28
Báo cáo Tổng kết Chương trình Tình nguyện Bảo tồn Rùa biển Côn Đảo năm 2014 Lê ThThanh Thy TCHC BO TN THIÊN NHIÊN QUC TRùa con trở về biển.Việt Nam©Vũ Hoài Nam,2014

Báo cáo Tổng kết Chương trình Tình nguyện Bảo tồn Rùa biển Côn

Embed Size (px)

Citation preview

Page 1: Báo cáo Tổng kết Chương trình Tình nguyện Bảo tồn Rùa biển Côn

Báo cáo Tổng kết Chương trình

Tình nguyện Bảo tồn Rùa biển Côn Đảo

năm 2014

Lê Thị Thanh Thủy

TỔ CHỨC BẢO TỒN THIÊN NHIÊN QUỐC TẾ

Rùa con trở về biển.Việt Nam©Vũ Hoài Nam,2014

Page 2: Báo cáo Tổng kết Chương trình Tình nguyện Bảo tồn Rùa biển Côn

2

MỤC LỤC

TÓM TẮT ........................................................................................................................ 3

NHỮNG CON SỐ THỐNG KÊ ........................................................................................ 5

KẾT QUẢ ĐÁNH GIÁ CỦA TÌNH NGUYỆN VIÊN SAU CHƯƠNG TRÌNH ..................... 6

1. Những kiến thức và kỹ năng học được từ chương trình ....................................... 6

2. Đánh giá về khâu tổ chức trước chương trình ...................................................... 8

3. Đánh giá về khóa tập huấn nâng cao nhận thức và cứu hộ rùa biển .................... 9

4. Đánh giá về các hoạt động bảo vệ rùa biển taị các trạm bảo vệ rùa biển ........... 10

5. Đánh giá về sắp xếp hậu cần trong suốt chương trình........................................ 12

6. Đánh giá về mức độ tương tác giữa các thành viên trong nhóm Tình nguyện viên

............................................................................................................................ 12

7. Đánh giá về cán bộ điều phối tại thực địa ........................................................... 14

8. Đánh giá về thông tin, tài liệu gửi trước chương trình ......................................... 14

9. Tài chính .............................................................................................................. 15

11. Kết luận về tổng thể chương trình ...................................................................... 17

12. Ảnh hưởng của chương trình ............................................................................. 17

NHẬT KÝ CHƯƠNG TRÌNH ......................................................................................... 19

NHỮNG KỶ NIỆM KHÓ QUÊN ..................................................................................... 21

PHỤ LỤC ...................................................................................................................... 26

Page 3: Báo cáo Tổng kết Chương trình Tình nguyện Bảo tồn Rùa biển Côn

3

TÓM TẮT

Trong khuôn khổ Dự án “Bảo tồn bải đẻ của rùa biển có sự tham gia của cộng đồng tại Việt Nam”

do Cơ quan Dịch vụ về Cá và Động vật Hoang dã Hoa Kỳ (US FWS) tài trợ, Tổ chức Bảo tồn

Thiên nhiên Quốc tế (IUCN) đã phối hợp với Ban quản lý Vườn quốc gia Côn Đảo tổ chức chương

trình tình nguyện viên (TNV) tham gia công tác cứu hộ Rùa biển tại Côn Đảo năm 2014. Chương

trình gồm 4 đợt với 23 TNV tham gia cụ thể như sau:

Đợt 1: Từ ngày 08 - 12/7/2014, có 06 TNV tham gia. Địa điểm thực hiện: Trạm kiểm lâm

Bảy Cạnh (03 ngày).

Đợt 2: Từ ngày 26 - 30/7/2014, có 06 TNV tham gia. Địa điểm thực hiện: Trạm kiểm lâm

Bảy Cạnh (03 ngày).

Đợt 3: Từ ngày 26 – 30/8/2014, có 05 TNV tham gia. Địa điểm thực hiện: Trạm kiểm lâm

Hòn Tài 03 TNV và Trạm kiểm lâm Hòn Tre Lớn 02 TNV (03 ngày)

Đợt 4: từ ngày 26/8 - 04/9/2014, có 06 TNV tham gia, địa điểm thực hiện Trạm kiểm lâm

Bảy Cạnh (08 ngày).

Kết thúc chương trình, các TNV cho rằng đây là một chương trình có ý nghĩa, đã cung cấp cho

TNV nhiều thông tin về công tác cứu hộ bảo vệ rùa biển tại Côn Đảo, góp phần nâng cao nhận

thức và giáo dục ý thức cộng đồng. 87.5% TNV cho rằng chương trình đã đáp ứng được 90-

100% mong đợi của họ. 12.5% cho rằng đã đáp ứng được 70-80%. Các cán bộ tổ chức và điều

phối tại hiện trường đã hỗ trợ chương trình nhiệt tình, kịp thời và chuẩn bị chu đáo. Về tài chính,

minh bạch, rõ ràng. Hầu hết các TNV đều nhiệt tình, có tinh thần trách nhiệm và tâm huyết với

công việc.

Tuy nhiên, do lần đầu tiên tổ chức, chương trình không tránh khỏi những thiếu sót và cần xem

xét, khắc phục những vấn đề sau:

Khi kêu gọi TNV, cần nêu rõ tiêu chí lựa chọn TNV cũng như số lượng TNV sẽ được nhận

mỗi đợt. Nếu các tiêu chí tuyển chọn được thông báo rõ ràng, các ứng viên có thể tự đánh

giá sự đáp ứng của bản thân đối với yêu cầu của chương trình. BTC cũng có thể giảm áp

lực và thời gian chọn lọc các hồ sơ. Hơn nữa, mỗi ứng viên có thời gian tiếp cận với thông

tin về chương trình khác nhau, nên nếu xet hồ sơ theo tiêu chi ưu tiên người đến trước

thì sẽ rất đáng tiếc vì có thể bỏ lơ những ứng viên phù hợp với chương trình.

Mẫu đăng ký còn đơn giản, không khai thác được hết thông tin và khả năng của TNV.

Mẫu đơn nên bổ sung thêm thông tin về thể trạng (chiều cao, cân năng, tình trạng sức

khoẻ) để đảm bảo chương trình lựa chọn được những tình nguyện viên đủ sức khỏe đảm

đương công việc. Để đánh giá được sự nhiệt tình và mong muốn tham gia chương trình

nghiêm tục, mẫu đăng ký cần bổ sung thêm một số câu hỏi như “Hãy kể cho chúng tôi về

một hoạt động cộng đồng gần đây của bạn?”, “Bạn sẽ làm gì trong vai trò của một tình

nguyện viên”, “kế hoạch truyền thông của bạn sau khi tham gia chương trình như thế

nào?”

Thời hạn kết thúc đăng ký sớm hơn so với thông báo ban đầu, làm cho nhiều người muốn

đăng ký nhưng không được chấp nhận. Các hạn phản hồi và thời gian gửi hơi ngắn. Nên

Page 4: Báo cáo Tổng kết Chương trình Tình nguyện Bảo tồn Rùa biển Côn

4

đăt một kế hoạch làm việc sớm để cả bên tổ chức lẫn TNV có cơ hội sắp xếp công việc

tốt và có thời gian chuẩn bị cho chuyến đi, về cả sức khỏe lẫn tinh thần.

Thời gian: nên kéo dài thời gian tình nguyện tại các trạm bảo tồn rùa biển hoăc tận dụng

triệt để thời gian thực hiện chương trình. Hiện tại, chương trình 5 ngày gồm 2 ngày là

ngày đi lại, chỉ có 3 ngày là thực chất làm việc. Hay chương trình 10 ngày nhưng chỉ có 8

ngày sống và trải nghiệm tại các trạm bảo tồn rùa ở Côn Đảo.

Các tài liệu, thông tin về rùa biển và thông tin về địa điểm tình nguyện (như Hòn Bảy

Cạnh, Hòn Tre Lớn) cần được gửi trước và gửi sớm cho TNV để nghiên cứu tìm hiểu

trước, từ đó chuẩn bị hành lý và vật dụng mang theo phù hợp.

Khâu tổ chức cần có sự phối hợp chăt chẽ hơn nữa giữa IUCN và VQG Côn Đảo để thông

tin được thông suốt, tránh hiểu lầm cho TNV.

Nên có những chuyên gia về rùa biển cùng tham gia phối hợp để có thể truyền đạt những

kiến thức sâu hơi về rùa, cùng với đó là những kỹ năng chăm sóc và cứu hộ rùa bị thương

để TNV có thể kịp thời ứng phó với nhiều tình huống thực tế.

BTC nên lựa chọn TNV từ các thành phần xã hội khác nhau, đa dạng độ tuổi để công tác

tuyên truyền, nâng cao nhận thức có thể đến được với nhiều tầng lớp nhân dân trong xã

hội hơn.

Các TNV cũng thấy rằng điều kiện sinh hoạt trên trạm còn khá thiếu thốn. Lực lượng kiểm lâm

còn mỏng trong khi các áp lực khai thác rùa biển trái phép vẫn gia tăng. Các tour du lịch trên các

đảo nhỏ chưa được kết hợp với công tác tuyên truyền, bảo vệ rùa biển. Trong các tour du lịch

xem rùa đẻ trứng, nên kết hợp với việc truyền thông bảo vệ rùa biển để công tác bảo vệ rùa biển

tốt hơn, lan rộng hơn.

Khi được hỏi động lực tham gia chương trình, 81.25% TNV cho rằng mong muốn được hiểu biết

về rùa biển là động lực quan trọng nhất để họ đăng ký tham gia. 25% TNV cho rằng những trải

nghiệm trong cuộc sống khó khăn thôi thúc họ đăng ký tham gia chương trình nhất. Và 18.75%

cho rằng địa điểm chương trình ở Côn Đảo là yếu tố hàng đầu khiến họ đăng ký tham gia.

