Upload
others
View
6
Download
0
Embed Size (px)
Citation preview
Dịch vụ Cung cấp Thông tin Trọn gói Tháng 08/2017 1/45
TRƯỜNG ĐH CÔNG NGHIỆP TP. HỒ CHÍ MINH TRUNG TÂM THÔNG TIN – THƯ VIỆN
BẢN TIN THÁNG 08/2017
A.THÔNG TIN THÀNH TỰU
Lồng phân tử khổng lồ có khả năng
chuyển đổi năng lượng và phân phối
thuốc
Trung Quốc lai tạo thành công gạo tím
phục vụ việc chữa bệnh ung thư
Chẩn đoán sớm ung thư tuyến tụy sớm
nhờ xét nghiệm máu
Các nhà khoa học phát hiện ra phương
pháp mới tạo ra kháng sinh
Băng vết thương công nghệ cao phát
sáng khi cần được thay
Phát hiện cơ chế tiêu diệt virut mới dẫn
tới các liệu pháp trong tương lai
Phần Lan: Sản xuất thành công protein
bằng điện và carbon dioxide
Phát minh chất xúc tác để tách nước
thành năng lượng sạch
Kỹ thuật quang âm mới có thể phát hiện
chất khí có nồng độ cực kỳ thấp
Máy ảnh nhỏ có thể gắn trên quần áo
Sản xuất thành công nhiên liệu sinh học
rẻ nhất thế giới
Công nghệ sản xuất nhiên liệu sinh học
mới có thể giảm đáng kể
thời gian sản xuất
Độc đáo chế tạo vệ tinh viễn thám bằng
vỏ lon nước ngọt
Công ty E Balance phát triển đèn LED
có kèm đèn gắn thuốc diệt
các loài côn trùng gây hại
Cửa sổ thông minh tự làm mờ sử dụng
năng lượng mặt trời
Giấy in được 80 lần bằng mực ánh sáng
Phương pháp sản xuất tơ nhện nhân tạo
từ vật liệu hydrogel dạng sợi
Robot biến hình lách qua khe hẹp như
rắn
Robot Thụy Sĩ thoăn thoắt đan lưới thép
xây nhà
Australia phát minh vật liệu nanô siêu
mỏng nhiều ứng dụng
Thiết bị siêu mỏng, giúp người đi bộ sạc
đầy pin điện thoại
Nhật Bản phát triển thiết bị có khả năng
dò tìm vật liệu hạt nhân
B. SÁNG CHẾ NƯỚC NGOÀI ĐƯỢC CẤP BẰNG ĐỘC QUYỀN TẠI VIỆT NAM
1-0017010 Dược phẩm lỏng chứa
rupatađin fumarat và quy trình
bào chế dược phẩm
1-0017016 Vectơ vacxin và chế phẩm
chứa vectơ này dùng để tăng cường đáp
ứng miễn dịch
1-0017032 Hợp chất đối kháng thụ thể
vaniloit 1 (TRPV1) và dược phẩm
chứa hợp chất này
1-0017038 Hợp chất dị vòng, phương
pháp điều chế và dược phẩm
chứa hợp chất này
Dịch vụ Cung cấp Thông tin Trọn gói Tháng 08/2017 2/45
1-0017045 Hợp chất pyrazinooxazepin
và thuốc chứa hợp chất này
1-0017094 Muối dạng hydrat của 1-(2S)-
2-amino-4-[2,4-bis(triflometyl)-5,8-
dihydropyrido[3,4-d]pyrimidin-7(6H)-
yl]-4-oxobutyl-5,5-diflopiperidin-2-on
tartrat, quy trình điều chế và dược phẩm
chứa nó
1-0017105 Copolyme poly-N-oxit béo dị
mạch và vacxin chứa chúng
1-0017106 Hợp chất piperiđinon
carboxamit azainđan có tác dụng làm
chất đối kháng thụ thể peptit có liên quan
đến gen calcitonin (CGRP) và
dược phẩm chứa hợp chất này
1-0017110 Hợp chất oxazolidinon hai
vòng được ngưng tụ có tác dụng ức chế
protein vận chuyển este cholesterol và
dược phẩm chứa hợp chất này
1-0017108 Hợp chất ức chế virut và
dược phẩm chứa hợp chất này
1-0017113 Hợp chất 2-(anilino được thế
ở vị trí 2,4,5 )pyrimiđin và muối
của nó, dược phẩm chứa nó dùng để điều
trị bệnh ung thư
1-0017039 Dược phẩm bôi ngoài da ổn
định để điều trị bệnh vẩy nến
1-0017076 Quy trình sản xuất hạt chứa
ezetimib
1-0017033 Phương pháp sản xuất hỗn
hợp vi khuẩn axit lactic
1-0017052 Dụng cụ xịt thuốc
1-0017006 Mỹ phẩm dạng nhũ tương
nước trong dầu dùng cho da
1-0017023 Chế phẩm chứa hợp chất ức
chế tạo melanin dùng cho mỹ phẩm và
dùng ngoài da
1-0017030 Chế phẩm tẩy rửa dạng lỏng
đậm đặc
1-0017007 Quy trình làm sạch nước
1-0017095 Quy trình sản xuất nước mắm
và nước mắm thu được
1-0017089 Cơ cấu mở đồ chứa thực
phẩm dạng lỏng
1-0017090 Phương pháp khử trùng bao
bì
1-0017091 Chế phẩm dinh dưỡng dạng
lỏng có nồng độ natri cao và phương
pháp sản xuất chế phẩm này
1-0017002 Chế phẩm dùng để phòng trừ
bệnh và phương pháp phòng trừ bệnh
trên thực vật hữu ích
1-0017003 Hỗn hợp diệt cỏ chứa
tefuryltrion, chế phẩm chứa hỗn hợp này
và quy trình chống lại sự sinh trưởng của
thực vật không mong muốn
1-0017034 Chế phẩm nông hoá chứa
alkyl polypropylen glycol polyetylen
glycol và quy trình điều chế chế phẩm
này
1-0017049 Chế phẩm dinh dưỡng chứa
axit đa bất bão hoà và oligosacarit
1-0017009 Quy trình điều chế
azodicarbamit chứa silic
1-0017022 Chất hấp thụ thuỷ ngân,
phương pháp điều chế chất hấp thụ thuỷ
ngân và quy trình loại bỏ thuỷ ngân
1-0017031 Chế phẩm dầu bôi trơn
1-0017044 Polyuretan dẻo nhiệt, sản
phẩm được làm từ polyuretan này và quy
trình sản xuất chúng
1-0017103 Phương pháp sản xuất sợi
liên tục, xốp
1-0017037 Máy hút ẩm loại ngưng tụ
1-0017004 Tấm ốp trần dạng đúc
1-0017068 Quy trình sản xuất sàn nhân
tạo để chống lại sự nóng lên của trái đất
1-0017069 Lớp lát sinh thái thấm nước
và hấp thu nước
1-0017077 Thiết bị bán dẫn
1-0017086 Chế phẩm dùng để sản xuất
lốp xe máy và lốp xe máy
được làm bằng chế phẩm này
Dịch vụ Cung cấp Thông tin Trọn gói Tháng 08/2017 3/45
1-0017097 Thiết bị ép, phương pháp may và máy may bao gồm thiết bị ép này
A.THÔNG TIN THÀNH TỰU
Lồng phân tử khổng lồ có khả năng chuyển đổi năng lượng và phân phối thuốc
Một nhóm các nhà khoa học đến từ
trường Đại học Trinity Dublin và Trung tâm
nghiên cứu khoa học vật liệu AMBER tại Ai-
len đã hợp tác chế tạo thành công "lồng phân
tử" có khả năng tối đa hoá hiệu quả chuyển
đổi phân tử trong phản ứng hóa học, và trong
tương lai, nó có thể sẽ được ứng dụng trong
các thiết bị cảm biến hay một phương pháp
đưa thuốc vào cơ thể. Bên trong chiếc lồng
phân tử chứa rất nhiều phân tử khác nhau và
phần lớn trong số đó đảm nhận nhiệm vụ
hoặc chức năng cụ thể, giúp gia tăng đáng kể
diện tích bề mặt bên trong cũng như thúc đẩy
quá trình phản ứng và khả năng lưu trữ.
Diện tích bề mặt lớn bên trong cùng với
trọng lượng của lồng kết hợp với độ hòa tan
mang lại khả năng chuyển đổi năng lượng.
Bên cạnh đó, sơ đồ cấu trúc lồng rỗng bao
gồm nhiều lồng con cho phép lồng chứa được
nhiều phân tử riêng biệt nên tiềm năng ứng
dụng đối với các vật liệu "polyhedra kim loại
hữu cơ" (MOP) nhờ đó tăng lên, bởi vì điều
đó có nghĩa là vật liệu MOP có thể được chứa
bên trong để kích hoạt phản ứng trong một số
điều kiện nhất định.
Trong ứng dụng cảm biến sinh học và
phân phối thuốc, tín hiệu sinh học đóng vai
trò rất quan trọng để bắt đầu một phản ứng
hóa học. Thuốc chứa bên trong những phân tử
MOP khi được đưa vào cơ thể sẽ được phân
phối đến vị trí mục tiêu cụ thể, ở đó, một
phân tử sinh học bất kỳ sẽ kích hoạt quá trình
phóng thích của nó.
Nhóm nghiên cứu hy vọng trong tương
lai sẽ phát triển các vật liệu hữu cơ kim loại
xốp nhạy sáng để có thể ứng dụng trong lĩnh
vực năng lượng xanh cũng như sẽ chế tạo ra
dạng phân tử có khả năng sử dụng ánh sáng
mặt trời để chuyển hóa năng lượng một cách
dễ dàng - quá trình này, về cơ bản, mô phỏng
quá trình sản sinh năng lượng thông qua quá
trình quang hợp ở thực vật.
Wolfgang Schmitt - Giáo sư Hóa học tại
Đại học Trinity ở Dublin, điều tra viên của
AMBER đồng thời là người đứng đầu nghiên
cứu cho biết: "Về bản chất, chúng tôi đã chế
tạo thành công một dạng “khuôn phân tử”
hay “miếng bọt biển hữu dụng” có khả năng
chứa bên trong nhiều phân tử khác nhau. Cấu
trúc của phân tử dạng lồng mới bao gồm 36
nguyên tử đồng, chiếm và được tạo thành từ
96 phần tử riêng biệt”.
Ông cũng nhấn mạnh: "Cấu trúc dạng
lồng rỗng của phân tử là đặc điểm thu hút sự
quan tâm của nhiều nhà khoa học, tuy nhiên,
trong khi ngày càng có nhiều ứng dụng tiềm
năng ra đời cùng với sự phát triển ngày càng
phức tạp của các hệ thống và môi trường mục
tiêu thì vẫn còn tồn tại tình trạng thiếu hụt
dạng phân tử với cấu trúc lồng rỗng và diện
tích bề mặt bên trong lớn".
"MOP là một trong số các cấu trúc lồng
phân tử lớn nhất, có khả năng chứa nhiều
lồng phụ, giúp gia tăng diện tích bề mặt bên
trong. Các khoang lồng phụ với kích thước
nano có thể làm thay đổi khả năng phản ứng
cũng như tính chất của các phân tử chứa bên
trong, nhờ đó, những lồng phụ được sử dụng
nhằm mục đích thúc đẩy quá trình phản ứng
hóa học xảy ra nhanh hơn. Vì lẽ đó, chúng ta
có thể dễ dàng nhận thấy khả năng mô phỏng
nguyên lý hoạt động của các enzym sinh học
của những phân tử này”.
Dịch vụ Cung cấp Thông tin Trọn gói Tháng 08/2017 4/45
Bài báo về kết quả nghiên cứu được
công bố trên tạp chí Nature Communications.
Theo vista.gov.vn, 07/07/2017
Trở về đầu trang
**************
Phát hiện mới mở ra triển vọng chống lại bệnh lao
Theo Zee News, các nhà khoa học ở
Đại học Cornell (Mỹ) vừa có phát hiện sẽ cho
phép tạo ra các loại thuốc chống lại bệnh lao
hiệu quả.
Đây là phát hiện về cơ chế chuyển hóa
quan trọng ở vi khuẩn bệnh lao
Mycobacterium tuberculosis. Theo thống kê,
vi khuẩn bệnh lao hiện đang lây nhiễm cho
gần 1,5 tỉ người trên toàn thế giới và gây ra
hơn 1 triệu ca tử vong mỗi năm.
Được biết những vi khuẩn gây bệnh lao
cần lipid (chất béo) - cholesterol và các axit
béo để gây nhiễm. Các nhà khoa học đã phát
hiện ra các gien liên quan đến chuyển hóa
cholesterol.
Đặc biệt, các nhà khoa học đã chú ý đến
gien LucA. Protein mã hoá LucA là một
protein màng, không thể thiếu để vi khuẩn lao
hấp thụ axit béo và cholesterol. Các nghiên
cứu sâu hơn đã xác định được rằng LucA
tương tác với các tiểu đơn vị của các protein
cụ thể trong các phức hợp có tên Mce1 và
Mce4, chuyên “nhập” các axit béo và
cholesterol, thiếu LucA thì Mce1 và Mce4 bị
phân rã.
Vì vậy, nếu dùng các hợp chất kiềm chế
hoạt tính của LucA thì những người đang bị
bệnh lao có thể sớm có một phương pháp điều
trị mới và hiệu quả.
Khám phá này làm sáng tỏ cách thức vi
khuẩn lao chuyển hóa các axit béo và
cholesterol, đồng thời khẳng định LucA là
cần thiết để duy trì độc tính trong cơ thể và là
một mục tiêu thuốc mới nhằm vào vi khuẩn
lao.
Bước tiếp theo của các nhà khoa học là
tìm ra các loại thuốc ức chế gien LucA.
Họ đã công bố phát hiện của mình trên
tạp chí eLife.
Theo motthegioi.vn, 10/07/2017
Trở về đầu trang
**************
Trung Quốc lai tạo thành công gạo tím phục vụ việc chữa bệnh ung thư
(Nguồn: newatlas.com)
Các nhà khoa học Trung Quốc đã lai tạo
thành công loại gạo tím biến đổi gene giàu
chất chống oxy hóa phục vụ việc chữa trị
bệnh ung thư và các bệnh khác.
Hãng tin Tân hoa xã ngày 2/7 dẫn kết
quả nghiên cứu được công bố trên tạp chí
Molecular Plant cho biết lợi ích đối với sức
khỏe con người của loại gạo mới này là do nó
giàu hợp chất mầu hữu cơ tự nhiên
anthocyanin.
Hợp chất này nằm trong nhóm sắc tố để
tạo nên chất chống oxy hóa và nhiều màu sắc
khác nhau cho hoa mầu và cây trái.
Dịch vụ Cung cấp Thông tin Trọn gói Tháng 08/2017 5/45
Theo công trình nghiên cứu trên, việc ăn
nhiều gạo giàu hợp chất anthocyanin mang lại
rất nhiều lợi ích cho sức khoẻ của con người,
làm giảm các nguy cơ của một số căn bệnh
ung thư, tim mạch, tiểu đường và các căn
bệnh mãn tính khác.
Loại hợp chất này có ở nhiều loại hoa
quả và rau có màu tím, màu đỏ và màu xanh.
Trước đây, các nỗ lực sử dụng kỹ thuật
biến đổi gene để sản xuất hợp chất
anthocyanin trong gạo đã thất bại do quá trình
trao đổi chất diễn ra hết sức phức tạp.
Nhà nghiên cứu Yao-Guang Liu thuộc
Đại học Nông nghiệp Nam Trung Hoa và các
cộng sự lần đầu tiên xác định được các gene
có liên quan đến việc tạo thành hợp chất
anthocyanin trong các loại gạo khác nhau.
Các nhà khoa học đã phát triển cái gọi là
"hệ thống sử dụng hoán đổi gene năng suất
cao" và sử dụng 8 gene cần thiết để sản xuất
hợp chất anthocyanin trong các loại gạo, với
mong đợi tạo ra loại gạo tím giàu hợp chất
màu hữu cơ tự nhiên và hoạt tính cao chống
oxy hóa.
Nhà nghiên cứu Yao-Guang Liu nhấn
mạnh "đây là can thiệp đầu tiên của kỹ thuật
biến đổi gien trong chuỗi phản ứng phức hợp
ở thực vật." Kế hoạch của các nhà khoa học
trong tương lai là có thể sử dụng kỹ thuật trên
để sản xuất các chất dinh dưỡng quan trọng
và các tiền chất sản xuất thuốc chữa bệnh.
Hiện, các nhà nghiên cứu đang có kế
hoạch kiểm chứng độ an toàn của gạo tím
mới trong quá trình trao đổi sinh hóa ở thức
ăn và cố gắng dùng kỹ thuật biến đổi gene để
tổng hợp chất anthocyanin trong các loại cây
trồng khác như các loại ngũ cốc có màu tím.
Theo vietnamplus.vn, 03/07/2017
Trở về đầu trang
**************
Thiết bị cầm tay phát hiện tế bào ung thư trong máu
Sợi quang dẫn tỏa ánh sáng xanh làm nổi bật
các tế bào khi chúng di chuyển từ trái sang phải
Các nhà nghiên cứu ở Đại học Rovira
và Virgilio (Tây Ban Nha) và Bệnh viện HM
Torrelodones đã nộp đơn đăng ký bản quyền
sáng chế thiết bị cầm tay có thể phát hiện tế
bào ung thư trong máu.
Theo Science Daily, thiết bị phát hiện tế
bào ung thư trong máu này có thể ứng dụng
đối với nhiều loại bệnh ung thư khác nhau,
đồng thời giúp cải thiện việc chẩn đoán, theo
dõi và điều trị ung thư.
Thiết bị đếm số lượng tế bào ung thư
trong một mẫu máu ở chế độ thời gian thực.
Đây có thể là một công cụ hiệu quả để cải
thiện các khâu chẩn đoán và điều trị ung thư,
thậm chí với thiết bị này có thể không cần
đến việc sinh thiết nữa.
Thiết bị đã được thử nghiệm thành công
trên những bệnh nhân ung thư tuyến vú ở các
giai đoạn khác nhau, nó cũng có thể được sử
dụng để xác định sự hiện diện của các loại
bệnh ung thư khác bằng cách phân tích các
kháng thể khác nhau trong một mẫu máu.
Các nhà nghiên cứu từ khắp nơi trên thế
giới đang phát triển các test chẩn đoán bệnh
ung thư qua một giọt máu. Ví dụ, các nhà hóa
sinh ở Đại học Purdue (Mỹ), các nhà khoa
học ở Đại học Thanh Hoa (Trung Quốc), các
nhà nghiên cứu thuộc trường Đại học Exeter
(Anh) cũng đã đạt được những thành tựu nhất
định theo hướng này.
Theo motthegioi.vn, 19/07/2017
Trở về đầu trang
Dịch vụ Cung cấp Thông tin Trọn gói Tháng 08/2017 6/45
**************
Chẩn đoán sớm ung thư tuyến tụy sớm nhờ xét nghiệm máu
Lớp cắt biểu bì ung thư tuyến tụy
(Nguồn: eurekalert.org)
Theo kết quả nghiên cứu mới công bố
trên tạp chí khoa học Translational Medicine
(Mỹ), ung thư tuyến tụy, một trong những căn
bệnh ung thư tiến triển nhanh nhất và có tỷ lệ
tử vong cao nhất, có thể được chẩn đoán sớm
nhờ xét nghiệm máu.
Nhóm nghiên cứu đã sử dụng công nghệ
tế bào gốc để tạo ra một chuỗi tế bào từ một
bệnh nhân bị ung thư tuyến tụy giai đoạn cuối
để tái hiện lại quá trình phát triển bệnh ở bệnh
nhân. Nhờ đó, các nhà nghiên cứu đã phát
hiện ra hai "yếu tố sinh học" gồm huyết thanh
thrombospondin-2 (THBS2) và CA19-9 trong
máu của các bệnh nhân, có thể giúp phát hiện
ung thư tuyến tụy trong mọi giai đoạn phát
triển của bệnh.
Đáng chú ý, sự tập trung huyết thanh
THBS2 cùng với CA19-9 giúp phát hiện bệnh
từ giai đoạn mới chớm và đây được coi là
phương pháp hiệu quả hơn bất kỳ phương
pháp nào từng được biết đến. Bên cạnh đó,
thử máu phát hiện bệnh có thể thực hiện dựa
vào xét nghiệm protein máu thông thường và
ít tốn kém.
Hiện nay, ung thư tuyến tụy chỉ bị phát
hiện khi khối u đã quá to, thời điểm các
phương pháp điều trị hầu như không còn tác
dụng. 80% các bệnh nhân sẽ tử vong trong
vòng một năm sau khi phát hiện mắc ung thư
tuyến tụy. Tại Mỹ, căn bệnh này xếp thứ tư
trong các bệnh ung thư có tỷ lệ tử vong cao
nhất.
