Upload
others
View
3
Download
0
Embed Size (px)
Citation preview
KIẾN GIẢI CHỨNG ĐẠO CA: “VÔ TRỤ NIẾT BÀN VÀ MA HA BÁT NHÔ
________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________
Thiền Sư HUYỀN GIÁC--Trang | 1 --Kiến Giải: NGỘ THÂM
LỜI TỰA
Bài Thơ “Chứng Đạo Ca” của Thiền Sư Huyền Giác dài 266 câu,
người viết trích ra phần “Vô Trụ Niết Bàn” chỉ có 26 câu. Vì theo ngụ ý của
người viết thì đây là phần cốt tủy. Tuy nhiên trong khi diễn giải người viết cố
dùng nội dung của toàn bài Chứng Đạo Ca và có thêm những bài kệ rốt ráo
của Tổ và Thiền Sư khác để làm sáng tỏ thêm ý nghĩa. Người viết chỉ là một
“Học Kiếm” vụng về tuy “mượn” những tuyệt chiêu trong Thiền Kiếm của
Phật, Tổ và Thiền Sư để soi Tâm, nhưng còn quá chậm chạp vì phải “học đồ”
theo từng “Dấu Chân” và “Nét Kiếm” của các Ngài…nhân tiện trình bày cái
Kiến Giải thô thiển mong đón nhận lời chỉ giáo của Thiền Lữ bốn phương để
học thêm Kiếm Đạo.
“Gặp tay Kiếm Khách âu trình kiếm
Chẳng phải Thi Nhân chớ tặng thi”.
(Mục Châu Trần Tôn Túc).
Tuyệt chiêu như Lương Võ Đế : tay Kiếm Khách lừng danh từng xây
dựng cả ngàn ngôi chùa, ra “chiếu chỉ” cho muôn dân hiển Đạo thờ Phật, y
kinh tu hành, mặc cà sa giảng kinh Phóng Quang Bát Nhã cho Chư Tăng và
Quan Lại trong Triều, còn có biệt danh là Phật Tâm Thiên Tử, thế mà phải rơi
Kiếm “chết đứng” trước lưỡi Kiếm “Vô” sắc bén của Sơ Tổ Bồ Đề Đạt Ma.
Rồi Kiếm Sĩ Thần Quang, văn võ song toàn, Khổng Lão tinh thông, thế mà
phải dùng kiếm đời chặt đứt cánh tay để cầu học cái Kiếm Đạo“Bí Truyền”của
Tổ Đạt Ma và trở thành Nhị Tổ của Thiền Tông Trung Hoa.
“Bờ bên kia có Thích Ca vung Kiếm
Chém Vô Minh dứt điểm cửa Luân Hồi
Gươm Trí Tuệ sáng ngời soi nẻo tối
Giáo Từ Bi vang dội cõi hằng sa”.
Từ khi Phật Thích Ca vung “Kiếm Tuệ” chém đứt Vô Minh đạt
“Chánh Đẳng Chánh Giác”cứu biết bao chúng sanh mê muội hụp lặn trong
biển khổ Luân Hồi. Rồi chỉ một đường Kiếm tuyệt vời “Niêm Hoa Vi Tiếu”
trao cho Tổ Ca Diếp ở Pháp hội Linh Sơn, truyền qua 28 đời Tổ Sư ở Tây
Thiên, giúp cho ngàn đời sau chúng sanh được hưởng cái ân huệ vô giá nầy:
“Bờ bên kia có Ma Ha Ca Diếp
Một sát na Tâm nhiếp cả Đạo mầu
“Niêm Hoa Vi Tiếu”, vạn Pháp gồm thâu
Kinh Vô Tự, một bầu Chân Không rộng”.
Nhờ Tổ Đạt Ma vượt biển đến Trung Hoa khai thị cho Kiếm Sĩ Lương
Võ Đế, nhưng thất bại .Tổ phải về Thiếu Lâm Tự ( nước Ngụy) ngồi diện bích
(úp mặt vào vách đá) suốt chín năm đợi Kiếm Khách Giang Hồ thứ thiệt đến
để trao truyền ‘‘Bát Nhã Kiếm”!
KIẾN GIẢI CHỨNG ĐẠO CA: “VÔ TRỤ NIẾT BÀN VÀ MA HA BÁT NHÔ
________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________
Thiền Sư HUYỀN GIÁC--Trang | 2 --Kiến Giải: NGỘ THÂM
“Bờ bên kia có Đạt Ma vượt sóng
Mở Đạo Thiền, rải giống, cấy ruộng Tâm
Chín năm ngồi diện bích cửa Thiếu Lâm
Chờ Tri Kỷ trao ngầm Viên Ngọc quý”.
Cũng may có Kiếm Sĩ Thần Quang đến kịp lúc để Tổ truyền lại
“Thiền Kiếm”, bởi vì thế gian đố kỵ bỏ thuốc độc hại Tổ đến 5 lần, Thần
Quang tức Huệ Khả là Nhị Tổ nhận Y Bát của Tổ, thế là hạt giống Thiền “nẩy
mầm” trên đất Trung Hoa. Mọi việc đều xong, thì bị bỏ thuốc độc lần thứ sáu,
lần nầy Tổ mới chịu viên tịch, nhưng còn để lại một chiếc giày cho hậu thế !
“Bờ bên kia có Thần Quang đoạn tý
Cầu Đạt Ma, chẳng phí cánh tay gầy
Ôm chí cả ướp đầy, chan máu tuyết
Tìm cái Tâm siêu việt, tuyệt nhiễm ô”.
Rồi cho đến Lục Tổ Huệ Năng thì Thiền Tông đã sáng chói trên đất
nước Trung Hoa và tràn lan sang các quốc gia khác.
“Bờ bên kia có Huệ Năng Lục Tổ
Bổn lai hề vô nhất vật tri âm
Vô niệm hề vô vô niệm Chân Tâm
Sanh muôn pháp chẳng lầm nơi Tự Tánh”.
Và Thiền Sư Huyền Giác với “Chứng Đạo Ca” cùng một thời với
Lục Tổ Huệ Năng là những vị Tổ và Thiền Sư ngoại hạng của Thiền Tông
Trung Hoa, thay thế Phật phổ độ chúng sanh.
“Bờ bên kia có Vĩnh Gia Huyền Giác
Chứng Đạo Ca, lời giác, liễu từng câu
Chứng ‘‘Thật Tướng’’, vô nhân pháp nhiệm mầu
Diệt khước A Tỳ Nghiệp, sát na thâu”.
Những lời khai thị trong Chứng Đạo Ca quý giá vô cùng, nói lên kinh
nghiệm “Chứng Đạo” chỉ cái “Bí Quyết” trong Kiếm Đạo cho hậu thế: những
Kiếm Khách hậu sinh luyện “Bát Nhã Kiếm”, mài Gươm chém Trăng, chặt
đứt Vô Minh, phá nát sinh tử, quyết đi con đường của Phật Thích Ca :
“Đại Trượng Phu bỉnh Tuệ Kiếm
Bát Nhã phong hề Kim Cang diệm.
Phi đản năng thôi, ngoại đạo Tâm
Tảo tằng lạc khước Thiên Ma đảm”
Kiến Giải này có 5 phần (Mục Lục ở cuối trang), Thiền Khách hay bất
cứ ai không phân biệt Tôn Giáo tiện việc tham cứu, và xin hãy hiểu cho: dù
sao đây cũng chỉ là Kiến Giải! Trước khi đọc xin tham cứu kỹ hai câu thơ
trong Bích Nham Lục:
“Rõ ràng trên giấy Trương Công Tử
Tận lực to lời, gọi chẳng ừ”. - Nay Kính -
KIẾN GIẢI CHỨNG ĐẠO CA: “VÔ TRỤ NIẾT BÀN VÀ MA HA BÁT NHÔ
________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________
Thiền Sư HUYỀN GIÁC--Trang | 3 --Kiến Giải: NGỘ THÂM
KIẾN GIẢI CHỨNG ĐẠO CA:
“VÔ TRỤ NIẾT BÀN VÀ MA HA BÁT NHÔ
(Thiền Sư HUYỀN GIÁC)
(Kiến Giải: NGỘ THÂM)
“Tuyết Sơn Phì Nhị cánh vô tạp
Thuần xuất Đề Hồ ngã thường nạp
Nhất Tánh viên thông nhất thiết Tánh
Nhất Pháp biến hàm nhất thiết Pháp
Nhất Nguyệt phổ hiện nhất thiết thủy
Nhất thiết thủy Nguyệt nhất Nguyệt nhiếp
Chư Phật Pháp Thân nhập ngã Tánh
Ngã Tánh đồng cộng Như Lai hiệp.
Nhất Địa cụ túc nhất thiết Địa
Phi Sắc, phi Tâm, phi Hạnh Nghiệp
Đàn chỉ viên thành bát vạn môn
Sát na diệt khước tam kỳ kiếp
Nhất thiết số cú phi số cú
Dữ ngô linh giác hà giao thiệp?
Bất khả hủy, bất khả tán,
Thể nhược Hư Không vô nhai ngạn
Bất ly đương xứ thường trạm nhiên
Mịch tức tri quân bất khả kiến.
Thủ bất đắc, xả bất đắc,
Bất khả đắc trung chỉ ma đắc,
Mặc thời thuyết, thuyết thời mặc,
Đại thí môn khai vô ủng tắc.
Hữu nhân vấn ngã giải hà tông,
Báo đạo: Ma Ha Bát Nhã lực
Hoặc thị hoặc phi nhân bất thức
Nghịch hành thuận hành thiên mạc trắc”.
KIẾN GIẢI CHỨNG ĐẠO CA: “VÔ TRỤ NIẾT BÀN VÀ MA HA BÁT NHÔ
________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________
Thiền Sư HUYỀN GIÁC--Trang | 4 --Kiến Giải: NGỘ THÂM
PHẦN 1
MA HA BÁT NHÃ TRONG “CHỨNG ĐẠO CA”
CỦA THIỀN SƯ HUYỀN GIÁC.
KIẾN GIẢI CHỨNG ĐẠO CA: “VÔ TRỤ NIẾT BÀN VÀ MA HA BÁT NHÔ
________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________
Thiền Sư HUYỀN GIÁC--Trang | 5 --Kiến Giải: NGỘ THÂM
********
“Tuyết Sơn Phì Nhị cánh vô tạp
Thuần xuất Đề Hồ ngã thường nạp”.
(Cỏ Phì Nhị đơm ròng Đỉnh Tuyết
Vị Đề Hồ ta từng nếm biết).
Trong kinh Niết Bàn có lời dụ rằng : Trên đỉnh Tuyết Sơn (dụ cho
Pháp Giới Chư Phật) có loài Thanh Tịnh Ngưu (dụ cho Pháp Thân Chư
Phật ) ăn một thứ cỏ Phì Nhị (dụ cho Thiền Duyệt ) sinh ra một loại sữa Đề
Hồ (dụ cho Thực Pháp). Ai ăn thứ Đề Hồ ấy thì thành Phật chứng Niết Bàn.
Phật pháp là thứ Đề Hồ mà các Thiền Sư từng nếm qua và chứng Niết Bàn
Diệu Tâm. Niết Bàn Diệu Tâm là một cảnh giới Thường Lạc Ngã Tịnh,
không sinh diệt và dung thông vô ngại : tức là Lý vô ngại Pháp Giới, Sự vô
ngại Pháp Giới, Lý Sự vô ngại Pháp Giới, Sự Sự vô ngại Pháp Giới. Trong
cảnh giới đó, một Tánh dung thông tất cả Tánh, một Pháp chứa đựng tất cả
Pháp.
********
“Nhất Tánh viên thông nhất thiết Tánh
Nhất Pháp biến hàm nhất thiết Pháp”.
(Một Tánh thông suốt tất cả Tánh
Một Pháp chứa đựng tất cả Pháp).
Kinh Hoa Nghiêm có mô tả cái tương dung tương nhiếp của tất cả
Pháp, trong đó một vật như một tấm gương vừa in hình tất cả vật khác và đồng
thời dung chứa tất cả các vật khác :“ Trong một hạt bụi tôi thấy vô số các cõi
Phật, mỗi cảnh giới đều có các Đức Như Lai với hào quang quý báu”.
Thiền Sư Khánh Hỷ cũng diễn tả cái Pháp Giới vô ngại nầy :
“Càn Khôn tận thị mao đầu thượng
Nhật Nguyệt bao hàm giới tử trung”.
Nghĩa là cả tam thiên đại thiên thế giới nhét vào đầu sợi lông ,cả Mặt
Trời, Mặt Trăng nhét vào hạt cải mà tất cả không chướng ngại, vẫn dung
thông vô ngại.
********
“Nhất Nguyệt phổ hiện nhất thiết thủy
Nhất thiết thủy Nguyệt nhất Nguyệt nhiếp”.
(Một Mặt Trăng hiện ra vô số Trăng
Vô số Trăng chỉ do một Mặt Trăng nhiếp).
Một Mặt Trăng chiếu trên mặt nước sông hồ thành vô số Trăng: Một
là tất cả “nhất tất nhất thiết’’.Vô số Trăng thâu nhiếp bởi một Mặt Trăng: Tất
KIẾN GIẢI CHỨNG ĐẠO CA: “VÔ TRỤ NIẾT BÀN VÀ MA HA BÁT NHÔ
________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________
Thiền Sư HUYỀN GIÁC--Trang | 6 --Kiến Giải: NGỘ THÂM
cả là một “nhất thiết tức nhất”. Do đó Rõ được ‘‘Một’’ Mặt Trăng Thật là
thấu “Tất Cả” Trăng. Cũng như Rõ được “Nhất” niệm Chân Như là thấu
suốt mười phương Chư Phật. Rõ được “Nhất” Tâm đạt đến Vô Tâm là Đại
Tâm Đại Ứng thì Pháp Giới lộ toàn thân. Rõ được “Nhất” Pháp chi sở ấn thì
sum la vạn tượng hiện đầy trong Hư Không…
Đó là cái nguyên lý “bất nhị ” và đối với vầng Trăng thanh tịnh là cái
lẽ “Tịch chiếu bất nhị”.Vì rằng Trăng “tịch”, tuy “năng chiếu” thành vô số
Trăng mà vẫn tròn đầy bất động không sinh diệt, không tăng giảm, thường soi
thường chiếu, rõ ràng chân thật và tự tại, trùm khắp vô biên. Còn vô số Trăng
trên Mặt Nước là “sở chiếu” thì động và sinh diệt theo Mặt Nước động và
Bầu Trời bị mây mù che phủ. Tuy nhiên khi Mặt Nước lặng yên như Gương
và Bầu Trời trong không có mây mù thì vẫn không lìa “tịch” vẫn tương ưng
với Thể Tánh thanh tịnh của vầng Trăng “MỘT”.
Đó cũng là cái nguyên lý “bất tức bất ly” giữa Bản Thể và Hiện
Tượng. Trăng ví như Bản Thể, Bóng Trăng phản chiếu trên mặt nước ví như
Hiện Tượng - Là Hiện Tượng : không có Hiện Tượng nào không ở trong
Bản Thể, phụ thuộc Bản Thể. Cũng như Ánh Trăng phụ thuộc vào Mặt
Trăng , Mặt Trăng tròn đầy thì Ánh Trăng tròn đầy, Mặt Trăng khuyết thì Ánh
Trăng khuyết – Là Bản Thể : không có Bản Thể nào biểu hiện mà không
thông qua Hiện Tượng. Như nhìn Bóng Trăng khuyết trên sông hồ là biết
Mặt Trăng thật đang bị che khuất ,nhìn Bóng Trăng tròn đầy trên mặt sông hồ
là biết rằng Vầng Trăng Một tròn đầy.
“Hiện Tượng” không là “Bản Thể” nhưng bỏ Hiện Tượng tìm Bản
Thể như bỏ Sóng tìm Nước ,không sao có Nước.
Bản Thể không rời Hiện Tượng, nhưng bảo Hiện Tượng là Bản Thể
như ngỡ Sóng là Nước thì không sao biết được Nước là gì? Ngỡ Ánh Trăng
trên mặt nước sông hồ là Mặt Trăng thật thì không thể biết được Mặt Trăng
thật là gì? Nước không là Sóng, nhưng Nước không rời Sóng : “Nước và Sóng
bất tức bất ly”. Mặt Trăng không là Ánh Trăng nhưng Mặt Trăng không rời
Ánh Trăng: “Mặt Trăng và Ánh Trăng bất tức bất ly”.
********
“Chư Phật Pháp Thân nhập ngã Tánh
Ngã Tánh đồng cộng Như Lai hiệp”.
(Chư Pháp Thân Phật vào Tánh ta
Tánh ta cùng với Như Lai hiệp).
KIẾN GIẢI CHỨNG ĐẠO CA: “VÔ TRỤ NIẾT BÀN VÀ MA HA BÁT NHÔ
________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________
Thiền Sư HUYỀN GIÁC--Trang | 7 --Kiến Giải: NGỘ THÂM
Cũng như cái lý tịch chiếu của Vầng Trăng “Một” thành vô lượng
Ánh Trăng trên mặt nước sông hồ ,Pháp Thân Phật thể nhập trong Tánh của
chúng sanh thành ra vô lượng Báo Thân và Hóa Thân Phật, thành ra vô lượng
Pháp Giới Tam Thiên Đại Thiên với đủ loại sum la vạn tượng tràn ngập trong
Hư Không vô biên. Nhưng chính cái Hư Không vô biên này lại là cái Không
Tuyệt Đối và Vi Diệu, là Như Lai Tạng, là kho báu Như Lai chứa vô lượng
Pháp Giới, tuy có mà chẳng có, tuy không mà chẳng không , tuy vô hình vô
tướng, phi vật phi pháp, phi Phật phi phàm, phi nội phi ngoại, phi tiểu phi đại,
phi nhất phi dị, phi minh phi bạch, phi sinh phi diệt, phi thô phi tế, phi khai
phi bế, phi thượng phi hạ, phi thành phi hoại, phi nghịch phi thuận, phi thông
phi tắc, phi cương phi nhu….. nhưng tùy lực huyền cơ, tùy lúc huyễn pháp,
tùy duyên hiển hình, tùy thời hiện tượng, tùy huyền xuất tướng, tùy cơ ứng
vật, vô vi biến hóa : “Không tức thị Sắc”. Cho nên: Không đâu có Như Lai
mà Như Lai trùm khắp tất cả Pháp Giới: Như Lai vô khứ vô lai. Không đâu
có Niết Bàn mà Niết Bàn tràn ngập Hư Không vô biên: Niết Bàn Vô
Trụ. Không đâu có Bát Nhã mà Bát Nhã đầy ắp Càn Khôn Vũ Trụ: “Bát
Nhã vô tri ,vô sở bất tri”. Không đâu có Pháp Thân Phật mà đâu đâu cũng
là Pháp Thân Phật: Pháp Thân phi không phi hữu. Như vậy TÁNH PHẬT là
bình đẳng trong tất cả Pháp Giới, TÁNH của NHƯ LAI và TÁNH của chúng
sanh trong Hoa Tạng Pháp Giới là bình đẳng, là “MỘT”.
********
“Nhất Địa cụ túc nhất thiết Địa
Phi Sắc, phi Tâm, phi Hạnh Nghiệp”.
Chứng một Địa là chứng tất cả Địa. Chỉ cần chứng một Như Lai Địa
là xem như chứng quả cả 10 giai đoạn tu chứng của Thập Địa Bồ Tát. Mười
quả vị tu chứng của Thập Địa Bồ Tát từ thấp tới cao là :
1. Hoan Hỷ Địa
2. Ly Cấu Địa
3. Phát Quang Địa
4. Diệm Huệ Địa
5. Cực Nan Thắng Địa
6. Hiện Tiền Địa
7. Viễn Hành Địa
8. Bất Động Địa
9. Thiện Huệ Địa
10. Pháp Vân Địa
Ngài Huyền Giác chỉ chú trọng vào cái tuyệt cùng, cái Vô Vi, cái Diệu
Vô, cái Rỗng Suốt mà vi diệu, cái gốc tuyệt cùng của đường Tâm chứ không
KIẾN GIẢI CHỨNG ĐẠO CA: “VÔ TRỤ NIẾT BÀN VÀ MA HA BÁT NHÔ
________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________
Thiền Sư HUYỀN GIÁC--Trang | 8 --Kiến Giải: NGỘ THÂM
phải chú trọng vào ngọn hay cành lá của Tâm, nên đi đến cửa Vô Vi và đập
nát cánh cửa nầy ngộ nhập Vô Vi. Ngài nói :
“Trực triệt căn nguyên Phật sở ấn
Trích diệp tầm chi ngã bất năng”.
(Thẳng tận đầu nguồn phăng dấu Phật
Chọn lá tìm cành ta chẳng đương).
Ngài khuyên hành giả ngay cửa Vô Vi nhảy thẳng vào đất Như Lai.
Như vậy đạt được một Địa Như Lai là đạt luôn mười quả vị tu chứng của
Thập Địa Bồ Tát .
“Tranh tự Vô Vi Thực Tướng môn,
Nhất siêu trực nhập Như Lai Địa”.
( Sao bằng tự cửa Vô Vi ấy,
Một nhảy thẳng liền đất Như Lai).
Chân Không Thiền Sư cũng vào cái cửa Vô Vi này :
“Diệu bản Hư Vô nhật nhật khoa
Hòa phong xuy khởi biến Ta Bà
Nhân nhân tận thức Vô Vi lạc
Nhược đắc Vô Vi thủy thị gia”.
(Hư Không lẽ ấy rất sâu xa
Thổi dịu nơi nơi ngọn gió hòa
Vô Vi tận biết người an lạc
Đạt đến Vô Vi mới là nhà).
Trong cảnh Như Lai Địa không có sắc pháp, không có Tâm, không có
cả giới hạnh và nhân quả nghiệp báo:“Phi Sắc, Phi Tâm, Phi Hạnh Nghiệp”.
Tổ thứ 3 Thiền Tông Thương Na Hòa Tu (Sanakavasa) khi truyền
Chánh Pháp Nhãn Tạng cho Tổ thứ 4 là Ưu Bà Cúc Đa (Upagupta) đã nói
kệ:
“Phi Pháp diệc phi Tâm
Vô Tâm diệc vô Pháp
Thuyết thị Tâm Pháp thời
Thị pháp phi Tâm Pháp”.
(Phi Pháp cũng phi Tâm
Vô Tâm cũng vô Pháp
Khi nói Tâm Pháp ấy
Pháp ấy phi Tâm Pháp).
KIẾN GIẢI CHỨNG ĐẠO CA: “VÔ TRỤ NIẾT BÀN VÀ MA HA BÁT NHÔ
________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________
Thiền Sư HUYỀN GIÁC--Trang | 9 --Kiến Giải: NGỘ THÂM
Khi đạt được Đất Như Lai thì không cần phải quan tâm tới ngũ giới,
thập giới, 250 giới Sa Môn, Bồ Tát giới…v…v… vì khi đạt được Phật Tánh
rồi thì không cần một giới hạnh nào phải giữ, vì Phật Tánh không có phạm
giới. Chính Phật Tánh đã bao gồm mọi giới hạnh. Ý thì soi, Tâm thì rõ, Thân
là trí tuệ lấy làm y độ khắp chúng sanh:
“Phật Tánh giới châu Tâm địa ấn
Vụ lộ vân hà thể thượng y”.
(Phật Tánh giới ý soi Tâm rõ
Trên mình trí tuệ lấy làm y).
Đạt được Như Lai Địa cũng không còn nghiệp báo. Giống như người
nằm mộng, mơ thấy làm nhiều điều ác bị nhân quả nghiệp báo phải rơi vào địa
ngục để trả nghiệp .Khi thức dậy cảnh giới trong giấc mơ hoàn toàn mất,
không còn nhân quả ,không còn nghiệp báo ,địa ngục cũng biến mất.
- Đứng về hiện tượng vạn hữu của pháp thế gian Phật dạy: “Vạn pháp
do duyên sanh” nghĩa là có nhân quả.
- Về Bản Thể Chơn Như, Phật dạy :“Phi nhân duyên, phi tự nhiên, phi
hòa, phi hợp, pháp nhĩ như thị”. Nghĩa là không còn nghiệp báo nhân quả.
********
“Đàn chỉ viên thành bát vạn môn
Sát na diệt khước tam kỳ kiếp”.
(Búng tay tám vạn pháp môn thành
Nháy mắt rũ xong ba kỳ kiếp).
Cái đốn ngộ của Thiền Sư vào đất Như Lai xảy ra trong một sát na,
một cái búng tay, một cái nháy mắt ,một tia điện chớp cả thảy tám vạn pháp
môn thành tựu ngay lập tức, cả vọng tưởng nghiệp chướng của ba A Tăng
Kỳ kiếp cũng sụp đổ tan biến. Cũng như một người bị bịnh nan y nằm mê
sảng nhiều ngày mơ thấy đang thọ khổ trong địa ngục A Tỳ vô số kiếp ,bỗng
nhiên hồi phục thức dậy thì địa ngục A Tỳ sụp đổ ngay ,cảnh giới thật hiện
tiền liền về trở lại Quê Nhà.
********
“Nhất thiết số cú phi số cú
Dữ ngô linh giác hà giao thiệp ?”.
(Tất cả văn tự chẳng văn tự
Cùng linh giác ấy nào can dự).
Cái linh giác mà hành giả chứng Đạo không thể dùng văn tự hay ngôn
ngữ thế gian mà diễn tả được .Nó là Bản Thể của mọi Pháp thế gian ,là Thực
Tướng của mọi Pháp thế gian.
KIẾN GIẢI CHỨNG ĐẠO CA: “VÔ TRỤ NIẾT BÀN VÀ MA HA BÁT NHÔ
________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________
Thiền Sư HUYỀN GIÁC--Trang | 10 --Kiến Giải: NGỘ THÂM
Bồ Tát Mã Minh (Asvaghosha),Tổ Sư Thiền thứ 12 chỉ điểm:
“Nhất thiết chư pháp tùng bản dĩ lai, ly văn tự tướng, ly ngôn
thuyết tướng, ly Tâm duyên tướng ,tất cánh bình đẳng ,bất khả phá hoại
,duy thị nhất Tâm, cố danh Chơn Như”.
********
“Bất khả hủy bất khả tán
Thể nhược Hư Không vô nhai ngạn
Bất ly đương xứ thường trạm nhiên
Mịch tức tri quân bất khả kiến”.
(Không thể chê, không thể khen
Như Hư Không ấy vốn vô biên
Không rời trước mắt vẫn thường nhiên
Nhưng mù mịt không sao thấy được).
Cái cảnh giới đó không liên quan gì tới văn tự ,ngôn ngữ nên khen
cũng thừa mà chê cũng thừa .Thể của nó Rỗng Rang vắng lặng trùm khắp vô
biên như Hư Không. Nó vẫn thường trú tự nhiên không rời cái hiện hữu hiện
sanh của Hiện Tượng Giới. Đâu đâu cũng có nó, linh minh ,vi diệu , ẩn nấp
trong Hiện Tượng Giới và Hư Không. Nó mù mịt không thể dùng mắt thế gian
để trông thấy mà phải chứng ngộ.
Cái “Rỗng Thênh Không Thánh” phi tâm ,phi vật, phi pháp, phi phàm
đó thật là linh diệu ,ở khắp mọi nơi ,không sanh diệt ,đứng yên bất động,
không đến không đi ,đầy bí ẩn và u huyền:
“Đạt Ma sừng sững giữa Hư Không
Đứng giữa Trời trong vẫn u huyền”.
Thế gian chỉ chấp cái “Tướng Có” mà không để ý đến cái “Tướng
Không” không tướng vi diệu nầy nên chẳng bao giờ tìm ra manh mối để đạt
đến Chân Lý.
********
Ngài Huyền Giác chỉ dạy:
“Thủ bất đắc ,xả bất đắc
Bất khả đắc trung chỉ ma đắc”.
(Lấy chẳng được, bỏ chẳng được
Trong cái chẳng được là cái được).
Cái “Rỗng Thênh Không Thánh” đó lấy chẳng được mà bỏ chẳng
được. Muốn chứng nó phải đi đến cái tuyệt đường ,tuyệt gốc ,tuyệt lý , tuyệt
tình , “Tuyệt Hậu Tái Tô”. Nghĩa là chết đi rồi sống lại vào cái “vô sở đắc ”
tối hậu để đạt được cái “sở đắc tối hậu”.
KIẾN GIẢI CHỨNG ĐẠO CA: “VÔ TRỤ NIẾT BÀN VÀ MA HA BÁT NHÔ
________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________
Thiền Sư HUYỀN GIÁC--Trang | 11 --Kiến Giải: NGỘ THÂM
Tử Dung Hòa Thượng dạy cho Thiền Sư Liễu Quán:
“Huyền nhai tán thủ
Tự khẳng thừa đương
Tuyệt hậu tái tô
Khi quân bất đắc”.
(Buông tay trên dốc thẳm
Tự tin vào chính mình
Chết đi rồi sống lại
Ai lừa dối được ngươi).
Và khi chứng được thì hoàn toàn không có sở đắc.Tổ Thiền Tông thứ
23 Ngài Hạc Lặc Na (Haklena) từng chỉ điểm:
“Nhận đắc Tâm Tánh thời
Khả thuyết bất tư nghì
Liễu liễu vô khả đắc
Đắc thời bất thuyết tri”.
(Khi nhận được Tâm Tánh
Mới nói chẳng nghĩ bàn
Rõ ràng không chỗ được
Khi được chẳng nói biết).
Làm sao có chỗ đắc cho được khi một người đã ở sẵn trong căn nhà
của mình đang ở lại còn nói tôi trở về nhà. Chỉ khi mê không biết mình đang ở
trong nhà ,có điều không diễn tả được căn nhà thực của mình bằng ngôn ngữ
văn tự thế gian. Căn nhà đó thì: “Bất ly đương xứ thường trạm nhiên”. Tuy
nhiên muốn nhận ra căn nhà “Rỗng Thênh Không Thánh” đó cũng không phải
là dễ. Nói theo Thiền Sư Cảnh Sầm là phải vượt qua đầu sào trăm trượng, còn
trong đầu sào thì vẫn còn ở Mặt Trăng thứ hai, chưa đạt đến rốt ráo tuyệt
cùng:
“Bách Trượng can đầu bất động nhân
Tuy nhiên đắc nhập vị vi chân
Bách trượng can đầu tu tấn bộ
Thập phương thế giới thị toàn thân”.
(Trăm trượng đầu sào vẫn đứng yên
Tuy là được nhập chẳng phải hiền
Đầu sào trăm trượng cần vượt khỏi
Mười phương thế giới thảy thân mình).
Khi nhảy qua đầu sào trăm trượng thì mới thấy được Tánh, chứng ngộ
Pháp Thân. Khi đó cả 10 phương thế giới chính là Pháp Thân của chính mình.
KIẾN GIẢI CHỨNG ĐẠO CA: “VÔ TRỤ NIẾT BÀN VÀ MA HA BÁT NHÔ
________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________
Thiền Sư HUYỀN GIÁC--Trang | 12 --Kiến Giải: NGỘ THÂM
* Hay nói theo Tuệ Trung Thượng Sĩ ,phải lách mình vượt ra khỏi cái
lồng của con chim hồng hay cái lồng của thế gian đầy tham ái ngũ trược ,khi
thoát ra rồi thì mặc tình bay nhảy giữa Hư Không dài vô tận:
“Phiên thân nhất trịch xuất phần lung
Vạn sự đô lô nhập nhãn Không
Tam giới mang mang Tâm liễu liễu
Nguyệt hoa Tây một, Nhựt thăng Đông”.
(Xoay mình một ném vượt khỏi lồng
Muôn sự đều không ,nhập mắt không
Ba cõi thênh thang , lòng sáng rỡ
Trăng Tây vừa lặn , xuất vầng Đông).
* Con đường tuyệt lộ đó cũng chính là giải thoát như cái thấu triệt Tự
Thể của Thiền Sư Mông Sơn Đức Bị :
“Một hứng lộ đầu cùng
Đạp phiên ba thị thủy
Triệu Châu lão siêu quần
Diện Mục chỉ như thị”.
(Đường đi chợt hết bước
Giẫm ngược sóng là nước
Già Triệu Châu quá chừng
Mặt mày chẳng chi khác).
Cùng đường tuyệt lộ như Thiền Sư Mông Sơn ,bất chợt giẫm ngược
sóng gặp nước, chộp được ông già Triệu Châu ,bắt gặp ngay Bản Lai Diện
Mục của chính mình.
* Tuyệt lộ đó cũng là cái cửa “Vô” của Thiền Sư Vô Môn Huệ Khai
với cái công án “Vô” của Triệu Châu. Phải đi qua cửa Tổ, phải đi tuyệt đường
Tâm mới có thể gặp cái Diệu Ngộ .Vậy thế nào là cửa Tổ ? Chính là một chữ
“Vô”, Cửa Không Cửa (gate of no gate) của nhà Thiền.
Phật dạy “Tâm là Tông chỉ ,cửa Không là cửa Pháp”. Sơ Tổ Bồ Đề
Đạt Ma cũng đã chỉ: “Giáo ngoại biệt truyền ,bất lập văn tự ,trực chỉ nhân
Tâm, kiến Tánh thành Phật”.
Vậy cần phải đi hết đường Tâm .Quan môn của Tổ Sư phải thấu triệt.
Thấu triệt cái cửa “Vô ”của Thánh Trí cũng là cái Diệu Vô vượt lên trên cả
Hữu và Vô. Vượt luôn cả 20 cửa Không như: “nội không ,ngoại không ,nội
ngoại không ,không không ,đại không ,tán không ,tính không, tự tính không,
KIẾN GIẢI CHỨNG ĐẠO CA: “VÔ TRỤ NIẾT BÀN VÀ MA HA BÁT NHÔ
________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________
Thiền Sư HUYỀN GIÁC--Trang | 13 --Kiến Giải: NGỘ THÂM
chư pháp không…”.Cũng chẳng cần phải lập chân , bỏ vọng như Ngài Huyền
Giác đã dạy:
“Chân bất lập vọng bổn không
Hữu Vô câu khiển bất không không
Nhị thập không môn nguyên bất trước
Nhất Tánh Như Lai thể tự đồng”.
Cánh cửa Không đó, nếu lọt qua được thì cả Càn Khôn vũ trụ nằm
trong bàn tay mặc tình du hí Tam Muội :
“Đại Đạo vô môn , thiên sai hữu lộ
Thấu đắc thử quan, Càn Khôn độc bộ”.
(Thiền Sư Huệ Khai).
(Đại Đạo không cửa, có nghìn nẻo vào
Qua được cửa nầy, Đất Trời riêng bước).
Thiền Sư Huệ Khai chỉ rõ :“ Hãy đem 360 đốt xương , 8 vạn 4 ngàn lỗ
chân lông, toàn thân cả 6 căn khởi nghi đoàn ,tham chữ “Không”. Giống như
nuốt một hòn sắt nóng, muốn khạc mà khạc chẳng ra ,không còn vọng tri vọng
giác rồi thuần thục tự nhiên trong ngoài đánh thành một phiến ,như người
câm nằm mộng thì tự mình biết. Rồi bỗng như Trời long đất lở như đoạt được
Thanh Long Đao của Quan Vân Trường: gặp Phật giết Phật ,gặp Tổ giết Tổ.
Bên bờ sanh tử mà tự tại, hướng lục đạo luân hồi mà du hí Tam Muội”. Thiền
Sư Huệ Khai đã miệt mài công án “VÔ” và đã Đại Ngộ khi nghe tiếng trống
buổi trưa ở trai đường:
“Thanh thiên bạch nhật nhất thanh lôi
Đại địa quần sanh nhãn hoát khai
Sum la vạn tượng tề khể thủ
Tu Di bột khiêu vũ tam đài”.
(Trời quang mây tạnh sấm nổ vang lừng
Mọi vật trên đất, mắt bỗng mở bừng
Muôn hồng nghìn tía cúi đầu làm lễ
Núi Tu Di cũng nhảy múa vui mừng).
Cái lưỡi kiếm “VÔ” sắc bén của Triệu Châu quả lợi hại và thần diệu
vô cùng, nhưng nếu dụng sai ở cái sát na nóng bỏng như thế thì sẽ toi mạng,
thân bị đứt làm hai khúc:
“Triệu Châu lộ đao kiếm
Hàn sương quang diệm diệm
KIẾN GIẢI CHỨNG ĐẠO CA: “VÔ TRỤ NIẾT BÀN VÀ MA HA BÁT NHÔ
________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________
Thiền Sư HUYỀN GIÁC--Trang | 14 --Kiến Giải: NGỘ THÂM
Cánh nghi vấn như hà
Phân thân tác sở đoạn”.
(Lưỡi kiếm Triệu Châu rút khỏi vỏ
Lạnh như sương mai, nóng như lửa
Nếu ai hỏi: sao thế nầy ?
Thân bị đứt làm hai đoạn).
Ngay cái sát na đột phá đó trước cửa Tổ ,một niệm vừa khởi ,hay một
ý thức suy nghĩ vừa sanh ra thì xem như hỏng việc sụp đổ hoàn toàn .Còn
ngay cái sát na đột phá đó mà qua được cửa, thì không những đỡ được đường
kiếm của Triệu Châu ,toàn thân thấy được Triệu Châu mà còn cùng Lịch Đại
Chư Tổ nắm tay cùng đi ,ngang hàng với các Ngài ,nhìn cùng một con mắt,
nghe cùng một lỗ tai ,nói cùng một giọng lưỡi ! Sau một bước nhảy giữa Hư
Không thì mặc tình muốn nói thì nói, muốn im thì im ,nói tức im, im tức là
nói ,tùy duyên hoặc nói hoặc im ,mở cửa từ bi thí pháp rộng lớn độ sanh
không ngăn ngại :
********
“Mặc thời thuyết ,thuyết thời mặc
Đại thí môn khai vô ủng tắc”.
Bởi vì chứng đến đó thì Tông cũng thông mà Thuyết cũng thông định
huệ sáng tròn đầy đủ cũng như hằng sa Chư Phật ở mười phương:
“Tông diệc thông ,Thuyết diệc thông
Định huệ viên minh bất trệ không
Phi đãn ngã kim độc đạt liễu
Hằng sa Chư Phật thể giai đồng”.(Th.S Huyền Giác).
(Tông cũng thông, Thuyết cũng thông
Định huệ sáng tròn chẳng trệ không
Nào phải mình ta riêng đạt đấy
Hằng sa Chư Phật thể giai đồng).
Lúc đó thì :
“Đạo thông Thiên Địa hữu hình ngoại
Tư nhập phong vân biến thái trung”.
(Đạo thông Trời Đất hiện ra mặt
Trí nhập mây gió tỏa hành vi).
Thân tuy còn là Tứ Đại của thế gian nhưng trí đã xuất thế gian nhả
ngọc phun châu làm mưa làm gió giữa Hư Không như Rồng gặp mây mưa
pháp cứu độ chúng sanh : “Rắn biến thành Rồng không đổi vảy”. Lúc đó thì
KIẾN GIẢI CHỨNG ĐẠO CA: “VÔ TRỤ NIẾT BÀN VÀ MA HA BÁT NHÔ
________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________
Thiền Sư HUYỀN GIÁC--Trang | 15 --Kiến Giải: NGỘ THÂM
vinh nhục, danh lợi thế gian không còn dính mắc,vào rừng sâu độc hành độc
bộ nơi núi hiểm rừng già ,dựng mái chùa tranh thung dung tĩnh tọa :
“Tự tùng đốn ngộ liễu vô sanh,
Ư chư vinh nhục hà ưu hỷ
Nhập thâm sơn trú lan nhã,
Sầm ngâm u thúy trường tùng hạ,
Ưu du tĩnh tọa dã tăng gia,
Quých tịch an cư thực tiêu sái”.
(Tự thời thoát ngộ lý vô sanh,
Cơn vinh nhục mừng lo gì tá ?
Vào rừng sâu ở lan nhã,
Núi dựng tùng già ôm bóng cả,
Thong dong ngồi tịnh mái chùa tranh,
Cảnh lặng lòng yên thanh thoát lạ!)
Và trong cảnh rừng chiên đàn hiểm trở thanh thoát ấy là nơi trú ngụ
của Sư Tử. Bao nhiêu chim chóc ,muông thú hay phàm phu tục tử ồn ào danh
lợi, đầy nhân ngã tham ái thị phi của nhân gian đều cao bay xa chạy không
dám đến:
“Chiên đàn lâm ,vô tạp thụ
Uất mật sâm trầm Sư Tử trú
Cảnh tịnh lâm nhàn độc tự du
Tẩu thú phi cầm giai viễn khứ”.
(Rừng chiên đàn không tạp thụ
Sâu kín um tùm Sư Tử trú
Cảnh vắng rừng im một mình chơi
Cao bay xa chạy chim cùng thú ).
Một khi Sư Tử hống lên thuyết vô úy như tiếng sấm giữa rừng thì trăm
muôn nghìn thú hay tà ma Vô Minh ngoại đạo đinh tai nhức óc, xé cả óc tủy
tiêu tan. Cả loài Hương Tượng hay Tiệm Giáo cũng chạy dài, chỉ có Thiên
Long tức Rồng Trời hay Đại Thừa Đốn Giáo lắng nghe mừng được mưa Pháp:
“Sư Tử hống ,vô úy thuyết
Bách thủ văn chi giai não liệt
Hương Tượng bôn ba ,thất khước uy
Thiên Long tịch thính sanh hân duyệt”.
(Sư Tử hống thuyết vô úy
Trăm thú nghe qua xé óc tủy
Hương Tượng chạy dài hết liệt uy
Thiên Long lặng ngóng lòng hoan hỷ).
KIẾN GIẢI CHỨNG ĐẠO CA: “VÔ TRỤ NIẾT BÀN VÀ MA HA BÁT NHÔ
________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________
Thiền Sư HUYỀN GIÁC--Trang | 16 --Kiến Giải: NGỘ THÂM
Lời thuyết Pháp của Chư Phật ,Chư Tổ và Thiền Sư ngộ đạo như tiếng
hống đầy uy lực của Sư Tử ,như núi bảy báu thường tuôn suối trí tuệ, phá tan
màn Vô Minh đem lợi ích cho chúng sanh ,phá mê khai ngộ vượt qua bờ sanh
tử luân hồi:
“Nguy nguy thất bảo sơn
Thường xuất trí huệ tuyền
Hồi vi chân pháp vị
Năng độ chư hữu duyên”.
Lời kệ của Tổ thứ năm Đề Đa Ca (Dhirtaka).
(Vời vợi núi bảy báu
Thường tuôn suối trí huệ
Chuyển thành vị chơn pháp
Hay độ người có duyên).
Các Ngài có Tâm “Lão Bà” với lòng từ bi rộng lớn vô biên muốn độ
hết thảy chúng sanh qua khỏi bờ mê, biển khổ.Thiền Sư Thông Giác Thủy
Nguyệt khi sắp tịch, còn gọi đệ tử là Tông Diễn nói kệ dặn dò:
“Thủy xuất đoan do tẩy thế trần
Trần thanh thủy phục nhập nguyên chân
Dữ quân nhất bát cam lồ thủy
Sái tác ân ba độ vạn dân”.
(Nước cốt tuôn ra rửa bụi trần
Sạch rồi nước lại trở về chân
Cho ngươi bát nước cam lồ quý
Ân tưới chan hòa độ vạn dân).
Các Ngài là những Bậc Đại Trượng Phu đã chứng ngộ, mỗi lần rút
“Gươm Tuệ” ra là Ánh Bát Nhã sáng chói như kim cương loé, làm cho ngoại
đạo rớt hết Tâm Mê và loài Thiên Ma phải chạy dài, đem lại lợi ích giải thoát
cho vô số chúng sanh:
“Đại Trượng Phu bỉnh Tuệ Kiếm
Bát Nhã phong hề Kim Cang diệm
Phi đản năng thôi ngoại đạo Tâm
Tảo tằng lạc khước Thiên Ma đảm”.
(Thiền Sư Huyền Giác).
(Đại Trượng Phu cầm kiếm Huệ
Ánh Bát Nhã hề Kim Cương loé
Đã hay ngoại đạo bật Tâm Mê
Lại khiến Thiên Ma lùi khiếp vía).
KIẾN GIẢI CHỨNG ĐẠO CA: “VÔ TRỤ NIẾT BÀN VÀ MA HA BÁT NHÔ
________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________
Thiền Sư HUYỀN GIÁC--Trang | 17 --Kiến Giải: NGỘ THÂM
*Nhưng từ đâu có nước cam lồ quý ? Từ đâu có cái hùng lực của Sư
Tử hống thuyết vô úy ? Từ đâu có núi bảy báu tuôn ra suối trí huệ nhiệm
mầu? Từ đâu có cái lưỡi Gươm Tuệ loé Ánh Kim Cương sắc bén chặt đứt hết
Tâm Mê và cái khả năng làm Thầy cả Trời và Người cứu độ chúng sanh?
********
Ngài Huyền Giác trả lời:
“Hữu nhân vấn ngã giải hà Tông?
Báo đạo : Ma Ha Bát Nhã lực
Hoặc thị hoặc phi nhân bất thức
Nghịch hành thuận hành thiên mạc trắc”.
(Có người hỏi ta, giải Tông gì?
Xin thưa : Ma Ha Bát Nhã lực
Làm phải,làm trái Người mù tịt
Làm ngược làm xuôi Trời không biết).
Đó là Ma Ha Bát Nhã làm ra!
Ma Ha Bát Nhã là Bát Nhã rộng lớn trùm khắp, bất khả tư nghì,
không thể dùng văn tự ngôn ngữ thế gian để diễn tả, đó là trạng thái siêu tâm
linh giác quan con người không thể nhận biết mà phải chứng ngộ như Đức
Phật, các Tổ và Thiền Sư. Bát Nhã là cái tối thượng : “Thánh Đế Đệ Nhất
Nghĩa” vi diệu, nó làm phải làm trái con Người mù tịt không nắm bắt được, nó
làm ngược rồi làm xuôi cả loài Trời thông minh trí tuệ cách mấy cũng không
hiểu nổi. Bát Nhã thật ra là cái không tên không tuổi, không xuất xứ, phi phàm
phi thánh, phi hữu phi vô, phi tà phi chánh, phi nội phi ngoại, phi thành phi
hoại, phi thô phi tế...Thể Tánh thì rỗng không, thường trụ, không sinh diệt…là
cái rốt ráo tuyệt đối, nên có thể gọi là “Một” hay “Chơn Nhất” , vì cái Một
hay Chơn Nhất này biến hóa ra tất cả Càn Khôn vũ trụ trong Tam Giới :
“Nhất tức Nhất thiết, Nhất thiết tức Nhất”- (Một là Tất Cả, Tất Cả là Một).
