Upload
others
View
1
Download
0
Embed Size (px)
Citation preview
1
BẢNG CHỈ SỐ
Chứng khoán (ngày 19/11)
VN - Index 916,06 1,99%
HNX - Index 103,95 0,91%
D.JONES CK Mỹ 25.017,44 1,56%
STOXX CK C.Âu 3.160,33 0,64%
CSI 300 CK TQ 3.294,60 1,13%
Vàng (SJC cập nhật 08h30 ngày 20/11)
SJC Ng.đ/L 36.650 0,08%
Quốc tế USD/Oz 1.223,10 0,19%
Tỷ giá
USD/VND BQ LNH 22.726 0,02%
EUR/USD 1,1452 0,37%
Dầu
WTI USD/th 57,36 0,10%
6
Bản tin: KINH TẾ - TÀI CHÍNH
Theo quy định tại Thông tư 19, từ đầu năm
2019, các TCTD phải tuân thủ việc giảm tỷ lệ
tối đa nguồn vốn ngắn hạn được sử dụng để
cho vay trung - dài hạn từ 50% xuống 40%. Đó
cũng là lý do lãi suất kỳ hạn dài được các NH
điều chỉnh tăng trong thời gian qua để cân đối
lại nguồn vốn. Khả sát cho thấy, các NH đều
đã có sự chuẩn bị cho lộ trình Thông tư 19 nên
không cần trì hoãn. Định hướng giảm rủi ro
thanh khoản đã được đưa ra hơn 2 năm qua,
việc siết chặt các chỉ số an toàn vốn để đảm
bảo hoạt động NH ổn định, bền vững luôn là
mục tiêu mà NHNN hướng đến. Do đó, khả
năng xảy ra một lần trì hoãn tiếp theo trong bối
cảnh hiện tại là khó xảy ra.
Tin nổi bật
Nới room ngoại vẫn cần thận trọng
Siết tỷ lệ vốn ngắn hạn cho vay trung - dài
hạn, không để dừng cho vay đột ngột
Việt Nam dự kiến thu hút FDI nhiều nhất
khu vực APEC
Giới chuyên gia dự báo nguy cơ kinh tế
Mỹ suy thoái từ 2019
TQ có nguy cơ xảy ra làn sóng vỡ nợ
Thứ Ba, ngày 20/11/2018
BP.NGHIÊN CỨU & PHÁT TRIỂN – PHÒNG KẾ HOẠCH
[a] 266-268 Nam Kỳ Khởi Nghĩa, Phường 8, Quận 3, TP.HCM
[t] (028) 38 469 516 (1813/1819) – [e] [email protected]
2
Nới room ngoại vẫn cần thận
trọng
Một trong những giải pháp được đề cập cho vấn đề tăng vốn của các
NH là nới room cho NĐTNN. Trên thực tế liên tiếp trong thời gian qua,
thị trường NH đón nhận những tín hiệu tích cực khi 2 NH có quy mô gần
như lớn nhất hệ thống đã bán được vốn cho đối tác ngoại. Những tín
hiệu tích cực giúp việc thu hút vốn ngoại đối với NH nhiều hơn trong thời
gian qua. Theo nhận định của chuyên gia tài chính trong nước và quốc
tế, việc bán thêm vốn của các NH quốc doanh sẽ thu hút sự chú ý của
các NĐTNN. Hiện nay, giới hạn tỷ lệ sở hữu room ngoại tại một NH là
30%. Để giúp các NH huy động được nhiều vốn hơn qua kênh này.
Nhất là trong bối cảnh sức ép tăng vốn đáp ứng chuẩn Basel II ngày
càng đến gần, có ý kiến đề xuất là nên xem xét nới room cho NĐTNN.
Đề xuất nới room theo đánh giá của TS.Võ Trí Thành không phải mới
bàn tới mà đặt ra từ khá lâu, nhưng vì đây là vấn đề quan trọng, liên
quan đến vai trò của nhà nước với bên ngoài, đảm bảo ổn định KTVM…
nên Chính phủ cũng cần có cái nhìn thận trọng. Theo vị này, nếu nới
dưới 50% thì vẫn có thể xem xét, có thể phát hành dạng cổ phiếu vàng.
Với loại cổ phiếu này, NĐT được mua, nhưng không có quyền biểu
quyết. TS.Lê Xuân Nghĩa cũng có cách nhìn như vậy đối với vấn đề
này. Nhìn từ trường hợp cổ phần hóa của Agribank, theo TS.Nghĩa, việc
thực hiện cổ phần hóa cần cân nhắc kỹ. Vì nông nghiệp là lĩnh vực thế
mạnh, lợi thế lớn nhất của VN là nông nghiệp và du lịch, không phải là
công nghiệp. Như vậy phải có nguồn lực rất lớn để đầu tư, thậm chí
chịu lỗ để đầu tư trong vòng 10 năm, tạo cho nông nghiệp lợi thế vững
vàng. Dù cách thức nới room ngoại đối với hệ thống NH phải tương đối
thận trọng, bởi vì “dục tốc bất đạt” nhưng, theo TS.Lực, Chính phủ cũng
cần phải đánh giá tiếp tục cân nhắc để có hướng nới room với NĐTNN
để khớp với bối cảnh VN hội nhập ngày càng sâu rộng.
