Upload
tranduong
View
230
Download
3
Embed Size (px)
Citation preview
Ban Tổ Chức Đại Hội OCS 12 Hawaii Ngày 11 – 14 Tháng 7, 2012
Trưởng Ban : Nguyễn Thái Hùng (Honolulu, HI) 808‐739‐2032
Phụ Tá/Thông Tin : Nguyễn Trần Đàm (Houston, TX) 832‐606‐7733
Thư Ký : Nguyễn Trọng Quýnh (Boston, MA) 617‐288‐0231
Tài Chánh : Lý Thy Dân (Centreville, VA) 703‐362‐9425
Văn Nghệ : Nguyễn Trần Đàm / Trương Trọng Thắng
Báo Chí : Võ Anh Tuấn (Hawthorne, CA) 310‐675‐5307
Du Ngoạn : Huỳnh Bình Đức (San Jose, CA) 408‐270‐4319
Nghi Lễ : Vũ Đình Thọ (Norwalk, CA) 562‐895‐2637
Ẩm Thực : Võ Xuân Diệu (Costa Mesa, CA) 714‐549‐1126
Tiếp Tân : Trương Trọng Thắng (Hawthorne, CA) 310‐995‐2495
2
Chủ Biên :
Võ Anh Tuấn
Biên Tập :
Gia Đình OCS
Trình bày & layout :
Vũ Hoàng Thư
Hình Bìa :
Phạm Đình Công
Thực hiện và phát
hành:
Ban Tổ Chức Đại Hội
OCS 12
Quý Bạn OCS và gia đình thân mến,
Trong tiếng sóng rì rào, giữa hương biển và tiếng đàn Hạ Uy Di réo rắt,
những người con gái hải đảo tóc ươm hoa sứ, uyển chuyển thân hình theo điệu
nhạc. Từ ánh mắt rạng rỡ và đôi môi hé cười mời gọi, họ ân cần đón chào du
khách bằng những vòng lan quàng cổ rực rỡ. Khách viễn phương chẳng ai khác
hơn là những chàng lính biển oai hùng một thời. Phía sau lưng chàng là cả một
đoạn đường chiến chinh và những mộng lớn hải hồ.
Bạn còn nhớ những bước chân đầu ở Bạch Đằng II, nắng cháy Quang
Trung, những giờ sinh ngữ dài dằng dặc ? Newport lá vàng và tuyết ngập King
Hall trong ngóng đợi quê hương yêu dấu bên kia bờ đại dương ? Treasure Island
và sình lầy Vallejo làm thao trường un đúc cho sông lạch cam go vào sinh ra tử
ngày sau? Những kỷ niệm ngắn ngủi chúng ta còn giữ trước khi ngang dọc tung
hoành trên khắp vùng đất nước và chính những điều nhỏ nhoi ngắn ngủi ấy đã
làm mối dây thắt chặt anh em chúng mình cho đến bây giờ.
Bạn mến, hơn 40 năm trước có thể nào ngờ một ngày như hôm nay,
anh em OCS chúng ta sẽ cùng nhau hội ngộ ở chốn Thiên Đàng Hạ Giới Hạ Uy
Di này nhỉ ! Lúc đó, nhắc đến Hawaii đã là một điều quá tầm tay với. Vậy mà
giờ đây, bạn đang dở từng trang Đặc San Hội Ngộ OCS 12 giữa tiếng sóng rầm
rì, và mùi rêu hải đảo. Hawaii là một cái gì rất thật trong giây phút này, thật như
tình chiến hữu thân thiết đã mang chúng ta và gia đình quây quần lại cùng nhau
hôm nay.
Aloha !
Hoan nghênh sự hiện diện đông đủ của Quý Bạn và Đại Gia Đình OCS
trong nắng hè hải đảo.
Ban Tổ Chức Đại Hội 12 OCS Hawaii, một tập hợp của nhiều anh em
tình nguyện khắp nơi cùng với anh em OCS Hawaii, xin gửi đến Quý Bạn và
Gia Đình lời chào mừng và cám ơn sâu xa nhất. Chúng tôi xin hứa sẽ làm việc
hết mình để không phụ lòng tin tưởng của Quý Bạn. Hoa sứ sẽ dâng hương ngọt
ngào cho Hội Ngộ và những đóa lan rực rỡ trong nắng ấm sẽ là chứng nhân cho
gặp gỡ Liên Hoan. Ước mong những ngày Hội Ngộ ngắn ngủi Hawaii sẽ mãi
còn là những kỷ niệm khó quên đối với quý bạn và gia đình.
Quý Chiến hữu ! Thân Chào Hội Ngộ !
BTC/ĐH12/OCS Hawaii 2012
Thư Ngỏ
3
Thủy Mộ Quan (*)
Phan Thái Yên
Sóng biển phủ trào qua từng cơn gió
lộng ruồng vây chợt tắt lịm theo cùng
cảm giác trôi dập bềnh bồng của bầy
thuyền nhân vừa bị hất xuống từ con
thuyền đắm. Bên dưới mặt nước cuồng
nộ, biển sâu im lặng như một khối
nhung mịn váng vất màu sắc huyền ảo
vô định. Hai mẹ con Nương chới với
chìm sâu vào lòng đại dương im lặng
rợn người. Đôi tay mẹ cố gắng ôm chặt
thân vóc con bé bỏng trong vô vọng rã
rời. Nước sáng dần qua màu mạ biếc
mờ soi vùng đá ngầm lởm chởm san hô
cứa đứt lòng bàn chân Nương đau nhói.
Nương nhìn “thủy mộ quan” vương vãi
xác người rồi khóc ngất lên khi thấy thi
hài Niên chờn vờn rong rêu vây bám...
Nương vùng tỉnh dậy hình như cùng lúc với
tiếng khóc thét của con. Trong giấc mơ nàng đã
ôm siết bé Huy quá chặt khiến thằng bé thức
giấc sợ hãi. Cơn mộng dữ với hình ảnh Niên
đầm đìa máu nằm chết bên bờ nước vẫn thường
đến với nàng trước ngày vượt biên rồi trong trại
tị nạn nhưng đây là lần đầu nét mặt oan thác
tang thương của chồng trở về trong giấc ngủ sau
gần một tháng mẹ con đoàn tụ với gia đình chị
Nhi ở Mỹ.
Nương thở dài. Hôm nay chị Nhi nhận thư Nữ.
Hình ảnh cô gái đơn độc trong căn nhà trống,
trên chuyến đò dọc mỗi ngày theo sông về Phố
hay trở lại nhà và nhang khói quyện trầm hương
trên mộ chí người thân lãng đãng nụ cười Niên
trên bia đá khiến nàng không thể ngăn được
nước mắt. Tội nghiệp. Nữ một mình cúng Tết
rồi giỗ đầu cho anh. Mẹ con Nương ăn Tết hẩm
hiu với nhau rồi cúng chồng cúng cha trong trại
tị nạn. Không lâu sau đó mẹ con dắt díu nhau lên
máy bay qua định cư nơi miền đất lạnh Song
Thành, vùng Trung Tây nước Mỹ.
Nhìn bé Huy mau chóng trở về với giấc ngủ say
của đứa bé vừa lên ba, Nương khẻ đặt con xuống
giường rồi sè sẹ bước ra phòng khách.
Từ sau khung cửa tối, cơn tuyết đầu mùa xuân
vẫn thầm thì rơi trắng sân nhà. Màu trắng lạnh
se da khiến Nương ngần ngừ mỗi lần phải ra
khỏi nhà theo chị Nhi chở đến văn phòng định
cư làm thủ tục giấy tờ an sinh xã hội. Buổi chiều
sau bữa cơm, hai chị em vừa dọn dẹp bếp núc
vừa chuyện trò. Họ nhìn bé Huy mặc nính chiếc
áo mùa đông đang hồn nhiên vui đùa ném tuyết
với bác Dõng và anh Bờm, chị Bê.
4
- Cháu Huy chịu lạnh qua mặt mẹ Nương rồi đó
nghe ! Theo anh Bờm mới mấy tuần mà đã lõm
bõm được tiếng Anh có câu có kéo giỏi ghê...
Bà Carol hôm qua gặp chị ở siêu thị khen em
trong lớp chăm học, tiến bộ nhanh lắm. Bà ta
còn nói vài hôm nữa sẽ giúp em xin việc ở hãng
làm cookies trong phố... hãng làm bánh đó em.
Nương nhìn chị Nhi lắc đầu cười.
- Ở đó mà tiến bộ. Lớp ESL ở trại tị nạn ai cũng
abc như em, còn theo được. Ở đây, trong lớp có
nhiều người đã học lâu, em ngồi nghe họ như vịt
nghe sấm.
Chị Nhi trao cho cô em dâu ly trà nóng vừa pha.
- Từ từ rồi em sẽ theo kịp thôi. Hồi mới qua chị
cũng vậy. Chị tâm sự... Ở Việt Nam mang tiếng
là cô giáo dạy Anh văn rứa mà qua đây chị cũng
xấc bấc xang bang cả năm. May là anh Dõng tốt
nghiệp trường Hải quân ở bên này, tiếng Anh
tiếng U còn khá nên đi làm đi học ngay. Chị thì
sau đó bận rộn với hai cháu nhỏ, mãi tới khi
Bờm tới tuổi đi nhà trẻ mới cắp sách làm học trò
già rồi đi làm ở bệnh viện.
Sân tuyết nửa khuya lặng lờ. Những nụ hoa nở
đỏ rực trên tuyết trắng sáng nay giờ khuất chìm
đâu đó sau khoảng tối mông lung của cây cảnh
trong vườn. Loài hoa Nương chưa hề thấy bao
giờ. Và biết bao điều nàng mới thấy mới gặp lần
đầu. Nỗi mừng nỗi lo hoang mang lòng nhớ.
Ngô đồng pha son triền hải đảo náo nức tình
đầu. Sim tím rưng buồn quanh mộ chồng.
Chuyến tàu vượt biên hãi hùng tưởng thây vùi
đáy đại dương. Đất lạ, trời xa, cuộc sống mới và
lòng thì vẫn hằng đêm trằn trọc nhớ về kỉ niệm,
gia đình, người thân còn mất.
Sau lần bồng bé Huy về thăm mộ Niên, chị em
gặp nhau càng quyến luyến. O Nữ mỗi tuần đều
theo ghe ra cù lao thăm cháu ríu rít không rời.
Những chuyến tàu vượt biên cứ lần lữa không
thành nên mỗi lần ra đảo về lại thêm một lần
nhòa lệ chia tay. Mùa hạ qua không đành trong
thấp thỏm đợi chờ. Thế mà đêm tàu đến vẫn cấp
bách không ngờ. Dì Nơi run rẩy khăn gói lon
di-gô bột trứng gà cho bé Huy rồi gạt nước mắt
mở hé liếp cửa âm thầm tiễn con cháu ra đi.
Khung cảnh ghềnh đá bên bãi Hương quen thuộc
thường ngày trong đêm tối chợt lạ hoắc đầy vẻ
rập rình đe dọa khiến Nương càng lo sợ. Túi
xách trên vai, tay ôm chặt con vào lòng nàng tất
tả theo đoàn người men ghềnh đá về phía bóng
tàu nhỏ nhoi chờn vờn ẩn hiện trong chút gợn
sáng của màn đêm.
Chiếc ghe cá quá monh manh cho đoàn vượt
biên hơn sáu mươi mạng người. Không còn kịp
suy nghĩ đắn đo, đám người xô đẩy lần mò tìm
chỗ trong bóng tối dày đặc nhấp nhô. Khi
Nương không còn cảm giác bị đẩy chúi tới nữa
thì nàng cũng vừa lờ mờ nhận ra mẹ con nàng
đang ngồi trong hầm phía mũi tàu bít bùng chật
như nêm. Tiếng máy tàu rập rềnh cùng lúc với
thân ghe bắt đầu chao lắc như liều thuốc an thần
công hiệu khiến mọi người ai nấy đều thở ra nhẹ
nhõm. Tiếng người chủ ghe lạc giọng qua nắp
gỗ vừa được hé ra.
- Bà con chịu khó ráng ra tới hải phận quốc tế
rồi tui mở nắp cho thoáng.
Nương vỗ về con. Bé Huy an toàn trong lòng mẹ
ngủ say. Nương cũng thiếp đi sau đó...
Âm thanh rùng rùng của sóng đập vào ghe lắc lư
vùi dập khiến Nương giật mình tỉnh giấc. Qua
nắp hầm mở ngỏ Nương thoáng thấy bầu trời
hừng đông ngã nghiêng sau những đợt nước biển
tung tóe bởi từng con sóng lớn đâm sầm vào mũi
rồi hung hãn xẻ dạt hai bờ hông ghe. Vài thanh
niên đã leo ngồi trên boong chịu đựng ướt át để
đổi lấy thoáng mát. Trong hầm đa số là người
không quen đi biển bắt đầu say sóng, nôn ụa
thốc tháo. Mùi tanh nồng xông lên đến ngột thở.
Nương ôm con len dần ra phía cửa hầm. Hơi gió
biển giúp bé Huy thôi khóc, bé nhai ngon lành
từng nhúm bột trứng từ tay mẹ.
Chiếc ghe nhỏ trồi dập qua từng đợt sóng chầm
chậm tiến về phương Đông. Sau mấy ngày nêm
cứng trong hầm tàu cọng hưởng với ánh nắng
gay gắt hấp qua vách thuyền mong manh, nhiều
5
người bắt đầu cạn sức vì thiếu nước uống mà
vẫn bị nôn mửa đến mật xanh mật vàng. Khẩu
phần hai lần mỗi ngày một vắt cơm và li nước
nhỏ không đủ giúp cơ thể lấy lại sức để chống
chỏi với từng cơn say sóng quặn người. Thân
người chồng chéo lên nhau vì đói vì đau. Mùi xú
uế lẩn quẩn càng ám đọng vào lượng không khí
bị khóa chặt trong hầm tàu vốn đã thẩm thấu với
tanh hôi. Một địa ngục trần gian. Cô gái cạnh
Nương mệt lả sau cơn ói cạn người, nằm ôm
bụng khóc rưng rức. Mạ ơi, răng mạ sinh con ra
chi mà khổ ri...
Cơn giông biển kéo dài qua suốt một buổi chiều
giúp con người tỉnh lại nhờ từng ngụm nước mát
ngọt từ trời. Con trai, con gái bò lên boong nằm
phơi hứng làn mưa xối xuống thân xác mệt
nhoài. Mưa như giọt cam lồ làm tươi lại rừng
cây khô hạn vừa được tưới đẫm. Sau đôi mắt
nhắm và môi hé mở họ nằm hứng trọn cảm giác
đằm thắm của từng hạt mưa rưới lên thịt da
thánh thót.
Giữa trời nước mênh mông con thuyền kiên trì
đi về hướng mặt trời, kéo dài niềm hi vọng được
cứu vớt của bầy thuyền nhân co quắp trong lòng
thuyền sức tàn lực kiệt. Gió đại dương phần phật
thổi ngày vào đêm sa nghiêng ngửa khung trời
khuya thấp thoáng sao phía trên nắp hầm nhấp
nhô theo sóng. Trong chập chờn giữa biên giới
thức ngủ Nương lắng nghe tiếng théc muồi của
con và tiếng máy tàu trầm úng đều đều như nhịp
đập tim mình, cần kíp và tràn đầy âu lo. Vào một
lúc khoảng trời vừa rựng sáng Nương tỉnh giấc
nghe ngóng theo quán tính có được từ tám chín
ngày qua. Nỗi sợ rùng tới khiến nàng vã mồ hôi
lạnh toát. Con thuyền im lặng không một âm
động. Nương cơ hồ nghe được tiếng sóng đập
vào phần vách thuyền nơi lưng nàng đang tựa
vào. Nàng cố trấn tĩnh lắng nghe. Cảm giác lặng
lẽ chênh vênh của con tàu chập chùng trôi trên
đại dương, nước mênh mông lấp liếm be thuyền
khiến nỗi sợ hãi rùng rùng trào toát chiếm lĩnh
toàn thân nàng. Nương thét lên. Tiếng người
tỉnh giấc, tiếng bàn tán cãi cọ giữa tài công và
thợ máy vọng ra tiếng còn tiếng mất từ phòng
lái. Tàu hết dầu. Đoàn thuyền nhân lúc này đã
thức giấc hay tin xấu ngồi lặng đi. Chỉ trong
giây phút thực tế kinh hoàng toát ra tràn lan theo
tiếng than khóc khấn cầu vang lên hỗn độn. Một
lúc lâu sau người chủ ghe ló đầu nói vọng xuống
hầm tàu cố gắng trấn tĩnh đám người hoảng
loạn.
- Máy hết dầu nhưng bà con đừng lo. Biển đang
tốt trời, gió thuận. Căng buồm đi vẫn tới nơi
được. Tui cần hai hoặc ba chị lên boong giúp
may buồm.
Nương vội vàng bồng bé Huy đứng dậy lên khỏi
hầm tàu. Giao con cho người tài công trong
phòng lái, Nương cùng vài người đàn bà khác
cùng nhau may buồm theo sự hướng dẫn của anh
ta. Họ tháo rời cả chục bao gạo vải bố chủ ghe
đã chuẩn bị mang theo. Những tấm bố được trải
ra trên boong rồi móc đan chắc chắn vào nhau
bằng chính những sợi bố tướt ra từ bao gạo. Lúc
buồm may xong thì nhóm thanh niên cũng vừa
hoàn thành chiếc cột buồm làm bằng hai mảnh
ván dài gỡ ra từ be thuyền. Buồm dựng lên.
Người tài công tìm hướng gió rồi khéo léo nối
chỉnh dây thừng từ các chéo buồm đến những vị
trí khác nhau trên ghe để kéo buồm theo góc độ
tính toán thích hợp nào đó. Anh loay hoay chỉnh
tới lui với chiếc la bàn trên tay một hồi lâu thì
buồm từ từ phồng căng no gió. Con thuyền
chuyển mình thức giấc bương về phía trước.
Người tài công cắt cử thanh niên thành nhóm
thay phiên nhau giữ hướng buồm và dùng các
mảnh ván be thuyền còn lại làm mái dầm phụ
chèo ghe.
Nương bồng con tò mò nhìn theo người tài công
quăng một mảnh ván tam giác nhỏ nối bằng dây
cước thật dài từ sau đuôi thuyền. Như một người
câu cá anh đứng chờ vài phút rồi kéo mảnh ván
vào. Anh lúi húi đo đạc khoảng cách trên dây
cước, săm soi tính toán rồi lặp lại chừng đó động
tác. Sau vài lần thì người tài công trở ra phía
mũi ghe, đứng mỉm cười nhìn chiếc buồm căng
6
gió. Anh nói lớn mà hình như chỉ cho riêng
mình.
- Với gió này mình có thể đi được sáu, bảy hải lý
một giờ, có thể hơn.
Người tài công hướng dẫn nhóm thanh niên cách
sử dụng la bàn để giữ hướng buồm rồi đi vào
phòng lái. Anh tươi cười nhìn bé Huy đang bi bô
đùa với cái bánh lái tàu.
- Ông thuyền trưởng này “chì” quá ta! Không
say sóng gì cả.
Nương cúi chào người tài công rồi hỏi anh ta về
những động tác anh vừa làm ở sau đuôi tàu.
- Chỉ là dụng cụ thô sơ để ước tính tốc độ của
tàu đó thôi. Chút lý thuyết còn sót lại từ những
ngày ở trường Hải Quân. Anh do dự vài giây rồi
tiếp lời... Trước bảy lăm tôi là sĩ quan Hải Quân.
Đi cải tạo gần bảy năm mới về thì được giới
thiệu đi theo chuyến ghe này.
Nương nhớ lại hình ảnh những đoàn tàu phóng
mình trên sông Ô Lâu về phía phá Tam Giang
sóng dậy vỡ bờ những ngày đi học ngoài quê.
Nàng bồng con vào lòng.
- Người anh rể của cha cháu Huy trước cũng là
sĩ quan Hải quân. Tôi chưa hề gặp anh ấy nhưng
nghe nói là giang đoàn đóng ở Cửa Đại vào thời
điểm tháng Tư bảy lăm.
Mắt người cựu sĩ quan Hải quân sáng lên, anh
cao giọng hỏi dồn.
- Tên người đó là gì vậy cô? Thằng Lương,
thằng Ninh, thằng Hoát, thằng Dõng, hay thằng
Đức đây? Đã hơn bảy năm biệt tăm tin tức. Có
lẽ tụi nó nhanh chân hơn tôi, Paris London New
York Chicago cả rồi...
Anh phá lên cười vui sướng khi nghe Nương
nhắc tới tên người bạn lính cũ.
- Thằng Dõng! Vậy cô là em dâu của Thục Nhi
rồi. Mối tình “Một trăm đôi dép Nhật” nổi tiếng
“bốn vùng duyên hải” đây mà... Ngày nào chàng
ta cũng lò dò “em tan trường về, anh theo rề rề”
tới nhà gia đình cô giáo cũng là một tiệm tạp hóa
trong phố Hội An mua dép Nhật. Mua đủ trăm
đôi thì được vợ.
Nương vui lây theo tiếng cười của người tài
công.
- Vậy thì mối tình của anh chị mang giày hay
mang dép? Và đang ở đâu rồi?
Anh pha trò mà mắt nhìn xa xăm vào đám mây
trôi trắng khoang trời.
- Tình của hai đứa tôi mòn hết đôi guốc Dakao
của nàng và đôi dép râu dày bảy phân của tôi
trong trại cải tạo, mỗi phân một năm mười hai
tháng gian nan. Chúng tôi cưới nhau năm bảy
ba, năm sau thì lòi ra một thủy thủ con. Số phần
cả... Cuối tháng Tư bảy lăm, cả gia đình ở Sài
Gòn. Chiều tối ngày hăm chín lo cho vợ con và
cả nhà vào Bộ Tư Lệnh Hải Quân chờ lên tàu.
Tôi phải chạy chiếc lambretta về Ngã Tư Bảy
Hiền để trả lại cho người anh bà con. Khi vội vã
đi xe ôm trở vào thì cửa Bộ Tư Lệnh đã có lệnh
đóng, nội bất xuất ngoại bất nhập. Bảy năm!
Cái giá phải trả quá đắt. May mà mấy năm gần
đây vợ tôi và gia đình ở Mỹ cố gắng liên lạc
được đã gởi hình ảnh quà cáp nhờ bà con mang
vào trại nên cũng đỡ buồn.
Người tài công quay nhìn Nương, giọng tin
tưởng vỗ về.
- Tuy chậm chân nhưng chúng ta thế nào cũng
sẽ gặp lại người thân và hạnh phúc của mình. Vợ
chồng cô sẽ sum họp. Tôi sẽ đoàn tụ với vợ con
mình. Anh pha trò... Có điều cái ghe buồm này
bò còn chậm hơn sên. Kì này vô tới bờ chắc tôi
phải trấn nước ông chủ ghe một trận cho hả
giận.
Nương cúi đầu không nói khẽ chào người tài
công, bồng con quay xuống hầm tàu. Anh gọi
với bước theo, ân cần trao cho Nương mấy trái
cam vỏ đã khô nám.
- Tiêu chuẩn tài công đó. Em lột cho cháu ăn đỡ
khát. Chắc cũng phải ba bốn ngày nữa mới tới
bờ.
Cánh buồm no gió nhẩn nha giong thuyền đi về
hướng Đông mặc cho đám thuyền nhân kiệt sức
nằm ngồi dưới bóng mát của nó để quên đi phần
nào cơn đói khát rã ruột. Trên ghe chỉ còn ít gạo
7
và nửa lưng phuy nước đỏ ngầu màu rỉ sắt. Hết
dầu để nổi lửa nấu cơm, nhóm phụ trách ẩm thực
bắt đầu tháo dần những mảnh ván sàn tàu làm
củi.
Buổi trưa sau ba ngày buồm bê theo gió, bầy
thuyền nhân ngồi bật dậy hồi sinh khi nghe một
thanh niên gác tay chèo nhảy nhót reo mừng chỉ
về phía vệt núi mờ mờ trước mặt. Người tài
công đứng trên nóc phòng lái dùng chiếc ống
dòm nhỏ chăm chú quan sát hồi lâu rồi gật đầu
xác nhận với nhóm thanh niên đang reo hò bên
dưới. Anh còn thấy cả dòng hải lưu ngược
hướng buồm quần tụ thành vùng sóng bạc đầu
trước mặt và tít tắp từ chân trời sau lưng những
cuộn mây nhuốm màu đe dọa của cơn giông
biển đang rượt tới. Anh lo lắng cùng lúc với
niềm hi vọng ghe đang đi vào vùng biển có tàu
thuyền qua lại thường xuyên.
Anh tập họp cả ba nhóm thanh niên, dặn dò tăng
cường người gác buồm và tay chèo. Chẳng lâu
sau ghe bắt đầu chạy vào vùng nước trở. Thân
ghe rùng mạnh theo từng chuỗi sóng dập liên hồi
đinh tai nhức óc. Có lúc sóng cuộn mũi ghe
dựng lên như muốn hất tung cả thân tàu lên
khỏi mặt nước. Lẫn trong tiếng sóng trào, tiếng
gió phần phật là tiếng niệm phật, cầu kinh trộn
với tiếng la khóc sợ hãi của trẻ em hỗn độn kinh
hoàng.
Người tài công luôn miệng quát tháo hiệu lệnh
cho nhóm thanh niên điều chỉnh dây buồm, căng
bên này nới bên kia, cố gắng rứt chiếc ghe ra
khỏi vùng nước xoáy đang níu chặt lấy nó.
Chiếc ghe lì lợm cùng với người với buồm lăn
quẩy cả tiếng đồng hồ cuối cùng đã lấy lại được
hướng núi trước mặt. Chưa kịp hoàn hồn, mọi
người chợt nghe tiếng gỗ bựt gãy từ dưới phòng
máy vang lên cùng lúc với tiếng la.
- Ghe vô nước! Ghe vô nước!
Người tài công chạy xuống hầm máy. Anh quan
sát chỗ nứt ở lườn tàu, ước chừng lượng nước
đang theo chỗ nứt tràn vào. Anh hối chủ ghe
phân công người tát nước.
- Khó là chỗ nứt nằm phía dưới lốc máy, không
thể đóng ván đậy lên được. Phải kêu người múc
chuyền nước ra ngoài thật nhanh may ra cầm cự
được.
Trở lên boong, anh dặn một thanh niên mỗi
mười lăm phút xuống hầm máy quan sát rồi lên
báo cáo tình hình vô nước. Hơn hai tiếng đồng
hồ đứng quan sát trên nóc phòng lái, người tài
công vẫn chưa thấy tăm hơi bóng dáng tàu
thuyền quanh bốn phía trời. Nhóm tát nước lúc
càng mệt mỏi mà vết nứt có vẽ càng rộng ra.
Anh quyết định đốt một chiếc vỏ xe bỏ trong
thùng phuy cắt nửa đặt trên nóc phòng lái. Nhìn
làn khói đen tỏa thẳng lên trời anh thầm hi vọng.
Trời bắt đầu xế chiều, độ nổi của chiếc ghe lúc
này đã xuống thấp thấy rõ. Người tài công cùng
hai thanh niên đi lùng sục tất cả can nhựa rỗng,
vỏ xe, áo phao dồn đống trên sàn ghe. Họ luồn
cột từng nhóm năm, sáu thùng can vào dây
thừng dài.
Anh nhìn hai người bạn trẻ mệt lả vì đói mệt,
khuyến khích.
- Hi vọng là chúng ta sẽ không dùng tới nó.
Nắng chiều trên biển đỏ ối chân trời. Qua ống
dòm anh tiếp tục nhìn quanh bốn phía đại dương
cố níu gần lại mặt biển sóng mênh mông. Giữa
lằn biển mây hao huyễn vô định chợt trồi lên
một chấm nhỏ lớn dần. Chưa tin vào mắt mình,
anh dụi mắt định thần. Tháng ngày chiến hạm
hải hành trong quá khứ vụt trở về linh động rõ
ràng khiến anh xúc động nín thở căng mắt nhìn.
Không thể nào lầm được. Anh vội vàng khêu
sửa ngọn lửa đốt vỏ xe cho khói đen ngùn ngụt
bốc cao. Trong khuôn tròn nhỏ của ống kính, từ
hướng mười một giờ, cái chấm lúc này dài ra với
những chiều cạnh gãy góc quen thuộc của một
chiếc khu trục hạm.
Thần kinh người cựu sĩ quan Hải-quân căng
thẳng như cậu học trò bị thầy gọi trả bài, anh cố
nặn óc nhớ lại những điều đã nhiều năm không
hề có dịp sử dụng hay nghĩ tới . Ánh đèn giám lộ
chớp tắt lục lọi từ trí nhớ một thời biển cả chợt
8
lóe sáng trong anh tia hi vọng sống còn. S.O.S.
Tàu chìm. Vớt người...
Đoàn người vượt biển không ai bảo ai tranh
nhau trèo lên khỏi hầm tàu nằm ngồi la liệt trên
mũi ghe và tràn chật cả phòng lái. Trong sốt ruột
kinh hoàng, những hốc mắt hõm sâu vì đói khát
thiếu ngủ khẩn cầu nhìn về phía con tàu cứu tinh
tưởng chừng vẫn đứng vô tình bất động từ xa
mặc cho mực nước biển đã mấp mé be thuyền
khẳm nặng. Họ kêu khóc giành giựt những chiếc
phao, cố gắng tranh kéo phần sống về mình.
Tiếng người chủ ghe gào lớn từ buồng lái.
- Bà con yên tâm ngồi xuống. Chúng tôi có đủ
phao cho mọi người, đừng nhốn nháo ghe mất
cân bằng nước vô mau sẽ bị chìm sớm. Tàu Mỹ
đang chạy tới. Thế nào chúng ta cũng được vớt.
Tín hiệu đèn trả lời từ chiếc chiến hạm vàng lấp
láy trong ống dòm chợt chao mạnh nhấp nhô lúc
nhóm thanh niên tát nước bỏ hầm máy rùng rùng
chạy lên phòng lái. Tiếng than khóc sợ hãi lẫn
trong tiếng la cải hỗn độn giữa người chủ ghe và
nhóm thanh niên bỏ cuộc.
- Tụi bây bỏ lên hết trên này, ghe chìm chết cả lũ
bây giờ.
- Nước ngập lên tới bụng rồi, không tát được
nữa.
- Đ.M. tát gì nữa mà tát. Chìm tới nơi rồi!
- Để cho chìm luôn đi. Tàu lớn thấy may ra họ
tới cứu. Còn nổi lềnh bềnh họ chỉ đứng xa nhìn
thì cũng chết mà thôi.
Tiếng nạt lớn và khuôn mặt nghiêm nghị của
người sĩ quan Hải-quân khiến nhóm thanh niên
đứng lịt mặt. Anh quắt mắt ra lệnh cho họ đi
lùng quăng hết đồ đạc hành lí xuống biển cho
nhẹ tàu. Đoàn thuyền nhân răm rắp làm theo lời
hướng dẫn từ người lãnh đạo của họ. Mỗi thanh
niên khỏe mạnh biết bơi chia nhau ngồi với từng
nhóm năm sáu người, kẻ mặc áo phao người ôm
chặt vỏ xe, can nhựa. Im lặng phủ trùm, chỉ còn
nghe gió lùa phần phật qua cánh buồm rách
bươm và tiếng nước từng đợt liếm tràn qua sàn
ghe. Trong giây phút hấp hối của con tàu, những
con người liều đánh đổi cái chết để tìm tự do
chợt cảm thấy bình thản đến lạ lùng. Họ ngồi im
lặng đợi chờ, chấp nhận sự an bài của số phận.
Mắt nhắm, thân xác không chừng giữa cảm giác
thô cứng của lớp gỗ sàn thuyền và lay động bấp
bênh của sóng nước tràn vây.
Người sĩ quan Hải-quân gọi Nương ra hiệu cho
nàng bồng con len về ngồi sát bên cột buồm
ngay trước phòng lái. Anh trao chiếc áo phao
cho Nương, dặn dò cách dùng rồi mỉm cười xoa
đầu bé Huy lúc anh bồng cháu lên tay.
Chiếc khu trục hạm xả máy chạy về phía tàu
chìm. Màu sơn trắng của danh số chiến hạm hiện
rõ trong ánh nắng cuối ngày. Người sĩ quan xúc
động nhớ lại những ngày Hè bảy hai tuần dương
phối hợp với hạm đội Mỹ phía ngoài khơi Hải
Lăng, Cửa Việt. Anh còn nhớ rõ vị trí vết đạn bị
bắn ở mũi tàu vì chiến hạm này vào quá gần bờ
để yểm trợ hải pháo. Tình cờ ngẫu nhiên chạm
mặt nhau trên vùng biển xa lạ trở thành niềm hi
vọng cuối cùng của biết bao phận đời.
Nước biển tràn khẳm hầm máy kéo chiếc ghe
chìm nhanh. Tiếng gỗ ván gãy kêu răng rắc làm
cả sườn ghe rung chuyển vì sức nước xoáy vào.
Ngoái nhìn phần sau chiếc ghe đã khuất tăm
dưới mặt nước, anh quay lại chỉ tay về phía
chiến hạm trong lúc đám thuyền nhân la khóc
hoảng lên vì sàn ghe bắt đầu chìm lỉm.
- Bà con bình tĩnh ngồi yên, không được chộn
rộn. Cầm chặt dây đừng để lạc nhau. Ba chiếc
ca-nô vừa được dòng xuống từ tàu Mỹ đang
chạy về phía mình. Chừng mươi phút nữa là
chúng ta sẽ được vớt. Bà con yên tâm.
Anh vội vã quấn chặt bé Huy vào áo phao trước
ngực rồi cúi xuống kéo Nương lên ngồi cạnh anh
trên nóc phòng lái. Nương chỉ cho con trai ôm
vòng qua cổ người sĩ quan, dặn dò.
- Huy ôm cổ bác thiệt chặt nghe, rồi nhắm mắt
lại. Đừng sợ. Mẹ luôn ở bên cạnh con đây.
Bé Huy nhìn quanh lạ lẫm, lắc đầu.
- Con không sợ. Con chưa buồn ngủ mà.
9
Người sĩ quan cười xoa đầu đứa bé. Anh cột một
đầu dây quanh lưng mình rồi cột mấu dây kia
vào cổ tay Nương.
- Em biết bơi, không sao đâu.
Mũi tàu chìm nhanh. Cả chiếc ghe chỉ còn nóc
phòng lái nổi lều bều trên mặt nước chừng đôi
gang tay. Không còn mặt gỗ bên dưới làm điểm
tựa cho cảm giác bám víu an tâm, sức nước đẩy
trồi bầy thuyền nhân khỏi sàn thuyền chới với,
sặc sụa. Người sĩ quan lo lắng quan sát những
cụm người trôi nhấp nhô như bầy cá thiếu không
khí nổi lờ đờ trên mặt nước. Anh cảm thấy bất
lực, chỉ còn biết trông mong vào ba chiếc ca-nô
đang xả hết tốc lực nhảy sóng chạy vào vùng tàu
đắm. Ba lằn nước bạc sáng lên trong ráng chiều.
Nóc phòng lái chợt rùng mạnh nhào nghiêng
sang một bên rồi chìm lỉm. Nương mất đà, vừa
kịp nghe tiếng người sĩ quan la lớn “Coi chừng!”
thì toàn thân đã rớt chúi vào sóng bạt. Hớp nước
biển khiến nàng ho sặc sụa cùng lúc với cảm
giác mát rượi của biển sâu bọc choàng lấy toàn
thân. Nương lấy lại thăng bằng sải bơi về phía
tiếng của bé Huy đang khóc ré lên vì hoảng sợ.
Anh chỉ tay về hướng ba chiếc ca-nô đang rọi
đèn pha vớt người. Nương gật đầu. Họ bơi về
phía chiếc gần nhất.
Tiếng khóc cầu cứu văng vẳng trên mặt biển
chạng vạng tối chìm úng vào tiếng sóng trào lan
xa. May mà cơn giông hồi trưa đã đổi hướng.
Người sĩ quan thầm nghĩ.
Đoàn thuyền nhân vừa được ca-nô vớt ngồi e dè
trong góc phòng ăn của chiếc khu trục hạm Hải
quân Mỹ. Dưới ánh đèn sáng trưng những khuôn
mặt hơn mười ngày đói khát trông càng nhỏ nhoi
gầy yếu trong áo quần thủy thủ rộng thùng thình.
Đoàn người nhờ có hai thanh niên nam nữ nói
tiếng Anh khá trôi chảy nên việc giao dịch cũng
tương đối thông suốt. Những người lính đầu bếp
da đen, da trắng sửa soạn xong bữa ăn đang tươi
cười đứng chờ phục vụ mà đoàn người tị nạn
vẫn người này nhìn người kia, chưa ai dám xung
phong.
- Còn hai người bị thương đi bệnh xá với mấy
người nữa, cả anh tài công, cũng chưa về. Thôi
mình đợi họ ăn một lần luôn thể.
- Đồ ăn Mỹ mình đâu có biết ăn ra sao. Họ cười
cho thúi đầu.
Người bạn trẻ thông dịch lại nài nỉ.
- Thì cháu có ăn cơm Mỹ lần nào đâu mà biết.
Họ nói là ăn kiểu bớp-phê. Xếp hàng, lấy cái
dĩa, rồi đi dọc theo quầy thức ăn, muốn ăn món
nào thì chỉ món đó. Ai tới lúc nào ăn lúc đó,
không cần phải chờ.
Nương ngoắc bầy trẻ rồi dẫn bé Huy đến quầy
thức ăn. Chúng đói meo háo hức cầm dĩa đẩy
dọc theo quầy, nhón người chỉ trỏ lung tung.
Cha mẹ thấy con cháu khệ nệ bưng về bàn
những đĩa thức ăn đầy vun, bắt đầu lục tục kéo
nhau sắp hàng. Cứ chỉ gà rô ti là chắc ăn. Nương
nói đùa lúc nhìn những cặp mắt lo ra.
- Đồ ăn Mỹ béo quá!
- Món gì cũng ngon mà sao sửa thì lạt nhách !?
- Tui lỡ lấy nửa trái bưởi không biết giờ ăn ra
sao đây?
Mọi người đang trằm trồ khen chê ăn uống thì
người tài công và cô gái thông dịch bước vào.
Cô thông báo áo quần mọi người đã giặt khô
khiến ai nấy chưa hết ngạc nhiên về thức ăn Mỹ
và bàn trái cây chất cao như núi, giờ càng thêm
sửng sốt bàn tán sầm xì.
- Tui tính sớm lắm trưa mai áo quần mới khô.
Người sĩ quan còn sủng ướt mà rạng rỡ tươi
cười trong chiếc áo gió màu gạch rộng thùng
thình.
- Báo cho bà con vui là nhóm cuối cùng đã đượt
vớt. Họ dầm trong nước khá lâu nên bị cảm
lạnh, đang nghỉ ngơi ở bệnh xá. Trên tàu đã
chuẩn bị hai phòng lớn nam và nữ với nhiều
giường tầng. Bà con ăn xong thì lên nghỉ ngơi.
Thiệt là may mắn, chỉ trễ vài giờ nữa là nhiều
người trong chúng ta đã mất mạng rồi.
Đoàn thuyền nhân đang lao xao cảm ơn người
tài công thì bỗng có tiếng hô chào dõng dạc
vang lên. Một sĩ quan Hải-quân vóc người to lớn
mang quân hàm trung tá đang tươi cười bước
10
vào phòng ăn. Ông ta bắt tay người thông dịch
cho biết muốn gặp thuyền trưởng của chiếc tàu
chìm. Người tài công nghe qua câu hỏi bước đến
tự giới thiệu. Viên sĩ quan Mỹ thân mật vỗ vai
anh.
- Anh nói tiếng Mỹ lưu loát lắm. Tôi là hạm
trưởng của chiếc khu trục hạm này. Chúc mừng
đoàn người của anh đã được an toàn.
Nghe giọng nói rồi nhìn nét mặt và bảng tên,
người tài công quá xúc động buột miệng.
- Có phải mầy đó không Trâu Nước! ?
Người hạm trưởng ngạc nhiên nhìn chăm chăm
người đàn ông Việt Nam xa lạ khắc khổ gầy
nhom vừa gọi biệt danh của mình thời còn là
sinh viên sĩ quan.
- Sinh viên trường sĩ quan Hải-quân ở Đảo
Rhodes mùa Đông 1970!
- Sĩ quan Cố vấn Giang đoàn Tuần thám ở
Đồng Tháp Mười cuối năm 1971!
Khuôn mặt bạn cũ hiện dần ra sau nét hằn phong
trần của thời gian khắc nghiệt,
Sam ôm chầm người tài công.
- Việt ! Chúa ơi, mầy đó sao!? Thằng bạn Việt
Nam duy nhất của tao trong trường Hải Quân ở
Newport đây mà. Đúng rồi! Sau đó tao lại gặp
mày ở giang đoàn tuốt trong vùng đất trời đánh
đầy muỗi mòng đó.
Sam kéo Việt đi về phía cửa.
- Đi! Đi lên phòng tao. Tắm rửa, thay áo quần
cho mát mẻ rồi uống lai rai chơi. Hơn mười năm
rồi còn gì!
Mọi người trong phòng ăn đi từ ngạc nhiên này
đến sững sờ khác. Hồ như họ đang ở một nơi
không thật.
Bắt gặp ánh mắt dò hỏi của Nương, cô gái thông
dịch lắc đầu phân bua.
- Hai người nói chuyện với nhau lẹ quá, em chỉ
nghe lỏm bỏm thôi. Họ là bạn cũ với nhau thời
cùng học trong trường Hải quân ở Mỹ rồi sau đó
chung đơn vị ở Việt Nam nữa. Hèn chi ảnh nói
tiếng Mỹ nhuyễn quá.
Việt thức giấc vào một lúc nào đó lúc trời chưa
rợn sáng. Mắt biếng lười nhấp nhem về phía ô
cửa tròn nhỏ sáng chớp lên từng hồi giúp anh
phần nào lấy lại ý niệm thời gian nơi chốn.
Chiếc chiến hạm hình như đang chạy giữa một
cơn giông. Anh nhìn nước mưa ràn rụa phía
ngoài ô kính nghĩ tới hình ảnh con tàu lao mình
trên sóng cuồng nộ. Sóng bây giờ hay sóng cũ
mười năm chập chùng ngả bóng thời gian, lẩn
khuất bao phận người phận nước nổi trôi.
Bạn cũ gặp nhau. Trong khói thuốc thơm, men
rượu nồng như còn đọng hương tháng ngày hào
sảng trước kia, họ kể nhau nghe chuyện nhà
chuyện đời.
Lắng nghe người bạn Việt Nam kể chuyện tù,
chuyện gia đình vợ con cách biệt cả một nửa
vòng trái đất, lòng Sam áy náy như chính mình
đã góp phần gây nên cảnh tang tóc điêu linh cho
hàng triệu người miền Nam. Anh xúc động nói
lời xin lỗi và cảm ơn người bạn cũ mà phần số
đẩy đưa đã cho anh cơ hội cứu vớt được đoàn
thuyền nhân tưởng đã phải chìm sâu đáy biển.
- Chính trường Mỹ là sân đấu football mà dân
Mỹ thì thực tế đến mức tàn nhẫn. Những ngày
cuối tháng Tư bảy lăm trên chiếc Hàng không
mẫu hạm Midway tao đã rớt nước mắt nhiều lần
mà rồi cũng chỉ bất lực đứng nhìn.
Sam mở nhạc, giọng ca Bing Crosby trầm buồn
truyền cảm cất lên... I'm dreaming of a white
Christmas. Anh đang mơ một Mùa Giáng Sinh
Trắng...
- Mầy còn nhớ bài hát không?
- Quên sao được! Giáng sinh 70. Mầy là thằng
sinh viên sĩ quan Mỹ độc nhất ở lại trường. Hai
thằng tình cờ ngồi chung bàn ăn, chuyện trò rồi
quen thân nhau.
- Hồi đó tao không có tiền về thăm nhà ở
Oregon. Mẹ! Ngoài trời tuyết bay, trong nhà ăn
thì thằng cha Bing rền rĩ I'm dreaming of a
white Christmas... buồn muốn khóc. Mấy năm
sau, trong ngày chiến dịch “Cơn gió thường
xuyên” (Operation Frequent Wind) đài phát
thanh quân đội cứ cho hát bài này trong lúc trực
11
thăng thì từng bầy thay phiên nhau đáp thả
người xuống mẫu hạm rồi bay đi. Nét mặt hốt
hoảng bi thương còn nuối ngoái phút giây từ biệt
đoạn trường của hàng ngàn người Việt di tản đã
ám ảnh tao rất lâu sau đó...
I'm dreaming of a white Christmas
Just like the ones I used to know...
Mùa Giáng Sinh Trắng bất thường. Mùa gặt ác.
Tháng Tư đen bất hạnh... Việt nghĩ tới câu hát
rồi lẩm bẩm một mình sau cái ngáp dài. Anh
dụi mắt nhìn quanh căn phòng lờ mờ vệt sáng
đầu ngày hắt qua ô cửa kính. Cơn giông biển đã
qua tự lúc nào.
Sam từ đài chỉ huy xuống, ồn ào bước vào
phòng với câu chào bằng tiếng Việt lơ lớ. Anh
ngồi nhỏm dậy, bật cười nhớ lại câu chuyện vui
lúc Sam còn làm sĩ quan cố vấn ở cùng giang
đoàn với anh.
- Sam, mầy còn nhớ câu chào tiếng Việt tụi tao
dạy mầy ở Đồng Tháp Mười ?
Sam thả chiếc xách hành lý nhỏ xuống sàn
phòng, lắc đầu cười theo.
- Không, nhưng tao vẫn còn nhớ nét mặt của ông
Chỉ Huy Trưởng lúc đó.
- Mầy chào “Đ.M. Chỉ Huy Trưởng cà chớn”.
Tụi tao nín cười suốt buổi họp suýt nghẹt thở.
- Mầy vẫn còn cười được là tao yên tâm rồi.
- Phải cười chứ! Đâu thể nào để thằng Kissinger
với bọn kí giả phản chiến bán luôn nụ cười của
mình được.
Sam ngồi xuống ghế, trao cho Việt phong thư.
- Xách áo quần của các sĩ quan nhỏ con nhẹ kí
trên tàu, hi vọng mầy mặc vừa. Còn đây là chút
tiền xài trong khi chờ vào Mỹ định cư. Trong
bao thư có cả địa chỉ của tao và gia đình ở
Oregon. Cứ liên lạc khi cần. Lát nữa sau khi ăn
sáng, đại diện thủy thủ đoàn trên tàu cũng sẽ có
chút quà cho đồng bào của mầy. Tiếc là trên tàu
không có y phục cho phụ nữ và trẻ em.
Hai người bạn xúc động siết chặt tay nhau.
- Tối qua tao đã liên lạc với Tòa Đại Sứ ở
Manilla nhờ giúp đỡ. Họ cho biết Trung Tâm Tị
Nạn ở Bataan sẽ đưa xe buýt ra chở thẳng
thuyền nhân về trại. Thật là may mắn vì đây là
nơi tiến hành thủ tục tị nạn cho đồng bào đã
được chấp thuận vào định cư ở Mỹ từ nhiều trại
khác nhau khắp cùng Đông Nam Á.
Việt lịm người theo nỗi vui vừa ập tới. Sam vỗ
vai bạn.
- Ê, thằng em. Mầy không tệ lắm đâu. Chạy
bằng cái buồm rách bươm thế kia mà vào thẳng
tới vịnh Binanga là khá lắm. Chừng mười giờ
sáng, sau khi chiến hạm vào vùng bờ biển
Mabayo, ca-nô sẽ đưa đồng bào cập vào
Morong. Từ đó xe buýt của Cao Ủy Tị Nạn Liên
Hiệp Quốc sẽ chở về trại.
Việt nén xúc động nhận chiếc xách từ tay bạn.
Vừa nhớm bước đi thì Sam gọi giật lại, anh ta
mồi lửa điếu thuốc PallMall gắn lên môi Việt.
- Suốt buổi sớm hôm nay trên đài chỉ huy, tao
ráng nhớ lại câu tiếng Việt tụi mầy dạy về thuốc
PallMall mà đành chịu.
- Phải Anh Là Lính Mời Anh Lên Lầu
Tiếng Sam ngọng nghịu lặp lại câu tiếng Việt
trộn giữa giọng cười vui khiến người thủy thủ
dẫn đường quay nhìn lạ lẫm. Anh ta chưa hề
thấy Hạm Trưởng của mình vui như thế bao
giờ. Người đàn ông Việt Nam im lặng đi cạnh
anh có lẽ cũng vui không kém. Đôi mắt ông rạng
ngời.
Mẹ con Nương sống qua hai mùa Thu Đông,
qua cái Tết mồ côi ở trại tị nạn Bataan mới có
chuyến bay. Anh Việt kịp đoàn tụ với gia đình
trước Tết. Ngày Nương dẫn bé Huy đi tiễn anh,
cháu khóc rấm rức mãi. Bãi trống trước chợ khu
Một buổi sáng hôm đó thành sân ga đưa tiễn sụt
sùi. Tháng ngày cùng nhau vượt chết, cùng qua
cảnh sống khó khăn dệt thành mối thân tình, nay
tới lúc chia lìa kẻ ở người đi như những cánh
chim bay cách biệt phương trời. Nương xúc
động nhìn anh bồng bé Huy nhớ lại đêm tàu đắm
kinh hoàng. Anh nhìn Nương nháy mắt mỉm
cười.
12
- Bác đi rồi cháu là đàn ông trong nhà cho nên
không được khóc nữa. Lúc đi tắm suối Huy nhớ
cẩn thận dắt mẹ qua cầu treo cho an toàn.
Cháu ôm anh Việt, gật đầu nghe lời bác dỗ dành,
gạt nước mắt tự hào nhìn mẹ. Chiếc xe buýt chở
đoàn thuyền nhân đi rồi, bãi đất vương bụi bàng
hoàng người ở lại trông theo. Hàng xoài lâu
năm trồng dọc khu nhà cuối trại vắng bóng anh
bước chậm rãi dưới bóng mát xanh rườm che
trưa nắng. Có khi Nương bồi hồi nhìn vệt nắng
xế qua hiên vắng cuối dãy nhà tưởng như còn
dáng anh ngồi đánh cờ trong lúc bé Huy khăn
tắm quấn người kiên nhẫn ngồi chờ.
Rồi tới ngày mẹ con nàng hồi hộp ngồi chờ xe
lăn bánh ra phi trường về quê hương mới.
Nương tươi cười gật đầu nhìn con khi bé Huy hí
hửng hỏi mẹ. Mình sẽ gặp lại bác Việt phải
không mẹ? Trong giây phút đó Nương đã thực
sự nghĩ anh Việt là người thân duy nhất mẹ con
nàng quen biết ở nơi phương trời xa lạ đó...
Nương thở dài đứng tựa bên khung cửa. Tuyết
vẫn rơi. Màn tuyết lặng lẽ phủ trắng vùng thao
thức sâu quá canh tàn. Hải đảo. Biển khơi. Thủy
mộ quan (*)
. Cõi lòng. Đau thương tình em
vương vấn vùng cửa biển điêu tàn.
Phan Thái Yên
(*) chữ từ tập thơ “Thủy Mộ Quan” của Viên
Linh
Rondel de L’Adieu Partir, c’est mourir un peu, C’est mourir à ce qu‘on aime; On laisse un peu de soi-même En toute heure et dans tout lieu, C’est toujours le deuil d’un voeu, Le dernier vers d’un poème; Partir, c’est mourir un peu. Et l’on part, et c’est un jeu, Et jusqu‘à l’adieu suprême C’est son âme que l’on sème, Que I‘on sème à chaque adieu; Partir, c’est mourir un peu. Edmond Haraucourt (1858-1942)
Bài Thơ Vĩnh Biệt Đi là chết ở trong lòng một ít Vì yêu thương mà phải chia xa Bởi nơi nào mà ta đã sống qua Đều lưu lại chút đời ta, kỷ niệm Trong tang lễ luôn có lời ly biệt Cuối bài thơ là câu viết một dòng Đi là chết ở trong lòng một ít. Ta hãy đi, và cuộc chơi nối tiếp, Phút cuối đời là vĩnh biệt chia ly, Linh hồn ta, mầm chia cách phân kỳ, Được gieo rắc trong những lần vĩnh biệt Đi là chết ở trong lòng một ít. Lê Ngọc Trùng Dương phỏng dịch
13
Đức Thánh Tổ Trần Hưng Đạo và những cơ duyên
Ngọc Nhung
LTS : Chị Nguyễn Thị Ngọc Nhung, thân hữu của GĐ/OCS tại Hawaii là một người đã tích cực đóng góp rất nhiều trong
việc tổ chức ĐH OCS12 tại Hawaii cho anh em chúng ta. Chị Ngọc Nhung hiện tại là Giám Đốc chương trình Viet Nam
Today's Vision (VNTV), tức Quan Điểm Việt Nam Ngày Nay, được thành lập từ năm 1998 tại Hawaii. Mục đích của VNTV là
góp chung với tiếng nói Người Việt Hải Ngoại để phổ biến tài liệu Tội Ác Cộng Sản, tin tức hữu ích cho cộng đồng người
Việt tị nạn trong đời sống mới, giới thiệu văn hóa Việt cho các sắc dân khác sinh sống tại địa phương. Điều quan trọng là
VNTV luôn đề cao chính nghĩa của người Việt tị nạn cộng sản. Năm 2004 VNTV đã thành công trong việc vận động chính
quyền địa phương đồng thuận Nghị Quyết Cờ Vàng Ba Sọc Đỏ. Năm 2005 cũng chính sự vận động của chị Ngọc Nhung đã
vạch trần tội ác của CS trong vụ thảm sát hơn 6000 đồng bào vô tội tại Huế Tết Mậu Thân 1968, nhờ đó đã đánh tan Nghị
Quyết Chị Em giữa Tiểu Bang Hawaii và Tỉnh Thừa Thiên Huế. Một thành tích quan trọng khác của chị là Bia Đá Vinh
Danh các chiến sĩ VNCH, Hoa kỳ và Đồng Minh đã hi sinh trong cuộc chiến để bảo vệ tự do cho Miền Nam Việt Nam đã
được khánh thành vào Ngày Quốc Hận 30 Tháng Tư, năm 2006, tại Memorial Park thuộc Nghĩa Trang Quốc Gia Thái Bình
Dương.
BTC/ĐH OCS 12 thành thật tri ân lòng hăng say giúp đỡ của chị Ngọc Nhung đối với GĐ/OCS chúng ta và xin giới thiệu bài
viết về Đức Thánh Tổ Trần Hưng Đạo của chị đến bạn đọc.
Trước tiên tôi xin thưa các bạn là tôi là một
người không viết văn giỏi, tôi chỉ kể lại những
sự hiểu biết mà ai cũng đã biết rồi và kinh
nghiệm của tôi liên quan đến Huyền Thoại
Thánh Tổ Hải Quân VNCH là Đức Trần Hưng
Đạo.
Đức Trần Hưng Đạo sinh năm 1228 tại
Thăng Long thuộc nước Đại Việt. Tên thật là
Trần Quốc Tuấn. Thân phụ của ông là Hoàng
Tử Trần Liễu.
Trong bối cảnh xung đột của hai triều đại Lý-
Trần, nên Trần Hưng Đạo đã được cha quyết
tâm tìm các thầy dạy văn võ để hy vọng con trai
của mình sẽ có ngày lấy lại danh dự cho gia tộc.
Vào giây phút lâm chung, Trần Liễu trăng trối
với con trai là phải trả thù chuyện mà ông nghĩ
rằng rất nhục nhã cho gia đình về chuyện Tướng
Trần Thủ Độ ép buộc ông phải nhường người
vợ, tức là mẹ của Trần Hưng Đạo, cho em trai
của mình là Hoàng Đế Trần Thái Tông. Đây là
mối thù nhục nhã của gia đình mà thân phụ của
Trần Hưng Đạo trao trọng trách lại cho ông gánh
vác.
Vào thế kỷ thứ mười ba, năm 1258, quân
Mông Cổ xâm lăng nước Đại Việt lần thứ nhất,
lần thứ nhì vào năm 1285 và năm 1287 là trận
14
chiến cuối cùng rất là khốc liệt. Đó là trận Bạch
Đằng Giang mà từ thuở nhỏ chúng ta đã học và
truyền tụng cho đời sau để hãnh diện và noi
gương Đức Trần Hưng Đạo.
Trần Hưng Đạo đã chứng tỏ là một vị tướng
lãnh xuất chúng trong những trận chiến thắng
đánh đuổi quân Mông Cổ xâm lăng vào nước
Đại Việt. Thời đó quân Mông Cổ đã xâm chiếm
vùng Trung Á Châu và Đông Âu Châu và mệnh
danh là Đế Quốc Mông Cổ. Đội quân Mông Cổ
gồm khoảng 300.000 của kỵ binh với lực lượng
chiến thuyền hùng mạnh nhất để họ đi đến đâu
là họ càng quét. Một đội quân bách chiến bách
thắng này đã đem sự sợ hãi cho thế giới thời đó.
Với lòng dũng cảm, trí thông minh cùng với
các chiến lược tuyệt luân của Trần Hưng Đạo,
nước Đại Việt đã hy sinh chống trả với quân
Mông Cổ qua 3 lần xâm lăng tàn khốc của đại
hùng binh này.
Một trong chiến lược của Trần Hưng Đạo là
thua thì trước khi rút quân là đốt phá thành trì,
Thành Thăng Long cũng phải bị đốt, lương thực
để quân thù không có lương thực và bệnh hoạn
rồi từ từ họ sẽ bị yếu dần. Lúc đó quân ta sẽ đột
kích đánh phản công và tìm cách đón đánh chặn
đường tiếp tế lương thực.
Qua các trận Yết Kiêu, Chương Vương, Vân
Đồn, Vạn Kiếp và Trận Bạch Đằng là trận chiến
khốc liệt nhất vì sau hai lần xâm lăng, quân
Mông Cổ không thể thắng chúng ta nên lần xâm
lăng thứ ba này là trận quyết tử giữa Mông Cổ
và Đại Việt.
Trần Hưng Đạo biết chắn chắn là quân Mông
Cổ sẽ tràn xuống Nam và giả thua bỏ chạy về
phía Nam bên dòng sông Bạch Đằng và âm thầm
cho quân đóng cọc nhọn bọc sắt dưới lòng sông
và dụ quân địch tiến qua sông. Lúc chiến thuyền
của quân Mông Cổ tiến qua sông thì nước lên
cao và Trần Hưng Đạo canh lúc nước sông sắp
rút thì đem quân ra đánh. Đánh giặc cầm chừng
cho đến lúc thuyền của giặc bị cọc nhọn đâm
lủng và chìm
Lúc đó quân giặc tiến hay lui gì cũng phải
chịu chết trong mưu chiến lược của Trần Hưng
Đạo.
Quân ta đốt cháy khoảng 400 đại chiến
thuyền của quân Mông Cổ tại dòng sông Bạch
Đằng. Lãnh tướng Omar của đội chiến thuyền
Mông Cổ này bị quân ta bắt và xử tử.
Là một người thuộc vương gia tộc, nhưng
Trần Hưng Đạo rất là an phận.
Hoàng Đế nước Đại Việt đã ban chức cho
ông là “Hưng Đạo Đại Vương”.
Ngoài ra lúc nhỏ chúng ta cũng biết câu thiệu
“vì nước quên thù nhà” là chỉ định Trần Hưng
Đạo. Một người văn, võ, tài, trí, đức...vẹn toàn
đã làm rạng danh lịch sử Việt Nam.
Năm 1301, Trần Hưng Đạo vì già yếu thọ
bệnh và qua đời vào lúc ông 73 tuổi.
Xác ông được hỏa táng và tro được rải dưới
gốc cây sồi được trồng trong gia trang của ông,
gần Thành Thăng Long, mà ông yêu thích. Việc
mai táng nầy là theo ý muốn của ông dù rất
nhiều người muốn ông được chôn cất như những
bậc quan vương nhưng ông chỉ muốn giản dị và
thanh nhàn.
Đức Trần Hưng Đạo là vị anh hùng của quốc
gia. Nước Việt Nam Cộng Hòa vinh danh
ngưỡng phục và tỏ lòng tôn kính ngài bằng
nhiều hình thức. Một trong cách tôn kính đó là
phát hành tiền giấy bạc như sau:
Viết đến đây, tôi xin có chút ý kiến là tôi rất
hãnh diện là một công dân của nước Việt Nam
Cộng Hòa vì khi quốc gia nhìn nhận Đức Trần
15
Hưng Đạo là Thánh Tổ Hải Quân Việt Nam
Cộng Hòa. Điều này tôi nhận rõ là quốc gia dân
tộc tôi:
Biết tôn thờ vị anh hùng quốc gia làm mẫu
mực cho dòng giống Lạc Hồng.
Biết tạo gương sáng cho thế hệ đi sau.
Biết tôn trọng đạo đức và tôn kính công đức
của tiền nhân.
Biết noi gương lòng yêu nước để quyết giữ
gìn giang sơn của tổ tiên.
Biết hy sinh chống ngoại xâm bảo tổn sự vẹn
toàn lãnh thổ.
Sau đây tôi xin kể lại kinh nghiệm của tôi
liên quan đến Huyền Thoại Thánh Tổ Hải Quân
VNCH Đức Trần Hưng Đạo.
Vào năm học đại học thứ nhất, tôi nằm mơ
thấy Đức trần Hưng Đạo rút gươm trao cho
tôi...tôi giật mình thức dậy và thấy sợ hãi. Sáng
hôm đó, tôi vào trường kể cho bạn bè, trong số
bạn đó có Nguyễn Thị Ngọc Điệp (hiện đang ở
Indiana) Nguyễn Thị Hồng Hoa (đang ở
VN)...còn vài đứa bạn đứng gần đó nhưng tôi
không nhớ kỹ. Sau khi nghe tôi kể về giấc mơ,
họ cười chế nhạo và đối thoại với nhau là:
“- Bộ mày không biết hôm nay là Lễ Trần
Hưng Đạo?
- Ủa tao đâu có biết. Đi học lu bù mà, giáo sư
thỉnh giảng từ Sài Gòn bay về đây
vào ngày lễ ngày cuối tuần liên tu bất tận thì
làm sao tao nhớ nổi.
- Đúng là con nhỏ này bị Đức Trần Hưng
Đạo hiện hồn về nhát mầy đó.
- Thôi tao sợ quá... tao thấy sợ quá nên kể
cho tụi bây nghe, bây giờ còn nhát tao nữa.”
Chỉ là câu chuyện nhỏ nhưng tôi nhớ hoài và
tôi còn kể cho cha nuôi của tôi là Đại Tá Nguyễn
Văn Y nghe vào năm 1983 trong lúc ông xem tử
vi cho tôi.
Câu chuyện thứ hai thì thực tế hơn.
Vào năm 2003, tôi có cơ hội đến tòa Tổng
Lãnh Sự Úc tại Hawaii. Trong dịp này tôi gặp bà
Jean Clarey, tức là vợ của cố Admiral Bernard
A. Clarey, chúng tôi trò chuyện về vấn đề Việt
Nam. Tôi có bà biết tôi là một người công dân
của nước Việt Nam Cộng Hòa và tỵ nạn cộng
sản qua Hoa Kỳ...từ đó chúng tôi trở thành quen
biết nhau. Bà đã lớn tuổi và mỗi lần gặp nhau
tôi thường kể cho bà nghe về những mảnh đời
khốn khổ của dân Việt cùng với những nỗi niềm
của người dân tỵ nạn...
Thưa các bạn, tôi không phải chỉ có nói về
những khổ đau của dân tộc mình mà tôi đã tạo
một chương trình VNTV vào năm 1998 để làm
phương tiện truyền đạt tư tưởng và phổ biến
những tài liệu lịch sử. Phương tiện truyền thông
này là một ưu điểm đã giúp cho bà Jean Clarey,
sau khi xem một số episodes của VNTV, quyết
định trao một món lưu niệm mà lúc chồng bà
mất đã trao lại cho bà cất giữ.
Chúng tôi hẹn nhau tại nhà bà. Bà ôm ra một
hộp gỗ bề dài 3 tấc, bề ngang 2 tấc trông rất là
cũ kỹ và tôi nhìn biết ngay là từ Việt Nam. Lúc
đó tôi nghĩ đến chiếc cầu bắt ngang qua Ford
Island trong khu vực Trân Châu Cảng mang tên
16
Hương trầm lắng cung trầm Chơi vơi giữa hợp âm sóng vàng Nơi đây một cõi dịu dàng Có em trong nắng tóc vàng xõa bay Bên nhau trên bãi cát này Nhắc nhau kỷ niệm những ngày xa xưa Mơ màng chợp mắt giữa trưa Ai thần tiên đó mới vừa ghé đây Mộng về vừa mới đầy tay Bổng con gió dại thổi bay mất rồi Soi mắt em tấm gương đời Cho ta thấy lại phiến đời lãng du
Di Truong
Sandy Beach, Honolulu
Đô Đốc Bernard Clarey, trong trí tôi chỉ biết là
mình sắp nhận một món đồ rất có ý nghĩa. Thật
vậy! Đó là bức tượng Thánh Tổ Hải Quân
VNCH Đức Trần Hưng Đạo do Phó Đề Đốc
VNCH Trần Văn Chơn đã trao tặng quà lưu
niệm cho Đô Đốc Bernard Clarey lúc hai người
gặp nhau tại Việt Nam.
Bức tượng rất đơn sơ nhưng về mặt giá trị
lịch sử thì tôi thấy mình ôm một trọng trách là
làm sao phải giữ gìn cẩn thận. Tôi thầm cầu
mong là bao giờ tại hải ngoại mà có được một
bào tàng viện liên quan đến ý nghĩa của bức
tượng, tôi sẽ sẵn lòng dâng hiến món cổ vật vô
cùng quí giá này. Từ lúc tôi giữ bức tượng đến
nay, tôi đã mang tay qua San José hai lần để làm
lễ. Đó là một vinh dự rất lớn đối với tôi.
Xin cám ơn các bạn và nếu có điều gì thiếu
sót, xin tha thứ và bổ túc.
Nguyễn Ngọc Nhung
Hawaii, Ngày 05, Tháng Giêng, Năm 2012.
Nguã mú trïn baäi vùæng
17
thơ Phạm Hồng Ân VỀ BIỂN 1. Rồi có lúc chúng ta cũng trở về biển
Cũng leo lên con tàu làm một chuyến viễn du Cũng trườn theo sóng Cũng lăn với đá Cũng dầu dãi như tro than Cũng phong trần như cát bụi.
2. Rồi có lúc chúng ta cũng đi vào huyền thoại Những thế hệ thủy triều xóa mất dấu vết chiến tranh Chỉ còn lại mảnh trời xanh Lặng lẽ bay ngang vòm nhà dưỡng lão Biển cũng thét gào áo não Trăn trở bạc đầu thế hệ mai sau.
3. Rồi có lúc chúng ta cũng đi vào huyền sử Những con dã tràng xe cát tạo hình Như bầy hải âu năm xưa đi tìm hoa biển Như con tàu mất phương hướng Như Anh mất Em Giữa giông bão đời người.
4. Rồi có lúc chúng ta cũng là thân tàu Kẻ trước người sau Tung tăng theo sóng. Rồi...biển cũng muôn đời là biển Chỉ còn chúng ta Tan tành như bọt nước... (8/2/2007)
TỊCH TỊCH MỘT HƯ KHÔNG... Em trần truồng kiếp hoa Treo giữa đời thơ ta Bốn phương là ngôn ngữ Rơi xuống cõi lòng tà. Ta phiến núi chân rừng Em lượn sóng lưng biển Tịch tịch một hư không Dẫn tình đi bất biến. Cởi tung vần điệu cũ Đôi vú chữ phau phau Em nằm trong giấc ngủ Lõa thể vẫy chào nhau...
(Escondido, 03/04/2011)
18
Thư Gửi Bạn
Việt Dân
Bạn mến,
Đã gần hai năm, tôi về ở tại thành phố này.
Trong căn nhà nhỏ thật tĩnh yên; buổi sáng; qua
khung cửa sổ, tôi không còn được ngẩn ngơ nhìn
ngắm những đồi thông ngút ngàn sớm chiều phũ
trắng sương mù. Tạm biệt thung lũng
Shenandoah Valley, với những rừng phong
thiên niên xanh mướt trong mùa xuân, và vàng
lên rực rỡ mỗi độ thu về. Shenandoah Valley
nằm khuất sâu trong vùng đồi núi Blue Ridge,
với nắng hanh vàng mùa hạ, màu núi như xanh
đậm hơn gợi nhớ dãy Trường sơn quê nhà. Về
tại thành phố này; chiều về, tôi không còn
được nhìn từng đàn thiên nga; theo hình rẻ quạt;
gọi đàn bay vút về phương bắc . Đêm về; tôi
không còn được nhìn thấy bầy nai thỉnh thoảng
dẫn nhau băng qua con đường nhỏ; đi xuống
con suối cuối chân đồi. Về đây, cuộc sống của
tôi như cô động lại trong tuổi về chiều. Về đây,
tôi đang khởi sự cho một cuộc hành trình khác.
Cuộc hành trình mà tôi không cần phải quay lại
nhìn để biết mình đã đi được bao xa và để biết
bao giờ sẽ đến đích. Cuộc hành trình mà tôi
thanh thản bước tới; và có thể; không được dịp
nói lời chia tay.
Một ngày lại đến, ly cà phê bình trà thật đơn
điệu bên cạnh dĩa điểm tâm giản đơn ; mà trước
khi đi làm; Thu đã cẩn thận sửa soạn cho tôi.
Ngoài kia nắng ấm tuôn tràn, trong vườn hoa
nhỏ bé; mấy cụm Tulip trẩy mầm xanh non
vươn lên mặt đất, và trên những cành anh đào
Yoshino đang trổ nụ, mấy con chim Cardinal
ríu rít chuyền cành tìm ăn. Mùa xuân đã đến,
đâu đó từ cuối chân trời mùi hoa đinh hương
thoảng lan trong gió, và thấp thoáng bóng dáng
mùa hạ đang chuẩn bị lên đường.
Bạn mến,
Tuy tâm trạng mỗi người mỗi khác, vào tuổi
sáu mươi, có ai trong chúng ta không phải trực
diện với cô đơn trống vắng. Bên ly rượu đậm đà,
bên ly cà phê thơm phức, bên tách trà nóng hổi.
Chúng ta hòa nhịp với nhau một cách dễ dàng,
cùng nhau ôn lại những chuyện của một thời đã
qua... Và trong cùng tận nỗi nhớ, chúng ta như
theo từng bước chân quá khứ trở về. Vâng,
người thủy thủ già tưởng như đang bước lặng im
trên bờ biển vắng; nghe sóng tràn bờ; mà cố đập
vỡ gương ký ức, ngược thời gian tìm lại những
chuyện một thời đã qua...
Chuyện một thời đã qua...Chuyện của những
tháng ngày Cà mâu, Năm căn. U minh, muỗi đói
đàn đàn. Đây Tân châu, Hồng ngự, một thuở ta
ngẩn ngơ nhìn em trên chuyến phà Vàm Cống
về Long xuyên Châu đốc, mà yêu thiết tha giọng
hát ầu ơ “...Đèn nào cao...”. Ninh kiều đó cho
những ngày Bình thủy, qua Mỹ tho, mà mơ
tưởng đến Kiến hòa. . Có phải nơi đây dưới hàng
dừa rợp mát, theo bước chân em mà ta tưởng
như đã thấy mối tình đầu.
19
Chuyện một thời đã qua..., những chuyến hải
hành. Sóng biển lên cao thịnh nộ, phủ chụp
mạn tàu. Chiến hạm lắc lư, vượt ngàn sóng bạc
thách đố biển khơi. Những đêm trăng, chiếc
PCF bềnh bồng ngoài khơi mũi Cà mâu, sông
Ông Đốc, Gành hào. Que diêm bật sáng đốt điếu
thuốc, ta để tâm tình theo khói thuốc tản bay, mơ
về phố thị, mơ tìm nhân dáng người thương.
Chuyện một thời đã qua..., Chiến hạm buông
neo, và hải đảo nào đây mà bàn chân ta đã từng
in dấu. Ghềnh đá nào năm xưa đã từng cắt xước
bàn chân người thủy thủ, có còn đứng đó đợi
chờ.
Đêm mùa đông, miền Trung rét mướt, gió mùa
thổi mạnh trên biển Đông như muốn nhận chìm
chiếc PCF ngoài khơi Đà nẵng. Vượt qua Cù
Lao Chàm, nghe lòng còn vương vấn Hội an.
Đây Chân Mây Đông, Thuận An, Cửa Việt, cồn
cát trắng kéo dài đến Mỹ thủy Hương điền.
Chiều đang đến và nắng đã dịu, gió nồm lên như
làm nghiêng cánh hải âu. Chiến đỉnh lướt nhẹ
theo đợt sóng, tôi ngồi trên đài chỉ huy mà nhớ
Huế khôn cùng. Huế đang vào Hè . Ở đó; có
người yêu tóc bay thơm mùi hoa bưởi, vẫn thơ
ngây viết lưu bút học trò. Trưa nắng hạ, Huế
miên man trong tiếng ve sầu, hay đang ngất
ngây say màu phượng vỹ. Huế thành phố của
tiếng chuông ngân buổi sớm, tiếng kinh cầu
chiều hôm quyện lẫn theo làn gió thơm hoa bắp
hoa cau. Trong tận cùng nỗi nhớ, tôi thảng thốt
như thấy đôi tay mềm mại đưa đẩy nhịp chèo
cùng giọng hò Nam ai, Nam bình, của cô gái
Huế trên sông Hương vọng lại nhặt khoan. Huế
ơi...ta yêu Huế vô cùng.
Chuyện một thời đã qua... Đêm xuống,
Thuyền phó H. báo cáo vị trí chiến đỉnh về
TTKS/ZH Đà nẵng, mà nhận ra rằng chiến đĩnh
nằm cách Đông hà quê hương tôi, trong vòng 50
mươi cây số đường chim bay. Đông hà, với tuổi
học trò. Nơi mà Mẹ đã không quản mưa nắng
dãi dầu, chắt chiu khoai sắn cho tôi cắp sách đến
trường. Đông hà quê hương tôi; dù thiếu thốn
nghèo nàn nhưng đã cho tôi tuổi ấu thơ, ngọt
ngào như lời ca dao và xanh thơm như đồng
lúa. Quê hương tôi; mặc dù nhận lãnh biết bao
nghiệt ngã khó khăn của chiến tranh, nhưng tôi
vẩn được dạy dỗ lễ nghĩa yêu thương.
Tôi nhớ khuôn mặt già nua của mẹ. Giờ này;
chắc mẹ đang chập chờn giấc ngủ trong căn
hầm tránh đạn pháo kích mà hằng đêm, người
cộng sản bên kia bờ Hiền lương đã không ngần
ngại sử dụng đại pháo 130 ly , hỏa tiễn 122 ly.
phũ chụp quê tôi. Tôi sao quên được đôi mắt
đục và nụ cười khô héo của mẹ. Ừ, làm sao
quên được những giọt nước mắt lưng tròng của
mẹ, khi tôi trở về thăm sau những tháng ngày
lưu lạc, rồi lại ra đi.
Chuyện một thời đã qua..., mùa Xuân nào
đang đến, sóng biển ào ạt vỗ vào ghềnh đá
Chân Mây Đông, mũi Đà nẵng, tung bọt trắng
xóa và ngoài khơi xa Hoàng sa đang dậy sóng
Bạch đằng. Thổi mạnh nữa đi gió biển; oai linh
Lạc Việt ngàn năm kết tụ, ta ngửng cao mặt tự
hào giống nòi Bách Việt, đoàn con của Hưng
Đạo Vương chặt tay lái, chiến hạm ta lướt
sóng, ghìm tay súng bắn tan tành lũ giặc Hán
bắc phương. Có phải nơi đây, tận cùng bể sâu
Hoàng sa, là nơi yên nghỉ anh linh của những
con dân Việt mang dòng máu bất khuất thề
nguyền Bình than Sát Đát, và đây cũng chính là
nơi thanh gươm ái quốc phán xét bọn mãi quốc
cầu vinh.
Bạn mến,
Đến đây, tôi không còn can đảm viết tiếp.
Ngày 30/4 lại đến, mặc cảm hèn nhát lại trở về,
đã bao nhiêu năm rồi qua đi, gửi tấm thân trên
một đất nước cho tôi thật quá nhiều lý do che
dấu sự ươn hèn của mình để mà sống yên thân.
Tuổi đời lên cao, Tìm đâu ra những giây phút
cùng với bằng hữu nghe chuyện “...Đạp sóng
biển Đông quay thế sự.”, làm sao còn “Gươm
mài ánh nguyệt bóng người xưa...”. Những hoài
bão mà tôi với bạn từng ấp ủ đã theo năm tháng
mòn mỏi thui chột. Rồi một ngày nào đó,
người thủy thủ già sẽ như võ ốc khô khan nằm
bẹp dí trên bờ biển vắng.
20
Bạn mến,
Tôi lại loay hoay với những hoài niệm quá
khứ. Tại sao ta không an nhiên hưởng thụ. Mặc
cho thế sự qua đi như nước chảy qua cầu. Tự cổ
chí kim; dù chí nhân hay cường bạo, dù đại
nghĩa hay hung tàn; có chế độ nào trường tồn
vĩnh cửu. Lịch sử sẽ chuyển xoay, tạo ra cơn
lốc xoáy cuốn bay đi rác rưởi tanh hôi.
Những dòng này gửi đến bạn vào mùa họp
mặt Gia đình OCS lần thứ 12. Tôi sẽ được gặp
bạn tại Hawaii, và có khôi hài không, vào tuổi
lục tuần chúng ta gặp nhau tại một nơi được
xem như vườn địa đàng của tuổi trẻ. Này bạn,
hãy cạn một ly cho ngày họp mặt. hãy cạn một
ly mà nhớ đền những thằng bạn ai còn ai mất.
Hãy cạn một ly để bạn và tôi được thả tâm tư
tưởng nhớ tới những tháng ngày bềnh bồng trên
sóng nước quê hương, và chúng ta sẽ gặp lại
những bến bờ yêu dấu của một thời đã qua.
Mong rằng bạn và gia đình sẽ cò những ngày
họp mặt vui vẻ thoải mái tại Hawaii.
Việt Dân
04/2012
Summer Poem
I will bring you flowers
every morning for your breakfast
and you will kiss me
with flowers in your mouth
and you will bring me flowers
every morning when you wake
and look at me with flowers in your eyes
Heather Holden
Bài Thơ Mùa Hạ
Mỗi ngày dùng bữa điểm tâm
Hoa hồng mang đến, em cầm tặng anh
Ân cần trao nụ hôn môi
Hương hoa thơm ngát trên đôi môi hồng
Sớm mai khi tỉnh giấc nồng,
Anh mang hoa tặng cho lòng em vui
Nhìn em anh hé môi cười
Ngàn hoa tươi thắm trao lời thương yêu.
Lê Ngọc Trùng Dương phỏng dịch
21
Từ Tượng Trần Hưng Đạo Đôi Dòng Tâm Cảm
Trần Quang Phước
Các bạn OC thân mến,
Mình được một vài bạn hỏi về bức THĐ,
Thánh Tổ HQ/VNCH. Mới đây, bạn Võ Tấn
Hảo có e-mail, thắc mắc:
"... Phước có thể cho anh em biết thêm chi
tiết về ý nghĩa,kỹ thuật, nghệ thuật và sử liệu về
sáng tác của bác không ? Thí dụ: tại sao Thánh
Tổ ngồi mà không đứng như thường thấy của
HQ năm xưa? Áo ngài đang mặc là áo trận, áo
quan? Ngón tay phải của Ngài đưa lên với ý gì ?
Ngài đang nghĩ gì? Làm gì? Tay trái cầm bảo
bối gì? Vũ Mục Di Thư để phát cho OC đi phục
quốc hay “Ten Commandments” để ném vào lũ
con cháu không bằng lòng lập hội ??Tượng
được tự chế, phỏng theo sử liệu hay Ngài hiện
ra trong giấc mơ làm mẫu cho Bác? Tượng chỉ
sơn màu đồng hay nhiều màu? Theo ý riêng của
tớ, nếu không biết rõ chi tiết và ý nghĩa thì
tượng Thánh Tổ sẽ khó hiểu và khó nhận ra dễ
dàng so với tượng Phước Lộc Thọ, Quan Công,
Trương Phi..."
Cuối thư, OC Hảo có lời P.S.: “Đây là thét
mét, tò mò của riêng tớ thôi đấy nhé. Bác nào
chả thích thì delete nó đi. Bạn nào thét mét
tương tự, xin nêu lên cho bác Phước trả lời luôn
thể."
Trước hết mình xin Cảm ơn OC Hảo đã han
hỏi chân tình, cụ thể, còn chúc mình “luôn luôn
thành công và tượng được bản bè chiếu cố”.
Nhưng qua nhiều lẫn thư đi, phone lại, kể cả trên
Bản Tin THĐ mới nhất, nhiều bạn đã có lời
khen ngợi mình, tuy nhiên lại hiểu lầm mình là
người tạc tượng. Mình xin được chuyển những
lời ca ngợi đó đến đích thân tác giả điêu khắc gia
Trần Huyền, có một thời ngồi ghế đại học kiến
trúc ở Saigon. Mình chậm trễ trả lời các bạn
cũng vì mình chờ tìm gặp tác giả, chuyển những
thắc mắc và mong khi mình trả lời thay, mọi sự
được trung thực. Cổ nhiên, mình vẫn còn trách
nhiệm phải kể ra với các bạn là mình tâm đắc gì
về bức tượng mà giới thiệu đến các bạn nhiệt
thành thế.
Anh Trần Huyền, người bạn nghệ thuật, đồng
điệu của mình, vốn không phải là một nhà điêu
khắc chủ trương làm tượng kiếm tiền. Anh làm
tượng vì những thôi thúc tâm lính, vì những suy
nghĩ trước hiện tình người Việt xứ người. Sống
22
trong môi cảnh mới, chúng ta xa hẳn cái nền của
văn hóa gốc, luôn cố gắng lẫn gọi kêu bảo tồn,
phát huy gia sản Văn hóa truyền thống. Các tôn
giáo lớn của đồng hương mình đã và đang làm.
Các khóa sư phạm và các trung tâm việt ngữ,
các Vietnamese New Year Festival, các lễ hội kỷ
niệm, các nhà làm Văn hóa, nghệ thuật, Văn
học, truyền thông.. đã và đang làm. Nhưng nhìn
chung, sinh hoạt tin ngưỡng, lễ hội nhân gian
(mình không nói là tôn giáo), và quá nhiều nhân
vật lịch sử Việt tộc đang mờ dần, đang bị bỏ
quên. Rải rác chỉ còn vài bậc tiên tổ được tưởng
nhớ, được làm giỗ, được phụng thờ tại nơi chốn
không phải miếu đền trang trọng đúng cách màlà
nơi lease, rent nhiêu khê. Hình ảnh những nhân
vật lịch sử kỳ vĩ đã khai quốc, gìn giữ và phát
triển đất nước như chừng chỉ còn là những dư
ảnh lung linh đọng sót trong hối tiếc hay được
cố duy trì làm bài học kêu gọi đấu tranh, thúc
giục lòng yêu nước thương dân khi cần. Một
Hùng Vương còn phụng thờ (nơi lease, rent) vì
là quốc tổ, không ai muốn mang tiếng mất gốc,
quên nguồn. Hai Bà Trưng được dựng lại vì chị
là Hội Phụ Nữ VN, là cựu học sinh một/những
trường Trung học lớn mang tên hai Bà. Một
Quang Trung được tưởng niệm vì anh là Hội
Tây Sơn Bình Định. Những Lê Lợi, Nguyễn
Trãi, Nguyễn Tri Phương, Hoàng Diệu, Phạm
Ngũ Lão, Phan Thanh Giản... đang còn vang
bóng đó đây, nhưng thu nhỏ trong đám hậu sinh
dính líu đến đoàn hội, câu lạc bộ mang tên các
Ngài. Vang bóng và thu nhỏ như làn sương
mong manh và cô lẽ trên rặng núi tuyệt tích (như
núi Văn Dzú của Thế Lữ). Lâu lâu hay mỗi năm
một lần, một ít trong đông đảo những vĩ nhân
lịch sử được nhắc rộ lên hay “phải lẽ" trong lễ
giỗ, lễ kỷ niệm có hương trầm, quả phẩm, nhang
đèn, và có...speech, mà nhiều khi thời gian
speech, phụ diễn văn nghệ, ăn uống là phần
chính của chương trình; Rồi các bậc tiên để lại
chìm vào im vắng... relax. Relax cả các Ngài lẫn
người tưởng mộ Ngài. Thế hệ chúng ta đang dần
quên, đang quên; thể hệ kế thừa sẽ quên thêm
hay mù tịt. Các bậc tiên đế, tiên tổ sẽ vùi dần
vào tro bụi phế hưng. May thay chưa ai kết án
chúng ra là sát thủ của lịch Sử. Có bạn bảo
chúng tư cần lăn bánh xe lịch sử tiến tới. Có bạn
cho rằng lịch sử không phải chỉ có một bánh mà
là nhiều bánh kết hợp lẫn nhau, bánh sau flat thì
bánh trước đành stop. Có bạn ví von làm lịch sử
như chơi một canh bạc lớn, dĩ vãng là tiền túi
đem đặt cựa, nếu không có thì đành...đứng dựa
cột. Có bạn so sánh trang trọng hơn, làm lịch sử
như làm một cuộc đầu tư vĩ đại, dĩ văng (dù vinh
dù nhục) vẫn là tài vốn, không Capital thì đừng
nói đến investment. Di sản văn hóa ( vật chất +
tính thẩn) là vốn liếng quý báu cho lớp kế thừa
nối tiếp công sức và khát vọng của tiền nhân.
Người Việt ly hương chúng ta có trăm cách
suy nghĩ, nghìn cách hành động để “phục Sinh
tâm Linh", để bảo tổn (chưa vội nói đến phát
huy) những gia sản tinh thần, văn hóa cao đẹp
cho chính mình, gia đình, cộng đồng. Anh Trần
Huyền chọn cách thế làm tượng danh nhân lịch
sử. Thoạt tiên, anh chẳng có tham vọng gì lớn,
anh chỉ làm riêng cho anh, cho đại gia đình anh,
cho bằng hữu cùng tâm hướng, trong lúc tất bật
với áo cơm, tài chánh. Nhưng sau khi tượng
thành hình, nhiều thân hữu đã đề nghị, thôi thúc
anh nên phát triển rộng hơn để những người Có
lòng cũng chia xẻ tác phẩm. “Có lòng", bạn
muốn hiểu sao cũng được. Là hoài cổ, là tốn cổ,
là phụng thờ, là tâng tiu kỷ vật, là góp. tay bảo
lưu, phục hoạt, làm đẹp văn hóa (nói hơi khoa
đại nhé!), là thưởng thức nghệ thuật, hoặc vì
Ngài là Thánh Tổ “phe ta”, hoặc vì việc làm của
Anh Trần Huyền đáng cổ vũ, hưởng ứng để anh
có vốn “tái sản xuất" và làm thêm sáng tác mới...
(Anh Huyền vốn mong ước có được điều kiện
sáng tác tiếp các tượng Quang Trung, Hai Bà
Trưng, Mạc Đăng Dung mài gươm (dưới
trăng...) Riêng mình, mình mến anh ở cách anh
suy nghĩ, nỗ lực và thực hiện.
23
Với bức tượng THĐ, anh cặm cụi gần ba năm
để sưu khảo tượng cỗ ở VN. Anh vui mừng khi
mua được một tượng Thánh Trần sứt mẻ, long
gãy ở một ngôi đền hoang phế trên một con
đường SG bị đổi tên thành Võ Thị Sáu. Anh
tham cứu các tư liệu lịch sử và đón nhận sự góp
ý chỉ bày của người hiểu biết, của bằng hữu mến
mộ anh. Mình hiện còn giữ một bức tượng anh
thực hiện ban đầu để có thể so sánh được với
tượng đã hoàn chỉnh như bây giờ. Mão đồng tử
tròn nhẵn và phẳng lì với khăn lót nay đã được
ghép thành 4 múi với những hàng đinh tán linh
động. Khăn gáy đã chìm dưới vành mão sau.
Khăn quàng cổ trước đây thắt gút và thả trễ
tràng trước ngực nay được thắt sát cổ, nút thắt
gợn rõ sau đôi chòm râu hàm vờn nhẹ. Vành hoa
văn trước mão đã được chạm trổ kỹ lưỡng hơn.
Khuôn mặt Ngài từ thong thả đã thành chữ điền
cương nghị với lông mày và bộ râu quắc thước.
Tất cả làm tăng thêm dũng khí cho một vị soái
tướng 3 lần đánh bại Nguyên Mông hung tàn.
Trên toàn bức tượng, phần y áo, gươm của Ngài
được sửa chữa nhiều nhất. Lớp giáp hai vai và
bắp vế từ một mảnh liền nay được tách làm hai
và xếp ngói lên nhau, tạo nên sự hợp lý trong co
duỗi, đi đứng. Các họa tiết khắc chạm chìm nổi
trên giáp ngực, trên áo thụng, trên hài ủng, trên
thành và lưng ghế đã được cập nhật theo hình
ảnh sử liệu đời Lê, Trần. Chiếc gươm gác bên
chân đã nổi dài thêm với vỏ kiếm, đốc kiếm
được chạm trổ đẹp hơn theo ý kiến của võ sư
Trần Hoàng Huy, người đã và đang phát triển võ
truyền thống dân tộc, đặc biệt võ Tây Sơn Bình
Định ở Cali và Canada. Chất liệu của loạt tượng
ban đầu bằng thạch cao Paris dễ vớ, nay được
thay bằng hợp chất bột đá cứng pha kim loại,
tượng đã thành nặng và rắn chắc hơn. Trường
kiếm rất dễ gãy, mới đây đã được để khuôn bằng
chất nhựa dẻo có thể bẻ cong được. Tuy trái
Ngài cầm cuốn Binh Thư Yếu Lược. Bốn chữ
này có khắc rõ nét trên 2 trang lật ra. Đây là bộ
hình thư lừng danh trong lịch sử VN, định danh
và định thời trong việc khai sinh khoa hình pháp
nước nhà. (Theo sử liệu, Ngài còn viết Vạn Kiếp
Tông Bí Truyền Thư, gọi tắc là Vạn Kiếp Binh
Thư. Cuốn này đã thất truyền. Có soạn giả cho
rằng VKTBTT, được Ngài viết riêng cho hàng
quốc thích, khanh tướng nội triều, cũng có thể
cho riêng gia tộc, với văn phong và nội dung
uyên áo, cao đẳng hơn BTYL. Lại có nhiều nhà
nghiên cứu cho rằng các tên VKTBTT, VKBT,
Binh Giải Diệu Lý Yếu Lược, Binh Gia Yếu
Lược hay BTYL cũng chỉ là một. Dù sao thủ
bản sao chép BGYL vẫn còn lưu truyền và được
nhiều dịch giả tại Sàigòn dịch ra từ lâu). Tay
phải của Ngài chỉ ngón trỏ lên khiến ta nghĩ
ngay Ngài đang truyền dạy bình thư cho ba
quân. Chúng ta còn nhớ, binh thư của Ngài
không chỉ luận bản ròng về chuyện tổ chức binh
bị (người và khi cụ), chiến pháp mà còn cả đạo
đức, cốt cách người chỉ huy. Bạn có thể thoải
mái nghĩ rằng Ngài đang răn đe hay vạch mặt
giặc thù lẫn lũ vương tướng, lãnh đạo xôi thịt,
hối lộ, bức hiếp sĩ chốt và dân lành:
24
Chí những muốn moi gan lấy tiết
Lòng những toan xé thịt vằm da
Dù thân rầu với cỏ hoa,
Dù da ngựa bọc thây đà cũng vui.
(Hịch Tướng Sĩ, Cụ Cử Nguyễn Văn Bình
dịch ra thơ từ Hán Văn)
Tại sao ngón tay chỉ trời? Biết đâu Ngài đang
nói về 3 phép đắc thể “thiên thời, địa lợi, nhân
hòa”. Biết đâu Ngài đang bàn chuyện trời trăng,
mây gió, vì chương mở đầu binh thư phân tích
khí tượng liên hệ với nhân tình, thời thế? Ngày
nay, chương “Thiên Tượng" này được xem là
thẩn bí, thiếu khoa học, nhưng nếu bạn đặt mình
vào thời đại Ngài với tư tưởng Dịch Học, bói
Dịch, bói Quả, Độn số... sẽ thấy kiến thức của
Ngài quả là bác học. Cậu bé Trần Quốc Tuấn
một thời từng sống bên sông nước, ruộng đồng,
túi khôn về khí tượng của nhân gian không phải
là cậu không nằm lòng: Chớp đông may máy, gà
gáy thì mưa, Chuồn chuồn liệng thì nắng, Chim
én liệng thì mưa; Ráng mỡ gà, ai có nhà phải
chống; Móng dài trời lụt, móng cụt trời
mưa...thế thì tại sao khi làm Hưng Đạo Vương,
khi giữ chức vụ Tiết chế, lại nói chỉ những điều
“bí hiểm”, “tối nghĩa”, “phi thực tế”, “phản khoa
học” về những hiện tượng của thiên nhiên? Bạn
và mình chưa bao giờ thử lấy những bài học khi
tượng, thiên văn của hải quân chúng ta, nào
cumulus, stratus, cirrus clouds, hoặc mây kết
dạng cirro, strato, nimbo hoặc ráng đỏ, ráng
vàng với cấp gió, cấp sóng, sắp giông hay bão;
năm con trăng tròn méo với nước rong, nước
ròng... để so sánh., kiếm tìm chân giả trong
những bài học của Ngài. Ít ra, chương “Thiên
Tượng" bí nhiệm đó vẫn có giá trị như một
chứng liệu để nghiên cứu về một nền văn hóa,
về quan niệm của tiền nhân? Bạn cũng có thể
thoái mái nghĩ rằng, với ngón tay chỉ thiên, biết
đầu Ngài đang luận bàn triết lý tam vị “thiên,
địa,nhân", hay biết đâu chừng đang khảng khái
tỏ bày cái ý đại đế
Khí hạo nhiên chí đại chí cương
So chính khí đã đầy trong trời đất
(N.C.Trứ)
Bạn cứ việc thoải mái nghĩ rằng... vân vân và
vân vân.. về ngón tay của Ngài. Mình cũng đã
hỏi anh Trần Huyền sao không làm tượng đứng
như dân Saigon đã quen thuộc. Anh cho biết,
anh nhắm vào tượng có thể thờ, có thể chưng
bày trang trọng, lại nữa không muốn và không
dám copy theo ai. Anh và mình, đôi lúc thấy
trong cộng đồng thờ tự những mẫu tượng danh
nhân nước nhà với hình dáng lệch lạc, màu sắc
lòe loẹt... mà buồn. Cổ thì sĩ Quách Tấn, tong
cuốn “Xứ Trầm Hương” có lần “vương vương
nỗi sầu” khi thẩy tượng Thiên Nữ Yana thờ tại
Tháp Bà, Nhatrang, bằng gỗ trầm hương đã
được (hay bị ?) sơn phết màu sắc lớp chồng lớp
thật...đau mắt, xót dạ. Mình nhớ, nhà thơ Q.Tấn
kể thêm, hàng tháng có lệ làm lễ thay xiêm y
cho Thiên Nữ vì cũng xem là có...period như
bao phụ nữ khác. Các bạn ở Châu Đốc hẳn còn
nhớ tục tắm Bà Chúa Xứ khi nửa khuya rạng
ngày 24. Một số tin nữ được chọn riêng lo nghi
lễ này, kín đáo che chắn, thay mặc xiêm y mới,
tắm rửa, kỳ cọ, lau khô rồi tẩm ướp nước hoa
cho Bà. Nước tắm được xem như nước thánh,
uống vào để lành bệnh trừ tà. Xưa này, lễ lạt
nhân gian như thế (để những nhà sử học, nhà
văn hóa có dịp bàn về sự cộng sinh hay tồn sót
của tin ngưỡng Chăm, Chàm) thì biết đâu việc
uống nước tắm của Vô Thượng Sư Thanh Hải
như lời loan đồn lại là một motif tín bái (cult)
sao y chánh bản người trước?
Các bạn thân mến,
Không khéo mình lại lạc đề mất rồi! Có lẽ
mình đang lúng túng để trả lời câu hỏi của OC
Hảo về nghệ thuật của bức tượng. Chắc chắn có
nhiều bạn chấm điểm khác nhau: A, A+, B, B-,
C,... Mình chỉ có thể nói được ý riêng của mình
về nhiều mặt, nhiều nguyên do.
Có lẽ trong ngành Visual Art, điêu khắc ít
được bàn đến, bình giải, phê phán so với hội
25
họa. Các danh tài điêu khắc trên thể giới cũng
không được nhiều người thuộc tên. Phổ cập,
người ta thường nhắc đến các bậc thấy Leonado
Da Vinci, Michelangelo, Titan, Giovanni Pisaro
như những nghệ sĩ cung đình và giáo hội, hoặc
Auguste Rodin, một second God có thể thổi sức
sống và linh hồn vào đá thạch (mable) trong các
danh lượng rất romantic... Thật ra, điêu khắc đến
rất sớm với nhân loại, không chừng sớm hơn cả
hội họa. Ta không thể bảo các hình vẽ nguệch
ngoạc trên các vách động đã là tác phẩm hội
họa tiền sử. E là cưỡng gượng. Các nhà khảo cổ
cho đó là hình vẽ sơ phác để cụ thể hóa những
kính nghiệm săn bắn, canh nông, hình dụng các
thú vật, cây cối mà người này muốn truyền đạt,
dạy nghề, giải thích cho người khác khi ngôn
ngữ, chữ viết chưa có. Để thờ cúng đa thần,
người tiền sử đã sớm biết khắc đẽo các tượng
Thần như ý họ nghĩ (totem). Dĩ nhiên họ khắc
đẽo với lòng thành kính và cẩn trọng. (Ngang
đây, lịch sử nghệ thuật lại nảy ra một câu hỏi
vẫn chưa có giải thích trọn vẹn: Sơ khởi, hội họa
để truyền dạy kinh nghiệm, điêu khắc để phục
vụ tin ngưỡng, vậy âm nhạc phát sinh lúc nào và
nhằm phục vụ cái gì? Phải chăng những âm
thanh ê a, thần bí do các tay phù thủy hay Chủ tế
trong tộc bộ vẽ vời, thêm thắt đã là bước đầu
cho khai sinh âm nhạc?)
"Phước hãy cho anh em biết về nghệ thuật
bức tượng." Bạn hỏi mình một câu khó đấy.
Ngay hai chữ nghệ thuật (art) cũng đã khó định
nghĩa cho trót lọt. Nó lơ mơ, vô biên tế, vô định
tính,... như chữ love vậy. Nếu không, tại sao
trong suốt thể kỷ 20, người ta (toàn các tay
experts của nghệ thuật đấy, từ nghệ sĩ, luận gia
đến triết gia) cứ loay hoay mãi với từ aesthetics!
Rất sớm trong thượng bán thế kỷ này, xuất hiện
nhiều tay formalist với những lý thuyết (aka
defìnitions) đã nở rộ lên. Đến trung kỷ, một loạt
các tranh cãi lại nổ ra, phần nhiều chịu ảnh
hưởng của học phái khoái Wittgenstein. Thế mà,
giải thích hai chữ nghệ thuật vẫn là điều bất
khả. Mission impossible! Cho nên, về ý nghĩa
ngón tay chỉ thiên của Thánh tổ, mình vẫn...lửng
lơ con cá vàng. Mình không thể lấy cái nhìn của
mình gắn vào mắt bạn, không thể lái cái nhìn
của bạn hay dụ cảm bạn đi trên một đường rail
độc đạo. Nghệ thuật không bao giờ đơn tuyến.
Bạn thử nghe Huy Cận sống trong hạnh phúc
của một tình lang cần mẫn dỗ giấc cho người
tình (Phạm Duy phổ nhạc)
Em ơi hãy ngủ anh hầu quạt đây
Lòng anh mở với quạt này
Trăm con chim mộng về bay đầu giường
Ngủ đi em, mộng bình thường
Ru em sẵn có thùy dương mấy bờ...
Anh mộng hay em mộng? Chim bay ngoài trời
hay trong trí tưởng? Chim là hình ảnh ví von, hư
cấu hay hiện hữu? Hay chim chính là hình vẽ
trên quạt, khi quạt phe phẩy, chim như tung lượn
vỗ cảnh, một biến thành trăm? Nếu chim là hình
vẽ thì hàng thùy dương cũng là hình vẽ trên quạt
hay mọc trên đất?...Tất cả những tầm dò, tra vấn
trên sẽ giết hồn thơ, ý thơ. Cái hồn thì để cảm.
Cái ý thì nằm bên ngoài ký tự chữ nghĩa. Hãy để
thơ cho ta uống một viên ecstasy, sống trong
trạng thái mơ mơ màng màng, chập chờn nữa
tỉnh nửa mê, thực và mộng quyện vào nhau
trong cơn say nhẹ. Say ngủ, say tình. Ngủ thật,
ngủ giả. Ngủ vờ, ngủ vội. Chẳng cấn thắc mắc,
chỉ biết một hạnh phúc nguy nga tráng lệ có thật.
A ha! Nghệ thuật lấy cải giá nói cái thật, và
ngược lại. Nghệ thuật không phải là con toán.
Nhưng nếu là con toán, đáp số tùy bạn, tùy
những thông số trong bạn, sở thích, tư kiến,
nhận thức thẩm mỹ, quan niệm sống, cá tính,
tình cảm, kinh nghiệm đời... Mình muốn kể cho
bạn nghe một câu hò (hay câu thơ cũng thế) của
người Huế rất bình dị.
Cầu Trường (Tràng) Tiền sáu vại mười hai
nhịp
Anh qua không kịp em đã lấy chồng.
Tội cậu con trai quá! Chậm chân mất vợ! Cưới
vợ phải cưới liền tay kia mà! Nay cậu tự trách
hay trách người tình lỡ? Chưa kịp khay trầu, đầu
heo, em đã... đá giò lái. Gái Huế chi mà dễ thay
26
lòng đổi dạ rứa! Mới thề thốt đó mà bây chừ đã
nuốt chữ thủy chung! (Vô vàn xin lỗi các bậc nữ
nhi Thần Kinh, đây chỉ là ví von, diễn nôm thì
phú cho dzui thôi!!!) Câu thơ nói lên thiện ý hay
ác ý? Tự oán mình hay phỉ hận, mắng trách kẽ
bạc tình? Hãy để cho thơ sống hồn nhiên, lãng
đãng giữa chân và giả, giữa thiện và ác, giữa nụ
cười và nước mắt, giữa hạnh phúc và khổ đau
(thú đau thương mà!)...hãy để cả hai đối cực hòa
quyện nhau. Nghệ thuật đúng nghĩa đứng
trên, đứng ngoài những quy kết, ước lệ, nhị
nguyên. Bạn sẽ hỏi tiếp : Vậy thì nhất nguyên!?
Vâng, nhưng nhất nguyên hiểu theo cách thể nào
đây? Đạo khả đạo phi thường đạo. Hèn chi khi
giải kiến và thưởng thức một tác phẩm nghệ
thuật, chúng mình cứ vấp phải một khối ngữ
nghĩa vô trụ, vô ngôn như: creative instinct,
inner compulsion, more inspired, profound
truths, free & paphazard manner, noble themes
& impersonal form, true spririt, instintive
feeling & motion, wordless communication, v.v..
Nghệ thuật có lẽ sống còn nhờ vuột khỏi thường
nghiệm như vuột khỏi lưỡi hái từ thần. Dân Huế
cũng có một câu ca dao rất tình (lại xin nói về
đực rựa Huế cho huế cả làng!)
Trời mưa ướt bụi ướt bờ,
Ướt cây ướt lá ai ngờ ướt em.
Không hiểu có phải “em đến thăm anh một
chiều mưa" không đây. Tội tình chỉ mà để mưa
thấm và gió lạnh hành hạ thân em “vai gầy dáng
nhỏ, mộng đỏ trái sầu”. Cũng chỉ vì thương anh
mà đằm mưa, trải gió đến đây. Biết làm răng mà
đến tạ tấm lòng em! Bạn ơi, coi chừng hai chữ
“ai ngờ" và “bờ bụi” đầy hậu ý. Này, tui nói cho
cô biết, có đục vào lùm cây bụi cỏ mô, làm cái
trò trong dâu dưới bộc với thằng...chó đẻ
nào??? . Nếu là tay bốc lửa Trương Phi, ghen
tuông còn hơn Nguyễn Bính, và ám ảnh dâm
tình thì còn ghê gớm hơn. Tui biết tỏng cô rồi.
Kim đâm vào thịt thì đau. Thịt đâm vào thịt nhớ
nhau suốt đời. Cô đã quen hơi bén mùi. Gió cấp
9 cấp 10 cô vẫn kỳ khu đi tìm thằng dểu để hẹn
hò bờ bụi. Quả thật, chúng ra sẽ thắt cố thơ khi
cứ chơi cái trò “phụ đề Việt ngữ” đó. Luận lý cú
vọ làm méo mó thơ. Thơ hay nghệ thuật nói
chung đã dùng chiếc bè kỹ thuật (chữ nghĩa, âm
thanh, nét vẽ...) để đưa ta đáo bỉ ngạn chân thiện
mỹ. Qua sông rồi, phải bỏ bè.
Bạn cứ thử nghiệm xét cảm xúc bạn ra sao
khi cho chim mộng, chim vẽ là một. Bạn thử đo
lường xem hứng cảm, thích thú của bạn thể nào
để cho cô-gái-Huế -Trường-Tiền và cậu-trai-
Huế-bờ-bụi kia đứng ở vị thể lưỡng tính cả thiện
lẫn ác, cả đúng thương lẫn đúng ghét, đáng tội
lẫn đáng trách. Cái đẹp hay mỹ cảm đích thực
của con người là một cảm thức tự nhiên, khai
mở, hướng thượng. Nó bay lượn tự do, vô
nhiễm. Khó mà cáo buộc nó, ngược lại, tự nó là
cáo trạng đối với mọi ràng buộc, mọi khuôn
phép, dù đó là đạo đức, tín điều, chủ nghĩa, ý hệ.
Nhân Văn Giai Phẩm rồi hồi sinh. Nhạc Vàng
vẫn sống mạnh. Tự Lực Văn Đoàn lại phổ biến.
Phạm Duy trước 75 có lần bị bức tử nhưng vẫn
sống dai, sống vững. Chiếc lồng chính kiến, cho
dù là lồng son gác tía, khó nhốt được những
cánh đại bàng nghệ thuật. Có nhốt được, cũng
chẳng dài lâu.
Bạn Hảo ơi,
Cho phép mình tránh né phần câu hổi hóc
búa của bạn. Nhưng thật ra, khi bức tượng làm
bạn nghĩ đến Vũ Mục Di Thư, Ten
Commandments thì bức tượng cũng đã chở bạn
bay lượn trên đôi cánh nghệ thuật rồi. Nghệ
thuật đến từ trực quan, trực cảm và cũng có tác
năng kích hoạt, làm bay nhảy trực quan, trực
cảm của người thưởng ngoạn. Bạn cứ thoải mái
nghĩ về...ngón tay chỉ thiên theo ý bạn!
oOo
Trở lại vấn đề, vì sao mình thích tượng
Thánh Tổ của anh Trần Huyền? Đơn giản vì đẩy
là...một bức tượng. Một bài thơ, một bài văn có
thể được truyền đạt theo các dạng thái khác mà
vẫn không làm giảm ý và sức truyền cảm :
xướng ngâm, xướng đọc, dịch qua ngôn ngữ
27
khác, viết thành kịch bản, diễn tuồng, đóng
phim. Bài nhạc cũng tương tự, có thể soạn cho
hát bè, đơn ca, chơi bằng nhiều nhạc cụ khác
nhau, phổ biến trung thực thật nhanh qua phát
sóng, phát hình, kết hợp với vũ, kịch. Nhưng
một tác phẩm điêu khắc, bạn thấy đẩy, rất thiệt
thòi. Bản thân nó tự cưu mang cùng kiệt sự hiện
hữu, và sứ mệnh của mình. Cô đơn. Thử thách.
Bất trắc. Giữa nó và người thưởng lãm phải mặt
đối mặt, không thể cậy nhờ bất cứ trung gian
nào. Điêu khắc (đặc biệt với tượng nhỏ) bù lại,
có may mắn là có thể sao chép thành nhiều bản
mà vẫn không làm giảm cái lình hồn, cái thể
tính, cái dáng vẻ của sáng tạo bạn đầu. Còn một
bức họa nhái lại, dù là vẽ tuy thật khéo hay in,
chụp, cũng đều... chán chết. Mình yêu tác phẩm
điểu khắc vì thể. Bức tượng còn gợi lên một trời
kỷ niệm chập chùng. Nó làm mình nhớ đến bức
tượng Ngài đứng dũng liệt trên sông Bạch Đằng
xưa cũ. Nơi mình đã chập chững bước dần vào
đời hải nghiệp. Trại Tạm Trú lãnh quân trang.