Khi được hỏi, nếu trong các chương trình tiếp theo, không còn sự hỗ trợ tài chính của IUCN và

VQG Côn Đảo, bạn có tiếp tục tham gia không? 75% khẳng định là có, 12.5% trả lời là không và

12.5% cần cân nhắc tổng mức chi phí cho phù hợp với ngân sách của mình.

Tất cả TNV đều đồng ý nên nhân rộng chương trình và tiếp tục cho các năm sau.

“IUCN và VQG Côn Đảo đã cho chúng tôi một cơ hội vô cùng tuyệt vời, đây là một trong những

chương trình vô cùng ý nghĩa và thú vị mà tôi từng được tham gia. Tôi tin đây cũng là một trải

nghiệm tuyệt vời cho tất cả các bạn tình nguyện. Mong rằng những chương trình như thế này

được nhân rộng, nhiều người được tham gia hơn” – TNV Đỗ Thị Thu Hà tham gia chương trình

từ ngày 8 – 12/7/2014 chia sẻ.

Page 5: Báo cáo Tổng kết Chương trình Tình nguyện Bảo tồn Rùa biển Côn

5

NHỮNG CON SỐ THỐNG KÊ

Thông báo Tuyển TNV được đăng tải lần đầu trên website của IUCN và VQG Côn Đảo vào ngày

22 tháng 5 năm 2014. Trong vòng 1 tháng, đến ngày 20 tháng 6 năm 2014, Ban tổ chức (BTC)

đã nhận được hơn 500 phiếu đăng ký tham gia

Tổng số TNV tham gia là 23 người. Thành phần TNV gồm: 10 nam, 13 nữ. Trình độ: Có 03

TNV là học sinh PTTH, 03 TNV là sinh viên Đại học và 17 TNV đã tốt nghiệp Đại học và đang làm

việc. Quốc tịch: Việt Nam, có 19 TNV công tác ở Việt Nam, 04 TNV học tập và công tác ở nước

ngoài (Anh, Mỹ, Đức và Thái Lan).

Qua các đợt, TNV tham gia công tác cứu hộ Rùa biển tại các đảo nhỏ đã thực hiện di dời an toàn

96 tổ, tổng số 7.429 trứng; kiểm tra, vệ sinh 106 tổ rùa sau khi nở, thả về biển 8.433

cá thể rùa con

Ngoài ra, các TNV còn tham gia 13 lượt tuần tra bảo vệ tài nguyên thiên nhiên, đồng thời

hướng dẫn và giới thiệu về bảo vệ các loài Rùa biển cho 12 lượt khách xem rùa đẻ

trứng và 217 lượt khách tham quan du lịch đến khu vực

Rùa con mới nở tại Côn Đảo.Việt Nam©Ngô Bảo Ngọc,2014

Page 6: Báo cáo Tổng kết Chương trình Tình nguyện Bảo tồn Rùa biển Côn

6

KẾT QUẢ ĐÁNH GIÁ CỦA TÌNH NGUYỆN VIÊN SAU CHƯƠNG

TRÌNH

Sau khi tham gia chương trình, các tình nguyện viên đã được yêu cầu điền vào phiếu đánh giá

và sau đây là kết quả tổng hợp các phiếu đánh giá này:

1. Những kiến thức và kỹ năng học được từ chương trình

“Trước khi tham gia chương trình, tôi chưa bao giờ nghĩ loài rùa đang trong nguy cơ tuyệt chủng.

Tôi vẫn nghĩ loài rùa là một loài lâu năm, và vẫn có một thế giới bình thường ngoài đại dương kia.

Tôi vẫn nghĩ những nơi có loài rùa lên đẻ trứng là ở các quần đảo xa xôi như Indonesia,

Australia…, và ở Việt Nam mình chỉ có những loài như ba ba, hay những con rùa cảnh nuôi trong

nhà, và to nhất có lẽ là cụ rùa ở Hồ Gươm. Sau khi tham gia chương trình, tôi mới biết loài rùa

đang đối mặt với những mối nguy hiểm như thế nào. Con người đang săn bắt loài rùa với số

lượng lớn như thế nào…” – TNV Nguyễn Anh Vũ tham gia từ ngày 21 – 26/7/2014 chia sẻ.

Sau khi tham gia chương trình, các TNV đều cho rằng hiểu biết về rùa biển của họ đã tăng lên

đáng kể. Khóa tập huấn đầu chương trình giúp họ đã nắm bắt được các thông tin cơ bản về phân

loại ruà, tập tính sinh sản và bản năng sinh tồn của rùa biển và những mối đe dọa tới sự tồn tại

của rùa biển. Qua những ngày trải nghiệm tại các trạm bảo tồn rùa biển, các TNV đã có cơ hội

Đại diện Tình nguyện viên, BQL VQG Côn Đảo và IUCN ©Vũ Hoài Nam,2014

Page 7: Báo cáo Tổng kết Chương trình Tình nguyện Bảo tồn Rùa biển Côn

7

thực hành những kỹ năng nhận biết tổ đẻ nào thành công hay không thành công từ việc quan sát

dấu vết rùa để lại trên măt cát hay lúc rùa dùng các vây bơi, kỹ năng đào ổ trứng, cách dùng đèn

chiếu sáng phù hợp khi thu nhăt rùa nở, di chuyển an toàn ổ trứng rùa về hồ ấp, san lấp ổ đẻ của

rùa mẹ, thả rùa con xuống biển, kỹ năng thống kê tỷ lệ rùa nở thành công. Nhiều người đã nhận

thức được bảo tồn rùa biển là góp phần bảo vệ môi trường sinh thái và bảo vệ chính cuộc sống

của mình.

Ngoài ra, những ngày sống tại các Hòn Bảy Cạnh và Hòn Tre lớn, các TNV cũng nắm bắt được

nhiều thông tin thú vị về các loài động thực vật đa dạng tại Vườn Quốc gia Côn Đảo, biết thêm

được những kiến thức hay về thời tiết, khí hậu, đại dương (ví dụ: thời gian thuỷ triều, hệ san hô,

các loài cá, thuỷ sinh…). Họ cũng được rèn luyện ý thức tiết kiệm nước sạch trên một hòn đảo,

sử dụng hiệu quả và tiết kiệm nguồn năng lượng điện, các kỹ năng đi rừng và đi trên biển trong

điều kiện thời tiết khắc nghiệt và nguy hiểm.

TNV Nguyễn Vĩnh Lợi tham gia từ ngày 8 – 12/7/2014 cho rằng “Những kỹ năng đi rừng hay đi

trên biển sẽ giúp tôi đến những vùng có điều kiện tương tự, phải luôn biết trang bị đầy đủ các vật

dụng gọn nhẹ và thật cần thiết khi đi đến những vùng rừng núi biển đảo xa xôi như việc chuẩn bị

võng ngủ, chăn đắp gọn nhẹ, thức ăn dự trữ, nước uống, thuốc chống muỗi, một số loại thuốc

thông thường. [...]. Bên cạnh đó tôi còn có cơ hội được khám phá nhiều cảnh đẹp của thiên nhiên,

được thử sức mình khi sống trong môi trường biển đảo”.

Đăc biệt các TNV rất khâm phục tinh thần làm việc nghiêm túc, nhiệt tình, hết mình vì công việc

của các chiến sỹ kiểm lâm tại các Hòn Bảy Cạnh và Hòn Tre lớn. Dù điều kiện làm việc còn nhiều

thiếu thốn nhưng các anh luôn lạc quan, có trách nhiệm với công việc.

“Chuyến đi mang lại cho bản thân tôi và các bạn đồng hành không chỉ là kiến thức về rùa biển,

mà còn nhiều hiểu biết khác về môi trường sinh thái, về kỹ năng sống, nhìn thấy nhiều đời sống

khác và giúp chúng tôi hiểu thêm nhiều về ý nghĩa cuộc sống. …Vượt qua tất cả những điều đó,

các anh vẫn vững vàng với trách nhiệm công việc, nếu như không phải có kỷ luật với bản thân

mình thì không phải ai cũng có thể làm được như vậy. Không những vậy, các anh cũng rất lạc

quan, bữa ăn nào cũng đầy ắp tiếng cười. Tuy vậy, đến lúc làm việc, phân công công việc hay

lúc họp hành thì các anh lại rất nghiêm túc và chỉn chu. Điều đó khiến tôi càng thêm khâm phục

các anh và càng thấy rằng việc được đến đây, cùng làm việc, chia sẻ khó khăn và cùng làm cho

khoảng thời gian ngắn ngủi với các anh vui nhất có thể là một may mắn và là một điều vô cùng ý

nghĩa đối với bản thân mình”_ TNV Nguyễn Hải Vân tham gia từ ngày 26 – 20/8/2014 tâm sự.

Đối với các bạn sinh viên trẻ, chương trình đã tạo cơ hội cho họ trau dồi thêm cả kỹ năng giao

tiếp, làm việc nhóm, phân bổ thời gian, có thêm nhiều người bạn tốt và có động lực phấn đấu

trong cuộc sống.

“Chương chình cho tôi biết được sự khó khăn của người khác nhưng họ vẫn cố gắng, vẫn phấn

đấu, giúp tôi có động lực hơn cho cuộc sống sau này”_TNV Võ Ngọc Lệ Hằng tham gia từ ngày

26/8 – 4/9/2014 chia sẻ.

Page 8: Báo cáo Tổng kết Chương trình Tình nguyện Bảo tồn Rùa biển Côn

8

2. Đánh giá về khâu tổ chức trước chương trình

87.5% TNV cho rằng khâu tổ chức rất tốt hoăc tốt. Chương

trình được thông báo rộng rãi trên các phương tiện, tạo cơ

hội công bằng đến cho tất cả mọi người tham gia. BTC đã

gửi đầy đủ các thông tin về chương trình làm việc, những

vật dụng cần mang theo, nội quy xem rùa biển. Tất cả các

bước được thực hiện qua internet, thuận tiện để cho mọi

người đăng ký và liên lạc.

