175
VĂN HỌC THIẾU NHI VIỆT NAM BÀI GIẢNG VĂN HỌC THIẾU NHI VIỆT NAM Tác giả: Lê Thị Hoài Nam Phần thứ nhất: DẪN LUẬN I. VỀ KHÁI NIỆM VĂN HỌC THIẾU NHI 1. Ở Việt Nam cũng như nhiều nước trên thế giới từ lâu đã có một bộ phận sáng tác văn học dành riêng cho thiếu nhi. "Theo nghĩa hẹp, văn học thiếu nhi gồm những tác phẩm văn học hoặc phổ cập khoa học dành riêng cho thiếu nhi. Tuy vậy, khái niệm văn học thiếu nhi cũng thường bao gồm một phạm vi rộng rãi những tác phẩm văn học thông thường (cho người lớn) đã đi vào phạm vi đọc của thiếu nhi" (Từ điển Thuật ngữ Văn học - Nxb GD- 1992). 2. Nhìn chung, những cuốn sách đầu tiên nằm trong phạm trù văn học thiếu nhi là những cuốn sách có nội dung giáo khoa và đạo lý: sách học vần, sách bách khoa, sách về quy tắc ứng xử trong xã hội, xuất hiện tại châu Âu ở thế kỉ XIV - XVI. Tính giáo huấn được coi là một trong đặc điểm quan trọng của văn học thiếu nhi. Bởi vậy, cho đến giữa thế kỉ XIX, những tác phẩm viết dành riêng cho thiếu nhi vẫn nằm ngoài phạm vi của văn học. Trong khi đó, những tác phẩm văn học viết cho người lớn lại đi vào

Bài Giảng Văn Học Thiếu Nhi ... - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/74.VanHocThieuNhiVietNam.docx  · Web viewVĂN HỌC THIẾU NHI VIỆT NAM . BÀI GIẢNG VĂN HỌC

  • Upload
    vunhu

  • View
    224

  • Download
    6

Embed Size (px)

Citation preview

Page 1: Bài Giảng Văn Học Thiếu Nhi ... - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/74.VanHocThieuNhiVietNam.docx  · Web viewVĂN HỌC THIẾU NHI VIỆT NAM . BÀI GIẢNG VĂN HỌC

VĂN HỌC THIẾU NHI VIỆT NAM BÀI GIẢNG

VĂN HỌC THIẾU NHI VIỆT NAM

Tác giả: Lê Thị Hoài Nam

Phần thứ nhất: DẪN LUẬN

I. VỀ KHÁI NIỆM VĂN HỌC THIẾU NHI1. Ở Việt Nam cũng như nhiều nước trên thế giới từ lâu đã có một bộ

phận sáng tác văn học dành riêng cho thiếu nhi. "Theo nghĩa hẹp, văn học

thiếu nhi gồm những tác phẩm văn học hoặc phổ cập khoa học dành riêng

cho thiếu nhi. Tuy vậy, khái niệm văn học thiếu nhi cũng thường bao gồm một

phạm vi rộng rãi những tác phẩm văn học thông thường (cho người lớn) đã đi

vào phạm vi đọc của thiếu nhi" (Từ điển Thuật ngữ Văn học - Nxb GD- 1992).

2. Nhìn chung, những cuốn sách đầu tiên nằm trong phạm trù văn học

thiếu nhi là những cuốn sách có nội dung giáo khoa và đạo lý: sách học vần,

sách bách khoa, sách về quy tắc ứng xử trong xã hội, xuất hiện tại châu Âu ở

thế kỉ XIV - XVI. Tính giáo huấn được coi là một trong đặc điểm quan trọng

của văn học thiếu nhi. Bởi vậy, cho đến giữa thế kỉ XIX, những tác phẩm viết

dành riêng cho thiếu nhi vẫn nằm ngoài phạm vi của văn học. Trong khi đó,

những tác phẩm văn học viết cho người lớn lại đi vào phạm vi đọc của trẻ em,

như: Đôn Kihôtê của M. Xecvantex. Robinxơn Cruxô của Dêphô, Gulivơ du ký

của Gi.Xuypt, Xpactac của R.Gôvahihôli. Túp lều bác Tôm của Bi chơ Xuân v

v. Ngoài ra, những loại truyện viết theo các mô típ Folklore (truyền thuyết, cổ

tích...) ; một số tiểu thuyết và truyện thuộc thể loại phiêu lưu cũng rất được

các em thích thú đón nhận.

Ở thế kỉ XX, văn học thiếu nhi phát triển khá đa dạng và pha tạp. Tại

nhiều nước phát triển, nó ít nhiều còn bị chi phối bởi xu hướng thương mại, bị

pha trộn bởi sự bành trướng của văn học đại chúng.

Page 2: Bài Giảng Văn Học Thiếu Nhi ... - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/74.VanHocThieuNhiVietNam.docx  · Web viewVĂN HỌC THIẾU NHI VIỆT NAM . BÀI GIẢNG VĂN HỌC

Ở việt Nam, đến đầu thế kỉ XX mới xuất hiện văn học thiếu nhi. Đến

nay đã có sự phát triển, phân nhánh của thơ thiếu nhi (bên cạnh thơ người

lớn), hoặc trong văn xuôi cho thiếu nhi đã hình thành các loại: Truyện sinh

hoạt, truyện cổ tích (sáng tác hiện đại theo lối cổ tích), truyện loài vật, truyện

lịch sử..v..v...

II. MỘT SỐ ĐẶC TRƯNG CƠ BẢN CỦA VĂN HỌC THIẾU NHI Văn học thiếu nhi là một bộ phận của văn học, nên nó cũng phải thực

hiện các chức năng của văn học. Chức năng của văn học là một khái niệm

mở, có nội dung phong phú. Nó không tồn tại tách rời mà gắn bó chặt chẽ với

nhau trong mối quan hệ chuyển hóa lẫn nhau. Bên cạnh những chức năng

đó, văn học thiếu nhi còn có những chức năng riêng mang tính đặc thù mà

thiếu nó hẳn văn học thiếu nhi sẽ không tồn tại trong sự phân biệt rạch ròi với

văn học viết cho người lớn. Những chức năng này hình thành bởi nhu cầu

giáo dục và khơi gợi năng lực tưởng tượng, sáng tạo ở lứa tuổi thiếu nhi. Tài

liệu này chỉ trình bày một số đặc trưng cơ bản nhất của loại hình nghệ thuật

đặc thù này.

1. Tính giáo dục

Văn học thiếu nhi có một vai trò to lớn trong việc giáo dục toàn diện về

đạo đức, trí tuệ, tình cảm, thẩm mỹ cho các em. Có thể nói, tính giáo dục là

một đặc điểm nổi bật mang tính sống còn của văn học thiếu nhi. Chính chức

năng này đã đem đến cho văn học thiếu nhi một sức mạnh có tác động cải

tạo cách nhìn, cách nghĩ và giáo dục đạo đức cho các em. Tô Hoài, một nhà

văn có nhiều kinh nghiệm viết cho thiếu nhi cũng đã khẳng định tầm quan

trọng của chức năng này: "Nội dung một tác phẩm văn học viết cho thiếu nhi

bao giờ cũng quán triệt vấn đề xây dựng đức tính con người. Nói thì thừa,

cần nhắc lại và thật giản dị, một tác phẩm chân chính có giá trị đối với tuổi thơ

là một tác phẩm tham dự mạnh mẽ vào sự nghiệp nên người của bạn đọc ấy"

Page 3: Bài Giảng Văn Học Thiếu Nhi ... - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/74.VanHocThieuNhiVietNam.docx  · Web viewVĂN HỌC THIẾU NHI VIỆT NAM . BÀI GIẢNG VĂN HỌC

Để thực hiện chức năng giáo dục, tác phẩm văn học thiếu nhi không

phải hiện ra như một người thầy quen thuyết giáo mà là một người bạn đồng

hành, người đối thoại với các em. Bằng một ngôn ngữ giàu cảm xúc và hình

ảnh, bằng giọng văn dí dỏm, thấm đẫm chất thơ, tác phẩm văn học thiếu nhi

ngấm sâu vào thế giới cảm xúc của trẻ thơ, nhen lên trong trái tim non trẻ của

các em những tình cảm trong sáng, nhân hậu, làm cho các em biết tôn trọng,

yêu thương, biết điều hay lẽ phải, biết tin yêu vào cuộc đời, khao khát khám

phá hiểu biết, ước mơ đi xa hơn chứ không sớm lụi tàn vì hoài nghi sợ hãi.

Và bằng cách đó văn học thiếu nhi đã chuyển quá trình giáo dục thành tự giáo

dục.

Cũng cần lưu ý, để thực hiện chức năng này, văn học thiếu nhi cũng có

thể viết về cái xấu, cái đáng phê phán. Nhưng chỉ nên dừng lại ở phê phán

nhẹ nhàng, có pha lẫn sự dí dỏm, hài hước. Ở đây, dường như giữa chức

năng giáo dục và giải trí vui chơi được hòa làm một. Không nên viết về cái

xấu-cái ác một cách nặng nề đề tránh làm tổn thương về sự bình yên trong

sáng trong tâm hồn của các em,đặc biệt là làm tổn thương đến niềm tin đầu

đời của các em. Cái mà văn học thiếu nhi mang lại cho trẻ thơ là cái đẹp, cái

cao quý, cái chân, cái thiện. Ma-ka-ren-cô, nhà sư phạm Nga lỗi lạc cũng đã

từng lưu ý: "Chúng tạ cần lấy nhân loại hoàn chỉnh để bồi dưỡng cho con em

chúng ta. Không nên để cho các em có những nhận thức không trong sáng,

không ổn định. Sự đồng tình của độc giả cần phải nghiêng vê phía nhân vật

chính diện một cách không do dự".

Muốn làm được như vậy, thì sự trong sáng, nhân hậu ấy phải bắt đầu

từ người cầm bút vì "con đường ngắn nhất là con đường đi từ trái tim đến trái

tim".

2. Kích thích, khơi gợi trí tưởng tượng sáng tạo

Tâm lý lứa tuổi thiếu nhi đóng một vai trò quan trọng trong việc tạo nên

sự khác biệt giữa văn học thiếu nhi và văn học người lớn. Ngây thơ, hồn

nhiên, trong sáng, tràn đầy cảm xúc và giàu trí tưởng tượng là những đặc

điểm nổi bật của lứa tuổi này. Đối với các em, thế giới được phản ánh trong

Page 4: Bài Giảng Văn Học Thiếu Nhi ... - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/74.VanHocThieuNhiVietNam.docx  · Web viewVĂN HỌC THIẾU NHI VIỆT NAM . BÀI GIẢNG VĂN HỌC

tác phẩm, dường như đều có tri giác. Các em đọc sách như là những cuộc trò

chuyện với cỏ cây hoa lá chim muông và hình dung thật hồn nhiên rằng, đó là

những cuộc đối thoại cảm thông thực sự. Chính sự hồn nhiên và khả năng

tưởng tượng vô cùng phong phú đã làm cho các em dễ hòa đồng với các

nhân vật. Các em hoàn toàn tin rằng, con ốc sên có thể trở thành nàng công

chúa nhan sắc tuyệt trần, con cóc xấu xí có thể biến thành vị hoàng tử khôi

ngô, tuấn tú; đứa trẻ ba năm không biết nói cười, không biết, đi đứng bỗng

vươn vai trở thành tráng sĩ, dẹp giặc cứu nước..y...v.... Khả năng tưởng

tượng của các em là vô tận cho nên sức hấp dẫn của các tác phẩm văn học

thiếu nhi đối với các em trước hết là ở cái chất huyền ảo, tưởng tượng của

nó. Điều đáng chú ý là, dẫu có huyền ảo, kỳ diệu đến đâu, văn học thiếu nhi

vẫn không tạo cho các em cảm giác xa lạ, mơ ước viễn vông, thoát lỵ thực tại

mà chỉ gợi lên những nét lãng mạn tích cực cần có, hướng các em tới một

tương lai, một cuộc sống tốt đẹp, nhen lên trong tâm hồn các em niềm hy

vọng vào những ước mơ, khám phá. Đó cũng là cách nhìn nhận biện chứng

mang lại sức hấp dẫn cho tác phẩm.

Chính vì vậy mà tưởng tượng là một yếu tố không thể thiếu, có vai trò

quan trọng trong quá trình sáng tạo của người nghệ sĩ viết cho thiếu nhi

Trong cuốn "Thi pháp nói về cái ảo" bàn về nghệ thuật viết truyện cho thiếu

nhi của nhà văn Ý: Gian ni Rodari, ông viết "Tưởng tượng, trong hoạt động

bình thường đã tạo ra các thủ pháp mà đến lượt nó, những thủ pháp này làm

cho tưởng tượng hoạt động mạnh trong sự va chạm giữa các từ, trong sự đối

lập giữa các yếu tố thực và ảo và do đó tạo ra sự hứng thú cho các em".

Hiện nay, nhiều cây bút viết cho thiếu nhi còn thiên về cái thật, cái trông

thấy được, cái phải giải thích được bằng lý lẽ. Trong khi đó, sự cảm nhận của

các em không phải lúc nào cũng nghiêng về lý lẽ.

Để có một tác phẩm văn học viết cho thiếu nhi vừa giản dị, trong sáng

lại vừa hấp dẫn,khơi gợi được trí tưởng tượng của các em là một thử thách

đối với người cầm bút. Nó đòi hỏi người nghệ sĩ phải biết hòa nhập vào đời

sống của các em trong tình bè bạn và được các em chấp nhận về mặt tình

Page 5: Bài Giảng Văn Học Thiếu Nhi ... - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/74.VanHocThieuNhiVietNam.docx  · Web viewVĂN HỌC THIẾU NHI VIỆT NAM . BÀI GIẢNG VĂN HỌC

cảm. Đó là một công việc khó khăn nhưng vô cùng hấp dẫn cho những ai

muốn kéo dài cuộc đối thoại với tuổi thơ.

HƯỚNG DẪN HỌC TẬP

I. Câu hỏi

1. Nêu khái niệm về Văn học Thiếu nhi

2. Những đặc trưng cơ bản của văn học thiếu nhi. Tai sao nói, tính giáo

dục là một đặc điểm quan trọng của văn học thiếu nhi?

II. Bài tập

1. Trí tưởng tượng kỳ diệu của Trần Đăng Khoa được thể hiện qua bài

ò ó o... (Sách Tiếng Việt 3 - Tập 1).

2. Tình yêu quê hương đất nước được thể hiện trong chương trình

truyện kể ở bậc Tiểu học.

III. Tu lịch tham khảo

1. Từ điển thuật ngữ văn học (Lê Bá Hán-Trần Đình Sử-Nguyễn Khắc

Phi) Nxb Giáo dục, 1992

2. Tạp chí Văn học, 5 -1993

3. Bộ sách Giáo khoa tiếng Việt Tiểu học, Nxb Giáo dục, 1994

Phần thứ hai: VĂN HỌC THIẾU NHI VIỆT NAM

Văn học thiếu nhi Việt Nam bao gồm ba bộ phận cấu thành: văn học

dân gian cho thiếu nhi, văn học viết cho thiếu nhi và văn học do thiếu nhi viết.

A - VĂN HỌC DÂN GIAN CHO THIẾU NHI I. KHÁI NIỆM VỀ VĂN HỌC DÂN GIAN

Page 6: Bài Giảng Văn Học Thiếu Nhi ... - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/74.VanHocThieuNhiVietNam.docx  · Web viewVĂN HỌC THIẾU NHI VIỆT NAM . BÀI GIẢNG VĂN HỌC

Văn học dân gian còn gọi là văn chương (hay Văn học bình dân, văn

học truyền miệng, văn chương truyền miệng hay truyền khẩu). Theo Từ điển

thuật ngữ văn học - Nxb GD - 1992 thì "Văn học dân gian là toàn bộ những

sáng tác nghệ thuật ngôn từ của nhân dân". Ở nước ta cũng như nhiều nước

khác, thuật ngữ văn học dân gian được dùng với nhiều nghĩa rộng hẹp khác

nhau.

II. NHŨNG ĐẶC TRƯNG CƠ BẢN CỦA VĂN HỌC DÂN GIAN

Văn học dân gian có nhiều đặc điềm và thuộc tính quan trọng đáng chú

ý như: Tính truyền miệng, tính nguyên hợp, tính tập thể, tính vô danh, tính dị

bản, tính truyền thống, tính địa phương, tính quốc tế v v tài liệu này chỉ trình

bày một cách khái quát những đặc trưng cơ bản của văn học dân gian.

1. Văn học dân gian là một loại hình nghệ thuật mang tính tập thể

Bàn về tính tập thể trong quá trình sáng tạo văn học dân gian, nhà

Folklore học Nga V.E.Guxép quan niệm: "Sáng tác tập thể là một hành động

sáng tạo diễn ra nhiều lần, được thực hiện bởi một số đông hoặc nhiều, hoặc

ít những cá nhân có tài làm thành tập thể".

Theo quan niệm trên đây, tính tập thể trước hết cần được xem là một

đặc trưng của quá trình sáng tạo văn học dân gian. Điều này được thể hiện

một cách tự nhiên, liên tục trong một thời gian dài và không gian rộng lớn. Nó

nắm ngay trong cả quá trình sáng tác, lưu truyền và diễn xướng của văn học

dân gian. Đây là điểm phân biệt văn học dân gian như là sản phẩm của sáng

tác tập thể với văn học viết là sản phẩm của sáng tác cá nhân. Dĩ nhiên, nói

đến tính tập thể, không có nghĩa là phủ nhận vai trò sáng tạo của cá nhân các

nghệ sĩ dân gian. Mỗi tác phẩm văn học dân gian khi mới ra đời bao giờ cũng

là sản phẩm của một cá nhân. Nhưng khi tác phẩm được tập thể tiếp nhận thì

vai trò của cá nhân bị lu mờ, dần dần trở thành vô danh, thành tài sản chung

của tập thể. Và tập thể có thể trở thành người cùng sáng tác, bổ sung, sửa

chữa theo những chiều hướng khác nhau.

Page 7: Bài Giảng Văn Học Thiếu Nhi ... - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/74.VanHocThieuNhiVietNam.docx  · Web viewVĂN HỌC THIẾU NHI VIỆT NAM . BÀI GIẢNG VĂN HỌC

Tính tập thể còn được xem là một đặc trưng thẩm mỹ của văn học dân

gian. Đối tượng thẩm mỹ của sáng tác dân gian là toàn bộ những gì có liên

quan đến cộng đồng, đến tập thể. Nó tái tạo, phản ánh hiện thực và tâm tư

tình cảm của con người theo quan điểm lý tưởng, thị hiếu thẩm mỹ của tập

thể. Cái riêng, cái cá thể được thể hiện qua cái chung và tìm thấy sự đồng

cảm trong cái chung của tập thể

2. Văn học dân gian - một loại hình nghệ thuật mang tính tổng hợp

Văn học dân gian là một loại hình nghệ thuật ngôn từ của nhân dân.

Nhưng văn học dân gian được tạo thành không phải chỉ bởi yếu tố ngôn từ.

Ngay từ khi mới xuất hiện, văn học dân gian đã có sự hòa lẫn với những hình

thái khác nhau của ý thức xã hội. Về sau, dù đã có nhiều biến đổi, văn học

dân gian vẫn chứa đựng nhiều yếu tố của tính tổng hợp. Đó là sự kết hợp của

nghệ thuật ngôn từ với các loại hình nghệ thuật dân gian khác như âm nhạc,

ca hát, nhảy múa, nghệ thuật diễn xuất. Ở một vài thể loại nó còn gắn với trò

chơi và các nghi lễ.

Tính tổng hợp của văn học dân gian còn được biểu hiện ở sự kết hợp

và hòa lẫn với chức năng thực hành. Nó không chỉ làm thỏa mãn nhu cầu

sáng tạo và thưởng thức nghệ thuật mà còn là một bộ "Bách khoa toàn thư

của mấy nghìn năm, bao gồm các mặt sinh hoạt, phong tục tập quán, lễ giáo,

kinh nghiệm sống về vật chất và tinh thần"

Sự kết hợp giữa nghệ thuật ngôn từ với nhiều loại hình nghệ thuật khác

ở văn học dân gian và sự hòa lẫn với chức năng thực hành và các chức năng

văn hóa khác của văn học dân gian đã làm cho tính tổng hợp trở thành một

trong những đặc trưng cơ bản của văn học dân gian.

3. Văn học dân gian - một loại hình nghệ thuật mang tính truyền miệng

Văn học dân gian luôn luôn có mối quan hệ mật thiết với mọi sinh hoạt

đời sống của nhân dân. Bằng các phương thức nói, kể, hát, diễn... nhân dân

ta đã tạo nên các tác phẩm ngôn từ để giải bày, trao đổi, giao lưu tư tưởng,

Page 8: Bài Giảng Văn Học Thiếu Nhi ... - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/74.VanHocThieuNhiVietNam.docx  · Web viewVĂN HỌC THIẾU NHI VIỆT NAM . BÀI GIẢNG VĂN HỌC

tình cảm với nhau. Vì thế, văn học dân gian có đời sống của một tác phẩm

biểu diễn.

Sống đời sống của một tác phẩm biểu diễn, cho nên truyền miệng là

phương thức chủ yếu để sáng tác, phổ biến và lưu giữ. Khi chưa có chữ viết,

truyền miệng là phương thức duy nhất để thỏa mãn nhu cầu sáng tạo và

hưởng thụ nghệ thuật của nhân dân. Song khi chữ viết đã hình thành, nhân

dân vẫn sử dụng phương thức truyền miệng là chủ yếu trong sáng tác, diễn

xướng và lưu truyền văn học dân gian.

Bên cạnh những yếu tố tương đối bền vững được kế thừa và phát huy, tính

truyền miệng và tính tập thể đã làm cho văn học dân gian biến đổi không

ngừng tạo nên hàng loạt dị bản. Đây là một trong những yếu tố quan trọng

làm cho văn học dân gian có thể phản ánh kịp thời, đầy đủ thực tiễn sinh

động của đời sống nhân dân các địa phương và giúp cho việc diễn đạt tư

tưởng, tình cảm của nhân dân có hiệu quả nhất.

Tính truyền miệng được nhiều người coi là thuộc tính quan trọng nhất

và có quan hệ nhiều nhất với các thuộc tính và đặc điểm khác của văn học

dân gian.

III. NHỮNG GIÁ TRỊ XÃ HỘI CỦA VĂN HỌC DÂN GIAN

Văn học dân gian có giá trị xã hội to lớn. Người ta thường phân giá trị

ấy thành ba mặt chính: giá trị nhận thức, giá trị giáo dục và giá trị thẩm mỹ.

1. Giá trị nhận thức

Là một loại hình nghệ thuật gắn bó với mọi mặt hoạt động của đời sống

nhân dân, văn học dân gian là sự kết hợp rực rỡ của trí tuệ, tài năng, tư

tưởng, tình cảm của nhân dân qua bao thế hệ. :Nó đem lại những hiểu biết

phong phú và xác thực về cuộc sống lao động, sinh hoạt gia đình và những

quan hệ xã hội của nhân dân, về phong tục tập quán, về thiên nhiên đất

nước... Nó còn đem lại những hiểu biết về đời sống tình cảm, đời sống tâm

Page 9: Bài Giảng Văn Học Thiếu Nhi ... - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/74.VanHocThieuNhiVietNam.docx  · Web viewVĂN HỌC THIẾU NHI VIỆT NAM . BÀI GIẢNG VĂN HỌC

linh, những quan niệm về nhân sinh, về thế giới quan cùng những phẩm chất

tinh thần của nhân dân...

Những hiểu biết này là vô giá, và có tác dụng to lớn trong việc "bổ

sung, đính chính, sàng lọc nghiên cứu kiến thức của chúng ta về lịch sử dân

tộc". (Nguyễn Khánh Toàn)

2. Giá trị giáo dục

Tác phẩm văn học, dân gian thuộc bất kỳ thể loại nào, bao giờ cũng

hàm chứa điều răn dạy, có tác dụng giáo dục.

Được đánh giá là "Bách khoa toàn thư của mấy nghìn năm" (Nguyên

Khánh Toàn). Văn học dân gian đã góp phần phát triển tư duy, bồi dưỡng cho

nhân dân những phẩm chất đáng quý của người lao động như: tính cần kiệm,

óc thực tiễn, sự khôn ngoan, tính nhân hậu... Nó còn khơi dậy lòng yêu quê

hương, đất nước, lòng tự hào về truyền thống- vẻ vang của dân tộc, đánh

thức niềm tin yêu con người, yêu cuộc sống, hướng họ vươn tới cái chân,

thiện, mỹ... Trong cuộc đấu tranh chống thiên tai, chống áp bức và giặc ngoại

xâm, văn học dân gian là bài ca cổ vũ, khích lệ nhân dân và là một vũ khí sắc

bén chống lại kẻ thù.

3. Giá trị thẩm mỹ

Văn học dân gian trải qua hàng nghìn năm lịch sử hình thành và phát

triển đã tạo nên các giá trị nghệ thuật đặc sắc về ngôn ngữ, hình tượng nhân

vật, kết cấu, biểu diễn... Vì vậy nó có tác dụng to lớn trong việc phát triển mỹ

cảm, tạo nguồn chất liệu ngôn từ giàu đẹp, trong sáng cho văn học viết.

Nhìn chung, trong các tác phẩm văn học dân gian, giá trị nhận thức, giá

trị giáo dục, giá trị thẩm mỹ luôn hòa quyện với nhau, nương tựa và tôn tạo

lẫn nhau.

IV. VĂN HỌC DÂN GIAN VỚI TRẺ EM

Page 10: Bài Giảng Văn Học Thiếu Nhi ... - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/74.VanHocThieuNhiVietNam.docx  · Web viewVĂN HỌC THIẾU NHI VIỆT NAM . BÀI GIẢNG VĂN HỌC

Văn học dân gian đóng vai trò quan trọng trong đời sống trẻ em, nhất là

đời sống trẻ em nông thôn xưa kia. Suốt thời thơ ấu, những khúc hát ru, vỗ về

dìu đắt đưa trẻ vào giấc ngủ, những câu nói vần vè ngộ nghĩnh được trẻ hát

lên trong lúc vui chơi; những câu chuyện cổ dân gian kỳ ảo đẹp đẽ đã làm trẻ

say mê... Những sáng tác nghệ thuật truyền miệng đó được gọi là văn học

dân gian trẻ em.

Văn học dân gian trẻ em bao gồm những sáng tác nghệ thuật miệng

của các em, những thơ ca và truyện dân gian được sáng tác với mục đích

dành cho trẻ em và một số tác phẩm văn học dân gian "dùng chung" tức là

tác phẩm văn học dân gian của người lớn nhưng đã đi vào phạm vi đọc của

trẻ em.

Văn học dân gian trẻ em khá đa dạng về thể loại. Hầu như ở thể loại

nào của văn học dân gian cũng được các em đón nhận, nhưng ở những mức

độ khác nhau, những phương diện khác nhau. Trong số đó, cổ tích là một

trong những thể loại được các em yêu thích nhất.

Trong số các tác phẩm do người lớn sáng tác cho trẻ em, hát ru là một

biệt loại có vị trí nổi bật và có sức sống lâu bền hơn cả. Chức năng sinh hoạt

của nó là ru trẻ ngủ bằng những âm điệu được ngân lên một cách tự nhiên

của tình mẫu tử. Nó là một thứ sữa nuôi dưỡng bé thơ ngay từ thuở trong nôi

không chỉ về mặt thể chất mà bao hàm cả ý nghĩa tinh thần.

Nhóm bài đồng dao cũng trở thành một thứ trò chơi quen thuộc của trẻ

suốt bao thế kỉ qua. Sức hấp dẫn của những bài đồng dao đối với trẻ không

phải là ở "Tính chất bí ẩn hầu như không thể giải thích nổi" ở nội dung của nó

mà chính là những bài ca "vô nghiệm đó đã làm thỏa mãn nhu cầu về tốc độ

và trí tưởng tượng cực kỳ phong phú của các em. Nó dẫn các em nhảy cóc từ

sự vật này sang sự vật khác thật nhanh làm cho trí tưởng tượng của các em

không dừng lại một lúc, một nơi mà có thể chuyển đổi, xê dịch, kéo dài tùy

thích.

Các em cũng rất thích câu đố, tục ngữ, những thể loại không được

sáng tác với mục đích dành cho các em. Từ thuở chưa cắp sách đến trường,

Page 11: Bài Giảng Văn Học Thiếu Nhi ... - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/74.VanHocThieuNhiVietNam.docx  · Web viewVĂN HỌC THIẾU NHI VIỆT NAM . BÀI GIẢNG VĂN HỌC

các em đã được làm quen với tục ngữ với câu đố, với ca dao qua những cuộc

chơi, những bài hát...Với câu đố, ai đoán nhanh, ai đoán trúng người đó đã

hoàn thành cuộc chơi. Đến trường, các em học tục ngữ, ca dao, câu đố với tư

cách là một hình tượng văn. Bằng liên tưởng và trí tưởng tượng, chúng làm

hiện lên trong tâm trí các em những cảnh đời người, những gì thân thuộc

trong cuộc sống xung quanh, gợi lên trong các em những tình cảm trong

sáng, đẹp đẽ.

Thần thoại, truyền thuyết là những thể loại mà người nghệ sĩ dân gian

sáng tạo nhằm thể hiện lòng thành kính, tưởng niệm của người xưa. Tuy

nhiên, có rất nhiều thần thoại, truyền thuyết gắn với thời thơ ấu hoặc kỷ niệm

về về thời thơ ấu của mỗi dân tộc. Vì vậy, nó cũng phù hợp với tâm lý tiếp

nhận của các em, được các em yêu thích. Cổ tích và ngụ ngôn luôn là những

món ăn tinh thần hợp khẩu vị của các em. Có thề nói, truyện cổ tích là loại

hình nghệ thuật dân gian phù hợp hơn cả với bản chất và tâm lý của trẻ em

với nhu cầu được giải trí, được giải tỏa những ẩn ức, được xúc động và sáng

tạo, được thấy cái tốt, lẽ công bằng cuối cùng đã chiến thắng tất cả. Xu khâm

lin xúi, nhà sư phạm lỗi lạc của Nga đã từng nói về cổ tích:"Không phải là một

chuỗi đơn giản các sự kiện kỳ ảo, đó là một thế giới trong đó trẻ em vận động,

chống chọi, đem cái thiện chí của mình ra đối kháng với cái ác".

Chính vì những lẽ đó mà văn học dân gian trẻ em đã trở thành một bộ

phận quan trọng trong nền văn học thiếu nhi chúng ta.

V. CÁC THỂ LOẠI VĂN HỌC DÂN GIAN VIỆT NAM

1. Thần thoại

2. Truyền thuyết

3. Cổ tích

4. Ngụ ngôn

5. Truyện cười

Page 12: Bài Giảng Văn Học Thiếu Nhi ... - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/74.VanHocThieuNhiVietNam.docx  · Web viewVĂN HỌC THIẾU NHI VIỆT NAM . BÀI GIẢNG VĂN HỌC

6. Câu đố

7. Ca dao

8. Đồng dao

Bài 1 - THẦN THOẠII. KHÁI NIỆM THẦN THOẠI

Thần thoại là một loại hình văn học dân gian ra đời và phát triển trong

thời kỳ công xã nguyên thủy. Nó là một hệ thống truyện kể hoang đường kỳ

ảo về các vị thần tạo lập vũ trụ, các nhân vật sáng tạo văn học, các anh hùng

dũng sĩ thời cổ đại. Chức năng chủ yếu của thần thoại là giải thích nguồn gốc

vũ trụ, các hiện tượng tự nhiên, sự ra đời cua muôn loài và sự hình thành các

tộc người.

Không phải ngay từ đầu, người nguyên thủy sáng tạo thần thoại với

mục đích làm nghệ thuật. Thần thoại nẩy sinh trước hết do nhu cầu giải thích

các hiện tượng tự nhiên và xã hội của con người nguyên thuỷ trong một năng

lực tư duy còn hạn chế với thế giới quan thần linh và những cảm nhận về sự

vật còn hết sức hồn nhiên, ngây thơ và chưa giải thích được một cách đầy

đủ, khoa học các hiện tượng tự nhiên. Họ giải thích các hiện tượng tự nhiên

bằng cách quy tất cả vào hoạt động của thế giới thần linh. Những hiện tượng

kỳ ảo hoang đường là kết quả của sự nhào nặn thế giới tự nhiên trong trí

tưởng tượng của người xưa.

Trong thần thoại, Thần là hình tượng nhân vật trung tâm. Hầu hết các vị

thần đều là hiện thân của lực lượng tự nhiên, Các vị thần tuy được các nghệ

sĩ dân gian xây dựng với vẻ khác thường nhưng vẫn mang dáng vẻ chất phát

ngây thơ của người nguyên thuỷ. Thần Trụ Trời, thần Biển, thần Sét đều ngự

trị trong thế giới tự nhiên bao quanh con người: Thần cai quản, tạo dựng và

điêu hành thế giới tự nhiên. Có một số vị thần là thủy tổ các nghề: Thần Thợ

Mộc, Thần Thợ Rèn, thần Nông...v..v...

Page 13: Bài Giảng Văn Học Thiếu Nhi ... - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/74.VanHocThieuNhiVietNam.docx  · Web viewVĂN HỌC THIẾU NHI VIỆT NAM . BÀI GIẢNG VĂN HỌC

II. NỘI DUNG - Ý NGHĨA CỦA THẦN THOẠI

1. Ý nghĩa hiện thực và khoa học của thần thoại

Thần thoại không trực tiếp phản ánh hiện thực. Thế giới trong thần

thoại không phải là thế giới trong tầm quan sát của chúng ta. Nhưng qua tấm

màn hoang đường, kỳ ảo của trí tưởng tượng, chúng ta vẫn nhận ra bóng

dáng của hiện thực.

Ý nghĩa hiện thực không tách rời khỏi ý nghĩa khoa học của thần thoại

Đó là những hạt nhân hợp lý trong sự mô tả phi lý. Người nguyên thủy trong

quá trình quan sát thực tế đã nhận thức được một cách mơ hồ và cảm tính..

Một số quy luật của tự nhiên: ngày và đêm, sống và chết, sự thay đổi của bốn

mùa, sự tồn tại của thế giới vật chất v v Người xưa giải thích rằng: sở dĩ có

trời, đất, núi, sông là do thần Trụ Trời tách đôi khối hỗn nang, dậy một nửa

lên cao; nửa còn lại thần ra sức đào bới để đắp cột chống trời, tạo nên địa

hình như ngày nay. Rõ ràng, thần Trụ Trời không hóa phép để tạo ra vũ trụ,

núi sông, mà ngược lại, khối hỗn mang không biết có từ bao giờ. Đó là yếu tố

duy vật trong cảm nhận của người xưa về thế giới.

Thần Sét hung hăng, dữ tợn nhưng vẫn phải chịu nằm yên trong những

ngày lạnh cóng. Nữ thần Mặt trời chỉ đi chậm vào mùa hè và đi nhanh vào

mùa đông, kết thúc của những câu chuyện về người lột xác, về cây đa cải tử

hoàn sinh vẫn là con người đến già thì phải chết, không ai có thể chống lại

được: Sự cảm nhận được quy luật của tự nhiên làm cho thần thoại trở thành

một "kho tàng trí khôn kinh nghiệm”. Thần thoại chính là triết học, là khoa học

của người xưa.

2. Ý nghĩa nhân văn qua thần thoại

Thần thoại được sáng tạo ra không chỉ nhằm mục đích giải thích tự

nhiên, cất giữ kinh nghiêm mà còn ca ngợi khả năng của con người trong

công cuộc lao động và đấu tranh chinh phục tự nhiên. Thần Thợ mộc, thần

Nông, thần Mưa đến thần Trụ trời v...và đều là hình ảnh của những con người

khai sơn phá thạch, chinh phục thiên nhiên. Thần dùng sức lao động của

Page 14: Bài Giảng Văn Học Thiếu Nhi ... - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/74.VanHocThieuNhiVietNam.docx  · Web viewVĂN HỌC THIẾU NHI VIỆT NAM . BÀI GIẢNG VĂN HỌC

mình tác động vào tự nhiên, cải biến tự nhiên. Điều đó đã phản ánh khả năng

người và được nhân dân ca ngợi đến mức thần thánh hóa.

Ý nghiã nhân văn trong thần thoại còn thể hiện ở những ước mơ giải

phóng con người ra khỏi sự đe dọa của thiên nhiên.

Người nguyên thủy ước mơ một cuộc sống no đủ và nhàn hạ (lúa ở

ngoài đồng tự nhiên chạy vào nhà), nhưng điều quan trọng hơn là ước mơ

chiến thắng thiên nhiên. Ở đây, con người đôi khi đã lộ hẳn ra chứ không dấu

mình sau hình tượng thần nữa. Cường Bạo Đại Vương đã chiến thắng thần

Sét, Cóc đã "đại náo thiên cung", bắt trời làm mưa; thần Sơn Tinh đã thắng

được giặc nước; chàng Quái đã bắn rơi mặt trời.v.v....Bằng những ước mơ

đó con người đã nâng tầm của mình lên để tạo thêm sức mạnh chiến thắng

trong hiền thực. Đó là những "khát vọng bức thiết của con người cải tạo thế

giới".

Ý nghĩa nhân văn của thần thoại, suy cho cùng là sự tự ý thức về mình

của người nguyên thủy. Sự tự ý thức đó là ngọn đuốc soi đường đưa nhân

loại tiến lên.

III. ĐỊNH HƯỚNG PHÂN TÍCH THẦN THOẠI

1. Những điều cần lưu ý

Thần thoại Việt thường được chia làm 2 nhóm: những thần thoại suy

nguyên (tức là những thần thoại giải thích nguồn gốc một số hiện tượng, sự

vật tự nhiên) và những thần thoại sáng tạo (tức là những thần thoại "anh hùng

hóa"). Trong hai nhóm đó, thì một số thần thoại trong nhóm thần thoại sáng

tạo, đã biến thành những truyền thuyết về thời dựng nước. Do đó, có những

truyện vừa có thể coi là truyền thuyết vừa có thể coi là thần thoại. Vì vậy, khi

phân tích cần phải có phương pháp thích hợp để lọc ra, phục nguyên lại cái

lõi thần thoại cổ đại đã bị nhào nặn, pha trộn với các yếu tố của các đời sau.

Biết bỏ qua những từ ngữ, những chi tiết mang dấu ấn rõ rệt của sự thêm

thắt, thêu dệt của đời sau.

Page 15: Bài Giảng Văn Học Thiếu Nhi ... - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/74.VanHocThieuNhiVietNam.docx  · Web viewVĂN HỌC THIẾU NHI VIỆT NAM . BÀI GIẢNG VĂN HỌC

2. Định hướng chung về nội dung

Thần thoại phản ánh nhận thức non nớt, sai lệch, đầy tính chất hư ảo

của người xưa về thế giới cũng như bản thân con người và thể hiện sự bất

lực của họ trước sự vật; hiện tượng mà họ không hiểu nổi. Cho nên không

cần thiết phải "chứng minh" những điều hoang đường, trong cách giải thích

các sự vật, hiện tượng tự nhiên của thần thoại. Nhưng không thể không chỉ ra

những chi tiết phản ánh sự bất lực của người xưa trước sức mạnh của thiên

nhiên.

Thần thoại tuy hoang đường nhưng đã có những yếu tố duy vật thô sơ

trong thế giới quan của người xưa. Việc chú ý đến mặt này có thể giúp các

em nhận ra ý nghĩa của nó đối với người đương thời.