APL thăng thiên độn thể. Hàng cây rợp bóng
bốn mùa và gió sông mát mẻ ru mê quần thể
những dinh cũ, xưởng sở thân thuộc. Rồi những
lúc hụ còi ra sông, bao lần trở về tắp bến. Đi hay
về, bao giờ cũng ngang qua tượng Ngài, đen,
sừng sững. Không thắng được giặc, ta thề không
trở về mà qua sông này. Sao những vĩ nhân, lãnh
tụ, vương tướng thường có cung cách, phát biểu
giống nhau thể, hay những sử gia khi viết lại
chuyện xưa thường cường điệu theo một biển
ngẫu, ước lệ ? Văn Thiên Tường đời Tổng, làm
bài Chính Khí Ca, có câu: Hoặc vi kích tặc hốt,
Nghịch thụ Đầu phá liệt ( Bẻ chèo sau lúc quá
giang. Tổ sanh quyết chí dẹp tan giặc Hồ). Đó là
tích Tổ Địch dẫn quân đi đánh, sang khỏi sông,
bẻ quách chèo mà rằng: Không dẹp xong giặc, ta
thề không về mà qua sông này. Lại nhớ, xưa
Trần Bình Trọng nói với quân thù : Ta thà làm
quỷ nước Nam còn hơn làm vương đất Bắc. Đời
sau, Hoàng Đế Bảo Đại cũng tỏ bày với quốc
dân : Trẫm thà làm dân một nước độc lập hơn
làm vua một nước lệ thuộc.
Bức tượng Ngài đã bao lần chứng kiến mình
đi bờ hay đi phép về muộn, bước thoăn thoắt lên
cầu thang tuần dương hạm Phạm Ngũ Lão HQ15
neo bến và trình diện Phan Xuân Trung Lưu
điểm danh. Lưu cũng thường trễ muộn, lại là dân
Nha Trang với nhau, nên huề cả làng nếu hạm
trướng, hạm phó không hay. Là tay hũ chìm, có
lần trong tiệc giải khuây trên tàu, Lưu chỉ ly bia
và đố anh em: Bọn bây nhìn hai con ruồi đang
nhắp rượu nè. Đố biết con nào đực, con nào
cái? Anh em suy nghĩ, bàn tán rồi lắc đầu. Lưu
khế khà giải đáp: Dễ ẹt. Con nào chìm nghỉm là
con cái. Anh em lao nhao nhặng lên: Vì sao? -
Hà hà, Con cái bị leak và chìm vì có cái... lỗ.
Tiếng cười lất khất, giọng nói cả khịa của Lưu
có lẽ giờ này đang vang động bên Lưu Linh, Lý
Bạch ở một chân trời viễn phương ngàn mộng...
Bức tượng Thánh Tổ cũng làm mình nhớ đến
một người bạn cố tri, HQ Tr/úy Bửu Việt, em
của họa sĩ Nguyên Khai. Thời học quân sự ở
Quang Trung, hai đứa được chỉ huy trưởng gọi
lên vẽ mô hình thiết kế một tượng đài, lại còn
phụ nhau trang trí đặc san. Những lần đi bờ,
B.Việt thường dẫn mình về nhà và được mẹ Việt
săn sóc ân cần, nấu cho những món ăn Huế đặc
sắc. Nhưng ấn tượng để đời vẫn là đôi mất của
anh Nguyên Khai. Cả một trời viễn mơ trong
đáy mắt đen láy tinh anh, sâu thẳm vời vợi, với
giọng nói trầm, chậm. Về sau mình cũng giật
mình gặp lại những ánh mắt tinh anh hội tụ
khác, ánh mắt của cuộc lữ rong chơi, giỡn đùa
sử lịch, văn thơ hoằng viễn... nơi Bùi Giáng và
Tuệ Sĩ. Việt thường đem khoe mình những tiểu
họa phẩm thuận tiện làm bìa hay phụ bản. Rồi
binh nghiệp tách mỗi người một nẻo. Sông hồ
nào cũng chảy về biển. Sao con người thời chiến
chinh vẫn xa lắc xa lơ. Qua thấu Mỹ, liên lạc với
anh Khai, mới hay B. Việt đã mất tích trong năm
75. Có thể trong lúc chạy loạn. Hay đã gục ngã
dưới phát đạn oan nghiệt hung tàn lúc miền Nam
hấp hối? Anh Khai dặn: Phước nhớ tới thăm Mạ
mình. Bà Cụ sẽ mừng lắm, chắc sẽ hỏi nhiều về
Việt. Mình chần chừ không đi thăm, sợ Cụ thấy
28
mình sẽ nhớ và xúc động chuyện con. Mới đây
hay tin Cụ mất, lòng cứ ray rứt. Có lần B.Việt
ghé ngang thăm vợ chồng mình ở Nha Trang.
Khuôn mặt luôn luôn tươi tắn, nói cười huyên
thuyên, pha trò dí dỏm. Phước nè, mình được
gọi về phụ với mấy tay đàn em lo tạc 12 con
giáp trên công viên trước trường HQ Nhatrang.
Việt dẫn mình xuống bãi biển công viên xem
một phần công sức của Việt. Ở một góc công
viên, đền Đức Thánh Trần đang xây dang dở.
Giờ đây vật đổi sao dời, không biết cảnh cũ
người xưa ra sao. Tượng của Trần Huyền hồi
sinh lại những tình bạn không ngờ. Mới đây, OC
Phan Thiện Ái, khi liên lạc mình để đặt mua
tượng, lại nhắc nhở thời cũng làm đặc san Hải
Âu OCS, lông bông ngồi quán café phố thị ở quê
nhà, chuyện con cái...
Tượng gợi lại ngày xưa không chỉ duy tình
bạn mà còn tình lứa đôi nữa. Ảo trắng đi bờ, áo
lam đi phép, bao giờ cũng nôn nóng gặp người
yêu. Những ngông ngạo nếu có trong tình yêu,
biết đâu cũng chỉ là học đòi nòi tình của Hưng
Đạo Đại Vương vốn đánh giặc đã dữ, ái ân cũng
bạo. Đại Việt Sử Ký Toàn Thư kể rằng hồi đó
vua Trần Thái Tôn gã Công chúa Thiên Thành
cho Trung Thành Vương. Vua gửi Công Chúa
đến ở trong dinh của Nhân Đạo Vương là bổ của
chủ tế để chờ ngày đám cưới. Vua cũng cho mở
hội lớn 7 ngày đêm trong triều ngoài nội, ý
muốn báo cho ai ai cũng biết ý định Vua. Vương
tử Quốc Tuấn muốn lấy kỳ được công chúa
Thiên Thành, “ban đêm lên vào chỗ ở của Công
chúa, thông dâm với nàng” (ĐVSKTT). Ly kỳ ở
chỗ, khi chuyện đến tai vua, vua sai người đến
tại nơi giải quyết, quả thẩy Quốc Tuấn đang hiện
diện, bấy giờ bố chàng rể mới hay biết. Vua
đành cấp 2000 mẫu ruộng để bồi hoàn sính vật
cho chú rể và đành cho Quốc Tuấn và Thiên
Thành gá nghĩa trăm năm. Ly kỳ khác, Công
chúa Thiên Thành là vai cô của Vương tử Quốc
Tuấn (em của thân phụ) . Triều Trần, dưới tay
sắp xếp của thái sư Trần Thủ Độ, chủ trương
hôn nhân nội thích (trong huyết thống hoàng
gia) để tránh lọt vương quyền sang tay dòng họ
khác nên hành động của Quốc Tuấn là
theo...truyền thống. (Các sử gia đời sau khen
triều đại nhà Trần cường thịnh vẻ vang nhưng
loạn luân quá đáng!). Thời đó, vương tử Trần
Quốc Tuấn còn trẻ, chưa ra làm tướng, chưa viết
Binh Thư Yếu Lược, nhưng chiến thuật “tốc
chiến tốc thắng”, chiến pháp “xuất kỳ bất ý” của
chàng trong tình trường quả là lợi hại. Nếu có
bại, thì chàng cũng “hớt trước" chú rể rồi, cũng
nhờ sự đồng tình, đồng thuận của Công nương
Thiên Thành. Người chồng hụt Trung Thành
Vương, cũng là bậc vương tử tài đức, nhưng làm
sao sánh bằng Vương tử Quốc Tuấn, ngoài tài
đức lại đầy dũng và trí; mặt khác Quốc Tuấn và
Thiên Thành từng sống gần gụi nhau từ bé,
chung một mái nhà (do Công chúa Thụy Bà săn
sóc) tình yêu ắt bén lửa từ lâu. Có lẽ, Công chúa
Thiên Thành khi thẩy Quốc Tuấn bất ngờ đột
nhập the phòng, lòng dù lo vẫn mừng khấp khởi
và chắc đã đồng thuận
Chén hà sánh giọng quỳnh tương
Dãi là hương lộn bình gương bóng lồng
(Truyện Kiều, Nguyễn Du)
Là con cháu của Hưng Đạo Đại Vương, Hải
quân chúng ta mấy ai không lả lướt (???). Riêng
mình, lù khù thư sinh, không làm nỗi “Chuyện
lớn” như Ngài, lại không đủ đảm lược hét lên
những lời ca dao như chàng trai vùng sông Cửu,
sông Hậu:
Dao phay cặp cổ, máu đổ ào ào
Chết thì anh chịu, cũng nhào theo em
Mình lại không may mắn có người tình da diết,
dữ dội như gái miền Nam:
Anh về, em túm áo la làng
Bỏ chữ thương chữ nhớ lại giữ đàng cho em
(Ca dao)
Nên mình chỉ biết láo ngáo tỏ tấm chân tình
bằng mấy lời thô lỗ nhưng rất tín mộ. Vâng, tình
yêu khi say đắm sẽ thành sùng bái. Tình yêu là
một tôn giáo, một tin ngưỡng.
Kính mừng Em đầy ơn phước
Ta ở cùng Em
29
Em có phép lạ hơn mọi người nữ
lại có khi:
Ta thiền sư ngồi nhập định đêm vàng
Chờ đốn ngộ : ngộ tình, ôi lẫm liệt
Gió lồng lộng cõi ta bà tha thiết
Thân du du và trí thoát mang mang
Cứ như thể, trôi qua một thời trẻ dại, ngông
cuồng. Tượng Thánh Trần vẫn cứ đứng đó, chỉ
tay xuống dòng sông Bạch Đằng, chứng kiến
bao cuộc bể dâu của thời đại, bao vinh nhục,
thăng trầm của chính sự, quốc biến. Nhưng hãy
tin đi, hàng ngày vẫn có những con chim nhỏ rất
lẻ loi đậu trên vai hay núp nắng dưới chân Ngài
hát rất Say sưa về những cuộc tình lứa đôi đang
diễn ra trên cảng trước mắt Ngài, trên ghế đá
công viên ngay dưới chân bệ tượng của Ngài.
Thời đó, bạn và mình đã bao lẩn băng ngang qua
tượng Ngài, còn nhớ không những bước chân
thoăn thoắt với trái tim ứa tràn hạnh phúc, hay
bước chân chùng nặng của gã tình si bị thất hẹn,
với trái tim tím bầm những nỗi bất hạnh. Còn
nhớ không... Bức tượng đứng cũ... Chúng mình
bây giờ tóc đã muối tiêu, có đứa phơ phơ vôi
bạc, thường nhớ về bức tượng, nhớ lời thể vang
trên sóng nước, nhớ bàn tay nắm chặt đốc
kiếm... Mộng ngày, mộng đêm gươm ơi hãy
vung lên khỏi vỏ. Mình biết bên trời Âu có
người, không, nhiều người, rất đông đảo người,
cũng giở lại Bính Thư Yếu Lược, cũng học và
hành bài học tâm công, cũng lo làm sao quy tập
bậc hiền tài, người hữu trí, bỏ qua những đố kỵ
nhỏ nhẹn, làm tiền đề cho gươm vung khỏi vỏ.
Bức tượng mới cho mình những lãng đãng hồi
ức và chập chùng hướng vọng như thể.
Bức tượng cũng gợi lên những suy nghĩ về
hiện tượng tín ngưỡng nhân gian độc đáo của
Việt tộc: tục thờ thần hoàng. Đó là nhân vật cụ
thể, gần gũi đồng bào, hữu công với dân với
nước, Trần Hưng Đạo đã trở thành Thánh vương
và được thờ kính, lập đền nhiều nhất so với các
thẩn nhân, thần mẫu hữu thực hay vô thực khác
trên toàn đất nước. Từ một nhân vật xương thịt
được kính ngưỡng vì dũng trí, đa mưu, đức độ,
cứu nước, an dân đã trở thành vị Thánh mà thể
phách, linh hồn đã dần dà được con dân tin là có
sức uy vũ siêu nhiên. Mình nhớ hồi ở quê nhà,
có nhiều lão ông, cụ bà khẩn vái Ngài cho tai
qua nạn khỏi, phước lộc hạnh thông. Nghe nói,
ngày nay Ngài đã được Hội Sử Gia ( hay Hội
Quân Sử Thế Giới?) của Hoàng gia Anh quốc
công nhận Ngài là một nong những danh tướng
lẫy lừng của nhân loại. Tại sao người Việt có
những bậc nhân thần oanh liệt như thể lại không
thờ kính, lại đi bái lạy Quan Công, Trương Phi,
Quách Quì!
Bức tượng làm sống lại trong trí những thắc
mắc lẫn ao ước. Tại sao một đất nước trải dài và
đối mặt với đại dương trên 4000 năm qua vẫn
chưa có một dòng văn học rõ nét liên hệ nhiều
đến biển ngoài hình ảnh ruộng nương, sông ngòi
kinh rạch vẫn chiếm ngôi cao. Nhiều nhà nghiên
cứu cho rằng văn minh Việt Nam là văn minh
lưỡng song, pha trộn văn hóa hải dương lẫn văn
hóa lục địa. Nhưng rõ ràng, cứ lấy văn học làm
thước đo, ta sẽ thấy ý kiến đó chưa thuyết phục,
cho dù xưa nay dọc theo ven biển vẫn có rất
nhiều làng xã làm hai nghề nông và ngư. Trong
lúc chờ lúa trổ đòng hay chờ thời vụ, dân làng
lại túa ra khơi đánh cá. Lịch sử cũng ghi hồi xưa,
cha ông ta thường bị nạn cướp biển, bọn hải
khấu phương Nam quấy nhiễu, nhưng cũng
không nói rõ ta chiến đấu với chúng ra sao,
thẳng thua thể nào. Chỉ có những chiến tích trên
sông được ghi ký kỹ càng. Những chuyện xảy ra
trên biển như Trần Khắc Chân cứu Huyền Trân
Công Chúa, chuyện vượt biển của Chúa Nguyễn
Ánh lúc gió nồm, chuyện Yết Kiêu, Dã Tượng
đục ghe địch,... thảy thảy đều không chú trọng
mô tả hay bàn nhiều về biển. Nội dung văn học
lẫn sử học các nước Âu Mỹ phản ảnh rõ ràng vai
trò biển gắn bó thiết cận với đời sống nhân dân.
Cũng bởi họ sớm phát triển nền văn minh kỹ
thuật hàng hải phục vụ cho thương mãi, quân sự
và mở mang thuộc địa. Nước Anh, nơi mà
cương vực không bao giờ tắt ánh mặt trời, văn
chương và bài hát về biển nổi cộm. Trom Moby
30
Dick (Mỹ) , Treasure Island, Kidnapped (Anh)
thường xuất hiện các bản ca của những tay vẫy
vùng biển khơi.. Hãnh diện 4000 năm văn hóa,
đất nước chúng ra vẫn con trâu, cái cày gỗ, đánh
cá vẫn rất cận duyên, văn học biển không có bề
dày. Buồn chứ! Sơ sài có vài điệu hò khoan, hò
kéo lưới, một số tục lệ thờ cúng Ngư Thẩn, tế tự
, cầu vái ở miền biển còn sót lại của người
Chiêm Thành, Chân Lạp, chừng đó có đủ gọi là
văn hóa biển chưa? Trong thế kỷ qua, từ khi đất
nước du nhập kỹ thuật và quân sự hàng hải, các
văn nhân, thì sĩ Hải quân thành hình, thêm ẩn
tượng sâu sắc của cuộc vượt biển 54 và sau 75,
liệu có đủ cường độ định hình nên một dòng hay
nền văn học biển? Có ai đã cất công sưu khảo
việc này chưa? Lại chờ!
oOo
Các bạn OC thân mến,
Nếu các bạn cho phép mình được bày tỏ như
Martin Luther King, mình sẽ nói về những ao
ước của mình.
Giả sử bạn có một bức tượng THĐ trong
nhà... sẽ có những lần khi bạn nhìn ngắm hay
thoáng thấy trong trí tưởng bạn sẽ dậy lên những
kỷ niệm êm đềm hay hào hùng của đời hải
nghiệp. Những sông dài biển rộng, những phố
thị đông vui, những thị trấn heo hút, đầu non
cuối biển, kinh rạch leo lách. Những cấp chỉ
huy, những bằng hữu, những thuộc cấp và cả
những địch thù. Nhớ hết một thời từ đầu quân
đến tan hàng. Những vinh nhục, khổ vui...Tất cả
trở về như những thước phim sinh động.
Giả sử bạn có một bức tượng THĐ trong
nhà... sẽ có những lần những bậc cha anh của
bạn, khi nhìn thẩy tượng, sẽ nhớ về vùng trời
thành xuân, những miếu đền linh thượng, những
lễ hội nghi ngút khói hương với cờ xí rập rờn,
lời tế trang trọng, xướng ca hòa vui, nô nức đầu
làng cuối thôn. Nếu những người trưởng thượng
của bạn từng sống ở Hà Nam, Nam Định, Thái
Bình, Hà Nội, là những nơi tập trung rất nhiều
đến thờ Đức Thánh Trần, mình tin rằng kỷ niệm
sẽ chập chùng hình ảnh, vang động âm thanh,
man mác tình quê.
Giả sử bạn có một bức tượng THĐ trong
nhà... sẽ có những lần con cái bạn hay bạn bè
của chúng thắc mắc, vấn hỏi bạn. Đó là lúc bạn
được dịp dạy cho chúng tình tự quê hương, đất
tổ, nói với chúng về một thời lịch sử hoàng kim,
về khóa học của bạn tại Mỹ, về những kinh lạch,
kiến. thức lái sông vượt biển, về những thăng
trầm trong đời làm lính, về mối tình nồng đượm
hay ngày tháng trông chờ giữa “mẹ mày và tao
thể đó". Nói rất nhiều không hết!
Giả sử bạn có một bức tượng THĐ... chưng
tại phòng khách, sẽ có lần người bạn ngoại quốc
của bạn tò mò han hỏi. Bạn sẽ có dịp tỏ lòng
kiêu hãnh con dân có được một danh tướng tài
ba, làm kinh hồn bạt vía đại quân xâm lăng từng
chinh phạt Châu Âu, thâu tóm vương địa người
Hồi, tràn chiếm Nga, Tàu mênh mông bờ cõi.
Bạn còn có dịp nói thêm về nghệ thuật điêu khắc
Việt Nam khác và giống những gì khi so với
nghệ thuật Trung Quốc, Miên, Lào. Nói mấy cho
vừa!
Giả sử bạn có một bức tượng THĐ trong
nhà... bạn sẽ có thêm niềm vui bất chợt hay
thường xuyên, nhìn ngắm lúc trà dư tửu hậu,
chiêm ngưỡng lúc điếu thuốc trên tay, hớp bia
trong miệng, đồ nhắm thơm phức, bạn bè quần
tụ. Ơi những chàng trai một thời nay đang độ
tuổi Đề Đốc hay tướng phó!
Bạn thấy đó, giấc mơ của mình dung dị,
những điều chân thật rất dễ xảy ra nếu bạn có
một bức tượng.
Thân Chào các bạn,
Trần Quang Phước
31
hòn sỏi rơi
1. không dưng viên sỏi góc đời lịm ta ngày cũ về ngời buổi nay buộc vào hư nguyện thư bay rưng ngàn trăng lệ giữa ngày lung lao ơi em thương thế sương bào một viên sỏi lạnh chạm vào thiên thu những âm ba lượn sóng mù trong xưa niềm nụ rất phù du em
2. gửi em người nữ âm thầm thả tà áo biển neo trầm vực sâu hồ yên em khéo gieo cầu lạc ta ngõ bước buổi đầu phất phơ lũng trong mắt giếng mơ hồ gia ân trói buộc phỉnh phờ cuộc chơi với môi má nửa cợt cời với ta còn lại khóc cười nhân gian
huyền cầm Armik - Stolen moments một thoáng em trong tôi lục huyền âm reo vội lung linh xa đảo nắng tinh mơ dáng em ngồi - Alone with you cùng với người nơi đây trong sững đứng tháng ngày nụ em cười trong cõi mông lung tiền kiếp lay - Mystical Eden vườn Eden thoáng nhớ khuôn viên buồn nhỏ nhoi không tròn đôi chân bước khập khiễng tôi vào đời
thú vuä hoaâng thû
32
Ngã Ba Sông
Phạm Hồng Ân
Chú thương mến,
.....Phải chi cháu có cánh, cháu sẽ bay lên chú,
ngay bây giờ. Để được ngao du cùng chú khắp
biển rộng sông dài. Được nghe tận tai những
viên sỏi rạo rực dưới bước chân. Được thấy
sóng vỗ triền miên, trắng xóa trên các cửa sông
đâm thấu ra biển khơi...Con gái mới lớn có
những mộng mơ lý thú, phải không chú? Thế mà
ba mẹ cứ rầy mắng cháu suốt ngày....
Tôi gấp bức thư cháu Thuyên lại, hoảng hốt
ngó ra con lộ. Thỉnh thoảng, những chiếc xe nhà
binh chạy qua, tung bụi mịt mù. Thỉnh thoảng,
vài người lính đi bộ, mồ hôi nhễ nhại. Có người
cởi tung cả nút áo, để lộ bộ ngực trần đen mun.
Mùa nắng. Nắng quái ác, đổ lửa xuống căn cứ
Đồng Tâm. Nắng như thiêu như đốt. Như điên
như dại.
Lúc này, nếu Thuyên đáp xe đò bạt mạng
xuống đây. Tôi không biết phải dắt Thuyên về
đâu? Phòng sĩ quan giang đoàn như ổ chuột. Các
giường cá nhân đầy người. Hàng đêm, tôi phải
mò xuống cầu tàu, chui vào chiếc Tango hoặc
Alpha nào đó, ngủ bụi đời. Giả thử, phòng sĩ
quan có trống chỗ, cũng không dám để Thuyên
ngủ thảnh thơi giữa đám đàn ông thô bạo. Lúc
nào, thấy con gái đàn bà, họ đều muốn nhào vô
cắn xé. Nếu có chỗ ngủ hẳn hoi, cũng không biết
dẫn Thuyên tắm đâu? Ăn đâu? Khi mỗi chiều,
tôi phải lội bộ xuống khu tiếp liệu, tắm lộ thiên
với đám lính tráng chổng ngổng chồng ngồng.
Và bây giờ - cuối tháng - túi cạn tiền, tôi không
thể đưa Thuyên xuống nhà bếp, lục gạo sấy với
cá hộp tuna, lấp đầy cái dạ dầy xẹp lép.
May thay, vài ngày trôi qua, tôi nhận được lá
thư khác của Thuyên:
Chú thương mến,
...Phủ về Bạc Liêu, đúng lúc cháu có ý định bay
lên chú. Thôi, đành phải ở lại tiếp nó. Mấy năm
rồi, hai đứa không gặp nhau.
Lúc này, con nhỏ đẹp gái ra. Nó nhắc chú
luôn. Sao? Chú có ý định lấy nó làm vợ
không???...
Tôi thở phào, nhẹ nhõm. Phủ đã cứu tôi. Nàng
đã đưa vai, thay tôi, chia cái gánh nặng, giữa
đường. Nhắc đến Phủ, quá khứ lại trỗi dậy, tuổi
học trò với những cánh thư mật ngọt tình yêu.
Quá khứ hiện lên ngôi trường Hưng Đạo, khu
chợ Thái Bình. Cái quán cà phê ba tàu đầu
đường Cống Quỳnh. Những ly đen nhỏ đắng
nghét cuộc đời. Những điếu thuốc cháy rụi kỷ
niệm. Để ngồi chờ một hình bóng tưởng tượng,
trong đám con gái học trò tan học, mỗi chiều.
Quá khứ trỗi dậy, bắt đầu từ lá thư của Thuyên,
khi tôi còn là cậu học trò ngáo ộp, ở Cà Mau.
Chú thương mến,
...Đọc thư chú, cháu cứ khúc khích cười mãi.
Con Phủ, bạn cháu, nó cũng cười chú suốt buổi
học. Nó chê chú cù lần quá chừng! Mười tám
tuổi rồi, vẫn chưa có con bồ làm vốn.
Phủ thích chú đấy! Chú viết thư làm quen Phủ
đi! Nó là con bạn dễ thương nhất của cháu...
Thế là, những lá thư xuất hiện. Lúc đầu, thưa
thớt chỉ đôi dòng. Dần à, dày đặc tới vài trang.
Rồi, chi chít những chữ, dằng dặc cả trăm câu.
Cho đến khi...tình yêu nẩy nở, nhớ thương lẫn
lộn, tôi vẫn chưa biết mặt Phủ, chưa gặp nàng
một lần.
Lúc lên Sài Gòn, chuẩn bị vào đại học. Tôi lại
nhận được lá thư ngắn của Thuyên.
33
Chú thương mến,
...Bây giờ, chú đã lên Sài Gòn. Khoảng cách
giữa chú và Phủ đã thâu ngắn lại, chỉ còn trong
gang tấc.
Như vậy, chú nên tạo cơ hội để hai người gặp
nhau, biết mặt nhau đi! Viết thư hẹn Phủ ở một
nơi nào đó, tùy chú!...
Tôi viết thư hẹn Phủ ở cái quán cà phê ba tàu,
đầu đường Cống Quỳnh. Nơi đó, từ căn nhà trọ
bên Phạm Ngũ Lão, tôi có thể tà tà ngang chợ
Thái Bình, ung dung kéo ghế ngồi ngoài hiên
quán, nhấm nháp chút cà phê đen đậm, chờ đến
giờ Phủ tan học. Nơi đó, tôi có thể ngó qua ngôi
trường Hưng Đạo, ngơ ngác tìm bóng dáng Phủ,
trong vô vàn những bóng dáng xa lạ đang tung
tăng, nô đùa. Rồi...tôi ngồi chờ, chờ mãi, chờ
mãi...Chờ...đến khi...ngôi trường khép cửa,
những ngọn đèn néon cháy lên, thắp sáng hai
chữ Hưng Đạo trắng tinh, trên vòm cao của một
góc tường khép kín. Cái quán cà phê cũng trống
vắng, buồn tênh. Chỉ còn tôi là người khách cuối
cùng, duy nhất ngồi trước hàng hiên, nối tiếp đốt
những điếu thuốc đợi chờ trong tuyệt vọng.
Lần đó, Phủ không đến. Để biện minh cho sự
thất hẹn đó, tuần sau, nàng gửi tôi một lá thư
giãi bày.
Chú yêu dấu,
...Phủ không thể đến với chú, nơi cái quán cà
phê lu bu và đầy phức tạp như thế được. Chỉ
tưởng tượng đến hàng chục khuôn mặt đàn ông
sần sượng, ngồi thu lu nhả khói liên tục trong
các góc quán chật hẹp đó, là Phủ đã khiếp vía,
hồn xiêu phách lạc đi rồi! Chưa kể đến lúc Phủ
phải loay hoay, ngơ ngác tìm chú. Tìm một
người chưa biết mặt bao giờ, giữa đám đàn ông
lố nhố xa lạ kia! Rồi...nhóm bạn học của Phủ
nữa!!! Tụi nó sẽ chọc ghẹo không tha, khi thấy
cháu đang bơ vơ, lạc lõng...trong cái thế giới kỳ
cục ấy...
Như thế, tính đến nay - gần ba năm quen Phủ -
chúng tôi vẫn chưa biết mặt nhau. Vậy mà,
những bức thư qua lại đã mang đầy ngôn ngữ
yêu đương, chín mùi thương nhớ. Tôi phải tìm
cách ra bưu điện chiều nay, để đánh cho Phủ
một điện tín báo tin. Biết đâu, nàng sẽ ngẩn ngơ
và mừng rỡ, khi hay tin tôi từ địa ngục Năm Căn
bỗng chường mặt về Mỹ Tho - một tỉnh lỵ thơ
mộng chỉ cách thành phố Sài Gòn chưa đầy một
trăm cây số.
Nếu không có khu thương mãi, căn cứ Đồng
Tâm chỉ là cái đồn lính khô khan và buồn tẻ.
Khu thương mãi vui tươi, nhộn nhịp - với quán
cà phê nhạc, quán ăn, quán nhậu...nối dài. Bên
cạnh, ngôi chợ Đồng Tâm, tuy bé xíu, nhưng
vẫn sôi động với phiên chợ sáng tấp nập. Huyên
náo suốt ngày, là các tiệm may, tiệm sửa quần
áo lính...Ở đấy, đa số các cô thợ may vừa chớm
xuân thì, đua nhau lượn đôi tay nõn nà trên bàn
máy, lôi cuốn đám lính tráng si tình tới lui như
trẩy hội.
Quán ăn, tôi thích nhất,phải kể Cát Thành
Long. Đầu tháng, túi chưa cạn tiền, tôi thường
đến đó ăn cơm thịt nướng. Quán này, thịt nướng
rất ngon. Dĩa cơm chưa kịp đưa ra, mùi thịt đã
bốc lên thơm phức, làm tôi nhớ đến những
miếng thịt nướng vàng hực của má tôi ở Cà
Mau. Má tôi thường nướng thịt trên lò than đỏ
hồng, lúc anh em tôi quây quần bên nhau, trong
những ngày giỗ ông bà hay tết nguyên đán. Lần
nào, ở các dịp đó, tôi thường đứng bên bếp lò,
nhìn bàn tay má cần cù trở miếng thịt tới lui,
nhìn giọt mồ hôi lăn dài trên trán má - mà lâng
lâng thương bà, thương số phận phụ nữ sao lắm
đa đoan, sao nhiều hệ lụy?
Duyến kéo tôi vào một quán nước. Tiếng nhạc
vang lên, ồn ào. Âm thanh loảng xoảng như
mảnh thủy tinh vỡ nát trên nền gạch thô. Ánh
đèn mờ mờ, bên trái, soi loáng thoáng những
khuôn mặt lính tráng trẻ măng, ngồi dài dài bên
tách cà phê. Bên phải, hai bàn bi da lẹt đẹt,
nghiêng nghiêng, nằm phơi mình dưới ánh sáng
của ngọn đèn néon trong xanh.
- Bà chủ... ơi! Cho bi.
34
Duyến gọi lớn. Giọng Quảng Trị nằng nặng
cất lên vang dội. Hắn cố át đi cái âm thanh đặc
quánh của chiếc máy Akai, đang rỉ rả những bản
nhạc sến nghiêng nước đổ thành. Một cô gái tóc
dài, gương mặt bầu bĩnh, dáng dấp nhà quê, vội
vã bước ra. Những trái bi đỏ trắng, tròn hoay - từ
bàn tay thon thon của cô bé - lăn xuống mặt bàn.
- Cho anh hai cà phê đá, một gói capstan.
Đêm đã khuya. Khu thương mại chìm trong
bóng đen. Cửa quán đã khép kín. Những chiếc
bàn đã xếp lên, ngăn nắp, gọn gàng. Cái máy
Akai cũng tắt tiếng nhạc, khiến đêm chợt yên
tĩnh một cách lặng lẽ.
Bà chủ quán thở dài sườn sượt, kéo lê đôi dép
lẹp kẹp, uể oải đi vào phòng ngủ. Chỉ còn cô gái
ngồi trên ghế, khoanh hai tay trước ngực, đăm
đăm nhìn xuống nền xi-măng.
Tôi bỗng ngó mái tóc cô bé, thốt lên những lời
vô nghĩa:
- Tụi anh chỉ ở đây đêm nay. Mai đi xa rồi.
Thông cảm nhé!
Cô bé ngước mặt lên. Mái tóc chuyển động,
mênh mang. Đôi mắt lấp lánh, sâu như một hang
động bí hiểm.
- Thế ư? Đi... rồi có trở lại không?
- Thỉnh thoảng. Nếu có trở lại, anh sẽ ghé
thăm bé, chịu hông?
Tôi buông cơ, tiến về cô bé. Ánh trăng bên
ngoài lọt vào cửa sổ, rớt lên khuôn mặt nàng
một màu vàng bạc. Tôi chìm vào ánh trăng, đưa
bờ môi lên đôi má bầu bĩnh dễ thương.
- Anh muốn làm quen với bé. Chịu hông?
Tôi làm quen với Tuyển dễ dàng. Những lần
đến quán, lựa lúc vắng khách, ngồi nghe nàng
tâm sự, cũng là nỗi thú vị mang mang của người
lính độc thân.
Tết đến, tôi viết thư cho Phủ, báo tin sẽ về Sài
Gòn, gặp nàng tại bến cảng Trần Hưng Đạo.
Ngày hẹn, tôi sẽ mặc áo vàng, quần zin. Túi áo
giắt một lá thư màu hồng của Phủ. Trên tay, cầm
thêm quyển vở học trò, bìa xanh nước biển. Tôi
dặn dò tới lui, cẩn thận nhiều lần, nhắc nhở Phủ
phải đến, không thể không đến...
Tôi chạy về Sài Gòn, trên chuyến xe tốc hành
cuối cùng của đêm ba mươi tết. Đêm nay, tôi sẽ
đón giao thừa với gia đình anh tư tôi, nơi một
con hẻm nghèo nàn vùng Phú Nhuận. Để ngày
mai, ra chỗ hẹn gặp Phủ, dễ dàng hơn.
Căn nhà anh tôi quá nhỏ. Nhỏ như bụm tay
của người khổng lồ trong truyện thần thoại. Nó
chỉ đủ kê chiếc giường, bên cạnh một bàn thờ,
lúc nào cũng sực nức trầm hương. Còn lại, là lối
đi bé xíu, dẫn xuống bếp nấu ăn, diện tích chưa
đầy một thước vuông. Đêm nay, tôi sẽ thức
trắng với anh tôi để ôn cố tri tân, và còn lắng
nghe tiếng pháo giao thừa, nổ vang trên bầu trời
Phú Nhuận.
Tôi trở lại Đồng Tâm, khép kín các cuộc vui
vẫn còn đang tưng bừng, náo nhiệt khắp nơi
trong đô thị. Tôi trở lại với vòng rào kẽm gai,
bằng nỗi chán chường, rã rời. Phủ không đến
bến thương cảng, gặp nhau, như thư hẹn. Nàng
bắt tôi ngồi chờ suốt ngày, thấp thỏm trông đứng
trông ngồi.
Rồi một tuần sau, tôi nhận được lá thư Phủ,
vuốt ve bằng thứ ngôn ngữ thuyết phục.
Chú yêu dấu,
...Phủ mong từng phút từng giây. Mong ngày
hẹn với chú...sẽ mau đến sớm. Để được gặp chú,
nhìn
tận mặt - người đã viết cho mình những lời tỏ
tình bay bướm. Để được ngã vào vòng tay chú,
trọn vẹn tận hưởng những giây phút tuyệt đỉnh
nhất của tình thương. Nhưng, cháu thất vọng, vô
cùng thất vọng.Bến thương cảng quá dài, dài lê
thê. Làm sao Phủ biết chú ngồi nơi đâu...mà
đến? Ngày đó, lại là ngày tết, tài tử giai nhân
dập dìu. Làm sao Phủ tìm được một người áo
vàng, quần zin, túi giắt lá thư hồng, tay cầm
quyển vở xanh...giữa rừng người du xuân đủ
màu đủ sắc như thế?
Phủ đành về nhà. Về nhà mà ấm ức chú
lắm!!!
35
Giang đoàn 43 Ngăn Chận được giang đoàn 21
Xung Phong nhường lại căn nhà gỗ hình hộp,
hai tầng, làm cứ điểm tạm thời. Phòng sĩ quan
tầng trên, muốn tới đó, phải trèo qua cầu thang
ọp ẹp, đong đưa như đi dây tử thần. Trong nhóm
sĩ quan trẻ, Cao Duyến là chiến hữu - tôi thân
nhất. Tôi khoái hắn, vì hắn biết làm thơ, và thích
đội gió đội mưa, lang thang khắp nơi trên trái
đất. Chiều nay, khi chiếc soái đỉnh từ căn cứ Mỹ
Tho trở về, vị chỉ huy trưởng tất bật mời tôi và
Cao Duyến vào phòng họp sĩ quan. Nắng chiều
lung linh trên ngọn cây bàng, trước căn nhà gỗ.
Nắng đổ xuống lá lấp lánh, dọi lên như những
bông hoa chấp chới trong chiều vàng. Chúng tôi,
từng người, khéo léo leo lên cầu thang lung lay.
Tiếng gỗ nghiến cót két, dưới gót giày bề thế
của vị chỉ huy. Tôi biết, số phận của chúng tôi
không phải ở nơi này. Nó ở ngoài chiến tuyến, ở
những dòng sông xa xôi...
Phòng họp sĩ quan giản dị. Nó chỉ là bốn bức
vách gỗ mong manh. Một tấm bản đồ lớn treo
trên giá. Một bàn tròn thô kệch, cùng những
chiếc ghế long đinh, tụm nhau, vây quanh. Một
cái quạt máy khổng lồ đang chạy phành phạch.
Tiếng hú của nó giống tiếng động cơ của máy
bay thời đệ nhị thế chiến.
- Có một chỗ yên tĩnh nhất, ở đây, để hai ông
tha hồ làm thơ: căn cứ hỏa lực Phước Long.
Thời gian này, tạm thời, hai ông sẽ biệt phái về
đó, công tác cho bộ chỉ huy hải quân.
Vị chỉ huy trưởng vừa rót trà vào ly, vừa cười
cười đùa giỡn với chúng tôi. Ông chưa đầy ba
mươi, nụ cười đã vội héo hắt trên vành môi
quầng thâm khói lửa. Những lao đao thời cuộc,
những trăn trở binh đao...là thứ suy tư tàn bạo
nhất, dẫn người ta đến trước tuổi già.
- Thưa, chừng nào chúng tôi lên đường?
- Ngày mai. Tôi sẽ cho xe đưa hai ông đến bắc
Hàm Luông. Từ đó, có hai chiếc PBR ( giang
tốc đĩnh )...tiếp tục chở các ông đến căn cứ
Phước Long.
Căn cứ hỏa lực Phước Long là bản doanh của
trung đoàn 10, sư đoàn 7 bộ binh. Nó nằm chênh
vênh bên dòng Hàm Luông mơn man, thơ mộng.
Từ lúc có VC xuất đầu lộ diện, nhất là từ lúc có
căn cứ này, con sông Hàm Luông đã mất đi cái
dáng vẻ thơ mộng. Nó trở thành một dòng nước
xôn xao, đầy biến động khôn lường. Những quả
mìn trôi lừ lừ theo các dề lục bình. Những trận
pháo kích kéo dài hàng loạt. Những tên VC cảm
tử ngu muội - lúc nào cũng muốn ôm bom đội
đạn, lăn nhào vào căn cứ thí mạng.
Từ cầu tàu, chúng tôi phải vượt qua nhiều
vòng rào kẽm gai ngang dọc khó khăn, mới thật
sự lọt vào cổng căn cứ. Bộ chỉ huy hải quân nằm
khiêm nhường phía sau câu lạc bộ sĩ quan của
trung đoàn 10. Đó là căn nhà dã chiến chật hẹp.
Trần lợp tôle. Vách gỗ. Có lẽ, gỗ này được lấy
từ thùng đạn pháo binh thô sơ. Tôi ngó chu vi
căn nhà. Chẳng tìm ra một hầm trú ẩn an toàn.
Chẳng có một lớp bao cát nào để phòng thủ, hộ
thân. Như vậy, khi có nguy biến, chắc chúng tôi
phải đưa lưng thịt chịu trận.
Bên kia sông, là cồn Ốc, xã Thạnh Phú Đông.
Nơi có những rừng dừa bạt ngàn, chạy dài như
vô tận. Người ta đồn nhau, nước dừa Bến Tre rất
ngọt, tinh khiết. Uống vào, mát đến tận ruột tận
gan. Người ta cũng đồn, gái Bến Tre vốn trắng,
đẹp. Vì, họ tắm bằng nước dừa mỗi ngày. Điều
này, chẳng biết có đúng không? Nhưng, dùng
nước dừa thay nước vô cơ, chuyền vào mạch
máu các thương binh, là sáng kiến độc đáo của y
sĩ việt cộng. Và ngọn dừa cao nghệu, um tùm lá
- là nơi chốn an toàn cho du kích VC ẩn nấp, tha
hồ bắn sẻ các chiến sĩ ta.
- Thiếu úy Ân! Có người nhà đến thăm.
Tôi bật dậy, đạp tấm mền xuống góc giường.
Cơn buồn ngủ rã rời bỗng biến đâu mất. Tôi vừa
hạ phiên, sau tám tiếng đồng hồ mệt nhoài trong
phòng hành quân. Người lính báo tin còn đứng
xớ rớ trước cửa. Thiếu úy ra gấp. Người nhà đợi
ở cầu tàu.
Người nhà? Tôi lướt qua trí nhớ. Làm gì có
người nhà nơi mảnh đất xa lạ này? Hay Thuyên?
Hay Phủ? Từ Sài Gòn lặn lội về đây, ngao du
sơn thủy?
36
Tôi chạy bay ra cầu tàu. Mưa mịt mùng ngoài
đó. Cơn mưa làm trắng xóa bờ sông, làm mù mờ
những con tàu vừa tách bến, làm ẩm ướt lối đi
vòng vo trước mặt. Một cô bé ngồi co ro trong
câu lạc bộ. Chiếc áo bà ba màu hột gà loi ngoi.
Phía vai trái ướt đẫm, in mảng da thịt phập
phồng.
- Tuyển? Trời ơi! Em đến đây làm chi? Cực
khổ như thế!
Cô bé xoay lại. Đôi má bầu bĩnh chơi vơi. Nụ
cười tung tăng, làm chiếc răng chuột nằm khuất
bên môi phải, phơi ra một cách duyên dáng.
- Thăm anh. Nghe nói ở đây hẻo lánh, xa chợ.
Em mua một số đồ dùng cá nhân...
Tôi đón chiếc túi từ bàn tay Tuyển. Thức ăn,
trái cây, dao cạo râu, kem đánh răng, phong thư,
thuốc cảm...v... v...Nàng chu đáo mọi thứ. Như
em gái hậu phương lo cho anh trai tiền tuyến.
Như người vợ thăm chồng, nơi vùng lửa đạn xa
xôi.
- Phong bì và giấy, anh dùng viết thư. Nhớ viết
cho Tuyển, mỗi tuần một lá...
Tôi ậm ừ trong cổ họng. Thản nhiên nhìn mưa
tung bay ngoài trời. Mưa đổ xuống bến tàu ầm ì.
Mưa trút như thác. Mưa làm co ro các chiến
đỉnh đã một thời làm giông làm bão ở chiến
trường Năm Căn năm ngoái. Tôi ngó dòng Hàm
Luông nhàn nhạt phía trước. Khói trắng tràn
ngập sông. Nó bay lững thững lên cao, như hòa
nhập vào không gian mênh mông, một nỗi sầu
chất ngất. Chỉ có sóng bạc đầu là hung bạo hơn
hết. Với chờm đỉnh phất phơ, với tiếng gào thét
hãi hùng nhất - nó xôn xao chạy nhảy khắp mặt
sông, vỗ nát lòng nước, vỗ nát bến bờ hiền hậu.
Nó làm những con tàu chùn lái, những chiếc ghe
dừng bước.
- Em gan quá Tuyển ơi! Trời này, làm sao có
đò về Bến Tre? Đêm nay, em ngủ đâu?
Tuyển vẫn lăng xăng với chiếc túi. Nàng tỉnh
queo, không lộ vẻ lo âu về buổi tối sắp đến, về
chuyến đi dại dột của nàng.
- Thì ngủ ở đây, với anh. Mai về.
Giữa khuya, việt cộng chào đón Tuyển bằng
một loạt pháo kích tưng bừng. Pháo rớt ngoài
cổng. Pháo rớt trong trại gia binh. Pháo rớt trên
sông. Rớt vào nhà dân. Rớt dưới ngọn cây. Rớt
vòng quanh căn cứ...Pháo bay nghe sè sè. Rồi
nổ bùm bùm, tóe lửa khắp nơi. Khiến chúng tôi
phải bò lê bò càng, ôm nhau xà nẹo, mặc cho
định mệnh đẩy đưa, số phần dung rủi. May quá,
đêm đó, nhà khách căn cứ Phước Long không
vướng một trái pháo nào. Nó vẫn bình yên vô
sự, cho tới sáng...
Cầm được trong tay tờ phép thường niên, tôi
mừng rỡ như trẻ thơ vừa được túi kẹo. Chiến
tranh đã đẩy tôi đi quá xa, đã làm tôi mất đi tất
cả những cảm giác êm đềm. Tôi mất đi khoảng
đời hồn nhiên sống bên mẹ, sống với hàng trăm
câu ru ầu ơ ví dầu, sống với nhiều pho cổ tích
nhân nghĩa, với bàn tay dịu dàng của mẹ, với
niềm thương yêu nồng nàn trong mái ấm gia
đình. Tôi mất đi cái thuở vừa chớm yêu - cái nỗi
bồn chồn rạo rực trước cô bạn láng giềng. Cái
rung động xuất thần của một bài thơ, của trang
giấy học trò.
Nhưng, muốn về Cà Mau, tôi phải lên Sài Gòn
một ngày để gặp Phủ, để biết mặt mũi nàng như
thế nào? Phủ không thể bí mật như vậy mãi.
Không thể chơi trò cút bắt vô tâm...kéo dài, với
tôi.
Lần này, Phủ vắng nhà. Nàng đi Đà Lạt thăm
người bạn. Không hẹn ngày về. Dì Phủ cho tôi
biết như thế. Rồi, chẳng đợi tôi nhắn gửi, Dì vội
vàng đẩy cánh cửa khép lại, khóa chốt ken két
bên trong.
Cà Mau. Tôi trở về nơi đó. Một tỉnh lỵ nghèo
nàn, nằm cuối miền nam của đất nước. Nơi tôi
chào đời và lớn lên. Nơi đầy ắp kỷ niệm ấu thơ.
Nơi chỉ có yêu thương, chỉ có tình người.
Tôi tìm lại những con đường. Con đường nào
cũng hun hút, vắng tanh, vơi dần bóng dáng bạn
bè. Con đường dẫn đến trường học, đi qua nhà
máy điện lực, bên cạnh trại lính địa phương
quân...vẫn lô nhô các vòng concertina ngang
37
dọc. Trước cổng trường, dãy quán vẫn còn đó.
Chú ba tàu năm xưa vẫn lắc cái chuông leng
keng, mời gọi học trò mua cà-rem hoặc nước đá
xi-rô. Cái bàn banh vẫn đặt trước hiên của một
căn nhà cổ kính. Cái bàn banh làm tôi oanh liệt
một thời. Nhờ nó, cú đá áp-phê xuất thần của tôi
đã hạ biết bao đối thủ lì lợm. Rồi, từng gốc điệp
rủ bóng mơ màng...Sau Thánh Thất Cao Đài,
bên kia con đường một đỗi. Tôi đã từng đứng
dưới tàng cây – cùng với thằng Long, thằng
Bình, thằng Hiền...kéo hết điếu thuốc này đến
điếu thuốc khác, để chờ em tan học, chọc ghẹo
vu vơ. Những thằng bạn - mới đây, tụi nó còn
rụt rè trước đám con gái xinh đẹp – nay, đa số đã
khoác áo nhà binh, lưu lạc khắp các chiến
trường. Có thằng vội vã nằm xuống, mồ phún
đầy cỏ xanh. Có thằng quằn quại với vết thương,
lê tấm thân tàn suốt cuộc đời.
Cũng con đường này, nếu quanh ngược lại, sẽ
đi ngang qua nhà Hải. Cô bé có mái tóc chảy dài
như dòng suối. Cô bé mà ngày xưa, tôi từng lẽo
đẽo theo sau, xin chút mảnh tình. Mới đây, cách
vài tháng, tôi đã uống rượu đến say mèm, khi
nhận thiệp báo tin vu quy của cô bé. Oái oăm
thay! sáng nay, Hải chợt trở thành góa phụ, đau
thương đón quan tài chồng từ chiến tuyến chở
về. Nhìn cô gái vừa mới mười tám, quằn quại
khóc than bên xác chồng, với vành khăn sô trùm
kín mái đầu – tôi bỗng thấy xót đau, như có ai
cầm dao đâm thấu tim mình.
Qua con đường khác, vòng về phố chợ, công
trường Bạch Đằng rộng ra với những dãy phố
Tàu đìu hiu. Quán Đông Viên, một ngày xa xưa
nào đó, tôi đã ngồi bên cạnh Ba tôi uống ly cà
phê sữa đầu đời. Bên kia là tiệm sách Trần
Hoàng Tỷ. Cái tiệm sách bề thế, nghiêm trang –
giống như cô chủ quán tiểu thư, chẳng bao giờ
nói với khách một lời. Phía sau ngôi chợ, là
dòng sông mênh mang. Chính dòng sông ngang
tàng này, nó đã chia bến chợ thành hai bến khác
nhau. Có lần tôi đứng bến tây, làm thơ, ngậm
ngùi đưa em sang bến đông, dưới cơn mưa tầm
tã lạnh lùng.
Nếu đi dọc theo con đường bờ sông, qua
những dãy phố Tàu cổ kính, tôi sẽ về kinh Mười
Sáu. Về xóm nhà lá nghèo nàn. Về căn nhà thân
yêu của má tôi, sát bên trại lính địa phương
quân, lúc nào cũng có những vòng concertina
ngổn ngang phía trước. Mấy chục năm má sống
ở đây. Bên bờ kinh Mười Sáu gian lao này. Má
sống ở đây, từ lúc dòng kinh còn leo lẻo nước
trong, hai bờ kinh chưa thấy một căn nhà nào
dựng lên. Chỉ có những rặng cây thiên nhiên rũ
bóng trữ tình. Chỉ có đàn cá tôm rủ nhau đến đó
giỡn bóng. Chỉ có bầy cua biển to xác nhưng
ngu đần, ham mồi mắc bẫy, bị lũ trẻ chúng tôi
lôi vào bờ, bắt đầy thùng thiếc. Bây giờ, hai bờ
kinh mọc đầy nhà. Dòng nước tù hãm, đen
ngòm. Cá tôm chết sạch, hoặc bỏ ra sông. Người
ta tuôn rác, phóng uế...bừa bãi xuống kinh –
khiến nét trữ tình đáng yêu ngày xưa, chỉ còn
trong hồi ức, trong tâm tưởng đám thanh niên
lãng mạn như tôi.
Buổi chiều, tôi trở về mái nhà xưa, lòng nao
nao một cách lạ thường. Vừa bước vào cửa, má
tôi đã mừng rỡ. Má cười giòn tan, để lộ nguyên
hàm răng mất đi vài cái. Má hỏi han đôi câu, rồi
chạy vội ra chợ, lăng xăng tìm mua những thức
ăn tôi thích nhất. Đêm đó, mâm cơm thịnh soạn
dọn lên. Những chai la-de hiệu con cọp được
khui ra. Má lật đật gọi láng giềng. Các đứa bạn
trang lứa với tôi ngày xưa. Tha hồ nhậu một bữa
cho đã.
Khuya đến, tiệc tàn. Bạn bè kéo nhau ra về.
Vòng concertina của trại lính đã giăng ngang.
Ánh đèn xóm làng đã tắt ngấm. Tất cả đều chìm
trong bóng đêm tĩnh lặng. Lúc đó, Má tôi mới
đứng sát bên tôi, tiết lộ một quyết định ấp ủ
trong lòng :
- Má vừa mai mối, chọn vợ cho con. Cô bé
này thợ may. Ngộ lắm! Ngày mai, sửa
soạn, theo Má coi mắt...
Tôi ngó vu vơ lên trần nhà. Ánh đèn ống khói
lắc lư, đẩy ngọn khói đen vòng vèo lên cao.
38
Ánh đèn hắt một vùng sáng vàng chạch trong
bóng đêm. Từ vùng sáng đó, tôi thấy những tấm
lá sút rìa, mục lạt, ngả nghiêng hỗn loạn trên
mái. Căn nhà trống hoác, nhìn thấu từ cửa trước
ra cửa sau. Chỉ có tấm ri-đô ngắn ngủn, kín đáo
che một khoảng, cái giường ngủ cũ xì. Bỗng
dưng, nước mắt tôi trào ra, không cách nào ngăn
được.
- Đời lính, khổ lắm! Con chưa muốn lấy
vợ.
- Nhưng Má đã hứa với người ta rồi.
Chỗ...người lớn với nhau...
Tôi đánh que diêm cháy bùng, đưa đầu thuốc
vào lửa, rít hơi dài. Tội nghiệp Má. Má lúc nào
cũng sẵn sàng, dọn đường cho các con, đi về
phía hạnh phúc của cuộc đời. Nhưng hạnh phúc
không phải là bó hoa. Muốn đặt ở đâu, nó sẽ
đứng lộng lẫy ở đó. Tình yêu cũng vậy. Nó ở
đằng sau sự kiếm tìm, sự chọn lựa, sự thử thách.
Rồi, cho tới ngày trở lại đơn vị, tôi vẫn chưa
trả lời Má một cách dứt khoát. Cũng như, tôi vẫn
chưa đối diện với cô thợ may, để nói với nàng
đôi câu xã giao thường lệ. Tôi giã biệt Cà Mau
vội vã. Hấp tấp như trốn chạy quá khứ, trốn chạy
những kỷ niệm thân tình nhất, trong cuộc đời.
Đoàn tàu đã đến Hòa Khánh. Chiếc “phum”
dẫn đầu đã đến ngã ba sông, sắp sửa quẹo vào
kinh Mười Hai. Vậy mà, cái đuôi của đoàn tàu
vẫn còn hì hụp ngoài sông Tiền, chưa trườn vào
được cửa sông Hòa Khánh. Nước bắt đầu lớn.
Cường triều tràn vào kinh rạch cuồn cuộn như
lũ, đẩy giang đỉnh nhào tới ào ạt. Kinh Mười Hai
thẳng băng, nhưng chật hẹp. Vào đó, giang đỉnh
không tài nào trở lui được. Nếu lỡ bị địch tấn
công, chỉ có nước “trân” mình chịu trận.
Tôi ở giữa đoàn tàu, trên chiếc al-pha của
giang đoàn 47 ngăn chận. Giang đỉnh tôi đã lọt
vào Hòa Khánh, đang uốn mình chui tọt qua
kinh Mười Hai, bỏ lại Hòa Khánh đằng sau – với
các mái lá buồn thỉu buồn thiu dưới bóng nắng
chiều tà. Bỗng, chiếc “phum” dẫn đầu bị trúng
hỏa tiễn tầm nhiệt. Thoáng chốc, nó lảo đảo như
con cá bị trúng tên, rồi phừng phực cháy như
một ngọn đuốc. Đoàn tàu khựng lại, lập tức
ghim mũi vào hai bên, hỏa lực đua nhau rải đạn
lên bờ như rải trấu. Trên bờ, địch cũng chẳng
vừa, B.40 và hỏa tiễn tầm nhiệt tiếp tục phóng
ra.
Chiếc al-pha của tôi cũng chịu chung số phận,
nằm trong tầm phục kích của địch. Mặc dù đã
quấn mình trong bộ áo giáp dày cộm, thế mà tôi
vẫn thấy lành lạnh châu thân, miệng cứ đánh bò
cạp liên hồi. Trên ụ pháo, tôi cho M.79 quay đều
đều, “phụp” lên bờ lia lịa, để trấn an tinh thần
binh sĩ. Âm thanh của súng đạn rền vang, át cả
lệnh chỉ huy, lấp cả tiếng điện đàm. Tôi bịt chặt
tai phía bên kia, đặt ống điện đàm vào sát tai bên
này, mới nghe được lệnh Đại Bàng. Nhóm giang
đỉnh chưa đến kinh Mười Hai, Đại Bàng lập tức
cho dừng lại, nằm án ngữ ở Hòa Khánh. Nhóm
giang đỉnh lọt vào kinh Mười Hai, tự lo liệu lấy.
Nghĩa là, tự chiến đấu cầm chân địch, chờ máy
bay từ Cần Thơ tới, liệng bom.
Một tiếng nổ kinh hoàng, hất chiếc al-pha giạt
ra giữa kinh. Hình như, nước và mảnh đạn, và
tất cả những đồ vật nào có thể di chuyển
được...đều theo tiếng nổ tung ào ào lên cao. Tôi
cũng thấy tôi bị hất mạnh ra khỏi chiếc al-pha,
rồi ... lửng lơ ở một nơi nào đó.
Mùi bùn ngai ngái, cộng với mùi khen khét
của súng đạn – xộc vào mũi, bất chợt đánh thức
tôi dậy. Tôi thấy đau buốt phía lưng. Mặt và đầu,
hình như bệu ra, phồng lên như miếng đất sét bị
trẻ nít dùng tay nắn mạnh. Tôi cố nhớ lại những
sự việc vừa xảy qua. Cố hình dung nơi chốn
mình đang ở. Thời gian? Kể cả xuất xứ của mùi
bùn, mùi súng đạn, mùi tanh tanh của động vật
bị rữa...đang chập choạng quanh đây? Tôi nhớ
ra, chiếc al-pha trúng B.40 của việt cộng. Tôi
văng ra khỏi tàu, cùng với tiếng nổ. Và bây giờ,
nằm đây – trong đáy hố nhớp nháp, đầy bùn
nhão. Tôi ngó lên trời. Trời tối om, đến đỗi đưa
bàn tay trước mặt, chỉ thấy màu đen mịt mù.
Tôi dùng hết sức lực, trườn lên phía trước, bấu
chặt lấy thành hố, để cố gắng đứng dậy. Lớp bùn
mềm nhũn dưới chân. Và nó trơn như mỡ, đẩy
39
tôi loạng choạng, liểng xiểng như người say
rượu. Chới với một lát, rồi cũng gượng dậy
được. Cái hố không sâu. Chỉ cần thẳng lưng, vai
tôi đã ra khỏi miệng hố. Một luồng gió từ Hòa
Khánh thổi ngược về, làm tiêu tan mọi đau đớn,
mọi rã rời. Tôi sảng khoái hít từng ngụm không
khí, hít từng hơi hướm của thiên nhiên, trong
không gian tĩnh lặng đến vô cùng. Tôi thử cắn
mạnh vào môi. Môi đau điếng. Vậy, chắc chắn
là hiện thực. Tôi đã hồi sinh. Tôi đang sống giữa
trần gian tuyệt vời này.
Từ đây về Hòa Khánh, về ngã ba sông, không
mấy xa. Đứng đây, tôi đã nhìn thấy vùng sáng,
hực lên phía trước. Chi khu Hòa Khánh và
những mái lá buồn thỉu buồn thiu vừa sinh động
lên, vẫy gọi tôi. Bất chợt, tôi nghĩ đến Phủ, đến
Tuyển, đến cô thợ may bé bỏng ở Cà Mau. Tôi
đang đứng trước ngã ba lòng. Giống như đứng
trước ngã ba sông. Và tự chọn lấy một ngả.
Chắc chắn, ngã tôi trở về là ngã có Tuyển. Vì
hạnh phúc không phải là bó hoa. Muốn đặt ở
đâu, nó sẽ nằm lộng lẫy ở đó.
PHẠM HỒNG ÂN
(Viết tiếp ở San Diego, 19/12/2006)
thiïn àûúâng
cuãa ngûúâi khuâng Khi cái ác lên ngôi Thiên đường khùng mở ngỏ Đời mạt kiếp đến rồi Tình bạn thù tỏ rõ Đen trắng đổi màu thôi ! Heo tầng cao xuất hiện Bầy dã thú trị vì Vượt biên và vượt biển Chia ly rồi biệt ly Ác ngu trời đất khiến ! Nhiều Tị nạn nằm vùng Hát ô khùng kẹt lại Chuyện cứu xét lung tung Bao cảnh đời oan trái Nhân đạo nói sao cùng ! Nhạc ỡm ờ hồ mị Ru mất nước ngàn năm Thiên tài nầy của quỷ Người cứ mải mê lầm Chưa hoàn hồn tỉnh trí ! Hạnh nào hạnh chẳng chua Tình nào không dang dở
Lính chiến một lần thua Khát khao thèm muôn thuở Trái tình yêu hết mùa ! Thiên đường khùng thoát tục Còn có thứ gì vui Đâu khổ đau hạnh phúc Hết cay đắng ngọt bùi Mạng người thân gỗ mục ! Thiên đường khùng siêu nhiên Không biết no biết đói Quên xài bạc xài tiền Đỉnh cao ưu việt cõi Hoang tưởng cũng thần tiên ! Trong thiên đường bạn nhớ Bạn nhớ bạn hằng mong Bên ngoài đâu còn nhớ Có nhớ cũng là không Diễn tuồng Tôn Tẩn dở ! Khi cái ác lên ngôi Thiên đường khùng mở ngỏ Đời mạt kiếp thật rồi Tình thù bạn thấy rõ Xứng đáng một đồng thôi !
Từ Văn Bé Tư – U2
40
Àaám cûúái nhaâ binh
Lê Tam Anh – V3
Đang “phè phỡn” ở Bộ Tư Lệnh Hải Quân
Vùng Bốn Sông Ngòi (BTL/HQ/V4SN), Cần
Thơ, thi cuối năm 1972 tôi nhận được công điện
thuyên chuyền về Hải Đội Năm Duyên Phòng
(HD5ZP) đang đồn trú ở căn cứ hải quân Năm
Căn thuộc quận Năm Căn, tỉnh Cà Mau. Trong
thời buổi chiến tranh “dầu sôi lửa bỏng” mà
được làm việc ở BTL/HQ/V4SN thi thật là quả
sướng bởi vì quanh năm suốt tháng không nghe
tiếng súng, còn khi nào không trực, không gác là
có thể tà tà dạo phố Ninh Kiểu, đời êm ấm biết
bao.
Biết tôi thuyên chuyển, một nhân việc làm
việc chung phòng đã từng ở Năm Căn đến vỗ vai
tôi:
- Thôi chết rồi ông ơi, kỳ này ông xuống
Năm Căn mà ngủ với muỗi. Rồi hắn tiếp luôn
một hơi.
- Hải quân của mình có hai chỗ hắc ám nhất
là Cửa Việt và Năm Căn. Căn cứ hải quân Cửa
Việt thi khỏi cần phải nói vì nó nằm ở địa đầu
giới tuyến giáp với Bến Hải còn căn cứ hải quân
Năm Căn thi nằm tận mũi Cà Mau - một nơi
muỗi mòng đỉa vắt lại không có xe cộ đi lại.
Phương tiện di chuyển duy nhất từ chợ Cà Mau
tới quận Năm Căn là tàu đò nhưng rất ư nguy
hiểm vì tàu chạy qua nhiều vùng bất an ninh
thường hay bị VC chận xét. Riêng hải quân của
mình muốn tới được căn cứ hải quân Năm Căn
phải quá giang tàu tiếp vận của Hải Quân di từ
Sài Gòn, hoặc đi theo máy bay quân sự, nhưng
chờ đợi rất lâu. Ông nhớ là đừng bao giờ đi tàu
đò, dễ bị “bể gáo” lắm. Thôi thì chúc ông ra đi
được nhiều may mắn.
Cầm cái công điện thuyên chuyển trong tay
lại thêm bị “thầy hù” lòng tôi càng thêm nản,
nhưng cũng phải khăn gói lên đường trình diện
đơn vị mới. Sau mấy ngày chầu chực ở Ty
Chuyển Vận/ Sàigòn, cuối cùng tôi cũng đặt
được chân lên HQ 404 chở đồ tiếp liệu cho Năm
Căn. Trong số hành khách quá giang trên tàu có
một ông Trung Úy/HQ thuộc Tiền Doanh Yểm
Trợ ngồi cạnh, khi tôi hỏi về Năm Căn thì thay
vì trả lời trực tiếp ông lại đọc cho tôi nghe mấy
câu thơ sau đây:
“Năm Căn gió lạnh không tình sưởi,
Rượu uống mềm môi chẳng thấy say.”
“Năm Căn đi khó dễ về,
Khi đi tàu sắt khi về tàu cây.”
Hai câu thơ sau nghe mà phát “rét” nhất là
lúc tàu giang hành từ cửa Bồ Để vào căn cứ.
Sông hẹp, uốn khúc lại còn bị bao bọc bởi rừng
đước dày đặc thật dễ cho VC làm chỗ ẩn nấp mà
phục kích tàu của của hải quân. Ngồi trên bong
tàu nhìn hai bên bờ sông tôi không thấy một mái
nhà dân và cũng chẳng gặp một bóng người
ngoại trừ cộng sự của VC nằm rải rác. HQ 404
được dẫn đầu bởi hai chiếc PCF, trên trời hai
chiếc trực thăng bay kèm để yểm trợ dưới sự
quan sát và hướng dẫn của một L19. Ngoài ra
còn có nhiều giang đỉnh nằm rải rác trên sông
mũi chĩa thẳng vào bờ trong tư thế sẵn sàng tác
chiến. Tôi biết rằng tôi đang đi vào vùng lửa
khói.
41
Ngày đầu tiên trình diện HD5/ZP tôi được chỉ
định làm thuyền phó trên một PCF để làm quen
sóng nước. Sau mấy tháng học nghề tôi được
chuyển sang làm thuyền trưởng chiếc PCF/
HQ3911. Một buổi chiều kia tôi đang ngồi phì
phèo thuốc lá trên nắp thùng đạn 81 lý đặt ở phía
sau đuôi tàu thì TT/TP Trần văn Hoàng, một
nhân viên trên tàu, đến ngồi bên cạnh tôi vừa nói
vừa cười:
- Sư phụ! thằng TT/TS Nguyễn Hữu Lộc có
chuyện muốn nhờ sư phụ giúp nhưng ngại
không dám hỏi. Day mặt vào phòng lái TT/TP
Hoàng kêu lớn:
- Ê Lộc! sư phụ đang ngồi đây nè, có chuyện
gì hãy ra đây lẹ lên, đừng có mắc cỡ thằng em ”.
TT/TS Lộc nghe gọi liền vội bước ra đứng
sau lưng tôi với dáng điệu bẽn lẽn:
- Sư phụ!
- Chuyện gì vậy Lộc?
- Dạ, em có chuyện rất quan trọng cần sự phụ
giúp nhưng không biết sự phụ có chịu giúp em
không?
- Chuyện quan trọng là chuyện gì hãy nói ra
nghe thử.
- Dạ, em muốn cưới vợ và định nhờ sự phụ
đứng ra cưới vợ cho em.
- Trời đất! đừng có giỡn chơi chớ Lộc, sự
phụ làm sao cưới vợ cho em được? Nên biết
hôn nhân là chuyện đại sự, nếu em muốn cưới
vợ thì về nhà mà nhờ ba má của em cớ sao lại
nhờ sự phụ. Làm ẩu ba má của em sẽ đi kiện sư
phụ, hoặc sau khi đám cưới xong rồi em lại bỏ
con của người ta thì sự phụ phải tính làm sao
đây. Mà em muốn cưới ai vậy, tôi ngạc nhiên
hỏi TT/TS Lộc.
Không kịp cho TT/TS Lộc trả lời, TT/TP
Hoàng hớt trước.
- Sư phụ! thằng Lộc có con ghẹ trông thật ác
tỉ ở chợ vàm Sông Ông Đốc. Con ghẹ của nó là
con gái ruợu của ông “hai đầu bạc”, thợ hớt tóc
có cái tiệm nằm cạnh bàn bị da ngó xéo qua nhà
lồng chợ đó sư phụ. Bây giờ nó muốn cưới con
gái của người ta nhưng lại không có người đứng
chủ hôn nên đâu có ai chịu gả con cho nó. Sự
phụ làm ơn làm phước giúp giùm nó đi để nó
có được con vợ, mai nầy vợ chồng nó rủi giàu
sang phú quí và được con cháu đầy nhà, vợ
chồng nó sẽ nhớ ơn sư phụ suốt đời suốt kiếp.
- Hoàng, không phải là không muốn giúp
nhưng chuyện nầy không thể giúp được. Tốt
nhất là Lộc nên về mời ba má của em xuống để
lo làm đám cưới cho em, tự đi cưới vợ một mình
bộ không sợ ba má của em buồn hay sao.
- Không giấu diếm gì sự phụ, em vừa bắt
được tin là em bị gọi gắp về quân trường để học
hải nghiệp, có thể đi khỏi HD5/ZP sau chuyến
công tác này. Ba mẹ của em chắc không thể nào
xuống đây được cho em vì ông bà già yếu mà
đường đi lại quá khó khăn. Em nghĩ ráng lắm là
họ có thể đi xe đò từ Đà Lạt xuống tới chợ Cà
Mau, còn từ chợ Cà Mau xuống căn cứ HQ Năm
Căn để gặp em hoặc xuống chợ vàm Sông Ông
Đốc thì không biết làm sao mà đi vì không có xe
chạy, vả lại em cũng chẳng có người quen thân
nào ở địa phương để hướng dẫn và giúp đỡ. Sư
phụ đừng có lo, em thương con ghẹ của em thật
lòng thì làm gì có chuyện cưới xong rồi bỏ chạy.
Bấy lâu nay ba má của em cứ hối thúc em cưới
vợ hoài nhưng em đâu có chịu, nếu biết được em
có vợ chắc ông bà mừng lắm, họ còn cám ơn sư
phụ không hết chớ làm gì có chuyện đi làm khó
dễ sư phụ. Vậy sư phụ hãy cứu em nếu không
em sẽ mất vợ đó sự phụ. TT/TS Lộc năn nỉ.
- Không được là không được.
Câu chuyện tới đây tôi tưởng đã chấm dứt
nào ngờ trong chuyến công tác kể tiếp khi tôi
đang ngồi nhâm nhi ly café trong một quán nước
ở chợ vàm Sông Ông Đốc thi TT/TS Lộc xuất
hiện trước cửa quán. Thấy tôi Lộc liền tiến lại
thì thầm bên tai:
- Sư phụ! Ông già vợ của em mời sư phụ tới
nhà chơi. Hồi này em có xin ổng cho em ngày
mai làm đám cưới nhưng ổng nhất định không
chịu. Sư phụ làm ơn thuyết phục ổng giùm.
Tôi chẳng nói chẳng rằng bước theo chân
TT/TS Lộc tới nhà ông Hai. Khi bước vào nhà
42
tôi thấy phó Huy (thuyền phó của tôi) đang ngồi
nhâm nhi với ông hai trên tấm ván ngựa. Thấy
tôi ông Hai đứng dậy đưa tay bắt và không quên
mời tôi cưa đôi với ông một ly gọi là “chào sân.”
Uống xong ông khà lên một tiếng rồi phân trần:
- Trung úy à ! tôi nhờ ông phân xử giùm tôi
việc nầy. Số là thằng Lộc nó thương con gái của
tôi mà vợ chồng tôi cũng thương nó làm nhưng
ngặt nỗi từ sáng tới giờ nó cứ nằng nặc xin tôi
ngày mai cho nó làm đám cưới. Trung úy nghĩ
coi tổ chức đám cưới đâu có đơn giản như tổ
chức một tiệc nhậu chỉ cần có vài người là đủ.
Hết thảy gia đình bên nội va bên ngoại của tôi
đều sống ở chợ Cà Mau, nếu ngày mai làm đám
cưới thì làm sao mà họ tới cho kịp. Tôi đâu thể
nào gả con gái mà không có họ.
- Vâng, Bác Hai nói cũng đúng lắm, gả con
gái đâu thể nào thiếu mặt bà con. Thôi bác Hai
đừng có phiền lòng, hãy từ từ tính lại. Vô đi bác
Hai, xin mời bác một ly.
- Dạ mời Trung Úy. Ông Hai vui vẻ uống hết
ly rượu mời.
Tôi với ông nhậu lai rai còn phó Huy thi trở
về tàu. Riêng TT/TS Lộc cứ chạy ra chạy vô
lăng xăng để mang rượu và thức ăn nhưng thực
ra là cố tình lắng nghe tôi và ông Hai nói
chuyện. Biết tôi đồng tình với ông Hai , Lộc
buồn và thất vọng, con mắt của Lộc cứ nháy
nháy với tôi ngầm bảo rằng “sư phụ ơi làm ơn
cứu em”. Tôi tảng lờ như không thấy và không
biết cứ tiếp tục uống rượu. Một hồi rượu thấm
làm máu chạy rần rần trong người, tôi bỗng thấy
tội nghiệp TT/TS Lộc và bất chợt muốn giúp đỡ
thằng đệ tử của mình. Quên mất nỗi lo sợ bị ba
má của TT/TS Lộc thưa kiện, tôi mời thêm ông
Hai một ly nữa rồi nhỏ nhẹ “hù” ông:
- Thưa bác Hai, theo chỗ tôi biết thằng Lộc
xin bác làm đám cưới gấp là vì nó vừa bắt được
tin bị đổi đi khỏi đơn vị. Nó sợ nếu không làm
bây giờ thì sẽ không kịp, mong bác thông cảm
mà đừng có trách nó.
Mới vừa nghe tin TT/TS Lộc bị đổi đi ông
Hai bỗng thấy nhẹ hẳn người lên. Từ sáng tới
giờ ông đứng ngồi không yên cứ nghi trong lòng
con gái của ông đã mang bầu với TT/TS Lộc,
nếu không thì tại sao thằng Lộc cứ nặng nặc xin
ông làm đám cưới cho bằng được. Ông lo sợ nếu
lỡ như con gái của ông mang bầu thì ông chẳng
biết phải ăn nói làm sao với mọi người chung
quanh, vì ở cái chợ vàm Sông Ông Đốc nầy, con
gái của ông cũng thuộc loại vừa đẹp lại hiền, cho
nên có mấy gia đình khá giả cậy người mai mối
tới dạm hỏi nó cho con trai của họ nhưng con
gái của ông đều lắc đầu từ chối. Ông đã muốn gả
phức cho xong nhưng lại không nỡ ép duyên con
và nhất là cũng tại bà vợ của ông hết, bà lại
đứng về phía con gái mà theo cản đầu cản đuôi
ông hoài.
Kể từ ngày tàu Hải Quân ghé lại đây thi biết
bao xáo trộn đã xảy ra. Mấy đứa con gái ở chợ
đua nhau cặp bộ cặp bịch với lính Hải Quân
nhưng ông thấy có đám cưới đám hỏi gì đâu,
toàn là bị gạt. Theo ông, lính Hải Quân chỉ có
cái mã bề ngoài dễ nhìn thôi còn đời sống chẳng
có cái gì bảo đảm nhất là không có ai biết rõ căn
cư gốc gác gì của họ. Ngay mấy chiếc tàu PCF
của Hải Quân cũng vậy, ông chỉ nghe đồn là họ
đến từ Năm Căn nhưng ông không biết Năm
Căn nằm tận ở chỗ nào. Vì vậy ông đã cấm cản
con gái của ông tuyệt đối không được giao du
với lĩnh Hải Quân, thế mà nó có nghe lời ông
đâu lại còn lén lút cặp bồ với thằng Lộc khiến
cho thiên hạ ở chợ nầy đồn bậy đồn bạ tùm lum
làm ông muốn độn thổ luôn. Mặc dù biết được
TT/TS Lộc bị đổi đi nhưng ông Hai vẫn không
muốn làm đám cưới gấp cho nên ông chống chế.
- Thằng Lộc đổi đi thì đỗi chớ trung úy, vợ
chồng tôi đã đồng ý gả con gái cho nó rồi nhưng
nó cũng phải thông cảm mà cho tôi có đủ thời
gian để chuẩn bị tổ chức đám cưới đàng hoàng
mới được. Đâu phải nó muốn làm đám cưới là
tôi phải làm liền đâu.
- Dạ tùy ý bác Hai, nhưng tôi sợ thằng Lộc sẽ
rời khỏi đơn vị sau chuyến công tác nầy. Một
khi đi rồi chắc nó không dám trở lại vì đường đi
từ chợ Cà Mau vô đây nguy hiểm quá, lính
43
tráng như nó mà đi tàu đò dễ bị VC chận bắt
lắm. Nếu bác Hai cương quyết từ chối thì thôi
nhưng bác Hai phải nhớ là sau này nếu con gái
của bác muốn đi tìm nó, “chim trời cá nước”,
biết đâu mà tìm.
Niềm vui của ông Hai khi biết con gái của
mình không có chửa hoang chưa trọn vẹn thì cái
tin TT/TS Lộc bi đổi đi gấp bỏ con gái ông lại
làm ông hoảng sợ, nhất là sau khi nghe tôi nói
xong ông càng thêm bối rối và ngồi lặng thinh.
Phải tính làm sao đây - ông tự hỏi, nếu bây giờ
ông chịu làm đám cưới thì chắc chắn không có
bà con họ hàng nào tôi tham dự, còn nếu không
thì thằng Lộc đi mất. Thật khó cho ông quá.
Rồi ông Hai đưa mắt nhìn kỹ lại TT/TS
Nguyễn Hữu Lộc, ông thấy con gái của ông
thương thằng Lộc cũng phải lắm bởi trông nó
thật hiền lành và mặt mày lại sáng sủa, trong khi
trai tráng ở cái chợ vàm nầy, đa số sống bằng
nghề chài lưới, quanh năm suốt tháng đều dãi
nắng dằm sương, mặt mày đen đúa đâu có sáng
láng như thằng Lộc. Ông chợt nghĩ lại thấy cũng
còn may vì thằng Lộc thật lòng muốn cưới con
gái của ông bằng không thì nó đã quất ngựa truy
phong, lẳng lặng bỏ dì mất tiêu rồi, tới chừng đó
đời con gái của ông chẳng biết sẽ ra sao nữa, ở
chợ này ai mà chịu lấy nó. Nghĩ tới nghĩ lui ông
thấy không còn con đường nào để lựa chọn
ngoài con đường phải làm đám cưới thôi.
- Trung Úy! ngày mai làm đám cưới thì làm.
TT/TS Lộc nghe xong nhảy tưng lên rồi chạy
tuốt vô nhà bếp để báo tin mừng cho con ghẹ
của nó. Tôi xin kêu từ ông Hai về lại tàu để lo
thu xếp chờ ngày mai. Phó Huy được phân công
giúp tôi mua rượu trà con TT/TP Hoàng lo trang
hoàng chiếc tàu và mời các bạn HQ từ mấy
chiếc tàu PCF và Yabuta đang công tác trong
vùng. Tôi thấy nhà của ông Hai bắt đầu rộn rịp,
bàn ghế được mang tới, lều được dựng lên trước
sân và bảng “Vu Qui” cũng đã treo lên rồi.
Sáng sớm hôm sau tôi cho tàu chạy từ biển
vô chợ vàm Sông Ông Đốc để kịp giờ rước dâu
như đã giao hẹn là 10 giờ sáng nay. Chạy chưa
tới cửa sông thì phòng hành quân của HD5/ZP
từ Năm Căn gọi ơi ới trên máy chỉ thị tôi phải
chạy gấp ra trình diện con cá mập (tàu lớn) đang
chờ đợi ở ngoài khơi. Tôi thật lo lắng trong lòng
nhưng lệnh là lệnh đành phải quay đầu trở ra và
chạy được một hồi thì gặp chiếc PGM đang thả
trôi chờ tôi. Sau khi cập vào tả hạm tôi thấy hạm
trưởng (HT), Đại Úy An, cùng thủy thủ đoàn
đứng dọc lan can chờ đợi. Hạm trưởng An cho
biết là ông cần tôi chở nhân viên của ông đi vô
chợ vàm Sông Ông Đốc để mua thêm thức ăn.
Nghe ông nói tôi rụng rời tay chân bởi vì nếu
chở nhân viên của ông đi chợ thì chắc chắn sẽ
trễ giờ rước dâu. Tôi đứng lặng người không
biết tính sao, bỗng một ý nghĩ lóe lên trong đầu
bảo với tôi là phải nói thật cho hạm trưởng biết,
biết đâu ông sẽ động lòng mà giúp đỡ. Nghĩ tới
là tôi làm ngay.
- Trình hạm trưởng, thú thật với ông là tôi
đang trên đường chạy vô chợ để làm đám cưới
cho thằng đệ tử trên tàu của tôi. Mười giờ sáng
này là giờ rước dâu và bên nhà gái đã chuẩn bị
sẵn sàng. Nếu bây giờ tôi chở nhân viên của hạm
trưởng đi chợ thì tôi phải chạy vô rồi chạy ra
nhiều lần chắc chắn sẽ trễ rước dâu. Xin hạm
trưởng thông cảm và thương dum tình cảnh của
thằng em, nó làm đám cưới chỉ có một lần trong
đời mà cho phép tôi chạy vô làm lễ, xong xuôi
tôi sẽ chạy trở ra thi hành lệnh của hạm trưởng.
Tôi nghĩ chỉ mất vài tiếng đồng hồ là cùng. Sẵn
đây tôi xin mời hạm trưởng tham dự đám cưới
và cùng đi rước dâu với tôi cho vui.
Hạm trưởng An nhìn cái mặt đau khổ của tôi
ông thấy tội nghiệp và nghe tôi nói cũng chí lý
nên đứng do dự một hồi rồi gật đầu chấp thuận.
Ông bỏ xuống phòng thay bộ đồ dân sự sau đó
leo xuống tàu của tôi. Tôi thở phào nhẹ nhõm
liền cho máy tiến “full” nhắm hướng chợ mà
chạy cho kịp giờ hoàng đạo.
TT/TS Lộc có bà mẹ nuôi nhà ở cách nhà ông
Hai hơn 300 thước đã được làm điểm “xuất
quân” cho bên nhà trai. Thủy thủ đoàn từ mày
tàu PCF và mấy chiếc YABUTA thuộc duyên
44
đoàn 41/Hòn Khoai đang công tác trong vùng
đều tham dự đông đủ, lại còn được yểm trợ thêm
mấy cô gái mặc áo dài màu xanh nước biển thật
nổi bật giữa cái làng nhỏ bé này. Phó Huy cũng
đã chuẩn bị đầy đủ 4 mâm lễ vật gồm rượu và
trà, tất cả được bao giấy kiếng màu đỏ chói
trông thật đẹp mắt. TT/TP Hoàng khều tôi:
-Sư phụ! mấy cô này là thợ may hoa khôi của
chợ đó sư phụ. Nhờ phó Huy trổ tài ăn nói mới
mời được họ đi giúp mình và nhất là đã thuyết
phục họ cùng mặc áo dài xanh nước biển của
Hải Quân, sư phụ nhìn coi có đã con mắt không?
- Ừ! nhìn cũng bắt mắt lắm.
Vì bất chợt nên tôi không có mang theo quần
áo dân sự đành phải mặc bộ đồ tím Hải Quân
bạc màu, nặng mùi mồ hôi và nước biển còn
TT/TP Lộc mặc cái quần tây cũ và chiếc áo dài
tay bỏ áo vô quần chân mang đôi dép lẹp xẹp.
Hạm trưởng An cũng xung phong bưng một
mâm lễ vật rồi cùng xếp thành một hàng dài.
Trước khi xuất phát tôi mở chai Rivalet làm một
ly cho lên tinh thần rồi dẫn đầu nhà trai tiến về
nhà gái. TT/TS Lộc còn kiếm đâu ra được một
ông phó nhòm cầm máy ảnh chạy phía trước bóp
đèn chớp lia chớp lịa. Đoàn người rước dâu đi
trên con đường đất hẹp nằm giữa hai dãy nhà lá
lụp xụp của dân chài. Con nít trong xóm chạy
theo đuôi làm cho lũ cho giật mình sủa inh ỏi
vang dội trên đường làng.
Chợ vàm Sông Ông Đốc sáng nay dường như
ngừng hoạt động khi đoàn người bên nhà trai đi
ngang qua. Khách khứa bên nhà gái cũng đã tề
tựu đông đủ, tôi và các sĩ quan được mời ngồi
đối diện với vợ chồng ông Hai cùng các bô lão
bên nhà gái ở cái bàn dài đặt giữa nhà. Cô dâu
mặc áo dài màu hồng nhạt đúng khép nép bên
TT/TS Lộc cạnh bàn thờ. Sau khi cập đèn cày
Long Phụng được thắp lên, vợ chồng TT/TS Lộc
quỳ lạy trước bàn thờ rồi quay sang dâng trà và
quỳ lạy vợ chồng ông Hai và tôi, nhưng tôi
không nhận lạy mà chỉ nhận mấy cái xá tượng
trưng. Chờ cho xong phần nghi lễ, tôi mới đứng
lên phát biểu.
- Thưa hai bác cùng tất cả quí vị quan khách,
tôi là thuyền trưởng của chú rể Nguyễn Hữu Lộc
và cũng là người đứng chủ hôn đại diện cho bên
nhà trai. Thưa quý vị, hôm nay là ngày vui trọng
đại của gia đình hai họ nhưng rất tiếc vì đường
sá xa xôi cha mẹ và họ hàng cua chủ rể ở tận
ngoài Đà Lạt đã không thể tới đây kịp để tham
dự đuoc lễ cưới. Chúng tôi thành thật xin lỗi và
kính mong quí vị thông cảm mà lượng thứ cho.
Xin hẹn lại một ngày không xa thân sinh của chú
rể sẽ tới đây để ra mắt quí vị và tạ lỗi với hai
bác. Sẵn đây, tôi cũng xin đại diện cho anh em
hải quân cầu chúc cho tân lang và tân nương
trăm năm hạnh phúc, sống trọn đời bên nhau cho
tới ngày răng long tóc bạc. Và bây giờ tôi xin
hai bác cho phép hải quân được rước dâu.
Thế là chủ rễ dìu cô dâu cùng quan khách kéo
xuống mấy chiếc PCF đậu sẵn ở cầu tàu trước
chợ. Tàu tách bến và hú còi vang vội, khói màu
được thả ra và trái sáng tay được bắn lên trời
thay pháo. Dân chúng kéo nhau ra bờ sông xem
rất đông. Tàu chạy vòng vòng trên sông một hồi
rồi cặp lại cầu, sau đó nhà trai va nhà gái lục tục
kéo nhau trở lại nhà gái nhập tiệc. Tôi vừa đặt
đít ngồi chưa nóng thì ông hộ tịch xã bước đến
đặt trước mặt tôi tờ hôn thú đã điền sẵn mời tôi
ký tên vào cột chủ hôn. Phó Huy ngồi cạnh thấy
tôi còn do dự nên khều tôi.
- Thôi tới luôn đi bác tài.
- Ừ! tới thì tới.
Tôi ký vội lên tờ hôn thú rồi trao lại cho viên
hộ tịch. Thế là TT/TS Nguyễn văn Lộc đã tìm
được “người trong mộng”, giã từ kiếp sống độc
thân cùng người đẹp hải hành về vùng trời hạnh
phúc.
Tôi giới thiệu hạm trưởng An với quý vị quan
khách của nhà gái cho nên mọi người ngồi
chung bàn rất nể trọng và bắt đầu bu quanh ông
để mời rượu. Vợ chồng ông Hai rất hãnh diện vì
gã được con gái cho hải quân nhất là được rước
dâu bằng tàu PCF nên luôn tươi cười, còn
TT/TS Lộc thì khỏi nói cứ chạy lăng xăng hết
bàn nầy tới bàn khác dễ tiếp rượu với bạn bè.
45
Rồi giữa sự ồn ào và náo nhiệt của bữa tiệc,
tiếng cười và tiếng nói của hạm trưởng An bỗng
to dần. Ông bắt đầu vô một trăm phần trăm giữa
tiếng hoan hô cổ võ của mọi người trong bàn,
nhưng chỉ một lát sau tôi thấy ông từ trên ghế
ngồi quỳ xuống đất, miệng cứ lẩm bẩm:
- Uống! Uống! địt mẹ uống đi.
Thôi chết, tôi chạy vội lại đỡ ông dậy nhưng
ông không còn đứng nỗi, ông quá đã.Từ sáng tới
giờ ông không có cái dằn bụng lại bị mấy cao
thủ của vùng biển đá “xa luân chiến” thì làm sao
ông chịu cho thấu. Tôi dìu ông xuống tàu, trồng
cái phao cá nhân vào người rồi để ông ngồi gục
đầu trên cái ghế ở phòng lái mà hối hả chay ra
tàu lớn. Trên đường đi tôi bỗng nghe tiếng
TT/TP Hoàng gọi tôi trên máy với giọng hốt
hoảng.
- Sư phụ! Chuyện lớn rồi.
- Chuyện gì vậy Hoàng.
- Dạ! thằng Lộc xỉn và đang quậy ông già vợ
nó dữ quá. Nó còn đòi đốt nhà của ông già vợ
nữa. Em cản nó không nỗi, xin sư phụ về gấp.
- Tại sao nó lại quậy.
- Dạ! em không rõ lắm.
- Em hãy ráng giữ nó lại đừng để chuyện
đáng tiếc xảy ra.
- Dạ! để em ráng sư phụ.
Tôi gác máy, vừa tức giận lại vừa lo nhưng
cũng cố chạy cho tới tàu lớn. Hạm Trường An
được lính của ông xuống dìu ông, ông đã tỉnh và
đi xiêu vẹo lên tàu. Còn tôi thì hối hả chạy
ngược trở vô chợ nên đã quên mất chuyện chở
nhân viên của hạm trưởng đi chợ.
Khi bước chân vào nhà của ông Hai tôi thấy
quan khách đã đi hết chỉ còn lại mình ông ngồi ở
đầu bàn gục gặc cái đầu, TT/TS Lộc thì ngồi ở
cuối bàn chân tay đang múa may vung vít trong
khi TT/TP Hoàng ngồi giữa cố cản TT/TS Lộc
lại. Thấy tôi TT/TS Lộc ngồi im còn ông Hai
nhướng mắt nhìn tôi nhoẻn miệng cười.
- Trung Úy! Ông đi đâu mà lâu quá vậy.
- Xin lỗi tôi đã vắng mặt vì bận chút chuyên.
Tôi quay sang TT/TS Lộc:
- Lộc! quậy đã chưa?
- Xin lỗi sư phụ tại em tức quá là tức.
- Tức chuyện gì? ai làm cho em tức?
- Dạ! em tức ông già vợ của em vì ổng chửi
hải quân mình là “quân cà chớn” trong khi hải
quân mình đâu có làm điều gì sai.
Ông Hai vội xen vào.
- Hải Quân không cà chớn chớ sao uống chưa
đã thì đi mất tiêu hết trơn.
Tôi đang bực mình TT/TS Lộc nhưng nghe
ông Hai nói xong cũng thấy tức cười. Thì ra ông
Hai uống rượu chưa đã mà anh em Hải quân đi
hết bỏ ông lại một mình làm ông nỗi giận chửi
hải quân là “quân cà chớn”. TT/TS Lộc nghe
ông già vợ chửi hải quân nên nổi nóng đòi đốt
nhà của ông giả vờ. Vậy là ông Hai đã gặp duoc
thằng rễ “cầu tự”.
- Bác Hai à! anh em Hải quân uống say hết
nên đã về lại tàu. Thật ra họ đâu phải là đối thủ
rượu của bác, mong bác thông cảm mà bỏ qua
cho nhất là thằng Lộc nó cũng say quá nên
không kềm chế được. Rồi tôi bắt TT/TS Lộc rót
rượu xin lỗi ông già vợ. Ông Hai cười hài lòng
uống hết ly rượu tạ lỗi vậy mà vẫn chưa tới
“bến” cứ đòi uống nữa. Tôi ráng tiếp ông thêm
vài vòng ông mới chịu gục trên bàn.TT/TS Lộc
dìu ông già vợ vô buồng trong để cho ông ngủ.
Trời cũng đã xế chiều va chợ vàm vắng bóng
người qua lại. Rượu thấm làm tôi thấy bần thần
và mệt mỏi. Tôi bước chân xiêu vẹo về tàu để ra
lại vùng công tác. Lính mà! vui chơi nhưng
không quên nhiệm vụ. Riêng chú rể TT/TS Lộc
cũng phải theo tàu ra khơi bỏ lại tân nương một
mình ở chỗ vàm Sông Ông Đốc. Đêm đó TT/TS
Lộc ngủ không được, ngồi một mình trong bóng
đêm hút thuốc liên miên, mắt cứ nhìn về phía
chợ vàm nơi cô vợ mới cưới đang nằm chờ
mong. Đám cưới nhà bình không có “động
phòng hoa chúc”.
Rồi tôi thuyên chuyển khỏi HD5/ZP va từ đó
tôi không còn gặp lại TT/TS Nguyễn Hữu Lộc
nữa. Nhiều lúc tôi tự hỏi không biết giờ nầy vợ
46
Ngửa mặt nhìn trời lộng gió Cám ơn em đã đến cùng ta Lắng nghe sóng vỗ ngàn khơi Giữa biển trời Hạ Uy Di lộng gió Nghe phiêu du tận đỉnh trời Xóa đi hết những gì oan khó Cõi nhân sinh tan trên triền sóng Bỏ lại ngoài kia ngày tháng ưu phiền Em hãy mở lòng trong nắng Chốn thần tiên ta cùng nghe lời gió Chút hanh vàng cho thắm đượm màu da Mảnh trời riêng đẹp giấc mơ tiên
Di Truong
Sandy Beach, Honolulu
chồng của TT/TS Lộc có được con cái đầy nhà
như lời của TT/TP Hoảng ước ao trước đây khi
xin tôi đứng ra cười vợ cho TT/TS Lộc Còn
TT/TP Hoàng nữa, không rõ hắn có chạy thoát
được ra ngoài hay vẫn còn trầm luân ở một nơi
nào đó trong nước. Tôi cũng chưa lần nào trở lại
chợ vàm Sông Ông Đốc, Chắc cảnh vật ở đó bây
giờ thay đổi dữ lắm? và ông Hai, ông sui bất đắc
dĩ của tôi, có lẽ ông không còn sống trên cái cõi
đời này nữa. Tôi nhớ đến ông và nhất là hạm
trưởng An. Tôi còn nợ ông hạm trưởng một ly
rượu mời vì hôm đám cưới của TT/TS Lộc tôi
bận quá nên quên mời ông một ly rượu để cám
ơn ông đã cho tôi cái cơ hội rước dâu đúng giờ
ấn định.
Chiến trận đã tàn và nước cũng đã mất, còn
đời của tôi cũng nổi trôi theo vận nước. Giờ đây
tôi ví như con chim hải âu bị gãy cánh sống lạc
loài trên đảo hoang , ngày ngày chỉ còn nhớ
biển, tiếc sông. Nhớ nhất là những chùm bọt
biển trắng xóa chạy đuổi theo đuôi tàu qua bao
chuyến hải hành đơn độc, và những đêm trăng
sáng vằng vặc để tàu trôi trên biển vắng, trôi qua
cac địa danh quen thuộc như Gành Hào, Hòn Đá
Bạc hoặc vàm Sông Ông Đốc.
“Một kiếp hải hồ chân chưa mỏi,
Ta về nhớ biển tiếc sông xưa.”
Có nhiều đêm mơ ngủ, tôi nghe sóng biển vỗ
về bên tai lẫn tiếng nhừa nhụa của hạm trưởng
An :
-Uống! Uống! Đít mẹ uống đi.
- Vâng, tôi uống với ông đây hạm trưởng.
Xin mời ông, một ly rượu ân tình”.
LÊ TAM ANH - V3
(Để tưởng nhớ HD5/ZP và ngày tháng ở Năm
Căn, Cà Mau)
khung trúâi phiïu du
47
ngaây thaáng àöíi àúâi
Lê Trần Vũ
Thời gian chờ đợi ngày trình diện sau 30/4/75.
" Mang thực phẩm cho mười ngày học tập".
Ôi! một tài năng trác tuyệt của " đỉnh cao trí tuệ"
cho phần chơi chữ nghĩa.
Ngậm ngùi cho những mất mát, chia lìa. Bạn bè
lưu lạc chân trời góc bể. Đứa còn, đứa mất
Lũ chúng ta lạc loài dăm bảy đứa
Bị Quê Hương ruồng bỏ giống nòi khinh
Bể vô tận sá gì phương hướng nữa
Thuyền ơi thuyền theo gió hãy lênh đênh
(Vũ Hoàng Chương)
Tôi, một mình, đứng ngoài lề không khí hả hê,
dzui mừng của những người anh em chiến thắng
từ miền núi rừng ghé thăm gia đình.
Sài Gòn ơi! Ta mất người như người đã mất tên
như dòng sông nước quẩn quanh buồn
(SG niềm nhớ không tên, N.D.T.)
Lang thang tìm thằng bạn cũ thời trung học ngày
nào. T. vẫn còn theo đang đuổi ngành Luật.
Tương lai, chắc cũng chẳng khá hơn thằng Sĩ
Quan "Ngụy" chút nào
Hai thằng đi lang thang quanh quẩn thành phố
đã mất tên tìm kiếm chút hương xưa.
Tình cờ gặp lại thằng bạn cũ bụi đời thời trung
học nhập bọn,rủ rê đi mây về gió.
Buổi sáng sớm, ba thằng còn đang ngồi tán dốc
ở quán nước xóm đường Ngô Tùng Châu ngã 6
Sai gòn. Không ngờ thằng bạn cũ còn đang giữ
giùm bọc cờ tướng và vài chục túi nilong bột
trắng.
Nhóm nhóc tì mang băng đỏ ào tới đòi xét người
và giấy tờ. Hơi hoảng hốt một chút nhưng chúng
tôi vội trấn tĩnh và nhã nhặn xác nhận có giao du
với nhóm hút bạch phiến nhưng xin được về
phường “trình bày riêng” với CA trưởng.
Một mình trong phòng riêng với viên CA
phường và màn kịch bắt đầu.
- Vâng, tôi vừa giao 20 túi nilong nhỏ cho nhóm
Sĩ Quan Ngụy đang tụ tập xóm nầy.
- Tôi là Trung Úy chính quyền Ngụy đã từng
hoạt động trong lòng địch.
- Đây là giấy xác nhận, đồng chí có thể "trao
đổi" với trưởng nhóm. Trong khi chờ đợi đồng
chí xác minh, cho phép tôi thừa hành công vụ để
tránh khỏi bị bọn phản động nghi ngờ.
- Đồng chí có thể cho mấy em giữ trật tự canh
chừng trong lúc chờ xác minh.
Gạt tay mơ CA phường tương đối không khó
mấy, tôi làm mặt tỉnh về lại quán nước ngồi
"như thiệt". Độ chừng hơn 10 phút liếc nhìn mấy
nhóc tì băng đỏ lơ là tui chùn lẹ.
“Hun” thắm thiết lá bùa hộ mạng " Trung Úy
hoạt động trong lòng địch..."
Gần 3 năm luân lưu từ trại tập trung nầy qua trại
tập trung khác, bạn bè ly tán, đứa bỏ mình trong
trại, đứa vượt ngục rồi cũng theo giun dế, đứa bị
đày về núi rừng Việt Bắc. Thằng nào có vợ con
rồi thì cũng bặt tin dần theo năm tháng. Hoặc đã
bị đưa về vùng kinh tế mới, hoặc về quê ăn bám
Nội, Ngoại. May mắn và có điều kiện hơn thì
tìm đường vượt biên. Thê thảm hơn thì nhận
được lời nhắn qua Mẹ già lên thăm nuôi
“mình chịu khó học tập tốt, thành khẩn khai
báo, cố tìm kiếm tội lỗi tày trời nhét dzô bản
48
kiểm điểm hàng tháng, rồi Bác và Đảng sẽ kíu
xét cho dzìa sớm, nhưng không được đoàn tụ
dzới dzợ con đâu đấy nhé. Xin mình tha thứ, em
đành ôm cầm qua thuyền khác trước là để con
anh không bị “ní nịch” xấu có cha là “Ngụy”
hai nữa là biết chờ anh đến kiếp nào, bye anh...”
Có một lần, trong đời, sống trong tận cùng nỗi
khổ đau, sống trong cùng cực của kiếp người
mới đo được lòng nhân bản, mới biết được cõi
đá vang. V.T.An cũng nói được ít nhiều trong ca
khúc “Đời Đá Vàng”
Có một lần mất mát mới thương người đơn độc
Có oằn mình đớn đau mới hiểu được tình yêu
Qua dầm dề mưa tuyết mới vui ngày nắng về
Có một đời khóc than mới hiểu đời đá vàng
Cuối cùng tôi cũng nhận được giấy " học tập tốt"
về với gia đình.
Trong lòng mở hội, và sướng như điên, tôi nghĩ
chắc cũng “hồ hởi” cỡ Tố Hữu, nhà thơ lớn miền
Bắc, thuở thiếu thời đã dạt dào cảm xúc sướng
rên mé đìu hiu để thốt lên lời tận trái tim của ông
từ ấy trong tôi bừng nắng hạ
Mặt trời chân lý chói qua tìm
Hồn tôi là cả vườn hoa lá
Rất đậm hương và rộn tiếng chim
Thật khác xa một trời, một vực với
Yêu biết mấy, nghe con tập nói
Tiếng đầu lòng con gọi Stalin!
Trời hỡi trời ! Ngay cả tiếng đầu lòng của thằng
mắt xanh mũi lõ Liên Xô cũng bập bẹ папа
(Daddy, Ba Ba) chứ nào biết Stalin là ông mô nì.
Tui tự hỏi, bài thơ ni mà được dịch qua tiếng
Liên Xô, tới tay ông Trùm diệt chủng Stalin (đã
bị hạ bệ ở cái nôi CS), hẳn ông cũng cười thán
phục cho một tài thơ nịnh có một không hai trên
cõi đời nầy.
Không dám về lều từ giã bạn bè, tiếc cây đàn
guitar tự chế mà thôi đành. Không quay lui, nhìn
lại. Tay giữ khư khư tờ giấy màu vàng nhạt có
con dấu đỏ như ôm một báu vật.
Từ từ, chậm rãi từng bước một cứ y như là đi
dạo phố (mừng được thoát trại, chỉ muốn 3 chân,
4 cẳng chạy bay biến khỏi cổng rào nhưng
không dám, bởi sợ mấy anh vệ binh tưởng mình
trốn trại làm cho tràng AK thì Ô hô, a ha...)
Không quay lui, nhìn lại, cúi gầm đầu đếm bước.
Tạc vội vào quán nước ven đường cách cổng rào
vài chục thước.Nữa như muốn hội nhập làm
người dân bình thường, nữa thèm quá ly nước đá
chanh đường.
Dòng nước mát ngọt lịm thầm dần qua bờ
môi,len lỏi qua từng kẻ chân răng vàng đục khói
thuốc lào Cái Sắn. Rít hơi thuốc thơm lừng, ém
hết khói cho la đà chạy vào buồng phổi vốn đã
khô cằn năm tháng. Sướng hơn phê nàng tiên
nâu và gối đầu trên đùi em Hà Tiên trắng nõn
ngày nào. Đê tê mê và sướng rên mé đìu hiu hơn
phê nàng tiên áo trắng thuở nào.
Quẳng xuống hố thẳm, vực sâu tháng ngày qua.
Tất cả chỉ là lẽ vô thường.Cát bụi lại trở về với
cát bụi. Đời người hữu hạn. Thôi chấp nhất và
hết hận đời.
Ta về, nói như nhà thơ Tô Thùy Yên (sau mười
năm " đèn sách ") không một chút oán hờn, trách
móc, không một chút hận thù.
Ta về cuối mái đầu sương điểm
Nghe nặng từ tâm lượng đất trời
...
Ta về như lá rơi về cội
Bếp lửa nhân quần ấm tối nay
Về tới nhà Ba mẹ ở Gò Vấp rồi mà vẫn còn như
người mộng du.Sợ, sợ, và sợ... sợ đủ mọi chuyện
trong cuộc sống nầy.
Một mình, thui thủi trong tận cùng nỗi đơn độc
bủa vây. Cứ như mình không còn người thân
yêu nào trên cõi đời nầy và chẳng còn biết bám
víu nương tựa nơi mô. Sống ru rú trong nhà chờ
ngày rời Saigon, thành phố thương yêu mang
nhiều kỷ niệm của “uống ly chanh đường, uống
môi em ngọt”, và những “con đường có hàng
cây lá xanh gần với nhau”.
Thạnh Mỹ, một làng nhỏ nằm ven đường xuôi
về Đơn Dương, Đức Trọng, đổ về Cam Ranh,
Nha Trang. Hướng ngược lại, lên Ngã Ba Phi
Nôm về Đà Lạt,hoặc xuôi Nam về Bão Lộc, Sai
Gòn.
49
Trước khi theo Ba Mẹ về xóm Thượng, ở với gia
đình bà chị thứ sáu. Thời gian nầy theo phụ lái
máy cày cho ông anh họ cũng đỡ phải chân lấm
tay bùn.
Thương Ba Mẹ đã già, rời bỏ ruộng vườn nhà
cửa, Giã từ làng quê mồ mả Ông Bà, vào
Saigon. Tưởng an bình tuổi già nơi xóm Loon,
lại phải theo gia đình anh chị về trông coi khu
vườn nhà Gò Vấp. Vẫn còn long đong vì thằng
con út không được sống ở thành phố sau khi
xuất trại, Ba Mẹ lại lần nữa quay về Thạnh Mỹ
vất vả vì con ở tuổi nhẽ ra Ba Mẹ được hưởng
nhàn.
Ba Mẹ,
Trong một im lặng chừng mực nào đó. Con cảm
nhận được từ Ba là một chia xẻ thương yêu cho
những ưu tư muộn phiền, những lẻ loi, đơn độc
nơi con. Con đọc được từ Ba Mẹ những xót xa,
cam chịu nhọc nhằn với cảnh đời con thay đổi
Người ta vẫn thường nói "có bao giờ nước mắt
chảy ngược được đâu".
Chỉ tới khi nào xót xa nhìn con trong cơn sốt cao
độ, thuốc từng giọt không làm giảm nhiệt nơi
tấm thân còn thơm mùi sữa đang hừng hực hơi
nóng. Ước được dùng thân xác mình hứng chịu
từng cơn sốt nghiệt ngã của con. Từng đoạn ruột
muốn lìa thân xác và lặng người khi nhìn con bị
hiếp đáp, bị té ngã thương tích trầm trong, bấy
chừ mới thấu hiểu tình thương yêu trời biển của
đấng sinh thạnh. Nhưng, đến lúc cảm nhận được
tình thương yêu từ Cha Mẹ thì...hoặc giả mình
không còn cơ hội phụng dưỡng Cha mẹ, hay còn
quá bận bịu cho đàn con còn bé dại. "nước mắt
chỉ chảy xuôi" Ôi ! cũng là lẽ thường tình
Cho tới bây chừ, khi viết phần đời nầy, con vẫn
tự hỏi tại sao con có thể sống một cách hồn
nhiên như cây cỏ. không một bận tâm, lo toan
ngay cho chính bản thân mình. Đã 27 tuổi đời,
Ba mẹ đã già yếu, thế mà không hề để ý tới cuộc
sống áo cơm hàng ngày. Lái máy cày cho hợp
tác xã mà cũng không biết có được lãnh lúa gạo
nào chăng. Không biết Ba mẹ lấy gạo lúa, mắm
muối từ đâu cho bữa ăn.Cũng chưa hề bận tâm
nếu một mai Ba mẹ qua đời thì cuộc sống mình
sẽ thế nào...
Chắc là cũng một bất chợt nào đó, muốn kiếm
đại “mụ dzợ chân lấm tau bùn” không cần chữ
với nghĩa, chứ đừng nói chi tới chuyện chia xẻ
tâm tình ấm lạnh (mơ mộng hão huyền trong
hoàn cảnh nầy). Hèn người, đôi lúc, cũng muốn
kiếm mảnh đất hình tam giác nào đó cày không
công rồi “tiến nhạnh tiến mạnh” tới chuyện đời
thường.
Thế nhưng,tôi đã tìm thấy em trong cõi đá vàng
nầy. Nói như TCS
“Bên em, tôi có thiên đường cạnh nỗi đau".
Biết thế, nhưng tui cứ để bản ngã níu kéo cùng
em bước xuống cơn đau.
cho nhau hết cả mê say
cho nhau chất ngất thơ ngây
trên cánh môi say,
trên ngón chân bước về tình buồn tình buồn
(LUP)
Tụi tôi, hai tâm hồn đơn chiếc tìm đến với nhau
để trống vắng thôi không còn bủa vây, để bóng
đổ không còn một mình tôi và … để sống qua
tháng ngày với cảnh đời thay đổi cho cả hai, nơi
làng quê hẻo lánh nầy.
Đ. C., tên nàng như một định mạng. Mới lọt
lòng C. đã mồ côi Cha và sau cuộc đổi đời, C.
"mồ côi chồng". Nh. chồng nàng vẫn còn đang
trong trại tập trung.
C. không đẹp sắc sảo như Đ. và cũng không kiêu
sa nhu KA, nhưng ở C co sức thu hút kỳ lạ ở nụ
cười nhẹ nhàng với chiếc răng khểnh cùng đôi
mắt gợn chút u buồn xa vắng. Gặp C. khi nàng
đang hướng dẫn các em học trò trong làng ca
múa cho lễ lộc gì đó. Cả hai, như đọc được và
cảm thông sâu xa cho một tâm hồn lẻ loi ngay từ
buổi gặp gỡ lần đầu tiên.
I could not wait for long to see her again. Ngay
sáng hôm sau tôi tìm đến với C.
À thì ra ngày xa xưa, nàng đã từng là cựu học
sinh trung học Nguyễn Bá Tòng, Saigon. C. đã
thấp thoáng thấy và nghe nói về một Sĩ quan Hải
50
Quân thỉnh thoảng về thăm Ba Mẹ trong xóm
Thượng.
Sau hai lần gặp gỡ tại và một lần đang ngồi uống
càfé đầu làng chờ đi cày thì chợt thấy C. đang
chờ lên chuyến xe đò đi Đà Lạt. Tui 3 chân 4
cẳng phóng theo cho kịp chiếc xe đò Lạc
Lâm/Đà Lạt. Forget chuyện cuốc với cày.Theo
em first. Kể cũng vui vui, còn có dịp “theo em”
ở tuổi không còn cắp sách đến trường. !
Sau đó là những hẹn hò quấn quít không rời.
Yêu nhau giữa đám rong rêu
Bên dòng nước cuốn lêu bêu
(LUP)
Chúng tôi yêu nhau như thú hoang ngoài đồng.