Siết tỷ lệ vốn ngắn hạn cho vay
trung - dài hạn, không để dừng
cho vay đột ngột
Theo quy định tại Thông tư 19, từ đầu 2019, tức chỉ còn hơn 1 tháng,
các TCTD phải tuân thủ việc giảm tỷ lệ tối đa nguồn vốn ngắn hạn được
sử dụng để cho vay trung - dài hạn từ 50% xuống 40%. Đó cũng là lý
do LS kỳ hạn dài được các NH điều chỉnh tăng trong thời gian qua để
Tài chính – Ngân hàng
3
cân đối lại nguồn vốn. Theo đó, LS tiền gửi tiết kiệm trên thị trường
được duy trì mức cao nhất 8,5%/năm ở kỳ hạn dài từ 15 tháng trở lên,
áp dụng ở một số NH nhỏ và 7,5%/năm đối với kỳ hạn dài ở NH lớn. Sở
dĩ nhiều NH chủ động giảm tỷ lệ vốn ngắn hạn cho vay trung - dài hạn
vì phần nào dự đoán NHNN sẽ kiên định với lộ trình đã đề ra. Việc siết
sử dụng vốn ngắn hạn cho vay trung - dài hạn nhằm đảm bảo hoạt
động NH được ổn định, bền vững. Chủ tịch HĐQT một NH lớn cho biết,
NH ông đã giảm tỷ lệ vốn ngắn hạn cho vay trung - dài hạn xuống dưới
40% trước thời gian quy định. Do đó, sẽ không có vấn đề gì đáng lo
ngại khi chính thức áp dụng trong năm 2019. Ông Phạm Hồng Hải,
Tổng giám đốc HSBC VN cho hay, cần thực hiện đúng lộ trình giảm tỷ
lệ vốn ngắn hạn cho vay trung, dài hạn theo quy định của Thông tư 19,
thay vì trì hoãn thêm lần nữa, lý do bởi điều này nhằm đảm bảo tốt
thanh khoản. Điều này cho thấy, các NH đều đã có sự chuẩn bị cho lộ
trình Thông tư 19 nên không cần trì hoãn. Vì vậy, xét về mặt quản lý
điều hành, NHNN không nên tiếp tục giãn thời gian áp dụng bởi có thể
tạo ra tiền lệ xấu. Thực tế, định hướng giảm rủi ro thanh khoản qua tỷ lệ
vốn ngắn hạn cho vay trung - dài hạn đã được đưa ra hơn 2 năm qua.
Theo một lãnh đạo NHNN, việc siết chặt các chỉ số an toàn vốn để đảm
bảo hoạt động NH ổn định, bền vững luôn là mục tiêu mà NHNN hướng
đến. Do đó, khả năng xảy ra một lần trì hoãn tiếp theo trong bối cảnh
hiện tại là khó xảy ra.
Cho vay nặng lãi núp bóng dịch
vụ xóa nợ xấu
Tràn lan các DV nhận xóa nợ xấu trên hệ thống Trung tâm thông tin tín
dụng quốc gia VN (CIC, NHNN) ra đời nhưng đằng sau đó là các chiêu
lừa bịp, cho vay núp bóng LS trên trời. Liên hệ với nhiều trang web có
DV xóa nợ xấu thì hầu hết đều triển khai việc cho vay tín chấp, thế
chấp. Với mức LS tính theo ngày như trên #7,5%/tháng và 90%/năm.
Ngoài ra, những DV này còn tìm kiếm đối tác là những nhân viên tín
dụng của các NH để mua lại thông tin khách hàng đang có những
khoản nợ xấu ở NH với giá từ 6.000 - 8.000 đồng/hồ sơ. Giám đốc xét
duyệt hồ sơ tín dụng cá nhân một NHCP tại TP.HCM khẳng định không
thể nào xóa được nợ xấu trên hệ thống CIC. Thực chất, những người
triển khai DV này muốn tiếp cận những khách hàng đang bị nợ xấu từ
đó cho họ vay để trả nợ với LS cao. Sau đó, cấu kết với cán bộ tín dụng
ở NH cho khách hàng vay một khoản khác cao hơn để lấy phí từ 5%.
Các NH vừa qua triển khai phê duyệt hồ sơ tín dụng tập trung nên
4
những DV này cũng khó “sống”. Tuy nhiên ở nước ngoài, DV này được
NH công nhận, đặc biệt ở Mỹ đã triển khai khi tình hình KT khó khăn.