3. Phân tích hình tượng "Thần"

"Thần" là một nhân vật trung tâm của thần thoại. Ở đây, các sự vật hiện

tượng tự nhiên được nhào nặn trong trí tưởng tượng của người xưa được họ

hình tượng hóa, thường là nhân hóa hoặc những "nhân vật anh hùng" được

thần thánh hóa. Thêm nữa, thần thoại văn chỉ là những biểu tượng và những

mẫu chuyện chưa thành cốt truyện, chưa có kết cấu, tình tiết. Vì vậy, việc

phân tích thần thoại chủ yếu là công việc phân tích hình tượng “thần". Cụ thể

là: phân tích các chi tiết về hình dạng "thần", chức năng của "thần" ; các chi

tiết về hành trạng, sự tích của "thần"; các chi tiết và quan hệ giữa các "thần",

giữa "thần" với xã hội loài người.

4. Dạy thần thoại cho học sinh tiểu học

Ngoài những yếu tố cần lưu ý trên, dạy thần thoại nói riêng và truyện kể

dân gian nói chung cho đối tượng là học sinh tiều học cần để học sinh dựng

lại toàn bộ hình tượng chứa đựng trong mỗi tác phẩm. Việc đơn giản nhất là

các em biết tự mình kể lại câu chuyện. Song trong các truyện kể dân gian,

những lời kể thưởng đơn giản và lướt qua rất nhanh. Nay, để đọng lại hình

tượng, giáo viên phải biết cách tổ chức hoạt động của các em, làm sao qua

các thao tác tưởng tượng và liên tưởng để các em huy động được sức nhìn,

Page 16: Bài Giảng Văn Học Thiếu Nhi ... - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/74.VanHocThieuNhiVietNam.docx  · Web viewVĂN HỌC THIẾU NHI VIỆT NAM . BÀI GIẢNG VĂN HỌC

sức nghe và cả những giác quan khác nữa nhằm tái tạo lại hình tượng đó một

cách sống động như đang hiển hiện trước mắt các em.

Một thủ pháp quan trọng thường được sử dụng trong quá trình dựng

hình tượng là cho các em kể lại câu chuyện trong lời kể và tâm trạng của

nhân vật trong truyện. Cách chuyển vai trò đó làm cho trẻ em suy nghĩ tinh tế

hơn, đặc biệt là cá tính từng em sẽ nổi lên rất rõ.

Bài 2 - TRUYỀN THUYẾTI. KHÁI NIỆM VỀ TRUYỀN THUYẾT

Truyền thuyết là một loại truyện dần gian ra đời sau và tiếp nối thần

thoại, có chức năng chủ yếu là nhận thức, phản ánh các sự kiện, các nhân

vật lịch sử có vai trò và ảnh hưởng quan trọng đối với một thời kỳ, một cộng

đồng bộ tộc, cộng đông dân tộc hoặc đối với một địa phương, một quốc gia.

Đặc trưng tiêu biểu nhất của truyền thuyết là tính xác thực, cụ thể dựa

trên những sự kiện và nhân vật lịch sử có thật. Lịch sử là cảm hứng, là đề tài

chất liệu đề làm nên nội dung truyền thuyết. Xu hướng lịch sử hóa trong

truyền thuyết ngày càng mạnh. Người xưa luôn luôn muốn khẳng định rằng,

những điều được kể trong truyền thuyết đều là sự thật. Càng phát triển về

sau, sự thật trong truyền thuyết càng trở nên rõ ràng hơn. Song lịch sử qua tư

duy nghệ thuật của tác giả dân gian đã được "nhào nặn" lại: Sự kiện lịch sử đi

vào truyền thuyết theo sự kết hợp của hai xu hướng, xu hướng lịch sử hóa và

xu hướng kỳ ảo hóa. Và nó đã trở thành nguyên tắc trong quá trình sáng tác

truyền thuyết. Thiếu đi một trong hai xu hướng trên, truyền thuyết không thể

ra đời.

Tùy theo đặc điểm nội dung và nghệ thuật, truyền thuyết có thể được

chia thành nhiều tiểu loại hoặc bộ phận khác nhau, trong đó, tiêu biểu và giá

trị nhất là bộ phận truyền thuyết thời kỳ Văn Lang Âu Lạc.

II. NỘI DUNG - Ý NGHĨA CỦA TRUYỀN THUYẾT.

Page 17: Bài Giảng Văn Học Thiếu Nhi ... - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/74.VanHocThieuNhiVietNam.docx  · Web viewVĂN HỌC THIẾU NHI VIỆT NAM . BÀI GIẢNG VĂN HỌC

1. Truyền thuyết dân gian gắn liền với niềm tự hào dân tộc

Hơn bất cứ một thể loại văn học dân gian nào khác, truyền thuyết có

một quá trình phát triển rất dài. Có thể nói, truyền thuyết đã đi cùng với lịch sử

dân tộc. Nó làm nhiệm vụ và chức năng của sử thi trong việc phản ánh và tái

tạo lịch sử của cộng đồng người Việt Nam trong quá trình dựng nước và giữ

nước, âm điệu chủ yếu trong truyền thuyết là âm điệu ngợi ca

Từ thuở sinh cơ lập nghiệp, nhân dân ta đã ca ngợi công lao của các vị

anh hùng khai phá. Lạc Long Quân diệt Hổ Tinh, Ngư Tinh, Mộc Tinh, bà ấu

Cơ dạy dân trồng lúa, chăn tằm, dệt cửi... Sự ngợi ca gắn liền với niềm tự

hào lớn lao về đòng dõi con Lạc cháu Hồng. Câu chuyện trăm trứng Âu Cơ có

một ý nghĩa thiêng liêng đặc biệt không gì có thể so sánh được.

Niềm tự hào dân tộc được thể hiện qua sự ngợi ca người anh hùng

chống xâm lược. Nếu truyện về Lạc Long Quân là bài ca đựng nước thì

truyện về Thánh Gióng là bài ca giữ nước. Lạc Long Quân cũng là một vị anh

hùng trong cuộc giao tranh nhưng Thánh Gióng mới thật sự là người anh

hùng chiến trận.

Niềm tự hào dân tộc trong các thiên truyền thuyết đời sau tiếp tục gắn

liền với sự tích về các vị anh hùng cứu nước và giữ nước. Không phải ngẫu

nhiên các nhà sử học đã khẳng định: Lịch sử Việt Nạm vô cơ bản là lịch sử

của những cuộc đấu tranh chống xâm lược. Hàng loạt truyền thuyết ra đời đã

theo sát lịch sử dân tộc. Đó là các truyền thuyết về Bà Trưng, Bà Triệu,

Phùng Hưng, Trần Hứng Đạo, Lê Lợi.v.v... Hình tượng người anh hùng cứu

nước và giữ nước được thể hiện có chiều sâu hơn so với hình tượng người

anh hùng chiến trận trong truyền thuyết cổ đại. Nếu như ta chỉ biết người anh

hùng làng Gióng ra trận với thanh gươm và con ngựa sắt thì ta còn biết Bà

Trưng, Bà Triệu ra trận với chí căm thù giặc sâu sắc. Trần Hưng Đạo biết dẹp

mối thù riêng để làm việc lớn. Tấm lòng sắt son với nước, ý chí quyết tâm tiêu

diệt giặc đến cùng của mỗi người anh hùng trong sự nghiệp quang vinh đã

được nghìn đời sau khâm phục và ca ngợi..

Page 18: Bài Giảng Văn Học Thiếu Nhi ... - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/74.VanHocThieuNhiVietNam.docx  · Web viewVĂN HỌC THIẾU NHI VIỆT NAM . BÀI GIẢNG VĂN HỌC

Niềm tự hào dân tộc trong những thiên truyền thuyết đời sau gắn liền

với việc ngợi ca người anh hùng như những nhân vật đẹp một cách phi

thường và hoàn hảo. Mặc dù truyền thuyết đời sau không mô tả được người

anh hùng với kích thước khổng lồ như Thánh Gióng hoặc Sơn Tinh, nhưng

vẫn có nhiều yếu tố mang tính chất sử thi.

Truyền thuyết về các vị anh hùng cứu nước và giữ nước là nguồn tài

liệu vô cùng phong phú lấp chỗ trũng cho lịch sử hàng nghìn năm đô hộ của

phong kiến nước ngoài. Đời sau, khi viết lại lịch sử đấu tranh oanh liệt của

dân tộc, các sử gia không thể không dựa vào trí nhớ của nhân dân, những

người anh hùng đã được nhân dân nhận thức và định giá trên một quan điểm

hoàn toàn đúng đắn, khác hẳn với quan niệm của giai cấp phong kiến cho

người anh hùng như là đại điện cho một giai cấp, một dòng họ làm theo mệnh

trời, giữ yên ngôi báu hoặc tô vẽ người anh hùng như là những tấm gương

tận tụy với triều đình. Truyền thuyết đã góp phần khẳng định lại công lao của

người anh hùng trong sự nghiệp đấu tranh chung của toàn dân tộc.

2. Truyền thuyết dân gian phản ánh tinh thần dân chủ của nhân dân trong lịch sử dân tộc

Tinh thần dân chủ dược phản ánh khá đậm nét trong những thiên

truyền thuyết về người anh hùng nông dân khởi nghĩa. Ở đây, truyền thuyết

dân gian theo sát lịch sử theo một phương diện khác không phải phương diện

bảo vệ đất nước mà là phương diện chống áp bức, bóc lột. Tinh thần dân chủ

không nằm trong phạm trù dân tộc mà nằm trong phạm trù giai cấp. Truyền

thuyết về người anh hùng nông dân khởi nghĩa xuất hiện khá muộn, đặc biệt

nở rộ vào thời kỳ chế độ phong kiến suy tàn.

Truyền thuyết về người anh hùng dân tộc chống xâm lăng đã ưu tiên

mô tả sự xuất thân từ cuộc đời bình thường của các nhân vật nhưng chưa

nhấn mạnh khía cạnh lam lũ, cơ cực của cuộc đời ấy.

Truyền thuyết về người anh hùng nông dân khởi nghĩa đã nhấn mạnh

được khía cạnh này. Có bao nhiêu cuộc đời anh hùng thì có bấy nhiêu cuộc

đời lao khổ: Nguyễn Hữu Cầu, Chàng Lìa lúc đầu là những đứa trẻ mồ côi, đi

Page 19: Bài Giảng Văn Học Thiếu Nhi ... - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/74.VanHocThieuNhiVietNam.docx  · Web viewVĂN HỌC THIẾU NHI VIỆT NAM . BÀI GIẢNG VĂN HỌC

ở. Hầu Tạo xuất thân từ một chàng trai lang thang nay đây mai đó; Nguyễn

Hữu Khôi làm nghề chở đò ngang. Họ là những con người tiêu biểu cho nỗi

thống khổ của người nông dân trong chế độ suy tàn. Đỉnh cao quyết liệt trong

hành động của người anh hùng là tuyên chiến với các thế lực phong kiến

thống trị, kể cả với triều đình trung ương tập quyền. Những người anh hùng

đã nhiều phen làm nghiêng ngã cả xã hội phong kiến, bè lũ vua quan phải run

sợ trước sức mạnh "đội trời, đạp đất" của họ. Truyền thuyết dân gian về

người anh hùng nông dân khởi nghiã đã để cho hậu thế những trang vô cùng

sảng khoái. Cuộc đời chiến đấu của người anh hùng nông dân tuy ngắn ngủi

nhưng đầy ý nghĩa: lý tưởng nghìn đời của người nông dân là tự do, bình

đẳng đã có dịp được thực hiện trong cuộc sống.

Tuy nhiên, đối với người anh hùng nông dân, truyền thuyết dân gian

không chỉ ca ngợi, mà còn phê phán. Đây là cách đánh giá khách quan, thể

hiện quan điểm đúng đắn của người lao động với tư cách là tác giả của văn

học dân gian. Truyền thuyết đã thể hiện khá rõ những nét hạn chế thuộc về

bản chất của người anh hùng nông dân khởi nghĩa.

Ngoài giá trị nghệ thuật, truyền thuyết vê người anh hùng nông dân

khởi nghĩa còn là nguồn tài liệu lịch sử vô cùng quý giá cho đời sau. Khi chính

sử của nhà nước phong kiến, thực dân cố tình bóp méo xuyên tạc, bôi nhọ

những cuộc khởi nghiã và những lãnh tụ của nghĩa quân thì truyền thuyết dân

gian đã đánh giá lại những nhân vật và sự kiện nảy với cách nhìn khách

quan, trung thực.

III. ĐỊNH HƯỚNG PHÂN TÍCH TRUYỀN THUYẾT

1. Tìm hiếu cốt truyện

Truyền thuyết lịch sử dân gian, nhìn chung không có một mô hình kết

cấu được trau chuốt như một phương tiện nghệ thuật đặc thù (như truyện cổ

tích thần kỳ). Do đó, nói chung chưa có vấn đề phân tích kết cấu đối với các

thể loại này.

Page 20: Bài Giảng Văn Học Thiếu Nhi ... - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/74.VanHocThieuNhiVietNam.docx  · Web viewVĂN HỌC THIẾU NHI VIỆT NAM . BÀI GIẢNG VĂN HỌC

Cốt truyện về đại thể có ba phần:

- Hoàn cảnh xuất hiện người anh hùng

- Sự nghiệp của người anh hùng

- Chung cục, thân thế người anh hùng.

Vì "nguyên liệu chính để xây dựng cốt truyện là hành động của nhân

vật trung tâm, mà nhân vật của truyện cổ dân gian công chính là hành động

của nó, cho nên phân tích truyện cũng là phân tích nhân vật

2. Phân tích nhân vật

Nhân vật chính của truyền thuyết là trung tâm của sự kiện được kể lại

Vì vậy khi phân tích truyền thuyết cần gắn nhân vật với sự kiện. Có thể tiến

hành phân tích theo trình tự sau:

+ Tìm nhân vật trung tâm

+ Tóm tắt cốt truyện

+ Phân tích nhân vật theo diễn biến của sự kiện.

Từ hành động của nhân vật trong hoàn cảnh cụ thể mà rút ra những

nhận xét làm cơ sở cho một sự tổng hợp, dẫn tới một cách hiểu chung về

nhân vật. Điều cần lưu ý trong quá trình phân tích, cần đối chiếu với chính sử

để tìm hiểu thái độ và cách đánh giá này của nhân dân so với thái độ cách

đánh giá "chính thống" của chính sử đối với cùng một sự kiện, cùng một nhân

vật lịch sử.

3. Đặt truyền thuyết vào môi sinh của nó

Truyền thuyết lịch sử dân gian không bao giờ tồn tại tách rời với sự thờ

cúng, nghi lễ, tín ngưỡng, tập tục. Cho nên phân tích lịch sử cần phải chú ý

viện dẫn cả những yếu tố tín ngưỡng, lễ tục gắn với chúng để làm rõ bản chất

và đặc trưng thể loại, đồng thời nêu bật được tâm tính tha thiết của nhân dân,

qua nhiều thế hệ, gửi gắm vào mảng văn hóa dân gian này.

Page 21: Bài Giảng Văn Học Thiếu Nhi ... - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/74.VanHocThieuNhiVietNam.docx  · Web viewVĂN HỌC THIẾU NHI VIỆT NAM . BÀI GIẢNG VĂN HỌC

Bài 3 - TRUYỆN CỔ TÍCH I. KHÁI NIỆM VỀ TRUYỆN CỔ TÍCH

Cổ tích là một thể loại truyện dân gian. Khi thần thoại trên bước đường

tan rã thì cổ tích dân đần được hình thành. Cùng với sử thi, những truyện cổ

tích đầu tiên có mầm mống từ thần thoại, nảy sinh từ giai đoạn cuối của xã

hội nguyên thủy, nhưng chủ yếu phát triển trong xã hội phong kiến, xã hội có

sự phân chia giai cấp sâu sắc. Do đó, đối tượng thẩm mỹ của nó khác với

thần thoại. Truyện cổ tích hướng vào đời sống xã hội thời cổ, những xung đột

trong xã hội đã phát sinh áp bức giai cấp.

Với hình tượng nhân vật tích cực tiêu biểu cho đạo đức, trí khôn và sức

mạnh tinh thần của nhân dân, với cốt truyện xây dựng trên những hành động

có tính chất phiêu lưu của các nhân vật trung tâm, truyện cổ tích chứa đựng

cả một pho kinh nghiệm sống của nhân dân, thể hiện ước mơ và niềm tin của

nhân dân về chiến thắng cuối cùng của lẽ phải, sự công bằng và lòng nhân ái

đối với gian tham, bất công và tàn bạo. Tóm lại của cái thiện với cái ác.

Truyện cổ tích có chức năng bền vững, từ bao đời nay nó vẫn được coi

là “truyện kể trong nhà cho trẻ nhỏ" và do ông bà cha mẹ kể lại cho con cháu.

Còn đối với các em, truyện cổ tích là thế giới trong đó con người có dịp đem

toàn bộ "ý chí tốt đẹp của mình ra chống lại các lực lượng đen tối".

Căn cứ vào những nét khác biệt và kiểu nhân vật và tính chất câu

chuyện kể có liên quan, người ta chia thể loại truyện cổ tích ra làm 3 tiểu loại:

Truyện cổ tích thần kỳ, Truyện cổ tích sinh hoạt, Truyện cổ tích loài vật.

1. Truyện cổ tích thần kỳ

Truyện cổ tích thần kỳ là một bộ phận quan trọng và tiêu biểu nhất của

thể loại cổ tích. Truyện cổ tích thần kỳ là những truyện kể về chuyện tưởng

tượng xung quanh số phận cuộc đời của kiểu nhân vật bất hạnh. Nhân vật

chính trong truyện cổ tích thần kỳ vẫn là những con người trong thực tại

nhưng các lực lượng thần kỳ, siêu nhiên có một vai trò quan trọng. Hầu như

mọi xung đột trong thực tại giữa người và người đều bế tắc, không thể giải

Page 22: Bài Giảng Văn Học Thiếu Nhi ... - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/74.VanHocThieuNhiVietNam.docx  · Web viewVĂN HỌC THIẾU NHI VIỆT NAM . BÀI GIẢNG VĂN HỌC

quyết nổi nếu thiếu yếu tố thần kỳ (Ví dụ: Truyện Cây khế, Truyện Tấm Cám,

Truyện Thạch Sanh...)

Trong truyện cổ tích thần kỳ, các nhân vật thường gồm 3 loại chính:

nhân vật chính diện hay phe thiện (như Thạch Sanh, Tấm, Sọ Dừa...), nhân

vật phản diện hay phe ác (như Lý Thông, Cám. mẹ Cám...) và các nhân vật

thần kỳ hoặc báu vật có tác dụng kỳ diệu (như tiên, bụt, đàn thần, nồi cơm

thần...)

2. Truyện cổ tích sinh hoạt (hay cổ tích thế sự)

Đó là những truyện cổ tích không có hoặc rất ít yếu tố thần kỳ. Ở đây,

các mâu thuẫn xung đột xã hội giữa người với người được giải quyết một

cách hiện thực, không cần đến những yến tố siêu nhân. Những yếu tố thần kỳ

nếu có cũng không giữ vai trò quan trọng và nhiều khi chỉ là sự tô điểm cho

câu chuyện thêm vẻ ly kỳ, hấp dẫn mà thôi. Ví dụ truyện Vợ chàng Trương,

truyện Cây tre trăm đốt....

3. Truyện cổ tích loài vật

Là loại truyện cổ tích lấy loài vật làm đối tượng phản ánh, tường thuật

và lý giải là chủ yếu. Loại chuyện này ở thời cổ xưa hầu hết các dân tộc đều

có, ở đây, các loài vật được nhân hóa một cách hồn nhiên trong trí tưởng

tượng của nhân dân thời cổ. Truyện cổ tích loài vật được nẩy sinh từ nhu cầu

của người thời cổ muốn đúc kết những kinh nghiệm và hiểu biết về đời sống

và tập tính của một số con vật ít nhiều có liên quan đến cuộc sinh tồn của họ.

Truyện cổ tích loài vật do đó, cũng mang đấu vết quan niệm của người xưa

về tự nhiên.

Về sau, những kinh nghiệm và hiểu biết về loài vật, hòa lẫn với những

kinh nghiệm hiểu biết về con người và xã hội, và dần dần có sự đan xen giữa

đề tài "xã hội loài vật" với đề tài "xã hội loài người". Các con vật ở trong

truyện cũng mang những tính tình, tính cách rõ nét của các loại người (con

sói tham lam, con cáo xảo quyệt, con hổ hung bạo, con thỏ khôn ngoan

v...v...).

Page 23: Bài Giảng Văn Học Thiếu Nhi ... - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/74.VanHocThieuNhiVietNam.docx  · Web viewVĂN HỌC THIẾU NHI VIỆT NAM . BÀI GIẢNG VĂN HỌC

Một số truyện cổ tích loài vật gần với truyện ngụ ngôn. (Ví dụ: Truyện

Sự tích con công và con quạ, truyện Vì sao Trâu không có hàm răng trên...).

Tuy vậy, giữa hai thể loại này vẫn có nét khác biệt về mặt thi pháp: một bên là

cả một câu chuyện; một bên (truyện ngụ ngôn) chỉ có dáng dấp của một màn

kịch nhỏ.

II. NỘI DUNG, Ý NGHĨA TRUYỆN CỔ TÍCH

1. Truyện cổ tích phản ánh hiện thực cuộc sống của người xưa

Như trên đã nói, truyện cổ tích thiên về phản ánh thực tế đời sống xã

hội. Tư duy nghệ thuật của nhân dân trong thời đại phát sinh và phát triển của

truyện cổ tích không phải là thứ “tư duy hướng lên trời" như trong thời đại của

thần thoại mà là thứ tư duy "giàu thực tiễn".

Trước tiên là hiện thực về cuộc sống gia đình. Truyện cổ tích đã thể

hiện được những mâu thuẫn, những xung đột trong gia đình xưa như là cơ sở

của những chuyển biến xã hội.

Mâu thuẫn giữa gia đình nảy (sinh trong quá trình hình thành những

quan hệ mới giữa các thành viên. Mâu thuẫn này ngày càng trở nên sâu sắc

vì những lý đo kinh tế, làm cho các thành viên trong gia đình phân hóa thành

hai lực lượng đối lập một bên là các thành viên lớn tuổi, người anh, người chị,

người mẹ ghẻ...", còn một bên là các thành viên nhỏ tuổi (người em, người

mô côi, người con riêng… Những truyện cổ tích tiêu biểu nhất cho chủ đề này

là Tâm Cám, Cây Khế, Sự tích chim đa đa... ở đây, các lực lượng đối lập

trong gia đình đã tham gia vào những cuộc xung đột kéo dài, gay gắt, thậm

chí một mất một còn. Quá trình xung đột, bản chất của các lực lượng đối lập

được phơi bày, các thành viên lớn tuổi thường là những kẻ tham lam, xảo

quyệt, tàn ác và ngu ngốc, còn các thành viên nhỏ tuổi lại đôn hậu, trung

thực, thông minh.

Mâu thuẫn gia đình về bản chất cũng lả mâu thuẫn xã hội, trong những

giai đoạn lịch sử sau (đặc biệt là ở thời phong kiến) mâu thuẫn trong gia đình

Page 24: Bài Giảng Văn Học Thiếu Nhi ... - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/74.VanHocThieuNhiVietNam.docx  · Web viewVĂN HỌC THIẾU NHI VIỆT NAM . BÀI GIẢNG VĂN HỌC

trở thành mâu thuẫn xã hội. Màu sắc giai cấp đã bao trùm lên các lực lượng

đối lập trong gia đình. Vì vậy, xung đột gia đình đã chuyển thành xung đột xã

hội.

Trong truyện cổ tích, ta không chỉ thấy những xung đột mà còn thấy

những cảnh đời: Cuộc sống giàu sang của kẻ tàn ác, bóc lột và sự nghèo

khổ, bất hạnh, thua thiệt của người dân lành. Nó gợi lên trong lòng người đọc,

người nghe những tình cảm yêu ghét mãnh liệt: đồng cảm với những số phận

bé nhỏ, khổ đau và lòng căm thù đối với các thế lực hắc ám - nguyên nhân

của những nỗi bất hạnh trong thế giới con người.

Tuy nhiên, khi đánh giá về khả năng phản ánh hiện thực của truyện cổ

tích, ta nhận thấy truyện cổ tích luôn luôn thiên về những vấn đề đạo đức. Để

thực hiện chức năng giáo huấn của mình, truyện cổ tích không thể vượt ra

khỏi ranh giới của phạm trù đạo đức để bước sang lĩnh vực "chủ nghĩa hiện

thực" thuần tuý. Nói một cách khác, các tác giả của thuyền cổ tích dân gian

nhìn hiện thực từ góc độ đạo đức. Vì vậy xung đột trong truyện cổ tích thực

chất là xung đột của những phạm trù đạo đức đối lập: trung thực, xảo quyệt,

hiền lành, tàn ác, ích kỷ, vị tha v..v...

2. Truyện cổ tích "chiếu rọi ánh sáng vào một thế giới khác"

Trong mối quan hệ giữa tương lai và thực tại thì truyện cổ tích hướng

về tương lai nhiều hơn. Thế giới trong truyện cổ tích dưa như xa lạ và đối lập

với những gì đang có và đã có. Vì vậy, đây chính là thế giới của ước mơ. Thế

giới này hoàn toàn phù hợp với tâm lý thiếu nhi

a. Ước mơ về sự hoàn thiện cua con người

Nhân vật trung tâm của truyện cổ tích là những con người "nhỏ bé"

sống dưới đáy xã hội, bị khinh rẻ và bị áp bức bóc lột. Người đời sau gọi họ là

phe thiện, nhân vật chính diện. Các nhân vật này đều rất trung thực. Phẩm

chất trung thực của họ bị đẩy đến mức cực đoan nhằm đối lập với những

người xấu xa, gian trá đang tồn tại ngoài xã hội. Điều đó làm cho nhân vật có

Page 25: Bài Giảng Văn Học Thiếu Nhi ... - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/74.VanHocThieuNhiVietNam.docx  · Web viewVĂN HỌC THIẾU NHI VIỆT NAM . BÀI GIẢNG VĂN HỌC

phần xa lạ với cuộc đời, đứng cao hơn cuộc đời và trở thành một phẩm chất

lý tưởng để con người hướng tới

Đi liền với trung thực là tình thương. Hầu như các nhân vật chính diện

đều biết yêu thương và vị tha vô hạn. Đó là một thứ tình thương dành cho

những người cùng cảnh ngộ. Ta có thể hiểu được vì sao cô Tấm chỉ đến ở

với bà lão hàng nước cô đơn; vì sao Sọ Dừa lại đầu thai vào một nhà nghèo

khổ. Trong truyện cổ tích, một quá trình thường xẩy ra là: nhờ có tình thương

và lòng vị tha mà con người có thể đi tới những bước ngoặt quan trọng của

cuộc đời mình. Trong số những thử thách đối với nhân vật chính diện, sự thử

thách về tình thương và lòng vị tha chiếm một số lượng đáng kể. Cô gái nhỏ

dấu cơm đem cho ông lão qua đường mà được ban thưởng sắc đẹp. Chàng

nông dân cứu giúp con chó, con mèo mà được chứng giúp đỡ, trở nên giàu

có... Như vậy, tình thương không chỉ là bản chất của người lao động mà còn

là cơ sở, là nền tảng trong quá trình phát triển của chính cuộc sống. Thế giới

của truyện cổ tích chan hòa ánh sáng của lòng nhân ái, vị tha làm dịu đi

những nỗi gian truân của số phận trái ngang. Truyện cổ tích thắp lên niềm tin

cho trẻ thơ rằng: cái ác vẫn còn nhưng tình yêu thương mới là vô hạn.

Bên cạnh loại nhân vật mồ côi, truyện cổ tích còn có nhân vật "người

thông minh", "nhân vật dũng sĩ” đã góp phần thể hiện ước mơ con người về

sự hoàn thiện, hoàn mỹ của mình.

b. Uớc mơ về sự đổi đời

Sinh ra trong nghèo khó và bị áp bức bóc lột, địa vị thấp kép trong gia

đình và ngoài xã hội, các nhân vật "nhỏ bé" luôn luôn mơ ước về sự đổi đời.

Trước đây, trong thần thoại, con người luôn mơ về một cuộc sống no

đủ và nhàn hạ thì ở cổ tích con người lại muốn vươn lên trở thành giàu có. Vì

vậy, nhân vật trong truyện cổ tích thường nhận được rất nhiều vàng, bạc,

châu báu sau những tháng ngày gian truân vất vả. Từ một phương diện khác,

ta còn thấy truyện cổ tích hướng tới sự công bằng xã hội về công lý; chính

nghĩa phải thắng gian tà; người hiền gặp lành, người yếu đuối được bênh vực

và ngược lại cái xấu cái ác phải được trừng trị đích đáng. Tất nhiên, để đạt

Page 26: Bài Giảng Văn Học Thiếu Nhi ... - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/74.VanHocThieuNhiVietNam.docx  · Web viewVĂN HỌC THIẾU NHI VIỆT NAM . BÀI GIẢNG VĂN HỌC

được lý tường công bằng, nhiều khi nhân vật phải đấu tranh quyết liệt mới

giành được thắng lợi. Cô Tấm phải chết đi sống lại nhiều lần, Thạch Sanh

phải bao phen chìm nổi...

Ngoài chuyện ước mơ và khát vọng, toàn bộ thế giới trong cổ tích đậm

đà sắc ảo. Nó dường như là thế giới thật nhưng cũng đường như là một thế

giới khác. Người nông dân đáng thương là rất thực nhưng anh ta có thể bay

lượn trên không trung, phục sinh người chết bằng cách vẩy nước thần,...

Những yếu tố đó đã làm cho truyện cổ tích có sức hấp dẫn lạ kỳ đối với trẻ nít

Chính cái "thế giới khác" đã tại nên chất thơ cho truyện cổ tích. Nó làm cho

"gian nhà học nghề đáng thương của người học nghề thành thế giới của thơ

ca, thành một lâu đài mỹ lệ và làm cho cái đẹp khỏe, chắc của họ giống như

một nàng công chúa trẻ kiều diễm". Truyện cổ tích đã mang đến cho người

đọc, người nghe những rung động sâu sắc và mãnh liệt, trên cơ sở để giáo

dục con người một lý tưởng lành mạnh.

III. HƯỚNG DẪN PHÂN TÍCH TRUYỆN CỔ TÍCH

1. Định hướng chung

Thông thường, trong quá trình phân tích truyện cổ tích, chúng ta

thường khai thác tác dụng giáo dục đạo đức cho các em. Điều đó đúng

nhưng chưa đủ. M.Gorki từng viết: "Trong các truyện cổ tích, điều trước tiên

có khả năng giáo dục là sự "hư cấu”. Cái khả năng kỳ diệu của trí óc chúng ta

có thể nhìn xa về phía trước sự kiện". Ông coi "chính sự tưởng tượng, chính

sự hư cấu đã sáng tạo và tu dưỡng một trong những phẩm chất kỳ diệu của

con người là trực giác". Vì vậy, bên cạnh việc khai thác tác dụng giáo dục của

những bài học đạo đức cần chú ý phát huy năng lực tưởng tượng cho các em

thông qua việc hướng dẫn cho các em đi vào những “ảo giác êm đẹp" đầy

quyến rũ từ những trang cổ tích gợi lên.

2. Phân tích nhân vật và cốt truyện

Page 27: Bài Giảng Văn Học Thiếu Nhi ... - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/74.VanHocThieuNhiVietNam.docx  · Web viewVĂN HỌC THIẾU NHI VIỆT NAM . BÀI GIẢNG VĂN HỌC

Trong truyện cổ tích, nói chung, nhân vật - tính cách hành động là một

thể thống nhất. Tính cách của nhân vật cổ tích thường được biểu hiện qua

hành động và chưa có sự khác biệt giữa cái chung và cái riêng cá thể.

Còn cốt truyện cổ tích về cơ bản cũng là chuỗi hành động của nhân vật

chính: Khái niệm "hành động ở đây bao hàm cả "hoàn cảnh" trong đó diễn ra

các hành vi ứng xử tương ứng của nhân vật chính (hoàn cảnh thử thách đối

với nhân vật chính). Sự xuất hiện nhân vật phụ cũng được hiểu là hoàn cảnh.

Số phận của nhân vật chính trong truyện cổ tích thường là một cuộc

"đổi đời" nhưng rõ ràng là đầy chất mơ tưởng. Tuy vậy, việc đi sâu vào một

cuộc sống khác so với cuộc đời bất hạnh của những nhân vật "nhỏ bé" trong

xã hội cũ sẽ giúp ta hiểu thêm về khát vọng "đổi đời" của người xưa.

Bài 4 - TRUYỆN NGỤ NGÔN I. KHÁI NIỆM VỀ TRUYỆN NGỤ NGÔN

Truyện ngụ ngôn là một hình thức kể bằng văn vần hay văn xuôi trong

đó, ta mượn câu chuyện thường là về loài vật để gửi gấm một bài học về đạo

đức, kinh nghiệm sống, hoặc một điều răn dạy có tính chất triết lý về nhân

sinh, thế sự.

Đặc trưng cơ bản nhất của truyện ngụ ngôn là mượn thế giới loài vật đồ

vật để nói về con người. Trong truyện ngụ ngôn, con người hầu như trực tiếp

hiện ra như trong truyện cổ tích. Vì vậy, mỗi truyện ngụ ngôn là một ẩn dụ

lớn.

Mục tiêu của truyện ngụ ngôn là bài học triết lý. Khi nào câu chuyện đạt

tới bài học triết lý thì khi đó truyện ngụ ngôn kết thúc. Vì vậy truyện ngụ ngôn

có 2 phần rõ rệt: Câu chuyện kể và bài học luân lý.

II. NỘI DUNG, Ý NGHĨA CỦA TRUYỆN NGỤ NGÔN

1. Truyện ngụ ngôn và triết lý ứng xử dân gian

Page 28: Bài Giảng Văn Học Thiếu Nhi ... - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/74.VanHocThieuNhiVietNam.docx  · Web viewVĂN HỌC THIẾU NHI VIỆT NAM . BÀI GIẢNG VĂN HỌC

Con đường đi tới triết lý của truyện ngụ ngôn là con đường thông qua

sự phê phán, phủ nhận để rút ra kết luận. Truyện ngụ ngôn thường phê phán

những sai lầm của người đời và chỉ ra rằng những hành động sai lầm ấy nhất

định sẽ dẫn đến thất bại. Răn dạy bằng mặt trái của cuộc sống, truyện ngụ

ngôn đã tạo cho mình một sức thuyết phục mạnh hơn là trực tiếp nêu sự thật

của lẽ phải

Bên cạnh việc nêu bài học về hành động sai lầm của người đời, truyện

ngụ ngôn còn nêu cả những tính xấu mà người đời thường mắc phải. Đó là

sự khoe khoang, khoác lác, tráo trở, thiển cận, xa rời thực tế, sự độc đoán

v.v...

Nhìn chung, triết lý trong truyện ngụ ngôn là một thứ triết lý mang tính

thực tiễn. Triết lý này nặng về cách đối nhân xử thế, khuyên người ta sống

sao cho hợp lý, hợp tình. Đó cũng chính là lối sống chân chính mà người lao

động luôn luôn phải đấu tranh để duy trì và bảo vệ. Truyện ngụ ngôn có khả

năng khái quát hoá và trừu tượng hoá cao, cho nên trong nhiều truyện, kinh

nghiệm thực tiễn này được nâng lên thành những mệnh đề triết học như

truyện ngụ ngôn: Kẻo cày lúa lên, Phù du và đom đóm...

2. Truyện ngụ ngôn và đấu tranh xã hội

Trong xã hội có giai cấp, xung đột xã hội ngày càng diễn ra gay gắt và

quyết liệt Truyện ngụ ngôn không thể không đề cập đến những vấn đề này

như là những vấn đề trung tâm của một nội dung thể loại.

Trước hết là kinh nghiệm của nhân dân về giai cấp thống trị, truyện ngụ

ngôn đã nêu lên những bài học sâu sắc về bản chất của giai cấp thống trị như

tham lam, tàn bạo, đạo đức giả, nịnh hót. Truyện Con hổ ăn chạy; Cọp, cò,

cáo và chuột; Chèo bẻo và ác là; Bồ câu và sáo..

Nhìn chung, đối với giai cấp thống trị, truyện ngụ ngôn khuyên người ta

nên đề cao cảnh giác và lánh xa

Bài học về đấu tranh xã hội trong truyện ngụ ngôn trước hết là bài học

dứt khoát, đoạn tuyệt với kẻ thù. Đó là thái độ của bồ câu (Bồ câu là sáo), của

Page 29: Bài Giảng Văn Học Thiếu Nhi ... - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/74.VanHocThieuNhiVietNam.docx  · Web viewVĂN HỌC THIẾU NHI VIỆT NAM . BÀI GIẢNG VĂN HỌC

muỗi (Muỗi nhà và muỗi đồng), của Chèo bẻo (Chèo béo là ác là) thái độ đó

đã bao hàm một sự phản kháng tích cực.

Nhìn chung, với tư cách là thể loại triết lý của văn học dân gian, truyện

ngụ ngôn đã làm tròn được chức năng giáo dục của mình với một hiệu quả

rất lớn.

III. ĐỊNH HUỚNG VỀ PHƯƠNG PHÁP PHÂN TÍCH TRUYỆN NGỤ NGÔN

Ngụ ngôn là một loại truyện đặt ra để cốt gìn gắm một ý răn đời, một

kết luận luân lý, một nhận xét về một thực tế xã hội... Ngụ ngôn thưởng lấy

các con vật, đồ vật trong giới tự nhiên rồi nhân cách hóa để nói chuyện con

người.

Truyện ngụ ngôn, về thực chất là một cách nói bóng gió. Với bản chất

ấy, nó gồm hai phần: phần xác là câu chuyện kể, còn phần hồn là bài học

luân lý.

Truyện ngu ngôn (cùng với tục ngữ) là phương tiện biểu đạt của triết lý

dân gian.

* Mục đích của một việc đặt ra ngụ ngôn là để tránh cách nói thẳng mà

nói một cách xa xôi, bóng gió, nói một cách dễ nghe, dễ lọt tai... Do vậy, phân

tích ngụ ngôn không chỉ nhằm rút ra bài học, lời khuyên mà còn nhằm bình

giải ỷ vị của cách nói bóng gió đó.

* Cách phân tích một truyện ngụ ngôn thường đi theo trình tự sau:

- Xác định các nhân vật trong truyện. Các nhân vật này là biểu tượng

của hạng người nào trong xã hội.

- Phân tích nhân vật:

+ Phân tích hoàn cảnh, tình huống cụ thể, trong đó diễn ra hành động

của nhân vật chính.

+ Phân tích hành động của nhân vật trong hoàn cảnh đó.

Page 30: Bài Giảng Văn Học Thiếu Nhi ... - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/74.VanHocThieuNhiVietNam.docx  · Web viewVĂN HỌC THIẾU NHI VIỆT NAM . BÀI GIẢNG VĂN HỌC

+ Đánh giá hành động của nhân vật.

- Đánh giá bài học được rút ra từ câu chuyện kể.

Lưu ý: Từ một truyện ngụ ngôn, đôi khi người ta có thể rút ra những bài

học khác nhau, thậm chí trái ngược nhau.