Có khi bờ sông bên ni, có lúc mé rừng bên kia,
hoặc trong căn chòi hoang nào đó. Cây cỏ, chim
muông, thiên nhiên chứng giám cho cuộc tình
ôm- em- trong- tay- mà- ngỡ- như- mình- sắp-
mất.
Bởi khó lòng cho những tìm đến với nhau, nên
chi hễ gặp là quấn quít, là quên đời, là để yên
cho những vùng thịt da nóng bỏng tìm đến nhau
cấu cào, là môi hôn đền bù cho dại khờ nỗi nhớ,
là hơi thở đứt khoảng nồng ấm cho nhau,
Cuộc tình vụng trộm, lén lút nào ở cái làng nhỏ
bé nầy rồi cũng có ngày “bờ ê bê hỏi bể”
Dân làng đã bắt đầu thầm thì to nhỏ về “sự liên
hệ bất chánh” giữa anh chàng S.Q. Ngụy và cô
giáo dạy trường làng đã có gia đình.
Mẹ C. tìm gặp tôi khuyên nhủ. Chi tôi cũng tìm
C. to nhỏ cho cuộc tình-xã- hội- không- khứng-
chịu nầy. Tôi cũng đã hứa với Mẹ C. là sẽ cố
gắng chấm dứt, rời xa C.
Thời gian nầy cả hai hình như cũng cố gắng gặm
nhấm nỗi nhớ, tránh tìm kiếm nhạu. Năm khi
mười họa, qua những buổi chiếu phim, văn nghệ
ngoài trời mới có cơ may gặp nhau. Rồi vài lúc,
cũng không kiềm hãm nỗi nhớ lại lén lút đến
nhau. Chỉ cần một khoảnh khắc gặp cũng đủ cho
những nụ hôn nồng cháy không rời, tê điếng thịt
da cho đêm về day dứt nhớ thương.
Có lần C. muốn mang theo con gái cùng nhau
vượt biên bằng đường bộ qua Lào đến Thái Lan.
Hải Quân mà vượt biên bằng đường bộ thì quả
là thất sách, tôi khuyên C nhẫn nại chờ thời.
C. báo tin vài tháng nữa Ng. xuất trai. Hai tháng
sau Ng. về và biết hết mọi chuyện.
Nh. muốn gặp tôi tại nhà vợ, tôi xin gặp ở quán
cafe đầu làng.Ng. từ tốn vào đề
- Nghe C. kể về anh, những tưởng mình sẽ là
bạn...dù sao anh và tôi cũng chung hoàn cảnh
S.Q Nguy. Thế nhưng C. "thú thật" đã yêu anh.
Như anh biết đó, nhất là tình yêu, nous ne
pouvons pas tenir la une, qui veut aller loin.
(Mình đâu thể giữ được người muốn ra đi. Ng.
nói với tôi bằng tiếng Pháp)
- Vâng, tôi sẽ là người phải ra đi, duy chỉ thương
đứa con gái còn quá nhỏ dại
Một nỗi thương cảm òa vỡ, tràn ngập lòng tôi
cho một hối hận pha lẫn xấu hổ. Tôi nghẹn lời
- Mong Nh. tha thứ cho C. Lỗi ở tôi hoàn toàn.
Tôi không nên, tôi không phải. Tôi xin danh dự
hứa với Nh. là sẽ kiếm cách rời xa xứ nầy. Nh.
yên tâm, hãy vì con gái.
Vỗ vai Nh. như là một trao gởi.
- Ng. tin đi, thời gian sẽ hàn gắn tất cả những
thương tích đời mình. Cảm ơn Ng. đã nhã nhặn
cư xử với tôi. Please, hãy sống vì con. Tôi sẽ ra
đi
Gặm nhấm nỗi cô đơn, ê chề đếm từng bước về
Xóm Thượng với một ngập tràn lòng tủi hố, xót
xa trong tôi
Nghiệm lại, hễ cứ mỗi lần lâm vào cảnh bế tắc
mà bản thân không tài nào giải quyết thì có một
hanh thông diệu kỳ. Cám ơn đời.
Một lần vào Hải quân tưởng out, may nhờ chú
Trợ cứu bồ.
Một lần sém bị mê hoặc bởi nàng tiên áo trắng ở
Qui Nhơn, thì được lệnh thuyên chuyển về Phú
Quốc.
Và lần nầy, đang rối bời với lời hứa danh dự,
vĩnh viễn rời xa xứ nầy ma vẫn chưa biết cách
nào thì... may sao được em gái bạn HQ cùng
khóa từ Da Lạt ghé nhà báo tin.
Có một tổ chức vượt biên từ Phan Thiết cần
thuyền trưởng lái tàu đi ngã Thái Lan.
51
Tôi như nắng hạn gặp mưa, như cá gặp nước.
Không một đắn do, do dự tôi nhận lời ngay. Bởi
đây là cách duy nhất vĩnh viễn rời xa C., tạ lỗi
với Ng. người đồng cảnh ngộ, và cũng là con
đường duy nhất đi tìm sự sống còn cho chính
bản thân mình trong muôn vàn hiểm nguy chờ
đón.
Đ.C.Vĩnh biệt tình ẹm
Ngày, giờ X sẽ có xe đón tại ngã ba Phi Nôm về
Sai Gon...
Tôi phải chờ đến gần ngày giờ X mới dám thưa
chuyện cùng Ba Mẹ và phác thảo kế hoạch nhỏ
về sự mất tích của tôi để gia đình đỡ bị phiền
luy. Sợ nhất sự ra đi của tôi bây chừ là bà chị
thứ Sáu (cách mạng 30/4 nhưng rất ư là hăng
say, nhiệt tình). Còn nhớ thời " cải cách ruộng
đất". Con đã khối con tố cha, vợ tố chồng, tá
điền được dịp trả thù “địa chủ”, người đã từng
cưu mang gia đình mình. Thời mạt pháp cho
những bon chen, thời cơ, không còn nhân tính ở
cái gọi là XHCN.
Biết đâu được chữ ngờ, có thể vì không muốn
mất thằng em, cũng có thể sợ bị liên lụy gia đình
sẵn sàng báo cáo nhân dân về dự tính vượt biên
của mình thì hỏng. Ông anh cả thì khỏi nói, cũng
giống như tất cả thanh thiếu niên thời bấy giờ,
mang một bầu nhiệt huyết của tuổi trẻ cho quê
hương. Mê mẩn, sống chết cho một lý tưởng mà
chỉ nghe chứ chưa bao giờ biết. Tuy nhiên ông ở
Saigon quá xa xôi không có gì đáng ngại.
Ba Mẹ đã cho con cuộc đời. Ba đã 3 lần, với cái
nhìn thấu triệt và thích nghi cùng thời cuộc,
quyết định cho 3 ngả rẽ đời con.
Nếu giữ con lại làng quê theo học Hội An hoặc
Đà Nẵng thì chưa chắc đã có được mảnh bằng
Tú Tài đôi.
Nếu không quyết định cho con gia nhập Hải
Quân bằng mọi giá mà để vào Thủ Đức ra bộ
binh tác chiến thì đã làm bạn với giun dế từ
khuya.
Nếu cản ngăn con tìm đường vượt biên thì có lẽ
giờ nầy không biết sống thế nào ở xã hội nhất
định khép chặt cánh cửa cho những gia đình lý
lịch ngụy quân ngụy quyền.
Biết là quyết định cho con ra đi, quả là khó khăn
cho Ba, là sẽ mất con từ đây. Không làm mồi
cho cá thì cũng đói khát giữa biển cả mênh
mông mà chết. Thế nhưng giữ con ở lại thì rồi
thằng út cũng sẽ lây lất tháng ngày tàn tạ, không
thể nào ngẩn cao đầu để sống.
Tất cả bằng tấm lòng thương yêu và hy sinh trời
biển của Ba Mẹ. Duy nhất trên cõi đời nầy, chỉ
có bậc làm Cha làm Mẹ mới vì con hứng chịu tất
cả nghiệt ngã, tai ương của cuộc đời.
Đêm cuối cùng, tôi chui dzô nằm giữa Ba Mẹ
như hồi còn bé. Hết tìm hơi ấm nơi Mẹ lại xoay
người ôm Ba như một kiếm tìm niềm tin yêu và
sức mạnh để ra đi.
Gà gáy canh một, núi rừng xóm Thượng vẫn còn
mê ngủ.
Gà gáy canh hai, Ba biểu tôi chuẩn bi.
Mẹ cũng đã gói sẵn nắm xôi cho tôi lót dạ để
cuốc bộ ra ngã ba Phi Nôm.
- Dạ, thưa Ba Mẹ con đi.
Mẹ khoác lên người tôi chiếc áo ấm đã sờn vai.
Lần đầu tiên trong đời, Ba ôm tôi như chuyền
sức mạnh và sự sống.
Tôi ôm Mẹ, tấm thân gầy bởi tháng ngày tần tảo.
Không dám quay lui, nhìn lại.
Tôi, một mình, đếm từng bước chân xa lìa xóm
Thượng.
Xóm Thượng, 1979
Lê Trần Vũ
52
Về Huế Ngày Mưa Mưa giăng từ đỉnh Ngự
Vỹ Dạ mưa xuôi về
Kim Long mưa ngược lối
Ôm kín chốn thành xưa
Vỗ về nơi miếu cổ
Tôn Nữ ướt tóc nàng
Nhạt nhòa bay áo tím
E thẹn vầng tà dương
Miệt mài nơi đất khách
Cố xứ nay trở về
Bâng khuâng bên trường cũ
Bồi hồi trên bến xưa
Câu Nam Ai não nuột
Trên dòng Hương mơ màng
Từ khoang thuyền cô quạnh
Xuôi mái về Văn Lâu
Tái tê cầu mấy nhịp
Vắng bóng người lại qua
Đôi chim thiêm thiếp ngủ
Cận kề dưới gác chuông
Câu kinh cùng tiếng mõ
Trầm hùng chốn thiền môn
Trong chiều Xuân mưa lạnh
Muôn thuở đất Thần Kinh
Chốn Ta Bà mê mải
Ngặt nghèo kiếp nhân sinh
Trong cõi trần ô trược
Ngậm ngùi bao đổi thay
Vô Thường chừ liễu ngộ
Cành trúc vương khói sương
Tâm bồng bềnh mây trắng
Thân an lạc trầm ngân...
Nguyễn Phước Nhớ ngày về Huế 2011
53
Chúâ vûúåt
Vuä mön
Cỏ Biển
- Riêng tặng các OC để nhớ quãng thời gian gặp
nhau ở quán café vỉa hè đường Ng Du.
- Ghi theo lời kể của OC N.T.Nghĩa Khóa 6/Victor
Từ bên nhà vợ về Hòa Hưng, qua khỏi
ngã bảy Lý thái Tổ hai vợ chồng tôi đạp xe
chầm chậm trên đường Phan Thanh Giản, vợ tôi
chở đứa con năm tuổi chạy trước, tôi theo sau.
Trời về chiều đường phố trở nên
vắng vẻ thưa thớt xe cộ, trải qua
năm năm đổi đời mọi người dù
muốn hay không cũng phải cố
gắng thích nghi theo hoàn cảnh
hiện tại, người ta chỉ ra đường vì
sinh kế, đến giờ bắt buộc phải trở
về nhà, chẳng ai có lòng nào dạo
chơi như ngày xưa, những ngày
những đêm giống như bài hát
của ông nhạc sĩ Y Vân vui mừng
ca tụng trong bài Đêm đô thị..”
Màn đêm xuống dần bao ánh đèn
đột nhiên như ngời sáng. Kìa bao
mái đầu trên phố phường kề vai
bước mau …lá..lá..la Đời đẹp
quá a …. a… à….á …. !!! Đang
mải mê thả hồn nhớ những
chuyện "thần tiên" tôi bổng nghe tiếng xe Honda
rú ga bên cạnh cùng lúc cổ tay trái của tôi bị
chộp mạnh một cái, theo phản xạ tôi giật mạnh
tay lại chiếc đồng hồ theo đà dễ dàng tuột ra
theo bàn tay của tên ngồi phía sau chiếc xe gắn
máy tôi chị kịp la lên "Ăn cướp à cướp.. cướp"
rồi đạp xe rượt theo, thuận tay rút mấy thanh củi
trên cái giỏ trước đầu xe đạp ném vào xe hai
thằng trước. Trong khi mọi người đi đường còn
ngơ ngác không kịp rượt theo vì hầu hết đều
chạy xe đạp, bỗng có người đi chiếc xe Suzuki
phía sau chạy lên chận đầu xe tôi lại và nói :
- "Tôi ghi được bảng số xe nè."
Quay qua người đưa cho tôi con số nhìn mặt
người này tôi bỗng ngờ ngợ nhớ ra anh ta là một
trong những người đã học ở trường OCS nhưng
khác khóa. Chưa kịp nói thêm gì anh ta đã vội
đi. Vợ tôi mếu máo khóc không ra tiếng :
- "Trời ơi ! Chỉ còn lại cái đồng hồ là tài sản
quý giá nhất. Mấy lần đi thăm nuôi anh, túng
thiếu mấy em cũng không dám bán, vợ chồng
ông tàu hàng xóm đi vượt biên trả em mấy chỉ
vàng để mua em cũng không bán, vì mọi thứ anh
đã mất hết còn lại chiếc đồng hồ kỷ niệm anh
nói hồi đi Mỹ học mua khi ghé
Nhật nên em cố giữ, bây giờ mất
rồi."
Tôi gieo niềm hy vọng cho vợ tôi
:
- "Hồi nãy anh kia có cho mình
số xe của tụi cướp"
- "Ai cũng đi xe đạp, mình anh ta
chạy xe gắn máy sao không đuổi
theo la làng giúp mình ? Chận
mình lại cho số xe để làm gì ? Em
thấy tụi nó chạy chậm rì như
người nhàn du, nó chạy tới ngã tư
quẹo trái qua Cao thắng mất tiêu,
cho số xe làm chi vô ích."
- "Anh chắc chắn anh này đã học
chung với anh bên Mỹ, không
biết anh ta có nhận ra anh
không!"
- "Anh nhớ anh ta em nghĩ anh ấy cũng nhận ra
anh, sao hai người không có phản ứng gì hết vậy
?"
Tôi trả lời buông xuôi :
- "Chắc vì gặp nhau quá bất ngờ"
Hai vợ chồng tôi buồn quá, tôi tự trách mọi khi
tôi rất cẩn thận đeo đồng hồ bên tay mặt, sao
hôm nay lại đeo tay trái. Buổi chiều tôi ghé nhà
vợ rước đứa con gởi nhà trẻ bên ấy, ông nhạc gia
giữ vợ chồng tôi ở lại ăn giỗ nên về trễ, thật
54
đúng "ăn bữa giỗ lỗ buổi cày". Chỉ biết tự an ủi :
- "Thôi của đi thay người !".
oOo
Có những con đường một thời là kỷ niệm vui
hoặc buồn, người ta hay nói niềm vui qua mau
nỗi buồn ở lại nhưng lần này thì khác, niềm vui
lại đến khiến nỗi buồn bay mất hút. Tôi gặp lại
Đ.Đ. Thủy ở nơi chốn không thể ngờ, cũng là
lúc tôi đạp xe từ bên nhà vợ trở về. Năm tháng ở
trong trại tôi có nghe tin về Thủy nhưng không
ngờ gặp lại hắn trong hoàn cảnh thật tức cười.
Chễm chệ trên chiếc xe đạp đòn dông cổ lỗ sỉ,
thồ cái giỏ cần xé bằng tre là thứ mấy ông tàu
già gồng gánh đi mua ve chai. Nhìn hắn bây giờ
râu ria, mặt mày đen thui giống hệt một anh
buôn bán ve chai thứ thiệt, duy chỉ đôi mắt sáng
quắc là không thay đổi. Tôi nhìn Thủy, hắn cũng
nhìn lại tôi rồi chúng tôi phá lên cười bởi cả hai
chẳng khác nhau mấy, nếu Thủy với cái cần xé
ve chai đàng sau thì phía trước xe đạp của tôi
không khác hơn là giỏ đồ nghề, cưa tay, bào,
đục ngổn ngang của ông phó mộc.
Từ ngày ra trại lần đầu tiên tôi tham gia chuyến
vượt biên với tư cách một tài công do Thủy giới
thiệu. Căn nhà trong hẻm Phan thanh Giản là nơi
tôi đến gặp người tổ chức, mọi thứ xếp đặt cho
chuyến vượt biên nào cũng giống nhau. Chuyến
đi khởi hành từ xa cảng Miền Tây và bến xuất
phát của chiếc ghe ở cửa biển Rạch giá. Gia đình
tôi gồm hai vợ chồng và đứa con năm tuổi được
đi "free" theo lệ. Mọi chi phí xe cộ ăn uống đều
do người tổ chức lo, cũng là lần đầu tiên sau hơn
năm năm tôi rít hơi thuốc lá 555 thật sảng khoái
vì được cung cấp hút thả giàn. Dù chuyến đi
không thành công do trục trặc tôi không rõ lý do
nhưng gia đình tôi được đưa về Saigon an toàn
sau đó, cho đến bây giờ chúng tôi vẫn nhớ mãi
ngày ấy mặc dù có hơi hồi hộp, trốn tránh một
chút nhưng tâm trạng thật vui giống như một
chuyến đi du lịch không có lần thứ hai, nhất là
vào thời điểm bấy giờ, thời của đói ăn và thiếu
mặc.
Cũng giống như tất cả anh em OCS khác sau
chuyến đi không thành lần đầu đều tìm cơ hội
tiếp tục lần sau. Những địa danh nghe quen
thuộc nhưng thực tế xa lạ vì chưa bao giờ đặt
chân đến. Ăn bờ, ngũ bụi trải qua nhiều nơi : Cà
Mau, Bạc Liêu, Trà Vinh, Phan Thiết nhưng
hình như số của vợ chồng tôi tuy có cung Thiên
Di nhưng không thuộc hành Thủy nên lần nào
cũng chỉ loanh quanh trên bờ. Vợ tôi nói :
- Trước mỗi chuyến đi em đều cầu nguyện với
Phật trời, nếu chuyện ra đi xuôi chèo mát máy
thì hãy cho mình bước chân xuống thuyền, bởi
vì một khi xuống đó rồi bao bọc chung quanh
chỉ là trời với nước, nếu bị "bể" chuyến khó mà
chạy thoát.
So với nhiều người tôi có chút may mắn hơn,
tuy vẫn bị công an địa phương hành tội khi xin
gia hạn tạm trú, nhưng nhờ cái "mác" là công
nhân viên "hợp đồng" trong xưởng mộc của
Công ty công tư hợp doanh Xây lắp Công
Nghiệp do bà chị vợ xin giùm, nên "được" xếp
vào diện "cư trú lì", cứ mỗi ba tháng một lần đến
xin những cái mộc đỏ chót đóng trên tờ giấy tạm
trú, chúng nối tiếp kéo dài dằng dặc giống tờ sớ
táo quân minh chứng cho chuỗi ngày quanh
quẩn vô định về tương lai. Ngày tháng làm công
nhân ở đây tôi thấy bớt buồn khi gặp
Lê.X.Quang và nhiều anh em quân, cán, chính
khác nữa có cùng cảnh ngộ, tôi mới hiểu câu nói
của một cán bộ mà bà chị đưa tôi đến gặp để xin
cho tôi vào làm nơi này, ông ta "mát mẻ" rằng :
- Ừa, xin vô nơi đó đi, cả một cái ổ trong đó.
Hai vợ chồng tôi đều là công nhân viên nhà
nước nên mỗi chuyến đi tụi tôi giống như "con
cóc bỏ trong dĩa" xuống tới nơi nhanh, nếu
không xong phải chạy về thật chóng.
Sống thoi thóp với nghề thợ mộc chờ thời vậy
mà thời gian trôi qua cũng hơn mười năm !. Tâm
55
trạng khao khát tự do khiến người ta tin vào bất
cứ lời đồn cho dù chỉ là viễn ảnh mơ hồ thiếu
thực tế đến đâu đi nữa ! Giống như đang lạc
trong bãi sa mạc khát cháy cổ đang lang thang đi
tìm ngụm nước trông thấy ốc đảo phía trước
trong mắt nên ai cũng chen nhau tìm đến. Không
biết nghe được từ đâu bữa nọ bà chị vợ đùng
đùng chạy về gom tất cả hình của mọi người cha
mẹ, vợ chồng con cái đến một tiệm ảnh "bí mật"
chụp lại thành một tấm và gửi theo đường dây
của người giấu mặt để xin đi định cư tại nước
Côte d'Ivoiry xa xôi hầu hết người sống ở đó đều
là nô lệ da đen. Người ta nói đi đâu cũng được
miễn là đi khỏi cái thiên đường Xã hội chủ nghĩa
đang sống, dù nơi đây được người Cộng sản ca
tụng và giáo hóa rằng đây là chế độ không có
chuyện "người bóc lột người", mọi người chỉ
biết gật gù đúng như lời nói không có chuyện
bóc lột chỉ có "khẩn trương bóc lủm" mà thôi.
Một bữa trên đường đi làm về, đến ngã tư
Pasteur, Lê Lợi đoạn ngang chùa Chà cạnh nước
mía Viễn đông tôi gặp N.N.Bạch, phải nói là
niềm vui chen lẫn nỗi buồn ! Vui vì gặp lại bạn
bè OC cùng trường ngày trước, buồn vì mãi đến
giờ phút này còn lận đận chưa thoát củi sổ lồng,
vẫn còn bơi lòng vòng và mắc cạn trong ao tù
trong khi đường ra biển lớn vẫn mịt mù thăm
thẳm.
Bạn cũ gặp lại nhau đều kể lại lý do vì sao
những ngày của tháng tư bảy lăm không ra đi,
mỗi người mỗi cảnh vào thời điểm ấy, để đến
bây giờ có muốn vượt thoát cũng thật khó khăn
gấp trăm ngàn lần ! Trong quá trình đi tìm tự do
Bạch xui xẻo hơn tôi, hắn bị " bể chuyến " nên
lọt lưới nằm ấp, đây là nỗi lo lắng nhất của
những tài công trót mang thân phận một tên tù
cải tạo nếu vượt biên không thành sẽ bị nhận bản
án nặng nề hơn người khác ! Mặc dù thế đã là
một OC thì tiếng gọi của trùng dương không lúc
nào ngớt thôi thúc, để che những đôi mắt cú vọ
đỏ ngầu những máu luôn rình rập, Bạch thuê chỗ
làm sập bán báo ở đường Phạm viết Chánh. Ở
đây bạn bè gặp nhau dễ dàng nên ai cũng hay
ghé qua đó nhờ vậy tôi gặp V.Đ. Vàn lúc này
đang đi bỏ mối sữa trở về, sau đó Vàn vượt biên
và thành công. Tôi và Bạch cũng vẫn còn lận
đận những chuyện buồn của mình, của bạn. Sập
báo bị chủ nhà đuổi phải chạy từ bên này sang
bên kia đường. Vợ tôi kể khi mới chuyển về làm
kế toán xưởng gỗ tận Thủ Đức tình cờ nói
chuyện với một công nhân mới biết cô là Thu
Thảo em gái của N.Q. Thành nên biết tin chuyến
tàu bạn tham gia bị mất tích không cập được bất
cứ bến bờ nào. Cũng vậy Bạch biết được Đ.K.
Ninh đã buông neo mãi mãi giữa dòng sông
mênh mông trên đường đi gặp biển.
Mặc dù vậy tôi vẫn không nao núng khi có cơ
hội ra đi tiếp, còn nhớ đó là những ngày áp Tết
cuối năm 1987. Một người bạn bên Australia vì
ân tình cũ với vợ tôi trong thời gian làm việc
chung, cô gởi tiền nhờ ba má mình hợp tác với
người bà con quen tự đóng ghe cho gia đình tôi
vượt biên vì thấy tôi lận đận mãi vẫn chưa thoát.
Trong thời gian chờ đợi ông bà dẫn tôi đến gặp
một người mù xem quẻ bằng những đồng tiền
gieo trong mai con rùa rỗng ruột. Ông ta nói "Số
cậu ra đi tự nhiên theo thứ tự trước mặt mọi
người không cần trốn tránh ai hết, đến phiên là
ra đi thôi …", nghe lời tiên đoán ấy tôi chỉ thấy
tức cười trong bụng nhưng không dám tỏ thái
độ.
Là nhân vật chính nhưng chuyến đi rốt cuộc vẫn
không thành vì người hợp tác họ âm thầm cùng
nhau xuống bãi mà không cho gia đình tôi hay !
Sự việc xảy ra làm tôi nghĩ ngợi ; phải chăng có
bàn tay ông trời sắp đặt cho số phận mỗi người,
bởi đám vượt biên đã bị du kích phản phé tóm
gọn khi xuống bến. Cũng lúc đó nghe lén tin tức
từ đài VOA tôi được biết "Tướng John Verssey
đại diện cho chính phủ Hoa Kỳ đã chính thức
sang Hà Nội để đàm phán về số phận những
người còn ở lại, có liên hệ với chính quyền
VNCH đã và đang bị tập trung cải tạo." Chỉ là
một bản tin ngắn ngủi cho thấy vẫn còn có sự
quan tâm của thế giới bên ngoài bức màn tre, đối
với những người thuộc diện "mồ côi" không cơ
56
hội cũng không thân nhân ruột thịt bên kia bảo
lãnh đoàn tụ. Dù chỉ là một đốm lửa le lói giữa
màn đêm nhưng lại mang tia hy vọng cho mọi
người bám víu vào để tồn tại, hình như từ sau
ngày mất nước người ta sống nhờ những lời đồn
đoán như thế, nó được xem như một thứ thức ăn
chăm bón cho tinh thần !
oOo
Sống lâu nên cũng nhiễm chút ít cung cách của
nơi đó, nếu người Cộng sản hàng ngày nhồi nhét
những lời tuyên truyền xấc láo về chế độ với
thuyết nói một lần không tin, nói trăm lần, ngàn
lần ắt phải có một lần tin thì chuyện "người Mỹ
rước những người tù cải tạo" là một lần tin trong
hàng ngàn tin đồn đang xảy ra. Ai cũng dè dặt
không dám nộp đơn bởi bài học "tập trung đi tù"
khiến những con chim bị ná thấy cành cây cong
cũng sợ ! Đến đầu năm 1990 khi chuyến bay đầu
tiên chở những người thuộc diện HO và thân
nhân đến Mỹ, được đài VOA tường thuật đã
mang lại luồng sinh khí cho tất cả anh em OC
còn ở lại. Buổi họp do OC Bạch với các OC
khác ở VN được tổ chức tại một nhà trẻ do quen
biết của một OC với cô hiệu trưởng. Nhờ số tiền
quyên góp của anh em OC từ Hoa Kỳ gửi về nên
có kinh phí dồi dào. Sau buổi tiệc mỗi gia đình
còn nhận được một số tiền nho nhỏ tượng trưng
vui tết. Bên cạnh Bạch và tôi là T.N.Điệp,
Nghiêm, H.Ngạc, V.K.Hạnh, Gia, Bình, Kiếm,
Toàn, Sơn, Chấn, L.X.Quang, B.T.T.Sơn, Tạ,
Khoa và các OC khác mà tôi chỉ biết mặt mà
không nhớ rõ tên vì không cùng khóa. Đặc biệt
có Thiếu tá Hải /SQ liên lạc trong các khóa học
cũng tham dự.
Thời gian này tất cả OC nào có đủ ba năm đòi
hỏi đều đã nộp đơn xin định cư tại Hoa Kỳ theo
diện HO, bên cạnh sinh hoạt bình thường của
đời sống, trong thâm tâm đa số anh em đều
hướng vào việc chuẩn bị cho sự ra đi. Vườn cây
trước dinh Độc Lập sáng nào cũng đông nghẹt
những cựu tù nhân đến góp mặt, chỉ là đứng đó
nhìn vẩn vơ vào tòa nhà dùng làm Sở Ngoại Vụ
bên kia mang số 6 đường Alexand de Rhode giờ
đổi thành Thái Văn Lung. Không ít đồng đội cũ,
đồng trại tù một thời tình cờ gặp nhau ở đây.Ai
cũng biết nơi này không thiếu tai mắt đám công
an theo dõi nên rất cẩn thận tiết kiệm lời nói.
Bên cạnh bạn bè gốc là OC chúng tôi còn gặp
rất nhiều người khác là bà con, bạn thời đi học
hoặc đồng trại tù. Một anh bạn của tôi là dân Bộ
binh được các OC gọi tên là Minh "12 ly 7" để
phân biệt với OC Minh Fulro vì anh bạn này
ngồi xuống bàn café với chúng tôi hay "nổ "
nguyên một băng thành tích " diệt cộng " bất kể
chung quanh là ai. Chuyện anh tự hào khi đại
đội mình đóng quân nơi đâu anh đều gom tất cả
dân quanh vùng điểm mặt họ và nói "Tôi nói cho
các người biết hễ một người lính của tôi ăn đạn
là tôi bắt các người phải trả lại một mạng bất kể
là do ai bắn lính tôi" Nhờ vậy mà anh đóng quân
vùng nào lính của anh cũng đều an toàn. Giọng
nói sang sảng tỉnh bơ không sợ "tai vách mạch
rừng" làm những người đang ngồi cùng bàn
đứng lên tản ra không kịp. Bạch qua hàng hủ
tiếu mì của bà má vợ tôi góc đàng kia, Bình tuôn
vào nhà tôi giả vờ đi rửa tay, các bạn khác kẻ leo
xe Honda ra về, người kiếu từ đạp xe đi, OC
Bạch sau đó vừa cười vừa nói với anh ta :
- Trời ơi ! Ông làm như ở đây là nước Mỹ,
chung quanh toàn một hệ như mình. Ngồi cạnh
ông sợ bị nổ dính miểng tùm lum.
OC Bình thực tế hơn :
- Tui bỏ chạy vô nhà lẹ ở ngoài đó dính đạn.
Tụi công an chụp được lật áo thằng nào cũng
đầy bốn năm nhát thẹo trong mình (bốn năm
năm tù).
Cũng vì tính ăn to, nói lớn bất kể chung quanh
nên suýt bị cùm trong trại bởi lần đi lao động về
anh ném bó lồ ô xuống la lên : "Trời ơi ! Mệt
quá bác hồ ơi" Tên quản giáo bất ngờ đi đến
nghe được khép anh vào tội dám gọi tên lãnh tụ
bêu riếu, may mà anh lanh trí đối đáp được sau
đó.
57
Sau lần cao hứng đó anh em OC đặt tên anh là
Minh 12ly 7. Quán café vỉa hè của tôi giờ là nơi
tụ hội của anh em OC khi có việc phải ra thăm
dò tin trước trước sở ngoại vụ tiện thể ghé
ngang. Thời gian này tôi nhận được bản sao văn
bằng tốt nghiệp của trường OCS do OC Vàn đã
bỏ công sức xin lại giùm. Mỗi buổi sáng Bạch tà
tà đạp xe đến ngồi tới trưa, Bình đi công việc
cho công ty ghé qua chốc lát, Sơn với chiếc xe
ba bánh gắn máy là cần câu cơm cũng "bành
bạch" chạy tới đậu cạnh gốc cột điện.
Toàn từ miền Tây lên cũng ngồi với ly café đá,
H.Ngạc, Điệp, Hạnh, Minh Fulro rảnh rỗi là ghé
một chút. Anh Gia bận rộn với xưởng nước đá
có dịp mua vật tư cho xưởng cũng tạt ngang,
càng ngày càng đông các OC biết quán nên ghé
vào vì ở nơi này có Bạch là liên lạc viên hàng
ngày với tin tức " nóng hổi " từ Mỹ. Chuyện nhờ
OC Lê.Q.Trung bảo trợ cho đến các tên OC nào
đã sang Mỹ từ lâu gồm có những ai, khi sang sẽ
có thể gặp lại nếu được định cư nơi đó.
Người ta nói trái đất tròn đi quanh quẩn thể nào
cũng gặp lại, vợ con OC Cao.X.Triều là hàng
xóm lâu nay tôi không biết. Hàng ngày hai gian
hàng café và hủ tiếu nằm cạnh nhau là của bên
nhà bà xã tôi, trong lúc ăn sáng tình cờ nghe
được chuyện các OC nói với nhau, hỏi thăm mới
biết tất cả đều là bạn của chồng, nên chị lên nhà
mang một lô hình Triều chụp cùng anh em trong
thời gian học ở bên Mỹ. Chị và các con cũng
đang chờ đợi đoàn tụ cùng Triều ở bên ấy.
Sau ngày mất nước hệ thống thông tin cả nước
được chuyển sang vỉa hè là nơi thu phát nhanh
nhất. Chiều đêm hôm trước cả nhà tôi vừa nhìn
thấy chiếc phi cơ lượn vòng trên bầu trời Saigon
với tầm thấp nhất, sáng hôm sau quán tôi nhận
được tờ truyền đơn màu đỏ nhạt to độ nửa tờ
giấy tập do một anh bạn trước là Pilot, giờ đạp
xích lô nhặt được trước Nha cảnh sát đô thành
ngày xưa. Nội dung tờ truyền đơn kêu gọi dân
chúng hãy đứng lên lật đổ bạo quyền Cộng sản.
Chuyền tay cho các anh em OC đọc xong tôi bỏ
ngay vào bếp lửa nấu ấm nước đang cháy đỏ,
lòng muốn giữ làm kỷ vật nhưng thấy bất tiện sợ
ảnh hưởng chung cho việc định cư của các bạn
nên thôi. Chỉ vài ngày sau chúng tôi được nghe
kể lại thái độ can đảm của người Việt kiều ném
truyền đơn từ phi cơ, khi bị bắt mang về anh
hiên ngang thách thức rằng " tôi đã chuẩn bị chờ
đợi những màn tra tấn, các ông có những cực
hình gì, xin cứ bày ra.”
Về sau biết được tên anh ta là Lý Tống qua các
đài VOA, BBC khi nghe lén.
oOo
"Gái ngoan lấy được chồng khôn, cầm bằng cá
vượt vũ môn hóa rồng"
Cá hóa long, chỉ là câu chuyện có trong trí tưởng
tượng qua câu chuyện cổ tích dân gian của các
dân tộc Á châu. Tôi còn nhớ hồi nhỏ có đọc một
đoạn tả việc cá hóa long của một nhà văn tiền
chiến tôi quên mất tên, trải qua bao nhiêu năm
dâu bể không nhớ rõ từng lời, chỉ nhớ mang
máng nội dung câu chuyện :
"Vũ môn rộn rịp các loài thủy tộc, cứ đến ngày
hội là đua nhau tham gia cuộc thi, nhưng tất cả
đa số đều rơi rớt lại dọc đường đi vì không bơi
theo kịp dòng chảy, đến trước vũ môn là điểm
cuối cùng quyết định ăn thua, đậu rớt. Cá Rô ron
là loài vượt qua nấc thang thứ nhất, mình trở nên
tròn, đầu mang vây mọc lên, mừng quá hấp tấp
phóng ngay lên nấc thứ hai, chẳng may đầu va
ngay vào mỏm đá nhô ra nên cả thân mình thun
lại rơi xuống khiến toàn thân ngắn ngủn, suốt
đời không lớn hơn mấy ngón tay chắp lại. Trước
thất bại của rô ron, lực sĩ nhảy cao là tôm cẩn
thận hơn, búng mình một cái thật nhẹ nhàng đã
vượt được nấc thang thứ nhất, thừa thắng tôm
bật toàn thân lên cao vượt ngay nấc thang thứ
hai, mình tôm mọc thành từng khoang, hai chân
trước vươn dài, đầu tua tủa gai, dưới bụng mọc
rất nhiều chân chuẩn bị cho thân mình mọc dài
thành rồng, toàn thể những con cá lớn, cá bé đều
chụm lại nín thở chờ xem tôm nhảy nấc cuối
cùng, ngờ đâu nấc thang chót không đủ sức nhảy
58
lên, tôm té lộn nhào xuống nên xương sống cong
queo và phân ngược lên đầu ! Từ đó tôm chỉ có
thể bơi thụt lùi.
Đến lượt cá chép vào thi thì trời vần vũ, mưa
lâm râm. Chép lừng lững tiến vào há miệng thả
một chùm bong bóng nước rồi uốn mình quẫy
đuôi vút lên một lúc vượt cả ba nấc thang vũ
môn. Cá hóa thành rồng bay vút lên khoảng trời
vừa đúng lúc quang mây tạnh mưa. Dưới nước
các loài thủy tộc nhảy nhót reo mừng cho bạn
mình đã vượt được vũ môn. Cá hóa long, Cá hóa
rồng niềm hạnh phúc và nỗi vui không có gì
sánh bằng."
Bạn bè tôi những OC cũng tương tự như loài
thủy tộc, hồi hộp đếm lui từng năm tháng ngày
giờ phút giây, đợi đến lượt mình vào gặp phái
đoàn đại diện cho nước Mỹ cũng ví như đang
chờ vượt vũ môn. Câu chuyện không chỉ là
trong tưởng tượng, mỗi lần nghe một OC sau khi
phỏng vấn ra về nói "đậu" là cả đại gia đình OC
bên nầy hay bên kia bờ đại dương đều vui mừng,
bởi đâu ai ngờ hơn nửa đời người vẫn còn phải
tham gia một cuộc thi quyết định đổi đời.
Hơn ai hết các OC thừa biết nước Mỹ không
phải là nơi "tiền giống như lá vàng" rơi đầy
ngoài đường qua đến nơi tha hồ mà hốt, rất
nhiều khó khăn, gian lao đang chờ đợi phía
trước, nhưng ai cũng hăng hái nhập cuộc bởi biết
rằng đây là cơ hội cuối cùng dành cho những kẻ
trước kia chậm chân, thêm một niềm vui nữa là
khi sang bên ấy mình sẽ gặp lại đại gia đình OC
thân thương ngày cũ.
Cỏ Biển
Tháng Năm, 2012
Đưa Con Vào Đại Học Boston, trời lạnh giá Cha đưa con tới trường Tuyết long lanh ghềnh đá Ngàn thông phủ mờ sương Bước lên thềm đại học Dừng chân bên giảng đường Con tươi cười hớn hở Cha sung sướng ngẩn ngơ ! Qua đi thời bé dại Hết rồi tuổi ấu thơ Cánh cửa đời vừa mở Đón con vào tương lai
Bao năm tháng miệt mài Bao nhọc nhằn gian khổ Chỉ mong đến một ngày Đẹp như ngày hôm nay... ...Ngày con vào đại học Cha Mẹ mừng...muốn khóc Thầm ước rồi mai đây Con công thành danh toại Gió Đông gào thét mãi ! Sương lạnh thấm bờ vai Nhưng lòng cha ấm lại Vì: hạnh phúc trong tay ! Curry College, Milton, MA 1/13/2012- Giáp Tết Nhâm Thìn Bùi Thạch Trường Sơn
59
Lê Đình Quang
Những ngày phép ra trường chấm dứt, tôi
khăn gói về vùng 1 để trình diện, lần đầu tiên
của cuộc đời binh nghiệp, trình điện đơn vị mới
là một điều hoàn toàn xa lạ nên tôi cũng thấy hơi
lo lo. Chuyện khó khăn gì rồi cũng qua, sau khi
trình diện trung tá Nguyễn Hữu Xuân, tham mưu
trưởng kiêm tư lịnh phó, tôi vào trình diện đại tá
Hồ Văn Kỳ Thoại,
Tư lịnh vùng 1
duyên hải, sau một
vài giây phút bàn
bạc giữa ông Tư lịnh
và ông phụ tá trưởng
phòng nhân viên, tôi
được phân phối về
duyên đoàn 14 ở
Cửa Đại. Ngày kế
tiếp tôi đi xe đò vào Hội An, sau một hồi hỏi
thăm tôi đã tìm ra bến tàu, may mắn có một
chiếc yabuta đậu ở đó, thế là tôi quá giang về
duyên đoàn.
Tôi về duyên đoàn 14, trình diện Chỉ huy truởng
là Thiếu tá Nguyễn văn Cẩn (K.12 NT), thiếu tá
Cẩn nhìn bề ngoài có vẻ là người khó tánh, ít cởi
mở. Một tuần qua đi, tôi chưa được chỉ định vào
chức vụ gì, hàng ngày chỉ cà phê cà pháo và làm
quen với các sĩ quan ở đây, rồi một ngày của
tuần thứ hai, Thiếu tá Cẩn đã chỉ định tôi lên
Hội An để làm việc ở trung tâm hành quân của
LDDN 231.4 nằm trong tiểu Khu Quảng nam,
LDDN 231.4 gồm có duyên đoàn 14, phân đội B
giang đoàn 60 tuần thám, một nhóm người nhái
và một toán điện thám nằm trong tiểu khu, thành
phố Hội An. Bây giờ thì tôi đã hiểu chủ ý của
ông chỉ huy trưởng, một tuần lễ ở duyên đoàn
chỉ là để làm quen với người và sinh hoạt ở đây.
Thời gian vài ngày cũng đủ cho tôi quen biết
thêm một số bạn bè mới, thì ra sĩ quan ở đây,
ngoài ông chỉ huy trưởng và chỉ huy phó là xuất
thân từ trường hải quân, các sĩ quan khác đều từ
Thủ Đức qua, tôi là một HQ/chuẩn úy lạc lõng
giữa đám sĩ quan này.
Hội An là một thành phố nhỏ, chỉ có mấy con
đường, đi dạo một vòng là hết phố. Ở trong tiểu
khu có một văn phòng là bộ chỉ huy LDDN
nhưng không có ai làm việc ở đây, chúng tôi làm
việc ở trung tâm hành quân cùng chung với toán
điện thám. Tôi bắt đầu công việc của mình, ở
đây đã có hai sĩ quan, bây giờ thêm tôi nửa là ba,
lúc đầu chúng tôi trực theo ca mỗi ngày, sau một
thời gian thấy giờ giấc làm việc không được
thoải mái nên đã đồng ý với nhau mỗi người
trực một ngày rồi nghỉ hai ngày như vậy sẽ có
thời gian để đi chơi ở Đà nẵng hay ở đâu tùy ý.
Trong ba đứa chúng tôi thì có một thằng quê ở
miền nam đã có vợ con, nó thuê nhà ở với vợ
con, dĩ nhiên với điều kiện này thì nó hoan hô
hết mình.
Tôi quen dần với công việc của TTHQ và từ từ
trở nên quen thuộc đối với tôi, ông Chỉ huy
trưởng ở ZD 14 nên chúng tôi làm việc rất là
thoải mái. Thời gian qua thật nhanh, thấm thoát
mà tôi đã làm việc ở TTHQ/LDDN 231.4 được
bốn tháng. Một ngày nhằm ngày trực của tôi,
ông chỉ huy trưởng nói chuyện với tôi qua máy
vô tuyến. Ổng cho tôi biết ổng có gởi một sĩ
quan là chuẩn úy Nguyễn ngọc Châu về
60
BTL/V1ZH/P2 để thụ huấn một khóa tình báo
cấp tốc, nhưng chuẩn úy Châu không trình diện
và đã vọt về Sài Gòn, cho nên ông phải gởi một
sĩ quan khác, người đó là tôi. Nghe xong tôi tìm
đủ mọi lý do để từ chối nhưng không được, tôi
về duyên đoàn lấy sự vụ lịnh rồi đi Đà Nẵng.
Trong những ngày mới về đơn vị, đã có vài lần
nói chuyện với bạn bè, tôi đã có một vài nhận
xét về Châu, một người có vẻ bất cần đời, hình
như có thành kiến không tốt với ông Chỉ huy
trưởng. Hôm nay nghe xong sự kiện này tôi
không ngờ thằng này liều đến thế. BTL/V1 là
nơi ai cũng biết là hắc ám mà nó dám bỏ đi như
vậy thì thật là hết ý kiến. Khi tôi về đến ĐN,
may mắn cho tôi, khi vừa bước chân vào phòng
2 thì được tin là Châu đã trở về trình diện và như
vậy là họ không cần đến tôi nữa, thế là tôi rời
BTL để trở về Đà Nẵng với một tâm trạng hân
hoan phấn khởi. Tôi về nhà ông anh của tôi ở
một ngày rồi trở về Hội An.
Tôi về lại Hội An tiếp tục công việc ở TTHQ,
ngày qua ngày vẫn là những công việc quen
thuộc nhàm chán. Thằng Châu sau mấy ngày thụ
huấn cũng đã trở về duyên đoàn 14. Mỗi cuối
tuần những bạn bè ở duyên đoàn thường lên Hội
An, nhập bọn với chúng tôi đi lòng vòng phố
Hội rồi uống cà phê, và cũng trong một ngày
chúa nhật như thế, mười giờ sáng, sau khi uống
cà phê, anh Nguyễn Thanh đã tách rời chúng tôi
và nói rằng "phải về đơn vị để thi hành công
tác." Mười hai giờ trưa chúng tôi ai nấy đều
bàng hoàng nghe tin anh đã tử trận, anh đã dẫn
một toán hành quân đổ bộ, anh đã giẫm phải mìn
và chết ngay tại chỗ. Buổi chiều, tôi và người
bạn đến nhà xác để gặp anh lần cuối, nơi đây
thật vắng lặng, ánh đèn lờ mờ vàng vọt, khung
cảnh thật thê lương. Gia đình anh ở ngoài Huế,
chưa có ai đến với anh, tôi đứng yên bất động,
anh đã vĩnh viễn ra đi, tôi đã mất đi một người
bạn tốt, hải quân đã mất đi một chiến sĩ gan dạ,
kiêu hùng.
Ngày tháng vẫn tiếp tục qua đi, hai tháng sau
ngày đi BTL/V1, thiếu tá Cẩn đã làm phúc trình
xin di chuyển TTHQ/LDDN 231.4 về duyên
đoàn 14 và tôi một lần nữa lại khăn gói trở về
chỗ cũ, bấy giờ ở tại tiểu khu Quang Nam chỉ
còn lại toán điện thám hải quân mà thôi. Về đến
Cửa Đại, tôi được chỉ định một công việc mới :
trưởng ban tiếp liệu, với công việc này tôi bận
rộn và đi công tác ĐN nhiều hơn. Bây giờ tôi đã
quen với các sĩ quan khác nhiều hơn, chúng tôi
nhậu thường xuyên, thỉnh thoảng th/ta' Cẩn đã
nhờ bà vợ làm vài món để nhậu với chúng tôi,
ông Cẩn tỏ ra thân thiện với đám sĩ quan chúng
tôi nhưng lại tỏ ra khắt khe với ông chỉ huy phó
là đại úy Lê đình Đức (K15 NT), những lần
nhậu như vậy ông Cẩn đều chỉ thị ông Đức phải
đi tuần ở một nơi nào đó, đây là sư kiện gây
nhiều thắc mắc trong tôi, cùng là sĩ quan phát
xuất cùng một quân trường, là khóa đàn anh,
khóa đàn em với nhau nhưng hai ông này sao mà
ghét nhau đến thế, cho đến hết thời gian ở Của
Đại tôi vẫn chưa tìm ra câu trả lời cho thắc mắc
này. Mặc kệ hai ông đó đối phó với nhau ra sao,
chúng tôi vẫn tà tà cho qua ngày tháng, càng
ngày tôi càng hiểu Châu nhiều hơn, bình thường
Châu rất hiền lành dễ thương, nhưng khi đã có
bia rượu vào thì Châu đã trở thành một người
không thể tự kềm chế bản thân mình. Những lần
say rượu nó thường lấy súng bắn tùm lum, muốn
quậy để như là cho hả một cơn giận nào đó mà
nguyên nhân đưa đến có thể là bắt nguồn từ ông
chỉ huy trưởng. Mỗi lần như thế là những bạn bè
khác tùy theo tình hình mà can gián an ủi nó và
lầy cây súng trên tay nó, vài phút sau đó thường
là nó bật lên khóc tức tưởi rồi sau đó lăn vào
một góc nào để ngủ, đến sáng thức dậy là quên
hết mọi chuyện. Chuyện vẫn thường xảy ra như
vậy nên anh em ai cũng từ từ quen đi, cho đến
một đêm nọ, một sự việc khác xảy ra làm cho
chúng tôi ai nấy cũng lo sợ cho nó. Câu chuyện
như sau : trên con đường từ tòa hành chánh tỉnh
Quảng Nam đến bến xe có một quán cà phê tên
là cà phê Phương, cô chủ tên Phương, khá đẹp.
Tuy rằng đây là quán cà phê nhưng cũng có bán
bia và đồ nhắm lai rai. Vì cô chủ khá xinh đẹp
61
nên có nhiều người vào đây để nhậu và ngắm cô
chủ, trong số những người này có người bạn tên
Châu của tôi. Một đêm nọ Châu với mấy thằng
em đến quán Phương để nhậu, lúc đó trong quán
cũng có một số cảnh sát dã chiến. Hai bên ngồi
nhậu rồi vì để lấy lòng người đẹp hay sao đó mà
hai bên đã lời qua tiếng lại tạo nên một tình
trạng thật căng thẳng khó nỗi dàn xếp được,
Châu bảo một thằng em chạy về tàu lấy một cây
M16 đem đến tiệm. Đám cảnh sát thấy hải quân
có súng, liền bỏ chạy, Châu và mấy thằng em
rượt theo bắn vài phát chỉ thiên rồi chạy về tàu.
Có thể lúc này đã ý thức được hoàn cảnh đã đến
hồi gay cấn nên Châu cho tàu chạy ra giữa sông,
tàu ra đến giữa sông thì một chiếc xe chở đầy
cảnh sát dã chiến chạy đến bến tàu. Thằng Châu
chắc lúc đó đang ở trong tình trạng say mèm nên
chẳng sợ gì cả, nó quay cây súng đại liên 50 về
phía thành phố Hội An và bắn chỉ thiên một
tràng dài. đám cảnh sát dã chiến nhảy lên xe và
bỏ chạy, dân chúng của phố Hội đêm đó ai cũng
hoảng sợ vì tưởng đâu là Việt cộng tấn công vào
Hội An. Sáng ngày hôm sau, chúng tôi mới hay
biết sự việc xảy ra đêm qua, sáng sớm thiếu tá
Cẩn đã đi họp ở tiểu khu, không biết qua sự kiện
này thằng Châu đã nhận lãnh hậu quả như thế
nào, chỉ thấy nó tỉnh queo như là không có
chuyện gì đã xảy ra.
Rồi mọi việc cũng bình thường trôi qua, cuộc
sống ở duyên đoàn quả thật là quá nhàn rỗi, nếu
không vì lý do khí hậu về mùa hè thật ray rứt
khó chịu do ảnh hưởng của những cơn gió đưa
đến từ miền hạ Lào thì phải nói nơi đây cũng
thật là lý tưởng. Chúng tôi vẫn nhậu thường
xuyên và thằng Châu thỉnh thoảng cũng say xỉn
và quậy tùm lum, ở Cửa Đại ngoài duyên đoàn
14, giang đoàn 60 tuần thám phân đội B, còn có
một nhóm người nhái, nhóm này nhìn bề ngoài
trông có vẻ dữ dằn nhưng thật ra họ rất
hiền.Không hiểu bắt đầu từ đâu mà Châu và
nhóm này đã có những bất hòa không thể giải
quyết được. Một đêm sau khi nhậu say Châu đã
xách súng bắn lộn với đám người nhái. Rất may
là không ai bị thương, tuy nhiên TTHQ ở giữa
hai lằn đạn đã lãnh nhiều viên đạn dấu tích là
những cái lỗ đã để lại ở trên tường. Sau trận đấu
súng với toán người nhái, tình hình đã lắng dịu
với sự thay đổi ông chỉ huy trưởng, thiếu tá
Nguyễn Lộc (K 12 NT). Một thời gian ngắn sau
đó, đơn vị đã được chọn làm thí điểm của kế
hoạch Chân trời mới, với kế hoạch này, tất cả
chúng tôi đều bận rộn nhiều hơn. Ông Lộc đã
đem một sinh khí mới cho đơn vị., ông là người
cởi mở, vui tánh và tế nhị, có lẻ đó là nguyên
nhân đã làm thay đổi cuộc sống của một số sĩ
quan dưới quyền. Mùa hè năm 1972, tôi được
thuyên chuyển về BTL/V1/P2, ở đây ngoài công
việc thường ngày, mỗi tuần tôi phải đi bay
không tuần một ngày, đi bay thì thật là thú vị khi
liên lạc với bạn bè ở dưới, nhất là những người
bạn ở Cửa Đại. Một khoảng thời gian ngắn sau
cuộc chiến mùa hè 1972 bộc phát, quân chủng
hải quân đã có chương trình đưa các sĩ quan hải
quân học từ trường Thủ Đức, Võ bị Đà lạt về
Nha Trang để thụ huấn một khóa huấn luyện về
hải quân. Với chương trình này ông trưởng
phòng 2, trung úy Thông (K 24 VBĐL) và sĩ
quan phụ tá phải ra đi, đại úy Hà thúc Thụy (K
15 NT) trưởng toán Sưu tập 1 kiêm thêm chức
trưởng phòng 2. Một ngày trong một chuyến
không tuần đến Sa Huỳnh, Quảng Ngãi, khi bay
qua vùng Cửa Đại tôi liên lạc với bạn bè ở
duyên đoàn 14, Châu đã nói chuyện với tôi, y
cho biết đơn vị bây giờ không còn vui nửa, bạn
bè củ đều đã đi học ở Nha Trang, chỉ còn lại một
mình nó. Nghe xong, tôi không biết phải nói gì,
chỉ an ủi nó vài câu : rồi cũng đến lúc mày sẽ đi
thôi, chờ thêm tí nữa, tuy nói như vậy nhưng tôi
không biết trường hợp của nó rồi sẽ như thế nào.
Tôi cũng đoán được sở dĩ nó lâm vào tình trạng
như vậy là do những "thành tích" mà nó đã làm
trước đây. Sau lần nói chuyện đó, tôi không còn
cơ hội để gặp hay nói chuyện với Châu nữa, tôi
cũng không biết nó có được đi học ở Nha Trang
hay không.
62
30 tháng 4 năm 1975 cuộc chiến Việt Nam chấm
dứt, nhiều người đã phải bỏ nước để ra đi, ba
mươi năm sống ở hải ngoại, nỗi buồn tha hương
vẫn còn ứ đọng đâu đây, lâu lâu nhớ về quê
hương, nhớ về những đon vị củ, bạn bè thằng thì
ở lại, thằng thì ra đi, không biết bây giờ thằng
Châu ra sao, nó là thằng quậy nhất đơn vị nhưng
mỗi khi nhớ về duyên đoàn 14 là tôi nhớ đến nó
trước tiên. Mỗi người đều những cái tốt và
những cái xấu, với tôi nếu đã thương cái tốt của
người bạn thì cũng nên bỏ qua những cái xấu
của người bạn.
Lê Đình Quang
Ba mươi năm tình lỡ Trên nẻo đời phiêu bạt Tình cờ ta gặp em Rồi yêu em nồng cháy Trao nhau nụ hôn mềm Em ánh mắt dịu dàng Áo em rợp chiều hoang Ta người trai viễn xứ Gặp em chiều thu vàng Ta tỏ lời yêu em Mắt em gợi nỗi niềm Bàn tay ta vụng dại Che dấu tình cô đơn Rồi chúng mình yêu nhau Thêu dệt tình ban đầu Yêu em tình lỡ dở Hai đứa chiều mưa Ngâu Ta viết lời yêu đương Những đêm vắng canh trường Ta làm thơ vụng dại E ấp niềm yêu thương Nhưng mối tình nào không trái ngang Em đi ngày ấy úa màu trăng
Thuyền em tách bến chiều đưa tiễn Tà áo em bay phút đoạn trường Tình cũ phai mờ trên bến sông Em đi chiếu ấy lệ tuôn dòng Bước chân em ngẩn ngơ chiều vắng Ta đứng bên bờ ta ngóng trông Mới đó mà bao năm trôi qua Mình ta thương nhớ người tình ta Mình ta trằn trọc đêm không ngủ Nghe dấu tình yêu đã nhạt nhòa Khoảng vắng canh trường ta bước lê Đèn khuya lạnh lẽo bước lê thê Yêu em ngày đó tình chan chứa Nào biết ngày nay đã lỗi thề Tình cũ bây giờ ba mươi năm Mình ta quạnh vắng đường tối tăm Mình ta với nỗi sầu vô hạn Từng phiến cô đơn rụng trước thềm Tình đó bây giờ đã giá băng Yêu em tình đã úa màu trăng Mình ta giữa vũng lầy hoang phế
Thầm gọi tên em cõi mịt mùng
Huỳnh Kim Khanh
63
Tuần Dương Hạm Trần Bình Trọng HQ5 và Hoàng sa, 19-1-1974
Trương Văn Liêm
Phụ chính:
Bài viết dưới đây đã đăng trong Đặc san
OCS, phát hành trong kỳ đại hội năm 2002 . Bài
viết có vài chi tiết không được chính xác, vì lý do
kỹ thuật đánh máy, in ấn... Ngoài ra trong
khoảng 7 năm qua có rất nhiều tài liệu về hải
chiến Hoàng Sa đã được tung ra.
Vì vậy, người viết đã có cơ hội kiểm chứng và
bổ chính một số chi tiết trước khi cho phổ biến
lại bài viết này.
Trương Văn Liêm
Dallas-Texas, mùa Hè 2008.
Lời người viết :
Tôi thuyên chuyển về Tuần Dương Hạm Trần
Bình Trọng HQ5 ngày 18 tháng 2 năm 1972 từ
Giang đoàn 73TB thuộc Lực lượng Thủy bộ
211. Lúc này HQ5 đã hoàn tất huấn luyện với
Hải quân Hoa Kỳ và đã được bàn giao cho Hải
Quân VNCH. Qua ba đời Hạm trưởng:
- HQ Đại tá Nguyễn văn Thiện, sau là Tư
Lịnh Vùng 4 Duyên Hải, Phú Quốc;
- HQ Trung tá Võ văn Huệ;
- HQ Trung tá Phạm trọng Quỳnh;
HQ5 đã tham dự một số hành quân quan trọng
như: yểm trợ hải pháo cho TQLC vào mùa hè đỏ
lửa phía bắc Đà nẵng; trận Sa huỳnh vào ngày
ký kết hiệp định Paris ngày 27-1-1973; và sau
cùng là trận Hoàng sa ngày 19-1-1974.
Trong thời gian Trung tá Võ văn Huệ làm
Hạm trưởng (HT), với kế hoạch “bồi dưỡng hải
nghiệp” cho các sĩ quan ngành chỉ huy không đủ
hải nghiệp của cựu Tư lịnh Đề đốc Trần văn
Chơn, sĩ quan đã thuyên chuyển ồ ạt đến chiến
hạm, gây ra tình trạng thặng dư. Hạm trưởng Võ
văn Huệ đã đặt ra một chức vụ không cấp số, chỉ
định tôi là Sĩ quan phụ tá Hạm phó đặc trách:
- Huấn luyện và dịch thuật tài liệu binh thư
hải quân,
- Nhiệm sở tác chiến toàn diện
- CTCT.
Khi quyền HT được bàn giao giữa Trung tá
Võ văn Huệ và Trung tá Phạm trọng Quỳnh
trước khi tham dự trận Hoàng sa khoảng một
tuần, tôi đã có dịp nhìn thấy cụ thể sự điều hợp
của chiến hạm nói riêng và của các lực lượng
64
tham chiến nói chung, một cách tổng quát trước
khi khai hỏa,trong khi giao chiến và lịnh rời bỏ
chiến trường. Hy vọng những điều tôi còn nhớ
được ghi lại dưới đây sẽ không là mầm mống
gây nên sự bất hòa, công kích, hiềm khích, và va
chạm tự ái.
Cuối cùng, tôi xin phép được dành một phút
tưởng niệm cho tất cả những anh hùng đã nằm
xuống cho Tổ Quốc trên chiến trường ngày 19-
1-1974.
oOo
Chiến hạm nhập vùng tuần tiễu quần đảo
Trường sa, chưa đầy 24 giờ. Công điện khẩn chỉ
thị rời vùng trực chỉ Vũng tàu chờ lịnh. Biển
động cấp 3 cấp 4. Bốn máy tiến full. Sau hai
đêm một ngày, tàu về đến nơi và được chỉ định
điểm neo. Lịnh cấm trại 100%. Không cho đi bờ.
Không cho tiếp tế. HT được mời đi họp ở
BTL/HQ/V3/ZH (Bộ tư lịnh/ Hải quân/Vùng 3/
Duyên hải). Đi ca trực neo. Khoảng 6 giờ chiều,
HT về và chỉ thị chuẩn bị hải đồ trực chỉ Đà
Nẵng. Kéo neo hải hành trong đêm. Tin từ
Trung tâm truyền tin, 2 chiến hạm ta ở Hoàng sa
gặp rắc rối. Chiến hạm có lẽ sẽ ra đó tăng cường
vì tình hình căng thẳng.
Vào cảng Đà nẵng khoảng 10 giờ sáng. Cặp
cầu Thống nhứt vị trí 1. Từ xa đã thấy HQ801
đang neo trong vịnh. Hai trực thăng của Không
quân Vùng 1 đang thực tập cất cánh và hạ cánh
trên sân chiến xa của chiến hạm này. Trên cầu
tàu, đạn đại pháo 127 ly đã có sẵn từ bao giờ
cùng một đống lương khô hành quân. Cặp cầu
xong, lại lịnh cấm trại 100%. Chỉ cho đi chợ,
nhận tiếp tế nước ngọt và nhiên liệu. Công điện
mời HT,Hạm phó (HP) và tất cả sĩ quan tham
mưu đi họp tại BTL/HQ/V1/ZH (Bộ tư lịnh/Hải
quân/Vùng 1/ Duyên hải). Là sĩ quan không cấp
số, tôi ở lại chiến hạm phụ giúp Sĩ quan trực
điều động nhận đạn và lương khô. Công việc
chuyển đạn và 15 ngày lương khô diễn tiến đều
đặn. Phái đoàn Sĩ quan đi họp vẫn chưa về.
Khoảng 3:15 công điện chỉ thị cho nhập hạm 1
trung đội Biệt hải với đầy đủ trang bi, đồng thời
chỉ thị phải hoàn tất nhận đạn và nhiên liệu trước
7:00 giờ tối. Toán tiếp vụ trở về với thực phẩm
tươi. Phái đoàn sĩ quan trở về chiến hạm khoảng
5:30 chiều và HP chỉ thị sẵn sàng zulu (khởi
hành) ra Hoàng sa trong đêm khi có lịnh của HT.
Cùng lúc nhận công điện báo Đại tá Hà văn
Ngạc CHT/HĐ3/BTL/HĐ ( Chỉ huy trưởng/Hải
đội 3/Bộ tư lịnh/Hạm đội) nhập hạm và chiến
hạm được chỉ định là Soái hạm. Một Thiếu tá Bộ
binh từ Bộ tư lịnh /Vùng 1 Chiến thuật nhập
hạm. Khoảng 7:00 tối, công điện chỉ thị cho
nhập hạm một nhân viên Hoa Kỳ từ Tòa Tổng
Lãnh sự Mỹ ở Đà nẵng.
HQ10 cặp cầu phía sau HQ5 từ trưa, sẽ zulu
trước vì nhỏ và chậm. Anh bạn người Mỹ nhập
hạm lúc 9:00 tối, không hành lý.
Về địa thế, Hoàng sa là một quần đảo hình
vòng cung, bề khuyết hướng về Đà nẵng. Quần
đảo gồm 5 đảo chính, kể theo ngược chiều kim
đồng hồ là Hoàng sa (Pattle), Cam Tuyền
(Robert), Vĩnh Lạc (Money), Quang Hòa
(Duncan) và Duy Mộng (Drummond). Hoàng sa
cách Đà nẵng khoảng 210 hải lý về hướng Đông,
cách đảo Hải nam của Trung cộng (TC) khoảng
80 hải lý về hướng Tây Bắc và nhóm quần đảo
Amphitrite của TC vào khoảng 70 hải lý về
hướng Đông Bắc. Hoàng sa là đảo lớn nhứt, có
đài khí tượng với vài nhân viên luân phiên nhau
mỗi 6 tháng và một Trung đội Địa phương quân
của tiểu khu Quảng Nam trấn đóng. Toàn bộ
quần đảo này được bao bọc bởi những bãi san
hô (đá ngầm) xung quanh chỉ có thủy lộ thuận
tiện duy nhứt đi vào vịnh rộng khoảng 10 hải lý
( khoảng cách từ Hoàng sa đến Money, theo
chiều Bắc Nam).
Chiến hạm vượt qua HQ10 trong đêm và đối
vật (echo) đảo Hoàng sa hiện trên màn ảnh radar
khoảng 8:00 sáng ngày 18-1-1974. Nhận báo
cáo tình hình từ các chiến hạm và được biết như
sau:
- HQ16 đã ở ngoài vùng lâu nhứt.
65
- HQ4 tăng phái và đã có những va chạm nhẹ
với các chiến hạm TC trong mấy ngày qua.
- Phía TC có 2 ngư thuyền ngụy trang, có
võ trang. Họ có 2 chiến hạm loại Kronstad tại
chỗ.
- Trên đảo Duy Mộng và Quang hòa đã có
sự hiện diện của bộ binh TC. Với tư cách là sĩ
quan thâm niên hiện diện, Trung tá Vũ hữu San,
HT HQ4 đã đặc phái một toán xung kích trích ra
từ nhân viên cơ hữu của HQ4, do Trung úy Lê
văn Dũng làm trưởng toán đổ bộ lên đảo Cam
Tuyền, mục đích cắm cờ giữ đất. Toán thứ hai từ
HQ16 do Trung úy Lâm trí Liêm làm trưởng
toán đổ bộ lên đảo Vĩnh Lạc.
Chiến hạm chánh thức nhập vùng vào khoảng
10:30. Đại tá Hà văn Ngạc chỉ thị HQ10 gia
nhập HQ16 ở lại trong vịnh tuần tiễu án ngữ.
HQ4 tháp tùng HQ5 tiến về phía đảo bị chiếm
đóng để thám sát.
Hai chiến hạm ta tiến về phía Duy Mộng theo
đội hình hàng dọc. Khi còn cách đảo khoảng 3
hải lý thì 2 chiến hạm TC ra nghinh cản. Quang
hiệu được trao đổi, cả hai phía đều xác định chủ
quyền lãnh thổ trên đảo. Để chứng tỏ là không
gây hấn, Đại tá Ngạc chỉ thị tất cả súng không
được tháo bao bọc súng và để ở thế chờ, tàu tiến
một máy tiến một, tránh va chạm và tiến càng
gần đảo càng tốt để quan sát. Chiến hạm hai bên
tiến sát vào nhau, có lúc chỉ cách nhau khoảng
500 yards. Trên đảo, ta nhận thấy công sự chiến
đấu và giao thông hào bằng cement đã được xây
cất. Cờ TC bay phất phới. Nhân sự trên tàu địch
đều mặc đồng phục lạnh một mãnh từ đầu đến
chân như mấy anh skydivers. Quan sát khoảng
15 phút, Đại tá Ngạc ra lịnh quay về trong vịnh.
Buổi chiều, một buổi họp các HT được triệu
tập dưới quyền chủ tọa của Đại tá Ngạc. Ban
đêm, HQ16, HQ10 và HQ4 lập đội hình tuần
tiễu án ngữ trong vịnh. Trời sa mù nhẹ, tầm quan
sát giới hạn, biển động cấp 3 cấp 4. Nhân viên
trên HQ5 chia nhau đi ca hải hành thường lệ,
nhận báo cáo từ các chiến hạm khác cùng lúc
trực phòng không. Khoảng 8 giờ tối, CIC (Trung
tâm chiến báo của chiến hạm - Combat
Information Center) báo cáo có thêm 2 đối vật
tiến về phía Duy Mộng.
9:00 tối, anh bạn người Mỹ xin rời chiến hạm
vì không muốn hiện diện trên chiến hạm sau nửa
đêm. Thả xuồng trong đêm. Từ lúc gia nhập
HQVN, đây là lần đầu tiên nhân viên thả xuồng
ban đêm không đèn (làm tối chiến hạm 100%).
Sau vài lần không thành công vì thiếu dây an
toàn, toán vận chuyển đã quyết định thả hành
khách (anh bạn Mỹ và Thiếu tá bộ binh)) và
xuồng cùng một lúc sau khi tăng cường áo phao,
đèn hiệu cấp cứu, trái độn và dây an toàn kéo
tay. Nguy hiểm hơn nhưng không còn cách nào
khác. Xuồng phải chèo âm thầm từ chiến hạm
vào đảo Hoàng sa và do sĩ quan đương phiên
điều khiển từ đài chỉ huy HQ5. Võ xuồng bằng
fiber glass, cho nên khi vào gần đến san hô, toán
vận chuyển phải dùng chèo thăm dò độ sâu và
tiến chậm vào bãi để đổ bộ. Cuộc đổ bộ chấm
dứt lúc 11:30 đêm.
Đi ca cách mạng. Sau khi hoàn tất kiểm
chứng thủ tục bàn giao, tôi ghi nhận, TC đã tăng
cường thêm 2 chiến hạm trong vài giờ qua và đã
báo cáo cho HT cùng vị tư lịnh chiến trường.
Đến khoảng 1:00 sáng, phòng vô tuyến đưa cho
tôi một công điện gởi cho HT chưa mở khóa vừa
mới nhận. Tôi điện thoại báo cho HT và ông chỉ
thị mang xuống gấp với bản mã. Hơn nửa giờ
sau, HT ra lịnh họp tham mưu khẩn và chỉ thị tôi
giao ca cho sĩ quan phụ phiên để dự phiên
họp.Tôi cho nhân viên đánh thức HP và tất cả sĩ
quan đồng thời thông báo lịnh của HT.
Kim đồng hồ chỉ 1:45 sáng, sĩ quan hiện diện
đầy đủ (trừ sĩ quan đi ca). Sĩ quan Trưởng khối
báo cáo quân số cho HP. Sau đó HP báo cáo cho
HT. Không khi trong phòng họp có vẽ căng
thẳng. Phòng họp hoàn toàn yên lặng. Tiếng rè
rè của máy điều hòa không khí phát ra một âm
thanh nhạt nhẽo rời rạc. Mồ hôi thoáng xuất
hiện trên trán vài sĩ quan, riêng tôi, cảm thấy
như mình đang đi giữa trời Sài gòn vào trưa
tháng 5. HT phá tan sự im lặng nầy khi ông
66
dõng dạc tuyên bố: lịnh chỉ thị đổ bộ vào sáng
sớm. Tất cả phải sẵn sàng ở nhiệm sở tác chiến
toàn diện lúc 4:00 sáng. HP chiếu nhiệm vụ thi
hành.
HT rời phòng họp. HP chỉ thị tất cả sĩ quan
trưởng nhiệm sở kiểm tra tình trạng sẵn sàng về
nhân viên, kỹ thuật, khiển dụng...chỉ thị tôi thâu
thập báo cáo từ các sĩ quan, trình cho ông lúc
4:00 sáng, và bế mạc buổi họp.
Rời phòng họp, tôi quay về phòng cùng với
Trung úy Rạng ( Rạng và tôi ở cùng phòng.
Rạng là sĩ quan Nội Vụ và cũng là một trong 5 sĩ
quan tốt nghiệp chương trình 2 năm tại trường
Hải quân Hoàng gia Úc, vừa về nước).Rạng trao
cho tôi một bản sao nhiệm sở tác chiến toàn diện
và nói rằng:
- Đây là bản sao, có một vài nhân viên đi phép.
Tôi chưa cập nhật hóa được. Nhiệm sở của tôi ở
hầm đạn 127. Sẽ báo cáo qua điện thoại. Tùy
anh, OK hay muốn kiểm tra tại chỗ cũng
được.Tôi trả lời:
- Mình đã biết cách làm việc của nhau rồi, tôi
không cần phải xuống tận nơi đâu. Anh ráng giữ
liên lạc với tôi. Cần phải kiểm soát kỹ nhân viên
chuyển đạn bằng tay lỡ khi hệ thống thủy điều
và điện không sử dụng được.
- Anh yên chí. Khẩu 127 là mạng sống của
mình.Nói xong Rạng rời phòng. Rạng và tôi
cùng tỉnh, xuất thân cùng trường, không biết
nhau trước, tình cờ gặp nhau tại đây. Còn lại
một mình, tôi chuẩn bị cho mình cái dấu vết, di
tích cuối cùng của một chiến sĩ: ra đi trên chiến
trường. Tôi lấy tấm căn cước quân nhân, chứng
chỉ tại ngũ và căn cước dân sự bọc chung tất cả
trong một bao nhựa, cẩn thận ép lại để không
thấm nước, chuyển vào sợi dây thẻ bài đeo cổ,
cẩn thận bỏ vào túi áo trên và gài nút. Chiếc áo
sẽ mặc khi vào nhiệm sở. Tôi nghĩ, để dễ dàng
nhận diện nếu may mắn xác được vớt. Sau đó đi
tắm thay quần áo và đi thâu nhận báo cáo từ các
trưởng nhiệm sở.
Tôi xuống phòng Nội vụ, HP đã ở đây từ hồi
nào. Ông nhìn tôi và nói:
- Trung úy Liêm tạm thời ông tăng cường
khẩu 40 ly đôi trên sân thượng. Giữ liên lạc với
tôi qua điện thoại. Tôi không muốn tập trung
trên đài chỉ huy. Vả lại nếu có gì thì tôi vẫn có
thể gọi ông bằng loa cầm tay, vẫn gần hơn. Nên
nhớ, ông với tôi như tay mặt tay trái đấy nhé
(giọng bắc kỳ của Thiếu tá Đoàn trọng Thông,
k.13/SQHQ/NT, tôi không bao giờ quên). Ông
phải nắm vững tình hình chung trên pont và sẵn
sàng di động.
- Được mà HP. Tôi trả lời.
Ông hỏi tiếp:
- Các nhiệm sở ra sao?
- Khẩu 127 Thiếu úy Đồng (khóa 25 Đà lạt
đáo nhận đơn vị cùng lúc với Thiếu úy Phú) sẵn
sàng. Đã kiểm soát và thử hệ thống bắn tự động,
chuyển đạn tự động, cơ hành...Nhân viên đầy
đủ. Hầm đạn 127, Trung úy Rạng sẵn sàng, khi
có lịnh sẽ lắp đầu nổ. Trung sĩ nhứt Trọng pháo
Phạm ngọc Quang sẽ đảm trách 2 khẩu đại bác
20 ly hai bên tả, hữu hạm, vì một nhân viên đi
phép. Hai khẩu 40 ly sân sau,Thiếu úy Phú (k25
Đà lạt) sẵn sàng, một nhân viên tiếp đạn đi phép.
Tôi đã hội ý với Thiếu úy Phú và ông sẽ đảm
trách tiếp đạn nếu cần.Khẩu 40 ly đôi sân
thượng sẵn sàng. Văn phòng cơ khí tôi đã hội ý
với Đại úy cơ khí HH/TT (không nhớ họ)
Nguyền và đề nghị ông báo cáo trực tiếp với HP
các phần hành liên hệ (phòng tai,cứu thủy....)
4:00 giờ sáng. Nhiệm sở tác chiến toàn diện
được ban hành. Lực lượng được chia làm hai
toán:
- Toán thứ nhứt gồm HQ16 và HQ10 chịu
trách nhiệm mặt trận phía Bắc (nằm trong vịnh)
và do HT HQ16 chỉ huy
- Toán thứ hai gồm HQ4 va HQ5 do Đại tá
Hà văn Ngạc trực tiếp chỉ huy. Toán này sẽ đi
vòng xuống phía Nam của hai đảo Duy Mộng và
Quang Hòa để đổ bộ toán biệt hải.
Hai mặt trận cách nhau khoảng 6 đến 10 hải lý.
HQ4 và HQ5 hải hành âm thầm, đi vòng ra
ngoài đảo Vĩnh Lạc, tiến về phía Duy Mộng và
Quang Hòa. Lúc này, được biết Sài gòn thúc
67
giục tại sao không đổ bộ và muốn đổ bộ tức
khắc. Đại tá Ngạc phải trình bày (và thương
lượng?) xin để tùy tình hình thi hành vì thời tiết
và tầm quan sát.
Tờ mờ sáng, HQ4 và HQ5 đã tiến gần đến hai
đảo Duy Mộng và Quang Hòa. Hai chiến hạm
TC số 271 và 274 ra ứng chiến. Phia ta, tất cả
súng đã được tháo bao và sẵn sàng, nhưng vẫn
để ở thế chờ và nhân viên ở các vị trí lộ thiên
không được vào vị trí mà phải núp dưới các
vòng chắn an toàn của các pháo tháp. Phía TC,
nhân viên của họ đứng dầy đặc trên sân chính.
Đặc biệt họ có 2 toán trang bị hỏa tiễn (?) phóng
tay (có thể là bazooka?), mỗi toán 3 người, một
ở sân trước và một ở sân sau. Lực lượng ta tiến
chậm vào hướng đảo Quang Hòa. Lúc này Sài
gòn cứ thúc giục và hỏi tại sao chưa khai hỏa, tai
sao chưa đổ bộ. Đại tá Ngạc, đi lên đi xuống
giữa đài chỉ huy và phòng CIC ( Trung úy Trần
đức Thịnh k4 OCS là Trung tâm trưởng) để liên
lạc trả lời. Gió nhẹ và lạnh. Biển động cấp 3, cấp
4. Hai bên ghìm nhau, có lúc HQ5 và tàu số 274
tiến gần nhau khoảng 300 yards. Từ Sài gòn,
lịnh khai hỏa thúc giục từng cơn. HQ5 ở về phía
Tây Nam và cách đảo Quang Hòa khoảng 2 hải
lý. Bãi đá ngầm(san hô) trắng xóa bao bọc 2 đảo
này hiện rõ trong tầm mắt. Với áp lực nặng nề từ
Sài gòn, khoảng 9:00 sáng ngày 19-1-1974, Đại
tá Ngạc đã ra lịnh đổ bộ toán biệt hải. Toán biệt
hải do Trung úy Cảnh (k.20) làm Đại đội trưởng,
đã dùng hai xuồng của HQ5 đổ bộ. Họ chia làm
2 toán mỗi toán 9 người trang bị đầy đủ, gồm
súng cá nhân M16, súng phóng lựu M79 và đại
liên M60. Vị chi các lực lượng như sau: tàu số
271 và 274 ở phía trái của chiến hạm ta, đảo
Quang Hòa ở hướng 2 giờ của chiến hạm ta và
(trên lý thuyết) toán đổ bộ được yểm trợ từ chiến
hạm ta.
Xuồng chở toán đổ bộ nhấp nhô trên sóng,
tiến vào đảo. Khi họ sắp sửa đến bãi đá ngầm,
một lính TC trên đảo xuất hiện với cờ TC trên
tay phất qua phất lại và ra hiệu cho toán đổ bộ
rút lui.
Lịnh từ chiến hạm, họ phải tiến vào đảo và tất
cả súng phải để ở thế chờ, không được khai hỏa
trước. Xuồng không vào được trên bãi đá ngầm,
họ phải đi bộ vào. Mực nước biển sâu ngang thắt
lưng, có chỗ sâu ngang ngực. Toán biệt hải
giăng hàng ngang đi vào.
Khoảng cách từ riềm san hô (nơi họ rời xuồng
để đổ bộ) vào trong bãi cát khoảng 700 m. Một
người bình thường phải mất 15-20 phút mới có
thể đến nơi. Trưởng toán đổ bộ, Trung úy Đơn
báo cáo là họ đã tiến vào được khoảng 200
thước và quân TC trên bờ xuất hiện, khoác tay ra
hiệu cho họ đi ra. Lịnh từ Đại tá Ngạc: cứ tiến
vào và không được nổ súng. Vài phút sau, tiếng
súng liên thanh nổ giòn như pháo tết. Toán đổ
bộ báo cáo họ bị tấn công bằng thượng liên. Họ
phản công nhưng M79 thì thiếu tầm, còn M16
thì không ăn thua gì. Họ không có chỗ núp và
trở thành những mục tiêu tác xạ tự do cho phía
TC. Tổn thất đầu tiên được ghi nhận: Trung úy
Đơn đã bỏ mình. Hạ sĩ nhứt Long đã tử thương.
Họ cố gắng đưa 2 xác trở ra nhưng dưới mức tác
xạ dữ dội của TC, họ vất vả đưa được xác của
Trung úy Đơn mà thôi. Lịnh rút lui ban hành. Hạ
sĩ nhứt Long bị bỏ lại trên chiến trường. Tất cả
vất vả lên xuồng trở về chiến hạm. Thời gian từ
lúc hạ xuồng để đổ bộ cho đến khi họ hoàn toàn
trở về lại chiến hạm mất khoảng một giờ. Trong
lúc ta đổ bộ, chiến hạm hai bên vẫn ghìm nhau.
Diễn tiến cuộc đổ bộ và tổn thất được báo cáo
đều đặn về Sài gòn.
Việc gì đến đã phải đến. Cuộc chạm trán
không thể tránh khỏi. Đại tá Ngạc chỉ thị:
- Phia bắc, HQ16 ở phía sau yểm trợ cho
HQ10 đi vào sát hai chiến hạm TC mới được
tăng cường trong đêm vừa qua, sẵn sàng khi có
lịnh thì sẽ khai hỏa. Đó là tiếng súng lịnh cho 2
mặt trận phía bắc và phía nam (mặt trận phía bắc
nằm trong vịnh, mặt trận phía nam nằm ngoài
vịnh và ở phía tây nam đảo Quang Hòa). Sau khi
HQ10 khai hỏa thì HT HQ16 sẽ trực tiếp chỉ huy
mặt trận này.
68
- Phía nam, Đại tá Ngạc chỉ huy trực tiếp.
HQ4 sẽ yểm trợ HQ5. Với nhận định rằng phía
TC có thể tăng cường tàu ngầm và không quân
của họ có lợi điểm nhiều hơn không quân ta, nên
Đại tá Ngạc nhấn mạnh rằng ta sẽ cố gắng bám
càng gần thềm san hô càng tốt để giảm thiểu khả
năng tàu ngầm và phi cơ địch.HP chỉ thị quàn
xác Trung úy Đơn trên kho giám lộ.
Từ đài chỉ huy, HP phân chia mục tiêu cho
từng khẩu và chỉ thị điều chỉnh đạn tự hủy và
chạm nổ. Khẩu 127 ly trực xạ, nhắm vào vị trí
chân vịt và hầm máy, các khẩu 40 ly nhắm vào
đài chỉ huy. Lúc này khoảng cách giữa ta và TC
khoảng 300-500 m. Lịnh khai hỏa đã được ban
ra lúc 10:20 sáng ngày 19-01-1974. HQ10 bắn
quả đầu tiên, và báo cáo qua âm thoại, tiếng nổ
đã được ghi nhận. Tất cả súng trên HQ5 đã nổ
ran và uy hiếp tàu địch. Trong những giây phút
đầu tiên của trận chiến, phía TC hầu như bất ngờ
và đã không kịp phản ứng. Đài chỉ huy tàu địch
mịt mù khói và những viên đạn chỉ đường
(tracer) cho ta biết sự tác xạ chính xác. Khói
trắng bốc lên từ phía sau lái của tàu địch. Báo
cáo sơ khởi:
- Mặt trận phía bắc: sau khi HQ10 khai hỏa,
TC phản pháo mãnh liệt và họ tập trung hỏa lực
vào HQ10. Vì nhỏ hơn và hỏa lực yếu hơn,
HQ10 báo cáo đài chỉ huy trúng đạn. Hạm
Trưởng HQ Thiếu tá Ngụy văn Thà tử thương,
bộ chỉ huy hoàn toàn tê liệt. Tàu bất khiển dụng.
Hạm phó Đại úy Nguyễn thành Trí, bị thương
nặng và ra lịnh đào thoát. HQ16 yểm trợ phía
sau đã rời vòng chiến sau khi bị hai chiến hạm
địch uy hiếp.
- Mặt trận phía nam: khẩu 76.2 ly của HQ4 bị
trở ngại tác xạ sau khi bắn được 6-7
quả. Sửa chữa cấp thời, tác xạ trở lại. Cố gắng
bắn nhưng vẫn bị trở ngại và tự ý tách rời HQ5.
Sau khi giao chiến được chừng 10-15 phút,
với kết quả sơ khởi thất lợi,Đại tá Ngạc cố gắng
liên lạc với HQ16 để biết thêm thực tình của
HQ10 nhưng vô hiệu. Cùng lúc, HQ5 bị hai tàu
địch tấn công mãnh liệt. Khẩu 127 trúng đạn, bất
khiển dụng. Thiếu úy Đồng tử thương tại chỗ.
Giải tán khẩu 127 ly, nhân viên tăng cường cho
2 khẩu 20 ly hai bên và sân sau. Trung tâm
truyền tin bị trúng đạn 100ly. Thượng sĩ nhứt
điện tử Hảo, trưởng ban điện tử tử thương. Hệ
thống truyền tin hoàn toàn tê liệt. Phòng cơ khí
báo cáo phía hữu hạm, gần văn phòng cơ khí,
trúng đạn 100ly cách mặt nước 2ft, lỗ thủng
khoảng 3'x5', nước biển tràn vào mỗi khi tàu lắc.
Phía TC bắn một hỏa tiễn cầm tay qua ngang đài
chỉ huy. Máy điện sụp. Radar phòng không bất
khiển dụng. Khẩu 40 ly đôi trên sân thượng và 2
khẩu 40 ly đơn sân sau là hỏa lực chính. Lúc này
HQ5 một mình đối phó với hai tàu địch. Tàu đổi
cấp và vận chuyển theo hình số 8 để dồn địch về
một phía, giữ vị trí của chiến hạm ta ở hướng 12
giờ của tàu địch để họ không tác xạ được và vẫn
giữ sát bờ san hô. Tôi nhảy vào ghế xạ thủ để
nhân viên này phụ tiếp đạn và đồng thời đổi
hướng bắn từ hữu sang tả hạm và ngược lại tùy
theo sự vận chuyển của tàu. Bắn được 5 gắp đạn
(20 viên) thì ống thủy điều (hydraulic) bị bể vì
vận tốc bắn nhanh. Phòng chuyển đạn 127 cháy.
HT cho đánh ngập hầm đạn, sợ bị nổ. Tôi cho
thay ống thủy điều và tiếp tục phản pháo. HP chỉ
thị tôi rời nhiệm sở và lên đài chỉ huy gặp ông.
Đi ngang qua hành lang phòng ăn sĩ quan tôi
thấy Trung sĩ nhứt Trọng pháo Quang trúng đạn
trọng thương nằm dưới chân cầu thang. Tôi gọi
y tá chỉ thị cấp cứu. Phòng ngủ của Rạng và tôi
(sân phía trên văn phòng cơ khí) cháy vì dây
điện trúng đạn. Lúc này HQ5 như người câm.
Máy vô tuyến duy nhứt còn lại khiển dụng là cái
máy VRC-46 trên đài chỉ huy. Tôi vừa lên đến
đài chỉ huy thì khẩu 40 ly đôi báo cáo bất khiển
dụng (ống giải nhiệt bằng nước bị bể). Không
thương vong. Giải tán nhiệm sở, tăng cường cho
2 khẩu 40 ly sân sau. HP chỉ thị tôi đi ghi nhận
tổn thất và phụ giúp tản thương. Đại tá Ngạc cố
gắng liên lạc với không quân (danh hiệu Kitty)
nhưng vô hiệu (không trả lời), gọi HQ4 cũng
biệt vô âm tín. Không quân địch vẫn xuất hiện
trên cao từng đoàn từ lúc sáng. Khói lửa khắp
69
nơi. Toán phòng tai được tăng cường. Tôi phân
bổ toán di chuyển xác Thiếu úy Đồng, Thượng
sĩ nhứt Hảo và Trung sĩ nhứt Quang lên chung
với Trung úy Đơn. Ghi nhận thượng từng kiến
trúc của chiến hạm bị trúng đạn 37 ly của địch
nhiều. Trên đài chỉ huy, HT đang vận chuyển để
dồn tàu địch về phía sau lái của chiến hạm và hai
khẩu 40 ly sân sau tác xạ cầm chân. Đại tá Ngạc
đang ở bên hữu hạm vẫn cố gắng liên lạc với
không quân. Từ phía chân trời phía bắc, tôi thấy
hai vệt sóng trắng chạy rất nhanh, càng lúc càng
rõ hơn. Tôi báo cáo cho Đại tá Ngạc và HT. Ông
chỉ thị nhân viên quan sát theo dõi,báo cáo.
Đồng thời chỉ thị cho CIC xác định hướng và
vận tốc. Vài phút sau họ báo cáo vận tốc 35knots
và hướng 195, khoảng cách 25 hải lý. Đại tá
Ngạc buột miệng: “Komar” và ông ra lịnh đổi
cấp 180 tiến full. Lúc này khoảng 11:00 sáng.
Trên đường về hướng nam, nhiệm sở phòng
không vẫn duy trì. Hai khẩu 40 ly sân sau vẫn
tác xạ cầm chừng tàu địch truy kích. Tất cả nhân
lực còn lại tăng cường cứu thủy, cứu hỏa và tản
thương. Hoàn toàn mất liên lạc với tất cả các
đơn vị. Nhân viên tất cả các ban ngành làm việc
rất tận lực và nhịp nhàng.
Kết quả tổng quát được ghi nhận như sau :
- Tử thương: Thiếu úy Đông, Thượng sĩ nhứt
Hảo và Trung sĩ nhứt Quang. Vài nhân viên bị
thương nhẹ.
- Vật chất: hầm đạn 127 ly đã được làm ngập.
Khẩu 127 và 40 ly đôi bất khiển dụng, trung tâm
truyền tin bất khiển dụng, hầm máy chính vô
nước, boiler bất khiển dụng, nước ngọt tạm thời
không sử dụng , đặc biệt để dằn lườn. Điện sẽ
được sử dụng ở mức tối thiểu. Bơm điện ngầm
chạy 24/24 để bơm nước biển tràn vào từ lỗ
thủng gần văn phòng cơ khí. Toán phòng tai đã
làm chủ tình hình. Họ di động nhanh và ứng
biến kịp thời cô lập các nơi bị cháy. Hệ thống
kín nước đã được duy trì đúng mức. Máy điện
khẩn cấp được sử dụng để cung ứng cho các nhu
cầu tối cần thiết. Nhân viên điện tử và truyền tin
ráo riết thiết trí hệ thống liên lạc và antenne dã
chiến.
Chiến hạm đi về hướng nam đến khoảng 3:00
chiều thì liên lạc được với HQ4, Đại tá Ngạc
nhận báo cáo từ các đơn vị. HQ10 trôi lềnh bềnh
trong vịnh. Toán đào thoát đã không được TC
tiếp vớt. Hai toán xung kích từ HQ4 và HQ16 đổ
bộ lên 2 đảo Cam Tuyền và Vĩnh Lạc đã bị bỏ
lại. HQ4 và HQ16 trên đường hướng về Đà
nẵng. HQ4 đã báo cáo diễn tiến tình hình mặt
trận về Sài gòn trong khi không liên lạc được
qua hệ thống chỉ huy với Đại tá Ngạc.Đại tá
Ngạc xin về Đà nẵng sửa chữa và chuyển xác
các tử sĩ nhưng bị từ chối. Lịnh chỉ thị HQ5,
trong khi chờ quyết định cấp trên, trở lại gần
vùng giao tranh để có thể vớt toán đào thoát; nếu
cần sẽ phải đâm vào san hô (run aground) để
chứng tỏ chủ quyền lãnh thổ. Tinh thần nhân
viên giao động. HT cho giảm vận tốc và đổi
hướng trở lại Hoàng sa trong khi chờ lịnh. Tôi
nhận lịnh HP chia cắt sĩ quan và nhân viên gác
xác. Khoảng 5 giờ chiều, chiến hạm được lịnh
về Đà nẵng để chuyển giao xác.
Hải hành trong đêm. Âm thầm. Không đèn hải
hành. Radar hoạt động nhưng tầm xa bị hạn chế.
Vận tốc giới hạn vì hầm đạn 127 ở mũi tàu đầy
nước. Lỗ thủng ngang hông đã được toán phòng
tai dùng hai tấm nệm cá nhân và ván ép tạm thời
dựng lên để ngăn nước, nhưng bơm điện chìm
vẫn chạy 24/24 để bơm nước ra ngoài. Toán
quan sát được tăng cường. Sau một ngày làm
việc không ngừng, tất cả đều mệt mỏi. Toán gác
xác thay nhau mỗi giờ. Không một lời trao đổi
giữa các nhân viên trong lúc làm việc. Mọi
người theo đuổi ý nghĩ riêng tư của mình.
Khoảng 2 giờ sáng, đài quan sát báo cáo có echo
hướng 2 giờ, không đèn hải hành, di chuyển về
hướng tây. Một phen hồi hộp. Sau này mới biết
đó là HQ16. Chiến hạm hải hành đơn độc,
không có dụng cụ truyền tin hữu hiệu, không
khả năng tự vệ. Đi ngang cù lao Ré, trong tầm
liên lạc của máy VRC46, đài kiểm báo trên đảo
cung cấp vị trí chính xác của chiến hạm và cho
70
biết họ có nhiệm vụ theo dõi suốt lộ trình còn lại
của chiến hạm về Đà nẵng.
Tại Đà nẵng, các tử sĩ đã được chuyển lên bờ.
Cấm trại 100%. Các toán kỹ thuật từ
CCYT/TV/ĐNG (Căn Cứ Yểm Trợ/ Tiếp Vận/
Đà nẵng) xuống sửa chữa cấp thời và thay thế
các dụng cụ truyền tin hư hại để chuẩn bị cho
chiến hạm trở ra gần vùng giao chiến tuần tiễu,
vớt các nhân viên đào thoát. Võ tàu bị hư hại đã
không được nằm trong danh sách sửa chữa!!!
Trong ngày, Trung tướng Ngô quang Trưởng,
Tư lịnh vùng 1 kiêm quân khu 1 đã đến viếng
đơn vị, thanh sát các nơi bị trúng đạn. Đài truyền
hình Đà nẵng phỏng vấn Đại tá Ngạc và HT.
Tin hành lang (lại tin truyền miệng), sở dĩ
chiến hạm không được về sửa chữa mà phải trở
ra gần vùng giao tranh tiếp tục tuần tiễu và quan
sát để vớt các nhân viên đào thoát từ HQ10 và
các toán đổ bộ của HQ4 và HQ16; bởi vì chiến
hạm đã:
- bỏ chạy khỏi chiến trường để cho HQ4 bị
tấn công,
- không giữ liên lạc với các đơn vị.
- bắn vào hầm máy HQ16 (đầu đạn 127 ly
không nổ, số danh bộ của lô đạn thuộc HQ5)
Một số nhân viên tỏ vẻ bất mãn, không khí
trên chiến hạm đột nhiên ngột ngạt, có tiếng than
phiền HT quá hiền và tôi với chức vụ SQ/Chiến
tranh chánh trị lâm vào tình trạng khó xử.
Chiến hạm ra khơi trong tình trạng không
thuận lợi về kỹ thuật cũng như tâm lý: lỗ thủng
bên hông tàu đã được sửa chữa khẩn cấp để
nước không vô, máy truyền tin được cho mượn
(không được thay thế), 40 ly đôi hồi phục. Máy
điện không đủ công xuất cung cấp cho hệ thống
máy lạnh phòng ngủ cho thủy thủ đoàn. Nước
ngọt dùng để dằn lườn, chỉ sử dụng cho nhà bếp
và nhu cầu nấu nướng. Không có nước để làm
vệ sinh cá nhân. Đơn vị phải ra khơi trong ngày
cuối năm âm lịch. Trong vùng tuần tiễu, chiến
hạm được đặt dưới sự điều động của đài kiểm
báo cù lao Ré (chỗ này tôi phải nhấn mạnh cái
nghĩa điều động ở đây: cù lao Ré kiểm soát vị trí
của chiến hạm theo trục tuần tiễu đã được ấn
định và liên lạc với phi cơ trinh sát của không
quân khi họ phát hiện bè đào thoát). Chuyến
công tác lịch sử này kéo dài khoảng một tuần.
Tại Sài gòn, trong lúc đó HQ16 và HQ4 được
cả hai đài phát thanh Sài gòn và quân đội liên
tục ca ngợi, tuyên dương công trạng đơn vị. Thủ
đô đã tổ chức rầm rộ những cuộc tiếp đón các
anh hùng trở về. Từng đoàn học sinh các trường
ở thủ đô trao vòng hoa chiến thắng, phóng sự,
phỏng vấn, tuyên bố, v.v và v.v... HQ10 đã được
trang trọng ghi nhận đi vào lịch sử. HQ5 âm
thầm thi hành nhiệm vụ, ngày đêm tinh thần
căng thẳng, ám ảnh có thể bị tấn công bất cứ lúc
nào và không có khả năng tự vệ cũng như không
có lực lượng tiếp viện kịp thời. Từ mấy chiếc
máy thu thanh được bạn bè cung cấp khi còn ở
Đà nẵng, chúng tôi theo dõi ngày đêm các bài
bình luận cũng như tin tức, mà lòng ngậm ngùi.
Tại sao? Ai bỏ ai? Nhân viên rỉ tai nhau: “chúng
ta đang thi hành quân kỷ ”. Nghi vấn rõ ràng: bỏ
chạy về hướng nam, không liên lạc với các đơn
vị tham chiến, bắn vào bạn, chứng cớ rành
rành, làm sao chối cãi. Ngậm đắng nuốt cay !!!
Làm sao giải thích? Qua tin tức, khi nghe HQ16
trên đường tiến vào quân cảng Sài gòn, chiến
hạm nghiêng nghiêng tiến từ từ qua bến Bạch
đằng mà lòng đau da diết. Công việc bảo trì và
làm vệ sinh chiến hạm vẫn tiến hành đều đặn
hàng ngày. Nào phải lau chùi làm vệ sinh kho
đạn 127, sơn sửa những nơi hư hại nhẹ trên sân
tàu, dọn dẹp vật liệu cứu hỏa, sửa chữa máy
móc....và đi ca quan sát, cố gắng tìm vớt nhân
viên đào thoát.
Công điện cho rời vùng về Sài gòn. Mừng vui
xen lẫn với mặc cảm. Vui mừng là vì còn sống
trở về sum họp gia đình. Ăn Tết tuy muộn
nhưng vẫn còn tốt hơn là không được thưởng
thức mùa xuân với gia đình. Mặc cảm là vì khó
giải thích được tại sao đạn của mình nằm trong
bụng bạn.
Đến Sài gòn, âm thầm. Sự tiếp đón tổ chức
đơn sơ, có thể gọi là tạm bợ., thiếu hoan hỷ.
71
Không khí toàn chiến hạm nặng nề vì lịnh cắm
trại 100% an ninh hải quân làm việc với từng sĩ
quan cũng như một số nhân viên để điều tra tại
sao đạn 127 ly của HQ5 nằm trong hầm máy
HQ16. Tôi không rõ các vị sĩ quan khác đã được
hỏi những gì và trả lời ra sao. Riêng tôi đã được
một Trung úy an ninh hỏi:
- Nhiệm sở tác chiến của tôi ở đâu và tôi đã
thấy thiệt hại của chiến hạm Trung cộng ra sao?
- Tại sao bỏ chạy về hướng nam và không
liên lạc với các đơn vị khi lâm trận?
- Có biết HQ5 bắn vào HQ16 không?
- Là SQ/CTCT tôi đã làm gì, nói gì với nhân
viên chiến hạm trước và sau khi lâm chiến?
Câu trả lời của tôi hình như đã không làm vừa ý
người hỏi:
- Trưởng khẩu 40 ly đôi sân thượng, là xạ
thủ, tác xạ vào đài chỉ huy tàu địch theo sự chỉ
định. Tất cả súng trên tàu đều bắn trực xạ vào
mục tiêu đã được chỉ định. Đổi hướng hải hành
về hướng nam khi phát hiện tàu địch. Hệ thống
liên lạc hoàn toàn tê liệt sau khi trung tâm truyền
tin trúng đạn. Lúc đó không thấy HQ4 và đang
chịu áp lực nặng của 2 tàu địch. Biển động.
Trong lúc bắn ở nhịp độ nhanh và hai mặt trận
cách xa nhau, không nhìn thấy rõ nhau, và do sự
vận chuyển chiến thuật của từng chiến hạm, rủi
ro có thể xảy ra. Nếu đạn 127 của HQ5 trúng
đơn vị bạn thì đạn 40 ly cũng có thể bắn trúng
bạn. Tôi không làm CTCT gì cả. Chỉ trao đổi
suy nghĩ cá nhân mà thôi. Trực tiếp dưới sự điều
động của Hạm phó theo tinh thần bản nhiệm sở
và chức vụ chỉ định.
Vài ngày sau, đơn vị được một số học sinh
trường Nguyễn bá Tòng đến tặng vòng hoa
chiến thắng trong một bầu không khí gượng ép
nhạt nhẽo. Tiếp theo là các đề nghị thăng
thưởng. Sau cùng, HQ5 âm thầm nhận bằng
tuyên dương công trạng trước quân đội: anh
dũng bội tinh với nhành dương liễu.
Tôi thuyên chuyển từ HQ5 lên
BTL/HQ/HQ/LĐB (Bộ tư lịnh/Hải quân/Hành
quân/ Lưu động Biển) toán không tuần vào
tháng 5-1974. Khi trình diện nhận đơn vị, Đại tá
Phạm mạnh Khuê hỏi tôi: “Tại sao HQ5 bắn
HQ16”?. Tôi đã trấn áp sự bất bình, cố nuốt
tiếng nấc và trả lời: “ Thưa Tư lịnh, biển động,
trực xạ và có thể lạc đạn vì khi nhẩy sóng, vị trí
quá xa, đạn đạo cầu vòng”.
Sự việc đã hơn 28 năm. Tôi không nghĩ câu
chuyện đạn 127 ly của HQ5 nằm trong bụng
HQ16 là một câu chuyện tếu như những câu
chuyện tếu vô thưởng vô phạt khác. Tôi nghĩ
rằng đó là một phát biểu thiếu nhận định khách
quan, cụ thể của một số cá nhân không tinh thần
trách nhiệm, quan điểm hẹp hòi. Mỗi cá nhân
tham dự trận này đều có cái nhìn từ nhiều góc
cạnh khác nhau do cương vị của chính mình và
đơn vị mình lúc đó.
Bài viết của tôi có thể gây phật ý một số vị,
cũng có thể gây ra tranh cãi, biện minh. Tôi
chân thành xin được miễn thứ.
Một lần nữa, tôi xin kính cẩn nghiêng mình
tưởng niệm các vị đã “VỊ QUỐC VONG
THÂN”
Trương văn Liêm (K.1 OCS)
Mùa Đông 2001, Dallas-Texas
72
thơ Lý Thy Dân
Em Hỏi Ta… Mùa Xuân trở về, Em hỏi ta Đâu rồi bài thơ ngợi ca Tóc Em bay, Dáng thanh tân hương tỏa mấy phương trời. Ta nói với Em Dòng sông xanh là thơ ta đó. Soi bóng mây qua, mang hồn Việt điểu Mờ hơi sương quyện lẫn khói lam chiều. Mùa Xuân trở về Em hỏi ta Đâu rồi bài thơ ngợi ca Những đêm trăng về, Có nàng Tô thị khóc người tình xa Ta nói với Em Núi cao kia là thơ ta đó Gió ngàn kiếm bạc, một giải giang sơn Huyền Trân…Ô Lý, dậm ngàn chứa chan . Mùa Xuân trở về, Em hỏi ta Đâu rồi bài thơ tình tự. Ca ngợi bàn tay, Tìm bàn tay trong hơi gió heo may.
Ta nói với Em Câu ca dao, thơ ta tình tự Bàn tay mềm theo nhịp võng đong đưa. Lời Mẹ ru thương Em mấy cho vừa. Mùa Xuân trở về Em hỏi ta Đâu rồi bài thơ ngợi ca Bình an trần thế Chúa Phật về rừng nhân ái nở hoa Ta nói với Em Mấy ngàn năm núi sông xa lạ Lạc bước chim di, đâu thấy bóng người Cội nguồn hoang phế, khuất nẻo từ quy.
Ta hỏi ta… Ngoài kia sương xuống Run rẩy cành lan... Ta còn vương mãi, Ừ… Giọt sầu đa đoan.
Chiều nghiêng sợi nắng Giăng lưới ngàn trùng Mong manh hạt bụi Ừ… Theo vào cõi không.
Cánh bướm ngàn xưa Tiếng hạc ngàn sau Trầm ngư bọt sóng Ừ… Cát chìm đáy sông.
Buồn như sợi tóc Mênh mông mặt gối Dừng chân ta hỏi Ừ… Bến bờ nơi đâu ?
Virginia 4/2012
73
Tiïn dûúåc trïn diïîn àaân
Đường Hào – U5
Đầu tháng hai, vợ chồng tui được cháu ngoại
6 tháng tuổi cho 'phép' nghỉ xả hơi một tuần.
Trong lúc cháu Cameron cùng ba mẹ rong chơi
biển đảo Hạ-Uy-Di, tui dành thì giờ thư giãn để
lướt sóng... mạng. Úi chao, mail nhiều vô số kể!
Tui có ba địa chỉ, tổng cọng khoản gần một ngàn
điện thư chưa
đọc. Với một
số lượng lớn
như vầy cần
phải có một
đối sách để
giải quyết
nhanh chóng
và êm đẹp. Tui
đã cẩn thận
đọc và trả lời
các tin nhắn quan trọng mang tính cách cá nhân,
rồi lướt nhanh qua phần còn lại lựa theo
'subject', gạc bỏ quảng cáo cùng lúc nhìn qua
một cách 'vô tư' mấy thứ trái cây, đào tiên, các
loại 'hoa thơm cỏ lạ'. Đã vậy, số lượng phần thư
còn lại vẫn đáng nể. Các thư này có cùng chuyên
đề về sức khỏe, và nằm dưới nhiều dạng thức
khác nhau: trao đổi, khuyên bảo, bài khảo cứu,
và giảm định y học. Tây có, Ta có, Tàu có, Bắc
có, Nam có, cổ truyền cũng như hiện đại đầy đủ.
Từ gạo lức muối mè trị bá bệnh, lá thu đủ trị ung
thư phổi, rau dềnh lọc máu, tía tô giảm phong,
gừng, nóng, cải bẹ, mát... Thuốc và rau lá tốt da,
sáng mắt, tăng máu, nhẹ thần kinh... Thuốc viên,
thuốc nước, cao đơn qườn tán... Có cả rượu bổ
tì, bổ thận từ thời bà hoàng hậu Từ Hy, các vua
Càn Long, Minh Mạng... Thật là một chủ đề
sung mãn. Được một cái là tui cũng có dư thì
giờ. Thêm vào đó, chủ nghĩa lừng khừng cho
phép, tui đã âm thầm nghiên cứu. Còn có dự tính
áp dụng, nếu được. Biết đâu chẳng phước chủ
may thầy, trúng mánh, nếu không là bành tổ thì
cũng trăm năm là cái chắc!
Buổi sáng của tui bắt đầu khoảng bốn hay năm
giờ. Nhiều lúc mới hai, ba giờ, tờ lờ mờ chưa
thấy trời đất đã phải tung mền chạy cho kịp giải
quyết cái bàng quang cành chướng. Tưởng
tượng lúc bạn đang mơ màng giấc điệp, thấy
mình còn nhỏ chưa đủ lông, đủ cánh, ở truồng
tắm bến 'Ông Đùm' -bến sông quê tui. Đang
giỡn cợt với bạn bè, nghịch ngợm tạt nước nhau
thì giựt phắt
mình lồm cồm
bò dậy chạy,
nếu không
muốn ướt
giường. Thiệt
là bực mình!
Tánh tui ngủ
dễ, nhưng ngủ
chưa tới nơi đã
phải thức sẽ
làm tui ...bịnh liền. Mà nói thực, thức giấc trong
hoàn cảnh này, nói bậy ông bà quở, không có gì
hăng hái hết, chết sướng hơn. Rồi tui đâm ra
giận cái sự dễ tính, ham vui và dễ dụ của mình.
Giận luôn cái anh chàng đã vì tính thiện đã gởi
mail. May có điều là ngồi xả trong tư thế mắt
nhắm mắt mở lúc trời đất còn đang giao lưu
cũng có cái khoái. Những lúc như vầy tui lại
lừng khừng, lẩm bẩm theo chủ nghĩa xét lại, biết
đâu chừng! Thế là chuyện đâu lại vào đó: 200ml
nước trước khi đi ngủ. Chương trình 'Good
Morning ...USA' đặc biệt này là hậu quả của trao
đổi mấy cái e-mail dược liệu thường thức trên
diễn đàn OCS. Không biết có phải từ một anh
MD. hay thầy lang nào là người đã nói uống
200ml nước trước khi đi ngủ sẽ làm giảm cơ
nguy đột quỵ? Phải không dậy? Nghe sao dễ quá
không làm thì uổng. Tui không già, nhưng cũng
thuộc loại có tuổi nên 'yếu tim' lắm. Lại nữa, gần
đây vài bạn trang lứa đã sớm 'rủ gác phong
sương trên (xứ) trọ' làm mình cũng có chút e dè.
74
Ăn kiêng ở cữ. Quớ được thứ gì mà có thể trợ
giúp cái cơ thể đang trên đà 'chậm tiến' này là
mần liền, không suy nghĩ rằng mình càng lớn
tuổi thì cơ thể, kể cả lục phủ ngũ tạng, đều teo
co lại. Cứ theo cái logic thiên nhiên này thì cái
bọng bóng cũng trở thành keo kiệt, sức chứa
phải giảm vài dung lượng. Nhớ lại ngày xưa vào
thời hoàn kim trong cái chiến dịch gọi là giải
phá thành sầu, năm ba lon 33, hay vài chục xị
với mấy chủ ghe trong vùng kinh Chín, tui vẫn
hiên ngang 'nhịn' mà ngồi trụ tới bến. Chuyện
nhỏ! Ôi thời oanh liệt nay còn đâu!
