Upload
gialong808
View
26
Download
1
Embed Size (px)
Citation preview
1
Bát Quái Chƣởng
一.无极式
1 - Vô cực thức
(Hình ảnh của Đại sư Tôn Lộc Đường)
Vô cực thức
Bắt đầu, mặt thẳng, thân đứng thẳng, 2 tay xuôi xuống, 2 chântạo thành 90 độ. Mũi chân
không quay vào trong, 2 gót chân không xoay ra. 2 chân như đưng trên đất ’ không hư’.
động tĩnh bất năng tự tri vậy. Tĩnh vi vô cực thể, động vi vô cực dụng. Như nói về tĩnh,
thì hung trung không không đồng đồng. Ý hướng tư tưởng vô sở hữu, lưỡng mục đem
thần định lại. Nội vô sở quan, ngoại vô sở thị vậy; Như tín kỳ động, tắc thuận kỳ thiên
nhiên chi tính, du chuyển bất kỷ, cũng vô ý tường co duỗi, qua lại. Nhiên hung trung
không không đồng đồng, vô ý hướng tư tưởng chi lý, nhưng phúc nội xác hữuđến hư vô
chi căn., mà năng sinh vô cực chi khí vậy. Kỳ khí tựa không, hắc bạch bất biện, hình như
nước xiết, thanh đục bất phân. Hình chưa định, là vô cực hình thức. Lý này tinh vi, nhưng
tâm tưởng hội ngộ, thân thể lực hành đến cực tự năng tri kỳ nhiên.
二.太极式
2 - Thái cực thức
2
Khởi điểm, đem eo chìm xuống. Thân hướng bên trái chuyển 45 độ, mũi chân phải hơi
nhấc lên, lấy gót chân làm trụ, tuỳ theo thân mà quay sang trái. Bước chân phải về phía
trước, hạ xuống 2 chân thành đường chéo, 2 chân quay vào no tròn, không được cong
cứng, 2 gót xoay ra, 2 chân như kỵ mã thức, cùng có ý tăng kình, khong được lộ hình
thức cong ra ngoài. Hình thức 2 chân khi chưa chuyển, hông và gối cùng gốc tương tế;
khi di chuyển, đầu hông quay tới đường tròn trung gian ngón tay trước làm chuẩn. Hình
thức chân phải, gối với gốc hậu căn thượng hạ như 1 đường tương tế, rồi đem tay phải
thuận theo gốc chân phải tạo thành hình góc nhọn, tay duỗi thẳng như vẽ nửa đường tròn,
đưa lên đến khi hổ khẩu ngang mắt thì dừng. 2 vai cần lỏng mở, 2 chỏ cần có kình xoay
vào, xoay đến khi mũi chỏ chiếu xuống. Ngón tay mở ra, không được lõm, 2 cổ tay đều
cần vặn hết sức ra ngoài
三.两仪式:单换掌
Lƣỡng nghi thức: Đơn hoán chƣởng
1 2 3 4
3
5 6 7 8
9 10 11 12
13 14 15 16
Bát quái chƣởng
Tiền tựa
Danh từ có lẽ là lạ đối với độc giả, nhưng không sao dù gì cũng là một danh từ.
Vậy chúng ta hãy vào đề:
4
Tôi không còn cái thời để mỗi lầm viết xong một cuốn sách nhờ cao nhân này, bằng hữu
nọ viết lời bạt giới thiệu, hay in xong dành vài trăm cuốn mang biếu xén bạn bè thân
thuộc làm oai. Mà, nay công việc như là một công việc không có chi là khác.
Ai ở đời cũng làm một công việc thì có đâu là kheo khoang, coi trọng công việc của mình
một cách quá đáng để làm mất thời giờ của cả hai bên. Mình có việc của mình, thiên hạ
có việc của thiên hạ, việc nào cũng quý vì đều có ích cho đời, phi những việc chẳng ích
cho ai thì nó chẳng phải một công việc.
Thế thời bốn mùa Xuân Hạ Thu Đông đáp đổi nhau, người sành sống mỗi tiết có món
thưởng ngoạn riêng, kể cả ăn uống và đọc sách,.v.v..
Nên chỉ mình đâu có ép buộc người lân cận mình thích cái thích của mình, hiểu mình,
cùng làm cái mình làm; mà nên để mọi người, mọi vật được tuỳ ý. Mọi việc tuỳ ý mới
thật là cái đáng tìm trên đời.
Cũng như mọi việc độc giả tự tuỳ ý đọc cuốn sách này thì thật là một điều thú vị. Có lẽ là
như vậy. Vì nếu không thú vị thì ai chịu đọc bao giờ, nhất là loại sách không khan, không
một tình tiết ẩm uớt nào.
Tôi muốn độc giả tự tìm lấy cái hay của cuốn sách, tự mỉm cười sung sướng khi lãnh hội
được vài yếu tố mà bâng qua lúc đôi mắt lướt qua đôi trang. Nói cho gọn lại là tôi không
muốn giới thiệu cuốn sách như thường lệ, thường tình. Bởi vì tôi biết độc giả của sách tôi
tức là hơn thường rồi.
Nhưng đôi khi người da điểm mồi, tóc bạc như sương mà bất chợt gặp điều thích ý mỉm
cười thích thú, mắt già lờ đờ cũng chợt sáng lên. Tôi không muốn mình lạc điệu để cõi bơ
vơ vào cõi hư vô nào, nơi đó rất ít ỏi con người hữu hạnh. Thế cho nên dù không muốn
cũng phải làm. Ấy là nói lại cho người đồng điều một đôi lời về cái mà mắt lão già bỗng
sáng trong đôi giây và trẻ thơ trân tráo nhìn. Đó là cuốn sách này vậy.
Nó thật là một điều lạ trong những cái tầm thường xưa cũ, đã như cái chộp tay, khấu
chân, niêm, yểm cùi trỏ, ném địch qua đầu mình năm bảy thước tây, cái tiến, cái thối liền
lại kín đáo tinh minh, xuất thủ như dây chuyền, hoá như phép lạ.v.v.. mà thật là dễ dãi
tầm thường nhưng lại là rất đỗi cao minh trong cách kết hợp thành 34 thức Quyền chiến
của cuốn Bát Quái Quyền chiến đấu này. Đòn bản đưa lưu ra thật là nhẹ nhàng văn vẻ mà
không nhu nhược, sự hữu hiệu của công, thủ trầm trọng mà không tàn ác, giã man vì môn
quyền bản chất vốn dĩ có độ lượng, khuôn phép, vĩ mỹ mà nhân đạo. Mọi cái hay quy vào
công phu, Chiêu, Thức và Thế, Nạp, Phát kình, mạnh yếu tùi vào cơ thời nhân mà có vậy.
Thật lời không nói hết...
Tôi không muốn dùng lời sáo để ca ngợi cuốn sách này là 34 quyền thức trong đây so với
mông lung quyền bản lưu truyền thì thật giống như Phượng hoàng đậu trong đám quạ.
Lời trên thật có sáo nhưng ngẫm kỹ thì thật chẳng có mấy chỗ sai, dù chỉ sai có một đôi
phần cũng chẳng hề tìm thấy.
Tới đây tôi không còn dám viết thêm nữa vì sợ rằng lắm lời rườm ý chỉ phá bĩnh độc giả
khi mà độc giả đang mong muốn tận mắt thưởng thức con phụng hoàng.
Thôi thời mời độc giả mở sang trang kế tiếp để tuỳ ý, tuỳ nghi thưởng lãm. G.S tôi một
lời trang trọng là kính chúc độc giả, học viên bình an và tiến bộ.
Võ nghệ là Đạo của luyện tập thân thể, kỹ nghệ thì nhỏ nhưng Đạo lý thì vô cùng, vô tận.
