Upload
vunhu
View
224
Download
6
Embed Size (px)
Citation preview
VĂN HỌC THIẾU NHI VIỆT NAM BÀI GIẢNG
VĂN HỌC THIẾU NHI VIỆT NAM
Tác giả: Lê Thị Hoài Nam
Phần thứ nhất: DẪN LUẬN
I. VỀ KHÁI NIỆM VĂN HỌC THIẾU NHI1. Ở Việt Nam cũng như nhiều nước trên thế giới từ lâu đã có một bộ
phận sáng tác văn học dành riêng cho thiếu nhi. "Theo nghĩa hẹp, văn học
thiếu nhi gồm những tác phẩm văn học hoặc phổ cập khoa học dành riêng
cho thiếu nhi. Tuy vậy, khái niệm văn học thiếu nhi cũng thường bao gồm một
phạm vi rộng rãi những tác phẩm văn học thông thường (cho người lớn) đã đi
vào phạm vi đọc của thiếu nhi" (Từ điển Thuật ngữ Văn học - Nxb GD- 1992).
2. Nhìn chung, những cuốn sách đầu tiên nằm trong phạm trù văn học
thiếu nhi là những cuốn sách có nội dung giáo khoa và đạo lý: sách học vần,
sách bách khoa, sách về quy tắc ứng xử trong xã hội, xuất hiện tại châu Âu ở
thế kỉ XIV - XVI. Tính giáo huấn được coi là một trong đặc điểm quan trọng
của văn học thiếu nhi. Bởi vậy, cho đến giữa thế kỉ XIX, những tác phẩm viết
dành riêng cho thiếu nhi vẫn nằm ngoài phạm vi của văn học. Trong khi đó,
những tác phẩm văn học viết cho người lớn lại đi vào phạm vi đọc của trẻ em,
như: Đôn Kihôtê của M. Xecvantex. Robinxơn Cruxô của Dêphô, Gulivơ du ký
của Gi.Xuypt, Xpactac của R.Gôvahihôli. Túp lều bác Tôm của Bi chơ Xuân v
v. Ngoài ra, những loại truyện viết theo các mô típ Folklore (truyền thuyết, cổ
tích...) ; một số tiểu thuyết và truyện thuộc thể loại phiêu lưu cũng rất được
các em thích thú đón nhận.
Ở thế kỉ XX, văn học thiếu nhi phát triển khá đa dạng và pha tạp. Tại
nhiều nước phát triển, nó ít nhiều còn bị chi phối bởi xu hướng thương mại, bị
pha trộn bởi sự bành trướng của văn học đại chúng.
Ở việt Nam, đến đầu thế kỉ XX mới xuất hiện văn học thiếu nhi. Đến
nay đã có sự phát triển, phân nhánh của thơ thiếu nhi (bên cạnh thơ người
lớn), hoặc trong văn xuôi cho thiếu nhi đã hình thành các loại: Truyện sinh
hoạt, truyện cổ tích (sáng tác hiện đại theo lối cổ tích), truyện loài vật, truyện
lịch sử..v..v...
II. MỘT SỐ ĐẶC TRƯNG CƠ BẢN CỦA VĂN HỌC THIẾU NHI Văn học thiếu nhi là một bộ phận của văn học, nên nó cũng phải thực
hiện các chức năng của văn học. Chức năng của văn học là một khái niệm
mở, có nội dung phong phú. Nó không tồn tại tách rời mà gắn bó chặt chẽ với
nhau trong mối quan hệ chuyển hóa lẫn nhau. Bên cạnh những chức năng
đó, văn học thiếu nhi còn có những chức năng riêng mang tính đặc thù mà
thiếu nó hẳn văn học thiếu nhi sẽ không tồn tại trong sự phân biệt rạch ròi với
văn học viết cho người lớn. Những chức năng này hình thành bởi nhu cầu
giáo dục và khơi gợi năng lực tưởng tượng, sáng tạo ở lứa tuổi thiếu nhi. Tài
liệu này chỉ trình bày một số đặc trưng cơ bản nhất của loại hình nghệ thuật
đặc thù này.
1. Tính giáo dục
Văn học thiếu nhi có một vai trò to lớn trong việc giáo dục toàn diện về
đạo đức, trí tuệ, tình cảm, thẩm mỹ cho các em. Có thể nói, tính giáo dục là
một đặc điểm nổi bật mang tính sống còn của văn học thiếu nhi. Chính chức
năng này đã đem đến cho văn học thiếu nhi một sức mạnh có tác động cải
tạo cách nhìn, cách nghĩ và giáo dục đạo đức cho các em. Tô Hoài, một nhà
văn có nhiều kinh nghiệm viết cho thiếu nhi cũng đã khẳng định tầm quan
trọng của chức năng này: "Nội dung một tác phẩm văn học viết cho thiếu nhi
bao giờ cũng quán triệt vấn đề xây dựng đức tính con người. Nói thì thừa,
cần nhắc lại và thật giản dị, một tác phẩm chân chính có giá trị đối với tuổi thơ
là một tác phẩm tham dự mạnh mẽ vào sự nghiệp nên người của bạn đọc ấy"
Để thực hiện chức năng giáo dục, tác phẩm văn học thiếu nhi không
phải hiện ra như một người thầy quen thuyết giáo mà là một người bạn đồng
hành, người đối thoại với các em. Bằng một ngôn ngữ giàu cảm xúc và hình
ảnh, bằng giọng văn dí dỏm, thấm đẫm chất thơ, tác phẩm văn học thiếu nhi
ngấm sâu vào thế giới cảm xúc của trẻ thơ, nhen lên trong trái tim non trẻ của
các em những tình cảm trong sáng, nhân hậu, làm cho các em biết tôn trọng,
yêu thương, biết điều hay lẽ phải, biết tin yêu vào cuộc đời, khao khát khám
phá hiểu biết, ước mơ đi xa hơn chứ không sớm lụi tàn vì hoài nghi sợ hãi.
Và bằng cách đó văn học thiếu nhi đã chuyển quá trình giáo dục thành tự giáo
dục.
Cũng cần lưu ý, để thực hiện chức năng này, văn học thiếu nhi cũng có
thể viết về cái xấu, cái đáng phê phán. Nhưng chỉ nên dừng lại ở phê phán
nhẹ nhàng, có pha lẫn sự dí dỏm, hài hước. Ở đây, dường như giữa chức
năng giáo dục và giải trí vui chơi được hòa làm một. Không nên viết về cái
xấu-cái ác một cách nặng nề đề tránh làm tổn thương về sự bình yên trong
sáng trong tâm hồn của các em,đặc biệt là làm tổn thương đến niềm tin đầu
đời của các em. Cái mà văn học thiếu nhi mang lại cho trẻ thơ là cái đẹp, cái
cao quý, cái chân, cái thiện. Ma-ka-ren-cô, nhà sư phạm Nga lỗi lạc cũng đã
từng lưu ý: "Chúng tạ cần lấy nhân loại hoàn chỉnh để bồi dưỡng cho con em
chúng ta. Không nên để cho các em có những nhận thức không trong sáng,
không ổn định. Sự đồng tình của độc giả cần phải nghiêng vê phía nhân vật
chính diện một cách không do dự".
Muốn làm được như vậy, thì sự trong sáng, nhân hậu ấy phải bắt đầu
từ người cầm bút vì "con đường ngắn nhất là con đường đi từ trái tim đến trái
tim".
2. Kích thích, khơi gợi trí tưởng tượng sáng tạo
Tâm lý lứa tuổi thiếu nhi đóng một vai trò quan trọng trong việc tạo nên
sự khác biệt giữa văn học thiếu nhi và văn học người lớn. Ngây thơ, hồn
nhiên, trong sáng, tràn đầy cảm xúc và giàu trí tưởng tượng là những đặc
điểm nổi bật của lứa tuổi này. Đối với các em, thế giới được phản ánh trong
tác phẩm, dường như đều có tri giác. Các em đọc sách như là những cuộc trò
chuyện với cỏ cây hoa lá chim muông và hình dung thật hồn nhiên rằng, đó là
những cuộc đối thoại cảm thông thực sự. Chính sự hồn nhiên và khả năng
tưởng tượng vô cùng phong phú đã làm cho các em dễ hòa đồng với các
nhân vật. Các em hoàn toàn tin rằng, con ốc sên có thể trở thành nàng công
chúa nhan sắc tuyệt trần, con cóc xấu xí có thể biến thành vị hoàng tử khôi
ngô, tuấn tú; đứa trẻ ba năm không biết nói cười, không biết, đi đứng bỗng
vươn vai trở thành tráng sĩ, dẹp giặc cứu nước..y...v.... Khả năng tưởng
tượng của các em là vô tận cho nên sức hấp dẫn của các tác phẩm văn học
thiếu nhi đối với các em trước hết là ở cái chất huyền ảo, tưởng tượng của
nó. Điều đáng chú ý là, dẫu có huyền ảo, kỳ diệu đến đâu, văn học thiếu nhi
vẫn không tạo cho các em cảm giác xa lạ, mơ ước viễn vông, thoát lỵ thực tại
mà chỉ gợi lên những nét lãng mạn tích cực cần có, hướng các em tới một
tương lai, một cuộc sống tốt đẹp, nhen lên trong tâm hồn các em niềm hy
vọng vào những ước mơ, khám phá. Đó cũng là cách nhìn nhận biện chứng
mang lại sức hấp dẫn cho tác phẩm.
Chính vì vậy mà tưởng tượng là một yếu tố không thể thiếu, có vai trò
quan trọng trong quá trình sáng tạo của người nghệ sĩ viết cho thiếu nhi
Trong cuốn "Thi pháp nói về cái ảo" bàn về nghệ thuật viết truyện cho thiếu
nhi của nhà văn Ý: Gian ni Rodari, ông viết "Tưởng tượng, trong hoạt động
bình thường đã tạo ra các thủ pháp mà đến lượt nó, những thủ pháp này làm
cho tưởng tượng hoạt động mạnh trong sự va chạm giữa các từ, trong sự đối
lập giữa các yếu tố thực và ảo và do đó tạo ra sự hứng thú cho các em".
Hiện nay, nhiều cây bút viết cho thiếu nhi còn thiên về cái thật, cái trông
thấy được, cái phải giải thích được bằng lý lẽ. Trong khi đó, sự cảm nhận của
các em không phải lúc nào cũng nghiêng về lý lẽ.
Để có một tác phẩm văn học viết cho thiếu nhi vừa giản dị, trong sáng
lại vừa hấp dẫn,khơi gợi được trí tưởng tượng của các em là một thử thách
đối với người cầm bút. Nó đòi hỏi người nghệ sĩ phải biết hòa nhập vào đời
sống của các em trong tình bè bạn và được các em chấp nhận về mặt tình
cảm. Đó là một công việc khó khăn nhưng vô cùng hấp dẫn cho những ai
muốn kéo dài cuộc đối thoại với tuổi thơ.
HƯỚNG DẪN HỌC TẬP
I. Câu hỏi
1. Nêu khái niệm về Văn học Thiếu nhi
2. Những đặc trưng cơ bản của văn học thiếu nhi. Tai sao nói, tính giáo
dục là một đặc điểm quan trọng của văn học thiếu nhi?
II. Bài tập
1. Trí tưởng tượng kỳ diệu của Trần Đăng Khoa được thể hiện qua bài
ò ó o... (Sách Tiếng Việt 3 - Tập 1).
2. Tình yêu quê hương đất nước được thể hiện trong chương trình
truyện kể ở bậc Tiểu học.
III. Tu lịch tham khảo
1. Từ điển thuật ngữ văn học (Lê Bá Hán-Trần Đình Sử-Nguyễn Khắc
Phi) Nxb Giáo dục, 1992
2. Tạp chí Văn học, 5 -1993
3. Bộ sách Giáo khoa tiếng Việt Tiểu học, Nxb Giáo dục, 1994
Phần thứ hai: VĂN HỌC THIẾU NHI VIỆT NAM
Văn học thiếu nhi Việt Nam bao gồm ba bộ phận cấu thành: văn học
dân gian cho thiếu nhi, văn học viết cho thiếu nhi và văn học do thiếu nhi viết.
A - VĂN HỌC DÂN GIAN CHO THIẾU NHI I. KHÁI NIỆM VỀ VĂN HỌC DÂN GIAN
Văn học dân gian còn gọi là văn chương (hay Văn học bình dân, văn
học truyền miệng, văn chương truyền miệng hay truyền khẩu). Theo Từ điển
thuật ngữ văn học - Nxb GD - 1992 thì "Văn học dân gian là toàn bộ những
sáng tác nghệ thuật ngôn từ của nhân dân". Ở nước ta cũng như nhiều nước
khác, thuật ngữ văn học dân gian được dùng với nhiều nghĩa rộng hẹp khác
nhau.
II. NHŨNG ĐẶC TRƯNG CƠ BẢN CỦA VĂN HỌC DÂN GIAN
Văn học dân gian có nhiều đặc điềm và thuộc tính quan trọng đáng chú
ý như: Tính truyền miệng, tính nguyên hợp, tính tập thể, tính vô danh, tính dị
bản, tính truyền thống, tính địa phương, tính quốc tế v v tài liệu này chỉ trình
bày một cách khái quát những đặc trưng cơ bản của văn học dân gian.
1. Văn học dân gian là một loại hình nghệ thuật mang tính tập thể
Bàn về tính tập thể trong quá trình sáng tạo văn học dân gian, nhà
Folklore học Nga V.E.Guxép quan niệm: "Sáng tác tập thể là một hành động
sáng tạo diễn ra nhiều lần, được thực hiện bởi một số đông hoặc nhiều, hoặc
ít những cá nhân có tài làm thành tập thể".
Theo quan niệm trên đây, tính tập thể trước hết cần được xem là một
đặc trưng của quá trình sáng tạo văn học dân gian. Điều này được thể hiện
một cách tự nhiên, liên tục trong một thời gian dài và không gian rộng lớn. Nó
nắm ngay trong cả quá trình sáng tác, lưu truyền và diễn xướng của văn học
dân gian. Đây là điểm phân biệt văn học dân gian như là sản phẩm của sáng
tác tập thể với văn học viết là sản phẩm của sáng tác cá nhân. Dĩ nhiên, nói
đến tính tập thể, không có nghĩa là phủ nhận vai trò sáng tạo của cá nhân các
nghệ sĩ dân gian. Mỗi tác phẩm văn học dân gian khi mới ra đời bao giờ cũng
là sản phẩm của một cá nhân. Nhưng khi tác phẩm được tập thể tiếp nhận thì
vai trò của cá nhân bị lu mờ, dần dần trở thành vô danh, thành tài sản chung
của tập thể. Và tập thể có thể trở thành người cùng sáng tác, bổ sung, sửa
chữa theo những chiều hướng khác nhau.
Tính tập thể còn được xem là một đặc trưng thẩm mỹ của văn học dân
gian. Đối tượng thẩm mỹ của sáng tác dân gian là toàn bộ những gì có liên
quan đến cộng đồng, đến tập thể. Nó tái tạo, phản ánh hiện thực và tâm tư
tình cảm của con người theo quan điểm lý tưởng, thị hiếu thẩm mỹ của tập
thể. Cái riêng, cái cá thể được thể hiện qua cái chung và tìm thấy sự đồng
cảm trong cái chung của tập thể
2. Văn học dân gian - một loại hình nghệ thuật mang tính tổng hợp
Văn học dân gian là một loại hình nghệ thuật ngôn từ của nhân dân.
Nhưng văn học dân gian được tạo thành không phải chỉ bởi yếu tố ngôn từ.
Ngay từ khi mới xuất hiện, văn học dân gian đã có sự hòa lẫn với những hình
thái khác nhau của ý thức xã hội. Về sau, dù đã có nhiều biến đổi, văn học
dân gian vẫn chứa đựng nhiều yếu tố của tính tổng hợp. Đó là sự kết hợp của
nghệ thuật ngôn từ với các loại hình nghệ thuật dân gian khác như âm nhạc,
ca hát, nhảy múa, nghệ thuật diễn xuất. Ở một vài thể loại nó còn gắn với trò
chơi và các nghi lễ.
Tính tổng hợp của văn học dân gian còn được biểu hiện ở sự kết hợp
và hòa lẫn với chức năng thực hành. Nó không chỉ làm thỏa mãn nhu cầu
sáng tạo và thưởng thức nghệ thuật mà còn là một bộ "Bách khoa toàn thư
của mấy nghìn năm, bao gồm các mặt sinh hoạt, phong tục tập quán, lễ giáo,
kinh nghiệm sống về vật chất và tinh thần"
Sự kết hợp giữa nghệ thuật ngôn từ với nhiều loại hình nghệ thuật khác
ở văn học dân gian và sự hòa lẫn với chức năng thực hành và các chức năng
văn hóa khác của văn học dân gian đã làm cho tính tổng hợp trở thành một
trong những đặc trưng cơ bản của văn học dân gian.
3. Văn học dân gian - một loại hình nghệ thuật mang tính truyền miệng
Văn học dân gian luôn luôn có mối quan hệ mật thiết với mọi sinh hoạt
đời sống của nhân dân. Bằng các phương thức nói, kể, hát, diễn... nhân dân
ta đã tạo nên các tác phẩm ngôn từ để giải bày, trao đổi, giao lưu tư tưởng,
tình cảm với nhau. Vì thế, văn học dân gian có đời sống của một tác phẩm
biểu diễn.
Sống đời sống của một tác phẩm biểu diễn, cho nên truyền miệng là
phương thức chủ yếu để sáng tác, phổ biến và lưu giữ. Khi chưa có chữ viết,
truyền miệng là phương thức duy nhất để thỏa mãn nhu cầu sáng tạo và
hưởng thụ nghệ thuật của nhân dân. Song khi chữ viết đã hình thành, nhân
dân vẫn sử dụng phương thức truyền miệng là chủ yếu trong sáng tác, diễn
xướng và lưu truyền văn học dân gian.
Bên cạnh những yếu tố tương đối bền vững được kế thừa và phát huy, tính
truyền miệng và tính tập thể đã làm cho văn học dân gian biến đổi không
ngừng tạo nên hàng loạt dị bản. Đây là một trong những yếu tố quan trọng
làm cho văn học dân gian có thể phản ánh kịp thời, đầy đủ thực tiễn sinh
động của đời sống nhân dân các địa phương và giúp cho việc diễn đạt tư
tưởng, tình cảm của nhân dân có hiệu quả nhất.
Tính truyền miệng được nhiều người coi là thuộc tính quan trọng nhất
và có quan hệ nhiều nhất với các thuộc tính và đặc điểm khác của văn học
dân gian.
III. NHỮNG GIÁ TRỊ XÃ HỘI CỦA VĂN HỌC DÂN GIAN
Văn học dân gian có giá trị xã hội to lớn. Người ta thường phân giá trị
ấy thành ba mặt chính: giá trị nhận thức, giá trị giáo dục và giá trị thẩm mỹ.
1. Giá trị nhận thức
Là một loại hình nghệ thuật gắn bó với mọi mặt hoạt động của đời sống
nhân dân, văn học dân gian là sự kết hợp rực rỡ của trí tuệ, tài năng, tư
tưởng, tình cảm của nhân dân qua bao thế hệ. :Nó đem lại những hiểu biết
phong phú và xác thực về cuộc sống lao động, sinh hoạt gia đình và những
quan hệ xã hội của nhân dân, về phong tục tập quán, về thiên nhiên đất
nước... Nó còn đem lại những hiểu biết về đời sống tình cảm, đời sống tâm
linh, những quan niệm về nhân sinh, về thế giới quan cùng những phẩm chất
tinh thần của nhân dân...
Những hiểu biết này là vô giá, và có tác dụng to lớn trong việc "bổ
sung, đính chính, sàng lọc nghiên cứu kiến thức của chúng ta về lịch sử dân
tộc". (Nguyễn Khánh Toàn)
2. Giá trị giáo dục
Tác phẩm văn học, dân gian thuộc bất kỳ thể loại nào, bao giờ cũng
hàm chứa điều răn dạy, có tác dụng giáo dục.
Được đánh giá là "Bách khoa toàn thư của mấy nghìn năm" (Nguyên
Khánh Toàn). Văn học dân gian đã góp phần phát triển tư duy, bồi dưỡng cho
nhân dân những phẩm chất đáng quý của người lao động như: tính cần kiệm,
óc thực tiễn, sự khôn ngoan, tính nhân hậu... Nó còn khơi dậy lòng yêu quê
hương, đất nước, lòng tự hào về truyền thống- vẻ vang của dân tộc, đánh
thức niềm tin yêu con người, yêu cuộc sống, hướng họ vươn tới cái chân,
thiện, mỹ... Trong cuộc đấu tranh chống thiên tai, chống áp bức và giặc ngoại
xâm, văn học dân gian là bài ca cổ vũ, khích lệ nhân dân và là một vũ khí sắc
bén chống lại kẻ thù.
3. Giá trị thẩm mỹ
Văn học dân gian trải qua hàng nghìn năm lịch sử hình thành và phát
triển đã tạo nên các giá trị nghệ thuật đặc sắc về ngôn ngữ, hình tượng nhân
vật, kết cấu, biểu diễn... Vì vậy nó có tác dụng to lớn trong việc phát triển mỹ
cảm, tạo nguồn chất liệu ngôn từ giàu đẹp, trong sáng cho văn học viết.
Nhìn chung, trong các tác phẩm văn học dân gian, giá trị nhận thức, giá
trị giáo dục, giá trị thẩm mỹ luôn hòa quyện với nhau, nương tựa và tôn tạo
lẫn nhau.
IV. VĂN HỌC DÂN GIAN VỚI TRẺ EM
Văn học dân gian đóng vai trò quan trọng trong đời sống trẻ em, nhất là
đời sống trẻ em nông thôn xưa kia. Suốt thời thơ ấu, những khúc hát ru, vỗ về
dìu đắt đưa trẻ vào giấc ngủ, những câu nói vần vè ngộ nghĩnh được trẻ hát
lên trong lúc vui chơi; những câu chuyện cổ dân gian kỳ ảo đẹp đẽ đã làm trẻ
say mê... Những sáng tác nghệ thuật truyền miệng đó được gọi là văn học
dân gian trẻ em.
Văn học dân gian trẻ em bao gồm những sáng tác nghệ thuật miệng
của các em, những thơ ca và truyện dân gian được sáng tác với mục đích
dành cho trẻ em và một số tác phẩm văn học dân gian "dùng chung" tức là
tác phẩm văn học dân gian của người lớn nhưng đã đi vào phạm vi đọc của
trẻ em.
Văn học dân gian trẻ em khá đa dạng về thể loại. Hầu như ở thể loại
nào của văn học dân gian cũng được các em đón nhận, nhưng ở những mức
độ khác nhau, những phương diện khác nhau. Trong số đó, cổ tích là một
trong những thể loại được các em yêu thích nhất.
Trong số các tác phẩm do người lớn sáng tác cho trẻ em, hát ru là một
biệt loại có vị trí nổi bật và có sức sống lâu bền hơn cả. Chức năng sinh hoạt
của nó là ru trẻ ngủ bằng những âm điệu được ngân lên một cách tự nhiên
của tình mẫu tử. Nó là một thứ sữa nuôi dưỡng bé thơ ngay từ thuở trong nôi
không chỉ về mặt thể chất mà bao hàm cả ý nghĩa tinh thần.
Nhóm bài đồng dao cũng trở thành một thứ trò chơi quen thuộc của trẻ
suốt bao thế kỉ qua. Sức hấp dẫn của những bài đồng dao đối với trẻ không
phải là ở "Tính chất bí ẩn hầu như không thể giải thích nổi" ở nội dung của nó
mà chính là những bài ca "vô nghiệm đó đã làm thỏa mãn nhu cầu về tốc độ
và trí tưởng tượng cực kỳ phong phú của các em. Nó dẫn các em nhảy cóc từ
sự vật này sang sự vật khác thật nhanh làm cho trí tưởng tượng của các em
không dừng lại một lúc, một nơi mà có thể chuyển đổi, xê dịch, kéo dài tùy
thích.
Các em cũng rất thích câu đố, tục ngữ, những thể loại không được
sáng tác với mục đích dành cho các em. Từ thuở chưa cắp sách đến trường,
các em đã được làm quen với tục ngữ với câu đố, với ca dao qua những cuộc
chơi, những bài hát...Với câu đố, ai đoán nhanh, ai đoán trúng người đó đã
hoàn thành cuộc chơi. Đến trường, các em học tục ngữ, ca dao, câu đố với tư
cách là một hình tượng văn. Bằng liên tưởng và trí tưởng tượng, chúng làm
hiện lên trong tâm trí các em những cảnh đời người, những gì thân thuộc
trong cuộc sống xung quanh, gợi lên trong các em những tình cảm trong
sáng, đẹp đẽ.
Thần thoại, truyền thuyết là những thể loại mà người nghệ sĩ dân gian
sáng tạo nhằm thể hiện lòng thành kính, tưởng niệm của người xưa. Tuy
nhiên, có rất nhiều thần thoại, truyền thuyết gắn với thời thơ ấu hoặc kỷ niệm
về về thời thơ ấu của mỗi dân tộc. Vì vậy, nó cũng phù hợp với tâm lý tiếp
nhận của các em, được các em yêu thích. Cổ tích và ngụ ngôn luôn là những
món ăn tinh thần hợp khẩu vị của các em. Có thề nói, truyện cổ tích là loại
hình nghệ thuật dân gian phù hợp hơn cả với bản chất và tâm lý của trẻ em
với nhu cầu được giải trí, được giải tỏa những ẩn ức, được xúc động và sáng
tạo, được thấy cái tốt, lẽ công bằng cuối cùng đã chiến thắng tất cả. Xu khâm
lin xúi, nhà sư phạm lỗi lạc của Nga đã từng nói về cổ tích:"Không phải là một
chuỗi đơn giản các sự kiện kỳ ảo, đó là một thế giới trong đó trẻ em vận động,
chống chọi, đem cái thiện chí của mình ra đối kháng với cái ác".
Chính vì những lẽ đó mà văn học dân gian trẻ em đã trở thành một bộ
phận quan trọng trong nền văn học thiếu nhi chúng ta.
V. CÁC THỂ LOẠI VĂN HỌC DÂN GIAN VIỆT NAM
1. Thần thoại
2. Truyền thuyết
3. Cổ tích
4. Ngụ ngôn
5. Truyện cười
6. Câu đố
7. Ca dao
8. Đồng dao
Bài 1 - THẦN THOẠII. KHÁI NIỆM THẦN THOẠI
Thần thoại là một loại hình văn học dân gian ra đời và phát triển trong
thời kỳ công xã nguyên thủy. Nó là một hệ thống truyện kể hoang đường kỳ
ảo về các vị thần tạo lập vũ trụ, các nhân vật sáng tạo văn học, các anh hùng
dũng sĩ thời cổ đại. Chức năng chủ yếu của thần thoại là giải thích nguồn gốc
vũ trụ, các hiện tượng tự nhiên, sự ra đời cua muôn loài và sự hình thành các
tộc người.
Không phải ngay từ đầu, người nguyên thủy sáng tạo thần thoại với
mục đích làm nghệ thuật. Thần thoại nẩy sinh trước hết do nhu cầu giải thích
các hiện tượng tự nhiên và xã hội của con người nguyên thuỷ trong một năng
lực tư duy còn hạn chế với thế giới quan thần linh và những cảm nhận về sự
vật còn hết sức hồn nhiên, ngây thơ và chưa giải thích được một cách đầy
đủ, khoa học các hiện tượng tự nhiên. Họ giải thích các hiện tượng tự nhiên
bằng cách quy tất cả vào hoạt động của thế giới thần linh. Những hiện tượng
kỳ ảo hoang đường là kết quả của sự nhào nặn thế giới tự nhiên trong trí
tưởng tượng của người xưa.
Trong thần thoại, Thần là hình tượng nhân vật trung tâm. Hầu hết các vị
thần đều là hiện thân của lực lượng tự nhiên, Các vị thần tuy được các nghệ
sĩ dân gian xây dựng với vẻ khác thường nhưng vẫn mang dáng vẻ chất phát
ngây thơ của người nguyên thuỷ. Thần Trụ Trời, thần Biển, thần Sét đều ngự
trị trong thế giới tự nhiên bao quanh con người: Thần cai quản, tạo dựng và
điêu hành thế giới tự nhiên. Có một số vị thần là thủy tổ các nghề: Thần Thợ
Mộc, Thần Thợ Rèn, thần Nông...v..v...
II. NỘI DUNG - Ý NGHĨA CỦA THẦN THOẠI
1. Ý nghĩa hiện thực và khoa học của thần thoại
Thần thoại không trực tiếp phản ánh hiện thực. Thế giới trong thần
thoại không phải là thế giới trong tầm quan sát của chúng ta. Nhưng qua tấm
màn hoang đường, kỳ ảo của trí tưởng tượng, chúng ta vẫn nhận ra bóng
dáng của hiện thực.
Ý nghĩa hiện thực không tách rời khỏi ý nghĩa khoa học của thần thoại
Đó là những hạt nhân hợp lý trong sự mô tả phi lý. Người nguyên thủy trong
quá trình quan sát thực tế đã nhận thức được một cách mơ hồ và cảm tính..
Một số quy luật của tự nhiên: ngày và đêm, sống và chết, sự thay đổi của bốn
mùa, sự tồn tại của thế giới vật chất v v Người xưa giải thích rằng: sở dĩ có
trời, đất, núi, sông là do thần Trụ Trời tách đôi khối hỗn nang, dậy một nửa
lên cao; nửa còn lại thần ra sức đào bới để đắp cột chống trời, tạo nên địa
hình như ngày nay. Rõ ràng, thần Trụ Trời không hóa phép để tạo ra vũ trụ,
núi sông, mà ngược lại, khối hỗn mang không biết có từ bao giờ. Đó là yếu tố
duy vật trong cảm nhận của người xưa về thế giới.
Thần Sét hung hăng, dữ tợn nhưng vẫn phải chịu nằm yên trong những
ngày lạnh cóng. Nữ thần Mặt trời chỉ đi chậm vào mùa hè và đi nhanh vào
mùa đông, kết thúc của những câu chuyện về người lột xác, về cây đa cải tử
hoàn sinh vẫn là con người đến già thì phải chết, không ai có thể chống lại
được: Sự cảm nhận được quy luật của tự nhiên làm cho thần thoại trở thành
một "kho tàng trí khôn kinh nghiệm”. Thần thoại chính là triết học, là khoa học
của người xưa.
2. Ý nghĩa nhân văn qua thần thoại
Thần thoại được sáng tạo ra không chỉ nhằm mục đích giải thích tự
nhiên, cất giữ kinh nghiêm mà còn ca ngợi khả năng của con người trong
công cuộc lao động và đấu tranh chinh phục tự nhiên. Thần Thợ mộc, thần
Nông, thần Mưa đến thần Trụ trời v...và đều là hình ảnh của những con người
khai sơn phá thạch, chinh phục thiên nhiên. Thần dùng sức lao động của
mình tác động vào tự nhiên, cải biến tự nhiên. Điều đó đã phản ánh khả năng
người và được nhân dân ca ngợi đến mức thần thánh hóa.
Ý nghiã nhân văn trong thần thoại còn thể hiện ở những ước mơ giải
phóng con người ra khỏi sự đe dọa của thiên nhiên.
Người nguyên thủy ước mơ một cuộc sống no đủ và nhàn hạ (lúa ở
ngoài đồng tự nhiên chạy vào nhà), nhưng điều quan trọng hơn là ước mơ
chiến thắng thiên nhiên. Ở đây, con người đôi khi đã lộ hẳn ra chứ không dấu
mình sau hình tượng thần nữa. Cường Bạo Đại Vương đã chiến thắng thần
Sét, Cóc đã "đại náo thiên cung", bắt trời làm mưa; thần Sơn Tinh đã thắng
được giặc nước; chàng Quái đã bắn rơi mặt trời.v.v....Bằng những ước mơ
đó con người đã nâng tầm của mình lên để tạo thêm sức mạnh chiến thắng
trong hiền thực. Đó là những "khát vọng bức thiết của con người cải tạo thế
giới".
Ý nghĩa nhân văn của thần thoại, suy cho cùng là sự tự ý thức về mình
của người nguyên thủy. Sự tự ý thức đó là ngọn đuốc soi đường đưa nhân
loại tiến lên.
III. ĐỊNH HƯỚNG PHÂN TÍCH THẦN THOẠI
1. Những điều cần lưu ý
Thần thoại Việt thường được chia làm 2 nhóm: những thần thoại suy
nguyên (tức là những thần thoại giải thích nguồn gốc một số hiện tượng, sự
vật tự nhiên) và những thần thoại sáng tạo (tức là những thần thoại "anh hùng
hóa"). Trong hai nhóm đó, thì một số thần thoại trong nhóm thần thoại sáng
tạo, đã biến thành những truyền thuyết về thời dựng nước. Do đó, có những
truyện vừa có thể coi là truyền thuyết vừa có thể coi là thần thoại. Vì vậy, khi
phân tích cần phải có phương pháp thích hợp để lọc ra, phục nguyên lại cái
lõi thần thoại cổ đại đã bị nhào nặn, pha trộn với các yếu tố của các đời sau.
Biết bỏ qua những từ ngữ, những chi tiết mang dấu ấn rõ rệt của sự thêm
thắt, thêu dệt của đời sau.
2. Định hướng chung về nội dung
Thần thoại phản ánh nhận thức non nớt, sai lệch, đầy tính chất hư ảo
của người xưa về thế giới cũng như bản thân con người và thể hiện sự bất
lực của họ trước sự vật; hiện tượng mà họ không hiểu nổi. Cho nên không
cần thiết phải "chứng minh" những điều hoang đường, trong cách giải thích
các sự vật, hiện tượng tự nhiên của thần thoại. Nhưng không thể không chỉ ra
những chi tiết phản ánh sự bất lực của người xưa trước sức mạnh của thiên
nhiên.
Thần thoại tuy hoang đường nhưng đã có những yếu tố duy vật thô sơ
trong thế giới quan của người xưa. Việc chú ý đến mặt này có thể giúp các
em nhận ra ý nghĩa của nó đối với người đương thời.
3. Phân tích hình tượng "Thần"
"Thần" là một nhân vật trung tâm của thần thoại. Ở đây, các sự vật hiện
tượng tự nhiên được nhào nặn trong trí tưởng tượng của người xưa được họ
hình tượng hóa, thường là nhân hóa hoặc những "nhân vật anh hùng" được
thần thánh hóa. Thêm nữa, thần thoại văn chỉ là những biểu tượng và những
mẫu chuyện chưa thành cốt truyện, chưa có kết cấu, tình tiết. Vì vậy, việc
phân tích thần thoại chủ yếu là công việc phân tích hình tượng “thần". Cụ thể
là: phân tích các chi tiết về hình dạng "thần", chức năng của "thần" ; các chi
tiết về hành trạng, sự tích của "thần"; các chi tiết và quan hệ giữa các "thần",
giữa "thần" với xã hội loài người.
4. Dạy thần thoại cho học sinh tiểu học
Ngoài những yếu tố cần lưu ý trên, dạy thần thoại nói riêng và truyện kể
dân gian nói chung cho đối tượng là học sinh tiều học cần để học sinh dựng
lại toàn bộ hình tượng chứa đựng trong mỗi tác phẩm. Việc đơn giản nhất là
các em biết tự mình kể lại câu chuyện. Song trong các truyện kể dân gian,
những lời kể thưởng đơn giản và lướt qua rất nhanh. Nay, để đọng lại hình
tượng, giáo viên phải biết cách tổ chức hoạt động của các em, làm sao qua
các thao tác tưởng tượng và liên tưởng để các em huy động được sức nhìn,
sức nghe và cả những giác quan khác nữa nhằm tái tạo lại hình tượng đó một
cách sống động như đang hiển hiện trước mắt các em.