Kể lại cho các bạn nghe, một lần tui cùng cả
đoàn tàu trên chục chiếc, nào Tango, Alpha, có
cả hai chiếc Monitor rà mìn vượt kinh Cán Gáo
vào tận trong vùng U Minh thượng. Đêm đến,
tui là sĩ quan trưởng toán, sắp xếp tàu ủi bến
trước cổng sư đoàn Chín của ông tướng Nón Sắt.
Dặn dò anh em canh gác ném lựu đạn chống
người nhái, trao đổi mật khẩu truyền tin xong là
lập tức ...chui vô mùng. Trời U Minh về đêm
lạnh thấu xương, muỗi thì nổi tiếng nhất nước.
Lang thang ngoài trời là chịu không thấu với
chúng đâu! Muỗi ơi là muỗi! Hàng hàng lớp lớp.
Đêm tối tàu di hành mà quất ngọn đèn pha thì
thấy muỗi bay từng đàn, từng bầy, tạo một mảng
sáng lấp lánh mà tản thần kinh. Muỗi nhiều như
thế đó. Chẳng những nhiều mà muỗi U Minh nó
cắn còn đau và độc nữa. Rát rạt. Chỗ bị cắn
phồng lên đỏ rưng nước như hột lựu. Thuốc xịt
muỗi, insect repellent nhập cảng của 'đế quốc'
cũng chào thua, không phê. Trong vùng hành
quân, về đêm tui bận ngoài bộ đồ trận rằn ri dữ
tợn còn khoác thêm áo loại đi biển heavy coat.
Ấy vậy mà muỗi vẫn chích vào tận xương.
Chích đâu chúng dính đó. Thấy rát rát, tưởng bở
mình rung tay cho chúng bay, nhưng tui đã lầm.
Có đứng xuống tấn, múa võ thiếu lâm tung ra
quyền cước mười thành công lực, chúng vẫn
bám xực phàn tỉnh bơ. Nhiều lần giận quá tui tự
đập vào người. Khi đưa tay vuốt lên áo, trong
lòng bàn tay cảm thấy nhám sàm. Nếu lúc đó mà
soi đèn chắc chắn thấy tay dính đầy máu. Lý do
tui chui vô mùng là để tránh muỗi. Ngủ sao
được mà ngủ! Vừa cỏn sớm -mới chạn vạn- vừa
trong vùng hành quân nguy hiểm chực chờ, lính
tráng họ đang canh gác đâu thể nào mình sĩ
quan, sĩ quyết lại vô trách nhiệm, vô tư mà an
giấc cho đành. Trên nóc chiếc Tango, nằm trong
chiếc mùng do Okamura, phóng viên báo Asahi
Shimbun tặng trước khi xuống trình diện đơn vị,
tui không tài nào chợp mắt được. Cóc nhái kêu
inh tai, sầu thảm. Trên bờ, Pháo binh chiến đoàn
làm over time 'đều chi'. Dưới sông, thỉnh thoảng
đầu này nổ một tiếng ình, đầu kia một tiếng ầm
của lựu đạn chống người nhái làm tưng cả chiến
đỉnh. Vừa lúc khoảng ca cách mạng, một hai giờ
sáng, tui chui ra khỏi mùng. Còn đang đứng trên
sàn tàu chiến đỉnh, vừa dự định tè, tui nghe một
tiếng nổ chát chúa trên đài chỉ huy chiếc Tango
kế bên. Lập tức mấy cái máy truyền tin PR25
vang lên ồn ào. Anh hạ sĩ vô tuyến trực đài chỉ
huy cho biết Trung Sĩ I (Nhất) Anh bị thương.
Bộ chỉ huy chiến đoàn cần gặp tui trên máy.
“Thưa Đại Bàng không có gì, một thằng em bị
'cướp cò' khi ngồi gác”, tui nghiêm nghị giải
thích. Theo tui thì thằng Anh bị 'lạnh cẳng'. Mấy
ngày hôm trước khi ủi bãi bắn dừa tìm nước
uống, thằng này có vẻ tinh thần xuống dốc. Nó
nói nhiều đến con Mười Nước Đá ngoài Tắc
Cậu. "Con nhỏ trắng muốt, đồi núi nhấp nhô.
Khi ra vùng ông thầy làm chủ hôn cho em," nó
nài nỉ. "Ông thầy đừng lo, con nhỏ thương em
lắm, gia đình không đòi hỏi gì cả". Thằng em
còn hỏi tới chuyện đi bờ, muốn biết phương tiện
nào để ra khỏi vùng hành quân. "Chỉ có trực
thăng," tui cà rỡn. "Đi bằng trực thăng tải đạn và
thương binh. Bạn không tải đạn thì chỉ còn cầu
cho đụng trận bị thương." Sau câu chuyện nữa
đùa nữa thiệt, thằng Anh thêm ít nói, lầm lầm, lì
lì cho đến tối qua. "Dạ, em bị cướp cò," Trung
Sĩ Anh méo mó nói. " Viên đạn xuyên qua ngón
cẳng cái. Nhờ ông thầy giúp em." Mờ sáng hôm
sau, một chiếc 'huey' bốc hắn về quân y viện
Long Xuyên. Tui đứng cầm tờ báo cáo vẫy tay
75
cho đến khi chiếc trực thăng mất hút qua hàng
dừa cuối xóm. "Tội nghiệp con Năm Nước Đá
chưa lấy nhau phải đi nuôi chồng ở chốn quân
lao." Chuyện thằng Anh tạm ổn. Tui trở lại
chiến đỉnh trấn an tinh thần thủy thủ đoàn.
"Thôi, đừng bàn tán chuyện thằng Anh nữa. Lên
làm cái xây chừng tui bao."
Lội qua vũng sình sát mé kinh, trong quán cà
phê dựng tạm, mới sáng sớm đã thấy mấy tay
chủ ghe dứa ngồi ồn ào. Thấy tui vào, Tư Thôn,
chủ vựa nước đá, lên tiếng mời. "Hôm nay 'Đại
Quý' (lối xưng hô với sĩ quan đeo lon hải quân
của người miệt kinh) không trốn được bọn tui
rồi", Tư Thôn ròn rã. "Ông ngồi xuống đây để
tui giới thiệu mấy anh em."
Trên chiếc bàn con thấp lè tè, một xoong đồ ăn
bốc khói. Tui nhìn ra mấy cái mu rùa, cu đinh
nằm lổn ngổn bên cạnh li, chai nghiêng ngửa.
Chủ vựa Tư Thôn tay kéo ghế, tay kéo tui. Tui
giữ khoảng cách:
- Dạ, xin lỗi, sớm quá tui không uống được
rượu.
- Không, không. Tụi này không định nhậu. Thấy
ông đeo mắt kiếng nên mời ông dùng rùa hầm
rượu. Nghe mấy ông thầy thuốc Bắc ngoài Rạch
Giá bảo đảm một li mỗi ngày là mắt sáng lại nên
có ý tốt mời ông dùng thử. Ông từ chối bọn tui
buồn.
Tôi tiếp tục từ chối. Bọn Tư Thôn tiếp tục níu
kéo. Cuối cùng thì dùng tâm lý chiến, tình quân
dân cá nước. Tui ngồi xuống.
...Tui không dự tính gởi đưa vị thuốc này lên
'nét' hay luân lưu qua diễn đàn đâu, nghe. Nó
không work! Nó láo và không phê chút nào hết!
Sáng đâu mà sáng! Li đầu tiên mắt trái 'Ông Đại
Úy' muốn nổ đom đóm vì bụng đang trống trơn.
Li thứ hai là mắt phải muốn lộn tròng. Mấy li
sau thì 'Ông Đại Úy' bắt đầu lớn tiếng. Thời đó
trong vùng hành quân làm gì có karaoke, nhưng
hứng chí ngứa cổ 'Ông Đại Úy' xách cái đẩu con
đứng dậy, khà một tiếng cho ra hơi men rồi cao
giọng: “Nhứt xị giải phá thành sầu”...
Nãy giờ nói lung tung, tui quên mất tên cái lá
cây gì trong thuốc nam mà mấy cha nội này nói
nó tác dụng như viagara rồi???!!!
Đường Hào U5
tháng hai, 2012.
The Kiss I hoped that he would love me, And he has kissed my mouth, But I am like a stricken bird That cannot reach the south. For though I know he loves me, To-night my heart is sad; His kiss was not so wonderful As all the dreams I had. Sarah Teasdale
Nụ Hôn Ước gì anh đã yêu tôi Trao hôn phong kín đôi môi ngọt ngào Tôi, chim mang vết thương đau Làm sao tung cánh bay vào phương nam. Nghĩ rằng anh đã yêu tôi Đêm nay buồn bã tim côi rã rời Nụ hôn anh chẳng tuyệt vời Như bao ước mộng một thời em mơ. Lê Ngọc Trùng Dương phỏng dịch
76
Quaán Ba Cö
Huỳnh Kim Khanh – U1
Hồi đó, thời chiến tranh vừa mới leo thang,
tôi đang sống gần vùng sông Vàm cỏ Đông,
Long An. Con đường từ Đức Hòa đi Lương Hòa
là một lối mòn trải đá đỏ nối Vàm Cỏ Đông và
hương lộ đi Hựu Thạnh từ Đức Hòa. Hai bên
đường đất đỏ là vườn mía hoặc khóm còn không
thì chỉ có năng dại mọc đầy hầu hết quanh năm.
Phương tiện di chuyển thời đó là xe Lam
(Lambretta) hoặc xe thổ mộ (xe ngựa kéo). Xóm
Lương Hòa được hai danh tiếng: nhất là có
khóm ngọt như đường, hai là gái đẹp. Các nàng
thiếu nữ Lương Hòa thời đó được tiếng là biết
cách ăn diện, ăn mặc đúng thời trang, nói năng
hiền hòa dễ thương. Lúc tôi còn học lớp nhất
trường làng, có học chung hai cô người Lương
Hòa, phải nhận là thiên hạ đồn đại chẳng sai.
Trở lại câu chuyện cuối thập niên sáu mươi,
Lương Hòa là một xóm nhỏ đang trong đà vươn
lên, dân chúng dọn về từ nhiều nơi làm địa
phương nhỏ nầy ngày thêm phồn thịnh. Hàng
quán đủ loại mọc lên như nấm. Dọc bên con
kinh nhỏ chảy ra Vàm Cỏ Đông có một quán cốc
gọi quán Ba Cô. Như cái tên đã biểu lộ, quán
này được cai quản bởi ba cô thiếu nữ tuổi chừng
hai mươi đến hai mươi mấy.
Không ai rõ tông tích của ba cô hàng nước cả.
Chỉ biết mỗi người có một nét đẹp khác nhau,
đúng như câu trong Kiều:
Mỗi người một vẻ mười phân vẹn mười
Cô trẻ nhất tên là Phượng, tính tình liến thoắng,
nhanh nhẹn, lúc nào cũng cười tươi như hoa mới
nở. Cô kế tên là Nhung, tính thùy mị ít nói, có
mái tóc bồng bềnh, dài đen kịch như dòng suối
ban đêm. Cô thứ ba tên Lan. Nàng lúc nào cũng
mang nét buồn sâu kín. Ánh mắt u ẩn như những
nàng kiều nữ trong truyện Liêu Trai.
Từ lúc có quán Ba Cô, xóm nhỏ ven sông trở
nên rộn rịp khác thường. Các chàng lính địa
phương cũng như các chàng hải quân khi tàu về
ngang đều hay tới lui la cà, ăn nhậu hoặc tán tỉnh
ba nàng. Có chàng tán tỉnh lộ liễu, có chàng đi
nước trầm lặng hiền buồn. Nhưng ba nàng thì
hầu như chưa chấm ai cả...
Thời gian cứ lặng lẽ trôi đi như nước sông Vàm
cỏ lặng lờ cuốn đi mang theo phù sa và đám lục
bình hoặc những cành tràm mục nát hay những
tàu dừa nước. Các chàng cứ tán tỉnh ba cô nhưng
chưa chàng nào được rơi vào mắt các giai nhân.
Mùa mưa đến làm mát mẻ cả một vùng quê hẻo
lánh. Nước sông dâng cao mang thêm nguồn
sống cho cả một vùng sông rạch miền Nam.
Một buổi chiều khi bóng đêm vừa sắp bủa giăng
trên xóm nhỏ gần quán Ba Cô, một chàng từ
phương xa tới, đến ngồi vào một góc trong cùng
của quán cốc, gọi bia 33, uống tì tì chẳng nói,
chẳng rằng. Trong quán cũng có vài chàng lính
địa phương, vài anh hải quân lạc đàn ngồi ăn
nhậu.
Lần đầu tiên, có người để ý sẽ thấy một nụ cười
kín đáo nở trên môi nàng Lan. Nàng đến bàn
người khách lạ và hai người thù thì với nhau khá
lâu, không ai nghe được đàm thoại của hai
người.
Trời chợt đổ mưa tầm tã. Sấm chớp liên miên
làm át cả tiếng cười nói trong quán Ba Cô.
Người khách lạ rời quán từ lúc nào không ai hay
biết. Nàng Lan trở về quầy ngồi. Mái tóc nàng
xõa dài trên bờ vai tròn lẳn, màu đen huyền hoặc
như bóng đêm ngoài kia. Tiếng nhạc buông lơi,
77
khắc khoải gợi nỗi buồn xa xứ. Hai người đẹp
kia vắng bóng đêm nay.
oOo
Vài hôm sau, xóm nhỏ ven sông nhộn nhịp hơn.
Các tiểu đĩnh HQ về nhiều hơn trước. Các nàng
trong quá Ba Cô bỗng dưng vui vẻ hơn mọi khi.
Khách tứ chiếng giang hồ về đông đảo, tới lui
tấp nập. Nghe đâu sắp có cuộc hành quân gì đó,
địa điểm chính xác không ai biết.
Một trong những cây si của cô Lan có chàng
Thiếu úy quân báo tên Bảo. Chàng này thì cũng
thuộc hạng ít nói, trầm lặng. Thường thường sau
giờ trực hay công tác, chàng hay đến ngồi vào
một xó tối khuất những ánh mắt tò mò của bọn
đàn ông khác, uống bia lai rai. Thỉnh thoảng liếc
người đẹp Lan đang ngồi ở quầy tính tiền.
Chiều nay trong quán còn có vài tên cố vấn Mỹ.
Lúc đầu ai cũng nhìn tụi Mỹ một cách tò mò.
Sau thì chẳng ai thèm để ý nữa. Điều mà ai cũng
hơi ngạc nhiên là các nàng đều nói thạo tiếng
Anh. Ở chỗ hẻo lánh như thế này mà có người
thạo tiếng Anh thời đó thì cũng kể là hi hữu. Các
nàng đột nhiên tỏ ra thân thiện với khách hơn
trước nhiều.
Đêm đó, nếu có ai tinh ý sẽ thấy khi quán đóng
cửa, chàng Bảo vẫn ở nán lại qua đêm. Tờ mờ
sáng hôm sau, bác bảy ở gần xóm thấy chàng
Bảo rời quán Ba Cô và biến dạng sau vườn mía
bên hông nhà bác Tư thợ mộc..
Trời tháng mười mang gió lạnh về trên vùng
quê hẻo lánh. Dòng sông Cái vẫn trôi lặng lờ
nặng trĩu phù sa. Mùa khô như những người
quen với chiến cuộc miền Nam hay gọi cũng là
mùa chiến tranh sôi động hơn. Những đơn vị
chính qui bắt đầu xâm nhập từ biên giới Việt
Miên và tấn công các đơn vị Cộng Hòa. Cuộc
hành quân được đồn đại mấy tuần qua không hề
thấy xảy ra.
Quán Ba Cô vẫn tấp nập như bao giờ. Có khác
hơn trước chăng là lúc nầy nàng nào cũng có
một anh bồ: Nàng Lan và chàng Bảo, nàng
Nhung và một Thiếu Úy truyền tin, còn nàng
Phượng thì khăng khít với một chàng Quan,
thiếu úy HQ trong toán giang đĩnh hay lui tới
trong vùng.
oOo
Đêm nay trời im gió. Vầng trăng thượng tuần
nằm vắt vẻo trên đám dừa nước bên kia sông.
Dòng sông Cái chảy lừ đừ mang nặng phù sa bồi
đắp lên mọi vùng sông lạch. Tiếng côn trùng hòa
lẫn tiếng cóc nhái, ễnh ương ra rả như một dàn
nhạc hòa tấu đang trổi khúc nhạc thiên nhiên.
Quán Ba cô đã đóng cửa từ lâu. Những túp nhà
tranh le lói đèn, phản ảnh trên mặt sông làm tăng
vẻ đìu hiu hoang vắng của vùng quê hẻo lánh.
Có tiếng đối thoại của hai người sau bờ giậu um
tùm sau quán Ba cô.
- Anh không nên đi ngày mai.
- Tại sao?
- Nguy hiểm lắm.
- Sao em biết là nguy hiểm?
- Em biết
- Nhưng anh không thể từ chối lệnh trên, hơn
nữa, anh không nghĩ rằng những lo sợ của em có
căn cứ.
- Em không thể cho anh biết nhiều hơn thế. Tin
hay không tùy anh.
Rồi hình như hai người chia tay ngay sau đó.
Cơn mưa cuối mùa chợt đổ xuống như thác lũ.
Những tàu dừa dong đưa trong bóng tối như
những cánh tay ma quái. Vài cơn chớp lóe lên
trên vòm trời sẩm tối, soi sáng mặt sông đang
cuồn cuộn chảy. Rồi bóng tối trở về bao trùm cả
một vùng quê.
oOo
Cuộc hành quân bắt đầu sáng sớm hôm sau khi
mọi người còn mê ngủ. Địa điểm hành quân chỉ
được tiết lộ sau này, cách Trà Cú không xa.
Tiếng súng liên thanh từ gunship và tiểu đĩnh hải
quân vang động cả một vùng. Những người dân
78
trong vùng Lương Hòa thì thầm to nhỏ vài ngày
sau đó. Cuộc sống trở lại bình thường như
những ngày trước kia. Quán Ba Cô lại đón tiếp
các chàng chiến binh từ nhiều binh chủng. Một
điều đáng chú ý là người ta không còn thấy
chàng sĩ quan truyền tin lui tới quán Ba Cô. Có
người nói chàng bị thuyên chuyển đột ngột. Có
người bảo rằng chàng bị tử thương trong trận
đánh vừa rồi. Còn chàng thiếu úy HQ thì bị
thương nơi bả vai.
oOo
Buổi sáng ban mai rực rỡ chan hòa theo từng
giọt nắng sớm tràn ngập trên bãi dừa ven sông,
bao trùm ruộng mía, loáng loáng trên mặt sông
Cái. Những chiếc ghe đi buôn dập dìu trên sông.
Đoàn giang đĩnh đã đi về hậu cứ gần hết, chỉ còn
vài chiếc lẻ tẻ.
Quan rảo bước về quán Ba Cô. Chàng phải gặp
Phượng để nói việc quan trọng.
Quán có vẻ vắng hơn mọi hôm. Phượng ngồi
một mình ở quầy tính tiền. Tiếng nhạc tình đong
đưa, khắc khoải gợi nhớ thủa hẹn hò nào xa xôi,
hiu hút. Chàng tiến đến quầy, nhìn Phượng nói
khẽ:
- Anh muốn nói chuyện riêng với em.
- Ngay bây giờ?
- Nếu được
Rồi nàng mang bia và đem đến bàn, ngồi xuống
cạnh Quan. Hai tia mắt nhìn nhau dò xét.
- Anh muốn biết do đâu mà em biết được bọn
nầy sắp hành quân?
- Mọi người ai lại không biết. Mấy đàn em của
anh nói bô bô cả tuần trước.
- Nhưng tụi nó chỉ biết sơ sơ thôi, đâu biết nhiều
về địa điểm và chi tiết khác..
- Thì người khác cho biết chi tiết rõ hơn..
Quan ngập ngừng giây lát rồi nói tiếp:
- Anh muốn nói những gì em biết về bên kia cơ.
- À..Em không thể cho anh biết nhiều về chuyện
này được.
- Tại sao?
- Bí mật nhà nghề.
- Em muốn nói em có người quen bên kia?
- Không nói được!
Im lặng bủa vây chỗ hai người đang ngồi. Quan
nhìn ra xa về phía bờ sông, suy nghĩ bâng quơ.
Chàng tự hỏi có nên tiếp tục cuộc đối thoại hay
không. Nắng mai bây giờ chan hòa mặt sông,
những con đò đưa khách đã bắt đầu tấp nập.
Tiếng cười nói vang dội cả một vùng phụ cận.
Quan lẵng lặng uống hết ly bia rồi đứng lên và
trả tiền. Chàng bước ra khỏi quán quên cả lời từ
giã. Phượng lặng nhìn theo, không thắc mắc một
lời.
Quan rảo bước về phía con đê dọc vườn mía
ngang hông quán Ba Cô. Chàng tự nghĩ, tình
cảnh trở nên phức tạp hơn chàng tưởng. Lần đầu
tiên chàng nghĩ đến sự phức tạp của chiến tranh.
Giới tuyến trở nên nhạt nhòa khó phân biệt hơn
bao giờ. Biết đâu người bạn gái mình tin tưởng
lúc này chính là người đang làm cho bên kia.
Biết đâu mình đã hớ hênh tiết lộ những gì không
nên tiết lộ. Còn những tên đàn ông khác, những
tên đang theo tán tỉnh ba cô hàng ven sông..Họ
đã nói gì với nhau, chỉ có trời mới biết..Mỹ nhân
kế của bên kia chăng? Mà sao cả ba cô đều dẹp
duyên dáng và nói tiếng Anh thạo nơi vùng quê
hẻo lánh này? Bao nhiêu câu hỏi quay cuồng
trong ý nghĩ mà câu trả lời ổn thỏa thì không tìm
ra.. Còn nàng Lan và nàng Nhung thì sao. Hay
họ cùng một tổ?
Đang nghĩ ngợi miên man thì Quan thấy nàng
Lan đang đứng thì thầm với một chàng nào mặt
hơi quen giữa chiếc cầu tre vắt vẻo nối qua con
lạch nhỏ cách chỗ chàng đi chừng trăm
thước.Chắc chắn mình đã gặp chàng này đâu rồi,
Quan tự nghĩ. À, chàng chợt nhớ ra. Anh chàng
nầy chính là anh khách lạ ngồi uống tì tì ở một
góc tối vài tuần trước chớ ai xa lạ! Quan giả vờ
như không nhìn thấy hai người và rảo bước về
phía con đê đẫn về phía bờ sông Cái.
Nắng đã lên cao. Vài cụm mây trắng trôi lang
thang về phương trời vô định. Những người dân
quê đang làm việc cần cù trong ruộng mía hoặc
79
vườn cây trái xa xa. Con nước đang lên tràn đầy
sức sống. Quan trở về bãi đậu của chiến đĩnh.
oOo
Đêm tối như mực. Con nước ròng đã rút đi gần
hết chu kỳ. Bầu trời đầy mây màu chì xám xịt..
Quán Ba Cô đã đóng cửa từ lâu. Vài ngọn đèn le
lói từ những ngôi nhà lá ven sông. Đoàn tiểu
đĩnh đã ra khơi tuần tiễu vùng phụ cận, trừ hai
chiếc trừ bị còn nằm hậu cứ. Quan phải ở lại hậu
cứ đêm nay. Sĩ quan trưởng toán là một người
mới đổi về từ hải đội.
Chia cắt ca trực xong đâu đấy, Quan lặng bước
dọc bờ sông và đến ngồi trên bệ gỗ bên bến đò
ngang. Bến đò đã ngưng hoạt động từ lúc bảy
giờ tối. Lờ mờ trong bóng đêm, chàng thấy mơ
hồ những hòn đá cuội nằm phơi trên bãi cát dưới
chân cầu. Những người dân địa phương đã về
với gia đình. Con đường đất dọc bờ sông vắng
tanh, không một bóng người.
Chàng đốt một điếu thuốc, nhìn ra mặt sông.
Gió hây hây mát. Cơn thủy triều bắt đầu lên.
Mùi hơi nước chen lẫn mùi bùn đất từ mé sông
đưa lên quen thuộc, gần gũi như vùng quê hiền
hòa, mộc mạc chàng đã từng biết gần một năm
nay. Bỗng nhiên một bàn tay để lên vai chàng và
một giọng nói đàn bà khẽ nói
- Anh..
Khuôn mặt Phượng hiện ra gần gũi, thân yêu.
Đây là một gặp gỡ bất ngờ, lý thú, Quan tự nghĩ.
- Em tới lâu chưa?
- Em vừa tới thôi.
Chàng cầm lấy bàn tay nhỏ nhắn, thon mềm của
người con gái. Mùi tóc quen thuộc chen lẫn mùi
nước hoa thoang thoảng như múi hương dạ lý.
- Em cần gặp anh, có điều quan trọng.
Quan nhìn mặt Phượng trong tối, dò xét.
- Em cứ nói.
Chàng nghĩ đến lần gặp gỡ trước, băn khoăn.
- Anh có biết là bọn anh sắp bị nguy đến nơi
không?
- Em muốn nói.
- Anh nhớ anh chàng đi với chị Lan hồi sáng này
không?
- Em theo dõi anh từ sáng à?
- Không phải vậy, nhưng anh trả lời đi rồi em
nói tiếp.
- Anh có nhớ ra hồi sáng..
- Chàng này là người của tỉnh ủy
- Em muốn nói chàng thuộc phe bên kia?
- Đúng vậy..
- Sao em biết?
Chàng nhớ là mình đã hỏi câu này rồi, cùng đề
tài.
- Em làm cùng chiến tuyến như anh, phòng phản
gián.
- Còn hai cô kia thì sao.
- Họ chỉ là trá hình từ trung ương gửi xuống.
- Nhưng sao em lại tiết lộ tông tích với anh.
- Em tin tưởng nơi anh.
- Em có biết là em vừa vi phạm qui luật quân đội
không?
- Đại để là như vậy.
- Có nghĩa là..
- Em tin anh.
Im lặng giây lâu. Quan lặng nhìn ra sông. Dòng
sông chảy đen ngòm trong bóng đêm, đầy đe
dọa, thử thách. Chàng chưa biết phải nói gì đây
thì Phượng nói tiếp.
- Anh cũng đừng thắc mắc khi thấy chàng này
có vẻ thân thiện với chị Lan, vì hai người biết
nhau từ trước.
- Nhưng đường lối của Lan có rõ ràng không?
Em hiểu anh muốn nói gì rồi chứ?
- Em nghĩ rằng nàng cũng là phía bên ta chính
gốc.
Quan trầm ngâm giây lát.. Chàng tự nghĩ, trong
thế giới tranh tối, tranh sáng của cuộc chiến hiện
nay, biết đâu là sự thật.
- Nhưng điều chính em muốn nói với anh hôm
nay là gì?
- Hắn đang dụ bọn em tham gia phục vụ bên
kia.
- Em nghĩ sao?
- Em phải giả vờ hợp tác với hắn.
80
- Một công tác nguy hiểm.
- Thì nghề nghiệp phải vậy.
- Em hãy còn nói loanh quanh lắm.
- Chàng bắt tụi này theo dõi bí mật hành quân
của tụi anh.
- Tùy trình độ nào chứ.
- Chi tiết.
- Có điều anh không hiểu, nếu chàng này từ tỉnh
ủy gửi xuống, sao lại tấn công mục tiêu quân sự.
Anh tưởng là trách vụ và lãnh vực chính phải là
chính trị mới phải.
- Em nghĩ bên sau chàng còn có những toán đặc
công khác.
- Anh có ý kiến này. Nhưng em phải giữ kín
đừng tiết lộ cho ai biết., em hứa với anh nhé.
- Em hứa..
Rồi chàng ghé sát tai Phượng thì thầm to nhỏ.
Đêm trở nên sâu thẩm, bưng bít như lời đối
thoại của hai người lúc đó. Rồi hai người từ biệt
vội vã như chiếc hôn giã biệt.
Quan trở về nơi đậu tàu. Phượng quay gót về
phía quán.
oOo
Buổi họp xảy ra một cách tình cờ như mọi ngày.
Trong quán tấp nập như mọi khi. Các chàng lính
từ các binh chủng nhậu nhẹt, nói năng ồ ào như
những lần trước. Lan ngồi riêng một góc với
chàng cán bộ, chăm chú nghe.
- Cô phải biết rằng chúng tôi cần sự họp tác của
các cô. Lần này, nhờ các cô theo dõi chi tiết
cuộc hành quân Coronado do Mỹ chủ động, chắc
chắn bọn lính tầu thủy phải biết chi tiết.
- Em không chắc là tìm được những chi tiết tin
tức hành quân đâu.
- Thì nhờ cô cố gắng.
- Thì để xem.
Rồi chàng uống cạn ly bia và tất tả ra về. Lan
nhìn ra cửa, ái ngại. Buổi chiều đã tắt nắng từ
lâu.
Chàng cán bộ bước nhanh về phía ruộng mía
như mọi lần trước. Con đường đất vắng tanh.
Hai bên lề cỏ dại mọc đầy. Chàng nhìn dáo dác
trước sau. Chung quanh vắng lặng như tờ, ngoại
trừ tiếng gió xào xạc trong ruộng mía.
Đột nhiên có vài bóng người chợt xuất hiện từ
phía trước và phía sau chàng cán bộ. Tất cả đều
mặc đồ đen như nông dân thường. Nhưng khác
một đều là họ đều võ trang bằng súng tiểu liên
ngắn nòng, dùng cho lực lượng biệt kích. Trong
nháy mắt, tên cán bộ bị trói gô, không kịp rút
khẩu súng lục Tiệp Khắc dắt sau lưng. Rồi toán
biệt kích áp giải tên cán bộ xuống một giang tốc
đĩnh đậu sau đám dừa nước dưới con lạch nối ra
sông Vàm Cỏ.
Chiếc giang tốc đĩnh biến dạng trong đêm đen.
oOo
Sự sống lại trở về với khu xóm ven sông. Rất ít
người biết được biến cố xảy ra chiều hôm đó.
Quán Ba Cô vẫn tấp nập như bao giờ.
Bẵng đi một dạo, vào một buổi tối không trăng
sao, Bác Bảy ở gần quán Ba Cô chợt nghe có ai
la inh ỏi:
- Cháy nhà! Cháy nhà!
Bác nhìn ra thì đã thấy lửa rực trời phát ra từ
Quán Ba Cô. Vài người đàn ông trong xóm chạy
ra chữa cháy. Nhưng khi họ đến nơi thì quán đã
bị thiêu rụi. Mùi tro than bốc lên khét nghẹt cả
một vùng. Các cô chủ quán không ai thấy tăm
hơi.
Mấy hôm sau có người nghe nói các cô đã về
quê thăm bà con hồi tuần trước. Không ai biết
đích xác họ từ đâu tới. Cũng không ai biết phải
làm cách nào cho họ hay là quán của họ đã bị
cháy ra tro.
Huỳnh Kim Khanh – U1
81
sinh nhật
Em ra đời một ngày bình an. Có bao giờ em biết, em ra đời một ngày bình an. Em đã đi hết những phôi pha. Và đến đây dừng lại trước đền xưa. Những đền xưa tượng gãy, những bực thềm rêu hoang. Là hiện tại. Em đã ruổi rong những mắt dại ấu thời. Va đến đây đặt hai tay êm trên thời gian, dừng hai chân mềm trên năm tháng. Thời gian đã yên bình một giấc huyễn mộng. Năm tháng đã vàng những chờ đợi đong đưa. Là hoài vọng. Em ra đời rất bình an Rất bình an. Những tập vở chữ tròn nắn nót, đã vất bên vườn xưa, dưới gốc cây bình vôi, ông táo. Những ngòi bút tre, bút dẹp đã hóa thân dưới mấy lớp đất khô. Em biết không, em ra đời rất bình an. Tuổi nhỏ đã trôi sau nụ cười lá cỏ. Tuổi lớn đã về trên nước mắt sương hoa. Có bàn chân nào chạy bay trên lá khô. Của một thời xưa hiu hiu lay gió. Vàng rất vàng. Cành rất trơ. Em đã nôi ru trên mùa Em đã à ơi trên thu Có bước chân nào âm vang ngôi tiền đường. Những bóng hình tổ tiên. Những nến hương linh hiển. Tin rất tin những gắn bó vô hình. Những gắn bó đậm đà hơn tình yêu đôi lứa. Em ra đời rất bình an xanh. Những khung ô làng nhốt sỏi, những khung lò cò mân mê, vẽ vụng về trên nền thơm nắng. Tay thoăn thoắt nào em rải. Chân đu đưa nào em thúc. Em có biết : những cái nhảy nhẹ nhàng đã bước qua rất nhiều tuổi. Những tay bốc nhẹ nhàng đã bôi xóa hết hồn nhiên.
82
Em đã đến bên tình : chân bỗng ngừng hồng thắm, tay bỗng ngừng thiên thanh. Em ra đời một ngày bình an Một ngày riêng em đã chung hai đứa Bước chân em đã dừng khít tuổi Bàn tay em đã nhịp đúng âm đời Ta hãy đứng trên thiên thu nhìn về cố xứ Đứng trên bôn ba nhìn lại cổ tích người Có trăm năm và có đủ son vàng Có tương lai và có đủ mầm tươi Em ra đời rất bình an Bình an xanh Bình an anh.
Trần Quang Phước APL 13/7/70
Chanson d'automne Ca Khúc Mùa Thu
Paul Verlaine Lê Ngọc Trùng Dương phỏng dịch
Les sanglots longs Vĩ cầm dạo khúc thu sầu
Des violons Nhạc buồn não ruột xót đau cõi lòng,
De l'automne Nghẹn ngào, tím biếc tim hồng
Blessent mon coeur Hồi chuông gợi nhớ ngược dòng thời gian.
D'une langueur
Monotone. Buồn ơi, khóc lóc, than van
Tout suffoquant Tuôn dòng lệ thảm, vô vàn tái tê.
Et blême quand Đi trong gió loạn tư bề
Sonne l'heure, Cuốn theo chiều gió biết về nơi nao.
Je me souviens
Des jours anciens Đó đây phiêu bạc phương nào
Et je pleure. Đời như chiếc lá, úa màu tàn phai.
Et je m'en vais
Au vent mauvais
Qui m'emporte
Deçà, delà Pareil à la Feuille morte.
83
cơn mưa và trí nhớ 1. trên những đỉnh nhà cao mưa bay mưa bay mưa đêm nay anh đi dầm thân phố lạnh ủ một chút tình trong nắm tay 2. trên đỉnh đời ta vòi vọi hoang mê mơ hồ rơi từng giọt hồng trần phai ngày tháng nản anh buồn như đèn chong trang sách xưa đã nhòe sao giờ đây rõ chữ 3. anh trở về bước muộn dáng người đã ra khơi trên sông mưa âm thầm người về nơi cõi lạ ơi người rồi chia xa 4. anh đứng bên bờ sông tay lơi đáy túi hồn bơi trong mưa hồn chìm chới với mưa rơi 5. em môi xưa đỏ thắm buồn riêng căn gác cao anh đêm nay bỗng thấy mắt em đen rất đêm đã nhiều mưa phủ kín tình mờ sau kính trong đã nhiều hôn tê dại tình núp sau kính râm 6. có nhớ mưa hiên nhà ta một chiều đính ước tình yêu tay bắt tay
7. nếu ta là chồng vợ trời dừng mưa đêm nay trời dừng mưa ngay
8. duỗi thân ngoài trăm năm lạnh vô cùng hơi đứt từng quãng chết dây leo tình sum sê quyện ta như rắn độc thư qua đời thư trở màu xanh xao 9. mưa dài cơn âu lo đóng nẻo hy vọng ngời dẫn ta về tuyệt lộ lưng chừng ta trôi 10. hôm qua nghe em hát trên hoang đường mưa rơi những giọt ca lệ mát cuộc tình ta rong chơi chiều nay nghe em hát thở những hơi muộn phiền hồn buông ngàn cánh rũ lá trở vàng thiên thu 11. cứ nghĩ ta lưu đày giữa hoang tàn cõi nhớ chỉ một câu than thở giằng dặc đời tuyệt vong 11bís. em một lần thua thiệt mưa chảy mòn chân đi tình chảy mòn môi thắm thư chảy mòn tay run 12. nếu ta là chồng vợ trời tạnh mưa đêm nay trời tạnh mưa ngay
Trần Quang Phước APL, Chủ nhật 16/8/70
84
Nguyên Nhi
Đối với anh ta, con tàu không chỉ đơn
thuần là một khí cụ chiến tranh. Nó là một sinh
thể có đời sống và mảnh hồn riêng. Cái hồn rất
riêng này không dễ nào nắm bắt. Con tàu, tuổi
trẻ anh ta ở đó. Con tàu, khoảng đời tươi đẹp
nhất của anh ta ở đó. Con tàu, ở đó, chứ không
phải là bất cứ một nơi nào khác.
Trong đêm mịt mùng bão biển, anh ta đốt lên
một đóm thuốc nhỏ nhoi. Chung quanh anh ta là
những gương mặt lầm lì chai sóng. Mặt hải đồ
chi chít những tọa độ trên một hải trình ngoằn
ngoèo truy tàu địch. Mùa biển động là mùa tàu
giặc lén lút xâm nhập. Chúng gọi đó là chiến
tranh du kích trên biển. Sóng lớp lớp phủ chụp
mặt sàn chính con tàu, chồm lên cả đài chỉ huy.
Con tàu thủy chung vẫn lừ lừ chẻ mặt biển đen.
Lâu, phải thật lâu mới có một ánh đèn xa nhấp
nháy. Mưa gào. Gió rít. Người ta không thể nào
quên được những cơn gió xé tai của một ngày
bão biển. Con tàu, con người gắn bó thủy chung,
xẻ chia định mệnh. Định mệnh ấy xua đuổi cả
hai vào cuộc chiến tranh để sinh tồn trước một
thiên nhiên khắc nghiệt và một chủ nghĩa hắc
ám.
Sau khi bàn giao phiên hải hành sớm, anh ta
rời đài chỉ huy. Những thủy thủ cùng phiên với
anh ta cũng lục tục về phòng ngủ. Anh ta không
vội. Dường như trên đời không có điều gì làm
anh ta phải hấp tấp. Anh ta còn quá trẻ và dường
như mọi việc đều chiều chuộng, chờ đợi anh ta.
Dường như chưa cơ hội tốt nào bỏ đi vì sự chậm
chạp của anh ta. Nói đúng ra cũng có một ngoại
lệ, có một lần anh ta đã rất vội vàng. Đó là lần
anh ta quyết định vào lính. Anh ta đã nghĩ rằng
chuyện học hành, đỗ đạt, tình yêu, hôn nhân,
mọi sự … đều có thể thư thả thu xếp. Nhưng
cuộc chiến cần có anh ta. Tức thì. Như bị một
hấp lực không thể cưỡng lại được, anh ta rời bỏ
giảng đường. Nhiều người cố gắng lý giải, gọi
đó là "mộng hải hồ", "nghiệp kiếm cung", "tiếng
gọi tổ quốc"… hay gì gì đó nữa. Riêng anh ta,
anh ta vốn dị ứng với tất cả những danh từ to
lớn.
Nhưng đó là chuyện đã cũ. Còn bây giờ thì,
sau phiên hải hành khuya, chẳng có gì phải vội
vàng, anh ta lững thững đi xuống phòng ăn, nhờ
người tiếp vụ pha một tách cà phê. Có thể anh ta
sẽ thả người trên sofa, lật lật một vài trang sách.
Cũng có thể anh ta chỉ ngồi thừ ra đó để suy
tưởng mênh mông. Cũng có thể anh ta muốn
chứng kiến một ngày mới vừa lên qua những ô
cửa kính. Luồng nắng huy hoàng xoay động mỗi
bận mũi tàu quay. Trên vách, chung quanh anh
ta là bản sao của những bức tranh vẽ biển, vẽ
thuyền, hải đăng, hải âu, những gành đá cô
85
quạnh... Cũng như anh ta, mặt trời chẳng vội
vàng...
Sau mấy giờ nghỉ ngơi lấy sức, anh ta bắt đầu
một ngày làm việc mới. Hồi chưa vào lính, anh
ta chỉ nghĩ được rằng đời sống hải quân là
những cuộc hải hành và hải chiến. Không bao
giờ anh ta tưởng tượng ra sự khô khan cứng
ngắc của những buổi họp tham mưu, sự buồn
nản của việc giấy tờ, công văn. Nhưng rồi cũng
quen. Con tàu chào đời và lớn lên trong Đệ nhị
thế chiến. Ba mươi năm sau nó là một trong
những người chị trong hạm đội miền Nam.
Những chiến công của nó hãy còn đó, đẹp ngời
trong hải sử. Theo hải trình của nó, anh ta đã ghé
qua những bến cảng địa đầu, những hải đảo cuối
đất. Theo những cánh lục bình quắt queo và rục
rã ngoài cửa biển. Theo cánh trắng hải âu thảng
thốt bổ nhào xuống mặt vịnh xanh lơ. Theo bầy
sứa sặc sỡ trải rộng một vùng biển vắng. Theo
bãi san hô cành nhánh xum xoe. Theo đảo xanh
dừa. Theo bờ trắng cát. Theo tàu giặc ranh ma.
Theo đầu cơn chớp bể mưa nguồn. Theo bầy
dolphin trên hải trình quen thuộc...
Chiều xuống chậm trên biển. Khó mà quên
được cảnh tượng lộng lẫy của thời khắc bàn giao
giữa ánh sáng và bóng tối. Mặt trời nằm vắt
ngang đường chân trời, rực đỏ. Anh ta hay ngồi
ở sân sau, thả khói, nhìn mặt trời chìm. Anh ta
không nhớ nhà. Nhớ chăng chỉ là chút hình ảnh
mênh mông sương khói. Con tàu là ngôi nhà của
anh ta. Đó là nơi anh ta đã trải qua những ngày
êm đềm và sóng gió. Cay đắng và ngọt ngào.
Con tàu đã là một phần của tâm hồn mẫn cảm
của anh ta. Có thể trong suốt một chặng dài
mười, hai mươi năm, chuyện đời anh ta không
có gì đáng nhớ nhưng cái khoảnh khắc sống với
con tàu ấy đã trở thành một dấu ấn đậm nét trên
tâm hồn anh ta. Với con tàu, anh ta trưởng thành
và tâm hồn anh ta xếp thành nếp, dáng.
Những ngày cuối cùng của cuộc chiến, con tàu
nằm đại kỳ ở hải xưởng. Con kình ngư một thời
lướt sóng ngăn thù ấy bây giờ đành ngậm ngùi
mắc cạn. Nó không còn cơ hội vượt trùng lưu
vong. Nó, cũng như anh ta, nằm lại, nghẽn thở
trong chiếc thòng lọng đỏ. Sau này, anh ta viết:
Để khắc khoải đêm sâu tù cải tạo
Nghe thinh không thảng thốt một hồi còi...
oOo
Một tối, trong trại tù cải tạo ấy, anh ta lật tờ
"Quân đội nhân dân" và bàng hoàng khi thấy lại
hình ảnh con tàu trên trang nhất. Bức hình này
quá quen thuộc đối với anh ta. Nó đã xuất hiện
hằng năm trên quyển niên lịch hải quân. Thì ra,
vừa được tu bổ xong chiếc khu trục hạm ấy, vẫn
còn giữ nguyên tên và số hiệu, trở thành một
phương tiện trấn áp trong tay kẻ thù.
Vậy là thêm một sự mất mát. Anh ta âm thầm
chịu đựng sự mất mát ấy bên cạnh những đổ vỡ
khác. Nhưng nói chung những tang thương cuộc
đời chỉ có thể làm anh ta trở nên xót xa cay đắng
chứ anh ta không hề nguyền rủa hay đay nghiến
số phận.
Bây giờ anh ta đã năm mươi. Con tàu cũng
vừa độ lục tuần. Bây giờ anh ta biết mình già.
Bây giờ anh ta không biết con tàu đã tàn tạ đến
đâu trong tay kẻ địch. Hay nó đã rỉ sét nằm neo
trên một nghĩa trang quạnh quẽ nào rồi?
Nhưng bây giờ nghĩ cũng kỳ, thỉnh thoảng
anh ta lại thấy chính mình vừa độ thanh niên.
Mắt sáng. Tóc bồng. Bây giờ, cũng kỳ, thỉnh
thoảng anh ta lại thấy con tàu đương thời thiếu
nữ. Ngực nở. Môi tươi. Anh ta thấy mình đang
trụ đầu pháo tháp, vỗ mạn tàu mà ca. Anh ta lại
nghe lại một hồi còi u u trầm mặc. Tiếng còi tàu
mở đầu một ra khơi đồng thiếp. Anh ta viết tiếp:
Để khật khưỡng chiều say trên xứ lạ
Thấy mơ hồ một chiến hạm ra khơi...
Nguyên Nhi
5.2001
86
Tònh thûúng, tiïìn chuâa
Hải Dương
Hoa chờ thêm tiếng chuông reo lần nữa mới
nhấc điện thoại lên, tiếng chị Lan ào ào nói một
hơi không kịp thở
- Làm chi đó, sao lâu quá vậy, tưởng em đi đâu
rồi chớ, à nè thằng Phan gởi thư qua xin tiền để
xây lại nhà cho má ở đó, em tính sao? Có gì em
một nửa, chị một nửa nghe. Nó nói tốn khoảng 6
ngàn, gởi sớm nó sẽ kêu thợ làm liền chừng
trước tết là xong, má chắc mừng lắm, tội nghiệp
má.
- Dạ vậy cũng được, em sẽ gởi check lên cho chị
ngay, thư có nói má bây giờ ra sao không?
- Thì má cũng hơi lẫn rồi, nhưng vẫn khỏe
Mỗi lần nhắc tới má thì Hoa lại thấy lòng mình
nó chùng xuống, năm trước về thăm, Hoa thấy
má già đi nhiều, nói năng quên trước, quên sau.
Từ ngày ba Hoa mất, Hoa chỉ mới có mười tuổi,
sau Hoa còn những ba đứa em trai, chị Lan thì
đang tuổi cập kê sắp sửa đi lấy chồng. Hoa ở nhà
với mẹ, phụ buôn bán gian hàng tạp hóa nhỏ
cũng đủ để năm mẹ con sống qua ngày, Hoa và
mẹ thủ thỉ với nhau hàng ngày, hàng giờ, những
buổi mưa dầm vắng khách, gió lạnh thổi luồn
vào các tấm nylon che mưa, Hoa ngồi rúc vào
mẹ lấy hơi ấm. Đêm nằm ngủ chung với mẹ,
Hoa tìm thấy sự yên tâm, những giấc ngủ đến
với nàng thật dễ dàng. Ngày qua ngày mẹ con
sống với nhau cho đến những năm tháng đất
nước biến đổi, mẹ nàng già yếu không còn đủ
sức trông coi hàng họ với nàng nữa, mà cũng
chả còn gì để mà cần đến hai người, chỉ một
quang gánh các món hàng khô, buổi sáng Hoa
quẩy ra con hẻm trước mặt nhà, một nhóm tụ lại
thành cái chợ nhỏ tiện cho mọi người chung
quanh không phải chạy xa ra tận ngoài phố để lo
bữa ăn hàng ngày. Ngày ba nàng mất đi để lại
mẹ con Hoa căn nhà bé nhỏ, qua bao năm tháng
gỗ quanh nhà mục dần, cứ đến mùa mưa bão, cột
kèo kêu kẽo kẹt theo từng cơn gió mạnh thổi
qua, càng ngày càng túng bấn, chạy gạo chính là
Hoa. May là chị Lan vượt biên được, một hai
năm sau gởi quà về nhờ đó mà nàng mới yên
tâm lập gia đình. Hoa lấy chồng là sĩ quan cải
tạo về nên vài năm sau đi theo diện HO. Anh
Lâm chồng Hoa được người chú bảo trợ nên đã
về sinh sống ở San Francisco, người chú có sẵn
nghề cắt cỏ nên dìu dắt anh Lâm vào nghề, dần
dần nghề dạy nghề anh thông thạo và đang tính
ra làm ăn riêng. Hoa dù lấy chồng mấy năm trời
nhưng vẫn chưa có con, Hoa vẫn nhớ Mẹ vô
cùng, nếu như có con, lo chăm sóc con cái có lẽ
vơi đi bớt nỗi nhớ.
Khi chị Lan gọi đóng góp tiền để sửa lại căn
nhà cho Mẹ nàng thì nàng bằng lòng ngay, nàng
cũng đã có ý định này từ trước, mong làm cho
Mẹ sung sướng được ngày nào hay ngày nấy vì
Hoa cũng biết Mẹ nàng cũng chả sống được bao
lâu nữa. Hoa tìm quyển sổ nhà băng, nhìn trong
trương mục tiết kiệm Hoa thấy vẫn còn được
hơn 4 ngàn, Hoa sẽ ra nhà băng mua cashier
check để gởi ngay cho chị Lan, Hoa biết anh
Lâm cũng chẳng chi li trong vấn đề này nên Hoa
87
yên tâm, trong lòng thấy khoan khoái nghĩ đến
căn nhà xây khang trang cho mẹ ở, nàng vội vã
lấy xe ra nhà băng ngay
oOo
Phan đi giao các hàng thủ công nghệ cho các
gian hàng quanh chợ, khu Hòa Bình. Phan có
năm đứa con nên phải phụ với vợ chạy gạo, vợ
Phan buôn bán tạp hóa trong lồng chợ, hàng
ngày Phan cặm cụi với những thanh tre thanh gỗ
cưa, mài, đánh bóng, sắp xếp thành cái thuyền
buồm, hộp đựng nữ trang của phụ nữ, những
khung ảnh đủ hình dạng, những hình con thú với
những chữ kỷ niệm Đàlạt để bán cho du khách,
Phan phải bỏ chịu cho các gian hàng khi nào bán
tới đâu họ mới chịu giao tiền tới đó. Công khó
cặm cụi cả ngày tính ra chỉ được khoảng 20
ngàn, ngày chị Hoa về thăm nhà nghe kể số tiền
hàng ngày Phan làm ra được, chị Hoa cười bảo
- Chỉ đáng 2 đô, bằng 15 phút chị làm việc.
Phan nghĩ ra đó là lý do tại sao việt kiều về
thăm nhà ai cũng xài tiền như Mỹ ngày xưa,
Phan mơ ước một ngày nào đó được sang Mỹ
sống dù một thời gian ngắn cũng thấy mãn
nguyện cho đời sống là đã thấy qua được thiên
đàng hạ giới mọi người ai cũng mong ước, Phan
thấy các bà chị của mình sao mà sung sướng quá
- Ê Phan, vào đây làm một ly cà phê đã, đi đâu
đó
Phan giật mình nhìn theo hướng tiếng gọi, Tín
đi với hai cô gái ăn mặc theo lối mới, đứng trước
cửa quán cà phê Tùng nhìn vẫy gọi. Tín có vợ
con tại Mỹ, gởi quà, tiền bạc về đều đều nên
không làm ăn gì, hàng ngày rong chơi chờ ngày
đi đoàn tụ, trước đây chỉ thấy Tín la cà một mình
các quán hàng ăn nhậu, hôm nay lại thấy có
thêm mấy cô gái lạ, Tín là bạn học cũ thời trung
học, cùng nhau mài đũng quần Trung học Trần
hưng Đạo gặp lại nhau hay ngồi tán dóc, đã
nhiều lần uống chùa cà phê của Tín, hôm nay
sẵn trong túi lấy được của các gian hàng bán đồ
lưu niệm mà Phan mới vừa giao xong, Phan
cũng muốn trả nợ một bữa với Tín, bước nhanh
đến phía Tín, cười bắt tay nhau Phan gật đầu
chào hai cô gái rồi cùng nhau vào trong quán.
Tín giới thiệu Hằng và Loan vừa cười vừa nói là
em gái hậu phương, cà kê đủ chuyện trên trời
dưới đất một lúc rồi vừa nhắp hớp cà phê Tín
vừa nói
- Cậu có hai bà chị ở Mỹ mà sao cậu lại vất vả
thế, cậu còn bà cụ này, các bà ấy thế nào mà
chẳng nhớ thương cụ, đòi gì mà chẳng được,
cứ xin tiền xây lại nhà cho cụ ở, gì chứ mười
ngàn có đáng gì bên đấy, xe cộ chỉ để đi làm
thôi cũng đã vài chục ngàn như không, mà nhà
ai cũng vài ba chiếc đấy nhé, tớ mà sang đấy
thì phải biết
Hằng, Loan cùng nhao nhao lên
- Anh đừng quên chúng em đấy nhé
Phan thấy Tín nói có lý, ngồi đăm chiêu suy
nghĩ quên cả ba người ngồi trước mặt đang khúc
khích cười chọc đùa nhau. Phan nhẩm tính trong
đầu số tiền 10 ngàn đô đổi ra được là là, nhiều
con số không quá có thể lên đến bạc tỷ Phan
không thể nào tính chính xác được, so với đồng
tiền cặm cụi hàng ngày, Phan chỉ muốn đá đổ đồ
nghề đi ngay thôi.
Lúc đứng dậy ra về Tín gạt tay Phan đi giành lấy
trả tiền rồi khoác vai hai cô gái ra cửa vừa cười
vừa vẫy tay chào Phan rồi kéo nhau đi vào trong
một tiệm bán quần áo thời trang bên cạnh.
Đón con đi học về, Phan chỉ cho hai đứa nhỏ cái
đĩa rau muống xào đậy bằng cái rổ nhựa cho
khỏi ruồi,bảo con lấy cơm ăn xong Phan ngồi tại
bàn làm việc, các miếng tre, gỗ, hộp keo Phan
dồn đống vào một góc, cạnh chân bàn, Phan
đang cần chỗ rộng rãi để viết thư cho hai bà chị
ở bên Mỹ, từ lúc gặp Tín về Phan suy nghĩ mãi
những điều Tín nói, càng nghĩ càng thấy hợp lý,
càng phải làm sớm càng tốt, gì chứ lấy Mẹ ra thì
ai chứ chị Hoa thì bao nhiêu cũng được, Phan
nhìn lại các đồ nghề sao thấy chán nản quá, nghĩ
đến số tiền sẽ xin mà sắp phải đặt bút viết, phân
vân quá bao nhiêu bây giờ mười ngàn ư, nhiều
88
quá không? Vì Phan đã hỏi qua Long, một người
bạn đang đi sửa chữa nhà cửa phỏng định cho
Phan là khoảng trên dưới 20 triệu là có được căn
nhà xây tươm tất kể cả phòng tắm. Phan tính
nhẩm ra thì khoảng 2 ngàn đô la, nếu bây giờ xin
mười ngàn sợ nhiều quá, hai chị không lo nổi thì
sao đây, xôi hỏng bỏng không, thôi cứ xin in ít
trước xem sao đã, có gì lại xin thêm sau lo gì thế
là Phan quyết định xin 6 ngàn
oOo
Dạo này Phan lơ là đến công việc của mình, lúc
nào cũng thấp thỏm chờ đợi,ngay từ ngày đầu
sau khi ra bưu điện gởi lá thư đi Phan đã ngong
ngóng ngay từ buổi đó mặc dù biết rằng cần phải
thời gian thư đi thư lại chứ nhưng trong bụng thì
lại tự nghĩ biết đâu, nhỡ người ta đến giao tiền
không có nhà thì làm sao, ngay đến việc đưa con
đi học hàng ngày Phan phải bắt thằng lớn lo,
Phan mượn được bộ Tam quốc Chí để nằm nhà
chờ, nhưng đầu óc nó ở đâu đấy, mỗi lần giở
sách ra đọc thì cái số tiền lớn lao kia lại hiện ra
trên trang sách, Phan không nói cho vợ biết
chuyện mình xin tiền, Phan đang phân vân khi
có tiền mình sẽ giấu nó ở đâu bây giờ, nhìn
chung quanh nhà đều là tường xi măng, cạy ra
bây giờ thì ai cũng biết, Phan quan sát cái chân
tủ để áo quần, nó to lớn Phan nghĩ có thể làm
rỗng nó rồi bịt gỗ bên ngoài, rồi đẩy sát vào
tường, nó nằm ở mặt trong ai mà biết được, đồ
nghề thì sẵn có chẳng khó khăn gì đối với mình
cả, nghĩ đến đấy Phan cất bộ Tam quốc Chí lên
trên bàn rồi hì hục kéo tủ ra, Phan phải làm ngay
bây giờ vì chỉ có một mình ở nhà, không ai biết
được chỗ bí mật này cả.
oOo
Phan đếm từng ngày từ lúc gởi thư đi thì đến
ngày thứ 19 có người đến giao tiền, vì số tiền
quá lớn nên người giao đòi hỏi Phan các giấy tờ
chứng minh kỹ lưỡng, xong Phan phải viết mấy
chữ hồi báo là đã nhận đủ. Cầm số tiền đô la
toàn giấy 100, Phan thấy run lên, kéo vội các
tấm màn cửa che kín hai cái cửa sổ của phòng
ngủ, Phan mân mê những tờ bạc lạ mắt, đếm đi
đến lại mãi không thấy chán số tiền nhiều quá
tính thành tiền Việt lên đến gần trăm triệu, Phan
cất hết vào chân bàn, kê lại đàng hoàng xong cứ
ngẩn ngơ không biết làm gì bây giờ, nhưng
trước nhất Phan phải tìm Long để nó xúc tiến vụ
sửa nhà trước đã
oOo
Phan ngồi mơ màng bên ly cà phê sữa, gói
thuốc ba số 5 vất trên bàn một cách hững hờ,
vừa mới ăn sáng tô hủ tíu thập cẩm đầy đủ các
thứ ở tiệm Thanh Thanh xong bây giờ ngồi trong
cà phê Tùng nhâm nhi Phan thấy lòng mình nó
phơi phới hẳn lên, cả tuần nay quán hàng ăn nào
Phan chẳng ghé qua, những món mà trước đây
thèm thuồng bây giờ đã ăn đi ăn lại nhiều lần
cho thỏa thích, cơm nhà chả bao giờ đụng tới
nữa. Phan mới đây đưa cho vợ một số tiền gấp
ba lần hàng tháng mình làm ra và bảo mình phải
đi lo sửa nhà cho má nên vợ cũng không thắc
mắc gì. Cả tuần nay ăn xài thỏa thích vẫn chưa
hết một trăm đô đổi ra. Ngồi ngắm người qua lại
trong khung cửa kính to của quán Tùng, đột
nhiên thấy một người con gái đứng lại ngoài
đường quay vào cười dơ tay vẫy vẫy, Phan nhận
ra là một trong hai người con gái đi chung với
Tín hôm nào, Phan cười dơ tay vẫy lại, cô gái
thấy vậy bước vào trong quán, Phan đứng lên
cười hỏi
- Anh Tín đâu mà đi một mình thế này
- Dạ anh Tín đi với Hằng, anh chị đi du dương
với nhau Nha Trang rồi, chỉ có Loan ở nhà một
mình thôi
- Em, a Loan uống gì nào?
Loan vừa kéo ghế ngồi xuống vừa nói
- Cà phê sữa anh
(xem tiếp trang 190)
89
thơ Huỳnh Kim Khanh
Cuộc tình
Ta gặp nhau khi mình còn trẻ
Khi tình yêu còn nét ngây thơ
Khi ta nhìn mắt em kiều diễm
Khi áo em bay rợp mấy bờ
Ta nói yêu em cuộc tình bỏ ngỏ
Em ngây thơ thương nhớ một trời
Em đứng đó áo em e ấp
Ta nghe tình yêu nhịp đầy vơi
Tình ta đơn phương
Như lá rụng bên đường
Như tình ta mòn mỏi
Như lòng ta cô đơn
Có phải em mùa thu mắt nâu?
Hay em máu áo rợp trời Ngâu
Hay em cô gái tình e ấp
Tà áo em bay chuốt tình sầu
Ta đứng chờ em cuối phố
Ta nghe tình bơ vơ
Yêu em tình đã lỡ
Mình ta đứng bơ phờ
Có phải cuộc tình đã giá băng
Bờ môi em lạc lõng màu trăng
Tình yêu đã chết trong tiềm thức
Bãi vắng chiều hôm song trùng trùng
Ta lắng nghe thân thể rã rời
Nghe tình ta đã chết mù khơi
Ta nghe tình đã rơi rời rã
Ta chết tình ta cuối cuộc đời
Ta bước lê thê cuối cuộc tình
Nghe môi em tràn nỗi buồn tênh
Áo em che rợp khu rừng cấm
Ta lắng nghe tình yêu mong manh
Tình đã mịt mùng như khói sương
Ta nghe quạnh vắng ngập buồng tim
Ta nghe tình chết theo triền sóng
Tình nhớ hoang mang vạn nỗi niềm
Tình vô vọng
Đêm nay nghe tình vô vọng
Nghe tình yêu nói dỗi hờn
Ta đứng chờ em cuối ngõ
Thời gian từng nỗi cô đơn
Ta vãn chờ đợi em
Đèn đêm chiếu bên thềm
Ta yêu em tình lận đận
Mình ta mòn mỏi trong đêm
Có phải em về đêm nay
Chờ em cuối phố hao gầy
Ta yêu em tình lận đận
Chiều xưa thấp thoáng mây bay
Có phải em là loài hoa
Chờ ta cuối nẻo mong chờ
Ta trót yêu em tình lỡ
Nghe tình yêu chết dại khờ
Ta muốn nói lời yêu em
Mình ta chờ đợi bên thềm
Em đến không ta không biết
Mình ta thờ thẫn trong đêm
Tên những nẻo đường tịch liêu
Mình ta chờ đợi nương chiều
Bao giờ thì ta gặp lại
Để ta bày tỏ tình yêu
Có phải em từ Liêu Trai
Hay em là Liễu Chương Đài
Yêu em tình ta mòn mỏi
Nhớ em tình bỗng chơi vơi
Một lời nói yêu em
Chiều vương nắng bên thềm
Ta yêu em tình lỡ
Niềm yêu chảy về tim
Có phải em là hư vô
Sao tình ta vẫn dại khờ
Ta đã yêu em bất tận
Cho dù tình ta bơ vơ
90
Chọn Đơn-Vị SeaBee Huy Châu
Trong khi các bạn cùng khóa đã trở về lại
Việt-Nam, đang đắn đo, suy tính để chọn cho
mình một đơn vị đầu đời, quyết định cả một
tương-lai của cuộc đời binh-nghiệp, tôi không
được tận hưởng những cảm giác mà nghĩ rằng
có rất nhiều cảm xúc, vì khi ấy tôi vẫn còn đang
lêu bêu ở San Francisco, California
Số rằng thì là, khi thu-xếp hành trang thì mới
biết cái passport bị mất từ hồi nào, khi lên văn
phòng báo cáo thì thằng Đại-úy Mỹ cho biết có
thằng Nóc Hooong cũng bị như mày, tưởng
thằng này là người Lào hay Campuchia gì đó
nhưng hóa ra là OC Hoàng Ngạc nhà ta, may
quá có thằng ở lại chung cũng đỡ buồn dù hồi đó
không thân với nó lắm.
Sau khi anh em khóa 2-OCS lên xe bus ra phi
trường thì thằng Đại úy lấy xe jeep chở 2 thằng
tôi vào căn cứ Không quân Travis Base, nó chỉ
dẫn chỗ thuê hotel, recreation center … dặn tự
tìm lên tòa lãnh-sự Việt nam ở San Francisco
xin giấy tờ về nước lại, thế là hắn biến mất đất
để 2 thằng ngơ ngáo. Hổng sao, Sĩ quan Hải
quân VNCH mà, mưu sinh thoát hiểm ở đây dễ
hơn ăn cơm canh chua cá mối ở Quang Trung
nhiều.
Sáng hôm sau 2 thằng như chim xổ lồng, diện đồ
dân sự, mặc sức ăn uống la cà, movie, nhậu nhẹt
thả dàn… 2 ngày sau mới mò ra bến xe bus tìm
đường lên tòa Lãnh sự, đang lơ láo thì có 1
thằng Mỹ trắng trung niên ăn mặc lịch sự hỏi
thăm rồi mời về nhà để hôm sau nó chở lên tòa
Lãnh sự giùm, bà vợ và cô con gái trạc tuổi
mình tiếp đón rất niềm nở, chơi ping pong,
basket ball, nghe nhạc … ăn tối xong họ khoe 2
cuốn sổ dầy cộm ghi đầy tên họ địa chỉ của
những người đủ mọi quốc tịch đã từng ghé qua
nhà này, theo lời gia chủ thì mai kia có dịp đi du
lịch họ sẽ ghé thăm những người có tên trong sổ
phong-thần này.
Hôm sau đến tòa Lãnh sự được cô nhân viên phụ
trách tiếp rất niềm nở, mời ăn chocolate nữa giời
ạ, hẹn mấy ngày sau đến lấy giấy tờ vì ông lãnh-
sự đang đi công tác đâu đó, rồi chắc thấy 2 tên
SQ mới ra trường mặt cắn ra sữa, mặc tiểu lễ
trắng tươi như bông bưởi, đang tứ cố vô thân
nên bà chị giới-thiệu cho cô em gái đang học
Thẩm-mỹ làm hướng dẫn viên trong khi chờ bản
sao passport, hai thằng lần mò đến nhà cô em gái
khi bấm chuông nghe tiếng hỏi qua intercom “ai
đó” đã thấy tá hỏa rồi lại thấy cửa tự động mở
bằng remote control, lên lầu thấy trải thảm dầy
cộm trắng muốt thiếu chút nữa tụt giầy ra giống
mấy ngài Dziệc-cộng khi vào phòng họp 4 bên ở
Paris thì quê xệ.
May mà có Em, những ngày sau đó của tụi tui
quá hạnh-phúc được dẫn đi hang cùng ngõ hẻm,
đi ăn ở chỗ sang, quán bụi … hai tuần lễ mà biết
quá nhiều nhờ cô nàng sinh-viên thổ công, dù có
những nơi chúng ta đã từng đi qua mỗi ngày sau
giờ học nhưng khi được đi với người con gái nó
vẫn có cái thú-vị khác . Một hôm trong khi chờ
nàng trang điểm thì 1 thầy SQ cán bộ trắng trẻo
đẹp trai bước vào, 2 bên đều ngạc nhiên nhưng
chàng rất hào hoa phong đòn gánh tự động dắt
em trai nàng đi chơi để nàng đi chơi với Ngạc và
tui. Mấy năm sau tình cờ gặp lại cô nàng ở
Saigon, nàng đã mở viện thẩm mỹ ở đường
Sương nguyệt Ánh (trùng tên với nàng) dặn tui
dẫn Bồ hay dzợ tới để nàng mổ xẻ cho !!?? Thời
ấy giải-phẫu thẩm mỹ còn quá mới nghe thấy
dao kéo là ớn chè đậu, cầu mong nàng thành
công nơi xứ người sau năm 75.
91
Sau khi xài đến đồng tiền cuối cùng, tiền để
dành để khi về nước mua chiếc xe Honda đã tan
theo bọt sóng ở SF, 2 đứa đành từ giã cô em sinh
viên tốt bụng lên máy bay về lại quê-hương
khói-lửa diệt giặc thù (cải lương góa xá chưa?).
Về đến phi trường quân sự Tân sơn Nhất lúc 2
giờ sáng, dúi cho thằng Tr/sĩ KQ cây Pallmall để
nó khỏi lục lọi 2 va-li căng cứng, dù hơn 1 va-li
toàn đồ chơi, ngày còn bé thấy mấy thằng bạn
chơi súng bắn hơi, bắn nước, bắn pháo… thèm
nhỏ nước miếng vì tụi nó có anh đi KQ du học,
bây giờ có cơ hội tui đã dành hết thời giờ ở PX,
ở Toy Land mua đồ chơi xanh xanh đỏ đỏ cho
em nhỏ nó mừng. Món nữ trang duy nhất là một
hộp gấm đỏ, trong lót satin vàng khi trịnh trọng
tặng cô bạn học, vừa mở ra thấy xâu chuỗi hạt
trai, cô nàng nổi giận bất tử, anh tặng má chắc
hạp hơn, tui mới qua “tuổi tin” mà anh- anh-
anh- anh … nỡ lòng nào. Thế là … thôi anh đi
dzìa đi, xa xôi gồi goen nhau mần chi… Con gái
khó hiểu thật, may chỉ là con bạn học, mai mốt
phải đối phó với girl friends làm sao đây hở
trời?
Các bạn cùng khóa đã ra đơn-vị, còn lại 2 con
dzịt đẹt lang thang, lê lết, la cà hết Thanh-
Hương, Thanh-Bạch, Chiều Tím, Hầm Gió,
Mini Rex, Văn Hoa … lúc này Ngạc và tui thân
nhau hơn dù tính 2 đứa có … hơi hơi khác nhau
chút xíu, Ngạc nó điềm đạm ít nói, hút thuốc
Kool uống bia chưa bao giờ say, còn tui hút
thuốc như cóc thổi lửa, bia uống 3 chai là hết
biết trời trăng, vô bàn nhậu biết trước sau cũng
tiêu nên tui có nước “nạp”, dzô 3 chai liên tiếp là
nhiều tên cũng chết theo lắm. Lang thang hoài
cũng chán, lúc ấy mới sực nhớ ra mình không
còn là SV Đại học Dân sự nữa mà đã là một SQ
Hải quân Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa rồi, hai
thằng bèn lên Bộ Tư Lệnh Hải Quân trình diện.
Đang tà tà vào cổng Bộ Tư Lệnh thì nghe tiếng
tu-huýt kêu cái rét, hết hồn, gì nữa đây đã thấy
thằng QC lù lù trước mặt chào cái cụp, mời
“Thiếu úy” đi cửa bên kia dành riêng cho Sĩ-
quan, à thì ra cửa này dành cho lính và dân-
chính, cửa … mình ở bên kia. Oai nhẩy, hai
thằng ưỡn ngực đi vào, leo mấy chục bậc thang
đến phòng Du-học để trình diện, cái phòng chút
xíu đông đặc người, lính quan úy tá chuẩn bị đi
du-học hay lãnh tầu. Thằng Tr/sỹ chắc bị câm,
chẳng nói tiếng nào, vất cho 2 thằng 2 cái Sự vụ
lệnh.
Cầm sự-vụ-lệnh trên tay chẳng buồn mở, rủ
nhau vào câu lạc bộ uống ly trà đá cho bớt cái
nóng Saigon, các đơn-vị ngon lành mấy thằng
em kia đâu có tha, chắc chỉ còn 2 chỗ không
nuốt nổi nó mới để dành cho mình. Điệu này
không Cửa Việt thì cũng Côn sơn, Cà mau, Cà
chậm hay ra tuốt miền Trung nói “tiếng dziệc
mình” không hiểu nó đục cho phù mỏ. Nói nào
ngay mới 20 tuổi bước vào đời có biết gì đâu để
chọn với lựa, thôi đành phó thác cho số mệnh…
Tưởng rằng, thôi chia ly từ đây, mỗi thằng một
ngả nhưng không ngờ hai thằng về cùng đơn-vị,
đơn-vị đầu đời của tụi tui là HẢI ĐỘI 4
DZUYÊN PHÒNG, An-Thới, Phú Quốc.
Ui chao ơi, mừng hết lớn chỉ sợ ra xứ ngoải gặp
Hoàng thượng Chó con, PX Trung Lưu, Lý thy
Dân… phải kiếm người thông dịch thì chết cha.
Không hiểu sao thoạt nghe Phú-Quốc là thấy
thật ấm-áp, dịu dàng với bãi cát trắng hàng dừa
xanh, còn thật hoang sơ mà đúng vậy bãi Tinh-
Ngư của Hải đội sóng biển thật nhẹ nhàng, mũi
ông Đội, hòn Thơm, hòn Rái, hòn Một, hòn
Ngang … Với chiếc PCF như du thuyền đi từ
hải cảng Kepp, Kampot bên Miên qua Hà-Tiên
với quần đảo Pirates xuống hòn Phu Tử, chùa
Hang qua hòn Nghệ, hòn Tre Rạch Giá với cột
đèn đỏ, khách sạn Nghệ Đô với nhà hàng Thiên
Nga, với quán nhậu bờ sông canh chua cá dứa,
quần đảo Bà lụa với những hòn đảo thật nhỏ cây
rừng dây leo chằng chịt không 1 bóng người mà
sao lại có khỉ, có rắn. Qua Rạch sỏi dọc theo bờ
biển đầy phù sa, qua Miệt thứ và đã có lần
chúng tôi đưa toán người nhái qua khỏi mũi cà
mau, Pulau Obi đến Gành Hào gặp mấy chiếc
PCF Hải đội 5 bụi đời, không công tử bột như
HĐ 4 chúng tôi. (xem tiếp trang 191)
92
thơ
Quý Bùi
HẬU EM ĐI CHÙA HƯƠNG –
( 60 năm sau )
Nay em đi chùa Hương
Kính đeo mới thấy đường
Em kéo lê từng bước
Chân nhức đau thấu xương
Cháu kèm đông thật đông
Đứa dắt, đứa đỡ hông
Đường trơn em lo ngã
Sợ các cháu phải bồng
Chàng chân thấp chân cao
Gậy chống sợ bổ nhào
Run run quay lại hỏi
Còn xa đến chừng nào ?
Chàng đi, vừa đấm lưng
Đầu gối run quá chừng
Vừa đi vừa tự hỏi
Bao lâu mới được dừng ?
Rồi chàng thở hơi dài
Mồ hôi ướt đôi vai
Lắc đầu chàng khẽ nói
Lần này thôi bái bai
Chàng đi trước, em sau
Chàng chả dám đi mau
Sợ gối run, vấp ngã
Lỗ mũi bị ăn trầu
Người đi, liếc mắt trông
Hai má em ửng hồng
Nào ai đâu có biết
Em bị chứng Tăng-Xông
Năm nay thế là may
Các cháu đeo cả ngày
Cháu Nội, kia cháu Ngoại
Đứa dìu đứa dắt tay
Cháu đeo giỏ cho Bà
Eo-Vi thiệt ! kiêu sa
Chứa bao nhiêu là thuốc
Cả dầu nóng Mát-Xa
Em cười mỉm nhìn xa
Chàng hình như đã già
Đi chùa lần thứ mấy ?
Em nghĩ hoài chẳng ra
Chuyện này đáng lẽ ra
Em dấu kín chuyện nhà
Tại ai ai cũng hỏi
Em đành phải kể ra
CHỢ MU
Anh kia lủng lẳng gậy tre
Ghé hàng cô bán nước chè hỏi thăm
Ngập ngừng tay gãi lên cằm
Xin cô chỉ rõ để nhằm hướng đi
Kẻo không đi lạc thì kỳ
Chợ Mu chả biết phải đi đường nào ?
Cô hàng mắt quắc như dao
Hai tay chống nạnh cất cao giọng vàng
Nhà bác ở đất nào sang
Mà sao chẳng biết đất làng chợ Mu
Hay là nhà bác bị mù
Giai đây chả lạ chợ Mu bao giờ
Thôi thì nhà bác đã nhờ
Em đây chỉ rõ, khù khờ cũng ra
Giữa hai bờ đá xa xa
Một vùng tam giác ấy là chợ Mu
Xung quanh cỏ rậm lu bù
Bao nhiêu hàng mắm ở khu chợ này
Đầu tháng lại có món hay
Tiết canh nổi tiếng kéo dài ba hôm
Hôm nào mà nổi gió nồm
Thoảng mùi mít chín, giãi mồm nhỏ ngay
Nhà bác nhớ kỹ đây này
Gặp hai đồi trọc phải quay ngược về
Gậy tre đừng có kéo lê
Dừng ngay phố Rún ê chề lắm thay
Thôi thì nhà bác đi ngay
Vào chợ giữ gậy kẻo quay lăn đùng
93
Cho một cuộc tình
Nguyễn Khắc Thịnh - U7
Xong phần vụ MC giới thiệu hai họ cho đám
cưới người con trai út của người cậu, Tân trân
trọng giới thiệu người MC chuyên nghiệp cho
tiệc cưới và trở về chỗ, bàn được sắp xếp 10
người, ngoài hai đứa em con ông cậu còn lại
toàn các bà, Tân chẳng quen biết một ai, chào
mọi người rồi ngồi xuống.
Thức ăn được mang ra, cả bàn ăn uống cười nói
thật vui vẻ, đến món cá chiên, nửa phía trên đã
được lấy đi, bà ngồi bên cạnh vội kéo đĩa cá về
mình, lấy tay gỡ chiếc xương sống ra rồi tiếp
Tân một miếng tủm tỉm cười, phải nhanh tay
chứ để mấy mụ kia mà lật con cá hoặc xắn cái
đuôi thì có mà chìm tầu đấy ông ạ. Xong câu nói
bà ta quay đi, sững sờ trước câu nói đầy ẩn ý,
đích thị đương sự biết rất rõ về mình. Tân tỏ lời
cám ơn và tiếp tục ăn, lâu lâu lại liếc xem bà này
là ai để nhận diện nhưng vẫn không tìm ra tia
sáng cuối đường hầm. Cố hỏi mấy lần nhưng chỉ
được trả lời loanh quanh, cuối bữa ăn, đến phần
nhẩy đầm thì các bà xin phép ra về, Tân đứng
dậy tiễn chân hết lượt, bà là người cuối cùng
trong bàn cũng đứng dậy xin đi, bà ra hiệu cho
Tân biết dưới ly rượu có ghim tấm giấy rồi
nhanh nhẹn rời bàn. Vẻn vẹn có mấy hàng: Anh,
liên lạc với em số Đ/T 714......, Hòa, Hòa cái tên
định mệnh đã in sâu vào tâm khảm của Tân với
bao nhiêu kỷ niệm thời thơ ấu, vội chạy ra
parking nhưng chẳng thấy ai.
Tân trọ học ở nhà Hòa, lúc đó Hòa đang theo
học trường nữ Gia Long, gia đình có hai mẹ con,
Mẹ Hòa tráng bánh đa bán tại nhà, dư thì bỏ
mối, nhà Hòa ngay cuối nhà thờ cạnh trường học
nên giờ ra chơi học trò thường sang mua, nếu
mua bánh mới tráng còn ướt thì rất rẻ vừa với
túi tiền, nhờ vậy hai mẹ con cũng tạm đủ sống
qua ngày, nhà thì rất nghèo, Hòa thường giúp
mẹ xay bột mỗi ngày, Hòa quen với Thái bạn
của Tân trước khi Tân đến trọ. Thái học Chu
Văn An, gia đình làm chủ xe đò chạy tuyến
đường Sài Gòn Lục Tỉnh. Thấy bạn quá vất vả
với nghề bỏ báo, trời khô ráo còn khá, gặp hôm
mưa thì ướt như chuột lột, thương bạn Thái đề
nghị kèm cho mấy đứa em, Tân nhận lời, vì vậy
Tân là nhân chứng của cuộc tình,
Gia Đình Thái giầu và thế lực, mẹ Thái là người
đàn bà đảm đang và tháo vát, cứ sau mỗi buổi
tối dạy kèm, bà thường dọn sẵn hôm thì xôi hôm
thì bánh cuốn mời Tân ăn cho đỡ đói vì biết khi
về Tân phải học bài cho đến khuya, tiền lương
bà trả cho Tân dư dùng, nhiều lần vào dịp lễ lớn,
bà gởi quà biếu thầy mẹ Tân, cảm động trước sự
ưu ái và nâng đỡ của bà, Tân rất tận tụy hướng
dẫn lũ em của Thái, bắt phải chăm chỉ học và
làm bài, niềm hãnh diện đến với Tân là khi đi thi
không đứa nào rớt và nhất là đứa em gái kế Thái
sau khi đậu tú tài 2 đã trúng tuyển vào dược
khoa, gia đình tổ chức bữa tiệc thật linh đình và
Tân được hãnh diện ngồi bàn danh dự bên cạnh
bố mẹ Thái. Tối thứ bẩy mẹ Thái thường lân la
hỏi rất nhiều về chuyện tình cảm của con và bà
cũng nói rõ là không bằng lòng cho cuộc tình
này, chính Thái nói với Tân là mẹ có gấm ghé
đứa con gái của người hùn vốn mua chung xe
với gia đình, Thái từ chối thẳng vì thế mẹ con đã
94
cãi nhau rất nhiều lần, mẹ Thái đổ lỗi cho Hòa
quyến rũ con bà cho nên mới ra nông nỗi.
Cả 2 gia đình đều quý mến Tân, nâng đỡ Tân và
Tân coi đây như là gia đình thứ nhì của cuộc đời
mình, nhưng khổ cho Tân mỗi lần 2 đứa lén lút
hẹn hò, muốn đi đâu và ra khỏi nhà thì Hòa phải
đi qua trước cửa nhà Thái cho nên bao giờ Hòa
cũng phải đi trước, đến lượt Tân sang rủ Thái đi
xi nê, Thái giả vờ không muốn đi năn nỉ mãi
mới chịu và mẹ Thái sợ con buồn và đi với bạn
là an toàn rồi, thế nào bà cũng dúi vào tay Tân
đủ tiền vé và cho dư để anh em ăn phở 79. Leo
lên xe với Thái, tới điểm hẹn, hai đứa đèo nhau
đi mất đất bỏ lại Tân với chiếc xe của Hòa, tà tà
ăn tô phở cho chắc bụng rồi ra công viên ngồi
học bài, chờ, mãi chúng nó mới về, Tân trả xe
cho Hòa để về trước một mình, còn Tân và Thái
tò tò về sau, bao giờ Thái cũng trả ơn bằng câu
xin lỗi kèm thêm ly chè.
Thái học giỏi lại con nhà giầu nhưng khi đậu tú
tài 1 là tình nguyện vào khóa pilot trực thăng.
Mẹ Thái khóc hết nước mắt, ý định của bà là sau
khi đậu tú tài 2 sẽ chạy cho con đi du học, đậu
cao hay thấp không thành vấn đề, miễn là đậu,
Tiền bạc và thế lực sẵn có, không có gì trở ngại.
Bà gạn hỏi Tân rất nhiều về con bà với Hòa
trong đó câu hỏi đã được lập đi lập lại nhiều lần
là: có phải vì bất mãn với gia đình mà Thái đi
lính để được tự do đi lại với Hòa? Tân chỉ trả lời
là không biết, thực sự là Thái không hề nói với
Tân điều gì về việc Thái đi không quân chỉ thấy
sau khi tốt nghiệp Thái ngang nhiên chở Hòa đi
chơi không màng đến Tân nữa, còn Tân vẫn kèm
lũ em của Thái cho đến khi gia nhập binh chủng
Hải Quân.
Ngày Tân lên đường nhập ngũ, mẹ Hòa làm bữa
cơm tiễn chân, sang nhà Thái chào gia đình
được mẹ Thái tặng Tân món tiền khá lớn làm
Tân rất xúc động và hứa có dịp về phép sẽ ghé
thăm, mỗi khi thuyên chuyển đơn vị mới Tân
đều để lại địa chỉ, còn chuyện của Hòa với Thái,
Tân không màng tới vì nó không phải chuyện
của mình.
Rời quân trường rồi tân đáo tại một đơn vị Hải
Quân đóng tại vùng Năm Căn, thuộc tỉnh Cà
Mâu, một hôm đang đi tuần thì Đại Úy trưởng
phòng hành quân gọi cho biết Tân có điện tín
của gia đình báo là người bạn tên Thái tử trận,
Tân tức tốc rời vùng về thẳng Bộ Chỉ Huy nhận
điện tín và vào trình diện Tư Lệnh kiêm Chỉ
Huy Trưởng của đơn vị , bày tỏ sự việc, ông
thông cảm và bằng lòng cho đi bằng sự vụ lệnh
3 ngày lại còn nhắc nếu cần thêm ngày cứ vào
BTL/HQ phòng chuyển vận xin gia hạn.
Theo máy bay về Sài Gòn Tân đến thẳng nhà
Thái, cả nhà cùng ngạc nhiên về sự hiện diện
đúng lúc của Tân, mẹ Thái không gởi điện tín
cho Tân mà Tân cũng không nói gì coi như một
sự trùng hợp ngẫu nhiên, chỉ có Hòa, đúng vậy,
chính Hòa vào BTL/HQ báo tin. Tân vào nhà
quàn được họ cho biết: xác bị cháy hết chỉ thu
được có 2 bao cát cốt nên không dám để cho
thân nhân nhìn thấy, bác sĩ viện cớ xác để lâu đã
có mùi sợ không tốt cho sức khỏe nên quan tài
đóng kín, mẹ Thái không biết chuyện này, nếu
biết chắc bà đau khổ lắm, tối hôm đó ngủ tại nhà
Thái để hôm sau cùng gia đình đi đưa đám và
chôn tại nghĩa trang Mạc Đỉnh Chi.
Mới 8:00AM chiếc GMC đã chực sẵn trước cửa
nhà đón thân nhân, Tân cùng gia đình lên xe,
đưa xác đến nghĩa trang, vị Linh Mục tuyên úy
làm phép huyệt, làm phép xác rồi hạ huyệt trong
tiếng nức nở của mẹ, của bố của các em của thân
nhân và của cả Tân nữa. Toán chung sự làm
xong nhiệm vụ họ chào và ra về, thân nhân cũng
từ từ giải tán, thoáng thấy bóng đen vượt qua
mặt Tân rồi ôm chặm lấy mộ, chỉ nghe tiếng uất
nghẹn mà cho đến bây giờ mới phát ra thành
tiếng, Anh Thái Ơi, Em Khổ Quá, Gia Đình Anh
Ruồng Bỏ Em không cho em tiễn đưa anh lần
cuối, Tân đứng sững như trời trồng có đến 5
phút, hoàn hồn nhìn lại nghĩa trang chỉ còn trơ
trọi Tân với Hòa với nấm mồ mùi đất còn tươi.
Bước tới đỡ Hòa dậy thì chúa ôi, thân hình mềm
như lá cải héo, lúc đi Tân theo GMC nên không
có xe, bây giờ định dìu Hòa ra xe chở Hòa về,
95
mỗi khi vực Hòa lên, thân mình lại chùi xuống,
Hòa yếu quá, thôi đành đưa Hòa vào quán Cà Fê
ngay bên kia đường, gọi 2 ly chờ cho đến khi
Hòa tỉnh hẳn mới tính được, ai ngờ Hòa khóc
quá mà cô hàng cà fê cứ tưởng là Tân với Hòa
lại có chuyện ghen tuông gì đây cứ lấm lét nhìn
rồi cười chúm chím.
Có đến 2 tiếng đồng hồ Hòa vẫn trong mê sảng,
thấy không xong, bắt taxi đưa Hòa về nhà còn
Tân lái xe theo, vực Hòa vào nhà và nói mẹ Hòa
thay đồ vì bộ quần áo đen của Hòa bám đầy bụi
đất. Mẹ Hòa thương con mắt đỏ hoe, hết nhìn
con lại nhìn Tân Tân chỉ im lặngà....Bà cụ cho
biết là sau khi đậu Tú Tài 2 Hòa xin được việc
làm ở Tín Nghĩa Ngân Hàng, nhờ vậy gia đình
cũng khá hơn, hiện bà vẫn làm bánh bán, bà
không đả động gì đến mối tình của con gái,
chiếc giường dành cho Tân vẫn còn đó, ngủ lại
đêm để canh chừng sức khỏe của Hòa. Sáng
hôm sau dậy hơi muộn, thấy Hòa ủ rũ bên chén
cháo, Hòa nói rất khẽ, hôm nay mẹ đãi anh cháo
gà vì sợ anh đi xa mệt, mỉm cười cám ơn bà, ra
ngoài mua ly cà fê, uống xong, ăn hết bát cháo.
Hòa nhờ Tân chở lên Ngân Hàng và cũng nhờ
vào xin phép cho Hòa nghỉ với lý do bệnh, chở
Hòa đi về phía Nhà Bè mục đích là làm cho Hòa
nguôi ngoai nỗi sầu, lang thang trên các bờ sông
vào tiệm ăn cơm tối xong mới về. Mẹ Hòa đã
dọn sẵn thức ăn đậy lồng bàn cẩn thận chờ, bà
mời cơm, chiều lòng bà Tân cũng ăn, Hòa ăn lấy
lệ cho mẹ vui, lạ một điều là gia đình không hề
đả động đến câu chuyện dang dở của Hòa và
Thái, toàn nói chuyện về công việc của Hòa và
dự trù sẽ xây lại căn nhà vì nó quá xuống cấp,
nhờ Hòa mua cho mấy chai bia, uống hết, lấy cớ
say Tân đi ngủ để sáng mai phải vào phi trường
sớm cho kịp chuyến bay về đơn vị. Khi giã biệt,
Hòa nắm tay Tân, khuyên Tân nên bảo trọng lấy
thân, gia đình sẽ luôn cầu nguyện cho.
Dù rất bận rộn với trách nhiệm của một người sĩ
quan nhưng lòng vẫn trĩu nặng cho thân phận
của con người trong thời chiến. Mất đi người
bạn thân và là ân nhân trong thuở thiếu thời.
Thương cảm cho người con gái đang yêu và đã
được yêu nhưng bị vòng rào luân lý của gia
đình, của tôn giáo và coi tình yêu trai gái như
một trái cấm và quan niệm tương giao nam nữ
khắt khe của xã hội đương thời, quan niệm giầu
nghèo để rồi người con gái không được quấn lên
đầu một vành khăn tang hoặc được góp một hòn
đất ân tình trên nấm mộ người yêu, chết là hết
với người đã chết nhưng để lại biết bao ai oán
cùng ân oán cho người còn sống.
Mãi có đến 3 tháng sau khi trở về đơn vị, một
hôm Tân nhận được thơ của Hòa, trong thơ Hòa
tỏ lời cám ơn Tân đã chu tất trong đám ma đưa
Thái về chốn yên nghỉ cuối cùng cũng như cám
ơn Tân đã quan tâm đến sức khỏe của Hòa khi
Hòa phải đối diện với nỗi đau cùng cực, sức chịu
đựng của Hòa đã cạn kiệt, tâm trí bàng hoàng
thể chất tê liệt, cố gắng lắm đến nay mới tạm lấy
lại được cuộc sống bình thường, hy vọng kỳ
nghỉ phép thường niên Tân về thăm gia đình nhớ
ghé nhà Hòa vì mẹ nhắc đến Tân nhiều.
Chiến cuộc càng ngày càng khốc liệt, chiến đĩnh
rời căn cứ ra cửa để đi tuần thường bị phục kích,
các chuyến tầu tiếp tế phải có 2 chiến đĩnh đi
kèm bảo vệ, thêm vào đó Quân Đoàn 4 còn tăng
phái cho một tiểu đoàn Biệt Động Quân Biên
Phòng đóng dọc theo giang lộ dẫn ra biển, mỗi
khi có tin loan báo trên đài về tình hình chiến sự
vùng Năm Căn Cà Mâu thì y như mấy hôm sau
có thơ vấn an của Hòa, thêm vào đó Lan em của
Thái, cô dược sĩ tương lai cũng biên thơ kể lể
tâm sự và nói xấu Hòa đủ điều, chán ngán cho
tình người cùng thói đời của 2 gia đình với nhau,
họ coi Tân là cái thùng rác để trút bầu tâm sư,
có lẽ vì Tân biết rõ vấn nạn của 2 gia đình cũng
có lẽ vì Tân là nhân chứng duy nhất biết rõ ngọn
ngành của gia đình mất đi người con trai độc
nhất, của mối tình vụng trộm không hợp với đạo
lý gia đình thời bấy giờ, xem ra 2 gia đình cùng
có cảm tình và rất cảm mến Tân cho nên mới ra
nông nỗi. Tân nộp đơn xin nghỉ phép thường
niên và sẽ ghé qua phòng nhân viên bộ tư lệnh
Hải Quân xin đổi về đơn vị trên bờ cho chắc ăn
96
chứ cái tình trạng mỗi khi đi tuần lại nổ súng rồi
thế nào cũng có phen lãnh thẹo.
Về đến gia đình bố mẹ thấy con được an lành
khỏe mạnh thì mừng lắm, mẹ Tân suốt ngày bận
rộn đi chợ mua thức ăn làm đồ nhậu cho con,
còn ba của Tân hoàn toàn quan tâm đến sự an
nguy cuộc đời quân ngũ của con, thường sau
bữa cơm chiều, ba của Tân qua bên nhà bà con
trong xóm để chuyện trò cho qua ngày còn lại 2
mẹ con, mẹ Tân thường nhắc đến chuyện Tân đã
lớn tuổi rồi, ngay đến đứa em gái cũng đã có 3
đứa cháu ngoại cho bà, nếu con quen ai và muốn
lấy ai cứ nói mẹ sẽ lo liệu cho, thế rồi bà liệt kê
ra một danh sách các gia đình có con gái được
bà để ý, tha hồ mà chọn, bà còn nhắc đến Lan
được mẹ của Thái sai mang quà biếu gia đình
hôm lễ Phục Sinh, bà khen Lan đủ điều, Tân
nhìn sững mẹ nhưng không nói gì, bà mỉm cười
nhìn Tân hỏi hay là con chịu Lan cứ nói để mẹ
tính. Tân thầm nghĩ thảo nào bấy lâu nay thơ từ
của Lan xem ra giọng hơi khác, là như vậy, mẹ
của Thái đã chọn Tân và có lẽ Lan cũng thích
Tân. Tân đành kể hết cho mẹ nghe câu chuyện
giữa 2 gia đình, mối tình Thái Hòa, quan niệm
giầu nghèo để chọn vợ cho con của mẹ Thái mà
Tân hoàn toàn không đồng ý, theo nhận xét của
Tân thì lấy Lan không có gì trở ngại phải cái gặp
bà mẹ vợ với quan niệm như vậy Tân không
thích, nếu lấy nhau rồi cũng có ngày mặt trăng
mặt trời với nhau mà thôi, chi bằng con chiều
theo ý mẹ, nếu mẹ chọn ai con cũng bằng lòng.
Mẹ cứ thu xếp đi. Mẹ hớn hở ra mặt thế rồi chỉ 6
tháng sau, đám cưới hình thành, sau đám cưới
Tân đưa vợ về ở chung vì bây giờ Tân phục vụ
một đơn vị gần nhà, chỉ lo canh gác phòng thủ
chứ không phải bôn ba tuần hành như trước nữa,
kể từ ngày đó Tân không muốn nhức đầu nên ít
liên lạc với cả 2 gia đình cho đến ngày Gẫy
Súng 30 tháng Tư.
Tiệc cưới càng về khuya lại càng vui, nhẩy đầm
đến rã người, uống rượu đến mệt không nghỉ,
quá đã, Tân quên tiệt chuyện Hòa.
Vừa bảnh mắt, gọi ngay đến Hòa, chỉ 20 phút có
mặt tại nhà Hòa. Cánh cửa vừa mở Tân nhận
ngay ra Hòa thuở nào, chỉ khác xưa là mái tóc đã
điểm sương làn da đã cằn cỗi nhưng con người
rất ư là trưởng thành, với gương mặt rạng rỡ ra
đón Tân, Hòa nắm lấy 2 tay Tân kéo vào nhà,
đon đả pha ly cà fê mang ra rồi nhìn Tân cười
giòn tan, thế nào anh, có khỏe không, gia đình
thế nào, chắc các con anh lớn cả rồi nhỉ, hiện
định cư ở đâu, một thôi một hồi câu hỏi không
để Tân kịp trả lời, thay vì trả lời, Tân hỏi lại Hòa
là sao hôm nay nhận ra liền còn tối hôm qua
đành chịu thua là làm sao ? nói mau, không trả
lời vào câu hỏi mà Hòa chỉ ngay lên tường treo
mái tóc giả và trên bàn còn nằm la liệt son phấn
để hóa trang, Hòa chậm rãi thố lộ, khi được mời,
cậu của anh cho biết người cháu tên Tân sẽ được
chọn làm MC và em cũng hỏi thêm thì đoán
đúng là anh nên mừng quá, gặp lại cố nhân, em
cố dấu làm anh ngạc nhiên đấy mà, không có ý
gì cả.
À thì ra thế, về tình trạng gia đình thì Hòa cho
biết, 75 bị kẹt lại, hai mẹ con hành nghề “ Chà
Đồ Nhôm “, nhà nghèo sắm sửa có bao nhiêu,
bán hết, Hòa phải xoay ra đi buôn đường Sài
Gòn/ Lục Tỉnh, may mắn là đủ ăn, nhưng mục
đích vẫn là dò đường vượt biên, chắt chiu được
đồng nào lại bị gạt sạch, mãi đến năm 90 các trại
tỵ nạn đã đóng cửa, sự kiểm soát của cộng sản
cũng lơi là mẹ con mới đi được, tạm trú tại cồn
Quốc Gia và ra biển bằng cửa Bẩy Giá, tầu chạy
được có 3 ngày thì chết máy,biển cả mênh mông
chẳng thấy bờ đâu cả, nước trong đen ngòm
chắc là sâu lắm, gặp rất nhiều thương thuyền qua
lại nhưng không có chiếc nào chịu cứu, không
may nhưng lại hóa ra may, gặp cơn bão biển thổi
đến, tưởng rằng chết hết may được tầu Hòa Lan
đón lên và đưa tới Hồng Kông, ở trong trại được
6 tháng thì Mỹ nhận và ở đây, cái phòng này cho
đến bây giờ, chưa đi đâu cả, thế còn mẹ?
(xem tiếp trang 191)
97
Người Buôn
Rắn
Gió Đồng Nội
Như hàng ngàn Sĩ Quan Quân Lực Việt Nam
Cộng Hòa khác, không có phương tiện chạy
trốn Cộng Sản sau ngày 30 tháng Tư, tôi bị đầy
đọa trong nhà tù với cái mỹ danh là trại cải cạo.
Hơn mười năm trời với biết bao nhiêu khổ ải, tôi
được thả về với gia đình.
Ở tù ra, thân xác tôi còm cõi. Trước kia tôi vốn
đã đen thui, trông như người rừng núi (vì vậy
bạn bè cùng quân chủng tặng cho biệt danh là
Fulro) nay càng thảm sầu hơn. Nếu đám bạn gặp
tôi lúc này, chúng dám đổi tên tôi thành Congo
lắm. Từ Thượng Việt sang Mọi Phi Châu chẳng
khác gì nhau mấy, cùng ở nấc thang cuối của
màu da. Khác một tí xíu là tôi nói tiếng Việt
không ngọng. Không ngọng nên tôi nhảy vào
nghề buôn (nghe hách lắm nhưng buôn kiểu
người nghèo là mua đi, bán lại, kiếm tiền lời đắp
đổi qua ngày). Từ buôn thúng, bán mẹt, bất kể
thứ gì người ta bán thì tôi mua. Mua xong, chà,
rửa, sơn, phết, quét, dán.. tôi trở thành người
bán. Tích tiểu thành đai. Vốn của tôi tà tà từ một
đơn vị lên hàng hai, rồi ba. Khi khấm khá hơn,
tôi lần mò đến các nơi xa thật xa thành phố để
mua máy đuôi tôm đã bị hư. Mang về sửa chữa,
chế biến thành máy bơm nước rồi đem ra Bình
Tuy bán cho những chủ vườn trồng hạt tiêu,
dùng lấy nước tưới cây. Một cái máy bơm nước
bán được gần hai lượng vàng. Bộn tiền chứ đâu
có giỡn.
Cầm hai lượng vàng trong tay, tôi tiếp tục đi
buôn (bây giờ là nghề của chàng rồi). Một bữa,
đang lang thang làm người mua, tôi gặp tay
thanh niên xách cái bao cát cũ. Tôi mau miệng
hỏi thăm liền. Anh bán cái chi vậy. Chẳng nói
chẳng rằng, anh ta một tay nới cái giây cột
miệng túi ra. Một con rắn phóng đầu ra nhanh
như chớp nhưng tay kia của anh ta còn lẹ hơn,
đã chụp bóp ngay hai mang của nó làm con rắn
hết đường cục cựa. Tôi còn đang hoảng vía, vừa
kịp làm tỉnh thì thanh niên nói liền: Đừng lo.
Con Mai Gầm (tên Mỹ là Coral chăng) này hiền
lắm, không mổ được đâu. Tui khâu miệng nó
rồi. Anh mua không?
Nghĩ là mình sẽ bán được giá vì đang có phong
trào uống Rượu Rắn. Càng những loại rắn độc
ngâm rượu giá càng mắc. Cù cưa một hồi thì tôi
mua con Mai Gầm với giá 60 ngàn đồng (trị giá
nửa chỉ vàng lúc bấy giờ). Bỏ lại trong bao, tôi
hí hửng xách cái túi, đi xe đò lên Phương Lâm,
Định Quán để tìm mối bán. Nhét cái túi dưới
chân, tôi ngồi mơ tưởng chuyện bán con rắn
(như giấc mơ của cô bé bán sữa) trong khi xe
đang bon bon chay. Trời thanh, gió mát, tôi đang
lim dim ngủ xả hơi thì tiếng la hét phía đầu xe
làm tôi choàng tỉnh. Nằm trong cái bao cát cũ xì,
gần mục, con rắn ngọ ngoạy làm thủng đáy bèn
tà tà chui ra, trườn lên phía trên, đụng chân hành
khách, bò ra ngoải sàn xe làm mọi người sợ hãi,
hốt hoảng nhảy dựng cả đám.Tôi hết hồn chụp
vội con rắn, lộn cái bao thành hai lần, bỏ con
Mai Gầm vô lại, cột bao cẩn thận nhưng vẫn bị
anh tài và hành khách đuổi, đẩy xuống xe, không
98
cho đi nữa. Thế là tôi và con Mai Gầm bị bỏ ở
giữa rừng. Cuốc bộ hồi lâu mới đón được xe đi
dù không đúng nơi mình muốn tới nhưng đỡ
khúc nào hay khúc đó. Cũng vì ý nghĩ này mà
khi xuống xe tôi quên mất con bạn đồng hành.
Lên xe từ Phú Cường mới chợt nhớ tới 60 ngàn
vừa bị bỏ quên làm tôi lật đật quay trở ngược lại
kiếm. May mà cái túi cát vẫn còn nguyên trên
sàn xe. Mừng quá cỡ, tôi đem con Mai Gầm về
nhà trọ, bỏ vô chung (chum) đựng gạo cho nó
nghỉ qua đêm vì nguyên ngày nằm ép trong bao,
bị phơi nắng nên nó có vẻ ủ rũ. Sáng hôm sau,
tôi mở nắp chung ra thăm chừng. Nào ngờ con
rắn đã hồi sức, quăng mình ra khỏi chung, chạy
lung tung khắp chợ (nhà trọ sát một bên chợ)
làm bà con một phen hoảng loạn chạy né. (đâu
có ai biết ban ngày mắt rắn không nhìn thấy rõ
đường). Không khó nhọc, tôi bắt lại được nó.
Lần này tôi nghiên cứu kỹ. Mò ra chợ Sài Gòn,
tôi tìm đến chỗ xuất khẩu rắn ở đường Nguyễn
Huệ để bán. Tới chừng họ biết tôi có mỗi 1 con
rắn chứ không phải mấy tấn thì họ cười quá xá
cỡ. Thương “người miền núi” thiệt thà, thấy tội
nghiệp, họ chỉ tôi lên quận Tân Bình, chỗ trại
nuôi rắn. Nhằm lúc giữa trưa, chủ trại ăn no
đang ngủ, tôi phải ngồi chờ. Cả một tiếng rưỡi
đồng hồ ông ta mới thức giấc rồi xem xét con
rắn. Lấy nắm tay vuốt dọc cái lưng, thấy có cục
u, nghĩa là con rắn đã bị đánh gẫy xương sống,
ông trả lại, không mua và mách tôi ra chợ bán
thú vật ở đường Phạm Ngũ Lão. Tôi lại lò mò ra
chợ Phạm Ngũ Lão gạ bán con rắn cho những
người yêu gia súc mà chả ma nào chịu mua cả.
Mấy người bán thú thấy vậy lại chỉ tôi đem con
rắn ra quán nhậu bán ký. Cân cả da lẫn xương
đâu nặng được bao nhiêu. Rẻ rề, lỗ quá xá nên
tôi không bán. Vòng trở lại chợ Phạm Ngũ Lão
với hy vọng bán thẳng được cho người mua rắn
nuôi chơi thì tôi gặp một tay cò mồi đồng ý đem
con rắn vừa đi vừa quảng cáo giao hàng quanh
chợ (bán được sẽ ăn hoa hồng). Tôi ngồi một
chỗ khấp khởi mừng thầm, chờ tên cò mồi mang
tiền về. Một tay nắm đầu, một tay nắm đuôi (tôi
có ghé tai bỏ nhỏ rằng con rắn không mổ ai
được), đi hết một vòng chợ, tên cò mồi mang
con rắn trả lại cho tôi thì nó đã chết ngỏm củ tỏi.
Thôi khổ rồi. Bứt đầu gãi tai, chỉ tại tôi quên,
không cho con rắn ăn gì gần hai ngày trời.
Miệng nó bị khâu kín, miếng nước cũng không
uống được làm sao sống?. Người cũng chết nói
chi rắn.
Buồn quá xá, tôi mang con rắn về cho vợ nấu
cháo đậu xanh ăn gỡ. 60 ngàn nồi cháo rắn nấu
đậu xanh của tôi đó. Mắc thấu trời xanh. Thôi thì
cứ nghĩ là ăn cháo rắn bổ đủ thứ lục phủ ngũ
tạng như người ta nói. Nếu không bổ bề dọc
cũng bổ bề ngang. Miễn không bổ ngửa là hên
rồi. Hên hơn nữa là tôi có bà vợ hiền lành, thấy
chồng rầu rĩ vì mất của nên không càm ràm chi
cả. Thua keo này, mình bày keo khác. Bà xã
biểu vậy.
Sau vụ này tôi bỏ nghề đi buôn rắn (nhưng vẫn
buôn các thứ khác)
Gió Đồng Nội (2012)
(Viết tặng Anh Minh, nhân vật chính trong
chuyện)
99
thơ Lê Ngọc Trùng Dương
Bài Cho Tình Ta
Loạn ly về khắp nẻo đường
Anh về gìn giữ phố phường bình yên
Đâu ngờ tiền định thiên duyên
Gặp em giây phút, hương nguyền thiên thu
Em còn đang tuổi học trò
Đóa hồng chớm nở làm ta ngại ngùng
Khi về nỗi nhớ mông lung
Đêm dài trăn trở, tơ chùng lòng ai
Những tờ thư vượt dậm dài
Vượt bao cách trở thỏa hoài tình mong
Rồi ta nên nghĩa vợ chồng
Đồng tâm nhất chí biển Đông ngại gì
Đâu ngờ tổ quốc lâm nguy
Dậm đường di tản ta thì bên nhau
Ngọt bùi chia xẻ buồn đau
Nuôi con khôn lớn dạt dào tình thương
Bao năm cùng bước chung đường
Quãng đời còn lại càng thương mến nhiều,
Ân tình còn có bao nhiêu,
Anh xin trao gửi người yêu thuở nào.
Hồi Tưởng
Thu hiu hắt, nhuộm vàng bao chiếc lá,
Lá thu sầu khơi nỗi nhớ xa xăm,
Ôi, kỷ niệm của một thời xưa cũ,
Hiển hiện về dù qua đã bao năm!
Tôi vẫn nhớ những đêm mùa sao sáng,
Ánh trăng ngàn soi bóng lá bên song,
Sương thướt tha trên ngàn lúa mênh mông,
Và tiếng sáo mục đồng vi vút thổi.
Trong nắng sớm, ánh triêu dương rực rỡ,
Vài chim muông vang tiếng hát trên cành,
Sương sớm mai còn đọng ngọn cỏ xanh,
Chùm hoa dại vươn mình khoe sắc thắm.
Đâu vẳng lại tiếng chuông chùa ngân đổ,
Những âm vang, vang tận cõi lòng ta,
Đưa hồn ai qua khỏi bến trầm kha,
Chiều tĩnh mịch, nắng thu vàng thoi thóp.
Chiều tắt nắng là khi màn đêm xuống,
Lũ côn trùng hòa điệp khúc thê lương;
Chỉ mình tôi thao thức với phong sương,
Soi chiếc bóng loang dài trên song cửa.
Gió vi vu qua ngàn thông trên núi,
Gió lay đưa như tiếng vọng thì thầm,
Tiếng thông reo như lời của núi sông,
Lời ru mẹ, con say nồng giấc điệp.
100
Trời giông bão, tiếng mưa gầm gió thét,
Gợi nơi tôi bao chuyện củ đau buồn,
Mái nhà củ vẩn phương trời xa tấp,
Xứ lạ quê người, bao nỗi vấn vương !
Ngày tháng rụng trên mái đầu sương điểm,
Tuổi xuân thì, giờ thôi đã tàn phai,
Như nụ hoa nở đẹp buổi ban mai,
Rồi cũng úa theo tháng ngày rơi rụng !
Thiên Thần Áo Trắng
Trong lần ứng chiến qua thành phố
Ta quen nhau, em tuổi mười lăm
Đẹp xinh như ánh trăng rằm
Thiên thần áo trắng ! Gọi thầm tên em
Đời trong trắng, tháng ngày phẳng lặng.
Ép cành hoa sầu lắng đợi chờ,
Đời vui như giấc hoa mơ
Anh về đánh thức hồn thơ ngủ vùi.
Tình yêu, đẹp tựa sao trời
Lời yêu đó, đẹp lời thủy chung.
Tình thắm tươi, kiều diễm, bao dung,
Uyên ương cùng bước vào chung địa đàng
Những tháng ngày hạnh phúc, hân hoan,
Những tháng ngày xinh đẹp mênh mang,
Thiên thần áo trắng em đan
Một trời hạnh phúc ngút ngàn thương yêu.
Il Pleure Dans Mon Coeur
(Paul Verlaine)
Il pleure dans mon coeur
Comme il pleut sur la ville.
Quelle est cette langueur
Qui pénêtre mon coeur ?
O bruit doux de la pluie
Par terre et sur les toits !
Pour un coeur qui s’ennuie,
O le chant de la pluie !
Il pleure sans raison
Dans ce coeur qui s’écoeure.
Quoi ! nulle trahison ?
Ce deuil est sans raison.
C’est bien la pire peine
De ne savoir pourquoi,
Sans amour et sans haine,
Mon coeur a tant de peine.
