98
NTTULIB TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM HUẾ DỰ ÁN HỢP TÁC VIỆT NAM – HÀ LAN BÀI GIẢNG KHÍ TƯỢNG NÔNG NGHIỆP Người biên soạn: ThS. Nguyễn Ngọc Truyền Huế, 08/2009 http://elib.ntt.edu.vn

BÀI GIẢNG KHÍ TƯỢNG NÔNG NGHIỆP NTTULIB - …dspace.elib.ntt.edu.vn/dspace/bitstream/123456789/6266/1... · 2012-12-04 · chúng tôi đã biên soạn cuốn bài giảng

  • Upload
    hanhu

  • View
    218

  • Download
    4

Embed Size (px)

Citation preview

Page 1: BÀI GIẢNG KHÍ TƯỢNG NÔNG NGHIỆP NTTULIB - …dspace.elib.ntt.edu.vn/dspace/bitstream/123456789/6266/1... · 2012-12-04 · chúng tôi đã biên soạn cuốn bài giảng

NTTULIB

TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM HUẾ

DỰ ÁN HỢP TÁC VIỆT NAM – HÀ LAN

BÀI GIẢNG

KHÍ TƯỢNG NÔNG NGHIỆP

Người biên soạn: ThS. Nguyễn Ngọc Truyền

Huế, 08/2009

http://elib.ntt.edu.vn

Page 2: BÀI GIẢNG KHÍ TƯỢNG NÔNG NGHIỆP NTTULIB - …dspace.elib.ntt.edu.vn/dspace/bitstream/123456789/6266/1... · 2012-12-04 · chúng tôi đã biên soạn cuốn bài giảng

NTTULIB

http://elib.ntt.edu.vn

Page 3: BÀI GIẢNG KHÍ TƯỢNG NÔNG NGHIỆP NTTULIB - …dspace.elib.ntt.edu.vn/dspace/bitstream/123456789/6266/1... · 2012-12-04 · chúng tôi đã biên soạn cuốn bài giảng

NTTULIB

1

LỜI NÓI ĐẦU

Khí tượng nông nghiệp là môn học cơ sơ rất quan khối của một số ngành nông

học đã được giảng dạy ở các trường đại học nông- lâm nghiệp của nhiều nước. Môn học

này trang bị kiến thức về khí hậu, thời tiết, sự tác động qua lại của chúng đối với cây

trồng, vật nuôi,… là đối tượng của sản xuất nông nghiệp. Các yếu tố khí tượng là

những yếu tố môi trường quan khối trong các hệ sinh thái. Ngoài ra, khí hậu, thời tiết

còn chi phối tới hiệu quả của các biện pháp kỹ thuật nông- lâm nghiệp.

Khí hậu Việt Nam là nguồn tài nguyên quý giá đòi hỏi việc sử dụng và khai thác

hợp lý mới mang lại hiệu quả kinh tế cao, bảo vệ môI trường sinh thái bền vững và

phát triển.

Xuất phát từ vị trí quan khối của môn học và mục tiêu đào tạo của trường đại học

và cao đẳng nông nghiệp nhằm giúp người học hiểu và nắm vững một số kiến thức về

các yếu tố thời tiết cơ bản ảnh hưởng đển quá trình sản xuất nông nghiệp, mối quan hệ

của các yếu tố thời tiết đến cây trồng, vật nuôi. Trên cơ sở đó khuyến cáo với người

nông dân những biện pháp phòng chống hoặc né tránh những yếu tố thời tiết bất lợi,

đồng thời sử dụng hợp lý những yếu tố thời tiết có lợi nhằm giúp cây trồng, vật nuôi

sinh trưởng, phát triển thuận lợi và cho năng suất cao.

Được sự giúp đỡ của Trường Đại học Nông Lâm Huế, khoa Nông học, dự án Nuffic

chúng tôi đã biên soạn cuốn bài giảng “Khí tượng nông nghiệp”. Do thời gian hạn chế

nên cuốn sách khó tránh được khuyết điểm. Chúng tôi rất mong được sự đóng góp ý

kiến của quý thầy, cô giáo và đọc giả để lần tái bản sau được tốt hơn.

Người biên soạn

Nguyễn Ngọc Truyền

http://elib.ntt.edu.vn

Page 4: BÀI GIẢNG KHÍ TƯỢNG NÔNG NGHIỆP NTTULIB - …dspace.elib.ntt.edu.vn/dspace/bitstream/123456789/6266/1... · 2012-12-04 · chúng tôi đã biên soạn cuốn bài giảng

NTTULIB

2

BÀI MỞ ĐẦU KHÍ TƯỢNG NÔNG NGHIỆP

1. Khái niệ m khí tượng nông nghiệp. Khí tượng nông nghiệp là một ngành khoa học nghiên cứu tất cả các điều kiện khí tượng, khí hậu, thuỷ văn và sự phối hợp của chúng đối với các đối tượng và quá trình sản xuất nông nghiệp. Khí tượng nông nghiệp trong cơ cấu của mình chính là ngành khoa học của sự quan hệ có tính quy luật của sự thay đổi của các yếu tố thời tiết, khí hậu đối với các yếu tố nông nghiệp, đồng thời nghiên cứu những yếu tố đặc biệt của thời tiết thường xảy ra có ảnh hưởng trực tiếp đến cây trồng, vật nuôi. Thời tiết là trạng thái của khí quyển được đặc trưng bởi một tập hợp các yếu tố khí tượng xảy ra trên một phạm vi nhất định và trong một khoảng thời gian nhất định. Nói cách khác, thời tiết là trạng thái hàng ngày của khí quyển, bao gồm những biến đổi năng lượng ngắn hạn và sự trao đổi chung bên trong bầu khí quyển, cũng như giữa mặt đất và không khí bên trên nó, nhằm cân bằng sự phân bố khác của bức xạ mặt trời. Khí hậu là sự tiếp diễn có quy luật của các quá trình khí quyển được tạo thành ở một nơi nhất định do kết quả tác động qua lạ i của 3 nhân tố: bức xạ mặt trời, hoàn lưu khí quyển và mặt đệm. Như vậy, tất cả các yếu tố khí tượng, khí hậu, thuỷ văn đều ảnh hưởng đến quá trình sống, ảnh hưởng đến sinh trưởng, phát triển, năng suất, chất lượng sản phẩm của cây trồng, vật nuôi. Các yếu tố trên đóng vai trò hết sức quan khối trong quá trình sản xuất nông nghiệp.

Ngành khí tượng nông nghiệp có liên quan chặt chẽ với các phân ngành khí tượng khác như khí tượng học, khí tượng dự báo, khí tượng cao không, khí hậu học, ... Ngoài ra, nó còn có quan hệ với các ngành khác như vật lý học, nông hoá thổ nhưỡng, sinh lý, sinh hoá, thuỷ nông và hầu hết các ngành khác của khoa học nông nghiệp. 2. Đối tượng, mục đích và nhiệm vụ của môn Khí tượng Nông nghiệp. 2.1. Đối tượng: Đối tượng nghiên cứu của ngành khí tượng nông nghiệp chính là nghiên cứu tác động qua lại giữa cây trồng hoặc các đối tượng khác của nông nghiệp cùng với điều kiện thời tiết, khí hậu. 2.2. Mục đích: Mục đích chủ yếu của Khí tượng nông nghiệp là giúp đỡ nông nghiệp lợi dụng hợp lý các điều kiện thời tiết và khí hậu nhằm để thu được sản lượng cao, vững chắc đối với cây trồng và phát triển thuận lợi ngành chăn nuôi.

http://elib.ntt.edu.vn

Page 5: BÀI GIẢNG KHÍ TƯỢNG NÔNG NGHIỆP NTTULIB - …dspace.elib.ntt.edu.vn/dspace/bitstream/123456789/6266/1... · 2012-12-04 · chúng tôi đã biên soạn cuốn bài giảng

NTTULIB

3

2.3. Nhiệm vụ: Khí tượng nông nghiệp là một môn khoa học nghiên cứu ảnh hưởng của điều kiện khí tượng, khí hậu thuỷ văn đối với sản xuất nông - lâm - ngư nghiệp. Nghiên cứu các biện pháp khai thác và bảo vệ nguồn tài nguyên khí hậu phục vụ sản xuất và đời sống. Để đạt được mục tiêu đó, khí tượng nông nghiệp tiến hành nghiên cứu các vấn đề sau đây: - Nghiên cứu tính quy luật của sự thay đổi các yếu tố khí tượng, khí hậu, thuỷ văn theo thời gian, không gian nhất định trong những vùng địa lý nhất định, có ảnh hưởng trực tiếp đến cây trồng. - Nghiên cứu những phương pháp đánh giá ảnh hưởng các yếu tố khí tượng lên sự sinh trưởng, phát triển, trạng thái cây trồng, chất lượng sản phẩm, sự lây lan của sâu bệnh,... - Nghiên cứu các phương pháp dự báo Khí tượng Nông nghiệp kịp thời chính xác, đưa ra những biện pháp kỹ thuật nhằm hạn chế hoặc loại trừ các yếu tố bất lợi của thời tiết đối với cây trồng. - Đánh giá tài nguyên khí hậu của từng vùng, khả năng đảm bảo của điều kiện khí hậu đối với từng loại cây trồng, vật nuôi, trên cơ sở đó phân vùng khí hậu nông nghiệp cho phù hợp. - Nghiên cứu các biện pháp phòng chống thiên tai và ô nhiễm môi trường. 3. Các phương pháp nghiên cứu. Các phương pháp nghiên cứu của ngành Khí tượng Nông nghiệp dựa trên một số định luật cơ bản để vạch ra các phương pháp nghiên cứu. - Định luật yếu tố cân bằng (định luật không thay thế). Bản chất của định luật là không một yếu tố nào từ những yếu tố cần thiết cho sự sinh trưởng và phát triển của cây (ánh sáng, nhiệt độ, ẩm độ, nước) có thể thay thế bằng một yếu tố khác, tất cả chúng đều không thiếu được trong đời sống của cây. - Định luật giá trị không giống nhau (không như nhau): Giá trị của các yếu tố môi trường tác động lên cây trồng phân ra thành những yếu tố chủ yếu và những yếu tố thứ yếu. + Những yếu tố chủ yếu là những yếu tố không thể thiếu được và ảnh hưởng mạnh đến cây trồng. + Những yếu tố thứ yếu là những yếu tố đóng vai trò phụ, gián tiếp điều chỉnh tác động chính, chúng thúc đẩy hoặc làm yếu những tác động của yếu tố chính. - Định luật tối thấp (hay những yếu tố giới hạn). Khi không thay đổi những điều kiện khác thì mức độ của năng suất phụ thuộc vào những yếu tố mà những yếu tố này nằm trong giới hạn thấp.

http://elib.ntt.edu.vn

Page 6: BÀI GIẢNG KHÍ TƯỢNG NÔNG NGHIỆP NTTULIB - …dspace.elib.ntt.edu.vn/dspace/bitstream/123456789/6266/1... · 2012-12-04 · chúng tôi đã biên soạn cuốn bài giảng

NTTULIB

4

- Định luật tối thích (hay tác động tổng hợp của các điều kiện). Theo định luật này sản lượng cao nhất của cây trồng chỉ đạt được khi có sự phối hợp tốt nhất của các yếu tố khác nhau (ánh sáng, nhiệt độ, ẩm độ, mưa,...) khi không ngừng nâng cao các biện pháp kỹ thuật nông nghiệp. - Định luật giai đoạn khủng hoảng. Giai đoạn khủng hoảng nằm trong một giai đoạn sống nào đó của cây trồng, đặc biệt mẫn cảm với một số điều kiện nhất định nào đó của mội trường như ẩm độ, nhiệt độ, ánh sáng,... Khi tiến hành công tác nghiên cứu về khí tượng nông nghiệp thường dùng nhiều phương pháp khác nhau, trong đó hay dùng nhất phương pháp sau đây: 3.1. Phương pháp quan trắc song song: Phương pháp này là phương pháp cơ bản của quan trắc khí tượng nông nghiệp. Theo phương pháp này người ta tiến hành đồng thời (song song) quan sát các yếu tố cây trồng với sự thay đổi các yếu tố khí tượng như nhiệt độ, mưa, nắng, ẩm độ,.... Sau đó tìm mối quan hệ giữa điều kiện thời tiết với cây trồng.

Mục đích nhằm xác định thời vụ thích hợp hoặc xác định các ngưỡng yêu cầu khí hậu của cây trồng. - Ưu điểm: phương pháp này là có thể trực tiếp nghiên cứu ảnh hưởng của yếu tố khí tượng đối với cây trồng trong điều kiện tự nhiên.

- Nhược điểm: trong quá trình nghiên cứu phương pháp này không thể làm thay đổi và điều tiết điều kiện thời tiết. Cho nên, muốn có được số liệu cần thiết để rút ra kết luận về khí tượng nông nghiệp, thì cần phải tiến hành quan trắc nhiều năm tại một trạm, điều này gây nhiều khó khăn và tốn nhiều chi phí. 3.2. Phương pháp gieo trồng theo địa lý: Phương pháp gieo trồng theo vùng địa lý là đem cùng một loại cây trồng gieo vào các vùng địa lý khác nhau. Sau khoảng 3 năm nghiên cứu người ta có thể rút ra kết luận khả năng thích ứng của cây trồng ở các vùng địa lý. Đề xuất ý kiến đối với sự phát triển của giống cây trồng đó ở những vùng thích hợp. Trong quá trình nghiên cứu bằng phương pháp này cần phải lưu ý một số vấn đề sau :

- Việc gieo hạt cây trồng ở các nơi chỉ tiến hành trong thời kỳ thích hợp nhất. - Trạng thái đất và biện pháp kỹ thuật nông nghiệp ở từng nơi cần phải giống nhau hoặc gần tương tự nhau. - Cần lựa chọn những khu vực có các điều kiện khí hậu chủ yếu không giống nhau. - Tất cả các yếu tố khí tượng cần nghiên cứu trong những khu vực khí hậu nghiên cứu cũng nên phân biệt yếu tố nào là quan khối nhất. - Trong tất cả các vùng gieo hạt đều tiến hành quan trắc khí tượng và khí tượng nông nghiệp theo cùng một kế hoạch, cùng một phương pháp. Do đó, những trạm khí tượng

http://elib.ntt.edu.vn

Page 7: BÀI GIẢNG KHÍ TƯỢNG NÔNG NGHIỆP NTTULIB - …dspace.elib.ntt.edu.vn/dspace/bitstream/123456789/6266/1... · 2012-12-04 · chúng tôi đã biên soạn cuốn bài giảng

NTTULIB

5

nông nghiệp là những điểm cơ bản để dùng phương pháp gieo hạt theo vùng địa lý để tiến hành nghiên cứu khí tượng nông nghiệp. Ứng dụng trong phân vùng khí hậu nông nghiệp và khảo nghiệm giống cây trồng. - Ưu điểm: Trong một thời gian rất ngắn có thể nghiên cứu ra ảnh hưởng của các yếu tố khí tượng khác đối với sự sinh trưởng và phát triển của cây trồng cần nghiên cứu. - Nhược điểm: muốn lựa chọn được nơi gieo hạt theo vùng địa lý có trạng thái đất khá giống nhau thì rất khó khăn, cho nên kết quả nghiên cứu khó phân tích; cùng một loại giống cây trồng không thể sinh trưởng tốt từ đầu đến cuối ở các khu vực khí hậu khác nhau. 3.3. Phương pháp tăng thời vụ gieo:

Thực chất của phương pháp tăng thời vụ gieo là gieo cùng một loại giống cây trồng tại một địa điểm, trong từng thời kỳ khác nhau để nghiên cứu ảnh hưởng tổng hợp của các loại yếu tố khí tượng khác nhau (nhiệt độ, độ ẩm, độ chiếu sáng của mặt trời,....) đối với từng thời kỳ sinh trưởng và phát triển khác nhau của cây trồng cần nghiên cứu. Thông thường người ta gieo cách nhau 5 - 7 ngày hoặc nhiều hơn tuỳ yêu cầu nghiên cứu. Trong suốt thời gian sinh trưởng, phát triển cây trồng được gieo những thời vụ khác nhau sẽ sinh trưởng trong điều kiện thời tiết không giống nhau. Kết quả thí nghiệm trong 1 năm có thể cho kết luận về ảnh hưởng của các yếu tố thời tiết khác nhau ở các thời vụ khác nhau lên quá trình sinh trưởng, phát triển và năng suất, phẩm chất của cây trồng. * Ứng dụng: - Xác định thời kỳ trổ an toàn (lúa,ngô,...) - Chọn thời vụ thích hợp cho cây trồng. 3.4. Phương pháp trồng cây trong nhà kính:

Phương pháp trồng cây trong nhà kính là phương pháp nghiên cứu sự phản ứng của cây trồng dưới ảnh hưởng tổng hợp khác nhau của ánh sáng, nhiệt độ, ẩm độ trong phòng khí hậu nhân tạo. Theo phương pháp này đối tượng nghiên cứu được gieo trồng trong nhà kính _ nơi có thể sử dụng các phương tiện hiện đại để tạo và ổn định điều kiện khí tượng như mong muốn. Nhằm phân tích diễn biến của các hiện tượng cây trồng với điều kiện khí tượng sẽ rút ra được những kết luận về ảnh hưởng của điều kiện khí tượng đến đời sống cây trồng. Trong phòng thí nghiệm có thể tạo ra được sự đồng nhất của các yếu tố khí tượng không nghiên cứu, nên phương pháp này cho những kết luận chính xác, nhanh chóng. Song phương pháp đòi hỏi những kỹ thuật phức tạp, thiết bị đắt tiền nên thường chỉ sử dụng cho đối tượng nghiên cứu có đời sống ngắn, kích thước nhỏ. 3.5. Phương pháp toán xác suất (thống kê lịch sử):

http://elib.ntt.edu.vn

Page 8: BÀI GIẢNG KHÍ TƯỢNG NÔNG NGHIỆP NTTULIB - …dspace.elib.ntt.edu.vn/dspace/bitstream/123456789/6266/1... · 2012-12-04 · chúng tôi đã biên soạn cuốn bài giảng

NTTULIB

6

Trên cơ sở thu thập số liệu nhiều năm theo nội dung và chỉ tiêu khảo sát thống nhất, người ta xử lý tài liệu theo phương pháp thống kê nhằm xác định xu thế diễn biến của số liệu. Tìm ra mối tương quan giữa 2 hay nhiều dãy số liệu.

Nhờ phương pháp này người ta tổng hợp số liệu quan trắc lâu năm về các giai đoạn sinh trưởng, phát triển của cây trồng cùng với điều kiện thời tiết. Sau đó tìm mối tương quan của các yếu tố thời tiết đối với cây trồng bằng cách tính toán xác suất. 3.6. Phương pháp cánh đồng thực nghiệm:

Trong cánh đồng thí nghiệm người ta thay đổi điều kiện khí tượng nông nghiệp đối với cây trồng như điều chỉnh chương trình, kế hoạch thí nghiệm: nhiệt độ, ẩm độ, cường độ ánh sáng,...để tìm kiếm mối tương quan giữa cây trồng với điều kiện khí tượng nông nghiệp. 3.7. Phương pháp đo từ xa: Phương pháp đo từ máy bay, từ vệ tinh để xác định trạng thái cây trồng, trong điều kiện thời tiết nhất định đối với những vùng có diện tích gieo trồng lớn. 3.8. Phương pháp mô đen toán học:

Trên cơ sở công nghệ máy tính hiện đại, các chuyên gia tập hợp và hệ thống các thông tin về tác động của các yếu tố khí hậu thời tiết nói riêng và hệ thống tất cả các yếu tố khí tượng nói chung có tác động đến sinh trưởng, năng suất của cây trồng thành các mô hình toán giúp quản lý các quá trình sản xuất nông nghiệp dễ dàng và hiệu quả hơn như thời vụ, các phương thức trồng, chăm sóc, quản lý,... Nhược điểm: do các mô hình toán được xây dựng trên cơ sở dữ liệu nhất định nên độ chính xác của nó có giới hạn trong những điều kiện nhất định. Để tăng độ chính xác, đòi hỏi phải xây dựng riêng mô hình toán cho mỗi loại cây trồng ở mỗi vùng sinh thái khác nhau, điều này sẽ rất tốn kém. Vậy, trong công tác nghiên cứu khí tượng nông nghiệp nên dùng phương pháp nào thì tốt hơn, điều đó còn tuỳ theo nhiệm vụ, thời gian tiến hành và yêu cầu của công tác nghiên cứu đó. 4. Sơ lược lịch sử phát triển ngành khí tượng nông nghiệp. Khí hậu - thời tiết là các yếu tố ngoại cảnh có tác động rất lớn đến các mặt của đời sống con người, đặc biệt là sản xuất nông nghiệp. Từ xa xưa, con người đã phải luôn đối mặt với những điều kiện khắc nghiệt của thời tiết. Do vậy con người phải thường xuyên theo dõi sự biến động của thời tiết, tìm ra mối liên hệ giữa thời tiết và các hiện tượng trên mặt đất hay trong bầu trời. Nhưng đó chỉ là những quan sát có tính chất đơn lẻ, vấn đề giải thích các hiện tượng chưa được đặt ra. Ngay từ thời thượng cổ, người ta đã tiến hành những quan sát đơn giản nhất về Khí tượng, trước tiên là ở Trung Quốc, Ai Cập, Ấn độ và một số nước có nền văn hoá cổ đại phát triển khác.

http://elib.ntt.edu.vn

Page 9: BÀI GIẢNG KHÍ TƯỢNG NÔNG NGHIỆP NTTULIB - …dspace.elib.ntt.edu.vn/dspace/bitstream/123456789/6266/1... · 2012-12-04 · chúng tôi đã biên soạn cuốn bài giảng

NTTULIB

7

Thời cổ Hy Lạp Hê-rô-đốt và Aristốt là người đầu tiên thử giải thích và hệ thống hoá những quan sát về những hiện tượng thời tiết đã thu thập được. Những dụng cụ khí tượng bắt đầu xuất hiện vào giữa thế kỷ XVI. Nhiệt kế của Galilê (1597), khí áp kế của Tôrixeli năm 1643. Những dụng cụ đo mưa đã được dùng ở Trung Quốc và Triều Tiên từ thế kỷ thứ IV trước công nguyên. Ở Châu Âu những quan sát khí tượng có liên quan đến sự phát triển mạnh mẽ của khoa học tự nhiên vào thế kỷ XVII. Tổ chức khí tượng đầu tiên được thành lập tại Italia vào năm 1657 do Galilê đứng đầu. M.V. Lômônôxốp đóng vai trò rất lớn trong sự nghiệp phát triển của khí tượng học. Theo Lômônôxốp muốn dự báo thời tiết chính xác “phải dựa trên lý thuyết về sự chuyển động chất lỏng bao quanh trái đất, tức là nước và không khí”. Ông đã vạch ra hướng phát triển cho ngành khí tượng động lực học, đây chính là nền móng cho khoa học dự báo thời tiết. Lômônôxốp cũng đã phác họa sơ đồ hình thành dông. Trong lĩnh vực dụng cụ khí tượng, Lômônôxốp đã nghiên cứu và chế tạo hàng loạt dụng cụ đo: máy đo gió, máy đo khí áp dùng trên biển. Ông là một trong những người đầu tiên nghiên cứu tầng cao khí quyển. Vào cuối thế kỷ XIX và đầu thế kỷ XX A.I. Vôâycốp (1842-1916) đã viết tác phẩm “Khí hậu địa cầu và của nước Nga nói riêng” năm 1884. Ông là một trong những người đầu tiên nêu ra những giả i thích vật lý về khí hậu toàn trái đất. A.I. Vôâycốp đã có nhiều đóng góp cho ngành khí tượng nông nghiệp. Ông đã cùng với P.I. Brôunốp sáng lập lên mạng lưới Khí tượng Nông nghiệp. Trong nữa thế kỷ XIX Menđêlêép đã tham gia nhiều trên lĩnh vực khí hậu học. Ông đã đề xuất nghiên cứu các lớp khí quyển trên cao bằng khí cầu mang máy móc. Ngoài ra ông còn sáng chế ra khí áp kế dùng hơi. Trong lĩnh vực bức xạ học, các nhà bác học S.I Xavinốp và N.N Kalitin đã đạt nhiều thành tựu trong lý thuyết và thực hành. Nhiều công trình lý thuyết trong phạm vi Khí tượng Dự báo được hoàn thiện vào đầu thế kỷ XX do M.A. Rưcachép, B.I. Srơdênépski, P.I.Brôunốp. Vào thế kỷ XX các công trình của B.P. Muntanốpski đã đặt nền tảng đầu tiên cho việc nghiên cứu các vấn đề thời tiết dài hạn. B.Lêvinstơn (Mỹ) đã có nhiều công trình nghiên cứu đánh giá và xử lý tiềm năng khí hậu đất và nước, đặc biệt trong lĩnh vực dự báo khí tượng nông nghiệp. Vào cuối thế kỷ XIX Gaspaden (Pháp) đã nghiên cứu một công trình lớn về sự quan hệ giữa đất và khí hậu. Đầu thế kỷ XX nhà bác học Italia Assi đã mô hình hoá mối quan hệ phức tạp giữa điều kiện khí tượng và sinh vật. Mô hình đã được ứng dụng rất có hiệu quả trong việc dự báo khí tượng nông nghiệp, xác định vùng sinh thái cho các loại cây trồng. Tổ chức khí tượng thế giới (WMO) đã nghiên cứu điều kiện khí tượng nông nghiệp cho nhiều nước trên thế giới, đặc biệt là các nước châu Phi, châu Âu và khu vực

http://elib.ntt.edu.vn

Page 10: BÀI GIẢNG KHÍ TƯỢNG NÔNG NGHIỆP NTTULIB - …dspace.elib.ntt.edu.vn/dspace/bitstream/123456789/6266/1... · 2012-12-04 · chúng tôi đã biên soạn cuốn bài giảng

NTTULIB

8

Đông Nam Á. Tổ chức khí tượng thế giới (WMO) đã góp phần quan khối trong việc hạn chế tình trạng đói kém đang diễn ra trầm khối tại các nước châu Phi. Việc nghiên cứu khí tượng nước ta đã có từ thế kỷ XIII. Trong Binh thư yếu lược của Trần Hưng Đạo đã có ghi chép và nhận định về tình hình khí hậu, địa lý. Tác phẩm “Dư địa chí” của Nguyễn Trãi thế kỷ XV và nhiều tác phẩm Lê Quý Đôn, Ngô Thời Sỹ, Nguyễn Nhiễm,... cũng đề cập đến những vấn đề khí hậu. Đặc biệt là cuốn “Lịch triều hiến chương loạn chí” và “Việt sử thông giám, cương mục” có ghi lại những thiên tai và thời tiết đặc biệt. Nước ta vốn là một nước sản xuất nông nghiệp, cho nên điều kiện khí tượng - thời tiết và khí hậu đã tác động sâu sắc đến đời sống và quá trình lao động sản xuất quần chúng. Do yêu cầu của lao động sản xuất, nhân dân ta đã gom góp được những nhận xét và kinh nghiệm lâu đời về các hiện tượng trời đất, khí hậu. Những nhận xét và kinh nghiệm này được lưu truyền và phổ biến rất rộng rãi. Trong kho tàng văn học dân gian, ca dao và tục ngữ nói về khí hậu thời tiết rất nhiều. Từ đầu thế kỷ thứ XX những nghiên cứu về khí tượng nước ta ngày càng hoàn thiện. Sau ngày giải phóng (1975) dưới sự giúp đỡ của tổ chức khí tượng thế giới (WMO) những nghiên cứu về khí tượng dự báo, khí hậu, khí tượng nông nghiệp đã có những bước tiến bộ đáng kể nhằm đáp ứng nhu cầu của sản xuất hiện nay, đặc biệt là sản xuất nông nghiệp. Về mặt khí tượng nông nghiệp, nhiều đề tài đã được thực hiện như nghiên cứu điều kiện khí tượng đối với một số cây trồng chính (lúa, ngô, đậu tương, lạc, bông, cao su, cà phê). Một số đề tài lớn được thực hiện như đánh giá tiềm năng khí hậu của đất nước, phân vùng khí hậu nông nghiệp đạt độ chính xác cao cho phép cho nhiều vùng. Trong thời gian tới, nhiệm vụ đặt ra đối với ngành khí tượng nông nghiệp rất lớn nhằm góp phần xây dựng nền sản xuất nông nghiệp nhiệt đới nước ta, han chế tác hại của thiên tai, đưa sản xuất nông nghiệp tới bước phát triển cao.

http://elib.ntt.edu.vn

Page 11: BÀI GIẢNG KHÍ TƯỢNG NÔNG NGHIỆP NTTULIB - …dspace.elib.ntt.edu.vn/dspace/bitstream/123456789/6266/1... · 2012-12-04 · chúng tôi đã biên soạn cuốn bài giảng

NTTULIB

9

CHƯƠNG 1:

THÀNH PHẦN VÀ CẤU TRÚC KHÍ QUYỂN

1. Thành phần khí quyển. 1.1. Đặc tính của không khí. Trái đất bằng lực hút của mình đã tập trung xung quanh một lớp các chất khí được gọi là khí quyển. Lớp khí quyển gần mặt đất có vai trò hết sức quan khối đối với sự sống trên trái đất, nó là môi trường của các đối tượng của nền sản xuất nông nghiệp.

Hỗn hợp tạo nên khí quyển được gọi là không khí. Không khí không màu, không mùi, có thể nén hoặc làm giãn nở không khí, có tính đàn hồi và bao bọc tất cả mọi vật trên mặt đất. Mặc dù không khí rất nhẹ nhưng cũng có khối lượng. Khối lượng của khí quyển trái đất là 5,26.1018 kg, chỉ bằng khoảng 10-6 khối lượng của địa quyển (5,96.1024 kg). Các nghiên cứu cho thấy càng lên cao không khí càng loãng: gần 50% khối lượng khí quyển tập trung từ mặt đất đến độ cao 5 km; 75% đến độ cao 10 km và 95% tính đến độ cao 20 km.

Khí quyển là môi trường sống của mọi cơ thể sống trên trái đất (trừ những vi khuẩn kị khí). Bầu khí quyển ban đầu của trái đất được hình thành do sự bốc hơi nước

http://elib.ntt.edu.vn

Page 12: BÀI GIẢNG KHÍ TƯỢNG NÔNG NGHIỆP NTTULIB - …dspace.elib.ntt.edu.vn/dspace/bitstream/123456789/6266/1... · 2012-12-04 · chúng tôi đã biên soạn cuốn bài giảng

NTTULIB

10

và các loại khí thoát ra từ núi lửa và biến chuyển theo sự tiến hoá của trái đất, trong đó có sự tác động của quá trình quang hợp của cây xanh. Giữa khí quyển và sinh quyển hình thành điều kiện tự nhiên đó là sự cân bằng động học. Do đo, con người và các đối tượng sản xuất nông nghiệp đã thích ứng với thành phần hiện có của không khí. Không khí được các sinh vật sử dụng trong quá trình sống của chúng. 1.2. Thành phần của lớp không khí sát mặt đất.

Sự trao đổi liên tục giữa khí quyển, địa quyển, thuỷ quyển và sinh quyển đã tạo nên những cân bằng động duy trì sự có mặt và tồn tại của các chất khí trong khí quyển.

Bảng 1: Thành phần phần trăm của không khí khô theo thể tích - ppmv

Chất khí Theo NASA Nitơ 78,084% Ôxy 20,946% Argon 0,9340% Cacbon điôxít CO2 365 ppmv (381 ppmv) Neon 18,18 ppmv Hêli 5,24 ppmv Mêtan 1,745 ppmv Krypton 1,14 ppmv Hiđrô 0,55 ppmv Không khí ẩm thường có thêm

Hơi nước Dao động mạnh; thông thường khoảng 1%

Ngoài ra, trong không khí luôn luôn tồn tại các phân tử rắn và lỏng nằm ở trạng thái lơ lửng đó là bụi khí. 1.2.2. Nguồn gốc và vai trò của một số các chất khí trong khí quyển. a. Nitơ (N2):

Ở điều kiện bình thường nó là một chất khí không màu, không mùi, không vị và khá trơ và tồn tại dưới dạng phân tử N2, còn gọi là đạm khí. Nitơ chiếm khoảng 78% khí quyển Trái Đất và là thành phần của mọi cơ thể sống. Nitơ tạo ra nhiều hợp chất quan khối như các axít amin, amôniắc, axít nitric và các xyanua. Nitơ trong tự nhiên là nguồn vô tận nhưng phân tử nitơ trong khí quyển là tương đối trơ, nhưng trong tự nhiên nó bị chuyển hóa rất chậm thành các hợp chất có ích về mặt sinh học và công nghiệp nhờ một số cơ thể sống, chủ yếu là các vi khuẩn.

Nitơ là thành phần quan khối của các axít amin và axít nucleic, điều này làm cho nitơ trở thành thiết yếu đối với sự sống. Nó là nguyên tố dinh dưỡng quan khối của mọi cơ thể sống: nó tham gia cấu tạo cơ thể động - thực vật, đóng vai trò đặc biệt quan khối trong quá trình sinh trưởng, phát triển, năng suất và phẩm chất cây trồng. Trong cơ thể thực vật, nitơ chỉ chiếm từ 1- 3% nhưng không có nitơ cây không thể sống được.

http://elib.ntt.edu.vn

Page 13: BÀI GIẢNG KHÍ TƯỢNG NÔNG NGHIỆP NTTULIB - …dspace.elib.ntt.edu.vn/dspace/bitstream/123456789/6266/1... · 2012-12-04 · chúng tôi đã biên soạn cuốn bài giảng

NTTULIB

11

Phần lớn thực vật sống trong tình trạng thiếu nitơ bởi vì rễ cây chỉ có thể hút được nitơ dưới dạng các hợp chất NH4

+ và NO3-.

Nguồn nitơ được cung cấp thường xuyên cho đất là những hợp chất nitơ tan trong nước mưa, sương mù, sương muối... Hợp chất này được hình thành chủ yếu do quá trình phóng điện trong khí quyển. Lượng đạm này chỉ vào khoảng 3 - 4 kg/ha/năm, ở vùng nhiệt đới mưa dông nhiều có thể cho từ 13 - 14 kg/ha/năm. Ngoài ra còn có những nguồn bổ sung khác:

- Những xác chết các động thực vật. - Các sản phẩm phụ của nền nông nghiệp. - Lượng phân vô cơ, hữu cơ bón vào đất.

Quá trình chuyển đổi nitơ trên mặt đất là hiện tượng tự nhiên đã tạo nên vòng tuần hoàn nitơ trong khí quyển, giữ trạng thái cân bằng nitơ giữa đất và khí quyển. Điều đó giải thích được bằng sự tồn tại của cây xanh trên trái đất không có tác động của con người. b. Oxy (O2):

Ôxy là một thành phần quan khối của không khí, được sản xuất bởi cây cối trong quá trình quang hợp và là chất khí cần thiết để duy trì sự hô hấp của người và động vật. Khác với nitơ, oxy trong không khí có hoạt tính cao, sẵn sàng kết hợp với các chất khác.

Oxy là chất cần thiết cho quá trình hô hấp của mọi cơ thể sống, quá trình ôxy hoá các chất do cơ thể đồng hoá được, giả i phóng năng lượng cung cấp cho mọi hoạt động sống của cơ thể.

Ôxy cần thiết cho sự phân giải các hợp chất hữu cơ, chất thải và các tàn dư sinh vật làm sạch môi trường.

Ôxy cần thiết cho sự đốt cháy nhiên liệu giải phóng nhiệt lượng cung cấp cho các hoạt động công nghiệp, giao thông vận tải và các ngành kinh tế khác.

Ôxy có thể là một chất độc khi nó có áp suất thành phần được nâng cao. Ôxy chiếm khoảng 21% thể tích của không khí. Nếu có thể tăng lượng ôxy này lên thành 50% thì không khí khi đó sẽ không tốt cho sự hô hấp. Sự quang hợp bao giờ cũng mãnh liệt hơn sự hô hấp. Tuy nhiên nồng độ ôxy trong khí quyển được thấy không thay đổi. Như vậy, người ta nghĩ rằng lượng thừa ôxy phải được các tiến trình địa chất hấp thu. Hiện nay, khí ôxy bị tiêu dùng khá nhiều bởi sự đốt cháy trong động cơ và đặc biệt trong các động cơ phản lực.

Quang hợp của cây xanh là nguồn cung cấp chủ yếu oxy cho khí quyển. Bởi vậy ở những nơi có cây xanh hàm lượng O2 cao hơn và không khí trong lành hơn. c. Dioxytcarbon ( CO2 ):

http://elib.ntt.edu.vn

Page 14: BÀI GIẢNG KHÍ TƯỢNG NÔNG NGHIỆP NTTULIB - …dspace.elib.ntt.edu.vn/dspace/bitstream/123456789/6266/1... · 2012-12-04 · chúng tôi đã biên soạn cuốn bài giảng

NTTULIB

12

Điôxít cacbon hay cacbon điôxít (các tên gọi khác thán khí, anhiđrít cacbonic, khí cacbonic) là một hợp chất ở điều kiện bình thường có dạng khí trong khí quyển Trái Đất, bao gồm một nguyên tử cacbon và hai nguyên tử ôxy.