Trong trường hợp khách hàng trả nợ cho NH gặp khó khăn, bị áp lực, có
thể thương lượng với một NH khác mua lại khoản nợ này, khách hàng
sẽ trả lãi cao hơn nhưng được giãn thời gian vay, mức đóng hằng tháng
cũng thấp hơn. Ông Cao Văn Bình, PTGĐ CIC, cho biết theo quy định,
lịch sử tín dụng của khách hàng sẽ được lưu trên hệ thống trong vòng 5
năm. Chính vì vậy những DV xóa nợ xấu là hoàn toàn bịa đặt. CIC chỉ
có thể sửa thông tin tín dụng của khách hàng trong trường hợp NH cung
cấp thông tin sai sót kỹ thuật như nhầm ngày trả nợ, chuyển nhầm
nhóm nợ của khách hàng từ nợ chú ý sang thành nợ xấu... Công văn đề
nghị chỉnh sửa thông tin này gửi cho CIC phải do tổng giám đốc của NH
ký. Hơn nữa, dữ liệu thông tin tín dụng của khách hàng chỉ được CIC
cung cấp cho các TCTD, hoặc chính khách hàng đó, chứ CIC không
cung cấp cho một đơn vị khác hoặc một cá nhân khác.
Tín dụng là “điểm nghẽn” của thị
trường bất động sản năm 2019?
Ông Lê Hoàng Châu, Chủ tịch Hiệp hội BĐS TP.HCM cho rằng, việc
giảm bớt dần sự phụ thuộc vào nguồn vốn tín dụng NH là cần thiết.
Theo đó, các DN cần chủ động tiếp cận các nguồn vốn khác ngoài
nguồn vốn tín dụng NH, nâng cao hiệu quả KD, năng lực tài chính,
quan tâm các phân khúc nhà ở có tính thanh khoản cao, bền vững,
tham gia các chương trình phát triển nhà ở theo chủ trương của Chính
phủ. Về nguồn vốn cho thị trường BĐS, TS.Nguyễn Trí Hiếu, chuyên gia
về TC - NH, nhận định thị trường vốn của VN vẫn yếu. Chúng ta phải
dựa vào những nguồn vốn đa dạng của NĐT, quỹ đầu tư, đầu tư nước
ngoài… Nếu thị trường BĐS chỉ dựa vào nguồn vốn như hiện tại là rủi
ro cho NH, cho tài chính, cho nền KT VN. Theo TS.Hiếu, người thu
nhập thấp mà không được hỗ trợ LS khi mua nhà sẽ khiến tình hình trở
nên khó khăn. Ở VN, vay NHTM mua 1 căn hộ hơn 1 tỷ đồng (vay NH
#70%) tháng đầu trả gốc và lãi là 10,4 triệu đồng. Với một gia đình hai
vợ chồng đi làm, có lẽ phải có thu nhập ít nhất gấp đôi số tiền phải trả
nợ. Bao nhiêu người ở Hà Nội và TP.HCM có thu nhập >20 triệu
đồng/tháng? Nếu không hỗ trợ LS cho người thu nhập thấp, việc đối
tượng này có nhà là điều khó. TS.Cấn Văn Lực - Chuyên gia KT trưởng
BIDV, Thành viên Hội đồng tư vấn Chính sách Tài chính – Tiền tệ Quốc
gia cho biết, dư nợ cho vay của NH vào thị trường BĐS 5 năm gần đây
không hề giảm, dù tăng không nhanh như mức tăng tín dụng của toàn
5
nền KT. Do đó, Chính phủ và NHNN đã yêu cầu phải kiểm soát rủi ro.
Ngoài ra, thị trường BĐS đang tồn tại những hạn chế, tài chính BĐS
như quỹ tiết kiệm nhà ở không phát triển được chủ yếu do thiếu cơ chế,
cách làm chưa phù hợp với thị trường… là những rào cả khiến cho thị
trường tài chính nhà ở chưa thể phát triển, TS Lực phân tích thêm.
6
Infographic: Quan hệ đối tác
chiến lược toàn diện Việt Nam và
Liên bang Nga
Việt Nam dự kiến thu hút FDI
nhiều nhất khu vực APEC
PwC mới đây đã thực hiện cuộc khảo sát trước thềm Hội nghị Thượng
đỉnh DN APEC diễn ra tuần này tại Port Moresby, thủ đô của Papua
New Guinea. Kết quả khảo sát cho thấy, các nhà lãnh đạo DN ở Mỹ và
Thái Lan thuộc nhóm lạc quan nhất, với 57% người trả lời ở Mỹ và 56%
ở Thái Lan cho biết họ "rất tự tin" về khả năng tăng trưởng doanh thu.