Lệ Buồn Ướt Đẫm Tim Tôi
Mưa rơi trên phố êm đềm
Lệ sầu ướt đẫm buồng tim rã rời
Nỗi sầu ray rức đầy vơi
Thấm vào tim úa, rối bời lòng ta .
Êm êm nhỏ giọt mưa sa ,
Ngoài hiên mưa đổ, mái nhà mưa rơi
Cho tim sầu thảm đầy vơi
Nhạc buồn mưa hát, tơi bời lòng ta !
Mưa không duyên cớ, mưa sa,
Sao tim héo úa, cho ta muộn phiền ?
Ai người phản bội tình duyên ?
Sầu không duyên cớ, ưu phiền không tên.
Thương đau, sầu khổ xiết bao
Mà không biết được vì sao thương sầu.
Hận tình, ân oán ? Không đâu.
Tim ta sao mãi hận sầu , khổ đau !!!
Lê Ngọc Trùng Dương phỏng dịch
101
Kỷ niệm một lần xa thành phố
Lê Phạm Kim Phượng
Bác Tâm từ Lam Sơn về thăm Mẹ của
Phương, và đón hai người con của bác về quê
nghỉ hè. Bác mang biếu mẹ Phương xoài, cam,
ổi, đu đủ .... Những trái cây này do bác trai hái
trong vườn sáng nay. Bác cũng không quên
mang theo những chùm nem chua gói trong lá
chuối xanh, bánh chuối và kẹo me do chính tay
bác làm. Phương mê nhất là món kẹo me, vừa
chua vừa ngọt lại thêm vị cam thảo. Chỉ nghĩ
đền thôi Phương cũng cảm thấy thèm. Buổi
chiều hôm ấy nhà rất vui vì có bác, con gái của
bác; Chị Trinh lớn hơn Phương hai tuổi, nữ sinh
Gia Long, vừa học xong lớp đệ nhất và đang đợi
ngày thi Tú Tài II; anh Tú nhỏ hơn Phương ba
tuổi học bên trường trung học Đắc Lộ. Trong
bữa cơm chiều Trinh bảo chỉ về nhà vài ngày rồi
lại trở lên Sài Gòn để chuẩn bị học thi. Dùng
cơm xong cả nhà đi lễ tối. Phương và Trinh
được ở nhà rửa chén và trông chừng nhà. Hai chị
em vừa làm vừa tâm sự về người yêu của họ.
Hai người chụm đầu lại đọc lá thư Danh viết cho
Phương mà Phương mới nhận được tuần trước,
thư Danh viết chan chứa ân tình, đong đầy nhớ
thương không những làm Phương thổn thức mà
cả đến Trinh cũng xúc động, nàng nói:
- Ông Danh thương mi quá, mi thật diễm phúc!
Ông An của tao dân khoa học nên viết thơ không
ướt át, lãng mạn bằng ông Danh, tao thích nhất
đoạn này,
Vừa nói Trinh vừa chỉ vào lá thơ và đọc nhỏ:
"Em yêu dấu! Em có biết là anh yêu em nhiều
biết mấy? Nhiều hơn là em có thể tưởng tượng
được! Mỗi lần về phép được gặp em anh sung
sướng bao nhiêu thì lúc trở về đơn vị anh buồn
khổ bấy nhiêu. Anh nhớ em từng giây từng phút,
trong giấc ngủ của anh cũng chập chờn hình
bóng em. ...- Em như một nụ hồng cầu mong
chẳng lạnh lùng, em như một ngày mộng mà ta
hằng ngại ngùng. Sẽ ru ta niềm nhớ, một ngày
thoáng mây đưa, cuộc tình đã như mơ -. Em
biết chăng dòng nhạc của Ngô Thụy Miên cũng
là tâm trạng của anh khi chờ em trước cổng
trường! Những sáng trông mong, những chiều
thương đợi và những tối lạnh lòng hoài vọng."
Đọc đến đây Trinh dừng lại vừa nhìn Phương
vừa nói:
- Eo ơi! Tình tứ lâm ly làm tao cũng mủi lòng, kỳ
sau có thư của ổng mi nhớ cho ta đọc
ké với nha, bảo đảm sẽ bao mi một chầu kem
sầu riêng!"
- Thôi đi, nghèo mà ham, trả thư lại cho
Phương. "
102
Phương giật lại lá thư. Cả hai đều cười vang,
những tiếng cười trong trẻo vang vọng trong căn
nhà.
Theo đúng chương trình đã bàn soạn. Tối
hôm ấy Trinh nói với mẹ Phương:
- Thưa mợ !"
Như sợ quên những điều đã chuẩn bị sẵn, Trinh
nói luôn một mạch:
- Mợ cho Phương đi Lam Sơn chơi với con
vài ngày, hè rồi ở nhà cũng buồn."
Bác Tâm vốn rất thương Phương, vừa nghe đến
đây đã vội góp ý:
- Tội nghiệp con bé, chẳng được đi đâu, mợ
cho cháu dẫn mấy đứa em đền nhà tôi chơi, gió
đồng quê trong lành, rất tốt cho các cháu."
Vừa nghe bác có ý kiến đưa bốn nhóc tì đi theo
Phương đã thấy chán nản, vội đưa mắt nhìn
Trinh cầu cứu, Trinh gật nhẹ như hiểu ý. Mẹ
Phương chép miệng như đang tiếc điều gì rồi
quay sang Trinh mẹ chậm rãi nói: "Hay Trinh
đưa các em đi chơi, Phương phải ở nhà giúp mợ
lo sổ sách cháu ạ." Thế là hết hy vọng! Phương
nghĩ thầm và mắt cảm thấy cay, Phương ấp úng :
"Mẹ cho con đi chơi với chị Trinh nha mẹ, chỉ
có ba ngày à, sáng thứ hai con đã về tới rồi."
Phương âu lo nhìn Trinh, Trinh vốn có tiếng là
nói chuyện có duyên và có tài chinh phục. Chị
đến ngồi cạnh mẹ Phương và bắt đầu thuyết
phục, thỉnh thoảng Phương thấy mẹ cười cười.
Chị Huệ, chị ruột của Phương từ trên lầu xuống
nhìn Phương nước mắt đoanh tròng, như tội
nghiệp, chị cũng xin mẹ giùm Phương. Cuối
cùng mẹ nhìn Phương cười bảo: "Đi thì đi, chị
em mày làm mẹ nhức cả đầu." Mẹ chưa nói dứt
câu, Phương và Trinh đã ôm nhau cười và nhảy
chân sáo lên thang lầu. Mẹ nói vọng theo: "Nhớ
phải ngoan ngoãn, con gái lớn rồi phải ý tứ, nhớ
mang theo áo dài để đi lễ ngày Chúa Nhật, ..."
Mẹ còn nói nhiều lắm, dặn dò đủ thứ, nhưng
Phương nào có nghe được gì!. Phương phải lên
lầu sắp xếp quần áo và những đồ dùng cần thiết,
con gái bao giờ cùng có nhiều đồ lỉnh kỉnh. Tự
nhiên Phương thấy đời đáng yêu, vừa làm
Phương vừa hát nhỏ "Ta yêu nhau yêu suốt cuộc
đời, như mây xanh dâng ngát bầu trời, như
muôn hoa tô thắm từng ngày, như hương thơm
xao xuyến tình người..." Đêm đó Phương và
Trinh tâm sự đến gần sáng.
oOo
Mới mờ sáng, Phương và Trinh đã chuẩn bị
xong, Phương xinh xắn trong chiếc áo thung
hồng ngắn tay, quần tây trắng và sandal cao gót,
tóc để xõa ngang vai, Phương không quên mang
vào cổ tay chiếc vòng đồi mồi đen nhánh mà
Danh, người yêu của nàng đã mang từ Phú Quốc
về tặng nàng. Trinh cũng duyên dáng trong chiếc
áo sơ mi trắng và quần tây trắng, tóc cột cao
bằng một khăn mui xoa mỏng có in hình chiếc
mỏ neo. Đã có lần Trinh khoe với Phương đó là
kỷ vật do người hùng Hải Quân của Trinh tặng.
Mẹ, bác và Tú cũng đã thức, mẹ trao cho
Phương gói quà và dặn dò “Đây là cà phê Ban
Mê Thuật, con đem biếu bác trai, nhớ phải
ngoan đấy.” Phương mỉm cười ôm mẹ và nói:
"Dạ vâng!" Mẹ Phương nhắc nhở Trinh hôm
nay thứ sáu và nhớ đưa Phương về chuyến xe
6:00 giờ sáng thứ hai. Mọi người chào mẹ
Phương rồi bước ra cửa. Trong nhà chị và các
em Phương vẫn còn ngủ say. Mẹ nói với theo
một câu bâng quơ: “Các cháu lớn mau quá,
chẳng mấy chốc cháu Trinh lại lên xe hoa mất
thôi.” Bác Tâm dễ dãi đáp: “Có thêm thằng rể
cho vui nhà vui cửa, rồi cũng đến phiên mợ thôi,
chỉ sợ các cô nhà mình nhõng nhẽo quá không ai
giám rước mợ ạ!” Phương và Trinh nhìn nhau
tủm tỉm cười.
Chuyến xe Sài Gòn - Vũng Tàu cũng sắp tách
bến, tiếng người lơ xe kêu gọi hành khách, tiếng
bạn hàng nói chuyên xôn xao, tiếng những máy
xe kêu sình sịch đều đặn, nhả những vùng khói
trắng mịt mù, khung cảnh thật nhộn nhịp làm
Phương cảm thấy lâng lâng một niềm vui. Sau
103
khi Bác Tâm và Tú ngồi vào chỗ trên chuyến xe
đông khách, Phương và Trinh cũng ngồi vào
băng trống ngay đằng sau, Phương ngồi chỗ bên
trong, gần cửa sổ. Xe từ từ chuyển bánh ra khỏi
trạm. Khi ra đến đường chính, bác tài cho tăng
tốc độ, bánh xe lăn đều trên con đường rộng
tráng nhựa, tiếng xì xào nói chuyện của hành
khách cũng thưa dần, những ngọn gió mát nhè
nhẹ thổi qua khung cửa sổ làm Phương cảm thấy
thoải mái. Trinh đã gục đầu vào vai Phương ngủ
từ bao giờ. Phương mỉm cười nhìn quanh xe,
phần lớn hành khách trên xe cũng đã chìm vào
giấc ngủ hoặc lơ đãng nhìn qua cửa sổ như đang
tận hưởng không khí trong lành. Phương nhìn
đồng hồ tay, chưa 7 giờ mà trời đã sáng hẳn, bầu
trời như phủ bằng một tấm lụa xanh biếc tuyệt
đẹp, xa xa cuối chân trời những tia nắng bình
minh đang lung linh, nhảy múa làm một góc trời
sáng rực như nửa vòng cung ngũ sắc khổng lồ có
dát vàng phản chiếu những tia sáng muôn màu.
Những tia nắng ấm áp kia như đang chuyền sức
sống xuống cánh đồng xanh rì những ngọn mạ
non. Quả là một bức họa tuyệt mỹ! Một kỳ công
của Tạo Hóa! Phương thầm nghĩ, chỉ có cây cọ
thần kỳ của Đấng Hóa Công mới có những nét
chấm phá tài tình này. Bất giác Phương nhớ đến
Danh, người yêu của nàng. Chàng Sĩ Quan Hải
Quân có mái tóc gợn sóng trông rất nghệ sĩ,
khuôn mặt khôi ngô và đôi mắt sáng, trên mặt
chàng lúc nào cũng có sẵn một nụ cười tươi. Nụ
cười như hàm chứa một sự bình an. Không
những mấy đứa em Phương rất mến Danh mà cả
đến mẹ và chị Phương cũng quí chàng. Mỗi khi
nói chuyện với mấy bà bạn về chàng mẹ thường
kết luận: "Cậu ấy hiền như cục bột!" Có lần
Phương nói dỗi với mẹ "Anh ấy là người mà
sao Mẹ cứ ví như cục bột !"
Phương ngả đầu vào thành ghế, trong lòng
cảm thấy bình an và hạnh phúc. Phương miên
man nghĩ về Danh. Không những trí óc và con
tim của Phương mà hầu như tất cả những tế bào
trong cơ thể của Phương đều nhớ Danh da diết.
Hình bóng chàng oai hùng trong bộ quân phục
màu xám nhạt, sợi dây kết màu vàng óng ánh
trên chiếc képi vành đen và đôi omega vàng trên
cầu vai. Tất cả như tô điểm thêm cho nét phong
lưu, oai dũng của người sĩ quan trẻ tuổi. Đứng
cạnh chàng Phương thấy mình như thật bé nhỏ.
Tháng trước về phép, Danh bảo, chàng đang tạm
trú ở Căn Cứ Hải Quân Cát Lở gần Vũng Tàu để
chờ tân đáo Giang Pháo Hạm Thiên Kích HQ
329. Danh ước gì có Phương ra thăm. Dù ước
như thế nhưng Danh biết Mẹ Phương tuy có vẻ
thông cảm với tuổi trẻ nhưng cũng rất nghiêm
ngặt, nên Danh không dám xin phép cho Phương
ra Vũng Tàu chơi. Thư cho Phương, Danh còn
viết : "Mỗi buổi sáng thứ bảy, nếu được đi bờ
anh sẽ đợi em ở cổng trại Căn Cứ Hải Quân Cát
Lở, anh sẽ chờ em cho đến khi mỏi mòn, anh sẽ
chờ em dù biết em không đến...." Lời thư làm
Phương nghẹn gào thổn thức. Phương nghĩ: Nếu
mọi chuyện êm xuôi, theo dự tính của Trinh thì
chỉ ngày mai là Danh sẽ gặp được Phương, ngạc
nhiên này sẽ làm Danh vui sướng biết mấy!
Tiếng xe thắng vội, cắt ngang dòng tư tưởng của
Phương, Phương nhận ra xe đã đến trạm nghỉ để
đổ thêm xăng. Tiếng những người bán hàng
rong xôn xao mời gọi làm mọi người trên xe tỉnh
giấc. Bác Tâm ngoái đầu ra cửa sổ mua bốn
chiếc bánh ú và mấy xâu mía ghim. Hình như ai
cũng đói nên ăn rất ngon. Khi tất cả đã ngồi vào
chỗ, bác tài cho xe nổ máy và tiếp tục cuộc hành
trình. Mặt trời đã lên cao, xe chạy nhanh băng
qua những cánh đồng nặng trĩu những bông lúa,
vườn mía với những cây mía vàng óng nổi bật
trong đám lá xanh, thấp thóang vài túp lều tranh
nằm ẩn núp sau những rặng dừa xanh um lá.
Tiếng Trinh đều đều tâm sự "....tao ghen với
hạnh phúc của mi Phương ạ. Anh An cũng là sĩ
quan Hải Quân như bồ của mi, nhưng anh đóng
mãi tận Năm Căn, anh ấy kể lại đó là nơi rừng
sâu nước độc, tao không tới thăm được, mà anh
ấy cũng ít được đi phép, bọn tao rất ít khi gặp
nhau, An viết thư cho tao hằng tuần nhưng tao
vẫn thấy thật trống vắng, thật cô đơn. Mẹ An
104
muốn bọn tao làm đám hỏi ngay sau khi tao thi
xong, nhưng ý mẹ tao chưa muốn, có lần mẹ nói
với tao lính tráng sống nay chết mai, mẹ không
muốn con gái sớm trở thành góa phụ ..."
Phượng lặng yên để Trinh trút cạn nỗi lòng.
Phượng thầm nghĩ : Những người trẻ trong thời
chiến thật quá bất hạnh! Bất chợt Phương nhớ
đến hai câu thơ mà Phương đã có lần đọc được
"Năm Căn đi dễ khó về, khi đi tàu sắt khi về hòm
cây." Phương rùng mình cố xô đuổi những tư
tưởng u tối. Cả Phương và Trinh đều im lặng,
hình như mỗi người đều theo đuổi một tư tưởng
riêng.
Tiếng bác Tâm kêu: "Cho xuống đây bác
tài." Người tài xế giảm tốc độ và cho xe dừng lại
bên lề đường. Bác xuống trước, mọi người lục
tục theo sau. Đi qua cổng làng, bác rẽ vào con
đường đất nhỏ đưa vào nhà. Con đường rợp
bóng mát từ hai hàng hoa giấy bên lề đan vào
nhau như vòng cung. Trước cửa nhà, bên trái là
cây vú sữa nặng trĩu những quả tím lịm, bên
phải là những chậu kiểng đã được tỉ mỉ cắt xén
thành hình những con công, con phượng ...
Trước hiên nhà có một vườn hoa với những đóa
hoa tươi thắm nhiều màu sắc. Phương biết ngay
đây là công trình của bác trai, vì bác rất thích
hoa và kiểng. Đang cắt xén chậu kiểng thấy mọi
người bước vào, bác ngừng tay và mừng rỡ reo:
- Tôi tưởng phải đến tối mẹ con bà mới về
đến."
Vừa nhìn thấy Phương bác lại reo lên:
- Có cháu Phương đến chơi nữa à! Để bác
đặt rọ bắt cua cho mấy đứa ăn. ..."
Bác mừng rỡ, tíu tít hỏi chuyện Trinh, Tú và
Phương. Phương nhìn quanh trong nhà, bàn ghế
được đánh vẹc ni bóng loáng, hai khung cửa sổ
được treo màn lụa trắng mà Trinh đã khéo léo
thêu lên những nhánh mai vàng trông rất mỹ
thuật. Từ phòng khách Phương có thể thấy hai
buồng ngủ bên trong và nhà bếp đằng sau. Tú rủ
Phương và Trinh ra ao câu cá, và nhắc Trinh nhớ
mang theo rổ để hái rau. Bước qua cây cầu khỉ
đằng sau nhà là đến ao cá. Cây cầu thật trơn, dù
Phương bước cẩn thận nhưng cũng suýt té xuống
mương làm Trinh và Tú cười ngặt nghẽo. Dọc
theo ao cá Phương thấy những chặng dừa xiêm
sai trái, rũ bóng trên mặt ao nhìn rất nên thơ.
Chẳng mấy chốc Tú đã câu được tám con cá rô
lớn. Vòng sang bên hông nhà, Trinh và Phương
cắt bạc hà, tần ô, hành và nhiều loại rau thơm
khác. Phương mân mê những trái mướp thòng
xuống từ cái giàn dựng bằng tre thô sơ. Hoa
mướp màu vàng ánh rất đẹp, đây là lần đầu tiên
Phương nhìn thấy hoa mướp. Cả nhà phụ bác gái
làm cơm chiều. Bác gái làm món cá chiên sả ớt
và canh bầu nấu tôm. Bác trai vừa đổ cà ri vào
chảo cua đang xào trên bếp vừa đùa: "Đầu tôm
nấu với ruột bầu, tôi chan bà húp gật đầu khen
ngon." Bác gái mắng yêu: "Ông chỉ giỏi tài tán
tỉnh!" Phương và Trinh bỏ thêm vỏ dừa vào bếp
cho nồi canh chua mau sôi. Chẳng mấy chốc bữa
cơm đã được dọn lên. Bác trai đã cắt sẵn một
bình hoa tươi để giữa bàn. Ngoài hoa huệ và vạn
thọ, Phương thấy trong bình còn có một nhánh
hoa dại với những đóa hoa đỏ thắm, nhỏ li ti,
cánh hoa mỏng manh có hình dáng giống như
trái tim. Phương hỏi tên của loài hoa, Trinh bảo
đó là hoa dại nên không có tên nhưng Trinh và
Phương cũng lãng mạn đặt tên cho hoa là hoa
"Thủy Chung". Mọi người ngồi vào bàn ăn, họ
vừa ăn vừa nói chuyện rất vui vẻ. Buổi tối ở
đồng quê xuống thật vội, hai ngọn đèn dầu được
đốt lên tỏa ánh sáng leo lét trong căn nhà. Trinh
và Phương ra chiếc võng ngoài hiên hóng gió
một lúc thì Trinh đã buồn ngủ và đòi đi ngủ
sớm, Trinh cho Phương biết Trinh đã xin bố mẹ
ngày mai cho Tú đưa Phương ra Vũng Tàu,
Trinh sẽ không cùng đi chung, vì nàng muốn ở
nhà viết thư cho An. Phương cảm thông cho tâm
trạng của người chị họ và cũng là người bạn thân
của Phương. Trinh đã ngủ từ lâu mà Phương vẫn
còn thao thức, nằm nghe tiếng dế mèn kêu rả
rích, nghĩ đến ngày mai sẽ được gặp Danh lòng
Phương cảm thấy bồn chồn và rộn lên một niềm
vui khôn xiết.
105
Tiếng gà eo óc gáy làm Phương thức giấc,
ánh nắng đã chiếu xuyên qua cửa sổ hắt vào
giường ngủ, Trinh vẫn còn say ngủ. Phương
bước nhẹ ra khỏi giường để khỏi đánh thức
Trinh, Phương nghe tiếng bác trai và Tú nói
chuyện bên phòng khách. Ngoài sân, bác gái
đang rải những hạt thóc xuống sân, bầy gà con
và gà mẹ đang say sưa mổ những hạt thóc trên
sân, chú gà trống có bộ lông vũ nâu và chiếc
mào đỏ thắm đang vươn cánh trên đống rơm,
đầu cất cao gáy những tiếng "ò ó o". Đàn chim
sẻ đang líu lo hót trên cành, văng vẳng xa đưa
tiếng "nghé ngọ", "hụm bò" của trâu bò. Ánh
nắng ban mai chiếu xuống những chiếc lá xanh
mướt còn đọng sương đêm, long lanh phản chiếu
những tia sáng bảy sắc cầu vồng. Thực là một
buổi sáng thanh bình ở đồng quê! Vừa trông
thấy Phương bác nhoẻn miệng cười hỏi Phương
có ngủ ngon giấc? Bác bảo ăn sáng xong thì Tú
sẽ đưa Phương ra bãi biển chơi cho biết đó biết
đây. Phương thầm cảm ơn cho sự xếp đặt khéo
léo của Trinh.
Tú đã sẵn sàng trong bộ đồ short và một túi
xách trên vai, chào hai bác xong, Phương và Tú
đi bộ ra đường đón xe lam, Trinh đưa Phương ra
đầu ngõ và chúc vui vẻ. Trinh nói nhỏ chỉ đủ để
Phương nghe "Đám cưới của bọn tao, tao sẽ mời
bọn mi làm phụ dâu phụ rể được không nhỏ?
Khi nào đám cưới bọn mi tụi tao sẽ làm nhân
chứng tình yêu." Phương cười khúc khích vì tư
tưởng ngộ nghĩnh của Trinh. Tú tuy nhỏ tuổi
hơn Phương, nhưng vì sống nhiều năm ở đồng
quê nên không đến nỗi nhỏ thó như Phương.
Tính tình lại vui nhộn và hay nghịch ngợm. Có
Tú tháp tùng Phương cảm thấy yên tâm, hơn nữa
Tú quá quen thuộc với Vũng Tàu nên không sợ
bị lạc. Chiếc xe lam dừng lại trước cổng trại lính
cho Phương và Tú xuống. Phương thấy có nhiều
quân nhân qua lại. Phương đang bỡ ngỡ ngước
đọc tấm biển dựng trước cổng "Căn Cứ Hải
Quân Cát Lở ", lẩm bẩm nói với chính mình: "
Đúng chỗ này rồi! " Còn đang bối rối chưa biết
phải hỏi thăm ra sao, Phương thấy có nhiều
người lính Hải Quân đang đi về chỗ Phương và
Tú đứng, họ nhìn rất oai hùng trong bộ quân
phục màu trùng dương. Một người trong nhóm
cất tiếng hỏi.
- Cô tìm thân nhân phải không ?"’
Phương lúng túng trả lời:
- Dạ, dạ tôi...
Phương chưa nói hết câu thì một người khác
trong nhóm chỉ người bạn đứng cạnh và đùa:
- Cô tìm anh này phải không ?
Phương nghe có tiếng cười tinh nghịch, Phương
càng thêm luống cuống mặt nóng bừng vì những
lời chọc ghẹo. Phương nghĩ thầm: "Mấy ông này
phá quá, mình phải lấy lại bình tĩnh." Giọng
người đàn ông ban đầu lại ôn tồn hỏi:
- Cô bé tìm ai? Cho tôi biết tên, tôi có thể
giúp cô.
Tú sợ Phương không trả lời nên vội đáp:
- Tìm anh, anh Danh.
Phương cũng thu hết can đảm nói:
- Chúng tôi tìm Hải Quân Trung Úy Lê Chiêu
Danh.
Một người khác trong nhóm như hiểu biết,
nhanh nhẹn nói:
- Danh đợi cô ở cổng này từ sáng, mới đi tắm
biển với Thiếu Úy Cầu. Anh có thể đưa cô bé ra
đó, cô là em gái của Danh hả ?
Nghe người lính nói, Phương cảm thấy thật
buồn và thất vọng, nước mắt rưng rưng, lòng
thầm trách Danh sao không đợi thêm chút nữa.
Phương phân vân chưa biết xử trí ra sao đã nghe
tiếng Tú nói:
- Cám ơn chú, cháu biết đường.
Kéo tay Phương ra khỏi cổng, bỏ lại sau lưng
những tiếng xì xào và tiếng cười của những
người lính trẻ vui tính. Tú bảo chỉ cần một cuốc
xe lam 10 phút sẽ ra tới bãi biển.
Phương và Tú đi gần giáp bãi sau nhưng vẫn
không thấy bóng dáng Danh, Phương bước
những bước rất khó khăn vì đôi giầy cao cứ lún
sâu xuống bãi cát mịn theo mỗi bước chân,
106
Phương muốn tháo giầy ra xách trên tay nhưng
vẫn còn ngần ngại. Nhiều người nhìn Phương
với ánh mắt hiếu kỳ. Phương cũng biết, ra bãi
biển mà mặc áo dài trắng, quần trắng thay vì bộ
bikini màu
sắc sặc sỡ
thì tránh sao
được những
cặp mắt
hiếu kỳ.
Phương mặc
kệ, vì
Phương biết
Danh rất
thích
Phương mặc
áo dài trắng
và Phương chỉ muốn dành cho Danh một niềm
vui trọn vẹn. Phương ước gì có một cặp mắt
kiếng mắt để Phương mang vào cho bớt ngượng.
Đến lúc này, nỗi buồn và thất vọng dâng cao
trong lòng Phương. Tú đề nghị thử ra bãi trước
tìm. Quả thực Phương đã tìm được Danh ở bãi
trước đang ngồi uống nước với bạn ở một quán
lộ thiên. Vừa thấy Phương, Danh mừng rỡ chạy
nhanh về hướng Phương và Tú. Phương nghe
tiếng anh Cầu đùa với Danh "A! Cô em Bắc Kỳ
của mày tới rồi kìa!" Gặp Phương Danh mừng
rỡ, nắm tay Phương thật chặt như sợ Phương sẽ
tan biến trong không gian. Danh nhìn Phương
thật lâu như để chia xẻ niềm hạnh phúc đang
dâng cao như nước thủy triều trong lòng Danh.
Chàng nói như reo: “Em đã đến, em đã đến, anh
vui quá, anh không bao giờ ngờ em có thể đến
đây thăm anh, em của anh tài quá, hôm nay anh
là người sung sướng nhất trần gian.” Quay sang
hỏi thăm Tú, rồi Danh đưa Phương và Tú lại bàn
nơi Cầu đang đợi. Cầu ân cần thăm hỏi, nói với
Danh vài câu bông đùa mà Phương không nghe
rõ chỉ biết hai người cười nói rất vui vẻ. Cầu cáo
từ, viện cớ phải trở lại căn cứ. Bây giờ Phương
mới cảm thấy khát, bưng ly nước đá chanh uống
từng ngụm nhỏ. Tú đã uống hết ly nước và cũng
ăn hết ly kem ba màu. Tú xách chiếc túi có đựng
đồ tắm ngỏ ý muốn ra bãi sau tắm biển. Chỉ còn
lại Danh và Phương, Danh kéo ghế ngồi gần
Phương hơn, họ như có 1001 chuyện để nói với
nhau, họ tỉ tê tâm sự, tất cả chung quanh họ như
trở thành vô nghĩa. Họ chỉ biết một điều là họ
đang có nhau. Từ chiếc máy cassett trong quán,
giọng hát Thanh Lan vang vọng “...Gọi người
yêu dấu bao lần. Nhẹ nhàng như gió thì thầm.
Làn mây trôi gợi nhớ chơi vơi ... Gọi người yêu
dấu trong hồn. Ngập ngừng tha thiết bồn chồn.
Kỷ niệm xưa mờ thoáng trong sương cho lòng
nhớ thương ..." Tú đã trở lại rủ Danh và Phương
cùng xuống tắm biển. Phương ngần ngại vì
không mang theo đồ tắm vả lại nàng cũng chẳng
biết bơi. Danh bảo đồ tắm có thể mướn và chàng
sẽ dạy Phương bơi. Bà chủ tiệm trao cho
Phương chiếc áo tắm màu xanh dương có in hoa
trắng, Phương mặc rất vừa vặn. Danh và Tú ra
sức dạy Phương bơi, nhưng mỗi lần họ buông
tay ra thì Phương lại chìm xuống nước, nước
biển trong xanh và mát làm Phương cảm thấy dễ
chịu, tiếng sóng vỗ ào ào vào những bờ đá và
tràn vào bãi cát mịn màng. Danh hét to như át
tiếng sóng: "Phương đừng sợ, có anh đỡ cứ bình
tĩnh, thở bằng mũi đều đặn thì thân hình sẽ nổi
trên nước." Danh mượn một chiếc phao để
Phương có thể bám vào và bơi ra xa, Danh bơi
theo bên cạnh. Họ nô đùa ngụp lặn trong biển
hạnh phúc. Thời gian như ngừng trôi! Danh đưa
tay chỉ đôi hải âu đang lượn quanh trên vòm trời
rộng và thầm cầu xin Thượng Đế cho họ mãi có
nhau như đôi chim biển kia.
Hoàng hôn xuống dần, mặt trời đã bắt đầu ngả
về hướng tây. Tú đã lên bờ. biết giờ chia tay sắp
đến, Danh thì thầm:
- Anh không muốn xa em dù chỉ nửa giây
Bảo Phương nhắm mắt lại, Danh khe khẽ hát:
“Yêu nhau trong cuộc đời, mơ duyên tình dài
gắn bó đôi lời. Ta quen nhau một ngày, yêu
nhau trọn đời, giữ cho lâu dài. ..." Phương mở
choàng mắt và reo lên: "A! anh hát hay quá em
chịu thua.” Rồi Phương chạy nhanh lên bờ. Xa
107
xa vài chiếc tàu hải hành đang âm thầm vượt
sóng trùng dương. Sau khi Phương tắm lại nước
ngọt và thay đồ xong thì Danh và Tú đã ngồi
chờ sẵn bên ngoài. Phương nói với Danh
Phương phải về ngay đã trễ. Danh đưa Phương
và Tú ra trạm xe. Danh nắm tay Phương, bốn
mắt nhìn nhau như tiếc nuối một ngày vui chóng
tàn. Danh dõi mắt trông theo chiếc xe chở
Phương và Tú khuất dần trong tầm mắt, chỉ còn
lại một làn khói trắng mờ ảo. "Người đi một nửa
hồn tôi chết, một nửa hồn kia bỗng dại khờ."
Danh lẩm bẩm hai câu thơ của một nhà thơ tiền
chiến lãng mạn mà lòng buồn rười rượi.
oOo
Thấm thoát đã ba mươi năm mà tưởng chừng
như ngày hôm qua. Quá khứ là cả một kho tàng
kỷ niệm vô giá. Những ngày vui bên nhau trên
quê hương thân thương, bên giáo đường, nơi
khuôn viên đại học, bờ biển, đồng quê và nhiều
nơi khác ... Kỷ niệm nào nơi đất mẹ cũng đẹp,
cũng nên thơ. Nhưng kỷ niệm Vũng Tàu là một
trong những kỷ niệm mà Danh và Phương yêu
thích nhất. Ba mươi năm qua với bao thay đổi,
bao thăng trầm cho cuộc đời, cho vận mệnh một
quốc gia, một dân tộc; cho những người trẻ đã
sinh ra và lớn lên trong một thế hệ rã rời như Vũ
Hoàng Chương đã có lần than thở: "Lũ chúng ta
đầu thai lầm thế kỷ, một đôi người u uất nỗi bơ
vơ." Vì sự dị biệt của ý thức hệ, vì chiến tranh
bao anh hùng tuổi trẻ đã hy sinh cho chiến cuộc?
Bao gia đình ly tán, vợ trẻ sớm trở thành góa
phụ? Bao trẻ thơ sớm mất cha, anh? Bao mẹ già
mắt đã lòa vì khóc cho sự khổ đau của con cháu,
của cuộc đời? An và Trinh cũng cùng chung số
phận, cùng chung định mệnh với những kẻ bất
hạnh kia. Cô dâu Trinh mới ngày nào kiêu sa,
duyên dáng trong bộ áo cưới, e ấp sánh vai bên
chú rể An, đã vội vàng quấn lên mái tóc đen
huyền vành khăn sô trắng để suốt một đời u uẩn
nhớ thương! Chú rể An sao vội vã ra đi khi trái
hạnh phúc vừa thơm hương? Cố Hải Quân Đại
Úy Trịnh Trọng An đã "anh dũng hy sinh đền nợ
nước" chôn theo cả trái tim và cuộc đời của
người anh yêu nhất đời. An đã để Trinh lẻ loi
đơn chiếc trong đám cưới của Danh và Phương.
Ôi người đời và đời người! Một thời để yêu và
một thời để buồn phiền! Phương và Danh vẫn
hàng đêm cầu xin Thiên Chúa ban thái hòa an
lạc cho quê hương Việt Nam. Tuy cuộc sống
mới ở Hoa Kỳ có đầy đủ về vật chất, phố mới
người vui nhưng những kỷ niệm nơi cố hương
vẫn là nguồn an ủi nhiệm mầu mang lại bình an
cho tâm hồn họ trong những ngày lưu xứ. Tạ ơn
Thiên Chúa đã cho con người những kỷ niệm để
chia xẻ cùng nhau. Chung quanh họ vẫn còn có
những người bạn với những trái tim chan chứa
tình người và tình huynh đệ. Tuy tóc đã đổi mầu
và tuổi đời chồng chất, nhưng tim họ vẫn còn
xanh và tràn đầy sức sống, tin yêu về một ngày
mai cho một Việt Nam Độc Lập, Tự Do, Thịnh
Vượng và Tiến Bộ vẫn còn đầy ắp trong trái tim
của họ.
Lê Phạm Kim Phượng
108
CHUYỆN CẦN ĐƯỢC KỂ
Xuân chiến thắng trong trại tù cải tạo Suối Máu
Ngô Thụy Chương
Để tưởng nhớ đến Hải Quân Trung úy
Phạm Ngọc Đông(OCS9)
Trại tù cải tạo Suối Máu nằm trong địa phận
tỉnh Biên Hòa. Nơi đây hơn bốn ngàn sĩ quan
quân đội VNCH đã bị giam giữ dưới danh từ mỹ
miều “học tập cải tạo”. Suối Máu được chia làm
5 trại tù: K1, K2, K3, K4 và K5. Các trại bị ngăn
cách nhau bởi những
chòi canh và hàng
rào kẽm gai dầy đặc.
Giữa năm 1978 do
tình hình bất ổn nơi
vùng biên giới Việt
Miên, chúng tôi bị
chuyển từ trại Cà
Tum, Tây Ninh về
K4 Suối Máu. Nơi
đây, tôi liên lạc được
Phạm Ngọc Đông
(OCS9) cũng đang
bị tù tại trại K5. Hai trại chúng tôi sát cạnh nhau
nên buổi trưa tôi và Đông hay ra đứng sát hàng
rào để trao đổi tin tức. Đông và tôi đã có thời
gian phục vụ chung tại Giang đoàn 75 Thủy Bộ
mà vị tư lịnh lực lượng lúc đó là Phó đề đốc
Hoàng Cơ Minh.
Do thân tình đó, chúng tôi coi nhau như anh em.
Đông tính tình bộc trực, gan dạ và xông xáo.
Trong thời gian phục vụ tại Giang đoàn Thủy
Bộ, tôi đã từng chứng kiến sự can trường của
Đông. Nay gặp lại nhau trong trại tù, tôi biết thế
nào Đông cũng có những hành động táo bạo bất
ngờ, nên lựa những dịp nói chuyện với nhau tôi
thường khuyên Đông nên thận trọng. Sự suy
đoán của tôi không sai vì trong cuộc biến động
tháng 12 năm 1978 tại Suối Máu, đưa đến sự
phản kháng của toàn năm trại chống lại bọn cai
ngục cộng sản, Đông chính là một trong những
người chủ xướng.
Câu chuyện bắt
đầu khi anh em tù
cải tạo K5 đi làm
khu sinh hoạt phía
ngoài vô tình nhặt
được một số bản
báo cáo của những
tay ăng ten nằm
vùng trong trại tố
cáo anh em với hy
vọng được thả về
sớm.
Qua những bản báo cáo này, những tên nằm
vùng đón gió đã bị phát giác. Một làn sóng căm
hờn dâng lên trong toàn trại. Đông và một số
anh em nhiệt huyết tại K5 bí mật thành lập “ban
hành động” với nhiệm vụ hỏi tội những thành
phần ăng ten trong trại. Buổi tối đó, ban hành
109
động ra tay và bọn ăng ten nhận được những
trận đòn đích đáng. Sáng ngày hôm sao, người ta
thấy những tên ăng ten này máu me đầy người
bò ra khỏi trại, xin đi nằm bệnh viện và không
dám trở về trại nữa.
Tin K5 hỏi tội bọn ăng ten được loan truyền
nhanh chóng đến các trại khác. Trại K4 của
chúng tôi cũng không kém; ban hành động được
thành lập bao gồm những anh em khỏe mạnh, võ
nghệ cao cường. Những ngày sau đó là những
ngày hãi hùng cho đám ăng ten, trở cờ trong trại.
Buổi tối những toán người bịt mặt tiến vào
những phòng có ăng ten đang ngủ. Đèn phòng
tắt phụt và khi gian phòng chìm trong bóng tối
thì bản cáo trạng kể tội được dõng dạc đọc lên.
Bọn ăng ten còn đang luống cuống trong mùng
thì dây giăng mùng bị cắt đứt và tức thì những
cú đá, cú đấm được tung ra. Tiếng thét đau đớn
kèm tiếng kêu cứu vang lên khắp trại … nhưng
không ai phản ứng. Ngày hôm sau, những tên
ăng ten này bị thảy ra khỏi trại và tự bò đến
bệnh xá xin chữa trị vết thương.
Chiến dịch “bình định nông thôn” đã thành
công. Trong trại không còn bóng dáng những kẻ
nội thù; mọi người đi lại, phát biểu tự do. Khi
trận đánh ăng ten xảy ra, chúng tôi nghĩ bọn cai
tù sẽ có những hành động đối xử tàn bạo hơn với
chúng tôi. Nhưng lạ thay, chúng không hề có
phản ứng và mỗi lần vào trại chúng phải đi cả
chục đứa súng ống tua tủa. Nhìn thì có vẻ ghê
gớm lắm, nhưng qua ánh mắt của chúng chúng
tôi biết chúng không còn cảm thấy an toàn khi
vào trong trại. Biết thế anh em tù hả hê phấn
khởi. Ta đã thắng trận đầu tiên.
Khi thấy lũ cai tù không phản ứng, phe ta thừa
thắng xông lên. Tất cà năm trại đồng ý sẽ tổ
chức mừng Giáng Sinh. Đây là một thách thức
cho bọn cai tù cộng sản. Hai vị linh mục có mặt
tại trại K3 nhận trách nhiệm làm lễ ngoài trời
cho anh em công giáo cả năm trại. Sáu giờ chiều
ngày 24 tháng 12, không ai bảo ai, mọi người
không phân biệt tôn giáo cùng tiến về sát K3
tham dự thánh lễ. Việc ngang nhiên tổ chức
mừng Giáng Sinh không chỉ mang ý nghĩa tôn
giáo mà cũng là một thông điệp đối kháng trực
tiếp với bọn cai tù, như một tuyên ngôn đòi tự
do cho con người.
Bên ngoài bọn cai tù lúng túng. Chúng đi vòng
quanh hàng rào các trại im lặng quan sát nhưng
hoàn toàn không có hành động phản ứng. Buổi
lễ mừng Giáng Sinh tuy đơn giản nhưng thành
công. Toàn thể anh em trong trại vui mừng khôn
tả vì phe ta lại thắng bọn cai tù một trận thứ hai.
9 giờ đêm hôm đó, tôi đang ngồi nói chuyện với
một số anh em thì có người vào báo có người K5
muốn liên lạc gấp. Tôi tiến lại gần hàng rào thì
nhận ra người đang đứng chờ là Phạm Ngọc
Đông. Đông thấy tôi liền nói oang oang:
-“Chương, bọn công an vừa tràn vào K1 và bắt
đi ba người. Anh báo lại cho anh em ban hành
động K4 tin này nhé. Bên này tụi tôi sẽ biểu tình
phản đối để yểm trợ K1.”
Nhận được tin này, tôi biết như thế là bọn cai tù
đã bắt đầu phản ứng. Tôi nhanh chóng liên hệ
anh em nhóm hành động để thông báo sự việc
xảy ra tại K1.
Từ K5 Đông đánh kẻng báo động toàn khu Suối
Máu. Các trại hưởng ứng lời kêu gọi, tập họp
rất đông tại hội trường và ngồi biểu tình đòi trả
tự do cho ba anh em thuộc K1 bị bắt. Tại K4
bỗng nhiên thiếu úy Nguyễn văn Hóa, một cựu
ca trưởng của một ca đoàn ở Sai gòn tiến lên
phía trước và bắt nhịp bản Đêm Đông. Trong
đêm tối mênh mông, gần một ngàn tiếng ca cùng
đồng loạt vang lên:
“Đêm đông lạnh lẽo Chúa sinh ra đời, Chúa
sinh ra đời nằm trong hang đá nơi máng lừa...”
Lời hát vang lên trong đêm tối, vang vọng đến
các trại bạn chung quanh, rồi bỗng nhiên không
ai bảo ai cả năm trại tù Suối Máu với gần bốn
ngàn tù cải tạo đã cùng đồng ca nhạc bản Đêm
Đông. Trong khi K1 bắc loa yêu cầu bọn cai tù
phải thả ngay ba anh em bị bắt thì ca trưởng
Nguyễn văn Hóa đầy nhuệ khí và linh động
vung tay bắt nhịp bản Việt Nam Việt Nam.
110
Ngàn giọng hát phát ra như vỡ tan lồng ngực
bay tới tận khu vực của bọn công an cai tù.
Chúng sửng sốt, ngỡ ngàng vì không ngờ phản
ứng mãnh liệt của anh em. Chúng lúng túng,
chạy tới chạy lui phía ngoài, một lúc sau chúng
điều động ba chiến xa đến án ngữ cổng trại K4,
chúng rọi đèn pha chiếu sáng một vùng K4, toán
cộng con chĩa súng chuẩn bị tấn công.
Để giữ vững tinh thần anh em, ca trưởng
Nguyễn văn Hóa lại phất tay bắt nhịp:
”Trên đầu súng quê hương tổ quốc đã vươn
mình, trên lưỡi lê căm hờn hờn căm như triều
sóng...”
Lời ca như thách thức, như khai hỏa một cuộc
chiến mới. Từ bên ngoài bọn cai tù bắc loa hù
gọi mọi người phải giải tán nếu không chúng sẽ
nổ súng. Bên trong anh em vẫn ngồi yên tay nắm
tay nhau thật chặt và các bài nhạc chính huấn lại
vang lên như xé màn đêm, như ngạo nghễ đối
mặt với giặc thù.
Không thấy phía trong giải tán, hàng loạt đạn
được bắn trực tiếp vào khu hội trường, một vài
anh em bị trúng thương nhưng mọi người vẫn
ngồi trong trật tự. Ca trưởng Hóa hiên ngang kêu
gọi anh em hát to để “tiếng hát át tiếng súng” và
vung tay bắt nhịp bản “Việt Nam Quê Hương
Ngạo Nghễ”:
“Ta như nước dâng dâng tràn có bao giờ tàn,
đường dài ngút ngàn chỉ một trận cười vang
vang”
rồi nhạc bản “Thề không phản bội quê hương”,
“Quyết chiến! Thề quyết chiến! Quyết chiến!
Đánh cho cùng dù mình phải chết
Để mai này về sau con cháu ta sống còn”.
Ngàn giọng ca dâng cao bằng trái tim, bằng nhịp
thở, hiên ngang và uy dũng đã lấn áp cả tiếng
súng từ bên ngoài.
Nhanh chóng ”ban quyết tử” được thành lập bao
gồm những anh em gan dạ, võ nghệ cao cường.
Toán quyết tử này nằm phục sát gần cổng trại
chuẩn bị một trận thư hùng để đời nếu đám công
an tấn công. Một nhóm khác chuẩn bị phá hàng
rào để anh em có thể vượt thoát ra ngoài khi bị
tấn công. Trong lúc đó tiếng hát vẩn tiếp tục
vang lên,
“Một cánh tay đưa lên,
hàng ngàn cánh tay đưa lên,
hàng vạn cánh tay đưa lên
quyết đấu tranh cho một nền hòa bình chân
chính ...”
Trong giây phút căng thẳng ấy, thời gian tưởng
như ngừng lại thì bỗng nhiên ba xe tăng và toán
công an đang án ngữ cổng trại K4 tự động rút đi.
Trong trại nhốn nháo, không biết bọn cai tù sắp
tung ra chiêu gì mới, thì từ K1 loan báo ba anh
em bi bắt đã được trả về trại. Tin mừng này
được đón nhận như một niềm vui chiến thắng,
tiếng reo hò vang dậy khắp năm trại Suối Máu.
Chiến thắng này phải được ghi vào chiến sử mai
sau.
Sau chiến thắng huy hoàng và nhận thấy phản
ứng yếu ớt của bọn cai tù, anh em tự động cắt bỏ
nhiều khu hàng rào ngăn cách để các trại có thể
đi lại dễ dàng. Nhờ vậy tôi đã gặp lại Nguyễn
Tuấn Bình (T4) và Nguyễn Trung Hùng (U5),
chúng tôi qua lại thăm nhau, nhất là Hùng,
chúng tôi thường qua lại thăm nhau, hai đứa
ngồi đánh cờ tướng , “rít” những điếu thuốc lào
thật “phê” và kể cho nhau nghe những kỷ niệm
vui buồn đời lính biển.
Cùng thời điểm đó, ban hành động các trại gặp
gỡ nhau và đi đến quyết định cùng hợp tác để
hành động chung. Các trại thành lập “Ủy ban
bảo vệ danh dự quân đội VNCH”. Ủy ban ra
những thông cáo kêu gọi tình huynh đệ chi binh,
kêu gọi có những hành động không hại đến danh
dự quân đội. Trại K4 còn thành lập ban văn nghệ
dã chiến tổ chức hằng đêm các chương trình văn
nghệ quê hương.
Đêm văn nghệ đầu tiên được tổ chức tại hội
trường K4 thật long trọng với nghi lễ chào quốc
kỳ và một phút tưởng niệm các chiến hữu đã bỏ
mình vì lý tưởng tự do. Không thể tưởng nổi,
111
ngay trong vòng kiềm tỏa của giặc thù, trong trại
tù, những người chiến sĩ của quân lực VNCH
vẫn không hề sợ nguy hiểm đến tính mạng, họ
đã nắm chặt tay nhau cùng hát to:
”Này công dân ơi đứng lên đáp lời sông núi,
đồng lòng cùng đi hy sinh tiếc gì thân sống. Vì
tương lai quốc gia, cùng xông pha khói tên, làm
sao cho núi sông từ nay luôn vững bền ...”
Những ánh mắt rưng rưng, những cảm xúc tột
cùng dâng trào, họ hiện thân những chiến sĩ tuy
không còn vũ khí và dù chiến đấu đơn độc
nhưng vẫn hiên ngang đứng vững như lời thề
năm xưa nơi quân trường cũ: ”Thà chết cho máu
đào tô điểm non sông”.
Kể từ thời gian đó chúng tôi sống tự do, thoải
mái. Mùa xuân lại trở về, các trại tổ chức những
trận bóng chuyền giao hữu, những buổi thuyết
trình chống cộng và phân tích tình hình được
công khai tổ chức. Các đêm văn nghệ với con
chim đầu đàn Nguyễn văn Hóa lúc nào cũng thu
hút cả ngàn khán giả. Trại tù Suối Máu được
hoàn toàn “giải phóng” vì giặc thù không giám
tự tung tự tác nữa.
Vài tháng sau, bọn cai tù bắt đầu phản ứng. Việc
đầu tiên là chúng tung tin sẽ có nhiều người
được trả tự do về với gia đinh. Sau đó chúng
chuyển một số anh em qua trại khác. Kế hoạch
này nhằm làm giảm tinh thần đối kháng của anh
em cũng như phân hóa tinh thần anh em trong
trại. Một vài người vẫn còn mơ ngủ, tin vào lời
hứa của bọn cai tù đã lén lút khai tên những
thành phần nòng cốt hoạt động. Do đó nhiều anh
em tích cực hoạt động đã bị chuyển trại và đưa
về giam ở khám Chí Hòa. Phạm Ngọc Đông
cũng không thoát khỏi cuộc lùng bắt này.
Cuộc nổi loạn tại trại tù Suối Máu bắt đầu vào
tháng 12/1978 và kéo dài năm, sáu tháng, tuy
ngắn ngủi nhưng đã là một cuộc chiến đấu hào
hùng của hơn 4000 chiến sĩ VNCH chống lại
bọn cai tù cộng sản. Các anh em đã chứng tỏ
tinh thần “thà chết vinh còn hơn sống nhục”. Có
người bị bắt, bị đánh đập tàn nhẫn, có người đã
chết tức tưởi vì đòn thù của bọn cai tù cộng sản,
nhưng tinh thần bất khuất hào hùng của các
chiến sĩ anh hùng tổ quốc sẽ muôn đời ghi nhớ.
oOo
Tháng chín năm 2010 vừa qua tôi liên lạc được
anh Phan Công Đoàn, người bạn học thời niên
thiếu, một cựu sĩ quan không quân. Đoàn cũng
là bạn thân với Phạm Ngọc Đông và cả hai cùng
ở chung với nhau tại trại tù K5 Suối Máu. Năm
1982, Đông được trả tự do có ghé thăm Đoàn.
Đông kể lại những tra tấn tàn bạo của bọn cai tù
Chí Hòa mà dấu vết vẫn còn in hằn trên thân thể
anh. Chúng bắt anh khai tên những thành phần
chủ chốt trong cuộc nổi dậy tại trại tù Suối Máu.
Đông kiên quyết không khai một ai; quá tức giận
tên cai tù đã quát lên:
- "Mày muốn gì?"
Đông hiên ngang trả lời:
- "Chúng mày cứ bắn tao đi, tao không khai một
ai cả."
Cuối năm 1982, Đông cũng tìm đường ra đi,
nhưng anh đã không đến được bến bờ tự do.
Thân xác anh đã chìm vào biển mẹ để lại thương
tiếc cho gia đình, bạn bè, chiến hữu khắp nơi.
Ngô Thụy Chương (U5)
Mùa Xuân 2012
112
Một ngày trên cao nguyên
nctd
Chiếc xe lao vun vút trong đêm đen dầy
đặc, trên con đường thanh vắng, trống trơn,
thỉnh thoảng mới có một chiếc xe chạy ngược
chiều, dù vận tốc chỉ có 65 dặm một giờ, hoặc ít
hơn, đôi khi qua khúc quanh co tôi còn giảm tốc
độ xuống nữa, chậm hơn bình thường lái ban
ngày rất nhiều, vậy mà đôi khi cũng thấy còn
nguy hiểm, vì không thể thấy xa hơn khoảng
cách vài trăm sải, cái khoảng cách an toàn tối
thiểu trong trường hợp khẩn cấp. Những cột sơn
lân tinh cắm dọc ven đường, và những bảng
hướng dẫn lưu thông đủ mầu, xanh đỏ vàng đen,
phản chiều rực rỡ dưới ánh đèn pha, nổi bật lên
trong màn đêm tối đen như bưng, khiến tôi liên
tưởng tới mầu sắc của những cái bánh oản, được
bọc bởi những tấm giấy bóng kính mầu trong
suốt, không thể thiếu trong những ngày cúng
giỗ, hay lễ hội ở miền quê thuở nhỏ, nhìn những
mâm oản xếp thành hình kim tự tháp trông
quyến rũ làm sao, ngoài cái vị ngọt ngào của bột
bánh, cái màu sắc của nó càng thu hút những
đứa trẻ con như tôi, thèm đến chẩy nước miếng
nước giải, giống những viên kẹo sô-cô-la bây
giờ hấp dẫn trẻ con, nhất là trẻ con vùng quê
thiếu chăm sóc về răng lợi, ăn ngọt đến răng sún
mà bố mẹ cũng không ngăn cản nổi. Ngày ấy
chả mấy khi mà mỗi đứa trẻ chúng tôi được trọn
một cái oản, nếu được cắt làm đôi đã là may
mắn lắm, bằng không chỉ được một phần tư là
cùng, ăn xong lại chia nhau miếng giấy bóng
kính để dán lên mắt, nhìn cuộc đời mầu sắc đẹp
đẽ bội phần hơn.
Ngoài hai vệt đèn pha quét thẳng về phía
trước, còn thấy được hình thù các vật thể, chung
quanh chúng tôi bao trùm một màu đen tối thẳm,
tối đến độ hình thái tùy theo ảo giác của mỗi
người, muốn cho là gì thì nó thành cái ấy, tôi có
cảm tưởng như xe đang lao dưới những tàng cây
cổ thụ, trong những cánh rừng trùng trùng điệp
điệp, mà khi nhỏ tôi thường nghe kể, chuyện
những người thợ săn thú rừng về đêm, hay của
những người kháng chiến chống tây thời đó, len
lỏi trong rừng già cả ngày không thấy ánh mặt
trời. Đen như các cụ thường ví von tối như đêm
ba mươi, hay đêm trừ tịch, tôi không biết chính
xác cái đen đêm ba mươi nó tối cỡ nào, nhưng
chắc cũng chỉ đen như đêm nay là cùng, vì lúc
nhỏ ở quê, đêm đêm thường có ánh trăng vàng
vừng vực sáng, mà mỗi khi nhìn ông trăng là tôi
lại mơ ước, làm chú cuội để được kề cận bên chị
Hằng. Thật ra chả ai biết chị Hằng bao nhiêu
tuổi, đẹp ra sao, nhưng trong đầu óc trẻ con của
tôi, tôi nghĩ chị Hằng phải đẹp lắm, đẹp hơn
những cô hàng xóm, hay những cô gái đẹp trong
vùng mà thỉnh thoảng tôi gặp, hoặc giả nếu đem
so sánh thời điểm này, chắc cũng ngang ngửa
với những nàng “Tiên Nga” của vài anh bạn tôi,
chứ không thua. Ờ mà cũng lạ! tôi cứ nghĩ thằng
cuội chỉ mười mấy tuổi là cùng, sao người ta lại
chọc ghẹo nó là “Thằng cuội già ôm một mối
mơ”? Không lẽ thằng cuội cũng già lắm rồi hay
sao! Nếu thế thì thật đáng buồn và tội nghiệp
cho chị Hằng của tôi quá! Và khi lớn lên ở Sài
113
gòn, cũng chỉ thấy ánh đèn thành phố sáng rực
cả bầu trời, chứ đâu có tối đen. Sau này vào lính
tôi cũng có rất nhiều đêm thức trắng, không đi
ca “cách mạng” nửa đêm trên biển cả, thì cũng
tuần tiễu trên sông, hoặc nằm phục địch trong
kinh rạch, nếu không có trăng sao vằng vặc, thì
cũng có ánh sáng hỏa châu, những ngọn đèn trời
treo lơ lửng giữa không gian, bằng những sợi
khói mong manh, trông như những giải lụa đào,
trắng nõn nà đong đưa trong gió, sáng rực một
góc trời, tuy không sáng choang choang như ánh
đèn thành phố, nhưng cũng đủ để các anh chàng
mơ mộng, mượn làm đèn viết thư tình.
Thỉnh thoảng chiếc xe chao nghiêng một bên
trong những khúc “cua” gắt, làm bạn Nam ngồi
cạnh mở mắt ra hỏi một hai câu bâng quơ “bác
đã mệt chưa? ” hay “bác có buồn ngủ không?”
Tôi thì đặc biệt không quen ngủ trên xe, dù là cơ
thể có mệt mỏi đến mấy, tôi vẫn thường thức
trắng đêm dù đôi mắt cay xè như đang cắt củ
hành và đôi mí nặng trĩu như có quả tạ đeo vào,
có thể tôi sẽ vật vờ cả ngày hôm sau, hay sẽ nằm
liệt giường liên tiếp mấy ngày sau cuộc hành
trình, nhưng chẳng mấy khi tôi có thể ngủ ngồi
trên xe, tôi cũng chẳng hiểu tại sao, phải chăng
vì cái ám ảnh tai nạn ngày xưa, đã cho tôi thoát
chết trong đường tơ kẽ tóc, trên chuyến xe lô-ca-
xông Sài gòn - Vũng tầu. Hôm đó tôi ngồi ở
hàng ghế sau bên cánh cửa trái, tựa đầu vào
thành cửa sổ mà ngủ, vừa tỉnh dậy được hai ba
phút thì chiếc xe ngược chiều, lạc tay lái đâm
ngay vào cánh cửa trái chỗ tôi vừa gục đầu, may
mắn tôi thấy và ép sát người qua bên phải tránh
kịp, cánh cửa bị lõm vào khá nặng và kính thì vỡ
vụn, thế là từ đó trở về sau, tôi không thể nào
ngủ trên xe được nữa.
Vài năm nay, kể từ khi mấy anh bạn tôi tham
gia nhiếp ảnh, tôi có nhiều dịp theo chân đi chơi
xa, trong những ngày cuối tuần hay nghỉ lễ, dù
tôi chỉ trực tiếp cầm máy có mấy tháng gần đây,
mấy nhiếp ảnh gia người nào cũng thích chụp
đồi, chụp núi, có thác, có suối, nhất là mấy ông
cho thêm phần ướt át, nhưng ướt át không cũng
chưa đủ, họ còn thích những mùa cây cỏ đơm
bông, thay hoa đổi lá, nhất là bình minh và
hoàng hôn thì không thể thiếu, cho cuộc đời
thêm phần mầu mè sặc sỡ, nên thường mỗi lần
đi là mỗi lần phải lái thâu đêm, chúng tôi chia ca
để mọi người thay phiên nhau, tôi không ngủ
nên lãnh ca cách mạng theo danh từ của các
chàng thủy thủ, những người lao động ở đây gọi
là ca nghĩa trang, tôi đề nghị để tôi lái suốt đêm,
vì tôi tỉnh ngủ, một người thức còn hơn tất cả
cùng thức, còn các bác lái ban ngày, nhưng các
bạn tôi phần lớn đều là dân lái tầu ngày trước,
nên dư kinh nghiệm máy bất khiển dụng là
chuyện bình thường, nhất định không chịu tôi lái
thâu đêm, sợ cơ thể tôi mệt mỏi, lại vô hữu dụng
gục lúc nào không hay. Được cái may mắn, phần
đông các bạn đều dễ ngủ, mới nói chuyện đó,
nhưng chỉ một phút sau tiếng nhạc cụ đã trỗi
dậy, mấy chàng so dây lẹ lắm, bạn Nam thì tế
nhị hơn khi ngồi ghế phía trước hay ghế thuyền
trưởng, chàng thường thức để chuyện trò giúp
người lái khỏi buồn ngủ, nhưng nếu cần thì
chàng cũng dễ dàng thiếp được ngay, riêng anh
trưởng nhóm, trời thương bà xã chiều, chị lái
đêm cũng giỏi, nên chị ít khi để chàng lái, thế là
chàng tự do chơi trumpet, saxophone bất cứ giờ
giấc nào, ngày cũng như đêm, ngồi hay nằm
không thành vấn đề.
Con đường 395 vắng lặng, đã lâu lắm tôi
không qua con đường này, nên quên khuấy mất
những cảnh vật chung quanh, không biết hai bên
đường là núi đồi, vực thẳm hay đồng bằng. Đêm
đã về khuya, yên tịnh quá, không nghe tiếng
giun kêu, dế khóc, nhưng thay vào đó là tiếng
bánh xe lăn đều đều trên mặt đường nhựa êm ả,
phát những âm thanh o o nghe thật vui tai, xen
vào tiếng gió ù ù bên ngoài, và tiếng nhạc cụ của
ban đại hòa tấu “bất tự nhiên thành”, trong bản
“Đường vào mộng”, của tác gỉa vô danh từ phía
sau vọng tới, mỗi người một nhạc cụ riêng, có
lúc nghe như những tiếng sóng vỗ bập bùng của
cái ống bô tầu, pha tiếng lóc cóc giòn tan như
pha lê của cái điếu cày, mà mấy bác tiều phu kéo
114
lót dạ buổi sáng, thỉnh thoảng xen vào tiếng gió
rít của đại dương gào xiết bên ngoài, nghe mà
phát thèm. Đoạn đường ngang khúc sa mạc
Mojave có nhiều gợn sóng nhấp nhô, đưa chiếc
xe cuốn vút lên rồi ngụp lặn xuống thật sâu, vỗ
về trong tôi cái cảm giác lênh đênh nhồi lên,
thụp xuống trên triền sóng mênh mông cao chất
ngất, trong chuyến hải hành cuối cùng, với con
tầu cận duyên tí hon ngày nào băng vịnh Thái
lan, đó là lần đầu tiên và cũng là lần cuối cùng
vượt biển không có nơi đến, và không hề tí ti
mảy may chuẩn bị, tôi chắc bác Nam cũng có
cảm giác này trong huyền thoại “Boat People”
ngày nào mà chàng đã trải qua.
Nhìn qua kính xe hằng hà xa số những vì sao
lấp lánh trên nền trời đen thẳm, tôi cố gắng moi
óc tìm kiếm xem những chòm, vì sao nào tôi còn
nhớ? Nhưng tôi chịu thua, chả còn biết sao mô!
sao tê! sao răng! sao rứa! những vì sao đã bay
bổng về trời hay đã tả tơi, rơi rụng chìm sâu
dưới lòng sông Vàm Cỏ, trên khúc sông Trà Cú,
Đức Hòa, Đức Huệ, con kinh Ngang, hay rạch
Thủ Thừa. Tôi gợi chuyện với Nam: “Bác nhìn
kìa! Ở quận Cam có bao giờ mình được thấy
những vì sao như thế này nhỉ” Rồi câu chuyện
những sao rơi, sao băng ở miền quê Việt Nam
ngày xưa lại nối nhau bay xoẹt về, không biết
ngày nay có còn dễ thấy hay không, nhưng ở
đây thì hiếm thấy lắm. Nam mở cửa sổ xuống
lưng chừng nhìn lên bầu trời, tiếng gió vù vù
thổi vào bên trong khiến cho ba người ngồi phía
sau tỉnh dậy, anh bạn Thắng luôn có thói quen
tráng miệng bằng câu “Tới đâu rồi hả bác?” sau
khi vừa chấm dứt nhạc hòa tấu cho bản trường
ca đêm. Chị Dung người phụ nữ trẻ nhất nhóm
và duy nhất trong chuyến đi săn hình lần này tỏ
ra khá hiểu biết về các vì sao, chị tham gia với
hai bạn Nam và Thắng luận bàn các vì sao Aries,
Gemini, Venus, Constellation, vân vân và vân
vân, khiến tôi hơi ngạc nhiên, buột miệng “Trời!
Chị không là lính Hải quân mà sao chị rành sao
quá vậy”! Chị trả lời giọng pha chút mát mẻ
“Đâu phải chỉ Hải quân các anh mới biết sao
đâu? Chớ coi thường người khác à nhe”! Tôi vội
vã chữa lửa “Không dám đâu thưa chị, chẳng
qua vì tôi nghĩ, người ngoài không có cơ hội
dùng thường, nên ít ai để ý thôi, nhất là phái
nữ”! Ừ mà tôi cũng biết tại sao rồi, tại vì ông
anh ruột và ông chồng hải quân tài hoa của chị
nên chị mới biết nhiều sao như vậy, đúng
không? Mặc dù thường thì các bà, các cô luôn
đã có sẵn rất nhiều vì sao trong đầu, biết bao là
những “tại sao và vì sao”! Nhưng những sao đó
khó mà tìm thấy trên bầu trời, bái phục chị lắm
lắm!
Lần đi săn hình kỳ này vô tình có đến ba
chàng độc thân tại chỗ, ngoại trừ Nam, người
hùng hơi cứng đầu một chút, và có bản lãnh
thuyết phục chị nhà, lại có được lý do để đi lẻ rất
nhiều và rất ư là chính đáng, vì “Tham mưu
trưởng” của anh luôn luôn mắc kẹt dạy kèm
ngày cuối tuần, không thể đi xa, còn lại hai
người Thắng và tôi, được vợ cho đi thực tập “Tự
sống còn” xem đã thấm nhuần bài học được tới
đâu, sau bao năm thụ huấn bên cạnh các sếp lớn,
Thắng vì lý do chị Nguyệt còn bịnh sau chuyến
đi Oregon tuần trước nên không đi, nhưng chàng
thỉnh thoảng cũng đi đây đi đó một mình, vì gia
đình đông anh em, bà con họ hàng ở xa. Riêng
tôi, thú thật! từ ngày tự nguyện ký vào tờ giấy
chung thân cùng nàng, sơ sơ mới có 23 mùa hè
ấm cúng trôi qua, đây là lần đầu tiên đi xa mà
thiếu “má bầy trẻ” kiêm “chị vú” ở bên cạnh,
cũng vì má bầy trẻ có thể phải làm ngày thứ bẩy,
và cũng bởi vì tôi đã hẹn với vài anh chị bạn đi
leo đồi cuối tuần, nên nàng phải ở nhà để lo
nghĩa vụ, cá nhân tôi đánh liều đi đại, vì suy đi
tính lại, đi chung với bạn bè vừa vui, thảnh thơi
lại vừa ít tốn kém, nhất là tôi có thì giờ rảnh, ở
nhà cũng không làm gì, nhưng cũng phải ca bài
con cá dữ lắm, nào là “Em đừng lo! anh Truyền
nói chị Dung đã lo thức ăn cho cả nhóm rồi, đủ
cả hai ngày, sáng trưa chiều tối không thiếu bữa
nào, còn nữa, chị Oanh, chị Nguyệt cũng làm
bánh mì ăn sáng, bánh chưng ăn trưa để các bác
mang theo, nên anh không đói đâu mà sợ, nàng
115
cũng an tâm, vả lại thấy tôi rất say mê mùa thu,
và e cũng chả còn mấy mùa thu trong đời, nên
đành để tôi đi một mình, dù lòng nàng cũng
muốn đi theo bảo vệ và canh chừng “Đồ cổ, dễ
vỡ, xin cẩn thận” lắm lắm.
Nam và tôi thay phiên nhau lái, sau gần 6
tiếng đồng hồ trong đêm khuya, chúng tôi tới
nơi sớm hơn dự định, mới 4 giờ 30 sáng, còn
phải chờ tới hơn hai tiếng nữa mặt trời mới mọc,
nên dừng lại ở bãi đậu của một khu khách sạn
nghỉ ngơi cho an toàn, chờ gần bình minh sẽ vào
hồ June lake. Thời tiết trên cao nguyên khá lạnh,
nhất là bây giờ trời đã vào cuối thu, và bình
nguyên này lại nằm trên cao độ gần bẩy ngàn bộ
(6781”), cũng may nhờ đã chuẩn bị kỹ lưỡng, ai
cũng đem theo áo lạnh, đó là công của anh
trưởng nhóm Truyền nhắn nhủ, nên cũng không
đến nỗi lạnh lắm. Chàng đã nghiên cứu kỹ lưỡng
và còn in hình mẫu, của những tay nhiếp ảnh gia
lão thành ra xem vị trí, để anh em dễ dàng tìm vị
trí, chụp được những tấm ảnh đẹp mắt và ưng ý,
trong nhóm nhiếp ảnh tài tử nho nhỏ chúng tôi,
anh chị Truyền-Dung là cặp say mê nghệ thuật
nhất, nên chàng luôn sốt sắng đứng ra lãnh trách
nhiệm tìm tòi, sưu tầm những nơi chụp hình, và
đứng ra tổ chức những chuyến săn hình cho
nhóm, số còn lại, nhất là tôi chỉ ham vui, chỗ
nào lạ, cảnh đẹp và có bạn bè là có tôi.
Sau hơn hai tiếng đồng hồ ngồi co ro trong
xe, mọi người cố nhắm mắt nhưng không ai ngủ
được, phần vì lạnh, phần vì háo hức chờ bình
minh. Cuối cùng thì cũng đã đến giờ, chúng tôi
dời xe vào địa điểm, mọi người loay hoay lấy đồ
nghề, mũ nón, túi máy, chân ba càng lủng lẳng
trên vai, nối đuôi nhau theo ánh đèn pin, len lỏi
giữa những lùm cây ven hồ, trời vẫn còn tối, anh
Nam với cái đèn pin thợ hầm mỏ gắn trên đầu,
thật tiện dụng và hữu ích, có được đôi tay tự do,
chàng xông xáo len lỏi, tìm vị trí góc cạnh đặc
biệt cho riêng mình, mỗi người một chỗ, cấm
chen lấn, hồn ai nấy giữ. Càng vào gần hồ, giá
lạnh càng tăng, sau khi tìm được chỗ và dựng
máy xong, thì cái lạnh cũng đã ngấm qua đôi
găng tay, chui vào đôi giầy, xuyên qua làn vớ,
khiến mười đầu ngón tay, mười ngón chân bắt
đầu lạnh cóng, thân mình thì còn đơ đỡ nhờ cái
áo lạnh vợ tôi đã chọn. Cám ơn em nhiều lắm,
cái lo của em trước khi anh đi rất có lý, vì nếu có
em bên cạnh, hai bàn tay này đã được em xoa
bóp và truyền hơi ấm từ đôi bàn tay của em,
chắc chắn là đỡ cóng nhiều lắm. Ánh trăng, ánh
sao từ từ biến mất, nhường chỗ cho ánh sáng
mặt trời lên, giữa cái tranh tối tranh sáng, tôi
thấy rõ mặt nước hồ phẳng lặng, trong veo in
bóng những rặng núi, hàng cây, bầu trời trong
xanh dưới đáy hồ, hồ không lớn lắm, nhưng đủ
thấy hết ngọn núi chìm sâu dưới đáy, đứng ven
bờ hồ chúng tôi không nhìn thấy mặt trời mọc,
vì chung quanh bao bọc bởi núi cao, điều chúng
tôi chờ là ánh bình minh chênh chếch phủ đầu
non, cuối cùng thì một vệt nắng nhỏ tí đã hiện ra
tuốt trên đỉnh ngọn núi giữa, bên tai văng vẳng
tiếng máy bấm lách cách cạnh tôi, bác Thắng
đứng kế bên trái, bác Nam ngồi thụp cách đó hai
ba bụi, chị Dung, anh Truyền bên phải, trông gồ
ghề, chuyên nghiệp hơn, với những bộ kính mầu
hai phần phân ánh sáng, tuy cái lạnh đến thấu
xương, nhưng mặt mày ai trông cũng tươi rói,
hớn ha hớn hở, cứ như bắt được vàng, mà vàng
thật, nhìn kìa. Ánh bình minh dần dà sáng rõ
hơn, lúc đầu còn hanh vàng mờ ảo, sau đổi thành
mầu vàng cam, rồi sáng đỏ rực quét một vệt
ngang trên đầu núi, phản chiếu dưới mặt hồ
trông càng đậm nét rạng rỡ hơn, một màn sương
mỏng nhẹ nhàng, lơ lửng treo lưng chừng núi,
cảnh đẹp tuyệt vời, trông như một bức tranh
thủy mạc thần tiên.
Tôi ráng canh theo kinh nghiệm qua máy
chụp phim ngày xưa, cộng sự hiểu biết lõm bõm
đọc sách, và đặc biệt sự hướng dẫn từ các bạn
bè, hết bấm rồi chỉnh, chỉnh xong lại bấm, lại
chỉnh càng nhiều càng tốt, vừa để học hỏi thêm,
vừa may ra chó ngáp phải ruồi cũng được một
vài tấm ưng ý, thời gian càng lâu thì mười ngón
tay tôi càng tê cứng, đau nhức đến lúc không
còn cảm giác, không thể chỉnh máy được nữa,
116
thì cũng vừa lúc nắng đã lên cao, tôi xếp máy
chui vào xe ngồi cho đỡ lạnh, các bạn vẫn loay
hoay chụp bên ngoài, cố thu mọi khía cạnh, mọi
góc độ ánh sáng. Thục hai tay vào túi áo cho ấm,
tôi đưa mắt nhìn mặt hồ, hang ngàn con rắn bạc
li ti mầu
xám đuổi
nhau dưới
ánh sáng
phản chiếu,
trên những
gợn sóng
lăn tăn, theo
gió nhè nhẹ
lùa trên mặt
hồ, những
chú vịt trời
săn mồi
buổi sáng
đua nhau
bơi, vừa lặn vừa vẽ những vòng giao ước cộng
hưởng. Từ những lùm cây, những người thợ câu
đầu đội mũ lông, mình áo bông dầy cộm, đủ
mầu, chân đi ủng cũng bắt đầu chui ra, sửa soạn
cần câu, đồ nghề chờ những chú cá trout đói
bụng dại khờ. Tôi ngả lưng vào thành ghế,
buông lỏng tâm hồn hòa cùng cảnh vật chung
quanh, bất chợt tôi ao ước, giá mà có một ly cà
phê sữa nóng, một điếu ba số 5 thì hay quá, quả
là tuyệt vời, nghĩ vậy tôi tự mỉm cười một mình,
ai bảo sống ở đất nước này là tiên, muốn gì có
đó, một thứ rất tầm thường, nhưng bây giờ kiếm
đâu ra. Rồi lại nhớ những mùa đông thơ dại trên
đất Bắc, mỗi sáng phải đi băng ngang qua mấy
cánh đồng để đến trường, cỏ cây còn phủ đầy
những giọt sương trong sáng long lanh, lơ lửng
trên đầu cây hoa gạo một màn sương dầy đặc
trắng như bông, mình mặc hai lớp áo, cộng chiếc
áo len, tay đeo găng và chân mang bít tất do mẹ
tôi đan, thế mà những ngón chân, ngón tay cũng
lạnh cóng và đau điếng như lúc này. Cạnh đó
thật tội nghiệp các bà mẹ quê, những người nông
dân, chân đi đất mới sáng tinh sương đã phải ra
đồng làm ruộng, cầy sâu cuốc bẫm, trên mình
chỉ mỗi một manh áo tơi bằng lá, để che gió
ngăn sương, đầu một chiếc nón rách, và chị nuôi
của tôi đâu có được găng tay, mang vớ như tôi,
chị còn phải cõng tôi, vì đôi bàn chân bé bỏng
của tôi thường
bị nứt nẻ, chảy
máu mỗi mùa
đông, đau đớn
lắm không thể
đi được. Nghĩ
lại cuộc sống
thật quá khổ
cực, nhưng tôi
lại thấy thật êm
đềm, giản dị và
thơ mộng quá,
không bon
chen, không xô
bồ hỗn tạp như
thời nay.
Mặt trời đã lên cao, Truyền hối thúc chúng tôi
thu xếp đồ nghề dời địa điểm đến các hồ thác lân
cận, Silver lake, Lundy Fall, ban ngày anh
Truyền và chị Dung thay phiên nhau lái, vì
chàng là người sắp xếp cuộc hành trình, đường
đi vào rừng tuy không bằng phẳng, không trải
nhựa, nhưng xe dễ dàng chạy vào tới nơi, không
phải lội bộ, duy chỉ có đường tới thác ít người
lui tới, con đường mòn leo lên núi ngưng ở cao
độ khoảng chừng hơn trăm bộ, và cách thác
khoảng nửa dặm, tuy thác không cao nhưng
muốn tới gần, phải leo vách núi đá hơi khó đi, vì
không có lối mòn, Thắng dừng lại ở cuối con
đường mòn, bác Nam lủi thủi một mình đi trước,
sợ bác Truyền dành phần chụp hết hình đẹp, tôi
đuổi theo sau cùng, vừa đi vừa nghỉ, nhưng cũng
tới nơi, đi cho biết và thử sức trai già, chứ thực
ra thác này rất bình thường, không hùng vĩ và
mùa này còn rất ít nước, cảnh trí không hấp dẫn
cho lắm. Leo núi trên này mới thấy ảnh hưởng
của cao độ, tôi leo vài phút đã thấy mệt, tim đập
thình thình, khác với leo đồi Peter Canyon gần
117
nhà, đi cả 5, 6 dặm mà tim cũng không đến độ
đập như thế này.
Xế trưa chúng tôi kéo về Lee Vining một thị
trấn cao nguyên rất nhỏ, dân số theo thống kê
2010 chưa tới 300 hộ, sinh hoạt nhờ du khách
phần đông vào mùa hè và thu, còn mùa đông con
đường này không di chuyển được, vì thường bị
đóng băng. Sau khi lấy phòng khách sạn, chúng
tôi bắt đầu ăn trưa, chị Dung phát mỗi người
một chén sôi gà, lạp xưởng, vừa ăn vừa bàn bạc
cho chương trình buổi chiều chụp hoàng hôn tại
Mono lake, ăn xong chia tay nhau nghỉ mệt lấy
sức, lợi dụng giờ nghỉ ngơi, tôi ra ngoài thả bộ
lòng vòng, tiết trời lành lạnh, tôi kéo sụp chiếc
mũ nỉ
trùm kín
hai tai,
thọc tay
vào hai túi
áo, gió cao
nguyên
hiu hiu
nhè nhẹ,
đưa cái
lạnh của
núi đồi len
lỏi vào tận
trong lòng,
tâm hồn
tôi cảm thấy thoải mái, lâng lâng, cùng lúc
những nhung nhớ khôn nguôi chợt kéo về, nhớ
những chiều thu cuối tuần ở New Port, RI, lúc
tuổi xuân đang rộn nở huy hoàng, tràn trề sức
sống, và hướng vọng về tương lai nhiều nhất,
nhung nhớ một cái gì đó bâng khuâng. Duỗi tầm
mắt bồng bềnh trôi trên núi đồi bạt ngàn bao bọc
xung quanh, phủ dưới thảm nắng hanh vàng óng
ả, những rặng núi không nhọn, không đá lởm
chởm như vùng San Bernadino, hay dọc miền
duyên hải Cali, không có vực sâu thăm thẳm như
đường lên Big Bear, ở đây cũng không có những
rừng thông cao bạt ngàn của miền Oregon, mà là
những ngọn núi hiền hòa, vươn cao trên những
đồi cỏ dại thoai thoải thênh thang, ấp ủ mầu
sương lam, bắt tay nhau chạy dài tử núi này qua
núi nọ, núi rừng cây cối thưa và thấp. Thật tiếc!
không còn những cánh rừng thu vàng mênh
mông gợi tình, chúng tôi đã đến chậm mất một
hai tuần.
Con đường 395 trước mặt dài như dòng tóc
tiên nữ uốn lượn quanh co, hun hút giữa bình
nguyên cao nguyên, lúc thoai thoải lên cao, khi
mất hút sau ngọn đồi kế cận, tôi chạnh lòng nhớ
những buổi chiều một lần lên Pleiku, bồi hồi pha
chút buồn man mác, bất chợt tôi nhớ vài câu
trong bài Còn chút gì để nhớ: “Em Pleiku má đỏ
môi hồng, ở đây buổi chiều quanh năm mùa
đông” (Thơ Vũ
Hữu Định, nhạc
PD). Rồi thấp
thoáng cô bé
má đỏ hây hây
trên Đà Lạt mờ
mờ ảo ảo trôi
về, mới gặp
một lần mà
vương vấn mãi
về sau. Tôi rất
thích Đà Lạt, và
cao nguyên
trung phần,
nhưng chưa bao
giờ có cơ may ở đó lâu, nên bây giờ cứ mỗi lần
thấy núi, thấy cao nguyên là lại nhớ về quê cũ,
chắc bây giờ nó đã thay đổi nhiều lắm, không
biết có còn thơ mộng, lãng mạng như xưa. Lại
nhớ cuối đông 1971, khi đến Mare Island, không
hiểu sao tôi đã cảm thấy yêu mến ngay cái thành
phố nhỏ bé mang tên Vallejo, nằm về phía Đông
Bắc của vịnh San Pablo, phần nối tiếp phía bắc
của vịnh Cựu Kim Sơn, thành phố với những
con đường lên xuống nhấp nhô, với sương mù
bao phủ dù chỉ đến có một lần. Thật tình tôi
không hiểu tên này có nghĩa gì không, nhưng
trong đầu óc tôi cứ liên tưởng, như tên của một
118
người thiếu nữ Tây Ban Nha xinh đẹp tuyệt vời,
mà nó in đậm mãi mãi trong hồn tôi. Bây giờ
Lee Vining cũng cho tôi cái cảm giác “Ở đây
buổi chiều quanh năm mùa đông”, thơ mộng,
lãng mạng và hiền hòa, chỉ tiếc một điều tôi
không còn trẻ, để có thời gian ấp ủ những mộng
với mơ nữa, có chăng cũng âm thầm lắng đọng
trong tim.
Chiều ra Mono lake, nhưng rất tiếc trời không có
mây, cũng không có ánh hồng hoàng hôn rực rỡ,
bầu trời âm u, và bóng tối nhá nhem ụp xuống
thật nhanh, những loại đá ở đây giống như đá
ong và cũng không có mầu sắc đẹp đẽ, chỉ một
mầu xám tro, nên
tôi không có được
tấm nào ưng ý.
Chiều tối trở về
khách sạn, mấy
anh em được ăn
bánh mì cà-ri gà,
thú vị và rất ngon,
lần này thiếu bà xã
tôi và chị Nguyệt,
nên mình chị Dung
phải cáng đáng hơi
vất vả, nhưng cũng
chu đáo lắm. Hôm
sau theo đề nghị của anh trưởng nhóm, một
người tham lam chụp và luôn đói hình hơn cả
đói ăn, mọi người lại vui vẻ hớn hở lóp ngóp bò
dậy từ 5 giờ sáng, điểm tâm qua loa với cà phê
và bánh chưng tại phòng, chứ không chờ phòng
ăn khách sạn mở cửa, vì sẽ lên đường trở lại
Silver lake để chào đón bình minh, hy vọng
cũng đẹp như tại June lake sáng hôm qua, lại
tiếc thay sáng nay trời không có mây thu bàng
bạc, cũng chẳng có ánh bình minh rực rỡ. Trên
đỉnh núi từng khoang tuyết trắng, chắc sót lại từ
mùa đông năm trước vẫn còn tích tụ nằm rải rác
lưa thưa, như hững hờ nhắn nhủ lữ khách, hãy
trở lại đây tìm đôi giây phút lắng đọng tâm hồn,
hồ nước không sâu nhưng thật trong xanh, có bãi
cát trắng trải dài thoai thoải, những hòn đá nằm
ngổn ngang chơ vơ, thi gan cùng tuế nguyệt,
cảnh trí hồ lúc này không có gì đặc sắc, chúng
tôi dựng máy mỗi người mỗi góc, chạy tới chạy
lui, thu vội những hình ảnh lạ mắt để giữ làm kỷ
niệm, bác Nam luôn luôn thích nhìn sâu vào chi
tiết, lom khom quỳ trên bãi cát, cố bắt cho được
sự sống trong hàng lau sậy đã khô ở một góc hồ,
chị Dung, anhTruyền ngắm nghía, điều chỉnh để
ghi lại thật linh động từng chi tiết, mầu sắc, ảo
ảnh của từng sợi nắng, trên núi trên mây phản
chiếu dưới đáy hồ. Thật may mắn bây giờ có
máy chụp hình, nên chàng không đến nỗi phải
nhẩy xuống đáy hồ để chụp, như nhà thơ Lý-
Bạch ngày xưa
nhẩy xuống mò
trăng. Bác
Thắng thì thong
thả hơn, chàng
đi đi lại lại từ
đầu này tới đầu
kia, thăm dò
chờ tìm kiếm
những cái bất
thường, tôi thì
thấy cái gì thích
là chụp, đủ cả,
cỏ cây hoa lá đá
cùng mây! Loay hoay ở đây cho tới 10 giờ,
chúng tôi lên đường trở về, bác Nam dành lái
trước, nhưng hình như đêm qua phải chia
giường với người lạ, mà lại không là một siêu
mẫu mỹ miều, nên không đã giấc, hay tại sáng
nay chưa được “liều một đám, làm hai điếu” và
thiếu cà phê, mà cái khách sạn nay cũng kẹo
thật, bình cà phê trong phòng chỉ có một gói, mà
chúng tôi tới ba khứa lão chia nhau, nên bác
buồn ngủ sớm là phải.
Càng xuôi nam, cao nguyên hạ dần cao độ,
thời tiết trở nên ấm áp hơn, ngang qua Bishop,
may mắn thay rừng thu còn nguyên vẹn, lá vàng
óng ả tươi thắm chạy dọc hai ven đường, dài cả
119
mươi dặm, trải vào tút tận chân núi xa xa, phong
cảnh thật đẹp, thật hữu tình, không giống như ở
Inyo National forest, mùa thu đã bắt đầu cất
bước ra đi, hay như ở Oregon hai tuần trước thì
mùa thu lại chưa kịp đến, tôi gọi bác Nam dậy
xem lá vàng, hỏi xem có nên dừng lại không?
Nhưng thấy mọi người còn đang thiêm thiếp
giấc nồng, nửa mê nửa tỉnh, không ai hào hứng,
nhất là trời đã xế trưa, nắng ngà chênh chếch
ngả về tây, theo kinh nghiệm của những tay
chuyên nghiệp, nếu không có kính lọc ánh sáng
thích hợp, thì hình sẽ không đẹp, nên chúng tôi
bỏ qua và tiếp tục đường về. Hai ngày đi hơi
thấm mệt, nhưng thật vui, thật thú vị, và riêng
tôi đã có những khoảnh khắc hòa hợp được vào
mùa thu của đất trời, quả thật không uổng một
chuyến đi, mùa thu rồi sẽ qua đi, và mùa đông
chực chờ, tôi thầm ước từ nay sẽ cố gắng tận
dụng mọi cơ hội thả hồn hòa nhập với thiên
nhiên, đền bù những mất mát thời son trẻ, những
mùa xuân trong đời đã lỡ để trôi qua, mà không
cách gì cứu vãn được! Tôi thấy trong lòng lâng
lâng một thứ tình cảm nhẹ nhàng, và mùa thu
hình như vẫn còn đâu đó sâu kín trong hồn tôi!
Ta thấy gót thu đang nhẹ nhàng
Lìa từng cánh nhỏ khắp sơn lam
Thu vàng lưu luyến vương đầy lối
Lòng buồn se sắt bóng đông sang
Mỗi năm nhìn cánh rừng thay sắc
Bồi hồi luyến nhớ tuổi xuân xanh
Sơn khê xin giữ hồn thu lại
Kẻo lỡ thu sau quá muộn màng!
(Trích bài “Thu Cảm” cùng tác giả)
Nctd
Lee Vining, Cali. Thu 2011
April Rain Song (Langston Hughes)
Let the rain kiss you. Let the rain beat upon your head With silver liquid drops. Let the rain sing you a lullaby. The rain makes still pools on the sidewalk. The rain makes running pools in the gutter . The rain plays a little sleep-song On your roof at night . And I love the rain .
Bài Ca, Tháng Tư Mưa (Lê Ngọc Trùng Dương phỏng dịch - 3/5/12) Để mưa hôn cánh môi mềm Để mưa nhỏ giọt ướt thêm mái đầu Giọt mưa lấp lánh rơi mau Mưa ru em ngũ, đi vào mộng mơ Mưa rơi, thành vũng trên bờ Mưa tuôn qua máng, hững hờ mưa sa Mưa ru, đoản khúc tình ca Mưa đêm ướt lạnh mái nhà em yêu Yêu mưa, anh yêu rất nhiều
120
thơ Nguyên Nhi con dốc Tôi lại về đứng bên này con dốc Cây trăm năm sao khắc khoải như người Người trăm năm cũng cành trơ theo lốc Lá rơi hoài trên nỗi nhớ khôn nguôi Tôi lại về đứng bên này con dốc Núi trăm năm sao tàn tạ như người Người trăm năm cũng đá mòn rêu mốc Cứ lăn hoài xuống vực nhớ không thôi (Con dốc xưa tôi đặt tên dốc Đợi Cho trăm năm tôi gỗ đá nên lời Con dốc nay đìu hiu con dốc Nhớ Dốc trăm năm chặn mất nẻo đường tôi) Tôi lại về ngóng sang bên kia dốc Em trăm năm chim vỗ cánh qua đèo Con dốc lạnh nằm nghe trăng gió khóc Tôi trăm năm về dỗ mộng tàn theo
nhiều đêm thế đấy, hải đăng Có nhiều đêm như thế đấy, hải đăng Anh tỉnh giấc nửa khuya nằm chờ sáng Em đâu đó chập chờn làm con sóng Vỗ loanh quanh nỗi nhớ bức không rời Bao lần qua lòng cứ nhủ rằng thôi Từ cái thuở người xa tàu mất biển Sao trái tim vẫn trùng trùng binh biến Tình gươm đao xé nát mặt cổ thành
Rất nhiều đêm như thế đấy, hải đăng Anh nhẩm đếm bầy hải âu biệt xứ Nhục mất nước bỗng dài theo con số Đâu dễ nào yên giấc, hỡi niềm thương Thơ ướt hoài nhỏ có tội anh không Như chú dế ngoài hiên mưa khắc khoải Đôi cánh non có dẫn em trở lại Con đường hoen sương bờ cỏ quê nhà Nhánh bần cong soi bóng mặt sông xa Tiếng bìm bịp thảng thốt kêu nước lớn Hoa vẫn đỏ, nước còn xanh vô lượng Biển muối phai áo tím buổi quân hành Rất nhiều đêm như thế đấy, hải đăng Tờ lịch nhỏ mà ước mơ quá rộng Những hải âu lại bay vào trời mộng Anh lại về thơ một túi xênh xang Em lại là cô gái nhỏ chân trần Suốt đời biết yêu dưa hường bông bí (*) Dâu biển này chỉ là cơn mộng mị Mười lăm năm luân lạc, quên, hải đăng... Thơ sưởi hoài sao ấm được gối chăn Em xa quá mịt mù sương nghi ngại Quê xa quá chập chùng mây quan tái Đâu cách gì ngừng trăn trở, niềm thương
121
Rất nhiều đêm như thế đấy, hải đăng... -------------------------------------------- (*) “Mẹ mong gả thiếp về vườn Ăn bông bí luộc, dưa hường nấu canh”
(Ca dao)
Thấy mơ hồ một chiến hạm ra khơi 1. Ừ, thì ở đâu mà chẳng là nhà Ai mà chẳng là huynh với đệ Sao lại buồn chân mây, sao lại sầu cuối bể Chung cuộc một tiếng khà Thôi, vỗ mạn tàu mà ca Có hạt mưa nào vừa bay qua pháo tháp 2. Sóng tự nguồn xanh lăn với suối Hai mươi năm nở một ngọn phiêu bồng Cám ơn người đã thương ta như sông Hèn chi đời ngợp sóng Cám ơn ai đã yêu ta như biển Nên ngậm sóng trong lòng 3. Dậy mà đi, dậy mà kéo neo Đạp sóng dữ cho thủy thần biết mặt
Dậy cùng ta, hỡi người đánh giậm Hãy thức cùng hải âu Hãy đi mà bủa lưới kình ngư Sá chi chút bọt bèo ao cạn 4. Những ô cửa tờ mờ hắc ám Điệu luân vũ rậm rật nửa khuya Hãy còn một góc sân chơi khác Đặt cuộc đi thôi Thì cứ nghĩ cũng có người Tô Thị Ngóng trùng khơi đón gió đợi ai về 5. Rào rào gió giật, rào rào nước Rào rào triều dựng buổi quân đi Lính thủy cưỡi trên ngàn sóng bạc Bão giông hung hiểm có ra gì Biển bao năm rực rỡ ngọn Thánh kỳ Biển lộng lẫy như biển từ cổ tích... 6. Để khắc khoải đêm sâu tù cải tạo Nghe thinh không thảng thốt một hồi còi Để khật khưỡng chiều say trên xứ lạ Thấy mơ hồ một chiến hạm ra khơi Thôi, vỗ vào ký ức mà ca Có hạt mưa nào vừa bay qua khóe mắt
Nguyên Nhi
122
Lê Ngọc Trùng Dương
Kỷ niệm nào của một thời oanh liệt,
Hắt hiu buồn như sóng biếc trên sông.
Anh Lâm Thanh Thân Mến,
Về đến Connecticut đã ba ngày rồi mà tôi vẫn
còn ngây ngất về những ngày hè ở Houston.
Nắng Houston cũng gay gắt, trời Houston cũng
chợt mưa, chợt nắng như Sài Gòn quê hương
thân thương của thuở nào. Tham dự Đại Hội
OCS kỳ này, Sau ba mươi năm xa cách, mình
gặp lại nhiều bạn bè củ của Bạch Đằng 2 /
1969...Nhiều khuôn mặt quen thân, mà tôi tưởng
là suốt đời sẽ không bao giờ gặp nữa ! Tôi đã
gặp lại Việt, Bé, Khiết... ( Khóa 21 Nha Trang ),
Ân, San, ( Lưu đày/ OCS). Nghiêm, Đài, Giang
Nam, Kế Ba, Trung Hùng (OCS) và những bạn
được các bạn tinh nghịch đặt cho những biệt
danh biệt danh khó quên như Dũng Mad, Bạch
Rắn Mối, Khiết Trâu Nước, Khá Không Khá,
Lịch Mù, San Ma Bùn... Những biệt danh rất tếu
mà chúng ta đã thân ái dùng để trêu chọc những
người bạn đồng đội vui tính. Những người thanh
niên trẻ tuổi của Bạch Đằng 2 năm 1969 nay đã
quá lứa tuổi năm mươi !... Tuy đứng tuổi, nhưng
họ vẫn vui tính và tinh nghịch như thuở nào!
"Tuổi năm mươi mà ngỡ như trẻ thơ." (1) Biệt
danh Ma Bùn của San làm tôi liên tưởng đến
một đồng đội khác cũng được chúng ta ưu ái
tặng cho họ Ma; Ma gì anh Thanh có nhớ
không? Ma Khờ đó! Tôi nhắc tên hắn để anh
khỏi bận lòng suy nghĩ. Tôi và anh sẽ không bao
giờ gặp Ma Khờ nữa trên cõi đời này... Để tưởng
nhớ đến người bạn của những ngày mà bọn
mình còn tạm trú ở trại Bạch Đằng 2/1969. Tôi
sẽ kể lại chuyện tình của Ma Khờ cho anh nghe,
coi như là một hoài niệm.
Tôi và Ma Khờ là bạn thân từ thuở còn bé
thơ. Những ngày còn học lợp Ba lớp tư, Ma khờ
vẫn thường chở tôi đi học trên chiếc xe đạp của
hắn. Là một
học sinh xuất sắc, cuối niên học lớp nhất, hắn
nhận được phần thưởng cao nhất lớp do cố tổng
thống Ngô Đình Diệm trao tặng. Năm thi vào
lớp đệ thất, hắn cũng là một trong những học
sinh đỗ đầu. Rồi bốn năm theo học tại trường
trung học Chợ Gạo, thời gian vô tình êm ả trôi
qua. Năm đệ tứ, Ma Khờ đã chứng tỏ hắn là một
tài năng ưu tú trên nhiều lãnh vực. Dạo đó, đam
mê của tôi là mỗi chiều thứ tư được nghe các
bạn cùng trường trình diễn ca nhạc trên đài phát
thanh Định Tường. Ban nhạc do Ma Khờ làm
trưởng ban, Kim Ba đờn Guitar, Nguyễn văn
Phó đờn Mandoline, Trần văn Sáng thổi sáo, ca
sĩ thì có Huy Ba, Minh Hoàng, Hương Thu và
các bạn khác cùng trường nhưng khác lớp,
Nguyễn văn Phó đảm nhiệm thêm phần xướng
ngôn. Dù rằng chỉ là những học sinh tuổi mười
bốn, mười lăm... Nhưng các bạn, đã trình diễn
điêu luyện không kém gì những ca nhạc sĩ tài
danh. Năm cuối cùng ở trường Chợ Gạo, trong
Đặc San Trung Học Chợ Gạo, Ma Khờ đã ghi
lại nhạc phẩm đầu tay, Giọt Buồn Ly Biệt:
Mai xa nhau rồi,
123
Đàn chim về muôn lối,
Nắng rưng rưng sầu,
Hoa rụng ngẩn ngơ,
Rồi gót chinh nhân,
Mình đi với nỗi thương sầu,
Gió mây cũng buồn trong giờ kẻ ở người đi.
Muôn ve kêu sầu,
Tiễn ta về vạn lối... (2).
Cũng trong Đặc San đó, Ma Khờ đã viết những
bài thơ có vài đoạn mà tôi vẫn còn nhớ :
Mai tôi đi nhớ hoài trường trung học,
Chợ Gạo nằm trong biển lúa mênh mông.
...
Cà phê đắng rót chưa đầy trũng mắt,
Khói thuốc dày chưa ấm những đêm mơ...(3)
Sau năm đệ tứ, chúng tôi được chuyển trường
theo học lớp đệ tam trường trung học Nguyễn
Đình Chiểu, Mỹ Tho. Hai năm đầu êm ả trôi
qua, không có gì đáng nói, cho đến năm đệ nhất,
trường Nguyễn Đình Chiểu thu nhận thêm một
số nữ sinh theo học lớp Đệ Nhất C, trong đó, có
một nàng tên Phượng, người con gái Bắc mười
tám tuổi, có nụ cười thầm kín và đôi mắt đẹp u
buồn. Tuy nhan sắc nàng không là thiên kiều bá
mị, thiên hạ đệ nhất mỹ nhân, nhưng cũng đủ
làm say đắm bọn nam sinh cùng lớp, trong số đó
có Ma Khờ. Tuy tha thiết yêu nàng, nhưng
không bao giờ Ma Khờ dám ngỏ ý. Có một lần,
lớp tổ chức văn nghệ, Ma khờ tìm cách tỏ tình
bằng cách hát bài Phượng Yêu để tặng một
người:
Yêu người.... Như lá đổ chiều đông. Như
mây hồng chưa tím,. Như con chim khóc trong
lồng. Như cơn mưa giông đêm hè,. Tình ta nức
nở canh khuya. Yêu người như suối cuộn rừng
sâu. Như con tàu say gió. Như con giun ngước
lên trời. Yêu trăng sao vời vợi. Làm sao nói
được tình tôi...(4)
Khi hát xong bản nhạc, Ma Khờ ngượng
nghịu, chào các bạn rồi bỏ ra về. Riêng chị
Phượng thì đỏ mặt nhưng im lặng !
Ngày tháng lặng lẽ trôi qua, mùa thi sắp đến,
ai cũng biết là cuối niên học là mỗi người mỗi
ngả, có bạn sẽ vào đại học, nhưng nhiều bạn sẽ
thực sự bước vào đời, thực sự trực diện với
những thách thức của xã hội đang chờ đợi.
Thế là những lưu bút đã được chuyền tay, những
tâm tình thầm kín có cơ hội bày tỏ, hiện hữu trên
giấy trắng mực xanh. Trên trang lưu bút cho
Phượng, Ma Khờ đã bạo dạn mượn lời thơ của
thi sĩ Đỗ Trung Quân để tỏ tình,
Ai cũng hiểu- chỉ một người không hiểu
Nên có một gã khờ ngọng nghịu... mãi thành
câm..". (5).
Những lời, ai oán đau thương đó cũng không
đủ ma lực để làm rung động cõi lòng người đẹp,
vẫn không thấy nàng phản ứng gì !
Trước ngày chia tay của niên học cuối cùng
Ma Khờ đã cùng các bạn xuất bản tờ Đặc san
Tuổi Mây Bay. Trong đó, Dưới bút hiệu Hoài
Thương Phượng, hắn đã ghi lại những dòng thơ
trữ tình tha thiết:
Tôi đã yêu, hỡi người con gái,
Tóc ngắn mùa thu mộng đời xanh,
Lời yêu thương sao người không đáp lại.
Cho sóng lòng tôi cứ mãi loanh quanh ? (6).
Nhưng rồi nàng vẫn không nói gì nên lời yêu
thương hắn đành phong kín. Sau mùa thi năm
đó. Hắn tình nguyện vào quân chủng Hải Quân.
Ngày du học từ quân trường OCS trở về, Ma
Khờ, lại một lần nữa “thí mạng cùi” ghé thăm
Phượng tại nhà nàng. Phượng cho biết là nàng
đang theo học tại Đại Học Chính Trị Kinh
Doanh, nhưng phải nghỉ học về nhà dưỡng bệnh.
Nàng cũng bày tỏ là chuyện tình cảm giữa nàng
và người bạn học cùng lớp tên Khang lúc ấy
không được tốt đẹp và cũng không muốn có
những liên hệ tình cảm với ai nữa. Ma khờ lòng
buồn tê tái, về nhà viết thêm một đoạn thơ thất
tình trong bài thơ tình buồn dài lê thê của hắn:
Từ dạo đó sông xanh dài nẻo đợi,
Nước đôi dòng cuồn cuộn ý chờ mong,
Mà cánh én vẫn ngàn năm biền biệt,
124
Cho giọt buồn hoa sóng nở đầy sông... (7).
Trong một đoạn khác hắn đã viết:
" Những đêm dài, những đêm dài nhung nhớ,
Dáng em về ngây ngất mộng liêu trai.".. (8).
Rồi trách móc:
Người đâu gặp gỡ mà chi,
Trăm năm biết có duyên gì hay không ? (9)
Chờ mong ôi vẫn chờ mong,
Mà theo năm tháng hoài công đợi chờ,
Biết bao giờ, đến bao giờ?..". (10).
Sau lần cố gắng cuối cùng cho cuộc tình
tuyệt vọng, Ma Khờ tình nguyện phục vụ liên
tiếp 2 nhiệm kỳ trên hai chiến hạm thuộc Hạm
Đội. Và từ đó, hắn thường xuyên làm bạn cùng
Trăng, Sao, Mây, Nước, Sóng biển, Giông bão
và Nguy hiểm!.. Hắn có mặt nhiều nơi trên năm
vùng duyên hải; Từ Cao Miên, Hòn Cọp, Vũng
Tàu, Dương Đông, Ba Động, Sa Huỳnh, Năm
Căn... Hắn luôn luôn hăng hái trong mọi công
tác mà thượng cấp giao phó, dù khó khăn hay
nguy hiểm. Nhưng rồi,
Chữ tài liền với chữ tai một vần... (11).
Ma Khờ đã vĩnh viễn ra đi. Trong một
chuyến công tác yểm trợ hành quân ở Năm Căn,
tàu anh bị lọt vào ổ phục kích và một viên đạn
vô tình của quân thù đã kết liễu đờI anh. Ma
Khờ đã chết đi như một anh hùng tuổi trẻ, và để
lại chuyện tình không trọn vẹn!
Lòng ta chôn một mối tình
Tình trong giây phút hóa thành thiên thâu,
Tình tuyệt vọng nỗi thảm sầu,
Mà người gieo thảm, như hầu không hay."
(12).
Anh Lâm Thanh thân mến,
Có lẽ, tôi đã không muốn kể lại cho anh nghe
chuyện buồn của Ma Khờ,
nhưng vì chuyến viếng thăm Houston kỳ rồi
trong một dịp tình cờ, tôi đã gặp lại Phượng,
người yêu trong mộng của Ma khờ. Khi đi qua
gian hàng bán đồ chơi, tôi nghe một em bé trạc
năm tuổi, vừa kéo tay người chị độ mười bảy
tuổi vừa nói: " Chị Mai ơi, nói mẹ Phượng mua
cho bé Lan con búp bê này đi"... Rồi, cả hai tiến
về phía quầy tính tiền nơi có một thiếu phụ đang
đứng đợi. Khi nhìn kỹ người thiếu phụ, tôi bỗng
giật mình; rõ ràng là Phượng của năm nào! Vẫn
mái tóc ngắn của mùa thu, vẫn chiếc bóng xinh
gầy, đóa hoa hồng của thuở nào ! Tuy nàng có
vẻ già thêm hơn một chút. Tôi bước vội đến hỏi:
-Thưa chị, chị có phải là chị Phượng, lớp đệ
nhứt C Nguyễn Đình Chiểu năm 1969 không?
- Thưa vâng! Còn anh? Có phải là anh Đăng
học cùng lớp với Phượng, ngồi dãy bàn đầu hay
không? Người thiếu phụ trả lời và hỏi lại :
- Đúng vậy, chính tôi là Đăng đây, chắc chị
còn nhớ anh... Mà không...
Tôi đổi giọng : - Chị lập gia đinh được mấy
cháu ?
- Thưa anh, được ba cháu, đây là hai cháu
lớn. Cháu út ở nhà với ba.
Hôm nào có dịp mời anh ghé qua nhà Phượng
chơi. Ngày mới qua Mỹ,
Phượng có ý định đi học trở lại, Nhưng rồi
Phượng gặp anh Hiếu và kết
hôn với anh ấy. Anh Hiếu có phòng mạch riêng.
Phượng giúp anh ấy ở phòng mạch, vừa coi con
vừa làm thơ ký cho ông xã.
- Cám ơn chị, bao giờ có dịp tôi sẽ xin được
ghé qua thăm anh chị.
Phượng đưa tôi tấm danh thiếp của chồng nàng
và nói:
- Phượng xin phép chào anh, có lẽ ba các
cháu đang mong ở nhà.
(xem tiếp trang 192)
125
Baån tuâ – Duton Navigation
Hoàng Quốc Việt
Bỏ bê bạn tù quá lâu, mất trớn, mất khí thế,
viết lại hơi châm, cũng may đã lội hết phần sông
dài, ra được tới cửa... nhập vùng... biển khổ
mênh mông, bốn hướng tám phương đều khổ,
chạy trời không khỏi nó, đường nào cũng tới đó,
không sơ lạc... đề... khỏe re... như bò kéo xe!
Bởi vậy từ giờ trở đi, không cần giữ bố cục,
nhớ gì viết nấy, mà phải viết ngay, thời gian
phía trước không còn nhiều như... trước... phải
chạy đua với nó, chần chờ ''vốn luyến'' trong đầu
theo nó đi vào lãng quên, lú lẫn là kể như mất
dấu... chấm hết... cho Bạn Tù! Làm vậy là...
đem con bỏ chợ, đem quân bỏ chạy, tan hàng tự
thua... coi sao được, chịu sao nổi! Và làm vậy là
lãng phí một kinh nghiệm trần ai quý hiếm thời
trai trẻ lính tráng... dập vùi theo vận nước nổi
trôi... ‘’thời gặp thế thế thời phải thế ’’... mấy
trăm năm mới có một lần, từ thời Trịnh Nguyễn
phân tranh đến giờ, đời người khó gặp, người
thường khó thấy!
Phải... quan quyền... nặng tình quê hương đất
nước... lấn cấn vướng mắc mấy chữ ... Tổ Quốc-
Danh Dự - Trách Nhiệm... trên nón... trong
đầu... ở lại... không chịu... ra đi... mới nếm được
cái thú đau thương trần đời này! Làm người ở
lại có bao giờ vui... làm người ở lại bao giờ
cũng buồn... là thế!!! Papillon nhờ ở tù mà nổi
tiếng khắp thế giới, chớ không thì làm gì có
chuyện để viết, giả sao bằng thiệt, ảo sao bằng
thật... hư cấu hư cào... sao bằng... người thật
việc thật... lính văn phòng kể chuyện đánh đấm
sao hấp dẫn bằng lính trận kể chuyện chiến
trường đổ máu từ mặt trận về, một lần thấy bằng
trăm vạn lần nghe... Phiền não sinh Bồ Đề là
vậy!!!
Thời giờ thấm thoát thoi đưa, nó đi đi mãi có
chờ đợi ai, mới đó sáu mươi năm cuộc đời tàng
tàng đã qua, thất thập cổ lai hy lù đù sắp đến, ba
vạn sáu nghìn ngày là mấy... sánh với... vô thỉ
vô chung, vô cùng vô tận! Trăm năm là ngắn,
một ngày dài ghê... ngắn dài... tùy người đối
diện... nhất là đối với... Tản Đà Tiên Sinh! Chắc
ngày dài đó là ngày của ao tù nước đọng, vũng
lầy cuộc đời... nhất nhật tại tù, thiên thu tại
ngoại... nên mới dài ghê như thế! Bởi thế phải
gấp rút dứt sữa bạn tù, cho nó một... un point
final... để... sống... chớ không phải để... chết...
dở dang, dang dở... có đầu không có đuôi... và...
để kể lại chuyện... ngày dài ghê đó... the longest
day, le jour le plus long... không tiếng súng...
nghe chơi!