Điôxít cacbon thu được từ nhiều nguồn khác nhau, bao gồm cả khí thoát ra từ các núi lửa, sản phẩm cháy của các hợp chất hữu cơ và hoạt động hô hấp của các sinh vật sống hiếu khí. Nó cũng được một số vi sinh vật sản xuất từ sự lên men và sự hô hấp của tế bào. Các loài thực vật hấp thụ điôxít cacbon trong quá trình quang hợp, và sử dụng cả cacbon và ôxy để tạo ra các cacbohyđrat. Ngoài ra, thực vật cũng giải phóng ôxy trở lại khí quyển, ôxy này sẽ được các sinh vật dị dưỡng sử dụng trong quá trình hô hấp, tạo thành một chu trình. Nó có mặt trong khí quyển Trái Đất với nồng độ thấp và tác động như một khí gây hiệu ứng nhà kính. Nó là thành phần chính trong chu trình cacbon.

Thực vật hấp thụ điôxít cacbon từ khí quyển trong quá trình quang hợp. Điôxít cacbon được thực vật (với năng lượng từ ánh sáng Mặt Trời) sử dụng để sản xuất ra các chất hữu cơ bằng tổ hợp nó với nước. Các phản ứng này giải phóng ra ôxy tự do. Đôi khi điôxít cacbon được bơm thêm vào các nhà kính để thúc đẩy thực vật phát triển. Thực vật cũng giải phóng ra CO2 trong quá trình hô hấp của nó, nhưng tổng thể thì chúng làm giảm lượng CO2.

Mặc dù nồng độ thấp nhưng CO2 là một thành phần cực kỳ quan khối trong khí quyển Trái Đất, do nó hấp thụ bức xạ hồng ngoại và làm tăng hiệu ứng nhà kính.

CO2 là nguồn dinh dưỡng quan khối của cây xanh, là nguồn khí cần thiết cho cây xanh quang hợp để tổng hợp chất hữu cơ; là nguồn nguyên liệu xây dựng tất cả cơ thể thực vật, động vật; là yếu tố tạo thành năng suất cây trồng. Nhiều thí nghiệm cho thấy: khi nồng độ CO2 trong môi trường sống của thực vật tăng lên, cường độ quang hợp, sinh trưởng, phát triển và năng suất của phần lớn thực vật cũng tăng lên. Hàm lượng CO2 thích hợp cho các loại cây trồng không giống nhau. Lượng CO2 thích hợp cho người và gia súc khoảng 0,02 - 0,03%. Người và gia súc sẽ chết ở nồng độ CO2 trong môi trường sống tăng lên đến 0,2 - 0,6 %. Ở tầng đối lưu, khí CO2 là khí có khả năng bức xạ năng lượng mặt trời quan khối. Khí CO2 có khả năng hấp thụ các tia sóng dài của bức xạ mặt trời, đặc biệt là các bức xạ mặt đất làm cho không khí nóng lên, gây “hiệu ứng nhà kính”. d. Ozone (O3 ): Khí ozone trong khí quyển không nhiều, tập trung chủ yếu ở độ cao từ 25-50 km (thuộc tầng bình lưu). Lượng ozôn trong khí quyển cũng dao động. Nếu ở 00C, áp suất thường thì toàn bộ ozôn trong khí quyển dồn lại tạo thành một lớp mỏng dày khoảng 3mm. Ôzôn hấp thụ những tia ánh sáng mặt trời có bước sóng từ 0,2-0,29µ, là những tia tử ngoại có tác hại sinh lý.

http://elib.ntt.edu.vn

Page 15: BÀI GIẢNG KHÍ TƯỢNG NÔNG NGHIỆP NTTULIB - …dspace.elib.ntt.edu.vn/dspace/bitstream/123456789/6266/1... · 2012-12-04 · chúng tôi đã biên soạn cuốn bài giảng

NTTULIB

13

Trong tầng bình lưu, ozone có khả năng hấp thụ phần lớn tia sóng ngắn của bức xạ mặt trời . Tuy nhiên, nếu ở trong tầng đối lưu, ozone lại được xem như là một khí gây hiệu ứng nhà kính, đóng góp 8% cho hiệu ứng nhà kính. Tuối thọ của Ozone khá ngắn, chiếm khoảng 2-3 tháng. Gần mặt đất lượng O3 nhỏ (0 - 0,07.10-4 %). Nồng độ O3 tăng sẽ là mối nguy hại cho cuộc sống trên trái đất gây bệnh nguy hiểm cho người và gia súc, cây trồng, giảm khả năng quanh hợp của cây xanh, ...

Khí ozone không có nguồn gốc trực tiếp từ trái đất, nó được hình thành từ các quá trình quang hoá xảy ra trong khí quyển.. Ôzôn trong bầu khí quyển Trái Đất nói chung được tạo thành bởi tia cực tím, nó phá vỡ các phân tử O2, tạo thành ôxy nguyên tử. Ôxy nguyên tử sau đó kết hợp với phân tử ôxy chưa bị phá vỡ để tạo thành O3. Trong một số trường hợp ôxy nguyên tử kết hợp với N2 để tạo thành các nitơ ôxít; sau đó nó lạ i bị phá vỡ bởi ánh sáng nhìn thấy để tái tạo ôzôn.

Các hoạt động công nghiệp, giao thông, sử dụng các sản phẩm có nguồn gốc hoá thạch, các tiện nghi sinh hoạt,... đã được xem là nguyên nhân làm tổn hại tầng ozone trong tầng bình lưu đồng thời tạo ra nhiều khí ozone trong tầng đối lưu gây ra những hậu quả khó lường trước đối với sự sống trên trái đất. Hàm lượng ozone trong khí quyển hiện nay khoảng 40-50 ppbv với tốc độ gia tăng bình quân năm là 0,5% e. Hơi nước: Hơi nước luôn luôn hiện diện trong khí quyển, xuất phát từ sự bốc hơi trên biển cả, ao hồ, đất ẩm ướt và thực vật. Hơi nước trong khí quyển góp phần tạo nên nhiều hiện tượng thời tiết khác nhau: hình thành sương, sương muối ở mặt đất, sương mù ở tầng khí quyển thấp, mây ở tầng khí quyển ở trên cao. Lượng hơi nước trong khí quyển tạo nên độ ẩm không khí. Hơi nước hấp thụ bức xạ sóng dài và một phần nhỏ bức xạ mặt trời. Điều này là một trong những nguyên nhân khiến cho lớp không khí ở thấp nóng hơn lớp không khí trên cao. Tốc độ bốc hơi và luồng hơi nước đi vào khí quyển phụ thuộc vào ba yếu tố chính: nhiệt độ bề mặt, vận tốc gió trên bề mặt, độ ẩm khí quyển. Những nguồn khác cung cấp hơi nước vào khí quyển: - Hơi nước thoát ra từ các hoạt động công nghiệp, nông nghiệp, thuỷ lợi,... - Hơi nước thoát ra từ các quá trình đốt cháy nhiên liệu trong khu vực năng lượng hay giao thông vận tải,... Khi đốt cháy ngoài việc giải phóng CO2, hơi nước cũng là một sản phẩm của quá trình cháy (chiếm từ 10 - 30% tuỳ loại nhiên liệu). f. Bụi khói: Bụi khói là những vật chất có kích thước nhỏ bé bay lơ lửng trong khí quyển. Thành phần bụi khói biến động lớn theo không gian và thời gian.

http://elib.ntt.edu.vn

Page 16: BÀI GIẢNG KHÍ TƯỢNG NÔNG NGHIỆP NTTULIB - …dspace.elib.ntt.edu.vn/dspace/bitstream/123456789/6266/1... · 2012-12-04 · chúng tôi đã biên soạn cuốn bài giảng

NTTULIB

14

Bụi khói có trong khí quyển là do các quá trình phong hoá đất đá, quá trình cháy của các mảng thiên thể ở lớp khí quyển trên cao, do cháy rừng, hoạt động của núi lửa, do hoạt động của con người. Bụi khói là những hạt nhân ngưng kết hơi nước, do đó tính chất của bụi khói, mức độ ô nhiễm bụi khói sẽ ảnh hưởng đến chất lượng giáng thuỷ. Ngoài ra, do có khả năng hấp thụ và bức xạ năng lượng mà bụi khói có vai trò đáng kể trong việc điều tiết chế độ nhiệt của không khí. Trong khí quyển chứa nhiều bụi khói sẽ gây ra những bất lợi cho cây trồng. Ngoài ra trong không khí còn có các chất khí gây ô nhiễm như: khí sulfurơ (SO2), khí amôniăc (NH3), ôxít nitơ (N2O), êtylen (C2H4),... 1.2.3. Thành phần của không khí trong đất. Đất được cấu tạo bởi những hạt có kích thước khác nhau, giữa những hạt là các khe hở. Trong các khe hở hoặc chứa đầy nước hoặc chứa không khí. Những loại đất trồng trọt thường có dung tích khe hở lớn do tác động của các biện pháp làm đất, xới xáo, do bộ rễ cây tạo nên,... Về cơ bản không khí trong đất có thành phần không khác với thành phần không khí trên mặt đất. Các không khí chủ yếu gồm có O2, N2, CO2 và hơi nước. Nó thay đổi tuỳ theo tính chất vật lý, hoá học của đất, phụ thuộc vào từng loại cây trồng, các loài sinh vật, vi sinh vật sống trong đất. Tuy nhiên tỷ lệ các chất khí có trong đất có những biến động so với khí quyển tự do.

Bảng 2: Thành phần của một số chất khí trong đất ( theo Vikêvít, 1966).

Thành phần Khoảng biến động của các chất khí (% thể tích) Nitơ 78 – 87 Oxy 10 – 20

Carbonic 0,01 - 10 * Tỷ lệ O2 ít hơn mà CO2 thì nhiều hơn so với trên mặt đất. Đó là do quá trình hô hấp của rễ cây và các sinh vật sống trong đất làm giảm lượng O2, đồng thời quá trình phân giải các chất hữu cơ trong đất làm tăng lượng CO2 lên. * Lượng CO2 của không khí trong đất phụ thuộc vào trạng thái của đất. - Đất chặt có nhiều CO2 hơn đất xốp, càng xuống sâu nồng độ CO2 càng tăng lên. - Đất có nhiệt độ và ẩm độ cao phân giải các chất mục nát mạnh, nên cũng làm tăng lượng CO2 lên. - Đất rừng chứa nhiều CO2 hơn đất đồng ruộng vì cành rơi lá rụng ở trong rừng nhiều. Ngoài ra lượng CO2 còn phụ thuộc vào đặc tính và chiều sâu của bộ rễ. Lượng CO2 trong đất thay đổi tuỳ theo mùa, nhiều nhất là mùa hè, ít nhất là mùa đông. Ở trong đất rừng lượng CO2 có thể tăng lên tới 0,2-3,4% thể tích không khí.

http://elib.ntt.edu.vn

Page 17: BÀI GIẢNG KHÍ TƯỢNG NÔNG NGHIỆP NTTULIB - …dspace.elib.ntt.edu.vn/dspace/bitstream/123456789/6266/1... · 2012-12-04 · chúng tôi đã biên soạn cuốn bài giảng

NTTULIB

15

Lượng CO2 tăng lên nhiều sẽ là điều kiện bất lợi cho sự sống của rễ cây, vi khuẩn và sự nảy mầm của hạt giống,... Đặc trưng của không khí trong đất là hầu như luôn luôn bảo hoà hơi nước. Ngoài ra, do những hoạt động của các sinh vật đất, không khí trong đất còn có một số các chất khí khác như H2S,... 2. Cấu trúc khí quyển theo chiều thẳng đứng. Dựa vào sự thay đổi của nhiệt độ và độ cao mà người ta chia khí quyển ra thành một số tầng lớp chính sau: 2.1. Tầng đối lưu:

Tầng đối lưu là tầng thấp nhất của khí quyển, nó nằm sát mặt đất, là môi trường sống của tất cả sinh vật trên trái đất. Độ cao của tầng đối lưu được quyết định bởi các dòng đối lưu, do đó nó thay đổi theo mùa trong năm và vĩ độ địa phương. Ở vùng vĩ độ cao độ dày của tầng này khoảng 8- 9 km; vùng vĩ độ trung bình: khoảng 11 km; vùng vĩ độ thấp: khoảng 17-18 km. Hiện tượng đặc trưng trong tầng này là các dòng không khí thường đi lên hoặc đi xuống (do chênh lệch áp suất, do chướng ngại vật trên mặt đất, do sự tranh chấp của các khối không khí,...) làm thay đổi chế độ nhiệt, chế độ ẩm của không khí. Các khối không khí đi xuống thường nóng và khô dần. Ngược lại, càng lên cao nhiệt độ càng giảm (bình quân cứ lên cao 100m nhiệt độ giảm 0,5 - 0,60C, cũng có thể giảm đến 10C nếu không khí khô). Vì vậy tại giới hạn trên của tầng đối lưu, nhiệt độ có thể giảm tới -55 đến - 600C .

Ở đây có những vùng xoáy khổng lồ (xoáy thuận và xoáy nghịch) xuất hiện rồi tan đi, có những khối khí không đồng nhất thường xuyên di chuyển, luôn có sự xáo trộn không khí trong toàn bộ tầng đối lưu nhờ những dòng không khí đi lên rồi đi xuống. Về khối lượng: tầng đối lưu tập trung khoảng 3/4 khối lượng toàn bộ khí quyển, cho nên hầu hết những hiện tượng vật lý trong khí quyển mà chúng ta quan sát được đều xảy ra ở đây. Các hiện tượng thời tiết như mây, mưa, giông và tố,... đều xảy ra trong tầng này. Tầng đối lưu chứa gần 80 % toàn bộ chất khí và hầu như toàn bộ lượng hơi nước có trong khí quyển. Người ta chia tầng đối lưu ra làm 3 lớp chính:

* Lớp dưới (lớp loạn lưu): là lớp dưới cùng giới hạn từ mặt đất đến độ cao 1-2 km, chịu sự tác động mạnh của mặt đất. Trong lớp này hình thành mây tầng thấp. * Lớp giữa (lớp trung bình): nằm ở độ cao từ 2-6 km, chịu ảnh hưởng của mặt đất ít hơn. Trong lớp giữa xảy ra quá trình cơ bản của các khối khí theo chiều ngang, phát triển các luồng đối lưu mạnh. Hình thành mây tầng trung bình.

http://elib.ntt.edu.vn

Page 18: BÀI GIẢNG KHÍ TƯỢNG NÔNG NGHIỆP NTTULIB - …dspace.elib.ntt.edu.vn/dspace/bitstream/123456789/6266/1... · 2012-12-04 · chúng tôi đã biên soạn cuốn bài giảng

NTTULIB

16

* Lớp trên: nằm ở độ cao từ 6 km đến giới hạn trên của tầng đối lưu; ít chịu ảnh hưởng của mặt đất. Các đỉnh mây tích và mây tích vũ có thể lên đến lớp trên và ở đây tồn tại mây tầng cao. Nhiệt độ lớp này luôn luôn âm.

Do những đặc điểm cơ bản, tầng đối lưu đặc biệt quan khối đối với cuộc sống trên trái đất và có ý nghĩa lớn trong sản xuất nông nghiệp. 2.2. Tầng đối lưu hạn:

Tầng đối lưu hạn là lớp trung gian giữa tầng đối lưu và tầng bình lưu. Tầng đối lưu hạn có bề dày chừng vài trăm mét đến 1-2 km. Vị trí của tầng này được xác định bởi sự biến thiên nhiệt độ. Bắt đầu từ đó nhiệt độ không đổi theo độ cao (đẳng nhiệt) hoặc tăng theo độ cao (nghịch nhiệt). Ở tầng đối lưu hạn người ta phát hiện ra những dòng xiết khí quyển. Tốc độ những dòng xiết này có thể đạt tới vài trăm km/h. 2.3. Tầng bình lưu: Tầng bình lưu được giới hạn từ phía trên đối lưu hạn cho tới độ cao 80 - 90km. Tầng này hầu như không có sự hình thành mây mưa, chỉ có sự trao đổi loạn lưu yếu.

Căn cứ vào sự phân bố nhiệt mà người ta chia tầng bình lưu ra thành 3 lớp chính: * Lớp đẳng nhiệt (lớp dưới): lớp dưới được giới hạn từ độ cao giới hạn trên của đối lưu hạn đến độ cao 30-35 km. Nhiệt độ của lớp này không đổi theo độ cao, luôn bằng - 550C. * Lớp nghịch nhiệt (lớp trung bình): là lớp được phân biệt bằng tính chất nghịch nhiệt rõ rệt. Lớp này được xác định từ độ cao 30-35 km đến 60 km. Nhiệt độ của lớp này tăng theo độ cao. Nguyên nhân là do lớp này tập trung hầu hết ozone trong khí quyển, ozone đã hấp thu tia tử ngoại của mặt trời. Do vậy, đến độ cao 60 km nhiệt độ đạt tới 65 - 750C. * Lớp trên ( lớp lạnh): lớp trên được giới hạn từ độ cao 60 - 80 km. Ở đây nhiệt độ giảm đi rất nhanh theo độ cao (có thể đạt -700C đến -800C ở giới hạn trên của lớp này), điều này tạo điều kiện cho sự xáo trộn theo chiều thẳng đứng và sự đối lưu phát triển ở đây. Vì vậy, lớp này đôi khi được gọi là tầng đối lưu trên.

2.4. Tầng ion (tầng điện ly): Tầng ion là tầng kế tiếp tầng bình lưu lên đến độ cao 800 km. Không khí ở tầng này rất thưa và loãng và bị phân ly, ion hoá mạnh dưới tác dụng của các tia bức xạ mặt trời. Có thể nhận thấy hai cực đại ion hoá ở độ cao 100 km và 180-200 km. Khí quyển ở tầng này có độ dẫn điện cao và đây là nguyên nhân làm phản hồi các sóng vô tuyến phát đi từ mặt đất, nhờ đó mà các thiết bị vô tuyến trên mặt đất và các vệ tinh nhân tạo mới hoạt động bình thường.

http://elib.ntt.edu.vn

Page 19: BÀI GIẢNG KHÍ TƯỢNG NÔNG NGHIỆP NTTULIB - …dspace.elib.ntt.edu.vn/dspace/bitstream/123456789/6266/1... · 2012-12-04 · chúng tôi đã biên soạn cuốn bài giảng

NTTULIB

17

Một đặc điểm quan khối khác của tầng này là nhiệt độ không khí cao và tăng nhanh theo độ cao: nhiệt độ không khí ở độ cao 200 km là 6000C và giới hạn trên của tầng này là 20000C.

3.5. Tầng khuyếch tán: Tầng khuyếch tán là tầng chuyển tiếp giữa khí quyển và không gian vũ trụ. Không khí gồm chủ yếu là hydrogen và helium, rất thưa và loãng. Giới hạn trên của tầng này không rõ, vào khoảng 2000 - 3000 km. Ngoài tầng khuyếch tán là không gian vũ trụ.

*****

http://elib.ntt.edu.vn

Page 20: BÀI GIẢNG KHÍ TƯỢNG NÔNG NGHIỆP NTTULIB - …dspace.elib.ntt.edu.vn/dspace/bitstream/123456789/6266/1... · 2012-12-04 · chúng tôi đã biên soạn cuốn bài giảng

NTTULIB

18

CHƯƠNG II BỨC XẠ MẶT TRỜI

Bức xạ mặt trời là nguồn nhiệt chủ yếu trên mặt trái đất, cũng là động lực nguyên thuỷ của sự vận động không khí, gây ra tất cả mọi hiện tượng và quá trình vật lý trên mặt đất và trong khí quyển. Đối với thực vật, bức xạ mặt trời là yếu tố khí tượng quan khối hơn tất cả các yếu tố khác vì nó tham gia vào tiến trình biến dưỡng và sự sản xuất chất khô của cây cối. 1. Ảnh hưởng của bức xạ mặt trời đối với cây trồng. 1.1. Ảnh hưởng của thành phần quang phổ bức xạ mặt trời đối với cây trồng. Bức xạ mặt trời được hình thành từ những sóng điện từ với những bước sóng khác nhau, có độ dài bước sóng phổ biến trong khoảng từ 0,2-24µ. Quang phổ mặt trời được chia làm 3 nhóm: - Nhóm tia tử ngoại: λ<0,4μ; ở giới hạn ngoài của khí quyển chiếm 7% thành phần quang phổ của mặt trời. - Nhóm tia trông thấy: 0,4μ ≤ λ ≤ 0,76μ; ở giới hạn ngoài của khí quyển chiếm 46 % thành phần quang phổ của mặt trời. - Nhóm tia hồng ngoại: λ> 0,76μ; ở giới hạn ngoài của khí quyển chiếm 47% thành phần quang phổ của mặt trời. Nhóm tia tử ngoại và tia hồng ngoại mắt thường không thể nhìn thấy được. Riêng nhóm tia có bước sóng trông thấy, khi phân tích, người ta thấy hàng loạt tia được sắp xếp lần lượt theo sự giảm dần của bước sóng: đỏ, da cam, vàng, lục, lam, chàm, tím. Tia nhìn thấy có ảnh hưởng nhiều đến quá trình sinh trưởng và phát triển của cây xanh. Để xét tác dụng của quang phổ mặt trời đối với cây trồng, Uỷ ban chiếu xạ Hà Lan (1953) đã chia quang phổ mặt trời ra làm 8 dải sau:

Dải 1: λ > 1μ là những tia khi được cây hấp thụ thì biến thành nhiệt mà không tham gia vào tiến trình sinh hoá. Dải 2: 0,72μ < λ ≤ 1μ (hồng ngoại), có tác dụng làm cho cây mọc dài ra. Các tia này cũng có vai trò quan khối đối với sự nảy mầm, sự trổ bông và màu sắc trái.

Dải 3: 0,61μ < λ ≤ 0,72μ (tia đỏ và da cam) rất quan khối trong quá trình quang hợp của cây xanh. Các tia này được lục tố hấp thụ mạnh.

http://elib.ntt.edu.vn

Page 21: BÀI GIẢNG KHÍ TƯỢNG NÔNG NGHIỆP NTTULIB - …dspace.elib.ntt.edu.vn/dspace/bitstream/123456789/6266/1... · 2012-12-04 · chúng tôi đã biên soạn cuốn bài giảng

NTTULIB

19

Dải 4: 0,51μ < λ ≤ 0,61μ (vàng, lục) rất ít hữu hiệu trong sự quang hợp và hình thành trái. Dải 5: 0,4μ < λ ≤ 0,51μ ( lam, chàm, tím): những tia này được lục tố và sắc tố vàng hấp thụ mạnh, cho nên dải này ảnh hưởng nhiều đến quá trình hình thành trái. Dải 6: 0,315μ < λ ≤ 0,4μ (tử ngoại): tác dụng chủ yếu đến quá trình hình thành trái. Ức chế quá trình dài ra của cây xanh và làm cho lá dày hơn, tức là kìm hãm sự sinh trưởng, thúc đẩy sự phát triển.

Dải 7: 0,28μ ≤ λ ≤ 0,315μ (tử ngoại): là những tia làm hư hại phần lớn cây trồng; gây bệnh hiểm nghèo đối với người, gia súc và cây trồng, có thể gây ung thư mắt, huỷ diệt hồng cầu. Dải 8: λ< 0,28μ (tử ngoại): rất nguy hiểm cho cây trồng, có tính chất huỷ diệt cây xanh, nhưng những tia này hầu như không đến được mặt đất. 1.2. Ảnh hưởng của thời gian chiếu sáng trong ngày đối với cây trồng. Thời gian chiếu sáng trong ngày (quang chu kỳ) được xác định bằng thời gian chiếu sáng trên mặt đất.

Thời gian chiếu sáng trong ngày thay đổi tuỳ theo mùa và phụ thuộc vào vĩ độ địa phương. Thời gian chiếu sáng trong ngày tác động lên quá trình sinh trưởng và phát triển của cây trồng, nó thúc đẩy hoặc kìm hãm quá trình ra hoa của cây.

Ảnh hưởng của thời gian chiếu sáng trong ngày đến quá trình phát dục của thực vật gọi là phản ứng quang kỳ của chúng. Thực vật khác nhau có phản ứng quang kỳ khác nhau. Dựa vào phản ứng quang kỳ, người ta chia thực vật ra làm 3 nhóm:

* Nhóm cây ngày ngắn: - Nhóm cây này có nguồn gốc vùng nhiệt đới hoặc xích đạo (lúa nước, mía, đay,...). - Những cây này chỉ ra hoa kết quả trong điều kiện ngày ngắn (thời gian chiếu sáng trong ngày nhỏ hơn 10-12 giờ). * Nhóm cây ngày dài: - Gồm những thực vật có nguồn gốc ở vùng ôn đới (khoai tây, bắp cải, lúa mì, lúa mạch,...) - Những cây thuộc nhóm này chỉ ra hoa trong điều kiện ngày dài, có thời gian chiếu sáng trên 14 giờ. Trong điều kiện ngày ngắn những cây này thường sinh trưởng chậm, kéo dài hoặc không thể ra hoa kết trái. * Nhóm cây trung tính: - Gồm những cây không có phản ứng với độ dài chiếu sáng trong ngày, thường là những giống mới có thời gian sinh trưởng ngắn.

http://elib.ntt.edu.vn

Page 22: BÀI GIẢNG KHÍ TƯỢNG NÔNG NGHIỆP NTTULIB - …dspace.elib.ntt.edu.vn/dspace/bitstream/123456789/6266/1... · 2012-12-04 · chúng tôi đã biên soạn cuốn bài giảng

NTTULIB

20

- Cây trồng thuộc nhóm trung tính thường là loại cây cảm ôn: trong điều kiện nhiệt độ cao cây thường phát dục nhanh, ra hoa sớm. Trong điều kiện nhiệt độ thấp cây thường phát dục muộn, ra hoa chậm (cà rốt, dưa chuột, thuốc lá, bông,...).

Nếu quang kỳ tính thích hợp cây sẽ sinh trưởng và phát triển tốt cho năng suất cao. Còn quang kỳ tính không thích hợp sẽ làm giảm năng suất hoặc cây không thể ra hoa (không có năng suất). 2. Các dạng bức xạ mặt trời.

2.1. Bức xạ trực tiếp (trực xạ). a. Khái niệm: những tia bức xạ từ mặt trời chiếu trực tiếp tới một bề mặt bất kỳ, người ta gọi là bức xạ trực tiếp hay trực xạ. Trực xạ là một chỉ tiêu quan khối để đánh giá điều kiện khí hậu của một vùng.

b. Cường độ của bức xạ trực tiếp. Đại lượng đặc trưng cho cường độ năng lượng của những tia bức xạ mặt trời gọi là cường độ của bức xạ mặt trời. Cường độ bức xạ mặt trời (I) là năng lượng bức xạ chiếu xuống mặt đất trên một đơn v ị diện tích đặt vuông góc với tia tới trong một đơn v ị thời gian. Cường độ bức xạ trực tiếp được tính bằng công thức:

)sin(.' 0hSS (calo/cm2/phút).

trong đó: S’: là cường độ bức xạ trực tiếp chiếu trên bề mặt nằm ngang. S: cường độ bức xạ chiếu lên bề mặt vuông góc với tia tới (calo/cm2 /phút). h0 : độ cao của mặt trời (góc tạo bởi tia bức xạ mặt trời và bề mặt quan sát). c. Sự diễn biến hàng ngày và hàng năm của bức xạ trực tiếp:

* Diễn biến hằng ngày của bức xạ trực tiếp:

- Trong trường hợp khí quyển hoàn toàn trong sạch và khô, nghĩa là không khí không chứa bụi và khô, nghĩa là không khí không chứa hơi nước. Trong điều kiện khí quyển hoàn toàn trong sạch và khô thì kể từ khi mặt trời mọc cường độ trực xạ tăng dần và đạt cực đại khi mặt trời ở thiên đỉnh. Rồi sau đó lại giảm dần và đạt cực tiểu khi mặt trời nằm ở đường chân trời. - Trong điều kiện khí quyển thực bao giờ cũng có bụi và hơi nước và hệ số trong suốt của khí quyển trong ngày luôn thay đổi. Nên cường độ lớn nhất của bức xạ trực tiếp đạt được vào lúc 13 giờ. * Cường độ bức xạ trực tiếp phụ thuộc vào: - Cường độ bức xạ trực tiếp chiếu lên mặt phẳng nằm ngang vào tất cả thời gian trong ngày đều nhỏ hơn chiếu lên mặt phẳng thẳng góc.

http://elib.ntt.edu.vn

Page 23: BÀI GIẢNG KHÍ TƯỢNG NÔNG NGHIỆP NTTULIB - …dspace.elib.ntt.edu.vn/dspace/bitstream/123456789/6266/1... · 2012-12-04 · chúng tôi đã biên soạn cuốn bài giảng

NTTULIB

21

- Cường độ bức xạ trực tiếp chiếu lên mặt phẳng nằm ngang vào tất cả thời gian trong ngày đều nhỏ hơn chiếu lên mặt phẳng thẳng góc. - Vĩ độ địa phương: càng gần cực thì cường độ bức xạ trực tiếp càng giảm. Cường độ bức xạ trực tiếp ở vùng nội chí tuyến lớn hơn ở vùng ôn đới. Cùng một độ cao trong cùng một thời điểm trong năm thì cường độ bức xạ trực tiếp ở vùng vĩ độ cao có thể lớn hơn so với vùng vĩ độ thấp (vì ở những vùng vĩ độ thấp do lớp không khí dưới thấp nhiều hơi nước hơn so với vùng vĩ độ cao). - Độ trong suốt của khí quyển: trời nhiều mây thì mặt đất nhận được bức xạ trực tiếp ít. Mây tầng thấp hầu như không cho tia bức xạ trực tiếp đi qua mà hầu như hấp thụ toàn bộ. - Mùa trong năm: mùa hạ cường độ bức xạ trực tiếp cao hơn mùa đông. - Địa hình: những địa điểm có độ cao địa hình cao nhận được cường độ bức xạ trực tiếp cao hơn những địa điểm có độ cao địa hình thấp. * Diễn biến hàng năm của bức xạ trực tiếp. - Ở cực trái đất nữa năm mùa đông không có trực xạ.

- Tại xích đạo hàng năm có hai cực đại xảy ra vào Xuân phân (21/III) và Thu phân (23/IX) và hai cực tiểu xảy ra vào Đông chí (22/XII) và Hạ chí (22/VI). - Tại các vĩ độ trung bình điểm cực đại trong năm quan sát thấy vào ngày Hạ chí (22/VI) và cực tiểu vào ngày Đông chí (22/XII).

2.2. Bức xạ khuyếch tán (tán xạ): a. Khái niệm: bức xạ khuyếch tán là những tia bức xạ được khí quyển khuyếch tán về phía mặt đất. Các phần tử khuyếch tán bao gồm: phân tử khí, hơi nước trong khí quyển, bụi khí quyển.

b. Cường độ bức xạ khuyếch tán [D (calo/cm2/phút)]: cường độ bức xạ khuyếch tán mặt đất nhận được tính bằng calo mà một đơn vị diện tích là 1 cm2 nhận được trong 1 phút từ toàn thể bầu trời. Bức xạ khuyếch tán biến thiên rất lớn và phụ thuộc vào:

- Kích thước của vật thể: khi kích thước vật thể khuyếch tán càng lớn thì độ khuyếch tán của chúng càng nhiều. - Độ cao mặt trời: mặt trời càng lên cao trên đường chân trời (h0<80) thì cường độ bức xạ khuyếch tán càng lớn.

- Độ trong suốt của khí quyển: khí quyển càng trong sạch thì cường độ bức xạ khuyếch tán càng nhỏ, nghĩa là không khí càng nhiều tạp chất thì cường độ bức xạ khuyếch tán càng lớn. - Đặc điểm của bề mặt đệm và khả năng phản chiếu Albêđô của nó: nếu mặt đệm sáng thì cường độ bức xạ khuyếch tán sẽ tăng.

http://elib.ntt.edu.vn

Page 24: BÀI GIẢNG KHÍ TƯỢNG NÔNG NGHIỆP NTTULIB - …dspace.elib.ntt.edu.vn/dspace/bitstream/123456789/6266/1... · 2012-12-04 · chúng tôi đã biên soạn cuốn bài giảng

NTTULIB

22

2.3. Bức xạ tổng cộng (tổng xạ). a. Khái niệm: bức xạ tổng cộng là tổng số bức xạ khuyếch tán và bức xạ trực tiếp chiếu lên bề mặt nằm ngang, tới mặt đất đồng thời một lúc. b. Cường độ bức xạ tổng cộng: Cường độ bức xạ tổng cộng được tính:

DSQ ' (calo/cm2/ phút)

trong đó: Q là tổng xạ S’: cường độ bức xạ trực tiếp D: cường độ bức xạ khuyếch tán. Thành phần tổng xạ có thể biến thiên trong phạm vi rộng tuỳ theo: - Độ cao của mặt trời: + Khi h0= 0: toàn bộ luồng bức xạ tới chủ yếu là do bức xạ khuếch tán gây ra. + Khi h0< 80 : lúc này bức xạ trực tiếp và bức xạ khuyếch tán đều tăng nhưng bức xạ trực tiếp tăng chậm hơn (Q~D). + Khi h0= 80 : trị số BXTT và trị số bức xạ khuyếch tán ngang nhau (S’=D). + Khi h0>80 : thì phần tỷ lệ bức xạ khuyếch tán nhỏ dần so với bức xạ trực tiếp, bức xạ trực tiếp tăng nhanh cho tới giữa trưa.

Sự biến thiên đó sẽ diễn ra theo chiều ngược lại. - Độ trong suốt của khí quyển: khí quyển càng trong suốt thì bức xạ khuyếch tán càng nhỏ và bức xạ trực tiếp càng lớn. Khi trời không mây thì bức xạ khuyếch tán chỉ chiếm 10 - 20 %.

- Vĩ độ địa phương: vĩ độ địa phương cao thì tổng lượng bức xạ giảm. Vĩ độ càng thấp thì tổng lượng bức xạ càng tăng và phân phối điều hoà trong năm. Tuy nhiên, sự phân bố tổng xạ còn phụ thuộc vào điều kiện thời tiết, độ ẩm đất và độ vẫn đục khí quyển. Thông thường tổng xạ giảm dần từ xích đạo đến địa cực. Tuy nhiên, ở cùng vĩ độ tổng xạ ở vùng sa mạc (trời luôn trong sáng) lớn hơn ở vùng ven biển nhiều lần. Trong mùa Xuân và mùa Hạ khi độ cao mặt trời cao, thì ở bất kỳ nơi nào trực xạ vẫn lớn hơn tán xạ. Còn trong mùa Thu và mùa Đông càng lên vĩ độ cao ở Bắc bán cầu lượng tán xạ tăng lên. Tuy vậy, trong những trường hợp cụ thể tổng xạ có thể không tuân theo quy luật trên. 2.4. Sự phản xạ bức xạ mặt trời (albedo). Bức xạ tổng cộng khi chiếu xuống mặt đất không được mặt đất hấp thụ hoàn toàn mà một phần bị phản chiếu lại bầu khí quyển.

http://elib.ntt.edu.vn

Page 25: BÀI GIẢNG KHÍ TƯỢNG NÔNG NGHIỆP NTTULIB - …dspace.elib.ntt.edu.vn/dspace/bitstream/123456789/6266/1... · 2012-12-04 · chúng tôi đã biên soạn cuốn bài giảng

NTTULIB

23

Phản xạ là phần bức xạ mặt trời, đặc biệt là một số sóng ngắn bị “dội” trở lạ i khí quyển. Mức độ phản xạ tuỳ thuộc vào tính chất bề mặt của vật thể mà bức xạ mặt trời tiếp xúc (màu sắc, độ nhẵn, độ xốp, độ ẩm,...) và góc tới của chùm tia bức xạ.

* Khái niệm Albedo: Albedo (suất phản xạ) của bề mặt một vật thể được xác định băng tỷ lệ giữa toàn thể luồng bức xạ sóng ngắn phát đi từ một bề mặt (Rn) với tổng xạ chiếu lên bề mặt đó (Q).

(%)100.%QRA n

Albedo của tất cả các bề mặt đều phụ thuộc vào: - Tính chất bề mặt (độ nhẵn, độ xốp, lớp phủ thực vật,...) - Độ cao mặt trời h0 : h0 càng nhỏ thì trị số albedo càng lớn. Thông thường Albedo bé nhất thường xảy ra vào lúc giữa trưa, lớn nhất vào buổi sáng hoặc buổi chiều. Albedo vùng cực lớn hơn ở xích đạo. Trị số của albedo trong ngày thường lớn nhất vào lúc buổi sớm và buổi chiều, nhỏ nhất vào lúc giữa trưa. Trung bình albedo của trái đất (albedo hành tinh) là 30 %. * Albedo của mặt đất phụ thuộc: tính chất và trạng thái của bề mặt đất, vào màu sắc và độ nhám của nó, vào lớp phủ thực vật và tính chất của lớp phủ đó.

Bảng 3: Trị số albedo của một số bề mặt tự nhiên.

