Bán khống

Embed Size (px)

Citation preview

  • 8/19/2019 Bán khống

    1/156

  • 8/19/2019 Bán khống

    2/156

    Michael Lewis

    BÁN KHỐNGBản quy ền © 2014 Công ty Cổ phần Sách Alpha Dự án 1.000.000 ebook cho thiế t b ị di động

    Phát hành ebook: http://www.taisachhay.com

    Tạo ebook: Tô Hải Tri ều

    Ebook th ực hiện dành cho những bạn chưa có điều kiện mua sách.

    Nế u b ạn có khả năng hãy mua sách gốc để ủng h ộ tác giả, người d ịch và Nhà Xuất Bản

    http://www.taisachhay.com/http://www.taisachhay.com/http://www.taisachhay.com/http://www.taisachhay.com/

  • 8/19/2019 Bán khống

    3/156

    M ụ c l ụ c

    Lời mở đầu ..............................................................................................................................................................

    1. Một câu chuyện có xuất xứ bí mật ............................................................................................................. 10

    2. Vùng đất của người mù .................................................................................................................................. 2

    3. “Làm sao mà một gã không biết nói tiếng anh l ại nói dối được cơ chứ?” ................................. 43

    4. Làm thế nào để thu ho ạch được t ừ một người nhập cư ................................................................... 56

    5. Những nhà tư bản tình cờ ............................................................................................................................. 6

    6. Người nhện ở The Venetian ......................................................................................................................... 87

    7. Cuộc truy tìm kho báu khổng lồ ................................................................................................................. 99

    8. Sự im lặng kéo dài .......................................................................................................................................... 10

    9. Cái chết của sự thích thú .............................................................................................................................. 11

    10. Hai người trên một chiếc thuy ền .......................................................................................................... 133

  • 8/19/2019 Bán khống

    4/156

    K ẻ đần độn nh ấ t v ẫn có thể hiểu đượ c nhữ ng ch ủ đề khó nhấ t miễn là anh ta chưa có bấ t cứ ýtưởng nào về chúng trước đó; nhưng kẻ thông minh nhấ t l ại chẳng th ể hiểu được điều đơn giản nh ấ t nế u anh ta tin ch ắc r ằng mình đã nắm rõ điều đó.

    – LEO TOLSTOY, 1897

    Câu chuyện đằng sau ngày tận th ế của gi ớitài chính Nếu ch ỉ có thể đọc một cu ốn sách về cuộc kh ủng ho ảng tài chính năm 2008, hãy đọc cuốnsách bạn đang cầm trên tay, Bán Khống (The Big Short) c ủa Michael Lewis.

    Cuộc kh ủng ho ảng tài chính năm 2008 là một trong nh ững th ảm h ọa kinh t ế nặng n ề nh ấttrong l ịch s ử và sự ảnh hưởng của nó vẫn còn tồn t ại cho đến nhi ều năm về sau. Theo ước

    tính của nh ững nhà kinh tế, thiệt hại lên đến hàng nghìn tỷ đô-la, đặc biệt hàng tỷ đô-la ti ềnthu ế của người dân Mỹ đã không được sử dụng để phục vụ cho chính họ mà lại b ị chính phủ dùng để cứu các tập đoàn lớn thoát khỏi phá sản cùng những ông chủ giàu có của chúng.Cuộc khủng ho ảng này không đến t ừ chiến tranh, hay suy thoái, mà nó xuất phát từ một cỗ máy làm tiền điên rồ, được một số người xây dựng trên những mô hình toán học đầy sai sótvà chẳng m ấy ai hi ểu được. Các công ty Phố Wall, v ới sự tham lam và thờ ơ của mình, sẵnsàng cho những người không có khả năng trả nợ vay ti ền, th ậm chí còn chẳng c ần giấy t ờ,để t ừ đó tạo ra nh ững kho ản th ế chấp dưới chu ẩn làm cơ sở cho nh ững s ản ph ẩm tài chínhđộc hại mà họ có thể bán đi bán lại và kiếm b ộn tiền. Điều đáng buồn cười là cỗ máy nàyđược bôi trơn bởi các công ty xếp hạng quy ền lực nh ất th ế giới, những t ổ chức mà đáng raphải có trách nhiệm cao nh ất trong vi ệc phát hiện và ngăn chặn kh ủng ho ảng này lại chínhlà những t ổ chức đã tiếp tay cho nó. Họ sẵn sàng cho những sản ph ẩm tài chính rác rưởi kiacác điểm số cao nh ất vốn ch ỉ dành cho những s ản ph ẩm do Chính phủ Mỹ bảo lãnh và pháthành. Gần như không một ai phát hiện ra điều đó. Những nhà điều hành ngân hàng lớn nh ấtcủa Mỹ không. Cục Dự trữ Liên bang Mỹ không. Và các quan ch ức chính phủ cũng không.Tuy nhiên, vẫn có một thi ểu số nhà đầu tư phát hiện ra điều đó. Cuốn sách này sẽ k ể câuchuy ện về họ.

    Trong cu ốn sách này, bạn sẽ được thấy nh ững tên tuổi lừng lẫy trong n ền tài chính thế giớinhư Standard & Poor, Moody’s,Morgan Stanley, Bear Stearns, Citigroup, Goldman Sachs,AIG lại cư xử như những k ẻ chẳng bi ết gì về tài chính. Bạn cũng sẽ được gặp nh ững nhânvật, điển hình là Steve Eisman, Michael Burry, những người b ị coi là lập d ị nhưng lại thu ộcvề một số rất ít nhìn ra được toàn bộ sự th ối nát của hệ th ống trước khi nó sụp đổ. Bạn sẽ được thấy cách họ phải đấu tranh v ới sự nghi ng ờ khủng khi ếp của chính bản thân cũngnhư của người khác để giữ vững ý kiến của mình và đem về thành công vang dội. Bên cạnhđó, cuốn sách cũng kể về các nhân vật ph ản di ện góp phần chủ chốt t ạo nên cuộc khủnghoảng này, đó là Howie Hublercủa Morgan Stanley, người đã một mình tạo ra kho ản lỗ 9 t ỷ đô-la và được ghi danh vào lịch s ử với tư cách là người b ị lỗ nặng nh ất ch ỉ trong m ột giaodịch, hay Joseph Cassano c ủa AIG, người đã phải ch ịu kho ản lỗ hơn 99 tỷ đô-la.

  • 8/19/2019 Bán khống

    5/156

    Đối với nh ững người làm về tài chính, rõ ràng cuốn sách này là một kho tư liệu vô giá, mộtcâu chuyện không thể không đọc, chứa đầy những sự kiện và bài học vô giá, từ việc đánh giácon người, t ổ chức cũng như việc đi ngược lại đám đông. Đối với nh ững người sợ ngành tàichính, dù trước hay sau khi đọc cuốn sách này, và dù bất k ỳ lý do nào, có lẽ các bạn cần ph ảibiết rằng ngoài những người đúng như Steve Eismanvà Michael Burry đã kiếm được cả một

    đống ti ền thì những người sai như Howie Hubler hay Joseph Cassano vẫn bỏ túi cả chụctri ệu đô-la. Công ty lỗ nhưng họ thì không sao cả. Cuộc khủng ho ảng tài chính mà đáng ra sẽ quét sạch toàn bộ nền tài chính Mỹ thì cuối cùng chỉ có Lehman Brothers và Bear Stearnssụp đổ, còn những ông lớn khác đều được Chính phủ Mỹ dùng tiền thu ế của dân để cứu màkhông phải đổi lại gì nhiều. Liệu có ngành nào dễ kiếm ti ền hơn ngành tài chính, khi mà dùđúng hay sai, bạn vẫn có tiền?

    Trân trọng giới thi ệu cuốn sách với bạn đọc.

    Hà Nội, tháng 3 năm 2014

    CÔNG TY CỔ PHẦN SÁCH ALPHA

  • 8/19/2019 Bán khống

    6/156

    Lời m ở đầuYêu tinh

    Đối với tôi, việc một ngân hàng đầu tư trên Phố Wall s ẵn sàng trả tôi hàng trăm nghìn đô-lađể tôi tư vấn đầu tư cho những người trưởng thành vẫn luôn là một bí ẩn. Tôi mới ch ỉ 24tuổi, không có kinh nghiệm, mà cũng chẳng đặc biệt hứng thú với việc dự đoán cổ phiếunào, trái phiếu nào sẽ tăng hay giảm. Chức năng chính của Ph ố Wall là phân bổ vốn: quy ếtđịnh ai s ẽ nh ận được chúng, ai không. Hãy tin tôi khi tôi nói với bạn r ằng tôi chẳng bi ết gìcả. Tôi chưa từng h ọc về k ế toán, chưa từng điều hành doanh nghiệp và thậm chí chưa từngquản lý tiền ti ết kiệm của riêng mình. Tôi nhảy vào một công việc ở Salomon Brothers vàonăm 1985, và nhảy ra, giàu hơn, vào năm 1988, và dù cho tôi đã viết hẳn m ột quy ển sách về trải nghi ệm này, tất cả mọi thứ đối với tôi vẫn hết sức phi lý – đây là một lý do tại sao tôi lạidễ dàng tránh xa đồng ti ền đến như vậy. Tôi biết điều đó sẽ không kéo dài lâu. Sớm haymuộn, người ta cũng sẽ phát hiện ra tôi cùng với rất nhi ều nh ững k ẻ na ná tôi là lũ ngườilừa đảo. Sớm hay mu ộn, một cuộc Đại thanh toán cũng sẽ đến, khi Ph ố Wall b ừng t ỉnh vàhàng trăm, nếu không muốn nói là hàng nghìn người tr ẻ như tôi, những k ẻ không có quyềnđặt cược lớn bằng ti ền của người khác hay thuyết ph ục người khác đặt cược như vậy, sẽ b ị trục xuất kh ỏi giới tài chính.

    Khi tôi ngồi viết về những gì tôi đã trải qua – hay chính là cuốn Liar’s Poker – tôi viết vớitinh th ần của một thanh niên nghĩ rằng mình đã rời đi đúng lúc đang trúng mánh. Tôi chỉ viết ngu ệch ngo ạc một thông điệp và bỏ nó vào trong chai để dành cho những ai s ẽ phải tr ảiqua nh ững ph ần này trong tương lai rất xa. Nếu không có người trong cu ộc nào ghi lại t ất cả những điều này, tôi đoán chừng, trong tương lai, sẽ chẳng ai tin chúng đã từng xảy ra.

    Tính đến th ời điểm đó, mọi thứ được viết về Phố Wall đều liên quan đến th ị trường cổ phiếu. Ngay t ừ đầu, th ị trường cổ phi ếu đã là nơi sinh sống của ph ần lớn Ph ố Wall. Nhưngcuốn sách của tôi chủ yếu viết về th ị trường tr ái phiếu, bởi Phố Wall hi ện đang kiếm đượcrất nhi ều tiền nh ờ việc đóng gói, rao bán và tráo đổi những kho ản nợ ngày càng lớn củanước Mỹ. Tôi cho rằng, điều này cũng không kéo dài lâu. Tôi nghĩ, mình đang viết về giaiđoạn nh ững năm 1980 ở Mỹ, khi m ột cường qu ốc mất đi lý trí tài chính của nó. Tôi hy vọngcác độc giả tương lai sẽ cảm th ấy kinh hoàng khi biết rằng vào năm 1986, CEO của SalomonBrothers, John Gutfreund, đã được trả 3,1 tri ệu đô-la “nhờ” điều hành doanh nghiệp lao d ốc.Tôi hy vọng h ọ sẽ há hốc mồm kinh ng ạc khi đọc câu chuyện về Howie Rubin, m ột nhânviên giao dịch trái phiếu th ế chấp, của Salomon, người đã chuyển đến Merrill Lynch vànhanh chóng để mất 250 tri ệu đô-la. Tôi hy vọng họ sẽ bị sốc khi bi ết rằng ở Phố Wall trướcđây, các CEO chỉ biết rất mơ hồ về những r ủi ro ph ức t ạp mà các nhân viên giao dịch tráiphiếu của họ đang chấp nh ận.