Theo giáo sư Robert Vonderheide - Giám
đốc Trung tâm nghiên cứu ung thư Abramson
thuộc Đại học Pennsylvani, đồng thời cũng là
đồng tác giả của nghiên cứu, từ lâu giới nghiên
cứu đã rất trăn trở khi hầu hết các ca ung thư
tuyến tụy chỉ được phát hiện khi đã vào giai
đoạn quá muộn nên cơ hội chữa trị tốt nhất đã
bị bỏ lỡ. Vì vậy việc có thể tìm ra một dấu
hiệu sinh học để phát hiện bệnh sẽ giúp thay
đổi đáng kể bức tranh toàn cảnh trong cuộc
chiến chống lại căn bệnh này.
Về cơ bản, việc thử máu để nhận biết
sớm bệnh ung thư tuyến tụy có thể được áp
dụng ngay lập tức nhưng các tác giả muốn
nghiên cứu sâu hơn để có thể "hoàn toàn chắc
chắn."
Nhóm nghiên cứu sẽ nhắm tới các đối
tượng có người nhà bị ung thư tuyến tụy,
hoặc những người có các đặc điểm di truyền
có thể mắc bệnh hay những người đột nhiên
bị tiểu đường sau độ tuổi 50.
Theo vietnamplus.vn, 13/07/2017
Trở về đầu trang
**************
Dịch vụ Cung cấp Thông tin Trọn gói Tháng 08/2017 7/45
Chiết xuất thành công phân tử có thể loại bỏ tế bào ung thư vú
(Nguồn: wikimedia.org)
Một nhóm các nhà nghiên cứu thuộc
Viện Bách khoa quốc gia Mexico (IPN) vừa
công bố chiết xuất thành công một phân tử từ
cây tía tô giới (tên khoa học: Hyptis
suaveolens) có khả năng loại bỏ tế bào ung
thư vú, đặc biệt là với các tế bào ung thư
MDA-MB-231 và MDA-MB-436.
Theo phóng viên TTXVN tại Mexico,
sau khi tiến hành cô lập nhiều phân tử chiết
xuất từ cây Tía tô giới, các nhà khoa học đã
chọn một terpene mạnh nhất (nhóm các
hydrocacbon không no hay hợp chất hữu cơ)
để thử nghiệm trên dòng tế bào ung thư MCF-
7 hoặc thụ thể estrogen dương tính (ER+), vì
khoảng 70-80% trường hợp ung thư vú đều
bắt nguồn từ hai tế bào này, cũng như trên các
tế bào MDA-MB-231 và MDA-MB-436.
Kết quả cho thấy terpene trên sở hữu đặc
tính chọn lọc, vì vậy nó tiêu diệt tế bào ung
thư mà không có di chứng và không tạo ra
thay đổi như những quan sát trong các tế bào
ung thư.
Bước nghiên cứu tiếp theo, nhóm các
nhà nghiên cứu sẽ tiến hành thử nghiệm ảnh
hưởng của terpene mới trên động vật và tiến
hành các nghiên cứu độc tính, nhằm xác nhận
tính vô hại đối với các cơ quan nội tạng cũng
như các tế bào máu.
Nhà khoa học José Rubén García
Sánchez cho biết việc phát hiện ra phân tử
trên là nhờ kinh nghiệm của người dân bản
địa ở vùng Copainala, bang Chiapas, sử dụng
các cây thuốc để chống các căn bệnh mãn tính
và ung bướu.
Các nhà khoa học đánh giá cao thành
công bước đầu của nghiên cứu. Tuy nhiên, con
đường phía trước vẫn còn dài để đưa ra một
loại dược phẩm có thể áp dụng rộng rãi bởi vì
để thu được 1 gam hợp chất cần rất nhiều công
sức và rất khó để tổng hợp hóa học.
Theo vietnamplus.vn, 18/07/2017
Trở về đầu trang
**************
Thuốc cải lão hoàn đồng mới khiến người già sung sức
Người già lên cân và lấy lại được sức mạnh
cơ bắp nhờ loại thuốc mới và luyện tập
Theo EureAlert, các nhà nghiên cứu ở
Đại học McMaster (Canada) đã phát triển
thành công một loại thuốc mới giúp chiến
thắng tuổi già và tình trạng giảm khối lượng
cơ bắp. Thành phần của loại thuốc này gồm
protein, creatine, vitamin D, canxi và dầu cá.
Các nhà khoa học đã tập hợp được 2
nhóm nam giới ở độ tuổi 70 tuổi trở lên.
Trong vòng 6 tuần, một nhóm người tình
nguyện tham gia nghiên cứu dùng các chất bổ
sung dinh dưỡng dựa trên protein chứa nhiều
thành phần, trong đó có creatine, vitamin D,
canxi và dầu cá; trong khi nhóm đối chứng
dùng giả dược. Mục đích của các nhà nghiên
cứu là đánh giá xem việc tiêu thụ hàng ngày
các chất đó liệu có giúp phục hồi sức mạnh cơ
bắp và tăng trọng lượng cơ thể hay không.
Sau 6 tuần, cả 2 nhóm tiếp tục dùng
thuốc thật và giả dược, nhưng họ đều phải
tăng cường rèn luyện thể lực. Và theo nhà
Dịch vụ Cung cấp Thông tin Trọn gói Tháng 08/2017 8/45
nghiên cứu Kirsten Bell, kết quả thật là ấn
tượng.
Trong 6 tuần đầu tiên, những người
uống loại thuốc trên đều tăng 700 g trọng
lượng cơ thể, đây chính là lượng cơ bắp mà
một người đàn ông trưởng thành bị mất trong
cả năm. Và khi kết hợp với luyện tập thể lực,
họ cảm thấy được tăng cường sức mạnh so
với những người dùng giả dược.
Được biết, các nhà khoa học hiện tại
đang quan tâm bào chế viên thuốc cải lão
hoàn đồng. Họ tin rằng lão hóa là một vấn đề
kỹ thuật có thể được giải quyết. Đầu năm nay,
Công ty PureTech đã mua bằng sáng chế 2
loại thuốc và quyền sử dụng chúng trong điều
trị các bệnh liên quan đến tuổi già. Công ty
khởi nghiệp resTORbio sẽ trực tiếp sản xuất
các loại thuốc đó.
Theo motthegioi.vn, 22/07/2017
Trở về đầu trang
**************
Các nhà khoa học phát hiện ra phương pháp mới tạo ra kháng sinh
Các nhà nghiên cứu Ung thư ở Anh đã
tiết lộ rằng họ đã phát triển được một giải
pháp để đẩy lùi kháng thuốc kháng sinh và
ngăn chặn các bệnh nhiễm trùng như
Staphylococcus aureus kháng Methicillin
(MRSA).
Các chuyên gia đã cảnh báo rằng xã hội
đang tụt hậu hàng thập kỉ trong cuộc chạy đua
chống lại siêu khuẩn đã kháng thuốc kháng
sinh xuất hiện tự nhiên, vì việc tạo ra những
loại thuốc mới đòi hỏi thời gian, tiền bạc và
kỹ năng. Tuy nhiên, một nhóm các nhà khoa
học thuộc Đại học Salford cho biết họ có thể
đã tìm ra một cách giải quyết vấn đề này với
việc phát triển một số kháng sinh mới.
Michael P Lisanti, Chủ tịch Viện Y học
tại Trung tâm Nghiên cứu Y sinh học của Anh
cho biết: "Cũng giống với Alexander Fleming,
ban đầu chúng tôi thậm chí không có ý định
tìm kháng sinh mà nghiên cứu các hợp chất
mới có thể chống lại tế bào gốc ung thư có
hiệu quả. Tôi nghĩ chúng tôi đã vô tình phát
minh ra một hệ thống để tạo ra thuốc kháng
sinh mới có giá thành rẻ và rất có thể đóng vai
trò quan trọng trong cuộc chiến chống lại siêu
vi khuẩn”.
Theo Michael P Lisanti, nhóm các nhà
khoa học chuyên sâu về các tế bào gốc ung
thư và các phương pháp ức chế sự sản sinh
năng lượng trong ty thể đã hợp tác, bởi ty thể
và vi khuẩn có rất nhiều điểm chung. “Chúng
tôi bắt đầu nghĩ rằng nếu những gì chúng tôi
tìm thấy đã ức chế được ty thể, nó cũng sẽ giết
chết vi khuẩn. Vì vậy, các thuốc chống ung
thư mới này cũng rất có thể là thuốc kháng
sinh tiềm tàng”, Michael P Lisanti nói.
Nhóm nghiên cứu đã thiết lập 45.000
hợp chất, sử dụng cấu trúc ba chiều của
ribosome ty thể. Họ đã xác định 800 phân tử
nhỏ có thể ức chế ty thể dựa trên đặc điểm cấu
trúc của chúng và sau đó giảm bớt xuống
còn10 hợp chất hứa hẹn nhất mà họ đã phát
hiện bằng cách sử dụng phương pháp sàng lọc
thuốc theo kiểu hình truyền thống.
Kết quả của họ nhấn mạnh rằng các hợp
chất tổng hợp này - không có bất kỳ kỹ thuật
hóa học bổ sung nào - đã ức chế một phổ rộng
5 loại vi khuẩn thông thường, bao gồm
Streptococcus, Pseudomonas, E. coli và
MRSA.
Theo vista.gov.vn, 20/07/2017
Trở về đầu trang
**************
Dịch vụ Cung cấp Thông tin Trọn gói Tháng 08/2017 9/45
Chất kháng sinh mới diệt được hơn chục loài vi khuẩn kháng thuốc
Các nhà khoa học tại Đại học Duke (Mỹ) tuyên bố
rằng họ đã có thể phong tỏa hoạt tính của
enzyme LpxC - Ảnh minh họa
Theo Medical Press, chất phong tỏa
hoạt tính của enzyme LpxC tác động rất hiệu
quả đến những loài vi khuẩn vốn không còn
sợ những loại kháng sinh chuẩn.
LpxC rất quan trọng cho sự hình thành
màng ngoài của vi khuẩn gram âm. Mới đây,
các nhà khoa học tại Đại học Duke (Mỹ) tuyên
bố rằng họ đã có thể phong tỏa hoạt tính của
enzyme đó. Đây là bước đầu tiên để có thể bào
chế một thế hệ thuốc kháng sinh mới.
Theo Medical Press, chất phong tỏa hoạt
tính của enzyme LpxC tác động rất hiệu quả
đến những loài vi khuẩn vốn không còn sợ
những loại kháng sinh chuẩn. Các chất ức chế
LpxC đại diện cho một thế hệ thuốc kháng
sinh mới có thể điều trị nhiều loại bệnh truyền
nhiễm do vi khuẩn gram âm. Các nhà sinh
học đã đề xuất một chiến lược điều trị các
bệnh do vi khuẩn gram âm theo hướng này từ
hơn 20 năm trước, nhưng các nhà nghiên cứu
tại thời điểm đó không thể xác định được một
hợp chất an toàn với liều lượng hiệu quả.
Chất kháng sinh mới có tên tạm thời là
LPC-069. Nó đặc biệt hữu hiệu trong việc
chống lại vi khuẩn Yersinia pestis gây ra bệnh
dịch hạch. Điều quan trọng là có thể sử dụng
LPC-069 với liều tương đối cao mà không
gây ngộ độc thuốc.
LPC-069 có ưu thế hơn hẳn hoạt chất
LPC-058 vốn rất hiệu quả trong các thử
nghiệm ở phòng thí nghiệm, nhưng các nhà
khoa học đã không thu được thành công như
vậy trong các thử nghiệm trên động vật. LPC-
058 mặc dù kiềm hãm tình trạng nhiễm trùng
nhưng lại gây ra các tác dụng phụ bao gồm
tiêu chảy, sự tích tụ của các tế bào bạch cầu ở
phổi và ruột cũng như gây tổn thương gan khi
sử dụng liều lượng cao. Ngược lại, LPC-
069 không gây tác dụng phụ nghiêm trọng khi
dùng với bất kỳ liều lượng nào.
Nói chung, LPC-069 đã chứng minh
hiệu quả trong việc chống lại hơn một chục
loài vi khuẩn gây bệnh bao gồm các loài vi
khuẩn kháng thuốc kháng sinh. Các nhà khoa
học nhấn mạnh rằng LpxC - một trong 6
enzyme quan trọng trong nhóm lipid A
(Raetz) ở vi khuẩn gram âm. Và có lý do để
tin rằng các enzyme khác của nhóm này có
thể là một mục tiêu tuyệt vời mà các nhà khoa
học nhắm tới để phát triển các loại thuốc
kháng khuẩn.
Theo motthegioi.vn, 27/07/2017
Trở về đầu trang
**************
Băng vết thương công nghệ cao phát sáng khi cần được thay
Các vết thương hở giống như một điều
nghịch lí - chúng cần phải được kiểm tra
thường xuyên, nhưng việc thay băng quá
thường xuyên chỉ làm tăng nguy cơ nhiễm
trùng. Đó là lý do mà một nhóm các nhà
nghiên cứu Thụy Sĩ đã phát triển băng vết
thương "phát sáng" mới cho phép người chăm
sóc theo dõi tiến trình chữa lành vết thương từ
bên ngoài.
Flusitex (Cảm biến huỳnh quang tích
hợp trong vải y tế) được phát triển bởi một
Dịch vụ Cung cấp Thông tin Trọn gói Tháng 08/2017 10/45
nhóm gồm các nhà khoa học Thụy Sĩ thuộc
các nhóm nghiên cứu EMPA, ETH Zurich,
Trung tâm Suisse d'Electronique et de
Microtechnique (CSEM) và Bệnh viện Đại
học Zurich.
Khi một vết thương đang lành bình
thường, pH của chất lỏng ban đầu tăng lên 8,
trước khi hạ xuống đến 5 hoặc 6. Nếu nó trở
thành mãn tính, độ pH dao động từ 7 đến 8.
Băng dán mới kết hợp các phân tử tùy chỉnh
bao gồm benzalkonium chloride và pyranine.
Các chất này phát huỳnh quang khi phơi
nhiễm với mức độ pH khoảng 7,5 - điểm giữa
của vết thương mãn tính. Để thấy được sự
huỳnh quang đó, bác sĩ chỉ cần chiếu tia cực
tím lên băng vải và họ có thể để nguyên băng
vết thương tại chỗ nếu chỉ dấu bình thường.
Ngoài ra, benzalkonium chloride trong
băng có một lợi ích phụ là tiêu diệt vi khuẩn
Staphylococcus aureus có hại.
Các tác giả hy vọng trong tương lai chỉ
dấu huỳnh quang có thể được "đọc" chỉ bằng
camera và ứng dụng trên điện thoại thông
minh, cho phép bệnh nhân theo dõi tiến trình
lành vết thương của mình ở nhà.
Empa hiện đang làm việc với một số đối
tác công nghiệp để thương mại hóa Flusitex.
Một khi có mặt trên thị trường, nó có thể đối
mặt với sự cạnh tranh từ DermaTrax, một loại
băng vết thương theo dõi độ pH để đánh giá
việc chữa lành vết thương.
Theo vista.gov.vn, 21/07/2017
Trở về đầu trang
**************
Phát hiện cơ chế tiêu diệt virut mới dẫn tới các liệu pháp trong tương lai
Một nhóm các nhà nghiên cứu thuộc
trường Đại học Purdue, Hoa Kỳ mới đây đã
phát hiện ra một số loại kháng thể có khả
năng làm bất hoạt virut gây nhiễm trùng. Bài
báo về kết quả nghiên cứu được công bố trên
tạp chí Proceedings of the National Academy
of Sciences.
Bệnh nhiễm trùng do vi khuẩn và virut
gây ra có nhiều điểm tương đồng như: có thể
gây ra các triệu chứng tương tự và thường lây
lan theo cách thức giống nhau. Tuy nhiên,
nhiễm trùng do vi khuẩn có thể được điều trị
bằng kháng sinh, trong khi thuốc kháng sinh
sẽ không phát huy hiệu quả trong điều trị
nhiễm virut. Nghiên cứu mới đã chỉ ra rằng
một số kháng thể nhất định có khả năng xâm
nhập và phá hủy bộ gen của virut, đồng nghĩa
với việc virut sẽ bị tiêu diệt.
Michael Rossmann, giáo sư chuyên
ngành Khoa học Sinh học đồng thời là người
đứng đầu nghiên cứu cho biết: "Chúng tôi vẫn
luôn nỗ lực nghiên cứu về ảnh hưởng của
virut cúm đối với vật chủ. Chính vì vậy, chúng
tôi đã nảy ra ý tưởng nghiên cứu về cách thức
virut tách bộ gen ngay khi nó nhận ra tế bào
vật chủ".
Nhóm nghiên cứu cho biết sự liên kết
giữa kháng thể trung hoà với rhinovirus - loại
virut phổ biến nhất gây chứng cảm lạnh thông
thường - gây ra những thay đổi đáng kể xung
quanh vị trí các lỗ thủng trên lớp vỏ protein
bảo vệ virut, tạo cơ hội cho phân tử ARN
thoát ra ngoài. Quá trình "giải phóng" này sẽ
ngăn chặn virut nhân bản trong tế bào vật
chủ.
TS. Liu, thành viên nhóm nghiên cứu
chia sẻ: "Thông thường, trong chu kỳ truyền
nhiễm, virut phải chuyển hệ gen của nó vào
trong tế bào chủ để từ đó thực hiện quá trình
nhân bản. Trên bề mặt tế bào có một lượng
các phân tử thụ thể có khả năng kích hoạt sự
giải phóng bộ gen của virut. Và giờ đây,
chúng tôi đã tìm ra loại kháng thể có khả
năng thực hiện cơ chế tương tự".
Dịch vụ Cung cấp Thông tin Trọn gói Tháng 08/2017 11/45
Trong thử nghiệm, các chuyên gia sử
dụng kính hiển vi điện tử cryo nhiệt độ thấp
(cryo-EM), một phương pháp hình ảnh sử
dụng để tạo dựng những hình ảnh ba chiều
với độ phân giải cực cao của các mẫu vật thể
siêu nhỏ, để minh họa quá trình này. Theo
nhóm chuyên gia, cho đến nay, những hình
ảnh về siêu cấu trúc của phức hợp virut -
kháng thể đã đạt được độ phân giải ở mức cao
nhất.
Rossmann cho biết: trong 3 năm trở lại
đây, các nhà nghiên cứu vẫn đang tìm kiếm
một cuộc cách mạng về "giải pháp độ phân
giải cao”. Việc áp dụng phát minh thiết bị
thăm dò mới trong kính hiển vi điện tử đã cho
phép các nhà nghiên cứu sử dụng kỹ thuật
cryo-EM thay vì phương pháp tinh thể học tia
X vốn đã được áp dụng rộng rãi trong nhiều
năm trước. Trong khi phải mất 1 hoặc 2 năm
để chụp được một hình ảnh ba chiều bằng
phương pháp tinh thể học tia X thì nếu sử
dụng kỹ thuật cryo-EM, thời gian chỉ rút ngắn
lại còn vài tuần.
Liu nói: "Chúng tôi đã nghiên cứu rất kỹ
chi tiết ở cấp độ nguyên tử về mức độ tương
tác của các kháng nguyên với virut thông qua
thành phần acid amin, tương tác hóa học và
cách thức thay đổi cấu trúc và tự chuẩn bị
cho việc giải phóng bộ gen của virut. Nhờ sử
dụng phương pháp xác định cấu trúc có độ
phân giải cao, chúng tôi có thể quan sát kỹ
hơn những chi tiết này".
Mặc dù mục đích của kết quả nghiên
cứu không nhằm cung cấp phương pháp điều
trị trực tiếp bệnh cảm cúm thông thường
nhưng nó cho thấy các nhà khoa học đang
tiến những bước gần hơn đến thành công. Giờ
đây, họ đã nhận biết được loại kháng thể có
khả năng vô hiệu hóa sự lây lan của virut cúm
và có thể áp dụng cơ chế này cho những loài
virut tương tự.
Liu khẳng định: "Chúng tôi đã có trong
tay 2 bằng chứng về sự giải phóng bộ gen do
kháng thể gây ra từ capsid, do đó, có thể sử
dụng cơ chế này để tạo dựng cấu trúc cơ bản
của kháng nguyên. 2 ví dụ này có thể được sử
dụng để mô phỏng quá trình tạo ra các kháng
thể có khả năng kiểm soát các loại virut
tương tự".
Theo vista.gov.vn, 26/07/2017
Trở về đầu trang
**************
Phần Lan: Sản xuất thành công protein bằng điện và carbon dioxide
Ảnh minh họa. (Nguồn: Reuters)
Theo Sputnik, các nhà khoa học thuộc
Đại học Công nghệ Lappeenranta và Trung
tâm Nghiên cứu Kỹ thuật Phần Lan (VTT)
vừa nghiên cứu thành công phương pháp sản
xuất protein bằng điện và carbon dioxide.