Bề mặt Albedo (%) Bề mặt Albedo (%) Rừng nhiệt đới 21 Mây dày 70 - 80 Rừng thay lá 18 Mây mỏng 25 - 50 Rừng cây lá kim 13 Mặt biển (60-700 vĩ) 7 - 23 Thảo nguyên 15 Mặt nước trong lục địa 2 - 78 Sa mạc 28 Tuyết 40 - 90 Cây lấy hạt 10-25 Cát ướt 30 - 35 Đồng lúa 15-25 Cát khô 25-45 Đồng bông 20-25 Đất đen 5-15 Cỏ xanh 8-27 Đất sét 20-25

Dựa vào trị số albedo ghi nhận được từ các bề mặt, người ta có thể xác định được bản chất của bề mặt, dự đoán tình trạng mùa màng, sâu bệnh, hạn hán, ngập lụt,... 2.5. Bức xạ sóng dài của mặt đất (Eđ) và của khí quyển (Ekq). Bên cạnh những luồng bức xạ mặt trời trực tiếp và khuyếch tán mà chúng ta đã xét trong các phần trên, chiếu xuyên qua khí quyển còn có những luồng bức xạ sóng dài không nhìn thấy liên tục phát đi từ mặt đất hay từ khí quyển. Khi nhận năng lượng bức xạ mặt trời, mặt đất nóng lên do quá trình chuyển hoá thành nhiệt năng. Nhiệt năng của mặt đất lại tiếp tục chuyển hoá sang dạng khác, đó là dạng bức xạ sóng dài.

http://elib.ntt.edu.vn

Page 26: BÀI GIẢNG KHÍ TƯỢNG NÔNG NGHIỆP NTTULIB - …dspace.elib.ntt.edu.vn/dspace/bitstream/123456789/6266/1... · 2012-12-04 · chúng tôi đã biên soạn cuốn bài giảng

NTTULIB

24

Mọi vật thể trong thiên nhiên, nghĩa là mỗi mảnh đất, mỗi thể tích không khí đều phát ra bức xạ nhiệt, tương ứng với nhiệt độ của chúng. Kết quả đo đạc bức xạ của các loại đất khác nhau, lớp phủ thực vật và các chất khác tạo thành mặt đất đã chứng tỏ bức xạ sóng dài của mặt đất trong tất cả các độ dài sóng chênh lệch với bức xạ sóng dài của vật đen tuyệt đối theo cùng một thừa số, nghĩa là trị số của hệ số hấp thụ đối với các độ dài sóng khác nhau chênh lệch nhau rất ít. Cho nên đối với phát xạ toàn phần của đất có thể viết:

EEâ .

trong đó: δ là trị số trung bình của hệ số hấp phụ mặt đất trong vùng sóng dài của quang phổ. Người ta thường lấy δ = 95 %. E là phát xạ sóng dài của vật đen tuyệt đối. Khả năng phát xạ sóng dài của vật đen tuyệt đối theo định luật Stêphan-Bôxơman:

4.TE (calo/cm2.phút) trong đó: σ là hệ số hấp thụ của vật đen tuyệt đối (σ = 0,826.10-10) T là nhiệt độ trung bình của bề mặt đất (tính theo nhiệt độ tuyệt đối K0 ). Do đó bức xạ mặt đất có thể viết:

4.. TEâ (calo/cm2.phút)

Bức xạ sóng dài mặt đất phụ thuộc vào nhiệt độ mặt đất, khả năng phát xạ tương đối của bề mặt. Ở cùng một nhiệt độ, thông thường bức xạ mặt đất nhỏ hơn bức xạ từ vật đen tuyệt đối. Các bề mặt khác nhau có khả năng phát xạ tương đối khác nhau.

Bảng 4: Khả năng phát xạ tương đối của một số bề mặt.

Loại bề mặt δ Loại bề mặt δ Vật đen tuyệt đối 1,00 Đồng cỏ 0,94 Đất đen 0,87 Nước 0,96 Cát 0,89 Tuyết 0,99

Mặt đất phát xạ cả ngày lẫn đêm. Song ban ngày sự phát xạ có thể được đền bù có dư bằng lượng nhiệt mặt trời chiếu xuống. Chỉ có ban đêm khi không còn luồng bức xạ mặt trời chiếu tới nữa thì sự phát xạ mới thể hiện hoàn toàn. Tương tự như mặt đất, không khí khi hấp thụ năng lượng mặt trời cũng nóng lên và bức xạ ra xung quanh (trong đó có phần hướng xuống mặt đất) dưới dạng sóng dài. Phát xạ sóng dài của khí quyển hướng về mặt đất gọi là phát xạ nghịch. Cường độ bức xạ sóng dài khí quyển đến mặt đất phụ thuộc vào vĩ độ địa lý, lượng mây, lượng hơi nước, bụi khí quyển.

http://elib.ntt.edu.vn

Page 27: BÀI GIẢNG KHÍ TƯỢNG NÔNG NGHIỆP NTTULIB - …dspace.elib.ntt.edu.vn/dspace/bitstream/123456789/6266/1... · 2012-12-04 · chúng tôi đã biên soạn cuốn bài giảng

NTTULIB

25

- Ở vĩ độ trung bình, khi bầu trời quang mây, bức xạ sóng dài khí quyển đến mặt đất khoảng 0,4 - 0,5 calo/cm2.s; nếu trời nhiều mây, bức xạ bước sóng dài khí quyển tăng thêm khoảng 20 - 30%.

- Ở nước ta, trong mùa đông nếu lượng hơi nước trong khí quyển cao thì bức xạ sóng dài khí quyển lớn, làm cho thời tiết oi bức, khó chịu và ngược lại trời quang, độ ẩm thấp thì thời tiết trở nên lạnh giá. Từ đó chúng ta nhận thấy rằng: mặt đất mất đi một lượng nhiệt do phát xạ sóng dài, đồng thời nó cũng nhận một lượng nhiệt do phát xạ sóng dài của khí quyển. Như vậy, trong thực tế bao giờ cũng có hai luồng phát xạ, đồng thời một lúc: phát xạ sóng dài của trái đất và phát xạ sóng dài của khí quyển. Hiệu số giữa bức xạ sóng dài mặt đất (Eđ ) và bức xạ sóng dài khí quyển (Ekq) gọi là bức xạ hiệu dụng (Ehd).

kqdhd EEE

Eh d vào ban ngày không đáng kể do được lấn át bởi nguồn năng lượng bức xạ mặt trời nên chúng ta chỉ quan tâm tới phát xạ hiệu dụng vào ban đêm. Trị số phát xạ hiệu dụng (Eh d) của một bề mặt phụ thuộc vào khả năng phát xạ của bề mặt đó, của khí quyển và độ ẩm không khí. Phát xạ hiệu dụng phụ thuộc vào trạng thái thời tiết, độ ẩm không khí, nhiệt độ, lượng mây, hàm lượng CO2 và CO trong không khí,... 2.6. Cân bằng bức xạ của bề mặt mặt đất (bức xạ thuần, net radiation). Nghiên cứu cân bằng bức xạ trên mặt đất có ý nghĩa rất quan khối trong dự báo thời tiết, xác định cơ cấu mùa vụ, sinh trưởng, phát triển và năng suất cây trồng.

Trên mặt đất người ta thấy trong bất kỳ lúc nào cũng có sự nhập và xuất năng lượng bức xạ. Phương trình cân bằng bức xạ được biểu diễn:

B = S’ + D + Ekq - Rn - Eđ = Q - Eh d - Rn trong đó: B là cân bằng năng lượng bức xạ mặt đất (calo/cm2.phút)

S’ là cường độ bức xạ mặt trời trực tiếp (calo/cm2 .phút) D là cường độ bức xạ khuyếch tán (calo/cm2 .phút) Ekq là phát xạ sóng dài khí quyển (calo/cm2.phút) Rn là phản xạ sóng ngắn (calo/cm2.phút) Eđ là phát xạ sóng dài của bề mặt đất (calo/cm2.phút) Q là tổng xạ (calo/cm2 .phút) Ehd là phát xạ hiệu dụng.

http://elib.ntt.edu.vn

Page 28: BÀI GIẢNG KHÍ TƯỢNG NÔNG NGHIỆP NTTULIB - …dspace.elib.ntt.edu.vn/dspace/bitstream/123456789/6266/1... · 2012-12-04 · chúng tôi đã biên soạn cuốn bài giảng

NTTULIB

26

Do: Ek q- Eđ= - Eh d; Rn = A(S’ + D) B = (S’ + D)(1-A) - Eh d (calo/cm2.phút)

+ Nếu lượng nhiệt nhập lớn hơn lượng nhiệt xuất thì B>0: mặt đất nóng lên + Nếu lượng nhiệt nhập nhỏ hơn lượng nhiệt xuất thì B<0: mặt đất lạnh đi Ban ngày diễn biến của cân bằng bức xạ gần như song song với trực xạ, còn ban đêm trùng với phát xạ hiệu dụng. Cân bằng bức xạ âm thì mặt đất mất nhiệt và lạnh đi nhanh chóng. Theo M.I.Buđưcô thì tại mọi nơi trên trái đất, cân bằng bức xạ đều có giá trị dương trừ những vùng quanh năm băng tuyết vì ở đó phát xạ hiệu dụng và Albêđô quá lớn (trong mùa đông) nên lượng nhiệt mất đi nhiều hơn lượng nhiệt nhận được. 3. Biện pháp nâng cao hiệu quả sử dụng năng lượng bức xạ mặt trời trong sản xuất nông nghiệp. Khi đến mặt đất, năng lượng bức xạ mặt trời sẽ được chuyển hoá thành các dạng năng lượng khác. Hiện nay, cây trồng chỉ mới hấp thu khoảng từ 1,5 đến 2 % tổng bức xạ quang hợp (PAR) chiếu tới đồng ruộng. Theo A.A.Nhitrôpôvich nếu nâng hiệu suất hấp thụ bức xạ của cây trồng lên tới 4-5% thì có thể nâng cao năng suất cây ngũ cốc lên gấp đôi. Để nâng cao hiệu quả sử dụng bức xạ mặt trời trong sản xuất nông nghiệp tuỳ điều kiện, có thể cân nhắc sử dụng các biện pháp kỹ thuật sau đây: - Cần đánh giá chính xác tiềm năng bức xạ quang hợp ở các vùng địa lý khác nhau theo thời gian và không gian. Khả năng đảm bảo yêu cầu cho cây trồng về năng lượng bức xạ quang hợp trong các gia i đoạn sinh trưởng và phát triển của chúng. - Cần xác định yêu cầu về năng lượng bức xạ quang hợp của từng giống cây trồng trong từng gia i đoạn sống khác nhau, đặc biệt yêu cầu về cường độ bức xạ, thời gian chiếu sáng trong ngày để có cơ sở bố trí thời vụ và phân vùng khí hậu nông nghiệp phù hợp nhằm đạt được năng suất cây trồng cao nhất. - Cần chọn tạo những giống cây trồng có những đặc trưng hình thái thích hợp để có thể nhận được năng lượng bức xạ nhiều nhất như góc lá, sự phân bố cành, sự phân bố lá trên cây, diện tích lá, bề dày lá,... - Nghiên cứu mật độ cây trên một đơn vị diện tích sao cho phù hợp nhất. Tuỳ từng điều kiện canh tác cụ thể để chúng ta xác định mật độ cây trên một đơn vị diện tích cho phù hợp. - Những loại cây ưa sáng mạnh cần trồng ở nơi có khả năng chiếu sáng tốt. Cần đánh luống theo hướng thích hợp sao cho cây trồng trong ngày có thể nhận được năng lượng mặt trời nhiều nhất. - Biện pháp trồng xen các loại cây có độ cao khác nhau, có nhu cầu ánh sáng khác nhau. Ví dụ: Xen cây dài ngày với cây ngắn ngày (cây ăn quả-dứa), cây ngắn ngày với ngắn ngày (Lạc- Rau),... - Sử dụng các biện pháp kỹ thuật chăm sóc: như chặt, tỉa cành đối với cây dài ngày, xới xáo đất, bón phân, tưới nước thích hợp sẽ giúp cây tăng khả năng chống chịu với

http://elib.ntt.edu.vn

Page 29: BÀI GIẢNG KHÍ TƯỢNG NÔNG NGHIỆP NTTULIB - …dspace.elib.ntt.edu.vn/dspace/bitstream/123456789/6266/1... · 2012-12-04 · chúng tôi đã biên soạn cuốn bài giảng

NTTULIB

27

những điều kiện bất thuận của ngoại cảnh, tăng diện tích và tuổi thọ của lá làm tăng khả năng hấp thụ năng lượng bức xạ mặt trời dẫn tới năng suất tăng.

*****

CHƯƠNG 3

CHẾ ĐỘ NHIỆT CỦA ĐẤT

Nhiệt độ đất là một trong những nhân tố quan khối ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động sống của thực vật và sự hoạt động của lớp khí quyển gần sát mặt đất. Chúng ta đều biết rằng: sự nảy mầm của hạt, sự hình thành và phát triển của bộ rễ thực vật xảy ra ở trong đất, sự phân giải các chất hữu cơ (cành rơi, lá rụng, các xác động thực vật trong đất,…), chất dinh dưỡng hoà tan trong nước và nhiều quá trình sinh vật học, hoá học, vật lý học khác cũng xảy ra ở trong đất. Tất cả những điều đó đối với sự sinh trưởng, phát triển và năng suất của cây trồng đều có ý nghĩa quan khối. Do đó muốn

http://elib.ntt.edu.vn

Page 30: BÀI GIẢNG KHÍ TƯỢNG NÔNG NGHIỆP NTTULIB - …dspace.elib.ntt.edu.vn/dspace/bitstream/123456789/6266/1... · 2012-12-04 · chúng tôi đã biên soạn cuốn bài giảng

NTTULIB

28

xác định đúng đắn điều kiện khí tượng nông nghiệp trong sự sinh trưởng, phát triển của thực vật, cần phải biết trạng thái nhiệt của mặt đất. 1. Tính chất nhiệt của đất. a. Nhiệt dung của đất. Nhiệt dung của đất là đại lượng dùng để đánh giá khả năng nóng lên nhanh hay chậm của đất. Nhiệt dung của đất được chia làm hai loại: * Nhiệt dung khối lượng Cp (calo/g.độ) là lượng nhiệt cần thiết để làm 1gam đất nóng lên 1oC. * Nhiệt dung thể tích Cv (calo/cm3.độ) là lượng nhiệt cần thiết để làm 1cm3 đất nóng lên 1oC. Gọi d là tỷ khối của đất, mối quan hệ giữa nhiệt dung thể tích và nhiệt dung khối lượng được biểu diễn:

Cv = Cp.d (calo/cm3.độ)

Bảng 5: Nhiệt dung cuả 1 số thành phần cấu tạo đất. Nhiệt dung của đất phụ thuộc vào:

- Thành phần cấu tạo đất: các loại đất có cấu tạo từ thành phần khác nhau có nhiệt dung khác nhau:

Thành phần Nhiệt dung khối lượng Cp (calo/g/độ)

Nhiệt dung thể tích Cv (calo/cm3/độ)

Cát 0,18 0,49 Sét 0,28 0,59 Than bùn 0,48 0,60 Không khí trong đất 0,24 0,0003 Nước trong đất 1,00 1,00

Từ kết quả nghiên cứu ở bảng 6 cho thấy: + Nhiệt dung thể tích của mọi thành phần rắn trong đất dao động từ 0,4-0,6 calo/cm3 .độ + Nhiệt dung thể tích của không khí trong đất là 0,0003 calo/cm3 .độ. + Nhiệt dung của nước bằng 1 calo/cm3.độ (V1g= 1cm3) Trong đất hầu như luôn có chứa nước và không khí. Chính vì vậy trong đất càng nhiều nước, càng ít không khí thì nhiệt dung thể tích càng lớn.

- Độ ẩm đất: Bảng 6: Nhiệt dung thể tích của các loại đất có độ ẩm khác nhau

(calo/cm3 /độ)

Các loại đất Độ ẩm đất (%)

http://elib.ntt.edu.vn

Page 31: BÀI GIẢNG KHÍ TƯỢNG NÔNG NGHIỆP NTTULIB - …dspace.elib.ntt.edu.vn/dspace/bitstream/123456789/6266/1... · 2012-12-04 · chúng tôi đã biên soạn cuốn bài giảng

NTTULIB

29

0 20 50 80 100 Đất cát 0,35 0,40 0,48 0,58 0,63 Đất sét 0,26 0,36 0,53 0,72 0,90

Đất nhiều mùn 0,15 0,30 0,52 0,75 0,90 Than bùn 0,20 0,32 0,56 0,79 0,94 Từ đó ta có thể giải thích được sự nóng lên và lạnh đi rất khác nhau của các loại

đất khi có cùng một nguồn năng lượng bức xạ mặt trời như nhau. - Các loại đất có nhiệt dung nhỏ dễ bị đốt nóng lên và lạnh đi nhanh hơn so với đất có nhiệt dung lớn làm cho các loại đất có nhiệt dung nhỏ biến động mạnh mẽ hơn so với các loại đất có nhiệt dung lớn. - Đất ẩm có chế độ nhiệt ôn hoà hơn ít dao động hơn so với đất khô. Vì vậy, các loại đất khô thiếu ẩm thường có chế độ nhiệt không ổn định, chúng nóng lên về ban ngày nhanh và lạnh đi về ban đêm nhanh. Sự biến động này đã ảnh hưởng lớn đến quá trình sinh trưởng và phát triển của cây trồng, đặc biệt đối với đất cát. b. Hệ số dẫn nhiệt của đất λ (calo.cm-2.cm-1.s-1.độ-1): hệ số dẫn nhiệt của đất là đại lượng dùng để đánh giá khả năng truyền nhiệt của các loại đất. Hệ số dẫn nhiệt của đất λ (calo.cm-2.cm-1.s-1.độ-1) là lượng nhiệt đi qua một đơn vị diện tích 1 cm2, có độ dày 1 cm, trong thời gian một giây, khi nhiệt độ chênh lệch giữa hai lớp kế cận nhau là 10C.

Độ lớn của hệ số dẫn nhiệt quyết định bởi đặc tính vật lý của đất. Các loại đất khác nhau thì hệ số dẫn nhiệt của chúng cũng rất khác nhau và nó phụ thuộc vào:

- Thành phần cấu tạo của đất: đất có thành phần cấu tạo khác nhau thì hệ số dẫn nhiệt của chúng cũng khác nhau.

+ Hệ số dẫn nhiệt (HSDN) của nước: 0,0013 calo.cm-2.cm-1.s-1.độ-1 + Hệ số dẫn nhiệt của không khí: 0,00005 calo.cm-2.cm-1.s-1.độ-1 + HSDN của thành phần rắn trong đất: 0,001-0,006 calo.cm-2.cm-1.s-1.độ-1 Bảng 7: Hệ số dẫn nhiệt λ (calo.cm-2.cm-1.s-1.độ-1 ) của một số thành phần cấu tạo đất.

Thành phần Hệ số dẫn nhiệt Thành phần Hệ số dẫn nhiệt Đá vôi 0,0019 Hạt sét 0,0044 Cát khô 0,00026 Nước 0,0013 Cát ẩm 20% 0,00252 Không khí 0,00005

- Ẩm độ đất: nước trong đất có thể làm tăng thêm hệ số dẫn nhiệt của đất Nước và không khí trong đất là hai thành phần có tính chất đối kháng. Sự có mặt của nước và không khí trong đất nhiều hay ít đã ảnh hưởng đến tính dẫn nhiệt của đất. Chính vì vậy ở những loại đất có ẩm độ cao chế độ nhiệt ôn hoà hơn, ổn định hơn,

http://elib.ntt.edu.vn

Page 32: BÀI GIẢNG KHÍ TƯỢNG NÔNG NGHIỆP NTTULIB - …dspace.elib.ntt.edu.vn/dspace/bitstream/123456789/6266/1... · 2012-12-04 · chúng tôi đã biên soạn cuốn bài giảng

NTTULIB

30

biên độ nhiệt độ ngày đêm nhỏ, ngược lại đối với đất khô chế độ nhiệt ngày đêm biến động lớn, biên độ nhiệt độ ngày đêm cao. - Độ xốp: đất càng xốp hệ số dẫn nhiệt càng kém. Kích thước của hạt đất càng lớn thì hệ số dẫn nhiệt càng nhỏ. - Bốc hơi: hệ số dẫn nhiệt trong đất còn phụ thuộc nhiều vào sự bốc hơi. c. Hệ số truyền nhiệt của đất (k): Tốc độ truyền nhiệt độ trong lớp đất trồng trọt và đặc biệt ở tầng canh tác có ý nghĩa lớn trong kỹ thuật trồng trọt. Khi thực hiện các biện pháp canh tác thường dựa trên sự phân bố nhiệt độ ở các lớp đất khác nhau. Để giải quyết vấn đề này người ta dùng một khái niệm gọi là hệ số truyền nhiệt độ của đất. Hệ số truyền nhiệt độ của đất là tỷ số giữa hệ số dẫn nhiệt (λ) và nhiệt dung thể tích (Cv) của chúng.

1. Cvk (cm2 /s) Hệ số truyền nhiệt độ của đất phụ thuộc vào độ ẩm và tỷ khối của đất. Kết quả nghiên cứu của A.I.Gupalo cho thấy tỷ khối của đất càng cao thì hệ số truyền nhiệt của đất càng lớn. Hệ số truyền nhiệt độ của đất đạt giá trị lớn nhất khi ẩm độ đất khoảng 18 – 20 %. Hệ số truyền nhiệt độ của nước và không khí nhỏ hơn so với phần rắn trong đất cho nên đất ẩm và đất xốp truyền nhiệt xuống sâu và mất nhiệt trong không khí chậm hơn so với đất khô và cứng. 2. Cân bằng nhiệt của mặt đất. 2.1. Cơ chế nhiệt của đất. Ban ngày, mặt đất nóng lên chủ yếu là nhờ nguồn năng lượng của bức xạ mặt trời. Mặt đất hấp thụ các tia bức xạ mặt trời và chuyển thành nhiệt năng làm cho mặt đất nóng lên. Vào những giờ có mặt trời, mặt đất được đốt nóng và nhiệt của bề mặt đất nhận được lạ i truyền cho những lớp không khí tiếp giáp và cho những lớp đất sâu hơn. Vào ban đêm và những ngày mùa đông lạnh, mặt đất bị nguội đi do phát xạ. Sự nguội lạnh này cũng làm cho lớp không khí kế tiếp và những lớp đất dưới lạnh đi. Mặt trực tiếp nhận và phát nhiệt người ta gọi là mặt hoạt động. Bề mặt hoạt động có thể là rừng cây, mặt nước, đá, cát,… cho nên tính chất nhiệt của chúng rất khác nhau. Vì vậy, quá trình nóng lên, nguội đi và truyền nhiệt vào sâu trong đất của các bề mặt này cũng rất khác nhau, dẫn đến có biến thiên nhiệt độ ngày đêm và năm. Như vậy, quá trình nóng lên của mặt đất là do sự nhận năng lượng và quá trình lạnh đi của chúng là do sự mất năng lượng của lớp bề mặt đất. Hai quá trình này xảy ra liên tục suốt ngày đêm, tạo nên một cân bằng động. Mặt đất chỉ nóng lên khi phần năng lượng nhận được lớn hơn phần năng lượng mất đi. Ngược lại khi phần năng lượng mất đi chiếm ưu thế thì mặt đất bị lạnh đi.

http://elib.ntt.edu.vn

Page 33: BÀI GIẢNG KHÍ TƯỢNG NÔNG NGHIỆP NTTULIB - …dspace.elib.ntt.edu.vn/dspace/bitstream/123456789/6266/1... · 2012-12-04 · chúng tôi đã biên soạn cuốn bài giảng

NTTULIB

31

2.2. Cân bằng nhiệt của bề mặt đất. Sự nóng lên hay lạnh đi của đất là kết quả của sự cân bằng động nhiệt độ đất và được quyết định bởi cân bằng năng lượng bức xạ trên mặt đất. Cân bằng nhiệt của mặt đất là hiệu số giữa phần năng lượng nhận được và phần năng lượng mất đi của mặt đất. Nếu cân bằng nhiệt có giá trị dương thì mặt đất nóng lên, cân bằng nhiệt bằng 0 thì nhiệt độ mặt đất không đổi, cân bằng nhiệt là một số âm thì mặt đất sẽ bị lạnh đi.

a. Sự cân bằng nhiệt của mặt đất vào ban ngày: Vào ban ngày bề mặt đất nhận được những nguồn nhiệt từ: - Tổng xạ gồm trực xạ và tán xạ ( Q= S’+D ). - Luồng phát xạ sóng dài của khí quyển (Ek q). Đồng thời mất đi những nguồn nhiệt: - Do phản xạ sóng ngắn (Rn) - Do phát xạ sóng dài của bề mặt đất (Eđ) - Do dòng thăng đi lên (V)

- Do lượng nhiệt truyền sâu vào lòng đất (P) - Do quá trình bốc hơi (LE). Vì vậy phương trình cân bằng nhiệt của mặt đất vào những ban ngày có dạng:

LEVPEADSB

LEVPEERDS

hd

kqdn

)1)('(

'

1

1B

Ba lượng nhiệt P, V, LE mất đi không đáng kể so với năng lượng bức xạ mặt trời mà mặt đất nhận được. Vì vậy, cân bằng nhiệt của bề mặt đất vào ban ngày luôn có giá trị dương. Trừ những vùng cực vào mùa đông không có trực xạ thì cân bằng nhiệt độ của bề mặt đất vào ban ngày mang giá trị âm. b. Cân bằng nhiệt của bề mặt đất vào ban đêm:

Vào ban đêm không có bức xạ mặt trời nên không có trực xạ (S’) và tán xạ (D). Mặt đất nhận được các nguồn nhiệt: - Do phát xạ sóng dài của bề mặt đất (Eđ) - Do dòng giáng đi xuống (V) - Do lượng nhiệt truyền ra từ lòng đất (P) - Do sự ngưng kết hơi nước (LE). Mặt đất mất đi các nguồn nhiệt: - Tổng xạ

http://elib.ntt.edu.vn

Page 34: BÀI GIẢNG KHÍ TƯỢNG NÔNG NGHIỆP NTTULIB - …dspace.elib.ntt.edu.vn/dspace/bitstream/123456789/6266/1... · 2012-12-04 · chúng tôi đã biên soạn cuốn bài giảng

NTTULIB

32

- Phát xạ sóng dài mặt đất. Phương trình cân bằng nhiệt của bề mặt đất vào ban đêm có dạng:

hd

kqd

ELEVPB

EELEVP

2

2B

Do lượng nhiệt nhận được từ P, V, LE không đáng kể, nên cân bằng nhiệt vào ban đêm của mặt đất phụ thuộc vào bức xạ hiệu dụng. Thông thường thì cân bằng nhiệt của mặt đất có giá trị âm, vì phần năng lượng nhận được về ban đêm rất nhỏ, không bù được phần năng lượng mất đi, do đó nhiệt độ của mặt đất về ban đêm giảm đi rất nhanh, dặc biệt vào những đêm trời quang mây, lặng gió hoặc có gió nhẹ làm xúc tiến quá trình phát xạ mặt đất, làm cho nhiệt độ mặt đất lạnh đi nhanh, nhất là vào mùa đông và không quá nóng vào những đêm mùa hè. Cân bằng nhiệt của mặt đất về ban đêm chỉ lớn hơn 0 khi bức xạ hiệu dụng nhỏ hơn 0, nghĩa là Ek q > Eđ, điều này chỉ xảy ra vào những ngày trời nhiều mây. 3. Sự diễn biến hàng ngày và hàng năm của nhiệt độ đất. 3.1. Sự diễn biến hằng ngày của nhiệt độ đất. Sự nóng lên vào ban ngày và lạnh đi vào ban đêm của mặt đất gây ra sự biến thiên nhiệt độ liên tục trong suốt thời gian một ngày đêm, gọi là sự diễn biến hàng ngày của nhiệt độ đất. a. Thời gian xuất hiện các cực trị về nhiệt độ đất trong ngày. Dao động hằng ngày của nhiệt độ mặt đất là một dao động đơn giản, có một trị số cực đại và một trị số cực tiểu.

- Cực đại của nhiệt độ mặt đất trong ngày thường xuất hiện vào giữa trưa (khoảng 13 giờ) - Cực tiểu của nhiệt độ mặt đất thường xuất hiện vào trước khi mặt trời mọc khoảng 1 giờ.

b. Biên độ biến thiên hằng ngày của nhiệt độ mặt đất Biên độ biến thiên hàng ngày của nhiệt độ mặt đất là hiệu số giữa trị số nhiệt độ cao nhất và nhiệt độ thấp nhất trong ngày đó và được biểu diễn như sau:

Δt = tmax – tmin trong đó: tmax là giá trị nhiệt độ cao nhất trong ngày (0C) tmin là giá trị nhiệt độ thấp nhất trong ngày đó (0C).

Biên độ biến thiên hằng ngày của nhiệt độ mặt đất là yếu tố biến động rất lớn và nó phụ thuộc vào những yếu tố sau: - Thời gian trong năm: mùa hè biên độ biến thiên hàng ngày của nhiệt độ đất lớn hơn mùa đông. Biên độ biến thiên hàng ngày của nhiệt độ đất vào mùa hè khoảng

http://elib.ntt.edu.vn

Page 35: BÀI GIẢNG KHÍ TƯỢNG NÔNG NGHIỆP NTTULIB - …dspace.elib.ntt.edu.vn/dspace/bitstream/123456789/6266/1... · 2012-12-04 · chúng tôi đã biên soạn cuốn bài giảng

NTTULIB

33

200C và trên nữa, mùa đông vào khoảng 10-110C và dưới nữa tuỳ theo vĩ độ địa phương. Riêng trong điều kiện khí hậu gió mùa, biên độ biến thiên hàng ngày của nhiệt độ đất cao nhất ở những ngày cuối thu, đầu đông và nhỏ nhất trong những ngày giữa mùa đông. - Vĩ độ địa phương: vĩ độ địa phương càng thấp thì biên độ biến thiên hàng ngày của nhiệt độ đất càng cao. Ở vùng xích đạo và vùng nhiệt đới biên độ biến thiên hàng ngày của nhiệt độ đất có giá trị lớn nhất. Vĩ độ càng cao, biên độ biến thiên hàng ngày của nhiệt độ đất càng giảm nhưng biên độ biến thiên hàng năm của nhiệt độ đất càng tăng.

- Lượng mây: lượng mây trên bầu trời càng ít thì biên độ biến thiên hằng ngày của nhiệt độ đất càng cao (vì lượng mây làm giảm trực xạ vào ban ngày và giảm phát xạ hiệu dụng vào ban đêm). - Tính chất nhiệt của đất (nhiệt dung và hệ số dẫn nhiệt của đất):

+ Nhiệt dung của đất càng lớn thì biên độ biến thiên hàng ngày của nhiệt độ đất càng nhỏ. + Hệ số dẫn nhiệt càng lớn thì biên độ biến thiên hàng ngày của nhiệt độ đất càng nhỏ.

- Màu sắc của đất: biên độ biến thiên hàng ngày của nhiệt độ đất ở đất sẫm màu lớn hơn so với đất nhạt màu. - Độ ẩm đất: biên độ hằng ngày của đất ẩm nhỏ hơn đất khô. - Độ cứng: biên độ hằng ngày ở đất xốp nhỏ hơn đất cứng - Địa hình và hướng dốc: + Địa hình càng cao thì biên độ biến thiên hàng ngày của nhiệt độ đất càng lớn.

+ Biên độ biến thiên hằng ngày ở đất ghồ ghề lớn hơn đất bằng phẳng. + Hướng sườn dốc khác nhau thì mức độ nóng lên của đất khác nhau. Biên độ nhiệt độ hàng ngày của nhiệt độ đất ở sườn Tây lớn hơn sườn Đông. -Lớp phủ thiên nhiên của đất: Đất có phủ thực vật (cỏ cây, rừng,…) biên độ biến thiên hằng ngày của mặt đất nhỏ hơn so với đất trơ trụi (do thực vật ngăn cản được rất nhiều bức xạ mặt trời tới được mặt đất).

- Độ trong suốt của khí quyển: biên độ biến thiên hàng ngày của nhiệt độ đất tăng lên khi độ trong suốt của khí quyển tăng.

Bảng 8: Những biến thiên nhiệt độ hàng ngày trên mặt những loại đất khác nhau:

Nhiệt độ (0C) Không khí Đá Granit Cát Than bùn Tmax 22,7 34,8 42,3 27,7 Tmin 9,6 14,5 7,8 6,3

http://elib.ntt.edu.vn

Page 36: BÀI GIẢNG KHÍ TƯỢNG NÔNG NGHIỆP NTTULIB - …dspace.elib.ntt.edu.vn/dspace/bitstream/123456789/6266/1... · 2012-12-04 · chúng tôi đã biên soạn cuốn bài giảng

NTTULIB

34

Biên độ 13,1 20,1 43,5 21,4 Đối với cát do có nhiệt dung và hệ số dẫn nhiệt thấp nên biên độ biến thiên hằng

ngày của của đất cát rất lớn. Điều này gây ảnh hưởng lớn cho sự sinh trưởng và phát triển của cây trồng trên vùng đất cát. 3.2. Sự diễn biến hàng năm của nhiệt độ đất. Sự diễn biến hàng năm của nhiệt độ đất liên quan đến sự biến thiên hàng năm của lượng nhập năng lượng bức xạ mặt trời. Tại Bắc bán cầu điểm cực đại của nhiệt độ đất thấy vào tháng 7, 8. Còn điểm cực tiểu vào tháng 1, tháng 2.

Biên độ biến thiên hàng năm của nhiệt độ mặt đất là hiệu số giữa nhiệt độ đất trung bình tháng cao nhất và tháng thấp nhất trong năm đó.

Δtn = ttmax – ttmin (0C) trong đó: ttmax là nhiệt độ trung bình tháng cao nhất trong năm

ttmin là nhiệt độ trung bình tháng thấp nhất trong năm. Biên độ biến thiên hàng năm của nhiệt độ đất phụ thuộc vào: - Vĩ độ địa phương: vĩ độ càng cao thì biên độ biến thiên hàng năm của nhiệt độ đất càng lớn. Càng gần biển biên độ nhiệt độ càng giảm. Tại những vĩ độ trung bình biên độ hàng năm khoảng 300C. - Lớp phủ thực vật: biên độ nhiệt độ hàng năm của đất trơ trụi lớn hơn so với đất có phủ thực vật. Biên độ biến thiên hàng năm cũng như hàng ngày của nhiệt độ đất giảm theo độ sâu và ở một độ sâu nào đó là lớp có nhiệt độ hàng ngày (hàng năm) bất biến. Tùy theo đặc điểm của đất mà biên độ nhiệt độ hàng năm (hàng ngày) triệt tiêu ở những độ sâu khác nhau. Tại những vùng nhiệt đới nơi biên độ nhiệt độ hàng năm bất biến ở độ sâu khoảng 5-10m, còn ở vùng vĩ độ trung bình lớp đất có nhiệt độ hàng năm bất biến ở độ sâu 15-20m.