Ngụ ngôn là một loại vật liệu rất thuận tiện để các em tìm nghiã bóng.

Nghĩa bóng của truyện ngụ ngôn nằm trong lời khuyên được rút ra sau mỗi

truyện.

Bài 5 - TRUYỆN CƯỜI I. KHÁI NIỆM TRUYỆN CƯỜI

Truyện cười là một thể loại truyện dân gian chứa đựng cái hài, dùng

tiếng cười làm phương tiện chủ yếu để thực hiện chức năng phê phán, châm

biếm, đả kích cái xấu và mua vui, giải trí:

Đặc điểm chung của truyện cười dân gian là ngắn gọn, nặng về lý trí có

kết cấu chặt chẽ và kết thúc đột ngột bất ngờ.

Có thể chia truyện cười dân gian Việt Nam thành hai loại truyện chính:

Truyện cười kết chuỗi và truyện cười không kết chuỗi. Truyện cười kết chuỗi

là những mẫu giai thoại hài hước, xoay quanh một nhân vật có thực hoặc

được coi là có thật, như Trạng Lợn, Trạng Quỳnh...

Truyện cười không kết chuỗi là những truyện cười có kết cấu hoàn

chỉnh, tồn tại độc lập, mang tính phiếm chỉ. Các nhân vật ở loại truyện này

thường chỉ được giới thiệu vê thành phần, địa vị xã hội, giới tính chứ không

có tên riêng như anh lính hầu, anh đầy tớ, thầy đồ, chàng rể... Có khi nhân

vật chỉ được gọi bằng tên một tính cách, như: anh mê ngủ, anh sợ vợ, anh

lười...

Truyện cười không kết chuỗi ở nước ta rất phong phú, đa dạng, gồm

nhiều tiểu loại khác nhau, như: Truyện khôi hài, Truyện trào phúng, Truyện

tiếu lâm.

Page 31: Bài Giảng Văn Học Thiếu Nhi ... - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/74.VanHocThieuNhiVietNam.docx  · Web viewVĂN HỌC THIẾU NHI VIỆT NAM . BÀI GIẢNG VĂN HỌC

II. NỘI DUNG Ý NGHĨA CỦA TRUYỆN CƯỜI

1. Truyện cười phê phán những thói hư tật xấu

Truyền thống đạo đức của người Việt Nam không thể chấp nhận những

thói hư tật xấu mà không ít người đời đã mắc phải, như: phàm ăn, tục uống,

lười biếng, khoe khoang,khoác lác... Lối sống đó làm phương hại đến thuần

phong mỹ tục, lối sống thanh sạch, trong sáng của cộng đồng. Vì vậy, cần

phải đấu tranh phê phán dù là hạng người nào trong xã hội. Song tuỳ thuộc

vào mức độ của từng tật xấu, thói hư mà truyện thể hiện những cách cười

khác nhau, từ châm biếm nhẹ nhàng (Lợn cưới áo mới, con rắn vuông...) đến

cảnh cáo nghiêm khắc (Sứ Tàu, Quan huyện thanh liêm, Trạng Quỳnh...)

Tuy nhiên, dù ở mức độ nào, dù là đối tượng nào, tiếng cười ở đây

cũng hướng vào mục đích là phê phán cái xấu.

2. Truyện cười, vũ khí đấu tranh

Trong truyện cười dân gian, có một mảng truyện miêu tả những biểu

hiện hài hước của những tính cách xấu gắn liền với bản chất của những tầng

lớp xã hội cụ thể, như: quan lại thì tham nhũng, ngu xuẩn (Trinh với Liêm,

Trung thần nghĩa sĩ cả, Quan huyện thanh liêm, Thần bia trả nghĩa, Kiện

trời...) Những kẻ làm thầy thiên hạ thì dốt nát, thiếu nhân cách đến mức thảm

hại (Tam dại con gà, Bốc thuốc theo sách. Bánh tao đâu, Tại thầy địa lý...)

Bọn phù thủy sợ ma (Phủ thuỷ sợ ma). Bọn nhà giàu dốt nát, trưởng giả (chốc

nữa tao sang)... Nhóm truyện này thể hiện rất rõ quan điểm chính trị: xã hội

của nhân dân, đồng thời bộc lộ tính chiến đấu của truyện cười dân gian với tư

cách là một vũ khí đấu tranh xã hội, đấu tranh giai cấp.

Khi dùng tiếng cười để phê phán những thói hư tật xấu và đả kích,

châm biếm vào thể chế xã hội, vào giai cấp thống trị, quần chúng nhân dân đã

đứng trên quan điểm đạo đức và lý tưởng của nhân dân lao động. Phủ định

cái xấu, tác giả dân gian đồng thời khẳng định và hướng mọi người vươn tới

một cuộc sống tốt đẹp.

Page 32: Bài Giảng Văn Học Thiếu Nhi ... - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/74.VanHocThieuNhiVietNam.docx  · Web viewVĂN HỌC THIẾU NHI VIỆT NAM . BÀI GIẢNG VĂN HỌC

Với những nội dung, ý nghiã đó, Truyện cười là một minh chứng cho

tinh thần lạc quan và trí thông minh sắc sảo của nhân dân ta trong cuộc đấu

tranh chống lại cái xấu, cái ác.

III. ĐỊNH HƯỚNG PHÂN TÍCH TRUYỆN CƯỜI

Tiếng cười là sản phẩm của nhận thức lý tính: nó nẩy sinh ra từ sự phát

hiện ra chỗ không phù hợp dưới bề ngoài có vẻ như phù hợp, giữa biểu hiện

bên ngoài và thực chất của một hành vi. Chính sự "phát hiện" đó làm nẩy sinh

ra tiếng cười.

Về hình thức nghệ thuật nói chung, truyện cười là thể loại truyện kể dân

gian ngắn, gọn nhất. Nó không mấy khi có câu chữ thừa, chi tiết thừa. Kết cấu

rất chặt chẽ. Câu chuyện bao giờ cũng đặt cái đáng cười vào một tình huống

sao cho cái đáng cười tự phơi bày ra dưới dạng sinh động nhất, ở cái thế

"nực cười nhất”.

* Khi phân tích truyện cười, cần lưu ý:

- Phân tích truyện cười, không đừng lại ở yếu tố gây cười mà phải làm

cho học sinh hiểu rõ cái gì đáng cười và suy nghĩ về cái đáng cười, về những

điều ẩn sau hiện tượng gây cười.

- Truyện cười thường mang kịch tính: Có "mâu thuẫn", đẩy "mâu thuẫn"

phát triển tới điểm nút và được giải quyết. Nhìn chung, phân tích truyện cười

có thể tiến hành theo cầu trục tự nhiên của màn kịch cười

+ Phân tích "tình thế xuất phát", tức là cái đáng cười được đặt vào một

tình thế nhất thiết bị dồn tới chỗ tự phơi bày một cách cụ thể, sinh động,

"buồn cười". Ví dụ: Sư cụ ăn vụng thịt chó bị chú tiểu biết và hỏi.

+ Phân tích "điểm nút” : Điểm nút của truyện cười là điểm, ở đó "mâu

thuẫn", cái đáng cười, đã được "chuẩn bị" đủ điều kiện để tự phơi bày ra,

hoặc bị vạch trần ra. Ví dụ: Sư cụ trả lời "Tao ăn đậu phụ thì đúng lúc đó có

tiếng chó sủa, lại còn hỏi chú tiểu "Cái gì ngoài cổng đấy?".

Page 33: Bài Giảng Văn Học Thiếu Nhi ... - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/74.VanHocThieuNhiVietNam.docx  · Web viewVĂN HỌC THIẾU NHI VIỆT NAM . BÀI GIẢNG VĂN HỌC

+ Phân tích yếu tố "mở nút": Với truyện cười, "mở nút” là kết thúc. Tức

là lúc hiện tượng đáng cười được phơi bày ra một cách cụ thể.

Tất nhiên, không nên máy móc vận dụng phân tích theo trình tự trên.

Điều quan trọng là phải nắm vững cái đích của công việc "phân tích" là phân

tích cái đáng cười trong quá trình của nó từ trạng thái ẩn đến trạng thái tự bộc

lộ một cách cụ thể, sinh động, khiến người ta phát hiện ra và thấy buồn cười.

Bài 6 - TỤC NGỮ I. KHÁI NIỆM VỀ TỤC NGỮ

Tục ngữ là một thể loại văn học dân gian một loại câu nói hoàn chỉnh,

ngắn gọn, xuôi tai, có ý nghiã hàm súc, có cấu tạo tương đối bền vững và

thường có vần, có nhịp, có hình ảnh được dùng trực tiếp trong “lời ăn tiếng

nói” cũng như trong thực hành sinh hoạt xã hội của quần chúng nhân dân.

Tục ngữ có một khối lượng rất lớn nhưng lại mang một "hình thức nhỏ"

Hơn bất cứ thể loại nào khác của sáng tác dân gian, tục ngữ trong bản chất

cũng như trong phương thức "diễn xướng" của nó có tính chất thực hành triệt

để. Đó là sự ứng dụng trực tiếp trong nếp nghĩ, trong ứng xử, trong lời ăn

tiếng nói hàng ngày của nhân dân.

II. MỘT SỐ NỘI DUNG CHÍNH TRONG CÁC LOẠI TỤC NGỮ

Tục ngữ là một sản phẩm của hoạt động nhận thức, đồng thời cũng là

một công cụ để nhận thức. Đề tài của tục ngữ vô cùng phong phú, nó bao

quát một phạm vi hiện thực rộng lớn.

1. Tục ngữ về lao động sản xuất

Tục ngữ về lao động sản xuất nhằm biểu đạt những kinh nghiệm của

con người trong hoạt động lao động sản xuất, trong quá trình đấu tranh, cải

tạo và chinh phục thiên nhiên, trong sự xử thế của con người với môi trường

tự nhiên.

Page 34: Bài Giảng Văn Học Thiếu Nhi ... - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/74.VanHocThieuNhiVietNam.docx  · Web viewVĂN HỌC THIẾU NHI VIỆT NAM . BÀI GIẢNG VĂN HỌC

- Quá mù ra mưa

- Người đẹp vì lụa, lúa tốt vì phân

- Trăng quầng đại hạn, trăng tán thì mưa.

Trong điều kiện khoa học chậm phát triển của một nước nông nghiệp

lạc hậu thời phong kiến, những kinh nghiệm ấy có giá trị thiết thực, như một

thứ cẩm nang đối với đời sống và sinh hoạt sản xuất, giúp cho con người chủ

động trong công việc làm ăn và trong sinh hoạt hàng ngày, đề phòng những

tai họa do thiên nhiên gây ra.

2. Tục ngữ về lịch sử - xã hội.

Bộ phận tục ngữ này đề cập đến nhiều phương diện của lịch sử và các

mối quan hệ giữa các giai cấp đối kháng: Tục ngữ nói về thời kỳ bình minh

lịch sử dân tộc; Tục ngữ về kinh nghiệm đánh giặc, về nhân vật lịch sử, tục

ngữ nói về cảnh quan, sản vật, phong tục tập quán của các miền đất nước.

Và đặc biệt nổi bật trong nội dung xã hội - lịch sử của tục ngữ Việt Nam là

những kinh nghiệm đời sống của nhân dân trong xã hội phong kiến, chủ yếu

là trong làng xã như:

- Cá lớn nuốt cá bé

- Kẻ ăn không hết, người lần không ra...

Qua những kinh nghiệm này, ta có thể thấy những nét phản ánh chân

thực cuộc sống khó khăn, khổ cực, đầy tai ách của nhân dân lao động trong

xã hội cũ.

3. Tục ngữ nói về con người

Chiếm phần quan trọng nhất trong bộ phận nói về con người là những

câu nói về đạo đức, về triết lý sống, và cách ứng xử của nhân dân:

- Người sống đống vàng

- Uống nước nhớ nguồn

- Chị ngã em nâng

Page 35: Bài Giảng Văn Học Thiếu Nhi ... - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/74.VanHocThieuNhiVietNam.docx  · Web viewVĂN HỌC THIẾU NHI VIỆT NAM . BÀI GIẢNG VĂN HỌC

- Tốt gỗ hơn tốt nước sơn

- Con hơn cha là nhà có phúc

Những nội dung trên của tục ngữ cho thấy: từ ngàn xưa, nhân dân đã

xây đắp nên một cách sống, một phương châm xử thế tốt đẹp trong quan hệ

giữa con người với con người. Đó là nền tảng đạo đức của nhân dân và đạo

đức ấy được diễn đạt một cách đầy đủ nhất trong tục ngữ. Qua những lời

khuyên nhủ, răn dạy, nhận xét của tục ngữ, ta có thể hình dung khá rõ những

tính cách đạo đức cổ truyền của dân tộc như: cần kiệm, thiết thực, quý trọng

tình nghĩa, yêu chuộng lẽ công bằng và thiết tha với những giá trị tinh thần.

III. ĐỊNH HUỚNG VỀ PHƯƠNG PHÁP PHÂN TÍCH TỤC NGỮ

Tục ngữ là những câu nói ngắn gọn: có nhịp điệu, có hình ảnh: có hình

thức bền vững, được dùng trong lời ăn tiếng nói hàng ngày của nhân dân. Nội

dung của tục ngữ là những nhận xét, phán đoán, kết luận về các hiện tượng

tự nhiên, xã hội và đời sống con người.

Xét trên bình diện ứng dụng, tục ngữ gồm hai loại: loại đơn nghĩa và

loại đa nghĩa

Những câu tục ngữ thuộc loại đơn nghĩa là những câu chỉ có thể hiểu

theo nghĩa đen. Vd:

- Dao thử trầu héo, kẻo thử lụa xô.

- Là lượt là vị thông lại, nhễ nhại là vợ học trò

Những câu tục ngữ thuộc loại đa nghĩa là những câu chỉ được dùng

theo lối nghĩa bóng. Vd:

- Chết trong hơn sống đục

- Lành với Bụt, chẳng lành với ma.

Ngoài ra, có những câu vừa có thể được đùng theo nghĩa đen, vừa có

thể được dùng theo nghĩa bóng. Vd:

Page 36: Bài Giảng Văn Học Thiếu Nhi ... - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/74.VanHocThieuNhiVietNam.docx  · Web viewVĂN HỌC THIẾU NHI VIỆT NAM . BÀI GIẢNG VĂN HỌC

- Cà thâm bỏ góc chạn, đến khi hoạn nạn lại hỏi cà thâm

- Bò chết chẳng khỏi rơm.

Tỷ lệ những câu tục ngữ đa nghĩa lớn hơn hẳn những câu đơn nghĩa

(hầu hết những câu thuộc bộ phận tục ngữ về tự nhiên và lao động sản xuất

đều chỉ có một nghĩa). Như vậy, trong đời sống hàng ngày, phần lớn tục ngữ

được dùng như những ẩn dụ.

Về hình thức diễn đạt, trừ một số câu có tính chất như lời khuyên răn

"Chớ thấy sóng cả mà ngả tay chèo" còn phần lớn tục ngữ dùng cách nhận

xét, kết luận. Vd:

- Không có lửa, làm sao có khói

- Lạt mềm buộc chặt

* Tục ngữ giàu hình ảnh, được xây dựng bằng nhiều biện pháp tu từ:

So sánh: - Người dẹp vì lụa, lúa tốt vì phân

Ẩn dụ: - Đục nước, béo cò.

Ngoa dụ: - lời nói đọi máu

Nhân hóa: - cái nết đánh chết cái đẹp

Cấu trúc tục ngữ thường có hai vế trở lên. Hai vế thường đối nhau và

tạo nên tính nhạc cho tục ngữ. Giữa hai vế còn thường có quan hệ liên kết về

vần. Vd:

- Hay thì khen, hèn thì chê (Vần ứng liền)

Con có cha như nhà có nóc (Vần lưng cách một)

- Thuận vợ thuận chồng, tát bể Đông cũng cạn (Vần lưng cách hai)

* Trong tục ngữ, ý nghiã của nó thường được biểu đạt bằng hình ảnh.

Do đó, muốn xác định nghĩa của câu tục ngữ, ngoài việc giải nghĩa các từ, tìm

hiểu mối quan hệ giữa các từ ngữ hình ảnh đó, chúng ta cần thực hiện thao

tác liên tưởng bằng cách thay thế vật liệu để tìm ra nghĩa bóng của câu tục

ngữ.

Page 37: Bài Giảng Văn Học Thiếu Nhi ... - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/74.VanHocThieuNhiVietNam.docx  · Web viewVĂN HỌC THIẾU NHI VIỆT NAM . BÀI GIẢNG VĂN HỌC

- Sau khi tìm ra nghĩa bóng, cần đi sâu để tiếp tục khám phá tư tưởng

của câu tục ngữ. Vì tục ngữ bao giờ cũng chứa đựng thái độ của nhân dân

đối với hiện tượng được nói tới. Đồng thời bình luận về giá trị nội dung kinh

nghiệm cũng như tư tưởng của câu tục ngữ.

- Đối với học sinh tiểu học, điều căn bản nhất khi phân tích tục ngữ là tổ

chức cho học sinh lần lượt thực hiện các thao tác để các em có thể tự mình

dựng lại trong tâm trí hình tượng làm sao để hình tượng đó như đang biểu

hiện trong tâm trí các em. ngay trước mặt các em. Trong quá trình dựng lại

hình tượng thì tự thân việc làm đó đã làm nẩy sinh tình cảm và tư tưởng trong

các em rồi. Vì vậy, giáo viên không cần giảng giải, giải thích gì thêm.

Bài 7 - CÂU ĐỐ I. KHÁI NIỆM VỀ CÂU ĐỐ

Câu đố là một thể loại văn học dân gian ngắn gọn, phản ánh các sự vật

hiện tướng khách quan bằng một lối nói đặc biệt. Lối nói chệch, lối nói gần với

ẩn dụ, dấu tên, chuyển vật nọ thành vật kia. Được nhân dần dùng trong sinh

hoạt tập thể để thử tài suy đoán, kiểm tra sự hiểu biết và mua vui giải trí.

Đơn vị tác phẩm của thể loại này được gọi là câu, vì nó đều rất ngắn.

Vd:

- Trong nhà có bà ăn cơm trước.

(Đôi dũa cả)

- Anh lớn mặc áo đó, em nhỏ mặc áo xanh.

(Quả ớt)

Nhưng cũng không ít những câu đố dài như một bài ca dao. Vd:

Con ai hải đứa hai nơi.

Gặp nhau một chỗ, cùng chơi một phòng

Không may nhà sập đá chồng

Page 38: Bài Giảng Văn Học Thiếu Nhi ... - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/74.VanHocThieuNhiVietNam.docx  · Web viewVĂN HỌC THIẾU NHI VIỆT NAM . BÀI GIẢNG VĂN HỌC

Tan xương nát thịt máu hồng chứa chan.

(ăn trầu.)

hoặc như một bài thơ:

Giữa đám lá xanh mướt

Treo từng chùm chuông nho

Trong xanh và hồng đỏ

Bừng sáng cả vườn quê.

(Quả mận hoặc quả roi)

Câu đố có nhiều tác dụng khác nhau như: đức dục, trí dục, mỹ dục, giải

trí... nhưng với tư cách là một vật liệu của việc học vấn trong nhà trường tiểu

học, câu đố được xem là phương tiện luyện cho trẻ óc quan sát, phát triển óc

suy đoán và kích thích trí tưởng tượng, liên tưởng cũng như khả năng ứng

biến nhanh trí.

Lối ẩn dụ trong câu đố là một ẩn dụ riêng, khác với lôi ẩn dụ thông dụng

trong văn học nghệ thuật (cái ẩn trong câu đố hoàn toàn vô định, không nhất

thiết phải thuộc về con người).

Dựa vào những biểu hiện khác nhau về nội dung và hình thức, người ta

chia câu đố thành các loại, các nhóm khác nhau: đố chữ, đố giảng, đố tục

giảng thanh...

II. ĐỊNH HƯỚNG VỀ PHƯƠNG PHÁP PHÂN TÍCH CÂU ĐỐ

Phân tích câu đố với tư cách là một loại hình văn học dân gian được

giảng dạy trong trường học là tìm lời giải đố và phân tích lối miêu tả của câu

đố đó. Thực trạng dạy học hiện nay thường đi theo hai xu hướng:

1. Chỉ chú ý tìm lời giải đố mà không quan tâm đến lối miêu tả của câu

đố.

Page 39: Bài Giảng Văn Học Thiếu Nhi ... - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/74.VanHocThieuNhiVietNam.docx  · Web viewVĂN HỌC THIẾU NHI VIỆT NAM . BÀI GIẢNG VĂN HỌC

2. Với những vật liệu văn là câu đố thì lời giải đố luôn luôn cho trước và

giáo viên hướng dẫn sử dụng thao tác tưởng tượng để tái hiện lại trong tâm

trí các em hình tượng văn đã được gửi vào câu đố

Trong hai cách dạy đó thì xã hướng thứ hai xem ra phù hợp với bản

chất của việc học văn hơn nhưng thiết nghĩ việc tìm lời giải đố cũng cần thiết

vì bên cạnh tư duy luận lý, người ta cũng thường dùng cả tưởng tượng và

liên tưởng nữa để tìm ra lời giải đố và điều này cũng rất cần cho việc học văn

ở bậc tiểu học

a. Tìm lời giải đố

Có thể thực hiện những thao tác sau để tìm lời giải đố

- Khoanh vùng tìm kiếm những gì liên quan đến hình ảnh đố.

- Thu hẹp phạm vi tìm kiếm bằng cách kết hợp với các dữ kiện trong

câu đố.

- Lược bớt các nghiệm số đảm bảo đầy đủ các yêu cầu của câu đố (chỉ

đúng mặt này nhưng không đúng ở khía cạnh khác). Kết hợp liên tưởng và

suy luận để tìm ra lời giải đố.

- Biện luận (nếu cần); vì nhiều câu đố có nhiều nghiệm, việc thừa nhận

một nghiệm chẳng qua là quy ước.

b. Phân tích lối miêu tả câu đố

- Thông thường, vật đố không xa lạ nhưng ẩn dụ của vật đố lại hướng

người ta nghĩ đến những cái khác hẳn.

- Sức mô tả những "đặc điểm" ấy chủ yếu bằng phép so sánh nhằm tạo

ra một ẩn dụ (một số câu đố lại dựa vào phép chơi chữ để tạo ra ẩn dụ).

- Vì câu đố phải gọn và chặt nên những từ ngữ dừng tiếng câu đố phải

chính xác, cụ thể, gợi hình ảnh.

- Phân tích lối miêu tả câu đố cần hướng dẫn học sinh chú ý các đặc

điểm trên và thông qua thao tác tưởng tượng, để làm phục hiện trong tâm trí

các em các hình ảnh của vật đố được gửi vào văn bản câu đố ấy.

Page 40: Bài Giảng Văn Học Thiếu Nhi ... - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/74.VanHocThieuNhiVietNam.docx  · Web viewVĂN HỌC THIẾU NHI VIỆT NAM . BÀI GIẢNG VĂN HỌC

HƯỚNG DẪN HỌC TẬP

I. Câu hỏi

1. Nêu những đặc trưng cơ bản của Văn học dân gian.

2. Phân tích ảnh hưởng của Văn học dân gian đối với đời sống

3. Thần thoại và tuyền thuyết là những thể loại có dành riêng cho thiếu

nhi không? Vì sao?

4. Truyền thuyết thể hiện niêm tự hào dân tộc như thế nào (Phân tích

và lấy các truyền thuyết trong chương trình tiếng Việt tiểu học để dẫn chứng)

5. Trình bày những điểm chính vè nội dung và nghệ thuật của ba loại

truyện cổ tích.

6. Tại sao nói, truyện cổ tích "Chiếu rọi ánh sáng vào một thế giới khác”

7. Nêu những nét đặc trưng của truyện ngụ ngôn. Sự khác nhau giữa

ngụ ngôn và cổ tích?

8. Trình bày nội dung và đặc điểm nghệ thuật của truyện cười trong

chương trình tiếng Việt tiểu học.

9. Trình bày nội dung và đặc điểm nghệ thuật của câu đố và tục ngữ ở

chương trình tiếng Việt tiểu học?

II. Bài tập

1. Phân tích giá trị hiện thực và ý nghĩa nhân văn trong các thần thoại ở

chương trình Tiếng Việt Tiểu học.

2. Phân tích nội dung và nghệ thuật của truyền thuyết Thánh Gióng.

3. Phân tích một số truyện cổ tích trong chương trình truyện kể ở Tiểu

học để thấy được ý nghĩa của lối “kết thúc có hậu” của loại truyện này (đặc

biệt là truyện cổ tích thần kỳ).

III. Bài tập nghiên chừ

Page 41: Bài Giảng Văn Học Thiếu Nhi ... - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/74.VanHocThieuNhiVietNam.docx  · Web viewVĂN HỌC THIẾU NHI VIỆT NAM . BÀI GIẢNG VĂN HỌC

1. Đặc điểm hệ thống nhân vật của loại truyện kể dân gian trong

chương trình kể chuyện ở bậc tiểu học.

2. Hệ đề tài và chủ đề phổ biến trong các truyện cổ dân gian chương

trình Tiếng Việt ở Tiểu học.

IV. Tư liệu tham khảo

1. Văn học (Tập I) - Giáo trình dùng trong các trường sư phạm đào tạo

giáo viên Tiểu học - Bộ Giáo dục và Đào tạo - Vụ Giáo viên - Hà Nội, 1993.

2. Văn học dân gian Việt Nam - Trần Hoàng. Nxb. Giáo dục,

3.Văn học Thiếu nhi Việt Nam - Trần Đức Ngôn - Dương Thu Hương -

Trưởng ĐHSP Hà Nội I - Hà Nội - 1994

4. Từ điển, Thuật ngữ văn học - Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn

Khắc Phi - Nxb GD - 1992.

5. Lược khảo thần thoại Việt Nam - Nguyên Đồng Chi - Nxb Văn Sử Địa

- Hà Nội, 1965.

6. Kho tàng truyện cổ tích Việt Nam (5 tập) - Nxb KHXH Hà Nội, 1974 -

1982.

7. Bộ sách giáo khoa Tiếng Việt Tiểu học. Nxb Giáo đục - Hà Nội, 1994.

Bài 8 - CA DAOI. KHÁI NIỆM CA DAO

Ca dao còn gọi là phong dao.

Theo nghĩa gốc thì ca là một bài hát có khúc điệu, dao là bài hát không

có khúc điệu.

Ca dao là thuật ngữ chỉ chung toàn bộ những bài hát lưu hành phổ biến

trong dân gian có hoặc không có khúc điệu. Trong trường hợp này ca dao

đồng nghĩa với dân ca.

Page 42: Bài Giảng Văn Học Thiếu Nhi ... - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/74.VanHocThieuNhiVietNam.docx  · Web viewVĂN HỌC THIẾU NHI VIỆT NAM . BÀI GIẢNG VĂN HỌC

Từ hơn một thế kỉ nay, do tác động của hoạt động sưu tầm, nghiên cứu

văn học dân gian, thuật ngữ ca dao đã dần dần chuyển nghĩa. Các nhà

nghiên cứu văn học dân gian Việt Nam đã dùng ca dao để chỉ liêng thành

phân nghệ thuật ngôn từ phần lời thơ) của dân ca (không kể những tiếng

đệm, riêng láy, tiếng địa hơi).

Với nghĩa này, ca dao là thơ ca dân gian truyền thống Và được coi là

"một trong những dòng chính của thơ ca trữ tình"(Mỹ học - F.Hêghen).

II. HỆ ĐỀ TÀI VÀ CHỦ ĐỀ PHỔ BIẾN TRONG CA DAO

1. Ca dao về lịch sử - đất nước - con người

Cảm hứng chủ đạo trong bộ phận ca dao nói về lịch sử, đất nước và

con người Việt Nam là tình yêu sâu sắc, mãnh liệt, tràn dầy niềm tự hào của

nhân dân ta đối với quê hương, đất nước, nòi giống, tổ tiên:

Thương chi đồng nỗi thương con

Nhớ chi đồng nhớ nước non quê nhà.

Nhiều tên núi, tên sông, tên làng cùng các phong tục tập quán thân

thuộc của nhân dân đã đi vào ca dao với tất cả niềm tự hào trước vẻ đẹp giàu

có của nó:

Đất ta bể bạc non vàng

Bể bạc Nam Hải, non vàng Bồng Miêu.

Đó còn là cảm xúc dạt dào trước vẻ đẹp nên thơ của giang sơn gấm

vóc:

Đường vô xứ Nghệ quanh quanh

Non xanh nước biếc như tranh họa đồ

Ai vô xứ Nghệ thì vô...

Nhưng thiên nhiên trong đa số các bài ca dao cổ truyền thường gắn

liền với cuộc sống của con người. Ở đây, hình ảnh con người với tất cả

Page 43: Bài Giảng Văn Học Thiếu Nhi ... - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/74.VanHocThieuNhiVietNam.docx  · Web viewVĂN HỌC THIẾU NHI VIỆT NAM . BÀI GIẢNG VĂN HỌC

những phẩm chất tốt đẹp của người dân lao động, của con người Việt Nam

đã trở thành nguồn cảm hứng cho các nghệ sĩ dân gian:

Cày đồng đang buổi ban trưa

Mồ hôi thánh thót như mưa nắng cày

Ai ơi bưng bát cơm đầy

Dẻo thơm một hạt, đắng cay muôn phần.

Những bài ca dao trên là biểu hiện một khía cạnh đẹp đẽ trong truyền

thống đạo lý của người Việt Nam.

2. Tiếng nói đấu tranh chống áp bức cường quyền, đòi quyền sống của con người

* Cuộc đấu tranh xã hội của nhân dân ta qua các thời kỳ lịch sử đã từng

là đề tài phong phú cho những sáng tác ca dao. Nó phản ánh những tâm

trạng đau khổ, uất ức, thái độ phản kháng của người dân lao động đối với giai

cấp thống trị:

- Gánh cực mà đổ lên non

Còng lưng mà chạy cực cỏn theo sau.

- Vua chi vua, quan chi mà quan

Lọng vàng thì có, lòng vàng thì không.

Nó còn dùng tiếng cười để châm biếm, đả kích sâu cay vào bản chất

thối nát, của cả vương quyền, thần quyền.

Ban ngày quan lớn như thần

Ban đêm quan lớn tần mần như ma.

Nó biến thành thứ vũ khí sắc bén chống lại các thể chế xã hội:

Bao giờ dân nói can qua,

Con vua thất thế lại ra quét chùa.

Page 44: Bài Giảng Văn Học Thiếu Nhi ... - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/74.VanHocThieuNhiVietNam.docx  · Web viewVĂN HỌC THIẾU NHI VIỆT NAM . BÀI GIẢNG VĂN HỌC

Lên án tố cáo xã hội bất công, ca dao đồng thời là lời than thân, giải

bày nỗi ai oán, xót xa của người dân lao động:

Bồng bồng mẹ bế con sang

Đò to nước lớn mẹ mang con về

Mang về đến gốc bồ đề

Xoay trở hết nghề, mẹ bán con đi.

Là nỗi đau đớn của người cố nông:

Ruộng người cày, vợ người nuôi

Con người mắng mỏ, vợ người yêu đương.

Trong xã hội cũ, phụ nữ là nạn nhân của nhiều tầng áp bức. Và nỗi khổ

của họ đã được phản ánh khá nhiều trong ca dao cổ, nhất là trong bộ phận ca

dao than thân:

- Thân em như hạt mưa sa

Hạt vào dải các, hạt ra ruộng cày.

Con cò lặn lội bờ sông

Gánh gạo nuôi chồng tiếng khóc nỉ non.

3. Tiếng hát nghĩa tình, tiếng hát yêu thương

Ca dao là tiếng nói của tâm hồn là tình cảm thương yêu, là nghĩa tình

chung thủy, là lòng hiếu thuận với những người ruột thịt:

- Mẹ già ở túp lều tranh.

Sớm thăm tốt viếng mới đành dạ con.

- Tôm rằn bóc vỏ bỏ đuôi

Gạo de An Cựu mà nuôi mẹ già.

Từ tình cảm gia đình, mở rộng ra thành tình làng nghĩa xóm, tình cộng

đồng tạo nên những nét đẹp truyền thống của dân tộc: thương yêu đùm bọc,

nhân ái vị tha.

Page 45: Bài Giảng Văn Học Thiếu Nhi ... - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/74.VanHocThieuNhiVietNam.docx  · Web viewVĂN HỌC THIẾU NHI VIỆT NAM . BÀI GIẢNG VĂN HỌC

* Một trong những đề tài phong phú nhất của ca dao là tình yêu đôi lứa.

Ca dao trữ tình về tình yêu đôi lứa thường được nẩy sinh trong khung

cảnh lao động:

Hôm qua tát nước đầu đình

Bỏ quên cái áo trên cành hoa xinh.

Em được thì cho anh xin

Hay là em để làm tin trong nhà

Tâm tình và trạng thái tâm lý của tình yêu đôi lứa thường được diễn đạt

bằng một ngôn ngữ vừa giản dị vừa bóng bẩy; vừa ý nhị vừa đậm đà da diết:

Nhớ ai ra ngẩn vào ngơ

Nhớ ai, ai nhớ, bây giờ nhớ ai!

Nhưng cũng có khi "táo tợn" mà vẫn dễ thương:

Ước gì sông rộng một gang

Bắc cầu giải đếm cho chàng sang chơi.

Ca dao ca ngợi tình yêu chung thủy mà tiền tài, quyền lực không thể

lung lạc:

Chồng em áo rách em thương

Chồng người áo ấm xông hương mặc người.

Đọc những bài ca dao về tình yêu đôi lứa trong bối cảnh xã hội Việt

Nam thời phong kiến càng thấy rõ tính dân chủ và nhân đạo sâu sắc của nó.

III. ĐỊNH HƯỚNG PHÂN TÍCH CA DAO

Ca dao là một thể thơ dân gian cổ truyền của dân tộc. Gọi là cổ truyền

vì ca dao được phổ biến rộng rãi và lưu truyền qua nhiều thế hệ. Đồng thời,

ca dao lại mang những đặc điểm nghệ thuật nhất định và bền vững về phong

cách.

Page 46: Bài Giảng Văn Học Thiếu Nhi ... - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/74.VanHocThieuNhiVietNam.docx  · Web viewVĂN HỌC THIẾU NHI VIỆT NAM . BÀI GIẢNG VĂN HỌC

Ca dao thường làm theo thể lục bát:

- Có vần (vần ở chân và lưng)

- Có nhịp (thường là nhịp đôi 2/2 nên dễ ngân nga, trầm bổng).

* Giá trị độc đáo của ca dao ở chỗ: Nó phản ánh chân thực tâm hồn,

khí sắc dân tộc. Sinh ra giữa thiên nhiên khắc nghiệt, sống triền miên trong xã

hội hà khắc, lại trải qua bao chiến tranh loạn lạc, dân tộc này không thể không

nói nhiều dấn khổ đau và căm giận. Nhưng cội nguồn sức mạnh tinh thần của

nó lại chủ yếu là chất tươi sáng, rắn rỏi của tâm hồn, là tình cảm thương yêu,

là nghĩa tình chung thủy, là lòng trung hậu với gia đình, bè bạn, họ mạc, đồng

bào, quê hương, đất nước.

- Ca dao là một lối thơ trữ tình trò chuyện (tức là kể chuyện hoặc giải

bày cảm nghĩ, tâm tình với người khác). Đặc điểm này lưu ý khi phân tích,

phải hình dung ra cuộc trò chuyện, người đang trò chuyện và người được

trao gởi tâm tình.

- Khi phân tích ca dao, yêu cầu cơ bản là phải xác định được chủ thể

trữ tình: bài ca dao là lời của ai? Điều cần lưu ý là chủ thể trữ tình ở ca dao

chưa phải là một cá nhân để có thể khai thác những suy nghĩ và tình cảm của

mình một cách riêng tư mà "còn gắn bó không tách rời với nhân dân, còn

hoàn toàn đắm mình trong môi trường tinh thần của nhân dân " (Hê ghen - Mỹ

học). Vì vậy, ta chỉ thấy ở ca dao một số nhân vật trữ tình nhất định, mà tất cả

nhưng người cùng cảnh, nếu cảm thấy đồng điệu, đều có thể dùng chung câu

hát như thể đó là tiếng hát cất lên tự chính trái tim mình.

- Mặc dầu giá trị về nội dung và nghệ thuật của ca dao rất phong phú,

đa dạng, nhưng cũng có những yếu tố bền vững, tạo ra các hệ thống về chủ

đề và hệ thống các yếu tố hình thức. Đặc điểm đó đòi hỏi khi phân tích, cần

đặt bài ca dao trong hệ thống của nó để đối chiếu, xem xét, từ đó, rút ra các

nét riêng, độc đáo của bài ca dao.

- Hướng dẫn học sinh phân tích ca dao là tìm cái tâm tình của con

người được bộc lộ trong bài ca dao đó. Nhưng đó không phải là sự trình bày

Page 47: Bài Giảng Văn Học Thiếu Nhi ... - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/74.VanHocThieuNhiVietNam.docx  · Web viewVĂN HỌC THIẾU NHI VIỆT NAM . BÀI GIẢNG VĂN HỌC

của thầy về những tâm tình đó. Điều chúng ta cần là cảm xúc của chính các

em làm sao để những cảnh đời con người với nhũng tình cảm yêu, ghét, nhớ,

quên... như đang hiển hiện trong tâm trí và trước mắt các em.

Để đạt được điều này, chúng ta dùng thủ pháp đặt các em vào tâm thế

của người trong cuộc để tái hiện lại hình tượng. Và những tâm tình đó sẽ

được hòa tan vào trong quá trình dựng lại hình tượng.

Bài 9 - ĐỒNG DAO I. VỀ KHÁI NIỆM ĐỒNG DAO

Đồng dao là những câu hát dân gian có nội dung và hình thức phù hợp

với trẻ em, thường cho trẻ em hát lúc vui chơi.

Đồng dao có thể do người lớn sáng tác nhưng cũng nhiều trưởng hợp

do trẻ em tự sáng tác.

Về phương diện thể loại, đồng dao thuộc lĩnh vực những bài ca dân

gian.

II. NHỮNG ĐẬC TRƯNG CƠ BẢN CỦA ĐỒNG DAO CỔ TRUYỀN

1. Sự “vô nghĩa có duyên"

Xét về mặt nội dung, đồng dao có thể chia làm hai loại: Những bài đồng

dao có nghĩa và những bài đồng dao vô nghĩa.

Những bài đồng dao có nghiã không nằm trong phạm vi sáng tác cổ

truyền, có nội dung rõ ràng và liền mạch thường được sáng tác với mục đích

răn dạy:

Mồng một tháng sáu

Tết của thiếu nhi

Mẹ đưa em đi

Sắm quà mậu dịch

Page 48: Bài Giảng Văn Học Thiếu Nhi ... - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/74.VanHocThieuNhiVietNam.docx  · Web viewVĂN HỌC THIẾU NHI VIỆT NAM . BÀI GIẢNG VĂN HỌC

Ô tô bình bịch

Có cả vịt hơi

Này các bạn đi

Ta chơi chung nhé.

Về hình thức, những bài đồng dao này, lời hát khá sinh động, ngôn ngữ

cũng mộc mạc, âm điệu thích hợp và có dụng công chú ý đến tâm lý trẻ em.

Song trên thực tế, loại ca dao này không được các em đón nhận.