Trong khi những người trả lời ở TQ và Mexico - 2 đối tác thương mại lớn
nhất ở Mỹ - cho thấy mức độ lạc quan ở dưới mức trung bình là 25% và
21%. Riêng tại VN, 33% số người được khảo sát ở VN cho biết họ rất tự
Kinh tế Việt Nam
7
tin về triển vọng tăng trưởng ngắn hạn của công ty họ, và 48% khác trả
lời là khá tự tin. Thương mại quốc tế có khả năng tiếp tục là nguồn tăng
trưởng cho các DN VN: 40% kỳ vọng tăng cơ hội doanh thu nhờ vào các
hiệp định thương mại song phương mới và 34% dự báo cơ hội phát sinh
từ các hiệp định đa phương mới. Kết quả khảo sát cũng cho thấy, 51%
lãnh đạo DN trong KV APEC đang có kế hoạch nâng mức đầu tư, cao
hơn tỷ lệ 43% cách đây hai năm. Những điểm đến dự kiến thu hút đầu
tư nước ngoài nhiều nhất trong KV APEC sẽ là VN, TQ, Mỹ, Australia
và Thái Lan. Trong đó VN giữ vị trí hàng đầu năm thứ hai liên tiếp.
WB chỉ ra quan điểm sai lầm về
doanh nghiệp tăng trưởng cao
Nghiên cứu của WB chỉ ra các DN tăng trưởng cao ở các nền KT mới
nổi tạo ra hơn 50% tổng số việc làm và doanh thu mới mặc dù chỉ
chiếm chưa tới 20% tổng số DN chế tạo và dịch vụ. Những DN này tạo
ra hiệu ứng domino cho nền KT khi làm gia tăng nhu cầu hoặc mang lại
khả năng tiếp cận tốt hơn với các yếu tố đầu vào cho các DN khác. Tuy
nhiên, KT trưởng Worlb Bank (WB) Denis Medvedev cho biết nghiên
cứu chỉ ra quan điểm thường gặp về các DN tăng trưởng nhanh là sai
lầm. Quan điểm chung về một DN tăng trưởng mạnh là DN khởi nghiệp
nhỏ trong ngành công nghệ cao, sau đó tăng trưởng nhanh trong một
thời gian nhờ một số đặc điểm riêng của DN đó như công nghệ mới,
marketing hiệu quả cao, hoặc nhân viên tài năng. Nếu vậy, chính sách
trong trường hợp này sẽ tự nhiên hướng đến việc tìm ra xem DN nào có
tiềm năng tăng trưởng mạnh, sau đó tạo điều kiện cho DN này tiếp cận
vốn, kỹ thuật để khai thác tiềm năng đó. Thực tế, theo chuyên gia WB,
các DN HGF có tuổi đời trẻ hơn mức trung bình nhưng hầu hết các DN
đều có lịch sử hoạt động một số năm trước khi đi vào quỹ đạo tăng
trưởng. DN tăng trưởng nhất thiết là DN nhỏ. Nhiều DN có quy mô trung
bình trước khi bước vào thời kỳ tăng trưởng nhanh. Quy mô trung bình
DN HGF dao động từ 4% tới lớn gấp 6 lần DN trung bình sau 3 năm
tăng trưởng nhanh. Các DN HGF cũng không nhất thiết là ngành công
nghệ cao. Các DN tăng HGF hoạt động tại nhiều địa bàn khác nhau.
Tuy nhiên, báo cáo cho hay, hạ tầng là yếu tố quan trọng tại điều kiện
tăng trưởng nhanh. Mặt khác, chuyên gia WB nhấn mạnh một DN dù
đang tăng trưởng cao cũng không có nghĩa là đảm bảo nó sẽ tiếp tục
tăng trưởng ở thời kỳ sau đó. Bằng chứng chỉ ra rằng hầu hết các HGF
cũng chỉ là "điều kỳ diệu một lần". 50% DN tăng trưởng cao trong 3
năm sẽ thoái lui hoàn toàn khỏi thị trường khoảng 3 – 6 năm sau đó và
8
chưa đến 15% DN HGF tiếp tục tăng trưởng cao. Theo đó, theo chuyên
gia WB, quá trình tăng trưởng của DN có tính chất ngắn hạn và nhất
thời. Có thể giai đoạn tăng trưởng nhanh chỉ là điều mà một số DN có
thể thực hiện được một lúc nào đó trong vòng đời của mình. Vì vậy, WB
cho rằng việc hướng đến mục tiêu đầu tư cho một vài DN có tiềm năng,
có thể là bất khả thi và không nên cố gắng thực hiện.
9
Standard Chartered: Tăng trưởng
sẽ vừa phải với lạm phát hạn chế
NH Standard Chartered vừa công bố Báo cáo triển vọng thị trường toàn
cầu tháng 11/2018, trong đó tiếp tục giữ nhận định kịch bản chính là
tăng trưởng toàn cầu sẽ mạnh vừa phải với lạm phát hạn chế. Cụ thể,
Standard Chartered tiếp tục đánh giá xác suất 65% đối với triển vọng
tăng trưởng toàn cầu mạnh vừa phải với mức lạm phát hạn chế diễn ra
trong 12 tháng tới, trong đó Mỹ tiếp tục dẫn đầu về tăng trưởng trong
nhóm thị trường phát triển nhờ chính sách cắt giảm thuế năm ngoái.