Kết quả nghiên cứu này được kỳ vọng sẽ
trở thành giải pháp cứu đói trong tương lai và
bảo vệ môi trường trái đất.
Theo giáo sư Jero Ahola thuộc trường
Đại học Công nghệ Lappeenranta, so với
phương pháp nông nghiệp truyền thống,
phương pháp sản xuất protein phi truyền
thống này không đòi hỏi phải có địa điểm với
điều kiện nông nghiệp cần thiết, chẳng hạn
như nhiệt độ, độ ẩm hoặc một loại đất nhất
định. Các quy trình sản xuất protein hiện chủ
yếu dựa vào sự quang hợp thực vật, chẳng
hạn như đậu nành.
Các nhà nghiên cứu ước tính rằng
phương pháp mới để tạo ra thực phẩm từ điện
năng này sử dụng năng lượng hiệu quả gấp 10
lần quang hợp mà lại không gây ô nhiễm môi
trường.
Dịch vụ Cung cấp Thông tin Trọn gói Tháng 08/2017 12/45
Tuy nhiên, trở ngại của phương pháp
sản xuất protein này vẫn là tốn nhiều thời
gian. Hiện tại, phải mất khoảng hai tuần để
tạo ra một gram protein trong phòng thí
nghiệm nên các nhà nghiên cứu cho rằng họ
phải cải tiến quy trình sản xuất.
Nghiên cứu này là một phần của một dự
án nghiên cứu Neo-Carbon Energy nhằm mục
đích phát triển một hệ thống năng lượng tái
tạo và không phát thải gây ô nhiễm môi
trường. Nghiên cứu được Viện Hàn lâm Phần
Lan tài trợ và sẽ kéo dài trong bốn năm.
Theo vietnamplus.vn, 26/07/2017
Trở về đầu trang
**************
Lọc chất độc trong nước với vật liệu từ phân tử đường giá rẻ
Các nhà khoa học vừa tìm ra một loại
vật liệu giá rẻ nhưng có thể loại bỏ hiệu quả
các chất cực độc có trong nước.
Vật liệu mới được tạo ra bằng cách biến
đổi một phân tử đường trong tự nhiên thành
polymer, đã cho thấy khả năng lọc độc tố tốt
hơn những công nghệ hiện tại.
Những chất ô nhiễm từ các khu công
nghiệp luôn gây ra những vấn đề nghiêm
trọng cho cộng đồng xung quanh. Tại Mỹ, vào
năm 2016, những vùng như Hoosick Falls
(New York) hay Bennington (Vermont) đã
phải ban bố tình trạng khẩn cấp vì nguồn nước
uống bị nhiễm chất độc hóa học.
Vậy đâu là thủ phạm chính? Theo các
nhà khoa học đó chính là axit
Perfluorooctanoic – thường được viết tắt là
PFOA. Trong quá khứ, PFOA đã được sử
dụng để sản xuất chất chống dính quen thuộc
ngày nay là TEFLON, sản xuất chất chống
thấm cho thảm, túi bọc thực phẩm và thậm chí
cả chỉ nha khoa.
Nhưng để tạo ra những sản phẩm làm
sạch và chất chống dính này, chúng ta phải trả
một cái giá khá đắt.
PFOA là một chất cực độc với sinh vật.
Một khi đã thải ra môi trường, chất độc này sẽ
không bao giờ phân hủy được. Điều này đồng
nghĩa với việc để cải thiện nguồn nước, việc
duy nhất chúng ta có thể làm là loại bỏ PFOA
khỏi các dòng nước bị ô nhiễm.
Mô phỏng quá trình PFOA bị loại bỏ.
Nguồn: American Chemical Society
Các nhà khoa học đã tạo nên một vật liệu
polymer từ phân tử đường đơn giản là beta-
cyclodextrin. Vật liệu này giúp loại bỏ hiệu
quả PFOA khỏi nguồn nước gấp 10 lần so với
những vật liệu lọc thông thường như carbon
hoạt tính (hiện đang được sử dụng để sản xuất
đồ lót khử mùi).
“Vật liệu mới của chúng tôi sẽ tách các
chất độc ra khỏi nguồn nước. Các phân tử
polymer có khả năng liên kết mạnh với PFOA
và tách chất độc này ra khỏi nguồn nước ngay
cả khi PFOA chỉ ở nồng độ thấp.” Nhà nghiên
cứu William Dichtel thuộc đại học
Northwestern University, Illinois, cho biết.
Beta-cyclodextrin là một phân tử đường
sinh học tái tạo tự nhiên có nguồn gốc từ bột
bắp. Phân tử cyclodextrin được biến đổi thành
một polymer bằng cách kết nối với một phân
tử khác - được gọi là liên kết chéo. Biết được
tỷ lệ hoàn hảo tạo nên các liên kết chéo của
phân tử beta-cyclodextrin chính là chìa khóa
để tối đa hoá hiệu quả lọc độc.
Phân tử cyclodextrins được tạo thành từ
các phân tử đường liên kết với nhau thành một
chuỗi. Chuỗi beta-cyclodextrin tự nhiên này
sẽ tạo ra một cấu trúc có kích thước hoàn hảo
để liên kết và giữ các phân tử PFOA.
Dịch vụ Cung cấp Thông tin Trọn gói Tháng 08/2017 13/45
Đối với các chất gây ô nhiễm khác, các
nhà khoa học có thể thực hiện một phương
pháp tương tự, chỉ cần thay đổi cyclodextrin
bằng một phân tử cyclodextrin khác có các lỗ
hổng lớn hơn hoặc nhỏ hơn.
Nhà nghiên cứu Dichtel cho biết: "Phát
hiện của chúng tôi còn chỉ ra rằng, để lọc
được những chất gây ô nhiễm khác, chúng ta
chỉ cần điều chỉnh các polymer cho phù hợp
còn bản chất lọc độc thì vẫn giống nhau.”
Trong nghiên cứu của mình, các nhà
khoa học đã làm giảm mức nhiễm PFOA từ
1mg/lít xuống chỉ còn 10 nanograms / lít -
thấp hơn nhiều so với mức khuyến cáo của Cơ
quan Bảo vệ Môi trường.
Các polyme hoạt động tốt nhất có thể
loại bỏ tới 95% PFOA trong vòng 13,5 giờ.
Hơn thế nữa, các polymer này có thể
được sử dụng nhiều lần bằng cách đơn giản là
rửa qua methanol ở nhiệt độ phòng. Đặc biệt,
vật liệu này cũng hiệu quả với axít humic, một
thành phần của chất hữu cơ tự nhiên thường
có trong các dòng sông và ngăn cản hoạt động
của carbon hoạt tính.
Các nhà khoa học hy vọng sẽ thương mại
hóa vật liệu này trong tương lai gần và thành
lập một nhà máy sản xuất, phân phối ra thị
trường.
Kết quả nghiên cứu được đăng trong tạp
chí American Chemical Society.
Theo khampha.vn, 14/07/2017
Trở về đầu trang
**************
Phát minh chất xúc tác để tách nước thành năng lượng sạch
Tách nước thành hydro và oxy để tạo ra
năng lượng sạch có thể được đơn giản hóa chỉ
với một chất xúc tác duy nhất.
Đây là kết quả nghiên cứu được các
chuyên gia Đại học Rice và Đại học Houston
của Mỹ công bố ngày 26/7.
Các chuyên gia Đại học Rice đã chế tạo
ra một tấm phim điện phân, là một cấu trúc ba
lớp gồm niken, graphene và hợp chất gồm sắt,
mangan và phốtpho.
Thiết bị này đã được thử nghiệm trong
phòng thí nghiệm của Đại học Houston. Bọt
bong bóng niken tạo cho tấm phim một thiết
diện bề mặt lớn hơn, trong khi chất dẫn
graphene sẽ bảo vệ niken khỏi biến chất và
kim loại phosphide sẽ thực hiện tiến trình
phản ứng.
Hình ảnh kính hiển vi điện tử cho thấy bọt niken
tráng graphene và sau đó là bề mặt xúc tác của sắt,
mangan và phốtpho. (Nguồn: phys.org)
Tấm phim này có thể vượt qua được
những hạn chế về chất xúc tác để sản xuất
hoặc oxy hoặc hydro, song không thể tạo ra
đồng thời hai nguyên tố này.
Nghiên cứu trên được thực hiện dựa trên
việc tạo ra chất xúc tác tạo oxy đã được công
bố hồi đầu năm nay.
Theo vietnamplus.vn, 26/07/2017
Trở về đầu trang
**************
Dịch vụ Cung cấp Thông tin Trọn gói Tháng 08/2017 14/45
Kỹ thuật quang âm mới có thể phát hiện chất khí có nồng độ cực kỳ thấp
Nhóm nghiên cứu hợp tác của Trường
Đại học Brown và Trường Đại học Sơn Đông
(Trung Quốc) đã tìm ra được một phương
pháp có thể phát hiện các khí thải có nồng độ
dưới mức ppq (1 phần triệu tỷ) bằng cách sử
dụng một biến thể mới dựa trên hiệu ứng
quang - âm (photoacoustic), một phương pháp
kỹ thuật dùng để đo âm thanh phát ra khi ánh
sáng tương tác với các phân tử.
“Hiệu ứng quang - âm là một phương
pháp sẵn có rất hữu dụng dùng để phát hiện
các chất gây ô nhiễm trong bầu khí quyển.
Tuy nhiên, khi nồng độ của các phân tử trong
chất nào đó ở dưới mức 1 phần nghìn tỷ (ppt)
thì sẽ rất khó khăn để có thể phát hiện ra. Kỹ
thuật quang âm mới này, do chúng tôi phát
triển, có thể làm gia tăng các tín hiệu phát
hiện và từ đó có thể cho phép chúng tôi tìm ra
được các chất ô nhiễm có nồng độ dưới mức 1
phần triệu tỷ (ppq). Con số này được xem là
một kỷ lục mới”, Gerald Diebold, giáo sư hóa
học tại Đại học Brown và đồng tác giả nghiên
cứu cho biết.
Công trình nghiên cứu đã được nhóm
nghiên cứu phòng thí nghiệm Diebol (Đại học
Brown) và phòng thí nghiệm Fapeng Yu ( Đại
học Sơn Đông) công bố trên tạp chí
Proceedings of the National Academy of
Sciences gần đây.
Hiệu ứng quang âm xảy ra khi một chùm
ánh sáng phát ra được hấp thụ bởi chất khí,
lỏng hoặc rắn khiến các chất này bị phồng nở
rộng ra. Sự nở rộng này, là một chuyển động
cơ học, sẽ khiến cho nó tạo ra các sóng âm.
Hiệu ứng này, lần đầu tiên được phát hiện bởi
nhà khoa học Alexander Graham Bell vào
thập kỷ trước nhưng nó ít có giá trị thực tiễn
cho đến khi các nhà khoa học phát minh ra tia
laser, có thể khiến cho các tín hiệu quang âm
trở nên“đủ lớn” để có thể dễ dàng bị phát hiện.
Thiết bị dò quang âm hoạt động bằng
cách biến đổi vật liệu bằng tia laser đã được
điều chỉnh bước sóng thích hợp để hấp thụ các
phân tử cần thiết. Trong một thí nghiệm quang
âm điển hình, chùm tia laser được bật, tắt ở
tần số máy vi âm cảm biến có thể phát hiện
được bất kỳ sóng âm thanh nào phát ra. Các
phân tử khác nhau hấp thụ ánh sáng ở các mức
tần số khác nhau, do đó bằng cách điều chỉnh
tần số của tia laser, sẽ có thể tinh chỉnh máy
dò cho từng chất cụ thể. Ví dụ như, để tìm
ammoniac trong không khí, laser sẽ được điều
chỉnh theo tần số hấp thụ đặc trưng của các
phân tử amoniac. Tuy nhiên, sẽ rất khó dò tìm
được tín hiệu của chất nào đó khi nồng độ của
chất đó ở mức rất nhỏ, vì vậy, để có thể phát
hiện được các chất nào đó dù chỉ có nồng độ
rất nhỏ, Diebold và các đồng nghiệp đã dùng
một kỹ thuật độc đáo để có thể tăng biên độ
tín hiệu phát hiện.
Theo Diebold cho biết, “Thứ mà chúng
tôi tạo ra được đó là phát minh ra được một
phương pháp có thể dựa vào 3 cộng hưởng
khau nhau để tìm ra tín hiệu chất. Với mỗi
cộng hưởng, tín hiệu sẽ được khuếch đại lớn
dần lên”.
Thay vì chỉ sử dụng một chùm laser đơn,
Diebold và các đồng nghiệp của ông kết hợp
hai chùm laser có tần số và góc rất đặc biệt.
Sự kết hợp của hai chùm này đã tạo ra một
mạng lưới - một kiểu giao thoa - giữa hai
chùm laser. Khi tần số laser được điều chỉnh
đúng, mạng lưới này sẽ lan truyền trong phạm
vi tế bào có thể phát hiện với tốc độ âm thanh,
tạo ra một hiệu ứng khuyến đại ở mỗi đỉnh
cộng hưởng trong mạng lưới này.
Cộng hưởng thử hai được tạo ra bởi tinh
thể áp điện (piezoelectric). Tinh thể này có thể
tạo rung chính xác ở tần số của các tia laser
kết hợp.
Cộng hưởng thứ 3 được tạo ra bằng cách
điều chỉnh bề rộng lỗ hổng ở trong tinh thể
Dịch vụ Cung cấp Thông tin Trọn gói Tháng 08/2017 15/45
được gắn kết để nó tạo ra cộng hưởng khi một
số nguyên nửa độ dài bước sóng của âm thanh
bằng với độ dài của lỗ hổng. Nó phát ra điện
áp tỷ lệ với sự dao động của nó, và gửi tín
hiệu âm thanh cần ghi lại đến bộ khuếch đại
và thiết bị cảm biến điện tử.
“Một trong những lý do để phương pháp
dạng lưới hoạt động này làm việc tốt là do
nhóm nghiên cứu của giáo su Yu, Đại học Sơn
Đông đã phát triển được một tinh thể đặc biệt
có thể nhận được tín hiệu lớn trong phản ứng
với sóng áp lực. Họ đã mất 3 tháng để tổng
hợp tinh thể này”, Diebold nói.
Trong thí nghiệm nghiên cứu này, các
nhà nghiên cứu cho thấy bằng việc sử dụng 3
cộng hưởng này họ có thể phát hiện ra khí
hexafluorua lưu huỳnh với nồng độ chất dưới
1 phần triệu tỷ.
Diebold cho rằng kỹ thuật này sẽ hữu ích
trong việc phát triển các máy dò cảm biến phát
hiện ra các chất gây ô nhiễm có nồng độ rất
thấp, hoặc phát hiện ra các phân tử có khả
năng hấp thụ yếu và rất khó phát hiện.
Theo vista.gov.vn, 04/07/2017
Trở về đầu trang
**************
Máy ảnh nhỏ có thể gắn trên quần áo
Một loại máy ảnh nhỏ, mỏng như giấy và
không có ống kính, cho phép chụp được ảnh ở
trên đầu là nghiên cứu mới của các nhà khoa
học Hoa Kỳ. Thiết bị này có hình vuông với
kích thước 1,01mm x 1,27mm, có thể chuyển
“khẩu độ” giữa góc rộng, mắt cá và phóng to
ngay lập tức. Bởi vì thiết bị này rất mỏng, độ
dày chỉ vài micromet, nó có thể gắn được ở
bất cứ nơi nào. (So sánh với chiều rộng trung
bình của một sợi tóc con người là khoảng 100
micromet).
Tác giả nghiên cứu Ali Hajimiri - Giáo
sư về kỹ thuật điện và Kỹ thuật y học tại Viện
Công nghệ California (Caltech) - Hoa Kỳ, mô
tả máy ảnh mới này: Nó có thể được gắn trên
đồng hồ đeo tay, kính mắt hoặc quần áo.
Thậm chí được thiết kế để phóng vào không
gian như một khối nhỏ và sau đó trải thành
các tấm lớn, những tấm ảnh mỏng về vũ trụ ở
độ phân giải cao chưa bao giờ thực hiện được.
Không có giới hạn cơ bản về mức tăng độ
phân giải. Chúng ta có thể làm gigapixels nếu
muốn (hình ảnh gigapixel có 1 tỷ điểm ảnh,
hoặc gấp 1000 lần so với hình ảnh từ máy ảnh
số -1 megapixel).
Thiết bị này là một tấm phẳng với 64
máy thu ánh sáng được coi là những ăngten
nhỏ để điều chỉnh nhận sóng ánh sáng. Mỗi
máy thu trong tấm đó có điều khiển riêng
bằng chương trình riêng ở máy tính. Trong
phân số của một giây, việc thu ánh sáng được
thao tác tạo ra hình ảnh về đối tượng ở bên
phải hoặc bên trái của tầm nhìn và bất cứ nơi
nào ở giữa.
Giáo sư Ali Hajimiri gọi tính năng này là
"khẩu độ tổng hợp". Để kiểm tra nó hoạt động
tốt như thế nào, nhóm nghiên cứu đã đưa ra
mảng chip máy tính silicon mỏng. Trong thí
nghiệm, khẩu độ tổng hợp thu sóng ánh sáng,
và sau đó các thành phần khác trên chip đã
chuyển đổi sóng ánh sáng sang tín hiệu điện
và gửi đến cảm biến. Kết quả cho thấy hình
ảnh trông giống như bàn cờ với các ô chiếu
sáng, nhưng hình ảnh độ phân giải thấp này
chỉ là bước đầu tiên. Theo lý thuyết, khả năng
điều khiển sóng ánh sáng đến của thiết bị rất
nhanh và chính xác, nó có thể chụp được hàng
trăm loại hình ảnh khác nhau trong bất kỳ loại
ánh sáng nào, bao gồm cả hồng ngoại, chỉ
trong vài giây.
Ali Hajimiri nói: Để có được tầm nhìn
bao quát với máy ảnh thông thường yêu cầu
ống kính phải rất lớn, như vậy nó mới có thể
Dịch vụ Cung cấp Thông tin Trọn gói Tháng 08/2017 16/45
thu đủ ánh sáng. Đó là lý do tại sao các nhiếp
ảnh gia khi làm những sự kiện thể thao luôn
cần sử dụng máy ảnh có ống kính khổng lồ.
Nhưng ống kính lớn hơn đòi hỏi nhiều thấu
kính và có thể đưa ra những sai sót về ánh
sáng và màu sắc trong hình ảnh. Trong nghiên
cứu này, mảng phân giai đoạn quang học
không gặp phải trở ngại nào. Đối với giai
đoạn tiếp theo của nghiên cứu, các nhà khoa
học đang tiến hành để thiết bị lớn và nhận
được nhiều ánh sáng hơn.
Nghiên cứu này đã trình bày tại Hội nghị
của Hiệp hội Quang học (OPES) về Lasers và
Quang học điện tử. và được công bố trên Tạp
chí Kỹ thuật của OSA.
Theo vista.gov.vn, 07/07/2017
Trở về đầu trang
**************
Cảm biến nhiệt siêu tiết kiệm năng lượng
Các kỹ sư người Mỹ phát triển thành
công loại thiết bị cảm ứng nhiệt tiêu thụ năng
lượng cực thấp, chỉ khoảng 113 picowatt (1
picowatt = 10-12 watt).
Loại cảm biến nhiệt này giúp kéo dài
tuổi thọ của pin sử dụng trong những thiết bị
gắn hoặc cấy ghép trên người, hệ thống điều
khiển nhà thông minh hay các thiết bị kết nối
mạng và thiết bị giám sát môi trường. Cảm
biến nhiệt mới được lắp vào một chip điện tử
nhỏ với diện tích chỉ khoảng 0,15mm2 và có
thể hoạt động trong môi trường nhiệt từ -200C
tới 400C, với hiệu suất tương đương những
thiết bị hiện đại mà lại gần như không tiêu thụ
năng lượng.
Nhóm nghiên cứu gồm các kỹ sư điện tử
đến từ Đại học California tin tưởng công nghệ
mới này mở đường cho việc sản xuất thế hệ
thiết bị mới có thể chạy bằng nguồn năng
lượng ít ỏi lấy từ những nguồn sản sinh năng
lượng cực thấp.
Theo sggp.org.vn, 07/07/2017
Trở về đầu trang
**************
Sản xuất thành công nhiên liệu sinh học rẻ nhất thế giới
(Ảnh minh họa: An Hiếu/TTXVN)
Các nhà khoa học thuộc trường Đại học
tự trị Pueblo của Mexico đã nghiên cứu sản
xuất thành công dầu diesel sinh học từ dầu
rán cháy phế thải, với giá thành rẻ nhất thế
giới khi giảm đến 90% so với giá hiện tại và
góp phần giảm thiểu ô nhiễm môi trường.