Trái lại, những bài đồng dao cổ truyền thường được xem là lung tung,

tản mạn, giá trí nghệ thuật thường bị đánh giá thấp hoặc cho là không có gì

lại được trẻ em yêu thích, không ai dạy mà vẫn thuộc:

Giung giăng giung dẻ

Dắt trẻ đi chơi

Lạy cậu lạy mợ

Cho cháu về quê

Cho dê đi học

Cho cóc ở nhà

Cho gà bới bếp

Ngồi xệp xuống đây!.

Những bài đồng dao cổ truyền thường không có bài nào tập trung cả

gần như là những đoạn chắp vá, gặp đâu đó, còn ý nghĩa chung thì rời rạc,

câu nọ xọ câu kia, đang nói chuyện này thì nhảy sang chuyện khác. Nhưng có

lẽ vì thế mới làm cho trẻ em thích thú. Trí tưởng tượng của các em không bị

gò bó, không dừng lại một chỗ, một nới. Và điều đó hoàn toàn phù hợp với tư

duy đồng dao - một thứ tư duy bằng ấn tượng chứ không phải bằng lý luận.

Cho nên những bài đồng dao này mặc dầu không có nghiã, nhưng vẫn cần

thiết, vẫn hay. Và theo Vũ Ngọc Khánh, thi pháp đồng dao rất cần sự "vô

nghĩa có duyên" này.

Page 49: Bài Giảng Văn Học Thiếu Nhi ... - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/74.VanHocThieuNhiVietNam.docx  · Web viewVĂN HỌC THIẾU NHI VIỆT NAM . BÀI GIẢNG VĂN HỌC

2. Phép trùng lặp

Ở đồng dao, từ ngôn từ đến điệu thức cho đến hành động đều có sự

lặp đi lặp lại có tính chất chu kỳ và được xem là yêu cầu chủ yếu. Sự lặp lại ở

người lớn thường gây sự nhàm chán, nhưng ở đồng dao, càng trở đi trở lại

các em càng thấy thích thú và chỉ chuyển đổi tuỳ theo hứng khởi.

3. Kèm động tác

Xét về phương diện diễn xướng, trẻ em hát đồng dao thường kèm với

động tác. Động tác này có thể riêng rẽ, củng có thể là một trò chơi hay một

màn hoạt cảnh v..v... của một nhóm các em từ hai; ba người trở lên. Rất hiếm

cảnh các em hát đồng dao một thình và không kèm động tác. Đảm bảo chất

hiếu động cho các em trong sáng tác đồng dao là một yêu cầu về thi pháp.

Điều đó lý giải sức sống lâu bền của nó trong đời sống sinh hoạt của các em.

Và cỏ lẽ đối với những bài đồng dao cỏ nội dung răn dạy nếu có khả năng

biến thành thột trò chơi sẽ có điều kiện gắn bó và hấp dẫn các em hơn. Điều

này hoàn toàn phù hợp với quan niệm dạy học mới ở tiểu học. Học mà chơi,

chơi mà học.

III. DẠY HỌC ĐỒNG DAO Ở BẬC TIỂU HỌC

Đồng dao ở chương trình Tiếng Việt ở tiểu học thường được học ở

những lớp đầu cấp với mục đích là luyện thao tác tưởng tượng cho các em.

Việc khai thác nội dung, ý nghĩa của các bài đồng dao là chưa cần thiết. Vấn

đề ở đây là tạo ra trong tâm trí các em những hình ảnh rời theo cách nhìn,

cách diễn đạo của chính các em. Nói "ông tiên ông tiên" thì các em tha hồ mà

tưởng tượng ông tiên ấy là như thế nào, "Vừa đi vừa nhảy/1à con sáo

xinh/hay nói anh tinh/1à con tiếu điếu...” thì tha hồ mà tưởng tượng từ con

chim sang tới tận con người. Đặc biệt là cái loglc không logic của đồng dao,

nó dẫn các em từ sự việc này nhảy cóc sang sự việc khác, làm cho trí tưởng

tượng của các em không dừng lại một chỗ, một nơi. Và cái đó rất phù hợp với

“tư duy đồng dao”. Bài đồng dao cổ truyền chỉ cốt vui, chỉ cốt tưởng tượng và

Page 50: Bài Giảng Văn Học Thiếu Nhi ... - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/74.VanHocThieuNhiVietNam.docx  · Web viewVĂN HỌC THIẾU NHI VIỆT NAM . BÀI GIẢNG VĂN HỌC

nhảy cóc thật nhiều. Sự phong phú lúc này là nhiều và tốc độ. Việc hướng

dẫn cho các em tạo ra những hình ảnh rời ở đồng dao chỉ là cơ sở để các em

tiến tới dựng thành những hình tượng nghệ thuật hoàn chỉnh ở các thể loại

văn học khác sau này.

Vần và nhịp là hai yếu tố không thể thiếu được của đồng dao. Sự trùng

lặp trong đồng dao đã làm cho các hình ảnh rời được liên kết lại theo một kết

cấu đặc biệt. và chính yếu tố này đã góp phần quan trọng trong việc làm nên

nhịp điệu ở đồng dao. Mặc dầu còn đơn giản, gần với lời nói thường nhưng

cũng là những cách nói văn cần cho trẻ em thấm nhuần ngay từ bước đầu

học văn.

HƯỚNG DẪN HỌC TẬP

I.Câu hỏi

1 Xác định khái niệm ca dao.

2. Trình bày các chủ đề lớn trong ca dao.

3. Nêu những đặc trưng cơ bản của đồng dao.

II. Bài tập

1. Hình ảnh thiên nhiên, đất nước, con người được thể hiện trong các

bài ca dao ở chương trình tiếng Việt Tiểu học.

2. Nêu những suy nghĩ của anh chị về vấn đề dạy - học đồng dao ở

Tiểu học (có phân tích, dẫn chứng).

III. Tư liệu tham khảo

1. Ca dao Việt Nam. Nxb Văn học. H. 1983

2. Thi pháp ca dao. Nguyễn Xuân Kính. KHXH - 1992

3. Văn học dân gian - Trần Hoàng - Nxb Giáo dục - 1998

4. Văn học - Tập 1 - Giáo trình dùng trong các trường Sư phạm đào tạo

giáo viên tiểu học. Bộ Giáo dục và Đào tạo - Vụ Giáo viên - hà Nội - 1993.

Page 51: Bài Giảng Văn Học Thiếu Nhi ... - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/74.VanHocThieuNhiVietNam.docx  · Web viewVĂN HỌC THIẾU NHI VIỆT NAM . BÀI GIẢNG VĂN HỌC

5. Tạp chí Văn học – 5.1993

6. Bộ sách giáo khoa tiếng Việt Tiểu học - Nxb Giáo dục Hà Nội - 1994.

B. VĂN HỌC VIẾT CHO THIÊU NHI I. KHÁI QUÁT VĂN HỌC VIẾT CHO THIẾU NHI

1. Thời kỳ trước Cách mạng tháng Tám - 1945

Nhìn chung trước Cách mạng tháng Tám đã có văn học cho thiếu

nhưng chưa thật sự có một nền văn học cho thiếu nhi.

Khi chữ Quốc ngữ đã được sử dụng rộng rãi, một số tác phẩm văn học

thiếu nhi châu âu, chủ yếu là nguồn văn học Pháp đã được giới thiệu qua Việt

Nam như: Thơ ngụ ngôn của La Phông ren và Truyện cổ pe-rô.... Qua thế

giới các loài vật quen thuộc, qua lời thơ hóm hỉnh, cốt truyện hấp dẫn, các tác

phẩm văn học dịch đã đem lại cho bạn đọc nhỏ tuổi Việt Nam niềm say mê

thích thú.

Ở trong nước, do chịu ảnh hưởng của văn học phương Tây, do nhu

cầu đọc sách của con em tầng lớp thị dân, từ năm 1920 trở đi, đã có nhiều

sách báo các nhà văn trong nước được xuất bản. Đó là một số loại sách

Hồng, Hoa Mai, Học Sinh, Tuổi Xanh, Truyền Bá...của nhóm Tự Lực Văn

Đoàn chủ yếu phục vụ cho đối tượng thiếu nhi thành thị Đề tài của nhóm đóng

khung trong sinh hoạt phố phường, với những màu sắc tươi sáng, không

phản ánh được một cách toàn diện cảnh sống của trẻ em thời kỳ đất nước

còn bị xâm lăng.

Cũng tròng giai đoạn này, một số nhà văn hiện thực tham gia viết cho

các em như Tú Mỡ, Nguyên Công Hoan, Nam Cao, Tô Hoài... Tác phẩm của

họ có khuynh hướng hiện thực và đã đề cập đến nỗi bất hạnh của trẻ em

nghèo hoặc nhằm giáo dục nếp sống lành mạnh, giáo dục đạo đức, lý tưởng

cho thiếu nhi như: đơn mèo một ngọc (Truyện 1942), Những kẻ khốn nạn

(Truyện, 1942); Bài học quét nhà của Nam Cao; Tô Hoài dùng hình thức đồng

thoại để đề cập đến những vấn đề lớn trong xã hội: Đám cưới chuột, Võ sĩ Bọ

Page 52: Bài Giảng Văn Học Thiếu Nhi ... - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/74.VanHocThieuNhiVietNam.docx  · Web viewVĂN HỌC THIẾU NHI VIỆT NAM . BÀI GIẢNG VĂN HỌC

Ngựa và thiên đồng thoại xuất sắc : Dế mến phiêu lưu ký (1941). Hình tượng

Dế mèn đã trở thành biểu tượng quen thuộc cho niềm mơ ước được sống

phóng khoáng, thoát khỏi cuộc sống chật hẹp của một xã hội bất công. Ngoài

ra, tập truyện Nữ ngôn Đông Tây được sáng tác dựa theo ý thơ nước ngoài

của Nguyễn Văn Ngọc, Truyện thơ Nàng Bạch Tuyết và bảy chú lùn phỏng

theo truyện cổ Đức của anh em nhà Gam) và Tấm Cám của Tú Mỡ cũng

được các em đón nhận.

2. Từ năm 1945 đến 1954

Tuy Cách mạng mới thành công, công việc nước nhà còn bề bộn, mặt

khác phải lại phải bắt tay ngay vào cuộc kháng chiến chống Pháp trường kỳ,

nhưng Đảng, Chính phủ và Bác Hồ vẫn quan tâm đến sự hình thành nền văn

học mới cho thiếu nhi. Tờ Thiếu sinh - tiền thân của báo Thiếu Niên Tiền

Phong đã dược ra mắt từ năm 1946. Hàng năm vào những dịp Trung Thu,

Tết 1-6 hay những dịp biểu dương khen ngợi thiếu nhi, Bác Hồ đều có thư

chúc tết, thư khen các cháu.

Trong những năm kháng chiến chống Pháp, nhà xuất bản Văn nghệ đã

cho in một số sách mang tên Kim Đồng: chiến sĩ ca nô của Nguyễn Huy

Tưởng, Hoa Sơn của Tô Hoài, Dưới chân cầu Mây của Nguyên Hồng, Chú

Giao làng sen của Nguyễn Tuân... Tuy số lượng còn ít ỏi, nội dung còn đơn

giản nhưng các truyện viết cho thiếu nhi thời kỳ này đã đề cập đến những

gương thiếu nhi dũng cảm nhằm động viên kịp thời những cố gắng của thiếu

nhi và phục vụ trực tiếp cho cuộc kháng chiến.

3. Từ 1954 - 1964

Ngày 17/6/1957 nhà xuất bản Kim Đồng dược thành lập, mở ra một giai

đoạn mới của văn học thiếu nhi.

Giai đoạn đầu đội ngũ viết cho thiếu nhi còn quá mỏng nên sách xuất

bản chủ yếu là truyện cổ tích và truyện dịch. 1957, tác phẩm xuất sắc Đất

rừng phương Nam của Doàn Giỏi ra mắt bạn đọc, mở đầu cho hàng loạt tác

phẩm thiếu nhi viết về đề tài kháng chiến chống Pháp: Hai làng Tà Phình và

Page 53: Bài Giảng Văn Học Thiếu Nhi ... - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/74.VanHocThieuNhiVietNam.docx  · Web viewVĂN HỌC THIẾU NHI VIỆT NAM . BÀI GIẢNG VĂN HỌC

Động Hía (1958) của Bắc Thôn, Em bé bên bờ sông Vu Lai (1958) của Vũ

Cao, Cái thăng (1961) của Võ Quảng, Và A Dính (1963) của Tô Hoài... Những

tác phẩm này đã dựng lên những gương thiếu nhi anh hùng, khẳng định vai

trò của các em trong cuộc kháng chiến chống Pháp.

Bên cạnh đó có hai truyện lịch sử xuất sắc của Nguyễn Huy Tưởng: Kể

chuyện Quang Trung và Lá cờ thêu sáu chữ vàng (1960) Ngoài ra, văn học

thiếu nhi thời kỳ này còn xuất hiện loại truyện viết về đề tài sinh hoạt. Các

nhân vật thiếu nhi đều có những nét hồn nhiên, trong sáng, tiêu biểu cho thế

hệ thiếu nhi sau Cách mạng tháng Tám.

Cùng với truyện, thơ viết cho thiếu nhi bước đầu được quan tâm và

phát triển. 1961, tuyển tập thơ văn thiếu nhi lần đầu tiên dược xuất bản.

Một dội ngũ sáng tác cho thiếu nhi được hình thành: Văn Linh, Phong

Thu, Viết Linh, Xuân Sách, Hải Hồ, Thi Ngọc, Vũ Ngọc Bình, Thái Hoàng Linh,

Xuân Tửu và đặc biệt là sư xuất hiện của thơ văn Phạm Hổ và Võ Quảng đã

làm cho văn học thiếu nhi khởi sắc hẳn lên.

4. Từ 1964 - 1975

Tiếp nối giai đoạn trước, văn học thiếu nhi thời kỳ này phát triển về mọi

mặt.

Một loạt tuyển tập truyện và thơ được xuất bản, khẳng định bước tiến

rõ nét của nền văn học thiếu nhi. Tiêu biểu là Truyện viết cho thiếu nhi (1961)

của Nguyễn Huy Tưởng, ông Than đá (1969) của Viết Linh. Vừ A Dính (1974)

của Tô Hoài, Hai bàn tay chiến sĩ - Tập truyện chọn lọc vế đề tài kháng chiến

chống Pháp. Dòng nước xiết (1970), tập truyện ngắn và ký về đề tài miền Bắc

chống Mỹ, Măng tre (1971) thơ của Võ Quảng.

Từ năm 1965, hình thành một mảng sách lớn viết về truyền thống

chống ngoại xâm trong văn học thiếu nhi. Do là những truyện viết về lịch sử

chống ngoại xâm, về cuộc kháng chiến chống Pháp, cuộc kháng chiến chống

Mỹ ở cả hai miền Nam Bắc.

Page 54: Bài Giảng Văn Học Thiếu Nhi ... - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/74.VanHocThieuNhiVietNam.docx  · Web viewVĂN HỌC THIẾU NHI VIỆT NAM . BÀI GIẢNG VĂN HỌC

Truyện lịch sử đã phản ánh một cách chân thực, sinh động những sự

kiện lịch sử và khắc họa thành công một số nhân vật lịch sử như Quang

Trung, Trần Quốc Toản...

Đề tài trong kháng chiến chống Pháp tiếp tục được khai thác với nhiều

thành tựu mới. Các tác giả đi sâu vào miêu tả cuộc đời của các thiếu nhi anh

hùng. Đội du kích Đình Bảng của Xuân Sách là truyện dài đầu tiên viết cho

các em, mô tả hình ảnh một tập thể thiếu niên anh hùng đã đóng góp nhiều

công sức cho cách mạng. Những trang viết về sự hy sinh anh dũng của các

em thấm đẫm chất trữ tình, gây xúc động sâu sắc cho người đọc.

Chỗ cây đa làng, Cái Thăng, Quê nội của Võ Quảng là bài ca về công

ơn của cách mạng, ca ngợi lòng yêu nước, trí thông minh tài giỏi và sự

trưởng thành của các em thiếu nhi vùng địch hậu.

Từ năm 1965, đề tài chống Mỹ được các tác giả quan tâm và khai thác:

Mẹ vắng nhà của Nguyễn Thi, Hồ Văn Mên (1969) của Lâm Phương, Chú bé

Cà Xiên (1973) của Minh Thoa, út Tám (1971) của Ngô Thông.

Đề tài lịch sử tiếp tục dược khai thác với sát thái của Lê Vân và Nguyễn

Bích (1971), Bên bờ Thiên Mạc (1967), Trên sông truyền hịch (1973), Trăng

nước Chương Dương của Hà ân...

Nhìn chung, sách viết về truyền thống yêu nước chống ngoại xâm của

dân tộc qua nhiều thời kỳ lịch sử đã miêu tả khá chân thực hình ảnh của các

em trong một quá trình trưởng thành đầy gay go và ác liệt. Cuộc sống của các

nhân vật thiếu nhi trong chiến đấu được miêu tả sinh động, phù hợp với tâm

lý ưa hoạt động, ưa phiêu lưu của các em nên được các em yêu thích.

Đề tài hiện đại cũng được khai thác, phản ánh sinh hoạt sôi nổi của các

em chủ yếu trên các mặt học tập, lao động và vui chơi.

Nhưng trước năm 1965 còn rất mờ nhạt. Bước vào cuộc chống Mỹ,

nhiều sáng tác viết về nhà trường - đặc biệt là nhà trường trong những năm

chống chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ trên miền Bắc đã gặt hái được

thành công: chú bé sợ loạn (1965) của Hải Hà, Năm thứ nhất (1965) của Minh

Page 55: Bài Giảng Văn Học Thiếu Nhi ... - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/74.VanHocThieuNhiVietNam.docx  · Web viewVĂN HỌC THIẾU NHI VIỆT NAM . BÀI GIẢNG VĂN HỌC

Giang, Trận chung kết (1975) của Khánh Hòa, Những hạt nắng đầu tiên

(1971) của Lê Phương Liên, Hoa cỏ đắng của Nguyễn Thị Như Trang, Mái

trường thân yêu của Lê Khắc Hoan... ở mảng đề tài này, tác giả thường là

những thầy giáo, cô giáo nên có sự am hiểu vệ sinh hoạt nhà trường và tâm

lý học sinh.

Đề tài lao động cũng được nhiều tác phẩm đề cập đến. Người viết đã

biết khai thác nhiều khía cạnh của đời sống thực tế để tìm ra những nội dung

phong phú, phù hợp với tâm lý nhỏ tuổi. Nhiều tác phẩm khá hay xuất hiện

như: Cơn bão số 4 (1960) của Nguyễn Quỳnh, Quỳnh xóm cháy (1965) của

Bùi Hiển, Xã viên mới (l965) của Minh Giang, Những cô tiên áo nâu của

Hoàng Anh Đường, Kể chuyện nông thôn của Nguyễn Kiên.

Sự phát triển mạnh mẽ của loại truyện viết về đề tài con người mới

dưới nhiều dạng khác nhau là một sự kiện đáng chú ý trong văn học viết cho

thiếu nhi giai đoạn này. Đó là sản phẩm của chế độ mới trên miền Bắc Xã hội

Chủ nghĩa, đồng thời là sự hưởng ứng của các nhà văn đối với phong trào thi

đua Nghìn việc tốt của các em. Trong đó có loại sách hoàn toàn ghi lại những

sự kiện, những con người một cách vắn tắt và đầy đủ trong các tập Việc nhỏ

nghĩa tớn, sách viết về người thực, việc thực dưới dạng hư cấu ít nhiều; có

loại là hồi ký như Lớn lên nhờ Cách mạng (1965) của Phừng Thế Tài, Truyện

Những năm tháng không quên (1970) của Nguyễn Ngọc Ký, Truyện kể Hoa

Xuân Tứ (1961) của Quang Huy.

Không giống với những truyện trên, cô Bê 20 (1966) của Văn Biển là

một truyện đồng thoại với rất nhiều chất thơ, vừa chân thực sinh động vừa

khơi gợi sức tưởng tượng.

Mảng sách khoa học được hình thành và phát triển nhờ vào sự đóng

góp của những người làm công tác khoa học và nhà văn như: Viết Linh với

ông Than đá và Quả trứng vuông, Vũ Kim Dũng với Cô kiến trinh sát, Thế

Dũng với Thảm xanh trên ruộng, Hoàng Trọng Bình với Bí mật một khu rừng,

Phạm Ngọc Toàn với Đỉnh núi Nàng Ba... tạo nên một thời kỳ sung sức của

thể loại này.

Page 56: Bài Giảng Văn Học Thiếu Nhi ... - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/74.VanHocThieuNhiVietNam.docx  · Web viewVĂN HỌC THIẾU NHI VIỆT NAM . BÀI GIẢNG VĂN HỌC

Thơ cho thiếu nhi tiếp tục phát triển với những tên tuổi quen thuộc.

Trong số đó có những tác giả dã dành tất cả tâm huyết cho các em, chỉ viết

cho các em như Phạm Hổ, Võ Quảng, Định Hải...

Thơ của các nhà thơ viết cho các em có những nét mộc mạc, đáng yêu

chân thành, đôn hậu và nhân ái đem cái đẹp và cái thiện đến cho trẻ em, với

cả tấm lòng ưu ái của lớp cha anh mong muốn con em mình lớn lên trở thành

những người công dân tốt.

Hiện tượng các em làm thơ cũng là một nét mới, khá độc đáo của văn

học thiếu nhi thời kỳ này. Cho đến bây giở, người ta vẫn không quên có một

thần đồng thơ Trần Đăng Khoa mà cả thế giới biết đến với những vần thơ

“mạnh hơn bom đạn". Bên cạnh Trần Đăng Khoa là Khánh Chi, Hoàng Hiếu

Nhàn, Chu Hồng Quý, Nguyễn Hồng Kiên, Cẩm Thơ... Thơ của các em đặc

biệt phát triển ở thời kỳ này. Nó góp vào cho "nền” thơ thiếu nhi một hương vị

mới, một màu sắc mới trong trẻo, hồn nhiên, ngộ nghĩnh nhưng cũng không

kém phần tinh tế sâu lắng.

5. Từ 1975 đến nay

Sau một thời gian lúng túng, bế tắc trong tình thế xóa bao cấp và trong

cơ chế thị trường, văn học thiếu nhi trong những năm gần đây đã bắt dầu

khởi sắc phát triển cả chiều rộng và chiều sâu.

Ngoài việc tiếp tục khai thác các chủ đề và đề tài trước đó, văn học

thiếu nhi còn đi sâu thể hiện những khía cạnh phức tạp của đời sống. Điều đó

khẳng định cách nhìn, cách nghĩ mới về đối tượng thiếu nhi ngày nay.

Bên cạnh những cây bút quen thuộc viết cho thiếu nhi nhú Tô Hoài, Phạm Hổ,

Võ Quang... còn xuất hiện hàng loạt cây bút mới nhưng tác phẩm của họ đã

tạo được những ấn tượng sân đậm trong tâm trí của các em như Xuân Quỳnh

với Bến tàu trong thành phố, Nguyễn Quang Sáng với Dòng sông thơ ấu; Duy

Khán với Tuổi thơ im lặng, Phùng Quán với Thời thơ dữ dội, Hành trình ngày

thơ ấu của Dương Thu Hương, Miền thơ ấu của Vũ Thư Hiên và đặc biệt là

Nguyễn Nhật Ánh với hơn 40 đầu sách các loại viết cho thiếu nhi.

Page 57: Bài Giảng Văn Học Thiếu Nhi ... - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/74.VanHocThieuNhiVietNam.docx  · Web viewVĂN HỌC THIẾU NHI VIỆT NAM . BÀI GIẢNG VĂN HỌC

Từ năm 1990 trở lại đây, văn học thiếu nhị thật sự có những biến

chuyển đáng kể. Nhiều tác phẩm mới viết cho thiếu nhi được ra mắt như Mái

trường xưa của Viết Linh (1992) Đồi sói hú của Nguyễn Quỳnh, Người làm

mồi bẫy của Vi Hồng (1990). Chú bé thổi kèn của Quách Liêu (1991), Tuổi thơ

khát vọng của Võ Đức Nguyên (1990), Mầm đước của Trần Hoài Dương

(1994), Hương đồng có nội của Phạm Đức, Quả trời của Ngô Văn Phú

(1994), Một cần câu của Trần Thanh Địch (l993), Chú bé nhặt bông gạo của

Ngô Quân Miện (1994); Thành hoàng quê ngoại của Đoàn Hữu Phương

(1944)...

Một số cây bút trẻ cũng đã cho ra mắt độc giả những tác phẩm đầu tay

của họ. Đặc điểm chung của các cây bút trẻ này là không nghiêng về miêu tả

nhân vật mà đi sâu vào thế giới tâm trạng của lớp người sắp bước vào tuổi

trưởng thành. "Với chút bâng khuâng, với chút giận hờn, với sự mơ màng, với

những buồn vui bất thường và vô cớ, với ước mơ và khát vọng cháy bỏng"

Vân Thanh - (Đôi điều vê sự khởi sắc của văn học thiếu nhi hôm nay - Tạp chí

Văn học - Số 6/1995).

Nếu như ở giai đoạn trước, thơ thiếu nhi đặc biệt phát triển thì giai đoạn

này, của tập thơ thiếu nhi có phần thưa thớt. Còn những cây bút quen thuộc

ở thời kỳ trước như Phạm Hổ, Võ Quảng, Định Hải vẫn tiếp tục làm thơ cho

các em. Bên cạnh đó nổi lên những tác giả có phong cách riêng như: Nguyễn

Hoàng Sơn với Dắt mùa thu vào phố, Mai Văn Hải với Bờ ve ran (1990),

Phùng Ngọc Hùng với May áo cho mèo (1991)...

Cùng với sự ra đời của các sáng tác văn học, những tập sách, những

bài nghiên cứu về văn học thiếu nhi cũng đã được xuất bản: Truyện viết cho

thiếu nhi dưới chế độ mới của Văn Thanh - 1982, Đôi điều tâm đắt của Vũ

Ngọc Bình (1985), Hái hoa đầu mùa của Văn Hồng (1986)... Hàng loạt tờ báo,

tạp chí chuyên viết cho lứa tuổi thanh thiếu nhi được xuất bản Mực Tím, áo

Trắng, Hoa Học Trò... bên cạnh những tờ báo truyền thống.

Những tác phẩm văn học thiếu nhi nước ngoài có giá trị cũng đã được

dịch và giới thiệu với bạn đọc nhỏ tuổi Việt Nam với đủ các thể loại, như Công

Page 58: Bài Giảng Văn Học Thiếu Nhi ... - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/74.VanHocThieuNhiVietNam.docx  · Web viewVĂN HỌC THIẾU NHI VIỆT NAM . BÀI GIẢNG VĂN HỌC

viên khủng long kỷ Jura của Michael Crichton, một thiên truyện mà báo Time

đã đánh giá "Bằng tài năng hiếm có, Michael Crichton đã sáng tạo ra Công

viên kỷ Jura - một thiên truyện hoàn mỹ, ly kỳ và giật gân nhất thời nay". Bộ

truyện tranh Đôrêmon của Fujikô F.Fujio mặc dầu đã được ấn hành trên 50

tập vẫn được các em háo hức đón nhận. "Nó chứng tỏ sự tìm kiếm những

cách viết mới trên cơ sở các cốt truyện và chi tiết tâm lý, sư hóm hỉnh và

thông minh, sức tưởng tượng bao giở cũng là nhân tố cần được coi trọng

trong sáng tác văn học cho thiếu nhi".

Những tác phẩm viết cho thiếu nhi trong và ngoài nước trước đây như

Truyện kể Andersen, Truyện Ngụ ngôn của Lép Tôn xtôi, Dế mèn phiêu lưu

ký của Tô Hoài, Thơ thiếu nhi Trần Đăng Khoa v.v..đã dược tái bản nhiều lần

nhằm đáp ứng nhu cầu ham hiểu biết và thưởng thức nghệ thuật của các em.

Nhìn lại chặng đường phát triển của văn học thiếu nhi trong những điều

kiện lịch sử khác nhau, chúng ta thấy văn học thiếu nhi tuy có những bước

thăng trầm nhưng cũng đã đạt được những giá trị nhất định và ngày càng

khởi sắc.

II. TRUYỆN LỊCH SỬ VIẾT CHO THIẾU NHI CỦA NGUYỄN HUY TƯỞNG

1. Vài nét về tác giả

Nguyễn Huy Tưởng anh ngày 6.5.1912 tại xã Dục Tú, huyện Từ Sơn

tỉnh Bắc Ninh, nay thuộc huyện Đông Anh, ngoại thành Hà Nội, ông mất ngày

25.7.1960.

Nguyễn Huy Tưởng là nhà văn đồng thời là nhà viết kịch thành công

nhất ở những tác phẩm lấy đề tài lịch sử. Những tác phẩm thành công nhất

của ông là Dân hội Long Trì (Tiểu thuyết lịch sử 1942), Bắc Sơn (Kịch - 1946);

Sông mãi với thủ đô (Tiểu thuyết mới hoàn thành tập I - in năm 1961).

Trước Cách mạng tháng Tám, Nguyễn Huy Tưởng chưa viết truyện lịch

sử cho các em. Sau cách mạng, ông viết cũng chưa nhiều. Nhưng những gì

ông viết đều có giá trị. Niềm mong ước của ông là "làm sao cho hết thảy con

Page 59: Bài Giảng Văn Học Thiếu Nhi ... - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/74.VanHocThieuNhiVietNam.docx  · Web viewVĂN HỌC THIẾU NHI VIỆT NAM . BÀI GIẢNG VĂN HỌC

em, cả một thế hệ bước sau chúng ta khi các em vừa đến tuổi làm quen với

sách vở đã biết thưởng thức và say mê những câu chuyện do tưởng tượng

mới thấy, thì trước hết, các em phải được thấy một cách xúc động và thiêng

liêng sức sống vĩ đại của dân tộc và con người Việt Nam". Ông thèm có tài

năng nào "đem được cả nghìn năm lịch sử dựng nước biến thành một bộ

truyện chói lòa, hàng trăm, hàng trăm nhân vật anh hùng"

Sáng tác Cho thiếu nhi của ông đã được in thành tập Tìm mẹ - phần

nhiều là truyện lịch sử hoặc kể lại truyền thuyết và cổ tích.

Ông là người tham gia sáng lập, đồng thời là Giám đốc đầu tiên của

Nhà xuất bản Kim Đồng.

2. Tác phẩm

Sáng tác của Nguyễn Huy Tưởng viết cho thiếu nhi có thể xoay quanh

hai chủ đề lớn, phản ánh hai phương diện cơ bản của dân tộc ta: chủ đề

chống áp bức và chủ đề chống ngoại xâm.

2.1. Chủ đề cử chống áp bức

Chủ đề chống áp bức được thể hiện qua mảng đề tài cổ. Thông qua

những câu chuyện có dáng dấp và mô típ của truyện cổ tích thần kỳ tác giả

đã nói lên khát vọng đổi đời của người dân nghèo khổ.

Trong Tìm mẹ, người ta có thể thấy được cuộc đấu tranh lâu dài, gian

khổ của người dân lao động chống lại bọn địa chủ cường hào để giành lấy

quyền sống của mình. Trong truyện, Chúa làng là một kẻ tàn ác bóc lột người

dân thậm tệ: "Lúa gặt được bao nhiêu phải nộp cho chúa làng bấy nhiêu.

Hươu nai bán được con nào phải nộp cho chúa làng con ấy...". Hậu quả là

những người lao động quanh năm đầu tắt mặt tối vẫn không có gì để sinh

sống, nương thân. Họ đành gửi niềm mong ước của mình vào tên gọi của

những đứa con, đó là Nhà và Gạo. Không những thế Chúa làng còn giết cha

của Nhà và Gạo. Người mẹ phải đưa hai con gửi cho núi rừng để đi tìm

nguồn sống. Trong khi đó, Chúa làng vì giết người, ăn phải rận thiêng nên

hóa hổ nhưng vẫn không từ bỏ thói quen gian ác. Hai anh em Nhà và Gạo đã

Page 60: Bài Giảng Văn Học Thiếu Nhi ... - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/74.VanHocThieuNhiVietNam.docx  · Web viewVĂN HỌC THIẾU NHI VIỆT NAM . BÀI GIẢNG VĂN HỌC

hợp sức với người con gái bị hổ ép làm vợ lập mưu giết hổ. Sau khi giết hổ,

các em lên đường đi tìm me. Cuối cùng ba mẹ con đã được đoàn tụ trong

niềm mơ ước đang dần thành hiện thực "Thế nào Nhà cũng có nhà, Gạo

cũng có gạo".

Với Con cóc là cậu ông Trời, thoạt nhìn, câu chuyện dường như mang

chủ để chống thiên nhiên, giữa một bên là những con vật bé nhỏ nhưng dũng

cảm, gan dạ với một bên là lực lượng siêu nhiên: Trở, Thiên lôi, Thiên tướng,

Thiên tinh... Cuối cùng sư gan dạ, mưu trí của những con vật bé nhỏ đã thắng

nhưng ẩn đằng sau câu chuyện là nội dung đấu tranh xã hội giai cấp gay gắt.

Câu chuyện bao hàm triết lý: Chính nghĩa thắng gian tà.

2. 2. Chủ đề chống ngoại xâm

Chủ đề chống ngoại xâm thể hiện tập trung qua mảng truyện viết về đề

tài lịch sử. Mỗi truyền là một trang anh hùng bất tử của dân tộc tử ngàn xưa

cho đến cuộc kháng chiến chống Pháp.

Truyện Lá cờ thêu sát chữ vàng đã làm sống dậy hình ảnh Trần Quốc

Toản, vị thiếu niên anh hùng đời Trần. Mặc dù còn nhỏ tuổi, nhưng trước

cảnh đất nước lâm nguy bởi họa ngoại xâm, Trần Quốc Toản đã tình nguyện

tham gia gánh vác việc nước. Bị từ chối vì chưa đến tuổi trưởng thành, Trần

Quốc Toàn về quê, cùng với vị tướng giá chiêu mộ quân sĩ, luyện tập ngày

đêm. Với Lá cờ thêu sáu chữ vàng “Phá cường địch, báo hoàng ân" (phá giặc

mạnh, đền ơn vua), Trần Quốc Toản dẫn đoàn quân đi tìm giặc mà đánh.

Được sự hỗ trợ của vị tướng già trung thành, của anh em nhà Thế Lộc, đoàn

quân của Trần Quốc Toàn đã thu được những thắng lợi to lớn. Khi được triều

đình thu nhận và tin cậy, đạo quân của Trần Quốc Toản tiếp tục lên đường và

thu được những thắng lợi lớn, đặc biệt là trận Hàm Tử chống ô Mã Nhi. Lá cờ

thêu sáu chữ vàng là ý chí quyết chiến, quyết thắng của một thế hệ thiếu niên

giàu lòng yêu nước.

Kể chuvện Quang Trung là bức tranh lịch sử rộng lớn về cuộc tiến công

ra Bắc của Bắc Bình Vương Nguyên Huệ. Trong đó, điểm chốt là trận Đống

Đa lịch sử. Trong tác phẩm, hình ảnh người anh hùng Nguyễn Huệ đã được

Page 61: Bài Giảng Văn Học Thiếu Nhi ... - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/74.VanHocThieuNhiVietNam.docx  · Web viewVĂN HỌC THIẾU NHI VIỆT NAM . BÀI GIẢNG VĂN HỌC

Nguyễn Huy Tưởng khắc họa như một vị tướng tài ba, có tài xét đoán, có tầm

nhìn xa trông rộng, có cách xử trí linh hoạt trong mọi tình huống. Đó là việc

Quang Tnmg thăm dò ý chí quyết tâm Bắc tiến của binh sĩ lúc đoàn quân tiến

tới sông Gianh. Khi đến gần Thăng Long, để đảm bảo tuyệt đối bí mật, ông đã

dùng mưu kế lấy đồn Hạ Hồi không một tiếng súng, không tốn một mũi tên,

không thất một tên lính. Khi bị hỏa lực địch tấn công; Quang Trung đã dựa

vào dân, dùng lối đánh du kích để mở đường, vượt thành lũy, hạ đồn địch.

Khi Thăng Long đã về tay Tây Sơn, Quang Trung cũng không vì thế mà chủ

quan, ông sai quan Thị lang Ngô Thời Nhiệm viết thư gửi lên Hoàng đế nhà

Thanh, tỏ rõ thiện chí của mình để giải hòa giữa hai nước, tránh hậu họa về

sau.

3. Truyện lịch sử - Lá cờ thêu sáu chữ vàng

3. 1. Nét đặc trưng cua truyện lịch sử viết cho thiếu nhi

- Truyện lịch sử thường lấy cảm hứng từ các sự kiện lịch sử có tâm

thời đại.

- Viết truyện lịch sử, điều quan trọng là phải tôn trọng các sự kiện lịch

sử. Nhưng tôn trọng mà không bị ràng buộc, không biến thành nô lệ cho các

sự kiện.

- Một trong những nhiệm vụ của truyện lịch sử là dựng lại trước mắt

các em không khí của các sự kiện lịch sử và những con người lịch sử, có như

vậy mới bảo đảm được tính chân thực trong sáng tác.

- Thành công của truyện lịch sử là ở mục đích giáo dục của nó. Thông

qua sự tái hiện một cách chân thực, sinh động của các sự kiện lịch sử và

những con người lịch sử, tác phẩm dẫn đến cho các em những bài học quý

về lòng yêu nước và tinh thần tự hào dân tộc.

3. 2. Hướng dẫn phân tích

* Bối cảnh

Page 62: Bài Giảng Văn Học Thiếu Nhi ... - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/74.VanHocThieuNhiVietNam.docx  · Web viewVĂN HỌC THIẾU NHI VIỆT NAM . BÀI GIẢNG VĂN HỌC

Lá cờ thêu sáu chữ vàng được lấy cảm hứng từ các sự kiện lịch sử xẩy

ra ở đời nhà Trần, khi quân Nguyên xâm lược nước ta lần thứ hai.

Đời Trần là một mốc son của lịch sử với nhiều sự kiện đáng ghi nhớ:

Hội nghị Bình Thanh khởi động tinh thần kháng chiến của vua quan nhà Trần,

Hội nghị Diên Hồng, cuộc họp mặt rộng rãi các bô lão, đại biểu của toàn dân

để bàn việc nước trước họa xâm lăng.

Đó cũng là thời dại của những anh hùng với những câu nói bất hủ: Trần

Thủ Độ "Đầu tôi chưa rơi xuống đất, xin bệ hạ đừng lo"; của Trần Bình Trọng:

"Thà làm quỷ nước Nam còn hơn làm vương đát Bắc". Và đặc biệt của Trần

Quốc Toản, người thiếu niên anh hùng đời Trần: "Trước hết chém đầu thần

rồi hãy hàng”...đã biểu lộ khí phách quật cường, ý chí quyết tâm tiêu diệt giặc

Nguyên của dân tộc ta.

* Nhân vật Trần Quốc Toản

Trần Quốc Toản là hình tượng trung tâm của tác phẩm, tiêu biểu cho

chí khí cộng đồng dân tộc quyết đuổi giặc Nguyên ra khỏi bờ cõi. Nhân vật

Trần Quốc Toản được xây dựng trên những khung cảnh trang nghiêm, trầm

hùng của hội nghị Bình Than, của buổi lễ ăn thề, của cảnh đoàn quân khởi

nghĩa thích hai chữ "Sát Thát” vào cánh tay, buổi lên đường của đoàn quân

tuổi trẻ...