Thời gian xảy ra nhiệt độ hàng năm cực đại (cực tiểu) chậm dần theo độ sâu. Vùng vĩ độ trung bình thường khoảng 20-30 ngày cho mỗi mét độ sâu. 4. Ảnh hưởng của nhiệt độ đất đối với sản xuất nông nghiệp:

4.1. Nhiệt độ đất ảnh hưởng đến cây trồng: Nhiệt độ đất là một trong những yếu tố cơ bản ảnh hưởng đến quá trình sinh

trưởng, phát triển và năng suất cây trồng. Nhiệt độ đất đặc biệt có ý nghĩa đối với sự nảy mầm của hạt, sự phát triển của bộ rễ cây, ảnh hưởng đến hoạt động sống của vi sinh vật đất. Chỉ khi có một nhiệt lượng nhất định hạt giống mới có thể nảy mầm, rễ non mới phát dục được, mầm non mới có thể mọc lên khỏi mặt đất. Nhiệt độ đất ảnh hưởng đến:

- Các giai đoạn sinh trưởng và phát triển của cây trồng, đặc biệt là giai đoạn nảy mầm của hạt giống.

http://elib.ntt.edu.vn

Page 37: BÀI GIẢNG KHÍ TƯỢNG NÔNG NGHIỆP NTTULIB - …dspace.elib.ntt.edu.vn/dspace/bitstream/123456789/6266/1... · 2012-12-04 · chúng tôi đã biên soạn cuốn bài giảng

NTTULIB

35

Nhu cầu về nhiệt độ đất ở gia i đoạn mọc mầm của các giống cây trồng khác nhau thì khác nhau. Muốn cho hạt giống nảy mầm được nhiệt độ đất phải cao hơn giới hạn tối thấp sinh vật học mà hạt giống đó yêu cầu. Nếu nhiệt độ quá thấp (dưới giới hạn tối thấp sinh vật học) hạt giống sẽ không nảy mầm được. Ví dụ lúa chỉ gieo khi nhiệt độ đất cao hơn 12-140C; ngô gieo khi nhiệt độ cao hơn 8-100C. Trong khoảng nhiệt độ thích hợp, nhiệt độ tăng sẽ rút ngắn thời gian từ gieo đến mọc mầm, chất lượng mầm tốt, tỷ lệ mầm cao. Ngược lại, nếu nhiệt độ quá cao (quá giới hạn tối cao sinh vật học) cũng làm cho hạt giống mất khả năng nảy mầm hoặc chất lượng mầm kém, cây phát triển yếu. Hạt giống nằm lâu ngày dưới đất sẽ bị thối do các loại nấm bệnh, vi sinh vật, côn trùng phá hoại. Đặc biệt là các loại hạt giống có hàm lượng dầu cao như vừng, lạc, bông, hướng dương,…

Bảng 9: Nhu cầu về nhiệt độ đất trong thời kỳ nảy mầm của một số loại hạt giống

Nhiệt độ đất Loại hạt giống Tối thấp Thích hợp Tối cao Tiểu mạch; đại mạch 1-2 20-25 28-32 Ngô 8-10 25-35 40-44 Bầu bí 10-15 37-44 44-50 Lúa 12-14 25-30 45 Dưa bở 15-18 31-37 44-50 Hướng dương 5-10 31-37 37-44

Các giai đoạn khác nhau của cây trồng cũng yêu cầu nhiệt độ đất khác nhau: những quá trình sinh lý chủ yếu của cây như quang hợp, hô hấp,… chủ yếu diễn ra ở nhiệt độ đất từ 30-350C, quá trình sinh lý được tăng cường thêm khi nhiệt độ tăng, sau đó lạ i yếu đi và tới 40-450C thì ngừng hẳn. Nhiệt độ đất trên 500C thường đã có hại rõ rệt đối với cây. Khả năng chịu được nhiệt độ thấp cũng không giống nhau đối với từng loại cây. Các cây nhiệt đới có thể ngừng sinh trưởng ở điều kiện nhiệt độ đất 3-40C và có khi ở nhiệt độ cao hơn nữa, lúc này quá trình vận chuyển chất dinh dưỡng từ rễ lên các bộ phận trên mặt đất bị đình trệ. Riêng các cây xứ lạnh có thể chịu được nhiệt độ thấp hơn tới -200C, -300C hay hơn nữa. Ở nước ta, vụ Đông và vụ Xuân là những vụ trồng trọt có nhiệt độ thấp, do đó cần phải nghiên cứu để nắm vững được nhu cầu nhiệt cần cho sự mọc mầm của hạt giống, đồng thời cần nắm được sự diễn biến về nhiệt độ và ẩm độ đất tự nhiên ở thời kỳ gieo hạt nhằm xác định thời vụ gieo thích hợp, tạo điều kiện tốt ngay từ pha sinh trưởng đầu tiên. - Ảnh hưởng đến sự phát sinh và phát triển của rễ. Nhiệt độ đất ảnh hưởng trực tiếp đến quá trình phát sinh, phát triển của rễ và các bộ phận dưới mặt đất. Theo tài liệu của Xinennhicốp, nhiệt độ đất ảnh hưởng đến độ dài của rễ ngô trong ngày như sau:

Bảng 10: Nhiệt độ đất ảnh hưởng đến độ dàicủa rễ

Nhiệt độ (0C) 4,4 10,2 15,8 19,0

http://elib.ntt.edu.vn

Page 38: BÀI GIẢNG KHÍ TƯỢNG NÔNG NGHIỆP NTTULIB - …dspace.elib.ntt.edu.vn/dspace/bitstream/123456789/6266/1... · 2012-12-04 · chúng tôi đã biên soạn cuốn bài giảng

NTTULIB

36

Độ dài của rễ (mm/ngày)

1,4 3,7 6,5 8,7

Trong khoảng nhiệt độ đất thích hợp thì nhiệt độ càng tăng, bộ rễ phát triển càng nhanh nhưng nếu nhiệt độ quá cao sẽ ảnh hưởng đến bộ rễ. Tại vùng nhiệt đới, nhiệt độ cao dưới đất làm hư củ khoai tây. Nhiệt độ đất tối thích cho cây trồng này là 170C và khoai tây ngừng lớn hẳn ở nhiệt độ 280C.

- Nhiệt độ đất ảnh hưởng tới qua trình hút nước, huy động và cung cấp chất dinh dưỡng cho cây.

+ Nhiệt độ đất cao làm tăng khả năng hoà tan các chất dinh dưỡng trong đất, làm tăng hoạt tính của dung dịch đất giúp cho bộ rễ cây trồng hút được một cách thuận lợi hơn. + Nhiệt độ đất cao làm tăng quá trình bốc hơi nước trên mặt đất và quá trình phát tán hơi nước của các bộ phận thân lá tạo ra dòng vận chuyển liên tục của nước và các chất dinh dưỡng trong cơ thể cây trồng. Trong điều kiện nhiệt độ thấp quá làm giảm tốc độ thậm chí làm ngưng trệ các quá trình trên gây ra những ảnh hưởng xấu đến cây trồng.

- Nhiệt độ đất ảnh hưởng đến hoạt động của vi sinh vật đất. + Nhiệt độ đất thích hợp cường độ hoạt động của vi sinh vật đất mạnh, tốc độ phân giải các chất hữu cơ trong đất xảy ra nhanh chóng, tăng khả năng cung cấp chất hữu cơ cho cây. + Các loại sản phẩm phụ như thân lá, rễ cây sau thu hoạch, các loại phân hữu cơ, phân chuồng, phân xanh bón vào đất phải được phân giải thành các chất vô cơ dễ tiêu cây trồng mới sử dụng được.

- Ảnh hưởng đến sự phát sinh và phát triển của sâu bệnh. Nhiệt độ đất còn ảnh hưởng đến sự phát sinh, phát triển của một số loài sâu bệnh sống trong đất. Nếu nhiệt độ thích hợp chúng có thể tồn tại lâu trong đất. Tóm lại, nhiệt độ đất ảnh hưởng rất lớn đến quá trình sản xuất nông nghiệp, đến năng suất và chất lượng nông sản phẩm. 5. Những biện pháp kỹ thuật điều hoà chế độ nhiệt của đất. 5.1. Những biện pháp kỹ thuật giữ và tăng nhiệt độ đất trong mùa đông: Trong thời kỳ mùa đông năng lượng bức xạ nhận được ít, lại kèm theo gió lạnh. Chính vì vậy vấn đề giữ nhiệt trong thời kỳ mùa đông cần được quan tâm đến.

Có một số biện pháp kỹ thuật cần quan tâm sau: - Che phủ mặt đất: có thể dùng những biện pháp sau: Rơm rạ, cỏ mục, mùn trấu,…Cây phân xanh: rong, bèo, muồng,….Ny lông. Rải tro trên mặt ruộng ở một số ruộng mới gieo trồng sẽ làm tăng khả năng hấp thụ nhiệt mặt trời của mặt đất.

http://elib.ntt.edu.vn

Page 39: BÀI GIẢNG KHÍ TƯỢNG NÔNG NGHIỆP NTTULIB - …dspace.elib.ntt.edu.vn/dspace/bitstream/123456789/6266/1... · 2012-12-04 · chúng tôi đã biên soạn cuốn bài giảng

NTTULIB

37

- Tưới nước và giữ nước cho cây trồng cạn: tăng ẩm độ đất sẽ làm tăng nhiệt dung của đất, tăng hệ số dẫn nhiệt của đất sẽ làm tăng hệ số khả năng hấp thụ năng lượng bức xạ mặt trời. Như vậy đất sẽ có nhiệt độ cao hơn.

- Trồng cây theo luống, hàng và hướng: trồng cây theo luống có thể làm thay đổi trạng thái đất rất nhiều. Trong điều kiện trồng cây theo luống sẽ làm cho bề mặt hoạt động tăng lên 20-30% so với mặt đất phẳng. Cho nên ban ngày mặt đất trồng theo luống hấp thu năng lượng bức xạ mặt trời nhiều hơn so với mặt đất không có luống.

Bảng 11: Ảnh hưởng của đánh luống tới nhiệt độ đất (0C).

Độ sâu (cm) Đất 5 10 15 20

Không đánh luống 14,9 13,1 12,0 11,2 Đánh luống 17,0 15,9 14,1 14,1

Ta thấy ở tất cả các độ sâu nhiệt độ đất nơi có đánh luống đều cao hơn so với

không đánh luống. Trồng cây theo hàng và hướng, trong ngày sẽ làm giảm sự che chắn lẫn nhau của các cây trồng theo hàng. Như vậy cây trong hàng có thể nhận được nhiều năng lượng của mặt trời hơn. Những biện pháp này đặc biệt có ý nghĩa đối với việc tròng cây ăn quả, cây công nghiệp lâu năm. - Cải thiện thành phần cơ giới và kết cấu đất: giảm tỷ lệ cát, tăng tỷ lệ sét trong đất. Xới xáo, giữ cho đất tơi xốp, thoáng khí, bón phân hữu cơ làm cho đất tơi xốp, có kết cấu viên nhiều, lượng không khí trong đất tăng lên làm cho đất thoáng, nóng lên và lạnh đi chậm. - Xác định thời vụ thích hợp: là biện pháp có hiệu quả nhất tránh được thời gian có nhiệt độ thấp. Việc gieo trồng vụ Đông, vụ Xuân chỉ được thực hiện khi nào nhiệt độ cao hơn nhiệt độ tối thấp sinh vật học mà hạt giống yêu cầu. 5.2. Các biện pháp kỹ thuật giảm nhiệt độ đất trong mùa hè: - Biện pháp che phủ.

+ Có thể dùng vật che tủ cho cây trong mùa hè bằng những giàn che đối với những cây non trong vườn ươm, vừa có tác dụng hạn chế sự tăng lên của nhiệt độ đất, lạ i có thể tránh mưa cho cây non. + Có thể dùng rơm rạ, cỏ mục hay cây phân xanh phủ trên mặt đất để giảm năng lượng bức xạ chiếu trực tiếp xuống mặt đất, làm tăng phản xạ của mặt đất và làm giảm nhiệt độ của chúng vào những giờ ban ngày. - Tưới nước cho cây: dùng nước tưới cho cây trồng là biện pháp chóng nóng có hiệu quả cao. Đất có tưới trong điều kiện nhiệt độ cao cường độ bốc hơi nước trên mặt đất tăng lên và làm cho nhiệt độ mặt đất giảm đi đáng kể. Đối với cây trồng cạn, việc tưới nước giữ ẩm cho đất là biện pháp rất có hiệu quả. Thiếu nước cây trồng phát triển kém do không đủ nước cho các nhu cầu thoát hơi nước mạnh. Đối với cây trồng nước

http://elib.ntt.edu.vn

Page 40: BÀI GIẢNG KHÍ TƯỢNG NÔNG NGHIỆP NTTULIB - …dspace.elib.ntt.edu.vn/dspace/bitstream/123456789/6266/1... · 2012-12-04 · chúng tôi đã biên soạn cuốn bài giảng

NTTULIB

38

như lúa và các loại rau trồng trong nước về mùa hè nhất thiết phải có lớp nước trên mặt đất. - Xới xáo đất, san phẳng mặt ruộng, bón phân hữu cơ cho đất làm giảm khả năng hấp thụ nhiệt của đất, tăng sức chống chịu của cây. - Trồng cây che bóng và trồng rừng phòng hộ: tác dụng làm giảm bức xạ trực tiếp, ngăn chặn gió nóng xâm nhập. Tuỳ theo mục đích sử dụng đất, tuỳ từng loại cây trồng người ta có thể trồng các loại cây che bóng (thường là những loại cây phân xanh như: muồng, cây cốt khí,…).

*****

CHƯƠNG 4 CHẾ ĐỘ NHIỆT CỦA KHÔNG KHÍ

Mục đích nghiên cứu chế độ nhiệt của không khí là tìm hiểu những quy luật về nhiệt khí quyển, sự nóng lên và lạnh đi của không khí, những quy luật biến thiên theo không gian và thời gian, tìm kiếm những biện pháp né tránh sự ảnh hưởng của nhiệt độ, tránh những thiên tai đối với sản xuất nông nghiệp nhằm đáp ứng nhu cầu cần thiết về nhiệt cho cây trồng và gia súc, gia cầm góp phần vào việc nâng cao năng suất, phẩm chất và tổng sản lượng nông nghiệp. 1. Quá trình nóng lên và lạnh đi của không khí. Do khả năng hấp thu năng lượng bức xạ mặt trời kém của không khí (chỉ được khoảng 14% tổng năng lượng bức xạ mặt trời xuyên qua khí quyển), không khí ít bị đốt nóng trực tiếp bởi bức xạ mặt trời. Nguồn nhiệt cơ bản để đốt nóng không khí là do mặt đất cung cấp. Mặt đất nhận được bức xạ mặt trời và nóng lên, một phần lượng nhiệt đó được nhường cho các lớp khí quyển ở phía trên. Trung bình bề mặt đất toả vào khí quyển 37% năng lượng bức xạ mà nó nhận được. Bề mặt cát nhường nhiệt cho khí quyển 49%. Mặt nước chỉ nhường cho khí quyển từ 0 - 4% năng lượng nhận được. Quá trình trao đổi nhiệt giữa đất và không khí diễn ra suốt ngày đêm. Vào ban ngày khi nhận được năng lượng bức xạ mặt trời, mặt đất nóng hơn không khí, đất

http://elib.ntt.edu.vn

Page 41: BÀI GIẢNG KHÍ TƯỢNG NÔNG NGHIỆP NTTULIB - …dspace.elib.ntt.edu.vn/dspace/bitstream/123456789/6266/1... · 2012-12-04 · chúng tôi đã biên soạn cuốn bài giảng

NTTULIB

39

nhường nhiệt cho không khí. Ban đêm khi mặt đất lạnh đi không khí lạ i nhường nhiệt cho mặt đất. 2. Những phương thức truyền nhiệt trong không khí. Sự trao đổi nhiệt giữa đất và không khí có được là nhờ những phương thức truyền nhiệt sau: 2.1. Phương thức truyền nhiệt phân tử. Ban ngày, do tác dụng của bức xạ mặt trời, mặt đất nóng lên. Khi mặt đất nóng lên làm cho những phân tử khí nằm sát mặt đất nóng lên. Những phân tử này sau khi nhận nhiệt chuyển động nhanh hơn và truyền nhiệt cho những phân tử khí nằm xa mặt đất hơn, cứ như vậy một lớp không khí được đốt nóng lên. Nhưng bằng phương thức này sự truyền nhiệt xảy ra chậm và chỉ có một lớp không khí rất mỏng được đốt nóng.

2.2. Phương thức đối lưu nhiệt. Phương thức đối lưu nhiệt xảy ra khi mặt đất được đốt nóng dữ dội làm cho lớp không khí phía dưới nóng lên mạnh. Đó chính là nguyên nhân sinh ra sự chuyển động của những thể tích khí riêng biệt (những dòng khí) theo phương thẳng đứng. Không khí nóng từ dưới bốc lên, không khí lạnh ở trên tràn xuống. Cứ như vậy một lớp không khí khá dày được đốt nóng. 2.3. Phương thức bình lưu. Do mặt đất hấp thụ nhiệt ở mọi nơi không giống nhau, có nơi nhận được nhiều nhiệt, có nơi nhận được ít nhiệt nhưng chủ yếu phụ thuộc vào đặc điểm của bề mặt. Nơi nhận được nhiệt nhiều nhiệt độ cao hơn, nên áp suất thấp. Nơi nhận được ít nhiệt lạnh hơn thì áp suất cao. Vì vậy có sự chuyển dịch của không khí từ nơi áp suất cao đến nơi áp suất thấp. Nhiệt được truyền đi do sự chuyển vận của không khí theo phương nằm ngang như vậy gọi là phương thức bình lưu. 2.4. Phương thức loạn lưu.

Khi không khí chuyển động trên bề mặt không bằng phẳng do ma sát sẽ xuất hiện những xoáy có kích thước không giống nhau, những xoáy này chuyển động không theo một hướng nhất định. Có thể chuyển động theo phương thẳng đứng rồi lại chuyển động theo phương nằm ngang,... Bề mặt càng gồ ghề, gió càng mạnh thì loạn lưu càng lớn. Loạn lưu phát triển mạnh vào ban ngày còn ban đêm yếu. 2.5. Phương thức phát xạ. Các lớp không khí ở bên dưới được nóng lên khi hấp thụ sóng dài Eđ và luồng phát xạ sóng ngắn Rn của mặt đất. Các lớp này lại phát xạ làm nóng những lớp không khí bên trên (luồng phát xạ sóng ngắn chỉ có vào ban ngày). 2.6. Phương thức truyền nhiệt dưới dạng tiềm nhiệt.

http://elib.ntt.edu.vn

Page 42: BÀI GIẢNG KHÍ TƯỢNG NÔNG NGHIỆP NTTULIB - …dspace.elib.ntt.edu.vn/dspace/bitstream/123456789/6266/1... · 2012-12-04 · chúng tôi đã biên soạn cuốn bài giảng

NTTULIB

40

Khi mặt đất nóng lên, từ bề mặt đất hơi nước bốc lên cao. Đến một độ cao nhất định nào đó, gặp điều kiện thuận lợi lượng hơi nước đó ngưng kết. Trong quá trình ngưng kết sẽ tỏa nhiệt, lượng nhiệt này sẽ đốt nóng không khí.

Trong những phương thức truyền nhiệt trên, phương thức truyền nhiệt đối lưu, loạn lưu, phương thức phát xạ và phương thức truyền nhiệt bình lưu đóng vai trò quan khối hơn nhiều so với hai phương thức còn lại. 3. Sự biến thiên của nhiệt độ không khí

3.1 . Biến thiên hàng ngày và hàng năm của nhiệt độ không khí. a. Sự biến thiên hàng ngày của nhiệt độ không khí: Sự biến thiên của nhiệt độ không khí chủ yếu phụ thuộc vào sự biến thiên của nhiệt độ đất. Vì vậy càng xa mặt đất sự biến thiên của nhiệt độ không khí càng nhỏ dần và thời điểm xảy ra cực đại và cực tiểu càng chậm lạ i. Biến thiên hàng ngày của nhiệt độ không khí là một dao động đơn giản với một cực đại và một cực tiểu. Thường nhiệt độ không khí thấp nhất xảy ra vào khoảng trước lúc mặt trời mọc khoảng 1 giờ đồng hồ. Cao nhất xuất hiện sau lúc mặt trời ở thiên đỉnh (trên lục địa vào khoảng từ 12-13 giờ, còn trên mặt biển vào lúc 14-15 giờ). Biên độ biến thiên hàng ngày của nhiệt độ không khí luôn nhỏ hơn biên độ biến thiên hàng ngày của nhiệt độ đất và phụ thuộc vào những yếu tố sau: - Vĩ độ địa phương: biên độ biến thiên hàng ngày của nhiệt độ không khí giảm khi vĩ độ địa phương tăng lên (do độ cao mặt trời giảm dần khi v ĩ độ tăng lên). - Mùa trong năm: Tại những vĩ độ ôn đới và vĩ độ cao, độ cao mặt trời lúc giữa trưa thay đổi nhiều trong năm. Do đó, biên độ biến thiên hàng ngày của nhiệt độ phụ thuộc vào các mùa trong năm, tuy nhiên sự phụ thuộc này không đồng nhất tại các vĩ độ khác nhau. + Tại vùng cực đới biến thiên hàng ngày của nhiệt độ không khí biến mất trong thời kỳ mùa Đông. + Biên độ biến thiên hàng ngày của nhiệt độ không khí lớn nhất trong thời kỳ mùa Thu và mùa Xuân. + Tại các vĩ độ ôn đới, biên độ nhỏ nhất vào mùa đông (2-40C), lớn nhất vào mùa hạ (8-120C). Tại các vĩ độ nội nhiệt đới biến thiên hàng ngày thay đổi rất ít trong năm. - Địa hình: ở những nơi địa hình cao (đồi, núi, cao nguyên) biên độ nhiệt độ hàng ngày thấp, còn những nơi điah ình trũng (thung lũng) biên độ nhiệt độ hàng ngày cao. - Đặc tính của bề mặt đệm: sự khác nhau về đặc tính của bề mặt đệm trên đất liền ảnh hưởng đến biên độ và dạng biến thiên hàng ngày của nhiệt độ không khí.

http://elib.ntt.edu.vn

Page 43: BÀI GIẢNG KHÍ TƯỢNG NÔNG NGHIỆP NTTULIB - …dspace.elib.ntt.edu.vn/dspace/bitstream/123456789/6266/1... · 2012-12-04 · chúng tôi đã biên soạn cuốn bài giảng

NTTULIB

41

- Phụ thuộc vào lượng mây: lượng mây càng nhiều thì biên độ biến thiên hàng ngày của nhiệt độ không khí càng giảm. Trong những ngày nhiều mây biên độ biến thiên hàng ngày của nhiệt độ không khí nhỏ hơn trong những ngày quang đãng.

- Độ cao so với mực nước biển: độ cao (so với mực nước biển) càng tăng thì biên độ biến thiên hàng ngày của nhiệt độ không khí càng giảm và thời điểm xảy ra cực đại, cực tiểu càng chậm lại. b. Biến thiên hàng năm của nhiệt độ không khí.

Biên độ biến thiên nhiệt độ năm là sự chênh lệch nhiệt độ trung bình tháng nóng nhất và tháng lạnh nhất

Trên lục địa: cực đại của nhiệt độ không khí quan sát thấy vào tháng 7, cực tiểu vào tháng giêng.

Trên đại dương và vùng duyên hải của lục địa: cực đại xảy ra vào tháng 8, cực tiểu vào tháng 2, tháng 3. Trị số nhỏ nhất của biên độ hàng năm quan sát thấy tại vùng xích đạo, là nơi luồng nhiệt mặt trời quanh năm hầu như không thay đổi.

Biến thiên hàng năm phụ thuộc vào: - Vĩ độ địa phương: vĩ độ càng tăng biên độ nhiệt độ năm càng tăng, nhỏ nhất là ở xích đạo và lớn nhất ở vùng cực. Vì những điều kiện thu nhiệt trong mùa hè và mùa đông càng khác nhau và biên độ hàng năm cũng tăng lên

- Đặc điểm của mặt đệm (đất liền, biển, mức độ gần và xa biển): càng xa biển biên độ nhiệt độ năm càng tăng. Ở những vùng ven biển biên độ nhiệt độ năm thấp. - Độ cao so với mực nước biển: độ cao càng tăng thì biên độ biến thiên hàng năm của nhiệt độ không khí càng giảm.

- Lượng mây và mưa: lượng mây trong mùa hè hay trong mùa đông tăng đều làm cho biên độ nhiệt độ năm giảm hoặc ngược lại. 3.2. Sự biến thiên nhiệt độ của không khí theo chiều thẳng đứng. Sự biến thiên nhiệt độ thẳng đứng theo độ cao được đặc trưng bằng gradient nhiệt độ thẳng đứng, được ký hiệu (γ). 3.2.1. Gradient nhiệt độ thẳng đứng. Gradient nhiệt độ theo phương thẳng đứng là trị số biến thiên của nhiệt độ theo mỗi 100 m độ cao (lấy với dấu trái ngược).

Zt

ZZtt

12

12

trong đó:

http://elib.ntt.edu.vn

Page 44: BÀI GIẢNG KHÍ TƯỢNG NÔNG NGHIỆP NTTULIB - …dspace.elib.ntt.edu.vn/dspace/bitstream/123456789/6266/1... · 2012-12-04 · chúng tôi đã biên soạn cuốn bài giảng

NTTULIB

42

t1 là nhiệt độ tại độ cao Z1 t2 là nhiệt độ tại độ cao Z2 ΔZ = 100m - Lớp không khí có t2 = t1, γ = 0 gọi là lớp đẳng nhiệt - Lớp không khí có t2 > t1, γ < 0 gọi là lớp nghịch nhiệt. - Lớp không khí có t2 < t1, γ > 0 gọi là lớp biến thiên thuận. Sự biến thiên nhiệt độ theo độ cao trong lớp có gradient nhiệt độ thẳng đứng là γ có thể biểu diễn bằng công thức:

1000ztt z

trong đó :

tz là nhiệt độ không khí đo ở độ cao z, t0 là nhiệt độ không khí ở mực nước biển. 3.2.2. Những quá trình đoạn nhiệt trong khí quyển. Qúa trình đoạn nhiệt là những quá trình trong đó diễn ra sự biến thiên trạng thái của một vật nào hay một khối lượng không khí nào mà không thu hay xuất nhiệt ra môi trường xung quanh.

- Quá trình đoạn nhiệt xảy ra trong không khí khô hay không khí ẩm chưa bảo hoà hơi nước gọi là quá trình đoạn nhiệt khô. Gradient đoạn nhiệt khô γ là trị số biến thiên của nhiệt độ không khí khô hoặc chưa bảo hoà hơi nước khi không khí đó lên cao hoặc xuống thấp mỗi 100 mét (γ = 10C/100m).

- Quá trình đoạn nhiệt xảy ra trong không khí đã bảo hoà hơi nước gọi là đoạn nhiệt ẩm. Gradient đoạn nhiệt ẩm (γ’) là trị số biến thiên của nhiệt độ không khí ẩm (đã bảo hoà hơi nước) khi không khí đó lên cao hoặc xuống thấp mỗi 100 mét (γ’ < 10C/100m)

4. Những đại lượng đặc trưng cho nhiệt độ không khí. 4.1. Nhiệt độ trung bình: - Nhiệt độ trung bình ngày là giá trị trung bình cộng của tất cả các giá trị quan trắc được trong ngày đo theo nhiệt kế khô.

8... 821 tttttb

trong đó t1, t2, …, t8 là nhiệt độ quan trắc được trong ngày

http://elib.ntt.edu.vn

Page 45: BÀI GIẢNG KHÍ TƯỢNG NÔNG NGHIỆP NTTULIB - …dspace.elib.ntt.edu.vn/dspace/bitstream/123456789/6266/1... · 2012-12-04 · chúng tôi đã biên soạn cuốn bài giảng

NTTULIB

43

- Nhiệt độ trung bình tháng là giá trị trung bình cộng của nhiệt độ trung bình tất cả các ngày trong tháng.

ntttt n

tb

...21

trong đó: t1, t2,...,tn là nhiệt độ trung bình ngày quan trắc được trong tháng n = 28, 29, 30, 31 là tổng số ngày trong tháng. - Nhiệt độ trung bình năm là giá trị trung bình cộng của nhiệt độ trung bình 12 tháng trong năm.

12... 1221 tttttbn

với t1,t2,…,t12 là nhiệt độ trung tháng 1 đến tháng 12.

4.2. Nhiệt độ tối cao tuyệt đối và tối thấp tuyệt đối. - Nhiệt độ tối cao tuyệt đối trong ngày là nhiệt độ cao nhất của tất cả các kỳ quan trắc đo - Nhiệt độ tối cao tuyệt đối trong tháng là giá trị nhiệt độ cao nhất trong tháng. Người ta xác định như sau: mỗi ngày trong tháng có một trị số nhiệt độ cao nhất trong ngày. Người ta tiến hành so sánh những trị số tối cao tuyệt đối của các ngày trong tháng với nhau, trị số lớn nhất sẽ là trị số tuyệt đối trong tháng - Nhiệt độ tối cao tuyệt đối trong năm là giá trị nhiệt độ cao nhất trong năm, bằng cách so sánh như trên, người ta so sánh trị số tối cao tuyệt đối của 12 tháng với nhau trị số nào lớn nhất sẽ là nhiệt độ tối cao tuyệt đối trong năm. - Nhiệt độ tối cao trung bình tháng là trung bình cộng của nhiệt độ tối cao tuyệt đối của các ngày trong tháng. - Nhiệt độ tối cao trung bình năm là trung bình cộng của nhiệt độ tối cao trung bình của 12 tháng trong năm. Nhiệt độ tối thấp: tương tự như nhiệt độ tối cao, người ta phân biệt các loại nhiệt độ tối thấp: nhiệt độ tối thấp tuyệt đối ngày, nhiệt độ tối thấp tuyệt đối tháng, nhiệt độ tối thấp tuyệt đối năm, nhiệt độ tối thấp trung bình tháng, nhiệt độ tối thấp trung bình năm. 4.3. Biên độ nhiệt độ.

- Biên độ nhiệt độ ngày là sự chênh lệch giữa nhiệt độ cao nhất và thấp nhất trong ngày (đo theo nhiệt kế khô).

Atháng = tmax - tmin(0C) - Biên độ nhiệt độ năm là sự chênh lệch nhiệt độ giữa tháng có nhiệt độ trung bình cao nhất với tháng có nhiệt độ trung bình thấp nhất trong năm.

Anăm= ttmax - ttmin(0C) 4.4. Nhiệt độ hữu hiệu.

http://elib.ntt.edu.vn

Page 46: BÀI GIẢNG KHÍ TƯỢNG NÔNG NGHIỆP NTTULIB - …dspace.elib.ntt.edu.vn/dspace/bitstream/123456789/6266/1... · 2012-12-04 · chúng tôi đã biên soạn cuốn bài giảng

NTTULIB

44

Nhiệt độ hữu hiệu là nhiệt độ thực tế mà cây trồng sử dụng được. Nhiệt độ hữu hiệu (thh) được tính bằng công thức:

thh = ttb - b trong đó: ttb là nhiệt độ trung bình của gia i đoạn. b là giới hạn thấp sinh vật học.

Đối với mỗi loại cây trồng khác nhau, trong mỗi gia i đoạn sống khác nhau chúng có một giới hạn thấp nhất về nhiệt độ khác nhau. Nhiệt độ đó là nhiệt độ tối thấp sinh vật học. - Tổng nhiệt độ hữu hiệu là tổng nhiệt độ thực tế cây trồng sử dụng trong một giai đoạn sống nào đó hoặc cho cả chu kỳ sống.

bntt tbhh .

trong đó: n là số ngày của gia i đoạn sống nào đó của cây b là giới hạn tối thấp sinh vật học,

tbt là tổng tích ôn.

Ở các gia i đoạn sinh trưởng khác nhau thì giới hạn tối thấp sinh vật học cũng không giống nhau.

Chẳng hạn như đối với cây lúa giai đoạn: - Từ gieo đến đẻ nhánh:130-150C - Đẻ nhánh- làm đốt: 170-180C - Làm đốt- trổ: 200-220C. - Chín: 230-240C. 4.5. Tổng tích ôn (tổng nhiệt độ trung bình). Tổng tích ôn là tổng nhiệt độ trung bình của một mùa, một giai đoạn hay một chu kỳ sống của cây trồng.

Tính tổng nhiệt độ theo công thức:

nttttt ...321

với t1, t2, ... tn là nhiệt độ trung bình của ngày thứ nhất, thứ hai, ..., và ngày thứ n. Có thể tính tổng tích ôn theo công thức:

tnt .

trong đó: t là nhiệt độ trung bình của giai đoạn cần xác định tổng tích ôn n là số ngày của gia i đoạn đó.

http://elib.ntt.edu.vn

Page 47: BÀI GIẢNG KHÍ TƯỢNG NÔNG NGHIỆP NTTULIB - …dspace.elib.ntt.edu.vn/dspace/bitstream/123456789/6266/1... · 2012-12-04 · chúng tôi đã biên soạn cuốn bài giảng

NTTULIB

45

Chỉ tiêu này dùng để đánh giá tài nguyên khí hậu của một vùng hoặc để xác định nhu cầu nhiệt của cây. Đây cũng là chỉ tiêu hết sức quan khối để phân vùng khí hậu nông nghiệp.

5. Ảnh hưởng của nhiệt độ không khí đối với sản xuất nông nghiệp Nhiệt độ không khí là một trong những yếu tố rất quan khối quyết định quá trình sinh trưởng phát triển và năng suất, phẩm chất cây trồng. Trong điều kiện nhiệt độ không khí thích hợp, thực vật sinh trưởng phát triển tốt, cho năng suất, phẩm chất tốt. Nhiệt độ không khí ngoài khoảng thích hợp sẽ tác động bất lợi đến đời sống của cây trồng. Đối với một quá trình sống của thực vật có 3 khoảng nhiệt độ không khí cần lưu ý: - Nhiệt độ tối thấp sinh vật học: là nhiệt độ thấp mà tại đó cây trồng ngừng sinh trưởng. Nếu nhiệt độ thấp hơn giới hạn này tuỳ thuộc thời gian kéo dài hay ngắn, sự hạ thấp nhiệt độ nhiều hay ít cây trồng sẽ bị hại ít hay nhiều hoặc bị chết. - Nhiệt độ tối cao sinh vật học: là nhiệt độ cao mà tại đó các hoạt động sống của sinh vật bị ngừng lại. - Giới hạn nhiệt độ thích hợp: là khoảng nhiệt độ lớn hơn nhiệt độ tối thấp và thấp hơn nhiệt độ tối cao. Trong khoảng này, theo Vanhốp nếu nhiệt độ tăng lên 100C thì quá trình sống của thực vật sẽ tăng lên từ 1-2 lần.

Mỗi loại cây trồng khác nhau ở mỗi giai đoạn sống khác nhau có giới hạn tối thấp sinh vật học khác nhau. Ví dụ: nhiệt độ tối thấp sinh vật học của cây lúa ở giai đoạn đầu là 130C, giai đoạn trổ bông là 20-220C. Đối với cây Ngô giai đoạn từ gieo đến mọc của một số giống là 13-140C, gia i đoạn phun râu, trổ cờ là 16-170C. Nhiệt độ thấp làm cho hàm lượng nước trong nguyên sinh chất tế bào giảm đi, nồng độ dịch bào tăng lên, làm cho quá trình vận chuyển nước và chất dinh dưỡng trong cây bị cản trở gây ảnh hưởng đến quá trình sinh lý khác của cây. Nếu nhiệt độ xuống quá thấp dưới 00C nước trong không bào bị đóng băng gây hiện tượng co nguyên sinh chất, cây sẽ dần dần bị chết. Khả năng chịu rét của các loài khác nhau, thực vật ôn đới chịu rét tốt hơn so với thực vật vùng nhiệt đới và xích đạo. Đối với cây trồng nhìn chung thời kỳ cây non và thời kỳ ra hoa kết quả kém chịu rét hơn cả. Nếu vào thời kỳ này cây gặp rét kéo dài sẽ ảnh hưởng xấu đến năng suất và phẩm chất của cây trồng. Sau đợt rét nếu nhiệt độ tăng lên từ từ thì mức độ hại sẽ thấp hơn so với nhiệt độ tăng lên đột ngột. Hầu hết các loại cây trồng có nhiệt độ tối cao sinh học ở vào khoảng 35 - 400C. Dưới ảnh hưởng lâu dài của nhiệt độ cao thời gian sinh trưởng của cây trồng rút ngắn lại, sự phát dục không bình thường, thời gian sinh trưởng ngắn không đủ cho cây tích luỹ sản phẩm năng suất, dẫn tới năng suất kém. - Nhiệt độ cao xúc tiến quá trình thoát hơi nước của cây, nếu trong thời kỳ hạn sẽ làm cho cây thiếu nước và chết.

http://elib.ntt.edu.vn

Page 48: BÀI GIẢNG KHÍ TƯỢNG NÔNG NGHIỆP NTTULIB - …dspace.elib.ntt.edu.vn/dspace/bitstream/123456789/6266/1... · 2012-12-04 · chúng tôi đã biên soạn cuốn bài giảng

NTTULIB

46

- Nhiệt độ cao làm tăng quá trình hô hấp của thực vật, làm giảm khả năng tích luỹ chất khô trong cây, dẫn tới năng suất và phẩm chất giảm. - Nhiệt độ cao ảnh hưởng xấu đến quá trình thụ phấn thụ tinh, thụ phấn của cây, làm giảm năng suất. - Trong điều kiện nhiệt độ cao kéo dài thì thời gian sinh trưởng của cây bị rút ngắn lại, cây sinh trưởng không bình thường sớm ra hoa, kết qủa. Dẫn đến ảnh hưởng năng suất, phẩm chất.

Một số kết quả nghiên cứu về ảnh hưởng của nhiệt độ không khí đến đời sống cây trồng như sau: Ở phần lớn các cây trồng, khi nhiệt độ không khí tăng lên 200C, quá trình sống tăng lên 1-2 lần; nếu nhiệt độ tiếp tục tăng lên quá 350C, các quá trình sống của thực vật sẽ bị yếu đi hoặc bị ngừng lại. Nếu trên 40-500C, quá trình sống hầu như ngừng hẳn. 6. Những biện pháp sử dụng và cải thiện hợp lý nhiệt độ không khí phục vụ sản xuất nông nghiệp. a. Nghiên cứu nắm vững nhu cầu về nhiệt độ của các giống cây trồng khác nhau, trong từng gia i đoạn khác nhau. Đánh giá nguồn tài nguyên về nhiệt của từng vùng, trong từng thời kỳ (trong vụ Đông Xuân, vụ hè Thu). Nghiên cứu tần suất xuất hiện những hiện tượng bất thường về nhiệt độ xảy ra ở từng vùng, trong từng thời kỳ (ảnh hưởng của chúng đối với mùa màng). Trên cở sở đó xác định thời vụ, phân vùng khí hậu nông nghiệp hợp lý để sử dụng một cách có hiệu quả nhất tài nguyên về nhiệt, đồng thời hạn chế những tổn thất về mùa màng do thời tiết gây ra. b. Cải tạo khí hậu đồng ruộng: Tuỳ từng trường hợp cụ thể, có thể nghiên cứu áp dụng một số các biện pháp kỹ thuật như: trồng rừng phòng hộ, trồng cây che bóng, che phủ mặt đất, làm đất, bố trí thời vụ, chăm sóc (tưới nước, bón phân,...). Ngoài ra cũng có thể sử dụng nhà kính, nhà lưới để điều tiết, cải tạo nhiệt độ không khí.