    Tôi chưa từng m ảy may nghi ng ờ rằng tình hình tài chính những năm 1980 sẽ kéo dài hơn 2thập k ỷ, hay r ằng sự khác biệt về mức độ giữa Ph ố Wall và đời sống kinh t ế thường nh ật sẽ được đẩy lên thành sự khác biệt về tính chất. Rằng m ột nhân viên giao dịch trái phiếu có thể được tr ả 47 tri ệu đô-la/năm mà vẫn cảm th ấy như đang bị lừa. Rằng th ị trường trái phiếu

  • 8/19/2019 Bán khống

    7/156

    thế chấp, th ứ ra đời trên sàn giao dịch Salomon Brothers, v ốn được coi là một ý tưởng tuy ệtvời vào thời điểm đó, lại dẫn đến th ảm họa kinh t ế đậm ch ất tài chính nhất trong l ịch sử.Rằng chính xác 20 năm sau khi Howie Rubin trở thành cái tên tai tiếng quen thu ộc “nhờ”kho ản thua l ỗ 250 tri ệu đô-la, một nhân viên giao dịch trái phiếu th ế chấp khác cũng tên làHowie, ở Morgan Stanley, đã lỗ 9 t ỉ đô-la ch ỉ trong m ột giao d ịch, mà vẫn không ai biết đến

    ngoài một nhóm nhỏ những người bên trong Morgan Stanley từng nghe v ề những gì anh tađã làm hoặc lý do anh ta lại làm vậy.

    Khi ngồi viết cu ốn sách đầu tiên, tôi không có ước mong gì lớn mà chỉ đơn thuần mu ốn k ể lại nh ững gì tôi cho là một câu chuyện đáng kinh ngạc. Nếu bạn chu ốc cho tôi vài ly và sauđó hỏi tôi rằng cu ốn sách này sẽ có ảnh hưởng gì trên thế giới, tôi có thể đã trả lời đại loạinhư, “Tôi hy vọng r ằng các sinh viên đại học đang cố gắng tìm hướng đi cho mình sẽ đọccuốn sách và hiểu được rằng th ật ngớ ngẩn khi t ừ bỏ niềm đam mê hoặc thậm chí chỉ lànhững s ở thích mờ nh ạt của họ để tr ở thành nhà tài chính.” Tôi hy vọng r ằng m ột vài đứatrẻ sáng dạ ở Đại học Bang Ohio mà thực sự muốn tr ở thành nhà hải dương học sẽ đọc cuốnsách của tôi, phớt lờ lời đề ngh ị của Goldman Sachs, và giương buồm ra khơi.

    Tuy nhiên, không hiểu th ế nào mà thông điệp này hầu như biến m ất. 6 tháng sau khi Liar’sPoker được xuất bản, tôi nhận được rất nhi ều thư từ sinh viên Đại học Bang Ohio. Chúngmuốn bi ết liệu tôi còn bất cứ bí mật nào khác muốn chia s ẻ về Phố Wall hay không. Chúngđã đọc cuốn sách của tôi và coi nó như một cuốn cẩm nang hướng dẫn.

    Trong 2 th ập k ỉ sau khi r ời đi, tôi mong chờ ngày tàn của Ph ố Wall như tôi đã dự liệu. Cáckho ản tiền thưởng trên trời, những cu ộc diễu hành vô tận của lũ nhân viên giao dịch lừađảo, vụ bê bối đã đánh chìm Drexel Burnham, tai tiếng đãhủy ho ại John Gutfreund và xóasổ Salomon Brothers hoàn toàn, cuộc khủng ho ảng n ối tiếp sự sụp đổ Long-Term CapitalManagement c ủa John Meriwether, ông chủ cũ của tôi, và bong bóng Internet: Hết lần nàyđến lần khác, hệ thống tài chính, xét về nghĩa hẹp, mất dần sự tin tưởng. Th ế nhưng, cácngân hàng lớn ở Phố Wall, trung tâm của hệ thống tài chính này, vẫn tiếp t ục phát triển,cùng với số tiền mà họ phân phát nhỏ giọt cho nh ững thanh niên 26 tuổi để những ngườinày làm những việc mà rõ ràng chẳng mang l ại lợi ích gì cho xã hội. Cuộc nổi dậy của thanhthiếu niên Mỹ chống lại văn hóa tiền t ệ không bao giờ diễn ra. T ại sao ph ải bận tâm đến việclật đổ thế giới của bố mẹ bạn khi b ạn có thể mua nó và bán đi từng m ảnh của th ế giới đó?

    Có lúc, tôi đã thôi không chờ đợi nữa. Tôi cho rằng không có vụ bê bối hoặc đảo ngược nàođủ lớn để nhấn chìm cả một hệ thống.

    Đúng lúc đó, Meredith Whitney mang tin tức đến.

    Meredith Whitney là một nhân viên phân tích vô danh, chuyên phân tích các công ty tàchính cho một công ty tài chính vô danh, Oppenheimer and Co.. Ngày 31 tháng 10 nă2007, cô dự đoán rằng Citigroup đã quản lý yếu kém đến m ức cần ph ải cắt giảm cổ t ức nếukhông sẽ phá sản. Không ai có thể biết chắc chuy ện gì đang diễn ra bên trong thị trườngchứng khoán vào bất cứ một ngày nhất định nào, nhưng vào ngày 31 tháng 10 đó, người tabiết ch ắc rằng Meredith Whitney đã khiến th ị trường cổ phi ếu tài chính chao đảo. Đến cu ốingày giao dịch, một ph ụ nữ về cơ bản chưa ai từng nghe đến, một người hoàn toàn vô danh,

  • 8/19/2019 Bán khống

    8/156

    đã khiến g iá cổ phiếu của Citigroup t ụt 8% tương đương với 390 t ỉ đô-la bốc hơi khỏi th ị trường ch ứng khoán Mỹ. 4 ngày sau, CEO Chuck Prince của Citigroup t ừ chức. 2 tu ần sau,Citigroup gi ảm cổ t ức.

    Kể t ừ thời điểm đó, Meredith Whitney đã trở thành E. F. Hutton: Khi cô nói, mọi người lắng

    nghe. Cô có thông điệp rất rõ ràng: Nếu mu ốn biết giá trị thực sự của các công ty ở Phố Wallnày, hãy quan sát thật khách quan và kỹ lưỡng các loại tài sản kém hấp d ẫn mà các công tynày đang nắm giữ bằng ti ền đi vay, và tưởng tượng xem h ọ sẽ thu v ề được gì trong mộtcuộc bán tháo. Theo cô, đội ngũ nhân viên khổng lồ được tr ả lương cao trong các công tynày hoàn toàn vô giá trị. Suốt năm 2008, cứ mỗi khi các nhân viên ngân hàng và nhà môigiới tuyên bố rằng họ đã giải quy ết được cácvấn đề của mình, lúc thì bằng bút toán ghi giảmgiá trị, lúc thì bằng việc huy động vốn, cô lại đưa ra tuyên bố của chính mình: Các anh chị đãnhầm. Các anh chị vẫn không chịu đối mặt với việc mình đã quản lý doanh nghiệp t ồi t ệ nhưthế nào. Các anh chị vẫn không thừa nh ận nh ững kho ản lỗ hàng tỉ đô-la trong các trái phiếuthế chấp dưới chu ẩn. Giá trị chứng khoán của các anh chị cũng ảo như chính giá trị conngười các anh chị. Các đối thủ cho r ằng Whitney được đánh giá quá cao; những blogger chorằng cô chỉ may m ắn. Hầu hết nh ững gì cô đưa ra đều đúng. Nhưng một ph ần nào đó, đúnglà cô chỉ đoán. Không có cách nào để cô có thể biết được điều gì sẽ xảy ra đối với nhữngcông ty Phố Wall này, hay mức độ các khoản lỗ của họ trong th ị trường cho vay th ế chấpdưới chu ẩn. Ngay c ả chính các CEO cũng không thể biết điều này. Cô nói, “hoặc là như thế hoặc họ đều là những k ẻ dối trá, nhưng tôi cho rằng họ thật sự không biết.”

    Giờ đây, rõ ràng Meredith Whitney đã không nhấn chìm Phố Wall. Cô chỉ thể hiện m ột cáchrõ ràng và ồn ào nhất quan điểm mà hóa ra còn mang tính nổi loạn, chống lại tr ật t ự xã hộihơn cả nhiều chi ến d ịch do các luật sư khác nhau ở New York kh ởi xướng nh ằm ph ản đối sự thối nát ở Phố Wall. N ếu m ột vụ bê bối đơn thuần có thể phá hủy các ngân hàng đầu tư lớnở Phố Wall, thì hẳn là chúng đã biến mất t ừ rất lâu rồi. Người phụ nữ này không nói rằngcác nhân viên ngân hàng Phố Wall là những k ẻ thối nát. Cô chỉ nói rằng h ọ ngu ng ốc. Nhữngcon người này làm công việc phân bổ ngu ồn vốn nhưng thậm chí còn không biết cách quảnlý tài sản của chính mình.

    Thành thực mà nói, có phần trong con người tôi cho rằng, Nếu tôi ở lại thì có thể chính tôiđã gây ra thảm họa đó. Các nhân vật chủ chốt trong đống lộn xộn t ại Citigroup cũng chính lànhững người tôi từng làm việc cùng t ại Salomon Brothers; m ột vài người trong s ố họ cònt ừng có mặt trong l ớp đào tạo t ại Salomon Brothers c ủa tôi. Có lúc, tôi không thể kiềm ch ế được bản thân: tôi gọi cho Meredith Whitney. Đó là vào khoảng tháng 3 năm 2008, ngatrước thất bại của Bear Stearns, khi k ết qu ả vẫn ở thế cân bằng. Tôi nghĩ, nếu cô ấy đúng,

    đây chính là thời điểm th ế giới tài chính quay trở lại chiếc hộp mà từ đó, nó đã thoát ra vàođầu nh ững năm 1980. Tôi rất tò mò muốn biết liệu cô ấy có hiểu việc mình đang làm không,và cũngmuốn bi ết người ph ụ nữ trẻ đang làm xáo trộn th ị trường ch ứng khoán bằng m ỗilời nói của mình đến t ừ đâu.

    Cô ấy đến Ph ố Wall vào năm 1994, sau khi tốt nghi ệp khoa ti ếng Anh trường Đại họcBrown. Cô tìm được một công việc t ại Oppenheimer and Co. và sau đó được đào tạo bởi mộtngười không chỉ giúp cô xây dựng sự nghi ệp mà còn cả thế giới quan c ủa cô. Tên của ông là

  • 8/19/2019 Bán khống

    9/156

    Steve Eisman. “Sau khi tôi làm vụ Citi,” cô nói, “một trong nh ững điều t ốt đẹp nh ất đã xảy rađó là Steve gọi cho tôi và bảo r ằng ông tự hào về tôi như thế nào.” Do chưa từng nghe đếncái tên Steve Eisman nên tôi đã không suy nghĩ gì về điều này.

