnh Long và xã Tịnh An nhập lại thành xã Tịnh Long. Có lúc 2 xã Tịnh Khê và Tịnh Hòa sáp nhập thành xã Tịnh Hải, sau lại tách ra. ðến năm 1954, huyện Sơn Tịnh còn 19 xã.

Trong kháng chiến chống Mỹ, chính quyền Sài Gòn ñổi tên huyện Sơn Tịnh thành quận Sơn Tịnh và ñổi tên các xã, lấy chữ Sơn làm ñầu như sau: xã Tịnh Giang ñổi là xã Sơn Tây; xã Tịnh ðông ñổi là xã Sơn ðông; xã Tịnh Hiệp ñổi là xã Sơn Phương; xã Tịnh Trà ñổi là xã Sơn Trà; xã Tịnh Bắc ñổi là xã Sơn Bắc; xã Tịnh Minh ñổi là xã Sơn Nam; xã Tịnh Sơn ñổi là xã Sơn Lộc; xã Tịnh Bình ñổi là xã Sơn Châu; xã Tịnh Thọ ñổi là xã Sơn Kim; xã Tịnh Phong ñổi là xã Sơn Hương; xã Tịnh Hà ñổi là xã Sơn Trung; xã Tịnh Ấn ñổi là xã Sơn Long; xã Tịnh An ñổi là xã Sơn Phú; xã Tịnh Châu ñổi là xã Sơn Thành; xã Tịnh Thiện ñổi là xã Sơn Hòa; xã Tịnh Long ñổi là xã Sơn Hội; xã Tịnh Hòa ñổi là xã Sơn Quang; xã Tịnh Khê ñổi là xã Sơn Mỹ; xã Tịnh Kỳ ñổi là xã Sơn Hải. Về phía cách mạng, tên huyện Sơn Tịnh và tên các xã có từ kháng chiến chống Pháp vẫn ñược sử dụng.

ðể tiện việc chỉ ñạo và tổ chức kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, trong những năm 1961 - 1965 và 1970 - 1975, Tỉnh ủy Quảng Ngãi quyết ñịnh nhập các xã phía ñông Quốc lộ 1A của huyện Sơn Tịnh và các xã phía ñông huyện Bình Sơn lập thành huyện ðông Sơn trực thuộc tỉnh; các xã phía tây Quốc lộ 1A vẫn gọi là huyện Sơn Tịnh.

Sau ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng, ñất nước thống nhất, các xã phía ñông và phía tây Quốc lộ 1A của huyện Sơn Tịnh hợp nhất lại thành một huyện như cũ. Năm 1987, xã Tịnh Ấn ñược chia thành ba ñơn vị: thị trấn Sơn Tịnh, xã Tịnh Ấn Tây, xã Tịnh Ấn ðông. ðến năm 2005, huyện Sơn Tịnh gồm 1 thị trấn, 20 xã, với 106 thôn.

Page 37: Các Huyện - Thành phố

Ñòa chí Quaûng Ngaõi Trang 37

Về tự nhiên: Sơn Tịnh là một dải ñất dài bên tả ngạn sông Trà Khúc, ñịa hình khá ña dạng, dốc dần từ tây xuống ñông, chia thành bốn vùng: vùng bán sơn ñịa phía tây, vùng ñất cát phía tây bắc, vùng châu thổ dọc sông Trà Khúc, vùng ñầm phá, cửa sông, ñộng cát ven biển. Mỗi vùng có ñặc ñiểm thổ nhưỡng khác nhau.

Núi ñồi: Sơn Tịnh có nhiều núi cao thấp khác nhau và những dãy ñồi lượn sóng, úp bát khắp trong huyện từ tây xuống ñông: núi Dầu, núi Tròn, núi Cà Ty, núi Thiên Ấn cao trên dưới 100m; núi Nhàn, núi Khỉ (còn gọi là núi Bìn Nin hoặc núi Chợ), núi Sứa, núi Long ðầu, núi Ngang, núi ðất, núi Hầm, núi Voi, núi Thiên Mã cao trên dưới 70m; ñồi Tranh (Quang Thạnh), ñồi Mã Tổ, Gò ðồn, Gò Mạ, Rừng Dê, Rừng Xanh...

Sông, suối: Dọc phía nam huyện có sông Trà Khúc chảy từ tây sang ñông, ñộ dài ở ñịa hạt Sơn Tịnh gần 40km, ñến xã Tịnh Khê sông ñổ ra cửa Cổ Lũy. Trà Khúc là con ñường thủy quan trọng giao lưu kinh tế - văn hóa từ vùng biển lên nguồn và ngược lại; là nguồn nước quan trọng trong sản xuất nông nghiệp và sinh hoạt.

Phía tây Sơn Tịnh còn có sông Giang, bắt nguồn từ vùng nam huyện Trà Bồng chảy qua xã Tịnh Giang rồ i hợp nước vào sông Trà Khúc. Phía ñông Sơn Tịnh có sông Diêm ð iền (ở Tịnh Hòa), sông Kinh (ở Tịnh Khê).

Suối từ hướng tây bắc chảy về hướng ñông nam khá nhiều, tính từ tây xuống ñông có các suối Bàng Lăng, Tam Hân, Bến Ngói, Bến Bè, Bà Mẹo, Bà Tá... Xưa kia các suối khá nhiều nước, người ñi ñường mùa hè phải lội qua, mùa mưa phải ñi ñò. Nay hầu hết các suối ñều cạn nước, ñường qua suối ñều có cầu.

Biển và bờ biển: Sơn Tịnh có bờ biển dài 12km, nằm giữa hai cửa biển Sa Kỳ, Cổ Lũy, nhờ ñó có thể mở rộng giao lưu hàng hóa bằng ñường biển ñi các nơi và cũng là ñiều kiện tự nhiên thuận lợi cho nghề ñánh bắt hải sản, hình thành các cánh ñồng muối ở Xuân An (Tịnh Hòa). Những ñầm ngập mặn ở ven biển tạo ñiều kiện thuận lợi cho cư dân ở ñây nuôi trồng thủy hải sản xuất khẩu. Các bãi biển ñẹp như Mỹ Khê, An Kỳ, An Vĩnh, gắn với di tích Sơn Mỹ ñã và ñang thu hút khách du lịch ñến tham quan, nghỉ ngơi.

ðồng bằng: Ở vùng châu thổ tả ngạn sông Trà Khúc, nhờ ñược phù sa bồi ñắp nên ñất ñai màu mỡ, phì nhiêu, tạo nên những cánh ñồng lúa, mía, ngô, dâu tằm, rau quả với sản lượng cao, phục vụ nhu cầu ñời sống của nhân dân và sản xuất hàng hóa xuất khẩu. Ở các vùng khác, ñất ñai ít thuận lợi hơn cho sản xuất nông nghiệp.

Khí hậu: Sơn Tịnh nằm trong vùng nhiệt ñới, gió mùa; mỗi năm có hai mùa mưa, nắng rõ rệt. Mùa mưa từ tháng chín âm lịch ñến tháng giêng năm sau, mùa nắng từ tháng hai ñến tháng tám.

Page 38: Các Huyện - Thành phố

Ñòa chí Quaûng Ngaõi Trang 38

Trong tổng diện tích tự nhiên 34.357,4ha của huyện Sơn Tịnh, tính ở thời ñiểm năm 2005, ñất sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp, thuỷ hải sản có 24.400,8ha (71%); ñất chuyên dùng có 3.148,7ha (9,2%); ñất khu dân cư 1.662,3ha (4,8%); ñất phi nông nghiệp 2.809,9ha (8,2%); ñất chưa sử dụng 2.335,7ha (6,7%).

Rừng núi và ñất ñồi Sơn Tịnh trước kia có nhiều cây bằng lăng, bìn nin (loại gỗ quý nhóm I), có nhiều ñộng vật. Ở vùng ñất cát tây bắc huyện có cây chổi, ñược nhân dân khai thác lá, cành chế biến ra dầu chổi (giống như dầu khuynh diệp). Ngày nay, các loại cây trên hầu như không còn. Từ sau ngày giải phóng ñến nay, Sơn Tịnh trồng mới hàng ngàn hécta rừng, nhiều nhất là dương liễu ở ven biển, cây ñiều, bạch ñàn ở vùng gò ñồi; ñồng thời khoanh nuôi, tái sinh, chăm sóc hàng ngàn hécta rừng cũ.

Núi rừng, sông suối Sơn Tịnh là nơi nhân dân khai thác ñược nhiều ñá, cát, sỏi phục vụ cho xây dựng cơ bản. Năm 2004 và 2005, toàn huyện khai thác ñược trên 39.000m3 gỗ, 319.000 ster củi, 400 ngàn cây tre, 2,8 triệu lá dừa nước.

Dưới lòng ñất ở phía tây bắc huyện có mỏ graphit Hưng Nhượng (ở Tịnh ðông) với trữ lượng khoảng trên 40 triệu tấn, có quặng bauxit, silamít, quặng sắt, cao lanh ở Tịnh Hiệp, Tịnh Giang, Tịnh Trà, có ñá vôi ở Tịnh Khê...

Dưới biển có nhiều loại hải sản quý.

Về dân cư: Qua một số hiện vật khảo cổ, người ta biết xưa kia ở ñịa hạt huyện Sơn Tịnh từng có các cộng ñồng cư dân cổ, chủ nhân của thời kỳ ñồ ñá cũ tại khu vực Gò Trá (nay thuộc xã Tịnh Thọ), chủ nhân của nền văn hóa Tiền Sa Huỳnh ở Núi Sứa (nay thuộc xã Tịnh Ấn Tây). Tiếp sau là cư dân Chăm sống rải rác ở nhiều nơi.

Người Việt ở Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ ñã chuyển cư ñến vùng ñất Sơn Tịnh từ cuối thế kỷ XV, sinh cơ lập nghiệp, mở ñất, dựng làng. Một số người Hoa từ thời phong kiến ñã sang buôn bán, sinh sống, về sau hòa nhập với cộng ñồng người Việt, gọ i là người Việt gốc Hoa, tập trung nhiều nhất ở Ba Gia (nay thuộc xã Tịnh Bắc), ðồng Ké (nay thuộc xã Tịnh Giang). Ở các xã cực tây của huyện có một số ít người thuộc dân tộc Hrê sinh sống. Sau ngày giải phóng miền Nam, thống nhất ñất nước, có một số ít người thuộc các dân tộc thiểu số ở miền Bắc theo gia ñình về sống ở Sơn Tịnh.

ðến năm 2005, dân số Sơn Tịnh có 194.738 người, trong ñó có 194.725 người Việt, 13 người dân tộc Hrê sống ở xã Tịnh Giang cực tây huyện(3).

Phân bố dân số tính ở thời ñiểm năm 2005 ở các xã, thị trấn trong huyện Sơn Tịnh như sau:

Page 39: Các Huyện - Thành phố

Ñòa chí Quaûng Ngaõi Trang 39

TT Xã, thị trấn Diện tích tự nhiên (km2)

Dân số trung bình (người)

M ật ñộ dân số (người/km2)

1 Tịnh Giang 17,060 7.975 467,5

2 Tịnh ðông 24,967 6.506 260,6

3 Tịnh Minh 9,143 6.259 684,6

4 Tịnh Bắc 8,842 4.460 504,4

5 Tịnh Sơn 14,795 9.713 656,5

6 Tịnh Hà 19,224 17.536 912,2

7 Tịnh Ấn Tây 7,254 7.520 1.036,7

8 Thị trấn Sơn Tịnh 9,249 12.883 1.392,9

9 Tịnh Ấn ðông 9,808 5.753 586,6

10 Tịnh An 9,150 8.934 976,4

11 Tịnh Long 8,441 9.168 1.086,1

12 Tịnh Châu 6,549 7.015 1.071,2

13 Tịnh Thiện 12,132 8.321 685,9

14 Tịnh Khê 15,503 13.928 898,4

15 Tịnh Hòa 17,828 12.728 713,9

16 Tịnh Kỳ 4,426 8.875 2.005,2

17 Tịnh Hiệp 35,808 7.857 219,4

18 Tịnh Trà 21,213 5.236 246,8

19 Tịnh Bình 25,275 11.677 462,0

20 Tịnh Thọ 39,400 12.640 320,8

21 Tịnh Phong 27,508 9.754 354,6

Bảng thống kê trên cho thấy: 1) Về số dân, có 6 xã, thị trấn có số dân trên 10.000 người là các xã Tịnh Hà, Tịnh Khê, Tịnh Thọ, Tịnh Hòa, Tịnh Bình và thị trấn Sơn Tịnh. Các xã có số dân ít hơn trong huyện là Tịnh Bắc, Tịnh Trà, Tịnh Ấn ðông; 2) Về mật ñộ dân số, các xã có mật ñộ dân số cao là Tịnh Kỳ, Tịnh Long, Tịnh Châu, Tịnh Ấn Tây và thị trấn Sơn Tịnh ñều là các ñịa phương hoặc có ñông dân số làm nghề cá hoặc gần với trung tâm buôn bán, chủ yếu nằm ở phía ñông huyện. Dân số thưa hơn là ở các xã Tịnh Hiệp, Tịnh Thọ, Tịnh Trà, Tịnh Phong, Tịnh ðông, là những xã xa, nằm ở vùng tây bắc của huyện, ñất ñai nhìn chung cằn cỗi, thiếu nước.

Cư dân Sơn Tịnh chủ yếu sinh sống bằng nông - ngư nghiệp, một số làm nghề thủ công (ép mía nấu ñường, ươm tơ dệt lụa, làm ñồ gốm, chằm nón, dệt chiếu cói, chế tác sừng, làm muố i, chế biến mắm, làm dây dừa...) hoặc buôn bán. Cộng ñồng cư dân Sơn Tịnh có những phong tục tập quán, lễ nghi, sinh hoạt văn hóa của người Việt trên ñất Quảng Ngãi. Ở vùng ven biển Tịnh Kỳ, Tịnh Hòa, Tịnh Khê có tục thờ cúng cá Ông (Nam Hải ñại vương). Ở vùng sông nước Tịnh Long, Tịnh Ấn

Page 40: Các Huyện - Thành phố

Ñòa chí Quaûng Ngaõi Trang 40

có lễ hội ñua thuyền vào ñầu xuân hằng năm cầu mùa, cầu cho mưa thuận gió hòa, quốc thái dân an.

* * *

Về truyền thống xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, huyện Sơn Tịnh có nhiều ñiểm ñáng chú ý.

Thế kỷ XVIII, nhân dân Sơn Tịnh ñã từng tham gia phong trào khởi nghĩa nông dân Tây Sơn, ñánh ñuổi quân Thanh xâm lược. Tiêu biểu có ñô ñốc Trương ðăng ðồ (ở làng Mỹ Khê, nay thuộc xã Tịnh Khê) và vợ là nữ ñô ñốc Nguyễn Thị Dung; ñô ñốc Nguyễn Tăng Long (ở làng ðông Thành, nay thuộc xã Tịnh Thọ)(4).

Nhân dân Sơn Tịnh luôn có mặt trong các phong trào yêu nước chống Pháp, tiêu biểu có Bình Tây ðại nguyên soái Trương Công ðịnh (ở làng Tư Cung Nam, nay thuộc xã Tịnh Khê) lãnh ñạo nghĩa quân Nam Kỳ lục tỉnh chống Pháp (1861 - 1864); các phong trào Cần vương 1885 - 1896, Duy tân 1904 - 1908, Việt Nam quang phục Hội 1912 - 1916, Cộng sản lạc thôn 1923 - 1925 dưới sự hướng ñạo của các sĩ phu yêu nước Lê Trung ðình, Tôn Tường, Nguyễn Vịnh, Nguyễn ðình Quản, Mai Bá, Mai Tuấn, Trương Quang Cận. Giữa năm 1927, huyện bộ Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên Sơn Tịnh ñược thành lập. ðồng chí Trương Quang Trọng, Bí thư Tỉnh bộ Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên Quảng Ngãi, kiêm Bí thư huyện bộ Sơn Tịnh. Tháng 8.1929, tổ chức Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên Sơn Tịnh chuyển thành tổ chức "Dự bị Cộng sản".

Mùa xuân 1930, ðảng bộ ðảng Cộng sản Việt Nam tỉnh Quảng Ngãi ñược thành lập. Ở Sơn Tịnh, ñến tháng 4.1930 ñã tổ chức ñược 5 chi bộ ðảng (An Vĩnh, Tư Cung Nam, Sung Tích, ðông Dương, Thọ Lộc). Ban Chấp hành lâm thời ðảng bộ Sơn Tịnh ñược thành lập, ñưa phong trào cách mạng của nhân dân Sơn Tịnh bước vào một thời kỳ mới dưới sự lãnh ñạo của ðảng bộ huyện.

Trong cao trào 1930 - 1931, ở Sơn Tịnh ñã liên tục nổ ra các cuộc ñấu tranh với quy mô lớn theo các mục tiêu của ðảng ñề ra. Có những cuộc xuống ñường của nhân dân cả phía tây và phía ñông huyện gồm từ 3.000 ñến 5.000 quần chúng tham gia. Trong những năm 1932 - 1935, mặc dù thực dân Pháp và tay sai thực hiện khủng bố trắng, nhưng phong trào cách mạng ở Sơn Tịnh vẫn ñược duy trì. Trong những năm 1936 - 1939, dưới sự lãnh ñạo của ðảng bộ huyện, phong trào cách mạng lại bùng lên mạnh mẽ. Nổ i bật là cuộc xuống ñường ngày 01.7.1937 của 5.000 quần chúng khắp các làng xã tập trung ñến Quốc lộ 1A ñón Gôña (ñại diện Chính phủ Mặt trận Bình dân Pháp), ñưa yêu sách ñòi các quyền tự do, dân chủ, cơm áo, hòa bình; ñòi thả hết tù chính trị; cuộc ñấu tranh của nhân dân Phước Lộc (nay thuộc xã Tịnh Sơn) vào tháng 12.1937, buộc cường hào Nguyễn Duệ (Hương Duật) phải trả 50ha ñất cho nông dân lập hộ i ñồng canh trồng mía; các cuộc ñấu tranh vào ñầu tháng 1 và cuối tháng 2.1939 của hàng ngàn người ở chợ Châu Sa, Phước Lộc và các làng ven biển chống chủ trương tăng thuế mới của thực dân

Page 41: Các Huyện - Thành phố

Ñòa chí Quaûng Ngaõi Trang 41

Pháp; cuộc xuống ñường ngày 14.7.1939 của trên 1.000 người dân Sơn Tịnh kéo về sân vận ñộng Quảng Ngãi cùng với hàng vạn nhân dân các nơi khác trong tỉnh biến lễ Chánh Chung (Quốc khánh nước Pháp) thành ngày hội chống chiến tranh, chống chủ nghĩa phát xít.

Trong những năm 1940 - 1945, các tổ chức cơ sở ðảng và Ban Chấp hành ðảng bộ huyện ñược khôi phục, củng cố và phát triển. Mặt trận Việt Minh và các ñoàn thể cứu quốc lần lượt ñược thành lập từ làng, xã, tổng ñến cấp phủ. Ngày Nhật ñảo chính Pháp ñộc chiếm ðông Dương (9.3.1945), ở Sơn Tịnh có nhiều cán bộ, ñảng viên, thanh niên liên lạc với tổ chức ðảng tại Căng An trí Ba Tơ. Hàng loạt cán bộ trẻ và thanh niên tham gia lực lượng du kích cứu quốc Ba Tơ. ðại ñội du kích Ba Tơ Phan ðình Phùng xuống lập chiến khu tại Vĩnh Tuy (nay thuộc xã Tịnh Hiệp). Lực lượng du kích, tự vệ cứu quốc ñược thành lập ở tất cả các làng xã. Xưởng Từ Nhại ở Vĩnh Tuy và hầu hết lò rèn trong phủ rèn sắm vũ khí. Nhân dân tích cực ñóng góp tiền bạc, mua sắm vũ khí, ñóng góp lương thực, thuốc men quần áo chuyển lên chiến khu ủng hộ ðội du kích Ba Tơ, chăm nuôi du kích các làng xã tập luyện...

Nhận ñược mệnh lệnh của Tỉnh ủy, ðảng bộ Sơn Tịnh ñã phát ñộng quần chúng khởi nghĩa từ chiều tối ngày 14.8.1945 và ñến ñêm 16.8.1945 Cách mạng tháng Tám thành công trong toàn phủ, giành toàn bộ chính quyền về tay nhân dân.

Sau Cách mạng tháng Tám 1945, chính quyền cách mạng, Mặt trận Việt Minh, Liên Việt, các ñoàn thể cứu quốc ñược xây dựng và củng cố, tập hợp hầu hết quần chúng vào các tổ chức cách mạng. Trong "Tuần lễ quyên vàng xây nền ñộc lập", nhân dân Sơn Tịnh ñóng góp ñược 5,2kg vàng và nhiều bạc trắng, ñồng.

Trong kháng chiến chống Pháp, ở Sơn Tịnh, lực lượng dân quân du kích phát triển, làng chiến ñấu ñược xây dựng khắp nơi, ñẩy lùi các cuộc ñổ bộ ñánh phá của quân Pháp vào vùng ven biển, ñập tan các cuộc càn quét của bọn "chí xẻng" (tay sai của Pháp) từ miền tây xuống Tịnh Giang, có trận loại khỏ i vòng chiến ñấu hàng chục tên ñịch, thiết thực góp phần bảo vệ vùng tự do Liên khu V trong suốt 9 năm. Sơn Tịnh ñã ñưa nhiều cán bộ và chiến sĩ tham gia công tác và chiến ñấu ở các chiến trường cực Nam Trung Bộ, Tây Nguyên, ðông Miên, Hạ Lào, ñưa hàng vạn thanh niên nhập ngũ, ñưa hàng ngàn dân công phục vụ tiền tuyến và ñóng góp hàng vạn tấn thóc thuế nông nghiệp phục vụ kháng chiến, góp phần ñưa cuộc kháng chiến chống Pháp ñi ñến thắng lợi.

Trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, truyền thống yêu nước và cách mạng của nhân dân Sơn Tịnh càng ñược phát huy.

Trong những năm ñầu ñen tố i, ðảng bộ Sơn Tịnh ñã lãnh ñạo nhân dân liên tục ñấu tranh chống chính sách "tố Cộng, diệt Cộng" của Mỹ - Diệm, xây dựng căn cứ lòng dân và căn cứ ñịa ở một số nơi, tiến lên diệt ác, phá thế kìm kẹp của ñịch. Sau cuộc Khởi nghĩa Trà Bồng và miền Tây Quảng Ngãi (8.1959), cấp ủy Sơn Tịnh rút thanh niên các xã thành lập ñội vũ trang tuyên truyền huyện, bổ sung cho các ñơn

Page 42: Các Huyện - Thành phố

Ñòa chí Quaûng Ngaõi Trang 42

vị lực lượng vũ trang của tỉnh, tấn công ñịch ở một số nơi, phát ñộng quần chúng nổi dậy phá kìm, giành quyền làm chủ một số thôn, xóm.

Từ năm 1961 ñến năm 1965, Sơn Tịnh tiếp tục phát triển lực lượng cách mạng, thực hiện ñồng khởi nông thôn. ðến cuối năm 1964, hệ thống "ấp chiến lược" của ñịch và bộ máy chính quyền ñịch ở nhiều thôn xã phía tây và ñông của Sơn Tịnh bị xóa sổ. Vùng giải phóng và vùng cách mạng làm chủ mở rộng gần sát Quốc lộ 1A. Quân dân Sơn Tịnh phối hợp chặt chẽ với các lực lượng vũ trang của tỉnh, Quân khu V thực hiện Chiến dịch xuân hè 1965 tại chiến trường tây bắc Quảng Ngãi, làm nên chiến thắng Ba Gia lịch sử vào cuối tháng 5.1965, góp sức cùng toàn tỉnh, toàn quốc ñánh bại chiến lược "chiến tranh ñặc biệt" của Mỹ.

Quân Mỹ, quân Nam Triều Tiên sau khi vào trực tiếp tham chiến, thực hiện chiến lược "chiến tranh cục bộ", ñã gây nên nhiều vụ thảm sát hàng loạt thường dân Sơn Tịnh. Từ cuối tháng 8 ñến tháng 12.1966, lính Nam Triều Tiên thuộc lữ ñoàn Rồng Xanh ñã sát hại dã man 600 ñồng bào ta ở các xã Tịnh Bình, Tịnh Sơn, Tịnh Thọ, Tịnh Hòa, Tịnh Kỳ, Tịnh Thiện. Và chỉ trong buổi sáng 16.3.1968, lính Mỹ ñã giết hại 504 ñồng bào ta tại Sơn Mỹ(5).

Dưới sự lãnh ñạo của ðảng, quân dân Sơn Tịnh kiên ñịnh tư tưởng chiến lược tiến công, kiên ñịnh phương châm hai chân ba mũi giáp công, kiên quyết ñánh trả quân Mỹ, quân chư hầu. Từ tháng 6.1965 ñến tháng 12.1966, quân dân Sơn Tịnh ñã ñánh hàng trăm trận lớn nhỏ, tiêu diệt, làm bị thương và bắt sống 2.757 ñịch, có 365 lính Mỹ, 611 lính Nam Triều Tiên. Trong hai năm 1967 - 1968, quân dân Sơn Tịnh phối hợp với các lực lượng của trên ñánh hàng trăm trận, tiêu diệt hàng vạn tên ñịch. Tiêu biểu là trận ñánh diệt một tiểu ñoàn và 2 ban chỉ huy tiểu ñoàn Nam Triều Tiên ở ñồi Quang Thạnh, tiêu diệt 420 lính Nam Triều Tiên; các trận ñánh tiêu diệt và làm thiệt hại nặng 3 ñại ñội lính Nam Triều Tiên ở Tịnh Bình, Tịnh Sơn, Tịnh Kỳ, Tịnh Hòa; trận ñánh tiêu diệt và làm thiệt hại nặng 4 tiểu ñoàn Mỹ càn vào tây Sơn Tịnh (17.12.1967); trận ñánh ñồn hải thuyền Cổ Lũy diệt 120 ñịch, có 3 lính Mỹ (3.8.1967); tổng tấn công và nổi dậy Xuân Mậu Thân loại khỏ i chiến ñấu 448 lính ñịch...(6).

Trong giai ñoạn thực hiện chiến lược "chiến tranh cục bộ" (1969 - 1972), ñịch mở nhiều cuộc ném bom, càn quét lớn vào Sơn Tịnh, lùa xúc dân vào các khu dồn Núi Tròn, Văn Thánh… cày ủi phá hủy nhiều làng mạc, ñồng ruộng của nhân dân, ra sức lập vành ñai trắng phòng thủ quận lỵ và phía bắc thị xã Quảng Ngãi. Trong tháng 3.1969, ñịch lùa 1.200 ñồng bào ta xuống tàu thủy ñem ñổ ngoài biển giết sạch(7).

Dưới sự lãnh ñạo của ðảng, quân dân Sơn Tịnh kiên trì trụ bám giữ vững thế tiến công ñịch bằng ba mũi giáp công, phối hợp với các lực lượng của trên liên tục chống càn, ñánh vào ñồn bót ñịch, diệt ác, phá các khu dồn, ñưa dân về làng cũ. Từ năm 1969 ñến năm 1971, trên ñất Sơn Tịnh có hàng vạn quân ñịch bị loại khỏ i chiến ñấu, trong ñó có hàng ngàn lính Mỹ.

Page 43: Các Huyện - Thành phố

Ñòa chí Quaûng Ngaõi Trang 43

Ngày 24.10.1971, ñơn vị lính Mỹ cuối cùng ở Núi ðất (Tịnh Bình) rút khỏ i tây Sơn Tịnh. Sơn Tịnh ñã góp sức cùng cả tỉnh, cả nước làm phá sản chiến lược "Việt Nam hóa chiến tranh" của ñế quốc Mỹ, buộc nhà cầm quyền Mỹ phải ký kết Hiệp ñịnh Pari vào ngày 27.1.1973, cuốn cờ rút quân Mỹ về nước.

Nhưng ñế quốc Mỹ vẫn tiếp tục ñứng sau giúp sức chính quyền Sài Gòn thực hiện âm mưu kéo dài chiến tranh, chia cắt lâu dài ñất nước ta. Chính quyền Sài Gòn vi phạm Hiệp ñịnh Pari, xua quân lấn chiếm vùng giải phóng, cày ủi trắng ñất trắng dân nhiều vùng ở tây ñông huyện lỵ.

Quân dân Sơn Tịnh trụ bám trừng trị ñích ñáng những hành ñộng của ñịch vi phạm Hiệp ñịnh. Vừa ñánh ñịch, vừa xây dựng lực lượng mạnh lên gấp bội ñể tiến lên phối hợp với toàn tỉnh, toàn quốc tổng tấn công và nổi dậy mùa Xuân 1975, giải phóng toàn huyện vào ngày 25.3.1975.

Nhờ những ñóng góp to lớn vào cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, Sơn Tịnh có 17 ñơn vị và 4 cá nhân ñược phong tặng danh hiệu Anh hùng Lực lượng Vũ trang nhân dân, có một cá nhân hai lần ñược phong tặng danh hiệu Anh hùng Lao ñộng là ông Hồ Giáo (Tịnh Sơn), có 412 bà mẹ ñược phong tặng danh hiệu Bà mẹ Việt Nam Anh hùng(8).

Sơn Tịnh cũng là nơi sản sinh ra nhiều tướng lĩnh, ñược xem là "ñất tướng": có 1 thượng tướng, 5 trung tướng, 6 thiếu tướng Quân ñội nhân dân Việt Nam, 1 thiếu tướng Công an nhân dân(9).

Từ sau năm 1975, huyện Sơn Tịnh khắc phục hậu quả chiến tranh, tiến hành hợp tác hóa nông nghiệp, khôi phục và phát triển kinh tế, từng bước cải thiện ñời sống vật chất và tinh thần cho nhân dân, ñưa hàng vạn thanh niên tòng quân nhập ngũ tham gia bảo vệ quê hương, ñất nước và làm nghĩa vụ quốc tế. ðã có hàng trăm cán bộ và chiến sĩ Sơn Tịnh ñi làm nghĩa vụ quốc tế ở Lào và Cămpuchia.

Tình hình chính trị tư tưởng và an ninh quốc phòng toàn huyện ngày càng ổn ñịnh và luôn ñược giữ vững.

* * *

Sơn Tịnh vốn là một huyện thuần nông, nền kinh tế lạc hậu. Trong kháng chiến chống Pháp, ñịa hạt huyện ñã duy trì ñược kinh tế tự cấp tự túc. Trong kháng chiến chống Mỹ, mảnh ñất này bị bom ñạn, chất ñộc hóa học của Mỹ tàn phá nghiêm trọng. Từ sau năm 1975, Sơn Tịnh phát triển kinh tế với cơ cấu hợp lý: phát triển nông nghiệp toàn diện, từng bước mở mang tiểu thủ công nghiệp và công nghiệp, phát triển thương mại - dịch vụ. Từ những năm cuối thế kỷ XX, Khu Kinh tế Dung Quất và Khu Công nghiệp Tịnh Phong ra ñời tạo thuận lợi cho kinh tế Sơn Tịnh phát triển nhanh hơn.

Page 44: Các Huyện - Thành phố

Ñòa chí Quaûng Ngaõi Trang 44

Nông, lâm, ngư nghiệp

ðất ñai ở huyện Sơn Tịnh tương ñối ña dạng, thuộc nhiều loại hình khác nhau nhưng có thể phân làm hai nhóm chính: 1) ðồng ñất ven sông Trà, nhờ có nước và phù sa nên phì nhiêu màu mỡ hơn; 2) ðồng ñất phía tây bắc huyện chủ yếu là ñất cát, bạc màu, khô cằn, chỉ làm ñược lúa gieo 1 vụ/năm và trồng mì.

Nổi bật trong nông nghiệp ở Sơn Tịnh trước hết là công tác thủy lợi, trong ñó các guồng xe nước trên sông Trà ñặc biệt nổ i tiếng vì sự kỳ vĩ và ñộc ñáo. Năm 1790, dân làng Phước Lộc (nay thuộc xã Tịnh Sơn) có ñơn xin miễn công ích cho những người thợ xe, ñược vua Thái ðức (Nguyễn Nhạc) châu phê. Các ông Nguyễn Văn Giai (ở làng Phước Lộc), Lê Văn Hóa (ở làng Sơn An, nay thuộc xã Tịnh An) ñã có công ñầu trong tạo dựng và phát triển hệ thống guồng xe nước ở ñây(10). ðến thập niên ba mươi thế kỷ XX, Sơn Tịnh có 29 guồng xe nước bên bờ tả ngạn sông Trà: 4 guồng 8 bánh, 19 guồng 9 bánh; 6 guồng 10 bánh. ðể giải quyết vấn ñề nước tưới, nông dân Sơn Tịnh còn khai mương, ñắp ñập, dùng cần vọt, gàu giai, gàu sòng, guồng ñạp nước ñể lấy nước tưới cho hoa màu cây trái. Thời phong kiến nhân dân ñã ñắp ñập Bàu Cá (ở làng Trà Bình, nay thuộc xã Tịnh Trà). Khi ñập bị hư, ông ð inh Duy Tự (Nghè Kim) cùng với nhân dân góp công của tu sửa, nên gọ i là ñập ông Nghè. Phía ñông huyện thì có ñập Ngự Hàm (ở làng Tư Cung Nam, nay thuộc xã Tịnh Khê) ngăn mặn. Thời kháng chiến chống Pháp, nhân dân Tịnh Giang ñã ñắp ñập Cù Và. Năm 1948, dưới sự chỉ huy của ông Nguyễn Cát (người xã Tịnh Hòa ñã tham gia cách mạng và trở thành ñảng viên cộng sản năm 1930, nguyên Chủ tịch Ủy ban Kháng chiến hành chính huyện Sơn Tịnh), nhân dân ñã ñào kênh Sơn Tịnh dài 16km lấy nước sông Trà Khúc tại cửa khẩu Ngân Giang vào tưới cho 1.500ha ñồng ruộng Tịnh Hà, Tịnh Phong và các xã phía ñông của huyện - nhân dân gọ i là kênh Ông Cát. Thời kháng chiến chống Mỹ, một số làng xã có ñiều kiện ñã mua sắm bơm nước chạy bằng dầu mazut hoặc xăng ñể ñưa nước vào ñồng. Sau ngày giải phóng, nhân dân ñã xây dựng 6 hồ chứa nước, ñắp ñập Cống Giang (ở Tịnh Giang) dẫn nước vào ruộng, ñắp ñập Khê Hòa ñể ngăn mặn và giữ ngọt cho hàng ngàn hécta ruộng phía trên ñập. Từ năm 1993, hệ thống kênh mương thủy lợi Thạch Nham ñã vươn dài ñưa nước sông Trà Khúc ñến hầu khắp ñồng ñất Sơn Tịnh. Mấy năm gần ñây, nhân dân còn dùng cả máy bơm ñiện ñể bơm nước vào ruộng. Thời kỳ nào, nhân dân Sơn Tịnh cũng ñặc biệt coi trọng công tác thủy lợi.

Diện tích ñất sản xuất nông nghiệp của huyện Sơn Tịnh ở thời ñ iểm 2005 là 17.997,8ha, trong ñó ñất trồng cây hằng năm 14.384ha, ñất trồng cây lâu năm 3.613,8ha.

Về trồng trọt: Lúa là cây lương thực chính. Trước kia ñồng ruộng ven sông Trà, kênh Sơn Tịnh làm lúa nước 2 vụ/năm; ñồng ruộng phía bắc huyện làm lúa gieo (nhiều nhất là giống trì trì) mỗi năm một vụ. Nói chung năng suất lúa ñạt thấp. Từ sau ngày giải phóng ñến nay, nhờ áp dụng các biện pháp kỹ thuật thâm canh, nhờ thủy lợi Thạch Nham, năng suất lúa ñã tăng ñáng kể. Trong số 14.384ha ñất trồng

Page 45: Các Huyện - Thành phố

Ñòa chí Quaûng Ngaõi Trang 45

cây hằng năm, lúa chiếm gần 1/2 diện tích với 7.053,1ha, sản lượng 63.473 tấn. Những năm cuối thế kỷ XX, các công ñoạn làm ñất, tưới tiêu nước, thu hoạch lúa ñã ñược cơ giới hóa trên nhiều cánh ñồng. Bên cạnh lúa, ngô cũng có diện tích khá ñáng kể với diện tích gieo trồng 1.842ha, sản lượng 8.801 tấn (năm 2005). Tổng sản lượng lương thực ở huyện Sơn Tịnh năm 2005 là 72.274 tấn, bình quân lương thực ñầu người năm 2005 là 371kg. Có 5 xã bình quân lương thực ñầu người từ 500kg trở lên là Tịnh Trà, Tịnh Bắc, Tịnh Phong, Tịnh Thọ, Tịnh Minh; có 5 xã ñạt từ 400 ñến 500kg là Tịnh Thiện, Tịnh ðông, Tịnh Hiệp, Tịnh Sơn, Tịnh Ấn ðông; xã thấp nhất là Tịnh Kỳ 5kg (xã chuyên nghề biển); các xã Tịnh Ấn, Tịnh Hà, Tịnh Long, Tịnh Khê, Tịnh Hòa, thị trấn Sơn Tịnh (dưới 300kg). Ngoài cây lúa, ngô, còn có mì, khoai lang, các loại cây họ ñậu, huỳnh tinh… trong ñó do có sự thu hút nguyên liệu của Nhà máy tinh bột mì Tịnh Phong mà cây mì phát triển ñáng kể, với diện tích 2.270ha, sản lượng ñạt 59.020 tấn (2005).

Cùng với cây lương thực, Sơn Tịnh còn trồng khá nhiều loại rau, quả. Ớt Sơn Tịnh ñã từng ñược chế biến ñể xuất khẩu. Xã Tịnh Long nằm ở hạ lưu sông Trà Khúc có rất nhiều hộ chuyên trồng rau, bán ñi nhiều nơi trong và ngoài tỉnh Quảng Ngãi. Năm 2005, Sơn Tịnh có 2.352ha trồng rau với sản lượng 42.292 tấn.

Cây công nghiệp, trước ñây chủ yếu là mía, dâu tằm, lạc, vừng, bông, dừa, cói; gần ñây có thêm cây ñiều, dứa, thông, tiêu… cho thu hoạch khá. Cây mía có chiều hướng giảm, năm 2005 còn 751ha với sản lượng 43.305 tấn mía cây. Trong khi diện tích trồng lạc tăng ñáng kể với diện tích gieo trồng 1.353ha, sản lượng 2.861 tấn.

Về chăn nuôi: Trước kia Sơn Tịnh có ñàn bò ta, heo cỏ, gà nhà, vịt. Từ năm 1980 ñến năm 2005, ñàn gia súc gia cầm Sơn Tịnh phát triển gấp hai lần, riêng ñàn trâu tăng gấp 9 lần. Trong ñàn bò ñã có nhiều bò lai sin, zêbu. Trong ñàn gà ñã có nhiều gà công nghiệp. Ngoài gà, vịt, nhiều xã phát triển thêm ñàn cút. Lượng trứng gà, vịt, cút tăng khá cao. Tính ở thời ñiểm 2005, Sơn Tịnh có 5.009 con trâu (nhiều nhất là ở các xã Tịnh Hiệp, Tịnh Phong, mỗi xã trên 850 con), 49.862 con bò (nhiều nhất ở xã Tịnh Bình, Tịnh Thọ, mỗi xã trên 4.000 con), tổng ñàn heo trên 2 tháng tuổ i là 97.320 con (nhiều nhất ở xã Tịnh Hà, 9.840 con), gia cầm có 793.000 con.

Lâm nghiệp: Trước kia người dân Sơn Tịnh chỉ khai thác rừng tự nhiên (gỗ, củi, ñốt than). Trong chiến tranh, rừng bị tàn phá nghiêm trọng. Từ năm 1975 ñến năm 2005, thực hiện dự án PAM, Sơn Tịnh ñã trồng 5.835ha rừng mới, chủ yếu là bạch ñàn, thông; khoanh nuôi chăm sóc tái sinh 6.086ha rừng cũ. Rừng Sơn Tịnh ñã cung cấp cho nhân dân gỗ, củi, cung cấp bạch ñàn cho Nhà máy chế biến dăm bạch ñàn ở Dung Quất ñể xuất khẩu. Rừng tiêu của nông trường 25-3 (Tịnh Giang, Tịnh ðông) cung cấp tiêu cho xuất khẩu. Rừng dừa ở các xã phía ñông cung cấp cùi dừa cho công nghiệp chế biến bánh kẹo, sọ dừa chế biến than hoạt tính, xơ dừa sản xuất dây dừa… Cả nông, lâm nghiệp, ñến năm 2005 Sơn Tịnh có 17 cơ sở trang trại sản

Page 46: Các Huyện - Thành phố

Ñòa chí Quaûng Ngaõi Trang 46

xuất của tư nhân, trong ñó có 7 trang trại có 4 hoặc 5 lao ñộng thường xuyên (chưa tính lao ñộng mùa, vụ).

Ngư, diêm nghiệp: Một bộ phận cư dân Tịnh Kỳ, Tịnh Hòa, Tịnh Khê từ xưa sinh sống bằng nghề ñánh bắt hải sản, làm mắm, làm muố i. Việc ñánh bắt hải sản chủ yếu dựa vào ghe thuyền nhỏ ñánh bắt trong lộng. Cư dân bên sông Trà Khúc thì ñánh bắt cá bống, don, hến, cá thài bai. Từ sau năm 1975, Sơn Tịnh ngày càng có nhiều tàu thuyền lớn vươn ra ñánh bắt hải sản ở các ngư trường xa. Năm 1980 có 137 tàu thuyền, công suất bình quân 10CV/chiếc; ñến năm 2005 có 775 tàu, công suất bình quân 35,8CV/tàu, trong ñó có 439 tàu có công suất từ 50 ñến 400CV. Sản lượng khai thác thủy sản năm 2005 là 13.170 tấn, trong ñó xã Tịnh Kỳ 7.143 tấn, Tịnh Khê 4.975,4 tấn, Tịnh Hòa 704,6 tấn. ðồng muố i Xuân An bảo ñảm cung cấp muối cho cả huyện và vùng ñông bắc thành phố Quảng Ngãi. Trong những năm gần ñây, vùng phía ñông huyện phát triển mạnh nghề nuôi trồng thủy sản, nhất là nuôi tôm. Năm 2005 có 187,21ha nuôi tôm, sản lượng tôm nuôi 168,5 tấn.

Công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp: Từ xưa Sơn Tịnh có nhiều làng nghề tiểu thủ công nghiệp: nghề ép mía nấu ñường thủ công, nghề ươm tơ dệt lụa ở nhiều làng xã; nghề rèn ở Tịnh Minh; nghề làm nón lá ở Tịnh Bình; nghề chế tác sừng ở Tịnh Sơn, Tịnh Hà; nghề gốm ở Tịnh Thiện; nghề dệt chiếu, làm dây dừa, mài bột huỳnh tinh ở Tịnh Khê; nghề làm mắm ở Tịnh Hòa, Tịnh Kỳ… Từ năm 1975 ñến năm 2005, Sơn Tịnh ñã phát triển thêm một số ngành nghề mới như sản xuất gạch ngói, chẻ ñá, nung vôi, sản xuất ñồ gỗ, ñồ nhôm, ñan mây tre…

Về công nghiệp, trước năm 1945 Pháp chỉ xây dựng hãng rượu Xica ở bắc cầu Trà Khúc. Cho ñến trước năm 1975, công nghiệp ở Sơn Tịnh hầu như không có gì. Từ năm 1975 về sau, Sơn Tịnh có Xí nghiệp sửa chữa ô tô Vạn Tường (ñã giải thể), xí nghiệp sửa chữa và ñóng tàu thuyền ở Tịnh Kỳ, các cơ sở sản xuất gạch ngói bằng dây chuyền công nghiệp, các xí nghiệp khai thác mỏ graphit, may mặc, thuộc da, sản xuất ñũa tre… Những năm 90 của thế kỷ XX, Khu Công nghiệp Tịnh Phong ra ñời với diện tích 141ha. ðến năm 2005, ñã có 27 dự án ñược cấp phép với tổng vốn ñầu tư 341,7 tỷ ñồng, trong ñó có 13 dự án ñã ñi vào sản xuất. Các nhà máy gạch tuynen, ximăng, bêtông, tinh bột mì, sản xuất trụ ñiện ly tâm, ñá granit xuất khẩu, xí nghiệp hàng may mặc xuất khẩu, chế biến lâm sản xuất khẩu… ñã và ñang sản xuất có hiệu quả.

Trên lĩnh vực công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp còn phải kể ñến hoạt ñộng xây dựng cơ bản góp phần tạo nên nhiều công trình mới, nhiều cơ sở vật chất, cơ sở hạ tầng trong huyện. Huyện cũng ñã tiến hành xây dựng cụm công nghiệp ñể thúc ñẩy các ngành nghề phát triển.

Trước kia Sơn Tịnh không có ñiện. Những năm 70, 80 thế kỷ XX có máy phát ñiện chạy bằng diesel, chủ yếu phục vụ khu vực huyện lỵ. Từ những năm 90 thế kỷ XX ñến nay, ñiện lưới quốc gia ñã ñưa ñiện về khắp các xã, thôn phục vụ cho sản

Page 47: Các Huyện - Thành phố

Ñòa chí Quaûng Ngaõi Trang 47

xuất và sinh hoạt của nhân dân. ðến năm 2005, ñã có 98,5% hộ gia ñình ñược dùng ñiện.

ðến năm 2005, toàn huyện có 2.100 cơ sở sản xuất công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp cá thể với 4.050 lao ñộng.

Thương mại - dịch vụ: Từ xưa việc giao lưu kinh tế hàng hóa, buôn bán ñã khá nhộn nhịp, tập trung nhiều nhất là ở chợ Hàng Rượu (thị trấn), chợ ðồng Ké (Tịnh Giang), chợ Ba Gia (Tịnh Bắc), chợ ðình (Tịnh Bình), chợ Phước Lộc (Tịnh Sơn), chợ Mới (Tịnh Hà), chợ Sa (Tịnh Châu), chợ mới Bến Trể (Tịnh Hòa). Ngoài ra, còn có những chợ mang tên ñặc trưng hàng hóa như chợ Bò (Tịnh Phong), chợ Than (Tịnh Hiệp), chợ Gà (Tịnh An).

Trong kháng chiến chống Mỹ, nghề buôn bán ở các chợ nông thôn bị hạn chế nhiều. Thời kỳ bao cấp (1975 - 1986), hầu hết hoạt ñộng thương mại - dịch vụ do kinh tế nhà nước và kinh tế tập thể quản lý nên không phát triển ñược bao nhiêu. Từ ngày cơ chế thị trường ra ñời (1987), thị trấn Sơn Tịnh với chợ huyện trở thành trung tâm buôn bán lớn nhất trong huyện. Sơn Tịnh nằm kề thành phố Quảng Ngãi, nên hoạt ñộng thương mại - dịch vụ của huyện rất sôi ñộng. Trên ñịa hạt huyện có thêm một số chợ mới ñược hình thành: chợ Chiều thị trấn, chợ ðồng Có (Tịnh Minh), chợ Tịnh Trà, chợ Gò (Tịnh An), chợ An Bình (Tịnh ðông), chợ Tịnh Ấn Tây, chợ Tịnh Ấn ðông…

Việc giao lưu hàng hóa, buôn bán bằng ñường thủy trên sông Trà trước ñây diễn ra hằng ngày. ðường cát, tơ lụa Sơn Tịnh từ cảng Sa Kỳ theo ñường biển xuất ñi các nơi. Dịch vụ giao thông - vận tải, trước kia chủ yếu là dùng thuyền buồm vận tải ñường thủy, hoặc vận chuyển hàng bằng ñường sắt. Ngày nay, vận tải ñường bộ ñã có ô tô, ñường biển ñã có tàu thủy. Mỗi năm có hàng trăm chuyến tàu thuyền ra vào cảng Sa Kỳ. ðến 2005, toàn huyện có 124 ñầu xe vận tải lớn nhỏ chuyên chở hành khách, hàng hóa.

Dịch vụ bưu ñiện: Từ sau năm 1975, mạng lưới bưu ñiện bao gồm ñiện báo, ñiện thoại, phát hành thư tín, báo chí từ huyện ñến xã phát triển tương ñối hoàn chỉnh. ðến năm 2005, có 18/20 xã có bưu ñiện văn hóa xã, toàn huyện có 8.568 máy ñiện thoại cố ñịnh, 333 ñiện thoại di ñộng, bình quân 21 người dân có một máy ñiện thoại.

Về dịch vụ du lịch, Sơn Tịnh có nhiều danh lam thắng cảnh và di tích lịch sử văn hóa có tiềm năng thu hút khách tham quan du lịch. Nổi bật có Thiên Ấn niêm hà, năm 1830 hình núi ñược chạm vào di ñỉnh tại Kinh thành Huế, năm 1850 ñược liệt vào hạng danh sơn. Trên ñỉnh núi có ngôi chùa cổ gắn với truyền thuyết về chuông Thần, giếng Phật, có mộ cụ Huỳnh Thúc

Chỉ tiêu ðơn vị tính 1980(11) 2005(12)

Diện tích lúa cả năm ha 19.670 11.702 Diện tích màu cả năm ha 3.188 4.282

Page 48: Các Huyện - Thành phố

Ñòa chí Quaûng Ngaõi Trang 48

Chỉ tiêu ðơn vị tính 1980(11) 2005(12)

Sản lượng lương thực quy thóc tấn 32.170 72.274 Lương thực bình quân/người kg 220 371 Diện tích cây công nghiệp:

- Mía ha 820 751 - Lạc ha 112,5 1.353 - Cói ha 40 11 - ðiều ha Chưa có 70

- Hồ tiêu

Chưa có 31 Sản lượng cây công nghiệp:

- Mía tấn 24.100 41.305

- Lạc tấn 83,5 2.861

- Cói tấn 214 44

- ðiều ha Chưa có 45,5

- Hồ tiêu ha Chưa có 15

ðàn trâu con 480 5009

ðàn bò con 22.300 49.862

ðàn lợn con 42.000 97.320

ðàn gia cầm con 245.000 813.000

Diện tích rừng mới trồng, chăm sóc, tái sinh

ha 1.836 6.786

Sản lượng gỗ khai thác m3 Chưa nắm ñược 20.000

Sản lượng hải sản ñánh bắt tấn 1.200 13.170

Tổng giá trị sản xuất kinh tế tỷ ñồng 37,4 2.015(13)

- Nông, lâm, ngư tỷ ñồng 25,5 857,8

- Công nghiệp - Tiểu thủ CN- xây dựng tỷ ñồng 6,2 770,8

- Thương mại dịch vụ tỷ ñồng 5,7 386,4

Tỷ trọng các ngành kinh tế: %

- Nông, lâm, ngư nghiệp % 68,1 42,5

- Công nghiệp - Tiểu thủ công nghiệp - xây dựng

% 16,6 38,3

- Thương mại dịch vụ % 15,2 19,2

Thu nhập bình quân ñầu người triệu ñồng 0,256 10,3

Về giao thông

ðường sắt xuyên Việt chạy qua Sơn Tịnh 14,5km, có ga ðại Lộc. Quốc lộ 1A chạy qua Sơn Tịnh dài 10,5km ñã ñược mở rộng; Quốc lộ 24B chạy qua Sơn Tịnh dài 18,5km; Tỉnh lộ 623 ñi Sơn Hà, Sơn Tây (71km) chạy qua Sơn Tịnh.

Page 49: Các Huyện - Thành phố

Ñòa chí Quaûng Ngaõi Trang 49

ðường liên huyện: Tịnh Phong ñi Bình Tân (Bình Sơn) 7km (dã có dự án tráng nhöïa); Tịnh ðông ñi Trà Tân (Trà Bồng) 10km (dã có dự án tráng nhöïa).

ðường nội hạt:

- Tịnh Phong ñi Trà Bình (Tịnh Hiệp) 23km;

- Thế Lợi (T ịnh Phong) ñi Tịnh Hòa 11km;

- Trên ñường 5B từ Tịnh Giang xuống thị trấn có các tuyến ñường ngang: Cây số 20 ra Cù Và - Vĩnh Tuy khoảng 8km; Cây số 18 ra mỏ gờraphít khoảng 4km; Cây số 18 vào Gò ðu (Tịnh ðông) khoảng 4km; Cây số 17 vào Tả ðội (Tịnh ðông) khoảng 4km; Cây số 15 ra Tịnh Trà Tịnh Hiệp khoảng 11,5km; Cây số 14 vào Tịnh Minh khoảng 6km; Cây số 13 ra Tịnh Bắc, Tịnh Thọ khoảng 8km; Cây số 13 vào Tịnh Minh khoảng 6km; Cây số 11 ra Tịnh Bình, Tịnh Hiệp khoảng 6km; Cây số 10 ra Tịnh Bình, Tịnh Thọ khoảng 8km; Cây số 6 ra Tịnh Bình, Tịnh Thọ khoảng 8km; Cây số 4 vào Thọ Lộc, Ngân Giang khoảng 6km; Cây số 4 vào nhà lưu niệm ông Nguyễn Chánh 4km; Cây số 2 vào ðông Dương khoảng 6km; Cây số 3 ra bắc xã Tịnh Ấn Tây khoảng 6km;

- Trên Quốc lộ 24B từ bắc cầu Trà Khúc I xuống Sa Kỳ 18km, có các tuyến ñường xương cá: Tịnh An ñ i Tịnh Ấn ðông gần 4km; Tịnh An ñ i Tịnh Long gần 3,5km; Tịnh Châu ñi Bình Tân gần 4,5km; Tịnh Châu ñi Tịnh Long gần 3,5km; Cầu Sắt ñi Tịnh Thiện 4,5km; Núi ðồn ñi T ịnh Thiện 4,5km; Mỹ Lai ñi Trường ðịnh 2km; Tịnh Khê ñi Cổ Lũy 4km; Tịnh Hòa ñi Bình Phú 3km.

ðến năm 2005, trên ñịa bàn huyện Sơn Tịnh ñã có 284km ñường liên huyện, liên xã, liên thôn ñược bêtông hóa, nhựa hóa.

ðường thủy: Năm 1980 toàn huyện có 1 thuyền máy và 30 thuyền buồm vận tải hàng hóa hành khách theo ñường sông từ Sa Kỳ lên ðồng Ké, theo ñường biển từ Sa Kỳ ra Lý Sơn và ngược lại. ðến năm 2005, ñã có hàng chục thuyền máy và tàu vận tải nhẹ.

* * *

Di sản văn hóa: Sơn Tịnh có 4 cảnh ñẹp (trên 12 cảnh ñẹp của toàn tỉnh): Thiên Ấn niêm hà, Long ðầu hý thủy, Hà Nhai vãn ñộ và Thạch ky ñiếu tẩu.

Vùng ñất Sơn Tịnh có di chỉ văn hóa thời ñại ñồ ñá cũ ở Gò Trá, di chỉ Văn hóa Sa Huỳnh ở Núi Sứa, di chỉ trống ñồng tìm thấy ở Bàu Lát (Tịnh Ấn ðông), di chỉ Văn hóa Chămpa ở Châu Sa, ñền Văn Thánh thờ ðức Khổng Tử.

Sau ngày giải phóng năm 1975, huyện Sơn Tịnh ñã xây dựng văn hóa mới với nhiều thành tựu, ñáng chú ý gồm:

Page 50: Các Huyện - Thành phố

Ñòa chí Quaûng Ngaõi Trang 50

Xây dựng tôn tạo các di tích lịch sử: chiến khu Vĩnh Sơn, ñài tiếng nói Nam Bộ; di tích căm thù ñịch ở Sơn Mỹ, Tịnh Kỳ, Tịnh Bình, Tịnh Sơn; di tích chiến thắng Ba Gia, Quang Thạnh.

Xây dựng trung tâm văn hóa huyện gồm nhà văn hóa, ñài tiếp sóng phát thanh truyền hình, thư viện, hiệu sách nhân dân…

ðến cuối năm 2005, có 68 thôn, 29.108 gia ñình ñạt chuẩn văn hóa, 70% số hộ dùng nước sạch, 93% số hộ có phương tiện nghe nhìn.

Phong trào văn nghệ quần chúng, thể dục thể thao ñã phát triển khá, nhất là trong lớp trẻ.

Trải qua các thời kỳ, huyện Sơn Tịnh ñã xuất hiện những gương mặt văn hóa nổi bật, như học giả Trương ðăng Quế, nhà thơ ðinh Duy Tự (Nghè Kim). Thời kỳ hiện ñại có các Giáo sư, Tiến sĩ: ðỗ Sanh, Phan Ngọc Liên, Lê Ngọc Trà, Nguyễn Diệu, Lê Công Dưỡng, Nguyễn Kim Hiệu, Nguyễn Xuân Vỹ, nhạc sĩ Trương Quang Lục, nhà văn ðoàn Minh Tuấn, nhà nghiên cứu Huỳnh Ngọc Trảng…

Giáo dục ñào tạo

Thời Nho học: Nhiều làng có thầy ñồ dạy chữ nho. Thời nhà Nguyễn toàn huyện có 33 người ñậu Cử nhân tại các trường thi Hương ở Thừa Thiên và Bình ðịnh, trong ñó ở làng Phú Nhơn có 8 người, làng Mỹ Khê (nay thuộc xã Tịnh Khê) có 5 người. Khoa thi Hương ñầu tiên tại Thừa Thiên năm 1819, ông Trương ðăng Quế, người làng Mỹ Khê thi ñỗ Hương tiến (Cử nhân), là người khai khoa của Quảng Ngãi(14).

Thời Tân học: Toàn huyện chỉ có hai người ñậu Tú tài Tây (ngang với tốt nghiệp Trung học phổ thông ngày nay), có một trường Tiểu học ở làng Phước Lộc (Tịnh Sơn), năm 1939 chỉ có ñến lớp Ba (élémentaire), ñến năm 1944 mới mở ñến lớp Nhất (supérieure) - ngang với lớp sáu ngày nay. Số ít con nhà giàu học bậc Thành chung phải ñến học ở tỉnh lỵ; số người tốt nghiệp Thành chung (diplôme - ngang tốt nghiệp Trung học cơ sở ngày nay) chỉ ñếm trên ñầu ngón tay.

Từ sau Cách mạng tháng Tám ñến nay

Trong kháng chiến chống Pháp, vùng giải phóng thời kháng chiến chống Mỹ và từ sau ñại thắng mùa Xuân 1975, Sơn Tịnh có phong trào xóa nạn mù chữ cho nhân dân ñạt kết quả khá cao. ðến năm 2004, có 99% người dân trên 6 tuổ i biết chữ.

Cũng trong kháng chiến chống Pháp, ở Sơn Tịnh năm 1949 còn có Trường Trung học Rừng Xanh (ở Tịnh Hà) ñào tạo hàng trăm người có trình ñộ học vấn cấp II.

Page 51: Các Huyện - Thành phố

Ñòa chí Quaûng Ngaõi Trang 51

Trong kháng chiến chống Mỹ, ở vùng giải phóng có Trường Sư phạm ñào tạo giáo viên Tiểu học, tất cả các xã giải phóng có trường Tiểu học.

Từ năm 1975 ñến năm 2005, sự nghiệp giáo dục ñào tạo Sơn Tịnh phát triển khá nhanh. ðến năm 1995, cơ bản xóa xong nạn mù chữ. Công tác bổ túc văn hóa cho cán bộ, công chức và thanh niên ñược ñẩy mạnh. Hầu hết thanh niên ñạt trình ñộ cấp I, II. Hầu hết cán bộ, công chức ñạt trình ñộ cấp III, ñại học.

Thống kê cơ bản về giáo dục ñào tạo năm 1980 và năm 2005(15)

Cấp học Năm Trường Lớp Giáo viên Học sinh

Mầm non 1980 19 143 143 6.286

2005 22 190 219 4.102

Tiểu học và Trung học cơ sở

1980 28 1.004 1.262 37.583

2005 49 1.071 1.521 36.040

Trung học phổ thông 1980 2 22 66 1.092

2005 5 172 290 8.288

Ngoài ra, Sơn Tịnh còn có hàng ngàn học sinh, sinh viên ñã và ñang học tại các trường Dạy nghề, trường Trung học chuyên nghiệp, Cao ñẳng, ðại học trong tỉnh và trong nước.

Chăm sóc sức khỏe

Trước kia, ở các làng xã thường có những thầy thuốc ðông y dùng thuốc Bắc, thuốc Nam chữa bệnh cho nhân dân. Từ những năm ba mươi của thế kỷ XX ñã có một số thầy thuốc Tây y. Ở huyện lỵ và một số thị tứ ñã có một vài hiệu thuốc Tây.

Trong kháng chiến chống Pháp, Sơn Tịnh là nơi tỉnh ñặt bệnh viện dân y (ở Phước Lộc, Tịnh Sơn) ñể chữa bệnh cho nhân dân, chiến sĩ và cán bộ. Trong kháng chiến chống Mỹ, nhiều xã duy trì và phát triển phương thức chữa bệnh bằng ðông y. Ở vùng giải phóng, từ những năm 1965 - 1966, huyện có bệnh xá khu tây và bệnh xá khu ñông (ðông Sơn) có bác sĩ và y sĩ tác nghiệp. Các xã giải phóng có trạm y tế do các y tá phục vụ.

Từ sau năm 1975, Sơn Tịnh tổ chức ñược phòng chẩn trị ðông y của huyện và nhiều cơ sở ðông y của các xã khám chữa bệnh cho nhân dân bằng y học cổ truyền dân tộc. Bệnh viện huyện ở xã Tịnh Ấn Tây và Trung tâm chăm sóc sức khỏe Mỹ Lai (ở Tịnh Khê) ñược xây dựng, có ñội ngũ bác sĩ, dược sĩ, y sĩ ñược ñào tạo cơ bản. Tất cả các xã và thị trấn có trạm y tế do y sĩ hoặc y tá trưởng phụ trách. ðến năm 2005, có 18/21 trạm y tế xã ñã có các bác sĩ phụ trách.

Một vài số liệu về y tế năm 1980 và năm 2005(16)

Page 52: Các Huyện - Thành phố

Ñòa chí Quaûng Ngaõi Trang 52

Chỉ tiêu ðơn vị tính 1980 2005

Tổ chức khám chữa bệnh Cơ sở 19 24

Cán bộ y tế Người 139 228

Gồm: + Bác sĩ, dược sĩ cao Người 4 39

+ Y sĩ, dược sĩ trung Người 24 65

+ Y tá, hộ sinh, hộ lý Người 111 124

- Giường bệnh Giường 100 235

- Tỷ lệ sinh tự nhiên % 2,82 1

- Trẻ em dưới 5 tuổi suy dinh dưỡng % 42 25,4

Nhân lực và các vấn ñề xã hội (tính ñến năm 2005)(17)

Về nhân lực, trên ñịa hạt Sơn Tịnh theo thống kê như sau:

Nguồn lao ñộng: 104.076 người; trong ñó, ở ñộ tuổi có khả năng lao ñộng 92.486 người, ngoài ñộ tuổi có khả năng lao ñộng 11.590 người. Số trong ñộ tuổi lao ñộng và ngoài ñộ tuổi có khả năng lao ñộng ñang ñi học là 10.269 người.

Lao ñộng trong các ngành: nông, lâm, ngư nghiệp - 69.167 người; công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, xây dựng - 10.444 người; thương mại dịch vụ - 5.204 người; giáo dục, y tế, quản lý nhà nước - 3.536 người; nội trợ - 3.415 người.

Trình ñộ học vấn của lao ñộng: tốt nghiệp Trung học phổ thông - 8.540 người; tốt nghiệp Trung học cơ sở - 23.691 người; Tiểu học - 42.034 người.

Trình ñộ chuyên môn: trên ðại học - 04 người; ðại học - 648 người; Cao ñẳng - 1.232 người; Trung học chuyên nghiệp - 2.325 người; công nhân kỹ thuật - 7.344 người.

Lao ñộng thiếu việc làm: 1.508 người.

Ngoài số nhân lực tại chỗ như trên, còn có nhiều lao ñộng huyện Sơn Tịnh ñịnh cư lâu dài ở nhiều ñịa phương trong nước, nhất là ở Hà Nộ i, ðà Nẵng, Thành phố Hồ Chí Minh. Ở các huyện lân cận là các huyện Sơn Hà và Sơn Tây, nhiều người ñi kháng chiến, ñi làm ăn cũng ở lại, trở thành cán bộ và nhân dân ở các nơi này, ñóng góp ñáng kể vào sự nghiệp xây dựng ở ñịa phương.

Các vấn ñề xã hội ñến năm 2004: Song song với phát triển kinh tế, các vấn ñề xã hội ñã ñược quan tâm ñúng mức, tạo ñiều kiện cho sự phát triển bền vững.

Sơn Tịnh ñã và ñang thực hiện các chính sách: 1) Bảo hiểm xã hội cho 1.539 cán bộ hưu trí; 2) Thực hiện các chính sách xã hội cho 412 Bà mẹ Việt Nam Anh hùng, 4 Anh hùng Lực lượng vũ trang, 5.336 gia ñình liệt sĩ, 4.145 thương binh, 406 gia

Page 53: Các Huyện - Thành phố

Ñòa chí Quaûng Ngaõi Trang 53

ñình có công với nước; 3) Xây dựng 304 ngôi nhà tình nghĩa và ngôi nhà tình thương cho các ñối tượng chính sách và người nghèo.

Vấn ñề xã hộ i lớn là thừa nhân lực, thiếu việc làm ñã và ñang ñược quan tâm giải quyết. Sơn Tịnh chú trọng phát triển các làng nghề, các trang trại, các cụm tiểu thủ công nghiệp, huy ñộng nhân lực tham gia xây dựng và phục vụ Khu Công nghiệp Tịnh Phong, Khu Du lịch Mỹ Khê... ñã và ñang giải quyết việc làm cho hàng vạn lao ñộng.

Tỷ lệ hộ ñói nghèo toàn huyện năm 1980 là trên 40%, ñến năm 2005 không còn hộ ñói, chỉ còn 7,80% hộ nghèo (theo chuẩn cũ).

(1) Theo Niên giám thống kê năm 2005 của Phòng Thống kê huyện Sơn Tịnh.

(2) Xem Chương XI : Các nhân vật lịch sử tiêu biểu.

(3) Theo Niên giám thống kê năm 2005 của Phòng Thống kê huyện Sơn Tịnh.

(4) Nhân vật ðô ñốc Long cần nghiên cứu thêm.

(5) Xem Chương XXV: Di chỉ khảo cổ, di tích lịch sử - văn hoá, danh thắng, mục VI, 3.

(6) Tổng hợp từ Lịch sử ðảng bộ huyện Sơn Tịnh 1929 - 1975, sñd, tr. 301 - 315.

(7) Báo Quân giải phóng khu V, ngày 24.4.1969.

(8) Xem Phụ lục 6, 9, phần II.

(9) Xem Phụ lục 5, phần II.

(10) Phạm Trung Vi ệt: Nước non xứ Quảng, Cẩm Thành Thư xã, 1974, tr. 227, 228.

(11), (12) Năm 1980 theo Báo cáo của Uỷ ban nhân dân huyện Sơn Tịnh, năm 2005 theo Niên giám thống kê năm 2005 của Phòng Thống kê huyện Sơn Tịnh.

(13) Giá hiện hành.

(14) Cao Chư: Các nhà khoa bảng Nho học Quảng Ngãi 1819 - 1918, Nxb ðà Nẵng, 2001.

(15) Năm 1980 theo Báo cáo của Uỷ ban nhân dân huyện, năm 2005 theo Niên giám thống kê năm 2005 của Phòng Thống kê huyện Sơn Tịnh.

(16) Năm 1980 theo Báo cáo của Ủy ban nhân dân huyện, năm 2005 theo Niên giám thống kê năm 2005 của Phòng Thống kê huyện Sơn Tịnh.

(17) Theo Niên giám thống kê năm 2005 của Phòng Thống kê huyện Sơn Tịnh.

Page 54: Các Huyện - Thành phố

Ñòa chí Quaûng Ngaõi Trang 54

HUYỆN TƯ NGHĨA

TƯ NGHĨA là huyện ñồng bằng ven biển nằm ở vùng trung tâm tỉnh, bao quanh thành phố Quảng Ngãi. Phía bắc giáp thành phố Quảng Ngãi và huyện Sơn Tịnh (qua sông Trà Khúc); phía nam giáp các huyện Mộ ðức, Nghĩa Hành, Minh Long; phía tây giáp huyện Sơn Hà; phía ñông giáp biển ðông; Quốc lộ 1 và ñường sắt Thống Nhất chạy qua. Diện tích: 227km2. Dân số: 180.980 người (năm 2005). Mật ñộ dân số: 796,2 người/km2(1). ðơn vị hành chính trực thuộc gồm 16 xã (Nghĩa Trung, Nghĩa Lâm, Nghĩa Sơn, Nghĩa Thắng, Nghĩa Thọ, Nghĩa Thuận, Nghĩa Kỳ, Nghĩa ðiền, Nghĩa Hà, Nghĩa Hòa, Nghĩa An, Nghĩa Thương, Nghĩa Hiệp, Nghĩa Phương, Nghĩa Mỹ, Nghĩa Phú); 2 thị trấn (Sông Vệ, La Hà huyện lỵ), với 103 thôn, tổ dân phố; trong ñó:

Xã Nghĩa Trung có 6 thôn: An Hà 1, An Hà 2, An Hà 3, Phú Văn, ðiền Trang, thôn La Châu, Tân Hội. Thời kháng Pháp có tên là xã Nghĩa Trang, sau năm 1975 tên xã mới ñổi như ngày nay. Nghĩa Trung có ñịa danh Phủ Cũ là nơi ñóng lỵ sở của phủ Tư Nghĩa xưa kia;

Xã Nghĩa Lâm có 8 thôn, gọi theo thứ tự từ thôn 1 ñến thôn 8. Xưa kia là làng Phước Lâm;

Xã Nghĩa Sơn có 2 thôn: thôn 1, thôn 2. Xã này vốn từ xã Nghĩa Lâm tách ra từ những thập niên cuối thế kỷ XX;

Xã Nghĩa Thắng có 8 thôn: An Tây, An Cư, An Lạc, An Nhơn, An Tráng, An Hòa Bắc, An Hòa Nam, An Tân;

Xã Nghĩa Thọ có 2 thôn: thôn 1, thôn 2. Xưa xã là thôn Phú Thọ;

Xã Nghĩa Thuận có 6 thôn: Nam Phước, Mỹ Thạnh Bắc, Mỹ Thạnh Nam, Mỹ Thạnh ðông, Phú Thuận, Phú Thuận Tây;

Xã Nghĩa Kỳ có 9 thôn: Xuân Phổ ðông, Xuân Phổ Tây, An Hộ i Bắc 1, An Hội Bắc 2, An Hội Bắc 3, An Hội Nam 1, An Hội Nam 2, Phú Sơn, An Bình. Trước 1945, là các làng Xuân Phổ, An Hội;

Xã Nghĩa ðiền có 4 thôn: ðiền Hòa, ðiền Chánh, ðiền An, ðiền Long. Xưa kia, trước 1945, ñịa hạt xã là xã Nghĩa An. Trùng với tên một xã ở vùng biển ngày nay;

Xã Nghĩa Hà có 11 thôn: Hiền Lương, Khánh Lạc, Hội An, Hàm Long, Sung Túc, Thanh Khiết, Hổ Tiếu, Bình ðông, Bình Tây, Kim Thạch, Xuân An;

Xã Nghĩa Hòa có 4 thôn: Hòa Bình, Hòa Tân, Thu Xà, Hòa Phú;

Page 55: Các Huyện - Thành phố

Ñòa chí Quaûng Ngaõi Trang 55

Xã Nghĩa An có 6 thôn: Phổ An, Tân Mỹ, Phổ Trường, Phổ Trung, Phổ Thạnh, Tân An. ðịa hạt Nghĩa An xưa kia là xã Phổ An, xã Cổ Lũy và Tân An;

Xã Nghĩa Thương có 11 thôn: La Hà 1, La Hà 2, La Hà 3, La Hà 4, ð iện An 1, ðiện An 2, ðiện An 3, ð iện An 4, Vạn An 1, Vạn An 2, Vạn An 3. Xưa kia là các làng La Hà, ðiện An, Vạn An;

Xã Nghĩa Hiệp có 6 thôn: ðông Mỹ, Năng Xã, Năng ðông, ðồng Viên, Hải Môn, thôn Thế Bình (tên các thôn vốn là tên các làng xã xưa kia);

Xã Nghĩa Phương có 6 thôn: Năng Tây 1, Năng Tây 2, Năng Tây 3, An ðại 1, An ðại 2, An ðại 3. Xưa là các làng xã Năng Tây, An ðại;

Xã Nghĩa Mỹ có 3 thôn: Phú Mỹ, Mỹ Hòa, Bách Mỹ;

Xã Nghĩa Phú có 4 thôn: Cổ Luỹ Bắc (Vĩnh Thọ), Cổ Luỹ Nam, Cổ Luỹ Làng Cá, Thanh An (Phú Thọ);

Thị trấn Sông Vệ có 3 tổ dân phố: An Bàng, Vạn Mỹ, Sông Vệ. Vốn là một thị tứ ñã có từ xưa.

Thị trấn La Hà (huyện lị) có 4 tổ dân phố, theo thứ tự từ tổ 1 ñến tổ 4. Thị trấn La Hà cách trung tâm tỉnh lỵ Quảng Ngãi 4km về phía nam, trên Quốc lộ 1.

Huyện Tư Nghĩa do nằm ở vùng trung tâm tỉnh nên có vai trò quan trọng và gắn rất chặt với sự hình thành và phát triển của tỉnh Quảng Ngãi. Phía tây giáp núi, phía ñông giáp biển, phía bắc và phía nam giáp hai con sông lớn trong tỉnh (sông Trà Khúc và sông Vệ). ðịa hình trải dài từ ñông sang tây, eo thắt ở giữa.

* * *

Về hành chính, hai chữ Tư Nghĩa bắt nguồn từ tên hai châu Tư, Nghĩa xuất hiện từ ñời nhà Hồ, chỉ chung cho vùng ñất sau này là toàn tỉnh Quảng Ngãi, tức ngay khi ñất Cổ Luỹ ðộng của Chiêm Thành chuyển thành một bộ phận của nhà nước phong kiến ðại Ngu năm 1402. Hai châu Tư, Nghĩa lúc này thuộc lộ Thăng Hoa, trong ñó có vùng ñất huyện Tư Nghĩa ngày nay.

ðời Lê, khi vua Lê Thánh Tông thiết lập thừa tuyên Quảng Nam năm 1471, ñặt 3 phủ là Thăng Hoa (tương ñương với tỉnh Quảng Nam ngày nay), Tư Nghĩa (tương ñương với tỉnh Quảng Ngãi ngày nay), Hoài Nhơn (tương ñương với tỉnh Bình ðịnh ngày nay), thì ñịa bàn huyện Tư Nghĩa (ngày nay) nằm trong phủ Tư Nghĩa, với tên gọi là huyện Nghĩa Giang.

Page 56: Các Huyện - Thành phố

Ñòa chí Quaûng Ngaõi Trang 56

Từ ñời Lê Trung hưng ñến ñời Nguyễn, ñịa bàn huyện Tư Nghĩa ngày nay mang tên là huyện Chương Nghĩa, phủ Tư Nghĩa, bao gồm cả phần ñất phía tây bắc sông Vệ của huyện Nghĩa Hành ngày nay.

Năm 1890 (Thành Thái năm thứ 2), huyện Chương Nghĩa ñổi thành phủ Tư Nghĩa, ñồng thời vùng ñất phía tây bắc sông Vệ hình thành châu Nghĩa Hành (chữ Nghĩa trong ñịa danh Nghĩa Hành chính là lấy từ chữ Tư Nghĩa). Phủ Tư Nghĩa lúc này có 5 tổng với 67 xã thôn, bao gồm cả vùng ñất ngày nay là thành phố Quảng Ngãi.

Cách mạng tháng Tám 1945 thành công, trong một thời gian ngắn phủ Tư Nghĩa ñổi tên là phủ Nguyễn Thuỵ (tên nhà lãnh ñạo Việt Nam Quang phục Hội ở Quảng Ngãi(2)). ðầu 1946, cấp tổng ñược bãi bỏ, các làng xã cũ hợp thành xã mới, phủ ñổi thành huyện. Huyện Tư Nghĩa lúc này có 12 xã ñều lấy chữ Nghĩa làm ñầu: Nghĩa Lâm, Nghĩa Thắng, Nghĩa ðiền, Nghĩa Kỳ, Nghĩa Lộ, Nghĩa Trang, Nghĩa Thương, Nghĩa Phương, Nghĩa Dõng, Nghĩa Hiệp, Nghĩa Hòa, Nghĩa Hà.

Sau khi tiếp quản tỉnh Quảng Ngãi, cho ñến giữa năm 1958, chính quyền Sài Gòn ñổi ñặt các xã trong huyện Tư Nghĩa, ñều lấy chữ Tư làm ñầu thay cho chữ Nghĩa: xã Nghĩa Thắng ñổi thành xã Tư Mỹ; xã Nghĩa Lâm ñổi thành xã Tư Phước; xã Nghĩa Thuận (ngày nay) ñặt là xã Tư Thịnh; xã Nghĩa ðiền ñổi thành xã Tư Quang; xã Nghĩa Kỳ ñổi thành xã Tư Thuận; xã Nghĩa Lộ ñổi thành xã Tư Chánh; xã Nghĩa Trang ñổi thành xã Tư Duy; xã Nghĩa Thương ñổi thành xã Tư An; xã Nghĩa Phương ñổi thành xã Tư Lương; xã Nghĩa Dõng ñổi thành xã Tư Bình; xã Nghĩa Hiệp ñổi thành xã Tư Hòa; xã Nghĩa Hòa ñổi thành xã Tư Thành; xã Nghĩa Hà ñổi thành xã Tư Nguyên; xã Nghĩa An (ngày nay) ñặt là xã Tư Hiền. Thị xã Quảng Ngãi ñổi ñặt là xã Cẩm Thành (gồm 4 ấp: Bắc Môn, Bắc Lộ, Nam Lộ, Thu Lộ). Cẩm Thành là tên gọ i có từ xưa kia, có khi chỉ riêng cho thành, có khi chỉ chung cho toàn tỉnh Quảng Ngãi. Các thôn về cơ bản vẫn như thời kháng chiến chống Pháp nhưng ñổi gọi là ấp.

Phía lực lượng kháng chiến vẫn gọ i theo tên xã ñã có thời kháng chiến chống Pháp. Tháng 5.1965, ở vùng kháng chiến, ñơn vị thị xã Quảng Ngãi ñược thành lập, bao gồm thị tứ Cẩm Thành và các xã Nghĩa ðiền, Nghĩa Dõng.

Sau giải phóng, cuối năm 1975, huyện Tư Nghĩa và thị xã Quảng Ngãi hợp nhất thành thị xã Quảng Nghĩa(3) trực thuộc tỉnh Nghĩa Bình. ðến cuối năm 1981, thị xã Quảng Nghĩa lại tách thành 2 ñơn vị huyện, thị xã như cũ và có ñiều chỉnh về ñịa giới: ba thôn của xã Nghĩa ðiền giao về thị xã thành xã Quảng Phú; xã Nghĩa Dõng giao cho thị xã Quảng Ngãi (sau tách thành 2 xã Nghĩa Dõng và Nghĩa Dũng). Các xã mới dần dần hình thành và ñến 2005 huyện Tư Nghĩa có 2 thị trấn, 16 xã (như ñã kể trên).

Về tự nhiên, huyện Tư Nghĩa nằm dọc từ bờ nam sông Trà Khúc ñến bờ bắc sông Vệ, trải dài theo chiều ñông - tây khoảng gần 30km, chiều bắc - nam ñoạn

Page 57: Các Huyện - Thành phố

Ñòa chí Quaûng Ngaõi Trang 57

giữa eo thắt, có nơi còn rất nhỏ như ở thôn ðiền Chánh, xã Nghĩa ðiền. ðịa hình chia làm hai vùng tây, ñông, có Quốc lộ 1 cắt ngang ở giữa.

ðịa hình Tư Nghĩa cao ở phía tây, thấp dần về phía ñông, ñại thể giống như các huyện ñồng bằng khác trong tỉnh Quảng Ngãi, nhưng có phần phức tạp hơn.

Núi: Phía tây huyện có nhiều núi cao, nơi giáp các huyện Sơn Hà, Minh Long có ngọn Thạch Bích cao nhất. Ở ñồng bằng phía ñông có các núi thấp, trở thành những cảnh ñẹp như núi ðá ðen, núi ðá Chẻ, núi Hùm, núi La Hà, núi Bàn Cờ, núi Thạch Sơn.