Theo phóng viên TTXVN tại Mexico,
một nhà máy thí điểm đã được xây dựng để
sản xuất loại dầu diesel sinh học này.
Giá thành 1 lít nhiên liệu mới chỉ là 3
peso Mexico, trong khi đó giá trên thị trường
quốc tế lên đến 20 peso/lít (tương đương
1USD).
Các chuyên gia Phòng Thí nghiệm về
chất xúc tác và năng lượng thuộc Viện Khoa
học Mexico cho biết đây là nhà máy duy nhất
trên thế giới có thể sản xuất ra loại khí đốt
thân thiện với môi trường với giá siêu rẻ.
Nhà máy thí điểm bao gồm 2 lò phản
ứng, lò đầu tiên là để cho dầu phế thải vào để
Dịch vụ Cung cấp Thông tin Trọn gói Tháng 08/2017 17/45
tiến hành quá trình phản ứng xúc tác và lò thứ
2 dùng làm sạch và sấy khô nhiên liệu thu
được từ lò phản ứng thứ nhất.
Kết hợp với việc sử dụng một hệ thống
các tấm pin năng lượng mặt trời để đun nóng
nước và tạo ra điện năng dùng trong quá trình
sản xuất, cùng với việc áp dụng một loạt cơ
chế kiểm soát và hỗ trợ, tạo ra một quá trình
sản xuất an toàn, tiết kiệm và bền vững.
Để tìm ra chất xúc tác dùng để biến đổi
dầu rán phế liệu thành nhiên liệu - một loại
nhiên liệu sinh học có phản ứng an toàn và
tiết kiệm hơn chứ không phải bất kỳ loại
nhiên liệu nào - các nhà khoa học đã phải mất
hơn 5 năm nghiên cứu, lặp đi lặp lại quá trình
thí nghiệm nhiều lần mới có thể tạo ra được
chất xúc tác phù hợp.
Ngoài ra, để có được sản phẩm giá thành
rẻ, các nhà nghiên cứu đã chọn dầu rán cháy
phế thải, có thể xin không mất tiền ở các nhà
hàng, khách sạn hoặc các gia đình địa
phương, để tái sử dụng.
Mặt khác, các nhà khoa học còn nghiên
cứu sử dụng năng lượng mặt trời để thay thế
điện trong sản xuất dầu diesel sinh học tránh
được các vấn đề về an toàn và môi trường,
giảm chi phí sản xuất.
Các thử nghiệm tiến hành đã cho thấy
dầu diesel sinh học chiết xuất từ dầu rán phế
tải của nhà máy đảm bảo an toàn và phù hợp
với tất cả các tiêu chuẩn đề ra và sáng chế này
có thể coi như là một dự án chuyển giao công
nghệ phù hợp với tình hình hiện nay, khi các
nguồn khí đốt trên thế giới đang dần cạn kiệt.
Theo vietnamplus.vn, 01/07/2017
Trở về đầu trang
**************
Công nghệ sản xuất nhiên liệu sinh học mới có thể giảm đáng kể thời gian sản xuất
Một nghiên cứu hợp tác mới đây của
Cigdem Eskicioglu, giáo sư công nghệ
Trường Đại học Okanagan Campus - Đại học
British Columbia (UBC), Hoa Kỳ và nhóm
nghiên cứu đến từ Châu Âu và Austrailia
được coi là chìa khóa để tạo các loại nhiên
liệu sinh học có chi phí rẻ hơn, an toàn hơn và
đặc biệt rút ngắn đáng kể thời gian sản xuất.
“Khí metan là một loại nhiên liệu sinh
học thường được sử dụng trong sản xuất điện.
Nó được tạo ra bằng quá trình lên men các
chất hữu cơ. Mặc dù quá trình sản xuất theo
truyền thống này thường mất từ vài tuần cho
đến vài tháng để hoàn thành nhưng với sự hợp
tác của nhóm nghiên cứu quốc tế đến từ châu
Âu và Austrailia, chúng tôi đã khám phá ra
một kỹ thuật tiền xử lý sinh khối mới, có thể
giúp cắt giảm được thời gian sản xuất xuống
còn gần một nửa so với thông thường”, Bà
Cigdem Eskicioglu, Phó Giáo sư Trường Đại
học Công nghệ Okanagan (UBC) cho biết.
Xuất phát từ các vật liệu thường được
tìm thấy trong các chất thải (phụ phẩm) nông
nghiệp và lâm nghiệp như rơm rạ, bẹ ngô, vỏ
cây gỗ linh sam Douglas. Sau khi Eskicioglu
tiế hành đưa các vật hiệu hữu cơ này vào thử
nghiệm để so sánh các quá trình lên men
truyền thống cũng như công nghệ kỹ thuật
mới của họ, nhóm nghiên cứu đã phát hiện ra
rằng bằng quy trình công nghệ nghệ mới của
họ, vỏ cây gỗ linh sam Douglas có thể sản
sinh ra khí metan lên đến 172% so với các kỹ
thuật sản xuất trước đây.
“Như vậy, tiềm năng sản xuất năng
lượng hiệu quả hơn từ các chất thải lâm
nghiệp như vỏ các loài cây có thể mở ra
nhiều cơ hội mới. Quy trình công nghệ len
men mới này có thể dễ dàng thực hiện tại chỗ
Dịch vụ Cung cấp Thông tin Trọn gói Tháng 08/2017 18/45
và do các phản ứng sinh học có thể diễn ra
nhanh hơn, nên giá thành có thể duy trì ở
mức thấp”, bà Eskicioglu nói.
Bà Eskicioglu nói giải thích rằng: Quy
trình công nghệ mới này tiền xử lý các vật
liệu hữu cơ ban đầu bằng cacbon điôxit ở
nhiệt độ và áp suất cao trong nước trước khi
toàn bộ hỗn hợp của vật liệu này được lên
men. Quy trình công nghệ tiền xử lý mới này
đều sử dụng các thiết bị và vật liệu dễ dàng
mở rộng theo quy mô sản xuất công nghiệp,
do đó việc trang bị thêm cho các lò phản ứng
hiện có hoặc xây mới một nhà máy sản xuất
thu nhỏ là việc tương đối có thể dễ dàng thực
hiện, chi phí xây dựng thấp.
Bên cạnh việc sản xuất khí sinh học với
tốc độ nhanh hơn, chi phí rẻ hơn, kỹ thuật
mới này của nhóm nghiên cứu cũng có thể
sản xuất ra khí metan đảm bảo an toàn hơn.
Không giống như phương pháp xử lý sinh
khối truyền thống trước đây cho các lò phản
ứng sinh học, phương pháp của chúng tôi
không cần dùng hoặc sản sinh ra các hóa chất
độc hại. Mặc dù còn một số nghiên cứu cần
thực hiện để đưa kỹ thuật mới này ứng dụng
trong quy công nghiệp, nhưng những kết quả
đạt được từ nghiên cứu này cho thấy đầy tiềm
năng.
Công trình nghiên cứu sẽ được công bố
trên tạp chí Water Research vào tháng 12 tới
đây.
Theo vista.gov.vn, 17/07/2017
Trở về đầu trang
**************
Độc đáo chế tạo vệ tinh viễn thám bằng vỏ lon nước ngọt
Theo Sputnik, Suraj Kumar Jana, một kỹ
sư công nghệ trẻ 22 tuổi từ Bengaluru (Ấn
Độ) đã sáng lập Opencube LabsBased - một
tổ chức sử dụng lon nước giải khát để chế tạo
các vệ tinh mini.
Cậu đã sử dụng vỏ lon Coca, nước tăng
lực, và lon bia để làm vệ tinh nhỏ có thể được
sử dụng như là một cơ sở dữ liệu mã nguồn
mở để khảo sát một số chỉ số của thành phố
phía Nam Ấn Độ.
Với việc sử dụng các tiểu vệ tinh này,
Jana có thể lập bản đồ về mức độ ô nhiễm và
nhiệt độ của thành phố và từ đó phục vụ cho
quá trình ra chính sách của chính quyền.
Chương trình này được gọi là "Chương
trình CanSat" gồm một khí cầu kéo theo tiểu
vệ tinh với các thiết bị phần cứng mở
(Arduino, RaspberryPi) lắp ráp bên trong một
lon soda 350ml.
Tiểu vệ tinh đã được đưa lên không
trung từ căn cứ không quân Yelahanka của
Ấn Độ. Với sự trợ giúp của dù, tiểu vệ tinh sẽ
truyền dữ liệu về trạm mặt đất.
Các dữ liệu thu thập được từ tiểu vệ tinh
nhỏ này bao gồm nhiệt độ và mức độ ô
nhiễm, chất lượng không khí và nước, sự xâm
nhập của tia cực tím và mức độ tắc nghẽn
giao thông trong thành phố.
Theo vietnamplus.vn, 13/07/2017
Trở về đầu trang
**************
Dịch vụ Cung cấp Thông tin Trọn gói Tháng 08/2017 19/45
Phát minh ra thiết bị giúp tiết kiệm sức lực khi đi cầu thang bộ
Nguồn: androidheadlines.com
Các nhà khoa học tại hai trường đại học
ở thành phố Atlanta, bang Georgia, miền
Đông Nam nước Mỹ, vừa phát minh ra một
thiết bị giúp việc lên xuống cầu thang bộ dễ
dàng hơn.
Thông tin này được đăng tải trên tạp chí
Public Library of Science Plos One mới đây.
Theo đó, các nhà khoa học đã phát minh ra
một thiết bị chịu tải bằng lò xo, gắn vào các
bậc thang giúp tái tạo sức lực cho người sử
dụng cầu thang bộ.
Với việc sử dụng thiết bị này, người
dùng sẽ tiết kiệm được 26% sức lực tiêu hao
do lực va chạm và lực phanh của mắt cá chân,
mỗi khi bước xuống cầu thang và giải phóng
37% sức lực của đầu gối khi bước lên cầu
thang.
Việc giải phóng sức lực được thực hiện
thông qua các bậc lò xo và các cảm biến áp
suất, gắn trên thiết bị. Khi một người bước
xuống một bậc cầu thang, bậc này sẽ được hạ
xuống từ từ, cho tới khi bằng với bậc thang
thấp hơn, giúp tiết kiệm năng lượng tiêu hao
cho người sử dụng.
Chu trình này sẽ được giữ nguyên cho
tới khi có một ai đó bước lên thang. Người sử
dụng thang dẫm một chân lên thiết bị cảm
ứng cài sẵn trên các bậc thang phía trên, móc
khóa cài của bậc thang phía dưới được giải
phóng, tạo ra lực đẩy, tác động lên bước chân
còn lại của người sử dụng, giúp người sử
dụng nhấc chân lên dễ dàng hơn.
Theo các nhà nghiên cứu khoa học, thiết
bị này có thể được tháo ra, lắp vào dễ dàng
trên các loại cầu thang bộ khác nhau, với giá
thành tương đối thấp.
Đối với các tòa nhà không có thang máy
hay thang cuốn, đặc biệt là tại các căn hộ
nhiều tầng, nó sẽ là giải pháp hữu ích cho một
số trường hợp cần đến sự hỗ trợ di chuyển
trong thời quãng thời gian nhất định, ví dụ
như những người bệnh đang trong giai đoạn
phục hồi sau phẫu thuật hay các sản phụ đang
trong quá trình thai nghén.
Theo vietnamplus.vn, 17/07/2017
Trở về đầu trang
**************
Công ty E Balance phát triển đèn LED có kèm đèn gắn thuốc diệt
các loài côn trùng gây hại
Đèn LED này sẽ thu hút các loài côn
trùng với ánh sáng cực tím dài 385-400nm,
những loài sâu bọ, muỗi rất ưa thích loại ánh
sáng này. Bóng đèn này sẽ tạo ra điện và làm
cho chúng chết khi chúng xâm nhập vào thiết
bị. Và sẽ lấy chúng đi bằng cách sử dụng bàn
chải kèm theo hoặc máy hút bụi sau khi tách
bóng ra. E Balance là một Công ty có nhiều ý
tưởng sáng tạo, chuyên thiết kế và cung cấp
các thiết bị gia đình.
Giải thích thêm về sản phẩm này, Công
ty E Balance cho biết: Nhiệt độ màu của bóng
đèn LED là 6.500K (ánh sáng ban ngày) và
độ sáng của nó là 950lm. Đèn LED và đèn
diệt côn trùng có thể được bật riêng. Bằng
cách bật/tắt bóng đèn nhiều lần tùy theo mục
Dịch vụ Cung cấp Thông tin Trọn gói Tháng 08/2017 20/45
đích sử dụng: có thể bật cả đèn LED và đèn
diệt côn trùng (điện năng tiêu thụ: 11W);
hoặc chỉ bật đèn LED; hoặc chỉ bật đèn diệt
côn trùng (điện năng tiêu thụ: 1W). Đây là
một sản phẩm mới, có tên là đèn LED E26-
base, được sử dụng như một bóng đèn để
giảm ánh sáng. Tuy nhiên, E Balance khuyến
cáo người mua cần kiểm tra rõ kích thước loại
đèn đang sử dụng trong gia đình vì loại đèn
mới này có đường kính là 94mm và chiều cao
167mm, lớn hơn những bóng đèn thông
thường. Hiện tại, Công ty chưa đề xuất giá
bán lẻ cho sản phẩm.
Theo vista.gov.vn, 19/07/2017
Trở về đầu trang
**************
Chế tạo pin năng lượng mặt trời hiệu quả nhất thế giới
Các nhà khoa học vừa thiết kế và chế tạo
một nguyên mẫu pin năng lượng mặt trời mới
tích hợp nhiều miếng pin xếp chồng lên nhau
thành một thiết bị duy nhất có khả năng “bắt”
hầu hết năng lượng trong quang phổ mặt trời.
Thiết kế mới này chuyển trực tiếp ánh
sáng mặt trời thành điện với hiệu suất 44,5%
và là pin năng lượng mặt trời hiệu quả nhất
trên thế giới hiện nay.
Cách tiếp cận này khác với các tấm pin
năng lượng mặt trời thường thấy trên những
mái nhà hoặc vùng thu năng lượng mặt trời.
Thiết bị mới sử dụng bảng quang điện tập
trung (CPV), dùng thấu kính để hội tụ ánh
sáng mặt trời vào các pin rất nhỏ chưa đến
1mm2.
Các pin được xếp chồng lên nhau gần
giống như các ngăn xếp thu ánh sáng mặt trời,
với vật liệu chuyên biệt gallium antimonide
(GaSb) làm chất nền trong mỗi lớp, có khả
năng hấp thụ năng lượng tập hợp từng bước
sóng.
Vào thời điểm ánh sáng qua ngăn xếp,
pin sẽ chuyển 1/2 năng lượng có sẵn thành
điện năng. So với pin mặt trời phổ biến nhất
hiện nay chỉ chuyển 1/4 năng lượng có sẵn
thành điện năng.
“Có khoảng 99% năng lượng có trong
ánh sáng mặt trời trực tiếp chiếu lên bề mặt
Trái đất nằm giữa các bước sóng từ 250nm-
2.500nm, nhưng các vật liệu thông thường
của các pin năng lượng mặt trời đa điểm
không thể nắm bắt được toàn bộ dải quang
phổ này”, Matthew Lumb, tác giả chính và là
nhà nghiên cứu thuộc Trường Kỹ thuật và
Khoa học ứng dụng GW cho biết.
“Thiết bị mới của chúng tôi có thể mở
khóa việc năng lượng được lưu trữ trong các
photon có bước sóng dài, mà bị mất ở các pin
năng lượng mặt trời truyền thống”, ông cho
biết thêm.
Theo baovinhlong.com.vn, 15/07/2017
Trở về đầu trang
**************
Dịch vụ Cung cấp Thông tin Trọn gói Tháng 08/2017 21/45
Cửa sổ thông minh tự làm mờ sử dụng năng lượng mặt trời
Thay vì lóng ngóng với các bức mành,
cửa sổ trong tương lai có thể thay đổi màu sắc
hoặc độ mờ theo yêu cầu để giữ nhiệt, ánh
sáng hoặc sự riêng tư. Trong nhiều năm qua đã
có rất nhiều kỹ thuật khác nhau, nhưng hiện
nay nhóm nghiên cứu từ Đại học Princeton đã
phát triển một hệ thống "cửa sổ thông minh" tự
vận hành sử dụng tế bào năng lượng trong suốt
để thu năng lượng tia UV từ ánh sáng mặt trời.
Mặt trời phát ra một loạt các bước sóng
ánh sáng khác nhau: ánh sáng nhìn thấy, tia
hồng ngoại làm nóng Trái đất và tia UV gây
hại khi phải tiếp xúc nhiều. Mặc dù ánh sáng
và nhiệt độ trong phòng là cần thiết, nhưng tia
cực tím sẽ bị chặn lại. Để nâng cao hiệu quả,
nhóm nghiên cứu muốn tìm ra cách khai thác
tia UV để làm năng lượng cho hệ thống.
Cửa sổ thông minh mới được làm bằng
vật liệu crom điện cho phép nó thay đổi trạng
thái màu từ trong suốt đến màu xanh đậm đáp
ứng với các dòng điện nhỏ. Để cung cấp năng
lượng cho dòng điện, nhóm đã phát triển pin
mặt trời làm từ các dẫn xuất
hexabenzocoronene bẻ cong (contorted
hexabenzocoronene - cHBC), có thể được tinh
chỉnh để hấp thụ một dải bước sóng cụ thể.
Trong trường hợp này, chất bán dẫn
cHBC được thiết kế để hấp thụ ánh sáng gần
tia cực tím, cung cấp điện cho vật liệu crom
điện, và toàn bộ hệ thống có thể được kết hợp
thành một màng mỏng, trong suốt lắp được
trên tấm kính bình thường.
Tác giả của nghiên cứu cho biết: "Công
nghệ mới này thực chất quản lý toàn bộ quang
phổ của ánh sáng mặt trời. Sử dụng ánh sáng
gần tia cực tím để cấp năng lượng cho các cửa
sổ này có nghĩa là các tế bào năng lượng mặt
trời này có thể trong suốt và có cùng một
lượng vùng bao phủ trên cửa sổ mà không
phải cạnh tranh với cùng một dải phổ hoặc áp
đặt các ràng buộc thẩm mỹ và thiết kế".
Một số hệ thống trước đây đã sử dụng
các nguồn năng lượng bên ngoài, các hệ thống
khác thu hoạch năng lượng từ phần hồng ngoại
của quang phổ. Vấn đề là nó loại bỏ một phần
nhiệt từ ánh sáng mặt trời mà người dùng có
thể cần.
Hệ thống của Đại học Princeton có thể
chặn được đến 80% ánh sáng khả kiến. Về lâu
dài, nhóm nghiên cứu muốn phát triển một tấm
màng thông minh có thể áp dụng được cho các
cửa sổ thông thường, cho phép người dùng
thay đổi trạng thái màu từ điện thoại thông
minh và hệ thống cũng có thể được áp dụng
vào cửa sổ ô tô để chạy các thiết bị nhỏ.
Theo vista.gov.vn, 21/07/2017
Trở về đầu trang
**************
Giấy in được 80 lần bằng mực ánh sáng
Các nhà khoa học Mỹ tạo ra loại giấy
dùng ánh sáng làm mực in, có thể xóa đi in
lại 80 lần.
Các nhà hóa học tại Đại học California,
Riverside sử dụng công nghệ hạt nano, loại
chất liệu nhỏ hơn hàng nghìn lần bề rộng của
một sợi tóc, để tạo ra loại giấy mới có đặc
tính in được 80 lần bằng "mực ánh sáng",
Reuters ngày 19/7 đưa tin.
"Chúng tôi trộn hạt nano với thuốc
nhuộm màu xanh dương rồi phủ lên chất nền
như giấy, kính hoặc nhựa", sinh viên ngành
hóa học Rashed Al Eisa giải thích. "Chất liệu
có lớp lót chứa nội dung mong muốn ở trên
Dịch vụ Cung cấp Thông tin Trọn gói Tháng 08/2017 22/45
được đưa vào máy chiếu sáng trong vài phút
để chữ viết lưu lại".
Chữ viết trên chất liệu nano sẽ mờ đi và
trở về màu sắc ban đầu sau 5 ngày do oxy
trong không khí lấy đi các hạt electron từ hạt
nano được nhuộm. Quá trình mất chữ có thể
được rút xuống vài phút nếu chất liệu được
làm nóng.
Mỗi năm, nước Mỹ sử dụng 70 triệu tấn
giấy để in dù ngày càng nhiều người đọc
thông tin trên thiết bị điện tử. Nghiên cứu góp
phần đưa ý tưởng về một xã hội không dùng
giấy tiến gần hơn đến hiện thực.