Tuy nhiên, báo cáo ghi nhận căng thẳng thương mại leo thang đã bắt
đầu ảnh hưởng đến tăng trưởng, đặc biệt là ở các nền KT phụ thuộc
vào XK như châu Âu, Nhật Bản, TQ và các nước khác. Rủi ro thương
mại cũng làm chậm kế hoạch đầu tư KD của DN Mỹ. “Chúng tôi nhận
thấy khả năng nới lỏng tài khóa ngày càng tăng lên ở châu Âu, với Italia
dẫn đầu, trong bối cảnh chủ nghĩa dân túy gia tăng. TQ có khả năng
đẩy mạnh các biện pháp nới lỏng tài khóa, bao gồm cắt giảm thuế để
hỗ trợ tăng trưởng. Trong khi đó kết quả cuộc bầu cử của Brazil có thể
là yếu tố tích cực cho cải cách tài khóa”, báo cáo nhận định. Rủi ro
chính có thể khiến tăng trưởng toàn cầu sụt giảm đến từ các yếu tố như
căng thẳng Mỹ-Trung Quốc tiếp tục leo thang; điều kiện thanh khoản thị
trường chặt chẽ hơn; và lạm phát của Mỹ cao hơn dự kiến. Về triển
vọng chính sách, Standard Chartered dự báo Fed sẽ tăng LS thêm 1
lần trong 2018 và 3 lần vào 2019; ECB tăng một lần vào Q.IV/2019 và
có xác suất châu Âu nới lỏng tài khóa. Trong khi đó, NHTW Nhật Bản
(BoJ) sẽ tiếp tục giữ nguyên chính sách và TQ có thể nới lỏng để hỗ trợ
tăng trưởng. Về chiến lược đầu tư, Standard Chartered cho rằng trong
ngắn hạn, các NĐT có thể phần nào quay trở lại CK Mỹ khi giá trị thị
trường đã điều chỉnh xuống mức hấp dẫn hơn và nhiều khả năng CK
Mỹ sẽ vượt trội hơn các TTCK khác trong vòng 12 tháng tới.
Giới chuyên gia dự báo nguy cơ
kinh tế Mỹ suy thoái từ 2019
Các chuyên gia KT cảnh báo nền KT Mỹ sẽ bắt đầu “hụt hơi” từ giữa
năm 2019 và có thể rơi vào suy thoái trong năm 2020, thời điểm Mỹ tiến
hành cuộc bầu cử tổng thống. Washington Post cho biết, >30% số các
chuyên gia KT hàng đầu được hỏi dự đoán rằng KT Mỹ sẽ bắt đầu suy
Kinh tế Quốc tế
10
thoái vào năm 2020. Có rất nhiều nguyên nhân cản trở sự phát triển
nền KT Mỹ, như chi phí vay mượn cao, đồng USD mạnh, nền KT toàn
cầu suy yếu, cuộc chiến thuế quan leo thang và những chương trình
kích thích tài chính như cắt giảm thuế không còn phát huy tác dụng
thúc đẩy sự bùng nổ trong đầu tư KD. Trong khi đó, thị trường nhà đất
cũng chậm lại với số lượng người mua ít đi, cùng với việc Chính phủ
tăng chi tiêu. Hiện giới DN và các NĐT Phố Wall mong muốn chính
quyền Tổng thống Trump đưa ra một giải pháp nhanh chóng cho cuộc
chiến thương mại với TQ, và một dự luật về cơ sở hạ tầng nhằm thu hút
thêm nguồn vốn để thúc đẩy nền KT vào cuối năm nay, đồng thời hy
vọng về những lực đẩy cho nền KT trong năm 2019. Các nhà phân tích
cho rằng KT thường đóng một vai trò quan trọng trong các cuộc bầu cử
ở Mỹ. Nền KT Mỹ “lột xác” ngoạn mục với những thành tựu nổi bật, như
tăng trưởng ổn định, tỷ lệ thất nghiệp đạt mức thấp nhất trong gần 50
năm qua, BQ GDP 3,5% trong Q.III năm 2018, tạo thêm nhiều việc
làm cho người dân, tiền lương của người lao động tăng và TTCK cũng
tăng trong bối cảnh lợi nhuận của các công ty tăng vọt. Tuy nhiên,
thành tích đó cũng chỉ giúp đảng Cộng hòa của Tổng thống Trump duy
trì kiểm soát Thượng viện. Chính vì vậy, Tổng thống Trump sẽ gặp khó
khăn hơn rất nhiều trong cuộc tái tranh cử vào Nhà Trắng năm 2020.
Lợi suất trái phiếu chính phủ Mỹ
đã quá cao để dẫn tới bất ổn?