Một thủ pháp quan trọng thường được sử dụng trong quá trình dựng
hình tượng là cho các em kể lại câu chuyện trong lời kể và tâm trạng của
nhân vật trong truyện. Cách chuyển vai trò đó làm cho trẻ em suy nghĩ tinh tế
hơn, đặc biệt là cá tính từng em sẽ nổi lên rất rõ.
Bài 2 - TRUYỀN THUYẾTI. KHÁI NIỆM VỀ TRUYỀN THUYẾT
Truyền thuyết là một loại truyện dần gian ra đời sau và tiếp nối thần
thoại, có chức năng chủ yếu là nhận thức, phản ánh các sự kiện, các nhân
vật lịch sử có vai trò và ảnh hưởng quan trọng đối với một thời kỳ, một cộng
đồng bộ tộc, cộng đông dân tộc hoặc đối với một địa phương, một quốc gia.
Đặc trưng tiêu biểu nhất của truyền thuyết là tính xác thực, cụ thể dựa
trên những sự kiện và nhân vật lịch sử có thật. Lịch sử là cảm hứng, là đề tài
chất liệu đề làm nên nội dung truyền thuyết. Xu hướng lịch sử hóa trong
truyền thuyết ngày càng mạnh. Người xưa luôn luôn muốn khẳng định rằng,
những điều được kể trong truyền thuyết đều là sự thật. Càng phát triển về
sau, sự thật trong truyền thuyết càng trở nên rõ ràng hơn. Song lịch sử qua tư
duy nghệ thuật của tác giả dân gian đã được "nhào nặn" lại: Sự kiện lịch sử đi
vào truyền thuyết theo sự kết hợp của hai xu hướng, xu hướng lịch sử hóa và
xu hướng kỳ ảo hóa. Và nó đã trở thành nguyên tắc trong quá trình sáng tác
truyền thuyết. Thiếu đi một trong hai xu hướng trên, truyền thuyết không thể
ra đời.
Tùy theo đặc điểm nội dung và nghệ thuật, truyền thuyết có thể được
chia thành nhiều tiểu loại hoặc bộ phận khác nhau, trong đó, tiêu biểu và giá
trị nhất là bộ phận truyền thuyết thời kỳ Văn Lang Âu Lạc.
II. NỘI DUNG - Ý NGHĨA CỦA TRUYỀN THUYẾT.
1. Truyền thuyết dân gian gắn liền với niềm tự hào dân tộc
Hơn bất cứ một thể loại văn học dân gian nào khác, truyền thuyết có
một quá trình phát triển rất dài. Có thể nói, truyền thuyết đã đi cùng với lịch sử
dân tộc. Nó làm nhiệm vụ và chức năng của sử thi trong việc phản ánh và tái
tạo lịch sử của cộng đồng người Việt Nam trong quá trình dựng nước và giữ
nước, âm điệu chủ yếu trong truyền thuyết là âm điệu ngợi ca
Từ thuở sinh cơ lập nghiệp, nhân dân ta đã ca ngợi công lao của các vị
anh hùng khai phá. Lạc Long Quân diệt Hổ Tinh, Ngư Tinh, Mộc Tinh, bà ấu
Cơ dạy dân trồng lúa, chăn tằm, dệt cửi... Sự ngợi ca gắn liền với niềm tự
hào lớn lao về đòng dõi con Lạc cháu Hồng. Câu chuyện trăm trứng Âu Cơ có
một ý nghĩa thiêng liêng đặc biệt không gì có thể so sánh được.
Niềm tự hào dân tộc được thể hiện qua sự ngợi ca người anh hùng
chống xâm lược. Nếu truyện về Lạc Long Quân là bài ca đựng nước thì
truyện về Thánh Gióng là bài ca giữ nước. Lạc Long Quân cũng là một vị anh
hùng trong cuộc giao tranh nhưng Thánh Gióng mới thật sự là người anh
hùng chiến trận.
Niềm tự hào dân tộc trong các thiên truyền thuyết đời sau tiếp tục gắn
liền với sự tích về các vị anh hùng cứu nước và giữ nước. Không phải ngẫu
nhiên các nhà sử học đã khẳng định: Lịch sử Việt Nạm vô cơ bản là lịch sử
của những cuộc đấu tranh chống xâm lược. Hàng loạt truyền thuyết ra đời đã
theo sát lịch sử dân tộc. Đó là các truyền thuyết về Bà Trưng, Bà Triệu,
Phùng Hưng, Trần Hứng Đạo, Lê Lợi.v.v... Hình tượng người anh hùng cứu
nước và giữ nước được thể hiện có chiều sâu hơn so với hình tượng người
anh hùng chiến trận trong truyền thuyết cổ đại. Nếu như ta chỉ biết người anh
hùng làng Gióng ra trận với thanh gươm và con ngựa sắt thì ta còn biết Bà
Trưng, Bà Triệu ra trận với chí căm thù giặc sâu sắc. Trần Hưng Đạo biết dẹp
mối thù riêng để làm việc lớn. Tấm lòng sắt son với nước, ý chí quyết tâm tiêu
diệt giặc đến cùng của mỗi người anh hùng trong sự nghiệp quang vinh đã
được nghìn đời sau khâm phục và ca ngợi..
Niềm tự hào dân tộc trong những thiên truyền thuyết đời sau gắn liền
với việc ngợi ca người anh hùng như những nhân vật đẹp một cách phi
thường và hoàn hảo. Mặc dù truyền thuyết đời sau không mô tả được người
anh hùng với kích thước khổng lồ như Thánh Gióng hoặc Sơn Tinh, nhưng
vẫn có nhiều yếu tố mang tính chất sử thi.
Truyền thuyết về các vị anh hùng cứu nước và giữ nước là nguồn tài
liệu vô cùng phong phú lấp chỗ trũng cho lịch sử hàng nghìn năm đô hộ của
phong kiến nước ngoài. Đời sau, khi viết lại lịch sử đấu tranh oanh liệt của
dân tộc, các sử gia không thể không dựa vào trí nhớ của nhân dân, những
người anh hùng đã được nhân dân nhận thức và định giá trên một quan điểm
hoàn toàn đúng đắn, khác hẳn với quan niệm của giai cấp phong kiến cho
người anh hùng như là đại điện cho một giai cấp, một dòng họ làm theo mệnh
trời, giữ yên ngôi báu hoặc tô vẽ người anh hùng như là những tấm gương
tận tụy với triều đình. Truyền thuyết đã góp phần khẳng định lại công lao của
người anh hùng trong sự nghiệp đấu tranh chung của toàn dân tộc.
2. Truyền thuyết dân gian phản ánh tinh thần dân chủ của nhân dân trong lịch sử dân tộc
Tinh thần dân chủ dược phản ánh khá đậm nét trong những thiên
truyền thuyết về người anh hùng nông dân khởi nghĩa. Ở đây, truyền thuyết
dân gian theo sát lịch sử theo một phương diện khác không phải phương diện
bảo vệ đất nước mà là phương diện chống áp bức, bóc lột. Tinh thần dân chủ
không nằm trong phạm trù dân tộc mà nằm trong phạm trù giai cấp. Truyền
thuyết về người anh hùng nông dân khởi nghĩa xuất hiện khá muộn, đặc biệt
nở rộ vào thời kỳ chế độ phong kiến suy tàn.
Truyền thuyết về người anh hùng dân tộc chống xâm lăng đã ưu tiên
mô tả sự xuất thân từ cuộc đời bình thường của các nhân vật nhưng chưa
nhấn mạnh khía cạnh lam lũ, cơ cực của cuộc đời ấy.
Truyền thuyết về người anh hùng nông dân khởi nghĩa đã nhấn mạnh
được khía cạnh này. Có bao nhiêu cuộc đời anh hùng thì có bấy nhiêu cuộc
đời lao khổ: Nguyễn Hữu Cầu, Chàng Lìa lúc đầu là những đứa trẻ mồ côi, đi
ở. Hầu Tạo xuất thân từ một chàng trai lang thang nay đây mai đó; Nguyễn
Hữu Khôi làm nghề chở đò ngang. Họ là những con người tiêu biểu cho nỗi
thống khổ của người nông dân trong chế độ suy tàn. Đỉnh cao quyết liệt trong
hành động của người anh hùng là tuyên chiến với các thế lực phong kiến
thống trị, kể cả với triều đình trung ương tập quyền. Những người anh hùng
đã nhiều phen làm nghiêng ngã cả xã hội phong kiến, bè lũ vua quan phải run
sợ trước sức mạnh "đội trời, đạp đất" của họ. Truyền thuyết dân gian về
người anh hùng nông dân khởi nghiã đã để cho hậu thế những trang vô cùng
sảng khoái. Cuộc đời chiến đấu của người anh hùng nông dân tuy ngắn ngủi
nhưng đầy ý nghĩa: lý tưởng nghìn đời của người nông dân là tự do, bình
đẳng đã có dịp được thực hiện trong cuộc sống.
Tuy nhiên, đối với người anh hùng nông dân, truyền thuyết dân gian
không chỉ ca ngợi, mà còn phê phán. Đây là cách đánh giá khách quan, thể
hiện quan điểm đúng đắn của người lao động với tư cách là tác giả của văn
học dân gian. Truyền thuyết đã thể hiện khá rõ những nét hạn chế thuộc về
bản chất của người anh hùng nông dân khởi nghĩa.
Ngoài giá trị nghệ thuật, truyền thuyết vê người anh hùng nông dân
khởi nghĩa còn là nguồn tài liệu lịch sử vô cùng quý giá cho đời sau. Khi chính
sử của nhà nước phong kiến, thực dân cố tình bóp méo xuyên tạc, bôi nhọ
những cuộc khởi nghiã và những lãnh tụ của nghĩa quân thì truyền thuyết dân
gian đã đánh giá lại những nhân vật và sự kiện nảy với cách nhìn khách
quan, trung thực.
III. ĐỊNH HƯỚNG PHÂN TÍCH TRUYỀN THUYẾT
1. Tìm hiếu cốt truyện
Truyền thuyết lịch sử dân gian, nhìn chung không có một mô hình kết
cấu được trau chuốt như một phương tiện nghệ thuật đặc thù (như truyện cổ
tích thần kỳ). Do đó, nói chung chưa có vấn đề phân tích kết cấu đối với các
thể loại này.
Cốt truyện về đại thể có ba phần:
- Hoàn cảnh xuất hiện người anh hùng
- Sự nghiệp của người anh hùng
- Chung cục, thân thế người anh hùng.
Vì "nguyên liệu chính để xây dựng cốt truyện là hành động của nhân
vật trung tâm, mà nhân vật của truyện cổ dân gian công chính là hành động
của nó, cho nên phân tích truyện cũng là phân tích nhân vật
2. Phân tích nhân vật
Nhân vật chính của truyền thuyết là trung tâm của sự kiện được kể lại
Vì vậy khi phân tích truyền thuyết cần gắn nhân vật với sự kiện. Có thể tiến
hành phân tích theo trình tự sau:
+ Tìm nhân vật trung tâm
+ Tóm tắt cốt truyện
+ Phân tích nhân vật theo diễn biến của sự kiện.
Từ hành động của nhân vật trong hoàn cảnh cụ thể mà rút ra những
nhận xét làm cơ sở cho một sự tổng hợp, dẫn tới một cách hiểu chung về
nhân vật. Điều cần lưu ý trong quá trình phân tích, cần đối chiếu với chính sử
để tìm hiểu thái độ và cách đánh giá này của nhân dân so với thái độ cách
đánh giá "chính thống" của chính sử đối với cùng một sự kiện, cùng một nhân
vật lịch sử.
3. Đặt truyền thuyết vào môi sinh của nó
Truyền thuyết lịch sử dân gian không bao giờ tồn tại tách rời với sự thờ
cúng, nghi lễ, tín ngưỡng, tập tục. Cho nên phân tích lịch sử cần phải chú ý
viện dẫn cả những yếu tố tín ngưỡng, lễ tục gắn với chúng để làm rõ bản chất
và đặc trưng thể loại, đồng thời nêu bật được tâm tính tha thiết của nhân dân,
qua nhiều thế hệ, gửi gắm vào mảng văn hóa dân gian này.
Bài 3 - TRUYỆN CỔ TÍCH I. KHÁI NIỆM VỀ TRUYỆN CỔ TÍCH
Cổ tích là một thể loại truyện dân gian. Khi thần thoại trên bước đường
tan rã thì cổ tích dân đần được hình thành. Cùng với sử thi, những truyện cổ
tích đầu tiên có mầm mống từ thần thoại, nảy sinh từ giai đoạn cuối của xã
hội nguyên thủy, nhưng chủ yếu phát triển trong xã hội phong kiến, xã hội có
sự phân chia giai cấp sâu sắc. Do đó, đối tượng thẩm mỹ của nó khác với
thần thoại. Truyện cổ tích hướng vào đời sống xã hội thời cổ, những xung đột
trong xã hội đã phát sinh áp bức giai cấp.
Với hình tượng nhân vật tích cực tiêu biểu cho đạo đức, trí khôn và sức
mạnh tinh thần của nhân dân, với cốt truyện xây dựng trên những hành động
có tính chất phiêu lưu của các nhân vật trung tâm, truyện cổ tích chứa đựng
cả một pho kinh nghiệm sống của nhân dân, thể hiện ước mơ và niềm tin của
nhân dân về chiến thắng cuối cùng của lẽ phải, sự công bằng và lòng nhân ái
đối với gian tham, bất công và tàn bạo. Tóm lại của cái thiện với cái ác.
Truyện cổ tích có chức năng bền vững, từ bao đời nay nó vẫn được coi
là “truyện kể trong nhà cho trẻ nhỏ" và do ông bà cha mẹ kể lại cho con cháu.
Còn đối với các em, truyện cổ tích là thế giới trong đó con người có dịp đem
toàn bộ "ý chí tốt đẹp của mình ra chống lại các lực lượng đen tối".
Căn cứ vào những nét khác biệt và kiểu nhân vật và tính chất câu
chuyện kể có liên quan, người ta chia thể loại truyện cổ tích ra làm 3 tiểu loại:
Truyện cổ tích thần kỳ, Truyện cổ tích sinh hoạt, Truyện cổ tích loài vật.
1. Truyện cổ tích thần kỳ
Truyện cổ tích thần kỳ là một bộ phận quan trọng và tiêu biểu nhất của
thể loại cổ tích. Truyện cổ tích thần kỳ là những truyện kể về chuyện tưởng
tượng xung quanh số phận cuộc đời của kiểu nhân vật bất hạnh. Nhân vật
chính trong truyện cổ tích thần kỳ vẫn là những con người trong thực tại
nhưng các lực lượng thần kỳ, siêu nhiên có một vai trò quan trọng. Hầu như
mọi xung đột trong thực tại giữa người và người đều bế tắc, không thể giải
quyết nổi nếu thiếu yếu tố thần kỳ (Ví dụ: Truyện Cây khế, Truyện Tấm Cám,
Truyện Thạch Sanh...)
Trong truyện cổ tích thần kỳ, các nhân vật thường gồm 3 loại chính:
nhân vật chính diện hay phe thiện (như Thạch Sanh, Tấm, Sọ Dừa...), nhân
vật phản diện hay phe ác (như Lý Thông, Cám. mẹ Cám...) và các nhân vật
thần kỳ hoặc báu vật có tác dụng kỳ diệu (như tiên, bụt, đàn thần, nồi cơm
thần...)
2. Truyện cổ tích sinh hoạt (hay cổ tích thế sự)
Đó là những truyện cổ tích không có hoặc rất ít yếu tố thần kỳ. Ở đây,
các mâu thuẫn xung đột xã hội giữa người với người được giải quyết một
cách hiện thực, không cần đến những yến tố siêu nhân. Những yếu tố thần kỳ
nếu có cũng không giữ vai trò quan trọng và nhiều khi chỉ là sự tô điểm cho
câu chuyện thêm vẻ ly kỳ, hấp dẫn mà thôi. Ví dụ truyện Vợ chàng Trương,
truyện Cây tre trăm đốt....
3. Truyện cổ tích loài vật
Là loại truyện cổ tích lấy loài vật làm đối tượng phản ánh, tường thuật
và lý giải là chủ yếu. Loại chuyện này ở thời cổ xưa hầu hết các dân tộc đều
có, ở đây, các loài vật được nhân hóa một cách hồn nhiên trong trí tưởng
tượng của nhân dân thời cổ. Truyện cổ tích loài vật được nẩy sinh từ nhu cầu
của người thời cổ muốn đúc kết những kinh nghiệm và hiểu biết về đời sống
và tập tính của một số con vật ít nhiều có liên quan đến cuộc sinh tồn của họ.
Truyện cổ tích loài vật do đó, cũng mang đấu vết quan niệm của người xưa
về tự nhiên.
Về sau, những kinh nghiệm và hiểu biết về loài vật, hòa lẫn với những
kinh nghiệm hiểu biết về con người và xã hội, và dần dần có sự đan xen giữa
đề tài "xã hội loài vật" với đề tài "xã hội loài người". Các con vật ở trong
truyện cũng mang những tính tình, tính cách rõ nét của các loại người (con
sói tham lam, con cáo xảo quyệt, con hổ hung bạo, con thỏ khôn ngoan
v...v...).
Một số truyện cổ tích loài vật gần với truyện ngụ ngôn. (Ví dụ: Truyện
Sự tích con công và con quạ, truyện Vì sao Trâu không có hàm răng trên...).
Tuy vậy, giữa hai thể loại này vẫn có nét khác biệt về mặt thi pháp: một bên là
cả một câu chuyện; một bên (truyện ngụ ngôn) chỉ có dáng dấp của một màn
kịch nhỏ.
II. NỘI DUNG, Ý NGHĨA TRUYỆN CỔ TÍCH
1. Truyện cổ tích phản ánh hiện thực cuộc sống của người xưa
Như trên đã nói, truyện cổ tích thiên về phản ánh thực tế đời sống xã
hội. Tư duy nghệ thuật của nhân dân trong thời đại phát sinh và phát triển của
truyện cổ tích không phải là thứ “tư duy hướng lên trời" như trong thời đại của
thần thoại mà là thứ tư duy "giàu thực tiễn".
Trước tiên là hiện thực về cuộc sống gia đình. Truyện cổ tích đã thể
hiện được những mâu thuẫn, những xung đột trong gia đình xưa như là cơ sở
của những chuyển biến xã hội.
Mâu thuẫn giữa gia đình nảy (sinh trong quá trình hình thành những
quan hệ mới giữa các thành viên. Mâu thuẫn này ngày càng trở nên sâu sắc
vì những lý đo kinh tế, làm cho các thành viên trong gia đình phân hóa thành
hai lực lượng đối lập một bên là các thành viên lớn tuổi, người anh, người chị,
người mẹ ghẻ...", còn một bên là các thành viên nhỏ tuổi (người em, người
mô côi, người con riêng… Những truyện cổ tích tiêu biểu nhất cho chủ đề này
là Tâm Cám, Cây Khế, Sự tích chim đa đa... ở đây, các lực lượng đối lập
trong gia đình đã tham gia vào những cuộc xung đột kéo dài, gay gắt, thậm
chí một mất một còn. Quá trình xung đột, bản chất của các lực lượng đối lập
được phơi bày, các thành viên lớn tuổi thường là những kẻ tham lam, xảo
quyệt, tàn ác và ngu ngốc, còn các thành viên nhỏ tuổi lại đôn hậu, trung
thực, thông minh.
Mâu thuẫn gia đình về bản chất cũng lả mâu thuẫn xã hội, trong những
giai đoạn lịch sử sau (đặc biệt là ở thời phong kiến) mâu thuẫn trong gia đình
trở thành mâu thuẫn xã hội. Màu sắc giai cấp đã bao trùm lên các lực lượng
đối lập trong gia đình. Vì vậy, xung đột gia đình đã chuyển thành xung đột xã
hội.
Trong truyện cổ tích, ta không chỉ thấy những xung đột mà còn thấy
những cảnh đời: Cuộc sống giàu sang của kẻ tàn ác, bóc lột và sự nghèo
khổ, bất hạnh, thua thiệt của người dân lành. Nó gợi lên trong lòng người đọc,
người nghe những tình cảm yêu ghét mãnh liệt: đồng cảm với những số phận
bé nhỏ, khổ đau và lòng căm thù đối với các thế lực hắc ám - nguyên nhân
của những nỗi bất hạnh trong thế giới con người.
Tuy nhiên, khi đánh giá về khả năng phản ánh hiện thực của truyện cổ
tích, ta nhận thấy truyện cổ tích luôn luôn thiên về những vấn đề đạo đức. Để
thực hiện chức năng giáo huấn của mình, truyện cổ tích không thể vượt ra
khỏi ranh giới của phạm trù đạo đức để bước sang lĩnh vực "chủ nghĩa hiện
thực" thuần tuý. Nói một cách khác, các tác giả của thuyền cổ tích dân gian
nhìn hiện thực từ góc độ đạo đức. Vì vậy xung đột trong truyện cổ tích thực
chất là xung đột của những phạm trù đạo đức đối lập: trung thực, xảo quyệt,
hiền lành, tàn ác, ích kỷ, vị tha v..v...
2. Truyện cổ tích "chiếu rọi ánh sáng vào một thế giới khác"
Trong mối quan hệ giữa tương lai và thực tại thì truyện cổ tích hướng
về tương lai nhiều hơn. Thế giới trong truyện cổ tích dưa như xa lạ và đối lập
với những gì đang có và đã có. Vì vậy, đây chính là thế giới của ước mơ. Thế
giới này hoàn toàn phù hợp với tâm lý thiếu nhi
a. Ước mơ về sự hoàn thiện cua con người
Nhân vật trung tâm của truyện cổ tích là những con người "nhỏ bé"
sống dưới đáy xã hội, bị khinh rẻ và bị áp bức bóc lột. Người đời sau gọi họ là
phe thiện, nhân vật chính diện. Các nhân vật này đều rất trung thực. Phẩm
chất trung thực của họ bị đẩy đến mức cực đoan nhằm đối lập với những
người xấu xa, gian trá đang tồn tại ngoài xã hội. Điều đó làm cho nhân vật có
phần xa lạ với cuộc đời, đứng cao hơn cuộc đời và trở thành một phẩm chất
lý tưởng để con người hướng tới
Đi liền với trung thực là tình thương. Hầu như các nhân vật chính diện
đều biết yêu thương và vị tha vô hạn. Đó là một thứ tình thương dành cho
những người cùng cảnh ngộ. Ta có thể hiểu được vì sao cô Tấm chỉ đến ở
với bà lão hàng nước cô đơn; vì sao Sọ Dừa lại đầu thai vào một nhà nghèo
khổ. Trong truyện cổ tích, một quá trình thường xẩy ra là: nhờ có tình thương
và lòng vị tha mà con người có thể đi tới những bước ngoặt quan trọng của
cuộc đời mình. Trong số những thử thách đối với nhân vật chính diện, sự thử
thách về tình thương và lòng vị tha chiếm một số lượng đáng kể. Cô gái nhỏ
dấu cơm đem cho ông lão qua đường mà được ban thưởng sắc đẹp. Chàng
nông dân cứu giúp con chó, con mèo mà được chứng giúp đỡ, trở nên giàu
có... Như vậy, tình thương không chỉ là bản chất của người lao động mà còn
là cơ sở, là nền tảng trong quá trình phát triển của chính cuộc sống. Thế giới
của truyện cổ tích chan hòa ánh sáng của lòng nhân ái, vị tha làm dịu đi
những nỗi gian truân của số phận trái ngang. Truyện cổ tích thắp lên niềm tin
cho trẻ thơ rằng: cái ác vẫn còn nhưng tình yêu thương mới là vô hạn.
Bên cạnh loại nhân vật mồ côi, truyện cổ tích còn có nhân vật "người
thông minh", "nhân vật dũng sĩ” đã góp phần thể hiện ước mơ con người về
sự hoàn thiện, hoàn mỹ của mình.
b. Uớc mơ về sự đổi đời
Sinh ra trong nghèo khó và bị áp bức bóc lột, địa vị thấp kép trong gia
đình và ngoài xã hội, các nhân vật "nhỏ bé" luôn luôn mơ ước về sự đổi đời.
Trước đây, trong thần thoại, con người luôn mơ về một cuộc sống no
đủ và nhàn hạ thì ở cổ tích con người lại muốn vươn lên trở thành giàu có. Vì
vậy, nhân vật trong truyện cổ tích thường nhận được rất nhiều vàng, bạc,
châu báu sau những tháng ngày gian truân vất vả. Từ một phương diện khác,
ta còn thấy truyện cổ tích hướng tới sự công bằng xã hội về công lý; chính
nghĩa phải thắng gian tà; người hiền gặp lành, người yếu đuối được bênh vực
và ngược lại cái xấu cái ác phải được trừng trị đích đáng. Tất nhiên, để đạt
được lý tường công bằng, nhiều khi nhân vật phải đấu tranh quyết liệt mới
giành được thắng lợi. Cô Tấm phải chết đi sống lại nhiều lần, Thạch Sanh
phải bao phen chìm nổi...
Ngoài chuyện ước mơ và khát vọng, toàn bộ thế giới trong cổ tích đậm
đà sắc ảo. Nó dường như là thế giới thật nhưng cũng đường như là một thế
giới khác. Người nông dân đáng thương là rất thực nhưng anh ta có thể bay
lượn trên không trung, phục sinh người chết bằng cách vẩy nước thần,...
Những yếu tố đó đã làm cho truyện cổ tích có sức hấp dẫn lạ kỳ đối với trẻ nít
Chính cái "thế giới khác" đã tại nên chất thơ cho truyện cổ tích. Nó làm cho
"gian nhà học nghề đáng thương của người học nghề thành thế giới của thơ
ca, thành một lâu đài mỹ lệ và làm cho cái đẹp khỏe, chắc của họ giống như
một nàng công chúa trẻ kiều diễm". Truyện cổ tích đã mang đến cho người
đọc, người nghe những rung động sâu sắc và mãnh liệt, trên cơ sở để giáo
dục con người một lý tưởng lành mạnh.
III. HƯỚNG DẪN PHÂN TÍCH TRUYỆN CỔ TÍCH
1. Định hướng chung
Thông thường, trong quá trình phân tích truyện cổ tích, chúng ta
thường khai thác tác dụng giáo dục đạo đức cho các em. Điều đó đúng
nhưng chưa đủ. M.Gorki từng viết: "Trong các truyện cổ tích, điều trước tiên
có khả năng giáo dục là sự "hư cấu”. Cái khả năng kỳ diệu của trí óc chúng ta
có thể nhìn xa về phía trước sự kiện". Ông coi "chính sự tưởng tượng, chính
sự hư cấu đã sáng tạo và tu dưỡng một trong những phẩm chất kỳ diệu của
con người là trực giác". Vì vậy, bên cạnh việc khai thác tác dụng giáo dục của
những bài học đạo đức cần chú ý phát huy năng lực tưởng tượng cho các em
thông qua việc hướng dẫn cho các em đi vào những “ảo giác êm đẹp" đầy
quyến rũ từ những trang cổ tích gợi lên.
2. Phân tích nhân vật và cốt truyện
Trong truyện cổ tích, nói chung, nhân vật - tính cách hành động là một
thể thống nhất. Tính cách của nhân vật cổ tích thường được biểu hiện qua
hành động và chưa có sự khác biệt giữa cái chung và cái riêng cá thể.
Còn cốt truyện cổ tích về cơ bản cũng là chuỗi hành động của nhân vật
chính: Khái niệm "hành động ở đây bao hàm cả "hoàn cảnh" trong đó diễn ra
các hành vi ứng xử tương ứng của nhân vật chính (hoàn cảnh thử thách đối
với nhân vật chính). Sự xuất hiện nhân vật phụ cũng được hiểu là hoàn cảnh.
Số phận của nhân vật chính trong truyện cổ tích thường là một cuộc
"đổi đời" nhưng rõ ràng là đầy chất mơ tưởng. Tuy vậy, việc đi sâu vào một
cuộc sống khác so với cuộc đời bất hạnh của những nhân vật "nhỏ bé" trong
xã hội cũ sẽ giúp ta hiểu thêm về khát vọng "đổi đời" của người xưa.
Bài 4 - TRUYỆN NGỤ NGÔN I. KHÁI NIỆM VỀ TRUYỆN NGỤ NGÔN
Truyện ngụ ngôn là một hình thức kể bằng văn vần hay văn xuôi trong
đó, ta mượn câu chuyện thường là về loài vật để gửi gấm một bài học về đạo
đức, kinh nghiệm sống, hoặc một điều răn dạy có tính chất triết lý về nhân
sinh, thế sự.
Đặc trưng cơ bản nhất của truyện ngụ ngôn là mượn thế giới loài vật đồ
vật để nói về con người. Trong truyện ngụ ngôn, con người hầu như trực tiếp
hiện ra như trong truyện cổ tích. Vì vậy, mỗi truyện ngụ ngôn là một ẩn dụ
lớn.
Mục tiêu của truyện ngụ ngôn là bài học triết lý. Khi nào câu chuyện đạt
tới bài học triết lý thì khi đó truyện ngụ ngôn kết thúc. Vì vậy truyện ngụ ngôn
có 2 phần rõ rệt: Câu chuyện kể và bài học luân lý.
II. NỘI DUNG, Ý NGHĨA CỦA TRUYỆN NGỤ NGÔN
1. Truyện ngụ ngôn và triết lý ứng xử dân gian
Con đường đi tới triết lý của truyện ngụ ngôn là con đường thông qua
sự phê phán, phủ nhận để rút ra kết luận. Truyện ngụ ngôn thường phê phán
những sai lầm của người đời và chỉ ra rằng những hành động sai lầm ấy nhất
định sẽ dẫn đến thất bại. Răn dạy bằng mặt trái của cuộc sống, truyện ngụ
ngôn đã tạo cho mình một sức thuyết phục mạnh hơn là trực tiếp nêu sự thật
của lẽ phải
Bên cạnh việc nêu bài học về hành động sai lầm của người đời, truyện
ngụ ngôn còn nêu cả những tính xấu mà người đời thường mắc phải. Đó là
sự khoe khoang, khoác lác, tráo trở, thiển cận, xa rời thực tế, sự độc đoán
v.v...
Nhìn chung, triết lý trong truyện ngụ ngôn là một thứ triết lý mang tính
thực tiễn. Triết lý này nặng về cách đối nhân xử thế, khuyên người ta sống
sao cho hợp lý, hợp tình. Đó cũng chính là lối sống chân chính mà người lao
động luôn luôn phải đấu tranh để duy trì và bảo vệ. Truyện ngụ ngôn có khả
năng khái quát hoá và trừu tượng hoá cao, cho nên trong nhiều truyện, kinh
nghiệm thực tiễn này được nâng lên thành những mệnh đề triết học như
truyện ngụ ngôn: Kẻo cày lúa lên, Phù du và đom đóm...
2. Truyện ngụ ngôn và đấu tranh xã hội
Trong xã hội có giai cấp, xung đột xã hội ngày càng diễn ra gay gắt và
quyết liệt Truyện ngụ ngôn không thể không đề cập đến những vấn đề này
như là những vấn đề trung tâm của một nội dung thể loại.
Trước hết là kinh nghiệm của nhân dân về giai cấp thống trị, truyện ngụ
ngôn đã nêu lên những bài học sâu sắc về bản chất của giai cấp thống trị như
tham lam, tàn bạo, đạo đức giả, nịnh hót. Truyện Con hổ ăn chạy; Cọp, cò,
cáo và chuột; Chèo bẻo và ác là; Bồ câu và sáo..
Nhìn chung, đối với giai cấp thống trị, truyện ngụ ngôn khuyên người ta
nên đề cao cảnh giác và lánh xa
Bài học về đấu tranh xã hội trong truyện ngụ ngôn trước hết là bài học
dứt khoát, đoạn tuyệt với kẻ thù. Đó là thái độ của bồ câu (Bồ câu là sáo), của
muỗi (Muỗi nhà và muỗi đồng), của Chèo bẻo (Chèo béo là ác là) thái độ đó
đã bao hàm một sự phản kháng tích cực.
Nhìn chung, với tư cách là thể loại triết lý của văn học dân gian, truyện
ngụ ngôn đã làm tròn được chức năng giáo dục của mình với một hiệu quả
rất lớn.
III. ĐỊNH HUỚNG VỀ PHƯƠNG PHÁP PHÂN TÍCH TRUYỆN NGỤ NGÔN
Ngụ ngôn là một loại truyện đặt ra để cốt gìn gắm một ý răn đời, một
kết luận luân lý, một nhận xét về một thực tế xã hội... Ngụ ngôn thưởng lấy
các con vật, đồ vật trong giới tự nhiên rồi nhân cách hóa để nói chuyện con
người.
Truyện ngụ ngôn, về thực chất là một cách nói bóng gió. Với bản chất
ấy, nó gồm hai phần: phần xác là câu chuyện kể, còn phần hồn là bài học
luân lý.
Truyện ngu ngôn (cùng với tục ngữ) là phương tiện biểu đạt của triết lý
dân gian.
* Mục đích của một việc đặt ra ngụ ngôn là để tránh cách nói thẳng mà
nói một cách xa xôi, bóng gió, nói một cách dễ nghe, dễ lọt tai... Do vậy, phân
tích ngụ ngôn không chỉ nhằm rút ra bài học, lời khuyên mà còn nhằm bình
giải ỷ vị của cách nói bóng gió đó.
* Cách phân tích một truyện ngụ ngôn thường đi theo trình tự sau:
- Xác định các nhân vật trong truyện. Các nhân vật này là biểu tượng
của hạng người nào trong xã hội.
- Phân tích nhân vật:
+ Phân tích hoàn cảnh, tình huống cụ thể, trong đó diễn ra hành động
của nhân vật chính.
+ Phân tích hành động của nhân vật trong hoàn cảnh đó.
+ Đánh giá hành động của nhân vật.
- Đánh giá bài học được rút ra từ câu chuyện kể.
Lưu ý: Từ một truyện ngụ ngôn, đôi khi người ta có thể rút ra những bài
học khác nhau, thậm chí trái ngược nhau.
Ngụ ngôn là một loại vật liệu rất thuận tiện để các em tìm nghiã bóng.
Nghĩa bóng của truyện ngụ ngôn nằm trong lời khuyên được rút ra sau mỗi
truyện.
Bài 5 - TRUYỆN CƯỜI I. KHÁI NIỆM TRUYỆN CƯỜI
Truyện cười là một thể loại truyện dân gian chứa đựng cái hài, dùng
tiếng cười làm phương tiện chủ yếu để thực hiện chức năng phê phán, châm
biếm, đả kích cái xấu và mua vui, giải trí:
Đặc điểm chung của truyện cười dân gian là ngắn gọn, nặng về lý trí có
kết cấu chặt chẽ và kết thúc đột ngột bất ngờ.
Có thể chia truyện cười dân gian Việt Nam thành hai loại truyện chính:
Truyện cười kết chuỗi và truyện cười không kết chuỗi. Truyện cười kết chuỗi
là những mẫu giai thoại hài hước, xoay quanh một nhân vật có thực hoặc
được coi là có thật, như Trạng Lợn, Trạng Quỳnh...