Sông suối: Trên ñịa bàn Tư Nghĩa có nhiều sông suối, sông Trà Khúc, sông Bàu Giang ở phía bắc và sông Vệ, sông Cây Bứa ở phía nam. Sông Trà Khúc chạy dọc phía bắc, ở ñiểm mút tây bắc huyện (thuộc xã Nghĩa Lâm) có công trình ñầu mối Thạch Nham. Sông Trà Khúc chảy qua các xã Nghĩa Lâm, Nghĩa Thắng, Nghĩa Thuận, Nghĩa Kỳ, Nghĩa Hà, Nghĩa Phú và ñổ ra cửa ðại Cổ Luỹ. Sông Vệ ở phía nam chảy dọc từ cầu sắt Hòa Vinh, xuống xã Nghĩa Mỹ, thị trấn Sông Vệ, xã Nghĩa Hiệp, xã Nghĩa Hòa, xã Nghĩa An, hợp nước với sông Trà Khúc ñổ ra cửa Cổ Luỹ. Sông Bàu Giang nhỏ, chảy dọc phía bắc xã Nghĩa Trung, thị trấn La Hà (làm ranh giới với thành phố Quảng Ngãi), xã Nghĩa Thương rồ i hợp nước với sông Vệ. Phía nam có sông Cây Bứa chảy qua các xã Nghĩa Phương, Nghĩa Thương rồi hợp nước với sông Vệ. Ở phía tây huyện có nhiều suối lớn như suối ðá Sơn, suối Tó, cũng là những nguồn nước quan trọng.

ðồng bằng: ðồng bằng Tư Nghĩa màu mỡ nhờ có hệ thống sông suối với việc bồi ñắp phù sa hằng năm, khá thuận lợi cho sản xuất nông nghiệp. ðất ñai ở huyện Tư Nghĩa ñược chia làm 6 loại khác nhau: ñất phù sa, ñất bạc màu, ñất nhiễm mặn, ñất cát, ñất xám, ñất màu ñỏ vàng.

Biển và bờ biển: Bờ biển Tư Nghĩa dài 6km từ nam cửa Cổ Lũy ñến bắc cửa Lở, nhưng lại chiếm vị trí hết sức quan trọng vì có cửa ðại Cổ Luỹ ở phía bắc. Từ cửa ðại Cổ Luỹ ñến cửa Lở có khúc sông Phú Thọ nước sâu thuận tiện cho tàu thuyền neo ñậu. Nhờ vậy, hoạt ñộng ñánh bắt hải sản của cư dân huyện Tư Nghĩa khá thuận lợi.

Khoáng sản: ðịa bàn Tư Nghĩa có một số khoáng sản như kaolin, ñất sét, ñá chẻ ở nhiều nơi. ðặc biệt có suối khoáng Mỹ Thịnh ở xã Nghĩa Thuận, có thể khai thác. Suối khoáng này ñời vua Minh Mạng ñã ñược khảo sát, thời Pháp thuộc người Pháp tiếp tục nghiên cứu, nhưng ñến nay chưa ñược sử dụng.

Khí hậu: Như các huyện ở ñồng bằng Quảng Ngãi, khí hậu Tư Nghĩa khá ôn hòa. Vùng ñông huyện khá mát mẻ về mùa hè nhờ có gió nồm từ biển thổ i lên. Tuy vậy vùng phía tây huyện nhiều nơi có thế ñất cao, vẫn có một số vùng xa sông thường bị hạn hán, vùng gần các sông thường phải chịu lũ lụt hằng năm. Tình hình sử dụng quỹ ñất tính ở thời ñiểm 2005 ở Tư Nghĩa như sau: 1) ðất nông nghiệp

Page 58: Các Huyện - Thành phố

Ñòa chí Quaûng Ngaõi Trang 58

10.443,6ha (cây hàng năm 7.024,5ha); 2) ðất lâm nghiệp 3.133ha; 3) ðất chuyên dùng 2.333ha; 4) ðất khu dân cư 776ha; 5) ðất chưa sử dụng 6.044ha.

Về dân cư: Thuở xưa, Tư Nghĩa có lớp cư dân Chăm cổ cư trú rải rác trên ñịa bàn huyện. Kế ñó là cư dân Việt, Hoa. Người Hoa ñến cư trú chủ yếu ở Thu Xà (Nghĩa Hòa ngày nay), phần lớn là dân tỵ nạn vào các ñời Minh, Thanh. Xét rộng ra thì trong toàn tỉnh Quảng Ngãi, người Hoa cư trú ở Thu Xà ñông nhất. Trải qua chiến tranh, Thu Xà bị tàn phá nặng, hầu hết người Hoa di chuyển ñi nơi khác. Ở ven núi, tập trung tại các xã Nghĩa Sơn, Nghĩa Thọ, dân tộc Hrê sinh sống với 1.980 người. ðại ña số cư dân Tư Nghĩa là người Việt. Người Việt ñến ñịnh cư ở Tư Nghĩa cách nay năm, sáu trăm năm, làm nhiều nghề ñể sinh sống và tạo lập ñược nhiều giá trị văn hóa. Tư Nghĩa có mật ñộ dân số cao nhất trong các huyện ñồng bằng tỉnh Quảng Ngãi. Trừ thành phố Quảng Ngãi là trung tâm của tỉnh, huyện Lý Sơn là huyện hải ñảo, thì Tư Nghĩa có mật ñộ dân số cao nhất tỉnh Quảng Ngãi (796,2 người/km2).

Tình hình phân bố dân cư Tư Nghĩa tại thời ñiểm 2005 ở các xã, thị trấn như sau(4):

TT Tên xã, thị trấn Diện tích (km2) Dân số (người)

M ật ñộ dân số (người/km2)

1 Sông Vệ 2,63 8.069 3.068,10

2 La Hà 4,60 7.689 1.671,50

3 Nghĩa Trung 12,95 14.032 1.083,60

4 Nghĩa Lâm 14,07 7.371 523,90

5 Nghĩa Sơn 37,82 933 24,70

6 Nghĩa Thắng 21,50 9.279 431,60

7 Nghĩa Thọ 17,80 1.035 58,10

8 Nghĩa Thuận 14,07 7.395 525,60

9 Nghĩa Kỳ 26,56 17.980 677

10 Nghĩa ðiền 7,16 7.883 1.101

11 Nghĩa Hà 14,67 17.340 1.182

12 Nghĩa Hòa 9,25 13.786 1.490,40

13 Nghĩa An 3,29 17.083 5.192,40

14 Nghĩa Thương 14,25 14.729 1.033,60

15 Nghĩa Hiệp 11,09 13.577 1.224,30

16 Nghĩa Phương 6,60 9.157 1.387,40

17 Nghĩa Mỹ 4,60 5.984 1.300,90

18 Nghĩa Phú 4,38 7.654 1.747,50

Toàn huyện(5) 227,80 180.976 796,20

Page 59: Các Huyện - Thành phố

Ñòa chí Quaûng Ngaõi Trang 59

Có thể thấy, trừ các xã Nghĩa Sơn, Nghĩa Thọ ở vùng núi (hai xã toàn ñồng bào người Hrê), các xã còn lại ñều có mật ñộ dân số rất cao, có 12 xã, thị trấn mật ñộ từ trên 1.000 người/km2, thị trấn Sông Vệ (chủ yếu sinh sống bằng công - thương nghiệp) và xã Nghĩa An (vùng ven biển) cao vượt trội, lên trên 3.000 và 5.000 người/km2.

* * *

Nhân dân Tư Nghĩa có truy ền thống yêu nước và cách mạng, ñã ñể lại những dấu ấn sâu ñậm trong lịch sử tỉnh Quảng Ngãi. Trong phong trào Tây Sơn, có các ông Cao Tắc Trung, Triệu ðình Mẫn, Bùi Phú Vinh cùng nhiều người khác tham gia phong trào. Từ khi thực dân Pháp xâm lược Việt Nam, ở Tư Nghĩa ñã sản sinh ra những tấm gương sáng về tinh thần xả thân vì nước. Trong phong trào Cần vương có Nguyễn Duy Cung làng Vạn Tượng (nay thuộc thành phố Quảng Ngãi) là một chí sĩ ñã hy sinh lẫm liệt tại thành Bình ðịnh và ñể lại bức Huyết lệ tâm thư xúc ñộng sâu sắc lòng người. Sau cuộc khởi nghĩa của Lê Trung ðình, Nguyễn Tự Tân, Nguyễn Bá Loan thất bại, Thái Thú (người làng Thu Xà) trở thành một thủ lĩnh Cần vương của tỉnh Quảng Ngãi. Ngày 8.12 năm Giáp Ngọ 1894, Thái Thú chỉ huy nghĩa quân diệt ñồn Cổ Luỹ, giết tên chủ sự Pháp Râyna (Reynard), kéo lên phối hợp với quân của Nguyễn Vịnh ñánh thành Quảng Ngãi, nhưng bị lộ, rút vào An ðại, sau bị bắt và lẫm liệt hy sinh. Phong trào Duy tân Quảng Ngãi nổi lên ñầu thế kỷ XX với sự tham gia lãnh ñạo tích cực của những người con huyện Tư Nghĩa, như các ông Phạm Cao Chẩm (Xuân Phổ), Nguyễn Thuỵ (Hổ Tiếu), Từ Hữu Lập (Xuân Phổ)... Trong phong trào "cự sưu khất thuế" nổi tiếng ở Quảng Ngãi năm 1908, hàng loạt người con của Tư Nghĩa bị ñịch sát hại hoặc ñày ñi Côn ðảo như Nguyễn Thuỵ, Phạm Cao Chẩm. Sau khi mãn tù, các ông vừa về quê ñã tham gia lãnh ñạo Việt Nam Quang phục Hội. Nguyễn Thuỵ hy sinh trong cuộc khởi nghĩa năm 1916, Phạm Cao Chẩm bị bắt ñày ñi Côn ðảo lần thứ hai. Tại Côn ðảo, Phạm Cao Chẩm ñã cùng con trai của Nguyễn Thiện Thuật là Nguyễn Trọng Thưởng lãnh ñạo tù nhân ñứng dậy chiếm ñảo nhưng bất thành, ông hy sinh năm 1918. Trong số các thủ lĩnh Việt Nam Quang phục Hội hy sinh còn có Phạm Cao ðài, cháu Phạm Cao Chẩm.

Trong thời kỳ ñấu tranh giải phóng dân tộc dưới sự lãnh ñạo của ðảng (1930 - 1945), Tư Nghĩa nổi bật ở việc huấn luyện dân quân và tiếp tế cho ðội Du kích Ba Tơ, chiến thắng Xuân Phổ (Nghĩa Kỳ) ñánh quân Nhật càn quét ngày 16.8.1945.

Trong kháng chiến chống Pháp xâm lược (1945 - 1954), Tư Nghĩa giữ vững ñịa bàn, cả ở hai mặt xung yếu là miền núi và miền biển trong huyện, ñóng góp nhiều nhân tài vật lực cho công cuộc kháng chiến ñ i ñến thắng lợi.

Trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước (1954 - 1975), Tư Nghĩa ñã tiếp tục phát huy truyền thống cách mạng, ñóng góp xứng ñáng vào sự nghiệp kháng chiến. Tháng 3.1965, các xã phía ñông huyện ñược giải phóng, vùng lõm phía ñông liên thông với vùng giải phóng ñông Mộ ðức ñược xây dựng; năm 1968, quân giải

Page 60: Các Huyện - Thành phố

Ñòa chí Quaûng Ngaõi Trang 60

phóng diệt căn cứ hải thuyền ñịch tại xã Nghĩa An. Ngày 24.3.1975, Tư Nghĩa ñược hoàn toàn giải phóng.

ðơn vị huyện Tư Nghĩa cùng 15 xã, thị trấn, 2 tập thể của huyện và hai cá nhân ñược phong tặng danh hiệu Anh hùng Lực lượng Vũ trang nhân dân. Tư Nghĩa có 221 bà mẹ ñược phong tặng danh hiệu Bà mẹ Việt Nam Anh hùng(6).

Trong lịch sử, Tư Nghĩa có những nhân vật ñáng chú ý như các ông Nguyễn Thuỵ (người làng Hổ Tiếu), Thái Thú, Phạm Cao Chẩm, Phạm Cao ðài, Nguyễn Năng Lự, Từ Hữu Lập, Từ Ty, Bùi Phụ Thiệu... Chiến sĩ cách mạng hiện ñại nổ i bật có Trần Kiên, từng giữ chức Chủ nhiệm Ủy ban Kiểm tra Trung ương ðảng.

* * *

Tư Nghĩa nằm ở vùng trung tâm tỉnh Quảng Ngãi, có vùng núi, ñồng bằng, có biển và cửa biển, có Quốc lộ 1 và ñường sắt Thống Nhất chạy qua, là những ñiều kiện thuận lợi ñể có thể phát triển kinh tế với nhiều hình thức phong phú, ña dạng.

Cho ñến năm 2003, cơ cấu kinh tế của Tư Nghĩa ñã có chuyển dịch tích cực. Ngành nông, lâm, thủy sản chiếm 73,4% trong cơ cấu kinh tế; công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp 14,3% và thương mại - dịch vụ chiếm 12,3% tổng giá trị. Tốc ñộ tăng trưởng kinh tế trung bình 9%/năm. Năm 2004, giá trị sản xuất ngành nông, lâm, thủy sản là 596 tỉ ñồng, năm 2005 ñạt 681,1 tỉ ñồng (theo giá hiện hành); trong ñó trọng yếu là nông nghiệp, ngư nghiệp, lâm nghiệp không thật ñáng kể. Năm 2005, Tư Nghĩa có nguồn lao ñộng 99.858 người, trong ñó có 60.836 người làm việc ở ngành nông lâm nghiệp, 10.069 người làm việc ở ngành công nghiệp và xây dựng, 11.030 người làm ở lĩnh vực dịch vụ (phần nhiều là giáo viên, cán bộ y tế và quản lý nhà nước).

Nông nghiệp

Nông nghiệp cổ truyền ở Tư Nghĩa có nhiều thành tựu nổ i bật. Người dân ở Tư Nghĩa xưa giỏ i trồng lúa, mía, cũng như giỏ i chăn nuôi trâu, bò, heo, gà, vịt. Nhờ ñất ñai màu mỡ ở dọc các sông, suối, từ xưa Tư Nghĩa ñã là một vùng trọng ñiểm nông nghiệp của Quảng Ngãi. Bước sang thời hiện ñại, nông nghiệp có những chuyển biến tích cực. Năm 2005 vẫn còn có hơn 60% số lao ñộng trong huyện sống bằng nghề nông. Tuy cây lúa không phải chiếm ưu thế tuyệt ñối trong huyện, nhưng nhờ thâm canh tăng năng suất nên ñến năm 2005, Tư Nghĩa ñã sản xuất ñược 58.393 tấn lương thực có hạt, bình quân lương thực ñầu người ở huyện có mật ñộ dân số cao này ñã ñạt 323kg/năm, thấp nhất là xã Nghĩa An làm nghề cá, không có ñất sản xuất lương thực, xã Nghĩa Phú 51kg, hai thị trấn La Hà và Sông Vệ ñều dưới 200kg, các xã khác ñều trên 300kg, các xã cao nhất là Nghĩa Thương (588kg), Nghĩa Thọ (549kg). Sau cây lúa, ngô cũng là cây lương thực quan trọng, chiếm trên 1/10 tổng sản lượng lương thực của huyện. Tư Nghĩa cũng là huyện trồng nhiều mía. Mía ở Xuân Phổ là vùng bãi bồi ven sông Trà Khúc ñặc biệt tươi

Page 61: Các Huyện - Thành phố

Ñòa chí Quaûng Ngaõi Trang 61

tốt, dân trong vùng thường ñánh bắt chim mía nên ngạn ngữ có câu "Chim mía Xuân Phổ". Bên cạnh lúa, mía, khoai, sắn, người Tư Nghĩa ñặc biệt giỏ i làm vườn, nổi tiếng về nghề trồng rau, trồng hoa, cây cảnh như ở các xã Nghĩa Hiệp, Nghĩa Hòa, Nghĩa Hà.

Thống kê một số cây trồng chính năm 2005(7)

TT Cây trồng Diện tích (ha) Sản lượng (tấn) Năng suất (tạ/ha)

1 Lúa 8.477 51.041 60,2

2 Ngô 1.346 7.352 58

3 Sắn 1.152 19.066 165,5

4 Mía 875 41.216 471

5 ðậu tương 45 80 17,7

6 Dâu tằm 20 57 28,5

7 Lạc 612 1.230 20,1

8 ðậu 490 639 13

9 Rau 1.639 23.131 141,3

Với một diện tích canh tác nhỏ hẹp, cư dân Tư Nghĩa ñã phát triển nông nghiệp theo hướng tăng năng suất, chất lượng. Làng rau, hoa và cây cảnh ở xã Nghĩa Hiệp ñã phát triển mạnh theo hướng ñó. Rau quả và hoa kiểng ở xã Nghĩa Hiệp ñã bán ñi trong khắp tỉnh Quảng Ngãi.

Một hướng phát triển nông nghiệp quan trọng ở Tư Nghĩa là chăn nuôi. Năm 2005, Tư Nghĩa có ñàn lợn 84.701 con, ñàn trâu 2.931 con, ñàn bò 23.365 con. Số lượng trâu bò nhiều nhất là ở các xã Nghĩa Kỳ, Nghĩa Thắng, Nghĩa Hà, Nghĩa Thuận, thấp nhất là các xã Nghĩa An, Nghĩa Phú, Nghĩa Mỹ (không chuyên nông nghiệp). Các xã toàn dân tộc Hrê là Nghĩa Sơn, Nghĩa Thọ có số trâu tương ñối khá (hai xã có 710 con trâu), nhưng số lượng bò nuôi lại quá ít ỏi (trên dưới 100 con mỗi xã), ñiều này liên quan ñến tập quán của người Hrê quen nuôi trâu hơn nuôi bò. Nghĩa Sơn, Nghĩa Thọ là vùng núi, nhiều cỏ, nếu khắc phục ñược tập quán, nghề chăn nuôi trâu bò sẽ phát triển mạnh nhờ ñiều kiện tự nhiên. Số lượng chăn nuôi lợn nhiều nhất là ở các xã Nghĩa Thương, Nghĩa Kỳ, Nghĩa Hiệp, Nghĩa Trung (ñều từ 8.000 con trở lên), thấp nhất là các xã Nghĩa Sơn (50 con), Nghĩa Thọ (67 con).

Một trong những ñ iểm nổ i bật trong sản xuất nông nghiệp ở ñịa hạt Tư Nghĩa là việc làm thuỷ lợi. Xưa kia, trong công tác thuỷ lợi, ngoài những công cụ tưới nước thông dụng, người dân Tư Nghĩa có nhiều xe nước trên sông Trà Khúc và sông Vệ. Thuở xưa có ñào kênh Vĩnh Lợi lấy nước sông Vệ tưới cho các cánh ñồng phía nam của huyện. Trong kháng chiến chống Pháp xâm lược, nhiều công trình thuỷ lợi lớn ñược ñào ñắp, như kênh Tư Nghĩa nố i sông Trà Khúc với sông Bàu Giang, ñập La Hà. Thời hiện ñại nổ i bật nhất là công trình thuỷ lợi Thạch Nham với ñầu

Page 62: Các Huyện - Thành phố

Ñòa chí Quaûng Ngaõi Trang 62

mối và kênh chính nam ở cực tây huyện, không chỉ cung cấp nước cho huyện Tư Nghĩa mà còn các huyện khác trong tỉnh Quảng Ngãi.

Ngư nghiệp

Nghề ñánh cá là một hoạt ñộng kinh tế quan trọng ñối với cư dân ven biển ở phía ñông Tư Nghĩa từ rất lâu ñời. Nhờ có sông, biển, cư dân ở ñây ñã ñánh bắt hải sản, cung cấp nguồn thực phẩm biển cho tỉnh lỵ Quảng Ngãi và nhiều nơi khác trong tỉnh. Trong vùng nước lợ thì cào nhũi don, bắt cá bống trên hạ lưu các sông Trà Khúc, sông Vệ ñể chế biến những món ăn ñặc sản của tỉnh Quảng Ngãi. Don Hiền Lương xã Nghĩa Hà nổ i tiếng thơm ngon. Ở phía tây huyện vùng có nhiều sông, suối có cá niêng, cá chình cũng là những ñặc sản nổi tiếng. Cho ñến nay, ñánh bắt vẫn là ngành chính trong ngư nghiệp, tập trung chỉ ở hai xã ven biển Nghĩa An, Nghĩa Phú. ðó là hai xã duy nhất trong tổng số 18 xã, thị trấn của toàn huyện có nghề ñánh bắt hải sản. Tuy vậy, Tư Nghĩa có tổng cộng 720 chiếc tàu ñánh cá với tổng công suất 31.500CV, sản lượng ñánh bắt ñược trên 17.850 tấn hải sản (năm 2005), ñứng thứ hai trong toàn tỉnh Quảng Ngãi, chỉ sau huyện ðức Phổ (gần 31.640 tấn). Nếu ñem so với 6 năm trước (1999) thì số tàu tăng 1/3 và sản lượng tăng gần gấp ñôi. Việc nuôi trồng thuỷ sản tuy có nhưng không nhiều vì không có diện tích lớn (khoảng 154ha năm 2005), kỹ thuật chưa ñảm bảo nên sản lượng chưa thật ñáng kể. Tuy vậy, kinh tế thuỷ sản vẫn là một mũi nhọn của Tư Nghĩa và giữ một vai trò quan trọng trong ngành thuỷ sản của tỉnh Quảng Ngãi nói chung.

Công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp

Nghề tiểu thủ công nghiệp ở Tư Nghĩa xưa nay có nhiều ñiểm ñáng chú ý. ðiểm nổi bật nhất là ở Tư Nghĩa ñã có nhiều làng nghề cổ truyền nổi tiếng trong tỉnh Quảng Ngãi. Nghề gốm thì có Xóm Gốm sản xuất gốm, gạch ngói ở thị trấn Sông Vệ, xã Nghĩa Mỹ bán ñi nhiều nơi trong tỉnh. Ngói Sông Vệ từ lâu là một thương hiệu nổi tiếng. Ở Nghĩa Hiệp, ngoài nghề làm vườn giỏi, còn là nơi nổ i tiếng với các tốp thợ mộc chuyên ñóng các ñồ gia dụng với tay nghề cao, mẫu mã, kiểu dáng sản phẩm ñẹp xưa nay. Ở Nghĩa Hòa nổi bật nghề ñan chiếu cói, là nơi sản xuất chiếu nổi danh trong tỉnh Quảng Ngãi. Ở thị trấn Thu Xà xưa là nơi xuất phát các món ăn ñặc sản nổi tiếng của tỉnh Quảng Ngãi như kẹo gương, ñường phèn, ñường phổi. Ở gần biển thì có ñặc sản don là một món ăn chế biến từ con don sống ở vùng nước lợ. Thuở xưa, xưởng tàu của nhà nước phong kiến ñóng ở Xuân Quang và Phú Thọ, chứng tỏ người dân ở ñây cũng rất giỏi nghề ñóng tàu thuyền bằng gỗ. ðó là chưa kể ñến các nghề thủ công phổ biến khác. Bước sang thời kỳ hiện ñại, tiểu thủ công nghiệp ở Tư Nghĩa có sự kế thừa và phát triển. Bên cạnh các nghề cổ truyền vẫn tiếp tục duy trì, tồn tại trong ñ iều kiện mới, ở Tư Nghĩa còn có sự phát triển các nghề tiểu thủ công nghiệp mới, như nghề làm dây bố xe ở xã Nghĩa Hòa, sản xuất vật liệu xây dựng ñá, cát, sỏi. Ở thị trấn La Hà có các cơ sở chế biến gỗ theo lối sản xuất công nghiệp. La Hà là nơi ñang quy hoạch cụm công nghiệp của huyện. Năm 2005, huyện Tư Nghĩa có 2.401 cơ sở sản xuất

Page 63: Các Huyện - Thành phố

Ñòa chí Quaûng Ngaõi Trang 63

công nghiệp cá thể với 5.864 lao ñộng, nhiều nhất là xã Nghĩa Hòa 518 cơ sở với 1.138 lao ñộng, xã Nghĩa Hà 288 cơ sở với 658 lao ñộng, xã Nghĩa Mỹ 159 cơ sở với 603 lao ñộng. Tuyệt ñại ña số cơ sở và lao ñộng nói trên nằm trong ngành công nghiệp chế biến, trong ñó ñáng kể nhất là chế biến thực phẩm và ñồ uống, gỗ và lâm sản, sản xuất sản phẩm khoáng phi kim loại.

Thương mại - dịch vụ

Với một vị trí ñịa lý khá thuận lợi, việc giao thương, dịch vụ ở huyện Tư Nghĩa ñã có sự phát triển từ xa xưa. Dân vùng ñồng bằng thì ñi buôn gánh, buôn núi, dân vùng biển thì ñi buôn ghe bầu vào Nam ra Bắc. Khúc sông Phú Thọ xưa kia có bến ñỗ thường xuyên của thương thuyền nhà Thanh, là nơi buôn bán rất tấp nập của tỉnh Quảng Ngãi. Ngoài chợ tỉnh (xưa thuộc ñịa bàn huyện Tư Nghĩa), ở Tư Nghĩa có trung tâm buôn bán rất quan trọng là Thu Xà, nơi có ñường thuỷ thông ra cửa biển Cổ Luỹ, vốn ñược xác ñịnh là cửa biển chính của tỉnh Quảng Ngãi thuở trước. ðường Thiên Lý Bắc - Nam chạy qua huyện từ ñò Trà Khúc ñến trạm Nghĩa Mỹ cũng tạo ra nghề buôn bán, làm dịch vụ. Ở thị trấn Sông Vệ xưa có chợ Trạm (chợ ðiếm), vì ở ñây có ñiếm trạm thời phong kiến, chuyên lo việc chạy giấy tờ, công văn. Việc buôn bán lên vùng cao, xuống biển cũng có chiều thuận lợi khi người buôn xuôi ngược trên sông Trà Khúc và sông Vệ. Ở cảng Cổ Luỹ, thời Pháp thuộc có ñặt sở Thương chánh ñể thu thuế. Trên ñịa bàn các làng xã ñều có chợ. Thời nay, việc buôn bán ngày càng thịnh ñạt. Có thể nói tại các thị trấn, thị tứ là trung tâm buôn bán, dịch vụ, có thể kể thị trấn Sông Vệ, thị trấn La Hà, chợ Thu Xà, chợ Phú Thọ, chợ Nghĩa Kỳ, chợ Cây Bứa... ðiều ñáng tiếc là Tư Nghĩa có tiềm năng phát triển du lịch văn hóa nhưng hầu như chưa ñược khai thác và một vài thắng cảnh có phần ñã phôi pha. Thắng cảnh La Hà thạch trận ñã thành phế tích. Các di tích và thắng cảnh quý giá như núi Phú Thọ, Cổ Luỹ cô thôn, suối Mơ, cấm Ông Nghè, chùa Ông Thu Xà... hầu như chưa ñược khai thác cho du lịch văn hóa. Năm 2005, ñịa hạt Tư Nghĩa có 4.403 cơ sở kinh doanh thương mại - dịch vụ cá thể với 5.705 lao ñộng, nhiều nhất ở xã Nghĩa Kỳ 642 cơ sở với 771 lao ñộng, thị trấn Sông Vệ 561 cơ sở với 713 lao ñộng, thị trấn La Hà 402 cơ sở với 564 lao ñộng; trong số ñó hơn phân nửa là hiệu bán lẻ và lao ñộng bán hàng; ñáng kể là bán cà phê, giải khát.

Cơ sở hạ tầng

Về ñường sá: Xưa kia, thời ñường bộ chưa thật tốt, ñường sắt chưa có, thì ñường thủy trên các sông Trà Khúc, sông Vệ là khá quan trọng ñối với Tư Nghĩa trong việc giao thông, vận tải vào sâu trong nội ñịa, lên miền núi; ñường thủy trên biển phục vụ tốt cho việc ñi lại, buôn bán ñường dài, ra Bắc vào Nam. Từ sau ngày Quốc lộ 1 thông thuận, các cầu ñược xây dựng, thì giao thông ñường bộ chiếm vị trí quan trọng hàng ñầu.

Quốc lộ 1 cắt ngang giữa huyện, từ Bàu Giang ñến thị trấn Sông Vệ là trục ñường quan trọng nhất. Thị trấn La Hà, nơi ñặt huyện lỵ Tư Nghĩa nằm ngay trên Quốc lộ 1. Nhưng các ñường dẫn về vùng phía ñông và vùng phía tây Tư Nghĩa

Page 64: Các Huyện - Thành phố

Ñòa chí Quaûng Ngaõi Trang 64

ñều xuất phát từ thành phố Quảng Ngãi. Ngay cả ở trung tâm huyện, ñể ñến vùng ñông hay vùng tây huyện, thuận tiện nhất là băng qua thành phố Quảng Ngãi. Từ thành phố Quảng Ngãi có tỉnh lộ 625 trực chỉ lên các xã phía tây huyện nố i với công trình ñầu mối Thạch Nham dài 24km, có tỉnh lộ 626 xuôi về các xã phía ñông huyện ñi Thu Xà và Phú Thọ, từ 10 ñến 12km. Các trục ñường liên huyện: ñi Nghĩa Hành có 2 tuyến: La Hà - Nghĩa Trung - Nghĩa Hành, Sông Vệ - Nghĩa Mỹ - Hành Thiện. Tất cả ñều ñã trải nhựa và cũng trở thành trục chính theo hướng ñông - tây. ðường sá trong huyện cũng khá tốt. Các cầu cống trên Quốc lộ 1 như cầu Sông Vệ, cầu Cây Bứa ñã ñược xây dựng lại vững chắc. Cầu bắc qua xã Nghĩa An lần ñầu tiên ñược xây dựng nố i Phú Thọ với Cổ Luỹ cô thôn, tuy chỉ là cầu hẹp nhưng ñã khắc phục ñược tình trạng bao ñời bị cô lập bởi sông nước.

ðường sắt chạy qua huyện Tư Nghĩa một ñoạn ngắn. ðường thuỷ chủ yếu là trên sông Trà Khúc, sông Vệ và cửa biển Cổ Luỹ. Mặc dù ngày nay ñường thủy ñã kém quan trọng hơn xưa rất nhiều, nhưng vẫn không thể thiếu trong dân sinh. Người dân nhiều trường hợp dùng ghe ñ i lại, chuyên chở giữa các làng xã, từ Cổ Lũy thì dùng ghe ñi buôn bán với ñảo Lý Sơn. ðường thủy vẫn có tầm quan trọng nhất ñịnh của nó.

ðiện lực chỉ thực sự xuất hiện từ sau 1975 với mạng lưới ñiện quốc gia và tuyệt ñại ña số dân cư ñã dùng ñiện cho sinh hoạt và sản xuất.

Về thông tin liên lạc, thời phong kiến, trên ñịa hạt huyện Tư Nghĩa có dịch trạm ðông Mỹ, sau ñổi là Nghĩa Mỹ (nay thuộc xã Nghĩa Mỹ) phục vụ việc chuyển ñệ thư từ, công văn. Thời Pháp thuộc, có bưu ñiện ñặt ở Thu Xà, là một trong hai sở bưu ñiện trên ñất Quảng Ngãi. Ngày nay, mạng lưới thông tin liên lạc ở Tư Nghĩa khá hoàn chỉnh với các loại thông tin hiện ñại. Tại huyện lỵ có Bưu cục trung tâm. Trên ñịa bàn huyện có 4 tổng ñài ñiện thoại với tổng dung lượng 8.900 số; có 3 bưu cục: Bưu cục Cổ Luỹ, Bưu cục Sông Vệ, Bưu cục Thu Xà; có 14 xã có bưu ñiện văn hóa xã; có các trạm viễn thông ở Cổ Luỹ, La Hà, Nghĩa Lâm, Sông Vệ. Số máy ñiện thoại tăng nhanh, lên 9.750 máy (năm 2005), gấp trên 11 lần so với năm 1996 (876 máy).

Các cơ sở hạ tầng khác như thuỷ lợi, trường học... ñược xây dựng khá tốt.

* * *

ðịa hạt huyện Tư Nghĩa có nhiều di sản văn hóa vật thể và phi vật thể ñáng chú ý. Ở miền biển (các xã Nghĩa An, Nghĩa Phú) có lễ hội ra quân ñầu năm của ngư dân. Cư dân nông, ngư nghiệp có nhiều ca dao, tục ngữ, câu hò, ñiệu hát. Trên ñịa hạt huyện Tư Nghĩa có nhiều di tích và thắng cảnh quý giá như di tích kiến trúc nghệ thuật chùa Ông Thu Xà, thắng cảnh núi Phú Thọ và Cổ Luỹ cô thôn (ñã ñược xếp hạng Di tích Quốc gia), cấm Ông Nghè, chiến thắng Xuân Phổ, căn cứ Hòn Ngang, Bốn dũng sĩ Nghĩa Hiệp, di tích vụ thảm sát thôn 2 Nghĩa Lâm, Hố Hầm, di tích Sở Thương chánh, La Hà thạch trận, Núi Giàng và miếu thờ công thần, chùa

Page 65: Các Huyện - Thành phố

Ñòa chí Quaûng Ngaõi Trang 65

Bà Chú, Suối Mơ, chiến thắng Nghĩa An (ñã ñược xếp hạng di tích cấp tỉnh). Ở Tư Nghĩa còn có nhiều kiến trúc, nhà ở cổ truyền của người Việt khá ñộc ñáo.

Văn hóa mới ở Tư Nghĩa hình thành từ sau Cách mạng tháng Tám 1945. Trải thời gian, từ sau năm 1975 ñã có những thành tựu khá nổi bật. Ở thị trấn huyện lỵ có Nhà văn hóa huyện và các xã thôn có khu sinh hoạt văn hóa - thể thao. ðịa hạt huyện Tư Nghĩa ngày nay có ñài truyền thanh huyện, các xã có ñài truyền thanh xã. Phong trào toàn dân ñoàn kết xây dựng ñời sống văn hóa phát triển khá tốt, xã Nghĩa Lâm ñược chọn là xã văn hóa ñiểm duy nhất của tỉnh Quảng Ngãi. Công tác ñiều tra, lập hồ sơ xếp hạng di tích và công tác giáo dục truyền thống ñược chú trọng. Phong trào văn nghệ quần chúng phát triển tốt.

Về giáo dục, thời phong kiến Nho học ở ñịa hạt Tư Nghĩa khá phát triển với trung tâm là vùng tỉnh thành Quảng Ngãi, trong ñó nổi bật là xã Chánh Mông (Chánh Lộ) với số lượng người ñỗ ñạt cao nhất trong tỉnh Quảng Ngãi, trong ñó có người trở thành danh sĩ nổi tiếng như: Nguyễn Duy Cung (làng Vạn Tượng) nay thuộc thành phố Quảng Ngãi, Nguyễn Thuỵ (làng Hổ Tiếu), dịch giả Nguyễn Tạo (làng Xuân Phổ). Trong thời kỳ Tân học, nhiều người dân huyện Tư Nghĩa ñỗ ñạt. Từ sau Cách mạng tháng Tám 1945, nền giáo dục cách mạng ñược xác lập, việc học phổ cập trong toàn dân, nhiều người quê Tư Nghĩa ñã thành ñạt trên ñường học vấn, học thuật, như Giáo sư, Tiến sĩ Phương Lựu (quê làng Vạn An, xã Nghĩa Thương) là một nhà lý luận hàng ñầu trong lĩnh vực văn học Việt Nam hiện ñại. Trên ñịa bàn huyện Tư Nghĩa ngày nay có Trường Cao ñẳng Tài chính - Kế toán của Bộ Tài chính (tại thị trấn La Hà), Trường Công nhân Cơ giới Thủy lợi II của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (tại xã Nghĩa Kỳ), có hệ thống trường lớp phổ thông khá hoàn chỉnh. Ở huyện có 4 trường Trung học phổ thông, trong ñó có 2 trường ở thị trấn huyện lỵ (trường số 1, trường bán công Chu Văn An), 1 trường ở xã Nghĩa Thuận cho các xã phía tây, 1 trường ở xã Nghĩa Hòa (Thu Xà) cho các xã phía ñông. Năm 2005, ở cấp học do huyện quản lý có: 1) Mẫu giáo 28 trường, 183 lớp, 2002 giáo viên, 4.589 học sinh; 2) Tiểu học có 28 trường, 467 lớp, 630 giáo viên, 16.098 học sinh; 3) Trung học cơ sở có 15 trường, 359 lớp, 628 giáo viên, 16.004 học sinh.

Về y tế, huyện có trung tâm y tế huyện (ñặt ở thị trấn La Hà), 2 phòng khám khu vực, 1 ñội vệ sinh phòng dịch và 18 trạm y tế ở 18 xã, thị trấn. Tổng số giường bệnh là 240 giường (trong ñó bệnh viện huyện 110 giường). Tổng số cán bộ ngành y là 172 người, trong ñó có 31 bác sĩ. Tổng số cán bộ ngành dược có 6 người, trong ñó có 2 dược sĩ ñại học. Tất cả các trạm y tế xã, thị trấn trong huyện ñều ñã có bác sĩ. ðịa bàn Tư Nghĩa nằm sát bên tỉnh lỵ Quảng Ngãi, nhờ vậy việc khám và chữa bệnh khá thuận tiện. Công tác dân số - kế hoạch hóa gia ñình ñược thực hiện khá tốt với tỷ lệ tăng dân số tự nhiên hằng năm là 1,4%.

Về xã hội, vấn ñề nhân lực lao ñộng là vấn ñề khá cấp bách ở ñịa hạt Tư Nghĩa, tình trạng thừa lao ñộng, thiếu việc làm do bình quân ruộng ñất ít ỏi khá phổ biến, do vậy ñã có nhiều người ñi làm ăn ở nơi xa. Việc giải quyết vấn ñề lao ñộng tại chỗ cũng ñược chú ý với chính sách giải quyết việc làm, số hộ nghèo trong huyện

Page 66: Các Huyện - Thành phố

Ñòa chí Quaûng Ngaõi Trang 66

giảm xuống còn khoảng 10% (theo chuẩn cũ). Các tệ nạn xã hội nhìn chung không nhiều.

Các ñối tượng ñược hưởng chính sách ưu ñãi xã hội ở huyện Tư Nghĩa khá ñông và ñược chăm lo giải quyết, trong ñó lớn nhất là số lượng thương bệnh binh trên 2.000 người, 3.666 gia ñình liệt sĩ.

(1) Theo Niên giám Thống kê huyện Tư Nghĩa 2005.

(2) Xem Chương XI: Các nhân vật lịch sử tiêu biểu.

(3) Thực ra chữ Ngãi và chữ Nghĩa là một, gốc chữ Hán viết là 義義義義, nhưng theo tập quán, huyện Tư Nghĩa không bao giờ gọi là huyện Tư Ngãi, ngược lại ngày nay người ta vẫn quen gọi là Quảng Ngãi hơn là Quảng Nghĩa, mặc dù khi nhập tỉnh với Bình ðịnh, người ta gọi là t ỉnh Nghĩa Bình mà không phải là Ngãi Bình.

(4) Nguồn: Niên giám thống kê huyện Tư Nghĩa.

(5) Tổng hợp toàn huyện có chênh lệch chút ít so với dân số trung bình ghi trong Niên giám thống kê tỉnh Quảng Ngãi.

(6) Xem Phụ lục 6, 9, phần II.

(7) Nguồn: Niên giám thống kê huyện Tư Nghĩa.

Page 67: Các Huyện - Thành phố

Ñòa chí Quaûng Ngaõi Trang 67

HUYỆN NGHĨA HÀNH

NGHĨA HÀNH là huyện ñồng bằng của tỉnh Quảng Ngãi. Phía bắc và ñông bắc giáp huyện Tư Nghĩa; phía nam giáp huyện Ba Tơ và huyện ðức Phổ; phía tây giáp huyện Minh Long; phía ñông giáp huyện Mộ ðức; phía ñông nam giáp huyện ðức Phổ. Hình thể hẹp chiều ñông - tây, trải dài từ bắc xuống nam. Diện tích: 234,12km2. Dân số: 99.767 người(1). Mật ñộ dân số: 426 người/km2. ðơn vị hành chính trực thuộc gồm 11 xã (Hành Minh, Hành ðức, Hành Trung, Hành Phước, Hành Thuận, Hành Dũng, Hành Nhân, Hành Tín Tây, Hành Tín ðông, Hành Thiện, Hành Thịnh), 1 thị trấn (Chợ Chùa huyện lị) với 84 thôn, tổ dân phố; trong ñó:

Xã Hành Minh có 4 thôn: Long Bàn Nam, Long Bàn Bắc, Tình Phú Nam, Tình Phú Bắc;

Xã Hành ðức có 5 thôn: Kỳ Thọ Nam 1, Kỳ Thọ Nam 2, Kỳ Thọ Bắc, Phú Châu, thôn Xuân Vinh;

Xã Hành Trung có 4 thôn: Hiệp Phổ Nam, Hiệp Phổ Bắc, Hiệp Phổ Trung, Hiệp Phổ Tây;

Xã Hành Phước có 9 thôn: Hòa Vinh, ðề An, Thuận Hòa, An Chỉ ðông, An Chỉ Tây, Hòa Mỹ, Vĩnh Thọ, Hòa Sơn, Hòa Thọ;

Xã Hành Thuận có 7 thôn: ðại An ðông 1, ðại An ðông 2, ðại An Tây 1, ðại An Tây 2, Phúc Minh, Phú ðịnh, Xuân An;

Xã Hành Dũng có 7 thôn: Kim Thành Hạ, Trung Mỹ, An Hòa, An Sơn, An Phước, An ðịnh, An Tân;

Xã Hành Nhân có 8 thôn: ðồng Vinh, Kim Thành Thượng, Trúc Lâm, Tân Thành, Bình Thành, Nghĩa Lâm, ðông Phước Lâm, Tân Lập;

Xã Hành Tín Tây có 9 thôn: Phú Khương, Phú Thọ, Long Bình, Tân Phú 1, Tân Phú 2, Tân Hòa, ðồng Miếu, Trũng Kè 1, Trũng Kè 2;

Xã Hành Tín ðông có 7 thôn: Thiên Xuân, Nguyên Hòa, ðồng Giữa, Nhơn Lộc 1, Nhơn Lộc 2, Khánh Giang, Trường Lệ;

Xã Hành Thiện có 7 thôn: Bàn Thới, Mễ Sơn, Ngọc Dạ, Vạn Xuân 1, Vạn Xuân 2, Phú Lâm ðông, Phú Lâm Tây;

Xã Hành Thịnh có 11 thôn: An Ba, Châu Me, Châu Mỹ, Xuân Ba, Mỹ Hưng, ðồng Xuân, Ba Bình, Xuân ðình, Thuận Hòa, Hòa Huân, Xuân Hòa;

Page 68: Các Huyện - Thành phố

Ñòa chí Quaûng Ngaõi Trang 68

Thị trấn huyện lị Chợ Chùa có 6 tổ dân phố: Phú Vinh ðông, Phú Vinh Tây, Phú Vinh Trung, Phú Bình Tây, Phú Bình ðông, Phú Bình Trung. Thị trấn Chợ Chùa cách tỉnh lỵ Quảng Ngãi 9km về phía tây - nam.

Nghĩa Hành là huyện ñồng bằng duy nhất của tỉnh Quảng Ngãi không giáp biển, không có Quốc lộ 1 chạy qua, kinh tế còn mang nặng tính thuần nông, ít có ñiều kiện thuận lợi ñể phát triển nền kinh tế ña dạng.

* * *

Về hành chính: Nghĩa Hành trở thành ñơn vị hành chính cấp huyện gần như ñồng thời với các huyện Sơn Tịnh, ðức Phổ, vào những năm cuối thế kỷ XIX từ phần ñất các huyện Bình Sơn, Tư Nghĩa, Mộ ðức ñã hình thành từ trên 500 năm trước. Cụ thể, huyện Nghĩa Hành hình thành trên cơ sở phần ñất phía tây nam huyện Tư Nghĩa (bắc sông Vệ) cùng vùng ñất tây bắc huyện Mộ ðức (nam sông Vệ).

Nghĩa Hành vào ñời Hồ thuộc phần ñất của châu Nghĩa, thuộc huyện Nghĩa Giang từ ñời Lê ñến triều Tây Sơn; thuộc huyện Chương Nghĩa (tên mới của huyện Nghĩa Giang) thời nhà Nguyễn.

Năm 1890 (Thành Thái năm thứ 2), châu Nghĩa Hành ñược thiết lập ở vùng ñất phía tây - nam của phủ Tư Nghĩa. Châu Nghĩa Hành lúc bấy giờ còn bao gồm cả huyện Minh Long ngày nay và thuộc về Sơn phòng Nghĩa ðịnh; với cơ Nhất gồm 2 tổng Thuận Hành, Hóa Hành, cơ Nhì gồm 2 tổng Lạc Hành, Lợi Hành, cơ Tư với 1 tổng Lạc Hành. Lỵ sở của châu Nghĩa Hành ñóng tại 2 làng Vạn Xuân, Bàn Thạch (xã Hành Thiện ngày nay).

Năm 1899 (Thành Thái năm thứ 11), Sơn phòng ñược triệt bỏ; phần phía tây của châu Nghĩa Hành hình thành ñồn Minh Long, phần phía ñông hình thành huyện Nghĩa Hành với hai tổng Hành Thượng và Hành Trung.

Năm 1901 (Thành Thái năm thứ 13), các xã thôn dọc bờ nam sông Vệ thuộc huyện Mộ ðức ñược nhập vào huyện Nghĩa Hành hình thành tổng Hành Cận (sau này là một phần các xã Hành Tín, Hành Thiện và xã Hành Thịnh). Từ ñây, huyện Nghĩa Hành tương ñối ổn ñịnh về ñịa giới, với 3 tổng và 45 xã thôn.

Sau Cách mạng tháng Tám 1945, huyện Nghĩa Hành mang tên huyện Lê ðình Cẩn - tên một chí sĩ yêu nước trong phong trào Duy tân Quảng Ngãi - trong một thời gian ngắn, sau lấy lại tên cũ là Nghĩa Hành. Cấp tổng ñược bãi bỏ. Các thôn xã nhỏ ñược nhập lại thành 7 xã lớn: xã Hành Tín (tương ñương với 2 xã Hành Tín ðông, Hành Tín Tây ngày nay); xã Hành Thiện; xã Hành Thịnh; xã Hành Dũng (tương ñương với 2 xã Hành Dũng, Hành Nhân ngày nay); xã Hành ðức (tương ñương 2 xã Hành ðức, Hành Trung ngày nay); xã Hành Phước; xã Hành Phong (tương ñương với thị trấn Chợ Chùa và các xã Hành Minh, Hành Thuận ngày nay).

Page 69: Các Huyện - Thành phố

Ñòa chí Quaûng Ngaõi Trang 69

Dưới xã có các thôn. Huyện lỵ lần ñầu tiên dời về ñóng ở Chợ Chùa, thuộc xã Hành Phong.

Sau 1954, dưới chế ñộ Sài Gòn, "huyện" ñược ñổi thành "quận", "thôn" ñược ñổi thành "ấp" với ñịa danh và ñịa giới không thay ñổi. Từ giữa 1958, tên các xã ñược ñổi lại, lấy chữ Nghĩa làm ñầu, cụ thể có 8 xã như sau: xã Hành Tín ñổi là xã Nghĩa Phú; xã Hành Thiện ñổi là xã Nghĩa Thuận; xã Hành Thịnh ñổi là xã Nghĩa Thành; xã Hành Dũng ñổi là xã Nghĩa Lộc; xã Hành ðức ñổi là xã Nghĩa Hưng; xã Hành Phong ñổi là xã Nghĩa Chánh; xã Hành Phước ñổi là xã Nghĩa Phước; một phần xã Hành Phong tách lập thành xã Nghĩa Khương.

Phía cách mạng vẫn gọ i là huyện Nghĩa Hành, các thôn xã như thời kháng chiến chống Pháp.

Từ năm 1975, các tên xã chính thức phục hồi như thời kháng chiến chống Pháp.

Năm 1977, huyện Nghĩa Hành nhập chung với huyện Minh Long thành huyện Nghĩa Minh, các xã vẫn giữ nguyên tên và ñịa giới. Huyện lỵ dời từ Chợ Chùa ñến Phú Lâm (Hành Thiện). Năm 1981, hai huyện tách ra như cũ. Huyện lỵ Nghĩa Hành dời về vùng ñồi 68 trong mấy năm rồi dời về lại Chợ Chùa. Các xã, thị trấn mới ñược tách lập, ñến năm 2005 huyện có 12 xã, thị trấn (như ñã kể ở phần ñầu).

Về tự nhiên, Nghĩa Hành là huyện ñồng bằng nhưng có ñịa hình trung du, có nhiều ñồi núi, cao ở phía tây, thoải dần về phía ñông tương ñối bằng phẳng.

Các núi cao: núi Kỳ Lân (922m), núi Hồng Bà (673m), núi Tai Mèo (607m), núi Giàng... ñều nằm ở phía tây nam huyện, nhiều ñồi núi thấp nằm rải rác ở phía ñông huyện.

Trên ñịa bàn Nghĩa Hành có các ñèo: ñèo Chim Hút, ñèo Eo Gió, ñèo ðá Bàn, ñèo Quán Thơm...

Sông suối : Có các sông, suối ñáng chú ý như sau:

Sông Văn, còn có tên là sông Phước, Phước Giang, là con sông nhỏ, nhưng mùa mưa vẫn gây lũ lụt.

Sông Vệ, là một trong bốn sông lớn ở tỉnh Quảng Ngãi. Ở ñịa phận huyện Nghĩa Hành, sông Vệ chảy qua giữa hai xã Hành Tín ðông và Hành Tín Tây, giữa xã Hành Thiện và giữa hai xã Hành Thịnh, Hành Phước. ðoạn ñông giáp giới giữa xã Hành Thiện và xã Hành Thịnh có trạm bơm Nam Sông Vệ, nay có xiphông tiếp nước từ kênh chính nam Thạch Nham. Chi lưu sông Vệ là sông Thoa chảy dọc thôn Mỹ Hưng, thôn An Ba chảy về ñông, qua ñịa hạt huyện Mộ ðức. Do lòng sông dốc, nên mùa nắng sông Vệ nhanh chóng cạn kiệt, mùa mưa thường gây lũ lụt lớn, nhất là phía hạ lưu.

Page 70: Các Huyện - Thành phố

Ñòa chí Quaûng Ngaõi Trang 70

Suối Chí nằm ở xã Hành Tín ðông, huyện Nghĩa Hành, ñã ñược xây dựng thành hồ nước thuỷ lợi.

Trên ñịa bàn huyện Nghĩa Hành có một số bàu, ñầm như: Bàu Lát, ñầm La Băng.

ðất ñai ở Nghĩa Hành thích hợp cho sản xuất nông, lâm nghiệp. Có 143,70km2 dành cho sản xuất nông lâm nghiệp, trong ñó có hơn 62,10km2 ñất lâm nghiệp; ñất chưa sử dụng có hơn 50,42km2.

Tình hình sử dụng ñất thời ñiểm 2005 ở các xã - thị trấn như sau(2):

TT Xã, thị trấn ðơn vị

tính ðất nông

nghiệp

ðất lâm nghiệp

ðất chuyên dùng

ðất khu dân cư

ðất chưa sử dụng

1 Chợ Chùa ha 472,6 0 84,4 115,5 26,9

2 Hành Thuận ha 616,5 40 104 35,3 24

3 Hành Dũng ha 2203,9 1.167,4 113,3 51,5 550,9

4 Hành Minh ha 604,2 63,3 81,2 36,9 146,1

5 Hành ðức ha 903,3 218,2 127,9 367,9 167,6

6 Hành Phước ha 1.102 238,6 149,9 59,2 143,7

7 Hành Thịnh ha 1.459,5 681,8 101,7 41,8 233,8

8 Hành Thiện ha 1.336,3 721,6 63,6 69,9 780,8

9 Hành Tín

Tây ha

1.369,7 792,3 40,1 34,4 2.220

10 Hành Tín ðông

ha 2.320,8 1.922,2 85,8 24,6 653,8

11 Hành Nhân ha 1.355,9 365,1 190 63,2 82,6

12 Hành Trung ha 625,8 0 83 44,5 11,7

Toàn huyện ha 14.370 6.210 1.225 945 5.042

Khí hậu ở Nghĩa Hành tương tự như ở các huyện ñồng bằng khác trong tỉnh Quảng Ngãi.

Nghĩa Hành có hệ ñộng thực vật khá phong phú. Hệ ñộng thực vật tự nhiên ở rừng xưa kia có hổ, báo, hươu, nai, heo rừng, công, trĩ, khướu... Trong rừng có nhiều gỗ quý như sến, gõ, nhụ, huỳnh ñàn, sơn, xoay... Trải qua thời gian với sự khai thác của con người và chiến tranh, rừng ñã bị tàn phá nặng, hệ ñộng thực vật cũng bị suy kiệt nhiều. ðộng thực vật ñược chăn nuôi và trồng trọt cũng khá phong phú, với hầu hết các giống loài phổ biến trong tỉnh Quảng Ngãi; sau này phát triển

Page 71: Các Huyện - Thành phố

Ñòa chí Quaûng Ngaõi Trang 71

thêm cây trồng mới như chôm chôm, bưởi, các vật nuôi như ba ba... cũng cho kết quả khả quan.

Về dân cư, tuyệt ñại ña số cư dân ở huyện Nghĩa Hành là người Việt; chỉ có 869 người Hrê (năm 2005) cư trú chủ yếu ở các xã Hành Tín Tây (543 người), Hành Tín ðông (233 người), Hành Dũng (93 người) tiếp giáp với các huyện Ba Tơ, Minh Long láng giềng. Cư dân Việt ở Nghĩa Hành mang ñặc ñiểm chung của cư dân Việt ở Quảng Ngãi. Mật ñộ dân số ở Nghĩa Hành thấp hơn so với mật ñộ trung bình các huyện vùng ñồng bằng trong tỉnh (426,1 người/km2 so với 569 người/km2 năm 2005), nhưng cao hơn trung bình của toàn tỉnh (250 người/km2). Tính thuần nông, xa các ñô thị khiến dân cư Việt ở Nghĩa Hành ñậm nét thuần phác, ít linh ñộng, bảo lưu ñược nếp sống cổ truyền với các giềng mối gia ñình, làng xóm ñầy tình nghĩa. Cư dân Hrê ở Nghĩa Hành có chung ñặc ñiểm với cộng ñồng Hrê ở hai huyện Minh Long, Ba Tơ.

Diện tích, dân số năm 2005 phân bố ở các xã, thị trấn như sau:

TT Xã, thị trấn Diện tích (km2) Dân số (người) M ật ñộ dân số (người/km2)

1 Chợ Chùa 7,55 9.609 1.272,7

2 Hành Thuận 8,26 7.516 909,9

3 Hành Dũng 30,36 7.395 243,6

4 Hành Minh 9,22 6.012 652,1

5 Hành ðức 16,30 11.568 709,7

6 Hành Phước 16,55 13.784 832,9

7 Hành Thịnh 21,10 9.289 462,1

8 Hành Thiện 25,07 7.460 297,6

9 Hành Tín Tây 39,05 4.813 123,3

10 Hành Tín ðông 34,56 4.499 130,2

11 Hành Nhân 18,71 8.564 457,7

12 Hành Trung 8,39 9.238 1.101,1

* * *

Về truy ền thống yêu nước và cách mạng, Nghĩa Hành có nhiều nét ñáng chú ý. Nhiều tư liệu cho thấy ñịa bàn huyện Nghĩa Hành xưa nằm trong vùng căn cứ ñịa của phong trào Tây Sơn. Nhiều thơ văn, chứng tích như gò Ông Súng, gò Ông Voi (xã Hành Phước), các ñịa danh như Trường Luyện, Ba Vực, ðình Cương chứng tỏ căn cứ Tây Giang (nằm trên ñất Nghĩa Hành), một bộ phận của Tây Sơn tả ñạo, có thể là có thật. ðến giữa thế kỷ XIX, khi thực dân Pháp tấn công chiếm thành Gia ðịnh (1859), Hộ ñốc Võ Duy Ninh (người làng ðại An, nay thuộc xã

Page 72: Các Huyện - Thành phố

Ñòa chí Quaûng Ngaõi Trang 72

Hành Thuận) cùng những người lính quê ở Nghĩa Hành ñã chiến ñấu và hy sinh ngay từ những ngày ñầu thực dân Pháp xâm lược nước ta. Sau khi kinh ñô Huế thất thủ (1885), nhiều người ñã tham gia phong trào Cần vương, gia nhập Hương binh do ông Lê Quán chỉ huy, hưởng ứng cuộc khởi nghĩa ñánh chiếm thành Quảng Ngãi do chí sĩ Lê Trung ðình lãnh ñạo; sau ñó, trong phong trào Cần vương do Nguyễn Bá Loan lãnh ñạo, Nghĩa Hành trở thành căn cứ của phong trào này (1885 - 1888). Trong phong trào Duy tân và chống sưu thuế (1906 - 1908) do các ông Lê ðình Cẩn (người làng Hòa Vinh, nay thuộc xã Hành Phước), Nguyễn Bá Loan (người huyện Mộ ðức, con ñại thần Nguyễn Bá Nghi), Lê Tựu Khiết (người làng An Ba, nay thuộc xã Hành Thịnh) lãnh ñạo, Nghĩa Hành là nơi họp kín của các nhà lãnh ñạo tại nông trại Tình Phú (nay thuộc xã Hành Minh). Phong trào ở Nghĩa Hành dâng cao rầm rộ, quần chúng bắt viên Tri huyện ñóng cũi khiêng về tỉnh thành Quảng Ngãi và ra yêu sách với bọn thực dân, phong kiến. Trong phong trào Việt Nam Quang phục Hộ i, người dân Nghĩa Hành ñã tham gia cuộc vận ñộng khởi nghĩa Duy tân 1916 do các ông Nguyễn Công Mậu, Nguyễn Công Phương(3), Lê Triết lãnh ñạo ở ñịa phương.

Từ năm 1927, ñã có nhiều người Nghĩa Hành tìm hiểu chủ nghĩa Mác - Lênin và ñường lối giải phóng dân tộc do lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc vạch ra. Năm 1930, nhà yêu nước nổi tiếng Nguyễn Công Phương ñược kết nạp vào ðảng Cộng sản Việt Nam. Nhờ sự tích cực vận ñộng của ông, nhiều người khác ñã giác ngộ cách mạng, ñược kết nạp vào ðảng. Chi bộ rồi ðảng bộ huyện Nghĩa Hành ñược thành lập, kịp thời lãnh ñạo nhân dân trong huyện bắt nhịp với phong trào cách mạng trong tỉnh, từ phong trào 1930 - 1931 ñến các cao trào cách mạng 1936 - 1939 và 1939 - 1945 ñều ñược chắp nối liên tục. Vai trò của Nguyễn Công Phương ñối với phong trào cách mạng ở Nghĩa Hành và cả tỉnh Quảng Ngãi ngày càng nổi bật. Là một chí sĩ trong phong trào yêu nước Duy tân, Việt Nam Quang phục Hội, Nguyễn Công Phương trở thành ñảng viên cộng sản kiên trung. Năm 1930, tại Hội nghị Tỉnh ủy ở Nghĩa Lập (Mộ ðức), ông ñược cử làm Dự bị Bí thư Tỉnh ủy. Ông xây dựng lại cơ sở ðảng sau khi bị ñịch ñàn áp, ñánh phá và trở thành Bí thư Tỉnh ủy Quảng Ngãi thời kỳ 1935 - 1937. Trước Cách mạng tháng Tám 1945, Nguyễn Công Phương cùng với nhiều người khác ñược Tỉnh ủy giao cho việc xây dựng kế hoạch tổng khởi nghĩa ở Quảng Ngãi. Từ kháng chiến chống Pháp về sau, ông là cán bộ cao cấp trong hệ thống chính trị nước ta.

Trong kháng chiến chống Pháp xâm lược, Nghĩa Hành ñã dốc sức vào cuộc kháng chiến kiến quốc, trở thành thủ phủ của vùng tự do Liên khu V. Ở ñây có trụ sở Ủy ban Kháng chiến Hành chính miền Nam Trung Bộ, nơi ñồng chí Phạm Văn ðồng, ñại diện của ðảng và Chính phủ ở làm việc. Cụ Huỳnh Thúc Kháng cũng ñã sống, làm việc và mất ở ñây. Nghĩa Hành là nơi tập trung nhiều cơ quan của Liên khu V và của tỉnh, các ñơn vị quân ñội, các trường trung học nổi tiếng như trường Trung học Lê Khiết, trường Trung học Bình dân miền Nam Trung Bộ. Từ khi cuộc kháng chiến chuyển sang tổng phản công, Nghĩa Hành trở thành hậu phương chi viện nhiều sức người, sức của, góp phần ñắc lực vào cuộc kháng chiến ñ i ñến thắng lợi với chiến dịch Bắc Tây Nguyên giải phóng toàn tỉnh Kon Tum ñầu năm 1954.

Page 73: Các Huyện - Thành phố

Ñòa chí Quaûng Ngaõi Trang 73

Trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, Nghĩa Hành tiếp tục phát huy truyền thống cách mạng, kiên trì ñấu tranh giải phóng dân tộc. Tổ chức ðảng, Mặt trận ñược hình thành, các lực lượng vũ trang lần lượt ñược thành lập. Từ năm 1961, xã Hành Tín ñã ñược giải phóng. Các xã khác phía nam sông Vệ cũng lần lượt nổ i dậy ñánh ñịch, giải phóng quê hương. Năm 1965, xã Hành Thịnh ñược giải phóng. Cán bộ và nhân dân Nghĩa Hành ñã kiên cường chiến ñấu, góp phần ñánh thắng các chiến lược chiến tranh của ñịch. Tiêu biểu là các trận ñánh:

Ngày 20.1.1966 bộ ñội huyện và du kích ñịa phương ñã ñánh Mỹ ở Gò Tranh, diệt 40 lính viễn chinh, ñánh ñồn Cộng Hòa diệt một trung ñội của quân ñội Sài Gòn;

Ngày 23.2.1966, tiểu ñoàn 83 cùng quân dân xã Hành Thịnh ñánh trận càn lớn của ñịch, làm nên chiến thắng Hành Thịnh 1;

Ngày 11.5.1966, Quân Giải phóng ñánh bại 4 tiểu ñoàn quân ñội Sài Gòn, làm nên chiến thắng Hành Thịnh 2;

Trong tổng tiến công và nổ i dậy mùa Xuân 1968, ñêm 31.1.1968, lực lượng vũ trang huyện pháo kích vào quận lỵ, binh lính và nhân viên chế ñộ Sài Gòn hốt hoảng bỏ chạy, ñến 10 ngày sau ñịch mới dám trở lại;

Cuối năm 1974 ñầu năm 1975, bộ ñội chính quy và các lực lượng vũ trang Nghĩa Hành ñánh ñịch và thắng lớn ở ðình Cương, diệt 1.700 tên ñịch, hàng chục xe tăng.

Trong thế giằng co với ñịch suốt cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, ñồng bào, chiến sĩ Nghĩa Hành ñã chịu nhiều hy sinh mất mát. Quân ñịch gây ra nhiều vụ tàn sát dã man ở Nghĩa Hành, như các vụ tàn sát 40 người ở ðề An (Hành Phước), tàn sát 91 người ở ñịa ñạo Hiệp Phổ Nam, tàn sát 63 người ở Khánh Giang - Trường Lệ giữa tháng 4.1969, rải chất ñộc hóa học khai quang và bắn phá bừa bãi, giết người ở nhiều nơi trong huyện.

Từ sau năm 1975, Nghĩa Hành ra sức khắc phục hậu quả nặng nề của chiến tranh, phát triển sản xuất và chăm lo mọ i mặt ñời sống nhân dân, giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hộ i.

Với những thành tích trong kháng chiến, có 5 ñơn vị và 3 cá nhân của huyện Nghĩa Hành ñược phong tặng danh hiệu Anh hùng Lực lượng Vũ trang nhân dân.

5 ñơn vị gồm: các xã Hành Thịnh, Hành Tín, Hành Thiện, Hành Phước, Hành ðức và huyện Nghĩa Hành.

3 cá nhân gồm các ông: Nguyễn Văn ðược (nay là thượng tướng, Thứ trưởng Bộ Quốc phòng), Phạm Minh Tư (liệt sĩ), Nguyễn Kim Vang (liệt sĩ).

Page 74: Các Huyện - Thành phố

Ñòa chí Quaûng Ngaõi Trang 74

Tính ñến năm 2005, Nghĩa Hành có 141 bà mẹ ñược phong tặng danh hiệu Bà mẹ Việt Nam Anh hùng, có 2.272 liệt sĩ, 1.574 thương binh, 104 bệnh binh.

* * *

Kinh t ế Nghĩa Hành cơ bản là kinh tế nông nghiệp. ðến nay tính chất thuần nông còn rất ñậm, dù ñã có sự chuyển biến khá trên lĩnh vực tiểu thủ công nghiệp, thương mại và dịch vụ. Tính ở thời ñ iểm năm 2005, giá trị sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp (phần lớn là nông nghiệp) là 159.851 triệu ñồng (44,86%), công nghiệp - xây dựng là 117.550 triệu ñồng (32,99%), thương mại - dịch vụ 78.970 triệu ñồng (22,16%). Số dân sống bằng nghề nông là 90.658 người, số lao ñộng nông, lâm, thuỷ sản là 37.333 lao ñộng, chiếm phần lớn số dân và số lao ñộng trong huyện (hơn 9/10).

Về nông nghiệp: Thuở xưa ở ñịa hạt Nghĩa Hành người dân trồng chủ yếu cây lúa (lúa nước và lúa gieo), ngô (bắp), khoai lang, các loại ñậu, mía, dâu, trong vườn nhà thường trồng trầu, cau, ổi, mít, chuối... Ở dọc sông Vệ, sông Văn có những ñồng lúa tươi tốt. Sách Phủ biên tạp lục của Lê Quý ðôn viết từ thế kỷ XVIII chép: "Xã Phú Xuân thuộc huyện Bình Sơn và xã Phước Khương thuộc huyện Chương Nghĩa ñều ở gần sông, thuỷ thổ tốt, ruộng ñồng nhiều, cao và bằng phẳng. Mỗi xã có khoảng một nghìn mẫu ruộng, nên người ta gọ i hai xã ấy là "tiểu ðồng Nai""(4). ðịa danh Suố i Bùn thường chỉ cho thung lũng thuộc các xã Hành Tín, Hành Thiện ngày nay, nổi tiếng về ñất ñai tươi tốt nhờ phù sa sông Vệ. Người dân ở ñây cũng chú ý ñến việc chăn nuôi, chủ yếu là trâu, bò, heo, gà, vịt.

ðến trước Cách mạng tháng Tám 1945, ruộng các hạng ở Nghĩa Hành có 9.718,3 mẫu ta, thổ các hạng có 4.504,2 mẫu ta (gần bằng 1/3 tổng diện tích ruộng ñất), trong ñó chủ yếu là diện tích trồng lúa và trồng mía. Theo Quảng Ngãi tỉnh chí do Nguyễn Bá Trác và các tác giả biên soạn, ở thời ñiểm 1933 Nghĩa Hành có ñất trồng lúa 9.020 mẫu ta (bằng 3.247ha) thu hoạch ñược 4.822 tấn, ñất trồng mía 3.000 mẫu ta (xấp xỉ 1.000ha), cao chỉ sau huyện Tư Nghĩa (7.000 mẫu) và gấp nhiều lần so với các huyện khác. Ngoài ra, ở Nghĩa Hành có 750 mẫu ta trồng khoai, sắn, 400 mẫu trồng bắp, một số diện tích khác trồng ñậu, mè, dâu, bo bo. ðiều ñáng chú ý là do chế ñộ chiếm hữu ruộng ñất bất công và do kỹ thuật canh tác còn lạc hậu, năng suất thấp nên sản lượng chia bình quân ñầu người chỉ ñủ ăn trong 120 ngày, còn 245 ngày phải ăn khoai, sắn(5).

Trải qua thời kháng chiến chống Pháp ñến kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, nông nghiệp ở Nghĩa Hành có một số chuyển biến ñáng kể về kỹ thuật canh tác lẫn cây trồng, vật nuôi. Các giống lúa, mía, heo mới du nhập, việc canh tác ñã phần nào ñược cơ giới hóa. Sau năm 1975, trong ñiều kiện hòa bình, ruộng ñất ñược chia ñều cho nông dân và việc áp dụng khoa học kỹ thuật vào sản xuất, khai hoang mở rộng diện tích và công tác thuỷ lợi ñược ñẩy mạnh, sản xuất nông nghiệp ñã có những bước tiến rất dài so với trước, hằng năm ñều có sự tăng trưởng, ñảm bảo ñủ lương thực, thực phẩm dùng trong ñịa phương và bán ra thị trường. Các số liệu về

Page 75: Các Huyện - Thành phố

Ñòa chí Quaûng Ngaõi Trang 75

các cây trồng, vật nuôi chính ở Nghĩa Hành trong các năm gần ñây cho thấy rõ ñiều ñó.

Thống kê về một số cây trồng chính(6)

Năm

Cây trồng 2000 2005

Lúa

Diện tích 8.043ha 6.144ha

Năng suất 38,6 tạ/ha 58,6 tạ/ha

Sản lượng 31.036 tấn 35.983 tấn

Ngô

Diện tích 866ha 1.304,7

Năng suất 32,5 tạ/ha 62,1 tạ/ha

Sản lượng 2.815 tấn 8.100,7 tấn

Sắn

Diện tích 514ha 624ha

Năng suất 68,6 tạ/ha 177,1 tạ/ha

Sản lượng 3.524 tấn 11.040 tấn

Mía

Diện tích 931ha 769ha

Năng suất 549,9 tạ/ha 591,5 tạ/ha

Sản lượng 51.193 tấn 45.508 tấn

Thống kê về một số vật nuôi chính(7)

Vật nuôi

Năm Trâu Bò Lợn

2000 1.845 18.938 30.524 2005 2.128 18.029 57.706

Tổng sản lượng lương thực có hạt năm 2005 là 44.083 tấn, trong ñó ngô 8.100 tấn, chiếm khoảng 1/4. Sản lượng, năng suất, diện tích ngô của Nghĩa Hành ở mức cao trong tỉnh Quảng Ngãi. Năm 2005, sản lượng lương thực nhiều nhất là xã Hành Phước với 6.579 tấn, xã Hành Thịnh 4.815 tấn, xã Hành ðức 4.801 tấn, xã Hành Thiện 4.099 tấn. Bình quân lương thực ñầu người ở Nghĩa Hành năm 2000 là 362,3kg, năm 2004 là 426,5kg, năm 2005 là 441,9kg, thuộc hạng cao nhất trong tỉnh Quảng Ngãi (chỉ sau huyện Mộ ðức). Năm 2005, các xã có bình quân lương thực ñầu người cao nhất là Hành Thiện với 549kg, Hành Dũng với 528kg, Hành Thịnh với 518kg; trừ thị trấn Chợ Chùa dựa nhiều vào công, thương nghiệp - dịch vụ có bình quân thấp nhất (224kg), các xã khác ñều trên 400kg.

Page 76: Các Huyện - Thành phố

Ñòa chí Quaûng Ngaõi Trang 76

Trong tổng ñàn trâu năm 2005 là 2.128 con, xã Hành Thịnh có số lượng nhiều nhất với 461 con, kế ñó là các xã Hành ðức (238 con), Hành Tín Tây (212 con), Hành Minh (207 con). Trong tổng ñàn bò năm 2005 là 18.029 con , nhiều nhất ở xã Hành Nhân với 2.329 con, kế ñó là các xã Hành Phước với 2.088 con, Hành Tín ðông với 1.911 con, Hành Tín Tây 1.892 con, Hành Dũng 1.850 con, xã thấp nhất cũng có trên 900 con. Trong tổng ñàn lợn năm 2005 là 57.706 con, nhiều nhất là ở các xã Hành Phước với 7.520 con, Hành Thịnh với 7.130 con, Hành Trung 6.000 con, xã ít nhất có trên 2.200 con.

Ngoài các giống cây trồng vật nuôi trên, người nông dân Nghĩa Hành còn trồng các loại cây khoai lang, mì, ñậu tương, tiêu, ñiều với diện tích xê dịch từ vài chục ñến hàng trăm hécta. ðặc biệt, Nghĩa Hành là một trong 3 huyện còn giữ nghề trồng dâu nuôi tằm với diện tích trồng dâu năm 2005 là 97ha (toàn tỉnh 137ha) với năng suất 198 tạ/ha và sản lượng 1.913 tấn. Các chỉ số trên tuy chỉ bằng khoảng 3/5 so với năm dâu tằm thịnh ñạt nhất của huyện (năm 2002), nhưng vẫn cao tuyệt ñối trong tỉnh Quảng Ngãi. Cây bông vải cũng ñược phục hồi nhưng có vẻ như chưa ổn ñịnh về diện tích (năm 2004 là 93,5ha, năm 2005 chỉ còn 38,70ha với sản lượng 88,9 tấn). Cây lạc cũng chiếm diện tích ñáng kể, năm 2005 có 444,4ha với sản lượng 1.013,2 tấn; rau các loại có 630,8ha với sản lượng 7.491,3 tấn, ñậu các loại có 516,7ha với sản lượng 1.156,8 tấn. Các loại vật nuôi còn có gia cầm (gà, vịt) nuôi khá phổ biến, một số hộ nông dân còn nuôi dê, nuôi cá... Trong thuỷ sản thì người dân ở ñây chỉ ñánh bắt cá trên sông suối, không ñáng kể.

Nghề nông ở Nghĩa Hành có bước chuyển dịch dần sang hướng sản xuất hàng hóa, nâng cao sản lượng lẫn giá trị sản phẩm.

Trong sản xuất nông nghiệp, ở ñịa hạt Nghĩa Hành nổ i bật có việc làm thuỷ lợi ñể phục vụ tưới tiêu. Từ hàng trăm năm trước, ở Nghĩa Hành ñã có các ñập ðồng Thắt, Bến Thóc, Bầu Sấu, Gò Mả, Cây Gáo, Xã Dện, Hố ðá... tưới nước, kênh La Băng tiêu nước. Trên sông Vệ, người dân Nghĩa Hành dựng ñặt xe nước ñể ñưa nước lên ñồng. ðể ñưa nước vào ruộng ở những nơi không có nguồn tự chảy, người nông dân dùng phổ biến gàu sòng, xe ñạp nước. ðến những năm chiến tranh, ở Nghĩa Hành ñã du nhập các loại máy bơm nước chạy bằng than, bằng xăng dầu. Tuy nhiên, với những công trình, phương tiện như kể trên, việc tưới tiêu nước phục vụ sản xuất xưa cũng còn nhiều hạn chế, vẫn còn một phần khá lớn diện tích canh tác không ñược tưới nước, chỉ trông chờ vào nước trời. Từ sau năm 1975, các công trình, phương tiện tưới tiêu cổ truyền tiếp tục ñược sử dụng, một số công trình thuỷ lợi nhỏ ñược xây dựng. Năm 1996, nước Thạch Nham ñược ñưa về và ñã tưới ñược hơn 5.500ha, chiếm khoảng 2/3 diện tích trồng trọt trong huyện. Cho ñến nay, nước Thạch Nham và các công trình, phương tiện thuỷ lợi khác ñã giải quyết tưới nước ở hầu hết các ñồng ruộng trên ñịa hạt Nghĩa Hành.

Về lâm nghiệp: Xưa kia trên ñịa bàn Nghĩa Hành diện tích rừng tự nhiên tương ñối lớn. Phía nam huyện có núi Lớn, với một phần thuộc ñịa hạt Nghĩa Hành. Núi Lớn có nhiều gỗ quý như lim, kiền kiền, giổi, gió, trắc, chò, sinh, sơn, trầm

Page 77: Các Huyện - Thành phố

Ñòa chí Quaûng Ngaõi Trang 77

hương… ðặc biệt, rừng ở ñây có nhiều cây dầu rái thường dùng ñể trét thúng, mủng. Người dân Nghĩa Hành xưa kia thường ñi rừng lấy gỗ về làm nhà, ñóng bàn ghế, giường, phản. Một số người lên rừng cắt tranh, lấy củi, ñốt than. Riêng diện tích rừng của núi Lớn có khoảng 3.599ha, trong ñó thuộc ñịa phận Nghĩa Hành có khoảng 800ha nằm ở phía tây các tổng Hành Cận, Hành Trung, theo Nghị ñịnh năm 1924 ñược ñặt làm rừng cấm. Tuy nhiên, do mưu sinh, người dân quanh vùng vẫn thường khai thác, ñốt than, ñốn củi, lấy dầu rái. Người ñi rừng còn vào rừng tìm nam sâm, phục linh, khoai mài, mật ong, ngà voi, gạc nai... ñể làm thuốc(8).

Trải qua 30 năm chiến tranh, lính Mỹ và quân ñội Sài Gòn nhiều lần rải chất ñộc hóa học, bắn pháo, ném bom bừa bãi, cộng với sự khai thác thiếu kế hoạch của con người, rừng ở Nghĩa Hành ñã dần dần cạn kiệt. Lâm nghiệp ngày nay ở Nghĩa Hành ñặt nặng vào nhiệm vụ trồng và chăm sóc rừng, ngăn chặn lâm tặc tàn phá. Các rừng trồng ñến ñộ tuổi ñược khai thác phục vụ cho sản xuất và ñời sống. Theo thống kê ở thời ñiểm 2003, Nghĩa Hành chăm sóc và tái sinh 2.200ha rừng, năm 2004 là 1.950ha, năm 2005 là 1.761ha; sản lượng khai thác gỗ năm 2003 là 2.400m3, năm 2004 là 2.480m3, năm 2005 là 2.534m3. Rừng trồng tập trung ở Nghĩa Hành năm 2003 có 450ha, năm 2004 có 480ha, năm 2005 có 510ha, chủ yếu là các giống bạch ñàn, ñiều, keo lai(9)... Các giống cây trồng vật nuôi mới ñược ñưa về áp dụng vào sản xuất mô hình kinh tế trang trại hình thành và phát triển, năm 2005 có 47 trang trại, trong ñó có 34 trang trại lâm nghiệp, 5 trang trại trồng cây lâu năm, 4 trạng trại chăn nuôi. Tổng giá trị sản xuất nông, lâm, thuỷ sản ở Nghĩa Hành năm 2005 là 230.837 triệu ñồng (theo giá hiện hành), trong ñó phần lớn là trồng trọt (153.597 triệu ñồng), chăn nuôi (73.105 triệu ñồng), các dịch vụ nông nghiệp (4.135 triệu ñồng). Nghĩa Hành chủ yếu phát triển nông nghiệp, trong ñó giá trị sản xuất trong chăn nuôi chiếm gần 1/2 so với trồng trọt.

Về công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp: ðịa hạt Nghĩa Hành xưa có một số nghề tiểu thủ công nghiệp, tuy không thật nổ i bật nhưng gắn liền với ñời sống của người dân ñịa phương từ lâu ñời. ðó là các nghề làm ñường muỗng phổ biến ở nhiều nơi trong huyện, nghề làm thợ mộc, thợ nhuộm, thợ rèn ở các chợ Phú Vang, Tam Bảo. Các nghề ấy có từ thời phong kiến tự chủ, tiếp tục tồn tại trong thời Pháp thuộc. ðến trước Cách mạng tháng Tám 1945, Nghĩa Hành có gần 1.000ha mía với năng suất bình quân 18 tấn/ha, là nguồn nguyên liệu lớn cho chòi nấu ñường ñược dựng lên ở khắp các ñồng mía. Nghề trồng dâu nuôi tằm phát triển ở các làng Vạn Xuân, Hiệp Phổ, Hòa Vinh Tây, Mỹ Hưng... là những nơi có ñất bồi ven sông. Nghề dệt vải phát triển ở Kim Thành, Bình Thành,... Các nghề mộc, rèn, nhuộm, ñan phổ biến ở các xã và các chợ. Trải qua thời gian, các nghề tiểu thủ công phần nào có mai một trong ñiều kiện hàng hóa công nghiệp phát triển. Một số người vẫn duy trì nghề nuôi tằm, bán kén ñi các tỉnh khác. Nghề mộc, rèn, hồ chủ yếu tồn tại dưới dạng làm nhân công cho chủ thầu. Nghề chế biến thực phẩm như làm bún, làm bánh tráng, các loại bánh kẹo phổ biến ở nhiều làng quê. Theo thống kê, năm 2005 Nghĩa Hành có 1.045 cơ sở sản xuất công nghiệp cá thể với 2.308 lao ñộng, ngày càng tăng về số lượng, nhưng ñó chỉ là những cơ sở nhỏ bé. Giá trị sản xuất công

Page 78: Các Huyện - Thành phố

Ñòa chí Quaûng Ngaõi Trang 78

nghiệp (gồm cả xây dựng) năm 2005 là 112.666 triệu ñồng. Sau ñây là thống kê một số sản phẩm công nghiệp chủ yếu ở Nghĩa Hành năm 2005(10).