Bát Nhã là cái Nhất siêu việt số lượng, nên Kinh nói: “Sum la cập vạn tượng
nhất Pháp chi sở ấn”, nghĩa là chỉ “ấn” một Pháp là sum la vạn tượng tràn
ngập Hư Không, siêu việt số lượng, chẳng phàm chẳng thánh, chẳng ta chẳng
người, tất cả bình đẳng trong cái “Nhất” và tất cả cũng đều hàm “Nhất” mà
sanh, nên Kinh nói: “Phật Tánh bình đẳng, mênh mông khó lường, thánh
phàm bất nhị, tất cả viên mãn”. Từ cây cỏ thực vật, tất cả chúng sanh cho
đến núi sông vũ trụ càn khôn đều hàm “Nhất” mà có. Kinh lại nói: “Liễu tri
Nhất thì muôn việc đều xong” vì “Nhất” là cái Chân Thường, cái Tuyệt
Cùng của Lý và Sự. Kinh cũng nói: “Nhất niệm biết tất cả Pháp”. Niệm ở
đây là niệm Chân Như, Chân Như Tự Tánh khởi Nhất niệm thì Bát Nhã hiển
bày, là cái “ấn” của vạn Pháp: Nhất Pháp chi sở ấn, là thế giới Nhất Chơn
KIẾN GIẢI CHỨNG ĐẠO CA: “VÔ TRỤ NIẾT BÀN VÀ MA HA BÁT NHÔ
________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________
Thiền Sư HUYỀN GIÁC--Trang | 18 --Kiến Giải: NGỘ THÂM
với muôn ngàn sai biệt sum la vạn tượng nhưng tất cả đều bình đẳng và cùng
một thể: “Một là Tất Cả, Tất Cả là Một”. Ma Ha Bát Nhã tuy là cái Không
Tên, Không Biết, Không Thấy, không thể dùng văn tự để diễn đạt ;
nhưng nếu không dùng văn tự hay lời nói làm phương tiện thì lấy gì để hóa
độ chúng sanh ? Do đó trong Bửu Tạng Luận, vì lòng Từ Bi, Đại Sư Tăng
Triệu phương tiện giải thích về cái Nhất hay Chơn Nhất Bát Nhã :
“Nhất là đối với dị (khác biệt), dị đã phi dị, Nhất cũng phi Nhất, phi
Nhất bất Nhất, giả lập Chơn Nhất, Chơn Nhất thì phải lập ra văn tự lời nói có
thể diễn tả. Do đó, phi Nhất thấy Nhất, hễ có sở thấy tức là có Nhị, chẳng
được gọi là Chơn Nhất, cũng chẳng gọi là Tri Nhất. Nếu dùng Nhất để Tri
Nhất, tức gọi là Nhị, chẳng gọi là Nhất; nếu có Sở Tri tất có Vô Tri, có Tri và
Bất Tri, tức có Nhị vậy. Cho nên Đại Trí Vô Tri vô sở Bất Tri, mãnh liệt
Thường Tri, Thường Tri Vô Tri , giả danh gọi là Tri, phi Ngã và Ngã sở,
phi Tâm phi Ý.’’
Do đó trong Bát Nhã Tâm Kinh, Bồ Tát Quán Tự Tại hành thâm “ Bát
Nhã Ba La Mật Đa” dùng cái “Vô Tri” vượt qua cái Kiến Văn Giác Tri , cả
Sáu Căn đồng loạt không khởi niệm: phi Tâm, phi Ý, phi Ngã, phi Ngã Sở đạt
đến “Tâm Không” nên không còn chướng ngại, khi đó Sáu Căn trở thành sáu
Ban Thần Dụng, chuyển Thức thành Trí chiếu kiến Ngũ Uẩn Giai Không liền
độ nhất thiết khổ ách. Bát Nhã thì Vô Tri, nhưng vì Mê nên có Thế Giới vật
chất với muôn ngàn sai biệt cho nên mới sinh ra có Năng Tri và Sở Tri thông
qua Sáu Căn nhận biết cái sai biệt của muôn Pháp, chấp Cảnh sanh Tình mà
sinh ra Thức với cái Kiến Văn Giác Tri. Tuy nhiên, muốn trở về Bát Nhã Vô
Tri thì cũng phải bắt đầu từ cái Kiến Văn Giác Tri, nhưng không chấp dính, vì
nó sẽ là một khối trở ngại lớn lao, con Mắt Đạo sẽ bị mù hẳn, không thể Tri
cái Vô Tri. Đại Sư Tăng Triệu giải thích:
‘‘ Pháp nếu Hữu Vi tức có Sở Tri, Pháp nếu Vô Vi, cũng như Hư
Không, chẳng có bờ bến thì chẳng có Tri và Bất Tri. Bậc Thánh sở dĩ nói Tri
là vì có tâm có sở, có làm có pháp, nên có thể Tri; Nếu dùng Hữu Tri để Tri
nơi Tri thì chẳng có chỗ đúng…Kỳ thật, Tri và Vô Tri chẳng phải là hai. Sở dĩ
nói Vô Tri, vì phàm phu chẳng liễu đạt Chơn Nhất, chấp Ngã và Ngã Sở, Vọng
Tâm so đo có Năng Tri Sở Tri, nên nói Vô Tri vô phân biệt. Phàm phu nghe
xong liền học Vô Tri, như người ngu muội, chẳng thể phân biệt, nên bậc thánh
vì những kẻ hư vọng mà nói: “Như Lai liễu liễu Tri Kiến, chẳng phải Bất
Tri”. Phàm phu nghe xong liền học Hữu Tri, hễ có Hữu Tri thì bị Hữu Tri
chướng ngại, ấy là Hư Tri hay Vọng Tri, sự Tri như thế lại càng xa với Đạo
vậy. Kinh nói "Chúng sanh thân cận ác Tri Thức, sanh trưởng ác Tri Kiến".
Những kẻ học Vô Tri, đều bỏ Hữu Tri học Vô Tri, mà chẳng biết Vô Tri tức là
KIẾN GIẢI CHỨNG ĐẠO CA: “VÔ TRỤ NIẾT BÀN VÀ MA HA BÁT NHÔ
________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________
Thiền Sư HUYỀN GIÁC--Trang | 19 --Kiến Giải: NGỘ THÂM
Tri, còn những kẻ bỏ Vô Tri học Hữu Tri, chẳng biết có Tri tức có Giác, có
Giác thì Tâm Ý sanh khởi muôn ngàn tư tưởng, chẳng thể lìa khổ. Hai thứ kiến
chấp Tri và Vô Tri đều chẳng thể khế hợp lý Như Như, nên chẳng thể đến chỗ
chơn thật”.
Bát Nhã cũng có nhiều tên gọi khác như : Niết Bàn, Chân Như, Như
Lai Tàng, Thực Tướng, Hư Không, Chân Không, Phật Tánh, Tự Tánh, Bản
Tế…Cái Thể của Ma Ha Bát Nhã không thể nhìn thấy,nhưng sự Dụng lại vô
cùng : ứng cơ thì có muôn ngàn phương tiện, giáo hóa thì có vạn ức pháp vị,
hiện vật thì đủ thứ kỳ hình, biến hóa thì có đủ tướng hiện , tạo tác thì tinh vi
hoàn mỹ, thị hiện sanh mà vô sanh, thị hiện tướng mà vô tướng, thị hiện thân
mà vô thân, vô tri mà tri vô sở bất tri, suy lường mà chẳng lường, thường biết
mà chẳng biết, vô vi mà vi vô sở bất vi, vô tướng mà lập tướng , vô tâm mà
lập tâm phi tâm, vô danh mà lập danh phi danh, vô vật mà tạo vật vô lượng
vật…giống như trong gương tỏa ngàn tượng nước hiện muôn sắc, trong bóng
mà tạo hình vũ trụ Càn Khôn, biển nổi ngàn sóng, vô vi biến hóa : “Không tức
thị Sắc”. Tuy là hiện tướng sum la vạn tượng đầy ắp trong Hư Không, nhưng
tất cả đều lấy Vô Trụ làm Gốc, Vô Tướng làm Thể, Tâm làm Tông Chỉ và
Cửa Không làm Cửa Pháp, là cái “Rỗng Thênh Không Thánh” của Sơ Tổ
Bồ Đề Đạt Ma, cái “Bổn Lai vô nhất vật” của Lục Tổ Huệ Năng, cái “Rỗng
Rang Trong Suốt” đồng với Hư Không : “Sắc tức thị Không”. Nó cũng là
‘‘Kho Báu Như Lai’’ hay “Như Lai Tàng” chứa vô lượng Pháp Giới, hay
“Viên Ngọc Ma Ni” dụ cho TÁNH chiếu ra cái Ánh Sáng vi diệu dụ cho
TÂM, Tâm này là Tâm Gốc là cái Ánh Bát Nhã biến chiếu ra vạn Pháp :
“Không tức thị Sắc”. Cái Ánh Bát Nhã nầy chính là cái Ánh Rõ ẩn nấp nơi
Hiện Tượng Giới và Hư Không, Thiền Sư Lâm Tế gọi là cái “riêng sáng hiện
bày rõ ràng” là cánh cửa Vô Vi ngộ nhập Bát Nhã. Nhận ra Cái Rõ hay cái
Ánh Rõ Bát Nhã nầy là đã đi huốt đường TÂM, nhảy thẳng vào Đất Như Lai,
thấy TÁNH thành Phật.
*Trong Pháp hội Linh Sơn, Thế Tôn giơ Cành Hoa Sen lên chỉ cho đại
chúng. Lúc đó đại chúng đều im lặng ngơ ngác, không biết chuyện gì, chỉ có
Tôn Giả Ca Diếp mĩm cười, chứng ngộ Bát Nhã . Thế Tôn bảo :
-“Ta có Chánh Pháp Nhãn Tạng Niết Bàn Diệu Tâm Thực Tướng Vô
Tướng Vi Diệu Pháp Môn , Giáo ngoại biệt truyền, bất lập văn tự nay truyền
cho Ca Diếp ”.
“Niêm khởi hoa lai
Vĩ ba dĩ lộ
Ca Diếp phá nhan
Nhân thiên võng thố”.
KIẾN GIẢI CHỨNG ĐẠO CA: “VÔ TRỤ NIẾT BÀN VÀ MA HA BÁT NHÔ
________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________
Thiền Sư HUYỀN GIÁC--Trang | 20 --Kiến Giải: NGỘ THÂM
(Vừa giơ cành hoa
Cái đuôi đã lộ
Ca Diếp cười xòa
Trời người thất thố).
Trời và Người đều mù mắt ,mù trí điên đảo vọng tưởng ,không nhận
ra cái yếu chỉ khi Thế Tôn giơ Cành Hoa Sen lên . Trời và Người đều ‘‘Tri ’’
cái ‘‘Sở Tri’’ chấp vào cái tướng sinh diệt của Hoa Sen ,khởi niệm phân biệt
,suy đoán cái dụng ý của Thế Tôn khi giơ Cành Hoa Sen nên lạc vào thần thức
vọng tưởng .Trong khi tôn giả Ca Diếp ‘‘Vô Tri ’’ mà ‘‘Tri ’’ đang ở trong
trạng thái Vô Tâm và “Vô Niệm” niệm . Khi Thế Tôn giơ Cành Hoa Sen lên
,tức khắc trong một sát na chợt nhận ra cái Ánh Rõ của Bát Nhã hiện ra nơi
Cành Hoa Sen rồi trùm khắp cả Hư Không cũng trong cái sát na ấy. Thế là Hư
Không sụp đổ và toàn thể là Ánh Rõ của Ma Ha Bát Nhã và Ca Diếp đã ngộ
nhập vào Bát Nhã nên mỉm cười , trong khi Người và Trời ngơ ngác không
hiểu chuyện gì xảy ra .Cành Hoa Sen chỉ là phương tiện nhỏ mà Thế Tôn tạm
dùng ngay lúc ấy để chỉ Đạo, chỉ thẳng Bát Nhã. (Tuy chỉ là phương tiện nhỏ,
nhưng chính Cành Hoa Sen là Bát Nhã cùng với Hoa Tạng Pháp Giới và Hư
Không vô biên là Một !)
Thế Tôn có thể dùng ngón tay để chỉ Mặt Trăng ,cây gậy để chỉ Mặt
Trăng, ở đây Thế Tôn dùng Cành Hoa Sen để chỉ Mặt Trăng và chỉ thẳng, chỉ
trực tiếp Bát Nhã .
Thật ra ngón tay ,cây gậy hay Cành Hoa Sen đều là Pháp mà cũng
không phải là Pháp, chỉ là phương tiện để đạt đến bờ bên kia .Thế Tôn không
muốn chúng sanh cố chấp vào Pháp để sinh bệnh .Ngài đến trước Tháp Đa
Tử gọi Ca Diếp đến chia cho nửa tòa ngồi, lấy y Tăng Già Lê quấn vào mình
Ca Diếp rồi nói kệ phó Pháp :
“Pháp bổn Pháp vô Pháp
Vô Pháp Pháp diệc Pháp
Kim phó vô Pháp thời
Pháp Pháp hà tằng Pháp”.
(Pháp, gốc Pháp không phải Pháp
Pháp không Pháp cũng là Pháp
Nay khi trao cái không Pháp
Mọi Pháp đâu từng là Pháp).
Do đó đây không phải là pháp yếu, tùy thời tùy lúc tùy hoàn cảnh khế
cơ mà Thế Tôn khai thị; tuy nhiên, lại là pháp cao nhất chỉ có Ngài Ca Diếp
lãnh hội được, Vua Trần Thái Tông nói kệ:
KIẾN GIẢI CHỨNG ĐẠO CA: “VÔ TRỤ NIẾT BÀN VÀ MA HA BÁT NHÔ
________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________
Thiền Sư HUYỀN GIÁC--Trang | 21 --Kiến Giải: NGỘ THÂM
“Thế Tôn niêm khởi nhất chi hoa
Ca Diếp kim triêu đắc đáo gia.
Nhược vị thử vi truyền pháp yếu,
Bắc viên thích Việt lộ ưng xa”.
(Thế Tôn chỉ nhấc một cành hoa,
Ca Diếp sáng nay đã tới nhà.
Nếu bảo đó là truyền pháp yếu
Về Nam ra Bắc lối càng xa).
Pháp mà Thế Tôn trao cho Ca Diếp không phải là những tàng Kinh
đầy văn tự hay ngôn thuyết mà là Kinh Vô Tự không lời , Kinh này là cả một
Bầu Trời Rõ, bầu trời chân không “Rỗng Thênh Không Thánh”. Kinh nầy là
Ma Ha Bát Nhã Ba La Mật Đa . Cũng ý này, Thiền Sư Huệ Sinh ứng kệ chỉ
Đạo cho vua Lý Thái Tông :
“Pháp bản như vô Pháp
Phi Hữu diệc phi Vô
Nhược nhân tri thử Pháp
Chúng sinh dữ Phật đồng
Tịch tịch Lăng Già Nguyệt
Không Không độ hải chu
Tri Không Không giác Hữu
Tam Muội nhậm thông chu”.
(Pháp gốc như không Pháp
Chẳng có cũng chẳng không
Nếu người biết Pháp ấy
Chúng sanh cùng Phật đồng
Trăng Lăng Già vắng lặng
Thuyền Bát Nhã rỗng không
Biết không không giác có
Chánh định mặc thong dong).
Trăng Lăng Già ở đây tức là cái Rõ hay cái Ánh Sáng Bát Nhã, Mặt
Trăng Thứ Hai hay cái Cửa Vô Vi; từ đây nhảy thẳng vào ngộ nhập Bát
Nhã. Thuyền Bát Nhã rỗng không nên nó chứa tất cả vũ trụ Càn Khôn với ba
ngàn thế giới .Nó làm phải làm trái loài Người mù tịt không hiểu nổi. Nó làm
ngược rồi làm xuôi cả loài Trời cũng không biết đâu là manh mối .
Bát Nhã như một nhà ảo thuật đại tài biến hóa ra Càn Khôn vũ trụ
muôn loài , nó thật là minh , nó thật là diệu . Loài Người và loài Trời như
khán giả hiếu kỳ trẻ con càng quan sát càng thấy lạ lùng bí hiểm đã huyền
hoặc lại thêm huyền hoặc.
KIẾN GIẢI CHỨNG ĐẠO CA: “VÔ TRỤ NIẾT BÀN VÀ MA HA BÁT NHÔ
________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________
Thiền Sư HUYỀN GIÁC--Trang | 22 --Kiến Giải: NGỘ THÂM
Thí dụ điển hình những gì Bát Nhã làm ra mà loài Người - những nhà
Khoa Học thông thái nhất hay loài Trời –những Người Hành Tinh (Aliens)
siêu đẳng nhất cũng không hiểu nổi hay hoàn toàn bất lực. Các nhà Khoa Học
của Địa Cầu thế kỷ 20 đã khám phá ra nguyên thủy của vũ trụ là một “Dị
Điểm” (singular point) cách đây khoảng 15 tỷ năm với kích thước vô cùng
nhỏ với đường kính d= 10-33
cm (10 lủy thừa trừ 33 centimet) trong vụ nổ Big
Bang. Năng lượng ban đầu biến thành các hạt cơ bản quarks rồi electrons
,protons, neutrinos… để thành lập nguyên tử vật chất đầu tiên nhỏ nhất và nhẹ
nhất là Hydrogen (H) và Helium (He) . Tuy là nhỏ nhất nhẹ nhất, mắt thường
không trông thấy được , nhưng đứa con đầu lòng : nguyên tử vật chất
Hydrogen cũng lớn hơn mẹ của nó tới 10 triệu tỷ tỷ lần .Rồi thì hàng trăm tỷ
đám mây khí nầy (Nebulae) sinh sinh hóa hóa bành trướng ra rộng lớn ra
thành hàng trăm tỷ thiên hà (galaxies) . Mỗi thiên hà lại có hàng trăm tỷ Hệ
Mặt Trời (Solar System) . Riêng Hệ Mặt Trời của chúng ta có 9 Hành Tinh
trong đó có Địa Cầu (Earth) mà chúng ta đang sống. Các nhà Khoa Học thực
không thể hiểu nổi tại sao cái trứng vũ trụ ban đầu (cosmic egg) vô cùng nhỏ
lại sinh ra một lượng vật chất vô cùng lớn như vũ trụ hiện hữu ? Đúng là một
trò ảo thuật bí hiểm !Thật ra điều nầy cách đây hơn 500 năm Thiền Sư Chân
Nguyên chứng Bát Nhã đã nói ra rồi không phải đợi đến thế kỷ 20 các nhà
Bác Học mới khám phá ra được bằng dụng cụ khoa học :
“Nhất điểm Hư Vô thể bổn không,
Vạn ban Tạo Hóa giá cơ đồng
Bao la thế giới Càn Khôn ngoại
Trạm tịch hàn quang sát hải trung”.
Hay Thiền Sư Đạo Hạnh đời Lý cũng nói :
“Tác hữu trần sa hữu
Vi không nhất thiết không ”.
(Hạt Bụi nầy có thì Vũ Trụ nầy có
Hạt Bụi nầy không, thì cả Vũ Trụ nầy cũng không ).
Các loài Trời hay Người Không Gian (Aliens) dù có thông minh
thông thái gấp ngàn lần người Địa Cầu ,dù cho họ có chế tạo được “Đĩa Bay”
hay UFO đi nhanh bằng vận tốc ánh sáng cũng bất lực hoàn toàn không thể đi
ngang dọc trong Thiên Hà Milky Way (Dải Ngân Hà) của chúng ta. Càng
không thể xuyên vũ trụ với hàng trăm tỷ thiên hà khác, cách chúng ta hàng
chục tỷ năm ánh sáng, trừ khi họ có tuổi thọ hàng tỷ năm ?...Trong khi đó đối
với các Chư Phật 10 phương thì vũ trụ nằm trong lòng bàn tay của các Ngài.
Bởi vì các Ngài đã chứng Bát Nhã ,ngộ nhập Bát Nhã, toàn thể vũ trụ vạn hữu
KIẾN GIẢI CHỨNG ĐẠO CA: “VÔ TRỤ NIẾT BÀN VÀ MA HA BÁT NHÔ
________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________
Thiền Sư HUYỀN GIÁC--Trang | 23 --Kiến Giải: NGỘ THÂM
và Hư Không vô biên cũng chính là Pháp Thân của các Ngài. Do đó các Ngài
không cần đi đâu cả mà vũ trụ Càn Khôn hiện hữu trước mặt các Ngài.
Kinh Hoa Nghiêm có nói :
“Trong một hạt bụi tôi thấy vô số cõi Phật, mỗi cõi Phật có các đấng
Như Lai với hào quang quý báu”.
Thật là lãng mạn khi nhà thơ William Blake đã ảnh hưởng Phật Pháp
như thế nào khi nói ra 4 câu thơ :
“Nhìn vũ trụ trong một hạt cát
Cả Trời Đất thiên đường trong một bông hoa dại
Thâu gọn không gian vô biên trong lòng bàn tay
Và thời gian vô tận trong một giờ”.
(To see the World in a grain of sand
And a Heaven in a wild flower
Hold Infinity in a palm of your hand
And Eternity in an hour).
* Thuyền Bát Nhã rỗng không nhưng ứng cơ sanh ra vạn pháp, ứng cơ
sinh ra Càn Khôn vũ trụ .Nó chuyên chở hay tích chứa Càn Khôn vũ trụ vì nó
rộng lớn vô biên, không thể nghĩ bàn .Còn tất cả Càn Khôn vũ trụ hay sum la
vạn tượng thật ra chỉ là cái Bóng của Bát Nhã .
Bát Nhã cũng gọi là Tự Tánh ,Chân Như hay Như Lai Tạng …..Khi
Lục Tổ Huệ Năng chứng ngộ Bát Nhã với sự khai thị của Ngũ Tổ Hoằng
Nhẫn. Ngài tự thốt lên:
“Không ngờ Tự Tánh vốn tự thanh tịnh
Không ngờ Tự Tánh vốn chẳng sanh diệt
Không ngờ Tự Tánh vốn tự đầy đủ
Không ngờ Tự Tánh vốn chẳng lay động
Không ngờ Tự Tánh hay sanh muôn Pháp”.
Bát Nhã cũng gọi là Pháp Thân, hay sanh muôn Pháp là do tùy duyên
cơ mà ứng hiện. Có vị tăng hỏi Thiền Sư Huệ Hải :
“ Thanh thanh thúy trúc tổng thị Pháp Thân ,uất uất hoàng hoa vô
phi Bát Nhã”?
(Trúc biếc xanh xanh đó có phải là Pháp Thân hay không? Hoa vàng
mịt mịt đó có phải là Bát Nhã hay không ? )
Ngài trả lời :
“ Pháp Thân vô tượng ứng thúy trúc dĩ thành hình, Bát Nhã vô tri
đối hoàng hoa nhi hiển tướng ” .
(Pháp Thân không có tướng ,ứng trúc biếc hiện ra hình ,Bát Nhã vô
tri đối hoa vàng hiện ra tướng ).
KIẾN GIẢI CHỨNG ĐẠO CA: “VÔ TRỤ NIẾT BÀN VÀ MA HA BÁT NHÔ
________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________
Thiền Sư HUYỀN GIÁC--Trang | 24 --Kiến Giải: NGỘ THÂM
Trong Kinh cũng có nói :
- “Chân tượng Pháp Thân do nhược Hư Không , ứng vật tùy hình
như thủy trung nguyệt”.
(Tướng chân thật của Pháp Thân giống như Hư Không ,ứng vật hiện
ra hình giống như Trăng lồng bóng nước ).
Pháp Thân hay Bát Nhã hay Tự Tánh đã sẵn có từ nguyên thủy ,không
sinh không diệt ,không đến không đi:
“Pháp Thân vô khứ vô lai trụ tịch oai nghi bất động , Đức tướng phi
không phi hữu ,ứng tùy cơ dĩ hằng châu”. (Pháp Thân không đến không đi ,đứng yên oai nghi bất động, Đức
tướng không phải không cũng không phải là có ,ứng tùy cơ sanh ra vạn pháp).
* Như vậy Bát Nhã hay Pháp Thân hay Tự Tánh mà Thiền Sư Huyền
Giác hay Lục Tổ Huệ Năng đã chứng ngộ là một “Bửu Vật” trùm khắp Vũ
Trụ Càn Khôn, ẩn nơi hình tượng và Hư Không, linh chiếu tự nhiên, trong
ngoài trống rỗng, phi Phật phi phàm, phi Tâm phi vật, tịch lặng mà vi diệu, sự
dụng tinh vi hoàn mỹ, sức lực ẩn nơi Hư Không, tùy cơ ứng vật mà chẳng
động, vô thân mà ứng thân, vô tướng mà hiển tướng, vô danh mà lập danh, vô
vật mà tạo vật, pháp tự viên mãn, cực năng cực huyền diệu lý, quang minh
siêu Nhật Nguyệt, vượt Càn Khôn, chuyển biến Trời Đất, là “Bộ Máy” vận
hành từ hạt nguyên tử, phân tử, các Genes của muôn loài chúng sanh cây cỏ
cho đến hằng sa tinh tú thiên hà và vũ trụ, thường chiếu thường soi rõ ràng
chân thật, ẩn hiện nơi sum la, thể nhập nơi vạn tượng, hỗn độn mà lập Càn
Khôn, trống rỗng mà hiện vô lượng Pháp Giới, Lý Sự dung thông là bửu ấn
của sum la, chơn tông của vạn tượng, gốc cội của muôn loài muôn vật, vô vi
biến hóa: “Không tức thị Sắc”. Cái “Bửu Vật” vô giá này bình đẳng trùm
khắp Hoa Tạng Pháp Giới, nhưng lại bị chôn vùi trong hầm ngũ ấm lục nhập
của chúng sanh bị Nghiệp Chướng phủ kín sâu dầy đen tối trong vô số kiếp
nên không thể phát sáng lên được, may nhờ Đức Phật đi tiên phong khám phá
ra, rồi chỉ đường truyền cho các Tổ từ Ca Diếp,…Bồ Đề Đạt Ma…cho đến
Lục Tổ Huệ Năng…tiếp tục chỉ đường cho chúng sanh: biết cách tháo gỡ Vô
Minh tẩy sạch Nghiệp Chướng để làm cho nó được hiện bày. Cái “Bửu
Vật” này thể nhập trong Thân Tâm tất cả chúng sanh chính là “Phật Tánh”
bình đẳng với muôn loài, nếu được khơi dậy sẽ xán lạn chói chang, thoát khỏi
luân hồi, an nhiên tự tại, chiếu khắp mười phương, không sinh không diệt, tịch
nhiên chẳng động, sự dụng cảm ứng diệu kỳ, vô Thân mà Đại Thân Đại Ứng
trùm Pháp giới, vô Tâm mà Đại Tâm Đại Trí bất khả tư nghì.
KIẾN GIẢI CHỨNG ĐẠO CA: “VÔ TRỤ NIẾT BÀN VÀ MA HA BÁT NHÔ
________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________
Thiền Sư HUYỀN GIÁC--Trang | 25 --Kiến Giải: NGỘ THÂM
“Ma Ni châu, nhân bất thức,
Như Lai Tàng lý thân thâu đắc
Lục ban thần dụng không bất không,
Nhất lỏa Viên Quang, Sắc phi Sắc”.(Th.S Huyền Giác).
(Ngọc Ma Ni, người có biết,
Như Lai kho ấy thâu trọn hết :
Sáu ban thần dụng không chẳng không,
Một điểm Viên Quang Sắc chẳng Sắc).
*Rốt ráo lại, Bát Nhã hay Pháp Thân hay Tự Tánh mà Lục Tổ Huệ
Năng đã chứng ngộ qua cái cửa Vô Niệm cũng là cái “Ma Ha Bát Nhã” hay
“Vô Trụ Niết Bàn” mà Thiền Sư Huyền Giác chứng ngộ qua cái cửa Vô Vi.
Cái Bát Nhã này vốn tự thanh tịnh, vô sanh, đầy đủ, trùm khắp, bất động lại
hay sanh muôn Pháp, nó làm phải rồi làm trái con Người mù tịt, nó làm ngược
rồi làm xuôi cả loài Trời cũng không biết nổi và Bát Nhã chính là cái Bản Thể
của Vũ Trụ hiện hữu bao gồm cả Tam Giới và sum la vạn tượng. Người nào
chứng được nó thì Tự Thể khế hợp với Chơn Nhất, huyền chỉ tự thông, sáng tỏ
cái Lý Như Như của vạn Pháp, bình đẳng hòa nhập với Hoa Tạng Pháp Giới
và Hư Không, hiển bày Pháp Yếu của Đại Đạo, đạt đến Vô Sanh…trở thành
một Đạo Nhân nhàn : “Tuyệt học Vô Vi nhàn Đạo Nhân”.
KIẾN GIẢI CHỨNG ĐẠO CA: “VÔ TRỤ NIẾT BÀN VÀ MA HA BÁT NHÔ
________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________
Thiền Sư HUYỀN GIÁC--Trang | 26 --Kiến Giải: NGỘ THÂM
PHẦN 2
TÂM VÀ TÁNH
KIẾN GIẢI CHỨNG ĐẠO CA: “VÔ TRỤ NIẾT BÀN VÀ MA HA BÁT NHÔ
________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________
Thiền Sư HUYỀN GIÁC--Trang | 27 --Kiến Giải: NGỘ THÂM
Kinh Kim Cang có nói :
“Tam Giới duy Tâm, vạn Pháp duy thức”.
Vậy Tâm sinh ra Tam Giới như thế nào ?
Thật ra Tâm (ở đây là Chân Tâm) chỉ là cái Ánh Sáng hay cái Rõ do
Bát Nhã chiếu ra như “Viên Ngọc Ma Ni” phát ra ánh sáng tự nhiên . Ánh
sáng đó không phải là Viên Ngọc nhưng không rời Viên Ngọc. Ánh sáng này
không phải là ánh sáng năng lượng vật chất ( sóng hạt photon ánh sáng) do
phản ứng nhiệt hạch từ lòng Mặt Trời hay các thiên hà chiếu ra, hay ánh sáng
do dòng điện phát ra từ điện trở (resistance) hay sự đốt cháy từ vật chất…mà
là cái Linh Quang hay cái Ánh Rõ vi diệu của Bát Nhã. Bát Nhã thì
Rỗng,Trong, không có một vật, nhưng lại có cái Ánh Rõ linh và diệu.Vì Viên
Ngọc quá lớn ,trùm khắp nên ánh sáng đó thay vì chiếu ra ngoài lại chiếu vào
bên trong Viên Ngọc .Như vậy ở đâu có ánh sáng Viên Ngọc hay là Tâm ,thì ở
đó có sự hiện hữu của Viên Ngọc hay là Bát Nhã .Nói ngược lại ở đâu có Bát
Nhã thì ở đó có Tâm .Nhưng Ma Ha Bát Nhã thì trùm khắp Hư Không vô biên
,do đó Tâm cũng trùm khắp Hư Không vô biên và nói cho cùng chính Hư
Không vô biên cũng chính là Tâm hay Bát Nhã tùy theo mức độ chứng ngộ
của hành giả.
Bát Nhã cũng gọi là Tánh hay là TỰ TÁNH . Như vậy ,nhận biết được
TÁNH là nhờ ánh sáng của TÁNH phát ra tức là TÂM. TÂM ở đây tức là
Chân Tâm tức là cái Ánh sáng hay Ánh Rõ của Bát Nhã hay Tánh chiếu ra .
Ánh Rõ của Bát Nhã chính là Chân Tâm hay là cái Tâm Gốc lại chiếu
ra cái Bóng của nó sinh ra vũ trụ và thế giới như Kinh Kim Cang có nói:
“Tam giới duy Tâm”, Kinh Hoa Nghiêm cũng nói: “Nhất thiết duy Tâm tạo”.
Chân Tâm hay (Gốc Tâm) lại sinh ra vô số (Ngọn Tâm) với vô số (Cành Lá
Tâm) như là sum la vạn tượng tràn ngập trong Hư Không và sơn hà đại địa với
đủ mọi sắc thái vạn vật chúng sinh. Như vậy quả thật Tâm là một nhà ảo thuật
đại tài nơi Hư Không, tùy sức ảo thuật biến hóa ra đủ thứ hình tượng. Người
Mê tưởng rằng hằng sa tinh tú, Trời Đất, sơn hà, đại địa trong Hư Không là do
Thượng Đế hay một Thần Linh nào đó tạo ra với nhiều phép lạ, nên ra sức cầu
xin cúng tế để được ban ân. Họ không ngờ rằng chính Tâm làm ra tất cả, ngay
cả hiện ra Phật, ra ma, hay quỷ thần…Cho nên có người niệm Phật thì Phật
hiện, niệm Tăng thì Tăng hiện, do đó tưởng rằng huyền cơ linh ứng. Sự thật là
phi Phật phi phi Phật mà hiện nơi Phật, phi Tăng phi phi Tăng mà hiện nơi
Tăng. Vì người niệm có Tâm hy vọng được hiện nên bất giác tự Tâm hiện ra
Phật hay hiện ra Tăng. Nhà Phân Tâm Học người Áo: Sigmund Freud có phân
chia cái Tâm người ra làm 3 phần: Id (Bản Năng hay Bản Ngã), Ego (Tự
Ngã), và Superego (Siêu Ngã). Trong giấc ngủ, không bị cái Ego và Superego
KIẾN GIẢI CHỨNG ĐẠO CA: “VÔ TRỤ NIẾT BÀN VÀ MA HA BÁT NHÔ
________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________
Thiền Sư HUYỀN GIÁC--Trang | 28 --Kiến Giải: NGỘ THÂM
kiềm chế, nên cái Id (Bản Ngã) được tự do thao túng hiện ra cái tướng vọng
sinh ra giấc mơ (dream) để thỏa mãn cho cái ngã, hay cái bản năng ham muốn,
cái dục vọng, lời cầu xin ao ước, hay cái tâm niệm hành trì hằng ngày. Do đó
cái thấy, cái được, cái cảnh trong giấc mơ hay trong một lúc ảo giác nào đó chỉ
là vọng tưởng. Tuy nhiên cũng có trường hợp Tâm - Tâm tương ứng không
bàn nơi đây. Tâm từ gốc ra cành lá và ngọn tâm thì năng động và biến hóa ra
đủ thứ vọng tưởng tài tình, lạ kỳ lúc ngược lúc xuôi, muôn hình vạn trạng.
Cho nên Kinh có nói: “Tâm như nhà ảo thuật, ý như người phụ tá, ngũ thức
là bạn bè, vọng tưởng là người xem”.
Đại Sư Tăng Triệu luận giải trong Bửu Tạng Luận như sau:“Ví như có
người tự làm khuôn hình nơi lò đúc, vuông tròn lớn nhỏ tùy theo ý muốn, vàng
chảy vào khuôn làm ra hình tượng, hình tượng tùy theo ý muốn mà thành, kỳ
thực bản thể của vàng ròng phi tượng phi phi tượng mà hiện nơi tượng, kẻ
niệm Phật, niệm Tăng cũng vậy. Người đúc vàng dụ cho đại trí của Như Lai;
khuôn hình dụ cho Pháp Thân của chúng sanh, vì trong Tâm mong cầu thấy
Phật, nên nhờ nhân duyên niệm Phật, được hiện ra đủ thứ thân tướng, mà
chẳng biết Pháp Thân phi tướng phi phi tướng. Sao gọi phi tướng? Vốn chẳng
có tướng nhất định vậy. Sao gọi phi phi tướng? Vì có chư tướng duyên khởi.
Pháp Thân phi hiện phi phi hiện, lìa Tánh và vô Tánh, phi hữu phi vô, chẳng
tâm chẳng ý, chẳng thể so đo suy lường. Phàm phu tùy theo vọng tưởng cho là
thấy Phật, xưa nay chấp thật ngoài Tâm có Phật, chẳng biết do tự Tâm vọng
hiện mà có; hoặc nói ngoài Tâm chẳng Phật, ấy là phỉ báng chánh pháp. Nên
Kinh nói: “Cảnh giới của bậc thánh lìa phi hữu phi vô, chẳng thể đo lường,
nếu chấp thật có thật không, tức lọt vào nhị biên, cũng là tà vọng. Tại sao
? Vì vọng sanh nhị kiến, sai trái với Chân Lý vậy”.
Có người ở trong kho vàng chỉ thấy vàng, biết vàng, biết tất cả các
tướng đều là vàng mà không để ý tới các hình tướng vàng đã đúc sẵn với đủ
mọi hình thù tướng mạo lạ kỳ đẹp xấu, không bị mê hoặc bởi cái tướng vàng,
mà chỉ luôn nhìn thấy duy nhất cái bản thể là vàng nên lìa khỏi hư vọng, hòa
hợp làm một, khế hợp Chân Nhất – đây là cái thấy của bậc Thánh. Có người
chỉ chú ý đến cái tướng vàng với đủ mọi hình thù xinh đẹp, phân biệt tốt xấu,
lớn nhỏ giá trị, cân nặng…làm mất tánh vàng chỉ thấy sắc tướng, mê muội bản
tánh, chấp kiến điên đảo, vọng tưởng nghi hoặc, hình tướng phân biệt ngăn
cách – đây là cái thấy của phàm phu. Cái thấy của phàm phu thì Tâm và Cảnh
phân biệt trên Tướng nên là hư vọng mê hoặc, trôi lăn theo lục đạo luân hồi.
Còn cái thấy của bậc Thánh thì Tâm và Cảnh nhất Như trên Tánh, khế hợp với
Chơn Nhất nên được giải thoát.
KIẾN GIẢI CHỨNG ĐẠO CA: “VÔ TRỤ NIẾT BÀN VÀ MA HA BÁT NHÔ
________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________
Thiền Sư HUYỀN GIÁC--Trang | 29 --Kiến Giải: NGỘ THÂM
Tánh sinh ra Tâm hay vạn pháp thì vẫn thanh tịnh, vẫn không lay
động, không tăng không giảm, vẫn tự đầy đủ, sanh như huyễn sanh, tức là
sanh mà coi như Không sanh, tức vô sanh. Lục Tổ Huệ Năng đã từng chứng
ngộ được điều này: “ Không ngờ Tự Tánh hay sanh muôn Pháp”. Tuy hay
sanh ra muôn Pháp, “nhưng vốn chẳng lay động,…vốn tự đầy đủ…vốn tự
thanh tịnh…”
Tứ Tổ Đạo Tín khi truyền Chánh Pháp Nhãn Tạng cho Ngũ Tổ Hoằng
Nhẫn cũng từng nói kệ về cái sanh sanh mà vô sanh này của Tự Tánh:
“Hoa chủng hữu sanh Tánh,
Nhân Địa, hoa sanh sanh.
Đại duyên dữ tín hiệp
Đương sanh sanh bất sanh”. (Tổ Đạo Tín)
(Giống hoa có Tánh sống,
Nhân Đất, hoa nảy mầm.
Duyên lớn cùng tín hợp,
Chính sanh, sanh chẳng sanh).
Tâm sinh ra Tâm hay vạn pháp thì ngược lại: lay động sinh diệt, tăng
giảm giống như “Mẹ sanh”, khác với “Huyễn sanh” của Tánh. Nghĩa là phải
bị mất đi một phần máu thịt tế bào trong cơ thể, hoặc phải biến dịch, thay đổi,
tăng giảm lớn nhỏ…Thí dụ “Dị Điểm” Big Bang sinh ra vũ trụ thì phải TÁC
động, biến dịch và bành trướng từ nhỏ đến lớn…Thực vật sinh ra cây con thì
phải mất một phần hạt giống hay một phần rễ cành nhựa sống khi chiết ra cây
con….Nguyên Tử sinh ra Phân Tử vật chất: Đất Nước Gió Lửa thì phải Tác
động, hóa hợp, hấp dẫn, xúc tác, kết nạp…
Cái “Thân” của Tâm như một tàng cây to, có cái Gốc Rễ thì vững
chắc bất động, chẳng sinh diệt (có những cây cổ thụ sống cả ngàn năm), rồi
phân chia ra nhánh và nhiều cành cho tới cái ngọn vô số lá cây. Cành và lá so
với Gốc Rễ thì sinh diệt, mỗi năm lá rụng rồi tái sinh ra cành lá mới. Cành và
lá thì chuyển động theo chiều gió, còn Gốc Rễ thì hầu như bất động. Tâm
cũng vậy, Gốc Tâm hay Chân Tâm thì bất động, chẳng sinh diệt chính là cái
Ánh Sáng của Tánh, hay cái Ánh Sáng của “Viên Ngọc Ma Ni” là cái Ánh Rõ
của Bát Nhã, cũng gọi là Mặt Trăng thứ hai. Chứng ngộ đến Mặt Trăng thứ
hai xem như đạt đến Vô Sanh, đụng tới Tánh, tuy chưa phải là triệt ngộ. Còn
vô số cành lá của Tâm, là ngọn Tâm thì chuyển động, sinh diệt, luân
hồi…được xem là Tâm Mê của chúng sanh. Như vậy muốn đi tìm Chân Lý
Giải Thoát để đạt đến Vô Sanh thì phải phăng ngược về cái Gốc của Tâm, tức
là phăng về cái Rõ của Tự Tánh, cái Vô Vi để thấy Tánh, ngộ nhập vào Tánh
thành Phật. Còn chúng sanh Mê với cành lá và ngọn Tâm vì chấp ngã, chấp
KIẾN GIẢI CHỨNG ĐẠO CA: “VÔ TRỤ NIẾT BÀN VÀ MA HA BÁT NHÔ
________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________
Thiền Sư HUYỀN GIÁC--Trang | 30 --Kiến Giải: NGỘ THÂM
tướng, bị Vô Minh che mờ, nên lại đi ngược đường ra cái ngọn Tâm, cứ sinh
sinh diệt diệt mãi mãi như những chiếc lá ở ngọn cây, không có đường giải
thoát. Cứ chạy theo 6 trần của thế gian, bị thế gian cuốn hút tức là đang đi ra
cái ngọn Tâm. Vì chấp ngã chấp thân chấp tướng nên Chiếc Lá tưởng rằng cái
“Tướng Lá” chính là thân mình và mình có sinh tử ; còn cái Thân Cây, Gốc
Cây có cái tướng khác mình chắc không phải là mình nên bỏ qua không để ý
tới. Nếu Chiếc Lá biết tư duy phăng tìm mãi cái Thân thật của mình là gì, đi
ngược về Gốc không mãi mê trụ nơi cái Ngọn, thì dần dần sẽ phát hiện ra:
chính ta không có cái ngã của Chiếc Lá, mà Thân Cây là ta rồi tiến tới Gốc
Cây là ta, cũng không trụ nơi đây; Đất Nước Gió Lửa nuôi dưỡng cây là ta,
cũng không trụ nơi đây, vượt qua luôn hình tướng vật chất, chính cái Hư
Không hay cái Không Rốt Ráo này là ta. Khi đó chợt hiểu ra ta không phải là
Chiếc Lá cũng không phải là cái Thân Cây cổ thụ to lớn, cũng không phải là
Đất mà chính là cái Hư Không, cái Không Rỗng Rang vi diệu, không sinh
diệt, nên không còn phải lo lắng việc sinh tử mà đã thức tỉnh và an lạc.
“Nhân nhân tận thức Vô Vi lạc,
Nhược đắc Vô Vi thủy thị Gia”.
(Người người tận biết Vô Vi lạc,
Nếu được Vô Vi mới là Nhà).
Biết đến tận gốc là cái Vô Vi hay cái Không rốt ráo này chính là Nhà
mình thì đã an lạc rồi, không còn sợ sệt việc sinh tử. Tuy nhiên, biết rõ vấn đề
chưa đủ, cần phải ngộ nhập được cái Vô Vi hay cái Không này rồi mới thật sự
là đã về Nhà.
Tuy vũ trụ và thế giới chúng sanh là cái Bóng do Chân Tâm hay cái
RÕ của Tánh, của Bát Nhã biến chiếu ra, nhưng chúng sanh lại nhìn thấy nó
Như Thật, có Sắc Tướng có Vật Thể cứng chắc. Đó là cái thấy của Nghiệp
Thức chúng sanh, đứng ở trong Nghiệp thì nhìn thấy có Sắc Tướng, có Vật
Thể Như Thật, nhưng đứng về phía Tánh hay Bát Nhã nhìn ra thì thấy nó
Không, chỉ là cái Bóng giả tạo không có thật. Chẳng hạn như trong giấc chiêm
bao thấy có Thân thật, có Thế Giới thật, nhưng khi thức dậy, tất cả đều biến
mất, không có một dấu vết. Ngay cả cái nhìn ở trong Nghiệp với nhau cũng có
sự khác biệt. Chẳng hạn như Bức Tường, người thường thì nhìn thấy nó đặc
cứng liền lạc, nhà Bác Học với kính hiển vi thì thấy nó rỗng rang rời rạc, chỉ
có các hạt năng lượng cấu kết với nhau, nhưng Chư Phật thì nhìn thấy nó là
Không ( không có cả những hạt năng lượng).
TÁNH là BẢN THỂ ví như MẶT TRĂNG “MỘT”, TÂM là HIỆN
TƯỢNG ví như BÓNG TRĂNG hiện ra vô số trên mặt nước sông hồ .Nói
KIẾN GIẢI CHỨNG ĐẠO CA: “VÔ TRỤ NIẾT BÀN VÀ MA HA BÁT NHÔ
________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________
Thiền Sư HUYỀN GIÁC--Trang | 31 --Kiến Giải: NGỘ THÂM
ngắn gọn TÁNH là THỂ còn TÂM là DỤNG của TÁNH. Nhờ DỤNG mà biết
được THỂ. Thấy DỤNG là biết được có THỂ .Vì chúng sanh không biết
được THỂ cho nên phải qua DỤNG mới biết được THỂ, hay là phải qua
TÂM mới biết được TÁNH. Cho nên Bồ Đề Đạt Ma nói : “Trực chỉ nhân
Tâm, kiến Tánh thành Phật ” . TÂM người với Tâm của vũ trụ hay Hư
Không là MỘT. TÂM thì có TƯỚNG ,nhỏ như hạt bụi ,lớn như hòn núi, Mặt
Trời, Mặt Trăng hay trùm khắp như Hư Không ,còn TÁNH thì VÔ TƯỚNG
bất động .
Ánh sáng hay Ánh Rõ do Tánh hay Bát Nhã chiếu ra thì MINH và
DIỆU (Bản Giác Minh Diệu, Kinh Lăng Nghiêm). MINH nên nó rõ ràng
chân thật và DIỆU nên nó sanh ra vạn pháp huyền hoặc khó hiểu nhưng tài
tình lạ kỳ. Còn Ánh Sáng của TÂM thì lại DIỆU và MINH (Tánh Giác Diệu
Minh, Kinh Lăng Nghiêm). DIỆU nên nó sinh ra vạn pháp và chúng sinh với
cái Tánh Giác “biết” ít hay nhiều là tùy Nghiệp, gọi chung là Tâm năng
động. Loài động vật, thực vật cây cỏ cũng có cái Tánh Giác “biết”. Ngay cả
vật chất cũng vậy, như các hạt electrons “biết” chuyển động quay tròn chung
quanh một Nhân để sinh ra một nguyên tử vật chất; một tế bào trứng đơn độc
(egg cell) với bộ “Gene” chứa phân tử DNA, “biết” cấu trúc tạo ra một cơ
thể người, động vật hay thực vật với đầy đủ các cơ quan tinh vi có chức năng
riêng biệt. Những sự kiện này thật là Diệu, tuy nhiên đó là do bàn tay của
Nghiệp lực nắn tạo ra. Còn cái Minh của chúng sinh thông qua Sáu Căn rồi
mới Minh, thì cái Minh này không còn Minh nữa mà đã bị điên đảo. Chẳng
hạn như Ánh Sáng Mặt Trời ( giả dụ cho cái Ánh Rõ Bát Nhã) có đầy đủ năng
lực, nhưng đã chạm vào Mặt Trăng ( giả dụ cho Thân Tâm chúng sinh), rồi
Mặt Trăng phản chiếu về Trái Đất, thì cái Ánh sáng của Mặt Trăng này hết
năng lực, không còn có thể mồi để lấy Lửa được nữa, bị mê mờ vì Nghiệp
chướng, vọng tưởng che phủ ,cho nên cái MINH của cành lá hay ngọn TÂM
bị mù tối vẫn đục. Bởi vì từ Mặt Trăng nhìn về Trái Đất hay từ Thân Tâm
chúng sinh nhìn ra Sự Vật qua 6 căn ( thấy nghe hiểu biết xúc chạm…) rồi
mới Minh thì Ánh Sáng “Minh” này đã đi qua cái “Thấu Kính Nghiệp” của
từng loài chúng sinh nên đã bị “Khúc Xạ” theo Nghiệp, và “nhìn ra” cái
Ngọn Tâm, chứ không “nhìn ngược về” cái Gốc Tâm, nên cái nhìn này bị
méo mó, sai lệch, điên đảo, xa rời Chân Lý. Muốn trở về cái Gốc Tâm, thì
không “nhìn ra” Sự Vật của Thế Gian nữa, tức là không “nhìn xuôi” theo
Nghiệp Thức với cái “Thấu Kính Nghiệp” là cái nhìn của Lục Căn ra Lục
Trần, cái nhìn theo chiều của Ánh Sáng từ Mặt Trăng về Trái Đất hay theo
chiều của Thân Tâm “nhìn ra” Sự Vật của Thế Gian; mà nhìn “ngược trở
lại”, tức “nhìn vào” Thân Tâm chính mình để phăng tìm cái Ánh Sáng từ Mặt
Trời chiếu về Mặt Trăng, hay cái Ánh Rõ của Bát Nhã chiếu vào Thân Tâm để
KIẾN GIẢI CHỨNG ĐẠO CA: “VÔ TRỤ NIẾT BÀN VÀ MA HA BÁT NHÔ
________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________
Thiền Sư HUYỀN GIÁC--Trang | 32 --Kiến Giải: NGỘ THÂM
nhận ra Tự Tánh. Tổ Bồ Đề Đạt Ma đã chỉ cái “nhìn vào” này: “Trực chỉ
Nhân Tâm, kiến Tánh thành Phật”.