Tuy nhiên các TNV cũng chỉ ra những măt chưa tốt trong tổ

chức chương trình cùng các góp ý hoàn thiện như sau:

Việc kêu gọi tuyển TNV nên được thông báo trên

nhiều trang cộng đồng hơn nữa.

Khi kêu gọi, cần nêu rõ tiêu chí lựa chọn TNV cũng như số lượng TNV sẽ được nhận mỗi

đợt. Nếu các tiêu chí tuyển chọn được thông báo rõ ràng, các ứng viên có thể tự đánh

giá sự đáp ứng của bản thân đối với yêu cầu của chương trình. BTC cũng có thể giảm áp

lực và thời gian chọn lọc các hồ sơ. Hơn nữa, mỗi ứng viên có thời gian tiếp cận với thông

tin về chương trình khác nhau, nên nếu xet hồ sơ theo tiêu chi ưu tiên người đến trước

thì sẽ rất đáng tiếc vì có thể bỏ lơ những ứng viên phù hợp với chương trình.

Mẫu đăng ký còn đơn giản, không khai thác được hết thông tin và khả năng của TNV.

Mẫu đơn nên kèm thêm thông tin về thể trạng (chiều cao, cân năng) tình trạng sức khoẻ

để đảm bảo chương trình lựa chọn được những tình nguyện viên đủ sức khỏe đảm đương

công việc. Để đánh giá được sự nhiệt tình và mong muốn tham gia chương trình nghiêm

tục, mẫu đăng ký cần bổ sung thêm một số câu hỏi như “Hãy kể cho chúng tôi về một

hoạt động cộng đồng gần đây của bạn?”, “Bạn sẽ làm gì trong vai trò của một tình nguyện

viên”, “kế hoạch truyền thông của bạn sau khi tham gia chương trình như thế nào?”

Thời hạn kết thúc đăng ký sớm hơn so với thông báo ban đầu, làm cho nhiều người muốn

đăng ký nhưng không được chấp nhận. Các hạn phản hồi và thời gian gửi hơi ngắn, Nên

đăt một kế hoạch làm việc sớm để cả bên tổ chức lẫn TNV có cơ hội sắp xếp công việc

tốt và có thời gian chuẩn bị cho chuyến đi, về cả sức khỏe lẫn tinh thần

Cần thêm 1 số hình ảnh những nơi sẽ đến, 1 buổi găp nhau trước đó hoăc sau đó để tổng

kết, chia sẻ các thông tin, hình ảnh

BTC nên lựa chọn TNV từ các thành phần xã hội khác nhau, đa dạng độ tuổi để công tác

tuyên truyền, nâng cao nhận thức có thể đến được với nhiều tầng lớp nhân dân trong xã

hội hơn

25%

62.50%

12.50%

Khâu tổ chức chương trình

Rất tốt Tốt Bình thường

Page 9: Báo cáo Tổng kết Chương trình Tình nguyện Bảo tồn Rùa biển Côn

9

3. Đánh giá về khóa tập huấn nâng cao nhận thức và cứu hộ rùa biển

93.75% TNV cho rằng khóa tập huấn rất tốt

hoăc tốt. Buổi tập huấn đã cung cấp cho các

TNV những thông tin bổ ích về rùa biển từ

cách nhận biết các loại rùa đến tập tính sinh

sản, bản năng sinh tồn… Chỉ ra các hiểm họa

từ thiên nhiên và con người, đe dọa sự sống

và duy trì nòi giống của rùa biển. Buổi tập huấn

cũng đã cung cấp cho TNV những thông tin

tổng quát về các hoạt động bảo tồn rùa biển ở

Việt Nam nói chung và ở Vườn Quốc gia Côn

Đảo nói riêng. Qua buổi tập huấn, các TNV đã

được trang bị những quy định cần thiết và những kinh nghiệm thiết yếu để có thể đảm bảo an

toàn cho bản thân và hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao trong thời gian thực địa ở các đảo nhỏ.

Khóa tập huấn bắt đầu đúng giờ, công tác chuẩn bị chu đáo. Hồ sơ tài liệu đẹp, cụ thể và đủ

thông tin cần thiết. Người hướng dẫn nhiệt tình, rõ ràng, dễ hiểu.

Tuy nhiên, các TNV yêu cầu:

Các tài liệu và thông tin về rùa biển nên được gửi cho TNV trước để có thời gian tìm hiểu

và đọc kỹ hơn. Từ đó, TNV sẽ có thể chuẩn bị nhiều câu hỏi hơn. Sau buổi tập huấn là

37.50%

56.25%

0%6.25%

Tập huấn bảo tồn rùa biển

Rất tốt Tốt Bình thường Kém

Cán bộ VQG Côn Đảo tập huấn kiến thức cứu hộ rùa biển cho TNV ©Đỗ Thị Thu Hà,2014

Page 10: Báo cáo Tổng kết Chương trình Tình nguyện Bảo tồn Rùa biển Côn

10

lên tàu ra đảo luôn, nhiều khi Tình nguyện viên không đủ thời gian đọc hết tài liệu nếu chỉ

được phát trong buổi tập huấn.

Buổi tập huấn chưa có chi tiết các kỹ năng chăm sóc và cứu hộ (trị thương) cho rùa biển.

Trong quá trình làm việc tại các đảo, TNV đã găp nhiều rùa con bị thương nhưng chưa

biết cách trị thương. Buổi tập huấn nên bổ sung những kiến thức và kỹ năng này

Vì đây là khóa tập huấn nên kinh nghiệm là yếu tố hàng đầu, nhưng về măt khoa học vẫn

còn hạn chế. Một số bài trình bày chưa hấp dẫn, cần được giới thiệu sinh động hơn như

thông qua các câu hỏi đố vui

TNV Ngô Tiến Thịnh tham gia từ ngày 21-25/7/2014 bày tỏ: “Theo tôi thì chuyến đi lần này mang

tính chất tìm hiểu nhiều hơn so với trợ giúp cán bộ kiểm lâm cứu hộ rùa biển, nếu có một lần nữa

vào năm sau thì tôi muốn đóng góp nhiều hơn nữa có thể ở với kiểm lâm lâu hơn nữa như vậy

sẽ làm được nhiều việc hơn”.

4. Đánh giá về các hoạt động bảo vệ rùa biển taị các trạm bảo vệ rùa biển

Tất cả các TNV đều đánh giá các hoạt động bảo

vệ rùa biển tại Hòn Bảy Cạnh và Hòn Tre lớn đều

tốt hoăc rất tốt. Quá trình chờ đợi rùa đẻ để đào

trứng, di dời về tổ ấp được tiến hành hết sức

kiên nhẫn, cẩn thận, không gây xáo động cho

rùa mẹ và đảm bảo an toàn cho ổ trứng rùa.

Công tác đánh dấu ổ trứng và thống kê được

tiến hành tuần tự, khoa học. Công tác di dời tổ

trứng rất có hiệu quả, đa số các trứng sau khi di

dời đều nở, và hầu như không có tổ trứng nào bị

bỏ sót.

Các anh kiểm lâm đã làm việc hết mình, không

quản khó khăn gian khổ, nhiệt tình, trách nhiệm, công tâm, chính trực. Măc dù làm việc với cường

độ cao nhưng các anh vẫn luôn vui vẻ nhiệt tình chỉ dẫn. Ngoài ra, trong điều kiệu khó khăn trên

đảo, các anh đã có những sáng kiến thú vị (như những chiếc hộp để gọi điện thoại).

Trạm kiểm lâm hòn Bảy Cạnh là địa chỉ quan trọng trong công tác bảo tồn rùa biển. Cơ sở vật

chất ở đây nhìn chung là kiên cố, các anh có các trang thiết bị cho tác nghiệp từ ca nô, bộ đàm,

súng,.. Đây cũng là cơ sở để các hoạt động bảo vệ rùa biển đảm bảo tính an toàn. Trạm có xây

dựng các bể chứa nước mưa, bể này đủ cho việc sinh hoạt trong mùa khô. Trạm cũng có sân

bóng chuyền, để các anh kiểm lâm tham gia hoạt động rèn luyện sức khỏe, giải trí lúc rảnh rổi.

Măc dù vậy, các TNV cũng thấy rằng điều kiện sinh hoạt trên trạm còn khá thiếu thốn. Ví dụ: điện

thiếu do bình ac quy sử dụng lâu ngày đã giảm chất lượng. Các tour du lịch trên Hòn chưa được

kết hợp với công tác tuyên truyền, bảo vệ rùa biển. Tài liệu cho khách du lịch xem và hiểu rõ

trước khi tham quan rùa còn hạn chế. Nhiều khách không biết gì về các sinh hoạt của rùa, đăc

tính của rùa, dấu vết rùa,…Trong các tour du lịch xem rùa đẻ trứng, nên kết hợp với việc truyền

thông bảo vệ rùa biển để công tác bảo vệ rùa biển tốt hơn, lan rộng hơn. Hướng dẫn viên khi

62.50%

37.50%

Hoạt động bảo tồn rùa biển tại các đảo

Rất tốt Tốt

Page 11: Báo cáo Tổng kết Chương trình Tình nguyện Bảo tồn Rùa biển Côn

11

hướng dẫn du khách xem rùa đẻ trứng, nên thêm vào các thông điệp về những vấn nạn rùa biển

đang găp phải, cùng với những biện pháp, thông điệp chung tay bảo vệ rùa biển. Có thể Phòng

du lịch của VQG nên chuẩn bị tài liệu cho khách.