TT Sản phẩm Số lượng

1 ðá xây dựng 16.000 m3 2 Xay xát 29.000 tấn 3 Quần áo 81.000 chiếc 4 Dày, dép da 16.000 ñôi 5 Gạch nung 15.500.000 viên 6 Bánh tráng 750 tấn 7 Rượu trắng 265.000 lít 8 Giường gỗ 700 bộ 9 Ghế gỗ 2.750 chiếc 10 Bàn gỗ 670 chiếc

11 Salông 85 bộ

Tổng vốn ñầu tư và xây dựng năm 2005 là 52.989 triệu ñồng, trong ñó có 21.940 triệu ñồng nguồn vốn từ trung ương và của tỉnh(11).

Về thương mại và dịch vụ: Do vị trí ñịa lý, Nghĩa Hành xưa nay không phải là một trung tâm buôn bán trong tỉnh Quảng Ngãi. Thuở xưa, việc buôn bán nhỏ lẻ diễn ra phổ biến ở các chợ quê, chủ yếu ñể thoả mãn nhu cầu hằng ngày của người dân, mang ñậm tính chất tự túc tự cấp của nền kinh tế. Tuy vậy, ở phía tây huyện có chợ phiên Tam Bảo, là nơi tập trung trao ñổi, mua bán hàng hóa giữa người Kinh và người Thượng từ nhiều vùng trong và ngoài huyện. Cho ñến trước Cách mạng tháng Tám 1945, trên ñịa hạt Nghĩa Hành có 10 chợ, trong ñó chợ Phú Vang (quen gọi là Chợ Chùa) và chợ Tam Bảo là lớn nhất. Thương mại - dịch vụ ở Nghĩa Hành ngày nay có chiều hướng phát triển ña dạng, năng ñộng hơn trước rất nhiều. Thống kê cho thấy ở thời ñ iểm năm 2005 có 2.203 cơ sở kinh doanh thương mại - dịch vụ cá thể với 2.495 lao ñộng, tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ là 76.216 triệu ñồng(12).

Cũng như trong kinh tế, do vị trí ñịa lý mà cơ sở hạ tầng ở Nghĩa Hành vẫn yếu kém và thường phát triển chậm so với các huyện ñồng bằng khác. Ngoài ra, do nhiều lần dịch chuyển huyện lỵ nên việc xây dựng cơ sở hạ tầng cũng chưa ñược tập trung, có phần chậm so với các huyện khác trong tỉnh.

Về ñường sá, cầu cống: Xưa kia, ñường sá trong huyện, kể cả ñường từ tỉnh lỵ Quảng Ngãi ñến huyện lỵ Nghĩa Hành ñều là ñường ñất. Các cầu hầu như chưa ñược xây dựng, gây nhiều khó khăn cho việc ñi lại, nhất là giữa hai vùng bắc và nam sông Vệ. Nối bắc và nam sông Vệ chỉ bằng ñò ngang với các bến ñò Nhơn Lộc, Phú Lâm, An Chỉ, ðề An. Bên cạnh ñò ngang, ñường bộ, thì ñò dọc theo ñường thuỷ trên sông Vệ cũng khá quan trọng ñối với giao lưu, buôn bán lên nguồn xuống biển. Cho ñến trước Cách mạng tháng Tám 1945, tỉnh lộ 627 từ tỉnh lỵ Quảng Ngãi ñ i Minh Long dài 30km, băng qua huyện lỵ Nghĩa Hành, chỉ mới

Page 79: Các Huyện - Thành phố

Ñòa chí Quaûng Ngaõi Trang 79

có 11km trải nhựa. ðường từ Cây Bứa (Quốc lộ 1) ñi Phú Vinh chỉ mới trải ñá. Năm 1935, ñường sắt ñược xây dựng, ñoạn qua Nghĩa Hành ngắn ngủi, chỉ có 1 ga xép là ga Hòa Vinh. Một ít cầu tre gỗ ñược bắc qua các suối, sông nhỏ. Trên tỉnh lộ chỉ xây 2 cầu chìm ñến huyện lỵ, là cầu Bến ðá và cầu Xóm Xiếc, khá nguy hiểm và thường bị ách tắc về mùa mưa. Riêng việc ñi lại qua sông Vệ vẫn phải dùng ñò. Về sau, cầu Cộng Hòa ñược xây dựng nố i hai bờ nam - bắc sông Vệ, sau bị sập. Trải hai cuộc kháng chiến, hệ thống ñường sá ở Nghĩa Hành vốn ñã yếu kém còn bị tàn phá nặng. Từ sau 1975, hệ thống ñường sá, cầu cống mới ñược dần dần khôi phục, xây dựng.

Hệ thống ñường sá, cầu cống ở Nghĩa Hành ngày nay gồm các công trình chính như sau:

Tỉnh lộ 627 xuất phát từ tỉnh lỵ Quảng Ngãi ñến huyện lỵ Nghĩa Hành 9km, ñến huyện lỵ Minh Long 30km ñã ñược trải nhựa;

Tỉnh lộ Cây Bứa - Chợ Chùa dài 8km, ñã trải nhựa;

Tỉnh lộ 135 từ ðồng Cát trên Quốc lộ 1 trực chỉ hướng tây qua các xã thuộc huyện Mộ ðức, qua ñèo Lộc Lãnh nối với Nghĩa Hành ở Nhơn Lộc (Hành Tín ðông), ñã trải nhựa;

Tuyến ñường xuất phát từ Quán Lát (huyện Mộ ðức) tuyến ñường Quốc lộ 1, chạy dọc các xã Hành Thịnh, Hành Thiện, nối với tuyến Nghĩa Hành - Ba Tơ ở phía nam cầu Cộng Hòa, ñã trải nhựa;

Tuyến ñường từ Hành Thiện (cầu Cộng Hòa) dọc bờ nam sông Vệ, qua xã Hành Tín ðông nối với Quốc Lộ 24 tại km 15, ñã trải nhựa. ðến năm 2005, phần ñường ñã tráng nhựa trên ñịa hạt Nghĩa Hành tổng cộng 90km. Các ñường liên xã ñược bêtông hóa tổng cộng 90km. Các ñường vào thôn xóm ñều ñược nâng cấp, mở rộng.

Các cầu trên trục lộ 627: cầu Xóm Xiếc, cầu Bến ðá, cầu Ngắn, cầu Dài ñều ñã ñược xây dựng bêtông. Từ khi kênh chính Nam Thạch Nham hoàn thành (1996), xiphông sông Vệ ñược xây dựng và tận dụng nố i hai bờ sông Vệ, việc ñi lại giữa nam và bắc huyện trở nên thuận tiện hơn nhiều. ðặc biệt cầu Cộng Hòa bị sập trong chiến tranh ñã ñược xây dựng lại và ñưa vào sử dụng từ tháng 9.2004, dài 263m, rộng 9m, gồm 11 nhịp. Cầu này mở thông ñường 627 với trục lộ nối liền với Quốc lộ 24. Các cầu qua các sông suối khác hầu hết ñã ñược xây dựng bằng bêtông.

ðiện: ðiện chỉ thực sự xuất hiện ở Nghĩa Hành từ năm 1976, sau ñó dần dần lan toả ñến hầu hết các ñịa bàn trong huyện, phục vụ ñắc lực cho sản xuất và sinh hoạt.

Thông tin liên lạc: Xưa kia, ñịa bàn Nghĩa Hành không nằm trên trục ñường Thiên Lý và không có dã trạm vận chuyển công văn. Thời Pháp thuộc, dã trạm mở

Page 80: Các Huyện - Thành phố

Ñòa chí Quaûng Ngaõi Trang 80

rộng ñến huyện, chuyển công văn thư từ từ tỉnh ñến huyện và ñến châu Minh Long. Thời kháng chiến chống Pháp, ñiện thoại có sự kết nối từ tỉnh ñến huyện. Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ có ban giao bưu huyện. Từ 1975 ñến 1978, lực lượng giao liên tiếp tục phục vụ thông tin liên lạc trong huyện. Năm 1978, bưu ñiện huyện ñược thiết lập. ðường dây ñ iện thoại kéo về các xã. ðến nay có bưu cục trung tâm ñóng ở thị trấn huyện lỵ, 11 xã khác trong huyện ñều có bưu ñiện văn hóa xã. Thời ñiểm 2005, có 2 tổng ñài ñ iện thoại với dung lượng 6.000 số. Số máy ñiện thoại cố ñịnh trên mạng cuối 2005 có 4.732 máy và 161 máy ñiện thoại di ñộng.

Các cơ sở hạ tầng khác như trường học, trạm y tế ñã xây dựng khá tốt, có tác ñộng sâu sắc ñến ñời sống vật chất và tinh thần của nhân dân.

Nghĩa Hành xác ñịnh phương hướng phát triển kinh tế trong tương lai là: ra sức cơ cấu lại nền kinh tế theo hướng phát triển nông nghiệp toàn diện, tăng dần tỷ trọng công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp - xây dựng và thương mại - dịch vụ, nhằm tạo ñiều kiện cho nền kinh tế phát triển ổn ñịnh, bảo ñảm chất lượng theo hướng công nghiệp hóa - hiện ñại hóa nông nghiệp, nông thôn.

Trong nông nghiệp ñáng chú ý có việc ñẩy mạnh chăn nuôi, kết hợp nông - lâm nghiệp, mở rộng phát triển trang trại, vườn rừng, xây dựng mô hình vườn - ao - chuồng.

Trong công nghiệp, Nghĩa Hành ñang xúc tiến xây dựng cụm công nghiệp làng nghề ðồng Dinh với diện tích 50ha theo hướng cụm công nghiệp tổng hợp, ña nghề, nhằm tận dụng nguyên vật liệu và nhân công tại chỗ. Cụm công nghiệp này sẽ là một bước ñột phá, thúc ñẩy công - thương nghiệp phát triển với tỉ lệ cao trong cơ cấu kinh tế của huyện.

* * *

Trong các di sản văn hóa ở Nghĩa Hành, di sản văn hóa Việt ñáng chú ý và nổi bật nhất là văn hóa làng xã với tình làng nghĩa xóm bền chặt từ lâu ñời. Nghĩa Hành có di tích kiến trúc ñình làng An ðịnh (xã Hành Dũng) ñã ñược xếp hạng di tích, ñược coi là ñình làng ñẹp ở Quảng Ngãi còn bảo tồn ñược ñến ngày nay. Các cuộc kháng chiến anh dũng ở Nghĩa Hành cũng ñể lại những di tích quý giá như di tích trụ sở Ủy ban Kháng chiến Hành chính Nam Trung Bộ, di tích Trường Trung học Bình dân miền Nam Trung Bộ, di tích chiến thắng ðình Cương (ñã ñược xếp hạng di tích); di tích chiến thắng Hành Thịnh... Ngoài ra, Nghĩa Hành còn có khu chứng tích tội ác ở Khánh Giang - Trường Lệ, nơi quân viễn chinh Mỹ tàn sát 63 thường dân năm 1969.

Trải qua các cuộc kháng chiến, người dân Nghĩa Hành bảo lưu nếp sống và sinh hoạt cổ truyền tốt ñẹp của dân tộc. Từ 1945, nhân dân ñã dần dần loại trừ các hủ tục trong ñời sống, xây dựng nếp sống mới văn minh, hiện ñại. Từ năm 1975 ñến

Page 81: Các Huyện - Thành phố

Ñòa chí Quaûng Ngaõi Trang 81

nay, việc xây dựng nếp sống văn minh tiếp tục ñược chú trọng ñẩy mạnh. Các di tích lịch sử - văn hóa ñược bảo tồn, tôn tạo và phát huy. ðình làng An ðịnh ñược lập hồ sơ xếp hạng di tích. Trụ sở Ủy ban Kháng chiến Hành chính miền Nam Trung Bộ ñược phục dựng, tôn tạo. Di tích chiến thắng ðình Cương, khu chứng tích tội ác ở Khánh Giang - Trường Lệ ñã ñược xây dựng tượng ñài. Phong trào văn nghệ, thể thao quần chúng phát triển rộng rãi, ñều khắp và khá nổ i bật. Về thông tin tuyên truyền, ở huyện có ñài truyền thanh huyện, ở các xã có ñài truyền thanh xã. Ở huyện có thư viện huyện. Tuy vậy, nhìn chung các thiết chế văn hóa ở Nghĩa Hành vẫn còn thiếu và yếu. Huyện chưa có nhà văn hóa huyện, ở hầu hết các xã cũng chưa có nhà văn hóa, do chưa ñược ñầu tư xây dựng.

Trên lĩnh vực giáo dục, thời kỳ Nho học, chủ yếu là lớp học tại gia và số người ñỗ ñạt không nhiều bằng các huyện ñồng bằng khác trong tỉnh. Trong số những nhà khoa bảng quê ở Nghĩa Hành, người có học vị cao nhất là Phó bảng Võ Duy Thành. Những người nổ i tiếng trong hoạt ñộng cứu nước có các Cử nhân Võ Duy Ninh, Lê Tựu Khiết, Lê ðình Cẩn. Thời Tân học (trước Cách mạng tháng Tám 1945) ở ñịa hạt Nghĩa Hành có bậc Sơ học bản xứ với 1 trường Sơ ñẳng Tiểu học tại huyện lỵ với 3 lớp, 4 giáo viên, 72 học sinh; 3 trường Dự bị rải rác ở các tổng trong huyện với 10 lớp, 10 giáo viên, 224 học sinh(13). Hầu hết nhân dân trong huyện mù chữ.

Sau Cách mạng tháng Tám 1945, công tác xoá mù chữ, bình dân học vụ ñược ñặt lên hàng ñầu và ñã giải quyết tốt tình trạng mù chữ. Các xã trong huyện ñều có trường Tiểu học. ðến năm 1951, ở huyện có trường cấp II. ðặc biệt, trên ñịa bàn huyện có 2 trường Trung học lớn của Liên khu V là Trường Trung học Lê Khiết và Trường Trung học Bình dân miền Nam Trung Bộ, nơi ươm mầm nhiều trí thức cách mạng cho ñất nước. Các nhà giáo quê ở Nghĩa Hành như các ông Nguyễn Vỹ, Tú Tiên ñóng vai trò quan trọng ở các trường này. ðến thời kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, ở vùng giải phóng, cách mạng có mở các lớp Tiểu học dành cho trẻ em và các lớp Bổ túc văn hóa dành cho người lớn. Ở vùng tạm chiếm do chính quyền Sài Gòn kiểm soát, việc dạy học cũng có sự phát triển nhất ñịnh. Ở xã có trường Tiểu học. Ở quận lỵ có trường Trung học.

Từ sau 1975, hệ thống giáo dục ở Nghĩa Hành phát triển khá hoàn chỉnh. Trên ñịa bàn huyện có 2 trường Trung học phổ thông, ở các xã ñều có trường Trung học cơ sở, các trường Tiểu học. Theo số liệu thống kê năm 2005, số lượng trường lớp, giáo viên và học sinh trong toàn huyện như sau(14):

TT

Cấp học Số trường Số lượng

lớp Số giáo viên Số học sinh

1 Mẫu giáo 12 99 105 2.572

2 Tiểu học 17 283 316 8.407

3 Trung học cơ sở 12 214 362 8.034

4 Trung học phổ thông 2 75 149 3.506

Page 82: Các Huyện - Thành phố

Ñòa chí Quaûng Ngaõi Trang 82

Nhiều người Nghĩa Hành trở thành những trí thức ñáng chú ý của ñất nước như các Giáo sư Tô Duy Hợp, Cao Văn Sung, Nguyễn Tấn Cừ, các nhà giáo Trần Văn Thận, Nguyễn Văn Giai...

Về y tế và chăm sóc sức khoẻ, thời xưa ở Nghĩa Hành chủ yếu chữa bệnh theo các bài thuốc cổ truyền và kinh nghiệm dân gian, ðông y. Tây y mới manh nha ñầu thế kỷ XX. Ngày nay, ở huyện có một trung tâm y tế huyện với 70 giường bệnh, 17 bác sĩ, y sĩ, có ñội vệ sinh phòng dịch. Ở xã, thị trấn có trạm y tế. Tổng số cán bộ y tế trong huyện có 123 người, trong ñó có 17 bác sĩ, 3 dược tá(15).

Về xã hội, vấn ñề xã hộ i lớn nhất là tình trạng thiếu việc làm. Có hàng nghìn nam nữ thanh niên nông dân còn thiếu việc làm, phần lớn phải tìm việc làm ở các tỉnh phía nam. Người dân cũng thường thiếu việc làm trong lúc nông nhàn. Tình trạng nghèo ñói về cơ bản ñã giảm nhiều, tuy nhiên vẫn còn khoảng 9,18% hộ nghèo (năm 2004); năm 2005, số hộ nghèo theo chuẩn mới là 6.319 hộ, chiếm 29,42% tổng số hộ. ðể giải quyết tình trạng này, nhiều biện pháp ñã và sẽ ñược tiếp tục thực hiện như trợ giúp xây dựng nhà tình nghĩa, nhà ñại ñoàn kết (ñến năm 2005 ñã xây dựng ñược 67 nhà tình nghĩa, 118 nhà ñại ñoàn kết), mở làng nghề, mở rộng sản xuất tiểu thủ công nghiệp, cho vay vốn, trợ cấp... Một số tệ nạn xã hội ở Nghĩa Hành có xảy ra, nhưng ở mức ñộ thấp.

(1) Theo Niên giám thống kê tỉnh Quảng Ngãi 2005.

(2) Nguồn: Niên giám thống kê huyện Nghĩa Hành.

(3) Về các nhân vật Võ Duy Ninh, Lê ðình Cẩn, Lê Tựu Khiết, Nguyễn Công Phương xem thêm Chương XI: Các nhân vật l ịch sử tiêu biểu.

(4) Lê Quý ðôn: Phủ biên tạp lục, tập II, bản dịch của Lê Xuân Giáo, Phủ Quốc vụ khanh ñặc trách văn hóa Sài Gòn xuất bản, 1972, tr. 208.

(5) Các số liệu trên ñều lấy từ Nguyễn Bá Trác và các tác giả: Quảng Ngãi tỉnh chí, Nam phong tạp chí, 1933. Bản ñánh máy lưu tại Thư viện Tổng hợp tỉnh Quảng Ngãi.

(6) Nguồn: Niên giám thống kê tỉnh Quảng Ngãi.

(7) Nguồn: Niên giám thống kê tỉnh Quảng Ngãi.

(8) Nguyễn Bá Trác và các tác giả: Quảng Ngãi tỉnh chí, sñd.

(9) Theo Niên giám thống kê huyện Nghĩa Hành 2004.

(10) Nguồn: Niên giám thống kê huyện Nghĩa Hành 2005.

(11) Theo Niên giám thống kê huyện Nghĩa Hành 2005.

(12) Theo Niên giám Thống kê tỉnh Quảng Ngãi 2005, tr. 76, 77.

Page 83: Các Huyện - Thành phố

Ñòa chí Quaûng Ngaõi Trang 83

(13) Theo Nguyễn Bá Trác và các tác giả: Quảng Ngãi tỉnh chí, sñd.

(14) Nguồn: Niên giám Thống kê tỉnh Quảng Ngãi.

(15) Theo Niên giám thống kê tỉnh Quảng Ngãi, sñd, tr. 87.

Page 84: Các Huyện - Thành phố

Ñòa chí Quaûng Ngaõi Trang 84

HUYỆN MỘ ðỨC

MỘ ðỨC là huyện ñồng bằng nằm ven biển ở phía nam tỉnh Quảng Ngãi. Phía bắc giáp các huyện Tư Nghĩa và Nghĩa Hành; phía nam giáp huyện ðức Phổ; phía tây giáp huyện Nghĩa Hành; phía ñông giáp biển ðông. Hình thể huyện tựa như một hình tam giác, nhọn hẹp ở phía bắc, phình rộng ở phía nam. Diện tích: 212,23km2. Dân số: 144.668 người (năm 2005). Mật ñộ dân số: 682 người/km2(1). ðơn vị hành chính trực thuộc gồm 12 xã (ðức Nhuận, ðức Lợi, ðức Thắng, ðức Hiệp, ðức Hòa, ðức Chánh, ðức Thạnh, ðức Minh, ðức Tân, ðức Phú, ðức Phong, ðức Lân), 1 thị trấn (Mộ ðức, huyện lị), với 69 thôn, tổ dân phố; trong ñó:

Thị trấn Mộ ðức có 3 tổ dân phố, tên gọi theo thứ tự từ tổ 1 ñến tổ 3;

Xã ðức Nhuận có 8 thôn, tên gọ i theo thứ tự từ thôn 1 ñến thôn 8 (trước năm 2003 có 2 thôn: Bồ ðề, Năng An);

Xã ðức Lợi có 4 thôn: An Mô, An Chuẩn, Kỳ Tân, Vĩnh Phú;

Xã ðức Thắng có 7 thôn: Dương Quang, Gia Hòa, Tân ðịnh, An Tĩnh, Thanh Long, Mỹ Khánh, ðại Thạnh;

Xã ðức Chánh có 6 thôn, tên gọi theo thứ tự từ thôn 1 ñến thôn 6 (trước kia là các thôn Văn Bân, An Phong, Kiến Khương, Hoài An);

Xã ðức Hiệp có 5 thôn: An Long, Nghĩa Lập, Phú An, Phước Sơn, Chú Tượng;

Xã ðức Minh có 4 thôn: Minh Tân Bắc, Minh Tân Nam, ðạm Thuỷ Bắc, ðạm Thuỷ Nam;

Xã ðức Thạnh có 4 thôn: Phước Thịnh, Lương Nông Bắc, Lương Nông Nam, ðôn Lương (xưa là làng Thi Phổ Nhì);

Xã ðức Tân có 5 thôn, tên gọi theo thứ tự từ thôn 1 ñến thôn 5 (xưa là làng Thi Phổ Nhất);

Xã ðức Hòa có 9 thôn: Phước An, Phước Luông, Phước Hiệp, Phước ðiền, Phước Mỹ, Phước Toàn, Phước Xã, Phước Chánh, Phước Tây (xưa là 6 xã Vạn Phước);

Xã ðứcPhú có 5 thôn: Phước Vĩnh, Phước Thuận, Phước ðức, Phước Hòa, Phước Lộc (xưa là các thôn Vĩnh Trường, Vạn Lộc);

Xã ðức Phong có 5 thôn: Văn Hà, Thạch Than, Lâm Thượng, Lâm Hạ, Châu Me;

Page 85: Các Huyện - Thành phố

Ñòa chí Quaûng Ngaõi Trang 85

Xã ðức Lân có 4 thôn: Tú Sơn 1, Tú Sơn 2, Thạch Trụ ðông, Thạch Trụ Tây (xưa là hai làng Tú Sơn, Thạch Trụ); huyện lỵ Mộ ðức có thời từng ñóng ở Thạch Trụ.

Mộ ðức là huyện ñồng bằng trọng ñiểm lúa của tỉnh Quảng Ngãi. Có Quốc lộ 1, Quốc lộ 24 và ñường sắt Thống Nhất chạy qua. Nghề chính xưa nay vẫn là nghề nông, công thương nghiệp truyền thống có một số làng nghề ñáng chú ý và ngày nay ñang ñược ñẩy mạnh. Mộ ðức là quê hương của nhà chính trị, nhà văn hóa lớn Phạm Văn ðồng.

* * *

Về hành chính: ðời nhà Hồ, Mộ ðức có tên là huyện Khê Cẩm thuộc châu Nghĩa, một trong bốn châu của lộ Thăng Hoa (tức Quảng Nam, Quảng Ngãi ngày nay). ðời Lê, Mộ ðức có tên là huyện Mộ Hoa bao gồm rẻo ñất từ nam sông Vệ ñến hết ñèo Bình ðê (giáp giới với tỉnh Bình ðịnh ngày nay). ðời Lê, huyện Mộ Hoa có 53 xã, thôn. ðến ñời Nguyễn, năm Thiệu Trị thứ nhất (1841), vì kỵ huý, huyện Mộ Hoa phải ñổi lại là Mộ ðức, tuy ñịa giới vẫn như trước, nhưng có ñến 6 tổng với 175 xã thôn. Sáu tổng ở Mộ ðức là Quy ðức, Cảm ðức, Triêm ðức, Ca ðức, Lại ðức, Tri ðức. Từ cuối thế kỷ XIX (dưới thời Pháp thuộc), các tổng, xã phía nam tách lập châu rồi huyện ðức Phổ, các xã phía bắc - tây bắc nhập vào huyện Nghĩa Hành. Năm 1932, huyện Mộ ðức ñổi là phủ Mộ ðức. Sau Cách mạng tháng Tám 1945, huyện Mộ ðức mang tên là huyện Nguyễn Bá Loan (tên một chí sĩ yêu nước trong phong trào Cần vương, Duy tân), sau ñó lấy lại tên cũ, các tổng ñược bãi bỏ, các xã cũ hợp lại thành xã mới lớn hơn và trực thuộc huyện. Sau nhiều lần ñiều chỉnh, huyện Mộ ðức ñã ổn ñịnh với 11 xã là các xã ðức Nhuận, ðức Thắng, ðức Chánh, ðức Hiệp, ðức Minh, ðức Thạnh, ðức Tân, ðức Hòa, ðức Phú, ðức Phong, ðức Lân.

Trong thời kỳ chính quyền Sài Gòn kiểm soát, huyện Mộ ðức ñổi tên là quận Mộ ðức, kể từ giữa 1958 tên các xã ñổi lại, với tổng số 12 xã: xã ðức Nhuận ñổi là xã ðức Quang; xã ðức Hải tách lập từ một phần xã ðức Thắng; xã ðức Thắng ñổi là xã ðức Phụng; xã ðức Chánh ñổi là xã ðức Hoài; xã ðức Hiệp ñổi là xã ðức Thọ; xã ðức Minh ñổi là xã ðức Lương; xã ðức Thạnh ñổi là xã ðức Phước; xã ðức Tân ñổi là xã ðức Vinh; xã ðức Hòa ñổi là xã ðức Thạch; xã ðức Phú ñổi là xã ðức Sơn; xã ðức Phong ñổi là xã ðức Thuận; xã ðức Lân ñổi là xã ðức Mỹ.

Phía Mặt trận Dân tộc Giải phóng vẫn gọi theo tên xã có từ thời kháng chiến chống Pháp. Riêng xã ðức Hải do chính quyền Sài Gòn thành lập, từ ngày 11.3.1966, ñặt tên là xã ðức Lợi.

Sau năm 1975, huyện Mộ ðức vẫn có 12 xã như trên. Năm 1987, một phần xã ðức Tân tách lập thị trấn ðồng Cát, ñến năm 1992 ñổi là thị trấn Mộ ðức. Huyện Mộ ðức từ ñó có 13 xã, thị trấn (như ñã kể ở phần trên).

Page 86: Các Huyện - Thành phố

Ñòa chí Quaûng Ngaõi Trang 86

Về tự nhiên, huyện Mộ ðức là dải ñồng bằng ven biển, có núi cao ở phía tây như núi Lớn (ðại Sơn), núi Giàng, có các ñồi sót ở rải rác trong huyện như núi Long Phụng, núi ð iệp, núi Vom, núi Văn Bân, núi Ông ðọ, núi Thụ, núi Long Hồi. Chạy dọc ở phía bắc có sông Vệ (làm ranh giới với huyện Tư Nghĩa), từ sông Vệ có có chi lưu là sông Thoa chảy theo hướng ñông nam, qua vùng trung tâm huyện. Từ tây sang ñông, Mộ ðức có 4 kiểu ñịa hình, lần lượt là: vùng cao, vùng trung bình, vùng thấp, doi cát ven biển.

Bờ biển Mộ ðức dài 32km, nhưng là bãi ngang, chỉ có cửa Lở mở lấp hằng năm.

ðồng bằng Mộ ðức khá màu mỡ, thích hợp với cây lúa nước và nhiều giống cây trồng khác, tuy nhiên một số vùng hay bị úng ngập, nhất là dọc phía ñông Quốc lộ 1. ðất gò ñồi ở Mộ ðức có nhiều ñá ong, có ñất cao lanh, ở Tú Sơn, Thạch Trụ có suối khoáng.

Khí hậu ở Mộ ðức nhìn chung là ôn hòa, dễ chịu, nhưng thường chịu thiệt hại do bão tố, lũ lụt về mùa mưa.

Tình hình sử dụng ñất ñai (thời ñiểm 2005)(2): 1) ðất nông nghiệp 10.036ha, trong ñó, ñất trồng cây hàng năm 9.415ha, cây lâu năm 621ha; 2) ðất lâm nghiệp 5.638ha; 3) ðất chuyên dùng 2.931ha; 4) ðất khu dân cư 773ha; 5) ðất chưa sử dụng 1.819ha.

Cư dân huyện Mộ ðức chủ yếu là người Việt, trong tổng số dân 143.668 người chỉ có 36 người Hrê sống ở phía tây xã ðức Phú (thời ñ iểm năm 2005). Xưa kia có một số người Hoa ñến buôn bán, sinh sống ở Lạc Phố. Cư dân chủ yếu sống bằng nghề nông, kết hợp với ñánh cá, làm nghề thủ công, buôn bán. Mật ñộ dân cư ở Mộ ðức khá cao (năm 2005 là 682 người/km2 so với mật ñộ trung bình toàn tỉnh là 250 người/km2, mật ñộ các huyện ñồng bằng 569 người/km2). Dân cư cần cù, hiếu học và có truyền thống yêu nước khá nổ i bật. Mộ ðức là quê hương của nhiều nhân vật lịch sử và nhiều chí sĩ cách mạng nổi tiếng.

Tình hình phân bố dân cư năm 2005 ở các xã, thị trấn trong huyện Mộ ðức như sau(3):

TT Xã, thị trấn Diện tích (km2) Dân số (người) M ật ñộ dân số (người/km2)

1 Mộ ðức 9,61 8.335 867

2 ðức Nhuận 9,43 14.504 1.538

3 ðức Lợi 9,08 8.584 945

4 ðức Thắng 10,08 7.410 735

5 ðức Chánh 11,96 17.384 1.453

6 ðức Hiệp 8,01 8.291 1.035

7 ðức Minh 12,64 8.898 704

Page 87: Các Huyện - Thành phố

Ñòa chí Quaûng Ngaõi Trang 87

8 ðức Thạnh 9,32 9.686 1.039

9 ðức Tân 9,30 7.775 836

10 ðức Hòa 11,77 11.208 952

11 ðức Phú 45,35 8.260 182

12 ðức Phong 14,37 18.011 1.323

13 ðức Lân 51,31 15.322 297

* * *

Về truyền thống yêu nước cách mạng, ñiểm ñáng chú ý trong lịch sử Mộ ðức là từ thời phong kiến và thời Pháp thuộc, có nhiều người tham gia các phong trào yêu nước và ñã xuất hiện khá nhiều nhân vật lịch sử tiêu biểu. ðời Tây Sơn, Mộ ðức có Trần Quang Diệu (Thiếu phó) và nhiều vị ðô ñốc khác. Mộ ðức cũng là quê hương của Lê Văn Duyệt (Tả quân, Tổng trấn Gia ðịnh) cùng các ñại thần triều Nguyễn như Nguyễn Bá Nghi (Tổng ñốc Sơn - Hưng - Tuyên), Nguyễn Văn Xuân (ðô ñốc nhà Tây Sơn sau theo triều Nguyễn làm ñến chức Tổng ñốc), Nguyễn Hiệp, Nguyễn Tấn... Thời Cần vương chống Pháp xâm lược, Mộ ðức nổi bật có các thủ lĩnh phong trào Cần vương Quảng Ngãi là Nguyễn Bá Loan (con trai Nguyễn Bá Nghi), Trần Du (thủ lĩnh cuối cùng của phong trào Cần vương ở Quảng Ngãi); sau ñó ñến thời Duy tân, Nguyễn Bá Loan lại tái xuất hiện tham gia lãnh ñạo Hội Duy tân, tham gia lãnh ñạo phong trào cự sưu khất thuế và hy sinh năm 1908.

Phong trào yêu nước ở Mộ ðức ñặc biệt dâng cao từ khi có ðảng Cộng sản Việt Nam lãnh ñạo. Từ việc hình thành tổ chức Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên ñến tổ chức Dự bị Cộng sản ở tỉnh Quảng Ngãi, ñều có sự vận ñộng tích cực của các chiến sĩ ở Mộ ðức. ðặc biệt, Mộ ðức có hai ông Tú tài tân học, ñều là những chiến sĩ cộng sản tiền bối, ñó là Phạm Văn ðồng, Nguyễn Thiệu. Ở Mộ ðức, có các chiến sĩ tích cực tham gia thành lập ðảng bộ tỉnh Quảng Ngãi và sớm hình thành ðảng bộ Mộ ðức ngay từ mùa xuân năm 1930. Phong trào cách mạng 1930 - 1931 khởi ñầu ở huyện ðức Phổ phía nam ñã nhanh chóng chuyển sang Mộ ðức với cuộc biểu tình có ñến 5.000 người tham gia và bị ñàn áp ñẫm máu ở Văn Hà (xã ðức Phong). Lực lượng có tổn thất, nhưng người Mộ ðức vẫn kiên trì với phong trào cách mạng trong huyện, trong tỉnh và trong nước. Chí sĩ Trần Toại gốc Mộ ðức trở thành Bí thư ðảng ñầu tiên ở huyện miền núi Ba Tơ, sau trở thành Bí thư Liên tỉnh ủy Bình ðịnh - Phú Yên. Các ông Bùi ðịnh, Trần Lương (Trần Nam Trung, sau là Trung tướng, Bộ trưởng Quốc phòng Chính phủ cách mạng lâm thời Cộng hoà miền Nam Việt Nam), Võ Sỹ (Lê Văn Sỹ) quê ở Mộ ðức ñều hoạt ñộng tích cực trong phong trào cách mạng ở Quảng Ngãi, cơ sở cách mạng ở Mộ ðức vẫn tìm cách chắp nối với cấp trên ñể phong trào cách mạng trong huyện ñược duy trì liên tục. Trong thời kỳ từ cuộc Khởi nghĩa Ba Tơ 11.3.1945 ñến Cách mạng tháng Tám 1945, Mộ ðức ñóng vai trò quan trọng trong việc tạo ñiều kiện cho cuộc khởi nghĩa bùng nổ, trở thành nơi ñóng căn cứ ñịa của ðội Du kích Ba Tơ

Page 88: Các Huyện - Thành phố

Ñòa chí Quaûng Ngaõi Trang 88

(chiến khu Núi Lớn) và nơi có trụ sở của cơ quan Tỉnh uỷ. Trong Tổng khởi nghĩa, ở Mộ ðức ñã diễn ra trận Mỏ Cày ñánh thắng quân Nhật.

Trong kháng chiến chống Pháp, Mộ ðức ñã góp phần giữ vững vùng tự do Liên khu V và ñóng góp nhiều nhân tài vật lực cho cuộc kháng chiến ñ i ñến thắng lợi, bẻ gãy nhiều cuộc ñột kích, xâm nhập của quân Pháp từ hướng biển. Cư dân Mộ ðức cũng phải chịu ñựng nhiều tổn thất về người và của cải do quân Pháp bao vây, bắn phá, nhất là các làng xóm ở dọc bờ biển. Nạn ñói xảy ra năm 1952 ñã làm chết nhiều người ở vùng Kỳ Tân, An Chuẩn. Trong thời kháng chiến chống Pháp, Mộ ðức có nhiều tấm gương trong lao ñộng và chiến ñấu, trong ñó có ông Phạm ðường vinh dự ñược nhận danh hiệu Anh hùng Lực lượng Vũ trang nhân dân duy nhất của tỉnh Quảng Ngãi thời kháng chiến chống Pháp.

Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, người dân Mộ ðức kiên cường kháng chiến, ñóng góp nhiều công sức, xương máu cho cuộc kháng chiến ñ i ñến thắng lợi hoàn toàn. Cuộc chiến diễn ra ở Mộ ðức hết sức ác liệt, nhất là trong thời gian quân viễn chinh Mỹ thực hiện chiến lược "chiến tranh cục bộ", trực tiếp tham chiến ở Việt Nam. Quân ñịch chà ñi xát lại, bắn phá nhiều lần ở khắp các vùng trong huyện, nhưng cán bộ và nhân dân Mộ ðức vẫn kiên cường bám ñất, chiến ñấu quyết liệt với kẻ ñịch, tạo lập ñược nhiều chiến thắng lớn, nhưng cũng phải chịu ñựng nhiều mất mát, hy sinh. Quân viễn chinh Mỹ gây ra nhiều vụ tàn sát ñẫm máu ở Hầm Xác Máu, ñịa ñạo Lâm Sơn, bãi biển Tân An.

Mộ ðức ñược hoàn toàn giải phóng ngày 23.3.1975. Trong 30 năm qua (1975 - 2005), công tác an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội luôn ñược giữ vững.

Với những ñóng góp vào các cuộc kháng chiến, huyện Mộ ðức có 15 ñơn vị và 14 cá nhân ñược phong tặng danh hiệu Anh hùng Lực lượng Vũ trang nhân dân, có 400 bà mẹ ñược phong tặng danh hiệu Bà mẹ Việt Nam Anh hùng(4).

* * *

Về kinh tế, Mộ ðức là huyện trọng ñiểm lúa của tỉnh Quảng Ngãi. Nghề nông từ xưa ñến nay vẫn là ngành sản xuất chính, một nguồn sống quan trọng của nhân dân trong huyện, trong khi tiểu thủ công nghiệp và thương mại - dịch vụ ngày càng chiếm tỷ trọng cao và góp phần thúc ñẩy tốc ñộ tăng trưởng kinh tế, cải biến cơ cấu kinh tế theo hướng ngày càng tiến bộ.

Nghề nông, lâm, ngư nghiệp

Tính ñến năm 2005, trong số trên 144.500 người dân của Mộ ðức, có ñến trên 113.000 người sống bằng nghề nông, lâm và ngư nghiệp (chủ yếu là nghề nông) với gần 55.500 lao ñộng (so với 12.500 lao ñộng trong các nghề khác), chiếm khoảng 5/6 tổng số lao ñộng của toàn huyện. Trừ xã ðức Lợi chủ yếu sống bằng ngư nghiệp, các xã khác hầu hết dân số ñều sống bằng nghề nông. Giá trị sản xuất

Page 89: Các Huyện - Thành phố

Ñòa chí Quaûng Ngaõi Trang 89

nông, lâm, thuỷ sản là 397,803 tỉ ñồng (giá trị hiện hành 2005), trong ñó nông nghiệp chiếm ñến 309,399 tỉ ñồng (trồng trọt 229,029 tỉ ñồng, chăn nuôi 69,162 tỉ ñồng), các dịch vụ nông nghiệp trên 11,208 tỉ ñồng, lâm nghiệp trên 5,554 tỉ ñồng, thủy sản gần 82,850 tỉ ñồng.

Trong trồng trọt, ngoài diện tích trồng lúa chiếm phần lớn ñất canh tác, nông dân Mộ ðức còn trồng nhiều loại cây khác như mía, lạc, dâu tằm... Cây lương thực chính là lúa với trên 5.459ha ñất canh tác. Sau lúa, ngô có 1.176ha. Năm 2005, sản lượng lương thực của Mộ ðức là 65.080 tấn. Bình quân lương thực có hạt trên ñầu người năm 2005 ở Mộ ðức là 449,9kg, cao nhất trong các huyện, thành phố của tỉnh Quảng Ngãi(5). Xét trong nội hạt huyện, trừ xã ðức Lợi chủ yếu làm nghề cá, diện tích canh tác ít, xã ðức Minh có ñiều kiện ñất ñai không thuận lợi cho sản xuất lương thực, còn lại 11 xã, thị trấn khác, bình quân lương thực ñầu người ñều từ 350kg trở lên, cao vượt trộ i là xã ðức Phú 774kg. Có 3 xã trên 500kg là ðức Thắng, ðức Hòa, ðức Lân. Có 5 xã, thị trấn trên 400kg là ðức Tân, ðức Nhuận, ðức Thạnh, ðức Chánh, thị trấn Mộ ðức. Sản xuất lương thực ở Mộ ðức ngoài việc dùng ñể nuôi sống dân cư trong ñịa hạt, còn ñể bán và ñể phát triển chăn nuôi.

Thống kê một số cây trồng chính ở Mộ ðức năm 2005(6) như sau:

TT Cây trồng Diện tích (ha) Sản lượng (tấn) Năng suất (tạ/ha)

1 Lúa 9.531 56.559 59,3

2 Ngô 1.176 6.531 55,5

3 Khoai lang 338 1.228 36,3

4 Sắn 562 9.154 162,9

5 Mía 690 26.055 378

6 ðậu tương 34 66 19,4

7 Dâu tằm 20 300 150

8 Lạc 865 1.778 20,6

9 Rau các loại 1.391 18.950 136,2

10 ðậu các loại 507 1.046 20,6

Ngành chăn nuôi ñược chú ý phát triển, trong ñó chủ yếu là chăn nuôi gia súc, gia cầm như trâu, bò, heo, gà, vịt, dê... Số lượng vật nuôi ở Mộ ðức năm 2005 như sau: 1) Trâu 1.656 con (nhiều nhất ở các xã ðức Phú 420 con, ðức Hòa 235 con, ðức Phong 253 con); 2) Bò 19.026 con (nhiều nhất ở các xã ðức Lân 2.860 con, ðức Phong 2.090 con, ðức Phú 2.540 con); 3) Lợn 90.570 con (nhiều nhất ở các xã ðức Phong 15.088 con, ðức Chánh 14.072 con, ðức Nhuận 12.304 con); 4) Dê 1.621 con; 5) Gà 161.500 con; 6) Vịt 116.000 con; 7) Ngan, ngỗng 137.145 con.

Nghề nông ở Mộ ðức ngày nay còn có thêm các trang trại, phát triển kinh tế vườn rừng và bước ñầu gặt hái ñược nhiều kết quả ñáng chú ý. ðến năm 2005 ñịa

Page 90: Các Huyện - Thành phố

Ñòa chí Quaûng Ngaõi Trang 90

hạt Mộ ðức có 68 trang trại, trong ñó có 27 trang trại trồng cây lâu năm, 17 trang trại chăn nuôi, 9 trang trại trồng cây hàng năm, 9 trang trại lâm nghiệp, 6 trang trại thủy sản.

Cư dân Mộ ðức vốn có truyền thống làm thuỷ lợi, như ñào sông Thoa, làm các bờ xe nước trên sông Vệ (có từ mấy trăm năm trước), ñào kênh Tứ ðức, kênh tiêu Bàu Súng (trong kháng chiến chống Pháp), ñắp các hồ chứa nước (Hóc Sằm, Mạnh ðiểu, Lổ Thùng, Hóc Mít...). Sau 1975, có trạm bơm Nam Sông Vệ, kênh mương Thạch Nham... và các ñập. Thủy lợi xưa nay ñều có nhiều công trình nổ i bật, phục vụ tốt cho canh tác. Tuy vậy, vẫn còn vấn ñề rất nan giải là tiêu úng ở vùng hạ lưu sông Thoa ở phía ñông Mộ ðức chưa ñược giải quyết căn bản.

Trong lâm nghiệp, rừng núi Lớn có nhiều dầu rái, trái ươi, xưa nay ñều ñược khai thác, từ năm 1924 ñược ñặt thành rừng cấm. Hiện nay rừng núi Lớn là khu rừng quan trọng nhất ở ñịa hạt Mộ ðức, ñược khoanh nuôi, bảo vệ. Ở ven biển có ñai rừng phòng hộ chủ yếu trồng phi lao. Nghề rừng xưa cung cấp nhiều nguyên vật liệu thiết yếu cho sinh hoạt và sản xuất, ngày nay chủ yếu là trồng và chăm sóc rừng.

Trong ngư nghiệp, do không có cửa biển, nghề ñánh bắt cá ở Mộ ðức ít có cơ hội phát triển như các huyện ven biển khác của tỉnh Quảng Ngãi. Tuy nhiên, nghề cá vẫn ñóng vai trò quan trọng trong ñời sống của cư dân Mộ ðức xưa nay với ý nghĩa nó là một nguồn cung cấp thực phẩm ñáng kể. Cư dân dọc bờ biển ñều ít nhiều làm nghề ñánh bắt cá, tuy rằng sản lượng ñánh bắt còn thấp. Ngày nay, song song với nghề ñánh bắt cá, nghề chế biến thuỷ sản cũng ñược duy trì, ñáng chú ý có nghề làm mắm ở ðức Lợi, ñặc biệt nghề nuôi tôm trên cát mới phát triển ở các xã ðức Minh, ðức Phong. Cư dân Mộ ðức còn tận dụng các hồ chứa nước, các chân ruộng nước kết hợp nuôi cá nước ngọt ñể tăng thu nhập.

Xét về giá trị sản xuất thủy sản năm 2005 ñạt 82,850 tỉ ñồng, trong ñó nuôi trồng chiếm ñến 66 tỉ ñồng. Như vậy thủy sản có xu hướng phát triển, nhưng nằm ở ngành nuôi trồng.

Về nguồn nhân lực hoạt ñộng thuỷ sản, năm 2005 Mộ ðức có 2.035 lao ñộng ñánh bắt (với 754 hộ), phần lớn ñều ở các xã ðức Lợi (1.680 lao ñộng), ðức Minh (250 lao ñộng); có tổng số 310 lao ñộng nuôi trồng (với 152 hộ), chủ yếu ở các xã ðức Phong, ðức Minh, ðức Lợi. Phương tiện khai thác thủy sản ở Mộ ðức có 103 tàu có ñộng cơ với tổng công suất 2.600CV, chủ yếu vẫn là xã ðức Lợi; có 80 thuyền không ñộng cơ. Sản lượng ñánh bắt năm 2005 là trên 2.105 tấn, còn rất nhỏ so với các huyện có biển khác. Diện tích nuôi trồng thủy sản (chỉ tính nuôi tôm) 190,30ha, sản lượng ñạt 1.360 tấn (tôm 1.310 tấn), chủ yếu ở các xã ðức Phong, ðức Minh. Tuy nhiên, việc mở rộng nuôi trồng thủy sản ñặt ra vấn ñề khá hóc búa về môi trường.

Tiểu thủ công nghiệp

Page 91: Các Huyện - Thành phố

Ñòa chí Quaûng Ngaõi Trang 91

Dù tiểu thủ công nghiệp ở Mộ ðức chưa chiếm một giá trị cao (122,850 tỉ ñồng theo giá hiện hành 2005), nhưng từ trong truyền thống, ở ñây ñã có những nghề khá phát triển. Nổ i bật nhất là nghề ñúc ñồng ở Chú Tượng (ðức Hiệp). Nghề ñúc ñồng Chú Tượng có từ lâu ñời, khá nổ i tiếng, nhưng cho ñến nay, ñang hoạt ñộng cầm chừng vì chưa thích ứng ñược với ñ iều kiện mới. Ở Mộ ðức còn có nghề chế biến mạch nha, một ñặc sản nổi tiếng ở Quảng Ngãi. Mạch nha ban ñầu sản sinh ở ðồng Cát, Thi Phổ, sau lan ra nhiều nơi trong huyện, trong tỉnh, tuy vậy mạch nha ở ðồng Cát, Thi Phổ vẫn thơm ngon nhất. Ở ðức Chánh có nghề ñan võng. Ở ðức Lân có nghề làm quạt giấy. Ở ðức Hiệp có nghề ươm tơ dệt lụa. Ngày nay, các nghề thủ công mới xuất hiện ngày một nhiều, như nghề làm ñồ sắt, cưa xẻ gỗ, làm gạch, sửa chữa ñiện tử, cơ khí. Nghề làm gạch ngói khá thịnh hành ở xã ðức Nhuận. Năm 2005, toàn huyện có 1.931 cơ sở công nghiệp cá thể với 3.440 lao ñộng.

Thương mại - dịch vụ

Cư dân Mộ ðức xưa tuy không chuyên nhiều về nghề buôn nhưng các hoạt ñộng buôn bán vẫn ñược chú ý. Việc buôn bán xưa chủ yếu theo ñường Thiên Lý, ñường thuỷ trên sông Vệ và ñường dọc biển. Người dân Mộ ðức còn lặn lội lên miền núi - chủ yếu ở các làng thuộc ñịa phận Ba Tơ ngày nay - buôn bán, trao ñổi với ñồng bào Hrê.

Các chợ hình thành dọc ñường Thiên Lý là các chợ nổi tiếng nhất, như câu ca dao sau ñây:

Kể từ Sông Vệ, chợ Gò, Ngó qua Thi Phổ thấy ñò Giắt Dây Chợ ðồng Cát mua bán sum vầy Ngó vô Lò Thổi thấy cây xùm xoà Tú Sơn một ñỗi xa xa....

Chợ Năng An bên sông Vệ, chợ Gò tức chợ Quán Lát, chợ ðồng Cát, chợ Lò Thổi, chợ Thạch Trụ... là những trung tâm buôn bán xưa nay ở Mộ ðức. Dịch vụ cũng dần phát triển theo thời gian. Từ thời phong kiến, trên ñường Thiên Lý ở ñịa bàn Mộ ðức có quán Bồ ðề (nổ i tiếng rượu ngon), rồ i quán ðịa Thi (Thi Phổ), có dịch vụ xe ngựa, cáng võng trên ñường. Thời Pháp thuộc có thêm một số dịch vụ như cắt tóc, may mặc, ñiện tín (ở ga Vạn Tây). Thời hiện ñại, việc buôn bán và làm dịch vụ của cư dân Mộ ðức ngày càng phong phú. Các trung tâm thương mại, dịch vụ dọc Quốc lộ 1, ñặc biệt là Nam Sông Vệ, ðồng Cát, Thạch Trụ khá phát triển. Trong ñó Thạch Trụ phát huy cao nhất ưu thế của mình là một giao ñiểm giữa 2 quốc lộ (Quốc lộ 1 và Quốc lộ 24), là một ñiểm xuất phát dẫn lên Tây Nguyên. Thời phong kiến, suối khoáng Thạch Trụ ñã ñược biết ñến. Thời Pháp thuộc, quan chức thực dân từng tìm ñến ñây chữa bệnh. Nhưng cho mãi ñến gần cuối thế kỷ XX, ở ñây mới ra ñời một cơ sở dịch vụ du lịch. Tại các bãi biển như Tân ðịnh, Lâm Hạ trước ñây hoang vắng nay ñã có dịch vụ tắm biển, tuy chưa thu hút thật

Page 92: Các Huyện - Thành phố

Ñòa chí Quaûng Ngaõi Trang 92

ñông khách, nhưng du lịch ở Mộ ðức ñã bắt ñầu phát triển. Theo thống kê của Mộ ðức cho biết, năm 2005 toàn huyện có 3.398 cơ sở kinh doanh thương mại - dịch vụ với 3.978 lao ñộng, tổng mức bán lẻ hàng hóa và dịch vụ là 161,32 tỉ ñồng.

Về cơ sở hạ tầng

Xưa kia Mộ ðức cơ bản là vùng nông thôn ñồng bằng nhiều bùn lầy nước ñọng, cơ sở hạ tầng hầu như không có gì ñáng kể. Thời phong kiến chủ yếu là ñường Thiên Lý chạy từ bắc ñến nam huyện, có trạm Nghĩa Sơn ở Thạch Trụ, ñường lên nguồn Ba Tơ cũng xuất phát ở ñây. Thời Pháp thuộc, Quốc lộ 1 và ñường sắt ñược xây dựng. Tuyến băng qua Mộ ðức có các ga Lam ð iền, Vạn Tây, Thạch Trụ, ñều là những ga xép. Trải qua chiến tranh, ñường sá ít ỏi ñó ñã bị hư hại nhiều. Từ sau năm 1975, việc giao thông ñược chú ý xây dựng. Bên cạnh trục Quốc lộ 1 ñược nâng cấp, Quốc Lộ 24 dẫn lên Tây Nguyên ñược xây dựng, các trục tỉnh lộ Quán Lát - ðá Chát, ðồng Cát - Suối Bùn, ñường quốc phòng Bồ ðề - ðức Lợi - Mỹ Á, ñường nối từ Quốc lộ 1 xuống các vùng biển ở ðức Minh, ðức Phong, các cầu Văn Hà, Tân Phong ñược xây dựng. Phong trào làm giao thông nông thôn phát triển. Tất cả ñã ñã khiến việc giao thông - vận tải ở ñịa hạt Mộ ðức khá thông thuận.

Xưa ở ñịa hạt Mộ ðức có dịch trạm của nhà nước phong kiến ñóng ở Thạch Trụ (trạm Nghĩa Sơn) là trạm vận chuyển, ñưa công văn của các triều ñình phong kiến. Từ thời Pháp thuộc, hệ thống thông tin có một số thay ñổi. Thời kháng chiến chống Pháp và kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, hệ thống thông tin liên lạc ñược xây dựng phục vụ sự nghiệp cách mạng. Sau năm 1975, bưu ñiện huyện ñược xây dựng. Hiện tại bưu ñ iện huyện có tổng dài ñiện tử 100.000 số, các bưu cục cấp 3 ở Quán Lát, Thi Phổ, Thạch Trụ, các bưu ñiện văn hóa xã ñã ñược xây dựng. Số người dùng ñiện thoại ở ñịa bàn huyện ngày càng tăng nhanh, phổ biến (năm 2005 là 8.303 máy ñiện thoại cố ñịnh, 1.325 máy ñiện thoại di ñộng).

Về ñ iện, trước năm 1975, ở ñịa hạt Mộ ðức chỉ có vài máy phát ñiện công suất nhỏ, chủ yếu dùng cho bộ máy chính quyền ñịch. ðiện chỉ thực sự xuất hiện từ sau năm 1975. Mạng lưới ñiện quốc gia ñưa về Mộ ðức vào những năm ñầu của thập niên chín mươi thế kỷ XX, hầu khắp mọi thôn xóm ñều ñã có ñiện. Lượng ñiện dùng cho sinh hoạt và sản xuất ngày càng tăng cao.

* * *

ðịa hạt Mộ ðức có di sản văn hóa khá phong phú. Về văn hóa phi vật thể, có ca dao, hát hố, hát bả trạo, ñặc biệt là hát múa sắc bùa ở vùng biển, vùng giáp giới với huyện ðức Phổ (thôn Văn Hà, Thạch Than, thuộc xã ðức Phong), kinh nghiệm làng nghề ñúc ñồng ở Chú Tượng (xã ðức Hiệp), ươm tơ dệt lụa ở Phú An... Trong văn hóa bác học, thời phong kiến có Phó bảng Nguyễn Bá Nghi với tác phẩm Sư Phần thi văn tập; Cử nhân Nguyễn Trọng Biện có Hà ñê tấu tư tập (chữ Hán). Văn học thành văn tiếp tục phát triển với thơ văn yêu nước của các chiến sĩ cộng sản.

Page 93: Các Huyện - Thành phố

Ñòa chí Quaûng Ngaõi Trang 93

Về văn hóa vật thể, Mộ ðức còn khá nhiều nhà rường có giá trị, chủ yếu ở xã ðức Nhuận và thị trấn huyện lỵ. Mộ ðức có 24 di tích ñã ñược xếp hạng, có 2 di tích quốc gia, ñáng chú ý như thắng cảnh núi Long Phụng - Chùa Hang, di tích lịch sử thì có ñền Văn Thánh (Văn Bân), các nhà thờ tiền hiền Trần Cẩm, Nguyễn Mậu Phó, Trần Văn ðạt, tộc Trần ở Văn Bân, nhà thờ Lê Quang ðại (xã ðức Nhuận), di tích lịch sử cách mạng và di tích chiến thắng ở ðịa ñạo ðức Chánh, Rừng Nà, Hầm Bà Noa, Mỏ Cày, ðồng Mả, có các di tích các vụ thảm sát của quân Pháp và Mỹ ở Trà Niên, Hầm Xác Máu, Tân An, Phú Lộc, Lâm Sơn (ñều nằm ở vùng ñông huyện); có các di tích lưu niệm danh nhân Phạm Văn ðồng, Trần Hàm (ở ðức Tân). Các di tích ở Mộ ðức ñã và ñang ñược bảo tồn, tôn tạo, xây dựng bia bảng. Ở ñịa ñiểm chiến thắng Mỏ Cày ñã dựng tượng ñài bên Quốc lộ 1 thuộc ñịa phận xã ðức Chánh.

Văn hóa mới ở Mộ ðức có những ñiểm nổ i bật: Phong trào xây dựng nếp sống văn minh, gia ñình văn hóa phát triển khá, việc bảo tồn và phát huy các di sản văn hóa ñược chú trọng, văn nghệ, thể thao quần chúng có phong trào ñều khắp.

Về giáo dục, việc học ở Mộ ðức phát triển khá sớm và có nhiều người thành ñạt. Thời kỳ Nho học, ñịa hạt Mộ ðức (chỉ tính trong ranh giới huyện ngày nay) có 26 người ñỗ từ Cử nhân trở lên, trong ñó có một Phó bảng ñầu tiên của tỉnh Quảng Ngãi (Nguyễn Bá Nghi), 2 Giải nguyên (Phạm Văn Chất, Trần Phan). ðến thời Tân học, có một số người ñỗ Tú tài tân học và sau này trở thành các nhà cách mạng nổi tiếng như Tú ðồng (Phạm Văn ðồng), Tú Thiệu (Nguyễn Thiệu). Thời kỳ 1945 - 1954, các xã của Mộ ðức ñều có trường Tiểu học, huyện có Trường Trung học cơ sở Nguyễn Bá Loan. Trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, ở vùng tạm chiếm có Trường Bán công Nguyễn Công Trứ ở quận lỵ và các trường Tiểu học ở xã; ở vùng giải phóng, ngành giáo dục cũng có những bước phát triển khá. Trong 30 năm 1975 - 2005, giáo dục phát triển mạnh. Trên ñịa bàn huyện có 4 trường Trung học phổ thông (Mộ ðức I, Mộ ðức II, Trần Quang Diệu, Nguyễn Công Trứ). Ở các xã có 15 trường Trung học cơ sở, 21 trường Tiểu học và 19 trường Mẫu giáo. ðịa hạt Mộ ðức ở thời ñiểm năm 2005 có 863 lớp học, 1.269 giáo viên với tổng số 32.529 học sinh phổ thông. Có Trường Trung học cơ sở Nguyễn Trãi là trường chuyên của tỉnh. Học sinh Mộ ðức nhiều người học giỏi.

Nhiều người con của quê hương Mộ ðức có học hàm, học vị cao và có tiếng tăm trong nước như Giáo sư ðặng Biên, Phó Giáo sư Tiến sĩ Phạm Phụ, Phó Giáo sư Tiến sĩ Trần ðức Ba, Phó Giáo sư Tiến sĩ Nguyễn Trân, Giáo sư Nguyễn Văn Sanh, Giáo sư Nguyễn Hóa, Phó Giáo sư Nguyễn Văn Hùng, Phó Giáo sư Huỳnh Như Phương, Phó Giáo sư Lê Trung Hoa, Phó Giáo sư Tiến sĩ Trịnh Sâm...

Về y tế, hệ thống chăm sóc sức khoẻ ở ñịa hạt Mộ ðức ngày nay khá hoàn chỉnh: ở huyện có Trung tâm y tế huyện, ở xã có trạm xá xã, ñều có y bác sĩ. Xưa kia, y tế ở Mộ ðức dựa vào ðông y với sự khám, chữa bệnh của các thầy thuốc ở làng xã. Thời Pháp thuộc, Tây y mới bắt ñầu manh nha. Trong kháng chiến chống Pháp, y tế Mộ ðức phát triển song song cả ðông y - Tây y. Thời kháng chiến

Page 94: Các Huyện - Thành phố

Ñòa chí Quaûng Ngaõi Trang 94

chống Mỹ, cứu nước, có bệnh viện Mộ ðức do chính quyền Sài Gòn thiết lập ở Thiết Trường, ở xã có trạm xá xã. Ở vùng giải phóng, có bệnh xá C20 và các trạm phẫu, hình thành mạng lưới y tế xã, thôn. Từ 1975 ñến 2005, công tác y tế ñược chú trọng và ngày càng phát triển rộng, có cả y tế dự phòng, y tế cộng ñồng, chăm sóc sức khoẻ bà mẹ trẻ em và kế hoạch hóa gia ñình. Trên ñịa bàn huyện có 1 bệnh viện trung tâm, 2 phòng khám khu vực, 1 ñội vệ sinh phòng dịch, 13 trạm y tế xã, thị trấn, tổng số giường bệnh là 175 giường, có 146 cán bộ y tế trong ñó có 38 bác sĩ.

Mộ ðức là huyện có mật ñộ dân số cao, nghề nông vốn là ngành sản xuất chính nhưng bình quân ruộng ñất trên ñầu người quá thấp, nên vấn ñề lao ñộng và việc làm là vấn ñề hàng ñầu ñặt ra khá cấp bách. Lao ñộng dôi dư khá lớn khiến có nhiều người ñi tìm phương kế sinh sống ở xa. Lao ñộng ở Mộ ðức ñông ñảo, hầu hết xuất thân từ nông dân, cần cù, có trình ñộ tương ñối khá. Mộ ðức ñang ñẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế, ña dạng hóa các ngành nghề ñể giải quyết vấn ñề lao ñộng - việc làm, khai thác có hiệu quả tiềm năng lao ñộng, ñất ñai và các tiềm năng khác, nhằm xây dựng huyện thành huyện vững mạnh của tỉnh Quảng Ngãi.

(1) Theo Niên giám thống kê tỉnh Quảng Ngãi 2005.

(2), (3) Nguồn: Niên giám thống kê huyện Mộ ðức.

(4) Xem thêm Phụ lục ở cuối phần II: Truy ền thống xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

(5) Có sự chênh lệch chút ít giữa Niên giám thống kê huyện Mộ ðức và Niên giám thống kê tỉnh Quảng Ngãi. Ở ñây chúng tôi lấy theo số liệu của tỉnh.

(6) Nguồn: Niên giám thống kê huyện Mộ ðức.

Page 95: Các Huyện - Thành phố

Ñòa chí Quaûng Ngaõi Trang 95

HUYỆN ðỨC PHỔ

ðỨC PHỔ là huyện ñồng bằng ven biển nằm ở phía nam tỉnh Quảng Ngãi. Phía bắc giáp huyện Mộ ðức; phía nam giáp huyện Hoài Nhơn (tỉnh Bình ðịnh); phía tây giáp huyện Nghĩa Hành và huyện Ba Tơ; phía ñông giáp biển ðông. Hình thể của huyện trải dài theo bờ biển phía nam tỉnh Quảng Ngãi, có trục giao thông Quốc lộ 1 và ñường sắt Thống Nhất chạy qua. Diện tích: 371,67km2. Dân số: 153.684 người (năm 2005). Mật ñộ dân số: 413 người/km2(1). ðơn vị hành chính trực thuộc gồm 14 xã (Phổ Hòa, Phổ Thuận, Phổ Văn, Phổ Phong, Phổ An, Phổ Quang, Phổ Ninh, Phổ Minh, Phổ Nhơn, Phổ Cường, Phổ Khánh, Phổ Thạnh, Phổ Châu, Phổ Vinh), 1 thị trấn (ðức Phổ, huyện lị), với 91 thôn, tổ dân phố; trong ñó:

Xã Phổ Hòa có 4 thôn: An Thường, Hòa Thạnh, Nho Lâm, Hiển Văn;

Xã Phổ Thuận có 7 thôn: Kim Giao, Mỹ Thuận, Thanh Bình, Thiệp Sơn, An ðịnh, Vùng 4, Vùng 5;

Xã Phổ Văn có 5 thôn: Văn Trường, ðông Quan, Tập An Nam, Tập An Bắc, Thủy Triều;

Xã Phổ Phong có 7 thôn: Hiệp An, Gia An, Hùng Nghĩa, Vạn Lý, Trung Liêm, Tân Phong, Vĩnh Xuân;

Xã Phổ An có 4 thôn: An Thổ, An Thạch, Hội An 1, Hội An 2;

Xã Phổ Quang có 4 thôn: Hải Tân, Du Quang, Bàn An, Phần Thất;

Xã Phổ Ninh có 5 thôn: An Trường, An Ninh, Vĩnh Bình, Thanh Lâm, Lộ Bàn;

Xã Phổ Minh có 7 thôn: Tân Tự, Sa Bình, Tân Mỹ, Lâm An, Hải Môn, Tân Bình, Trường Sanh;

Xã Phổ Nhơn có 9 thôn: An Tây, An ð iền, An Lợi, An Sơn, Phước Hạ, Nhơn Phước, Bích Chiểu, Thới Thượng, Nhơn Tân;

Xã Phổ Cường có 7 thôn: Lâm Bình, Mỹ Trang, Xuân Thành, Thanh Sơn, Nga Mân, Bàn Thạch, Thủy Thạch;

Xã Phổ Khánh có 7 thôn: Diên Trường, Trung Sơn, Vĩnh An, Quy Thiện, Phước ðiền, Trung Hải, Phú Long;

Xã Phổ Thạnh có 9 thôn: Long Thạnh 1, Long Thạnh 2, Thạnh ðức 1, Thạnh ðức 2, Tân Diêm, La Vân, Thạch Bi 1, Thạch Bi 2, ðồng Vân;

Xã Phổ Châu có 4 thôn: Vĩnh Tuy, Tấn Lộc, Hưng Long, Châu Me;

Page 96: Các Huyện - Thành phố

Ñòa chí Quaûng Ngaõi Trang 96

Xã Phổ Vinh có 6 thôn: Trung Lý, Phi Hiển, Lộc An, ðông Thuận, Khánh Bắc, Nam Phước;

Thị trấn ðức Phổ có 6 tổ dân phố, tên gọi theo thứ tự từ tổ 1 ñến tổ 6.

ðức Phổ là huyện ñồng bằng chạy dài theo biển, nơi có di chỉ Văn hóa Sa Huỳnh nổi tiếng, là nơi ñất ñai canh tác không rộng, ñiều kiện sản xuất không ñược thuận lợi cho sự phát triển nông nghiệp, nhưng nhờ nằm trên các trục giao thông huyết mạch (Quốc lộ 1, Quốc lộ 24), có trên 40km bờ biển nên có thế mạnh về ngư nghiệp, thương mại - dịch vụ, du lịch, góp phần vào phát triển kinh tế của huyện nói riêng và tỉnh Quảng Ngãi nói chung.

* * *

Về hành chính: Trước kia ñịa bàn ðức Phổ nằm trong huyện Khê Cẩm ñời nhà Hồ, huyện Mộ Hoa ñời nhà Lê và Mộ ðức ñời nhà Nguyễn. Năm 1890 (Thành Thái năm thứ 2), những xã "thượng bạn" thuộc Mộ ðức cắt ra và ñặt thành châu ðức Phổ thuộc Nha sơn phòng Nghĩa ðịnh. Năm 1899 (Thành Thái năm thứ 11), phần lớn các tổng Cảm ðức, Triêm ðức, Tri ðức ñược tách ra khỏ i Mộ ðức lập thành huyện ðức Phổ. Năm 1906, 3 tổng ñổi tên là Phổ Cảm, Phổ Tri và Phổ Vân với 78 xã.

Sau Cách mạng tháng Tám năm 1945, huyện ðức Phổ ñổi tên là huyện Nguyễn Nghiêm (tên Bí thư Tỉnh ủy ñầu tiên của tỉnh Quảng Ngãi)(2), nhưng chỉ một thời gian ngắn rồi ñổi lại là ðức Phổ. Các tổng cũng có sự ñổi tên: tổng Phổ Cảm ñổi là tổng Trần Kha, tổng Phổ Tri ñổi là tổng Huỳnh Lầu, tổng Phổ Vân ñổi là tổng Phan Bằng (tên các nhà yêu nước ñịa phương), nhưng cũng chỉ trong một thời gian ngắn thì quay lại tên cũ và xóa bỏ luôn cấp tổng. ðức Phổ ñược hoạch ñịnh lại ñơn vị hành chính với 13 xã ñều lấy chữ Phổ làm ñầu: Phổ Phong, Phổ Thuận, Phổ Văn, Phổ Quang, Phổ An, Phổ Nhơn, Phổ Ninh, Phổ Hòa, Phổ Minh, Phổ Vinh, Phổ Khánh, Phổ Cường, Phổ Thạnh. Dưới xã là thôn. Các thôn thường lấy tên làng xã cũ.

Sau khi tiếp quản, ñến năm 1958 chính quyền Sài Gòn thành lập quận ðức Phổ, ñổi tên gọi các xã, ñặt hai xã mới, tổng cộng có 15 xã, vẫn lấy chữ Phổ ở ñầu, nhưng ñổi tên chữ sau: xã Phổ Hòa ñổi là xã Phổ ðại; xã Phổ Thuận ñổi là xã Phổ Long; xã Phổ Văn ñổi là xã Phổ Hưng; xã Phổ Phong ñổi là xã Phổ Nghĩa; xã Phổ An ñổi là xã Phổ Lợi; xã Phổ Quang ñổi là xã Phổ Xuân; xã Phổ Ninh ñổi là xã Phổ Bình; xã Phổ Minh ñổi là xã Phổ Tân; xã Phổ Nhơn ñổi là xã Phổ Phước; xã Phổ Cường ñổi là xã Phổ Trang; xã Phổ Khánh ñổi là xã Phổ Trung, một phần tách lập thành xã Phổ Hiệp; xã Phổ Thạnh ñổi là xã Phổ Thạch, tách một phần lập xã Phổ Châu; xã Phổ Vinh ñổi là xã Phổ Thành.

Phía kháng chiến vẫn gọi là huyện ðức Phổ và các tên xã có từ thời chống Pháp. Riêng 2 xã Phổ Hiệp, Phổ Châu do chính quyền Sài Gòn tách lập vẫn ñược dùng và cũng ñược gọi là Phổ Hiệp, Phổ Châu.

Page 97: Các Huyện - Thành phố

Ñòa chí Quaûng Ngaõi Trang 97

Sau năm 1975, ðức Phổ vẫn giữ nguyên ñịa giới hành chính ñã có và có 13 xã như thời kháng chiến chống Pháp (xã Phổ Hiệp nhập lại vào xã Phổ Khánh, xã Phổ Châu nhập lại vào xã Phổ Thạnh). ðến năm 1999, xã Phổ Châu lại ñược tách lập thành 1 xã, là xã cực nam của tỉnh Quảng Ngãi. Năm 1987, thị trấn ðức Phổ ñược thành lập từ thôn Vĩnh Lạc và một phần thôn Vĩnh Bình xã Phổ Ninh, thôn Trường Sanh xã Phổ Minh, thôn An Thọ, An Lạc xã Phổ Hòa. Năm 2005, bắt ñầu có dự án xây dựng thị trấn ðức Phổ thành thị xã. ðến nay, ðức Phổ có 14 xã và 1 thị trấn (ñã kể trên).

Về tự nhiên, ðức Phổ có ñịa hình phức tạp, ña dạng, bị chia cắt mạnh, núi và ñồng bằng xen kẽ, một số nhánh núi của dãy Trường Sơn chạy ra tận bờ biển. Có 3 dạng ñịa hình: 1) Vùng bắc và nam sông Trà Câu có ñịa hình tương ñối bằng phẳng, là vùng trọng ñiểm sản xuất lúa; 2) Vùng nam sông Trà Câu ñến núi Dâu có núi và ñồng bằng xen kẽ, có nhiều sông, suối, ñịa hình phức tạp, chia cắt mạnh, ñộ dốc giảm từ tây sang ñông, thường bị ngập úng vào mùa mưa; 3) Vùng nam núi Dâu ñến ñèo Bình ðê chủ yếu là ñồi núi và có một số dãy núi chạy suốt ra bờ biển, có một ít ñồng bằng nhỏ hẹp nằm cạnh các suối và xen kẽ với núi.

ðồi núi: Trên ñịa bàn ðức Phổ rải rác có các ñồi núi, như núi Dâu, núi Cửa, một phần núi Lớn (núi Dầu Rái), núi Giàng, núi Bé, núi Xương Rồng, núi Chóp Vung, núi Nga, núi Mồ Côi, núi Diêm, núi Giàng Thượng, núi Giàng Hạ, núi Sầu ðâu, núi Khỉ, núi Chà Phun, núi Làng...

Sông ngòi: Lớn nhất là sông Trà Câu, số còn lại chỉ là sông suối nhỏ bắt nguồn từ huyện Ba Tơ chảy về với ñặc ñiểm chung là diện tích lưu vực hẹp, sông nhỏ, lòng dốc.

Sông Trà Câu bắt nguồn từ vùng ñông nam huyện Ba Tơ, ñoạn trên gọi là sông Ba Liên hay sông Vực Liêm, chảy theo hướng tây - tây bắc ñến ñông - ñông nam rồi ñổ ra cửa biển Mỹ Á. Sông Trà Câu ñược coi là một trong những con sông lớn của tỉnh Quảng Ngãi.

Sông Lò Bó bắt nguồn từ vùng núi phía nam huyện, có ñộ cao 300m, chảy theo hướng tây nam - ñông bắc, diện tích lưu vực khoảng 36km2, chiều dài 27,8km.

Sông Thoa là chi lưu của sông Vệ, chảy qua ñịa bàn Mộ ðức và ñông huyện ðức Phổ, hợp dòng ở hạ lưu với sông Trà Câu ñổ ra cửa biển Mỹ Á.

Sông Trường dài 4km, hợp với hạ lưu sông Lò Bó và cùng ñổ ra cửa biển Mỹ Á.

ðồng bằng: Vùng dốc dọc sông Trà Câu, trên ñịa phận các xã Phổ Phong, Phổ Thuận, Phổ Văn, Phổ An, Phổ Quang có ñồng bằng tương ñối rộng, là vùng trọng ñiểm sản xuất lúa của ðức Phổ. Vùng ñất nam sông Trà Câu ñến núi Dâu và từ núi Dâu ñến ñèo Bình ðê chỉ có ñồng bằng nhỏ hẹp, bị chia cắt, không thuận lợi cho sản xuất nông nghiệp.

Page 98: Các Huyện - Thành phố

Ñòa chí Quaûng Ngaõi Trang 98

Bờ biển, cửa biển: ðức Phổ có bờ biển dài trên 40km, có 2 cửa biển Mỹ Á và Sa Huỳnh, là ñầu mố i giao thông ñường thủy và là tụ ñ iểm của nghề cá, ñánh bắt và nuôi trồng hải sản.

ðầm: Ở dọc ven biển ðức Phổ có hai ñầm lớn là ñầm Lâm Bình và ñầm An Khê. ðây cũng là hai ñầm ñáng kể nhất trong toàn tỉnh Quảng Ngãi. ðầm An Khê xưa còn gọi là ñầm Cẩm Khê hay Phú Khê, nổ i tiếng có nhiều cá (cá Phú Khê - ngạn ngữ).

Khí hậu: ðức Phổ nằm trong vùng nhiệt ñới gió mùa, có 2 mùa mưa nắng rõ rệt, mùa mưa từ tháng 9 ñến tháng 12, mùa khô từ tháng 01 ñến tháng 8. Có 2 mùa gió chính là gió mùa ñông với hướng gió thịnh hành là tây bắc ñến bắc và gió mùa hạ với hướng gió chính là ñông ñến ñông nam. Tốc ñộ gió trung bình 2 - 4m/s, nhiệt ñộ trung bình trong năm là 25,8oC. Lượng mưa cả năm ñạt 1.915mm. Trên biển trung bình hằng năm có 135 ngày gió mạnh (cấp 6 trở lên) gây ảnh hưởng ñến thời gian ñi biển của ngư dân, nhất là vào các tháng từ tháng 11 ñến tháng 01 năm sau.

Về dân cư: ðịa bàn ðức Phổ từng có lớp cư dân cổ là chủ nhân của nền Văn hóa Sa Huỳnh (niên ñại cách nay 2.500 - 3.000 năm). Lớp cư dân này sống ở ven biển bằng nghề chài lưới và một số ít làm ruộng. Tiếp theo cư dân Văn hóa Sa Huỳnh, ðức Phổ còn có cư dân Chămpa, lớp cư dân này tiếp tục sống ở ven biển và cụm lại theo từng xóm nhỏ. Một số nơi trong huyện ngày nay còn rải rác một số mộ của người Chăm xưa và dấu tích còn lại duy nhất của người Chăm trên mảnh ñất này là bi ký Chăm ở thôn Thạnh ðức 1, xã Phổ Thạnh.

Cư dân Việt ñịnh cư trên ñịa bàn ðức Phổ từ khá sớm (thế kỷ XV - XVI) . Họ sống chủ yếu bằng nghề nông, ngư nghiệp, diêm nghiệp, buôn bán, mang ñặc trưng của văn hóa vùng ven.

ðức Phổ có dân số, mật ñộ dân số trung bình so với các huyện ñồng bằng của tỉnh Quảng Ngãi. Tính ñến năm 2005, số dân, mật ñộ dân số các xã, thị trấn như sau(3):

TT Xã, thị trấn Diện tích tự nhiên

(km2) Dân số trung bình

(người) M ật ñộ dân số (người/km2)

1 ðức Phổ 5,62 8.451 1.504 2 Phổ Hòa 17 4.339 255 3 Phổ Thuận 14,62 13.004 889 4 Phổ Văn 10,54 10.029 952 5 Phổ Phong 54,07 9.501 176 6 Phổ An 18,62 11.859 637 7 Phổ Quang 10,50 7.963 758 8 Phổ Ninh 22,25 10.344 465 9 Phổ Minh 9,02 5.204 577 10 Phổ Nhơn 40 7.087 177 11 Phổ Cường 48,50 15.183 313

Page 99: Các Huyện - Thành phố

Ñòa chí Quaûng Ngaõi Trang 99

12 Phổ Khánh 55,60 14.070 253 13 Xã Phổ Thạnh 29,73 22.634 761 14 Xã Phổ Châu 19,85 5.290 266 15 Xã Phổ Vinh 15,75 8.726 554

Thống kê cho thấy có sự chênh lệnh khá lớn về số dân, mật ñộ dân số trong ñịa hạt huyện, do sự chi phối của ñịa hình, ñiều kiện tự nhiên hơn là do nghề nghiệp.

Về dân số, ñông dân nhất là các xã Phổ Thạnh, Phổ Cường, Phổ Khánh, Phổ Thuận, Phổ An, Phổ Ninh.

Về mật ñộ dân số, ngoài thị trấn ðức Phổ tập trung cao về mật ñộ, thì các xã Phổ Văn, Phổ Thuận thuộc hạng cao nhất nhưng lại là các xã sống chủ yếu bằng nông nghiệp. Các xã có số dân sống bằng ngư nghiệp là chính, như Phổ Thạnh, Phổ Quang, Phổ Vinh, Phổ An tuy mật ñộ dân số có cao nhưng không cao nhất như thường thấy, bởi trên ñịa bàn phần nhiều là ñồi núi, ñộ dân cư sống mật tập theo từng khu vực nhỏ. Các xã Phổ Phong, Phổ Nhơn, Phổ Hòa có mật ñộ dân số khá thấp cũng vì ñất ñai trồng trọt ít và ñồi núi chiếm phần lớn diện tích tự nhiên.

* * *

Truy ền thống yêu nước của cư dân ðức Phổ xưa bắt ñầu ñược thể hiện trong phong trào nông dân Tây Sơn từ cuối thế kỷ XVIII. ðến thời kỳ Pháp xâm lược, trong phong trào Cần vương do Nguyễn Bá Loan lãnh ñạo năm 1886 có ðỗ ðiệt, một người chỉ huy trẻ tuổi quê ðức Phổ, giữ chức phó tướng trong nghĩa quân của Nguyễn Bá Loan. Tiếp theo, trong phong trào Duy tân, ðức Phổ cũng là ñịa bàn tham gia sôi nổi, có nhiều người tham gia như Tú tài Nguyễn Tuyên người làng Tân Hội (xã Phổ Phong), ông Phan Long Bằng người làng Thanh Sơn (Phổ Cường), ñều là những nhà hoạt ñộng nổi tiếng của phong trào Duy tân ở Quảng Ngãi và miền Nam Trung Kỳ.

Năm 1916, hưởng ứng cuộc vận ñộng khởi nghĩa của Việt Nam Quang phục Hội ở Trung và Nam Trung Kỳ, nhân dân ðức Phổ ñã quyên góp lương thực, mua sắm vũ khí, tổ chức lực lượng và lập chiến khu ở phía tây xã Phổ Cường chuẩn bị kháng chiến. Bước sang những năm 20 của thế kỷ XX, phong trào yêu nước của nhân dân ðức Phổ vẫn ñược phát huy mạnh mẽ, nhiều tổ chức tiền thân của ðảng bộ tỉnh Quảng Ngãi ñược thành lập ở ðức Phổ như tổ chức Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên, tổ chức "Dự bị Cộng sản" ra ñời.