Vì chỉ “nhìn xuôi” theo Nghiệp Thức, tức “nhìn ra” cái Ngọn Tâm,
nên cái Minh của TÂM chúng sinh với cái “Tánh Giác Diệu Minh” trong lục
đạo luân hồi bị bức màn Vô Minh làm cho điên đảo nên không còn MINH
nữa, do đó không thấy được sự thật hay Chân Lý. Nghiệp báo ,nhân quả ,vọng
tưởng làm cho TÂM mê mà sinh ra thế giới tức Y Báo và chúng sinh mọi loài
tức là CHÁNH BÁO.
Chúng sinh “người” mang cặp mắt kính nghiệp “người ” sống trong
Y Báo: “thế giới loài Người” thì thấy và hiểu biết theo “ thức nghiệp
người”. Chúng sanh loài “thú” mang cặp kính nghiệp “thú” sống trong Y
Báo : “thế giới loài thú” thì thấy và hiểu theo “thức nghiệp thú”. Chừng nào
cởi bỏ hết Cặp Kính Nghiệp Vô Minh, không nhìn ra cái ngọn nữa mà nhìn
ngược trở lại cái Gốc trở về cái “CHÂN TÂM” trong sáng ( tức Ánh Sáng Mặt
Trời, hay cái Ánh Rõ Bát Nhã) thì mới thấy được Sự Thật hay Chân Lý.
Như vậy TÂM mê thì sanh ra thế giới vạn hữu ,TÂM ngộ thì trở về
TÁNH hay BÁT NHÃ. Ngộ nhập BÁT NHÃ thì vạn hữu biến mất ,ngay cả
nguồn TÂM cũng biến mất nhập vào TÁNH thành PHI TÂM .
“Mộng lý minh minh hữu lục thú
Giác hậu không không vô đại thiên”.
(Thiền Sư Huyền Giác).
(Trong mộng lao xao bày sáu nẻo
Tỉnh ra bằng bặt chẳng ba nghìn).
TÁNH và TÂM liên đới không rời ,những gì TÂM làm ra thì cũng
giống như TÁNH làm ra .TÁNH hay Ma Ha Bát Nhã sinh ra vạn pháp thì vẫn
uy nghi bất động ,vẫn tự đầy đủ, sanh ra mà như không sanh tức “Huyễn
sanh”. Còn TÂM sinh ra vạn pháp thì tăng giảm lớn nhỏ, biến dịch, sinh diệt
giống như là “Mẹ sanh”. Xét cho cùng thì thật ra TÂM cũng không có ,chỉ là
cái Bóng của TÁNH. TÂM đã không thì thế nào lại còn hỏi TÂM sanh hay
TÁNH sanh ? Tuy nhiên về mặt Dụng của pháp thế gian thì xem như Tâm
sanh. Còn về mặt Thể của pháp Tánh thì xem như Tánh sanh, nhưng sanh mà
không sanh, tức vô sanh. Vì “ Tự Tánh vốn tự thanh tịnh nhưng hay sanh
muôn pháp”. Như vậy mới đầy đủ cái năng lực của Tự Tánh bao gồm cả hai
mặt Thể và Dụng như một cái Thân có đủ hai cánh tay Mặt và Trái: Chân
Không và Diệu Hữu.
*Sự khám phá đường TÂM đến tận Gốc hay Chân Tâm là trở về cái
Ánh Rõ do Bát Nhã hay Tự Tánh chiếu ra . Đó cũng là cái mà Tổ Bồ Đề Đạt
KIẾN GIẢI CHỨNG ĐẠO CA: “VÔ TRỤ NIẾT BÀN VÀ MA HA BÁT NHÔ
________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________
Thiền Sư HUYỀN GIÁC--Trang | 33 --Kiến Giải: NGỘ THÂM
Ma khai thị : “Trực chỉ nhân Tâm kiến Tánh thành Phật”. Đi tuyệt cùng
đường Tâm cho tới tận Gốc là Chân Tâm là đang tới cửa BÁT NHÃ, cửa
NIẾT BÀN ,cửa TỰ TÁNH ,cửa TÁNH, cửa Vô Vi hay cửa Không .Còn một
bước nhảy vọt qua cửa hay đầu sào trăm trượng là vào đất Như Lai ,ngộ nhập
BÁT NHÃ ,thấy được TỰ TÁNH.
“Tranh tự Vô Vi Thực Tướng môn,
Nhất siêu trực nhập Như Lai Địa”.
Bài Thơ “PHẬT TÂM CA” của Tuệ Trung Thượng Sĩ cũng khai
Tâm đến chỗ tận đầu nguồn như Tổ Đạt Ma đã khai thị hay cái cửa Vô Vi của
Thiền Sư Huyền Giác, là “đỉnh Tỳ Lô” nhảy thẳng vào đất Như Lai:
“Phật! Phật! Phật! bất khả kiến!
Tâm! Tâm! Tâm! bất khả thuyết!
Nhược Tâm sanh thời thị Phật sanh,
Nhược Phật diệt thời thị Tâm diệt.
Diệt Tâm tồn Phật thị xứ vô,
Diệt Phật tồn Tâm hà thời yết.
Dục tri Phật Tâm sanh diệt Tâm,
Trực đãi đương lai Di Lặc quyết”.
(Phật! Phật! Phật! không thể thấy!
Tâm! Tâm! Tâm! không thể nói!
Khi Tâm sanh tức là Phật sanh,
Bằng Phật diệt là lúc Tâm diệt.
Diệt Tâm còn Phật chuyện không đâu,
Diệt Phật còn Tâm bao giờ hết.
Muốn biết Tâm Phật, Tâm sanh diệt,
Hãy chờ Di Lặc sau sẽ quyết).
Phật gốc thì không có thể thấy vì đã nhập vào Tánh là Vô Tướng, còn
Tâm gốc thì không có thể nói, vì nó bất khả tư nghì là cái Ánh Sáng Bát Nhã
linh diệu. Cái Tâm này sanh ra Phật mà cũng sanh ra chúng sanh và vạn pháp.
Khi Phật diệt thì Tâm cũng diệt vì đã nhập vào Tánh thành Phi Tâm Phi Phật.
Tâm đã tịch diệt rồi mà còn Phật Tướng là chuyện không đâu. Phật đã tịch diệt
rồi mà còn Tâm Phật với cái Tướng thế gian là không đúng. Muốn biết rõ Tâm
Phật và cái Tâm sanh diệt này, hãy đợi Phật Di Lặc ra đời sẽ quyết định. Ý
Ngài Tuệ Trung muốn nói là phải “chứng ngộ” thì sẽ rõ Tâm và Phật, còn
chưa ngộ thì có giải thích cho đến khi Phật Di Lặc ra đời cũng chưa thông
…Ngài giải thích tiếp:
KIẾN GIẢI CHỨNG ĐẠO CA: “VÔ TRỤ NIẾT BÀN VÀ MA HA BÁT NHÔ
________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________
Thiền Sư HUYỀN GIÁC--Trang | 34 --Kiến Giải: NGỘ THÂM
“Tích vô Tâm, kim vô Phật,
Phàm Thánh Nhân Thiên như điện phất.
Tâm thể vô thị diệc vô phi,
Phật Tánh phi hư hựu phi thực.
Hốt thời khởi, hốt thời chỉ,
Vãng cổ lai kim đồ nghĩ nghị.
Khởi duy mai một tổ tông thừa,
Cánh khởi yêu ma tự gia túy.
Dục cầu Tâm, hưu ngoại mích,
Bản thể như nhiên tự không tịch.
Niết Bàn sanh tử mạn la lung,
Phiền não Bồ Đề nhàn đối địch”.
(Xưa không Tâm, nay không Phật,
Phàm Thánh Trời Người như điện phất.
Tâm thể không thị cũng không phi,
Phật Tánh chẳng hư cũng chẳng thực.
Bỗng dưng khởi, bỗng dưng dừng,
Xưa nay qua lại luống lẩn quẩn.
Há chỉ chôn vùi nếp tổ tông,
Lại khiến yêu ma vào nhà lộng.
Muốn cầu Tâm, chớ tìm ngoài,
Bản thể như nhiên vốn không tịch.
Niết bàn sanh tử buộc ràng suông,
Phiền não Bồ Đề hư giả nghịch).
Thời “vô thủy vô minh” không có Tâm, chỉ có cái Chơn Tánh Nhất
Như. Phật Thích Ca xuất hiện cách đây hơn 2500 năm, nay cũng không còn.
Đời sống của Phàm Thánh Trời Người thì thật là ngắn ngủi như tia điện chớp
so với cái Vô Sanh vô thủy vô chung của Phật Tánh. Bản Thể của Tâm chẳng
phải có mà cũng chẳng phải là không có. Khi ngộ đạo thì nó là cái Không vô
hình tướng, là Phi Tâm, nhập vào Tánh; khi mê thì nó lăng xăng, đầy phiền
não với cái Vọng Tâm. Còn Phật Tánh hay là Tánh thì chẳng hư mà cũng
chẳng thực vì người mê thì không thấy nó, không biết nó; người ngộ thì thấy
Tánh là cái Chơn Nhất hòa nhập với tất cả Tánh, dung thông và bình đẳng với
tất cả Tánh. Tánh hay Tự Tánh thì hay sanh muôn pháp bằng cách ảo hóa.
Nhưng cũng do Vô Minh khuấy động mà Chơn Tánh bị che mờ và Tâm động
hiện tướng thế gian mê, rồi nhân quả nghiệp báo theo sau, vòng luân hồi sanh
tử từ đó mà lẩn quẩn quay cuồng chôn vùi làm mất đi cái nếp tổ tông yên định
của “Căn Nhà Xưa” là Bát Nhã Chân Như, hay Phật Tánh, che mờ đi cái
KIẾN GIẢI CHỨNG ĐẠO CA: “VÔ TRỤ NIẾT BÀN VÀ MA HA BÁT NHÔ
________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________
Thiền Sư HUYỀN GIÁC--Trang | 35 --Kiến Giải: NGỘ THÂM
Chơn Nhất khiến yêu ma vào căn nhà lộng, tức là tà vọng quay cuồng điên
đảo. Muốn trở về Căn Nhà Xưa, tức ngộ nhập Tánh thì phải cầu ngay chính
Tâm mình, không cầu Phật bên ngoài. Bản Thể của tất cả Pháp thế gian là
Không tịch như nhiên, rỗng suốt mà vi diệu. Niết Bàn hay sinh tử chẳng cách
nhau xa, chỉ khác là ở mê hay ngộ, việc sinh tử luân hồi không có sự ràng
buộc vĩnh viễn. Phiền não và Bồ Đề thì hư giả nghịch, nghĩa là không đối chọi
nhau mà là một, có thể nói Phiền Não tức Bồ Đề; vì có Phiền Não con người
mới chịu tỉnh thức mà đi tìm Đạo và một khi đã thức tỉnh giác ngộ thì đó
chính là Bồ Đề. Ngài Tuệ Trung diễn giải tiếp:
“Tâm tức Phật, Phật tức Tâm,
Diệu chỉ linh minh đạt cổ câm.
Xuân lai tự thị xuân hoa tiếu,
Thu đáo vô phi thu thủy thâm.
Xả vọng Tâm, thủ chân tánh,
Tợ nhân tầm ảnh nhi vong kính.
Khởi tri ảnh hiện kính trung lai,
Bất giác vọng tùng chân lý bính.
Vọng lai phi thực diệc phi hư,
Kính thọ vô tà diệc vô chính”.
(Tâm tức Phật, Phật tức Tâm,
Linh diệu chiếu cùng kim cổ thông.
Xuân đến, tự hoa xuân mỉm miệng,
Thu về, đâu chẳng nước thu trong.
Bỏ vọng Tâm, giữ chân tánh,
Khác nào tìm ảnh mà quên kính.
Nào hay ảnh vốn tự gương ra,
Chẳng biết vọng do từ chân hiện.
Vọng lên chẳng thực cũng chẳng hư,
Gương nhận không tà cũng không chính).
Tâm là Phật, Phật cũng là Tâm và cái Tâm này là Tâm rốt ráo đầu
nguồn. Tâm này là Ánh Sáng Bát Nhã linh diệu soi chiếu từ cổ chí kim khắp
tất cả Pháp Giới, từ gốc tới ngọn cho tới cây cỏ muôn loài chúng sanh, tự tại
như nhiên, như xuân đến thì hoa xuân nở rộ, thu sang thì nước hồ thu tỉnh lặng
trong suốt. Vọng Tâm hay Chân Tâm cũng từ một Gốc Tâm mà ra, không cần
phải cầu Chân bỏ Vọng, giống như tìm ảnh mà quên kính chẳng biết rằng ảnh
vốn từ gương mà ra. Cũng vậy Vọng tức từ Chân mà hiện. Vọng Tâm hiện ra
chẳng thực cũng chẳng hư, có sinh thì có diệt; còn Gương Tâm thì “Vô Tâm”
KIẾN GIẢI CHỨNG ĐẠO CA: “VÔ TRỤ NIẾT BÀN VÀ MA HA BÁT NHÔ
________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________
Thiền Sư HUYỀN GIÁC--Trang | 36 --Kiến Giải: NGỘ THÂM
chẳng tà cũng chẳng chính, vô phân biệt, có thế nào thì hiện ra thế ấy, tịch
lặng mà chiếu soi…
“Dã vô tội, dã vô phúc,
Thác tỷ Ma Ni kiêm bạch ngọc.
Ngọc hữu hà hề châu hữu lỗi,
Tánh để vô hồng diệc vô lục.
Diệc vô đắc, diệc vô thất,
Tứ thập cửu lai thị thất thất.
Lục độ vạn hạnh hải thượng ba,
Tam độc cửu tình không lý nhật”.
Vẫn không tội, vẫn không phúc,
Lầm sánh Ma Ni cùng bạch ngọc.
Ngọc có vết chừ châu có tỳ,
Tánh vốn không hồng cũng không lục.
Cũng không được, cũng không mất,
Bốn mươi chín ấy là thất thất.
Sáu độ muôn hạnh: biển sóng trào,
Ba độc chín tình: giữa không nhật).
Chứng ngộ Tánh, Phật Tánh hay viên ngọc Ma Ni thì không kể tội hay
là phước, không còn nhân quả nghiệp báo, không chúng sanh thọ giả đạt đến
Vô Sanh. Đừng lầm Ngọc Ma Ni (tức Tánh Phật) với bạch ngọc thường tình
của thế gian. Vì bạch ngọc còn có tỳ, châu báu còn có vết, còn viên Ngọc Ma
Ni thì không tỳ vết, không màu sắc, hoàn toàn rỗng rang trong suốt. Đạt được
Phật Tánh : không được mà cũng không mất. Không được vì mọi chúng sanh
đều có sẵn Phật Tánh vì mê mà không nhận ra, không mất vì nó vẫn hiện tiền
trùm khắp và bình đẳng trùm khắp cả Pháp Giới, đâu đâu cũng có nó. Khi ngộ
mới biết rằng mình đang ở sẵn trong căn nhà Tánh mà xưa nay không hay
biết ! Và khi ngộ Tánh thì “sáu độ, muôn hạnh” tự đầy đủ như biển sóng
trào ; Tham Sân Si, Lục Dục, Chín Tình của thế gian không còn…
“Mặc! Mặc! Mặc! Trầm! Trầm! Trầm!
Vạn pháp chi Tâm tức Phật Tâm.
Phật Tâm khước dữ ngã Tâm hiệp,
Pháp nhĩ như nhiên cắng cổ câm.
Hành diệc thiền, tọa diệc thiền,
Nhất đóa hồng lô hỏa lý liên.
Một ý khí thời thiêm ý khí,
Đắc an tiện xứ thả an tiện”.
(Lặng! Lặng! Lặng! Chìm! Chìm! Chìm!
KIẾN GIẢI CHỨNG ĐẠO CA: “VÔ TRỤ NIẾT BÀN VÀ MA HA BÁT NHÔ
________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________
Thiền Sư HUYỀN GIÁC--Trang | 37 --Kiến Giải: NGỘ THÂM
Tâm của muôn loài tức Phật Tâm.
Phật Tâm bèn với Tâm ta hiệp,
Pháp vốn như nhiên suốt cổ kim.
Đi cũng thiền, ngồi cũng thiền,
Giữa lò lửa rực một cành sen.
Ý khí mất đi thêm ý khí,
Được an tiện đấy cứ an tiện).
Hòa mình tịch lặng cả Thân Tâm với Hoa Tạng Pháp Giới, vì Tâm của
muôn loài cũng là Phật Tâm và Phật Tâm này cùng với Tâm ta là bình đẳng, là
Một. Tất cả Pháp vốn như nhiên từ cổ chí kim là như vậy. Cả Tâm và Pháp
trong Hoa Tạng Pháp Giới đều niệm Phật niệm Pháp niệm Tăng. Nhưng niệm
mà Vô Niệm, Tâm mà Vô Tâm, Pháp mà Vô Pháp: mặc mặc mặc, trầm trầm
trầm hòa nhập trong cái Không tịch như nhiên làm Một. Và khi đó, đi cũng
thiền, ngồi cũng thiền tương ưng tương đồng với cái Không tịch ấy, thì giữa
cái thân tứ đại, Phật Tánh hiện bày. Khi đó dù ý khí có mất, lại được thêm ý
khí, nghĩa là huyền chỉ tự thông, tông cũng thông mà thuyết cũng thông, định
huệ sáng tròn đầy đủ, an nhiên tự tại….
Di! di! di! Đốt! Đốt! Đốt!
Đại hải trung âu nhàn xuất một.
Chư hạnh vô thường nhất thiết không,
Hà xứ tiên sư mịch linh cốt.
Tỉnh tỉnh trước! Trước tỉnh tỉnh!
Tứ lăng đạp địa vật khi khuynh.
A thùy ư thử tín đắc cập,
Cao bộ Tỳ Lô đỉnh thượng hành.
Hát!
(Chao! chao! chao! Ối! ối! ối!
Bọt trong biển cả uổng chìm nổi.
Các hạnh vô thường thảy thảy không,
Linh cốt tiên sư tầm đâu tá!
Thức thức tỉnh! Tỉnh tỉnh thức!
Dẫm đất bốn bề chớ lệch nghiêng.
Ai có như lời tin được vậy,
Đạp đảnh Tỳ Lô bước bước lên).
(Hết!)
Chúng sanh sống trong mê giống như Bọt Nước chìm nổi lênh đênh
trên Biển Cả không biết đâu là bến bờ phải chịu cảnh luân hồi sinh tử và đầy
phiền não, thật là uổng cho vô số kiếp trong lục đạo, không biết đường trở về
Căn Nhà Xưa! Dù có học bao nhiêu hạnh lành của Hiền Thánh thì cũng chỉ là
KIẾN GIẢI CHỨNG ĐẠO CA: “VÔ TRỤ NIẾT BÀN VÀ MA HA BÁT NHÔ
________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________
Thiền Sư HUYỀN GIÁC--Trang | 38 --Kiến Giải: NGỘ THÂM
vô thường, bất quá chỉ là được phước báu mà không có hạnh giải thoát. Linh
cốt của bao Hiền Thánh ngày xưa, nay còn đâu! Do đó hãy thức tỉnh, đi thẳng
tận đầu nguồn, không nghiêng lệch, và chỉ nên cầu Tâm huốt đường Tâm đạt
tới “đỉnh Tỳ Lô” mà bước lên.
Tóm lại lời khuyên của Tuệ Trung Thượng Sĩ trong bài thơ “Phật
Tâm Ca” chỉ rõ Tâm Phật chính là Phật Tánh bình đẳng với mọi chúng sinh
và muốn đạt được Phật Tánh thì chỉ nên cầu Tâm, đi huốt tận đầu nguồn Tâm,
đạt tới “đỉnh Tỳ Lô” và từ đây nhảy thẳng vào đất Như Lai. Lời khuyên này
chẳng khác gì lời khai thị của Tổ Đạt Ma: “Trực chỉ nhân Tâm kiến Tánh
thành Phật” hay cái cửa Vô Vi của Thiền Sư Huyền Giác cũng như lời khai
thị của Phật Thích Ca: “Lấy Tâm làm Tông, cửa Không là cửa Pháp”.
Sở dĩ gọi là cửa Không vì trong đó phi Tâm , phi Phật ,phi vật, phi
phàm, là cái “Rỗng Thênh Không Thánh” mà Tổ Bồ Đề Đạt Ma đã khai thị
cho Vua Lương Võ Đế . Thật tội nghiệp cho Lương Võ Đế ngơ ngác không
hiểu gì cả ,còn các Thiền Tăng khắp nơi nhảy không qua cửa nầy bị Tổ Bồ Đề
Đạt Ma cho một đao chết tươi ! Lương Võ Đế thường đắp cà sa giảng kinh
Phóng Quang Bát Nhã cảm được Hoa Trời .Nhà vua ra chiếu cho dân chúng,
cất chùa độ Tăng ,hiển đạo thờ Phật ,y Kinh tu hành người đời còn gọi là Phật
Tâm Thiên Tử .Võ Đế thường cùng các Cao Tăng ,thái tử Chiêu Minh luận
bàn về chân đế ,tục đế như Kinh nói: “Chân đế để rõ phi hữu ,tục đế để rõ
phi vô ,chân tục không hai tức là Thánh Đế Đệ Nhất Nghĩa”. Đây là chỗ
cực diệu cùng huyền của giáo lý, dám đem ra để thách đố hỏi Tổ: “Thế nào là
Thánh Đế Đệ Nhất Nghĩa?”. Tổ cũng lòng từ bi vô hạn trả lời đến chỗ tột
cùng tột lý để khai thị: “Rỗng Thênh Không Thánh”. Ngay trong câu nầy
mà Võ Đế thấu được thì đã ngồi trong căn nhà BÁT NHÃ rồi: “ Nhất cú liễu
nhiên siêu bách ức”. Vua đã điên đảo bối rối chưa tỉnh lại còn chấp nhân ngã
hỏi lại: “Đối Trẫm là ai ?”. Tổ thật tâm lão bà quá lớn, kiên nhẫn khai thị
một lần nữa. Tổ nói: “Chẳng biết”.
Võ Đế sững sốt hoàn toàn, không biết đâu là manh mối, lời khai thị
ngắn gọn cũng là chỗ tột cùng rốt ráo. Tiếc thay Võ Đế chết đứng nơi ấy đến
nỗi Hòa Thượng NGHĨA ĐOÀN phải làm bài tụng tiếc dùm cho Lương Võ
Đế.
“Nhất tiễn tầm thường, lạc nhất điêu,
Cánh gia nhất tiễn, dĩ tương thiêu
Trực qui Thiếu thất, phong tiền tọa,
Lương chúa, hưu ngôn, cánh khứ chiêu”.
(Tầm thường một mũi, lạc chim điêu,
KIẾN GIẢI CHỨNG ĐẠO CA: “VÔ TRỤ NIẾT BÀN VÀ MA HA BÁT NHÔ
________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________
Thiền Sư HUYỀN GIÁC--Trang | 39 --Kiến Giải: NGỘ THÂM
Mũi nữa bồi thêm, đốt cháy tiêu.
Trực chỉ Thiếu Lâm, ngồi vách đá,
Vua Lương thôi chớ, thỉnh cùng kêu).
*Cái cửa “Không” Rỗng Thênh Không Thánh ấy thay vì khai thị bằng
lời như Tổ Bồ Đề Đạt Ma ,Thiền Sư Diệp Huyện Quy Tỉnh dùng vật giống
như Thế Tôn dùng Cành Hoa Sen để chỉ cái Ánh Rõ của Bát Nhã. Thiền Sư
khai thị cho vị tăng chỉ giọt mưa rơi trên thềm nhà làm yếu chỉ để chỉ cái rốt
ráo của đường Tâm qua cái Ánh Rõ của giọt mưa rơi làm cho vị tăng hoát
nhiên đốn ngộ nhận ra Bát Nhã và thốt lên bài kệ:
“Thiềm đầu thủy đích (Giọt mưa trên thềm
Phân minh lịch lịch Rõ ràng rành rẽ
Đả phá Càn Khôn Đập nát Càn Khôn
Đương hạ Tâm tức”. Liền đó Tâm dứt).
Ngộ nhập Bát Nhã tức thời Càn Khôn vũ trụ hiện tượng đều sụp đổ, cả
nguồn Tâm cũng biến mất .
Sự khai thị của Tổ Đạt Ma cho Lương Võ Đế, của Thiền Sư Quy Tỉnh
cho vị Tăng, của Phật Thích Ca cho Tổ Ca Diếp…đều liên quan tới cái “Vô
Vi”.
-Thật ra cái chỗ cực diệu cùng huyền của giáo lý mà Lương Võ Đế
đem ra để hỏi Tổ Đạt Ma: “Thế nào là Thánh Đế Đệ Nhất Nghĩa?” và Tổ đã
không dài dòng văn tự để giảng giải mà khai thị trực tiếp ngắn gọn: “Rỗng
Thênh Không Thánh”, ý của Tổ muốn chỉ cái Vô Vi, cái Tuyệt Cùng để trực
tiếp vào cửa Tánh. Chỗ đó vượt khỏi cái thấy nghe hiểu biết của ý thức hay
vượt khỏi cái kiến văn giác tri mà Võ Đế không nhận ra để vào cửa mà lại
chấp nhân ngã hỏi tiếp: “Đối Trẫm là ai?”. Tổ cũng chỉ cái Vô Vi, cái Tuyệt
Cùng để vào cửa, Tổ nói: “Chẳng biết!”. Câu thứ nhất,Võ Đế chấp vào cái
kiến văn giác tri bị Tổ bắn một mũi tên mà không bắt được tên, bị đau điếng
mà vẫn chưa tỉnh. Câu thứ hai, Võ Đế lại chấp nhân, ngã: có người có ta, có
thân có tướng. Tổ bắn mũi tên thứ hai, tưởng rằng rớt hết nhân ngã, thân
tướng để vào cửa, nào ngờ Võ Đế cũng không bắt được tên, chết đứng tại chỗ!
Cái “Chẳng biết” này không người, không ta, không thân không tướng, không
tên không tuổi…Giữa “Trẫm” tức Võ Đế và “Đối Trẫm” là Tổ Đạt Ma, cả
hai đều không, không nhân ngã, không thân tướng và trước mắt cả hai là cái
Không Rỗng Suốt không có một vật là cái “Chẳng biết!”, cái Cửa Vô Vi để
nhập vào Tánh.
-Thiền Sư Diệp Huyện Quy Tỉnh cũng vậy, chỉ cái cửa Vô Vi để vào
Tánh cho vị Tăng. Sư dùng Sự Vật là “Giọt mưa” để khai thị. Vị Tăng nhạy
KIẾN GIẢI CHỨNG ĐẠO CA: “VÔ TRỤ NIẾT BÀN VÀ MA HA BÁT NHÔ
________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________
Thiền Sư HUYỀN GIÁC--Trang | 40 --Kiến Giải: NGỘ THÂM
bén nhận ra ngay và liễu ngộ liền trình kệ với cái thấy của chính mình ngay
cái sát na đột phá đó:
“Giọt mưa trên thềm”: Nương vào Giọt Mưa làm yếu chỉ nhận ra
cái Vô Vi ngay trên Sự Vật.
“Rõ ràng rành rẽ”: Đi huốt khỏi Sự Vật, huốt khỏi hình tướng, huốt
khỏi cái máy động của Sự Vật là cái Vô Vi tức cái cửa Rõ vô thân vô tướng.
“Đập nát Càn Khôn”: Không có một vật, cả Càn Khôn cũng sụp đổ
hoàn toàn , hiện tiền là cái Ánh Rõ Bát Nhã trùm khắp hay cái Vô Vi.
“Liền đó Tâm dứt”: Ngay cửa Vô Vi hay cái Ánh Rõ trùm
khắp này nhảy thẳng vào Tánh thì Tâm cũng biến mất thành Phi Tâm, vượt
qua cái Rõ, cái Vô Vi để nhập Tánh nên không còn Tâm và Vị Tăng đã hoát
nhiên đại ngộ!
-Ở Pháp Hội Linh Sơn cũng thế, Đức Phật giơ cành hoa sen lên là Sự
Vật, nhưng Tổ Ca Diếp không chấp vào hình tướng của hoa sen, mà nhận ra
cái Rõ hay cái Vô Vi ngay trên cành hoa sen và từ đó nhảy thẳng vào Tánh.
Như vậy cái cửa Vô Vi, nơi Tuyệt Cùng của Sự Vật là con đường đi
ngắn nhất, trực tiếp để vào cửa Tánh. Cái “Tuyệt Học Vô Vi” của Thiền Sư
Huyền Giác không khác với cái Vô Vi mà Đức Phật đã khai thị cho Tổ Ca
Diếp, không khác với cái Vô Vi mà Tổ Đạt Ma khai thị cho Lương Võ Đế, nó
cũng không khác với cái Vô Vi mà Thiền Sư Diệp Huyện Quy Tỉnh khai thị
cho vị Tăng. Trong “Chứng Đạo Ca”, Ngài Huyền Giác khai thị:
Quân bất kiến,
“Tuyệt học” Vô Vi nhàn đạo nhân.
Bất trừ vọng tưởng bất cầu chân.
Vô Minh thực Tánh tức Phật Tánh,
Ảo hóa không thân tức Pháp Thân.
(Anh thấy chăng:
“Tuyệt học”, Vô Vi nhàn đạo nhân,
Không trừ vọng tưởng, chẳng cầu chân.
Tánh thực Vô Minh tức Phật Tánh,
Thân không ảo hóa tức Pháp Thân).
-“Tuyệt học”, Vô Vi nhàn đạo nhân: Anh thấy chăng, Tổ Ca Diếp, Tổ
Đạt Ma, Lục Tổ Huệ Năng…nhờ cái “Tuyệt Học Vô Vi” mà trở thành một
Đạo Nhân nhàn, là người chứng đạo Vô Sanh. “Tuyệt Học” không phải là đã
học đến tuyệt cùng, học hết Đạo, không còn gì để học hay là Dứt Học, Vô Học
như các Bậc Vô Học A-La-Hán như có một số người hiểu lầm. Còn Vô Vi là
cái Vô mà Vi diệu là cái Rỗng Suốt vi diệu cái Tuyệt Cùng tận đầu nguồn Sự
Vật, vượt khỏi sự động dụng hình tướng và thể chất cũng như số
KIẾN GIẢI CHỨNG ĐẠO CA: “VÔ TRỤ NIẾT BÀN VÀ MA HA BÁT NHÔ
________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________
Thiền Sư HUYỀN GIÁC--Trang | 41 --Kiến Giải: NGỘ THÂM
lượng…không phải là Vô Vi của ngoại đạo. Hiểu lầm “Tuyệt Học Vô Vi” thì
cái cốt tủy của bài Chứng Đạo Ca của Thiền Sư Huyền Giác không còn giá trị,
lạc mất con đường tìm Đạo. Cũng như có người hiểu sai chữ “Vô Niệm” của
Lục Tổ Huệ Năng khiến cho Kinh Pháp Bảo Đàn không còn giá trị, không tìm
ra đạo, tự giảng trạch theo cái Nghiệp cái Ngã hay cái hiểu biết riêng của mình
vừa không hợp Đạo lại vừa trái với ý Kinh! “Tuyệt Học” ở đây là học cái
“Tuyệt Cùng” của sự vật, là học cái “Vô Vi”, huốt khỏi sự vật, huốt cả hình
tướng, huốt khỏi cái thể chất cứng chắc của sự vật, huốt cả Sáu Căn tức huốt
luôn cái (thấy, nghe, hiểu biết, xúc chạm…), huốt khỏi cái nói năng, huốt cả
cái cái năng lực máy động cái động dụng: tức Vô Tác và ở trong trạng thái
tỉnh, huốt cả đường Tâm đến tận gốc Chân Tâm…Ngài Huyền Giác đã học cái
“Tuyệt Cùng” là cái “Vô Vi”, chính là cái Ánh Sáng của Bát Nhã chiếu ra
và Ngài đã chứng quả Vô Sanh. Cái Vô Vi này cũng đồng với cái mà Thiền
Sư Lâm Tế gọi là cái “riêng sáng hiện bày rõ ràng” hay “Đạo Nhân Vô Y”.
Vô Y tức là không hình không tướng không vật, Đạo Nhân Vô Y là cái rỗng
suốt trong sáng hiện bày rõ ràng diệu dụng trùm khắp nơi nào cũng có, ẩn nấp
nơi sự vật và hư không, tạm thời gọi tắt là cái Rõ. Cái Rõ này không phải là
cái thấy, cái nghe, cái hiểu biết, hay xúc chạm…Cái Rõ ẩn nơi cái thân của sự
vật mà vô thân, ẩn nơi cái tướng sự vật mà vô tướng, ẩn nơi cái thấy mà không
phải cái thấy, ẩn nơi cái nghe mà không phải cái nghe, ẩn nơi cái hiểu biết của
ý thức mà không phải ý thức hiểu biết… Cái Rõ năng động hơn cái Gương
soi, vì Gương soi chỉ soi có mặt đối diện còn mặt kia thì không soi, chỉ soi vật
trước còn vật đặt phía sau bị che khuất thì không có thể soi…Gương thì soi
vật chết, nghĩa là vật là vật không có cái linh diệu và soi có một chiều một
hướng; còn cái Rõ thì soi trùm khắp, trước hoặc sau, ở khắp mọi hướng và vô
tận không ngăn ngại ; nơi đó vật không còn là vật mà là phi vật, danh không
còn là danh mà phi danh, tướng không còn là tướng mà phi tướng… Cái Rõ
này huốt khỏi sự vật, huốt khỏi cái nói năng động dụng, huốt khỏi cái thấy
nghe hiểu biết…nó “Vô” mà “Vi” là vi diệu. Từ cái Cửa Vô Vi, Cửa Rõ này
phăng vào cửa Tánh thì không còn xa như đi trên một đường thẳng liên tục:
cái Rõ, cái Trong rồi tiến tới cái Không, xem như ba lớp cửa để vào căn nhà
Tánh, nhưng cũng không phải là ba, là con đường đi tắt vào Gốc Tánh. Ngài
Huyền Giác đã học đúng chỗ là cái “Tuyệt Học Vô Vi” này mà chứng quả trở
thành một Đạo Nhân nhàn:
“Sao bằng tự cửa Vô Vi ấy
Một nhảy thẳng liền đất Như Lai”.
Và cái “Tuyệt Học Vô Vi” là cái Gốc, cái đầu nguồn để nhận ra Đạo,
không cần phải học nhiều. Còn học cái Ngọn thì vô số việc để học, Ngài
không kham nổi giống như vào biển đếm cát, toàn là văn tự chữ nghĩa, uổng
công suông mà không thấy Đạo.
KIẾN GIẢI CHỨNG ĐẠO CA: “VÔ TRỤ NIẾT BÀN VÀ MA HA BÁT NHÔ
________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________
Thiền Sư HUYỀN GIÁC--Trang | 42 --Kiến Giải: NGỘ THÂM
“Thẳng tận đầu nguồn phăng dấu Phật
Chọn lá tìm cành ta chẳng đương”.
Lục Tổ Huệ Năng cũng vậy, Ngài không có học nhiều, chỉ học ngay
cái Tuyệt Học Vô Vi, giã gạo chỉ có 8 tháng ở chùa, không phải hành trì, tụng
kinh, trì chú gì cả như các Chư Tăng trong chùa mà đã đạt Đạo Vô Sanh và trở
thành Vị Tổ thứ sáu của Thiền Tông Trung Hoa nhờ học đúng chỗ và học
ngay cái Gốc mà nên Sự. Đầu tiên Ngài học cái Tuyệt Cùng là cái Vô Vi đã
chứng được Vô Vi là cái “Bổn Lai Vô Nhất Vật” hoàn toàn Rỗng Suốt
không có một vật, không có cả cây Bồ Đề, không có đài gương sáng, hoàn
toàn là vô hình tướng. Đã không có một vật thì lấy gì để lau bụi?!
“Bồ Để bổn vô thọ (Bồ Đề vốn không cây
Minh kính diệc phi đài Gương sáng cũng không đài
Bổn lai vô nhất vật Xưa nay không một vật
Hà xứ nhạ trần ai?”. Nơi nào bụi bám đây?!).
Sau khi đã ngộ nhập “Vô Vi”, tức là “Mặt Trăng Thứ Hai” nhờ sự
khai thị của Ngũ Tổ Hoằng Nhẫn khi giảng Kinh Kim Cang đến câu: “ Ứng
vô sở trụ như sanh kỳ Tâm” tức thì từ cửa Vô Vi Ngài nhảy thẳng vào Đất
Như Lai: hốt nhiên Đại Ngộ, ngay đó trình kệ cho Ngũ Tổ:
“Không ngờ Tự Tánh vốn tự thanh tịnh
Không ngờ Tự Tánh vốn chẳng sanh diệt
Không ngờ Tự Tánh vốn tự đầy đủ
Không ngờ Tự Tánh vốn chẳng lay động
Không ngờ Tự Tánh hay sanh muôn Pháp”.
Trong khi Ngài Thần Tú còn chấp thân chấp tướng, kẹt nơi Sự, chấp
cả cây Bồ Đề và đài Gương, chưa huốt khỏi Sự Vật, và còn ở nơi sự động
dụng, không biết đường đi vào cửa Vô Vi để ngộ nhập Mặt Trăng Thứ Hai.
Ngài chỉ lo hành trì nơi cái Ngọn mà không biết cái Gốc Đạo là ở đâu, không
có Tấm Bản Đồ chỉ đường để vào căn nhà Tánh.
“Thân thị Bồ Đề thọ (Thân là cây Bồ Đề Tâm như minh cảnh đài Tâm là đài Gương sáng Thời thời cần phất thức Ngày ngày nên phủi bụi Vật sử nhạ trần ai”. Nên quét sạch bụi trần).
-“Không trừ vọng tưởng chẳng cầu chân”: Không cần bỏ Vọng tìm
Chân vì Vọng là cái đối đãi của Chân, cả Chân Vọng đều là Vọng cả. Do đó,
KIẾN GIẢI CHỨNG ĐẠO CA: “VÔ TRỤ NIẾT BÀN VÀ MA HA BÁT NHÔ
________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________
Thiền Sư HUYỀN GIÁC--Trang | 43 --Kiến Giải: NGỘ THÂM
cố hành trì “bỏ Vọng cầu Chân” sẽ không có kết quả. Ở một đoạn khác Ngài
Huyền Giác đã có chỉ thêm rõ ràng điều này trong “Chứng Đạo Ca”:
“Bất cầu chân, bất đoạn vọng
Liễu tri nhị pháp không vô tướng
Vô tướng vô không vô bất không
Tức thị Như Lai chân thực tướng”.
(Không cầu chân chẳng dứt vọng,
Mới hay chân vọng không chẳng tướng.
Chẳng tướng, chẳng không, không chẳng không,
Ấy mới Như Lai chân thực tướng).
Cũng không có thể tìm “Tự Tánh” ở ngay trên niệm đầu tiên của
“Sáu Căn”. Trong Pháp Vô Niệm của Lục Tổ Huệ Năng, Lục Tổ nói: “Chân
Như Tự Tánh khởi niệm, chứ không phải Sáu Căn khởi niệm” và “ngay
nơi niệm mà lìa niệm”. Mặc dầu Tự Tánh ẩn nấp nơi Sáu Căn và tìm Tự
Tánh cũng phải do Sáu Căn, nhưng Lục Tổ nói ‘‘không phải Sáu Căn khởi
niệm” ! Dù bất cứ niệm nào: niệm đầu niệm giữa hay là niệm cuối nơi “Sáu
Căn” đều không phải là Tự Tánh mà phải là Vô Niệm! Nói theo Khoa Học,
cái Ánh Sáng Bát Nhã chiếu vào Thân Tâm qua Sáu Căn, nếu Sáu căn trống
rỗng, không khởi niệm, không có vật cản thì Bát Nhã vẫn là Bát Nhã. Nhưng
Sáu Căn khởi niệm, tức là có Vật, có sự động dụng của Sáu Căn thì cái Ánh
Sáng kia liền bị “Khúc Xạ” theo cái “Thấu Kính Nghiệp” là Sáu căn và cái
Ánh Sáng đi ra từ Sáu Căn bị điên đảo theo Vô Minh hay Nghiệp Thức, không
phải là Tự Tánh. Còn nói theo Duy Thức Học, Sáu Căn của Thân Tâm khởi
niệm thì Bát Thức với Bảy Sóng cuồn cuộn nổi lên tạo thành Gió Nghiệp thổi
vào Biển Luân Hồi, không phải là Phật Tánh hay Tự Tánh. Thiền Sư Trương
Chuyết nói: “Nhất niệm bất sinh toàn thể hiện, Lục Căn tài động bị vân
già”. Nghĩa là Lục Căn vừa khởi niệm thì Tự Tánh Chân Như liền bị che mờ.
-“Tánh thực Vô Minh tức Phật Tánh”: Cái Tánh thực của Vô Minh
cũng chính là Phật Tánh. Giống như Đất sinh ra cây lành làm thuốc chữa bệnh
cứu sống người mà cũng sinh ra cây độc giết chết người. Phật Tánh sinh ra
Ông Phật mà cũng sinh ra Vô Minh là chúng sinh. Phật và chúng sinh đều
bình đẳng với Phật Tánh. Phật và chúng sinh đều phải ngộ cái Phật Tánh này
mới đạt được Niết Bàn Vô Sanh.
-“Thân không ảo hóa tức Pháp Thân”: Sum la vạn tượng là ảo hóa của
Pháp Thân hay Bát Nhã hay là cái Không. Nói ngắn gọn: Sắc là ảo hóa của
Không. Nếu thấy được cái “ảo hóa” này “thân không” tức là không có thân,
tức là thấy được cái Vô Tướng của nó, tức là thấy Pháp Thân, và nó chính là
Pháp Thân: “Sắc tức thị Không”. Có vị Tăng hỏi Thiền Sư Huệ Hải: “Trúc
biếc xanh xanh có phải là Pháp Thân hay không? Hoa vàng mịt mịt đó có
phải là Bát Nhã không?”. Và Ngài trả lời: “Pháp thân không có Tướng,
KIẾN GIẢI CHỨNG ĐẠO CA: “VÔ TRỤ NIẾT BÀN VÀ MA HA BÁT NHÔ
________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________
Thiền Sư HUYỀN GIÁC--Trang | 44 --Kiến Giải: NGỘ THÂM
ứng trúc biếc hiện ra hình, Bát Nhã vô tri đối hoa vàng mà hiện ra
Tướng”. Do đó nếu thấy được trúc biếc hoa vàng là cái ảo hóa không có thân
thì tức là thấy Pháp Thân Phật. Bởi vì không đâu có Pháp Thân Phật mà đâu
đâu cũng là Pháp Thân Phật, không đâu có Bát Nhã cả mà đâu đâu cũng là Bát
Nhã tùy theo con mắt Mê hay là Ngộ, đã vào cửa Vô Vi hay là không. Người
ngộ đạo thì thấy cái Thân ảo hóa này của mình không có thân và chính là Pháp
Thân là cái Thân thật bất sinh bất diệt, bình đẳng với tất cả Pháp giới.
Cái Vô Vi này không có thân, khi ngộ cái Vô Vi thì cũng chính là ngộ
cái Pháp thân không thân. Ngài Huyền Giác khai thị tiếp:
“Pháp Thân giác liễu vô nhất vật
Bổn nguyện tự tánh thiên chân Phật
Ngũ ấm phù vân không khứ lai,
Tam độc thủy bào hư xuất một”.
(Pháp Thân giác rồi không một vật,
Vốn nguồn Tự Tánh thiên chân Phật.
Năm ấm: ảo hư mây lại qua,
Ba độc: huyễn hoặc bọt còn mất).
- “Pháp Thân giác rồi không một vật” : Cái Rõ của bầu trời trong hay
Cái Rõ trên Sự Vật thì bình đẳng, vô phân biệt, không phải là Vật Rõ hay là
cái thấy trên Tướng của Sự Vật mà là cái Vô Vi, Vô mà vi diệu, không có
thân, không có một vật đồng với Pháp Thân là Một. Khi liễu ngộ Pháp Thân
hay Vô Vi thì cái thân Tứ Đại này cũng là Vô Vi hay Pháp Thân tức là Thân
mà Vô Thân, Tướng mà Vô Tướng, bình đẳng với mọi Pháp Giới và Pháp
Giới cũng là Vô Pháp không có Thân, không có một vật, cùng với Pháp Thân
Phật là Một.
-“Vốn nguồn Tự Tánh thiên chân Phật” : Từ cái Tuyệt Cùng hay cái
Vô Vi là con đường ngắn nhất để vào cửa Phật hay cửa Tánh và chính cái
Tánh hay nguồn Tự Tánh này mới là Phật thiệt, Phật Gốc hay là Thiên Chân
Phật. Còn Ông Phật với 32 tướng tốt chỉ là Phật Ngọn, Ông Phật ảo hóa tạm
sống với chúng sinh để hóa độ.
-“Năm ấm: ảo hư mây lại qua” : Ngũ ấm của chúng sinh: Sắc, Thọ,
Tưởng, Hành, Thức như là mây nổi, không đến không đi. Bởi vì cái Bến của
Mây không phải là Mặt Đất mà là Hư Không; Mây nổi dù đứng yên hay bay đi
nhanh chậm cũng đều không rời cái Bến của nó là Hư Không. Cũng vậy, cái
Bến của Bọt Nước không phải Bờ mà là Nước hay Mặt Nước. Bọt Nước trôi
nổi theo dòng Nước tưởng rằng có đến có đi, thật ra là không có đến có đi, vì
Bọt Nước đứng yên hay đang trôi thì cũng không bao giờ rời cái Bến của nó là
Nước. Chúng Sanh trong sáu cõi luân hồi cũng thế, không có đến đi, không có
KIẾN GIẢI CHỨNG ĐẠO CA: “VÔ TRỤ NIẾT BÀN VÀ MA HA BÁT NHÔ
________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________
Thiền Sư HUYỀN GIÁC--Trang | 45 --Kiến Giải: NGỘ THÂM
rời xa cái Bến là Hư Không. Quả Địa Cầu hay cái Thế Gian mê này chỉ là hư
ảo, không phải là Bến của Chúng Sanh cõi Ta Bà mà Hư Không mới là Bến.
Ngay cái Bến của Quả Địa Cầu hay hàng trăm tỷ Thiên Hà trong Vũ Trụ cũng
là Hư Không, dù Vũ Trụ có đứng yên hay quay cuồng di chuyển với tốc độ
ánh sáng cũng xem như không có đến đi và chưa từng rời cái Bến là Hư
Không! Do đó Như Lai không đến không đi, Pháp thân vô khứ vô lai… Và
như vậy việc sinh tử như một trò ảo hóa không có thật, không đến không đi.
Tùy sức ảo hóa theo Nghiệp Lực hoặc Vô Minh mà hiện tướng trong cái Pháp
Giới tương ưng hay cái Không Gian huyễn hóa của các Cõi Nước…Tất cả và
tất cả đều cùng chung một Bến Bờ, một Gốc Tánh hay một Căn Nhà Hư
Không.
-“Ba độc: huyễn hoặc bọt còn mất” : Ba độc: Tham, Sân, Si đều là cái
hư dối không có thật, nhưng mặc dù là hư dối không thật, vì nó huyễn hoặc
làm những chuyện kỳ bí nên gây nhiều phiền não và trói buộc chúng sanh vào
vòng luân hồi.