Lực lượng tham gia công tác bảo vệ rùa biển còn quá mỏng. 7 anh Kiểm lâm ở một trạm (có tới

3 bãi Rùa đẻ) cộng với bảo vệ vùng biển với cả trăm tàu đánh bắt trái phép ngoài biển là quá

sức. Các anh làm việc 20/24h hàng ngày, không đảm bảo sức khỏe

Công việc bảo tồn hoàn toàn dựa vào sức người, thiếu các trang thiết bị hỗ trợ. Thiếu thiết bị đọc

thẻ gắn trên rùa nên không thể thống kê được các cá thể rùa lên đẻ trứng. Các trạm kiểm lâm

nên được trang bị một số dụng cụ hỗ trợ trong công tác hàng ngày, ví dụ đèn pin ánh sáng đỏ để

vẫn đảm bảo tầm nhìn nhưng không làm hại mắt rùa con hay làm rùa mẹ hoảng sợ.

Cần cải thiện lại gian nhà ngay cạnh hồ ấp rùa để cán bộ kiểm lâm có thể trực đêm ngay tại hồ,

đăc biệt trong điều kiện thời tiết xấu.

Một số nhân viên chưa có kiến thức sâu về rùa biển (do chuyên ngành của họ là kiểm lâm), nên

có thêm tài liệu cho các nhân viên tại các trạm. Nên có một đội ngũ chuyên nghiệp tham gia công

tác bảo vệ rùa hàng năm vào mùa sinh sản để san sẻ bớt gánh năng của các cán bộ kiểm lâm.

Bên cạnh đó tiếp tục duy trì đội ngũ tình nguyện viên ngắn ngày, tạo tác động lan toả về công tác

bảo tồn rùa biển trong cộng đồng.

Rùa con trở về biển ©Ngô Bảo Ngọc,2014

Page 12: Báo cáo Tổng kết Chương trình Tình nguyện Bảo tồn Rùa biển Côn

12

5. Đánh giá về sắp xếp hậu cần trong suốt chương trình

Các TNV đều thấy rằng cán bộ VQG đã tổ chức đưa đón, ăn ở rất chu đáo. Phương tiện đưa

đón ra sân bay đến đúng giờ, nhanh gọn.

Tàu thuyền chở ra các đảo Bảy Cạnh và

Hòn Tre Lớn an toàn. Các Trạm kiểm lâm

đón tiếp chu đáo, sắp xếp chỗ ăn ngủ tốt,

các bữa ăn đảm bảo đủ dinh dương.

Tuy nhiên, các TNV đều đồng ý là cần tận

dụng tốt hơn nữa thời gian ở đảo của TNV.

Chương trình diễn ra trong 5 ngày nhưng

TNV chỉ thực sự tham gia được công tác

cứu hộ, bảo tồn rùa biển được 3 ngày. Nên

thiết kế lại chương trình, sáng đầu tiên có thể tập huấn ngay công tác cứu hộ, bảo tồn rùa biển,

và đến chiều thì xuất phát ra Hòn Bảy Cạnh. Như thế TNV có thêm một ngày để thực hiện công

tác cứu hộ rùa biển.

Tại các trạm kiểm lâm, có thể sắp xếp TNV tham gia vào tất cả các công việc liên quan đến cuộc

sống của một nhân viên tại trạm bảo vệ rùa biển: nấu ăn, tự phục vụ, đi tuần ở các trạm xa.

Thông tin giữa VQG Côn Đảo và IUCN cần phải thống nhất và rõ ràng hơn nữa.

6. Đánh giá về mức độ tương tác giữa các thành viên trong nhóm Tình nguyện viên:

Măc dù không biết nhau trước nhưng sau

một lúc găp nhau trong chuyến đi các bạn

TNV khá thân thiện và rất vui vẻ với nhau.

Họ đều cởi mở, vui vẻ nhiệt tình trong sinh

hoạt tập thể, có tinh thần trách nhiệm cao

khi làm việc.

“Tuy chưa quen biết nhau từ trước nhưng

rất nhanh chóng thân nhau, phối hợp ăn ý,

làm việc nhóm rất tốt, anh nhóm trưởng rất

có khả năng lãnh đạo,quan tâm các TNV khác. Mọi người vui vẻ, chia sẻ với nhau về mọi thứ từ

công việc đến cuộc sống. Cám ơn chuyến đi này giúp chúng tôi biết nhau và thân thiết như gia

đình, học tập lẫn nhau”_TNV Võ Ngọc Lệ Hằng tham gia từ ngày 26/8 – 4/9/2014 chia sẻ.

“Chúng tôi đã nhanh chóng làm quen với nhau và cùng nhau thực hiện tốt chương trình. Sau khi

chương trình kết thúc, chúng tôi tiếp tục liên lạc, họp mặt, để cùng thực hiện công tác tuyên truyền

sau chương trình. Mọi người vui vẻ, hòa đồng với nhau, tôn trọng nhau, có họp lại sau chuyến đi

để phân phối công việc. Chúng tôi dự định cùng tổng hợp các hình ảnh, báo cáo, kế hoạch truyền

thông của mọi người để cùng làm 1 master plan, sử dụng chung hình ảnh, bài viết theo 1 quy

56.25%

43.75%

Tổ chức hậu cần

Rất tốt Tốt

37.50%

56.25%

0%6.25%

Mức độ tương tác giữa các thành viên trong nhóm

Rất tốt Tốt Bình thường Kém

Page 13: Báo cáo Tổng kết Chương trình Tình nguyện Bảo tồn Rùa biển Côn

13

trình thống nhất, có biên tập hẳn hòi” _ TNV Nguyễn Thị Lê Phương tham gia từ ngày 21-

25/7/2014 chia sẻ

Tuy vậy vẫn có sự bất đồng, không hòa hợp tính dẫn đến làm việc không hiệu quả. 1 tuần sau

khi họp nhóm sau chuyến đi, mỗi cá nhân đều không chủ động thực hiện phần việc của mình,

tương tác kem do vấn đề địa lý. Tuy đã lập 1 nhóm kin để cùng chia sẻ, post bài, post ảnh, thảo

luận nhưng hầu như không ai chủ động thực hiện.

Các nhóm sau này nên cần cử ra 1 nhóm trưởng để tập trung thông tin về 1 mối, các anh kiểm

lâm và ngoài vườn không cần gọi từng người để thông báo về 1 việc gì đấy. Nhóm trưởng sẽ

chịu trách nhiệm thông tin liên lạc và chia sẻ, tổng hợp lại các thông tin, contact, hình ảnh cho

thành viên. Mỗi một người nên thực hiện đúng kế hoạch truyền thông mình đã cam kết. Hoăc

nếu cùng làm thì nhóm trưởng sẽ là người đôn thúc, chịu trách nhiệm chung. Việc bình chọn

nhóm trưởng có thể do tự thành viên bầu chọn khi nhận được bản danh sách và báo lại cho IUCN

hoăc do IUCN chỉ định (có tham khảo ý kiến của người đó trước và được sự đồng ý)

BTC nên lựa chọn trong 1 nhóm TNV nên đa dạng về độ tuổi, ngành nghề phù hợp để có thể bổ

trợ lẫn nhau.

Việc chia tách các đoàn lên Hòn Tre Lớn và Hòn Tài có măt chưa hiệu quả do trên 2 hòn này số

lượng rùa lên đẻ không nhiều. Hòn Tre Lớn có 6 rùa lên đẻ, Hòn Tài chỉ có 1 rùa lên đẻ trong 3

đêm, điều này dẫn đến TNV chưa có cơ hội tham gia trực tiếp, mà chỉ ở mức độ tham quan cho

biết vì các anh kiểm lâm vẫn có đủ người để tự làm các công tác cứu hộ rùa biển.

Page 14: Báo cáo Tổng kết Chương trình Tình nguyện Bảo tồn Rùa biển Côn

14

7. Đánh giá về cán bộ điều phối tại thực địa

Các TNV đều cho rằng các cán bộ

kiểm lâm hỗ trợ tại thực địa rất nhiệt

tình, thân thiện và quan tâm tới các

TNV. Tuy nhiên, các anh chưa giao

tiếp tiếng Anh với khách nước ngoài

tốt nên còn hạn chế trong việc hướng

dẫn khách lên xem rùa đẻ. Trong thời

gian chương trình diễn ra, rất khó để

tổ chức buổi học tiếng Anh trong 1- 2

giờ liên tiếp. Nhân viên ở đây cần

vốn tiếng Anh liên quan đến rùa biển,

tuần biển và một số câu giao tiếp

thông thường nên nếu năm sau có

chương trình, nên đưa nội dung tiếng Anh cần thiết (dạng chủ đề) vào chương trình. TNV và

nhân viên có thể giao tiếp bằng tiếng Anh trong các lĩnh vực liên quan đến công việc tại đảo.

“Còn tôi, tôi vẫn nhớ mãi khuôn mặt nheo nheo vì khói của anh Cường và nhìn xa xăm về biển.

Ban ngày anh rất vui vẻ nhưng khi làm việc anh như người khác vậy. Nghiêm túc và kinh nghiệm

hẳn. Không chỉ anh Cường mà các anh kiểm lâm khác như anh Thành, anh Hoàn, anh Long, anh

Hân,Thăng và Tuấn, họ còn rất trẻ nhưng cảm nhận cuộc sống thì rất sâu sắc. Phải chăng qua

những thời khắc hiểm nguy ấy, con người ta biết yêu quý cuộc sống này, con người ta biết rõ

những giá trị tinh thần hơn, biết vực dậy chính niềm

tin của mình” _TNV Võ Ngọc Lệ Hằng tham gia

chương trình từ ngày 26/8-4/9/2014

“Trong thời gian nghỉ đêm hôm đó, một anh kiểm

lâm đi cùng tôi đã gọi điện về gia đình hỏi thăm.