Sau khi ðảng Cộng sản Việt Nam ñược thành lập (3.2.1930), vào mùa xuân 1930 Tỉnh ủy lâm thời Quảng Ngãi ñược thành lập(4), do ñồng chí Nguyễn Nghiêm người làng Tân Hội (xã Phổ Phong) làm Bí thư. Sau khi Tỉnh ủy lâm thời Quảng Ngãi ñược thành lập, tháng 4.1930, chi bộ cộng sản ñầu tiên của ðức Phổ ra ñời tại

Page 100: Các Huyện - Thành phố

Ñòa chí Quaûng Ngaõi Trang 100

làng Tân Hội, do ñồng chí Nguyễn Suyền (người thôn Hùng Nghĩa, xã Phổ Phong) làm Bí thư.

Sau thời gian ñược thành lập, chi bộ cộng sản ðức Phổ ñã tập hợp và lãnh ñạo nhân dân trong huyện tiến hành cuộc ñấu tranh mới với nhiều hình thức ñấu tranh như mít tinh, biểu tình thị uy, rải truyền ñơn, treo cờ cách mạng nhân ngày Quốc tế Lao ñộng 1.5, qua ñó ñem lại niềm tin cho quần chúng bị áp bức bóc lột và làm cho kẻ ñịch phải kiêng dè. ðặc biệt trong cao trào cách mạng 1930 - 1931, ðức Phổ là nơi ñầu tiên diễn ra cuộc ñấu tranh biểu tình rầm rộ của 5.000 quần chúng (8.10.1930) hưởng ứng phong trào Xô viết Nghệ - Tĩnh ñang dấy lên mạnh mẽ trong cả nước. Lực lượng biểu tình ñã chiếm ñược huyện ñường ðức Phổ, gây chấn ñộng trong dư luận thời bấy giờ.

Sau cao trào cách mạng 1930 - 1931, nhiều cuộc ñấu tranh của nhân dân trong huyện ñòi tự do dân chủ, chống khủng bố, chống sưu cao thuế nặng diễn ra liên tục dưới sự lãnh ñạo của ðảng và cho ñến cuộc Tổng khởi nghĩa Cách mạng tháng Tám năm 1945.

Trong 9 năm kháng chiến chống Pháp, ðức Phổ cũng như các huyện khác của Quảng Ngãi là vùng tự do, nhân dân trong huyện ñã ñóng góp sức người, sức của cho cuộc kháng chiến, ñồng thời ñánh bại nhiều cuộc càn quét, ñổ bộ bằng ñường biển của quân Pháp, góp phần giữ vững vùng tự do, làm hậu phương vững chắc cho tiền tuyến, cùng với cả tỉnh và Khu V tạo nên thắng lợi trong chiến dịch ðông - Xuân 1953 - 1954, góp phần kết thúc 9 năm kháng chiến chống thực dân Pháp thắng lợi.

Trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, nhân dân ðức Phổ kiên cường trụ bám ñánh ñịch, làm nên chiến thắng mùa khô 1965 - 1966 ñánh bại trận càn quét lớn của quân Mỹ mang tên "Diều hâu ñôi", một trong những cuộc hành quân lớn nhất của Mỹ bị ñánh bại ở ðức Phổ. Bước sang mùa khô thứ hai (1967), quân và dân ðức Phổ ñã chiến ñấu anh dũng, tiêu diệt, tiêu hao nhiều sinh lực ñịch, góp phần ñập tan kế hoạch "tìm diệt" và "bình ñịnh" của lính Mỹ và quân ñội Sài Gòn. Ngoài nhiệm vụ chiến ñấu và phục vụ chiến ñấu, nhân dân ðức Phổ còn ñóng góp nhiều nhân tài vật lực cho tỉnh, cho Khu V ñến ñại thắng mùa Xuân 1975.

Từ sau ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng, ðảng bộ và nhân dân ðức Phổ ñã vượt qua mọ i khó khăn, vừa hàn gắn vết thương chiến tranh, ñẩy mạnh sản xuất, từng bước ổn ñịnh và cải thiện ñời sống cho nhân dân, xây dựng và phát triển kinh tế - xã hộ i, thực hiện tốt chính sách của ðảng và nhà nước ñối với những gia ñình chính sách, gia ñình thương binh, liệt sĩ, thực hiện các chương trình phát triển kinh tế - xã hội, xóa ñói giảm nghèo, giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hộ i.

Với những thành tích ñạt ñược qua hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, ðảng bộ, quân và dân ðức Phổ ñã ñược ðảng và Nhà nước trao tặng nhiều phần thưởng cao quý, trong ñó có 16 ñơn vị, 8 cá nhân ñược trao tặng danh hiệu

Page 101: Các Huyện - Thành phố

Ñòa chí Quaûng Ngaõi Trang 101

Anh hùng Lực lượng Vũ trang nhân dân, 431 bà mẹ ñược phong tặng và truy tặng danh hiệu Bà mẹ Việt Nam Anh hùng(5).

* * *

ðức Phổ xuất phát từ kinh tế nông ngư lạc hậu, song có ñiều kiện tự nhiên và xã hội ñể phát triển kinh tế khá toàn diện. Tốc ñộ tăng trưởng kinh tế khá nhanh, nhưng nông, lâm, ngư nghiệp (chủ yếu là nông nghiệp) vẫn chiếm tỷ trọng khá cao. Các ngành kinh tế cơ bản như công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, thương mại, dịch vụ ngày càng phát triển, nhưng vẫn chưa chiếm tỷ trọng cao trong cơ cấu kinh tế.

Cơ cấu kinh tế ðức Phổ dịch chuyển theo hướng tăng tỷ trọng công nghiệp - xây dựng, thương mại - dịch vụ, giảm tỷ trọng nông - ngư - lâm nghiệp. Tỷ trọng ngành nông - lâm - ngư nghiệp từ 58,3% năm 2000, năm 2004 giảm còn 52,4%, ngành dịch vụ từ 20,7% năm 2000 lên 25,7% năm 2004, công nghiệp - xây dựng từ 20,8% năm 2000 tăng lên 25,7% năm 2004. ðến năm 2005, nông - lâm - ngư nghiệp vẫn là lĩnh vực kinh tế quan trọng nhất của ðức Phổ, tổng giá trị sản xuất nông - lâm - thủy sản là 975.579 triệu ñồng, trong ñó thủy sản chiếm ñến 370.667 triệu ñồng, kế ñến là nông nghiệp 247.034 triệu ñồng, lâm nghiệp 11.442 triệu ñồng. Xét về lao ñộng thì toàn huyện ðức Phổ năm 2005 có 81.460 người, trong ñó lao ñộng ở ngành nông lâm nghiệp là 56.261 người, ở ngành thủy sản là 8.538 người, công nghiệp và xây dựng là 7.191 người, dịch vụ là 9.470 người.

Nông nghiệp

Nhìn chung, ñiều kiện tự nhiên ở ðức Phổ không thuận lợi như một số huyện khác trong tỉnh Quảng Ngãi cho sản xuất nông nghiệp, nhất là về ñộ phì nhiêu của ñất ñai và vấn ñề nguồn nước tưới. Trước năm 1945, nghề nông ở ðức Phổ có phương thức sản xuất lạc hậu, ruộng ñất phần lớn tập trung trong tay ñịa chủ phong kiến. Nghề nông trong thời kỳ này mang nặng tính chất tự cấp, tự túc. Theo Quảng Ngãi tỉnh chí (Nam Phong tạp chí, 1933) của Nguyễn Bá Trác và các tác giả thì ở thời ñiểm này ðức Phổ có 13.244 mẫu 8 sào ñiền, 3.856 mẫu 9 sào thổ, trong ñó có ñất lúa 10.084 mẫu (3.630,24ha), thu hoạch hằng năm ñược 6.280 tấn lúa trong tổng số 44.070 tấn của toàn tỉnh. Năm 1932, ðức Phổ có 600 mẫu ñất mía, 600 mẫu ñất trồng khoai sắn. Toàn huyện có 21 ñập, tưới cho tổng diện tích khoảng 4.970 mẫu, lớn nhất là ñập Vực Tre ở xã An Ninh tưới cho khoảng 500 mẫu, ñập Liên Chiểu (ở Kim Giao), ñập Làng (ở Diên Trường), ñập ðồng Nghê (ở Nho Lâm và Hiển Văn), ñập ðồng ðồ (ở Hòa Thịnh, ðông Ôn), ñập Lâm Bình (ở Hiển Tây, Thanh Hiếu) mỗi ñập tưới 400 mẫu.

Trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp, nông dân ñược chia ruộng ñất, nghề nông ñã có những chuyển ñổi mới. Nông dân trồng lúa và các loại cây lương thực khác, bên cạnh ñó còn trồng bông, dệt vải, chăn nuôi gia súc, gia cầm. Trong kháng chiến chống Mỹ, về cơ bản nghề nông ở ðức Phổ vẫn phát triển như trước kia. Riêng về thủy lợi có những bước thay ñổi về tưới tiêu, nhờ có các loại máy

Page 102: Các Huyện - Thành phố

Ñòa chí Quaûng Ngaõi Trang 102

bơm thay cho việc tưới thủ công trước ñây. ðồng ruộng cũng phần nào có máy móc thay cho sức kéo trâu, bò. Nhờ những thay ñổi ñó mà năng suất lúa và hoa màu có sự gia tăng nhất ñịnh.

Nông nghiệp ðức Phổ từ 1975 - 2005 phát triển trong ñiều kiện ñất nước hòa bình thống nhất. Ruộng ñất ñược chia ñều cho nông dân ñã thúc ñẩy sản xuất phát triển. Từ 1975 - 1985 hình thành các hợp tác xã nông nghiệp, ruộng ñất ñược ñưa vào hợp tác ñể sản xuất chung, nhưng do cách tổ chức chưa phù hợp nên nông nghiệp không phát triển, ñời sống của nông dân còn thấp và gặp nhiều khó khăn. Năm 1981 khi cơ chế "khoán 100" ra ñời, sau ñó là "khoán 10" ñược thực hiện, ruộng ñất ñược giao khoán cho nông dân thì nông nghiệp ñã có bước phát triển, ñời sống của người nông dân ñược nâng cao rõ rệt. Hiện nay, nông nghiệp ở ðức Phổ phát triển khá toàn diện theo hướng sản xuất hàng hóa. Ngành chăn nuôi ñược ñẩy mạnh. Hệ thống tưới tiêu như hồ Liệt Sơn, hồ Núi Ngang... ñược xây dựng, mở rộng, hệ thống kênh mương nội ñồng Thạch Nham ñược xây dựng và ngày càng hoàn thiện nhằm ñảm bảo diện tích tưới tiêu chủ ñộng cho việc phát triển sản xuất và vật nuôi, cây trồng trên ñịa bàn huyện.

Tính ở thời ñ iểm năm 2005, sản lượng lương thực có hạt của ðức Phổ ñạt 52.412 tấn (trong ñó hầu hết là lúa), bình quân lương thực ñầu người ñạt 342kg/người/năm(6). Về cây công nghiệp, mía có diện tích 1.512,5ha, sản lượng ñạt 73.351 tấn, cây mì có diện tích 1.282ha, năng suất ñạt 197,1 tạ/ha, sản lượng 25.265 tấn. Cây ñậu phụng có diện tích gieo trồng là 306ha, năng suất bình quân 13,9 tạ/ha, sản lượng 426 tấn.

Trong chăn nuôi, năm 2005 ðức Phổ có ñàn trâu 1.234 con, ñàn bò 29.469 con, lợn 58.817 con. Trâu nuôi nhiều nhất ở xã Phổ Cường (635 con), các xã Phổ Văn, Phổ Thuận, Phổ Phong (ñều trên 100 con); bò nuôi nhiều ở các xã Phổ Khánh (3.578 con), Phổ Phong (2.850 con), Phổ Thuận (2.765 con); lợn nuôi nhiều nhất ở các xã Phổ Ninh (6.700 con), Phổ Văn (6.530 con), Phổ Khánh (6.460 con), Phổ Thạnh (5.570 con). Trong khoảng 15 năm sau khi tỉnh Quảng Ngãi tái lập (1990 - 2005), nông nghiệp ðức Phổ có sự phát triển ñều ñặn các mặt, như biểu kê sau.

Diễn biến cơ bản về nông nghiệp qua các năm 1990, 2000, 2005 (7)

TT Năm

Lĩnh vực nông nghiệp

1990 1995 2000 2005

1 Sản lượng lương thực quy thóc 31.681 tấn 34.141 tấn 47.878 tấn 52.412 tấn

- Lương thực bình quân ñầu

người/năm 343kg 278,3kg 324kg 342kg

2 Chăn nuôi gia súc

- Trâu 2.536 con 2.108 con 1.604 con 1.234

- Bò 18.116 con 23.320 con 25.869 con 29.469 con

- Heo 41.350 con 53.446 con 47.213 con 58.817con

Page 103: Các Huyện - Thành phố

Ñòa chí Quaûng Ngaõi Trang 103

Lâm nghiệp

Lâm nghiệp xa xưa ở ðức Phổ phát triển một cách tự nhiên. Rừng có diện tích khá lớn, ñộng thực vật, lâm sản khá phong phú. Những sản phẩm của rừng phần lớn phục vụ nhu cầu sinh hoạt của con người. Trong kháng chiến chống Mỹ, rừng bị tàn phá nhiều, ñộng thực vật cũng còn lại rất ít. Ngày nay, lâm nghiệp ñược chú trọng và ngày càng phát triển tốc ñộ trồng rừng, như phủ xanh ñất trống ñồi núi trọc ñược ñẩy mạnh, ñặc biệt là rừng phòng hộ ven biển và các dự án trồng rừng ñã và ñang ñược triển khai có kế hoạch. Năm 2003, diện tích rừng phòng hộ của ðức Phổ tại 4 xã là 1.839ha. Diện tích rừng trồng mới là 300ha. Dự án trồng rừng KFW6 ñang ñược triển khai. Năm 2004, trồng 856ha, chăm sóc rừng 800ha, trong ñó có 100ha rừng phòng hộ. Sản lượng gỗ rừng trồng khai thác cả năm là 25.200m3, ñộ che phủ rừng là 21%. Tính ñến năm 2005, trồng rừng 500ha, chăm sóc rừng 1.459ha, khoanh nuôi rừng tái sinh 2.246ha.

Ngư nghiệp

ðức Phổ có bờ biển khá dài và có hai cửa biển, thuận lợi cho ngư nghiệp phát triển. Ngư nghiệp xưa nay ñược xem là một thế mạnh của huyện. Từ xưa, nghề cá luôn ñóng một vai trò quan trọng trong ñời sống kinh tế của nhân dân ðức Phổ. Từ sau năm 1975, ngư nghiệp ðức Phổ ñã ñược phát triển hơn trước, trở thành một ngành kinh tế mũi nhọn của huyện, ñóng góp không nhỏ vào sự phát triển của ngành thủy sản Quảng Ngãi nói chung. Bên cạnh việc ñánh bắt và chế biến hải sản, ngư nghiệp còn có thêm một số nghề mới như: nuôi trồng thuỷ sản, nuôi tôm trên cát, nuôi cá nước ngọt trên các hồ nước. Năm 2003, toàn huyện có 690 tàu ñánh cá, sản lượng khai thác là 31.545 tấn cá, tôm, cua, hải sản khác, diện tích nuôi trồng thủy sản là 75ha, sản lượng nuôi trồng là 431,7 tấn. Năm 2004, sản lượng thủy sản khai thác là 36.300 tấn; năm 2005 tăng lên 42.000 tấn, trong ñó xã Phổ Thạnh chiếm 26.463 tấn, xã Phổ Quang 5.071 tấn, còn lại là các xã Phổ Vinh, Phổ Châu, Phổ An. Năm 2005, ðức Phổ có số tàu ñánh cá 1.050 chiếc với tổng công suất là 87.195CV, trong ñó xã Phổ Thạnh cao tuyệt ñối với 671 chiếc có tổng công suất 66.308CV, xã Phổ Quang có 195 chiếc với tổng công suất 8.824CV, còn lại 4 xã khác (Phổ An, Phổ Khánh, Phổ Châu, Phổ Vinh) số tàu ñều dưới 100 chiếc và tổng công suất ñều dưới 700CV. Ngành nuôi trồng thủy sản ở ðức Phổ cũng nổi trội trong toàn tỉnh Quảng Ngãi. Diện tích nuôi trồng thủy sản 304,3ha, trong ñó diện tích nuôi tôm là 94,3ha (diện tích nuôi tôm trên cát 46,6ha, gấp 2,3 lần năm 2003). Sản lượng thủy sản nuôi trồng là 515 tấn, trong ñó tôm 410 tấn. Việc nuôi cá lồng ở các hồ, ñầm ở các xã có hiệu quả. Năm 2005, ngành nuôi trồng thủy sản vẫn tiếp tục phát triển, với diện tích 381ha, sản lượng 1.181 tấn hải sản, chủ yếu là tôm. Các xã nuôi thủy sản mạnh nhất là Phổ Quang (diện tích 60,2ha tôm, sản lượng 489,4 tấn), Phổ Khánh 91,7ha (có 31,7ha tôm, sản lượng 280,7 tấn), Phổ Vinh, Phổ An, Phổ Minh, Phổ Hòa, Phổ Thạnh(8). Thủy sản là một ngành kinh tế mũi nhọn của ðức Phổ. ðức Phổ luôn ñứng ñầu về sản lượng thủy sản so với các huyện khác, có số tàu thuyền cao nhất. Trong tổng giá trị sản xuất thủy sản năm 2005, thì

Page 104: Các Huyện - Thành phố

Ñòa chí Quaûng Ngaõi Trang 104

ñánh bắt vẫn chiếm tỷ lệ vượt trội so với nuôi trồng (285,455 tỷ ñồng so với 85,092 tỷ ñồng), mặc dù ngành nuôi trồng thủy sản cũng khá phát triển.

Diêm nghiệp

Sa Huỳnh là nơi sản xuất muối lớn nhất ở Quảng Ngãi. Năm 1932 có 7.000 tấn muối ñược xuất cảng ra nước ngoài và nhiều nơi trong nước. Hiện nay, ðức Phổ có 100ha ruộng muố i, có khả năng sản xuất từ 10 - 15 nghìn tấn trong năm. Song do chưa tìm ñược thị trường tiêu thụ, giá cả không ổn ñịnh nên sản lượng muố i sản xuất chỉ dừng ở mức 7.500 tấn (2004), 8.000 tấn (2005).

Công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp

Nghề thủ công cổ truyền ñã có từ xưa ở ðức Phổ như: nghề dệt ở Thạch Bi (Sa Huỳnh); nghề gốm ở Thanh Hiếu, Chỉ Trung; nghề mộc, nghề ñan võng ở Hội An, Mỹ Thuận; nghề bạc bịt tháp, chén khay ñĩa ở Chỉ Trung. Ở vùng biển có các nghề: làm cá khô, tôm khô, mực khô, nước mắm, ñan lưới, ñánh nhợ ở Sa Huỳnh. Ngoài ra còn có các nghề như: nghề nấu ñường thủ công, nghề làm bún, làm bánh tráng. Ngày nay có nhiều nghề công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp như: sản xuất vật liệu xây dựng, gạch ngói, ñá chẻ, ñá hoa, ñóng và sửa chữa tàu thuyền. Tiểu thủ công nghiệp phát triển các làng nghề: làm chổi ñót ở Phổ Phong, Phổ Thuận, Phổ Văn; làm gốm ở Phổ Khánh. Ở xã Phổ Phong ñã hình thành khu công nghiệp. Tại Phổ Phong có nhà máy ñường có công suất trên 1.000 tấn/ngày, nhà máy gạch ngói Phổ Phong sản xuất 14 triệu viên/năm.

Năm 2004, giá trị sản xuất công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp của ðức Phổ ñạt 225,076 tỷ ñồng, trong ñó khu vực ngoài quốc doanh ñạt 128,752 tỷ ñồng, tàu thuyền ñóng mới 30 chiếc, sản lượng muối ráo ñạt 7.500 tấn, sản xuất ñá xây dựng ñạt 74.600m3, tỷ lệ hộ dân sử dụng ñiện 97%. Năm 2005, giá trị sản lượng công nghiệp tăng lên 302,670 tỷ ñồng, trong ñó khu vực kinh tế ngoài nhà nước chiếm 192,623 tỷ ñồng. Sản xuất công nghiệp cá thể có 2.209 cơ sở với 5.820 lao ñộng.

Mục tiêu từ năm 2006 - 2010, ðức Phổ sẽ ưu tiên xây dựng 3 vùng kinh tế ñộng lực: phát triển trung tâm thị trấn ðức Phổ lên ñô thị loại IV ñể thành lập thị xã ðức Phổ, xây dựng vùng kinh tế văn hóa Sa Huỳnh và khu công nghiệp Phổ Phong, góp phần vào việc phát triển kinh tế - xã hộ i của ðức Phổ nói riêng, của tỉnh Quảng Ngãi nói chung.

Thương mại - dịch vụ

Việc buôn bán xưa ở ðức Phổ thường diễn ra ở các chợ, như chợ Trà Câu, chợ Cây Chay, chợ Bàu Cối, chợ Giếng Thí, chợ Sa Huỳnh. Việc mua bán lúc bấy giờ mang tính tự cấp, tự túc trong một khu vực, ít mang yếu tố buôn bán chuyên nghiệp. Cũng có một số người ñ i buôn núi, lên giao lưu trao ñổi hàng hóa với bà con người Hrê trên nguồn Ba Tơ và một số người sắm ghe bầu ñi buôn vào Nam, ra Bắc.

Page 105: Các Huyện - Thành phố

Ñòa chí Quaûng Ngaõi Trang 105

Thương mại ngày nay phát triển nhờ hệ thống các chợ xã, có ba trung tâm thương mại của huyện là thị trấn ðức Phổ, thị tứ Sa Huỳnh (ở phía nam) và thị tứ Trà Câu (ở phía bắc).

Năm 2004, tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ của ðức Phổ ñạt 487,6 tỷ ñồng, năm 2005 là 580,25 tỉ ñồng. Toàn huyện có 4.452 cơ sở kinh doanh thương mại, dịch vụ (trong ñó có 2.492 cơ sở bán lẻ) với 5.172 lao ñộng. Một ñề án phát triển thương mại - dịch vụ - du lịch sẽ ñược thực hiện trong thời gian ñến, giúp dịch vụ du lịch phát triển ñúng hướng và phát huy ñược tiềm năng, ñạt hiệu quả cao nhất trong phát triển kinh tế - xã hộ i của huyện.

Cơ sở hạ tầng

ðức Phổ có ñường Thiên Lý Bắc - Nam sau này là Quốc lộ 1 chạy qua dọc theo chiều dài của huyện; có Quốc lộ 24 nối từ Quốc lộ 1 lên tỉnh Kon Tum chạy qua huyện ở khu vực xã Phổ Phong; có ñường sắt Bắc - Nam song song với Quốc lộ 1. Các phương tiện giao thông ñường thủy có sông Trà Câu thông thương miền xuôi với miền ngược, tuy nhiên vì lòng sông cạn nên khá hạn chế. Có hai cửa biển Mỹ Á và Sa Huỳnh là ñấu mối giao thông ñường thủy quan trọng, ñồng thời là tụ ñiểm của nghề cá.

Hiện nay, ðức Phổ ñang thực hiện bêtông hóa giao thông nông thôn. Năm 2004, cơ bản hoàn thành thi công 18 tuyến ñường ở các xã với tổng chiều dài 17,9km. ðường huyện ñã nhựa cứng ñược 51,6km, ñường xã ñược nhựa cứng hóa 33,06km. Về kiên cố hóa kênh mương, năm 2004 xây dựng 6 tuyến kênh với chiều dài 6,231km, góp phần phục vụ cho việc phát triển sản xuất của nhân dân trong huyện.

Trước năm 1975, ñiện chỉ có ở các cơ quan chính quyền ñịch, quận lỵ hoặc các tụ ñiểm dân cư dọc Quốc lộ 1, dùng máy phát ñiện nhỏ. Sau 1975, mạng lưới ñiện ñược kéo về huyện. ðến nay tại các xã, thôn, xóm 97% số hộ ñã ñược dùng ñiện cho sinh hoạt và sản xuất.

Về liên lạc, thời phong kiến ñến thời Pháp thuộc, việc thông tin liên lạc chủ yếu bằng ngựa trạm và có các dịch trạm. Ở ðức Phổ có trạm Nghĩa Quán (ở xã Quán Sứ), trạm có một tá dịch coi sóc và 1 lính trạm chuyên chuyển công văn, thư từ trong ñịa phương huyện. Nhìn chung thông tin liên lạc thời kỳ này chuyên phục vụ cho việc công, phổ biến trong nhân dân vẫn là dùng thư tay hay nhắn miệng cho người ở xa. Chính vì vậy, thông tin liên lạc thời kỳ này chưa có tác dụng ñối với kinh tế - xã hộ i. Trải qua thời kháng chiến, thời chính quyền Sài Gòn, ñến ngày nay, cùng với tốc ñộ phát triển khoa học công nghệ toàn cầu, ngành thông tin liên lạc ñã phát triển nhanh chóng với kỹ thuật công nghệ tiên tiến, hiện ñại. Hiện nay bưu ñiện huyện có 1 bưu cục trung tâm, 2 bưu cục cấp III, có 12 ñiểm bưu ñiện văn hóa xã, 3 ñại lý ña dịch vụ và hơn 70 ñại lý ñiện thoại ñược phân bố tại các vùng nông thôn. Tính ñến năm 2005, số máy ñ iện thoại cố ñịnh trên mạng ñã có 10.296 máy, số máy ñ iện thoại di ñộng 1.230 máy. Tổng doanh thu của Bưu cục ðức Phổ

Page 106: Các Huyện - Thành phố

Ñòa chí Quaûng Ngaõi Trang 106

là 2.150 triệu ñồng (phần lớn là thu từ dịch vụ ñiện chính). Các dịch vụ bưu chính viễn thông ña dạng và tiện ích của mạng internet ñã ñáp ứng ngày càng cao nhu cầu sử dụng của cán bộ và nhân dân ñịa phương, góp phần quan trọng vào quá trình phát triển kinh tế - xã hộ i, nâng cao dân trí và thực hiện công nghiệp hóa - hiện ñại hóa ñất nước.

* * *

ðức Phổ là quê hương của nền Văn hóa Sa Huỳnh nổi tiếng, ñược nhà khảo cổ học người Pháp phát hiện năm 1909 và ñược xác ñịnh niên ñại cách nay khoảng 2.500 năm. Tiếp theo văn hóa Sa Huỳnh là nền Văn hóa Chămpa cũng ñược phát hiện ở ðức Phổ, ñó là bi ký khắc trên ñá bằng chữ Sanskrit (chữ Chăm cổ), văn bia này ñược tìm thấy tại thôn Thạnh ðức, xã Phổ Thạnh.

Qua nhiều trăm năm sinh sống của người Việt, di sản văn hóa của người Việt cũng rất phong phú và ña dạng như:

Lễ hội ra quân ñánh bắt thủy sản ñầu năm: ñược tổ chức tại cửa biển Sa Huỳnh vào ngày mùng 3 Tết Âm lịch hàng năm, nhằm cầu mong ñược mùa tôm cá trong năm mới.

Hát sắc bùa: là một hình thức diễn xướng dân gian, mang tính chất nghi lễ phong tục thường diễn ra vào dịp Tết Nguyên ñán.

Về y tế, có Bệnh viện ða khoa ðặng Thùy Trâm tại thị trấn ðức Phổ ñã ñược xây dựng khang trang với 140 giường bệnh; Phòng khám ña khoa khu vực ñóng tại Sa Huỳnh; 14/15 xã, thị trấn có trạm y tế và ñều có bác sĩ, ñảm bảo nhu cầu chăm sóc sức khỏe ban ñầu cho nhân dân trong huyện. Năm 2006, Bệnh xá mang tên anh hùng liệt sĩ ðặng Thùy Trâm ñược xây dựng ở xã Phổ Cường. Tổng số cán bộ y tế trong huyện là 178 người, trong ñó có 37 bác sĩ.

Công tác dân số, gia ñình, trẻ em ñược quan tâm ñúng mức. Tỷ lệ tăng dân số tự nhiên hiện nay giảm còn 1,18%, ñã tranh thủ nguồn vốn hỗ trợ nhân ñạo của các tập thể, cá nhân trong và ngoài tỉnh giúp trẻ em khuyết tật, trẻ em có hoàn cảnh khó khăn hòa nhập cộng ñồng.

Về lao ñộng và các vấn ñề xã hội, ðức Phổ hiện nay có trên 110.204 người trong ñộ tuổi lao ñộng, hầu hết là làm nghề nông và ngư nghiệp. Với một lực lượng lao ñộng lớn như vậy cho nên lao ñộng nông thôn hàng năm sử dụng không hết, tình trạng thừa lao ñộng thiếu việc làm ñặt ra khá cấp bách. Thống kê cho thấy trong toàn huyện năm 2005 có ñến 8.322 người trong ñộ tuổi có khả năng lao ñộng không làm việc; 8.220 người trong ñộ tuổi có khả năng lao ñộng không có việc làm; hàng năm có khoảng hơn 2.000 lao ñộng xã hội phải ñi tìm việc làm.

Page 107: Các Huyện - Thành phố

Ñòa chí Quaûng Ngaõi Trang 107

ðể giải quyết việc làm cho người lao ñộng, hàng năm huyện ñã xây dựng các dự án cho nông dân vay vốn sản xuất, phối hợp với các ñoàn thể giải quyết cho một số hộ vay vốn xóa ñói giảm nghèo từ nguồn vốn ngân hàng. Năm 2003, số hộ nghèo giảm 548 hộ, tỷ lệ hộ nghèo cuối năm 2003 giảm còn 10,77%. Năm 2004, tỷ lệ hộ nghèo giảm còn 8,2%.

ðức Phổ có 431 Bà mẹ Việt Nam Anh hùng, 6.596 liệt sĩ, 3.018 thương binh, 1.426 người bị bắt tù ñày và 3.287 người hoạt ñộng kháng chiến ñược hưởng trợ cấp 1 lần.

Huyện ñã phối hợp cùng với các cấp chính quyền, xây dựng quỹ ñền ơn ñáp nghĩa. ðến năm 2004, xây dựng ñược 402 nhà tình nghĩa, giải quyết cứu trợ thường xuyên cho 270 người (gồm 29 trẻ mồ côi, 93 người tàn tật, 148 người già cô ñơn).

(1) Theo Niên giám thống kê huyện ðức Phổ 2005. Con số này chênh lệch chút ít so với Niên giám thống kê tỉnh Quảng Ngãi.

(2) Xem Chương XI : Các nhân vật lịch sử tiêu biểu.

(3) Nguồn: Niên giám thống kê huyện ðức Phổ.

(4) Tỉnh ủy lâm thời gồm 5 ñồng chí: Nguyễn Nghiêm, Nguyễn Tín, Trần Thị Hiệp, Trần Hàm, Trần Kha.

(5) Cụ thể xem ở Phụ lục 6, 9, Phần II: Truy ền thống xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

(6) Theo Niên giám thống kê tỉnh Quảng Ngãi 2005. Con số này có chênh lệch chút ít so với số thống kê của huyện ðức Phổ.

(7) Nguồn: Niên giám thống kê huyện ðức Phổ.

(8) Các số liệu trên lấy từ Niên giám thống kê huyện ðức Phổ, có sự chênh lệch ít nhiều so với Niên giám thống kê tỉnh Quảng Ngãi.

Page 108: Các Huyện - Thành phố

Ñòa chí Quaûng Ngaõi Trang 108

HUYỆN TRÀ BỒNG

TRÀ BỒNG là huyện miền núi nằm ở tây bắc tỉnh Quảng Ngãi. Phía ñông giáp hai huyện Bình Sơn, Sơn Tịnh; phía tây giáp huyện Tây Trà; phía nam giáp huyện Sơn Hà; phía bắc giáp huyện Trà My và huyện Núi Thành (tỉnh Quảng Nam). Diện tích 418,75km2. Dân số 29.316 người (năm 2005). Mật ñộ dân số khoảng 70 người/km<sup2(1). ðơn vị hành chínhh trực thuộc gồm 9 xã (Trà Phú, Trà Bình, Trà Giang, Trà Thuỷ, Trà Hiệp, Trà Tân, Trà Bùi, Trà Sơn, Trà Lâm), 1 thị trấn (Trà Xuân, huyện lị), với 44 thôn; trong ñó:

Thị trấn Trà Xuân có 3 thôn: Xuân Tây, Xuân Trung, Xuân ðông (ñều lấy chữ Xuân làm ñầu), sau ñổi là tổ dân phố số 1, tổ dân phố số 2, tổ dân phố số 3;

Xã Trà Phú có 4 thôn: Phú Hòa, Phú An, Phú Long, Phú Tân (ñều lấy chữ Phú làm ñầu);

Xã Trà Bình có 4 thôn: Bình Thanh, Bình Tân, Bình Trung, Bình ðông (ñều lấy chữ Bình làm ñầu);

Xã Trà Giang có 3 thôn: thôn 1 Trà Mít (Trà Công), thôn 2 Trà Ngang (Trà Giăng), thôn 3 (Trà Nhỉ);

Xã Trà Thuỷ có 6 thôn, tên gọi theo thứ tự từ thôn 1 ñến thôn 6;

Xã Trà Hiệp có 4 thôn: thôn Cả, thôn Cưa, thôn Nguyên, thôn Bằng;

Xã Trà Tân có 4 thôn: Tà Ót, Tà Ngon, Trường Biện, Trường Giang;

Xã Trà Bùi có 5 thôn: thôn Quế, thôn Tang, thôn Tây, thôn Gò, thôn Niêu;

Xã Trà Sơn có 7 thôn: Sơn Bàn, Sơn Thành, thôn ðông, thôn Bắc, thôn Trung, Cà Tinh, thôn Tây;

Xã Trà Lâm có 4 thôn: Trà Xanh, Trà Khương, Trà Hoa, Trà Lạc (ñều lấy chữ Trà làm ñầu).

Từ tỉnh lỵ Quảng Ngãi ñến thị trấn Trà Xuân 55km, trong ñó có 24km Quốc lộ 1 và 21km ñường tỉnh lộ 622.

Trà Bồng là ñịa bàn cư trú lâu ñời của dân tộc Cor với cây quế nổi tiếng, với vùng ñông là các xã người Kinh chuyên làm lúa nước. Nơi ñây từng nổ ra cuộc Khởi nghĩa Trà Bồng và miền Tây Quảng Ngãi 28.8.1959. Trà Bồng chủ yếu phát triển nông, lâm nghiệp, công - thương nghiệp phát triển chủ yếu ở các xã vùng thấp trong huyện.

Page 109: Các Huyện - Thành phố

Ñòa chí Quaûng Ngaõi Trang 109

* * *

Về hành chính, Trà Bồng xưa là một trong bốn nguồn (nguyên) của tỉnh Quảng Ngãi, thường ñược gọi là nguồn ðà Bồng, sau ñổi là nguồn Thanh Bồng, rồ i ñồn Trà Bồng, châu Trà Bồng, có 3 tổng, 34 sách (làng).

Sau Cách mạng tháng Tám 1945, châu Trà Bồng ñổi là huyện Trà Bồng, các sách cũ nhập thành các xã mới, các làng tây Bình Sơn nhập vào huyện Trà Bồng, hình thành 13 xã: Trà Khê, Trà Phong, Trà Quân, Trà Lâm, Trà Giang, Trà Thanh, Trà Lãnh, Trà Nham, Trà Thuỷ, Trà Sơn, Trà Xuân, Trà Phú, Trà Bình; ñại ñể tên các xã không khác mấy với các xã, thị trấn ở hai huyện Trà Bồng, Tây Trà ngày nay. ðến năm 1951, 3 xã Trà Xuân, Trà Phú, Trà Bình (nguyên là các làng Xuân Khương, ðông Phú, Vinh Hòa thời Pháp thuộc) cắt giao về cho huyện Bình Sơn, thành 1 xã là xã Bình Lâm.

Từ sau 1954, chính quyền Sài Gòn tiếp quản, ñến giữa năm 1958, ñổi huyện Trà Bồng thành quận Trà Bồng, ñổi tên xã cũ thành tên xã mới (cũng lấy chữ Trà làm ñầu): xã Trà Xuân ñổi thành Trà Khương; xã Trà Giang ñổi thành Trà Nhỉ; xã Trà Thuỷ ñổi thành Trà Bắc; xã Trà Sơn ñổi thành Trà Lang; xã Trà Thanh ñổi thành Trà ðoài; xã Trà Lâm ñổi thành Trà Binh; xã Trà Lãnh ñổi thành Trà Trung; xã Trà Nham ñổi thành Trà Thượng; xã Trà Quân ñổi thành Trà Hương; xã Trà Khê ñổi thành Trà Hoa; xã Trà Phong ñổi thành Trà Thạnh. Quận lỵ ñặt ở xã Trà Khương (Trà Xuân).

Trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, lực lượng kháng chiến quyết ñịnh cắt các xã phía nam Cà ðam của huyện Sơn Hà có dân tộc Cor sinh sống là các xã Sơn Thọ, Sơn Hiệp, Sơn Bùi, Sơn Tân nhập vào Trà Bồng, ñổi thành các xã Trà Thọ, Trà Hiệp, Trà Bùi, Trà Tân. Có thời, các xã ñông bắc ñược cắt thành khu I, các xã quanh núi Cà ðam ñược tách lập thành khu II, các xã phía tây huyện cắt lập thành khu IX, trực thuộc vùng căn cứ ñịa của Tỉnh uỷ.

Sau năm 1975, sau nhiều lần tách nhập các xã, ñến cuối năm 2003, Trà Bồng có 19 xã thị trấn: Trà Thanh, Trà Khê, Trà Quân, Trà Phong, Trà Thọ, Trà Hiệp, Trà Lâm, Trà Lãnh, Trà Thuỷ, Trà Sơn, Trà Nham, Trà Bùi, Trà Giang, Trà Phú, Trà Bình, Trà Tân, Trà Trung, Trà Xinh và thị trấn Trà Xuân.

Cuối năm 2003, 9 xã phía tây huyện ñược tách lập thành huyện mới Tây Trà. Trà Bồng còn 10 xã, thị trấn (như ñã kể trên).

Về tự nhiên, Trà Bồng là huyện miền núi, với diện tích ñồi núi chiếm phần lớn ñất ñai trong huyện. Vùng ñồng bằng nằm ở phía ñông huyện, giáp giới với huyện Bình Sơn và phía hữu ngạn sông Trà Bồng, ở các xã Trà Bình, Trà Phú và thị trấn Trà Xuân. ðịa hình Trà Bồng khá phức tạp, bị chia cắt mạnh bởi các khối núi và sông suối chằng chịt trong các thung lũng nhỏ hẹp. Núi ở ñây có ñộ dốc rất lớn.

Page 110: Các Huyện - Thành phố

Ñòa chí Quaûng Ngaõi Trang 110

Núi ñồi bao bọc khắp nơi trong huyện, như núi Cà ðam, núi Răng Cưa, núi Chớp Vung, núi Cà ðú... Hệ thống sông suối gồm sông Trà Bồng, sông Giang, sông Trà Bói, suối Cà ðú, suối Trà Cân, suối Nun. ðất bằng và thung lũng ở Trà Bồng rất ít ỏi, nhỏ hẹp. Rừng núi Trà Bồng có nhiều lâm thổ sản, ñất ñai thích hợp với cây quế. Phía ñông Trà Bồng có suối khoáng Thạch Bích ñang ñược khai thác dùng trong công nghiệp nước uống.

Khí hậu Trà Bồng nắng lắm mưa nhiều, lượng mưa ở ñây thuộc hạng cao nhất trong nước, gây ra nhiều hạn hán, lũ lụt, ñộ ẩm cũng khá cao.

Trong lời truyền của dân và trong các truyện cổ ñều thể hiện những ký ức kinh hoàng về các trận lũ, nhất là trận lũ 1964. Tình trạng lở ñất xảy ra ở một số nơi, hiện tượng nứt núi cũng xuất hiện, như tại thôn ðông xã Trà Sơn.

Tình trạng sử dụng quỹ ñất ở Trà Bồng năm 2005 như sau: 1) ðất nông nghiệp 5.308ha (cây hàng năm 3.942ha); 2) ðất lâm nghiệp 30.338ha; 3) ðất chuyên dùng 337ha; 4) ðất khu dân cư 195ha; 5) ðất chưa sử dụng 5.698ha.

Về dân cư, cư dân ở Trà Bồng chủ yếu là người Cor, người Việt. Người Cor sống chủ yếu bằng nghề làm rẫy, trồng quế, bắp, săn bắn, hái lượm, chăn nuôi các loại gia súc, gia cầm. Xã hội Cor xưa kia ở vào thời kỳ tiền giai cấp, tính cố kết cộng ñồng cao, sống hiền hòa, cần cù nhẫn nại, có nhiều giá trị văn hóa cổ truyền ñặc sắc. Người Việt cư trú chủ yếu ở các xã Trà Phú, Trà Bình và thị trấn Trà Xuân phía ñông huyện, ven trục lộ giao thông, chủ yếu làm ruộng nước và buôn bán, làm nghề thủ công, và có sự giao lưu với văn hóa Cor. Ngoài ra, còn có người Hrê chủ yếu sống ở xã Trà Tân. Người Cor, người Việt, người Hrê ở Trà Bồng có truyền thống ñoàn kết, có sự giao lưu buôn bán lâu ñời và có truyền thống yêu nước khá nổi bật.

Trong số dân hơn 29.000 người ở Trà Bồng có trên 10.000 người Cor, trên 18.000 người Việt, trên 200 người Hrê. Số người Việt ñông nhất là ở thị trấn Trà Xuân (trên 7.000 người), kế ñến là các xã Trà Bình, Trà Phú (toàn bộ số dân của 2 xã này). Người Cor sống ñều khắp ở các xã còn lại.

Page 111: Các Huyện - Thành phố

Ñòa chí Quaûng Ngaõi Trang 111

Sự phân bố dân cư theo từng xã, thị trấn thời ñiểm 2005 như sau(2):

TT Xã, thị trấn Diện tích

(km2) Dân số (người)

M ật ñộ dân số (người/km2)

1 Trà Xuân 6,09 7.380 1.212

2 Trà Giang 36,50 395 11

3 Trà Thủy 75,48 2.443 32

4 Trà Hiệp 49,00 1.645 34

5 Trà Phú 15,68 4.162 265

6 Trà Tân 70,75 1.575 22

7 Trà Sơn 56,49 4.094 72

8 Trà Lâm 34,61 1.595 46

9 Trà Bình 22,18 4.796 216

10 Trà Bùi 51,28 1.316 26

Toàn huyện 418,75 29.401 70

Thống kê trên cho thấy thị trấn Trà Xuân có số dân cao tuyệt ñối và mật ñộ dân số cũng cao tuyệt ñối, trong khi diện tích thấp tuyệt ñối. Rộng nhất là xã Trà Thủy. Dân số và mật ñộ thấp tuyệt ñối là xã Trà Giang. Các xã có người Việt sống tập trung là Trà Bình, Trà Phú, dân số và mật ñộ dân số cao hơn hẳn so với các xã khác.

* * *

Nổi bật trong truy ền thống yêu nước của người Cor ở Trà Bồng là sự tham gia phong trào "Nước Xu ñỏ" từ năm 1938 và tiếp tục chống Pháp cho ñến Cách mạng tháng Tám 1945 thành công. Năm 1938, bốn già làng có uy tín nhất của dân tộc Cor là ông Gia, ông Chân, ông Phú, ông Tài ñã kêu gọi nhân dân quanh vùng ñứng lên chống thực dân Pháp bắt xâu, thu thuế. Họ chỉ huy bốn ñội nghĩa quân trang bị vũ khí thô sơ kéo về tấn công châu lỵ Trà Bồng nhưng bị thất bại, nhiều người hy sinh. Dân các làng buộc phải quay về chịu xâu, thuế như cũ. Các thủ lĩnh, dẫn ñầu là ông Gia, ông Tài, cùng dân của hàng chục làng kéo nhau lên Cà ðam, lên ñầu nguồn sông Tang xây dựng căn cứ ñể chiến ñấu lâu dài. Nghĩa quân ñã gây cho Pháp nhiều thiệt hại, ñã ñánh trận Gò Rô nổi tiếng (tháng 1.1939). Năm 1942, nhân lúc giặc Pháp ñưa quân lên ñánh vùng cao, nghĩa quân lại kéo xuống tấn công châu lỵ Trà Bồng, nhưng lại bị thất bại. Pháp tăng cường ñánh phá lên căn cứ và dụ dỗ, mua chuộc. Các thủ lĩnh và dân các làng cương quyết cố thủ trong căn cứ cho mãi ñến tháng Tám 1945. Khi ñược biết Việt Minh ñang lãnh ñạo nhân dân giành chính quyền ở châu lỵ Trà Bồng, nghĩa quân kéo về tham gia. Ông Gia (lúc này ñã 90 tuổi) ñược cử làm Chủ tịch Trà Bồng.

Page 112: Các Huyện - Thành phố

Ñòa chí Quaûng Ngaõi Trang 112

Các xã ở phía ñông huyện thuộc ñịa bàn cư trú của người Việt, hình thành tổ chức cơ sở ðảng từ năm 1930 và liên tục ñấu tranh góp phần vào sự nghiệp giải phóng dân tộc. Trà Bồng trong kháng chiến chống Pháp là căn cứ ñịa vững chắc của cách mạng, giữ vững tự do và ñóng góp sức người, sức của vào công cuộc ñánh thắng quân Pháp xâm lược.

Trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, Trà Bồng là căn cứ ñịa ñầu tiên của tỉnh Quảng Ngãi. Cũng tại Gò Rô, ngày 7.7.1958, ðại hội nhân dân 4 dân tộc: Cor, Hrê, Ca Dong, Kinh thể hiện quyết tâm ñánh Mỹ, ñược mệnh danh là ñại hội "Diên Hồng" của nhân dân các dân tộc miền Tây Quảng Ngãi. Trà Bồng là nơi khởi phát cuộc Khởi nghĩa Trà Bồng và miền Tây Quảng Ngãi 28.8.1959, một trong những cuộc ñồng khởi nổi bật nhất ở miền Nam Việt Nam thời ấy. Sau cuộc khởi nghĩa, nhiều vùng nông thôn ñã ñược giải phóng, các ủy ban tự quản xã ra ñời. Nhân dân Trà Bồng ñã bẻ gãy các cuộc phản kích, ñánh phá của kẻ ñịch ñể giữ vững vùng giải phóng và ñóng góp nhiều nhân tài vật lực cho cuộc kháng chiến ñến thắng lợi hoàn toàn. Trà Bồng ñược giải phóng hoàn toàn ngày 18.3.1975.

Quân và dân Trà Bồng, quân và dân các xã Trà Sơn, Trà Tân, Trà Bùi, Trà Lâm, Trà Hiệp ñược phong tặng danh hiệu Anh hùng Lực lượng Vũ trang nhân dân. Có 12 bà mẹ ñược phong tặng danh hiệu cao quý Bà mẹ Việt Nam Anh hùng.

* * *

Kinh t ế Trà Bồng nhìn chung còn chậm phát triển. Hoạt ñộng kinh tế của nhân dân Trà Bồng chủ yếu là nông, lâm nghiệp. Công, thương nghiệp và dịch vụ cũng dần dần phát triển theo thời gian. Năm 2004, tỉ trọng ngành nông, lâm nghiệp là 55%; các hoạt ñộng công, thương nghiệp, dịch vụ ñã tăng lên 45% tổng giá trị. Tuy nhiên, tỉ lệ trên chưa phản ánh thật rõ sự phát triển, vì giá trị sản xuất nông nghiệp tương ñối thấp, trong khi ña số dân vẫn sống bằng nông nghiệp. Tính ở thời ñiểm 2005, số dân sống bằng nông, lâm nghiệp là 27.028 người với 5.568 hộ và 13.389 lao ñộng. Trong khi số dân sống bằng nghề khác là 2.551 người với 922 hộ và 2.928 lao ñộng.

Về nông nghiệp, các tài liệu cổ cho thấy nông nghiệp ở Trà Bồng xưa cũng có một số ñiểm ñáng chú ý. Tập Quảng Ngãi tỉnh chí của Nguyễn Bá Trác và các tác giả in trên Nam phong tạp chí (1933) có ghi ở thời ñiểm ấy, Trà Bồng (gồm cả huyện Tây Trà ngày nay) có 1.282 mẫu ruộng (461,52ha), thu hoạch ñược 228 tấn lúa mỗi năm. Có thể hiểu số ruộng này phần lớn nằm ở vùng thấp của huyện và phần nhiều do người Việt canh tác. Ngoài ra, không thấy ghi chép về loại cây trồng khác. Về chăn nuôi, các tác giả Quảng Ngãi tỉnh chí ghi ở Trà Bồng có nuôi 88 con trâu, 20 con bò, 4 con ngựa, 871 con heo, 4.121 con gà, song các tác giả cũng nhấn mạnh các số liệu ấy cũng chỉ "phỏng chừng mà kê" nên ñộ chính xác chắc chắn không cao. Trải qua hai cuộc kháng chiến, nông nghiệp ở Trà Bồng chưa có ñiều kiện phát triển. Từ sau năm 1975, sản xuất nông nghiệp mới thực sự chuyển biến. Tính ở thời ñ iểm 2005, giá trị sản xuất nông nghiệp ở Trà Bồng là 52,743 tỷ ñồng,

Page 113: Các Huyện - Thành phố

Ñòa chí Quaûng Ngaõi Trang 113

trong ñó trồng trọt 31,06 tỷ ñồng, chăn nuôi 21,128 tỷ ñồng. Do ñặc ñiểm tự nhiên và tập quán canh tác mà nông nghiệp Trà Bồng có thể phân ra hai vùng khá rõ rệt: nông nghiệp ở ba xã, thị trấn vùng thấp với ña số người Việt và nông nghiệp ở 7 xã vùng cao với ña số ñồng bào Cor. Ba xã, thị trấn với ña số người Việt sinh sống ở phía ñông huyện làm nông theo kiểu canh tác của miền xuôi, trồng lúa nước và các loại cây hoa màu, cây lương thực, chăn nuôi gia súc, gia cầm. Ba xã, thị trấn này tuy không rộng lắm nhưng nhờ kinh nghiệm thâm canh lúa nước, nên là nguồn lương thực quan trọng của huyện, chủ yếu là lúa gạo. Thống kê cho thấy, trong tổng sản lượng lương thực toàn huyện Trà Bồng năm 2005 là 7.020 tấn thì tổng lượng lương thực của 3 xã, thị trấn vùng thấp ñã có 4.031 tấn (xã Trà Bình 1.864 tấn, xã Trà Phú 1.135 tấn, thị trấn Trà Xuân 1.032 tấn). Tuy nhiên, do vùng thấp tập trung dân số với mật ñộ cao, nên bình quân lương thực ñầu người lại không phải cao nhất trong huyện, trừ xã Trà Bình ñạt 388kg/người/năm (ñứng thứ hai sau xã Trà Giang 463kg), thì ở xã Trà Phú chỉ 273kg, ở thị trấn Trà Xuân thì thuộc hạng thấp nhất trong huyện (140kg). Bảy xã vùng cao nơi người Cor chiếm ña số, do ñiều kiện thiên nhiên với nhiều thung lũng hẹp nên từ xưa không có truyền thống trồng lúa nước như vùng người Hrê ở Sơn Hà, Minh Long, Ba Tơ. ðể có lương thực, xưa kia người Cor chủ yếu tỉa lúa rẫy, tỉa bắp, trồng bo bo… ñều ở trên rẫy. Từ khi có chính quyền cách mạng, người Cor dần chuyển cư xuống thấp và bắt ñầu có sự khai hoang làm ruộng nước. Xưa kia việc chăn nuôi gia súc như trâu, heo cũng rất khó, vì vùng rừng núi Trà Bồng có rất nhiều thú dữ như voi, hổ. Qua các thời kỳ cách mạng, canh tác nông nghiệp ở Trà Bồng mới dần dần có sự chuyển biến. Người Cor sinh hoạt kinh tế nông, lâm nghiệp theo lố i cổ truyền, có thêm các nhân tố mới nhờ áp dụng khoa học kỹ thuật vào sản xuất, trong ñó có cả dấu ấn của kinh tế nông nghiệp sơ khai. Người Cor ngày nay, bên cạnh việc khai hoang trồng lúa nước với kỹ thuật mới, vẫn thường xuyên trồng và khai thác quế như xưa, phát nương làm rẫy tỉa lúa, ngô, nuôi trâu, gà, vịt ở làng, ñi rừng hái rau ranh, bắt ốc, khai thác mật ong, ñót, các loại cây, dây rừng ñể về làm ñồ dùng, thức ăn và bán lấy tiền. Sản vật ở rừng có nhiều, nhưng ngon nhất là ốc ñá, rau ranh và mật ong hoa quế.

Theo thống kê, tổng sản lượng lương thực có hạt của Trà Bồng năm 2004 trên 6.368 tấn, bình quân lương thực ñầu người gần 219,7kg; sản lượng lương thực năm 2005 là 6.985 tấn, bình quân lương thực ñầu người là 238,3kg(3), những con số còn quá thấp so với nhiều nơi trong tỉnh Quảng Ngãi, nhưng là một tiến triển khá cao trong ñiều kiện tự nhiên không thuận lợi cho việc trồng cây lương thực.

Thống kê sau ñây sẽ cho thấy sự tiến tri ển ấy(4):

Năm 1975 1980 1985 1990 1995 2000 2005

Bình quân lương thực ñầu người (kg)

73,1 134,2 159,1 129,1 107,6 163,5 238,3

Sự tăng ñột biến của 2 con số năm 2000 và 2005 có nguyên nhân từ việc chia tách

Page 114: Các Huyện - Thành phố

Ñòa chí Quaûng Ngaõi Trang 114

huyện Tây Trà (vùng có rất ít diện tích lúa nước), nhưng nhìn trên ñại thể từ 1975 ñến 2005, có thể thấy sự tăng tiến trong sản xuất lương thực.

Tính ở thời ñ iểm 2005, sản lượng lương thực bình quân ñầu người cao nhất là ở xã Trà Giang 463kg, xã Trà Bình 388kg, xã Trà Thủy 330kg, thấp nhất là xã Trà Bùi 135kg, thị trấn Trà Xuân 140kg, các xã khác xê dịch trong khoảng 200 ñến 300kg.

Bên cạnh cây lương thực có hạt, ở Trà Bồng còn trồng nhiều khoai, sắn. Sau ñây là thống kê về các loại cây trồng chính ở Trà Bồng năm 2005(5):

TT Cây trồng Diện tích (ha) Năng suất (tạ/ha) Sản lượng (tấn)

1 Lúa 2051 30,8 6.311 2 Ngô 312 21,6 674 3 Sắn 2.312 79 18.262 4 Lạc 155 13,7 212 5 Mía 194 433,4 8.408 6 ðậu các loại 111 9,6 107

7 Rau các loại 215 153,3 3297

Lúa trồng nhiều nhất ở xã Trà Bình với diện tích 510ha, sản lượng 1.751 tấn. Năng suất lúa cao nhất ở thị trấn Trà Xuân với 40,36 tạ/ha, kế ñó là xã Trà Phú 37,21 tạ/ha, thấp nhất ở xã Trà Lâm 19,42 tạ/ha.

Ngô trồng nhiều nhất ở xã Trà Sơn với diện tích 94ha, sản lượng 190 tấn; tiếp ñó là xã Trà Bình với diện tích 45ha, sản lượng 113 tấn; xã Trà Thủy với diện tích 41ha, sản lượng 91 tấn.

Sắn toàn huyện có diện tích khá lớn, trong ñó có diện tích sắn lớn nhất là xã Trà Bình với 495ha, xã Trà Tân với 415ha, nhưng sản lượng sắn cao nhất lại là xã Trà Phú với 5.076 tấn.

Lạc trồng nhiều nhất là ở xã Trà Bình với diện tích 120ha, sản lượng 174 tấn; xã Trà Phú 21ha, sản lượng 31 tấn; thị trấn Trà Xuân 9ha, sản lượng 12 tấn. Các xã khác không có.

Mía cũng tập trung ở ba xã, thị trấn vùng thấp, trong ñó tập trung ở xã Trà Bình với diện tích 128ha, sản lượng 5.760 tấn mía cây, chiếm khoảng 2/3 về diện tích và sản lượng mía toàn huyện.

ðậu các loại với diện tích ít ỏi phân bố ñều khắp các xã, thị trấn.

Rau các loại trồng nhiều nhất ở xã Trà Phú với diện tích 75ha, sản lượng 1.019 tấn, thị trấn Trà Xuân với 46ha, sản lượng 632 tấn.

Page 115: Các Huyện - Thành phố

Ñòa chí Quaûng Ngaõi Trang 115

Về thủy lợi , tổng diện tích tưới nước bằng công trình thủy lợi có 516,4ha, trong ñó tưới bằng công trình kiên cố có 421,4ha (năm 2004).

Các loại gia súc, gia cầm ở Trà Bồng phổ biến là bò, trâu, heo, gà, vịt. Tình hình chăn nuôi vẫn chưa ở mức cao, như số liệu của năm 2004 cho thấy: toàn huyện có 59 con trâu, 6.687 con bò, 14.611 con heo và trên 59.000 gia cầm. Năm 2005, Trà Bồng có 74 con trâu, 7.670 con bò, 15.249 con heo. Các xã Trà Giang, Trà Phú, Trà Bùi không có trâu. Các xã khác có tối ña 22 con trâu. Trong tổng số 7.670 con bò trong toàn huyện, các xã, thị trấn vùng thấp có ñến 5.589 con, chiếm tỷ lệ trên 2/3, cụ thể xã Trà Bình có 2.385 con, xã Trà Phú 1.926 con, thị trấn Trà Xuân 1.278 con, các xã còn lại ñều có từ 600 con trở xuống. Các xã có số lợn trên 2 tháng tuổ i từ 1.000 con trở lên gồm: xã Trà Phú 2.930 con, xã Trà Bình 2.855 con, thị trấn Trà Xuân 2.827 con, xã Trà Thủy 1.700 con, xã Trà Sơn 1.550 con, xã Trà Hiệp 1.411 con. Các xã khác chỉ có từ 700 con trở xuống.

Về lâm nghiệp, thuở xưa vùng Trà Bồng nổ i tiếng với loại cây trồng ñặc chủng là cây quế, thường ñược gọi là quế Quảng. Bên cạnh một ít quế rừng mọc tự nhiên, người Cor chuyên việc trồng quế trên rẫy, thành rừng. Nhiều thương nhân người Việt ñã lên các làng người Cor ñể mua quế về xuôi bán lại cho người Hoa xuất khẩu. Thời nhà Nguyễn, hằng năm các vua Nguyễn ñều cho ñặt mua quế Trà Bồng. Người dân Cor bóc vỏ quế bán ñể mua về các vật dụng thiết yếu. Quế ñược trồng bổ sung hằng năm. Ngoài việc trồng quế, hoạt ñộng lâm nghiệp của người Cor chủ yếu là khai thác sản vật ở rừng. Trải qua quá trình khai thác và qua hai cuộc chiến tranh, rừng Trà Bồng bị tàn phá nặng, trong khi ñồng bào dân tộc Cor vẫn dựa vào việc khai thác lâm thổ sản như một nguồn bổ sung quan trọng cho cuộc sống, thì ñối với chính quyền ñịa phương, việc bảo vệ, khoanh nuôi, trồng rừng phòng hộ, rừng nguyên liệu... là nhiệm vụ quan trọng và cũng là sự tạo môi trường thuận lợi, hỗ trợ cuộc sống cho nhân dân. Việc khai thác chủ yếu tập trung vào gỗ rừng trồng như keo, bạch ñàn, các loại cây thiên nhiên như tre, nứa, lồ ô, mây, ñót khô. Riêng vỏ quế xô hằng năm khai thác vài trăm tấn. Diện tích trồng quế tính ở thời ñiểm năm 2004 có 3.387ha. Việc trồng và khai thác quế trong hàng chục năm trở lại ñây ñã suy giảm, nằm ở mức thấp, vì giá quế trên thị trường xuống rất thấp. ðây là một vấn ñề khá nan giải cho vùng ñất quế Trà Bồng. Bà con dân tộc Cor vốn trông cậy nhiều ở cây quế và ñiều kiện, ñịa hình, khí hậu ở ñây không dễ chuyển ñổi sang cây trồng khác. Cây keo lai ñang ñược trồng khá nhiều.

Về tiểu thủ công nghiệp, ở Trà Bồng chủ yếu vẫn là các nghề thủ công mang tính tự túc, tự cấp của người Cor, trong ñó chủ yếu là ñan lát các vật dụng dùng cho sinh hoạt và sản xuất như gùi các loại, chiếu nằm, chiếu phơi lúa, mủng, giỏ nhốt gà... với những nét ñan lát khá tinh xảo. Vật liệu ñan chủ yếu dùng mây, cây lùng, nứa. Nghề thủ công của người Kinh thì chủ yếu là các nghề thông dụng như hồ, mộc, làm gạch ngói, rèn, khai thác ñá. Từ sau năm 1975, ở Trà Bồng còn có thêm nghề sản xuất ñồ thủ công mỹ nghệ từ vỏ quế, như bình ly, ống ñựng tăm, quả bánh bằng vỏ quế già (quế tam sơn), nhưng việc tiêu thụ chưa nhiều. Suối Thạch Bích tại xã Trà Bình ñã ñược Nhà máy nước khoáng của Công ty ñường Quảng Ngãi khai thác và ñóng chai

Page 116: Các Huyện - Thành phố

Ñòa chí Quaûng Ngaõi Trang 116

với thương hiệu cùng tên, là một sản phẩm rất ñược ưa chuộng trên thị trường. Thống kê cho biết năm 2005, Trà Bồng có 235 cơ sở sản xuất công nghiệp cá thể với 308 lao ñộng, tập trung ở thị trấn Trà Xuân, xã Trà Bình, xã Trà Phú, xã Trà Sơn và xã Trà Tân. Công nghiệp Trà Bồng chủ yếu tập trung ở việc chế biến thực phẩm, may mặc, sản phẩm gỗ, tre nứa. Giá trị sản xuất công nghiệp trên ñịa bàn là 4,547 tỷ ñồng theo giá hiện hành năm 2005.

Mặc dù cho ñến trước Cách mạng tháng Tám 1945 ñồng bào dân tộc Cor ở Trà Bồng vẫn trong trạng thái kinh tế - xã hộ i thời tiền giai cấp, nhưng ñã có giao thương xuôi ngược với người Việt, người Hoa từ rất sớm. Chợ Thạch An nằm ở phía tây huyện Bình Sơn là một ñ iểm giao thương khá sầm uất từ nguồn về biển. Người Cor mang quế ñến bán, mua về nồi, niêu, cồng, chiêng, chè, vải, muối, gạo, rìu, rựa... tức những vật dụng thiết yếu cho sinh hoạt và sản xuất. Cũng rất phổ biến là các thương nhân người Việt mang cõng lên các làng nóc nằm ở lưng chừng các núi ñể thực hiện việc buôn bán tại chỗ. Từ sau năm 1975, các hình thức buôn bán như vậy vẫn rất thường thấy. Tuy nhiên, các ñiểm thương mại, dịch vụ, các chợ ñã dần ñược xây dựng ở các xã, ở huyện lỵ, ñã trở thành nơi tập trung buôn bán của ñồng bào các dân tộc tại Trà Bồng. Chợ Trà Bồng ở trung tâm thị trấn Trà Xuân và các cửa hiệu ở xung quanh ngày càng buôn bán sầm uất. Ở các thôn, làng của ñồng bào Cor, thông thường mỗi nơi có một vài tiệm bán tạp hóa với các mặt hàng thiết yếu, do người Việt ñảm nhiệm. Thống kê cho biết trong trong ñịa hạt Trà Bồng năm 2005 có 805 cơ sở kinh doanh thương mại - dịch vụ cá thể với tổng cộng 871 lao ñộng, phân bố rải rác trong huyện, nhưng tập trung nhiều nhất vẫn là ở Trà Xuân, Trà Phú, Trà Bình.

Cơ sở hạ tầng ở Trà Bồng ñã có sự phát triển khá. Từ nhiều trăm năm trước, ñường từ miền xuôi lên nguồn Trà Bồng ñã có, nhưng chỉ là ñường ñất. Trà Bồng ñược xem là vùng rừng thiêng nước ñộc, xa xôi hiểm trở. Châu lỵ Trà Bồng trước Cách mạng tháng Tám 1945 tuy ñã có nhưng còn sơ sài, chỉ có ñồn binh và nhà cửa của quan cai trị. Trải qua hai cuộc kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ, cứu nước, ñường sá có phần ñược cải thiện hơn trước.

Cuối thập niên năm mươi của thế kỷ XX, vợ cố vấn Ngô ðình Nhu là Trần Lệ Xuân ra lệnh cho cấp dưới làm ñường ở ñịa hạt Trà Bồng ñể ñộc quyền khai thác, buôn bán quế. ðường rừng ñi Trà Phong, ñường nước ñi dọc các xã Trà Thuỷ, Trà Hiệp qua huyện Trà My (tỉnh Quảng Nam) có xây cầu cống, tu sửa, cầu bắc qua sông Trà Bồng ñược xây dựng, năm 1964 bị trận lũ lớn cuốn trôi (ñến năm 2005 xây dựng lại). Tuy nhiên phải ñến sau 1975, ñường sá mới thật sự chuyển biến. Tỉnh lộ 622 từ Châu Ổ (huyện Bình Sơn) nối với huyện lỵ Trà Bồng ñã ñược trải nhựa. ðường Trà Bồng - Trà Phong (huyện lỵ Tây Trà) ñược xây dựng, trải nhựa. Hiện nay, ñoạn tỉnh lộ 622 từ thị trấn Trà Xuân qua cầu men theo tả ngạn sông Trà Bồng dẫn ñến Trà My ñã có kế hoạch xây dựng, nâng cấp. ðường huyết mạch từ Trà Tân ñ i Trà Bùi ñang ñược xây dựng. Các con ñường nối các xã dần dần ñã ñược bêtông hóa.

Page 117: Các Huyện - Thành phố

Ñòa chí Quaûng Ngaõi Trang 117

Về thông tin liên lạc, ở huyện lỵ Trà Bồng có bưu ñiện huyện, ở các xã có nhà bưu ñiện văn hóa xã. Số máy ñiện thoại cố ñịnh năm 2004 là 1.265 máy, năm 2005 là 1.650 máy.

Sự chuyển biến rõ nhất là ở ñiện lực. Xưa kia, Trà Bồng không có ñiện, ở người Việt, việc thắp sáng chủ yếu dựa vào dầu thực vật như dầu dừa, dầu phụng, sáp ong và dầu hoả; còn ở người Cor thì chủ yếu nhờ lửa củi. Từ năm 1990, thuỷ ñiện Cà ðú với công suất 400kW ñược xây dựng ñưa ñiện về thắp sáng huyện lỵ. Năm 1995, lưới ñiện quốc gia kéo về huyện lỵ và các xã. Năm 2004, số hộ dùng ñiện là 4.672 hộ, chiếm 75% tổng số hộ trong toàn huyện. ðiện kéo về ñã góp phần làm biến ñổi lớn chất lượng cuộc sống vật chất và tinh thần của các tầng lớp dân cư, nhất là khi các phương tiện nghe nhìn, truyền thông ñại chúng ngày càng lan rộng.

Các cơ sở công cộng, như cơ quan, trạm y tế ñược xây dựng ngày càng khang trang. Ở các xã người Việt, ña số nhà ở ñã ñược ngói hóa. Ở các làng người Cor, nhiều người ñã làm ñược nhà ngói, có làng ñã ngói hóa hoàn toàn như thôn 2 xã Trà Thủy. Tuy vậy, nhìn chung ñời sống của nhân dân còn quá thấp là một trở ngại trên con ñường phát triển.

* * *

ðiểm nổ i bật trong văn hóa ở Trà Bồng là các di sản văn hóa cổ truyền và các hoạt ñộng văn hóa mới. Ở dân tộc Cor, di sản văn hóa khá phong phú. Trà Bồng là ñịa bàn cư trú chính của dân tộc Cor. Nơi ñây, người dân vẫn bảo tồn ñược các di sản văn hóa vật thể và phi vật thể quý báu. Người Cor vốn có tín ngưỡng nguyên thuỷ vạn vật hữu linh. Trong di sản văn hóa dân tộc Cor có truyện cổ tích (ñã phần nào ñược sưu tầm, dịch thuật và xuất bản), có các làn ñiệu dân ca như xà-ru, a-giới, cà-lu, a-rợp... Người Cor thích ñánh chiêng và có nhiều giai ñiệu chiêng ñặc sắc. Lễ hội của người Cor thì có lễ ăn lúa mới, làm nhà mới; ñặc sắc có lễ cưới, lễ hộ i ăn trâu rất ñậm màu sắc dân tộc. Trong lễ ăn trâu có cây nêu và cái gu, các bái vật hết sức ñộc ñáo. Cây nêu của dân tộc Cor ñược dựng khá cao, với nhiều nét hoa văn, ñan, khắc tinh xảo, có hình tượng chim chèo bẻo trên ñầu nêu, thể hiện quan niệm thẩm mỹ và bàn tay khéo léo của các nghệ nhân Cor. Riêng bộ gu thờ treo trong nhà là di sản riêng có của dân tộc Cor, không thể tìm thấy ở các dân tộc khác. Gu thờ có gu pi treo giữa nhà, có con chim ñại bàng lớn ñược khắc vạch các hoa văn ñỏ, trắng trên nền ñen. Gu dẹt hay các la vang treo ở cửa ra vào, cửa xuống bếp và gu treo ở bếp. Trên các la vang là cả một bức tranh liên hoàn, trong ñó có vẽ các hình ảnh, hoa lá, sinh hoạt rất ñặc thù. Người Cor còn giỏi nghề ñan. Những sản phẩm ñồ ñan của người Cor thật sự là những tác phẩm nghệ thuật, tinh xảo, ñẹp mắt. Những kinh nghiệm về trồng, chế biến, khai thác quế, kinh nghiệm về chữa bệnh... cũng là những tri thức dân gian quý báu. Về di sản văn hóa Việt ở Trà Bồng, có thể kể ñến những bài ca dao, các ñiệu hát còn lưu truyền ở những người già. ðiều ñáng lưu ý là có sự giao thoa văn hóa giữa người Việt và người Cor ở Trà Bồng khá ñậm nét: người Cor có bộ lễ phục áo dài vốn là sản phẩm của miền xuôi. Ở ñiện Trường Bà

Page 118: Các Huyện - Thành phố

Ñòa chí Quaûng Ngaõi Trang 118

(thị trấn Trà Xuân), người Cor, người Việt ñều tới cúng lễ. ðền thờ hổ ở xã Trà Hiệp cũng là một biểu tượng của giao thoa văn hóa Việt - Cor. Bên cạnh ñó, di sản thiên nhiên ở Trà Bồng cũng rất quý, như các suối thác, ñồi núi hùng vĩ và nên thơ, nổi tiếng như thác Cà ðú, thác Xăng Bay, suối Nước Nun, suối Trà Cân, suối Nang, núi Răng Cưa... Di tích thì có ñiện Trường Bà, các ñiểm di tích chung quanh cuộc Khởi nghĩa Trà Bồng và miền Tây Quảng Ngãi. Từ 1999, Nhà Bảo tàng Khởi nghĩa Trà Bồng ñã ñược xây dựng, trưng bày các hình ảnh, hiện vật dân tộc học và về cuộc khởi nghĩa. ðó là những di sản văn hóa quý báu, có khả năng thu hút khách tham quan du lịch.

Trong các hoạt ñộng văn hóa hiện nay, các di sản văn hóa cổ truyền ñã ñược chú ý khai thác, phát huy. ðó là các cuộc liên hoan cồng chiêng, thi trang phục dân tộc, hội diễn ca múa nhạc dân tộc, thi hát dân ca... từ phong trào văn nghệ quần chúng ở huyện, ở tỉnh. ðồng thời, phong trào toàn dân ñoàn kết xây dựng ñời sống văn hóa cũng ñược quan tâm. Có thể lấy mốc Cách mạng tháng Tám 1945 là thời ñiểm dân tộc Cor ở Trà Bồng bước vào nếp sống hiện ñại. Tuy nhiên, do phải trải qua hai cuộc chiến tranh, ñồng bào Cor chủ yếu vẫn sống theo nếp cũ. Chỉ ñến sau năm 1975, ñồng bào mới từ các sườn núi cao xuống thấp, ñịnh cư ở các thung lũng, bãi bỏ các tập tục lạc hậu và xây dựng ñời sống mới. Vừa kế thừa các tinh hoa văn hóa cổ truyền, vừa tiếp thu văn hóa mới là nét nổi bật trong văn hóa các dân tộc ở Trà Bồng ngày nay. Các sinh hoạt thể thao quần chúng dần dần thâm nhập trong ñời sống ở nhiều làng xã. Ở huyện có ñài truyền thanh và trạm phát lại truyền hình, ở xã có ñài truyền thanh xã. Sinh hoạt văn hóa của ñồng bào các dân tộc ở Trà Bồng ñã ñược cải thiện, nâng cao hơn nhiều so với trước kia.

Về giáo dục, xưa kia, việc học dường như chỉ hạn chế ở ñồng bào Việt và trong ñồng bào Việt cũng chỉ có một số ít con nhà khá giả ñược học. ða số dân Việt và dân Cor ñều mù chữ. Trải qua thời gian và các cuộc chiến tranh với rất nhiều gian khó, việc học ở Trà Bồng ngày nay ñã thực sự phát triển. Giáo dục ở Trà Bồng dần dần tiến bộ và ñã ñ i vào nề nếp. ðến 2005, Trà Bồng có tổng số 16 trường học, trong ñó có 1 trường Trung học phổ thông, 10 trường Trung học cơ sở, 11 trường Tiểu học; có 3.875 học sinh Tiểu học với 144 lớp, 2.879 học sinh Trung học cơ sở với 81 lớp, 1.780 học sinh Trung học phổ thông với 39 lớp. Hệ mẫu giáo có 11 trường, 45 lớp với 1.892 học sinh. Nhiều người dân tộc Cor học lên bậc ðại học. Một số gia ñình người Việt ñã nuôi con học ñến Tiến sĩ. Tuy vậy, do ñời sống khó khăn nên số học sinh bỏ học, nhất là ở dân tộc Cor vẫn còn cao.

Chăm sóc sức khoẻ là một vấn ñề ñược quan tâm ở Trà Bồng. Xưa kia, người Việt, người Cor chữa bệnh chủ yếu dựa vào kinh nghiệm dân gian từ nhiều ñời truyền lại. Từ sau 1975, bệnh xá huyện ñược xây dựng. Hệ thống y tế gồm Trung tâm y tế huyện, ñội vệ sinh phòng dịch và 10 trạm y tế ở 10 xã, thị trấn. Việc chăm sóc sức khoẻ, phòng và chữa bệnh ngày càng ñược tốt hơn. Bệnh viện huyện có 100 giường bệnh. Số cán bộ y tế có 83 người, trong ñó có 9 bác sĩ, 1 dược sĩ ñại học, riêng trạm y tế xã chỉ mới ở Trà Hiệp có bác sĩ. ðồng bào Cor ñã cơ bản bãi

Page 119: Các Huyện - Thành phố

Ñòa chí Quaûng Ngaõi Trang 119

bỏ việc cúng chữa bệnh. Việc ăn ở vệ sinh, dùng thuốc chữa bệnh ñã trở thành phổ biến trong nhân dân.

Về các vấn ñề xã hội: Nguồn lao ñộng ở Trà Bồng ngày càng tăng lên về số lượng và có sự cải thiện ñáng kể về chất lượng. Mỗi năm, số lượng lao ñộng tăng bình quân khoảng 4,5 - 5%. Chất lượng lao ñộng cũng có tăng lên, nhờ nhiều người có học vấn cao hơn, ñược ñào tạo ngành nghề. Với ñà phát triển kinh tế, mỗ i năm trên ñịa bàn huyện giải quyết ñược khoảng 400 - 500 việc làm cho người lao ñộng. Tuy vậy, việc làm, ñói nghèo vẫn là vấn ñề lớn ở Trà Bồng. Thống kê năm 2005 cho biết toàn huyện có 16.317 lao ñộng, trong ñó số người trong ñộ tuổi lao ñộng không làm việc là 417 người, số người trong ñộ tuổi có khả năng lao ñộng không có việc làm là 589 người. Số người ngoài tuổ i lao ñộng có tham gia lao ñộng cũng khá cao với 2.254 người (1.126 người già, 1.128 trẻ em). Nhà nước ñã thực hiện trợ giá, trợ cước và phát không một số mặt hàng cho ñồng bào vùng cao. Số hộ nghèo ở Trà Bồng có giảm ñi, nhưng tỷ lệ vẫn còn cao.

(1) Theo Niên giám Thống kê tỉnh Quảng Ngãi 2005.

(2) Nguồn: Niên giám thống kê huyện Trà Bồng. Tổng số dân theo Niên giám thống kê huyện Trà Bồng có khác chút ít so với Niên giám thống kê tỉnh Quảng Ngãi.

(3), (5) Theo Niên giám thống kê tỉnh Quảng Ngãi, các số liệu này có chênh lệch nhưng không ñáng kể so với Niên giám thống kê huyện Trà Bồng.

(4) Nguồn: Niên giám thống kê tỉnh Quảng Ngãi.

Page 120: Các Huyện - Thành phố

Ñòa chí Quaûng Ngaõi Trang 120

HUYỆN TÂY TR À

TÂY TRÀ là huyện miền núi ở phía tây - tây bắc tỉnh Quảng Ngãi. Phía ñông giáp huyện Trà Bồng; phía tây và bắc giáp huyện Trà My (tỉnh Quảng Nam); phía nam giáp hai huyện Sơn Hà, Sơn Tây. Diện tích 336,8km2. Dân số 15.520 người (năm 2005). Mật ñộ dân số 46 người/km2(1). ðơn vị hành chính trực thuộc gồm có 9 xã, tên các xã ñều lấy chữ Trà làm ñầu như ở huyện Trà Bồng (Trà Phong, Trà Quân, Trà Khê, Trà Thanh, Trà Thọ, Trà Lãnh, Trà Nham, Trà Xinh, Trà Trung), với 37 thôn; trong ñó:

Xã Trà Phong có 7 thôn: Trà Nga, Trà Niêu, Gò Rô, Hà Riềng, Trà Bung, Trà Na, Trà Reo.

Xã Trà Quân có 3 thôn: Trà Bao, Trà Xuông, Trà Ong;

Xã Trà Khê có 3 thôn: thôn Sơn, thôn Hà, thôn ðông;

Xã Trà Thanh có 4 thôn: thôn Vuông, thôn Cát, thôn Gỗ, thôn Môn;

Xã Trà Thọ có 5 thôn: Bắc Dương, Nước Biếc, thôn Tre, thôn Tây, Bắc Nguyên;

Xã Trà Lãnh có 4 thôn: Trà Lương, Trà Linh, Trà Dinh, Trà Ích;

Xã Trà Nham có 4 thôn: Trà Cương, Trà Huynh, Trà Long, Trà Vân;

Xã Trà Xinh có 3 thôn: Trà Veo, Trà Ôi, Trà Kem;

Xã Trà Trung có 4 thôn: thôn ðam, thôn Vàng, thôn Xanh, thôn ðông.

Huyện lỵ ñóng ở xã Trà Phong. Từ tỉnh lỵ Quảng Ngãi ñến Tây Trà khoảng 90km.

Tây Trà là huyện mới tách lập từ vùng ñất phía tây huyện Trà Bồng kể từ ñầu năm 2004. Huyện nằm ở vị trí xa xôi nhất của tỉnh Quảng Ngãi, ñời sống kinh tế còn hết sức khó khăn.

* * *

Về hành chính: Diễn tiến hành chính xin xem ở phần viết về Trà Bồng. Tây Trà và Trà Bồng là một trong bốn nguồn chính ở tỉnh Quảng Ngãi, xưa có tên là nguồn ðà Bồng, nguồn Thanh Bồng. Tây Trà với ý nghĩa là Tây Trà Bồng, là vùng núi cao của tỉnh Quảng Ngãi, có núi rừng trùng ñiệp. Thuở trước, nơi ñây là rừng thiêng nước ñộc, với rừng rậm, nhiều chim thú, nhiều voi, hổ và các loài ñộng vật hoang dã khác.