Cũng từ cái “Tuyệt Học Vô Vi” này mà Thiền Sư Huyền Giác chứng
được cái “Thực Tướng” Vô Sanh. Thế Gian cũng vậy, học cái Vô Vi này sẽ
khám phá ra cái logic nguyên thủy của vũ Trụ Vạn Hữu, phá được nước cờ bí
với cái Hữu Vi Pháp bị chướng ngại của các nhà Khoa Học. Ngài Huyền Giác
khai thị:
“Chứng “Thực Tướng” vô nhân pháp,
Sát na diệt khước A-Tỳ nghiệp
Nhược tương vọng ngữ cuống chúng sanh,
Tự chiêu bạt thiệt trần sa kiếp”.
(Chứng Thực Tướng không nhân pháp,
Sát na rũ sạch A-Tỳ nghiệp.
Bằng đem lời vọng dối chúng sanh
Tội rút lưỡi nguyện mang cùng kiếp).
-“Chứng Thực Tướng không nhân pháp”: Chứng Thực Tướng là
chứng cái “Không” không tướng, hay cái “Không” rốt ráo hay cái “Không
Tướng”. Cái “Không” có tướng là cái Không với tướng Sắc Không đối
đãi, không phải là Thực Tướng, phải vượt luôn cái tướng Sắc Không, vượt
luôn 20 cửa không để chứng cái Thực Tướng Vô Tướng. Trên cái Tướng mà
thấy cái Vô Tướng, tức là thấy cả hai mặt Thể và Dụng, Chân Không và Diệu
Hữu, là cái Đạo của Vũ Trụ Vạn Hữu. Thí dụ như có cái Tướng Cây, Tướng
Đất, Tướng Nước trong Vạn Hữu. Cây là Lửa, vì đốt nó cháy sinh ra Lửa. Đất
cũng là Lửa, vì nó là vật chất có khối lượng M có thể chuyển thành năng
lượng E là một dạng khác của Lửa được nhà Bác Học Einstein chứng minh
với công thức (E=MC2). Nước cũng là Lửa, mặc dù có thể dập tắt Lửa, công
KIẾN GIẢI CHỨNG ĐẠO CA: “VÔ TRỤ NIẾT BÀN VÀ MA HA BÁT NHÔ
________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________
Thiền Sư HUYỀN GIÁC--Trang | 46 --Kiến Giải: NGỘ THÂM
thức hóa học H2O, dùng dòng điện phân tích thì được hai chất khí là Hydrogen
(H) và Oxygen (O), hai chất khí này đốt cháy cho ra Lửa. Vậy là có Lửa, và
tất cả đều là Lửa; nhưng chỉ thấy cái Tướng Lửa khi nó động hay có sự hoạt
dụng của các duyên; còn khi tỉnh hay chưa đủ duyên thì nó ẩn nấp trong Cây
trong Đất trong Nước… trong Vạn Hữu hay khắp cả Sơn Hà Đại Địa trong Hư
Không. Cái Tướng Lửa tùy cơ lúc ẩn lúc hiện, hiện rồi lại ẩn… mượn Cây,
mượn Đất, mượn Nước hay Vạn Hữu làm Thân và như thế xem như nó có
Thân hiện đầy trong Hư Không và tùy duyên mà hiện Tướng. Khi trở về Gốc
của cái Tướng Lửa này thì đầu nguồn của nó là Dị Điểm Big Bang vô cùng
nhỏ. Ngay cái Cửa Vô Vi với cái thông số Vô Vi về thời gian là T=0 thì cái
Tướng Lửa không còn Thân Tướng, trở về với cái Thực Tướng Không không
tướng là cái Không tột cùng của Vạn Hữu, hoàn toàn Rỗng Thênh không có
một vật. Nắm được cái Thực Tướng này là thấu hiểu hết Càn Khôn Vũ Trụ
cũng như sáu ngã luân hồi. Tuy nhiên biết được Lý Thuyết suông chưa phải là
xong, mà phải “Chứng Ngộ” cái Thực Tướng Vô Tướng này như Ngài Huyền
Giác mới là xong việc! Và muốn chứng được nó thì không Nhân không Pháp,
tức là không người không ta, không chúng sanh thọ giả, không chấp dính pháp
trần. Nói ngắn gọn là Vô Ngã và Vô Pháp là hai cái Bí Quyết mà Ngài Huyền
Giác đã khai thị. Vô Ngã là không chấp cái Ta: Ta là Người, là Thần, là
Thánh, Pháp Chủ, Giáo Chủ…là Vua, là Quan, Quý Tộc, Tri Thức, hay Cùng
Đinh… là Quỷ, là Ma, hay là Vật… Còn cái Ngã này thì không bao giờ vào
được Vô Vi. Vô Pháp là không chấp dính với Pháp Trần là danh lợi, địa vị,
tiền bạc, vật chất, nhà cửa….tham sân si và ngũ dục thế gian:
“Buông thỏng hai tay lên Phật Tổ
Một lần phủi giũ một lần xong”.
(Tuệ Trung Thượng Sĩ).
-“Sát na rũ sạch A-Tỳ Nghiệp”: Chứng được cái Thực Tướng chỉ
trong một sát na thì cả Địa Ngục A-Tỳ đều sụp đổ. Nghĩa là dù tội lỗi sâu dầy
với cái Nghiệp nặng như Nghiệp A-Tỳ vô số kiếp nơi Địa Ngục, nhưng khi
đốn ngộ thì chỉ trong một sát na bao nhiêu Tội Nghiệp đều tiêu tan!
-“Bằng đem lời vọng dối chúng sanh”: Đây là lời nói thật, Ngài
Huyền Giác không nói dối chúng sanh, vì Ngài đã chứng ngộ, thấy sao thì nói
như vậy, có nói dối thì cũng chẳng lợi ích gì cho Ngài.
-“Tội rút lưỡi nguyện mang cùng kiếp”: Ngài dùng lời thề để xác tín
với cái thấy, cái chứng ngộ của Ngài. Nếu có nói dối thì tội rút lưỡi hay bị cắt
lưỡi Ngài sẽ bị mang đời đời kiếp kiếp…Bởi vì với những ai mang tội nghiệp
sâu dầy như Nghiệp A-Tỳ mà cũng có thể chứng ngộ được và chỉ trong một
sát na thì cái nghiệp vô cùng nặng nề này cũng tiêu tan! Chuyện khó tin và
khó hiểu, nhưng Ngài bảo đảm bằng chính lời thề cũng như là sự chứng ngộ
KIẾN GIẢI CHỨNG ĐẠO CA: “VÔ TRỤ NIẾT BÀN VÀ MA HA BÁT NHÔ
________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________
Thiền Sư HUYỀN GIÁC--Trang | 47 --Kiến Giải: NGỘ THÂM
của Ngài. Hãy thử trong thế gian có cái pháp nào nhanh và có thể xảy ra như
vậy không? – Giấc chiêm bao trả lời được cái Bí Ẩn này! Trong giấc chiêm
bao mơ thấy đang thọ Nghiệp A-Tỳ vô số kiếp, không thể nào thoát ra được
chịu mọi thứ phiền não cực hình đau đớn hàng giờ, hàng ngày…chết đi sống
lại nhiều lần để trả cái nghiệp nặng nề như thế…Nhưng bỗng giựt mình thức
dậy chỉ trong một sát na thì quả thật cái Địa Ngục A-Tỳ kia sụp đổ thật sự!
Cái giựt mình thức dậy trong một sát na dụ cho cái chứng Thực Tướng của
Ngài Huyền Giác. Thật ra có thể so sánh pháp đốn ngộ này giống như pháp
thế gian với một anh “Cùng Tử” nghèo nàn nợ nần ngập đầu không sao trả
nổi, nhưng gặp may trúng số độc đắc thì cuộc đời chuyển biến ngay tức khắc.
Chẳng những trả sạch nợ mà còn trở thành “Ông Trưởng Giả”! Hay một căn
nhà bỏ hoang hàng trăm năm thậm chí cả ngàn năm, bóng tối dày đặc trải qua
như vô tận; bỗng một ngọn đèn thắp sáng lên thì cái Bóng Tối kia liền sụp đổ
ngay tức khắc mặc dù nó đã bao phủ căn nhà suốt hàng ngàn năm…Như vậy
là có những Pháp thế gian chứng minh được điều này. Bởi có câu: “Phóng hạ
đồ đao, lập địa thành Phật” là như thế! Vua Trần Nhân Tông cũng đã từng
chỉ huy tàn sát hàng mấy chục vạn quân Mông Cổ, nhưng Ngài vẫn đắc Đạo
và là Tổ Sư Thiền Trúc Lâm của Việt Nam. Do đó, bất cứ chúng sanh nào dù
trong quá khứ có làm nhiều điều tội lỗi nặng nề cũng nên sám hối, quay đầu là
Bến và tin vào lời nói của Thiền Sư Huyền Giác, với cái cửa Vô Vi chứng
được cái Thực Tướng Vô Tướng, rũ sạch hết Tội Nghiệp!
Tóm lại, nhiều bậc tiền nhân trong khi tìm Đạo giải thoát lúc đầu học
nơi cái Ngọn uổng công phí sức mà không tìm ra Đạo. Sau khi tìm về Gốc chỉ
học cái Tuyệt Cùng là cái Vô Vi mà chứng Đạo và trở thành Đạo Nhân nhàn
điển hình như Thiền Sư Huyền Giác. Còn Lục Tổ Huệ Năng, mặc dù học ít,
nhưng học ngay cái Gốc và học đúng chỗ là cái Tuyệt Học Vô Vi. Chỉ học cái
Vô Vi mà thông minh xuất chúng, giải quyết hết mọi chuyện đời chuyện Đạo,
đi đến bờ giải thoát! Cũng như việc khám phá Chân Lý Vũ Trụ, đi ngược về
Gốc là cái “Dị Điểm” Big Bang .Các nhà Bác Học tuy là nghiên cứu gần tới
cái Gốc, nhưng còn kẹt nơi Sự nơi Tướng của cái Dị Điểm này, chưa huốt
khỏi Sự Vật về hình tướng, thể chất cũng như sự động dụng…tức là chưa phải
là cái Tuyệt Cùng, cái Vô Vi bất động nên chưa tìm ra được Chân Lý rốt ráo.
Phải tới cái Tuyệt Cùng là cái Vô Vi, huốt khỏi cái Hình Tướng, Thân Tướng,
cái Năng Lực máy động của cái Dị Điểm này, huốt khỏi những hằng số Planck
của Hữu Vi đạt tới những thông số Vô Vi như thời gian T=0, thể tích V=0,
đường kính D=0… của Dị Điểm , thì gặp ngay cái cửa Vô Vi và Vô Vi ở đây
chính là cái Không Rỗng Suốt mà vi diệu sinh ra Sắc: “Không tức thị Sắc”
như Đức Phật đã khai thị trong Bát Nhã Tâm Kinh! Vật Chất cũng vậy, tận
đầu nguồn tận Gốc của Vật Chất là “Sóng vi tế gamma photon”. Vượt qua
KIẾN GIẢI CHỨNG ĐẠO CA: “VÔ TRỤ NIẾT BÀN VÀ MA HA BÁT NHÔ
________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________
Thiền Sư HUYỀN GIÁC--Trang | 48 --Kiến Giải: NGỘ THÂM
hay huốt khỏi cái Tướng Sóng, cái năng lực máy động của Sóng trở về cái tỉnh
thì cả năng lượng và khối lượng đều là không (E=M=0) là cái Vô Vi và cái Vô
Vi ngay tại đây chính là cái Không là chân lý tuyệt đối: “Sắc tức thị Không”.
Do đó con đường “Tuyệt Học Vô Vi” của Thiền Sư Huyền Giác là con đường
ngắn nhất, cốt lõi và ngay tận Gốc để tìm Chân Lý Giải Thoát cũng như Chân
Lý tuyệt đối của Vũ Trụ Vạn Hữu .
Vô Vi ở đây là Vô Vi của Phật pháp , khác với Vô Vi của Ngoại đạo,
cũng khác với Vô Vi của Lão Tử.
* Đối với Lão Tử hành động của Đạo được diễn tả bằng “Vô Vi” là
không làm nhưng vì thế không có một việc gì phải bỏ qua: “Bất hành nhi
hành”.
Tự nhiên Vô Vi, tự nhiên không làm gì cả làm tôn chỉ của Đạo .Còn
cái Tâm của Lão Tử không phải là Tâm nhân nghĩa của Nho giáo ,không phải
là cái Tâm trục lợi của Pháp gia cũng không phải là Chân Tâm hay Tâm Tánh
của nhà Phật ,mà là “Hư Tâm” .Cái gọi là “Hư Kỳ Tâm” là khử tri, khử dục.
Vô tri thì không sanh ra lừa dối khéo léo .Vô dục thì không sinh ra tranh giành
dục vọng cầu lợi .Đó là phương pháp làm cho Tâm bất loạn.
Như vậy, “Hư Tâm” của Lão Tử không phải là con đường rốt ráo đi
đến cửa “Vô Vi” theo ý nghĩa nhà Phật là giải thoát sanh tử mà chỉ là an dân,
ổn định xã hội dành cho quốc gia nhỏ bé ít dân.
Còn “Vô Vi” của Lão Tử trên phương diện nhập thế chỉ áp dụng cho
những quốc gia nhỏ, dân chúng sống đơn giản về vật chất giống như những bộ
lạc ít dân như trước đời nhà Chu,Trung Quốc có hàng vạn chư hầu gọi là Hậu.
Ngay thời Lão Tử, từ nhà Chu thế kỷ thứ 6 trước Tây lịch, các Hậu cũng đã
thống nhất dần thành quốc gia lớn hơn có vài trăm nước ,đến đời Tần chỉ còn
7 nước và nhà Hán thống nhất thiên hạ còn lại duy nhất một Đại Quốc. Sách
lược trị quốc bằng “Vô Vi”của Lão Tử chủ trương thành lập những quốc gia
nhỏ bé ít dân, không trọng dụng nhân tài ,không chuộng món hàng quý để
“Hư cái Tâm” ấy, khiến cho người dân không còn lòng tham để dễ trị nước.
Điều nầy rất khó áp dụng vì Trung Quốc đã trở thành quốc gia lớn đông dân,
không thực tế bằng Nho giáo.
Kể từ đời hậu Hán (năm 147-167) Trương Đạo Lăng lấy Đạo Đức
Kinh của Lão Tử pha trộn với thuyết thần quái của các phương sĩ thời Lưỡng
Hán cùng với Hư Vô chủ nghĩa và Phá Hoại chủ nghĩa của Lão Tử lên núi
Hộc Minh Sơn làm ra Bộ Đạo Thư 24 thiên lập ra Đạo giáo tôn Lão Tử lên
làm Tổ với cái tên Thái Thượng Lão Quân. Con cháu là Trương Hoành,
Trương Lỗ, Trương Thịnh tiếp tục phát triển Đạo giáo cho đến ngày nay.
* Thật ra người sau không hiểu triết lý về “Đạo” của Lão Tử lại thêm
nhiều tư tưởng khác lạ, làm cho triết lý “Đạo” của Lão Tử bị lu mờ và lạc
lỏng .
KIẾN GIẢI CHỨNG ĐẠO CA: “VÔ TRỤ NIẾT BÀN VÀ MA HA BÁT NHÔ
________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________
Thiền Sư HUYỀN GIÁC--Trang | 49 --Kiến Giải: NGỘ THÂM
Trong tam giáo đồng nguyên Phật Khổng Lão ,phạm trù “Đạo” của
Lão Tử đã hòa quyện cộng sinh trong Phật giáo và Nho giáo .
Chính Phật giáo cũng mượn phạm trù “Đạo” của Lão Tử xem như
đồng nghĩa với Phật pháp , khi giác ngộ giải thoát người ta cũng nói là thấy
Đạo, đạt Đạo ,chứng Đạo .
Phạm trù “Đạo” của Lão giáo có thể so sánh với phạm trù Bát Nhã,
Chân Như hay Như Lai Tạng của Phật giáo.
Lão Tử bác bỏ Thượng Đế , ông cho Đạo là trên hết ,là sự thật duy
nhất, là nơi phát xuất của thế giới vạn hữu . “Sự thật cuối cùng nầy” được Lão
Tử - vì không tìm được danh từ tương ưng - tạm gọi là “Đạo”:
“Đạo khả Đạo - phi thường Đạo ,
Danh khả Danh - phi thường Danh”.
(Đạo mà ta có thể gọi được, không phải là Đạo thường còn,
Danh mà ta có thể gọi được, không phải là Danh thường còn).
Lão Tử chỉ để lại một quyển “Đạo Đức Kinh” với 5000 chữ ,quá ít so
với Kinh Tạng đồ sộ của Đức Phật .Tuy nhiên phạm trù “ĐẠO” của Lão Tử
có ý nghĩa sâu sắc ,Phật giáo cũng mượn từ nầy để diễn đạt Phật pháp .
Có một vị quan hỏi Thiền Sư Bổn Tịnh :
-Phật và Đạo nghĩa ấy thế nào ?
Sư bảo :
-Nếu muốn cầu Phật: tức Tâm là PHẬT .Nếu muốn hội Đạo: không
Tâm là ĐẠO.
Một vị tăng khác hỏi Thiền Sư Bổn Tịnh về “ĐẠO” :
-Phật với ĐẠO đều là giả danh ,12 phần giáo cũng chẳng phải thật vì
sao các hàng Tôn Túc từ xưa đều nói có tu ,có ĐẠO?
Sư đáp :
-Đại Đức lầm hội ý Kinh; Đạo vốn không tu Đại Đức cưỡng tu, Đạo
vốn không tác Đại Đức cưỡng tác, Đạo vốn không sự Đại Đức cưỡng sanh đa
sự, Đạo vốn không biết ở trong ấy cưỡng biết, thấy hiểu như thế cùng Đạo
trái nhau. Tôn Túc từ xưa không như thế, tự Đại Đức không hội, xin suy gẫm
lại.
Như vậy phạm trù “ĐẠO” của Lão Tử có ý nghĩa tương đương phạm
trù “Bát Nhã” trong Phật pháp. Và từ “Đạo” đã thấm sâu vào trong máu của
Phật pháp hòa làm một ,và Phật pháp cũng soi sáng triết lý “ĐẠO” của Lão
Tử thêm phần phong phú.
Lão Tử cho Đạo là “Mẹ nhiệm mầu” là huyền tẩn của vạn vật ,là
nguồn gốc của tất cả hiện hữu và “Đạo” cũng là nơi vạn vật quy tụ .
KIẾN GIẢI CHỨNG ĐẠO CA: “VÔ TRỤ NIẾT BÀN VÀ MA HA BÁT NHÔ
________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________
Thiền Sư HUYỀN GIÁC--Trang | 50 --Kiến Giải: NGỘ THÂM
“ĐẠO” không thể nhìn bằng mắt ,nghe bằng tai, nó là cái hình trạng
của cái không hình trạng . Xem mà không thấy nên gọi là DI ,lắng mà không
nghe nên gọi là HI ,bắt mà không nắm được nên gọi là VI .Ba cái DI, HI, VI
không thể tách rời vì nó hỗn hợp làm một.
Trong quá trình tạo hóa muôn loài LÃO TỬ nói : “ĐẠO sanh nhất ,
nhất sanh nhị , nhị sanh tam ,tam sinh ra vạn vật” . “ĐẠO” tương đương
với BÁT NHÃ hay còn gọi là TÁNH, nhất nhị tam có thể xem tương đương
với TÂM của Phật pháp.
Cái gọi là “Nhất” là trạng thái hỗn mang chưa phân ra ranh giới trước
khi vật chất hình thành ,từ “Nhất” sinh ra “Nhị” tức là sanh ra Trời Đất âm
dương ,Trời Đất âm dương giao hòa sanh ra “Tam” ,tức xung khí .Sau đó mới
sinh ra vạn vật ,Đạo trở thành bản nguyên của vạn vật .
ĐẠO tuy không thấy ,không nắm bắt được nhưng sự tồn tại của nó là
xác thực. Để mô tả tính thực tồn của “ĐẠO”, Lão Tử viết :
“Đạo chi vi vật ,duy hoảng duy hốt ,hốt hề hoảng hề ,kì trung hữu
tượng. Hoảng hề hốt hề , kì trung hữu vật ,yểu hề minh hề, kì trung hữu
tinh, kì tinh thậm chân , kì trung hữu tín , tự cổ cập kim, kì danh bất khứ,
dĩ duyệt chúng phủ. Ngô hà dĩ tri chúng phủ ,chi trang tai. Dĩ thử.”
(Đạo là cái gì mờ ảo ,chợt bừng tỉnh mường tượng ra thì nó hiện ra
hình bóng, chợt suy nghĩ ra thì nó giống như một vật .Nó e ấp kín đáo bên
trong chứa đựng cái tinh hoa hoàn mỹ .Cái tinh hoa kỳ diệu của nó rất chân
thật .Trong đó chứa đựng niềm tin cho đến bây giờ .Tên của nó còn nguyên
vẹn như xưa .Có trải qua nhiều thì mới biết được ,ta không làm sao lấy sự
hiểu biết để diễn tả được ,đành phải vậy thôi).
Để mô tả ĐẠO và khái niệm Hữu Vô, Lão Tử viết :
“ Vô danh thiên địa chi thủy, hữu danh vạn vật chi mẫu ,cố
“Thường Vô” dục dĩ quan kỳ diệu . “Thường Hữu” dục dĩ quan kỳ kiếu ,
thử lưỡng giả đồng xuất nhị dị danh, đồng vị chi huyền ,huyền chi hựu
huyền ,chúng diệu chi môn”. (Cái gọi là “Vô” là khởi thủy của Trời Đất ,cái
gọi là “Hữu” là mẹ của vạn vật ,vì cái “Thường Vô” là muốn thấy cái kỳ
diệu của nó, cái “Thường Hữu” là muốn thấy cái phạm vi của nó .Hai cái
nầy cùng xuất hiện, nhưng lại khác tên gọi .Hai cái đồng là huyền hoặc cả .
Hai cái đã huyền hoặc lại thêm huyền hoặc ,nhưng lại là nơi xuất phát
của những điều kỳ diệu).
Quan niệm HỮU VÔ của Lão Tử cũng đi gần với Phật giáo .Vô và
Hữu cũng đều cùng xuất hiện nhưng lại khác tên gọi , cái “Vô” là để chỉ cái
khởi thủy của Trời Đất : “thiên địa chi thủy”.Cái “Hữu” là chỉ mẹ của vạn
vật: “vạn vật chi mẫu”. Đạo là sự thống nhất của HỮU và VÔ .Nó tồn tại u
KIẾN GIẢI CHỨNG ĐẠO CA: “VÔ TRỤ NIẾT BÀN VÀ MA HA BÁT NHÔ
________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________
Thiền Sư HUYỀN GIÁC--Trang | 51 --Kiến Giải: NGỘ THÂM
ẩn vô hình là cái trạng thái không có trạng thái: “vô trạng chi trạng” . Đã
huyền hoặc lại thêm huyền hoặc : “huyền chi hựu huyền”. Là cái bí hiểm
không thể nhận ra bằng giác quan của con người cho nên có thể giọi là “VÔ”.
Đạo tuy huyền bí nhưng bên trong lại có hình ảnh: “kì trung hữu
tượng”, cũng có vật chất :“kì trung hữu vật” ,có chứa đựng cái tinh hoa
hoàn mỹ: “kì trung hữu tinh” và cái tinh hoa kỳ diệu của nó rất chân thực :
“kì tinh thậm chân” cho nên cũng có thể gọi là “HỮU”. Hữu và Vô là hai
mặt đối lập trong “ĐẠO” về mặt hình tướng ,tuy nhiên cùng thống nhất trong
ĐẠO và không thể tách rời như hình với bóng .(Phỏng theo Triết Học Phương
Đông của Trương Lập Văn).
Hữu và Vô của Lão Tử gần giống như SẮC và KHÔNG hay TÂM và
TÁNH của hệ thống BÁT NHÃ trong Phật Pháp. Tuy nhiên Hữu và Vô nầy
còn phân biệt trên Tướng đối đãi nên vẫn là vọng pháp. Do đó chữ “Vô” trong
“Hữu Vô” của Lão Tử không phải là Tánh Như Lai hay cái Không Rốt Ráo
vượt cả 20 Cửa Không của Phật Pháp:
“Chân bất lập, vọng bổn không,
Hữu Vô câu khiển bất không không.
Nhị thập không môn nguyên bất trước,
Nhất Tánh Như Lai thể tự đồng”.(Th.S Huyền Giác).
(Chân chẳng lập vọng vốn không,
Hữu Vô dứt trọn chẳng không không,
Hai chục cửa không nguyên chẳng chấp
Một Tánh Như Lai vốn thể đồng).
Còn phạm trù “Đạo” của Lão Tử đi gần sát với “BÁT NHÔ trong
Phật pháp, tuy nhiên chưa đi đến rốt ráo như BÁT NHÃ vì bên trong “ĐẠO”
của Lão Tử còn có hình bóng: “kì trung hữu tượng” ,còn có vật: “kì trung
hữu vật”.Trong khi Bát Nhã hay Tự Tánh hay Tánh trong Phật pháp thì “Bổn
lai vô nhất vật”: không có một vật.
“Phi Sắc, phi Tâm, phi Hạnh Nghiệp
Đàn chỉ viên thành bát vạn môn”.
Bát Nhã hay Tự Tánh hay Chân Như hay Niết Bàn hoàn toàn
“Rỗng Thênh Không Thánh” và chỉ một cái búng tay, một sát na hay một tia
điện chớp là các Chư Tổ hay các Thiền Sư chứng “ĐẠO” từ cái cửa Không
của Thiền Sư Huệ Khai hay cái cửa “Vô Vi” của Thiền Sư Huyền Giác để vào
căn nhà BÁT NHÃ .
KIẾN GIẢI CHỨNG ĐẠO CA: “VÔ TRỤ NIẾT BÀN VÀ MA HA BÁT NHÔ
________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________
Thiền Sư HUYỀN GIÁC--Trang | 52 --Kiến Giải: NGỘ THÂM
Cái Đạo “Vô Vi” -“bất hành nhi hành”- không làm nhưng không gì
mà chẳng làm của Lão Tử còn có vật ,còn chướng ngại cho nên chưa rốt ráo
để đạt đến Chân Lý Giải Thoát. Hậu thế biến cái “ĐẠO” của Ông sau nầy
thành tu Tiên hay Thiên Đạo ,hoặc tu để được trường sanh bất lão , hoán vũ
đăng Tiên, cầu cơ xuất hồn với nhiều pháp thuật lạ kỳ.
Tóm lại Lão Tử, Trang Tử đắm đuối vào lẽ “Không” tức “Vô Vi”; và
cái lẽ “Không” này là “thuận theo tự nhiên không làm gì cả” khác với
cái Không của Phật Giáo. Còn Khổng Tử , Mặc Tử lại câu chấp vào lẽ “Có”
tức “Hữu Vi” là hành động nhập thế theo luật vua phép nước để ổn định xã
hội. Trong khi đó Phật Pháp lại chẳng kể “Có” hay “Không”, Sắc hay là
Không,“Vô Vi” hay là “Hữu Vi”:
“Sắc thị Không, Không tức Sắc
Không thị Sắc ,Sắc tức Không
Sắc Không câu bất quản
Phương khế đắc Chân Tông”. ( Ỷ Lan ).
Ở đây nên phân biệt ba Cái Thấy Sắc Không: Cái Thấy chấp Sắc là
Sắc, Không là Không của thế gian Mê. Cái Thấy “Sắc tức thị Không” của
người đạt Lý nhưng còn kẹt nơi Sự nơi Tướng, còn có cái thấy biết Sắc
Không. Và cuối cùng là Cái Thấy trực chỉ “Sắc tức thị Không” ngay đó: Sắc
chẳng Sắc, Không chẳng Không, 20 Cửa Không cũng chẳng chấp, quên luôn
cái tướng Sắc tướng Không, là cái thấy Vô Tướng: Rỗng Không tuyệt đối,
“Cái Không Rốt Ráo” của Chư Phật và Thiền Sư.
Bồ Tát Long Thọ,Tổ Thiền Tông thứ 14 cũng bác bỏ luôn cả “Hữu
Vi” và “Vô Vi”. Ngài luận giải: Không có tướng sanh trụ diệt ,do đó không
có pháp Hữu Vi.Pháp Hữu Vi đã không có làm sao có pháp Vô Vi để đối đãi
với Hữu Vi?
Tổ Long Thọ nói : không có tướng sinh hay pháp sinh.
“Sinh phi sinh dĩ sinh
Diệc phi dị sinh sinh
Sinh thời diệc bất sinh”.
Nghĩa là : Tướng sinh chẳng phải sinh rồi mà sinh,cũng không phải
chưa sinh mà sinh , khi đang sinh cũng không sinh.
Ngài nói tiếp :
“Nhược pháp chúng duyên sinh
Tức thị tịch diệt tướng
KIẾN GIẢI CHỨNG ĐẠO CA: “VÔ TRỤ NIẾT BÀN VÀ MA HA BÁT NHÔ
________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________
Thiền Sư HUYỀN GIÁC--Trang | 53 --Kiến Giải: NGỘ THÂM
Thị cố sinh sinh thời
Thị nhị câu tịch diệt”.
Nghĩa là :Mọi pháp duyên sinh đều tịch diệt, tức không có tự tính, tức
Tánh Không . Vì thế sinh khởi và đang sinh khởi, cả hai đều tịch diệt, cho nên
không thể nói đang sinh là có sinh . Cũng không có tướng trụ hay pháp trụ.
Ngài nói:
“Bất trụ pháp bất trụ
Trụ pháp diệc bất trụ
Trụ thời diệc bất trụ
Vô sinh khứ hà trụ”.
Nghĩa là : (Pháp không trụ thời không trụ
Pháp trụ cũng không trụ
Pháp đang trụ cũng không trụ
Vì không sinh làm sao có trụ).
Cuối cùng cũng không có tướng diệt hay pháp diệt.
Ngài nói : “Pháp bất tự tướng diệt
Tha tướng diệc bất diệt
Như tự tướng bất sinh
Tha tướng diệc bất sinh”.
Nghĩa là : (Pháp không tự tướng diệt
Cũng không do tướng khác diệt
Giống như tự tướng không tự sinh
Tha tướng cũng không sinh).
Và Tổ kết luận: “Sinh trụ diệt bất thành
Cố vô hữu Hữu Vi
Hữu Vi bất vô cố
Hà đắc hữu Vô Vi”?
Nghĩa là : (Tướng sinh ,trụ, diệt không có
Nên không có pháp Hữu Vi
Pháp Hữu Vi không có
Sao có pháp Vô Vi)?
Trong Kinh Thủ Lăng Nghiêm, Đức Phật có nói đến pháp Hữu Vi và
Vô Vi như sau:
“Nơi Chân Tánh, Hữu Vi là không
Vì duyên sinh nên giống như huyễn
Vô Vi thời không sanh không diệt
KIẾN GIẢI CHỨNG ĐẠO CA: “VÔ TRỤ NIẾT BÀN VÀ MA HA BÁT NHÔ
________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________
Thiền Sư HUYỀN GIÁC--Trang | 54 --Kiến Giải: NGỘ THÂM
Chẳng thật như hoa đốm giữa Hư Không
Nói cái Vọng để tỏ cái Chân
Vọng Chân ấy cả hai đều Vọng”.
Theo chân đế ,vì duyên sinh nên các pháp Hữu Vi không có thật, như
các trò huyễn thuật “Vô Vi” chỉ đối với Hữu Vi mà thành lập .Hữu Vi đã
không có thì Vô Vi cũng không có .Khi nói Hữu Vi là Vọng là để chứng tỏ Vô
Vi là Chân. Vọng và Chân ấy cả hai đều là Vọng .Vì Vọng Chân ấy vẫn nằm
trong Nhị Nguyên đối đãi.
Trong khi đó chữ “VÔ” trong Phật giáo vượt trên Nhất Nguyên ,là
cái “MỘT” cùng tột ,cũng là cái “Không” cùng tột .Chữ “Vô” của Phật giáo
vượt lên khỏi cái “Vô Vi” của Lão Trang và cái “Hữu Vi” của Khổng Mạnh.
Trong Chứng Đạo Ca, Thiền Sư Huyền Giác đã học cái tột cùng là cái
Cửa “Vô Vi ” để đạt đến “Vô Vi” mà chứng “Đạo”: “Tuyệt học Vô Vi nhàn
đạo nhân” . “Vô Vi” của Thiền Sư Huyền Giác là “Vô” mà vi diệu, là cái
Không rốt ráo: Rỗng mà linh ,Không mà diệu, phi nhân ,phi Phật ,phi vật,phi
phàm:
“Liễu liễu kiến vô nhất vật
Diệc vô nhân diệc vô Phật
Đại thiên sa giới hải trung âu
Nhất thiết thánh hiền như điện phất”.
(Ngộ rồi thấy không có một vật,
Cũng không người cũng không Phật,
Đại thiên thế giới như bọt nước lao xao bể tan nát
trở về Hư Không. Tất cả thánh hiền như làn điện chớp
xảy ra trong một sát na rồi cũng mất về Không).
Cái cửa “VÔ VI” của Thiền Sư Huyền Giác cũng giống như cái cửa
“VÔ” của Thiền Sư Triệu Châu hay cái “Cửa không Cửa” Vô Môn Quan
của Thiền Sư Huệ Khai. Tham cứu cái cửa “VÔ VI” là để ngộ nhập “VÔ VI”
cũng là đi mút đầu nguồn Tâm nhảy qua đầu sào trăm trượng của Thiền Sư
Cảnh Sầm ngộ nhập căn nhà Bát Nhã. Cái cửa “VÔ” vi diệu đó là cánh cửa
Thiền để nhảy vào cái “Rỗng Thênh Không Thánh” mà Tổ Sư Đạt Ma đã
khai thị cho Lương Võ Đế, hay cái “Bổn lai vô nhất vật” của Lục Tổ Huệ
Năng ,cũng là cái cửa Ca Diếp: “Niêm hoa vi tiếu” mà Đức Phật khai thị cho
Tổ Ca Diếp ở Pháp hội Linh Sơn.
KIẾN GIẢI CHỨNG ĐẠO CA: “VÔ TRỤ NIẾT BÀN VÀ MA HA BÁT NHÔ
________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________
Thiền Sư HUYỀN GIÁC--Trang | 55 --Kiến Giải: NGỘ THÂM
Có thể phân tích cái cửa “VÔ VI” của Thiền Sư Huyền Giác thành
hai phần: phần 1 là “Cửa”, phần 2 là “VÔ VI”.
1-Cửa: là chỗ tiếp nối giữa ngoài và trong, giữa Mê và Ngộ, giữa Sắc
và Không, giữa Vật và Phi Vật, giữa Tâm và Tánh, Dụng và Thể hay Thế
Gian Mê và Bát Nhã Chân Như…Người Thế Gian chỉ tiếp xúc được với thế
giới chung quanh mình qua “Sáu Căn” bị nhiều giới hạn và ngăn ngại: biết
được Ngọn Tâm mà không thể nhận ra Chân Tâm hay vượt khỏi Chân Tâm để
nhận ra Tánh, biết được Dụng mà không thể nhận ra Thể, biết được cái Hữu
Hình mà không nhận ra được cái Vô Hình, biết được Tướng mà không nhận ra
được cái Vô Tướng…Cho nên phải dựa vào “Sáu Căn” và Sự Vật là chỗ có
thể nhận biết của phàm phu, nhưng phải ở tận đầu nguồn, cái “Tuyệt Cùng”
của Sáu Căn và Sự Vật, là cái “Cửa” Vô Vi. Tổ Bồ Đề Đạt Ma khai thị:
“Trực chỉ nhân Tâm kiến Tánh thành Phật” là phải đi huốt con đường Tâm
đến đầu nguồn Tâm, huốt khỏi cái hình tướng, cái máy động của Tâm, chỗ đó
thì Tĩnh (Bất Động) và vô hình tướng, chính là cái “Cửa” Vô Vi, ngay đó
thấy Tánh thành Phật. Thiền Sư Huyền Giác cũng khai thị: “Thẳng tận đầu
nguồn phăng dấu Phật”, cái đầu nguồn ở đây cũng là cái “Cửa” Vô Vi, huốt
mọi hình tướng Sự Vật, huốt cả Sáu Căn (thấy nghe hiểu biết, xúc chạm…)
huốt tất cả cái “máy động”. Cái Tuyệt Học, tức học cái Tuyệt Cùng, cái đầu
nguồn của Sự Vật, đó chính là cái Rõ, là Gốc Tâm, Chân Tâm, Đầu Nguồn
Tâm hay cái Ánh Sáng Bát Nhã. Cái Rõ hay cái Ánh Sáng Bát Nhã này ẩn nơi
cái Thấy mà không phải là cái Thấy (như Tổ Ca Diếp nhìn cành hoa sen mà
ngay đó ngộ nhập Bát Nhã), ẩn nơi cái Nghe mà không phải là cái Nghe (như
Thiền Sư Huệ Khai nghe tiếng trống ở trai đường mà Chứng Ngộ), ẩn nơi cái
Xúc Chạm mà không phải là cái Xúc Chạm (như Thiền Sư Vân Môn bị cánh
cửa dập nát bàn chân liền ngay đó Đại Ngộ), ẩn nơi cái Ý Căn mà không phải
là Ý Căn (như Tổ Huệ Năng nghe Kinh Kim Cang tới câu: “Ứng vô sở trụ
như sanh kỳ Tâm” liền ngay đó Đại Ngộ)…Cái Cửa Rõ hay cái Cửa Vô Vi
này có thể “tập trung Sáu Căn” và tất cả căn tương thông tập trung vào Ý
Căn như Tổ Huệ Năng nghe Ngũ Tổ Hoằng Nhẫn giảng Kinh Kim Cang.
Hoặc tất cả Sáu Căn tương thông mà không khởi niệm nhưng tập trung vào
Nhãn Căn như Tổ Ca Diếp nhìn cánh hoa sen ở pháp hội Linh Sơn. Hoặc
“thả lỏng Sáu Căn” đồng loạt nghỉ ngơi nhìn thoáng nhẹ vào một vật, một
tàng cây, một ngọn núi, một đám mây hay nhìn vào Hư Không trong tĩnh lặng;
một khi Tâm hoàn toàn an định thì cánh Cửa Rõ có thể từ từ hay bất chợt hiện
ra như lời khuyên của Tuệ Trung Thượng Sĩ. Cũng có thể ngay khi Sáu Căn
thả lỏng và Tâm an định như mặt nước lặng yên, một tiếng động hay bất cứ
một biến cố xảy ra đột xuất có thể ngay lúc đó cánh Cửa Rõ Vô Vi mở ra và
ngay đó ngộ nhập Vô Vi như trường hợp của Triệu Biện…
KIẾN GIẢI CHỨNG ĐẠO CA: “VÔ TRỤ NIẾT BÀN VÀ MA HA BÁT NHÔ
________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________
Thiền Sư HUYỀN GIÁC--Trang | 56 --Kiến Giải: NGỘ THÂM
Học Đạo cần phải có cái “Kiến Văn Giác Tri” thông qua Sáu Căn
mới hiểu được Đạo Lý. Tuy nhiên nếu chấp vào Kiến Văn Giác Tri lại là cái
“Sở Tri Chướng” làm cho con mắt Đạo bị mù. Vì vậy khi đã hiểu Đạo thì
phải biết buông cái Kiến Văn Giác Tri, đi huốt cái máy động của Sáu Căn,
huốt khỏi cái Kiến Văn Giác Tri, là cái Cửa Vô Vi và đạt tới cái “Vô Tâm”
của Thiền Sư Hoàng Bá là xem như đã đạt Đạo:
“Bờ bên kia có Hoàng Bá hóa độ
Kiến Giác Tri, Vô Tâm, Niết Bàn lộ
Vô trụ , vô chấp, tự tại Đạo Tràng
Bồ Đề vô sở đắc liễu liễu quang”.
Còn “Sở Tri Chướng” là chưa đi huốt đường Tâm, tức là chưa tới cái
Tuyệt Cùng của Sáu Căn hay cái Tuyệt Cùng của Kiến Văn Giác Tri, tức chưa
tới Cửa Vô Vi, nên chưa thấy Đạo, mà chỉ thấy Văn Tự Chữ Nghĩa suông!
Ngày xưa Tổ A-Nan cũng có gặp cái chướng ngại này, Thiền Sư Hương
Nghiêm Trí Nhàn cũng vậy. Có câu chuyện Thiền về Sở Tri Chướng giữa Sư
Trí Nhàn và Qui Sơn:
Sư Trí Nhàn bản chất thông minh, hiểu biết rộng rãi, khi Tổ Bá
Trượng tịch, Sư theo Sư huynh Qui Sơn Linh Hựu để tham học. Một hôm Qui
Sơn hỏi: “Ta nghe ngươi ở chỗ Tiên Sư Bá Trượng hỏi một đáp mười, hỏi
mười đáp trăm, đó là người thông minh lanh lợi, ý hiểu thức tưởng là cội
gốc sinh tử. Giờ đây thử nói một câu khi cha mẹ chưa sinh xem?”. Sư mờ
mịt không đáp được, soạn hết sách vở đã học qua, tìm một câu đáp không thể
có. Sư than: “Bánh vẽ, chẳng no bụng đói”, liền cầu xin Qui Sơn hỏi pháp.
Qui Sơn bảo: “Nếu ta nói cho ngươi về sau ngươi sẽ mắng ta; ta nói là việc
của ta đâu can hệ gì đến ngươi?”. Sư đem đốt hết sách vở, tự nhủ thầm:
“Đời này chẳng học Phật Pháp nữa, chỉ làm Tăng thường, làm việc cơm
cháo, khỏi nhọc tâm thần”. Sư khóc lóc từ giã Qui Sơn ra đi, đến Nam
Dương. Một hôm cuốc cỏ trên núi, lượm hòn gạch ném trúng cây tre vang
tiếng, tức thì Đại Ngộ. Sư làm bài kệ:
“Nhất kích vong sở tri
Cánh bất giả tu trì
Động dung đương cổ lộ
Bất đọa thiểu nhiên cơ
Xứ xứ vô tung tích
Thinh sắc ngoại uy nghi
Chư nhân đạt Đạo giả
Hàm ngôn thượng thượng cơ”.
(Một tiếng quên sở tri
Chẳng cần phải tu trì
Đổi sắc bày đường xưa
KIẾN GIẢI CHỨNG ĐẠO CA: “VÔ TRỤ NIẾT BÀN VÀ MA HA BÁT NHÔ
________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________
Thiền Sư HUYỀN GIÁC--Trang | 57 --Kiến Giải: NGỘ THÂM
Chẳng rời cơ lặng yên
Nơi nơi không dấu vết
Oai nghi ngoài sắc thinh
Những người bậc đạt Đạo
Đều gọi thượng thượng cơ).
Cái Rõ hay cái Cửa Vô Vi trong trường hợp này ẩn nơi cái Nghe mà
không phải là cái Nghe vì nó huốt cả Sáu Căn, cũng như Triệu Biện nghe tiếng
sấm mà chợt Ngộ. Tuy nhiên trường hợp của Triệu Biện là đang thả lỏng Sáu
Căn, còn đối với Sư Trí Nhàn là đang có “nghi tình” lẩn lộn với cái “Sở Tri
Chướng”, nhưng cái tiếng dội của viên gạch vào cây tre vào đúng lúc cái
“nghi tình” đang chín muồi, đã làm ngưng bặt cái “Sở Tri Chướng”, ngay
cái sát na đó, huốt khỏi Sáu Căn và cái “nghi tình” bật dậy mở toang cánh
Cửa Vô Vi, tức thời Ngộ nhập Vô Vi. Còn Thiền Sư Huệ Khai đang hành trì
cái công án “Vô” của Triệu Châu, được xem như qua cái Cửa Vô Vi, ẩn nơi
cái Nghe: khi nghe tiếng trống trai đường mà Đại Ngộ. Hay Thiền Sư Liễu
Quán, “nghi tình” suốt 9 năm, khi đọc Bích Nham Lục tới câu: “Vạn Pháp
qui Nhất, Nhân qui hà xứ?” tức thì liễu Ngộ, được xem như Cái Cửa Rõ
hay cái Cửa Vô Vi ẩn nơi Ý Căn mà không phải Ý Căn, rồi huốt khỏi Sáu Căn
mà nhập thẳng vào Vô Vi…
2-“VÔ VI”.
Từ kinh nghiệm Chứng Ngộ của Thiền Sư Huyền Giác, nhờ học cái
Tuyệt Cùng (Tuyệt Học) tức là cái Cửa Rõ hay cái Cửa Vô Vi mà được VÔ
VI và trở thành một Đạo Nhân nhàn (tức là người đã Chứng Đạo vô sanh):
“Tuyệt học VÔ VI nhàn Đạo Nhân”. Cái VÔ VI này khác với cái Vô Vi của
ngoại đạo và cũng khác với Vô Vi của Lão Tử như đã phân tích ở phần trên.
Trong Kinh Kim Cang Đức Phật có nói đến VÔ VI và Thiền Sư Nguyên
Thiều (1648-1728 triều Chúa Nguyễn - Việt Nam) đã Chứng Ngộ VÔ VI và
Ngài thu gọn trong bốn câu kệ:
“Tịch tịch Kính vô ảnh
Minh minh Châu bất dung
Đường đường vật phi vật
Liêu liêu không bất không”.
(Lặng lặng Gương không ảnh
Sáng sáng Ngọc không hình
Rõ ràng vật không vật
Rỗng rang không chẳng không).
- ‘‘Lặng lặng Gương không ảnh’’: là cái Thật Tánh Bát Nhã hay
Viên Ngọc Ma Ni dụ cho TÁNH, là Bản Thể hay Thực Tướng Chân Như hay
Niết Bàn, hoàn toàn thanh tịnh, bất sanh bất diệt, không bị ngăn ngại bởi
KIẾN GIẢI CHỨNG ĐẠO CA: “VÔ TRỤ NIẾT BÀN VÀ MA HA BÁT NHÔ
________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________
Thiền Sư HUYỀN GIÁC--Trang | 58 --Kiến Giải: NGỘ THÂM
không gian và thời gian, không có năng sở, không có ngã chủ và tuyệt đối
bình đẳng thể nhập trong Tánh của mọi Chúng Sanh và Pháp Giới là cái mà
Tổ Đạt Ma khai thị cho Vua Lương Võ Đế: “Rỗng Thênh Không Thánh”
hay cái mà Lục Tổ Huệ Năng đã Chứng Ngộ : “Bổn Lai Vô Nhất Vật”.
- “Sáng sáng Ngọc không hình”: là cái Ánh Sáng Bát Nhã, hay cái
Ánh Sáng của Viên Ngọc Ma Ni. Viên Ngọc thì rất khó thấy (Ngọc không
hình) chỉ thấy cái Ánh Sáng của Viên Ngọc loé ra ngoài. Đây chính là Cái Rõ
hay cái Cửa Vô Vi của Thiền Sư Huyền Giác, là Chân Tâm, Gốc Tâm. Chính
cái Ánh Sáng Bát Nhã hay Ánh Sáng của Viên Ngọc Ma Ni chiếu ra cái Bóng
của nó tạo ra muôn vật, muôn loài và vũ trụ bao la: “Nhất thiết duy Tâm
tạo”. Tổ Đạt Ma cũng như Thiền Sư Huyền Giác chỉ cái đầu nguồn Tâm hay
huốt tất cả Sự Vật, huốt cả Sáu Căn, huốt tất cả cái máy động, chính là cái Cửa
Vô Vi để thấy Tánh, nhập VÔ VI, hay nhảy thẳng vào Đất Như Lai.