Anh có vợ và một cậu con trai nhỏ mới biết nói

nhưng anh chỉ có dịp về thăm họ 4 ngày 1 tháng.

Nghe anh bảo con mình gọi tên bố trên điện thoại

tôi mới hiểu được những hy sinh của những chiến

sĩ kiểm lâm. Công việc khó khăn, vất vả là thế, họ

còn phải xa con cái, người thân, bạn bè, hết mình

bảo vệ thiên nhiên, bảo vệ biển đảo tổ quốc” _ TNV

Nguyễn Hà Trung Hiếu tham gia chương trình từ 8-

12/7/2014

8. Đánh giá về thông tin, tài liệu gửi trước chương trình

TNV cho rằng tài liệu gửi cho TNV khá đầy đủ, rõ ràng. Thông tin về các loài rùa biển sinh sống

tại biển Việt Nam đầy đủ, rõ ràng, được in ấn cẩn thận, đẹp đẽ.

62.50%

31.25%

6.25%

Các cán bộ hỗ trợ thực địa

Rất tốt Tốt Bình thường

TNV và các chiến sỹ kiểm lâm ©Võ Cường Quốc,2014

Page 15: Báo cáo Tổng kết Chương trình Tình nguyện Bảo tồn Rùa biển Côn

15

Tuy nhiên, các thông tin này nên được gửi cho TNV sớm hơn. Trước đó tình nguyện viên phải

tự mày mò internet để tìm đọc các thông tin lien quan đến những loài rùa biển Việt Nam. Vì thông

tin nhiều và lan man, nên việc tìm và chọn lọc thông tin phù hợp trên internet mất nhiều thời gian

Thông tin về trạm kiểm lâm và điều kiện ăn ở trên trạm không có trước khi đi. Tình nguyện viên

mang quá nhiều thứ ra trạm mà không cần thiết hoăc không sử dụng đến (ủng lội nước…)

“Tôi cho rằng các tài liệu, thông tin liên quan

nên được gửi cho TNV càng sớm càng tốt để

TNV có thời gian nghiên cứu, tìm hiểu trước

nhằm có sự chuẩn bị tốt nhất cho chuyến đi.

Ngoài ra, trước khi đi tôi không có nhiều thông

tin về nơi mình sẽ đến nên đã chuẩn bị khá

nhiều đồ không cần thiết nên phải mang nhiều.

Lần sau, nếu các TNV đợt này có thể chia sẻ

thông tin cho các TNV đợt sau thì các bạn sẽ

có sự chuẩn bị tốt hơn” _TNV Nguyễn Hải Vân

tham gia chương trình 26-30/8/2014 góp ý.

9. Tài chính

Tất cả các TNV đều được biết và giải thich đầy

đủ về các nghĩa vụ tài chính của tình nguyện

viên trước khi tham gia chương trình. Tuy

nhiên cần có sự thống nhất giữa VQG Côn

Đảo và IUCN về mức đóng góp của TNV để

tránh hiểu lầm.

Dựa trên thông tin của TNV, mức chi phí trung

bình của các TNV đã bỏ ra ki tham gia chương

trình là khoảng 4,470,000VND/người. Với các

TNV ở Hà Nội, mức chi phi cao hơn do chi phi

đi lại lớn, khoảng từ 5 – 7 triệu đồng/người.

Các TNV di chuyển bằng tàu ra Côn Đảo có

thể tiết kiệm chi phí thấp hơn, từ 500,000 –

2,000,000 đồng/người

Khi được hỏi, nếu trong các chương trình tiếp theo, không còn sự hỗ trợ tài chính của IUCN và

VQG Côn Đảo, bạn có tiếp tục tham gia không? 75% khẳng định là có, 12.5% trả lời là không và

12.5% cần cân nhắc tổng mức chi phí cho phù hợp với ngân sách của mình.

37.50%

31.25%

31.25%

Tài liệu gửi các TNV

Rất tốt Tốt Bình thường

75%

12.50%

12.50%

Nếu không còn hỗ trợ tài chính, bạn có tiếp tục tham gia không?

Có Không Phải cân nhắc

Page 16: Báo cáo Tổng kết Chương trình Tình nguyện Bảo tồn Rùa biển Côn

16

10. Động lực tham gia chương trình

Khi được hỏi lý do các TNV tham gia chương trình, các TNV cho rằng, 41% động lực của họ là

mong muốn được tìm hiểu rùa biển; 20% động lực là mong muốn được trải nghiệm cuộc sống

khắc nghiệt; 18.13% động lực là được khám phá Côn Đảo. Ngoài ra, một số TNV đăng ký tham

gia để được giúp đơ, chia sẻ khó khăn với các cán bộ kiểm lâm và vì tinh yêu với thiên nhiên

hoang dã và mong muốn bảo tồn đa dạng sinh học cho các thế hệ sau.

Trong các lý do này thì lý do nào là quan trọng nhất? 81.25% TNV cho rằng mong muốn được

hiểu biết về rùa biển là động lực quan trọng nhất để họ đăng ký tham gia. 25% TNV cho rằng

Page 17: Báo cáo Tổng kết Chương trình Tình nguyện Bảo tồn Rùa biển Côn

17

những trải nghiệm trong cuộc sống khó khăn thôi thúc họ đăng ký tham gia chương trình nhất.

Và 18.75% cho rằng địa điểm chương trình ở Côn Đảo là yếu tố hàng đầu khiến họ đăng ký

tham gia.

Dựa vào hệ số tương quan giữa tuổi của TNV và động lực của họ thì có thể thấy rằng, đối với

các TNV càng lớn tuổi thì mong muốn được hiểu biết về rùa biển của họ càng nhiều. Trong khi

đối với các TNV trẻ tuổi, nhu cầu được khám phá Côn Đảo, được trải nghiệm cuộc sống trong

điều kiện khó khăn và được làm quen với nhiều bạn bè có tỷ trọng lớn.

11. Kết luận về tổng thể chương trình

Về tổng thể chương trình, 44% TNV cho rằng chương trình rất tốt, 50% cho rằng tốt và 6.25%

cho là bình thường. 87.5% TNV cho rằng chương trình đã đáp ứng được 90-100% mong đợi của

họ. 12.5% cho rằng đã đáp ứng được 70-80%.

“Chương trình đáp ứng được nhiều hơn tất cả những gì tôi mong đợi, không chỉ có thêm kiến thức

về Rùa, có một cuộc sống thú vị ở đảo mà tôi còn được gặp những con người đầy nhiệt huyết

trong công việc, những người bạn đầy thú vị, được nhìn thấy những khó khăn mà không ai lùi

bước. Tôi được sống một cuộc sống như trong mơ vừa bình dị, vừa thân thuộc, vừa khó khăn

vừa ngập tràn niềm vui mỗi ngày/đêm. Tôi xin gửi lời cảm ơn sâu sắc nhất từ trái tim mình tới

IUCN và VQG Côn Đảo đã có chương trình tình nguyện tuyệt vời như vậy. Tôi cảm ơn các anh

Kiểm lâm làm việc trực tiếp tại hòn Bảy Cạnh cho tôi biết được sự hy sinh cao cả và sự say mê

trong công việc, cảm ơn những người bạn tôi được gặp trong chuyến đi, mỗi con người một tính

cách nhưng tất cả đều vô cùng đáng yêu. Đây là một trong những chuyến đi vô cùng đáng nhớ

trong cuộc đời nhiều bụi của mình” – TNV Đỗ Thị Thu Hà tham gia tình nguyện từ ngày 8-

12/7/2014 chia sẻ.

12. Ảnh hưởng của chương trình

Sau chương trình, các TNV đã tích cực chia sẻ thông tin về bảo tồn rùa biển với gia đình và bạn

bè qua nhiều hình thức. Họ đã đăng tải các cảm xúc, các bức ảnh, video clips và nhật ký chương

trình lên các trang mạng và facebook cá nhân. Các TNV cũng lập ra một trang facebook có tên

là “Sea turtle Conservation - Volunteer community” cho chương trình. Chỉ trong vòng 15 ngày từ

87.50%

12.50%

Chương trình đáp ứng được bao nhiêu % mong đợi của

bạn

90%-100% 70%-80%

43.75%

50%

6.25%

Tổng thể chương trình

Rất tốt Tốt Bình thường

Page 18: Báo cáo Tổng kết Chương trình Tình nguyện Bảo tồn Rùa biển Côn

18

ngày lập facebook, đã có 92 người thich trang facebook này (tinh đến ngày 26/9/2014). Các bài

viết về chương trình cũng được chia sẻ trên facebook của IUCN Vietnam Media Network và thu

hút sự quan tâm của nhiều người.

Ngoài ra, một số thành viên còn tự tổ chức hoăc lên kế hoạch thực hiện các hoạt động truyền

thông, chia sẻ thông tin về bảo tồn rùa biển với cộng đồng của mình. Như chị Trương Thị Mỹ Chi

đã lồng ghép các kiến thức về rùa biển vào các bài giảng dạy sinh viên của mình. Chị viết:

“Từ sau chuyến đi đến giờ em đã dạy 3 lớp (khoảng 300 SV), khi em chia sẻ thông tin về chương

trình, chuyến đi với sinh viên em đã nhận sự đồng cảm từ SV về chương trình. Các bạn ấy hầu

như không biết những thông tin này trước đây, và tỏ ra rất thích thú! Trước khi em chia sẻ, các

bạn ấy mời em đi ăn thịt rừng (em đang dạy ở Buôn Mê Thuột), nhưng sau khi kể xong các bạn

ấy thay đổi mời cô giáo đi ăn gà ta! Thực sự em rất vui vì đã được tham gia chương trình và nhận

được sự đồng tình khi chia sẻ thông tin từ rất nhiều học trò”

Bạn Đào Viết Bội Quỳnh – TNV tham gia từ ngày 26/8-4/9/2014 cũng đã tổ chức buổi nói chuyện

và xem phim về rùa biển với Câu lạc bộ tiếng

Anh Drink and Talk của mình vào ngày

16/9/2014. Hay chị Lê Thu Hương đang lên

kế hoạch trình bày về rùa biển để chia sẻ

trong buổi họp măt của Cộng đồng người

Việt tại Stuttgart, CHLB Đức. Ban tổ chức hy

vọng các TNV sẽ trở thành các tuyên truyền

viên tích cực trong cộng đồng mình, góp

phần nâng cao nhận thức của người dân về

bảo tồn đa dạng sinh học nói chung và rùa

biển nói riêng.