    Nhưng sau đó, tôi đã đọc được một tin t ức về việc một nhà quản lý quỹ phòng hộ vô danh ở

    New York tên là John Paulson đã kiếm được kho ảng 20 t ỉ đô-la cho c ác nhà đầu tư của mìnhvà đút túi gần 4 t ỉ đô-la. Đây là số tiền lớn nh ất mà một người t ừng ki ếm được một cách quánhanh ở Phố Wall. Thêm vào đó, anh ta có nó nhờ đặt cược chống lại các trái phiếu th ế chấpdưới chu ẩn hi ện đang nhấn chìm Citigroup và mọi ng ân hàng đầu tư lớn khác ở Phố Wall.Các ngân hàng đầu tư Phố Wall gi ống như các sòng bạc ở Las Vegas: H ọ đưa ra các tỷ lệ cược. Nếu khách hàng chơi trò chơi có tổng b ằng 0 để đấu lại họ thì thi thoảng có thể giànhchiến th ắng nhưng sẽ không bao giờ th ắng m ột cách có hệ th ống và thắng lớn đến m ức cóthể khiến sòng bạc phá sản. Tuy nhiên, John Paulson từng là một khách hàng của Ph ố Wall.Đây là hình ảnh ph ản chi ếu sự kém cỏi tương tự vốn đã giúp Meredith Whitney làm nên têntuổi của mình. Sòng bạc đã đánh giá sai nghiêm trọng t ỷ lệ đặt cược trong trò chơi của chínhnó, và ít nhất một người đã phát hiện ra điều đó. Tôi lại gọi cho Whitney để hỏi cô ấy, giốngnhư tôi đã hỏi nh ững người khác, rằng liệu cô ấy có biết ai đã dự đoán được tr ận Đại HồngThủy về việc cho vay th ế chấp dưới chu ẩn, để t ừ đó sắp xếp trước nh ằm thu l ợi t ừ nó haykhông. Có ai khác chú ý đến việc bánh xe rulet đã trở nên rất dễ đoán trước khi sòng bàiphát hiện ra hay không? Có ai khác trong chiếc hộp đen tài chính hiện đại nắm được các lỗ hổng của cỗ máy hay không?

    Khi đó là vào cuối năm 2008. Ngày càng có nhiều chuyên gia tuyên bố rằng h ọ đã dự đoánđược th ảm h ọa, nhưng chỉ có một số ít hơn rất nhi ều th ực sự làm điều đó. Trong số này, số người dám đặt cược vào tầm nhìn của mình còn ít hơn nữa. Không dễ để đứng ngoài sự cuồng lo ạn của đám đông – để tin r ằng hầu hết nh ững gì được đề cập trong b ản tin tài chínhlà sai lầm; để tin r ằng h ầu h ết nh ững nhân vật tài chính quan trọng nh ất đều đang dối tráhoặc b ị lừa – mà không bị mất trí. Whitney đã đọc một mạch danh sách với cả nửa tá nhữngcái tên trên đó, chủ yếu là các nhà đầu tư cô trực tiếp tư vấn. Ở giữa là John Paulson. Đứngđầu là Steve Eisman.

  • 8/19/2019 Bán khống

    10/156

    1. Một câu chuyện có xuất xứ bí mậtEisman đặt chân vào giới tài chính khi tôi rời khỏi đó. Anh lớn lên ở New York, đi học ở cáctrường dòng, tốt nghi ệp loại xuất sắc t ại Đại học Pennsylvania, và sau đó nhận bằng danh

    dự của Trường Luật Harvard. Năm 1991, anh trở thành một lu ật sư 30 tuổi chuyên về luậtdoanh nghi ệp và luôn tự hỏi t ại sao anh l ại nghĩ mình thích trở thành luật sư. “Tôi ghét nó,”anh nói. “Tôi ghét trở thành một luật sư. Bố mẹ tôi là các nhà môi giới ở công ty chứngkhoán Oppenheimer. Họ đã lừa được tôi chấp nh ận m ột công việc. Thật chẳng t ốt đẹp gì,nhưng đó là sự thật.”

    Oppenheimer là một trong s ố những công ty Phố Wall ki ểu cũ cuối cùng và nó sống sót nhờ vào những “đầu th ừa đuôi thẹo” mà Goldman Sachs và Morgan Stanley bỏ lại. Nó có vẻ giống m ột doanh nghi ệp gia đình hơn là một công ty. Lillian và Elliot Eisman đã đại diện choOppenheim er tư vấn về tài chính cho các nhà đầu tư cá nhân kể t ừ đầu nh ững năm 1960.Do được các đồng nghi ệp cũng như khách hàng tôn trọng và quý mến, họ có thể thuê bất cứ ai họ muốn. Tuy nhiên, Oppenheimer hoạt động theo quy t ắc gia đình trị; nếu Lillian vàElliot mu ốn tuy ển dụng con trai h ọ, họ phải tr ả lương cho cậu trong năm đầu tiên, trong khinhững người khác sẽ đánh giá xem liệu cậu có xứng đáng được trả lương hay không.

    Cha mẹ của Eisman, b ản ch ất là những nhà đầu tư giá trị kiểu cũ, đã luôn dặn dò anh rằngcách tốt nh ất để tìm hiểu về Phố Wall chính là làm một nhà phân tích cổ phi ếu. Anh đã bắtđầu bằng công việc này, làm việc cho nh ững người định hình nên dư luận về các công ty đạichúng. Oppenheimer tuyển dụng kho ảng 25 nhà phân tích, mà hầu hết phân tích của họ đềubị phần còn lại của Ph ố Wall l ờ đi. “Cách duy nhất để một nhà phân tích tại Oppenheimerđược tr ả lương là hãy làm đúng và gây ra đủ ồn ào để mọi người chú ý,” Alice Schroeder,người ph ụ trách các công ty bảo hiểm cho Oppenheimer, đã chuyển t ới Morgan Stanley, vàcuối cùng trở thành người viết tiểu sử chính thức cho Warren Buffett, nói. Cô nói thêm, “Cómột yếu t ố ph ản văn hóa ở Oppenheimer. Nhân viên ở các công ty lớn đều được tr ả lươngđể đồng thu ận.” Eisman hóa ra lại có khiếu gây ồn ào và phản đối các quan điểm đồngthu ận. Anh kh ởi đầu là một nhà phân tích cổ phiếu cấp th ấp, một người phụ việc, chẳngmong gì được đưa ra ý kiến riêng. Điều này đã thay đổi vào tháng 12 năm 1991, chưa đymột năm kể t ừ khi anh làm công việc mới này. Một nhà cho vay th ế chấp dưới chu ẩn có tênlà Aames Financial đã phát hành cổ phiếu ra công chúng, nhưng không ai ở Oppenheimerquan tâm đến vấn đề này. Một trong nh ững nhân viên ngân hàng của Oppenheimer, ngườihy v ọng được Aames tuy ển d ụng, đã đi xung quanh bộ ph ận n ghiên cứu để tìm người biếtbất cứ điều gì về mảng kinh doanh cho vay th ế chấp. “Tôi là một nhà phân tích cấp th ấp và

    ch ỉ đang trong quá trình học hỏi,” Eisman nói, “nhưng tôi đã nói với anh ta r ằng khi còn làmột luật sư, tôi đã làm một vụ cho The Money S tore.” Anh ta đã nhanh chóng được bổ nhiệm là nhà phân tích chính cho Aames Financial. “Tôi đã không nói với anh ta r ằng côngviệc của tôi chỉ là đọc tìm lỗi trong các tài liệu và tôi chẳng hi ểu quái gì về nh ững th ứ chếttiệt đó.”

    Aames Financial, gi ống nh ư The Money Store, nằm trong m ột h ạng m ục mới gồm các côngty m ở rộng việc cho vay đối với những người Mỹ thiếu tiền m ặt, hay còn được gọi một cách

  • 8/19/2019 Bán khống

    11/156

    hoa m ỹ là tài chính chuyên biệt. Hạng m ục này không gồm Goldman Sachs hay J.P. Morganmà gồm nhi ều công ty ít được biết đến và đều có liên quan đến sự bùng nổ cho vay th ế chấpdưới chu ẩn vào đầu nh ững năm 1990. Aames là công ty cho vay thế chấp dưới chu ẩn đầutiên phát hành cổ phi ếu ra công chúng. Công ty thứ hai mà Eisman được giao nhi ệm vụ phụ trách là Lomas Financial. Lomas v ừa mới thoát khỏi cảnh phá sản. “Tôi đưa ra khuyến ngh ị

    bán thứ này bởi nó là thứ rác rưởi. Tôi không biết là anh không được khuy ến ngh ị bánnhững công ty này. Tôi nghĩ rằng có ba chiếc hộp – mua, gi ữ và bán – và anh có thể chọn cáimà anh nghĩ là anh nên chọn.” Steve Eisman bị buộc ph ải lạc quan hơn, nhưng sự lạc quankhông đến với anh m ột cách tự nhiên. Anh có thể giả vờ lạc quan, và thỉnh tho ảng có làmvậy, nhưng anh sẽ tho ải mái hơn nếu không phải bận tâm vì điều đó. “Tôi có thể nghe th ấytiếng anh ta hét vào điện tho ại t ừ cuối hành lang,” một đồng nghi ệp cũ của anh chia s ẻ. “Anhta vui v ẻ ch ỉ ra nh ững điểm tiêu cực về cổ phiếu của các công ty anh ta phụ trách. Anh tanghĩ gì, nói nấy.” Eisman vẫn giữ nguyên khuyến ngh ị bán đối với Lomas Financial, ngay c ả sau khi nó thông báo rằng các nhà đầu tư không cần lo lắng v ề tình hình tài chính của nó,bởi nó đã phòng ngừa rủi ro th ị trường. Eisman nói, “Câu đơn tuyệt vời nhất tôi đã từng viếtở cương vị một nhà phân tích là sau khi Lomas nói họ đã được phòng ngừa kh ỏi rủi ro.” Anhtrích dẫn lại câu đó từ trong trí nhớ của mình: “’Lomas Financial là một định ch ế tài chínhđược phòng ngừa kh ỏi rủi ro m ột cách hoàn hảo: nó thua lỗ ở mọi môi trường lãi suất cóthể nh ận th ức được.’ Tôi thích viết câu đó hơn bất cứ câu nào tôi từng viết.” Một vài thángsau khi anh xu ất bản câu nói này, Lomas Financial trở lại tình trạng phá sản.

    Eisman nhanh chóng khẳng định mình là một trong s ố ít các nhà phân tích tại Oppenheimercó quan điểm có thể khu ấy đảo th ị trường. “Nó giống việc tôi được quay tr ở lại th ời đi họcvậy,” anh nói. “Tôi sẽ tìm hiểu về một ngành nào đó, và tôi sẽ đi và viết về nó.” Mọi người ở Phố Wall b ắt đầu coi anh là một nhân vật chân thật. Anh ăn mặc kiểu nửa mùa, như thể có aiđó đã phải rất khó khăn mới mua được cho anh nh ững bộ quần áo mới và đẹp nhưng khôngch ỉ cho anh cách mặc chúng. Mái tóc vàng được cắt ng ắn của anh trông như thể anh đã tự cắt chúng. Tâm điểm trên khuôn mặt nh ẵn nh ụi, biểu cảm và không thân thiện của anhchính là cái miệng, bởi lúc nào nó cũng mở hờ ngay c ả khi anh ăn. Cứ như thể anh s ợ khôngthể tuôn ra hết nh ững suy nghĩ vừa thoáng qua đầu trước khi suy nghĩ khác ập đến, nêluôn phải giữ cho kênh đó thông suốt.