- Trồng rừng phòng hộ: Biện pháp này có tác dụng hạn chế bớt tốc độ gió mùa Đông Bắc, gió khô nóng, bảo lốc có hại cho cây trồng. Sự ẩm hoá không khí do tác dụng của rừng phòng hộ làm cho nhiệt độ không khí mùa hè cũng như mùa đông đỡ căng thẳng, bằng biện pháp này có thể giảm nhiệt độ không khí vào thời kỳ mùa hè và tăng nhiệt độ không khí trong thời kỳ mùa đông. Rừng phòng hộ còn có tác dụng cải thiện độ ẩm cho đất, hạ thấp mạch nước ngầm đối với những vùng đất trũng,... - Dùng biện pháp che phủ: Có thể che phủ bề mặt đất bằng rơm rạ, cỏ mục làm giảm phát xạ sóng ngắn vào ban ngày (giảm nhiệt độ không khí), tăng nhiệt độ không khí vào ban đêm làm cho

http://elib.ntt.edu.vn

Page 49: BÀI GIẢNG KHÍ TƯỢNG NÔNG NGHIỆP NTTULIB - …dspace.elib.ntt.edu.vn/dspace/bitstream/123456789/6266/1... · 2012-12-04 · chúng tôi đã biên soạn cuốn bài giảng

NTTULIB

47

nhiệt độ đất trong mùa hè giảm đi từ 1- 40C, vào mùa đông ấm hơn từ 1-30C. Nhiệt độ đất được cải thiện sẽ có hiệu ứng đồng dạng, đồng pha đối với nhiệt độ không khí. Có thể trồng những loại cây họ đậu một năm như: đậu mèo, đậu rựa,.. hoặc những cây lâu năm như cây tràm hoa vàng, cây so đũa,.. Vừa có tác dụng cải tạo đất vừa điều hoà được chế độ nhiệt của không khí. - Sử dụng phương pháp trồng cây trong nhà kính: ở các nước có vĩ độ cao mùa đông lạnh có tuyết phủ muốn có hoa, rau quả tươi trong mùa đông phải trồng cây trong nhà kính. - Các biện pháp kỹ thuật canh tác Bón phân cho đất: bón phân đầy đủ và cân đối giữa các yếu tố đa lượng và vi lượng giúp cho cây trồng có sức đề kháng tốt với thời tiết bất lợi...

Thời vụ trồng thích hợp: có vai trò cực kỳ quan khối, cần xác định thời vụ trồng cho từng giống , ở từng vùng sinh thái khác nhau. Xác định thời vụ trồng chính xác là đặt cây trồng sinh trưởng trong khoảng thời gian an toàn nhất tránh được những thiên tai do thời tiết gây ra, không ảnh hưởng cây trồng trước và sau nó. Tưới nước cho đất, xới xáo đất,... là những biện pháp điều hoà chế độ nhiệt của đất đồng thời cũng là biện pháp điều hoà chế độ nhiệt của không khí.

http://elib.ntt.edu.vn

Page 50: BÀI GIẢNG KHÍ TƯỢNG NÔNG NGHIỆP NTTULIB - …dspace.elib.ntt.edu.vn/dspace/bitstream/123456789/6266/1... · 2012-12-04 · chúng tôi đã biên soạn cuốn bài giảng

NTTULIB

48

CHƯƠNG 5

TUẦN HOÀN NƯỚC TRONG TỰ NHIÊN

1. Chu trình tuần hoàn nước trong tự nhiên: Nước tồn tại trong tự nhiên dưới 3 trạng thái: rắn (băng, tuyết), lỏng (nước), khí (hơi nước). Trong điều kiện phù hợp nhất định, các thể này có thể chuyển hoá lẫn nhau trong một hệ thống cân bằng động. Vòng tuần hoàn nước trong tự nhiên gồm 3 khâu chính: bốc hơi, ngưng kết, giáng thuỷ (mưa). Nước từ đại dương, sông ngòi, đất, thực vật bốc hơi vào không khí. Hơi nước gặp lạnh ngưng kết thành mây rồi hình thành mưa rơi xuống. Nước mưa rơi xuống bề mặt trái đất, rồi lạ i tiếp tục của vòng tuần hoàn kế tiếp. Qua nghiên cứu người ta thấy rằng trong thiên nhiên có một chế độ xác định nào đó của chu trình nước trong đó lượng mưa tổng cộng rơi trên trái đất bằng lượng nước bốc hơi tổng cộng. Tính trung bình trong một năm từ mặt các đại dương trên thế giới có 448.000 km3 nước và từ đất liền có 63.000 km3 nước bốc hơi vào khí quyển. Cũng trong một năm có 412.000 km3 nước mưa rơi trên bề mặt đại dương và 99.000 km3 rơi trên đất liền. Như vậy, một năm có 511.000 km3 nước bốc hơi thì cũng có đúng một lượng nước tương đương rơi xuống mặt đất. 2. Các đại lượng đặc trưng cho độ ẩm không khí. Độ ẩm không khí được xác định bằng lượng hơi nước chứa trong không khí, là một trong những đặc trưng quan khối nhất của thời tiết, khí hậu. 2.1. Sức trương hơi nước (e) - Sức trương hơi nước là áp suất của thành phần hơi nước trong không khí.

- Đơn vị tính bằng milimét (1mm = 1,33mb) hoặc miliba (1mb = 0,75mm). * Sức trương hơi nước bảo hòa (E) Sức trương hơi nước bảo hoà là trị số giới hạn của sức trương mà hơi nước có thể có ở nhiệt độ đã cho. Sức trương hơi nước bảo hòa được tính theo công thức sau:

http://elib.ntt.edu.vn

Page 51: BÀI GIẢNG KHÍ TƯỢNG NÔNG NGHIỆP NTTULIB - …dspace.elib.ntt.edu.vn/dspace/bitstream/123456789/6266/1... · 2012-12-04 · chúng tôi đã biên soạn cuốn bài giảng

NTTULIB

49

tt

E 2426,7

10.1,6 trong đó:

6,1 là sức trương bảo hòa ở 00C 7,6 và 242 là các hệ số thực nghiệm t là nhiệt độ không khí 2.2. Độ ẩm tuyệt đối (a): là lượng hơi nước chứa trong 1m3 không khí (g/m3). Giữa độ ẩm tuyệt đối và sức trương hơi nước có mối liên hệ: - Nếu e tính bằng mm thì độ ẩm tuyệt đối sẽ bằng:

)/().1(

06,1 3mgt

ea

- Nếu e tính bằng mb thì độ ẩm tuyệt đối sẽ bằng:

)/(.1

.8,0 3mgt

ea

trong đó: α là hệ số giản nở của khối không khí ( α =0,0036) t là nhiệt độ không khí

2.3. Độ ẩm tương đối (r): Độ ẩm tương đối là tỷ số giữa sức trương hơi nước chứa trong không khí và sức trương hơi nước bảo hoà ở nhiệt độ đã cho tính theo %.

100.Eer

Độ ẩm tương đối cho biết không khí ẩm đang ở xa hay gần trạng thái bảo hoà. Khi hơi nước trong không khí đạt tới mức bảo hoà e = E thì r = 100%. 2.4. Độ thiếu hụt bảo hòa của không khí d (độ hụt ẩm): Độ thiếu hụt bảo hoà của không khí là độ chênh lệch giữa sức trương hơi nước bảo hoà (E) ở nhiệt độ đã cho và sức trương hơi nước (e) chứa trong không khí.

d = E - e (mm; mb) 2.5. Độ ẩm riêng (S) Độ ẩm riêng là lượng hơi nước tính bằng gam, chứa trong 1g hay 1kg không khí ẩm hoặc bằng tỷ số giữa khối lượng hơi nước trong 1m3 không khí và khối lượng toàn thể của không khí ẩm, trong cùng một thể tích.

http://elib.ntt.edu.vn

Page 52: BÀI GIẢNG KHÍ TƯỢNG NÔNG NGHIỆP NTTULIB - …dspace.elib.ntt.edu.vn/dspace/bitstream/123456789/6266/1... · 2012-12-04 · chúng tôi đã biên soạn cuốn bài giảng

NTTULIB

50

)/(.378,0

.622,0 ggep

eS

trong đó, p là áp suất không khí. Vì trị số e rất nhỏ so với p, cho nên S có thể bằng:

)/(.622,0 ggp

eS

Nếu tính độ ẩm riêng bằng gam chứa trong 1kg không khí thì

)/(.622 kggp

eS

2.6. Điểm sương (τ0C): Điểm sương là nhiệt độ mà ở đó hơi nước chứa trong không khí đạt tới trạng thái bảo hòa. Ở nhiệt độ của điểm sương e = E và nhiệt độ không khí t = τ 2.7. Độ giàu hơi ẩm (f): Độ giàu hơi ẩm là tỷ số giữa khối lượng hơi nước và khối lượng không khí khô trong cùng một thể tích.

)/(.622,0 ggepef

Những đặc trưng của độ ẩm không khí trên được ứng dụng rộng rãi trong khoa học nông nghiệp và trong thực tiễn. 3. Diễn biến hàng ngày và hàng năm của độ ẩm tương đối và độ ẩm tuyệt đối. 3.1. Diễn biến hàng ngày và hàng năm của độ ẩm tuyệt đối.

a. Diễn biến hàng ngày của độ ẩm tuyệt đối

Biến thiên theo thời gian hàng ngày của độ ẩm tuyệt đối được quy định bởi hai nhân tố: - Độ bốc hơi từ mặt đất làm cho không khí có thêm hơi nước. - Sự trao đổi thẳng đứng làm cho hơi nước chuyển vận lên các lớp trên cao. Có hai kiểu diễn biến hàng ngày của độ ẩm tuyệt đối: * Kiểu thứ nhất là dạng diễn biến hàng ngày đơn. Dạng diễn biến này gần như song song với diễn biến của nhiệt độ. Có một cực đại vào lúc 14-15 giờ và một cực tiểu vào lúc trước khi mặt trời mọc. Dạng diễn biến này thường xảy ra ở những vùng hơi nước bốc hơi nhiều, đảm bảo hơi nước liên tục nhập vào khí quyển. * Kiểu thứ hai là dạng diễn biến kép có hai cực tiểu (vào lúc trước khi mặt trời mọc và vào lúc 15-16 giờ), có hai cực đại (vào lúc 8-9 giờ và lúc 20-21 giờ). Dạng này thường xảy ra trên lục địa vào thời kỳ mùa hè.

http://elib.ntt.edu.vn

Page 53: BÀI GIẢNG KHÍ TƯỢNG NÔNG NGHIỆP NTTULIB - …dspace.elib.ntt.edu.vn/dspace/bitstream/123456789/6266/1... · 2012-12-04 · chúng tôi đã biên soạn cuốn bài giảng

NTTULIB

51

Nhìn chung, dao động (hàng ngày và hàng năm) của ẩm độ không khí tuyệt đối có liên quan với biến thiên của nhiệt độ và phụ thuộc vào bản chất của bề mặt: - Trên mặt biển và đại dương, ở các bờ biển và trong lục địa vào mùa đông độ ẩm tuyệt đối dao động trùng với sự biến thiên nhiệt độ (dạng diễn biến đơn). - Trên lục địa vào mùa hè, mỗi ngày ẩm độ tuyệt đối có 2 cực đại (khoảng 8-9 giờ và trước lúc mặt trời lặn) và hai cực tiểu ( trước mặt trời mọc và khoảng 14-15 giờ) (dạng diễn biến kép)

- Tại những vùng ôn đới nơi có độ bốc hơi ban ngày lớn, đối lưu và loạn lưu ban ngày nhỏ nên cực đại vào buổi sáng kéo dài đến 10-11 giờ và cực tiểu ban ngày cao hơn sáng sớm. - Trong những vùng khí hậu khô nóng như khí hậu ở Bắc Phi và Trung Á, đất khô và đối lưu, loạn lưu ban ngày lớn nên cực đại buổi sáng quan sát thấy vào lúc 6-7 giờ sáng và cực tiểu ban ngày rất thấp. b. Diễn biến hàng năm của độ ẩm tuyệt đối. Dao động hàng năm của độ ẩm tuyệt đối thường trùng với sự biến thiên của nhiệt độ. Cực tiểu xảy ra vào tháng I, cực đại xảy ra vào tháng VII. 3.2. Diễn biến hàng ngày và hàng năm của độ ẩm tương đối. Biến thiên hàng ngày và hàng năm của độ ẩm tương đối hầu như ở bất cứ nơi đâu cũng ngược với diễn biến của nhiệt độ.

- Trong dạng diễn biến hàng ngày cực đại xảy ra vào lúc trước khi mặt trời mọc và cực tiểu vào lúc 14-15 giờ. - Trong dạng diễn biến hàng năm cực đại xảy ra vào những tháng lạnh nhất và cực tiểu xảy ra vào những tháng nóng nhất.

Tại những vùng khí hậu gió mùa do hiện tượng brizơ ven biển nên diễn biến hàng năm ngược với thông thường, nghĩa là cực đại xảy ra vào mùa hè còn cực tiểu vào mùa đông. 4. Ảnh hưởng của độ ẩm không khí đối với sản xuất nông nghiệp:

- Độ ẩm không khí liên quan đến sự thoát hơi nước của cây. Sự thoát hơi nước của cây phụ thuộc rất nhiều vào chế độ ẩm của không khí. Không khí càng khô cường độ thoát hơi nước càng lớn. Độ ẩm không khí từ 90 - 95% giảm xuống 50% thì cường độ thoát hơi nước từ cơ thể thực vật tăng lên 5 lần. Nếu sự thoát hơi nước quá lớn sẽ làm mất cân đối giữa lượng nước cây nhu cầu và lượng nước cây mất đi làm giảm năng suất cây trồng. Trong trường hợp sự cân bằng nước bị phá vỡ, cây mất đi nhiều nước do độ ẩm không khí khô sẽ xảy ra hiện tượng héo tàn. Hiện tượng này đặc biệt có ảnh hưởng lớn trong những gia i đoạn sinh trưởng chủ yếu của cây trồng như thụ phấn, fơi màu. Chẳng hạn đối với lúa trong giai đoạn phơi màu nếu gặp hạn sẽ giảm năng suất đáng kể, có khi hoàn toàn không cho thu hoạch.

http://elib.ntt.edu.vn

Page 54: BÀI GIẢNG KHÍ TƯỢNG NÔNG NGHIỆP NTTULIB - …dspace.elib.ntt.edu.vn/dspace/bitstream/123456789/6266/1... · 2012-12-04 · chúng tôi đã biên soạn cuốn bài giảng

NTTULIB

52

- Độ ẩm không khí cao kéo dài thời gian sinh trưởng ảnh hưởng đến sản lượng thu hoạch. - Ảnh hưởng đến quá trình thụ phấn, thụ tinh, hút khoáng và nước trong đất, làm giảm sức sống của hạt phấn, gây khó khăn cho sự truyền phấn đặc biệt là những cây thụ phấn nhờ gió. - Nhìn chung sâu, bệnh ưa điều kiện ẩm độ cao, song độ ẩm quá cao (trên 95%) thường làm yếu hoạt động của chúng. Đặc biệt trong điều kiện kiện kết hợp với nhiệt độ cao sâu bệnh phát triển khác nhau. Độ ẩm cao, nhìn chung làm cho sâu bệnh phát triển mạnh gây tổn thất cho mùa màng (không những ngoài đồng mà cả trong phòng). Độ ẩm không khí liên quan đến tốc độ bốc hơi nước của cơ thể côn trùng, đến thân nhiệt và hoạt động sinh sản của chúng. Độ ẩm cao quá hoặc thấp quá có thể làm côn trùng tê liệt và chết. Độ ẩm không khí cao, hàm lượng nước trong cây lớn, đặc biệt hạt ngũ cốc hút ẩm mạnh, phơi lâu khô, dễ mọc mầm. Khi độ ẩm cao, nhiệt độ cao làm chất béo, chất đường bị phân giả i, khó bảo quản. Rau và hoa quả tươi được bảo quản tốt nhất trong điều kiện độ ẩm không khí từ 80-90%. Hạt giống sẽ mất sức nảy mầm nghiêm khối khi độ ẩm vượt quá 14%. - Độ ẩm cao, chuồng trại ẩm thấp là điều kiện gây ra nhiều bệnh. 5. Những biện pháp sử dụng và cải thiện chế độ ẩm của không khí. Độ ẩm không khí là đại lượng có liên quan đến nhiều yếu tố khí tượng như mưa, gió, nhiệt độ đất, nhiệt độ không khí và sự bốc hơi. Như trên đã thấy độ ẩm không khí ảnh hưởng rất lớn đến quá trình sản xuất nông nghiệp. Để đảm bảo năng suất cây trồng cao và ổn định, một trong những biện pháp cần lưu ý đó là chế độ ẩm cho cây trồng, đặc biệt trong thời kỳ khô hạn. * Những biện pháp có thể sử dụng và cải thiện độ ẩm không khí: - Trồng rừng chắn gió nóng: Những nơi thường xuất hiện gió nóng cần trồng những đai rừng phòng hộ để hạn chế mức độ hại của gió, đồng thời cải thiện khí hậu đồng ruộng: giảm năng lượng bức xạ của mặt trời, giảm nhiệt độ đất và không khí, giảm khả năng bốc hơi nước từ bề mặt đất,.... - Trồng cây che bóng, dùng vật che phủ (rơm, rạ, cỏ mục). Trồng những loại cây có sức cao làm cây che phủ: cỏ stylo, đậu rựa,... - Xây dựng hồ chứa nước trong thời kỳ mùa mưa, xây dựng hệ thống thuỷ lợi hoàn chỉnh. - Các biện pháp kỹ thuật như trồng xen, trồng gối, xác định thời vụ hợp lý đều có ảnh hưởng rất lớn đến chế độ ẩm trên đồng ruộng. Để sử dụng hợp lý chế độ ẩm của đồng ruộng cần hiểu rõ tiềm năng của chế độ ẩm trong từng vùng, từng vụ, sự biến động độ ẩm trong thời kỳ.

http://elib.ntt.edu.vn

Page 55: BÀI GIẢNG KHÍ TƯỢNG NÔNG NGHIỆP NTTULIB - …dspace.elib.ntt.edu.vn/dspace/bitstream/123456789/6266/1... · 2012-12-04 · chúng tôi đã biên soạn cuốn bài giảng

NTTULIB

53

Xác định nhu cầu về chế độ ẩm của từng loại cây trồng, trong từng giai đoạn sống của cây. Trên cơ sở đó vạch ra những biện pháp thích hợp nhằm đảm bảo nhu cầu ẩm cho cây để đạt năng suất cây trồng cao nhất.

6. Bốc hơi nước trong tự nhiên. Sự bốc hơi là quá trình của nước từ trạng thái lỏng hoặc rắn chuyển sang trạng thái hơi. 6.1. Bản chất của quá trình bốc hơi nước. Những phân tử của chất nước ở trạng thái chuyển động không ngừng, trong đó chúng chuyển động với những vận tốc khác nhau, những hướng khác nhau. Những phân tử ngay trên bề mặt chất nước có vận tốc lớn nhất, đã thắng được lực dính kết phân tử và bay ra khỏi chất nước vào không gian xung quanh. Nhiệt độ càng cao vận tốc chuyển động của các phân tử nước càng lớn và càng nhiều phân tử nước bay ra khỏi bề mặt bốc hơi. Kết quả là các phân tử nước đã chuyển sang trạng thái hơi. - Các phân tử hơi chuyển động theo những hướng khác nhau và một phần số phân tử đó lại rơi vào chất nước. Nếu lượng phân tử bay đi lớn hơn lượng phân tử quay trở lại quá trình bốc hơi xảy ra; nếu lượng nước bay đi bằng lượng nước quay trở lạ i thì sự bốc hơi ngừng lại; nếu lượng nước trong không gian ở trên bề mặt bốc hơi vì lý do nào đó lại lớn hơn lượng nước cần thiết để bảo hoà (không gian đã bảo hoà hơi nước). Như vậy lượng nước quay trở lạ i lớn hơn lượng nước bay hơi. Bắt đầu quá trình ngược lại với bốc hơi_ quá trình ngưng kết hơi nước. Nhiệt độ càng cao, khả năng bốc hơi nước càng mạnh. Để quá trình bốc hơi xảy ra liên tục cần phải cung cấp cho bề mặt bốc hơi một lượng nhiệt, nhiệt này gọi là nhiệt bốc hơi (L). Nhiệt bốc hơi được tính bằng công thức:

L = 597 - 0,6t với L là nhiệt bốc hơi tính bằng calo/g, t là nhiệt độ không khí. Lượng nước bốc hơi được xác định bằng tốc độ hay cường độ bốc hơi, nghĩa là lượng nước bốc hơi trong một đơn vị thời gian (giây) từ một cm3 bề mặt. Trong thực tế tốc độ bốc hơi được xác định bằng độ dày của một lớp nước đã bốc hơi, tính bằng mm. Lớp dày 1 mm bằng khối lượng 1kg nước bốc hơi từ bề mặt 1m2. * Các yếu tố ảnh hưởng: Sự bốc hơi là một hiện tượng phức tạp, phụ thuộc vào nhiều yếu tố: - Nhiệt độ không khí: Khi nhiệt độ không khí tăng thì hơi nước chứa trong không khí càng xa trạng thái bảo hoà, độ thiếu hụt ẩm trở nên lớn hơn, vì vậy sự bốc hơi mạnh lên. - Độ ẩm không khí: Độ ẩm của không khí càng nhỏ, thì độ thiếu hụt bảo hoà càng lớn, do đó tốc độ bốc hơi càng tăng.

http://elib.ntt.edu.vn

Page 56: BÀI GIẢNG KHÍ TƯỢNG NÔNG NGHIỆP NTTULIB - …dspace.elib.ntt.edu.vn/dspace/bitstream/123456789/6266/1... · 2012-12-04 · chúng tôi đã biên soạn cuốn bài giảng

NTTULIB

54

- Gió : gió đưa hơi nước hình thành từ mặt nước, mặt đất ẩm và lớp phủ thực vật đi nơi khác. Gió làm tăng cường sự trao đổi theo phương thẳng đứng của không khí và hơi nước chứa trong không khí, do đó làm thuận lợi cho sự bốc hơi tiếp tục.

Như vậy, cường độ bốc hơi tỷ lệ thuận với vận tốc gió, tỷ lệ nghịch với áp suất khí quyển nghĩa là áp suất khí quyển tăng thì sự bốc hơi giảm một cách tỷ lệ. Trong tự nhiên nước có thể bốc hơi từ 3 bề mặt chính: từ bề mặt nước thoáng, từ bề mặt đất, từ thực vật

* Bốc hơi từ bề mặt nước thoáng (theo Dalton) Vận tốc bốc hơi từ bề mặt nước thoáng trong điều kiện tự nhiên được tính theo công thức Đan-tôn (Dalton):

)//( 2 gycmgp

eEAW

trong đó: W: tốc độ bốc hơi (g/cm2 /s) E: sức trương hơi nước bảo hoà

e: sức trương hơi nước p: áp suất khí quyển A: hệ số phụ thuộc vào tốc độ gió Nhiệt độ bề mặt bốc hơi càng tăng, sức trương hơi nước bảo hoà (E) càng tăng dẫn đến độ thiếu hụt bảo hoà (d) tăng và tốc độ bốc hơi (W) tăng. Độ ẩm càng nhỏ, độ thiếu hụt bảo hoà càng lớn nên tốc độ bốc hơi càng lớn.

Tốc độ bốc hơi tỷ lệ thuận với vận tốc gió, tỷ lệ nghịch với áp suất khí quyển. * Bốc hơi từ bề mặt đất: Sự bốc hơi trong thiên nhiên phụ thuộc rất nhiều vào đặc điểm của bề mặt bốc hơi. Sự bốc hơi từ bề mặt đất chịu ảnh hưởng nhiều của các tính chất vật lý đất, trạng thái mặt đất, địa hình và những nhân tố khác như: - Kích thước hạt đất: đất tơi, đất đóng cục, đất có mao quản rộng bốc hơi ít hơn đất mịn, cứng và có mao quản hẹp. - Màu sắc đất: đất nhạt màu bốc hơi ít hơn so với đất sẫm màu, vì ở đất màu sẫm nhiệt độ cao hơn. - Địa hình: bề mặt nhẵn bốc hơi ít hơn so với bề mặt ghồ ghề vì diện tích bốc hơi bề mặt ít hơn. Địa hình lồi bốc hơi nhiều hơn địa hình lõm (vì tại nơi cao sự trao đổi loạn lưu mạnh nên độ bốc hơi mạnh hơn so với những nơi thấp). Sườn đón gió bốc hơi nhiều hơn sườn đối diện. - Tốc độ bốc hơi còn phụ thuộc vào mức độ ẩm ướt của mặt đất. Đất càng khô thì sự bốc hơi diễn ra càng chậm.

http://elib.ntt.edu.vn

Page 57: BÀI GIẢNG KHÍ TƯỢNG NÔNG NGHIỆP NTTULIB - …dspace.elib.ntt.edu.vn/dspace/bitstream/123456789/6266/1... · 2012-12-04 · chúng tôi đã biên soạn cuốn bài giảng

NTTULIB

55

- Nồng độ và tính chất hoá học của đất: nồng độ càng lớn, sức liên kết của các phần tử trong dung dịch đất càng lớn, bốc hơi nước càng chậm. - Loại đất : các loại đất khác nhau thì tốc độ bốc hơi của nước cũng khác nhau. Đất cát bốc hơi ít hơn so với đất sét. - Độ sâu mạch nước ngầm: mạch nước ngầm càng gần mặt đất thì bốc hơi càng mạnh. - Lớp phủ thực vật: lớp phủ thực vật làm giảm bốc hơi ẩm trực tiếp từ mặt đất đi rất nhiều vì vào thời kỳ ban ngày nhiệt độ đất tăng lên ít, hơn nữa trong tán thực vật giàu hơi nước do thực vật thoát ra, đồng thời dưới lớp phủ thực vật tốc độ gió giảm, sự trao đổi loạn lưu yếu nên bốc hơi nước giảm. Tuy nhiên, thực vật lạ i làm bốc hơi một lượng lớn hơi nước mà nó lấy từ đất thông qua quá trình sinh lý. * Sự bốc hơi nước của thực vật: Sự bốc hơi nước của thực vật không phải là một quá trình vật lý thuần tuý mà còn có sự tham gia của các quá trình sinh lý: hoạt động của rễ và khí khổng, nên người ta gọi là sự thoát hơi nước. Nhờ thoát hơi nước mà cây mới có thể vận chuyển nước và chất dinh dưỡng từ rễ lên các bộ phận của cây, thoát hơi nước giúp cho cây điều hoà được thân nhiệt trong những ngày hè nóng nực.

Sự thoát hơi nước của thực vật chịu ảnh hưởng của các nhân tố sau: - Hoạt động khí khổng của các loài cây: Tuỳ theo đặc tính sinh lý của mỗi loài cây khác nhau, khí khổng chịu ảnh hưởng của các nhân tố khác nhiều hay ít mà ảnh hưởng đến quá trình thoát hơi nước. - Ánh sáng: Năng lượng bức xạ của mặt trời được trồng hấp thụ phần lớn tham gia vào quá trình bốc thoát hơi nước, trong đó trực xạ đóng vai trò quan khối nhất. Ánh sáng còn là nhân tố quan khối điều khiển đóng mở của khí khổng. - Độ ẩm không khí: độ ẩm không khí càng thấp, sự chênh lệch bảo hoà càng lớn, sự thoát hơi nước càng tăng.

- Nhiệt độ không khí: nhiệt độ không khí càng cao, sự thoát hơi nước càng mạnh. - Gió: gió càng mạnh, sự trao đổi loạn lưu của không khí càng tăng, sự thoát hơi nước của thực vật càng lớn. - Tuổi và các cơ quan khác nhau của thực vật: cây non thoát hơi nước nhiều hơn cây già, cây lá rộng thoát hơi nước nhiều hơn cây lá kim,... Trên một cây sự thoát hơi nước ở các bộ phận của cây cũng khác nhau phụ thuộc vào sự hoạt động của các mạch gỗ và các cơ quan dinh dưỡng.

http://elib.ntt.edu.vn

Page 58: BÀI GIẢNG KHÍ TƯỢNG NÔNG NGHIỆP NTTULIB - …dspace.elib.ntt.edu.vn/dspace/bitstream/123456789/6266/1... · 2012-12-04 · chúng tôi đã biên soạn cuốn bài giảng

NTTULIB

56

Điều cần chú ý bản thân thực vật có thể thoát ra rất nhiều hơi nước mà rễ đã hút được từ trong đất. Cho nên đất có phủ thực vật sẽ bốc hơi nhiều hơn đất không có phủ thực vật.

6.2. Vai trò của bốc hơi nước trong sản xuất nông nghiệp. 6.2.1. Vai trò của sự thoát hơi nước trong đời sống thực vật: - Thoát hơi nước là một động lực chủ yếu cho quá trình hút và vận chuyển nước trong cây, là nguyên nhân sinh ra dòng nước, nhờ đó muối khoáng có thể từ môi trường ngoài vào trong cơ thể thực vật thông qua bộ rễ một cách dễ dàng. - Thoát hơi nước giúp duy trì độ bảo hoà nước trong các tổ chức thực vật, duy trì các hoạt động bình thường của nguyên sinh chất. - Thoát hơi nước làm giảm nhiệt độ thân, lá (cứ mỗi 1g nước bốc hơi, năng lượng trên mặt lá sẽ giảm 590 calo). - Nhờ thoát hơi nước mà khí khổng mở, giúp cây hấp thu CO2 cho quá trình quang hợp. 6.2.2. Vai trò của bốc hơi nước trong đất: Bốc hơi mặt đất là một thành phần của cân bằng nước trong đất, nếu lượng nước bốc hơi lớn hơn lượng mưa gây nên hiện tượng khô hạn và ngược lại. Bốc hơi mặt đất làm giảm lượng nước trong đất, làm tăng độ thoáng khí cho đất. Do đó có tác động tốt đến hoạt động của các sinh vật đất. Cùng với quá trình bốc hơi là sự vận chuyển các muối lên mặt đất (nhất là vùng đất ven biển) làm mất dinh dưỡng và nguy hiểm hơn đó là đất bị nhiễm mặn, có hại cho sinh trưởng của phần lớn các loại thực vật. Dựa vào lượng nước bốc hơi từ bề mặt đất người ta có thể xác định được chỉ số khô hạn và từ đó xác định được lượng nước cần phải cung cấp cho cây. 7. Sự ngưng kết hơi nước. Hiện tượng ngưng kết hơi nước là hiện tượng nước chuyển từ dạng hơi sang các dạng lỏng hay rắn tuỳ điều kiện. Nói cách khác, quá trình ngưng kết là quá trình ngược với quá trình bốc hơi. Quá trình biến chuyển của nước từ thể hơi sang thể lỏng gọi là sự ngưng kết hơi nước. Sự biến chuyển của hơi nước trực tiếp sang thể rắn bỏ qua gia i đoạn nước gọi là quá trình thăng hoa.

7.1. Điều kiện ngưng kết hơi nước trong khí quyển Hơi nước trong khí quyển chỉ chuyển sang thể nước hoặc thể rắn trong trường hợp sức trương của nó đạt hoặc vượt quá sức trương hơi nước bảo hòa, nghĩa là e≥E. Trong điều kiện trên nhiệt độ không khí phải hạ thấp tới điểm sương hay thấp hơn (t ≤ τ).

http://elib.ntt.edu.vn

Page 59: BÀI GIẢNG KHÍ TƯỢNG NÔNG NGHIỆP NTTULIB - …dspace.elib.ntt.edu.vn/dspace/bitstream/123456789/6266/1... · 2012-12-04 · chúng tôi đã biên soạn cuốn bài giảng

NTTULIB

57

* Sự giảm nhiệt độ trong không khí xuống dưới điểm sương có thể thực hiện được do: - Mặt đất và các lớp không khí sát mặt đất lạnh đi do phát xạ - Sự tiếp xúc của không khí nóng với mặt đệm lạnh. - Sự xáo trộn của hai khối không khí đã bảo hòa hoặc gần bảo hòa hơi nước nhưng có nhiệt độ khác nhau. - Sự bốc hơi lên cao đoạn nhiệt và sự giãn nở không khí tương ứng kèm theo sự giảm nhiệt độ. Trong điều kiện khí quyển thực tế để ngưng kết hơi nước cần điều kiện nữa là phải có hạt nhân ngưng kết. Hạt nhân ngưng kết là những phần tử nhỏ ở thể rắn, lỏng hoặc thể hơi luôn có trong khí quyển (hạt đất, hạt cát, hạt bụi,...). Nếu không có hạt nhân ngưng kết thì sự ngưng tụ rất khó xảy ra (chỉ xảy ra khi không khí quá bảo hòa hơi nước). Có 2 loại hạt nhân ngưng kết: * Hạt nhân hút ẩm: là những hạt muối rất nhỏ nhập vào khí quyển do kết quả bốc hơi của nước biển. Ngoài ra còn có những hạt dung dịch axít, những sản phẩm của sự cháy,... Trên những hạt nhân hút ẩm những giọt nước mới sinh hình thành nhanh. * Hạt nhân không hút ẩm nhưng có dính nước: là những hạt bụi đất đá lơ lửng trong không khí và cả những hạt chất hữu cơ, bụi phấn hoa, vi sinh vật,... Sự ngưng kết hơi nước trên những hạt nhân không hút ẩm khó hơn so với trên hạt nhân hút ẩm. Sự ngưng kết chỉ xảy ra khi kích thước của hạt nhân không hút ẩm dính nước lớn hơn kích thước hạt nhân hút ẩm. Trong không khí thường là không thuần khiết, có chứa những hạt không hút ẩm dính nước và những hạt nhân hút ẩm thì sự ngưng kết xảy ra khi độ ẩm tương đối là 110 - 120% và đôi khi còn thấp hơn 100%. Nếu trong khí quyển không có hạt nhân ngưng kết thì sự ngưng kết chỉ xảy ra khi độ ẩm không khí phải rất lớn, sức trương hơi nước phải lớn gấp 4 - 6 lần sức trương hơi nước bảo hòa, nghĩa là độ ẩm tương đối phải bằng 400 - 600%. 7.2. Các sản phẩm ngưng kết hơi nước. 7.2.1. Sương Sương được hình thành là do lớp không khí tiếp xúc với mặt đất lạnh hoặc với các vật lạnh trên mặt đất làm cho nhiệt độ có thể giảm nhiệt độ xuống tới điểm sương. Những lớp không khí này trở nên bảo hoà hơi nước. Nếu chúng lạnh đi thêm nữa thì lượng hơi ẩm dư thừa sẽ bắt đầu ngưng kết. Khi đó tuỳ theo những điều kiện lạnh mà hình thành những sản phẩm ngưng kết sau đây: sương, sương muối, váng nước,...Sương thường hình thành vào buổi chiều hoặc ban đêm, khi mặt đất và các vật trên mặt đất lạnh đi tới hoặc dưới điểm sương.

http://elib.ntt.edu.vn

Page 60: BÀI GIẢNG KHÍ TƯỢNG NÔNG NGHIỆP NTTULIB - …dspace.elib.ntt.edu.vn/dspace/bitstream/123456789/6266/1... · 2012-12-04 · chúng tôi đã biên soạn cuốn bài giảng

NTTULIB

58

+ Sương móc (sương đêm): là những giọt nước nhỏ, chúng thường hoà trộn với nhau phủ trên mặt đất hoặc cành cây ngọn cỏ. Sương thường hình thành vào buổi chiều hoặc ban đêm, khi mặt đất và các vật trên mặt đất bị lạnh đi tới hoặc dưới điểm sương.

+ Sương mù: Sương mù là tập hợp những sản phẩm ngưng kết hay thăng hoa hơi nước trong những lớp không khí tiếp giáp với mặt đất, làm giảm tầm nhìn ngang đến 1 km hoặc hơn nữa.

- Sương mù hợp bởi những hạt nước rất nhỏ, có thích thước từ 2 - 5µ. - Những hạt nước tạo thành mù thì vô cùng nhỏ, bán kính của chúng nhỏ hơn 1µ. Khi những hạt mù lớn lên, mù có thể trở thành sương mù. Khi những hạt sương mù bốc hơi đi thì sương mù có thể trở thành mù.

Tùy theo tầm nhìn ngang mà mù và sương mù được đánh giá theo các cấp sau: - Mù nhẹ khi tầm nhìn xa là 2 - 10 km. - Mù vừa khi tầm nhìn xa là 1 - 3 km. - Sương mù nhẹ khi tầm nhìn xa là 500 - 1000 m. - Sương mù vừa khi tầm nhìn xa là 50 - 100 m. - Sương mù dày khi tầm nhìn xa là 50 m. + Sương muối: Sương muối là những hạt băng nhỏ,nhẹ, xốp đọng trên cành cây, ngọn cỏ, bề mặt đất hay các vật gần mặt đất, khi nhiệt độ hạ tới điểm 00C. 7.2.2. Mây Mây là tập hợp những sản phẩm ngưng kết hay thăng hoa của hơi nước trong không khí tại những độ cao nào đó trong khí quyển tự do.