Truyện cười không kết chuỗi là những truyện cười có kết cấu hoàn
chỉnh, tồn tại độc lập, mang tính phiếm chỉ. Các nhân vật ở loại truyện này
thường chỉ được giới thiệu vê thành phần, địa vị xã hội, giới tính chứ không
có tên riêng như anh lính hầu, anh đầy tớ, thầy đồ, chàng rể... Có khi nhân
vật chỉ được gọi bằng tên một tính cách, như: anh mê ngủ, anh sợ vợ, anh
lười...
Truyện cười không kết chuỗi ở nước ta rất phong phú, đa dạng, gồm
nhiều tiểu loại khác nhau, như: Truyện khôi hài, Truyện trào phúng, Truyện
tiếu lâm.
II. NỘI DUNG Ý NGHĨA CỦA TRUYỆN CƯỜI
1. Truyện cười phê phán những thói hư tật xấu
Truyền thống đạo đức của người Việt Nam không thể chấp nhận những
thói hư tật xấu mà không ít người đời đã mắc phải, như: phàm ăn, tục uống,
lười biếng, khoe khoang,khoác lác... Lối sống đó làm phương hại đến thuần
phong mỹ tục, lối sống thanh sạch, trong sáng của cộng đồng. Vì vậy, cần
phải đấu tranh phê phán dù là hạng người nào trong xã hội. Song tuỳ thuộc
vào mức độ của từng tật xấu, thói hư mà truyện thể hiện những cách cười
khác nhau, từ châm biếm nhẹ nhàng (Lợn cưới áo mới, con rắn vuông...) đến
cảnh cáo nghiêm khắc (Sứ Tàu, Quan huyện thanh liêm, Trạng Quỳnh...)
Tuy nhiên, dù ở mức độ nào, dù là đối tượng nào, tiếng cười ở đây
cũng hướng vào mục đích là phê phán cái xấu.
2. Truyện cười, vũ khí đấu tranh
Trong truyện cười dân gian, có một mảng truyện miêu tả những biểu
hiện hài hước của những tính cách xấu gắn liền với bản chất của những tầng
lớp xã hội cụ thể, như: quan lại thì tham nhũng, ngu xuẩn (Trinh với Liêm,
Trung thần nghĩa sĩ cả, Quan huyện thanh liêm, Thần bia trả nghĩa, Kiện
trời...) Những kẻ làm thầy thiên hạ thì dốt nát, thiếu nhân cách đến mức thảm
hại (Tam dại con gà, Bốc thuốc theo sách. Bánh tao đâu, Tại thầy địa lý...)
Bọn phù thủy sợ ma (Phủ thuỷ sợ ma). Bọn nhà giàu dốt nát, trưởng giả (chốc
nữa tao sang)... Nhóm truyện này thể hiện rất rõ quan điểm chính trị: xã hội
của nhân dân, đồng thời bộc lộ tính chiến đấu của truyện cười dân gian với tư
cách là một vũ khí đấu tranh xã hội, đấu tranh giai cấp.
Khi dùng tiếng cười để phê phán những thói hư tật xấu và đả kích,
châm biếm vào thể chế xã hội, vào giai cấp thống trị, quần chúng nhân dân đã
đứng trên quan điểm đạo đức và lý tưởng của nhân dân lao động. Phủ định
cái xấu, tác giả dân gian đồng thời khẳng định và hướng mọi người vươn tới
một cuộc sống tốt đẹp.
Với những nội dung, ý nghiã đó, Truyện cười là một minh chứng cho
tinh thần lạc quan và trí thông minh sắc sảo của nhân dân ta trong cuộc đấu
tranh chống lại cái xấu, cái ác.
III. ĐỊNH HƯỚNG PHÂN TÍCH TRUYỆN CƯỜI
Tiếng cười là sản phẩm của nhận thức lý tính: nó nẩy sinh ra từ sự phát
hiện ra chỗ không phù hợp dưới bề ngoài có vẻ như phù hợp, giữa biểu hiện
bên ngoài và thực chất của một hành vi. Chính sự "phát hiện" đó làm nẩy sinh
ra tiếng cười.
Về hình thức nghệ thuật nói chung, truyện cười là thể loại truyện kể dân
gian ngắn, gọn nhất. Nó không mấy khi có câu chữ thừa, chi tiết thừa. Kết cấu
rất chặt chẽ. Câu chuyện bao giờ cũng đặt cái đáng cười vào một tình huống
sao cho cái đáng cười tự phơi bày ra dưới dạng sinh động nhất, ở cái thế
"nực cười nhất”.
* Khi phân tích truyện cười, cần lưu ý:
- Phân tích truyện cười, không đừng lại ở yếu tố gây cười mà phải làm
cho học sinh hiểu rõ cái gì đáng cười và suy nghĩ về cái đáng cười, về những
điều ẩn sau hiện tượng gây cười.
- Truyện cười thường mang kịch tính: Có "mâu thuẫn", đẩy "mâu thuẫn"
phát triển tới điểm nút và được giải quyết. Nhìn chung, phân tích truyện cười
có thể tiến hành theo cầu trục tự nhiên của màn kịch cười
+ Phân tích "tình thế xuất phát", tức là cái đáng cười được đặt vào một
tình thế nhất thiết bị dồn tới chỗ tự phơi bày một cách cụ thể, sinh động,
"buồn cười". Ví dụ: Sư cụ ăn vụng thịt chó bị chú tiểu biết và hỏi.
+ Phân tích "điểm nút” : Điểm nút của truyện cười là điểm, ở đó "mâu
thuẫn", cái đáng cười, đã được "chuẩn bị" đủ điều kiện để tự phơi bày ra,
hoặc bị vạch trần ra. Ví dụ: Sư cụ trả lời "Tao ăn đậu phụ thì đúng lúc đó có
tiếng chó sủa, lại còn hỏi chú tiểu "Cái gì ngoài cổng đấy?".
+ Phân tích yếu tố "mở nút": Với truyện cười, "mở nút” là kết thúc. Tức
là lúc hiện tượng đáng cười được phơi bày ra một cách cụ thể.
Tất nhiên, không nên máy móc vận dụng phân tích theo trình tự trên.
Điều quan trọng là phải nắm vững cái đích của công việc "phân tích" là phân
tích cái đáng cười trong quá trình của nó từ trạng thái ẩn đến trạng thái tự bộc
lộ một cách cụ thể, sinh động, khiến người ta phát hiện ra và thấy buồn cười.
Bài 6 - TỤC NGỮ I. KHÁI NIỆM VỀ TỤC NGỮ
Tục ngữ là một thể loại văn học dân gian một loại câu nói hoàn chỉnh,
ngắn gọn, xuôi tai, có ý nghiã hàm súc, có cấu tạo tương đối bền vững và
thường có vần, có nhịp, có hình ảnh được dùng trực tiếp trong “lời ăn tiếng
nói” cũng như trong thực hành sinh hoạt xã hội của quần chúng nhân dân.
Tục ngữ có một khối lượng rất lớn nhưng lại mang một "hình thức nhỏ"
Hơn bất cứ thể loại nào khác của sáng tác dân gian, tục ngữ trong bản chất
cũng như trong phương thức "diễn xướng" của nó có tính chất thực hành triệt
để. Đó là sự ứng dụng trực tiếp trong nếp nghĩ, trong ứng xử, trong lời ăn
tiếng nói hàng ngày của nhân dân.
II. MỘT SỐ NỘI DUNG CHÍNH TRONG CÁC LOẠI TỤC NGỮ
Tục ngữ là một sản phẩm của hoạt động nhận thức, đồng thời cũng là
một công cụ để nhận thức. Đề tài của tục ngữ vô cùng phong phú, nó bao
quát một phạm vi hiện thực rộng lớn.
1. Tục ngữ về lao động sản xuất
Tục ngữ về lao động sản xuất nhằm biểu đạt những kinh nghiệm của
con người trong hoạt động lao động sản xuất, trong quá trình đấu tranh, cải
tạo và chinh phục thiên nhiên, trong sự xử thế của con người với môi trường
tự nhiên.
- Quá mù ra mưa
- Người đẹp vì lụa, lúa tốt vì phân
- Trăng quầng đại hạn, trăng tán thì mưa.
Trong điều kiện khoa học chậm phát triển của một nước nông nghiệp
lạc hậu thời phong kiến, những kinh nghiệm ấy có giá trị thiết thực, như một
thứ cẩm nang đối với đời sống và sinh hoạt sản xuất, giúp cho con người chủ
động trong công việc làm ăn và trong sinh hoạt hàng ngày, đề phòng những
tai họa do thiên nhiên gây ra.
2. Tục ngữ về lịch sử - xã hội.
Bộ phận tục ngữ này đề cập đến nhiều phương diện của lịch sử và các
mối quan hệ giữa các giai cấp đối kháng: Tục ngữ nói về thời kỳ bình minh
lịch sử dân tộc; Tục ngữ về kinh nghiệm đánh giặc, về nhân vật lịch sử, tục
ngữ nói về cảnh quan, sản vật, phong tục tập quán của các miền đất nước.
Và đặc biệt nổi bật trong nội dung xã hội - lịch sử của tục ngữ Việt Nam là
những kinh nghiệm đời sống của nhân dân trong xã hội phong kiến, chủ yếu
là trong làng xã như:
- Cá lớn nuốt cá bé
- Kẻ ăn không hết, người lần không ra...
Qua những kinh nghiệm này, ta có thể thấy những nét phản ánh chân
thực cuộc sống khó khăn, khổ cực, đầy tai ách của nhân dân lao động trong
xã hội cũ.
3. Tục ngữ nói về con người
Chiếm phần quan trọng nhất trong bộ phận nói về con người là những
câu nói về đạo đức, về triết lý sống, và cách ứng xử của nhân dân:
- Người sống đống vàng
- Uống nước nhớ nguồn
- Chị ngã em nâng
- Tốt gỗ hơn tốt nước sơn
- Con hơn cha là nhà có phúc
Những nội dung trên của tục ngữ cho thấy: từ ngàn xưa, nhân dân đã
xây đắp nên một cách sống, một phương châm xử thế tốt đẹp trong quan hệ
giữa con người với con người. Đó là nền tảng đạo đức của nhân dân và đạo
đức ấy được diễn đạt một cách đầy đủ nhất trong tục ngữ. Qua những lời
khuyên nhủ, răn dạy, nhận xét của tục ngữ, ta có thể hình dung khá rõ những
tính cách đạo đức cổ truyền của dân tộc như: cần kiệm, thiết thực, quý trọng
tình nghĩa, yêu chuộng lẽ công bằng và thiết tha với những giá trị tinh thần.
III. ĐỊNH HUỚNG VỀ PHƯƠNG PHÁP PHÂN TÍCH TỤC NGỮ
Tục ngữ là những câu nói ngắn gọn: có nhịp điệu, có hình ảnh: có hình
thức bền vững, được dùng trong lời ăn tiếng nói hàng ngày của nhân dân. Nội
dung của tục ngữ là những nhận xét, phán đoán, kết luận về các hiện tượng
tự nhiên, xã hội và đời sống con người.
Xét trên bình diện ứng dụng, tục ngữ gồm hai loại: loại đơn nghĩa và
loại đa nghĩa
Những câu tục ngữ thuộc loại đơn nghĩa là những câu chỉ có thể hiểu
theo nghĩa đen. Vd:
- Dao thử trầu héo, kẻo thử lụa xô.
- Là lượt là vị thông lại, nhễ nhại là vợ học trò
Những câu tục ngữ thuộc loại đa nghĩa là những câu chỉ được dùng
theo lối nghĩa bóng. Vd:
- Chết trong hơn sống đục
- Lành với Bụt, chẳng lành với ma.
Ngoài ra, có những câu vừa có thể được đùng theo nghĩa đen, vừa có
thể được dùng theo nghĩa bóng. Vd:
- Cà thâm bỏ góc chạn, đến khi hoạn nạn lại hỏi cà thâm
- Bò chết chẳng khỏi rơm.
Tỷ lệ những câu tục ngữ đa nghĩa lớn hơn hẳn những câu đơn nghĩa
(hầu hết những câu thuộc bộ phận tục ngữ về tự nhiên và lao động sản xuất
đều chỉ có một nghĩa). Như vậy, trong đời sống hàng ngày, phần lớn tục ngữ
được dùng như những ẩn dụ.
Về hình thức diễn đạt, trừ một số câu có tính chất như lời khuyên răn
"Chớ thấy sóng cả mà ngả tay chèo" còn phần lớn tục ngữ dùng cách nhận
xét, kết luận. Vd:
- Không có lửa, làm sao có khói
- Lạt mềm buộc chặt
* Tục ngữ giàu hình ảnh, được xây dựng bằng nhiều biện pháp tu từ:
So sánh: - Người dẹp vì lụa, lúa tốt vì phân
Ẩn dụ: - Đục nước, béo cò.
Ngoa dụ: - lời nói đọi máu
Nhân hóa: - cái nết đánh chết cái đẹp
Cấu trúc tục ngữ thường có hai vế trở lên. Hai vế thường đối nhau và
tạo nên tính nhạc cho tục ngữ. Giữa hai vế còn thường có quan hệ liên kết về
vần. Vd:
- Hay thì khen, hèn thì chê (Vần ứng liền)
Con có cha như nhà có nóc (Vần lưng cách một)
- Thuận vợ thuận chồng, tát bể Đông cũng cạn (Vần lưng cách hai)
* Trong tục ngữ, ý nghiã của nó thường được biểu đạt bằng hình ảnh.
Do đó, muốn xác định nghĩa của câu tục ngữ, ngoài việc giải nghĩa các từ, tìm
hiểu mối quan hệ giữa các từ ngữ hình ảnh đó, chúng ta cần thực hiện thao
tác liên tưởng bằng cách thay thế vật liệu để tìm ra nghĩa bóng của câu tục
ngữ.
- Sau khi tìm ra nghĩa bóng, cần đi sâu để tiếp tục khám phá tư tưởng
của câu tục ngữ. Vì tục ngữ bao giờ cũng chứa đựng thái độ của nhân dân
đối với hiện tượng được nói tới. Đồng thời bình luận về giá trị nội dung kinh
nghiệm cũng như tư tưởng của câu tục ngữ.
- Đối với học sinh tiểu học, điều căn bản nhất khi phân tích tục ngữ là tổ
chức cho học sinh lần lượt thực hiện các thao tác để các em có thể tự mình
dựng lại trong tâm trí hình tượng làm sao để hình tượng đó như đang biểu
hiện trong tâm trí các em. ngay trước mặt các em. Trong quá trình dựng lại
hình tượng thì tự thân việc làm đó đã làm nẩy sinh tình cảm và tư tưởng trong
các em rồi. Vì vậy, giáo viên không cần giảng giải, giải thích gì thêm.
Bài 7 - CÂU ĐỐ I. KHÁI NIỆM VỀ CÂU ĐỐ
Câu đố là một thể loại văn học dân gian ngắn gọn, phản ánh các sự vật
hiện tướng khách quan bằng một lối nói đặc biệt. Lối nói chệch, lối nói gần với
ẩn dụ, dấu tên, chuyển vật nọ thành vật kia. Được nhân dần dùng trong sinh
hoạt tập thể để thử tài suy đoán, kiểm tra sự hiểu biết và mua vui giải trí.
Đơn vị tác phẩm của thể loại này được gọi là câu, vì nó đều rất ngắn.
Vd:
- Trong nhà có bà ăn cơm trước.
(Đôi dũa cả)
- Anh lớn mặc áo đó, em nhỏ mặc áo xanh.
(Quả ớt)
Nhưng cũng không ít những câu đố dài như một bài ca dao. Vd:
Con ai hải đứa hai nơi.
Gặp nhau một chỗ, cùng chơi một phòng
Không may nhà sập đá chồng
Tan xương nát thịt máu hồng chứa chan.
(ăn trầu.)
hoặc như một bài thơ:
Giữa đám lá xanh mướt
Treo từng chùm chuông nho
Trong xanh và hồng đỏ
Bừng sáng cả vườn quê.
(Quả mận hoặc quả roi)
Câu đố có nhiều tác dụng khác nhau như: đức dục, trí dục, mỹ dục, giải
trí... nhưng với tư cách là một vật liệu của việc học vấn trong nhà trường tiểu
học, câu đố được xem là phương tiện luyện cho trẻ óc quan sát, phát triển óc
suy đoán và kích thích trí tưởng tượng, liên tưởng cũng như khả năng ứng
biến nhanh trí.
Lối ẩn dụ trong câu đố là một ẩn dụ riêng, khác với lôi ẩn dụ thông dụng
trong văn học nghệ thuật (cái ẩn trong câu đố hoàn toàn vô định, không nhất
thiết phải thuộc về con người).
Dựa vào những biểu hiện khác nhau về nội dung và hình thức, người ta
chia câu đố thành các loại, các nhóm khác nhau: đố chữ, đố giảng, đố tục
giảng thanh...
II. ĐỊNH HƯỚNG VỀ PHƯƠNG PHÁP PHÂN TÍCH CÂU ĐỐ
Phân tích câu đố với tư cách là một loại hình văn học dân gian được
giảng dạy trong trường học là tìm lời giải đố và phân tích lối miêu tả của câu
đố đó. Thực trạng dạy học hiện nay thường đi theo hai xu hướng:
1. Chỉ chú ý tìm lời giải đố mà không quan tâm đến lối miêu tả của câu
đố.
2. Với những vật liệu văn là câu đố thì lời giải đố luôn luôn cho trước và
giáo viên hướng dẫn sử dụng thao tác tưởng tượng để tái hiện lại trong tâm
trí các em hình tượng văn đã được gửi vào câu đố
Trong hai cách dạy đó thì xã hướng thứ hai xem ra phù hợp với bản
chất của việc học văn hơn nhưng thiết nghĩ việc tìm lời giải đố cũng cần thiết
vì bên cạnh tư duy luận lý, người ta cũng thường dùng cả tưởng tượng và
liên tưởng nữa để tìm ra lời giải đố và điều này cũng rất cần cho việc học văn
ở bậc tiểu học
a. Tìm lời giải đố
Có thể thực hiện những thao tác sau để tìm lời giải đố
- Khoanh vùng tìm kiếm những gì liên quan đến hình ảnh đố.
- Thu hẹp phạm vi tìm kiếm bằng cách kết hợp với các dữ kiện trong
câu đố.
- Lược bớt các nghiệm số đảm bảo đầy đủ các yêu cầu của câu đố (chỉ
đúng mặt này nhưng không đúng ở khía cạnh khác). Kết hợp liên tưởng và
suy luận để tìm ra lời giải đố.
- Biện luận (nếu cần); vì nhiều câu đố có nhiều nghiệm, việc thừa nhận
một nghiệm chẳng qua là quy ước.
b. Phân tích lối miêu tả câu đố
- Thông thường, vật đố không xa lạ nhưng ẩn dụ của vật đố lại hướng
người ta nghĩ đến những cái khác hẳn.
- Sức mô tả những "đặc điểm" ấy chủ yếu bằng phép so sánh nhằm tạo
ra một ẩn dụ (một số câu đố lại dựa vào phép chơi chữ để tạo ra ẩn dụ).
- Vì câu đố phải gọn và chặt nên những từ ngữ dừng tiếng câu đố phải
chính xác, cụ thể, gợi hình ảnh.
- Phân tích lối miêu tả câu đố cần hướng dẫn học sinh chú ý các đặc
điểm trên và thông qua thao tác tưởng tượng, để làm phục hiện trong tâm trí
các em các hình ảnh của vật đố được gửi vào văn bản câu đố ấy.
HƯỚNG DẪN HỌC TẬP
I. Câu hỏi
1. Nêu những đặc trưng cơ bản của Văn học dân gian.
2. Phân tích ảnh hưởng của Văn học dân gian đối với đời sống
3. Thần thoại và tuyền thuyết là những thể loại có dành riêng cho thiếu
nhi không? Vì sao?
4. Truyền thuyết thể hiện niêm tự hào dân tộc như thế nào (Phân tích
và lấy các truyền thuyết trong chương trình tiếng Việt tiểu học để dẫn chứng)
5. Trình bày những điểm chính vè nội dung và nghệ thuật của ba loại
truyện cổ tích.
6. Tại sao nói, truyện cổ tích "Chiếu rọi ánh sáng vào một thế giới khác”
7. Nêu những nét đặc trưng của truyện ngụ ngôn. Sự khác nhau giữa
ngụ ngôn và cổ tích?
8. Trình bày nội dung và đặc điểm nghệ thuật của truyện cười trong
chương trình tiếng Việt tiểu học.
9. Trình bày nội dung và đặc điểm nghệ thuật của câu đố và tục ngữ ở
chương trình tiếng Việt tiểu học?
II. Bài tập
1. Phân tích giá trị hiện thực và ý nghĩa nhân văn trong các thần thoại ở
chương trình Tiếng Việt Tiểu học.
2. Phân tích nội dung và nghệ thuật của truyền thuyết Thánh Gióng.
3. Phân tích một số truyện cổ tích trong chương trình truyện kể ở Tiểu
học để thấy được ý nghĩa của lối “kết thúc có hậu” của loại truyện này (đặc
biệt là truyện cổ tích thần kỳ).
III. Bài tập nghiên chừ
1. Đặc điểm hệ thống nhân vật của loại truyện kể dân gian trong
chương trình kể chuyện ở bậc tiểu học.
2. Hệ đề tài và chủ đề phổ biến trong các truyện cổ dân gian chương
trình Tiếng Việt ở Tiểu học.
IV. Tư liệu tham khảo
1. Văn học (Tập I) - Giáo trình dùng trong các trường sư phạm đào tạo
giáo viên Tiểu học - Bộ Giáo dục và Đào tạo - Vụ Giáo viên - Hà Nội, 1993.
2. Văn học dân gian Việt Nam - Trần Hoàng. Nxb. Giáo dục,
3.Văn học Thiếu nhi Việt Nam - Trần Đức Ngôn - Dương Thu Hương -
Trưởng ĐHSP Hà Nội I - Hà Nội - 1994
4. Từ điển, Thuật ngữ văn học - Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn
Khắc Phi - Nxb GD - 1992.
5. Lược khảo thần thoại Việt Nam - Nguyên Đồng Chi - Nxb Văn Sử Địa
- Hà Nội, 1965.
6. Kho tàng truyện cổ tích Việt Nam (5 tập) - Nxb KHXH Hà Nội, 1974 -
1982.
7. Bộ sách giáo khoa Tiếng Việt Tiểu học. Nxb Giáo đục - Hà Nội, 1994.
Bài 8 - CA DAOI. KHÁI NIỆM CA DAO
Ca dao còn gọi là phong dao.
Theo nghĩa gốc thì ca là một bài hát có khúc điệu, dao là bài hát không
có khúc điệu.
Ca dao là thuật ngữ chỉ chung toàn bộ những bài hát lưu hành phổ biến
trong dân gian có hoặc không có khúc điệu. Trong trường hợp này ca dao
đồng nghĩa với dân ca.
Từ hơn một thế kỉ nay, do tác động của hoạt động sưu tầm, nghiên cứu
văn học dân gian, thuật ngữ ca dao đã dần dần chuyển nghĩa. Các nhà
nghiên cứu văn học dân gian Việt Nam đã dùng ca dao để chỉ liêng thành
phân nghệ thuật ngôn từ phần lời thơ) của dân ca (không kể những tiếng
đệm, riêng láy, tiếng địa hơi).
Với nghĩa này, ca dao là thơ ca dân gian truyền thống Và được coi là
"một trong những dòng chính của thơ ca trữ tình"(Mỹ học - F.Hêghen).
II. HỆ ĐỀ TÀI VÀ CHỦ ĐỀ PHỔ BIẾN TRONG CA DAO
1. Ca dao về lịch sử - đất nước - con người
Cảm hứng chủ đạo trong bộ phận ca dao nói về lịch sử, đất nước và
con người Việt Nam là tình yêu sâu sắc, mãnh liệt, tràn dầy niềm tự hào của
nhân dân ta đối với quê hương, đất nước, nòi giống, tổ tiên:
Thương chi đồng nỗi thương con
Nhớ chi đồng nhớ nước non quê nhà.
Nhiều tên núi, tên sông, tên làng cùng các phong tục tập quán thân
thuộc của nhân dân đã đi vào ca dao với tất cả niềm tự hào trước vẻ đẹp giàu
có của nó:
Đất ta bể bạc non vàng
Bể bạc Nam Hải, non vàng Bồng Miêu.
Đó còn là cảm xúc dạt dào trước vẻ đẹp nên thơ của giang sơn gấm
vóc:
Đường vô xứ Nghệ quanh quanh
Non xanh nước biếc như tranh họa đồ
Ai vô xứ Nghệ thì vô...
Nhưng thiên nhiên trong đa số các bài ca dao cổ truyền thường gắn
liền với cuộc sống của con người. Ở đây, hình ảnh con người với tất cả
những phẩm chất tốt đẹp của người dân lao động, của con người Việt Nam
đã trở thành nguồn cảm hứng cho các nghệ sĩ dân gian:
Cày đồng đang buổi ban trưa
Mồ hôi thánh thót như mưa nắng cày
Ai ơi bưng bát cơm đầy
Dẻo thơm một hạt, đắng cay muôn phần.
Những bài ca dao trên là biểu hiện một khía cạnh đẹp đẽ trong truyền
thống đạo lý của người Việt Nam.
2. Tiếng nói đấu tranh chống áp bức cường quyền, đòi quyền sống của con người
* Cuộc đấu tranh xã hội của nhân dân ta qua các thời kỳ lịch sử đã từng
là đề tài phong phú cho những sáng tác ca dao. Nó phản ánh những tâm
trạng đau khổ, uất ức, thái độ phản kháng của người dân lao động đối với giai
cấp thống trị:
- Gánh cực mà đổ lên non
Còng lưng mà chạy cực cỏn theo sau.
- Vua chi vua, quan chi mà quan
Lọng vàng thì có, lòng vàng thì không.
Nó còn dùng tiếng cười để châm biếm, đả kích sâu cay vào bản chất
thối nát, của cả vương quyền, thần quyền.
Ban ngày quan lớn như thần
Ban đêm quan lớn tần mần như ma.
Nó biến thành thứ vũ khí sắc bén chống lại các thể chế xã hội:
Bao giờ dân nói can qua,
Con vua thất thế lại ra quét chùa.
Lên án tố cáo xã hội bất công, ca dao đồng thời là lời than thân, giải
bày nỗi ai oán, xót xa của người dân lao động:
Bồng bồng mẹ bế con sang
Đò to nước lớn mẹ mang con về
Mang về đến gốc bồ đề
Xoay trở hết nghề, mẹ bán con đi.
Là nỗi đau đớn của người cố nông:
Ruộng người cày, vợ người nuôi
Con người mắng mỏ, vợ người yêu đương.
Trong xã hội cũ, phụ nữ là nạn nhân của nhiều tầng áp bức. Và nỗi khổ
của họ đã được phản ánh khá nhiều trong ca dao cổ, nhất là trong bộ phận ca
dao than thân:
- Thân em như hạt mưa sa
Hạt vào dải các, hạt ra ruộng cày.
Con cò lặn lội bờ sông
Gánh gạo nuôi chồng tiếng khóc nỉ non.
3. Tiếng hát nghĩa tình, tiếng hát yêu thương
Ca dao là tiếng nói của tâm hồn là tình cảm thương yêu, là nghĩa tình
chung thủy, là lòng hiếu thuận với những người ruột thịt:
- Mẹ già ở túp lều tranh.
Sớm thăm tốt viếng mới đành dạ con.
- Tôm rằn bóc vỏ bỏ đuôi
Gạo de An Cựu mà nuôi mẹ già.
Từ tình cảm gia đình, mở rộng ra thành tình làng nghĩa xóm, tình cộng
đồng tạo nên những nét đẹp truyền thống của dân tộc: thương yêu đùm bọc,
nhân ái vị tha.
* Một trong những đề tài phong phú nhất của ca dao là tình yêu đôi lứa.
Ca dao trữ tình về tình yêu đôi lứa thường được nẩy sinh trong khung
cảnh lao động:
Hôm qua tát nước đầu đình
Bỏ quên cái áo trên cành hoa xinh.
Em được thì cho anh xin
Hay là em để làm tin trong nhà
Tâm tình và trạng thái tâm lý của tình yêu đôi lứa thường được diễn đạt
bằng một ngôn ngữ vừa giản dị vừa bóng bẩy; vừa ý nhị vừa đậm đà da diết:
Nhớ ai ra ngẩn vào ngơ
Nhớ ai, ai nhớ, bây giờ nhớ ai!
Nhưng cũng có khi "táo tợn" mà vẫn dễ thương:
Ước gì sông rộng một gang
Bắc cầu giải đếm cho chàng sang chơi.
Ca dao ca ngợi tình yêu chung thủy mà tiền tài, quyền lực không thể
lung lạc:
Chồng em áo rách em thương
Chồng người áo ấm xông hương mặc người.
Đọc những bài ca dao về tình yêu đôi lứa trong bối cảnh xã hội Việt
Nam thời phong kiến càng thấy rõ tính dân chủ và nhân đạo sâu sắc của nó.
III. ĐỊNH HƯỚNG PHÂN TÍCH CA DAO
Ca dao là một thể thơ dân gian cổ truyền của dân tộc. Gọi là cổ truyền
vì ca dao được phổ biến rộng rãi và lưu truyền qua nhiều thế hệ. Đồng thời,
ca dao lại mang những đặc điểm nghệ thuật nhất định và bền vững về phong
cách.
Ca dao thường làm theo thể lục bát:
- Có vần (vần ở chân và lưng)
- Có nhịp (thường là nhịp đôi 2/2 nên dễ ngân nga, trầm bổng).
* Giá trị độc đáo của ca dao ở chỗ: Nó phản ánh chân thực tâm hồn,
khí sắc dân tộc. Sinh ra giữa thiên nhiên khắc nghiệt, sống triền miên trong xã
hội hà khắc, lại trải qua bao chiến tranh loạn lạc, dân tộc này không thể không
nói nhiều dấn khổ đau và căm giận. Nhưng cội nguồn sức mạnh tinh thần của
nó lại chủ yếu là chất tươi sáng, rắn rỏi của tâm hồn, là tình cảm thương yêu,
là nghĩa tình chung thủy, là lòng trung hậu với gia đình, bè bạn, họ mạc, đồng
bào, quê hương, đất nước.
- Ca dao là một lối thơ trữ tình trò chuyện (tức là kể chuyện hoặc giải
bày cảm nghĩ, tâm tình với người khác). Đặc điểm này lưu ý khi phân tích,
phải hình dung ra cuộc trò chuyện, người đang trò chuyện và người được
trao gởi tâm tình.
- Khi phân tích ca dao, yêu cầu cơ bản là phải xác định được chủ thể
trữ tình: bài ca dao là lời của ai? Điều cần lưu ý là chủ thể trữ tình ở ca dao
chưa phải là một cá nhân để có thể khai thác những suy nghĩ và tình cảm của
mình một cách riêng tư mà "còn gắn bó không tách rời với nhân dân, còn
hoàn toàn đắm mình trong môi trường tinh thần của nhân dân " (Hê ghen - Mỹ
học). Vì vậy, ta chỉ thấy ở ca dao một số nhân vật trữ tình nhất định, mà tất cả
nhưng người cùng cảnh, nếu cảm thấy đồng điệu, đều có thể dùng chung câu
hát như thể đó là tiếng hát cất lên tự chính trái tim mình.
- Mặc dầu giá trị về nội dung và nghệ thuật của ca dao rất phong phú,
đa dạng, nhưng cũng có những yếu tố bền vững, tạo ra các hệ thống về chủ
đề và hệ thống các yếu tố hình thức. Đặc điểm đó đòi hỏi khi phân tích, cần
đặt bài ca dao trong hệ thống của nó để đối chiếu, xem xét, từ đó, rút ra các
nét riêng, độc đáo của bài ca dao.
- Hướng dẫn học sinh phân tích ca dao là tìm cái tâm tình của con
người được bộc lộ trong bài ca dao đó. Nhưng đó không phải là sự trình bày
của thầy về những tâm tình đó. Điều chúng ta cần là cảm xúc của chính các
em làm sao để những cảnh đời con người với nhũng tình cảm yêu, ghét, nhớ,
quên... như đang hiển hiện trong tâm trí và trước mắt các em.
Để đạt được điều này, chúng ta dùng thủ pháp đặt các em vào tâm thế
của người trong cuộc để tái hiện lại hình tượng. Và những tâm tình đó sẽ
được hòa tan vào trong quá trình dựng lại hình tượng.
Bài 9 - ĐỒNG DAO I. VỀ KHÁI NIỆM ĐỒNG DAO
Đồng dao là những câu hát dân gian có nội dung và hình thức phù hợp
với trẻ em, thường cho trẻ em hát lúc vui chơi.
Đồng dao có thể do người lớn sáng tác nhưng cũng nhiều trưởng hợp
do trẻ em tự sáng tác.
Về phương diện thể loại, đồng dao thuộc lĩnh vực những bài ca dân
gian.
II. NHỮNG ĐẬC TRƯNG CƠ BẢN CỦA ĐỒNG DAO CỔ TRUYỀN
1. Sự “vô nghĩa có duyên"
Xét về mặt nội dung, đồng dao có thể chia làm hai loại: Những bài đồng
dao có nghĩa và những bài đồng dao vô nghĩa.
Những bài đồng dao có nghiã không nằm trong phạm vi sáng tác cổ
truyền, có nội dung rõ ràng và liền mạch thường được sáng tác với mục đích
răn dạy:
Mồng một tháng sáu
Tết của thiếu nhi
Mẹ đưa em đi
Sắm quà mậu dịch
Ô tô bình bịch
Có cả vịt hơi
Này các bạn đi
Ta chơi chung nhé.
Về hình thức, những bài đồng dao này, lời hát khá sinh động, ngôn ngữ
cũng mộc mạc, âm điệu thích hợp và có dụng công chú ý đến tâm lý trẻ em.
Song trên thực tế, loại ca dao này không được các em đón nhận.
Trái lại, những bài đồng dao cổ truyền thường được xem là lung tung,
tản mạn, giá trí nghệ thuật thường bị đánh giá thấp hoặc cho là không có gì
lại được trẻ em yêu thích, không ai dạy mà vẫn thuộc:
Giung giăng giung dẻ
Dắt trẻ đi chơi
Lạy cậu lạy mợ
Cho cháu về quê
Cho dê đi học
Cho cóc ở nhà
Cho gà bới bếp
Ngồi xệp xuống đây!.
Những bài đồng dao cổ truyền thường không có bài nào tập trung cả
gần như là những đoạn chắp vá, gặp đâu đó, còn ý nghĩa chung thì rời rạc,
câu nọ xọ câu kia, đang nói chuyện này thì nhảy sang chuyện khác. Nhưng có
lẽ vì thế mới làm cho trẻ em thích thú. Trí tưởng tượng của các em không bị
gò bó, không dừng lại một chỗ, một nới. Và điều đó hoàn toàn phù hợp với tư
duy đồng dao - một thứ tư duy bằng ấn tượng chứ không phải bằng lý luận.
Cho nên những bài đồng dao này mặc dầu không có nghiã, nhưng vẫn cần
thiết, vẫn hay. Và theo Vũ Ngọc Khánh, thi pháp đồng dao rất cần sự "vô
nghĩa có duyên" này.
2. Phép trùng lặp
Ở đồng dao, từ ngôn từ đến điệu thức cho đến hành động đều có sự
lặp đi lặp lại có tính chất chu kỳ và được xem là yêu cầu chủ yếu. Sự lặp lại ở
người lớn thường gây sự nhàm chán, nhưng ở đồng dao, càng trở đi trở lại
các em càng thấy thích thú và chỉ chuyển đổi tuỳ theo hứng khởi.