Phàm người luyện Quyền thuật thì phải luyện Tinh hoá Khí, dùng Khí hoá Thần; dùng sự
5
vận dụng Nội khí làm Công Luân chảy không ngừng bên trong thân thể đó gọi là dùng
Hậu Thiên để bổ cho Tiên Thiên.
Khi luyện công mũi hít Thanh Khí chạy thẳng vào Khí Hải rồi chuyển qua Vĩ Lư (xương
cùng), kế chuyển khí đến eo lưng (giữa hai quả thuận) tức là phần căn nguyên của phủ
tạng, tối cần cho Tiên Thiên, nếu thận thuỷ đầy đủ mới theo Đốc Mạch mà tới Viên Cung
được, rồi từ Viên cung chuyển Khí thận đến hai mũi đoạn dùng lưỡi tiếp dẫn khí thận
(khí được điều chế tại thận) xuống dưới thì khí sung túc mới từ từ vào Đan điền. Đó là ý
nghĩa của Châu thiên vậy, (tức là vòng tròn dẫn khí).
Ngoài một số bài quyền thuật luyện hàng ngày đều dùng Nội khí, kình là yếu nghĩa để
luyện công không bao giờ gián đoạn thì Khí chất sung mãn. Cổ nhân nói: Thiên dắt dĩ
thanh, Địa dắt dĩ minh, đắc nhất linh; luyện lâu ngày thì sẽ được linh cơ minh mẫn của
thiên địa, hoạt bát tự nhiên, thành ở trong mà như ở ngoài, nên co rút nhanh nhẹn cương
nhu tương trợ, tấn thoái hợp pháp, nhanh chậm thích nghi. Được như thế thì đương nhiên
phần võ thuật sẽ tự nhiên trở nên huyền diệu.
Tác giả hồi nhỏ rất đỗi say mê võ thuật, nhân đó mà bái Châu Tướng Sư phụ để theo học
Bát Quái Chưởng cho nên mới được chân truyền chính thống của Bản môn Bát Quái
Chưởng do Lão sư Trần Tinh Hoa truyền lại... Và tuy là được danh sư chỉ dẫn nhưng sự
luyện tập là do căn cơ năng khiếu mỗi người, riêng tôi chỉ tập bình thường không có gì
xuất sắc hơn bạn đồng môn.
Nay trứ tác cuốn sách này một cách tỷ mỉ gồm 360 thủ pháp là những tinh hoa của tiền
nhân để lại, chỉ vì sợ lâu ngày bị lãng quên và khiến kẻ hậu học không có tài liệu chân
truyền để học mà thôi.
Tác giả không phân biệt phái hệ môn hộ mà chỉ lấy công khai giám thưởng làm chủ. Hy
vọng các giới ham chuộng võ thuật chú ý tham khảo thì tôi lấy làm vinh hạnh.
Lời dặn trƣớc khi thực hành
1. Phải phân biệt Ta và Địch trong sách.
2. Ta là hình mặc quần đen, địch là hình đối diện.
3. Bộ mã phải trú trọng đúng bộ vị, chưởng lưu ra đúng khuôn phép.
4. Khi tập phải tập cả 2 tay cho đồng đều để lâm sự ứng phó tự nhiên.
5. Tập thuần thục một thức trước khi tập sang thức thứ 2, không nên tập quá nhiều,
thà tập một thức thật tinh thục còn giá trị hơn đọc cả cuốn sách rồi vứt đi.
6. Lúc tay chân lưu ra thì mặt Ta đối mặt Địch không cần nhìn thấy tay chân, nếu có
liếc qua để kiểm soát thì sau đó mặt vẫn phải đối mặt mới là đúng sách.
7. Phải học thuộc bài Bát Quái Chưởng mới chuyển sang phần chiến đấu này, có như
thế thì tinh thần cùng thân , bộ pháp,... mới linh hoạt, ứng phó mới trúng cách nhịp
nhàng.
8. Trình độ cuối cần phải có là biết buông thả, dồn nén, co rút thân, thủ để phát kình
hạ địch. Muốn được như thế không học phép Đạo dẫn ắt là không xong. Mà muốn
6
như thế thì phải năng chuyên cần luyện Công phu toạ dẫn khí Châu thiên và áp
dụng vào Bát Quái Chưởng như đã đề cập trong lời tựa của sách này.
Bây giờ độc giả có thể đọc phần thực hành kế tiếp được rồi đó.
Thức thứ nhất: CHÀNG CHƢỞNG
(Lòng bàn tay đụng, giao nhau)
1. Chân phải địch bước tới, tay phải tấn công thượng bàn ta bằng chưởng mở rộng.
Ta lui chân phải ra sau (hoặc bước chân phải tới, tuỳ hoàn cảnh) tay phải dụng chưởng
gạt sang trái chân đứng thế công của địch (H.1).
2. Kế đến tay trái từ dưới cánh tay phải đưa lên, chưởng giữ lấy phần trong cánh tay phải
địch, chưởng phải gạt ra cổ tay địch rồi (H.2).
3. Trong lúc địch chưa kịp thu tay về thì tay trái nắm lấy cánh tay địch, chân phải ta bước
tới áp sát địch, đồng thời đánh cùi chỏ phải vào ngược (H.3).
7
4. Địch dùng tay trái từ trên cao gạt xuống để đỡ đòn cùi trỏ của ta đồng thời áp chưởng
trái vào mặt ta, ta rút chân trước về thành trảo mã đồng thời tay phải duỗi ra thành
chưởng đâm tới cổ họng của địch, lòng bàn tay ngửa lên trời. (H.4).
5. Rồi đảo chưởng vòng xuống qua phải đẩy cùi chỏ trái địch sang phải (tay phải giữ cùi
chỏ địch) đồng thời tay trái ta rút về (H.5).
6. Chân trái địch bước lên với ý định sẽ công ta bằng tay phải, tay phải ta nâng cánh tay
địch lên (hơi xéo về bên phải) (H.6).
8
7. Đồng thời ta bước chân trái tới chưởng trái in giữa ngực địch làm hắn bật ngửa là kết
thúc (H.7).
Thức thứ 2: DỊCH CHƢỞNG
(Xoay chuyển chưởng quanh tay địch)
1. Chân phải ta tiến lên, chưởng phải ta công tới địch, địch nhân hấp hung (thóp ngực)
không lùi bước để tránh đòn (H.8).
2. Địch vặn người sang bên ngoài cánh tay phải của ta đồng thời song chưởng hợp lại bắt
giữ cánh tay ta như hình (H.9).
9
3. Ta bèn đưa mạnh cánh tay phải hướng lên 45 độ về bên trái lôi theo cả hai tay địch
(H.10).
4. Rồi cánh tay ta lại đưa thẳng lên trời để ngự lại sức mạnh của hai tay địch (cách đưa
tay theo đường xoắn ốc) (H.11).
5. Kế hạ cánh tay phải xuống bên phải lôi theo sức mạnh cùng hai cánh tay địch, trong
lúc chưởng trái ta giữ lấy phía sau cùi cho phải địch (H.12).
6. Ngửa chưởng phải lên trời đồng thời co chân phải lên tức là rút tay ra khỏi tay địch rồi
(H.13).
7. Dồn sức vào tiền bộ (chân trái) hạ xuống trước, chưởng trái giữ cùi chỏ phải địch,
chưởng phải chiếu tâm địch (H.14).
8. Buông lỏng vai trong lúc mã bộ dồn tới trước, hữu chưởng in vào ngực địch là hết
chiêu thứ hai (H.15).