Dựa vào độ cao của mây người ta phân mây ra thành bốn tầng và 10 lớp chính sau: 7.2.2.1. Mây tầng cao: Mây tầng cao được hình thành ở độ cao lớn hơn 6 km. Các nguyên tố mây đều là những tinh thể băng có kích thước rất nhỏ. Loại mây này được chia làm 3 lớp mây chính: * Mây ti (Cirrus-Ci): Là những đám mây xốp biệt lập, có dạng tơ sợi, trắng, không có bóng, thường óng ánh như tơ. Những mây này rất mảnh, đôi khi có hình kén. Thường lượng mây này trên bầu trời rất ít, ít làm giảm bức xạ mặt trời, không cho mưa. Trước lúc mặt trời mọc và sau lúc mặt trời lặn, mây ti đôi khi nhuộm màu vàng tươi hay đỏ. * Mây ti tích (Cirrocumulus-Cc)

http://elib.ntt.edu.vn

Page 61: BÀI GIẢNG KHÍ TƯỢNG NÔNG NGHIỆP NTTULIB - …dspace.elib.ntt.edu.vn/dspace/bitstream/123456789/6266/1... · 2012-12-04 · chúng tôi đã biên soạn cuốn bài giảng

NTTULIB

59

Mây này hợp thành đám hay từng dải hoặc thành những khối hình kén nhỏ, trắng. Đôi khi chúng có dạng hình cầu hoặc dạng hình sóng lăn tăn, không cho bóng xuống mặt đất.

* Mây ti tầng (Cirrostratus-Cs): Là những màn mây màu trắng mờ hoặc xanh mờ, hơi có kiến trúc tơ sợi, lượng mây khá nhiều thông thường phủ kín bầu trời, không cho mưa. 7.2.2.2. Mây tầng trung bình Tầng mây này nằm ở độ cao từ 2 - 6 km, được phân thành 2 lớp: * Mây trung tích (Altocumulus-Ac):

Lớp mây có dạng sóng hợp bởi những dải hay cuộn, phần lớn có màu trắng, đôi khi có màu xanh mờ hay xám mờ. * Mây trung tầng (Altostratus-As): Màn mây có dạng tơ sợi, phần lớn có màu xám hoặc hơi xanh, thông thường màn mây dần dần che kín bầu trời. Đôi khi mặt dưới của màn mây có thể thấy mờ mờ dạng sóng. 7.2.2.3. Mây tầng thấp Mây tầng thấp nằm ở độ cao từ mặt đất đến 2 km . Gồm 3 lớp chính: * Mây tầng (Stratus-St):

Lớp mây đồng nhất màu xám hay vàng giống như sương mù, nhiều khi mặt dưới của mây có dạng tơi tả xơ xác. Mây tầng thường hợp thành màu xám che phủ khắp bầu trời. Mây tầng thường cho mưa phùn. * Mây tầng tích (Stratocumulus-Sc):

Lớp mây họp bởi phần tử khá lớn, có dạng những đợt sóng hay gò đống, xen kẻ những đám mây dày đặc màu xám có những khoảng sáng.Thông thường mây này thường thấy đồng thời với mây tích. * Mây vũ tầng (Nimbostratus-Ns):

Lớp mây có màu xám thẩm đôi khi có màu vàng đục hay xanh đục, mặt dưới của mây bao giờ cũng lồi lõm vì những màn mưa. Mây này thường cho mưa phùn hoặc mưa rào với cường độ nhỏ. 7.2.2.4. Mây tầng phát triển. Loại mây này có chân mây nằm ở độ cao từ 500 - 1000m nhưng đỉnh mây có thể đạt tới độ cao 8 - 9 km. Mây tầng phát triển được phân thành 2 lớp mây chính: * Mây tích (Cumulus-Cu):

http://elib.ntt.edu.vn

Page 62: BÀI GIẢNG KHÍ TƯỢNG NÔNG NGHIỆP NTTULIB - …dspace.elib.ntt.edu.vn/dspace/bitstream/123456789/6266/1... · 2012-12-04 · chúng tôi đã biên soạn cuốn bài giảng

NTTULIB

60

Là những đám mây dày biệt lập, phát triển theo chiều thẳng đứng, cả chân mây và đỉnh mây màu trắng, cuộn tròn và có đường viền rõ rệt. Đỉnh mây hình vòm và lồi lên, chân mây hầu như nằm ngang.

* Mây tích vũ (Cumulonimbus-Cb): Khối mây màu trắng lớn có chân màu thẩm. Loại mây này thường là những khối mây biệt lập, lượng mây thay đổi đột ngột. Sau khi xuất hiện, mây phát triển rất nhanh chỉ trong thời gian ngắn có thể che kín bầu trời. Loại mây này thường cho mưa rào và mưa dông. 8. Mưa Các hạt nước hay tinh thể băng nhỏ li ti cấu tạo nên mây trong điều kiện nhất định sẽ gia tăng kích thước, lớn lên và rơi xuống đất theo quy luật khối lượng. Quá trình mưa xảy ra. 8.1. Các dạng mưa. Mưa rơi xuống dưới dạng các giọt nước, đường kính của các giọt mưa dao động trong khoảng 0,05-7 mm. Dựa vào đặc điểm rơi của mưa, người ta chia mưa thành các loại: * Mưa phùn: Thường rơi từ mây tầng (St), mây tầng tích (Sc). Mưa phùn gồm những giọt mưa rất nhỏ, đường kính không quá 0,5 mm.

* Mưa dầm: Thường rơi từ các đám mây vũ tầng (Ns), mây trung tầng (As) và đôi khi từ mây tầng tích (Sc). Đặc điểm của mưa dầm là cường độ mưa ít thay đổi, thời gian mưa kéo dài, kích thước giọt mưa trung bình. Mưa dầm thường gắn theo sự tràn qua của front nóng. * Mưa rào: thường rơi từ mây tích vũ (Cb) và vũ tầng (Ns). Đặc điểm của mưa rào là cường độ mưa lớn (trên 1mm/phút) và thay đổi nhiều, đường kính hạt mưa lớn, bắt đầu và kết thúc đột ngột, thời gian mưa ngắn. Giọt mưa to, rơi từ đám mây tích vũ (Cb), thường kèm theo giông. Mưa rào thường xuất hiên vào mùa hè, vào thời kỳ chuyển mùa có thể kèm theo mưa đá. 8.2. Quá trình hình thành mưa.

8.2.1. Điều k iện hình thành mưa - Kích thước của giọt nước trong đám mây phải đủ lớn (>0,05 mm).

- Những đám mây không bền vững giao trạng thể. 8.2.2. Sự lớn lên của giọt nước trong đám mây.

http://elib.ntt.edu.vn

Page 63: BÀI GIẢNG KHÍ TƯỢNG NÔNG NGHIỆP NTTULIB - …dspace.elib.ntt.edu.vn/dspace/bitstream/123456789/6266/1... · 2012-12-04 · chúng tôi đã biên soạn cuốn bài giảng

NTTULIB

61

Muốn đạt tới kích thước để rơi từ đám mây xuống, giọt nước trong đám mây phải đủ lớn. Các nguyên tố mây có thể lớn lên được phải nhờ 2 quá trình: lớn lên do ngưng kết và lớn lên do tập hợp.

* Quá trình các nguyên tố mây lớn lên do ngưng kết. Trong đám mây gồm những hạt nhỏ có kích thước khác nhau. Sức trương hơi nước bảo hòa trên các giọt nước nhỏ lớn hơn trên các giọt nước lớn. Vì vậy, với điều kiện về độ ẩm như nhau, không khí có thể chưa bảo hòa trên mặt các giọt nhỏ nhưng đã bảo hòa trên mặt các giọt lớn. Trong trường hợp đó sẽ phát sinh ra điều kiện bốc hơi từ các giọt nhỏ và ngưng kết trên mặt các giọt lớn và làm cho các giọt lớn, lớn dần lên. Nhưng sự lớn lên do ngưng kết chỉ xảy ra nhanh khi kích thước giọt nước nhỏ (r < 0,01mm). Khi thích thước giọt nước lớn hơn 0,01mm thì chúng lớn lên chậm dần. Để đạt được kích thước của giọt mưa cần phải có thời gian dài. Vì vậy, sự lớn lên do ngưng kết đóng vai trò cơ bản để hình thành giọt nước mới sinh nhưng không thể dẫn tới sự hình thành những giọt nước mưa đủ lớn. Để thành những giọt mưa, những giọt nước mới sinh ra cần phải trãi qua quá trình tập hợp. * Quá trình nguyên tố mây lớn lên do tập hợp. Những giọt nước rất nhỏ có thể tập hợp với nhau do: - Kết quả của chuyển động Brao- nơ (chuyển động phân tử nhiệt học vô trật tự) nhưng quá trình này xảy ra chậm. - Những chuyển động loạn lưu làm cho những giọt nước va chạm vào nhau nhiều hơn, làm cho quá trình lớn lên của giọt nước nhanh hơn. - Do khối lực các giọt nước luôn có xu hướng rơi về phía mặt đất. Trong quá trình rơi, do kích thước của các giọt nước khác nhau nên tốc độ rơi của chúng khác nhau. Giọt nước lớn có tốc độ rơi nhanh hơn đuổi kịp giọt nước nhỏ và nhập lại thành những giọt nước lớn. Sự tập hợp này gọi là tập hợp khối lực. - Ngoài ra trong những điều kiện nhất định sự tập hợp có thể là sự hấp dẫn thủy động lực hoặc do lực hút tĩnh điện của những giọt nước mang điện trái dấu.

8.2.3. Sự hình thành mưa. Sự rơi của những giọt mưa từ đám mây phụ thuộc vào mức độ bền vững giao trạng thể của đám mây. - Những đám mây băng tầng cao Ci, Cc, Cs thì đồng nhất về kiến trúc và hơn nữa có một trữ lượng hơi nước nhỏ. Vì vậy chúng là những đám mây bền vững giao trạng thể cho nên hầu như chúng không cho mưa. - Những đám mây tầng trung bình trong mùa đông cũng có thể liệt vào loại mây băng. Trong những đám mây băng tầng giữa này có những điều kiện thuận lợi cho sự hình thành giáng thuỷ.

http://elib.ntt.edu.vn

Page 64: BÀI GIẢNG KHÍ TƯỢNG NÔNG NGHIỆP NTTULIB - …dspace.elib.ntt.edu.vn/dspace/bitstream/123456789/6266/1... · 2012-12-04 · chúng tôi đã biên soạn cuốn bài giảng

NTTULIB

62

- Các mây St, Sc thường là bền vững giao trạng thể. Vì độ phát triển theo chiều thẳng đứng của chúng nhỏ nên các giọt nước kích thước lớn không hình thành được trong đám mây này.

- Những mây hỗn hợp Cb, Ns thuộc vào loại mây hỗn hợp, không bến vững giao trạng thể nhất. Trong đám mây hỗn hợp giáng thuỷ hình thành cả khi độ phát triển theo chiều thẳng đứng của mây tương đối không lớn. - Mây tích (Cu) không cho mưa vì lượng nước trong mây ít, phát triển chậm, được hình thành vào ngày đẹp trời, khi hình thành nó không hề dịch chuyển, sự xáo trộn loạn lưu trong đám mây yếu.

* Lượng mưa (mm) được tính bằng chiều cao của lớp nước mưa trên mặt phẳng nằm ngang trong điều kiện nước không bốc hơi, không thấm đi và không chảy mất. * Cường độ mưa (mm/phút) là lượng mưa trong một phút. Quy định về diện mưa (khu vực mưa): - Mưa vài nơi: số trạm có mưa ≤ 1/3 tổng số trạm đo mưa khu vực. - Mưa rải rác: số trạm có mưa > 1/3 nhưng ≤ 1/2 tổng số trạm đo mưa khu vực. - Mưa nhiều nơi: số trạm có mưa > 1/2 tổng số trạm đo mưa khu vực. * Quy định về lượng mưa:

- Mưa không đáng kể: lượng mưa từ 0,0 - 0,5 mm. - Mưa nhỏ: lượng mưa từ 0,5 - 10,0 mm. - Mưa vừa: lượng mưa từ 10,0 - 50,0 mm. - Mưa to: lượng mưa từ 50,0 - 100,0 mm. - Mưa rất to: lượng mưa > 1000 mm. 8.3. Mưa và ảnh hưởng của nó đến sản xuất nông nghiệp. Ảnh hưởng mưa đối với cây trồng thể hiện: Mưa là nguồn nước chủ yếu cung cấp cho cây trồng. Trong suốt quá trình sinh trưởng cây cần rất nhiều nước, thành phần nước trong cây có thể thay đổi từ từ 50-98% tùy từng loại cây. Mưa lớn ảnh hưởng đến quá trình thụ phấn, thụ tinh, gây gãy, dập hoa, rách lá,...kìm hãm sự phát triển của cây, kéo dài thời gian sinh trưởng. Đối với sản xuất nông nghiệp sự ảnh hưởng của mưa phụ thuộc vào lượng mưa và tính chất, đặc điểm của mưa: - Mưa phùn mặc dù lượng nước ít nhưng cũng đóng vai hết sức quan khối trong thời kỳ ít mưa. Khi xuất hiện mưa phùn thời tiết thường âm u cho nên giảm được sự bốc hơi nước và phần nào tính chất khô hạn của thời kỳ khô. Song thời tiết âm u cũng là điều kiện thuận lợi để cho sâu, bệnh phát triển.

http://elib.ntt.edu.vn

Page 65: BÀI GIẢNG KHÍ TƯỢNG NÔNG NGHIỆP NTTULIB - …dspace.elib.ntt.edu.vn/dspace/bitstream/123456789/6266/1... · 2012-12-04 · chúng tôi đã biên soạn cuốn bài giảng

NTTULIB

63

- Mưa dầm có thể gọi là mưa hữu hiệu. Bởi mưa rất thuận lợi cho trồng trọt. Hầu như toàn bộ lượng nước mưa rơi xuống được đất hấp thụ và được cây sử dụng có hiệu quả nhất.

- Mưa rào là loại mưa chủ yếu cung cấp nước cho cây. Mưa cung cấp cho cây trồng một lượng đạm đáng kể. Song do tính chất mưa, mưa rào đã gây hiện tượng xói mòn mạnh, dễ gây úng lụt. Mưa lớn làm dập, rách lá, trôi phấn hoa. Mưa gây dí dẽ đất, hạn chế hoạt động của vi sinh vật đất và rễ cây trong đất. Mưa kéo dài trong thời kỳ thu hoạch cũng ảnh hưởng rất lớn đến năng suất và phẩm chất của sản phẩm nông nghiệp. Mưa nhỏ và phân bố đều cung cấp nước cho sản xuất nông nghiệp. Mưa quá lớn, tập trung trong thời gian ngắn: gây rửa trơi, xói mòn,... có hại cho sản xuất nông nghiệp. Mưa quá nhỏ dễ gây hạn hán.

*****

CHƯƠNG 6

ÁP SUẤT KHÍ QUYỂN VÀ GIÓ 1. Áp suất khí quyển 1.1. Đơn v ị đo áp suất khí quyển Độ lớn của áp suất khí quyển được đo bằng chiều cao của cột thuỷ ngân tính theo milimet (mm) hoặc miliba (mb); 1mb=0,75mm;1mb= 10-3bar * Khái niệm áp suất tiêu chuẩn: Áp suất tiêu chuẩn là áp suất khí quyển cân bằng với cột thuỷ ngân cao 760mm ở nhiệt độ 00C, tại vĩ độ 450 ở mực nước biển. Khi đó áp suất khí quyển sẽ bằng 760mmHg = 1013,25mb. 1.2. Sự thay đổi của áp suất khí quyển theo độ cao. Theo độ cao, áp suất khí quyển giảm dần vì càng lên cao thì khối lượng khí quyển nằm bên trên càng giảm, do đó áp suất cũng phải giảm nhưng áp suất giảm nhanh hơn trong các lớp bên dưới và chậm hơn trong các lớp bên trên. Sự biến thiên của áp suất khí quyển theo độ cao trong điều kiện khí quyển yên tĩnh được thể hiện ở công thức sau:

dzgdp ..

trong đó : dp – trị số giảm áp suất khi tăng dz độ cao dz – trị số biến thiên độ cao

http://elib.ntt.edu.vn

Page 66: BÀI GIẢNG KHÍ TƯỢNG NÔNG NGHIỆP NTTULIB - …dspace.elib.ntt.edu.vn/dspace/bitstream/123456789/6266/1... · 2012-12-04 · chúng tôi đã biên soạn cuốn bài giảng

NTTULIB

64

ρ- mật độ không khí g – gia tốc khối trường dấu “-“ biểu thị áp suất theo độ cao. Công thức được thiết lập trong điều kiện không khí yên tĩnh nên phương trình này còn được gọi là phương trình cơ bản tĩnh học. Song trong điều kiện khí quyển thực tế, nó cũng nghiệm đúng với độ chính xác cao.

- Trong thực hành người ta thường sử dụng công thức của Babinê: Công thức có dạng sau:

).1().(28000 tPtPdPtPdh

trong đó: h – hiệu số độ cao giữa hai trạm (m); Pd – áp suất không khí ở mực dưới (mb); Pt – áp suất không khí ở mực trên (mb); t – nhiệt độ trung bình của cột không khí giữa mực dưới và mực trên α: là hệ số giãn nở của không khí (α = 0,004) 8000: độ cao khí quyển đồng nhất

* Áp dụng công thức của Ba-bi- nê có thể giải quyết được những vấn đề sau: - Xác định được chênh lệch độ cao h khi biết áp suất khí quyển ở mực dưới và mực trên và nhiệt độ trung bình giữa hai điểm (D,T). - Tìm áp suất Pt tại độ cao đã biết h, nếu biết áp suất Pd và nhiệt độ trung bình giữa hai mực. - Xác định áp suất khí quyển ở mực dưới Pd khi biết áp suất khí quyển ở mực trên Pt, độ cao của mực trên so với mực biển và nhiệt độ trung bình. 1.3. Những đại lượng đặc trưng cho áp suất khí quyển. - Đường đẳng áp: là đường nối những điểm có cùng áp suất với nhau. - Địa hình khí áp: là sự phân bố áp suất biểu diễn bằng các đường đẳng áp.

- Vùng áp cao: là vùng càng vào tâm thì áp suất càng cao. Không khí di chuyển theo chiều ngược chiều kim đồng hồ. Hướng của gradient khí áp từ tâm ra ngoài. - Vùng áp thấp: là vùng càng vào tâm thì áp suất càng thấp. Gradient khí áp đi từ ngoài vào trong.

Giữa vùng xoáy thuận và xoáy nghịch, thường hay thấy những hệ thống khí áp trung gian trong đó có rãnh, lưỡi, yên.

http://elib.ntt.edu.vn

Page 67: BÀI GIẢNG KHÍ TƯỢNG NÔNG NGHIỆP NTTULIB - …dspace.elib.ntt.edu.vn/dspace/bitstream/123456789/6266/1... · 2012-12-04 · chúng tôi đã biên soạn cuốn bài giảng

NTTULIB

65

- Rảnh áp thấp là vùng áp suất thấp nhô ra có trục (đường trung tâm) nằm xen giữa hai vùng có áp suất cao hơn. - Lưỡi áp cao là vùng áp suất cao nhô ra có trục (đường trung tâm) nằm xen giữa hai vùng có áp suất thấp hơn. - Yên là vùng khí áp nằm giữa 2 xoáy thuận và 2 xoáy nghịch. 1.4. Sự phân bố khí áp trên địa cầu của lớp không khí sát mặt đất. Áp suất của không khí ở mặt đất hay ở mực nước biển là một trong những điểm đặc trưng quan khối của trạng thái khí quyển. Sự phân bố áp suất khí quyển của lớp không khí sát mặt đất hay mực biển có liên quan chặt chẽ đến sự biến thiên nhiệt độ, mây, mưa, gió,… Sự phân bố khí áp trên mặt đất được thể hiện bằng các bản đồ đẳng áp của một thời gian nhất định

Sự phân bố áp suất không khí trong năm được đặc trưng bởi các bản đồ đẳng áp của tháng 1 và tháng 7. a. Sự phân bố khí áp trên địa cầu trong mùa đông (tháng 1, tại độ cao mực nước biển).

Vào tháng giêng, dọc theo xích đạo có một dải áp suất thấp với áp suất gần 1010mb người ta gọi đó là xích đạo khí áp. Từ xích đạo khí áp, áp suất tăng dần về phía cực và ở vĩ độ 30-350 ở cả hai bên xích đạo hình thành những dải áp cao. Những dải này nằm trên từng vùng biệt lập, gọi là cực đại khí áp cận nhiệt đới. - Ở Bắc bán cầu có những cực đại cận nhiệt đới sau: cực đại Axo thuộc Đại tây dương gần quần đảo Axo và cực đại Hawai hình thành ở các vĩ độ cận nhiệt đới Thái bình dương, gần quần đảo Hawai. - Ở Nam Bán cầu có 3 cực đại khí áp nằm ở phía nam các đại dương: áp cao nam Ấn độ dương, áp cao nam Thái bình dương, áp cao nam Đại tây đương. Về phía bắc cận nhiệt đới, trên các đại dương, áp suất giảm dần, tạo ra ở bắc bán cầu hai cực tiểu khí áp. Một ở Đại tây dương, gần Island (995 mb) gọi là cực tiểu Island; một ở Thái bình dương gần quần đảo Alêutin. Trên lục địa, ở Bán cầu bắc, sâu trong lục địa áp suất tăng lên mạnh, trên đại lục Châu Á hình thành một cực đại khí áp rộng lớn gọi là cực đại châu Á có tâm là vùng Xibiri và một phần lục địa Mông Cổ có áp suất ở vùng trung tâm tới 1035 mb. Một cực đại nữa với áp suất ở trung tâm tới 1027 mb, hình thành ở Bắc châu Mỹ gọi là cực đại Canada. Ở Nam bán cầu từ cận cực đới tới các vĩ độ 60-650 áp suất giảm rõ rệt. Các đường đẳng áp gần như song song với vĩ tuyến do tính đồng nhất của mặt đệm. Trong khu vực Bắc băng dương, về phía Bắc cực và trong khu vực Nam băng dương về phía Nam cực, áp suất tăng lên tạo những cực đại khí áp biểu hiện ở hai cực. b. Sự phân bố khí áp địa cầu trong thời kỳ mùa hạ (tháng 7, tại độ cao mực nước biển).

http://elib.ntt.edu.vn

Page 68: BÀI GIẢNG KHÍ TƯỢNG NÔNG NGHIỆP NTTULIB - …dspace.elib.ntt.edu.vn/dspace/bitstream/123456789/6266/1... · 2012-12-04 · chúng tôi đã biên soạn cuốn bài giảng

NTTULIB

66

- Vào tháng 7 dải áp suất thấp dọc theo xích đạo vẫn còn nhưng dịch một ít lên phía bắc, về phía xích đạo. - Các cực đại khí áp cận nhiệt đới trên đại dương vẫn tồn tại và có phần mạnh lên, đồng thời dịch về phía bắc ở bắc bán cầu. - Các cực tiểu Island vào tháng 7 yếu đi rõ rệt, áp thấp Alêutin mất đi. - Các cực đại trên lục địa ở phía Bắc bán cầu biến mất nhường chỗ cho áp thấp Châu Á và áp thấp Canada. - Ở Nam bán cầu vào tháng 7, cực đại khí áp cận nhiệt đới bành trướng ra, nhập các vùng áp suất cao trên lục địa. * Sự phân vùng khí áp trên địa cầu đã ảnh hưởng rất lớn đến khí hậu nước ta. Đặc biệt là vùng áp cao Xibiri đã gây ra gió mùa Đông Bắc trong mùa đông. Vùng áp cao Nam Thái bình dương, Nam Đại tây dương đã gây ra gió Đông Nam và Tây Nam trong thời kỳ mùa hạ. 2. Gió 2.1. Khái niệm: gió là sự chuyển động tương đối của không khí theo phương nằm ngang so với mặt đất. 2.2. Nguyên nhân sinh ra gió. Nguyên nhân đầu tiên sinh ra gió là do sự phân bố không gian của nhiệt độ không khí trên trái đất không giống nhau (phụ thuộc vào đặc điểm của bề mặt) nơi có nhiệt độ cao thì áp suất thấp, nơi có nhiệt độ thấp thì áp suất cao. Khi có sự chênh lệch áp suất theo phương nằm ngang sẽ có sự chuyển dịch của không khí từ vùng áp suất cao hơn đến vùng áp suất thấp hơn. Sự dịch chuyển đó chỉ dừng lại khi có sự san bằng áp suất theo phương nằm ngang. 2.3. Các đại lượng đặc trưng cho gió. - Gió được đặc trưng bởi tốc độ (vận tốc) và hướng chuyển động của không khí. Hướng gió là hướng từ nơi gió thổi đến. - Tốc độ gió được tính theo mét trong 1 giây (m/s) hoặc kilomét trong 1 giờ km/h.

Hướng gió còn có thể biểu thị bằng góc giữa địa điểm đã cho và hướng gió. Các góc được tính ra độ từ điểm Bắc, theo chiều kim đồng hồ. Lấy hướng bắc là 00, hướng Đông là 900, hướng Nam là 1800, hướng Tây là 2700.

BÂB (NNE)

ÂB (NE)

BÂ ÂÂB (ENE)

W(E) W ÂÂN (ESE)

NÂN

TTN (WSW)

TTB (WNW)

TB (NW)

BTB (NNW)

BÂB (NNE)

ÂB (NE)

BÂ ÂÂB (ENE)

E

N

ÂÂN (ESE)

NÂN

TTN (WSW)

TTB (WNW)

TB (NW)

BTB (NNW)

http://elib.ntt.edu.vn

Page 69: BÀI GIẢNG KHÍ TƯỢNG NÔNG NGHIỆP NTTULIB - …dspace.elib.ntt.edu.vn/dspace/bitstream/123456789/6266/1... · 2012-12-04 · chúng tôi đã biên soạn cuốn bài giảng

NTTULIB

67

La bàn chỉ hướng gió Để biểu diễn hướng gió, trong thực hành khí tượng người ta lấy 16 hướng.

Trong trường hợp không có máy để đo gió, người ta ước định vận tốc gió bằng hiệu ứng của gió trên các vật theo bảng cấp số Beaufort sau:

Bảng cấp gió của Beaufort:

Cấp số

Phân hạng Nhận biết Vận tốc (m/s)

0 Lặng gió Khói lên thẳng 0-0,2 1 Gió rất nhẹ Khói hơi lay động 0,3-1,5 2 Gió nhẹ Mặt cảm thấy gió, lá và cành nhỏ

rung 1,6-3,3

3 Gió nhỏ Gió vừa, làm rung động cành nhỏ 3,4-5,4 4 Gió trung bình Ao hồ gợn sóng 5,5-7,9 5 Gió khá mạnh Gió to làm lung lay những cành lớn 8,0-10,7 6 Gió mạnh Gió mạnh làm rung động cành lớn 10,8-13,8 7 Gió khá lớn Gió lớn làm lung lay cả cây 13,9-17,1 8 Gió lớn Gió rất mạnh làm gãy cành

Không đi ngược gió được. 17,2-20,7

9 Gió rất lớn Bảo bẻ gãy cây cối 20,8-24,4 10 Gió bảo Bảo lớn làm đổ cây, đổ nhà 24,5-28,4 11 Gió bảo to Bảo rất mạnh, ít quan sát thấy 28,5-32,6 12 Đại cuồng

phong Rất hiếm có trong đất liền, sức phá lớn

32,7-36,9

2.4. Hoàn lưu nhiệt tính của không khí.

Các luồng không khí trong khí quyển gây ra bởi sự kết hợp của các nguyên nhân nhiệt và động lực.

http://elib.ntt.edu.vn

Page 70: BÀI GIẢNG KHÍ TƯỢNG NÔNG NGHIỆP NTTULIB - …dspace.elib.ntt.edu.vn/dspace/bitstream/123456789/6266/1... · 2012-12-04 · chúng tôi đã biên soạn cuốn bài giảng

NTTULIB

68

Giả sử trên mặt đất trong 1 khoảng AC nào đó nhiệt độ và áp suất ở mặt đất và ở tất cả các mực trong khí quyển không biến thiên theo phương nằm ngang. Bấy giờ các mặt đẳng áp song song với mặt đất. Chừng nào còn chưa có sự chênh lệch về nhiệt độ theo phương nằm ngang thì chuyển động của không khí theo phương nằm ngang còn chưa xuất hiện. Bấy giờ trong khu vực điểm B vì một nguyên nhân nào đó, mặt đất bị nóng lên. Sự nóng lên đó đã truyền cho lớp không khí ở trên khu vực này. Trong không khí nóng khu vực B áp suất giảm theo độ cao chậm hơn trong khu vực không khí lạnh A,C. Kết quả trong không khí nóng điểm B, ở tất cả các mực các mặt đẳng áp đều vồng lên và vồng lên trên. Các mặt đẳng áp sẽ uốn cong nhiều nhất ở các lớp khí quyển trên cao. Còn ở dưới thấp gần mặt đất các mặt đẳng áp vẫn nằm ngang. Kết quả là ở tất cả các mực trên cao, áp suất khí quyển ở khu vực điểm B sẽ lớn hơn ở các khu vực điểm A,C. Ở đây xuất hiện gradient khi áp theo chiều ngang, không khí bắt đầu chuyển vận từ khu vực điểm B đến các khu vực điểm A,C. Sự chuyển vận đó của không khí làm cho không khí toả ra từ khu vực B và tích tụ lại trong các khu vực A,C. Kết quả là ở mặt đất khu vực A,C áp suất sẽ tăng lên, còn trong khu vực B áp suất giảm xuống. Bây giờ, ở đây trong các lớp khí quyển bên dưới các mặt đẳng áp phía trên khu vực B uốn cong xuống, quay phía lồ i xuống dưới. Độ cong càng lên cao càng giảm và đến một mực A1,C1 các mặt đẳng áp hầu như nằm ngang. Tất cả các mặt đẳng áp đẳng áp ở bên trên mực A1,C1 này vẫn giữ nguyên chiều uốn cong như ban đầu. Như vậy, trong các lớp khí quyển bên dưới A1,C1 xuất hiện gradient khí áp có hướng ngược với trên cao, tức là từ A,C tới B. Trong các khu vực A, C do không khí toả ra ở các lớp bên dưới. Nên sẽ phát sinh chuyển động di xuống lạnh. Còn ở khu vực điểm B, sẽ phát sinh chuyển động đi lên. Như vậy, giữa khu vực nóng B và các khu vực lạnh A,C hình thành một hoàn lưu đóng kín.. Cũng có thể chứng minh rằng trong trường hợp một khoảng nào đó của mặt đất bị lạnh đi, thì giữa khoảng đó và khoảng bên cạnh nóng hơn sẽ xuất hiện hoàn lưu ngược chiều. Từ đó, chúng ta có thể thấy rằng sự chuyển động của không khí ở phía dưới mặt đất chuyển động từ nơi nóng ít đến nơi nóng nhiều và bắt đầu từ một độ cao nào đó không khí sẽ chuyển động ngược chiều. 2.5. Những loại gió thường gặp. 2.5.1. Gió mùa Gió mùa là gió thổi ổn định theo mùa. Nguyên nhân sinh ra gió mùa là do sự chênh lệch nhiệt độ không khí dẫn tới sự chênh lệch khí áp trên đất liền và trên biển.

- Về mùa đông gió mùa hướng từ đất liền ra biển (gió mùa mùa đông).

http://elib.ntt.edu.vn

Page 71: BÀI GIẢNG KHÍ TƯỢNG NÔNG NGHIỆP NTTULIB - …dspace.elib.ntt.edu.vn/dspace/bitstream/123456789/6266/1... · 2012-12-04 · chúng tôi đã biên soạn cuốn bài giảng

NTTULIB

69

- Về mùa hạ gió mùa hướng từ biển vào đất liền ( gió mùa mùa hạ). Gió mùa là những luồng không khí có quy mô rất rộng lớn, gió mùa bao trùm những khu vực rộng lớn và phát triển tới độ cao 1km về mùa đông và 4-5km về mùa hạ. * Gió mùa mùa đông thổi từ áp cao Xibiri. Gió mùa mùa hạ thổi từ áp cao nam Thái bình dương. Dưới tác dụng của lực Côriô lít, ở Bắc bán cầu gió mùa bị lệch về bên phải, và ở nam Bán cầu bị lệch về bên trái.

2.5.2. Gió địa phương Gió địa phương là những gió xuất hiện dưới ảnh hưởng của các điều kiện vật lý, địa lý địa phương. Phần lớn gió địa phương là do kết quả của hoàn lưu nhiệt địa phương của không khí. Những gió này thổi trên những khu vực rộng lớn và nói chung không kéo dài.

- Gió đất-biển (gió Brizơ ven biển). Gió đất, gió biển là gió quan sát thấy ở ven biển vào những ngày thời tiết tốt. Gió thổi ban ngày từ biển vào đất liền gọi là gió biển, còn gió đất thổi vào ban đêm từ đất liền ra biển. Nguyên nhân xuất hiện gió đất-biển là do sự nóng lên và lạnh đi không đều của đất liền và mặt nước trong quá trình một ngày. * Gió biển: ban ngày mặt đất nóng lên mạnh hơn mặt nước làm cho không khí trên bề mặt đất có nhiệt độ cao hơn không khí trên bề mặt biến gây ra sự chênh lệch về áp suất giữa đất liền và biển, nơi có nhiệt độ cao thì áp suất thấp, nơi có nhiệt độ thấp thì áp suất cao. Kết quả là ở một dải gần bờ, xuất hiện một dòng hoàn lưu đóng kín của không khí. - Ban ngày trong lớp không khí ở gần mặt đất, không khí di chuyển từ biển vào đất liền. Trong các lớp trên cao, gió thổi từ đất liền ra biển. - Gió biển thổi bắt đầu từ 8-10 giờ sáng, mạnh lên và đạt cực đại vào buổi trưa (khoảng 13 giờ). Sau đó yếu dần và ngừng thổi sau khi mặt trời lặn. - Tốc độ gió biển trung bình khoảng 2,5m/s, đôi khi gió mạnh đến 6-7 m/s. - Phạm vi ảnh hưởng của gió biển vào sâu trong đất liền phụ thuộc vào điều kiện địa hình, trung bình khoảng 30-40 km và ảnh hưởng lên cao khoảng 3-4 km. * Gió đất: ban đêm đất liền lạnh đi mạnh hơn mặt nước điều này cũng làm cho không khí trên đất liền có nhiệt độ thấp hơn không khí trên bề mặt biển, gây ra sự chênh lệch về áp suất giữa đất liền và biển, lúc này sẽ hình thành một hoàn lưu khí quyển ngược chiều: ở gần mặt đất gió thổi từ đất liền ra biển, trong các lớp trên cao gió thổi theo chiều ngược lạ i từ biển vào đất liền. Gió đất bắt đầu thổi từ sau khi mặt trời lặn và kéo dài cho đến 8-9 giờ sáng ngày hôm sau.

http://elib.ntt.edu.vn

Page 72: BÀI GIẢNG KHÍ TƯỢNG NÔNG NGHIỆP NTTULIB - …dspace.elib.ntt.edu.vn/dspace/bitstream/123456789/6266/1... · 2012-12-04 · chúng tôi đã biên soạn cuốn bài giảng

NTTULIB

70

Vận tốc trung bình của gió đất khoảng 1,5-2 m/s. Phạm vi ảnh hưởng của gió đất ra biển 8-10 km và ảnh hưởng lên cao khoảng 800 mét.

Gió biển thường mạnh hơn gió đất, vì ban ngày chênh lệch về nhiệt độ giữa mặt nước và mặt đất lớn hơn nhiều so với ban đêm. Ở vùng nhiệt đới vận tốc gió đất và gió biển lớn hơn ở vùng ôn đới. Gió đất biển mạnh nhất ở gần bờ, càng xa bờ gió càng yếu dần rồi ngừng hẳn. Tại vùng nhiệt đới gió đất-biển thổi quanh năm, còn vùng ôn đới chỉ thổi trong thời kỳ mùa hạ. b. Gió núi-thung lũng. Gió núi-thung lũng là thứ gió đổi chiều một cách tuần hoàn, chỉ xuất hiện ở vùng núi trong những ngày trời quang và ổn định, đặc biệt vào những ngày hè. Ban ngày do trên núi nóng hơn thung lũng, nên từ dưới thung lũng gió thổi lên cao dọc theo sườn núi. Vào ban đêm, trên núi lại hình thành gió thổi về phía thung lũng dọc theo sườn núi.

2.5.3. Gió Phơn (Foehn). Gió Phơn cũng là thứ gió địa phương, tuy nguyên nhân gây ra không phải là hoàn lưu nhiệt mà là hoàn lưu động lực, không có vòng tuần hoàn đóng kín của không khí.

- Khái niệm: gió Phơn là thứ gió khô và nóng thổi từ trên núi xuống. - Điều kiện hình thành: + Có sự chênh lệch áp suất lớn ở hai khu vực. + Gió phải vượt qua những dãy núi kế tiếp nhau.