“Tôi cho rằng đây là một hoạt động có ý nghĩa thiết thực. Mỗi tình nguyện viên với vị trí xã hội và

môi trường công tác riêng của mình sẽ là một tuyên truyền viên góp phần nâng cao nhận thức

của cộng đồng về việc nói không với các sản phẩm từ rùa, từ đó giảm thiểu nhu cầu thị trường,

bịt lối ra cho các nguồn cung, từ đó giảm tiến tới triệt tiêu các hoạt động xâm hại đối với rùa và

trứng rùa. Việc tuyên truyền để cộng đồng hiểu rõ hơn về sự sống và tập tục sinh sản của rùa sẽ

nâng cao tính hiệu quả của công tác bảo tồn các loài rùa biển” _TNV Nguyễn Việt Cường tham

gia chương trình từ 26-30/8/2014 chia sẻ.

TNV chia sẻ thông tin về chương trình tại CLB Drink

& Talk ©Đào Viết Bội Quỳnh,2014

Page 19: Báo cáo Tổng kết Chương trình Tình nguyện Bảo tồn Rùa biển Côn

19

NHẬT KÝ CHƯƠNG TRÌNH

Các bạn TNV đều ghi lại từng khoảnh khắc tham gia chương trình tình nguyện. Sau đây là một

đoạn tiêu biểu của bạn Ngô Bảo Ngọc, tham gia chương trình 10 ngày từ ngày 26/8/2014 đến

4/9/2014 tại Hòn Bảy Cạnh:

“27/8: cả nhóm TNV tập huấn cùng Ban Quản lý VQG Côn Đảo và chị Hiền-đại diện tổ chức

IUCN. Tại đây nhóm được giới thiệu những thông tin chung về Vườn Quốc gia và những kiến

thức cơ bản về loài rùa biển. Sau thời gian tập huấn, các nhóm di chuyển về các đảo nhỏ để bắt

đầu chương trình làm việc.

Nhóm chúng tôi được phân công nhiệm vụ tại Hòn Bảy Cạnh, một hòn đảo rộng 5,5 km2 vô cùng

xinh đẹp. Tại nơi này chúng tôi sẽ làm việc và sinh hoạt cùng với các cán bộ kiểm lâm.

Ăn cơm tối xong, chúng tôi bất ngờ được thông báo rùa con đã nở. Một cảm giác vội vàng khiến

đôi chân cứ hấp tấp khi đi vào hồ ấp trứng rùa. Và hiện ra trước mắt là cả trăm chú rùa con bé tí

tẹo bò lổm ngổm với một sự nhanh nhẹn phi thường. Giây phút đó thật sự xúc động khi được

chứng kiến những sinh linh mới chào đời khiến tôi cứ cười mãi.

Công việc tiếp theo tiến hành vào lúc 1 giờ sáng, cả nhóm đi tuần tra tai Bãi cát lớn để phát hiện

rùa mẹ lên đẻ trứng. Buổi đêm gió rất lạnh, thật may mắn vì trong lịch trình ban tổ chức đã ghi

chú kĩ cần mang theo áo khoác. Quả thật tôi không nghĩ giữa mùa hè vào Nam mà lại phải mang

áo khoác. Đúng là khí hậu ở đảo quả là đặc biệt. Cả nhóm chia ra làm hai, tôi cùng 2 TNV nữa đi

theo anh Long, tuần tra khu vực bãi bên trái. Trong màn đêm đen thật khó để xác định phương

hướng khiến tôi có đôi chút sợ, nhưng khi mắt đã quen dần thì việc đi trên bãi cát không ánh sáng

không còn khó khăn nữa. Và chúng tôi đã phát hiện một rùa mẹ đang đào hố. Phải ngồi chờ rùa

mẹ đào ổ một lúc thật lâu, chúng tôi ngồi trên cát hỏi anh kiểm lâm bao nhiêu điều về biển cả, về

loài rùa. Khoảng khắc nhìn rùa mẹ nặng nhọc đẻ từng quả trứng tròn xoe thật thiêng liêng. Rùa

mẹ đã từng được sinh ra tại đây, sau 30 năm vẫn nhớ đường trở về, vượt qua vô vàn nguy hiểm

để sinh tồn được đến hôm nay. Cầm những quả trứng rùa thật mềm đem về hồ ấp, tôi và các bạn

cứ nâng niu, nhắc thầm rằng rồi sau 2 tháng nữa những chú rùa con sẽ chào đời từ đây. Trời

tảng sáng, chúng tôi lại đem những chú rùa con vừa mới nở thả về biển. Nghe tiếng sóng vỗ rì

rào, rùa con như tỉnh giấc, theo bản năng bò thật nhanh về phía biển, về nơi mà chúng thuộc về.

Ca trực kết thúc lúc 5h30’ sáng, lúc này mới thấm được công việc của các cán bộ kiểm lâm thật

sự rất vất vả. Cả nhóm tranh thủ chợp mắt một lát rồi tiếp tục công việc buổi sáng. Một trong

những công việc tuy đơn giản nhưng nhiều cảm xúc, đó là đào hố rùa đã nở để vệ sinh và thống

kê tỷ lệ rùa con được sinh ra. Gạt từng vốc cát lên, đi sâu vào tổ rùa, nơi mà những chú rùa con

đã cùng nhau hợp sức để đến với cuộc sống này. Thật bất ngờ khi bắt gặp một chú rùa non vẫn

còn nằm sâu trong cát, có lẽ chú hơi yếu hay vẫn còn ngái ngủ không chui lên cùng với các anh

chị em. Lần lượt chúng tôi “giải cứu” được cho thêm nhiều chú rùa con nữa. Chạm đến lớp vỏ

trứng, những quả trứng hỏng, hay những chú rùa con đã thành hình hài mà không có cơ hội được

sinh ra, cảm giác ngậm ngùi xen lẫn. Thế là cùng một mẹ sinh ra, có những chú rùa con may

mắn chào đời, và cũng có không ít những sinh linh đã mãi mãi ngủ yên…

Page 20: Báo cáo Tổng kết Chương trình Tình nguyện Bảo tồn Rùa biển Côn

20

Cuộc sống hàng ngày ở Hòn Bảy cạnh thật êm

ả. Những ngày nắng vàng, bãi biển dài đẹp

như cơn mơ, triền núi một màu xanh mát mẻ,

biển khơi nước trong veo với những rặng san

hô rưc rỡ sắc màu. Chúng tôi cùng anh em

kiểm lâm thổi cơm, rửa rau, đun bếp củi.

Những lúc ấy thật vui và đáng nhớ. Mỗi người

một câu chuyện kể cho nhau nghe, cùng nhau

chia sẻ. Ở đó tình người thật đáng quý, nơi mà

con người hoà cùng với thiên nhiên, có những

lúc thời gian thật chậm, chỉ còn tiếng sóng biển

rì rào và gió lay động cả rừng cây.

Những buổi chiều nắng gắt, cả nhóm đi dọn

rác trên bãi biển và san lấp hố rùa đẻ. Biển đã

cuốn vào đây những chai lọ, san hô. Có những

mảnh chai đã bị bào mòn bởi sóng và thời gian

nhưng đẹp kỳ lạ. Khi công việc đã xong thì Bãi

cát lớn trắng tinh, trải dài thật mềm mại và dịu

dàng. Gió lồng lộng và tiếng cười của chúng

tôi mãi không dứt…

Những đêm dài đi tuần tra bãi Xi măng. Chúng

tôi phải lội biển, men theo vách đá, nhân cơ

hội thuỷ triều rút để tới được bãi. Công việc

này vẫn là thường ngày của các anh kiểm lâm. Thật nguy hiểm vì chỉ cần sơ sẩy một chút có thể

đánh đổi cả mạng sống của mình. Lúc đó mới thấy thật khâm phục các anh biết bao. Những chiến

sỹ tuổi đời còn rất trẻ, dành cả quãng đời đẹp nhất của mình tại nơi đây, cống hiến tuổi thanh

xuân của mình bên những chú rùa và rừng già biển cả.

Những công việc cứ thế tiếp diễn. Tám ngày trên đảo trôi qua thật nhanh. Ngày trở về mà như

tâm hồn đã ở lại nơi này. Một quãng thời gian vô cùng đáng nhớ trong đời”

Rùa con trở về biển ©Võ Cường Quốc,2014

Page 21: Báo cáo Tổng kết Chương trình Tình nguyện Bảo tồn Rùa biển Côn

21

NHỮNG KỶ NIỆM KHÓ QUÊN

Các TNV đã được chứng kiến và trải nghiệm những cảm xúc khác nhau, vui buồn lẫn lộn. Thông

qua các câu chuyện, các bạn chia sẻ:

“Đây thực sự là một chuyến đi tuyệt vời, được trải nghiệm qua nhiều cung bậc cảm xúc: hạnh

phúc, hồi hộp, sợ hãi. Hạnh phúc chờ đợi các chú rùa con chui ra khỏi tổ và rồi từng chú, từng

chú một chui ra. Hồi hộp, rón rén theo dõi từng cử chỉ của rùa mẹ khi đẻ trứng, vì thấy động rùa

mẹ sẽ không đẻ quay về biển, đã có trường hợp chỉ đẻ một trứng rồi lấp tổ vì có nhiều người gây

động. Và cũng hồi hộp đếm xem có bao nhiêu quả trứng trong tổ. Và sợ hãi vì bãi đẻ vắng tanh

trong đêm tối, nhiều khi phải lần dấu rùa lên bờ vào các bụi cây, sợ (chưa kể mấy lần bị hù bởi

đồng bọn)! Bên cạnh đó quang cảnh thiên nhiên ở đây cũng thật đẹp, tôi được tận mắt nhìn thấy

thành phố dưới biển được xây dựng bởi các rạn san hô, cua xe tăng, một loại cua chỉ có ở Côn

Đảo và một số loài hoa thơm cỏ lạ chỉ có ở nơi đây!” _TNV Trương Thị Mỹ Chi tham gia chương

trình từ ngày 21-25/7/2014 chia sẻ

“Kỷ niệm đáng nhớ khác về rùa biển lại là công tác hậu cần. Lâu lắm rồi mới quay lại bếp nấu.