3. Kèm động tác
Xét về phương diện diễn xướng, trẻ em hát đồng dao thường kèm với
động tác. Động tác này có thể riêng rẽ, củng có thể là một trò chơi hay một
màn hoạt cảnh v..v... của một nhóm các em từ hai; ba người trở lên. Rất hiếm
cảnh các em hát đồng dao một thình và không kèm động tác. Đảm bảo chất
hiếu động cho các em trong sáng tác đồng dao là một yêu cầu về thi pháp.
Điều đó lý giải sức sống lâu bền của nó trong đời sống sinh hoạt của các em.
Và cỏ lẽ đối với những bài đồng dao cỏ nội dung răn dạy nếu có khả năng
biến thành thột trò chơi sẽ có điều kiện gắn bó và hấp dẫn các em hơn. Điều
này hoàn toàn phù hợp với quan niệm dạy học mới ở tiểu học. Học mà chơi,
chơi mà học.
III. DẠY HỌC ĐỒNG DAO Ở BẬC TIỂU HỌC
Đồng dao ở chương trình Tiếng Việt ở tiểu học thường được học ở
những lớp đầu cấp với mục đích là luyện thao tác tưởng tượng cho các em.
Việc khai thác nội dung, ý nghĩa của các bài đồng dao là chưa cần thiết. Vấn
đề ở đây là tạo ra trong tâm trí các em những hình ảnh rời theo cách nhìn,
cách diễn đạo của chính các em. Nói "ông tiên ông tiên" thì các em tha hồ mà
tưởng tượng ông tiên ấy là như thế nào, "Vừa đi vừa nhảy/1à con sáo
xinh/hay nói anh tinh/1à con tiếu điếu...” thì tha hồ mà tưởng tượng từ con
chim sang tới tận con người. Đặc biệt là cái loglc không logic của đồng dao,
nó dẫn các em từ sự việc này nhảy cóc sang sự việc khác, làm cho trí tưởng
tượng của các em không dừng lại một chỗ, một nơi. Và cái đó rất phù hợp với
“tư duy đồng dao”. Bài đồng dao cổ truyền chỉ cốt vui, chỉ cốt tưởng tượng và
nhảy cóc thật nhiều. Sự phong phú lúc này là nhiều và tốc độ. Việc hướng
dẫn cho các em tạo ra những hình ảnh rời ở đồng dao chỉ là cơ sở để các em
tiến tới dựng thành những hình tượng nghệ thuật hoàn chỉnh ở các thể loại
văn học khác sau này.
Vần và nhịp là hai yếu tố không thể thiếu được của đồng dao. Sự trùng
lặp trong đồng dao đã làm cho các hình ảnh rời được liên kết lại theo một kết
cấu đặc biệt. và chính yếu tố này đã góp phần quan trọng trong việc làm nên
nhịp điệu ở đồng dao. Mặc dầu còn đơn giản, gần với lời nói thường nhưng
cũng là những cách nói văn cần cho trẻ em thấm nhuần ngay từ bước đầu
học văn.
HƯỚNG DẪN HỌC TẬP
I.Câu hỏi
1 Xác định khái niệm ca dao.
2. Trình bày các chủ đề lớn trong ca dao.
3. Nêu những đặc trưng cơ bản của đồng dao.
II. Bài tập
1. Hình ảnh thiên nhiên, đất nước, con người được thể hiện trong các
bài ca dao ở chương trình tiếng Việt Tiểu học.
2. Nêu những suy nghĩ của anh chị về vấn đề dạy - học đồng dao ở
Tiểu học (có phân tích, dẫn chứng).
III. Tư liệu tham khảo
1. Ca dao Việt Nam. Nxb Văn học. H. 1983
2. Thi pháp ca dao. Nguyễn Xuân Kính. KHXH - 1992
3. Văn học dân gian - Trần Hoàng - Nxb Giáo dục - 1998
4. Văn học - Tập 1 - Giáo trình dùng trong các trường Sư phạm đào tạo
giáo viên tiểu học. Bộ Giáo dục và Đào tạo - Vụ Giáo viên - hà Nội - 1993.
5. Tạp chí Văn học – 5.1993
6. Bộ sách giáo khoa tiếng Việt Tiểu học - Nxb Giáo dục Hà Nội - 1994.
B. VĂN HỌC VIẾT CHO THIÊU NHI I. KHÁI QUÁT VĂN HỌC VIẾT CHO THIẾU NHI
1. Thời kỳ trước Cách mạng tháng Tám - 1945
Nhìn chung trước Cách mạng tháng Tám đã có văn học cho thiếu
nhưng chưa thật sự có một nền văn học cho thiếu nhi.
Khi chữ Quốc ngữ đã được sử dụng rộng rãi, một số tác phẩm văn học
thiếu nhi châu âu, chủ yếu là nguồn văn học Pháp đã được giới thiệu qua Việt
Nam như: Thơ ngụ ngôn của La Phông ren và Truyện cổ pe-rô.... Qua thế
giới các loài vật quen thuộc, qua lời thơ hóm hỉnh, cốt truyện hấp dẫn, các tác
phẩm văn học dịch đã đem lại cho bạn đọc nhỏ tuổi Việt Nam niềm say mê
thích thú.
Ở trong nước, do chịu ảnh hưởng của văn học phương Tây, do nhu
cầu đọc sách của con em tầng lớp thị dân, từ năm 1920 trở đi, đã có nhiều
sách báo các nhà văn trong nước được xuất bản. Đó là một số loại sách
Hồng, Hoa Mai, Học Sinh, Tuổi Xanh, Truyền Bá...của nhóm Tự Lực Văn
Đoàn chủ yếu phục vụ cho đối tượng thiếu nhi thành thị Đề tài của nhóm đóng
khung trong sinh hoạt phố phường, với những màu sắc tươi sáng, không
phản ánh được một cách toàn diện cảnh sống của trẻ em thời kỳ đất nước
còn bị xâm lăng.
Cũng tròng giai đoạn này, một số nhà văn hiện thực tham gia viết cho
các em như Tú Mỡ, Nguyên Công Hoan, Nam Cao, Tô Hoài... Tác phẩm của
họ có khuynh hướng hiện thực và đã đề cập đến nỗi bất hạnh của trẻ em
nghèo hoặc nhằm giáo dục nếp sống lành mạnh, giáo dục đạo đức, lý tưởng
cho thiếu nhi như: đơn mèo một ngọc (Truyện 1942), Những kẻ khốn nạn
(Truyện, 1942); Bài học quét nhà của Nam Cao; Tô Hoài dùng hình thức đồng
thoại để đề cập đến những vấn đề lớn trong xã hội: Đám cưới chuột, Võ sĩ Bọ
Ngựa và thiên đồng thoại xuất sắc : Dế mến phiêu lưu ký (1941). Hình tượng
Dế mèn đã trở thành biểu tượng quen thuộc cho niềm mơ ước được sống
phóng khoáng, thoát khỏi cuộc sống chật hẹp của một xã hội bất công. Ngoài
ra, tập truyện Nữ ngôn Đông Tây được sáng tác dựa theo ý thơ nước ngoài
của Nguyễn Văn Ngọc, Truyện thơ Nàng Bạch Tuyết và bảy chú lùn phỏng
theo truyện cổ Đức của anh em nhà Gam) và Tấm Cám của Tú Mỡ cũng
được các em đón nhận.
2. Từ năm 1945 đến 1954
Tuy Cách mạng mới thành công, công việc nước nhà còn bề bộn, mặt
khác phải lại phải bắt tay ngay vào cuộc kháng chiến chống Pháp trường kỳ,
nhưng Đảng, Chính phủ và Bác Hồ vẫn quan tâm đến sự hình thành nền văn
học mới cho thiếu nhi. Tờ Thiếu sinh - tiền thân của báo Thiếu Niên Tiền
Phong đã dược ra mắt từ năm 1946. Hàng năm vào những dịp Trung Thu,
Tết 1-6 hay những dịp biểu dương khen ngợi thiếu nhi, Bác Hồ đều có thư
chúc tết, thư khen các cháu.
Trong những năm kháng chiến chống Pháp, nhà xuất bản Văn nghệ đã
cho in một số sách mang tên Kim Đồng: chiến sĩ ca nô của Nguyễn Huy
Tưởng, Hoa Sơn của Tô Hoài, Dưới chân cầu Mây của Nguyên Hồng, Chú
Giao làng sen của Nguyễn Tuân... Tuy số lượng còn ít ỏi, nội dung còn đơn
giản nhưng các truyện viết cho thiếu nhi thời kỳ này đã đề cập đến những
gương thiếu nhi dũng cảm nhằm động viên kịp thời những cố gắng của thiếu
nhi và phục vụ trực tiếp cho cuộc kháng chiến.
3. Từ 1954 - 1964
Ngày 17/6/1957 nhà xuất bản Kim Đồng dược thành lập, mở ra một giai
đoạn mới của văn học thiếu nhi.
Giai đoạn đầu đội ngũ viết cho thiếu nhi còn quá mỏng nên sách xuất
bản chủ yếu là truyện cổ tích và truyện dịch. 1957, tác phẩm xuất sắc Đất
rừng phương Nam của Doàn Giỏi ra mắt bạn đọc, mở đầu cho hàng loạt tác
phẩm thiếu nhi viết về đề tài kháng chiến chống Pháp: Hai làng Tà Phình và
Động Hía (1958) của Bắc Thôn, Em bé bên bờ sông Vu Lai (1958) của Vũ
Cao, Cái thăng (1961) của Võ Quảng, Và A Dính (1963) của Tô Hoài... Những
tác phẩm này đã dựng lên những gương thiếu nhi anh hùng, khẳng định vai
trò của các em trong cuộc kháng chiến chống Pháp.
Bên cạnh đó có hai truyện lịch sử xuất sắc của Nguyễn Huy Tưởng: Kể
chuyện Quang Trung và Lá cờ thêu sáu chữ vàng (1960) Ngoài ra, văn học
thiếu nhi thời kỳ này còn xuất hiện loại truyện viết về đề tài sinh hoạt. Các
nhân vật thiếu nhi đều có những nét hồn nhiên, trong sáng, tiêu biểu cho thế
hệ thiếu nhi sau Cách mạng tháng Tám.
Cùng với truyện, thơ viết cho thiếu nhi bước đầu được quan tâm và
phát triển. 1961, tuyển tập thơ văn thiếu nhi lần đầu tiên dược xuất bản.
Một dội ngũ sáng tác cho thiếu nhi được hình thành: Văn Linh, Phong
Thu, Viết Linh, Xuân Sách, Hải Hồ, Thi Ngọc, Vũ Ngọc Bình, Thái Hoàng Linh,
Xuân Tửu và đặc biệt là sư xuất hiện của thơ văn Phạm Hổ và Võ Quảng đã
làm cho văn học thiếu nhi khởi sắc hẳn lên.
4. Từ 1964 - 1975
Tiếp nối giai đoạn trước, văn học thiếu nhi thời kỳ này phát triển về mọi
mặt.
Một loạt tuyển tập truyện và thơ được xuất bản, khẳng định bước tiến
rõ nét của nền văn học thiếu nhi. Tiêu biểu là Truyện viết cho thiếu nhi (1961)
của Nguyễn Huy Tưởng, ông Than đá (1969) của Viết Linh. Vừ A Dính (1974)
của Tô Hoài, Hai bàn tay chiến sĩ - Tập truyện chọn lọc vế đề tài kháng chiến
chống Pháp. Dòng nước xiết (1970), tập truyện ngắn và ký về đề tài miền Bắc
chống Mỹ, Măng tre (1971) thơ của Võ Quảng.
Từ năm 1965, hình thành một mảng sách lớn viết về truyền thống
chống ngoại xâm trong văn học thiếu nhi. Do là những truyện viết về lịch sử
chống ngoại xâm, về cuộc kháng chiến chống Pháp, cuộc kháng chiến chống
Mỹ ở cả hai miền Nam Bắc.
Truyện lịch sử đã phản ánh một cách chân thực, sinh động những sự
kiện lịch sử và khắc họa thành công một số nhân vật lịch sử như Quang
Trung, Trần Quốc Toản...
Đề tài trong kháng chiến chống Pháp tiếp tục được khai thác với nhiều
thành tựu mới. Các tác giả đi sâu vào miêu tả cuộc đời của các thiếu nhi anh
hùng. Đội du kích Đình Bảng của Xuân Sách là truyện dài đầu tiên viết cho
các em, mô tả hình ảnh một tập thể thiếu niên anh hùng đã đóng góp nhiều
công sức cho cách mạng. Những trang viết về sự hy sinh anh dũng của các
em thấm đẫm chất trữ tình, gây xúc động sâu sắc cho người đọc.
Chỗ cây đa làng, Cái Thăng, Quê nội của Võ Quảng là bài ca về công
ơn của cách mạng, ca ngợi lòng yêu nước, trí thông minh tài giỏi và sự
trưởng thành của các em thiếu nhi vùng địch hậu.
Từ năm 1965, đề tài chống Mỹ được các tác giả quan tâm và khai thác:
Mẹ vắng nhà của Nguyễn Thi, Hồ Văn Mên (1969) của Lâm Phương, Chú bé
Cà Xiên (1973) của Minh Thoa, út Tám (1971) của Ngô Thông.
Đề tài lịch sử tiếp tục dược khai thác với sát thái của Lê Vân và Nguyễn
Bích (1971), Bên bờ Thiên Mạc (1967), Trên sông truyền hịch (1973), Trăng
nước Chương Dương của Hà ân...
Nhìn chung, sách viết về truyền thống yêu nước chống ngoại xâm của
dân tộc qua nhiều thời kỳ lịch sử đã miêu tả khá chân thực hình ảnh của các
em trong một quá trình trưởng thành đầy gay go và ác liệt. Cuộc sống của các
nhân vật thiếu nhi trong chiến đấu được miêu tả sinh động, phù hợp với tâm
lý ưa hoạt động, ưa phiêu lưu của các em nên được các em yêu thích.
Đề tài hiện đại cũng được khai thác, phản ánh sinh hoạt sôi nổi của các
em chủ yếu trên các mặt học tập, lao động và vui chơi.
Nhưng trước năm 1965 còn rất mờ nhạt. Bước vào cuộc chống Mỹ,
nhiều sáng tác viết về nhà trường - đặc biệt là nhà trường trong những năm
chống chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ trên miền Bắc đã gặt hái được
thành công: chú bé sợ loạn (1965) của Hải Hà, Năm thứ nhất (1965) của Minh
Giang, Trận chung kết (1975) của Khánh Hòa, Những hạt nắng đầu tiên
(1971) của Lê Phương Liên, Hoa cỏ đắng của Nguyễn Thị Như Trang, Mái
trường thân yêu của Lê Khắc Hoan... ở mảng đề tài này, tác giả thường là
những thầy giáo, cô giáo nên có sự am hiểu vệ sinh hoạt nhà trường và tâm
lý học sinh.
Đề tài lao động cũng được nhiều tác phẩm đề cập đến. Người viết đã
biết khai thác nhiều khía cạnh của đời sống thực tế để tìm ra những nội dung
phong phú, phù hợp với tâm lý nhỏ tuổi. Nhiều tác phẩm khá hay xuất hiện
như: Cơn bão số 4 (1960) của Nguyễn Quỳnh, Quỳnh xóm cháy (1965) của
Bùi Hiển, Xã viên mới (l965) của Minh Giang, Những cô tiên áo nâu của
Hoàng Anh Đường, Kể chuyện nông thôn của Nguyễn Kiên.
Sự phát triển mạnh mẽ của loại truyện viết về đề tài con người mới
dưới nhiều dạng khác nhau là một sự kiện đáng chú ý trong văn học viết cho
thiếu nhi giai đoạn này. Đó là sản phẩm của chế độ mới trên miền Bắc Xã hội
Chủ nghĩa, đồng thời là sự hưởng ứng của các nhà văn đối với phong trào thi
đua Nghìn việc tốt của các em. Trong đó có loại sách hoàn toàn ghi lại những
sự kiện, những con người một cách vắn tắt và đầy đủ trong các tập Việc nhỏ
nghĩa tớn, sách viết về người thực, việc thực dưới dạng hư cấu ít nhiều; có
loại là hồi ký như Lớn lên nhờ Cách mạng (1965) của Phừng Thế Tài, Truyện
Những năm tháng không quên (1970) của Nguyễn Ngọc Ký, Truyện kể Hoa
Xuân Tứ (1961) của Quang Huy.
Không giống với những truyện trên, cô Bê 20 (1966) của Văn Biển là
một truyện đồng thoại với rất nhiều chất thơ, vừa chân thực sinh động vừa
khơi gợi sức tưởng tượng.
Mảng sách khoa học được hình thành và phát triển nhờ vào sự đóng
góp của những người làm công tác khoa học và nhà văn như: Viết Linh với
ông Than đá và Quả trứng vuông, Vũ Kim Dũng với Cô kiến trinh sát, Thế
Dũng với Thảm xanh trên ruộng, Hoàng Trọng Bình với Bí mật một khu rừng,
Phạm Ngọc Toàn với Đỉnh núi Nàng Ba... tạo nên một thời kỳ sung sức của
thể loại này.
Thơ cho thiếu nhi tiếp tục phát triển với những tên tuổi quen thuộc.
Trong số đó có những tác giả dã dành tất cả tâm huyết cho các em, chỉ viết
cho các em như Phạm Hổ, Võ Quảng, Định Hải...
Thơ của các nhà thơ viết cho các em có những nét mộc mạc, đáng yêu
chân thành, đôn hậu và nhân ái đem cái đẹp và cái thiện đến cho trẻ em, với
cả tấm lòng ưu ái của lớp cha anh mong muốn con em mình lớn lên trở thành
những người công dân tốt.
Hiện tượng các em làm thơ cũng là một nét mới, khá độc đáo của văn
học thiếu nhi thời kỳ này. Cho đến bây giở, người ta vẫn không quên có một
thần đồng thơ Trần Đăng Khoa mà cả thế giới biết đến với những vần thơ
“mạnh hơn bom đạn". Bên cạnh Trần Đăng Khoa là Khánh Chi, Hoàng Hiếu
Nhàn, Chu Hồng Quý, Nguyễn Hồng Kiên, Cẩm Thơ... Thơ của các em đặc
biệt phát triển ở thời kỳ này. Nó góp vào cho "nền” thơ thiếu nhi một hương vị
mới, một màu sắc mới trong trẻo, hồn nhiên, ngộ nghĩnh nhưng cũng không
kém phần tinh tế sâu lắng.
5. Từ 1975 đến nay
Sau một thời gian lúng túng, bế tắc trong tình thế xóa bao cấp và trong
cơ chế thị trường, văn học thiếu nhi trong những năm gần đây đã bắt dầu
khởi sắc phát triển cả chiều rộng và chiều sâu.
Ngoài việc tiếp tục khai thác các chủ đề và đề tài trước đó, văn học
thiếu nhi còn đi sâu thể hiện những khía cạnh phức tạp của đời sống. Điều đó
khẳng định cách nhìn, cách nghĩ mới về đối tượng thiếu nhi ngày nay.
Bên cạnh những cây bút quen thuộc viết cho thiếu nhi nhú Tô Hoài, Phạm Hổ,
Võ Quang... còn xuất hiện hàng loạt cây bút mới nhưng tác phẩm của họ đã
tạo được những ấn tượng sân đậm trong tâm trí của các em như Xuân Quỳnh
với Bến tàu trong thành phố, Nguyễn Quang Sáng với Dòng sông thơ ấu; Duy
Khán với Tuổi thơ im lặng, Phùng Quán với Thời thơ dữ dội, Hành trình ngày
thơ ấu của Dương Thu Hương, Miền thơ ấu của Vũ Thư Hiên và đặc biệt là
Nguyễn Nhật Ánh với hơn 40 đầu sách các loại viết cho thiếu nhi.
Từ năm 1990 trở lại đây, văn học thiếu nhị thật sự có những biến
chuyển đáng kể. Nhiều tác phẩm mới viết cho thiếu nhi được ra mắt như Mái
trường xưa của Viết Linh (1992) Đồi sói hú của Nguyễn Quỳnh, Người làm
mồi bẫy của Vi Hồng (1990). Chú bé thổi kèn của Quách Liêu (1991), Tuổi thơ
khát vọng của Võ Đức Nguyên (1990), Mầm đước của Trần Hoài Dương
(1994), Hương đồng có nội của Phạm Đức, Quả trời của Ngô Văn Phú
(1994), Một cần câu của Trần Thanh Địch (l993), Chú bé nhặt bông gạo của
Ngô Quân Miện (1994); Thành hoàng quê ngoại của Đoàn Hữu Phương
(1944)...
Một số cây bút trẻ cũng đã cho ra mắt độc giả những tác phẩm đầu tay
của họ. Đặc điểm chung của các cây bút trẻ này là không nghiêng về miêu tả
nhân vật mà đi sâu vào thế giới tâm trạng của lớp người sắp bước vào tuổi
trưởng thành. "Với chút bâng khuâng, với chút giận hờn, với sự mơ màng, với
những buồn vui bất thường và vô cớ, với ước mơ và khát vọng cháy bỏng"
Vân Thanh - (Đôi điều vê sự khởi sắc của văn học thiếu nhi hôm nay - Tạp chí
Văn học - Số 6/1995).
Nếu như ở giai đoạn trước, thơ thiếu nhi đặc biệt phát triển thì giai đoạn
này, của tập thơ thiếu nhi có phần thưa thớt. Còn những cây bút quen thuộc
ở thời kỳ trước như Phạm Hổ, Võ Quảng, Định Hải vẫn tiếp tục làm thơ cho
các em. Bên cạnh đó nổi lên những tác giả có phong cách riêng như: Nguyễn
Hoàng Sơn với Dắt mùa thu vào phố, Mai Văn Hải với Bờ ve ran (1990),
Phùng Ngọc Hùng với May áo cho mèo (1991)...
Cùng với sự ra đời của các sáng tác văn học, những tập sách, những
bài nghiên cứu về văn học thiếu nhi cũng đã được xuất bản: Truyện viết cho
thiếu nhi dưới chế độ mới của Văn Thanh - 1982, Đôi điều tâm đắt của Vũ
Ngọc Bình (1985), Hái hoa đầu mùa của Văn Hồng (1986)... Hàng loạt tờ báo,
tạp chí chuyên viết cho lứa tuổi thanh thiếu nhi được xuất bản Mực Tím, áo
Trắng, Hoa Học Trò... bên cạnh những tờ báo truyền thống.
Những tác phẩm văn học thiếu nhi nước ngoài có giá trị cũng đã được
dịch và giới thiệu với bạn đọc nhỏ tuổi Việt Nam với đủ các thể loại, như Công
viên khủng long kỷ Jura của Michael Crichton, một thiên truyện mà báo Time
đã đánh giá "Bằng tài năng hiếm có, Michael Crichton đã sáng tạo ra Công
viên kỷ Jura - một thiên truyện hoàn mỹ, ly kỳ và giật gân nhất thời nay". Bộ
truyện tranh Đôrêmon của Fujikô F.Fujio mặc dầu đã được ấn hành trên 50
tập vẫn được các em háo hức đón nhận. "Nó chứng tỏ sự tìm kiếm những
cách viết mới trên cơ sở các cốt truyện và chi tiết tâm lý, sư hóm hỉnh và
thông minh, sức tưởng tượng bao giở cũng là nhân tố cần được coi trọng
trong sáng tác văn học cho thiếu nhi".
Những tác phẩm viết cho thiếu nhi trong và ngoài nước trước đây như
Truyện kể Andersen, Truyện Ngụ ngôn của Lép Tôn xtôi, Dế mèn phiêu lưu
ký của Tô Hoài, Thơ thiếu nhi Trần Đăng Khoa v.v..đã dược tái bản nhiều lần
nhằm đáp ứng nhu cầu ham hiểu biết và thưởng thức nghệ thuật của các em.
Nhìn lại chặng đường phát triển của văn học thiếu nhi trong những điều
kiện lịch sử khác nhau, chúng ta thấy văn học thiếu nhi tuy có những bước
thăng trầm nhưng cũng đã đạt được những giá trị nhất định và ngày càng
khởi sắc.
II. TRUYỆN LỊCH SỬ VIẾT CHO THIẾU NHI CỦA NGUYỄN HUY TƯỞNG
1. Vài nét về tác giả
Nguyễn Huy Tưởng anh ngày 6.5.1912 tại xã Dục Tú, huyện Từ Sơn
tỉnh Bắc Ninh, nay thuộc huyện Đông Anh, ngoại thành Hà Nội, ông mất ngày
25.7.1960.
Nguyễn Huy Tưởng là nhà văn đồng thời là nhà viết kịch thành công
nhất ở những tác phẩm lấy đề tài lịch sử. Những tác phẩm thành công nhất
của ông là Dân hội Long Trì (Tiểu thuyết lịch sử 1942), Bắc Sơn (Kịch - 1946);
Sông mãi với thủ đô (Tiểu thuyết mới hoàn thành tập I - in năm 1961).
Trước Cách mạng tháng Tám, Nguyễn Huy Tưởng chưa viết truyện lịch
sử cho các em. Sau cách mạng, ông viết cũng chưa nhiều. Nhưng những gì
ông viết đều có giá trị. Niềm mong ước của ông là "làm sao cho hết thảy con
em, cả một thế hệ bước sau chúng ta khi các em vừa đến tuổi làm quen với
sách vở đã biết thưởng thức và say mê những câu chuyện do tưởng tượng
mới thấy, thì trước hết, các em phải được thấy một cách xúc động và thiêng
liêng sức sống vĩ đại của dân tộc và con người Việt Nam". Ông thèm có tài
năng nào "đem được cả nghìn năm lịch sử dựng nước biến thành một bộ
truyện chói lòa, hàng trăm, hàng trăm nhân vật anh hùng"
Sáng tác Cho thiếu nhi của ông đã được in thành tập Tìm mẹ - phần
nhiều là truyện lịch sử hoặc kể lại truyền thuyết và cổ tích.
Ông là người tham gia sáng lập, đồng thời là Giám đốc đầu tiên của
Nhà xuất bản Kim Đồng.
2. Tác phẩm
Sáng tác của Nguyễn Huy Tưởng viết cho thiếu nhi có thể xoay quanh
hai chủ đề lớn, phản ánh hai phương diện cơ bản của dân tộc ta: chủ đề
chống áp bức và chủ đề chống ngoại xâm.
2.1. Chủ đề cử chống áp bức
Chủ đề chống áp bức được thể hiện qua mảng đề tài cổ. Thông qua
những câu chuyện có dáng dấp và mô típ của truyện cổ tích thần kỳ tác giả
đã nói lên khát vọng đổi đời của người dân nghèo khổ.
Trong Tìm mẹ, người ta có thể thấy được cuộc đấu tranh lâu dài, gian
khổ của người dân lao động chống lại bọn địa chủ cường hào để giành lấy
quyền sống của mình. Trong truyện, Chúa làng là một kẻ tàn ác bóc lột người
dân thậm tệ: "Lúa gặt được bao nhiêu phải nộp cho chúa làng bấy nhiêu.
Hươu nai bán được con nào phải nộp cho chúa làng con ấy...". Hậu quả là
những người lao động quanh năm đầu tắt mặt tối vẫn không có gì để sinh
sống, nương thân. Họ đành gửi niềm mong ước của mình vào tên gọi của
những đứa con, đó là Nhà và Gạo. Không những thế Chúa làng còn giết cha
của Nhà và Gạo. Người mẹ phải đưa hai con gửi cho núi rừng để đi tìm
nguồn sống. Trong khi đó, Chúa làng vì giết người, ăn phải rận thiêng nên
hóa hổ nhưng vẫn không từ bỏ thói quen gian ác. Hai anh em Nhà và Gạo đã
hợp sức với người con gái bị hổ ép làm vợ lập mưu giết hổ. Sau khi giết hổ,
các em lên đường đi tìm me. Cuối cùng ba mẹ con đã được đoàn tụ trong
niềm mơ ước đang dần thành hiện thực "Thế nào Nhà cũng có nhà, Gạo
cũng có gạo".
Với Con cóc là cậu ông Trời, thoạt nhìn, câu chuyện dường như mang
chủ để chống thiên nhiên, giữa một bên là những con vật bé nhỏ nhưng dũng
cảm, gan dạ với một bên là lực lượng siêu nhiên: Trở, Thiên lôi, Thiên tướng,
Thiên tinh... Cuối cùng sư gan dạ, mưu trí của những con vật bé nhỏ đã thắng
nhưng ẩn đằng sau câu chuyện là nội dung đấu tranh xã hội giai cấp gay gắt.
Câu chuyện bao hàm triết lý: Chính nghĩa thắng gian tà.
2. 2. Chủ đề chống ngoại xâm
Chủ đề chống ngoại xâm thể hiện tập trung qua mảng truyện viết về đề
tài lịch sử. Mỗi truyền là một trang anh hùng bất tử của dân tộc tử ngàn xưa
cho đến cuộc kháng chiến chống Pháp.
Truyện Lá cờ thêu sát chữ vàng đã làm sống dậy hình ảnh Trần Quốc
Toản, vị thiếu niên anh hùng đời Trần. Mặc dù còn nhỏ tuổi, nhưng trước
cảnh đất nước lâm nguy bởi họa ngoại xâm, Trần Quốc Toản đã tình nguyện
tham gia gánh vác việc nước. Bị từ chối vì chưa đến tuổi trưởng thành, Trần
Quốc Toàn về quê, cùng với vị tướng giá chiêu mộ quân sĩ, luyện tập ngày
đêm. Với Lá cờ thêu sáu chữ vàng “Phá cường địch, báo hoàng ân" (phá giặc
mạnh, đền ơn vua), Trần Quốc Toản dẫn đoàn quân đi tìm giặc mà đánh.
Được sự hỗ trợ của vị tướng già trung thành, của anh em nhà Thế Lộc, đoàn
quân của Trần Quốc Toàn đã thu được những thắng lợi to lớn. Khi được triều
đình thu nhận và tin cậy, đạo quân của Trần Quốc Toản tiếp tục lên đường và
thu được những thắng lợi lớn, đặc biệt là trận Hàm Tử chống ô Mã Nhi. Lá cờ
thêu sáu chữ vàng là ý chí quyết chiến, quyết thắng của một thế hệ thiếu niên
giàu lòng yêu nước.
Kể chuvện Quang Trung là bức tranh lịch sử rộng lớn về cuộc tiến công
ra Bắc của Bắc Bình Vương Nguyên Huệ. Trong đó, điểm chốt là trận Đống
Đa lịch sử. Trong tác phẩm, hình ảnh người anh hùng Nguyễn Huệ đã được
Nguyễn Huy Tưởng khắc họa như một vị tướng tài ba, có tài xét đoán, có tầm
nhìn xa trông rộng, có cách xử trí linh hoạt trong mọi tình huống. Đó là việc
Quang Tnmg thăm dò ý chí quyết tâm Bắc tiến của binh sĩ lúc đoàn quân tiến
tới sông Gianh. Khi đến gần Thăng Long, để đảm bảo tuyệt đối bí mật, ông đã
dùng mưu kế lấy đồn Hạ Hồi không một tiếng súng, không tốn một mũi tên,
không thất một tên lính. Khi bị hỏa lực địch tấn công; Quang Trung đã dựa
vào dân, dùng lối đánh du kích để mở đường, vượt thành lũy, hạ đồn địch.
Khi Thăng Long đã về tay Tây Sơn, Quang Trung cũng không vì thế mà chủ
quan, ông sai quan Thị lang Ngô Thời Nhiệm viết thư gửi lên Hoàng đế nhà
Thanh, tỏ rõ thiện chí của mình để giải hòa giữa hai nước, tránh hậu họa về
sau.
3. Truyện lịch sử - Lá cờ thêu sáu chữ vàng
3. 1. Nét đặc trưng cua truyện lịch sử viết cho thiếu nhi
- Truyện lịch sử thường lấy cảm hứng từ các sự kiện lịch sử có tâm
thời đại.
- Viết truyện lịch sử, điều quan trọng là phải tôn trọng các sự kiện lịch
sử. Nhưng tôn trọng mà không bị ràng buộc, không biến thành nô lệ cho các
sự kiện.
- Một trong những nhiệm vụ của truyện lịch sử là dựng lại trước mắt
các em không khí của các sự kiện lịch sử và những con người lịch sử, có như
vậy mới bảo đảm được tính chân thực trong sáng tác.
- Thành công của truyện lịch sử là ở mục đích giáo dục của nó. Thông
qua sự tái hiện một cách chân thực, sinh động của các sự kiện lịch sử và
những con người lịch sử, tác phẩm dẫn đến cho các em những bài học quý
về lòng yêu nước và tinh thần tự hào dân tộc.
3. 2. Hướng dẫn phân tích
* Bối cảnh
Lá cờ thêu sáu chữ vàng được lấy cảm hứng từ các sự kiện lịch sử xẩy
ra ở đời nhà Trần, khi quân Nguyên xâm lược nước ta lần thứ hai.
Đời Trần là một mốc son của lịch sử với nhiều sự kiện đáng ghi nhớ:
Hội nghị Bình Thanh khởi động tinh thần kháng chiến của vua quan nhà Trần,
Hội nghị Diên Hồng, cuộc họp mặt rộng rãi các bô lão, đại biểu của toàn dân
để bàn việc nước trước họa xâm lăng.
Đó cũng là thời dại của những anh hùng với những câu nói bất hủ: Trần
Thủ Độ "Đầu tôi chưa rơi xuống đất, xin bệ hạ đừng lo"; của Trần Bình Trọng:
"Thà làm quỷ nước Nam còn hơn làm vương đát Bắc". Và đặc biệt của Trần
Quốc Toản, người thiếu niên anh hùng đời Trần: "Trước hết chém đầu thần
rồi hãy hàng”...đã biểu lộ khí phách quật cường, ý chí quyết tâm tiêu diệt giặc
Nguyên của dân tộc ta.
* Nhân vật Trần Quốc Toản
Trần Quốc Toản là hình tượng trung tâm của tác phẩm, tiêu biểu cho
chí khí cộng đồng dân tộc quyết đuổi giặc Nguyên ra khỏi bờ cõi. Nhân vật
Trần Quốc Toản được xây dựng trên những khung cảnh trang nghiêm, trầm
hùng của hội nghị Bình Than, của buổi lễ ăn thề, của cảnh đoàn quân khởi
nghĩa thích hai chữ "Sát Thát” vào cánh tay, buổi lên đường của đoàn quân
tuổi trẻ...
Tái hiện Trần Quốc Toản, tác giả chú ý khai thác những khía cạnh anh
hùng của nhân vật qua bút pháp tương phản ngay trong bản thân nhân vật,
giữa những tình huống kịch. Đó là sự tương phản giữa ngoại hình với ý chí
dời non lấp bể; giữa tuổi tác và một nếp nghĩ già dặn và giữa một tâm hồn
giàu tình cảm với bán lĩnh anh hùng quyết đoán.. Nhìn chung, nhân vật Trần
Quốc Toản đã được phát triển qua nhiều nét khác nhau, giải thích lẫn nhau,
tạo nên một tính cách hoàn chỉnh. Đồng thời, Nguyễn Huy Tưởng cũng cho ta
thấy không phải ngẫu nhiên mà Trần Quốc Toản có được tinh thần yêu nước
sâu sắc như vậy. Chính tình thế đất nước, môi trường gia đình và hoàn cảnh
xã hội đã góp phần tạo nên người anh hùng Trần Quốc Toản.