Theo vnexpress.net 23/07/2017
Trở về đầu trang
**************
Phương pháp sản xuất tơ nhện nhân tạo từ vật liệu hydrogel dạng sợi
Một nhóm nghiên cứu gồm các kiến trúc
sư và nhà hóa học thuộc trường Đại học
Cambridge, Vương quốc Anh đã chế tạo
thành công một loại vật liệu hydrogel ở dạng
sợi có cấu tạo giống sợi dây bện nhỏ, siêu bền
và có độ đàn hồi cao. Với khả năng hấp thu
năng lượng mặt trời hiệu quả nên vật liệu mới
có ưu điểm là rất bền, không độc hại và đặc
biệt là có thể được chế tạo ở mức nhiệt độ
phòng. Bài báo về kết quả nghiên cứu được
đăng tải trên tạp chí Proceedings of the
National Academy of Sciences.
Công nghệ mới ra đời thực tế đã được
cải thiện dựa trên những phương pháp sản
xuất tơ nhện tổng hợp hiện đang được áp
dụng, trong đó, đòi hỏi thực hiện nhiều quy
trình tiêu tốn năng lượng hay sử dụng các loại
dung môi độc hại. Các nhà nghiên cứu cho
biết dạng sợi mới có tiềm năng được sử dụng
trong các lĩnh vực sản xuất hàng dệt may,
thiết bị cảm biến và nhiều loại vật liệu khác.
Tơ nhện tự nhiên là một trong những
loại vật liệu dai nhất từng được biết đến.
Trong nhiều nghiên cứu trước đây, các nhà
khoa học đã tiến hành mô phỏng và áp dụng
những đặc tính của tơ nhện cho một loạt ứng
dụng với các mức độ thành công đạt được
khác nhau. Tiến sĩ Darshil Shah, đồng tác giả
nghiên cứu, cho biết: "Trên thực tế, công
nghệ mới của chúng tôi vẫn chưa thể hiện đầy
đủ đặc điểm của tơ nhện trong”.
Vật liệu hydrogel dạng sợi được thiết kế
dưới dạng "xoắn" chứa 98% là phân tử nước
và 2% còn lại là các phân tử silica và cellulose
- vốn là hai nguyên liệu có sẵn trong tự nhiên.
Các phân tử này liên kết với nhau, tạo thành
cấu trúc mạng lưới gồm các "khóa phân tử
cucurbituril” rỗng, có kích cỡ nano và hình
dạng giống quả bí ngô. Phản ứng hóa học xảy
ra giữa các thành phần khác nhau cùng liên kết
hydrogel là các yếu tố giúp kéo dài sợi tơ. Các
sợi được kéo giãn, dài ra nhờ liên kết hydrogel
có đường kính chỉ bằng một vài phần triệu
mét. Sau khoảng 30 giây, khi các phân tử thoát
ra và hình thành hơi nước, vật liệu sẽ trở nên
bền chắc và có độ đàn hồi cao.
Shah cho biết: "Mặc dù vật liệu của
chúng tôi chưa phải là dạng sợi có sức dai và
độ bền cực đại, nhưng cũng giống như các
loại silicon tổng hợp và tự nhiên khác, nó vẫn
có khả năng chịu áp suất ở mức độ dao động
trong khoảng từ 100 - 150 megapascals. Hơn
nữa, vật liệu mới không gây độc hại và quy
trình sản xuất cũng tiêu tốn ít năng lượng
hơn”.
Điểm đặc biệt của cấu trúc của sợi là nó
chứa các phân tử có khả năng tự liên kết với
nhau trong điều kiện nhiệt độ phòng bằng liên
kết hóa học host-guest đại phân tử, nghĩa là
liên kết dựa trên lực tương tác liên phân tử
chứ không phải liên kết cộng hoá trị mà trong
đó, các nguyên tử chia sẻ các electron.
Yuchao Wu, nghiên cứu sinh thuộc
Khoa Hóa học cho biết: "Khi quan sát cấu
Dịch vụ Cung cấp Thông tin Trọn gói Tháng 08/2017 23/45
trúc vật liệu, bạn sẽ nhận thấy các phân tử
liên kết với nhau bởi nhiều lực tương tác ở
các mức độ khác nhau, dẫn đến hình thành sự
kết hợp của các thuộc tính phức tạp".
Độ bền của dạng sợi mới được đánh giá
cao hơn so với các sợi tổng hợp khác như sợi
vitcô - (xenlulô trong trạng thái dẻo, dùng để
sản xuất tơ nhân tạo), sợi tơ nhân tạo hay các
dạng sợi tự nhiên như tóc người hoặc lông
động vật.
Bên cạnh ưu điểm là độ chắc, bền cao,
vật liệu còn có khả năng hấp thụ lượng lớn
năng lượng mặt trời giống như sợi dây bện
bungee. Trên thực tế, có rất ít loại sợi tổng
hợp có đặc tính này, nhưng khả năng làm ẩm
hiệu quả là một trong những đặc tính đặc biệt
và nổi trội của tơ nhện, thậm chí trong một số
trường hợp, các nhà nghiên cứu nhận thấy
rằng khả năng làm ẩm của tơ nhện còn hiệu
quả hơn nhiều so với các sợi tơ tự nhiên.
Shah chia sẻ: "Chúng tôi tin rằng công
nghệ là một giải pháp thay thế bền vững cho
các phương pháp sản xuất sợi đang được áp
dụng hiện nay". “Các nhà nghiên cứu cho
biết họ đang lên kế hoạch thực hiện thêm
nhiều nghiên cứu để tìm hiểu và khám phá
tính chất hóa học và quy trình sản xuất các
dạng sợi dây bện”.
Theo vista.gov.vn, 24/07/2017
Trở về đầu trang
**************
Robot biến hình lách qua khe hẹp như rắn
Các nhà nghiên cứu tại Đại học
Stanford, Mỹ tạo ra loại robot thân mềm có
thể thay đổi kích thước để trườn qua không
gian hẹp.
Các kỹ sư cơ khí tại Đại học Stanford,
Mỹ tạo ra robot cây nho hình ống dài 1,8 mét,
có thể chinh phục những không gian nhỏ hẹp
nhất và tham gia các sứ mệnh tìm kiếm cứu
nạn hoặc hỗ trợ các thủ thuật y tế, Reuters
ngày 22/7 đưa tin.
Robot được làm từ chất liệu nhựa
mỏng, mô phỏng sự phát triển của các tổ chức
sống trên cây nho, nấm và tế bào thần kinh.
Khí nén được bơm vào đầu tĩnh khiến phần
ruột lộn từ trong ra ngoài ở đầu động, giúp
robot "biến hình" để có thể lách qua những
khe hở rất nhỏ.
Robot cây nho đã trải qua nhiều cuộc
thử nghiệm vượt chướng ngại vật như chui
qua không gian hẹp và nâng thùng nặng 100
kg. Trong tương lai, đội thiết kế có thể dùng
chất lỏng thay khí và dự định tăng, giảm kích
thước của các phiên bản robot tiếp theo để
thử nghiệm các ứng dụng khác.
Theo vnexpress.net, 24/07/2017
Trở về đầu trang
**************
Robot Thụy Sĩ thoăn thoắt đan lưới thép xây nhà
Robot xây dựng thuần thục đan lưới
thép làm khuôn đúc bê tông để xây căn nhà
thông minh bằng công nghệ in 3D ở Thụy Sĩ.
Các nhà nghiên cứu tại Đại học ETH
Zurich, Thụy Sĩ dùng công nghệ số thiết kế
và lên kế hoạch xây dựng nhà DFAB ba tầng
với phần lớn trọng trách xây dựng do hệ
thống robot và công nghệ in 3D đảm nhận,
Reuters ngày 24/7 đưa tin.
Theo các nhà phát triển, đây là dạng nhà
đầu tiên trên thế giới chứng kiến sự kết hợp
của nhiều loại kỹ thuật. Robot xây dựng cao
hai mét, có khả năng đan lưới thép trực tiếp
tại hiện trường để làm khuôn đúc bê tông theo
thiết kế.
"Trước đây chúng ta phải xây nhà bê
tông theo cách tạo khuôn trước khi đổ bê tông
từ trên xuống. Giờ đây, robot trực tiếp đan
lưới kim loại làm khuôn và tăng độ mạnh của
Dịch vụ Cung cấp Thông tin Trọn gói Tháng 08/2017 24/45
cấu trúc bê tông này", Matthias Kohler, giám
đốc sáng lập của Trung tâm Quốc gia về
Năng lực trong Nghiên cứu (NCCR), nói.
Phương pháp khuôn lưới đáp ứng nhu
cầu xây nhà trong tương lai theo giải pháp
bền vững do không gây lãng phí như khuôn
truyền thống. Hỗn hợp bê tông đặc biệt được
đổ vào lưới thép cong hai lớp, không bị tràn
ra ngoài. Máy in 3D cỡ lớn in các tấm trần
trong khi hai tầng phía trên được hệ thống
robot xây dựng từ gỗ.
Nhà DFAB có diện tích sàn 200 m2, dự
kiến hoàn thành trước mùa hè năm 2018, sẽ là
nơi thử nghiệm các kỹ thuật xây nhà và năng
lượng mới trong điều kiện thực để các nhà
khoa học tạo ra các công trình bền vững và
hiệu quả hơn.
Theo vnexpress.net, 26/07/2017
Trở về đầu trang
**************
Australia phát minh vật liệu nanô siêu mỏng nhiều ứng dụng
Nguy cơ nhiễm phóng xạ đối với các nhà
du hành vũ trụ khi đi ra ngoài khoảng không
có thể sớm trở thành "chuyện quá khứ," sau
khi các nhà khoa học Australia phát minh ra
một loại vật liệu nanô siêu mỏng có thể bảo
vệ bề mặt chống ánh sáng và bức xạ.
Phát minh trên là của các nhà khoa học
thuộc Đại học quốc gia Australia (ANU)
được đăng tải trên tạp chí Vật liệu có tính
năng cao của nước này ngày 4/7.
Loại vật liệu nanô nói trên có khả năng
điều chỉnh để phản xạ ánh sáng hữu hình hoặc
vô hình như mong muốn, qua đó có thể bảo
vệ tốt hơn cho các nhà du hành vũ trụ trước
bức xạ Mặt Trời khi họ ra ngoài khoảng
không vũ trụ.
Nhà du hành vũ trụ Peggy Whitson (giữa), chỉ huy
của NASA Shane Kimbrough (trái) và kĩ sư Thomas
Pesquet (phải) trước khi "đi bộ" ra ngoài Trạm Vũ
trụ Quốc tế (ISS) ngày 24/4. (Nguồn: EPA/TTXVN)
Tiến sỹ Mohsen Rahmani thuộc ANU
cho biết loại vật liệu này mỏng đến mức có
thể áp hàng trăm lớp cùng một lúc vào bất kỳ
bề mặt nào, kể cả bộ quần áo du hành vũ trụ.
Theo tiến sỹ Rahmani, có thể sử dụng
loại vật liệu này trong nhiều ứng dụng khác
nhau như bảo vệ các nhà du hành vũ trụ hoặc
bảo vệ các vệ tinh bằng một lớp màng siêu
mỏng có thể điều chỉnh để phản chiếu các tia
cực tím nguy hiểm hoặc bức xạ hồng ngoại
trong những môi trường khác nhau.
Ông khẳng định công nghệ này tăng đáng
kể khả năng chống bức xạ có hại so với những
công nghệ hiện nay vốn dựa vào nguyên lý
hấp thu bức xạ bằng các lớp lọc dày.
Nhà nghiên cứu Andrey
Miroshnichenko trong nhóm phát minh trên
cho biết vật liệu nanô này không những có thể
phản chiếu ánh sáng vô hình như bức xạ hồng
ngoại mà còn có thể chặn và truyền ánh sáng
hữu hình, mở ra khả năng ứng dụng trong các
công trình kiến trúc như các tòa nhà, trên cửa
sổ hoặc trong sân vận động.
Ông nêu ví dụ có thể biến một cửa sổ
thành một cái gương trong phòng tắm, hoặc
kiểm soát lượng ánh sáng vào nhà qua cửa sổ
tùy theo từng mùa trong năm.
Theo vietnamplus.vn, 05/07/2017
Trở về đầu trang
**************
Dịch vụ Cung cấp Thông tin Trọn gói Tháng 08/2017 25/45
Dùng vật liệu nano để chế tạo toàn phần các thiết bị điện tử
Công nghệ mới hứa hẹn làm cho việc sản xuất
đèn LED, pin mặt trời, bóng bán dẫn và các thiết bị
điện tử khác dễ dàng hơn
Theo Science Daily, các nhà khoa học ở
Đại học Chicago và Phòng thí nghiệm quốc
gia Argonne (Mỹ) đã phát triển một phương
pháp mang tính cách mạng trong việc dùng
vật liệu nano để chế tạo các linh kiện điện tử.
Việc này có thể khiến mau chóng kết thúc kỷ
nguyên các thiết bị điện tử silic.
Nhóm nghiên cứu do Dmitry Talapin,
nhà hóa học Nga, giáo sư Đại học Chicago và
là cán bộ Trung tâm Vật liệu nano Argonne
National Laboratory phụ trách. Ông chia sẻ:
"Nghiên cứu của chúng tôi là bước cần thiết
trên con đường đưa các điểm lượng tử và
công nghệ nano khác từ phạm vi thí nghiệm
vào sản xuất thực tế".
Các nhà nghiên cứu đã phát triển một
công nghệ để tạo ra bất kỳ linh kiện điện tử
nào (từ đèn LED cho các tấm pin năng lượng
mặt trời), trong đó các loại vật liệu nano 2
chiều sẽ thay thế các vật liệu silic thông
thường.
Được biết cơ sở sản xuất thiết bị điện tử
hiện đại là một phương pháp quang khắc
(photolithography), cho phép sản xuất bóng
bán dẫn và linh kiện điện tử một cách nhanh
chóng với giá thành thấp.
Công nghệ mới làm cho điện thoại thông
minh rẻ đi, cho phép bắt đầu sản xuất hàng
loạt màn hình LED và các tế bào năng lượng
mặt trời. Tuy nhiên, do vẫn còn cần dùng đến
silic nên quang khắc vẫn vấp phải trở ngại khi
muốn nâng công suất của các thiết bị điện tử.
Các nhà khoa học từ lâu đã tìm cách
thay thế silic bằng vật liệu nano. Tuy nhiên để
ổn định chúng cần có các phân tử hữu cơ, làm
giảm đáng kể, hoặc thậm chí làm gián đoạn
tính dẫn điện của vật liệu. Talapin và các
đồng nghiệp đã chế được một "chất keo" đặc
biệt có thành phần gồm các chất ổn định vô
cơ.
Kết quả là có thể sử dụng công nghệ
quang khắc photolithography “vẽ “ các linh
kiện bán dẫn bằng loại mực được chế từ vật
liệu nano. Kỹ thuật mới được gọi là Dolfin.
Ánh sáng đi qua một màn hình với một hình
vẽ có kích thước nano, rồi cấu trúc từng lớp
mực một, biến các lớp đó thành một linh kiện
điện tử nhất định.
Theo các nhà nghiên cứu, phương pháp
này được áp dụng cho bất kỳ loại vật liệu
nano nào bao gồm kim loại, oxit hoặc nam
châm, vốn đang được sử dụng rộng rãi trong
sản xuất thiết bị điện tử.
Trong khi đó, một nhóm nhà khoa học
Mỹ khác đề xuất thay thế silic trong các thiết
bị bán dẫn bằng loại vật liệu với những thuộc
tính thần kỳ được chế tạo trên cơ sở graphene.
Theo motthegioi.vn, 30/07/2017
Trở về đầu trang
**************
Sạc đầy pin điện thoại trong vòng vài giây với vật liệu mới
Canh thời gian để rút sạc, cắm sạc và
thay pin có thể sẽ trở thành quá khứ khi mà
các nhà khoa học phát triển được một thiết kế
điện cực mới có thể sạc pin trong vài giây
thay vì hàng giờ như trước.
Các nhà nghiên cứu đã chỉ ra, thiết bị
mới không chỉ loại bỏ sự phiền phức của việc
sạc pin, mà còn giải quyết một trong những
vấn đề chính giữ là việc giữ lại điện trong các
phương tiện.
Dịch vụ Cung cấp Thông tin Trọn gói Tháng 08/2017 26/45
Nghiên cứu trước đây đã xem xét việc
sử dụng các siêu tụ điện như là một thiết bị
lưu trữ năng lượng cho các thiết bị điện tử di
động. Các siêu tụ điện giải phóng năng lượng
trong các vụ nổ lớn, và có tiềm năng đáng
kinh ngạc trong việc tạo ra năng lượng trong
nền công nghệ của chúng ta.
Vấn đề là chúng chỉ có thể được sử dụng
cho những chu kỳ nạp/xả nhanh chóng - hơn
là lưu trữ năng lượng dài hạn.
Giờ đây, một nhóm nghiên cứu thuộc
Trường Đại học Drexel đã kết hợp các đặc
tính của một siêu tụ điện với các pin truyền
thống có dung lượng lưu trữ lớn bằng cách sử
dụng vật liệu có tên là MXene.
Nhà nghiên cứu hàng đầu Yury Gogotsi,
thuộc trường Cao đẳng Kỹ thuật của Drexel,
cho biết: "Bài báo này bác bỏ các tín điều
được chấp nhận rộng rãi rằng việc lưu trữ
hóa học được sử dụng trong pin ... luôn luôn
chậm hơn nhiều so với việc lưu trữ vật lý
được sử dụng trong tụ điện hai lớp điện, còn
được gọi là siêu tụ điện”.
"Chúng tôi đã chứng minh được khả
năng thay pin của các điện cực MXene mỏng
trong hàng chục giây. Điều này được kích
hoạt bởi tính dẫn điện cao của MXene. Nó mở
đường cho việc phát triển các thiết bị lưu trữ
năng lượng siêu nhanh, có thể nạp và xả
trong vài giây, nhưng lưu trữ nhiều năng
lượng hơn siêu tụ điện thông thường”, ông
cho biết thêm.
Sạc pin điện thoại trong vòng vài giây
(Ảnh: Trường ĐH Drexel)
MXene là một vật liệu nanô phẳng trông
giống bánh sandwich: bao gồm bánh mì oxit
với phần nhân là một carbon dẫn và kim loại.
Khi chúng được tạo ra, các lớp MXene xếp
chồng lên nhau như Pringle (một loại snack
khoai tây chiên nổi tiếng).
MXene có độ dẫn điện xuất sắc và cấu
trúc Pringle tạo ra một rào cản khiến cho các
ion, hóa chất mang điện tích của nó trở nên
khó để truyền qua pin.
Đối với một pin dùng để lưu trữ, ion
được giữ trong các cổng gọi là "các địa điểm
mà quá trình oxy hóa hoạt động". Càng có
nhiều cổng, càng có nhiều pin năng lượng và
điều quan trọng là pin cũng phải cho phép các
ion di chuyển tự do nếu không chúng có thể
không đến được cổng này.
Để cho phép sự di chuyển tự do của ion
trong MXene, phải thực hiện những thao tác
trên cấu trúc của nó. Các nhà khoa học đã
thay đổi cấu trúc của MXene bằng cách kết
hợp nó với một hydrogel, biến Pringle thành
một cấu trúc giống như một miếng pho mát
cho phép các ion tự do di chuyển.
"Trong các pin truyền thống và các siêu
tụ điện, các ion chỉ có một con đường quanh
co để đến với các cổng lưu trữ, điều này
không chỉ làm chậm lại mọi thứ, mà còn tạo
ra một tình huống mà chỉ có rất ít ion thực sự
đến đích với tốc độ sạc nhanh", Maria
Lukatskaya – một trong những nhà nghiên
cứu nói.
"Kiến trúc điện cực lý tưởng là có một
cái gì đó giống như ion di chuyển đến các
cổng thông qua các đường cao tốc đa tốc độ,
thay vì sử dụng các làn đường đơn, theo thứ
tự chỉ mất một vài giây hoặc ít hơn. "
Cần phải chỉ ra rằng mặc dù công việc
trông có vẻ hứa hẹn nhưng vẫn chưa rõ chính
xác làm thế nào pin sẽ được nâng cấp để sử
dụng trong xe hơi. Nhưng không còn nghi
ngờ gì nếu nghiên cứu này kết thúc và pin
được sử dụng cho xe ô tô và điện thoại, nó sẽ
thay đổi cách sử dụng pin của tất cả mọi
người.
Gogotsi cho biết: "Nếu chúng ta bắt đầu
sử dụng các vật liệu dẫn điện tử dưới dạng
pin điện cực, chúng ta có thể làm cho pin
hoạt động tốt hơn rất nhiều so với ngày nay.