- Quá trình hình thành: Gió phơn được hình thành khi có sự chênh lệch lớn của áp suất giữa hai bên sườn núi. Luồng không khí mát ẩm, áp suất cao buộc phải vượt qua đỉnh núi để sang sườn đối diện. Quá trình đi lên của luồng không khí chưa bảo hoà hơi nước theo gradient đoạn nhiệt khô, nghĩa là cứ đi lên 100 mét độ cao nhiệt độ không khí giảm đi 10C và ẩm độ tương đối tăng dần cho tới mực ngưng kết. Tại mực ngưng kết (h=22(100-r)) hơi nước đạt đến mức bảo hoà (e ≥E, t ≤ τ), hơi nước trong không khí bắt đầu ngưng kết. Không khí tiếp tục đi lên. Nhưng lúc này không khí đã bảo hoà hơi nước nên đi lên theo đoạn nhiệt ẩm cho tới khi những giọt nước trong không khí đạt tới kích thước của giọt mưa và hình thành mưa rơi xuống. Sau đó không khí lại tiếp tục đi lên đến đỉnh núi. Nhưng lúc này sự biến thiên của nhiệt độ theo gradient đoạn nhiệt khô (γ = 10C/100m).

http://elib.ntt.edu.vn

Page 73: BÀI GIẢNG KHÍ TƯỢNG NÔNG NGHIỆP NTTULIB - …dspace.elib.ntt.edu.vn/dspace/bitstream/123456789/6266/1... · 2012-12-04 · chúng tôi đã biên soạn cuốn bài giảng

NTTULIB

71

Quá trình đi xuống của không khí cũng theo gradient đoạn nhiệt khô, nghĩa là cứ đi xuống một độ cao 100 mét thì nhiệt độ tăng lên 10C, còn độ ẩm không khí giảm dần. Chính vì vậy, khi tới chân núi không khí trở nên rất khô và nóng.

Song gió Phơn chỉ hình thành ở những vùng có những dãy núi kế tiếp nhau, do chênh lệch áp suất không khí buộc phải vượt qua đỉnh núi để sang sườn đối diện. Cả quá trình này người ta gọi là hiệu ứng Phơn.

- Gió và sản xuất nông nghiệp. Gió là nguyên nhân trực tiếp gây ra sự thay đổi thời tiết, khí hậu. Gió mang hơi nước đi khắp trái đất, mang hơi nước đến những vùng khô không có nước, vận chuyển nhiệt từ vùng này đến vùng khác. Gió đóng vai trò vô cùng quan khối trong quá trình sản xuất nông nghiệp. Lợi ích của gió rất lớn song tác hại cũng nhiều. * Lợi ích của gió: - Giúp cho những loại cây thụ phấn nhờ gió truyền phấn được dễ dàng, tỉ lệ đậu quả cao. - Gió phát tán hạt giống đi xa. - Gió giúp cây điều hoà thân nhiệt trong thời kỳ nóng.

- Giúp cho sự trao đổi không khí từ nơi này đến nơi khác, có sự trao đổi không khí ở trên mặt đất và trong đất giúp hoạt động sống của sinh vật trên mặt đất và trong đất được dễ dàng. - Gió là nguồn cung cấp năng lượng quan khối và là nguồn năng lượng không bao giờ cạn. Có thể sử dụng gió để sản xuất nông nghiệp như tưới, tiêu, xay,… sử dụng sức gió để sản xuất điện công nghiệp, điện dân dụng. * Tác hại của gió: - Gió là một trong các nguyên nhân gây xói mòn đất, cuốn đi những hạt đất nhỏ, màu mỡ để lại sỏi đá làm đất cằn cỗi, nhất là đối với những vùng cao. - Gió đưa cát từ bờ biển vào vùng nội địa, dồn thành những đụn cát làm giảm diện tích trồng trọt. Đó là hiện tượng cát lấn ruộng ở vùng biển. - Gió mang cát đi xa gây tác hại cho lá cây và chồi non.

- Gió mạnh có thể làm đổ cây, gãy cành, rụng lá, rách lá, rụng quả,… trong thời kỳ thụ phấn gió to làm cho cây không thụ phấn được. Gió cũng là nguyên nhân gây lẫn tạp giống. Gió mạnh kìm hãm quá trình sinh trưởng, phát triển, năng suất và phẩm chất cây trồng. * Vấn đề sử dụng gió. - Trong kỹ thuật trồng trọt để hạn chế tác hại của gió người ta thường chọn giống thấp cây, cứng cây đối với lúa và hoa màu.

http://elib.ntt.edu.vn

Page 74: BÀI GIẢNG KHÍ TƯỢNG NÔNG NGHIỆP NTTULIB - …dspace.elib.ntt.edu.vn/dspace/bitstream/123456789/6266/1... · 2012-12-04 · chúng tôi đã biên soạn cuốn bài giảng

NTTULIB

72

Ở những vùng gió mạnh, giảm chiều cao cây đối với lúa có hiệu quả rõ rệt. Thí nghiệm chống đổ cho ngô ở vùng gió to bằng cách giảm chiều cao 20% thấy năng suất tăng 20-30%, nếu giảm hơn nữa thì năng suất không thấy tăng.

- Bón phân cân đối cây sẽ phát triển vững chắc. Đối với lúa nếu bón quá nhiều đạm thân sẽ mềm, lá bị lướt gặp gió to lúa sẽ bị đổ. Rút nước phơi ruộng là biện pháp làm cho rễ lúa ăn sâu, chống đổ. - Chọn ruộng khuất gió để gieo mạ xuân, thả bèo hoa dâu vào ruộng lúa làm ấm nước hơn, dùng các biện pháp che chắn cho cây non, vườn ươm hoặc phủ gốc cây bằng xác thực vật… đều có tác hại gió lạnh, gió nóng hoặc gió quá mạnh. - Công việc chiết, ghép cây cần tránh thời kỳ có gió lạnh hoặc gió hanh khô. - Trồng những đai rừng hoặc những đai cây bảo vệ cánh đồng làm giảm tốc độ gió, chống gió nóng gió lạnh, giảm được sự phát tán hơi nước và CO2 do gió. Ở ven biển người ta trồng phi lao để chắn gió cát. Cây phi lao chịu mặn, lá nhỏ khó đổ, chịu được khô hạn và ngăn cản cát tốt. Muốn sử dụng gió có hiệu quả trong trồng trọt phải khảo sát đặc điểm, sự diễn biến của gió trong các tháng ở từng vùng. Trên cơ sở đó mới có thể sử dụng gió được hợp lý. Đồng thời mới có thể đề ra những biện pháp phòng chống gió nóng, gió lạnh, gió khô, bảo vệ cho từng cây trồng cụ thể.

*****

http://elib.ntt.edu.vn

Page 75: BÀI GIẢNG KHÍ TƯỢNG NÔNG NGHIỆP NTTULIB - …dspace.elib.ntt.edu.vn/dspace/bitstream/123456789/6266/1... · 2012-12-04 · chúng tôi đã biên soạn cuốn bài giảng

NTTULIB

73

CHƯƠNG 7 THỜI TIẾT VÀ NHỮNG HIỆN TƯỢNG THỜI TIẾT ĐẶC BIỆT ẢNH HƯỞNG

TỚI SẢN XUẤT NÔNG NGHIỆP

1. Thời tiết 1.1. Khái niệm về thời t iết Thời tiết là trạng thái khí quyển, đặc trưng bởi một tập hợp các yếu tố khí tượng (nhiệt độ đất, nhiệt độ không khí, mưa, gió, dông, bảo,...) quan trắc được trong một thời điểm hoặc một khoảng thời gian xác định tại một nơi nhất định. Về cơ bản, thời tiết được đặc trưng bởi sự kết hợp: nhiệt độ không khí, độ ẩm không khí, áp suất không khí, hướng và tốc độ gió, giáng thuỷ, mây, độ trong suốt của khí quyển,...Thời tiết luôn luôn thay đổi, nó phụ thuộc vào đặc điểm của địa hình từng địa phương và phụ thuộc vào các nhiễu động của khí quyển. 1.2. Một số hiện tượng thời tiết chủ yếu. 1.2.1. Phơ rông (front): phơ rông là vùng chuyển tiếp giữa hai khối khí khác nhau về bản chất (chủ yếu là nhiệt độ). - Vùng tiếp xúc giữa hai khối khí gọi là mặt phơ rông. - Giao tuyến giữa mặt phơ rông với mặt nằm ngang gọi là đường phơ rông. - Tên gọi của phơ rông phụ thuộc vào khối khí nào hoạt động mạnh hơn. Dựa vào cường độ hoạt động, hướng di chuyển của các khối khí mà người ta phân phơ rông ra làm hai loại: phơ rông nóng và phơ rông lạnh.

a. Phơ rông nóng: Phơ rông nóng là phơ rông sinh ra khi khối khí nóng hoạt động mạnh hơn khối khí lạnh, đẩy dần không khí lạnh về phía trước và tràn lên trên bề mặt khối không khí lạnh. Trong khi lên cao không khí bị lạnh đi và đoạn nhiệt, rồi ngưng kết thành các loại mây và cho mưa. Hệ thống mây phía sau mặt phơ rông từ thấp đến cao: mây vũ tầng ( Nimbostratus_Ns), mây trung tầng ( Altocumulus_As), mây ti tầng (Cirostratus_Cs), mây ti (Cirus_Ci) Hệ thống mây phía trước mặt phơ rông: mây tầng (Stratus-St), mây vũ tầng (Nimbostratus_Ns). Vùng mây thuộc phơ rông nóng có thể rộng tư 600-1000 km. Do hình thế mây như vậy cho nên khi phơ rông nóng đi qua khu vực nào đó thì nhiệt độ tăng dần và độ

http://elib.ntt.edu.vn

Page 76: BÀI GIẢNG KHÍ TƯỢNG NÔNG NGHIỆP NTTULIB - …dspace.elib.ntt.edu.vn/dspace/bitstream/123456789/6266/1... · 2012-12-04 · chúng tôi đã biên soạn cuốn bài giảng

NTTULIB

74

ẩm cũng tăng dần, khí áp giảm dần. Thời tiết trong phơ rông nóng thường xấu, phía trước và sau mặt phơ rông đều có mưa, gió mạnh và có cả sương mù. Phía trước phơ rông thường xuất hiện mưa dầm hoặc mưa phùn. Phía sau mặt phơ rông thường xuất hiện mưa dầm hoặc mưa rào với cường độ nhỏ. b. Phơ rông lạnh: Dựa vào mức độ ổn định của khối không khí nóng, tốc độ di chuyển và góc tiếp xúc của không khí lạnh mà người ta chia làm hai loại phơ rông lạnh.

* Phơ rông lạnh loại 1: là phơ rông sinh ra khi khối không khí nóng tương đối ổn định, khối không khí lạnh hoạt động không mạnh lắm, không khí lạnh di chuyển về phía không khí nóng chậm và góc nghiêng của mặt phơ rông ít, làm cho không khí nóng trườn trên không khí lạnh một cách từ từ. Hệ thống mây phía trước mặt phơ rông: mây vũ tầng( Nimbotratus_Ns) hoặc mây tầng (Stratus_St), mây trung tầng (Altotratus_As), sau chuyển thành mây ti tầng (Cirostratus_Cs), từ độ cao 500 mét xuất hiện mây tích vũ (Cumulonimbus_Cb)

Do hình thế mây như vậy nên phía trước và phía sau mặt phơ rông đều có mưa. Phía trước là mưa rào kèm theo dông tố hoặc mưa dầm. Phía sau mặt phơ rông cường độ mưa nhỏ hơn mưa dầm, hoặc mưa phùn.

* Phơ rông lạnh loại 2: Phơ rông sinh ra khi không khí nóng có ẩm độ nhiều và bất ổn định cao, không khí lạnh dồn tới với tốc độ rất nhanh và góc nghiêng của phơ rông lớn. Không khí lạnh đẩy không khí nóng về phía trước và lên phía trên gần như thẳng đứng.

Phía trước mặt phơ rông hình thành mây: mây vũ tầng( Nimbotratus_Ns), mây trung tích (Altocumulus_Ac), sau chuyển thành mây ti tầng (Cirostratus_Cs), mây ti (Cirus-Ci), từ độ cao 500 mét xuất hiện mây tích vũ (Cumulonimbus_Cb) Do đó hệ thống mưa thuộc hệ thống phơ rông lạnh loại 2 chỉ thấy trong một vùng tương đối hẹp. Phía trước phơ rông cho mưa rào và mưa dông với cường độ lớn, gió thổi mạnh, đôi khi giật dữ dội, mưa tập trung vào một dải hẹp khoảng 50 km khi phơ rông đến. 1.2.2. Xoáy thuận và xoáy nghịch. a. Xoáy thuận ôn đới (xoáy tụ): Xoáy thuận được hình thành do kết quả kết hợp lẫn nhau của hai phơ rông nóng và lạnh: phơ rông nóng ở phần Đông Nam, phơ rông lạnh ở phần Tây Nam. Chính vì vậy mà tại xoáy tụ mang cả đặc điểm thời tiết của phơ rông nóng và của phơ rông lạnh. Nên ở vùng trung tâm xoáy có nhiều mây và mưa, do áp suất liên tục giảm nên gió thổi mạnh dần. Phần phía Bắc của xoáy không có phơ rông nên gió yếu và có mưa dầm kéo dài. Hai phơ rông chụm lại ở tâm xoáy thuận. Giữa hai phơ rông là khu nóng. Vì khoảng không gian của khu nóng bị khối không khí đồng nhất chiếm cứ nên các đường đẳng áp ở đây có dạng những đường thẳng.

http://elib.ntt.edu.vn

Page 77: BÀI GIẢNG KHÍ TƯỢNG NÔNG NGHIỆP NTTULIB - …dspace.elib.ntt.edu.vn/dspace/bitstream/123456789/6266/1... · 2012-12-04 · chúng tôi đã biên soạn cuốn bài giảng

NTTULIB

75

Vì vậy, nếu vùng phía nam của xoáy thuận đi qua khu vực nào thì sự thay đổi của thời tiết ở khu vực đó như có front nóng và front lạnh đi qua. Nếu phần phía bắc của xoáy thuận đi qua khu vực nào đó thì ở đây không có front nên thời tiết ở đấy không thay đổi rõ rệt; chỉ ở gần vùng trung tâm đi qua thì có mưa dầm trong một thời gian tương đối dài. Đường kính trung bình của xoáy thuận vào khoảng 1000km. Chiều cao trung bình từ 3-4 km. Xoáy thuận chuyển động chủ yếu dọc theo các đường đẳng áp của khu nóng với tốc độ 30- 40 km/h. Xoáy thuận nhiệt đới thường đồng nghĩa với bảo. b. Xoáy nghịch (xoáy tản): - Xoáy nghịch là vùng áp cao càng vào tâm áp suất càng cao, tại tâm xoáy áp suất cao nhất. - Không khí ở xoáy có xu hướng chuyển động từ tâm ra phía rìa xoáy, tại tâm không khí có hướng đi xuống. - Xoáy chuyển động cùng chiều kim đồng hồ ở phía Bắc Bán cầu, ngược chiều kim đồng hồ ở phía Nam Bán cầu. Khi xoáy chuyển động có các dòng không khí đi xuống ở trung tâm nên thời tiết trong xoáy nghịch phần lớn quang mây và khô. Mùa hè xoáy nghịch thường cho thời tiết rất nóng nực. Mùa đông kèm theo gió lạnh và khô, băng giá gay gắt. Đa số xoáy nghịch trong các lớp khí quyển dưới thấp phát triển là khối khí đồng nhất, không có mặt của phơ rông. Chỉ ở phía ngoài xoáy mới có thể có phơ rông chạy qua. Xoáy nghịch là một vùng không khí lớn, có đường kính tới 2000km. Tốc độ di chuyển của xoáy chậm (khoảng 25 km/h). 2. Các hiện tượng thời tiết đặc biệt: 2.1. Sương muối a. Khái niệm: Sương muối là những hạt băng nhỏ,nhẹ, xốp đọng trên cành cây, ngọn cỏ, bề mặt đất hay các vật gần mặt đất, khi nhiệt độ hạ tới điểm 00C. b. Điều kiện hình thành: Sương muối được hình thành khi nhiệt độ hạ xuống dưới 00C. Sương muối cũng có thể xuất hiện ngay cả khi nhiệt độ không khí ở 50C. Nhưng khi đó thì nhiệt độ bề mặt đất đá, cây cỏ có thể xuống thấp hơn nhiệt độ không khí nhiều (dưới điểm băng). Sương muối đọng nhiều nhất ở những nơi có độ ẩm thấp. Sương muối thường xuất hiện vào ban đêm hoặc gần sáng là lúc mặt trời nguội lạnh đi nhiều nhất. Khi đó hơi nước chứa trong không khí tiếp giáp với bề mặt lạnh sẽ ngưng kết lại. Sương muối có thể hình thành do hơi nước từ các lớp đất sâu và nóng bốc hơi lên. Do đó sương muối có thể thấy ở cả mặt trên lẫn mặt dưới lá hoặc các vật khác. c. Phân loại sương muối:

http://elib.ntt.edu.vn

Page 78: BÀI GIẢNG KHÍ TƯỢNG NÔNG NGHIỆP NTTULIB - …dspace.elib.ntt.edu.vn/dspace/bitstream/123456789/6266/1... · 2012-12-04 · chúng tôi đã biên soạn cuốn bài giảng

NTTULIB

76

Dựa vào nguyên nhân hình thành mà người ta chia sương muối ra làm 3 loại: - Sương muối bình lưu: là loại sương muối được hình thành khi không khí lạnh tràn về làm cho nhiệt độ không khí và mặt đất hạ xuống đột ngột, phạm vi của loại sương muối này rất rộng. - Sương muối bức xạ: là loại sương muối được hình thành vào ban đêm, khi các vật trên mặt đất và mặt đất phát xạ mạnh lạnh đi, nhiệt độ hạ xuống dưới 00C kèm theo trời quang mây, gió nhẹ, độ ẩm không khí thấp.

- Sương muối hỗn hợp: là loại sương muối được hình thành không những chỉ do sự xâm nhập của không khí lạnh mà còn do sự bức xạ của mặt đất. Phần lớn sương muối xuất hiện ở nước ta đều thuộc loại sương muối này. Sau những đợt gió lạnh tràn về độ 1-2 ngày, nếu vào ban đêm trời quang mây, độ ẩm không khí thấp, gió nhẹ thì rất dễ xuất hiện sương muối. d. Tác hại của sương muối: Tác hại chủ yếu của sương muối là do nhiệt độ thấp. Khi nhiệt độ hạ thấp xuống dưới 00C, nước trong cây đóng băng nở ra làm cho các tế bào bị phá vỡ, cây không hút được chất dinh dưỡng. Đặc biệt là sau khi xuất hiện sương muối, thường sáng hôm sau trời nắng rất đẹp. Sau khi mặt trời mọc nhiệt độ tăng nhanh làm cho sự chênh lệch nhiệt độ của không khí và trong cây quá lớn nên cây bị chết hoặc lá bị táp, ngọn cây bị khô. Những loại cây đặc biệt mẫn cảm với sương muối như cà chua, khoai tây sau khi bị sương muối có thể bị giảm năng suất đến 70-80%.

Trong điều kiện nhiệt độ hạ xuống quá thấp có thể sương muối chưa xuất hiện nhưng cây trồng đã bị tác hại, ngay cả những cây chịu lạnh. Cho nên, mặc dù sương muối không phải hiện tượng xảy ra hàng năm ở đồng bằng, nhưng công việc phòng chống vẫn phải hết sức chú ý. e. Phương pháp dự báo sương muối: Hiện nay có rất nhiều phương pháp dự báo sương muối. Để dự báo sương muối bình lưu người ta phải sử dụng bản đồ thời tiết. Nhưng loại sương muối này hầu như không xuất hiện ở nước ta. Nên ta chỉ đi sâu nghiên cứu phương pháp dự báo sương muối bức xạ và sương muối hỗn hợp. Để dự báo người ta có thể sử dụng phương pháp Mikhailepski rất dễ sử dụng và cho độ chính xác cao. * Phương pháp Mikhailepski: Công thức dự báo có dạng sau:

CtttMCtttM2).'(''

).'('

trong đó:

http://elib.ntt.edu.vn

Page 79: BÀI GIẢNG KHÍ TƯỢNG NÔNG NGHIỆP NTTULIB - …dspace.elib.ntt.edu.vn/dspace/bitstream/123456789/6266/1... · 2012-12-04 · chúng tôi đã biên soạn cuốn bài giảng

NTTULIB

77

M - nhiệt độ thấp nhất của lớp không khí sát mặt đất vào ban đêm. M’ - nhiệt độ thấp nhất của bề mặt đất vào ban đêm. t - nhiệt độ đo theo nhiệt kế khô vào lúc 13 giờ t’ - nhiệt độ đo theo nhiệt kế ướt vào lúc 13 giờ C - hệ số phụ thuộc vào độ ẩm tương đối của không khí đo vào lúc 13 giờ.

Bảng 13: Hệ số C phụ thuộc vào độ ẩm tương đối của không khí.

Độ ẩm % C Độ ẩm % C Độ ẩm % C 100 5,0 70 2,0 40 0,9

95 4,5 65 1,8 35 0,8

90 4,0 60 1,5 30 0,7 85 3,5 55 1,3 25 0,5

80 3,0 50 1,2 20 0,4 75 2,5 45 1,0 15 0,3

Sau khi xác đinh được M, M’, ta phải xác định thêm hệ số phụ thuộc vào lượng

mây (A) vào lúc 19 giờ. + Nếu lượng mây < 4/10 bầu trời (trời quang mây) A= - 2

+ Nếu 4/10 < lượng mây < 7/10 bầu trời ( lượng mây trung bình) A = 0 + Nếu lượng mây > 7/10 bầu trời (trời nhiều mây) A = 2

Nếu M + A < -2 và M’ + A < -2 thì khả năng xuất hiện sương muối sẽ là 100%.

Nếu M + A > 2 và M’ + A > 2 thì không xuất hiện sương muối. Nếu M + A >2 và M’ + A <-2 thì khả năng xuất hiện sương muối là 50%.

Vấn đề là hệ số C phụ thuộc vào đặc điểm của từng nơi nên cần xây dựng bảng C cho từng nơi. f. Phương pháp phòng chống sương muối:

http://elib.ntt.edu.vn

Page 80: BÀI GIẢNG KHÍ TƯỢNG NÔNG NGHIỆP NTTULIB - …dspace.elib.ntt.edu.vn/dspace/bitstream/123456789/6266/1... · 2012-12-04 · chúng tôi đã biên soạn cuốn bài giảng

NTTULIB

78

Nguyên tắc chung của phương pháp phòng chống sương muối là giữ cho nhiệt độ mặt đất không xuống dưới 00C. Những biện pháp thường dùng là: - Hun khói: vào lúc chiều đến khi mặt trời bắt đầu lặn dùng rơm, cỏ ẩm chất thành những đụn ở các góc ruộng đầu gió, đốt cho khói âm ỉ để toả ra nhiều khói. Tắt trước lúc mặt trời mọc, màn khói có tác dụng giảm sự phát xạ của mặt đất, giữ cho nhiệt độ mặt đất không xuống dưới 00C.

- Sưởi ấm: dùng cách sưởi ấm bằng lò than hoặc củi. Phương pháp này tốn kém nên chỉ thích hợp cho những vườn ươm, vườn cây ăn quả. - Tưới nước: Mục đích làm đất ẩm thêm, tăng khả năng giữ nhiệt và cũng tăng độ dẫn nhiệt khiến cho sức nóng từ dưới sâu truyền lên điều hoà được nhiệt cho các lớp đất bên trên đang bị lạnh đi. Tưới đẫm nước sau khi mặt trời lặn, không tưới vào buổi sáng sớm. Tưới phun mưa là biện pháp có hiệu quả nhất - Phủ đất: dùng rơm rạ, bèo, cỏ,... phủ lên mặt đất thành một lớp làm cho mặt đất đỡ lạnh đi. Những vật phủ phải là những vật có độ dẫn nhiệt kém so với đất (có thể rãi tro). - Che gió: trồng các đai rừng hoặc các hàng cây trên các cánh đồng để che, ở vườn ươm có thể dùng dùng phên, liếp, cót để che. - Trồng đai rừng phòng hộ: trồng cây trên sườn đồi có tác dụng ngăn không khí lạnh theo sườn dốc tràn xuống thung lũng. - Biện pháp canh tác: chọn giống chịu lạnh, thay đổi thời vụ gieo trồng, nhất là tránh ra hoa vào đợt có sương muối xuất hiện. Tăng cường khả năng chịu lạnh cho cây, tăng cường bón phân kali và các phân vi lượng giúp cho cây chống lạnh. 2.2. Dông a. Khái niệm: Dông là hiện tượng khí quyển phức tạp bao gồm sự phóng điện giữa những đám mây lớn (chớp) hay sự phóng điện giữa những đám mây và mặt đất (sét). Dông liên quan đến đối lưu nhiệt và các nhiễu động của khí quyển. Dông chính là sự phóng điện trong những đám mây dày đặc , phát triển rất cao gọi là mây dông. Loại mây này có thể hình thành do nhiều nguyên nhân: - Do không khí nóng và ẩm buộc phải bốc lên cao vì bị không khí lạnh nặng hơn tràn xuống bên dưới. Đó là trường hợp của những đợt sóng lạnh tràn về. Khi đó, mây dông có thể phát triển trong một dải dài hàng trăm kilômét và rộng vài kilômét, di chuyển theo cùng với sóng lạnh. - Do không khí nóng và ẩm bị nâng lên bên sườn chắn gió và do quá trình đoạn nhiệt (dông này là dông địa hình).

http://elib.ntt.edu.vn

Page 81: BÀI GIẢNG KHÍ TƯỢNG NÔNG NGHIỆP NTTULIB - …dspace.elib.ntt.edu.vn/dspace/bitstream/123456789/6266/1... · 2012-12-04 · chúng tôi đã biên soạn cuốn bài giảng

NTTULIB

79

- Do mặt đất nóng lên vì bức xạ, tạo điều kiện cho không khí nóng mang theo hơi ẩm bốc lên cao. Loại dông này gọi là dông nhiệt, thường xảy ra trong mùa hè và trong một phạm vi không lớn lắm.

Thực ra thì trong nhiều khi những nguyên nhân nêu trên không tác dụng hoàn toàn riêng lẻ mà kết hợp với nhau, trong đó có một nguyên nhân là chủ yếu. Nhưng thông thường hơn cả vẫn là dông nhiệt thấy vào các buổi chiều mùa hè là lúc mặt đất bị đốt nóng nhiều nhất. b. Tác hại của dông: - Gió và mưa dông ảnh hưởng nhiều đến mùa màng, xói mòn đất đai, làm rách lá, gãy, đổ cây cối,... - Làm tốc mái nhà, tính phóng điện của những đám mây dông rất nguy hiểm cho tính mạng con người và gia súc, đặc biệt nguy hiểm cho ngành hàng không.

c. Lợi ích của dông: Dông cho mưa rào góp phần đáng kể vào lượng mưa tổng cộng. Hơn nữa dông đã cung cấp một lượng đạm khí trời rất lớn cho cây trồng. Chính vì vậy sau những trận mưa dông cây cối canh tốt hơn.

d. Biện pháp phòng chống: - Để chống sét nhà cao tầng cần có cột thu lôi. - Không nên đứng dưới những gốc cây to trong những trận mưa dông. - Những vùng nhiều dông nên chọn những giống thấp cây, khả năng chống đổ tốt. - Nên bố trí thời vụ hợp lý tránh khi cây ra hoa gặp thời kỳ nhiều dông.

2.3. Mưa đá. a. Khái niệm:

Mưa đá là hiện tượng hạt mưa đóng băng rơi xuống mặt đất, dưới dạng những cục nước đá có hình dạng và kích thước khác nhau. Thông thường hạt mưa đá có kích thước chừng 1 cm và nặng vài gam. b. Quá trình hình thành: Mưa đá xảy ra khi mây dông phát triển mạnh. Dòng không khí trong mây bị cuốn lên rất cao, tới 9-10 km hoặc hơn nữa. Do đó hình thành những hạt băng và hạt nước quá lạnh tồn tại đồng thời với nhau. Trong điều kiện này, các hạt băng lớn lên, lúc đầu do hơi nước từ những giọt nước chuyển tới, về sau do sự dính chập với những giọt nước quá lạnh và những giọt này khi gặp các tinh thể băng sẽ đông đặc lại trên đó. Bị dòng thăng đưa lên đưa xuống nhiều lần những hạt băng sẽ to lên cho đến khi chúng thắng được sức đẩy của dòng thăng rơi xuống và hình thành mưa đá vì không đủ thời giờ để tan thành nước. Trong quá trình này, do sự va chạm với những giọt nước quá lạnh, nhân băng lớn lên mau chóng, có thể có đường kính tới 5-10 cm và nặng ½ kg hay hơn nữa. Thông thường, hạt mưa đá có thích thước chừng 1 cm và nặng vài gam.

http://elib.ntt.edu.vn

Page 82: BÀI GIẢNG KHÍ TƯỢNG NÔNG NGHIỆP NTTULIB - …dspace.elib.ntt.edu.vn/dspace/bitstream/123456789/6266/1... · 2012-12-04 · chúng tôi đã biên soạn cuốn bài giảng

NTTULIB

80

c. Tác hại của mưa đá: Mưa đá là hiện tượng nguy hiểm. Những trận mưa đá kéo dài vài phút trở lên có thể huỷ hoại đáng kể cây trồng, làm mất mùa 1 phần hoặc toàn phần, ảnh hưởng tới kiến trúc, nhà cửa, phương tiện giao thông, gây thương tích hoặc có thể làm chết gia súc, gia cầm và cả con người. Đặc biệt đối với hoạt động của ngành hàng không dân dụng, mưa đá có thể đe dọa an toàn của các chuyến bay. Ở nước ta những vùng khối điểm có mưa đá thường là những vùng canh tác các cây trồng có giá trị cao như chè, cà phê, hồ tiêu, bông và các cây ăn quả đặc sản khác. Mưa đá có sức phá hoại rất mạnh, nhất là đối với lúa Đông xuân. Mưa đá còn gây tác hại nhiều đối với cay ăn quả và hoa màu. Vì vậy, vấn đề dự báo hiện tượng mưa đá, biện pháp phòng tránh, hạn chế tới mức thấp nhất những thiệt hại do mưa đá gây ra đã đang và sẽ là vấn đề cấp bách. e. Những biện pháp phòng chống mưa đá: Để phòng tránh, hạn chế tác hại do mưa đá gây ra trước hết phải dự báo chính xác thời điểm và nơi sẽ xảy ra hiện tượng trên.

Ở nhiều nước, nhất là các nước có nền kinh tế, khoa học kỹ thuật và công nghệ phát triển cao người ta có thể cảnh báo khá chính xác hiện tượng mưa đá dựa trên phân tích bản đồ thời tiết, đặc trưng sóng phản hồi của rađa khí tượng và ảnh mây vệ tinh nhân tạo. Ở nước ta do nhiều nguyên nhân, trong đó phải kể đến trang thiết bị kỹ thuật còn lạc hậu nên vấn đề dự báo chính xác mưa đá còn hạn chế. Để phòng chống mưa đá hiện nay, người ta dùng hai phương pháp cơ bản sau đây: - Phòng chống thụ động:

Dựa vào kết quả điều tra, xác định các vùng lãnh thổ, thời gian thường xảy ra mưa đá để từ đó bố trí các loại cây trồng ít bị ảnh hưởng, bị tàn phá bởi mưa đá.

Chuyển dịch thời vụ để cây trồng ra hoa, kết quả và cho thu hoạch vào thời điểm an toàn nhất.

Kịp thời triển khai các biện pháp phòng tránh như che, đậy. Đối với hoạt động hàng không dân dụng thì thay đổi lộ trình các chuyến bay khi

được cảnh báo khả năng xảy mưa đá.

- Phòng chống tích cực: Tác động tích cực lên các khối mây dông - nguồn phát sinh ra mưa đá. Thực chất của phương pháp này là dùng đại bác, tên lửa hoặc máy bay đưa lên các khối mây dông các chất như hạt axit cacboníc hoặc iôđua bạc. Sau khi đưa các chất này lên các đám mây dông, chúng đóng vai trò như các phôi thai, làm tăng đáng kể các

http://elib.ntt.edu.vn

Page 83: BÀI GIẢNG KHÍ TƯỢNG NÔNG NGHIỆP NTTULIB - …dspace.elib.ntt.edu.vn/dspace/bitstream/123456789/6266/1... · 2012-12-04 · chúng tôi đã biên soạn cuốn bài giảng

NTTULIB

81

hạt nhân ngưng kết trong mây. Vì lượng hơi nước và nước trong mây không tăng nhưng số lượng hạt ngưng kết tăng nên các tinh thể băng phát triển nhưng kích thước và khối lượng không lớn.

Trong quá trình rơi tự do trong khí quyển, các cục băng sẽ tan hết thành mưa thuần tuý, hoặc nếu còn ở thể cứng thì kích thước của chúng cũng rất nhỏ, không có sức công phá lớn. Song các biện pháp chống mưa đá trên ta chưa thể thực hiện được. Để tránh tổn thất do mưa đá gây ra ta phải dự báo thật chính xác những thời kỳ có khả năng xuất hiện mưa đá và vạch kế hoạch kịp thời để tránh. 2.4. Bão a. Khái niệm:

Bão là do xoáy thuận nhiệt đới phát triển thành. Bão là vùng áp thấp gần tròn có bán kính khoảng 200-300 km. Trong bão những đường đẳng áp xếp sít nhau gây gió mạnh. Gió bão gần như song song với đường đẳng áp. Trừ phần trung tâm toàn bộ bão có chuyển động xoáy đi lên cực kỳ dữ dội, hình thành mưa rất lớn trên một vùng rộng, riêng mắt bão là vùng gió yếu, thậm chí lặng gió và thường ít mây. b. Nguyên nhân sinh ra bão: Cho đến nay nhiều nhà khí tượng vẫn còn tranh cãi nguyên nhân sinh ra bão, song những nguyên nhân chính vẫn là: - Bão chỉ phát sinh ở vùng biển nóng, nơi có nhiệt độ bề mặt nước khoảng 26-270C. Nước ở đây bốc hơi rất mãnh liệt tạo ra sự bất ổn định cao của không khí và có trữ lượng nước rất lớn. - Luồng không khí nóng ẩm này, dưới tác dụng của lực Côriô lít sẽ thành xoáy. - Nếu lúc này kết hợp với tác dụng của ngoại lực nào đó như xuất hiện dòng thăng của dải hội tụ thì xoáy sẽ mạnh lên nhanh và hình thành bão. + Ở vùng xích đạo từ vĩ độ 0-50 ở hai bên xích đạo đều không có bão, vì lực Côriôlít quá nhỏ hoặc bằng 0, mặc dù không khí trên các vùng biển rất nóng và ẩm. + Ở các vùng vĩ độ cao, lực Côriôlít lớn nhưng không khí ở đây lạnh và khô nên dòng thăng yếu không hình thành bão. + Bão thường phát sinh ở vùng biển nhiệt đới, từ vĩ độ 5-300 là những vùng có đầy đủ điều kiện sinh ra bão.

Nguồn năng lượng tạo điều kiện bão hình thành, phát triển và tồn tại quanh năm là nguồn nhiệt và hơi nước ẩm ướt của đại dương. c. Những biện pháp phòng tránh bão: Nước ta hàng năm thường có bão, tác hại của bão rất nặng nề. Để phòng chống bão hàng năm Uỷ ban phòng chống lụt bão Trung ương đã huy động một lực lượng rất lớn để làm công tác phòng chống bão, lụt.

http://elib.ntt.edu.vn

Page 84: BÀI GIẢNG KHÍ TƯỢNG NÔNG NGHIỆP NTTULIB - …dspace.elib.ntt.edu.vn/dspace/bitstream/123456789/6266/1... · 2012-12-04 · chúng tôi đã biên soạn cuốn bài giảng

NTTULIB

82

* Phòng chống bão đối với cây trồng gồm các biện pháp: + Chặt tỉa bớt cành lá + Buộc hai ba cây lạ i với nhau thành từng khóm + Vun cao gốc + Bón phân cân đối + Tháo cạn nước để rễ ăn sâu chống đổ tốt. + Chọn giống thích hợp

+ Các biện pháp che chắn. Sau khi bão tan, cần xúc tiến chăm sóc như bón phân, tiêu nước, xới đất, làm cỏ, rửa lá bị bùn đất, phun thuốc diệt phòng sâu bệnh. 2.5. Hạn Hạn làm cho sự thoát hơi nước và bốc hơi mạnh, phá vỡ sự cân bằng chế độ nước trong cây, làm ảnh hưởng nghiêm khối đến quá trình sinh trưởng, phát triển của cây. a. Phân loại hạn. Có hai loại hạn: - Hạn đất: là hiện tượng sinh ra khi không có mưa hoặc ít mưa trong thời gian kéo dài, kèm theo sự bốc hơi lớn của mặt đất, làm cho lớp đất trong phạm vi bộ rễ cây phân bố bị khô nhiều, khiến cho cây bị thiếu nước. Trong thời gian hạn, cán cân nước trong cây bị phá hoại, vì lượng nước mất đi nhiều hơn lượng nước nhận được nhờ bộ rễ dẫn đến năng suất cây trồng bị giảm. - Hạn không khí: là hiện tượng xuất hiện khi độ ẩm không khí thấp, nhiệt độ cao và có gió mạnh. Trong trường hợp này, trong đất có thể đủ nước, nhưng do thoát hơi qua lá mạnh, rễ không hút kịp nước từ đất, nên cây bị héo.