    Khi anh ti ếp xúc với thế giới bên ngoài, một khuôn mẫu sẽ xuất hiện. Ngày càng có nhiềungười làm việc cho Steve Eisman yêu mến anh, ho ặc ít nhất b ị anh làm cho buồn cười. Họ đánh giá cao sự sẵn sàng và khả năng từ bỏ cả tiền bạc và kiến th ức của anh.“Anh ấy là mộtnhà giáo bẩm sinh,” một ph ụ nữ t ừng làm việc cho anh nói. “Và anh ấy bảo vệ ph ụ nữ mộtcách dữ dội.” Anh đồng cảm với nh ững người bé nhỏ và những người luôn bị thua thi ệt dù

    cho b ản thân anh chưa bao giờ như vậy. Mặc khác, những người quan tr ọng mà hy vọngrằng sẽ nhận được sự tôn kính từ Eisman l ại thường r ời kh ỏi cuộc gặp m ặt với anh trongtâm trạng b ị sốc và phẫn nộ. “Rất nhi ều người không hiểu Steve,” Meredith Whitney nói vớitôi, “nhưng ai hiểu anh ấy đều quý mến anh ấy.” Một trong s ố những người không hiểuSteve là giám đốc một công ty môi giới lớn của Mỹ, người đã nghe Eisman giải thích trướchàng tá các nhà đầu tư vào bữa trưa về lý do tại sao ông ta, vị giám đốc đó, lại không hiểuchính công việc kinh doanh c ủa mình, và sau đó nhìn anh ấy rời đi giữa bữa ăn trưa vàkhông bao giờ quay l ại. (“Tôi phải vào nhà vệ sinh,” Eisman nói. “Tôi không hiểu t ại sao tôi

  • 8/19/2019 Bán khống

    12/156

    không bao giờ quay l ại.”) Sau bữa trưa đó, vị giám đốc này đã tuyên bố rằng ông ta sẽ khôngbao gi ờ bước chân vào bất cứ căn phòng nào có Steve Eisman ở đó. Chủ t ịch m ột công ty bấtđộng s ản lớn của Nhật Bản là một ví dụ nữa. Ông đã gửi cho Eisman các báo cáo tài chínhcủa công ty mình và sau đó đã cùng với một phiên dịch viên đến để mời Eisman đầu tư.“Ông thậm chí còn không sở hữu cố phi ếu ở công ty mình,” Eisman nói, sau phần giới thi ệurất t ỉ m ỉ điển hình của v ị doanh nhân Nhật Bản này. Người phiên dịch đã nói nhỏ với vị CEO.“Ở Nhật, các nhà quản lý thường không sở hữu cổ phiếu,” cuối cùng anh ta nói.

    Eisman cho r ằng các báo cáo tài chính của gã này chẳng cho th ấy bất cứ chi ti ết th ực sự quan tr ọng nào về công ty của hắn; nhưng thay vì chỉ đơn giản nói như vậy, anh tung b ảnbáo cáo lên không, như thể vứt một th ứ rác rưởi. “Đây… là đống giấy chùi toilet,” anh nói.“Dịch đi.”

    “Quý ông Nhật Bản bỏ kính ra,” một người chứng ki ến cu ộc gặp gỡ kì lạ này nhớ lại. “Môiông ấy run lên. Chiến tranh Th ế giới III như sắp nổ ra. ‘Giấy toy-lay? Gi ấy toy- lay ư?’”

    Một nhà quản lý quỹ phòng hộ, người coi Eisman như một người bạn, đã giải thích cho tôivề con người anh nhưng chỉ một phút sau đó – sau khi ông mô tả việc Eisman đang vạchtrần nhi ều nhân vật quan tr ọng là những k ẻ nói dối hoặc nh ững tên đần độn – ông bắt đầucười. “Anh ta là một người thích châm chọc xét về mặt nào đó, nhưng anh ấy cũng thôngminh, trung th ực và không biết sợ.”

    “Ngay cả ở Phố Wall, n gười ta cũng nghĩ anh ấy là kẻ thô lỗ, đáng ghét và hiếu chi ến,” vợ củaEisman, Valerie Feigen nói. “Anh ấy không quan tâm đến cách cư xử. Tin tôi đi, tôi đã rất, rấtcố gắng.” Sau khi cô dẫn anh v ề nhà ra mắt lần đầu tiên, mẹ cô đã nói, “Ồ, chúng ta không thể dùng cậu ta nhưng hoàn toàn có thể bán đấu giá cậu ta t ại UJA.” Eisman được cho là có

    tài làm mất lòng người khác. “Anh ấy không thô lỗ một cách giả t ạo,” vợ anh gi ải thích. “Anhấy thô lỗ một cách chân thật. Anh ấy biết mọi người nghĩ anh ấy là người như thế nàonhưng anh ấy không nghĩ mình như vậy. Steven s ống theo cách riêng của mình.”

    Khi được hỏi về sự khó chịu mà anh thường để lại phía sau mình, Eisman trông như khônghiểu gì, thậm chí có chút như bị xúc phạm. “Có lúc, tôi quên cả chính bản thân mình,” anh trả lời với một cái nhún vai.

    Đây là giả thuy ết đầu tiên trong rất nhi ều giả thuy ết về Eisman: Anh ấy ch ỉ đơn thuần làquan tâm đến b ất cứ điều gì nảy ra trong đầu hơn là ai đang đứng trước mặt mình và mốiquan tâm thứ nhất luôn áp đảo cái còn lại. Giả thuy ết này đã giáng một đòn mạnh vàonhững người biết rõ Eisman là người không hoàn hảo. Mẹ của anh, Lillian, đã đưa ra giả thuy ết th ứ hai. “Trong Steven thực sự t ồn t ại 2 con người,” bà nói một cách thận tr ọng. Mộtlà cậu bé đã được bà mua cho chiếc xe đạp đời mới mà cậu rất khát khao, chỉ để cậu đạp xeđến Công viên Trung tâm, cho một đứa tr ẻ mà cậu chưa từng gặp m ặt mượn, và nhìn chiếcxe mất hút khỏi t ầm m ắt. Còn người còn lại là chàng thanh niên trẻ muốn nghiên cứu về Talmud, không phải bởi anh có chút quan tâm gì đến Chúa mà bởi anh r ất tò mò về nh ữngmâu thuẫn bên trong đó.

  • 8/19/2019 Bán khống

    13/156

    Với những thông tin thu thập được thì có vẻ Eisman là một nhân vật k ỳ lạ. Và anh cũng đếnPhố Wall vào đầu m ột giai đoạn k ỳ lạ. Th ị trường trái phiếu th ế chấp ra đời một th ập niêntrước đã mở rộng Ph ố Wall t ới một điểm mà nó chưa từng đến trước đó: các khoản n ợ củanhững người dân Mỹ bình thường. Lúc đầu, cỗ máy thị trường trái phiếu m ới ch ỉ quan tâmt ới nửa dân số Mỹ có khả năng thanh toán tốt hơn. Giờ đây, với việc mở rộng th ị trường tráiphiếu th ế chấp sang nhóm dân Mỹ có uy tín tín dụng th ấp hơn, nó đã tìm được ngu ồn nhiênliệu nằm trong nh ững món nợ của nửa còn lại có khả năng thanh toán kém hơn.

    Trái phiếu th ế chấp khác trái phiếu doanh nghi ệp và trái phiếu chính phủ kiểu cũ ở nh ữngkhía cạnh r ất quan tr ọng. Trái phiếu th ế chấp không phải là một kho ản vay l ớn có thời hạncố định rõ ràng. Một trái phiếu th ế chấp là một quy ền đối với các dòng tiền t ừ một r ổ gồmhàng ngàn khoản cho vay mua nhà có thế chấp. Những dòng tiền n ày luôn có vấn đề, bởingười vay có quyền tr ả hết bất cứ lúc nào họ mu ốn. Đây là lý do lớn nh ất duy nh ất mà cácnhà đầu tư trái phiếu ban đầu cảm th ấy rất miễn cưỡng khi đầu tư vào các khoản cho vaymua nhà có thế chấp: Những người đi vay các khoản vay cóthế chấp thường hoàn trả cáckho ản vay ch ỉ khi lãi suất giảm, và họ có thể đổi nợ với giá rẻ hơn, khiến chủ sở hữu tráiphiếu th ế chấp ph ải cầm m ột đống ti ền m ặt và đầu tư với lãi suất th ấp hơn. Nhà đầu tư vàocác khoản cho vay mua nhà có thế chấp không biết kho ản đầu tư của họ sẽ kéo dài được baolâu, chỉ biết rằng anh ta/cô ta sẽ nhận lại tiền của mình vào thời điểm họ ít mong muốnnhất. Để hạn chế sự không chắc chắn này, những người mà tôi từng làm việc cùng ở Salomon Brothers, nh ững người t ạo ra th ị trường trái phiếu th ế chấp, đã đưa ra một giảipháp thông minh. Họ lấy các rổ những kho ản cho vay mua nhà có thế chấp kh ổng lồ và chiacác khoản thanh toán của chủ nhà thành từng lát nhỏ, gọi là các tranche. Người mua trancheđầu tiên giống như chủ sở hữu t ầng tr ệt của m ột tòa nhà trong cơn lũ: Họ sẽ b ị nh ấn chìmbởi đợt sóng trả trước các khoản vay th ế chấp đầu tiên. Đổi lại, họ nhận được mức lãi suấtcao hơn. Những người mua tranche th ứ hai – t ầng 2 c ủa toà nhà – nh ận được đợt sóng trả trước tiếp theo và đổi lại, cũng nhận được mức lãi suất cao th ứ hai, v.v... Nhà đầu tư ở t ầngtrên cùng của tòa nhà nhận được lãi suất th ấp nh ất nhưng có sự đảm bảo lớn nh ất rằngkho ản đầu tư của họ sẽ không chấm dứt trước khi h ọ muốn.

    Nỗi sợ hãi lớn của nhà đầu tư trái phiếu th ế chấp trong nh ững năm 1980 là họ được hoàntrả quá nhanh, chứ không phải là không được hoàn trả. Các rổ gồm nh ững kho ản vay làm cơsở cho trái phiếu th ế chấp ph ải tuân thủ các tiêu chuẩn, cả về quy mô lẫn chất lượng tíndụng của người đi vay, được đưa ra bởi một trong các cơ quan của chính phủ: Freddie Mac,Fannie Mae và Ginnie Mae. Khi được chấp nh ận, các khoản vay này nhận được sự bảo lãnht ừ chính phủ; nếu chủ nhà vỡ nợ, chính phủ sẽ phải tr ả nợ thay. Khi Steve Eisman nh ảy vàongành tài chính chuyên biệt m ới mẻ và đang phát triển r ất nhanh chóng này, trái phiếu th ế

    chấp sắp được sử dụng theo cách mới: cho vay nh ững kho ản vay không đủ điều kiện để chính phủ bảo lãnh. Mục đích của việc này là mở rộng tín dụng đến các chủ hộ có uy tín tíndụng ngày càng thấp, không phải để họ có thể mua m ột ngôi nhà mà để họ có thể đổi thànhtiền mặt bất cứ giá trị chủ sở hữu nào mà họ có trong căn nhà của họ.

    Những trái phiếu th ế chấp được hình thành từ các khoản cho vay mua nhà dưới chu ẩn đãmở rộng logic, v ốn được phát minh ra nh ằm làm rõ vấn đề trả trước sớm, để đối phó vớivấn đề không hề trả trước chút nào. Nhà đầu tư ở t ầng tr ệt, hay tranche đầu tiên, sẽ dễ phải

  • 8/19/2019 Bán khống

    14/156

    đối mặt không phải với những kho ản tr ả trước mà là với những kho ản lỗ thực sự. Anh ta s ẽ phải gánh chịu nh ững kho ản thua l ỗ đầu tiên đến khi kho ản đầu tư của anh ta hoàn toàn bị xóa sổ, tiếp đến, thua l ỗ sẽ t ấn công anh chàng ở t ầng th ứ hai. Và cứ tiếp t ục như vậy.