-“Rõ ràng vật không vật”: Ngay trên Vật mà nhận ra cái Rõ, cái Cửa
Vô Vi, tức là cái Ánh Sáng Bát Nhã ẩn núp nơi Vật để nhập vào VÔ VI. Ngay
trên Sự Vật vừa huốt khỏi cái hình tướng của Sự Vật là cái Phi Vật. Đây là
con mắt Bát Nhã: thấy “Sắc tức thị Không”; nhờ từ cái Cửa Rõ hay Cửa VÔ
VI để nhập vào Không, vào VÔ VI hay Bát Nhã và thấy: “Đương thể tức
không”. Nghĩa là ngay nơi Sắc mà “Phi” Sắc, ngay nơi Không mà
“Phi” Không; ngay nơi Sắc mà “Thị” Không, ngay nơi Không mà
“Thị” Sắc; là cái biến chiếu siêu việt mà Đức Phật dùng Phi hay là Thị để
diễn tả cái thực tướng “Như”, là Như Lai, Bát Nhã hay Chơn Nhất. Con mắt
của người Mê thì thấy Vật là Vật, còn con mắt Bát Nhã khi Chứng Ngộ thì
Vật là Phi Vật là Không, là Pháp Thân, Bát Nhã, hay Chơn Nhất bình đẳng
trùm khắp Hoa Tạng Pháp Giới.
-“Rỗng rang không chẳng không”: Khi đã nhập vào Tánh, Tự Tánh,
VÔ VI hay Bát Nhã tức là đã “Chứng Đạo” hay về lại “Căn Nhà Xưa”, là cái
Bổn Lai Vô Nhất Vật, cái Rỗng Thênh Không Thánh, hay cái Không rốt ráo.
Tuy nhiên Không mà chẳng Không, như Tổ Huệ Năng Chứng Ngộ: “Không
ngờ Tự Tánh hay sanh muôn Pháp”. Bởi vì cái Không, Chân Không, Bát
Nhã, Như Lai, Bản Thể, Bản Giác…tuy rỗng rang nhưng lại “Minh” và
“Diệu”, là Bản Giác Minh Diệu (Kinh Lăng Nghiêm). Minh nên trong sáng,
rõ ràng, chân thật; Diệu nên “hay sanh muôn Pháp”: biến chiếu ra ba ngàn
Thế Giới và sum la vạn tượng đầy ắp trong Hư Không vô biên, là cái Dụng
hay cái Diệu Hữu của Tự Tánh…tức là “không mà chẳng không”. Cũng như
bao nhiêu Thiền Sư khác, Thiền Sư Nguyên Thiều đã Chứng Ngộ từ cái Cửa
Vô Vi để Ngộ Nhập Vô Vi. Từ Kinh Kim Cang, Bát Nhã, Ngài đã cô đọng
trong bốn câu kệ rốt ráo để diễn đạt cái Như của Vô Vi, Tự Tánh hay Bát Nhã
ở cả hai mặt Chân Không và Diệu Hữu, Thể và Dụng, Vật và Phi Vật, Không
và Phi Không.
KIẾN GIẢI CHỨNG ĐẠO CA: “VÔ TRỤ NIẾT BÀN VÀ MA HA BÁT NHÔ
________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________
Thiền Sư HUYỀN GIÁC--Trang | 59 --Kiến Giải: NGỘ THÂM
Thật ra khi chưa ngộ nhập Vô Vi thì chia ra Cửa Vô Vi và Vô
Vi, phân làm hai là để dễ diễn đạt được ý hay nội dung là chính, mà không
chấp vào Cửa hay không Cửa. Khi đã ngộ nhập Vô Vi rồi thì Vô Vi lại là Cửa
để nhảy vào Tánh và có thể gọi Vô Vi là Cửa Vô Vi…Đạt được ý thì nên quên
lời, không nên cố chấp vào văn tự rồi hiểu theo văn tự suông có khi lại sai với
Đạo Lý. Thiền Sư Huệ Khai có pháp môn “Vô Môn Quan” tức Cửa mà không
có Cửa thì sao? Có khi cũng nói cái Không là Cửa Không, Thiền là Cửa
Thiền, ý nghĩa chỉ có một; nhưng nếu chấp vào văn tự thì lại thành hai tức là
có cái Không và Cửa Không, có Thiền và Cửa Thiền, rồi cố giải thích cho ra
lẽ, lại đi lòng vòng có khi sai đường, lạc Đạo…Do đó nên linh động trong mọi
trường hợp, chỉ cần đạt được ý là chính.
Tóm lại từ cái cửa “VÔ VI” của Thiền Sư Huyền Giác là chỗ tận đầu
nguồn của Sự Vật, đi hết đường Tâm, huốt Sáu Căn, huốt tất cả những “Máy
Động” là cái Bí Quyết để nhảy thẳng vào Đất Như Lai, vào Tánh, Bát Nhã
Chân Như, Niết Bàn thanh tịnh, hay cái KHÔNG…là chỗ Chứng Ngộ của biết
bao nhiêu Thiền Sư ngoại hạng như: Lâm Tế, Mã Tổ, Hoàng Bá, Hoài
Nhượng, Đơn Hà,Tông Nhất ,Quế Sâm ,Văn Ích ,Đạo Giai, Bổn Tịnh, Đức
Sơn ,Triệu Châu, Cảnh Sầm ,Đại Huệ …v…v…
“Đệ nhất Ca Diếp thủ truyền đăng
Nhị thập bát đại Tây thiên ký
Pháp đông du ,nhập thử thổ
Bồ Đề Đạt Ma vi Sơ Tổ
Lục đại truyền y thiên hạ văn
Hậu nhân đắc đạo hà cùng số”.
(Thoạt tiên Ca Diếp đèn Tâm truyền
Hăm tám đời Tổ Sư Tây thiên
Pháp sang Đông vào Trung thổ
Bồ Đề Đạt Ma là Sơ Tổ
Sáu đời y bát thiên hạ nghe
Người sau đắc đạo nhiều vô số).
Người sau đắc đạo nhiều vô số vì đã bước đi đúng vào dấu chân của
Phật ,của Tổ mà đi ,không đi theo dấu vết tà ma ngoại đạo .Độc hành độc bộ
mà đi và đi với chánh pháp :
“Thường độc hành , thường độc bộ
Đạt giả đồng du, Niết Bàn lộ”.
KIẾN GIẢI CHỨNG ĐẠO CA: “VÔ TRỤ NIẾT BÀN VÀ MA HA BÁT NHÔ
________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________
Thiền Sư HUYỀN GIÁC--Trang | 60 --Kiến Giải: NGỘ THÂM
Phải mồi lửa đuốc trí tuệ của Phật của Tổ để soi đường dẫn lối .Đi với
cái Tâm “Không” tương ứng với cái Cửa Không Bát Nhã mà Ngài Huyền
Giác đã chứng ngộ ,hay cái Cửa Vô của Triệu Châu đã khai ngộ cho biết bao
nhiêu thiền sinh đi đến bờ giác như Ngài đã từng nói :
“Các ngươi cứ tham cái “Không” vi diệu nầy trong 5 năm, 10 năm,
20 năm, 30 năm nếu không ngộ sẽ chặt cái đầu ta”.
Bàng Long Uẩn trước khi ngộ và sau khi ngộ vẫn sống với cái Không
vi diệu nầy , Ngài vịnh thơ về cái Không :
“Lão Bàng không cần gì trong thế gian
Tất cả đều không ,một chỗ ngồi cũng không
Cái không rốt ráo ngự trong nhà ông
Không tất cả vì không tài sản
Khi Mặt Trời lên ông đi trong không
Khi Mặt Trời lặn ông ngủ trong không
Ngồi trong không ca bài ca không
Vài bài ca không vang dội trong không
Đừng kinh ngạc vì cái không rất không
Vì cái không là chỗ ngồi của Chư Phật
Nếu bảo rằng không có không
Tức là hủy báng Chư Phật”.
Long Thọ, Tổ Tây Trúc thứ 14 trong “Luận Đại Trí Độ” có nói:
“Niết Bàn thành hữu tam môn sở vị : Vô ,Vô Tướng ,Vô Tác”.
Nghĩa là thành Niết Bàn có 3 cửa : cửa Vô, cửa Vô Tướng ,cửa Vô
Tác. Cũng nói tới cái cửa Không vi diệu đó.
Kinh Lăng Già cũng có nói: “Phật ngữ Tâm vi Tông, Vô Môn vi
Pháp Môn”. Phật nói Tâm là Tông, cửa Không là cửa Pháp. Cửa Không cũng
là cái Không hay Chân Không chính là Bát Nhã, Pháp Thân, Tự Tánh hay là
Tánh. Cửa Không là cửa Pháp mà cũng chính nó sinh ra Vạn Pháp: “Không
tức thị Sắc”.
Do đó cái “Không” là “Gốc” là “Bản Thể” của Vũ Trụ Càn Khôn,
Sum La Vạn Tượng, mười phương Chư Phật hay tất cả chúng sanh trong sáu
ngã luân hồi…là cái Rỗng Rang-Emptiness, tạm gọi là Hư Không. Nó chính là
“Tánh” hay “Tự Tánh” mà Lục Tổ Huệ Năng đã chứng Ngộ. Nó là cái Chơn
Nhất, là “Một” Mặt Trăng thật biến chiếu ra vô số Bóng Trăng! Như đã luận
giải ở trên cái “Không” hay Bát Nhã là “Viên Ngọc Ma Ni” là Tánh hay Tự
KIẾN GIẢI CHỨNG ĐẠO CA: “VÔ TRỤ NIẾT BÀN VÀ MA HA BÁT NHÔ
________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________
Thiền Sư HUYỀN GIÁC--Trang | 61 --Kiến Giải: NGỘ THÂM
Tánh, có cái Ánh Sáng của nó hay cái Rõ linh diệu là Tâm: là cái Tánh Giác
Diệu Minh biến chiếu ra Vũ Trụ Càn Khôn. Rốt ráo, chỉ có Tâm và Tánh hay
Sắc và Không. Nhưng không phải là hai mà là Một, là Chơn Nhất: cái Không
rốt ráo vượt cả Hữu và Vô. Còn thấy là hai là còn trong Mê. Bởi vì Tâm sinh
ra Tam Giới Vũ Trụ Càn Khôn hay Vạn Pháp và Chúng Sanh chỉ là cái Tướng
cái Bóng hay cái Dụng của Tánh. Không có cái Sắc hay Vật Chất Vũ Trụ
Không Gian, ngay cả Hư Không cũng không có…chỉ có Tánh là duy nhất.
Tánh thì không sinh diệt, tự thanh tịnh, tự đầy đủ, chẳng lay động nhưng lại
hay sanh muôn Pháp. Tánh như Mặt Biển, Ba Ngàn Thế Giới chúng sanh như
những Hòn Bọt nổi trên Biển Tánh. Ba Ngàn Thế Giới là Sự Vật giả huyễn có
động có Tướng phân biệt có không gian thời gian và các cõi nước là do
Nghiệp tạo ra. Nhưng tất cả đều là huyễn hóa do Tâm Mê bởi Nghiệp Lực hay
Vô Minh tạo ra: “Vô Minh thật Tánh tức Phật Tánh” (Tánh thật của Vô
Minh cũng chính là Phật Tánh). Do đó trên đời chỉ có cái duy nhất là Tự Tánh
hay Tánh hay là cái Không – cái Rỗng Rang – Emptiness…là cái Chơn Nhất.
Tất cả chúng sanh từ người, trời, cầm thú hay các cõi khác đều nhìn thấy Tánh
mà không biết. Mở mắt ra tức thì nhìn thấy cái Không, nhắm mắt lại vung tay
ra tức thì đụng tới cái Không. Cái Không, Tự Tánh hay Tánh là Bản Thể; Tam
Giới, Càn Khôn Vũ Trụ, Sum La Vạn Tượng hay tất cả Chúng Sanh trong sáu
cõi là Hiện Tượng, là Bọt nổi trong Biển Tánh. Bọt về với Nước cũng như Sắc
về với Không. Còn Mê thì là hai : Bọt và Nước hay Sắc và Không. Ngộ thì là
Một, Bọt hay Sóng tức Nước, Sắc tức Không! Bọt nổi trên Mặt Nước cũng
như Sắc nổi trong Không, Vũ Trụ nổi trong Hư Không và từ Hư Không mà
biến hiện. Việc sinh tử cũng giống như Hòn Bọt bị vỡ hòa vào Biển Nước hay
Sắc hòa vào Không rồi từ Biển Nước nổi lên thành Bọt hay từ Không biến
thành Sắc. Do động mà Biển Nước nổi Bọt nổi Sóng cũng như do Vô Minh
hay Nghiệp Lực mà từ Tự Tánh hay cái Không nổi lên thành Thế Gian Mê với
sơn hà đại địa và vạn pháp trùng trùng duyên khởi, hiện ra đủ thứ các Tướng
vật chất. Có Biển Nước mới có sự nổi Bọt, cũng như có cái Không mới hiện ra
Sắc hay có Biển Tánh mới nổi lên Tướng Thế Gian và tất cả chúng sanh trong
sáu Cõi…Hòn Bọt phải trôi trên Biển Nước, tất cả chúng sanh đang trôi nổi
trên Biển Tánh. Do đó tất cả chúng sanh đang ở trong Tánh ngay trong Tánh
mà không hay biết, tất cả chúng sanh đều bình đẳng và cùng một Gốc là Tự
Tánh này mà ra. Không có Ngã mà vô số Ngã, vô số Ngã mà không có Ngã,
tất cả đều cùng một cái Thân là Pháp Thân là Tự Tánh là cái Không Thật
Tướng Vô Tướng! Biển Tự Tánh hay cái Thật Tướng Vô Tướng này hoàn
toàn Vô Sở Trụ bất cứ nơi nào cũng có thể nổi Bọt hay là Bóng Trăng. Pháp
Thế Gian cũng Vô Sở Trụ không một chúng sanh nào có thể bắt lấy hay sở
hữu bất cứ một pháp nào dù là tiền của chức vị danh vọng kể cả sinh mạng, vì
nó là Bóng Trăng ra khỏi mặt nước là mất. Chỉ khi mất mình, vô ngã tức là
KIẾN GIẢI CHỨNG ĐẠO CA: “VÔ TRỤ NIẾT BÀN VÀ MA HA BÁT NHÔ
________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________
Thiền Sư HUYỀN GIÁC--Trang | 62 --Kiến Giải: NGỘ THÂM
Hòn Bọt tan hòa thành Biển Nước hay Biển Tánh là cái không sinh diệt
thường hằng thường chiếu thường soi là Căn Nhà Xưa vô thủy vô chung. Phật,
Tổ hay Thiền Sư ngộ đạo, sống với cái Không này thì không còn sinh tử. Nếu
còn thân tứ đại của Thế Gian thì chỉ là cái thân huyễn hóa tạm thời theo Pháp
Thế Gian để độ chúng sanh, còn cái thân thật của các Ngài là cái Không vi
diệu là cái Tánh trùm khắp dung thông với tất cả Tánh là cái Chơn Nhất Bát
Nhã. Do đó người đi tìm Đạo phải biết hướng về Gốc là cái Không này, cái
Không Vô Sở Trụ, không cần phải đi đâu xa, cái Không không bờ bến, không
ngăn cách, vô phân biệt, bình đẳng và ở tất cả mọi nơi, mọi thời…
Các Tổ và Thiền Sư thường chỉ cái Không để khai thị cho Thiền Sinh
bằng nhiều cách hay nhiều thủ thuật linh hoạt. Chẳng hạn Thiền Sư Lâm Tế
khai thị: “Trên cục thịt đỏ có vô vị chân nhân thường từ cửa mặt các ông
ra vào. Người chưa chứng cứ hãy xem! Xem!”. Trên cục thịt đỏ: tức là
ngay trên cái thân Tứ Đại; có vô vị chân nhân: người chứng đạo vô vị tức là
không có vị trí, không tên không tuổi, thật ra vô vị chân nhân ở đây không
phải là người mà ám chỉ Phật Tánh, Tự Tánh; thường từ cửa mặt: tức là bao
trùm trước mặt, ám chỉ cái Rỗng Không trùm khắp; các ông ra vào: các ông
qua lại trong cái Rỗng Không đó. Người chưa chứng hãy xem! Xem! : Đây là
sự khai thị đột biến để Thiền Sinh chưa chứng, thấy được Phật Tánh hay Tự
Tánh ngộ nhập vào cái Rỗng Không ở ngay cửa mặt và ngay trong thân Tứ
Đại mà hành giả thường qua lại hay trôi nổi trong cái Biển Chân Không Tự
Tánh hay Phật Tánh ấy.
Nhập vào Không như các Thiền Sư khai thị thường là Đốn Ngộ, tức là
ngộ tức thời vào Không, thấy được Tự Tánh hay đạt được Đất Như Lai.
Điều này không phải dễ đối với những người căn cơ thấp. Dùng ý thức mà
đột nhập nhận ra Đạo trực tiếp là một sự phá vỡ phi thường hiếm có. Thường
là dùng sự nghi tình cao độ, sự quên mình vô ngã, bặt cả ý thức để vào cửa.
Chẳng hạn như có vị Tăng hỏi Thiền Sư Triệu Châu: “Thế nào là Phật?”. Sư
trả lời: “Phật ở trong điện”. Vị Tăng rất thật thà nhận xét chính xác: “ Trong
điện đâu không phải bùn đất đắp thành tượng…”. Sư đồng ý với vị Tăng rằng
Phật trong điện chỉ là bùn đất không phải Phật, nên Sư trả lời: “Phải!”. Vị
Tăng bắt đầu nghi tình và tiếp tục câu hỏi trước : “Thế nào là Phật?”. Sư vẫn
trả lời: “Phật ở trong điện”. Vị Tăng hoàn toàn không biết gì nữa, không còn
dùng ý thức để suy xét được nữa và nghi tình tột độ: “Con mê muội xin thầy
chỉ dạy”. Ngay đó Sư liền hỏi: “ Ăn cháo chưa?”. Vị Tăng trả lời thành thật
theo câu hỏi của Sư: “ Ăn cháo xong”. Sư bảo: “ Rửa chén bát đi”. Vị Tăng
nhân đây đại ngộ! Thoát nhìn thì chuyện ăn cháo rửa bát không ăn nhập gì với
câu hỏi: “Thế nào là Phật?”. Nhưng thật ra là có liên quan. Trước nhất vị
Tăng dùng ý thức với cái kiến văn giác tri nhận xét biết chắc Phật trong điện
KIẾN GIẢI CHỨNG ĐẠO CA: “VÔ TRỤ NIẾT BÀN VÀ MA HA BÁT NHÔ
________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________
Thiền Sư HUYỀN GIÁC--Trang | 63 --Kiến Giải: NGỘ THÂM
là Phật giả chỉ là bùn đất. Kế đến Ngài Triệu Châu cố tạo cái nghi tình cho vị
Tăng và đánh rơi cái ý thức suy nghĩ hay cái kiến văn giác tri mà vị Tăng vừa
mới suy xét nên Sư vẫn trả lời là : “Phật ở trong điện” lần thứ hai. Tới đây
khi thấy vị Tăng đã thật sự nghi tình, tức thì Sư “đổi chiêu” liền khai thị mở
cửa cho vị Tăng bằng cách khơi dậy ngay vào nguồn Tâm của vị Tăng bắt
buộc vị Tăng phải trở về với chính mình; vì Phật trong điện bên ngoài là
không phải Phật rồi, chỉ còn lại chính mình; chính vị Tăng ăn cháo, chính vị
Tăng rửa bát và chính cái Sáu Căn hay cái Thân biết động đậy này là Tâm và
tận đầu nguồn của Tâm tức là Phật, ngay đây vị Tăng thấy được Tự Tánh.
Thiền Sư với nhiều thủ thuật linh hoạt, cũng có lúc dùng kiếm thuật
sắc bén chặt đứt ngã kiến ngã sở, khai thị trực tiếp vào cửa. Chẳng hạn như có
Vị Tăng hỏi: “Theo lời Thầy dạy - “Khi thế giới hoại, Tánh này chẳng
hoại”, thế nào là Tánh này?”. Ngài Triệu Châu đáp: “Tứ đại ngũ uẩn”. Vị
Tăng không vào cửa được mà rơi vào ngã kiến của phàm phu với cái kiến văn
giác tri, Vị Tăng cãi lại: “Các thứ ấy đều hoại”. Vị Tăng phân tích rất đúng là
tứ đại ngũ uẩn đều phải hoại, nhưng đây chỉ là cái thấy trên tướng chấp dính
vào ngã sở với nhận thức của thế gian Mê: Thấy tứ đại là tứ đại, ngũ uẩn là
ngũ uẩn. Vị Tăng thắc mắc hỏi tiếp: “Thế nào là Tánh này?”. Ngài Triệu
Châu đảo lại đường kiếm cũ: chỉ thẳng và chặt đứt ngã kiến ngã sở của Vị
Tăng một lần nữa, Ngài trả lời: “Tứ ngũ đại uẩn” (cũng giống như tứ đại ngũ
uẩn). Đây là lời khai thị rốt ráo trực tiếp vào cửa: “Bồ Tát Quán Tự Tại
hành thâm Bát Nhã Ba La Mật Đa, thời chiếu kiến Ngũ Uẩn giai
Không”… Tứ đại và ngũ uẩn đều là giai Không và Không ở đây cũng chính
là Tánh hay Tự Tánh! Bởi vì không đâu có Như Lai mà đâu đâu cũng là Như
Lai, không đâu có Bát Nhã mà đâu đâu cũng là Bát Nhã, không đâu có Pháp
Thân Phật mà đâu đâu cũng là Pháp Thân Phật, không đâu là Tánh hay Tự
Tánh mà đâu đâu cũng là Tánh hay Tự Tánh! Tất cả chỉ khác là Mê hay Ngộ!
Mê thì dùng tần số Thức Nghiệp động niệm qua Sáu Căn để thấy nghe hiểu
biết. Ngộ thì dùng tần số Bát Nhã với Trí Vô Sư cũng qua Sáu Căn, nhưng
chuyển Thức thành Trí, Tánh hay Tự Tánh Chân Như khởi niệm.
Tứ đại ngũ uẩn, đất nước gió lửa, sum la vạn tượng hay sơn hà đại
địa…chỉ là vô số Bóng Trăng không phải Mặt Trăng thật. Tuy nhiên khi Mặt
Nước lặng yên hay chiếc Gương Tâm trong sáng không dính bụi mờ và Bầu
Trời trong không có mây mù thì nó vẫn không lìa tịch, vẫn tương ưng với Thể
Tánh thanh tịnh của Vầng Trăng tịch, vẫn rõ ràng thanh tịnh tự tại và y như
Mặt Trăng thật: “Một là Tất Cả, Tất Cả là Một”. Với con mắt Bát Nhã,
không còn Nghiệp hay con mắt của người Chứng Đạo thì đâu đâu cũng là Mặt
Trăng thật hay là Tánh, tất cả Pháp hay tất cả cái Sắc Sắc đều “Như”:
KIẾN GIẢI CHỨNG ĐẠO CA: “VÔ TRỤ NIẾT BÀN VÀ MA HA BÁT NHÔ
________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________
Thiền Sư HUYỀN GIÁC--Trang | 64 --Kiến Giải: NGỘ THÂM
“Rõ ràng Sắc Sắc, Rõ ràng Không,
Rõ ràng chẳng Sắc, tức Chân Tông.
Nếu ai vỡ được Sắc trong Mộng
Xin hãy cùng nhau bàn Bát Nhã”.
Tất cả cái Sắc Sắc như sum la vạn tượng, sơn hà đại địa… đều là
Không, là cái Thực Tướng Không, chẳng phải là Sắc mà chính là Chân Tông,
Tự Tánh hay là Tánh. Trong giấc Chiêm Bao tất cả cái Sắc Sắc trong Chiêm
Bao không là Sắc, tức không có thật mà do Tánh hay Tự Tánh từ cái Thân trên
giường biến chiếu ra. Mê thì thấy là Sắc, Ngộ thì thấy nó là Tánh hay Tự
Tánh… Hòn Bọt hay Sóng cũng chính là Nước, chất liệu hay bản thể của nó là
Nước, chỉ khác là ở trên Tướng do Mê mà phân biệt Tướng làm mất tính Chân
Như. Tất cả là Một “Nhất thiết tức Nhất” là Nhất Như là Tánh, không có gì
khác. Không có sơn hà đại địa, không có vật chất, không có không gian 3
chiều, 10 chiều hay các cõi nước, vì tất cả chỉ là Bóng Ảo, huyễn có, không
phải thật. Cõi Trời, Loài Trời mở mắt chiêm bao thấy mình có cái ngã là Trời.
Cõi Người, Loài Người mở mắt chiêm bao thấy mình có cái ngã là Người. Cõi
Ngạ Quỷ, Loài Ngạ Quỷ mở mắt chiêm bao thấy mình có cái ngã là Ngạ Quỷ.
Cõi Súc Sanh, Loài Súc Sanh như: trâu bò, heo, chó… mở mắt chiêm bao thấy
mình có cái ngã là Súc Sanh. Tất cả đều chấp ngã, chấp thân, chấp tướng, chấp
cảnh tự cột trói với ngã ái trong Lục Trần mà sanh tình thức tạo Nghiệp mà
mắc kẹt trong cõi Mê hay Chiêm Bao. Từng cơn Mê do Nghiệp Lực và Vô
Minh mà chiêm bao ra đủ thứ các cõi nước, không gian thời gian vật chất và
muôn loài chúng sanh… Tất cả cái Sắc, cái Không là Nhất Như là Một, chỉ có
Biển Tánh là cái Một duy Nhất, là cái Không Rốt Ráo Rỗng Rang-Emptiness
không có một vật. Sắc Sắc là những Hòn Bọt chìm nổi trong Biển Tánh. Hòn
Bọt là một phần của Tánh, cùng với Tánh là Nhất Như, là Một. Chúng sanh
muôn loài kể cả loài súc sanh đều tự nhìn thấy Tánh mà không nhận ra Tánh
vì chỉ nhìn Tánh qua cái thấu kính Nghiệp nên bị méo mó và điên đảo! Do đó
phá vỡ được cái Sắc trong Chiêm Bao thì nhận ngay ra chính mình là vô ngã,
chợt hay ra mình đang ở trong Tánh và tất cả đều là Tánh, là Nhất Như, là
bình đẳng, là Một… Tánh là cái Rỗng Không-Emptiness, không có một
vật, là Vua Không của Triệu Châu, căn nhà “Không” của Cư Sĩ Bàng Long
Uẩn, cái Bổn Lai Vô Nhất Vật của Lục Tổ Huệ Năng, hay cái Rỗng Thênh
Không Thánh của Sở Tổ Đạt Ma… Tuy Không nhưng cực vi cực diệu, Đức
Phật ngộ nhập cái Không này mà nắm hết Càn Khôn Vũ Trụ trong lòng bàn
tay với trí tuệ Bát Nhã siêu việt! Đức Phật, Tổ và Thiền Sư đều nhắm tới cái
Không vi diệu này, là Tự Tánh hay là Tánh để chỉ đường cho chúng sanh Mê
thoát khỏi giấc Chiêm Bao trùng điệp của vô số kiếp luân hồi. Cái “Chánh
Pháp Nhãn Tạng, Niết Bàn Diệu Tâm, Thật Tướng Vô Tướng, Vi Diệu
Pháp Môn, Giáo Ngoại Biệt Truyền, Bất Lập Văn Tự” mà Đức Phật trao
KIẾN GIẢI CHỨNG ĐẠO CA: “VÔ TRỤ NIẾT BÀN VÀ MA HA BÁT NHÔ
________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________
Thiền Sư HUYỀN GIÁC--Trang | 65 --Kiến Giải: NGỘ THÂM
truyền cho Tổ Ca Diếp rồi tiếp nối về sau… từ Tâm trực chỉ vào Tánh đạt đến
Vô Sanh, thoát khỏi luân hồi. Cái đó là Pháp mà cũng không phải là Pháp
nhưng cùng một tấm bản đồ Bát Nhã “Sắc tức thị Không”. Các Thiền Sư tùy
duyên cơ mà độ chúng hoặc khai thị dẫn dắt cho các Thiền Tăng thâm nhập
vào cửa Tánh.
Thiền Sư khai thị giống như “Con Gà Mái Ấp Trứng”. Trứng nào đủ
nội lực và đủ hơi ấm của Gà Mẹ đúng giờ đúng lúc thì tự mổ vỡ võ trứng mà
chui ra. Trứng nào yếu thì cần Gà Mẹ tiếp sức. Nhưng Gà Mẹ mổ vỡ võ trứng
sớm quá mà Gà Con còn non thì Gà Con sẽ chết. Gà Mẹ mổ vỡ võ trứng trể
quá thì Gà Con bên trong bị chết ngợp. Gà Mẹ phải mổ đúng lúc Gà Con bên
trong bắt đầu cục cựa mổ ra, cả Mẹ và Con đều đồng tâm, đồng thời, đồng
điểm, đồng hành thì kết quả tự nhiên thành! Ở đây “Gà Mẹ” Triệu Châu mổ
đúng lúc để tiếp sức cho chú “Gà Con” đang ở thời điểm chín muồi muốn
thoát ra khỏi võ trứng. Đối với những bậc thượng căn vì đã hết Ngã Chướng,
nên Thiền Sư khai thị nhanh lẹ dễ vào cửa. Còn đối với bậc hạ căn, yếu đuối
hơn và có thói quen quay về Ngã để phân tích, suy xét chậm chạp và mắc kẹt
trong ngã sở ngã chấp ngã kiến…nên khó vào cửa.
Ở gần một vị Thầy Ngộ Đạo để được hướng dẫn Đạo Lý hay khai thị
thì vô cùng may mắn và lợi ích. Tuy nhiên cũng còn tùy thuộc vào khả năng
hay căn cơ của hành giả chưa tới mức đột phá hoặc còn chấp nhân ngã, còn
nắm bắt Pháp Trần chưa chịu buông nên không vào cửa được. Nắm vững Đạo
Lý, có Tấm Bản Đồ chính xác để đi, tuy xa Thầy, hay không có Thầy vẫn có
thể Tự Ngộ! (Sư Bị ngộ Kinh Lăng Nghiêm, Huyền Giác ngộ Kinh Duy Ma
Cật, Huệ Khai tham cái “Không” của Triệu Châu, Cư Sĩ Triệu Biện nghe tiếng
sấm nổ mà Đại Ngộ…).
Nhập vào Không qua cái Rõ hay cái Vô Vi của Thiền Sư Huyền Giác
thì dễ hơn là Đốn Ngộ trực tiếp thẳng vào Không như những bậc thượng căn.
Dù Đốn Ngộ hay qua cái cửa Rõ để nhập vào Không đều phải lấy Tâm làm
Gốc, chỉ cầu Tâm mà không cầu Phật bên ngoài. Khi làm rớt mất một Viên
Ngọc quý trong khu vườn rậm rạp nhiều cây cỏ, hang hóc phức tạp thì phải ra
sức đi tìm bằng cách truy cứu, tham cứu, quán chiếu, học hỏi, dò xét…không
phải ra công hành trì như tụng Kinh, niệm Phật, cầu Phật, lạy Phật, lần chuỗi
hay trì chú….mà Viên Ngọc tự nhiên hiện ra! Đành rằng những việc này cũng
có lợi ích như để ôn luyện kinh điển, vì lòng kính Phật, diệt ngã, diệt tạp niệm
hay vọng niệm…nhưng đây không phải là Gốc mà chỉ là Ngọn hoặc Thân Lá
Cành; bởi vậy Thiền Tông có câu: “Cõng Phật đi lạy Phật” là thế. Kinh Phật
hay Phật Pháp là những “Viên Linh Dược” cần phải uống để hòa trong máu
trong da thịt xương tủy chứ không phải là “Pháp Chết” hay cái “Toa Thuốc”
để đọc suông… phải biết biến Phật Pháp trên giấy mực thành “Pháp Sống”
hay “Bửu Pháp” có năng lực! Ban đầu thì cũng phải dùng cái Kiến Văn Giác
KIẾN GIẢI CHỨNG ĐẠO CA: “VÔ TRỤ NIẾT BÀN VÀ MA HA BÁT NHÔ
________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________
Thiền Sư HUYỀN GIÁC--Trang | 66 --Kiến Giải: NGỘ THÂM
Tri, học nghĩa lý kinh điển, nhưng học nơi cái Gốc và trúng chỗ, hiểu rõ ý
nghĩa sâu sắc chính xác và thường xuyên quán chiếu về nó, chứ không phải
hiểu biết cạn cợt qua loa, hoặc hiểu sai lạc thành mê tín cuồng tín, cũng không
cần phải học nhiều hay học hết kinh điển. Dùng cái Biết, cái Thấy, cái Nghe,
cái Hiểu…tham cứu, suy xét, quán chiếu, tìm cái đầu nguồn để phăng vào cửa
Phật. Cái Rõ hay cái Vô Vi chính là cái Gốc hay đầu nguồn, là chiếc cầu trung
gian để nhập vào Tánh hay vào cái Không là phương tiện tốt nhất, nhiều lợi
ích và dễ dàng hơn cho tất cả mọi người dù thượng căn hay là hạ căn như
Thiền Sư Huyền Giác đã khai thị:
“Sao bằng tự cửa Vô Vi ấy
Một nhảy thẳng liền Đất Như Lai”.
Nắm vững những yếu điểm trong Giáo Lý Kinh Điển sâu sắc bằng cái
Kiến Văn Giác Tri đã xong, thì không nên cố chấp vào nó nữa để khỏi bị
chướng ngại về ngã kiến là cái “Sở Tri Chướng”, mà giai đoạn kế tiếp là phải
dùng trên chính cái Thân Tâm hay Sáu Căn này để khám phá Chân Lý bằng
ngộ nhập. Kinh điển giấy mực văn tự nghĩa lý hay Pháp Môn đều không dùng
được ở đây. Sáu Căn tập trung hợp nhất đồng loạt quán xét trở lại trên kinh
điển, Sự Vật hay Hư Không để nhận ra cái Rõ. Ở bước đột phá, nghe hay nhận
ra kinh điển bằng “trí vô sư” từ cái Rõ, không phải bằng “thức”; cũng nhận
ra Sự Vật hay Hư Không bằng cái Rõ không phải cái Thấy…Cũng có thể thả
lỏng cả Sáu Căn nghỉ ngơi đồng loạt, để Tâm nhè nhẹ vào bất cứ Sự Vật hay
Hư Không để nhận ra cái Rõ hay cái Vô Vi. Thoạt đầu dùng cái Thấy trên Sự
Vật như tàng cây, đám mây, hay ngọn núi trong sự yên lặng để phân tích giữa
cái Thấy và cái Rõ. Cái Thấy và cái Rõ này, Thiền Sư thường nói: “ Cò trắng
tuyết trong anh tự phân”. Con Cò dụ cho cái Rõ, tuyết trong dụ cho cái
Thấy, hai cái đều màu trắng làm sao phân biệt được Con Cò! Thế mà có lúc lại
nhận ra Con Cò; cũng như nhận ra cái Rõ, tức thì cái Rõ hiện ra trùm khắp:
“Đại địa quần sanh nhãn hoát khai” ( Con Mắt Bát Nhã mở ra trùm khắp
sơn hà đại địa, vạn vật mở bừng Con Mắt Rõ hay Ánh Sáng Bát Nhã, tức ngộ
nhập được Mặt Trăng Thứ Hai) và từ đây là cái cửa Rõ hay cái cửa Vô Vi
nhảy thẳng vào Tánh. Nhưng nếu chưa vào được Tánh còn kẹt ở Mặt Trăng
Thứ Hai tuy chưa Rốt Ráo nhưng cũng đã đạt được Đạo Vô Sanh! Qua cái cửa
Rõ tuy không phải là Đốn Ngộ nhưng nó nhẹ nhàng và dễ dàng hơn. Cái Rõ
tuy không dùng ý thức lanh lợi tinh vi hay sâu sắc, nhưng nó tự nhiên nhận ra
được Bầu Trời Trong mà ý thức không làm được. Nó tự nhận ra được Hư
Không này là ai, ta là ai, sự vật này là gì, thấy “Pháp nhĩ như thị”, nơi đó Pháp
không còn là Pháp mà phi Pháp, Vật không còn là Vật mà phi Vật phi Danh
phi Tướng và phi phi Tướng! Cái cửa Rõ hay cái cửa Vô Vi hay Mặt Trăng
Thứ Hai này là Ánh Sáng Bát Nhã hay Ánh Sáng của Viên Ngọc Ma Ni, chính
KIẾN GIẢI CHỨNG ĐẠO CA: “VÔ TRỤ NIẾT BÀN VÀ MA HA BÁT NHÔ
________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________
Thiền Sư HUYỀN GIÁC--Trang | 67 --Kiến Giải: NGỘ THÂM
là Chân Tâm và từ cái Tâm đầu nguồn này để nhập vào Tánh là con đường
thẳng ngắn nhất để thành Đạo.
Tóm lại, Tâm và Tánh là con đường rốt ráo để khám phá Chân Lý hay
tìm Đạo đạt tới “Vô Sanh” thoát khỏi “Luân Hồi” cũng như cái mục đích tối
thượng là thành Phật. Bồ Đề Đạt Ma đã từng khai thị “Trực chỉ nhân Tâm,
kiến Tánh thành Phật”. Thiền Sư Mã Tổ lúc khai thị cho các Chư Tăng, khi
thì nói: “Tức Tâm tức Phật”; khi khác lại nói: “Phi Tâm phi Phật”; rồi lại nói
cả “phi vật”; thật ra không có gì là khác. Bởi vì muốn cầu Phật thì phải cầu
Tâm, nhưng phải biết rõ Tâm mình “tận gốc” thì mới thấy được Phật Tánh ở
nơi Tự Tâm, ngay đó tức Tâm là Phật. Còn phi Tâm phi Phật là đi huốt đường
Tâm đạt đến “Tâm Không” (khác với Tâm vô ký) vì Tâm đã nhập vào Tánh
thành phi Tâm và phi Phật; phi Tâm phi Phật ở đây là cái Bản Thể, cái Vô
Tướng của Tâm và Phật tức là Tánh. Còn phi vật thì cũng cái Bản Thể đó phi
Tâm, phi Phật, phi cả vật là cái Tự Tánh mà Lục Tổ Huệ Năng đã Chứng
Ngộ: “Bổn lai vô nhất vật” dung thông với tất cả Tánh, cũng chính là cái
Không, đất Như Lai, Bát Nhã hay Niết Bàn…Muốn nhập vào cái Không, cái
Bản Thể hay là cái Tánh này thì phải đi huốt tận đầu nguồn Tâm là Ánh Sáng
Bát Nhã, chính là cái Cửa “Vô Vi” của Thiền Sư Huyền Giác, ngay đó nhảy
thẳng vào đất Như Lai:
“Tranh tự “Vô Vi” Thực Tướng môn,
Nhất siêu trực nhập Như Lai Địa”.
(Thiền Sư Huyền Giác).
(Sao bằng tự cửa Vô Vi ấy,
Một nhảy thẳng liền Đất Như Lai).
KIẾN GIẢI CHỨNG ĐẠO CA: “VÔ TRỤ NIẾT BÀN VÀ MA HA BÁT NHÔ
________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________
Thiền Sư HUYỀN GIÁC--Trang | 68 --Kiến Giải: NGỘ THÂM
PHẦN 3
KHÔNG GIAN VÀ HƯ KHÔNG
NGUYÊN TỬ VÀ VŨ TRỤ
KIẾN GIẢI CHỨNG ĐẠO CA: “VÔ TRỤ NIẾT BÀN VÀ MA HA BÁT NHÔ
________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________
Thiền Sư HUYỀN GIÁC--Trang | 69 --Kiến Giải: NGỘ THÂM
Trong khi Chư Phật, Chư Tổ và Thiền Sư chú ý tới cái Không, trân
trọng nó, sống chết với nó để khám phá Chân Lý, thì phàm phu lại chê bai, bỏ
rơi nó. Ngay đến những nhà Bác Học không gian cũng chỉ khám phá cái
Không Gian -Space, còn cái Hư Không Rỗng Rang -Emptiness lại bị họ bỏ
qua. Ở đây nên phân biệt cái Không Gian-Space và cái Hư Không Rỗng
Rang-Emptiness mà thường khi gọi lầm lẫn Không Gian là Hư Không hoặc
Hư Không là Không Gian hoặc đồng hóa Hư Không và Không Gian là
một. Thí dụ có 2 vụ nổ Big Bang ở 2 “Dị Điểm” (singular point) cách nhau rất
xa . Dị Điểm A nổ trước, cách đây 15 tỷ năm sinh ra vũ trụ A và hiện thời ở
thời điểm năm 2011 bành trướng ra rộng tới 15 ngàn tỷ tỷ tỷ kilômét khối. “Dị
Điểm” B nổ sau, cách đây 1 tỷ năm sinh ra vũ trụ B và hiện thời ở thời điểm
năm 2011 nở rộng ra được 1 ngàn tỷ tỷ tỷ kilômét khối. Hai Không Gian A
và B của 2 vũ trụ này mới đầu bằng hạt bụi vô cùng nhỏ, giãn nở lớn ra nhanh
chóng như hiện tại và còn bành trướng ra đến vô biên và A lớn hơn B
(A>B).
Không Gian A có màu xanh lơ ( blue), nhiệt độ lạnh, ánh sáng truyền
đi với vận tốc 300.000 kilômét/giây. Không gian B có màu hồng nhạt (rose),
nhiệt độ nóng, ánh sáng truyền đi với vận tốc 100.000 kilômét/giây. Các
Không Gian A và B khác nhau về vị trí, kích thước, đặc tính vì vật chất cấu
tạo nên 2 vũ trụ A và B khác nhau về nồng độ đậm đặc, lực hút, từ trường,
điện trường, bức xạ..v..v…Như vậy, Không gian thì có giới hạn lớn nhỏ tăng
giảm, di động ,có sinh diệt, có đặc tính riêng biệt và tùy thuộc vào sự vật.
Trong khi đó, cái “Hư Không Rỗng Rang-Emptiness” chứa cả 2 vũ trụ và 2
Không Gian AB thì trống rỗng, bất động, bình đẳng, không tăng giảm lớn
nhỏ, không sinh diệt và trùm khắp.
Chính cái “Hư Không Rỗng Rang” bất động này là cái mà Thiền Sư
để ý tới. Nó giống với cái “Rỗng Thênh Không Thánh” của Bồ Đề Đạt Ma,
tuy nhiên nó lại chứa cái Sắc hiện bên trong tức là Vũ Trụ và cái Không Gian
của Vũ Trụ đó, tức là có “Vật”; do đó nó vẫn là Vọng Pháp. Hư Không này
có Thể và Tướng: Thể là bình đẳng, trùm khắp; Tướng là tùy Vật mà có sự
khác biệt. Tông nghĩa của Hữu Bộ chia nó làm Hư Không và Sắc Hư Không
giới, lấy Thể của nó làm Hư Không, lấy Tướng của nó làm Sắc của Hư Không
giới. Đem Hư Không này làm một Vô Vi Pháp, một của ba Vô Vi thu nhiếp
trong Pháp Xứ. Sắc của Không Giới là Sắc Pháp mà mắt nhìn thấy và thu
nhiếp ở trong Sắc Xứ, tức là Hữu Vi Pháp. Người đời coi cái Sắc của Không
giới này là Hư Không, cho nên cái mà người đời gọi là Hư Không chỉ là
“Vọng Pháp” không tránh khỏi Tướng sinh diệt. Cũng như trong giấc Mộng
Ban Đêm có cái Thế Giới Hữu Vi và Hư Không, khi thức dậy cả Thế Giới
KIẾN GIẢI CHỨNG ĐẠO CA: “VÔ TRỤ NIẾT BÀN VÀ MA HA BÁT NHÔ
________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________
Thiền Sư HUYỀN GIÁC--Trang | 70 --Kiến Giải: NGỘ THÂM
Hữu Vi và Hư Không đó đều mất, đều có cái Tướng sinh diệt. Còn trong giấc
Mộng Ban Ngày, khi “Thức Dậy” hay khi “Chứng Ngộ” thì chẳng những
Thế Giới Hữu Vi mất trở về Không mà Hư Không cũng mất trở về Không.
Khi chỉ chứng ở “Mặt Trăng Thứ Hai” cũng vậy : Sắc là cái Rõ, Hư Không
là cái Rõ trùm khắp, cho nên cả Sắc và Hư Không đều sinh diệt. Như vậy cả
hai cái Hư Không trong Mộng Ban Đêm và Hư Không trong Mộng Ban Ngày
đều có cái Tướng sinh diệt cho nên tất cả đều là Vọng Pháp. Kinh Lăng
Nghiêm nói: “Nên biết Hư Không sinh ra trong Tâm mình giống như làn
mây điểm ở trong bầu trời, phương chi thế giới ở trong Hư Không”. Kinh
lại nói: “ Cho đến Hư Không đều do sự Vọng Tưởng mà sinh khởi”. Khởi
Tín Luận cũng nói: “Hư Không Tướng là Vọng Pháp, Thể của nó là không,
nó không thực có. Do đó để thấy Tướng khiến Tâm sinh diệt. Vì tất cả Sắc
Pháp vốn dĩ là Tâm thực không ngoài Sắc. Nếu không có Sắc thì không có
cái Tướng của Hư Không”.
Như vậy vì có Sắc cho nên có cái Tướng của Hư Không, và Tâm sinh
ra Sắc phải có cái Không đối đãi với cái Sắc, do đó Hư Không là Vọng Pháp.
Nếu cái Sắc hoại đi thì không có cái Tướng của Hư Không, thì khi đó Hư
Không chính là Hư Không, là cái Vô Tướng và không sinh diệt, hoàn toàn
rỗng không vì thế giới Mê tan hoại hay không có. Nếu thấy có “Sắc Không”
là đối với con mắt Hữu của phàm phu, còn đối với con mắt Vô hay con mắt
Bát Nhã của Chư Phật và Thiền Sư thì “Sắc Không” đều là Không, là Bất
Nhị, là Chơn Nhất. Do đó Hư Không của Chư Phật và Thiền Sư là cái Không
tuyệt đối, là Chân Không. Nói khác đi đối với con mắt “Hữu” thấy “Có” của
phàm phu trong thế giới Mê thấy có Sắc thì Hư Không là Vọng, đối với con
mắt “Vô” thấy “Không” hay con mắt “Bát Nhã” của người chứng Đạo thì
Hư Không chính là cái Không, là Đạo, là cái Rỗng Thênh Không Thánh, cái
Bổn Lai Vô Nhất Vật, là cái Nhất hay Chơn Nhất, là Như Lai, là Bát Nhã, là
Niết Bàn…Cái Hư Không Vô Vi của Thể này, Đại Thừa lập làm Vô Vi Pháp,
Thiền Sư Huyền Giác cũng lấy cái Vô Vi Pháp này để tìm Đạo và đã chứng
Đạo: “Tuyệt học Vô Vi nhàn Đạo Nhân”.
Các nhà Bác Học không gian chỉ nghiên cứu trên cái “Sự Vật” mà
không nghiên cứu trên cái “ Phi Sự Vật”, họ chỉ quan sát trên cái “Tướng”
mà không quan sát trên cái “ Vô Tướng” nên bị mất hết một con mắt, chỉ nhìn
bằng con mắt “Hữu” bị chướng ngại, còn con mắt “Vô” không chướng ngại
thì bị mù, giống như người mù sờ voi nên chẳng bao giờ đạt được Chân Lý.
Các nhà Bác Học của thế gian có thể đúng, hoặc có thể tìm ra một góc
cạnh nào đó của Chân Lý, nhưng chỉ đúng theo “Nghiệp thức của chúng
sanh Người” còn đối với “Nghiệp thức của chúng sanh loài khác” thì lại
KIẾN GIẢI CHỨNG ĐẠO CA: “VÔ TRỤ NIẾT BÀN VÀ MA HA BÁT NHÔ
________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________
Thiền Sư HUYỀN GIÁC--Trang | 71 --Kiến Giải: NGỘ THÂM
sai, hoặc đối với Chân Lý thực sự thì lại sai. Cho nên cái tri thức của thế gian
là tri thức theo Nghiệp Tướng, cục bộ nếu không muốn nói là điên đảo. Thí
dụ như trong giấc chiêm bao, thế giới loài Người hiện ra với đầy đủ nhà cửa,
cầu đường, núi sông , Mặt Trời ,Mặt Trăng, và Hư Không. Các nhà Bác Học
trong thế giới chiêm bao dù có dùng kính hiển vi hay ống kính thiên văn cực
kỳ tối tân cũng chỉ nhìn thấy những sự vật giả tạo – chỉ là cái Bóng của Thân
Tâm đang nằm ngủ mê trên giường biến chiếu ra. Họ không thể nào nhìn thấy
được cái Thân Thật đang nằm trên giường mà trong giấc mộng là Hư Không
Rỗng Rang, bởi vì họ chỉ dùng con mắt Hữu Tướng của thế gian mộng – con
mắt Nghiệp trong Nghiệp Mộng. Có thể nói các nhà Bác Học đang “ mò
Trăng đáy nước” cho nên không thể nào thấy được Mặt Trăng thật mà chỉ
thấy Bóng Trăng thôi.