Cuối cùng, sự đánh giá cao về thực tế này sẽ
dẫn chúng ta đến những chiếc xe, laptop và
pin điện thoại di động có khả năng sạc với
Dịch vụ Cung cấp Thông tin Trọn gói Tháng 08/2017 27/45
thời gian cực kì ngắn- vài giây hoặc vài phút
thay vì hàng giờ."
Nghiên cứu này đã được công bố trong
tạp chí Nature Energy.
Theo khampha.vn, 30/07/2017
Trở về đầu trang
**************
Thiết bị siêu mỏng, giúp người đi bộ sạc đầy pin điện thoại
Với độ dày chỉ bằng 1/5000 lần một sợi
tóc, thiết bị mới có thể trích xuất năng lượng
ngay cả khi chúng ta di chuyển rất nhẹ nhàng
và chậm rãi.
Các nhà khoa học thuộc Đại học
Vanderbilt, Hoa Kỳ vừa tạo ra một loại vật
liệu thu thập năng lượng cực nhỏ có thể trích
xuất năng lượng từ chuyển động của con
người.
Sản phẩm có thể được đặt trong các lớp
vải quần áo để nạp năng lượng khi chúng ta di
chuyển hàng ngày. Lượng điện thu về có thể
được sử dụng để sạc điện thoại thông minh,
máy tính bảng hay các thiết bị điện tử cá nhân
khác.
Loại thiết bị mới khai thác năng lượng dư thừa
từ chuyển động của con người. (Ảnh: Shutterstock)
Cary Pint – nhà nghiên cứu của dự án,
cho biết: "Trong tương lai, tôi hy vọng
rằng tất cả chúng ta sẽ tự sạc điện được cho
các thiết bị cá nhân của mình bằng cách thu
năng lượng trực tiếp trong khi di chuyển”.
Trước đây, đã có rất nhiều nghiên cứu
được tiến hành nhằm mục đích thu hoạch các
nguồn năng lượng có sẵn xung quanh như
trích xuất năng lượng từ rung động và biến
dạng; kéo năng lượng từ các biến đổi nhiệt
độ, hay thu năng lượng từ ánh sáng, sóng vô
tuyến và các dạng bức xạ khác...
Tuy nhiên, một nguồn năng lượng có giá
trị cao đã bị bỏ qua, đó là năng lượng dư thừa
từ chuyển động của con người. Mặc dù, một
số nhà khoa học đã tạo ra được một số loại
vật liệu, song chúng chỉ có thể hoạt động tốt
với tần số hơn 100 lần/giây mà phần lớn
chuyển động của người bình thường không
thể đạt đến vận tốc này.
Với độ dày chỉ bằng 1/5000 lần một sợi
tóc, thiết bị mới có thể trích xuất năng lượng
ngay cả khi chúng ta di chuyển rất nhẹ nhàng
và chậm rãi.
"Khi so với các vật liệu khác, vật liệu
này sở hữu 2 ưu thế cơ bản: một là độ dày,
hai là độ nhạy", Pint nói, "Nguyên liệu này
mỏng và nhỏ đến mức có thể được gắn vào
các lớp chỉ mà không làm ảnh hưởng đến
cảm giác của vải. Đáng chú ý, nó có thể lấy
năng lượng từ các chuyển động chậm hơn 10
Hertz (10 lần /giây), tương ứng với chuyển
động của con người".
Trong nghiên cứu, các nhà khoa học sử
dụng graphene và 2 lớp phốt pho đen - loại
vật liệu luôn hấp dẫn các nhà công nghệ nano
vì các tính chất điện quang học và điện hóa
của nó.
Các nhà nghiên cứu đang thử nghiệm trên sản
phẩm mẫu (Ảnh: Vanderbilt University)
Máy thu hoạch năng lượng được tạo ra
bằng cách đưa graphene (một chất điện phân)
giữa hai điện cực phốt pho đen giống hệt
nhau. Các điện cực được tạo ra thông qua quá
trình hóa học khi lớp phốt pho đen tương tác
với chất điện phân này.
Dịch vụ Cung cấp Thông tin Trọn gói Tháng 08/2017 28/45
Kết hợp với nhau, vật liệu 2D có khả
năng uốn cong và tạo ra năng lượng.
Thiết kế nguyên mẫu của nhóm có thể
sản sinh năng lượng từ các chuyển động dưới
10 Hertz (10 chuyển động /giây) và thậm chí
là 0,01 hertz (1 chuyển động/ 100 giây).
Khi được hỏi về độ an toàn của vật liệu,
Pint tự tin cho rằng người dùng sẽ không bao
giờ thấy thiết bị này bị chập, dẫn tới cháy nổ
như nhiều sản phẩm điện khác.
Pint nói thêm: “Các loại pin thường bị
cháy khi điện cực dương và âm của thiệt bị bị
tiêu hao; ở loại vật liệu mới này, vì có 2 điện
cực giống hệt nhau nên quá trình tiêu hao chỉ
ảnh hưởng đến khả năng sản xuất điện”.
Trong tương lại, nhóm sẽ tiếp tục cải
thiện để tăng khả năng trích xuất điện từ thiết
bị bởi ở thời điểm hiện tại, thiết bị mới
này thu được điện áp tương đối thấp chỉ trong
phạm vi millivolt (mV).
Vật liệu 2D là một lớp vật liệu nano
chỉ dày vài nguyên tử. Các điện tử trong
vật liệu này tự do di chuyển trong mặt
phẳng hai chiều, nhưng chuyển động hạn
chế của chúng bị chi phối bởi cơ học lượng
tử.
Nghiên cứu về vật liệu nano 2D vẫn
đang trong giai đoạn đầu, nhưng vật liệu
2D như graphene, dichalcogenide kim loại
chuyển tiếp và phốtpho đen đã thu hút
được sự chú ý của các nhà khoa học vì
chúng có các tính chất khác lạ và khả năng
cải tiến các thiết bị quang điện tử.
Theo khampha.vn, 31/07/2017
Trở về đầu trang
**************
Nhật Bản phát triển thiết bị có khả năng dò tìm vật liệu hạt nhân
Cơ quan Năng lượng Hạt nhân của Nhật
Bản đã phát triển một thiết bị có khả năng
phát hiện ra những vật liệu hạt nhân trong quá
trình kiểm tra hành lý tại sân bay, coi đây như
biện pháp tăng cường an ninh nhằm chống
nguy cơ khủng bố hạt nhân có thể xảy ra.
Theo ông Mitsuru Uesaka, Chủ tịch
Hiệp hội Năng lượng Hạt nhân của Nhật Bản,
đồng thời là Giáo sư thuộc trường Đại học
Tokyo, trong bối cảnh Nhật Bản đăng cai và
đang chuẩn bị cho các sự kiện thể thao
Olympics và Paralympics ở Tokyo năm 2020,
việc tăng cường an ninh hạt nhân là đặc biệt
quan trọng và cần thiết, bởi từ lâu đã có nhiều
dấu hiệu về những đường dây buôn bán trái
phép vật liệu hạt nhân.
Trong khi đó, hiện có những lo ngại về
việc tổ chức Nhà nước Hồi giáo (IS) tự xưng
có thể chế tạo "bom bẩn," khi nổ có khả năng
phát tán ra những vật liệu phóng xạ. Không
giống với vũ khí hạt nhân thông thường,
những thiết bị nổ kiểu này có thể được sản
xuất với chi phí khá rẻ mà không cần kỹ thuật
cao.
Để ngăn chặn những vật liệu hạt nhân có
thể thâm nhập vào Nhật Bản thông qua đường
hàng không, Cơ quan Năng lượng Hạt nhân đã
phát triển thiết bị - gọi là tia neutrons - có thể
dò tìm ra một lượng uranium dù là rất nhỏ giấu
trong hành lý trong vòng chưa đến một giây.
Theo ông Yosuke To, trưởng nhóm
nghiên cứu thuộc cơ quan trên, máy quét
hành lý tại các sân bay trước đây thường sử
dụng tia X, chỉ có thể phát hiện ra những vật
nghi ngờ bằng kim loại, chứ không hiệu quả
trong việc phát hiện những vật liệu hạt nhân.
Hiện Cơ quan Năng lượng Hạt nhân
Nhật Bản cũng đang phát triển thiết bị dò tìm
thông qua việc phân tích "dấu vết hạt nhân"
như những phân tử và thành phần đồng vị của
những vật liệu được cất giấu ở những địa
điểm liên quan đến việc chế tạo năng lượng
hạt nhân.
Những nỗ lực này của Nhật Bản nhằm
xác định chính xác nguồn gốc và lộ trình vận
chuyển vật liệu phóng xạ và hạt nhân.
Dịch vụ Cung cấp Thông tin Trọn gói Tháng 08/2017 29/45
Theo Cơ quan Năng lượng Hạt nhân
quốc tế, tính đến cuối năm 2015, đã có tổng
số 454 vụ sở hữu hạt nhân trái phép trên toàn
thế giới bị phát hiện và tất cả những trường
hợp này đều liên quan đến hoạt động tội
phạm; 762 vụ liên quan đến đánh cắp vật liệu
hạt nhân và 1.622 vụ liên quan đến những
hoạt động bất hợp pháp khác.
Theo vietnamplus.vn, 15/07/2017
Trở về đầu trang
**************
Kỹ thuật mới giúp tái sinh phôi cá đông lạnh
Cá ngựa vằn
Sử dụng tia laser, vàng và chất chống
đông, các nhà khoa học đã thành công trong
việc bảo quản phôi cá ngựa vằn đông lạnh.
Kỹ thuật mới này được cho là sẽ giúp
các nhà khoa học bảo tồn phôi của các loài cá
sắp tuyệt chủng, hoặc của những loài cá biến
đổi gen mà các nhà khoa học dùng để nghiên
cứu bệnh ở người.
Dù vậy, các nhà khoa học vẫn đang cố
ổn định công nghệ mới này để các phôi có thể
sống sót tốt hơn khi thực hiện quá trình lưu
trữ này.
Nhiều năm nay, con người đã bắt đầu
bảo quản lạnh phôi, trứng, tinh trùng cho mục
đích duy trì nòi giống hoặc chữa trị hiếm
muộn ở người. Chúng ta đã bắt đầu bảo quản
lạnh tinh trùng từ những năm 1950, và phôi
người từ những năm 1980.
Tuy nhiên, 60 năm qua, các nhà khoa
học gần như "bó tay" trong việc bảo quản
phôi cá bằng cách đông lạnh. Do sự nóng lên
của đại dương và acid hóa nước biển, các loài
cá đang bị đe dọa ngày càng nghiêm trọng
hơn, vì vậy vấn đề bảo tồn nguồn gen các loài
động vật biển lại trở nên cấp thiết hơn.
Vấn đề là nếu chúng ta đông lạnh một
phôi động vật rồi đảo ngược quá trình để phát
triển nó thành một sinh vật sống, bạn không
thể chỉ đưa nó vào tủ đá rồi rã đông bằng lò vi
sóng. Chúng ta cần có một quá trình cấp đông
và cấp rã đông nhanh chóng để giúp phôi vẫn
còn tồn tại dù bị đóng băng trong thời gian dài.
Độ khó của việc rã đông phôi cá lại cao
hơn khi nhìn chung chúng khó được làm nóng
theo cách thông thường mà các nhà khoa học
đang áp dụng cho phôi người hoặc phôi của
các loài thú có vú.
Vì vậy, nhóm nghiên cứu của Đại học
Minnesota do ông John Bischof dẫn đầu đã
phát triển một phương pháp rã đông mới.
Đầu tiên, trước khi cấp đông phôi của
loài cá ngựa vằn, các nhà nghiên cứu tiêm
vào mẫu phôi hỗn hợp gồm các hạt vàng và
chất chống đông. Sau đó, các nhà khoa học
dùng tia laser để làm nóng các phôi cá đông
lạnh đang ngậm đầy dung dịch vàng.
Chùm tia laser làm nóng những hạt
vàng, làm ấm phôi từ bên trong ra, theo báo
cáo khoa học đăng trên tạp chí ACS Nano.
Có thể nói đây là một kỹ thuật làm nóng
mới. Những hạt vàng nano và chất chống
đông không gây ra khuyết tật cho loài cá ngựa
vằn sau khi chúng được hồi sinh bằng cách
này - ở những phôi may mắn sống sót.
Kỹ thuật mới này trên thực tế còn nhiều
hạn chế khi số lượng phôi chết sau rã đông
quá lớn. Cụ thể, 2/3 số phôi chết trong 1 giờ
sau khi rã đông. Và 90% số phôi chết 1 ngày
sau khi được rã đông.
Dù vậy, phương pháp này vẫn là bước
tiến đáng kể khi các phương pháp đông lạnh
và rã đông phôi cá trước đây đều cho kết quả
là tỷ lệ sống sót của phôi bằng 0%.
Dịch vụ Cung cấp Thông tin Trọn gói Tháng 08/2017 30/45
Với việc vẫn còn 10% phôi khỏe mạnh,
kỹ thuật mới này có thể giúp các nhà khoa
học bảo vệ được nhiều loài sinh vật biển đang
có nguy cơ tuyệt diệt
Theo motthegioi.vn, 14/07/2017
Trở về đầu trang
**************
Lai tạo được giống hoa cúc xanh
Hoa cúc xanh, ảnh tư liệu của nhà sinh học
Naonobu Noda
Theo kết quả nghiên cứu được công bố
trên tạp chí Science Advances, nhà sinh vật
học Naonobu Noda ở Trung tâm nông nghiệp
và công nghiệp thực phẩm tại thành phố
Tsukuba của Nhật Bản, cùng với các đồng
nghiệp đã tạo ra được các bông hoa cúc xanh
bằng cách sử dụng công nghệ gien.
Hoa màu xanh thật sự trong thế giới
thực vật là rất hiếm. Ví dụ, cây bìm bịp hoặc
cây phi yến có thể có hoa màu xanh. Nhưng
trong hầu hết các trường hợp, những bông
hoa mà thường người ta tưởng như màu xanh
thực sự lại là màu tím hoặc tim tím. Để thu
được cánh hoa màu xanh, những người kinh
doanh hoa thường phải tiêm thuốc nhuộm.
Màu sắc của cánh hoa là đỏ, xanh hoặc
tím phụ thuộc vào cấu trúc của phân tử sắc tố
anthocyanin. Những điều kiện bên trong các
tế bào của cánh hoa cũng có ý nghĩa nhất
định.
Khi bắt đầu thí nghiệm, các nhà nghiên
cứu Nhật Bản cấy gien sắc tố màu xanh cho
hoa cúc lấy từ họ cây hoa chuông xanh
Campanula medium. Nhưng điều này là
không đủ, vì chỉ thu được hoa cúc với cánh
hoa màu tím. Sau đó họ đã được bổ sung một
gien lấy từ cây hoa đậu biếc Clitoria ternatea
phổ biến khu vực Đông Nam Á. Các nhà
khoa học ngỡ rằng họ sẽ phải thêm một gien
thứ ba, nhưng với hai gien trên hoa cúc đã có
màu xanh.
Bây giờ các nhà khoa học Nhật Bản có
kế hoạch lai tạo ra loài hoa cúc xanh không
có trong tự nhiên để có thể đăng ký bản
quyền phục vụ cho mục đích thương mại.
Theo motthegioi.vn, 30/07/2017
Trở về đầu trang
**************
Dịch vụ Cung cấp Thông tin Trọn gói Tháng 08/2017 31/45
B. SÁNG CHẾ NƯỚC NGOÀI ĐƯỢC CẤP BẰNG ĐỘC QUYỀN TẠI VIỆT NAM
1-0017010 Dược phẩm lỏng chứa rupatađin fumarat và quy trình bào chế dược phẩm
Tác giả: J. Uriach Y Compania, S.A.
(ES).
Quốc gia: Tây Ban Nha
Sáng chế đề cập đến dược phẩm dạng
lỏng nền nước chứa rupatađin fumarat và
không chứa xyclođextrin có tác dụng điều trị
chứng viêm mũi dị ứng và bệnh mày đay.
Dược phẩm này chứa rupatađin fumarat, một
hoặc nhiều đồng dung môi và một hoặc nhiều
chất điều chỉnh độ pH, trong đó dược phẩm
này có độ pH nằm trong khoảng từ 4 đến 6,5.
Theo Công báo Sở hữu Công nghiệp
số 352/2017
Trở về đầu trang
**************
1-0017016 Vectơ vacxin và chế phẩm chứa vectơ này dùng để tăng cường đáp ứng miễn dịch
Tác giả: Berghman Luc (US), Bottje
Walter (US), Hargis Billy (US), Layton
Sherryll (US).
Quốc gia: Mỹ
Sáng chế đề cập đến vectơ vacxin chứa
polypeptit kháng nguyên và polypeptit
HMGB1 có mặt trên bề mặt của vectơ vacxin
này. Sáng chế còn cập đến chế phẩm chứa
vectơ vacxin và chất mang dược dụng, thích
hợp là chất mang để dùng theo đường uống
hoặc dùng qua mũi. Vectơ vacxin và chế
phẩm này được sử dụng để tăng cường đáp
ứng miễn dịch, cụ thể là đáp ứng miễn dịch
kháng thể và thích hợp là đáp ứng IgA ở đối
tượng.
Theo Công báo Sở hữu Công nghiệp
số 352/2017
Trở về đầu trang
**************
1-0017032 Hợp chất đối kháng thụ thể vaniloit 1 (TRPV1) và dược phẩm chứa hợp chất này
Tác giả: Tafesse Laykea (ET), Kurose
Noriyuki (JP).
Quốc gia: Nhật
Sáng chế đề cập đến hợp chất có công
thức III:
và dẫn xuất dược dụng của chúng, dược phẩm
chứa lượng có tác dụng trị liệu của hợp chất
có công thức III hoặc dẫn xuất dược dụng của
chúng để điều trị hoặc phòng ngừa các tình
trạng bệnh lý như đau, chứng mất tự chủ tiểu
tiện (uncontrollable urination (UI)), loét, bệnh
viêm ruột (Inflammatory-bowel disease
(IBD)), và hội chứng ruột dễ bị kích thích
(Irritable-bowel syndrome (IBS)), bao gồm
bước cho động vật cần điều trị dùng lượng có
tác dụng trị liệu của hợp chất có công thức III
hoặc dẫn xuất dược dụng của chúng.
Dịch vụ Cung cấp Thông tin Trọn gói Tháng 08/2017 32/45
Theo Công báo Sở hữu Công nghiệp
số 352/2017
Trở về đầu trang
**************
1-0017038 Hợp chất dị vòng, phương pháp điều chế và dược phẩm chứa hợp chất này
Tác giả: Ahn Sung Oh (KR), Park Chan
Hee (KR), Im Jun Hwan (KR),…
Quốc gia: Hàn Quốc
Sáng chế đề cập đến hợp chất dị vòng,
cụ thể hơn là hợp chất dị vòng hữu ích để bào
chế dược phẩm nhằm điều trị bệnh có liên
quan đến axit uric.
Theo Công báo Sở hữu Công nghiệp
số 352/2017
Trở về đầu trang
**************
1-0017045 Hợp chất pyrazinooxazepin và thuốc chứa hợp chất này
Tác giả: Sasaki Shigekazu (JP),
Kusumoto Tomokazu (JP), Nomura Izumi
(JP), Maezaki Hironobu (JP).
Quốc gia: Nhật
Sáng chế đề cập đến hợp chất có tác
dụng kích hoạt thụ thể serotonin 5-HT2C.
Hợp chất theo sáng chế có công thức
(I0):
trong đó mỗi một ký hiệu có ý nghĩa như
được xác định trong bản mô tả; hoặc muối
của hợp chất này.
Theo Công báo Sở hữu Công nghiệp
số 352/2017
Trở về đầu trang
**************
1-0017094 Muối dạng hydrat của 1-(2S)-2-amino-4-[2,4-bis(triflometyl)-5,8-dihydropyrido[3,4-d]pyrimidin-7(6H)-yl]-4-oxobutyl-5,5-diflopiperidin-2-on
tartrat, quy trình điều chế và dược phẩm chứa nó
Tác giả: Park Ki Sook (KR), Yun Jung
Min (KR), Kim Bong Chan (KR),…
Quốc gia: Hàn Quốc
Sáng chế đề cập đến muối 1-{(2S)-2-
amino-4-[2,4-bis(triflometyl)-5,8-
dihydropyrido[3,4-d]pyrimidin-7(6H)-yl]-4-
oxobutyl}-5,5-diflopiperidin-2-on tartrat dạng
hyđrat ngậm 1,5 phân tử nước, quy trình điều
chế nó, và dược phẩm dùng để ức chế DPP-
IV chứa thành phần hoạt tính là hợp chất nêu
trên.