Tái hiện Trần Quốc Toản, tác giả chú ý khai thác những khía cạnh anh

hùng của nhân vật qua bút pháp tương phản ngay trong bản thân nhân vật,

giữa những tình huống kịch. Đó là sự tương phản giữa ngoại hình với ý chí

dời non lấp bể; giữa tuổi tác và một nếp nghĩ già dặn và giữa một tâm hồn

giàu tình cảm với bán lĩnh anh hùng quyết đoán.. Nhìn chung, nhân vật Trần

Quốc Toản đã được phát triển qua nhiều nét khác nhau, giải thích lẫn nhau,

tạo nên một tính cách hoàn chỉnh. Đồng thời, Nguyễn Huy Tưởng cũng cho ta

thấy không phải ngẫu nhiên mà Trần Quốc Toản có được tinh thần yêu nước

sâu sắc như vậy. Chính tình thế đất nước, môi trường gia đình và hoàn cảnh

xã hội đã góp phần tạo nên người anh hùng Trần Quốc Toản.

Page 63: Bài Giảng Văn Học Thiếu Nhi ... - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/74.VanHocThieuNhiVietNam.docx  · Web viewVĂN HỌC THIẾU NHI VIỆT NAM . BÀI GIẢNG VĂN HỌC

Bên cạnh hình ảnh Trần Quốc Toàn là hình ảnh cả nước một lòng

quyết tâm đánh giặc. Có nhiều hình ảnh xúc động: Cuộc hội nghị bàn kế đối

sách với quân Nguyên của vua quan nhà Trần, hình ảnh nhân dân tiễn đưa

con em lên đường giết giặc, những bà mẹ nén lòng thương nhớ, khích lệ con

lập công..

* Nghệ thuật

Ngôn ngữ là một yếu tố góp phần làm nên giá trị của tác phẩm. Có thể

nói, Nguyễn Huy Tưởng rất khéo sử dụng ngôn ngữ. Trong truyện, ông không

hiện đại hóa ngôn ngữ nhưng cũng không vì thế mà lời văn trở nên khó hiểu:

ông ít dùng chữ Hán, nếu phải dùng thì đều có chú thích để các em hiểu

được.

Ngôn ngữ nhân vật thường phù hợp với tính cách nhân vật. Ngôn ngữ

miêu tả của ông cũng hết sức linh hoạt, có khi chỉ bằng một đoạn văn ngắn,

ông dựng được một khung cảnh riêng. Ngoài ra, ông còn biết chọn những chi

tiết gây ấn tượng khó quên đối với bạn đọc nhỏ tuổi như hình ảnh Trần Quốc

Toản xòe tay quả cam chỉ còn trơ bã...

Trong Lá cờ thêu sáu chữ vàng, Nguyễn Huy Tưởng đã làm sống dậy

trước mắt các em không khí lịch sử với những trận giáp lá cà, với những

phong tục xưa, cách ăn mặc, nói năng, quan hệ mẹ con, thầy trò, bạn bè của

nhân vật được tái hiện một cách sinh động trong một không khí lịch sử mang

đậm màu sắc anh hùng ca.

Có thể nói Nguyễn Huy Tưởng là một trong những nhà văn đặt nền

móng cho nền văn học thiếu nhi của nước ta.

III. TRUYỆN ĐỒNG THOẠI CỦA TÔ HOÀI

1. Vài nét về tác giả

Page 64: Bài Giảng Văn Học Thiếu Nhi ... - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/74.VanHocThieuNhiVietNam.docx  · Web viewVĂN HỌC THIẾU NHI VIỆT NAM . BÀI GIẢNG VĂN HỌC

Tô Hoài tên thật là Nguyễn Sen. Ông sinh năm 1920 trong một gia đình

làm nghề thủ công. Quê nội ở xã Kim An, Huyện Thanh Oai - Hà Sơn Bình.

Ông lớn lên ở quê ngoại; làng Nghĩa Đô, Từ Liêm, Hà Nội.

Con đường sáng tác của Tô Hoài được khởi đầu bằng những bài thơ

có tính chất lãng mạn nhưng sau đó đã chuyển sang văn xuôi hiện thực và

được chú ý từ những truyện ngắn đầu tay. Từ 1941, ông viết nhiều và đã có

những tác phẩm viết cho thiếu nhi. Các tác phẩm chính trước Cách mạng

tháng Tám: Truyện Dế mèn phiêu lưu ký (1941), tiểu thuyết Quê người

(1941), tập truyện ngắn Nhà nghèo (1941) ; truyện Xóm Giếng ngày xưa

(l944); Hồi ký Cỏ dại (1944). Tô Hoài được chú ý ngay từ những truyện đồng

thoại đầu tiên: Trê và Cóc, Ông Trạng chuối, Mực tàu giấy bản, Dê và lợn,

Đám cưới chuột, Ba anh em và đặc biệt là Dế mèn phiêu lưu ký.

Sau Cách mạng tháng Tám, Tô Hoài tham gia nhiều hoạt động trong

lĩnh vực văn nghệ (làm báo Cứu Quốc, công tác ở hội Văn Nghệ Việt Nam,

Tạp chí Văn nghệ, lãnh đạo Hội Nhà văn...) và liên tục sáng tác. Trong kháng

chiến chống Pháp, ông thường viết về đề tài miền núi. Tập Truyện Tây Bắc

của ông được giải Nhất, giải thưởng Văn nghệ năm 1954 - 1955. Từ hòa bình

lập lại đến nay, Tô Hoài viết nhiều thể loại (truyện ngắn, tiểu thuyết, kịch bản

phim, bút ký, hồi ký, tiểu luận, kinh nghiệm sáng tác...) đề cập đến nhiều đề

tài khác nhau. Nhìn chung, ở thể loại nào, đề tài nào ông cũng có những đóng

góp đáng chú ý. Thời kỳ này, ông cũng dành nhiều tâm huyết viết cho các em,

ông đã cho ra mắt bạn đọc nhỏ tuổi nhiều tác phẩm: Con gà lờ đờ, Chim hải

âu, Chim chích lạc rừng, Tuổi nhỏ tài cao, Vừ A Dính, Đàn chim gáy, Kim

Đồng, Đảo hoang, Bàn Quý và ngựa con v.v...

Có thể nói, ông là một nhà văn viết nhiều cho thiếu nhi và được các em

đón nhận nồng nhiệt.

2. Tác phẩm

Sáng tác của Tô Hoài, trước và sau Cách mạng tháng Tám có thể chia

làm 2 mảng đề tài chủ yếu: đề tài cổ và đề tài sinh hoạt..

Page 65: Bài Giảng Văn Học Thiếu Nhi ... - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/74.VanHocThieuNhiVietNam.docx  · Web viewVĂN HỌC THIẾU NHI VIỆT NAM . BÀI GIẢNG VĂN HỌC

2.1. Đề tài cổ

Nét đặc trưng của loại truyện viết về đề tài cổ của Tô Hoài là được dựa

theo hoặc mô phỏng những mô típ quen thuộc của các chuyện cổ dân gian.

Ông Trạng Chuối là một truyện được Tô Hoài sáng tác kỳ trước Cách mạng,

mang bóng dáng của thần thoại "Sơn Tinh Thủy Tinh". Trong truyện, nhân vật

Trạng Chuối đã trải qua nhiều biến cố của cuộc đời nhưng nhờ hình hài con

cá chuối đã giúp ông thử thách được lòng tốt của con người, cuối cùng, Trạng

đã chọn được người yêu đích thực của mình. Truyện khép lại bằng một câu

khái quát chủ đề: "Những kẻ làm ác không bao giờ hại được người ngay

thẳng".

Sau Cách mạng tháng Tám, Tô Hoài vẫn tiếp tục mảng đề tài này với

những tác phẩm: Chuyện ông Gióng, Truyện Nỏ thần và Đảo hoang. Nếu như

Chuyện ông Gióng lại một lần nữa làm sống dậy biểu tượng của người anh

hùng chiến trận, chống giặc ngoại xâm thì truyện Nỏ thần lại thiên về cảm

hứng phê phán. Trong truyện, thông qua hình tượng các nhân vật, Tô Hoài

kết tội An Dương Vương và Mỵ Châu vì không biết xét đoán con người và

hoàn cảnh, mất cảnh giác, để lại mối hận muôn đời cho non sông đất nước.

Đảo hoang là một tiểu thuyết ra đời năm 1969, được Tô Hoài ấp ủ từ

lâu. Đó là bài ca hùng tráng về truyền thống lao động, chiến đấu chinh phục

thiên nhiên, dành quyền sống và quyền phát triển của dân tộc ta. Đảo hoang

vừa mang dáng dấp của một tiểu thuyết phiêu lưu, vừa có yếu tố kỳ ảo của

một truyền thuyết, mang niềm tin vào sức mạnh con người "Đâu có người ở

đấy có tất cả”.

2.2. Đề tài sinh hoạt

Đề tài sinh hoạt trong sáng tác của Tô Hoài thường được biểu hiện

bằng nhiều mẫu chuyện đồng thoại. Với cách viết dí dỏm, ngộ nghĩnh về thế

giới loài vật, Tô Hoài đã làm cho những thiên đồng thoại trở nên sinh động, kỳ

ảo, giàu chất thơ nhưng vẫn mang bóng dáng của hiện thực. Những bài học

về thói đạo đức giả, xu thời, trọng hình thức... thường được nhắc đến trong

Đám cưới chuột qua sự khác biệt trong cách đánh giá của bà con chòm xóm

Page 66: Bài Giảng Văn Học Thiếu Nhi ... - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/74.VanHocThieuNhiVietNam.docx  · Web viewVĂN HỌC THIẾU NHI VIỆT NAM . BÀI GIẢNG VĂN HỌC

đối với chuột nhắt trước và sau khi đỗ đạt. Đồng thời, thói học đòi làm sang

của ông bà Thử (bố mẹ Chuột Nhắt) cũng gây ra những bi hài kịch chua xót.

Nhưng bao trùm lên tất cả tác phẩm vẫn là ánh sáng lấp lánh của một lẽ sống

mới cao quý hơn, rộng lớn hơn, qua những lời tâm tình của ông Chuột Cống.

Từ đó Chuột Nhắt không còn luẩn quẩn trong những bi kịch cá nhân nữa mà

vươn tới mục đích chống cường quyền. Tư tưởng đó tuy mơ hồ, nhưng đã là

một tiếng nói gần gũi với Cách mạng.

Sau Cách mạng, những đồng thoại Chim chích lạc rừng, Con mèo lười,

Đàn chim gáy... tiếp tục ra mắt bạn đọc, đã bộc lộ một cái nhìn ngỡ ngàng

trước những đổi thay trên miền Bắc đang xây dựng cuộc sống mới.

Bên cạnh đó, hai truyện Kim Đồng và Vừ A Dính cũng được ra đời. Nếu

như các nhân vật trong những truyện đồng thoại trước cách mạng luôn đề

cao tình đoàn kết "muôn loài cũng kết làm anh em", thì ở Kim Đồng và Vừ A

Dính cũng đi tìm cho mình một lý tưởng sống cao đẹp nhưng cụ thể và hiện

thực hơn: Làm cách mạng để đấu tranh xóa đau khổ, áp bức, xây dựng một

xã hội mới hạnh phúc hơn.

3. Truyện đồng thoại: Dế Mèn phiêu lưu ký

3. 1. Khái quát về Dế Mèn phiêu lưu ký

Dế Mèn phiêu lưu ký là một tác phẩm nổi tiếng của nhà văn Tô Hoài

viết trước Cách mạng.

Câu chuyện sóng gió kỳ thú của Dế mèn với bao bài học cuộc sống thu

nhận được trên đường tìm lý tưởng từ lâu đã rất gần gũi với chúng ta. Tác

phẩm chẳng những lôi cuốn nhiều thế hệ bạn đọc nhỏ tuổi Việt Nam mà còn

được đông đảo bạn đọc trên thế giới yêu thích. Dế Mèn phiêu lưu ký đã được

dịch và in ra nhiều thứ tiếng: Nga, Tiệp Khắc, Ba Lan, Ru - ma - ni, Đức,

Mông Cổ, Nhật Bản, Nam Tư, Ấn Độ, Miến Điện, Pháp,…

Truyện gồm có 10 chương.

Chương I. Tôi sống độc lập từ thuở bé. Một sự ngỗ nghịch đáng ôm

hận suốt đời.

Page 67: Bài Giảng Văn Học Thiếu Nhi ... - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/74.VanHocThieuNhiVietNam.docx  · Web viewVĂN HỌC THIẾU NHI VIỆT NAM . BÀI GIẢNG VĂN HỌC

Chương II. Cuộc phiêu lưu bất ngờ. Làm đồ chơi cho trẻ con mà không

biết. Lại anh Xiến tóc cho tôi một bài học mới.

Chương III. Thoát khỏi cái lồng tù: Giữa đường dẫu thấy bất bằng mà

tha. Mẹ kính mến của con ơi.

Chương IV. Ông anh cả và ông anh hai của Mèn. Tri âm không đợi mà

gặp.

Chương V. Một sự vô ý rất nguy hiểm. Địa thế và tình hình các xóm lầy

lội. Vì lẽ gì Mèn và Trũi trốn đi được?

Chương VI. Tranh hùng với võ sĩ Bọ Ngựa. Chánh phó thủ lĩnh tổng

Châu Chấu. Thề rằng sinh tử có nhau.

Chương VII. Tâm sự bác Xiến Tóc chán đời. Cái cớ khiến cho Mèn lại

lên đường.

Chương VIII. Mèn bị tù. Những sự xảy ra cho Mèn khi phải giam trong

hầm kín của lão Chim Trả. Xa nhau lại gặp nhau.

Chương IX. Lại một chuyện rủi ro với các bạn kiến. Sự tức giận của

mấy cô học trò. Ai có công nhất?

Chương X. Mấy dòng tạm biệt của tập ký.

3.2. Về khái niệm đồng thoại

Đồng thoại là một thể loại đặc biệt của văn học dành cho thiếu nhi, có

sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa hiện thực và yếu tố tưởng tượng. Nhân vật

chính là loài vật, thực vật và những vật vô tri nhưng được nhân hóa để mang

tính cách "người" (cũng có khi nhân vật là người). Ngôn ngữ của đồng thoại

giàu chất thơ, giàu hình ảnh, vui tươi, dí dỏm, có nhiều yếu tố bất ngờ, dễ

thuộc, dễ nhớ. Những đặc điểm đó làm cho đồng thoại gần gũi với trẻ thơ, có

khả năng đem đến cho trẻ những ước mơ bay bổng, những cảm xúc thẩm mỹ

về một thế giới thiên nhiên kỳ ảo. Nhưng dù kỳ ảo đến đâu, đồng thoại vẫn

mang hơi thở của cuộc sống, mà ở đó các em có thể tìm thấy những nét quen

Page 68: Bài Giảng Văn Học Thiếu Nhi ... - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/74.VanHocThieuNhiVietNam.docx  · Web viewVĂN HỌC THIẾU NHI VIỆT NAM . BÀI GIẢNG VĂN HỌC

thuộc trong cuộc sống của mình và góp phần bồi dưỡng cho các em những

tình cảm trong sáng, tạo dựng thái độ đúng trong cuộc sống.

Những thiên đồng thoại hay không chỉ làm cho các em say mê mà còn

được cả người lớn đón nhận như: Dế Mèn phiêu lưu ký của Tô Hoài, Ông lão

đánh cá và con cá vàng của Puskin, Tập truyện kể của Andersen v...v....

3.3. Phân tích nhân vật Dế Mèn

Dế mèn phiêu lưu ký mô tả cuộc phiêu lưu của một chú dế mèn qua thế

giới loài vật và loài người.

Trên nền cuộc sống nhàn tản của họ nhà Dế bên một bờ đầm nước, có

một chú Dế Mèn không an phận! "Sáng nào, chiều nào cũng từng ấy việc, đời

được vậy kể cũng vui, nhưng rồi sau cũng cảm thấy nhàm dần". Ý nghĩ về

những cuộc phiêu lưu cũng xuất phát từ đấy. Mèn muốn biết thế giới bên

ngoài cái đầm nước này ra sao và Mèn muốn có thêm nhiều bạn mới. Và tính

cách của Dế Mèn được hình thành dần qua từng chặng đường đời đầy phiêu

lưu của chú.

Thuở còn trẻ, khác hẳn hai người anh gia trưởng, cổ hủ và yếu đuối,

Mèn là một thanh niên cường tráng, yêu đời, yêu lao động và sớm sống tự

lập. Ngay từ khi mới được mẹ cho "ở riêng" Mèn đã dùng sức lao động, tạo

cho mình một chỗ ở đàng hoàng, đẹp đẽ lại có nhiều ngách để phòng khi gặp

nguy hiểm. Cũng như họ hàng, Mèn rất thích ca hát. Tối tối "tôi tạm nghỉ tay

và đứng ngoài cửa hang, họp cùng anh chị em hàng xóm quanh bờ ruộng,

vừa gảy đàn vừa hát một bài hát hoàng hôn chào tạm biệt ông mặt trời…”

Bên cạnh những mặt tốt đó, Mèn đã nhiễm thói hiếu thắng, thích gây gỗ,

ngông cuồng đến mức tàn nhẫn. Mèn bắt nạt mấy chị Cào cào, mấy anh

Gọng vó yếu đuối, giễu cợt, khinh bỉ chú Dế choắt: Thiếu hiểu biết ở đời, Mèn

tưởng nhầm thói xấu đó là sự tài ba, anh hùng. Mèn càng trở nên dương

dương tự đắc khi bị biến thành tên lính đánh thuê để cho lũ trẻ mua vui. Đến

lúc này, Mèn đã gây ra tai họa cho bao nhiêu đồng loại. Điểm đỉnh của thói

ngông cuồng và bất nhẫn ở Mèn là cảnh Mèn bỏ ngoài tai mọi lời van xin,

xông vào đánh một chú dế con vừa mới sinh ra đời được mấy hôm, cánh hãy

Page 69: Bài Giảng Văn Học Thiếu Nhi ... - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/74.VanHocThieuNhiVietNam.docx  · Web viewVĂN HỌC THIẾU NHI VIỆT NAM . BÀI GIẢNG VĂN HỌC

chưa kín lưng. Trong suốt quãng đời ấy, không phải không có lúc Mèn cảm

thấy băn khoăn, hối tiếc về hành động của mình. Ấy là lúc Mèn chứng kiến cái

chết của Dế Choắt do mình gây ra. Mèn đã từng đứng chết lặng trước mộ Dế

Choắt để suy ngẫm về bài học đường đời đầu tiên qua lời trăn trối của Dế

Choắt:"Ở dời mà có thói hung hăng, bậy bạ, có óc mà không biết nghĩ, sớm

muộn gì cũng mang vạ vào mình đấy". Nhưng phải tới lần gặp bác Xiến tóc

thì Mèn mới hoàn toàn tỉnh ngộ. Chỉ tới lần ấy, sau khi bị Xiến tóc nghiêm

khắc cảnh cáo và cắt cụt hai sợi râu, Mèn mới thực sự tự vấn lương tâm

mình. Mèn kinh hoàng nhận ra rằng: "Tôi chỉ làm ác mà tôi không biết", "cuộc

đời nửa thời xuân mà chưa làm nổi điều gì có ích". Mèn thấy mình phải thay

đổi cách sống. Từ đó những phẩm chất mới của Dế Mèn dần dần được hình

thành.

Thoát khỏi cuộc phiêu lưu bất đắc dĩ ở thế giới loài người, hành động

nghĩa hiệp đầu tiên của Mèn là bảo vệ cô Nhà Trò yếu đuối nước lũ nhện ăn

thịt. Mèn đã nêu cao lẽ sống mới "ở đời, thương nhau là hơn, hằn thù độc ác

làm gì". Từ đấy, Mèn luôn tâm niệm lời mẹ dặn: “Rèn cho được tấm lòng chín

chắn" để làm cho cuộc sống trở nên có ý nghĩa.

Cùng với Dế Trũi, Mèn thực hiện cuộc phiêu lưu thứ hai vào thế giới

loài vật để "tìm cái ý nghĩa chân thật của cuộc đời". Mèn đã đi qua nhiều nơi.

Đó là vương quốc Đầm lầy, của đại vương Ếch Cốm khoác lác và thầy đồ

Cóc dốt hay sính chữ. Đó là làng Hoa Cỏ May, đất đai của loài côn trùng có

cánh, có tinh thần thượng võ và yêu chuộng hòa bình. Đó là xứ sở của họ

hàng nhà kiến cần cù, chăm chỉ. Biết bao hạng người mà Mèn đã gặp: Đó là

bác Xiến Tóc nghĩa hiệp nhưng về sau thành kẻ chán đời, đó là lũ nhện độc

ác, lũ ve sầu, bươm bướm lười nhác, lão chim trả trai lơ, những Cào Cào, Bọ

Ngựa, Bọ Muỗm tốt bụng. Và nhất là những chàng Châu Chấu Voi giàu thiện

chí, sẵn sàng nhường nơi ở tốt cho những người bạn yếu hơn. Mèn khám

phá ra ý nghĩa thực của cuộc sống chính là lý tưởng mà đoàn Châu Chấu Voi

đang ra sức phấn đấu thực hiện. "Chúng ta đi khắp thế giới kết làm anh em".

Mèn nói lên những lời tâm huyết như một lời thề thiêng liêng "Em Trũi yêu

Page 70: Bài Giảng Văn Học Thiếu Nhi ... - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/74.VanHocThieuNhiVietNam.docx  · Web viewVĂN HỌC THIẾU NHI VIỆT NAM . BÀI GIẢNG VĂN HỌC

quý. Các bạn Châu Chấu Voi tri kỷ ơi! Điều các bạn nghĩ cũng là điều xưa nay

tôi từng mộng tưởng. Nay tôi xin cùng các bạn di khắp thế gian làm cho được

những gì mà ta đương mong ước". Trong chặng đường phiêu lưu, hoạt động

cho lý tưởng, Mèn phải trải qua nhiều cảnh ngộ hết sức hiểm nghèo, mấy lần

suýt chết, hai lần bị bắt làm tù binh. Nhưng từng bước, từng bước Mèn đã

dũng cảm vượt qua và đã chiến thắng. Thực hiện được những gì mình tâm

niệm, vươn lên trở thành con người hoàn thiện, với những phẩm chất tốt đẹp

như Tô Hoài đã từng viết: "Dế Mèn yêu lao động, thích vui chơi, biết ước mơ,

rất ghét đứa làm ác, cho nên khi gặp lý tưởng thì Dế Mèn giác ngộ và có lý

tưởng".

Dế Mèn là một hình tượng tiêu biểu cho lớp thanh niên trước Cách

mạng không vừa lòng với cuộc sống tầm thường, luôn khao khát đi tìm cái

thiện, cái đẹp trong cuộc đời. Nhân vật này một khi đã nhận ra lý tưởng của

mình là sẵn lòng tham gia thực hiện nó. Lý tưởng "muôn loài cùng nhau kết

làm anh em" của Mèn tuy còn mơ hồ và ít nhiều có tính chất không tưởng,

nhưng giàu chất nhân văn và có sức thôi thúc lớp thanh niên giàu nhiệt huyết

với đất nước lúc đó.

Nhưng Dế mèn phiêu lưu ký không phải chỉ có ý nghĩa ở thời điểm ấy

như Tô Hoài đã bộc lộ "Có những truyện anh (Dế Mèn) kể từ thời ấy, mà đến

bây giờ càng ngày tôi càng thấy ra thêm bao ý nghĩa sâu sắc. Bởi vì, các câu

chuyện với bầu bạn, với đồng bào, với quê hương như thế nào của Dế Mèn

vẫn là câu chuyện hàng ngày của chúng ta hôm nay và mai sau” (Lời nói đầu

Dế mèn phiêu lưu ký - Nxb KD - In lần thứ 6 - 1972).

3.4. Nghệ thuật

Dế mèn phiêu lưu ký không chỉ đặc biệt hấp dẫn bạn đọc nhỏ tuổi ở

cuộc đời phiêu lưu đầy sóng gió của chú Dế mèn mà còn ở khả năng quan

sát tài tình, cách miêu tả tinh tế dí dỏm về loài vật và tâm hồn nhạy cảm với

thiên nhiên của Tô Hoài. Có thể nói, Tô Hoài là bậc thầy về ngôn ngữ miêu tả

loài vật. Lần theo bước chân phiêu lưu của Dế Mèn, dưới ngòi bút tài hoa của

ông, thế giới của họ nhà Dế hiện ra thật phong phú, ngộ nghĩnh, sinh động và

Page 71: Bài Giảng Văn Học Thiếu Nhi ... - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/74.VanHocThieuNhiVietNam.docx  · Web viewVĂN HỌC THIẾU NHI VIỆT NAM . BÀI GIẢNG VĂN HỌC

gần gũi với thế giới con người biết bao. Đó là hình ảnh của một Dế Mèn

cường tráng với những chặng đường đời đầy thăng trầm đầy sóng gió. Một

dế anh Cả gia trưởng, cổ hủ, một dế anh Hai dật dờ, một Dế Choắt yếu đuối

nhưng rất đổi nhân từ, một Dế Trũi ngang tàng và còn biết bao loài vật khác

được Tô Hoài đưa vào tác phẩm: Những cô Cào Cào đỏm dáng làm duyên,

một gã Bọ Ngựa huênh hoang, lố bịch, một gã Chim Trả già chơi trống bỏi,

một bác Xiến Tóc nghĩa hiệp về sau thành kẻ chán đời, chẳng buồn nghĩ ngợi

đến nổi đầu óc thành "miếng bọt phẳng lì", một thầy đồ Cóc dốt mà hay nói

chữ, bọn Nhái Bén "cao lêu đêu” tay sai của Ếch Cốm đại vương...

Biện pháp nhân hóa được những cây bút viết đồng thoại nói chung, Tô

Hoài nói riêng khai thác triệt để. Khả năng quan sát nhạy bén, tinh tường của

ông đã làm cho thế giới loài vật của ông mang tính cách người một cách rõ

nét nhưng vẫn không làm mất đi đặc tính của loài vật.

Sự biến hóa trong giọng văn kể chuyện của ông cũng là một yếu tố rất

đặc sắc. Nhiều đoạn, ẩn đằng sau lời kể chuyện là một nụ cười hóm hỉnh, ở

đoạn khác lại là một ngòi bút trữ tình, đằm thắm, tạo nên sự xúc động sâu xa

trong lòng người đọc.

Truyện được kết cấu theo chương, hồi với trình tự diễn biến theo thời

gian làm cho bạn đọc nhỏ tuổi dễ hiểu.

Với những nét đặc sắc về nội dung và nghệ thuật trên, Dế mèn phiêu

lưu ký là một trong những tác phẩm có giá trị nhất trong nền văn học thiếu nhi

nước ta.

IV. ĐOÀN GIỎI VỚI "ĐẤT RỪNG PHƯƠNG NAM"

1. Vài nét về tác giả

Đoàn Giỏi sinh năm 1925, trong một gia đình trí thức nghèo ở thành

phố Mỹ Tho (nay thuộc tỉnh Tiên Giang), quê hương của Nam Kỳ khởi nghĩa.

Page 72: Bài Giảng Văn Học Thiếu Nhi ... - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/74.VanHocThieuNhiVietNam.docx  · Web viewVĂN HỌC THIẾU NHI VIỆT NAM . BÀI GIẢNG VĂN HỌC

Khi còn nhỏ, Đoàn Giỏi say mê cả văn chương lẫn hội họa. Về sau,

thiên về sáng tác văn chương. Nhớ cố hương (1943) là truyện ngắn đầu tay

của ông. Trong kháng chiến chống Pháp, ông viết nhiều thể loại và liên tục

cho ra mắt bạn đọc: Người Nam thà chết không hàng (Kịch thơ, 1947); Chiến

sĩ Tháp Mười (Kịch thơ 1949); Khí hùng đất nước (Ký sự, 1948); Đường về

Gia Hương (Truyện ngắn, 1949); Giữ vững niềm tin (Thơ, 1945). Nhưng

những sáng tác của ông giai đoạn này chưa gây được ấn tượng cho độc giả.

Sau hòa bình, ông chủ yếu viết về cuộc sống và con người miền Nam trong

những năm kháng chiến chống Pháp. Những tác phẩm gây được chú ý là:

Tập ký và truyện ngắn Ngọn tầm vông (1956), và tiểu thuyết Cá bống mú

(1955)... và nhiều sáng tác cho thiếu nhi: Đất rừng Phương Nam (truyện,

1957), Cái trống con (truyện 1959), Cuộc truy tìm kho vũ khí (truyện, 1962):

Trong đó, Đất rừng Phương Nam là tác phẩm được xem là thành công nhất

của Đoàn Giỏi. Một trong những cuốn truyện hay được thiếu nhi yêu thích và

nó đã được chuyển thể thành phim Đất Phương Nam.

2. Đất rừng Phương Nam

2.1. Nội dung

* Bối cảnh của truyện là những ngày đầu kháng chiến chống Pháp ở

Nam Bộ. Nhân vật chính của tác phẩm là An - một em bé sinh ra và lớn lên ở

thành phố Mỹ Tho. Trong khi chạy tản cư, em đã bị lạc bố mẹ. Để kiếm sống,

An phải lang thang đây đó, làm mọi việc, tiếp xúc với nhiều hạng người và số

phận đã đưa đẩy em trội dạt về Phương Nam, để rồi gắn bó và trưởng thành

cùng với nó.

Truyện không chỉ kể về quá trình đi đến cách mạng của cậu bé An mà

còn dựng lên một cách sống động một chặng đường chiến đấu của nhân dân

ta trong những ngày đầu Pháp trở lại Nam Bộ.

Theo bước chân của bé An, mảnh đất Phương Nam hiện ra trong

không khí kháng chiến thật sinh động và hào hứng. Những đoàn xe rầm rập

từ thành phố chở thanh niên ra mặt trận cùng với tiếng hát của những trái tim

đầy nhiệt huyết; những người nông dân chất phác, thật thà bị đẩy đến bước

Page 73: Bài Giảng Văn Học Thiếu Nhi ... - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/74.VanHocThieuNhiVietNam.docx  · Web viewVĂN HỌC THIẾU NHI VIỆT NAM . BÀI GIẢNG VĂN HỌC

đường cùng, nay nhất tề đứng lên đánh Pháp; Những người du kích, những

chiến sĩ tự vệ đã quyết hy sinh thân mình để tiêu diệt bọn Việt gian bán nước,

bảo vệ từng tấc đất tổ quốc. Tinh thần quyết đánh của người dân Nam Bộ

được kết tinh trong câu nói giản dị của người du kích già: "Chiến chứ chủ hòa

làm sao? Đất của mình nó tới, nó đánh chiếm mà, còn vớ vẩn hỏi chiến hay

hòa! Còn người nào, đánh người ấy. Tới người cuối cùng cũng đánh mà".

Đại diện cho những người dân ưu tú, đầy nhiệt huyết đánh Tây phải kể

đến ông Hai và chú Võ Tòng. Xét về tính cách, mỗi người có những nét khác

nhau. ông Hai tính tình cương trực, chính chắn, điềm đạm; còn chú Võ Tòng

có ngoại hình dị tướng, tính nết lầm lì, kiên cường. Nhưng họ đều là những

người nông dân nghèo khổ nhưng lương thiện. Không phải tự nhiên họ muốn

xa rời làng mạc, quê hương để đi dựng lều trong rừng nơi cuối đất cùng trời

này. Họ đều có mối thâm thù với bọn địa chủ cường hào. Những người vợ có

chút nhan sắc của họ luôn bị bọn địa chủ rình mò, quấy rối, tìm mọi cách để

cướp đoạt cuộc sống của họ trở nên bất toàn, và lâm vào ngõ cụt. Võ Tòng

mang án 10 năm tù vì chống lại địa chủ, để rồi khi ra tù, ông trở thành kẻ

không nhà, không cửa, không vợ, không con. Ông Hai cũng gặp phải cảnh

ngộ tương tự. Nhưng may mắn hơn, ông đưa được vợ mình trốn đi. Nhưng

Thực dân Pháp đến, tất cả đều bị đảo lộn. Họ chỉ còn một con đường sống

duy nhất là đóng góp sức mình cho kháng chiến. Đáng tiếc, chú Võ Tòng đã

sớm phải hy sinh sau một lần tham chiến. Ông Hai đã thề trả thù cho chú Võ

Tòng. Và cuối cùng ông Hai đã thực hiện được ý nguyện.

An là hình tượng trung tâm của tác phẩm, người dẫn đường đưa bạn

đọc đến vùng đất xa lạ của rừng Phương Nam. Bước đường trưởng thành

của An diễn ra một cách tự nhiên, từ một đứa bé sống trong nhung lụa, bị đẩy

vào một xã hội đầy biến động, An đã từng bước trưởng thành.

Trong những ngày đầu lưu lạc, nhờ có lòng can đảm, em đã vượt qua

được cảm giác bơ vơ, cô độc nơi đất khách quê người, giúp An có quyết tâm

làm việc để tự kiếm sống. Hình ảnh bé An, một mình dấn bước vào cuộc

Page 74: Bài Giảng Văn Học Thiếu Nhi ... - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/74.VanHocThieuNhiVietNam.docx  · Web viewVĂN HỌC THIẾU NHI VIỆT NAM . BÀI GIẢNG VĂN HỌC

phiêu lưu không định trước khiến cho người đọc cảm động trước bản lãnh

của người thiếu niên này.

Trí thông minh và nghị lực cũng đã giúp An thoát khỏi những hoàn cảnh

hiểm nghèo, khi sự sống và cái chết chỉ còn là gang tấc. Đó là lần ở quán dì

Tư Béo, tình cờ An phát hiện ra rằng “Vợ chồng Tư Mắm" là gián điệp. Bản

tính hay quan sát và đánh giá khiến cậu thấy rõ nét khác biệt sâu sắc giữa

cặp vợ chồng nọ, thằng chồng trông xấu xí thảm hại bao nhiêu thì con vợ xinh

đẹp, đài các bấy nhiêu, cái cách chồng nhìn vợ là cách đầy tớ nhìn bà chủ,

còn thói uống rượu cốc tay của mụ thì thật không hợp chút nào với địa vị một

bà buôn mắm. Những mẩu tin bằng tiếng Pháp mà mụ viết đã bị An đọc trộm,

đồng thời thói thích khoe khoang của dì Tư Béo đã khiến mụ Tư Mắm hiểu

rằng chúng đã lộ chân tướng. Chúng tìm cách thủ tiêu bé An. An nhanh trí lừa

chúng, không ngủ trong thuyền như mọi khi mà nấp vào một chỗ kín theo dõi

hành tung của chúng. Trí thông minh của bé An cũng giúp cho ông Hai thoát

chết khi ông bắn chết "mụ Tư Mắm" ở bên đồn địch, tiếng hô "xưng phong"

của cậu lúc đó còn giá trị hơn cả nhiều loạt đạn khiến mấy tên lính lủi ngay

vào đồn. Trí thông minh cũng giúp An một mình xuyên rừng chàm đến được

căn cứ du kích để rồi trở thành một thành viên đầy tin tưởng của trung đội du

kích địa phương.

Đất rừng Phương Nam còn mở ra trước mắt các em quang cảnh mới

mẻ, kỳ thú của thiên nhiên vùng đất Nam Bộ.

Đồng hành với bé An, ta bắt gặp những cánh rừng tràm, rừng đước

bao bọc ra tận các cửa sông, những dòng kênh rạch chằng chịt, những cửa

sông, bến chợ chi chít tấp nập xuồng ghe, và những đàn cá trê, cá lóc quần tụ

đông đặc nơi rừng ngập nước. Đến với rừng Phương Nam, ta còn bắt gặp vô

vàn những loài động vật hoang dã. Những con cá sấu to lớn dữ tợn sẵn sàng

há miệng rộng đớp mồi trên những dòng sông cuộn sóng. Những rắn cạp

nong, cạp nia, hổ đất, hổ mang, hổ lửa ở nước và đầm lầy. Những rùa, kỳ đà,

kỳ nhông trốn chạy khỏi khu rừng cháy. Bao nhiêu loài chim nghe lạ tai: điềng

điểng, chằng bé, giang sen, sếu, cò bợ, cò xanh, cò lửa, cò trắng, cò ma...

Page 75: Bài Giảng Văn Học Thiếu Nhi ... - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/74.VanHocThieuNhiVietNam.docx  · Web viewVĂN HỌC THIẾU NHI VIỆT NAM . BÀI GIẢNG VĂN HỌC

"nhiều không kể xiết", những đàn ong mật kéo nhau về làm tổ nơi rừng tràm;

những đàn bướm sặc sỡ, bay rợp rừng, rợp bóng nước khi mùa xuân đến...

cùng với phong cảnh kỳ thú của đất rừng Phương Nam là cảnh sinh hoạt,

những phong tục tập quán của người dân Nam Bộ, những cảnh săn bắt độc

đáo, có một, không hai đã có súc thu hút đặc biệt và kích thích trí tưởng

tượng của bạn đọc nhỏ tuổi.

2. 2. Nghệ thuật

Với một tâm hồn nhạy cảm với thiên nhiên, với sự am hiểu sâu sắc về

mảnh đất Phương Nam, sự quan sát tinh tế và chân xác, Đoàn Giỏi đã làm

hiện lên trong tâm trí người đọc những hình ảnh sống động về vùng đất giàu

đẹp nhưng rất đỗi quật cường. Người đọc có cảm giác như được tận mắt

chiêm ngưỡng vẻ đẹp kỳ thú của thiên nhiên, được tận mắt nhìn thấy những

con thú kỳ lạ, được đi săn cá sấu, săn chim, bắt rắn, lấy mật, được chứng

kiến những biến động thăng trầm của các sự kiện, được tiếp xúc với các nhân

vật, từ bé An, ông Hai bắt rắn, chú Võ Tòng, thằng Cò cho đến "vợ chồng Tư

Mắm"...

Đoàn Giỏi thường sử dụng ngôn ngữ giàu hình ảnh để đặc tả cảnh và

người Nam Bộ. Ông cũng thường dùng phương pháp so sánh nhưng có

cường điệu chút ít để kích thích thêm trí tưởng tượng của người đọc.

Bàn về giá trị của Đất rừng Phương Nam, Tô Hoài, trong lời giới thiệu

về tập sách của Đoàn Giỏi (Nxb Kim Đồng - 1993) đã khẳng định "Cái đặc sắc

riêng của Đất rừng Phương Nam ấy là nhà văn Đoàn Giỏi đưa bạn đọc đến

vùng đất rừng Phương Nam thật xa, thế mà mỗi trang truyện lại làm chúng

mình thấy thiết tha và sôi nổi yêu đất nước khắp mọi nơi, bất cứ đâu”.

V. THƠ VĂN VÕ QUẢNG

1. Vài nét về tác giả

Page 76: Bài Giảng Văn Học Thiếu Nhi ... - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/74.VanHocThieuNhiVietNam.docx  · Web viewVĂN HỌC THIẾU NHI VIỆT NAM . BÀI GIẢNG VĂN HỌC

Võ Quảng quê vùng Hòa Phước, bên bờ sông Thu Bồn, tỉnh Quảng

Nam, Đà Nẵng. Cha ông là một nhà nho nên đã truyền cho con trai mình lòng

yêu thơ văn ngay từ nhỏ.

Năm 16 tuổi, Võ Quảng rời quê ra học Khải Định, Huế. Mười bảy tuổi

ông bắt đầu hoạt động trong tổ chức Thanh niên cộng sản của Đảng. Năm 21

tuổi, bị Pháp bắt. Sau đó bị điều về quản chế ở quê cho đến lúc Cách mạng

tháng Tám bùng nổ.