Bên cạnh hình ảnh Trần Quốc Toàn là hình ảnh cả nước một lòng
quyết tâm đánh giặc. Có nhiều hình ảnh xúc động: Cuộc hội nghị bàn kế đối
sách với quân Nguyên của vua quan nhà Trần, hình ảnh nhân dân tiễn đưa
con em lên đường giết giặc, những bà mẹ nén lòng thương nhớ, khích lệ con
lập công..
* Nghệ thuật
Ngôn ngữ là một yếu tố góp phần làm nên giá trị của tác phẩm. Có thể
nói, Nguyễn Huy Tưởng rất khéo sử dụng ngôn ngữ. Trong truyện, ông không
hiện đại hóa ngôn ngữ nhưng cũng không vì thế mà lời văn trở nên khó hiểu:
ông ít dùng chữ Hán, nếu phải dùng thì đều có chú thích để các em hiểu
được.
Ngôn ngữ nhân vật thường phù hợp với tính cách nhân vật. Ngôn ngữ
miêu tả của ông cũng hết sức linh hoạt, có khi chỉ bằng một đoạn văn ngắn,
ông dựng được một khung cảnh riêng. Ngoài ra, ông còn biết chọn những chi
tiết gây ấn tượng khó quên đối với bạn đọc nhỏ tuổi như hình ảnh Trần Quốc
Toản xòe tay quả cam chỉ còn trơ bã...
Trong Lá cờ thêu sáu chữ vàng, Nguyễn Huy Tưởng đã làm sống dậy
trước mắt các em không khí lịch sử với những trận giáp lá cà, với những
phong tục xưa, cách ăn mặc, nói năng, quan hệ mẹ con, thầy trò, bạn bè của
nhân vật được tái hiện một cách sinh động trong một không khí lịch sử mang
đậm màu sắc anh hùng ca.
Có thể nói Nguyễn Huy Tưởng là một trong những nhà văn đặt nền
móng cho nền văn học thiếu nhi của nước ta.
III. TRUYỆN ĐỒNG THOẠI CỦA TÔ HOÀI
1. Vài nét về tác giả
Tô Hoài tên thật là Nguyễn Sen. Ông sinh năm 1920 trong một gia đình
làm nghề thủ công. Quê nội ở xã Kim An, Huyện Thanh Oai - Hà Sơn Bình.
Ông lớn lên ở quê ngoại; làng Nghĩa Đô, Từ Liêm, Hà Nội.
Con đường sáng tác của Tô Hoài được khởi đầu bằng những bài thơ
có tính chất lãng mạn nhưng sau đó đã chuyển sang văn xuôi hiện thực và
được chú ý từ những truyện ngắn đầu tay. Từ 1941, ông viết nhiều và đã có
những tác phẩm viết cho thiếu nhi. Các tác phẩm chính trước Cách mạng
tháng Tám: Truyện Dế mèn phiêu lưu ký (1941), tiểu thuyết Quê người
(1941), tập truyện ngắn Nhà nghèo (1941) ; truyện Xóm Giếng ngày xưa
(l944); Hồi ký Cỏ dại (1944). Tô Hoài được chú ý ngay từ những truyện đồng
thoại đầu tiên: Trê và Cóc, Ông Trạng chuối, Mực tàu giấy bản, Dê và lợn,
Đám cưới chuột, Ba anh em và đặc biệt là Dế mèn phiêu lưu ký.
Sau Cách mạng tháng Tám, Tô Hoài tham gia nhiều hoạt động trong
lĩnh vực văn nghệ (làm báo Cứu Quốc, công tác ở hội Văn Nghệ Việt Nam,
Tạp chí Văn nghệ, lãnh đạo Hội Nhà văn...) và liên tục sáng tác. Trong kháng
chiến chống Pháp, ông thường viết về đề tài miền núi. Tập Truyện Tây Bắc
của ông được giải Nhất, giải thưởng Văn nghệ năm 1954 - 1955. Từ hòa bình
lập lại đến nay, Tô Hoài viết nhiều thể loại (truyện ngắn, tiểu thuyết, kịch bản
phim, bút ký, hồi ký, tiểu luận, kinh nghiệm sáng tác...) đề cập đến nhiều đề
tài khác nhau. Nhìn chung, ở thể loại nào, đề tài nào ông cũng có những đóng
góp đáng chú ý. Thời kỳ này, ông cũng dành nhiều tâm huyết viết cho các em,
ông đã cho ra mắt bạn đọc nhỏ tuổi nhiều tác phẩm: Con gà lờ đờ, Chim hải
âu, Chim chích lạc rừng, Tuổi nhỏ tài cao, Vừ A Dính, Đàn chim gáy, Kim
Đồng, Đảo hoang, Bàn Quý và ngựa con v.v...
Có thể nói, ông là một nhà văn viết nhiều cho thiếu nhi và được các em
đón nhận nồng nhiệt.
2. Tác phẩm
Sáng tác của Tô Hoài, trước và sau Cách mạng tháng Tám có thể chia
làm 2 mảng đề tài chủ yếu: đề tài cổ và đề tài sinh hoạt..
2.1. Đề tài cổ
Nét đặc trưng của loại truyện viết về đề tài cổ của Tô Hoài là được dựa
theo hoặc mô phỏng những mô típ quen thuộc của các chuyện cổ dân gian.
Ông Trạng Chuối là một truyện được Tô Hoài sáng tác kỳ trước Cách mạng,
mang bóng dáng của thần thoại "Sơn Tinh Thủy Tinh". Trong truyện, nhân vật
Trạng Chuối đã trải qua nhiều biến cố của cuộc đời nhưng nhờ hình hài con
cá chuối đã giúp ông thử thách được lòng tốt của con người, cuối cùng, Trạng
đã chọn được người yêu đích thực của mình. Truyện khép lại bằng một câu
khái quát chủ đề: "Những kẻ làm ác không bao giờ hại được người ngay
thẳng".
Sau Cách mạng tháng Tám, Tô Hoài vẫn tiếp tục mảng đề tài này với
những tác phẩm: Chuyện ông Gióng, Truyện Nỏ thần và Đảo hoang. Nếu như
Chuyện ông Gióng lại một lần nữa làm sống dậy biểu tượng của người anh
hùng chiến trận, chống giặc ngoại xâm thì truyện Nỏ thần lại thiên về cảm
hứng phê phán. Trong truyện, thông qua hình tượng các nhân vật, Tô Hoài
kết tội An Dương Vương và Mỵ Châu vì không biết xét đoán con người và
hoàn cảnh, mất cảnh giác, để lại mối hận muôn đời cho non sông đất nước.
Đảo hoang là một tiểu thuyết ra đời năm 1969, được Tô Hoài ấp ủ từ
lâu. Đó là bài ca hùng tráng về truyền thống lao động, chiến đấu chinh phục
thiên nhiên, dành quyền sống và quyền phát triển của dân tộc ta. Đảo hoang
vừa mang dáng dấp của một tiểu thuyết phiêu lưu, vừa có yếu tố kỳ ảo của
một truyền thuyết, mang niềm tin vào sức mạnh con người "Đâu có người ở
đấy có tất cả”.
2.2. Đề tài sinh hoạt
Đề tài sinh hoạt trong sáng tác của Tô Hoài thường được biểu hiện
bằng nhiều mẫu chuyện đồng thoại. Với cách viết dí dỏm, ngộ nghĩnh về thế
giới loài vật, Tô Hoài đã làm cho những thiên đồng thoại trở nên sinh động, kỳ
ảo, giàu chất thơ nhưng vẫn mang bóng dáng của hiện thực. Những bài học
về thói đạo đức giả, xu thời, trọng hình thức... thường được nhắc đến trong
Đám cưới chuột qua sự khác biệt trong cách đánh giá của bà con chòm xóm
đối với chuột nhắt trước và sau khi đỗ đạt. Đồng thời, thói học đòi làm sang
của ông bà Thử (bố mẹ Chuột Nhắt) cũng gây ra những bi hài kịch chua xót.
Nhưng bao trùm lên tất cả tác phẩm vẫn là ánh sáng lấp lánh của một lẽ sống
mới cao quý hơn, rộng lớn hơn, qua những lời tâm tình của ông Chuột Cống.
Từ đó Chuột Nhắt không còn luẩn quẩn trong những bi kịch cá nhân nữa mà
vươn tới mục đích chống cường quyền. Tư tưởng đó tuy mơ hồ, nhưng đã là
một tiếng nói gần gũi với Cách mạng.
Sau Cách mạng, những đồng thoại Chim chích lạc rừng, Con mèo lười,
Đàn chim gáy... tiếp tục ra mắt bạn đọc, đã bộc lộ một cái nhìn ngỡ ngàng
trước những đổi thay trên miền Bắc đang xây dựng cuộc sống mới.
Bên cạnh đó, hai truyện Kim Đồng và Vừ A Dính cũng được ra đời. Nếu
như các nhân vật trong những truyện đồng thoại trước cách mạng luôn đề
cao tình đoàn kết "muôn loài cũng kết làm anh em", thì ở Kim Đồng và Vừ A
Dính cũng đi tìm cho mình một lý tưởng sống cao đẹp nhưng cụ thể và hiện
thực hơn: Làm cách mạng để đấu tranh xóa đau khổ, áp bức, xây dựng một
xã hội mới hạnh phúc hơn.
3. Truyện đồng thoại: Dế Mèn phiêu lưu ký
3. 1. Khái quát về Dế Mèn phiêu lưu ký
Dế Mèn phiêu lưu ký là một tác phẩm nổi tiếng của nhà văn Tô Hoài
viết trước Cách mạng.
Câu chuyện sóng gió kỳ thú của Dế mèn với bao bài học cuộc sống thu
nhận được trên đường tìm lý tưởng từ lâu đã rất gần gũi với chúng ta. Tác
phẩm chẳng những lôi cuốn nhiều thế hệ bạn đọc nhỏ tuổi Việt Nam mà còn
được đông đảo bạn đọc trên thế giới yêu thích. Dế Mèn phiêu lưu ký đã được
dịch và in ra nhiều thứ tiếng: Nga, Tiệp Khắc, Ba Lan, Ru - ma - ni, Đức,
Mông Cổ, Nhật Bản, Nam Tư, Ấn Độ, Miến Điện, Pháp,…
Truyện gồm có 10 chương.
Chương I. Tôi sống độc lập từ thuở bé. Một sự ngỗ nghịch đáng ôm
hận suốt đời.
Chương II. Cuộc phiêu lưu bất ngờ. Làm đồ chơi cho trẻ con mà không
biết. Lại anh Xiến tóc cho tôi một bài học mới.
Chương III. Thoát khỏi cái lồng tù: Giữa đường dẫu thấy bất bằng mà
tha. Mẹ kính mến của con ơi.
Chương IV. Ông anh cả và ông anh hai của Mèn. Tri âm không đợi mà
gặp.
Chương V. Một sự vô ý rất nguy hiểm. Địa thế và tình hình các xóm lầy
lội. Vì lẽ gì Mèn và Trũi trốn đi được?
Chương VI. Tranh hùng với võ sĩ Bọ Ngựa. Chánh phó thủ lĩnh tổng
Châu Chấu. Thề rằng sinh tử có nhau.
Chương VII. Tâm sự bác Xiến Tóc chán đời. Cái cớ khiến cho Mèn lại
lên đường.
Chương VIII. Mèn bị tù. Những sự xảy ra cho Mèn khi phải giam trong
hầm kín của lão Chim Trả. Xa nhau lại gặp nhau.
Chương IX. Lại một chuyện rủi ro với các bạn kiến. Sự tức giận của
mấy cô học trò. Ai có công nhất?
Chương X. Mấy dòng tạm biệt của tập ký.
3.2. Về khái niệm đồng thoại
Đồng thoại là một thể loại đặc biệt của văn học dành cho thiếu nhi, có
sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa hiện thực và yếu tố tưởng tượng. Nhân vật
chính là loài vật, thực vật và những vật vô tri nhưng được nhân hóa để mang
tính cách "người" (cũng có khi nhân vật là người). Ngôn ngữ của đồng thoại
giàu chất thơ, giàu hình ảnh, vui tươi, dí dỏm, có nhiều yếu tố bất ngờ, dễ
thuộc, dễ nhớ. Những đặc điểm đó làm cho đồng thoại gần gũi với trẻ thơ, có
khả năng đem đến cho trẻ những ước mơ bay bổng, những cảm xúc thẩm mỹ
về một thế giới thiên nhiên kỳ ảo. Nhưng dù kỳ ảo đến đâu, đồng thoại vẫn
mang hơi thở của cuộc sống, mà ở đó các em có thể tìm thấy những nét quen
thuộc trong cuộc sống của mình và góp phần bồi dưỡng cho các em những
tình cảm trong sáng, tạo dựng thái độ đúng trong cuộc sống.
Những thiên đồng thoại hay không chỉ làm cho các em say mê mà còn
được cả người lớn đón nhận như: Dế Mèn phiêu lưu ký của Tô Hoài, Ông lão
đánh cá và con cá vàng của Puskin, Tập truyện kể của Andersen v...v....
3.3. Phân tích nhân vật Dế Mèn
Dế mèn phiêu lưu ký mô tả cuộc phiêu lưu của một chú dế mèn qua thế
giới loài vật và loài người.
Trên nền cuộc sống nhàn tản của họ nhà Dế bên một bờ đầm nước, có
một chú Dế Mèn không an phận! "Sáng nào, chiều nào cũng từng ấy việc, đời
được vậy kể cũng vui, nhưng rồi sau cũng cảm thấy nhàm dần". Ý nghĩ về
những cuộc phiêu lưu cũng xuất phát từ đấy. Mèn muốn biết thế giới bên
ngoài cái đầm nước này ra sao và Mèn muốn có thêm nhiều bạn mới. Và tính
cách của Dế Mèn được hình thành dần qua từng chặng đường đời đầy phiêu
lưu của chú.
Thuở còn trẻ, khác hẳn hai người anh gia trưởng, cổ hủ và yếu đuối,
Mèn là một thanh niên cường tráng, yêu đời, yêu lao động và sớm sống tự
lập. Ngay từ khi mới được mẹ cho "ở riêng" Mèn đã dùng sức lao động, tạo
cho mình một chỗ ở đàng hoàng, đẹp đẽ lại có nhiều ngách để phòng khi gặp
nguy hiểm. Cũng như họ hàng, Mèn rất thích ca hát. Tối tối "tôi tạm nghỉ tay
và đứng ngoài cửa hang, họp cùng anh chị em hàng xóm quanh bờ ruộng,
vừa gảy đàn vừa hát một bài hát hoàng hôn chào tạm biệt ông mặt trời…”
Bên cạnh những mặt tốt đó, Mèn đã nhiễm thói hiếu thắng, thích gây gỗ,
ngông cuồng đến mức tàn nhẫn. Mèn bắt nạt mấy chị Cào cào, mấy anh
Gọng vó yếu đuối, giễu cợt, khinh bỉ chú Dế choắt: Thiếu hiểu biết ở đời, Mèn
tưởng nhầm thói xấu đó là sự tài ba, anh hùng. Mèn càng trở nên dương
dương tự đắc khi bị biến thành tên lính đánh thuê để cho lũ trẻ mua vui. Đến
lúc này, Mèn đã gây ra tai họa cho bao nhiêu đồng loại. Điểm đỉnh của thói
ngông cuồng và bất nhẫn ở Mèn là cảnh Mèn bỏ ngoài tai mọi lời van xin,
xông vào đánh một chú dế con vừa mới sinh ra đời được mấy hôm, cánh hãy
chưa kín lưng. Trong suốt quãng đời ấy, không phải không có lúc Mèn cảm
thấy băn khoăn, hối tiếc về hành động của mình. Ấy là lúc Mèn chứng kiến cái
chết của Dế Choắt do mình gây ra. Mèn đã từng đứng chết lặng trước mộ Dế
Choắt để suy ngẫm về bài học đường đời đầu tiên qua lời trăn trối của Dế
Choắt:"Ở dời mà có thói hung hăng, bậy bạ, có óc mà không biết nghĩ, sớm
muộn gì cũng mang vạ vào mình đấy". Nhưng phải tới lần gặp bác Xiến tóc
thì Mèn mới hoàn toàn tỉnh ngộ. Chỉ tới lần ấy, sau khi bị Xiến tóc nghiêm
khắc cảnh cáo và cắt cụt hai sợi râu, Mèn mới thực sự tự vấn lương tâm
mình. Mèn kinh hoàng nhận ra rằng: "Tôi chỉ làm ác mà tôi không biết", "cuộc
đời nửa thời xuân mà chưa làm nổi điều gì có ích". Mèn thấy mình phải thay
đổi cách sống. Từ đó những phẩm chất mới của Dế Mèn dần dần được hình
thành.
Thoát khỏi cuộc phiêu lưu bất đắc dĩ ở thế giới loài người, hành động
nghĩa hiệp đầu tiên của Mèn là bảo vệ cô Nhà Trò yếu đuối nước lũ nhện ăn
thịt. Mèn đã nêu cao lẽ sống mới "ở đời, thương nhau là hơn, hằn thù độc ác
làm gì". Từ đấy, Mèn luôn tâm niệm lời mẹ dặn: “Rèn cho được tấm lòng chín
chắn" để làm cho cuộc sống trở nên có ý nghĩa.
Cùng với Dế Trũi, Mèn thực hiện cuộc phiêu lưu thứ hai vào thế giới
loài vật để "tìm cái ý nghĩa chân thật của cuộc đời". Mèn đã đi qua nhiều nơi.
Đó là vương quốc Đầm lầy, của đại vương Ếch Cốm khoác lác và thầy đồ
Cóc dốt hay sính chữ. Đó là làng Hoa Cỏ May, đất đai của loài côn trùng có
cánh, có tinh thần thượng võ và yêu chuộng hòa bình. Đó là xứ sở của họ
hàng nhà kiến cần cù, chăm chỉ. Biết bao hạng người mà Mèn đã gặp: Đó là
bác Xiến Tóc nghĩa hiệp nhưng về sau thành kẻ chán đời, đó là lũ nhện độc
ác, lũ ve sầu, bươm bướm lười nhác, lão chim trả trai lơ, những Cào Cào, Bọ
Ngựa, Bọ Muỗm tốt bụng. Và nhất là những chàng Châu Chấu Voi giàu thiện
chí, sẵn sàng nhường nơi ở tốt cho những người bạn yếu hơn. Mèn khám
phá ra ý nghĩa thực của cuộc sống chính là lý tưởng mà đoàn Châu Chấu Voi
đang ra sức phấn đấu thực hiện. "Chúng ta đi khắp thế giới kết làm anh em".
Mèn nói lên những lời tâm huyết như một lời thề thiêng liêng "Em Trũi yêu
quý. Các bạn Châu Chấu Voi tri kỷ ơi! Điều các bạn nghĩ cũng là điều xưa nay
tôi từng mộng tưởng. Nay tôi xin cùng các bạn di khắp thế gian làm cho được
những gì mà ta đương mong ước". Trong chặng đường phiêu lưu, hoạt động
cho lý tưởng, Mèn phải trải qua nhiều cảnh ngộ hết sức hiểm nghèo, mấy lần
suýt chết, hai lần bị bắt làm tù binh. Nhưng từng bước, từng bước Mèn đã
dũng cảm vượt qua và đã chiến thắng. Thực hiện được những gì mình tâm
niệm, vươn lên trở thành con người hoàn thiện, với những phẩm chất tốt đẹp
như Tô Hoài đã từng viết: "Dế Mèn yêu lao động, thích vui chơi, biết ước mơ,
rất ghét đứa làm ác, cho nên khi gặp lý tưởng thì Dế Mèn giác ngộ và có lý
tưởng".
Dế Mèn là một hình tượng tiêu biểu cho lớp thanh niên trước Cách
mạng không vừa lòng với cuộc sống tầm thường, luôn khao khát đi tìm cái
thiện, cái đẹp trong cuộc đời. Nhân vật này một khi đã nhận ra lý tưởng của
mình là sẵn lòng tham gia thực hiện nó. Lý tưởng "muôn loài cùng nhau kết
làm anh em" của Mèn tuy còn mơ hồ và ít nhiều có tính chất không tưởng,
nhưng giàu chất nhân văn và có sức thôi thúc lớp thanh niên giàu nhiệt huyết
với đất nước lúc đó.
Nhưng Dế mèn phiêu lưu ký không phải chỉ có ý nghĩa ở thời điểm ấy
như Tô Hoài đã bộc lộ "Có những truyện anh (Dế Mèn) kể từ thời ấy, mà đến
bây giờ càng ngày tôi càng thấy ra thêm bao ý nghĩa sâu sắc. Bởi vì, các câu
chuyện với bầu bạn, với đồng bào, với quê hương như thế nào của Dế Mèn
vẫn là câu chuyện hàng ngày của chúng ta hôm nay và mai sau” (Lời nói đầu
Dế mèn phiêu lưu ký - Nxb KD - In lần thứ 6 - 1972).
3.4. Nghệ thuật
Dế mèn phiêu lưu ký không chỉ đặc biệt hấp dẫn bạn đọc nhỏ tuổi ở
cuộc đời phiêu lưu đầy sóng gió của chú Dế mèn mà còn ở khả năng quan
sát tài tình, cách miêu tả tinh tế dí dỏm về loài vật và tâm hồn nhạy cảm với
thiên nhiên của Tô Hoài. Có thể nói, Tô Hoài là bậc thầy về ngôn ngữ miêu tả
loài vật. Lần theo bước chân phiêu lưu của Dế Mèn, dưới ngòi bút tài hoa của
ông, thế giới của họ nhà Dế hiện ra thật phong phú, ngộ nghĩnh, sinh động và
gần gũi với thế giới con người biết bao. Đó là hình ảnh của một Dế Mèn
cường tráng với những chặng đường đời đầy thăng trầm đầy sóng gió. Một
dế anh Cả gia trưởng, cổ hủ, một dế anh Hai dật dờ, một Dế Choắt yếu đuối
nhưng rất đổi nhân từ, một Dế Trũi ngang tàng và còn biết bao loài vật khác
được Tô Hoài đưa vào tác phẩm: Những cô Cào Cào đỏm dáng làm duyên,
một gã Bọ Ngựa huênh hoang, lố bịch, một gã Chim Trả già chơi trống bỏi,
một bác Xiến Tóc nghĩa hiệp về sau thành kẻ chán đời, chẳng buồn nghĩ ngợi
đến nổi đầu óc thành "miếng bọt phẳng lì", một thầy đồ Cóc dốt mà hay nói
chữ, bọn Nhái Bén "cao lêu đêu” tay sai của Ếch Cốm đại vương...
Biện pháp nhân hóa được những cây bút viết đồng thoại nói chung, Tô
Hoài nói riêng khai thác triệt để. Khả năng quan sát nhạy bén, tinh tường của
ông đã làm cho thế giới loài vật của ông mang tính cách người một cách rõ
nét nhưng vẫn không làm mất đi đặc tính của loài vật.
Sự biến hóa trong giọng văn kể chuyện của ông cũng là một yếu tố rất
đặc sắc. Nhiều đoạn, ẩn đằng sau lời kể chuyện là một nụ cười hóm hỉnh, ở
đoạn khác lại là một ngòi bút trữ tình, đằm thắm, tạo nên sự xúc động sâu xa
trong lòng người đọc.
Truyện được kết cấu theo chương, hồi với trình tự diễn biến theo thời
gian làm cho bạn đọc nhỏ tuổi dễ hiểu.
Với những nét đặc sắc về nội dung và nghệ thuật trên, Dế mèn phiêu
lưu ký là một trong những tác phẩm có giá trị nhất trong nền văn học thiếu nhi
nước ta.
IV. ĐOÀN GIỎI VỚI "ĐẤT RỪNG PHƯƠNG NAM"
1. Vài nét về tác giả
Đoàn Giỏi sinh năm 1925, trong một gia đình trí thức nghèo ở thành
phố Mỹ Tho (nay thuộc tỉnh Tiên Giang), quê hương của Nam Kỳ khởi nghĩa.
Khi còn nhỏ, Đoàn Giỏi say mê cả văn chương lẫn hội họa. Về sau,
thiên về sáng tác văn chương. Nhớ cố hương (1943) là truyện ngắn đầu tay
của ông. Trong kháng chiến chống Pháp, ông viết nhiều thể loại và liên tục
cho ra mắt bạn đọc: Người Nam thà chết không hàng (Kịch thơ, 1947); Chiến
sĩ Tháp Mười (Kịch thơ 1949); Khí hùng đất nước (Ký sự, 1948); Đường về
Gia Hương (Truyện ngắn, 1949); Giữ vững niềm tin (Thơ, 1945). Nhưng
những sáng tác của ông giai đoạn này chưa gây được ấn tượng cho độc giả.
Sau hòa bình, ông chủ yếu viết về cuộc sống và con người miền Nam trong
những năm kháng chiến chống Pháp. Những tác phẩm gây được chú ý là:
Tập ký và truyện ngắn Ngọn tầm vông (1956), và tiểu thuyết Cá bống mú
(1955)... và nhiều sáng tác cho thiếu nhi: Đất rừng Phương Nam (truyện,
1957), Cái trống con (truyện 1959), Cuộc truy tìm kho vũ khí (truyện, 1962):
Trong đó, Đất rừng Phương Nam là tác phẩm được xem là thành công nhất
của Đoàn Giỏi. Một trong những cuốn truyện hay được thiếu nhi yêu thích và
nó đã được chuyển thể thành phim Đất Phương Nam.
2. Đất rừng Phương Nam
2.1. Nội dung
* Bối cảnh của truyện là những ngày đầu kháng chiến chống Pháp ở
Nam Bộ. Nhân vật chính của tác phẩm là An - một em bé sinh ra và lớn lên ở
thành phố Mỹ Tho. Trong khi chạy tản cư, em đã bị lạc bố mẹ. Để kiếm sống,
An phải lang thang đây đó, làm mọi việc, tiếp xúc với nhiều hạng người và số
phận đã đưa đẩy em trội dạt về Phương Nam, để rồi gắn bó và trưởng thành
cùng với nó.
Truyện không chỉ kể về quá trình đi đến cách mạng của cậu bé An mà
còn dựng lên một cách sống động một chặng đường chiến đấu của nhân dân
ta trong những ngày đầu Pháp trở lại Nam Bộ.
Theo bước chân của bé An, mảnh đất Phương Nam hiện ra trong
không khí kháng chiến thật sinh động và hào hứng. Những đoàn xe rầm rập
từ thành phố chở thanh niên ra mặt trận cùng với tiếng hát của những trái tim
đầy nhiệt huyết; những người nông dân chất phác, thật thà bị đẩy đến bước
đường cùng, nay nhất tề đứng lên đánh Pháp; Những người du kích, những
chiến sĩ tự vệ đã quyết hy sinh thân mình để tiêu diệt bọn Việt gian bán nước,
bảo vệ từng tấc đất tổ quốc. Tinh thần quyết đánh của người dân Nam Bộ
được kết tinh trong câu nói giản dị của người du kích già: "Chiến chứ chủ hòa
làm sao? Đất của mình nó tới, nó đánh chiếm mà, còn vớ vẩn hỏi chiến hay
hòa! Còn người nào, đánh người ấy. Tới người cuối cùng cũng đánh mà".
Đại diện cho những người dân ưu tú, đầy nhiệt huyết đánh Tây phải kể
đến ông Hai và chú Võ Tòng. Xét về tính cách, mỗi người có những nét khác
nhau. ông Hai tính tình cương trực, chính chắn, điềm đạm; còn chú Võ Tòng
có ngoại hình dị tướng, tính nết lầm lì, kiên cường. Nhưng họ đều là những
người nông dân nghèo khổ nhưng lương thiện. Không phải tự nhiên họ muốn
xa rời làng mạc, quê hương để đi dựng lều trong rừng nơi cuối đất cùng trời
này. Họ đều có mối thâm thù với bọn địa chủ cường hào. Những người vợ có
chút nhan sắc của họ luôn bị bọn địa chủ rình mò, quấy rối, tìm mọi cách để
cướp đoạt cuộc sống của họ trở nên bất toàn, và lâm vào ngõ cụt. Võ Tòng
mang án 10 năm tù vì chống lại địa chủ, để rồi khi ra tù, ông trở thành kẻ
không nhà, không cửa, không vợ, không con. Ông Hai cũng gặp phải cảnh
ngộ tương tự. Nhưng may mắn hơn, ông đưa được vợ mình trốn đi. Nhưng
Thực dân Pháp đến, tất cả đều bị đảo lộn. Họ chỉ còn một con đường sống
duy nhất là đóng góp sức mình cho kháng chiến. Đáng tiếc, chú Võ Tòng đã
sớm phải hy sinh sau một lần tham chiến. Ông Hai đã thề trả thù cho chú Võ
Tòng. Và cuối cùng ông Hai đã thực hiện được ý nguyện.
An là hình tượng trung tâm của tác phẩm, người dẫn đường đưa bạn
đọc đến vùng đất xa lạ của rừng Phương Nam. Bước đường trưởng thành
của An diễn ra một cách tự nhiên, từ một đứa bé sống trong nhung lụa, bị đẩy
vào một xã hội đầy biến động, An đã từng bước trưởng thành.
Trong những ngày đầu lưu lạc, nhờ có lòng can đảm, em đã vượt qua
được cảm giác bơ vơ, cô độc nơi đất khách quê người, giúp An có quyết tâm
làm việc để tự kiếm sống. Hình ảnh bé An, một mình dấn bước vào cuộc
phiêu lưu không định trước khiến cho người đọc cảm động trước bản lãnh
của người thiếu niên này.
Trí thông minh và nghị lực cũng đã giúp An thoát khỏi những hoàn cảnh
hiểm nghèo, khi sự sống và cái chết chỉ còn là gang tấc. Đó là lần ở quán dì
Tư Béo, tình cờ An phát hiện ra rằng “Vợ chồng Tư Mắm" là gián điệp. Bản
tính hay quan sát và đánh giá khiến cậu thấy rõ nét khác biệt sâu sắc giữa
cặp vợ chồng nọ, thằng chồng trông xấu xí thảm hại bao nhiêu thì con vợ xinh
đẹp, đài các bấy nhiêu, cái cách chồng nhìn vợ là cách đầy tớ nhìn bà chủ,
còn thói uống rượu cốc tay của mụ thì thật không hợp chút nào với địa vị một
bà buôn mắm. Những mẩu tin bằng tiếng Pháp mà mụ viết đã bị An đọc trộm,
đồng thời thói thích khoe khoang của dì Tư Béo đã khiến mụ Tư Mắm hiểu
rằng chúng đã lộ chân tướng. Chúng tìm cách thủ tiêu bé An. An nhanh trí lừa
chúng, không ngủ trong thuyền như mọi khi mà nấp vào một chỗ kín theo dõi
hành tung của chúng. Trí thông minh của bé An cũng giúp cho ông Hai thoát
chết khi ông bắn chết "mụ Tư Mắm" ở bên đồn địch, tiếng hô "xưng phong"
của cậu lúc đó còn giá trị hơn cả nhiều loạt đạn khiến mấy tên lính lủi ngay
vào đồn. Trí thông minh cũng giúp An một mình xuyên rừng chàm đến được
căn cứ du kích để rồi trở thành một thành viên đầy tin tưởng của trung đội du
kích địa phương.
Đất rừng Phương Nam còn mở ra trước mắt các em quang cảnh mới
mẻ, kỳ thú của thiên nhiên vùng đất Nam Bộ.
Đồng hành với bé An, ta bắt gặp những cánh rừng tràm, rừng đước
bao bọc ra tận các cửa sông, những dòng kênh rạch chằng chịt, những cửa
sông, bến chợ chi chít tấp nập xuồng ghe, và những đàn cá trê, cá lóc quần tụ
đông đặc nơi rừng ngập nước. Đến với rừng Phương Nam, ta còn bắt gặp vô
vàn những loài động vật hoang dã. Những con cá sấu to lớn dữ tợn sẵn sàng
há miệng rộng đớp mồi trên những dòng sông cuộn sóng. Những rắn cạp
nong, cạp nia, hổ đất, hổ mang, hổ lửa ở nước và đầm lầy. Những rùa, kỳ đà,
kỳ nhông trốn chạy khỏi khu rừng cháy. Bao nhiêu loài chim nghe lạ tai: điềng
điểng, chằng bé, giang sen, sếu, cò bợ, cò xanh, cò lửa, cò trắng, cò ma...
"nhiều không kể xiết", những đàn ong mật kéo nhau về làm tổ nơi rừng tràm;
những đàn bướm sặc sỡ, bay rợp rừng, rợp bóng nước khi mùa xuân đến...
cùng với phong cảnh kỳ thú của đất rừng Phương Nam là cảnh sinh hoạt,
những phong tục tập quán của người dân Nam Bộ, những cảnh săn bắt độc
đáo, có một, không hai đã có súc thu hút đặc biệt và kích thích trí tưởng
tượng của bạn đọc nhỏ tuổi.
2. 2. Nghệ thuật
Với một tâm hồn nhạy cảm với thiên nhiên, với sự am hiểu sâu sắc về
mảnh đất Phương Nam, sự quan sát tinh tế và chân xác, Đoàn Giỏi đã làm
hiện lên trong tâm trí người đọc những hình ảnh sống động về vùng đất giàu
đẹp nhưng rất đỗi quật cường. Người đọc có cảm giác như được tận mắt
chiêm ngưỡng vẻ đẹp kỳ thú của thiên nhiên, được tận mắt nhìn thấy những
con thú kỳ lạ, được đi săn cá sấu, săn chim, bắt rắn, lấy mật, được chứng
kiến những biến động thăng trầm của các sự kiện, được tiếp xúc với các nhân
vật, từ bé An, ông Hai bắt rắn, chú Võ Tòng, thằng Cò cho đến "vợ chồng Tư
Mắm"...
Đoàn Giỏi thường sử dụng ngôn ngữ giàu hình ảnh để đặc tả cảnh và
người Nam Bộ. Ông cũng thường dùng phương pháp so sánh nhưng có
cường điệu chút ít để kích thích thêm trí tưởng tượng của người đọc.
Bàn về giá trị của Đất rừng Phương Nam, Tô Hoài, trong lời giới thiệu
về tập sách của Đoàn Giỏi (Nxb Kim Đồng - 1993) đã khẳng định "Cái đặc sắc
riêng của Đất rừng Phương Nam ấy là nhà văn Đoàn Giỏi đưa bạn đọc đến
vùng đất rừng Phương Nam thật xa, thế mà mỗi trang truyện lại làm chúng
mình thấy thiết tha và sôi nổi yêu đất nước khắp mọi nơi, bất cứ đâu”.
V. THƠ VĂN VÕ QUẢNG
1. Vài nét về tác giả
Võ Quảng quê vùng Hòa Phước, bên bờ sông Thu Bồn, tỉnh Quảng
Nam, Đà Nẵng. Cha ông là một nhà nho nên đã truyền cho con trai mình lòng
yêu thơ văn ngay từ nhỏ.
Năm 16 tuổi, Võ Quảng rời quê ra học Khải Định, Huế. Mười bảy tuổi
ông bắt đầu hoạt động trong tổ chức Thanh niên cộng sản của Đảng. Năm 21
tuổi, bị Pháp bắt. Sau đó bị điều về quản chế ở quê cho đến lúc Cách mạng
tháng Tám bùng nổ.
Sau Cách mạng ông được giao phụ trách chính quyền Đà Nẵng, rồi
phụ trách công tác luật pháp ở tòa án quân sự miền Nam Trung Bộ và tòa án
Liên khu V.