10
Thức thứ 3: Bạch viên chi ban
(Vượn trắng vác cành)
1. Ta dùng hữu chưởng tấn công vào ngực định, địch thóp ngực tránh đòn đồng thời tay
phải địch đưa lên gài cổ tay phải ta. (H.16).
2. Tay phải địch khẩu (móc, gài không cho sẩy) cổ tay phải ta trong lúc chưởng trái địch
bắt lấy cùi trỏ ta (H.17).
3. Ta chuyển chưởng cắm xuống phía gối trái địch (H.18).
4. Xay cánh tay phải bằng ngang sang hướng ngoài bên phải kéo theo 2 tay địch thủ
(H.19).
5. Chân trái hạ thấp sau chân phải, rún thấp bộ và xoay mặt về bên phải, trong lúc tay trái
nâng cánh tay phải địch lên, chân phải ta đứng (H.20).
6. Xoay mặt về hướng sau lưng ta (Từ hướng tiến của địch), đương nhiên cánh tay địch
nằm trên vai trái ta (H.21).
7. Tay trái ta giữ chắc cổ tay phải địch (lòng bàn tay ngửa lên trời), rồi eo lưng ta chỉ khẽ
lắc mạnh, thế là thân địch thủ bay qua đầu ta mà té sấp xuống trước để kết thúc thức thứ
ba vậy. (H.22)
11
Thức thứ tƣ: Khổn thân Đại Triền
1. Địch tấn công ta bằng chưởng phải (chân phải trước), ta thóp ngực tránh đòn rồi
chưởng phải thò ra giữ lấy cổ tay địch, cánh tay trái ta nắm trên cánh tay phải địch
(H.23), chân phải ta, mũi bàn chân mở ngang sang phải, trong lúc địch cố tháo gỡ tay bị
nắm.
2. Chân phải ta mở ngang, bàn chân co lên ép đùi phải địch đồng thời dùng cùi chỏ tránh
đánh xuống cánh tay bị kẹp của địch, tất nhiên cánh tay của địch gãy lìa (H.24).
3. Tay trái của ta từ dưới nách choàng ra sau lưng địch để bấu vào hông trái của địch,
chân trái ta xuống tấn mã bộ sau chân địch. Tay trái lôi địch ngã về phía sau, tay phải ta
đồng thời đưa cao khỏi đầu hoặc để trước ngực yểm tâm cũng có thể công thẳng vào mặt
địch đồng thời với cái lôi của tay trái, địch thủ bị té chỏng cẳng vô phương chống đỡ
(H.25).
12
Thức thứ năm: Tiệt thối
(Tiệt: chặt đứt, thối: chân)
1. Ta đánh địch bằng chưởng phải bị địch dùng tay phải khấu cổ tay ta, tay trái nắm cách
chỏ ta kéo xuống về hướng bên phải của địch, chủ định làm ta té sấp như con rùa sải chân
(H.26).
2. Nhanh như cắt ta dùng chân sau (trái) đạp ngay đầu gối trước của địch làm hắn không
kéo ta té được nữa (H.27).
3. Địch cũng rất giỏi, hắn co chân trước lên tránh cái đạp của ta làm chân ta đạp vào
khoảng không, địch còn chưa kịp bẻ tay ta, ta đã dùng tay trái xỉa thẳng vào mặt hắn rồi,
trong lúc chân đã đặt an toàn trên đất định (H.28).
4. Địch bắt buộc phải bỏ tay phải ta ra để thoái bộ hay biến chiêu, nhưng nhanh hơn địch,
ta bỏ chân sau (phải) tới ngáng chân địch (ta ở mã bộ) làm hắn tiến thối lưỡng nan vì tay
phải ta đưa thẳng ra, lòng bàn tay ngửa lên trời, hắn bị kẹp vào thế bí rồi. Thế là ta chỉ
xoay cánh tay phải, vận dụng ngũ hành gạt ra sau một cái.
13
Thức thứ 6: XẢO ĐẢO NGÂN BÌNH
(Ôm bình bằng bạc nhào lộn một cách khéo)
1. Dùng phép đứng khi giao đấu với địch là thuận bộ thì tay trái ở trên, bàn tay xung
thiên (đưa thẳng lên trời, xem hình), bàn tay phải hướng xuống đất lòng bàn tay úp xuống
(thức nầy gọi là Sư tử đại trương chuy, nghĩa là Sư tử há miệng), hai mắt nhìn đầu và vai
địch. Nếu địch dùng chân phải đá ta lập tức dùng tay phải gạt chân địch sang bên, chân
trước co về trảo mã bộ (H.30).
2. Tay phải gạt chân địch sang bên đồng thời niêm (giữ) chân địch, chân trái ta bước tới
sau chân trái địch thành mã bộ chận chân không cho địch lùi, trong lúc tay phải nâng cao
chân địch lên, tay trái dùng chưởng đập vào bụng dưới hay vỗ vào hạ nang tất là địch vừa
ngã ngửa lại bị vỡ bọng đái, dập của quý. Tới đây đương nhiên chấm dứt thức số sáu.
(H.31).
Thứ thứ bảy: SONG HOÁN CHƢỞNG
(Thay đổi chưởng)
1. Địch dùng chưởng trái đánh vào mặt ta, ta dùng cổ tay phải (phần ngoài) đỡ cánh tay
địch (H.32).
2. Nhanh như cắt chân trái ta tiến lên đất địch, tay trái đồng thời phát chưởng xung thiên
yểm ngoài cánh tay trái địch trong lúc tay phải ta rút về bên hông phải (H.33)
3. Xoay lòng chưởng trái qua trái, chưởng phải ta đập vào hông trái địch một phát (H.34).
4. Địch không dở, hắn xoay hông đi thành đinh bộ là tránh được phát chưởng của ta rồi
đồng thời rút tay trái về, tay phải đẩy chưởng vào hông trái ta. Ta hấp thân lại tránh
chưởng địch đồng thời tay trái từ trên cao lật xuống gạt ra phía ngoài đỡ cánh tay phát
chưởng của địch (lòng bàn tay ta ngửa sang bên trái). (H.35).
5. Liền theo tay đỡ thân mình ta rùn thấp xuống, tay trái khoác từ dưới lên thành vòng
cung đưa tay phải địch lên cao khỏi đầu ta, chưởng phải đưa lên bên ngoài cùi trỏ địch
(để ngửa) (H.36).
6. Tay phải ta dụng chưởng xung thiên yểm ngoài cùi chỏ phải địch đồng thời rút tay trái
về bên hông trái. (H.37).
14
7. Nhanh như điện, chưởng trái đẩy ra nhằm ngay ngực phải địch, thế là hắn thọ thương
rồi không tránh kịp nữa, và thức thứ bảy cũng chấm dứt luôn. (H.38).
Thức thứ tám: HỒI THÂN ĐỘT CHÀNG
(Hồi bộ phản công)
1. Ta dùng tả quyền (nắm tay trái) đánh trước ngực địch, địch hấp thân qua phải và địch
dùng cổ tay trái câu cổ tay ta ra ngoài, chưởng phải hắn đập vào vai ta nặng như búa tạ.
(H.39).
2. Ta lập tức xoay lưng lại hướng địch là tự nhiên thoát đòn hiểm rồi (H.40).
3. Dồn sức vào chân trái, co chân phải lên (H.41).
4. Xoay người lại chân phải bỏ tới trước hư bộ nhẹ nhàng, chưởng trái giữ cổ tay phải
đưa cao ngang mắt để ngang tay trái địch (H.42).
5. Chân phải dồn sức tới trước, cánh tay phải (lăn) đưa xuống hông địch (hông địch tiếp
xúc toàn cánh tay phía ngoài), chưởng trái thổ kình (nhả sức mạnh ra) là địch bật ngửa
hoặc bay ra sau không 5 cũng 7 thước tây. (H43), nếu không phải là người có công phu
thì có khi bị té gẫy cổ nữa là khác.