Dân Hải Quân ai mà lạ gì cuốn Duton
Navigation, trong quân trường, trên chiến hạm,
là chuyện thường tình, nhưng trong ''tù
trường''... nhất là tù Cộng Sản... mà cũng có
Duton Navigation tham khảo mới là chuyện
động trời, đáng nói, đáng đăng báo... ca tụng...
tù... quý phái! Thật vậy, tôi dám tự hào tôi là
thằng tù duy nhất sở hữu cuốn sách quý nhất có
một không hai trong đó, sổ chấp luôn các trại tù
từ Nam ra Bắc! Một cuốn sách có tầm vóc gồ
ghề, to lớn theo đúng nghĩa trắng đen, bóng gió
của nó, từ kích thước kềnh càng bề ngoài đến
chữ nghĩa dầy cộm bên trong! Nó mang đến cho
tôi một niềm vui lớn lao vô cùng và một nỗi khổ
126
khổng lồ vô tận... trong tù! Ôm nó như ôm một
báo vật, mà ôm nó cũng như ôm trái lựu đạn...
rút chốt... nổ... bất cứ lúc nào không hay! Mang
nó như mang họa vào thân, lúc nào cũng canh
cánh bên lòng, phập phồng lo âu, đề cao cảnh
giác, sống trong ''chánh niệm''... lấy vải thưa che
mắt quỷ... được không, tới chừng nào? Vậy mà
cứ bám, không chịu buông... bỏ... thời thương,
vương thời tội... cùng mình... là vậy! Sách ước,
sách mơ, sách quý, sách hiếm, liều mạng ''tử
thủ'' nó cũng đáng, không gì ân hận, dù quá
động não, động tâm, nhờ thế mới có chuyện
này!
Không dễ gì có nó và không phải dân Hải
Quân nào cũng đều có nó... riêng mình! Tôi có
cuốn Duton là nhờ OC Nguyễn văn Hiếu, U4
với tôi, lúc đó là Trung Đội phó U4 kiêm tiếp
liệu coi kho sách cũ. Một hôm Hiếu rủ tôi vô
kho tiếp liệu là cái phòng trống sát vách phòng
nó rồi chỉ những chồng sách cũ bỏ lây lất, chất
đống trong góc dưới sàn chớ không được nằm ở
vị trí trang trọng nơi bàn học trong phòng chúng
tôi và nói: sách này như sách ''son'' bên mình
vậy, nhưng không phải để bán mà để bỏ... vô
thùng rác, tao cũng đã quăng một số sách khác
rồi, mày muốn lấy một cuốn thì cứ tự nhiên,
nhưng đừng nói tao cho, lấy đi, không sao đâu,
có gì mày chịu, hồn ai nấy giữ, vừa nói vừa
cười mỉm chi cọp, tao cũng thủ một cuốn rồi, tụi
khóa 3 làm vậy thấy cũng êm, nghe vậy tôi
cũng''thỉnh ''một cuốn đem về. Cũng hơi nhột,
hơi nhác, vì lúc đó tôi có sẵn 45 demerits ngay
đầu khóa rồi, vướng tội ăn cắp là chắc hoắc luôn
60 demerits ra Trung Sĩ... nên phải đắn đo... lỡ
xui xẻo như mấy thằng bạn thân khóa1, đã xếp
bút nghiên rồi, chờ làm lễ mãn khóa, đi bờ tối
Thứ Tư về trễ điểm danh vài phút mà phải ôm
hận... đậu Tú Tài anh ra Trung Sĩ... mới đau!
Tôi vì bất chấp lệnh cấm'' thăm hỏi'', lén vô
phòng '' biệt giam'' ngày Thứ Bẩy, chia sẻ niềm
đau nỗi khổ với những thằng bạn thân thương bị
nạn một cách lãng xẹt của mình, nhất là Lộc
phè, hai thằng có nhiều kỷ niệm''ba gai'' với
nhau từ Quang Trung tới APL... bị Lt Jg
Raymond A Mislock mở cửa... ‘’quả tang phạm
pháp’’... hỏi... 7 Bravo... và... dính... 45 demerits
... tối tăm mặt mày! Trong vụ này Hồ văn Lạng
OC U1 cũng bị 45 demerits vì nhắm mắt làm
ngơ cho tôi vào khi mình là sinh viên trực nhật
hôm đó, tôi với Lạng cùng xóm, thân tình, quý
nhau lắm, mới cho vô, ngoại giao tay trong mới
được thăm, chớ thằng khác đời nào dám làm
chuyện đó... để sau đó mỗi week- end trong khi
bạn bè đi bờ thì mình ôm garant... marching
drill... với OC Mẻo... phạt quân, cấm trại với giá
biểu 5 demerits một giờ marching drill... mỗi
tuần chỉ trả nợ quỷ thần một tiếng, trình diện
sinh viên trực mỗi đầu giờ... làm mất 9 tuần đi
bờ... Chỉ còn thêm 15 demerits nửa là ra Trung
Sĩ... nín thở qua sông mệt nghỉ... như chỉ mành
treo chuông... chắc có lẻ khóa 4, người được tốt
nghiệp ra trường mừng rỡ, hạnh phúc, sung
sướng nhất là... tôi... nhận bằng tốt nghiệp mới
tin mình thành... Quan Tầu Thủy... khóa tôi
cũng có một người ra... Trung Sĩ... vì tập họp
điểm danh trễ đến mấy tiếng đồng hồ trong Tour
NewYork lúc sắp mãn khóa! Đúng là... tội
tình... 40 năm nhìn lại thấy... có tội... vì... dám
sống... có tình... với bạn bè... không gì hổ thẹn
với lương tâm cả! Cáp Cảnh kể lại... tối đó tao
tính về sớm rồi... nhưng kẹt thằng Lộc... mới
order dĩa thịt... và... Lt Jg Robert W Auve ngồi
chung bàn, không nói gì... cũng... take time...
take it easy... chờ thịt đem ra... nhậu... chung...
nên về trễ điểm danh... phải chi... Lộc đừng
order dĩa thịt... và nhất là... phải chi... Auve,
First Platoon Officer, sếp mũi lõ mắt xanh trực
tiếp của mình đừng ngồi cùng bàn thì đâu có
chuyện... đụng chạm cái ngã, cái tôi vĩ đại của
các SQ Cán Bộ nhà mình... chuyện bé xé to... tự
ái da vàng... trong khi các SQ Tham Mưu Quân
Trường muốn bỏ qua, tha thứ, khoan dung,
không muốn phí phạm tiền của, công lao huấn
luyện, nhưng bị đưa vào thế kẹt... chọn lựa...
hoặc... chúng nó... hay... chúng tôi... về! Đâu có
gì mà đến nỗi cạn tào ráo mán như vậy... mấy
127
thằng em đâu có làm nhục quốc thể gì đâu...
phạt răn đe, cúp phép, cúp đi bờ, cho thằng em
ôm garant cuối tuần hay cho điểm militaty, lãnh
đạo chỉ huy kém, ra trường cuối bảng, không
được chọn nhiệm sở tốt là quá đủ rồi, đâu cần
hại tương lai người dưới cơ quá xa mình như
thế, làm khổ không chỉ riêng cá nhân đó mà cả
gia đình cha mẹ, người thân người ta khổ theo
nửa... không nên... giả sử lúc đó mấy thằng em
ngồi cùng bàn với quan Ta chớ không phải quan
Tây...thì có chuyện này không? Chuyện này đại
khái giống như... đi nhậu với Hạm Trưởng về
trễ điểm danh của Hạm Phó... bị nhốt... cho bõ
ghét cái tội coi tao là... con chó giữ nhà... thế
thôi!
Đầu năm 1973, vừa ký xong Hiệp Định Paris,
đình chiến da beo, chiến trường sôi động mạnh
về vụ lấn đất dành dân, bên này bên kia tranh
đua cắm cờ, gở cờ nhau ngay sáng hôm sau, con
nhà Phúc, OC 2, Thuyền Trưởng PCF HĐ 5 DP
ở Năm Căn lãnh một trái B40 ngay phòng lái vì
ủi bãi gở cờ giải phóng, đúng lúc đó tôi được
công điện thuyên chuyển về GĐ 53 TT, một
công hai chuyện, đơn vị giao tôi nhiệm vụ cuối
cùng là tháp tùng Trung Úy Phúc trên chiếc
băng ca tung mây lướt gió trên chim sắt Caribou
về Bệnh Viện Hải Quân... ăn Tết!
Xuân‘’ Hòa Bình’’năm đó tôi tự động ở nhà
ăn đủ ba ngày Tết đến mùng Năm mới chịu đi,
sau hai cái Tết te tua đơn vị.
Một ở Tân Châu, trên ''cù lao sắt'', cơ xưởng
hạm Mỹ neo giữa sông, thiếu hơi đất, thiếu lời
chúc mừng năm mới năm me, thiếu nụ cười,
mùng một Tết thầy trò chỉ sầu đời nhìn nhau
nhìn sông nước chảy, lục bình trôi, chẳng buồn
nấu nướng, mừng Xuân bằng phần lương khô
đúng như lời ca trong bản nhạc của Duy Khánh
hát trong radio.
Một ở Năm Căn, cho muỗi ăn Tết thoải mái vì
đón Giao Thừa bằng''nước mắt quê hương'' say
mèm không biết đường chui vô mùng... ngủ...
sáng ra tỉnh dậy mặt mày bê bết máu... chắc
mấy con muỗi nhậu máu tôi xong cũng xỉn luôn
trên má tôi nên mới có chuyện... gãi phải muỗi...
như thế!
Năm Căn heo hút muỗi bay thành đàn... nhiều
khi chỉ hé một chút cho thằng nhỏ ló đầu ''câu
cá'' chốc lác bờ sông không thôi là sau đó thằng
em cũng đòi gãi lia lịa cho đỡ ngứa rồi, nhanh
thiệt... nó chơi chiến thuật... biển muỗi... chịu
đấm ăn xôi... như Trung Cộng... biển người...
sao cản nổi!
Sự vụ lệnh tân đáo hết hạn đúng ngày cuối
năm mới khổ, mới có chuyện để nói sau này!
Trình diện HQ Thiếu Tá Nguyễn Thìn, Nhạc Sĩ
Trường Sa, CHT mới... trong thế... hạ phong...
như trình diện HQ Thiếu Úy Đào Dân, ĐĐT
khóa sinh, thời SVSQ lúc vắng mặt điểm danh
bất hợp pháp... nhưng kỳ này... xệ... hơn nhiều!
Sau khi đọc sắc lệnh mới nhất mới ban hành của
Bộ Tổng Tham Mưu vào dịp Tết... vắng mặt 24
giờ trong giai đoạn này là coi như... đào ngũ!
Đọc xong CHT khoan thai phán:
Bây giờ trước mặt tôi anh không còn là...
Trung Úy Việt nữa... mà là một... Quân Phạm...
chờ đi... Quân Lao! Tôi nghe không biết nói gì
hơn, coi như chuyện đã rồi, hết thuốc chữa, im
lặng giữ phong cách... quân đội không xin xỏ...
không ca bài ca con cá... sống vì nước... em
sống nhờ CHT... chờ lệnh đi ra... thì CHT lại
xoay tờ Lệnh Thuyên Chuyển để trên bàn cho
thuận chiều mắt tôi đọc, chỉ ngày trình diện hỏi:
Tại sao anh không trình diện đúng ngày này?
Tôi tự nhiên trả lời:
Thưa CHT, hôm đó cuối năm, Giao Thừa! CHT
bồi tiếp ngay:
Sao anh không trình diện ngay ngày sau đó? Tôi
nhanh nhẹn đáp:
Thưa CHT, hôm đó đầu năm, mùng một Tết! Cứ
thế mà tôi chơi cho đến... mùng hai, mùng ba...
CHT bắt đầu nóng máu... chặn họng... không
cho dựa hơi hưu chiến ba ngày Tết nữa... hỏi
câu nữa... phải trả lời sao cho lọt lỗ tai ổng:
128
Thế tại sao anh không trình diện ngày kế đó
nữa, lần này tôi không muốn nghe Tết nữa, tôi
chỉ chấp nhận ăn Tết ba ngày mà thôi!
Tôi cũng trả lời lưu loát... không suy tư :
Thưa CHT, hôm đó Thứ Bẩy... cuối tuần...
weekend! Đến đây thì CHT mặt đỏ bừng, không
chịu nổi nữa, hết ý kiến, hết kiên nhẫn... hỏi
thêm ngày cuối cùng... vì biết... ngày đó là
ngày... Chủ Nhật... Sunday... cũng weekend...
luôn... hỏi cũng bằng thừa... quát:
Thôi đủ rồi, anh ra đi... cho hạ bớt tention!
Thằng em ở chơi cho đến khi Sài Gòn hết vui
mới chịu lên đường bù lại những ngày...
Năm Căn đi dễ khó về
Ra đi tàu biển trở về tàu bay
Bây giờ không biết có chưa?
Khi xưa chưa có đường ra lộ vào
Rừng tràm nước mặn sông hai cửa
Đông Tây đôi bờ thông nối nhau
Bãi Hạp nước ròng tàu mắc cạn
Thả neo tắt máy chờ nước lên
Bồ Đề ‘’te tít’’ còi tác chiến
Đến cửa Từ Bi... bắn tự do! ...vùng tác xạ tự
do...
Tối đó, tâm sự với HQ Trung Úy Đào văn
Chung, OC 5... chiều ba mươi cũng dù về ăn
Tết, qua mùng hai mới vô, được thằng em Nội
Vụ cho xem công điện... báo cáo... đào ngũ...
bảo ra Tiểu Khu trình diện... Quân Cảnh Tư
Pháp! Thằng con... nổi khùng... không nói
không rằng... đem... côn đui ..Colt 12 ... ra...
chùi... đếm đạn... vô dầu mỡ... làm thằng em An
Ninh teo bu gi sợ ổng... dám nghỉ dám làm...
Dzango... thật... ai hại đời ổng phải bước qua
xác chết của ổng... bèn đến gần bật mí nói nhỏ
đó chỉ là công điện... giả... CHT hù Trung Úy
chơi... cho vui ba ngày Tết... nào ngờ Trung Úy
tính chơi... thật... biệt danh... Charly Kilo...
không trật chút nào! Chung quân sư quạt mo với
tôi: trường hợp tao với mày khác nhau, tao ở
đây lâu rồi, là SQ đơn vị, chỉ vắng mặt 24 tiếng,
còn mày mới về, chưa có tên trong danh sách
lãnh lương, mà trễ tới mấy ngày, không hiểu lão
có hù dọa như tao không nhưng tao thấy đã báo
cáo đào ngũ rồi thì lão còn hỏi tại sao mày
không trình diện đúng hạn làm gì, tao nghỉ lão
không nở làm vậy, làm tôi cũng lên tinh thần...
ngồi chơi xơi nước... wait and see... đến khi
nhận lệnh công tác SQ Trưởng Toán chỉ huy 6
con cá lòng tong PBR... ra quân... đầu tiên... lập
công chuộc tội... trong đêm... là đụng độ lớn
trên sông Vàm Cỏ Đông gần Lương Hòa liền,
được báo Tiếng Chuông, Sài Gòn Mới đăng tải,
ICCS ăng kết... có giấy chứng thương của bệnh
viện Tiểu Khu Hậu Nghĩa chứng nhận đàng
hoàng... nhưng chỉ để nộp hồ sơ thưa kiện... CS
vi phạm ngưng bắn... chớ không phải để chạy...
Chiến Thương Bội Tinh... cho tôi! Mấy ngày
sau ra quân lần thứ hai cũng trong đêm lại đụng
độ lớn nửa, gần Hiệp Hòa... địa danh nào cũng
có chữ Hòa trong đó mà cứ Chiến hoài... những
lằn lửa đạn, những cụm lửa to bằng trái bắp bay
ra vùn vụt từ bờ tạo thành một cổng lửa đạn
chắn ngang cản bước tiến đoàn tầu làm mấy
thằng em phải xông lên mở cổng mệt nghỉ, hết
cổng này đến cổng khác... tốn đạn, hao dầu, điếc
tai... nên gán cho ông thầy mới về biệt danh...
Trung Úy B40... sát tàu... mới ra quân hai trận...
thiệt hại hai chiếc... một cháy, một chìm...
nhưng không... sát quân... đụng độ thiệt hại vật
chất nặng nề như vậy mà không trầy da tróc vẩy
thằng con nào... Victor Sierra... vô sự ! Ở Năm
Căn, chiếc PCF của tôi trên đường ra tiếp cứu
PCF của Sơn Lành OC 2 mắc cạn gần cửa Bồ
Đề, bị phục kích bắn trúng một trái B 40 nơi
phòng máy không thôi mà cũng bị thương mấy
con, trực thăng phải đáp xuống tản thương tại
chỗ đưa về Bình Thủy. Tàu chìm, trôi sông,
trúng đạn bị thương... sao lội được... chết chìm
là cái chắc! Tàu cháy, đạn nổ, không biết lội...
sao dám nhảy sông... chết cháy cũng là cái chắc
luôn... thế mà sau cùng... tập họp điểm danh...
không vắng mặt hơp pháp thằng nào... mầu
129
nhiệm thật... đúng là... đạn tránh người chớ
không phải người tránh đạn! Điều đáng nói,
đáng ca ngợi là bị đánh tơi bời hoa lá như vậy
nhưng không hèn nhát bỏ chạy, bỏ rơi nhau...
team work... gắn bó... đàng hoàng... sống chết
có nhau... bằng ‘’làm’’ chớ không phải bằng
lời... liều mạng bám sát tàu chìm... mà còn ngóc
đầu... nổi... PBR... tàu giấy... là vậy... bắn trái
sáng... lạy ông tôi ở bụi này... để thấy đường...
vớt đồng đội trôi sông, vẫy tay la ơi ới dưới
nước... rồi sàng qua tàu cháy, đạn nổ, cứu thằng
em đang ôm máy PRC 25... hốt hoảng kêu gào...
làm sao đây ông thầy, đừng bỏ em một mình...
sau lái LCM với áo giáp trên người chớ không
phải áo phao... nên không dám thi hành lệnh...
nhảy trước vớt sau... đạn nổ không vô được...
của tôi ban ra... vì không biết lội... đành phải
ghé vào nhảy qua... bị thuyền trưởng tàu PBR
đó phản đối kịch liệt ... nhưng miễn cưỡng phải
tuân lệnh ông thầy... thấy đồng đội lâm nguy là
phải cứu... không thể bỏ rơi...
Ông ơi, nó nổ !
Vô !
Ông ơi tàu đó chở đạn!
Vô!
Ông ơi chúng mình chết hết!
Vô!
Ông ơi, cứu một người, chết năm người!
Vô, vô, vô!!! ... trao đổi nhau bằng lời lẩn bằng
‘’làm’’... nó lái ra, tôi đưa tay lái vô rồi kèm giữ
cho vô bằng được mới thôi... rồi nhảy qua hỏi
thuyền trưởng LCM tàu mấy người thì trả lời
năm nhưng hỏi tụi nó đâu hết rồi thì lại đáp...
không biết ... nên phải cho nó qua trước... khi
vừa qua là tàu tách ra liền... còn mình ở lại xem
mấy thằng đó ở đâu... tin chắc đàn em không
bao giờ dám bỏ rơi ông thầy... nhìn trong đám
khói mịt mù xem có còn con nào cục cựa nhút
nhít trên đó nửa không, cho chắc ăn, thọc đầu vô
phòng lái la hét ... có ai còn trong này không, ra
mau đi, lên tiếng đi, có tàu tới cứu... chỉ có tiếng
đạn nổ và tiếng lửa bập bùng đáp lại... chắc chắn
trăm phần trăm không ai sót lại trên đó mới chịu
ra lệnh... tay... vẩy, ngoắc... tàu vào... khi tàu
vừa đến gần là nhảy qua liền... tàu lùi nhanh mất
thăng bằng lảo đảo, chới với quơ quàng, gặp gì
bám nấy để khỏi rớt sông lại chụp ngay nòng
đại liên 50 đôi trước mũi nóng bỏng buông liền,
may nhờ bàn tay ''sắt'' cứng rắn thằng em kế bên
chụp kịp kéo lên mới được khô ráo lìa vùng ''
bia lên'' đến chỗ an toàn... gom bi lại ... xem mất
còn những ai... rồi mừng rỡ vì không thiếu sót
thằng nào... hạnh phúc khi còn có nhau... khi
nhìn thấy nhau... chưa nằm xuống! Mấy nhân
viên trên LCM, trong lúc giao tranh, thấy tàu
mình bị bắn trúng ngay khoan chở đạn, rét quá,
nhanh chân nhảy xuống ponton dầu, nhanh tay
chặt dây cho nó trôi xa tàu mẹ đang cháy nổ,
trong lúc thuyền trưởng đang kẹt trong phòng lái
nên không biết tụi nó đi đâu. Huynh đệ chi binh
là gì đó vậy anh hai... là ở chỗ đó! Thương quá
đi thôi... lính chiến, lính trận... cho rất nhiều
nhưng nhận chẳng bao nhiêu! Đời nào, thời nào,
ở đâu cũng thế... cũng có... lính trẻ chết trận
chiều qua nên không nghe tận thế gần kề... vị
quốc vong thân... chết đẹp quá, chết tươi quá...
trên cây còn lá úa lá xanh đã rụng rồi... nên
cũng... ngậm ngùi lắm, đau thương lắm, tức tưởi
lắm... ra đi không trở lại... khi còn đầy sức
sống... không ai muốn như thế cả... chỉ về già
mới mơ ước được chết như vậy... thì nói làm
gì... tham lam quá... bởi vậy... chỉ có họ mới
xứng đáng ngủ giấc ngủ ngàn thu mà được...
Đắp Cờ... và chỉ họ... chiến trường da ngựa bọc
thây, ponso phủ kín mới được cái vinh dự đó mà
thôi! Chúng ta thật sự tôn trọng họ thì... chết
già, chết trên giường bệnh, chết trúng gió, chết
đụng xe thì nên tự trọng... đắp mền... đừng đòi...
Đắp Cờ... như họ... làm vậy đau lòng tủi thân họ
nơi chín suối lắm... không nên! Tôi chưa thấy
chiến trường da ngựa bọc thây ra sao, nhưng đã
thấy tận mắt lẩn xúc chạm ... ponso phủ kín là
thế nào... không biết... ‘’bản lai diện mục’’ của
họ, chỉ biết là hai chiến sĩ Biệt Động Quân vừa
mới tử trận mà thôi!
130
Ponso, một công hai chuyện, bình thường thì
che mưa cho chiến sĩ khỏi ướt áo, nhưng khi...
hết thở... chỉ việc kéo mấy sợi dây có sẵn trên
đó là gọn gàng như đòn bánh tét... khuôn...
người! Chính PCF tôi nhận ''hai đòn'' mới ra lò,
còn ấm áp, mềm mại, trong sóng gió mưa giông,
được người Nhái đem từ rừng tràm trên bè phao
chèo ra... thẩy lên... giao... từ mặt biển nhấp
nhô... trong chuyến hành quân khá tầm vóc, đủ
cả Hải Lục Không quân, phối hợi Việt Mỹ,
trong sông Giang Đoàn, Hải Đội, ngoài khơi
Giang Pháo Hạm, giải cứu cho PCF Sơn Lành
bị nạn ở gần cửa Bồ Đề do chính Cao Bồi Luật,
Hải Quân Trung Tá, CHT HĐ 5 DP, kiêm Tư
Lệnh Đặc Nhiệm 235, đích thân chỉ huy trực
tiếp dưới nước, Tư Lệnh Hải Quân từ Sài Gòn
bay ra bằng chim sắt lần quần thị sát trên đầu,
mà trong lúc ra tôi ăn một trái B 40 ngay phòng
máy, nếu trúng ngay thân tàu thiệt hại còn nhiều
nửa vì hôm ấy huy động thêm người của Tiền
Doanh Yểm Trợ và Cơ Xưởng Hạm, hay trúng
ngay phòng lái thì chắc... hổng có chuyện này...
sau khi nhận lệnh của thẩm quyền... đổi đội
hình... lên vị trí dẫn đầu... trước đó chiếc tôi ở vị
trí ngay phía sau... khi về lại căn cứ được Thiếu
Úy Nguyễn anh Đào, OC 5, bạn cùng lớp Petrus
Ký với tôi, có mặt trên chiếc của thẩm quyền kể
lại:
Lúc chiếc mày bỗng nhiên bốc khói sau lái,
chạy chậm lại... là tụi tao biết bị trúng đạn rồi...
Sau đó ổng khoe với tụi tao:
Chúng mày thấy ông hay không... nếu ông
không đổi đội hình... thì trái B 40 đó là của
chúng mình! Chắc trước khi hành quân ổng đã
nghiên cứu kỷ bình đồ trận liệt, nắm vững tình
báo, chỗ nào có VC nên mới ra lệnh đổi đội
hình đúng lúc, đúng nơi như vậy! Nhưng cũng
nhờ què một giò... ‘’tật nguyền’’ đi cà nhắc một
máy mới được đặc ân cho về trước... nhờ vậy
mới được ôm... ponso! Thấy thì cũng xuống tinh
thần, chẳng ham chút nào nhưng còn sướng hơn
những chiếc ở lại! Trước đó không lâu một trực
thăng Mỹ trong lúc '' đứng gió'' kéo khẩu 81 ly
sau lái PCF mắc cạn lên bị mất thăng bằng rớt
xuống biển, may nhờ toán người Nhái lội ra kịp
thời kéo hết phi hành đoàn ra trước khi nó mất
dạng khỏi mặt biển mà thoát chết. Lết một mình
về tới căn cứ tối khuya, ngang qua ấp Hàm
Rồng 2 đói bụng không dám ủi vào ăn tô mỳ
gói... nước sôi... nô hành, nô ngò... ngắm hoa
khôi ấp lẻ... vì kẹt hai khách lạ nằm quá giang
sau lái... chớ bình thường không kẹt gì là ủi vô
liền! Có lần ăn xong được em hỏi han:
Bữa nay ăn Thiếu Úy thấy gì không?
Có miếng thịt trong đó...
Ừa, hôm nay ghe Cà Mau vô, nhà ăn cơm có
thịt, lén lấy một miếng cho Thiếu Úy đó, ăn
ngon không... rồi mắc cỡ quay đầu ra cửa liền...
làm... ''no'' lòng chiến sĩ... muỗi chích quên
đập... thả hồn nhơi lại... tô mỳ đặc biệt... miếng
thịt ướp tình... chỉ mình anh thôi... ở ấp Hàm
Rồng! Lần khác ủi vào là đối thoại trống rỗng,
trống không liền:
Sao hôm nay về trễ quá vậy?
Sao biết về trễ?
Mấy chiếc kia về trước về lâu rồi, bây giờ
chiếc Thiếu Úy mới tới... ngạc nhiên hỏi tiếp:
Sao biết về mà chờ?
Hỏi mấy chiếc kia.
Bộ trông lắm hả?
Ừa, chớ sao!!!... làm tim rung rinh... nhưng
chỉ để bụng... không dám nói ra... sợ chúng bạn
cười...
Em Năm Căn...
Nước da bánh ít
Má lúm đồng tiền
Gánh nước đạp bùn
Chân đất chân không
Chân chất chân tình
Chân quê chân ruộng
Trống không trống rỗng
Chuyện tình nước đứng
131
Lục bình trôi sông
Bóng chim đáy nước
Qua rồi thời thôi
Xa thời hổng nhớ
Gần thời... thấy thương
Để đó trong lòng
Không dám nói ra
Tình trong như đã
Mặt ngoài còn chưa...
Trao nhau... tên gọi!
Quê người mới ngộ
Tình đó... mới tình
Đáng viết thành thơ
Hổng sợ bạn cười
Là tình miếng thịt
Hoa‘’hôi’’ấp lẻ
Hàm Rồng Năm Căn
Tận cùng đất Việt...
Quê mùa quê hương!
Lần đầu ủi bãi ''đi bờ'', đặt chân lên ấp, lội bộ lọi
giò một bãi dài mới tới quán, gót giầy dầy đất,
lần cuối ủi một cái, nhẩy xuống là tới cửa liền, ở
lâu hơn nửa không biết ủi tới đâu???
Báo cáo phòng hành quân xong, mệt lả rã rời,
leo lên giường ngả lưng là phi ngay tức khắc,
quên hết mọi chuyện ì xèo trong ngày... lính
tráng vô tư là vậy... về hai lần charly... vô sự...
là được rồi... trời gọi ai nấy dạ... không bao giờ
nhìn người... nằm đó... mà nghỉ tới ta... lo xa...
như mẹ cha ở nhà... nếu mà, phải chi... trái B 40
sáng nay bay vô phòng lái chớ không phải hầm
máy thì bây giờ mình... nằm đâu?... có nghỉ thì
chỉ nghỉ tới chừng nào... về phép... mà thôi! Nửa
đêm thức dậy, mắt nhắm mắt mở ra sau lái ''câu
cá'' đạp nhằm thứ gì trơn trợt như nhớt chúi
nhủi'' chụp ếch'' té nhào nguyên con lên vật gì...
cứng đơ lạnh ngắt... mở mắt ra mới nhớ chuyện
hôm qua, nhìn kỹ lại mới biết đang ôm... ponso
buồn phủ kín đời anh... mà tới hai cái mới
khiếp... tay chân mình mẩy bê bết máu đặc... hải
quá, quên luôn chuyện nửa đêm mò ra sau lái
làm gì, chạy lên phòng lái mở máy PRC 25 giũa
phòng hành quân, nói như thét vào ''combinet''
như đang đụng trận, náo động đêm đen:
Hai lần Charly, đây PCF gọi trả lời... bên kia
vừa đáp... giọng buồn ngủ... Hai lần Charly
nghe... là quạt liền... Tôi báo cáo lâu rồi, ngay
khi mới về hai lần Charly mà tại sao bây giờ
ngủ thức dậy vẩn thấy hai người bạn Bắc Bình
đi phép dài hạn... vẫn còn nằm đó... sau lái tàu
tôi, các anh làm ăn gì kỳ vậy, nếu có pháo kích
là tôi... nằm vạ luôn ở cầu tàu với họ... chớ
không ra điểm kích đâu, mau mau cho người
xuống đem họ đi đi... rồi vội vàng lên căn cứ
tắm. Nhìn lại thì không có một chiếc PCF nào
đậu gần tàu tôi, chắc tính vào thấy sau lái tàu là
dội liền, tìm chỗ khác đậu thật xa cho dễ ngủ,
mấy thằng em vừa bổ sung ban trưa cũng bỏ tàu
đi lúc nào không hay, để mặc một mình ông
thầy nằm... canh xác!
Đó, muốn quốc kỳ phủ kín đời ta thì phải như
vậy đó, có ai muốn được như hai người chiến sĩ
Biệt Động Quân anh hùng... vì nước quên
mình... đó không! Ngả mũ cúi đầu khâm phục
người ta thì đừng đòi... Đắp Cờ... như người ta...
tội lắm! Người ta cho quá nhiều... cả thân xác...
nhưng nhận... chỉ bấy nhiêu thôi! Mình chỉ cho
vài trăm đô mà đòi được nhận như họ thì tham
lam quá! Họ là những anh hùng thứ thiệt... ngay
những chiến sĩ xuất sắc được vinh dự tuyển vô
dinh Độc Lập ''nhậu'' với Tông Tông ngày Quốc
Khánh được phỏng vấn trên TV cũng nói...
mình không phải là người hùng, những anh
hùng thật sự là những người đang nằm... Đắp
Cờ... trong Nghĩa Trang Quân Đội... bởi vậy
phải... đâu ra đấy... Phủ Cờ chỉ dành cho những
người... chết trận... còn chết trên giường bệnh
thì chỉ có... phủ hoa... là đẹp lắm rồi!
132
Mai tôi chết Cờ Vàng xin đừng phủ
Xác thân này đâu chết cho quê hương?
Súng gươm xưa đã bỏ lại chiến trường
Thân chiến bại nhục nhằn nơi đất khách...
Lê Quang Lưỡng.
Hay thật, hùng thật, khí khái thật, chí lý thật,
thâm sâu thật, khâm phục thật... người ta từng là
Tư Lệnh Sư Đoàn Dù, Thiên Thần Mũ Đỏ... đỏ
ngực Huy Chương... thứ nào chẳng có... từ Bảo
Quốc Huân Chương trở xuống... Huy Chương
thứ thiệt... lấy từ mặt trận... chớ không phải Huy
Chương... ăn giỗ... mà còn cảm thấy... không
xứng đáng... Phủ Cờ... còn làm thơ trăng trối...
đầu thơ, cuối thơ... trước sau như một... đều...
cùng một câu...
Mai tôi chết Cờ Vàng xin đừng phủ...
Nhớ bạn bè nằm xuống nghỉ mà đau
Không quan tài cờ phủ giữa chiến hào
Máu thịt đã thấm vào lòng đất mẹ
Bao năm trời bao nhiêu người trai trẻ
Chết không cần cờ phủ vẫn uy nghi
Khi nằm xuống bạn nào đã cần gì
Chỉ ước muốn thân này dâng đất nước...
Mai tôi chết Cờ Vàng xin đừng phủ.
Chắc máu xương của những chiến sĩ chết vì
non sông ngấm vào xương máu ông nên ông
mới làm được bài thơ có hồn như thế... trước khi
nhắm mắt... thấm thía thật!
Đúng là... người Hùng... thứ thiệt... nên mới
khí khái chối từ, không chịu nhận Phủ Cờ... ăn
giỗ!
Tướng Dù... đỏ ngực... lá vàng trên cây...
không chết cho quê hương... chết già giường
bịnh quê người... chịu thua... tự trọng... không
dám dự tranh... Đắp Cờ... với... Binh Nhì... xanh
cỏ... lá xanh lìa cành... lính trẻ chết trận chiều
qua... là vậy!!!
Chưa nói... còn bia đá đề tên... Tổ Quốc Ghi
Ơn... Họ ... chung với người chết bệnh, chết
già... làm vậy là như người... mù chữ... không
hiểu... Tổ Quốc Ghi Ơn... hay Vị Quốc Vong
Thân là gì... mà làm gì mà Tổ Quốc lại ghi ơn
bừa bãi lãng xẹt như thế... làm giảm giá trị và
mất đi hết ý nghĩa thiêng liêng mấy chữ đó!
Đừng... lấy của độ thân... có tiền mua tiên cũng
được... quá đáng như vậy... làm thế là xúc phạm
đến những...
Chiến Sĩ Vô Danh
Ngày ngày chào lá quốc kỳ
Nhớ người chiến sĩ chết vì non sông
Nhớ xưa bao vị anh hùng
Phất cờ độc lập thành công hoàn toàn!
Qua bên này còn thấy mấy chữ động trời như...
Tổ Quốc Ăn Năn... bố lếu bố láo... mới khiếp...
mới tởm... từ lúc có loài người đến giờ mới
nghe chớ đừng nói từ lúc chào đời đến giờ...
không hiểu tay viết bạo, chơi nổi, viết ngông...
sáng chế... ra bốn chữ đó bôi nhọ Tổ Quốc
Thiêng Liêng, chà đạp Dân Tộc Kính Mến của
mình dựa vào tư tưởng triết học nào mà dám
''lộng ngữ'' như thế!!! Nói thế... không khác gì
nói... Thượng Đế Sám Hối... toàn lực, toàn
năng... sao không theo Chân Thiện Mỹ sáng tạo
muôn loài... trường sinh bất tử, trẻ mãi không
già, vui mãi không buồn, khỏe mãi không bịnh...
mà lại... có sống, có chết... có sướng, có khổ...
có đẹp, có xấu... có hiền, có dử ... có giàu, có
nghèo... có khỏe mạnh, có ốm đau... bệnh tật,
bệnh AID, bệnh ung thư... có hòa bình, có chiến
tranh... chém giết sát hại nhau dã man hơn loài
hoang thú vv... như đã sanh Ngô Đình Diệm làm
Tổng Thống Việt Nam Cộng Hòa, lại đẻ chi
mấy đám tướng lãnh phản loạn đảo chánh... hay
thực tế nhất... tạo Quốc Gia còn nặn thêm Cộng
Sản làm gì... để trời đất nổi cơn gió bụi, trai anh
hùng chịu cảnh lưu vong... sáng Thiên Đường
133
thôi đủ rồi, còn tạo địa ngục làm gì nữa để muôn
loài, muôn vật khổ đau... vô minh, phi nhân, phi
lý thiệt!!! Nếu theo tinh thần đó thì mấy chữ...
Tổ Quốc Ăn Năn... còn có thể ngửi được... còn
không thì những chữ đó chỉ là rác rưới vô nghĩa,
người vô loại cũng không dám sài những chữ đó
để bôi nhọ Tổ Quốc Kính Yêu của mình... làm
gì có chuyện... nước mắt chảy lên... Tổ Quốc Ăn
Năn... nè Trời... Thượng Đế hỡi có thấu... cho
Việt Nam này... có một người có đầu óc... bệnh
hoạn... như thế!!!
Mới về mà bị bám bắn không có gì lạ, hai
chuyến công tác đêm đều dính hộ tống đạn
dược, dầu nhớt, tiếp tế đồ chơi cho đơn vị bạn
thêm sức diệt cộng nên... đi hai, đụng đủ... là
chuyện thường tình... nhà binh... chớ đi tuần, đi
kích đâu có chuyện đó! Nhớ lại thời hộ tống
''công voa'' tiếp tế Nam Vang, ớn nhất là đi sau
sà lan đạn, địch đánh hơi được là bám theo như
đỉa đói bắn cho bằng trúng mới thôi!
Lòng khoan dung, độ lượng, tha thứ , nhân hậu,
trái tim mở rộng của HQ Thiếu Tá Nguyễn
Thìn, Nhạc Sĩ Trường Sa in hằn trong đáy lòng
tôi đến tận ngày nay! Thu phục nhân tâm, chinh
phục lòng người là ở chỗ đó, lúc đó có vào sanh
ra tử cũng sẵn sàng, hết lòng, hết mình, chớ
không phải những thứ kỷ luật cứng ngắc khô
cằn hóa đá quân trường, đem thứ kỷ luật ngoài
da đó ra sài một cách máy móc cứng đơ chỉ biến
Trung Úy Chung và tôi thành vô dụng trong
quân lao hay lao công chiến trường mà thôi, chớ
đâu biết rằng sau đó hai thằng trở thành những
SQ trụ cột đơn vị, một SQ Nội Vụ kiêm An
Ninh, một SQ Tiếp Liệu kiêm Phát Hướng
Viên... cũng biết đem tinh thần trên cái nón... Tổ
Quốc, Danh Dự, Trách Nhiệm... ra phục vụ đơn
vị đến ngày cuối cùng... 30/04/1975... sáng sớm
hôm đó còn tiếp dầu, lương thực cho mấy con
cá trở về từ vùng lửa đạn Trà Cú đem theo xác
đồng đội... để nơi cầu tàu... không ai dòm ngó...
hi sinh vào giờ thứ hai mươi lăm vì thi hành
mệnh lệnh cấp trên giao phó... phá hủy căn cứ,
kho đạn, trước khi rời bỏ... trong khi những
người ban lệnh này, cũng như lệnh 24 tiếng đào
ngũ... đã đào ngũ từ lâu... cờ tướng vẩn phất phơ
trên cột cờ... nhưng ông tướng đâu có đó... đến
trưa súng đạn đầy người nhận khẩu lệnh đầu
hàng từ chị bán trái cây đầu hẻm:
Đầu hàng rồi các anh ơi còn ôm súng làm gì
nữa... mới chịu buông súng... giữa đường...
nhưng không chịu... cởi áo giữa phố... vì... mắc
cỡ... và vì... cảm thấy... áo mình còn đẹp quá!
Trong đời quân ngũ của tôi, chỉ có HQ Thiếu Tá
Nguyễn Thìn, nhạc sĩ Trường Sa, là vị CHT tôi
kính phục, ở lính thương, đi lính nhớ, đến bây
giờ... mỗi lần hát Karaoke, hễ có ai hát bài của
ổng xong là tôi đều khoe... một cách rất hãnh
diện... tác giả của bài này là... CHT của tôi hồi
xưa... mặc dầu ít khi tôi chịu hát bài của ổng...
chỉ một bài duy nhất là bài... Một Lần Xa Bến...
bao nhiêu là buồn... là lọt được vô lòng tôi mà
thôi! Riêng Charly Kilo nhà mình thì thích bản
tôi không nhớ tên nhưng sửa lời nghe rất hợp
tình hợp lý, dân Hải Quân đi tàu nào cũng làm,
nhất là dân PCF... là: Ngày ấy quay tàu anh
về... ‘’bơm’’ đầu... kỵ chữ đó, sợ vạch áo cho
người xem lưng, mất mặt KBC lính biển!
Trong thời gian sống bụi đời tình cờ tôi gặp
Trung Úy Độ, K 20 NT, cùng GĐ 53 TT với tôi
xưa kia trên bàn cà phê vỉa hè, Độ kể vào ngày
cuối 30/04/1975 có gặp Nguyễn Thìn ở cửa biển
phân vân giữa ở và đi không biết binh đường
nào... tâm sự với CHT xưa cũ mình... tôi còn
cha mẹ, anh em nheo nhóc... bỏ đi không đành
CHT... thì CHT tâm sự lại:
Tôi một vợ năm con... đứt ruột... cũng phải đi
đây... rồi hai người chia tay kẻ ở người đi... từ
đó! Trong đầu tôi coi như CHT của mình...
thoát... một mình... bỏ lại... vợ con... mừng cho
ổng! Rồi một đêm không nhà, ngang qua đường
Nguyễn duy Dương, chợt nhớ Nhac Sĩ nghèo
mình ở đó... ở mướn trong hẻm nhỏ... nên ghé
vào ''túp lều lý tưởng''hỏi thăm tin tức ổng thế
nào nơi xứ lạ quê người, nhìn chỗ ổng ở biết
ổng thanh liêm trong sạch cỡ nào... thì mới
134
hay... ổng đang thăm lăng Bác! Sau khi nấu cho
tôi ăn tô mì gói xong, người đàn bà theo sát đời
ổng mà mỗi tháng tới kỳ lương của ổng là tôi
phải nộp hết cho bả, CHT của mình chỉ có ký
chớ không có nhận một cắt nào nơi tôi... mới
nghẹn ngào hối hận kể... cũng tại tôi, tôi cứ
tưởng ổng kẹt lại ở Tân Châu, Châu Đốc, cùng
đường vô khu nhập với Hòa Hảo tính chuyện
lâu dài, trường kỳ kháng chiến, tôi hiểu ổng quá
mà... nước hơn nhà... đâu như những ông khác,
bạn ổng... bỏ về đem vợ con đi... lúc đó miền
Tây, vùng bốn chưa đầu hàng, sôi động lắm,
quẫn trí quá... tôi ra đài phát thanh nhờ người
bạn còn làm ở đó gởi lời nhắn nhủ kêu gọi ổng
trở về với vợ con... nào ngờ bên đó ổng nghe
ổng động lòng xin về... theo chiếc Việt Nam
Thương Tín... thà chết một đống hơn sống một
mình!... Thơ đầu viết ở đảo Goam, mừng hơn
trúng số, thơ sau viết từ Côn đảo... nát tan cõi
lòng... ổng vì quá nhớ thương vợ con mà bị
lụy... như Từ Hải vậy... tôi ân hận và khổ quá...
chú Việt ơi... như bị thêm một ngày... 30/04...
nửa vậy! Tôi nghe... thấy mình bớt khổ... liền...
đêm nay không nhà... không biết ngủ đâu... bến
xe đò hay ga xe lửa... vì chiều nay phát hiện
người cùng trại biết rõ lý lịch tôi ở sát bên nhà
thằng bạn thân dám liều mạng chứa chấp tôi
làm... tâm tôi động... sợ bạn bị lụy... lúc đó đa
nghi lắm... nên âm thầm bỏ ra đi ngay tức khắc
không lời từ biệt lúc nó vắng nhà... nên giờ đó,
tối khuya vẩn lang thang ngoài đường, ngang
qua đó, ghé vô thăm, cho đỡ mỏi chân... nhưng
cũng đỡ khổ hơn CHT xưa mình nhiều... hai lần
đứt ruột... một lần đứt ruột... ra đi... một lần đứt
ruột... trở về... sao chịu nổi! Hết... nợ nước...
đến... tình nhà, hết được... vì nước quên mình...
thì đến... vì nhà quên mình... nước nhà... thiêng
liêng là vậy... cả đời khổ lụy vì hai chữ ấy... Nợ
Nước Tình Nhà Yêu Thương Hệ Lụy... là thế!
Đi với Phật mặc áo cà sa, đi với ma mặc áo
giấy... trao duyên nhằm tướng dỏm... mà không
chịu mặc áo giấy như mấy ông ấy... vì mình
quên nước... mà lại đòi mặc áo cà sa... vì nước
quên mình... nên khổ cũng phải! Phải chi thấy
các vị lãnh đạo tối cao của mình... Tông Tông,
Tổng Tham Mưu Trưởng... chạy trước... thì
mình... chạy theo... thì đâu có chuyện... hệ lụy...
tình nhà này... quan tư Tầu Thủy mà... sợ gì
không có tàu đi! Lúc đó cứ bỏ đơn vị... như mấy
ổng bỏ nhiệm sở, đào ngũ trước địch quân...
chạy về nhà... đưa vợ con xuống tàu... như mấy
đàn anh mình ngon lành hơn đưa vợ con lên
máy bay... thì bây giờ đâu có khốn nạn cả lũ như
thế này!
Ở lại ngăn chặn bước tiến địch quân cho mấy
ổng chạy an toàn, không chết là may, chẳng
được khen còn bị chê là... quân tử dại... chậm
tiêu... tối nước... không biết chánh trị chánh
em... là... bẩn thỉu... láu cá, nói đi nói lại như
phường con buôn... nghe theo... là bán thóc
giống... ở lại tử thủ là... tự sát... như tướng vùng
hai Phạm văn Phú, vùng bốn Nguyễn khoa
Nam, Lê văn Hưng... v.v... còn nhiều nửa... chết
vinh hơn sống nhục... mà thôi! Không khác gì...
đắm tầu... gặp hạm trưởng ma đầu... hùng hổ hô
hào... sống chết theo tàu... nói vậy không phải
vậy... để đàn em an tâm xuống hầm thi hành...
nhiệm sở phòng tai... trên này mình thi hành...
nhiệm sở đào thoát... trước khi tàu chìm... tránh
cảnh hỗn loạn... tranh nhau xuống bè... giành
nhau sự sống... mất an toàn... cho mình! Tướng
hùng bị tướng hèn chỉ huy... là thế... như thằng
mù ngồi chỗ mát chỉ thằng sáng mắt đi trên bờ
vực thẳm, đoạn đường chiến binh! Chuyện các
nhà lãnh đạo con thuyền nước Nam mình là
vậy... như chuyện dài Nhân Dân Tự Vệ ... nói
mấy cũng không cùng... chỉ thêm buồn thôi!
Đánh giặc như đánh cờ... thí Sư Đoàn này, thí
Quân Đoàn kia... như thí xe, thí pháo... nhưng
có điều khác... thua là thua luôn... là làm giặc...
chớ không có chuyện... thua bàn này, bày ván
khác... gỡ ghẻ, phục thù! Đánh giặc như đánh
phé... bỏ đồn này... thấu cáy... Me Mẻo đi thêm
viện trợ... bỏ đất kia... bắt mạch... Chú Sam
chạy làng hay tiếp tục cuộc chơi... biết Mình
biết Mỹ... trăm trận trăm thắng... bật đèn xanh là
135
Cách Mạng thành công, Ngô Triều sụp đổ liền!
Như phường chèo múa rối trên sân khấu... đời
thật! Bất tài vô tướng... ếch muốn làm bò... khả
năng chỉ cỡ thuyền trưởng ''ếch'' PCF... mà đòi
nắm Hạm trưởng ''bò'' PCE... lèo lái con thuyền
‘’Nước Việt Mến Yêu’’... tôi yêu nước Việt của
tôi... vào đá ngầm... chìm... dễ dàng... như con
trẻ chơi diều đứt dây... không gì lạ cả! Tiên
trách kỷ hậu trách Mỹ... bỏ rơi... cúp giảm viện
trợ! Mình đá thua vì ông bầu, manager mình quá
tệ chớ không phải đội banh địch chơi quá hay...
đưa ra đấu pháp... bất khả thi... làm rối loạn
hàng ngũ... ta đá vô ống quyển mình, mình đá
lọt vào lưới ta... own goal... thua đắng cay, nhục
nhã! Ra lệnh cho tướng hùng... di tản chiến
thuật... hay nói toạc móng heo ra cho dễ hiểu...
chạy... để địch đuổi đánh... sau lưng... thì đỡ sao
được... tự nó tan ra như đường gặp nước, muối
gặp mưa... địch chỉ cần sai du kích ra... turkey
shooting... là lấy ăn... xe tăng tranh nhau chạy...
trốn... bị traffic jam... không thôi... tiến thối
lưỡng nan... cũng thành cua gãy càng rồi... nói
gì con người... bốn vùng chiến thuật... sụp...
theo thế... domino... trong thời gian kỷ lục...
khôn ba năm, dại một giờ... là thế! Trong quân
sử Việt từ thời lập quốc tới giờ chưa bao giờ
thấy chiến thuật ‘’cầu bại’’quái đản... như thế,
mới đem ra sài lần đầu tiên là bốn quân đoàn
hùng mạnh tiêu tùng tiêu tan mây khói liền!
Đúng là chiến thuật... gậy ông đập lưng ông...
nối giáo cho giặc... giúp cho chiến thắng địch
thêm ... thần thánh!
Tài năng cỡ Tôn sỉ Nghị, Sầm nghi Đống...
mà nắm Lãnh Đạo Quốc Gia kiêm Tổng Tư
Lệnh Tối Cao Quân Đội, đặc quyền lợi cá nhân
lên trên quyền lợi tối cao thiêng liêng tổ quốc
thì ... banh... nhanh... là phải lắm rồi... các ông
chỉ có tài đánh nhau trong thành phố... đảo
chánh, chỉnh lý dành địa vị... cao... chót vót...
bất xứng với lon lá trên vai... thì làm sao đương
đầu ngoài mặt trận với đoàn ‘’bộ đội’’ thứ
thiệt... đi bộ đội vác... từ Bắc vô Nam bằng dép
râu... quyết chiến quyết thắng... sinh Bắc tử
Nam... cọp đói hung hơn cọp no... nói gì cọp...
kiểng... gánh xiệc! Chỉ có tướng tài, tướng hùng
mới làm nổi chuyện này, nhưng những vị này lại
dưới tay mấy ông, bị mấy ông chỉ huy thì cũng
như không... như Giáo Sư Trung Học dưới sự
điều động của Hiệu Trưởng... Tiểu học...
Tướng Ngô quang Trưởng là trường hợp điển
hình... vừa hùng hồn thề thốt tử thủ Cố Đô...
xem cái chết nhẹ tựa lông hồng... chiến trường
da ngựa bọc thây... dựng phòng tuyến, lấy lại
tinh thần chiến sĩ, gieo rắc niềm tin vào lòng
Quân Dân Vùng Một xong thì... nhận lệnh...
rút... Sư Đoàn Dù về bảo vệ Thủ Đô... sợ đảo
chánh... thì đánh đấm gì được nửa! Thế là...
‘’tan hàng... tự sát’’... lúc đó chỉ muốn bắn nát
óc... kẻ ra lệnh này... đưa cả Quân Đoàn vào chỗ
chết... phe mình, phe ta... đối diện phòng tuyến
mới... nơi bãi biển... nồi da xáo thịt... tranh nhau
xuống tàu... trâu buộc ghét trâu ăn... không ăn
phá cho hôi... đụng chạm binh chủng... màu áo!
Bãi cát... thành... bãi người... tàu đổ bộ ủi vô...
thịt xương nát tan! Chưa kể địch bám theo... rót
châm đạn vào... biển mặn... biến thành... biển
máu! Nhờ làm tướng mới chạy được xuống tàu
an toàn... còn Quân Đoàn mặc bay... hồn ai nấy
giữ... thì còn mặt mũi nào nhìn lính tráng nửa...
chỉ huy được ai... tiền hậu bất nhất... nói ai
nghe... gây hỗn loạn trong lòng quân dân, mất
hết niềm tin mọi người, sụp đổ từ ngoài vào
trong thì tài thánh cũng bó tay... đàn anh Mỹ
cũng chạy làng! Những vị tướng bất khuất chỉ
còn cách... bất tử... trong... cửa tử... mà thôi...
khâm phục thiệt... dưới suối vàng họ sẻ trong
Quân Đoàn Hùng... Trần Bình Trọng... Thà làm
quỷ nước Nam còn hơn làm vương đất Bắc...
còn các ông trong Quân Đoàn Hèn... Lê Chiêu
Thống... cõng rắn cắn gà nhà... là cái chắc! Chỉ
tội nghiệp cho những người lòng dạ vẫn còn sắt
son với đất nước, khắc cốt ghi tâm những câu
châm ngôn, cách ngôn trong giờ Công Dân Giáo
Dục lúc cắp sách đến trường thuở học trò...
Giặc đến nhà đàn bà phải đánh!
136
Quốc Gia hưng vong thất phu hữu trách!
Hay bài học thuộc lòng hun đúc tinh thần quân
dân thời Tiểu Học lớp Nhì, lớp Nhứt...
Chiến Sĩ Cộng Hòa
Quân dân tình cá nước
Anh tôi không rời nhau
Nay học mai làm lính
Có khác gì nhau đâu!
Anh mơ Lý thường Kiệt
Tôi ước là Quang Trung
Ta mộng tuy có khác
Đều noi gương anh hùng!
Tinh thần đó có trong lòng dạ... nhất tướng
công thành vạn cốt khô... của mấy ông không?...
hay... mấy ông học chương trình Pháp nên
không được giáo dục mấy thứ này?... bởi vậy
mới bỏ nước ra đi... tỉnh bơ... vô trách nhiệm...
vô tích sự... như người ngoài cuộc... ngoại quốc!
Các ông có ăn mà không chịu... chịu, khi đất
nước lâm nguy thì bỏ chạy, để đàn em ở lại
làm... Lê Lai liều mình cứu Chúa... khi tàu sắp
chìm các ông đâu dám... rủ hay hú... tất cả thủy
thủ đoàn cùng... đào thoát theo... mà thùng rỗng
kêu to... mồm loa mép vải... sống chết có nhau...
sát cánh bên nhau ... ‘’tát nước’’ tới hơi thở cuối
cùng... làm chúng tôi tưởng bở... tưởng giếng
sâu nên nối sợi dây dài, ai ngờ giếng cạn tôi nối
hoài sợi dây! Các ông có tội nặng với Quốc
Gia... đem xương máu Chiến Sĩ đổ sông đổ
biển... biến hai mươi năm vào sanh ra tử, hi
sinh chiến đấu gian khổ của Quân Dân miền
Nam thành... Dã Tràng xe cát biển Đông, nhọc
nhằn mà chẳng nên công cán gì... nhưng lại có
công lớn với Việt Cộng... nhờ lệnh rút Dù
không thôi... cũng giúp địch... mèo mù đớp cá
rán... thấy được thời cơ, vận nước đã đến rồi...
tiến thẳng về Dinh bằng Quốc Lộ cho nhanh chớ
không thèm theo đường mòn rùa bò... mấy năm
nửa chưa chắc tới được... nói chi di tản chiến
thuật khỏi Cao Nguyên... khởi đầu của...
Domino... tan hàng tự sát!
Qua xứ người mới thấy... việc dân là việc
dân... việc quân là việc quân... chánh trị, quân
sự... hai lãnh vực hoàn toàn khác biệt nhau...
phức tạp, đa đoan... một việc cũng đã nặng trĩu
trên vai rồi, kham không nổi, không một nhà
lãnh đạo tài ba nào lại kiêm hai việc cùng một
lúc như thế... như... vừa là SQ Chỉ Huy trên
phòng lái... vừa kiêm SQ Cơ Khí dưới hầm
máy... thì làm sao làm được việc gì... ra hồn...
hay... như người... hai vợ... thì làm sao làm tròn
nhiệm vụ ‘’làm chồng’’... number one... bằng
người... một vợ!
Tham thì thâm cổ nhân dạy thế... khổ quá, biết
rồi, nói mãi, chán chết, đủ rồi, bắt qua chuyện
khác đi là vừa... đổi không khí... di tản chiến
thuật... khỏi cao nguyên... cho bớt... phạm
thượng... bất chánh, hạ tất loạn... nước mất nhà
tan... những điều trông thấy mà đau đớn lòng...
hổng nói hổng được.
Biết bao bút mực, giấy viết, trí não, tâm huyết,
trong và ngoài nước, thắng trận thua trận, tiếng
Tây tiếng Ta... tốn hao về cuộc chiến... nhỏ
không trong mà lớn cũng không ngoài... này...
nội chiến không ra nội chiến, thế chiến không ra
thế chiến... nhưng có đủ quần hùng thế giới
tham dự... đủ màu da trên xác chết... tàu bay, tàu
bò, tầu nổi, tầu ngầm, hàng không mẫu hạm,
pháo đài bay, vũ khí tối tân đủ loại, đủ ý thức hệ
triết thuyết thâm sâu hai thế giới có bức màn sắt
vô hình ngăn cách hai bên vùng trời... cộng
sản... tự do... biến... chiến tranh lạnh... thành...
chiến tranh nóng... World War Two... nối dài...
thành... Mini Thế Chiến... thu hẹp... bỏ túi... trên
sân chữ ... S... Tha hồ thử nghiệm bom đạn trên
xương máu, đất nước, núi sông, ruộng đồng, cây
cỏ, con người... Việt... chia đều ra hai phe
đánh... y chang lời... Nhạc Sĩ của Lính... Nhật
Trường Trần Thiện Thanh... có khác là... chuyện
ngày xưa... còn nhỏ... trong nhạc... đánh...
chơi... còn... lớn lên... ngoài đời... đánh... thiệt...
137
đổ máu tươi... Nồi da xáo thịt... Gà nhà bôi mặt
đá nhau... Nam Bắc phân tranh... hận thù ngút
ngàn... gần 40 năm trôi qua vẫn cao chất ngất,
ngút trời... không biết chừng nào mới lau sạch
được... cái lọ nghẹ quái ác ‘’ Vô Minh’’ đó để
thấy được... Chân Như... nhau... Bắc – Nam một
nhà... kẻ thù tao đâu có phải là mày, giết mày đi
thì tao ở với ai!
Ở hải ngoại... Nam Bắc... quá xa... đánh
không tới... nên... Nam- Nam... cùng chiến
tuyến... chia rẽ, chia chẻ, chụp mũ... đánh tiếp...
trong internet... thế giới ảo... cho nó gần! Nhàn
cư vi bất thiện... nhất là... ở lứa tuổi về chiều
ngược đời này... chuyện xảy ra mới đây thì
chóng quên, còn chuyện xảy ra lâu đời... từ
thời... tắm ở truồng... khi xưa ta bé ta ngu, chơi
dây thun đi quấn con Charly... bốn, năm, sáu
chục năm về trước thì lại không quên... short
term memory thì... on, off... bất thường... nhớ
trước quên sau, còn... long term memory thì...
on ... hoài... nhớ mãi... mới khổ... không chịu
sống trong hiện tại... hết thời... theo luật đời...
mạnh được yếu thua, được vua thua giặc... cho
hợp thời cơ mà cứ sống mãi với... dĩ vãng tìm
đâu thấy... đống tro tàn nguội lạnh... theo đường
mòn... đường xưa lối cũ... chẳng tới đâu... phí
một đời... hoài Lê... hoài Ngô... Thăng Long
Thành Hoài Cổ... Thần Kinh Thương Nhớ... Sài
Gòn ơi, ta mất người như người đã mất tên...
yêu nước... như... yêu lính... bằng lời... đòi lấy
lại... Nước... đã đổ xuống... Đất... bằng nước
bọt... nước miếng... thì tới chừng nào mới đầy
lại ly... mới chết... không khác gì lúc nhỏ lăng
xăng lít xít như ‘’gà con’’... bắt nắng... bắt bong
bóng bay... xà phòng... còn khó hơn... bắt cọp...
mới có nhiều chuyện... để chửi... để chống... để
chụp... để chơi... nhau... hoài... dài dài... đến hết
đời... cho đỡ buồn!
Lúc mới qua, nhiều bài ca mới sáng tác nghe
thật có hồn, thật thấm thía... cho đến tận bây giờ
Ta không mất quê hương
Vì quê hương còn đó
Ta sống trong lưu đầy
Vì yêu thích đời tự do...
Việt Nam còn đó... trên bản đồ thế giới... đâu
như... Chiêm Thành, Chân Lạp... mà gọi mất
nước được! Tài Thánh cũng không thể bóp
méo được Lịch Sử ! Chuyện Quốc Cộng phân
tranh... 1954-1975... trên dải đất thân yêu chữ
S đâu có lạ gì với chuyện dài ngàn năm... Lịch
Sử Việt Nam... 20 năm... nhằm nhò gì với...
200 năm... Trịnh–Nguyễn phân tranh... chỉ
bằng một phần mười! Khi Nguyễn Ánh gom
giang sơn về một mối thì những người hoài Lê
khóc than... mất nước... nhưng nước Việt
mình vẫn còn đó... chỉ là đổi triều đại từ Lê
qua Nguyễn... lịch sử sang trangà... như đã
từng sang từ... Đinh, Tiền Lê, Lý, Trần, Hậu
Lê, Nguyễn vv... thay dòng đổi họ... lập đi lập
lại... theo luật đời muôn thuở... mạnh được
yếu thua... thịnh suy như hạt sương rơi đầu
cành! Ta chỉ mất tự do vì ta... có súng trong
tay hèn nhát bỏ chạy... nên mất... giản dị thế
thôi... tiên trách kỷ, hậu trách nhân... kẻ hèn
này và những người cùng ghe ngoài biển khơi
mà hèn nhát như thế, không... tay không tử
chiến hải tặc Thái Lan... hay khóc lóc chắp tay
quỳ lạy van xin... thì chắc chắn... triệu phần
trăm... mất mạng... chớ đừng nói mất... tự do!
Muốn có... sự sống, có... tự do... là phải đem
xương máu, sinh mạng mình ra để đánh đổi...
khắc nghiệt, đoạn trường thế đấy... chớ đem
nước miếng ra thì... làm được gì... một triệu
cái miệng từ xa phun nước miếng vào mấy
thằng hải tặc cũng không chết thằng nào,
ngoại trừ dám liều mạng xáp lá cà... bi chí
dũng... chịu đấm ăn dao... bất kể bao nhiêu lát,
nát lưng, lủng ngực, nhưng vẩn ôm chặt lấy
chúng nhảy xuống biển... dù chẳng biết bơi...
nhảy xuống là chìm liền... chỉ để lại... những
vũng máu đỏ nổi bật bồng bềnh trên mặt biển
xanh... làm dấu vết... hy sinh... một đỗi một,
loại trừ một thằng hải tặc độc ác khỏi vòng
chiến, chết cho người khác sống... làm gương,
138
châm ngòi cho những người khác đứng lên...
chết... để... sống... mới mong đảo ngược thế
cờ! Có dám làm như thế và có dám cho đám
con cháu ruột thịt mình làm như thế... sinh Mỹ
tử Việt...thì... mới... sát cộng được... còn
không là chỉ làm công việc của con chim
cuốc:
Nhớ nước đau lòng con quốc quốc
Thương nhà mỏi miệng cái gia gia... mà
thôi!!!
Con đường máu và nước mắt là thế! Muốn
Cờ Vàng cắm lại đất xưa phải đồng sanh đồng
tử thành một khối, chiến đấu trong tinh thần...
tử chiến... hải tặc Thái Lan... xem cái chết nhẹ
tựa lông hồng... chớ đánh tài tử như... yêu lính
bằng lời... yêu nước bằng nói... đã vậy còn...
chia rẽ... mình với ta chín người mười ý... độc
quyền chống cộng... chơi nhau, chụp nhau là
Việt Gian, Việt Cộng... dỏm, giả, ảo... làm Việt
Cộng thiệt... ngư ông đắc lợi... chẳng cần... địch
vận tốn công... bất chiến tự nhiên thành... cũng
có tay chân nằm vùng hải ngoại... do chính mình
cung cấp cho chúng, do chính mình đẩy họ, xếp
họ sang hàng ngũ địch, do chính mình cống hiến
cho chúng... mà toàn những nhân vật tên tuổi,
ngon lành, tài hoa, học cao hiểu rộng, có người
là giáo sư Đại Học Mỹ... Việt Cộng sao lắm
người trí thức thế, mà toàn những người miền
Nam ra đi năm 1975 mới đáng đăng báo... trong
khi chưa Dân Vận Chiêu Hồi được một con
nhạn nào của địch, dù là nhạn què... chỉ toàn
thấy ta bị đẩy qua địch mới chết... toàn cho
không, biếu không mới dại... làm vậy không
khác gì những đội banh lùng danh thế giới như
Barcelona, Real Madrid, Manchester United,
Arsenal tống cổ những hảo thủ tên tuổi cỡ
Messi, Ronaldo, Rooney, Van Persi ra khỏi đội
mình... free of charge... những '' chân tài'' có tật
này, không làm theo ý mình, dù Manager có
ghét cay ghét đắng thế nào đi nửa cũng ráng
xuống nước tăng lương dụ dỗ ký contract mới
giữ lại chứ đâu ngu gì... cho không, biếu không
cho địch thủ mình... không chóng thì chày...
theo thời gian... đám Quốc Gia thứ thiệt, thứ
chiến, đủ cả ba nhân... Quân Nhân, Tù Nhân,
Thuyền Nhân... tự nhiên biến thành đám cộng
hết... cụ thể nhất là nhà văn Nguyễn ngọc
Ngạn... bấy lâu nay tôi vẫn tưởng ông bị địch
xếp vào loại ác ôn, đặc công văn hóa Mỹ Ngụy,
một tay chống cộng đắc lực, có chiều sâu, có
văn hóa, nào ngờ bây giờ lại thuộc người bên
kia chiến tuyến! Không biết sau này vô tình
khách quan ca ngợi tài ăn nói MC hay tài viết
văn của Nguyễn ngọc Ngạn có bị xếp vào thành
phần... Việt Cộng nằm vùng... bị dị ứng... như
ca tụng... Đường Xưa Mây Trắng... hay quá...
được nhà tỷ phú Ấn Độ xin bản quyền để quay
phim Phật... của TS Nhất Hạnh... đi nghe
nhạc... có hồn... của NS Trịnh công Sơn... hay
không gọi bằng thằng mà gọi bằng ông... tướng
tầu bay râu kẽm Nguyễn cao Kỳ.
Càng dị ứng lắm, càng chia rẽ nhiều!
Hai chữ ''dị ứng'' chỉ dành cho những người
tài hoa, tiếng tăm lẫy lừng chớ không phải cho
người vô danh tiểu tốt. Cũng may... Nguyễn Du
sống vào thời Trịnh Nguyễn phân tranh... không
hiểu Tiên Sinh sống vào thời... Hậu... Quốc
Cộng phân tranh... ở hải ngoại này... có bị... tài
mệnh tương đố... chữ tài liền với chữ tai một
vần... dị ứng... hay không... vì dám đem chuyện
Tàu... vào văn thơ của mình!
Hồng Quần rồi đến Hồng Quân mấy hồi... vô
thường, vô ngã... mà !
Bâng khuâng đứng giữa đôi dòng nước
Chọn dòng nào cũng bị... nước trôi!
Chuyện nước non như chuyện nước trôi... qua
cầu... qua rồi là qua luôn, chảy mãi về phía
trước... qua cầu khác... chớ không bao giờ trôi
lại cầu củ... bởi vậy con người mới ví von...
không ai có thể tắm hai lần trên một dòng
sông... là thế!
139
Đúng là... nhiều chuyện để nói như chuyện hai
con đường mang tên Tự Do, Công Lý vậy... thời
nào cũng nói được... lưỡi không xương nhiều
đường lắt léo .
Thời Cộng Hòa thì: Tự Do hạn chế, Công Lý
một chiều.
Thời Cộng Sản thì: Cách Mạng Tháng Tám
tiêu Công Lý
Đồng Khởi Vùng Lên mất Tự Do
... có sao nói vậy người ơi, chẳng thêm chẳng
bớt... cấm xe ngựa, xe bò, xe ba bánh, xe xích
lô, chạy trên đó làm mất vẻ mỹ quan thủ đô thì...
Tự Do hạn chế... cho chạy một chiều để bớt kẹt
xe thì... Công Lý một chiều... còn đổi tên đường
xóa đi tàn tích cũ thì... Tự Do, Công Lý... mất
tiêu luôn... đúng quá trời... không cần động não
viết lách chi cho mệt, chỉ cần góp nhặt những gì
xảy ra trên hai con đường đó rồi ráp lại là có
những câu thơ bất hủ... để đời... đá giò lái chánh
quyền, nhà nước... chơi... cho vui!
Người Việt mình có nhiều cái hay mà cũng có
lắm cái dở, ở đâu cũng thế, trong và ngoài nước,
lúc nào cũng vậy... là một chiếc đũa tốt nhưng là
một bó đũa... tồi! Chắc không dám đoàn kết vì
sợ... chết hết... theo tinh thần:
Chia rẽ... chết lẻ tẻ
Đoàn kết... chết hết!
Nói bậy mà trúng bạ... với chúng mình... mới
đau... trong cải tạo tôi cũng mất ăn mất ngủ vì
hai câu đó... làm tự kiểm, đấu tranh phê bình
trước tổ... vì tội... phát biểu linh tinh... đem hai
câu thơ con cóc đó ra nói chơi cho chúng bạn
cười... giải trí... sau khi ca bài... Kết Đoàn chúng
ta là sức mạnh... lại đề nghị chia cơm tổ ra ba
mươi phần đều nhau để... đói... đều nhau... chia
xẻ cái đói với nhau trong tù... thần khẩu hại xác
phàm... là vậy! Hai câu đó tôi biết từ Nam lùn,
OC 2, khi hai thằng biệt phái về HĐ 3 ở Long
Phú, đêm đến phải đem tàu ra sông neo ngủ chớ
không được nằm bến cột cặp bên nhau nơi cầu
tàu như ở các căn cứ khác sợ bị đặc công thủy
gài mìn chết chìm chết chùm cả đám... ra sông
làm biếng thả neo, lình bình chờ tàu bạn cắm
câu trước rồi lủi vào cột nối đuôi hay cặp kè kế
bên qua lại nói chuyện cho vui thì nó lên máy:
Chỗ này đất mềm, khó cắn neo... chia rẽ chết lẻ
tẻ, đoàn kết chết hết... nghe rõ trả lời... Victor...
nghe vậy là biết... đừng vô... ôm nhau xà nẹo...
nửa đêm... neo cày... mệt lắm... sợ tàu trôi chớ
không phải sợ mìn trôi... Việt Cộng... từ đó
nhập tâm hai câu này luôn... thấy nó cũng hay
hay... từ vần đến ý!
Không biết chết xuống âm phủ có còn ‘’Vàng
Đỏ’’thù nhau nửa không, chớ trên trần đời này
thì‘’Hoa Đỏ’’đã dẹp thù xưa rồi... coi chuyện
hôm qua như giấc mơ lâu rồi... mời nhau đến
nhà chơi, coi bộ bình đẳng hơn Vàng xưa, quan
hệ ngang cơ chớ không phải... chủ tớ... tôn trọng
quyền Tự Quyết Dân Tộc của nhau, cho Đỏ cắm
cờ trên đất Hoa ở chỗ cao nhứt... Sứ Thần Sứ
Quán. Số một Hoa đến chơi nhà Đỏ, số một Đỏ
thăm viếng Lầu Hoa, Hoa còn giúp Đỏ, cho Đỏ
đồ chơi như cho Vàng xưa kia, đưa tầu chiến về
cặp bến xưa, Captain Hoa gốc Vàng được Đỏ
trải thảm đỏ dàn chào tiếp đón... bắt tay... đăng
báo, chiếu truyền hình... ra vẻ tâm đầu ý hợp...
vì... chung kẻ thù mới! Biết đâu thế hệ thứ hai
nhà binh Hoa gốc Vàng... hậu duệ của Trưng
Vương, Hưng Đạo, Lê Lợi, Quang Trung hải
ngoại này, có ngày đem tàu chiến, tàu bay, về
bảo vệ biển mẹ... đứng chung chiến tuyến với
Đỏ... khi chiến tranh Hoa-Trung bùng nổ ở biển
Đông... Who knows? Chuyện gì mà Hoa chẳng
dám làm, miễn là có lợi cho mình, dù đó là hại
bạn, giết bạn... Vàng... đồng minh sống chết có
nhau với mình! Lúc đó họ sẽ là những anh hùng
dân tộc... và... lúc đó chắc người Việt hải ngoại
mình mới là... ''bó đũa''... mong cho Hoa và Đỏ
chiến thắng... chớ chẳng lẻ lại ước... Trung
Cộng... diệt... Việt Cộng... giùm mình... để đưa
mình về... làm... bù nhìn... tay sai... tài lọt... cho
chúng!!!
Vô minh phiền não
140
Duyên hợp duyên tan
Xưa thù nay bạn
Vô thường vô ngã
Biết đâu mà mò!
Thời gặp thế thế thời phải thế
Biết nói gì đây
Cho vừa lòng người
Đòi tắm hai lần
Trên một dòng sông!
Trong kỳ ĐH 11, 2010 vừa rồi, đúng 40 năm
sau, Trung Sĩ Cảnh ngày nào đã hiên ngang đem
ly qua bàn ngồi nói chuyện''ngang hàng'' với
mấy Đại Quan xa xưa... đã chơi hết mình với
mình... trong bộ Quân Phục Hải Quân với cặp
''ga lông'' bốn thỏi vàng nặng trĩu trên vai,
Captain thứ thiệt ngoài đời, trên biển của Bộ
Quốc Phòng Canada đàng hoàng, Commanding
Officer CFAV ''Quest'' chớ không phải Quan...
kiểng... thiệt... Trung Úy, Đại Úy... muôn năm...
Đại Hội! Không hiểu... nếu có Lt Jg Auve ngồi
chung bàn... có chuyện gì đáng tiếc xảy ra như
bốn mươi năm về trước không... chắc chắn là
không rồi vì các Đại Quan nhà mình đâu còn...
mặc cảm da vàng... nữa... có chăng là mặc
cảm... tự t... tôn hay ti gì đó, tùy người đối
diện... ngượng ngùng nhìn thằng... mà mình đì
cho ra Trung Sĩ tan nát cuộc đời xa xưa đó...
giờ lại ngoi lên tới Captain xứ người... hay
thiệt!!! Tôi dùng hai chữ Đại Quan ở đây không
phải mỉa mai vì xưa kia Thiếu Úy, Trung Úy
trong Quân Trường to lắm, dễ dầu gì được ngồi
cùng bàn, chỉ đứng nghiêm trình diện như khúc
củi mà thôi! Trong kỳ ĐH tại Boston bất ngờ
gặp lại SQ Cán Bộ xưa đến nói chuyện với
người quen cùng bàn, ngờ ngợ nhớ ra tôi bật
miệng vui vẻ mừng rỡ hỏi liền:
Ông thấy quen quen, có phải là Trung Úy
Cương không? Nhưng ông chỉ trố mắt nhìn tôi
cười gượng, cảm thấy khó chịu trước thằng
dám'' cacher galon'', bố lếu bố láo hạ cấp bậc
mình, coi như rượu nói, chớ không phải tôi nói!
Đọc được ý nghĩ trên, tôi bèn giải thích:
Ông đừng nghỉ tôi hạ cấp bậc của ông, tôi không
hiểu sau cùng ông cấp bực gì nhưng Trung Úy
Cương tôi nói ở đây rất lớn đối với tôi... so với
Alpha Con Cá Vàng thời SVSQ của tụi tôi lúc
đó ... nhất là Trung Úy Cương Academy dạy
kèm tụi này Celestial Navigation bằng tiếng
Việt ở Quân Trường OCS... Trung Úy đó trong
HQ Việt Nam lúc đó đếm không hết bàn tay
năm ngón... nó cách xa một trời một vực... sự
cách biệt ... giữa Trung Úy và Thiếu Tá sau
này... tôi hỏi Trung Úy Cương đây là Trung Úy
đó... là thần tượng tụi tui... nếu chụp hình làm
người mẫu cho Trung Tâm Tuyển Mộ Nhập
Ngũ thì khối thằng bỏ học đi lính... Hải Quân
liền... nó to hơn nhiều so với Thiếu Tá ngoài
Quân Trường... nhất là lon Trung Úy rẻ như bèo
của tụi tui sau này!
Vỡ lẽ Trung Úy Cương nhà mình happy với
Trung Úy đó... cởi mở vui vẻ nói chuyện với tôi
rất thân tình... mặc dù thỉnh thoảng tôi vẫn quen
miệng xưng hô... Trung Úy... với ổng... với tâm
trạng mình là SVSQ alpha con cá vàng... chắc
ổng cũng cảm nhận điều đó nên không... sửa
lưng!
Chuyện hôm qua như giấc mơ lâu rồi
Chuyện đùa vui, chuyện đùa thôi!
Lúc rời quân trường OCS, tôi có chụp chung
với Hiếu một tấm hình trong quân phục mùa
đông, dạ đen, nón trắng, trước một phi cơ ở phi
trường rất đẹp, dự tính khi nào tham dự ĐH gặp
lại nó sẻ báo tin vui gởi tấm hình này cho nó,
nhắc nhớ lại cuốn sách quý nó xuất kho''tặng
lậu'' cho tôi cùng niềm vui nỗi khổ khi có nó
trong tù, lấy thân độ của, liều mình cứu sách,
quyết không để nó lọt vào tay địch... thì... dự
định ấy cũng tan theo mây khói vì thằng bạn
thân thương không gặp từ lúc ra trường đến giờ
đã theo vô thường ra đi... không trở lại... đời
người như gió qua!
141
Về nước, lên đường nhập cuộc, nó cũng được
xếp vào hành trang ra đi trong sắc marin, nhưng
tới đơn vị, lên PCF là dấu luôn, không dám lấy
ra khỏi túi sắc nói gì lấy ra đọc! Vào thực tế mới
hay... chiến trường đổ máu xong, về bến nghỉ
là... bia lên... một trăm em ơi, chiều nay một
trăm phần trăm... tập... uống rượu không say nào
hay... luyện... tửu rượu cho cao... nói lính mới
nghe... hay... cắm đầu vô mấy bàn bi da, ôm
cơ... dợt... giữ... giò gà... cho lâu... cho đỡ tốn
tiền... bàn... theo luật chơi... thua phải trả! Tối
đến thì domino, bài bạc, hay thanh tao hơn ôm
đàn ngêu ngao cho qua ngày tháng, chớ đời nào
có chuyện... văn ôn vỏ luyện... mở Duton
Navigation ra... giải trí... không giống ai, ai dám
làm... lính sửa! Trốn học, bỏ đi lính... còn bầy
đặc, ra cái điều... ta đây hiếu học... chán mớ
đời... giờ chỉ còn học bóp cò... bắn nhanh thì
sống, bắn chậm thì chết... mà thôi! Bên cạnh đó,
phải trao dồi... ‘’tam say’’... say rượu, say sóng,
say tình... mới là thủy thủ... thực thụ... dầy dạn...
gió, bụi, nắng, mưa... không để mất mặt KBC...
lính biển... lả lướt, phong trần, phong lưu,
phong... thấp !
Con ong đả tỏ đường đi lối về, kỳ phép đầu,
đem nó về là cho nó ở nhà luôn. Từ đó không
bao giờ đụng tới nó cho tới khi tham dự cuộc
đổi đời lần hai... từ... Xếp bút nghiên theo việc
đao binh... qua...
Xếp Đao Binh Theo Nghiệp ‘’ Hàng Binh’’...
Sáng hùng trưa hèn
Vô thường vô ngã
Một đời đang sống
Một ta đang là
Đầu hàng là xong
Tan theo mây khói!
Thành trụ hoại diệt
Hoa đốm hư không
Sương sớm nắng chiều
Tánh không như đã
Ở đâu trong đó
Mất còn tùy duyên!
Việt Nam Cộng Hòa
Cờ Vàng Sọc Đỏ
Hết duyên viện trợ
Cuốn theo Cờ Hoa
Đi vào lịch sử
Vĩnh biệt Trời Nam!
Đau lòng Quốc Quốc
Mỏi miệng Gia Gia
Chết hai còn một
Mới ra thái bình
Dưới màu Cờ Đỏ!
Giang Sơn một mối
Nam Bắc một nhà
Vòng trong tù ngụy
Vòng ngoài tù dân
Thiên đường... bánh vẽ!
Cả nước là ngục
Toàn dân là tù
Nghèo đói như nhau
Khổ ta cùng khổ
Địa ngục... bánh thật!
Xã Hội Chủ Nghĩa
Người không là người
Là nô lệ... mới
Đỉnh cao trí tuệ
Là con vẹt nhỏ
Ưu việt loài người
Là boat people
Người muốn... làm người
Sống đời sống người
Đúng theo nghĩa nó!
Học tập cải tạo
Lao ngục đổi tên
Vô dễ khó về
Không biết ngày ra
142
Châm hơn ở tù
Trâu bò cũng sợ
Nói chi con người!
Tiếu lâm chuyện kể
Lưu truyền dân gian
Nghe chơi đỡ buồn
Cho qua ngày tháng
Trong thiên đường mù
Không gì giải trí!
Có con bò nọ
Biếng lười kéo xe
Chủ ra nhỏ nhẹ
Không kéo thời đi
Vô trại cải tạo
Với chú Bò Vàng
Là chạy cụp đuôi
Như Tào Tháo đuổi
Chẳng cần tới roi!
Vượt thoát vượt thoát
Đến bờ bên kia
Mới lên làm người
Thoát đời tôi mọi
Nếu mọc được cẳng
Cột đèn cũng đi
Vượt biên, vượt biển!
Đời người khó gặp
Mà lại xảy ra
Ngay trong đời ta
Phũ phàng khắc nghiệt
Hỏi sao không khiếp?
Sáng quan trưa giặc
Cởi áo giữa đường
Lột lon giữa phố
Quẳng súng gốc cây
Giã từ vũ khí
Cúi đầu gục mặt
Oai hùng đi đâu???
Mất đời mất mình
Đổi thay mau quá
Như trở bàn tay
Ý theo không kịp
Bàng hoàng như mơ
Trong ác mộng... thực!
Mình lính hay dân
Mình dân hay giặc
Đảo điên tâm trí
Khủng hoảng tinh thần
Biết đời về đâu
Đất trời gió bụi!
Được vua, thua giặc
Đổi đời đổi người
Xuống làm sâu bọ
Sầu khổ triền miên
Nhớ nhung đủ thứ!
Nhớ nhà nhớ biển
Nhớ trời tự do
Nhớ tầu ra đi
Nhớ... Hổ nhớ rừng
Nhớ đời đánh mất
Trong ngày... 30!
Thương ta ở lại...
nên mới nhớ tới nó, nghỉ tới nó, cần tới nó... bên
mình... ''tù hành có bạn'' cho đỡ buồn, đỡ... nôn
nóng ngày về, mơ ước ngày ra... nguồn gốc mọi
buồn rầu sầu khổ của muôn loài muôn vật lúc
lâm cảnh...
Nước đọng, ao tù, tàu mắc cạn
Chim lồng, cá chậu, người ngục... tù túng mất
tự do!
Vì thế mà nó lại có một chỗ ''chui'' trong hành
trang tù đày của tôi trong sắc marin, lén lúc theo
tôi bụi đời vô tận rừng thẳm, hú hí vụng trộm
143
kín đáo với tôi trong tù... và... có tội... như tôi...
vì... không chịu‘’đăng ký’’ kiểm duyệt nội
dung! Thành thật khai báo thì chắc chắn trăm
phần trăm nó... bị bắt ngay... giống như chủ nó
đăng ký học tập cải tạo... mười ngày... còn tệ
hơn nửa... không có ngày ra... vì trong đó toàn
chữ Anh, kiếm cả Sư [đoàn] cũng không ra một
mống biết đọc hiểu Anh ngữ nói gì kiểm duyệt,
chắc tới Têt Congo cũng kiểm duyệt chưa
xong... và...ngay cả những sách báo cách mạng
chữ Việt sau khi nộp xong cũng không thấy trả
lại, chỉ thấy duy nhất thằng bạn trưởng ban văn
nghệ khối cùng tổ với tôi đòi hỏi mãi... sách
ca... để dợt hát nhạc đỏ mừng Tết Tù mới được
trả lại! Còn bất tuân thượng lệnh sẽ bị nghiêm
trị, tội ngập đầu, toàn đao to búa lớn không mới
độc, yếu bóng vía đừng nghỉ gì đến chuyện
cứu... sách... bị phát hiện dám được tuyển vào
diện ác ôn cho đi thăm lăng Bác lắm... tiếng
lóng ám chỉ đưa ra Bắc cải tạo... nào là đặc công
văn hóa tuyên truyền tàng trữ sách báo phản
động Mỹ Ngụy, không tin tưởng đường lối
chánh sách đãng và nhà nước, tư tưởng chưa
thông nên không đem sách đi nộp, nhẹ nhất là vi
phạm nội quy trại không chấp hành nghiêm
chỉnh lệnh trên, chưa kể sách viết toàn chữ Mỹ,
từ Mỹ đem về... CIA cài đặt... giờ này còn học
hàng hải làm gì... bộ tính chuyện lâu dài... vượt
biên, vượt biển hay sao?
Mà thật vậy, có tật giật mình, trước khi lên
đường học tập vài ngày, Cao văn Quân, OCS 8,
có đạp xe đạp với ông anh văn nghệ của nó tới
nhà tôi để nghe ổng rủ... ở lại... đừng đi... tới
ngày trình diện thì cứ sách gói lên đường... đến
nhà ổng... ở trọ... chờ ổng kiếm ghe xong thì lái
đi, khỏi lo gì cả, ổng nuôi ổng chứa, nhà ổng có
xưởng sản xuất ở sát bên chùa Phật Giáo Cổ
Sơn Môn Phú Lâm, có gì ổng chạy giấy tờ làm
công nhân cho ổng, còn nếu muốn an toàn an
tâm hơn nửa thì ổng chạy cho... vô chùa... ở tu...
sướng hơn... ở tù! Nhưng hai thằng không
nghe...
Ặ sợ mắc cạn đợt hai... sống dở chết dở... hết
đường... về nhà... kinh nghiệm xương máu của
chính tôi mấy năm sau đó... một năm rưởi sống
ngoài vòng pháp luật... không dám ‘’ngủ nhà’’
ngày nào... mặc dù nhà mình có tới hai căn...
không phải sợ bị bắt thẩy vào cải tạo trở lại...
mà sợ... nhà bị tịch thu... cả nhà bị tống đi kinh
tế mới... ân hận suốt đời... thà sống chui sống
nhủi, chết bờ chết bụi... một mình... sướng hơn!
Tâm trạng...
‘’Thà chết một mình hơn ‘sình’ một đống’’ ...
của một người không chịu trở về tù sau khi sống
trong đó vài năm... sánh với...
‘’Thà chết một đống hơn sống một mình’’...
của những người trở về trên Thương Thuyền
Việt Nam Thương Tín năm 1975 sau khi ra đi
vài tháng... không hiểu... ai buồn hơn ai... tuy
hoàn toàn trái ngược nhau... nhưng chất... đắng,
cay, chua, chát... không thua kém gì nhau!
Cao văn Quân vượt biên mắc bảo bị bắt... mất
nhà... vẫn còn đường binh... di tản chiến thuật
về... nhà bà già vợ... tá túc, nương tựa! Còn tôi...
lở đi không được... không biết đi đâu... ở đâu...
không có đường rút... không ai dám chứa chấp...
điên đầu... chẳng lẽ ra đầu thú... đến bây giờ
nghỉ cũng không ra... cùng tử... cùng đường...
sans famille... thứ thiệt... nghỉ lại hú vía rùng
mình... lúc đó mỗi sáng thức dậy, mở mắt ra vẩn
thấy bầu trời Việt Nam... mến yêu... là... tan nát
cõi lòng... đối diện với ác mộng... ngày... thương
mà thấy... lại sợ... khổ đau dầy vò tâm tư là thế!
Thương và tội cho mình quá... biết bao cạm bẫy
đều thoát hết, không vướng cái nào... từ đất liền
ra biển khơi... mà bắt buộc phải thoát mới sống
được, không còn chọn lựa nào khác... may thật,
mầu nhiệm thật... bị bắt... không biết nên khai
tên nào... thật hay giả... để đỡ bị đòn đau... giấy
tờ tùy thân là đồ giả, chính tôi không biết số nhà
trong đó thực hư thế nào, tên giả, địa chỉ ma,
phải học thuộc lòng mới nhớ tên mình, tên cha,
tên mẹ, còn anh chị em ruột thì khai... con một...
còn người Hoa ở Chợ Lớn từ nhỏ đến lớn sao
không biết nói tiếng Tàu... thì bí... biết trả lời
144
sao cho hợp tình hợp lý, giấy tờ đó không thể
lận lưng được, chỉ dùng để... đăng ký vượt
biên... bán chính thức... do mấy ông chủ tàu
người Tàu cấp ... căn cước chế độ củ mà lại...
mới tinh... mới hơn giấy chứng minh thư nhân
dân chế đô mới... mới chết... nhìn là biết giả
liền... chắc ốm đòn về mấy thứ lăng nhăng này
lắm... dấu đầu lòi đuôi liền... lúc ở Cần Thơ,
thằng em dưới ghe ngủ ghe hoài chán quá mò
lên khách sạn Tây Đô ngủ đêm đổi không khí
nào ngờ giữa đêm bị xét hỏi giấy tờ lòi ra giấy
đi đường đóng mộc ký sẵn để trống mua của
công an khu vực, khi nào cần sẻ điền tên vô, bị
giam giữ mút chỉ, ăn đòn nhừ tử, muốn ra phải
chuộc năm cây, trong khi trong người tôi lúc
nào cũng có vài tờ như thế... còn khai tên thật
thì lại khốn nạn hơn... ốm đòn lẩn ốm đói... cốt
ngụy hoàn cốt ngục... thăm lăng Bác là cái
chắc... giả thiệt gì đều trọng tội cả... không biết
chọn lựa thứ nào nhẹ ăn đòn khi bị bắt... chỉ
biết‘’dựa hơi’’ Trời Đất... tin... Ở Hiền Gặp
Lành... để sống... qua ngày... mà thôi... vậy mà
sau cùng lại được... qua đây... mới đã... đúng
là... Trời Cao Có Mắt... quả tình không sai...
tham dự nhiều cuộc vượt biên... bể... mà
không... bị... bắt... lần nào... chỉ cần một lần thôi
là tàn đời liền... nhứt chín nhì bù mà giao hẹn...
chỉ nhất thôi, không được nhì... thế mà cũng
được... nhất... hay không bằng hên... là vậy!
Lúc làm tài công bán chính thức ở Sông Bé,
ngủ ghe, cuối tuần chở khách coi tàu, lòng vòng
trên sông chờ ngày ra khơi, bổn củ soạn lại trên
nửa năm từ Vũng Tàu, Cần Thơ đến giờ, thấy
ông tài công già ghe kế quen quen bèn nhẩy qua
leo lên cabin chào hỏi thì nhận ra là bà con với
anh Nhơn... giáp mặt nhớ liền... ổng vồn vã
chào mừng tôi ngay... cậu may thật, theo thằng
Nhơn là tàn đời rồi... nó ra đi mà đeo mang đèo
bồng cả hai bà lên cùng một ghe... nên bị nạn...
con vợ lớn phát hiện tình địch ở dưới khoang,
nổi cơn ghen la hét đòi về, không chịu đi chung,
náo động đêm đen... lạy ông tôi ở bụi này... đến
tai xã đội... làm cả đám bị lụy, không thoát
người nào! Dại thật... thuở đời... có bao giờ hai
bà chịu ở chung một nhà đâu... mà lại nhét
chung một ghe... nó phải biết chuyện cơ bản này
chớ... như chó với mèo sống chung sao được...
làm người khác họa lây, tội nghiệp! Sư Tử Hà
Đông khiếp thật, không biết chết xuống âm phủ
có chịu từ bỏ cái máu Hoạn Thư độc hại này
không... hay vẩn... chứng nào tật đó... gặp đâu
chơi đó... tiếp tục đánh ghen... bất chấp Quỷ Sứ
dưới đó như xem thường Quỷ Đỏ trần đời. Làm
trai hai vợ phải thương cho đồng... nhưng phải
biết khéo léo sắp xếp kẻo hư đại sự... gần gũi
với mấy chủ tàu đăng ký, tôi biết họ có cái
''đòn'' này vợ lớn có chằng cách mấy cũng đành
bó tay là... vợ nhỏ ông này đi tàu ông kia... vợ
bé ông kia gởi ghe ông này... là an toàn xa lộ...
đến đảo có ghen tiếp cũng chỉ động tâm mình
chớ không động đời người khác... vì chuyến
vượt biên đó là chuyến đi ‘’chui’’nên không thể
làm được điều này! Tôi nghe tối tăm, choáng
váng mặt mày... kể lại chuyện này cho con nhà
Quân nghe... hai thằng vừa buồn lại vừa... vui...
vì chuyến đó Quân nhà ta đã xuống ghe rồi... đi
một mình... mới xa nhà hôm trước hôm sau đã...
nhớ hơi... thằng con tính kỹ, binh sát nút, như
thời lính tráng... tối mai ra khơi, chiều nay mò
về, sáng mai đi sớm... cũng còn kịp chán... bèn
bỏ ghe theo đường mòn ra đường cái đón xe đò
về Sài Gòn... tối khuya mới về tới nhà... thấy...
bà chị còn thức... đang đứng chấp tay lâm râm
khấn nguyện trước bàn thờ khói hương nghi
ngút... cảm động quá... đáng đồng tiền bát gạo
một chuyến dù về... không báo trước... Sáng
hôm sau dọt qua nhà anh Nhơn sớm thì anh đã
đi rồi... đành ở lại... ngẩn ngơ sầu... có ngờ đâu
nhờ vậy mà thoát nạn... Còn tôi thoát tù Côn
Sơn không chung chuyến bảo tố với Quân vì
thằng em ruột bịn rịn con đào không ra xa cảng
đúng giờ hẹn bị bỏ lại nên tôi quyết định ở lại đi
chuyến sau nhiều điều kiện hơn...
Đúng là... ‘’nhờ tình thoát tội’’... không biết
đâu mà mò... Khôn chết, dại chết, hên... sống,
chớ không phải... biết sống... làm gì biết chuyện
145
biết đó... nhất là chuyện vượt biên... Chỉ có thầy
bói, cô đồng... biết... đoán bừa trúng bậy mà
thôi... vậy mà có lắm người tin... hay đúng ra
phải nói là ráng tin mới đúng... trong đó có tôi!!!
Chờ hoài không thấy đi... sốt ruột... chủ đăng
ký người Hoa có rủ tôi về Phụng Hiệp
nghe‘’đồng cốt’’nói một lần, liếc qua phẩm vật
và tiền đặt, đồng sáng mắt thắp nhang nhắm
nghiền đôi mắt... xuất thần ú ớ mê sảng lẩm
bẩm... tiếng âm... như người câm nói chuyện...
đổ mồ hôi hột một hồi lâu mới nhập thần trở lại
hớp miếng nước trà ‘’thông dịch’’ giải thích là...
mọi chuyện đều êm xuôi như sông ra biển... làm
cả đám lên tinh thần... hôm đó! Tôi không tin
cũng ráng tin để sống qua ngày, ngủ qua đêm...
vì ổng nói trật là khốn nạn cuộc đời mình liền...
chẳng lẻ ta đây mãi thế này, sao chịu nổi? Và...
nhờ ‘’đồng cốt’’ mà có ăn có nhậu, có một lít đế
tiêu sầu hôm đó, vui vẻ cả làng... đồng có tiếng,
mình có miếng... Sau đó không lâu thì chính tôi
lái ghe đến... đồn... Công An Biên Phòng...
nộp... tất cả ghe đăng ký vượt biên ở Cần Thơ
đều bị kiểm kê tịch thu... cốt khỉ hoàn cốt khỉ...
Tôi và con nhà Quân lại... tắt đèn làm lại... thua
keo này bày keo khác... tìm đường’’ đi chui’’
sau hơn nửa năm ăn dầm nằm dề bên bờ kinh
vắng bên cầu gì quên tên ở Cần Thơ! Tôi rất
may mắn khi tham dự cuộc chơi này, không có
tiền nhưng có tài... ‘’công’’... vô giá... thua bao
trận cũng còn, chừng nào mất mạng mới thôi,
nhiều người chỉ thua một trận là tang gia bại
sản, an phận tù đày liền!
Ngoài ra tôi còn được... bá tánh nuôi... bốn bể
là nhà... không ăn cơm nhà bửa nào mà vẩn no,
ở không biết bao nhiêu nhà lạ mà kể, từ Phan
Rang... làng Cà Đú, xóm đạo, có những đêm cả
xóm vắng hoe, đi nhà thờ xem lễ đọc kinh, chỉ
mình tôi ngoại đạo nằm trước hiên nhà buồn
thỉu buồn thiu ngắm trăng nghe... chó sủa...
nghe anh chàng hàng xóm không biết mặt,
không biết ngoại đạo như tôi hay làm biếng đi
nhà thờ ngêu ngao... Dư Âm... sửa... anh như
con chó, em như con mèo, hai con cắn nhau...
rồi dứt... sửa... ngang sương... lắng nghe hoài
mà không chịu tiếp... nhường lại cho tiếng... tim
lòng thổn thức! Bây giờ tôi phát hiện, thỉnh
thoảng mình hay nói... một mình... là ảnh hưởng
trong thời gian này... mình với ta nói chuyện với
nhau hoài... lâu ngày thành quen... bị bà xã sửa
lưng hoài... mà chưa bỏ được! Ở trong rẩy, dã
dạng nông dân, sách cuốc ra đồng, theo con
nước đưa nước vào ruộng, theo hết một mùa lúa
mà vẫn chưa... ra khơi. Cái rẩy nghèo ơi là
nghèo, không có cái radio nghe giải trí, thiếu
luôn tiếng gà gáy, chỉ có nhạc trời, dế mèn, ếch
nhái, ễnh ương, chó sủa rền vang đêm vắng,
thóc gạo đâu nuôi gà, chỉ nuôi chó thôi vì nó...
dễ ăn, dễ nuôi... như cá tra vậy... bởi vậy mới
nghe được tiếng chó sủa... là vậy. Tội nghiệp
con chó XHCN, thật ra nó cũng ăn những thức
ăn y như con người ăn ... nhưng là ăn... sau...
cơm gạo, thịt cá, rau cỏ... vô miệng con người
trước, chạy lòng vòng qua bao tử, ruột non ruột
già tiêu hóa xong xuôi đâu đó thải ra ngoài mới
tới miệng nó... recycle... đợt hai... riết rồi quen...
mỗi lần thấy tôi hay chủ nó vác cuốc vô bụi...
bứt cỏ... là nó mừng rỡ theo sau... kiếm ăn... có
lần... cả nhà đi vắng chỉ có tôi với nó trong rẩy...
canh hoài không thấy tôi vô bụi rậm, con chó
biết khôn... ra đứng ngay cái cuốc sủa gâu gâu...
tội nghiệp quá tôi bèn vác cuốc ra bụi... khoai
mỳ... hôm đó nó mới được ăn... đợt một... với
tôi! Nha Trang, Cần Thơ, Vũng Tàu, Mỹ Tho,
Bạc Liêu, Sa Đéc, Phụng Hiệp... ngủ cồn, ngủ
rẩy, ngủ ghe, ngủ bụi đời bến xe, đôi khi cũng
lên hương ngủ khách sạn Tây Đô coi danh hề
Tùng Lâm, chủ gánh hát Hậu Giang binh sập
sám chướng với chủ vượt biên bán chính thức,
thua hết tiền nhờ tôi về phòng bưng phụ nhu yếu
phẩm... thuốc lá, đường sửa, bột ngọt, kem đánh
răng ... ra đặt... thay tiền... binh tiếp... gỡ ghẻ...
Có lần về Cần Thơ bất thường ban chiều trong
chuyến xe hàng bít bùng chất đầy hàng hóa với
đám con buôn, tới tối, tới bắc Mỹ Thuận, xe
dừng lại chờ qua bắc... ngột ngạt, tù túng... thì
nghe... xuống câu giọng cổ... hôm nay xa nhà, lữ
146
khách không nhà, lữ khách cô đơn... tiếng hát,
tiếng đờn, tiếng... kách... nhịp phách... ngưng
cùng một lượt... trong đêm tối... thấm thía...
vọng tâm... mấy giọt nước mắt tự nhiên rơi...
nhìn qua khe hở... trăng treo trên sông... tình
quá, đẹp quá... mắt cắm theo mấy dề lục bình...
để lòng... trôi theo... dư âm vọng cổ... hôm nay
xa nhà, lữ khách không nhà, lữ khách cô đơn...
quên đói, quên mệt! Đêm trăng này, nghỉ mát
nơi nao... mà thật vậy... đêm đó xuống ghe nhỏ
để... sáng sớm... dò đường ... ra biển... ghi
chép... bao nhiêu hàng đáy... phải trái thế nào...
có đèn hay không? Có lúc được coi hát bội... sân
đình... vùng sâu vùng xa... di chuyển bằng ghe,
giải trí hai đêm một tuồng giống nhau... nhưng
khác đào kép đóng... được ngồi hàng ghế đầu,
được bà Tám đưa đò dọc giải thích một cách mê
say mỗi khi tới khúc hồi hộp lâm li bi đát, kẹp
tiền quăng quạt lên sân khấu lia lịa mỗi lần nghe
xuống câu vọng cổ nào... mùi!... Hết tuồng còn
kéo tôi ra coi đào thương kép độc ăn cháo gà
đêm trong nhà lồng chợ thắp sáng bằng đèn
‘’khí đá’’, ‘’măng sông’’ cho đã con mắt vì mai
này họ đi rồi và chính tôi cũng... đi luôn... mới
chịu dắt tôi về ngủ để sáng mai dậy sớm làm
taxi đưa đón khách ra chuyến đò... viễn xứ...
một đi không trở lại! Tôi là đệ tử ruột của bả,
ôm dây mũi, đôi lúc cũng bị bả xài xể thậm tệ
như tát nước vào mặt... khi cần thiết:
Thằng đầu bò, miệng hến... chỉ nhiêu đó
không biết trả lời phải hỏi tới tao... vì lù đù
chậm tiêu không lanh mồm lanh miệng... đối
đáp với ‘’băng đỏ, bò vàng’’... hỏi:
Rước ai mà nằm đây từ hôm qua tới giờ vẫn
còn... rước... trả lời giọng Sài Gòn, không đúng
ngôn từ đi ghe... đàn ông con trai... mà không
bình đẳng ... sổ... một cách tự nhiên... như... đàn
bà con gái... hàng tôm hàng cá bình dân học
vụ... cái lima hòe tao nè... là... không phải dân
đi ghe thứ thiệt... là... lộ liền... bốc khách... giữa
chợ đời Sa Đéc... nên phải bán cái cho bả rồi bả
cho ăn thứ gì cũng im... để mấy thằng đó nghe
phân tâm nghỉ qua chuyện khác, đừng hỏi bậy
bạ, khó trả lời!
Tôi một lần được ăn mấy thứ đó... bằng lời...
mà... an lạc thân tâm... thoát vòng tù tội! Lúc đó
đem ghe''chui''ra Vũng Tàu vì Cần Thơ chưa có
vụ đóng tiền đi bán chính thức, không được
dùng sông cái, biển cả, mà phải sài kinh rạch
nhỏ ra đó nên phải mướn người rành đường dẫn
về Sài Gòn, rồi từ đó mướn người khác dẫn ra
Vũng Tàu cũng bằng kinh rạch luôn. Từ Cần
Thơ về Sài Gòn còn qua xóm làng dân chúng ở,
tôi còn nhớ ngang qua Trà Vinh, Bình Dương,
nhưng từ Sài Gòn ra Vũng Tàu vắng hoe,
không gặp một ghe nói chi một nhà, không biết
địa danh, chắc là rừng sát, tôi đoán vậy. Tôi chỉ
việc lái theo ''hoa tiêu'' chỉ, luồn lách qua những
kinh rạch mà lần đầu tiên trong đời mới biết, hai
ngày một đêm mới tới cầu chữ Y, Giang Đoàn
mà theo đường này từ Cần Thơ về Sài Gòn là
bảo đảm... không còn một chiếc! Chiều neo ghe
bên nhà lồng chợ nghỉ qua đêm... Tiếng vọng cổ
nhà ai vang ra bên kia sông sao nghe hay lạ
thường, nó lọt vào lỗ tai rồi thấm vào lòng làm
trái tim rung động như mặt nước hồ thu buồn
man mác mới lạ. Lúc đó mới ngộ tại sao dân
quê miền Nam mình ghiền cải lương như ghiền
sầu... riêng! Nó chảy vào lòng mình như sông
nước theo kinh rạch ngấm sâu vào đồng ruộng!
Chiều trên quê hương tôi... mà thiếu tiếng vọng
cổ vọng ra từ ... xóm nghèo tôi... bên kia sông
vắng thì không phải là... chiều trên quê hương
tôi! Nó thiếu đi cái hồn... quê... trong đó... như
hát ca thiếu đệm đàn! Nó hài hòa với mây trôi
nước chảy... theo khói lam chiều bếp hồng nhà
ai loang tỏa vào không gian tỉnh lặng rồi len lén
lọt vào ngỏ hồn không tên lúc nào không hay
làm gợi nhớ lại quãng đời hải hồ... ngang dọc...
đánh mất... nửa chừng Xuân... một kỷ niệm u
buồn mà... quá đẹp... dễ thương... nhất là...
chiều nay dừng chân bên xóm nhỏ... trên chiếc
ghe bầu... trống rỗng trong đó... mà đầy ấp...
tâm sự trong lòng!
147
Từ giã một chiều lãng mạng, hoàng hôn nơi đây
thật buồn, đưa hồn đi hoang mây nước, một đêm
ngủ bụi thơ mộng thoát tục... quê hương trong
lòng... để trở về với trần đời thế tục... quê hương
trong mắt... bình minh ở đó không vui... mà... bỏ
lại sau lưng... lại... nhớ nhung da diết... ray rức
tâm hồn! Lên đường sáng sớm hôm sau... ôm lái
suốt buổi đến trưa mới nhường tay lái cho'' hoa
tiêu''xuống khoang ăn cơm đỡ đói. Đang nhơi
thì nghe trong tiếng máy nổ ầm ầm điếc tai có
tiếng đệm của... thùng thiết, mâm nhôm, xoong
chảo, nắp nồi... keng keng, đùng đùng, xèng
xèng... liên tục dọc bờ kinh, hết đoạn này, đến
đoạn khác, cộng hưởng, mỗi lúc mỗi to thêm, ồn
ào hơn tiếng trống múa lân... cắc tùng xèng...
cảnh vật chạy vun vút về phía sau qua khung
cửa nhỏ với tốc độ khác thường trên con kinh
hẹp, lần đầu tiên trong đời mới nghe, bèn bỏ
chén cơm bò lên phòng lái xem chuyện gì xảy
ra... Thì... cằm cằm... cằm cằm... cằm cằm...
tiếng AK quen thuộc chát chúa bên tai nhưng
thiếu tiếng... pháo tháp đại liên 50 đôi... đáp lại!
Nhìn về hướng đó thì thấy mấy tay súng đang...
cằm cằm thị uy... có cái chỉ thiên, có cái chỉ
thẳng... ngay phòng lái... thấy là muốn độn thổ,
rụng rời chân tay nhưng cũng phải ra tay hành
động ngay tức khắc, không dám giỡn mặt tử
thần... vói tay giựt mạnh cần ga về vị trí đứng
thẳng... point mort... điểm chết... nhảy vào dành
tay lái như đang đụng trận... trong tinh thần...
‘’hàng sống chống chết’’... nín thở làm theo dấu
ngoắc ngoắc, vẫy vẫy, chỉ chỉ hùng hổ của mấy
tay súng trên bờ... ra dấu ủi bãi trước bảng kẻ
chữ đỏ... Ủy Ban Nhân Dân Xã! Vừa đụng đất
là tên xã đội trưởng đeo K 54 bên hông đứng
trước mũi ghe đằng đằng sát khí móc họng liền:
Cha, giỏi quá ha, điếc mà cũng biết sợ súng...
hay thiệt... đụng đáy người ta rồi bỏ chạy luôn,
dân báo động rùm beng làng nước cũng không
nghe, còn tăng tốc, giỏi thử chạy nửa đi... coi
có... nhanh hơn đạn không?
Thì ra là vậy... ghe đụng ... hàng đáy... bỏ
chạy... dân chẳng cần chạy theo làm gì cho mệt
mà chỉ cần đem nồi niêu xoong chảo thùng thiết
bể ra... gõ... thả tiếng động ra... rượt... còn độc
hơn tiếng chó sủa... là chạy xịt khói đen lên trời
cũng không khỏi... súng... an ninh nhân dân chặt
chẽ ghê gớm thiệt! Đụng đáy... đỡ hơn... vén
đáy... còn chạy được... chớ ''rướng đáy'' là...
cứng luôn... quíu chân vịt lại... hết cục cựa...
cuốn lưới... máy... khựng liền! Tôi với Huỳnh
Hữu Nam OC 2 vén thử coi chơi một lần rồi...
đã thiệt... lăn lốc đá, mê mẩn người... liền! Đêm
đó không trăng, từ Cần Thơ ra cửa Trần Đề,
PCF hai máy tiến full lướt như bay giữa sông
rộng thì mắt thần mờ bất tử vì điện bình không
''sạc'', chưa kịp giảm máy, mắt thịt vừa hoạt
động... quen bóng tối... thì đèn hàng đáy ngay
trước mặt... đứng khựng liền tại chỗ... chúi nhủi
về phía trước như xe thắng gấp, đồ đạc bay ào
ào, mấy thằng em tưởng tàu bay lên bờ, hai máy
tự động tắt liền. Mấy người theo đáy đêm đó
một phen hú vía, mừng rỡ kể lại nhau nghe...
may nhờ thấy trước... bay, chúi, phóng, nhảy...
như cá thòi lòi mới thoát chết... sau đó họ cũng
không vừa gì... nhá đây là... hàng đáy ông Quận
hùn với ông Tỉnh... Nam Lima nhà mình nổ lại
liền... nhận lệnh hành quân khẩn... yểm trợ đồn
bị VC tấn công... chạy đến đây bị mấy anh
giăng lướt chận lại bắt... độc thiệt... như có nội
tuyến... vừa đánh vừa đàm... thương lượng mải
họ mới chịu cho người xuống lặng gở lưới ra...
vui vẻ cả làng... trong lúc chờ họ gở lưới chân
vịt thì... bơm dầu bắt đền cho đến khi gở xong
mới thôi... dĩ nhiên... bơm tay... cho đỡ hao dầu!