Page 121: Các Huyện - Thành phố

Ñòa chí Quaûng Ngaõi Trang 121

Về tự nhiên: ðịa hình Tây Trà bị chia cắt mạnh bởi sông núi. Là một huyện miền núi nằm ở phía ñông dãy Trường Sơn, Tây Trà có ñộ cao trung bình 500 - 700m, ñịa hình thấp dần từ tây sang ñông, ñộ dốc bình quân 15 - 20o. Các núi cao là Cà ðam (tức Ngất Cà ðrook), Măng Xinh, Giơ Lốc, Trà Rút. Có các con sông Hà Riềng (ðắk Xa Riếc), sông Tang (ðắk Ka Tốc), Nước Biếc (ðắk Xa Biếc), sông Trà Ích (ðắk La Buốc). Các sông nhỏ hợp nước với sông Tang, chảy theo hướng tây bắc - ñông nam, nhập vào với sông Rinh tại xã Sơn Bao ở tây bắc huyện Sơn Hà. Sông Rinh chảy về ñông, lại nhập với sông Rhe thành sông Trà Khúc, con sông lớn nhất của tỉnh Quảng Ngãi. Do vậy, có thể hiểu các sông ở Tây Trà là phụ lưu phía bắc của sông Rinh hay của sông Trà Khúc. Tại xã Trà Thanh cực tây bắc huyện là ñ iểm xuất phát của sông Trường, chảy theo hướng tây - tây bắc vào ñịa hạt tỉnh Quảng Nam... Giữa các khối núi có các thung lũng sâu và ñồng bằng rất hẹp. Tài nguyên chủ yếu là rừng tự nhiên với hệ ñộng thực vật khá phong phú. ðất ở Tây Trà chủ yếu là ñất triền dốc, thích hợp với cây quế và một số cây trồng khác.

Theo bản ñồ thổ nhưỡng tỉnh Quảng Ngãi (năm 1998, theo tiêu chuẩn của FAO - UNESCO) thì Tây Trà có 2 nhóm ñất chính: nhóm ñất xám (AC) chiếm ñến 96,46%, nhóm ñất phù sa chỉ chiếm 3,54% diện tích tự nhiên (dọc theo các con sông).

Về khí hậu, ñịa bàn Tây Trà có khí hậu khá khắc nghiệt, lượng mưa lớn, nắng nóng gắt, thường gây ra hạn hán, lũ lụt. Lượng mưa trung bình hàng năm lên ñến 3.450mm, thường gây lụt lớn, lũ quét, sạt lở núi. Khi mưa dông có sấm sét dữ dội, có lúc ñánh chết người.

Về tài nguyên thiên nhiên ở Tây Trà có thể kể ñến ñất ñai, tài nguyên rừng, tài nguyên nước và khoáng sản.

Tài nguyên ñất: Tính ở thời ñiểm 2005, tình trạng sử dụng ñất ñai ở Tây Trà như sau: 1) ðất nông nghiệp 3.390,4ha (2.856ha trồng cây hàng năm và 528,4ha trồng cây lâu năm); 2) ðất lâm nghiệp 18.954ha (rừng tự nhiên 12.642,8ha, rừng trồng 6.311,2ha); 3) ðất chuyên dùng 599,6ha; 4) ðất ở 148,8ha; 5) ðất chưa sử dụng 10.586,2ha.

Tài nguyên rừng: Rừng tự nhiên ở Tây Trà thường là rừng gỗ lá rộng, rừng già còn lại không nhiều. Do việc ñốt nương làm rẫy, diện tích rừng ngày càng thu hẹp, ñất ñai bị xói mòn.

Tài nguyên nước: Nguồn nước khá dồi dào, nhưng do ñịa hình phức tạp nên việc dùng nguồn nước từ sông suối cho sản xuất và ñời sống khó khăn. Hiện Quảng Ngãi ñang xây dựng hồ chứa nước lớn trên sông Tang (hồ Nước Trong).

Tài nguyên khoáng sản: Chưa ñược khảo sát, ñánh giá ñầy ñủ. Chủ yếu là ñá xây dựng, ñá ốp lát, trữ lượng vài triệu mét khố i.

Page 122: Các Huyện - Thành phố

Ñòa chí Quaûng Ngaõi Trang 122

Về dân cư, các phát hiện khảo cổ học gần ñây tại xã Trà Phong ñã cho biết, tại ñịa bàn Tây Trà ngày nay, từ thời thượng cổ ñã có các lớp cư dân sinh sống. Cư dân ở Tây Trà ngày nay hầu hết là người Cor, một số người Ca Dong, người Hrê và người Việt. Người Cor ở Tây Trà là một bộ phận của dân tộc Cor cư trú tập trung ở các huyện Trà Bồng, Tây Trà, Trà My (Quảng Nam), tây bắc Quảng Ngãi và tây nam Quảng Nam, trong ñó số dân Cor ở Tây Trà là ñông nhất.

Trong tống số 15.520 người tại thời ñ iểm 2005 ở Tây Trà, người Cor có tới 13.139 người (hơn 84,6%), sống ở khắp nơi trong huyện.

Trong huyện Trà Bồng cũ thì dân tộc Cor có Cor "ñường rừng" và Cor "ñường nước". ðồng bào Cor ở ñịa bàn Tây Trà ngày nay chủ yếu là Cor "ñường rừng". ðặc ñiểm chung của dân tộc Cor từ Cách mạng tháng Tám 1945 trở về trước là ñang ở trạng thái kinh tế - xã hộ i tiền giai cấp, trong ñó, sản xuất chưa thực sự phát triển, chế ñộ tư hữu chỉ mới manh nha, tinh thần cố kết cộng ñồng cao, hiền hòa, dũng cảm, hiếu khách, sống chủ yếu bằng nghề làm nương rẫy, trồng quế, kết hợp với săn bắn, hái lượm.

Người Ca Dong ở Tây Trà hầu hết sống ở xã Trà Xinh (Măng Xinh xưa), với số dân 1.449 người (chiếm hơn 9,3% dân số toàn huyện), có ñặc ñiểm chung với người Ca Dong ở huyện Sơn Tây láng giềng.

Người Hrê ở Tây Trà có 459 người (hơn 2,9% dân số toàn huyện), cư trú chủ yếu ở hai xã Trà Xinh, Trà Thọ giáp giới với huyện Sơn Hà và mang ñặc ñiểm chung với dân tộc Hrê nơi ñây.

Người Việt có nét văn hóa Việt ở ñồng bằng, với số lượng 452 người (hơn 2,9% dân số toàn huyện), trong ñó có 301 người ở xã Trà Phong, số còn lại ở rải rác tất cả các xã.

Các dân tộc anh em ở ñịa bàn Tây Trà chủ yếu sống bằng nghề nương rẫy (riêng người Việt chủ yếu là làm công chức, giáo viên, buôn bán), có truyền thống ñoàn kết, tương thân tương ái trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Xét về diện tích tự nhiên, xã có diện tích rộng nhất là Trà Xinh (79,87km2), xã có diện tích hẹp nhất là Trà Quân (17,51km2).

Xét về dân số, lấy thời ñiểm năm 2005 làm mốc, thì xã có số dân ñông nhất là Trà Phong (nơi ñóng huyện lỵ) với 3.240 người, xã có số dân ít nhất là Trà Trung với 792 người. Về mật ñộ dân số, trung bình trong toàn huyện là 46 người/km2, xã có mật ñộ cao nhất là Trà Quân (97 người/km2), xã có mật ñộ thấp nhất là Trà Xinh (21 người/km2). Mật ñộ dân số ở Tây Trà khá thưa thớt và sự phân bố dân cư không ñồng ñều. Cụ thể diện tích, dân số và mật ñộ dân số các xã ở Tây Trà năm 2005 như sau(2):

Page 123: Các Huyện - Thành phố

Ñòa chí Quaûng Ngaõi Trang 123

TT Xã Diện tích (km2) Dân số (người) M ật ñộ dân số (người/km2)

1 Trà Phong 38,48 3.240 84 2 Trà Thọ 49,56 1.787 36 3 Trà Khê 32,32 1.351 42 4 Trà Nham 21,18 1.637 77 5 Trà Thanh 48,48 1.745 36 6 Trà Quân 17,51 1.706 97 7 Trà Lãnh 28,95 1.610 56 8 Trà Trung 20,44 792 39

9 Trà Xinh 79,87 1.652 21

* * *

Về truyền thống yêu nước, Tây Trà với huyện Trà Bồng gần như là một. ðồng bào các dân tộc ở Tây Trà ñã có nhiều cuộc nổi dậy chống phong kiến, ñế quốc từ trước Cách mạng tháng Tám 1945, trong ñó nổi bật là phong trào "Nước Xu ñỏ" mang màu sắc thần bí từ những năm 1937 - 1938. Cũng như các dân tộc ở bắc Tây Nguyên, dân tộc Cor tham gia nổi dậy và tin vào thứ "nước thần" thiêng liêng. ðoàn nghĩa quân Cor kéo về ñánh châu lỵ Trà Bồng thất bại, kéo lên núi Cà ðam xây dựng căn cứ chống Pháp, từng ñẩy lùi cuộc càn quét của quân Pháp ở Gò Rô, cầm cự cho mãi ñến Cách mạng tháng Tám 1945, dưới sự lãnh ñạo của cụ Gia, cụ Bung, cụ Triều, cụ Tài. Nghĩa quân Cor nhiều lần bẻ gãy các cuộc tấn công của quân Pháp, giết ñược tên quan hai Pháp La Booctê (La Borté), ñồn trưởng Trà Bồng. Trong kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ, cứu nước, ñịa bàn Tây Trà tiếp tục là căn cứ ñịa vững chắc của cách mạng. Núi Cà ðam trở thành nơi ñóng căn cứ của tỉnh trong những năm ñầu cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước. Hội nghị thể hiện lòng quyết tâm ñánh Mỹ, ñược mệnh danh là ðại hội "Diên Hồng" của các dân tộc tỉnh Quảng Ngãi, ñược tổ chức ngày 7.7.1958 tại Gò Rô lịch sử. Trong cuộc Khởi nghĩa Trà Bồng và miền Tây Quảng Ngãi ngày 28.8.1959, hầu hết các xã ở Tây Trà ñều nổi dậy ñánh ñịch, giải phóng quê hương, nay còn lại các di tích ở Gò Rô (Trà Phong), Eo Chim (Trà Lãnh), Làng Ngải (Trà Xinh), Nước Xoay (Trà Thọ)... Năm 1962, lực lượng cách mạng bẻ gãy cuộc hành quân chiến thuật trực thăng vận của ñịch ở Nà Niêu (Trà Phong). Tháng 4.1964, quân giải phóng ñánh thắng cuộc càn quét mang tên "quyết thắng 203" của ñịch tại Măng Xinh (Trà Xinh). Sau năm 1975, nhân dân các dân tộc trên ñịa bàn Tây Trà tiếp tục truyền thống xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội trên ñịa bàn, xây dựng thế trận lòng dân vững chắc.

Quân và dân Tây Trà, quân và dân 3 xã Trà Phong, Trà Trung, Trà Lãnh ñược phong tặng danh hiệu Anh hùng Lực lượng Vũ trang nhân dân.

* * *

Page 124: Các Huyện - Thành phố

Ñòa chí Quaûng Ngaõi Trang 124

Về hoạt ñộng kinh tế, ở Tây Trà còn mang ñậm dấu vết của kinh tế nông nghiệp sơ khai, nặng tính chất tự túc tự cấp. Cho ñến năm 2004, tổng giá trị sản xuất toàn huyện chỉ ñạt 16,1 tỉ ñồng, trong ñó nông, lâm nghiệp chiếm ñến 98,1% cơ cấu kinh tế của huyện.

Trong nông nghiệp, người dân Tây Trà từ xưa không có ruộng nước, chỉ canh tác lúa rẫy, trỉa bắp ñể có lương thực duy trì cuộc sống. Cây trồng ñặc chủng truyền thống ñã có từ xưa là cây quế. Trong một thời gian dài của lịch sử, cây quế là nguồn sống chủ yếu của dân tộc Cor. Cây quế ở Tây Trà nói riêng, cả Trà Bồng, Trà My (Quảng Nam) nói chung là giống quế Quảng nổ i tiếng trong nước. Tuy vậy, trải qua thời gian, cây quế ñã bị xuống giá, nên không còn ñóng vai trò chính trong nông, lâm nghiệp ở Tây Trà. Năm 2004, sản lượng quế vỏ khai thác chỉ khoảng 40 tấn, năm 2005 là 65 tấn, bằng một phần rất nhỏ so với trước kia. Người dân tăng cường trồng các loại cây lương thực ñể sinh sống, tuy nhiên do ñất ñai, nguồn nước không thật thuận lợi, nên việc phát triển cũng còn khá chậm chạp, lúa nước chủ yếu ở hai xã Trà Thọ, Trà Phong như các ñồng Nà Niêu (Trà Phong), Nà Pút. Cây lúa nước vốn không phải là cây trồng truyền thống, chỉ mới xuất hiện trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước và sau năm 1975. Diện tích ñất dành cho trồng lúa năm 2005 chỉ 304ha. Năm 2004, tổng diện tích gieo cấy lúa nước chỉ có 593ha, năng suất lúa cả năm trong toàn huyện chỉ ñạt 17,8 tạ/ha, ở các xã chỉ trên dưới con số này chút ít. ðồng ruộng hẹp, năng suất lại quá thấp, nên sản lượng lúa thu hoạch ít ỏi. Nghề làm rẫy với hai loại cây trồng chính là lúa rẫy và ngô tiếp tục duy trì. Lúa rẫy có khoảng trên 600ha, ngô có hơn 200ha (2004). Tổng diện tích gieo trồng cây lương thực năm 2004 là 1.417ha, năm 2005 là 1.468ha. Sản lượng lương thực năm 2004 là 2.282,1 tấn, năm 2005 là 2.694,4 tấn. Bình quân lương thực ñầu người năm 2004 là 152kg, năm 2005 là 173,6kg, còn xa mới bảo ñảm ñược nguồn lương thực tại chỗ. Diện tích gieo trồng lúa năm 2005 của Tây Trà là 1.206ha, trong ñó trừ xã Trà Trung thấp nhất với chỉ 51,6ha, các xã khác xê dịch từ 100 ñến 200ha, không có xã nào thực sự cao vượt trội. Cây khoai lang dường như ít ñược ưa chuộng. Cây ngô có diện tích 262ha, thu hoạch ñược 541,9 tấn. Cây khoai mì ñược chú ý trồng nhiều từ khi có Nhà máy tinh bột mỳ Sơn Hải (huyện Sơn Hà) ñược xây dựng. Năm 2005, Tây Trà có 1.112ha mì, sản lượng 9.766 tấn. Các loại rau, ñậu tuy có ñược trồng nhưng không thật ñáng kể. Thuở xưa, ñịa hạt Tây Trà trồng rất nhiều ñậu xanh, loại ñậu phổ biến ở nhiều vùng nhưng có lẽ ñược trồng nhiều ở ñây có thể vì loại cây trồng này chịu ñược nắng hạn. Nghề chăn nuôi không thật phát triển. Năm 2005, toàn huyện Tây Trà chỉ có 119 con trâu, 1.609 con bò (trong ñó chỉ có 13 con bò lai), 3.548 con heo, 12.420 con gà, 359 con dê, nếu so với chỉ một xã có nông nghiệp phát triển khá ở miền xuôi, vẫn còn kém xa, mặc dù nơi ñây có thuận lợi hơn về ñồng cỏ. Các xã có ngành chăn nuôi khá là Trà Phong, Trà Thọ, Trà Xinh, Trà Nham, tuy nhiên do tập quán chăn nuôi thả rông còn phổ biến, nên chất lượng, năng suất ñều không cao. Cây lúa nước ở Tây Trà chưa thể phát triển mạnh. Do ñặc ñiểm của ñịa chất, ñịa hình, dòng chảy trên ñịa bàn cư trú mà người dân Cor ở Tây Trà không có truyền thống canh tác lúa nước như người Việt hay người Hrê ở các huyện láng giềng. Từ sau năm 1975, với phong trào ñịnh canh ñịnh cư, người Cor mới dần từ bỏ khu vực cư trú ở cheo leo giữa sườn núi

Page 125: Các Huyện - Thành phố

Ñòa chí Quaûng Ngaõi Trang 125

xuống cư trú dưới các trảng bằng và mới bắt ñầu khai ruộng, tập làm lúa nước. Nếu không kể huyện Lý Sơn chủ yếu làm nghề cá, thành phố Quảng Ngãi trọng tâm là công - thương nghiệp, thì lương thực bình quân ñầu người hằng năm ở Tây Trà là thấp nhất trong các huyện nông nghiệp trong tỉnh, chỉ bằng một nửa bình quân lương thực ñầu người trong toàn tỉnh (320,3kg/năm 2005).

Sau ñây là thống kê tổng hợp về các cây trồng và vật nuôi chính của Tây Trà năm 2005(3).

Các loại cây trồng chính năm 2005

TT Cây trồng Diện tích canh tác (ha) Sản lượng (tấn) Năng suất (tạ/ha)

1 Lúa 1.206 2.152,1 17,8

2 Ngô 262 541,9 20,7

3 Khoai lang 32,5 133,9 41,5

4 Sắn 1.112 9.766 87,8

5 Vừng 19,5 4,5 2,3

6 Lạc 21 21 10

7 Rau các loại 140 796,7 56,9

8 ðậu các loại 119 90,6 7,6

Các vật nuôi chính năm 2005

Vật nuôi Trâu Bò Lợn Dê Gà Vịt Ngan, ngỗng

Số lượng (con) 118 1.609 3.548 359 12.420 62.000 249.000

Nguồn sống của người dân Tây Trà cũng khó có thể trông cậy vào lâm nghiệp. Do sự tàn phá nặng nề của chiến tranh cộng với sự khai thác thiếu kế hoạch của con người, rừng ở ñây từ lâu ñã trở nên nghèo kiệt. Theo thống kê của huyện Tây Trà, tổng diện tích rừng và ñất lâm nghiệp của toàn huyện là 30.478ha, trong ñó diện tích ñất có rừng chỉ là 8.733ha (chiếm 9%), diện tích ñất trống có ñến 21.743ha (71%). ðiều này ñặt ra một vấn ñề rất lớn về việc trồng rừng, khoanh nuôi, bảo vệ rừng. Do vậy, sản lượng khai thác lâm sản ngoài cây quế trồng như ñã kể, chủ yếu vẫn là khai thác ñót (sản lượng khoảng 303 tấn năm 2005) và lồ ô (khoảng 143 ngàn cây). Dân vùng Trà Niêu xưa kia còn trồng nhiều chè, cắt chè lá cõng ñi bán sang chợ Di Lăng (huyện Sơn Hà), nay chè cũng không phát triển. Người dân Tây Trà có nghề ñ i lấy mật ong về bán. Ong hoa quế khá thơm ngon. ðặc biệt, ở xã Trà Xinh có rừng nguyên sinh, thường có mật ong tốt. Rừng ñã nghèo kiệt nên ñối với Tây Trà ngày nay, lâm nghiệp chủ yếu tập trung vào việc trồng rừng và khoanh nuôi tái sinh rừng tự nhiên. Nguồn sống từ vật nuôi cây trồng khó khăn, người dân ở Tây Trà tiếp tục săn bắt, hái lượm ñể bù ñắp sự thiếu

Page 126: Các Huyện - Thành phố

Ñòa chí Quaûng Ngaõi Trang 126

hụt về lương thực, thực phẩm của mình, như bắt cá, săn thú rừng, hái rau, bắt ốc quanh các suối, thác...

Công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp ở ñịa hạt Tây Trà hầu như chưa có gì ñáng kể, ngoài nghề ñan lát cổ truyền của các dân tộc nhằm tự cung, tự cấp các vật dụng hằng ngày. Năm 2005, toàn huyện chỉ có 25 cơ sở công nghiệp cá thể với 40 lao ñộng, giá trị sản xuất công nghiệp trên ñịa bàn chỉ 882,9 triệu ñồng theo giá hiện hành.

Về thương mại - dịch vụ, xưa kia, những thương nhân người Việt từng lặn lội tận các làng trên cao ñể mua quế và bán các vật dụng thiết yếu cho ñồng bào Cor ở ñây. Từ sau 1975, ngành thương nghiệp quốc doanh và hợp tác xã mua bán hình thành và hoạt ñộng. Chuyển sang cơ chế thị trường, ở Tây Trà (mà chủ yếu là ở Trà Phong trung tâm huyện) mới mọc lên một số tiệm buôn bán, dịch vụ. Năm 2005, chỉ mới có 163 hộ kinh doanh mua bán nhỏ với 326 lao ñộng. Tổng mức bán lẻ hàng hóa và dịch vụ chỉ ñạt 727,7 triệu ñồng. Phương thức hàng ñổi hàng giữa người dân với nhau còn phổ biến. ðể ñảm bảo nhu cầu của người dân còn ñang rất khó khăn, nhà nước ñã tổ chức cấp không một số mặt hàng và bán trợ giá, trợ cước một số mặt hàng thiết yếu cho dân. Hiện ñời sống kinh tế của nhân dân ở Tây Trà vẫn hết sức khó khăn và không thể một sớm một chiều có thể khắc phục ñược.

Một cái nhìn tổng quát ñối với Tây Trà thì ñó là một huyện rất nghèo, thu nhập bình quân ñầu người năm 2004 chỉ khoảng 130.000 ñồng/tháng. Tất cả các xã trong huyện ñều là xã ñặc biệt khó khăn. Theo ñ iều tra của huyện ở thời ñiểm tháng 6.2004, số lượng hộ nghèo ở Tây Trà là 2.577 hộ, chiếm ñến 83,6% tổng số hộ trong huyện theo chuẩn cũ; còn theo chuẩn mới diện ñói nghèo chiếm ñến 95%. Tất cả các xã ñều có số hộ nghèo từ 83% trở lên, xã Trà Trung ở lưng chừng núi Cà ðam có 100% số hộ nghèo. Nguyên nhân của tình trạng ñói nghèo ở Tây Trà ngoài ñịa hình tự nhiên không thuận lợi, thiếu ñất sản xuất, cây trồng chủ lực là cây quế truyền thống bị xuống giá nghiêm trọng, còn có nguyên nhân thiếu kinh nghiệm làm ăn, thiếu vốn, thiếu lao ñộng và ñông người ăn theo...

ðể thúc ñẩy, kích thích sự phát triển mọ i mặt của ñời sống nhân dân, công tác xây dựng cơ sở hạ tầng ñược nhà nước cấp trên tập trung ñầu tư, chú ý ñẩy mạnh.

Về ñiện, trước kia ở các xã thuộc huyện Tây Trà hầu như không có nguồn ñiện nào, những năm từ ñầu thế kỷ XXI ñã kéo lưới ñ iện quốc gia về trung tâm huyện và dần dần ñến tất cả các xã trong huyện. Tuy nhiên, ñến năm 2004 chỉ mới có 10% số hộ dùng ñiện, do dân cư có thu nhập quá thấp và do tình trạng cư trú tản mát, xa xôi.

Về giao thông, tổng chiều dài ñường giao thông toàn huyện là 145km, trong ñó có nhiều ñường nhỏ khó ñi lại. Trục giao thông huyết mạch của huyện là tuyến ñường từ huyện lỵ Trà Bồng (tỉnh lộ 622) ñi huyện lỵ Tây Trà (Trà Phong) dài gần 40km, trong ñó tuyến ñường nằm trên ñịa hạt Tây Trà dài 21km ñã hình thành từ rất lâu ñời. Tuy vậy, ñây chỉ là nền ñường ñất, qua nhiều ñèo dốc cao, khe suối sâu, nên

Page 127: Các Huyện - Thành phố

Ñòa chí Quaûng Ngaõi Trang 127

ñến mùa mưa ñường sá thường bị tắc, chia cắt các xã trong vùng với bên ngoài, gây trở ngại rất lớn cho sản xuất và ñời sống. Từ năm 2004, tuyến ñường này bắt ñầu ñược xây dựng, nhựa hóa và cho ñến cuối năm 2005 ñã xong về cơ bản. Tuyến ñường liên huyện thứ hai từ Di Lăng (huyện lỵ Sơn Hà) chạy theo hướng tây bắc qua xã Sơn Bao, nối với Trà Thọ dẫn ñến huyện lỵ tại Trà Phong, dài 9km, ñường ñất, trong tương lai sẽ không còn tồn tại vì ở ñây sẽ xây dựng hồ Nước Trong. ðường liên xã có tổng chiều dài 70,7km, từ huyện lỵ ñi ñến các xã và giữa các xã trong huyện với nhau. Riêng từ Trà Phong ñi Trà Thanh, xã cực bắc của huyện ñến năm 2004 vẫn chưa có ñường ô tô. Các tuyến ñường liên xã, nội hạt xã vẫn ñang trong quá trình xây dựng. Cũng cần biết thêm rằng, tỉnh lộ 622 từ Bình Sơn ñến huyện lỵ Trà Bồng thì rẽ qua sông (phía tả ngạn sông Trà Bồng) qua các xã Trà Thủy, Trà Hiệp (huyện Trà Bồng), ñã băng qua xã Trà Thanh nối liền với huyện Trà My (tỉnh Quảng Nam). Như vậy, tuy chưa có ñường ôtô nối với huyện lỵ, nhưng xã Trà Thanh thông với Trà Bồng và huyện Trà My, có khả năng phát triển tốt về dân sinh.

Nhiều công trình thuỷ lợi cỡ nhỏ ñã ñược xây dựng ñể phục vụ sản xuất. Tuy nhiên, ở ñây cũng có hai khía cạnh khác nhau của một vấn ñề về phát triển thủy lợi. Công trình thủy lợi phải gắn liền với ruộng lúa nước, và có công trình thủy lợi mới có thể mở rộng diện tích cây lúa nước (nếu ñịa hình cho phép). Nhìn vào các công trình thủy lợi ñã có của Tây Trà, người ta không khỏ i băn khoăn: trong tổng số 5 ñập nước ñáng chú ý nhất là ñập Nước Doanh (Trà Lãnh), ñập Trà Ong (Trà Quân), ñập Nước So (Trà Phong), ñập Nước Tiên (Trà Quân), ñập Suối Lót (Trà Xinh) xây dựng trong các năm từ 1985 ñến 2001, mà năng lực thiết kế chỉ tưới ñược cho 42,5ha, nhưng năng lực tưới thực tế lại còn thấp hơn (23ha). Theo tính toán của huyện Tây Trà, nếu một số ñập ñược tu sửa, nâng cấp, cũng chỉ tăng ñược năng lực tưới lên 100 - 150ha. ð iều này ñặt ra vấn ñề có nên ñầu tư cho việc xây dựng ñập hay không, hay nên ñầu tư vào chăn nuôi gia súc hoặc theo hướng khác.

Các trường học, trạm y tế ở Tây Trà cũng phần nào ñược xây dựng, kiên cố hóa.

Bưu ñ iện Tây Trà ñã ñược thiết lập với tổng ñài dung lượng 250 số, ñã có 5 nhà bưu ñiện văn hóa xã ñược xây dựng và ñưa vào hoạt ñộng. Số máy ñiện thoại trên ñịa bàn năm 2004 là 160 máy, năm 2005 là 210 máy.

Trọng tâm trước mắt của Tây Trà trong công tác xây dựng cơ sở hạ tầng vẫn là xây dựng trung tâm huyện lỵ, với các trụ sở hành chính và các thiết chế văn hóa xã hội ñều ñang phải bắt tay xây dựng mới, làm nền tảng kích thích sự phát triển của cả huyện. Sự phát triển kinh tế - xã hội còn phải tính những bước ñường dài.

* * *

Về văn hóa - xã hội, ñịa hạt Tây Trà có nhiều ñiểm ñáng lưu ý. Bốn dân tộc anh em trong huyện có vốn văn hóa cổ truyền rất quý giá, cùng góp phần làm phong phú cho di sản văn hóa của huyện và của tỉnh. Văn hóa Cor ở Tây Trà là văn hóa Cor "ñường rừng", mang nét riêng của vùng cao nhất. Người Cor ở Tây Trà có

Page 128: Các Huyện - Thành phố

Ñòa chí Quaûng Ngaõi Trang 128

nhiều truyện cổ, dân ca, dân nhạc mang ñậm bản sắc dân tộc, có các lễ hội như lễ ăn trâu, có các loại cột lễ trong ñó có loại nêu dù, "nêu ñu ñủ" rất ñộc ñáo. Người Cor ở ñây cũng rất giỏ i nghề ñan lát. Văn hóa ẩm thực thì có loại rượu ñoak lấy từ cây ñoak. Về văn hóa vật thể, ñáng chú ý có di chỉ khảo cổ từ thời kỳ ñồ ñá ở Trà Phong mới ñược khai quật, bao gồm các loại rìu ñá khá tinh xảo. Trên ñịa bàn huyện cũng có nhiều thắng cảnh ñẹp, kỳ thú, mà hùng vĩ nhất là ngọn Cà ðam gắn với các di tích lịch sử. Núi Cà ðam ñang ñược thăm dò ñể lập dự án xây dựng thành khu du lịch sinh thái tầm cỡ quốc gia và quốc tế.

Xưa kia, các làng người Cor sống theo lố i chung cư trong một ngôi nhà dài và rộng. Sau 1975, với sự phát triển xã hộ i, ñịnh canh, ñịnh cư, ngôi nhà chung như vậy tỏ ra không còn thích hợp. Bà con người Cor hầu hết ñã làm nhà trệt theo kiểu người Việt ở miền xuôi, và các nóc nhà của một làng vẫn còn châu tuần san sát nhau, thể hiện truyền thống cố kết cộng ñồng rất cao. Những thuần phong mỹ tục như tinh thần tương trợ, giúp nhau trong công ăn việc làm, lòng hiếu khách... ñược bảo tồn và phát huy. Một số tập tục lạc hậu dần dần ñược xoá bỏ. Phong trào toàn dân ñoàn kết xây dựng ñời sống văn hóa có sự phát triển. Trong sinh hoạt tinh thần, văn hóa văn nghệ, các tinh hoa văn hóa dân tộc như trang phục, dân ca, dân nhạc, ñặc biệt là cồng chiêng, hát xà ru, a giới... ñược chú ý phát huy. Phong trào văn nghệ, thể thao quần chúng ñều có sự tiến bộ.

Tây Trà là huyện mới tách lập, do ñịa hình thung lũng núi, thông tin có nhiều khó khăn. Thuở trước ñất này là một vùng hẻo lánh, biệt lập, sống cách biệt với thông tin từ bên ngoài. Cuộc Cách mạng tháng Tám 1945 mở ra khả năng hòa nhập văn hóa của cộng ñồng Cor nơi ñây với toàn dân tộc. Văn hóa mới, văn hóa cách mạng bắt ñầu hình thành và thâm nhập trong ñời sống nhân dân trong hai cuộc kháng chiến. Từ năm 1975 về sau, thay ñổi lớn nhất của người dân trên ñịa hạt Tây Trà là sự chuyển dịch vùng cư trú, từ cheo leo trên các sườn núi cao, xuống ñịnh cư dưới các trảng bằng trong các thung lũng. Nhiều hình thức thông tin mới ñã xác lập. Truyền thanh, thu thanh dần phát triển. Ở Trà Phong có chảo parabol xem truyền hình từ những năm chín mươi của thế kỷ XX. Ngày nay, ñài truyền thanh và phát lại truyền hình của huyện ñang ñược xây dựng, kiện toàn. ðội chiếu bóng có từ trước vẫn ñược duy trì, hằng năm ñ i lưu ñộng ñể phục vụ ñồng bào ở các thôn làng xa xôi. Một phần truyện cổ Cor, các lễ hội ñã ñược sưu tầm, nghiên cứu.

Về giáo dục, Tây Trà là huyện miền núi xa xôi nên là nơi giáo dục phát triển muộn nhất trong tỉnh Quảng Ngãi. Thời ñ iểm năm học 2004 - 2005, ở Tây Trà cả 9 xã ñều có trường Mẫu giáo, Tiểu học, Trung học cơ sở (riêng xã Trà Phong có 2 trường), huyện có 1 trường Trung học phổ thông. Tổng số có 4.218 học sinh phổ thông, trong ñó có 2.771 học sinh Tiểu học, 1.238 học sinh Trung học cơ sở, 209 học sinh Trung học phổ thông. Tổng số giáo viên là 283 người, trong ñó có 161 giáo viên Tiểu học, 76 giáo viên Trung học cơ sở, 11 giáo viên Trung học phổ thông. Tổng số lớp học phổ thông là 177 lớp, trong ñó có 128 lớp Tiểu học, 44 lớp Trung học cơ sở, 5 lớp Trung học phổ thông. Hệ Mẫu giáo có 30 lớp với 711 học

Page 129: Các Huyện - Thành phố

Ñòa chí Quaûng Ngaõi Trang 129

sinh. Số lượng học sinh bỏ học còn nhiều (8%) và trường ốc vẫn còn tạm bợ, cần phải tiếp tục xây dựng.

Về y tế, Tây Trà có trung tâm y tế huyện và các trạm y tế xã thực hiện khám chữa bệnh cho dân, có ñội vệ sinh phòng dịch của Trung tâm y tế huyện. Tình trạng cầu cúng lúc ốm ñau ñã ñược hạn chế. Tuy ñã có vận ñộng kế hoạch hóa gia ñình, việc tăng dân số trong huyện vẫn còn khá cao (1,68%). Trung tâm y tế Tây Trà ñóng ở trụ sở xưa kia chỉ là phòng khám khu vực của huyện Trà Bồng (cũ), cơ sở chật hẹp, xuống cấp, nhưng chưa ñược xây dựng lại. Toàn huyện chỉ có 50 giường bệnh tập trung ở Trung tâm y tế huyện, có 8 trạm y tế xã trong huyện (trừ xã Trà Trung vẫn chưa có trạm y tế), toàn huyện chỉ có 4 bác sĩ (trạm y tế các xã ñều không có bác sĩ). Hoạt ñộng y tế vì vậy còn phải tiếp tục tăng cường.

Về xã hội, vấn ñề cấp bách và cơ bản nhất ở Tây Trà là vấn ñề mức sống của nhân dân còn quá thấp, tỉ lệ ñói nghèo còn quá cao với hầu hết dân cư trong huyện; buộc các cấp chính quyền và tự thân nhân dân phải nỗ lực cao trong việc tìm phương hướng, biện pháp giải quyết. ð iều này thể hiện rõ trong ñề án xóa ñói giảm nghèo ở Tây Trà giai ñoạn 2005 - 2010 và báo cáo chính trị của ðại hộ i ðảng bộ huyện lần thứ I (2005).

(1) Theo Niên giám thống kê tỉnh Quảng Ngãi 2005.

(2) Nguồn: Niên giám thống kê huyện Tây Trà.

(3) Nguồn: Niên giám thống kê huyện Tây Trà.

Page 130: Các Huyện - Thành phố

Ñòa chí Quaûng Ngaõi Trang 130

HUYỆN SƠN HÀ

SƠN HÀ là huyện miền núi ở phía tây tỉnh Quảng Ngãi. Phía ñông giáp các huyện Sơn Tịnh, Tư Nghĩa, Minh Long; phía tây giáp huyện Sơn Tây; phía nam giáp huyện Ba Tơ và tỉnh Kon Tum; phía bắc giáp các huyện Trà Bồng và Tây Trà. Diện tích 750,31km2. Dân số 65.937 người (năm 2005). Mật ñộ dân số khoảng 88 người/km2(1). ðơn vị hành chính trực thuộc gồm 13 xã, ñều lấy chữ Sơn làm ñầu (Sơn Trung, Sơn Thượng, Sơn Bao, Sơn Thành, Sơn Hạ, Sơn Nham, Sơn Giang, Sơn Linh, Sơn Cao, Sơn Hải, Sơn Thuỷ, Sơn Kỳ, Sơn Ba), 1 thị trấn (Di Lăng huyện lỵ, nguyên là xã Sơn Lăng), với 77 thôn và tổ dân phố; trong ñó:

Xã Sơn Trung có 6 thôn: Tà Màu, Gò Rộc, Làng Nà, Làng Rin, Làng ðèo, Gia Ri;

Xã Sơn Thượng có 5 thôn: Nước Năm, Gò Ren, Tà Ba, Làng Vố, Làng Nưa;

Xã Sơn Bao có 6 thôn, tên gọi theo thứ tự từ thôn 1 ñến thôn 6: thôn 1 (Nước Bao), thôn 2 (Mò O), thôn 3 (Mang Kmuồng), thôn 4 (Tà Lương), thôn 5 (Pó Rang), thôn 6 (Làng Mùng);

Xã Sơn Thành có 5 thôn: Gò Ra, Nước Chu, Hà Thành, Gò Rin, Gò Gạo;

Xã Sơn Hạ có 5 thôn: Cà Tu, ðèo Gió, Trường Khay, Hà Bắc, ðèo Rơn;

Xã Sơn Nham có 5 thôn: Bàu Sơn, Cận Sơn, Xà Riêng, Xà Nay, Chàm Rao;

Xã Sơn Giang có 6 thôn: ðèo ðinh, Làng Rê, Gò Ngoài, ðồng Giang, Làng Lùng, Làng Rí;

Xã Sơn Linh có 5 thôn, tên gọi theo thứ tự từ thôn 1 ñến thôn 5: thôn 1 (Gò Da), thôn 2 (Làng Ghè), thôn 3 (Bồ Nung), thôn 4 (Ca La), thôn 5 (Làng Xinh);

Xã Sơn Cao có 5 thôn, tên gọi theo thứ tự từ thôn 1 ñến thôn 5: thôn 1 (Xà Ây), thôn 2 (Làng Gung), thôn 3 (Làng Mon), thôn 4 (Làng Trăng), thôn 5 (Làng Trá);

Xã Sơn Hải có 4 thôn: Tà Bía, Tà Mát, Gò Sim, Làng Lành;

Xã Sơn Thuỷ có 4 thôn, tên gọ i theo thứ tự từ thôn 1 ñến thôn 4: thôn 1 (Tà Bi), thôn 2 (Tà Bần), thôn 3 (Tà Cơm), thôn 4 (Làng Rào);

Xã Sơn Kỳ có 7 thôn: Làng Riềng, Làng Rút, Làng Rê, Tà Gâm, Làng Trăng, Bồ Nung, Nước Lát;

Xã Sơn Ba có 5 thôn: Tà Gâm, Di Ôi, Làng Già, Mò O, Làng Bưng, Di Hoăn;

Page 131: Các Huyện - Thành phố

Ñòa chí Quaûng Ngaõi Trang 131

Thị trấn Di Lăng có 8 tổ dân số (tương ñương thôn): Cà ðáo, Nước Nia, Làng Bồ, Gò Dép, Di Lăng, Hàng Gòn, nước Bung, Làng Dầu.

Từ tỉnh lỵ Quảng Ngãi ñến thị trấn Di Lăng 55km. Từ thị trấn Di Lăng ñi huyện lỵ Sơn Tây 30km, Ba Tiêu - Ba Tơ 42km, Trà Phong (huyện lỵ Tây Trà) 35km, Trà Xuân (huyện lỵ Trà Bồng) 40km.

Sơn Hà là huyện có tiềm năng kinh tế nông, lâm nghiệp khá phong phú, ñã và ñang ñược khai thác ñể phát triển. Tuy nhiên, tiềm lực kinh tế của huyện còn nhiều hạn chế, ñời sống của nhân dân còn thấp.

* * *

Về hành chính, huyện Sơn Hà nguyên xưa kia là nguồn Cù Bà, một trong bốn nguồn của tỉnh Quảng Ngãi. ðời Minh Mạng, nguồn Cù Bà ñổi là nguồn Thanh Cù. Năm 1915, nguồn Thanh Cù ñổi thành ñồn Sơn Hà. ðồn Sơn Hà ñược chia thành 5 tổng: Sơn Hạ, Sơn Trung, Sơn Thượng, Sơn Nham, Sơn Thạch, với 47 sách (làng). Lỵ sở của Sơn Hà lúc này ñóng ở Hà Thành (nay thuộc xã Sơn Thành). Còn Di Lăng (sau này là huyện lỵ) chỉ là căng an trí, nơi lưu ñày phạm nhân.

Sau Cách mạng tháng Tám 1945, chính quyền cách mạng ñổi là huyện Sơn Hà, cấp tổng ñược bãi bỏ, các xã mới ñược hình thành với 15 xã, ñều lấy chữ Sơn làm ñầu: Sơn Tinh, Sơn Liên, Sơn Hiệp, Sơn Thượng, Sơn Thọ, Sơn Tân, Sơn Trung, Sơn Kỳ, Sơn Thuỷ, Sơn Thành, Sơn Hạ, Sơn Nham, Sơn Linh, Sơn Giang, Sơn Cao. Từ năm 1952, 15 xã lại chia thành 28 xã: Sơn Hạ, Sơn Nam, Sơn Tong (thuộc Sơn Hạ cũ), Sơn Thành, Sơn Kim (Sơn Thành cũ), Sơn Trung, Sơn Lăng (Sơn Trung cũ), Sơn Thượng, Sơn Mùng (Sơn Thượng cũ), Sơn Linh, Sơn ðông (Sơn Linh cũ), Sơn Thuỷ, Sơn Hải (Sơn Thuỷ cũ), Sơn Kỳ, Sơn Ba (Sơn Kỳ cũ), Sơn Tinh, Sơn Dung, Sơn Màu, Sơn Long (Sơn Tinh cũ), Sơn Liên, Sơn Mùa, Sơn Bao (Sơn Liên cũ), Sơn Hiệp, Sơn Thọ, Sơn Tân, Sơn Cao, Sơn Giang, Sơn Nham (giữ nguyên). Huyện lúc này bao gồm cả huyện Sơn Tây và một phần các huyện Tây Trà, Trà Bồng ngày nay. ðầu năm 1954, tỉnh Kon Tum giao thêm xã Sơn Bua; giữa năm 1954 thành lập thêm xã Sơn Lập, Sơn Bùi. Huyện Sơn Hà lúc này có ñến 31 xã.

Trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, hành chính huyện Sơn Hà có sự thay ñổi. Sau khi tiếp quản một thời gian, từ giữa năm 1958, chính quyền Sài Gòn ñồng loạt ñổi huyện thành quận. Quận Sơn Hà ñược thành lập và ñổi tên các xã, lấy chữ Hà làm ñầu: Hà Trung, Hà Lâm, Hà Bắc, Hà Thành, Hà Thạch, Hà Long, Hà Tây, Hà ðông, Hà Châu, Hà Nam, Hà Thượng, Hà Khê. Quận lỵ ñóng ở Hà Trung (nay là xã Sơn Giang). Nhưng chính quyền Sài Gòn quản lý chưa lâu thì phong trào cách mạng ở Sơn Hà ñã phát triển. Một phần huyện Sơn Hà trở thành vùng căn cứ ñịa của cách mạng. Việc hoạch ñịnh lại các ñơn vị hành chính là một yêu cầu cấp bách trong hoàn cảnh lúc bấy giờ.

Page 132: Các Huyện - Thành phố

Ñòa chí Quaûng Ngaõi Trang 132

Năm 1955, các xã Sơn Hiệp, Sơn Thọ, Sơn Bùi nhập về huyện Trà Bồng. Tháng 7.1957, các xã Sơn Kỳ, Sơn Ba nhập với 9 xã của huyện Ba Tơ thành khu VI (sau ñổi là huyện Sông Rhe). 9 xã khu tây là Sơn Tinh, Sơn Màu, Sơn Dung, Sơn Long, Sơn Liên, Sơn Bua, Sơn Mùa, Sơn Bao, Sơn Lập thành lập khu VII (sau gọi là huyện Sơn Tây); các xã còn lại của huyện hợp thành khu III (sau gọ i là huyện Sơn Hà).

Sau ngày giải phóng hoàn toàn miền Nam, năm 1976 huyện Sơn Tây và hai xã Sơn Kỳ, Sơn Ba nhập lại về Sơn Hà; và sau khi tách nhập một số xã, huyện Sơn Hà có 16 xã: Sơn Mùa, Sơn Tân, Sơn Bao, Sơn Dung, Sơn Tinh, Sơn Lăng, Sơn Thượng, Sơn Thuỷ, Sơn Kỳ, Sơn Ba, Sơn Thành, Sơn Giang, Sơn Linh, Sơn Cao, Sơn Hạ, Sơn Nham.

Năm 1994, bốn xã phía tây huyện là Sơn Mùa, Sơn Tinh, Sơn Tân, Sơn Dung ñược tách ra hình thành huyện Sơn Tây. Huyện Sơn Hà còn 12 xã. Năm 1998, xã Sơn Lăng tách lập thành thị trấn Di Lăng và xã Sơn Trung; xã Sơn Thuỷ tách lập thành 2 xã Sơn Thuỷ, Sơn Hải. Huyện Sơn Hà có 14 xã, thị trấn (như ñã kể ở phần ñầu).

Về tự nhiên, Sơn Hà là huyện có diện tích tự nhiên rộng thứ hai trong tỉnh Quảng Ngãi (chỉ sau huyện Ba Tơ). ðịa bàn Sơn Hà trải rộng, ñồi núi, sông suối chằng chịt, chia cắt bạo biệt; ñộ cao trung bình 500 - 1000m so với mặt nước biển.

Núi rừng: Chiếm hầu hết diện tích tự nhiên của toàn huyện. Phía ñông có ngọn Thạch Bích (ðá Vách) giáp giới với huyện Tư Nghĩa, phía nam tiếp liền với dãy Cao Muôn (Ba Tơ), núi Mum (Minh Long), phía bắc tiếp liền với các núi cao ở các huyện Trà Bồng và Tây Trà, phía tây là các khối núi cao giáp với huyện Sơn Tây. Rừng núi Sơn Hà có các loại gỗ quý như lim, sơn, chò, nhiều loại thú như hổ, nai, trăn, nhiều mật ong, song mây.

Sông suối: Sơn Hà có mạng lưới sông suối chằng chịt, lớn nhất là các sông: sông Rhe, sông Rinh, sông Xà Lò, sông Tang. Sông Rhe từ phía Nam (Ba Tơ) chảy ra, hợp với sông Rinh, sông Xà Lò ở khu vực Hải Giá, chảy về phía ñông, là ñầu nguồn của sông Trà Khúc lớn nhất trong tỉnh Quảng Ngãi. Sông suối ở Sơn Hà có nhiều loại cá, ốc, ñặc biệt có ñặc sản cá niêng nổ i tiếng. Các sông suối là nguồn nước quan trọng và còn chứa tiềm năng về thuỷ lợi, thuỷ ñiện nhằm phục vụ sản xuất và sinh hoạt. Các sông ở ñây ñều có lòng sông ñào sâu, khuất khúc, lòng sông dốc, nước chảy xiết, nên thường gây lũ lớn về mùa mưa và dễ khô kiệt về mùa nắng.

ðồng bằng: Nằm dọc theo thung lũng các sông, ñất ñai khá màu mỡ, như ñồng bằng dọc sông Rhe chảy qua các xã Sơn Ba, Sơn Kỳ, Sơn Thuỷ, Sơn Hải, Sơn Cao, Sơn Linh, Sơn Nham, Sơn Hạ. ðồng bằng thường có các cánh ñồng lúa, hoặc trồng các loại hoa màu.

Page 133: Các Huyện - Thành phố

Ñòa chí Quaûng Ngaõi Trang 133

Khoáng sản: Rải rác trong các xã ở Sơn Hà có vàng sa khoáng, ñá vôi, cao lanh, suối khoáng.

Nhìn chung, ñất ñai ở Sơn Hà khá tốt. Các vùng thung lũng nhiều nơi tương ñối thoáng rộng, ñược cư dân trong vùng khai phá thành ñất canh tác từ lâu ñời. ðất ñai tốt nhất là ở các làng Tà Bần, Tà Bi xã Sơn Thủy, Làng Rút xã Sơn Kỳ.

Quá trình khai thác, phát triển ñất ñai ở Sơn Hà nói chung ñã diễn ra nhiều ñời, trong khắp huyện. Tình hình sử dụng ñất vào năm 2005 như sau: 1) ðất nông nghiệp 19.227,57ha; 2) ðất lâm nghiệp 36.081,43ha; 3) ðất chuyên dùng 1.003,07ha; 4) ðất khu dân cư 628,27ha; 5) ðất chưa sử dụng 16.325,70ha.

Khí hậu: Tương tự như khí hậu các huyện miền núi trong tỉnh Quảng Ngãi. Mùa mưa hay ñến sớm hơn các huyện ñồng bằng và lượng mưa khá lớn. Khí hậu lúc bình thường ở Sơn Hà khá dễ chịu. Tuy nhiên, Sơn Hà là nơi có "ngã ba sông", nơi tiếp giáp giữa 3 nguồn nước lớn là sông Rhe, sông Rinh và sông Xà Lò, nên về mùa mưa thường xảy ra lụt lớn. Vùng Sơn Ba, Sơn Cao ñến Sơn Kỳ thường có hiện tượng xảy ra lốc lớn, tốc mái nhà. Lụt nặng nhất thường là ở thị trấn Di Lăng và xã Sơn Giang.

Về dân cư, Sơn Hà có cư dân chủ yếu là dân tộc Hrê, dân tộc Kinh, dân tộc Ca Dong, một ít người dân tộc Cor và các dân tộc khác. Diễn tiến dân số phát triển khá mạnh, trong vòng 30 năm từ 1975 ñến 2005, dân số Sơn Hà tăng gấp ñôi (từ 32.737 lên 65.937 người - chưa kể huyện Sơn Tây tách lập từ năm 1994). Mật ñộ dân số ở Sơn Hà là 88 người/km2, cao nhất trong các huyện miền núi, nhưng thấp hơn nhiều so với các huyện ñồng bằng Quảng Ngãi.

Tình hình diện tích ñất, dân số, mật ñộ dân số của 14 xã, thị trấn ở Sơn Hà năm 2005 như sau:

TT Xã, thị trấn Diện tích

(km2) Dân số (người)

M ật ñộ dân số (người/km2)

1 Di Lăng 56,92 8.881 156

2 Sơn Trung 23,94 2.811 117

3 Sơn Thượng 45,00 3.665 81

4 Sơn Bao 68,45 3.425 50

5 Sơn Thành 48,52 6.745 139

6 Sơn Hạ 39,02 7.925 203

7 Sơn Nham 59,96 3.659 61

8 Sơn Giang 26,15 3.910 150

9 Sơn Linh 82,37 4.032 49

10 Sơn Cao 40,73 4.348 107

11 Sơn Hải 24,66 2.603 106

Page 134: Các Huyện - Thành phố

Ñòa chí Quaûng Ngaõi Trang 134

12 Sơn Thủy 44,23 4.276 97

13 Sơn Kỳ 145,38 5.908 41

14 Sơn Ba 44,98 3.752 83

Xét trong nộ i hạt thì mật ñộ dân số chênh lệch không cao lắm giữa các xã, thị trấn. Cao nhất là xã Sơn Hạ, nơi có ñông người Kinh sinh sống (203 người/km2), có nơi tập trung buôn bán dịch vụ, thấp nhất là xã Sơn Kỳ (41 người/km2). Có 7 xã, thị trấn có mật ñộ dân số trên 100 người/km2, có 7 xã mật ñộ từ 40 - 100 người/km2.

Trong tổng số dân 65.937 người có ñến 54.434 người dân tộc Hrê. ðến 31.12.2005, ở Sơn Hà, tính theo dân tộc có: 1) dân tộc Hrê 54.434 người, cư trú ở khắp các ñịa phương trong huyện, nhưng ñông nhất là ở xã Sơn Hạ (6.447 người), kế ñến là Sơn Kỳ (5.474 người), thị trấn Di Lăng (4.607 người), Sơn Thành (4.930 người), Sơn Cao (4.126 người), xã ít nhất là Sơn Hải cũng có ñến 2.343 người; 2) dân tộc Kinh 11.331 người, cư trú ở khắp các xã, ñông nhất là ở thị trấn Di Lăng (3.777 người), xã Sơn Thành (1.840 người), xã Sơn Hạ (1.472 người), xã ít nhất là Sơn Ba (182 người); 3) Dân tộc Ca Dong 327 người, cư trú chủ yếu ở thị trấn Di Lăng (218 người); 4) Dân tộc Cor 161 người, chủ yếu ở Di Lăng (141 người). Ngoài ra, còn có các dân tộc khác và khách vãng lai.

ðồng bào dân tộc Hrê ở Sơn Hà chủ yếu làm ruộng nước, nương rẫy, còn lưu giữ ñược những di sản văn hóa dân tộc quý báu. dân tộc Kinh cư trú chủ yếu ở huyện lỵ và các xã phía ñông huyện, có ñặc ñiểm chung của người Kinh và có sự giao lưu, giao thoa văn hóa với các dân tộc anh em trong huyện. Dân tộc Ca Dong có ñặc ñiểm chung với người Ca Dong ở huyện Sơn Tây. Các dân tộc anh em ở Sơn Hà sống ñoàn kết, tương trợ nhau, có lúc ñã vượt qua thử thách lớn lao ñối phó với chính sách chia rẽ dân tộc của bọn thực dân ñể cùng thắt chặt tình nghĩa anh em.

* * *

Ngược dòng lịch sử, nhân dân Sơn Hà có truy ền thống yêu nước từ rất sớm. ðó là các cuộc nổi dậy chống lại ách áp bức, bóc lột của quan quân chúa Nguyễn, chống lại quan quân phong kiến triều Nguyễn và chống lại thực dân Pháp xâm lược. Nhân dân vùng Sơn Hà cũng từng tham gia cuộc khởi nghĩa ðă Boăk King và Boăk Xuân hưởng ứng phong trào nông dân Tây Sơn; tham gia phong trào chống càn quét, chống sưu thuế của thực dân, cuối thế kỷ XIX ñầu thế kỷ XX và tham gia phong trào "Nước Xu ñỏ" với các dân tộc anh em ở Bắc Tây Nguyên trong những năm 1937 - 1938.

Phong trào cách mạng dưới sự lãnh ñạo của ðảng Cộng sản Việt Nam dần dần thâm nhập vào nhân dân, qua hoạt ñộng của cán bộ cách mạng từ thời tiền khởi

Page 135: Các Huyện - Thành phố

Ñòa chí Quaûng Ngaõi Trang 135

nghĩa, nhất là trong Cách mạng tháng Tám 1945, khi ñội du kích Ba Tơ do các ñồng chí Nguyễn Chánh, Phạm Kiệt chỉ huy ñánh chiếm ñồn Di Lăng từ tay thực dân Pháp.

Trong kháng chiến chống Pháp xâm lược, năm 1946, tổ chức ðảng ñã ñược thành lập, nhân dân Sơn Hà nỗ lực xây dựng chính quyền cách mạng và ñóng góp cho kháng chiến. Thực dân Pháp chiếm thị xã Kon Tum và từ cao nguyên ñánh xuống. Lợi dụng một số sai lầm của cán bộ cách mạng, ñịch dùng bọn tay sai kích ñộng, gây nên vụ phiến loạn Sơn Hà năm 1950. ðảng bộ và nhân dân Sơn Hà ñã cùng với tỉnh dập tắt vụ bạo loạn, ổn ñịnh tình hình, góp phần giữ vững vùng tự do Liên khu V.

Trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, Sơn Hà nằm trong vùng căn cứ ñịa của cuộc kháng chiến, nhân dân Sơn Hà tạo lập ñược nhiều chiến công, kiên cường chiến ñấu và ñóng góp nhiều nhân tài vật lực cho kháng chiến. Toàn huyện giải phóng ngày 17.3.1975.

Qua các cuộc kháng chiến, quân và dân Sơn Hà, quân và dân 4 xã Sơn Thành, Sơn Lăng, Sơn Kỳ, Sơn Thuỷ, 4 cá nhân là ðinh Banh, ðinh Tía, ðinh Kméo, ðinh Nghít của huyện ñã ñược phong tặng danh hiệu Anh hùng Lực lượng Vũ trang nhân dân.

* * *

Cũng như nhiều huyện khác trong tỉnh Quảng Ngãi, kinh tế Sơn Hà là kinh tế nông nghiệp. Năm 2005, trong tổng số 33.678 lao ñộng ñang làm việc của toàn huyện, có ñến gần 30.146 lao ñộng nông, lâm nghiệp, chỉ có 18 lao ñộng thủy sản.

Nghề nông là nghề sinh sống chính của nhân dân Sơn Hà xưa nay. Kinh tế nông nghiệp ở Sơn Hà xưa mang nặng tính tự túc tự cấp, nay ñã có sự chuyển biến ñáng kể, nhưng dấu ấn xưa vẫn còn rất rõ. Ngày nay, lĩnh vực công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, thương mại - dịch vụ ở Sơn Hà ñã hình thành và phát triển, nhưng nhìn chung còn chiếm tỷ trọng thấp trong nền kinh tế.

Nông nghiệp

Xưa kia, bà con các dân tộc Sơn Hà canh tác nông nghiệp ñã có nhiều tiến bộ, nhất là trong việc làm lúa nước. Tuy vậy, ñời sống của nhân dân vẫn rất thấp do các tập quán lạc hậu và do chính sách áp bức bóc lột của phong kiến, thực dân. Sau năm 1975, nông nghiệp ñã phát triển mạnh. Diện tích canh tác lúa ñược mở rộng. ðồng lúa ven sông Rhe từ xưa ñã ñược ghi nhận là một ñồng lúa ñẹp mắt với trình ñộ canh tác khá cao của bà con Hrê. Ở vùng thấp, người Kinh cũng có trình ñộ thâm canh lúa khá phát triển. Ở vùng cao, bà con người Ca Dong, người Cor có khó khăn hơn. Trong nông nghiệp, ở Sơn Hà xưa nay thì cây lúa vẫn chiếm vị trí hàng ñầu và có sự phát triển theo thời gian.

Page 136: Các Huyện - Thành phố

Ñòa chí Quaûng Ngaõi Trang 136

Cùng với việc mở rộng diện tích, làm thuỷ lợi, thâm canh tăng năng suất, trong vòng 30 năm, từ 1975 ñến 2005, sản lượng lương thực có hạt cũng như bình quân lương thực ñầu người ở Sơn Hà ñều tăng cao, như bảng sau ñây(2):

Năm

Chỉ số 1975 1985 1995(3) 2000 2005

Sản lượng (tấn) 5.039 16.076 11.262 16.224 18.741 Bình quân lương thực ñầu

người hằng năm (kg) 153,9 304,1 198,8 265,3 284,2

Trừ năm 1995, sản lượng lương thực và bình quân lương thực ñầu người ñều ñột

ngột giảm do tách lập huyện Sơn Tây và do mất mùa, các chỉ số trên ñều khả dĩ phản ảnh trung thực sự phát triển. Bình quân lương thực ñầu người ở Sơn Hà năm 1985 là cao nhất có thể do dân số còn ít và lúc này nông nghiệp tập trung chủ yếu vào cây lương thực. Sản lượng lương thực bình quân ñầu người năm 2005 cao nhất là xã Sơn Ba (376kg), kế ñến là xã Sơn Thành (347kg), xã Sơn Hạ (338kg), xã Sơn Thủy (330kg), thấp nhất là thị trấn Di Lăng (120kg) không hoàn toàn chuyên nông nghiệp. Trong thành phần lương thực thì lúa chiếm ña số tuyệt ñối, ngô chỉ là một phần phụ. Ngoài lúa và ngô, Sơn Hà là nơi trồng khá nhiều sắn, mía làm nguyên liệu cho công nghiệp và chăn nuôi. Trong những năm gần ñây, do giá cả không ổn ñịnh, cây mía có xu hướng giảm nhanh. Ngược lại, cây mì (sắn) có xu hướng tăng mạnh do có Nhà máy tinh bột mỳ Sơn Hải ñóng ngay trên ñịa bàn huyện, có nhu cầu thu mua lớn. Mì trồng ở Sơn Hà năm 2005 nhiều nhất so với các huyện trong tỉnh Quảng Ngãi. Tuy nhiên, việc phát triển ồ ạt ñã dẫn ñến việc phá rừng trồng mì khá phức tạp, gây tác hại môi trường.

Chỉ số về các loại cây trồng chính ở Sơn Hà năm 2005 như sau:

TT Cây trồng Diện tích canh tác (ha) Sản lượng (tấn) Năng suất (tạ/ha)

1 Lúa 5.616 18.459 32,9 2 Ngô 166 282 17,0 3 Sắn 2.987 43.204 144,6 4 Mía 830 37.226 448,5 5 Lạc 278 436 15,7 6 ðậu các loại 142 107 7,5

7 Rau các loại 186 1.694 91,1

Lúa trồng nhiều nhất ở các xã Sơn Hạ (diện tích 797ha, sản lượng 2.661,3 tấn), Sơn Thành (690ha, 2.330,2 tấn), Sơn Kỳ (548ha, 1.796,1 tấn), ít nhất ở xã Sơn Hải (225,9ha, 731,1 tấn). Năng suất lúa giữa các xã, thị trấn chênh lệch không ñáng kể.

Ngô trồng nhiều nhất ở các xã Sơn Nham (23,5ha, 41,7 tấn), Sơn Bao (18,5ha, 30,8 tấn).

Page 137: Các Huyện - Thành phố

Ñòa chí Quaûng Ngaõi Trang 137

Sắn trồng nhiều nhất ở các xã Sơn Cao (385ha, 5.621 tấn), xã Sơn Hải (250ha, 3.707 tấn), ít nhất là ở xã Sơn Ba cũng có ñến 145ha với 2.073,5 tấn.

Mía trồng nhiều nhất ở các xã Sơn Hạ (409ha, 17.820 tấn), Sơn Thành (250ha, 11.450 tấn), hai xã này nằm ở vùng thấp của huyện và có nhiều người Kinh sinh sống. Các xã hầu như không trồng mía là Sơn Thủy, Sơn Kỳ, Sơn Ba, Sơn Bao.

Lạc trồng nhiều nhất ở các xã Sơn Thủy (97ha, 153,4 tấn), Sơn Nham (34ha, 54 tấn), Sơn Thượng (31,5ha, 50,4 tấn), ít nhất ở Sơn Trung chỉ 1,5ha với sản lượng 2,3 tấn.

Rau các loại, ñậu các loại ở các xã, thị trấn có chênh lệch nhau nhưng không quá cao.

Về vật nuôi, nuôi trâu, heo, gà là nghề truyền thống. Trâu là vật nuôi truyền thống từ lâu ñời của ñồng bào dân tộc Hrê. ðàn trâu ở Sơn Hà rất ñáng kể, tính trong toàn tỉnh thì chỉ xếp sau huyện Ba Tơ về số lượng. ðàn trâu Sơn Hà năm 2005 có 10.392 con, cùng với ñàn trâu huyện Ba Tơ (17.862 con) chiếm tỉ lệ cao tuyệt ñối so với các huyện khác trong tỉnh Quảng Ngãi (với tổng số 48.283 con). Trâu ñược nuôi nhiều nhất ở xã Sơn Hạ (1.248 con), xã Sơn Thủy (1.187 con), thấp nhất là xã Sơn Bao cũng có ñến 314 con. Các xã có khá nhiều trâu là Sơn Thành (920 con), Sơn Kỳ (912 con), Sơn Ba (824 con), Sơn Trung (810 con). ðàn bò ở Sơn Hà xưa chủ yếu ở vùng thấp và phổ biến trong người Kinh, nay phát triển ở khắp nơi trong huyện với các hộ ñồng bào Hrê. Từ 1975 ñến 2005, số lượng bò tăng khá nhanh, cứ năm năm tăng trung bình 3.000 con (từ 1.788 con năm 1975 lên 20.378 con năm 2005), cao nhất trong các huyện miền núi ở Quảng Ngãi. Bò nuôi nhiều nhất ở xã Sơn Thành (2.092 con), Sơn Hạ (1.981 con), Sơn Giang (1.784 con), xã ít nhất là Sơn Hải cũng có ñến 785 con. Chăn nuôi heo cũng phát triển với trên 32.187 con năm 2005. Heo nuôi nhiều nhất ở xã Sơn Thành, thị trấn Di Lăng, xã Sơn Hạ.

Công tác thuỷ lợi ở Sơn Hà luôn ñược coi trọng. Xưa kia, bà con Sơn Hà dựa vào nguồn nước tự nhiên và dẫn thuỷ nhập ñiền theo phương pháp thủ công (ñắp ñập bổi bằng ñá, tre), hiệu quả thấp, không chủ ñộng ñược nguồn nước. Từ sau năm 1975, có 29 công trình thuỷ lợi ñược xây dựng, có những công trình lớn như hồ chứa nước Di Lăng, ñập Prinh (Sơn Linh), ñập dâng nước Lác (Sơn Kỳ), diện tích tưới bằng công trình kiên cố ñạt 1/2 diện tích canh tác. ðiều ñáng chú ý là, trên ñịa hình bị chia cắt bởi nhiều núi ñồi, sông suối, thuỷ lợi ở Sơn Hà chỉ có thể giải quyết bằng các công trình quy mô nhỏ. Các công trình ñã thực hiện ñều chỉ có năng lực tưới phổ biến 10 - 25ha diện tích canh tác. Xây dựng công trình thuỷ lợi quy mô lớn là không thể, nhưng nếu quá nhỏ cũng sẽ không ñạt hiệu quả cao. Sơn Hà là huyện có diện tích canh tác lúa khá rộng nên huyện không có chủ trương khai hoang, chỉ tập trung làm công tác thủy lợi, tăng chất lượng, tăng năng suất các vật nuôi, cây trồng trên diện tích ñã có. Có nhiều trường hợp trồng lúa không bảo ñảm về nguồn nước tưới nên cần phải chuyển ñổi sang cây trồng khác, hiệu quả kinh tế sẽ cao hơn.

Page 138: Các Huyện - Thành phố

Ñòa chí Quaûng Ngaõi Trang 138

Giá trị sản xuất nông nghiệp của Sơn Hà năm 2005 là 124.612,4 triệu ñồng, trong ñó trồng trọt là 86.282,8 triệu ñồng, chăn nuôi 38.329,6 triệu ñồng theo giá hiện hành.

Lâm nghiệp

Nghề rừng là một hoạt ñộng không thể thiếu từ xưa ñến nay của nhân dân Sơn Hà. Bên cạnh trồng lúa và chăn nuôi, người dân Sơn Hà còn vào rừng lấy cây làm nhà, lấy củi ñun, săn bắn, hái lượm, lấy mật ong... Từ sau năm 1975, vấn ñề khoanh nuôi và trồng rừng ñặt ra như một nhu cầu cấp bách sau một thời gian dài rừng ở Sơn Hà bị tàn phá nặng do chiến tranh và con người. Sơn Hà khoanh nuôi 19.500ha rừng tự nhiên, trồng 6.296ha rừng phòng hộ và rừng nguyên liệu, nâng ñộ che phủ của rừng lên gần 40%. Tình trạng phá rừng trái phép vẫn diễn ra, nhằm mục ñích lấy gỗ hoặc lấy ñất trồng sắn (mì) cung cấp cho Nhà máy sản xuất tinh bột mì Sơn Hải. Về rừng trồng, Sơn Hà trồng nhiều cây keo lai là cây có xu hướng phát triển về lâu dài ñể xuất khẩu, trồng và khai thác tre, nứa, lồ ô ñể làm nguyên liệu chế biến bột giấy. Giá trị sản xuất lâm nghiệp của Sơn Hà năm 2005 là 12.118,5 triệu ñồng theo giá hiện hành.

Về tiểu thủ công nghiệp, xưa kia bà con dân tộc Hrê, Ca Dong chủ yếu ñan lát các vật dụng ñể ñáp ứng cho nhu cầu sản xuất và sinh hoạt của mình. Bà con dân tộc Kinh ở vùng thấp thường có một số nghề thủ công thông dụng như mộc, rèn. Trên ñịa bàn huyện chưa có cơ sở công nghiệp nào. Từ năm 1975 trở về sau, một số cơ sở công nghiệp ñã mọc lên, ñáng chú ý có cụm công nghiệp Sơn Hải, cụm công nghiệp Sơn Thượng, nhà máy sản xuất tinh bột mì Sơn Hải và nhiều cơ sở tiểu thủ công nghiệp tư nhân khác. Tuy nhiên, nhìn chung công nghiệp ở Sơn Hà chưa chiếm tỉ trọng cao trong cơ cấu kinh tế. Sản phẩm công nghiệp chủ yếu là ñá xây dựng, gạch nung, xay xát, may quần áo, xẻ gỗ, sản xuất ñồ mộc gia dụng. Thời ñiểm 2005, Sơn Hà có 470 cơ sở công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp cá thể, nhưng cũng chỉ có 721 lao ñộng trên lĩnh vực này. Giá trị sản xuất công nghiệp năm 2005 là 73.930 triệu ñồng theo giá hiện hành.

Hoạt ñộng buôn bán xưa kia ở Sơn Hà thường diễn ra giữa người Kinh với các dân tộc anh em. Người Kinh mang hàng ñến tận các làng ñể trao ñổi, mua bán. Việc trao ñổi, mua bán xuôi ngược ở Sơn Hà còn ñược thực hiện qua các chợ Di Lăng, Hà Thành, chợ ðồng Ké (tây Sơn Tịnh), chợ Phước Lâm (tây Tư Nghĩa) là những cửa ngõ thông thương xuôi ngược. Người Hrê cũng tiến hành buôn bán, ñổi chác với người Cor ở vùng Trà Tân (Trà Bồng), Trà Niêu (Tây Trà), chủ yếu là trao ñổi chè lá sản xuất ở các vùng này. Việc buôn bán như vậy vẫn tiếp diễn liên tục, ngay cả trong thời kỳ chiến tranh. Từ năm 1975, nhất là từ ngày ñổi mới (1986) trở về sau, việc buôn bán ngày càng phát triển. Trên ñịa bàn huyện có 3 chợ là chợ Di Lăng, chợ Sơn Hạ và chợ Sơn Giang. Trung tâm buôn bán của Sơn Hà trước kia nằm tại Sơn Hạ, gần với ngã ba Hà Thành, nơi ñóng lỵ sở của huyện. Từ sau năm 1975, huyện lỵ ñược xây dựng ở Di Lăng, chợ của huyện tập trung ở ñây (thường gọ i là chợ Hàng Gòn), trở thành nơi mua bán ñổi chác trong huyện, thu

Page 139: Các Huyện - Thành phố

Ñòa chí Quaûng Ngaõi Trang 139

hút cả người dân ở các huyện láng giềng. Tại các trung tâm xã ñều có các hộ buôn bán và chợ búa. Ở Di Lăng và ven ñường có nhiều người sống bằng nghề mua bán. Bên cạnh việc mua bán, ở Sơn Hà cũng như các huyện miền núi khác trong tỉnh Quảng Ngãi, bà con ñược cấp phát một số mặt hàng thiết yếu. Thống kê cho biết năm 2005, Sơn Hà có 945 cơ sở kinh doanh thương mại - dịch vụ cá thể với 1.141 lao ñộng, nhiều nhất ở thị trấn Di Lăng với 255 cơ sở và 305 lao ñộng, xã Sơn Hạ với 111 cơ sở và 170 lao ñộng. Tổng mức bán lẻ hàng hóa và dịch vụ là 58.772 triệu ñồng.

Theo báo cáo chính trị tại ðại hộ i XX của ðảng bộ huyện Sơn Hà, thu nhập bình quân ñầu người ở Sơn Hà năm 2005 ước ñạt 2.596.000 ñồng.

Cơ sở hạ tầng

Về ñiện: 10 năm sau giải phóng (1985), nhà máy thuỷ ñ iện Di Lăng ñược xây dựng với công suất 180kW, phục vụ khoảng 300 hộ dân, lần ñầu tiên người dân ở Sơn Hà ñược dùng ñiện. Từ năm 1998, ñiện lưới quốc gia kéo về huyện lỵ Sơn Hà. Cho ñến 2004, tất cả các xã, thị trấn trong huyện ñều ñã có ñiện lưới quốc gia với trên 60% số hộ dùng ñiện. ðến cuối năm 2005, có 66/77 thôn trong huyện có ñiện, với trên 65% số hộ dùng ñiện.

Về giao thông, cũng có những tiến bộ vượt bậc. Trục ñường xương sống là tỉnh lộ 623 nố i từ tỉnh lỵ Quảng Ngãi ñến huyện lỵ Sơn Hà dài khoảng 55km, có từ thời phong kiến, ñến thời Pháp và chế ñộ Sài Gòn ñều có rải ñá, nhưng chỉ là dã chiến, tạm thời. Từ năm 1975 về sau, việc giao thông ở Sơn Hà ñã có một bước tiến rất dài. Tỉnh lộ 623 ngày nay ñã ñược trải nhựa. Từ thành phố tỉnh lỵ Quảng Ngãi ñ i Sơn Hà có thể theo 2 ngả, hoặc từ huyện lỵ Sơn Tịnh ñ i trực chỉ, hoặc theo tỉnh lộ 625 ñi băng qua công trình ñầu mối Thạch Nham, gặp tỉnh lộ 623 tại Tịnh Giang. ðến Hà Thành, có ngã ba trực chỉ huyện lỵ, một nhánh băng qua vùng xã Sơn Giang, gặp lại ñường kia tại thị trấn Di Lăng, qua các xã Sơn Hải, Sơn Thủy, Sơn Kỳ, gặp Quốc lộ 24 tại Ba Tiêu. ðường Sơn Hà nối với Ba Tơ qua thung lũng sông Rhe. ðường nố i với huyện lỵ Tây Trà cũng ñược duy trì, bảo dưỡng, nhưng chỉ là ñường ñất. ðường Sơn Hà nối với Sơn Tây ñã ñược trải nhựa. Các cầu ñược xây dựng, trong ñó có cầu lớn bắc qua sông Rinh, cầu Hải Giá. Các xã ñều có ñường ôtô ñến trung tâm xã. Một số tuyến ñường cụm xã ñã ñược trải nhựa. Huyện có 2 bến xe ôtô, một ở thị trấn Di Lăng và một ở xã Sơn Giang. Giao thông phát triển ñã tạo ñiều kiện cho sự phát triển mọ i mặt của Sơn Hà.

Thông tin liên lạc: Từ sau năm 1975, mạng lưới bưu chính viễn thông ở Sơn Hà ñã ñược thiết lập. Ngày nay, ở huyện lỵ có bưu ñiện huyện và ở các xã có 7 bưu ñiện văn hóa xã. Trạm viba viễn thông ñặt ở trung tâm huyện và ở Sơn Hạ, Sơn Kỳ. Thông tin liên lạc khá thuận tiện. Tổng số máy ñiện thoại trong huyện lắp ñặt trên 1.300 chiếc năm 2004, 1.872 chiếc năm 2005. Hầu hết các xã ñều ñã có báo ñọc trong ngày.

Page 140: Các Huyện - Thành phố

Ñòa chí Quaûng Ngaõi Trang 140

Huyện Sơn Hà xác ñịnh có 4 trung tâm cụm xã: 1) Cụm xã Sơn Hạ - Sơn Thành - Sơn Nham, trung tâm ở xã Sơn Hạ; 2) Cụm xã Sơn Cao - Sơn Linh - Sơn Giang, trung tâm ở xã Sơn Linh; 3) Cụm xã Di Lăng - Sơn Thượng - Sơn Bao - Sơn Trung, trung tâm tại xã Sơn Thượng; 4) Cụm xã Sơn Hải - Sơn Thủy - Sơn Kỳ - Sơn Ba, trung tâm tại xã Sơn Kỳ.

Bên cạnh việc xây dựng thuỷ lợi, ñ iện, ñường sá, bưu ñiện, các thiết chế trường học, bệnh xá cũng ñược xây dựng, tạo nên cho Sơn Hà một diện mạo mới. ðời sống vật chất và tinh thần của nhân dân ñã ngày càng nâng lên.

* * *

Trong di sản văn hóa các dân tộc ở Sơn Hà, thì di sản văn hóa dân tộc Hrê là ñáng chú ý nhất. Là một bộ phận quan trọng với số dân ñông trong tổng dân số, người Hrê ở Sơn Hà còn lưu giữ những giá trị văn hóa dân tộc Hrê hết sức ñặc sắc. Người Hrê có truyện cổ (một phần ñã ñược sưu tầm và xuất bản), có các loại nhạc cụ như chiêng, trống và các nhạc cụ tự tạo khác, có các ñiệu dân ca ca lêu, ca choi (ñã sưu tầm một phần), có kiến trúc nhà sàn. Bộ phận người Kinh cũng có những giá trị văn hóa nhưng chưa ñược sưu tầm ñúng mức. Người Ca Dong có nhiều di sản văn hóa vẫn còn ñược lưu giữ và ñã ñược sưu tầm phần nào. Các dân tộc ở ñây cũng có sự giao thoa văn hóa, qua kết quả giao lưu tự ngàn xưa và ñể lại những dấu ấn ñẹp ñẽ trong di sản văn hóa của nhau. Về di tích và thắng cảnh, ở Sơn Hà có các di tích chiến thắng Di Lăng, chiến thắng ñồn Tà Ma (ñều ñã xếp hạng di tích cấp tỉnh), thắng cảnh sông Hải Giá.

Từ sau Cách mạng tháng Tám 1945, văn hóa mới ở Sơn Hà dần dần ñược xác lập, nhưng trải qua hai cuộc chiến tranh, từ sau năm 1975, văn hóa ở Sơn Hà mới thực sự chuyển mình sâu sắc. Ở huyện lỵ có nhà văn hóa huyện, có thư viện huyện, có ñài truyền thanh huyện, có 3 trạm thu phát sóng truyền hình ở huyện lỵ và ở các trung tâm cụm xã (thị trấn Di Lăng, xã Sơn Kỳ, xã Sơn Linh), ở xã có ñài truyền thanh xã; phủ sóng ñến vùng sâu, vùng xa. Tivi, rañ iô ñược cấp phát. Số người xem truyền hình ước tính ñã có trên 70% và nghe ðài Tiếng nói Việt Nam khoảng 85%. Các ñội thông tin lưu ñộng, ñội chiếu bóng thường xuyên ñ i phục vụ ở các làng xã. Phong trào văn nghệ quần chúng, phong trào toàn dân ñoàn kết xây dựng ñời sống văn hóa phát triển khá tốt. Từ trong kháng chiến, một thế hệ mới trong hoạt ñộng văn hóa ở Sơn Hà ñã hình thành, có người trở thành văn nghệ sĩ nổi tiếng như Nghệ sĩ ưu tú ðinh Kim Nhớ (quê tại Di Lăng), nhà thơ ð inh Xăng Hiền (quê xã Sơn Kỳ), Nghệ sĩ nhân dân ðinh Thị Xuân Va (xã Sơn Hạ).

Về giáo dục, cũng như các huyện miền núi khác ở Quảng Ngãi, trước năm 1945, tuyệt ñại ña số nhân dân Sơn Hà mù chữ. Từ sau Cách mạng tháng Tám 1945, việc học mới thực sự bắt ñầu và phát triển khó khăn trong hoàn cảnh chiến tranh ác liệt của hai cuộc kháng chiến. Từ năm 1975 ñến nay, giáo dục ở Sơn Hà phát triển khá nhanh, từ ñ iểm xuất phát 2.460 học sinh với khoảng 107 cán bộ, giáo viên, ñến thời ñ iểm 2005, Sơn Hà có 5 trường Mẫu giáo với 84 lớp, 86 giáo

Page 141: Các Huyện - Thành phố

Ñòa chí Quaûng Ngaõi Trang 141

viên, 1.997 học sinh; về giáo dục phổ thông, có 1 trường Trung học phổ thông, ñóng ở huyện lỵ với 35 lớp, 61 giáo viên, 1.441 học sinh; 7 trường Trung học cơ sở (tại các xã Sơn Kỳ, Sơn Linh, Sơn Giang, Sơn Hạ, Sơn Thành, Sơn Bao và thị trấn Di Lăng) với 150 lớp, 233 giáo viên, 4.975 học sinh; 16 trường Tiểu học (thị trấn Di Lăng 2 trường, mỗi xã 1 trường) với 334 lớp, 351 giáo viên, 6.868 học sinh.

Về y tế, từ sau 1975, mạng lưới y tế ở Sơn Hà ñược xác lập, trong ñó ở huyện có bệnh viện huyện, 1 ñội vệ sinh phòng dịch, 14 xã thị trấn ñều có trạm xá. Bệnh viện huyện có 110 giường bệnh. ðến năm 2005, Sơn Hà có 143 cán bộ y tế, trong ñó có 18 bác sĩ. Có 3 trạm y tế xã ñã có bác sĩ là Sơn Hạ, Sơn Linh, Sơn Kỳ. Việc khám chữa bệnh của nhân dân ñược chăm lo, ñã hạn chế việc cầu cúng khi ñau ốm. Công tác vệ sinh phòng dịch ñược ñề cao và thực hiện thường xuyên. Công tác kế hoạch hóa gia ñình có những tiến triển tốt, tỉ lệ tăng dân số còn 1,25%.

Về xã hội: Sơn Hà có hai vấn ñề xã hộ i lớn, thứ nhất huyện phải giải quyết chế ñộ cho những người ñược hưởng chính sách ưu ñãi là khá lớn (với gần 2.690 người có công), thứ hai là phải tập trung xoá ñói giảm nghèo. Tuy không có nhiều người phải ñ i làm ăn xa, nhưng ở Sơn Hà ñến năm 2000 vẫn còn ñến gần 70% số hộ nghèo, năm 2003 còn ñến trên 44% hộ nghèo (với số lượng trên 6.000 hộ), năm 2004 còn trên 35%. Bảo ñảm chế ñộ chính sách và xoá ñói giảm nghèo là một trọng tâm trong công tác ở Sơn Hà trong thời gian tới.