“Tác hữu trần sa hữu
Vi không nhất thiết không ,
Hữu không như thủy nguyệt,
Vật trước hữu không không”.
(Thiền Sư Đạo Hạnh-Việt Nam).
(Có thì có tự mảy may
Không thì cả thế gian này cũng không
Vừng trăng vằng vặc in sông
Chắc chi có có, không không mơ màng).
Tại sao con mắt Hữu Tướng của thế gian lại điên đảo và bị giới hạn
không thể thấy Chân Lý? Bởi vì sự hiện hữu của chúng sanh là do Nghiệp.
Nghiệp sanh ra Chánh Báo là loài chúng sanh và Y Báo là thế giới của loài
chúng sanh đó sinh sống. Chính Nghiệp Thức che đậy Chân Lý, ngay cái
Chân Lý Khoa Học của thế gian hay cái tri thức tuyệt vời của thế gian cũng do
Nghiệp mà ra. Cái vũ trụ với những định luật khoa học xem như bất biến mà
các nhà Bác Học của thế gian khám phá ra được cũng do bàn tay của Nghiệp
Lực nắn tạo ra. Cõi Người nghiệp lực khác, cõi A Tu La nghiệp lực khác, cõi
Trời nghiệp lực khác, cõi ngạ quỷ nghiệp lực khác.Y Báo, Chánh Báo hay
những định luật khoa học trong các cõi đó cũng hoàn toàn khác nhau và đều
có cùng một Biệt Tướng cho mỗi cõi!
Một giới hạn khác của con mắt Hữu Tướng của thế gian là sự giới hạn
về vật lý. Định luật về vận tốc của vũ trụ hiện hữu mà nhà Bác Học Albert
Einstein khám phá ra là vận tốc tối đa trong không gian hiện hữu là 300.000
kilômét/giây chỉ có hạt electron điện tử, sóng vô tuyến hay sóng điện từ
(electromagnetic waves) là đạt được bao gồm các tia X, tia Gamma, hồng
ngoại, tử ngoại… mà mắt thường không thể trông thấy, chỉ thấy ánh sáng
trắng thông thường là sóng-hạt photon. Còn sóng âm thanh thì rất chậm chỉ có
KIẾN GIẢI CHỨNG ĐẠO CA: “VÔ TRỤ NIẾT BÀN VÀ MA HA BÁT NHÔ
________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________
Thiền Sư HUYỀN GIÁC--Trang | 72 --Kiến Giải: NGỘ THÂM
khoảng 340 mét/giây chỉ truyền trong không khí, ra ngoài không gian thì
không truyền được, phải dùng sóng vô tuyến. Giả sử vào thời điểm năm 2010,
người Địa Cầu đang quan sát chúng sanh đang sống ở Hành Tinh A cách Địa
Cầu 1 tỷ năm ánh sáng. Người Địa Cầu dùng kính thiên văn cực kỳ tối tân qua
trung gian và sự truyền đi của sóng-hạt photon ánh sáng. Vì sóng ánh sáng này
mang tin tức hình ảnh của Hành Tinh A phải mất đi 1 tỷ năm truyền đi trong
Không Gian để đến Địa Cầu, cho nên người Địa Cầu chỉ nhìn thấy chúng sanh
ở Hành Tinh A cách trước thời điểm 2010 tới 1 tỷ năm. Còn chúng sanh ở
thời điểm năm 2010 ở Hành Tinh A, người Địa Cầu phải đợi 1 tỷ năm sau mới
có thể nhìn thấy được. Người Địa Cầu muốn gọi điện thoại vô tuyến cho
chúng sanh ở Hành Tinh A thì phải đợi 1 tỷ năm sau chúng sanh ở Hành Tinh
A mới nhận được cú điện thoại của năm 2010. Cũng vậy, giả sử người Địa
Cầu chế được phi thuyền không gian bay nhanh bằng vận tốc ánh sáng và
muốn thăm viếng Hành Tinh A, phi thuyền phải bay mất 1 tỷ năm sau mới đến
được Hành Tinh A. Nhưng đời người chỉ sống có 100 năm, do đó con người bị
bất lực hoàn toàn: muốn thấy cái hiện tại cũng không có thể thấy, muốn nghe
cái hiện tại cũng không có thể nghe, muốn đến cái hiện tại cũng không có thể
đến. Thế giới Hữu Vi, Hữu Tướng của thế gian là như vậy, bị giới hạn và
nhiều ngăn ngại, trong khi cái Chân Không Vô Tướng thì dung thông vô ngại.
Chư Phật có thể nhìn thấy quá khứ và hiện tại khắp 10 phương; có thể đến đi
nghe thấy khắp 10 phương trong 1 sát na; vì toàn thể vũ trụ, 3 cõi , 10 phương
chính là Pháp Thân của các Ngài. Các Ngài không cần phải đi đâu vì cả tam
thiên đại thiên nằm trong lòng bàn tay của các Ngài.
Thi Sĩ Tô Đông Pha thời nhà Tống, vào cuối đời, khi nghe Thiền Sư
Thường Tổng thuyết về: “ Vô tình thuyết pháp” đã đại ngộ, làm ra bài kệ:
“Khê thanh tiện thị quảng trường thiệt,
Sơn sắc vô phi thanh tịnh thân.
Dạ lai bát vạn tứ thiên kệ,
Tha nhật như hà cử tự nhân”.
(Suối reo chính thật lưỡi rộng dài
Màu non quả là Thân thanh tịnh
Đêm nghe tám vạn bốn ngàn kệ,
Sáng dậy làm sao nói với người ).
Tiếng suối reo lưỡi rộng dài, nghĩa là âm thanh của tiếng suối chảy
vươn dài ra đồng loạt trùm khắp cả hư không vô biên với tam thiên đại thiên
không ngăn ngại. Thân không còn ngã sở, đã hòa nhập trong vạn hữu và Hư
Không, trùm khắp cả sơn hà đại địa, bình đẳng với mọi vật. Đêm nghe vô số
kệ Phật thấu suốt cả Trời Đất. Sáng dậy làm sao nói cho người biết được, nếm
được cái hương vị chứng ngộ vi diệu này. Đó là cái thấy, cái nghe vô tướng,
KIẾN GIẢI CHỨNG ĐẠO CA: “VÔ TRỤ NIẾT BÀN VÀ MA HA BÁT NHÔ
________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________
Thiền Sư HUYỀN GIÁC--Trang | 73 --Kiến Giải: NGỘ THÂM
cái chạm xúc vô tướng của Pháp Thân khắp 10 phương không chướng ngại,
không thể dùng ngôn ngữ hay văn tự thế gian để diễn tả được, khác với cái
thấy nghe hiểu biết, chạm xúc bị chướng ngại và điên đảo của thế gian hay cái
thấy,nghe, chạm xúc bị chướng ngại của người Địa Cầu với Hành Tinh A.
Tóm lại, phàm phu chỉ quan sát trên cái Hữu, cái sắc tướng vật chất
để tìm Chân Lý. Còn Chư Phật, Tổ và Thiền Sư thì để ý tới cái Vô, cái Không,
cái Chân Không rỗng rang vô tướng, không có một vật để thấy. Tuy là Không
nhưng lại siêu việt, cực huyền diệu lý, là cái Một rốt ráo nguyên thủy của Càn
Khôn vũ trụ. Trong việc khám phá ra nguyên thủy của vũ trụ là một “Dị
Điểm” vô cùng nhỏ trong vụ nổ Big Bang cách đây 15 tỷ năm, các nhà Bác
Học không gian đã đụng tới cái Gốc của sự vật, là chỗ giao điểm giữa cái CÓ
và cái KHÔNG, cái HỮU và cái VÔ, đụng tới Bức Tường Mẹ Chân Không
Rỗng Rang, cái (Rỗng Không-Emptiness), cái Không, cái Vô, cái Vô Vi
sinh ra Big Bang nhưng lại bỏ qua, chỉ nghiên cứu cái Không Gian nhỏ nhoi,
bị giới hạn và cái năng lượng vật chất chứa trong hạt bụi Big Bang. Bức
Tường Mẹ Chân Không Rỗng Rang đó là Chân Không, là Bát Nhã, là Như
Lai Tạng, là Bản Thể, là Thực Tướng, là Tánh. Còn hạt bụi trong vụ nổ Big
Bang sinh sinh hóa hóa, trùng trùng duyên khởi sinh ra vũ trụ Càn Khôn với
hàng trăm tỷ thiên hà là Diệu Hữu là Pháp Giới, là Hiện Tượng, là Dụng
hay là Tâm.
“Tâm Tâm Tâm
Nan khả tầm
Khoan thời biến Pháp Giới,
Trách giã bất dung châm”. (Bồ Đề Đạt Ma).
(Tâm Tâm Tâm, khó thể tìm, tung ra thì trùm cả pháp giới,
Càn Khôn vũ trụ, rút lại chẳng đầy mũi kim).
Bức Tường Mẹ Chân Không Rỗng Rang đó là Mặt Trăng thật, biến
chiếu thành vô số Bóng Trăng trên mặt nước sông hồ. Các nhà Bác Học của
thế gian chỉ quan sát, nghiên cứu cái Bóng Trăng bỏ quên đi Mặt Trăng thật,
cho nên bị điên đảo, không bao giờ biết được Mặt Trăng thật là gì? Hạt bụi
Big Bang sinh ra vũ trụ là Tâm, là một Niệm Vô Minh khởi lên giữa Đất
Như Lai và Như Lai biến chiếu ra Càn Khôn vũ trụ: “ Không tức thị Sắc”.
Cũng như mặt biển Chân Như đang thanh tịnh, ngôi nhà Bát Nhã đang lặng
yên, Pháp Thân Như Lai đang vắng lặng, bỗng một Hòn Đá Vô Minh rơi
xuống chỗ Như Lai biến chiếu, Bát Nhã ứng cơ, Chân Như duyên khởi, làm
cho Hư Không dậy sóng nổi lên 3 ngàn thế giới, khiến cho Chân Không nổi
bọt và sóng hiện ra Tướng thế gian.
KIẾN GIẢI CHỨNG ĐẠO CA: “VÔ TRỤ NIẾT BÀN VÀ MA HA BÁT NHÔ
________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________
Thiền Sư HUYỀN GIÁC--Trang | 74 --Kiến Giải: NGỘ THÂM
Các Nhà Khoa Học khám phá ra Big Bang là nguồn gốc của Vũ Trụ
xảy ra cách đây khoảng 15 tỷ năm, đã đánh đổ thuyết Sáng Tạo (Creationist)
của Ki-Tô-Giáo là Vũ Trụ do Thượng Đế tạo ra cách đây 6.000 đến 10.000
năm và chỉ trong 6 ngày (Thánh Kinh). Tuy nhiên họ không biết tại sao có Big
Bang và chỉ biết cái Big Bang này xảy ra cách đây 15 tỷ năm (chính xác hơn
là 13,7 tỷ năm). Trong khi Nhà Phật lại có những triết lý sâu sắc giải thích tại
sao có chúng sanh và thế giới vật chất hữu hình hoặc siêu hình như Kinh A Tỳ
Đạt Ma, Kinh Calacakra, Kinh Hoa Nghiêm… hoặc từ những luận thuyết như
Nghiệp cảm duyên khởi, Chân Như duyên khởi, A-Lại-Da duyên khởi, Pháp
Giới duyên khởi… Không phải chỉ có cái Big Bang này sinh ra Vũ Trụ hiện
hữu mà trước đó đã có vô số Vũ Trụ khác : “Tiền tiền vô thủy” và sau khi Vũ
Trụ này tan hoại (Thành, Trụ, Hoại, Không) lại có vô số Vũ Trụ khác tiếp nối
tùy theo Nghiệp chúng sanh : “Hậu hậu vô chung” ! Và cái thấy bằng “Phật
Nhãn” của Đức Phật với con mắt Bát Nhã từ cái vi mô vô cùng nhỏ như vi
trùng trong ly nước hay vật chất là duyên hợp không có tự tính là tánh Không,
hạt vi trần (nguyên tử) chia làm 7 lớp (từ nguyên tử Francium trở đi) cho đến
cái vĩ mô là các Hoa Tạng thế giới với vô số Thiên Hà đủ thứ hình thù như
hình bánh xe, hình cái quạt, hình xoáy nước, hình hoa nở…mà kính thiên văn
Hubble đã chụp hình được thì quả Đức Phật là Bậc Thầy của các nhà Khoa
Học ở cõi Người và nếu thực sự có Chúa Ki-Tô ở cõi Trời thì Đức Phật cũng
là Bậc Thầy của Chúa Ki-Tô : Thầy cả Trời Người “Thiên Nhân Sư ”. Trong
Kinh Hoa Nghiêm, Phật nói : “Ngoài thế giới nhỏ nhoi của chúng ta còn có
hằng hà sa số thế giới khác”. 22 thế kỷ sau, vào thế kỷ 17, Nhà Khoa Học
Giordano Bruno cũng cho rằng : “Ngoài thế giới của chúng ta còn có nhiều
thế giới khác”. Trong khi Kinh Thánh lại nói: Địa Cầu là thế giới duy nhất là
trung tâm của vũ trụ do Thiên Chúa tạo dựng trong 6 ngày. Vì cải lại Kinh
Thánh là lời “mặc khải” của Thiên Chúa, ông bị bắt giam và đưa ra Tòa Án
Dị Giáo (Inquisition) để xử tội dám hủy báng lời Chúa. Là Linh Mục dòng Đa
Minh, tòa sẽ trả lại tự do nếu ông rút lại lời nhận định trái ngược với Kinh
Thánh và tuyên bố là mình sai lầm. Nhưng ông can đảm vẫn giữ vững lập
trường, Giáo Hội La Mã đành phải thiêu sống ông để làm gương cho những ai
không tin vào Thánh Kinh. Nhà Khoa Học Galileo cũng chứng minh được
Quả Đất tròn, không phải bằng phẳng như lời Chúa nói, cũng bị đem ra Tòa
Án Dị Giáo xử tội, tuy nhiên vào giờ phút cuối ông chịu thay đổi, không quyết
liệt như Bruno nên chỉ bị giam lỏng cho đến chết khỏi bị cực hình và lên giàn
hỏa như Bruno. Đi trước khoa học cả hơn 2000 năm và còn nhìn thấy những
cái mà khoa học không bao giờ thấy được, Phật xứng đáng là Thầy của cả
Trời Người, Trí Tuệ của Thế Gian hay Giáo Chủ của bất cứ một tôn giáo nào
đều không thể sánh với trí tuệ Phật !
Trong Kinh Hoa Nghiêm, Phật dạy :
KIẾN GIẢI CHỨNG ĐẠO CA: “VÔ TRỤ NIẾT BÀN VÀ MA HA BÁT NHÔ
________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________
Thiền Sư HUYỀN GIÁC--Trang | 75 --Kiến Giải: NGỘ THÂM
“Nhược nhơn dục liễu tri,
Tam thế nhứt thiết Phật,
Ưng quán pháp giới tánh,
Nhứt thiết duy Tâm tạo”.
Nghĩa là suốt ba đời tất cả Chư Phật: quá khứ, hiện tại và vị lai khi
quán tưởng về pháp giới tánh, đều nhận thấy rằng tất cả Hoa Tạng Pháp Giới
đều do Tâm tạo ra, không có gì khác. Tâm mê do Vô Minh và Nghiệp lực tác
động mà sinh ra thế giới, sơn hà đại địa và muôn loài chúng sanh, ngoài ra
không có Thượng Đế nào sinh ra vũ trụ và con người! Bồ Tát Long Thọ, Tổ
Thiền Tông thứ 14 bác bỏ luận điểm của Ngoại Đạo cho rằng tất cả các Pháp
sinh đều do Thượng Đế làm ra. Ngoại Đạo cho rằng có “một nguyên nhân
độc lập đầu tiên” - là “Thượng Đế” - tự sinh và sinh ra thế giới. Ngoại Đạo
dùng “đèn” để biện luận cho khái niệm Thượng Đế như sau:
“Như đăng năng tự chiếu
Diệc năng chiếu ư bỉ
Sinh pháp diệc như thị
Tự sinh diệc sinh bỉ”.
Nghĩa là:
(Như đèn có thể tự chiếu sáng
Cũng có thể chiếu sáng cái khác
Pháp sinh cũng vậy
Tự sinh và cũng sinh cái khác).
Tổ phản bác lập luận này như sau:
“Nhược đăng năng tự chiếu
Diệc năng chiếu ư bỉ
Ảm diệc năng tự ảm
Diệc năng ảm ư bỉ”.
Nghĩa là:
(Nếu đèn có thể tự chiếu sáng
Cũng có thể chiếu sáng vật khác
Thì bóng tối có thể tự che tối
Cũng có thể che tối vật khác).
Điều này ngụ ý nói rằng, nếu cho là có Thượng Đế sinh ra vạn pháp
thì cũng có những pháp sinh khác không phải là Thượng Đế cũng sinh ra vạn
pháp. Do đó Thượng Đế không phải là độc quyền tự sinh ra và sinh ra vạn
pháp. Chẳng hạn như nếu cho là bào thai tự nhiên là do Thượng Đế gián tiếp
sinh ra thông qua cha mẹ, thì phương pháp thụ thai bằng ống nghiệm, hay
KIẾN GIẢI CHỨNG ĐẠO CA: “VÔ TRỤ NIẾT BÀN VÀ MA HA BÁT NHÔ
________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________
Thiền Sư HUYỀN GIÁC--Trang | 76 --Kiến Giải: NGỘ THÂM
phương pháp sinh sản “vô tính” (cloning) không phải do Thượng Đế sinh ra
hay ít ra là ý muốn của Thượng Đế…
Ngài luận giải tiếp:
“Đăng nhược vị cập ảm
Nhi năng phá ảm giả
Đăng tại ư tử gian
Tắc phá nhất thiết ảm”.
Nghĩa là:
(Đèn nếu được chiếu tới bóng tối
Mà có thể phá hết bóng tối
Như vậy đèn chỉ ở một chỗ này
Làm sao có thể phá hết bóng tối).
Tổ nói:
“Vân hà đăng sinh thời
Nhi năng phá ư ảm
Thử đăng sơ sinh thời
Bất năng cập ư ảm”.
Nghĩa là:
(Làm sao khi đèn mới đốt lên
Mà sao có thể phá tối
Và khi đèn mới đốt lên
Không thể kịp chiếu đến bóng tối).
Do đó không thể lấy “đèn” làm thí dụ phân biệt tính độc lập của sự
sinh khởi và tính cách duyên sinh (pháp làm duyên) của duyên dĩ sinh (pháp
do các duyên sinh). Ngoại Đạo cho rằng trong bản chất mọi duyên dĩ sinh tùy
thuộc sự sinh khởi tại tiền. Nhưng sự sinh khởi tại tiền này tùy thuộc sự sinh
khởi tại tiền khác, thời sự sinh khởi tại tiền khác lại tùy thuộc sự sinh khởi tại
tiền khác nữa và tiếp tục đến vô cùng… Nếu ngưng chuỗi nghịch suy vô hạn
này bằng cách giả định ở một thời điểm nào đó có sự sinh khởi đầu không tùy
thuộc sự sinh khởi tại tiền nào cả. Và cho cái sinh khởi giả định này là đầu
nguồn, là Thượng Đế tự sinh. Như vậy xét cho cùng thì Thượng Đế chỉ là sự
giả định không thật có: tự cho phép lấy một “sự tưởng” làm “sự lý”, một “phi
lý” làm “tột lý”, một “phi sự” làm “tột sự”; cả “lý” và “sự” đều là “sự tưởng”
chủ quan, không có tính cách “độc lập” khách quan và lấy sự giả định này làm
Sự Thật hay Chân Lý, thì chỉ là một sự “hoang tưởng” không xác thực! Rốt
ráo lại là không có nguyên nhân đầu tiên, tức không có Thượng Đế. Tuy
nhiên, thực tế là có pháp hiện hữu, là cái “đang-là” thì phải có pháp sinh ra cái
“đang-là” hiện hữu này là pháp gốc sinh ra cái “đang-là” là ngọn. Rồi cái
KIẾN GIẢI CHỨNG ĐẠO CA: “VÔ TRỤ NIẾT BÀN VÀ MA HA BÁT NHÔ
________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________
Thiền Sư HUYỀN GIÁC--Trang | 77 --Kiến Giải: NGỘ THÂM
“đang-là” tuy là pháp ngọn vừa mới sinh lại là pháp gốc sinh ra cái “sẽ-là” kế
tiếp. Cái “sinh-sinh” và cái “bổn -sinh” lẫn lộn và hòa hợp nhau gốc trở thành
ngọn ngọn trở thành gốc mà sinh ra pháp giới. Với điều này, Ngoại Đạo luận
giải:
“Sinh-sinh chi sở sinh
Bổn-sinh chi sở sinh
Sinh ư bỉ bổn-sinh
Hoàn sinh ư sinh-sinh”.
Nghĩa là:
(Khi tướng sinh-sinh sinh khởi
Nó sinh ra bổn-sinh
Khi tướng bổn-sinh sinh khởi
Nó lại sinh ra sinh-sinh).
Tổ Long Thọ cũng phủ bác luôn luận điểm này như sau:
“Nhược vị thị sinh-sinh
Sinh-sinh tòng bổn-sinh
Năng sinh ư bổn-sinh
Hà năng sinh bổn-sinh”.
Nghĩa là: Nếu có “sinh-sinh” ấy, có thể sinh ra “bổn-sinh; “sinh-
sinh ” từ “bổn-sinh” mà có, làm sao sinh ra “bổn-sinh” ?
Tổ phân tích tiếp:
“Nhược vị thị bổn-sinh
Bổn-sinh tòng bỉ sinh
Năng sinh ư sinh-sinh
Hà năng sinh sinh-sinh”.
Nghĩa là: Nếu có “bổn-sinh” ấy, có thể sinh ra “sinh-sinh”; “bổn-
sinh” từ “sinh-sinh” mà có, làm sao sinh ra “sinh-sinh”? Một cách đơn giản
có thể phản biện như sau: Nếu cho rằng cái trứng có thể sinh ra con gà, thì cái
trứng do con gà mà ra làm sao có thể sinh ra con gà? Còn nếu cho rằng con gà
sinh ra cái trứng, thì con gà do cái trứng nở ra làm sao có thể sinh ra cái trứng!
Cái trứng có trước hay con gà có trước? Do đó không có pháp sinh nào là gốc,
pháp sinh nào là ngọn cả! Không có nguyên nhân đầu tiên của pháp sinh là
Thượng Đế, không có pháp sinh nào gốc cũng như pháp sinh nào là ngọn, như
vậy thì pháp hiện hành có thể tự sinh không? Tổ bác bỏ luôn luận điểm này
như sau:
KIẾN GIẢI CHỨNG ĐẠO CA: “VÔ TRỤ NIẾT BÀN VÀ MA HA BÁT NHÔ
________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________
Thiền Sư HUYỀN GIÁC--Trang | 78 --Kiến Giải: NGỘ THÂM
“Thử sinh nhược vị sinh
Vân hà năng tự sinh
Nhược sinh dĩ tự sinh
Sinh dĩ hà dụng sinh”.
(Tướng sinh ấy nếu chưa sinh
Thời làm sao có thể tự sinh
Nếu đã tự sinh rồi
Thì cần gì sinh nữa?).
Tự sinh là chưa sinh mà đã tự sinh hay đã sinh rồi mà tự sinh? Nếu
chưa sinh thì không có pháp gì cả, làm thế nào để tự sinh? Còn nếu đã sinh rồi
thì đã hiện hành cần gì phải tự sinh nữa? Vậy không có pháp tự sinh! Ngay cả
pháp duyên sanh do nhân duyên hòa hợp cũng không có. Tổ luận giải:
“Nhược pháp chúng duyên sanh
Tức thị tịch diệt tướng
Thị cố sinh sinh thời
Thị nhị câu tịch diệt”.
(Nếu pháp do các duyên sinh
Tức là tính tịch diệt
Thế nên sinh và đang sinh
Cả hai đều tịch diệt).
Cái sinh và cái đang sinh đều do duyên hợp nên tịch diệt, tức không có
tự tính. Cho nên không có thể nói đang sinh là có sinh. Cha Mẹ sinh Con là
duyên sinh với chiếc bào thai đầu tiên là một tế bào trứng có 23 nhiễm sắc thể
của trứng Mẹ và 23 nhiễm sắc thể trong tinh trùng của Cha, tất cả được làm
bằng “đất, nước, gió, lửa” mượn từ vật chất bên ngoài rồi duyên hợp với nhau.
Đất nước gió lửa cũng không có tự tính, đều do duyên hợp, là tánh Không. Về
hình thức thì xem như Cha Mẹ sanh, nhưng khi phân tích cho thật kỹ thì Cha
Mẹ không thể chế tạo ra thân thể người Con bao gồm cả việc tạo ra tim, gan,
phổi, lá lách, ruột non, ruột già, da thịt và xương… Cha Mẹ không thể làm
được những thứ này, chưa kể là đất nước gió lửa tạo ra thân xác cũng không
phải là của Cha Mẹ mà chỉ tạm mượn vật chất từ bên ngoài. Chính những
phân tử di truyền DNA là hiện thân của Nghiệp Lực điều khiển sự tạo tác ra
tất cả mọi bộ phận và thân xác người Con, không phải Cha Mẹ làm được điều
ấy.
“Trưởng thành cứ mãi phân vân
Thân ấy có phải thật thân không là?
Hay là một kiếp phù hoa
Mượn vay vay trả hàng sa bụi hồng!”
(Vua Thuận Trị - Nhà Mãn Thanh Trung Hoa).
KIẾN GIẢI CHỨNG ĐẠO CA: “VÔ TRỤ NIẾT BÀN VÀ MA HA BÁT NHÔ
________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________
Thiền Sư HUYỀN GIÁC--Trang | 79 --Kiến Giải: NGỘ THÂM
Thân này là giả tạm, mượn đất nước gió lửa của thế gian làm thân để
trả Nghiệp. Nghiệp Lực thông qua những phân tử di truyền DNA tạo tác ra
muôn loài chúng sanh tùy theo Cộng Nghiệp và Biệt Nghiệp.
“Nghiệp ứng thân, ái ngã lớp lớp tràn
Vạn lý trần, lang thang luân hồi lạc”.
(Bên Kia Bờ Giác - Ngộ Thâm).
Do đó không có Thượng Đế nào tạo ra thế giới hay muôn loài chúng
sanh cả!
“Mộng lý minh minh hữu lục thú
Giác hậu không không vô đại thiên”.
(Thiền Sư Huyền Giác).
(Trong mộng lao xao bày sáu nẻo,
Tỉnh ra bằng bặt chẳng ba nghìn).
Tâm mê mà sinh ra thế giới do Nghiệp Lực và Vô Minh tác động
như “giấc chiêm bao”. Và trong “giấc chiêm bao” hay “Mộng” này có
những sáu cõi luân hồi không phải chỉ có một cõi “dục giới” duy nhất hay vũ
trụ duy nhất mà chúng sanh đang nhìn thấy, mà còn nhiều thế giới khác mà
chúng sanh không thể nhìn thấy do hạn chế bởi Nghiệp Lực… Chẳng hạn như
“chúng sanh người” mang Nghiệp Lực của loài người thì không thể nhìn
thấy chúng sanh loài Ngạ Quỷ, A-Tu-La, hay các Cõi Trời… Tất cả những thế
giới này từ hữu hình hoặc vô hình, sắc giới hoặc vô sắc giới, tưởng giới, phi
tưởng giới hoặc phi phi tưởng giới… Tất cả Hoa Tạng Thế Giới này đều
không phải do một Thượng Đế hay nhiều Thượng Đế ở mỗi một cõi làm ra!
Tất cả đều do Tâm: “Nhất thiết duy Tâm tạo”. Khi “Giác” rồi hay tỉnh giấc
mộng, tỉnh giấc chiêm bao hay khi “thức dậy” rồi thì thế giới chiêm bao
không còn: ba ngàn thế giới cũng không có, mà chỉ có Niết Bàn Vô Trụ, Bát
Nhã Chân Như, Thực Tướng Vô Tướng hay cái Chân Không Vi Diệu… là cái
Rốt Ráo hay Chân Lý Tuyệt Đối!
Tuy nhiên dù sao đi nữa thì trong giấc mộng: “mở mắt chiêm bao”
của chúng sanh đang mê này hay cái thế giới tương đối cõi Ta Bà này, thì sự
khám phá ra Big Bang là một trí tuệ tuyệt vời của loài Người nói chung hay
các Nhà Khoa Học nói riêng đã đánh đổ thuyết Sáng Tạo của một tôn
giáo từng thống trị độc quyền thế giới phương Tây hơn cả ngàn năm mà lịch
sử Trung Cổ Âu Châu gọi là thời kỳ “Dark Age” ! Big Bang là sự thật tương
đối về nguồn gốc Vũ Trụ mà mới đầu chỉ là lý thuyết, sau dần dần được chứng
minh là sự thật, rồi con người lại thành công trong công việc tạo ra được một
Big Bang trong phòng thí nghiệm ! Quả là tuyệt vời !
KIẾN GIẢI CHỨNG ĐẠO CA: “VÔ TRỤ NIẾT BÀN VÀ MA HA BÁT NHÔ
________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________
Thiền Sư HUYỀN GIÁC--Trang | 80 --Kiến Giải: NGỘ THÂM
Lý thuyết về Big Bang
Hiệu ứng Doppler (Doppler effect) về âm thanh cũng như về ánh sáng
cho biết một vật đang di chuyển hướng lại gần hay là đi ra xa. Thí dụ như có
một người đứng bên lề đường tại điểm A, có nhiều xe cộ chạy nhanh và bóp
kèn liên tục. Khi xe hướng gần về điểm A, người này nghe tiếng kèn xe với
tần số âm thanh cao dần, tức sóng âm thanh co lại. Khi chiếc xe lướt ngang
qua A và chạy đi xa ra thì âm thanh của kèn với tần số thấp dần và loãng ra,
tức sóng âm thanh dãn ra. Hiệu ứng này cũng thích hợp cho ánh sáng quang
phổ (spectrum). Dùng lăng kính (prism) có thể phân tích ánh sáng (trắng) của
Mặt Trời ta được một quang phổ 7 màu (đỏ, cam, vàng, lục, lam, chàm, tím).
Ánh sáng từ các Thiên Hà đi qua một quang phổ kế (spectroscope) gồm tổ hợp
kính hiển vi (microscope) và lăng kính (prism) cũng cho quang phổ tương tự.
Khi quan sát quang phổ này, ngoài những màu chính còn có những vạch tối và
sáng xen kẽ. Vị trí những vạch này cho biết những nguyên tố đã phát ra ánh
sáng tạo thành quang phổ đó. Vị trí của những vạch này phải cố định với mỗi
nguyên tố như vậy. Vào năm 1929, Edwin Hubble khi quan sát quang phổ các
Thiên Hà đã phát hiện ra rằng vị trí của những vạch thay vì cố định lại chuyển
sang phía đỏ (redshift), tức sóng ánh sáng có độ dài sóng dài hơn, chứng tỏ
các Thiên Hà tương ứng với những quang phổ này đang di chuyển càng ngày
càng xa chúng ta, và đây là Hiệu Ứng Doppler về ánh sáng. Lý luận ngược lại,
nếu các Thiên Hà càng ngày càng xa ra, thì trước đó chúng càng gần với nhau
hơn, và nếu tính ngược trở lại thời gian thì tất cả chúng cùng phát xuất từ một
điểm. Với sự khám phá của Hubble là vũ trụ đang mở rộng, bỏ đi cái hằng số
vũ trụ mà Einstein đã sai lầm khi thêm vào để triệt tiêu sự mở rộng của vũ trụ
mà sau này ông đã biết mình nhầm lẫn, các Nhà Bác Học dùng lại những
phương trình toán học của hai thuyết tương đối hẹp (Special theory of
Relativity) và tương đối rộng (General theory of Relativity) của Einstein đã
mô tả rất chính xác vũ trụ hiện hữu ! Người đầu tiên dùng phương trình toán
học của Einstein là Linh Mục người Bỉ tên là George Lemaitre. Ông tính
ngược thời gian mà vũ trụ được thu nhỏ lại bằng trái cầu lớn hơn Mặt Trời 30
lần gọi là nguyên tử đầu tiên (primeval atom) là cái trứng vũ trụ (cosmic
egg), từ đó nổ bùng và bành trướng ra thành vũ trụ như ngày nay. Tuy nhiên
đây chưa phải là rốt ráo vì những phương trình toán học của Einstein còn cho
các Nhà Khoa Học đi xa hơn tới cái Dị Điểm Big Bang (singular point) vô
cùng nhỏ với đường kính là D=10-33
centimet, nhiệt độ 1000 tỷ độ Kelvin
(1012 0
K) và thời gian là 10-43
giây, cách đây 13,7 tỷ năm…Và ngày nay hầu
hết các Nhà Khoa Học đều nhìn nhận Dị Điểm này là nguồn gốc vũ trụ! Xác
định cái Dị Điểm Big Bang vô cùng nhỏ gần bằng không (zero) là nguồn gốc
vũ trụ, các Nhà Khoa Học đã đi gần tới cái cửa Vô Vi của Thiền Sư Huyền
KIẾN GIẢI CHỨNG ĐẠO CA: “VÔ TRỤ NIẾT BÀN VÀ MA HA BÁT NHÔ
________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________
Thiền Sư HUYỀN GIÁC--Trang | 81 --Kiến Giải: NGỘ THÂM
Giác tận đầu nguồn sắp huốt cái “tướng” của sự vật là cái “Hữu” để nhận ra
cái “Vô”, một cặp vận động “Hữu” và “Vô” của Lão Tử để từ đó sinh ra âm
dương với những hạt electrons, protons… rồi nguyên tử Hydrogen đầu tiên là
Khí và từ đó trùng trùng duyên khởi mà tạo ra trời đất sơn hà đại địa. Thấy
được Hữu và Vô cũng chưa rốt ráo, phải vượt lên cả Hữu Vô của Lão Tử để
tới cái “Không” vi diệu : “Sắc tức thị Không” của Chư Phật mới là rốt ráo !
Từ Lý Thuyết cho đến Sự Kiện Khoa Học
Những phương trình toán học phức tạp của Einstein đã giải thích
chính xác nguồn gốc vũ trụ là cái Dị Điểm Big Bang với những hằng số
Planck như trên. Tuy “Lý” thì đã thông suốt, rất chính xác… và dù có logic cở
nào đi nữa cũng chỉ là lý thuyết suông ! Còn “Sự” thì vẫn chưa thấy cái thực tế
để chứng minh vì chứng minh bằng toán học thì chưa phải là đủ. Điều này làm
cho các Nhà Khoa Học bối rối. Do đó vào thập niên 1940, George Gamow suy
diễn nếu có vụ nổ Big Bang thì phải có một bức xạ nền (background radiation)
còn sót lại phân phối đều trong không gian làm bằng chứng ! Ông dùng vật lý
nguyên lượng (quantum physics) để khảo sát những tương tác hạt nhân
(nuclear interactions) xảy ra trong quả cầu lửa vừa mới nổ chưa tới một giây
(second). Lúc đó Big Bang chỉ là quả cầu lửa vô cùng nóng gồm toàn
những hạt nhân của nguyên tử Hydrogen, protons, electrons, neutrons và các
hạt quarks. Gamow tính được khoảng 25% các hạt protons chập lại cùng các
hạt quarks khác thành nhân của nguyên tử Helium (He) phù hợp với chất liệu
của các sao thành lập khi vũ trụ mới hình thành hợp với quang phổ ánh sáng
của các sao đó. Gamow kết luận : như thế quả cầu lửa Big Bang lúc ban đầu
này chứa toàn là bức xạ (ánh sáng) có độ dài sóng ngắn như tia X và tia
Gamma dù đã nguội đi rất nhiều qua cả chục tỷ năm, nhưng không thể thất
thoát đi đâu được mà chỉ loãng ra theo sự bành trướng của vũ trụ thành một
“bức xạ nền” là dấu tích của Big Bang để lại, nếu tìm ra được bức xạ nền này
thì Big Bang là “sự thật” và nếu không tìm ra được thì Big Bang chỉ là lý
thuyết suông không có giá trị ! Rất may, 20 năm sau, vào khoảng 1965, Arno
Penzias và Robert Wilson ngẫu nhiên đã tìm thấy “bức xạ nền” này khi làm
thí nghiệm ở trung tâm khảo cứu của hãng Bell (Bell Research Laboratories).
Arno và Robert khi thiết kế một ăng-ten lớn để liên lạc viễn thông với các vệ
tinh đã tình cờ dò ra được một loại âm thanh vi sóng vô tuyến đều đặn ở khắp
mọi hướng trên bầu trời và đây chính là “bức xạ nền”, và cả hai được tặng
giải Nobel về khoa học năm 1978. Các Nhà Khoa Học thở phào nhẹ nhõm và
Big Bang không phải chỉ là lý thuyết mà là “Sự Thật” – nguồn gốc vũ trụ
hiện hữu ! Và ngày nay người ta đo được nhiệt độ chính xác của bức xạ nền
này là 2,70K (Kelvin). Tuy nhiên, vũ trụ có hằng trăm tỷ thiên hà và mỗi thiên
KIẾN GIẢI CHỨNG ĐẠO CA: “VÔ TRỤ NIẾT BÀN VÀ MA HA BÁT NHÔ
________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________
Thiền Sư HUYỀN GIÁC--Trang | 82 --Kiến Giải: NGỘ THÂM
hà lại có hằng trăm tỷ sao, nghĩa là có một khối lượng vật chất vô cùng lớn
cản trở trên con đường đi của bức xạ nền. Do đó bức xạ nền không thể phân
bố đồng đều và trải mỏng trong khắp không gian mà phải có những nếp nhăn
(ripples) không đồng đều, mặc dù sự sai biệt rất nhỏ. Các Nhà Khoa Học lại
thất vọng một lần nữa, vì nếu biết thì phải biết cho tới cùng, biết nửa vời cũng
chưa phải là sự thật, rất tiếc là lúc đó trình độ kỹ thuật không gian chưa cao
lắm. Nhưng rất may, tháng 4 năm 1992, vệ tinh COBE (Cosmic Background
Explorer) của cơ quan NASA Hoa Kỳ đã khám phá ra được những “nếp nhăn”
trong bức xạ nền. Big Bang đã thực sự là một sự kiện khoa học (fact of
science), nguồn gốc của vũ trụ hiện hữu trong thế giới tương đối của cõi Ta Bà
này !
Big Bang trong phòng thí nghiệm
Các Nhà Khoa Học lại rất hiếu kỳ, nếu có Big Bang thực sự và theo
tính toán thì ở thời điểm chưa tới một giây sau vụ nổ, Big Bang là quả cầu lửa
ở thể plasma chỉ toàn là bức xạ với các hạt quarks và gluons, thì tại sao không
tạo ra một Big Bang trong phòng thí nghiệm để quan sát nó trong thực tại để
“thực chứng” nó có phải là một loại plasma chỉ toàn là bức xạ (sóng ánh
sáng) với các hạt quarks và gluons? Tại biên giới giữa Thụy Sĩ và Pháp, một
Trung Tâm Nghiên Cứu Hạt Nhân Âu Châu (CERN) đã thiết lập máy gia tốc
khổng lồ LHC (Large Hadron Collider) đặt sâu trong lòng đất 100 mét với 4
cỗ máy phân tích nằm trong đường hầm dài 27 kilomet, là câu trả lời cho sự
thắc mắc và hiếu kỳ này! Riêng cỗ máy ALICE cao 16 mét, rộng 26 mét, nặng
10.000 tấn. Thí nghiệm này có khoảng 1000 Nhà Khoa Học và Kỹ Sư thuộc
100 viện khoa học của 30 quốc gia tham dự. Trong cỗ máy ALICE (A Large
Ion Collider Experiment - Thí nghiệm va đập Ion lớn) người ta đặt những Ion
chì (Pb++
) di chuyển trong đường hầm dài 27 km nhờ tác động của hệ thống
nam châm cực mạnh. Khi những Ion chì này đạt được tốc độ gần bằng vận tốc
ánh sáng (300.000 km/s), chúng bị cưỡng bức va đập vào nhau với một động
năng vô cùng lớn. Sự va chạm khủng khiếp như thế sinh ra quả cầu lửa nóng
đến 10.000 tỷ độ C (Celcius) (1013 0
C), gấp 1 triệu lần sức nóng trong ruột
Mặt Trời, rất đậm đặc có tỷ trọng tương đương với một sao neutron. Những
nguyên tử chì bị nén lại và với nhiệt độ nóng khủng khiếp do sự va chạm
mạnh, nhân nguyên tử tan chảy ra, tất cả các hạt protons, neutron, neutrinos…
trong nhân cũng như các hạt electrons vòng ngoài của quỹ đạo nguyên tử cùng
tan chảy ra thành một thể plasma vô cùng đậm đặc với một hỗn hợp các hạt
quarks và gluons. Đây là một thể plasma với các hạt cơ bản quarks và gluons
giống với cái thể plasma ngay sau vụ nổ Big Bang để thành lập vũ trụ hiện
hữu! Ngày 8 tháng 11 năm 2010, sau 7 tháng thí nghiệm bị thất bại, lần đầu
tiên con người đã thành công tạo được Big Bang trong phòng thí nghiệm!
KIẾN GIẢI CHỨNG ĐẠO CA: “VÔ TRỤ NIẾT BÀN VÀ MA HA BÁT NHÔ
________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________
Thiền Sư HUYỀN GIÁC--Trang | 83 --Kiến Giải: NGỘ THÂM
Nhưng, Big Bang là gì? - Là một trò ảo thuật của Tâm như Tổ Bồ Đề
Đạt Ma nói: “Tâm Tâm Tâm, nan khả tầm; khoan thời biến pháp giới,
trách giã bất dung châm”. (Tâm Tâm Tâm, khó thể tìm; tung ra thì trùm
khắp pháp giới, rút lại chẳng đầy mũi kim). Nếu Kinh Hoa Nghiêm nói:
“Trong một hạt bụi tôi thấy vô số các cõi Phật, mỗi cõi có các Đức Như
Lai với hào quang quý báu” thì ta cũng có thể nói: “Trong một Dị Điểm
Big Bang nhỏ hơn hạt bụi nhiều tỷ tỷ lần tôi thấy có vô số Thiên Hà với vô
số các cõi nước, gồm sơn hà đại địa và vô số chúng sanh của các cõi nước
đó, mỗi cõi có các Đức Như Lai với hào quang quý báu”. Vì sao? Vì Big
Bang là Diệu Dụng của Tâm: “Nhất thiết duy Tâm tạo” tùy theo Nghiệp
Chướng của tất cả chúng sanh và Vô Minh mà sinh ra thế giới. Và Tâm là cái
Diệu Hữu là Ánh Sáng của Tánh, Tự Tánh hay Bát Nhã Chân Như mà Lục Tổ
Huệ Năng đã chứng ngộ: “Không ngờ Tự Tánh hay sanh muôn pháp”. Tánh
hay Tự Tánh “hay sanh muôn Pháp” qua bàn tay Diệu Dụng của Tâm. Big
Bang là cái Diệu Hữu, từ Tánh, Tự Tánh, Chân Không hay là cái Không vi
diệu… hiển ra cái Sắc: “Không tức thị Sắc” và Sắc là cái “Tướng” vật chất
của thế gian hiện hình bằng cách ảo hóa. Tánh hay Bát Nhã là một nhà ảo
thuật đại tài, nó làm ngược rồi làm xuôi cả loài Trời cũng không biết! Các Nhà
Bác Học khám phá ra Big Bang, là “cái đã có sẵn”; có thể tạo được Big Bang
trong phòng thí nghiệm cũng là lấy “cái đã có sẵn”, sản phẩm của Big Bang
(các Ion chì Pb++
) để hình dung hay quan sát lại Big Bang. Nhưng Big Bang
thực sự sinh ra từ cái “Không”, cái “Bổn Lai Vô Nhất Vật”, cái “Rỗng Thênh
Không Thánh”, tức là chỗ không có Vật mà tạo ra Vật. Khoa Học chỉ đi tới
cái cửa “Tướng” tức là dùng “Tướng” để xem “Tướng”, không thể lấy cái “Vô
Tướng” để xem xét “Tướng”; chưa tới cửa “Vô Vi” để tới cái cửa “Không” rốt
ráo! Vì huốt khỏi hằng số Planck t=10-43
giây, thì các phương trình toán học
của Einstein bị giới hạn, không áp dụng được. Không thể tính được Big Bang
ở thời điểm t= 0 giây ở cửa “Vô Vi” và t= -1 giây ở cửa “Không”. Do đó dù
khám phá được Big Bang trong phòng thí nghiệm, nhưng cũng chỉ là khám
phá cái “Bóng Trăng” chưa phải là “Mặt Trăng” thật! Thiền Sư Chân Nguyên
cũng chỉ cái Bóng Trăng bao gồm cả tạo hóa, càn khôn , đại địa… do Tâm
ứng hiện. Nhưng khi huốt khỏi đường Tâm, đạt tới Tánh thì Bóng Trăng
không còn là Bóng Trăng mà cùng với Mặt Trăng thật là Một: “Một là Tất Cả,
Tấ Cả là Một”.
“Nhất điểm hư vô thể bổn không,
Vạn ban tạo hóa giá cơ đồng.
Bao la thế giới càn khôn ngoại,
Trạm tịch hàn quang sát hải trung.
Tại Thánh bất tăng phàm mạc giảm,
Phương viên tùy khí nhậm dung thông.
KIẾN GIẢI CHỨNG ĐẠO CA: “VÔ TRỤ NIẾT BÀN VÀ MA HA BÁT NHÔ
________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________
Thiền Sư HUYỀN GIÁC--Trang | 84 --Kiến Giải: NGỘ THÂM
Thủy trừng nguyệt hiện thiên giang ấn,
Sắc ánh hoa khai đại địa hồng”.
(Thiền Sư Chân Nguyên – đời Hậu Lê).
(Một điểm rỗng rang thể vốn không,
Muôn điều tạo hóa ấy cơ đồng.
Bao la thế giới ngoài trời đất,
Lặng ánh hàn quang cõi cõi trong.
Ở Thánh chẳng thêm phàm chẳng bớt,
Vuông tròn tùy món mặc dung thông.
Nghìn sông nước lắng trăng in bóng,
Hoa nở khắp nơi rực sắc hồng).
Bốn câu thơ đầu, Thiền Sư Chân Nguyên nói về Tâm tạo ra thế giới,
càn khôn hay tạo hóa. Tâm có thể là một niệm Vô Minh, một điểm, một hạt
bụi hay một Dị Điểm Big Bang trong hư không hoặc bao trùm khắp pháp giới.
Tâm là chiếc gương hay ánh sáng trùm khắp mà hằng sa thế giới hiện bóng
trong chiếc gương hay trong ánh sáng trùm khắp ấy. Bốn câu thơ sau, Thiền
Sư Chân Nguyên nói về Tánh, Tự Tánh, Phật Tánh, Chân Như Bát Nhã hay là
cái Không vi diệu… bình đẳng không tăng giảm, ở phàm cũng như ở Thánh,
vuông tròn lớn nhỏ cũng đều dung thông không ngăn ngại. Đây là nhìn ở Tánh
và trên cái Vô Tướng nên thấy tất cả pháp đều dung thông không ngăn ngại.