Sau Cách mạng ông được giao phụ trách chính quyền Đà Nẵng, rồi

phụ trách công tác luật pháp ở tòa án quân sự miền Nam Trung Bộ và tòa án

Liên khu V.

Tập kết ra Bắc, ông chuyển sang lĩnh vực sáng tác văn học. Võ Quảng

là nhà văn chuyên viết cho thiếu nhi. ông viết khá đều đặn. Năm 1957, ông

cho ra đời tập thơ đầu tay Gà Mái Hoa. Đến nay, ông đã có gần 20 tập thơ

văn. Ngoài ra ông còn viết lý luận phê bình về văn học thiếu nhi. Những tác

phẩm tiêu biểu.

- Các tập thơ: Gà Mái Hoa (1957), Thấy cái hoa nở (1962), Nắng sớm

(1965), Anh đom đóm (1970), Măng tre (1971)

- Truyện: Các thăng (1961), Chỗ cây đa đầu làng (1964), Cái mai

(1967), Những chiếc áo ấm (1970), Quê nội (1973), Bài học tốt (1976), Tảng

sáng(1977).

2. Tác phẩm

2.1. Thơ

* Nội dung

Võ Quảng là nhà thơ, nhà văn đã dành tất cả tâm huyết cho thiếu nhi.

Những bài thơ xinh xắn của ông đem lại cho các em những rung động nhẹ

nhàng trước những cảnh vật xung quanh.

Thơ Võ Quảng thiên về đề tài thiên nhiên. Vườn thơ của ông có những

bức tranh lộng lẫy của cảnh vật:

Page 77: Bài Giảng Văn Học Thiếu Nhi ... - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/74.VanHocThieuNhiVietNam.docx  · Web viewVĂN HỌC THIẾU NHI VIỆT NAM . BÀI GIẢNG VĂN HỌC

Hoa sen sáng rực

Như ngọn lửa hồng

Một chú bồ nông

Mải mê đứng ngắm

Nước xanh thăm thẳm

Lồng lộng mây trơi

Một cánh sen rơi

Rung rinh một nước

Hình như chú bồ nông kia đã bị thôi miên bởi màu sắc "như ngọn lửa

hồng" của loài sen. Một cánh sen cũng đủ làm mặt nước rung rinh càng làm

tăng thêm vẻ tĩnh lặng của cảnh vật.

Mầm non là một trong những bài thơ tiêu biểu nhất của Võ Quảng. Với

Mầm non, tác giả dường như đang kích thích bản tính hay quan sát của trẻ

thơ. Phải thật tinh tế và yêu cỏ cây đến nhường nào mới nhận ra được "Một

mầm non nho nhỏ, còn nằm ép lặng im". Cái mầm non nhỏ xinh ấy mở con

mắt ngái ngủ lim dim nhìn qua kẽ lá và thấy mùa đông đang đi qua với mây

bay, mưa phùn và lá rụng... chỉ vài câu thơ mà toàn cảnh mùa đông như hiện

ra trước mắt vắng vẻ, trơ trụi và im ắng đến cả "ngọn cỏ làn rêu ". Một chú thỏ

phóng nhanh “chạy nấp vào bụi vắng" càng tăng thêm vẻ tĩnh mịch, buồn tẻ

của mùa đông. Nhưng chỉ một tiếng kêu báo hiệu mùa xuân tới thì tất cả như

bừng tỉnh. Tiếng chim đánh thức "trăm ngọn suối", "ngàn chim muông" và tất

cả "cùng hát ca vang dậy" chào đón mùa xuân. Sự vui mừng, náo nhiệt của

muôn loài khi mùa xuân đến đã đánh thức mầm non tỉnh giấc. Rất nhanh, chỉ

vừa nghe thấy mầm non đã háo hức góp vào mùa xuân một màu sắc mới :

Vội bật chiếc vỏ rơi

Nó đứng dậy giữa trời

Khoác áo màu xanh biếc.

Page 78: Bài Giảng Văn Học Thiếu Nhi ... - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/74.VanHocThieuNhiVietNam.docx  · Web viewVĂN HỌC THIẾU NHI VIỆT NAM . BÀI GIẢNG VĂN HỌC

Trong Măng tre, Võ Quảng mượn lời của măng để miêu tả vẻ đẹp và

sức sống của loài tre thân thuộc và gần gũi. Nhưng qua cái nhìn của măng,

tác giả đã đem đến cho các em những ấn tượng khó quên, vừa ngạc nhiên

vừa thú vị. Này đây, một mầm non mới nhú, một măng tre lá vừa nẩy xanh

chờ xuân đến. Khác với Mầm non phải trải qua những ngày dài chờ đợi của

mùa đông buồn thảm thì ở Măng tre, chờ đợi đồng nghĩa với hy vọng, niềm

hy vọng của một kẻ biết tin có ngày mai.

Thức dậy buổi sớm

Nghe tiếng chim ca

Hớp giọt sương sa

Lòng nghe mát rượi.

Và khi những tia nắng ấm đầu tiên báo hiệu mùa xuân về, Măng bỗng

khỏe khoắn vươn mình vụt lớn lên cao vút như Phù Đổng, trước sự ngỡ

ngàng của loài cò, vạc:

Nắng mới tưng bừng

Tôi vươn cao vút

………….

Cò vạc bảo nhau

"Ồ, tre chóng lớn! "

Loài vật cũng là một mảng đề tài phong phú trong thơ Võ Quảng.

Chúng hiện ra trong thơ cùng với đủ chủng loại. Điều đó được thể hiện ngay

từ hệ thống nhan đề của tác phẩm: Gà mái hoa, Anh đom đóm, Ba chị gà mái,

Bê con đi tìm mẹ... Các con vật trong thơ ông thường vui nhộn, đầy những

tiếng kêu, tiếng hót, tiếng vỗ cánh. Tiếng gà nhảy ổ kêu "tót! tót!", tiếng vịt kêu

"gắp, gắp", "cạc, cạc, cạc", tiếng cóc kêu "ọc, ọc”…

Miêu tả về loài vật, thường Võ Quảng chỉ sử dụng một vài nét vẽ chọn

lọc. Con trâu mộng rất đẹp ở chỗ nó khỏe:

Page 79: Bài Giảng Văn Học Thiếu Nhi ... - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/74.VanHocThieuNhiVietNam.docx  · Web viewVĂN HỌC THIẾU NHI VIỆT NAM . BÀI GIẢNG VĂN HỌC

Da đen bóng loáng

Ức rộng thênh thang

Đôi sừng nghềng ngang

Chóp sừng nhọn hoắc.

Con gà mái được khẳng định là đã trưởng thành khi nó nhảy ổ đẻ:

Bỗng mái hoa đổi nết

Cái đầu nó nghếch nghếch

Cái cổ nó thon thót

Nó kêu tót, tót, tót.

Đằng sau những đặc điểm chung ấy là những tính nết riêng, được ông

thể hiện thật dí dỏm, sống động. Trong bài Ba chị gà mái, gà mái nâu có cái

vẻ sành sỏi, thành thạo trong hưởng thụ.

Uống ngụm nước mưa

Như người say sưa

Nhắp ly rượu ngọt.

Gà mái trắng yếm đỏ hoa vàng đỏm dáng có vẻ tình tứ qua "mắt nhìn

thiết tha ". Trái lại, gà mái đen lại vụng về, đếch đoảng, vô tâm, vô tính lúc thì

" đi đứng lăng quăng/ như người mất của ", lúc thì " dừng lại tần ngần/ mắt

nhìn dớn dác ".

Võ Quảng cũng đã gắn cho những con vật của mình những nét hồn

nhiên, ngây thơ và ngộ nghĩnh rất phù hợp với tâm lý của các em. Người ta

hình dung ra ngay một chú bé hiếu động, hay nghịch, hay vòi, hay hờn dỗi,

khóc đấy rồi lại cười ngay đấy, thấy cái gì cũng lạ, cũng muốn tìm hiểu và vui

ngay được: Một chú bê con đi tìm mẹ, Bê đi qua vườn ớt, vườn cà, vấp phải

cái cọc ngã kềnh ra, gọi mẹ chẳng thấy mẹ đâu, bỗng thấy bông hoa nở liền

quên ngay mọi chuyện, kề mũi hít hít.

Page 80: Bài Giảng Văn Học Thiếu Nhi ... - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/74.VanHocThieuNhiVietNam.docx  · Web viewVĂN HỌC THIẾU NHI VIỆT NAM . BÀI GIẢNG VĂN HỌC

Đọc thơ Võ Quảng, thi thoảng ta cũng bắt gặp những con vật "chưa

ngoan". Đó là chú chó gặp ai cũng sủa, cũng cào, cũng trêu. Rút cuộc nhận

được bài học đích đáng nhớ đời: bị ong đốt sưng vều cả mặt.

Nhìn chung, cảnh vật, loài vật trong thơ Võ Quảng thật tươi tắn, sinh

động, ngộ nghĩnh và có hồn người. Thơ ông đã góp phần hướng dẫn cho các

em cách quan sát, biết khám phá sự độc đáo, riêng biệt trong sinh hoạt bình

thường hằng ngày, đưa ra những bài học nhẹ nhàng mà sâu sắc, mở mang

sự hiểu biết về thế giới xung quanh. Bức tường ngăn cách giữa con người và

thiên nhiên dường như bị xóa mờ, chỉ thấy sự giao cảm hài hòa và tin cậy,

yêu thương. Vì vậy, thiên nhiên trong thơ nói chung và thơ Võ Quảng nói

riêng không chỉ là nguồn cảm hứng sáng tác mà "Thiên nhiên còn là một nhà

sư phạm đại tài. Thiên nhiên dạy ta yêu cái đẹp. Bằng chính sự phong phú,

thiên nhiên gợi cho ta nên có cuộc sống phong phú về vật chất và tinh thần"(l)

* Nghệ thuật

Thơ Võ Quảng nói riêng và thơ viết cho thiếu nhi nói chung thường có

những đặc điểm:

- Ngôn ngữ thơ thường giản dị, hồn nhiên trong sáng, dí dỏm và đặc

biệt gợi tả và biểu cảm, để tạo nên những hình ảnh sống động mang tính

thẩm mỹ cao.

- Thơ thiếu nhi thường mang tính tự sự, phù hợp với tâm lý tiếp nhận

của trẻ thơ. Mỗi bài thơ như một câu chuyện nhỏ xinh, dẫn dắt các em vào

thế giới xung quanh vừa gần gũi, quen thuộc vừa ngộ nghĩnh, hấp dẫn, gợi

nhiều liên tưởng kỳ thú.

- Nhịp điệu thơ thiếu nhi thường được viết theo thể tự do, không bị ràng

buộc bởi các quy tắc nhất định về số câu chữ. Các bài thơ và các câu thơ

thường ngắn, có nhiều vần liên tiếp vừa tạo nhịp vừa dễ nhớ, vừa giàu tính

nhạc.

Page 81: Bài Giảng Văn Học Thiếu Nhi ... - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/74.VanHocThieuNhiVietNam.docx  · Web viewVĂN HỌC THIẾU NHI VIỆT NAM . BÀI GIẢNG VĂN HỌC

- Để tạo nên nét huyền ảo, kích thích trí tưởng tượng của các em, các

nhà thơ viết cho thiếu nhi thường sử dụng các biện pháp tu từ như: so sánh,

nhân hóa và ẩn dụ, tạo ra những cách hiểu giản dị mà sâu sắc ở thơ thiếu nhi

Mặc dầu có những nét chung nhưng người đọc vẫn dễ dàng nhận ra

một Phạm Hổ dịu dàng và trìu mến, thường sử dụng lối miêu tả mang tính mô

phỏng trong thơ; một Xuân Quỳnh gần gũi quen thuộc mà lạ lẫm bởi lối diễn

đạt nghịch lý mà không phi lý, ẩn chứa những điều sâu sắc; Một thần đồng

Trần Đăng Khoa non trẻ mà già dặn, tinh tế mà giàu có trong cảm xúc; Và một

Võ Quảng độc đáo trong việc tạo nhịp bằng vần trắc.

Người ta đã thống kê tổng số 34 bài thơ ở tập “Măng tre” thì thấy có 33

bài chấm hết bằng vần trắc.

Bỗng cạc, cạc, cạc.

(Có tiếng đàn vịt)

Chú chẫu chàng

Như tia chớp

Vụt xuống nước

Biến đâu mất...

Tạo một không khí vui tươi, nghịch ngợm, khỏe khoắn, đầy kịch tính.

Đó là nét đặc thù trong nghệ thuật thơ Võ Quảng.

2.2. Văn xuôi

a. Sự đổi đời của một vùng quê

Nhìn chung, chủ đề bao trùm trong văn xuôi Võ Quảng là tình yêu quê

hương đất nước. Đó là một phạm trù rộng. Võ Quảng biết giới hạn. Ông cho

các em thấy ở một khía cạnh: Tình yêu gia đình, tình yêu quê hương phải

được hòa quyện, gắn bó với tình yêu đất nước. Nước mất thì nhà tan, quê

hương cũng không còn. Truyện của Võ Quảng là những bài ca, ca ngợi công

lao to lớn của cách mạng. Cách mạng đã làm đổi đời và trả lại quê hương cho

Page 82: Bài Giảng Văn Học Thiếu Nhi ... - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/74.VanHocThieuNhiVietNam.docx  · Web viewVĂN HỌC THIẾU NHI VIỆT NAM . BÀI GIẢNG VĂN HỌC

người dân lao động. Cảm hứng về Cách mạng về sự hồi sinh, sự bừng tỉnh

được trở đi, trở lại trong những trang viết của ông.

Thôn Hòa Phước trong Quê nội và Tảng sáng là một vùng quê giàu đẹp

và trù phú nằm bên sông Thu Bồn và những bãi dâu bạt ngàn, những làng

quê xanh tươi cây trái và quanh năm lách cách tiếng thoi đưa, bên những vạn

chài san sát ghe thuyền... Thế rồi giặc Pháp chiếm Hòa Phước. Chúng lấy

sông Thu Bồn làm phòng tuyến sau cùng để "bảo vệ" cho Đà Nẵng, những

người dân chất phác, cần cù của Hòa Phước cảm thấy nghẹt thở với trăm

ngàn nỗi sợ: sợ vua quan, sợ địa chủ, sợ ma quỷ thần thánh và nỗi sợ lớn

nhất là đói. Lo ngày lo đêm, dồn hết sức mình, tài mình vào đó mà vẫn đói.

Năm nào cũng đói, kiếm cho được miếng ăn thật là khốn khổ, không chỉ đổ

mồ hôi, nước mắt mà nhiều khi còn bán cả lương tâm. Ông Bảy Hóa vì đói

mà hành nghề thầy cúng. Sau này như ông tự thú vì "đói mà làm càn", "toàn

trò bịp cả". Đó là ông Nguyên cũng vì đói mà phải đi ăn trộm, lâu ngày thành

tay anh chị trong nghề trèo tường, khoét ngạch. Cũng có người không chịu

bán lương tâm nhưng vì đói mà phải đi ăn xin, đi khóc mướn kiếm ăn, sống

lụp xụp trong những túp lều trông như cái hang thời tiền sử. Nhiều người

trong thôn không thể cầm cự mãi với cái đói rời bỏ quê hương ra đi tìm sinh

kế. Có người phải gửi xác nơi đất khách quê người...

Nhưng tất cả đã thay đổi. Cách mạng Tháng Tám như cái bản lề giữa

bóng tối và ánh sáng. Thôn Hòa Phước đã hồi sinh, từng ngày thay da đổi

thịt. Mọi người sung sướng nhận thấy một điều lạ. Đó là hải đảo không ngăn

cách với đất liền, quê Hòa Phước và Cù Lao Chàm bỗng nhiên gần sát lại.

"Nay độc lập rồi, tất cả giang sơn như xích lại gần. Có gì cách trở nữa đâu,

đất nước của mình tự do thăm viếng chẳng phải bị ai đuổi, ai bắt nữa". Cảnh

người dân Hòa Phước tha phương nay trở về sinh sống trên mảnh đất quê

hương; cảnh những người cô đơn, nghèo khổ được cách mạng quan tâm

giúp đỡ, dựng lại nhà cửa; trẻ em được cắp sách đến trường thật cảm động

và phấn chấn. Biết ơn Cách mạng, người dân Hòa Phước đã cống hiến hết

sức mình cho cuộc kháng chiến: Trẻ em dạy bình dân học vụ, giúp đỡ du

Page 83: Bài Giảng Văn Học Thiếu Nhi ... - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/74.VanHocThieuNhiVietNam.docx  · Web viewVĂN HỌC THIẾU NHI VIỆT NAM . BÀI GIẢNG VĂN HỌC

kích; phụ nữ lo việc hậu cần, việc tản cư; những người như ông Bảy Hóa lại

trở về "nghề cũ” để hoạt động bí mật trong vùng tạm chiếm; đàn ông lo đào

hầm bí mật và tham gia du kích... Trận diệt lô cốt địch nằm ven sông Thu Bồn

chiến thắng báo hiệu những ngày gian khổ và vinh quang kế tiếp.

b. Hệ thống nhân vật

+ Nhân vật thiếu nhi

Trừ một số truyện đồng thoại mà Võ Quảng xây dựng những nhân vật

mang tính biểu trưng, thiếu nhi là nhân vật trung tâm trong tác phẩm của Võ

quảng. Đó là một thế hệ thiếu nhi sinh ra và lớn lên trong vùng địch hậu. Các

em tuy nghèo khổ nhưng giàu lòng yêu nước và đã có những chiến công

thầm lặng góp phần vào cuộc kháng chiến chống Pháp anh dũng của dân tộc.

Trong Chỗ cây đầu làng, nhân vật chính là Trương Út. Tuy nhỏ tuổi em

đã sớm tham gia hoạt động Cách mạng và gánh vác nhiệm vụ nặng nề: theo

dõi hoạt động của địch. Không may bị địch bắt, chúng tra khảo đủ điều nhưng

Út vẫn không khai nửa lời. Trong những giây phút cuối cùng của cuộc đời, em

vẫn tìm mọi cách báo cho các đồng chí biết là cơ sở đã bị lộ. Chỗ cây đa đầu

làng là nơi chứng kiến những hành động bình thường nhưng anh hùng của

người thiếu niên dũng cảm.

Nhân vật chính trong Cái thăng cũng là một thiếu nhi. Em bị bắt trong

một trận càn cùng với con trâu mà em yêu quý. Con trâu bị bắn chết.Chúng

ăn thịt trâu và vứt lại chiếc sừng trâu làm thành một cái thăng (một loại tù và

bằng sừng trâu). Nhờ có cái thăng, em đã huấn luyện đưa đàn trâu đang bị

địch bắt giữ nghe theo mệnh lệnh của mình. Nhân sơ hở của địch, em dùng

tiếng Thăng giục đàn trâu vượt sông chạy về vùng giải phóng.

Quê nội và Tảng sáng là hai truyện được viết cách nhau 4 năm. Nhưng

Tảng sáng là sự tiếp nối của Quê nội, được gắn kết bởi hai nhân vật chính:

Cục và Cù lao. Nhân vật Cục và Cù lao đã đi suốt chiều dài của hai tác phẩm.

Nói như Nguyễn Tuân khi viết lời tựa cho Tảng Sáng (Nxb KĐ- 1 980) : " Nếu

Quê nội và Tảng sáng mà gộp lại thì ta có thể đặt cho nó cái tên: Truyện hai

Page 84: Bài Giảng Văn Học Thiếu Nhi ... - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/74.VanHocThieuNhiVietNam.docx  · Web viewVĂN HỌC THIẾU NHI VIỆT NAM . BÀI GIẢNG VĂN HỌC

anh em Cục và Cù lao. Cuốn đầu là phần một để giới thiệu và cuốn sau là

phần hoạt động của hai nhân vật nhỏ đã dần dần chuyển lên gần thành một

công dân".

Hai nhân vật này được Võ Quảng khắc họa khá rõ nét. Cá tính của mỗi

nhân vật được bộc lộ ở thế luôn luôn biến động. Cù lao, lúc mới về đã gây

cho bọn trẻ trong làng nhiều tranh cãi ngộ nghĩnh về nguồn gốc của nó. Vì da

nó đen nên bọn trẻ cho nó là mọi biển và chúng liền tranh nhau xem nó có

đuôi giống mọi biển hay không ; Vì nó ở biển Đông, nên bọn trẻ nghĩ là chúng

gần phát xít Nhật, cần phải canh chừng... Nhưng dần dần, cá tính của em

được bộc lộ làn bọn trẻ ngạc nhiên, nể phục và quý mến. Còn Cục lại có vẻ

đàn anh, hay cậy thế và tỏ vẻ ta đây. Nhưng tri âm không hẹn mà gặp, sau

một thời gian, cả hai đều nhận ra rằng họ có những điểm chung rất cơ bản:

giàu mơ ước và điều quan trọng là cùng chí hướng. Cả hai đều tham gia

kháng chiến và cùng trở thành những người lính trung thành, sẵn sàng hy

sinh cho Cách mạng.

+ Nhân vật biểu trưng

Thế giới nhân vật biểu trưng trong các truyện đồng thoại của Võ Quảng

phong phú và đa dạng. Đó là những con vật như: thỏ, nhím, bọ ngựa, ốc sên,

chim chóc hoặc những đồ vật như cái mai, nồi đồng, ổ rạ... Mỗi con vật, đồ

vật đều có những nét riêng biệt về ngoại hình nhưng đều được nhân hóa để

mang tính con người: có tâm hồn, có suy nghĩ, biết yêu thương giúp đỡ người

khác.

Trong Những chiếc áo ấm, thông qua các nhân vật biểu trưng, Võ

Quảng giúp các em nhận thức một vấn đề tương đối khó hiểu. Thế nào là sức

mạnh của tập thể. Thỏ bị rét cóng, trên mình chỉ có một tấm vải rêu. Gặp

Nhím, Nhím muốn mang cho Thỏ cái áo ấm. Vải đã sẵn, kim thì nhím không

thiếu, nhưng chưa có kéo để cắt. Phải tìm Bọ ngựa để giúp, nhưng Bọ Ngựa

biết cắt mà không không biết vạch, phải nhờ đến Ốc Sên. Và cuối cùng là Ổ

rộc. Chiếc áo được may xong, Thỏ vui sướng, cảm động trước tấm lòng của

bè bạn. Tất cả đồng thanh hát:

Page 85: Bài Giảng Văn Học Thiếu Nhi ... - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/74.VanHocThieuNhiVietNam.docx  · Web viewVĂN HỌC THIẾU NHI VIỆT NAM . BÀI GIẢNG VĂN HỌC

Mọi việc dù lớn bé

Một mình làm khó xong

Phải chung sức chung lòng

Công lao của tập thể

Tôi sinh ra là để

Giúp ích cho mọi người

Đời có đẹp có tươi

Thì ta mới sung sướng.

Nhân vật Cái Mai trong tác phẩm cùng tên của Võ Quảng trước đây đã

từng chung đụng với nhiều loại người, và sống một cuộc đời ham vui vô vị

"suốt ngày cãi vã, hết cãi vã tôi lại nằm nghe gỉ đục khoét, chúng đục một

cách nhẹ nhàng nhưng rất quyết liệt. Chúng đang nhằm đường tim cửa tôi

tiến vào. Chẳng mấy lúc nữa, chúng sẽ biến tôi thành đất", "Tôi không ngờ

cuộc sống nhàn hạ đã đưa tôi đến cơ sự như vậy". Nhưng rồi cuộc đời đã đổi

thay, cuộc sống lao động đã đem đến cho cái Mai một luồng sinh khí mới.

Lưỡi Mai sáng lên nhờ lao động. Mai không còn han rỉ, buồn tẻ như xưa nữa,

Mai cảm thấy cuộc đời thật có ý nghĩa, khi được lao động và ước mơ của Mai

lúc này là: "Đào đất, đào đất thật giỏi, đào đất để trồng được nhiều cây, để

xây thật nhiều nhà". Mai say sưa lao động, thời gian bao nhiêu cũng dường

như không đủ để Mai có thể "đào đất gấp mười, gấp trăm".

Nhìn chung, nhân vật biểu trưng trong truyện đồng thoại của Võ Quảng

là những nhân vật tích cực, mang đậm nét nhân văn. Đưa lại cho các em

những bài học quý, nhẹ nhàng mà sâu sắc.

HƯỚNG DẪN HỌC TẬP

I. Yêu cầu

1. Nắm được các giai đoạn phát triển của văn học viết cho thiếu nhi

Page 86: Bài Giảng Văn Học Thiếu Nhi ... - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/74.VanHocThieuNhiVietNam.docx  · Web viewVĂN HỌC THIẾU NHI VIỆT NAM . BÀI GIẢNG VĂN HỌC

2. Nắm được nội dung chính của một số tác phẩm tiêu biểu cho từng

đề tài, đặc biệt là đề tài kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ và đề tài sinh

hoạt.

3. Tìm hiểu truyện lịch sử viết cho thiếu nhi và nghệ thuật xây dựng

nhân vật lịch sử của Nguyễn Huy Tưởng qua tác phẩm Lá cờ thêu sáu chữ

vàng.

4. Tìm hiểu những đặc điểm của thể loại đồng thoại. Nét đặc sắc về nội

dung và nghệ thuật của thiên đồng thoại Dế mèn phiêu lưu ký.

5. Vị trí của Đất rừng phương Nam trong mảng đề tài kháng chiến

chống Pháp.

6. Tìm hiểu những giá trị đặc sắc về nội dung và nghệ thuật trong thơ

văn Võ Quảng.

II. Đề tài luyện tập

1. Phân tích một tác phẩm văn học viết cho thiếu nhi và nêu những tác

động của nó đối với đời sống tình cảm và hành vi đạo đức của lứa tuổi thiếu

nhi.

2. Đặc điểm của truyện lịch sử được thể hiện qua tác phẩm Lá cờ thêu

sáu chữ vàng của Nguyễn Huy Tưởng.

3. Đặc điểm của thể loại đồng thoại được thể hiện trong tác phẩm Dế

mèn phiêu lưu ký của Tô Hoài.

4. Nhân vật thiếu nhi trong văn xuôi Võ Quảng.

5. Tác động của thơ Võ Quảng trong đời sống tâm hồn và tình cảm của

thiếu nhi.

6. Sự trưởng thành của bé An được tạo bởi tác động của hoàn cảnh và

nghị lực của bản thân. Hãy chứng minh.

III. Tư liệu tham khảo

1. Nghiên cứu phê bình

Page 87: Bài Giảng Văn Học Thiếu Nhi ... - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/74.VanHocThieuNhiVietNam.docx  · Web viewVĂN HỌC THIẾU NHI VIỆT NAM . BÀI GIẢNG VĂN HỌC

1. Đôi điều tâm đắc - Vũ Ngọc Bình - Nxb Kim Đồng - 1985

2. Hoa trái đầu mùa - Văn Hồng - Kim Đồng, 1986.

3. Tạp chí Văn học - Chuyên san Văn học thiếu nhi – 5/1993.

4. Văn học - Tập II - Giáo trình dùng trong các trường Sư phạm đào tạo

giáo viên tiểu học, Bộ GD&ĐT, Vụ Giáo viên, H. 1993

5. Văn học thiếu nhi Việt Nam - Trần Đức Ngôn - Dương Thu Hương -

Trường ĐHSP Hà Nội I – Hà Nội, 1994.

2. Tác phẩm

1. Cái thăng - Võ Quảng - Nxb Kim Đồng, 1961.

2. Chú bò tìm bạn (tuyển thơ) - Phạm Hổ - Nxb Kim Đồng, 1993.

3. Đảo Hoang - Tô Hoài - Nxb Kim Đồng - 1980.

4. Đất rừng Phương Nam - Đoàn Giỏi - Nxb Kim Đồng, 1993.

5. Gà mái hoa (Thơ) - Nxb Kim Đồng, 1957.

6. Lửa vàng, Lửa trắng, Lửa nâu (Tuyển chọn) - Phạm Hổ - Nxb Kim

Đồng, l993.

7. Măng tre (Thơ) - Võ Quảng - Nxb Kim Đồng, 1971.

8. Quê nội - Võ Quảng - Nxb Kim Đồng, 198O.

9. Tảng sáng - Võ Quảng- Nxb Kim Đồng, 1980.

10. Thấy cái hoa nở (Thơ) - Võ Quảng – Nxb Kim Đồng, 1962.

11. Tuyển tập Tô hoài tập I - Tô Hoài - Nxb Văn học, 1987.

12. Truyện viết cho thiếu nhi (Tuyển tập) - Nxb Văn học, H.1961.

13. Văn học cho thiếu nhi (Tuyển tập) - Nxb Văn học, H.1996.

C. VĂN HỌC DO THIẾU NHI VIẾT (THƠ TRẦN ĐĂNG KHOA) I. VÀI NÉT VỀ TÁC GIẢ VÀ TÁC PHẨM

Page 88: Bài Giảng Văn Học Thiếu Nhi ... - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/74.VanHocThieuNhiVietNam.docx  · Web viewVĂN HỌC THIẾU NHI VIỆT NAM . BÀI GIẢNG VĂN HỌC

Trần Đăng Khoa sinh năm 1958, tại làng Trực Trì, xã Quốc Tuấn,

huyện Nam Sách (hiện nay là huyện Nam Thanh) tỉnh Hải Dương.

Trần Đăng Khoa làm thơ từ khi còn rất nhỏ. Khi bắt đầu biết đọc, biết

viết anh đã ham mê đọc sách và làm thơ. Anh đến với thơ hồn nhiên như một

đứa trẻ nhỏ đến với trò chơi. Những tác phẩm" thơ đầu tay của anh thường

được viết rất nhanh, theo lối bắt chước thơ người lớn. Tám tuổi, bài thơ đầu

tiên của anh được in trên báo Văn Nghệ. Tròn mười tuổi, anh đã cho ra đời

tập thơ Góc sân và khoảng trời. Bước vào thời kỳ chống Mỹ, những vần thơ

tươi mát, hồn nhiên nhưng ấm áp tình người của Khoa đã làm xôn xao dư

luận. Trẻ nhỏ yêu mến, đón đợi thơ anh đã đành mà người lớn cũng rất mê

thơ anh; không những người trong nước chú ý đến thơ Khoa mà người nước

ngoài cũng coi anh như là một hiện tượng thơ thật đặc biệt. Báo chí Pháp viết

về anh, đài Vô tuyến truyền hình Pháp làm phim về anh để chiếu trong đêm

giao thừa; nhạc sĩ Đức phổ nhạc thơ anh v..v....Tác phẩm của anh được dịch

và giới thiệu ở Pháp, Nga, Mỹ, Cu ba, Nhật bản…Từ bấy đến nay vừa tròn 30

năm, tập thơ đã được tái bản 32 lần, nhưng những vần thơ thuở thiếu thời

của Khoa vẫn được bạn đọc, nhất là bạn đọc ở lứa tuổi thiếu nhi nồng nhiệt

đón nhận.

Lý giải sự phát triển sớm tài năng thơ của Trần Đăng Khoa, yếu tố đầu

tiên phải kể đến có lẽ là do ảnh hưởng của gia đình. Từ lúc hãy còn bé, anh

đã được ngoại ru bằng những điệu chèo Lưu Bình - Dương Lễ, Quan âm thị

Kính Mẹ anh, một người phụ nữ nông dân chất phát nhưng lại rất thuộc và

mê Kiều đã ru anh bằng những câu Kiều lẫy, đã kể cho anh nghe nhiều câu

chuyện kể dân gian. Mẹ anh kể: "Từ lúc nó hơi biết, nó đã bắt tôi đọc ca dao,

nó lại bảo kể chuyền cổ tích, chuyện nọ xọ chuyện kia, chuyện nào nó cũng

thích. Có lẽ những câu chuyện kể dân gian, những lời hát ru ấy đã tỏa những

tia ấm đầu tiên vào tâm hồn trẻ thơ của Trần Đăng Khoa để rỏi sau này phản

chiếu lại lấp lánh trên những trang thơ của anh.

Anh trai của Trần Đăng Khoa là một giáo viên và là nhà thợ của đất mỏ

Hồng Gai cũng đã góp phần tạo dựng niềm đam mê thơ của Khoa. Anh

Page 89: Bài Giảng Văn Học Thiếu Nhi ... - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/74.VanHocThieuNhiVietNam.docx  · Web viewVĂN HỌC THIẾU NHI VIỆT NAM . BÀI GIẢNG VĂN HỌC

khuyến khích Khoa làm thơ và sưu tập cho Khoa một "thư viện" nhỏ có đến

vài trăm cuốn. Khoa rất mê đọc sách. Anh đọc đủ loại sách nhưng thích nhất

vẫn là thơ. Những trang thơ ấy đã trở thành nỗi ám ảnh trong Khoa, thôi thúc

Khoa cầm bút và đây cũng là nguồn tri thức đề Khoa nâng tầm văn hóa của

mình lên. Thơ Khoa thường lấy đề tài từ những cảnh vật quen thuộc, những

con người mà Khoa gần gũi yêu mến. Đặc biệt là cánh đông làng Trực Trì

bên sông Kinh Thầy, nơi mà ngày ngày những người dân quê anh, cha mẹ

anh đã đổ những giọt mồ hôi, một nắng hai sương đề làm ra hạt gạo nghĩa

tình nuôi quân, đánh giặc. Từ nhỏ, anh đã trưng mợ ước "trở thành kỹ sư

nông nghiệp và suốt đời làm thơ về làng quê, cảnh quê về những vui buồn

của người dân quê ở nơi xóm mạc". Phải chăng, mầm hạt giống thơ Trần

Đăng Khoa được gieo trồng trên mảnh đất phù sa này đã góp phần làm cho

thơ anh đơm hoa kết trái.

Những bài thơ anh viết thường bé Giang (em gái anh) là người được

thưởng thức đầu tiên, sau đó là bè bạn. Từ bè bạn đến các thầy cô giáo, mọi

người đều động viên, khuyến khích, bình phẩm, sửa chữa làm cho những bài

thơ của Khoa hay hơn.

Từ khi được phát hiện, tài năng thơ Khoa ngày càng nảy nở. Nhiều nhà

thơ bậc thầy như Tố Hữu, Huy Cận và Xuân Diệu đã rất quan tâm và đặc biệt

chú ý sự phát triển của thơ Khoa. Với một cái nhìn sắc sao của một nhà thơ

từng trải, Xuân Diệu đã đặt Khoa ở vị trí hàng đầu các thi sĩ tí hon của thời

đại: "Hàng ngàn em nhỏ cất tiếng gáy ò...o...o ở khắp nơi, Khoa ở trung tâm

của cuộc đồng ca vang tương lai ấy”. Có thể nói, Xuân Diệu là người thầy

nghiêm khắc, gần gũi thân thiết của anh không chỉ trong nghề mà còn cả

trong cuộc sống. Xuân Diệu đã góp phần làm cho những bài thơ của anh đạt

đến độ toàn bích.

Năm 1975, Trần Đăng Khoa 17 tuổi, cùng với những trai làng anh đã

lên đường nhập ngũ tham gia làm nhiệm vụ quốc tế ở Campuchia và sống

cuộc đời nhà thơ khoác áo lính trên quần đảo Trường Sa. Anh làm thơ về

người lính, viết không nhiều nhưng đã có những tác phẩm được dư luận chú

Page 90: Bài Giảng Văn Học Thiếu Nhi ... - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/74.VanHocThieuNhiVietNam.docx  · Web viewVĂN HỌC THIẾU NHI VIỆT NAM . BÀI GIẢNG VĂN HỌC

ý. Bài Đợi mưa trên đảo sinh tồn của anh được tặng giải A cuộc thi thơ Báo

Văn nghệ 1982. Một số bài thơ được phổ nhạc và được người lính đồng cảm,

yêu thích.

Trường ca Khúc hát người anh hùng viết về người con gái anh hùng

Mạc Thị Bưởi được giải thưởng của Bộ Thương binh và Hội Nhà văn Việt

Nam (1975). Báo "Người Giáo viên nhân dân" (nay là báo "Giáo dục Thời đại"

cũng đã trao tặng anh giải A, cuộc vận động sáng tác văn học về thầy giáo và

nhà trường tháng 3 – 1987.

Sau khi tốt nghiệp trường viết văn Hguyễn Du (khóa II) anh được cử đi

học tiếp tại trường viết văn Gorky (Nga). Hiện nay anh là cây bút viết lý luận

phê bình, biên tập viên của tạp chí Văn nghệ Quân đội và là thành viên trong

ban sáng tác trẻ của Hội nhà văn.

Trong những năm gan đây, người ta thấy anh ít xuất hiện trên mặt báo

với tư cách là nhà thơ. Nhưng một lần nữa, người đọc lại vui mừng, xôn xao

đón đợi Trần Đăng Khoa, không phải là thơ mà trên một vùng nghệ thuật

khác: Bình luận văn chương. Khi ở độ tuổi bốn mươi, anh cho ra mắt bạn đọc

tập Chân dung và đối thoại. Một cuốn sách mà ngay từ khi vừa ra mắt đã

được bạn đọc, bạn viết đón nhận nồng nhiệt. Chỉ sau một tháng kể từ khi

cuốn sách vừa ra đời đã có hàng chục bài báo lớn nhỏ từ Trung ương đến địa

phương bàn luận sôi nổi. Và chưa đầy một năm, cuốn sách đã được tái bản 8

lần mà vẫn được xem là "của hiếm" trên thị trường sách hiện nay. Chân dung

và đối thoại đã được tặng giải Nhất của Hội nhà văn Việt Nam, 1998.

II. THƠ TRẦN ĐĂNG KHOA

1. Thiên nhiên trong thơ Trần Đăng Khoa

Thiên nhiên là đề tài được nói đến nhiều nhất, chiếm tỷ lệ lớn nhất

trong thơ Trần Đăng Khoa: Khảo sát 78 bài trong tập thơ Góc sân và khoảng

trời, ta thấy 35 bài có sự hiện diện của thiên nhiên. Từ Góc sân nhà em Khoa

đã nhìn, đã cảm, đã nghĩ và đưa vào thơ những hình ảnh quen thuộc của

Page 91: Bài Giảng Văn Học Thiếu Nhi ... - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/74.VanHocThieuNhiVietNam.docx  · Web viewVĂN HỌC THIẾU NHI VIỆT NAM . BÀI GIẢNG VĂN HỌC

làng quê Việt Nam. Khoa viết về một tiếng gà gáy trong buổi sáng trong lành

của một ngày mới (ò ó o...), về mảnh vườn hả hê đón nhận cơn mưa (Mưa),

về một buổi hái trầu đêm (Đánh thức trầu về cây đa đầu làng (Cây - đa), về

những cánh diều no gió (Thả điêu), về ánh trăng sáng sân nhà em (Trăng

sáng sân nhà em, Trăng ơi từ đâu đến), về hương vị của mùa nhãn chín

(Hương nhãn), Về hoa cau trong chớm mùa thu se lạnh (Chớm thu), vệ cánh

đồng làng Trực Trì quê anh (Hạt gạo làng ta, Đồng chiều, Hương đồng...)