Ngoài ra, trong ñồng bào Hrê ở Sơn Hà rải rác còn một số tập tục lạc hậu như tảo hôn, nghi kỵ cầm ñồ thuốc ñộc, tục chia của cho người chết cần tiếp tục vận ñộng bãi bỏ.

(1) Theo Niên giám Thống kê tỉnh Quảng Ngãi 2005.

(2) Nguồn: Niên giám thống kê tỉnh Quảng Ngãi.

(3) Các số liệu từ năm 1995 trở ñi là các số liệu sau khi ñã tách huyện Sơn Tây.

Page 142: Các Huyện - Thành phố

Ñòa chí Quaûng Ngaõi Trang 142

HUYỆN SƠN TÂY

SƠN TÂY là huyện miền núi nằm ở cực tây tỉnh Quảng Ngãi. Phía ñông và ñông nam giáp huyện Sơn Hà; phía tây nam giáp các huyện ðắk Tô, ðắk Hà, Kon Plông (tỉnh Kon Tum); phía bắc giáp huyện Trà My (tỉnh Quảng Nam) và huyện Tây Trà. Diện tích 380,74km2. Dân số 15.499 người (năm 2005). Mật ñộ dân số khoảng 40,7 người/km2(1). ðơn vị hành chính trực thuộc gồm 6 xã (Sơn Mùa, Sơn Dung, Sơn Tinh, Sơn Tân, Sơn Bua, Sơn Lập), với 24 thôn; trong ñó:

Xã Sơn Mùa có 5 thôn: Huy Em, Nước Min, Mang Tu La, Nước Vương - Tang Tong, Tang Tong (các từ: Mang tiếng Ca Dong có nghĩa là bãi bằng, Huy có nghĩa là bạn bè);

Xã Sơn Dung có 6 thôn: Huy Măng, ðắk Lang, Gò Lả, Ra Manh, Ra Pân, ðắk Trên;

Xã Sơn Tinh có 4 thôn: Nước Kỉa, Xà Ruông, Bà He, Ka Năng;

Xã Sơn Tân có 5 thôn: Ra Nhua, ðắk Be, Tà Dô, Ha Leu, Ta Vinh;

Xã Sơn Bua có 2 thôn: Mang Ta Bể, Mang He (Mang Ta Bể có nghĩa là bãi bằng ở ngã ba);

Xã Sơn Lập có 2 thôn: Mang Rễ, Mang Trẫy.

Huyện lỵ ñóng ở xã Sơn Dung. Từ tỉnh lỵ Quảng Ngãi ñến huyện lỵ Sơn Tây 90km theo tỉnh lộ 623 trực chỉ hướng tây, băng qua ñịa hạt huyện Sơn Hà (ñã trải nhựa).

Sơn Tây là huyện tách ra từ phần phía tây huyện Sơn Hà. ða số cư dân Sơn Tây là ñồng bào dân tộc Ca Dong (một nhóm của dân tộc Xơ ðăng mà ñịa bàn cư trú chính là cao nguyên Kon Tum). Người Ca Dong ở Sơn Tây sinh sống bằng nghề nông, kiểu nông nghiệp sơ khai, làm rẫy, trồng cau, rèn, dệt, lối sống ñậm chất tự túc, tự cấp, ñồng thời có những di sản văn hóa quý báu. Sơn Tây là huyện núi xa xôi của Quảng Ngãi, còn nhiều khó khăn, nhưng ñã dần dần phát triển.

* * *

Về hành chính, Sơn Tây xưa là vùng ñất thuộc nguồn Cù Bà, sau ñổi là nguồn Thanh Cù. Cuối thế kỷ XIX, nguồn Thanh Cù ñổi thành nha Sơn Hà, ñến năm 1915 ñổi là ñồn Sơn Hà. ðây là một trong bốn nguồn chính của tỉnh Quảng Ngãi. Từ ñường Thiên Lý (tức Quốc lộ 1) có ñường dẫn lên nguồn Thanh Cù, và thực

Page 143: Các Huyện - Thành phố

Ñòa chí Quaûng Ngaõi Trang 143

chất vùng ñất Sơn Tây là ñiểm nút cuối cùng về phía tây của nguồn Thanh Cù. ðến sau Cách mạng tháng Tám năm 1945, ñồn Sơn Hà ñổi là huyện Sơn Hà, trong ñó có tổng Ca Dong hình thành xã Sơn Tinh. Năm 1952, Sơn Tinh hình thành 2 xã là Sơn Liên và Sơn Tinh. Xã Sơn Liên lại tiếp tục chia thành 3 xã Sơn Liên, Sơn Mùa, Sơn Bao; xã Sơn Tinh chia thành 4 xã Sơn Tinh, Sơn Dung, Sơn Mùa, Sơn Long. Xã Sơn Bua từ tỉnh Kon Tum cắt giao cho Sơn Hà. Năm 1954, xã Sơn Lập ñược thành lập từ vùng Tà Ngom, Bù Nít.

Sau 1954, khi chính quyền Sài Gòn mới tiếp quản chưa kịp thay ñổi về hành chính, thì vùng Sơn Tây ñã dần trở thành căn cứ ñịa của lực lượng kháng chiến. Trong khu căn cứ ñịa, ngày 20.7.1957, khu VII ñược thành lập tương ñương với huyện Sơn Tây ngày nay gồm 9 xã của vùng cao Sơn Hà là Sơn Liên, Sơn Mùa, Sơn Bao, Sơn Tinh, Sơn Dung, Sơn Màu, Sơn Long, Sơn Bua, Sơn Lập. Năm 1959, tỉnh Kon Tum giao 6 làng cho khu VII lập xã Sơn Tân. Năm 1965, khu VII ñược gọi là huyện Sơn Tây. Trong những năm 1970 - 1972, huyện Sơn Tây nhập với các xã vùng Tây Trà Bồng thành khu Sơn Trà. Từ 1972, huyện Sơn Tây lại ñược thành lập. Từ 1975, huyện Sơn Tây nhập chung vào huyện Sơn Hà, 10 xã của Sơn Tây nhập lại còn 4 xã là Sơn Mùa, Sơn Tinh, Sơn Tân, Sơn Dung.

Ngày 6.8.1994, với Nghị ñịnh 83/CP của Chính phủ, huyện Sơn Hà tách lập thành 2 huyện Sơn Hà và Sơn Tây. Huyện Sơn Tây có 4 xã Sơn Mùa, Sơn Tân, Sơn Dung, Sơn Tinh. Năm 1999, xã Sơn Mùa tách lập thành 2 xã Sơn Mùa, Sơn Bua; xã Sơn Tinh tách lập thành 2 xã Sơn Lập, Sơn Tinh. Huyện Sơn Tây có 6 xã (như kể trên).

Về tự nhiên, Sơn Tây là huyện núi cao, có ñộ cao từ 400 - 1.700m.

Núi rừng: Chiếm khoảng 4/5 diện tích toàn huyện, có nhiều ñỉnh cao như Hoăn Plây, Rét, Gò Tăng, Hà Neng, Vá Rẫy, Azin ñều cao từ 1.000m trở lên. Núi rừng Sơn Tây có nhiều lâm thổ sản quý như các loại gỗ lim, sơn, chò, gõ, có nhiều loại ñộng vật, thú rừng như hổ, voi, sơn dương, trăn, khỉ... Sơn Tây còn có nhiều trầm hương, có suối khoáng Tà Meo (ñịa hạt xã Sơn Mùa). Vùng rừng nguyên sinh chủ yếu nằm ở xã Sơn Lập, trên núi Azin, có nhiều trầm hương, song mây.

Sông suối: Hai con sông chính chảy qua ñịa hạt Sơn Tây là sông Rinh và sông Xà Lò.

Sông Rinh có nguồn nước từ cao nguyên Kon Tum ñổ về, ở ñịa hạt Sơn Tây có các phụ lưu như Nước Lao, Nước Bua (Sơn Mùa), Ra Manh, Ra Pân, Huy Măng (Sơn Dung), Nước Màu (Sơn Tân).

Sông Xà Lò phát nguyên từ núi Azin hợp nước với suối Xà Ruông chảy theo hướng ñông bắc, làm ranh giới tự nhiên giữa hai xã Sơn Lập, Sơn Tinh với xã Sơn Kỳ (huyện Sơn Hà).

Page 144: Các Huyện - Thành phố

Ñòa chí Quaûng Ngaõi Trang 144

Sông Rinh và sông Xà Lò ñổ về phía ñông, hợp nước với sông Rhe ở ñoạn Hải Giá (ñịa hạt huyện Sơn Hà) chảy tiếp về ñông, tạo thành sông Trà Khúc, con sông lớn nhất của tỉnh Quảng Ngãi. Sông Rinh, sông Xà Lò là hai trong ba nguồn của sông Trà Khúc, có vị trí vô cùng quan trọng trong việc cung cấp nước, ñồng thời cũng có dòng chảy rất bạo liệt, thường gây ra lũ lụt kinh hoàng về mùa mưa.

Về khí hậu: Do nằm sâu trong lục ñịa và nhiều núi cao nên khí hậu ở Sơn Tây có sự khác biệt rõ rệt so với vùng ñồng bằng ven biển Quảng Ngãi. Mưa ở ñây sớm hơn vài tháng so với ở ñồng bằng, bắt ñầu từ cuối tháng tám dương lịch. Lượng mưa hàng năm khá cao với khoảng 2.700mm. Nhiệt ñộ có phần thấp hơn so với ñồng bằng. Tuy vậy, khí hậu ở Sơn Tây so với ñồng bằng tỉnh Quảng Ngãi cũng không quá khác biệt. ðộ ẩm trung bình hằng năm là 88 - 90%. Hạn hán, lũ lụt, bão tố thường gây nhiều tác hại cho sản xuất và ñời sống nhân dân. Vùng này về mùa mưa thường xảy ra lũ quét. Lốc xảy ra thất thường, gây tốc nhà, chết người. Tình trạng lở núi thường xảy ra.

Về ñất ñai, tình trạng sử dụng ở thời ñiểm năm 2005 như sau: 1) ðất nông nghiệp 3.216,99ha (có 2.105,40ha trồng cây hàng năm); 2) ðất lâm nghiệp 19.411,33ha (có 13.255,14ha rừng tự nhiên); 3) ðất chuyên dùng 910,87ha; 4) ðất khu dân cư 114,69ha; 5) ðất chưa sử dụng 14.420,12ha (có 14.258,33ha là ñất ñồi núi).

Về dân cư, ñịa hạt Sơn Tây có 3 dân tộc sinh sống: Ca Dong, Hrê, Kinh. Trong số dân 15.499 người (năm 2005) ở Sơn Tây, dân tộc Ca Dong có ñến 13.259 người, dân tộc Kinh có 1.138 người, dân tộc Hrê có 1.207 người.

Người Ca Dong sinh sống ở tất cả các xã trong huyện, ngoài xã Sơn Lập dưới 1.000 người, các xã khác ñều từ 1.000 người trở lên, ñông hơn cả là ở xã Sơn Dung trên 4.000 người, xã Sơn Mùa trên 3.000 người, xã Sơn Tân trên 2.600 người.

Người Hrê nhiều nhất ở các xã Sơn Tân (trên 450 người), Sơn Tinh (trên 370 người), ít nhất là ở các xã Sơn Bua, Sơn Lập.

Người Kinh nhiều nhất ở Sơn Dung (trên 560 người), Sơn Tân (trên 180 người), Sơn Mùa (trên 170 người), các xã khác trên 50 người.

Phân bố dân số cụ thể ở các xã (2005) như bảng sau:

TT Các xã Diện tích (km2) Dân số (người) M ật ñộ dân số (người/km2)

1 Sơn Dung 87,96 4.916 55,9 2 Sơn Mùa 73,97 3.328 45 3 Sơn Bua 47,39 1.140 24,1 4 Sơn Tân 73,56 3.244 44,1 5 Sơn Tinh 44,39 1.801 40,6

Page 145: Các Huyện - Thành phố

Ñòa chí Quaûng Ngaõi Trang 145

6 Sơn Lập 53,47 1.070 20

Tất cả các xã ở Sơn Tây ñều có 3 dân tộc Ca Dong, Hrê và Kinh cùng sinh sống, trong ñó cộng ñồng Ca Dong ở xã nào cũng chiếm số ñông. Mật ñộ dân số ở Sơn Tây thấp nhất trong tỉnh Quảng Ngãi (trên 40 người/km2). Xét trong nộ i hạt thì sự phân bố dân cư không có sự chênh lệch quá lớn giữa các vùng trong huyện.

Cư dân Sơn Tây ña số còn nghèo, có cuộc sống thuần phác, chủ yếu sống bằng nghề nông, nghề rừng. Việc buôn bán ñã dần phát triển và chủ yếu là người Kinh sinh sống bằng nghề buôn. Người Kinh có văn hóa Việt, người Hrê có nét văn hóa tương ñồng với người Hrê ở huyện Sơn Hà. Người Ca Dong có sự giao lưu, tiếp biến văn hóa với các dân tộc anh em, song văn hóa bản ñịa nội sinh vẫn rất ñậm nét.

* * *

Trong truy ền thống yêu nước của các dân tộc ở Sơn Tây có nhiều ñ iểm ñáng chú ý. Thời Pháp thuộc, khoảng 1908 - 1909, trong khi ñồng bào Kinh ở miền xuôi tỉnh Quảng Ngãi rầm rộ ñấu tranh "cự sưu khất thuế" thì người Ca Dong ở Sơn Tây tham gia với nghĩa quân Xơ ðăng ñánh ñịch trên cao nguyên Kon Tum, diệt ñồn ðắk Sút và ñồn ðắk Tô, giết sĩ quan, binh lính Pháp. ðồng bào Ca Dong ở Sơn Tây lại tham gia phong trào chống xâu thuế do ông ðinh Tôm (dân tộc Hrê) cầm ñầu trong những năm cuối thập niên mười và thập niên hai mươi của thế kỷ XX. Năm 1922, ñồng bào Ca Dong lại cùng nghĩa quân Xơ ðăng chiến ñấu trên cao nguyên Kon Tum, ñánh ñịch ở ðắk Lây, ðắk Pếch, diệt một toán quân Pháp ở ðắk Hà, chống thực dân bắt ñi phu ñắp ñường từ Di Lăng (Sơn Hà) ñi Măng Bút, Kon Plông năm 1935 - 1936. Thực dân Pháp phải ñưa quân lên ñóng ở Sơn Tây ñể dễ bề khống chế. ðồng bào Ca Dong do Cha Reo chỉ huy vẫn nổi dậy chống lại việc làm ñường. Vọt Tàu và Phó Nía kéo dân làng phối hợp với ñồng bào Hrê ñánh ñồn Di Lăng. Từ 1937 - 1938, ñồng bào Ca Dong do ðinh Nhá, ðinh Nía cầm ñầu ñã tham gia phong trào "Nước Xu ñỏ" với các dân tộc anh em ở bắc Tây Nguyên. Phong trào yêu nước của ñồng bào các dân tộc ở Sơn Tây hòa nhập vào cuộc Tổng khởi nghĩa trong Cách mạng tháng Tám 1945. Trong kháng chiến chống Pháp xâm lược, ñồng bào các dân tộc ở Sơn Tây tích cực xây dựng chính quyền cách mạng, xây dựng ñời sống mới, bố phòng chiến ñấu, chống ñịch từ cao nguyên Kon Tum ñánh xuống, góp phần dẹp bọn phản loạn, giữ vững vùng tự do Liên khu V. Trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, toàn huyện Sơn Tây ñược giải phóng vào ngày 05.9.1959. Sơn Tây trở thành vùng căn cứ ñịa cách mạng của tỉnh và của Khu V, ñã ñóng góp nhiều nhân lực cho cuộc kháng chiến ñi ñến thắng lợi. ðường 559 từ Bắc vào Nam ñi qua ñịa bàn Sơn Tây khoảng 20km, ñược nhân dân góp công xây dựng, bảo vệ, tham gia ñưa cán bộ, bộ ñội, vũ khí, lương thực từ Bắc vào Nam kháng chiến.

Page 146: Các Huyện - Thành phố

Ñòa chí Quaûng Ngaõi Trang 146

Quân và dân toàn huyện Sơn Tây, quân và dân xã Sơn Dung ñược phong tặng danh hiệu Anh hùng Lực lượng Vũ trang nhân dân vì công lao trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước.

* * *

Về ñời sống kinh tế, Sơn Tây là một huyện miền núi vùng cao, vùng xa ñược xếp vào diện huyện miền núi ñặc biệt khó khăn, trong ñó 6/6 xã thuộc Chương trình 135 của Chính phủ.

Trong tổng số thu chi ngân sách năm 2005 với 19.363,33 triệu ñồng thì số thu chuyển giao từ các cấp ngân sách chiếm ñến 18.705,86 triệu ñồng, tổng số thu trên ñịa bàn chỉ có 556,13 triệu ñồng. Sơn Tây còn mất cân ñối thu - chi rất lớn, chủ yếu nhờ vào sự chi viện của ngân sách cấp trên.

Kinh tế Sơn Tây cơ bản vẫn là nền kinh tế nông, lâm nghiệp và dấu ấn của nền nông nghiệp sơ khai vẫn còn khá ñậm nét. Tính ñến năm 2005, có ñến 14.466 nhân khẩu sống bằng nghề nông với 8.451 lao ñộng (chỉ có 273 lao ñộng ngành nghề khác).

Về nông nghiệp

Nông nghiệp Sơn Tây ngày nay còn mang ñậm dấu ấn cổ truyền. Trong nông nghiệp cổ truyền ở Sơn Tây, ñồng bào các dân tộc chủ yếu phát rẫy làm nương sinh sống: trồng lúa, mì, bắp, rau (mướp, bí). Cần lưu ý rằng ñất ñai vùng Sơn Tây phần lớn là ñồi núi, cằn cỗi không thuận lợi cho cây trồng, nhất là cây lương thực. ðặc biệt, vùng Sơn Tây bà con các dân tộc trồng nhiều cau. Nếu như ở Trà Bồng, cây trồng ñặc chủng là quế, vùng Minh Long là chè, thì ở Sơn Tây cây cau ñược xem như một loại cây trồng chính. Cau ñược trồng ở quanh làng, trên rẫy thành rừng, rừng cau trở thành một nét ñặc biệt trong vùng cư trú của người Ca Dong. Lúa rẫy là nguồn lương thực chính. Việc khai hoang làm ruộng lúa nước ñược thực hiện cách ñây chưa lâu và ngày càng tỏ rõ tầm quan trọng của nó trong việc giải quyết vấn ñề lương thực tại chỗ và hạn chế nạn khai thác rừng thiếu kế hoạch.

Sơn Tây xác ñịnh bốn tiểu vùng kinh tế trọng ñ iểm của huyện gồm: 1) Cụm xã Sơn Mùa (gồm hai xã Sơn Mùa - Sơn Bua), trung tâm tại Sơn Mùa; 2) Tiểu vùng Ra Manh (xã Sơn Dung); 3) Cụm xã Sơn Tinh - Sơn Lập, trung tâm tại Sơn Tinh; 4) Khu trung tâm huyện lỵ tại Sơn Dung.

Thời ñiểm 2005, Sơn Tây có 1.054,2ha diện tích ñất trồng lúa. Ngoài lúa còn nhiều cây trồng khác. Năm 1995, mới tái lập huyện, sản lượng lúa chỉ ñạt 1.226 tấn; ñến năm 2005, ñạt 3.863 tấn, tăng hơn 3 lần; diện tích lúa cả năm tăng gần 2 lần. Tổng sản lượng lương thực có hạt thời ñ iểm 2004 là 4.004,6 tấn, lương thực bình quân ñầu người 260,2kg; năm 2005 là 4.268 tấn, bình quân lương thực ñầu người toàn huyện là 273kg. Sản lượng lương thực cao nhất là xã Sơn Dung

Page 147: Các Huyện - Thành phố

Ñòa chí Quaûng Ngaõi Trang 147

(1.384,04 tấn), xã Sơn Mùa (964,04 tấn), thấp nhất là xã Sơn Lập (262,39 tấn). Lương thực bình quân ñầu người cao nhất là xã Sơn Bua (385,04kg), xã Sơn Tinh (332,94kg), thấp nhất là xã Sơn Tân (188,22kg).

Thống kê sơ bộ về các cây lương thực, thực phẩm chính ở Sơn Tây năm 2005 như sau:

TT Cây trồng Diện tích canh tác (ha) Sản lượng (tấn) Năng suất (tạ/ha)

1 Lúa 1.591,5 3.863,08 24,27 2 Ngô 224,19 405,59 18,1 3 Sắn 650 5.605 86,2 4 Rau các loại 129,05 777,70 60,3

5 ðậu các loại 66,31 34,30 5,2

Lúa trồng nhiều nhất ở xã Sơn Dung (diện tích 502,2ha, sản lượng 1.281,03 tấn), xã Sơn Mùa (diện tích 332ha, sản lượng 854,71 tấn); ít nhất ở xã Sơn Lập (diện tích 111,6ha, sản lượng 241,89 tấn).

Ngô trồng nhiều nhất ở xã Sơn Mùa (diện tích 58,50ha, sản lượng 109,73 tấn), xã Sơn Dung (diện tích 56,60ha, sản lượng 103,01 tấn), thấp nhất ở xã Sơn Lập (diện tích 12,23ha, sản lượng 20,50 tấn).

Sắn trồng nhiều nhất ở xã Sơn Tân (diện tích 185ha, sản lượng 1.595,3 tấn), xã Sơn Mùa (diện tích 170ha, sản lượng 1.465,9 tấn), thấp nhất ở xã Sơn Lập (40ha, sản lượng 344,9 tấn).

Rau các loại ñược trồng nhiều nhất ở xã Sơn Mùa (42ha, sản lượng 258,30 tấn), ít nhất ở xã Sơn Bua (9,60ha, sản lượng 56,41 tấn). Các xã khác ñều từ 10 ñến 30ha.

ðậu các loại ñược trồng nhiều ở các xã Sơn Dung, Sơn Mùa, Sơn Tân.

ði ñôi với việc làm lúa nước là việc xây dựng các công trình thuỷ lợi nhỏ, thích hợp với ñịa hình vùng núi, như các ñập Nước Min, Kà Rá, Nước Ma, Ka Năng với năng lực tưới mỗ i ñập vào khoảng 10 - 25ha. Nghề làm rẫy và các cây trồng truyền thống tiếp tục ñược duy trì. Cây cau ở Sơn Tây nhờ có ñầu ra nên vẫn phát huy. Các cơ sở thu mua cau ñến tận nơi ñể thu mua cau về chế biến xuất khẩu. Bên cạnh việc khai thác các nguồn lâm sản tự nhiên như mây, tre, ñót, một số người dân còn trồng thêm mây ñể bán và ñem lại hiệu quả, triển vọng ñáng khích lệ. Cây ngô, rau xanh, ñậu xanh, sắn, khoai cũng từng bước ñược trồng tỉa trên diện rộng. ðặc biệt, cây ñậu xanh ưa khô nóng tỏ ra khá thích hợp với ñiều kiện ñất ñai khí hậu ở ñây.

Chăn nuôi cũng là một lĩnh vực quan trọng trong ñời sống của ñồng bào các dân tộc Sơn Tây. Tuy vậy, còn rất bé nhỏ so với tiềm năng. Năm 2005, ñàn trâu có 1.402 con, ñàn bò có 5.144 con, ñàn heo 6.605 con, gà 23.833 con.

Page 148: Các Huyện - Thành phố

Ñòa chí Quaûng Ngaõi Trang 148

Về lâm nghiệp

Việc trồng, chăm sóc, bảo vệ rừng và khai thác, chế biến lâm thổ sản cũng là hoạt ñộng kinh tế chiếm một phần quan trọng trong ñời sống của cư dân Sơn Tây. Trải qua thời gian, chiến tranh và sự tàn phá của con người, rừng ở Sơn Tây ñã trở nên nghèo kiệt. Do vậy, việc khoanh nuôi, trồng và bảo vệ rừng ở Sơn Tây ñược ñặt ra như một nhiệm vụ cấp bách và lâu dài, cũng như ở các huyện khác trong tỉnh Quảng Ngãi. Năm 2004, Sơn Tây trồng ñược 1.737ha rừng, khoanh nuôi 1.553ha; khai thác 172,54m3 gỗ, 4,5 ngàn cây tre, 176 tấn ñót, 55 tấn song mây. Số liệu năm 2005 có thấp hơn: trồng rừng tập trung 250ha, khoanh nuôi tái sinh 750ha; khai thác 113m3 gỗ, 30 ngàn cây tre, 170 tấn ñót, 30 tấn song mây. ðộ che phủ của rừng hiện nay ước khoảng 36,7%. Tính ñến cuối năm 2005, trên ñịa bàn huyện ñã trồng ñược 3.820,5ha rừng, phần lớn trong số ñó là rừng phòng hộ ñầu nguồn do Nhà nước ñầu tư. Rừng sản xuất ñược trồng các cây công nghiệp như cau, quế và nhiều loại cây trồng khác. Riêng cây cau có 1.125ha, sản lượng 3.895 tấn (cau tươi) và quế 887,43ha (năm 2004). Kinh tế trang trại bắt ñầu phát triển với 3 trang trại chăn nuôi.

Xưa kia, tiểu thủ công nghiệp của ñồng bào các dân tộc Sơn Tây chủ yếu là nghề ñan, nghề dệt, nghề rèn ñể ñáp ứng các nhu cầu thiết yếu trong sinh hoạt và sản xuất, mang tính chất tự túc, tự cấp là chính. Người Ca Dong ở Sơn Tây thường ñan các loại gùi, giỏ. Nghề dệt khá phát triển với các loại thổ cẩm mang nhiều hoa văn, giàu bản sắc dân tộc. Người Ca Dong dệt vải vừa ñể mặc, vừa ñể bán cho người Cor láng giềng vốn không có truyền thống về nghề dệt. Do vậy mà trong y phục cổ truyền của dân tộc Cor khá ñậm ñặc kiểu thẩm mỹ thể hiện qua hoa văn họa tiết của người Ca Dong ở Sơn Tây và lối phục sức của hai dân tộc cũng rất giống nhau. Rất tiếc nghề dệt thổ cẩm ngày nay hầu như ñã mất. Nghề rèn cũng là một nét nổ i bật trong ñời sống của người Ca Dong xưa. Nghề rèn phát sinh trong ñiều kiện cuộc sống trên ñịa bàn người Ca Dong thuở trước gần như hoàn toàn cách biệt. Người Ca Dong ñã dùng vật liệu tại chỗ, công cụ tự tạo ñể rèn ñúc các loại công cụ như rựa, dao, giáo, mác phục vụ cho nhu cầu sản xuất, săn bắn, tự vệ của mình, ñồng thời có sự giao lưu, trao ñổi, buôn bán với các dân tộc anh em trong vùng. Chất lượng các sản phẩm rèn cổ truyền của người Ca Dong khá cao. Tuy nhiên, nghề rèn truyền thống của người Ca Dong ngày nay hầu như ñã thất truyền.

Các nghề thủ công mới và dịch vụ về cơ bản mới xuất hiện từ sau 1975, nhất là sau khi huyện Sơn Tây ñược thành lập (1994). ðó là các nghề xay xát gạo, chế biến tinh bột mì, mộc, may mặc, sản xuất gạch ngói, ñá chẻ...

Hoạt ñộng công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp ở Sơn Tây còn quá nhỏ bé: năm 2004 chỉ ñạt giá trị sản xuất 933 triệu ñồng (giá hiện hành), năm 2005 ñạt 1.306 triệu ñồng, ñều do tư nhân ñảm nhiệm; trong ñó chủ yếu là công nghiệp khai thác (ñá sỏi), công nghiệp chế biến sản phẩm (gạch ngói, gỗ, tre, nứa, may mặc...). ðến năm 2005, chỉ mới có 53 cơ sở công nghiệp cá thể với 75 lao ñộng.

Page 149: Các Huyện - Thành phố

Ñòa chí Quaûng Ngaõi Trang 149

Hoạt ñộng buôn bán dần dần có sự chuyển ñổi, phát triển. Xưa kia, việc buôn bán, ñổi chác ở các làng trong huyện chủ yếu do các thương nhân thực hiện, ngay tại các làng. Thương nhân người Kinh gánh vải, rựa, nồi lên mua bán. Ngày nay ñã có các cửa hiệu, có những hộ chuyên nghề buôn, chủ yếu là tạp hóa, ăn uống. Theo thống kê của huyện, năm 2005 có 315 cơ sở kinh doanh thương mại - dịch vụ, tập trung ở xã Sơn Dung (huyện lỵ) hơn một phần hai (169 cơ sở), còn lại ở các xã khác, chủ yếu là các cơ sở bán lẻ hàng hóa phục vụ sinh hoạt gia ñình (146 cơ sở). Các cơ sở này hầu hết ở quy mô gia ñình, do vậy tổng số lao ñộng tham gia chỉ có 397 người. Tổng mức bán lẻ hàng hóa và dịch vụ năm 2005 là 5.600 triệu ñồng. Riêng về lĩnh vực du lịch văn hóa ở Sơn Tây còn tiềm tàng nhưng chưa có ñiều kiện ñể khơi dậy. ðặc biệt, lần ñầu tiên trong lịch sử, Sơn Tây ñã xây dựng chợ ñể tập trung mua bán tại huyện lỵ.

Sự phát triển về kinh tế ở Sơn Tây chỉ mới là bước ñầu, tỉ lệ hộ ñói nghèo còn chiếm ñến 2/3 số hộ dân trong toàn huyện. ðời sống của nhân dân trong huyện còn rất thấp, rất nhiều khó khăn.

Chuyển biến nổi bật nhất ở Sơn Tây là việc xây dựng cơ sở hạ tầng và ở lĩnh vực văn hóa - xã hộ i. Tỉnh lộ Quảng Ngãi - Sơn Hà - Sơn Tây ñã trải nhựa, là trục ñường xương sống của huyện. Nhận thấy hạn chế của vị trí "cuối ñường", Sơn Tây ñang có ñề nghị tỉnh cho mở ñường liên huyện sang các huyện bạn là Tây Trà, Trà My (tỉnh Quảng Nam), Kon Plông (tỉnh Kon Tum) ñể kích thích sự phát triển. Các ñập thuỷ lợi lần lượt ñược xây dựng ñể phục vụ sản xuất. Thông tin liên lạc cũng ñược xác lập và ngày càng phát triển. Sơn Tây có Bưu ñ iện huyện tại huyện lỵ ñặt tổng ñài ñiện tử dung lượng 492 số, có 2 bưu ñiện văn hóa xã ở Sơn Tân, Sơn Mùa, có trạm viễn thông ở huyện lỵ. Từ năm 2003, các xã trong huyện ñều ñã có ñiện thoại. Năm 2005, tổng số máy ñ iện thoại trên mạng trong huyện là 375 chiếc. Các xã ñều có mạng lưới ñ iện quốc gia kéo ñến trung tâm của 6 xã và có khoảng một phần tư số hộ trong toàn huyện ñược sử dụng ñiện. ðến cuối năm 2004, số hộ dùng ñiện tăng lên ñến trên 70%, chủ yếu là thắp sáng. Các trường học cũng dần dần ñược xây dựng, kiên cố hóa.

* * *

Cũng như kinh tế, lĩnh vực văn hóa - xã hội ở Sơn Tây vừa mang ñậm dấu ấn cổ truyền, vừa hình thành văn hóa mới và các yếu tố ấy có sự ñan xen, hỗ trợ lẫn nhau.

Nói ñến di sản văn hóa ở ñịa hạt Sơn Tây thì một nhân tố làm mọi người chú ý nhất là di sản văn hóa tộc người Ca Dong, tộc người có số dân ñông nhất huyện. Văn hóa dân tộc Ca Dong là văn hóa của một dân tộc có yếu tố nội sinh ñậm nét. Cũng như các dân tộc anh em khác ở Trường Sơn - Tây Nguyên, người Ca Dong trước kia nằm ở trạng thái kinh tế - xã hộ i thời tiền giai cấp, có tín ngưỡng vạn vật hữu linh, có những ñặc tính của loài người thời ban sơ với nhiều ñức tính tốt ñẹp. Sống ở vùng rừng núi khắc nghiệt, người Ca Dong ở miền Tây Quảng Ngãi có sức

Page 150: Các Huyện - Thành phố

Ñòa chí Quaûng Ngaõi Trang 150

chịu ñựng dẻo dai, bền bỉ, rất cần cù và mạnh mẽ, hiếu khách. Trong văn hóa sản xuất, người Ca Dong có nhiều kinh nghiệm về các cây trồng vật nuôi, ñặc biệt có tri thức về nghề dệt và nghề rèn (như ñã kể). Trong văn hóa tinh thần, người Ca Dong có truyện cổ, có kiến trúc nhà ở dân gian. Cũng như các dân tộc anh em khác ở miền núi, người Ca Dong rất thích múa hát. Âm nhạc dân gian Ca Dong có nhiều nhạc cụ tự tạo. Người Ca Dong thích ñánh chiêng, nhảy múa. ðặc biệt người Ca Dong có nhiều lễ hội mang tính cộng ñồng cao giống người Cor, như lễ mừng lúa mới, lễ hộ i ăn trâu... Cây nêu trong lễ hộ i ăn trâu của dân tộc Ca Dong khá ñộc ñáo, nêu cao vút và có nhiều hoa văn họa tiết, ñược tạo hình phong phú, ñẹp mắt. Người Ca Dong có sự giao thoa văn hóa với các dân tộc anh em láng giềng như với người Hrê, người Cor mà ở ñó người Ca Dong có nhiều ñiểm tương ñồng về văn hóa. Nói ñến di sản văn hóa các dân tộc anh em ở Sơn Tây cũng không thể quên văn hóa của một bộ phận cư dân Hrê và cư dân Kinh ở ñây. Văn hóa tộc người ngày nay ở Sơn Tây, ngoài yếu tố văn hóa của từng tộc người, là văn hóa hỗn hợp, giao lưu giữa các dân tộc anh em. Trong di sản văn hóa ở Sơn Tây còn có những di tích, thắng cảnh quý giá như thắng cảnh suối Huy Măng, Trạm Chín Cô, Bãi Màu...

Thuở xưa, sinh hoạt văn hóa của các dân tộc anh em ở Sơn Tây chủ yếu theo lối cổ truyền. Từ sau Cách mạng tháng Tám 1945, văn hóa mới của cách mạng mới lan ñến. Tuy vậy, do ñặc thù của vùng ñất xa xôi, nhất là do ñiều kiện chiến tranh, nên văn hóa cách mạng mới thực sự phát triển từ năm 1975 trở về sau. Cùng với sự giao lưu, phát triển kinh tế, ñồng bào các dân tộc ở Sơn Tây ñã phát triển các hoạt ñộng văn hóa mới. Một mặt, các giá trị văn hóa cổ truyền vẫn ñược bảo tồn và phát huy, mặt khác, các tập tục lạc hậu trong sinh hoạt và sản xuất dần dần ñược bãi bỏ, nhân dân các dân tộc ở Sơn Tây tiếp thu và phát triển văn hóa mới, các phương tiện văn hóa hiện ñại ngày càng hòa nhập với các dân tộc anh em trên tiến trình phát triển của cách mạng. Cùng với mạng lưới ñ iện ñã kéo về huyện lỵ và các xã trong huyện, phát thanh và truyền hình ñã hiện diện nhiều nơi ở Sơn Tây. Ở huyện có ñài truyền thanh và phát lại truyền hình huyện. Ở nhiều ñịa phương trong huyện có trạm thu phát sóng truyền hình. Nhân dân ở các làng nhiều người ñã sắm hoặc ñược phát máy thu thanh, máy thu hình. Năm 2005, Sơn Tây ñã xây dựng ñược Nhà Văn hóa huyện mang nét dân tộc, hiện ñại, khá khang trang. Song song với các sinh hoạt văn hóa mới, văn hóa dân tộc của ñồng bào các dân tộc Sơn Tây ñược bảo tồn và phát huy. Trong nhiều hộ i thi, hội diễn, liên hoan, các tinh hoa văn hóa ñó ñược phô bày ñẹp ñẽ và rất ñược hoan nghênh. Nghệ sĩ ưu tú ðinh Long Ta là người dân tộc Ca Dong ở Sơn Tây, ñã trưởng thành từ phong trào văn hóa, văn nghệ nơi ñây trong những năm kháng chiến chống Mỹ, cứu nước.

Sự nghiệp giáo dục - ñào tạo xuất hiện rất muộn ở Sơn Tây. Thời thực dân phong kiến, gần như toàn bộ nhân dân ở ñây không biết chữ và cũng không có cơ hội nào ñể học hành. Chỉ từ sau Cách mạng tháng Tám 1945, nhất là từ sau ngày ñất nước hòa bình thống nhất (1975), sự nghiệp giáo dục - ñào tạo ở Sơn Tây mới thật sự hình thành và phát triển. Ở các làng xã trong ñịa hạt Sơn Tây ngày nay ñều có trường học, chủ yếu là trường Tiểu học. Ở huyện lị có Trường Trung học phổ

Page 151: Các Huyện - Thành phố

Ñòa chí Quaûng Ngaõi Trang 151

thông ðinh Tiên Hoàng, có trường Trung học cơ sở dân tộc nội trú, có Trung tâm giáo dục thường xuyên. Toàn huyện có 9 trường Tiểu học, trong ñó các xã Sơn Dung, Sơn Mùa, Sơn Tân mỗi xã có hai trường, các xã Sơn Bua, Sơn Tinh, Sơn Lập mỗi xã có một trường. Nếu tính từ năm 1994 thì toàn huyện có 1.137 học sinh (Tiểu học) từ lớp 1 ñến lớp 3. Tháng 10.1997, huyện ñược công nhận ñạt chuẩn quốc gia về phổ cập Tiểu học. Năm học 1999 - 2000 có 3.920 học sinh, trong ñó có 40 học sinh lớp 9. Năm học 2004 - 2005, Sơn Tây có 4.169 học sinh với 205 giáo viên. Năm học 2005 - 2006, Sơn Tây có 45 lớp Mẫu giáo, 45 giáo viên, 960 học sinh; về giáo dục phổ thông có 172 lớp, 4.297 học sinh, 250 giáo viên. Việc học ñược nâng dần lên các cấp cao hơn.

Về y tế, từ trước kia, khi có việc ốm ñau, sinh ñẻ, ñồng bào các dân tộc trên ñịa bàn Sơn Tây chủ yếu nhờ vào các bài thuốc dân gian. Từ sau 1975, trên ñịa bàn Sơn Tây có 1 bệnh xá khu vực thuộc bệnh viện huyện Sơn Hà với 6 cán bộ y tế. Hằng năm, ở ñây chỉ có khoảng trên 1.000 lượt người ñến khám, chữa bệnh. Từ năm 1999, trung tâm y tế huyện và bốn trạm y tế xã ñược xây dựng, có ñội ngũ cán bộ y tế trên 40 người, hằng năm có hàng chục ngàn lượt người ñến khám và chữa bệnh. Mạng lưới y tế có trung tâm y tế huyện, có bệnh viện huyện và ñội vệ sinh phòng dịch, có 6 trạm y tế ở xã. Tổng số cán bộ y tế năm 2005 là 53 người, trong ñó có 5 bác sĩ. Các tập tục mê tín dị ñoan trong khám, chữa bệnh dần dần ñược xoá bỏ. ðồng bào các dân tộc trong huyện ñã thực hiện kế hoạch hóa gia ñình, không sinh ñẻ nhiều như trước kia (giảm còn 1,48% năm 2004).

Về mặt xã hội, Sơn Tây vốn là một ñịa bàn căn cứ ñịa cách mạng trong các cuộc kháng chiến, có 894 người ñược hưởng các chế ñộ chính sách người có công với nước. Là huyện miền núi xa xôi nên ñược nhà nước quan tâm ñầu tư, ñược cấp các mặt hàng thiết yếu. ðặc ñiểm của cư dân ở ñây là ít dịch chuyển, do vậy tuy tỉ lệ ñói nghèo còn nhiều, nhưng hầu như ít người ñi xa kiếm sống. Tính ở thời ñiểm mới thành lập huyện, toàn bộ các hộ dân ở Sơn Tây ñều thuộc diện ñói nghèo. Qua nỗ lực rất lớn, suốt 10 năm sau tái lập huyện, tỉ lệ ñói nghèo ñã giảm nhưng vẫn còn ở mức cao, với hơn 50% số hộ ñói nghèo. ðói nghèo là vấn ñề lớn nhất trong các vấn ñề xã hội, xoá ñói giảm nghèo là trọng tâm của các hoạt ñộng ở Sơn Tây ngày nay.

Huyện Sơn Tây xác ñịnh trong khoảng 5 năm tới giảm số hộ nghèo còn 15%, năm 2009 bảo ñảm lương thực tại chỗ. Cơ cấu kinh tế của huyện vẫn là nông, lâm nghiệp - công nghiệp - dịch vụ.

(1) Theo Niên giám Thống kê tỉnh Quảng Ngãi 2005.

Page 152: Các Huyện - Thành phố

Ñòa chí Quaûng Ngaõi Trang 152

HUYỆN MINH LONG

M INH LONG là huyện miền núi nằm ở khoảng giữa tỉnh Quảng Ngãi. Phía ñông giáp huyện Nghĩa Hành; phía tây giáp huyện Sơn Hà; phía nam giáp huyện Ba Tơ; phía bắc giáp huyện Tư Nghĩa. Diện tích: 216,37km2. Dân số: 14.913 người (năm 2005). Mật ñộ dân số: khoảng 69 người/km2(1). ðơn vị hành chính trực thuộc gồm 5 xã (Long Hiệp, Long Sơn, Long Mai, Long Môn, Thanh An), với 43 thôn; trong ñó:

Xã Long Hiệp có 7 thôn: thôn 1, thôn 2, thôn 3, Hà Liệt, Thiệp Xuyên, Dục Ái, Hà Bôi;

Xã Long Sơn có 9 thôn: Biều Qua, Sơn Châu, Xà Tôn, Lạc Hạ, Lạc Sơn, Diên Sơn, Gò Chè, Yên Ngựa, Gò Tranh;

Xã Long Mai có 9 thôn: Mai Lãnh Thượng, Mai Lãnh Hạ, Mai Lãnh Trung, Mai Lãnh Hữu, Ngã Lăng, Tối Lạc Thượng, Minh Xuân, Dư Hữu, Kỳ Hát;

Xã Thanh An có 14 thôn: ðồng Rinh, Làng Vang, Hóc Nhiêu, Ruộng Gò, Tam La, Làng Hinh, Diệp Hạ, Diệp Thượng, Làng ðố, Dưỡng Chơn, Gò Rộc, Phiên Chá, Thanh Mâu, Công Loan;

Xã Long Môn có 4 thôn: Làng Trê, Làng Ren, Cà Xen, Làng Vang.

Từ thành phố tỉnh lỵ Quảng Ngãi theo tỉnh lộ 627 ñến huyện lỵ Minh Long (ñóng ở xã Long Hiệp) 30km. Minh Long là huyện miền núi gần nhất với tỉnh lỵ trong số 6 huyện miền núi của tỉnh Quảng Ngãi. Tuy nhiên, nếu tính ñiểm rẽ từ Quốc lộ 1, thì ñộ xa 30km là tương ñương với các huyện Trà Bồng, Ba Tơ.

Minh Long là huyện có ñơn vị hành chính tương ñối ít (trừ huyện ñảo Lý Sơn, Minh Long là huyện có số xã ít nhất của Quảng Ngãi), dân số không nhiều, với ña số là người dân tộc Hrê giỏi canh tác lúa nước và có cây chè ñặc chủng, có những di sản văn hóa cổ truyền ñáng quý, nhưng nằm ở vị trí ñịa lý không thật thuận lợi, cuộc sống vẫn còn nhiều khó khăn.

* * *

Về hành chính, huyện Minh Long xưa có tên là nguồn Phụ Ba, rồi nguồn Phụ Bà ðịa; năm 1822, dưới triều vua Minh Mạng, ñổi là nguồn Phụ An, một trong bốn nguồn của tỉnh Quảng Ngãi. Thời Pháp thuộc, năm 1915, nguồn Phụ An ñổi là ñồn Minh Long có 5 tổng với 60 làng, sách. 5 tổng có tên là tổng Hành, tổng Lạc, tổng Trung, tổng Thượng, tổng Hạ. ðến thập niên ba mươi thế kỷ XX, ñồn Minh Long

Page 153: Các Huyện - Thành phố

Ñòa chí Quaûng Ngaõi Trang 153

ñược ñiều chỉnh lại còn 3 tổng là An Hành, Lợi Hành, Lạc Hành với 65 sách; sau ñổi ñồn Minh Long thành nha Minh Long.

Cách mạng tháng Tám 1945 thành công, nha Minh Long ñổi thành châu Minh Long rồi huyện Minh Long. Cấp tổng ñược bãi bỏ, các sách hợp lại trong 9 xã lớn ñều lấy chữ Long làm ñầu, gồm các xã: Long Môn, Long Sơn, Long Huy, Long Xuyên, Long Mai, Long Quang, Long An, Long Thanh, Long Xuân.

Từ sau 1954, chính quyền Sài Gòn ñổi huyện Minh Long thành quận Minh Long, chia thành 14 xã và ñổi ñặt tên xã mới, lấy chữ Minh làm ñầu, gồm các xã: Minh Tâm, Minh ðiền, Minh Hiệp, Minh Cao, Minh Thượng, Minh Nghĩa, Minh Sơn, Minh Trị, Minh Anh, Minh ðức, Minh Dũng, Minh Hạ, Minh Trung, Minh Tân.

Sau năm 1975, chính quyền cách mạng chia lại huyện Minh Long thành 9 xã: Long Môn, Long Thanh, Long Quang, Long An, Long Tân, Long Hiệp, Long Xuân, Long Mai, Long Sơn.

Từ 1976 ñến 1981, huyện Minh Long nhập với huyện Nghĩa Hành thành huyện Nghĩa Minh, thuộc tỉnh Nghĩa Bình. Các xã Long Thanh, Long An, Long Quang hợp nhất thành xã Thanh An, xã Long Xuân nhập vào xã Long Mai, xã Long Tân nhập vào xã Long Hiệp.

Năm 1982, huyện Minh Long ñược tái lập, huyện còn 5 xã (như ñã kể trên) và ổn ñịnh ñến nay.

Về tự nhiên, Minh Long là huyện miền núi với trên 80% diện tích là ñồi núi. ðịa hình Minh Long cao ở phía tây, thấp dần về phía ñông, bị chia cắt mạnh bởi các ñồi núi, sông suối.

Núi: Có các núi cao như ðá Vách (Thạch Bích), núi Mum (Mông Sơn), núi Kỳ Lân ñều cao trên 1.000m. Từ làng Trê ñến Bãi Vẹt có khu rừng nguyên sinh. Rừng Minh Long xưa có nhiều hổ và các loài thú khác như gấu, nai, trăn, khỉ, công… có nhiều gỗ lim, chò, sến, ké, có mật ong, song mây. ðất ñai ñặc biệt thích hợp với cây chè, cây cau. Núi rừng vừa chứa tài nguyên phong phú, vừa là vị trí chiến lược trong an ninh quốc phòng.

Sông suối: Ở Minh Long có nhiều sông suối chia cắt, trong ñó ñáng chú ý là suối Kvả, sông Phước Giang (tiếng Hrê gọi là Rét Cà Ra Vá), thác Trắng, suối Tía, nước Nhiêu, nước Xà Hoen… là nguồn nước dồi dào cho sản xuất và sinh hoạt. Sông suối có nhiều loại cua cá ngon như cá niêng, ốc ñá, cá chép, ñồng thời có nhiều thác cao có thể tận dụng làm thuỷ ñiện hay phát triển du lịch.

ðồng bằng: Thường nằm ở các thung lũng, tuy nhỏ hẹp nhưng màu mỡ, từ thuở xa xưa ñã ñược khai phá tạo thành các ñồng lúa nước xanh tốt.

Page 154: Các Huyện - Thành phố

Ñòa chí Quaûng Ngaõi Trang 154

Tình hình sử dụng ñất ở Minh Long năm 2005 như sau: 1) ðất nông nghiệp 2.435,26ha (ñất trồng cây hàng năm 1.929,47ha); 2) ðất lâm nghiệp 12.932,71ha; 3) ðất chuyên dùng 190,65ha; 4) ðất khu dân cư 123,65ha; 5) ðất chưa sử dụng 5.600,98ha.

Khí hậu ở Minh Long tương tự như các huyện miền núi khác trong tỉnh Quảng Ngãi. Mùa hè ở Minh Long khá nóng, mùa ñông rất lạnh, mưa nhiều và lũ quét mạnh, thường xuất hiện sạt lở núi, gió lốc khi có mưa dông.

Về dân cư, ở Minh Long có hai thành phần dân tộc cộng cư là người Hrê và người Kinh, trong ñó người Hrê chiếm trên 2/3 số dân (10.582 người), người Kinh chiếm gần 1/3 số dân (4.331 người), trong tổng số dân 14.913 người tính ở thời ñiểm 2005.

Dân số ở Minh Long năm 2005 ñược phân bố trên ñịa bàn các xã như sau(2):

TT Xã Diện tích (km2) Dân số (người) M ật ñộ dân số (người/km2)

1 Long Hiệp 17,26 3.689 214

2 Long Sơn 66,32 4.156 63

3 Long Mai 37,16 3.122 84

4 Thanh An 37,18 2.839 76

5 Long Môn 58,45 1.107 19

Bảng kê trên cho thấy, ở Minh Long không có sự chênh lệch quá lớn về số dân và mật ñộ dân số ở các ñịa phương trong huyện, trừ xã Long Môn xa nhất.

Xã có số dân ñông nhất là Long Sơn ñồng thời cũng là xã có diện tích tự nhiên rộng nhất, nên mật ñộ dân số vẫn ở mức thấp. Xã có số dân ñông thứ hai là Long Hiệp, có mật ñộ dân số cao vượt trội, là nơi ñóng huyện lỵ, tập trung buôn bán của huyện. Xã có số dân và mật ñộ dân số thấp nhất là Long Môn, xã xa nhất huyện, ñường sá ñi lại khó khăn. Sự phân bố dân cư như vậy phù hợp với quy luật tự nhiên.

Tổng số dân của toàn huyện Minh Long chỉ bằng tổng số dân của một xã có dân số hạng trung bình ở ñồng bằng.

Mật ñộ dân số của toàn huyện không chỉ thấp hơn nhiều so với toàn tỉnh mà còn ở mức thấp so với các huyện miền núi khác trong tỉnh Quảng Ngãi, ngoại trừ huyện Tây Trà.

Sự vừa phải của tổng số dân và mật ñộ dân số còn khá thưa cho phép người quản lý dễ hoạch ñịnh những quyết sách phát triển và bảo vệ môi trường.

Page 155: Các Huyện - Thành phố

Ñòa chí Quaûng Ngaõi Trang 155

Xét theo cơ cấu dân tộc ở từng xã trong huyện, dễ thấy tỉ lệ dân tộc Kinh chiếm tỉ trọng cao ở vùng trung tâm huyện và giảm dần ở vùng xa, trong khi tỉ lệ dân tộc Hrê tương ñối ñều ở các xã. Cụ thể hơn thì người Kinh ñến sinh sống ở Minh Long ñã khá lâu ñời và tập trung chủ yếu ở xã Long Hiệp (nơi có ñóng huyện lỵ) và các xã Long Sơn, Long Mai, cụ thể năm 2005 như bảng kê sau:

TT Xã Người Kinh Người Hrê

1 Long Hiệp 2.195 1.494

2 Long Sơn 1.241 2.915

3 Long Mai 617 2.505

4 Thanh An 264 2.575

5 Long Môn 14 1.093

Người Hrê ở Minh Long nhìn chung có nét tương ñồng với người Hrê ở các huyện Ba Tơ, Sơn Hà, sự khác biệt không nhiều. dân tộc Hrê nói chung giỏi canh tác lúa nước, duy ở Minh Long người Hrê giỏ i trồng chè, khác với ở Ba Tơ trồng nhiều dứa. Người Hrê ở Minh Long sinh sống chủ yếu bằng nghề làm rẫy, trồng lúa nước, trồng chè, cau, thuốc lá và lưu giữ ñược nhiều tinh hoa văn hóa cổ truyền.

Người Kinh ở Minh Long mang ñặc ñiểm của văn hóa Kinh nói chung và có sự giao thoa văn hóa với người Hrê. Trong số người Kinh ở Minh Long thì nhiều người cư trú lâu ñời, một số người ở vùng Nghĩa Hành, Mộ ðức ñến sinh sống, lập nghiệp. Người Kinh chủ yếu trồng lúa nước, buôn bán, làm nghề thủ công. Cộng ñồng các dân tộc ở Minh Long ñã ñoàn kết gắn bó, tương trợ nhau trong cuộc sống, kháng chiến năm xưa cũng như trong xây dựng hòa bình hôm nay.

* * *

Trong truy ền thống yêu nước và cách mạng của nhân dân Minh Long có nhiều ñ iểm ñáng chú ý.

ðời các chúa Nguyễn và thời nhà Nguyễn, ñồng bào Hrê ñã nổi dậy chống ách thống trị, áp bức, bóc lột của chế ñộ phong kiến, nổ i lên tên tuổ i ñộng Thạch Bích (ðá Vách) ñược nhắc ñến nhiều trong sách sử triều Nguyễn. ðời Tây Sơn, thủ lĩnh ða Phát Canh (ða-Boăk-Kinh) ñã giúp phong trào Tây Sơn chống lại chúa Nguyễn. ðầu thế kỷ XX, có phong trào ñấu tranh chống ñế quốc của ñồng bào Hrê ở Minh Long do ðinh Tăm, ðinh Mẫn, ðinh Mút, ðinh Rin chỉ huy, kéo dài từ năm 1901 ñến năm 1912. Người dân Hrê ở Minh Long cũng ñã tham gia phong trào "Nước Xu ñỏ" trong các năm 1937 - 1938 với nhân dân các dân tộc ở bắc Tây Nguyên.

Tháng 10.1945, chi bộ ðảng lâm thời ðảng Cộng sản Việt Nam tại Minh Long ñược thành lập, trực thuộc Huyện uỷ Nghĩa Hành. Tháng 5.1946, ðảng bộ Minh

Page 156: Các Huyện - Thành phố

Ñòa chí Quaûng Ngaõi Trang 156

Long ra ñời. Phong trào cách mạng có tổ chức ðảng lãnh ñạo và hoạt ñộng ngày càng lan rộng, mạnh mẽ, phản ánh sự lớn mạnh của phong trào cách mạng ở Minh Long. Từ sau Cách mạng tháng Tám 1945, nhân dân Minh Long ñã ra sức xây dựng chính quyền cách mạng, xây dựng cuộc sống mới, ñề cao cảnh giác và góp phần ñập tan bọn "chí xẻng" tay sai của Pháp ñầu năm 1954, ñóng góp nhiều công sức vào công cuộc kháng chiến chống Pháp.

Trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, người dân Minh Long tiếp tục phát huy truyền thống cách mạng, tích cực ñánh ñịch, ñóng góp nhân tài vật lực cho tiền tuyến, nổi bật là trận ñánh lớn ở quận lỵ Minh Long, dẫn ñến kết quả giải phóng toàn huyện ngày 17.8.1974.

Minh Long có 3 ñơn vị ñược Nhà nước phong tặng danh hiệu Anh hùng Lực lượng Vũ trang nhân dân là xã Long Môn, xã Thanh An, xã Long Sơn; có 18 bà mẹ ñược phong tặng danh hiệu Bà mẹ Việt Nam Anh hùng.

* * *

Kinh t ế ở Minh Long cơ bản là kinh tế nông nghiệp, trong nông nghiệp còn ñậm dấu ấn cổ truyền.

Số liệu kinh tế cho thấy giá trị xây dựng cơ bản ở Minh Long thường bằng khoảng 2/3 của giá trị sản xuất. Chẳng hạn các số liệu sau ñây của 2001 và 2005(3):

Năm Xây dựng cơ bản Giá tr ị sản xuất (chưa tính xây dựng cơ bản)

2001 15,838 tỉ ñồng 23,944 tỉ ñồng 2005 21,8 tỉ ñồng 33,318 tỉ ñồng

Ước tính tăng bình quân hàng năm trong các năm 2001 - 2005 xây dựng cơ bản là 7,5% và giá trị sản xuất (chưa tính xây dựng cơ bản) là 7,83%, chỉ chênh nhau chút ít. ðiều này cho thấy tình trạng còn kém phát triển của nền kinh tế lẫn cơ sở hạ tầng và số vốn ñầu tư cho xây dựng cơ bản hãy còn chiếm tỉ lệ rất lớn trong nền kinh tế.

Về nông nghiệp

Nghề nông: Tính ở thời ñiểm 2005, trong số 8.144 lao ñộng ñang làm việc ở Minh Long, có ñến 6.796 lao ñộng trên lĩnh vực nông, lâm, thuỷ sản (chủ yếu là nông nghiệp). Một bộ phận lớn dân cư Minh Long sống bằng nghề nông còn mang dấu ấn của nông nghiệp sơ khai. Một bộ phận người Kinh sống bằng nghề nông, trong ñó cây trồng chính là lúa nước. Người Hrê cũng giỏ i làm lúa nước. Tuy nhiên, với diện tích hạn hẹp trước kia, lối canh tác còn lạc hậu nên năng suất còn thấp. Trong nông nghiệp, ñiều ñặc biệt là ở Minh Long có truyền thống trồng cây chè. Cây chè ñược trồng trên rẫy rừng, người ta cắt lá bó thành lọn gùi ra chợ bán.

Page 157: Các Huyện - Thành phố

Ñòa chí Quaûng Ngaõi Trang 157

Chè Minh Long là loại chè tươi, ñược bán ñi khắp nơi trong tỉnh Quảng Ngãi và ñược dùng rất phổ biến trong người dân miền xuôi, nhất là trong khi làm ñồng áng. Loại chè lá Minh Long cũng ñược người buôn bán ra tận ðà Nẵng, Huế. Cùng với cây lúa, cây chè góp phần ñáng kể trong cuộc sống của người Hrê ở Minh Long xưa nay.

Thống kê về lúa, mì, chè là các cây trồng chủ yếu của Minh Long, tính ở thời ñiểm 2005 như sau:

TT Cây trồng Diện tích canh tác

(ha) Sản lượng (tấn) Năng suất (tạ/ha)

1 Lúa 1545,5 4.693,1 30 2 Mì (sắn) 946 7.800 82,5 3 Chè lá 150 255 17

Ngoài lúa, chè, người dân Hrê ở Minh Long còn sống bằng nghề nương rẫy trồng tỉa nhiều loại cây lương thực, thực phẩm khác và chăn nuôi. Tuy vậy, trong những năm ñầu sau giải phóng, người dân Minh Long vẫn chịu cảnh thiếu ñói kéo dài, hằng năm tỉnh phải tăng cường 10 - 15 tấn lương thực ñể cứu ñói. Bước sang thời kỳ ñổi mới, nhờ chuyển ñổi tập quán canh tác, mở rộng diện tích, làm thuỷ lợi, thâm canh tăng năng suất nên sản suất lương thực ở Minh Long luôn tăng nhanh. ðồng lúa tốt nhất trong ñịa hạt Minh Long là ở các xã Long Mai, Long Sơn. Sản lượng lương thực có hạt năm 1980 là 1.118 tấn, ñến năm 1990 ñạt 2.709 tấn, năm 2000 là 3.590 tấn, năm 2005 ñạt 4.724,3 tấn, bình quân lương thực ñầu người năm 1980 chỉ mới 133kg, năm 1990 lên 222kg, năm 2000 lên 258kg và năm 2005 tăng lên 316,8kg, trong ñó phần lớn là lúa. Năng suất lúa ñạt mức 30 tạ/ha/vụ (năm 2005).

Về chăn nuôi, tính ở thời ñiểm năm 2005, Minh Long có gần 5.115 con lợn, 4.032 con trâu, 1.718 con bò. Dễ thấy rằng trong ñại gia súc thì con trâu vẫn ñược người dân ưa chuộng và số lượng bò nuôi cũng ñã tăng khá cao. Xã Thanh An có số lượng trâu nhiều nhất với 1.439 con, có hai xã ñều có trên 800 con trâu là Long Mai, Long Sơn, hai xã khác ñều có trên 400 con trâu là Long Hiệp, Long Môn. Với số lượng trâu như vậy, có thể hiểu ở Minh Long rất phù hợp với việc nuôi trâu. Bò không phải là vật nuôi truyền thống của ñồng bào Hrê, nên dễ hiểu ở xã Long Sơn nơi có nhiều người Việt nhất cũng là xã nuôi bò nhiều nhất trong huyện với 689 con, xã Long Môn ít nhất với 213 con. Xã Long Sơn cũng nuôi nhiều lợn nhất với trên 1.400 con, xã Long Môn cũng là xã nuôi ít lợn nhất với 460 con, các xã còn lại ñều trên 1.000 con. Ngoài việc trồng trọt, chăn nuôi, việc săn bắn, hái lượm các sản vật cũng góp một phần trong ñời sống của ñồng bào các dân tộc Minh Long. Về cơ bản, Minh Long ñã giải quyết ñược vấn ñề lương thực tại chỗ. Tuy vậy, trong khi bình quân lương thực ñầu người ở 4 xã khác ñều ở mức từ 271,3kg (xã Long Hiệp - nơi ñóng huyện lỵ) ñến 390kg (xã Thanh An), thì ở xã Long Môn con số này chỉ ñạt trên 250kg. Long Môn là xã có diện tích tự nhiên rất rộng (66,32km2), dân số ít (trên 1.100 người) nhưng diện tích gieo trồng cây lương thực lại rất ít (dưới

Page 158: Các Huyện - Thành phố

Ñòa chí Quaûng Ngaõi Trang 158

125,4ha). Xã Long Môn, thôn Gò Tranh xã Long Sơn là những nơi xa xôi khó khăn nhất trong huyện, ñời sống thấp, chợ búa ở xa, việc ñi lại không thuận tiện.

Về thuỷ lợi , trước năm 1975, ở Minh Long việc tưới nước, dẫn thuỷ nhập ñiền theo kinh nghiệm cổ truyền. Ở các làng người Kinh có một số máy bơm nước phục vụ canh tác. Từ sau năm 1975, các công trình thuỷ lợi ñã ñược xây dựng ở nhiều làng trong huyện, ñảm bảo nguồn nước tưới cho một bộ phận diện tích canh tác. Công trình thuỷ lợi chủ yếu là các ñập nước, như ñập Ruộng Thủ, ñập Nước Ren, ñập Làng Diều, ñập Làng Hinh, ñập Gò Nhung, ñập Nước Nhiêu... mà phần lớn các ñập chỉ tưới cho khoảng 10 - 15ha ñất canh tác. Riêng ñập Suối Lớn khá nhất cũng chỉ tưới ñược khoảng gần 50ha. ðến 2005, có 99% diện tích lúa nước ở Minh Long ñược tưới bằng các công trình thủy lợi nhưng chỉ có 15,1% ñược tưới bằng các công trình kiên cố.

Về lâm nghiệp

Nghề rừng là một trong những nguồn sống không thể thiếu ở Minh Long xưa nay. Rừng Minh Long khá phong phú về thú rừng, cây gỗ, sản vật, tuy nhiên trải qua sự tàn phá của chiến tranh và của bản thân con người mà rừng ñã trở nên nghèo kiệt. Rừng khoanh nuôi có 2.850ha. Việc trồng rừng, khôi phục rừng, phủ xanh ñất trống ñồi trọc ñược ñặt lên hàng ñầu; bên cạnh ñó, việc khai thác hợp lý vẫn ñược duy trì, như trồng và khai thác chè, ñiều, keo lai, bạch ñàn, khai thác mây. Nghề rừng có tiến triển tốt, tuy nhiên chưa thật tương xứng với tiềm năng, còn tình trạng khai thác gỗ, ñốt rẫy làm nương trái phép xảy ra.

Thuở xưa, nghề thủ công ở Minh Long chủ yếu là nghề ñan lát vật dụng phục vụ cho sinh hoạt và sản xuất. Về sau này, các nghề thủ công mới du nhập vào huyện như nghề sản xuất gạch ngói, khai thác ñá chẻ, xẻ và chế biến gỗ, mộc, rèn, làm chổ i ñót… ñáp ứng nhu cầu của sự phát triển ngày càng cao trong huyện. Tận dụng nguồn nguyên liệu chè tại chỗ, Minh Long ñã xây dựng xưởng chế biến chè búp. Việc chế biến chè búp ñã ñược thực hiện, nhưng sản lượng còn quá ít (11,7 tấn năm 2005); tuy vậy, các nghề thủ công vẫn có bước tiến bộ nhất ñịnh. Năm 2005, ñịa hạt Minh Long có 152 cơ sở sản xuất công nghiệp cá thể với 186 lao ñộng, trong ñó riêng tại xã Long Hiệp có 62 cơ sở với 82 lao ñộng. Giá trị sản xuất công nghiệp trên ñịa bàn là 3.024 triệu ñồng, trong ñó chủ yếu là công nghiệp chế biến thực phẩm (1.030 triệu ñồng), ñóng ñồ gỗ (856 triệu ñồng).

Thương mại và dịch vụ cũng có tiến trình phát triển tương tự. Xưa kia, người Hrê và người Kinh ñã tiến hành trao ñổi, mua bán các mặt hàng thiết yếu cho mình. Chợ phiên ở châu lỵ Minh Long, chợ phiên Tam Bảo trên ñất Nghĩa Hành là ñiểm tập trung mua bán của ñồng bào các dân tộc chung quanh. Hai chợ phiên này xưa kia họp chênh nhau một ngày, mục ñích là ñể người buôn từ hai chợ có ñiều kiện lưu thông hàng hóa ñược thuận tiện, nhanh chóng. Người Hrê thường cõng hàng ñến bán ở chợ phiên Minh Long. Người buôn mua ở chợ này rồi gánh về chợ Tam Bảo ñể bán. Bước sang thời hiện ñại, song song với sự phát triển sản xuất, việc buôn bán cũng ñược ñẩy mạnh. Ở huyện lỵ Minh Long có chợ và nhiều cửa hàng tiến hành

Page 159: Các Huyện - Thành phố

Ñòa chí Quaûng Ngaõi Trang 159

buôn bán, trao ñổi hàng hóa. Ở các xã trong huyện cũng có chợ, có gia ñình chuyên sống bằng nghề buôn; việc mua bán hàng hóa ngày càng thuận tiện. Các loại dịch vụ cho sinh hoạt và sản xuất ngày càng nhiều, càng phong phú. Khu du lịch Thác Trắng ñang ñược xây dựng và ñưa vào khai thác. Năm 2005, Minh Long có 332 cơ sở kinh doanh thương mại - dịch vụ cá thể với 365 lao ñộng, trong ñó ñịa hạt xã Long Hiệp chiếm phần lớn với 235 cơ sở và 260 lao ñộng. Tổng mức bán lẻ hàng hóa và dịch vụ là 9.658 triệu ñồng.

Về cơ sở hạ tầng

ðường sá: ðường từ tỉnh lỵ Quảng Ngãi ñến Minh Long khoảng 30km, có qua ba dốc thấp, là dốc ðẳng, dốc Dài, dốc Dăm. Từ huyện lỵ Minh Long có tuyến ñường ôtô dẫn về trung tâm các xã, các ñường liên xã trong huyện và nối với các xã của các huyện lân cận cũng ñược xây dựng. ðường sá khá thuận tiện, nhân dân nhiều người ñã sắm xe máy ñể ñi. Phương tiện vận chuyển hàng hóa, hành khách cũng theo ñó mà phát triển. Riêng về vận tải hành khách, hằng ngày có các chuyến xe ñò nối Minh Long với tỉnh lỵ Quảng Ngãi.

ðiện: Minh Long bắt ñầu xây dựng mạng lưới ñiện từ năm 1991, có các trạm hạ thế ñể phục vụ ñiện cho sinh hoạt và sản xuất. Huyện lỵ và các xã trong huyện ñều ñã có mạng lưới ñ iện quốc gia kéo về, có tác ñộng tích cực ñến ñời sống vật chất và tinh thần của nhân dân. Tính ñến năm 2004, có 80% tổng số hộ dân trong huyện dùng ñiện. Tuy vậy, ñường dây chưa chuẩn, chất lượng dùng nói chung còn kém.

Bưu ñiện: Ở huyện nay ñã có bưu cục trung tâm huyện. Các xã ñều có máy ñiện thoại ñể liên lạc, có 4 nhà bưu ñiện văn hóa xã. Tổng số máy ñiện thoại tăng từ 199 máy năm 1998 lên 430 máy năm 2004, 516 máy năm 2005, trong tổng ñài có dung lượng 620 số. Việc liên lạc khá thuận tiện, tuy nhiên doanh thu của ngành bưu ñiện còn khá thấp (173,1 triệu ñồng năm 2005), trong ñó chủ yếu là thu từ dịch vụ ñiện chính (97,5 triệu ñồng).

Trường học: ðã dần dần ngói hóa, tầng hóa các trường ở huyện và các xã.

Trạm y tế: Trung tâm y tế huyện và các trạm xá xã ñều ñã ñược xây dựng.

Kinh tế Minh Long có sự vận ñộng ñi lên theo thời gian, ñời sống của nhân dân trong huyện ñã có một bước tiến dài so với trước. ðã có trên 70% số nhà ở tại Minh Long là nhà ngói. Tuy nhiên, phát triển công, thương nghiệp còn chậm, do ñiều kiện chưa thật thuận lợi và chưa có sự ñầu tư ñúng mức.

* * *

Minh Long có những di sản văn hóa quý báu. Trong văn hóa tộc người, Minh Long có di sản văn hóa tộc người Hrê và người Kinh, trong mối giao lưu, giao thoa của nó. Văn hóa người Hrê ở Minh Long là một bộ phận của văn hóa tộc người

Page 160: Các Huyện - Thành phố

Ñòa chí Quaûng Ngaõi Trang 160

Hrê nói chung. Trong các truyện cổ tích Hrê ở ñây có những truyền thuyết về Thạch Bích, về núi Mum, về Thác Trắng là những núi cao hùng vĩ và cảnh ñẹp ở Minh Long. Truyền thuyết núi Mum kể về sự hình thành dân tộc Hrê. Một phần các truyện cổ Hrê trước ñây ñã ñược sưu tầm, dịch ra tiếng Việt. Người Hrê ở Minh Long cũng có nhà sàn với lố i kiến trúc ñộc ñáo, các tri thức cổ truyền về sản xuất cây lúa, cây chè, về dẫn thuỷ nhập ñiền, về chữa bệnh, về cây thuốc cho ñến nay chưa ñược chú ý khai thác. Người Hrê ở Minh Long chủ yếu dùng nhạc cụ chiêng (mua của miền xuôi) và tự tạo các nhạc cụ dân tộc khác là chinh kla, kloong pút, ra ngói và một số nhạc cụ dân gian khác. Người Hrê thích chơi ñàn, múa hát, có ñiệu hát ca lêu, ca choi, có lễ hội về nhà mới, ăn lúa mới, ñâm trâu. Xưa kia làng Hrê ñược rào xung quanh, mỗi làng có một luật tục riêng. Trong văn hóa Hrê vùng Minh Long với các vùng khác như Sơn Hà, Ba Tơ không mấy khác biệt, chỉ là yếu tố ñịa phương hóa, các ñịa danh…Với văn hóa Việt ở Minh Long và các vùng lân cận, văn hóa Hrê ở ñây cũng có sự giao thoa, tiếp nhận và lưu lại những dấu ấn nhất ñịnh. Minh Long có những di tích, thắng cảnh ñáng chú ý như di tích chiến thắng Minh Long, thắng cảnh Thác Trắng (ñều ñã xếp hạng di tích cấp tỉnh).

Ở Minh Long cũng như các huyện miền núi khác trong tỉnh Quảng Ngãi, việc xây dựng văn hóa mới là một nhu cầu, ñồng thời cũng là một nhiệm vụ. Việc xây dựng văn hóa mới có từ Cách mạng tháng Tám 1945, nhưng do hoàn cảnh chiến tranh nên trong 30 năm tiếp ñó, ñồng bào ở ñây vẫn sống theo nếp sống cổ truyền, chưa có sự chuyển biến một cách căn bản. Từ năm 1975 về sau, với chính sách văn hóa của ðảng và Nhà nước, với ñiều kiện giao lưu rộng rãi, với sự bùng nổ thông tin và có ñiện, có ñiện thoại, nên văn hóa mới ngày càng có tác ñộng mạnh ñến cuộc sống của người dân Minh Long. Ở huyện lỵ có ñài truyền thanh huyện, ở các xã có ñài truyền thanh xã. Việc thông tin tuyên truyền còn có ñội thông tin lưu ñộng, các ñội chiếu bóng, các bảng tin, panô, áp phích. Rất nhiều hộ gia ñình ñã có máy thu thanh, máy thu hình, viñêô ñể xem, ñã hạn chế tình trạng ñói thông tin thuở trước. Phong trào toàn dân ñoàn kết xây dựng ñời sống văn hóa là một phương diện quan trọng trong văn hóa mới. Ở Minh Long, một mặt người dân lưu giữ và phát huy tinh hoa văn hóa cổ truyền, mặt khác xóa bỏ dần các tập tục lạc hậu trong sinh hoạt và sản xuất, xây dựng nếp sống văn hóa mới, mở ñường cho kinh tế - xã hộ i phát triển. Một số làng ở Minh Long ñã xây dựng làng văn hóa khá tốt, như làng Dục Ái (xã Long Hiệp), làng Trê (xã Long Môn), làng Hinh (xã Thanh An). Phong trào văn hóa văn nghệ, thể dục thể thao quần chúng ñã hình thành và phát triển ngày càng rộng khắp.

Về giáo dục

Nhìn chung trong lịch sử, giáo dục ở Minh Long có phần phát triển muộn so với các huyện ñồng bằng. Trước năm 1945, ở châu lỵ Minh Long chỉ có một lớp yếu lược với tổng cộng không ñến 10 người ñậu bằng Tiểu học trở xuống. Tuyệt ñại ña số nhân dân mù chữ. Từ sau Cách mạng tháng Tám 1945, việc giáo dục mới dần dần phát triển. Cho ñến năm 2005, Minh Long có tổng số 12 trường học, trong ñó có 6 trường Tiểu học ở 5 xã, 5 trường Trung học cơ sở (có 1 trường dân tộc nội

Page 161: Các Huyện - Thành phố

Ñòa chí Quaûng Ngaõi Trang 161

trú), 1 trường Trung học phổ thông, 1 Trung tâm giáo dục thường xuyên với tổng số 161 lớp học, gần 3.450 học sinh. Có những người con của dân tộc Hrê ở Minh Long ñã trưởng thành dưới mái trường cách mạng, tốt nghiệp ñại học, cao ñẳng, trung học chuyên nghiệp về xây dựng quê hương và công tác trong ngoài tỉnh...

Về y tế, một thời gian dài trong lịch sử, người dân Minh Long chữa bệnh theo kinh nghiệm và các bài thuốc dân gian của dân tộc Hrê và dân tộc Kinh. Y học hiện ñại mãi sau này mới lan tới. ðến năm 2005, ở huyện lỵ có Trung tâm y tế huyện với 30 gường bệnh, ở các xã ñều có trạm y tế. Toàn huyện có 10 bác sĩ, 22 y sĩ. Chỉ mới trạm y tế xã Long Sơn là có bác sĩ.

Về xã hội, ở Minh Long vấn ñề xã hội lớn nhất là vấn ñề nghèo ñói (vẫn còn 25,43% hộ nghèo tính ñến năm 2004, theo chuẩn cũ)

(1) Theo Niên giám Thống kê tỉnh Quảng Ngãi 2005.

(2) Nguồn: Niên giám thống kê huyện Minh Long.

(3) Nguồn: Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành ðảng bộ huyện Minh Long (nhiệm kỳ 2001 - 2005).

HUYỆN BA TƠ

BA TƠ là một trong sáu huyện miền núi, nằm về phía tây nam của tỉnh Quảng Ngãi. Phía bắc giáp các huyện Minh Long, Sơn Hà; phía ñông bắc giáp huyện Nghĩa Hành; phía ñông giáp huyện ðức Phổ; phía nam và ñông nam giáp huyện An Lão của tỉnh Bình ðịnh; phía phía tây và tây nam giáp huyện Kon Plông của tỉnh Kon Tum và huyện K’Bang của tỉnh Gia Lai. Diện tích 1.132,54km2. Dân số 48.499 người (năm 2005). Mật ñộ dân số 42,8 người/km2 (1). ðơn vị hành chính trực thuộc gồm 18 xã (Ba Thành, Ba Liên, Ba Cung, Ba ðiền, Ba Vinh, Ba Chùa, Ba Dinh, Ba Tô, Ba Nam, Ba Bích, Ba Lế, Ba Vì, Ba Trang, Ba Tiêu, Ba Ngạc, Ba Xa, Ba Khâm, Ba ðộng) và 1 thị trấn (Ba Tơ huyện lị, vốn là xã Ba ðình), với 99 thôn, 6 tổ dân phố; trong ñó:

Xã Ba ðộng có 7 thôn: Suối Loa, Nam Lân, Hóc Kè, Tân Long Hạ, Tân Long Trung, Tân Long Thượng, Bắc Lân;

Xã Ba Thành có 4 thôn: Làng Teng, Trường An - Hóc Kè, Huy Ba 1, Huy Ba 2;

Xã Ba Liên có 3 thôn: Hương Chiêng, ðá Chát, Núi Ngang;

Xã Ba Cung có 5 thôn: Gò Loa - Ma Nghít, Gò Rét - ðồng Xòa, Con Cua - ðồng Dâu, Dốc Mốc 2, Dốc Mốc - Làng Giấy;

Page 162: Các Huyện - Thành phố

Ñòa chí Quaûng Ngaõi Trang 162

Xã Ba ð iền có 4 thôn: Hy Long, Gò Nghênh, Làng Rêu, Làng Tương;

Xã Ba Vinh có 12 thôn: thôn 1 Nước Nẻ, thôn 2 Nước Nẻ, thôn 3 Nước Nẻ, thôn 4 Nước Nẻ, thôn 5 Nước Nẻ, thôn 6 Nước Lá, thôn 7 Nước Lá, thôn 8 Nước Lá, thôn 9 Nước Lá, thôn 10 Nước Gia, thôn 11 Nước Gia, thôn 12 Nước Gia;

Xã Ba Chùa có 3 thôn: Gò Ghềnh, ðồng Chùa, Nước Trinh;

Xã Ba Dinh có 9 thôn: Gò Khôn, Ba Nhà, Nước Lô, Cà La, Nước Tiêu, ðồng Dinh, Gò Lệ, Nước Lang, Làng Măng;

Xã Ba Tô có 7 thôn: Mang Lùng 1, Mang Lùng 2, Trà Nô, Rộc Măng, Làng Xi, Mô Lang;

Xã Ba Nam có 4 thôn: Làng Vờ, Xã Râu, Xã Làng Dút, Làng Ri;

Xã Ba Bích có 5 thôn: Con Rã, Làng Mâm, ðồng Tiên, Nước ðang, ðồng Vào;

Xã Ba Lế có 6 thôn: Vã Lếch, Bãi Lế, ðồng Lâu, Mang Krúi, Gọi Lế, Vã Tia;

Xã Ba Vì có 6 thôn: Gò Vanh, Gò Năng, Nước Xiên, Mang ðăng, Nước Ui, Giá Vụt;

Xã Ba Trang có 3 thôn: Con Riêng, Nước ðang, Con Dóc;

Xã Ba Tiêu có 4 thôn: Mang Biều, Cà Rầy, Nước Tỉa, Làng Trui;

Xã Ba Ngạc có 5 thôn: Ka Rên, Ba Lăng, Tà Noót, Nước Lầy, A Mé;

Xã Ba Xa có 7 thôn: Gọi Re, Mang Krá, Nước Nhủ, Ba Hà, Nước Lăng, Nước Chạch, Mang Mu;

Xã Ba Khâm có 2 thôn: ðồng Răm, Nước Giáp;

Thị trấn Ba Tơ có 6 tổ dân phố, tên gọi theo thứ tự từ tổ 1 ñến tổ 6, với 20 khu dân cư.

Ba Tơ là vùng ñất có truyền thống cách mạng kiên cường, là nơi nổ ra cuộc Khởi nghĩa Ba Tơ lịch sử ngày 11.3.1945, là nơi sinh thành ðội du kích Ba Tơ thời tiền khởi nghĩa. Trải qua hai cuộc kháng chiến, quân và dân Ba Tơ ñã lập nhiều chiến công xuất sắc, góp phần xứng ñáng vào sự nghiệp ñấu tranh giành ñộc lập dân tộc, thống nhất Tổ quốc.