Theo Công báo Sở hữu Công nghiệp
số 352/2017
Trở về đầu trang
**************
1-0017105 Copolyme poly-N-oxit béo dị mạch và vacxin chứa chúng
Tác giả: Nekrasov Arkady Vasilievich
(RU), Puchkova Natalya Grigoryevna (RU). Quốc gia: Nga
Dịch vụ Cung cấp Thông tin Trọn gói Tháng 08/2017 33/45
Sáng chế đề cập đến copolyme poly-N-
oxit béo dị mạch có công thức (1), trong đó
R=N, CH; x = 2 hoặc 4; y = 0 hoặc 2; n : 10 -
1000; q = (0,1 - 0,9)n; z = (0,1-0,9)n, có hoạt
tính dược lý, bao gồm tác dụng chống oxy
hóa và tác dụng điều trị để làm chất giải độc
và chất điều biến miễn dịch. Sáng chế cũng
đề cập đến vacxin phòng bệnh viêm gan A và
viêm gan B chứa chế phẩm vacxin bao gồm
đồng thời HVA Ag và HBsAg và copolyme
poly-N-oxit béo dị mạch có công thức (1).
Theo Công báo Sở hữu Công nghiệp
số 352/2017
Trở về đầu trang
**************
1-0017106 Hợp chất piperiđinon carboxamit azainđan có tác dụng làm chất đối kháng thụ thể peptit có liên quan đến gen calcitonin (CGRP)
và dược phẩm chứa hợp chất này
Tác giả: Bell Ian M. (GB), Fraley Mark
E. (US), Gallicchio Steven N. (US),…
Quốc gia: Mỹ
Sáng chế đề cập đến dẫn xuất
piperiđinon carboxamit azainđan có tác dụng
làm chất đối kháng của thụ thể CGRP và hữu
ích trong phòng hoặc điều trị bệnh, trong đó
CGRP có liên quan, như chứng đau nửa đầu.
Sáng chế còn đề cập đến dược phẩm
chứa các hợp chất này và các hợp chất và
dược phẩm này được sử dụng để phòng hoặc
điều trị các bệnh, trong đó CGRP có liên
quan.
Theo Công báo Sở hữu Công nghiệp số
352/2017
Trở về đầu trang
**************
1-0017110 Hợp chất oxazolidinon hai vòng được ngưng tụ có tác dụng ức chế protein vận chuyển este cholesterol và dược phẩm chứa hợp chất này
Tác giả: Shao Pengcheng Patrick (US),
Ye Feng (CA), VachaL Petr (CZ),…
Quốc gia: Mỹ
Sáng chế đề cập đến hợp chất công thức
cấu tạo I hoặc muối dược dụng của chúng, có
tác dụng ức chế protein vận chuyển este
cholesterol CETP và hữu dụng để làm tăng
HDL-cholesterol, làm giảm LDL-cholesterol,
và để điều trị hoặc phòng ngừa bệnh xơ vữa
động mạch.
Theo Công báo Sở hữu Công nghiệp
số 352/2017
Trở về đầu trang
**************
1-0017108 Hợp chất ức chế virut và dược phẩm chứa hợp chất này
Tác giả: Coppens Christine (BE).
Quốc gia: Bỉ
Sáng chế đề cập đến hợp chất có công
thức A là (2,3(dihydroxy),5[3(1,2)butadien],1
(3hydroxy,3-metyl,4-penten)benzen) và/hoặc
hợp chất có công thức B là
(2,3(dihydroxy),5[3(1,2)butadien],2[2-
metylbutan]benzenal) và/hoặc hợp chất có
công thức C là
(2,3(dihydroxy),5[3(1,2)butadien],2hydroxy,3
butenbenzoat). Ngoài ra, sáng chế còn đề cập
Dịch vụ Cung cấp Thông tin Trọn gói Tháng 08/2017 34/45
đến dược phẩm chứa các hợp chất này để sử
dụng làm thuốc hoặc để sử dụng in vivo trong
điều trị và ngăn ngừa bệnh gây ra bởi virut
ADN có vỏ, virut AND không có vỏ, virut
ARN có vỏ, virut ARN không có vỏ.
Theo Công báo Sở hữu Công nghiệp số
352/2017
Trở về đầu trang
**************
1-0017113 Hợp chất 2-(anilino được thế ở vị trí 2,4,5 )pyrimiđin và muối của nó, dược phẩm chứa nó dùng để điều trị bệnh ung thư
Tác giả: Butterworth Sam (GB), Finlay
Maurice, RaymondVerschoyle (GB), Ward
Richard Andrew (GB),…
Quốc gia: Thụy Điển
Sáng chế đề cập đến hợp chất 2-(anilino
được thế ở vị trí 2,4,5)pyrimidin và các muối
dược dụng của chúng, có tác dụng điều trị
hoặc phòng bệnh hoặc tình trạng bệnh lý do
một số dạng đột biến của thụ thể yếu tố sinh
trưởng biểu bì (ví dụ đột biến kích hoạt
L858R, đột biến kích hoạt đo khuyết đoạn
Exon19 và đột biến kháng thuốc T790M) gây
ra. Các hợp chất này và muối của chúng có
tác dụng điều trị hoặc phòng một số bệnh ung
thư khác nhau. Sáng chế còn đề cập đến dược
phẩm chứa các hợp chất nêu trên và các muối
của chúng, đặc biệt là các dạng thù hình hữu
ích của các hợp chất và các muối này, các
hợp chất trung gian dùng để điều chế các hợp
chất nêu trên, các dược phẩm này có thể dùng
để điều trị các bệnh do nhiều dạng EGFR
khác nhau gây ra.
Theo Công báo Sở hữu Công nghiệp
số 352/2017
Trở về đầu trang
**************
1-0017039 Dược phẩm bôi ngoài da ổn định để điều trị bệnh vẩy nến
Tác giả: Roy Sunilendu Bhushan (IN),
Kothari Jay Shantilal (IN), Sheikh Shafiq
(IN),…
Quốc gia: Ấn Độ
Sáng chế đề cập đến dược phẩm bôi
ngoài da để điều trị bệnh vảy nền. Cụ thể hơn,
sáng chế còn cập đến nhũ tương chứa các giọt
nhỏ với kích thước nano của một hoặc nhiều
chất chống vẩy nến, ví dụ, clobetasol và/hoặc
axit salixylic. Dược phẩm theo sáng chế có
khả năng thấm tốt hơn và độ sinh khả dụng
được nâng cao. Sáng chế cũng đề cập đến quy
trình bào chế dược phẩm này.
Theo Công báo Sở hữu Công nghiệp số
352/2017
Trở về đầu trang
**************
1-0017093 Chế phẩm chứa nhũ tương nước trong dầu dùng để điều trị bệnh về mắt
Tác giả: Lallemand Frédéric (FR),
Garrigue Jean-Sébastien (FR), Philips Betty
(FR).
Quốc gia: Pháp
Sáng chế đề cập chế phẩm có động học
giải phóng kéo dài chứa một lương hữu hiệu
chất có tác dụng điều trị cho đối tượng cần
điều trị các bệnh hoặc các tình trạng về mắt,
trong đó chế phẩm này là nhũ tương nước
trong dầu bao gồm pha dầu, chất hoạt động bề
mặt ưa chất béo được hòa tan trong pha dầu,
pha nước được phân tán trong pha dầu, chất
có tác dụng điều trị ưa nước được hòa tan
trong pha phân tán chứa nước, và trong đó
chế phẩm này có thể tiêm vào nội nhãn cầu,
trong đó chế phẩm có tỷ trọng nhỏ hơn 1.
Sáng chế còn đề cập đến dược phẩm hoặc
Dịch vụ Cung cấp Thông tin Trọn gói Tháng 08/2017 35/45
thuốc chứa chế phẩm theo sáng chế. Sáng chế
cũng đề cập đến dụng cụ chứa chế phẩm theo
sáng chế.
Theo Công báo Sở hữu Công nghiệp số
352/2017
Trở về đầu trang
**************
1-0017076 Quy trình sản xuất hạt chứa ezetimib
Tác giả: Tolgyesi Zoltán (HU),
Zsigmond Zsolt (HU), Ujfalussy Gyorgy
(HU),…
Quốc gia: Hung ga ri
Sáng chế đề cập đến quy trình sản xuất
hạt chứa ezetimib vi tinh thể mà không có sự
hình thành chất kết tụ, trong đó quy trình này
bao gồm các bước: a) ezetimib được hòa tan;
b) ezetimib đã hòa tan được kết tủa bằng
nước, nếu cần nước này chứa tá dược dược
dụng, tốt hơn là dẫn xuất lauryl- sulfat; và c)
hạt được tạo ra từ huyền phù thu được bằng
cách phun huyền phù này lên tá dược dược
dụng. Sáng chế còn đề cập đến hạt thu được
bằng quy trình nêu trên và dược phẩm chứa
hạt này.
Theo Công báo Sở hữu Công nghiệp
số 352/2017
Trở về đầu trang
**************
1-0017033 Phương pháp sản xuất hỗn hợp vi khuẩn axit lactic
Tác giả: Yde Birgitte (DK), Abrahamsen
Susanne (DK).
Quốc gia: Đan mạch
Sáng chế đề cập đến phương pháp sản
xuất ít nhất 2 kg (khối lượng khô) hỗn hợp
gồm vi khuẩn axit lactic phối trộn với chất
chống oxy hóa là ascorbat hoặc axit ascorbic
với lượng nằm trong khoảng từ 1% đến 50%
(khối lượng/khối lượng - chất khô), trong đó
độ pH được kiểm soát nằm trong khoảng từ 3
đến 8 ít nhất là trong phần lớn thời gian lên
men bằng cách bổ sung bazơ không chứa
NH3 (amoniac). BB-12HA phối trộn với natri
ascobat và lưu giữ ở nhiệt độ 300C/độ ẩm
tương đối 30%
Theo Công báo Sở hữu Công nghiệp
số 352/2017
Trở về đầu trang
**************
1-0017052 Dụng cụ xịt thuốc
Tác giả: Laura Andrade (ES), Jose
Ramon RUIZ (ES), Celestino Ronchi (IT),
Alessandro Castellucci (IT).
Quốc gia: Tây Ban Nha
Sáng chế đề xuất dụng cụ xịt thuốc để
xịt thuốc dạng bột từ các viên nang chứa các
chế phẩm dạng bột. Dụng cụ xịt thuốc có
miệng phun (60) hoặc vòi phun và cụm (a)
bao gồm: giá đỡ viên nang có khoang chứa
viên nang, khoang chứa viên nang có miệng
nạp không khí và miệng xả không khí; cơ cấu
mở viên nang để mở viên nang; cơ cấu kích
hoạt vận hành bằng ngón tay. Dụng cụ xịt
thuốc này còn có vỏ ngoài cứng bao gồm
phần vỏ thứ nhất (71) nối khớp với phần vỏ
thứ hai (72) sao cho vỏ này mở và đóng được,
vỏ có tác dụng để và bảo vệ cụm và miệng
phun hoặc vòi phun. Cụm và miệng phun
hoặc vòi phun tháo dưới dạng bộ khớp nối ra
khỏi vỏ mở dưới dạng bộ khớp nối mà không
Dịch vụ Cung cấp Thông tin Trọn gói Tháng 08/2017 36/45
cần tháo rời bộ khớp nối khác, hoặc vỏ được
bố trí sao cho các đường viền thuộc vành của
mỗi phần vỏ đối tiếp với các đường viền
thuộc vành của mỗi phần vỏ bao quanh khác
khi vỏ ở trạng thái đóng, hoặc cụm được hãm
lại trong phần vỏ thứ nhất và không thể dịch
chuyển được khi sử dụng bình thường tương
đối với phần vỏ thứ nhất.
Theo Công báo Sở hữu Công nghiệp
số 352/2017
Trở về đầu trang
**************
1-0017006 Mỹ phẩm dạng nhũ tương nước trong dầu dùng cho da
Tác giả: Sasaki Kazutaka (JP).
Quốc gia: Nhật
Sáng chế đề cập đến mỹ phẩm dạng nhũ
tương nước trong dầu dùng cho da chứa các
thành phần từ (a) đến (e) sau:
(a) nước với lượng nằm trong khoảng từ
5 đến 50% trọng lượng,
(b) etanol với lượng nằm trong khoảng
từ 1 đến 20% trọng lượng,
(c) thành phần dầu dễ bay hơi với lượng
nằm trong khoảng từ 2 đến 50% trọng lượng,
(d) carboxy dexyl trisiloxan có công
thức (1) với lượng nằm trong khoảng từ 0,1
đến 5% trọng lượng,
(e) kẽm oxit kỵ nước hoặc titan dioxit kỵ
nước, kẽm oxit kỵ nước, và sắt oxit kỵ nước
với lượng nằm trong khoảng từ 2 đến 50%
trọng lượng. Mỹ phẩm dạng nhũ tương nước
trong dầu dùng cho da theo sáng chế chứa
thành phần
(e) bột mà cảm giác trơn rít giống như
có bột trên da theo thời gian sau khi dùng
được ngăn chặn, đồng thời có độ thích ứng tốt
với da khi dùng và độ bám dính sau khi dùng
trên da được cải thiện.
Theo Công báo Sở hữu Công nghiệp
số 352/2017
Trở về đầu trang
**************
1-0017023 Chế phẩm chứa hợp chất ức chế tạo melanin dùng cho mỹ phẩm và dùng ngoài da
Tác giả: Criton Marc (FR), Lemellay
HamonVéronique (FR), Leblond Yves (FR).
Quốc gia: Pháp
Sáng chế đề cập đến chế phẩm chứa ít
nhất: một chất ức chế thụ thể melacortin 1
(MC1- R); một chất ức chế tyrosinaza có
nguồn gốc từ vitamin C và một chất ức chế sự
vận chuyển hạt melanin đến các tế bào
keratin. Chế phẩm theo sáng chế có thể sử
dụng trong mỹ phẩm và dùng ngoài da để bào
chế các sản phẩm loại sắc tố để làm trắng da
và/hoặc làm sáng da.
Theo Công báo Sở hữu Công nghiệp
số 352/2017
Trở về đầu trang
**************
Dịch vụ Cung cấp Thông tin Trọn gói Tháng 08/2017 37/45
1-0017030 Chế phẩm tẩy rửa dạng lỏng đậm đặc
Tác giả: Bennett Julie (GB), Parry Alyn
James (IN).
Quốc gia: Hà Lan
Sáng chế đề cập đến chế phẩm tẩy rửa
dạng lỏng có tính kiềm đậm đặc chứa:
a) chất hoạt động bề mặt với lượng nằm
trong khoảng từ 5% đến 60% trọng lượng
chứa chất hoạt động bề mặt anion và chất
hoạt động bề mặt không ion tùy ý và chất
hoạt động bề mặt lưỡng tính tùy ý và xà
phòng tùy ý, trong đó ít nhất 35% tổng chất
hoạt động bề mặt là chất hoạt động bề mặt
anion không xà phòng;
b) nước với lượng ít nhất là 30% trọng
lượng;
c) polyme loại bỏ vết bẩn với lượng ít
nhất là 0,25% trọng lượng; trong đó chế phẩm
này khác hiệt ở chỗ:
(i) các polyme loại bỏ vết bẩn có công
thức (I), và
X[(OCH2CH2)q-]-khối-
[(OCH2CH(CH3))p]-[(OC(O)-G1-C(O)O-
G2)n]-OC(O)-G1-C(O)O-
[((CH3)CHCH2O)p-]-khối-[(CH2CH2O)q]-
X (I), trong đó các gốc G1 là tất cả các gốc
l,4-phenylen; G2 là tất cả các gốc etylen được
thế bởi alkyl có 1 đến 4 nguyên tử cacbon,
mỗi X là alkyl có 1 đến 4 nguyên tử cacbon,
tốt hơn là metyl hoặc n-butyl; mỗi q là nằm
trong khoảng từ 12 đến 120; mỗi p là nằm
trong khoảng từ 1 đến 10, tốt hơn là nằm
trong khoảng từ 2 đến 5; và n là nằm trong
khoảng từ 2 đến 10.
Theo Công báo Sở hữu Công nghiệp
số 352/2017
Trở về đầu trang
**************
1-0017007 Quy trình làm sạch nước
Tác giả: Gantenbein Daniel (CH),
Scholkopf Joachim (DE), Gane Patrick A.C.
(GB).
Quốc gia: Thụy Sĩ
Sáng chế đề cập tới quy trình làm sạch
nước bao gồm bước bổ sung canxi cacbonat
tự nhiên đã được phản ứng bề mặt hoặc thể
huyền phù trong nước chứa canxi cacbonat tự
nhiên đã được phản ứng bề mặt và có độ pH
lớn hơn 6,0, được đo ở 200C, vào môi trường,
trong đó canxi cacbonat tự nhiên đã được
phản ứng bề mặt là sản phẩm phản ứng của
canxi cacbonat cacbon đioxit tự nhiên với
một hoặc nhiều axit.
Theo Công báo Sở hữu Công nghiệp số
352/2017
Trở về đầu trang
**************
1-0017095 Quy trình sản xuất nước mắm và nước mắm thu được
Tác giả: Shindo Jo (JP), Miki Hidemasa
(JP).
Quốc gia: Nhật
Sáng chế đề cập đến quy trình sản xuất
nước mắm làm giảm mùi cá đặc trưng của
nước mắm. Quy trình sản xuất nước mắm
khác biệt ở chỗ bao gồm bước bổ sung khoai
lang hấp và mật đường, koji, và muối vào cá
hoặc động vật có vỏ để sản xuất nước mắm.
Ngoài ra, sáng chế còn đề cập đến nước mắm
được sản xuất theo quy trình này, và gia vị
chứa nước mắm đó.
Theo Công báo Sở hữu Công nghiệp
số 352/2017
Trở về đầu trang
**************
Dịch vụ Cung cấp Thông tin Trọn gói Tháng 08/2017 38/45
1-0017089 Cơ cấu mở đồ chứa thực phẩm dạng lỏng
Tác giả: Moriyama Yasuyuki (JP), Ito
Koshaku (JP).
Quốc gia: Thụy Sỹ
Sáng chế đề cập đến cơ cấu mở đồ chứa
thực phẩm dạng lỏng, trong đó đặc tính bịt
kín là tốt và lỗ ống hút có thể được mở dễ
dàng, và thông qua đó thực phẩm dạng lỏng
có thể được uống bằng ống hút, trực tiếp
bằng miệng, và có thể được rót ra. Cơ cấu mở
dùng cho đồ chứa thực phẩm dạng lỏng được
bố trí ở phần đầu với thân nắp được tạo liền
khối bằng nhựa nhiệt dẻo và che phủ cửa rót,
trong đó thân nắp có các đường dễ xé mà xác
định phần đầu và các phần bịt kín sao cho
phần bịt kín có thể được cắt dễ dàng, thân
nắp gồm phần nắp thứ nhất nằm ở phía mặt
trước đồ chứa, phần nắp thứ hai nằm ở phía
mặt sau đồ chứa, và phần kẹp nhô ra từ phần
nắp thứ nhất, bản lề thứ nhất được bố trí giữa
phần nắp thứ nhất và phần nắp thứ hai sao
cho khi phần kẹp được kéo lên, phần nắp thứ
nhất xoay quanh bản lề thứ nhất để tạo ra lỗ
mở hẹp, và bản lề thứ hai được bố trí ở mép
trong phía mặt sau đồ chứa của thân nắp thứ
hai sao cho khi phần kẹp được kéo lên hơn
nữa, phần nắp thứ hai được xoay quanh bản
lề thứ hai để tạo ra lỗ mở rộng hơn.
Theo Công báo Sở hữu Công nghiệp số
352/2017
Trở về đầu trang
**************
1-0017090 Phương pháp khử trùng bao bì
Tác giả: Geissler Hanno (DE).
Quốc gia: Thụy Sỹ
Sáng chế đề xuất phương pháp khử
trùng bao bì được thiết lập ít nhất một phần
khi ống bọc ngoài bao kín ở toàn bộ phía
xung quanh. Chất khử trùng được phủ lên bao
bì. ống bọc ngoài bao bì được mở theo chiều
dọc của ống bọc ngoài trong vùng chứa cả hai
đầu trong suốt quá trình khử trùng và được
vận chuyển qua ống khử trùng. Chất khử
trùng được phủ lên ống bọc ngoài bao bì bên
trong ống khử trùng. Dọc theo ống khử trùng,
chất khử trùng chảy ra ngoài phần đầu mở
của ống bọc ngoài bao bì được đưa vào phần
đầu mở của ống bọc ngoài bao bì liền kề.
Theo Công báo Sở hữu Công nghiệp số
352/2017
Trở về đầu trang
**************
1-0017091 Chế phẩm dinh dưỡng dạng lỏng có nồng độ natri cao và phương pháp sản xuất chế phẩm này
Tác giả: Aso Takanobu (JP).