15
Thức thứ 9: TẢ HỮU PHA THỐI
(Quét chân địch bên trái, bên phải)
1. Địch dùng quyền phải đánh vào ngực ta, ta bèn lách mình qua bên trái địch, chân phải
hư bộ (sức nặng dồn chân sau không ở chân trước), tay phải ta từ dưới cổ tay địch gài lên,
(H.44).
2. Gạt cho tay phải địch sang trái, chân phải lui về trước chân trái, chân trái co lên chuẩn
bị đá (H.45).
3. Chân trái quét chân trước địch trong khi tay trái từ trên đưa xuống ngực địch gạt sang
trái (nếu địch không kịp phản ứng sẽ ngã ngửa), tay phải chưởng xung thiên (H.46).
4. Địch nhanh nhẹn rút tay phải về đồng thời chân phải cũng rút về, đoạn bỏ ra ngoài
chân trước ta, thế là thế ta bị hỏng rồi (H.47).
5. Ta bước chân trái về trước chân phải đoạn co chân phải lên, chưởng trái chọp bắt cổ
tay quyền trái của địch, quyền phải đưa trước mặt địch trên cánh tay trái của địch (H.48).
6. Chân phải đá quét chân trước địch cho địch trượt chân tới hướng ta đồng thời quyền
phải ta mở ngửa thành chưởng sẵn sàng chụp vào cổ địch. Thế là địch thua rồi (H.49)
16
Thức thứ 10: XẢO KHÓA HOA LAM
1. Địch dùng chưởng phải tiến đến đánh vào ngực ta, ta thóp ngực tránh đòn, song
chưởng xung thiên. (H.50).
2. Dùng chưởng trái khâu (câu) cổ tay địch, xong đánh cùi chỏ phải vào cánh tay địch
(H.51), chưởng phải xung thiên.
3. Chân phải bước lên ngáng chân trái địch, chưởng phải lật nghiêng sang phải đâm vào
mắt địch. (H.52).
4. Địch dùng chưởng trái đánh vào mặt ta để giải cứu đòn độc, ta lách cánh tay phải sang
phải đồng thời cũng gạt mạnh tay trái sang trái là đòn địch vô hiệu (H.53).
5. Ta rùn thấp bộ và chưởng trái đánh vào vai phải của địch (H.54).
6. Chồm người tới trước song chưởng phát kình đẩy bắn địch thủ bay lộn mèo ra sau mấy
vòng (H.55).
17
Thức thứ 11: SƢU ĐỔ CHƢỞNG
1. Ta dùng chưởng phải đánh vào ngực địch (H.56).
2. Địch dùng tay phải bắt lấy cổ tay phải ta trầm xuống và chưởng trái đập vào mặt ta
(H.57).
3. Ta co chân sau lên đồng thời xoay lưng về phía địch, thế là tự nhiên thoát hiểm (H.58).
4. Chân trái bước tới trước đinh bộ, chưởng phải xung thiên, chưởng trái đập xuống hạ
nang địch, mắt nhìn thấy mắt địch (H.59).
5. Địch co chân phải lên che hạ bộ, chưởng trái án nơi cùi chỏ trái ta phá hư đòn công của
ta, đồng thời chiếu theo bộ vị cánh tay ta làm địch tung chưởng đánh vào nách ta, ta co
chân phải (sau) về sát chân trái và xuống bộ thấp, chưởng trái hướng thiên phòng địch
(H.60).
6. Địch vừa đặt chân xuống là ta bỏ chân phải về vị trí cũ thành mã bộ, câu thủ phải đập
vào hạ bộ địch (bằng phần ngoài câu thủ) (H.61). Địch thủ trúng đòn đau đớn không thể
tả được và thức 11 cũng kết thúc.
18
Thức thứ 12: THÁI CÔNG ĐIẾU NGƢ
(Thái công câu cá)
1. Địch dùng quyền trái đánh vào mặt ta, ta lập tức dùng cánh tay phải yểm cánh tay địch
(H.62).
2. Xoay lưng về phía địch đồng thời co chân trái lên, chưởng trái từ bên hông đâm ngửa
về sau (H.63).
3. Lập tức bỏ chân trái xuống bên trái địch tấn mã bộ, tay trái từ trước ngực địch xuyên đi
qua bên phải của địch, tay phải chưởng chụp vào mặt địch (H.64).
4. Đoạn hai tay cùng xô về bên phải ta làm địch bật ngã ngửa chổng cẳng không gượng
được (H.65).
19
Thức thứ 13: HOẠT BỘ LIÊU ÂM PHÁO
1. Địch dùng chưởng phải đánh vào mặt ta, ta dùng cánh tay phải yểm cánh tay địch,
thuận đà đập lưng nắm tay vào mặt địch (H.66).
2. Địch dùng chưởng trái kéo tay ta xuống và hơi ngửa đầu ra sau tránh thoát, ta thuận đà
biền quyền thành chưởng lộn ngược (phần chưởng) vỗ vào hạ bộ địch (H.67).
3. Địch lùi chân phải ra sau tránh thoát, ta tiến chân trái lên thành cung tiễn bộ, quyền trái
đập vào mặt địch (H.68).
4. Địch cũng hay lắm, dùng chưởng phải nâng cùi chỏ trái ta làm hư đòn rồi, ta ben lộn
cánh tay trở xuống biến thành chưởng vỗ vào hạ nang hắn (H.69).
5. Địch lùi chân phải ra sau, đồng thời tay trái chưởng xô nhẹ nơi cùi chỏ ta là giải được
thế công rồi, ta cũng hay lắm bèn bước chân phải theo liền chân hắn, quyền phải đập
ngược vào mặt hắn, thế là địch không còn đỡ kịp nữa (H.70).
Thức thứ 14: ĐẢO ĐỀ KIM LƢ
1. Địch dùng chưởng phải định chém xuống đầu ta, ta toạ thân dùng chưởng phải đưa lên
xung thiên đỡ cú chém (H.71).
2. Liền theo tay phải tay trái ta dùng chưởng chọp cùi chỏ địch đẩy lên, trong lúc chân
trái bước lên giữa hai chân địch (H.72).
3. Kế chuyển thân theo chiều kim đồng hồ, xoay lưng về hướng địch, tay phải nắm lấy
đùi địch, đồng thời xuống bộ thấp (ngồi xuống) (H.73).
4. Chưởng trái kéo tới trước, đầu ta hơi cúi xuống, mông hất mạnh nhờ eo lưng và vai
phụ trợ, địch nhân bay lộn tới trước, nếu không bị cắm đầu nằm sãi tay (H.74).
20
Thức thứ 15: CỔN TÝ CHÙY
1. Địch dùng quyền trái đánh vào ngực ta, ta yểm ngay bằng chưởng phải từ bên ngoài
vào (H.75).
2. Đồng thời nghiêng vai phải, chuyển thân song song với địch (bây giờ phần ngoài của
cổ tay ta tiếp xúc tay địch) (H.76).
3. Kế biến chưởng thành quyền dùng lưng nắm (tay) đập vào bụng hay háng địch nhân
(H.77).
4. Trong lúc địch gập người xuống hộ thân thì ta dùng sức vai và chân đồng phát lực một
lúc hất địch về sau tất địch không chịu nổi phải bật ngửa (H.78).
21
Thức thứ 16: TRƢU THÂN ĐIỂM LẶC
1. Địch đánh quyền phải vào mặt ta, ta khẽ nghiêng thân qua bên phải tránh đòn (H.79).