Nấu các món trong 1 chái bếp nhỏ, nấu bằng củi. Mùi khói cay xè mắt nhưng nó gợi nhớ lại kỷ

niệm của mùa tình nguyện giữa núi rừng Tây Nguyên của hơn 10 năm trước. Những món ăn

ngon do mình chế biến cùng anh em kiểm lâm giúp cho 3 ngày trên đảo là 3 ngày với những món

ăn thịnh soạn và ngon miệng. Không còn gì vui hơn khi ai cũng khen cách mình nấu ngon. Có

thực mới vực được đạo, có gạo mới thức canh rùa biển được” _TNV Võ Cường Quốc tham gia

từ ngày 26-30/8/2014

“Đến lúc rùa 1 đẻ, Hương ra chỗ chúng tôi cùng xem. Đẻ gần xong, rùa mẹ có vẻ mệt, cứ cố rặn

mãi mà không ra được quả trứng cuối cùng. Nàng ta cứ thở phì phò lấy hơi rồi lại rặn. Đúng lúc

chú Thắng qua xem, tôi bèn hỏi chú:

- Chú ơi, có phải làm gì để hỗ trợ nó đẻ không ạ? Kiểu như ở nhà chó, mèo đẻ, mẹ cháu

hay giúp bọn nó cho đỡ mệt ý.

Chú Thắng cố nín cười vì không dám cười to, nhưng cũng không nhịn nổi, hỏi lại:

- Thế cháu nghĩ là mình sẽ hỗ trợ nó kiểu gì?

Tôi cũng ngẩn ra, rồi mọi người cười lăn, từ đó thỉnh thoảng vụ hỗ trợ rùa đẻ của tôi lại được nhắc

lại” _ TNV Nguyễn Hải Vân tham gia chương trình từ 26-30/8/2014

“Dù đây là lần đầu tôi trải nghiệm một chuyến đi ca-nô và nó đang chao đảo có khi đến hơn 30

độ với bao nhiêu là nước biển đen ngòm tát vào mặt, nhưng tim tôi vẫn bình thản víu chặt trong

lồng ngực và thưởng thức cảnh đêm huyền ảo. Thiết nghĩ các anh kiểm lâm đang lặng thinh như

tượng xung quanh tôi hẳn có một cái chuẩn riêng về sóng to sóng nhỏ, nên dù tay tôi đang rát

buốt lên vì nắm chặt cọng thừng của ca-nô nó vẫn không thuyết phục được tim tôi có chút mảy

may sợ sệt.

Page 22: Báo cáo Tổng kết Chương trình Tình nguyện Bảo tồn Rùa biển Côn

22

Thình lình anh Hân quát lên: “Sếp ơi không ổn rồi, sóng to quá

không đi được đâu!”. Một chốc lặng thinh, tôi nghe có tiếng lục

đục trong lồng ngực mình. Rồi anh Hoàng ra lệnh: “Đi chậm

lại!”. Chiếc ca-nô từ từ giảm tốc và len vào các con sóng, dù

thế, nó vẫn không ngớt chao đảo, gần như cùng một nhịp với

tim tôi lúc ấy. Không hiểu sao tôi có cảm giác như nước biển

trở nên lạnh ngắt còn không gian thì tối thui một cách đáng sợ

cứ như có một sinh vật khổng lồ đang đùa cợt với chiếc ca-nô

và cả sinh mạng của chúng tôi.

Tôi đang chuẩn bị tâm lý cho tình huống xấu nhất thì chú Anh

lên tiếng: “ Sóng con con vậy mà mày chạy không được à, giảm

ga lại, đi từ từ, đi một chút qua đoạn này là hết à, sóng kiểu

này ca-nô chạy dư sức”. Trong tiếng sóng tôi không nghe rõ

hết sự chỉ đạo của chú Anh nhưng một lúc sau tôi cảm thấy

bớt lo hơn dù chiếc ca-nô vẫn như đang vùng vẫy giữ hỗn độn

sóng nước. Và cứ thế hết sức khó khăn chúng tôi cặp vào bãi

Sạn với những con sóng gần như lật úp ca-nô. Tôi chỉ được đặt chân lên bãi chưa đầy 30s thì

anh Hoàng đã thúc tôi nhảy lên ca-nô lại và trở ngược ra biển. Lần này theo dướng dẫn của chú

Anh chúng tôi đi đường vòng về rừng ngập mặn và bình yên tránh được mấy con sóng.

Ngay khi an toàn đứng ở bờ rừng ngập mặn với hai chân vẫn còn đang run, tôi nghe anh Hân thở

phào: “ Mẹ, sóng to như cái nhà, tim anh muốn bắn ra ngoài!”. Dọ hỏi mới biết anh đã có hơn 5

năm trong nghề và là người chuyên lái ca-nô cho Vườn Quốc Gia. Anh bảo: “Hồi nãy mình hên

đấy, chú Anh là ổng nói thế để mình khỏi loạn lên thôi”. Rồi anh cũng cười cười như rằng đó cũng

chỉ là “chuyện thường ngày ở huyện”_TNV Nguyễn Hoàng Tân tham gia từ ngày 26/8-4/9/2014

nhớ lại.

“Kỷ niệm đáng nhớ nhất của tôi khi tham gia chương trình này phải kể đến chuyến đi xuyên rừng

đến bãi Sạn-bãi rùa đẻ cách xa trạm kiểm lâm nhất. Tôi cùng các anh em kiểm lâm phải khởi

hành từ buổi trưa để chuẩn bị cho chuyến tuần tra bãi Sạn. Do đường đi hiểm trở và nguy hiểm

nên chỉ có tôi và một TNV nữa được tham gia. Chúng tôi phải đi bộ hơn 2 tiếng đường rừng, băng

qua nhiều vách đá mới có thể tới được bãi Sạn. Trên đường đi phải rất cẩn thận tránh những

cành cây gai, những phiến đá sắc nhọn có thể gây thương tích bất cứ lúc nào, những loài rắn

nguy hiểm luôn ẩn nấp. Cảm giác vừa hồi hộp vừa hứng thú càng thôi thúc tôi rảo bước nhanh

theo các anh.

…Chúng tôi chia làm 2 ca trực, tôi và đồng chí kiểm lâm Cường canh gác từ 6h chiều đến 11h

đêm, sau đó là TNV Tuấn Anh cùng với kiểm lâm Thành đến sáng. Khoảng 4h30 sáng có đội tiếp

ứng lương thực và con người là trạm trưởng Nguyễn Văn Anh và phó trạm Hoàn. Hai đòng chí

cùng với lái xuống Hân và TNV Tân phải đi cano vượt sống lớn ra tiếp tế cho chúng tôi (hôm đó

biển động rất mạnh). Trong lúc trưc tôi nghe thấy rất nhiều thủ đoạn tinh vi của kẻ trộm trứng

Rùa. Mối nguy hiển đến từ cả trên rừng hiểm lẫn dưới biển sâu. Những kẻ trên rừng thì biết bãi

Sạn xa với trạm nên cúng thường xuyên xuống bãi đẻ của Ràu, rồi lần tìm các ổ trứng. Có lần

Chiến sỹ kiểm lâm tại Đảo Bảy

Cạnh ©Vũ Hoài Nam,2014

Page 23: Báo cáo Tổng kết Chương trình Tình nguyện Bảo tồn Rùa biển Côn

23

các anh đã bắt được quả tang chúng đang thăm dò tổ chứng, nhưng rất tiếc hôm đó Rùa lại

không đẻ, nê không có chứng cứ vi pham, chỉ lập biên bản vi phạm bãi đẻ của Rùa. Còn các đối

tượng dưới nước, thường là ngư dân (hay gọi là người nhái). Họ hành động còn dã man hơn là

giết ngay Rùa mẹ, rồi mổ phanh bụng lấy cả trứng và thịt đi tiêu thụ. Họ có thể nấp dưới sẵn mép

nước, chỉ trực chờ Rùa lên, hay khi loài rùa giao phối ngoài những rạn San hô , có cả lúc họ ẩn

mình trên cây trong rừng chờ cho kiểm lâm đi qua rồi lặng lẽ xuống bãi…

Quay trở lại ca trực, đến 6h sáng đồng chí Anh bằng kinh

nghiệm của mình phán đoán các đối tượng sẽ hành động

khi đèn đèn Hải đăng tắt. Cả nhóm chia làm 3 chốt, vào

vị trí để quan sát bờ biển. Ngay lúc đó, một đàn chó xuất

hiện từ trong rừng. Tất cả anh em đều nín thở theo dõi vì

theo quy định, lực lượng kiểm lâm chỉ có thể xử phạt sai

phạm khi bắt quả tang, có tang vật rõ ràng. Bất chợt đàn

chó sủa váng lên, phát hiện ra chúng tôi. Các đối tượng

săn trộm rất tinh quái khi điều động chó săn đi trước thám

thính, nếu phát hiện có hơi người chúng lập tức báo động

ngay. Vì vậy thật đáng tiếc là các đối tượng khả nghi đã

rút êm lên núi và lẩn khuất vào cánh rừng già. Trạm

trưởng đã nổ súng cảnh cáo, và đuổi lũ chó quay lại rừng,

vì theo qui định trên đảo là không được thả chó xuống bãi

Rùa đẻ trứng. Cảm xúc lúc đó ai cũng phẫn nộ vì hành

động săn bắt rùa vẫn diễn ra ngang nhiên, coi thường các

quy định của pháp luật. Nhìn vào một góc khuất tại cuối

bãi san hô, rất nhiều mai rùa biển bị săn bắt trái phép bị

bỏ lại. Thật đáng buồn còn nhiều người chưa có ý thức

bảo vệ động vật hoang dã, chỉ vì những mối lợi cá nhân mà sẵn sàng huỷ diệt hệ sinh thái trên

hành tinh này. Hay đáng trách hơn nữa là những cá nhân tiêu thụ trứng rùa, chỉ vì những lời đồn