Do đó thấy được: “Càn Khôn tận thị mao đầu thượng. Nhật nguyệt bao hàm
giới tử trung”. Hay thấy được vô lượng vật chất của hàng trăm tỷ Thiên Hà có
thể chứa trong cái Dị Điểm Big Bang vô cùng nhỏ! Tất cả pháp giới chỉ là cái
Bóng của Tâm, hay là Bóng Trăng, là sở chiếu của Mặt Trăng thật hay là
Tánh. Còn thấy Tâm trên Tướng và chấp Tướng thì Bóng Trăng vẫn là Bóng
Trăng. Từ cái cửa Vô Vi huốt tận đầu nguồn Tâm đạt đến cái Vô Tướng thì
Bóng Trăng không còn là Bóng Trăng, mà Bóng Trăng và Mặt Trăng thật là
bất nhị. Do đó, khi “Nghìn sông nước lắng Trăng in Bóng” nghĩa là khi
Tâm lắng động như gương, Tâm mà phi Tâm tức đạt tới Tánh thì Bóng Trăng
này chẳng khác Mặt Trăng thật, đó là cái lẽ “tịch chiếu bất nhị” và khi đó thì:
“Hoa nở khắp nơi rực sắc hồng”. Đâu đâu cũng là Tánh, là Bát Nhã Chân
Như hay cái Không vi diệu. Do đó sự khám phá ra Big Bang hay tạo được Big
Bang thì cái thấy của các nhà Khoa Học chỉ trên cái “Tướng” sinh diệt chưa
huốt khỏi đầu sào trăm trượng mà cũng chưa đạt tới trăm trượng đầu sào. Cho
nên Big Bang chỉ là cái thấy theo con mắt Nghiệp của Thế Gian còn ở trên
Tướng sinh diệt, chưa phải là nguồn gốc vũ trụ mà chính cái “Không” mới là
nguồn gốc vũ trụ: “Không tức thị Sắc”!
KIẾN GIẢI CHỨNG ĐẠO CA: “VÔ TRỤ NIẾT BÀN VÀ MA HA BÁT NHÔ
________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________
Thiền Sư HUYỀN GIÁC--Trang | 85 --Kiến Giải: NGỘ THÂM
Và đây là cái Big Bang của Thế Giới Mộng:
Một điểm Viên Quang bỗng hóa Rồng
Âm dương mây khí nổi cuồng phong
Hư Không dậy sóng Càn Khôn xuất
Pháp Pháp tụ hình hiện núi sông
Lục đạo TÂM MÊ ngàn dặm chướng
Luân hồi ĐẠI BỆNH thế gian đồng
Mộng du chư tướng phô trò huyễn
Chợt tỉnh về nhà SẮC tức KHÔNG.
(Đại Mộng - Ngộ Thâm).
Kinh Kalacakra (Tiếng Hán là Thời Luân -The wheel of Time) mà
Phật giáo Tây Tạng thường dùng để nói về vũ trụ quan cùng với Kinh A Tì
Đạt Ma, nói rằng: trước khi thành hình, bất cứ một hệ thống vũ trụ nào cũng
trải qua một thời kỳ trống rỗng, không có vật, nhưng có cái rất vi tế dưới dạng
tiềm năng gọi là “Hạt Không Gian”.Thế giới được cấu tạo bởi 5 nguyên tố:
Nguyên tố nền là Không Gian và 4 nguyên tố cơ bản là : Đất, Nước, Lửa, Khí
(Tứ Đại). Khi Nghiệp lực chúng sanh chín muồi, các “Hạt Không Gian” vi tế
kết tụ lại theo tiến trình: Khí, Lửa, Nước, Đất. Khi vũ trụ vật chất bắt đầu tan
rã trở về Không thì tiến trình ngược lại: Đất, Nước, Lửa, Khí.
Thật ra Đức Phật nói về vũ trụ quan này chỉ ở trên phương diện tổng
quát. Ngày nay các nhà Bác Học đã tìm ra được đến 110 nguyên tố vật chất từ
Hydrogen(H) nhẹ nhất với nguyên tử số là 1, đến Unununium (Uun) nặng nhất
với nguyên tử số là 110. Có lẽ Đức Phật không muốn phân tích quá chi tiết
một cách không cần thiết nên đã đơn giản hóa thành 4 nguyên tố rất logic, dể
hiểu và nói lên được tướng mạo và tính chất của sự vật như : chất cứng cợm là
Đất, chất lỏng là Nước, chất khí là Gió, và năng lượng là Lửa.
Cái Rỗng Không mà Kinh Kalacakra gọi là Không Gian chính là Bản
Thể, còn Hiện Tượng là các Hạt Không Gian hội tụ lại theo một cách nào đó
(có thể như vụ nổ Big Bang chẳng hạn ?) để duyên khởi thành 4 nguyên tố :
Khí, Lửa, Nước và Đất tạo thành vũ trụ vật chất sơn hà đại địa.
Bản Thể và Hiện Tượng này cũng có thể gọi là Thể và Dụng, Tánh và
Tâm, hay Chân Không và Diệu Hữu…Chân Không thì rỗng rang vô tướng
mạo, còn Diệu Hữu thì có tướng vật chất, sinh sinh hóa hóa một cách vi diệu
tạo ra càn khôn vũ trụ và chúng sanh muôn loài. Từ Chân Không sinh ra cái
Diệu Hữu, và cái Diệu Hữu này thật đúng là Kỳ Diệu. Chẳng hạn dưới con
mắt của “Hữu Tướng” của thế gian: Từ một “ Dị Điểm” vô cùng nhỏ Big
Bang “trùng trùng duyên khởi” sinh ra vũ trụ với hàng trăm tỷ thiên hà. Từ
KIẾN GIẢI CHỨNG ĐẠO CA: “VÔ TRỤ NIẾT BÀN VÀ MA HA BÁT NHÔ
________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________
Thiền Sư HUYỀN GIÁC--Trang | 86 --Kiến Giải: NGỘ THÂM
những nguyên tử Hydrogen, Helium đơn giản kết hợp với nhau “trùng trùng
duyên khởi” sinh ra vô lượng vật chất sơn hà đại địa. Từ một tế bào đơn giản
có chứa bộ “Gene” với phân tử DNA (deoxyribonucleic acids) “trùng trùng
duyên khởi” sinh sản ra con người hay vô số chúng sanh đủ loại : “ Một là tất
cả, Tất cả là Một ”.
Chân Không thì thể là “Không”, vô tướng mạo, bất động, không sinh
diệt, không thăng giảm…cũng chính là Niết Bàn, là Như Lai, là Bát Nhã, là
Pháp Thân…Diệu Hữu thì thể là “Có”, có sự vật hiện hữu, có tướng mạo,
có tác động, có sinh diệt, có thăng giảm lớn nhỏ, duyên khởi sinh sinh hóa hóa
ra vạn pháp muôn loài và Càn Khôn vũ trụ.
Trong luận Đại Trí Độ, Tổ Long Thọ có nói : “ Thành Niết Bàn có 3
cửa: cửa Vô, cửa Vô Tướng, cửa Vô Tác”. Thành Niết Bàn cũng chính là Bát
Nhã, là Chân Không, là Bản Thể hay Thực Tướng. Ở đây Tổ Long Thọ nói về
mặt THỂ. Còn về mặt DỤNG, ta có thể kết hợp luận giải của Tổ với quan
điểm khoa học để phân tích phần hiện tượng và cho rằng Diệu Hữu sinh ra vũ
trụ vật chất có 3 cửa ngược lại là: Hữu, Hữu Tướng, Hữu Tác. Từ ( Chân
Không: Vô, Vô Tướng, Vô Tác) ứng cơ sinh ra cái (Diệu Hữu: Hữu, Hữu
Tướng, Hữu Tác) từ cái Tự Tánh nầy lại “Hay sanh muôn Pháp”, giống
như hai cánh tay Phải và cánh tay Trái của Một Thân duy nhất.
Đứng trên quan điểm khoa học kết hợp với Phật học để phân tích
phần Diệu Hữu tạo ra thế giới Hữu Vi từ nguyên tử cho đến vũ trụ. Từ lý
thuyết Big Bang của Khoa Học kết hợp với lý Duyên Khởi của Nhà Phật, ta có
thể nói: Thoạt tiên từ Chân Không, do Vô Minh hay Nghiệp Thức khởi
động mở cánh cửa “HỮU TÁC” làm cho các hạt năng lượng vi tế mà Kinh
Kalacakra gọi là Hạt Không Gian bị dấy động kết tụ lại thành các Hạt Cơ
Bản mà các nhà Bác Học gọi là quarks. Bắt đầu là thời điểm t=10-43
giây từ
Chân Không hay Hư Không chợt xuất hiện cái Dị Điểm Big Bang vô cùng
nhỏ chứa một năng lượng vô cùng lớn đậm đặc với vô lượng các bức xạ sóng
hạt không gian vi tế di động. Ở thời điểm t=10-35
giây vô lượng các hạt không
gian vi tế va chạm mạnh vào nhau kết hợp thành các loại hạt cơ bản quarks và
gluons. Ngay thời điểm này, Big Bang là một khối plasma dãn nở cực nhanh
với hệ số mũ là 1050
là một hỗn hợp bức xạ sóng ánh sáng, các hạt quarks và
gluons. Từ thời điểm t=10-33
giây các protons, neutrons…bắt đầu được thành
lập do sự va chạm của các loại hạt quarks. Ba hạt quarks khác
loại (2downs+1up) hợp thành 1 hạt electron (âm điện tử), ba hạt quarks khác
(2ups+1down) hợp thành 1 hạt proton (dương điện tử); là hai loại hạt quan
trọng (tức là âm và dương được thành lập) tạo thành nguyên tử vật chất. Ngoài
KIẾN GIẢI CHỨNG ĐẠO CA: “VÔ TRỤ NIẾT BÀN VÀ MA HA BÁT NHÔ
________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________
Thiền Sư HUYỀN GIÁC--Trang | 87 --Kiến Giải: NGỘ THÂM
ra còn hàng trăm hạt vi tế khác vô cùng nhỏ hiện diện trong nhân nguyên tử
như: Neutrino, Meson, Pion, Kaon, Hadron, Eta, Cascaden, Omega…Khoảng
4 giây đầu tiên sau vụ nổ Big Bang thì cái cấu trúc cơ bản của vật chất được
thành lập trong Vũ Trụ. Sau đó một hạt proton mang điện tích dương(+) kết
hợp với một số hạt vi tế khác thành lập một nhân cứng ; nhân cứng này kết
hợp với một hạt electron mang điện tích âm(-) quay chung quanh nhân tạo
thành nguyên tử vật chất đầu tiên là Hydrogen(H) có số nguyên tử là 1. Tương
tự, một nhân khác chứa 2 protons kết với 2 electrons quay chung quanh nhân
tạo thành nguyên tử thứ 2 Helium(He) có số nguyên tử là 2. Ở khoảng 30 phút
sau Big Bang, phản ứng nguyên tử (nuclear reaction) dừng lại, Vũ Trụ đã có
75% khối lượng khí Hydrogen và 25% là khối lượng khí Helium. Một nguyên
tử xem như rỗng không, có nhân là gốc chiếm hầu như toàn bộ khối lượng của
nguyên tử, nhưng lại rất nhỏ chỉ bằng 1/100.000 toàn thể nguyên tử và tỉ trọng
thì cực lớn. Vật chất đầu tiên Hydrogen và Helium này ở thể KHÍ thành hàng
trăm tỷ đám mây KHÍ (Nebulae) khổng lồ bành trướng và di chuyển trong Hư
Không thành vô số các Vì Sao. Các phản ứng nhiệt hạch (Thermonuclear
Reaction ) trong lòng các Vì Sao thành lập các nguyên tử nặng hơn như: Đồng
(Cu), Chì (Pb), Sắt( Fe), Kẽm ( Zn), Uranium (U),… cho đến Unununium
(Uun) với nguyên tử số là 110. Từ thể KHÍ, thể LỬA, nguội dần thành thể
LỎNG rồi thể ĐẶC thành đất đá sơn hà đại địa, vô số Hành Tinh -- một vũ trụ
thành hình.
Từ nguyên tử cho đến vũ trụ, tất cả đều “TÁC” mà hiện hữu.
Ngoại Đạo Bà La Môn cũng có nói đến điều này: “Điệu vũ của Thần Shiva
tạo ra thế giới”. Nghĩa là từ nguyên tử cho đến vũ trụ tất cả đang “nhảy múa”
quay tròn (luân vũ) đồng bộ và đồng hành với nhau trong khi cả vũ trụ di
chuyển bành trướng rộng ra trong Hư Không vô biên với vận tốc cao. Các hạt
Không Gian TÁC: kết tụ lại thành 12 loại hạt cơ bản chính yếu tạo nên
nguyên tử là 6 hạt quarks (up, down, strang, charm, bottom, top ) và các đối
hạt của quarks, 6 hạt leptons và các đối hạt của leptons. Ngoài 12 hạt cơ bản
và các đối hạt, là chất liệu cơ bản của nguyên tử vật chất còn có 6 hạt bosons
làm trung gian (photon, gluon, W+, W-, Z0 và graviton). Sáu hạt bosons này
lại TÁC trên tất cả các hạt khác tạo ra 4 lực tương tác: tương tác trọng
trường, tương tác yếu, tương tác mạnh và tương tác điện từ.
Chẳng hạn như lực tương tác mạnh chỉ xảy ra trong nhân nguyên tử
với các hạt glutons ( cũng gọi là gluons) dán chặt các hạt quarks với nhau, cột
chắc các hạt protons (dương điện tử) không cho những hạt này đẩy nhau ra xa,
làm cho nhân nguyên tử vô cùng cứng chắc. Nhân nguyên tử cứng đến nỗi
phải dùng những hạt Trung Hòa Tử ( Neutrons) nặng hơn bắn mạnh vào với
KIẾN GIẢI CHỨNG ĐẠO CA: “VÔ TRỤ NIẾT BÀN VÀ MA HA BÁT NHÔ
________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________
Thiền Sư HUYỀN GIÁC--Trang | 88 --Kiến Giải: NGỘ THÂM
một động năng rất lớn làm bể Hạt Nhân và khi đó lại phóng thích một năng
lượng lớn khủng khiếp với công thức của nhà Bác Học Albert Einstein: E=
mc2
( E= m nhân với c bình phương) dùng để chế tạo Bom hạt nhân (cũng gọi
là Bom nguyên tử), hay dùng để chế tạo Điện hạt nhân hay Điện nguyên
tử…với nguyên tử Uranium ( thật đúng là Diệu Hữu !).
Còn lực tương tác điện từ lại là một điều lạ lùng do chính các hạt
quang tử “photon” ánh sáng phi khối lượng TÁC với các hạt khác, làm cho
vật chất có tính cứng chắc, giống như liên tục, liền lạc hay đậm đặc. Vật chất
thì trống rỗng chỉ là mạng lưới các hạt electrons và nhân nguyên tử vô cùng
nhỏ xem như rỗng suốt cấu kết với nhau, nếu không có lực tương tác điện từ
thì chúng ta có thể đi xuyên qua bức tường hoặc đi xuyên vào thân của nhau,
không thể xây dựng được cầu đường, nhà cửa vì vật chất có thể đi xuyên vào
nhau và bị “chìm” vào ruột Quả Đất. Có lực tương tác điện từ này làm cho
vật chất cứng chắc và liên tục, không thể xuyên vào nhau được, đây có thể là
đặc tính riêng biệt của cõi Ta Bà tùy theo nghiệp lực, khác với các cõi Thiên
hoặc A Tu La ? Nhưng điều lạ là lực tương tác này lại do chính ánh sáng
(hạt photon) làm ra. Một lý do khác khiến cho vật chất trở nên cứng chắc là
do các hạt electrons quay chung quanh nhân ở quỹ đạo càng thấp, gần nhân
hơn thì chúng quay càng nhanh với vận tốc ước độ 900 km/giây. Với vận tốc
lớn như vậy, mặc dù là rỗng không, nguyên tử có mặt như một hình cầu cứng
rắn, không thể bóp nhỏ lại được. Nếu nguyên tử có thể bóp nhỏ lại được hoặc
làm lớn ra trong cái rỗng không này, thì con người có thể rút lại bằng hạt bụi
hoặc “thần thông biến hóa” ra bằng quả núi. Đây cũng có thể là một “Nghiệp
Lực” của cõi Ta Bà khác với các cõi khác?
Các hạt electrons mang điện tích âm(-) lại TÁC với nhân cứng chứa
protons mang điện tích dương(+) bởi lực hút Âm - Dương gọi là Độ Âm
Điện, lực hút Âm - Dương này cân bằng với lực gia tốc khi electrons quay
tròn chung quanh nhân với tốc độ cao đến 900 km/giây trong một quỹ đạo
nhất định sinh ra các nguyên tử vật chất Hydrogen và Helium đầu tiên. Nhân
nguyên tử tuy rất nhỏ so với toàn bộ nguyên tử (tỉ lệ = 1/100.000) nhưng rất
đậm đặc có tỉ trọng rất lớn chứa hàng trăm hạt vi tế. Các hạt vi tế này cũng
TÁC với nhau tạo nên một nhân bền vô cùng cứng chắc, làm căn bản cho vật
chất. Các hạt quan trọng trong nhân cứng này là protons và neutrons cũng
TÁC: chúng di chuyển “nhảy múa”với vận tốc khoảng 60.000km/giây. Rồi 3
nguyên tử Helium TÁC với nhau kết hợp thành Carbon ( C ), 4 nguyên tử
Helium TÁC với nhau kết hợp thành Oxygen( O ) ….cho đến Unununium
(Uun) là 110 nguyên tử vật chất. Các nguyên tử này cũng TÁC với nhau sinh
ra những phân tử vật chất (molecules) từ đơn giản như phân tử nước (H2O),
KIẾN GIẢI CHỨNG ĐẠO CA: “VÔ TRỤ NIẾT BÀN VÀ MA HA BÁT NHÔ
________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________
Thiền Sư HUYỀN GIÁC--Trang | 89 --Kiến Giải: NGỘ THÂM
phân tử Tartaric (H2C4H4O6), đến phức tạp như phân tử Phytoplanktan với 108
gốc Carbon (C) nối tiếp nhau (C108H266N16O109P) và vô cùng phức tạp như các
đại phân tử DNA (deoxyribonucleic acids ) với chuỗi dài hàng chục ngàn phân
tử Amino Acids nối tiếp nhau với gốc Carbon (C) thành các nhiễm sắc
thể (chromosomes) của các Bộ Gene người, Gene thực vật, Gene động vật
thành ra đủ các loài chúng sanh động vật thực vật cây cỏ. Các phản ứng hóa
học (chemical reactions) sinh ra các phức hợp phân tử thành ra đủ các hình
tượng vật chất sinh ra vỏ trái đất và các Hành Tinh tràn ngập trong Hư
Không.
Các Hành Tinh trong vũ trụ cũng TÁC với nhau mà hiện hữu.
Các Hành Tinh đang “nhảy múa” quay tròn (luân vũ) và kết chặt với nhau
như các nguyên tử “nhảy múa”. Chẳng hạn Mặt Trăng và Trái Đất TÁC với
nhau với lực hút F=Km1m2/d2
và Mặt Trăng (luân vũ) quay tròn quanh Trái
Đất một vòng là 30 ngày. Trái Đất cùng TÁC với Mặt Trời với lực hút F, tự
quay tròn một vòng là 24 giờ và quay tròn quanh Mặt Trời theo quỹ đạo một
vòng là 365 ngày. Mặt Trời cùng TÁC với thiên hà ( galaxy) và quay chung
quanh tâm thiên hà một vòng là 250 triệu năm. Thiên hà chứa hàng trăm tỷ Hệ
Mặt Trời cũng TÁC: vừa tự quay tròn vừa di chuyển trong Hư Không với một
vận tốc rất lớn, có thiên hà di chuyển gần bằng vận tốc ánh sáng. Vũ trụ chứa
hàng trăm tỷ thiên hà cũng TÁC: đang bành trướng rất nhanh và rộng lớn vô
cùng trong Hư Không.
Tóm lại, từ cái cửa “HỮU TÁC” do Vô Minh hay Nghiệp Thức khởi
động mà sinh ra nguyên tử vật chất đầu tiên là Hydrogen rồi trùng trùng duyên
khởi để đi qua cái cửa “HỮU TƯỚNG” thành lập sơn hà đại địa đủ thứ hình
tướng sum la vạn tượng và một vũ trụ hình thành qua cái cửa “HỮU” hiện bày
nơi Hư Không. Ba cái cửa này tuy 3 mà là 1 và tuy 1 lại là 3: Vì có TÁC thì
sinh ra cái HỮU và phải có cái TƯỚNG của HỮU; có TƯỚNG thì phải có cái
HỮU của TƯỚNG và phải có cái TÁC làm ra HỮU; cũng vậy, có HỮU thì
phải có cái TƯỚNG HỮU và cái TÁC HỮU. Thế Giới Hữu Vi từ hạt bụi, hạt
nguyên tử cho tới Vũ Trụ đều phải có 3 cái cửa TÁC, HỮU và TƯỚNG. Thí
dụ như “CÓ” Viên Gạch tức là HỮU thì phải có cái “TƯỚNG” của HỮU
tức là cái Tướng Gạch và trong Viên Gạch phải có cái “TÁC” và cái TÁC này
luôn luôn vận động không ngừng trong Viên Gạch để Viên Gạch HIỆN HỮU
hay tồn tại. Nếu không có TÁC thì Viên Gạch không HIỆN HỮU. Viên Gạch
tuy đang nằm yên bất động nhưng thực sự bên trong là đang TÁC với một
“Ban Đại Hợp Xướng” đầy đủ các thành phần tham dự gồm nhiều loại
nguyên tử (kinds of atom) cấu kết thành các phân tử (molucles), rồi phức hợp
phân tử (complex molucles) trong đó vô số các hạt vi tế đang nhảy múa lăng
KIẾN GIẢI CHỨNG ĐẠO CA: “VÔ TRỤ NIẾT BÀN VÀ MA HA BÁT NHÔ
________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________
Thiền Sư HUYỀN GIÁC--Trang | 90 --Kiến Giải: NGỘ THÂM
xăng “Tác Động” lẫn nhau, vô số các hạt electrons (âm điện tử) đang “TÁC”
tức là đang hòa tấu khúc nhạc “Luân Vũ” quay tròn chung quanh nhân của
mỗi loại nguyên tử, đồng bộ đồng nhịp đồng hành ăn khớp với nhau thành
“Bản Nhạc Đại Hòa Tấu”. Toàn “Ban Nhạc” đang nhảy múa lăng xăng điên
cuồng làm nên sự “Có Mặt” hay “Hiện Hữu” của Viên Gạch. Ba cái cửa TÁC,
HỮU và TƯỚNG này là thế giới Mê do Vô Minh hay Nhiệp Lực tác
động giống như Biển động (TÁC) nổi lên ngàn Sóng (HỮU), với cái hình thù
của Sóng (TƯỚNG). Còn thế giới Ngộ tức là Niết Bàn hay Bát Nhã thì có ba
cửa ngược lại là VÔ TÁC, VÔ, và VÔ TƯỚNG ví như Sóng lặng (VÔ TÁC)
trở về Nước (VÔ) và cái Tướng Sóng mất đi (VÔ TƯỚNG). Do đó Niết Bàn
có ba cửa VÔ TÁC, VÔ và VÔ TƯỚNG, ba cũng là một và một cũng là ba:
Một cửa “VÔ” thì cũng bao hàm luôn cửa VÔ TÁC và VÔ TƯỚNG, một cửa
“VÔ TƯỚNG” bao hàm luôn cửa VÔ và VÔ TÁC hay một cửa “VÔ TÁC”
bao hàm cả cửa VÔ và VÔ TƯỚNG.
Rốt ráo lại, “HỮU TÁC” là cái nhân đầu tiên do Vô Minh hay
Nghiệp Thức khởi động sinh ra cái quả là HỮU và cái TƯỚNG của HỮU.
TÁC cũng là cái Nhân Luân Hồi nên có cái Tướng Luân Hồi quay tròn như
cái “Vũ Điệu” của Thần Shiva. Cái vũ điệu quay tròn (luân vũ) này thật là lạ
lùng: từ Nguyên Tử với các hạt electrons cho tới các Vệ Tinh (moons) rồi
Hành Tinh (planets) và các Hệ Mặt Trời (solar systems), các Thiên Hà
(galaxies), các Thiên Tòa (clusters) rồi Đại Thiên Tòa (super clusters) cho đến
cả Vũ Trụ (universe) đều đồng hành ( di chuyển với vận tốc rất lớn trong Hư
Không), đồng bộ (cùng quay tròn). Tất cả đang nhảy múa lăng xăng, quay
tròn. Tất cả đều luân vũ hay đây chính là dấu hiệu của Cõi Luân Hồi hay cái
Vòng Luân Hồi của từng loài chúng sanh và cả cái vũ trụ vô thường: “Thành,
Trụ, Hoại, Không” này? Hay đây là một cái Tâm Mê khổng lồ đang dấy
động “ngao du” giữa Hư Không? Hay là vũ trụ này chỉ hiện ra trong cái Tâm
Mê của tất cả chúng sanh có cùng một “Cộng Nghiệp” để nhìn thấy nó? Nó
có thật hay là giả?
Dù thật hay là giả thì từ chúng sanh cho đến vũ trụ với tất cả hành
tinh đều không thoát khỏi “Luật Vô Thường” : Sinh, Trụ, Dị, Diệt hay
Thành, Trụ, Hoại, Không. Từ cái “Thành” với một Dị Điểm vô cùng nhỏ
trong vụ nổ Big Bang sinh ra hàng trăm tỷ đám mây khí Hydrogen rồi vô số
các Ngôi Sao hay hành tinh sinh ra trong những đám mây này. Rồi tới cái
“Trụ”: các Ngôi Sao sống được một thời gian dài nhiều tỷ năm; đến cái
“Hoại”: các Sao hoại trong một tiểu kỳ hay đến một đại kỳ chung cuộc, vật
chất biến thoái cùng cả vũ trụ sụp đổ đồng loạt trở về cái “Không”: Big
Crunch. Từ Big Bang đến Big Crunch là một vòng luân hồi của vũ trụ: Thành,
KIẾN GIẢI CHỨNG ĐẠO CA: “VÔ TRỤ NIẾT BÀN VÀ MA HA BÁT NHÔ
________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________
Thiền Sư HUYỀN GIÁC--Trang | 91 --Kiến Giải: NGỘ THÂM
Trụ, Hoại, Không. Tới đây theo suy luận của các nhà Bác Học không gian,
biết đâu lại có một hay nhiều Big Bang mới xuất hiện để cho ra một hay nhiều
vũ trụ mới. Đây có thể là tiếp tục một vòng “Đại Luân Hồi” theo cái “Đại
Nghiệp Quả” của tất cả chúng sanh sống trong vũ trụ trước. Điều này cũng do
Tâm chúng sanh trong toàn thể vũ trụ trước tạo ra: một Đại Tâm Mê với một
Đại Nghiệp Mộng hay Đại Cộng Nghiệp là Nhân để thành Quả là do nhân
duyên đủ để hình thành một vũ trụ mới là Y Báo với loài chúng sanh mới hiện
hữu là Chánh Báo. Trong Kinh Kalacakra Đức Phật có nói khi Nghiệp Lực
chúng sanh chín muồi thì các Hạt Không Gian vi tế hội tụ lại thành Khí Lửa
Nước và Đất (Tứ Đại) để thành lập vũ trụ.
Cái Sinh của một Ngôi Sao:
Một hành tinh hay một Ngôi Sao như Mặt Trời trong Thái Dương Hệ
có sinh có tử trong cái vòng luân hồi này. Chẳng hạn như “Cái Sinh” của một
Ngôi Sao như Mặt Trời hay hàng trăm tỷ Sao đồng loạt hay lần lượt cái này
trước cái kia sau trong một Thiên Hà (galaxy). Từ cái “Thành” sau vụ nổ Big
Bang, bành trướng ra hàng trăm tỷ đám mây khí gọi là Nebulae được xem như
cái “Buồng Trứng” khổng lồ chứa bụi và khí Hydrogen. Sức hút trọng trường
của vật chất (gravity) kéo số lượng khí và bụi khổng lồ này gần với nhau,
đậm đặc dần và bắt đầu chuyển động quay tròn thành một hay nhiều lốc xoáy.
Ở tâm mỗi lốc xoáy vật chất ( khí Hydrogen và bụi) càng kéo về đậm đặc và
áp suất tăng dần. Những nguyên tử Hydrogen đụng nhau liên tục làm tăng
nhiệt độ. Ở trung tâm có thể lên tới 15.000.000 độ C(Celcius) hay 27.000.000
độ F và thành lập một cái lõi Sao hay cái ruột Sao (core of star). Cái lõi Sao
mới sinh ra và khi nhiệt độ và áp suất lõi Sao cần và đủ, phản ứng nhiệt hạch
xảy ra trong nhân các nguyên tử Hydrogen để biến thành nguyên tử Helium và
phóng thích một năng lượng khổng lồ, Ngôi Sao bùng cháy và phát sáng: một
Mặt Trời hay một Ngôi Sao vừa mới sinh ra (newborn star). Nhịp tim của Mặt
Trời mới sinh bắt đầu đập liên hồi: tức phản ứng nhiệt hạch trong ruột Sao
hoạt động liên tục đốt cháy khí Hydrogen biến thành khí Helium và Mặt Trời
bắt đầu thở: với tiếng sôi sục như pháo nổ (solar fireworks) của các tia lửa khí
( fiery jets of gas) thành các gai nhọn (spicules) nhảy lên cao tới 9.000 cây số,
những hào quang (Corona) trải rộng ra cả triệu cây số tỏa ra không gian,
những cánh tay lửa (Prominences) dài tới 400.000 cây số và hơn hết thảy là
cái ánh sáng nhiệm mầu tỏa khắp không gian, là cái nguồn sống cho tất cả
chúng sanh từ thực vật, động vật cho đến con người trên quả Địa Cầu. Như
vậy cái Sống, cái Sinh Ra của một Mặt Trời có liên quan tới cái Sống của tất
cả chúng sinh trên quả Địa Cầu, tức là cùng tương duyên tương tức với nhau
hay cùng một Nghiệp Quả. Hay có thể nói ngược chính vì có cái Sống cái
KIẾN GIẢI CHỨNG ĐẠO CA: “VÔ TRỤ NIẾT BÀN VÀ MA HA BÁT NHÔ
________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________
Thiền Sư HUYỀN GIÁC--Trang | 92 --Kiến Giải: NGỘ THÂM
Sinh ra của chúng sanh trên quả Địa Cầu mà Mặt Trời phải có cái Sinh và cái
Sống xuất hiện trước để (trải thảm đỏ) lót đường chuẩn bị tiếp đón chúng sanh
cùng Nghiệp Quả đến sau !?
Cái Tử của một Ngôi Sao:
Còn “Cái Chết” hay “Cái Tử” của một Ngôi Sao hay một Mặt Trời
thì có nhà Bác Học người Ấn Độ Subrahmanyan Chandrasekhar nhận giải
Nobel về vật lý năm 1983 khám phá ra. Một Ngôi Sao có hai cách chết: cách
chết hiền lành, âm thầm, nhẹ nhàng và cách chết hung bạo, dữ dội, ác hiểm.
Những Ngôi Sao nào nhỏ hơn 1,44 lần Mặt Trời thì có tuổi thọ lâu hơn và chết
nhẹ nhàng. Chẳng hạn như cái chết của Mặt Trời trong Thái Dương Hệ là cái
chết nhẹ nhàng, tự tại. Mặt Trời đang sống và thở ra cái ánh sáng nhiệm mầu
giúp cho sự sống của muôn loài trên Địa Cầu là do phản ứng nhiệt hạch
(thermonuclear reaction) xảy ra trong ruột (core) biến đổi nguyên tử khí
Hydrogen thành nguyên tử khí Helium phóng thích một năng lượng hạch tâm
rất lớn làm cho Mặt Trời phát ra ánh sáng. Còn 5 tỷ năm nữa cái “nhiên liệu”
khí Hydrogen này sẽ cạn đi và khi đó phản ứng nhiệt hạch dừng lại, Mặt Trời
không còn phát ra ánh sáng mạnh như trước mà lu mờ dần. Kế đó Mặt Trời sẽ
tự giãn nở rộng phình ra như chiếc bong bóng thành Anh Khổng Lồ Đỏ ( Red
Giant), hành tinh ở gần Mặt Trời như Thủy Tinh (Mercury) sẽ bị nóng chảy,
nhiệt độ Địa Cầu có thể tăng lên vài trăm độ C, tất cả sự sống ở Địa Cầu đều
hủy diệt theo cái chết của Mặt Trời. Sau đó lớp ngoài giãn nở tới mức độ tự
tan vỡ và trôi đi ngoài không gian thành đám mây khí (một loại Nebulae), Mặt
Trời chỉ còn lại cái Lõi nhỏ bên trong và biến thành một Ngôi Sao nhỏ, gọi là
Chú Lùn Trắng (White Dwarf) sức nóng đủ để vừa phát sáng, rồi từ từ nguội
dần và ánh sáng này tắt hẳn, trở thành Chú Lùn Đen (Black Dwarf). Ở giai
đoạn này xem như Mặt Trời chết hẳn: Black Dwarf chỉ là một Ngôi Sao chết.
Đối với những Ngôi Sao lớn hơn 1,44 lần Mặt Trời thì có tuổi thọ ngắn
hơn và có một Cái Chết dữ dội và thật hung bạo. Khi hết “nhiên liệu”
Hydrogen, phản ứng nhiệt hạch trong ruột SAO ngưng lại, Sao lu mờ dần
nhưng lại bành trướng thể tích, giãn nở lớn ra như chiếc bong bóng đang
phình trương ra thành Anh Khổng Lồ Đỏ (Red Giant). Như là có sức “thần
thông” vô hạn SAO tiếp tục phình “Bụng” thi tài biến hóa to thêm, to thêm
mãi thành Anh Siêu Sao Khổng Lồ Đỏ (Red Supergiant). Như là một vị Thần
nóng nảy và hung dữ dùng hết sức thần thông để phình “Bụng” ra, trong ruột
(core) nhiệt độ lên tới 170.000.000 độ C (306.000.000° F), không may sức
“thần thông” có giới hạn SAO nổ tung tan xác và phát ra ánh sáng khủng
khiếp gấp cả 100.000 sao Nova gọi là Supernova. Nếu sao có khối lượng lớn
KIẾN GIẢI CHỨNG ĐẠO CA: “VÔ TRỤ NIẾT BÀN VÀ MA HA BÁT NHÔ
________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________
Thiền Sư HUYỀN GIÁC--Trang | 93 --Kiến Giải: NGỘ THÂM
hơn 10 lần Mặt Trời thì sức sáng khi nổ tung chỉ mạnh gấp 600 triệu lần Mặt
Trời, nếu sao chỉ lớn hơn Mặt Trời 5 lần thì sức sáng khi nổ tung vô cùng
mãnh liệt mạnh tới 4 tỉ lần sức chiếu sáng của Mặt Trời. Nếu phần ruột (core)
còn lại lớn nó sẽ tự sụp đổ trở thành Hố Đen (Black Hole) đầy bí ẩn và hiểm
hóc, không cho cả ánh sáng đi qua, cuốn hút “nuốt sống” rồi “tiêu hóa” tất cả
vật chất vào bên trong: “Sắc tức thị Không” . Nếu phần ruột nhỏ thì SAO sụp
đổ thành một SAO tí hon đường kính chỉ có khoảng 30 cây số, nhưng rất đậm
đặc, các hạt electrons và protons bị nén lại thành neutrons, tỉ trọng vô cùng
lớn, gọi là Sao Neutron. Vật chất có kích thước nhỏ 1 centimet khối cân nặng
đến 10 triệu tấn, bề mặt Sao Neutron được bao bọc bởi những nguyên tố Sắt
(Iron) cứng gấp 10.000 lần Sắt ở Địa Cầu. Đó là cái “hóa kiếp”, cũng là “Cái
Tử” của những Siêu Sao lớn hơn Mặt Trời.
Như vậy việc sinh tử không phải chỉ có ở thực vật, cây cỏ, muông thú
và con người mà ngay cả vũ trụ bao la với vô số các vì sao lớn nhỏ như cát
sông Hằng đều phải chịu chung những vòng luân hồi hay Nghiệp Báo. Chúng
sanh và vũ trụ có liên quan mật thiết trong Nghiệp nên có sự tương giao. Thật
ra cái thân Tứ Đại (Đất, Nước, Gió, Lửa) của tất cả chúng sanh bao gồm con
người, thực vật và muông thú với cái thân Tứ Đại (Đất, Nước, Gió, Lửa) của
cả vũ trụ vật chất với vô số các hành tinh, ngôi sao, Mặt Trời, Mặt trăng, đất
đá, núi sông…đều giống nhau và có cùng một gốc : cái gốc ban đầu trong cõi
Mê là cái hạt Bụi, thậm chí còn nhỏ hơn hạt Bụi nhiều tỷ tỷ lần là cái “Dị
Điểm” Big Bang. Kinh Hoa Nghiêm đã từng nói : “Trong một hạt Bụi tôi
thấy vô số các cõi Phật, mỗi cõi đều có các Đức Như Lai với hào quang quý
báu”. Đây cũng là một niệm Vô Minh sinh ra thế giới Mê và dù là Sinh hay
Tử hay là bất cứ ở giai đoạn nào trong cái vòng Luân Hồi: “Sinh, Trụ, Dị,
Diệt” hay “Thành, Trụ, Hoại, Không”. Từ cái “Thành” bắt đầu với cái “Dị
Điểm” Big Bang TÁC ĐỘNG trùng trùng duyên khởi sinh ra vũ trụ thế giới
và chúng sanh. Rồi đến cái “Trụ” cũng TÁC ĐỘNG trùng trùng biến hóa ra
muôn màu, muôn sắc, muôn vẻ trong cuộc sống hay trong cái HỮU. Cái
“Hoại” cũng TÁC ĐỘNG duyên khởi theo chiều hướng suy thoái để trở về
cái Không. Cái Không theo đường Mê của thế giới Mê là “Ngoan Không” để
tiếp tục luân hồi trở lại cái Có hay cái Hữu; còn cái Không theo đường Giác
mới chính là cái “Chân Không” là cái Gốc thật sự cắt đứt vòng luân hồi đi
đến Giải Thoát và khi đó không còn phải TÁC nữa.
Rõ ràng là có “TÁC” thì mới (có nguyên tử, có vật chất và có vũ trụ)
tức có cái Hữu, và khi đó có cái Tướng (của nguyên tử, của vật chất và của vũ
trụ). Còn VÔ TÁC thì trở về bản thể của Vô (không có nguyên tử, không có
vật chất, không có vũ trụ) và Vô Tướng tức không có cái Tướng (của nguyên
KIẾN GIẢI CHỨNG ĐẠO CA: “VÔ TRỤ NIẾT BÀN VÀ MA HA BÁT NHÔ
________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________
Thiền Sư HUYỀN GIÁC--Trang | 94 --Kiến Giải: NGỘ THÂM
tử, của vật chất và của vũ trụ). Tuy vũ trụ bành trướng rộng lớn khủng khiếp
như vậy nhưng chẳng thấm vào đâu, chỉ là một cụm mây trắng nhỏ nhoi so với
cái Hư Không Rỗng Rang-Emptiness dài vô tận. Thiền Sư Thạch Đầu đã
từng nói: “Hư Không dài mặc tình mây trắng bay”. Thiền Sư Tuyết Phong
cũng nói: “Khi thế giới dài một thước thì gương xưa dài một thước, khi thế
giới rộng một trượng thì gương xưa rộng một trượng”. Vũ trụ vật chất
gồm hàng trăm tỷ Thiên Hà to lớn khủng khiếp như vậy, nhưng lại sinh ra từ
một hạt bụi vô cùng nhỏ cách đây 15 tỷ năm. Thật đúng là Diệu Hữu! Các nhà
Bác Học của thế gian không thể nào hiểu nổi lý lẽ này với những thông số
khủng khiếp và ngược đời mà họ đã tìm ra: khối lượng riêng của hạt bụi Big
Bang là d= 1094
g/cm3. Nghĩa là cả vũ trụ vật chất vô cùng lớn làm sao có thể
nén lại trong 1 điểm vô cùng nhỏ với đường kính chỉ có D=10-33
cm. Các nhà
Bác Học lại điên đảo với sự khám phá này, nhưng đối với Thiền Sư thì lại
thông suốt nó, xem như chuyện bình thường:
“Càn Khôn tận thị mao đầu thượng
Nhật Nguyệt bao hàm giới tử trung”.
(Cả Càn Khôn vũ trụ nhét vào đầu sợi lông,
cả Mặt Trời, Mặt Trăng nhét vào hạt cải,
mà tất cả vẫn dung thông, vô ngại).
Trong khi đi ngược dòng thời gian phăng về cái gốc để tìm hiểu căn
nguyên của vũ trụ là gì, các nhà Bác Học không gian đã khám phá ra cái “Dị
Điểm” Big Bang vô cùng nhỏ nổ ra cách đây 15 tỷ năm ở thời điểm Planck T=
10-43
giây và khi đó họ đã đụng tới Bức Tường Mẹ Rỗng Rang-Emptiness
cũng là cái “Rỗng Thênh Không Thánh” mà Sơ Tổ Bồ Đề Đạt Ma khai thị cho
Vua Lương Võ Đế: là cái cửa Vô, cửa Vô Vi, cửa Không…cái Chân Không
(Vô, Vô Tướng, Vô Tác), là mẹ đẻ của cái “Dị Điểm” Big Bang sinh ra vũ trụ,
nhưng lại bị bỏ qua. Thời điểm T0 = 0 giây là chỗ huốt, chỗ giao điểm giữa cái
“Dị Điểm” Big Bang và cái Rỗng Rang-Emptiness, giữa Có và Không, giữa
Sắc và Không, Hữu Vi và Vô Vi, Chân Không và Diệu Hữu. Ở cái thời điểm
T0 = 0 này, các phương trình toán học của thế gian không áp dụng được, các
dụng cụ quan sát khoa học không nhìn thấy được, nghĩa là không thể nhìn
bằng con mắt “Hữu” bị giới hạn theo Nghiệp Thức thế gian. Còn trước thời
điểm T0 = 0 tức T-1= -1 giây (hay trước T0 một sát na) thì hoàn toàn là cái Rỗng
Rang-Emptiness, không có một vật để thấy, không có gì để quan sát hay
nghiên cứu cho nên các nhà Bác Học phải bỏ qua. Ở thời điểm T0 = 0 và trước
đó, phải dùng con mắt “Vô”, con mắt “Bát Nhã”, nhìn bằng “Tâm” chứ không
nhìn bằng “Vật” hay dụng cụ khoa học, và phải đi huốt đường Tâm như Bồ
Đề Đạt Ma đã chỉ: “Trực chỉ nhân Tâm kiến Tánh thành Phật”. Cái “Dị Điểm”
KIẾN GIẢI CHỨNG ĐẠO CA: “VÔ TRỤ NIẾT BÀN VÀ MA HA BÁT NHÔ
________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________
Thiền Sư HUYỀN GIÁC--Trang | 95 --Kiến Giải: NGỘ THÂM
Big Bang nhỏ hơn hạt “Bụi” nhiều tỷ tỷ lần, vậy mà lại sinh ra cái vũ trụ
“động”: (Hữu, Hữu Tướng, Hữu Tác) vô cùng lớn, với vô lượng vật chất, vô
lượng Mặt Trời, Mặt Trăng, và các hành tinh, thật là Diệu Hữu, không ngờ lại
do cái Chân Không,( Vô, Vô Tướng, Vô Tác) hay cái Rỗng Rang – Emptiness
làm ra! Cái Chân Không, cái Rỗng Rang – Emptiness hay cái Rỗng Thênh
Không Thánh này cũng là Bát Nhã, là Niết Bàn, là Như Lai hay Tự Tánh…là
cái mục tiêu tối thượng của Chư Phật và Thiền Sư nhắm tới: là cái chứng Ngộ
của Chư Phật và Thiền Sư. Trong khi đó thế gian Mê trong sáu cõi luân hồi thì
không biết, không cần phải để ý tới, ngay chính các Nhà Tri Thức tuyệt vời,
các nhà Bác Học đại tài hay các Tôn Giáo Thần Quyền nổi tiếng của thế gian
cũng bỏ đi. Một câu chuyện ngụ ngôn trong Kinh A Hàm, Đức Phật kể chuyện
giữa con Rùa và con Cá:
Con Cá hỏi con Rùa:
- Chào anh Rùa. Anh đi đâu mà lâu quá chúng tôi không gặp?
- Tôi đi du lịch trên Đất Khô.
Con Cá ngạc nhiên hỏi:
- Ủa. Sao lạ vậy? Có Đất Khô hay sao?
Con Cá thắc mắc hỏi tiếp:
- Đất Khô có ướt không?
- Không. Đất Khô không ướt.
- Đất Khô có trong suốt để ánh sáng Mặt Trời xuyên qua không?
- Không. Đất Khô không trong suốt và ánh sáng Mặt Trời cũng
không xuyên qua được.
- Vậy chớ Đất Khô có dẻo để tôi có thể lội trong đó dễ dàng không?
- Không. Đất Khô không dẻo và anh cũng không có thể lội trong đó.
- Vậy chớ Đất Khô có chảy thành thác hay suối không?
- Không .Đất Khô không có thể chảy thành thác hay suối được.
- Đất Khô có thể nổi lên thành sóng bạc đầu không?
- Không. Đất Khô cũng không có thể nổi lên thành sóng .
Nói đến đây, con Cá tỏ ra thất vọng và hằn học với con Rùa:
- Thôi anh Rùa à, đừng có lừa chúng tôi. Làm gì có Đất Khô? Tôi hỏi
để so sánh những gì tương đương có trong thế giới Nước của chúng ta, anh
đều trả lời là “không”! Đừng có bịp chúng tôi nhé!
Con Rùa vội đính chính:
- Tôi không bịp anh. Chính tôi từ Đất Khô vừa mới trở về. Tôi không
biết diễn tả cách nào để anh tin rằng có Đất Khô, vì Đất Khô hoàn toàn khác
với thế giới Nước của chúng ta. Nếu sau này có ai giải thích cho anh hiểu rõ
là có Đất Khô, thì khi đó anh mới biết rằng anh hiện giờ chỉ là con Cá
“Ngóc”.
KIẾN GIẢI CHỨNG ĐẠO CA: “VÔ TRỤ NIẾT BÀN VÀ MA HA BÁT NHÔ
________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________
Thiền Sư HUYỀN GIÁC--Trang | 96 --Kiến Giải: NGỘ THÂM
Thật rất tiếc cho các nhà Bác Học thế gian đi tìm Chân Lý, vừa đụng
tới cái “Không-Rỗng Rang-Emptiness” thì họ bỏ đi, chỉ tìm Chân Lý trên sự
vật, giống như con Cá chỉ biết thế giới ƯỚT của NƯỚC. Các nhà Bác Học thế
gian không ngờ rằng sự vật chỉ là cái Bóng của cái Không này, đi tìm Chân Lý
nơi sự vật cũng giống như đi “mò Trăng đáy nước”, không bao giờ thấy
được Mặt Trăng thật. Tất cả cái nhìn, cái thấy, cái nghe, cái hiểu biết, cái quan
sát…của thế gian “Hữu Tướng” đều bị giới hạn hay ngăn ngại bởi Nghiệp.