2. Rồi chân trái ta bước lên trước chân trước địch, tay trái ta mở chưởng đưa ra đỡ lấy cùi
chỏ phải địch cấp kỳ trong lúc cổ tay ngoài của cánh tay phải ta câu cổ tay quyền của
địch rồi (H.80).
3. Xuống tấn thấp, tay phải ta nắm cổ tay quyền phải của địch kéo về sau (tức hướng tiến
lên của địch), chưởng trái ta theo cánh tay trái địch chiếu thẳng hông địch (H.81).
4. Dùng chỉ (tứ chỉ: 4 đầu ngón tay) điểm thẳng vào nách địch, chân không động mà
người đã dồn tới bằng cách vận dụng sức ở hông (H.82). Địch bị điểm ngay huyệt kỳ
môn hoặc Tiếp cân chắc là đại bại rồi, ấy là kết thúc Thức thứ 16 vậy.
Thúc thứ 17: KIM CÂU QUẢI HOÀN
(Quải: treo, hoàn: tròn)
1. Địch dùng quyền phải đánh thẳng xuống mặt ta, ta nghiêng đầu tránh sang bên phải
địch, đồng thời tay trái ta phát chưởng đỡ sang phải nhằm ngang cùi chỏ địch, trong lúc
chưởng phải đưa ngay trước ngực địch như sắp đấm tới vậy (H.83).
2. Ta bước chân trái lên bên ngoài chân phải địch, tay phải câu cổ tay phải địch, chưởng
trái biến thành quyền đưa xuống bên đùi (H.84).
3. Liền theo động tác trên quyền trái ta đập vào tai địch bằng lưng quyền, mắt ta nhìn vai
phải địch (H.85).
22
4. Địch nhân bị đập ngang tai, tay phải bị giữ thì nhất định lắc đầu hoặc lay động thân
trên để tránh, thế là tay phải ta kéo về sau (hướng tiến lên của địch) kéo chúi xuống đất,
đồng thời chân phải ta tiến lên đá quét chân địch làm địch mất thăng bằng bổ chúi tới
trước sãi dài trên mặt đất trông rất thảm hại. Địch nhân đành thua vậy (H.86)
Thức thứ 18: KIM KÊ ĐẨU LINH
(Đẩu: xòe (cánh), linh: nhanh nhẹn)
1. Trong lúc ta giao đấu với địch thì bất ngờ có kẻ thứ hai bên trái ta xông vào chọp cổ ta
bằng tay phải. (H.87).
2. Ta hạ thấp tấn và cúi đầu xuống phía trước. (H.88).
3. Rồi đưa vai trái hạ thấp đoạn lộn lên qua khỏi cổ tay địch nhân (H.89).
4. Kế dùng vai trái hất mạnh tới cổ tay địch là thoát được ngay (H.90).
5. Lập tức chưởng trái ta vỗ mạnh vào háng địch, hắn vô phương tránh né. Thức thứ 18
kết thúc tại đây (H.91).
23
Thức thứ 19: SONG BẢO CHƢỞNG
(Bảo: ôm)
1. Địch dùng chưởng phải công vào ngực ta, ta phát chưởng phải yểm cổ tay địch,
chưởng trái từ dưới đưa lên trên cánh tay phải của địch (H.92).
2. Kế lật song chưởng thẳng đứng (các ngón tay thẳng đứng lên trời, lòng bàn tay chiếu
thẳng tới hướng địch), hai cùi chỏ hơi khép lại, cánh tay phải của địch giờ đã bị hai tay ta
đè lên (H.93).
3. Chưởng trái giữ (nắm; bảo) vai phải địch, tay phải phát lực đẩy tới giữa ngực địch
(H.94).
24
Thức thứ 20: KIM THIỀN THOÁT XÁC
(Kim thiền: con ve sầu vàng)
1. Địch dùng chưởng phải bổ tới mặt ta, ta đưa cánh tay phải xéo lên yểm cổ tay địch
(H.95).
2. Chưởng phải biến thành câu vừa móc vừa đè cánh tay phải địch xuống, đồng thời
chưởng trái thọc ra hợp với tay phải kẹp cổ tay địch vào giữa, lòng bàn tay trái úp.
(H.96).
3. Địch sẽ bật tay ta lên để rút tay phải về, tay phải vẫn theo bám sát cổ tay địch (trong
trường hợp địch không bật tay lên thì tay trái ta cũng lôi cổ tay phải hắn lên), tay trái vẫn
đưa xuống không thay đổi (H.97).
4. Chân trái ta co lên bước lên trước đường đất địch, đồng thời hạ tấn thấp xoay mặt về
hướng tiến lên của địch (nhưng vẫn liếc nhìn mắt địch) thành tay phải địch nằm ngửa trên
vai ta rồi, vế ta sát vế địch (khóa ngựa), chưởng trái vỗ hạ nang địch làm hắn thóp bụng
sợ hãi (khi hắn giật mình thì trọng lực của hắn sẽ lên cao) (H.98).
5. Cánh tay phải ta lôi cổ tay phải hắn tới trước trong lúc chân ta chuyển bộ chồm người
tới trước, eo lưng lắc mạnh một cái địch thủ bay lướt qua đầu ta. (H.99).
6. Buông tay trái lẫn tay phải, rùn bộ thấp nhường cho thân thể địch bay qua rơi bịch
xuống đất nằm sắp sãi tay như con rùa đen (H.100). Thế là kết thúc Thức thứ 20.
25
Thức thứ 21: TRÍCH LẶC ĐẢ
1. Ta dùng chưởng phải tấn công ngay ngực địch, hắn thóp ngực co lưng tránh liền
(H.101).
2. Hắn bắt lấy cổ tay phải ta bằng tay phải, chưởng trái hắn nâng cùi chỏ ta lên. (H.102).
3.Ta bèn co cánh tay phải lên, chưởng xung thiên, lòng chưởng úp vào phía mặt ta, đồng
thời chân trái ta bước lên (đổi bộ) gài giữa chân địch, thế là tay phải ta đã thoát tay địch
rồi, cũng cùng một tác động thời gian đó tay trái ta nắm lấy cổ tay địch (H.103).
4. Chân phải ta bước lên ngáng giữa đường đất địch (đổi bộ), tay trái nâng lên cao lột
cánh tay trái địch qua bên phải hắn, chưởng phải ta co ngang trong thế sẵn sàng tấn công
ngang (H.104).
5. Chân ta chuyển thành mã bộ, tay trái buông cổ tay trái địch đồng thời tay phải đánh
ngang một quyền vào ngực địch làm hắn bật ngửa, vì trong lúc ta đổi bộ hắn cũng đổi bộ
nên chân hắn bị chân ta gài (khóa) không thể rút ra thoát chạy được nữa. (H.105).
Thức thứ 22: ĐẢO BỘI KIM NHÂN
(Xoay lưng vác vai người sắt)
1. Địch thủ dùng hai tay bắt lấy hai cổ tay ta không chịu buông ra. (H.106).
2. Tay phải ta co vào dưới cánh tay trái, lòng bàn tay úp vào bụng thế là thoát rồi, tay trái
co vào trên tay phải và cùng thoát ra như tay phải (hai tay làm cùng lúc). (H.107).
26
3. Nhưng khi gần thoát ra tay ta lại nắm giữ hai cổ tay địch như lúc địch bắt cổ tay ta vậy.
(H.108).
4. Ngay khi bắt được tay địch ta gài tay trái địch vào dưới nách phải của hắn, chân phải ta
bỏ qua bên phải chân trước của hắn (chân phải), (H.109).
5. Ta hạ thấp đồng thời xoay người nghịch chiều kim đồng hồ về hướng tiến của hắn,
buông cánh tay trái của địch ra và hai tay giữ lấy cổ tay phải của địch gánh lên vai (trong
lúc gánh cánh tay địch phải xoay cho lòng bàn tay của địch quay lên trời để khi bẻ tay
hắn mới đau). (H.110).