Còn vụ này không có gì nổ, trên răng dưới dế
nên không có tôi, bán cái cho Tổng Hậu theo
ghe, người Phụng Hiệp giải quyết, câm như hến
từ đầu đến cuối, nhưng lắng tai nghe... không
sót lời nào... bây giờ vẩn nhớ... không bao giờ
quên... tài ăn nói đối đáp tuyệt vời của Tổng
Hậu theo ghe... là ghe bầu, lại mui lá, không
giống ai, bên trong đóng băng ngồi theo kiểu đò
dọc đò dài, còn chở tới năm phuy dầu không...
mới chết cả lũ... lấy vải thưa che mắt quỷ sao
148
được, nghỉ tới đó là tôi bủn rủn chân tay... có tật
giật mình!
Ghe đi đâu mà chạy gấp dử vậy?
Thưa mấy anh, tụi tui đi buôn mía về chạy lò
đường.
Đi buôn mía mà bên trong đóng băng ngồi chỗ
đâu mà chở, rồi quay qua 5 của nợ hạch:
Còn năm phuy dầu này để đây làm gì, bộ tính đi
đâu xa hả?... nghe tới đó là tôi thấy tàn đời rồi,
chết trong trứng nước là cái chắc, ở tù rục
xương, đi đường bị chận xét thấy có hải đồ hay
la bàn trong người là mệt rồi nói gì tới năm
phuy dầu ... tổng hậu cứng họng, không nhìn họ
trả lời mà quay sang tôi... quạt... sổ... ngôn từ đi
ghe... lần đầu tiên trong đời mới nghe:
Đồ mặt Lima, tao biểu ngừng mà mày không
chịu nghe, để giờ ra nông nỗi này, trả lời với
mấy ổng đi mạy! Chưa hết, vừa ngưng lấy hơi là
tổng hậu chửi tiếp... đàn ông con trai không sài
con Charly mà đem cái Lima ra văng tục mới
lạ... cái lỗ tai của tôi:
Tháng này cúp lương tụi mày hết... về nhà lấy
lima hòe máu delta mà ăn... con đĩ mẹ tụi bay...
đồ ăn hại đái nát... úp mặt vào lima... uống máu
lima... mới mượn 5 chỉ vàng làm vốn đi buôn
mà đền hết thì lấy gì kiếm ăn chuyến này, hồi
nãy ngừng lại thì đền cao lắm nửa chỉ là xong...
bây giờ phải tốn hết 5 chỉ... nói tới đây thì tổng
hậu tự động tháo sợi dây chuyền trên cổ ra cầm
trong tay cho nó đong đưa qua lại trong gió rồi
quay qua xã đội trưởng... nhử... nhấp... ca bài ca
con cá:
Nhờ anh thương tình bỏ qua vụ này giùm, trăm
sự nhờ anh... rồi quay trở lại chỗ cũ... đánh
trống lảng... cho tụi tôi ăn tiếp... lima hòe máu
delta... nhất là khi thấy chúng tụ tập gần mấy
phuy dầu, gõ, lắc, xem nó nặng nhẹ, đầy vơi thế
nào... là tổng hậu lại mở miệng cống tối đa, thao
thao bất tuyệt... cả vú lấp miệng em... không để
hở giây nào cho chúng hỏi... dương đông kích
tây... làm tụi tôi ăn... tiết canh... Từ Dũ... mệt
nghỉ... sình tai... không phải chỉ tháng này
không thôi mà dài dài mấy tháng nửa tới khi nào
đủ 5 chỉ mới thôi... làm tôi hết sợ bị bắt, quên
bẵng đi năm phuy dầu là đầu câu chuyện mà sợ
nghe ăn mấy thứ đó... cúi đầu gục mặt nhắm
mắt, đưa hai tay lên bịt lỗ tai lại... xả đội trưởng
không hiểu động lòng đại bi ‘’đại bác’’ hay bị
ăn ké mấy thứ đó cũng ớn mang tai... nên xía
miệng vô... can:
Thôi đừng cho tụi nó ăn đồ dơ bẩn đó nửa tội
nghiệp, để vụ này tui lo cho. Cá chịu cắn câu,
chỉ chờ bấy nhiêu thôi... Tổng Hậu giựt đẹp
liền... ngưng xổ tục ngay... quay đầu về phía...
anh em ta... nộp 5 chỉ vàng... làm như tình
thật... chỉ đường con buôn... các anh đừng đền
hết 5 chỉ này cho họ, chỉ đụng nghiêng cột đáy
thôi, dân họ làm dữ vậy, chớ không có gì, giữ lại
một chút cà phê thuốc lá... bồi dưỡng! Thế là
êm... tai qua nạn khỏi... nhờ... lima hòe máu
delta... hay thiệt! Ghe nổ máy lên đường là tổng
hậu đến vuốt ve, thanh minh thanh nga với tôi
liền:
Dà thông cảm cho tôi... nhờ cho dà ăn mấy thứ
đó... mà tụi mình thoát nạn... mà thiệt tình như
vậy... tui phải chỉa cái miệng độc địa của tui về
phía dà mới có ép phê... dà nghe dà thấm... cúi
đầu gục mặt bịt lỗ tai lại... thấy tội, thấy thương
... chửi mới hứng... chớ nói với thằng này... chỉ
tên ‘’hoa tiêu’’ kế bên... cũng người Phụng
Hiệp... thì cũng như nước đổ lá môn... lù... mà
thôi... nhầm nhò thấm tháp gì lỗ tai nó... cả đám
bật cười vui vẻ... lúc đó mới hoàn hồn, lấy lại
thăng bằng... mở miệng hến:
Tôi phục ‘’hia’’ sát đất về tài... đánh trống
lảng... ông hỏi gà bà trả lời vịt... cứ tưởng tàn
đời trong kinh hẹp này rồi... đâu ngờ nhờ hia tài
tình lách vô... kinh... nguyệt... mà thoát nạn...
bây giờ hia nói ra tôi mới hiểu... tại sao hia cứ
quay về phía tui mà chửi... tui đâu có lái... bình
thường là tui cự lại liền... chớ đâu có hiểu ý hia
là... chỉ có tôi trên ghe này ăn tiết canh đó... mới
phê... nên ép ăn hoài!
Cám ơn Đời, cám ơn Người, cám ơn Trời, cám
ơn Đất, cám ơn Biển, cám ơn... cái lá đa... ‘’ân
149
nhân’’ đời tôi trên bước đường... máu và nước
mắt... tìm... Tự Do!...
... lại nghe cách mạng tiếp lại phần đầu ... học
tập 10 ngày để có giấy tờ lận lưng đi đứng tự do
thoải mái sau đó... như Hạ Sĩ Quan học tập 3
ngày, trưa ra ngoài ăn, tối về nhà ngủ, không
cho ở lại qua đêm trong trường, sợ tốn lính
canh! Lính 3 ngày, quan 10 ngày, đúng giá biểu,
hợp tình hợp lý quá rồi, còn nghi kỵ gì nữa...
nào ngờ... thấy vậy... không phải vậy... nhất là
tôi, độc thân cà nhổng, không vướng bận vợ con
như con nhà Quân nên vô tù cứ tiếc hùi hụi
người anh văn nghệ tên Nhơn của nó, lần đầu
tiên mới gặp nhưng cứ nhớ hoài! Mong sao ổng
vẫn còn... ở lại... đừng đi... chờ tôi về... làm lại
cuộc đời... niềm hi vọng mong manh mây đầu
núi, sương đầu cành của tôi trong rọ... nhưng
cũng làm tôi lên tinh thần, thêm sức sống khi
nghỉ tới nó... có còn hơn không... tôi may mắn
hơn những người chung quanh cùng hoàn cảnh
ở chỗ đó... nó như đốm lửa nhỏ nhoi nhem
nhúm trong lòng... biết đâu sẻ thắp sáng lại
tương lai... một ngày nào đó... ai biết, ai hay!
Bởi vậy nên tôi mới... yên tâm vui chơi đời cải
tạo... bất cần đời... enjoy triền Khmer... vui triền
miên... mấy thằng bạn thân tình cùng tổ ăn
thường đem tôi ra nói... giỡn chơi cười đùa với
nhau... thằng Việt trong này nếu không cho ăn
đói chắc không biết khổ là gì... khi thấy tôi nhởn
nhơ vô tình vô tư ôm đàn nghêu ngao... em lo gì
trời gió, em lo gì trời mưa, em lo gì ở lại, em
tiếc gì ra đi... rồi... không phải... rồi để anh làm
thơ và để em dệt tơ... thơ mộng tình tứ như
trong Thoi Tơ... mà là... trở về hiện tại, nơi này,
ở đây, bây giờ... hát nhạc vàng... luyến tiếc vàng
son... quá khứ... dĩ vãng tìm đâu thấy... quả tang
phạm pháp... viết tự khai tự kiểm, đấu tranh
trước tổ... cho ta! Tôi có khiếu viết mấy thứ
...‘’tự’’ này, chắc nhờ vậy mà giờ viết văn ngửi
được! Để buổi ngồi đồng ''đấu tố'' kết thúc
nhanh chóng, bớt phiền hà hàng xóm, mỗi lần bị
như vậy tôi đều nhận tội cho xong và hứa sẽ
không bao giờ tái phạm... tội đó nửa... ráng giữ
không phạm lại tội củ, lần sau có lên bàn mổ
thì...phạm tội khác, tội mới mà thôi!... Có điều
hát nhạc vàng mà bảo chừa thì châm thiệt... giữ
giới này đối với tôi coi bộ khó như giữ giới...
không uống rượu... trong nhà Phật vậy! Bởi vậy
sau đó phải chuyển qua tông... hát nhạc đỏ, đờn
nhạc vàng... nghe cho đỡ ghiền... nghìn trùng xa
cách, người đã đi rồi, còn gì đâu nửa, mà khóc
với cười... hay quá, thấm quá, nhớ quá, phê
quá... nhưng chỉ khảy nghe chơi thôi chớ không
dám bật ra thành lời!
Việt Cộng nó ngu như bò là ở chỗ đó... chỉ có
rau muốn là ngon, mới được ăn, còn giá sống là
dở, đem dục thùng rác! Đỏ... đúng, vàng... độc...
ngu thiệt, tức thiệt... màu nào chẳng có cái đẹp
cái hay của nó... đồng Đỏ... sao sánh được...
Vàng rồng!
Nói tới chuyện văn nghệ văn gừng, cầm kỳ
thi họa dưới chế độ Ngu Hết Chỗ Nói đó tôi nhớ
lại chuyện '' vui vẻ'' thực tình theo đúng nghĩa
đen của nó lúc mới vào trại. Lúc đó mới nhập
học còn sung sức, hăng tiết vịt, tổ nào, khối nào
cũng ráng chứng tỏ mình thành tâm học tập
bằng cách trang hoàng trang trí nơi ăn chốn ở
cho có nhiều chất bác và đảng nhiều chừng nào
hay chừng nấy... lấy lòng lấy điểm trên... lập
công chuộc tội... để được về sớm! Khối thì chơi
chữ... Không có gì quý hơn độc lập tự do... lên
vách, khối thì chơi hình... bác Hồ vĩ đại... lên
tường... không phải hình chụp, hình in vô hồn
mà là hình vẽ, hình họa có hồn do chính tim óc
tay chân tù sáng tạo, sáng tác... để tỏ lòng tôn
kính bác... như dâng hoa thật chớ không phải
hoa giả lên bàn thờ Phật vậy! Người vẻ chân
dung Bác lại là Trịnh Cung, một họa sĩ tên tuổi,
giáo sư Trang Trí Mỹ Thuật Gia Định thì miễn
bàn chất lượng của bức tranh, nhất là vẻ trong
hoàn cảnh đó, dễ tập trung, dễ để hết hồn vào
tác phẩm, không bị rượu chè trai gái chi phối...
tu đâu cho bằng tu tù... chưa kể... tà ý... nâng
bi... bác... trong nghệ thuật... đã điếu chừng
150
nào... có khi nhờ vậy mà đời lên hương... về
sớm! Anh lại chơi nổi, tìm đường gai gốc mà đi,
vẻ theo lối Thủy Mạc Tây Phương...
''Mackerel''... rất khó và rất công phu, phải hoa
tay lắm mới dám chơi thứ này, từ người vẻ tới
người thưởng thức đòi hỏi phải có trình độ cao
mới thấy được, mới lột hết được cái hay của nó.
Đặc biệt của lối này là không sài tới màu trắng
và màu đen, chỉ pha màu loãng ra với nước rồi
tô lên, muốn đậm thì quét nhiều lớp chồng lên
nhau, lợt thì ít, chớ không dùng hai màu trắng
đen để pha đậm lợt. Bởi vậy hoàn thành một tác
phẩm này tốn rất nhiều thời gian, công phu, kiên
nhẫn, chờ ráo nước, tô màu tiếp, chưa nói tới
trình độ và hoa tay cùng cái nhìn sáng tạo, muốn
ngắm phải nheo mắt lại cho bớt ánh sáng mới...
thấy rõ. Đại khái bức tranh phải đòi hỏi những
thứ độc đáo như vậy đó, trong trại tôi nghỉ chỉ
có người thứ hai có thể chơi lối thủy mạc Tây
Phương mà có hồn, hoàn tất xong coi được, đó
là anh Nhơn, quên họ, cũng là dân Trang Trí Mỹ
Thuật Gia Định nhưng chức vụ cao hơn, là
Giám Đốc chớ không phải giáo sư thường, tôi
biết chút chút để viết về Thủy Mạc Tây Phương
Mackerel là nhờ ngồi chầu rìa nghe anh dạy hội
họa cho những tay họa có khiếu sẵn trong đó.
Nghe giáo sư hội họa giảng dạy thật là lý thú, có
cái nhìn sáng tạo mà mắt thường không thể thấy
được, thâm sâu huyền ảo như mắt... Thiền Sư...
nhỏ không trong lớn cũng không ngoài... Có hai
bức tranh giống nhau như đúc, một giả một thật,
không ai nhận ra, đem kính hiển vi ra rọi soi
cũng không thấy, chỉ có tác giả nó biết mà thôi.
Xào đi xào lại mười lần cho những người khác
chỉ, thì trong mười lần lúc nào cũng có có cái
chỉ trúng, chỉ trật, nhưng với tác giả mười lần
như một, đều đúng cả mười. Chứng tỏ là thấy rõ
chỗ khác biệt thật sự giữa hai bức tranh chớ
không phải xin xâm đoán mò đoán đại như
những người khác. Hỏi ra mới biết bức tranh
kia, ông họa sĩ khéo tay copy bức họa của ông
đã vẻ thiếu... cái bóng con trâu... trong mắt anh
mục đồng! Lúc đó chưa có cái nhìn và cái nghỉ
của nghệ thuật... tôi không hình dung nổi làm
sao vẻ cho được... con trâu khổng lồ trong mắt
anh mục đồng nhỏ xíu... nên lầm bầm trong
bụng... ông nội này... xạo thiệt... nhưng xạo... có
căn... hay hơn... xạo hết chỗ nói... nhiều! Nên từ
đó, đêm đêm khi nào có giờ dạy của anh tôi đều
mò tới... học cọp nghe ké... cho vui đã cái lỗ tai
trâu chớ không phải trao dồi cái bàn tay khéo
như những người khác! Trở về chân dung bác
Hồ của họa sĩ Trịnh Cung, tôi không biết anh
tốn bao nhiêu ngày để hoàn tất tác phẩm đó,
nhưng khi treo lên được nhiều người trầm trồ
khen tặng là một tác phẩm có hồn, giá trị nghệ
thuật cao, người không biết thưởng thức như tôi
thì chỉ biết ngâm Kiều sửa:
Rằng hay thì thật là hay.
Nhưng sao lại chẳng biết hay chỗ nào?
... vì không nắm được bí quyết... ngắm tranh...
nhíu mày... như bắn súng... phải... nheo mắt
lại... nhắm... lỗ châu mai... mới thấy rõ... đỉnh
đầu ruồi... mà... bóp cò... mới chính xác! Anh lại
ý tứ chọn màu xanh lá cây... làm mặt bác thêm
hiền hòa nhân hậu... greenpeace... hơn bao giờ
hết... chưa bao giờ được như vậy... như mạ non
mơn mởn xanh tươi ngoài đồng, đượm tình quê
hương dân tộc... Phe ta không một lời chê, cũng
không dám chê... không hiểu vì sợ đụng chạm
tay nghề họa sĩ nổi tiếng hay sợ... đụng chạm uy
danh bác Hồ! ... Chỉ nhăn mặt nhíu mày...
thưởng thức chân dung bác... trầm trồ khen đẹp
khen hay... cho phải đạo... mát lòng họa sĩ.
Nhưng đó chỉ là...‘’một sàng xó bếp’’... thuần
túy nghệ thuật... ngoài da... thứ yếu... của đám
bốt đờ sô hết thời, thua làm giặc... Bức tranh
trên phải tùy thuộc cái nhìn đỉnh cao trí tuệ ''một
miếng giữa làng''... trong ruột... thứ mạnh... của
đám dép râu đương thời, được làm vua, chuyên
viên chính trị, mới có vị trí vững chắc... trên
tường... như hàng chữ... Không có gì quý hơn
độc lập tự do... trên vách! Sau khi lõ mắt ếch
ngắm nghía soi mói nhiều góc cạnh khác nhau,
cả đám chụm đầu nhỏ to một hồi lâu mới để tên
chính trị viên lên lớp kết luận... chân dung bác
151
Hồ kính yêu mà lại như thế này à... đây là bôi
bác... Bác... chớ đâu phải vẻ họa, mặt mày lem
luốt, nhợt nhạt xanh xao, nhòe nhoẹt không rõ
nét, đã vậy không biết chọn màu sắc, tại sao
không dùng màu đỏ... để thấy bác... hồng hào...
lại dùng màu xanh để cho bác... xanh xao... chỉ
giản đơn vậy thôi mà không biết... vậy mà cũng
là... họa sĩ... lạ thật... đề nghị vẻ lại! Trịnh Cung
nghe qua không đỏ mặt tía tai vì chạm tự ái
nghề nghiệp mà mặt mày lại xanh xao vàng vọt
tàu lá... như chân dung bác Hồ do chính tay
mình sáng tạo ra... từ đó anh... treo cọ luôn...
chưa kể một điều quan trọng sau đó là... đem tác
phẩm đầu tay của mình trong tù... lộng kiếng!
Nói tới Trịnh Cung tôi nhớ một chuyện vui
nửa là... bia lên... lành mạnh hơn... bia ôm...
nhiều! Có lần ngồi gần Trịnh Cung trên hội
trường, mỗi lần tên chính trị viên trên bục giảng
thầy đời lên lớp những điều thấy ghét, xóc óc,
mạt sát tay sai Đế Quốc Mỹ, lính đánh thuê,
chém mướn... tội ngập đầu... trời không dung
đất không tha... nhưng không thấy anh lên
tention căm hờn, hay im lặng uất hận sấm sét
trong lòng như những người khác mà còn cười
khen... ối giồi ơi... sao khéo quá, sao giống
quá... khéo quá, giống quá... rồi cả đám xung
quanh, đa số là dân Hải Quân, trong đó có
Trung Úy Linh, người Nhái đóng ở Bến Lức với
tôi, cười hùa theo, rồi đồng lòng nhất trí với
nhau xướng câu... bia lên, bia lên... rồi cả đám
chỉa hai ngón tay về phía bục giảng... miệng...
báng bang, báng bang... liên tục như đang hát
bài... khi xưa ta bé ta chơi... chơi công an đi bắt
quân gian... của Phạm Duy vậy... chớ không
phải bia lên theo lối uống cạn ly đầy trong... bia
ôm! Thấy lạ, không hiểu gì, đến giờ ‘’giải nao
thuốc nào’’ tôi hỏi Linh:
Trong lúc học, sao thỉnh thoảng Trịnh Cung
lại nói... giống quá, khéo quá, còn tụi bay thì...
bia lên, bia lên... rồi cười vui vẻ... bộ nhớ nhậu,
nhớ bia ôm hả? Linh nghe xong, bật cười:
Trời ơi đến bây giờ mà thằng em còn hỏi câu
đó, chậm tiêu thật!... nhưng không giải thích
liền mà hẹn chừng nào vô học rồi nói mới dễ
hiểu, chỉ là thấy liền. Đến lúc vào lớp đợi cho
tên chính trị viên lải nhải những điều trái tai gai
mắt nhất... Trịnh Cung xướng... giống quá, khéo
quá... cả đám hùa theo... bia lên, bia lên... thì
Linh ghé vào tai tôi, chỉ lên bục giảng... giải
thích:
Bây giờ mà thấy... tên chính trị viên thấy ghét
trên đó... có giống... bia lên trên sân bắn Quang
Trung không... y chang phải không?... Trinh
Cung khen... giống quá, khéo quá... là khen
phục ông họa sĩ nào đó đã vẻ bức tranh đó có
hồn, lúc đó đâu có ''người mẫu'' trước mặt như
bây giờ mà vẻ thấy ghét như vậy mới hay...
giống quá, khéo quá... là vậy ... hiểu chưa thằng
em! Tôi nghe qua chịu quá... từ đó mỗi lần lên
hội trường chọn ngồi gần xóm nhà lá... nhập
băng... bia lên... vui chơi đời cải tạo... nó chửi gì
mặc nó... hễ Trinh Cung xướng... khéo quá,
giống quá... thì mình họa... bia lên, bia lên...
rồi... béng beng, béng beng... cười xả xú báp cho
nhẹ nhõm tâm hồn! Vui chơi đời cải tạo... thiệt
tình... là vậy!
Cũng nhờ quên lời quý báu‘’đừng nghe hãy
nhìn’’ của Tông Tông Thiệu mà tôi có sách quý
hiếm để học trong tù! Trải qua năm dự bị... ổn
định nơi ăn chốn ở, lý lịch trích ngang, làm hoài
không xong, viết hoài không dứt, dân cải tạo
ngán nhất thứ này,vết thương lòng cứ bị khơi
lại... mới quên đi vàng son dĩ vãng... làm quen
được vàng khè hiện tại... chẳng bao lâu... thì... lý
lịch trích ngang lại đến... những ngày xưa thân
ái lại bị moi ra... hải ngoại thương ca sống lại,
hải hồ ngang dọc hồi sinh... trên giấy trắng mực
đen... hỏi sao mà không... biển nhớ! Cái khổ là ở
chỗ... viết xong phải đem ra đọc trước tổ...
không phải để... chiêm ngưởng... thưởng thức...
mà là để... đấu tố... đấu tranh... hết người này
đến người khác xoay tua nhau... cho mình...
‘’bia lên’’... tự nhắm bắn mình trước rồi nhờ cả
tổ bắn hội đồng theo... cho nón cối nghe!
152
Đến năm thứ hai mới chính thức được lên lớp...
học... có giảng viên chính trị thứ thiệt từ đoàn
đưa xuống... gốc Bắc kỳ dốn, zin, rau muống
luộc... chính hiệu ‘’cờ tây’’mắm tôm cà pháo...
chính quy Bắc Việt... đàng hoàng... chớ không
lọt một cọng giá sống Nam kỳ cọ, mắm ruốc
chùm ruột... Giải Phóng Miền Nam... nào vô cả!
Ngóng trông dài cổ mới có ngày này, phe ta
hăng hái sách cái ghế tùy thân lên hội trường
học hết mình theo tinh thần... ngày nay học tập,
ngày mai được về... hồ hởi phấn khởi như thấy
được tia sáng le lói ở cuối nẻo đường hầm!
Nhưng học xong rồi vẩn thấy mình là vẹt...
trong lồng, chớ chưa được như vẹm... ngoài
rào... đi lại đó đây! Cốt ngụy vẩn hoàn cốt...
ngục! Có học mà không có... về, mù tịt lối ra...
tức nước vỡ bụng... mới... hỏi... cho ra lẽ... thế
nào là học tập tốt... một cách cụ thể, hiển nhiên,
rõ ràng... có thể... nắm được... không phải...
trung trung... để biết đường mò ra... thì được
giảng viên khất lại đến mai, để về hỏi trên cái
đã! Tối đó trằn trọc mong đêm mau qua, sáng ra
sách ghế tùy thân lên hội trường sớm... xếp... xí
chỗ... gần loa... để nghe cho rỏ bài...‘’học tủ’’...
ra tù! Vừa thấy mặt giảng viên hôm qua trên bục
giảng là sướng rân lên, hớn hở hân hoan đứng
lên vỗ tay chào mừng như đón tiếp một vị cứu
tinh giải phóng đời mình. Hắn cũng đóng kịch
thật hay, tươi cười hớn hở đứng trên bục gỗ vỗ
tay theo như chia vui cùng mọi người... làm ở
dưới tưởng bở, ngày về trong tay ta, mặt rạng rỡ
vỗ tay mạnh hơn! Tiếng vỗ tay vừa ngơi thì một
tay văn nghệ trại đứng ra bắt nhịp những bài ca
mở màn trước khi vào học như thường lệ... hôm
đó đặc biệt, sung sức, có bao nhiêu đem ra chơi
hết... chưa bao giờ khí thế như thế... Kết đoàn
chúng ta là sức mạnh, Bảo nổi lên rồi, Bác cùng
chúng cháu hành quân, Giải Phóng Miền Nam
chúng ta cùng quyết tiến bước...v.v, sau cùng
cho chơi luôn... Việt Nam Hồ chí Minh... như
có bác Hồ trong ngày vui đại thắng... cho đủ full
set... hát xong lại ngây ngô cả tin vỗ tay cười...
như ngày vui đại về!
Sau màn... nín thở qua sông... đường lưỡi
đường miệng, vòng ngoài bảy chữ... làm Kiều...
ở dưới... là tới phiên hắn... làm Từ Hải... ở
trên... cho ra... là tột đỉnh thiên đường... mù, tới
bến mơ... về, thỏa lòng mê... ra, chất chứa đè
nén trong đầu bấy lâu nay, từ lúc vô lầu tới giờ...
khí tồn tại não! Hắn như say mê những giây
phút thần tiên... thần tượng... trên bụt giảng...
đời vẹt người mấy khi tiếng nói mình được mọi
người mong mỏi chú ý lắng nghe như thế, như
ban phước lành, báo tin vui cho đời. Bởi vậy,
trước khi cho ra còn ráng xào khô... vớt thêm cú
chót... vỗ tay... bằng cách vừa cười vừa hỏi:
Tôi biết bây giờ tất cả các anh rất nôn nóng
muốn nghe câu trả lời... thế nào là học tập tốt...
lắm... phải không?
Một tiếng... PHẢI... phát ra cùng một lúc... như
quát vào mặt hắn, muốn nổ tung hội trường, rồi
tiếng cười ồ đáp lễ và một tràng pháo tay như
pháo Tết theo sau... rồi... ngưng cùng một lượt...
như bản nhạc gặp dấu im lặng chấm nghỉ... nín
thở lắng nghe!
Không còn... đùa chơi... thêm được nửa, hắn
mới chịu... đùa thiệt... nở nụ cười mã tấu... rằng
thì là:
Trước sau gì các anh đều về cả... đó là điều
khẳng định... còn... về sớm hay muộn, nhanh
hay chậm, học tập tốt hay sấu, tiến bộ hay thụt
lùi là hoàn toàn tùy thuộc các anh, do các anh
mà ra cả, không phải chúng tôi! Cụ thể cho dễ
nắm... là... cái trại này, cái hàng rào này... do
các anh tạo ra, làm ra... chớ đâu phải cách
mạng... dựng lên!
Nghe tới đó như nghe... Sài Gòn Giải Phóng...
Cách Mạng thành công... những cái đầu
''ngốc''tự nhiên buông xuôi gục xuống, lắc qua
lại tự do, chớ không còn cứng đơ ngóc thẳng về
một hướng như trước nửa... xìu liền... ngay xóm
nhà lá chịu chơi... bia lên... cũng... lên không
nổi... hết béng beng luôn... mặc đầu Bia Lên lúc
đó thấy ghét dễ sợ... con vẹt học hát trên cành
mỉa mai... gậy ông đập lưng ông... cái rào là rào
của mi, do chính chúng mi làm ra, chúng tao
153
cũng ở trong đó, có khác chi đâu chúng mày...
đã vậy còn... ngày đêm... canh gác ... cho chúng
mày ngủ!
Phe ta chỉ biết chịu trận ngồi nếm đắng cay...
thi không ngậm ớt... đem thần chú... Đừng Nghe
Hãy Nhìn... ra hóa giải... lầm bầm niệm thầm
nhau nghe để lấy lại thăng bằng... trở về với
mình... ngồi học chữ... nhu... chín thu cũng chịu,
mười thu cũng chờ! Treo tai, treo tay, không
nghe, không vổ, cho đến khi sách ghế ra về...
trong thầm lặng... tiền ồn hậu im... chớ không
còn... tiền hô hậu ủng... như lúc ban đầu gặp gỡ!
Thế là tiêu tán đường... về, bé cái lầm... to...
mình ngỡ nó Từ Hải... chơi đẹp, ai ngờ nó Sở
Khanh... chơi đểu... vòng trong tám nghề... Xạo
Hết Chỗ Nói... thầy chạy... mà lại còn... nín thở
lắng nghe... nên mới... đang vui đám cưới thành
buồn đám ma... bất tử... là vậy, ai biểu quên lời
Tông Tông Thiệu!
Thua me gỡ bài cào, lúc đó sắp có thăm nuôi,
trong này thiếu thốn đủ điều... đói bụng lẩn đói
đầu... những lần trước nhìn gần lo cho cái bụng,
lần này trông xa lo cho cái đầu, xin được gởi
sách báo văn học văn hoa, khoa học kỹ thuật để
văn ôn vỏ luyện, trao dồi chuyên môn, tiêu pha
ngày tháng, khỏa lấp khoảng trống bỏ không
cuộc đời, trước... mua vui... sau... trường kỳ tù
chiến! Hắn lại bảo về trình trên rồi trả lời sau.
Thật ra trong này như một Đại Học Bách
Khoa, học gì cũng được, nhiều thầy ít sách,
tiếng Tây, tiếng Tàu, Kiều, Chinh Phụ Ngâm,
Hổ nhớ rừng, Trăm hoa đua nở, cầm kỳ thi họa
gì cũng có... viết tay cả... ngoại trừ sách in. Góp
gió thành bảo, kiến tha lâu đầy tổ... nhời quê
chắp nhặt dông dài... mỗi người vài câu, nhớ
đâu viết đấy mà...truyện Kiều 2391 câu không
thiếu câu nào.
Thời cắp sách đến trường, học Kiều theo kiểu...
mù sờ voi... trích đoạn... Kiều đi Thanh Minh,
Kiều đánh đàn cho Kim Trọng nghe v.v... thuộc
lòng, đúng đài, trúng đoạn là sổ Kiều như gió...
Rằng năm Gia Tỉnh triều Minh
Bốn phương phẳng lặng, hai kinh vững vàng...
Hay...
Rằng nghe nổi tiếng cầm đài
Nước non luống những lắng tai Chung Kỳ...
Hoặc
Rằng hay thì thật là hay
Nghe ra ngậm đắng nuốt cay thế nào...
Nhưng chỉ vài câu... trả bài lấy điểm... trong
chuyện ngàn câu, không thấm vào đâu, nên chỉ
vuốt được tóc Kiều, nắm được tay Kiều, chớ
chưa mò được tim Kiều... trớt wuớt... thấy...
Kiều trong lầu xanh... như... chim trong lòng
son... không dính dáng gì tới mình... vô cảm!
Thời ôm sắc vô trại, học Kiều theo kiểu... tù
mút chỉ... Kiều gạo tiêu sầu... đoạn trường gãy
gánh... mới thấy... Kiều trong mình, mình trong
Kiều, có trong nhau... tâm đầu ý hợp... Kiều lầu
xanh... mình lầu đỏ... khác gì nhau đâu... trai
bến nước, gái giang hồ... đồng cảm! Từ đó trở đi
nằm lòng chớ không phải thuộc lòng, đúng thời
đúng thế, đúng lúc đúng lòng là chơi... kiểu...
Kiều sửa... cho sướng! Thuở trời đất nổi cơn gió
bụi... bụi đời... làm phu kiều lộ... sửa Kiều... phê
hổng chỗ chê... đã hơn... sổ Kiều... nhiều!
Hôm đó... đập đá lót đường... toán phá tường,
toán lượm gạch, toán đập đá, toán khiên đá vụn
trên băng ca ra trải đường. Tôi và Hạnh, thằng
bạn tổ ăn trong toán lót đường, không có băng
ca hai thằng làm băng ca''giả'' bằng cách lấy dây
điện cột hai thanh cây dài hai bên rồi để tấm tôn
ở giữa, cái khó ló cái khôn, còn chế thêm hai sợi
dây hai đầu làm quai quàng vai cho đôi tay đỡ
khổ. Toán này châm nhứt, là toán đi, không
được ngồi. Lót đã đời tơi bời hoa lá sau cùng hai
thằng lại bị xỉ ra tuyến đầu, đắp ổ gà xa ngoài
cổng. Lần đầu tiên xuất trại tự do, đi đứng thoải
mái, không vệ binh AK canh chừng, một chiếc
molotova chạy qua là bụi đỏ mịt mù, nín thở
mệt nghỉ. Khát khô cổ họng, chân tay rã rời,
bước đông bước tây, ngả nghiêng như người say
rượu, đi lọi giò trên con đường dài hai bên là
rào, không một bóng cây mà vẫn chưa thấy ổ gà
trong tầm mắt, chỉ thấy mái tranh xa xa bên
154
đường. Hai con‘’người thồ’’ như hai con gà
chọi thiếu nước, mặt đỏ bừng đổ lửa bốc khói,
nín nghỉ tối đa, hạn chế hạ gạch phơi nắng dọc
đường, sợ xuống lên mệt hơn, như xích lô đạp
ngại kéo thắng mất trớn, gom tàn lực lết tới đó
cho nhanh. Tới nơi tưởng như tới thiên đường,
chạy vào trốn nắng hạ hỏa. Vô mát là phè cánh
nhạn, buông người ngồi bệt xuống đất, duỗi
thẳng đôi chân, tay chống phía sau ngả người ra
như ngồi ghế dựa, ngửa cổ há hốc miệng lên trời
thở dốc, tận hưởng những giây phút thần tiên...
lao động là vinh quang... trong túp lều lý
tưởng... giữa trưa hè nắng cháy... hoa đốm hư
không bay loạn xạ ngầu trong đôi mắt nhắm
nghiền, chẳng còn hơi sức đâu mở ra để xem
thằng bạn mình làm gì mà cánh ruồi sạt xào liên
tục như ong vỡ tổ. Một lát sau nó lấy chân đá
nhẹ vào người tôi và nói:
Việt, trái đu đủ này chỉ chín dập, chắc bán
không được nên họ mới... bỏ... tao tìm được
dưới đáy mấy cái cần xế rau... rác... này, vỏ còn
nguyên, ruồi bu không tới, ăn được! Mở mắt ra,
tôi thấy một trái đu đủ khổng lồ như trái bong
bóng xẹp còn chút hơi trong đó che lấp đôi tay
mười ngón của bạn mình, nói rồi nó bảo tôi xòe
rộng đôi tay ra... làm bàn... để nó để lên... cho
có vệ sinh... rồi... cưa hai trái đu đủ theo chiều
dọc... chiều dập dẹp... lấy phần úp, còn phần
ngửa để lại cho tôi... rồi ngắn gọn:
Đó, phần mày, ăn, dục, tùy ý!
Nắng hạn gặp mưa rào, đang nhắm mắt khát
khao... chai bia cao với ly đá cối ... chớ không
phải nước lã bình đông để quên chỗ làm... học
tập tiến bộ... kinh nghiệm cùng mình cải tạo, bị
bạn bè sửa lưng hoài... vô đây có mơ ước thì cứ
việc thoải mái ước mơ ... cho đáng... đừng ... tiết
kiệm... phí phạm... một công mơ! Sở dĩ có
chuyện ước mơ xả láng này là vì trong một đêm
tối trời, bụng cồn cào sôi sục khó ngủ, bật
miệng ước ao... phải chi bây giờ có cháo trắng
ăn với... thì đã biết mấy... tai vách mạch vừng...
lọt tai quản giáo... tiếng mất tiếng còn... thành...
phát biểu linh tinh... ... mỉa mai cách mạng có
chủ ý... ước gì không ước lại ước có... cháo hoa
với hột muối mà ăn... làm như cách mạng bần
cùng đến nỗi không có muối hột cho các anh ăn
vậy... thế này là thế nào, đề nghi phải đấu tranh
cho ra lẽ... tổ trưởng lập lại lời quản giáo và chỉa
về hướng xóm nhà lá nằm sát vách đầu dãy của
chúng tôi đòi đưa lên bàn mổ... còn nhấn mạnh
là... quản giáo nói phải chi ước ao cao sang mỹ
vị gì thì không nói, đằng này lại ước muối hột
ăn với cháo hoa mới thành vấn đề ... bôi bác,
châm biếm cách mạng... hạt muối cắn chẻ làm
đôi!
Đang buồn ngủ nghe vậy tỉnh liền, An, gốc giá
sống thứ thiệt, mạnh miệng lên tiếng liền:
Tôi không biết cháo hoa là gì, đêm đó công
nhận chính tôi có ước ao nhưng là ao ước: cháo
trắng ăn với hột vịt muối... chớ không phải cháo
hoa ăn với hột muối... chắc quản giáo nghe thiếu
chữ... vịt... ở giữa... nên mới thành... hột muối...
chớ chúng tôi có‘’muối hoa’’ cần gì mơ muối
hột.
... thế là cả tổ bật lên cười tập thể hội đồng...
thế là đấu tranh ra lẽ... hột muối với hột vịt
muối... cách nhau một trời một vực... có người
còn hăng say phát biểu:
Nghe nói mà thèm, nhắc lại mới nhớ, trên năm
trời nay có biết nó là gì đâu ... đề nghị tổ trưởng
đề bạt... hậu cần ... món hột vịt muối này... mặn
mà mùi mẫn... biết đâu nhờ vậy mà mình có hột
vịt muối mà ăn! Cả tổ cười thoải mái! Bởi vậy
từ đó trở đi... con nhà lính, tính nhà quan...
nghèo mà sang... mơ em... thì chỉ mơ tiên... Nữ
Thần Tự Do... chớ không chịu em nào khác...
đó mới là người đẹp lý tưởng đời mình!
Nhận phẩm vật xong là tôi trịnh trọng nâng
lên miệng... nín thở... đi đường lưỡi... lượm hột
đen ngòm như ruồi... bu dầy đặc trên những trái
đu đủ rữa nát trong cần xế rác... như chui vào
khe rậm tối om... hôi hám... ngậm đầy một
miệng rồi phun ngay đám ruồi cho bõ ghét cái
tật... bu... vậy mà cũng có con bay lên không
kịp, trúng hột gãy cánh lăng nhào... thằng bạn
kế bên đang bối rối như em mới động phòng
155
không biết ‘’ làm ăn ‘’ thế nào cho có nghệ
thuật... thấy thế... mừng rỡ làm theo... xào khô
trước, xào ướt sau... le lưỡi gom bi rồi phùng
miệng phun lia lịa, đến khi không còn những
chấm đen phá đám trên màu hồng tươi là... úp
mặt vào mút, húp, say mê như... ong cắm vòi
vào hoa hút mật... em bé úp mặt vào ngực mẹ bú
sữa!
Ăn đu đủ như uống sinh tố trong... tô... ô
voan... to bằng cái bản mặt của mình... đã khát
lẩn đã đói... như mơ... chưa bao giờ trong đời
thấy đu đủ ngon tuyệt vời như thế... mát lịm
thân tâm... trên năm trời nay mới nếm lại được
hương vị cây trái trần đời... đến khi chỉ còn cái
vỏ mỏng mới quăng đi... rồi... nhìn nhau... lau
mặt... theo kiểu... monkey see, monkey do...
thấy bạn lấy vạt áo lau trán... thì tôi lau trán,
thấy tôi lấy tay áo quẹt lông mày... thì bạn quẹt
mày... suy mặt bạn ra mặt ta... nó dính chỗ nào
thì mình dính chỗ đó... cứ thế... mà... lau sạch
sẽ ... lớp hồng hào đu đủ trên mặt... chỉ còn
lớp... đỏ mặt tía tai... tự nhiên... của ngượng
ngùng... ăn mót! Lau mặt xong, thằng bạn thân
thương còn cẩn thận kỷ lưỡng... lau mùi... bay
xa... dặn dò... về tổ tuyệt đối đừng kể lại chuyện
này cho bất kỳ ai nghe dù thân sơ cỡ nào... vì
biết tánh... có sao nói vậy người ơi... của thằng
bạn mình! Chẳng thèm đem mưu sinh thoát
hiểm ra thanh minh thanh nga cho chuyện...
lành cho sạch, rách cho thơm... tôi vẩn chứng
nào tật đó, có sao nói vậy người ơi... đem Kiều
ra... sửa... lấy hơi lên giọng... ngâm... chầm
chậm, từ từ... át tiếng ruồi bay:
Xưa sao... phong gấm... lụa là
Giờ sao... moi rác... mà ăn... dọc đường!
Thế mà... thấm... lẩn... thoát... nụ cười lại nở
lại trên môi hồng... đu đủ... mặc cảm lêu lêu
mắc cỡ ăn mót ăn moi bay đi... theo đám... ruồi
bu ruồi bay... vậy mà... bay xa... đến tận bây
giờ... còn dám đậu trên giấy trắng mực đen này
nửa! Đã thông tư tưởng, trở lại bình thường,
Hạnh mới chỉ tôi con đường mòn phía sau và
bình đồ trận liệt cho tôi rỏ theo cặp mắt con
nhà... Quân Báo Quân Đoàn 2 của nó ... con
đường này dẫn sâu vào rẩy, sáng sớm dân đem
cây trái rau quả thu hoạch trong đó ra đây để
chờ xe chở ra chợ bán, bởi vậy mới có cái chòi
và mấy cần xế rác ở giữa khu quân sự này. Tôi
nhanh miệng bồi theo liền:
Và bởi vậy tụi mình mới khám phá ra
cái‘’gương thịt’’lau mặt ‘’khắc phục’’hết sẩy...
sau khi... mèo mù đớp cá rán... mỗi thằng nửa
trái đu đủ! Dễ dầu gì trong đời này được soi lại
cái kiến đó lần thứ hai... phải nhân duyên lắm...
thiên thời, địa lợi, nhân hòa... đòi hỏi đủ thứ...
nào là... đi lại tự do, không vệ binh canh chừng,
không ai quen lạ dòm ngó, mái tranh dọc đường,
chỉ hai thằng với nhau, ‘’chai hia’’ đu đủ chùa,
ăn đồng bộ, dính đồng thời thì... ‘’gương thịt’’
đó mới hiện ra... tại chỗ... để lau mặt... và chỉ để
lau mặt mà thôi... rồi biến mất!
Lời bạn dặn tôi giữ mãi trong lòng đến tận
ngày nay, không bật mí cho ai hay, ngay bạn
lòng của mình cũng vậy! Không hiểu vì... giấy
rách phải giữ lấy lề... nói ra sợ chúng bạn cười,
ăn mót ăn moi, lêu lêu mắc cỡ, mất mặt bầu
cua... hay... mùi đu đủ không khử được, giữ lâu,
nên cứ đượm mải trong lòng mình đến tận hôm
nay... mới chịu bay ra!
Trong đời tôi có hai lần ăn nhớ đời là nửa trái
đu đủ này và miếng bánh mỳ ''săn wích'' thần
tiên mới được vớt lên từ biển khơi sau trên nửa
tháng trời trôi dạt lênh đênh không một hột cơm
trong bụng... ăn trong mơ!!! Miếng ăn là miếng
tồi tàn nhưng sao viết về hai‘’miếng ăn’’này tôi
thấy nó... mầu nhiệm quá... thân tâm ăn... để hết
hồn viết về nó một cách hứng thú!
Viết về nó, nhớ về thằng bạn... hiếm có trên
đời, phúc đức lắm mới gặp... nhờ đôi chân nó
chạy đạn... giùm tôi... mà tôi nói được hai chữ...
có mặt... trong buổi điểm danh bất thường... kho
đạn nổ như động đất ở Long Khánh... từ trưa tới
chiều, hết đạn hết nổ... lớn đến độ... Sài Gòn
cũng nghe... ba tôi viết thơ kể lại cho tôi như
156
thế! Buổi điểm danh có một không hai trên đời,
không tập họp xếp hàng, vừa núp vừa nghe gọi
tên, bị gián đoạn liên tục bởi những trái phá nổ
muộn, lẻ tẻ. Đúng là buổi điểm danh của... Tử
Thần... gọi đến tên ai nghe trả lời... có mặt... là
biết còn... sống... còn im hơi lặng tiếng, không
nghe trả lời là... chết!
Trại vắng hoe sau vài phút nổ đầu tiên, ai nấy
đều ở chỗ núp an toàn, chỉ mình tôi bệnh hoạn
chịu trận trong chòi giao ban nằm chơ vơ giữa
đất trống ngắm kho đạn nổ và chỉ mình nó thấp
thoáng như bóng ma từ gốc cây này qua gốc cây
kia liều mạng chạy ra chòi... mắt vẩn cắm về
hướng kho đạn nổ, lưng đưa về phía tôi... ra
lệnh: ôm cổ tao... rồi cõng tôi chạy... chân nó là
chân tôi... thấy nó như thấy... thần hộ mạng!
Đâu ai bắt buộc nó làm chuyện này, lở mảnh
đạn bay trúng mình hay phang ngang cặp giò
như có người bị vậy thì sao? Tội nghiệp, nặng
nề vậy đó mà đâu được chạy một mạch, còn
thắng gấp vì thấy mảnh bom đáp xuống bay qua
trước mặt lủi vô rào bốc khói, rồi còn dừng gốc
cây, miệng giếng, thở hồng hộc, lấy sức , lấy
hơi... lúc đó thấy rõ... đạn tránh người, chớ
không phải người tránh đạn... nóng hổi bốc khói
trên đám cỏ, vũng sình... trước sau... nhờ đạn
mù mà nó mới tha tôi về đến được cái connex
đông nghẹt người... bình thường để nhốt tù vi
phạm nội quy... trong khi có người nằm dưới
gầm giường lót bằng... vỉ sắt phi đạo... kiên cố
an toàn... mà vẩn chết vì... giường sập... đập
đầu! Nhờ đôi chân vị tha đó mà tôi...sống... và
nhờ vậy mà... ‘’Bạn Tù’’... chào đời!
Chính tình người cao thượng đó, không thể nào
cao hơn được nửa, đã thôi thúc, hun đúc tôi một
nghị lực, một ý chí để viết, để ca tụng, để thanh
minh thanh nga cho... Bạn Tù... tình nhà
thương... chớ không phải... Bạn Tù... tình nhà
thổ! Mặc dù... đây là lần đầu tiên tôi... tập làm
văn... thời tiểu học, trung học, môn luận văn là
môn tôi tệ nhất, ghét nhất... văn bất thành cú...
có khi nộp giấy trắng... tả bác nông dân ra đồng
cày ruộng... dân thành phố... cả đời chưa thấy
đồng ruộng, con trâu, cái cầy là gì thì làm sao tả
cảnh, tả vật, làm luận, làm văn được... nộp giấy
trắng, ăn trứng vịt, ốc rô, là phải! Cũng như mới
vào cải tạo, ở Long Khánh, thấy người ta có
khoai lang, An sai tôi đi ra mấy luống lan kiếm
khoai về luộc như người ta, nó mắc bận chẻ củi
nấu cơm, tôi ra vạch mấy cọng dây lan soi mói,
tìm hoài không thấy củ nào đành về báo cáo nó:
tụi nó hái hết rồi, đâu còn củ nào mà kiếm...
thấy tay tôi còn sạch... nó tức tối than trời: trời
ơi, vậy mà cũng nói... nó là củ, ở dưới đất, phải
đào mới có chớ đâu phải trái trên cao như trái
trứng cá, hay trái trứng dái mày đâu mà hái cái
quái gì... đồ ngu... lần đầu tiên trong đời tôi thấy
luống lan, cây bắp... dân thành phố, dân Hải
Quân lè phè sông biển... chỉ biết chơi thôi, chả
biết gì... là vậy... và... thời thế tạo anh hùng...
cũng là vậy luôn... bị hải tặc Thái Lan dồn vào
chỗ chết không đánh là vào bụng cá nên mới
vùng lên tử chiến... là vậy... hàng chết chống
sống... chớ có anh hùng gì đâu... gặp nhiều điều
trái tai gai mắt, bức gân quá... viết lại, ghi lại
như chụp hình, quay phim rồi... thành truyện...
thành văn sởi... bất đắc dĩ... vậy thôi... chớ có
biết hư cào hư cấu là gì đâu... thật đó... có sao
nói vậy người ơi !!! Thế thôi, không ngờ tôi lại
‘’nhiều chuyện’’viết lạc đề sang chuyện dài
nhân dân tự vệ... xếp bút nghiên theo việc đao
binh, lục bình nổi trôi vận nước, đoạn đường
chiến binh, chiến bại sen lẩn... chiến thắng... hải
tặc Thái Lan... hi hữu... trên biển vượt biên dễ
có mấy ai gặp được chuyện này... kiến ăn cá, cá
ăn kiến... nó cướp mình, mình cướp nó... tao
chết, mày sống... tao không chết... thì... mày
không sống... thế thôi... vay trả, trả vay... sòng
phẳng... ở hiền gặp lành... trời cao có mắt!
Những điều trông thấy mà đau đớn lòng, may
mắn không làm người lính trẻ chết trận chiều
qua nên... chứng kiến lịch sử... Việt Nam Cộng
Hòa... sống chết giữa hai... Hiệp Định... như hai
tờ giấy Khai Sanh, Khai Tử, không hơn không
kém... Hiệp Định Genève 1954 ... Khai Sanh,
Hiệp Định Paris 1973... Khai Tử! Sáu mươi
157
năm cuộc đời, nhiều tài liệu chiến tranh được
giải mả... mới biết... mình xả thân chiến đấu chỉ
cho... tham vọng của một lũ điên... mình chỉ là
một con chốt... trên một bàn cờ... và ngay chính
các vị lãnh đạo tối cao của chính mình, đất nước
mình cũng chỉ là... một ông Tướng... trên bàn cờ
đó... sống chết tùy tay cờ... Hoa! Ngô Tổng
Thống của nền đệ nhất Cộng Hòa cũng nằm
trong số phận đó... bị thí một cách thảm thương!
Bởi vậy bây giờ mới hiểu tại sao những nhà
lãnh đạo cao cấp miền Nam của mình lưu vong
xứ người hầu hết đều im hơi lặng tiếng, để mặc
việc phục quốc đấu tranh cho những tay... mơ...
trói gà không chặt... ăn chưa no, lo chưa tới...
chưa thấy quan tài, chưa đổ lệ... vì họ biết quá
nhiều! Nguyên Thủ Quốc Gia, Tổng Tư Lệnh
Tối Cao Quân Đội, Tổng Tham Mưu Trưởng,
Tư Lệnh Quân Đoàn, Tư Lệnh Không Quân, Tư
Lệnh Hải Quân... đều giữ thái độ im lặng là
vàng... là vậy! Càng cao chừng nào càng câm
chừng nấy, họ biết hơn ai hết hiện tại bây giờ
mình chỉ là... những con dế đá gãy càng, những
con gà chọi gãy cựa... chẳng còn làm được trò
trống gì... có chăng ... chỉ... gáy nồ... chạy rót...
mà thôi! Bàn cờ đầy quân trên đó còn thua, còn
chạy, bây giờ trụi lủi Xe Pháo Ngựa chỉ còn vài
con Tốt nhảy cò cò chiếc thì chơi được gì! Dở
mà biết dở là... hay... rồi! Tôi qua đây, nhờ sách
vở dồi dào phong phú của thư viện mà mới biết
được sự thật phũ phàng này, tuy muộn nhưng
thoát được... vô minh... là hạnh phúc lắm rồi!
Biết nhiều quá thành... vô vi... là vậy... suốt
thời gian trong rọ tôi ghi nhận được điều lạ
này... là... đa số những người trốn trại tôi được
biết điều là những tay... trói gà không chặt,
không biết rừng là gì, là lính thứ hiền, lính biệt
phái... Kỹ Sư, Bác Sĩ và đặc biệt nhất là... Hải
Quân... chớ không phải lính thứ dử... Biệt Kích
Dù, Lôi Hổ, Lực Lượng Đặc Biệt, Nhảy Dù,
TQLC, Biệt Động Quân... không phải họ hèn,
mà họ biết... đi không được... đi đâu... hay nói
trắng ra... đi là chết... nên không đi... hầu hết ra
đi không trở lại, nếu không bị bắt thì biệt tin, coi
như là Kinh Kha, còn biết tin thì... bị bắt trở lại!
Như Bác Sĩ Nguyễn Hữu Ân, từng du học Âu
Châu, người cùng tổ với tôi lúc mới vô trại,
được cả tổ bình bầu là cá nhân xuất sắc đầu tiên,
tôi viết ở phần đầu hối ký... đi một mình ở rừng
Bù Gia Mập, biên giới Campuchia... qua bên
này liên lạc được với bác sĩ Trần Xuân Ninh tôi
có kể lại chuyện Bác Sĩ Ân trốn trại không biết
thành bại thế nào thì bác sĩ Ninh cho biết... Bác
Sĩ Ân đi vào... thiên thu! Lê Sang, cùng khối với
tôi, du học Tây Đức về, dạy Quốc Gia Hành
Chánh, là người trốn trại đầu tiên ở Bù Gia
Mập, nín thở qua sông tuyệt vời, lúc nào cũng
tình nguyện làm những công tác khó khăn, được
biểu dương cá nhân xuất sắc trước khối chớ
không phải trước tổ, tụi tôi cũng khổ vì anh,
được tên quản giáo đem ra làm gương... anh
hùng lao động... cho cả khối noi theo... vượt chỉ
tiêu... chỉ tiêu mỗi người 15 cây lồ ô hay 60 cây
nứa... ai cũng than trời, đa số không đạt được thì
anh... dư sức qua cầu... mà dáng anh thuộc loại
thanh tao... bạch diện thư sinh... chớ không
phải... trâu bò vai u thịt bắp... mới đáng nói...
đến lúc vắng mặt điểm danh còn nghỉ là bị nạn
lao động trong rừng không về được, còn cử các
tổ cắt người đi tìm, đến lúc lục hành trang
không thấy mới biết là trốn trại, anh đi sô lô, và
không tin tức gì. Từ đó tôi cũng học gương
anh... tìm đường gai gốc mà đi... theo đúng
nghĩa đen của nó để rèn luyện... thân tâm! Mới
vô rọ, thấy giếng sâu đời nào dám đến gần thả
sợi dây dài... chóng mặt, sợ hãi, sợ nhào đầu
xuống đó... vậy mà dám xung phong vào toán
đào giếng. Có lần tình nguyện công tác... lấy
''hom mỳ'' ở sóc Thượng... nghĩa là lấy những
thân cây khoai mỳ sau khi thu hoạch rồi để làm
giống trồng khoai mỳ, một cây mỳ chặt ra thành
nhiều khúc nhỏ bằng gang tay, cắm xuống đất là
ra cây mỳ khác. Khởi hành sáng sớm lúc 5 giờ,
đi bộ bốn tiếng mới tới nơi... bắt đầu làm việc...
quần quật 4 tiếng đồng hồ nửa, lên đồi xuống
dốc gom góp thân mỳ từ rẩy ra đường cái... rã
rời thân xác... rồi bắt đầu đi về... với những thân
158
cây mỳ khô trên vai... đi bộ không thôi, chỉ thêm
lon guigo cơm và bình đông nước như buổi sáng
đã phê rồi.. giờ phải thồ thêm củi mỳ mới
khiếp... nhưng đầu đã nói với óc... làm Papillon
còn châm hơn nhiều... đâu được đi trên đường
cái quan... xe molotova chạy... như thế này...
đâu được đi đường mòn... dép râu đi... mà phải
lấy khó vượt khó... như vượt biên... lựa đêm tối
trời, không trăng, mưa gió bão bùng mà đi cho
an toàn... qua mặt hàng rào công an biên
phòng... tìm đường gai gốc mà đi là thế...
chuyến này đi không nổi thì dẹp chuyện học đòi
làm Papillon sang một bên đi... an phận tù đày
cho rồi... để... đôi chân đi... trong vui vẻ... mỏi
gối chồn chân cũng muốn trèo là vậy... vậy mà
cũng lết được về tới trại tối khuya như những
khỏe mạnh khác... về đến tổ thì tất cả đã vô
mùng... sáng hôm sau vẩn đi công tác như
thường... trong khi Trần văn Trung, người bạn
tôi coi như là Papillon của mình liệt đôi chân...
ở nhà làm việc nhẹ... đan cót! Nguyễn Cư,
Uniform Company 4 với tôi, Fifth Batalion
Commander ở OCS, cùng khối với tôi ở Long
Khánh, cương nghị, khí khái, bất khuất... cầm
đầu một nhóm ra đi ở rừng Cà Tum, sát biên
giới Cambuchia, còn viết để lại hai chữ ... Thát
Đát... cho bạn bè ở lại. Chuyện này được Lể,
Pilot A 37, bạn cùng tổ ăn rất thân với tôi, bị
đưa đi Cà Tum với Nguyễn Cư được thả về đến
tìm tôi, kể lại chi tiết... Thát Đát... này. Trần văn
Trung biết chuyện Nguyễn Cư Trốn trại, hai
thằng đều dân Huế, rất thân với nhau như hai
anh em ruột thịt, bị chia cắt mỗi thằng một nơi,
đến lúc tôi được cho về phép một tháng vào dịp
Tết rồi trốn luôn, có đến nói nhỏ với tôi về
chuyện này cho tôi địa chỉ nhà Cư để đến hỏi
thăm. Đêm đó tôi bàn giao tài sản quý giá tù đầy
của mình gom góp mấy năm nay cho Trung,
thùng nước, nồi cơm, thực phẩm mới thăm nuôi,
cái cót... túi ngủ... đa dụng... hè làm chiếu, đông
làm mền... chui vào ngủ ấm cúng, không cần
mắc mùng nhà mới gởi vô trong đợt thăm nuôi
lần đầu trong rừng... trường kỳ tù chiến hết sẩy,
Trung không được thăm nuôi vì trốn trại. Trung
khí khái nhất định không nhận... nói... ông cứ để
đó, tôi giữ cho, tuyệt đối tôi không đụng tới, trở
lại lấy gì mà dùng? Lúc đó tôi mới thú thật... tôi
có trở lại đâu mà lấy lại dùng... ông không lấy,
lọt vào tay tụi nó... uổng lắm... sau đó tôi sẻ tìm
đường... vô khu... chết sướng hơn... trở lại...
chết bịnh trong này... vì trong Bù Gia Mập tôi bị
sốt rét... thập tử nhất sinh... còn sống là một
chuyện mầu nhiệm hi hữu cũng như kho đạn nổ
vậy... vào dịp khác tôi sẽ kể lại chi tiết! Lúc đó
hoàn toàn không hay biết gì về chuyên vượt
biển vượt biên bên ngoài, đâu ngờ Hải Quân có
giá, ra ngoài là biết bao tổ chức vượt biên tìm
đến... mời làm tài công... mà chỉ nghe tin vịt
về... Sư Đoàn... Hai Đèn Cầy... mới thành lập...
do Lân Kỳ Lưỡng cầm đầu... do Toàn, con của
Trung Tá giám đốc trường mù ở đường Nguyễn
duy Dương kể lại... cho tụi tôi nghe trong lúc
lao động chung nhau trong rừng... trong này chỉ
có tin vịt và tin vẹm... nhưng tụi tôi lại mê nghe
tin vịt hơn... nó phê như kéo một bi thuốc lào
hay uống một viên an thần vậy! Kéo xong bi
thuốc lào, Toàn giải thích... Lân, Kỳ là hai con
vật quý trongà tứ quý... Lưỡng là hai... bởi vậy...
ba tướng mà Sư Đoàn lại có tên... Hai Đèn
Cầy... là vậy... ám chỉ Tướng Lân TQLC, Tướng
Kỳ Không Quân, Tướng Lưỡng Nhẩy Dù, đều
là tướng trẻ, sung sức, chịu chơi... còn hai cây
đèn cầy là... cặp nến thắp hai bên quan tài chiến
sĩ trận vong... ngụ ý... khóc thương tổ quốc...
chuyện hoang tưởng vậy đó mà cũng nhập hồn
tôi... tuyệt vọng quá đâm ra... mê tín... là vậy...
chết trận sướng hơn chết bịnh... trong tù! Thấy
tôi cương quyết tới mức đó Trung mới nhận bàn
giao và bật mí chuyện của Cư trốn trại ở Cà
Tum cho tôi và cho tôi địa chỉ Cư để tìm hiểu
thực hư thế nào. Tôi có đến tìm, nhà Cư ở tuốt
trong sâu, quanh co hẻm nhỏ lầy lội, nghèo nàn,
bây giờ tôi không tài nào nhớ ra và gặp thân
sinh của Cư cùng đàn em nheo nhóc ngây thơ...
ông kể lại cho tôi bằng giọng Huế... thấy nó lâu
quá không viết thơ về, chỉ nghe đồn, bác liều
159
mạng vô tới tận trại hỏi han cho ra lẽ thì họ nói
nó không ở đây, không biết đi đâu, đi lên trên
mà hỏi, buồn rầu quá, hai bác đi hỏi... đồng
cốt... nhiều nơi... nhưng không chỗ nào thấy nó
cả... đa số đều nói rất mù mờ, như một bóng
ma... đau khổ, đói khát... khó sống... hai bác đến
bây giờ chưa lập bàn thờ cho nó vì muốn nó vẩn
sống... trong lòng đám em nó! Nguyễn Cư và tôi
tuy cùng Uniform 4 nhưng chúng tôi vẩn giữ
cách biệt trong lúc xưng hô với nhau, lúc nào
cũng ông ông tôi tôi chớ không mày tao thân
tình như những người cùng khóa khác. Dù khác
Liên Đội, anh Liên Đội B và học Petrus Ký sau
tôi một năm... nhưng tôi rất nể nang Cư... ở
phong cách của anh... cương nghị, bất khuất...
thực xứng đáng là một... Fifth Battalion
Commander... không sai chút nào... có sai là...
ra trường... không đậu... Thủ Khoa... vì thua
điểm Academy... Cư ban C nên ăn nói chững
chạc, có chiều sâu hơn những người cùng trang
lứa. Rất tiếc thời gian không còn nửa... cha mẹ
Nguyễn Cư chắc cũng đã khuất núi hết rồi... nếu
không chúng mình giúp đỡ cũng làm mát lòng
người bạn bất khuất của mình nơi chín suối! Có
lần thấy tôi bệnh hoạn liệt giường liệt chiếu, Cư
đến thăm lúc tôi trùm mền giữa trưa hè oi bức...
hỏi han: bịnh hoạn có thuốc men gì không... tôi
thều thào: có thuốc khắc phục... cả tháng nay
rồi... mà không hiểu có... khắc phục... nổi con
trăng này không... như thú hoang rừng thẳm...
bịnh đâu uống thuốc... chắc đi đái quá... trời
đang nóng mà trong mình trở rét... rồi rung cằm
cặp nhắm mắt trùm mền chịu đựng... Cư âm
thầm rút lui... một lát sau trở lại... đưa tôi vỉ
thuốc 4 viên... bọc bạc tối tân chớ không phải
bọc giấy tối mờ... rồi nói:
Mấy viên này của tôi là để... thủ... nhưng thấy
ông thế này... tôi thủ không nổi... thôi lấy uống
đi... rồi bỏ đi liền... không muốn thấy những giọt
nước mắt rưng rưng trong mắt tôi và không
muốn nhận lời cám ơn của tôi. Bạn Tù... tình
nhà thương... là thê! Có thuốc... lên tinh thần...
nhưng tôi... giữ đó... không dám uống... vì biết
chắc uống xong chỉ đỡ đau vài tiếng rồi lại như
củ... bởi vậy... giữ đó... làm tin trong người...
như người đói cố thủ đồng tiền cuối cùng trong
túi... để giữ tinh thần... không mua không phải
không tiền không mua! Mỗi lần nóng sốt hoành
hành thì lấy ra mân mê... ép phê hơn thuốc...
khắc phục... của vẹm... nhiều! Một OC khác,
không nhớ tên, khóa 5, thấy vậy xà vô tán dóc:
Chà sang quá ta, đến giờ này mà vẫn còn...
thuốc ngoại... hiện đại... bọc bạc... bóng láng...
phong độ quá... tư sản thứ thiệt! Tôi nở nụ cười
héo thanh minh thanh nga:
Thuốc này của Nguyễn Cư cho... tao lấy làm...
Thuốc Nhìn... chớ không phải Thuốc Uống...
như cá rô cây Bắc Kỳ vậy... mỗi lần tới giờ
uống thì lấy ra... Nhìn... công hiệu hơn thuốc...
Khắc Phục... thấy nó còn ngơ ngác không hiểu
tôi bèn ngâm thơ cho nó nghe:
Bắc Kỳ ăn cá rô cây
Ăn nhằm lựu đạn chết cha Bắc Kỳ... đó mà...
thằng con thấm ý, gật gù, chịu quá, cười tít
mắt... làm tôi... cười theo... quên đau... tán dóc
xong nó bỏ đi... như Cư... trở lại đưa tôi vỉ thuốc
6 viên... thuốc nội... bọc giấy, tối nước... tiếu
lâm:
Nghe mày nói tội nghiệp thấy thương thích
cười quá, tao còn mấy viên cuối này, cho mày
luôn, nhập với thuốc thằng Cư, uống đi thằng
em, xem có bớt run không... lo gì... hết Thuốc
Nhìn... thì còn... Thuốc Vẽ... bộ mày quên...
Bánh Vẽ... Thiên Đường... rồi sao... rồi bỏ đi
ngay... sợ thần khẩu hại xác phàm!
Viết về... Bắc Kỳ ăn cá rô cây... không phải
muốn kỳ thị Nam Bắc... thật ra tôi là người...
Nam gốc Bắc... cũng như mấy con mình người
Mỹ gốc Việt vậy... ba má tôi vào Nam năm 45
vì nạn đói... tôi sinh trong Nam, năm 1949. Lúc
học Tiểu Học, đến kỳ nghỉ hè bạn học đều về
quê, hỏi tôi quê mày ở đâu, tôi nói quê tao ở Sài
Gòn, quanh năm suốt tháng ở Sài Gòn, Tết cũng
ăn Tết ở Sài Gòn luôn không có quê để về như
tụi mày. Lúc đó tôi hoàn toàn không hiểu quê là
gì và tại sao mình không có quê như tụi nó...
160
chắc cũng giống như con chúng mình... bây giờ
vậy! Nhỏ vô xóm chơi... đá dế... bắt sát, đá cầu,
đá banh, hầm bông vụ, bắn đạn, giựt cô hồn,
đánh đục, đánh đáo, đánh côn, tán u, tạt hình, tạt
lon v..v... chơi theo mùa, mùa nào có trò chơi
mùa đó, mà phải chơi với nhau mới được... mùa
gió thả diều... mùa mưa đá dế... những thứ trò
chơi rẻ tiền nhưng cũng đòi hỏi khéo léo, khôn
ngoan... như hầm bông vụ... chơi dở là bị hầm
hoài, bông vụ mình bị ăn thẹo... đợi đến khi
thằng cuối cùng chết mới được ra... thằng nào
thằng nấy mừng rỡ la... sâu bọ lên làm người...
mấy chữ đó biết từ thuở nhỏ chơi bông vụ... đâu
ngờ sài lại nó trong ngày 30 khi... cách mạng
thành công... đổi đời... mình xuống làm sâu bọ...
còn tụi nó... sâu bọ lên làm người! Lúc mới
được về phép, em tôi có dắt vô xóm trình diện tổ
phó an ninh, hắn nói một câu làm nát tan cõi
lòng mình... tôi cho anh tạm trú ở đây một
tháng... tôi lầm bầm trong bụng... xóm này là
xóm của tao... hang cùng ngõ hẻm đường
mương nào tao cũng rành... mày ở đâu mới tới...
đâu rành bằng tao... người tạm trú là mày chớ
đâu phải là tao... đổi đời... sâu bọ lên làm người
là thế!
Lạc loài giữa đám giá sống, bị người lớn miền
Nam kỳ thị giỡn chơi đòi... cởi quần coi cọng
rau muốn sau đít nó dài cỡ nào... bị tuột quần
hoài... coi giá sống hay rau muống... bởi vậy sợ
quá... đồng hóa cho nhanh... Nam còn hơn
Nam... xưng hô ba má cho giống tụi nó chớ đâu
dám... bố mẹ, thầy u, cậu mợ... như Bắc 54... lộ
ra sợ tụi nó chọc ghẹo... Bắc ký ăn cá rô cây, ăn
nhằm lựu đạn chết cha Bắc kỳ... hay... ông trời
quả báo hàm răng đen sì... Tôi biết những câu
đó từ thuở nhỏ... qua thực tế trẻ thơ... chớ
không phải qua văn thơ sách vở, lúc đó còn thời
Bảo Đại, miền Nam kỳ thị ra mặt, ngay trong lời
nói và hành động. Còn chuyện động trời này
nửa... hết bị tuột quần đến làm... dũng sĩ giác
đấu... bất đắc dĩ... ra Đình ngay sau nhà mình
chơi vào ngày Lễ Tết, bị người lớn cáp độ...
đánh lộn coi chơi... giúp vui hổng tốn tiền... hai
thằng chẳng hận thù gì nhau, tự nhiên bị đưa lên
đài, đều không muốn đánh... thì bị đốc... thằng
nào đánh trước làm cha, thằng nào đánh sau làm
con... thế là bị giọng vô mặt, đau quá, trả đũa
lại, đánh hăng như dế đá, gà chọi, đấm đá vật
lộn, lăn lộn vô góc kẹt không thấy rõ, coi không
đã con mắt thì người lớn nắm giò kéo ra giữa
sân, nằm dưới bị kéo như kéo xe La Mã trên lớp
đất cứng gồ ghề đá sỏi, rách nát da lưng, đau
quá quá khóc thét lên... trận chiến mới ngưng...
người nhà ra thì người lớn lặng liền... không cò
bót gì được... đem về bóp muối, sức thuốc đỏ...
thương và tội... cho tuổi thơ vô tội mình quá!
Tội nghiệp hai thằng nhỏ, từ đó không bao giờ
chơi với nhau, coi nhau như thù, hận người lớn
bất nhân cáp độ để hai đứa đánh nhau đau thì ít,
hận nhau thì nhiều... bên này thứ hạng người lớn
đó là bị đưa lên báo, lên TV, ra tòa lãnh án
liền... đá gà, đá chó còn bị ở tù nói gì... đá con
nít... người ta! Viết đoạn này, tôi hoàn toàn chỉ
muốn kể lại chuyện... khi xưa ta bé ta chơi mà
thôi... không có ý gì khác... nhưng viết xong,
đọc lại, nghiệm lại... sao thấy giống chuyện
nước non dân tộc mình quá... bị người lớn ngoại
bang chia đều ra hai phe đánh... Nam–Bắc phân
tranh... và thằng bé năm nào lớn lên cũng vướng
vào trận chiến đó... rồi những chuyện về sau
cũng giống nhau như vậy... hết đánh nhau... 40
năm trôi qua... hận người lớn ngoại bang gây
cuộc hí trường... huynh đệ tương tàn... thì ít...
hận nhau thì nhiều! Chuyện đất nước dân tộc
mình không khác gì chuyện mình... lúc tuổi thơ
mới lớn... thương và tội quá đi thôi... lấy mắt thù
nhìn nhau!!!
Tôi tham gia một chuyến trốn trại bị bể nhưng
không bị bắt do Trần văn Trung, K 22 NT làm
chủ chốt, với thêm hai người nửa, một là Bác Sĩ,
và một là Kiến Trúc Sư tên Trương Hồng Yên,
khá tên tuổi, là một trong nhóm kiến trúc sư,
kiến trúc Dinh Độc Lập, Trung nói với tôi như
vậy. Trung chơi thân với Hiếu, Trung Úy Dù, đi
từ Trung Sĩ lên, từng nắm Đại Đội Trưởng, trên
mình đầy những con rít dài... chứng tích chiến
161
trận trên người... vết thương khâu lại sau giải
phẫu... bị thương nằm bệnh viện... dầy dạn chiến
trường... mỗi con rít trên người, là một chiến
trận đẫm máu. Tôi thì mù tịt rừng thẳm... chỉ có
tấm lòng... muốn đi... nên nói nhỏ với Trung...
nếu có đi thì cho tôi đi theo với... tôi như thằng
bạn... đeo mắt kiến... của Papillon vậy... tò mò
hỏi Trung... Hiếu có đi không... thì Trung trả lời
liền... không... nó còn bàn ra... khuyên đừng đi...
khó thoát lắm... vì không muốn Trung... chết...
Hiếu đã từng hành quân vùng này, rành địa thế
này... nói cách biên giới chừng 15 cây số...
nhưng lúc nào cũng khuyên Trung đừng đi vì
hai thằng rất thân... thường trọ trẹ tiếng Huế với
nhau... đúng là một chuyến đi lãng mạng... coi
trời bằng vung... lúc đó Việt Nam đang đánh
nhau với Campuchia... nên đem tam đoạn luận
ra suy... kẻ thù với kẻ thù ta là bạn ta... nên cứ
nghỉ... tới biên giới là thoát... vượt bao hải lý
chưa nghe vừa ý... nói gì mười mấy cây số
đường rừng... chồn chân mỏi gối thì ngủ nghỉ...
đâu sợ sóng to gió lớn... như đi biển... chớ có
biết đâu cạm bẫy dẫy đầy... gặp thứ nào cũng
chết cả... Việt Cộng, Miên Cộng, Khờ Me Xanh,
Khờ Me Đỏ... phe nào cũng là AK chớ đâu phải
M 16... đi là chết trong lòng một ít, tôi chưa đi,
chỉ nghỉ thôi mà nước mắt ràn rụa trong đêm
nhưng cũng nhất quyết ra đi. Sở dĩ tôi thoát nạn
đêm đó là vì ngay đêm đó có một cuộc điểm
danh bất thường sau buổi điểm danh thường lệ...
đích thân Quản Giáo đọc tên từng người đứng
qua một bên chớ không phải qua tổ trưởng, khối
trưởng báo cáo lên... sau đó ra lệnh... tất cả lên
giường... đi đại tiện, tiểu tiện gì phải báo cáo tổ
trưởng, phải đi hai người và phải mang theo
đèn... tôi đánh hơi chuyện khác thường này nên
nói nhỏ với Trung... có đi đừng đi đêm nay... rồi
lên giường ngủ... vì mệt lả, rã rời sau một ngày
lao động nặng nhọc trong rừng... nửa đêm bị
dựng đầu dậy... điểm danh bất thường lần nữa...
đang say ngủ, say ke... đứng sắp hàng mà vẫn
chưa tỉnh, đầu óc chưa hoạt động gì, không thắc
mắc tại sao lại điểm danh... vẩn nhắm mắt ngủ...
đứng... chờ nghe tới tên thì la ... có mặt... thì
nghe đọc tới tên... Trần văn Trung... Trần văn
Trung... nhiều lần... không thấy trả lời... ông già
Gương... nằm kế... lên tiếng giùm... chắc nó ngủ
quên, để tui vào kéo đầu nó ra, nó mới sách đèn
đi đái với tui đầu hôm đây mà... khỏi cần vào tôi
cũng biết nó không có trong đó liền... ổng chưa
kịp ra thì trong mép rừng những ngọn đèn pin
lóe sáng xé nát màn đêm... AK trước sau, ở giữa
là ba bóng đen đi mà không thấy tay cử động.
Mấy hôm sau được trả về tổ, ngồi một mình
trong bếp, không ai dám đến gần, tôi bạo dạn
đến ngồi kế bên, tưởng không có ai, Trung nói...
cũng may ông không đi... tôi nghe điếng hồn
liền vì có tiếng lục đục bếp kế bên, nhìn qua
thấy Dũng cơ khí, K 19 NT nên cũng yên tâm...
Trung nói... bị bể vì tên Bác Sĩ đi theo là ăng
ten... nếu không... Trung nói chuyến ra đi như
một cuộc picnic, thực phẩm đầy đủ, đường sửa,
đậu xanh, anh Yên bỏ tiền ra mua, chôn giấu từ
nhiều ngày trước, chuẩn bị chu đáo, có dụng cụ
làm lửa, dầu thắp đèn, có luôn la bàn do chính
Trung làm, điều chỉnh đối chiếu với sao Bắc
Đẩu đàng hoàng, nghiên cứu trong sách Duton
của tôi... tôi hỏi làm sao biết tên Bác Sĩ đó làm
phản... thì Trung nói... khi bị điều tra thẩm vấn:
Ai đi với anh?... Trung trả lời:
Không ai cả!
Anh thành thật khai báo?
Vâng tôi thành thật!
Thực phẩm mang theo nhiều như thế mà chỉ
ba người đi thôi sao?
Vâng đúng vậy.
162
Tôi hỏi anh thêm câu này nửa là biết anh
thành thật hay không liền.
Vâng, anh cứ hỏi, tôi thành thật khai báo.
Vậy thì... chớ đêm qua, trong củi, ai là người
nới trói cho anh Yên ra... Trung trả lời:
Tôi không biết... Hắn chận họng liền:
Bao nhiêu đó tôi cũng biết anh thành thật khai
báo thế nào rồi... rồi Trung giải thích: anh Yên
bị trói chặt, than đau quá chịu không nổi, tôi
ráng dùng răng nới trói cho lỏng ra, thế mà
chúng cũng biết... chuyện chỉ có ba người với
nhau trong củi, ngoài mép rừng, anh Yên không
nói, tôi không nói, làm sao chúng biết, với lại
hắn là thằng bị thẩm vấn đầu tiên... tôi hồi họp
lo cho số phận mình, hỏi qua chuyện khác:
Bộ anh Yên và tên bác sĩ đó không khai tên tôi
ra sao? Trung trả lời:
Chỉ mình tôi biết, ông yên tâm, cũng như tên
bác sĩ đi theo đến khi bị bắt tôi mới biết nó là
đồng hành với mình, chỉ có anh Yên và tôi biết
nhau thôi... tôi nghe xong thở phào nhẹ nhõm
nhưng thắc mắc hỏi thêm:
Sao bị nhốt mấy ngày là được thả về liền? ...
Trung trả lời:
Tại anh Yên hăm dọa... tự sát... nếu bị hành hạ,
tra tấn... rồi Trung bồi thêm:
Anh Yên có người chú ruột là Ủy Viên Trung
Ương Đãng... thân nhân cách mạng thứ gộc...
nghe tới đó là chúng cởi trói anh liền, còn cho
ăn uống đầy đủ còn hơn ở trại... Sức mạnh của
Đãng là thế! Bởi vậy Trung cũng được hưởng
ơn... mưa móc! Chưa hết thắc mắc, tôi hỏi tiếp:
Thấy tụi nó điểm danh bất thường là biết
động rồi, sao vẫn đi, không dời ngày khác?
Trung trả lời:
Tôi có chạy qua Khối 3 hỏi anh Yên thì ổng
nói: vẩn theo kế hoạch, không thay đổi, biết đâu
nhờ vậy đi... êm... nhưng vừa ra đến điểm hẹn...
là tụi nó phục sẵn ở đó bắt trói liền.
Trong đêm họp khối, khối tôi là K 1, một
trăm hai chục người ngồi thành một vòng tròn,
Trung ở giữa bên cạnh đống lửa lồ ô bập bùng
kể chuyện trốn trại. Khác với những người khác
là tự trách mình dại dột, không tin đường lối
đãng, xin cách mạng khoan hồng, ăn năn hối lỗi.
Trung cũng xin lỗi tập thể... vì không đi thoát...
nên phiền lòng anh em... nên mới có buổi sinh
hoạt bất thường này... hoàn toàn ngoài ý muốn
của mình... chớ thật sự tôi... không muốn bị bắt
chút nào... để gặp lại anh em đêm nay... xin tập
thể thứ lỗi vì lấy mất thì giờ nghỉ ngơi của mọi
người. Trung nói tiếng nói của người lính biển:
Sở dĩ tôi trốn trại là vì... tôi quen với cái
nhìn... biển trời bao la... khi xưa... mở mắt ra là
thấy... góc biển chân trời... bây giờ... trong rừng
này... cây cối bao bọc... không thấy trăng sao gì
cả... chỉ một... vũng trời... nhỏ bé quá... chịu
không nổi... quẫn trí... nên tôi bỏ trốn... để tìm
lại vùng trời thênh thang... thế thôi... đó là lý do
tôi trốn trại... tôi hoàn toàn nhận chịu tất cả hình
phạt trại dành cho tôi... tôi không còn gì nói
thêm... xin nhận tất cả những lời đấu tranh phê
bình của tập thể rồi... im lặng... đợi chờ... Chẳng
có gì để lên lớp người cứng cựa coi trời bằng
vung như thế nên chỉ nghe tiếng lồ ô... nổ... thấy
không khí im quá một người tìm hiểu:
Vậy anh có thể cho chúng tôi biết... anh tính
đi đâu... và mục tiêu cuối cùng là tới đâu? Trung
trả lời:
Trước hết là tới biên giới Việt Miên và sau đó là
tới Thái Lan... một tiếng ...ồ... tự động vang ra
lây lan hết vòng tròn liền... xen lẫn tiếng bàn
đề... làm sao mà đi tới đó nổi... mấy tay từng
tham gia hành quân Hạ Lào, Campuchia bật
miệng... làm như Papillon thả bè trôi theo sóng
vậy... đúng là dân Hải Quân... trốn trại! Một
người khác thắc mắc: Anh có thể cho chúng tôi
biết thêm... làm sao anh có thể đi bộ tới Thái
Lan được? Trung cũng thành thật kể:
Chúng tôi chỉ cần tới biên giới Việt Miên, tới
đó... anh Trương Hồng Yên sẻ tìm cách liên lạc
với Lonnol, trước kia là bạn học của mình, để
nhờ dẫn tới Thái Lan... cả vòng tròn lại cười ồ
một lần nữa... chớ không có ý kiến gì thêm... vì
tất cả đều mù tịt... mấy năm trời trong bức màn
sắt... nhất là lúc đó... trong rừng... chỉ nghe suối
163
róc rách, cắt kè kêu... với lối suy luận... kẻ thù
của kẻ thù ta... là bạn ta... nên cứ nghỉ tới
Campuchia là tới thiên đường... chắc có lẻ
Nguyễn Cư cũng nghỉ vậy nên mới trốn trại ở
Cà Tum... nhưng dầu sao đi nửa cũng khâm
phục tinh thần... bất khuất... của người trốn
trại... không thành công cũng... thành nhân! Con
người cũng có cái số, bây giờ tôi nghe đồn, Trần
văn Trung đang ở bên Đức, hè qua, 2011, họp
mặt bỏ túi trên chiếc Quest của Cap Cảnh bên
Tây Đức, có người khóa 22 NT nói thế, nghe tin
đó tôi rất mừng hỏi tới tấp số điện thoại, địa chỉ,
email nhưng đều không có. Và... nếu tôi được
chuyển trại chung với Cư ở Cà Tum thì chắc
chắn tôi sẻ theo Cư, và nếu không có cuộc điểm
danh bất thường và không bị nội tuyến thì cả
đám không bị Khờ Me xanh giết, thì cũng bị
Khờ Me đỏ cáp duồn, còn nếu chung Molotova
với Hùng sửa khi trình diện ở Petrus Ký thì
cũng theo nó trốn trại... mà chính nó cũng là
đầu sỏ, đưa đường dần lối như Trung... vượt
biên... đường rừng... không xanh cỏ cũng bóc
lịch mệt nghỉ như nó... 13 cuốn... nghỉ lại hú vía
rùng mình... sống chết... số trời... xui khiến ... là
vậy!
Bác Sĩ Bùi Trần Ai, trốn trại, mấy ngày sau đầu
thú trở lại vì... hết lửa... đem theo... diêm quẹt...
quẹt hết nguyên bao mà cũng không thể mồi lửa
nấu cơm vì... mưa rừng... đói quá chịu không
nổi phải về trại ăn lại cơm tù. Chỉ có một người
duy nhất là lính Địa Phương Quân, anh là Việt
gốc Miên nên mò được tới gần biên giới nhưng
vẩn về lại trại gần một tháng sau... anh kể lại...
rừng này rất khó đi... chỉ cách biên giới 15 cây
số mà ăn hết lương thực đem đi cũng chưa tới
đâu... ngày cuối đói khát thì tới được rẩy bắp...
tính ăn cắp thì... lại nghe rõ ràng... trong gió...
giọng ca Hùng Cường, Mai lệ Huyền... một trăm
em ơi chiều nay một trăm phần trăm... bay ra từ
băng cassette... đâu đó... chắc chắc trăm phần
trăm phe ta mới mở nhạc này... bèn mừng rỡ mò
đến chỗ phát ra tiếng nhạc... không thèm trốn
chui trốn nhủi nửa... được dân niềm nở đón
tiếp... nấu khoai cho ăn đỡ đói... bảo ngồi ăn chờ
ra trình báo... một lát sau là có trực thăng Mỹ
đến chở đi... nào ngờ... chẳng bao lâu... nón cối
dép râu AK 47 xuất hiện... cốt khỉ lại hoàn cốt
khỉ. Lúc tham dự Đại Hội ở Boston, trên du
thuyền, Cáp Cảnh và tôi được Hùng sửa kể lại
chuyện trốn trại, mà nó lại là đầu sỏ, trưởng
toán, mới đáng nói, bị bắn, bị thương, bị bắt,
nhốt trong củi, không thuốc không men, chó liền
da, gà liền xương... thằng con... không chết... thì
sống... giản dị... thế thôi! Chưa hết... ngồi trước
mũi tàu thì một người không quen biết đến ngồi
kế bên làm quen... nói thích hồi ký Bạn Tù của
tôi viết... rồi... kể chuyện trốn trại của mình...
như một... fairy story... đến lúc sắp leo rào ra
thì... dép râu sạt sào cỏ lá mạnh tiến về hướng
mình... không làm gì khác hơn là ngồi xuống
gốc cây ngay đó... thì dép râu dừng bước gốc
cây kế bên... tưởng hắn thấy mình... sợ quá
nhắm mắt lại... thì nghe tiếng nước chảy... cũng
không dám mở ra xem cái vòi nước đó lớn nhỏ
dài ngắn thẳng cong thế nào... tới khi không còn
nghe tiếng... giọt mưa trên lá...và tiếng dép râu
đạp trên lá vàng rơi... mới hoàn hồn đứng lên
làm... papillon... lần đầu tiên tôi nghe một
chuyện trốn trại... có hậu ! Kể xong câu chuyện
thì tàu cặp bến... trong đêm tối chúng tôi bắt tay
từ giã và anh giới thiệu tên mình: tôi là Quang
Baby... làm tôi ngẩn ngơ người... Hết Hùng sửa
đến Quang Baby... trốn trại... chuyện lạ bốn
phương, đáng đăng báo! Nghiệm lại tôi thấy số
mình quá hên... trình diện Petrus Ký chung với
Nguyễn Cư và Hùng sửa, nếu sau đó vẩn ở
chung với nhau thì bắt buộc phải... học tập tiến
bộ như hai thằng bạn của mình... ngoan ngoãn
nghe lời quản giáo, chánh trị viên dạy dỗ, ghi
tâm khắc cốt trong lòng... câu này... về sớm hay
muộn tùy anh, học hành tốt xấu tùy anh... bởi
vậy... chúng tôi thấy... chúng tôi học tập quá
tiến bộ rồi... nên chúng tôi về... chẳng cần các
anh cho phép...
(xem tiếp trang 192)
164
new york buổi mù
ly khai vị óng màu hổ phách ngọt lịm mật phù tang
tôi nhìn em vàng
trong quán chiều tribeca nắng tạt tóc vắt môi hờn marilyn monroe ngực trễ
ngồn ngộn bạch kim tay với nhón đường cong gáy
mọi thi sĩ sẽ làm thơ suốt đời vì em
thả theo dòng hudson trong những ngày có mây bay
sơn thù du nở trắng công viên
new york chiều gió rớt em đứng đó
dội bóng nền ellis island nơi những khát khao tự do tìm chân đậu
đầu thế kỷ trước tôi nhớ lều chăn guam mù mờ ốc đảo
orote point ngày dài hàng, đêm thao thức rỗng
triệu người bầu phiếu bằng đôi chân – bỏ nước ellis bây giờ nằm không
thế kỷ này mắt cáo guantánamo nơi khủng bố là tấm thông hành
về thiên đường vui vầy trinh nữ
tôi trôi ngày new york vênh váo chiếc búng tay
giọng trầm frank sinatra xưa lắc : "new york, new york… i want to wake up in a city, that doesn't sleep…" ừ không ai đi ngủ
trong đèn choáng times square giao lộ thời đại cùng với bế tắc lưu thông
sống chung hòa hỉ
nơi thời gian được đếm bước mỗi giao thừa.. 2.. 1.. 0
uyên nguyên khởi tự số không ếch nghênh – nước lặng – basho về ao cũ
tháng năm new york có buổi mù
bồ câu rập cù rù dưới mái thức tôi sáng
cà phê phin pasteur quán không tên vội chi những grande mọi góc đường starbucks
gọi sàigòn lê thánh tôn, nguyễn huệ, tự do tên còn, tên mất – tự do đã mất
ở đây tên đường bằng số
an bài như số an sinh xã hội người và đường – những con số
tháng năm new york có buổi mù
[tháng năm chân mát bờ ao tóc người sũng nước, cơn rào trong tôi] tiên đoán thời tiết mưa ngày mai tôi đợi chờ trong cơn khát
những đám mây – để làm thơ tặng em
và một cơn mưa – để vuốt tóc người Vũ Hoàng Thư
N.Y., Tháng 5, 2009
165
taãn maån vïì gûåu...
Nguyễn Khắc Thịnh
Tản mạn về rượu WINE và miên man
thiên hạ sự của nghề bartender.
Số là tôi thích uống rượu lại muốn biết về rượu
cho nên mới ra nông nỗi này. Hoàn cảnh đã đưa
đẩy tôi làm bartender rồi tập tành làm rượu nho
chỉ dành cho nhà uống có chăng gởi biếu bạn bè,
chính nhờ cái duyên đã đẩy thú đam mê của
mình lên đến tuyệt đỉnh, nó trở thành bạn đồng
hành trong lúc tuổi già nhàn rỗi. Vì là tản mạn
cho nên tôi nhớ đến đâu ghi ra đến đó không có
bố cục rõ ràng cho lắm nhưng đại khái là: đã
biết uống rượu lại là Bartrender cho nên mình
lờ mờ hiểu được hóa tính của các thứ rượu được
pha chế với nhau sao cho ăn ý và hợp với khẩu
vị thực khách cộng thêm chính tay mình làm ra
rượu cho
nên trân
quý ở chỗ
mình uốn
nắn và gọt
giũa được
hương, vị
và nồng
độ của
rượu sao
cho đúng
với ý
muốn của
mình. Như
vậy là trân
quý lắm lắm còn đòi gì nữa.
Bartender đã có công thức pha chế không khác
gì người lính khi ra trận, nạp đạn, mở chốt an
toàn, lỗ chiếu môn đến đỉnh đầu ruồi nhắm mục
tiêu rồi bóp cò nghe cái đùng là hết. Mỗi bar
rượu có những loại rượu pha thông dụng mà
khách địa phương ưa thích, nếu theo đúng công
thức thì ly rượu đã mất đến 20% giá trị chính vì
vậy khi bắt tay vào việc tôi thường tự pha cho
mình những ly rượu mà khách hay gọi, nếm thử
để định lượng độ ngọt của nước trái cây, độ
mạnh của rượu hầu gia giảm sao cho ly rượu
khá hoàn hảo dù gặp phải thực khách khó tánh
nhất. Chê thì không đến nỗi phải chê mà ngon
thì thực sự không được ngon cho lắm, làm được
như vậy là người bartender đã thành công lắm
rồi, không mong muốn gì hơn. Như nhà cháu đã
nói ở trên, nhà cháu không nói đến thứ nào khác
ngoài rượu WINE.
Nhờ duyên, tôi gặp một người khách mỗi khi
đến bar ông ta luôn gọi một ly wine đỏ hiệu
carbinet sauvignon lắm khi Merlot, xin thêm
một ly không và một ly nước, ông ta cẩn thận đổ
ít nước vào ly không, lấy giấy napkin lau cho
khô rồi len lén móc trong túi ra một ve rượu rót
ra, cũng là wine đỏ, (các bar rượu cấm khách
hàng mang rượu đến, đó là luật bất thành văn
nhưng mọi người rất tôn trọng), chiêu một ngụm
nước, rồi uống rượu của chính ông mang tới
cho đến khi hết, thường ông đưa cay bằng mấy
hạt đậu phọng hoặc Pretzel có muối mặn, cuối
cùng ông uống hết ly rượu tôi đã service rồi ra
về và không bao giờ quên tiền tip.
Quan sát thấy khà kỳ, thắc mắc ấm ức trong
lòng, sau một thời gian quen biết, tôi mới hiểu ra
ông ta đã về hưu hiện đang sống trong một
condo tại downtown, tự làm rượu wine uống
mình ên, sở dĩ ông ta xuống bar ngồi để nghe
nhạc và có company cho bớt cô đơn, tôi lân la
166
nhờ ông ta chỉ cho phương pháp làm Wine ?
hơn thế nữa làm sao biết được thứ nào ngon và
thứ nào không ngon ?
Như gãi đúng chỗ ngứa ông ta say sưa chỉ cách
mần gựu mà tôi đã mần được trên 10 năm nay
gồi. Lái xe đưa ông ta đi mua nho, đem về đạp
ra, ủ, rồi chờ có rượu uống, thùng thì ngọt lừ,
thùng thì chua lèm, may ra mới kiếm được thùng
uống tạm được. Chán quá muốn bỏ, hỏi lại ông
ta mới biết họ bán men và dụng cụ mần gựu
ngay tại chỗ bán nho, vì mình không biết nên
không hỏi, mà biết gì mà hỏi, dụng cụ đo độ
men trong gựu, đo độ ngọt trong nước nho, thiếu
men, gựu ngọt lừ, men thiên nhiên nằm trên
ngay vỏ nho, trong khi chuyên chở nhất là lúc
rửa nho, men rụng mất đi nhiều rồi, nhìn vào cái
Chart sẽ biết bao nhiêu nước nho là cho thêm
men vào cho vừa đủ, nắm được bí quyết, te te
mần nữa với nhiều háo hức, kết quả chỉ đạt có
25% còn lại có cái nó nhạt tèo và chua lắm bà
con ơi. Mình làm giấm chứ đâu phải mần
gựu.Than thở với tên hàng xóm Ba Lan nó chỉ
cho mánh là sau khi ủ, cho men vừa đủ đúng
theo chart chắt lấy nước, cho vào bình thủy tinh
loại 5 gallons thứ bình mình đựng nước trên đó
ráp một cái bình cổ cong, đậy cho kín không cho
không khí vào, trong lúc rượu lên men áp suất
trong bình rất cao vì nhả khí CO2, khí này sẽ
thoát qua bình cổ cong và ra ngoài,muốn cho
không khí không thể lọt trở lại bình ta đổ ít nước
vào bình cổ cong là xong. Kết quả 90% như vậy
là mãn nguyện rồi. Bây giờ thì tôi có thể control
nồng độ rượu, mùi và vị rượu theo ý mình
muốn. Viết đến đây trên ZD OCS lúc nói về mần
gựu Bác Tê Cu đưa lên một lô hình mấy mẹ đầm
đạp gựu coi mà phát khiếp, tớ dùng mô tưa xay
nho Tê Cu ui, đạp là xưa rồi Diễm.
Nếm phải dựa trên căn tính của rượu wine, nó có
3 vị chính từ trái nho tiết ra, bất cứ loại đỏ hay
trắng nào đều phải có: Chát, Chua và Ngọt.
Thiếu vị chát chỉ có ngọt và chua khác nào
mình uống ly nước đá chanh đường.
Chát là vị backbone của rượu wine, nó ôm ấp 2
chất chua và ngọt để tạo ra vị đặc sắc chỉ có
trong rượu wine, nếu sự phối hợp của chua và
ngọt hài hòa với nhau được chất chát cưu mang
sẽ đẩy ly rượu lên tột cùng sảng khoái, khác nào
Thâm Mu Trưởng đã đẹp lại còn Công Dung
Ngôn Hạnh có thừa thì chu choa thua cọp chứ
thua ai, thêm nữa là khi rót rượu ra ly bao giờ
cũng phải rửa ly lại bằng nước lạnh mục đích là
ly có sạch thật đấy nhưng vẫn còn chút xà bông
dính vào, khi rót rượu, rượu có acid gặp xà bông
là xút ( NaOH ) sẽ phản ứng làm hư cả ly rượu.
Trong các binh chủng Hải Lục Không Quân của
QLVNCH thì chúng ta những người Hải Quân
thường hãnh diện với truyền thống OFFICER
AND GENTLEMEN. Nếu tôi nhớ không lầm thì
cụm từ này phát xuất khi Hải Quân Trung Tá Đỗ
Kiểm làm Chỉ Huy Trưởng Trường Huấn Luyện
Hải Quân Nha Trang mà ra. OFFICER đã là oai
rồi lại còn kèm theo hai tiếng Hải Quân nữa
nghe ra vừa TRÍ THỨC lại vừa SAY SÓNG, ấy
quên vừa BAY BƯỚM, tôi không dùng từ Hào
Hoa vì từ này dành cho anh em binh chủng
không quân, thêm GENTLEMEN, chu choa cao
sang chi lạ,. Than ôi, chúng ta bị sút chân vịt tại
bến Cảng Subic Bay và đang sống lang thang
khắp đó đây,cho dù thế nào đi nữa thì chúng ta
vẫn giữ tư cách một OFFICER AND
GENTLEMEN. Chúng ta vẫn mệnh danh là
OFFICER AND GENTLEMEN mà dẫn vợ và
gia đình đi dùng cơm tối đặc biệt trong một tiệm
ăn sang trọng chắc chắn món Gựu không thể
thiếu trong bữa ăn, nếu mình gọi cho vợ ly
Pinacolada hoặc là Magarita xanh xanh đỏ đỏ
uống vào ngọt lừ còn mình thì chai beer vốn dĩ
muôn đời Hải Quân Việt Nam, trong khi đó
người Waitress họ đưa ra một list rượu Wine
mình lờ đi xem như không có, làm bài lờ lúc này
rất đúng vì biết gì đâu mà gọi, lỡ gọi trật có mà
rách việc. Tôi không quảng cáo cho rượu wine,
vì là Bartender chuyên nghiệp trong nhiều năm
trường tôi chỉ xin đề nghị đến anh em, người
dân bản xứ họ uống wine, mọi người uống wine
167
trong nhà hàng thì mình cũng kêu wine cho hợp
tình hợp cảnh, thú thật nếu đã gọi món ăn rồi mà
kêu đúng loại rượu wine làm bữa ăn thêm nhiều
hào hứng, chất rượu kích thích con tỳ con vị sẽ
giúp món ăn đã ngon rồi, sẽ ngon thêm là đàng
khác, và sau bữa ăn con dợ sẽ nhìn mình một
cách trìu mến: anh đích thị là: OFFICER AND
GENTLEMEN, thật em chọn không lầm, sướng
nhá bà con ơi.
Vào một tiệm ăn khi được sắp xếp chỗ ngồi thì
người waitress sẽ đến và đưa cho ta tờ Menu
chọn món ăn rồi biến mất, người waitress chờ
cho chúng ta chọn đến khi mình gấp lại họ sẽ
xuất hiện ngay chứ nếu cứ tò tò lật qua lật lại thì
còn lâu nó mới đến. Đương nhiên mình order
thức ăn thế nào nó cũng kèm thêm uống gì ?
Phen này ta quyết chơi gựu wine với thiên hạ
cho biết đá biết vàng mà ta thì mù tịt về wine,
giải pháp là thế này: đàn bà thích rượu nhẹ và
hơi ngọt se sẽ gọi cho con dợ ly Rose,còn nếu bả
thích trắng thì mình đỡ nhẹ cho nàng ly
Chardonnay, bảo đảm nàng rất vừa ý. Đây là 2
loại thông dụng cho Lady tiệm nào cũng có giá
rất hạ vì bán được nhiều. Phần mình ? xin cho
em ly Merlot hay mạnh hơn ly Carbinet
Sauvignon thế là an toàn trên xa lộ không đèn,
một bữa ăn ngon và vừa ý.
Tên rượu đã không quen khó nhớ bỏ xừ thì mần
răng đây ? Sau khi order đồ ăn đến phần rượu
nên hỏi ngay người waitress là tôi order loại
thức ăn đó thì nên order loại wine nào cho hợp
khẩu, vợ tôi thích loại hơi ngọt còn tôi thì không
ngọt, họ sẽ hoan hỷ mang cho ta thứ mình muốn
vừa rẻ lại ngon, còn nếu nó trả lời không rành về
rượu thì: tát cho nó túi bụi rồi bỏ đi tiệm khác,
nếu chưa đã giận thì quay lại mắng cho tắt bếp
để nư giận, đồ khốn nạn, ông đã không biết mà
mày cũng không, làm ông xệ cơ thấy mẹ, nói
nhảm mất rồi ai lại làm thế nhẩy, người
bartender họ giúp mình ngay và họ chỉ mong
giúp mình lúc mình cần, đó là công việc của họ,
sự hiện diện của họ để phục vụ mình mà thôi, tôi
giúp rất nhiều cho những gia đình người Mỹ
chọn rượu,người manager rất mãn nguyện khi
thấy mình làm chuyện này, không có gì phải
mắc cỡ, không có gì phải đỏ mặt hay quê sệ gì
sất.
Các bác thân, bây giờ anh em mình đã ngoài sáu
bó hết rồi, uống rượi có hại cho gan cho lục phủ
ngũ tạng, tất cả loại Cognac đều làm từ nho theo
phương pháp chưng cất để tăng độ Alcohol
content lên 40%, trong khi đó rượu nho chỉ có
tối đa là 16%, thật an toàn, nhẹ hơn nhiều, nếu
uống rượu đỏ mỗi bữa ăn lại còn chữa bệnh là
đàng khác.
Giá cả của một chai wine bây giờ là 15 đến 20 tì
là uống được rồi tuy rằng hơi tốn kém hơn nếu
so sánh với beer, không nên mua wine ở mấy
siêu thị, ở Cosco hoặc Sam club vì rượu wine rất
kỵ nhiệt độ cao, trên 70 độ trong một thời gian
nào đó là tiêu chai wine, lý do là trong lúc
chuyên chở họ không bảo quản nhiệt độ, tốt hơn
hết là đến các tiệm chuyên bán về wine, càng
lớn càng tốt, hàng nghìn chai. Giá cả có chênh
lệch vài ba đồng vì họ chở ra thị trường trong
những cooler lạnh.
Miên man chuyện thiên hạ sự trong nghề
bartender:
168
Nơi tôi làm là một restaurant được phân ra làm
đôi và hầu như tùy theo giờ mà số thực khách
cũng như tửu khách xuất hiện. Cho đến
10:00PM toàn là thực khách ăn tối, uống vài ba
ly rượu rồi dẫn vợ con ra về, sau giờ này thì tới
màn thế giới về đêm toàn là đàn ông, họa hiếm
lắm mới thấy một vài phụ nữ, mặt trái của xã hội
được phơi bày theo đúng cả hai nghĩa Đen va
Bóng của nó, tôi đã nói rất nhiều trong bài viết
cho tờ báo của đại hội 11 về mặt trái của xã hội
về đêm, nhắc lại thêm nhàm chán, ở đây tôi
thêm một vài mẩu chuyện vẫn còn lảng vảng
trong đầu trong lúc hành nghề bartender:
Tiền tip là sự mong đợi của người pha rượu
cũng như waitress, với giá 2$/hr. trung bình một
tối chỉ kiếm được có 15$. Gặp nhóm khách Do
Thái, Ái Nhĩ Lan thì eo ui, 10$/ một đêm là cao
tay, tôi thích nhất nhóm Gay và Lesbien, họ rất
hào sảng, chai bia 2$ thì 1$ tip là thường vì vậy,
sau khi ở lâu lên lão làng tôi chọn những đêm
nhiều tip, làm ít giờ hơn nhưng thu hoạch khẳm,
gặp đám cưới thì tip được trừ ngay vào bill
nhưng khách vẫn cho thêm. Vì tôi nhanh và nhớ
mặt khách hang, nhất là nhớ tên, hễ họ tiến đến
bar với ly không là tôi đưa ngay cho ly khác,
không cần phải hỏi, tip hậu, lắm khi một tối cho
đám cưới đủ cho tiền thuê nhà. Muốn được chọn
service cho đám cưới phải nhuyễn cả 3 thứ bia,
mixed drink và đặc biệt là wine, hầu như người
bartender phải biết hết về rượu bia.
Trời bên ngoài đang nóng tới cả trăm độ, vợ
chồng tây trắng kéo vào quán và nhận ly wine
của người waitress, người vợ nhấp thử tôi quan
sát thấy nhăn mặt chứng tỏ nàng không vừa ý,
tay cầm ly nước lạnh, tay kia chai rượu và chiếc
ly, tôi bang ra và hỏi ngay, chắc bà không vừa ý
ly rượu vừa rồi thì phải, chị ta chê là rượu xốc
quá đang định kêu thứ khác. Tôi đưa cho chị ly
nước súc miệng, rót ra một ly mới mời chị, uống
thử gật gù khen liền, đây mới là thứ tôi thích.
Thưa các bạn, trời nắng lưỡi khô, tớp miếng
rượu thì bao nhiêu alcohol nó đập vào thần kinh
vị giác làm sao không xốc, ly rượu tôi đưa cho
sau này cũng cùng loại cùng chai có phải thứ
khác đâu, chị thưởng tôi 10 tì ngay tại đó. Khi
uống rượu không nên uống lúc khát, nhắp chút
nước cho mềm cái lưỡi rồi mới uống rượu thì
mới đúng lễ nghi quân cách ạ.
Có lần tôi đi đám cưới ở New Orlean, nhận pha
rượu cho đám cưới để đỡ tốn kém vì nó là chỗ
bạn thân. Ngày hôm sau trước khi tan hàng có
màn nhậu món đặc sản Craw Fish, ông Cha nhà
thờ xách chai wine trắng khá đắt tiền đến tuyên
bố, ăn đồ biển là phải uống wine trắng mới đúng
điệu, mới có hiệp đầu đã hết sạch, trong khi đó
Craw Fish còn một đống lù lù trên bàn đang mời
mọc, gia chủ định đem Beer ra thế, tôi can và
xách chai rượu Sake đã ướp lạnh của Nhật thay
thế, rượu Sake là phải hâm nóng mới ngon vì
người nhật quan niệm ăn sushi tanh và lạnh cần
rượu nóng cho dậy mùi, ấy là họ quan niệm như
vậy thôi, đàng này tôi đem ngâm nước đá thật
lạnh trái với truyền thống nhưng uống vào
169
không kém chai wine trắng là mấy của ông cha
mà giá tới 75 tì, khoái quá ông cha rút 20 tì mua
được 4 chai Sake khác, anh em say bí tỷ. À thì ra
thế, ăn chơi cũng lắm công phu đấy các bác nhỉ.
Một loại khách tới nơi là sa vào bar, gọi beer
hoặc rượu rồi ngồi đồng tán gẫu với bartender
với nhau hoặc chăm chú coi TV cho tới khi chán
mới về, mấy tay này các cụ nhà mình gọi là
uống rượu ghiền, loại này nhiều lắm, một người
trong loại này tôi gặp là Mr. Lý Kỷ Dìn.
Thường sau khi ra khỏi trường tôi đến ngay bar
vào lúc 6 PM, khoảng 8 PM có một người Á
Châu tất tưởi đến ngồi tại bar kêu La De và ăn 2
cái Hot Dog cứ thế uống tiếp, một hôm đang lúi
húi dọn bar cho sạch tôi nghe: Đ.Mà đất nước
này cái con Cà, gì cũng to đùng, thành ra mùa hè
có muỗi lọt vào chích ngay cánh tay, anh ta đập
được khoái chí cười mình ên, vẫn im lặng và
làm như không hay biết nhưng tôi đã có ý làm
quen, không vội gì. Ngày hôm sau bổn cũ soạn
lại, anh ta đưa tờ 20 tôi thối lại 1 tờ 10 một tờ 5
và 4 đồng lẻ, ăn uống xong anh ta soạn tiền để
kêu thêm, đếm đi đếm lại rồi nhìn tôi, không nói
lời nào kêu thêm bia tôi cũng rút có tờ 1 đồng
bấm vào máy. Lúc đưa chai la de cho anh tôi
bảo, tôi cũng là người Việt Nam đây. Mừng rỡ
ra mặt anh hỏi tôi sao tôi biết anh là người Việt
Nam, tôi nói hôm qua cha nội vồ được con muỗi
chửi thề nghe quá đã thì thôi, ai mà không nhận
ra. Thời điểm năm 76 Chicago rất ít người Việt
cho nên biết thêm là quý lắm, anh rất hào sảng
tự giới thiệu, tôi tên Lý Thiền Hy, lai Tầu, đi
lính về Sư Đoàn Nóc, Trung Đoàn con voi
khùng, đại đội trinh sát của trung đoàn, thật tôi
không biết Sư Đoàn nóc là sư đoàn nào cứ ớ ra
như ngố Tầu, tiện tay anh cho xem căn cước
quân nhân thì biết cấp bậc trung úy, lại biết thêm
anh khóa 2/69, thấy vậy tôi hỏi sư đoàn nóc là sư
đoàn nào vậy anh, sư đoàn 5 đấy mà anh trả lời.