    Vào đầu nh ững năm 1990, chỉ có hai nhà phân tích của Phố Wall làm công việc tìm hiểu ảnh

    hưởng của việc mở rộng tín dụng đến nh ững nơi không có đủ điều kiện vay ti ền. Đó là SteveEisman và Sy Jacobs. Jacobs cũng tham gia chương trình đào tạo của Salomon Brothers nhưtôi, và hiện làm việc cho m ột ngân hàng đầu tư nhỏ có tên là Alex Brown. “Tôi đã từng thamdự chương trình đào tạo của Salomon và được nghe v ề những điều mà mô hình chứngkhoán hóa mới tuy ệt vời do Lewie Ranieri t ạo ra s ẽ th ực hiện,” anh nhớ lại. (Ranieri đượccoi là cha đẻ của th ị trường trái phiếu th ế chấp.) Việc biến các khoản cho vay mu a nhà cóthế chấp thành trái phiếu có tác động vô cùng lớn. Nợ của người này luôn là tài sản củangười khác, nhưng hiện nay, ngày càng nhiều kho ản n ợ được biến thành những m ảnh gi ấymà bạn có thể bán cho bất cứ ai. Ch ỉ trong m ột th ời gian ng ắn, sàn giao dịch SalomonBrothers đã sinh ra các thị trường trái phiếu nh ỏ được đảm bảo bằng r ất nhi ều th ứ kì lạ: cáckho ản ph ải thu t ừ thẻ tín dụng, các hợp đồng cho thuê máy bay, các khoản vay mua xe ô tôphí câu lạc bộ chăm sóc sức khỏe. Giờ đây, để t ạo ra th ị trường m ới, ch ỉ cần tìm ra một loạitài sản cầm cố mới. Loại tài sản chưa được khai thác rõ ràng nhất ở Mỹ vẫn là nhà ở. Nhữngngười vay th ế chấp đầu tiên có một lượng lớn giá trị chủ sở hữu b ị ứ đọng trong nhà; tại saokhông chứng khoán hóa những giá trị chủ sở hữu chưa được khai thác này? Jacobs nói, “Xãhội vẫn kì thị khách hàng vay thế chấp th ứ hai và điều này thực sự không nên. Nếu đánh giátín dụng của bạn t ệ hơn, bạn ph ải tr ả nhi ều hơn. Nếu chúng tôi có thể biến trái phiếu thànhth ị trường đại trà, chúng tôi có thể giảm chi phí cho người vay. H ọ có thể thay th ế các khoảnnợ thẻ tín dụng lãi suất cao b ằng kho ản nợ vay có thế chấp lãi suất th ấp hơn. Và đó sẽ là lờitiên đoán tự trở thành hiện th ực.”

    Sự tương đồng ngày càng tăng giữa t ầng lớp giàu có và hạ lưu ở Mỹ được cho là có lợi chot ầng lớp hạ lưu ở Mỹ. Tính hiệu qu ả mới này trong các thị trường vốn sẽ cho phép tầng lớphạ lưu ở Mỹ trả lãi suất ngày càng thấp cho các khoản nợ của họ. Vào đầu nh ững năm 1990,những nhà cho vay thế chấp dưới chu ẩn đầu tiên – The Money Store, Greentree, Aames – đãbán cổ phi ếu ra công chúng để phát triển nhanh hơn. Đến giữa nh ững năm 1990, mỗi nămcó hàng tá các công ty cho vay tiêu dùng nhỏ gia nh ập th ị trường. Ngành cho vay dướichuẩn b ị phân mảnh. Do nh ững người cho vay bán lại rất nhi ều – dù không phải t ất cả – cáckho ản cho vay c ủa họ cho các nhà đầu tư khác dưới dạng trái phiếu th ế chấp, nên ngành nàyđầy rẫy các rủi ro v ề đạo đức. “Đó là ngành kinh doanh dễ kiếm tiền,” Jacobs nói. “Bất kìngành kinh doanh nào mà bạn c ó thể bán sản ph ẩm để kiếm ti ền nhưng không phải lo lắngvề việc sản ph ẩm đó hoạt động ra sao ch ắc chắn sẽ thu hút những k ẻ bẩn th ỉu. Eisman và tôi

    đều tin vào ý tưởng lớn đó và cả hai đều gặp m ột vài kẻ thực sự bẩn th ỉu. Đó là công việccủa chúng tôi: tìm ra nh ững người phù hợp có thể thực hiện thành công ý tưởng lớn đó.”

    Cho vay có thế chấp dưới chu ẩn vẫn ch ỉ chiếm m ột ph ần r ất nh ỏ trong th ị trường tín dụngMỹ – vài chục t ỉ cho vay m ỗi năm – nhưng sự t ồn t ại của nó lại rất có ý nghĩa, ngay cả vớiSteven E isman. “Tôi nghĩ đó là một ph ần câu trả lời cho s ự bất bình đẳng về thu nh ập ngàycàng gia tăng,” anh nói. “Sự phân chia thu nhập ở đất nước này vốn đã mất cân bằng và đangngày càng mất cân bằng, vậy nên, ngày càng có nhiều khách hàng dưới chu ẩn.” Tất nhi ên,

  • 8/19/2019 Bán khống

    15/156

    Eisman được tr ả tiền để nắm b ắt được ý nghĩa của việc cho vay dưới chu ẩn: Oppenheimernhanh chóng trở thành một trong nh ững ngân hàng hàng đầu trong ngành công nghiệp mớinày, một ph ần không nhỏ là nhờ có Eisman là một trong nh ững người khởi xướng ch ủ chốttrong đó. “Tôi đã biến rất nhi ều công ty dưới chu ẩn tr ở thành công ty đại chúng,” Eismannói. “Và câu chuyện mà họ thích kể là ‘chúng tôi đang giúp đỡ khách hàng. Bởi chúng tôi kéohọ ra kh ỏi kho ản nợ thẻ tín dụng lãi suất cao và đặt họ vào khoản nợ vay có thế chấp lãisuất th ấp hơn’. Và tôi tin câu chuyện này.” Rồi có thứ gì đó đã thay đổi.

    Vincent Daniel l ớn lên ở Queens, không có bất cứ đặc quy ền nào mà Steve Eisman coi làhiển nhiên. Song nếu bạn gặp họ, bạn có thể cho r ằng Vinny đã lớn lên trong xa hoa ở Đại lộ Park trong khi Eisman được nuôi dạy trong căn hộ ở ghép tại Đại lộ 82.. Eisman là kẻ trắngtrợn, phô trương và tập trung vào những phi v ụ lớn. Vinny l ại cẩn tr ọng, cảnh giác và ưathích các chi tiết. Anh còn trẻ tuổi, cơ thể cân đối với mái tóc đen, dày và điển trai, nhưngngoại hình của anh đã bị che lấp bởi nh ững bi ểu cảm lo lắng trên khuôn mặt. Anh không cógì để mất nhưng dường như lúc nào cũng lo lắng r ằng mình sắp m ất một th ứ gì đó rất quantrọng. Bố của Vinny đã bị sát hại khi anh cònnhỏ – dù không ai nói về chuy ện đó – còn mẹ anh là người giữ sổ sách ở một công ty giao dịch hàng hóa. Bà đã một mình nuôi dạy anh emVinny. Có thể là do mảnh đất Queens, có thể là do những gì đã xảy ra v ới người cha, ho ặc cóthể ch ỉ là do bản ch ất con người Vincent Daniel, nhưng anh luôn hồ nghi các đồng nghi ệpcủa mình. Với sự nể ph ục của m ột nhà vô địch dành cho một nhà vô địch vĩ đại hơn, SteveEisman đã nói, “Vinny là bóng tối.”

    Eisman là một đứa tr ẻ thu ộc t ầng lớp thượng lưu, người không mấy ngạc nhiên khi anhđược vào học t ại Penn thay vì Yale. Vinny là một đứa tr ẻ thu ộc t ầng lớp hạ lưu, có người mẹ luôn cảm th ấy t ự hào vì anh được nhận vào đại học dù đó là trường nào đi chăng nữa và cònt ự hào hơn khi, vào năm 1994, sau khi Vinny tốt nghi ệp SUNY-Bing hamton, anh đã tự mìnhxin được vào làm tại Arthur Andersen ở Manhattan, m ột công ty kế toán phá sản vài nămsau đó trong vụ bê bối Enron. “Lớn lên ở đất Queens này, bạn sẽ nhanh chóng biết nơi nàocó tiền,” Vinny nói. “Đó chính là Manhattan.” Nhiệm vụ đầu tiên của anh ở Manhattan v ớicương vị một nhân viên kế toán cấp th ấp là kiểm toán Salomon Brothers. Anh ngay lập t ứcbị choáng váng trước sự mờ ám trong sổ sách của một ngân hàng đầu tư. Không một k ế toán đồng s ự nào của anh có thể giải thích tại sao các nhân viên giao dịch lại làm những gìhọ đang làm. “Tôi không biết mình đang làm gì nữa,” Vinny nói. “Nhưng điều đáng sợ là cácsếp của tôi cũng chẳng bi ết gì. Tôi đã đặt ra nh ững câu hỏi cơ bản như, Tại sao h ọ lại sở hữutrái phiếu th ế chấp này? Liệu h ọ ch ỉ đang đặt cược trên nó, hay đó là một ph ần trong m ộtchiến lược lớn hơn? Tôi nghĩ mình cần ph ải biết. Thật khó để có thể kiểm toán một công tynếu bạn không thể tìm ra một bức tranh l ớn.”

    Anh cho r ằng ch ẳng có cách nào hiệu qu ả để một k ế toán viên được giao nhi ệm vụ kiểmtoán một công ty lớn ở Phố Wall có thể ch ỉ ra công ty đó đang lãi hay lỗ. Chúng là nhữnghộp đen khổng lồ với nh ững bánh răng được giấu kín đang chuyển động liên tục. Vài thángsau khi b ắt đầu đợt kiểm toán, sếp của Vinny đã quá ngán ngẩm trước những câu hỏi củaanh. “Ông ta không thể giải thích cho tôi. Ông ta nói, ‘Vinny, đó không phải việc của anh. Tôithuê anh để làm việc XYZ, hãy làm việc XYZ và câm miệng lại.’ Tôi bước ra kh ỏi văn phòngcủa ông ta và nói, ‘Tôi phải đi khỏi đây.’”

  • 8/19/2019 Bán khống

    16/156

    Vinn y tìm một công việc khác. Một người bạn học cũ của anh làm tại Oppenheimer and Co.đang kiếm được nhi ều ti ền. Anh ta đã nộp h ồ sơ của Vinny đến b ộ ph ận nhân sự, và nó đãđến tay Steve Eisman, người hóa ra cũng đang tìm kiếm ai đó giúp anh phân tích đưcnhững phương pháp kế toán ngày càng phức t ạp của nh ững người khởi t ạo ra các khoảncho vay th ế chấp dưới chu ẩn. “Tôi không biết cộng,” Eisman nói. “Tôi nghĩ về các câuchuy ện. Tôi cần người giúp tôi giải quy ết các con số.” Vinny nghe nói rằng Eisman r ất khótính và đã thực sự ngạc nhiên khi họ gặp m ặt vì Eisman dường như chỉ quan tâm đến việcliệu họ có thể hòa hợp với nhau không. “Anh ấy dường như chỉ chăm chú vào việc tìm đượcmột người đáng tin cậy,” Vinny nói. Họ gặp nhau l ần th ứ hai khi Eisman đột nhiêngọi điệntho ại cho Vinny. Vinny cho r ằng anh s ắp nh ận được đề ngh ị làm việc, nhưng khi họ vừa mớibắt đầu nói chuyện, Eisman nh ận được một cu ộc gọi khẩn cấp khác và Vinny phải chờ máy.Vinny ng ồi đợi 15 phút trong yên lặng, nhưng Eisman đã không bao giờ trả lời lại.

    Hai tháng sau, Eisman gọi lại cho anh h ỏi khi nào Vinny có thể bắt đầu công việc?

    Eisman không hề nhớ t ại sao anh l ại để Vinny ch ờ máy rồi không gọi lại như thế, cũng giốngnhư việc anh không nhớ t ại sao anh l ại vào nhà vệ sinh gi ữa bữa trưa với một v ị CEO cótiếng và cũng không trở lại. Vinny đã nhanh chóng tự tìm ra câu trả lời: Khi Eisman nh ậnđược cuộc gọi cắt ngang cu ộc nói chuyện giữa họ, anh hay tin Max, c ậu con trai đầu lòngvừa m ới sinh c ủa anh, đã qua đời. Một người y tá trực đêm đã lăn đè lên đứa tr ẻ khi cô tađang ngủ và khiến nó bị ngạt. 10 năm sau, những người thân thiết nh ất với Eisman đã nóirằng đó là một sự kiện đã làm thay đổi mối quan h ệ của anh v ới thế giới xung quanh.“Steven nghĩ rằng có một thiên thần luôn phù hộ anh ấy,” Valerie nói. “Không có bất cứ điềugì tồi t ệ t ừng xảy ra v ới Steven. Anh ấy được bảo vệ và an toàn. Sau khi Max ra đi, thiên thầnấy cũng biến m ất. Mọi điều t ồi t ệ có thể xảy ra b ất cứ lúc nào.” Từ đó, cô nhận th ấy nhi ềuthay đổi ở chồng mình, dù lớn hay nh ỏ, và Eisman cũng không phải là không đồng ý. “Từ góc nhìn lịch sử vũ trụ, sự ra đi của Max không phải là một vấn đề lớn,” Eisman nói. “Nhưngđó là một vấn đề rất lớn đối với riêng tôi.”