6. Hai tay ta kéo cổ tay địch tới trước (theo đường chỉ địa), đầu ta cúi xuống, mông bật
mạnh lên làm địch bay lộn vèo qua vai ta té ngửa trước mặt ta. (H.111).
Thức thứ 23: LIÊN CHÂU TIỄN
(Còn gọi là Băng Quyền Tam Tấn)
1. Ta dùng quyền phải đấm vào ngực địch (H.112), địch đưa tay phải đỡ.
2. Ta lại đấm tiếp quyền trái ra, hắn lại đưa cổ tay phải đỡ (H.113).
3. Ta đấm tiếp theo quyền phải tất hắn không đỡ kịp nữa. (H.114).
Chú ý: Lúc thực hành thì ba quyền xung ra nhanh như một thì dù địch nhân có lanh tay
đến đâu cũng khó bề đỡ kịp hết được, và có thể đánh 4 hay 5 quyền liên tiếp. Nhưng
chính ta gặp phải đối thủ có tay quyền nhanh như điện này thì tốt hơn nên hóp ngực tránh
đòn và lách mình sang bên phản công. Cái đó gọi là lấy công làm thủ đó.
27
Thức thứ 24: TÀ THÂN SONG DỊCH CHƢỞNG
1. Địch dùng chưởng phải, bước chân trái tới chém bổ xuống đầu ta. (H.115).
2. Ta xử chưởng xung thiên nhưng chỉ xéo lên phía ngoài cánh tay địch ngay cùi chỏ hắn
là đòn hắn vô hiệu rồi (H.116).
3. Ta đảo bộ chân trái bước sang bên phải địch phòng địch tấn công, trong lúc tứ chi (4
đầu ngón tay) trái đâm nhẹ vào bẹ sườn non bên phải của địch (H.117).
4. Đâm vào sườn non và bấu vào bẹ sườn như chim ưng bắt mồi vậy làm địch đau chịu
không nổi phải thóp bụng nhảy tưng lên (H.118).
5. Thế là ta gia tăng kình lực vào hai bàn tay, thân trên chồm tới đẩy bay địch ra sau mấy
thước tây mà phần bên ngực hắn đã bị trọng thương rồi vậy. Kết thúc chiêu thứ 24
(H.119).
28
Thức thứ 25: HIỆP KIÊN SƢU ĐỔ CHƢỞNG
(Vai hông chưởng hợp nhất)
1. Địch dùng tay phải nắm cổ tay phải ta, hắn định đè xuống để chưởng trái chụp vào mặt
ta (H.120).
2. Ta bước chân sau lên ngoài chân trước của hắn đồng thời đưa tay phải thành vòng tròn
từ dưới lên trên (từ phải qua trái), khi tay phải đưa cổ tay ngang vai trái thì tay địch
không giữ nổi cổ tay ta nên ngay khi ấy chưởng ta câu lại bắt giữ cổ tay đối thủ khi hai cổ
tay ta và địch trở về vị trí xuất phát (H.121).
3. Tay phải ta kéo tay địch về hướng bên phải ta đồng thời tay trái ta đánh vào bụng địch
hoặc hạ bộ bằng lưng nắm tay (H.122); muốn kéo được địch chúi về bên phải ta thì trước
khi kéo, tích tắc đồng hồ ta dùng vai trái đánh vào vai phải của địch, cái lắc vai phải theo
nguyên tắc vòng tròn xoay, có dạy trong sách Bát Quái Quyền Chưởng.
4. Đánh vai trái vào vai phải địch, tay trái câu thủ của ta đưa ra sau lưng (H.123).
5. Thả tay phải đồng thời câu thủ trái của ta (dùng lưng) đánh vào biếu địch làm hắn tức
tối chịu không nổi (H.124).
29
Thức thứ 26: HỒI THÂN TIÊU LẶC CHƢỞNG
1. Địch với ta giao thủ, ta dùng chưởng phải án vào ngực địch (H.125).
2. Địch co chân trước lên thành tấn một chân, thóp bụng tránh đòn đồng thời xoay cổ tay
đập mu bàn tay lên cổ tay ta áp xuống để bắt cổ tay ta. (H.126).
3. Hắm niệm tay ta nên khi thấy ta hơi động thì hắn chuyển tay nhanh như cắt tát vào mặt
ta (H.127).
4. Ta đưa nắm tay trái lên đỡ cú chưởng của địch đánh tới đẩy tay hắn vọt lên cao khỏi
đầu (H.128).
5. Rút cổ rùn đầu thấp xuống, chưởng phải yểm chỏ địch đồng thời bỏ chân trái lên một
bước tức là lăn qua cánh tay địch rồi, kế buông tay phải địch, chân phải co lên thành độc
tấn, chưởng phải phát vào hông địch (H.129).
Thức thứ 27: Xảo phá triền yêu tác
(Khéo léo quấn quít bên hông địch)
1. Ta đang chiến đấu bất thình lình có người thứ ba từ sau lưng nhảy vào ôm ngang lưng
ta (ôm dưới hai tay). Ta dùng ngón tay cái bấm vào hố khẩu (khoảng giữa ngón cái và
ngón trỏ, chỗ bóp thấy thịt mềm) của hắn thì hắn buông ta ra ngay (H.130).
2. Kế bàn tay phải bao lấy nắm tay trái thúc mạnh cùi chỏ ra sau vào cổ họng địch
(H.131) hoặc ngực hắn.
3. Xong quyền trái biến thành câu thủ gạt ra sau phòng chân địch đá tới, đồng thời cúi
người xuống dùng chưởng phải nắm cổ chân địch (giữa hai chân ta) mà lôi lên (lúc kéo
30
chân đối thủ vẫn tọa bộ) địch sẽ bị té ngửa ngay (H.132). Nếu là ác chiến thì có thể dùng
chân trái móc gót lên hạ bộ đối thủ, hắn ngã quỵ ngay.
4. Nếu địch ôm cả tay lẫn eo lưng, ta xuống tấn thấp xoài người tới trước đồng thời hai
tay bung mạnh chỏ ra chắc chắn địch chịu không nổi phải bỏ cuộc (H.133).
5. Tay trái phát chưởng tới trước đỉnh đầu, chuyển thân thuận theo chiều kim đồng hồ,
chưởng phải cùng lúc từ ngang vai đập vào hạ bộ địch thủ, hắn sẽ dội ngược mà bỏ trận
đấu. (H.134).
Thức thứ 28: PHIÊN THÂN LA HÁN CHƢỞNG
(Phiên thân: lộn ngược lại, quay mặt lại)
1. Địch dùng chưởng phải công vào ngực ta, ta dùng tay phải câu cổ tay địch đồng thời
chưởng trái đánh tới mặt hắn. (H. 135).
2. Địch phát chưởng xung thiên phong tỏa thế công tay trái của ta thì ta cũng rút chưởng
phải về (H.136).
3. Chưởng phải chiếu thẳng ngực định đánh tới thế là tự nhiên rút được chưởng trái về
rồi. (H.137).
4. Ta bước chân trái lên ngáng chân trước địch mới vừa lùi vì phát chưởng của ta, liền
theo chân bước tay trái phát chưởng đạp vào bụng dưới của địch, nếu trúng mạnh địch vỡ
(bể) bọng đái mà chết một cách thảm thiết. (H.138).