Lợi suất trái phiếu Mỹ vẫn đang tiếp diễn xu hướng tăng lên, khởi động
từ cuối năm 2016 khi Donald Trump đắc cử tổng thống Mỹ. Trong tháng
trước, lợi suất Trái phiếu kho bạc Mỹ kỳ hạn 10 năm đã vượt mức 3%
lần đầu tiên kể từ giữa năm 2011. Với các kỳ hạn khác, mức lợi suất
cũng có diễn biến tương tự. Khác với những năm trước, lợi suất trái
phiếu trong khoảng 2 năm gần đây dường như trong xu hướng đi lên
một cách vững chắc mà gần như không xuất hiện sự điều chỉnh đáng
kể nào. Sự bán tháo mạnh mẽ các trái phiếu kỳ hạn dài kể từ sau khi
ông Trump đắc cử tổng thống vào tháng 11/2016 đã khiến các nhà
phân tích đưa ra nhiều lý do tại sao giới đầu tư hoảng loạn dẫn tới việc
lợi suất trái phiếu kho bạc Mỹ kỳ hạn 10 năm lần đầu tiên vượt 3% kể từ
2011. Nhiều nhà phân tích lo ngại lợi suất trái phiếu đang ở mức quá
cao và gây bất ổn cho nền KT. Nhưng một số chuyên gia cho rằng, đà
bán tháo các trái phiếu dài hạn chỉ vừa mới bắt đầu. Bill Gross, một
trong những nhà đầu tư trái phiếu nổi tiếng nhất thế giới, tin rằng giá trái
phiếu dài hạn sẽ còn chứng kiến sự sụt giảm mạnh trong thời gian tới.
11
Alan Greenspan và Paul Volcker, hai vị cựu chủ tịch Fed, dường như
cũng đồng ý với quan điểm này. Thời điểm hiện tại, Fed vẫn đang rất
lạc quan về lộ trình tăng LS của mình. Cơ quan này dự kiến sẽ có thêm
một lần tăng lãi suất trong hai tháng cuối năm 2018 và tiếp tục thực
hiện 3 lần nữa vào năm 2019. Fed cũng bỏ ngỏ thời điểm chấm dứt các
chính sách thắt chặt tiền tệ trong tương lai. Nền kinh tế Mỹ vẫn đang
diễn biến rất tốt và quá trình tăng LS tương đối chậm chạp, đủ để thị
trường hấp thụ hết và miễn dịch với các tác động của mỗi lần. Xét trong
dài hạn, cuộc Đại khủng hoảng tài chính 2008 cũng vừa kết thúc chưa
được 1 thập kỷ, nhiều chuyên gia nhận định lợi suất trái phiếu mới chỉ
vừa bắt đầu một quá trình siêu tăng trưởng mới của nó.
Trung Quốc có nguy cơ xảy ra
làn sóng vỡ nợ
Ngân hàng Nomura (Nhật Bản) cho biết, trong 10th/2018, quy mô số vụ
vỡ nợ trái phiếu quốc tế phát hành bằng USD (OCDB) của DN TQ đã lên
tổng cộng 3,4 tỷ USD. Trong khi năm 2017, con số này là 0. Trong hai
năm tới, họ dự báo số vụ vỡ nợ sẽ còn nhiều hơn nữa. Đến nay, khả
năng việc này châm ngòi cho một cuộc khủng hoảng lớn hơn là rất
thấp. Tuy nhiên, giới chuyên gia cho biết vẫn cần theo dõi sát để ngăn
rủi ro lan truyền. "Tôi đang quan sát xem liệu các khoản nợ bằng USD
này sẽ được giải quyết thế nào", Tai Hui - chiến lược gia thị trường KV
châu Á - TBD tại J.P. Morgan Asset Management cho biết. Hiện tại, ông
không nhận thấy có rủi ro hệ thống. Tuy nhiên, các rắc rối tài chính
thường bắt đầu ở một mảng, rồi mới lan truyền. Ông cho rằng Chính
phủ TQ cần rất thận trọng với các mối liên quan này. Trong đó, BĐS là
lĩnh vực cần quan tâm nhiều nhất. Trong báo cáo, Nomura ước tính
Q.III, tổng giá trị số TPDN TQ phát hành bằng USD đang lưu hành là
751 tỷ USD - gấp đôi cuối năm 2015. Tính trung bình từ Q.IV/2018 đến
hết năm 2020, mỗi quý, khoảng 33,3 tỷ USD trái phiếu loại này sẽ đáo
hạn, cao gấp 3 Q.III. Số vụ vỡ nợ OCDB của TQ cũng đang tăng lên
trong Q.IV, Nomura cho biết. Dù số vụ vỡ nợ giảm đi vào mùa hè,