    Dù vậy, Vinny và Eisman không bao giờ nói về những gì đã xảy ra. T ất cả những gì Vinnybiết đó là Eisman mà anh đang làm việc cùng không hề giống m ột Eisman mà anh đã từnggặp trước đó vài tháng. Eisman mà Vinny đã từng ph ỏng vấn cùng, theo tiêu chuẩn của cácnhà phân tích Phố Wall, là người rất trung th ực. Anh không hoàn toàn là người bất hợp tác.Oppenheimer là một trong nh ững ngân hàng hàng đầu trong ngành công nghiệp cho vay th ế chấp dưới chu ẩn. Họ sẽ không bao giờ có được vị trí đó nếu Eisman, nhà phân tích ồn àonhất của họ, không sẵn sàng dành những lời có cánh cho họ. Cũng giống như việc anh thíchgiáng đòn vào các công ty kém hiệu qu ả, anh ch ấp nh ận rằng ngành công nghiệp cho vay

    dưới chu ẩn là một sự bổ sung h ữu ích cho nền kinh t ế Mỹ. Theo m ột cách nào đó, việc sẵnsàng tỏ ra thô lỗ với một vài người khởi xướng lo ại cho vay dưới chu ẩn này hóa ra lại rấthữu ích. Nó làm tăng uy tín cho các khuyến ngh ị của anh v ề những người khác.

    Eisman hi ện ngày càng trở nên nhạy cảm m ột cách tiêu cực, mà theo sếp anh, thì điều nàygây phản tác dụng về mặt tài chính. “Nó giống như việc anh ấy sẽ đánh hơi thấy điều gì đó,”Vinny nói. “Nhưng anh ấy cần tôi giúp xem anh ấy đã đánh hơi được cái gì.” Eisman muốnviết m ột bản báo cáo chỉ trích toàn ngành công nghiệp, nhưng anh cần ph ải thận tr ọng hơn

  • 8/19/2019 Bán khống

    17/156

    bình thường. “Bạn có thể thể hiện sự tích cực và nói sai về bên bán,” Vinny nói. “Nhưng nếubạn th ể hiện s ự tiêu cực và nói sai, bạn s ẽ b ị sa th ải.” Một vài tháng trước, anh nh ận đượctin t ức anh c ần t ừ Moody’s: Cơ quan xếp h ạng này hiện đang sở hữu và chào bán mọi loạithông tin mới về các khoản cho vay th ế chấp dưới chu ẩn. Dù cơ sở dữ liệu của Moody’skhông cho phép anh kiểm tra các khoản vay riêng lẻ, nhưng nó mang lại một bức tranh t ổngthể về các rổ bao g ồm nh ững kho ản cho vay làm bảo đảm cho các trái phiếu th ế chấp riênglẻ: lãi suất th ả nổi là bao nhiêu, bao nhiêu ngôi nhà được mua b ằng cách vay thế chấp đượcdùng để ở. Quan tr ọng nh ất: Bao nhiêu khoản vay không được tr ả nợ đúng hạn. “Cơ sở dữ liệu đây,” Eisman nói một cách đơn giản. “Hãy vào phòng đó. Đừng tr ở ra cho đến khi anhbiết được nó có nghĩa là gì.” Vinny có cảm giác rằng Eisman đã biết nó có nghĩa là gì.

    Vinny đã phải t ự lực cánh sinh. “Tôi mới ch ỉ 26 tu ổi,” anh nói, “và tôi còn không biết ch ứngkhoán có đảm bảo bằng th ế chấp th ực sự là cái gì.” Eisman cũng chẳng bi ết gì về chúng – anh ấy ch ỉ là một gã chơi cổ phi ếu, và Oppenheimer thậm chí còn không có cả bộ ph ận tráiphiếu. Vinny đành phải t ự mày mò học. Khi học xong, anh đã có được lời giải thích cho cáithứ mùi khó chịu bốc ra t ừ ngành công nghiệp th ế chấp dưới chu ẩn mà Eisman đã phát hiệnra. Nh ững công ty này chỉ công khai thu nhập ngày càng gia tăng của họ, ngoài ra không tiếtlộ gì thêm. Một trong nhi ều điểm mà họ không tiết lộ chính là tỉ lệ không trả nợ đúnghạn của các khoản vay mua nhà mà họ đang cho vay. Khi Eisman đã đặt máy ghi âm và nghetrộm được điều này thì họ lại giả vờ rằng nó chả liên quan gì cả, vì họ đã bán mọi kho ản vaycho nh ững người đóng gói chúng thành trái phiếu th ế chấp: Rủi ro không còn là của họ nữa.Điều này không đúng. Tất cả đều giữ lại một ph ần nh ỏ các khoản vay g ốc, và các công tyđược phép ghi giá trị tương lai kỳ vọng của các khoản vay này vào lợi nhu ận trong s ổ sách.Luật k ế toán cho phép họ giả định r ằng các khoản vay s ẽ được hoàn trả, và không phải b ị hoàn trả trước hạn. Giả định này trở thành động cơ cho số phận bất hạnh của họ.

    Điều đầu tiên đập vào mắt Vinny chính là tỉ lệ tr ả trước cao ng ất ở một khu v ực mang tên“nhà nhân tạo.” (“Nó nghe có vẻ khá hơn ‘nhà di động’”) Nhà di động khác với các loại tàsản không có bánh: Giống như ô tô, giá tr ị của chúng giảm ngay khi chúng được đưa ra khỏicửa hàng. Người mua nhà di động, không giống như người mua nhà bình thường, khômong s ẽ có thể đổi nợ trong vòng hai năm và lấy tiền ra. T ại sao h ọ lại tr ả trước quá nhanhnhư vậy? Vinny t ự hỏi. “Tôi thấy nó thật vô lý. Và rồi tôi phát hiện ra lý do các khoản thanhtoán sớm cao như vậy là do chúng mang tính không tự nguy ện.” “Trả trước không tự nguy ện” nghe khá hơn là “vỡ nợ”. Những người mua nhà di động đang không thể trả nợ đúng hạn, nhà của họ đang bị thu h ồi, và những người cho h ọ vay ti ền ch ỉ đang nhận đượcphần r ất nh ỏ của kho ản vay g ốc. “Cuối cùng, tôi thấy rằng t ất cả các khu vực cho vay dướichuẩn đều đang bị trả trước hoặc đang xấu đi với t ốc độ đáng kinh ngạc,” Vinny nói. “Tôi

    đang được chứng ki ến m ột t ỉ lệ không trả nợ đúng hạn r ất cao ở các rổ này.” Lãi suất củacác khoản vay này không đủ cao để tương xứng với rủi ro c ủa việc cho phân khúc dân số Mỹ đặc biệt này vay. Nó giống như thể là các quy tắc thông thường về tài chính đã bị hoãn lại để giải quy ết một vấn đề xã hội. Một ý nghĩ thoáng qua đầu anh ta: Làm thế nào để khiến ngườinghèo cảm th ấy giàu có với mức tiền lương không đổi? Hãy cho họ vay v ới giá rẻ.

    Anh m ất 6 tháng để sàng lọc mọi rổ vay th ế chấp dưới chu ẩn, nhưng khi hoàn thành, anh đãra kh ỏi phòng và báo tin cho Eisman. Tất cả các công ty cho vay dưới chu ẩn này đều đang

  • 8/19/2019 Bán khống

    18/156

    phát triển r ất nhanh, và sử dụng các phương thức k ế toán ngớ ngẩn đến m ức họ đã giấu đimột th ực t ế rằng h ọ không có lợi nhu ận th ực, mà tất cả ch ỉ là ảo, do k ế toán t ạo ra. H ọ sở hữu đặc điểm thi ết yếu của một mô hình Ponzi: Để duy trì ảo tưởng r ằng họ là những doanhnghi ệp sinh l ời, họ cần thêm nhiều vốn hơn nữa để t ạo ra ngày càng nhiều các khoản vaydưới chu ẩn. “Tôi không chắc chắn 100% r ằng tôi đúng,” Vinny nói, “nhưng tôi đã đến ch ỗ

    Steve và nói, ‘Điều này chẳng t ốt đẹp gì cả.’ Đó là tất cả những gì anh cần bi ết. Tôi nghĩ thứ anh c ần là bằng ch ứng để hạ điểm cổ phiếu.”

    Báo cáo của Eisman đã đả kích mọi nhà khởi xướng dưới chu ẩn; anh l ần lượt phơi bày sự lừa đảo của hàng tá các công ty. Anh nói, “đây là sự khác biệt giữa cái nhìn về thế giới mà họ trưng trước mắt bạn và các con số thực t ế.” Các công ty dưới chu ẩn không đánh giá cao nỗ lực của anh. “Anh ấy đã tạo ra m ột tr ận cu ồng phong,” Vinny nói. “Tất cả những công tydưới chu ẩn này đều gọi điện và la lối anh ấy: Mày sai rồi, số liệu của mày cũng vậy. Và anhấy cũng hét lại vào mặt h ọ, ‘Đấy là số liệu chết tiệt của BỌN MÀY!” Một trong nh ững lý dokhiến bản báo cáo của Eisman đụng ch ạm đến quá nhiều người là anh đã không đưa ra cảnhbáo phù hợp cho nh ững công ty mà anh xúc phạm. Anh đã vi phạm luật của Ph ố Wall. “Stevebiết điều đó chắc chắn sẽ t ạo bão,” Vinny nói. “Và anh ấy mu ốn t ạo bão. Anh ấy không muốnbị ngăn cản. Nếu anh c ảnh báo họ, t ất cả những người này sẽ ngăn cản anh làm việc đó.”

    “Trước đây, chúng ta không bao giờ có thể đánh giá được các khoản vay b ởi chúng ta khôngcó dữ liệu,” Eisman nói sau đó. “Tên tuổi của tôi đã gắn liền với ngành công nghiệp này.Danh ti ếng của tôi đã được xây dựng d ựa trên việc t heo dõi các cổ phiếu này. Nếu tôi sai, đósẽ là dấu chấm hết cho s ự nghi ệp của Steve Eisman.”