31
5. Địch cũng rất hay, hắn trầm chỏ trái xuống đánh cùi chỏ ta bật ra ngoài (sang bên),
nhưng nhanh như cắt ta chuyển thân trái bằng cách xoay vai đồng thời chưởng phải từ
trên cao đập xuống vị trí đã định. Thế là hắn không tài nào né tránh được, trừ phi hắn
thóp bụng rùn bộ tháo lui nhanh như điện thì chưởng của ta mới không gia hại hắn được
mà thôi.(H.139). Nhưng như thế cũng nhất định là chấm dứt thức thứ 28 nầy rồi.
Thức thứ 29: THUẬN THỦY THÔI CHÂU
(Thuận theo dòng mà đẩy thuyền)
1. Địch dùng quyền phải đánh vào ngực ta (H.140).
2. Ta lập tức đưa chưởng phải xéo qua xung thiên đỡ tay địch ngay trong lúc co chân
trước (phải) lên (H.141).
3. Tay phải bắt (câu) lấy cổ tay địch (H.142).
4. Địch định rút tay về nhưng ta dùng chưởng trái nâng khuỷu tay địch lên đồng thời ta
phải ta thuận đường đưa lên bóp cổ địch trong lúc chân phải ta bỏ ngoài chân trước địch,
(H.143).
5. Chuyển chân tấn thân dồn sức tới trước đồng thời cánh tay phải đẩy mạnh vào cổ địch
nhân tất hắn ngã ngửa (H.144).
32
Thức thứ 30: ĐẢO DỊCH TỬ KIM QUÁN
1. Ta dùng chưởng trái đánh vào vai phải địch, địch dùng chưởng trái câu lấy cổ tay trái
ta và dùng tay phải nâng cùi chỏ ta lên (H.145).
2. Ta xoay mình theo chiều kim đồng hồ chân phải co lên, coi như cánh tay ta bị địch bắt
rồi (H.146).
3. Chân phải đá ngược ra sau nhằm bụng dưới hay hạ nang của địch thì địch không còn
chỗ dung thân, (H.147). Dù thế nhưng người hiểu võ bao giờ cũng chừa cho đối thủ của
mình một sinh lộ, những đòn độc thường được thận trọng khi xử dụng.
33
Thức thứ 31: THƢỢNG BỘ HOÀNH XUNG CHƢỞNG
1. Địch dùng chưởng phải đánh ngực ta, ta bèn thóp bụng để ngự, đồng thời xoay thân từ
trái qua phải dùng cánh tay phải thò xuống phía vế địch mà đỡ cánh tay địch. (H.148).
2. Lướt cánh tay phải theo hướng đánh của địch để hóa giải sức mạnh của địch, đồng thời
chân trái bước tới ngáng chân trước địch đứng hư bộ, chưởng trái đưa lên ngang địch mà
phòng ngự (H.149).
3. Đợi khi địch rút tay phải về thì đồng nhất ta chuyển thân tới chân tấn thực mạnh hai
tay phát lực mười phần dùng chưởng xô tới tất địch bắn đi 5-6 thước (H.150).
Thức thứ 32: THUẬN THỦ KHIÊN DƢƠNG
1. Địch tiến chân trái dùng tay phải phát chưởng đánh vào mặt ta, ta đưa chưởng lên từ
bên ngoài cánh tay của địch đẩy xéo lên, cho đòn địch lướt qua bên phải ta (H.151).
2. Rồi tay phải ta trượt theo cánh tay địch từ cùi chỏ đến cổ tay thì chưởng ta câu cổ tay
địch mà kéo về bên phải ta, chưởng trái ta nắm cánh tay trong (trong cùi chỏ) đưa về bên
phải phụ tay phải đồng thời cũng đề phòng cùi chỏ của địch (H.152).
3. Địch vì cố lao tới phần bị ta kéo đi nên mất đà đành phải lao tới,cùng lúc với đà kéo
chân phải ta quét lên làm ngáng (cản) chân cho địch hòng chân té sấp xuống đất, ngay khi
ấy ta buông tay địch ra cho địch tự nhiên nằm xuống (H.153).
34
Thứ thứ 33: XÀ HÌNH CHƢỞNG
(Chưởng hình như động tác tấn công của rắn)
1. Địch dùng chưởng phải công ngay ngực ta, ta bèn đưa tay phải từ trên xuống phía
ngoài cánh tay phải địch gạt cuốn qua, ngay khi chạm tay địch, cánh tay ta mượn cánh
tay địch làm chuẩn đâm bốn đầu ngón tay vào nách địch (H.154). Khi tay ta chạm tay
địch thì chân trước xuống tân vững chân trước (thực bộ), còn lúc đứng vờn nhau thì chân
trước bao giờ cũng nhẹ nhàng gọi là hư bộ.
2. Địch rút chân trước về một tí thóp ngực tránh đòn, ta theo ngay chân trái bước lên
chưởng trái lật ngửa chưởng tâm lên trời và đâm vào mắt phải của địch, trong lúc tay trái
có thể biến thành câu để ngự cổ tay phải địch (H.155).
3. Địch không dở, hắn chỉ lắc nhẹ đầu sang bên là tránh đòn ta rồi, ngay khi ấy ta nhấc
chân phải lên chân trái làm trụ xoay vòng theo chiều kim đồng hồ, xoay lưng về phía địch
đồng thời trong đà xoay chớp nhoáng ấy tứ chỉ của tay phải cuốn qua vai (chưởng ngửa
lên) đâm vào mắt địch, chưởng trái phất về bên đùi trái phòng ngự (H.156). Trong lúc
chưởng đâm thì chân phải vẫn co, mắt ta ngoẻo nhìn mắt địch.
4. Địch thật là hay, hắn thò chưởng phải nâng cùi chỏ phải ta lên tránh thoát đòn độc dễ
dàng, nhưng nhanh như cắt chân phải ta đặt xuống bên chân trước địch thành mặt đối mặt
địch, chưởng trái ta lại yểm cổ tay phải địch còn đang giữ cùi chỏ ta, tay phải y vị chỉ
ngửa biến thành chỉ úp sấp vẫn đâm vào mắt địch. Thế là hắn lãnh đủ rồi không tài nào
tránh được, diễn tả động tác thì chậm mà việc xảy ra thì như điện xẹt, (H.157).
5. Nhưng như đã nói địch không phải tầm thường, hắn vẫn nâng cùi chỏ ta kịp thời thế là
đòn biến đó hỏng mất, không để địch kịp suy tư ta dùng chân trái móc chân phải địch từ
phía ngoài, chưởng trái cuốn từ trên xuống vòng lên trên chênh chếch thành chưởng xung
thiên, lòng chưởng mà trấn được hai tay địch rồi, chưởng phải theo liền chưởng trái đẩy
thẳng tới giữa ngực địch một chưởng tối hậu. Chưởng nầy nhất địch là địch không kịp trở
tay rồi, thế là kết thúc thức thứ 33 tại đây. (H.158). Lúc phát chưởng phải dồn sức vào
chân trước thì lực mới đả thương địch mười phần.
35
Thức thứ 34: TIẾN THAM PHỐI
1. Địch dùng tay trái phát chưởng công vào bụng ta, ta lưu chưởng trai ra bắt lấy chưởng
địch (bắt cổ tay) đẩy sang bên trái, đồng thời chân phải co lên (H.159).
2. Khi tay địch vừa lệch sang bên thì chân phải ta phóng tới hông địch một bước. Thế là
trúng rồi còn chạy đi đâu nữa. Kết thúc thức 34 một cách hết sức mau chóng và dễ dàng
(H.160).
Xin đóng góp về Bát Quái Chƣởng
A) Về cơ thể con ngƣời:
Trong Bát quái có 8 chữ: càn, khôn, chấn, tốn, khảm, ly, cấn, đoài.