Vừa cười vừa nhìn anh tôi hỏi tại sao khi anh
đếm tiền tỏ vẻ bối rối về tiền tôi thối, sao không
hỏi tôi mà lại im lặng ? hỏi thì muốn hỏi lắm
nhưng không biết tiếng Anh, anh trả lời. Không
biết tiếng Anh mà đi làm, không biết tiếng Anh
thì làm sao làm việc được ? tôi hỏi. Dễ lắm anh
ạ, cái việc tôi đang làm là của thằng ba tầu, nó
nhường lại, nó truyền cho tôi có 3 chữ Lý Kỷ
Dìn nó nói như vậy là đủ xài rồi, Thế anh làm
việc gì, anh bảo, tôi làm nghề coi parking và giữ
xe ngay dưới lầu. Một hôm thay vì lên bar ngay,
tôi đứng khuất sau bức tường coi thế nào, thành
ra một ticket có 2 số giống nhau anh xé một số
đưa cho khách miệng nói Lý Kỷ Dìn,lái xe đến
vị trí, rút chìa khóa ra máng số còn lại vào chùm
chìa khóa vào văn phòng treo lên, Lý Kỷ Dìn, là
cái quái gì mà Tây nó vẫn hiểu ? còn tôi lại bù
trớt, lên bar làm việc với đầy thắc mắc cuối cùng
cũng khám phá ra chỉ là âm của chữ Leave Key
In mà con nhà Tầu Lai này cứ khăng khăng với
tôi là Lý Kỷ Dìn, tôi đặt tên cho anh ta là Lý Kỷ
Dìn là vì vậy.
Viết đến đây chợt nhớ đến nhà bác Caveman là
tán phét để mua vui trong vài trống canh thật
đúng không chịu được. Để kết thúc bài này tôi
thì bỏ rượu lâu rồi tuy nhiên đôi khi gặp bạn bè
nhất là OCS tôi phá rào để rồi về nhà đau mất
mấy ngày nằm ngủ ly bì. Các bác ạ, xoay qua cái
rượu nhẹ cho bớt nguy hiểm.
Nguyễn Khắc Thịnh, U7
170
Vấn Đề Chửi Thề Trong Văn Hóa Dân Tộc
Bài khảo cứu của Đẻ Ngược
Trước khi đi sâu vào cuộc thảo luận có lẽ cần
phải thiết lập một định nghĩa thật rõ ràng về
danh từ chửi thề.
Theo tự điển Háng Văn của Cù Phông Cư Sĩ thì
chửi thề là phát ngôn với một phong thái tục tằn,
khẩu khí hồ đồ, trong lúc tâm thần ở trạng thái
vui, buồn hoặc... chẳng vui mà cũng chẳng buồn.
Chửi thề lúc đó trở thành thói quen, nói cho đỡ
ngứa mồm...
Trong những công cuộc khảo cổ gần đây người
ta đã khám phá ra rất nhiều dấu tích của sự chửi
thề được ghi lại trong các hang động bên Nam
Mỹ, trên những vách đá trong sa mạc bên Phi
Châu, trong mồ mả, lăng tẩm cổ kính của các
vua chúa bên Tàu và Ai Cập... (Hình 1). Điều
này chứng tỏ chửi thề được triển dụng từ cả
ngàn năm nay bởi nhiều giống dân khác nhau
trên toàn thế giới.
Một điều lạ lùng nhất mà những nhà nhân chủng
học cho đến giờ vẫn chưa giải thích được là
ngay từ thời ăn lông ở lỗ, phương tiện di chuyển,
truyền thông còn thô sơ không cho phép các văn
minh khác biệt có dịp tiếp xúc. Ấy thế mà ở bất
cứ trong xã hội nào, phần đông người chửi thề
thuộc thành phần nam giới và từ ngữ dùng trong
câu chửi thề luôn luôn xoay chung quanh cái bộ
phận kín đáo của hai phe đực, cái hoặc có liên
quan đến hành động ”truyền giống” của con
người... Chẳng hạn ở Mỹ người ta dùng chữ F...
(this), F....(that), ở VN thì Đ. M. .. vv..vv.. vv..
Theo thời gian, ngôn từ chửi thề được biến đổi
để thích ứng với nhu cầu văn hóa và
hoàn cảnh xã hội của từng dân tộc
hay địa phương. Bên Bắc Mỹ người
ta thường nghe F...ing car, F... ing
boss, F...ing job vv.. vv... Đặc thù của
dân tộc Mỹ là rất “object oriented”
cho nên cái gì cũng có thể bị đưa vào
vấn đề F... Từ người ( boss) đến đồ
vật ( car ) và cả đến những thứ trừu
tượng như job... Dân tộc VN thì khác
hẳn, rất thực tiễn và cô đọng, chỉ hai
chữ vỏn vẹn và luôn luôn dùng chữ
Đ. với giống người chứ không F...
loạn xạ như bên Bắc Mỹ. Nói chung là trên
phương diện văng tục người Việt văn minh hơn
người Mỹ rất nhiều.
Ở trong các xã hội tiền tiến, vấn đề equality rất
được chú trọng, người ta không thể tước đoạt
quyền chửi thề của những người câm điếc. Do
đó mới nẩy sinh lối chửi thề bằng dấu hiệu tay
chân. Vì chưa có một cơ quan quốc tế tiêu chuẩn
hóa lối chửi thề bằng tay cho nên còn rất nhiều
cách dùng khác nhau tùy theo địa phương, dân
tộc. Chẳng hạn dùng ngón tay giữa chỉa lên trời
(như bên Bắc Mỹ)... Người Ý thì chĩa cả hai
ngón tay chỏ và út (your mother inlaw...too).
171
0
5
10
15
20
25
30
35
40
1 2 3 4 5 6
Sw
ea
rin
g f
req
ue
nc
y
Number of children
vn
us
Italy
Ngoài ra gần đây đã phát sinh một đấu hiệu mới
: không còn là một hay hai ngón tay mà là cả
một bàn tay đưa ra (...a whole bouque...). (Hình
2).
Mặc dầu dùng cử chỉ diễn tả là để đáp ứng lại
nhu cầu cho những người câm điếc nhưng vì sự
tiện lợi của nó mà phương pháp này đã được cả
những người bình thường sử dụng, chẳng hạn
vào những trường hợp mà khoảng cách quá xa,
tiếng nói không còn công hiệu, hoặc ngồi trong
xe và muốn cho đối phương trong xe bên kia
biết là mình không được hài lòng. . . Trong
những trường hợp này, dấu hiệu bằng tay không
khác gì lối truyền tin phất cờ ( si-ma-pho ) trong
ngành hàng hải.
Một điều đáng chú ý là qua công trình nghiên
cứu trong năm vừa rồi về hiện tượng chửi thề.
Viện Đại Học MIT đã tiết lộ là có sự liên quan
chặt chẽ giữa cường độ chửi thề và sự đông con
cái. Qua một study sample của 1000 người ở
Việt Nam, Hoa Kỳ và Ý, MIT cho thấy số lần
chửi thề trong ngày tỷ lệ thuận với số sinh sản
trong gia đình. Nói một cách huỵch toẹt thì càng
chửi thề nhiều thì càng nhiều con cái (xem biểu
đồ bên).
Riêng tại VN, viện nghiên cứu chửi thề quốc gia
cũng đã thực hiện nhiều công trình khảo cứu về
lối chửi thề của ba miền Trung, Nam và Bắc và
đưa ra kết luận sau:
Giọng chửi thề miền Nam rất oai, có tác
dụng tâm thần mạnh, nhất là được sử dụng
trong vị thế chỉ huy ( xếp lớn trong quân
đội...)
Người Bắc có giọng chửi thề nhiều màu sắc
và nhiều sáng kiến trong vấn đề ngôn từ Thí
dụ: “ Đ.M. mặt như cái L... trèo thang...” .
Đa số những người chửi thề phái nữ làm
nghề không vốn và sống quanh vùng Gò-
Vấp, Lê Văn Duyệt, Cầu Tân Thuận (trong
Nam) hay khu Khâm Thiên (ngoài Bắc)...
Nếu nói đến “Who's Who” trong vấn đề chửi thề
thì những ai phục vụ trong HQVN trong giai
đoạn 60's, 70's cũng biết đến HQ/ĐT T... . nổi
tiếng trên lãnh vực này. Một thí dụ cụ thể là
trong một lần đưa tầu vào bến, ông ta để cho
một người SQ trẻ mới ra trường điều khiển tay
lái và vì thiếu kinh nghiệm nên chiếc chiến hạm
xém tông vào cầu tàu. Trong lúc quýnh quáng,
nổi nóng HQ/ĐT T... từ đài chỉ huy hét lên : “Đ.
M. cái thằng SQ đó. mặt thì như cái L..., cặp tàu
thì như con C...” .Qua thí dụ trên người ta thấy
ngay HQ/ĐT T. . . đúng là ông tổ của môn nói
tục. Ông rất khéo léo trong vấn đề ngôn từ.
Trong một câu mà ông đã dùng liên tiếp hai chữ
“con C. .” và “ cái L. . .” biểu tượng cho hai
giống đực, cái chính xác không kém gì lối dùng
chữ ” le, la. . . un, une” trong ngôn ngữ Pháp.
(xem tiếp trang 193)
172
Nhûäng gioåt mûa traái muâa
Ngô Văn Sơn – Winnipeg
Để cùng vài người bạn nhớ lại một đêm ngồi uống rượu nghe nhạc
Ánh đèn vàng nhạt làm căn phòng có vẻ nhỏ
hẳn lại. Vài người bạn từ miền Nam ấm áp lên
thăm, tất cả ngồi im lặng nhâm nhi ly rượu Bồ
Đào, không ai để ý đến những cánh tuyết bám
bên ngoài cửa sổ, thoáng một giây tan biến, để
lại vệt nước chẩy dài như những giọt mưa trái
mùa lạc lõng. Chìm trong khoảng không yên
lặng, giọng Misia ngân lên từng nốt nhạc, cung
điệu fado xoay cuốn, quấn quít như không muốn
buông thả phím đàn guitar buồn vắng. Estátua
falsa, bài nhạc tôi gởi cho Tuấn khi biết anh
chàng sắp qua chơi bên Âu Châu.
Só de ouro falso os meus olhos se douram;
Sou esfinge sem mistério no poente.
A tristeza das coisas que não foram
Na minh'alma desceu veladamente.
My eyes are gilded with false gold
I’m a sphinx without mystery in the sunset.
The sadness of all that never was
Has secretly settled in my soul
vàng giả lấp bờ mi che dấu
huyền thú tôi thiếu ánh nhiệm mầu
ôi sầu thảm như chưa lần gặp
ngập hồn tôi nỗi bí niệm sâu
(Vũ Hoàng Thư dịch)
Fado, tiếng “nhạc đen” hát cho tình yêu, tham
muốn, niềm tin, hy vọng... Ngôn ngữ xa lạ
nhưng âm hưởng sao gần gũi vô cùng. Giọng hát
xa vắng, hắt hiu của người con gái vùng biển ấm
Địa Trung Hải dua tôi di ngược thời gian, về lại
nơi có nhiều ngày nắng hạ, có những cơn mưa
khuya vội vã và những nốt nhạc thay tiếng tự
tình.
- Mưa lớn dữ anh à
- Phải tìm chỗ trú mưa cái đã
- Khuya rồi em phải về
- Đừng lo, anh sẽ đưa em về nhà trước giờ
giới nghiêm.
Càng khuya con đường Trịnh Minh Thế càng
vắng. Người bán hàng rong bên lề đã dẹp hết
mấy đòn ghế ngồi, đi tìm chỗ tránh cơn mưa đột
ngột. Dưới mái hiên của một bar rượu (dành cho
lính Mỹ), phản chiếu trên vũng nước là ánh đèn
đủ màu mê man nhảy múa, cùng điệu với tiếng
kèn lả lơi từ trong quán vọng ra. Đang đứng bên
vỉa hè Cotton Club hay một blues Bar bên
NewYork? Không đâu em, đừng giầu tưởng
tượng, mình đang ở Sài-Gòn, thành phố thân yêu
đã bao nhiêu năm chai lì với bom đạn. Có người
lính Mỹ chếnh choáng trong men say, bước ra
ngoài như muốn nước mưa gột sạch cơn nhớ
nhà, nỗi ưu phiền, sợ sệt. Đêm Sài-Gòn trời
không lạnh nhưng em sát lại gần, không phải vì
sợ hãi mà chỉ muốn trong một giây phút ngắn,
thu nhỏ đi khoảng không gian để hơi ấm của hai
thân thể khỏi tan nhanh theo những giọt mưa
nặng hạt. Xin cơn mưa đêm kéo dài vô tận và
173
tiếng hát ngọt ngào kia đừng khơi động nỗi âu
lo. “...Plaisir d'amour ne dure qu’un moment.
Chagrin d'amour dure toute la vie...” “...Thú vui
này tình yêu ngắn ngủi, khổ đau kia theo mãi
một đời...” . Em đưa tay hứng trọn lấy giọt mưa
vạn sắc rồi nắm kín lại như muốn dấu biến nỗi
ưu tư. . . Vẳng đến vài nốt nhạc blues, “music
from the gut”, người ta bảo vậy. Khi chấp nhận
trở thành ngữ vựng quen thuộc trên đầu môi thì
anh xin mượn blues thay cho tiếng thở than,
quay quắt trong lòng.
“So What”, Miles Davis khuyến dụ bằng tiếng
trumpet lẳng lơ, mời mọc.... Phải rồi em, “So
What”, hãy quên chữ định mệnh và thả lỏng con
tim để nó có dịp ngập đầy âm điệu đa tình. Em
có nghe tiếng súng từ bên kia con sông vọng lại?
Mỏng manh quá phải không? Chưa bao giờ anh
ghét chiến tranh dến thế. Chiến tranh sinh ra giới
nghiêm và vì giới nghiêm mà đêm nay anh phải
đưa em về sớm.
Mình còn phải kết tội chiến tranh, binh lửa nhiều
hơn nữa. Này, cô gái phấn son ngồi sau quầy
rượu, sao không cho tôi nghe một diệu nhạc thật
bi sầu? Andagio, đoạn hai của Concerto de
Aranjuez. Đúng đấy, nốt kèn ai oán, quái quỷ
của Maurice André đang chiêu họp lại các bóng
ma từ “đại lộ kinh hoàng”, Hạ Lào, Bình Giả...
Tiếng nhạc như cơn sóng thu gộp hết những
mảnh vụn ký ức rồi xô đẩy vào bờ. Rõ mồn một,
hình ảnh con tàu triệt thoái từ Đà-Nẵng về đến
Cam-Ranh... Gặp lại người bạn quân-y trong
bệnh viện rủ về phòng nghỉ ngơi. Mấy đứa nấu
mì gói an chèn bụng rồi đêm đó chẳng ai chợp
mắt. Nằm trên sàn đá hoa mát lạnh, tuyệt vọng,
chán trường tất cả im nghe câu chuyện của
những giọt mưa.
Giọt mưa trên lá
Nước mắt mẹ già
Lã chã đầm đìa
Trên xác con lạnh giá
Giọt mưa trên lá
Thiếu nữ mừng vì
Tan chiến tranh chồng về.
Mình đang ở đoạn cuối của một trang sử bi
thương, đang chứng kiến giây phút hấp hối của
cuộc chiến tranh dầy phi lý. Nước mắt mẹ già đã
cạn từ lâu và cái hy vọng của người vợ đón
mừng chồng trở về sau cơn binh lửa bây giờ
mỏng manh hơn những giọt mưa rơi trên lá.
Tiếng mưa của Phạm Duy đêm nay là lời chào
vĩnh biệt, là khúc nhạc buồn khởi đầu cho những
cuộc hành trình không hẹn ngày tái ngộ. Thân
phận, tình yêu ngắn ngủi hơn bao giờ.
oOo
Cơn mưa lạ vụt qua nhanh, hồn ma đã rủ nhau
trở về nghĩa địa nhưng âm hưởng từ dĩ vãng còn
phảng phất trong tiếng nhạc ru hồn. Bên ngoài
bụi tuyết bay vật vờ, lưu luyến như muốn gởi lại
một chút giá buốt cuối đông. Dưới ánh đèn vàng
nhạt, Ái nằm dựa trong ghế sofa mắt nhắm, để
tâm tư trôi dạt theo nốt nhạc.Hoài, lãng đãng với
những ý nghĩ riêng, tay cầm ly rượu trầm ngâm
quên uống. . . Thêm vài giọt nữa đi các bạn, để
đánh đuổi cơn giá băng Bắc Mỹ. Uống cho bớt
nỗi lo âu, vướng bận tầm thường của đời sống,
cho cạn khô điệu hát trầm buồn.
I am a rock, I am an island
And a rock feels no pain.
And an island never cries.
Ngại gì mà không biến mình thành một hòn đá
cuội vô tri chẳng biết đớn đau, thành hòn đảo cô
đơn không bao giờ biết khóc. Thêm vài giọt nữa
cho đầy ly. Uống để mời tiếng nhạc mang về lại
những giọt mưa mùa hạ
Ngô Văn Sơn
Winnipeg, Cuối đông 2002
174
PGM Hòn Trọc HQ618: Hòn Trứng Giữa Biển Khơi
Lời Người Viết: Đã từ lâu, không có dịp cầm bút tiếp tục ghi lại những kỷ niệm trong đời Hải quân ngắn ngủi của mình, tôi vẫn
có cảm giác day dứt, thiếu sót vì chưa có một dòng nào viết về dàn PGM mặc dù đã có “CHIẾN HẠM CHIẾN HỮU” truyện dài
ghi lại thời phục vụ trên HQ2 tuần dương hạm Trần quang Khải, đơn vị đầu đời hải nghiệp của mình, “ NĂM CĂN : VÙNG XÔI
ĐẬU” Tuyển tập nhắc nhở đến vùng tận cùng đất nước với HD5ZP, “VỚT XÁC “ một truyện ngắn về Giang Đoàn tuần thám,
mẩu chuyện đã một thời gây tranh cãi trong giới HQ hải ngoại, và ngay cả tâm trạng đau buồn tủi nhục của kẻ thua trận cũng
đã được ghi lại trong “NHỮNG NGÀY CUỐI CÙNG TẠI VŨNG TẦU “..v..v.. nhưng tại sao tôi vẫn chưa có dòng nào về
PGM.618, một đơn vị mà tôi, vào những năm 1972-1973, đã chịu khổ cực , nhọc nhằn nhất và cũng là nơi tôi có cuộc sống lênh
đênh thoải mái nhất của người thủy thủ...
Đợi mãi đến bây giờ, trí cùn, sức cạn, tôi mới lò dò ghi ghi, chép chép những kỷ niệm đã được nâng niu ấp ủ trên PGM 618 hòn
Trọc..Sự thật, đối với tôi, phục vụ trên PGM, một loại tầu chiến hạng tép ziêu của hạm đội tuần duyên, mới thể hiện trung thực
nỗi nhọc nhằn của một thủy thủ đã lỡ chọn hải nghiệp là cứu cánh đời mình ..
Chính vì vậy, tôi phân vân không biết nên viết lại thời gian trên PGM 618 như một nhật ký hải hành hay sẽ tiểu thuyết hóa nó
với những tình tiết hư cấu nhằm hấp dẫn người đọc..??
Dầu sao, bài viết ngày hôm nay, trên Đặc san Trần Hưng Đạo kỳ 12 tôi chỉ xin ghi lại như một hồi ký rút gọn, với những dữ kiện
chính xác mà tôi, đã chính mình đóng góp phần nào..Hy vọng sau này, tiêu đề trên, sẽ được viết lại thành một truyện dài với tình
tiết hư cấu, thêm hoa lá cành để quyến rũ độc giả như những truyện mà tôi đã viết từ trước đến giờ, dù nó có thể đã mất thời
gian tính...
Nhân tiện đây, tôi cũng xin phép Hạm trưởng Nguyễn Trường Yên 15NT, Hạm Phó Nguyễn Văn Tao 19NT, OC Đoàn Đình
Thủy, SQHQ Triết 23NT và các Hạ sĩ quan : Trung sĩ Thành Điện tử, Tr/sĩ Trực Điện khí, Hạ sĩ Ẩn Vận chuyển...được dùng tên
thực cho vài dòng hồi ký này.
Nguyễn Mạnh Hùng OCS V6
Sách xắc tay trong đựng vài bộ quần áo bẩn
mặc dở từ Năm Căn, Hùng vội vã rời hạm kiều
chiếc Y Tế hạm LSM 401 rồi rảo bước ra phía
cổng Hải Quân công xưởng (HQCX ) với tình
trạng vui buồn lẫn lộn.
Buồn vì, trước khi giao Sự vụ lệnh trả chàng về
HQ 618, vị Chỉ huy phó /HĐ5ZP, Trung tá
Chuyên, đã phạt chàng 8 ngày trọng cấm,về vụ
chiếc PCF 3915, trong thời gian về sửa chữa tại
Đồng Tâm, bị An Ninh Quân Đội chợ Mỹ Tho,
ghi lại khi chàng cho tầu vào ghé đón nhóm nữ
175
sinh Trung học Mỹ Tho, qua thăm Cồn Phụng
của ông Đạo Dừa.
Còn vui là trước mắt, có 3 ngày phép còn lại của
5 ngày đường trước khi chàng phải trình diện Bộ
Tư lệnh Hạm Đội tân đáo đơn vị mới.
Sắp tới cổng, lúc đi ngang qua cầu E, chợt thấy
chiếc HQ 610 đang nhấp nha nhấm nhô bên
cạnh giàn PGM , Hùng sực nhớ là Nguyễn Hồ
Sơn, bạn cùng khóa 6 OCS, đang làm Hạm Phó
trên chiếc này, chàng bèn tạt vào, định hỏi thăm
về cuộc sống trên PGM ra sao.
Cẩn thận bước nhẹ lên “Hạm kiều”, một miếng
ván ép đang gập ghềnh theo sóng, nối con tầu
với cầu xi măng, Hùng quen thói HQ2, đưa tay
chào lá cờ sau lái rồi đưa mắt tìm nhân viên
gác.., chẳng thấy trự nào, chàng bèn đi thẳng ra
sau lái, gặp một khứa lão quần trây di, áo thun,
ngồi tránh nắng dưới bạt sân sau, cây M16 gác
cạnh góc bạt., miệng phì phèo điếu thuốc..
- Anh gác hạm kiều hả..?? Hùng hỏi.
- Daa..Thiếu úy cần gì hông??
- có HP Sơn trên tầu không ??
- Daa.. ổng đang ở phòng ăn..Nói xong, anh ta
lại tiếp tục phập phập rít rít.
Hùng lắc đầu rồi quay vào phòng ăn.
Sơn “ Đen “ đang ngồi đọc 1 lô công điện bày
bừa bãi trên bàn..
Thấy chàng, hắn reo lên:
- Ái dà..ghe nào đẩy mày tới đây ??
- tao về trình diện 618.
- ủa tao tưởng mày và thằng Hùng Sexy theo
HQ2 qua Guam mà..
- Mẹ... được vậy còn nói gì.. tụi tao 4 mạng
OCS, cả thằng Chánh lẫn thằng Trung Hùng,
phút chót bị mấy khứa từ BTL xuống thế, tao
còn bị BLT/HĐ chuyển lộn xuống HD5ZP mất
gần 6 tháng, may mà không bị sao quả tạ chiếu
dưới đó..
- Hà... Đời mà mày.. nói rồi, Sơn thẩy tờ công
điện trên bàn cho Hùng:
- Như vậy, mày thuyên chuyển từ vùng 5 về
Hạm Đội, đọc kỹ công điện mới toe này xem
sao..
Hùng ngồi phịch xuống ghế,đưa mắt liếc qua tờ
công điện rồi bỗng chăm chú đọc kỹ và cười
khoái chí:
- Ố Ô..Quả Sưởng.. quả sưởng (giọng
Huế)..Ngày Trình diện = ngày ký SVL + 7 ngày
đường.. ha..ha. vậy là tao có thêm 10 ngày tà tà
ăn bám ông bà bô tại Saigon...cám ơn mi..cám
ơn mi..Sơn ơi..
Nổi hứng và túi vẫn còn cộm “mùi dầu..” Hùng
rủ Sơn :
- ăn uống gì chưa, tao với mày ra phở Phương
Mai làm tô đặc biệt và nhâm nhi vài chai Larue
lớn mừng cái Công điện dễ thương này..
- Kẹt rồi..tầu thiếu sĩ quan, tao đang trực..
mẹ...làm si quan ẩm thực kiêm Hạm phó...cực
như con chó giữ nhà.. Mày thấy tao gầy hom
hem đây không ??
- Mày thì bao giờ chẳng như cây que, Sơn,..kẹt
thì thôi vậy, dịp khác mình gặp nhau... tao dzọt
đây..
Từ giã Sơn, thằng bạn nổi tiếng reglo nhất khóa,
Hùng ra bốc xe ôm về thẳng nhà, vừa đi vừa suy
nghĩ : “ than cực mà hơn hai năm chưa xin
thuyên chuyển... thằng em này có lạ à..”
Nhưng sau này, khi đã dày dạn với PGM 618.
Hùng mới thông cảm cái “ Thú đau thương “ của
những thằng Thủy thủ giàn PGM này, bỏ thì
thương, vương thì tội..
oOo
Hôm vào trình diện BTL/HĐ, Hùng ngỡ
ngàng khi vị Đại úy trưởng phòng Nội vụ cho
biết chàng bị Đại tá Tư lệnh phó Bùi Kim
Nguyệt phạt 14 ngày mà còn đòi gửi nhốt trên
trại Quân cảnh Đào Bá Phước...
Hùng bèn thắc mắc :
- Đại úy.. lúc nẫy trình diện TL phó, tôi đâu
thấy ổng nói gì đâu??
- Đây nè....vị Đại úy đưa chàng xem thủ bút của
TL phó Nguyệt, ngoằn ngoèo bên trái tờ SVL
của chàng : “ phạt 14 ngày.. Đào bá
Phước..”...Anh trình diện trễ 7 ngày so với ngày
176
ký SVL.. đây là đòn phủ đầu của TL phó với các
ông nội về từ Giang Đoàn và những vùng coi là
bất trị như Năm Căn, Chương thiện....
- nhưng tôi làm đúng tinh thần công điện mới
nhất về việc thuyên chuyển..
- Aaa... tôi biết..nhưng thi hành trước khiếu nại
sau...bây giờ anh cũng chưa có tầu quá giang
xuống Phú Quốc, để gặp thằng 618, vậy thì ban
ngày lặn đâu thì lặn, đúng 6 giờ chiều vào tập
họp điểm danh rồi ngủ trong trại này.. tôi cũng
chẳng mất công gửi anh lên trại Đào Bá Phước
làm chi...
Hùng trong lòng cũng khoai khoái vì được tà tà
ở Saigon thêm 14 ngày nữa nhưng cũng bực
mình vì bị “cha Nguyệt cùi “ này phạt oan...
Ngày đầu còn bỡ ngỡ, mấy ngày sau Hùng tàng
tàng, ban ngày nằm nhà ăn bám cơm mẹ, tối
vào dượt nhẩy đầm với vài sĩ quan tạm trú, vũ
sư là tay trung sĩ bí thư Hoàng, con nhà giầu mà
không lo học, vua tổ chức Bum famille khi còn
mài đũng quần tại Lycee J.J.Rousseau.. tới tuổi
mà chẳng đậu bằng gì cả, bố mẹ đành phải lo
chạy vào Hải quân đi khóa Hạ sĩ quan...
Hai hôm sau, chuẩn úy Thủy, OCS9, với khuôn
mặt phèn phẹt, miệng rộng móm duyên, lọt tọt
vào trình diện Vị Đại úy trưởng phòng, lý do: từ
HQ618 ngoài Phú Quốc, Thủy về BTL lo lương
cho nhân viên, bị QC 201 cốp vì tóc tai quá dài,
và TLphó Nguyệt dích cho 4 ngày quân phong
quân kỷ..
Vậy là quen nhau, vậy là ban ngày dzọt về nhà
Hùng ăn ngủ, vậy là có
màn lai rai lúc chiều về,
vậy là ...tối tối vào trại
tụ tập dượt nhẩy đầm..
Vài ngày hôm sau, vừa
“điểm danh” xong, hai
thằng định dzọt ra
cổng, gặp ngay một trự
trung úy lò dò bước vào
tìm phương tiện quá giang xuống Phú Quốc, hỏi
ra thì khứa lão, HQ trung úy Nguyễn Văn Tạo,
19NT, cũng đang kiếm đường xuống tân đáo
HQ618 hòn Trọc..
Thủy ta bèn ngửa cổ than:” Hỡi ơi.., thấy công
điện cha Hùng này xuống, tưởng đâu thằng
chuẩn úy nào mới ra trường, hy vọng có thằng
em quay cho sướng tay, hóa ra là đàn anh OCS,
giờ lại thêm HQ Trung úy già khằn khú đế
19NT này nữa thì thân OC Thủy ta vẫn chưa
thoát được kiếp sĩ quan ẩm thực này dzồi...ôi..số
kiếp...”
Vài ngày, sau khi đã chán ngấy những tô Đặc
biệt, những dĩa xí quách béo ngậy của tiệm phở
Phương Mai góc Nguyễn bỉnh Khiêm, và bụng
đã phát triển căng tròn vì Bia mỗi bữa, cả ba
mạng sĩ quan thuộc PGM hòn Trọc mới cầm
được cái SVL tạm trú chiếc LCU 535, một con
rùa của Hạm Đội vận chuyển, để quá giang ra
đến Phú Quốc....
Thấy ba bộ mặt bí sị vì phải đi bằng LCU, Đại
úy trưởng phòng bèn có một màn giải thích :
- Hạm trưởng 618 gửi công điện than trách
BTL/HĐ quá chừng..tầu có 4 sĩ quan, thì ba trự
nằm chơi xơi nước, còn mình ên phải đơn độc
gòng ca.. Phòng hành quân báo cáo trong vòng 2
tuần nữa, không có chiếc nào biệt phái cho vùng
4 mà chỉ có thằng LCU này ra tiếp tế cho An
Thới, TL phó lại muốn gửi các ông đi ngay,
càng sớm càng tốt nên......
Hôm sau, cả ba thằng khăn gói xuống 535,
thuyền trưởng là một chuẩn úy đoàn viên, yêu
cầu các sĩ quan tạm trú phải đóng trước 10 ngày
tiền cơm ... cả
ba tóa hỏa,
không phải số
tiền cơm mà
hoảng hồn vì
thời gian gò
bó trên con
tầu.. Thủy
thắc mắc..:
- sao tới 10 ngày lận ??
177
- tầu còn phải ghé Căn cứ HQ Mỹ Tho nhận
hàng rồi mới ra An Thới.. Vị thuyền trưởng
nhún vai trả lời.
LCU, Landing Craft Utility, 535 là một trong
giàn LCU bắt đầu từ HQ533 đến HQ 548 được
mệnh danh là đàn rùa của hạm đội chuyển vận.
Vận tốc tối đa trong sông : 10 gút/ giờ,
Ra biển, sóng êm còn được 6 -7 gút.
Ngược sóng, biển động vận tốc trở thành...con
số Âm...
Vị chuẩn úy thuyền trưởng còn bồi thêm:
- Mùa này biển động mạnh, tôi tính đi toàn bằng
đường sông cho chắc ăn...
Làm cả bọn ngao ngán thở dài, những ngày trên
LCU sẽ dài lê thê và buồn chán thảm thiết...
Ngày hôm sau, khi vừa ra cửa Soài Rạp, tầu
chuẩn bị đổi hướng chui lại vào cửa Tiểu, cả ba
mới thấy thuyền trưởng có lý khi chọn đường
sông, chiếc 535 đít bằng, vừa gặp sóng đã chồm
lên rồi đập dồi xuống gây ra những âm thanh
ầm ầm vang dội chói tai, con tầu có lúc nghiêng
chéo như bị xoắn ngang dưới những cơn sóng đủ
chiều dồn dập va vào thành tầu cho đến khi nó
thoát hẳn vào cửa sông...
Mãi đến ngày hôm sau, nắng chiều bắt đầu dịu
dần, LCU mới chuẩn bị cặp cầu Căn cứ Hải
quân Mỹ Tho.
Đã nằm ở Đồng Tâm lâu ngày, Hùng biết khá
rõ khu vực Mỹ Tho, ngã ba Trung Lương, công
viên Lạc Hồng, chợ Mỹ Tho và nhất là khu vực
trường nữ trung học Nguyễn Đình Chiểu..,
chàng bèn rũ Thủy và Tạo lên bờ làm màn
ngao du cho giãn chân giãn cẳng.. tối sẽ thuê
khách sạn ngủ lấy hơi đất.
Tạo sờ bị, thấy chỉ còn 2 tờ đức Thánh Trần nên
tự nguyện ở lại tầu xem chừng đồ, còn Thủy và
Hùng vét cạn tiền túi, bò lên căn cứ hải quân Mỹ
Tho, nhìn đồng hồ thấy đúng giờ tan học nên vội
vã chạy ra quán cà phê gần trường để kịp giờ
vừa nhâm nhi cà phê vừa tha hồ rửa mắt..nhưng
cả hai thằng chỉ dám chỉ chỏ, phê bình nho nhỏ
các nàng nữ sinh xinh đẹp xứ dừa mà không
dám tán tỉnh gì vì hơi nhột đám “ rằn ri” đang lố
nhố đứng gác cổng trường...
Đến tối, sau màn ẩm thực, Thủy và Hùng góp lại
chỉ đủ tiền trả 1 phòng hạng bét tại khách sạn
hạng bét ngay công viên Lạc Hồng ngủ qua
đêm.
Mấy ngày trên LCU 535, không đêm nào yên
giấc, cả hai lấy phòng xong là lăn khèo ra ngủ
mê mệt.
Đang ngon giấc, bỗng dưng có tiếng đập cửa,
Hùng choàng dậy, nhìn đồng hồ, mới có 3 giờ
sáng, Thủy cũng bực mình chửi toáng lên:
- ĐM.. mấy thằng cảnh sát, giờ này còn khám
xét gì nữa, đi chỗ khác chơi, cho mấy đại quan
ngủ..
Tiếng đập cửa càng dồn dập hơn cùng lúc giọng
nói gay gắt vang lên từ hành lang:
- An ninh quân đội..mở cửa mau..
Nghe tiếng An ninh Quân đội, cả hai thằng cùng
bật ngồi dậy, Thủy, vẫn mặc quần xà lỏn, vội vã
ra mở cửa, một nhóm lính ùa vào, hai Quân cảnh
đi đầu, chĩa súng xông xáo rảo một vòng quanh
phòng..vị sĩ quan mang hai bông mai với huy
hiệu An ninh trên ngực áo bước theo vào, yêu
cầu Hùng và Thủy mặc quần áo và cho xem
giấy tờ..sau khi kiểm soát xong chứng chỉ tại
ngũ và căn cước, vị sĩ quan An ninh hỏi Sự vụ
lênh đi đường làm cả hai mới chợt nhớ đã để lại
trong sắc quần áo dưới HQ535.
Không nghe giải thích, vị trung úy, mặt lạnh như
tiền, nói:
- Báo động đỏ mà hai thiếu úy khơi khơi ra
đường không có SVL hay giấy phép, mời hai
thiếu úy lên xe.
Hùng và Thủy đành theo toán An ninh lên xe
Jeep về đồn Quân Cảnh Mỹ Tho. Sau khi làm
thủ tục bàn giao, nhóm An ninh lái xe bỏ đi
thẳng. Cả hai chàng bị vị thượng sĩ Quân cảnh
(QC) trực dẫn xuống phòng giam và trước khi
đi, ông ta còn thoòng thêm một câu xanh dờn :
- Ngày mai hai thiếu úy sẽ được dẫn lên trình
diện Quân trấn Trưởng...
178
Đưa mắt nhìn quanh phòng, Hùng nhận ra
đây là phòng tạm giam, chỉ có bục xi măng xây
cách mặt đất nửa thước để nằm ngủ, mùi hôi
hám ẩm mốc bốc lên nồng nặc làm cả hai lợm
giọng thêm tiếng muỗi thấy hơi người, vo ve
nhào đến xạ kích...Thủy lo sốt vó:
- Mẹ.. cha Quân trấn trưởng mà nhốt mình thêm
mấy bữa là tiêu..Hạm trưởng chắc giết tao quá..
Cả hai mạng vừa bực mình vừa lo lắng, thao
thức suốt đêm..Tờ mờ sáng, ông thượng sĩ QC
trực đêm qua lại xuống mở cửa nhà giam và nói:
- Mời hai thiếu úy lên gặp trung úy trưởng đồn..
Cả hai im lặng bước theo vị thượng sĩ QC, vừa
lên đến dãy hành lang, Hùng đã nghe văng vẳng
như tiếng Trung úy Tạo, chàng vội vã theo chân
vị hạ sĩ quan QC vào thẳng phòng, Trung úy
Tạo, Hạm phó tương lai HQ 618, vị cứu tinh
đang ngồi trước bàn giấy của vị trưởng đồn,
cười cười nói nói như đã thân quen với hung
thần của hai chàng
thiếu úy hải quân
ham vui...
Thấy chàng và
Thủy, Tạo nháy
nháy mỉm chi :
- Hai ông vào chào
trung úy Công, ký
sổ nhận giấy tờ rồi
còn về cho kịp giờ
khởi hành...
Vị Trung úy quân cảnh vẫy tay ra hiệu cho vị
Thượng sĩ lui ra rồi vừa cười vừa nói:
- Được rồi, Được rồi, hồ sơ vẫn còn đây, chưa
chuyển lên, lại chỗ quen biết, thôi cho chìm
xuồng vụ này.
Hùng và Thủy mừng hết lớn, vội vã ký sổ, chào
kính vị trung úy QC dễ tính rồi theo Tạo ra khỏi
đồn Quân Cảnh, vừa đi vừa thắc mắc làm sao
Tạo biết mà lo SVL lãnh 2 chàng ra khỏi cái chỗ
hắc ám đó..
- Thì Quân cảnh báo cho căn cứ Hải quân Mỹ
Tho, không thấy trong danh sách sĩ quan cơ hữu,
Căn cứ bèn hỏi LCU 535, tôi mới biết, phải chạy
lên căn cứ xin Chỉ huy phó căn cứ làm sự vụ
lệnh bảo lãnh 2 ông.. trễ một chút là hai ông có
màn trình diện Quân trấn trưởng với hai cái đầu
cạo trọc là cái chắc..Hà hà.. thôi mau về, LCU
chuẩn bị rời cầu trước 10:00 sáng.
Trước khi vào cổng, Tạo ghé xe bánh mì Tây
Thi trước trại, mua cho mỗi thằng ổ bánh mì
thịt, trời ơi, ổ bánh mì sao mà ngon tuyệt
vời...Hạm phó Tạo, lúc này, đáng được thưởng
Bảo quốc huân chương chứ không phải chơi...
Rời Mỹ Tho, con rùa 535 phải mất thêm mấy
ngày nữa mới cặp được cầu An thới. Chưa thấy
bóng dáng HQ 618, Hùng bèn dẫn Tạo và Thủy
lên phòng CIC, trung tâm chiến báo, vùng 4
zuyên hải, định hỏi thăm, may mắn, gặp Đỗ Kỳ
Nam, bạn cùng khóa, đang trực, sau màn hàn
thuyên, Nam cho biết PGM 618, đang đi tuần
trục hòn Rái- hòn Tre và Rạch Giá, có xin về
đón các sĩ quan tân đáo rồi sẽ trở lại vùng công
tác ngay sau
đó, Nam
nghĩ có lẽ
khoảng
chiều sẽ về
đến.
Cơm trưa
xong, cả ba
đã khăn gói
quả mướp,
lởn vởn tại căn cứ yểm trợ An Thới, chờ đón
chiếc 618 nhưng mãi đến xế chiều mới thấy
dáng PGM rẽ sóng ào ào đâm thẳng vào cầu
tầu.
Hình ảnh đầu tiên về Tuần duyên hạm 618
Hòn Trọc làm Hùng hơi ngỡ ngàng, quen nếp
sống kỷ cương, thủ tục rườm rà trên Whec 2,
chàng ngạc nhiên khi nhìn thấy cảnh tượng nhốn
nháo, hỗn độn trên PGM, từ mũi tầu đến sân sau,
lố nhố bóng nhân viên sắc phục đủ kiểu, người
mặc quần xanh HQ, áo thun mầu cứt ngựa,
người mặc quần Jean áo may ô ba lá..vài mạng
khoác nguyên bộ rằn ri Thủy quân lục
179
chiến..trông hỗn độn loạn xạ như đám hải
tặc..Đưa mắt nhìn lên lan can đài chỉ huy, chàng
thấy một nhân viên, mặc hải phục xanh bạc mầu,
áo bỏ ngoài quần, vai đeo lon trung sĩ, bên cạnh,
vị hạm trưởng ( thấy Thủy chào kính ) mặt
mập tròn, da nâu sậm, tóc húi cao gần như trọc,
quần trây di, áo thun quân đội, khoanh tay trước
ngực đang ra lệnh cặp cầu, trông như sói
biển...!!! (nhận xét của Hạm phó Tạo).
Thủy, quá quen thuộc cảnh này, cười cười nói
nói, đáp trả những lời trêu chọc của nhân viên,
rồi dục cả bọn nhẩy xuống chiến hạm..xong
xuôi, HT Yên ra lệnh đổi cấp, cho tầu quay trở
về vùng công tác.
Khu vực công tác kỳ này nằm hướng Đông Bắc
Hòn Tre, chiến hạm hai máy tiến một, tà tà đi lại
trên trục tuần đã định sẵn. Đợi Hùng và Tạo sắp
xếp phòng ngủ xong, HT cho họp các sĩ quan
lại, phân chia nhân viên thành ba nhóm trực gác
và đi ca (Quart.)
Theo thông lệ trên PGM, trực hải hành, khi đi
tuần cũng như đi ca cơm (tầu thả neo), được
chia làm ba ca, mỗi sĩ quan là một trưởng ca, và
khi về nghỉ bến thay phiên nhau trực ngày, khác
với các Tuần dương hạm như DER, hay WHEC,
PCE..mỗi phiên trực có đến hai hoặc ba sĩ quan.
Chia trực gác xong, Hạm trưởng Yên vừa gãi
đầu vừa than: “ Thật..trong lịch sử Hải quân,
chưa bao giờ chiến hạm chỉ có 1 sĩ quan và
trung sĩ giám lộ, trung sĩ vận chuyển làm trưởng
ca hải hành như tháng vừa rồi .. “
Như vậy, trên 618 bây giờ (1972-1973) có tất cả
4 sĩ quan:
Hạm trưởng : HQ đại úy Nguyễn trường Yên
khóa 15 NT,
Hạm phó : HQ trung úy Nguyễn văn Tạo khóa
19NT,
Sĩ quan Vận chuyển /Trọng Pháo : HQ thiếu úy
Nguyễn Mạnh Hùng khóa 6 OCS,
Sĩ quan ẩm thực hành chánh / tiếp liệu: HQ thiếu
úy Đoàn Đình Thủy khóa 9 OCS.
Tuần Duyên hạm Hòn Trọc HQ.618 là loại
P.G.M : Patrol Gunship Motor thuộc hải đội
tuần duyên Bộ tư lênh Hạm Đội /HQ/VNCH
nằm trong dàn từ HQ.612 đến HQ 619 với 2 dàn
8 máy ghép Grey do G.M cung cấp. Vận tốc tối
đa : 17 gút/, ra biển sóng êm gió lặng : còn 15-
16 gút/, biển động ngược sóng may ra còn 8-10
gút với 2 máy tiến full....
Ngoài ra, còn dàn PGM từ HQ 600 đến HQ 611
với 2 máy chính Mercedes.
PGM nói chung là một chiến hạm “ tận cùng
bằng số” của Hạm Đội tuần duyên, được mệnh
danh là hòn trứng giữa biển khơi, mỏng manh
trong lòng đại dương bao la..
Những chuyến công tác biệt phái cho vùng
thường thường từ 2 tháng đến 3 tháng nhưng
cũng còn tùy theo tình trạng con tầu hoặc nhu
cầu cần thiết của vùng, có thể kéo dài đến gần 4
tháng. Chuyến biệt phái này, HQ618 chịu trách
nhiệm quanh đảo Phú Quốc, vùng hòn Tre, phía
Bắc gần biên giới Cao Miên, Hà Tiên..
Đảo Phú quốc là một trong những hòn đảo lớn
nhất Việt Nam, nằm trong vịnh Thái Lan, hai xã
lớn là Dương Đông nằm phía Tây Bắc và An
Thới phía cực Nam, Tuy nhiên, An Thới sầm
uất, đông dân hơn Dương Đông và có nhiều
cảnh đẹp như mũi cây dừa, mũi Ông Đội, bãi
Sao....
Trên núi là trại tù binh bắc việt do một đại đội
Quân cảnh canh giữ, vùng bờ biển do hải quân
trấn giữ với Bộ tư lênh vùng 4 duyên hải, căn cứ
hải quân Phú Quốc, HD4 ZP, căn cứ yểm trợ
tiếp vận An Thới và vài duyên đoàn. Phương
tiện giao thông dân sự là con đò Đại Dương nối
liền Rạch Giá và An Thới.
May mắn cho Hùng, vịnh Thái lan mùa này, từ
tháng năm đến tháng chín biển tương đối hiền
lành, ít bão, nước trong xanh mầu ngọc bích, trời
quang mây trắng, thỉnh thoảng mới có vài cơn
mưa nhiệt đới..nhờ vậy, Hùng có thời gian thích
ứng, làm quen với con tầu..và được dịp ghé
thăm các hòn đảo chung quanh vùng như hòn
Tre, Thổ châu, Nam du hay hai hòn Trứng...
180
Chiến hạm biệt phái vùng, thường theo tour đi 7
nghỉ 3 tức là đi tuần 7 ngày, về nghỉ tại bến 3
ngày.
Chuyến nghỉ bến đầu tiên, Hùng được các bạn
OCS trên Phú quốc mời nhậu tại quán Bò vàng,
một trong 2 quán nhậu nổi tiếng và đông khách
nhất Phú quốc ( quán kia là quán Anh Đào do
phu nhân của một sĩ quan thuộc căn cứ Hải quân
Phú quốc, đặc biệt là tới giờ đóng cửa mà màn
nhậu chưa tàn, khách chỉ cần gọi thêm bia rượu,
món nhậu, chi tiền trước là có thể tự khóa cửa,
nhậu tiếp, sáng sẽ có người mở cửa, đánh thức
dậy ra về. )..
Chuyến công tác thứ nhì của Hùng trên HQ618
là trục tuần phòng vùng đảo Thổ châu, nằm phía
Tây Nam Rạch Giá. Quần đảo Thổ châu gồm
khoảng 10 đảo lớn nhỏ, lớn nhất là hòn Rái, dân
chài gọi là Lai Sơn, nhỏ nhất chỉ là những mỏm
đá nhô lên khỏi mặt biển hơn 1 thước..hòn đảo,
theo tiếng Mã Lai, gọi là “Pulaw” tiếng Việt là
“cù lao”, thời Tây thuộc địa gọi là “Poulo”
chẳng hạn như: poulo Panjang, còn Poulo Obi là
hòn Khoai, Poulo Condore là Côn Đảo ngoài
vùng 3 ZH, Poulo Dama là hòn Nam Du.. v..v..
Biển êm, gió lặng, HT Yên cũng vui vẻ vì chiến
hạm đầy đủ sĩ quan, công việc nhẹ hẳn, nên
thường nổi hứng, cặp cầu hay neo gần Đảo cho
nhân viên lên bờ xả hơi, tắm biển, tụ tập đàn hát
hay đổ bộ lên Hòn Trứng, nhặt trứng chim về
phụ trội ẩm thực.
Một hôm trong buổi ca cơm, Hùng và Tạo đang
ngồi tán gẫu trên đài chỉ huy, Hạm trưởng bước
lên góp chuyện, đề tài xoay qua các món ăn dân
giả, Hùng thì kể những cà pháo chấm mắm tôm,
đậu rán tương Cự Đà, Tạo lo ca tụng các bún
mắm, lẩu mắm, cá kho tộ..HT bỗng quay qua hỏi
Tạo :
- Hạm Phó có biết món rau muống xào tỏi hay
rau muống luộc chấm tương không..??
Vị hạm phó người Nam ngớ mặt ra rồi trả lời :
- Xin lỗi hạm trưởng, hồi xưa trước khi dân Bắc
kỳ vô, rau muống, tụi tôi chỉ cho heo ăn thôi...
Câu trả lời thực tình làm HT và Hùng sượng
trân....
oOo
Trước khi nhận được công điện về HQCX để
tiểu kỳ theo chu kỳ bảo trì dự liệu, HQ 618 đi
tuần chuyến chót tại phía Tây Nam thị xã Dương
Đông. Dương Đông tương đối trầm lặng hơn An
Thới nhưng lại nổi tiếng với hải sản như ốc tai
tượng , biên mai (sò lớn, ) mà hai cột gân là
món nhậu khoái khẩu của dân đi biển. Trên
chiến hạm, chỉ có chừng 4, 5 nhân viên có thể
lặn bắt Biên mai được như TR/sĩ ĐK Trực,
TR/sĩ CK Tánh,Hạ sĩ vận chuyển Ẩn và Hạ sĩ bí
thư Hoa mà thôi..
Đêm thứ tư của chu kỳ đi tuần, chiến hạm nhận
được công điện chiếc PGM 608 sẽ ra thế, ai nấy
181
đều mừng hết lớn, HT Yên cũng khoái chí cười
nói luôn miệng, lăng xăng lên Đài chỉ huy, vẽ
cấp về Sài gòn. Lẽ dĩ nhiên vì tính ra, thủy thủ
đoàn PGM618 kể cả hạm trưởng, đã xa gia đình
hơn ba tháng...
Hạm phó Tạo cho nhân viên chạy rùa, cạo sét,
sơn phết lại mặt ngoài chiến hạm chuẩn bị về Sài
gòn.
Đúng 06:00 sáng ngày tuần thứ năm, HQ608 lên
máy báo cáo nhập vùng, HP Tạo bèn lợi dụng
bàn giao cho HQ 608 ngay tại vùng,rồi báo cho
CIC Phú Quốc đã rời vùng trách nhiệm, xong
xuôi, Tuần duyên hạm Hòn Trọc vội vã đổi cấp,
hai máy tối đa về hướng Vũng Tầu...
oOo
Cặp cầu E trong HQCX vào đúng một chiều
mưa tầm tã, tất cả nhân viên trong nhiệm sở vận
chuyển đều ướt như chuột lột nhưng trên khuôn
mặt mọi người vẫn lộ rõ nét hân hoan. Được
thấy lại Sài gòn, được trở về với gia đình sau
một thời gian xa cách, ai mà chẳng vui..mưa lũ
mà nhầm nhò gì..??
Vừa cập cầu xong, Hạm trưởng lội mưa, hạm
phó lội mưa, sĩ quan, nhân viên tép riu cũng lội
mưa, tay xách nách mang.. người két nước mắm
Phú quốc, kẻ ôm đồm gói cá, mực khô, tôm
thẻ...tất tả về với gia đình.
Dĩ nhiên, toán nhân viên trực ngày hôm đó, đành
thèm thuồng nhìn các bạn mình đang hí hửng đi
bờ, và mong ngày qua mau để đến lượt mình
được về thăm gia đình.
Chuyến nghỉ bến này, Hùng tính sơ sơ cũng phải
nằm 3 ngày tại cầu E chờ lên ụ, tu bổ tiểu kỳ ít
nhất 10 ngày vậy là tròm trèm nửa tháng tu
dưỡng, ăn nhậu cho lại sức trước khi tiếp tục
những chuyến công tác dài đằng đẵng khác.
Hơn một tháng gắn bó với con tầu, Hùng đã
quen thuộc dần nếp sống, sinh hoạt trên PGM
và cũng tìm hiểu được phần nào cá tính của các
nhân viên thuộc quyền.
Riêng về Hạm trưởng, Hải quân Đại Úy
Nguyễn Trường Yên, một “sói biển “ như hạm
phó Tạo đã nhận xét lúc đầu, lại là một tay say
sóng có hạng..mỗi lần sóng gió nổi lên là”..
Buồn trông hạm trưởng ôm sô..” ngay tức khắc,
không lúc nào thấy rời chai dầu Nhị Thiên
Đường, hơi nhấp nhô là đưa ngay lên mũi hít lấy
hít để..lúc nào cũng quần Trây di, áo thun quân
đội...chỉ trừ khi đi bờ, nhưng ông rất được mọi
người kính mến vì tính tình vui vẻ, dễ hòa đồng
với nhân viên. Ông sống rất thanh bạch cùng vợ
và một cô con gái trong trái nhà nhỏ nằm cuối
khuôn viên gia đình vợ. Ông cũng được tiếng là
một người chồng, người cha gương mẫu, yêu
thương, chung thủy với gia đình. Đặc biệt, mỗi
lần đi công tác về, ông bắt các sĩ quan đi ăn nhậu
chung với vợ chồng ông và phải dẫn vợ hoặc
bạn gái theo để vợ ông có bạn trò chuyện. Có
lần, không biết vô tình hay cố ý, ông gọi tên cô
bạn gái mới của Hùng bằng tên cô bạn cũ mà lần
trước Hùng đưa đi, rồi cố “ thanh minh thanh
nga “ làm cô bạn mới cứ thắc mắc khiếu nại
mãi...
Hạm trưởng Yên, thuộc khóa 15 NT là một
trong những vị sĩ quan tiến rất nhanh trong Hạm
Đội, rời PGM ông lên làm Hạm trưởng LSM,
chưa đầy 2 năm sau, vừa lên thiếu tá năm 1974
ông đã nắm chiếc PCE.08 và là Hạm trưởng dẫn
chiến hạm cuối cùng của Hạm đội / HQ/ VNCH
rời Saigon vào sáng ngày 30 tháng 4 năm 1975
từ cầu Câu lạc bộ nổi của Hải quân, lẽ dĩ nhiên,
với cả họ hàng làng xóm của gia đình bên vợ...
Hạm phó Tạo, khóa 19NT, quê Long An, cũng
là một người xuề xòa, hiền lành, rất hiếm thấy
ông nổi nóng, hoặc la hét nhân viên, nhưng lại
có phương pháp trị những tay ba gai, vô kỷ luật
trên tầu một cách rất hữu hiệu.Trong một lần
họp mặt nhân viên, ông nhẹ nhàng từ tốn nói :”
Kỷ luật, hình phạt, đủ kiểu đủ cỡ, tôi có thể cho
áp dụng tối đa nhưng tôi muốn thấy tinh thần tự
giác từ các anh em, tự mình kiểm soát hành
động sao cho đúng với nhiệm vụ, lương tâm của
mình, một người lính đã trưởng thành..”
182
Không biết nhân viên có thấm vào đầu lời nói
chí tình của ông ta hay không nhưng Hùng rất
phục ông ta trong vụ giải quyết tình trạng bê bối,
tắc trách và vắng mặt thường xuyên của vị trung
sĩ nhất Quản nội trưởng..thay vì la lối, trừng
phạt đưa nhốt lên trại Quân cảnh hải quân 201,
Hạm phó Tạo đã cho gọi vào trình diện, nói
thẳng là không chấp nhận được cách làm việc
của ông ta, vị QNT đã viện lý do này lý do nọ..
Tạo ngắt lời và chỉ nói nếu không thích làm
việc, thì cho tự do về nhà, chiến hạm nghỉ bến
cũng không cần vào, xem như không có cấp số
trong danh sách nhân viên và khi nào ông ta
thực sự muốn làm việc thì hãy vào gặp Hạm phó
Tạo..Không ngờ chỉ 1 ngày sau, vị QNT đã trở
vào tầu, xin lỗi và hứa sẽ làm việc đàng hoàng...
Tạo có một cá tính dễ mến nữa là biết thông
cảm, thương lính và giúp đỡ nhân viên dưới
quyền rất thật tình nhất là những nhân viên nào
Tạo biết rõ hoàn cảnh gia đình của họ. Chiến
hạm đi công tác về, luôn luôn dư thừa gạo trong
kho, vì cấp số lãnh đầy đủ nhưng nhân viên
thường ăn ít hoặc bỏ ăn vì say sóng. Tạo cho
kiểm kho, bán rẻ hoặc phát không cho nhân viên
nào có hoàn cảnh gia đình nghèo, đông con..
Rất tiếc Tạo làm hạm phó PGM 618 được gần 1
năm thì bị đổi ra làm chỉ huy trưởng kiểm báo
hạm 304 ngoài khơi Vũng tầu.
Tầu lên ụ được 2 hôm, nhân viên thấy đã dễ
thở hơn, trực gác cũng nhẹ nhàng, công việc
phần nhiều do HQCX đảm trách. HP Tạo, một
hôm nổi hứng, rủ Hùng và Thủy về “tu tiên “ tại
gia, một ngôi nhà trong hẻm đường Nguyễn Trãi
gần rạp Quốc Thanh.
Hôm đó, sau khi sắp xếp mọi việc trên tầu xong
xuôi, cả ba leo lên chiếc Honda dame của Hùng,
ghé chợ Nguyễn Tri Phương, góp tiền mua đúng
được 1 con vịt quay rồi về nhà Tạo.
Sau màn chào hỏi xã giao với ba mẹ và mấy cô
em, Tạo dẫn Hùng, Thủy vào một phòng trống
chỉ khoảng 2 mét vuông, bên trong để sẵn đĩa
thịt vịt, và một bình nylon rượu đế 4 lit..cả bọn
ngồi xệp xuống sàn, bắt đầu xoay tour, chén chú
chén anh, bằng 1 ly xây chừng lúc nào cũng
được rót đầy. Bình cạn, Tạo thò bình nylon qua
lỗ thông hơi, gọi cô em, nhờ mua thêm. Cứ vậy
mà hai ngày hai đêm không ra khỏi
phòng..chẳng có màn chữa lửa mà cũng chẳng
thằng nào cần “tưới vườn”..tới lúc mồi cạn, Tạo
“chỉ thị” 1 ly xây chừng một lát thịt vịt, không
được phí mồi nhậu..
Thỉnh thoảng, có tiếng gõ cửa và giọng cô em
nhỏ nhẹ hỏi thăm: “ anh hai..anh hai, có sao
không ??” và Tạo lại lè nhè:” vẫn bình
thường,vẫn bình thường..” cho đến khi không
thấy ông anh nhờ mua thêm rượu, hỏi cũng
chẳng trả lời, cô em bèn báo cáo với bà mẹ : “
rồi... anh hai với hai anh bạn xỉn quắc cần câu
rồi, má à..”
Sau màn “tu tiên “, cả ba thằng phải nằm cố thủ
trên chiến hạm, bơ phờ, mệt mỏi mất mấy ngày..
Chuyện “tu tiên “ 3 ngày 2 đêm của ba sĩ quan
HQ 618 trở thành một kỳ tích mà sau này, vẫn
được cả bọn nhắc nhở đến mỗi khi có dịp gặp
mặt.
oOo
Chiến hạm sửa chữa, xuống Ụ, thử máy đi
thử máy lại xong xuôi cũng mất hơn 3 tuần.
Vừa báo cáo hoàn tất là Phòng hành quân biển
đã gửi công điện biệt phái HQ 618 ra vùng 1
Zuyên hải.
Nghe đến Vùng 1 là Hùng đã thấy ớn lạnh..ước
mơ hải nghiệp của chàng với WHEC
2(Coastguard White High Endurance Cutter)
năm 1971, đơn vị đầu đời, đã bị sóng gió bão
Hester vùng Đà Nẵng làm vỡ mộng.. Tuần
dương hạm to lớn bậc nhất hạm đội mà còn chới
với huống chi hòn trứng PGM..
Thấp thoáng cũng đến ngày Ra Khơi của
HQ618, ban ẩm thực kỳ này, ngoài những thực
phẩm thường lệ, đã cẩn thận chất thêm mấy
thùng mì gói, gạo sấy để sử dụng trong trường
hợp cần..
183
Đúng 0900 ngày chủ nhật cuối tuần, QNT cho
tập họp, điểm danh. Không thấy thiếu nhân viên
nào, HT, HP nhìn nhau đắc ý mỉm cười và ra
lệnh kéo còi nhiệm sở hải hành,chiến hạm từ từ
tách bến, nhân viên đã mặc tiểu lễ sẵn sàng dàn
chào BTL/HQ theo đúng thủ tục hải qui của
...VNCH..!!
Hùng trực ca đầu tiên, cho giải tán nhiệm sở hải
hành, báo trung tâm hành quân /BTL/HĐ cho
biết tầu đã zou lou ( khởi hành), cho hai máy
tiến hai, rồi tiến full, trực chỉ cửa Cần Giờ..
Dòng sông Sài gòn nước chẩy xiết, vẩn đục mầu
phù sa, lều bều những mảng lục bình,gỗ, rác,
dập dờn theo sóng chẻ ngang thành tầu, ghe
thuyền qua lại như mắc cửi, tiếng máy đuôi tôm
ầm ồn vang động cả khúc sông...
Đứng quan sát trên lan can hữu hạm đài chỉ huy,
Hùng đưa mắt nhìn qua bùng binh Bạch Đằng,
xe cộ ngày cuối tuần vẫn tấp nập qua lại, thiên
hạ vẫn tà tà dạo phố đâu biết đến tâm trạng xốn
xang, buồn bã của các thủy thủ trên chiếc chiến
hạm chuẩn bị ra khơi với sóng gió bão bùng
đang chờ đợi...
Hùng mỉm cười vì chợt so sánh ý nghĩa “Ra
Khơi” theo hai thái cực.
Ra khơi, đối với tiểu thuyết gia, là:
“.. đối diện với trùng dương bát ngát, Đại dương
mênh mông, với hoa biển nở rộ, với không gian
thơ mộng, bên cạnh người yêu nhỏ bé, cùng
ngắm trăng dưới bầu trời bao la lấp lánh những
giải Ngân hà, nào là chòm Đại hùng tinh, nào là
Thập tự giá....... ”
hoặc đoạn văn rất Hải quân mà tình cờ Hùng đọc
được :
“...những bữa sáng tinh sương khi bình minh
chưa ló dạng, tiếng còi nhiệm sở thả neo đã khua
tôi thức dậy, bước ra nhiệm sở của mình ở sân
mũi, nhân viên hiện diện đầy đủ, gió hiu hiu
lạnh, biển êm đềm, hiền lành mờ ảo dưới ánh
trăng khuyết vành, rải từng đợt sóng vàng nhè
nhẹ lăn tăn đập vào thành chiến hạm. Trên trời
từng giải Ngân hà lấp lánh với muôn vàn vị sao,
không khí thanh tịnh mát mẻ làm tôi dễ chịu
khoan khoái..chiến hạm hai máy ngưng, dập dờn
gối nhẹ lên sóng, tiếp tục tiến vào đảo trong
những điệu vỗ rào rạt, đều đều...” ( trích Chiến
hạm & chiến hữu của NMH )
Nhưng Ra Khơi, đối với hòn trứng PGM, là bão
bùng, là sóng to gió lớn, là chuẩn bị đối diện với
những bức tường nước dựng đứng, tàn bạo úp
chụp chiến hạm từ đài chỉ huy đến bạt sân sau,
đẩy con tầu chúi nhủi xuống tận biển sâu, thò
chân vịt chổng lên trời, rò rò trên không trung,
rớt ầm ầm xuống mặt biển rồi lại đội con tầu lên
cao vút tận mây. Dụng cụ, nồi niêu song chảo,
bát đĩa loảng xoảng trong nhà bàn. Những làn
sóng bạc đầu, mà văn nhân đã thi vị hóa nó, âu
yếm gọi là Hoa biển, chưa kịp nở rộ là người
thủy thủ PGM đã ôm sô, ói mửa mật xanh mật
vàng, lấy gì mà “..đem về tặng em..”
Chiến hạm qua sông Lòng Tào, ra khỏi cửa Cần
Giờ, đổi cấp,xa dần ngọn hải đăng Vũng Tầu là
đời hết vui..Đúng như Hùng dự đoán, công tác
vùng 1 mùa này khổ ải trăm bề.. sóng ngược dài
dài đến tận Đà Nẵng, chiến hạm, để dưỡng máy,
không dám sử dụng tối đa, chỉ tiến hai, lại ngược
sóng nên thời gian ra vùng càng kéo dài lê thê.
Hầu hết nhân viên đều bị say sóng, phòng ăn
trống rỗng, mà cũng chẳng ai thiết gì đến ăn
uống..vì có ăn vào cũng “ hò “ ra, có lần chỉ
trong vòng hai tiếng đồng hồ đi ca, Hùng ói đến
8, 9 lần, khổ sở miệt mài, ói ra mật xanh, mật
vàng rồi không còn gì cho ra nữa, bụng quặn đau
thốn ruột. Chiếc ghế hạm trưởng trên đài chỉ
huy, ngày thường không ai dám đụng đến, được
sĩ quan đương phiên, thay mặt hạm trưởng, ngồi
chịu đựng cơn say sóng..
Có những lúc xuống ca, nằm lịm dưới phòng,
Hùng mơ màng trong giấc mộng, tưởng mình
như Tề thiên Đại Thánh, đằng vân giá vũ, hết
thăng thiên rồi độn thổ, nhẩy vút lên mây xanh
rồi chui tọt xuống lòng đất..thân thể mệt mỏi rã
rời..
Cuối cùng rồi chiếc PGM 618 cũng mò ra đến
Đà Nẵng, tầu vừa kéo còi nhiệm sở vận chuyển
là các nhân viên, bỗng tỉnh như sáo sậu, ùa ra
184
nhiệm sở như cái chợ vỡ, ồn ào nháo nhiệt như
vừa mới được hồi sinh, chả bù với mấy ngày
trước, con tầu hoàn toàn vắng lặng chỉ còn tiếng
máy gầm gừ với sóng gió..
Nghỉ xả hơi hai ngày, Hòn Trọc bắt đầu nhận
công tác tuần phòng do BLT/Vùng 1 Zuyên hải
chỉ định.
Lần trước, lần đầu tiên ra vùng 1, với nhiệm vụ
tuần dương của HQ2, Hùng còn có dịp lên thăm
Cù Lao Ré, cách Đà Nẵng 60 hải lý về phía
Đông Nam, hòn đảo mà dân địa phương gọi là
Đảo Lý sơn vì danh từ “cù lao Ré” có một sự
tích không được đẹp đẽ cho lắm, do Tây thuộc
địa để lại.
Kỳ công tác này với PGM, là một cực hình với
Hùng và nhân viên chiến hạm, sóng to, biển
động mà không có chỗ neo tránh, phải gòng đủ 7
ngày đi tuần, “ ngất ngư con tầu đi “, nhịn ăn
nhịn uống, mặt mũi người nào người nấy hốc
hác gầy còm, chỉ bù lại bằng những ngày nghỉ
bến, ăn nhậu khuây khỏa, ngủ nghê cẩn thận để
lấy sức tiếp tục chịu đựng ..sự hành hạ của sóng
gió...
Với cương vị Tuần duyên, PGM 618 chỉ chịu
trách nhiệm ven biển, làm OTC (operations
tactical commander ??) cho những PCF và
Coastguards hải đội 1 zuyên phòng với nhiệm
vụ là chận xét những ghe thuyền qua lại trong
vùng, ngõ hầu ngăn chặn những chuyến tiếp vận
vũ khí đạn dược vào miền nam của cộng sản.
Mỗi lần Đài kiểm báo cho biết có Echo lạ, PGM
lại “ sỉ” PCF ra chận xét còn mình cứ tà tà đi
trên trục tuần định sẵn..
Cũng may, chuyến biệt phái khổ ải này chỉ kéo
dài gần hai tháng là có công điện đổi vùng.
HQ 618 hớn hở quay về lại Sàigon. Kỳ nghỉ bến
này có sự thay đổi về nhân sự, Thiếu úy Thủy
nhận công điện thuyên chuyển về Giang Đoàn
53 tuần thám và chuẩn úy Triết khóa 23 NT sẽ
đến tân đáo chiến hạm.
Nhân dịp này, Hạm trưởng Yên tổ chức một bữa
tiệc giã từ tại quán bò 7 món Ánh Hồng, và như
thường lệ, các sĩ quan phải đôn đáo tìm bạn gái
tháp tùng bữa tiệc.
Thủy có vẻ buồn vì phải xa con tầu thân thương
sau hơn 2 năm gắn bó từ khi ra trường đến giờ
nên uống liên miên say khướt đêm hôm đó, Tạo
và Hùng phải dìu anh chàng về tầu.
Vài hôm sau, cầm tờ giấy phép về thăm gia đình
ngoài Cam ranh trước khi xuống đơn vị mới,
Thủy còn cố rủ Hùng và Tạo nhậu lần chót với
nhau tại một nhà hàng tận dưới Phú Xuân nhà
Bè, nổi tiếng với món canh chua cá bông lau và
gỏi ngó sen..Tạo bận chuyện gia đình nên chỉ có
hai thằng chở nhau bằng xe Honda. Ăn nhậu
khề khà đến lúc gần 11 giờ đêm quán đóng
cửa,cả hai đã ngà ngà, lạng quạng lái xe trở về.
Đường sá tối om, vắng hoe, không một bóng xe,
chung quanh đồng không mông quạnh, đến một
khúc quanh, Hùng lạc tay lái, xe đâm luôn
xuống ruộng, quá mệt mỏi, cả hai đổ lì, nằm ngủ
luôn dưới bờ ruộng..
Sáng sớm hôm sau, nghe tiếng bàn tán xì xào,
Hùng mở choàng mắt, giật mình khi thấy đám
đông tụ tập trên bờ đường, đang chỉ chỏ về phía
chàng, Hùng hoảng hốt, khua Thủy dậy rồi rồ
ga, leo lên đường, phóng thẳng một mạch..cả hai
còn văng vẳng nghe vọng lại: “ chèn ơi, toàn
mùi rượu, mấy chả sứa chứ có tai nạn gì đâu...”
May mắn “ Mấy chả “ mặc đồ civil, nếu không
thì mất mặt quân binh chủng quá..
oOo
Chuyến công tác thứ ba của Hùng với PGM
618 là chuyến biệt phái cho vùng 5 duyên hải,
mà bộ Tư lệnh nằm sâu trong rừng Cà Mau: căn
cứ chiến lược Năm Căn, chung với Hải Đội 5
zuyên phòng, bộ chỉ huy lực lượng 212.1, căn cứ
tiền doanh yểm trợ Năm Căn và các lực lượng
thủy bộ tăng phái....
Có kinh nghiệm hồi PCF / HD5ZP, Hùng biết
mùa này, vùng 5 biển êm, sóng lặng, lộc biển
như tôm cá, cua sò đầy rẫy, có thể nhờ các PCF
“cấp dưỡng “ được nên chàng chuẩn bị mang
185
theo khoai tây, bột mì phòng trường hợp đi tuần,
hay ca cơm, hạ sĩ Thơm, tay nấu cừ khôi của
HQ618, sẽ có món tôm lăn bột nhâm nhi với
Khoai tây chiên..nghe thôi là đã ứa nước miếng,
dĩ nhiên chàng không quên dấu xuống đáy xắc
tay một chai Martel cổ lùn mà Đồng Phú Thịnh,
OCS 7, môi giới mua lại cho chàng từ chợ trời
Mỹ.
Tối hôm Hùng nhận ca trực từ 2000 đến 2400 H,
chiến hạm đang hải hành qua vùng Cà mau.
Ngang tầm mắt, ánh đèn hải đăng của Hòn
Khoai đã thấy lập lòe quét sáng những vừng
mây trước mũi tầu, rồi dần dần, hòn đảo hiện rõ
trên đường chân trời. Xa xa nhìn hòn Khoai như
dáng dấp người thiếu nữ nằm xoay nghiêng trên
mặt biển với những đường cong quyến rũ hằn rõ
chân mây..
Đang mơ màng, Hùng chợt giật mình vì giọng
Triết vang ngay bên tai:
- Cảnh biển đẹp quá..
- Ủa hết phiên mà chưa chịu xuống phòng,
Triết..?? Hùng quay lại hỏi.
- Còn sớm quá anh Hùng, mới 9 giờ, chưa ngủ
được, cảnh đêm Poulo Obi đẹp quá, ngắm hoài
không chán, anh Hùng có thấy vậy không ??
Thấy Triết cũng biết thưởng thức cảnh đẹp của
biển về đêm, Hùng bèn tả hình dáng hòn đảo
giống như thiếu nữ cho anh chàng nghe. Triết
ngó nghiêng ngó dọc miệng trả lời : ờ hén..ờ
hén.. mà nét mặt vẫn bình thường chẳng có gì
thay đổi...không biết anh chàng có tưởng tượng
ra được người thiếu nữ Hùng mới tả không ??
Chuẩn úy Triết và Hùng đã có dịp gặp nhau trên
WHEC 2 khi chàng bị Hạm phó Triệu chỉ định
làm sĩ quan cán bộ cho toán 20 sinh viên sĩ quan
tài khóa 23 đi “tạp dịch “ trong đó có Triết. Còn
Trung Hùng OCS5 làm sĩ quan cán bộ toán sinh
viên khóa 22 đi thực tập.
Tán gẫu một lúc, Triết chào Hùng xuống đi ngủ
vì anh chàng sẽ phải nhận ca từ 0400 đến 0800
H
Lúc báo cáo nhập vùng cho đài kiểm báo 401
trên Poulo Obi, Hùng đã đổi tần số, cà kê dê
ngỗng với OC Châu quang Vinh, bạn cùng khóa
và anh chàng này lên máy báo cho các CIC khác
biết là “ Gà tồ đã nhập vùng “ (nick name của
Hùng hồi còn trong quân trường ) để anh em
chuẩn bị đón tiếp làm các CIC liên tục lên máy
thắc mắc danh hiệu mới là ai ??
Tuần phòng vùng này, HQ 618 chịu trách nhiệm
kiểm soát vòng đai cửa Bồ Đề, cửa sông ông
Đốc, Bảy Hạp và vùng Đông Bắc hòn Khoai
nằm giữa duyên đoàn 41 và cửa sông Bồ Đề. Lẽ
dĩ nhiên, PGM vẫn là xếp của các anh chàng
PCF/ HĐ5ZP, tha hồ sỉ đi check các echo bị
nghi ngờ..
Đến cửa Bồ Đề lúc gần 11 giờ đêm, Hùng cho
mời Hạm trưởng lên đài chỉ huy, Hạm trưởng
Yên, lần đầu tiên biệt phái xuống vùng này, e
ngại nhìn dòng sông nước chảy xiết đen ngòm,
cảnh âm u tăm tối, kín mít những rừng tràm đan
nhau san sát dài hun hút làm ông lưỡng lự chưa
biết quyết định ra sao bèn ra lệnh cho hai máy
ngưng, tầu bập bềnh theo dòng thủy triều từ cửa
sông cuồn cuộn chảy ra. Vụ Trợ chiến hạm
HQ225 bị mìn trôi chìm trên sông Năm căn ngay
căn cứ hải quân vùng 5 mấy tháng trước, làm
ông cẩn trọng hơn, và mặc dù có 2 PCF sẵn sàng
yểm trợ đến tận căn cứ Hải quân Năm Căn, ông
vẫn quyết định cho tầu lềnh bềnh phía ngoài chờ
đến sáng mới vào.
Đang bàn tán về sự nguy hiểm của ngã ba Tam
giang trong lòng sông Năm Căn mà ngày mai
chiến hạm sẽ phải đi qua, cả Hùng lẫn hạm
trưởng,hạm phó đều nghe một tiếng ình va chạm
lớn vọng lên từ dưới hầm và tầu nghiêng hẳn về
tả hạm. Rồi tiếng nhân viên quan sát la toáng : “
Tầu mắc cạn..tầu mắc cạn..”
HT nhẩy bổ ra lan can tả hạm, Hùng chạy lại
nhìn la bàn trước bánh lái, mũi tầu vẫn chĩa
thẳng vào cửa sông Bồ Đề hướng 020, nhưng
Hùng chợt nhớ ra có một cồn đất nằm phía trái
cửa sông mà hồi xưa PCF vẫn phải cẩn thận để ý
đến mỗi khi về căn cứ, nước chẩy xiết từ cửa
sông ra biển đã bê đuôi tầu sang phía trái và leo
lên cồn..vừa lúc đó, tiếng hạm trưởng la to:
186
- Máy tả lùi, máy hữu tiến một..
Không đợi nhân viên lái, Hùng tự kéo cần máy
tả lùi 1, máy hữu tiến 1 nấc, miệng la:
- Máy tả đã lùi một, máy hữu tiến 1, tay lái số 0.
Con tầu rung lên bần bật quậy sóng bùn tứ tung
nhưng vẫn nằm ì một chỗ, sau khi thử vài lần
cho cả hai máy lùi cũng không ăn thua gì, Hạm
trưởng thất vọng bước vào đài chỉ huy, lục tủ lấy
quyển tài liệu về thủy triều, nhìn đồng hồ rồi giở
sách ra tra cứu, lúc sau khoan khoái thở dài, nói
với Hùng:
- May quá, thủy triều đang xuống mực thấp nhất,
khoảng 2 tiếng nữa sẽ lên lại, như vậy mình có
thể thoát ra lúc 3 giờ sáng.. giờ thì phải chờ
thôi..
Hạm phó Tạo cho gọi nhiệm sở tác chiến và gọi
máy yêu cầu hai PCF đang tuần hành túc trực
bảo vệ an ninh cho chiến hạm. Mọi người đều
thao thức chờ đến lúc thủy triều dâng lên..
Khoảng 2 giờ rưỡi sáng, thấy tầu bắt đầu lắc lư
mạnh theo nhịp sóng vỗ, Hạm trưởng lên đài chỉ
huy, ra lệnh cho hai máy lùi, con tầu gầm gừ
rung động rồi bất thình lình, vọt ra sau, quậy
sóng ầm ầm.. tất cả nhân viên vui sướng reo hò
ầm ĩ.. trên đài chỉ huy, hạm trưởng thở phào nhẹ
nhõm và cho chiến hạm lui ra khỏi khu vực cửa
sông chờ sáng hẳn mới vào trở lại.
Chuyến tuần hành đầu tiên, HQ 618 chịu trách
nhiệm từ mũi Cà Mau đến cửa sông ông Trang.
Biệt phái vùng 5 zuyên hải đúng lúc trận chiến
dành dân lấn đất đang lên đến cao độ để chuẩn
bị cho cuộc hòa đàm Paris, HQ 618 có thêm
nhiệm vụ đi nhổ hoặc bắn triệt những lá cờ của
mặt trận giải phóng miền nam đang được Việt
cộng bắt dân phải treo khắp nơi cho quốc tế
tưởng lầm là bọn chúng đang nắm ưu thế trong
phần chiếm đóng miền nam Việt Nam.
Khi qua cửa sông ông Đốc, chiến hạm được lệnh
tác xạ tự do những cột cờ Việt cộng gắn trên
sườn núi, súng nổ liên hồi, bô pho nhả đạn liên
tiếp, sét rụng đầy sân mà chẳng có lá cờ nào rơi
rụng cả, hạm trưởng chán nản qué nhân viên
trọng pháo quá chừng và cho biết chưa có
chuyến công tác nào chiến hạm sử dụng nhiều
đạn dược một cách vô tích sự như kỳ đi vùng 5
duyên hải này. Sĩ quan trọng pháo vận chuyển
Hùng thấy nhột bèn xin hạm trưởng cho phép sử
dụng phương pháp hải tặc mà Hùng đã có kinh
nghiệm thời còn nắm thuyền trưởng PCF/
HĐ5ZP. Tò mò và cũng thất vọng tài tác xạ của
các tay trọng pháo Hòn Trọc, Hạm trưởng chấp
thuận. Hùng bèn cho nhân viên chận bắt những
ghe chài đang chèo lưới quanh vùng, giữ hết
giấy tờ và yêu cầu họ vào gỡ mấy lá cờ mà Hùng
đổ cho là họ đã gắn đêm qua.. nộp mỗi ngọn cờ
là được thưởng 1 can đầu...gần cuối ngày, HQ
618 báo cáo là triệt hạ được 10 cột cờ và sẽ nộp
cho vùng những chiến lợi phẩm này...
Chuyến công tác này được chấm dứt bằng hai tin
buồn cho mọi người : hạm trưởng có công điện
về BTL/HĐ gấp để chuẩn bị bàn giao HQ618
cho HQ Đại Úy Thành từ vùng 2 ZH về và hạm
Phó Tạo cũng rời chiến hạm để nhận chức chỉ
huy trưởng Đài kiểm báo nổi HQ304 neo ngoài
khơi Vũng Tàu hiện đang trống vì không ai chịu
nhận..??
Trước khi khởi hành đi chuyến công tác cuối
cùng của Hùng trên Hòn Trọc, cả chiến hạm kéo
đến nhà Hùng để dự tiệc tiễn đưa Hạm trưởng
Nguyễn Trường Yên đi lãnh chiếc LSM và hạm
phó Tạo ra vùng địa ngục trần gian. Ngày hôm
đó, hơn ba mươi hải tặc HQ618 đã làm náo động
cả khu xóm đường Võ Tánh Sàigòn và làm táng
đởm tinh thần cả gia đình chàng trong bữa tiệc
tốn hết gần 20 két bia lớn và 3 chai Johnny
Walker của ông bố Hùng.
oOo
Hạm trưởng Hải quân Đại Úy Thành cũng
khóa 15 NT, là một sĩ quan cán bộ từ vùng 2
zuyên hải, có tiếng nghiêm chỉnh và khó tính
nhất quân trường. Chuyến công tác đầu tiên với
chiến hạm, ông đã bắt từ sĩ quan đến nhân viên
phải mặc quân phục chỉnh tề lúc làm việc cũng
như đi ca. Hùng, lúc này đã có nghị định lên
187
Trung úy, tạm thời làm hạm phó và thiếu úy
Triết làm sĩ quan đệ tam. Ca hải hành, hạm
trưởng cũng gồng 1 ca. Về nhân viên cũng có sự
thay đổi: trung sĩ Thành Điện tử ra đi,trung sĩ cơ
khí trưởng cũng được thay thế bằng một Thượng
sĩ cơ khí già trên bộ Tư lệnh, một chuyên viên đi
lãnh tầu, không hiểu bị lỗi gì mà bị đì xuống dàn
PGM, một chức vụ dưới cấp bực, hơn nữa, ông
ta đã từng nắm phòng an ninh số 8 hải quân.
Chuyến đi biệt phái xuống vùng 4 Phú quốc thật
buồn nản, Triết trầm lặng, ít sôi động, lại không
biết nhậu..triệt để tuân hành lệnh hạm trưởng mà
không phản ứng hay có ý kiến gì..Hùng nhiều
khi đụng độ với hạm trưởng vì những thay đổi
“phong tục “ nề nếp trên chiến hạm..và nhất là
thiếu hẳn những “ trao đổi văn hóa “ với các
PCF nhằm cải thiện “chế độ ăn uống “ của nhân
viên.
Đi công tác được hơn một tháng, Hùng may mắn
có công điện của BTL/HQ / phòng quân huấn
gọi về để thi Anh văn cho khóa du học kỹ sư 4
năm bên Mỹ..chàng hí hửng trình với Hạm
trưởng xin về Sàigon. Là một sĩ quan nổi tiếng
reglo, HT Thành ký ngay SVL cho Hùng mặc dù
tầu đang thiếu sĩ quan.
Sau kỳ thi, khi biết kết quả, Hùng tức tối làm
đơn khiếu nại lên Phòng quân huấn, viện cớ thi
ESL được 85 điểm, hải vụ đầy đủ lại có tú tài B
ban Toán, 2 chứng chi MPC Đại học khoa học
mà không được trúng tuyển trong khi có hai
người một người tú tài ban C và một người tú tài
Pháp ban Philo..mà được đi.. Thiếu tá Đ. phòng
quân huấn trả lời thắc mắc của chàng:
- Anh muốn khiếu nại thì lên tìm Đại tá
Tài...(lúc đó là chánh văn phòng Tư lệnh)
Biết mình không có khả năng tìm gặp ông ta,
Hùng đành khăn gói ra Phú quốc về lại PGM
618.
Khi ra đến An Thới, chiến hạm đúng tour nghỉ
bến, chàng gặp HT Thành đang lội bộ trên cầu
tầu..Thấy Hùng ông ta vui vẻ rảo bước tới, đưa
tay chỉ lên túi áo:
- Bên này Salem, bên này Pallmall, hạm phó lấy
bên nào..
Hôm đó Hùng được HT Thành và Triết dẫn lên
nhậu một chầu huy hoàng tại quán Anh Đào..
Thêm một tuần lễ đi tuần nhàm chán nhưng
cũng dễ thở hơn mấy lần trước, Hùng lại nhận
được công điện, kỳ này của Bộ Tư lệnh Hạm
Đội, gọi về đi học khóa tiếp liệu tại Oakland,
tiểu bang Cali bên Mỹ. Chàng trình Hạm trưởng,
không thấy ông ta nói gì, chờ đến gần kỳ hạn
của ngày phải trình diện BTL/HQ để lo thủ tục,
Hùng đành phải nhắc ông ký SVL trả chàng về
Hạm Đội, ông trả lời:
- Tôi đâu có muốn giữ anh lại làm gì, nhưng có
trình BTL/HĐ về tình trạng thiếu sĩ quan, giờ đã
có công điện một ông trung úy khóa 1 đặc biệt ra
thế, Hạm phó cho bí thư thảo SVL rồi tôi ký
cho.
Ngày hôm sau, không muốn trễ hạn với Phòng
quân huấn, Hùng bèn lên căn cứ Phú Quốc gặp
OC Chín khóa 10 OCS đang làm sĩ quan Liên
lạc Việt Mỹ, nhờ xin giùm một chỗ trên chiếc
C130 của Mỹ bay thẳng về Saigon..
Chiếc Hercules C130 vừa cất cánh rời khỏi Phi
đạo, Hùng đưa mắt nhìn xuống con tầu thân
thương mà chàng đã khổ sở miệt mài với nó hơn
năm trời, PGM 618, đang nhiệm sở hải hành, từ
từ tách bến, hình dáng thân quen của chiến hạm
lại làm Hùng chạnh lòng...../.
Montréal, ngày cuối tuần.
NMH OCS6
188
CChhiiïïììuu ttrrïïnn ààööììii tthhúú
Vũ Hoàng Thư
Tôi ngồi lại bên
hàng ghế chờ chuyến
bay. Khung cửa sậm đen
của trạm hàng không đã
thanh lọc đi hết những
tia nắng chiều khiến ta
khó biết được thời gian
bên ngoài. Máy điều hòa
không khí tỏa ra hơi lạnh gây gây làm người
muốn co lại trong một tư thế lười biếng. Chiều ở
phi trường thật nhộn nhịp, mọi người hối hả đến
và đi. Đến hay đi, hình như ta đều tìm một chỗ
về.
Chiều. Chỉ cần gọi tên Chiều là đã gợi trong
ta những niềm nhớ vấn vương. Chiều về... Chiều
xuống... Chiều đến... Chiều hôm...
Buồn trông cửa bể chiều hôm
Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa
(Nguyễn Du)
Hình như con người đã chờ và dành cho
Chiều một chỗ đứng rất trịnh trọng trong tim.
Người xa xứ, kẻ lưu vong thường nhớ nhà, nhớ
quê những khi chiều về. Ít khi ta nghe nói đến
chuyện nhớ nhung khi sáng sớm, lúc bình minh.
Thúy Kiều động mối thương tâm cho nỗi đoạn
trường của Đạm Tiên và cũng là của mình về
sau, tất cả đều khởi đầu bằng một buổi chiêu
trong tiết Thanh Minh lúc “Tà tà bóng ngả về
tây”.
Chiều xuống chậm và đi về lãng đãng bằng
những tia nắng cuối ngày đỏ ối rạng chiếu sau
dãy núi xanh. Đã bao lần chiều đến như thế.
Chiều đến thật thảnh thơi như báo hiệu cho ngày
sắp tàn rồi nhẹ nhàng đi để bắt đầu một nhịp kế
tiếp của thời gian. Chiều đến vội vàng hay chậm
rãi thật ra chỉ tùy tâm cảnh của người. Niềm dự
cảm như đang lớn dần để thay cho ánh nắng bắt
đầu nhạt. Bất giác ta nhìn qua song, chiều đã đi,
cảnh vật chìm dần trong bóng đêm. Chiều đánh
dấu cho ngày đã tàn hay khởi đầu cho bóng tối?
Mặc kệ, chỉ là một nỗi bâng khuâng quay quắt
đâu đó ta bắt gặp trong những lần chiều xuống.
Thoáng chốc chiều đã mất, chiều đi qua không
ghi lại một vết chân. Dấu vết là những gì sót lại
khi ta níu kéo một khoảnh thời gian và không
gian giữ lại cho riêng mình. Chiều không là của
ai. Đã bao lần con người nắm bắt một cảm giác
trong khung Chiều :
Trên đường về nhớ đầy
Chiều chậm đưa chân ngày
(Hồ Dzếnh)
Quả vậy, cuối ngày và trên đường về, bước
của Chiều là những bước chậm, phải thật rất
chậm vì nếu không thì :
Không gian như có dây tơ
Bước đi sẽ đứt động hờ sẽ tiêu
(Xuân Diệu)
189
Những bước lẩn thẩn về một quê nhà đâu đo,
hoặc chưa tìm thấy, hoặc chưa hề hiện hữu. Cứ
như thế, Chiều đã bước những bước chân cũ từ
hàng triệu năm, tìm một nơi về hay thật sự chỉ
để khơi lại những nỗi niềm và hâm nóng mộng
mơ trên cuộc nghiệt hành nghịch lữ. Khói lam từ
mái tranh ở cuối chân đồi là Nơi Về? Tà dương
ác bóng ở cuối biển khơi là Quê Quán? Hay Quê
Hương thật sự là chỗ Bất-Khả-Tư-Lường?
Hỏi rằng người ở quê đâu?
Thưa rằng tôi ở rất lâu quê nhà
(Bùi Giáng)
Chiều là khoảng thời gian để quên đi sự chia
cắt giữa ngày và đêm, sáng và tối. Tôi yêu hết
những buổi chiều khi lòng bỗng lắng xuống,
quên đi mọi ý niệm thời gian và những đối chọi
của con người. Tôi muốn giơ tay níu bắt buổi
chiều để rồi thấy mình luôn luôn bất lực. Sự đối
chọi và nổi bất lực của con người phải chăng đã
nảy hiện Thi Ca như thi sĩ Octavio Paz đã nói:
Between what I see and what I say
Between what I say and what I keep silent
Between what I keep silent and what I dream
Between what I dream and what I forget
Poetry.
(Giữa điều tôi thấy và điều tôi nói
Giữa điều tôi nói và điều tôi câm nín
Giữa điều tôi câm nín và điều tôi mơ mộng
Giữa điều tôi mơ mộng và điều tôi quên lảng
Thơ.)
Giữa điều tôi thấy và thưa
Trong vàn âm vọng hay chưa thành dòng
Lặng thinh cùng cõi mơ mòng
Mở ra trăm trận điệp trùng lảng quên
Em về diễm tuyệt thuyền quyên
Vẻ phong vận mở suối huyền dặm Thơ
(Em về trở mộng đường tơ
Niềm xao xuyến động những bờ cõi Thơ)
Như thế Thơ đã mở cửa cho ta bước vào
vườn, bỏ mặc bên ngoài những chập chùng bế
tắc của ngôn ngữ đối đãi. Lời thưa hỏi hay niềm
câm lặng, đã quên lãng hoăc vẫn mơ màng, Thơ
đến và mang ta đi trên những bước thật êm nhẹ
như bước của Chiều. Những lối trên trời xanh
thẳm của cánh nhạn, cánh hồng làm sao tìm
được vết. Tô Đông Pha cho rằng Thơ và Đạo
không chống hại nhau (Thi Pháp bất tương
phương). Tôi đoan chắc rằng Thiền sư và Thi sĩ
phải gần nhau lắm vì cả hai đều dùng ngôn ngữ
hư cấu để nói lên điều ẩn mật. Thơ là tiếng dóng
tìm đồng vọng, nhắn gởi cho những ai ngoài kia
cùng rung một nhịp cảm. Nhưng liệu có ai?
Biển xanh xa vời vợi, mênh mông buồm gọi
nhớ nhung về.
Nắng đẹp chảy đầy đôi mắt biếc.
Tiếc người xa không gần để nói chút niềm
trời rộng rãi.
(Thi Vũ)
Niềm trời rộng rãi khởi đầu cho những hành
trình trên lối bước: Từ là tơ trời của bông liễu
tản mạn bay đi; Ý là mây ngàn cỏ nội đang đợi
chờ ngoài kia.
Chi thượng liễu miên xuy hựu thiểu
Thiên nhai hà xứ vô phương thảo
(Tô Đông Pha)
Lìa cây bông liễu phiêu bồng
Ven trời vạn nẻo cỏ hồng muôn phương
(Mây ngàn cỏ nội đâu không là nhà ?)
Với mây ngàn cỏ nội là nhà, Thi nhân lên
đường làm những cuộc lang thang trên mặt đất.
Đôi lúc cơn gió ngừng, bông liễu tạm đáp trên
cỏ non nhưng cuộc ngao du vẫn bềnh bồng
phiêu hốt. Quán Trọ là chỗ tạm nghỉ chân,
không là nơi thường trú nhưng từ đấy, chốn bất-
khả-thường-trụ, Thi sĩ tiếp tục trao lời với gió
Chiều.
190
Tôi bước vội vào phi cơ, phút chốc cả một
màn mây trắng trải rộng dưới chân. Bất giác tôi
nhớ đến một câu thơ mà tôi cho là một trong
những câu thơ hay nhất :
Chiều chiều ra đứng ngõ sau
Ngó về quê mẹ ruột đau chín chiều
Ngõ sau của tôi trong giây phút này là khung
cửa nhỏ của phi cơ nhìn ra những tia nắng bắt
đầu nhạt trên một nền trời tím dần.
Vũ Hoàng Thư
Hạ 1998
Tình thương, tiền chùa – Hải Dương (tiếp theo trang 88)
Loan với tay mân mê gói thuốc lá, biết ý Phan lấy hộp quẹt ra chuẩn bị bật lửa rồi ngoắc người bưng bàn
gọi thêm ly cà phê nữa cho Loan, nhìn ngón tay sành điệu cầm điếu thuốc khẽ nhè nhẹ trên mặt bàn cho
những sợi thuốc dính chặt nhau hơn, Phan liên tưởng đến ngày xưa đã cùng lũ bạn chung quân trường
ngày cuối tuần kéo nhau về khách sạn nằm phi chất trắng với nhau, cũng cách làm thuốc kiểu cách như
Loan bây giờ đã khơi dậy những cảm giác lâng lâng sảng khoái khi rít những chất trắng vào phổi. Phan
đã quên đi một thời gian lâu rồi chẳng qua là vì không có tiền đành chịu thế thôi, nhưng bây giờ thì khác,
nghĩ đến đây như có một cái gì thôi thúc Phan, nó bao phủ che lấp mọi ý nghĩ khác, Phan dọ ý Loan
- Trông Loan hút thuốc chì quá, đã hút thử các thứ khác chưa?
- Loan sợ gì anh, cái gì cũng đã từng thử qua ngán chi
- Ở đây kiếm được không?
- Thiếu gì, anh Tín cũng hay mua về cho tụi em đốt lắm, anh muốn không,em biết chỗ hay anh tới chỗ tụi
em ở đi,em đi mua cho.
Phan bằng lòng ngay, gọi tính tiền Phan móc túi ra một cọc tiền toàn giấy bạc 50 ngàn mới, moi moi tìm
giấy bạc nhỏ hơn và như có ý khoe với Loan,mắt Loan sáng lên.
oOo
Phan nằm dài trên giường của Loan,rít một hơi đầu tiên, cảm giác khoan khoái làm tê hết cả người xong
đưa chuyền sang cho Loan nằm bên cạnh chờ, Loan đã thay quần áo chỉ mặc mỗi chiếc áo ngủ mong
manh, khi nằm xuống da thịt trắng để lồ lộ ra như mời mọc, sau một điếu thuốc cả hai đều yên lặng, đê
mê say thuốc, một lúc sau Phan với tay ve vuốt cánh tay trần của Loan và Loan xoay lại choàng tay qua
cổ Phan,giờ này đây Phan quên hết tất cả vợ con, có một điều làm Phan nhớ và giúp chàng yên tâm để
quên các chuyện khác đó là vẫn còn má là vẫn còn nguồn tài trợ của hai chị bên Mỹ, không phải lo sợ về
vấn đề tiền bạc nữa, Phan mỉm cười lấy tay bóp mạnh bên eo Loan, Loan giật nẩy người lên hét tướng
- Đồ quỷ à!
Hải Dương
191
Chọn Đơn Vị - SeaBee Huy Châu (tiếp theo trang 91)
Đời lính ở Phú quốc, nhất là mấy quan đi PCF thật thoải mái, trừ vài lần bắn nhau với VC, bị thương sơ
sơ mấy nhân viên, còn lại là nhưng chuyến đi du ngoạn ngoài đảo với sinh viên Saigon, Cần thơ, học sinh
Nguyễn trung Trực, Lâm quang Ky, Rạch giá, tiêu xài thả cửa tiền bạc không thành vấn đề (?!) khi thì chi
mấy chục ngàn cho một buổi nhậu, lúc thì không có nổi 5 đồng ăn cơm ở phạn xá Sĩ quan !!!!!!!!! Cuộc
sống thật bình-dị tưởng như chiến tranh nó ở đâu đâu, dù tiếng đại bác từ mũi Nai bắn hàng đêm, dù cũng
phải đi bắn hàng ngàn trái 81 ly yểm trợ cho BĐQ thường nhật, mà vẫn ăn chơi tà tà, lè phè, đó là cái giá
phải trả cho những năm trong tù CS sau này.
Năm 1970 đi Hải đảo Phú Quốc không do tôi chọn, 42 năm sau, năm 2012 đi Hải đảo Hawaii cũng không
do tôi chọn mà đó là lệnh của Bà.
Thân cư thê nó sướng vậy đó các bạn.
SeaBee Huy Châu
Vài dòng cuối cho thằng bạn vắn số:
Cuộc đời của Hoàng Ngạc và tôi khởi đầu bằng cái passports bị mất, rồi về cùng đơn vị, cùng ở tù, cùng
qua Houston chia xẻ bao kỷ niệm…. Ngạc, bây giờ tửu lượng tao cũng lên được 4 chai rồi thì mày đã bỏ
tụi tao đi mất đã 3 năm nay. Trước khi mày nằm xuống bạn bè khắp nơi đã đóng góp 1 số tiền thật lớn để
mong làm được điều gì đó cho mày, nhưng mày vẫn không qua khỏi, bù lại anh em đã lo cho mày một
đám ma quá chu-đáo, Mày mất đi mà bạn bè vẫn còn nhắc đến mày với những chân tình là quý lắm rồi,
ai cũng chỉ mong được như vậy thôi
Tao
Cho một cuộc tình – Nguyễn Khắc Thịnh (tiếp theo trang 96)
Hòa buồn xo nét mặt, mẹ mất cách đây 3 năm rồi, em thì tiếng tây tiếng u nói đến mỏi cả tay, hiện làm
cho mấy shop may tạm sống qua ngày, còn chồng con ra sao? Tân hỏi tiếp, Hòa chỉ vào phòng ngủ nói
anh ấy nghỉ trong đó rồi dẫn đến phòng, mở cửa, Tân thấy ngay hình của Thái trong bộ đồ bay với 2 bông
mai trước ngực, quá xúc động cầm tay Hòa run run giọng, thế em nhất định ở vậy hay sao ? Hòa kéo Tân
ngồi ngay cạnh giường tâm sự: Anh Thái yêu em và anh cũng rất yêu đời phi công với bộ đồ bay mầu
xanh da trời nên thi đậu đủ điều kiện là tình nguyện đi lính chứ không phải muốn tách khỏi ảnh hưởng
của gia đình để lấy em như gia đình thường võ đoán, chẳng may...,những giọt nước mắt đang lăn dài trên
má, Tân dìu Hòa ra phòng khách rồi chậm rãi châm điếu thuốc, nhìn làn khói đang lãng đãng tan trong
không khí chợt nảy ra ý tưởng mượn ý của một danh tướng Mỹ:
Người chiến sĩ Việt Nam Cộng Hòa khi nằm xuống không phải họ chết đi mà nhục thể của họ đã thấm
sâu vào lòng đất hầu kết thành hồn thiêng sông núi cho nòi giống bất khuất Việt Nam, hôm nay đây trong
căn nhà ấm cúng trước mặt Tân, Hòa thể hiện người vợ trung trinh, với đất nước Việt Nam Thái là
Thánh, này bạn, bạn thật có phước.
Nguyễn Khắc Thịnh - U7 (Đây là câu chuyện thật 100%, tên Thái tôi giữ nguyên để một số các bạn Chu Văn An nhận ra, còn tên người con gái và một số
chi tiết tôi đổi để tránh làm phiền người Quả Phụ chung tình.)
192
Tình khờ - Lê Ngọc Trùng Dương (tiếp theo trang 124)
Người thiếu phụ kiếu từ và vội vã quay đi. Tôi đứng đó với nỗi ngậm ngùi suy tưởng về Ma Khờ, thằng
bạn tài hoa, anh hùng trẻ tuổi đã về bên kia thế giới với mối ân tình chưa vẹn; bất giác, tôi thì thầm lời thơ
mà hắn đã để lại hôm nào:
Chờ mong, ôi vẫn chờ mong,
Mà theo năm tháng hoài công đợi chờ.! (13).
Anh Lâm Thanh,
Trong mỗi đời người, chúng ta ai cũng có một thời để sống, một thời để yêu, ( dù chỉ là tình yêu đơn
phương và tuyệt vọng).
Dù đã biết tình yêu là trái đắng,
Mà có ai nào trốn tránh được đâu ?
Dù đã biết tình yêu là nước mắt,
Chỉ khơi nguồn cho nỗi nhớ thêm sâu! (14)
Và một thời để chết !
Hồi tưởng lại ngày nào, tôi và anh cùng các bạn, những người trai trẻ lứa tuổi hai mươi, những thanh
niên ưu tú đã đáp lời kêu gọi của Tổ Quốc Việt Nam;
từ thành thị, xóm làng thân yêu, chúng ta đã về họp mặt tại Bạch đằng 2 năm 1969. Ba mươi năm sau,
nay chúng ta đã bước vào tuổi năm mươi lại gặp nhau trên bước đường ly xứ. Thêm ba mươi năm nữa,
nếu có gặp nhau chưa chắc đã có thể nhận diện ra nhau, cũng có thể có người đã về bên kia thế giới. Thôi
thì, chuyện về Ma Khờ anh và tôi hãy chia xẻ như kỷ niệm buồn vui trong quãng đời quân ngũ của bọn
mình.
Lê Ngọc Trùng Dương
Ghi chú
1/ Nhạc phẩm Trăng Tàn Trên Hè Phố của Phạm Thế Mỹ. '' Tuổi ba mươi mà ngỡ như trẻ thơ.''
2,3,10, 13 Nguyễn văn Phó ( Hương Thu).
4/ Nhạc phẩm Phượng Yêu của Phạm Duy.
5/ Thơ Chút Tình Đầu của Đổ Trung Quân.
12/ Thơ Tình Tuyệt Vọng. Khái Hưng phiên dịch từ bài Sonnet d'Avers.
6/ Thơ của Lê Ngọc Trùng Dương.
7,8, 14. Thơ của Nguyễn văn Hiền (Hoài Tuyết Trang).
9,11. Thơ Truyện Kiều của Nguyễn Du.
Bạn Tù - Duton Navigation – Hoàng Quốc Việt (tiếp theo trang 163 )
193
các anh khóa chặt cửa thì chúng tôi... trốn trại... không thành công cũng thành nhân! Xin dâng... Trốn
Trại Bội Tinh... cho... Quang Baby... anh là người duy nhất trốn trại thành công mà tôi được biết... lính
thứ hiền Hải Quân, bạch diện thư sinh, trói gà không chặt mà cũng có gan hùm... Papillon... mới đáng
đăng báo. Con đường máu và nước mắt chỉ mới bắt đầu... mới tù trong, còn tù ngoài ... mới tới mức! Có
khi còn châm và khổ não hơn tù trong... nhiều... theo kinh nghiệm của tôi... chưa nói số ăn mày... bị bắt
trở lại... thì... qué sera sera... dám ca... vào đây khi mái tóc còn xanh xanh, rời đây khi râu tóc bạc trắng
xóa... lắm!
Đoạn trường ai có qua cầu mới hay... những con tương cận, những con tim đồng cảm... tự động tìm
đến nhau... Quang Baby đến ngồi bên tôi trước mũi du thuyền... là vậy... không gì lý thú bằng... hai khách
giang hồ ngồi cạnh bên nhau, kể chuyện nhau nghe về chuyện... giang hồ... đồng thanh tương ứng, đồng
khí tương cầu!
Hoàng Quốc Việt
Vấn đề chửi thề trong văn hóa dân tộc – Đẻ Ngược (tiếp theo trang 171)
Đã nhiều lần HQ/ĐT T... được đề cử đi tranh giải Nô-Ben về ngành chửi tục nhưng rất tiếc là ông chưa có
dịp thi thố tài năng. Tuy nhiên trong nước ông giữ cúp vô địch chửi thề toàn quốc năm năm liền và cũng
là người duy nhất ở VN được chính thức công nhận là chửi thề có “ba-tăng”, môn bài.
Nghiên cứu về vấn đề chửi thề càng ngày càng đóng vai trò quan trong trên lãnh vực nhân chủng và xã
hội học. Vì vậy ở Bắc Mỹ MIT đã thiết lập riêng một phân khoa Chửi Thề Học, đứng đầu phân khoa này
là Dr. Dubay Lenmay (Đ. B. Lên Mây ) một trong những người có nhiều kiến thức và thẩm quyền nhất
trong lãnh vực ăn nói tầm xàm ba láp của nhân loại.
Đẻ Ngược
Tài liệu tham khảo :
- Chửi Thề Qua Ba Miền Bắc, Trung, Nam. ( Viện Nghiên Cứu Chửi Thề VN )
- Chửi Thề Cẩm Nang Của Quân Đội ( HQ/ĐT T....)
- Những Câu Chửi Thề Thời Tiền Chiến. ( Viện Nghiên Cứu Chửi Thề VN )
- The Joy Of Swearing. ( Random House )
- Swearing For Dummies. - Y2K Edition. ( O’Reilly )
- Interactive Swearing ( for NT, Win 95 ) ( Bill Gates )
- Swearing Your Way To Success. (Random House)
194
Mục Lục
Thư ngỏ 2
Thủy Mộ Quan Phan Thái Yên 3
Bài thơ vĩnh biệt (thơ dịch) Lê Ngọc Trùng Dương 12
Đức Thánh Tổ Trần Hưng Đạo và những cơ duyên Ngọc Nhung 13
Ngủ mơ trên bãi vắng (thơ) Di Truong 16
Về biển (thơ) Phạm Hồng Ân 17
Thư Gửi Bạn Việt Dân 18
Bài thơ mùa hạ (thơ dịch) Lê Ngọc Trùng Dương 20
Từ tượng Trần Hưng Đạo, dôi dòng tâm cảm Trần Quang Phước 21
Hòn sỏi rơi (thơ) Vũ Hoàng Thư 31
Ngã Ba Sông Phạm Hồng Ân 32
Thiên đường của người khùng (thơ) Từ Văn Bé Tư 39
Đám cưới nhà binh Lê Tam Anh 40
Khung trời phiêu du (thơ) Di Truong 46
Ngày tháng đổi đời Lê Trần Vũ 47
Về Huế ngày mưa (thơ) Nguyễn Phước 52
Chờ vượt Vũ môn Cỏ Biển 53
Đưa con vào Đại học (thơ) Bùi Thạch Trường Sơn 58
Thằng bạn của tôi Lê Đình Quang 59
Ba mươi năm tình lỡ (thơ) Huỳnh Kim Khanh 62
HQ5 và Hoàng Sa 19-1-1974 Trương Văn Liêm 63
Em hỏi ta (thơ) Lý Thy Dân 72
Tiên dược trên Diễn Đàn Đường Hào 73
Nụ hôn (thơ dịch) Lê Ngọc Trùng Dương 75
Quán ba cô Huỳnh Kim Khanh 76
Sinh nhật (thơ) Trần Quang Phước 81
Ca khúc mùa thu (thơ dịch) Lê Ngọc Trùng Dương 82
Cơn mưa và trí nhớ (thơ) Trần Quang Phước 83
Thấy mơ hồ một chiến hạm ra khơi Nguyên Nhi 84
Tình thương, tiền chùa Hải Dương 86
Cuộc tình (thơ) Huỳnh Kim Khanh 89
Chọn đơn vị SeaBee Huy Châu 90
Hậu em đi chùa Hương (thơ) Quý Bùi 92
Cho một cuộc tình Nguyễn Khắc Thịnh 93
Người buôn rắn Gió Đồng Nội 97
Bài cho tình ta (thơ) Lê Ngọc Trùng Dương 99
Kỷ niệm một lần xa thành phố Lê Phạm Kim Phượng 101
Xuân chiến thắng trong trại tù cải tạo Suối Máu Ngô Thụy Chương 108
Một ngày trên cao nguyên Nguyễn Chu Trương Dực 112
Con dốc (thơ) Nguyên Nhi 120
Tình khờ Lê Ngọc Trùng Dương 122
Bạn Tù - Duton Navigation Hoàng Quốc Việt 125
New York buổi mù (thơ) Vũ Hoàng Thư 164
Tản mạn về gựu Nguyễn Khắc Thịnh 165
Vấn đề chửi thề trong văn hóa dân tộc Đẻ Ngược 170
Những giọt mưa trái mùa Ngô Văn Sơn 172
PGM HQ 618 Nguyễn Mạnh Hùng 174
Chiều trên đồi thơ Vũ Hoàng Thư 188