Ba Tơ là vùng ñất có ñịa hình nhiều sông suối, núi non hiểm trở, dân cư thưa thớt. Hơn 70% dân số sống bằng nghề nông. ðời sống của nhân dân vốn gặp rất nhiều khó khăn, nhưng nhờ có sự quan tâm của ðảng và Nhà nước cùng với tinh thần ñoàn kết của ñồng bào các dân tộc trong huyện, nền kinh tế có những chuyển

Page 163: Các Huyện - Thành phố

Ñòa chí Quaûng Ngaõi Trang 163

ñộng theo hướng tích cực, khởi sắc. ðặc biệt, các thiết chế cơ sở hạ tầng kỹ thuật và hạ tầng xã hộ i ñược xây dựng ñều khắp, trong ñó nổi bật là huyện lỵ Ba Tơ. Các thôn xã ñều có ñiện, nhiều công trình thuỷ lợi, ñường sá, cầu cống, trường học ñược xây dựng. An ninh chính trị, trật tự an toàn xã hộ i ñược giữ vững, tạo ñược thế ổn ñịnh bền vững của căn cứ ñịa cách mạng.

* * *

Về hành chính: Ba Tơ xưa kia có tên là nguồn An Ba, sau mới có tên là nguồn Ba Tơ, một trong bốn "nguồn" của miền núi Quảng Ngãi.

Năm Thành Thái thứ 11 (1899), vùng ñất này thuộc châu ðức Phổ gồm 4 tổng: Phổ An, Phổ Thuận, Phổ Thành, Phổ Triêm (châu là tên gọi chung cho các huyện miền núi).

Năm Thành Thái thứ 13 (1901), chính quyền thực dân phong kiến ñổi châu ðức Phổ làm ñồn Ba Tơ. ðồn Ba Tơ gồm 3 tổng: Phổ An, Phổ Thuận, Phổ Thành.

Năm 1915, ñồn Ba Tơ có 5 tổng, gồm 61 sách (sách là tên mà chính quyền thực dân phong kiến gọ i các làng miền núi).

Năm Khải ðịnh thứ 8 (1923) ñồn Ba Tơ có 6 tổng: Phổ An, Phổ Thuận, Phổ Hành, Phổ Triêm, Thuận Hành, Hóa Thành, gồm 63 sách. Sau ñó, ñồn Ba Tơ lại ñược gọi là châu Ba Tơ.

Sau Cách mạng tháng Tám 1945, các ñơn vị hành chính huyện, châu ñược gọi là huyện, châu Ba Tơ ñược gọi là huyện Ba Tơ.

Trong kháng chiến chống Pháp (1945 - 1954), Ba Tơ có 26 xã ñược sáp nhập từ nhiều làng nhỏ. Các xã ñều bắt ñầu bằng chữ "Ba": Ba Vì, Ba Tiêu, Ba Xa, Ba Tô, Ba Ngạc, Ba Lế, Ba ð iền, Ba Sơn, Ba Lang, Ba Gia, Ba Lãnh, Ba Tăng, Ba ðộng, Ba ðình, Ba Liên, Ba Bích, Ba Chùa, Ba Chung, Ba Dinh, Ba Lâm, Ba Dung, Ba Chi, Ba Lục, Ba Trang, Ba Lương, Ba Khâm.

Trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ, chính quyền Sài Gòn ñổi huyện Ba Tơ thành quận Ba Tơ có 7 xã, với bộ máy hành chính - quân sự do quận trưởng ñứng ñầu.

Về phía kháng chiến, vẫn sử dụng tên gọ i và các ñơn vị hành chính giống như thời chống Pháp. Có thời gian cắt các xã dọc sông Rhe thuộc huyện Ba Tơ là Ba Lế, Ba Xa, Ba Vì, Ba Tô, Ba Chi, Ba Tiêu, Ba Ngạc cùng với hai xã của huyện Sơn Hà là Sơn Ba, Sơn Kỳ ñể thành lập khu VI, sau gọi là huyện Sông Rhe.

Page 164: Các Huyện - Thành phố

Ñòa chí Quaûng Ngaõi Trang 164

Sau ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng, huyện Ba Tơ trở lại ranh giới cũ thời kháng chiến chống Pháp. Trải qua nhiều biến ñổi về hành chính, ñến nay huyện Ba Tơ có 18 xã, thị trấn (như ñã kể ở trên).

Về tự nhiên: Ba Tơ là một huyện miền núi rộng nhất trong tất cả các huyện tỉnh Quảng Ngãi, chiếm hơn 1/5 diện tích toàn tỉnh. ðịa hình của Ba Tơ chủ yếu là ñồi núi, thung lũng và vực sông xen kẽ. ðồi núi chiếm 4/5 diện tích toàn huyện, có nhiều núi cao hiểm trở nối liền với các huyện miền núi xung quanh như núi Cao Muôn, là một trong những ngọn núi cao của tỉnh Quảng Ngãi, núi liền chân với các dãy núi ở các huyện Sơn Hà, Minh Long với dãy Ngọc Linh nổi tiếng của tỉnh Kon Tum, nó cũng liền chân với núi Lớn hay núi Dầu Rái của huyện Mộ ðức; núi Ba Huyện (nằm giữa ba huyện Ba Tơ, Nghĩa Hành và ðức Phổ). Núi ở Ba Tơ còn tạo nên nhiều ñèo dốc gây khó khăn cho giao thông ñi lại. Riêng Quốc lộ 24, từ ngã ba Thạch Trụ ñi lên có các ñèo: ñèo ðá Chát, ðèo Lâm, Dốc Mốc, ñến giáp huyện Kon Plông (tỉnh Kon Tum) có ñèo Viôlắk khá hiểm trở, dài hàng chục cây số.

Sông suối: Sông suối ở Ba Tơ khá nhiều, có 3 con sông lớn là sông Rhe, sông Liên, sông Vực Liêm là thượng nguồn của các con sông lớn ở Quảng Ngãi: sông Trà Khúc, sông Vệ, sông Trà Câu.

Sông Rhe: là thượng nguồn của sông Trà Khúc, bắt nguồn từ vùng núi tây nam Ba Tơ chảy theo hướng bắc, qua các xã Ba Xa, Ba Vì, Ba Ngạc ñến ñịa hạt Sơn Hà, hợp với các con sông khác chảy về sông Trà Khúc. Sông Rhe dài khoảng 60km (ñoạn chảy qua Ba Tơ dài khoảng 30km), quanh co khúc khuỷu, chia cắt bạo liệt, tạo thành các vực sông sâu dưới lòng các thung lũng.

Sông Liên: là thượng nguồn của sông Vệ, bắt nguồn từ vùng núi Giá Vụt, chảy qua thị trấn Ba Tơ, ñến gần chân núi Cao Muôn thì chảy về hướng ñông bắc. Khúc sông Liên ở Ba Tơ dài khoảng 30km.

Sông Vực Liêm: bắt nguồn từ vùng Bàn Thạch, Hồng Thuyền, vực Liêm, xã Ba Trang, chảy thẳng về hướng ñông, là thượng nguồn của sông Trà Câu, sông chảy qua các xã phía bắc huyện ðức Phổ trước khi ñổ ra cửa biển Mỹ Á.

ðất bằng thung lũng: Khác với một số huyện miền núi khác trong tỉnh Quảng Ngãi, Ba Tơ có nhiều "nà" ñất chạy dọc theo các thung lũng sông khá thoáng rộng, ñất ñai màu mỡ phì nhiêu, thường ñược khai thác làm lúa nước, ruộng bậc thang.

Khí hậu: Ba Tơ nằm trong vùng nhiệt ñới gió mùa, có hai mùa mưa nắng rõ rệt, có 2 mùa gió chính là gió mùa ñông và gió mùa hè. Từ tháng 9 ñến tháng 3 năm sau hướng gió chính là bắc ñến ñông bắc, tuy nhiên trong thời kỳ này hướng gió tây và tây nam cũng xuất hiện với tần suất khá cao; từ tháng 4 ñến tháng 9 là tây nam. Mùa khô từ tháng 2 ñến tháng 9, mùa mưa từ tháng 10 ñến tháng 01 năm sau.

Tài liệu ñặc ñiểm khí hậu thủy văn tỉnh Quảng Ngãi năm 2002 cho biết: tốc ñộ gió trung bình hàng năm là 1,2m/s, tốc ñộ gió trong bão, lốc khoảng 40m/s. Ba Tơ

Page 165: Các Huyện - Thành phố

Ñòa chí Quaûng Ngaõi Trang 165

là vùng có lượng mưa khá lớn. Số giờ nắng 2.034 giờ/năm; tổng bức xạ năm là 136,2 kcal/cm2; biên ñộ nhiệt ñộ trung bình ngày và ñêm 8,8oC. Nhiệt ñộ trung bình hàng năm là 25,3oC, nhiệt ñộ trung bình tháng 1 là 21,4oC, nhiệt ñộ trung bình tháng 7 là 27,9oC.

Tài nguyên: Rừng Ba Tơ có nhiều lâm thổ sản và dược liệu quý như sa nhân, hà thủ ô, ngũ gia bì, trầm hương, mật ong; có nhiều gỗ quý như lim, sao, dổi, trắc, chò, kiền kiền, mun, queng. Theo thống kê của nhóm nghiên cứu Trường ðại học Huế năm 2000 thì ở Ba Tơ có 469 loài thực vật, trong ñó có 43 loài ñược ghi vào sách ñỏ Việt Nam (1992). Hiện nay, rừng Ba Tơ còn nhiều loại gỗ tốt như huỳnh ñàn giả, thông nàng, chò nâu, cà ổi. Rừng Ba Tơ còn có nhiều ñộng vật phong phú, ña dạng như hổ, nai, lợn rừng, chồn hương, nhím, chim công, chim chả, gà rừng. Hiện nay, rừng Ba Tơ còn tồn tại một số loại ñộng vật quý hiếm như khỉ mặt ñỏ, khỉ ñuôi lợn, gấu ngựa, báo hoa mai, gà lôi lam, trĩ sao, rắn hổ mang, rùa hộp vàng.

Về dân cư: Cư dân Ba Tơ chủ yếu là người Hrê và người Kinh. Trong số dân gần 48.500 người ở Ba Tơ năm 2005, có trên 41.000 người Hrê và gần 7.500 người Kinh.

Người Hrê cư trú lâu ñời ở Ba Tơ và thường ñược gọi là Hrê "ngọn" (ngọn nguồn), thuộc nhóm ngữ hệ Môn - Khơme. Người Hrê sống thành từng làng thôn, từ vài chục ñến vài trăm nóc nhà, quần tụ dưới chân núi hoặc sườn núi - nơi có các cánh ñồng, ruộng bậc thang hoặc ñất bằng phẳng trải dài dọc triền sông. Hình thái kinh tế chủ yếu là sản xuất lúa nước kết hợp với kinh tế nương rẫy. Bên cạnh ñó, người Hrê còn săn bắn, hái lượm, ñánh cá.

Trong quá trình phát triển, bên cạnh nét văn hóa chung với các dân tộc anh em ở miền tây Quảng Ngãi, người Hrê ở Ba Tơ vẫn bảo lưu ñược vốn văn hóa cổ truyền giàu bản sắc của dân tộc mình như: các lễ hộ i, văn nghệ dân gian, nhà sàn, nghề dệt thổ cẩm, trang sức, trang phục truyền thống.

Người Kinh cư trú ở Ba Tơ khá lâu, rải rác ở khắp các xã, nhưng ñông nhất là ở thị trấn Ba Tơ (2.680 người) và các xã Ba ðộng (2.413 người), Ba Vì (995 người), Ba Dinh (538 người). Người Kinh giỏ i làm lúa nước, giỏi buôn bán, tụ cư ở những vùng thấp, nơi có những cánh ñồng, thị trấn, dọc trục lộ chính (Quốc lộ 24) và thị tứ Ba ðộng, Ba Vì. Văn hóa của người Kinh ở Ba Tơ là văn hóa chung của dân tộc Việt, có giao thoa, giao lưu với văn hóa Hrê.

Ba Tơ là huyện có mật ñộ dân số thấp so với các huyện miền núi Quảng Ngãi. Diện tích, phân bố dân số, mật ñộ dân số các xã, thị trấn ở thời ñ iểm năm 2005 như sau:

Page 166: Các Huyện - Thành phố

Ñòa chí Quaûng Ngaõi Trang 166

TT Xã, thị trấn Diện tích (km2) Dân số trung bình (người)

M ật ñộ dân số (người/km2)

1 Ba Tơ 22,67 4.614 203,5

2 Ba ðộng 14,45 2.400 166,1

3 Ba Dinh 89,50 4.798 53,6

4 Ba ðiền 43,92 1.338 30,5

5 Ba Thành 47,04 2.515 53,5

6 Ba Vinh 70,13 3.770 53,8

7 Ba Khâm 51,50 1.422 27,6

8 Ba Trang 147,84 1.964 13,3

9 Ba Lế 94,73 1.513 16,0

10 Ba Bích 59,22 1.738 29,3

11 Ba Vì 42,80 3.772 88,1

12 Ba Tiêu 41,52 2.026 48,8

13 Ba Xa 100,11 3.883 38,8

14 Ba Ngạc 41,38 2.633 63,6

15 Ba Tô 58,71 5.295 90,2

16 Ba Chùa 16,14 1.354 83,9

17 Ba Cung 30,17 1.668 55,3

18 Ba Nam 119,59 748 6,3

19 Ba Liên 41,12 1.048 25,5

* * *

Truy ền thống bảo vệ Tổ quốc của ñồng bào các dân tộc Ba Tơ hình thành từ rất sớm. Cuối thế kỷ XVIII, hưởng ứng phong trào nông dân Tây Sơn, ñồng bào ñã tích cực ñóng góp binh lực, lương thực, mở ñường dọc sông Rhe cho nghĩa quân Tây Sơn ñánh chiếm Quảng Ngãi và sau ñó tiến quân ra Bắc.

Vào những năm cuối thế kỷ XIX, trong phong trào Cần vương, thủ lĩnh Trần Du, người Mộ ðức ñã chọn Trường An (nay là xã Ba ðộng) ñể làm căn cứ chống Pháp, ñược nhân dân hưởng ứng tham gia rất ñông.

Sau phong trào Cần vương, ñến phong trào Duy tân. Năm 1908, phong trào "cự sưu khất thuế" rầm rộ nổ i lên ở Quảng Ngãi. ðồng bào dân tộc Hrê ñã phối hợp nổi dậy, làm tê liệt bộ máy cai trị của thực dân phong kiến ở ñịa phương và rầm rộ kéo xuống ñồn ðức Phổ ñể ñấu tranh chống ñịch bắt nhân dân ñi xây dựng ñồn ðức Phổ. Cuộc ñấu tranh ñã bị ñịch ñàn áp ñẫm máu.

Bước sang những năm hai mươi ñầu những năm ba mươi của thế kỷ XX, phong trào yêu nước của nhân dân Ba Tơ vẫn tiếp tục ñược phát huy mạnh mẽ, nhất là từ khi ðảng bộ huyện Ba Tơ ñược thành lập (tháng 4.1930) ñã lãnh ñạo quần chúng

Page 167: Các Huyện - Thành phố

Ñòa chí Quaûng Ngaõi Trang 167

nhân dân ñấu tranh sôi nổi quyết liệt. Tiêu biểu là các cuộc ñấu tranh của quần chúng cách mạng với các hình thức như mít tinh, rải truyền ñơn, treo cờ ðảng, biểu tình kéo về châu lỵ Ba Tơ ñòi thực hiện các yêu sách vào những năm 1930 - 1931 và phong trào ñấu tranh ñòi dân sinh, dân chủ, hòa bình những năm 1936 - 1939.

ðầu thập niên bốn mươi của thế kỷ XX, thực dân Pháp lập Căng an trí Ba Tơ ñể quản thúc các chiến sỹ cách mạng Quảng Ngãi ñã mãn hạn tù từ nhiều nhà tù trong nước trở về. Nhưng tổ chức ðảng vẫn hình thành và ñược sự ủng hộ của ñồng bào Kinh - Thượng, các chiến sĩ cộng sản ñã bí mật xây dựng, vận ñộng phong trào cách mạng, chớp thời cơ làm cuộc Khởi nghĩa Ba Tơ lịch sử 11.3.1945, lật ñổ chính quyền phong kiến ñế quốc, xây dựng chính quyền nhân dân, thành lập ðội du kích Ba Tơ và xây dựng Ba Tơ thành căn cứ ñịa, tích cực tiến lên Tổng khởi nghĩa giành chính quyền trong toàn tỉnh ngày 14.8.1945.

Trong kháng chiến chống Pháp, Ba Tơ là vùng tự do, là căn cứ ñịa cách mạng, nơi cung cấp nhiều cán bộ, bộ ñội, lương thực, thực phẩm cho chiến trường Nam Trung Bộ và Tây Nguyên. ðặc biệt trong chiến dịch bắc Tây Nguyên (1953 - 1954), Ba Tơ trở thành bàn ñạp của cách mạng tiến công ñịch ở các cứ ñiểm Mang ðen, Mang Bút, Kon Prẫy ngày 6.1.1954, giải phóng tỉnh Kon Tum ngày 7.2.1954.

Trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, Ba Tơ tiếp tục phát huy truyền thống ñấu tranh cách mạng. Lực lượng vũ trang huyện và nhân dân Ba Tơ ñã kiên cường chiến ñấu và tạo lập ñược nhiều chiến công, góp phần tạo nên nhiều chiến thắng lớn như: chiến thắng Trà Nô tháng 11.1961, lực lượng vũ trang huyện Ba Tơ phối hợp với lực lượng vũ trang tỉnh và bộ ñội chủ lực Quân khu V phục kích, chặn ñánh thiệt hại nặng một tiểu ñoàn ñịch từ Trà Nô ñi Giá Vụt. ðặc biệt là chiến dịch 45 ngày ñêm giải phóng Ba Tơ, từ ngày 16.9 ñến ngày 30.10.1972, lực lượng vũ trang giải phóng tỉnh và Quân khu V cùng quân và dân Ba Tơ tấn công tiêu diệt ñịch ở trung tâm ðá Bàn, ñánh chiếm quận lỵ, giải phóng hoàn toàn huyện Ba Tơ. Ba Tơ là huyện ñược giải phóng sớm nhất tỉnh Quảng Ngãi.

Từ sau ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng, ðảng bộ và nhân dân Ba Tơ ra sức khắc phục hậu quả chiến tranh, ñẩy mạnh sản xuất, từng bước ổn ñịnh và cải thiện ñời sống nhân dân, xoá ñói giảm nghèo, giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội.

Với những thành tích ñạt ñược trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, huyện Ba Tơ ñã ñược ðảng và Nhà nước tặng thưởng Huân chương Hồ Chí Minh, 2 cá nhân ñược phong tặng danh hiệu Anh hùng Lực lượng Vũ trang nhân dân; Huyện, Ban An ninh huyện và 12 xã ñược phong tặng danh hiệu Anh hùng Lực lượng Vũ trang nhân dân; có 35 Bà mẹ Việt Nam Anh hùng. Năm 2006, huyện Ba Tơ ñược phong tặng danh hiệu Anh hùng trong thời kỳ ñổi mới.

* * *

Page 168: Các Huyện - Thành phố

Ñòa chí Quaûng Ngaõi Trang 168

Kinh t ế Ba Tơ nằm trong trạng thái kinh tế chung của các huyện miền núi Quảng Ngãi, xuất phát từ tình trạng thấp kém, bị chiến tranh tàn phá, nhưng nhờ sự quan tâm của ðảng và Nhà nước, nhờ ñất ñai tốt, nhờ có Quốc lộ 24 ñược xây dựng, kinh tế có những chuyển ñộng theo hướng tích cực, khởi sắc.

Cơ cấu kinh tế huyện Ba Tơ ñược xác ñịnh gồm: nông - lâm nghiệp, công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp, thương mại - dịch vụ. Trong những năm qua, cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng tích cực, tỷ trọng nông, lâm nghiệp giảm dần và tăng dần tỷ trọng công nghiệp, thương mại - dịch vụ. Năm 2004, nông, lâm nghiệp chiếm 71,9%, công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp chiếm 13,3%, thương mại - dịch vụ chiếm 14,8%; tổng giá trị sản xuất năm 2004 là 159 tỷ ñồng. Năm 2005, giá trị sản xuất nông, lâm nghiệp 125,700 tỷ ñồng, trong khi giá trị sản xuất công nghiệp là 16,161 tỷ ñồng.

Nông nghiệp: Người Hrê ở Ba Tơ có kỹ thuật trồng lúa nước lâu ñời. Sản xuất lúa nước là nguồn sống chính của ñại ña số dân cư. Nhưng do tập quán canh tác lạc hậu, ruộng ít, trước ñây hầu hết nằm trong tay nhà giàu nên một bộ phận lớn người Hrê vẫn phải sống du canh du cư, phá rừng làm nương rẫy, kết hợp với hình thái kinh tế hái lượm, săn bắt ñể bảo ñảm lương thực cần thiết cho ñời sống. Bên cạnh ñó, các loại giống cây trồng và vật nuôi ở Ba Tơ ñều là giống ñịa phương ñã thoái hóa, cộng với việc không áp dụng khoa học kỹ thuật nên năng suất thường ñạt rất thấp. Nông nghiệp Ba Tơ từ trước năm 1975 còn rất nhỏ bé, lạc hậu, mang tính tự cấp, tự túc. Lối canh tác nông nghiệp của người Kinh ở Ba Tơ là lối canh tác theo kiểu người Kinh ở miền xuôi, có cải biến ñể thích hợp với ñiều kiện cụ thể ở miền núi.

Từ sau năm 1975 ñến nay, nông nghiệp ở Ba Tơ ñã có những bước chuyển biến ñáng kể. Bên cạnh cây lúa và các cây trồng truyền thống, còn có nhiều loại cây trồng mới.

Về cây trồng: Tổng diện tích gieo trồng ñến năm 2004 là trên 7.000ha, trong ñó diện tích trồng lúa chiếm 4.546ha, năng suất ñạt 34,52 tạ/ha; 334ha ngô, năng suất ñạt 95,9 tạ/ha; 1,796ha sắn, năng suất 20 tấn/ha; 500ha mía, năng suất 495,1 tạ/ha. Năm 2004, sản lượng lương thực là 16.651,2 tấn, bình quân lương thực ñầu người năm 2004 ñạt 349kg. Năm 2005, sản lượng lương thực là 16.703 tấn, bình quân lương thực ñầu người 347kg. ðây là mức bình quân lương thực cao nhất trong các huyện miền núi tỉnh Quảng Ngãi, thậm chí cao hơn một số huyện ñồng bằng chuyên sản xuất lúa. Xét ở nộ i hạt thì một số xã ở Ba Tơ có bình quân lương thực ở ñầu người thuộc hạng cao nhất trong tỉnh, như Ba Chùa (609,4kg), Ba Thành (522,7kg), Ba Cung (514,6kg).

Trong các loại cây trồng truyền thống của người Hrê, ñặc biệt có cây dứa (thơm). Nếu vùng người Hrê ở Minh Long trồng nhiều chè thì người Hrê ở Ba Tơ trồng rất nhiều dứa. Dứa ở Ba Tơ khá thích hợp với thổ nhưỡng ở ñây. Lạc cũng là loại cây trồng ñáng kể với diện tích 608,2ha, sản lượng 896,3 tấn.

Page 169: Các Huyện - Thành phố

Ñòa chí Quaûng Ngaõi Trang 169

Trong cơ cấu cây trồng ở Ba Tơ có các loài giống mới ñưa vào sản xuất như: cây mía, cà phê, ca cao, dưa hấu bước ñầu ñạt ñược hiệu quả tích cực, góp phần xoá ñói giảm nghèo cho một bộ phận dân cư. Tuy nhiên, các loại cây trồng ở Ba Tơ vẫn còn nghèo nàn, còn nhỏ bé so với tiềm năng ñất ñai của huyện. Cơ sở vật chất phục vụ ngành trồng trọt còn thiếu thốn, mặt bằng dân trí còn thấp nên ñã gây khó khăn trong việc áp dụng khoa học kỹ thuật vào sản xuất.

Về vật nuôi: Vật nuôi truyền thống của người Hrê là trâu, bò, heo, gà, với giống của ñịa phương, lố i chăn nuôi hoàn toàn phó thác cho tự nhiên, chưa ñược ñầu tư các biện pháp khoa học kỹ thuật nên chất lượng kém, năng suất thấp. Từ sau năm 1975, vật nuôi của ñồng bào Ba Tơ ñã có sự tăng nhanh về số lượng và ña dạng về chủng loại. ðến năm 2005, Ba Tơ có ñàn trâu 17.862 con, ñàn bò 7.767 con, ñàn lợn 21.850 con, trong ñó gần 80% là các giống lợn lai có năng suất cao. Trâu ở Ba Tơ có số lượng lớn nhất so với các huyện khác trong tỉnh Quảng Ngãi. Xét riêng ở ñịa hạt huyện thì trâu ñược nuôi nhiều nhất các ở các xã Ba Tô (2.563 con), Ba Vinh (1.995 con), Ba Dinh (1.707 con), Ba Trang (1.499 con). Nếu trâu là vật nuôi truyền thống, thì bò là vật nuôi chủ yếu du nhập từ miền xuôi lên. Trong tổng số 6.767 con bò có 2.911 con bò lai. Bò ñược nuôi nhiều nhất ở các xã Ba Xa (963 con), Ba ðộng (857 con), thị trấn Ba Tơ (733 con), Ba Vì (596 con). Nhiều hộ gia ñình ñã tổ chức chăn nuôi ñại gia súc có dạng trang trại như ở các xã Ba Trang, Ba Dinh. Một số hộ có ñàn trâu, bò từ 70 ñến 80 con. Thời ñiểm 2005, Ba Tơ có 21.850 con lợn trên 2 tháng tuổi, lợn ñược nuôi nhiều nhất ở thị trấn Ba Tơ, xã Ba Vinh, xã Ba Ngạc. Bên cạnh việc phát triển chăn nuôi gia súc, nhiều hộ gia ñình còn chăn nuôi gia cầm, nuôi cá nước ngọt khá phát triển góp phần vào thu nhập của kinh tế gia ñình.

Ba Tơ không chỉ tăng về số lượng, giá trị nông sản mà còn quy hoạch ñược vùng sản xuất nông nghiệp, tạo ñược nhiều chuyển biến trong tập quán canh tác. ðồng bào Hrê ñã áp dụng các biện pháp kỹ thuật trong ñầu tư giống mới, chăm sóc lúa nước, hoa màu, chăn nuôi gia súc, gia cầm, hạn chế tình trạng phá rừng làm rẫy, tình trạng du canh, du cư của một số cư dân vùng cao, góp phần xóa ñói giảm nghèo, chấm dứt nạn ñói lúc giáp hạt, ổn ñịnh cơ bản về ñời sống. Trong tổng giá trị sản xuất nông - lâm nghiệp năm 2005 thì riêng nông nghiệp chiếm 93,53 tỉ ñồng theo giá hiện hành (khoảng 3/4 tổng giá trị)

Lâm nghiệp: ðất rừng Ba Tơ chiếm 86% diện tích tự nhiên toàn huyện, trong ñó có nhiều loại rừng như: rừng bảo vệ, rừng trồng, rừng phòng hộ, rừng nguyên liệu, rừng dự án, rừng khoán hộ gia ñình. Rừng Ba Tơ có giá trị lớn về nhiều mặt, có các loại gỗ và lâm sản, dược liệu. Hàng năm, người dân nơi ñây còn khai thác một lượng lớn tre, nứa, lồ ô, song, mây, lá nón, ñót. Rừng có nhiều thú rừng, chim muông quý. Hiện nay, Ba Tơ còn có vị trí ñặc biệt là có diện tích rừng phòng hộ ñầu nguồn cho các công trình thuỷ lợi lớn của tỉnh Quảng Ngãi như: Thạch Nham, Liệt Sơn, Núi Ngang, và ñầu nguồn các sông lớn của Quảng Ngãi. Hầu hết núi ở Ba Tơ là núi ñất, khu vực phía tây và nam Ba Tơ có cấu tạo ñất bazan nên rừng phát triển nhanh. Trước kia ñồng bào dân tộc Hrê thường khai thác gỗ rừng ñể làm

Page 170: Các Huyện - Thành phố

Ñòa chí Quaûng Ngaõi Trang 170

nhà ở, chống thú dữ và các loại gỗ, tre, song mây, lúa gạo còn ñược chở về xuôi ñể trao ñổi hàng hóa, nhu yếu phẩm và nông cụ phục vụ ñời sống và sản xuất. Ngày nay, việc khai thác rừng một cách tự nhiên không còn nữa. Việc bảo vệ và khôi phục, phát triển rừng ñã ñược quan tâm ñúng mức, nhiều dự án bảo vệ và phát triển rừng ñã ñược triển khai. Ba Tơ ñã có hàng trăm hécta các mô hình nông lâm kết hợp với nương rẫy, chăm sóc vườn rừng cây bản ñịa. ðã ño ñạc, thống kê, lập quy hoạch tổng thể quỹ ñất lâm nghiệp ñể thực hiện giao ñất, giao rừng cho hàng trăm hộ gia ñình làm kinh tế vườn rừng. Năm 2004, huyện Ba Tơ có 27.799ha rừng phòng hộ, 27.399,8ha rừng bảo vệ, 4.808ha rừng nguyên liệu, 1.274,5ha rừng tái sinh và 437ha cây công nghiệp (cây dó, cây quế, cây mây). Diện tích ñất rừng và rừng ñã giao cho các tổ chức và gia ñình thực hiện dự án quản lý bảo vệ và sản xuất kinh doanh là 79.936,3ha. Diện tích rừng có chủ quản lý chiếm 53%. Còn lại 17% diện tích rừng do Uỷ ban nhân dân ñịa phương quản lý. ðộ che phủ rừng bình quân chung là 37,6%, riêng vùng dự án ñạt 60% diện tích. Năm 2005, rừng trồng tập trung 1.092ha, chăm sóc 1.618ha; khai thác 710m3 gỗ, 868 ster củi, 200.000 cây tre, 123 tấn ñót, 15 tấn song mây. Giá trị sản xuất của ngành lâm nghiệp năm 2005 là 34,9 tỉ ñồng.

Bên cạnh việc trồng rừng, Ba Tơ còn chú trọng công tác bảo vệ rừng như lập các phương án phòng, chữa cháy rừng, truy quét lâm tặc, giám sát chặt chẽ các quá trình khai thác gỗ theo kế hoạch của các lâm trường, vừa ñảm bảo chỉ tiêu khai thác, vừa cân ñối tiến ñộ trồng rừng hiện nay.

Tiểu thủ công nghiệp: Thời trước người Hrê ở Ba Tơ có nghề dệt thổ cẩm dùng cho sinh hoạt, sản xuất. Trong cộng ñồng người Kinh thì có nghề rèn, nghề mộc, may vá, làm bánh tráng, làm bún... tạo ra sản phẩm ñể trao ñổi với bà con các dân tộc.

Trong kháng chiến chống Pháp, nhiều nghề thủ công ñã xuất hiện rải rác ở dọc trục lộ từ Trường An, Ba Dinh lên Giá Vụt, Sông Rhe. Trong giai ñoạn cuối của cuộc kháng chiến chống Mỹ, chính quyền cách mạng ñã lập một cơ sở rèn ở Ba Lang, một cơ sở may ở Ba ðiền.

Từ sau năm 1975, các ngành tiểu thủ công nghiệp ñược khôi phục, trong ñó có nghề dệt thổ cẩm ở làng Teng (xã Ba Thành) và phát triển một số ngành mới. Từ khi các xã, thị trấn ở Ba Tơ có ñiện, các ngành nghề thủ công mở rộng sản xuất, các hoạt ñộng dịch vụ cơ khí, dịch vụ ñiện tử, dịch vụ sửa chữa phát triển mạnh tại trung tâm huyện lỵ và các trung tâm cụm xã nằm trên Quốc lộ 24. Năm 2005, ñịa hạt Ba Tơ có 485 cơ sở công nghiệp cá thể với 885 lao ñộng, giá trị sản xuất công nghiệp trên ñịa bàn là 16.161,8 triệu ñồng (theo giá hiện hành). Công nghiệp phát triển nhất là ở thị trấn Ba Tơ, xã Ba Vì, xã Ba ðộng, tức các ñiểm trung tâm của huyện nằm trên Quốc lộ 24.

Công nghiệp Ba Tơ là một ngành tuy còn non trẻ song có nhiều tiềm năng, sẽ có những ñóng góp lớn trong việc phát triển kinh tế tương lai.

Page 171: Các Huyện - Thành phố

Ñòa chí Quaûng Ngaõi Trang 171

Thương mại - dịch vụ: Quan hệ mua bán xưa của người Kinh và người Hrê là trao ñổi hàng hóa. Người Kinh mang hàng hóa, nhu yếu phẩm và nông cụ sản xuất từ miền xuôi lên trao ñổi với người Hrê, sau ñó chở những mặt hàng trao ñổi ñược về miền xuôi bán. Lúc ñầu, việc trao ñổi ñã diễn ra trên bộ, sau ñó do nhu cầu trao ñổi lớn hơn, người Kinh ñã dùng ñường sông ñể chuyên chở lên Ba Tơ, cho nên có nhiều bến ñậu ñược hình thành ñể buôn bán và trao ñổi hàng hóa như: bến Buôn, Hoàng ðồn, Giá Vụt. Việc buôn bán ở Ba Tơ thời bấy giờ còn nhỏ lẻ, phát triển một cách tự phát. ðến sau năm 1975, thương mại - dịch vụ mới bắt ñầu phát triển, nhưng cũng chỉ tập trung ở thị trấn, các trung tâm cụm xã dọc Quốc lộ 24 như Ba ðộng, Ba Vinh, Ba Vì.

Thương mại - dịch vụ ñã và ñang ñược quan tâm, ngày càng phát triển. Huyện ñã chủ ñộng nâng cấp, mở rộng chợ Ba ðộng và thị trấn Ba Tơ, xây dựng chợ trung tâm cụm xã Ba Vì. Nhân dân ñầu tư mở rộng các dịch vụ buôn bán tạp hóa, phát triển các dịch vụ khác. Trên ñịa bàn huyện năm 2005 có 529 cơ sở kinh doanh thương mại - dịch vụ cá thể với 758 lao ñộng. Tổng mức bán lẻ hàng hóa và dịch vụ năm 2005 là 11.248 triệu ñồng, trong ñó chủ yếu là mua bán, sửa chữa, quán ăn. Cở sở kinh doanh thương mại và dịch vụ tập trung cao ở thị trấn huyện lỵ (227 cơ sở), kế ñến là các xã Ba Vì (99 cơ sở), Ba ðộng (76 cơ sở). Ba Tơ là vùng ñất nhiều tiềm năng về phát triển du lịch, nhất là các loại hình du lịch sinh thái, du lịch văn hóa, là những thế mạnh của vùng ñất lịch sử này.

Cơ sở hạ tầng

Về ñường sá: ðường sá ở Ba Tơ trước kia chỉ là lối mòn, những con ñường ñất phục vụ người ñi bộ và gia súc. Về sau, khi người Kinh bắt ñầu có giao lưu ñổi chác với người Hrê thì ở Ba Tơ xuất hiện những con ñường ñất tự nhiên và ñường sông nối với các huyện ðức Phổ, Mộ ðức, Nghĩa Hành. Suốt trong những năm chiến tranh cho ñến ngày miền Nam giải phóng, giao thông ở Ba Tơ vẫn là tuyến thủy - bộ, tuyến ñường 5 từ ñèo Viôlắk giáp Kon Tum bị hư hỏng và ngừng hoạt ñộng. Từ năm 1995, ñường số 5 ñược nâng cấp thành Quốc lộ 24 ñã góp phần quan trọng vào sự phát triển giao thông nói riêng và phát triển kinh tế - xã hộ i ở Ba Tơ nói chung. Hiện nay, Ba Tơ có 521,2km ñường giao thông, trong ñó ñoạn Quốc lộ 24 thuộc ñịa phận huyện là 57km, nối liền giữa ñồng bằng Quảng Ngãi và tỉnh Kon Tum. Các tuyến ñường liên huyện Ba Tiêu - Sơn Ba (huyện Sơn Hà), Ba Thành - Thanh An (huyện Minh Long), Ba Liên - Nghĩa Hành ñã ñược nâng cấp. Từ thị trấn huyện lỵ có ñường ô tô ñến ñược trung tâm tất cả các xã, nhiều nơi ñường thôn ñã ñược bêtông hóa, phục vụ việc ñi lại, vận chuyển hàng hóa của nhân dân.

ðiện lực: Ba Tơ bắt ñầu có ñiện khi thị trấn Ba Tơ ñược sử dụng ñiện nhờ công trình thủy ñiện hồ Tôn Dung ñược xây dựng từ năm 1980. Năm 1996, ñiện lưới quốc gia về Ba Tơ. Năm 1997, có 5 xã ñược phủ lưới ñ iện quốc gia; năm 2003 có 17/19 xã, thị trấn ñược phủ ñiện lưới quốc gia; năm 2004 tất cả các xã, thị trấn có ñiện với 78 trạm biến áp, dung lượng ñ iện 3.155,5kVA, gần 250km ñường dây

Page 172: Các Huyện - Thành phố

Ñòa chí Quaûng Ngaõi Trang 172

trung áp và hạ áp; ñã có 7.656/10.372 hộ sử dụng ñiện, ñạt 73,81% tổng số hộ. Số hộ dùng ñiện ngày càng tăng theo sự mở rộng của mạng lưới và mức sống ñược nâng cao.

Thông tin liên lạc: Thời Pháp thuộc, có dịch trạm Nghĩa Sơn ở Mộ ðức chuyển công văn giấy tờ cho ñồn Ba Tơ, ñó là phương tiện thông tin chính thống duy nhất thời bấy giờ. Thông tin liên lạc phục vụ nhân dân chỉ thực sự phát triển từ sau ngày giải phóng. ðến nay, ngành bưu chính viễn thông ở Ba Tơ có những bước phát triển rất nhanh, từng bước ñáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội của ñịa phương. Năm 2005, số máy ñiện thoại trên mạng là 1.651 chiếc. Phát hành báo chí ñược 302.000 tờ, có 15/19 xã, thị trấn có báo ñọc trong ngày. Hệ thống bưu ñiện văn hóa xã ñã và ñang dần ñược hoàn chỉnh, ñến nay có 17 xã, thị trấn có nhà bưu ñ iện văn hóa xã. Doanh thu của ngành bưu ñiện là 688 triệu ñồng. Hệ thống thông tin liên lạc phát triển ñồng bộ, ñảm bảo thông tin kịp thời, thông suốt trong mọi tình huống, ñồng thời góp phần trong việc ñưa ñường lố i, chính sách của ðảng và Nhà nước vào cuộc sống, ñưa khoa học kỹ thuật vào sản xuất và nâng cao mặt bằng dân trí cho nhân dân.

* * *

Ba Tơ có di sản văn hóa Hrê và văn hóa Việt. Văn hóa Việt tương ñồng với văn hóa ở miền xuôi. Người Hrê cư trú, sinh sống lâu ñời và ñã tạo dựng cho mình những giá trị văn hóa mang bản sắc riêng, ña dạng và phong phú, cho ñến ngày nay vẫn ñược bảo tồn và phát huy như nhà cửa, trang phục, phong tục, lễ hội, văn nghệ dân gian.

Người Hrê ở Ba Tơ có di sản văn hóa phong phú và ñặc sắc, ñã và ñang ñược tiếp tục nghiên cứu, sưu tầm và phát huy.

Ba Tơ là một vùng ñất có nhiều di tích lịch sử và danh lam thắng cảnh. ðến năm 2005, Ba Tơ có 6 di tích ñã ñược xếp hạng, trong ñó có 5 di tích cấp tỉnh và 1 di tích cấp quốc gia; có 1 di tích thắng cảnh, 1 di tích lịch sử, 3 di tích chiến thắng. Các di tích lịch sử và danh thắng ở Ba Tơ ñã và ñang góp phần vào việc phát triển du lịch văn hóa trên ñịa bàn.

Ba Tơ chú trọng phát triển công tác xây dựng nếp sống văn minh, gia ñình văn hóa, thôn, khối phố, cơ quan văn hóa, công tác bảo tồn, bảo tàng và giáo dục truyền thống. Hiện tại, Ba Tơ có nhà Bảo tàng Khởi nghĩa Ba Tơ và Nhà Truyền thống huyện, mỗ i năm có hàng ngàn lượt khách ñến tham quan. Công tác tuyên truyền, truyền thông ñại chúng ở Ba Tơ ñã và ñang ñược ñầu tư và phát triển. Huyện có ðài truyền thanh huyện, có 3 trạm truyền hình thu phát lại ở trung tâm cụm Ba Vì, Ba Vinh, Ba Trang. Năm 2004, có 100% số hộ ñược nghe sóng phát thanh và 85% ñịa bàn huyện ñược phủ sóng truyền hình. ðội chiếu bóng huyện thường xuyên phục vụ nhân dân các xã vùng sâu vùng xa. Văn nghệ, thể dục thể

Page 173: Các Huyện - Thành phố

Ñòa chí Quaûng Ngaõi Trang 173

thao quần chúng ở Ba Tơ ñược duy trì thường xuyên ở các trường học, ñơn vị vũ trang và các cơ quan nhà nước.

Về giáo dục ñào tạo: Trước năm 1945, hầu hết ñồng bào các dân tộc mù chữ, thất học. Sau Cách mạng tháng Tám năm 1945, "bình dân học vụ" ở Ba Tơ phát triển rộng. Nhiều con em ñồng bào Hrê ñược tập kết ra Bắc (1954), ñược ñào tạo ñể trở thành những trí thức, cán bộ chủ chốt cho các giai ñoạn cách mạng tiếp theo. Sau năm 1975, giáo dục ñã từng bước phát triển. ðến năm 1989, Ba Tơ ñã thanh toán xong nạn mù chữ. Năm 1995, Ba Tơ ñã phổ cập giáo dục bậc Tiểu học. Từ năm 1997, huyện có 1 trường Mầm non quốc lập ở thị trấn, 98 lớp mẫu giáo ngoài công lập, có 19 trường Tiểu học (trong ñó có 10 trường cấp II nhô), 2 trường Phổ thông cơ sở, 4 trường Trung học cơ sở (1 trường có lớp 10 nhô), 01 trường Trung học phổ thông cấp II - III, 01 trường Trung học phổ thông dân tộc nội trú và một Trung tâm giáo dục thường xuyên. Năm 2005, tổng số học sinh các cấp học là 12.032 em (trong ñó hệ Mầm non 1.875 em, bậc Tiểu học 6.424 em, Trung học cơ sở có 3.782 em, Trung học phổ thông 951 em), dân tộc nội trú 200 em, hướng nghiệp dạy nghề 250 học viên, giáo dục thường xuyên 558 học viên, phổ thông cơ sở có 447 em.

Về y tế, xưa kia người Hrê khi ốm ñau chỉ trông cậy vào "thầy mo, thầy cúng" hoặc chữa bệnh chỉ bằng những phương thuốc cổ truyền sẵn có ở núi rừng, do vậy, tỷ lệ tử vong ở người bệnh là rất cao. Từ sau năm 1975, ngành y tế ñã vận ñộng nhân dân Ba Tơ ñến các cơ sở y tế ñể chữa bệnh, nhờ ñó các bệnh như sốt rét, lao, bại liệt, bạch hầu, bướu cổ, ho gà ñã ñược kiểm soát. Việc tiêm văcxin phòng ngừa theo chương trình tiêm chủng mở rộng quốc gia ñược tiến hành thường xuyên. Ba Tơ có bệnh viện ña khoa với 80 giường bệnh, 19 xã có trạm y tế phục vụ nhân dân tại chỗ. ðến năm 2005, tổng số cán bộ y tế là 155 người, trong ñó có 15 bác sĩ, tập trung ở bệnh viên huyện.

Công tác dân số gia ñình và trẻ em: Tỷ lệ tăng dân số năm 2004 còn 1,4%. Công tác chăm sóc và bảo vệ trẻ em ñược tăng cường. ðã phân loại ñược 1.384 trẻ em có hoàn cảnh khó khăn, 1.124 trẻ em khuyết tật, thành lập quỹ bảo trợ trẻ em, thực hiện chương trình phòng chống suy dinh dưỡng cho trẻ em ở một số xã và ở thị trấn Ba Tơ.

Nhân lực và các vấn ñề xã hội

Nguồn lao ñộng ở Ba Tơ có gần ba vạn người nhưng hầu hết là lao ñộng giản ñơn trong các ngành nông, lâm nghiệp. Huyện Ba Tơ ñã có biện pháp ñể từng bước nâng cao trình ñộ và sử dụng có hiệu quả lực lượng này. Hàng năm tạo việc làm mới cho 300 - 500 lao ñộng.

Ba Tơ có 35 Bà mẹ Việt Nam Anh hùng, 2.090 người ñược hưởng chính sách người có công với cách mạng; toàn huyện ñã xây dựng 37 nhà tình nghĩa, có 377 người già ñược cứu trợ thường xuyên, 68 ñối tượng bị nhiễm chất ñộc hóa học ñược trợ cấp hàng tháng.

Page 174: Các Huyện - Thành phố

Ñòa chí Quaûng Ngaõi Trang 174

Công tác xóa ñói giảm nghèo ñược chú trọng. Năm 2000, Ba Tơ có 3.670 hộ nghèo, chiếm 38,8% tổng số hộ trong huyện. Năm 2001, số hộ nghèo giảm xuống còn 23,79%, năm 2003 giảm xuống còn 15%, năm 2004 giảm xuống còn 10,35%. ðến cuối năm 2005, số hộ nghèo còn 821 hộ, thuộc hạng thấp nhất trong các huyện miền núi Quảng Ngãi.

(1) Theo Niên giám Thống kê tỉnh Quảng Ngãi 2005.

Page 175: Các Huyện - Thành phố

Ñòa chí Quaûng Ngaõi Trang 175

HUYỆN LÝ SƠN

LÝ SƠN là huyện ñảo duy nhất của tỉnh Quảng Ngãi, nằm chếch về phía ñông bắc tỉnh, cách ñất liền 15 hải lý. Diện tích 9,97km2. Dân số 20.033 người (năm 2005). Mật ñộ dân số 2.009 người/km2(1). ðơn vị hành chính trực thuộc gồm 3 xã (An Vĩnh, An Hải, An Bình; huyện lị ñóng ở xã An Vĩnh), với 6 thôn; trong ñó:

Xã An Vĩnh nằm trên ñảo lớn có 2 thôn: thôn ðông, thôn Tây;

Xã An Hải nằm trên ñảo lớn có 3 thôn: ðồng Hộ, thôn ðông, thôn Tây;

Xã An Bình nằm trên ñảo bé có 1 thôn: thôn Bắc.

Huyện Lý Sơn nối với tỉnh lỵ chủ yếu bằng ñường biển qua cửa biển Sa Kỳ. Tuy là một ñảo nhỏ nhưng Lý Sơn có vị trí quan trọng về kinh tế - xã hội, an ninh quốc phòng của tỉnh Quảng Ngãi. Cư dân ở huyện ñảo này là người Việt ñã ñịnh cư và tạo lập ñược nhiều di sản văn hóa quý báu. ðánh cá, trồng hành tỏi là sinh hoạt kinh tế ñặc thù của huyện ñảo.

* * *

Về hành chính, ñảo Lý Sơn có dân cư từ lâu ñời, nhưng trở thành ñơn vị hành chính cấp huyện lại chưa lâu. Thuở xưa, cư dân ở Lý Sơn còn ít ỏi nên cơ chế hành chính chủ yếu phụ thuộc vào ñất liền. Vị trí quân sự ñược chú ý từ xưa. Giữa thế kỷ XV, Bắc quân ðô ñốc Bùi Tá Hán ñem quân nhà Lê Trung hưng vào diệt Mạc, lấy lại thừa tuyên Quảng Nam, ñã ñi theo ñường biển và ñổ quân lên ñảo ñể diễn tập. Trước kia, Lý Sơn có một ít người Chăm sinh sống nhưng chưa thấy tư liệu nào nói ñến việc hoạch ñịnh ñơn vị hành chính ở Lý Sơn. Từ cuối thế kỷ XVI ñến ñầu thế kỷ XVII dưới thời Lê Trung hưng và các chúa Nguyễn, cư dân Việt từ ñất liền ra ñây lập nghiệp, lập An Hải phường và An Vĩnh phường. ðời vua Gia Long, năm 1808, Lý Sơn ñặt thành một tổng thuộc huyện Bình Sơn, gọi là tổng Lý Sơn, vẫn có hai phường. ðời vua ðồng Khánh, hai phường Lý Sơn An Vĩnh và Lý Sơn An Hải nằm trong tổng Bình Hà, huyện Bình Sơn, về sau lại ñặt tổng Lý Sơn. Thời Pháp thuộc, ñảo Lý Sơn có tên Pháp là Paulo Canton. Năm 1931, tổng Lý Sơn ñặt là ñồn Lý Sơn trực thuộc tỉnh, có một viên Bang tá cai trị, nặng về quân sự. An Hải phường ñổi thành xã Hải Yến, An Vĩnh phường ñổi thành xã Vĩnh Long.

Cách mạng tháng Tám 1945 thành công, ñảo Lý Sơn ñược gọi là tổng Trần Thành với hai xã Dương Sạ (Hải Yến cũ) và Vĩnh Long. Năm 1946, tổng Trần Thành ñổi thành xã Lý Sơn, một trong các xã thuộc huyện Bình Sơn, có Uỷ ban kháng chiến hành chính xã. Năm 1951, quân Pháp ñánh chiếm ñảo Lý Sơn và thiết lập ở ñảo một khu vực hành chính, nhập vào thành phố ðà Nẵng. Từ năm 1954 ñến năm 1975, Lý Sơn có hai xã Bình Vĩnh, Bình Yến thuộc quận Bình Sơn dưới thời chính quyền Sài Gòn. Sau giải phóng 1975, hai xã vẫn giữ nguyên tên cũ và

Page 176: Các Huyện - Thành phố

Ñòa chí Quaûng Ngaõi Trang 176

thuộc huyện Bình Sơn. Ngày 1.1.1993, huyện Lý Sơn ñược thành lập, hai xã của huyện là Bình Vĩnh và Bình Yến ñổi tên là xã Lý Vĩnh và xã Lý Hải. ðến năm 2003, các tên xã ñổi lại theo tên gọi truyền thống là xã An Vĩnh và xã An Hải. Do ñặc thù nằm ở một hòn ñảo cách biệt, thôn Bắc xã Lý Vĩnh (ñảo Bé) ñồng thời tách lập thành một xã gọi là xã An Bình. Huyện Lý Sơn có 3 xã: An Vĩnh, An Hải, An Bình (như ñã kể trên).

Về tự nhiên, Lý Sơn là một ñảo nhỏ nằm trong vùng nộ i thủy của Việt Nam, bốn phía là biển. Lý Sơn là một cụm 3 ñảo như những ngọn núi nhô cao giữa biển.

ðảo lớn nhất là ñảo Lý Sơn (hay còn gọi là ñảo Lớn, cù lao Ré), vì ở ñây có nhiều cây ré (một loài thực vật mọc hoang) với năm hòn núi ñược gọi là Ngũ Linh: núi Thới Lới, Hòn Tai, Hòn Sỏi, núi Giếng Tiền, Hòn Vung, trong ñó núi Thới Lới lớn nhất. Xưa ở Lý Sơn có nhiều rừng, có suối, như rừng suối Truông, rừng Nhợ, rừng Cây Gạo, rừng Bà Bút, suối Chình, suối Ốc… Trong ñó có loài cây dầu (du thuỷ) ñược nhà nước phong kiến chú ý và bắt nộp thuế sản vật. Rừng ñã bị tàn phá từ nhiều ñời trước và suối nước không còn. ðảo có các trảng bằng (chủ yếu nằm dọc ở phía nam ñảo), là khu dân cư và ñất canh tác.

ðảo Bé nhỏ, nằm ở phía tây bắc ñảo Lớn, còn gọi là cù lao Bờ Bãi, có cư dân ở (nay là xã An Bình).

Phía ñông nam ñảo lớn có hòn Mù Cu, một bãi ñất ñá nhô lên giữa biển, không có người ở. Vùng biển ở ñảo Lý Sơn có nhiều cá, nhiều loại hải sản, nhiều san hô.

Lý Sơn có nhiều hang ñộng tự nhiên như hang Câu, hang Cò, hang Kẻ Cướp, và nhiều vết tích miệng núi lửa ñã tắt.

Trong tổng số 997ha diện tích ñất tự nhiên, tình hình sử dụng ñất tính ở thời ñiểm năm 2005 như sau: 1) ðất nông nghiệp 392ha; 2) ðất lâm nghiệp 171ha; 3) ðất chuyên dùng 159ha; 4) ðất khu dân cư 55ha; 5) ðất chưa sử dụng 220ha.

Lý Sơn là ñảo ven bờ, nên xưa kia, các thuyền buôn với ñiều kiện kỹ thuật thô sơ thường ghé dừng lại nơi ñây và ñể lại nhiều dấu ấn ñậm nét trong giao lưu buôn bán và văn hóa. Thời Pháp thuộc, ở cánh gà phía ñông bắc thuộc xã An Hải trên ñảo Lớn ñã xây dựng trụ ñèn biển còn tồn tại ñến ngày nay. Bọn cướp biển Tàu Ô xưa kia cũng thường ẩn nấp ở ñây, nay còn lưu truyền ñịa danh hang Kẻ Cướp. Huyện ñảo Lý Sơn có một vị trí xung yếu về quốc phòng.

Là một hải ñảo, Lý Sơn ngoài những ñặc ñiểm chung là khí hậu nhiệt ñới gió mùa ở vùng ñồng bằng ven biển tỉnh Quảng Ngãi, còn có ñặc ñiểm riêng: dễ khô hạn về mùa nắng, thiếu nước ngọt ñể sinh hoạt, chịu nhiều giông bão về mùa mưa. Năm 2005, nhiệt ñộ trung bình là 26,40oC, lượng mưa 1.970,7mm, giờ nắng trong năm 2.430,1 giờ, ñộ ẩm trung bình 86,6%.

Page 177: Các Huyện - Thành phố

Ñòa chí Quaûng Ngaõi Trang 177

Về dân cư, các phát hiện khảo cổ học gần ñây cho thấy, cách nay 2.500 - 3.000 năm ở ñảo Lý Sơn ñã có cư dân chủ nhân của Văn hóa Sa Huỳnh sinh sống, không như nhiều người nhận ñịnh xưa là một hoang ñảo. Cư dân sống dọc các suối cổ, bắt ốc và cá, có thể có cả canh tác nông nghiệp ñể sinh sống. Cũng từ những phát hiện khảo cổ cho thấy kế tiếp ñó là lớp dân cư Chămpa cũng sống bằng khai thác hải sản và trồng rau củ, hoa màu. Từ cuối thế kỷ XVI, những cư dân Việt ở hai bên cửa Sa Kỳ là An Vĩnh và An Hải ra khai thác và sinh sống ở ñảo, lập ra An Vĩnh phường và An Hải phường, 15 người thuộc 15 dòng họ gọi là "thất tộc, bát hiền", trở thành 15 vị tiền hiền của ñảo. Như vậy, khác với ñất liền, nguồn gốc cư dân Việt ở ñảo Lý Sơn không trực tiếp từ Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ di cư vào, mà từ vùng ñất liền tỉnh Quảng Ngãi di chuyển ra sinh sống.

Do ñặc thù cách biệt với ñất liền, lại không chịu sự tàn phá của chiến tranh, mà văn hóa do người Việt tạo lập tại Lý Sơn mang rất ñậm dấu ấn văn hóa cổ truyền và các di sản ñược lưu giữ khá tốt, ít bị mất mát, hư hại, tuy việc học ở ñảo phát triển chậm hơn nhiều so với ñất liền.

Dân số trên ñảo Lý Sơn có sự phát triển khá nhanh. Năm 1930 - 1931, số dân có khoảng 4.000 người. Năm 1962, số dân có khoảng 6.400 người. Năm 1990, số dân có khoảng 16.260 người. Năm 2000, số dân có khoảng 18.500 người. Năm 2004, số dân có khoảng 19.802 người. Năm 2005, số dân là 20.033 người.

Mật ñộ dân số ở Lý Sơn năm 2005 là 2.009 người/km2, cao gấp 8 lần so với mật ñộ dân số trung bình trong tỉnh Quảng Ngãi (250 người/km2, vốn ñã rất cao), chỉ thấp hơn thành phố Quảng Ngãi và cao tuyệt ñối so với các huyện khác. Mật ñộ dân số cao, mà số ñông vẫn là làm nông ñã ñặt áp lực dân số rất lớn ở ñảo.

Tình hình diện tích, phân bố dân cư tương ñối cân phân giữa 2 xã trên ñảo Lớn, riêng xã An Bình biệt lập ở ñảo Bé do ñiều kiện khó khăn, cư dân thưa hơn, như bảng kê sau ñây của năm 2005(2).

TT Xã Diện tích (km2) Dân số (người) M ật ñộ dân số (người/km2)

1 An Vĩnh 4,25 11.380 2.678 2 An Hải 5,09 8.214 1.614

3 An Bình 0,63 439 697

Cư dân huyện ñảo Lý Sơn có một truyền thống yêu nước ñáng chú ý. Trải các thời phong kiến, Lý Sơn là nơi tập trung dân binh góp phần quan trọng trong việc thực hiện chủ quyền của Việt Nam tại hai quần ñảo Hoàng Sa, Trường Sa ngoài khơi biển ðông. ðiều này ñược ghi chép rất rõ trong các thư tịch cổ như: Phủ biên tạp lục, Lịch triều hiến chương loại chí, ðại Nam thực lục, ðại Nam nhất thống chí, Quảng Ngãi tỉnh chí... cùng nhiều di tích, tư liệu, thư tịch tại chỗ và các câu ca dao còn lưu truyền ở ñịa phương:

Page 178: Các Huyện - Thành phố

Ñòa chí Quaûng Ngaõi Trang 178

Hoàng Sa ñi có về không

Lệnh vua sai phải quyết lòng ra ñi...

ðời Tây Sơn, ñảo Lý Sơn là vị trí xung yếu và nơi tranh chấp giữa Tây Sơn và Nguyễn Ánh. Thời phong kiến tự chủ, bọn giặc Tàu Ô thường xuyên ñổ bộ vào cướp của giết người, nhân dân Lý Sơn ñã phải kháng cự, ñánh ñuổi cướp biển. Trong thời Pháp thuộc, phong trào Duy tân, ðông du cũng lan ñến Lý Sơn tuy chưa ñể lại dấu ấn gì sâu ñậm. Từ khi Tỉnh bộ Việt Nam Cách mạng Thanh niên tỉnh Quảng Ngãi ñược thành lập (1926), tư tưởng cách mạng ñã dần dần hình thành. Sau khi ðảng bộ ðảng Cộng sản Việt Nam tỉnh Quảng Ngãi ñược thành lập, tháng 2.1931, chi bộ ðảng Cộng sản ở Lý Sơn cũng hình thành. Từ ñây nhân dân Lý Sơn có sự lãnh ñạo của ðảng, là một bước ngoặt trọng ñại trong phong trào yêu nước của nhân dân Lý Sơn. Cờ ðảng ñược treo ở ñảo, các cuộc mít tinh ñược tổ chức, truyền ñơn vận ñộng cách mạng ñược rải ở nhiều nơi; có khi bị ñịch ñánh phá, lực lượng cách mạng có tổn thất nặng, ñứt liên lạc với cấp trên trong ñất liền, nhưng nhìn chung phong trào cách mạng ở Lý Sơn ñược chắp nối liên tục và hòa nhịp với phong trào ở ñất liền. Sau hai ngày Cách mạng tháng Tám thành công trong ñất liền, ngày 16.8.1945, cán bộ và nhân dân ñảo Lý Sơn ñã nổi dậy khởi nghĩa lật ñổ chính quyền thực dân phong kiến, giành chính quyền về tay nhân dân. Trong những năm ñầu của cuộc kháng chiến chống Pháp xâm lược, cán bộ và nhân dân Lý Sơn ñã tích cực giữ ñảo, ñóng góp vào kháng chiến, ñấu tranh với bọn Quốc dân ðảng ñang hoạt ñộng lén lút. Tháng 9.1951, quân Pháp ñổ bộ ñánh chiếm ñảo, lập ñồn ở ñảo ñể cai trị khủng bố nhân dân và khống chế vùng biển tỉnh Quảng Ngãi. Nhiều ñảng viên và quần chúng bị bắt và ñày ải. Cán bộ cách mạng phải rút vào hoạt ñộng bí mật. Trong thời kỳ 1954 - 1975, Lý Sơn tiếp tục nằm trong vòng kiểm soát của ñịch. Tháng 10.1962, chi bộ ðảng Lý Sơn ñược thành lập lại, trở thành nhân tố quyết ñịnh cho phong trào cách mạng ở Lý Sơn. Do ñịch ñóng ñồn và kiểm soát ngặt nghèo nên hoạt ñộng cách mạng ở Lý Sơn gặp rất nhiều khó khăn, nhưng luôn ñược liên tục, bằng các hình thức thích hợp. Sau ngày giải phóng Quảng Ngãi 24.3.1975, hải quân và lục quân chính quyền Sài Gòn với 12.000 quân tháo chạy tập trung về Lý Sơn ñể trốn tránh, cố thủ. Ngày 31.3.1975, sau 1 tuần giải phóng Quảng Ngãi, quân giải phóng ñã ñẩy lùi ñược ñịch và giải phóng ñảo, chấm dứt ách thống trị của ñịch kéo dài suốt gần 25 năm. Qua các cuộc ñấu tranh giải phóng dân tộc, tấm lòng yêu nước và tinh thần cách mạng của nhân dân huyện ñảo Lý Sơn khá nổi bật.

* * *

Về kinh tế, Lý Sơn chủ yếu là kinh tế nông - ngư nghiệp. Tuy ở ñảo nhỏ hẹp, khó khăn về nguồn nước, nhưng dân cư sống bằng nghề nông vẫn chiếm nhiều nhất. Cụ thể năm 2005, trong tổng số 9.475 lao ñộng thì ñã có 4.164 lao ñộng nghề nông, 3.420 lao ñộng ngư nghiệp, 635 lao ñộng công nghiệp và xây dựng, 615 lao ñộng thương mại - dịch vụ.

Page 179: Các Huyện - Thành phố

Ñòa chí Quaûng Ngaõi Trang 179

Trong nông nghiệp, Lý Sơn không trồng ñược lúa, chỉ trồng trọt các loại cây lương thực, thực phẩm khác. Lúa gạo chủ yếu mua từ ñất liền chở ra ñảo. Có nhiều cây trồng rất phổ biến ở ñất liền Quảng Ngãi nhưng có rất ít ở Lý Sơn như cây dâu, cây mía, vì ñất ñai trồng trọt ở ñảo rất hạn hẹp (ñất nông nghiệp 392ha), lại thiếu nguồn nước tưới. Người dân Lý Sơn từ xưa chủ yếu trồng cây ngô, ñậu, gai (ñay), rau và khoai lang, khoai mì. Từ khoảng năm 1960, cây hành, cây tỏi ñược trồng phổ biến và trở thành cây trồng ñặc chủng của Lý Sơn vì nó tỏ ra rất thích hợp với ñiều kiện thổ nhưỡng, thời tiết ở ñảo. Diện tích gieo trồng cây lương thực có hạt ở huyện Lý Sơn chỉ vỏn vẹn 243ha (năm 2004), với sản lượng cây lương thực có hạt chỉ có 1.486 tấn (trong ñó xã An Vĩnh 817 tấn, xã An Hải 669 tấn), bình quân 74,60kg/người/năm; năm 2005 sản lượng lương thực là 1.524 tấn (xã An Vĩnh 838 tấn, xã An Hải 686 tấn), bình quân lương thực ñầu người 76kg, thấp tuyệt ñối so với tất cả các huyện, thành phố trong tỉnh Quảng Ngãi. Lương thực ñược tính chỉ là ngô. Tuy nhiên, lương thực không phải là nguồn sống chính của cư dân Lý Sơn.

Cho ñến nay, việc trồng hành, tỏi vẫn rất thịnh ñạt, hành tỏi Lý Sơn ngon nổi tiếng không chỉ trong phạm vi tỉnh Quảng Ngãi. Nhờ hành tỏi, nông dân ở Lý Sơn có ñời sống tương ñối ổn ñịnh. Thời ñiểm 2005, diện tích trồng tỏi là 297ha, sản lượng 1.557 tấn (trong ñó xã An Vĩnh 146ha, 796 tấn; xã An Hải 151ha, 761 tấn); diện tích trồng hành 282,4ha, sản lượng 1.790 tấn (trong ñó xã An Vĩnh 139ha, 898 tấn; xã An Hải 117,4ha, 671 tấn; xã An Bình 26ha, 221 tấn). Diện tích hành tỏi năm 2005 tuy lớn, nhưng giảm sút so với năm 2004, vì có sự chuyển qua cây trồng khác. Dưa hấu phát triển. Năm 2005, có 49ha dưa hấu với sản lượng 400 tấn. Tuy nhiên, việc trồng hành tỏi ở Lý Sơn không phải dễ dàng. Hằng năm, người nông dân phải tải ñất ñỏ từ trên cao về trải ñều trên mặt ñất, lại tải cát từ bãi biển lên trải ở lớp trên, ñể có ñất tốt cho cây phát triển. Không chỉ tốn quá nhiều công sức, việc lấy ñất cát như vậy còn có tác hại ñến môi trường, gây tình trạng sạt lở, sóng biển xâm thực, biển lấn sâu vào ñảo.

Ngoài ngô, hành, tỏi, ở Lý Sơn còn trồng một số loại cây khác, cụ thể như sau(3): 1) Rau: năm 2004 diện tích 580ha, sản lượng 4.356 tấn; năm 2005 diện tích 595ha, sản lượng 3.420 tấn; 2) ðậu các loại: năm 2004 diện tích 30ha, sản lượng 36 tấn; năm 2005 diện tích 28ha, sản lượng 28 tấn; 3) Vừng: năm 2004 diện tích 125ha, sản lượng 59 tấn (không có số liệu năm 2005).

Bên cạnh trồng trọt, người dân Lý Sơn còn chăn nuôi, chủ yếu là bò 803 con, heo 2.435 con, dê 294 con, gà vịt trên 5.649 con (tính ở thời ñiểm 31.12.2005). Trong 803 con bò năm 2005, xã An Vĩnh có 307 con, xã An Hải có 479 con, xã An Bình có 17 con. Trong tổng ñàn lợn 2.435 con, xã An Vĩnh có 1.070 con, xã An Hải có 1.349 con, xã An Bình có 16 con. Như vậy, chăn nuôi chỉ ñáng kể nhất ở hai xã An Vĩnh, An Hải trên ñảo Lớn và số lượng của hai xã không chênh lệch nhau nhiều.

Giá trị sản xuất nông nghiệp ở Lý Sơn năm 2005 là 45.730 triệu ñồng, trong ñó trồng trọt là 37.228 triệu ñồng, chăn nuôi 8.502 triệu ñồng (theo giá hiện hành).

Page 180: Các Huyện - Thành phố

Ñòa chí Quaûng Ngaõi Trang 180

Lao ñộng ngư nghiệp ít hơn lao ñộng nông nghiệp, nhưng về giá trị sản xuất, thủy sản ở Lý Sơn lại cao gấp gần 5 lần so với nông nghiệp của huyện ñảo, cụ thể năm 2005 giá trị sản xuất thủy sản ở Lý Sơn là 217.573 triệu ñồng. Cho nên xét về giá trị sản xuất thì thủy sản lại ñứng hàng ñầu trong kinh tế của huyện ñảo, chứ không phải nông nghiệp.

Nghề cá xưa chủ yếu chỉ ñánh bắt ở ven bờ, với nghề lưới chuồn và ñánh cá trích. Nhờ có kinh nghiệm ñi biển và khai thác hải vật, nên từ xưa người dân ở An Hải phường và An Vĩnh phường ñã ñược các triều ñại phong kiến tuyển mộ ñi tuần thú và khai thác hải vật ở hai quần ñảo Hoàng Sa, Trường Sa. Ngày nay, nhà nước ñã ñầu tư xây dựng cảng cá Lý Sơn và hỗ trợ ngư dân mua sắm ngư lưới cụ phát triển nghề và ngành ñánh bắt hải sản ngày càng tỏ ra quan trọng, nhất là ñánh bắt xa bờ. Tuy nhiên, năng lực ñánh bắt và sản lượng ñánh bắt hải sản của Lý Sơn vẫn còn thấp so với các huyện ven biển của tỉnh Quảng Ngãi. Năm 2004, Lý Sơn chỉ có 292 tàu ñánh cá, năm 2005 có 319 chiếc, tuy ñã tăng lên gần 1/3 so với số tàu 5 năm trước (năm 1999 Lý Sơn có 206 tàu) nhưng chỉ hơn huyện Mộ ðức (132 tàu), còn chưa bằng một nửa số tàu của huyện ðức Phổ, huyện Tư Nghĩa hay huyện Sơn Tịnh và chưa bằng 1/3 số tàu của huyện Bình Sơn. Năm 2004, sản lượng hải sản ñánh bắt của Lý Sơn ñạt 9.684 tấn, năm 2005 là 9.916 tấn, cũng chỉ nhiều hơn huyện Mộ ðức (2008 tấn và 1.820 tấn trong các năm tương ứng), và kém huyện Bình Sơn 1/4 lần, hơn một nửa của huyện Tư Nghĩa và chỉ bằng 1/3 của huyện ðức Phổ(4). Lý Sơn không có ñiều kiện hay khả năng nuôi trồng thuỷ sản như các huyện ven biển trong ñất liền. Tuy vậy, nhìn vào giá trị sản xuất thủy sản mới thấy tầm quan trọng hàng ñầu của nó. Chẳng hạn ở thời ñ iểm 2005, giá trị sản xuất của ngành thủy sản ở Lý Sơn là 217,573 tỉ ñồng, trong khi nông nghiệp chỉ 45,73 tỉ ñồng. Tổng số lao ñộng ñang làm việc trong ngành thủy sản gần 3.500 người, chiếm hơn 1/3 tổng số lao ñộng của huyện (gần 9.500 người). Xã An Vĩnh có sản lượng thủy sản chiếm ñến 2/3 của toàn huyện, năm 2005 ñạt 10.610 tấn. Trong sản lượng thuỷ sản khai thác thì cá chiếm tỉ lệ cao tuyệt ñối.

Ngoài ñánh cá, người dân Lý Sơn còn sống nhờ vào nghề buôn bán và dịch vụ, chủ yếu là dịch vụ nghề cá. Xưa do nhu cầu của ñời sống phải có những nhu yếu phẩm như gạo, nước, ñá, gỗ, gạch ngói, vải vóc và nhu cầu bán ñi các loại hàng sản xuất ñược nên ñã mặc nhiên hình thành những ghe chuyên ñi buôn bán với ñất liền trong tỉnh, dần hình thành một vạn ghe 50 chiếc ñi xa, chuyên vào Nam ra Bắc mua lúa gạo về bán. Từ ñất liền Quảng Ngãi cũng có nhiều người chuyên ñi buôn bán ở Lý Sơn. Nhiều thuyền buôn của các nước cũng ghé lại ñảo. Việc buôn bán trong bối cảnh kinh tế mở cửa ngày nay càng thịnh ñạt. Dịch vụ nghề cá, như sản xuất ngư lưới cụ, sửa chữa tàu thuyền, buôn bán xăng dầu, các dịch vụ vui chơi giải trí… cũng theo ñó mà phát triển. Năm 2005, Lý Sơn có 559 cơ sở kinh doanh thương mại - dịch vụ với 615 lao ñộng, tổng mức bán lẻ hàng hóa và dịch vụ xấp xỉ 61 tỉ ñồng. Du lịch là ngành có tiềm năng nhưng chưa thể phát triển ở Lý Sơn. Với cảnh quan thiên nhiên kỳ thú, với di sản văn hóa cổ truyền khá phong phú, Lý Sơn có nhiều tiềm năng phát triển du lịch, thu hút du khách ñến tham quan, nghỉ dưỡng. Tuy nhiên, trong bối cảnh chung của kinh tế Quảng Ngãi chưa phát triển cao và

Page 181: Các Huyện - Thành phố

Ñòa chí Quaûng Ngaõi Trang 181

chưa có một dự án thực sự bài bản, chưa có cơ sở hạ tầng tốt, nên nghề kinh doanh du lịch ở ñây cũng chưa thực sự hình thành.

ðường từ ñất liền ra Lý Sơn có thể ñi từ nhiều cửa biển, nhưng thuận tiện nhất vẫn là từ cửa biển Sa Kỳ. Cần biết rằng ñây là thuỷ ñạo truyền thống có từ nhiều trăm năm trước. Sách ðồng Khánh ñịa dư chí chép: "Tấn Lý Sơn: nằm ở vùng biển thuộc huyện Bình Sơn, ñối xứng với tấn Sa Kỳ theo chiều ngang. Có xây ñồn trấn giữ. Bốn mặt ñều có ghềnh ñá, bãi ñá, tàu bè ñi lại phải né tránh. Nếu thuận gió thì từ tấn Sa Kỳ ñến tấn Thuận Sơn(5) thuyền ñi mất 5 khắc". Ca dao hải trình của ngư dân cũng có câu:

Trực nhìn ngó thấy Bàn Thang

Ba hòn lao Ré nằm ngang Sa Kỳ

Sự thuận tiện của tuyến hải trình Sa Kỳ - Lý Sơn còn ở chỗ nó là tuyến ngắn nhất nố i với tỉnh lỵ Quảng Ngãi. Từ tỉnh lỵ Quảng Ngãi thuở xưa có con ñường chạy theo tả ngạn sông Trà Khúc ñi trực chỉ ñến cửa Sa Kỳ. ðường này nay ñã xây dựng thành Quốc lộ 24B, trải nhựa; cảng cá Sa Kỳ, cảng Lý Sơn ñều ñã ñược xây dựng.

ðường nội bộ ở ñảo Lý Sơn thì từ ñiểm nút là cảng nằm ở phía tây nam ñảo (gần huyện lỵ) có trục ñường men theo bờ biển phía nam nối hai xã của ñảo Lớn. ðây là trục ñường chính. Có trục ñường ngang nối phía nam và phía bắc nằm ở giữa ñảo, và có nhiều tuyến nhỏ ngang dọc. Cho ñến cách nay khoảng một vài chục năm, phương tiện giao thông của cư dân trên ñảo vẫn là ñi bộ, ñi xe ñạp. Xe máy, xe ô tô mới xuất hiện gần ñây. Về ñ iện, do sự cách biệt nên mạng lưới ñ iện trong ñất liền chưa thể kéo ra ñảo. Trước ñây, Lý Sơn chỉ có máy ñiện nhỏ tự phát ñiện, ñặt ở ñảo Lớn, thời gian phát và công suất ñ iện rất hạn chế. ðặc biệt, hệ thống thông tin liên lạc do cách biển nên trước kia hết sức khó khăn. Từ khi có hệ thống ñ iện tử tự ñộng, nhất là hệ ñiện thoại di ñộng, ñã khắc phục ñược ñiểm yếu cố hữu và giúp cho giao dịch, quản lý thuận tiện hơn nhiều. ðến năm 2005, hệ thống bưu ñiện ở Lý Sơn có Bưu ñiện huyện, 3 Bưu ñiện văn hóa xã ở An Vĩnh, An Hải, An Bình. Bưu ñ iện Lý Sơn có Bưu Cục Trung tâm huyện, có tổng ñài diện tử dung lượng 1.112 số. Tính ñến năm 2005, có 975 máy ñiện thoại cố ñịnh trên mạng. Nhờ nhà nước quan tâm nên cơ sở hạ tầng ở Lý Sơn ngày càng tốt, trong ñó hệ thống ñ iện, ñường, trường, trạm, trụ sở cơ quan ñược xây dựng khang trang. Tuy nhiên, vấn ñề nước dùng cho sinh hoạt ở ñảo Bé rất khan hiếm. ðảo hầu như không có nguồn nước ngầm, nên dân ở ñảo phải sắm bể, lu, vại lớn ñể chứa nước mưa dùng hằng năm. Ở ñảo Lớn, trong những năm khô hạn, nước ngầm cạn kiệt, vấn ñề nước dành cho sinh hoạt cũng rất nan giải.

* * *

Page 182: Các Huyện - Thành phố

Ñòa chí Quaûng Ngaõi Trang 182

Về mặt văn hóa, Lý Sơn có những di sản văn hóa quý báu. Các cuộc khai quật khảo cổ học gần ñây ñã tìm ra các mộ nồi, các công cụ… cho thấy ñảo Lý Sơn từng có cư dân cách nay ít nhất 2.500 - 3.000 năm là chủ nhân Văn hóa Sa Huỳnh hệ biển ñảo, kế ñó là Văn hóa Chămpa, trong môi trường biển - ñảo. Lớp văn hóa Việt kế tiếp cũng tạo ñược nhiều di sản quý báu. Ở Lý Sơn xưa có nhiều ca dao, ngạn ngữ ñặc thù, nói về chính mảnh ñất này, tâm tình hướng về ñất liền, về cội nguồn. Ở Lý Sơn có các lễ hội ñặc sắc như: lễ hội ñua thuyền, hội dồi bòng, lễ hộ i tế ñình làng An Hải, lễ khao lề thế lính Hoàng Sa… Ở phía ñông ñảo thuộc xã An Hải có chùa hang, còn gọi là "Thiên khổng thạch tự" (chùa hang ñá trời sinh), phía tây có ñình làng Lý Hải (ñều ñã xếp hạng di tích quốc gia), có ñền thờ cá Ông ở thôn ðông xã An Hải, Âm Linh tự ở thôn Tây xã An Vĩnh (ñều ñã xếp hạng di tích cấp tỉnh). Các di tích lịch sử - văn hóa, di tích về Hoàng Sa - Trường Sa trên ñảo Lý Sơn ñược phục dựng, tôn tạo, các di vật cổ, các kiến trúc nhà cổ, liễn ñối là những di vật rất quý ở ñảo Lý Sơn còn giữ ñược khá nguyên vẹn. Một dự án xây dựng tượng ñội Hoàng Sa, Trường Sa trên ñảo Lý Sơn ñang ñược thực hiện. Trong văn hóa ẩm thực, ở Lý Sơn có nhiều món ăn như bánh ít lá gai, ñồn ñột, nhiều hải sản và rượu dầm hải sản.

Bên cạnh việc bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa truyền thống, các thiết chế hoạt ñộng văn hóa mới ñã ñược hình thành và phát triển ngày càng mạnh ở huyện ñảo Lý Sơn. Lý Sơn ngày nay có ñài truyền thanh huyện và trạm thu phát lại truyền hình, có thư viện huyện, có nhiều hoạt ñộng văn nghệ quần chúng khá tốt. Phong trào toàn dân ñoàn kết xây dựng ñời sống văn hóa cũng có sự phát triển. Hầu hết các gia ñình ở Lý Sơn ñều có máy thu thanh, máy thu hình và một số phương tiện nghe nhìn khác.

Về giáo dục, xưa kia, trong thời Nho học, Tân học, do cách biệt với ñất liền và do cuộc sống nhiều khó khăn, nên giáo dục ở Lý Sơn ít phát triển. Thời Nho học chỉ có một vài người ñỗ Tú tài. Thời Pháp thuộc, Lý Sơn có trường Tiểu học (theo chương trình Tân học). Thời chính quyền Sài Gòn quản lý, Lý Sơn ñã có trường Trung học ðệ nhất cấp (phổ thông cơ sở), ai học ðệ nhị cấp phải vào học ở ñất liền. Hệ thống giáo dục chỉ thực sự phát triển từ sau 1975 và ñược ñẩy mạnh hơn nữa từ sau khi huyện Lý Sơn ñược thành lập (năm 1993).

ðến 2005, Lý Sơn ñã có 1 trường Trung học phổ thông (thành lập từ năm 1984), 2 trường Trung học cơ sở, 3 trường Tiểu học và 2 trường Mầm non bán công, với tổng số học sinh gần 5.697 em (năm học 2005 - 2006), chiếm hơn 1/4 dân số. Trường Trung học phổ thông Lý Sơn nằm ở xã An Vĩnh, có 21 lớp, 40 giáo viên và 955 học sinh. Xã An Vĩnh có 1 trường Trung học cơ sở, 27 lớp học, 48 giáo viên, 1.044 học sinh. Xã An Hải có 1 trường Trung học cơ sở, có 21 lớp học, 34 giáo viên, 767 học sinh. Về Tiểu học, xã An Vĩnh có 2 trường với 43 lớp, 65 giáo viên, 1.218 học sinh; xã An Hải có 1 trường, 29 lớp học, 44 giáo viên, 823 học sinh. Hệ Mẫu giáo, các xã An Vĩnh, An Hải mỗ i xã 1 trường, trong ñó xã An Vĩnh có 16 lớp, 21 giáo viên, 517 học sinh; xã An Hải có 13 lớp, 17 giáo viên, 373 học sinh. Xã An Bình vẫn còn nhiều thiếu thốn về giáo dục.