OCDB đang chịu sức ép trở lại, do nhu cầu nội địa yếu, rủi ro tín dụng
tăng, đồng CNY mất giá và Fed nâng LS. Các công ty TQ có thể phát
hành trái phiếu bằng CNY, hoặc USD và các ngoại tệ khác. Tuy nhiên,
ngoại tệ cũng kéo theo nhiều rủi ro nếu không có biện pháp phòng trừ
biến động tỷ giá. Năm nay, CNY đã >6% so với USD. Việc này sẽ
khiến các DN TQ khó khăn hơn khi trả nợ bằng USD. Một số nhà phân
tích đã dự báo CNY tiếp tục yếu đi. CNY yếu giúp tăng XK, nhưng lại
12
khiến các công ty tốn kém thêm khi NK nguyên liệu thô. Hồi Q.III, TQ
chỉ 6,5% - thấp nhất kể từ đầu năm 2009. Họ trở thành nền KT lớn nhì
thế giới nhờ mô hình tăng trưởng dựa trên tín dụng. Việc này đã khiến
khối nợ của TQ hiện #250% GDP…
Nền kinh tế internet Đông Nam Á
đạt 72 tỷ USD trong năm 2018
Tổng giá trị hàng hóa (GMV) của nền KT internet Đông Nam Á đạt 72 tỷ
USD vào năm 2018, 37% so với 2017, theo nghiên cứu chung của
Google và quỹ đầu tư Temasek của Singapore. Báo cáo mới nhất bao
gồm mảng ứng dụng gọi xe, thương mại điện tử, du lịch và truyền thông
trực tuyến cùng các lĩnh vực mới như giao đồ ăn, cũng như đăng ký
nghe nhạc và xem phim trên mạng. Các công ty thương mại điện tử như
Lazada, Shopee và Tokopedia của Indonesia đóng vai trò chính trong
việc phát triển ngành. Con số này dự kiến vượt 240 tỷ USD vào năm
2025. Riêng GMV của thương mại điện tử sẽ vượt 23 tỷ USD vào năm
2018 và tăng lên 100 tỷ USD vào năm 2025, nhờ niềm tin của người
tiêu dùng tăng. Nghiên cứu này bao gồm 6 nền kinh tế lớn nhất khu vực
- Việt Nam, Thái Lan, Singapore, Philippines Indonesia và Malaysia.
GMV của Indonesia được dự báo tăng lên 100 tỷ USD vào năm 2025,
chiếm 4 trong 10 USD chi tiêu trong KV. Cả Google và Temasek đều
đầu tư vào ứng dụng gọi xe Go-Jek của Indonesia. Vertex Ventures do
Temasek góp vốn là một nhà đầu tư đầu ở Grab. 2018 cũng đang trên
đà trở thành năm gây quỹ kỷ lục cho các công ty trong ngành, với 9,1 tỷ
USD vốn trong 6 tháng đầu, gần bằng cả năm 2017.
Kinh tế Thái Lan tăng trưởng
kém nhất kể từ năm 2014
Tăng trưởng KT Thái Lan bất ngờ chững lại trong Q.III, với XK và du lịch
đều không đạt kỳ vọng. Cơ quan hoạch định quốc gia Thái Lan cũng ít
lạc quan hơn về tăng trưởng cả năm 2018. Tăng trưởng GDP của Thái
Lan trong Q.III là 3,3% so với cùng kỳ 2017, thấp hơn con số dự báo
4,2% trong khảo sát của Reuters. Tăng trưởng GDP Q.II là 4,6%. Theo
UBKTQG và Phát triển XH (NESDB), sau khi điều chỉnh theo yếu tố mùa
vụ, GDP Q.III không có tăng trưởng so với Q.II. Đây là kết quả tệ nhất
kể từ Q.I/2014, khi KT Thái Lan 0,4%. Cơ quan hoạch định quốc gia
Thái Lan hôm nay cũng hạ dự báo tăng trưởng GDP 2018 từ 4,2 – 4,7%
xuống 4,2%, kỳ vọng XK 7,2% thay vì 10% như trước đó. Tăng trưởng
GDP 2019 dự báo ở 3,5 – 4,5%. Capital Economics nhận định tăng
trưởng của Thái Lan “khó phục hồi nhiều trong năm sau” và đưa ra con
số dự báo 3,5%. Thái Lan, nền KT lớn thứ 2 Đông Nam Á, phụ thuộc
13
nhiều vào nhu cầu từ bên ngoài. KT nước này tăng trưởng tốt hồi đầu
năm dù XK chững lại và du lịch bị ảnh hưởng bởi vụ đắm tàu làm 47 du
khách TQ thiệt mạng trong tháng 7. XK của Thái Lan sang TQ, thị
trường lớn thứ 2, 14% trong tháng 9 so với cùng kỳ 2017.