Hạn không khí thường xảy ra trước hạn đất, nhưng đôi khi cùng xảy ra và khi đó tình trạng thiếu nước của cây sẽ rất trầm khối. b. Chỉ số hạn: * Chỉ số hạn đất: - Chỉ số hạn của Vư-nôt (năm 1905).

Vư-nốt đã đưa ra chỉ số R/E trong đó R là lượng mưa, E là khả năng bốc hơi. Theo ông:

+ Vùng có chỉ số 34

ER

là vùng ẩm.

http://elib.ntt.edu.vn

Page 85: BÀI GIẢNG KHÍ TƯỢNG NÔNG NGHIỆP NTTULIB - …dspace.elib.ntt.edu.vn/dspace/bitstream/123456789/6266/1... · 2012-12-04 · chúng tôi đã biên soạn cuốn bài giảng

NTTULIB

83

+ Vùng có chỉ số 1ER là vùng thảo nguyên và đồng cỏ chuyển tiếp.

+ Vùng có chỉ số 32

ER vùng đồng cỏ khô.

+ Vùng có chỉ số 31

ER là vùng có hạn đất phía nam.

- Hệ số thuỷ nhiệt của Xêlianhinốp:

tRK

.1,0

trong đó:

R là tổng lượng mưa

t là tổng lượng nhiệt Theo Xêlianhinốp khi hệ số

K ≤ 1 bắt đầu có dấu hiệu hạn. K = 0,5 - 0,6 hạn trung bình K = 0,4 - 0,5 hạn nặng K < 0,4 hạn rất nặng. Áp dụng công thức này trong phân vùng khí hậu miền Bắc Việt nam, Nha Khí tượng đã đưa ra công thức:

tRK

.16,0

Hệ số 0,16 là hệ số thường dùng cho vùng nhiệt đới. Theo công thức này: + K = 1-2 thì không có hạn, là vùng khá ẩm ướt.

+ K = 0,5-1,0 vùng bắt đầu có dấu hiệu hạn song có thể giữ nước được. + K < 0,5 là vùng hạn, thiếu ẩm. Xác định mức độ hạn theo Xêlianhinôva là tương đối dễ thực hiện và có độ chính xác cao. * Chỉ số hạn không khí: Đối với hạn không khí để xác định cường độ hạn cần phải tính đến khả năng bốc hơi, độ ẩm tương đối, nhiệt độ hoặc độ thiếu hụt bão hoà của không khí cũng như vận tốc gió. Ông cho rằng hạn không khí bắt đầu khi d = 20mb và đưa ra chỉ số hạn không khí sau:

Bảng 13 : Chỉ số khí tượng nông nghiệp của các loại hạn không khí

http://elib.ntt.edu.vn

Page 86: BÀI GIẢNG KHÍ TƯỢNG NÔNG NGHIỆP NTTULIB - …dspace.elib.ntt.edu.vn/dspace/bitstream/123456789/6266/1... · 2012-12-04 · chúng tôi đã biên soạn cuốn bài giảng

NTTULIB

84

Độ thiếu hụt bão hoà d lúc 13 giờ (mb) khi vận tốc gió (m/s) Hạn không khí Khả năng bốc hơi

(mm/ngày) <10 >10

Hạn nhẹ 3-5 20-32 13-27 Hạn trung bình 5-6 33-39 28-32 Hạn nặng 6-8 40-52 33-45 Hạn rất nặng >8 >53 >46

Mức độ hại của hạn đối với cây trồng phụ thuộc vào thời gian kéo dài của hạn.

Theo Suberbinler thì cây trồng có thể không bị hại sau 5 ngày hạn nhẹ và 1-2 ngày hạn rất nặng.

Hạn rất nguy hiểm đối với quá trình sinh trưởng và phát triển của cây trồng. Đặc biệt là cây trồng vụ hè thu ở vùng Duyên hải miền Trung và cây trồng vụ Đông ở các vùng phía Bắc, cây trồng trong thời kỳ mùa khô ở Tây Nguyên và đồng bằng Nam bộ. c. Biện pháp phòng chống hạn:

- Làm tốt công trình thuỷ lợi để chủ động tưới tiêu cho cây trồng. Đây là biện pháp tích cực nhất. - Xới xáo đất, bón phân hữu cơ cho đất để giữ ẩm cho đất. - Trồng cây che tủ hoặc cỏ mục, rơm rạ che tủ cho đất để giảm bốc hơi từ bề mặt đất. - Phòng trừ cỏ dại kịp thời. - Xen canh, thâm canh cây trồng hợp lý. - Xê dịch thời vụ để tránh thời kỳ thường xảy ra hạn. - Chọn tạo những giống cây trồng có khả năng chịu hạn tốt. - Trồng rừng chống gió nóng. - Tưới nước: sử dụng tưới nhỏ giọt là phương pháp có hiệu quả nhất, tiết kiệm nước nhất. Ngoài ra, có thể chống gió nóng bằng cách làm mưa nhân tạo hoặc một số nước đã sử dụng giếng ngầm để tưới.

CHƯƠNG 8 DỰ BÁO KHÍ TƯỢNG NÔNG NGHIỆP

http://elib.ntt.edu.vn

Page 87: BÀI GIẢNG KHÍ TƯỢNG NÔNG NGHIỆP NTTULIB - …dspace.elib.ntt.edu.vn/dspace/bitstream/123456789/6266/1... · 2012-12-04 · chúng tôi đã biên soạn cuốn bài giảng

NTTULIB

85

1. Vai trò của dự báo khí tượng nông nghiệp. Dự báo khí tượng nông nghiệp đóng vai trò hết sức quan khối đối với quá trình sản xuất nông nghiệp. Căn cứ vào diễn biến thời tiết, đặc điểm của từng giống trong từng giai đoạn, từng mùa. Căn cứ vào dự báo thời tiết, cây trồng nhiều năm để vạch kế hoạch kịp thời nhằm hạn chế những yếu tố bất lợi, đồng thời sử dụng có hiệu quả nhất những yếu tố có lợi nhằm đưa năng suất và phẩm chất cây trồng lên cao và ổn định.

Dự báo khí tượng càng chính xác thì hiệu quả phục vụ càng lớn. Mức độ chính xác của dự báo phụ thuộc vào mức độ chính xác của số liệu theo dõi về thời tiết, cây trồng và trình độ của người lập dự báo. Hiện nay trên thế giới dự báo khí tượng đã nghiên cứu thành công rất nhiều loại dự báo rất quan khối như: dự báo khí tượng nông nghiệp cho lúa mì mùa đông, cho lúa nước, nho, khoai tây, củ cải đường và các loại cây ăn quả. Ngoài ra, còn có những dự báo về hạn, dự báo ẩm độ đất, dự báo thời vụ, về sự phát sinh, phát triển của sâu bệnh, dự báo năng suất cây trồng (ngô, bông ). Tổ chức khí tượng nông nghiệp trong tổ chức lương thực thế giới (FAO) đã thiết lập được nhiều dự báo khí tượng nông nghiệp cho vùng Bắc và Trung châu Phi như dự báo tình trạng hạn hán, dự báo thời vụ, dự báo năng suất... Nhờ đó mà các nước trong vùng đã mở rộng được diện tích trồng cây lương thực giả i quyết được phần nào sự nghèo đói của các nước này. Ở Việt Nam công tác dự báo khí tượng nông nghiệp mới được tiến hành trong những năm gần đây. Song cũng đã thu được những thành tích đáng kể: đã xây dựng được mô hình dự báo các gia i đoạn sinh trưởng và phát triển của một số giống lúa. Lập mô hình dự báo năng suất lúa, ngô, chè... Lập được những dự báo dài hạn và ngắn hạn về sâu bệnh hại, bước đầu góp phần vào công tác phòng trừ sâu bệnh. Vấn đề dự báo sâu bệnh ở Việt nam là vấn đề rất phức tạp. Sự phát sinh và phát triển sâu bệnh hại không những chỉ phụ thuộc vào điều kiện khí tượng mà còn phụ thuộc vào điều kiện thức ăn, tức là phụ thuộc vào sự sinh trưởng và phát triển của cây trồng. Tuy vậy, trên thực tế, công tác dự báo sâu bệnh hại cũng đã có những thành công lớn. Ngoài việc lập dự báo ngắn hạn, người ta còn lập được cả dự báo dài hạn. Dự báo ngắn hạn căn cứ vào tình trạng sâu bệnh như tuổi phát dục, số lượng xuất hiện và điều kiện môi trường. Dự báo dài hạn căn cứ vào hiện trạng sâu bệnh và điều kiện khí tượng trong tương lai và các mô hình đã được thiết lập. Nhờ sự thành công bước đầu đó mà công tác phòng trừ sâu bệnh, dập tắt các ổ dịch được tiến hành kịp thời. Tuy nhiên, cần chú ý rằng các mô hình dự báo chỉ là những mô hình kinh nghiệm, không thể áp dụng cho mọi trường hợp, vì các mô hình này được xây dựng trong những sự giới hạn về điều kiện khí tượng, đất đai và cây trồng khác. Do đó, cần lập các mô hình dự báo cho mỗi loại cây trồng ở các vùng khác nhau. Đó chính là những khó khăn của công tác dự báo khí tượng nông nghiệp.

http://elib.ntt.edu.vn

Page 88: BÀI GIẢNG KHÍ TƯỢNG NÔNG NGHIỆP NTTULIB - …dspace.elib.ntt.edu.vn/dspace/bitstream/123456789/6266/1... · 2012-12-04 · chúng tôi đã biên soạn cuốn bài giảng

NTTULIB

86

2. Cơ sở lý luận của các phương pháp dự báo khí tượng nông nghiệp Dự báo khí tượng nông nghiệp dựa trên các cơ sở khoa học sau: - Điều kiện môi trường luôn luôn biến đổi theo thời gian và không gian. Chúng biến đổi về số lượng, biến đổi về chất lượng, cường độvà thời gian xuất hiện. Trong quá trình biến đổi đó, điều kiện môi trường đã gây ra sự tác động rất lớn đến các đối tượng sản xuất nông nghiệp làm cho chúng cùng bị biến đổi theo. Người ta đã tìm thấy nhiều mối tương quan rất chặt chẻ giữa các quá trình sinh trưởng, phát triển và năng suất cây trồng, vật nuôi với điều kiện môi trường theo thời gian và theo vùng địa lý. - Sự tác động của môi trường, trước hết là điều kiện khí tượng, xảy ra rất phức tạp. Chúng cùng xảy ra một lúc. Khó có thể phân lập ra sự tác động riêng lẻ của từng yếu tố môi trường lên cây trồng và vật nuôi. Vì các yếu tố môi trường không những chỉ tác động lên cây trồng, vật nuôi mà chúng còn tác động lẫn nhau. Chúng có thể kích thích lẫn nhau, hoặc có thể hạn chế làm cho chúng bị thay đổi về cường độ và thời gian tồn tại. Tuy nhiên, người ta vẫn có thể tính toán được phần đóng góp ảnh hưởng của mỗi yếu tố môi trường đối với cây trồng và vật nuôi. - Trong hàng loạt các yếu tố môi trường, có những yếu tố ảnh hưởng "trội" và những yếu tố "hạn chế". Đó là những yếu tố có ảnh hưởng lớn nhất. Sự biến đổi của những yếu tố này, đặc biệt là khi chúng biến đổi tới giá trị cực đoan sẽ gây ra sự ảnh hưởng lớn nhất tới sản xuất. Ví dụ: trong vụ Đông Xuân ở miền Bắc Việt Nam, nhiệt độ thấp và ánh sáng ít là hai yếu tố ảnh hưởng trội (yếu tố hạn chế) đối với cây lúa. Nhiệt độ thấp trong tháng 12, tháng 1 làm cho mạ xuân chết hàng loạt. Rét muộn hoặc gió khô nóng đến sớm có thể gây ra tình trạng lúa vụ xuân trổ bông kém, tỷ lệ lép cao. Ở các vùng Tây Nguyên, gia i đoạn từ tháng 11 đến tháng 4 rất ít mưa, hiện tượng khô hạn (hạn đất và hạn không khí) là yếu tố hạn chế lớn nhất. Giải quyết được nước tưới cho vụ này, năng suất cây trồng ởTây Nguyên sẽ tăng lên. Để các mô hình dự báo đạt độ chính xác cao (độ lệch so với thực tế nhỏ) và để áp dụng, người ta rất chú ý tới việc xác định các yếu tố "trội" để đưa vào mô hình. Đây là vấn đề cực kỳ khó khăn. Vấn đề đó càng trở nên khó khăn hơn khi vai trò ảnh hưởng của các yếu tố môi trường không thua kém nhau rõ rệt, tức là không có những yếu tố hạn chế rõ rệt. Trong trường hợp đó, mô hình trở nên phức tạp và độ chính xác bị hạn chế. 3. Nội dung dự báo: Để dự báo khí tượng nông nghiệp đòi hỏi quan trắc viên phải lấy số liệu thực tế của cây trồng: ngày khởi đầu từ giai đoạn, đặc điểm của cây trồng trong từng giai đoạn sinh trưởng và phát triển. Các số liệu này phải quan sát thường xuyên hàng ngày hoặc hai ngày một lần tuỳ từng điều kiện. Song song với theo dõi trạng thái cây trồng là số liệu khí tượng. Đối với khí tượng nông nghiệp cần thu thập số liệu theo chu kỳ 10 ngày một lần với các thông tin như : nhiệt độ, độ ẩm, mưa, trạng thái cây trồng,... Sau đó cần đánh giá trong từng thời

http://elib.ntt.edu.vn

Page 89: BÀI GIẢNG KHÍ TƯỢNG NÔNG NGHIỆP NTTULIB - …dspace.elib.ntt.edu.vn/dspace/bitstream/123456789/6266/1... · 2012-12-04 · chúng tôi đã biên soạn cuốn bài giảng

NTTULIB

87

kỳ, xác định nhu cầu của cây trong từng thời kỳ (đặc biệt là ở những thời kỳ quan khối ). So sánh với số liệu trung bình nhiều năm. Từ đó giới thiệu các biện pháp kỹ thuật thích hợp để có thể đạt năng suất cao nhất. Ví dụ như xê dịch thời vụ, thay đổi giống cây trồng, mật độ,.... 4. Các loại dự báo khí tượng nông nghiệp.

Các loại dự báo hiện đang được sử dụng gồm: a. Dự báo các điều kiện khí tượng nông nghiệp đối với cây trồng: - Dự báo khả năng đảm bảo nhiệt độ trong các gia i đoạn sinh trưởng và phát triển của cây trồng

- Dự báo độ ẩm hữu hiệu trong đất - Dự báo khả năng hạn hán,... b. Dự báo các giai đoạn sinh trưởng và phát triển của cây trồng: - Dự báo thời kỳ gieo - Dự báo thời kỳ trổ - Dự báo thời kỳ thu hoạch c. Dự báo năng suất cây trồng. d. Dự báo khả năng sinh trưởng, phát triển của sâu bệnh.

4.1. Dự báo độ ẩm hữu hiệu trong đất. Phương pháp dự báo độ ẩm hữu hiệu trong đất cho các gia i đoạn sinh trưởng và phát triển khác nhau cơ bản dựa vào sự biến động độ ẩm đất, phụ thuộc vào điều kiện thời tiết.

Mối quan hệ giữa độ ẩm hữu hiệu trong đất và các yếu tố khí tượng được thể hiện ở công thức sau:

DCWBrAtW trong đó: ΔW - biến động độ ẩm hữu hiệu đất trong 10 ngày. t - nhiệt độ trung bình theo dự báo trong 10 ngày.

r - lượng mưa theo dự báo trong 10 ngày. W - độ ẩm hữu hiệu trong đất xác định vào ngày khởi đầu giai đoạn. Các hệ số A, B, C, D thay đổi phụ thuộc vào từng vùng, từng độ sâu, từng giai đoạn sinh trưởng, phát triển và từng loại cây trồng.

Độ ẩm hữu hiệu cần được dự báo (Wdb) sẽ bằng tổng của độ ẩm hữu hiệu xác định vào ngày khởi đầu gia i đoạn (W) với biến động độ ẩm đất trong 10 ngày (ΔW).

http://elib.ntt.edu.vn

Page 90: BÀI GIẢNG KHÍ TƯỢNG NÔNG NGHIỆP NTTULIB - …dspace.elib.ntt.edu.vn/dspace/bitstream/123456789/6266/1... · 2012-12-04 · chúng tôi đã biên soạn cuốn bài giảng

NTTULIB

88

Bảng 14: Hệ số A, B, C, D cho một số giai đoạn sinh trưởng, phát triển của cây ngô

Giai đoạn A B C D Mọc đến10 lá -0,83 0,34 -0,15 5,97 10 lá đến trổ cờ 0,73 0,56 -2,55 55,84 Trổ cờ đến chín sữa

0,72 0,65 -1,65 29,88

4.2. Dự báo một số giai đoạn sinh trưởng, phát triển của cây trồng.

Tốc độ sinh trưởng và phát triển của cây trồng phụ thuộc chủ yếu vào sự biến thiên của nhiệt độ. Theo chiều tăng của nhiệt độ (đến giới hạn cho phép) số ngày của giai đoạn giảm, nếu nhiệt độ giảm thì thời gian của gia i đoạn tăng. Theo số liệu nghiên cứu cho biết, những năm nhiệt độ cao ngày bắt đầu của giai đoạn xuất hiện sớm hơn so với những năm nhiệt độ thấp. Số ngày của từng giai đoạn có liên quan rất chặt với tổng nhiệt độ hữu hiệu cần thiết để hoàn thành giai đoạn đó. Để dự báo ngày bắt đầu xuất hiện giai đoạn này hay giai đoạn khác trong thực hành người ta thường sử dụng công thức của A. Sư-gô-lép.

btADD

1

trong đó: D - ngày cần dự báo D1 - ngày kết thúc giai đoạn trước A - tổng nhiệt độ hữu hiệu cần thiết để hoàn thành giai đoạn. t - nhiệt độ trung bình của gia i đoạn theo dự báo. b - giới hạn tối thấp sinh vật học của gia i đoạn. Nếu ngày lập dự báo sau khi kết thúc giai đoạn trước một số ngày, người ta sử dụng công thức:

tbt

ADD

2

trong đó: D2 - ngày lập dự báo

t - tổng nhiệt độ hữu hiệu của số ngày từ khi kết thúc giai đoạn trước cho đến ngày lập dự báo.

http://elib.ntt.edu.vn

Page 91: BÀI GIẢNG KHÍ TƯỢNG NÔNG NGHIỆP NTTULIB - …dspace.elib.ntt.edu.vn/dspace/bitstream/123456789/6266/1... · 2012-12-04 · chúng tôi đã biên soạn cuốn bài giảng

NTTULIB

89

4.2.1. Dự báo thời gian sinh trưởng và phát triển của một số giống lúa. Theo nghiên cứu của phòng khí tượng nông nghiệp viện thuỷ văn Hà Nội đã xây dựng được một số mô hình dự báo thời gian sinh trưởng và phát triển của một số giống lúa cấy ở miền Bắc nước ta như sau : Vụ đông xuân : Đối với giống nông nghiệp 8 ( N N 8 ) - Phương trình dự báo ngày làm đốt (đứng cái )

Dmđ = Dđn+1,18

0,81t

trong đó: Dmđ ngày mọc đốt phổ biến.

Dđn ngày đẻ nhánh. t nhiệt độ trung bình từ ngày đẻ nhánh đến ngày làm đốt. 81,0 là tổng nhiệt độ hữu hiệu với nhiệt độ tối thấp là 18,10C trong giai đoạn này. Phương trình dự báo ngày lúa trổ bông :

Dtrổ = Dđn +1,21'

0,66t

trong đó: Dtrổ là ngày lúa trổ. t’ nhiệt độ theo dự báo từ ngày mọc đốt đến ngày lúa trổ. 66,0 tổng nhiệt độ hữu hiệu với giới hạn tối thấp sinh vật học là 21,10C Đối với những giống có thời gian sinh trưởng ngắn như nông nghiệp 22, CR 230 có thể dùng những phương trình dự báo sau : - Dự báo ngày mọc đốt của lúa NN22 trên ruộng chủ động nước ở đồng bằng Bắc bộ : y = 0,84x + 41,7 trong đó: x là ngày cấy ( Số ngày trước và sau mốc thời vụ trung bình 17/7 )

- Dự báo ngày mọc đốt của lúa NN22 ở đồng bằng Thanh - Nghệ - Tĩnh : y = 0,85x + 41,7 trong đó: y là ngày mọc đốt dự báo; x ngày cấy ( Số ngày trước, sau mốc thời vụ trung bình 10/7 ) - Thời gian trổ trên đất chủ động nước ở đồng bằng Bắc bộ : y = 0,46x + 94,4

http://elib.ntt.edu.vn

Page 92: BÀI GIẢNG KHÍ TƯỢNG NÔNG NGHIỆP NTTULIB - …dspace.elib.ntt.edu.vn/dspace/bitstream/123456789/6266/1... · 2012-12-04 · chúng tôi đã biên soạn cuốn bài giảng

NTTULIB

90

trong đó: y là ngày trổ; x là ngày cấy ( số ngày tính từ mốc 17/7 ) -Thời gian trổ trên đất chủ động nước ở đồng bằng Thanh - Nghê -Tĩnh y = 0,78x + 77,0 trong đó: y là ngày trổ; x là ngày cấy ( số ngày tính từ mốc 10/7 ) Phương trình dự báo ngày lúa chín ở đồng bằng Bắc bộ y = 1,03x + 23,0 Phương trình dự báo lúa chín ở đồng bằng Thanh - Nghê - Tĩnh :

y = 0,94x + 29,3 trong đó: y là ngày lúa chín; x là ngày lúa trổ phổ biến ( 80 % ) - Đối với những vùng không chủ động nước các mô hình dự báo các thời kỳ chủ yếu như sau : + Thời kỳ trổ đối với giống lúa NN22 : U = 2,74x +0,01y + 0,1z = 53,17

+ Thời kỳ trổ đối với giống NN75 - 10 : U = 0,94x + 0,01y +0,01z +23,2 + Thời kỳ chín đối với giống lúa NN22 : U = -0,45x - 0,02y - 0,03z + 39,31 + Thời kỳ chín đối với giống lúa NN75 -10 : U = 0,25x -0,001y - 0,02z + 20,8 trong đó : U là số ngày giữa hai thời kỳ phát dục cần dự báo.

x là nhiệt độ trung bình theo dự báo giữa hai thời kỳ. y là tổng lượng mưa theo dự báo giữa hai thời kỳ. z là tổng số giờ nắng giữa hai thời kỳ. 4.2.2. Dự báo thời gian sinh trưởng và phát triển ngô. Dự báo thời gian sinh trưởng và pháy triển của ngô dựa theo kết quả nghiên cứu của IU. I Trirkốp. Chu kỳ sinh trưởng của cây ngô có thể chia làm một số gia i đoạn chính sau : - Giai đoạn từ gieo đến 3 lá - 3 lá đến trổ cờ

http://elib.ntt.edu.vn

Page 93: BÀI GIẢNG KHÍ TƯỢNG NÔNG NGHIỆP NTTULIB - …dspace.elib.ntt.edu.vn/dspace/bitstream/123456789/6266/1... · 2012-12-04 · chúng tôi đã biên soạn cuốn bài giảng

NTTULIB

91

- Trổ cờ đến chín sữa - Chín sữa đến chính sáp a. Dự báo số ngày gieo đến 3 lá Ở giai đoan này tốc độ sinh trưởng phụ thuộc vào nhiệt độ và độ ẩm của đất. hạt ngô có thể nảy mầm được trong điều kiện nhiệt độ tối thấp của đất khoảng 8 - 100C. Tốc độ nảy mầm tăng theo chiều tăng của nhiệt độ. Nếu độ ẩm thấp thì hạt nảy mầm chậm, thuận lợi nhất để hạt nảy mầm là độ ẩm hữu hiệu ở độ sâu 0 - 10 cm khoảng 15 - 20 mm. Độ sâu lấp hạt cũng ảnh hưởng lên tốc độ xuất hiện lá mầm : Sự phụ thuộc đó được thể hiện ở phương trình sau :

)8()4(783

tkw

hn

trong đó: h - độ sâu lấp hạt (cm) kw – Hệ số phụ thuộc vào độ ẩm hữu hiệu của đất ở độ sâu 0-10 cm. Khi độ ẩm hữu hiệu W ≥ 15 mm thì kw = 1; W ≤ 10mm thì kw = 0,65;

10≤W≤15 mm thì kw = 0,75 t - nhiệt độ trung bình ngày đêm ở độ sâu lấp hạt. b. Dự báo ngày trổ cờ của cây ngô.

Đây là loại dự báo có ý nghĩa trong thực tế, dự báo ngày trổ cờ tức là dự báo ngày thu hoạch ngô làm thức ăn cho gia súc. Bởi lúc này sinh khối của cây là lớn nhất. Giai đoạn từ 3 lá đến trổ cờ đây là gia i đoạn cần thiết để cây ngô hình thành lá. Do vậy những giống ngô khac nhau số ngày của giai đoạn này khác nhau. Để dự báo ngày trổ cờ cuả ngô IU. I Trir kốp đã đưa ra công thức :

)2()4,275,0101,0( 2

Nt

ttDDhh

hhhh

trong đó: D là ngày cây ngô trổ cờ. D1 ngày xuất hiện 3 lá ngô.

hht nhiệt độ hữu hiệu trung bình theo dự báo (thh= ttb-10).

N số lá đặc trưng trong từng loại giống. Số lá đặc trưng cho từng loại giống: Giống Số lá

http://elib.ntt.edu.vn

Page 94: BÀI GIẢNG KHÍ TƯỢNG NÔNG NGHIỆP NTTULIB - …dspace.elib.ntt.edu.vn/dspace/bitstream/123456789/6266/1... · 2012-12-04 · chúng tôi đã biên soạn cuốn bài giảng

NTTULIB

92

Cực muộn > 21 Muộn 19 -21 Trung bình muộn 17 - 18 Chín trung bình 15 - 16 Trung bình sớm 13 - 14 Chín sớm 11 - 12 Giới hạn thấp nhất sinh vật học của giai đoạn này theo Trirkốp là 100C:

c. Dự báo ngày xuất hiện giai đoạn chín sữa. Theo Trirkốp, để hoàn thành giai đoạn từ trổ cờ đến chín sữa các giống ngô khác nhau đòi hỏi tổng nhiệt độ hữu hiệu > 10 khác nhau. Giống ngô muộn và trung bình muộn đòi hỏi là 2800C. Giống trung bình muộn là 2600 C, trung bình sớm và sớm là 2400C. Tổng nhiệt độ này chỉ đúng với vùng có nhiệt độ trung bình sấp xỉ 200 C. Còn những vùng có nhiệt độ trung bình > 200 C đòi hỏi lớn hơn. Song không làm cho giai đoạn này ngắn hơn mà giữ thời gian xác định của giống chín sớm là 21 - 24 ngày, giống chín muộn 26 - 28 ngày. d. Dự báo giai đoạn chín sáp của ngô. Theo Trirkốp đối với những vùng nhiệt độ trung bình của không khí 200 C thì đối với giống ngô chín sớm là 3500 C, chín trung bình là 4000 C, chín muộn là 4500 C. Vùng có nhiệt độ trung bình của không khí > 200 C thì theo dõi bảng sau :

Nhiệt độ trung bình của không khí (0C) Giống chín 220 240 260 280

Sớm 380 415 445 495 Trung bình 442 480 515 560 Muộn 502 544 586 648

5. Dự báo năng suất cây trồng. Năng suất cây trồng là kết quả ảnh hưởng của rất nhiều yếu tố của môi trường, đồng thời cũng phụ thuộc vào đặc tính của giống. Song trong các phương pháp dự báo của khí tượng nông nghiệp chỉ tính đến ảnh hưởng của các yếu tố thời tiết. Dựa vào những dự báo này người ta có thể chủ động phòng chống những yếu tố bất lợi có thể ảnh hưởng tới năng suất, đồng thời dựa vào kết quả cảu dự báo các cơ quan quản lý nông nghiệp và thực phẩm có kế hoạch định giá cả, kế hoạch lưu thông phân phối và xuất khẩu.

http://elib.ntt.edu.vn

Page 95: BÀI GIẢNG KHÍ TƯỢNG NÔNG NGHIỆP NTTULIB - …dspace.elib.ntt.edu.vn/dspace/bitstream/123456789/6266/1... · 2012-12-04 · chúng tôi đã biên soạn cuốn bài giảng

NTTULIB

93

a. Dự báo năng suất lúa mùa ở Nghệ An. Lúa mùa ở Nghệ An sinh trưởng trong điều kiện dư thừa nhiệt độ. Cho nên yếu tố hạn chế năng suất lúa mùa ở đây chủ yếu là do chế độ mưa. Do vậy mô hình dự báo năng suất lúa ở Nghệ An lấy lượng mưa tháng 8, 9, 10 làm biến số. Phương trình có dạng sau:

4772,000305,000138,000242,0 zyxU

Hệ số tương quan của chung là 0,68. trong đó: x, y, z ứng với lượng mưa tháng 8, 9,10. RUxyz = 0,34 RUyxz = -0,08

RUzxy = -0,85 Từ kết quả trên ta thấy rằng, lượng mưa tháng X là quan khối nhất đối với năng suất lúa. Như vậy, sau khi lập được dự báo lượng mưa tháng X, có thể dự báo được năng suất lúa và vạch kế hoạch cần thiết để ứng phó với tình hình mưa lớn tháng X.

b. Dự báo năng suất ngô. Dựa vào mô hình dự báo năng suất ngô của IU.I Trirkốp. Theo Trirkốp năng suất ngô phụ thuộc vào trữ lượng nước trong đất ở độ sâu 0-50cm và diện tích lá vào thời kỳ cây ngô trổ cờ. Mô hình dự báo năng suất ngô có dạng sau:

11

22

..10).(

WKtKtcbWaWy

trong đó: y - năng suất ngô hạt tính ra tấn/ha. W - độ ẩm hữu hiệu của đất độ sâu 0-50cm xác định vào ngày trổ cờ. a, b, c-những hệ số phụ thuộc vào diện tích lá xác định vào thời kỳ trổ.

Kt2-hệ số phụ thuộc vào nhiệt độ trung bình theo dự báo của 1 tháng sau trổ cờ và độ ẩm hữu hiệu của đất ở độ sâu 0-50 cm xác định vào ngày trổ. Kt1W1-hệ số tính theo nhiệt độ và ẩm độ đất trong thời gian hình thành bắp từ bước 4 đến bước 6.

46,0016,0065,0 1111 WtWKt

Hệ số a, b, c tra theo bảng sau:

Diện tích bề mặt lá ngô (1000 m2 /ha) a b c

http://elib.ntt.edu.vn

Page 96: BÀI GIẢNG KHÍ TƯỢNG NÔNG NGHIỆP NTTULIB - …dspace.elib.ntt.edu.vn/dspace/bitstream/123456789/6266/1... · 2012-12-04 · chúng tôi đã biên soạn cuốn bài giảng

NTTULIB

94

30 -0,0071 1,41 -3.2 20 -0,006 1,1 -4,2 10 -0,0029 0,53 -1,5

Hệ số Kt2 phụ thuộc vào ẩm độ đất và nhiệt độ không khí

Nhiệt độ trung bình của không khí một tháng sau trổ cờ W0-50 (mm) 160C 180C 200C 220C 240C 100 0,68 0,90 0,97 1,00 0,96 80 0,72 0,88 0,99 0,98 0,90 60 0,78 0,90 1,00 0,93 0,80 40 0,84 0,93 0,97 0,86 0,65 20 0,90 0,92 0,90 0,80 0,50

Diện tích lá của một cây được tính theo công thức:

8,163294,36 hS (cm2 /cây) với h là chiều cao trung bình của 20 cây vào thời kỳ trổ cờ. Để tính diện tích lá trên 1ha ta lấy diện tích lá của 1 cây nhân với mật độ cây/1ha rồi đổi ra m2 tra bảng trên ta có hệ số a, b, c. 6. Dự báo khí tượng nông nghiệp về xuất hiện của bệnh mốc sương (phytophthora infestans) của cà chua. Bệnh phytophthora của cà chua phổ biến ở nước ta và nhiều nước trên thế giới. Bệnh này đã làm giảm đáng kể năng suất cà chua. Chính vì vậy, dự báo sự xuất hiện của bệnh phytophthora mang ý nghĩa thực tiễn rất lớn. Theo kết quả nghiên cứu của V.P. Krasnhian cho thấy phytophthora xuất hiện sau khoảng 7 ngày khi quan sát thấy tổng hợp các yếu tố khí tượng sau: nhiệt độ trung bình của không khí 13-210C, nhiệt độ tối cao của không khí không lớn hơn 250C, nhiệt độ tối thấp không nhỏ hơn 100C, độ ẩm tương đối trung bình ngày lớn hơn 84% và tổng lượng mưa của các gia i đoạn lớn hơn 18 mm, độ ẩm hữu hiệu của đất ở độ sâu 0-20 cm lớn hơn 45 mm. Qua theo dõi tổng hợp các yếu tố thời tiết trên ở 80 trạm khí tượng ở vùng trung đông Liên Xô cũ, Krasnhian thấy rằng xác suất xuất hiện bệnh phytophthora gần như 100. Mức độ phát triển của bệnh đặc biệt có mối tương quan chặt với ẩm độ tương đối của không khí vào tuần thứ nhất f1 và tuần thứ ba f3. Phương trình tương quan có dạng:

91,68566,513,3 22 ffF (%).

Như vậy, để xác định được khả năng phát triển của bệnh cần có số liệu dự báo về độ ẩm tương đối trung bình ngày.

http://elib.ntt.edu.vn

Page 97: BÀI GIẢNG KHÍ TƯỢNG NÔNG NGHIỆP NTTULIB - …dspace.elib.ntt.edu.vn/dspace/bitstream/123456789/6266/1... · 2012-12-04 · chúng tôi đã biên soạn cuốn bài giảng

NTTULIB

95

Có thể sử dụng công thức sau để dự báo mức độ phát triển của bệnh:

52,49330,1468,915,016,0 2121 tttrF (%).

trong đó: r1-tổng lượng mưa tháng 7; r2-tổng lượng mưa tháng 8; t1-nhiệt độ trung bình tháng 7; t2- nhiệt độ trung bình của tháng 8. Qua kết quả dự báo người ta sẽ có kế hoạch để phòng chống bệnh cho cây nhằm hạn chế đến mức thấp nhất tác hại của bệnh.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Võ Thái Dân. Bài giảng Khí tượng Nông nghiệp đại cương. Thành phố Hồ Chí

Minh, 11/2002.

2. Nguyễn Kim Môn. Khí tượng canh nông. NXB Lửa Thiêng, 1972.

3. Nguyễn Đức Ngữ, Nguyễn Khối Hiệu, Khí hậu và tài nguyên khí hậu Việt Nam,

NXB Nông nghiệp, 2004

4. Nguyễn Lương Phán. Cơ sở Khí tượng và khí hậu học. NXB Giáo dục, 1967.

5. Yêu Trẩm Sinh. Nguyên lý Khí tượng nông nghiệp học. Nha Khí tượng, 1963.

6. Đinh Thị Sơn. Bài giảng Khí tượng Nông nghiệp. Trường Đại học Nông Lâm

Huế - Huế,1995.

7. Mai Khối Thông, Hoàng Xuân Cơ. Giáo trình tài nguyên khí hậu. NXB Đại học

quốc gia Hà Nội, 2002.

8. Chu Thị Thơm, Phan Thị Lài, Nguyễn Tố. Độ ẩm đất và cây trồng, NXB lao

động, HàNội, 2006

9. Ngô Vinh. Cơ sở Khí tượng học. Trường Cán bộ Khí tượng Thuỷ văn, 1985.

http://elib.ntt.edu.vn

Page 98: BÀI GIẢNG KHÍ TƯỢNG NÔNG NGHIỆP NTTULIB - …dspace.elib.ntt.edu.vn/dspace/bitstream/123456789/6266/1... · 2012-12-04 · chúng tôi đã biên soạn cuốn bài giảng

NTTULIB

96

10. V.V Xi-Nen-Si-Cốp. Khí tượng Nông nghiệp đại cương. Nha Khí tượng, 1963

11. D.L. Laikhtman. Khí tượng động lực học. Tổng cục Khí tượng Thuỷ văn. Hà

Nội 1994.

12. Tạp chí khí tượng thủy văn

13. Trường Đại học Nông nghiệp 1 Hà Nội . Khí tượng Nông Nghiệp, phần thực

hành. NXB Nông nghiệp, Hà Nội, 1994.

14. Quy phạm Khảo sát Khí tượng Nông nghiệp trên đồng ruộng, 94TCN.21-2000.

http://elib.ntt.edu.vn