đại đây là loài quý hiểm, trong bộ Tứ linh nên rất bổ và may mắn…”_TNV Vũ Hoài Nam, tham gia

từ ngày 26/8-4/9/2014 kể

“Và có những giây phút thật buồn, đó là khi đào những ổ rùa đã nở lên, có những chú rùa con đã

nên hình hài, nhưng không được may mắn có cơ hội mở mắt nhìn thấy bầu trời trong xanh kia.

Có một bé rùa con cứ khiến tôi nhớ mãi, một bé rùa con vô cùng xinh xắn, nhỏ xíu. Khi đặt em

lên bãi cát trước biển, em hầu như không thể cử động. Em cứ nằm yên nhìn về phía biển. Cố

gắng lên em, ở ngoài đó, có mẹ và các anh em của em đang chờ…Cố lên, em sinh ra để thuộc

về biển, hãy quay về nơi đại dương bao la đó, thực hiện chuyến phưu lưu tuyệt diệu khắp các đại

dương. Thả em xuống nước, hãy bơi đi em…nhưng em không thể, cứ thế em chìm xuống …Giây

phút đó, trái tim như thắt lại….Ngủ ngoan nhé em, mẹ biển cả đang ôm em vào lòng…” _ TNV

Ngô Bảo Ngọc tâm sự

TNV & Chiến sỹ kiểm lâm tại

Đảo Bảy Cạnh ©Vũ Hoài

Nam,2014

Page 24: Báo cáo Tổng kết Chương trình Tình nguyện Bảo tồn Rùa biển Côn

24

“I ran out and saw her being very emotional using her flashlight to search one the ground. She

said: “Something has attacked some of the babies and they are all lying with the belly up now!”.

My heart sank. So far we had been always happy seeing and touching the hatchlings and felt like

their cuteness would have stayed forever with us, we were not prepared to see some blood on

their bodies with the suffering that we could actually feel. I stepped into the fenced area where

Ngoc was trying to check whether there were more. We found 5 of them lying in agony and were

sobbing as we could not find out what has done this to them. They probably were the later

members that came from the same clutch so we might have missed picking them up. Ngoc and I

brought them into the house for better assessment, the rest of the team came and also the

rangers. It was a heart-broken scene, one of the hatchling was dead with the open wound at his

neck, and the rest was just suffering, they would not budge. We found bites mostly on their neck

or head, I even could see the flesh inside one’s brain as the head was almost crushed by the hit.

Since there was no rescue team or someone who knows how to save these dying babies, the

only thing we could think of doing is to clean the wound and let them rest over night. Holding their

little bodies in such pain was not an easy job for me. The rangers took a look and said the attack

might have come from a snake, or a crab,

or a mouse. They concluded it was a

mouse which would have made a big effort

to climb over the fence and got in to seize

some prey but was not successful and left

the babies behind almost breathless. I felt

so bad, I wished we had picked them all

out, I wished we had come sooner, I

wished there would have been something

we could do to save these lovely

creatures.” _TNV Đào Viết Bội Quỳnh

tham gia chương trình từ ngày 26/8 đến

4/9/2014 kể lại câu chuyện buồn khi nhìn

thấy rùa con bị chuột tấn công.

Rùa con tại Côn Đảo ©Ngô Bảo Ngọc,2014

Page 25: Báo cáo Tổng kết Chương trình Tình nguyện Bảo tồn Rùa biển Côn

25

THAY LỜI KẾT ….

“Khó có thể nói hết những cảm xúc mà chúng tôi đã trải qua trong quãng thời gian ngắn

ngủi này. Chúng tôi không chỉ đơn giản là được thu nhận thêm nhiều kiến thức về rùa

biển, về môi trường sinh thái, về những gì con người có thể làm, cần phải làm để bảo vệ

môi trường sống của mình, về bảo tồn các loài sinh vật đang trên bờ vực tuyệt chủng, mà

còn có được một cơ hội tuyệt vời để trải nghiệm một cuộc sống khác giữa thiên nhiên, tự

do tự tại về tinh thần đồng thời học được về trách nhiệm đối với xã hội. Từ các anh kiểm

lâm, tôi có dịp hiểu thêm về cuộc sống, càng thêm khâm phục tinh thần trách nhiệm của

các anh” _ TNV Nguyễn Hải Vân tham gia chương trình từ 26-30/8/2014

Rùa mẹ lên đẻ trứng ©Nguyễn Hải Vân,2014

Page 26: Báo cáo Tổng kết Chương trình Tình nguyện Bảo tồn Rùa biển Côn

26

PHỤ LỤC Danh sách Tình nguyện viên tham gia Chương trình Bảo tồn rùa biển Côn Đảo năm 2014

STT HỌ VÀ TÊN NĂM SINH

GiỚI TÍNH

ĐỊA CHỈ ĐƠN VỊ CÔNG TÁC Email

CHƯƠNG TRÌNH 8-12/7

1 Nguyễn Thành Trung 1993 Nam New York Queens College, City University of New York

[email protected]

2 Nguyễn Hà Trung Hiếu 1998 Nam Hà Nội THPT Thăng Long – Hà Nội

[email protected]

3 Trần Hà Minh Đức 1997 Nam Hà Nội THPT Lê Quý Đôn [email protected]; [email protected]

4 Phan Gia Khánh 1997 Nam Mỹ Du học sinh Mỹ [email protected]

5 Đỗ Thị Thu Hà 1976 Nữ UK Giám đốc Sa Pa Essentials [email protected]

6 Nguyễn Vĩnh Lợi 1987 Nam Tp Hồ Chi Minh

Cán bộ GIS, phân viện Điều tra quy hoạch Rừng Nam Bộ

[email protected]

CHƯƠNG TRÌNH 21 - 25/7

1 Nguyễn Thu Hà 1981 Nữ Tp Hồ Chi Minh

Regional Manager, Human Dynamic Vietnam

[email protected]

Page 27: Báo cáo Tổng kết Chương trình Tình nguyện Bảo tồn Rùa biển Côn

27

2 Nguyễn Thị Lê Phương 1984 Nữ Tp Hồ Chi Minh

Quản lý cộng động webtretho

[email protected]

3 Trương Thị Mỹ Chi 1981 Nữ Bình Định Giảng viên Cao đẳng sư phạm TƯ Tp. Hồ Chi Minh

[email protected]

4 Đăng Thị Thu Hoài 1985 Nữ HÀ Nội Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu và Hỗ trợ phẫu thuật nụ cười OSCA

[email protected]

5 Nguyễn Anh Vũ 1990 Nam Tp Hồ Chi Minh

Kỹ sư lập trình nhúng - công ty Robert Bosch Engineering and Business Solutions Vietnam

[email protected]

6 Ngô Tiến Thịnh 1994 Nam Tiền Giang Sinh viên Khoa Môi Trường, Trường ĐH Khoa Học Tự Nhiên

[email protected]

CHƯƠNG TRÌNH 26/8 - 30/8

1 Tran Thi Thu Trang 1977 Nữ Bangkok ILO Bangkok [email protected]

2 Nguyễn Hải Vân 1978 Nữ Hà Nội Kỹ sư nội thất, Công ty Turner Việt Nam

[email protected]

3 Lê Thu Hương 1978 Nữ CHLB Đức [email protected]

Page 28: Báo cáo Tổng kết Chương trình Tình nguyện Bảo tồn Rùa biển Côn

28

4 Nguyen Viet Cuong 1972 Nam Hanoi Viet Blossom Co., Ltd [email protected]

5 VÕ CƯỜNG QUỐC 1981 Nam Tp Hồ Chi Minh

Trưởng nhóm huấn luyện và nâng cao năng lực, Samsung Vina

[email protected]

CHƯƠNG TRÌNH 26/8 - 4/9

1 VÕ NGỌC LỆ HẰNG 1992 Nữ Tp Hồ Chi Minh

Trường Đại học Bách Khoa thành phố Hồ Chi Minh

[email protected]

2 ĐÀO VIẾT BỘI QUỲNH

1990 Nữ Tp Hồ Chi Minh

Green Youth Collective [email protected]

3 Vũ Hoài Nam 1984 Nam Hà Nội Giám đốc Công ty cổ phẩn xây dựng New IDEA

[email protected]

4 Ngô Bảo Ngọc 1990 Nữ Hà Nội Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương –

[email protected]

5 NGUYÊN HOÀNG TÂN 1992 Nam Tp Hồ Chi Minh

Sinh viên Đại học Bách khoa

[email protected]

6 VŨ TUẤN ANH 1985 Nam Tp Hồ Chi Minh

Giảng viên Khoa Kế toán trường Cao đẳng Công Thương tp. HCM

[email protected]