Đọc thơ Khoa nói về cảnh vật thiên nhiên người ta cảm nhận rất rõ về

mối giao hòa giữa cảnh vật, và con người. Không có cảnh nào trong thơ Khoa

lại không chứa đựng hồn người, tình người một cách sâu sắc Trần Đăng

Khoa làm bài thơ Đánh thức trầu khi anh lên tám, không chỉ chứa đựng cái

tình đằm thắm của một cậu bé giàu tình cảm dành cho bà và mẹ mà còn là

tình mến yêu, nâng niu, tình nghĩa đối với cây trầu:

Trầu ơi hãy tỉnh lại

Mở mắt xanh ra nào

Lá nào muốn cho tao

Thì mày chìa ra nhé

Tay tao hái rất nhẹ

Không làm mày đâu đâu.

Khoa viết về hương nhãn trong đêm cũng gợi nhớ người đi xa: Đêm

hương nhãn đặc lại

Thơm ngoài sân trong nhà

Mà em nằm thao thúc

Nhớ anh đang đi xa…

Hạt gạo làng ta của Trần Dàng Khoa không chỉ là hạt gạo có chứa vị

phù sa của sông Kinh Thầy, có hương sen thơm mà còn có cả hồi mẹ hát

ngọt bùi hôm nay".

Page 92: Bài Giảng Văn Học Thiếu Nhi ... - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/74.VanHocThieuNhiVietNam.docx  · Web viewVĂN HỌC THIẾU NHI VIỆT NAM . BÀI GIẢNG VĂN HỌC

Đi trên cánh đồng làng Trực Trì, hương đồng nội như thâm sâu vào con

người Khoa, vào thơ Khoa. Khoa như ngây ngất bởi:

Mùi bùn đang ngấu

Mùi phân đang hoai

Vôi chưa tan hẳn

Còn hăng rãnh cày.

Tâm hồn anh như mở ra đón lây cả bầu không khí lâng lâng, say say

ấy:

Trời đất hôm nay

Như chim mới hót

Như rượu mới cất

Như mật mới đong

Đó trong ngào ngạt

Niềm vui gieo trồng

Và Khoa đã lột tả được cái hương vị, cái thần thái, cái hồn quê Việt

Nam qua những hình ảnh bình dị đến không ngờ.

Mái gianh ơi hỏi mái gianh

Ngấm bao nhiêu nắng mà thành quê hương

Nhưng thiên nhiên trong thơ Trần Đăng Khoa cỏn là một thiên nhiên in

dấu của thời đại. Bằng ngôn ngữ của thiên nhiên, tiếng thơ Khoa cũng đã góp

phần phản ánh hiện thực cuộc sống dân tộc ta trong những năm kháng chiến

chống Mỹ. O ó o là bài thơ của Khoa đã tạo ra được một không gian bát ngát

tiếng gà. Và kỳ diệu thay, tiếng gà làm cho vạn vật bừng tỉnh, tràn đầy sự

sống. Đó cũng chính là sức sống mãnh liệt của một vùng quê, của dân tộc mà

không một thế lực đen tối nào có thể hủy diệt được:

Ò ó o...

Page 93: Bài Giảng Văn Học Thiếu Nhi ... - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/74.VanHocThieuNhiVietNam.docx  · Web viewVĂN HỌC THIẾU NHI VIỆT NAM . BÀI GIẢNG VĂN HỌC

Tiếng gà

Giục quả na

Mở mắt

Tròn xoe

Giục hàng tre

Đâm măng

Nhọn hoắt

Ôi bốn bề

Bát ngát

Tiếng gà...

Bài Hạt gạo làng ta là hình ảnh của một vùng quê cần lao vất vả để làm

ra hạt gạo gửi ra tiền tuyến, góp phần nuôi quân đánh giặc:

Hạt gạo làng ta.

Có bão tháng bảy..

Có mưa tháng ba

Giọt mồ hôi sa

Những trưa tháng sáu

Chết cả cá cờ

Cua ngoi lên bờ

Me em xuống cây…

Giữa tiếng bom rơi; đạn réo của đế quốc Mỹ trút xuống làng quê đồng

ruộng Việt Nam, thiên nhiên vẫn hiện ra trong thơ Khoa tràn đầy nhựa sống:

Chúng tôi đến lớp ngày ngày

Mũ rơm tôi đội, túi đầy thuốc men

Ao trường vẫn nở đầy sen

Page 94: Bài Giảng Văn Học Thiếu Nhi ... - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/74.VanHocThieuNhiVietNam.docx  · Web viewVĂN HỌC THIẾU NHI VIỆT NAM . BÀI GIẢNG VĂN HỌC

Bờ ao vẫn chú dế mèn vuốt râu.

Đọc những vần thơ ấy, người ta sẽ hiểu vì sao chúng ta thắng Mỹ. Nữ

văn sĩ Pháp Ma - đờ - len Ríp - phô rất thích mấy câu thơ trên. Bà đã viết bài

"Khoa, em bé thi sĩ của Việt Nam, một khúc hát nhỏ mạnh hơn bom đạn"

đăng trên tuần báo Nhân đạo Chủ nhật. Bà cho rằng đấy là những câu thơ

tiêu biểu cho bản tính của nhân dân Việt Nam, được thể hiện qua con mắt trẻ

thơ. Có thể nói, tâm hồn Khoa luôn hòa hợp với thiên nhiên, với quê hương

nên thơ anh có thể bắt được rất nhạy thần sắc của nó. Anh nghe được tiếng

cây “lách chách đâm chồi”, tiếng lá rơi “rất mỏng như là rơi nghiêng” của

chiếc lá đa, tiếng thở hí hóp trên sàn của thóc", tiếng "gió giở mình trăn trở"

trong đêm thu. Có lẽ vì vậy mà khi đi tìm sự lý giải "Cái vần thơ Khoa lớn lên

từ mảnh đất nào", Giáo sư Nguyễn Đăng Mạnh đã khẳng định, Khoa chính là

nhà thờ của nông thôn "làng quê đã tạo nên thơ Khoa từ màu sắc đến linh

hồn".

III. TÂM HỒN TRẺ THƠ CỦA KHOA ĐƯỢC BỘC LỘ QUA CÁCH NHÌN, CÁCH TẢ CẢNH VẬT

Chúng ta đã biết, tập thơ Góc sân vả khoảng trời của Trần Đăng Khỏa

ra đời khi anh tròn 10 tuổi. Trong thơ Khoa, ta bắt gặp tầm nhìn, tầm nghĩ của

một hồn thơ vượt xa lứa tuổi của anh. Nhiều người nghĩ đến Khoa như một

hiện tượng có một không hai, một thần đồng thơ lúc vừa lên 7,8 tuổi. Nguyên

Đăng Mạnh cũng đánh giá rất cao Trần Đăng Khoa, coi anh là một trong

những cây bút hiếm hoi trong đội ngũ những người viết về nông thôn sau

Cách mạng tháng Tám.

Nhưng Khoa vẫn là một cậu bé 10 tuổi. Đó là lứa tuổi hồn nhiên, ngây

thơ, hiếu động và giàu sức tưởng tượng. Dấu ấn tuổi thơ anh vẫn còn in đậm

trên từng trang viết, bộc lộ qua cách nhìn, cách tả cảnh vật. Nhìn cơn mưa

trong vườn, Khoa hình dung đến một đoàn quân ra trận:

Ông trời

Page 95: Bài Giảng Văn Học Thiếu Nhi ... - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/74.VanHocThieuNhiVietNam.docx  · Web viewVĂN HỌC THIẾU NHI VIỆT NAM . BÀI GIẢNG VĂN HỌC

Mặc áo giáp đen

Ra trận

Môn nghìn cay mía

Múa gươm

Kiến

Hành quân

Đầy đường...

Một Buổi sáng nhà em với bao nhiên nhân vật ngộ nghĩnh và sinh

động. Vẫn là một khoảnh vườn nho nhỏ và góc sân mà ta vẫn gặp ở bất cứ

vùng quê nào. Vậy mà ở thơ Khoa, nó hoàn toàn mang một đáng vẻ mới lạ

ngộ nghĩnh và gợi cảm:

Cậu mèo đã dậy từ lâu

Cái tay rửa mặt, cái đầu nghiêng nghiêng

Mụ gà cục tác như điên

Làm thằng gà trống huyên thuyên một hồi

Cái na đã tỉnh giấc rồi

Đàn chuối đứng vỗ tay cuời vui sao

Và thật kỳ diệu khi Khoa viết vế Đám ma bác giun với đông đủ họ hàng

nhà Kiến: Kiến con, Kiến già, Kiến đất, Kiến lửa, Kiến cánh, Kiến càng, Kiến

đen, Kiến vàng... Kiến đi đưa ma, Kiến ở nhà "là đà" uống rượu cho đến cả lũ

Kiến gió bay ra chia phần. Ngộ nghĩnh, sống động mà cũng sâu lắng. Bài thơ

gợi một không khí xưa mà ta đã gặp đâu đó trong ca dao cổ.

Bài Kể cho bé nghe của Khoa có âm hưởng của một bài đồng dao.

Bằng những liên tưởng thật ngộ nghĩnh, độc đáo và tài tình, Khoa nhảy cóc từ

sự vật này đến sự vật khác chuyện nọ xọ chuyện kiạ, toàn là chuyện loài vật,

đồ vật mà sao huyên náo, ầm ĩ lạ thường:

Hay nói ầm ĩ

Page 96: Bài Giảng Văn Học Thiếu Nhi ... - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/74.VanHocThieuNhiVietNam.docx  · Web viewVĂN HỌC THIẾU NHI VIỆT NAM . BÀI GIẢNG VĂN HỌC

Là con vịt bầu

Hay hỏi đâu đâu

Là con chó vện

Hay chăng dây điện

Là chú nhện con.

Trăng là một đối tượng trữ tình của cảm hứng thi ca từ bao đời nay.

Nhưng trong cái nhìn của Khoa trăng hiện ra một cách mới lạ:

Trăng ơi từ đâu đến

Hay từ biển diệu kỳ

Trăng tròn như mắt cá :

Không bao giờ chớp mi

Theo Xuân Diệu, "một hình tượng mà xâu chuỗi được từ trăng sang

biển, từ biển đến trời. Trăng là mắt của một con cá nào nhìn nghiêng thì thật

là kỳ diệu”. Và chỉ có một đứa trẻ mới lần đầu tiên nghĩ ra trong thơ:

Trăng ơi từ đâu đến

Hay từ một sân chơi

Trăng bay như qủa bóng

Đứa nào đá lến trời.

Cánh diều, cái biểu tượng của sự thanh bình ở đồng quê qua tưởng

tượng của Khoa không chỉ là mảnh trăng vàng, chiếc thuyền trôi trên sông

Ngân, hạt cau phơi trên nong trời và còn là lưỡi liềm của ai đó bỏ quên trên

cánh đồng trời sau mùa gặt.

Trong đôi mắt trẻ thơ của Khoa, màu sắc, âm thanh, hương vị cửa thế

giới bên ngoài, của thiên nhiên, cỏ cây, hoa lá dường như đều có hồn người

được hiện ra với những hình nét thật đặc biệt, giàu sức liên tưởng: tàu lá dừa

đối với Khoa là "chiếc lược chải vào mây xanh" với những chùm quả lủng

lẳng như “bao hủ rượu”. Còn trong cơn mưa thì nó "sải tay bơi" bên cạnh

Page 97: Bài Giảng Văn Học Thiếu Nhi ... - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/74.VanHocThieuNhiVietNam.docx  · Web viewVĂN HỌC THIẾU NHI VIỆT NAM . BÀI GIẢNG VĂN HỌC

những bụi tre "tần ngần gỡ tóc" và "hàng bưởi đu đưa bế lũ con đầu tròn trọc

lóc". Ngay cả sấm sét, vị hung thần từng gieo bao nỗi kinh hoàng cho con

người cũng được Khoa ban tặng một nụ cười thật sảng khoái, hồn nhiên

Sấm

Ghé xuống sân

Khanh khách

Cười

Đến những khẩu pháo trên trận địa cũng chỉ lả một chú bé hay vòi vĩnh,

ước muốn có được những "kẹo hồng, kẹo xanh".

Chính cái hồn nhiên trong trẻo ấy đã tạo cho thơ Khoa một phong cách

rất riêng thật đặc biệt và đấy cũng là nguồn dinh dưỡng giúp Khoa thực hiện

nguyện ước cháy bỏng của mình “Em suốt đời làm thơ”.

IV. TÌNH ĐỜI, TÌNH NGƯỜI TRONG THƠ TRẦN ĐĂNG KHOA

Hồn nhiên, ngộ nghĩnh trong cảm nhận về thiên nhiên, thơ Khoa cũng

rất ấm áp tình đời, tình người. Mẹ bao giờ cũng là hình ảnh sâu đậm, thiêng

liêng nhất trong thơ Khoa. Anh làm nhiều bài thơ về mẹ, “Áo mẹ mưa bạc

màu” “Đầu mẹ nắng cháy tóc”. Nhìn mẹ ốm, anh như thấu hiểu cuộc đời dầu

dãi nắng mưa, một nắng hai sương của mẹ:

Nắng mưa từ những ngày xưa

Lặn trong đời mẹ đến giờ chưa tan

Không còn là những lời ngộ nghĩnh mà là những lời được cất lên từ sâu

thẳm của tình mẹ con. Câu thơ như lấp lánh giọt nước mắt:

Cả đời đi gió đi sương

Bây giờ mẹ lại lần giường tập đi

Và thật là hiếu thảo, khi anh muốn làm vui lòng mẹ:

Mẹ vui con có quản gì

Page 98: Bài Giảng Văn Học Thiếu Nhi ... - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/74.VanHocThieuNhiVietNam.docx  · Web viewVĂN HỌC THIẾU NHI VIỆT NAM . BÀI GIẢNG VĂN HỌC

Ngâm thơ kể chuyện rồi thì múa vui

Rồi con diễn kịch giữa nhà

Một mình con đóng cả ba vai cheo.

Cảm dộng nhất là khi thấy mẹ đau ốm, khoa thốt lên vì “con chưa

ngoan, chưa ngoan” và cảm thấy mình thật có lỗi khi chưa làm được gì để đỡ

đần nỗi vất vả của cha mẹ

Vì con mẹ khổ đủ điều

Quanh đôi mắt mẹ đã nhiều nếp nhăn.

Khi đã là nhà thơ khoác áo lính anh vẫn làm thơ về mẹ Viết bên cửa sổ

máy bay, Lại nói về mẹ. Vẫn những tình cảm đằm thắm ấy nhưng có thêm

chiều sâu suy nghĩ và trách nhiệm.

Bé Giang, em gái của Khoa cũng là đối tượng của thơ anh. Khoa làm

nhiều bài thơ cho em. Với tình cảm và trách nhiệm của người anh, trong Dặn

em, anh lo lắng cho em khi ở nhà một mình, dặn em đừng ra bờ ao mà rơi

xuống nước, đừng đi nắng mà nhức đầu, đừng nghịch đất mà lấm người, đau

mắt và với tư thế người anh:

Ốm đau là mất đi chơi

Làm cho bố mẹ mất vui trong lòng.

Anh còn viết về một bé Giang độ lượng biết nhường nhịn con mèo hiếu

thắng:

À thôi… mày được

Bé Giang dỗ dành

Mèo thè lưỡi đỏ

Liếm vào răng nanh.

Khoa viết về anh trai trong niềm xúc động của hương nhãn về đêm:

Đêm. Hương nhãn đặc lại

Page 99: Bài Giảng Văn Học Thiếu Nhi ... - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/74.VanHocThieuNhiVietNam.docx  · Web viewVĂN HỌC THIẾU NHI VIỆT NAM . BÀI GIẢNG VĂN HỌC

Thơm ngát sân trong nhà

Mẹ em nằm thao thức

Nhớ anh đang đi xa

Khoa không chỉ biết yêu thương những người thân trong gia đình mà

đối với một bác kéo xe bò “mồ hôi ướt lưng, căng sơi dây thừng" chở vôi cát

về xây trường học cũng được Khoa quý trọng, đối xử hết sức ân tình:

Cơm cháu vừa xới

Mời bác cứ ăn

Nước cháu rót xong

Mờ bác cứ uống

Nhìn con đường nhỏ, lòng Khoa bỗng bâng khuâng vì thiếu bóng thầy

đi qua". Khi được tin thầy lên đường nhập ngũ:

Thầy đi bộ đội chiều qua

Chúng em thơ thẩn vào ra chúc mừng

Và khi thầy từ Chiến trường trở về với một bàn chân không còn nguyên

vẹn, Khoa cảm thấy xót xa, cảm thấy mình chưa xứng dáng với sự hy sinh

lớn lao của thầy:

Dấu nạng hai bên như hai băng lỗ đáo

Chúng em nhận ra bàn chân thầy giáo

Nhận ra cái chưa hoàn hảo

Của cả cuộc đời mình.

Tình yêu chú bộ đội cũng là nét nổi bật trong thơ Khoa. Hình ảnh chú

bộ đội trong tâm trí Khoa bao giờ cũng là hình ảnh gần gũi, thân thiết. Chỉ một

vài nét chấm phá Khoa đã dựng lên chân dung của Anh bộ dội cụ Hồ.

Cháu nghé chú đánh những đâu

Những tàu chiến cháy những tàu bay rơi

Page 100: Bài Giảng Văn Học Thiếu Nhi ... - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/74.VanHocThieuNhiVietNam.docx  · Web viewVĂN HỌC THIẾU NHI VIỆT NAM . BÀI GIẢNG VĂN HỌC

Đến đây chỉ thấy chú cười

Chú đi gánh nước, chú ngồi đánh bi.

Bác Hồ, cũng là một hình ảnh vô cùng gần gũi trong thơ Khoa. Từ lúc

9 tuổi, nhìn Bác Hồ trong ảnh treo giữa nhà, khoa đã viết:

Bác lo bao việc nên đời

Ngày ngày Bác vẫn mỉm cười với em.

Khoa nói chuyện với bác trong ảnh mà tưởng: tượng ra lời Bác dặn dò:

Cháu ơi đừng có chơi bời đâu xa,

Trông rau, quét bếp, đuổi gà

Thấy tàu bay Mỹ nhớ ra hầm ngồi.

Mỗi lần nghe tin máy bay Mỹ ném bom vào Hà Nội, Khoa vô cùng lo

lắng.

Các chú bộ đội ơi

Các chú bộ đội ơi

Thằng giặc Mỹ nó ném bom Hà Nội rồi

Hà Nội có Bác Hồ đang ở...

Lần đầu tiên được về Hà Nội; Khoa đến ngay trước Quảng trường Ba

Đình, mong thấy Bác Hồ. Niềm vui sướng hân hoan mong mỏi được gặp bác

xen lẫn niềm lo lắng.

Bác ơi cháu đến đây rồi

Ba Đình phượng đỏ một trời tiếng ve.

Cháu nghe Hà Nội vào hè.

Hồ Gườm nước biếc bốn bề hoa tươi.

Sang năm Bác tám mươi rồi

Bác ơi! Bác thấy trong người khỏe không?

Page 101: Bài Giảng Văn Học Thiếu Nhi ... - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/74.VanHocThieuNhiVietNam.docx  · Web viewVĂN HỌC THIẾU NHI VIỆT NAM . BÀI GIẢNG VĂN HỌC

Như thế, cái tình đời, tình người cứ len vào trong thơ Khoa, làm cho cái

nhìn tươi mát của Khoa thêm phần đằm thắm, sâu lắng đầy chất suy ngẫm.

V. ĐẶC ĐIỂM NGHỆ THUẬT TRONG THƠ TRẦN ĐĂNG KHOA

Trong tác phẩm văn học nói chung, thơ nói riêng, nội dung và hình thức

bao giờ cũng có mối quan hệ chặt chẽ. “Ngôn ngữ là yếu tố thứ nhất của văn

học” (Gorky). Thơ Khoa bộc lộ một thứ ngôn ngữ mượt mà, trong sáng, giàu

hình ảnh và giàu nhạc điệu. Càng về sau thơ anh càng đạt đến độ tinh tế,

giản dị, giàu tính biểu cảm và suy tưởng.

Trong thơ, các biện pháp so sánh, ẩn dụ, nhân hóa được Khoa sử

dụng với tần số lớn. Sự so sánh thường không tạo ra hiện tượng chuyển

nghĩa mà gợi tả những hình ảnh được liên tưởng đến. Điều thú vị là liên

tưởng đến trong thơ Khoa hết sức độc đáo và ngộ nghĩnh

Trăng tròn như cái đĩa

Lơ lửng mà không rơi.

hay

Trong ơi từ đâu đến

Hay từ một sân chơi

Trăng tròn như quả bóng

Đứa nào đá lên trời.

Nhân hóa cũng là một biến thế của sự so sánh. “Mưa” “Kể cho bé

nghe”... là những bài thơ sử dụng phép nhân hóa rất thành công Khoa. Thủ

pháp ẩn dụ cũng được Khoa sử dựng để bộc lộ những tình cảm sâu sắc và

tinh tế Cái độc đáo của Khoa khi sử dụng các thủ pháp này là sự liên tưởng

từ cái bao la rộng lớn để nhìn thấy cái cụ thể, từ cái cụ thể để thay cái khái

quát cao hơn. Có thể nói, sự quan sát, liên tưởng của Khoa rất tinh nhạy và

đầy sáng tạo. Những phẩm chất ấy chỉ có thể có được ở những tâm hồn nhạy

cảm, nhân hậu và giàu niềm tin yêu vào cuộc sống.

Page 102: Bài Giảng Văn Học Thiếu Nhi ... - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/74.VanHocThieuNhiVietNam.docx  · Web viewVĂN HỌC THIẾU NHI VIỆT NAM . BÀI GIẢNG VĂN HỌC

Thơ Khoa còn in đậm dấu ấn của những suy ngẫm, khái quát sâu sắc :

Mái gianh ơi hỡi mái gianh

Ngấm bao nhiêu nắng mà thành quê hương.

Nhạc điệu một yếu tố quan trọng tạo nên phong cách thơ Trần Đăng

khoa. Tính nhạc trong thơ Khoa được tao thành không chỉ ở vần thơ, ở nhịp

điệu, cách sử dụng ngữ âm mà còn là sự ngân vang của tâm hồn. Nhìn bao

quát thơ Khoa ở thể tự do, ít bị ràng buộc ở số câu chữ, có nhiều bài được

viết theo thể lục bát, nhuận nhị, mượt mà như ca dao. Nhưng cũng có bài rất

ngắn. mỗi câu chỉ có 1 chữ, 2 chữ, 5 chữ (Mưa). Tuy nhiên, không vì thế mà

nhạc điệu bài thơ bị mất đi. Một số bài thơ của anh mang âm hưởng của

những bài đồng dao (Kể cho bé nghe, Trăng sáng sân nhà em...) Một số bài

có kết cấu lặp, khi đọc lên mang giai điệu của câu hát. Nhưng điều quan trọng

nhất để làm nên chất nhạc trong thơ Khoa chính là nhờ cảm xúc cái nhìn

cuộc sống trong sáng thơ ngây và cảm xúc chân thành của một tâm hồn ấp

áp tình đời tình người. Chính vì vậy mà thơ Khoa dễ đi vào lòng người đọc,

ngân vang trong trong mỗi tâm hồn như những khúc hát.

Thơ Khoa cũng đã biết tiếp thu khai thác mạnh nguồn văn hóa dân

gian, tiếp thu tinh hoa của các thế hệ đi trước để biến thành cái đẹp của riêng

anh.

Tuy nhiên, đây đó có một số bài thơ của Khoa hơi đi quá đà triết lý

khiến cho hồn thơ có vẻ già trước tuổi (Lớn lên). Dẫu rằng, ở đây khái niệm

già nên quan niệm khác nơi người lớn. Theo Xuân Diệu, bài Dân Côn Sơn

chưa kể cảm xúc tinh vi khi anh nghe chiếc lá "Tiếng rơi rất mỏng như là rơi

nghiêng", cả bài thơ ngắn gọn, không thừa câu rườm chữ, mà rộng lớn một

cách tự nhiên và khêu gợi rất giỏi. Và Xuân Diệu gọi đây là "bút pháp người

lớn", khiến thơ anh vượt xa những cây bút cùng trang lứa.

HƯỚNG DẪN HỌC TẬP

I. Câu hỏi

Page 103: Bài Giảng Văn Học Thiếu Nhi ... - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/74.VanHocThieuNhiVietNam.docx  · Web viewVĂN HỌC THIẾU NHI VIỆT NAM . BÀI GIẢNG VĂN HỌC

1 So sánh tình cảm bao trùm nhất giữa thơ thiếu nhi trước và sau 1975

để thấy được đặc trưng tâm tỷ thời đại.

2. Lý giải tài năng thơ Trần Đăng Khoa.

3. Vì sao nói Tràn Đăng Khoa là một trong những cây bút chuyên

nghiệp về nông thôn.

4. Đặc điểm nghệ thuật trong thơ Trần Đăng Khoa.

II. Bài tập

1 Thiên nhiên trong thơ Trần Đăng Khoa.

2. Tâm hồn trẻ thơ của Trần Đăng Khoa được thể hiện qua cách nhìn,

cách tả cảnh vật.

3. Tình dời, tình người được thể hiện trong thơ Trần Đăng Khoa như

thế nào?

III. Tài liệu tham khảo

1 Hồng Diệu

- Đọc lại tuổi thơ Tran Đăng Khoa - Văn nghệ số 42 (l8.l0.l980)

- Thiếu nhi với bộ đội trong thơ - Văn nghệ quân đội (6 - 1 979)

- Bàn về cá tính sáng tác trong thơ Trần Đăng Khoa - Văn nghệ quân

đội số 2 và 3 - 1987

2. Văn Hồng:

- Từ "Tấm lòng chúng em" đến “Cánh én mùa xuân" Văn nghệ số 39

(29.9.1977)

Về một chặng đường phát triển của văn học Thiếu Nhi - Văn nghệ 38

(20.9.1990)

3. Vân Thanh:

- Thơ Trần Đăng Khoa - Tạp chí Văn học - Số 3 - 1984

- Trần Đăng Khoa - Văn học tập II - Nxb Hà Nội - 1942

Page 104: Bài Giảng Văn Học Thiếu Nhi ... - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/74.VanHocThieuNhiVietNam.docx  · Web viewVĂN HỌC THIẾU NHI VIỆT NAM . BÀI GIẢNG VĂN HỌC

4. Dương Thu Hương

- Thơ Trần Đăng Khoa Văn học Thiểu nhi - Trường Đại học Sư phạm 1

- Hà Nội 1 994

5. Trịnh Thị Hà Bắc

- Thơ Thiếu nhi trong nhà trường - Luận văn Thạc sĩ Ngữ văn. Mã số

5.12.02. Huế 1999.

6. Trần Đăng Khoa

- Góc sân và khoảng trời - Nxb Kim Đồng - Hà Nội, 1996

Phần thứ ba: VĂN HỌC NƯỚC NGOÀI TRONG CHƯƠNG TRÌNH TIẾNG VIỆT TIỂU HỌC

Văn học nước ngoài có một vai trò to lớn trong đời sống tinh thần của

thiếu nhi Việt Nam. Trong chương trình tiểu học, văn học nước ngoài được

đưa vào chủ yểu ở ba phân môn: Tập đọc, Kể chuyện và Văn (Chương trình

CGD)(1). Đó là những truyện kể dân gian, những truyện ngắn hiện dại, các bài,

các đoạn trích văn thơ của các nhà văn cổ điển và hiện đại nổi tiếng trên thế

giới đã được xem xét và chọn lọc kỹ lưỡng vế nhiều phương diện để dưa vào

chương trình, nhằm phục vụ mục đích giáo dưỡng và giáo dục cho học sinh

tiểu học.

Với một số lượng đáng kể (chiếm = 30% của toàn chương trình), các

tác phẩm văn học nước ngoài đã để lại trong tâm trí các em những kiến thức

phong phú về đời sống, những khát vọng cao cả, đẹp đẽ của loài người,

những bài học nhẹ nhàng mà sâu lắng vế lòng nhân ái vị tha, các em được

tiếp xúc với những truyện kể dân gian hấp dẫn với những hình tượng bay

bỗng, gợi lên niềm hưng phấn và ước mơ đẹp đẽ, được tiếp xúc và học tập

những trang. văn đẹp, vừa trữ tình vừa sống động mà ở đó, con người và

cảnh vật hòa quyện, hài hòa với nhau.

Page 105: Bài Giảng Văn Học Thiếu Nhi ... - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/74.VanHocThieuNhiVietNam.docx  · Web viewVĂN HỌC THIẾU NHI VIỆT NAM . BÀI GIẢNG VĂN HỌC

Học văn học nước ngoài, các em còn như mở rộng tầm mắt, bước đầu

tiếp xúc với một thế giới vừa xa xôi, vừa gần gũi với đất nước mình với dân

tộc mình.

I. NHỮNG GIÁ TRỊ NỘI DUNG CỦA VĂN HỌC NƯỚC NGOÀI TRONG CHƯƠNG TRÌNH VĂN HỌC

Văn học nước ngoài trong chương trình tiếng Việt tiểu học đề cập đến

nhiều nội dung khác nhau. Với một hệ đề tài và chủ đề vừa phong phú, vừa

đa dạng; với cốt truyện hấp dẫn; những trang viết giản dị, trong sáng giàu

chất thơ, những trang văn học nước ngoài đã đem đến cho các em những bài

quý về giá trị nhân bản. Đó là những tình cảm cao đẹp của con người: Lòng

nhân ái vị tha, tình yêu quê hương đất nước, khát vọng trí tuệ và những

chuẩn mực đạo đức.

1. Lòng nhân ái

Lòng nhân ái là một chủ đề lớn, xuyên suốt hầu hết tác phẩm. Từ

những trang truyện cổ dân gian của nhiều dân tộc trên thế giới cho đến

những tác phẩm thơ văn hiện đại, ở đâu, ta cũng bắt gặp ngọn lửa ấm áp của

lòng nhân ái. Nó đem lại cho tác phẩm chất trữ tình lắng đọng nhất, có sức

lay động nhất đến tâm hồn bạn đọc nhỏ tuổim Chính lòng nhân ái đã tạo cho

con người một súc mạnh vô tận, giúp họ vượt qua muôn ngàn thử thách và

bất hạnh của cuộc đời để tìm đến hạnh phúc.

Trong truyện Nàng Bạch Tuyết và bảy chú lùn (Truyện cổ Grim - Đức)

bảy chú lùn sống trong rừng đã hết lòng cưu mang nàng Bạch Tuyết khi nàng

bị tai họa. Lòng nhân ái của họ thật xúc động, họ đã tận tụy với nàng khi nàng

còn sống và cả khi đã chết.

Tình yêu thương của con người nhiều khi đã làm rung động cả trời đất

và lay động cả trái tim băng giá của thần linh. Hình tượng những giọt máu

nghĩa tình của nàng công chúa Thiên Nga rỏ xuống, biến thành những bông

Page 106: Bài Giảng Văn Học Thiếu Nhi ... - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/74.VanHocThieuNhiVietNam.docx  · Web viewVĂN HỌC THIẾU NHI VIỆT NAM . BÀI GIẢNG VĂN HỌC

hồng "đỏ thắm, thơm dịu và đẹp như tình yêu của con người" là biểu tượng

cao đẹp của lòng nhân ái (Những bông hồng - Thần thoại Hý Lạp).

Đó còn là tình yêu thương đối với những cảnh đời bất hạnh. Chú dế

nhỏ trong Dế nhỏ và ngựa già mù (Truyện cổ Bun - ga - ri) đã coi việc giúp đỡ

người khác như là một niềm vui, một niềm hạnh phúc. sau khi đã mang lại

ánh sáng cho ngựa già mù, chú dế nhỏ "lòng tràn ngập vui sướng, chú đi

khắp mặt đất, để những đêm thanh khiết, đem niềm vui cho mọi người, cho

cây cỏ và cho tất thảy mọi sinh linh bé bỏng nhỏ nhoi".

Lòng nhân ái còn được thể hiện ở các tác phẩm văn học hiện đại.

Truyện (cô bé bán diêm (Andersen - Đan Mạch), kể về một em bé nghèo.

Trong đêm cuối năm lạnh giá, em đi bán diêm. Trời đã khuya, thấm lạnh

nhưng em không bán được gì. Trong khi nhà nhà thắp đèn sáng rực và sửa

soạn đón năm mới, em một mình lang thang trên đường vắng với đôi chân

trần lạnh giá. Và em đã đốt những que diêm để sưởi ấm. Mỗi que diêm lóe

lên là một giấc mơ: cái lò sưởi ấm cúng, mâm cổ tết có ngỗng quay và cuối

cùng là người bà rất yêu thương em (đã mất từ lâu) hiện về đón em đi... Em

chết vì đói, vì rét. Nhưng bằng ánh sáng kỳ diệu, cao cả của ngọn lửa diêm,

em dã được tình thương của Andersen tiễn đưa vào cõi vĩnh hằng với "đôi

má hồng vả đôi môi đang mỉm cười".

Cùng một cảm hứng về lòng nhân ái,.vị tha, truyện Người ăn xin của I-

van Tuốc-ghê-nép (Nga) lại đem đến cho các em những bài học triết lý nhẹ

nhàng và sâu sắc. Cậu bé qua dường, sau khi đã "tìm hết túi nọ đến túi kia để

mong kiếm dược cái gì để cho người ăn xin" nhưng vẫn chẳng có gì, cậu liền

nắm chặt đôi bàn tay của người ăn xin và nói như người cỏ lỗi "ông đừng giận

cháu, cháu không có gì để cho ông cả".Và ông lão ăn xin nhìn cậu bé với đôi

mắt “ướt đau”, "đôi môi tái nhợt" nở nụ cười: "Như vậy là cháu đã cho lão rồi"

đã làm xúc động người đọc, và họ cũng như vừa nhận được chút gì từ câu

nói của người ăn xin.

Trong tình cảm con người, tình mẫu tử là thiêng liêng sâu dậm nhất

Chủ đề đó được thể hiện qua Những con bồ nông (Muýt-xê), Con sẻ (I van

Page 107: Bài Giảng Văn Học Thiếu Nhi ... - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/74.VanHocThieuNhiVietNam.docx  · Web viewVĂN HỌC THIẾU NHI VIỆT NAM . BÀI GIẢNG VĂN HỌC

Tuốc-ghê-nép), Một bà mẹ (Andersen). Đó là những câu chuyện nhỏ xinh

nhưng chứa đựng một tình yêu lớn. Chim bồ nông mẹ sau khi lặn lội suốt

ngày nhưng chẳng kiếm được mồi gì cho con ăn, đã sẵn sàng hy sinh tính

mệnh của mình để cho đàn bồ nông con "được một bữa no". Những con bồ

nông con ngây thơ đã không hiểu rằng, đó là bữa ăn cuối cùng mà người mẹ

yêu con dành cho chúng.

Trong Con sẻ, hình ảnh sẻ mẹ bất chấp sự nguy hiểm, sà xuống trước

mặt chó săn để bảo vệ cho sẻ con đã buộc chó săn phải lùi lại. "Vì nó hiểu

phía trước nó là một sức mạnh”. Đó là sức mạnh của tình mẫu tử.

Trong Một bà mẹ, chính tình yêu con vô bờ bến của người mẹ đã đem

lại cho bà sức mạnh và lòng can đảm để vượt qua thử thách, tìm đến xứ sở

của thần chết đòi lại đứa con đã mất.

Lòng nhân ái không chỉ đem đến sức mạnh cho con người mà còn là

hạnh phúc mà họ xứng đáng được hưởng. Chàng A-la-đanh trong cây đèn

thần (Nghìn lẻ một đêm - ả Rập) khi nghèo khổ. cũng như khi giàu tột bậc,

làm phò mã, rồi làm vua, không bao giờ quên giúp đỡ người nghèo khổ. Vì

vậy, chàng được mọi người dân quý trọng, yêu mến và xứng đáng được

hưởng hạnh phúc lâu dài với nàng công chúa xinh đẹp.

2. Tình yêu quê hương đất nước

Một trong những phẩm hạnh cao quý nhất của con người là tình yêu

quê hương đất nước. Đó là một tình yêu lớn, thiêng liêng và tự nhiên của mỗi

con người. Nó gắn bó con người với nơi chôn nhau cắt rốn. Thiếu tình yêu ấy,

cuộc sống sẽ vô vị, nhạt nhẽo, buồn.thảm biết nhường nào (Chú vẹt tinh khôn

- I ran)

Đó còn là sự tôn trọng từng hạt cát nhỏ của quê hương. Trong đất quỹ

đất yêu (Truyện cổ Etiôpia) lúc người khách định bước xuống tàu thì bị quan

hầu yêu cầu cởi giày ra, cạo sạch đất ở đế giày rồi mới để khách đi. Lý giải về

hành động "kỳ quặc" của mình, vị quan hầu nói "Đó là mảnh đất của chúng

tôi. Chím tôi sinh ra ở đây, chết cứng ở đây Trên mảnh đất này, chúng tôi

Page 108: Bài Giảng Văn Học Thiếu Nhi ... - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/74.VanHocThieuNhiVietNam.docx  · Web viewVĂN HỌC THIẾU NHI VIỆT NAM . BÀI GIẢNG VĂN HỌC

trồng trọt, chăn nuôi. Đất Etiôpia là cha, là mẹ, là anh em ruột thịt của chúng

tôi" và “đất ê-ti-ô-pi-a đối với chúng tôi là thiêng liêng, cao quý nhất. Chúng tôi

không để các ông mang đi, dù chỉ là một hạt cát nhỏ". Để bảo vệ quê hương

đất nước, tình yêu có lúc là tinh thần chiến đấu dũng cảm, mưu trí chống lại

giặc ngoại xâm. Truyền thuyết về xứ Ba un lê (Truyện cổ Châu Phi) ca ngợi

bà hoàng hậu Pê-cu tài năng, dũng cảm và chan chứa tình yêu đối với dân

tộc, với đất nước. Bà sẵn sàng hy sinh tính mạng, hy sinh cả đứa con trai độc

nhất của mình vì sự tồn vinh của đất nước. Lòng yêu nước cao cả tuyệt vời

và chói sáng của bà đã cảm hóa dược các thần linh và tạo ra chiến công kỳ

diệu.

Truyện Những chú bé không chết (Nga) cũng là bài ca, ca ngợi sự hy

sinh và lòng dũng cảm, quyết không đội trời chung với kẻ thù của nhân dân

Nga trong cuộc chiến đấu bảo vệ đất nước. Tình yêu dết nước ấy đã làm cho

kẻ thù phải cúi đầu run sợ. Khi thấy một chú bé mặc áo sơ mi xanh có hàng

cúc áo trắng thứ ba xuất hiện, tên phát xít đã phục xuống như một kẻ loạn trí:

"Hít le, quỷ tha ma bắt mày đi. Mày dưa chúng tao đến một đất nước phù

thủy. Ở đây, người ta chết đi, sống lại như các vị thần".

Lòng yêu quê hương đất nước còn thể hiện ở sự mưu trí dũng cảm.

Bác Phơ-líp - chủ hàng bánh kẹo trong ông chú cửa hàng bánh kẹo (Mêhicô)

là một con người rất đỗi bình thường. Nhưng để bảo vệ đồng đội bác đã mưu

trí đánh lừa kẻ địch và chịu đựng mọi thử thách. Bác Phơ-líp là hình ảnh đẹp,

tiêu biểu cho người dân Mêhicô trong cuộc đấu tranh một mất một còn với

bọn xâm lược Mỹ để bảo vệ tổ quốc.

3. Đề cao trí tuệ của con người

Cùng với lòng nhân ái, tình yêu quê hương đất nước, trí tuệ cũng đã

góp phần làm nên vũ khí vô địch của con người. Trí tuệ là khả năng nhận

thức, suy xét và giải quyết của con người trước những vấn dế của cuộc sống.