Quốc gia: Nhật
Sáng chế đề cập đến chế phẩm dinh
dưỡng dạng lỏng chứa protein, lipit, và
đường và có giá trị calo không nhỏ hơn 1
kcal/ml, trong đó nồng độ protein trong chế
phẩm nằm trong khoảng từ 30 đến 100mg/ml
và nồng độ natri trong chế phẩm lớn hơn
2mg/ml.
Thậm chí khi protein và natri đồng thời
có mặt với nồng độ cao, chế phẩm dinh
đưỡng dạng lỏng này không gây ra sự tạo gel
hoặc đông tụ và có thể duy trì độ ổn định
nhiệt và các đặc tính tốt. Do đó, thực phẩm
dinh dưỡng dạng lỏng chứa protein có nồng
độ cao, natri có nồng độ cao và có tính ổn
định nhiệt và các đặc tính tốt có thể được tạo
ra. Ngoài ra, sáng chế còn đề cập đến phương
Dịch vụ Cung cấp Thông tin Trọn gói Tháng 08/2017 39/45
pháp sản xuất chế phẩm dinh dưỡng dạng
lỏng này.
Theo Công báo Sở hữu Công nghiệp
số 352/2017
Trở về đầu trang
**************
1-0017002 Chế phẩm dùng để phòng trừ bệnh và phương pháp phòng trừ bệnh trên thực vật hữu ích
Tác giả: Tobler Hans (CH), Walter
Harald (DE), Haas Ulrich Johannes (DE).
Quốc gia: Thụy Sỹ
Sáng chế đề cập đến chế phẩm dùng để
phòng trừ bệnh do sinh vật gây hại trên thực
vật gây ra bao gồm (A) là hợp chất có công
thức (I)
trong đó R1 là flometyl hoặc triflometyl và X
là clo, flo hoặc brom; và (B) ít nhất một hợp
chất được chọn từ các hợp chất đã biết đối với
hoạt tính diệt nấm của chúng; và phương
pháp phòng trừ bệnh trên thực vật hữu ích,
đặc biệt là bệnh gỉ sắt trên cây đậu tương.
Theo Công báo Sở hữu Công nghiệp số
352/2017
Trở về đầu trang
**************
1-0017046 Hợp chất 5-flo-2-oxopyrimidin-1(2H)-carboxylat, chế phẩm chứa hợp chất này và phương pháp phòng trừ và ngăn ngừa sự tấn công của nấm
trên thực vật
Tác giả: Boebel Timothy (US), Bryan
Kristy (US), Lorsbach Beth (US),…
Quốc gia: Mỹ
Sáng chế đề cập đến các hợp chất 5-
flo-2-oxopyrimidin-1-(2H)-carboxylat và
dẫn xuất của chúng và các hợp chất này
được dùng làm chất diệt nấm.
Theo Công báo Sở hữu Công nghiệp
số 352/2017
Trở về đầu trang
**************
1-0017003 Hỗn hợp diệt cỏ chứa tefuryltrion, chế phẩm chứa hỗn hợp này và quy trình chống lại sự sinh trưởng của thực vật không mong muốn
Tác giả: Hacker Erwin (DE), Rosinger
Christopher Hugh (GB), Ueno Chieko
(JP),…
Quốc gia: Đức
Sáng chế đề cập đến hỗn hợp diệt cỏ
chứa:
A) tefuryltrion và
B) ít nhất một thuốc diệt cỏ khác.
Hỗn hợp này có hiệu lực lớn hơn rất
nhiều so với các thuốc diệt cỏ được sử dụng
riêng rẽ. Ngoài ra, sáng chế còn đề cập đến
chế phẩm diệt cỏ chứa hỗn hợp này và quy
trình chống lại sự sinh trưởng của thực vật
không mong muốn.
Theo Công báo Sở hữu Công nghiệp
số 352/2017
Trở về đầu trang
**************
Dịch vụ Cung cấp Thông tin Trọn gói Tháng 08/2017 40/45
1-0017034 Chế phẩm nông hoá chứa alkyl polypropylen glycol polyetylen glycol và quy trình điều chế chế phẩm này
Tác giả: Stork Andreas (DE),
Reckmann Udo (DE), Pontzen Rolf (DE).
Quốc gia: Đức
Sáng chế đề cập đến chế phẩm nông hóa
đặc hiệu chứa alkyl polypropylen glycol
polyetylen glycol và quy trình điều chế các
chế phẩm này.
Alkyl polypropylen glycol polyetylen
glycol trong chế phẩm theo sáng chế hữu
dụng làm chất tăng cường khả năng thấm cho
các hoạt chất nông hóa và/hoặc dưới dạng
chất tăng cường tính tự phát về khả năng
thấm của các chất lỏng dùng để phun.
Theo Công báo Sở hữu Công nghiệp
số 352/2017
Trở về đầu trang
**************
1-0017049 Chế phẩm dinh dưỡng chứa axit đa bất bão hoà và oligosacarit
Tác giả: Van Tol Eric A., F. (NL),
Willemsen LinetteEustachia Maria (NL),
Koetsier Marleen Antoinette (NL),..
Quốc gia: Hà Lan
Sáng chế đề cập đến chế phẩm dinh
dưỡng chứa axit eicosapentaenoic (EPA), axit
docosahexaenoic (DHA) và axit arachidonic
(ARA), và ít nhất hai oligosacarit khác biệt,
và sử dụng chế phẩm này cho động vật có vú
để kích thích tính nguyên vẹn màng ngăn.
Theo Công báo Sở hữu Công nghiệp
số 352/2017
Trở về đầu trang
**************
1-0017009 Quy trình điều chế azodicarbamit chứa silic
Tác giả: Korth Karsten (DE), Keck Julia
(DE), Witzsche Susann (DE),…
Quốc gia: Đức
Sáng chế đề cập đến quy trình điều chế
azodicarbamit chứa silic có công thức chung
(I) (R1)3-a(R2)aSi-R1-NH-C(O)-N=N-C(O)-
NH-R1-Si(R1)3-a(R2)a, bằng cách cho hợp
chất azobiscarboxy có công thức chung (II)
R3-X1-C(O)-N=N-C(O)-X1-R4 phản ứng với
aminosilan có công thức chung (III) (R1)3-
a(R2)aSi-R1-NH2.
Theo Công báo Sở hữu Công nghiệp
số 352/2017
Trở về đầu trang
**************
1-0017022 Chất hấp thụ thuỷ ngân, phương pháp điều chế chất hấp thụ thuỷ ngân và quy trình loại bỏ thuỷ ngân
Tác giả: Cousins Matthew John (GB).
Quốc gia: Anh
Sáng chế đề xuất chất hấp thụ thuỷ ngân
chứa sulphua kim loại, chất liệu mang, chất
kết dính thứ nhất và chất kết dính thứ hai,
trong đó chất kết dính thứ nhất đã nêu là chất
kết dính xi măng và chất kết dính thứ hai là
một chất kết dính có tỷ số kích thước cao có
tỷ số kích thước >2, và quy trình loại bỏ thuỷ
ngân bao gồm bước cho dòng cấp chứa thuỷ
ngân tiếp xúc với chất hấp thụ nêu trên.
Sáng chế cũng đề xuất phương pháp
điều chế chất hấp thụ thủy ngân, tiền chất hấp
thụ thủy ngân dạng hạt và quy trình loại bỏ
thủy ngân.
Theo Công báo Sở hữu Công nghiệp
số 352/2017
Trở về đầu trang
**************
Dịch vụ Cung cấp Thông tin Trọn gói Tháng 08/2017 41/45
1-0017031 Chế phẩm dầu bôi trơn
Tác giả: Matsui Shigeki (JP), Yaguchi
Akira (JP).
Quốc gia: Nhật
Sáng chế đề cập đến chế phẩm dầu bôi
trơn có độ nhớt tại tốc độ cắt cao ở nhiệt độ
cao (High Temparature High Shear - HTHS)
ở 1500C nhỏ hơn 2,6mPa.s và có thể giảm
một cách hiệu quả độ nhớt động học ở 400C,
độ nhớt động học ở 1000C và độ nhớt HTHS
ở 1000C và ngăn ngừa sự gia tăng hệ số ma
sát trong vùng bôi trơn ngoại biên và có các
đặc tính tiết kiệm nhiên liệu rất tốt. Chế phẩm
dầu bôi trơn này chứa dầu gốc bôi trơn có độ
nhớt động học ở 1000C nằm trong khoảng từ
1 đến 5mm2/s; (A) chất cải thiện chỉ số độ
nhớt có khối lượng phân tử trung bình khối
bằng 400.000 hoặc nhỏ hơn và chỉ số ổn định
cắt cố định (Permanent Shear Stability Index
- PSSI) bằng 20 hoặc nhỏ hơn; (B) chất tẩy
rửa kim loại được bazơ hóa quá mức có tỷ lệ
kim loại bằng 3,4 hoặc nhỏ hơn; và (C) chất
điều chỉnh ma sát, và có độ nhớt HTHS ở
1500C nhỏ hơn 2,6m.Pa.s.
Theo Công báo Sở hữu Công nghiệp
số 352/2017
Trở về đầu trang
**************
1-0017044 Polyuretan dẻo nhiệt, sản phẩm được làm từ polyuretan này và quy trình sản xuất chúng
Tác giả: Julius Farkas (US), Charles P.
Jakobs (US).
Quốc gia: Mỹ
Sáng chế đề cập đến polyuretan dẻo
nhiệt là sản phẩm phản ứng của (1) chất trung
gian polyeste có nhóm hydroxyl ở cuối mạch,
(2) polyisoxyanat, và (3) chất phát triển mạch
glycol; trong đó chất trung gian polyeste có
nhóm hydroxyl ở cuối mạch chứa các đơn vị
lặp dẫn xuất từ 1,3-propylen glycol và axit
dicarboxylic; trong đó chất trung gian
polyeste có nhóm hydroxyl ở cuối mạch có
trọng lượng phân tử trung bình số nằm trong
khoảng từ 500 đến 10000; và trong đó
polyuretan dẻo nhiệt có các đoạn cứng là sản
phẩm phản ứng của polyisoxyanat và chất
phát triển mạch glycol. Polyuretan dẻo nhiệt
theo sáng chế, khác biệt ở chỗ, hiện tượng bị
mờ giảm mạnh. Khác biệt này rất được mong
muốn trong các ứng dụng mà cần có độ trong
suốt cao, do hiện tượng bị mờ làm cho các
sản phẩm chứa polyuretan dẻo nhiệt có vẻ bề
ngoài bị phủ mờ hoặc bị mờ. Hiện tượng bị
mờ cũng có thể làm giảm khả năng liên kết
chặt của sản phẩm làm từ polyuretan dẻo
nhiệt với sản phẩm khác bằng chất kết dính.
Ngoài ra, sáng chế cũng đề cập đến các sản
phẩm được làm từ polyuretan dẻo nhiệt và
quy trình sản xuất chúng.
Theo Công báo Sở hữu Công nghiệp
số 352/2017
Trở về đầu trang
**************
1-0017103 Phương pháp sản xuất sợi liên tục, xốp
Tác giả: Clark Thomas (US).
Quốc gia: Mỹ
Sáng chế đề cập đến phương pháp sản
xuất sợi thảm liên tục, xốp trong đó, theo
nhiều phương án, phương pháp này bao gồm
các bước: (A) nghiền các chai PET tái chế
thành mảng vảy; (B) rửa vảy; (C) nhận dạng
và loại bỏ tạp chất kể cả vảy tạp, ra khỏi
mảng vảy; (D) cho mảng vảy đi qua máy ép
đùn MRS trong khi duy trì áp suất bên trong
bộ phận MRS của máy ép đùn MRS thấp hơn
1,5 milibar (150Pa); (E) cho polyme nóng
chảy thu được đi qua ít nhất một cơ cấu lọc có
khe lọc nhỏ hơn khoảng 50 micron, và (F) tạo
hình polyme tái chế thành sợi thảm liên tục,
Dịch vụ Cung cấp Thông tin Trọn gói Tháng 08/2017 42/45
xốp mà chủ yếu được tạo thành từ PET tái
chế.
Theo Công báo Sở hữu Công nghiệp số
352/2017
Trở về đầu trang
**************
1-0017037 Máy hút ẩm loại ngưng tụ
Tác giả: Youn You-jung (KR).
Quốc gia: Hàn Quốc
Sáng chế đề cập đến máy hút ẩm loại
ngưng tụ bao gồm: thân chính có bộ phận
chứa đối tượng cần làm khô, và cửa nạp
và cửa xả được tạo ra tương ứng tại phần
trên và phần dưới của bộ phận chứa này;
bộ phận làm khô dùng để cấp không khí
nóng qua cửa nạp của thân chính vào bộ
phận chứa; bộ phận ngưng dùng để làm
lạnh và ngưng không khí nóng xả qua cửa
xả của thân chính và tách không khí nóng
thành nước ngưng và không khí khô; ống
thứ nhất nối cửa xả của thân chính với bộ
phận ngưng, và dẫn không khí nóng xả
qua cửa xả của thân chính tới bộ phận
ngưng; ống thứ hai nối bộ phận ngưng với
bộ phận làm khô; và dẫn không khí khô
được tách bởi bộ phận ngưng tới bộ phận
làm khô; và ống trung gian có một đầu
được phân nhánh từ ống thứ nhất, và đầu
kia của nó được nối với ống thứ hai, trong
đó một lượng không khí nóng xả qua cửa
xả của thân chính đi qua ống trung gian
thông qua bộ phận làm khô và được cấp
tới bộ phận chứa.
Theo Công báo Sở hữu Công nghiệp
số 352/2017
Trở về đầu trang
**************
1-0017004 Tấm ốp trần dạng đúc
Tác giả: Yu Qing Claire (CN), Cao
Bangji (US), Palm Gregory O. (US).
Quốc gia: Mỹ
Sáng chế đề cập đến tấm ốp trần dạng
đúc chứa hỗn hợp bao gồm sợi khoáng với
lượng nằm trong khoảng từ 30 đến 70%, hạt
thủy tinh xốp với lượng nằm trong khoảng từ
10 đến 40%, tinh bột với lượng nằm trong
khoảng từ 8 đến 20%, vữa stucô với lượng
nằm trong khoảng từ 0 đến 15%, và axit boric
với lượng nằm trong khoảng từ 0 đến 1%.
Theo Công báo Sở hữu Công nghiệp số
352/2017
Trở về đầu trang
**************
Dịch vụ Cung cấp Thông tin Trọn gói Tháng 08/2017 43/45
1-0017068 Quy trình sản xuất sàn nhân tạo để chống lại sự nóng lên của trái đất
Tác giả: Chen Jui-Wen (TW), Chen
Ting-Hao (TW).
Quốc gia: Đài Loan
Sáng chế đề cập đến quy trình sản xuất
lớp sàn nhân tạo giúp chống lại sự nóng lên
của trái đất. Lớp sàn thấm nước được đề cập
gồm lớp thoát nước có chứa sỏi hoặc cát,
được cấu thành chọn lọc và lớp phân cách
được bố trí bên dưới lớp thoát nước. Lớp
phân chia sinh thái học được cấu thành và
được trám. Lớp phân chia sinh thái học bên
dưới có chức năng hỗ trợ và do lớp phân chia
sinh thái học gồm các khối rỗng có chức năng
như khối rỗng tích trữ nước phòng chống
thiên tai hoặc khối rỗng cải tạo đất hoặc khối
rỗng nuôi cấy vi sinh vật hoặc khối rỗng giữ
nước cho phép nước trên bề mặt nhanh chóng
thẩm thấu xuống khu vực đất dưới lòng đất,
giúp tầng phân chia sinh thái học bảo tồn
nước hiệu quả và thúc đẩy sự sinh sản của vi
sinh vật, theo đó khi nhiệt độ môi trường cao,
độ ẩm lòng đất có thể thoát ra ngoài qua các
ống thoát nước để cấu thành lớp sàn thấm
nước.
Theo Công báo Sở hữu Công nghiệp số
352/2017
Trở về đầu trang
**************
1-0017069 Lớp lát sinh thái thấm nước và hấp thu nước
Tác giả: Chen Jui-Wen (TW), Chen
Ting-Hao (TW).
Quốc gia: Đài Loan
Sáng chế đề xuất vật liệu sinh thái lát
nền thấm nước và hấp thu nước được tạo ra từ
vật liệu thấm nước là vật liệu thường được sử
dụng trong kết cấu lát và được trộn với các
khối rỗng độc đáo, nhờ đó tất cả các thành
phần tạo thành vật liệu kỹ thuật được trộn
một cách đồng đều và để tạo lớp lát sinh thái.
Bổ sung vào tính năng thấm nước của vật liệu
nền, lớp lát còn tạo ra các chức năng hấp thu
nước, chứa nước và giữ nước, nhờ đó làm
giảm khả năng xảy ra sự tích tụ nước gây tràn
nước trên bề mặt và cũng cho phép nước
được giữ lại khả năng lớn trong khoảng
không gian phía trong của lớp lát, nhờ đó hơi
nước có thể được giải phóng từ khoảng không
gian phía trong để làm giảm bớt hiệu ứng đảo
nhiệt trong trường hợp nhiệt độ của môi
trường cao.
Theo Công báo Sở hữu Công nghiệp
số 352/2017
Trở về đầu trang
**************
1-0017077 Thiết bị bán dẫn
Tác giả: Yamazaki Shunpei (JP), Imai
Keitaro (JP), Koyama Jun (JP).
Quốc gia: Nhật
Sáng chế đề cập đến thiết bị bán dẫn bao
gồm: tranzito có lớp chất bán dẫn ôxit; và
mạch lôgic được tạo ra nhờ sử dụng vật liệu
bán dẫn khác với chất bán dẫn ôxit. Một điện
Dịch vụ Cung cấp Thông tin Trọn gói Tháng 08/2017 44/45
cực trong số điện cực nguồn và điện cực
máng của tranzito được nối điện với ít nhất
một đầu vào của mạch lôgic, và ít nhất một
tín hiệu đầu vào được cấp đến mạch lôgic
thông qua tranzito nêu trên. Dòng trạng thái
tắt của tranzito được ưu tiên nhỏ hơn hoặc
bằng 1x10-13A.
Theo Công báo Sở hữu Công nghiệp
số 352/2017
Trở về đầu trang
**************
1-0017086 Chế phẩm dùng để sản xuất lốp xe máy và lốp xe máy được làm bằng chế phẩm này
Tác giả: Tomoyuki Matsumura (JP),
Takashi Iwasa (JP), Hisayoshi Kageyama
(JP),…
Quốc gia: Nhật
Mục đích của sáng chế là đề xuất chế
phẩm dùng để sản xuất lốp xe máy, có độ cản
chuyển động lăn thấp, có thể góp phần hạ
thấp mức tiêu hao nhiên liệu và đặc biệt tốt về
cảm giác cứng vững khi chuyển động rẽ, và
lốp xe máy được làm bằng chế phẩm này. Để
đạt được mục đích nêu trên, chế phẩm dùng
để sản xuất lốp xe máy theo sáng chế là chế
phẩm có trị số của tang số tổn thất (tan δ) ở
nhiệt độ đo 600C bằng hoặc nhỏ hơn 0,182, trị
số thu được theo công thức (1) dưới đây từ trị
số của tang số tổn thất (tan δ) ở nhiệt độ đo -
300C và trị số của môđun đàn hồi phức động
E* ở nhiệt độ đo - 300C bằng hoặc lớn hơn
1,4 [Mpa-1], trị số của môđun đàn hồi phức
động E* ở nhiệt độ đo 300C bằng hoặc lớn
hơn 9,6 [Mpa], và trị số của môđun đàn hồi
phức động E* ở nhiệt độ đo 600C bằng hoặc
lớn hơn 6,9 [Mpa].
Chỉ số tính chất vật lý = 104xtan δ/E*
(1)
Theo Công báo Sở hữu Công nghiệp số
352/2017
Trở về đầu trang
**************
1-0017097 Thiết bị ép, phương pháp may và máy may bao gồm thiết bị ép này
Tác giả: Guerreschi Carlo (IT).
Quốc gia: Ý
Sáng chế đề cập đến thiết bị ép có thể
lắp vào máy may (10) có hệ thống điều khiển
và bao gồm đầu máy (14) và bệ máy (12) mà
trên đó để đồ cần được may (50). Thiết bị ép
bao gồm thanh ép (24) có thể lắp vào đầu
máy (14), và chân vịt (26), được nối bằng
khớp xoay qua ngõng trục (28) trên thanh ép
(24) để thay đổi độ nghiêng của chân vịt (26)
đối với thanh ép (24). Chân vịt (26) được làm
thích hợp để đẩy đồ (50) nhằm giữ đồ này
dưới áp lực trên bệ máy (12) ngay cả khi độ
dày của đồ (50) thay đổi.
Dịch vụ Cung cấp Thông tin Trọn gói Tháng 08/2017 45/45
Theo Công báo Sở hữu Công nghiệp số
352/2017
Trở về đầu trang
**************