Tập kết ra Bắc, ông chuyển sang lĩnh vực sáng tác văn học. Võ Quảng
là nhà văn chuyên viết cho thiếu nhi. ông viết khá đều đặn. Năm 1957, ông
cho ra đời tập thơ đầu tay Gà Mái Hoa. Đến nay, ông đã có gần 20 tập thơ
văn. Ngoài ra ông còn viết lý luận phê bình về văn học thiếu nhi. Những tác
phẩm tiêu biểu.
- Các tập thơ: Gà Mái Hoa (1957), Thấy cái hoa nở (1962), Nắng sớm
(1965), Anh đom đóm (1970), Măng tre (1971)
- Truyện: Các thăng (1961), Chỗ cây đa đầu làng (1964), Cái mai
(1967), Những chiếc áo ấm (1970), Quê nội (1973), Bài học tốt (1976), Tảng
sáng(1977).
2. Tác phẩm
2.1. Thơ
* Nội dung
Võ Quảng là nhà thơ, nhà văn đã dành tất cả tâm huyết cho thiếu nhi.
Những bài thơ xinh xắn của ông đem lại cho các em những rung động nhẹ
nhàng trước những cảnh vật xung quanh.
Thơ Võ Quảng thiên về đề tài thiên nhiên. Vườn thơ của ông có những
bức tranh lộng lẫy của cảnh vật:
Hoa sen sáng rực
Như ngọn lửa hồng
Một chú bồ nông
Mải mê đứng ngắm
Nước xanh thăm thẳm
Lồng lộng mây trơi
Một cánh sen rơi
Rung rinh một nước
Hình như chú bồ nông kia đã bị thôi miên bởi màu sắc "như ngọn lửa
hồng" của loài sen. Một cánh sen cũng đủ làm mặt nước rung rinh càng làm
tăng thêm vẻ tĩnh lặng của cảnh vật.
Mầm non là một trong những bài thơ tiêu biểu nhất của Võ Quảng. Với
Mầm non, tác giả dường như đang kích thích bản tính hay quan sát của trẻ
thơ. Phải thật tinh tế và yêu cỏ cây đến nhường nào mới nhận ra được "Một
mầm non nho nhỏ, còn nằm ép lặng im". Cái mầm non nhỏ xinh ấy mở con
mắt ngái ngủ lim dim nhìn qua kẽ lá và thấy mùa đông đang đi qua với mây
bay, mưa phùn và lá rụng... chỉ vài câu thơ mà toàn cảnh mùa đông như hiện
ra trước mắt vắng vẻ, trơ trụi và im ắng đến cả "ngọn cỏ làn rêu ". Một chú thỏ
phóng nhanh “chạy nấp vào bụi vắng" càng tăng thêm vẻ tĩnh mịch, buồn tẻ
của mùa đông. Nhưng chỉ một tiếng kêu báo hiệu mùa xuân tới thì tất cả như
bừng tỉnh. Tiếng chim đánh thức "trăm ngọn suối", "ngàn chim muông" và tất
cả "cùng hát ca vang dậy" chào đón mùa xuân. Sự vui mừng, náo nhiệt của
muôn loài khi mùa xuân đến đã đánh thức mầm non tỉnh giấc. Rất nhanh, chỉ
vừa nghe thấy mầm non đã háo hức góp vào mùa xuân một màu sắc mới :
Vội bật chiếc vỏ rơi
Nó đứng dậy giữa trời
Khoác áo màu xanh biếc.
Trong Măng tre, Võ Quảng mượn lời của măng để miêu tả vẻ đẹp và
sức sống của loài tre thân thuộc và gần gũi. Nhưng qua cái nhìn của măng,
tác giả đã đem đến cho các em những ấn tượng khó quên, vừa ngạc nhiên
vừa thú vị. Này đây, một mầm non mới nhú, một măng tre lá vừa nẩy xanh
chờ xuân đến. Khác với Mầm non phải trải qua những ngày dài chờ đợi của
mùa đông buồn thảm thì ở Măng tre, chờ đợi đồng nghĩa với hy vọng, niềm
hy vọng của một kẻ biết tin có ngày mai.
Thức dậy buổi sớm
Nghe tiếng chim ca
Hớp giọt sương sa
Lòng nghe mát rượi.
Và khi những tia nắng ấm đầu tiên báo hiệu mùa xuân về, Măng bỗng
khỏe khoắn vươn mình vụt lớn lên cao vút như Phù Đổng, trước sự ngỡ
ngàng của loài cò, vạc:
Nắng mới tưng bừng
Tôi vươn cao vút
………….
Cò vạc bảo nhau
"Ồ, tre chóng lớn! "
Loài vật cũng là một mảng đề tài phong phú trong thơ Võ Quảng.
Chúng hiện ra trong thơ cùng với đủ chủng loại. Điều đó được thể hiện ngay
từ hệ thống nhan đề của tác phẩm: Gà mái hoa, Anh đom đóm, Ba chị gà mái,
Bê con đi tìm mẹ... Các con vật trong thơ ông thường vui nhộn, đầy những
tiếng kêu, tiếng hót, tiếng vỗ cánh. Tiếng gà nhảy ổ kêu "tót! tót!", tiếng vịt kêu
"gắp, gắp", "cạc, cạc, cạc", tiếng cóc kêu "ọc, ọc”…
Miêu tả về loài vật, thường Võ Quảng chỉ sử dụng một vài nét vẽ chọn
lọc. Con trâu mộng rất đẹp ở chỗ nó khỏe:
Da đen bóng loáng
Ức rộng thênh thang
Đôi sừng nghềng ngang
Chóp sừng nhọn hoắc.
Con gà mái được khẳng định là đã trưởng thành khi nó nhảy ổ đẻ:
Bỗng mái hoa đổi nết
Cái đầu nó nghếch nghếch
Cái cổ nó thon thót
Nó kêu tót, tót, tót.
Đằng sau những đặc điểm chung ấy là những tính nết riêng, được ông
thể hiện thật dí dỏm, sống động. Trong bài Ba chị gà mái, gà mái nâu có cái
vẻ sành sỏi, thành thạo trong hưởng thụ.
Uống ngụm nước mưa
Như người say sưa
Nhắp ly rượu ngọt.
Gà mái trắng yếm đỏ hoa vàng đỏm dáng có vẻ tình tứ qua "mắt nhìn
thiết tha ". Trái lại, gà mái đen lại vụng về, đếch đoảng, vô tâm, vô tính lúc thì
" đi đứng lăng quăng/ như người mất của ", lúc thì " dừng lại tần ngần/ mắt
nhìn dớn dác ".
Võ Quảng cũng đã gắn cho những con vật của mình những nét hồn
nhiên, ngây thơ và ngộ nghĩnh rất phù hợp với tâm lý của các em. Người ta
hình dung ra ngay một chú bé hiếu động, hay nghịch, hay vòi, hay hờn dỗi,
khóc đấy rồi lại cười ngay đấy, thấy cái gì cũng lạ, cũng muốn tìm hiểu và vui
ngay được: Một chú bê con đi tìm mẹ, Bê đi qua vườn ớt, vườn cà, vấp phải
cái cọc ngã kềnh ra, gọi mẹ chẳng thấy mẹ đâu, bỗng thấy bông hoa nở liền
quên ngay mọi chuyện, kề mũi hít hít.
Đọc thơ Võ Quảng, thi thoảng ta cũng bắt gặp những con vật "chưa
ngoan". Đó là chú chó gặp ai cũng sủa, cũng cào, cũng trêu. Rút cuộc nhận
được bài học đích đáng nhớ đời: bị ong đốt sưng vều cả mặt.
Nhìn chung, cảnh vật, loài vật trong thơ Võ Quảng thật tươi tắn, sinh
động, ngộ nghĩnh và có hồn người. Thơ ông đã góp phần hướng dẫn cho các
em cách quan sát, biết khám phá sự độc đáo, riêng biệt trong sinh hoạt bình
thường hằng ngày, đưa ra những bài học nhẹ nhàng mà sâu sắc, mở mang
sự hiểu biết về thế giới xung quanh. Bức tường ngăn cách giữa con người và
thiên nhiên dường như bị xóa mờ, chỉ thấy sự giao cảm hài hòa và tin cậy,
yêu thương. Vì vậy, thiên nhiên trong thơ nói chung và thơ Võ Quảng nói
riêng không chỉ là nguồn cảm hứng sáng tác mà "Thiên nhiên còn là một nhà
sư phạm đại tài. Thiên nhiên dạy ta yêu cái đẹp. Bằng chính sự phong phú,
thiên nhiên gợi cho ta nên có cuộc sống phong phú về vật chất và tinh thần"(l)
* Nghệ thuật
Thơ Võ Quảng nói riêng và thơ viết cho thiếu nhi nói chung thường có
những đặc điểm:
- Ngôn ngữ thơ thường giản dị, hồn nhiên trong sáng, dí dỏm và đặc
biệt gợi tả và biểu cảm, để tạo nên những hình ảnh sống động mang tính
thẩm mỹ cao.
- Thơ thiếu nhi thường mang tính tự sự, phù hợp với tâm lý tiếp nhận
của trẻ thơ. Mỗi bài thơ như một câu chuyện nhỏ xinh, dẫn dắt các em vào
thế giới xung quanh vừa gần gũi, quen thuộc vừa ngộ nghĩnh, hấp dẫn, gợi
nhiều liên tưởng kỳ thú.
- Nhịp điệu thơ thiếu nhi thường được viết theo thể tự do, không bị ràng
buộc bởi các quy tắc nhất định về số câu chữ. Các bài thơ và các câu thơ
thường ngắn, có nhiều vần liên tiếp vừa tạo nhịp vừa dễ nhớ, vừa giàu tính
nhạc.
- Để tạo nên nét huyền ảo, kích thích trí tưởng tượng của các em, các
nhà thơ viết cho thiếu nhi thường sử dụng các biện pháp tu từ như: so sánh,
nhân hóa và ẩn dụ, tạo ra những cách hiểu giản dị mà sâu sắc ở thơ thiếu nhi
Mặc dầu có những nét chung nhưng người đọc vẫn dễ dàng nhận ra
một Phạm Hổ dịu dàng và trìu mến, thường sử dụng lối miêu tả mang tính mô
phỏng trong thơ; một Xuân Quỳnh gần gũi quen thuộc mà lạ lẫm bởi lối diễn
đạt nghịch lý mà không phi lý, ẩn chứa những điều sâu sắc; Một thần đồng
Trần Đăng Khoa non trẻ mà già dặn, tinh tế mà giàu có trong cảm xúc; Và một
Võ Quảng độc đáo trong việc tạo nhịp bằng vần trắc.
Người ta đã thống kê tổng số 34 bài thơ ở tập “Măng tre” thì thấy có 33
bài chấm hết bằng vần trắc.
Bỗng cạc, cạc, cạc.
(Có tiếng đàn vịt)
Chú chẫu chàng
Như tia chớp
Vụt xuống nước
Biến đâu mất...
Tạo một không khí vui tươi, nghịch ngợm, khỏe khoắn, đầy kịch tính.
Đó là nét đặc thù trong nghệ thuật thơ Võ Quảng.
2.2. Văn xuôi
a. Sự đổi đời của một vùng quê
Nhìn chung, chủ đề bao trùm trong văn xuôi Võ Quảng là tình yêu quê
hương đất nước. Đó là một phạm trù rộng. Võ Quảng biết giới hạn. Ông cho
các em thấy ở một khía cạnh: Tình yêu gia đình, tình yêu quê hương phải
được hòa quyện, gắn bó với tình yêu đất nước. Nước mất thì nhà tan, quê
hương cũng không còn. Truyện của Võ Quảng là những bài ca, ca ngợi công
lao to lớn của cách mạng. Cách mạng đã làm đổi đời và trả lại quê hương cho
người dân lao động. Cảm hứng về Cách mạng về sự hồi sinh, sự bừng tỉnh
được trở đi, trở lại trong những trang viết của ông.
Thôn Hòa Phước trong Quê nội và Tảng sáng là một vùng quê giàu đẹp
và trù phú nằm bên sông Thu Bồn và những bãi dâu bạt ngàn, những làng
quê xanh tươi cây trái và quanh năm lách cách tiếng thoi đưa, bên những vạn
chài san sát ghe thuyền... Thế rồi giặc Pháp chiếm Hòa Phước. Chúng lấy
sông Thu Bồn làm phòng tuyến sau cùng để "bảo vệ" cho Đà Nẵng, những
người dân chất phác, cần cù của Hòa Phước cảm thấy nghẹt thở với trăm
ngàn nỗi sợ: sợ vua quan, sợ địa chủ, sợ ma quỷ thần thánh và nỗi sợ lớn
nhất là đói. Lo ngày lo đêm, dồn hết sức mình, tài mình vào đó mà vẫn đói.
Năm nào cũng đói, kiếm cho được miếng ăn thật là khốn khổ, không chỉ đổ
mồ hôi, nước mắt mà nhiều khi còn bán cả lương tâm. Ông Bảy Hóa vì đói
mà hành nghề thầy cúng. Sau này như ông tự thú vì "đói mà làm càn", "toàn
trò bịp cả". Đó là ông Nguyên cũng vì đói mà phải đi ăn trộm, lâu ngày thành
tay anh chị trong nghề trèo tường, khoét ngạch. Cũng có người không chịu
bán lương tâm nhưng vì đói mà phải đi ăn xin, đi khóc mướn kiếm ăn, sống
lụp xụp trong những túp lều trông như cái hang thời tiền sử. Nhiều người
trong thôn không thể cầm cự mãi với cái đói rời bỏ quê hương ra đi tìm sinh
kế. Có người phải gửi xác nơi đất khách quê người...
Nhưng tất cả đã thay đổi. Cách mạng Tháng Tám như cái bản lề giữa
bóng tối và ánh sáng. Thôn Hòa Phước đã hồi sinh, từng ngày thay da đổi
thịt. Mọi người sung sướng nhận thấy một điều lạ. Đó là hải đảo không ngăn
cách với đất liền, quê Hòa Phước và Cù Lao Chàm bỗng nhiên gần sát lại.
"Nay độc lập rồi, tất cả giang sơn như xích lại gần. Có gì cách trở nữa đâu,
đất nước của mình tự do thăm viếng chẳng phải bị ai đuổi, ai bắt nữa". Cảnh
người dân Hòa Phước tha phương nay trở về sinh sống trên mảnh đất quê
hương; cảnh những người cô đơn, nghèo khổ được cách mạng quan tâm
giúp đỡ, dựng lại nhà cửa; trẻ em được cắp sách đến trường thật cảm động
và phấn chấn. Biết ơn Cách mạng, người dân Hòa Phước đã cống hiến hết
sức mình cho cuộc kháng chiến: Trẻ em dạy bình dân học vụ, giúp đỡ du
kích; phụ nữ lo việc hậu cần, việc tản cư; những người như ông Bảy Hóa lại
trở về "nghề cũ” để hoạt động bí mật trong vùng tạm chiếm; đàn ông lo đào
hầm bí mật và tham gia du kích... Trận diệt lô cốt địch nằm ven sông Thu Bồn
chiến thắng báo hiệu những ngày gian khổ và vinh quang kế tiếp.
b. Hệ thống nhân vật
+ Nhân vật thiếu nhi
Trừ một số truyện đồng thoại mà Võ Quảng xây dựng những nhân vật
mang tính biểu trưng, thiếu nhi là nhân vật trung tâm trong tác phẩm của Võ
quảng. Đó là một thế hệ thiếu nhi sinh ra và lớn lên trong vùng địch hậu. Các
em tuy nghèo khổ nhưng giàu lòng yêu nước và đã có những chiến công
thầm lặng góp phần vào cuộc kháng chiến chống Pháp anh dũng của dân tộc.
Trong Chỗ cây đầu làng, nhân vật chính là Trương Út. Tuy nhỏ tuổi em
đã sớm tham gia hoạt động Cách mạng và gánh vác nhiệm vụ nặng nề: theo
dõi hoạt động của địch. Không may bị địch bắt, chúng tra khảo đủ điều nhưng
Út vẫn không khai nửa lời. Trong những giây phút cuối cùng của cuộc đời, em
vẫn tìm mọi cách báo cho các đồng chí biết là cơ sở đã bị lộ. Chỗ cây đa đầu
làng là nơi chứng kiến những hành động bình thường nhưng anh hùng của
người thiếu niên dũng cảm.
Nhân vật chính trong Cái thăng cũng là một thiếu nhi. Em bị bắt trong
một trận càn cùng với con trâu mà em yêu quý. Con trâu bị bắn chết.Chúng
ăn thịt trâu và vứt lại chiếc sừng trâu làm thành một cái thăng (một loại tù và
bằng sừng trâu). Nhờ có cái thăng, em đã huấn luyện đưa đàn trâu đang bị
địch bắt giữ nghe theo mệnh lệnh của mình. Nhân sơ hở của địch, em dùng
tiếng Thăng giục đàn trâu vượt sông chạy về vùng giải phóng.
Quê nội và Tảng sáng là hai truyện được viết cách nhau 4 năm. Nhưng
Tảng sáng là sự tiếp nối của Quê nội, được gắn kết bởi hai nhân vật chính:
Cục và Cù lao. Nhân vật Cục và Cù lao đã đi suốt chiều dài của hai tác phẩm.
Nói như Nguyễn Tuân khi viết lời tựa cho Tảng Sáng (Nxb KĐ- 1 980) : " Nếu
Quê nội và Tảng sáng mà gộp lại thì ta có thể đặt cho nó cái tên: Truyện hai
anh em Cục và Cù lao. Cuốn đầu là phần một để giới thiệu và cuốn sau là
phần hoạt động của hai nhân vật nhỏ đã dần dần chuyển lên gần thành một
công dân".
Hai nhân vật này được Võ Quảng khắc họa khá rõ nét. Cá tính của mỗi
nhân vật được bộc lộ ở thế luôn luôn biến động. Cù lao, lúc mới về đã gây
cho bọn trẻ trong làng nhiều tranh cãi ngộ nghĩnh về nguồn gốc của nó. Vì da
nó đen nên bọn trẻ cho nó là mọi biển và chúng liền tranh nhau xem nó có
đuôi giống mọi biển hay không ; Vì nó ở biển Đông, nên bọn trẻ nghĩ là chúng
gần phát xít Nhật, cần phải canh chừng... Nhưng dần dần, cá tính của em
được bộc lộ làn bọn trẻ ngạc nhiên, nể phục và quý mến. Còn Cục lại có vẻ
đàn anh, hay cậy thế và tỏ vẻ ta đây. Nhưng tri âm không hẹn mà gặp, sau
một thời gian, cả hai đều nhận ra rằng họ có những điểm chung rất cơ bản:
giàu mơ ước và điều quan trọng là cùng chí hướng. Cả hai đều tham gia
kháng chiến và cùng trở thành những người lính trung thành, sẵn sàng hy
sinh cho Cách mạng.
+ Nhân vật biểu trưng
Thế giới nhân vật biểu trưng trong các truyện đồng thoại của Võ Quảng
phong phú và đa dạng. Đó là những con vật như: thỏ, nhím, bọ ngựa, ốc sên,
chim chóc hoặc những đồ vật như cái mai, nồi đồng, ổ rạ... Mỗi con vật, đồ
vật đều có những nét riêng biệt về ngoại hình nhưng đều được nhân hóa để
mang tính con người: có tâm hồn, có suy nghĩ, biết yêu thương giúp đỡ người
khác.
Trong Những chiếc áo ấm, thông qua các nhân vật biểu trưng, Võ
Quảng giúp các em nhận thức một vấn đề tương đối khó hiểu. Thế nào là sức
mạnh của tập thể. Thỏ bị rét cóng, trên mình chỉ có một tấm vải rêu. Gặp
Nhím, Nhím muốn mang cho Thỏ cái áo ấm. Vải đã sẵn, kim thì nhím không
thiếu, nhưng chưa có kéo để cắt. Phải tìm Bọ ngựa để giúp, nhưng Bọ Ngựa
biết cắt mà không không biết vạch, phải nhờ đến Ốc Sên. Và cuối cùng là Ổ
rộc. Chiếc áo được may xong, Thỏ vui sướng, cảm động trước tấm lòng của
bè bạn. Tất cả đồng thanh hát:
Mọi việc dù lớn bé
Một mình làm khó xong
Phải chung sức chung lòng
Công lao của tập thể
Tôi sinh ra là để
Giúp ích cho mọi người
Đời có đẹp có tươi
Thì ta mới sung sướng.
Nhân vật Cái Mai trong tác phẩm cùng tên của Võ Quảng trước đây đã
từng chung đụng với nhiều loại người, và sống một cuộc đời ham vui vô vị
"suốt ngày cãi vã, hết cãi vã tôi lại nằm nghe gỉ đục khoét, chúng đục một
cách nhẹ nhàng nhưng rất quyết liệt. Chúng đang nhằm đường tim cửa tôi
tiến vào. Chẳng mấy lúc nữa, chúng sẽ biến tôi thành đất", "Tôi không ngờ
cuộc sống nhàn hạ đã đưa tôi đến cơ sự như vậy". Nhưng rồi cuộc đời đã đổi
thay, cuộc sống lao động đã đem đến cho cái Mai một luồng sinh khí mới.
Lưỡi Mai sáng lên nhờ lao động. Mai không còn han rỉ, buồn tẻ như xưa nữa,
Mai cảm thấy cuộc đời thật có ý nghĩa, khi được lao động và ước mơ của Mai
lúc này là: "Đào đất, đào đất thật giỏi, đào đất để trồng được nhiều cây, để
xây thật nhiều nhà". Mai say sưa lao động, thời gian bao nhiêu cũng dường
như không đủ để Mai có thể "đào đất gấp mười, gấp trăm".
Nhìn chung, nhân vật biểu trưng trong truyện đồng thoại của Võ Quảng
là những nhân vật tích cực, mang đậm nét nhân văn. Đưa lại cho các em
những bài học quý, nhẹ nhàng mà sâu sắc.
HƯỚNG DẪN HỌC TẬP
I. Yêu cầu
1. Nắm được các giai đoạn phát triển của văn học viết cho thiếu nhi
2. Nắm được nội dung chính của một số tác phẩm tiêu biểu cho từng
đề tài, đặc biệt là đề tài kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ và đề tài sinh
hoạt.
3. Tìm hiểu truyện lịch sử viết cho thiếu nhi và nghệ thuật xây dựng
nhân vật lịch sử của Nguyễn Huy Tưởng qua tác phẩm Lá cờ thêu sáu chữ
vàng.
4. Tìm hiểu những đặc điểm của thể loại đồng thoại. Nét đặc sắc về nội
dung và nghệ thuật của thiên đồng thoại Dế mèn phiêu lưu ký.
5. Vị trí của Đất rừng phương Nam trong mảng đề tài kháng chiến
chống Pháp.
6. Tìm hiểu những giá trị đặc sắc về nội dung và nghệ thuật trong thơ
văn Võ Quảng.
II. Đề tài luyện tập
1. Phân tích một tác phẩm văn học viết cho thiếu nhi và nêu những tác
động của nó đối với đời sống tình cảm và hành vi đạo đức của lứa tuổi thiếu
nhi.
2. Đặc điểm của truyện lịch sử được thể hiện qua tác phẩm Lá cờ thêu
sáu chữ vàng của Nguyễn Huy Tưởng.
3. Đặc điểm của thể loại đồng thoại được thể hiện trong tác phẩm Dế
mèn phiêu lưu ký của Tô Hoài.
4. Nhân vật thiếu nhi trong văn xuôi Võ Quảng.
5. Tác động của thơ Võ Quảng trong đời sống tâm hồn và tình cảm của
thiếu nhi.
6. Sự trưởng thành của bé An được tạo bởi tác động của hoàn cảnh và
nghị lực của bản thân. Hãy chứng minh.
III. Tư liệu tham khảo
1. Nghiên cứu phê bình
1. Đôi điều tâm đắc - Vũ Ngọc Bình - Nxb Kim Đồng - 1985
2. Hoa trái đầu mùa - Văn Hồng - Kim Đồng, 1986.
3. Tạp chí Văn học - Chuyên san Văn học thiếu nhi – 5/1993.
4. Văn học - Tập II - Giáo trình dùng trong các trường Sư phạm đào tạo
giáo viên tiểu học, Bộ GD&ĐT, Vụ Giáo viên, H. 1993
5. Văn học thiếu nhi Việt Nam - Trần Đức Ngôn - Dương Thu Hương -
Trường ĐHSP Hà Nội I – Hà Nội, 1994.
2. Tác phẩm
1. Cái thăng - Võ Quảng - Nxb Kim Đồng, 1961.
2. Chú bò tìm bạn (tuyển thơ) - Phạm Hổ - Nxb Kim Đồng, 1993.
3. Đảo Hoang - Tô Hoài - Nxb Kim Đồng - 1980.
4. Đất rừng Phương Nam - Đoàn Giỏi - Nxb Kim Đồng, 1993.
5. Gà mái hoa (Thơ) - Nxb Kim Đồng, 1957.
6. Lửa vàng, Lửa trắng, Lửa nâu (Tuyển chọn) - Phạm Hổ - Nxb Kim
Đồng, l993.
7. Măng tre (Thơ) - Võ Quảng - Nxb Kim Đồng, 1971.
8. Quê nội - Võ Quảng - Nxb Kim Đồng, 198O.
9. Tảng sáng - Võ Quảng- Nxb Kim Đồng, 1980.
10. Thấy cái hoa nở (Thơ) - Võ Quảng – Nxb Kim Đồng, 1962.
11. Tuyển tập Tô hoài tập I - Tô Hoài - Nxb Văn học, 1987.
12. Truyện viết cho thiếu nhi (Tuyển tập) - Nxb Văn học, H.1961.
13. Văn học cho thiếu nhi (Tuyển tập) - Nxb Văn học, H.1996.
C. VĂN HỌC DO THIẾU NHI VIẾT (THƠ TRẦN ĐĂNG KHOA) I. VÀI NÉT VỀ TÁC GIẢ VÀ TÁC PHẨM
Trần Đăng Khoa sinh năm 1958, tại làng Trực Trì, xã Quốc Tuấn,
huyện Nam Sách (hiện nay là huyện Nam Thanh) tỉnh Hải Dương.
Trần Đăng Khoa làm thơ từ khi còn rất nhỏ. Khi bắt đầu biết đọc, biết
viết anh đã ham mê đọc sách và làm thơ. Anh đến với thơ hồn nhiên như một
đứa trẻ nhỏ đến với trò chơi. Những tác phẩm" thơ đầu tay của anh thường
được viết rất nhanh, theo lối bắt chước thơ người lớn. Tám tuổi, bài thơ đầu
tiên của anh được in trên báo Văn Nghệ. Tròn mười tuổi, anh đã cho ra đời
tập thơ Góc sân và khoảng trời. Bước vào thời kỳ chống Mỹ, những vần thơ
tươi mát, hồn nhiên nhưng ấm áp tình người của Khoa đã làm xôn xao dư
luận. Trẻ nhỏ yêu mến, đón đợi thơ anh đã đành mà người lớn cũng rất mê
thơ anh; không những người trong nước chú ý đến thơ Khoa mà người nước
ngoài cũng coi anh như là một hiện tượng thơ thật đặc biệt. Báo chí Pháp viết
về anh, đài Vô tuyến truyền hình Pháp làm phim về anh để chiếu trong đêm
giao thừa; nhạc sĩ Đức phổ nhạc thơ anh v..v....Tác phẩm của anh được dịch
và giới thiệu ở Pháp, Nga, Mỹ, Cu ba, Nhật bản…Từ bấy đến nay vừa tròn 30
năm, tập thơ đã được tái bản 32 lần, nhưng những vần thơ thuở thiếu thời
của Khoa vẫn được bạn đọc, nhất là bạn đọc ở lứa tuổi thiếu nhi nồng nhiệt
đón nhận.
Lý giải sự phát triển sớm tài năng thơ của Trần Đăng Khoa, yếu tố đầu
tiên phải kể đến có lẽ là do ảnh hưởng của gia đình. Từ lúc hãy còn bé, anh
đã được ngoại ru bằng những điệu chèo Lưu Bình - Dương Lễ, Quan âm thị
Kính Mẹ anh, một người phụ nữ nông dân chất phát nhưng lại rất thuộc và
mê Kiều đã ru anh bằng những câu Kiều lẫy, đã kể cho anh nghe nhiều câu
chuyện kể dân gian. Mẹ anh kể: "Từ lúc nó hơi biết, nó đã bắt tôi đọc ca dao,
nó lại bảo kể chuyền cổ tích, chuyện nọ xọ chuyện kia, chuyện nào nó cũng
thích. Có lẽ những câu chuyện kể dân gian, những lời hát ru ấy đã tỏa những
tia ấm đầu tiên vào tâm hồn trẻ thơ của Trần Đăng Khoa để rỏi sau này phản
chiếu lại lấp lánh trên những trang thơ của anh.
Anh trai của Trần Đăng Khoa là một giáo viên và là nhà thợ của đất mỏ
Hồng Gai cũng đã góp phần tạo dựng niềm đam mê thơ của Khoa. Anh
khuyến khích Khoa làm thơ và sưu tập cho Khoa một "thư viện" nhỏ có đến
vài trăm cuốn. Khoa rất mê đọc sách. Anh đọc đủ loại sách nhưng thích nhất
vẫn là thơ. Những trang thơ ấy đã trở thành nỗi ám ảnh trong Khoa, thôi thúc
Khoa cầm bút và đây cũng là nguồn tri thức đề Khoa nâng tầm văn hóa của
mình lên. Thơ Khoa thường lấy đề tài từ những cảnh vật quen thuộc, những
con người mà Khoa gần gũi yêu mến. Đặc biệt là cánh đông làng Trực Trì
bên sông Kinh Thầy, nơi mà ngày ngày những người dân quê anh, cha mẹ
anh đã đổ những giọt mồ hôi, một nắng hai sương đề làm ra hạt gạo nghĩa
tình nuôi quân, đánh giặc. Từ nhỏ, anh đã trưng mợ ước "trở thành kỹ sư
nông nghiệp và suốt đời làm thơ về làng quê, cảnh quê về những vui buồn
của người dân quê ở nơi xóm mạc". Phải chăng, mầm hạt giống thơ Trần
Đăng Khoa được gieo trồng trên mảnh đất phù sa này đã góp phần làm cho
thơ anh đơm hoa kết trái.
Những bài thơ anh viết thường bé Giang (em gái anh) là người được
thưởng thức đầu tiên, sau đó là bè bạn. Từ bè bạn đến các thầy cô giáo, mọi
người đều động viên, khuyến khích, bình phẩm, sửa chữa làm cho những bài
thơ của Khoa hay hơn.
Từ khi được phát hiện, tài năng thơ Khoa ngày càng nảy nở. Nhiều nhà
thơ bậc thầy như Tố Hữu, Huy Cận và Xuân Diệu đã rất quan tâm và đặc biệt
chú ý sự phát triển của thơ Khoa. Với một cái nhìn sắc sao của một nhà thơ
từng trải, Xuân Diệu đã đặt Khoa ở vị trí hàng đầu các thi sĩ tí hon của thời
đại: "Hàng ngàn em nhỏ cất tiếng gáy ò...o...o ở khắp nơi, Khoa ở trung tâm
của cuộc đồng ca vang tương lai ấy”. Có thể nói, Xuân Diệu là người thầy
nghiêm khắc, gần gũi thân thiết của anh không chỉ trong nghề mà còn cả
trong cuộc sống. Xuân Diệu đã góp phần làm cho những bài thơ của anh đạt
đến độ toàn bích.
Năm 1975, Trần Đăng Khoa 17 tuổi, cùng với những trai làng anh đã
lên đường nhập ngũ tham gia làm nhiệm vụ quốc tế ở Campuchia và sống
cuộc đời nhà thơ khoác áo lính trên quần đảo Trường Sa. Anh làm thơ về
người lính, viết không nhiều nhưng đã có những tác phẩm được dư luận chú
ý. Bài Đợi mưa trên đảo sinh tồn của anh được tặng giải A cuộc thi thơ Báo
Văn nghệ 1982. Một số bài thơ được phổ nhạc và được người lính đồng cảm,
yêu thích.
Trường ca Khúc hát người anh hùng viết về người con gái anh hùng
Mạc Thị Bưởi được giải thưởng của Bộ Thương binh và Hội Nhà văn Việt
Nam (1975). Báo "Người Giáo viên nhân dân" (nay là báo "Giáo dục Thời đại"
cũng đã trao tặng anh giải A, cuộc vận động sáng tác văn học về thầy giáo và
nhà trường tháng 3 – 1987.
Sau khi tốt nghiệp trường viết văn Hguyễn Du (khóa II) anh được cử đi
học tiếp tại trường viết văn Gorky (Nga). Hiện nay anh là cây bút viết lý luận
phê bình, biên tập viên của tạp chí Văn nghệ Quân đội và là thành viên trong
ban sáng tác trẻ của Hội nhà văn.
Trong những năm gan đây, người ta thấy anh ít xuất hiện trên mặt báo
với tư cách là nhà thơ. Nhưng một lần nữa, người đọc lại vui mừng, xôn xao
đón đợi Trần Đăng Khoa, không phải là thơ mà trên một vùng nghệ thuật
khác: Bình luận văn chương. Khi ở độ tuổi bốn mươi, anh cho ra mắt bạn đọc
tập Chân dung và đối thoại. Một cuốn sách mà ngay từ khi vừa ra mắt đã
được bạn đọc, bạn viết đón nhận nồng nhiệt. Chỉ sau một tháng kể từ khi
cuốn sách vừa ra đời đã có hàng chục bài báo lớn nhỏ từ Trung ương đến địa
phương bàn luận sôi nổi. Và chưa đầy một năm, cuốn sách đã được tái bản 8
lần mà vẫn được xem là "của hiếm" trên thị trường sách hiện nay. Chân dung
và đối thoại đã được tặng giải Nhất của Hội nhà văn Việt Nam, 1998.
II. THƠ TRẦN ĐĂNG KHOA
1. Thiên nhiên trong thơ Trần Đăng Khoa
Thiên nhiên là đề tài được nói đến nhiều nhất, chiếm tỷ lệ lớn nhất
trong thơ Trần Đăng Khoa: Khảo sát 78 bài trong tập thơ Góc sân và khoảng
trời, ta thấy 35 bài có sự hiện diện của thiên nhiên. Từ Góc sân nhà em Khoa
đã nhìn, đã cảm, đã nghĩ và đưa vào thơ những hình ảnh quen thuộc của
làng quê Việt Nam. Khoa viết về một tiếng gà gáy trong buổi sáng trong lành
của một ngày mới (ò ó o...), về mảnh vườn hả hê đón nhận cơn mưa (Mưa),
về một buổi hái trầu đêm (Đánh thức trầu về cây đa đầu làng (Cây - đa), về
những cánh diều no gió (Thả điêu), về ánh trăng sáng sân nhà em (Trăng
sáng sân nhà em, Trăng ơi từ đâu đến), về hương vị của mùa nhãn chín
(Hương nhãn), Về hoa cau trong chớm mùa thu se lạnh (Chớm thu), vệ cánh
đồng làng Trực Trì quê anh (Hạt gạo làng ta, Đồng chiều, Hương đồng...)