Page 183: Các Huyện - Thành phố

Ñòa chí Quaûng Ngaõi Trang 183

Về y tế, sự cách biệt với ñất liền là một vấn ñề nan giải cho việc khám chữa bệnh của cư dân ñảo Lý Sơn. Thuở xưa, việc chữa bệnh ở ñảo chủ yếu dựa vào các bài thuốc cổ truyền. Thời Pháp tái chiếm, ở Lý Sơn có 1 bệnh xá. Mãi ñến sau 1975, ở ñây mới có trạm xá huyện. Hiện tại, Lý Sơn ñã có 1 bệnh viện huyện và 1 trạm y tế ở xã An Bình (ñảo Bé). Bệnh viện huyện có 50 giường bệnh, có 7 bác sĩ.

Về xã hội, vấn ñề ñặt ra cho Lý Sơn cũng như nhiều huyện khác trong tỉnh Quảng Ngãi là vấn ñề thừa nhân lực thiếu việc làm, ñặc biệt trong các hộ gia ñình sản xuất nông nghiệp. Mật ñộ dân số quá dày cũng gây ra nhiều vấn ñề về môi trường sống, về dịch bệnh phát sinh. Trong một thời gian, việc ñánh bắt hải sản bằng mìn, kiểu huỷ diệt môi trường ñã diễn ra. Vấn ñề vệ sinh cũng là vấn ñề cấp bách và rất quan trọng của ñảo. Trong ñiều kiện ñất ñai ở huyện ñảo rất hẹp, thì việc giải quyết các vấn ñề này chỉ có hai cách là dịch chuyển mạnh từ nông nghiệp sang phi nông nghiệp, hoặc di chuyển dân cư, ñồng thời cần chú trọng cải tạo môi trường, tái phủ màu xanh cho ñồi núi.

(1) Theo Niên giám thống kê tỉnh Quảng Ngãi 2005.

(2) Nguồn: Niên giám thống kê huyện Lý Sơn.

(3) Nguồn: Niên giám thống kê tỉnh Quảng Ngãi.

(4) Theo Niên giám thống kê tỉnh Quảng Ngãi. Còn theo số liệu trong Niên giám thống kê huyện Lý Sơn hoàn toàn khác.

(5) Tấn Thuận Sơn: có lẽ là tên xưa của tấn Lý Sơn.

Page 184: Các Huyện - Thành phố

Ñòa chí Quaûng Ngaõi Trang 184

Kết luận

L ịch sử loài người bắt ñầu từ khi con người và xã hội hình thành. Mốc ñánh dấu thời ñ iểm này là việc con người chế tạo và sử dụng công cụ trong quá trình lao ñộng sản xuất. Cho nên, như Ăngghen khẳng ñịnh, trong một ý nghĩa nhất ñịnh chính lao ñộng ñã tạo ra con người và xã hộ i (1). Quần chúng nhân dân là chủ nhân của lịch sử, sáng tạo ra mọi giá trị tinh thần và vật chất.

Con người sinh sống và hoạt ñộng có ý thức trong môi trường không gian và thời gian với những ñ iều kiện kinh tế - xã hộ i nhất ñịnh. Mố i quan hệ giữa con người - không gian - thời gian là mố i quan hệ biện chứng trong việc tạo nên lịch sử xã hội qua các thời ñại kế tiếp, phát triển của một tiến trình hợp quy luật.

Cùng với mố i quan hệ giữa con người và tự nhiên, mố i quan hệ giữa con người với nhau cũng ngày càng trở nên mật thiết, ngay từ thời nguyên thuỷ; ñặc biệt, từ buổi ñầu của chủ nghĩa tư bản, các cộng ñồng người, các châu lục, các vùng lãnh thổ trên thế giới dường như ngày càng kéo dịch lại và xu thế toàn cầu hóa, quốc tế hóa làm cho các quốc gia, dân tộc hòa nhập vào nhau. Tuy nhiên, trong việc hòa nhập này, việc bảo vệ lãnh thổ, chế ñộ chính trị xã hội tiến bộ, nền văn hóa truyền thống của mỗi dân tộc càng trở nên cấp thiết. Bởi vì, sự hòa nhập quốc tế không có nghĩa là sự hòa tan hoặc bị chi phối bởi "một cực", một thế lực mạnh về kinh tế, quân sự.

Tính ñộc lập, sự phát triển bền vững của các quốc gia - dân tộc với những chế ñộ chính trị xã hội khác nhau, thậm chí trái ngược nhau là ñiều kiện cho sự hòa nhập bình ñẳng, cùng phát triển theo quy luật chung của lịch sử xã hội loài người. Lịch sử sẽ phán xét và khẳng ñịnh con ñường phát triển chung, tiến bộ của nhân loại, dù quá trình này còn trải qua một chặng ñường lâu dài, gian khổ, phức tạp, song tất thắng.

Trong bức tranh chung của lịch sử xã hộ i loài người, nhân dân Việt Nam ñã, ñang và sẽ góp phần làm cho "ngôi nhà chung" của thế giới thêm rực rỡ, tươi ñẹp hơn, cũng như tiếp nhận ảnh hưởng, tác ñộng tích cực, sự chi viện ñầy thiện chí của bè bạn năm châu ñể cho ñất nước ngày một giàu ñẹp.

Quảng Ngãi, cũng như mọ i ñịa phương khác trong ñại gia ñình Tổ quốc Việt Nam, là một bộ phận hữu cơ của Tổ quốc, dân tộc, mang trong mình truyền thống chung và những nét riêng của ñịa phương. Tìm hiểu một cách toàn diện quê hương trên mọ i lĩnh vực - tự nhiên, kinh tế, chính trị, quân sự, văn hóa, xã hộ i… qua các thời kỳ lịch sử là một yêu cầu quan trọng cho sự phát triển bền vững. Không hiểu về quê hương sẽ không có tình yêu quê hương sâu ñậm, không nhận thức rõ ñúng trách nhiệm, nghĩa vụ của mình với nơi chôn nhau cắt rốn. Tình yêu quê hương lại là cơ sở của lòng yêu nước chân chính - tinh thần yêu nước ñược nảy sinh, vun ñắp

Page 185: Các Huyện - Thành phố

Ñòa chí Quaûng Ngaõi Trang 185

trên sự quý mến, gắn bó với từng ngọn cỏ, bờ tre, những mái nhà tranh ñơn sơ và nhiều công trình kiến trúc, di tích lịch sử, tự hào, nâng niu mọi giá trị vật thể và phi vật thể của ðất mẹ.

Sự hiểu biết về gia tộc, quê hương ñược ghi nhớ, truyền lại với nhiều hình thức khác nhau: truyền miệng, tài liệu thành văn, lễ hộ i, phong tục tập quán… là một ñộng lực cho công cuộc xây dựng quê hương, Tổ quốc.

ðịa chí là một loại tài liệu thành văn góp phần hiểu biết, yêu mến, tự hào, xác ñịnh trách nhiệm với quê hương. Ở những cấp ñộ khác nhau, ñịa chí của một vùng, một tỉnh, một huyện, một xã sẽ phác họa toàn cảnh của ñịa phương như một gam sắc màu riêng, hòa hợp trong bức tranh chung, rực rỡ của Tổ quốc Việt Nam. Trên cơ sở nghiên cứu, giới thiệu toàn diện về ñịa phương, ñịa chí giúp cho mỗi người hiểu về ñ iều kiện tự nhiên, con người, truyền thống ñịa phương, về tài nguyên, ngành nghề thủ công, danh thắng, di sản văn học, nghệ thuật, giáo dục, lễ hội… Từ ñó, mọi người nhận thức ñúng quá khứ, hiện tại, tin tưởng vào tương lai của quê hương, Tổ quốc. Sự hiểu biết này cần thiết và không hề rơi vào các sai lầm về "ñịa phương chủ nghĩa", "cục bộ" hay "tinh thần vị quốc" mà ðảng và Bác Hồ thường căn dặn phải khắc phục. Trước ñây, cụ Phan Bội Châu cũng chỉ rõ: "Quốc sử ở một nước cũng như gia phả ở một nhà. Nhà mà có gia phả con cháu mới biết cao tằng khảo tông của mình. Nước nhà có sách sử thời dân trong nước mới biết công lao khó nhọc về sự nghiệp khai hóa của tiền nhân mà sinh mối cảm tình mật thiết. Nếu con cháu mà quên gia phả, thời chắc là con cháu bất hiếu. Dân trong nước mà không biết Quốc sử thời tất dân nước ấy là dân vong quốc tổ". Theo cụ, muốn hiểu nước ngoài, trước tiên phải biết mình, tức phải hiểu "những tiền nhân ở trong sử nước ta, mà là người có công ñức với nòi giống, dòng họ ta" (2). Hiểu biết về ñất nước, con người, xã hội là một nội dung quan trọng của ñịa chí.

Những nhận thức, quan ñiểm chủ yếu nêu trên ñã ñược thể hiện trong việc biên soạn "ðịa chí Quảng Ngãi". Từ nội dung của công trình ñược biên soạn, chúng ta có thể nêu những kết luận - khái quát, tập trung vào các mặt: tự nhiên, xã hội - con người Quảng Ngãi từ thời nguyên thuỷ ñến nay. Trên cơ sở ñó, có thể rút ra những bài học kinh nghiệm cho ngày nay và cả mai sau.

Về tự nhiên, Quảng Ngãi nằm ở khoảng giữa ñất nước Việt Nam, trên ñường từ Bắc vào Nam, dọc theo biển ðông, tựa mình vào một vùng Tây Nguyên rộng lớn thuộc tỉnh Kon Tum, có ñường bộ nối liền sang các nước ðông Nam Á. ðây là một vị trí quan trọng, có ý nghĩa chiến lược không chỉ về quân sự mà cả về các mặt kinh tế, chính trị, văn hóa. ðây là nơi gặp gỡ của các nền văn hóa Sa Huỳnh, Chămpa, ðại Việt; là cầu nố i ñể người Việt tiến dần vào phía Nam và xây dựng mối quan hệ chặt chẽ với cộng ñồng dân cư tại chỗ ñể khai phá vùng ñất này, mở rộng biên cương Tổ quốc ngày nay. Dẫu chưa thật sự ñầy ñủ, song những kết quả nghiên cứu thu ñược cũng giúp chúng ta có căn cứ khoa học cần thiết ñể nhận thấy rằng, trên vùng ñất này ñã có con người sớm sinh sống, xây dựng nền văn hóa thời ñại ñồ ñá cũ, nền Văn hóa Sa Huỳnh rực rỡ. Vào thế kỷ XV - XVI, ñịa giới và cư

Page 186: Các Huyện - Thành phố

Ñòa chí Quaûng Ngaõi Trang 186

dân Quảng Ngãi ngày nay dần ñược ổn ñịnh, hình thành từng bước ý thức, tâm lý, tập quán, tính cách của mình và xác lập mố i giao lưu văn hóa ở khu vực phía Nam trong sự phát triển chung của dân tộc.

Quá trình khai phá và phát triển vùng ñất Quảng Ngãi ngày nay diễn ra trong ñiều kiện tự nhiên của ñịa phương không có ñược nhiều ưu ñãi: tài nguyên không ña dạng, phong phú, ñất ñai cũng không màu mỡ, phì nhiêu; khí hậu, thời tiết khắc nghiệt - nắng nhiều, mưa lớn, lũ lụt, hạn hán, bão, lốc, ñất lở… thường xảy ra. ðịa thế của Quảng Ngãi ñược diễn tả trong hai câu thơ lục bát súc tích, phác họa ñầy ñủ một bức tranh ñặc tả về vùng ñất:

"Núi bên kia, biển bên này,

Ép cong rẻo ñất teo gầy miền quê"

Núi, sông cả vùng trung du, ñồng bằng, ven biển, ao hồ xen nhau trên một ñịa bàn nhỏ, hẹp tạo nên một ñịa thế hiểm trở, một căn cứ ñịa vững chắc cho công cuộc ñấu tranh bảo vệ quê hương, Tổ quốc, giành ñộc lập dân tộc, nhưng cũng gây nhiều khó khăn cho sản xuất và phát triển kinh tế. Mặt khác, ñiều kiện tự nhiên này nếu ñược khai phá cũng tạo nhiều thuận lợi ñể xây dựng và bảo vệ ñất nước. Các căn cứ Tuyền Tung, Vĩnh Tuy, Ba Tơ, Trà Bồng trong sự nghiệp giữ nước và Dung Quất (vốn tên là Vũng Quýt) ngày nay là những dẫn chứng về ñ iều nêu trên.

Quảng Ngãi không giàu tài nguyên thiên nhiên. Một ít quặng sắt, than chì, cao lanh, vàng - với trữ lượng thấp, chất lượng không cao. Rừng có gỗ quý, nhưng còn ít, quế cũng không nhiều. Nước khoáng Thạch Bích có trữ lượng lớn, chất lượng tốt ñang ñược khai thác có hiệu quả, giữ ñược "thương hiệu" trên thị trường trong nước. Sông, biển có nhiều loại cá quý, như cá thu, cá ngừ, cá liệt, cá hố, cá khoai… ở biển ðông, cá bống Sông Trà, cá thài bai Tịnh Long, song phải bảo vệ mới khai thác ñược lâu bền.

Nhìn chung, ñiều kiện tự nhiên như vậy không có nhiều thuận lợi cho sự phát triển một nền kinh tế toàn diện, ñặc biệt là công nghiệp; ngoài nông nghiệp là chủ yếu. Ngay trong nông nghiệp, người nông dân cũng phải cày sâu cuốc bẫm, có sức sáng tạo mạnh mẽ mới có thể bắt tự nhiên ñáp ứng những nhu cầu cần thiết. ðiều này chứng tỏ ñiều kiện tự nhiên có ảnh hưởng lớn ñến cuộc sống con người, song không phải là nhân tố quyết ñịnh sự phát triển của xã hộ i. Sức lao ñộng sáng tạo của con người mới là yếu tố quan trọng nhất ñối với tiến trình lịch sử.

Con người Quảng Ngãi ñược tôi luyện trong ñiều kiện tự nhiên và xã hội của quê hương, kế thừa những truyền thống tốt ñẹp của dân tộc ñã hình thành những ñặc trưng, nổi bật là tính "hay co". Có thể hiểu chữ "co" ở ñây không phải là "an phận thủ thường", "thu mình lại" mà là "co cượng", "cứng ñầu" trước cường quyền, bạo lực, trước muôn vàn thử thách của thiên tai, ñịch họa. Muốn hiểu rõ tính "hay co" của người dân Quảng Ngãi, phải ñặt họ trong những ñ iều kiện tự nhiên và xã hội của ñất nước và ñịa phương. Bởi vì, ở con người ngoài yếu tố sinh

Page 187: Các Huyện - Thành phố

Ñòa chí Quaûng Ngaõi Trang 187

học - "con" - còn có yếu tố xã hội - "người"-, ñược hình thành và phát triển trong lao ñộng sáng tạo thích hợp với những ñiều kiện tự nhiên khách quan. Con người còn là sản phẩm của ñiều kiện lịch sử - xã hội nhất ñịnh.

Quảng Ngãi là vùng ñất có cư dân sinh sống lâu ñời, còn ñể lại nhiều dấu tích của các nền văn hóa xưa tại các di tích Gò Trá (xã Tịnh Thọ, huyện Sơn Tịnh), Gò Vàng (xã Sơn Kỳ, huyện Sơn Hà), thuộc thời ñại ñồ ñá cũ; Long Thạnh (xã Phổ Thnh, huyện ðức Phổ), Bình Châu (huyện Bình Sơn) thuộc thời kỳ ñồng thau và Sa Huỳnh thuộc thời kỳ sắt sớm. Văn hóa Sa Huỳnh ñã phát triển khá rực rỡ, trải dài trên một vùng rộng lớn từ Quảng Bình ñến Bình Thuận, bao gồm cả Tây Nguyên và các ñảo xa xôi thuộc khu vực biển ðông ở ðông Nam Á. Trong ñịa bàn rộng lớn của Văn hóa Sa Huỳnh, Quảng Ngãi ñược xem là cái nôi, trung tâm của nền văn hóa này. Vị trí của Quảng Ngãi trong nền Văn hóa Sa Huỳnh không phải vì nơi ñây ñã phát hiện ñược di vật ñầu tiên mà là ở số lượng hiện vật, tiêu biểu cho một nền văn hóa ven biển miền Trung phát triển ở trình ñộ cao, có mối quan hệ với các nền văn hóa khác trên lãnh thổ Việt Nam ngày nay, ñặc biệt nền Văn hóa ðông Sơn ở phía Bắc và các nền văn hóa ở ðông Nam Bộ.

Việc tiếp tục ñi sâu nghiên cứu nền Văn hóa Sa Huỳnh từ giai ñoạn sớm (Tiền Sa Huỳnh) có niên ñại 4000 - 3000 năm cách ngày nay, giai ñoạn muộn vào giữa thiên niên kỷ thứ I trước Công nguyên chắc sẽ thêm nhiều tài liệu khoa học làm sáng tỏ hơn nguồn gốc và sinh hoạt của chủ nhân Văn hóa Sa Huỳnh ở Quảng Ngãi, các tỉnh lân cận, cũng như mố i liên hệ với các khu vực trong và ngoài nước. Những tài liệu này sẽ là một cơ sở khoa học ñể xây dựng sự ñoàn kết dân tộc và khu vực ngày nay thêm vững chắc.

Về thời kỳ cổ sử, tuy chưa ñủ tài liệu ñể khôi phục ñầy ñủ, chính xác bức tranh xã hộ i, chính trị của thời kỳ này, song cũng có thể nhận thấy mố i quan hệ giữa các cư dân từ phía nam ñèo Ngang (Quảng Bình) ñến bờ bắc sông ðồng Nai (Bình Thuận) với nhân dân Văn Lang - Âu Lạc, rồi ðại Việt ở phần bắc Tổ quốc Việt Nam ngày nay. Mối quan hệ ấy, ngày một mở rộng và chặt chẽ trên các lĩnh vực giao lưu kinh tế, văn hóa, ñặc biệt trong việc nhân dân các miền sát cánh nhau ñể ñấu tranh chống sự xâm lược và ñô hộ của các triều ñại phong kiến Trung Quốc, cũng như các thế lực từ biển ðông, từ phía Tây, từ phía Nam kéo ñến.

Từ cuối thế kỉ II sau Công nguyên, khi ñất Giao Chỉ ở phía Bắc nằm dưới sự thống trị của phong kiến Trung Quốc và nhân dân liên tục nổi dậy chống ách ñô hộ Bắc thuộc thì Quảng Ngãi ñang nằm gần miền giữa của nước Lâm Ấp (năm 192). ðến thế kỉ XV, vùng ñất Quảng Ngãi, lúc bấy giờ có tên gọ i theo âm Hán - Việt là Cổ Luỹ ðộng, thuộc châu Amaravati - một trong 5 tiểu quốc của Vương quốc Chămpa. Tuy vậy, trong khi nhiều tỉnh khác ở Nam Trung Bộ, như Quảng Nam, Bình ðịnh, Phú Yên, Khánh Hòa, Ninh Thuận, Bình Thuận, di tích văn hóa lịch sử Chămpa còn khá nguyên vẹn, ñược giữ gìn, tôn tạo, ñược công nhận là Di sản văn hóa thế giới như Thánh ñịa Mỹ Sơn, thì di tích của văn hóa Chămpa trên ñất

Page 188: Các Huyện - Thành phố

Ñòa chí Quaûng Ngaõi Trang 188

Quảng Ngãi không còn mấy, trừ thành cổ Châu Sa (xây dựng vào khoảng thế kỉ XI - XIII), các phế tích như tháp Chánh Lộ…

Trong quá trình mở rộng lãnh thổ, trở thành một quốc gia thống nhất của các dân tộc Việt Nam, Quảng Ngãi là cầu nố i giữa hai miền Bắc, Nam. ðến năm 1402, Quảng Ngãi chính thức trở thành một bộ phận của nước Việt Nam ngày nay, khi mà "hai châu Tư và Nghĩa cũng do nhà Hồ ñặt ở phía Nam hai châu Thăng và Hoa, trên ñất Cổ Luỹ của Chiêm Thành, tương ñương với Quảng Ngãi ngày nay" (3).

Vấn ñề người Việt ở phía Bắc ñi vào vùng ñất Quảng Ngãi, chung sống với cư dân bản ñịa từ bao giờ là vấn ñề còn phải tìm hiểu thêm. Làm rõ ñiều này chúng ta sẽ xác ñịnh những yếu tố Chăm và yếu tố Việt, cũng như của các tộc người bản ñịa khác ở con người Quảng Ngãi, nêu rõ những ñặc ñiểm chung của dân tộc và ñặc ñiểm riêng của cư dân Quảng Ngãi (4). Về vấn ñề này có nhiều ý kiến khác nhau. Có phải từ năm 1306, khi Hóa Châu (nay thuộc Thừa Thiên - Huế) là vùng ñất cực Nam của ðại Việt, số người Việt ở phía Bắc ñã bắt ñầu vào ñất Quảng Ngãi ngày nay sinh sống càng ñông và họ dần có mối quan hệ chặt chẽ với cư dân ñịa phương? Hoặc mãi ñến năm 1471, khi Lê Thánh Tông ñem quân vào phía Nam, lập Quảng Nam Thừa tuyên xứ, cử "Lê Ỷ ðà làm Cổ Luỹ châu Tri quân dân" (5) thì người Việt ở phía Bắc mới vào ñông ở Quảng Ngãi, cũng như Quảng Nam, Bình ðịnh ngày nay ñể cùng nhân dân ñịa phương khai thác vùng ñất này?…

Dù thời ñ iểm người Việt ñ i vào phía Nam ñịnh cư, khai phá Quảng Ngãi bắt ñầu từ lúc nào (sẽ ñược làm sáng tỏ) thì năm 1402 khi Hồ Quý Ly ñặt chân lên ñất Cổ Luỹ vẫn là cái mốc ñáng ghi nhớ; vì nó ñánh dấu bước mở ñầu của vùng ñất này chính thức trở thành một bộ phận của Tổ quốc Việt Nam ngày nay. Như ñã nói, từ thế kỷ XV - XVI trở ñi các cư dân trên vùng ñất Quảng Ngãi ngày nay ñược dần dần ổn ñịnh, bắt ñầu hòa nhập vào ðại Việt. Trên cơ sở này vào ñầu thế kỷ XVII, ñời "Lê Hoằng ðịnh năm thứ ba (1603), mới ñổi phủ Tư Nghĩa làm phủ Quảng Ngãi, ñặt các chức Tuần phủ và Khám lý, song vẫn lệ thuộc vào Quảng Nam" (6). ðến ñây, ñịa danh "Quảng Ngãi" xuất hiện (7).

Từ thời ñ iểm này trở ñ i, các cộng ñồng các dân tộc trên ñất Quảng Ngãi, cũng như ở các ñịa phương khác ñang mở rộng dần vào phương Nam, ñã chung sức xây dựng quê hương trong tiến trình phát triển của ñất nước.

Trong buổi ñầu gia nhập vào ñại gia ñình ðại Việt, nhân dân Quảng Ngãi ñã ñứng trước nạn ngoại xâm của nhà Minh (Trung Quốc). Song trong cuộc kháng chiến chống Minh, do Lê Lợi và Nguyễn Trãi lãnh ñạo, nhân dân vùng ñất này chưa có ñiều kiện sát cánh cùng ñồng bào miền Bắc chống xâm lược. Bởi vì, lúc bấy giờ quân Minh cũng chưa có lực lượng ñể mở rộng ñánh chiếm vùng ñất phía Nam ñèo Hải Vân (8), dù tướng Minh là Trương Phụ cầm ñầu ñội quân xâm lược ðại Việt ñã thề rằng: "Tôi sống ñược cũng là vì châu Hóa, có làm ma cũng là vì Hóa châu. Hóa châu mà chưa dẹp ñược, tôi còn mặt mũi nào trông thấy chúa Thượng nữa" (9). Do ñịa thế cách trở, nhân dân vùng Thăng, Hoa, Tư, Nghĩa không thể cùng nhân dân phía Bắc Hải Vân trực tiếp chiến ñấu chống quân Minh, nhưng

Page 189: Các Huyện - Thành phố

Ñòa chí Quaûng Ngaõi Trang 189

trên thực tế cũng không ñể cho quân Minh mở rộng cuộc xâm lược về phía Nam. ðiều này ít nhiều ñã góp phần vào thắng lợi của nghĩa quân Lam Sơn chống quân Minh xâm lược.

Sau khi nhà Hậu Lê ñược thành lập, việc củng cố, ổn ñịnh vùng ñất Quảng Nam, Quảng Ngãi ñược chú trọng. Năm 1471, vùng ñất từ phía Nam Thuận Hóa cho ñến ñèo Cù Mông (Bình ðịnh ngày nay) trở thành Thừa tuyên thứ 13 - Thừa tuyên Quảng Nam - của ðại Việt. Thừa tuyên Quảng Nam từ ñây phát triển trong tiến trình chung của cả nước.

Sự suy yếu của nhà Lê từ ñầu thế kỉ XVI, dẫn tới sự tranh giành quyền lực giữa các tập ñoàn phong kiến, gây ra những cuộc chiến tranh và sự chia cắt ñất nước.

Năm 1527, nhân sự suy yếu của nhà Lê và do ñã gây dựng ñược thế lực nhất ñịnh, Mạc ðăng Dung ép vua Lê (Cung Hoàng) phải nhường ngôi cho mình và lập ra nhà Mạc. Nhiều quan cũ của triều Lê ñã nổ i dậy chống Mạc, và lập một triều ñình mới ở Thanh Hóa, ñược gọi là Nam triều ñể phân biệt với Bắc triều của nhà Mạc. Cuộc chiến tranh giữa Nam triều và Bắc triều diễn ra gần một thế kỉ, thế kỉ XVI, gây nên bao cảnh tàn phá, giết chóc và chết ñói trong cả nước.

Lúc ñầu, vùng ñất Thuận Hóa, Quảng Nam nằm dưới quyền kiểm soát của nhà Mạc, nhưng năm 1539 - 1540 quân Nam triều chiếm ñược trấn lỵ Thanh Hóa, Nghệ An và mở rộng vào Nam. Nhân cơ hộ i này, năm 1545, Bùi Tá Hán lấy ñược ñất Quảng Nam từ tay nhà Mạc, ñược phong Bắc quân ðô ñốc phủ Chưởng phủ sự, trấn nhậm Thừa tuyên Quảng Nam, ñóng lỵ sở tại Quảng Ngãi (10). Năm 1546, nhà Lê hoàn toàn làm chủ vùng ñất từ Thanh Hóa trở vào Nam. Năm 1592, quân Nam triều ñánh chiếm Thăng Long. Cuộc chiến tranh kết thúc. Nhà Mạc ñổ. Tình hình Nam, Bắc triều chấm dứt. Nhà Lê ñược trung hưng. Từ ñây lại nảy sinh những mâu thuẫn mới trong các tập ñoàn phong kiến Trịnh, Nguyễn, dẫn tới cuộc cát cứ ở hai miền - ðàng Ngoài và ðàng Trong.

ðể tránh bị Trịnh Kiểm ám hại, năm 1558, Nguyễn Hoàng xin vào trấn ñất Thuận Hóa ñể lấy "Hoành sơn nhất ñái, vạn ñại dung thân". Năm 1570, Nguyễn Hoàng ñược cử kiêm Trấn thủ Quảng Nam. Từ ñây, họ Nguyễn ñã thực hiện lời trăn trối của Chúa Tiên Nguyễn Hoàng: "ðất Thuận Quảng phía Bắc có Hoành Sơn và Linh Quang, phía Nam có ñèo Hải Vân và Thạch Bi, ñịa thế hiểm trở, thật là một nơi ñể cho người anh hùng dụng võ. Nếu biết dạy bảo nhân dân, luyện tập binh sĩ kháng cự lại họ Trịnh thì gây dựng ñược cơ nghiệp muôn ñời" (11).

Cuộc chiến tranh Trịnh, Nguyễn diễn ra, gây nhiều tai họa cho nhân dân. Chiến tranh chấm dứt, không phân thắng bại, hai họ Trịnh, Nguyễn ngưng chiến, lấy sông Gianh làm ranh giới, một lần nữa chia cắt ñất nước thành hai miền: ðàng Trong và ðàng Ngoài.

Trong hơn 200 năm, từ lúc Nguyễn Hoàng ñược cử trấn thủ Thuận Hóa (1558) ñến khi chúa Nguyễn phải bỏ chạy khỏi Phú Xuân (Huế, 1775), lãnh thổ ðàng

Page 190: Các Huyện - Thành phố

Ñòa chí Quaûng Ngaõi Trang 190

Trong dần dần ñược mở rộng về phía Nam. Các chúa Nguyễn ra sức xây dựng ðàng Trong thành một vương quốc riêng, thoát khỏi sự lệ thuộc vào vua Lê, chúa Trịnh. Cho ñến giữa thế kỉ XVIII, chúa Nguyễn ñã làm chủ ñược một vùng ñất rộng lớn từ phía Nam dãy Hoành Sơn ñến mũi Cà Mau, vùng ñất này ñược chia thành 12 ñơn vị hành chính; ñó là các dinh. Mỗi dinh lại chia ra các phủ. Quảng Ngãi là một phủ, thuộc dinh Quảng Nam (gồm 3 phủ Thăng Hoa, Quảng Ngãi, Quy Nhơn).

Chúa Nguyễn thi hành một chính sách cai trị tương ñối rộng rãi: thuế nhẹ ñể "vỗ yên muôn dân", thúc ñẩy nông nghiệp, thủ công nghiệp nhanh chóng phát triển… Tuy nhiên, chế ñộ phong kiến vẫn ñè nặng lên nhân dân lao ñộng với việc quan lại tự tiện nhũng lạm trong việc thu thuế, bắt sưu dịch, kiếm bổng lộc. Năm 1771, Tuần phủ Quảng Ngãi là Nghi Biểu Hầu Nguyễn Cư Trinh, ñã nhận xét tình hình của ñịa phương mình trấn nhậm, cũng là tình hình chung của ðàng Trong. Ông chỉ rõ: "Phủ huyện là chức trị dân mà gần ñây không giao trách nhiệm làm việc, chỉ cho khám hỏi kiện tụng…

Từ trước ñến nay, phủ huyện chỉ trông vào sự bắt bớ, tra hỏ i và kiếm lộc, khiến của dân càng hao, tục dân càng bạc". Theo ông, "dân nên cho tĩnh, không nên làm cho ñộng… Nay sai người ñi săn bắn ở núi rừng tìm ngà, ñòi ngựa. Bọn ấy không theo ñược ý tốt của bề trên mà quấy rối dân ñịa phương… mọ i thứ sinh tệ cho nhân dân là nuôi lính, nuôi voi và nộp tiền án" (12). ðây là ba gánh nặng ñối với nhân dân, gây nên sự bất bình. ðề nghị của Nguyễn Cư Trinh không ñược chúa Nguyễn chấp nhận, dân tình ở Quảng Ngãi cũng như ở ðàng Trong tiếp tục khốn khổ.

Mâu thuẫn xã hội ngày một gay gắt ở ðàng Trong cũng như ở ðàng Ngoài. Phong trào ñấu tranh của nhân dân Quảng Ngãi hòa chung vào cuộc ñấu tranh của nông dân chống phong kiến, ñịa chủ liên tiếp nổ ra trong cả nước. Sử cũ còn ghi lại một số cuộc nổi dậy của nhân dân Quảng Ngãi. Năm 1695, nông dân Quảng Ngãi vùng lên ñấu tranh mạnh mẽ, do một người tên là Linh chỉ huy. Tiếp ñó, vào thế kỉ XVIII, cuộc nổi dậy của người Chăm Rê ở miền Tây Quảng Ngãi cũng khá dữ dội làm cho chúa Nguyễn lo sợ (13).

ðỉnh cao của phong trào nông dân ðàng Trong, cũng như của cả nước, là cuộc khởi nghĩa nông dân Tây Sơn, nổ ra ở Bình ðịnh vào năm 1771, rồi nhanh chóng lan ra và thắng lợi ở Quảng Ngãi, ñặc biệt ñồng bào dân tộc vùng Thạch Bích (ðá Vách) ñã ñóng góp nhiều công sức. Trong số ðô ñốc của Tây Sơn có Trần Quang Diệu, Trương ðăng ðồ và Nguyễn Tăng Long người gốc Quảng Ngãi (14).

Trong thời các vua Nguyễn, vào nửa ñầu thế kỉ XIX, cũng như trong cả nước, tình trạng hạn hán, lụt lộ i… ở Quảng Ngãi thường xảy ra, dẫn tới mất mùa liên tiếp, ñói kém, bệnh tật, nặng nhất là nạn ñói năm 1814. Vì vậy, cùng ñồng bào cả nước, nhân dân Quảng Ngãi ñã vùng lên ñấu tranh mạnh mẽ, ñặc biệt là các dân tộc ít người ở miền Tây, như người Cor, người Hrê mà giới ñịa chủ phong kiến gọ i họ một cách miệt thị là "mọ i ðá Vách". Cuộc ñấu tranh khiến cho triều ñình nhà

Page 191: Các Huyện - Thành phố

Ñòa chí Quaûng Ngaõi Trang 191

Nguyễn phải khiếp sợ. Tâm trạng này ñược Tuần phủ Quảng Ngãi Nguyễn Cư Trinh mô tả trong "Truyện Sãi vãi":

"Những sợ nhiều quân ðá Vách…

Tưởng ñâu lạc phách, nhớ ñến kinh hồn" (15).

Cuộc ñấu tranh của nhân dân Quảng Ngãi từ nửa sau thế kỉ XIX là một bộ phận khăng khít trong các phong trào ñấu tranh chung của nhân dân cả nước, nhằm bảo vệ quê hương, giải phóng dân tộc khi thực dân Pháp xâm chiếm và ñô hộ Quảng Ngãi cũng như cả nước.

Trong cuộc ñấu tranh chống thực dân Pháp xâm lược nước ta, kể từ khi chúng nổ súng ở ðà Nẵng (1.9.1858), người dân Quảng Ngãi sớm có mặt trên trận tuyến. Ngay khi thực dân Pháp tấn công Gia ðịnh, Hộ ñốc thành Võ Duy Ninh, người Quảng Ngãi, ñã chiến ñấu, bị trọng thương và khi biết thành ñã mất ông rút gươm tự vẫn vào ngày 12.2.1859 (16)… Trương ðịnh quê làng Tư Cung (nay thuộc xã Tịnh Khê, huyện Sơn Tịnh) theo cha là Trương Cầm vào lập nghiệp ở Tân An (thuộc Long An ngày nay), là một trong những nhà yêu nước ñầu tiên ở Gia ðịnh cùng nhân dân nổ i lên khởi nghĩa chống Pháp xâm lược. Trương ðịnh ñược nhân dân Nam Kỳ lục tỉnh tôn vinh "Bình Tây ðại nguyên soái". Ông ñã chỉ huy hàng vạn nghĩa quân chống Pháp mấy năm liền. Ông ñã hy sinh giữa trận tiền như một anh hùng dân tộc. Con ông là Trương Quyền ñã nối nghiệp cha chống Pháp, phối hợp chiến ñấu với nghĩa quân Cămpuchia, do Pôkumpô (Pokumpo) lãnh ñạo, góp phần ñặt cơ sở cho liên minh chiến ñấu của hai dân tộc Việt Nam - Cămpuchia (17).

Trong phong trào Cần vương, mà thực chất là cuộc ñấu tranh giải phóng dân tộc của nhân dân ta, cuộc khởi nghĩa của Lê Trung ðình và phong trào Cần vương Quảng Ngãi "ñã ñóng vai trò châm ngòi khởi ñộng ñầu tiên cho cả chuỗi dài các cuộc khởi nghĩa ở các tỉnh cùng lúc bùng nổ làm cho kẻ thù và tay sai hốt hoảng, lo sợ" (18).

Thế kỉ XIX kết thúc cũng là sự chấm dứt của phong trào Cần vương trong cả nước, cũng như ở Quảng Ngãi và chuyển sang giai ñoạn mới trong cuộc ñấu tranh giải phóng dân tộc của nhân dân Việt Nam.

Thế kỉ XX mở ñầu với những cuộc ñấu tranh chống Pháp theo con ñường cứu nước mới - con ñường dân chủ tư sản - của những sĩ phu yêu nước, tiến bộ, tiếp thu tư tưởng tư sản thông qua tân thư, tân văn từ Trung Quốc sang. Những tư tưởng mới nhanh chóng ñ i vào nhân dân, làm cho phong trào ñấu tranh của nhân dân vượt quá tầm suy nghĩ, hành ñộng của sĩ phu yêu nước. ðiều này ñược thể hiện rõ nét trong các phong trào ðông du, Duy tân, phong trào khất thuế, cuộc khởi nghĩa của binh lính năm 1916, cũng như nhiều cuộc ñấu tranh vũ trang bền bỉ, anh dũng của nhân dân miền Tây Quảng Ngãi.

Page 192: Các Huyện - Thành phố

Ñòa chí Quaûng Ngaõi Trang 192

Phong trào ñấu tranh yêu nước của nhân dân Quảng Ngãi không những vượt quá "mức" ñề ra của những nhà lãnh ñạo lúc bấy giờ mà còn là một cơ sở rất quan trọng ñể tiếp nhận chủ nghĩa Mác - Lênin, tiến tới thành lập ðảng bộ ðảng Cộng sản Việt Nam ở Quảng Ngãi. Tư tưởng sáng tạo của Nguyễn Ái Quốc trong việc thành lập ðảng của giai cấp công nhân trên cơ sở kết hợp chặt chẽ phong trào yêu nước, phong trào công nhân và sự truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin ñược thể hiện rõ nét ở Quảng Ngãi. Do chính sách khai thác thuộc ñịa của thực dân Pháp, ở Quảng Ngãi cơ sở công nghiệp chẳng có gì, ngoài hãng rượu SICA ở Quán Cơm, một số công nhân làm việc ở nhà máy ñèn… Vì vậy, cũng không thể bùng nổ cuộc ñấu tranh mạnh mẽ của phong trào công nhân trong tỉnh. Tuy nhiên trong phong trào chung của cả nước, cuộc ñấu tranh yêu nước của nhân dân và sự tiếp nhận, truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin của học sinh, sinh viên Quảng Ngãi học tập ở các ñô thị lớn như Huế, Hà Nội, Sài Gòn truyền về, nên tư tưởng của chủ nghĩa Mác - Lênin ñã thâm nhập ngày càng sâu rộng vào nhân dân Quảng Ngãi.

Từ việc tiếp nhận chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, rồ i sự thành lập ðảng bộ tỉnh có thể rút ra một bài học: Với lòng yêu nước nồng nàn, vững tin vào con ñường cứu nước theo cách mạng xã hội chủ nghĩa ñược Bác Hồ lựa chọn và ðảng khẳng ñịnh, với tài trí của người dân, cùng sự lãnh ñạo của ðảng bộ và chính quyền tỉnh, sự hỗ trợ của ñồng bào cả nước, nhân dân Quảng Ngãi ñã góp phần vào sự nghiệp giải phóng dân tộc, nhất ñịnh sẽ thành công trong công cuộc công nghiệp hóa, hiện ñại hóa quê hương.

Theo quy luật chung về sự ra ñời của ðảng Cộng sản Việt Nam và vai trò lãnh ñạo của ðảng ñối với cuộc ñấu tranh giải phóng dân tộc, việc thành lập ðảng bộ Quảng Ngãi cũng mở "bước ngoặt vĩ ñại" ñối với sự nghiệp ñấu tranh chống Pháp, giành ñộc lập tự do theo con ñường xã hội chủ nghĩa. ðảng bộ ñã khơi dậy tiềm năng yêu nước của nhân dân Quảng Ngãi, phát ñộng cuộc ñấu tranh mạnh mẽ trong cao trào cách mạng 1930 - 1931. Trong Chỉ thị ngày 18.1.1931, Thường vụ Trung ương ðảng ñã nhận ñịnh: "Ở Quảng Ngãi tuy phong trào chưa bằng Nghệ Tĩnh nhưng nó vẫn là mạnh nhất trong phía Nam Trung Kỳ" (19).

Cao trào cách mạng 1930 - 1931 ñã ñể lại cho nhân dân và ðảng nhiều bài học, kinh nghiệm quý báu, trong ñó nổi bật là bài học về xác ñịnh vai trò lãnh ñạo của ðảng, về sự phát huy sức mạnh của nhân dân và xây dựng, củng cố khối ñoàn kết dân tộc trên cơ sở công nông liên minh. Bài học này còn nguyên giá trị trong ngày nay khi chúng ta xây dựng chủ nghĩa xã hộ i trên vùng ñất có nhiều khó khăn và trình ñộ phát triển kinh tế còn thấp.

Sau cao trào cách mạng 1930 - 1931, phong trào cách mạng yêu nước chống Pháp ở Quảng Ngãi có lúc, có nơi tạm lắng xuống, song vẫn ñược duy trì, liên tục phát triển mà ñỉnh cao là cuộc Khởi nghĩa Ba Tơ thắng lợi (11.3.1945) ñưa ñến sự thành công của Cách mạng tháng Tám 1945 ở Quảng Ngãi. Vấn ñề ñược ñặt ra ñể suy nghĩ và rút bài học cho ngày nay là "Vì sao phong trào cách mạng ở Quảng Ngãi dưới sự lãnh ñạo trực tiếp của ðảng bộ lại liên tục, sôi nổi, có phần ñi trước

Page 193: Các Huyện - Thành phố

Ñòa chí Quaûng Ngaõi Trang 193

trong việc vận dụng sáng tạo ñường lối, chủ trương của Trung ương ðảng?". Trong cao trào cách mạng 1936 - 1939, tuy không phải là vùng ñô thị lớn, song phong trào dân chủ, hình thức ñấu tranh công khai, hợp pháp vẫn diễn ra sôi nổi. Nhật ñảo chính Pháp, ngay 2 ngày sau ñó, ðảng bộ và nhân dân Quảng Ngãi ñã chớp thời cơ làm nên cuộc Khởi nghĩa Ba Tơ lịch sử ngày 11.3.1945, ðội Du kích Ba Tơ ra ñời, trở thành tiền thân của lực lượng vũ trang Liên khu V trong kháng chiến chống Pháp. Trong thời kỳ vận ñộng Cách mạng tháng Tám, nắm vững ñường lố i của ðảng, khi có thời cơ, dù chưa nhận ñược Chỉ thị Tổng khởi nghĩa, ðảng bộ vẫn quyết ñịnh khởi nghĩa và Cách mạng tháng Tám nổ ra ở Quảng Ngãi sớm nhất trong cả nước (14.8.1945). Ngay sau ñó, ñội quân Du kích Ba Tơ và cán bộ cách mạng Quảng Ngãi ñã chi viện, hỗ trợ cho các tỉnh bạn ñấu tranh giành chính quyền và là ñịa phương có quân Nam tiến ñầu tiên (20).

ðiều quan trọng rút ra từ Cách mạng tháng Tám 1945 ở Quảng Ngãi là sức mạnh lòng yêu nước của nhân dân, sự lãnh ñạo sáng suốt, sáng tạo của ðảng bộ, vai trò của ñảng viên cộng sản, của cán bộ cách mạng trong cuộc ñấu tranh ñã ñem lại thắng lợi. Do biết ñặt quyền lợi của Tổ quốc, ðảng, nhân dân lên trên hết với khẩu hiệu "hy sinh vì Tổ quốc", "Trung thành với cách mạng" mà ðảng ñã phát ñộng ñược sức mạnh quần chúng nhân dân ñể giành thắng lợi to lớn. Bài học này còn nguyên giá trị trong cuộc kháng chiến chống Pháp, kháng chiến chống Mỹ, cứu nước và sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện ñại hóa ñể xây dựng ñất nước, quê hương theo con ñường xã hội chủ nghĩa ngày nay.

30 năm kháng chiến chống thực dân Pháp và ñế quốc Mỹ ñể giải phóng quê hương là một thời kỳ lịch sử huy hoàng, ñồng thời nhân dân Quảng Ngãi cũng như ñồng bào cả nước phải trải qua nhiều hy sinh, tổn thất. Trong thời kỳ này, nhân dân Quảng Ngãi ñã vô cùng anh dũng trong chiến ñấu, tuyệt ñối trung thành với ðảng, với cách mạng, chịu ñựng mọi khó khăn, thử thách, hy sinh và cũng ñầy sáng tạo.

Có thể nói, cuộc chiến tranh xâm lược của ñế quốc Mỹ là một cuộc chiến tranh ñầy tội ác. Ở Quảng Ngãi, lính Mỹ và chư hầu ñã gây ra biết bao ñau thương, tang tóc cho nhân dân, mà vụ thảm sát Sơn Mỹ (1968) là một tội ác, bị nhân dân tiến bộ trên thế giới lên án. ðây là tội ác, sánh bằng tội ác của phát xít ðức ở trại tập trung Bukhenvan (Buchenwald), vụ thảm sát Liñ ixe (Lidice) ở Tiệp Khắc, vụ ném bom nguyên tử ở Nhật Bản. ðồng thời trong ñau thương, khí thế quật cường của nhân dân Quảng Ngãi vùng dậy mạnh mẽ hơn bao giờ hết, làm nên các chiến thắng Ba Gia, Vạn Tường…

Sau ngày ñất nước thống nhất, nhân dân Quảng Ngãi bắt tay vào xây dựng chủ nghĩa xã hộ i.

Cũng như ñồng bào cả nước, nhân dân Quảng Ngãi không chỉ có truyền thống ñánh giặc giữ nước mà còn có truyền thống lao ñộng cần cù, sáng tạo. Với ñiều kiện tự nhiên không mấy thuận lợi cho sản xuất, chủ yếu là nông nghiệp, nông dân Quảng Ngãi phải lao ñộng cật lực ñể làm ra hạt lúa, củ khoai. Song cũng từ lao ñộng nhọc nhằn ấy ñã nảy sinh bao nhiêu sáng tạo trong nông nghiệp, thuỷ lợi, thủ

Page 194: Các Huyện - Thành phố

Ñòa chí Quaûng Ngaõi Trang 194

công nghiệp, chăn nuôi gia cầm, gia súc, nuôi trồng, ñánh bắt thuỷ sản. Nổi bật là nghề gốm, nấu ñường, làm bánh kẹo và xe nước. Xe nước là một công trình thuỷ nông tuyệt vời - kết quả của trí thông minh, sáng tạo của người dân Quảng Ngãi. Trên ñất nước ta, cũng như ở nhiều nước trong khu vực và ở nhiều châu lục, việc dùng sức nước ñể tưới tiêu, phục vụ sản xuất, cuộc sống khá phổ biến. Song có lẽ quy mô của một bờ xe nước với trên, dưới chục bánh thật hiếm nơi nào sánh kịp Quảng Ngãi. Có thể nói ñây là biểu tượng ñẹp ñẽ của "nền văn hóa bờ xe nước" ñộc ñáo của Quảng Ngãi. Trong tiến bộ, phát triển của khoa học - kỹ thuật nói chung, về thuỷ lợi nói riêng trong ngày nay, bờ xe nước dọc sông Trà Khúc, sông Vệ có lẽ không nên bị loại bỏ hoàn toàn khỏ i cuộc sống. Mong rằng ở dọc sông Trà Khúc, gần thành phố Quảng Ngãi có cách nào dựng lại một bờ xe nước ñể tạo nên cảnh quan thiên nhiên ñẹp ñẽ của vùng núi Ấn, sông Trà, hấp dẫn khách du lịch và cũng là "ñồ dùng trực quan" sinh ñộng ñể giáo dục các thế hệ mai sau về tinh thần lao ñộng cần cù, sáng tạo của tổ tiên.

Tài nghệ của người dân Quảng Ngãi trong lao ñộng sản xuất thể hiện rõ trong các nghề làm gốm, nổi tiếng với các sản phẩm vại, chum, muỗng ñường, nồi, niêu, trách, trả và ñặc biệt nghề nấu ñường, làm kẹo. Vào thế kỷ XVI - XVII, cùng với ðàng Ngoài, sản phẩm các nghề thủ công ở ðàng Trong không chỉ lưu hành rộng rãi trong khu vực mà một phần ñược bán ra nước ngoài. Quảng Ngãi ñã ñóng góp cho việc xuất khẩu ñường: "ðường mía gồm các loại ñường cát, ñường phèn, ñường phổi, là sản phẩm nổi tiếng của ðàng Trong. Số lượng ñường bán ra nước ngoài hằng năm lên ñến hàng vạn tạ" (21).

Truyền thống và tài nghệ của người dân Quảng Ngãi ñược kế thừa và phát triển trong các ñời sau và cả trong ngày nay; sản phẩm của nhiều ngành nghề thủ công trở thành những ñặc sản của Quảng Ngãi ñược sử dụng phổ biến trong cả nước, như kẹo gương, mạch nha, ñường phèn, ñường phổ i, thịt bò khô, cá bống sông Trà… Tinh thần yêu nước, sáng tạo, tài nghệ của người dân Quảng Ngãi trong lao ñộng sản xuất ñang ñược thể hiện trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội, tiêu biểu là công trình thuỷ nông Thạch Nham, Khu Kinh tế Dung Quất…

Văn hóa vật thể và phi vật thể của người dân Quảng Ngãi ñược thể hiện trong sinh hoạt lễ hội, văn học dân gian và văn học bác học, nghệ thuật… Các lễ hộ i bắt nguồn từ lòng tôn thờ những người có công trong công cuộc xây dựng bảo vệ quê hương, ñất nước, trong lao ñộng cực nhọc song hứng thú và ñầy sáng tạo. Những câu hò, như hò giã gạo, hò nện nền nhà… thể hiện và làm tăng thêm tinh thần thương yêu, giúp ñỡ nhau trong cuộc sống tươi vui, trong lao ñộng của những con người giàu tình làng nghĩa xóm. Bảo vệ và phát huy những di sản văn hóa dân tộc và ñịa phương là yêu cầu cấp thiết trong xây dựng ñất nước theo con ñường xã hội chủ nghĩa vào thời kỳ hội nhập quốc tế và khu vực của nhân dân ta. Vì vậy, cần báo ñộng tình trạng các di tích lịch sử bị huỷ hoại vì con người và thiên nhiên và những di sản văn học, nghệ thuật dân gian của các dân tộc trong tình trạng bị lãng quên và mất dần.

Page 195: Các Huyện - Thành phố

Ñòa chí Quaûng Ngaõi Trang 195

Trong "Bình Ngô ñại cáo", Nguyễn Trãi ñã khẳng ñịnh:

"Như nước ðại Việt ta từ trước,

Vốn xưng nền văn hiến ñã lâu" (22).

Một nước có văn hiến là một nước có nền giáo dục (dân gian và nhà trường) phát triển. Quảng Ngãi cũng là vùng ñất có văn hiến trong quốc gia Việt Nam có văn hiến, với nền giáo dục khá phát triển. Một vùng ñất nghèo, con người phải lao ñộng vất vả ñể sống, song tinh thần, ý chí học tập, truyền thống hiếu học, tôn sư trọng ñạo thì ngày một toả sáng. Truyền thống hiếu học, tôn sư trọng ñạo này ñược thể hiện ở việc lập Văn Thánh và tổ chức lễ tế hàng năm (ðình Văn Thánh về sau cũng là một di tích lịch sử - văn hóa của tỉnh).

Giáo dục nhà trường theo Nho học ra ñời ở Quảng Ngãi từ nửa sau thế kỉ XV, khi ñã chính thức gia nhập vào gia ñình ðại Việt, song chưa có thành tựu gì ñáng kể. Trong mấy thế kỉ thời chúa Nguyễn ở ðàng Trong, giáo dục, thi cử, cũng ñược tổ chức, tuy chưa có quy củ, nền nếp như ðàng Ngoài và các kỳ thi Chính ñồ, Hoa văn cũng có người Quảng Ngãi ñỗ ñạt. Từ ñầu thế kỉ XIX, dưới thời vua Nguyễn, giáo dục và thi cử ñược tổ chức khá tốt, trên cơ sở kế thừa thành tựu của các triều ñại trước; số người ñ i học, ñi thi ñược ghi tên trên bảng vàng trong các kỳ thi Hương, thi Hội, thi ðình ngày một nhiều. Trong thời Pháp thuộc, các sĩ phu yêu nước Quảng Ngãi ñã nhanh chóng theo con ñường Duy tân, tích cực tham gia cuộc ñấu tranh chống Pháp theo con ñường tư sản dân chủ. Không ít sĩ phu yêu nước này ñã chuyển sang con ñường cách mạng vô sản, tiếp nhận, ủng hộ, phổ biến chủ nghĩa Mác - Lênin, trở thành ñảng viên cộng sản như Nguyễn Công Phương…

Từ những năm 20 của thế kỉ XX, khi Tây học ñã chiếm ñịa vị ñộc tôn ở Quảng Ngãi cũng như cả nước, trong tầng lớp học sinh, sinh viên tân học ở Quảng Ngãi có nhiều người nhanh chóng chuyển sang con ñường cứu nước theo cách mạng vô sản mà Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh ñã chọn cho nhân dân Việt Nam. Trương Quang Trọng, Phạm Văn ðồng, Nguyễn Thiệu là những trí thức mới ở Quảng Ngãi, ñã sớm ñứng trong hàng ngũ những người cộng sản ñầu tiên của Quảng Ngãi. Các ông ñã tham gia Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên, tham dự ðại hộ i lần thứ nhất của Hội ñầu tháng 5.1929. Nguyễn Thiệu là ñại biểu của An Nam Cộng sản ðảng tại Hộ i nghị hợp nhất các tổ chức Cộng sản và thành lập ðảng Cộng sản Việt Nam (tháng 2.1930). ðây là những ñảng viên cộng sản của thời kỳ xây dựng ðảng.

Dù bị chính quyền thực dân Pháp tìm cách hạn chế, thực hiện chính sách giáo dục ngu dân, song với tinh thần hiếu học, nhân dân Quảng Ngãi vẫn phát triển giáo dục ở tỉnh nhà. Vì vậy, chức học quan của chính quyền thực dân, nửa phong kiến ñứng ñầu ở một tỉnh nhỏ như Quảng Ngãi không phải là Kiểm học mà là ðốc học như ở các tỉnh lớn. Không ít thầy giáo trở thành chiến sĩ cách mạng, ñảng viên cộng sản.

Page 196: Các Huyện - Thành phố

Ñòa chí Quaûng Ngaõi Trang 196

Từ sau Cách mạng tháng Tám 1945, giáo dục Quảng Ngãi phát triển nhanh chóng, nhất là phong trào Bình dân học vụ. Năm 1949, Quảng Ngãi cũng là một trong những tỉnh ñầu tiên nhận ñược Giải thưởng danh dự của Chủ tịch Hồ Chí Minh về thành tích xoá xong nạn mù chữ, sau Hà Tĩnh (tháng 2.1949) (23). Về giáo dục phổ thông, trường Lê Khiết là một cơ sở góp phần ñào tạo nhân tài cho ñất nước; nhiều nhà lãnh ñạo cấp cao của ðảng, Nhà nước, cán bộ quân sự, chính trị, giáo dục, các nhà khoa học ñã trưởng thành từ ngôi trường này. Trường Trung học Bình dân mà ñồng chí Phạm Văn ðồng là Hiệu trưởng danh dự cũng cung cấp nhiều cán bộ cấp cao, phục vụ cho sự nghiệp kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ và xây dựng chủ nghĩa xã hộ i.

Từ trong lao ñộng sản xuất, ñấu tranh giành ñộc lập dân tộc và bảo vệ Tổ quốc, truyền thống yêu nước, cách mạng của nhân dân vùng ñất Cẩm Thành ñược hình thành trong truyền thống chung của dân tộc và mang những ñặc ñiểm của ñịa phương.

Vì vậy, việc tìm hiểu toàn diện về vùng ñất Quảng Ngãi thông qua ñịa chí tỉnh giúp chúng ta rút ra những kết luận cần thiết về con người Quảng Ngãi trong quá khứ và hiện tại. Bởi vì, con người là trung tâm của xã hội, vừa là mục tiêu, vừa là ñộng lực của quá trình phát triển kinh tế, xã hội.

Việc nghiên cứu sâu sắc, có hệ thống mọi mặt về ñiều kiện tự nhiên, con người và xã hộ i là một cơ sở khoa học quan trọng ñể có chiến lược, kế hoạch khai thác tài nguyên bền vững, có chính sách ñúng ñắn với con người, tạo nên sự chuyển biến mạnh mẽ trong thời ñại ngày nay, kế thừa và phát triển quá khứ. Nhân dân Quảng Ngãi cùng ñồng bào cả nước ñang ra sức thực hiện nhiệm vụ công nghiệp hóa, hiện ñại hóa trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội. ðây là bước phát triển tiếp theo của sự nghiệp cách mạng do ðảng ta lãnh ñạo. Trong cuộc ñấu tranh cho thắng lợi của chủ nghĩa xã hội ñích thực ở vùng ñất vốn nghèo khổ, việc phát huy những ñức tính, thành quả của con người ñược rèn luyện trong khó khăn gian khổ, luôn ñi ñầu trong cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân vào nhiệm vụ mới hiện nay là ñiều không thể thiếu ñược. Trong bước chuyển biến lịch sử này, bản thân con người phải có sự chuyển biến cơ bản, trên cơ sở tiếp nhận, phát triển những giá trị, truyền thống của quá khứ, phù hợp với yêu cầu hiện nay. Cho nên, nghiên cứu, tìm hiểu ñịa chí ñể hiểu rõ ñiều kiện tự nhiên mà khai thác, sử dụng hợp lý và ñể "Từ trong cái bếp lò tinh thần của cha ông, chúng ta lấy ra không phải nắm tro tàn nguộ i lạnh mà là ngọn lửa ñang bốc cháy", như một châm ngôn của phương Tây ñã khẳng ñịnh.

Nghiên cứu ñiều kiện tự nhiên xã hộ i, truyền thống yêu nước của cộng ñồng cư dân Quảng Ngãi, chúng ta tự hào với quá khứ anh hùng của vùng ñất núi Ấn sông Trà. Tại ñây ñã sản sinh biết bao sĩ phu yêu nước dám xả thân vì nghĩa lớn, biết bao công, nông, trí thức dấn bước theo ngọn cờ cộng sản, biết bao chàng trai, cô gái trở thành anh hùng ñất Việt, biết bao cán bộ trở thành tướng lĩnh quân ñội cách mạng, trở thành những nhà lãnh ñạo cấp cao của ðảng và Nhà nước của nước Việt

Page 197: Các Huyện - Thành phố

Ñòa chí Quaûng Ngaõi Trang 197

Nam mới. Từ ñó chúng ta tin tưởng vào các thế hệ người Quảng Ngãi hôm nay và mai sau nhất ñịnh sẽ kế tục xứng ñáng sự nghiệp của ông cha.

Với cách nghĩ thẳng thắn, với ý thức trách nhiệm và nguyện vọng thiết tha với quê hương, ñất nước, chúng ta có thể nói rằng, sau 30 năm giải phóng, Quảng Ngãi có những bước tiến khá rõ rệt, cuộc sống nhân dân có nhiều cải thiện về chính trị, kinh tế - xã hộ i, quốc phòng, an ninh, văn hóa. Song sự chuyển biến này chưa tương xứng với tiềm năng con người, truyền thống anh hùng và ñ iều kiện thuận lợi của quê hương, với sự quan tâm của ðảng và Nhà nước. Nguyên nhân của thực trạng này có nhiều, cần làm sáng tỏ, song việc phát huy những ñức tính tốt ñẹp của con người Quảng Ngãi xưa: những trí tuệ mẫn cảm, chủ nghĩa anh hùng cách mạng của con người Quảng Ngãi; thích ứng với môi trường tự nhiên nhưng không cam chịu mà ñấu tranh cải tạo, bắt tự nhiên phục vụ lâu dài, có hiệu quả; anh dũng chống các thế lực áp bức, ngoại xâm, giữ ñúng nguyên tắc mà sáng tạo, kiên cường và mưu trí nắm ñược thời cơ trong hành ñộng, hăng hái vươn lên hàng ñầu mà giữ ñược tính kỷ luật, ý thức tổ chức; ham học hỏi mà không lệ thuộc vào sách vở. Bên cạnh những ñức tính ấy, người Quảng Ngãi cũng có những hạn chế nhất ñịnh. Vấn ñề này cần ñược tiếp tục nghiên cứu sâu hơn. Liệu có phải giữ vững tính nguyên tắc mà dễ rơi vào bệnh hẹp hòi, ñôi khi bảo thủ, máy móc; có phải nhiệt tâm với quê hương mà còn có tính cục bộ ñịa phương; do có ý thức tổ chức kỷ luật mà ñôi khi cứng nhắc, "quá tả" dễ gây mất ñoàn kết; do ñiều kiện tự nhiên quá khắc nghiệt, do phải bỏ nhiều mồ hôi nước mắt ñể tìm cái sống nên phải quá tằn tiện, dành dụm? Ở ñây chúng ta luôn ghi nhớ lời căn dặn của cố Thủ tướng Phạm Văn ðồng ñã từng nhắc nhở "… từng bước khắc phục tính hẹp hòi, khắt khe, cố chấp mà có người tỉnh khác thường nói về Quảng Ngãi" (24).

Chúng ta cũng có thể nhận thấy rằng, hoàn cảnh lịch sử xã hộ i, tự nhiên ñã hun ñúc ở nhân dân Việt Nam nói chung, người dân Quảng Ngãi nói riêng, truyền thống tốt ñẹp và những hạn chế nhất ñịnh, dần dần ñược khắc phục. Phát huy truyền thống dân tộc, ñịa phương chúng ta phải gìn giữ phát huy mặt tích cực, ñồng thời khắc phục, xoá bỏ mặt tiêu cực. ðó là sự kế thừa và nâng cao hơn nữa truyền thống, phù hợp với yêu cầu cuộc sống ngày nay. Ở ñây, giữa truyền thống và hiện ñại, giữ gìn truyền thống mà không hoài cổ, công thần chủ nghĩa, ngăn chặn bước tiến của hiện ñại. Ngược lại, muốn có những bước tiến nhảy vọt trong hiện ñại mà coi nhẹ, phủ nhận quá khứ sẽ làm mất bản sắc dân tộc, ñịa phương, dễ rơi vào phụ thuộc kẻ khác. Một cách nghiêm túc mà xét, những sai lầm mà chúng ta có thể mắc phải là do sai lầm trong tư duy lý luận, ñưa tới hành ñộng không ñúng, ảnh hưởng bước tiến của ñất nước, ñịa phương.

Con người Quảng Ngãi với những tố chất cách mạng, lao ñộng sáng tạo, chủ nhân của nền văn hóa Sa Huỳnh, của các công trình xây dựng xe nước, kênh Sơn Tịnh, kênh Bàu Súng, công trình thuỷ lợi Thạch Nham, chủ nhân của nhiều cơ sở công nghiệp, văn hóa, giáo dục; ñã sản sinh ra những anh hùng trong sự nghiệp cứu nước, sẽ không chùn bước trong một khó khăn nào của công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ngày nay.

Page 198: Các Huyện - Thành phố

Ñòa chí Quaûng Ngaõi Trang 198

* * *

Tóm lại, việc biên soạn và sử dụng ðịa chí Quảng Ngãi có thể ñáp ứng các yêu cầu:

Thứ nhất, hiểu biết sâu sắc toàn diện về thiên nhiên, tài nguyên, xã hội, con người Quảng Ngãi ñể xây dựng và bảo vệ quê hương Tổ quốc, ñặc biệt chăm lo giáo dục, sử dụng con người. ðây là việc quán triệt tư tưởng Hồ Chí Minh về con người và chính sách ñối với con người, nhằm thực hiện mục tiêu mà Người ñặt ra là "giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội, giải phóng con người". Nếu thực hiện tư tưởng Hồ Chí Minh và quan ñiểm của ðảng về quyền làm chủ của dân, mọi công việc ñều hướng vào mục tiêu "của dân, do dân và vì dân" thì năng lực của người dân mới ñược khai thác; những mặt tích cực sẽ ñược phát huy; những ñ iều tiêu cực sẽ ñược khắc phục, hạn chế.

Thứ hai, thực sự coi trọng việc bảo vệ di sản văn hóa dân tộc ở ñịa phương, kế thừa và phát huy truyền thống của dân tộc. Không thể yên tâm ñược khi thành cổ Châu Sa tiếp tục bị phá hoại, 12 cảnh ñẹp nổi tiếng ngày xưa bị xuống cấp, dần dần bị xoá trên bản ñồ tự nhiên Quảng Ngãi. Không thể tạo nên một cuộc sống vui tươi, lành mạnh khi mà các hình thức nghệ thuật, các lễ hội dân gian ñịa phương không ñược phục hồi ñúng hướng. Những di sản văn hóa dân gian ở ñịa phương là cơ sở tinh thần, biến thành sức mạnh vật chất trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ngày nay, như ñã phát huy trong cuộc ñấu tranh giải phóng dân tộc.

Thứ ba, cần nhanh chóng phát triển khoa học, kỹ thuật, làm cho nền kinh tế tri thức nhanh chóng ñi vào công cuộc xây dựng công nghiệp hóa, hiện ñại hóa ñất nước và ñịa phương. Khắc phục tình trạng tụt hậu, một nguy cơ trong ñời sống quốc tế ngày nay. Việc huy ñộng lực lượng trong tỉnh và ngoài tỉnh, ñặc biệt là giới trí thức, các nhà khoa học người Quảng Ngãi sẽ góp phần không nhỏ vào xây dựng, phát triển nhanh chóng kinh tế tỉnh nhà.

Thứ tư, trong công cuộc ñổi mới quê hương ñất nước, qua việc thực hiện công nghiệp hóa hiện ñại hóa vừa phải dựa vào sức mạnh trí tuệ, thế lực nhân dân, vừa phải ñem lại quyền lợi thiết thực ngày một cao cho nhân dân. Trên cơ sở như vậy, sự phát triển mới bền vững. Chúng ta cần ghi nhớ lời dạy của Bác Hồ nêu ra trong tình thế ñất nước "nghìn cân treo sợi tóc" trong những ngày ñầu Cách mạng tháng Tám: "Chúng ta giành ñược tự do, ñộc lập rồi mà dân cứ chết ñói, chết rét thì tự do, ñộc lập cũng không làm gì. Dân chỉ biết rõ giá trị của tự do, của ñộc lập khi mà dân ñược ăn no, mặc ñủ" (25).

Thực hiện ñ iều này cần có kế hoạch và quyết tâm ñấu tranh chống tệ nạn quan liêu, tham nhũng, xa rời nhân dân.

Ngày nay, chúng ta nói ñến chủ nghĩa xã hội thì phải ñào tạo, giáo dục những con người xã hội chủ nghĩa và nhân dân ñược hưởng những thành tựu của công

Page 199: Các Huyện - Thành phố

Ñòa chí Quaûng Ngaõi Trang 199

cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội. Như vậy, mới có chủ nghĩa xã hộ i ñích thực và chống lại sự tấn công mạnh mẽ, ñiên cuồng của những thế lực phản ñộng trong nước và quốc tế trên các mặt văn hóa, chính trị, tâm lý… và chiến lược "Diễn biến hòa bình".

Quần chúng nhân dân là yếu tố quyết ñịnh sự phát triển của lịch sử, song ñiều kiện kinh tế, chính trị, xã hộ i, văn hóa cũng tác ñộng mạnh mẽ ñến sự phát triển của con người qua các giai ñoạn lịch sử. Kế thừa và phát huy những truyền thống dân tộc, ñịa phương trong hiện tại là một yêu cầu quan trọng cho việc xây dựng ñất nước hôm nay và ngày mai. Việc phát huy những truyền thống dân tộc và ñịa phương của con người Quảng Ngãi phải ñáp ứng những nhận thức mà ðảng ñã nêu về các thuận lợi, thời cơ, khó khăn và thách thức ngày nay…

Qua ðịa chí Quảng Ngãi, nhân dân Quảng Ngãi thêm tự hào với quá khứ, nhận thức rõ hơn trách nhiệm với hiện tại và tin tưởng vào tương lai, hăng say trong công cuộc xây dựng quê hương ñất nước là yêu cầu phải ñạt ñược. Mong muốn của lãnh ñạo tỉnh, các cơ quan chức năng có liên quan và các tác giả ñịa chí sẽ trở thành hiện thực trong cuộc sống.

GS.TS. NGND PHAN NGỌC LIÊN

(1) C. Mác và Ăngghen: Toàn tập, tập XX, tr. 125, tiếng Nga.

(2) Phan Bội Châu: Người nước ta với sử ta (1934) trong Văn thơ chọn lọc, Nxb Văn học, Hà Nội, 1976, tr. 392.

(3) ðào Duy Anh: ðất nước Việt Nam qua các ñời, Nxb Thuận Hoá, Huế, 1996, tr. 162.

(4), (5) Nguyễn ðăng Vũ: Phủ tập Quảng Nam ký sự, Giá trị tư liệu và một vài suy luận, tạp chí Cẩm Thành, số 42, tháng 2.2005, tr. 31 - 41.

(6) ðại Nam nhất thống chí, tập III, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 1970, tr. 352.

(7) Nghĩa ñổi thành Ngãi ñể tránh phạm huý tên của Chúa Nguyễn là Nghĩa, tức Anh Tông Hiếu Nghĩa Hoàng ñế, huý Phúc Trăn.

(8) Xem ðại Nam nhất thống chí, tập III, s ñd, phần "Quảng Ngãi".

(9) ðại Việt sử ký toàn thư, tập II, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 1985, tr. 234.

(10) Xem Quảng Ngãi - ðất nước - Con người - Văn hoá, Sở Văn hoá - Thông tin Quảng Ngãi xuất bản, 1997, tr. 48 - 49.

(11) ðại Nam thực lục tiền biên, tập I, Nxb Khoa học xã hội, 1978, tr. 44..

Page 200: Các Huyện - Thành phố

Ñòa chí Quaûng Ngaõi Trang 200

(12) ðại Nam thực lục tiền biên, tập I, sñd, tr. 213.

(13) Ủy ban Khoa học xã hội Việt Nam: Lịch sử Việt Nam, tập 1, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 1971, tr. 131 và 133.

(14) Về Nguyễn Tăng Long, các nhà nghiên cứu ñịa phương ñang tìm hiểu và mong ñợ i sự ñóng góp của các nhà sử học cả nước ñể làm rõ: Nguyễn Tăng Long có phải là ðô ñốc Long, ðô ñốc Tây Sơn vào mờ sáng ngày mùng 5 Tết Kỷ Dậu (30.1.1789) ñã chỉ huy một ñạo quân, bất ngờ bao vây ñồn Khương Thượng (ðống ða, Hà Nội) tiến vào giải phóng Thăng Long?

(15) Nguyễn Phan Quang: Phong trào nông dân Việt Nam nửa ñầu thế kỉ XIX , Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 1986, tr. 232 - 233.

(16) Xem Quảng Ngãi - ðất nước - Con người - Văn hoá, Sở Văn hoá - Thông tin Quảng Ngãi xuất bản năm 1997. Có nơi chép ngày tuẫn tiết của Võ Duy Ninh là 17 hoặc 18.2.

(17) Sñd.

(18) Kỷ yếu Hội thảo khoa học "Lê Trung ðình và phong trào Cần vương ở Quảng Ngãi" , Sở Văn hoá - Thông tin Quảng Ngãi xuất bản năm 1997, tr. 373.

(19) Văn kiện ðảng, tập 1 (1929 - 1945), Nxb Sự thật, Hà Nội, 1960, tr. 137.

(20) Về Cách mạng tháng Tám ở Quảng Ngãi cũng ñặt ra một vấn ñề mà các nhà sử học cần giải quyết: Cách mạng tháng Tám tính từ ngày bùng nổ hay khi tuyên bố thành lập chính quyền cách mạng ở tỉnh lỵ? Nếu tính từ ngày bùng nổ thì Cách mạng tháng Tám nổ ra ở Quảng Ngãi vào ngày 14.8.1945 sớm nhất trong cả nước. Trên thực tế, nhân dân Quảng Ngãi ñã giành chính quyền trong toàn tỉnh vào ngày 16.8.1945, dù ngày thành lập chính quyền cấp tỉnh là ngày 30.8.1945.

(21), (22) Ủy ban Khoa học xã hội Việt Nam: Lịch sử Việt Nam, tập 1, sñd, tr. 258

(23) Bộ Giáo dục và ðào tạo: 50 năm phát triển sự nghiệp giáo dục và ñào tạo (1945 - 1954), Nxb Giáo dục, Hà Nội, 1995, tr. 266.

(24) Trích bài phát biểu của Cố vấn Phạm Văn ðồng tại ðại hội ðảng bộ tỉnh lần thứ XIV (10.1991).

(25) Hồ Chí Minh Toàn tập, tập 4, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1996, tr. 152.

Page 201: Các Huyện - Thành phố

Ñòa chí Quaûng Ngaõi Trang 201

LLLLời cuối sách

Từ sau năm 1975, nhất là sau ngày tỉnh Quảng Ngãi ñược tái lập (1989), một

số tác phẩm về lịch sử, văn hoá của Quảng Ngãi ñược lần lượt xuất bản, ñáng chú ý là các tập sách: Lịch sử ðảng bộ tỉnh Quảng Ngãi giai ñoạn 1929 - 1945, Lịch sử ðảng bộ tỉnh Quảng Ngãi 1945 - 1975, Quảng Ngãi: ðất nước - Con người - Văn hoá, Quảng Ngãi Di Tích và Thắng cảnh, ðời sống văn hoá các dân tộc thiểu số tỉnh Quảng Ngãi... Các tập sách trên ñã phần nào ñáp ứng ñược nhu cầu ñông ñảo bạn ñọc trong việc tìm hiểu, nghiên cứu về vùng ñất và con người Quảng Ngãi.

Xuất phát từ yêu cầu thực tiễn và ñể có cơ sở nghiên cứu, giáo dục, phát huy truyền thống của quê hương Quảng Ngãi, Ủy ban nhân dân tỉnh Quảng Ngãi ñã giao cho Sở Văn hoá Thông tin (nay là Sở Văn hoá - Thể thao và Du lịch) và Sở Khoa học - Công nghệ và Môi trường (nay là Sở Khoa học - Công nghệ) xây dựng kế hoạch, ñề cương biên soạn công trình ðịa chí Quảng Ngãi, liên hệ với các cơ quan nghiên cứu, các nhà khoa học trong và ngoài tỉnh, tìm hiểu học tập kinh nghiệm biên soạn ñịa chí của các ñịa phương trong cả nước; ñồng thời, cử một số cán bộ nghiên cứu có năng lực tham dự các lớp tập huấn về biên soạn ñịa chí do Trung ương tổ chức.

Ngày 25 tháng 7 năm 2003, ñược sự thống nhất của Ban Thường vụ Tỉnh uỷ, Ủy ban nhân dân tỉnh ñã ban hành Quyết ñịnh số 1888/Qð-CTUB về việc thành lập Hội ñồng Biên soạn ðịa chí tỉnh Quảng Ngãi gồm 09 thành viên, là trí thức, cán bộ hiện ñang sống và làm việc trên ñịa bàn tỉnh. Hội ñồng Biên soạn do Tiến sĩ Nguyễn Kim Hiệu, Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh làm Chủ tịch Hội ñồng, Giáo sư Phan Ngọc Liên và Phó Giáo sư Trần Nghĩa, hai nhà khoa học người Quảng Ngãi hiện ñang làm việc tại Hà Nội, làm cố vấn. Ủy ban nhân dân tỉnh cũng có văn bản yêu cầu các cơ quan, ñơn vị của tỉnh và các ñịa phương, tạo ñiều kiện thuận lợi ñể các thành viên Hội ñồng Biên soạn triển khai công việc nghiên cứu. Các bước triển khai công trình ñều ñược tiến hành nghiêm túc, ñúng các mục tiêu, yêu cầu ñề ra. ðến giữa năm 2005, bản dự thảo lần thứ nhất ðịa chí Quảng Ngãi hoàn thành và lấy ý kiến góp ý của các cơ quan chức năng, các nhà khoa học, các vị lão thành cách mạng, các nhà nghiên cứu trong tỉnh. Cuối năm 2005, bản dự thảo lần thứ hai ñã kịp ra mắt giới thiệu tại ðại hội ðảng bộ tỉnh Quảng Ngãi lần thứ XVII. Tiếp sau ñó, công trình trải qua 2 lần tu sửa, chỉnh biên trước khi xuất bản.

Song song với công tác ñiều tra, ñiền dã sưu tầm tư liệu nghiên cứu biên soạn và ñi ñến hoàn chỉnh bản thảo, tập thể cũng như từng thành viên của Hội ñồng Biên soạn ñã nhận ñược sự hỗ trợ, góp ý quý báu từ các cơ quan nghiên cứu, quản lý, các trung tâm lưu trữ, thư viện, các nhà khoa học, các nhà hoạt ñộng trên các lĩnh vực chính trị, kinh tế, xã hội, các cấp ủy ðảng, chính quyền, các sở, ban

Page 202: Các Huyện - Thành phố

Ñòa chí Quaûng Ngaõi Trang 202

ngành trong tỉnh, các vị lão thành cách mạng cùng nhiều bạn ñọc gần xa. Sự quan tâm giúp ñỡ ấy ñã góp phần quan trọng ñể công trình ðịa chí Quảng Ngãi hoàn thành và ra mắt bạn ñọc hôm nay. Thay mặt Hội ñồng Biên soạn, chúng tôi xin gửi ñến quý cơ quan, ñơn vị, tổ chức và các ñồng chí, các vị lời biết ơn chân thành, sâu sắc nhất.

Trong khi thu thập tài liệu, hình ảnh ñể sử dụng vào việc biên soạn xuất bản công trình ðịa chí Quảng Ngãi, Hội ñồng Biên soạn ñã ghi lại ñầy ñủ, nghiêm túc nguồn cung cấp tư liệu, danh tính tác giả, tổ chức, cá nhân lưu giữ và cung cấp tư liệu, hình ảnh... Tuy nhiên, vì nhiều lý do khác nhau, chúng tôi chưa thể thực hiện trọn vẹn việc này, nhất là ñối với các tài liệu, hình ảnh trong kháng chiến, các tác phẩm chưa rõ tên tác giả. Trong một số ít trường hợp, do tác giả ở xa hoặc không tìm ñược ñịa chỉ nên không thể xin phép trước khi sử dụng, chúng tôi mong nhận ñược sự thông cảm và lượng thứ.

ðịa chí Quảng Ngãi là một công trình khoa học lớn nhất của Quảng Ngãi ñược xuất bản từ trước ñến nay, ñề cập ñến nhiều lĩnh vực của ñời sống xã hội trên vùng ñất Quảng Ngãi trong suốt tiến trình lịch sử, nên không tránh khỏi những khiếm khuyết nhất ñịnh. Mong bạn ñọc lượng thứ về những thiếu sót trong sách./.

HOÀNG NAM CHU

Phó Chủ tịch Hội ñồng Biên soạn

Page 203: Các Huyện - Thành phố

Ñòa chí Quaûng Ngaõi Trang 203

Page 204: Các Huyện - Thành phố

Ñòa chí Quaûng Ngaõi Trang 204

Page 205: Các Huyện - Thành phố

Ñòa chí Quaûng Ngaõi Trang 205

Page 206: Các Huyện - Thành phố

Ñòa chí Quaûng Ngaõi Trang 206

Page 207: Các Huyện - Thành phố

Ñòa chí Quaûng Ngaõi Trang 207

Page 208: Các Huyện - Thành phố

Ñòa chí Quaûng Ngaõi Trang 208

Page 209: Các Huyện - Thành phố

Ñòa chí Quaûng Ngaõi Trang 209

Page 210: Các Huyện - Thành phố

Ñòa chí Quaûng Ngaõi Trang 210

Page 211: Các Huyện - Thành phố

Ñòa chí Quaûng Ngaõi Trang 211

Page 212: Các Huyện - Thành phố

Ñòa chí Quaûng Ngaõi Trang 212

Page 213: Các Huyện - Thành phố

Ñòa chí Quaûng Ngaõi Trang 213

Page 214: Các Huyện - Thành phố

Ñòa chí Quaûng Ngaõi Trang 214

Page 215: Các Huyện - Thành phố

Ñòa chí Quaûng Ngaõi Trang 215

Page 216: Các Huyện - Thành phố

Ñòa chí Quaûng Ngaõi Trang 216