14
Tài liệu tham khảo:
Bảng chỉ số https://www.hsx.vn/Modules/Cms/Web/ViewArticle/b6d10da6-7c26-40d8-b720-20e298a4ed06
https://hnx.vn/
https://www.bloomberg.com/markets/stocks
http://www.sjc.com.vn/
https://goldprice.org/vi/index.html
https://www.sbv.gov.vn/webcenter/portal/vi/menu/rm/tg?_afrLoop=515501331129000
Tin Tài chính - NH https://bizlive.vn/dia-oc/tin-dung-la-diem-nghen-cua-thi-truong-bat-dong-san-nam-2019-
3480435.html
https://bizlive.vn/tai-chinh/cho-vay-nang-lai-nup-bong-dich-vu-xoa-no-xau-3480466.html
https://bizlive.vn/tai-chinh/siet-ty-le-von-ngan-han-cho-vay-trung-dai-han-khong-de-dung-cho-vay-
dot-ngot-3480447.html
http://cafef.vn/noi-room-ngoai-van-can-than-trong-20181119103746205.chn
Tin KT vĩ mô http://ndh.vn/infographic-quan-he-doi-tac-chien-luoc-toan-dien-viet-nam-va-lien-bang-nga-
20181119025247622p145c151.news
http://cafef.vn/viet-nam-du-kien-thu-hut-fdi-nhieu-nhat-khu-vuc-apec-20181119100821065.chn
https://www.stockbiz.vn/News/2018/11/20/855417/wb-chi-ra-quan-diem-sai-lam-ve-doanh-nghiep-
tang-truong-cao.aspx
Tin KT Quốc tế http://thoibaonganhang.vn/standard-chartered-tang-truong-se-vua-phai-voi-lam-phat-han-che-
82226.html
https://vietnambiz.vn/gioi-chuyen-gia-du-bao-nguy-co-kinh-te-my-suy-thoai-tu-2019-110808.html
https://vietnambiz.vn/trung-quoc-co-nguy-co-xay-ra-lan-song-vo-no-110836.html
http://ndh.vn/kinh-te-thai-lan-tang-truong-kem-nhat-ke-tu-nam-2014-
2018111903554691p145c151.news
http://ndh.vn/nen-kinh-te-internet-dong-nam-a-dat-72-ty-usd-trong-nam-2018-
20181119114633152p6c97.news
http://cafef.vn/loi-suat-trai-phieu-chinh-phu-my-da-qua-cao-de-dan-toi-bat-on-
20181117104616954.chn
15
Danh mục viết tắt
Bảo hiểm tiền gửi BHTG Lãi suất LS
Bảo hiểm y tế BHYT Liên ngân hàng LNH
Bảo hiểm thất nghiệp BHTN Lợi nhuận trước thuế LNTT
Bảo hiểm xã hội BHXH Lợi nhuận sau thuế LNST
Bảo hiểm nhân thọ BHNT Mua bán, sáp nhập M&A
Bất động sản BĐS Ngân hàng NH
Chi nhánh/phòng giao dịch CN/PGD Ngân hàng trung ương NHTW
Chỉ số giá tiêu dùng CPI Ngân hàng Nhà nước NHNN
Chính sách tiền tệ CSTT Ngân hàng thương mại cổ phần NHTM CP
Cơ sở hạ tầng CSHT Ngân hàng thương mại Nhà nước NHTM NN
Doanh nghiệp nhà nước DNNN Ngân hàng nước ngoài NHNNg
Doanh nghiệp tư nhân DNTN Ngân sách nhà nước NSNN
Doanh nghiệp vừa và nhỏ DNVVN Ngân sách trung ương NSTW
Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài DN FDI Tài chính - ngân hàng TC-NH
Khách hàng doanh nghiệp KHDN Tài sản bảo đảm/ Tài sản đảm bảo TSBĐ/ TSĐB
Khách hàng cá nhân KHCN Tăng trưởng tín dụng TTTD
Dự trữ bắt buộc DTBB Tổ chức tín dụng TCTD
Nhà đầu tư nước ngoài/ Nhà đầu tư NĐTNN/ NĐT Tổng tài sản TTS
Đầu tư trực tiếp nước ngoài FDI Tổng sản phẩm quốc nội GDP
Giấy chứng nhận GCN Việt Nam VN
Giá trị gia tăng GTGT Trung Quốc TQ
Thu nhập cá nhân/ Thu nhập doanh nghiệp TNCN/ TNDN Trái phiếu Chính phủ TPCP
Kinh tế vĩ mô KTVM Trái phiếu doanh nghiệp TPDN
Kinh tế KT Thị trường chứng khoán/ Chứng khoán TTCK/ CK
Xã hội XH Vốn điều lệ VĐL
Khu vực KV Vốn tự có VTC
Thế giới TG Xuất nhập khẩu/ Xuất khẩu/ Nhập khẩu XNK/ XK/ NK
Kho bạc Nhà nước KBNN Sản xuất kinh doanh SXKD
Ủy ban Giám sát tài chính quốc gia UBGSTCQT Dịch vụ DV
Cục dự trữ liên bang Mỹ FED Hiệp hội Chế biến và XK thuỷ sản VN VASEP
Quỹ Tiền tệ Quốc tế IMF Hiệp hội Lương thực VN VFA
Ngân hàng Thế giới (World Bank) WB Hiệp hội Cà phê - Ca cao VN VICOFA
Ngân hàng Phát triển châu Á ADB Hiệp hội Thép VN VSA
Ngân hàng trung ương châu Âu ECB Sở Giao dịch Chứng khoán Hà Nội HNX
Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á ASEAN Sở Giao dịch Chứng khoán Tp.HCM HOSE
Khu vực sử dụng đồng Euro EUROZONE Tổ chức Nông Lương Liên Hợp Quốc FAO
Liên minh châu Âu EU Tổng cục thống kê GSO (TCTK)