    Eisman công bố bản báo cáo của mình vào tháng 9 năm 1997, thời điểm giữa của m ột th ờikì có vẻ như là một trong nh ững cu ộc bùng nổ kinh t ế lớn nh ất trong l ịch sử Hoa Kỳ. Chưađầy một năm sau, Nga vỡ nợ và quỹ phòng hộ mang tên Long-Term Capital Management b ị phá sản. Sau đó, những nhà cho vay dưới chu ẩn đầu tiên bị t ừ chối cấp vốn và ngay lập t ứcđổ bể hàng loạt. Thất bại của họ được cho là một bản cáo trạng về cách họ áp dụng cácphương pháp kế toán, thứ cho phép họ ghi sổ các khoản lợi nhu ận trước khi chúng thànhhiện th ực. Theo như Vinny biết thì không một ai ngo ại trừ Vinny th ực sự hiểu được sự t ồi t ệ của các khoản cho vay mà họ đã thực hiện. “Tôi cảm th ấy vui khi th ị trường này vẫn có điểmkhông hiệu qu ả như vậy,” anh nói. “Bởi nếu th ị trường n ắm b ắt được mọi thứ, tôi có thể đãchọn sai ngh ề. Bạn không thể hiểu thêm bất cứ điều gì bằng cách quan sát vấn đề phức t ạpnày, vậy sao ph ải bận tâm cơ chứ? Nhưng tôi là người duy nh ất mà tôi biết đang theo dõicác công ty mà chắc chắn sẽ sụp đổ trong cu ộc bùng nổ kinh t ế lớn nh ất mà chúng ta từngđược chứng ki ến trong đời. Tôi biết n ền kinh t ế này đã hình thành ra sao và nó thực sự rất

    quái đản.” Một vài năm sau, Eisman thôi việc và xin làm cho một qu ỹ phòng hộ lớn mang tên ChiltonInvestment. Anh đã không còn hứng thú với việc mách những người khác nên đặt ti ền vàođâu nữa. Anh nghĩ anh thích việc t ự quản lý tiền và đánh cược dựa trên những phán đoáncủa bản thân hơn. Khi tuy ển dụng Eisman, Chilton Investment l ại có suy nghĩ khác. “Vấn đề về Steve,” một đồng nghi ệp t ại Chilton nói, “đó là anh ấy thực sự rất thông minh. Nhưng liệuanh ấy có thể chọn cổ phi ếu không?” Chilton đã quyết định r ằng anh không thể và sắp xếp

  • 8/19/2019 Bán khống

    19/156

    anh vào v ị trí cũ với công việc phân tích các công ty, hỗ trợ người thực sự đưa ra các quyếtđịnh đầu tư. Eisman không thích việc này, nhưng anh vẫn làm, và trong khi làm việc, anhhọc được những điều giúp anh có được sự chuẩn b ị độc nhất cho cu ộc khủng ho ảng sắpdiễn ra. Anh đã biết được nh ững gì thực sự đang diễn ra bên trong thị trường cho vay tiêudùng.

    Đó là năm 2002. Không còn công ty cho vay dưới chu ẩn đại chúng nào ở Mỹ. Tuy nhiên, cómột gã khổng lồ cho vay tiêu dùng lâu đời mang tên Household Finance Corporation. Đượcthành lập vào những năm 1870, công ty này từ lâu đã là người đi đầu trong lĩnh vực này.Eisman đã nghĩ anh hiểu rất rõ về công ty này cho đến khi anh nh ận ra r ằng không phải vậy.Đầu năm 2002, anh có được hồ sơ các giao dịch m ới của Hous ehold liên quan đến ho ạtđộng cung c ấp các khoản vay giá trị chủ sở hữu nhà. CEO của công ty, Bill Aldinger, đã lèolái Household phát triển ngay c ả khi các đối thủ cạnh tranh c ủa ông đều phá sản. Người Mỹ,vốn đang phải ch ịu đựng cu ộc kh ủng ho ảng Internet , có vẻ không ở vào vị th ế có thể gánhthêm các khoản n ợ mới, thế nhưng Household lại vẫn đang cung cấp các khoản vay v ới t ốcđộ nhanh chưa từng có. Sự tăng trưởng này bắt ngu ồn ph ần lớn t ừ kho ản th ế chấp th ứ hai.Hồ sơ cho vay có thời hạn 15 năm với lãi suất vay c ố định, nhưng nó được ngụy trang m ộtcách kì lạ thành khoản vay có thời hạn 30 năm. Nó lấy các khoản thanh toán mà chủ hộ tr ả cho Household trong vòng 15 năm để san m ột cách lý thuyết ra 30 năm và đặt câu hỏi: Nếubạn được thanh toán trong vòng 30 năm cùng một lượng ti ền mà thực t ế bạn đang thanhtoán trong 15 năm, thì “lãi suất th ực” là bao nhiêu? Đó là một lời rao hàng không trung thựcvà kỳ lạ. Họ nói rằng người vay s ẽ phải tr ả “lãi suất th ực là 7%” nhưng trong thực t ế, anh tasẽ phải tr ả kho ảng 12,5%. “Đó là trò gian lận tr ắng tr ợn,” Eisman nói. “Họ đang lừa ph ỉnhchính khách hàng của mình.”

    Eisman không mất quá nhiều th ời gian để tìm được các khiếu n ại t ừ nh ững người vay v ốnđã phát hiện ra trò gian lận đó. Anh lùng sục các tờ báo nhỏ trên cả nước. Tại th ị trấnBellingham, Washington, anh tìm được một phóng viên tên là John Stark của t ờ BellinghamNews. Trước khi Eisman b ất ngờ gọi điện cho anh ta, Stark đã viết một mẩu tin ng ắn về 4người dân địa phương, những người nghĩ rằng họ đã bị Household l ừa và tìm được một luậtsư nguyên đơn sẵn lòng kiện công ty và làm mất hi ệu lực các hợp đồng th ế chấp. “Lúc đầutôi còn hoài nghi,” Stark nói. “Tôi nghĩ, lại thêm một người nữa đã vay quá nhiều tiền vàmuốn thuê luật sư. Tôi không thông cảm với hoàn cảnh của họ lắm.” Khi mẩu tin được đăng,nó đã thu hút được dư luận: Hàng trăm người ở Bellingham và các khu vực xung quanh đóđã đọc báo và phát hiện ra r ằng kho ản th ế chấp 7% c ủa họ thực chất là 12,5%. “Mọi ngườithình lình xuất hiện,” Stark nói. “Họ rất t ức giận. Rất nhi ều người trong s ố họ đã không hề hay bi ết chuy ện gì đã xảy ra v ới mình.”

    Bất cứ điều gì Eisman định làm đều được đẩy đến đỉnh điểm. Anh chuyên tâm tập trungchống lại Household Finance Corporation. Anh thông báo cho cánh phóng viên báo chí, anhgọi cho nh ững tay vi ết cho các tạp chí, anh trở nên thân thiện với Hiệp hội các Tổ chức Cộngđồng vì Cải cách Đương đại (ACORN – Association of Community Organizations for ReformNow), đây là lần đầu tiên có một người đàn ông xuất thân từ một qu ỹ phònghộ ở Phố Wallthể hiện sự quan tâm tới một t ổ chức bảo vệ quyền lợi của người nghèo. Anh liên tục ghéqua văn phòng trưởng lý của bang Washington. Anh c ảm th ấy ngờ vực khi bi ết rằng viên

  • 8/19/2019 Bán khống

    20/156

    trưởng lý đã điều tra Household nhưng sau đó bị một th ẩm phán bang ngăn chặn việc côngbố k ết qu ả điều tra. Eisman thu th ập được một bản sao tài liệu và nội dung c ủa nó đã xácnhận nh ững nghi v ấn t ồi t ệ nhất của anh. “Tôi nói với cái gã đang ngồi trong văn phòngchưởng lý rằng, ‘Tại sao ông không bắt giữ những người này?’ Ông ta nói, ‘Họ là một công tyquy ền lực. Nếu họ sụp đổ, ai sẽ là người cung c ấp các khoản vay dưới chu ẩn t ại bang

    Washington?’ Tôi nói, ‘Tin tôi đi, sẽ có đầy người sẵn sàng làm việc đó.’” Thực sự, đây là một vấn đề liên bang. Household đang rao bán các khoản th ế chấp lừa đảotrên toàn nước Mỹ. Nhưng chính phủ liên bang vẫn không có động thái gì. Thay vào đó, cuốinăm 2002, Household đã giải quy ết ổn th ỏa một vụ kiện bên ngoài tòa án và đồng ý trả 484tri ệu đô-la ti ền ph ạt cho 12 bang. M ột năm sau đó, nó bán công ty kèm theo danh mục cáckho ản vay dưới chu ẩn kh ổng lồ với giá 15,5 tỉ đô-la cho m ột t ập đoàn tài chính của Anhmang tên HSBC Group.

    Eisman đã thực sự bị sốc. “Tôi không bao giờ nghĩ điều này có thể xảy ra,” anh nói. “Đâykhông chỉ đơn thuần là lại một công ty nữa – mà là một công ty cho vay dưới chu ẩn lớn nh ấtt ừ trước đến giờ. Và nó đã tham gia vào trò gian lận tr ắng tr ợn. Đáng ra phải đuổi việc tênCEO và treo cổ hắn. Thế mà thay vào đó, chúng đã bán công ty còn tên CEO đút túi 100 triệuđô-la. Và tôi nghĩ, Ôi! Đây không phải là cái kết đáng ra phải có.” Sự bi quan c ủa anh đối vớihệ thống tài chính cao cấp đang dần b ị nhu ốm màu bởi các ý tưởng chính trị. “Đó là khi tôibắt đầu th ấy được nh ững tác động xã hội,” anh nói. “Nếu bạn định khai sinh ra m ột ch ế độ cai tr ị t ừ con s ố 0, hãy thiết k ế nó sao cho nó có thể bảo vệ được nh ững người dân có thunhập t ừ t ầm trung đến th ấp, bởi khả năng họ bị lừa dối là quá cao. Nhưng thay vào đó,chúng ta lại đang có một chế độ mà ở đó, nhân dân là những người ít được bảo vệ nhất.”

    Một câu chuyện cổ tích đang được dựng lại trước mắt anh trong th ị trường tài chính. “Tôibắt đầu tìm hiểu k ỹ hơn xem hoạt động cho vay th ế chấp dưới chu ẩn th ực sự là gì,” anh nói.“Ở vài phương diện nào đó, một kho ản cho vay mua xe dưới chu ẩn có tính trung thực bởilãi suất của nó cố định. Họ có thể tính phí bạn cao ng ất ngưởng, nhưng ít nhất bạn bi ết điềuđó. Còn các khoản vay th ế chấp dưới chu ẩn là trò lừa đảo. Về cơ bản, bạn kéo ai đó vào tròlừa đảo này bằng cách nói với họ rằng, ‘Anh/chị sẽ thanh toán được hết mọi kho ản vay kháccủa mình – nợ thẻ tín dụng, vay mua xe – bằng việc vay m ột kho ản này. Hãy nhìn mức lãisuất th ấp này xem!’ Nhưng lãi suất th ấp đó không phải là lãi suất th ực t ế.”

    Bị ám ảnh b ởi Household, anh đã tham gia một bữa ăn trưa do một công ty lớn ở Phố Wallt ổ chức. Diễn giả chính là Herb Sandler, CEO của một qu ỹ tiết kiệm và cho vay khổng lồ mang tên Golden West Financial Corporation. “Một ai đó đã hỏi anh ta r ằng liệu anh ta cótin vào mô hình séc miễn phí,” Eisman nhớ lại. “Và anh ta nói, ‘Tắt máy ghi âm của cácanh/ch ị đi.’ Mọi người t ắt hết máy ghi âm của mình. Và anh ta giải thích rằng h ọ tránh sử dụng séc miễn phí bởi đó thực sự là loại thu ế đánh vào người nghèo – dưới dạng ti ền ph ạtdo rút quá số tiền trong tài khoản séc của họ. Và rằng các ngân hàng sử dụng nó thực sự ch ỉ đang hoạt động ngân hàng dựa trên khả năng ‘ăn cướp’ của người nghèo nhiều hơn mức họ có thể nếu tính phí séc.”

    Eisman h ỏi, “Có nhà làm luật nào quan tâm đến điều này không?”

  • 8/19/2019 Bán khống

    21/156

    “Không,” Sandler đáp.

    “Đó là khi tôi khẳng định r ằng hệ thống này thực sự, ‘Làm trò bẩn th ỉu với người nghèo.’”

    Khi CEO của Household, Bill Aldinger, ki ếm được 100 tri ệu đô-la, thì Eisman đang trên hành

    trình trở thành người theo ch ủ nghĩa xã hội đầu tiên của th ị trường tài chính. “Khi bạn làmột thành viên Đảng Cộng hòa bảo th ủ, bạn không bao giờ nghĩ người ta đang kiếm tiềnbằng cách bóc lột người khác,” anh nói. Tư tưởng của anh hi ện hoàn toàn cởi mở với khả năng này. “Hiện t ại, tôi nhận ra r ằng có hẳn m ột ngành công nghiệp , mang tên tài chính tiêudùng, mà về cơ bản là tồn t ại bằng cách bóc lột người khác.”