Đọc thơ Khoa nói về cảnh vật thiên nhiên người ta cảm nhận rất rõ về
mối giao hòa giữa cảnh vật, và con người. Không có cảnh nào trong thơ Khoa
lại không chứa đựng hồn người, tình người một cách sâu sắc Trần Đăng
Khoa làm bài thơ Đánh thức trầu khi anh lên tám, không chỉ chứa đựng cái
tình đằm thắm của một cậu bé giàu tình cảm dành cho bà và mẹ mà còn là
tình mến yêu, nâng niu, tình nghĩa đối với cây trầu:
Trầu ơi hãy tỉnh lại
Mở mắt xanh ra nào
Lá nào muốn cho tao
Thì mày chìa ra nhé
Tay tao hái rất nhẹ
Không làm mày đâu đâu.
Khoa viết về hương nhãn trong đêm cũng gợi nhớ người đi xa: Đêm
hương nhãn đặc lại
Thơm ngoài sân trong nhà
Mà em nằm thao thúc
Nhớ anh đang đi xa…
Hạt gạo làng ta của Trần Dàng Khoa không chỉ là hạt gạo có chứa vị
phù sa của sông Kinh Thầy, có hương sen thơm mà còn có cả hồi mẹ hát
ngọt bùi hôm nay".
Đi trên cánh đồng làng Trực Trì, hương đồng nội như thâm sâu vào con
người Khoa, vào thơ Khoa. Khoa như ngây ngất bởi:
Mùi bùn đang ngấu
Mùi phân đang hoai
Vôi chưa tan hẳn
Còn hăng rãnh cày.
Tâm hồn anh như mở ra đón lây cả bầu không khí lâng lâng, say say
ấy:
Trời đất hôm nay
Như chim mới hót
Như rượu mới cất
Như mật mới đong
Đó trong ngào ngạt
Niềm vui gieo trồng
Và Khoa đã lột tả được cái hương vị, cái thần thái, cái hồn quê Việt
Nam qua những hình ảnh bình dị đến không ngờ.
Mái gianh ơi hỏi mái gianh
Ngấm bao nhiêu nắng mà thành quê hương
Nhưng thiên nhiên trong thơ Trần Đăng Khoa cỏn là một thiên nhiên in
dấu của thời đại. Bằng ngôn ngữ của thiên nhiên, tiếng thơ Khoa cũng đã góp
phần phản ánh hiện thực cuộc sống dân tộc ta trong những năm kháng chiến
chống Mỹ. O ó o là bài thơ của Khoa đã tạo ra được một không gian bát ngát
tiếng gà. Và kỳ diệu thay, tiếng gà làm cho vạn vật bừng tỉnh, tràn đầy sự
sống. Đó cũng chính là sức sống mãnh liệt của một vùng quê, của dân tộc mà
không một thế lực đen tối nào có thể hủy diệt được:
Ò ó o...
Tiếng gà
Giục quả na
Mở mắt
Tròn xoe
Giục hàng tre
Đâm măng
Nhọn hoắt
Ôi bốn bề
Bát ngát
Tiếng gà...
Bài Hạt gạo làng ta là hình ảnh của một vùng quê cần lao vất vả để làm
ra hạt gạo gửi ra tiền tuyến, góp phần nuôi quân đánh giặc:
Hạt gạo làng ta.
Có bão tháng bảy..
Có mưa tháng ba
Giọt mồ hôi sa
Những trưa tháng sáu
Chết cả cá cờ
Cua ngoi lên bờ
Me em xuống cây…
Giữa tiếng bom rơi; đạn réo của đế quốc Mỹ trút xuống làng quê đồng
ruộng Việt Nam, thiên nhiên vẫn hiện ra trong thơ Khoa tràn đầy nhựa sống:
Chúng tôi đến lớp ngày ngày
Mũ rơm tôi đội, túi đầy thuốc men
Ao trường vẫn nở đầy sen
Bờ ao vẫn chú dế mèn vuốt râu.
Đọc những vần thơ ấy, người ta sẽ hiểu vì sao chúng ta thắng Mỹ. Nữ
văn sĩ Pháp Ma - đờ - len Ríp - phô rất thích mấy câu thơ trên. Bà đã viết bài
"Khoa, em bé thi sĩ của Việt Nam, một khúc hát nhỏ mạnh hơn bom đạn"
đăng trên tuần báo Nhân đạo Chủ nhật. Bà cho rằng đấy là những câu thơ
tiêu biểu cho bản tính của nhân dân Việt Nam, được thể hiện qua con mắt trẻ
thơ. Có thể nói, tâm hồn Khoa luôn hòa hợp với thiên nhiên, với quê hương
nên thơ anh có thể bắt được rất nhạy thần sắc của nó. Anh nghe được tiếng
cây “lách chách đâm chồi”, tiếng lá rơi “rất mỏng như là rơi nghiêng” của
chiếc lá đa, tiếng thở hí hóp trên sàn của thóc", tiếng "gió giở mình trăn trở"
trong đêm thu. Có lẽ vì vậy mà khi đi tìm sự lý giải "Cái vần thơ Khoa lớn lên
từ mảnh đất nào", Giáo sư Nguyễn Đăng Mạnh đã khẳng định, Khoa chính là
nhà thờ của nông thôn "làng quê đã tạo nên thơ Khoa từ màu sắc đến linh
hồn".
III. TÂM HỒN TRẺ THƠ CỦA KHOA ĐƯỢC BỘC LỘ QUA CÁCH NHÌN, CÁCH TẢ CẢNH VẬT
Chúng ta đã biết, tập thơ Góc sân vả khoảng trời của Trần Đăng Khỏa
ra đời khi anh tròn 10 tuổi. Trong thơ Khoa, ta bắt gặp tầm nhìn, tầm nghĩ của
một hồn thơ vượt xa lứa tuổi của anh. Nhiều người nghĩ đến Khoa như một
hiện tượng có một không hai, một thần đồng thơ lúc vừa lên 7,8 tuổi. Nguyên
Đăng Mạnh cũng đánh giá rất cao Trần Đăng Khoa, coi anh là một trong
những cây bút hiếm hoi trong đội ngũ những người viết về nông thôn sau
Cách mạng tháng Tám.
Nhưng Khoa vẫn là một cậu bé 10 tuổi. Đó là lứa tuổi hồn nhiên, ngây
thơ, hiếu động và giàu sức tưởng tượng. Dấu ấn tuổi thơ anh vẫn còn in đậm
trên từng trang viết, bộc lộ qua cách nhìn, cách tả cảnh vật. Nhìn cơn mưa
trong vườn, Khoa hình dung đến một đoàn quân ra trận:
Ông trời
Mặc áo giáp đen
Ra trận
Môn nghìn cay mía
Múa gươm
Kiến
Hành quân
Đầy đường...
Một Buổi sáng nhà em với bao nhiên nhân vật ngộ nghĩnh và sinh
động. Vẫn là một khoảnh vườn nho nhỏ và góc sân mà ta vẫn gặp ở bất cứ
vùng quê nào. Vậy mà ở thơ Khoa, nó hoàn toàn mang một đáng vẻ mới lạ
ngộ nghĩnh và gợi cảm:
Cậu mèo đã dậy từ lâu
Cái tay rửa mặt, cái đầu nghiêng nghiêng
Mụ gà cục tác như điên
Làm thằng gà trống huyên thuyên một hồi
Cái na đã tỉnh giấc rồi
Đàn chuối đứng vỗ tay cuời vui sao
Và thật kỳ diệu khi Khoa viết vế Đám ma bác giun với đông đủ họ hàng
nhà Kiến: Kiến con, Kiến già, Kiến đất, Kiến lửa, Kiến cánh, Kiến càng, Kiến
đen, Kiến vàng... Kiến đi đưa ma, Kiến ở nhà "là đà" uống rượu cho đến cả lũ
Kiến gió bay ra chia phần. Ngộ nghĩnh, sống động mà cũng sâu lắng. Bài thơ
gợi một không khí xưa mà ta đã gặp đâu đó trong ca dao cổ.
Bài Kể cho bé nghe của Khoa có âm hưởng của một bài đồng dao.
Bằng những liên tưởng thật ngộ nghĩnh, độc đáo và tài tình, Khoa nhảy cóc từ
sự vật này đến sự vật khác chuyện nọ xọ chuyện kiạ, toàn là chuyện loài vật,
đồ vật mà sao huyên náo, ầm ĩ lạ thường:
Hay nói ầm ĩ
Là con vịt bầu
Hay hỏi đâu đâu
Là con chó vện
Hay chăng dây điện
Là chú nhện con.
Trăng là một đối tượng trữ tình của cảm hứng thi ca từ bao đời nay.
Nhưng trong cái nhìn của Khoa trăng hiện ra một cách mới lạ:
Trăng ơi từ đâu đến
Hay từ biển diệu kỳ
Trăng tròn như mắt cá :
Không bao giờ chớp mi
Theo Xuân Diệu, "một hình tượng mà xâu chuỗi được từ trăng sang
biển, từ biển đến trời. Trăng là mắt của một con cá nào nhìn nghiêng thì thật
là kỳ diệu”. Và chỉ có một đứa trẻ mới lần đầu tiên nghĩ ra trong thơ:
Trăng ơi từ đâu đến
Hay từ một sân chơi
Trăng bay như qủa bóng
Đứa nào đá lến trời.
Cánh diều, cái biểu tượng của sự thanh bình ở đồng quê qua tưởng
tượng của Khoa không chỉ là mảnh trăng vàng, chiếc thuyền trôi trên sông
Ngân, hạt cau phơi trên nong trời và còn là lưỡi liềm của ai đó bỏ quên trên
cánh đồng trời sau mùa gặt.
Trong đôi mắt trẻ thơ của Khoa, màu sắc, âm thanh, hương vị cửa thế
giới bên ngoài, của thiên nhiên, cỏ cây, hoa lá dường như đều có hồn người
được hiện ra với những hình nét thật đặc biệt, giàu sức liên tưởng: tàu lá dừa
đối với Khoa là "chiếc lược chải vào mây xanh" với những chùm quả lủng
lẳng như “bao hủ rượu”. Còn trong cơn mưa thì nó "sải tay bơi" bên cạnh
những bụi tre "tần ngần gỡ tóc" và "hàng bưởi đu đưa bế lũ con đầu tròn trọc
lóc". Ngay cả sấm sét, vị hung thần từng gieo bao nỗi kinh hoàng cho con
người cũng được Khoa ban tặng một nụ cười thật sảng khoái, hồn nhiên
Sấm
Ghé xuống sân
Khanh khách
Cười
Đến những khẩu pháo trên trận địa cũng chỉ lả một chú bé hay vòi vĩnh,
ước muốn có được những "kẹo hồng, kẹo xanh".
Chính cái hồn nhiên trong trẻo ấy đã tạo cho thơ Khoa một phong cách
rất riêng thật đặc biệt và đấy cũng là nguồn dinh dưỡng giúp Khoa thực hiện
nguyện ước cháy bỏng của mình “Em suốt đời làm thơ”.
IV. TÌNH ĐỜI, TÌNH NGƯỜI TRONG THƠ TRẦN ĐĂNG KHOA
Hồn nhiên, ngộ nghĩnh trong cảm nhận về thiên nhiên, thơ Khoa cũng
rất ấm áp tình đời, tình người. Mẹ bao giờ cũng là hình ảnh sâu đậm, thiêng
liêng nhất trong thơ Khoa. Anh làm nhiều bài thơ về mẹ, “Áo mẹ mưa bạc
màu” “Đầu mẹ nắng cháy tóc”. Nhìn mẹ ốm, anh như thấu hiểu cuộc đời dầu
dãi nắng mưa, một nắng hai sương của mẹ:
Nắng mưa từ những ngày xưa
Lặn trong đời mẹ đến giờ chưa tan
Không còn là những lời ngộ nghĩnh mà là những lời được cất lên từ sâu
thẳm của tình mẹ con. Câu thơ như lấp lánh giọt nước mắt:
Cả đời đi gió đi sương
Bây giờ mẹ lại lần giường tập đi
Và thật là hiếu thảo, khi anh muốn làm vui lòng mẹ:
Mẹ vui con có quản gì
Ngâm thơ kể chuyện rồi thì múa vui
Rồi con diễn kịch giữa nhà
Một mình con đóng cả ba vai cheo.
Cảm dộng nhất là khi thấy mẹ đau ốm, khoa thốt lên vì “con chưa
ngoan, chưa ngoan” và cảm thấy mình thật có lỗi khi chưa làm được gì để đỡ
đần nỗi vất vả của cha mẹ
Vì con mẹ khổ đủ điều
Quanh đôi mắt mẹ đã nhiều nếp nhăn.
Khi đã là nhà thơ khoác áo lính anh vẫn làm thơ về mẹ Viết bên cửa sổ
máy bay, Lại nói về mẹ. Vẫn những tình cảm đằm thắm ấy nhưng có thêm
chiều sâu suy nghĩ và trách nhiệm.
Bé Giang, em gái của Khoa cũng là đối tượng của thơ anh. Khoa làm
nhiều bài thơ cho em. Với tình cảm và trách nhiệm của người anh, trong Dặn
em, anh lo lắng cho em khi ở nhà một mình, dặn em đừng ra bờ ao mà rơi
xuống nước, đừng đi nắng mà nhức đầu, đừng nghịch đất mà lấm người, đau
mắt và với tư thế người anh:
Ốm đau là mất đi chơi
Làm cho bố mẹ mất vui trong lòng.
Anh còn viết về một bé Giang độ lượng biết nhường nhịn con mèo hiếu
thắng:
À thôi… mày được
Bé Giang dỗ dành
Mèo thè lưỡi đỏ
Liếm vào răng nanh.
Khoa viết về anh trai trong niềm xúc động của hương nhãn về đêm:
Đêm. Hương nhãn đặc lại
Thơm ngát sân trong nhà
Mẹ em nằm thao thức
Nhớ anh đang đi xa
Khoa không chỉ biết yêu thương những người thân trong gia đình mà
đối với một bác kéo xe bò “mồ hôi ướt lưng, căng sơi dây thừng" chở vôi cát
về xây trường học cũng được Khoa quý trọng, đối xử hết sức ân tình:
Cơm cháu vừa xới
Mời bác cứ ăn
Nước cháu rót xong
Mờ bác cứ uống
Nhìn con đường nhỏ, lòng Khoa bỗng bâng khuâng vì thiếu bóng thầy
đi qua". Khi được tin thầy lên đường nhập ngũ:
Thầy đi bộ đội chiều qua
Chúng em thơ thẩn vào ra chúc mừng
Và khi thầy từ Chiến trường trở về với một bàn chân không còn nguyên
vẹn, Khoa cảm thấy xót xa, cảm thấy mình chưa xứng dáng với sự hy sinh
lớn lao của thầy:
Dấu nạng hai bên như hai băng lỗ đáo
Chúng em nhận ra bàn chân thầy giáo
Nhận ra cái chưa hoàn hảo
Của cả cuộc đời mình.
Tình yêu chú bộ đội cũng là nét nổi bật trong thơ Khoa. Hình ảnh chú
bộ đội trong tâm trí Khoa bao giờ cũng là hình ảnh gần gũi, thân thiết. Chỉ một
vài nét chấm phá Khoa đã dựng lên chân dung của Anh bộ dội cụ Hồ.
Cháu nghé chú đánh những đâu
Những tàu chiến cháy những tàu bay rơi
Đến đây chỉ thấy chú cười
Chú đi gánh nước, chú ngồi đánh bi.
Bác Hồ, cũng là một hình ảnh vô cùng gần gũi trong thơ Khoa. Từ lúc
9 tuổi, nhìn Bác Hồ trong ảnh treo giữa nhà, khoa đã viết:
Bác lo bao việc nên đời
Ngày ngày Bác vẫn mỉm cười với em.
Khoa nói chuyện với bác trong ảnh mà tưởng: tượng ra lời Bác dặn dò:
Cháu ơi đừng có chơi bời đâu xa,
Trông rau, quét bếp, đuổi gà
Thấy tàu bay Mỹ nhớ ra hầm ngồi.
Mỗi lần nghe tin máy bay Mỹ ném bom vào Hà Nội, Khoa vô cùng lo
lắng.
Các chú bộ đội ơi
Các chú bộ đội ơi
Thằng giặc Mỹ nó ném bom Hà Nội rồi
Hà Nội có Bác Hồ đang ở...
Lần đầu tiên được về Hà Nội; Khoa đến ngay trước Quảng trường Ba
Đình, mong thấy Bác Hồ. Niềm vui sướng hân hoan mong mỏi được gặp bác
xen lẫn niềm lo lắng.
Bác ơi cháu đến đây rồi
Ba Đình phượng đỏ một trời tiếng ve.
Cháu nghe Hà Nội vào hè.
Hồ Gườm nước biếc bốn bề hoa tươi.
Sang năm Bác tám mươi rồi
Bác ơi! Bác thấy trong người khỏe không?
Như thế, cái tình đời, tình người cứ len vào trong thơ Khoa, làm cho cái
nhìn tươi mát của Khoa thêm phần đằm thắm, sâu lắng đầy chất suy ngẫm.
V. ĐẶC ĐIỂM NGHỆ THUẬT TRONG THƠ TRẦN ĐĂNG KHOA
Trong tác phẩm văn học nói chung, thơ nói riêng, nội dung và hình thức
bao giờ cũng có mối quan hệ chặt chẽ. “Ngôn ngữ là yếu tố thứ nhất của văn
học” (Gorky). Thơ Khoa bộc lộ một thứ ngôn ngữ mượt mà, trong sáng, giàu
hình ảnh và giàu nhạc điệu. Càng về sau thơ anh càng đạt đến độ tinh tế,
giản dị, giàu tính biểu cảm và suy tưởng.
Trong thơ, các biện pháp so sánh, ẩn dụ, nhân hóa được Khoa sử
dụng với tần số lớn. Sự so sánh thường không tạo ra hiện tượng chuyển
nghĩa mà gợi tả những hình ảnh được liên tưởng đến. Điều thú vị là liên
tưởng đến trong thơ Khoa hết sức độc đáo và ngộ nghĩnh
Trăng tròn như cái đĩa
Lơ lửng mà không rơi.
hay
Trong ơi từ đâu đến
Hay từ một sân chơi
Trăng tròn như quả bóng
Đứa nào đá lên trời.
Nhân hóa cũng là một biến thế của sự so sánh. “Mưa” “Kể cho bé
nghe”... là những bài thơ sử dụng phép nhân hóa rất thành công Khoa. Thủ
pháp ẩn dụ cũng được Khoa sử dựng để bộc lộ những tình cảm sâu sắc và
tinh tế Cái độc đáo của Khoa khi sử dụng các thủ pháp này là sự liên tưởng
từ cái bao la rộng lớn để nhìn thấy cái cụ thể, từ cái cụ thể để thay cái khái
quát cao hơn. Có thể nói, sự quan sát, liên tưởng của Khoa rất tinh nhạy và
đầy sáng tạo. Những phẩm chất ấy chỉ có thể có được ở những tâm hồn nhạy
cảm, nhân hậu và giàu niềm tin yêu vào cuộc sống.
Thơ Khoa còn in đậm dấu ấn của những suy ngẫm, khái quát sâu sắc :
Mái gianh ơi hỡi mái gianh
Ngấm bao nhiêu nắng mà thành quê hương.
Nhạc điệu một yếu tố quan trọng tạo nên phong cách thơ Trần Đăng
khoa. Tính nhạc trong thơ Khoa được tao thành không chỉ ở vần thơ, ở nhịp
điệu, cách sử dụng ngữ âm mà còn là sự ngân vang của tâm hồn. Nhìn bao
quát thơ Khoa ở thể tự do, ít bị ràng buộc ở số câu chữ, có nhiều bài được
viết theo thể lục bát, nhuận nhị, mượt mà như ca dao. Nhưng cũng có bài rất
ngắn. mỗi câu chỉ có 1 chữ, 2 chữ, 5 chữ (Mưa). Tuy nhiên, không vì thế mà
nhạc điệu bài thơ bị mất đi. Một số bài thơ của anh mang âm hưởng của
những bài đồng dao (Kể cho bé nghe, Trăng sáng sân nhà em...) Một số bài
có kết cấu lặp, khi đọc lên mang giai điệu của câu hát. Nhưng điều quan trọng
nhất để làm nên chất nhạc trong thơ Khoa chính là nhờ cảm xúc cái nhìn
cuộc sống trong sáng thơ ngây và cảm xúc chân thành của một tâm hồn ấp
áp tình đời tình người. Chính vì vậy mà thơ Khoa dễ đi vào lòng người đọc,
ngân vang trong trong mỗi tâm hồn như những khúc hát.
Thơ Khoa cũng đã biết tiếp thu khai thác mạnh nguồn văn hóa dân
gian, tiếp thu tinh hoa của các thế hệ đi trước để biến thành cái đẹp của riêng
anh.
Tuy nhiên, đây đó có một số bài thơ của Khoa hơi đi quá đà triết lý
khiến cho hồn thơ có vẻ già trước tuổi (Lớn lên). Dẫu rằng, ở đây khái niệm
già nên quan niệm khác nơi người lớn. Theo Xuân Diệu, bài Dân Côn Sơn
chưa kể cảm xúc tinh vi khi anh nghe chiếc lá "Tiếng rơi rất mỏng như là rơi
nghiêng", cả bài thơ ngắn gọn, không thừa câu rườm chữ, mà rộng lớn một
cách tự nhiên và khêu gợi rất giỏi. Và Xuân Diệu gọi đây là "bút pháp người
lớn", khiến thơ anh vượt xa những cây bút cùng trang lứa.
HƯỚNG DẪN HỌC TẬP
I. Câu hỏi
1 So sánh tình cảm bao trùm nhất giữa thơ thiếu nhi trước và sau 1975
để thấy được đặc trưng tâm tỷ thời đại.
2. Lý giải tài năng thơ Trần Đăng Khoa.
3. Vì sao nói Tràn Đăng Khoa là một trong những cây bút chuyên
nghiệp về nông thôn.
4. Đặc điểm nghệ thuật trong thơ Trần Đăng Khoa.
II. Bài tập
1 Thiên nhiên trong thơ Trần Đăng Khoa.
2. Tâm hồn trẻ thơ của Trần Đăng Khoa được thể hiện qua cách nhìn,
cách tả cảnh vật.
3. Tình dời, tình người được thể hiện trong thơ Trần Đăng Khoa như
thế nào?
III. Tài liệu tham khảo
1 Hồng Diệu
- Đọc lại tuổi thơ Tran Đăng Khoa - Văn nghệ số 42 (l8.l0.l980)
- Thiếu nhi với bộ đội trong thơ - Văn nghệ quân đội (6 - 1 979)
- Bàn về cá tính sáng tác trong thơ Trần Đăng Khoa - Văn nghệ quân
đội số 2 và 3 - 1987
2. Văn Hồng:
- Từ "Tấm lòng chúng em" đến “Cánh én mùa xuân" Văn nghệ số 39
(29.9.1977)
Về một chặng đường phát triển của văn học Thiếu Nhi - Văn nghệ 38
(20.9.1990)
3. Vân Thanh:
- Thơ Trần Đăng Khoa - Tạp chí Văn học - Số 3 - 1984
- Trần Đăng Khoa - Văn học tập II - Nxb Hà Nội - 1942
4. Dương Thu Hương
- Thơ Trần Đăng Khoa Văn học Thiểu nhi - Trường Đại học Sư phạm 1
- Hà Nội 1 994
5. Trịnh Thị Hà Bắc
- Thơ Thiếu nhi trong nhà trường - Luận văn Thạc sĩ Ngữ văn. Mã số
5.12.02. Huế 1999.
6. Trần Đăng Khoa
- Góc sân và khoảng trời - Nxb Kim Đồng - Hà Nội, 1996
Phần thứ ba: VĂN HỌC NƯỚC NGOÀI TRONG CHƯƠNG TRÌNH TIẾNG VIỆT TIỂU HỌC
Văn học nước ngoài có một vai trò to lớn trong đời sống tinh thần của
thiếu nhi Việt Nam. Trong chương trình tiểu học, văn học nước ngoài được
đưa vào chủ yểu ở ba phân môn: Tập đọc, Kể chuyện và Văn (Chương trình
CGD)(1). Đó là những truyện kể dân gian, những truyện ngắn hiện dại, các bài,
các đoạn trích văn thơ của các nhà văn cổ điển và hiện đại nổi tiếng trên thế
giới đã được xem xét và chọn lọc kỹ lưỡng vế nhiều phương diện để dưa vào
chương trình, nhằm phục vụ mục đích giáo dưỡng và giáo dục cho học sinh
tiểu học.
Với một số lượng đáng kể (chiếm = 30% của toàn chương trình), các
tác phẩm văn học nước ngoài đã để lại trong tâm trí các em những kiến thức
phong phú về đời sống, những khát vọng cao cả, đẹp đẽ của loài người,
những bài học nhẹ nhàng mà sâu lắng vế lòng nhân ái vị tha, các em được
tiếp xúc với những truyện kể dân gian hấp dẫn với những hình tượng bay
bỗng, gợi lên niềm hưng phấn và ước mơ đẹp đẽ, được tiếp xúc và học tập
những trang. văn đẹp, vừa trữ tình vừa sống động mà ở đó, con người và
cảnh vật hòa quyện, hài hòa với nhau.
Học văn học nước ngoài, các em còn như mở rộng tầm mắt, bước đầu
tiếp xúc với một thế giới vừa xa xôi, vừa gần gũi với đất nước mình với dân
tộc mình.
I. NHỮNG GIÁ TRỊ NỘI DUNG CỦA VĂN HỌC NƯỚC NGOÀI TRONG CHƯƠNG TRÌNH VĂN HỌC
Văn học nước ngoài trong chương trình tiếng Việt tiểu học đề cập đến
nhiều nội dung khác nhau. Với một hệ đề tài và chủ đề vừa phong phú, vừa
đa dạng; với cốt truyện hấp dẫn; những trang viết giản dị, trong sáng giàu
chất thơ, những trang văn học nước ngoài đã đem đến cho các em những bài
quý về giá trị nhân bản. Đó là những tình cảm cao đẹp của con người: Lòng
nhân ái vị tha, tình yêu quê hương đất nước, khát vọng trí tuệ và những
chuẩn mực đạo đức.
1. Lòng nhân ái
Lòng nhân ái là một chủ đề lớn, xuyên suốt hầu hết tác phẩm. Từ
những trang truyện cổ dân gian của nhiều dân tộc trên thế giới cho đến
những tác phẩm thơ văn hiện đại, ở đâu, ta cũng bắt gặp ngọn lửa ấm áp của
lòng nhân ái. Nó đem lại cho tác phẩm chất trữ tình lắng đọng nhất, có sức
lay động nhất đến tâm hồn bạn đọc nhỏ tuổim Chính lòng nhân ái đã tạo cho
con người một súc mạnh vô tận, giúp họ vượt qua muôn ngàn thử thách và
bất hạnh của cuộc đời để tìm đến hạnh phúc.
Trong truyện Nàng Bạch Tuyết và bảy chú lùn (Truyện cổ Grim - Đức)
bảy chú lùn sống trong rừng đã hết lòng cưu mang nàng Bạch Tuyết khi nàng
bị tai họa. Lòng nhân ái của họ thật xúc động, họ đã tận tụy với nàng khi nàng
còn sống và cả khi đã chết.
Tình yêu thương của con người nhiều khi đã làm rung động cả trời đất
và lay động cả trái tim băng giá của thần linh. Hình tượng những giọt máu
nghĩa tình của nàng công chúa Thiên Nga rỏ xuống, biến thành những bông
hồng "đỏ thắm, thơm dịu và đẹp như tình yêu của con người" là biểu tượng
cao đẹp của lòng nhân ái (Những bông hồng - Thần thoại Hý Lạp).
Đó còn là tình yêu thương đối với những cảnh đời bất hạnh. Chú dế
nhỏ trong Dế nhỏ và ngựa già mù (Truyện cổ Bun - ga - ri) đã coi việc giúp đỡ
người khác như là một niềm vui, một niềm hạnh phúc. sau khi đã mang lại
ánh sáng cho ngựa già mù, chú dế nhỏ "lòng tràn ngập vui sướng, chú đi
khắp mặt đất, để những đêm thanh khiết, đem niềm vui cho mọi người, cho
cây cỏ và cho tất thảy mọi sinh linh bé bỏng nhỏ nhoi".
Lòng nhân ái còn được thể hiện ở các tác phẩm văn học hiện đại.
Truyện (cô bé bán diêm (Andersen - Đan Mạch), kể về một em bé nghèo.
Trong đêm cuối năm lạnh giá, em đi bán diêm. Trời đã khuya, thấm lạnh
nhưng em không bán được gì. Trong khi nhà nhà thắp đèn sáng rực và sửa
soạn đón năm mới, em một mình lang thang trên đường vắng với đôi chân
trần lạnh giá. Và em đã đốt những que diêm để sưởi ấm. Mỗi que diêm lóe
lên là một giấc mơ: cái lò sưởi ấm cúng, mâm cổ tết có ngỗng quay và cuối
cùng là người bà rất yêu thương em (đã mất từ lâu) hiện về đón em đi... Em
chết vì đói, vì rét. Nhưng bằng ánh sáng kỳ diệu, cao cả của ngọn lửa diêm,
em dã được tình thương của Andersen tiễn đưa vào cõi vĩnh hằng với "đôi
má hồng vả đôi môi đang mỉm cười".
Cùng một cảm hứng về lòng nhân ái,.vị tha, truyện Người ăn xin của I-
van Tuốc-ghê-nép (Nga) lại đem đến cho các em những bài học triết lý nhẹ
nhàng và sâu sắc. Cậu bé qua dường, sau khi đã "tìm hết túi nọ đến túi kia để
mong kiếm dược cái gì để cho người ăn xin" nhưng vẫn chẳng có gì, cậu liền
nắm chặt đôi bàn tay của người ăn xin và nói như người cỏ lỗi "ông đừng giận
cháu, cháu không có gì để cho ông cả".Và ông lão ăn xin nhìn cậu bé với đôi
mắt “ướt đau”, "đôi môi tái nhợt" nở nụ cười: "Như vậy là cháu đã cho lão rồi"
đã làm xúc động người đọc, và họ cũng như vừa nhận được chút gì từ câu
nói của người ăn xin.
Trong tình cảm con người, tình mẫu tử là thiêng liêng sâu dậm nhất
Chủ đề đó được thể hiện qua Những con bồ nông (Muýt-xê), Con sẻ (I van
Tuốc-ghê-nép), Một bà mẹ (Andersen). Đó là những câu chuyện nhỏ xinh
nhưng chứa đựng một tình yêu lớn. Chim bồ nông mẹ sau khi lặn lội suốt
ngày nhưng chẳng kiếm được mồi gì cho con ăn, đã sẵn sàng hy sinh tính
mệnh của mình để cho đàn bồ nông con "được một bữa no". Những con bồ
nông con ngây thơ đã không hiểu rằng, đó là bữa ăn cuối cùng mà người mẹ
yêu con dành cho chúng.
Trong Con sẻ, hình ảnh sẻ mẹ bất chấp sự nguy hiểm, sà xuống trước
mặt chó săn để bảo vệ cho sẻ con đã buộc chó săn phải lùi lại. "Vì nó hiểu
phía trước nó là một sức mạnh”. Đó là sức mạnh của tình mẫu tử.
Trong Một bà mẹ, chính tình yêu con vô bờ bến của người mẹ đã đem
lại cho bà sức mạnh và lòng can đảm để vượt qua thử thách, tìm đến xứ sở
của thần chết đòi lại đứa con đã mất.
Lòng nhân ái không chỉ đem đến sức mạnh cho con người mà còn là
hạnh phúc mà họ xứng đáng được hưởng. Chàng A-la-đanh trong cây đèn
thần (Nghìn lẻ một đêm - ả Rập) khi nghèo khổ. cũng như khi giàu tột bậc,
làm phò mã, rồi làm vua, không bao giờ quên giúp đỡ người nghèo khổ. Vì
vậy, chàng được mọi người dân quý trọng, yêu mến và xứng đáng được
hưởng hạnh phúc lâu dài với nàng công chúa xinh đẹp.
2. Tình yêu quê hương đất nước
Một trong những phẩm hạnh cao quý nhất của con người là tình yêu
quê hương đất nước. Đó là một tình yêu lớn, thiêng liêng và tự nhiên của mỗi
con người. Nó gắn bó con người với nơi chôn nhau cắt rốn. Thiếu tình yêu ấy,
cuộc sống sẽ vô vị, nhạt nhẽo, buồn.thảm biết nhường nào (Chú vẹt tinh khôn
- I ran)
Đó còn là sự tôn trọng từng hạt cát nhỏ của quê hương. Trong đất quỹ
đất yêu (Truyện cổ Etiôpia) lúc người khách định bước xuống tàu thì bị quan
hầu yêu cầu cởi giày ra, cạo sạch đất ở đế giày rồi mới để khách đi. Lý giải về
hành động "kỳ quặc" của mình, vị quan hầu nói "Đó là mảnh đất của chúng
tôi. Chím tôi sinh ra ở đây, chết cứng ở đây Trên mảnh đất này, chúng tôi
trồng trọt, chăn nuôi. Đất Etiôpia là cha, là mẹ, là anh em ruột thịt của chúng
tôi" và “đất ê-ti-ô-pi-a đối với chúng tôi là thiêng liêng, cao quý nhất. Chúng tôi
không để các ông mang đi, dù chỉ là một hạt cát nhỏ". Để bảo vệ quê hương
đất nước, tình yêu có lúc là tinh thần chiến đấu dũng cảm, mưu trí chống lại
giặc ngoại xâm. Truyền thuyết về xứ Ba un lê (Truyện cổ Châu Phi) ca ngợi
bà hoàng hậu Pê-cu tài năng, dũng cảm và chan chứa tình yêu đối với dân
tộc, với đất nước. Bà sẵn sàng hy sinh tính mạng, hy sinh cả đứa con trai độc
nhất của mình vì sự tồn vinh của đất nước. Lòng yêu nước cao cả tuyệt vời
và chói sáng của bà đã cảm hóa dược các thần linh và tạo ra chiến công kỳ
diệu.
Truyện Những chú bé không chết (Nga) cũng là bài ca, ca ngợi sự hy
sinh và lòng dũng cảm, quyết không đội trời chung với kẻ thù của nhân dân
Nga trong cuộc chiến đấu bảo vệ đất nước. Tình yêu dết nước ấy đã làm cho
kẻ thù phải cúi đầu run sợ. Khi thấy một chú bé mặc áo sơ mi xanh có hàng
cúc áo trắng thứ ba xuất hiện, tên phát xít đã phục xuống như một kẻ loạn trí:
"Hít le, quỷ tha ma bắt mày đi. Mày dưa chúng tao đến một đất nước phù
thủy. Ở đây, người ta chết đi, sống lại như các vị thần".
Lòng yêu quê hương đất nước còn thể hiện ở sự mưu trí dũng cảm.
Bác Phơ-líp - chủ hàng bánh kẹo trong ông chú cửa hàng bánh kẹo (Mêhicô)
là một con người rất đỗi bình thường. Nhưng để bảo vệ đồng đội bác đã mưu
trí đánh lừa kẻ địch và chịu đựng mọi thử thách. Bác Phơ-líp là hình ảnh đẹp,
tiêu biểu cho người dân Mêhicô trong cuộc đấu tranh một mất một còn với
bọn xâm lược Mỹ để bảo vệ tổ quốc.
3. Đề cao trí tuệ của con người
Cùng với lòng nhân ái, tình yêu quê hương đất nước, trí tuệ cũng đã
góp phần làm nên vũ khí vô địch của con người. Trí tuệ là khả năng nhận
thức, suy xét và giải quyết của con người trước những vấn dế của cuộc sống.