Trí thông minh trong các truyện được dưa vào chương trình tiểu học thường

gắn liền với phẩm chất của người lao động hoặc những con người nghĩa

hiệp, dũng cảm. Truyện Sayba và con ngựa của vua Iran (Truyện cổ Iran) và

Page 109: Bài Giảng Văn Học Thiếu Nhi ... - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/74.VanHocThieuNhiVietNam.docx  · Web viewVĂN HỌC THIẾU NHI VIỆT NAM . BÀI GIẢNG VĂN HỌC

Tính nợ (Truyện cổ Trưng Quốc) đã đề cao trí thông minh và tài xét đoán của

con người đã vạch trần được những mưu mô giảo quyệt, lòng tham lam của

bọn quan lại, đem lại sự công bằng cho xã hội.

Gậy ông lại đập lưng ông là chủ đề của câu chuyện Dùng mưu lại mắc

mẹo (Ngu ngôn La-phông-ten) kể về con sói già gian ngoan, quỷ quyệt tìm

cách hại ngựa. Nhưng cuối cùng, chính sói già lại bị ngựa "tung vó đá một cái

trời giáng" nên thân.

Sức mạnh của trí khôn con người đã làm cho muôn loài phải khiếp sợ

Truyện Bà già trong quả trứng (Truyện cổ Nêpan) là câu chuyện về một bà

lão chân yếu, tay mềm, nhưng nhờ trí thông mình bà dã khiến cho lũ cáo, hổ,

khỉ hung dữ phải lánh xa. Truyện Cổ Bungari Con sư tư già và người thợ

rừng cũng là một câu chuyện đề cao trí tuệ của con người. Nhờ có trí khôn

mà người thợ rừng chế ngư được cả sư tử. Hình ảnh người thợ săn lột da sư

tử làm áo khoác, oai vệ như một vị chúa tể cho ta thấy trí khôn của con người

có thể thẳng cả muôn loài cho dù đó là con vật hung dữ nhất.

Sức mạnh ấy đã làm cho con người trở thành kẻ mạnh nhất, chính con

cừu (Ai mạnh nhất trên đời - Truyện cổ Kiếc-ghi) đã khẳng định: "Người có

thể bắt gà, làm tan băng, tắm trong mưa, cày đất, cưa cây đổ dập tắt lửa, bắt

gió làm việc cho người, cắt cổ và ăn thịt cả tôi nữa. Người mới là người mạnh

nhất trên đời".

4. Ngợi ca lòng dũng cảm

Tử ngàn xưa, loài người sống giữa thiên nhiên mênh mông hoang dã

và hung dữ. Lòng dũng cảm là một phẩm chất giúp họ có đủ sức mạnh để

đương đầu với những thử thách vì sự tồn tại của mình.

Truyện Pha-ê-tông con thần Mặt trời (Thần. thoại Hy Lạp.) là một trong

những trang thần thoại đẹp, không chỉ nói lên khát vọng cháy bỏng của người

xưa muốn khám phá chinh phục thiên nhiên mà còn là bài ca của lòng can

đảm, ý chí quyết tâm không gì lay chuyển được của con người. Hình ảnh

Pha-ê-tông ngồi trên cỗ xe mặt trời lao vùn vụt giữa không trung là biểu tượng

Page 110: Bài Giảng Văn Học Thiếu Nhi ... - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/74.VanHocThieuNhiVietNam.docx  · Web viewVĂN HỌC THIẾU NHI VIỆT NAM . BÀI GIẢNG VĂN HỌC

của lòng quả cảm vô song. Cái chết bi hùng của Pha-ê-tông đã kết thúc tấn bi

kịch lạc quan đầy ý nghĩa.

Hình ảnh con rồng phun lửa trong Người anh hùng đánh rồng lửa là

biểu tượng về sự tàn phá của thiên tai. Nhưng dù hung hãn đến đâu, cuối

cùng nó cũng phải khuất phục trước ý chí quyết tâm, lòng dũng cảm của con

người. Hình ảnh chàng trai Bắc vượt qua bao nhiêu núi cao gập ghềnh hiểm

trở, xông pha vào chốn hiểm nguy để tìm cách diệt bằng được rồng lửa trừ

mối họa cho dân lành là hình ảnh người anh hùng chiến trận, chàng xứng

đáng được mọi người suy tôn là "anh hừng".

Trong Alibaba và bốn mươi tên cướp (Nghìn lẻ một đêm - ả Rập),

những chàng trai như Aliỏaba, Moocgan là những nhân vật tiêu biểu cho lòng

trung hậu, trí thông minh. và tinh thần chiến đấu vô cùng dũng cảm của nhân

dân lao động ả Rập. Họ dã chiến thắng các thế lực hung hãn một cách tài

tình. Và chính vì vậy, họ xứng đáng được hưởng hạnh phúc.

Truyện Nhả thơ độc nhất của Vương quốc Da-ghét-xtan lại khai thác

chủ đề này ở một khía cạnh khác. Truyện ca ngợi một nhà thơ chân chính

chọn cái chết trong ngọn lửa thiêu chứ không chịu uốn lưỡi ca tụng một tên

vua bạo ngược. Không những thế, nhà thơ còn dũng cảm đứng về phía quần

chúng nhân dân, dừng thơ ca của mình vạch trần bộ mặt tàn bạo, giả nhân,

giả nghĩa của hắn. Tiếng thét của tên vua bạo quyền cuối truyện "Cởi trói

ngay, mau lên! Dập lửa đi, dập ngay lửa đi! Trẫm không thể để mất nhà thơ

chân chính độc nhất của đất nước này!" là sự chiến thắng oanh liệt của nhà

thơ chân chính trước bạo quyến, và điều giá trị hơn là lòng dũng cảm của nhà

thơ đã giúp tên vua bạo quyền nhận chân được giá trị đích thực của nhân

cách.

5. Những giá trị đạo đức khác

Ngoài những yếu tố trên, con người còn có những phẩm chất tốt đẹp

khác đó là đức tính trung thực, ngay thẳng thật thà, lòng thủy chung trong tình

bạn, tình yêu lao động và niềm say mê hiểu biết...

Page 111: Bài Giảng Văn Học Thiếu Nhi ... - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/74.VanHocThieuNhiVietNam.docx  · Web viewVĂN HỌC THIẾU NHI VIỆT NAM . BÀI GIẢNG VĂN HỌC

Truyện Chiếc rìu kim cương, kể về một bác tiều phu "thật thà như đếm",

mặc dầu nghèo khổ, nhưng không tham lam, nhất quyết không nhận những

lưỡi rìu bằng vàng, bằng bạc vì nó không phải là lưỡi rìu của tôi". Đức tính

trung thực của bác tiều phu đó được đền đáp xứng đảng.

Truyện Chú thỏ non Pu-rỉ-nê (Truyện cổ Nga) ca ngợi tình bạn chân

thành, hồn nhiên giữa thỏ non Pu-ri-nê và chú bọ dừa bé nhỏ. Thỏ non gặp

hoạn nạn, bọ dừa đã chui vào tai gấu để cứu bạn là bài học cao quý về tình

bạn.

Còn truyện ông vua vả bác thợ giày (Truyện cổ Ấn Độ) là một bài học

vế giá trị lao động: Ai sống bằng lao động chân chính thì sẽ có lòng tin mạnh

mẽ ở hai bàn tay của mình..

Đó còn là bài học ý chí quyết tâm để trở thành con người chân chính.

Truyện Chú dế sau lò sưởi kể về thiên tài âm nhạc Moda khi còn bé. Một hôm

chủ nghe dế kêu, "âm thanh kỳ lạ" của tiếng dế tác động mạnh mẽ tới tâm

hồn chú khiến chú ước ao trở thành nhạc sĩ. Nhờ có ý chí quyết tâm rèn

luyện. ít lâu sau, những bản nhạc của Moda đã đem lại cho con người những

âm thanh kỳ diệu.

Nhìn chung, văn học nước ngoài trong chương trình tiếng Việt tiểu học

đã bổ sung nội dung và nghệ thuật của phần văn học trong nước của chương

trình.

Dù trích dịch và giới thiệu rất hạn chế cho phù hợp với chương trình và

dối tượng, mảng văn hóa nước ngoài trong chương trình tiểu học cũng đã

biểu hiện nhiều âm điệu cả về hai mặt: tư tưởng, tình cảm và hình thức nghệ

thuật được rút tỉa từ những tinh hoa của nhân loại.

Khi dạy mảng văn học này, giáo viên tiểu học nên có ý thức liên hệ, so

sánh với văn học trong nước để khắc sâu hơn và nâng cao hơn những kiến

thức và tình cảm mà văn học có thể đem đến cho các em.

Page 112: Bài Giảng Văn Học Thiếu Nhi ... - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/74.VanHocThieuNhiVietNam.docx  · Web viewVĂN HỌC THIẾU NHI VIỆT NAM . BÀI GIẢNG VĂN HỌC

II. TRUYỆN KỂ H.C. ANDERSEN1. Vài nét về tác giả

Hans Christian Andersen (1805- 1875) sinh ra tại thành phố Ôđenzê cổ

kính của nước Đan Mạch trong gia đình một người thợ giày. ông lớn lên trong

cảnh bần hàn và đã nhiều lần nếm mùi vị cay đắng: Người ta bịt miệng ông,

chế giễu ông và vu khống ông vì trong người ông có "máu dân đen"... Ông

đau khổ nhưng không khuất phục, ông tự hào về sự gần gũi máu mủ của

mình với những người nghèo khổ những người dân cày và những người thợ.

ông gia nhập "Liên đoàn thợ thuyền" và là nhà văn Đan Mạch đầu tiên đọc

cho thợ thuyền nghe những truyện thần tiên của mình.

Andersen làm thơ, viết truyện, nhưng mọi người biết đến tài năng của

ông chủ yếu ở pho truyện kể. Trước hết, truyện kể của ông bộc lộ một tài

năng kỳ lạ của trí tưởng tượng. Ngay từ hồi còn bé, sau khi nghe người lớn

kể chuyện, chú bé Andersen đã biến hóa những truyện ấy thông qua trí tưởng

tượng mầu nhiệm của mình rồi kể lại cho họ nghe. Mọi người gọi Andersen là

phù thủy: "Anh có một khả năng quý báu là trong bất cứ cống rãnh nào cũng

tìm ra được ngọc trai". Nhờ có trí tưởng tượng phong phú, kỳ diệu, Andersen

đã tạo ra những cốt truyện hấp dẫn, muôn màu muôn vẻ và những hình

tượng có ý nghĩa sâu xa, lay động tâm hồn người đọc. Pautôpxky (nhà văn

Nga) đã nhận định: "Trong mỗi chuyện cổ tích cho trẻ con của Anđersen còn

có một truyện cổ tích khác mà chỉ có người lớn mới có thể hiểu hết ý nghĩa

của nó".

Lý giải về tài năng sáng tạo kỳ diệu của Andersen là một điều không dễ

thống nhất. Nhưng có lẽ, những tia sáng đầu tiên tỏa ấm vào tâm hồn trẻ thơ

của Andersen chính là mạch nguồn văn hóa dân gian.

Từ thuở bé, Andersen thường theo bà nội đến bệnh viện làm phúc. Bà

nội vốn là người có tài kể chuyện và bịa chuyện, đã có ảnh hưởng khá đậm

nét trong tuổi thơ Andersen. Thỉnh thoảng, cậu còn được nghe các bà già lẩn

thẩn trong bệnh viện kể cho nghe những câu chuyện hấp dẫn, quái dị, có khi

mất đầu, thiếu đuôi, chẳng mạch lạc

Page 113: Bài Giảng Văn Học Thiếu Nhi ... - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/74.VanHocThieuNhiVietNam.docx  · Web viewVĂN HỌC THIẾU NHI VIỆT NAM . BÀI GIẢNG VĂN HỌC

Còn ở nhà, người cha của Andersen, tuy làm nghề thợ giày nhưng

cũng đã từng đêm, ông thức đọc cho con trai nghe những câu chuyện cổ

huyền bí trong Nghìn lẻ một đêm, Ngụ ngôn La-phông-ten và cả hài kịch của

nhà văn Đan Mạch: Holberg.

Mười một tuổi, Andersen mồ côi bố và đành phải thôi học. Để bù lại vốn

kiến thức văn hóa xã hội, Andersen đọc sách rất nhiều. ông rời quê hương

lên thủ đô để kiếm sống. Sau hai năm lang thang đầy thử thách, khẩn cầu quá

nhiều cửa, Andersen may mắn được ngài Jonas Collin - một thành viên của

Ban lãnh dạo nhà hát Hoàng gia và là một nghệ sĩ giàu có nhận đỡ đầu vì

thấy ở Andersen "Một năng khiếu thơ bẩm sinh. Có thể nói, nhờ J. Collin,

Andersen về sau.mới có đủ vốn kiến thức.văn hóa để trở thành văn hào chân

chính và vĩ dại.

Một trong những yếu tố quan trọng để lý giải sức hấp dẫn cuốn hút kỳ

lạ của tác phẩm Anđersen chính là nhân cách của người cầm bút. Ý thức

nhân văn sâu sắc khi viết cho các em luôn luôn là "ngôi sao Bắc Đẩu” dọi

đường cho những trang viết của ông. Chính vì vậy mà ông nói về niềm vui,

nỗi buồn, về nhưng điều tưởng chừng như đơn sơ nhất nhưng lại có sức lay

động lạ thường.

Andersen được sánh ngang với những bậc danh nhân văn hóa của

nhân loại Tác phẩm của ông được tách ra 90 thứ ngôn ngữ, xuất bản gần 500

lần với hơn 70 triệu bản. Đó là những cuốn sách được xem là bán chạy nhất

hành tinh.

Ở Việt Nam, đã từ rất lâu, tên tuổi của Andersen đã trở nên gần gũi và

quen thuộc với bạn đọc, đặc biệt là độc giả nhỏ tuổi Việt Nam. Bằng sức

mạnh của ngôn từ hiếm có, trí tưởng tượng nhiệm màu mà trong sáng, cốt

truyện hấp dẫn, lối kể chuyện có duyên, pha lẫn giữa bút pháp hiện thực và

huyền ảo, tác phẩm của Andersen đã dạt đến sự hoàn hảo của một nghệ sĩ

"độc nhất vô nhị, trước và sau ông chưa hề có". Đó là lời nhận định của các

nhà nghiên cứu Việt Nam khi đánh giá về Andersen.

2. Phân tích tác Phẩm "bà Chúa Tuyết" của ANDERSEN

Page 114: Bài Giảng Văn Học Thiếu Nhi ... - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/74.VanHocThieuNhiVietNam.docx  · Web viewVĂN HỌC THIẾU NHI VIỆT NAM . BÀI GIẢNG VĂN HỌC

2.1. Tóm tắt cốt truyện

Bà chúa Tuyết là một truyện tương đối dài trong kho tàng truyện kể của

Andersen. Truyện chia làm bảy chuyện nhỏ:

Chuyện thứ nhất

Tấm gương và những mảnh vỡ

Có một con quỷ chế tạc ra mọt tấm gương kỳ lạ. Người tốt. vật tốt soi

vào đấy trở nên méo mó, đáng ghét, dễ sợ. Quỷ ta thích chí mang gương lên

thiên đỉnh để chế nhạo cả chúa trời và các tiên đồng. Vừa đến cửa nhà trời,

tấm gương liền bị rúm ró, quăn queo, tuột khỏi tay bọn quỷ rơi xuống vỡ tan

thành triệu triệu mảnh nhỏ li ti. Mảnh nhỏ đó bắn vào mắt ai thì người đó sẽ

nhìn mọi người, mọi vật đều trở nên xấu xí dáng sợ. Mảnh nhỏ đó bắn vào tim

ai thì người đó trở thành kẻ lạnh lùng vì trái tim dã thành băng giá. Nguy hại

thay khi trong không trung có vô khối mánh vỡ của tấm gương quỷ.

Chuyện thứ hai

Hai em bé

Có hai em bé, bé trai tên là Kay, bé gái tên là Giéc-đa ở cạnh nhà nhau,

chơi với nhau rất thân. Khi thì các em nghe bà kể chuyện cổ tích, khi thì các

em chăm bón cây hồng, khi tụm lại với nhau xem tranh... Nếu em này thiếu

em kia và ngược lại thì thật là buồn. Một hôm, hai đứa bé đang đùa với nhau

thì Kay kêu đau nhói trong mắt và trong tim. Một mảnh gương vỡ dã bắn vào

mắt em, một mảnh vỡ khác bắn vào tim em. Thái độ của em đối với mọi vật,

mọi người bỗng thay đổi. Em nhại lại lối kể chuyện của bà. Em vặt đi những

bông hồng trước đây em chăm sóc. Em đuổi người bạn thân thiết muốn lại

gần thăm hỏi. Giéc-đa rất buồn và thương Kay. Từ đó, Kay không ở nhà, em

đi chơi trên tuyết. Sau cùng, em theo bà Chúa Tuyết đi tới giang sơn mênh

mông, băng giá của bà. Giéc-đa nhớ Kay, quyết tâm đi tìm Kay.

Page 115: Bài Giảng Văn Học Thiếu Nhi ... - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/74.VanHocThieuNhiVietNam.docx  · Web viewVĂN HỌC THIẾU NHI VIỆT NAM . BÀI GIẢNG VĂN HỌC

Chuyện thứ ba

Vườn nhà bà biết làm phép lạ

Giéc-đa lòng buồn vô hạn. Hết ngày này qua ngày khác nghĩ rằng Kay

dã chết rồi. Em hỏi thăm mặt trời, hỏi đàn chim, hỏi dòng sông xem Kay đi

đâu? Kay đã chết chưa? Tất cả đều trả lời không thấy Kay đâu nhưng tin là

Kay chưa chết.

Giéc-đa xuống một con thuyền: Thuyền dưa em trôi dạt vào vườn bà

lão nhân hậu, biết nhiều phép lạ. Bà lão có một vườn hoa có rất nhiều hoa.

Giéc-da nhìn thấy cây hoa hồng bỗng nhớ Kay, em khóc lên nức nở. Bà lão

an ủi em, lấy lược vàng chải tóc cho em để em quên nỗi buồn, dùng phép lạ

bắt những bông hồng chui xuống đất để em quên những kỷ niệm về Kay. Bà

lão muốn em ở lại với bà. Hàng ngày, Giéc-đa trò chuyện với các loài hoa

trong vườn. Hoa nào cũng kể về cuộc đời mình. Giéc-đa buồn quá và khóc.

Nước mắt em làm ướt đất, làm cho một cây trồng lại mọc lên. Hoa hồng cho

Giéc-đa biết là Kaỵ vẫn còn sống vì dưới lòng đất không có Kay. Thế lả Giéc-

đa lại quyết tâm lên đường.

Chuyện thứ tư

Hoàng tử và công chúa

Giéc-đa gặp một chú quạ, em kể mọi chuyện của mình cho quạ nghe.

Quạ bảo có thể tìm thấy Kay ông cho biết Kay bây giờ đã là hoàng tử rồi. Qua

kể chuyện công chúa kén chồng và chính Kay đã lọt vào mắt xanh của nàng

và sống cùng công chúa trong hoàng cung. Quạ bàn với người mình yêu -

quạ cái - đang phục vụ trong hậu cung, giúp Giéc-đa vào gặp Kay, chàng

hoàng tử mới. Được sự giúp đỡ của quạ cái Giéc-đa được đưa đến một căn

phòng trang hoàng lộng lẫy. Em thấy hoàng tử nằm quay lưng lại. Nhìn thấy

cái gáy, em mừng rõ reo lên: Chính là Kay rồi! Hoàng tử tỉnh giấc quay lại. Em

nhận ra mình bị nhầm, Hoàng tử chỉ giống Kay ở cái gáy mà thôi. Giéc-đa òa

Page 116: Bài Giảng Văn Học Thiếu Nhi ... - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/74.VanHocThieuNhiVietNam.docx  · Web viewVĂN HỌC THIẾU NHI VIỆT NAM . BÀI GIẢNG VĂN HỌC

lên khóc. Công chúa và hoàng tử an ủi em. Em kể hết mọi chuyện vì sao vào

đây, bằng cách nào? Công chúa và hoàng tử tạo điều kiện cho em đi tìm Kay.

Họ cho em một cổ xe song mã. có đủ quần áo lương thực với một lính hộ vệ,

một tên hầu, một người đánh xe đưa Giéc-đa lên đường. Công chúa và

hoàng tử ra cổng thành tiễn đưa. Hai vợ chồng quạ bay theo mấy dặm

đường, rồi đậu lên một cây cao nhìn theo đến khi xe khuất bóng.

Chuyện thứ năm

Con gái quân cướp đường

Giéc-đa bị lũ cướp đường chặn xe: Chúng giết hết lính hộ vệ và bắt

Giéc-đa về sào huyệt. Chúng định ăn thịt Giéc-đa nhưng đứa con gái quân

cướp đường ngăn lại vì nó muốn có bạn để chơi. Tối đến, nó ngủ với Giéc-

da. Em đã kể cho nó nghe hết câu chuyện của mình. Nó cũng chẳng biết Kay

ở đâu. Thế nhưng khi nghe Giéc-da kể chuyện, con chim bồ câu của lũ cướp

lại mách cho em biết Kay đã bị bà Chúa Tuyết mang về xứ Lapôni, đó cũng

chính lả quê hương của nó. Sáng hôm sau, đứa con gái quân cướp đường

giải phóng cho bồ câu và bắt nó phải mang Giéc-da đến xứ Lapôni - giang

sơn bà Chúa Tuyết để tìm Kay. Thế là Giéc-đa phải chia tay với người bạn

mới.

Chuyện thứ sáu

Bà lão La-pô-ni và bà lão người Phần Lan

Bà lão La-pô-ni cho Giéc-đa biết: bà Chúa Tuyết đang xây dựng lâu đài

ở Phần Lan. Cần phải đi gặp bà lão người Phần Lan, nhờ bà ấy chỉ đường

cho. Giéc-da tìm đến bà lão người Phần Lan và được biết Kay đang trong lâu

đài bà Chúa Tuyết. Nhưng bà cũng cho biết, muốn cứu Kay thì phải lấy được

mảnh gương vỡ trong mắt và trong tim Kay, nếu không Kay sẽ không trở lại

cuộc sống bình thường. Kay vẫn bị mê hoặc và sống mãn nguyện trong lâu

đài băng giá của bà Chúa Tuyết. Giéc-đa lại ra đi và đọc kinh cầu nguyện. Em

Page 117: Bài Giảng Văn Học Thiếu Nhi ... - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/74.VanHocThieuNhiVietNam.docx  · Web viewVĂN HỌC THIẾU NHI VIỆT NAM . BÀI GIẢNG VĂN HỌC

thấy rõ hơi thở của em bốc lên và biên thành những tiên đồng ngày càng

đông, giúp em chống cái rét và rút ngắn quãng đường đến lâu đài bà Chúa

Tuyết.

Chuyện thu bay

Việc xảy ra trong lậu đài bà chúa Tuyết

Giéc-đa gặp được Kạy trong lâu đài của bà Chúa Tuyết: Em mừng rỡ,

ôm chặt lấy Kay. Nhưng Kay vẫn đứng trơ ra, lạnh lùng, vô cảm. Giéc-đa òa

lên khóc. Những giọt nước mắt yêu thương nóng hổi của Giéc-đa rơi lên

ngực và thấm vào tận tim Kay. Nước mắt làm tan nước đá và đánh tan mảnh

gương quỷ trong tim Kay. Kay nhìn Giéc-đa và hát lên bài hát trước đây hai

em thường hát. Bỗng nhiên Kay ứa nước mắt, rồi em khóc nức nở, khiến cho

mảnh gương trong mắt trôi ra ngoài. Kay nhận ra Giéc-đa và say sưa nhìn

người bạn đã cứu mình trở lại bình thường như xưa. Hai em thoát khỏi lâu

đài bà Chúa Tuyết. Trên đường về, họ gặp lại những người bạn cũ để cám

ơn và từ biệt để về quê hương.

2.2. Phân tích tác phẩm

Truyện cho ta thấy xã hội còn tồn tại cái xấu, cái ác. Muốn chiến thắng

phải có sức mạnh của lòng yêu thương. Đọc Bà Chúa Tuyết, Pauxtôpxki đã

phát biểu: “Lòng tốt kỳ diệu ngọt ngào hương của con người, giống như

hương thơm của hoa bay ra từ những trang giấy của cuốn sách".

A. Giá trị nội dung

1. Ý nghĩa hiện thực của tác phẩm xã hội đang tồn tại cái ác và cái xấu

Vào giữa thế kỷ XIX, xã hội Châu Âu nói chung, Đan Mạch nói riêng

đang diễn ra quá trình tích lũy tư bản nguyên thủy và phát triển của Chủ nghĩa

tư bản. Sau Cách mạng tư sản 1789, mâu thuẫn chủ yếu là mâu thuẫn giữa

giai cấp vô sản và giai cấp tư sản. Số phận công nhân và nông dân ngày

thêm khốn khổ. Giai cấp tư sản thống trị ngày càng tàn nhẫn, độc ác. Xã hội

Page 118: Bài Giảng Văn Học Thiếu Nhi ... - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/74.VanHocThieuNhiVietNam.docx  · Web viewVĂN HỌC THIẾU NHI VIỆT NAM . BÀI GIẢNG VĂN HỌC

tư sản với thế lực của đồng tiền đang hủy hoại mọi giá trị đạo đức. Đó là cơ

sở xã hội giúp ta tìm hiểu giá trị hiện thực của tác phẩm.

a. Cái xấu, cái ác dang tồn tại khắp nơi:

Trong truyện Bà Chúa Tuyết, tấm gương của tên quỷ là sự phủ nhận

sự thật và chân lý, là hiện thân của cái xấu và cái ác. Cái gì soi vào tấm

gương đều bị méo mó đi. Cái tốt, cái đẹp trở thành cái xấu. Còn cái xấu lại

làm cho mọi người khiếp sợ. Nguy hại thay, tấm gương lại bị vỡ ra thành

muôn mảnh nhỏ, lơ lửng khắp không trung, sẵn sàng bắn vào mắt và tim mọi

người.

b. Cái xấu, cái ác có sự phá hoại ghê gớm, làm cho con người tha hóa

triệt để

Mảnh vụn của tấm gương bắn vào mắt ai, người đó có cái nhìn sai

lệch. Con người không còn ai tốt, ai cũng đáng sợ và ghê tởm. Nếu mảnh vụn

tấm gương bắn vào tim ai, người đó trở thành lạnh lùng, dửng dưng với mọi

buồn vui nhân thế. Trái tim của họ trở nên băng giá. Con người khi không còn

lý trí để nhận thức đúng đắn hiện thực khách quan, khi không còn cảm xúc đề

yêu thương, căm giận trước những hiện tượng khác nhau của cuộc đời thì

con người chỉ sống bằng bản năng sinh vật mù quáng.

Đọc Bà thừa Tuyết, ta như nghe lời nhắn nhủ nhỏ nhẹ nhưng cương

quyết, dứt khoát của Andersen rằng: Loài người phải cảnh giác với lũ quỷ vì

chứng đã "sáng chế" ra một tấm gương kỳ lạ, độc ác, làm cho loài người bị

mê hoặc và trở lại tình trạng thú vật thảm thương.

2. Ý nghĩa nhân đạo:

Ánh sáng của chân lý, sức mạnh của tình thương có khả năng chế ngự

và chiến thắng cái xấu, cái ác, phản ánh cái xấu, cái ác một cách tinh tế sâu

xa cũng đã làm cho con người xa lánh, cảnh giác với cái xấu cái ác điều đó

cũng bao hàm ý nghĩa nhân đạo.

Thế nhưng trong truyện Bà Chúa Tuyết, Andersen còn bộc lộ khá rõ

thái độ của mình, tinh thần chiến đấu của mình đối với cái xấu, cái ác.

Page 119: Bài Giảng Văn Học Thiếu Nhi ... - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/74.VanHocThieuNhiVietNam.docx  · Web viewVĂN HỌC THIẾU NHI VIỆT NAM . BÀI GIẢNG VĂN HỌC

a. Khẳng định ánh sáng chân lý

Với tấm gương kỳ lạ, lũ quỷ đã chế giễu cả thế gian. Chúng lại còn

nhạo báng cả chúa trời, các tiên đồng. Chúng mang tấm gương lên trời

nhưng thất bại. ánh sáng cửa chân lý dã đẩy lùi tội ác. Tấm gương bị méo

mó, rúm ró và cuối cùng tan vỡ ra từng mảnh. Nếu cõi thiên đường là niềm

tin, là chân lý của loài người thì cái xấu, cái ác không thể tồn tại được. Như

vậy dù cái xấu, cái ác tồn tại khắp nơi trong thế gian, nhưng còn có một vùng

đất cấm địa mà cái xấu, cái ác không thể len chân dược. Đó là một xã hội lý

tưởng trong đó lương tri và thiện cảm con người dược đề cao và tôn trọng.

b. Khẳng định tình yêu thương của con người có thể chiến thắng cái

xấu cái ác:

Đây là ý nghĩa nhân dạo tích cực, cụ thể trực tiếp của truyện Bà Chúa

Tuyết. Lòng tốt kỳ diệu của Giéc-đa đã cho em sức mạnh to lớn, đem lại cho

em niềm tin mãnh liệt để em có thể đi tìm Kay, người bạn yêu mến thời thơ

ấu. Những câu hỏi: Kay sống hay chết? Kạy ở đâu? Bây giở Kay ra sao?

Những câu hỏi ấy đã thúc dục em lên đường đi tìm Kay.

Trên lộ trình dài dằng dặc và vô vọng, Giéc-đa chỉ có ánh sáng của

niềm tin, ngọn lửa tình thương soi đường dẫn lối. Giéc-đa đã vượt lên bao

gian khổ, đã cảm hóa dược bao nhiêu người và vật... Cuối cùng em đã được

gặp Kay trong lâu đài bà Chúa Tuyết. Nhưng Kay bây giở là tù nhân tự

nguyện của bà Chúa Tuyết vì Kay đã có cái nhìn khác trái tim khác. Đó là khó

khăn lớn nhất trong cuộc hành trình tìm kiếm Kay của Giéc-đa. Phải đốt lên

một ánh sáng mới trong trí tuệ và tâm hồn Kay để Kay có thể trở về với bản

chất cội rễ ban đầu. Đây là một khó khăn rất lớn tưởng chừng không thể vượt

qua, không thể giải quyết nổi. Nhưng bằng sức mạnh của tình thương, những

giọt nước mắt nóng bỏng của Giéc-đa đã làm chảy tan băng giá, thấm vào

ngực Kay, vào tim Kay, làm tiêu tan mảnh gương độc ác trong trái tim Kay.

Kay nhìn thấy Giéc-đa và nhớ tới bài hát hoa hồng năm xưa. Kay xúc động;

luyến tiếc một quá khứ êm đềm. Em khóc, nước mắt của em đã làm trôi mảnh

gương vỡ trong mắt. Kay quay lại nhìn Giéc-đa với cái nhìn đẹp đẽ, ấm áp

Page 120: Bài Giảng Văn Học Thiếu Nhi ... - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/74.VanHocThieuNhiVietNam.docx  · Web viewVĂN HỌC THIẾU NHI VIỆT NAM . BÀI GIẢNG VĂN HỌC

của tình bạn. Cảm xúc chân thành của Giéc-đa đã giúp Kay trở về với chính

mình. Sức mạnh của tình yêu thương đã chiến thắng cái xấu, cái ác.

Tóm lại, Bà chúa Tuyết đã mô tả một xã hội, trong đó, cái xấu, cái ác

đang âm thầm tác oai, tác quái, phá hoại triệt để những giá trị nhân bản của

con người. Mặt khác, truyện cũng bộc lộ một thái độ tích cực chống lại cái

xấu, cái ác, đề cao vũ khí tình thương.

B. Giá trị nghệ thuật

Truyện có kết cấu đơn giản, dễ hiểu, nhưng khá hấp dẫn. Kết cấu

truyện tập trung phản ánh tình cảm yêu thương chân thành giữa con người và

con người. Chính tình yêu thương đó đã làm nên chất thơ của tác phẩm, nối

kết các sự kiện lại với nhau, có sức lắng đọng trong lòng người đọc.

Bà chúa Tuyết được xây dựng bằng nhiều chi tiết nghệ thuật đặc sắc,

phản ánh một cách cụ thể sinh động sự lộng hành của cái xấu cái ác (chi tiết

quỷ mang gương lên trời; vô số mảnh vụn trong không trung), và phản ánh sự

phá hoại ghê gớm của cái xấu, cái ác đối với con người (mảnh vỡ bắn vào

mắt, mảnh vỡ bắn vào tim).

Hình tượng Giéc-đa, tiêu biểu cho tình cảm yêu thương, vô tư, hồn

nhiên, nồng hậu của con người được miêu tả bằng những chi tiết độc đáo (khi

gặp Kay ở lâu đài bà Chúa Tuyết, em đã ôm chầm lấy Kay và khóc Nước mắt

của em rỏ xuống ngực, thấm vào tim Kay làm tan cả mảnh gương vỡ...).

Giá trị của hình tượng, của kết cấu, của các chi tiết nghệ thuật đã tô

đậm và nâng cao giá trị hiện thực và nhân đạo của tác phẩm. Giữa nội dung

và hình thức có sự quyện hòa với nhau, tác động lẫn nhau, biểu hiện cho

nhau. Làm cho ta không phân biệt đâu là nội dung, đâu là hình thức của

truyện nữa.

HƯỚNG DẪN HỌC TẬP

I. Câu hỏi

Page 121: Bài Giảng Văn Học Thiếu Nhi ... - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/74.VanHocThieuNhiVietNam.docx  · Web viewVĂN HỌC THIẾU NHI VIỆT NAM . BÀI GIẢNG VĂN HỌC

1. Đặc điểm nội dung của các tác phẩm văn học nước ngoài trong

chương trình tiếng Việt tiểu học.

2. Nét tương đồng về nội dung giữa văn học thiếu nhi Việt Nam và văn

học nước ngoài trong chương trình tiểu học.

II. Bài tập

1. Phân tích tác phẩm Cô bé bán diêm của Andersen.

2. Phân tích tác phẩm Người ăn xin của Ivan Tuốc-ghê-nép.

3. ý thức nhân văn của Andersen khi viết cho trẻ em (Bài tập nghiên

cứu)

III. Tài liệu tham khảo

1. Văn học - Tập II - Giáo trình dùng trong các trường Sư phạm đào tạo

giáo viên tiểu học.

2. H.C. Andersen trên đất Việt - Kỉ yếu hội thảo - ĐHQG HN.1996

3. Truyện kể Andersen tập I, II. NXB Văn học, 1996

4. Bộ sách tiếng Việt tiểu học - NXBGD - HN.1994

MỤC LỤCPhần thứ nhất

DẪN LUẬN

I. Về khái niệm văn học thiếu nhi

II. Một số đặc trưng cơ bản của văn học thiếu nhi

Phần thứ hai VĂN HỌC THIẾU NHI VIỆT NAM

A. Văn học dân gian cho thiếu nhi

I. Khái niệm về văn học dân gian

II. Nhũng đặc trưng cơ bản của văn học dân gian

Page 122: Bài Giảng Văn Học Thiếu Nhi ... - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/74.VanHocThieuNhiVietNam.docx  · Web viewVĂN HỌC THIẾU NHI VIỆT NAM . BÀI GIẢNG VĂN HỌC

III. Nhũng giá trị xã hội của văn học dân gian

IV. văn học dân gian với trẻ em

V. Các thề loại văn học dân gian Việt Nam

Bài 1: Thần thoại

I. Khái niệm thần thoại

II. Nội dung - ý nghía của thần thoại

III. Định huớng phân tích thần thoại

Bài 2: Truyền thuyết

I. Khái niệm về truyền thuyết

II. Nội dung - ý nghĩa của truyền thuyết

III. Định huớng phân tích truyền thuyết

Bài 3: Truyện cổ tích

I. Khái niệm về truyện cổ tích

II. Nội dung, ý nghĩa truyện cổ tích

III. Huớng dẫn phân tích truyện cổ tích

Bài 4: Truyện ngụ ngôn

I. Khái niệm về truyện ngụ ngôn

II. Nội dung, ý nghĩa của truyện ngụ ngôn

III. Định huớng về phuơng pháp phân tích truyện ngụ ngôn

Bài 5: Truyện cười

I. Khái niệm truyện cười

II. Nội dung ý nghĩa của truyện cuời

II. Định hướng phân tích truyện cuời

Bài 6: Tục ngữ

Page 123: Bài Giảng Văn Học Thiếu Nhi ... - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/74.VanHocThieuNhiVietNam.docx  · Web viewVĂN HỌC THIẾU NHI VIỆT NAM . BÀI GIẢNG VĂN HỌC

I. Khái niệm về tục ngữ

II. Một số nội dung chinh trong các loại tục ngũ

III. Định hướng về phương pháp phân tích tục ngũ

Bài 7: Câu đố

I. khái niệm về câu đố

II. định huớng về phuơng pháp phân tích câu đố

Bài 8: Ca dao

I. Khái niệm ca dao

II. Hệ đề tài và chủ đề phổ biến trong ca dao

III. Định huớng phân tích ca dao

Bài 9: Đồng dao

I. Khái niệm đồng dao

II. Những đặc trưng cơ bản của đồng dao cổ truyền

III. Dạy học đồng dao ở bậc tiểu học

B. Văn học viết cho thiếu nhi

I. Khái quát văn học viết cho thiếu nhi

II. Truyện lịch sử viết cho thiếu nhi của Nguyễn Huy Tưởng

III. Truyện đồng thoại của Tô Hoài

IV. Đoàn Giỏi với “Đất rừng phuơng nam”?

V. Thơ văn Võ Quảng

C Văn học do thiếu nhi viết (thơ Trần Đăng Khoa)

I. Vài nét về tác giả và tác phẩm

II. Thơ Trần Đăng Khoa

III. Tâm hồn trẻ thơ của Khoa được bộc lộ qua cách nhìn, Cách tả cảnh

vật

Page 124: Bài Giảng Văn Học Thiếu Nhi ... - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/74.VanHocThieuNhiVietNam.docx  · Web viewVĂN HỌC THIẾU NHI VIỆT NAM . BÀI GIẢNG VĂN HỌC

IV. Tình đời, tình người trong thơ Trần Đăng Khoa

V. Đặc điểm nghệ thuật trong thơ Trần Đăng Khoa

Phần thứ ba VĂN HỌC NƯỚC NGOÀI TRONG CHƯƠNG TRÌNH TIẾNG VIỆT TIỂU HỌC

I. Nhũng giá trị nội dung của văn học nuớc ngoài trong chương trình

văn học

II. Truyện kể H.C Andersen

---//---

ĐẠI HỌC HUẾ - TT. ĐÀO TẠO TỪ XA

VĂN HỌC THIẾU NHI VIỆT NAM

Tác giả:

LÊ THỊ HOÀI NAM

Nhà Xuất bản Đà Nẵng

Chịu trách nhiệm xuất bản:

Giám đốc: VÕ VĂN ĐÁNG

Tổng biên tập: NGUYỄN ĐỨC HÙNG

Biên tập: NGUYỄN KIM HUY

Bìa và trình bày: THU HƯƠNG

QĐXB số 601/QĐXB Nhà Xuất bản Đà Nẵng cấp ngày 25 tháng 10 năm

2004. In xong và nộp lưu chiểu tháng 11 năm 2004