    Bị người quản lý quỹ phòng hộ t ừ chối cơ hội qu ản lý tài chính, anh bỏ việc và tìm cách mở quỹ phòng hộ riêng. Một hãng có tên là FrontPoint Partners – hãng này sẽ nhanh chóngthu ộc quy ền sở hữu hoàn toàn của Morgan Stanley – là ông chủ của một bộ sưu tập các quỹ phòng hộ. Vào đầu năm 2004, Morgan Stanley đồng ý để Eisman thành lập m ột qu ỹ ch ỉ t ậptrung vào các công ty tài chính: các ngân hàng Phố Wall, các nhà thầu xây dựng, các nhà

    khởi t ạo th ế chấp, các công ty có bộ phận d ịch vụ tài chính lớn – ví dụ như General Electric(GE) – và bất cứ ai liên quan đến tài chính Mỹ. Họ cung c ấp cho anh văn phòng, đồ nội th ấtvà nhân viên hỗ tr ợ. Thứ duy nh ất anh không nhận được là tiền. Họ k ỳ vọng anh s ẽ t ự huyđộng được nó. Anh đã đi khắp th ế giới, và gặp gỡ hàng trăm nhà đầu tư lớn. “Về cơ bản,chúng tôi đã rất cố gắng gọi vốn, nhưng không thực sự thành công,” anh nói. “Tất cả mọingười đều nói, ‘Thật vinh d ự được gặp anh. Hãy xem anh làm thế nào nào.’”

    Vào mùa xuân năm 2004, anh thực sự lo lắng. Anh đã không gọi được vốn. Anh không hề tinrằng th ế giới này công bằng, m ọi thứ rồi sẽ t ốt đẹp, hay s ẽ có một sự bảo vệ đặc biệt nào đóche ch ở anh kh ỏi các tai nạn của cu ộc đời. Anh th ức dậy vào 4 giờ sáng, người đầm đìa mồ hôi. Anh vẫn đang trong giai đoạn điều tr ị. Tuy nhiên, anh vẫn là Eisman và vì vậy đó khôngphải là phương pháp điều tr ị thông thường. Nó được gọi là “nhóm làm việc.” Những ngườichuyên nghiệp sẽ gặp gỡ một bác sỹ tâm lý được đào tạo để chia s ẻ về các vấn đề của họ trong m ột môi trường an toàn. Eisman sẽ đột ng ột xuất hiện vào cuối các cuộc gặp mặt này,nói liên tục về bất cứ điều gì khiến anh phi ền não, và sau đó lao vọt ra ngoài trước khinhững người khác có cơ hội chia s ẻ với anh v ề những v ấn đề của họ. Sau m ột vài lần nhưvậy, v ị bác sỹ điều tr ị đã nói điều gì đó với anh, nhưng có vẻ như anh đã không hề nghe cônói. Vì vậy, cô phải gọi điện cho v ợ Eisman, người mà cô biết, để đề ngh ị cô ấy nói chuyệnvới chồng mình. Điều này cũng không có tác dụng. “Tôi luôn biết khi nào anh ấy đến gặpnhóm,” Valerie nói, “bởi cô ấy sẽ gọi điện tho ại và nói, ‘Anh ấy lại thế rồi!’”

    Valerie rõ ràng đã rất m ệt m ỏi với vòng luẩn qu ẩn này. Cô nói với Eisman r ằng n ếu vụ Phố Wall này không thành công, họ sẽ rời New York đến Rhode Island và mở một nhà trọ nh ỏ.Valerie đã tìm hiểu các địa điểm và thường xuyên nói về việc cô muốn dành thêm thời giancho 2 đứa con sinh đôi, hay thậm chí là nuôi gà. Thật khó để Eisman và cả những người biếtanh cóthể tưởng tượng ra c ảnh anh s ẽ ‘về vườn’ và nuôi gà, nhưng anh đã đồng ý. “Anh ấykhông thích ý tưởng đó,” vợ anh nói, “đến mức anh ấy bắt đầu làm việc chăm chỉ hơn.”Eisman đi khắp châu Âu và nước Mỹ để tìm kiếm người sẵn sàng đầu tư với anh và đã tìmthấy một t ổ chức duy nh ất: m ột công ty bảo hiểm, đầu tư cho anh 50 triệu đô-la. Số tiền đó

  • 8/19/2019 Bán khống

    22/156

    không đủ để t ạo dựng được một qu ỹ đầu tư cổ phiếu bền vững, nhưng đó là một sự khởiđầu.

    Thay vì tiền, Eisman đã thu hút những người cũng nhìn thế giới dưới con m ắt bi quan gi ốnganh. Vinny đã xuất hiện ngay l ập t ức. Porter Collins, người t ừng làm việc với Eisman t ại

    Chilton Investment và lúc nào cũng thắc mắc t ại sao m ột gã đầy ắp nh ững ý tưởng tuy ệt vờinhư thế này lại không được trao thêm quyền, cũng đến gia nh ập. Dan ny Moses, nhân viêngiao d ịch đứng đầu của Eisman, là người th ứ ba tham gia. Danny t ừng làm nhân viên kinhdoanh t ại Oppenheimer and Co. và vẫn nh ớ những gì Eisman đã làm và nói mà các nhà phântích bên bán hiếm khi th ực hiện được. Ví dụ, vào giữa ngày giao d ịch, Eisman s ẽ bước đếnbục phát biểu ở giữa sàn giao dịch của Oppenheimer, kêu gọi sự chú ý của mọi người, thôngbáo rằng “8 cố phi ểu sau s ẽ về mức 0,” và sau đó liệt kê ra 8 công ty mà thực sự đã phá sản.Lớn lên ở Georgia, là con trai của một giáo sư về tài chính, Danny không có khiếu thiên bẩmhơn Vinny hay Steve, nhưng anh cũng cho rằng nh ững điều t ồi t ệ có thể và chắc chắn sẽ xảyra, đặc biệt là ở Phố Wall. Khi m ột công ty Phố Wall giúp anh tham gia một giao d ịch gầnnhư hoàn hảo về mọi mặt, anh đã hỏi nhân viên kinh doanh rằng, “Tôi đánh giá rất cao vi ệcnày, nhưng tôi chỉ muốn biết một điều: Các anh định chơi tôi như thế nào?”

    Ha ha, thôi nào, chúng tôi sẽ không bao giờ làm điều đó, người nhân viên kinh doanh bắtđầu nói, nhưng Danny vẫn kiên quyết dù rất lịch sự.

    Chúng ta đều biết rằng nh ững điều t ốt đẹp tr ọn vẹn giống như giao dịch này không chỉ diễnra gi ữa các quỹ phòng hộ nhỏ và những công ty lớn Ph ố Wall. Tôi sẽ làm, nhưng chỉ sau khianh gi ải thích hết với tôi anh định chơi tôi như thế nào. Và nhân viên kinh doanh buộc ph ảigiải thích ý định của mình với Danny. Và Danny đã thực hiện giao d ịch.

    Tất cả mấy người họ đều vô cùng thích thú với ý tưởng được quản lý tiền cùng SteveEisman. Làm việc cho Eisman, b ạn không bao giờ cảm th ấy mình đang làm việc cho Eisman.Anh ấy sẽ hướng d ẫn bạn nhưng sẽ không giám sát bạn. Eisman cũng luôn nói thẳng ranhững s ự ngu xu ẩn mà họ th ấy kh ắp nơi xung quanh mình. “Steve luôn hài hước khi thamdự bất cứ cuộc họp nào của Ph ố Wall,” Vinny nói. “Anh ấy sẽ nói ‘giải thích điều đó cho tôi’30 l ần khác nhau. Hoặc ‘anh có thể giải thích điều đó thêm không, bằng ti ếng Anh?’ Mỗi lầnbạn làm điều đó, bạn sẽ học được vài điều. Lúc mới đầu, bạn sẽ băn khoăn không biết họ cóhiểu nh ững gì họ đang nói hay không. Và thường là họ không hề hiểu!”

    Vào đầu năm 2005, nhóm nhỏ của Eisman đều cho r ằng r ất nhi ều người làm việc ở Phố Wall không hiểu họ đang làm gì. Cỗ máy thế chấp dưới chu ẩn được nâng lên và vận hành lại,như thể nó chưa bao giờ b ị hỏng hóc từ đầu. Nếu kiểu cho vay dưới chu ẩn ban đầu th ực sự k ỳ quái, thì hồi sau nó lại rất đáng sợ. Vào giữa nh ững năm 1990, với 30 t ỉ đô-la, đó là mộtnăm lớn đối với ho ạt động cho vay dưới chu ẩn. Vào năm 2000, có 130 tỉ đô-la cho vay th ế chấp dưới chu ẩn, và 55 tỉ đô-la giá trị của nh ững kho ản vay này được đóng gói lại thành tráiphiếu th ế chấp. Vào năm 2005, có 625 tỉ đô-la vay th ế chấp dưới chu ẩn, 507 t ỉ đô-la trongsố này dưới dạng trái phiếu th ế chấp. 500 t ỉ đô-la dưới dạng trái phiếu đảm b ảo bằng th ế chấp dưới chu ẩn trong m ột năm duy nhất. Cho vay dưới chu ẩn đang bùng nổ ngay c ả khi lãisuất đang tăng – điều này cực k ỳ vô lý. Điều còn sốc hơn nữa là các điều kho ản của kho ản

  • 8/19/2019 Bán khống

    23/156

    vay đang thay đổi theo chi ều hướng làm tăng khả năng khoản vay s ẽ xấu đi. Quay lại năm1996, 65% các khoản vay dưới chu ẩn có lãi suất cố định, có nghĩa là những người đi vaydưới chu ẩn điển hình có thể đang bị vắt kiệt, nhưng ít nhất họ biết chắc mỗi tháng họ nợ bao nhiêu tiền cho đến khi h ọ trả hết kho ản vay. Đến năm 2005, 75% các khoản vay dướichuẩn ở dạng lãi suất th ả nổi và thường ch ỉ cố định trong 2 năm đầu.

    Đội ngũ những nhà tài chính dưới chu ẩn ban đầu đã bị nhấn chìm bởi một ph ần nh ỏ cáckho ản vay mà họ thực hiện vẫn được lưu trong sổ sách. Thị trường đáng ra đã phải họcđược một bài học đơn giản: Đừng cho nh ững người không thể tr ả nợ vay ti ền. Nhưng thayvào đó, nó lại học được một bài học ph ức t ạp: Bạn có thể tiếp t ục cho vay, nhưng đừng giữ chúng trên sổ sách của bạn. Hãy cho vay, sau đó bán hết chúng cho bộ phận thu nh ập cố định của các ngân hàng đầu tư lớn ở Phố Wall. Các ngân hàng này sẽ lần lượt đóng góichúng thành trái phiếu và bán chúng cho các nhà đầu tư. Long Beach Savings là ngân hàđầu tiên áp dụng nh ững gì được gọi là mô hình “khởi t ạo và bán”. Điều này minh chứng chomột sự thật phũ phàng – Phố Wall s ẽ mua các khoản vay c ủa bạn, ngay c ả khi b ạn còn khôngmuốn mua chúng! – đến mức mà một công ty mới, mang tên Công ty Thế chấp B&C, đã đượcthành lập với mục đích duy nhất là khởi t ạo và bán. Lehman Brothers nghĩ rằng việc muaThế chấp B&C là một ý tưởng tuy ệt vời. Vào đầu năm 2005, mọi ngân hàng đầu tư lớn ở Phố Wall đều đắm chìm vào trò chơi dưới chu ẩn. Bear Stearns, Merrill Lynch, Goldman Sachs vàMorgan Stanley đều có “những k ệ” bày các loại hàng hóa dưới chu ẩn của mình với nhữngcái tên kì lạ như HEAT, SAIL và GSAMP, khiến khán giả bình dân gặp khó khăn trong việcnhận ra nh ững trái phiếu dưới chu ẩn này được bảo lãnh ph