Trí thông minh trong các truyện được dưa vào chương trình tiểu học thường
gắn liền với phẩm chất của người lao động hoặc những con người nghĩa
hiệp, dũng cảm. Truyện Sayba và con ngựa của vua Iran (Truyện cổ Iran) và
Tính nợ (Truyện cổ Trưng Quốc) đã đề cao trí thông minh và tài xét đoán của
con người đã vạch trần được những mưu mô giảo quyệt, lòng tham lam của
bọn quan lại, đem lại sự công bằng cho xã hội.
Gậy ông lại đập lưng ông là chủ đề của câu chuyện Dùng mưu lại mắc
mẹo (Ngu ngôn La-phông-ten) kể về con sói già gian ngoan, quỷ quyệt tìm
cách hại ngựa. Nhưng cuối cùng, chính sói già lại bị ngựa "tung vó đá một cái
trời giáng" nên thân.
Sức mạnh của trí khôn con người đã làm cho muôn loài phải khiếp sợ
Truyện Bà già trong quả trứng (Truyện cổ Nêpan) là câu chuyện về một bà
lão chân yếu, tay mềm, nhưng nhờ trí thông mình bà dã khiến cho lũ cáo, hổ,
khỉ hung dữ phải lánh xa. Truyện Cổ Bungari Con sư tư già và người thợ
rừng cũng là một câu chuyện đề cao trí tuệ của con người. Nhờ có trí khôn
mà người thợ rừng chế ngư được cả sư tử. Hình ảnh người thợ săn lột da sư
tử làm áo khoác, oai vệ như một vị chúa tể cho ta thấy trí khôn của con người
có thể thẳng cả muôn loài cho dù đó là con vật hung dữ nhất.
Sức mạnh ấy đã làm cho con người trở thành kẻ mạnh nhất, chính con
cừu (Ai mạnh nhất trên đời - Truyện cổ Kiếc-ghi) đã khẳng định: "Người có
thể bắt gà, làm tan băng, tắm trong mưa, cày đất, cưa cây đổ dập tắt lửa, bắt
gió làm việc cho người, cắt cổ và ăn thịt cả tôi nữa. Người mới là người mạnh
nhất trên đời".
4. Ngợi ca lòng dũng cảm
Tử ngàn xưa, loài người sống giữa thiên nhiên mênh mông hoang dã
và hung dữ. Lòng dũng cảm là một phẩm chất giúp họ có đủ sức mạnh để
đương đầu với những thử thách vì sự tồn tại của mình.
Truyện Pha-ê-tông con thần Mặt trời (Thần. thoại Hy Lạp.) là một trong
những trang thần thoại đẹp, không chỉ nói lên khát vọng cháy bỏng của người
xưa muốn khám phá chinh phục thiên nhiên mà còn là bài ca của lòng can
đảm, ý chí quyết tâm không gì lay chuyển được của con người. Hình ảnh
Pha-ê-tông ngồi trên cỗ xe mặt trời lao vùn vụt giữa không trung là biểu tượng
của lòng quả cảm vô song. Cái chết bi hùng của Pha-ê-tông đã kết thúc tấn bi
kịch lạc quan đầy ý nghĩa.
Hình ảnh con rồng phun lửa trong Người anh hùng đánh rồng lửa là
biểu tượng về sự tàn phá của thiên tai. Nhưng dù hung hãn đến đâu, cuối
cùng nó cũng phải khuất phục trước ý chí quyết tâm, lòng dũng cảm của con
người. Hình ảnh chàng trai Bắc vượt qua bao nhiêu núi cao gập ghềnh hiểm
trở, xông pha vào chốn hiểm nguy để tìm cách diệt bằng được rồng lửa trừ
mối họa cho dân lành là hình ảnh người anh hùng chiến trận, chàng xứng
đáng được mọi người suy tôn là "anh hừng".
Trong Alibaba và bốn mươi tên cướp (Nghìn lẻ một đêm - ả Rập),
những chàng trai như Aliỏaba, Moocgan là những nhân vật tiêu biểu cho lòng
trung hậu, trí thông minh. và tinh thần chiến đấu vô cùng dũng cảm của nhân
dân lao động ả Rập. Họ dã chiến thắng các thế lực hung hãn một cách tài
tình. Và chính vì vậy, họ xứng đáng được hưởng hạnh phúc.
Truyện Nhả thơ độc nhất của Vương quốc Da-ghét-xtan lại khai thác
chủ đề này ở một khía cạnh khác. Truyện ca ngợi một nhà thơ chân chính
chọn cái chết trong ngọn lửa thiêu chứ không chịu uốn lưỡi ca tụng một tên
vua bạo ngược. Không những thế, nhà thơ còn dũng cảm đứng về phía quần
chúng nhân dân, dừng thơ ca của mình vạch trần bộ mặt tàn bạo, giả nhân,
giả nghĩa của hắn. Tiếng thét của tên vua bạo quyền cuối truyện "Cởi trói
ngay, mau lên! Dập lửa đi, dập ngay lửa đi! Trẫm không thể để mất nhà thơ
chân chính độc nhất của đất nước này!" là sự chiến thắng oanh liệt của nhà
thơ chân chính trước bạo quyến, và điều giá trị hơn là lòng dũng cảm của nhà
thơ đã giúp tên vua bạo quyền nhận chân được giá trị đích thực của nhân
cách.
5. Những giá trị đạo đức khác
Ngoài những yếu tố trên, con người còn có những phẩm chất tốt đẹp
khác đó là đức tính trung thực, ngay thẳng thật thà, lòng thủy chung trong tình
bạn, tình yêu lao động và niềm say mê hiểu biết...
Truyện Chiếc rìu kim cương, kể về một bác tiều phu "thật thà như đếm",
mặc dầu nghèo khổ, nhưng không tham lam, nhất quyết không nhận những
lưỡi rìu bằng vàng, bằng bạc vì nó không phải là lưỡi rìu của tôi". Đức tính
trung thực của bác tiều phu đó được đền đáp xứng đảng.
Truyện Chú thỏ non Pu-rỉ-nê (Truyện cổ Nga) ca ngợi tình bạn chân
thành, hồn nhiên giữa thỏ non Pu-ri-nê và chú bọ dừa bé nhỏ. Thỏ non gặp
hoạn nạn, bọ dừa đã chui vào tai gấu để cứu bạn là bài học cao quý về tình
bạn.
Còn truyện ông vua vả bác thợ giày (Truyện cổ Ấn Độ) là một bài học
vế giá trị lao động: Ai sống bằng lao động chân chính thì sẽ có lòng tin mạnh
mẽ ở hai bàn tay của mình..
Đó còn là bài học ý chí quyết tâm để trở thành con người chân chính.
Truyện Chú dế sau lò sưởi kể về thiên tài âm nhạc Moda khi còn bé. Một hôm
chủ nghe dế kêu, "âm thanh kỳ lạ" của tiếng dế tác động mạnh mẽ tới tâm
hồn chú khiến chú ước ao trở thành nhạc sĩ. Nhờ có ý chí quyết tâm rèn
luyện. ít lâu sau, những bản nhạc của Moda đã đem lại cho con người những
âm thanh kỳ diệu.
Nhìn chung, văn học nước ngoài trong chương trình tiếng Việt tiểu học
đã bổ sung nội dung và nghệ thuật của phần văn học trong nước của chương
trình.
Dù trích dịch và giới thiệu rất hạn chế cho phù hợp với chương trình và
dối tượng, mảng văn hóa nước ngoài trong chương trình tiểu học cũng đã
biểu hiện nhiều âm điệu cả về hai mặt: tư tưởng, tình cảm và hình thức nghệ
thuật được rút tỉa từ những tinh hoa của nhân loại.
Khi dạy mảng văn học này, giáo viên tiểu học nên có ý thức liên hệ, so
sánh với văn học trong nước để khắc sâu hơn và nâng cao hơn những kiến
thức và tình cảm mà văn học có thể đem đến cho các em.
II. TRUYỆN KỂ H.C. ANDERSEN1. Vài nét về tác giả
Hans Christian Andersen (1805- 1875) sinh ra tại thành phố Ôđenzê cổ
kính của nước Đan Mạch trong gia đình một người thợ giày. ông lớn lên trong
cảnh bần hàn và đã nhiều lần nếm mùi vị cay đắng: Người ta bịt miệng ông,
chế giễu ông và vu khống ông vì trong người ông có "máu dân đen"... Ông
đau khổ nhưng không khuất phục, ông tự hào về sự gần gũi máu mủ của
mình với những người nghèo khổ những người dân cày và những người thợ.
ông gia nhập "Liên đoàn thợ thuyền" và là nhà văn Đan Mạch đầu tiên đọc
cho thợ thuyền nghe những truyện thần tiên của mình.
Andersen làm thơ, viết truyện, nhưng mọi người biết đến tài năng của
ông chủ yếu ở pho truyện kể. Trước hết, truyện kể của ông bộc lộ một tài
năng kỳ lạ của trí tưởng tượng. Ngay từ hồi còn bé, sau khi nghe người lớn
kể chuyện, chú bé Andersen đã biến hóa những truyện ấy thông qua trí tưởng
tượng mầu nhiệm của mình rồi kể lại cho họ nghe. Mọi người gọi Andersen là
phù thủy: "Anh có một khả năng quý báu là trong bất cứ cống rãnh nào cũng
tìm ra được ngọc trai". Nhờ có trí tưởng tượng phong phú, kỳ diệu, Andersen
đã tạo ra những cốt truyện hấp dẫn, muôn màu muôn vẻ và những hình
tượng có ý nghĩa sâu xa, lay động tâm hồn người đọc. Pautôpxky (nhà văn
Nga) đã nhận định: "Trong mỗi chuyện cổ tích cho trẻ con của Anđersen còn
có một truyện cổ tích khác mà chỉ có người lớn mới có thể hiểu hết ý nghĩa
của nó".
Lý giải về tài năng sáng tạo kỳ diệu của Andersen là một điều không dễ
thống nhất. Nhưng có lẽ, những tia sáng đầu tiên tỏa ấm vào tâm hồn trẻ thơ
của Andersen chính là mạch nguồn văn hóa dân gian.
Từ thuở bé, Andersen thường theo bà nội đến bệnh viện làm phúc. Bà
nội vốn là người có tài kể chuyện và bịa chuyện, đã có ảnh hưởng khá đậm
nét trong tuổi thơ Andersen. Thỉnh thoảng, cậu còn được nghe các bà già lẩn
thẩn trong bệnh viện kể cho nghe những câu chuyện hấp dẫn, quái dị, có khi
mất đầu, thiếu đuôi, chẳng mạch lạc
Còn ở nhà, người cha của Andersen, tuy làm nghề thợ giày nhưng
cũng đã từng đêm, ông thức đọc cho con trai nghe những câu chuyện cổ
huyền bí trong Nghìn lẻ một đêm, Ngụ ngôn La-phông-ten và cả hài kịch của
nhà văn Đan Mạch: Holberg.
Mười một tuổi, Andersen mồ côi bố và đành phải thôi học. Để bù lại vốn
kiến thức văn hóa xã hội, Andersen đọc sách rất nhiều. ông rời quê hương
lên thủ đô để kiếm sống. Sau hai năm lang thang đầy thử thách, khẩn cầu quá
nhiều cửa, Andersen may mắn được ngài Jonas Collin - một thành viên của
Ban lãnh dạo nhà hát Hoàng gia và là một nghệ sĩ giàu có nhận đỡ đầu vì
thấy ở Andersen "Một năng khiếu thơ bẩm sinh. Có thể nói, nhờ J. Collin,
Andersen về sau.mới có đủ vốn kiến thức.văn hóa để trở thành văn hào chân
chính và vĩ dại.
Một trong những yếu tố quan trọng để lý giải sức hấp dẫn cuốn hút kỳ
lạ của tác phẩm Anđersen chính là nhân cách của người cầm bút. Ý thức
nhân văn sâu sắc khi viết cho các em luôn luôn là "ngôi sao Bắc Đẩu” dọi
đường cho những trang viết của ông. Chính vì vậy mà ông nói về niềm vui,
nỗi buồn, về nhưng điều tưởng chừng như đơn sơ nhất nhưng lại có sức lay
động lạ thường.
Andersen được sánh ngang với những bậc danh nhân văn hóa của
nhân loại Tác phẩm của ông được tách ra 90 thứ ngôn ngữ, xuất bản gần 500
lần với hơn 70 triệu bản. Đó là những cuốn sách được xem là bán chạy nhất
hành tinh.
Ở Việt Nam, đã từ rất lâu, tên tuổi của Andersen đã trở nên gần gũi và
quen thuộc với bạn đọc, đặc biệt là độc giả nhỏ tuổi Việt Nam. Bằng sức
mạnh của ngôn từ hiếm có, trí tưởng tượng nhiệm màu mà trong sáng, cốt
truyện hấp dẫn, lối kể chuyện có duyên, pha lẫn giữa bút pháp hiện thực và
huyền ảo, tác phẩm của Andersen đã dạt đến sự hoàn hảo của một nghệ sĩ
"độc nhất vô nhị, trước và sau ông chưa hề có". Đó là lời nhận định của các
nhà nghiên cứu Việt Nam khi đánh giá về Andersen.
2. Phân tích tác Phẩm "bà Chúa Tuyết" của ANDERSEN
2.1. Tóm tắt cốt truyện
Bà chúa Tuyết là một truyện tương đối dài trong kho tàng truyện kể của
Andersen. Truyện chia làm bảy chuyện nhỏ:
Chuyện thứ nhất
Tấm gương và những mảnh vỡ
Có một con quỷ chế tạc ra mọt tấm gương kỳ lạ. Người tốt. vật tốt soi
vào đấy trở nên méo mó, đáng ghét, dễ sợ. Quỷ ta thích chí mang gương lên
thiên đỉnh để chế nhạo cả chúa trời và các tiên đồng. Vừa đến cửa nhà trời,
tấm gương liền bị rúm ró, quăn queo, tuột khỏi tay bọn quỷ rơi xuống vỡ tan
thành triệu triệu mảnh nhỏ li ti. Mảnh nhỏ đó bắn vào mắt ai thì người đó sẽ
nhìn mọi người, mọi vật đều trở nên xấu xí dáng sợ. Mảnh nhỏ đó bắn vào tim
ai thì người đó trở thành kẻ lạnh lùng vì trái tim dã thành băng giá. Nguy hại
thay khi trong không trung có vô khối mánh vỡ của tấm gương quỷ.
Chuyện thứ hai
Hai em bé
Có hai em bé, bé trai tên là Kay, bé gái tên là Giéc-đa ở cạnh nhà nhau,
chơi với nhau rất thân. Khi thì các em nghe bà kể chuyện cổ tích, khi thì các
em chăm bón cây hồng, khi tụm lại với nhau xem tranh... Nếu em này thiếu
em kia và ngược lại thì thật là buồn. Một hôm, hai đứa bé đang đùa với nhau
thì Kay kêu đau nhói trong mắt và trong tim. Một mảnh gương vỡ dã bắn vào
mắt em, một mảnh vỡ khác bắn vào tim em. Thái độ của em đối với mọi vật,
mọi người bỗng thay đổi. Em nhại lại lối kể chuyện của bà. Em vặt đi những
bông hồng trước đây em chăm sóc. Em đuổi người bạn thân thiết muốn lại
gần thăm hỏi. Giéc-đa rất buồn và thương Kay. Từ đó, Kay không ở nhà, em
đi chơi trên tuyết. Sau cùng, em theo bà Chúa Tuyết đi tới giang sơn mênh
mông, băng giá của bà. Giéc-đa nhớ Kay, quyết tâm đi tìm Kay.
Chuyện thứ ba
Vườn nhà bà biết làm phép lạ
Giéc-đa lòng buồn vô hạn. Hết ngày này qua ngày khác nghĩ rằng Kay
dã chết rồi. Em hỏi thăm mặt trời, hỏi đàn chim, hỏi dòng sông xem Kay đi
đâu? Kay đã chết chưa? Tất cả đều trả lời không thấy Kay đâu nhưng tin là
Kay chưa chết.
Giéc-đa xuống một con thuyền: Thuyền dưa em trôi dạt vào vườn bà
lão nhân hậu, biết nhiều phép lạ. Bà lão có một vườn hoa có rất nhiều hoa.
Giéc-da nhìn thấy cây hoa hồng bỗng nhớ Kay, em khóc lên nức nở. Bà lão
an ủi em, lấy lược vàng chải tóc cho em để em quên nỗi buồn, dùng phép lạ
bắt những bông hồng chui xuống đất để em quên những kỷ niệm về Kay. Bà
lão muốn em ở lại với bà. Hàng ngày, Giéc-đa trò chuyện với các loài hoa
trong vườn. Hoa nào cũng kể về cuộc đời mình. Giéc-đa buồn quá và khóc.
Nước mắt em làm ướt đất, làm cho một cây trồng lại mọc lên. Hoa hồng cho
Giéc-đa biết là Kaỵ vẫn còn sống vì dưới lòng đất không có Kay. Thế lả Giéc-
đa lại quyết tâm lên đường.
Chuyện thứ tư
Hoàng tử và công chúa
Giéc-đa gặp một chú quạ, em kể mọi chuyện của mình cho quạ nghe.
Quạ bảo có thể tìm thấy Kay ông cho biết Kay bây giờ đã là hoàng tử rồi. Qua
kể chuyện công chúa kén chồng và chính Kay đã lọt vào mắt xanh của nàng
và sống cùng công chúa trong hoàng cung. Quạ bàn với người mình yêu -
quạ cái - đang phục vụ trong hậu cung, giúp Giéc-đa vào gặp Kay, chàng
hoàng tử mới. Được sự giúp đỡ của quạ cái Giéc-đa được đưa đến một căn
phòng trang hoàng lộng lẫy. Em thấy hoàng tử nằm quay lưng lại. Nhìn thấy
cái gáy, em mừng rõ reo lên: Chính là Kay rồi! Hoàng tử tỉnh giấc quay lại. Em
nhận ra mình bị nhầm, Hoàng tử chỉ giống Kay ở cái gáy mà thôi. Giéc-đa òa
lên khóc. Công chúa và hoàng tử an ủi em. Em kể hết mọi chuyện vì sao vào
đây, bằng cách nào? Công chúa và hoàng tử tạo điều kiện cho em đi tìm Kay.
Họ cho em một cổ xe song mã. có đủ quần áo lương thực với một lính hộ vệ,
một tên hầu, một người đánh xe đưa Giéc-đa lên đường. Công chúa và
hoàng tử ra cổng thành tiễn đưa. Hai vợ chồng quạ bay theo mấy dặm
đường, rồi đậu lên một cây cao nhìn theo đến khi xe khuất bóng.
Chuyện thứ năm
Con gái quân cướp đường
Giéc-đa bị lũ cướp đường chặn xe: Chúng giết hết lính hộ vệ và bắt
Giéc-đa về sào huyệt. Chúng định ăn thịt Giéc-đa nhưng đứa con gái quân
cướp đường ngăn lại vì nó muốn có bạn để chơi. Tối đến, nó ngủ với Giéc-
da. Em đã kể cho nó nghe hết câu chuyện của mình. Nó cũng chẳng biết Kay
ở đâu. Thế nhưng khi nghe Giéc-da kể chuyện, con chim bồ câu của lũ cướp
lại mách cho em biết Kay đã bị bà Chúa Tuyết mang về xứ Lapôni, đó cũng
chính lả quê hương của nó. Sáng hôm sau, đứa con gái quân cướp đường
giải phóng cho bồ câu và bắt nó phải mang Giéc-da đến xứ Lapôni - giang
sơn bà Chúa Tuyết để tìm Kay. Thế là Giéc-đa phải chia tay với người bạn
mới.
Chuyện thứ sáu
Bà lão La-pô-ni và bà lão người Phần Lan
Bà lão La-pô-ni cho Giéc-đa biết: bà Chúa Tuyết đang xây dựng lâu đài
ở Phần Lan. Cần phải đi gặp bà lão người Phần Lan, nhờ bà ấy chỉ đường
cho. Giéc-da tìm đến bà lão người Phần Lan và được biết Kay đang trong lâu
đài bà Chúa Tuyết. Nhưng bà cũng cho biết, muốn cứu Kay thì phải lấy được
mảnh gương vỡ trong mắt và trong tim Kay, nếu không Kay sẽ không trở lại
cuộc sống bình thường. Kay vẫn bị mê hoặc và sống mãn nguyện trong lâu
đài băng giá của bà Chúa Tuyết. Giéc-đa lại ra đi và đọc kinh cầu nguyện. Em
thấy rõ hơi thở của em bốc lên và biên thành những tiên đồng ngày càng
đông, giúp em chống cái rét và rút ngắn quãng đường đến lâu đài bà Chúa
Tuyết.
Chuyện thu bay
Việc xảy ra trong lậu đài bà chúa Tuyết
Giéc-đa gặp được Kạy trong lâu đài của bà Chúa Tuyết: Em mừng rỡ,
ôm chặt lấy Kay. Nhưng Kay vẫn đứng trơ ra, lạnh lùng, vô cảm. Giéc-đa òa
lên khóc. Những giọt nước mắt yêu thương nóng hổi của Giéc-đa rơi lên
ngực và thấm vào tận tim Kay. Nước mắt làm tan nước đá và đánh tan mảnh
gương quỷ trong tim Kay. Kay nhìn Giéc-đa và hát lên bài hát trước đây hai
em thường hát. Bỗng nhiên Kay ứa nước mắt, rồi em khóc nức nở, khiến cho
mảnh gương trong mắt trôi ra ngoài. Kay nhận ra Giéc-đa và say sưa nhìn
người bạn đã cứu mình trở lại bình thường như xưa. Hai em thoát khỏi lâu
đài bà Chúa Tuyết. Trên đường về, họ gặp lại những người bạn cũ để cám
ơn và từ biệt để về quê hương.
2.2. Phân tích tác phẩm
Truyện cho ta thấy xã hội còn tồn tại cái xấu, cái ác. Muốn chiến thắng
phải có sức mạnh của lòng yêu thương. Đọc Bà Chúa Tuyết, Pauxtôpxki đã
phát biểu: “Lòng tốt kỳ diệu ngọt ngào hương của con người, giống như
hương thơm của hoa bay ra từ những trang giấy của cuốn sách".
A. Giá trị nội dung
1. Ý nghĩa hiện thực của tác phẩm xã hội đang tồn tại cái ác và cái xấu
Vào giữa thế kỷ XIX, xã hội Châu Âu nói chung, Đan Mạch nói riêng
đang diễn ra quá trình tích lũy tư bản nguyên thủy và phát triển của Chủ nghĩa
tư bản. Sau Cách mạng tư sản 1789, mâu thuẫn chủ yếu là mâu thuẫn giữa
giai cấp vô sản và giai cấp tư sản. Số phận công nhân và nông dân ngày
thêm khốn khổ. Giai cấp tư sản thống trị ngày càng tàn nhẫn, độc ác. Xã hội
tư sản với thế lực của đồng tiền đang hủy hoại mọi giá trị đạo đức. Đó là cơ
sở xã hội giúp ta tìm hiểu giá trị hiện thực của tác phẩm.
a. Cái xấu, cái ác dang tồn tại khắp nơi:
Trong truyện Bà Chúa Tuyết, tấm gương của tên quỷ là sự phủ nhận
sự thật và chân lý, là hiện thân của cái xấu và cái ác. Cái gì soi vào tấm
gương đều bị méo mó đi. Cái tốt, cái đẹp trở thành cái xấu. Còn cái xấu lại
làm cho mọi người khiếp sợ. Nguy hại thay, tấm gương lại bị vỡ ra thành
muôn mảnh nhỏ, lơ lửng khắp không trung, sẵn sàng bắn vào mắt và tim mọi
người.
b. Cái xấu, cái ác có sự phá hoại ghê gớm, làm cho con người tha hóa
triệt để
Mảnh vụn của tấm gương bắn vào mắt ai, người đó có cái nhìn sai
lệch. Con người không còn ai tốt, ai cũng đáng sợ và ghê tởm. Nếu mảnh vụn
tấm gương bắn vào tim ai, người đó trở thành lạnh lùng, dửng dưng với mọi
buồn vui nhân thế. Trái tim của họ trở nên băng giá. Con người khi không còn
lý trí để nhận thức đúng đắn hiện thực khách quan, khi không còn cảm xúc đề
yêu thương, căm giận trước những hiện tượng khác nhau của cuộc đời thì
con người chỉ sống bằng bản năng sinh vật mù quáng.
Đọc Bà thừa Tuyết, ta như nghe lời nhắn nhủ nhỏ nhẹ nhưng cương
quyết, dứt khoát của Andersen rằng: Loài người phải cảnh giác với lũ quỷ vì
chứng đã "sáng chế" ra một tấm gương kỳ lạ, độc ác, làm cho loài người bị
mê hoặc và trở lại tình trạng thú vật thảm thương.
2. Ý nghĩa nhân đạo:
Ánh sáng của chân lý, sức mạnh của tình thương có khả năng chế ngự
và chiến thắng cái xấu, cái ác, phản ánh cái xấu, cái ác một cách tinh tế sâu
xa cũng đã làm cho con người xa lánh, cảnh giác với cái xấu cái ác điều đó
cũng bao hàm ý nghĩa nhân đạo.
Thế nhưng trong truyện Bà Chúa Tuyết, Andersen còn bộc lộ khá rõ
thái độ của mình, tinh thần chiến đấu của mình đối với cái xấu, cái ác.
a. Khẳng định ánh sáng chân lý
Với tấm gương kỳ lạ, lũ quỷ đã chế giễu cả thế gian. Chúng lại còn
nhạo báng cả chúa trời, các tiên đồng. Chúng mang tấm gương lên trời
nhưng thất bại. ánh sáng cửa chân lý dã đẩy lùi tội ác. Tấm gương bị méo
mó, rúm ró và cuối cùng tan vỡ ra từng mảnh. Nếu cõi thiên đường là niềm
tin, là chân lý của loài người thì cái xấu, cái ác không thể tồn tại được. Như
vậy dù cái xấu, cái ác tồn tại khắp nơi trong thế gian, nhưng còn có một vùng
đất cấm địa mà cái xấu, cái ác không thể len chân dược. Đó là một xã hội lý
tưởng trong đó lương tri và thiện cảm con người dược đề cao và tôn trọng.
b. Khẳng định tình yêu thương của con người có thể chiến thắng cái
xấu cái ác:
Đây là ý nghĩa nhân dạo tích cực, cụ thể trực tiếp của truyện Bà Chúa
Tuyết. Lòng tốt kỳ diệu của Giéc-đa đã cho em sức mạnh to lớn, đem lại cho
em niềm tin mãnh liệt để em có thể đi tìm Kay, người bạn yêu mến thời thơ
ấu. Những câu hỏi: Kay sống hay chết? Kạy ở đâu? Bây giở Kay ra sao?
Những câu hỏi ấy đã thúc dục em lên đường đi tìm Kay.
Trên lộ trình dài dằng dặc và vô vọng, Giéc-đa chỉ có ánh sáng của
niềm tin, ngọn lửa tình thương soi đường dẫn lối. Giéc-đa đã vượt lên bao
gian khổ, đã cảm hóa dược bao nhiêu người và vật... Cuối cùng em đã được
gặp Kay trong lâu đài bà Chúa Tuyết. Nhưng Kay bây giở là tù nhân tự
nguyện của bà Chúa Tuyết vì Kay đã có cái nhìn khác trái tim khác. Đó là khó
khăn lớn nhất trong cuộc hành trình tìm kiếm Kay của Giéc-đa. Phải đốt lên
một ánh sáng mới trong trí tuệ và tâm hồn Kay để Kay có thể trở về với bản
chất cội rễ ban đầu. Đây là một khó khăn rất lớn tưởng chừng không thể vượt
qua, không thể giải quyết nổi. Nhưng bằng sức mạnh của tình thương, những
giọt nước mắt nóng bỏng của Giéc-đa đã làm chảy tan băng giá, thấm vào
ngực Kay, vào tim Kay, làm tiêu tan mảnh gương độc ác trong trái tim Kay.
Kay nhìn thấy Giéc-đa và nhớ tới bài hát hoa hồng năm xưa. Kay xúc động;
luyến tiếc một quá khứ êm đềm. Em khóc, nước mắt của em đã làm trôi mảnh
gương vỡ trong mắt. Kay quay lại nhìn Giéc-đa với cái nhìn đẹp đẽ, ấm áp
của tình bạn. Cảm xúc chân thành của Giéc-đa đã giúp Kay trở về với chính
mình. Sức mạnh của tình yêu thương đã chiến thắng cái xấu, cái ác.
Tóm lại, Bà chúa Tuyết đã mô tả một xã hội, trong đó, cái xấu, cái ác
đang âm thầm tác oai, tác quái, phá hoại triệt để những giá trị nhân bản của
con người. Mặt khác, truyện cũng bộc lộ một thái độ tích cực chống lại cái
xấu, cái ác, đề cao vũ khí tình thương.
B. Giá trị nghệ thuật
Truyện có kết cấu đơn giản, dễ hiểu, nhưng khá hấp dẫn. Kết cấu
truyện tập trung phản ánh tình cảm yêu thương chân thành giữa con người và
con người. Chính tình yêu thương đó đã làm nên chất thơ của tác phẩm, nối
kết các sự kiện lại với nhau, có sức lắng đọng trong lòng người đọc.
Bà chúa Tuyết được xây dựng bằng nhiều chi tiết nghệ thuật đặc sắc,
phản ánh một cách cụ thể sinh động sự lộng hành của cái xấu cái ác (chi tiết
quỷ mang gương lên trời; vô số mảnh vụn trong không trung), và phản ánh sự
phá hoại ghê gớm của cái xấu, cái ác đối với con người (mảnh vỡ bắn vào
mắt, mảnh vỡ bắn vào tim).
Hình tượng Giéc-đa, tiêu biểu cho tình cảm yêu thương, vô tư, hồn
nhiên, nồng hậu của con người được miêu tả bằng những chi tiết độc đáo (khi
gặp Kay ở lâu đài bà Chúa Tuyết, em đã ôm chầm lấy Kay và khóc Nước mắt
của em rỏ xuống ngực, thấm vào tim Kay làm tan cả mảnh gương vỡ...).
Giá trị của hình tượng, của kết cấu, của các chi tiết nghệ thuật đã tô
đậm và nâng cao giá trị hiện thực và nhân đạo của tác phẩm. Giữa nội dung
và hình thức có sự quyện hòa với nhau, tác động lẫn nhau, biểu hiện cho
nhau. Làm cho ta không phân biệt đâu là nội dung, đâu là hình thức của
truyện nữa.
HƯỚNG DẪN HỌC TẬP
I. Câu hỏi
1. Đặc điểm nội dung của các tác phẩm văn học nước ngoài trong
chương trình tiếng Việt tiểu học.
2. Nét tương đồng về nội dung giữa văn học thiếu nhi Việt Nam và văn
học nước ngoài trong chương trình tiểu học.
II. Bài tập
1. Phân tích tác phẩm Cô bé bán diêm của Andersen.
2. Phân tích tác phẩm Người ăn xin của Ivan Tuốc-ghê-nép.
3. ý thức nhân văn của Andersen khi viết cho trẻ em (Bài tập nghiên
cứu)
III. Tài liệu tham khảo
1. Văn học - Tập II - Giáo trình dùng trong các trường Sư phạm đào tạo
giáo viên tiểu học.
2. H.C. Andersen trên đất Việt - Kỉ yếu hội thảo - ĐHQG HN.1996
3. Truyện kể Andersen tập I, II. NXB Văn học, 1996
4. Bộ sách tiếng Việt tiểu học - NXBGD - HN.1994
MỤC LỤCPhần thứ nhất
DẪN LUẬN
I. Về khái niệm văn học thiếu nhi
II. Một số đặc trưng cơ bản của văn học thiếu nhi
Phần thứ hai VĂN HỌC THIẾU NHI VIỆT NAM
A. Văn học dân gian cho thiếu nhi
I. Khái niệm về văn học dân gian
II. Nhũng đặc trưng cơ bản của văn học dân gian
III. Nhũng giá trị xã hội của văn học dân gian
IV. văn học dân gian với trẻ em
V. Các thề loại văn học dân gian Việt Nam
Bài 1: Thần thoại
I. Khái niệm thần thoại
II. Nội dung - ý nghía của thần thoại
III. Định huớng phân tích thần thoại
Bài 2: Truyền thuyết
I. Khái niệm về truyền thuyết
II. Nội dung - ý nghĩa của truyền thuyết
III. Định huớng phân tích truyền thuyết
Bài 3: Truyện cổ tích
I. Khái niệm về truyện cổ tích
II. Nội dung, ý nghĩa truyện cổ tích
III. Huớng dẫn phân tích truyện cổ tích
Bài 4: Truyện ngụ ngôn
I. Khái niệm về truyện ngụ ngôn
II. Nội dung, ý nghĩa của truyện ngụ ngôn
III. Định huớng về phuơng pháp phân tích truyện ngụ ngôn
Bài 5: Truyện cười
I. Khái niệm truyện cười
II. Nội dung ý nghĩa của truyện cuời
II. Định hướng phân tích truyện cuời
Bài 6: Tục ngữ
I. Khái niệm về tục ngữ
II. Một số nội dung chinh trong các loại tục ngũ
III. Định hướng về phương pháp phân tích tục ngũ
Bài 7: Câu đố
I. khái niệm về câu đố
II. định huớng về phuơng pháp phân tích câu đố
Bài 8: Ca dao
I. Khái niệm ca dao
II. Hệ đề tài và chủ đề phổ biến trong ca dao
III. Định huớng phân tích ca dao
Bài 9: Đồng dao
I. Khái niệm đồng dao
II. Những đặc trưng cơ bản của đồng dao cổ truyền
III. Dạy học đồng dao ở bậc tiểu học
B. Văn học viết cho thiếu nhi
I. Khái quát văn học viết cho thiếu nhi
II. Truyện lịch sử viết cho thiếu nhi của Nguyễn Huy Tưởng
III. Truyện đồng thoại của Tô Hoài
IV. Đoàn Giỏi với “Đất rừng phuơng nam”?
V. Thơ văn Võ Quảng
C Văn học do thiếu nhi viết (thơ Trần Đăng Khoa)
I. Vài nét về tác giả và tác phẩm
II. Thơ Trần Đăng Khoa
III. Tâm hồn trẻ thơ của Khoa được bộc lộ qua cách nhìn, Cách tả cảnh
vật
IV. Tình đời, tình người trong thơ Trần Đăng Khoa
V. Đặc điểm nghệ thuật trong thơ Trần Đăng Khoa
Phần thứ ba VĂN HỌC NƯỚC NGOÀI TRONG CHƯƠNG TRÌNH TIẾNG VIỆT TIỂU HỌC
I. Nhũng giá trị nội dung của văn học nuớc ngoài trong chương trình
văn học
II. Truyện kể H.C Andersen
---//---
ĐẠI HỌC HUẾ - TT. ĐÀO TẠO TỪ XA
VĂN HỌC THIẾU NHI VIỆT NAM
Tác giả:
LÊ THỊ HOÀI NAM
Nhà Xuất bản Đà Nẵng
Chịu trách nhiệm xuất bản:
Giám đốc: VÕ VĂN ĐÁNG
Tổng biên tập: NGUYỄN ĐỨC HÙNG
Biên tập: NGUYỄN KIM HUY
Bìa và trình bày: THU HƯƠNG
QĐXB số 601/QĐXB Nhà Xuất bản Đà Nẵng cấp ngày 25 tháng 10 năm
2004. In xong và nộp lưu chiểu tháng 11 năm 2004