Đầu, tượng trưng Càn
Bụng, tượng trưng Khôn
Chân, , tượng trưng Chấn
Bắp vế, tượng trưng Tốn
Tai, tượng trưng Khảm
Mắt, tượng trưng Ly
Tay, tượng trưng Cấn
Miệng, tượng trưng Đoài.
B) Về quyền thuật:
Trong quyền thuật tượng trưng Đầu là Càn, Bụng là Khôn, Thận là Khảm, Trên là Ly, đốt
thứ nhất của xương cùng cho đến đốt thứ bảy của cột xương sống là Tốn, cột xương ở cổ
là Cấn, bên trái bụng là Chấn, bên phải bụng là Đoài. Đó là danh xưng của Bát quái trong
thân thể. Kể từ tứ chi trở xuống mà nói, thời bụng là vô cực, rốn là thái cực, hai quả thận
là lưỡng nghi, hai cánh tay và hai chân là tứ tượng, hai tay và hai chân mỗi cái có 2 đốt,
hợp lại thành Bát Quái.
Hai bàn tay và hai bàn chân có 20 ngón, tổng 4 ngón tay cái, chân cái chỉ mỗI ngón có 2
đốt, cả thảy 8 đốt. Còn lại 16 ngón tay chân, mỗI ngón có 3 đốt, cả thảy là 48 đốt. Hợp 8
đốt chân tay, 8 đốt xương ngón chân cái, ngón tay cái và 48 đốt xương ngón ta, ta có đủ
64 đốt phù hợp vớI con số 64 trong Dịch Lý.
36
Ý niệm về những con số trên gọi là: vô cực sinh thái cực, thái cực sinh lưỡng nghi, lưỡng
nghi sinh tứ tượng, tứ tượng sinh bát quái và 8*8 thành 64, biến thành một cấp số nhân
với công bội là 2.
Hình tượng ở các loài vật: Càn là Ngựa, Khôn là Trâu, Chấn là Rồng, Tốn là Gà, Khảm
là Heo, Ly là chim Trĩ, Cấn là Chó, Đoài là Dê. Áp dụng trong quyền thuật là:
- Càn là Sư tử
- Khôn là Lân
- Chấn là Long
- Tốn là Phượng
- Khảm là Xà
- Ly là Kê
- Cấn là Hùng (gấu)
- Đoài là Hầu (khỉ)
Ứng dụng vào dịch học, lấy bát quái trong thân thể là cái gốc ở bên trong, lấy bát quái
qua tứ chi là cái dụng ở bên ngoài. Sách Nội kinh có ghi: “Thân thể con người có đủ cái
gốc tiên thiên và hậu thiên; Chấn là gốc của tiên thiên, Tỳ là gốc của hậu thiên. Gốc tức
là cội rễ, là nguồn.”
Đặc điểm vận động của Bát quái chưởng là thân nhanh bước linh, tùy bước tuỳ biến, khi
giao đấu cùng đấu thủ thì thân hình nhô, hụp, vặn, xoay mau lẹ đa biến. Quyền phổ Bát
Quái ghi là: “Hình như rồng lượn, nhìn như vượn giữ, ngồi như hổ ngồi, chuyển như ưng
liệng”. Lấy trạm trang và bước đi là cơ bản công, lấy bước xoay chạy vòng tròn làm hình
thức vận động cơ bản. Đường di chuyển của vết chân bước xoay chia ra chạy theo hình
cá âm dương, chạy theo hình vẽ bát quái (Có 2 hình vẽ kiểu Bát quái là Tiên thiên Bát
quái của Phục Hy và hậu thiên bát quái của Chu Văn Vương), chạy theo cửu cung v.v…
Thân hình yêu cầu vươn đầu, thẳng cổ, đứng hông, hạ mông, lỏng vai xuôi khuỷu, giữ
nguyên bụng, thoải mái ngực, co háng, nâng bụng dưới.
Yêu cầu bộ pháp lên xuống vững vàng, khép mở rõ ràng, thực hư rành rọt. Khi bước tròn,
chân trong tiến thẳng chân ngoài khépvào trong, hai đầu gối ôm nhau, không được mở hạ
bộ. Thân pháp coi trọng vặn, xoay, chuyển, lật tròn vòng không ngắc ngứ. Về hình tay thì
có long trảo chưởng (chưởng móng rồng), ngưu thiệt chưởng (chưởng lưỡi trâu) v.v…
Thủ pháp chủ yếu thì có đẩy, nâng, kéo, dẫn, dời, ngăn, cắt, khép, bắt, tóm, móc, đánh,
gói, đóng, né… mười sáu phép. Yêu cầu là có thể tiến có thể lui, có thể hóa có thể sinh,
kết hợp hư thục, biến hóa không cùng, lấy động chế tĩnh, né thẳng đánh chéo, lấy chính
đuổI tà làm yếu quyềt giao đấu. Mỗi chưởng phát ra đều phảI lấy hông làm trục, toàn
thân là một thể, nội ngoại hợp nhau, ngoài chú trọng: tay, mắt, thân, bộ pháp, trong tu
dưỡng: tâm, thần, ý, khí, lực.
Luyện tập Bát quái chưởng chia ra 3 bước công phu: định giá tử, hoạt giá tử và biến giá
tử. Định giá tử là công phu cơ bản yêu cầu một chiêu một thức đều phảI thật quy củ, quen
chậm chứ không quen nhanh, cốt sao tư thế chính xác, trang bộ kiên cố, bước đi vững
vàng, thiết thực, làm cho được 9 yêu cầu nhập môn là: Tạ, Khấu, Đế, Đỉnh, Khỏa, Tùng,
Thùy, Xúc, Khởi toản lạc phan. Hoạt giá tử chủ yếu luyện động tác phốI hợp với bộ pháp
khiến các yếu lĩnh cơ bản trong khi chuyển chạy biến hoá phảI vận dụng thành thạo. Biến
37
giá tử yêu cầu nội, ngoại phải thống nhất, ý dẫn thân theo, biến đổI tự nhiên, theo ý vào
sâu không bị hạn chế bởI tiết tấu thứ tự bài bản, làm sao để nhẹ như lông ngỗng, biến như
điện chớp, vững như bàn thạch.
Nội dung cơ bản của Bát quái chưởng là Bát mẫu chưởng (8 chưởng mẹ) còn gọi là Lão
bát chưởng (8 chưởng già), biến hoá phối hợp nhau thành 64 chưởng. Bát quái chưởng có
đơn luyện, đối luyện, và tán đả đấu lôi đài. Hệ quyền của bát quái chưởng có 18 đường
La Hán thủ, 72 ám cước (đòn đá ngầm), 72 tiệt thoái (chặt chân). Hệ khí giới của Bát
quái chưởng có Tý ngọ uyên ương việt (búa), kê trảo âm dương nhuệ, phong hỏa luân,
phán quan bút,v.v… là các loạI binh khí đôi ngắn, nhỏ; cả đến gậy thất tinh trong có đổ
thủy ngân cho nặng và biến hoá sử dụng linh hoạt cùng các khí giới lớn nặng như bát
quái đao, bát quái thương, bát quái kiếm.
Bát quái chưởng không chỉ là môn võ thuật đánh nhau mà còn là môn võ rèn luyện thân
thể. Qua nghiên cứu, thấy rõ thường xuyên luyện tập bát quái chưởng có thể nâng cao và
cải thiện cơ năng của các hệ thống trong cơ thể, tăng cường sự trao đổi chất, cải thiện tố
chất con người khiến sứa lực con người càng thêm sống lâu, mạnh mẽ.
Để kết luận, tôi xin lấy một câu trong Chu dịch: “Cứng mềm mài nhau, bát quái vẫy
động” tức là luôn vận động không ngơi, biến hoá không ngừng mới là đạo lý, và cũng
chính vì vậy mới gọi là Bát quái chưởng.