Nói như thế không phải là phủ định tất cả những công trình khoa học
của các nhà Bác Học xưa nay đã giúp ích rất nhiều cho cuộc sống và nền văn
minh nhân loại. Nhờ khoa học mà con người bớt lao động cực nhọc, tăng tuổi
thọ, cuộc sống thoải mái với nhiều tiện nghi hiện đại, nhanh chóng, tiện lợi và
tối cần thiết cho nhu cầu xã hội. Nhờ khoa học mà một số tôn giáo bắt buộc
phải canh tân, sửa đổi, bớt mê tín và cuồng tín ; giải thoát con người khỏi sự
nô lệ với những giáo điều mù quáng lạc hậu. Điều rất quan trọng là cũng nhờ
khoa học mà Phật Pháp càng sáng tỏ, chứng minh được nhiều điều mà Chư
Phật, Tổ và Thiền Sư đã khai thị trong Tàng Kinh hoặc Ngôn Thuyết. Chẳng
hạn như nếu không có kính hiển vi thì làm sao chứng minh được lời nói của
Phật là : trong nước có vi trùng ; không có kính hiển vi điện tử và máy gia tốc
hiện đại thì làm sao chứng minh được lời nói của Phật là : vật chất do duyên
hợp không có tự tánh ; không có kính thiên văn Hubble thì làm sao chứng
minh được lời nói của Phật trong Kinh Hoa Nghiêm là : có vô số Thế Giới hay
Thiên Hà với đủ mọi hình thù như hình sông, hình bánh xe, hình xoáy, hình
hoa nở, hình cái quạt…v..v… Tuy nhiên Phật Pháp đi trước khoa học một
đoạn đường rất xa mà không cần phải dùng dụng cụ khoa học và còn vượt qua
“đầu sào trăm trượng” nhảy thẳng vào đất Như Lai, tức cái Chân Không
Diệu Hữu với Chân Lý Tuyệt Đối. Trong khi khoa học gặp những chướng
ngại trên Hình Tướng và Sự Vật nên chỉ đạt một phần nào cái Chân Lý Tương
Đối hạn hẹp theo Nghiệp Thức. Ngoài ra khoa học còn là con dao hai lưỡi :
vừa trao chuốt đời sống văn minh, tiện nghi hiện đại vừa hủy diệt nhân loại.
Chẳng hạn Bom Nguyên Tử có thể giết hàng triệu, thậm chí hàng tỷ con người
chỉ cần một cái nhấn nút. Con người với lòng tham không đáy : Tham, Sân, Si,
sẵn sàng gây chiến tranh tàn sát lẫn nhau không thương tiếc như các cuộc
chiến tranh Tôn Giáo đẫm máu ở Châu Âu và Trung Đông thời Trung Cổ
(Crusaders) hay Đệ Nhất và Đệ Nhị Thế Chiến trong thế kỷ 20… Văn Minh
Khoa Học cũng để lại những hậu quả tai hại khủng khiếp như : ô nhiễm môi
trường sống, làm mất quân bình sinh học khiến thời tiết thay đổi bất thường
gây tai họa hạn hán, sa mạc hóa đất đai, lũ lụt, bão tố, cuồng phong, động đất,
sóng thần…biết bao nhiêu tai họa khủng khiếp đang rình rập ngày đêm trong
cuộc sống nhân loại không có gì là an toàn cả.Tầng lớp khí quyển Ozon (O3)
KIẾN GIẢI CHỨNG ĐẠO CA: “VÔ TRỤ NIẾT BÀN VÀ MA HA BÁT NHÔ
________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________
Thiền Sư HUYỀN GIÁC--Trang | 97 --Kiến Giải: NGỘ THÂM
bảo vệ Trái Đất khỏi bị tia cực tím (ultraviolet) từ Mặt Trời bị con người phá
thủng nhiều mảng lớn làm cho nhiệt độ Trái Đất nóng lên, băng tuyết ở Nam
Cực và Bắc Cực tan ra, nước biển sẽ dâng cao làm ngập chìm nhiều đồng bằng
thấp, kho lương thực của nhân loại sẽ bị Biển cướp đoạt, nhân loại sẽ không
có đủ lương thực để sống…
Ngoài các tai họa về giao thông đường hàng không, đường bộ, chiến
tranh khủng bố, chiến tranh nguyên tử, động đất, sóng thần, bão lụt, cuồng
phong…còn có cái tai họa về Không Gian cũng rất khó lường mà khoa học
khó có thể chế ngự được. Chẳng hạn như hiện có khoảng trên 2000 vẫn thạch
(asteroids) và sao chổi (comets) loại lớn mà quỹ đạo của chúng đi ngang qua
quỹ đạo của Trái Đất, không biết lúc nào chúng sẽ đụng Trái Đất. Cũng như
một sao chổi lọt vào quỹ đạo của hành tinh Jupiter (Mộc Tinh) trong Thái
Dương Hệ của chúng ta mà hai nhà Thiên Văn là Shöemaker và Levy quan sát
được lần đầu tiên vào đêm 18 tháng 3 năm 1993 tại đài thiên văn Polamar
(California). Trước đó sao chổi quay chung quanh Mặt Trời, rồi bị hút vào
trường hấp dẫn của Mộc Tinh và quay quanh Mộc Tinh. Tháng 7 năm 1992
sao chổi lọt vào tầng khí quyển của Sao Mộc cách hành tinh này chỉ có 50.000
km, do lực hấp dẫn không đồng đều của hành tinh này, sao chổi bị bể ra như
một chuỗi ngọc trai gồm 21 mảnh, mỗi mảnh có kích thước vài kilomet.
Tháng 7 năm 1993, theo quỹ đạo hình bầu dục (ellipse), sao chổi lại tách ra xa
Mộc Tinh đến 50 triệu km, rồi một năm sau vòng trở lại từ ngày 16 đến 22
tháng 7 năm 1994 lần lượt 21 mảnh sao chổi đụng vào Mộc Tinh và tàn phá
hành tinh này. Những mảnh lớn có đường kính từ 3 đến 4 km đâm vào Mộc
Tinh với tốc độ 200.000 km/giờ có sức tàn phá bằng hàng trăm ngàn quả
Bom Khinh Khí làm bốc lên những đám mây nấm nguyên tử và những tia lửa
như pháo bông cao hàng trăm cây số, những vết thương trên Sao Mộc có kích
thước từ vài trăm kilomet đến hàng ngàn kilomet, cường độ bức xạ vô tuyến
tăng lên đột ngột và khí quyển của Sao Mộc bị nóng lên. Các đài quan
sát thiên văn ở Trái Đất quan sát được rõ ràng những biến cố này khá chính
xác. Mộc Tinh có đường kính (diameter) lớn gấp 11 lần Trái Đất, nếu Sao
Chổi nầy không phải đụng vào Mộc Tinh mà đụng vào Trái Đất vào năm
1994 thì liệu Trái Đất có bị hủy diệt sự sống với sức tàn phá của hàng trăm
ngàn quả Bom Nguyên Tử hay Bom Khinh Khí, với lớp khí quyển đầy bức xạ
và nóng lên bao phủ đầy bụi mù không thấy ánh mặt trời trong nhiều năm ?
Trái Đất cũng đã từng bị hủy diệt sự sống ít nhất là một lần rồi cách đây 65
triệu năm tiêu diệt hết sự sống của loài Khủng Long (Dinosaurs) !
Thật ra nói đi cũng nên nói lại để chúng sanh mê như chúng ta không
phải lo sợ đến ngày tận thế. Cái “xác xuất” để một Vẫn Thạch lớn hay một
KIẾN GIẢI CHỨNG ĐẠO CA: “VÔ TRỤ NIẾT BÀN VÀ MA HA BÁT NHÔ
________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________
Thiền Sư HUYỀN GIÁC--Trang | 98 --Kiến Giải: NGỘ THÂM
Sao Chổi đụng vào và hủy diệt sự sống trên Trái Đất thì vô cùng nhỏ cho đến
không bao giờ xảy ra (ɛ 0, epsilon zero). Còn những Vẫn Thạch nhỏ hay
bụi Vẫn Thạch khi tới Trái Đất thì bị khí quyển đốt cháy vì sự cọ xát với
không khí. Chỉ có một số rất ít là còn nguyên vẹn rơi trên mặt đất nhưng
không gây thiệt hại lớn. Những Vẫn Thạch này có đường kính chừng vài chục
mét nhưng vận tốc hàng trăm ngàn kilomet/ giờ khi vào khí quyển sẽ cháy nổ
có thể gây nguy hiểm một vùng nhỏ, không có tính cách hủy diệt Trái Đất và
cũng rất hiếm khi xảy ra. Nếu một Vẫn Thạch lớn hay Sao Chổi có đi vào
Thái Dương Hệ thì chúng cũng quay quanh Mặt Trời theo hình ellipse như
Sao Chổi Swift-Tuttle xuất hiện tháng 11 năm 1992 có chu kỳ quỹ đạo là 134
năm hoặc nếu sức hút của Mặt Trời không đủ sức kéo nó vào quỹ đạo thì nó
tiếp tục đi lang thang vô định trong khoảng không gian mênh mông. Nếu
ngẫu nhiên khi quay quanh Mặt Trời lại đến gần và bị hút vào quỹ đạo của
một hành tinh lớn có trọng trường lớn (gravity) nó sẽ rời quỹ đạo Mặt Trời để
theo quỹ đạo mới hình ellipse của hành tinh này. Tuy nhiên khi du hành theo
quỹ đạo mới lúc hướng về gần Mặt Trời nó lại bị hút một phần bởi lực trọng
trường của Mặt Trời khiến quỹ đạo ellipse biến dạng và trên đường trở lại
hành tinh đó, vận tốc và lực gia tốc yếu đi vì sức hút của Mặt Trời kéo ngược
lại, Sao Chổi bị lệch hướng và đi thẳng đụng vào hành tinh này. Trong trường
hợp này các Hành Tinh lớn, có khối lượng lớn nên lực hút trọng trường
(gravity) lớn như Mộc Tinh (Jupiter, khối lượng gấp 318 lần Trái Đất), Thổ
Tinh (Saturn, khối lượng gấp 95 lần Trái Đất), Thiên Vương Tinh (Uranus,
khối lượng gấp 14,5 lần Trái Đất), Hải Dương Tinh (Neptune, khối lượng gấp
17,1 lần Trái Đất) dễ bị ảnh hưởng ; còn những hành tinh nhỏ, có khối lượng
nhỏ nên lực hút trọng trường nhỏ như Thủy Tinh (Mercury), Trái Đất (Earth),
Kim Tinh (Venus), Hỏa Tinh (Mars) rất khó bị ảnh hưởng. Vì lẽ đó mà năm
1994 Sao Chổi Levy bị hút và đụng vào Mộc Tinh là hành tinh có lực trọng
trường lớn nhất trong 9 hành tinh của Thái Dương Hệ, mà không đụng vào
Trái Đất, Kim Tinh, Hỏa Tinh, hay Thủy Tinh… Mộc Tinh như người anh cả
khổng lồ che chở cho Trái Đất khỏi bị những người “khách lạ” như các Sao
Chổi hay Vẫn Thạch lớn làm hại. Ngoài ra Nghiệp Lực là nguyên nhân chính
cho sự tồn tại của Trái Đất, duy trì sự sống để chúng sanh thọ Nghiệp ! Dù
cho có tận thế hủy diệt sự sống trên Trái Đất thì chúng sanh mê cũng phải tái
sanh ở một Hành Tinh khác hay một cõi khác để trả Nghiệp. Nói như thế
không phải là tin mừng là không có tận thế trên Trái Đất, và do đó mọi người
cứ mãi mê lo tận hưởng dục lạc vật chất ngắn ngũi giả tạo và tạo thêm Nghiệp
xấu. Trái Đất là cõi Ta Bà đầy ngũ trược, là cõi Dục Giới, với nhiều phiền não
sinh lão bệnh tử không phải là cái Bến hay Căn Nhà thật của tất cả chúng
sanh. Tùy Tâm của tất cả chúng sanh mà có thể chuyển Nghiệp biến Trái Đất
thành một trong các cõi Trời và cũng tùy Tâm của tất cả chúng sanh mà Trái
KIẾN GIẢI CHỨNG ĐẠO CA: “VÔ TRỤ NIẾT BÀN VÀ MA HA BÁT NHÔ
________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________
Thiền Sư HUYỀN GIÁC--Trang | 99 --Kiến Giải: NGỘ THÂM
Đất có thể tồi tệ hơn với chiến tranh bệnh tật thiên tai triền miên…trở thành
Địa Ngục Trần Gian ! Trở thành cõi Trời thì rất khó, trở thành Địa Ngục Trần
Gian thì dễ hơn vì tự nó cố hữu là cõi Ta Bà ngũ trược đời sống ngắn ngủi
sinh lão bệnh tử với cái tham dục nặng nề y như cái tên của nó là cõi Dục
Giới. Người Giác Ngộ hay tu thập thiện thì đi về cõi Niết Bàn hay ít ra là các
cõi Trời, còn cõi Ta Bà này chỉ để cho chúng sanh mê với Nghiệp Chủng, kể
cả loài cầm thú… Do đó Trái Đất hay cõi Ta Bà vẫn tồn tại dành cho chúng
sanh thọ Nghiệp trong vòng luân hồi vô số kiếp. Vô Minh và Nghiệp Lực là
nhân tố tác động mạnh mẽ nhất để duy trì cõi Ta Bà. Tận thế chỉ xảy ra đối
với người Giác Ngộ là bỏ cái Thế Gian mê giả tạo này để nhập Niết Bàn trở về
Căn Nhà Xưa bất sanh bất diệt ! Đối với người tu Phật không phải quan tâm
hay lo lắng sợ sệt về ngày tận thế của Thế Gian mê, vì thật ra cõi Ta Bà vẫn
tồn tại dành cho Nghiệp Quả luân hồi. Tận thế đối với một chúng sanh là hết
một kiếp người và tùy Nghiệp mà có thể trở lại cõi Ta Bà hay các cõi khác.
Những suy đoán mơ hồ về ngày tận thế như Y2K (year of two
thousand, năm 2000) hoặc ngày tận thế của những Đức Tin Thần Quyền
thường là do sự tưởng tượng của con người, có tận thế thì con người mới biết
sợ sệt mà đặt niềm tin tuyệt đối vào Thượng Đế để được cứu rỗi và tận thế
cũng chính do Thượng Đế làm ra để tàn sát hay trừng phạt loài người :
những kẻ không tin nhận Ngài tuyệt đối, những kẻ ngoại đạo ... ! Có những
nhà Tôn Giáo khác nhau khuyên tín đồ của mình một cách khác nhau để được
cứu rỗi vào ngày tận thế. Chẳng hạn như có vị khuyên niệm Phật, có vị
khuyên nên cầu Chúa hay Thượng Đế (God) đừng niệm Phật, có vị khuyên
nên tin vào Allah đừng niệm Phật hay Chúa… Chúng sanh không biết ai thật
ai giả và tin ai để được cứu rỗi ?! Và cũng không biết có tận thế thật hay
không, vì vào đầu năm 2000 (Y2K) cũng nói là tận thế, nhưng đã qua rồi mà
không có ! Hiện thời là ngày 21 tháng 12 năm 2012 sắp đến, có nhiều người
nói là tận thế hoặc có một biến cố rất lớn làm thay đổi cuộc sống nhân loại !
Chỉ có Phật là chưa bao giờ nói đến tận thế, vẫn bình yên trong thiền định,
mặc cho thế sự trôi qua, mặc cho chúng sanh đang lăng xăng nhốn nháo, bày
vẽ đủ điều… Đành rằng thế giới này cũng phải hoại theo tiến trình : thành, trụ,
hoại, không ; nhưng không phải là tận thế giống như người đời hay các Đức
Tin Thần Quyền diễn tả. Vũ trụ này còn nhiều tỷ năm nữa mới hoại và trở về
không và theo vòng luân hồi mà sinh ra vũ trụ mới. Ít ra phải là hàng triệu hay
nhiều tỷ năm nữa trong khi đời sống con người chỉ có 100 năm, mà nói đến
chuyện tận thế của hàng triệu hay hàng tỷ năm sau thì quả là chuyện xa vời,
vô ích và không thực tế. Dựa vào vài sự kiện Vật Lý Không Gian hay lịch thời
gian của các bộ lạc Maya ở Trung Mỹ (Vương quốc Quiché: Quiché kingdom
từ Mexico đến Guatemala, Honduras…) mà có người đoán rằng ngày tận thế
KIẾN GIẢI CHỨNG ĐẠO CA: “VÔ TRỤ NIẾT BÀN VÀ MA HA BÁT NHÔ
________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________
Thiền Sư HUYỀN GIÁC--Trang | 100 --Kiến Giải: NGỘ THÂM
là ngày 21 tháng 12 năm 2012. Có nhà Tôn Giáo tuy không khẳng định tận
thế, nhưng cho là vào ngày này Không Gian 3 chiều sẽ chuyển về chiều 0
(zero) rồi tăng lên thành 4 chiều. Nhân loại sẽ sống trong một không gian
khác, đó là không gian 4 chiều không có điện lực, từ trường…không có xe
hơi, máy bay, dụng cụ bằng điện, máy vi tính, điện thoại, phi thuyền không
gian… Tất cả trở về thời thượng cổ ! Cũng có những lời tiên tri hay là sấm nói
về ngày tận thế nhân loại sẽ chết gần hết (mười phần chết bảy còn ba, chết hai
còn một mới ra thái bình)…Chẳng hạn như câu chuyện núi Cấm nổ, núi Cấm
hóa vàng (núi Cấm thuộc địa phận tỉnh An Giang - Miền Tây Nam Bộ,Việt
Nam), 18 nước đến tranh hùng để cướp vàng và bị “Ông Năm Chèo” tức Cá
Sấu Thần xuất hiện ở sông Vàm Nao (nối liền sông Tiền và sông Hậu - Tỉnh
An Giang) nuốt hết vào bụng, diệt hết kẻ ác… Đây là ngày tận thế, chỉ còn lại
số rất ít người biết tu, biết niệm Phật còn sống sót. Trong thời điểm này, một
Đấng Minh Vương ra đời cứu thế để lập đời thượng ngươn ! Còn Kinh Thánh
Ki-Tô-Giáo cũng nói về ngày tận thế Thiên Chúa sẽ xuất hiện để phán xử
nhân loại, ai tin Chúa thì được lên Thiên Đàng sống đời đời, ai không tin Chúa
thì thì bị đày xuống Địa Ngục vĩnh viễn. Suốt 2000 năm, người ta suy đoán rất
nhiều lần về ngày tận thế, đợi Chúa phán xử, nhưng vẫn không xảy ra….Thật
ra vào ngày 21 tháng 12 năm 2012, Mặt Trời có lệch đi 6,60 (độ) Bắc. Đó là
sự điều chỉnh tự nhiên trong vật lý không gian để tự cân bằng giống như định
luật Kepler (Johannes Kepler 1571-1630) về tốc độ của Trái Đất thay đổi khi
quay quanh Mặt Trời để tự cân bằng giữa lực gia tốc khi quay và lực hút trọng
trường (gravity) giữa Mặt Trời và Trái Đất để giữ Trái Đất theo đúng quỹ đạo
quay quanh Mặt Trời mà không phải tách rời Thái Dương Hệ và đi vào vô
định hoặc nếu lực gia tốc yếu vì quay chậm thì bị rơi vào Mặt Trời. Vì quỹ
đạo của Trái Đất không phải là vòng tròn mà thật ra là hình bầu dục (ellipse),
Mặt Trời là một trong hai tiêu điểm của ellipse. Khi Trái Đất gần Mặt Trời thì
đi nhanh hơn, xa Mặt Trời thì đi chậm hơn, để cho diện tích quét bởi bánh
kính Rn bằng nhau với những thời gian bằng nhau như định luật Kepler II diễn
tả : “Trong chuyển động của một hành tinh, vector bán kính từ Mặt Trời
đến hành tinh quét những diện tích bằng nhau trong những thời gian
bằng nhau”. Để có những diện tích tốc độ bằng nhau với những thời gian
bằng nhau này, khi Trái Đất gần Mặt Trời nghĩa là bán kính Rn nhỏ, vector
Rn phải quét một góc (θ) (theta) lớn tỉ lệ với vận tốc quỹ đạo V lớn ; khi xa
Mặt Trời hơn, bán kính Rn lớn, vector Rn quét góc (θ) (theta) nhỏ tỉ lệ với vận
tốc quỹ đạo V nhỏ. Sự thay đổi vận tốc di chuyển và khoảng cách từ Mặt Trời
tới Trái Đất trong một chu kỳ quỹ đạo ellipse không có ảnh hưởng gì tới điều
kiện sống trên Trái Đất. Trái Đất nghiêng với mặt phẳng quỹ đạo quanh Mặt
Trời một góc là 23,50 (độ), độ nghiêng này tạo ra 4 mùa trong một năm với
KIẾN GIẢI CHỨNG ĐẠO CA: “VÔ TRỤ NIẾT BÀN VÀ MA HA BÁT NHÔ
________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________
Thiền Sư HUYỀN GIÁC--Trang | 101 --Kiến Giải: NGỘ THÂM
một vòng quỹ đạo 365 ngày. Còn sự việc Mặt Trời lệch đi 6,60
(độ) so với mặt
phẳng quỹ đạo của Mặt Trời quanh tâm Ngân Hà, ngoài sự cân bằng về động
lực học không có một ảnh hưởng nào khác. Ngoài độ lệch 6,60 (độ) của Mặt
Trời, ngày 21 tháng 12 năm 2012 còn có sự trùng hợp là tâm của Trái Đất, tâm
của Mặt Trời và tâm của một số đám mây khí và bụi (Nebulae) còn gọi là Ám
Hà (Dark Rifts) ở rải rác trong khắp Ngân Hà Milky Way cùng nằm trên một
đường thẳng, hay ngay cả tâm của Lổ Đen (Black Hole) ở trung tâm Ngân Hà.
Điều này cũng chẳng có ảnh hưởng gì tới Trái Đất cả! Trái Đất chỉ có ảnh
hưởng lực trọng trường (gravity) mạnh nhất là Mặt Trăng và Mặt Trời vì ở
gần. Còn các dải Black Rifts hay Black Hole trung tâm Ngân Hà thì ở quá xa,
mà lực hút trọng trường thì tỉ lệ nghịch với bình phương khoảng cách d
(distance) theo công thức: F = K*m1*m2/d2 (m= mass =khối lượng của Trái
Đất, Black Rifts hay Black Hole ; K= hằng số Newton). So với các đám mây
đen Black Rifts thì Black Hole trung tâm Ngân Hà là quan trọng nhất vì nó có
khối lượng lớn bằng khoảng bốn triệu khối lượng Mặt Trời. Trái Đất cách Mặt
Trời chỉ có 93 triệu dặm (150 triệu km) hay 8 phút 33 giây ánh sáng, khoảng
cách d nhỏ nên lực F lớn : do đó Trái Đất chịu ảnh hưởng của Mặt Trời. Trong
khi đó, Trái Đất cách Lổ Đen trung tâm Ngân Hà tới 165 ngàn tỷ dặm (28.255
năm ánh sáng), tuy khối lượng Lổ Đen lớn nhưng khoảng cách d quá lớn nên
lực F vô cùng nhỏ : do đó ảnh hưởng của Lổ Đen tác động vào Trái Đất
không đáng kể. Ngay cả nếu tâm của Thiên Hà Andromeda (có khối lượng lớn
hàng trăm tỷ khối lượng Mặt Trời ở ngoài và gần Ngân Hà) cùng nằm trên
đường thẳng với tâm của trái Đất và tâm của Mặt Trời thì cũng chẳng ảnh
hưởng gì. Với khoảng cách d = 2 triệu 300 ngàn năm ánh sáng, nên lực F cực
nhỏ. Còn đối với các Thiên Hà ở ngoài thật xa dải Ngân Hà, khoảng cách d
lên tới hàng trăm triệu hay hàng tỷ năm ánh sáng thì xem như lực F = 0. Giả
sử tâm của tất cả những vật thể này từ Trái Đất, Mặt Trăng, Kim Tinh, Mộc
Tinh, Mặt Trời, những đám mây Dark Rifts, Black Hole trung tâm Ngân
Hà,…cho tới vô số Thiên Hà ở ngoài dải Ngân Hà cùng nằm trên một đường
thẳng thì lực hút trọng trường (gravity) của tất những vật thể này cùng triệt
tiêu lẫn nhau để giữ thế cân bằng. Vì là một tổng thể cân bằng lực, cho nên
không có một vector tổng hợp lực “ngoại lệ” tác động vào Trái Đất (vector Ft
= 0). Công thức F = K*m1*m2/d2 vẫn là một định nghĩa chính xác cho lực trọng
trường của các vật thể tác dụng vào Trái Đất và tất cả các vật thể đều vận hành
theo một phương trình toán học chính xác cho sự cân bằng của vũ trụ. Do đó
ngày 21 tháng 12 năm 2012 vẫn là ngày bình thường như mọi ngày, không có
tận thế cũng như không có biến đổi không gian 3 chiều thành 4 chiều, vẫn có
điện, có từ trường, có xe hơi hay máy bay, máy vi tính, không có trời tối suốt
ba ngày ba đêm, vì ánh sáng ban ngày có từ Mặt Trời và phản ứng nhiệt hạch
KIẾN GIẢI CHỨNG ĐẠO CA: “VÔ TRỤ NIẾT BÀN VÀ MA HA BÁT NHÔ
________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________
Thiền Sư HUYỀN GIÁC--Trang | 102 --Kiến Giải: NGỘ THÂM
trong ruột Mặt Trời vẫn xảy ra liên tục để biến đổi khí Hydrogen (H) thành
khí Helium (He) và phát ra ánh sáng ! Đức Phật Thích Ca lấy Trí Tuệ và Từ
Bi để dẫn dắt chúng sanh, không chấp nhận sự mê tín hay những lời tiên tri
mơ hồ ! Kinh Hoa Nghiêm nói trong một niệm thấy ba đời : quá khứ, hiện tại
và vị lai, nhưng thật ra Phật, Tổ cũng như các vị Bồ Tát, rất ít khi hoặc không
có nói tới những cái vị lai như là các loại sấm giảng hay lời tiên tri. Có thể các
Ngài thấy không có lợi và không thực tế, dễ dẫn dắt chúng sanh vào sự mê tín
hay cuồng tín rất tai hại. Nguyên lý của vũ trụ hay tất cả pháp giới là “Dịch”
hay là “Động”, tất cả đều do Tâm mà ra, Tâm chuyển là thế giới hay pháp giới
chuyển, không có gì là cố định.
“Hữu Tâm vô Tướng, Tướng tự Tâm sanh,
Hữu Tướng vô Tâm, Tâm tùng Tướng diệt ”.
(Nghĩa là có cái Tâm tốt mà không có cái Tướng tốt, thì cái Tướng
không tốt đó do Tâm tốt mà chuyển thành Tướng tốt hay một hoàn cảnh tốt,
một thế giới tốt. Còn có Tướng tốt mà không có cái Tâm tốt thì cái Tướng tốt
đó, hay cái hoàn cảnh tốt, thế giới tốt đó tùng theo cái Tâm không tốt mà trở
thành xấu).
Đức Phật, Tổ cũng như các Bồ Tát muốn cho chúng sanh tự nơi Tâm
mình mà chuyển cả thế giới hay pháp giới, không tin vào những lời tiên tri.
Thực tế như những lời tiên tri của một vài Tôn Giáo trên thế giới, vì tin vào
những lời tiên tri này mà chiến tranh tôn giáo xảy ra đẫm máu suốt cả ngàn
năm và tới thế kỷ 20, 21 nó vẫn chưa chấm dứt ! Tóm lại những điều mê tín về
tận thế như trên là những suy đoán Vô Minh của thế gian mê không có giá trị
xác thực và người tu Phật chân chính không cần phải quan tâm. Tuy không có
tận thế, không có biến đổi Không Gian 3 chiều thành 4 chiều, nhưng tai họa
do chính con người tạo ra còn nguy hiểm hơn là tận thế. Vì tận thế thì tất cả bị
tiêu diệt một lần rồi sau đó tái sanh ở một thế giới khác. Còn tai họa cho chính
con người làm ra thì kéo dài không biết đến khi nào mới chấm dứt. Chẳng
hạn như chiến tranh nguyên tử, có thể sát hại hàng triệu thậm chí hàng tỷ con
người, ngoài ra còn hậu quả của các chất phóng xạ hậu nguyên tử. Chiến tranh
nội loạn, như ở Trung Hoa sau thời Đông Chu sụp đổ tới thời Chiến Quốc, các
Chư Hầu đánh nhau suốt nhiều thế kỷ. Chiến tranh Tôn Giáo khi thì bộc phát
khi thì âm ĩ có thể kéo dài hàng ngàn năm, có khi chuyển biến thành chiến
tranh xâm lược, chiến tranh nội loạn, chiến tranh khủng bố…đẫm máu và độc
ác không thua gì các thiên tai như bão lụt, sóng thần hay động đất… Vì thế
ngoài tai họa do thiên nhiên gây ra, tai họa do loài người, và tai họa do những
Tôn Giáo mê tín hay cuồng tín cũng không phải là nhỏ …
Cuộc sống của nhân loại nhờ khoa học mà đem lại nhiều tiện nghi hiện
đại và xem ra một phần nhân loại cũng đang sống trong cái hạnh phúc vật chất
KIẾN GIẢI CHỨNG ĐẠO CA: “VÔ TRỤ NIẾT BÀN VÀ MA HA BÁT NHÔ
________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________
Thiền Sư HUYỀN GIÁC--Trang | 103 --Kiến Giải: NGỘ THÂM
tuyệt vời ấy, có nhiều người còn mơ mộng đây chính là cõi Thiên Đàng, chưa
bao giờ nếm mùi khổ lụy. Liệu một trong những tai họa kia có né tránh những
con người đang ngủ mê này hay không ? Và liệu họ có trường sanh bất tử để
thụ hưởng đời đời những ân sủng tuyệt vời này hay không ? Họ là những
người Thực Tế hay là lời cảnh giác của Đức Phật về luật “Vô Thường” và
“Sinh, Lão, Bệnh, Tử” là Thực Tế. Đức Phật từng cảnh giác rằng : “Chúng
sanh đang sống trong căn nhà lửa, lửa sẵn sàng thiêu đốt chúng sanh bất cứ
lúc nào”.
Có một câu chuyện kể rằng: Có hai vị Thiền Sư đi qua sông, gặp một
chiếc thuyền chài đang lưới cá. Mẻ lưới đầy ắp cá đang được kéo lên
thuyền. Trong đó có một con cá ra sức vùng vẫy, nhảy thoát khỏi lưới, rớt trở
lại sông, bơi lội tung tăng, có vẻ mừng rở, vì mới thoát nạn. Vị Thiền Sư thứ
nhất nói:“Con cá giỏi thiệt, chỉ phóng một cái, thoát ra khỏi lưới!”. Vị Thiền
Sư thứ hai bèn nói: “Nếu con cá giỏi, sao lại để bị lưới” . Chúng sanh cũng
vậy, đang ở trong “Căn Nhà Lửa”, mà cứ tưởng đang vui hưởng ngũ dục.
“Căn Nhà Lửa” chính là cái Thân Tứ Đại của mình, đang bị lửa thời gian
thiêu đốt từng giây, bị lửa tham lam, lửa sân hận, lửa si mê, thiêu đốt với từng
cơn Mê. Chúng sanh bị lưới ngũ dục của thế gian vây chặt không lối thoát,
nhưng vẫn tung tăng vẫy vùng bơi lội trong màn lưới Mê mờ đó lại lấy làm
thỏa thích vô cùng!
Vì mê muội thiển cận chỉ biết cái “Tiểu An” mà bỏ quên cái “Đại An” ,
chỉ thấy có một kiếp nhân sinh ngắn ngủi như “bóng câu qua cửa sổ” mà
không thấy được vô số kiếp phải bị Nghiệp Quả trói buộc vào vòng luân hồi.
Cái hạnh phúc hay Chân Lý mà thế gian hay khoa học đem lại hay khám phá
được rất là nhỏ nhoi so với cái hạnh phúc an lạc và cái Chân Lý mà Đức Phật
đã tìm ra và chỉ đường cho chúng sanh. Có nhiều lúc khoa học đi đồng hành
với Phật Pháp nhưng cuối cùng lại rẽ sang hướng khác, thí dụ như tìm ra Dị
Điểm Big Bang và đụng tới cái Chân Không Rỗng Rang-Emptiness rồi lại
quay đầu trở ra cái Ngọn. Khoa học không thể nào kéo dài đời sống con
người từ 100 năm dài ra tới 1000 năm hay hơn nữa, do đó phải biết tìm một
con đường nào khác, hay một dạng sống nào khác để thoát khỏi cái định luật
100 năm ngắn ngủi này.
Nhìn ra không gian rộng lớn, nghĩ rằng có thể có rất nhiều nền văn
minh khác với những chúng sanh có thể có đời sống lâu hơn từ 1.000 năm,
20.000 năm, 100.000 năm…tùy thuộc vào đặc tính vật lý và quỹ đạo hành tinh
hay đúng ra là tùy thuộc vào Nghiệp Tướng của chúng sanh đó. Cũng như con
muỗi nếu chỉ sống có 7 ngày, thì nó phải trải qua tới 5.200 kiếp mới chỉ bằng
một kiếp người, loài Người lại nhạo báng nó rằng : Đời sống ngắn ngủi như
KIẾN GIẢI CHỨNG ĐẠO CA: “VÔ TRỤ NIẾT BÀN VÀ MA HA BÁT NHÔ
________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________
Thiền Sư HUYỀN GIÁC--Trang | 104 --Kiến Giải: NGỘ THÂM
thế sống để làm gì thật vô ích chỉ để làm thức ăn cho những con vật khác !
Con người cũng chẳng khác gì con muỗi.
Có một câu chuyện trong Phật Pháp. Vào một buổi sáng ở một cõi
Trời, một cung nữ đi hái hoa vào buổi sáng sớm bị trúng sương nằm bất tỉnh.
Thần thức nhập vào cõi Ta Bà và đầu thai sinh ra trong một gia đình khá giả,
lớn lên lấy chồng và sinh ra được sáu người con. Một hôm ra đồng vào một
buổi sáng sớm lại bị trúng sương nằm bất tỉnh, vừa khi tỉnh dậy chợt nhớ ra
mình không phải là người ở Trần gian liền nín thở trở về lại cõi Trời. Vị Vua
Trời mừng rỡ cho biết rằng nàng đã ngất xỉu bất tỉnh hết nửa tiếng đồng hồ. Vị
cung nữ cũng kể lại : Khi bất tỉnh nằm mơ thấy xuống cõi Ta Bà sinh ra rồi
lớn lên lập gia đình và có sáu người con và đã 40 tuổi đời. Một hôm bị trúng
cảm và sực nhớ đang sống ở cõi Trời liền định hồn trở lại cõi Trời. Nàng cũng
cho biết ở cõi Ta Bà,loài Người chỉ sống có 100 năm. Vị Vua Trời thắc mắc
hỏi vị cung nữ : Nếu đời sống quá ngắn ngủn như thế, chắc loài Người ở cõi
ấy biết lo Tu và thuần đức lắm thì phải ? Vị cung nữ khua tay : Không đâu,
trái lại là đàng khác ! Cõi ấy loài Người vẫn mê muội đủ thứ Tham, Sân, Si
thậm chí còn gây chiến, tranh quyền, đoạt lợi, giết hại đồng loại rất thảm
khốc, tạo nhiều Nghiệp ác, u mê bám víu vào cảnh Trần rất nặng, khó thoát
khỏi số kiếp của họ.
Nếu như nhà Thiên Văn Học Frank Drake ước tính số lượng nền văn
minh của chúng sanh khác hiện diện chỉ trong Thiên Hà Milky Way theo công
thức :
N=R* FP NE FL FI FC L
(R* = Tỉ lệ Sao sinh ra trong Thiên Hà, FP = Tỉ lệ Sao có hành tinh
quay chung quanh, NE = Phần trăm của hành tinh có môi trường sống, FL =
Hành tinh với sự sống, FI =Số hành tinh mà sự sống thông minh phát triển,
FC = Số hành tinh mà sự sống thông minh có thể truyền đạt, L= Khoảng cách
đời sống của những nền văn minh truyền đạt, nền văn minh đó dài bao lâu).
Với công thức này thì Dải Ngân Hà (Milky Way) của chúng ta có từ
100 đến 100 triệu nền văn minh. Cả vũ trụ có khoảng 200 tỷ Thiên Hà. Như
vậy toàn thể vũ trụ có khoảng từ 20.000 tỷ đến 20 tỷ tỷ chúng sanh với nền
văn minh khác nhau, nhưng người Địa Cầu không liên lạc được với họ vì ở
quá xa, ngoài khả năng của người Địa Cầu. Như vậy cái Văn Minh Khoa Học
của chúng ta giống như bị giam hãm trong cái ốc đảo ngục tù hẻo lánh và
không chừng có những nền văn minh cao hơn chúng ta gấp trăm gấp ngàn
lần. Tuổi thọ của người Không Gian hay loài Trời có thể cao hơn chúng ta rất
nhiều. Điều này trong Kinh Phật có nói đến vô số thế giới và có những loài
Trời sống lâu cả 100.000 năm hay hơn nữa so với người Địa Cầu. Tuy nhiên
KIẾN GIẢI CHỨNG ĐẠO CA: “VÔ TRỤ NIẾT BÀN VÀ MA HA BÁT NHÔ
________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________
Thiền Sư HUYỀN GIÁC--Trang | 105 --Kiến Giải: NGỘ THÂM
tất cả đều là Mê kể cả loài Trời vẫn bị luân hồi trong sáu cõi : (Địa Ngục, Ngạ
Quỷ, Súc Sanh, Nhân, A Tu La, và Thiên) và tất cả vẫn nằm trong Nghiệp
Lực. Loài Trời và loài Người đều nhìn về hình tướng Sự Vật để tìm Chân Lý
thì cũng giống như : mò Trăng đáy nước. Tuy loài Trời có văn minh, sống lâu
vì có nhiều phước báu hơn loài Người , nhưng vẫn còn Mê nơi Sự, nơi Cảnh
và tham Dục hưởng thụ, chưa có Công Đức tu hành nên vẫn bị luân hồi. Ngay
cả cái Chân Lý mà loài Trời khám phá ra được tuy vượt loài Người rất xa,
nhưng cũng chỉ là cái Chân Lý theo Nghiệp Tướng của loài Trời vẫn còn là
Mê và chỉ là ảo tưởng. So với loài Trời thì cái Văn Minh Khoa Học và cái
Chân Lý Khoa Học của người Địa Cầu tìm ra lại càng ấu trĩ và nhỏ bé biết là
bao. Như vậy nếu chấp vào khoa học để được cái Tiểu An, cái Tiểu Văn Minh
hay cái Chân Lý giả tạm của Thế Gian mà để Cảnh Trần và Gió Nghiệp cuốn
trôi vào sáu cõi luân hồi thì quả thật là quá Mê và không có Trí Tuệ.
Nhà Bác Học Albert Einstein khá trung thực khi nói : “Khoa Học
thiếu Tôn Giáo thì khập khiễng…”. Thật ra Khoa Học chỉ khập khiễng nếu
thiếu bất cứ Tôn Giáo nào vừa có Trí Tuệ siêu việt đại diện cho Chân Lý, vừa
có lòng Từ Bi bao la, lòng nhân ái vị tha thật sự để đại diện cho Đạo Đức. Còn
như Khoa Học thiếu bất cứ những Tôn Giáo nào có cái Giáo Lý sai lầm, mê
tín, cuồng tín… hay gây chiến tranh, hay xúi giục chiến tranh… và có nhiều
thành tích lịch sử không mấy tốt đẹp…mặc dù được giấu giếm kỹ lưỡng và
sơn phết bên ngoài bằng nhiều màu sắc sặc sỡ ; thiếu những Tôn Giáo này
chẳng những Khoa Học không bị cản trở mà còn phát triển mạnh mẽ. Điều
quan trọng là nếu Khoa Học không có cái phần Đạo Đức của Tôn Giáo Từ Bi,
giàu lòng nhân ái vị tha thì sẽ là tai họa cho nhân loại. “…Tôn Giáo thiếu
Khoa Học thì Mù Lòa”. Điều này chắc chắn không phải là áp dụng cho Đạo
Phật, vì Đạo Phật đã từng “không Mù Lòa” cách đây hơn 2500 năm kể từ khi
chưa có Khoa Học ; vì Đức Phật là một vị Thầy sáng giá của Khoa Học.
Đức Phật chứng Chánh Đẳng Chánh Giác đạt Trí Tuệ Bát Nhã, liễu
Chân Lý Vũ Trụ, am thông việc Sinh Tử Luân Hồi. Ngài rộng lòng Từ Bi
thuyết Pháp độ chúng sinh thoát vòng Luân Hồi để đạt đến Vô Sanh an trú nơi
Niết Bàn như Ngài. Đức Phật đã từng nói : “Những gì Ta biết như Lá trong
Rừng, những gì Ta nói cho các ngươi chỉ là Lá trong nắm tay Ta ”. Chỉ một
ít “Lá” trong nắm tay mà bao nhiêu Tàng Kinh đồ sộ đầy áo nghĩa thâm
huyền mà nhân loại phải cúi đầu khâm phục : Trí Tuệ không sót một li, Từ Bi
không sai một vật ; Đại Trí như thế mà vẫn khiêm cung hạ mình bình đẳng
như những chúng sinh để hóa độ. Không cần có kính hiển vi mà vẫn biết có vi
trùng trong ly nước trước Khoa Học cả hơn 2000 năm, không có máy gia tốc
hiện đại mà vẫn biết vật chất do duyên hợp không có tự tính, không có kính
KIẾN GIẢI CHỨNG ĐẠO CA: “VÔ TRỤ NIẾT BÀN VÀ MA HA BÁT NHÔ
________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________
Thiền Sư HUYỀN GIÁC--Trang | 106 --Kiến Giải: NGỘ THÂM
thiên văn tối tân mà vẫn biết có vô số thế giới (thiên hà) như cát sông Hằng
với đủ thứ hình dạng như : hình cánh quạt, hình bánh xe, hình lốc xoáy… Nhờ
sự phát minh ra nhiều dụng cụ khoa học càng ngày càng tân tiến mà Khoa
Học đã lần mò ra được một phần nào Chân Lý và mới biết được lời nói của
Đức Phật là xác thực. Chính ngày nay Khoa Học Không Gian và Cơ Học
Lượng Tử đang phát triển mạnh, con người lại càng kinh ngạc với cái Lý Bát
Nhã thâm áo vi diệu của Ngài :
“Sắc bất dị Không, Không bất dị Sắc
Sắc tức thị Không, Không tức thị Sắc”.
Thuyết “Tương Đối” với “Con Tàu Vũ Trụ” vượt Không Gian 4
chiều XYZ và T, (cũng có thể gọi Không Gian 3 chiều nếu không kể chiều
thời gian T) bằng vận tốc ánh sáng ( 300.000 km/giây) của Einstein là một Lý
Thuyết Khoa Học khá sâu sắc, hy vọng có thể giải mã phần nào về cái Lý
“Sắc Không” của Đức Phật. Con Tàu tăng vận tốc làm cho Không Gian và
Thời Gian bị cong, số chiều tăng lên và khi đạt đến vận tốc ánh sáng thì xảy ra
cái Hiệu Ứng làm thay đổi Không Gian, Thời Gian, Kích Thước và Khối
Lượng. Không Gian sẽ co lại, Thời Gian thì kéo dài ra chậm đi như ngưng lại,
Kích Thước Con Tàu thu nhỏ và tiến tới không (zero), trong khi Khối Lượng
lại tăng lên và đạt đến mức chuyển trạng thái từ Khối Lượng sang Năng
Lượng với công thức : E=mc2
. Với vận tốc ánh sáng, Kích Thước bằng
không (zero) nên Con Tàu biến mất đối với Người Quan Sát có hệ qui chiếu là
Trái Đất : “Sắc tức thị Không”. Trong khi đó, Người Quan Sát với hệ thống
qui chiếu là Con Tàu thì Con Tàu và Đoàn Lữ Hành vẫn bình yên, không cảm
thấy bị thu nhỏ lại bằng không (zero), Thời Gian trên Con Tàu vẫn vậy,
Không Gian vẫn y như trước không cảm thấy bị co lại : “Không tức thị
Sắc”. Người trên Trái Đất thấy Không, người trên Con Tàu thấy Có ; như vậy
“Sắc bất dị Không, Không bất dị Sắc”. Nhưng có một điều lạ là sau khi
ConTàu du lịch trong 1 năm với vận tốc ánh sáng, thời gian trên Con Tàu đi
chậm lại và do đó khi trở về lại Trái Đất thì hầu hết người thân đã qua đời vì
đã là vài thế kỷ ở Trái Đất !
Bây giờ giả sử như Con Tàu Vũ Trụ của Einstein tiến về một Black
Hole (Hố Đen) để quan sát với vận tốc bình thường chỉ bằng một phần ngàn
(1/1000) vận tốc ánh sáng, chưa có Hiệu Ứng biến đổi Không Gian và Thời
Gian. Con Tàu vẫn có kích thước cũ và Người Quan Sát ở Trái Đất vẫn theo
dõi và nhìn thấy Con Tàu. Nhưng không may khi gần tới Black Hole thì bị
hút mạnh từ ngưỡng cửa vào sâu bên trong và Kích Thước Con Tàu từ từ nhỏ
lại. Tuy vận tốc Con Tàu nhỏ nên chưa xảy ra Hiệu Ứng làm cong và tăng số
chiều Không Gian và Thời Gian của Con Tàu, nhưng vì độ cong và số chiều
KIẾN GIẢI CHỨNG ĐẠO CA: “VÔ TRỤ NIẾT BÀN VÀ MA HA BÁT NHÔ
________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________
Thiền Sư HUYỀN GIÁC--Trang | 107 --Kiến Giải: NGỘ THÂM
Không Gian và Thời Gian của Black Hole tăng dần từ ngoài vào trong nên gây
Hiệu Ứng với Con Tàu, làm Con Tàu từ từ tăng Khối Lượng, từ từ giảm Kích
Thước, thời gian từ từ chậm lại, vận tốc giảm. Con Tàu đi càng sâu vào Black
Hole thì Hiệu Ứng biến đổi càng lớn cho đến lúc cân bằng nghĩa là độ cong và
số chiều Không-Thời-Gian của Black Hole trùng với độ cong và số chiều
Không-Thời-Gian của Con Tàu, khi đó Hiệu Ứng mới dừng lại và Kích Thước
Con Tàu rút lại bằng không (zero) và Người Quan Sát ở Trái Đất thấy nó hoàn
toàn mất tích : “Sắc tức thị Không”.
Có nhiều Black Holes rải rác trong khắp Không Gian 4 chiều của Vũ
Trụ. Thiên Hà Milky Way của chúng ta có hàng triệu Black Holes sinh ra sau
những vụ nổ của các Super Nova, riêng lốc xoay ở trung tâm Thiên Hà là một
Black Hole lớn, nó cuốn hút và nuốt sống những ngôi sao ở gần, có đến hàng
triệu sao như Mặt Trời bị mất tích trong bụng của nó. Black Hole là một vùng
Không Gian cong có 10 chiều, nó còn rất bí mật đối với Khoa Học Vũ Trụ, nó
có một trường lực hấp dẫn cực mạnh, tất cả vật chất có khối lượng kể cả ánh
sáng đi ngang qua đều bị cuốn hút vào trong và “Mất Tích”. Con Tàu du
hành đi sâu vào Black Hole, theo nguyên lý Tương Đối của Einstein, thì nó
vẫn “Hiện Hữu” bình thường, thế giới vật chất chung quanh Con Tàu vẫn
vậy : “Không tức thị Sắc”. Người Quan Sát ở Trái Đất không thấy Con Tàu
và Thế Giới trong Không Gian cong 10 chiều của Black Hole, nhưng Con Tàu
vẫn “Có Mặt” bình thường và Thế Giới vật chất chung quanh nó vẫn Hiện
Hữu : “Sắc bất dị Không, Không bất dị Sắc”.
Cái Lý “Sắc Không” này có vẻ Logic, tưởng rằng đã khám phá ra
được Chân Lý Vũ Trụ : ‘‘Thật Tướng của Vạn Pháp là Vô Tướng: Sắc tức
thị Không” và phải kinh ngạc trước cái Trí Tuệ siêu việt của Đức Phật. Dù
chưa giải mã nổi cái Lý “Sắc Không” của Đức Phật, nhưng đứng trên quan
điểm Khoa Học và cái nhìn trong Thế Giới Hữu Vi thì có vẻ hợp “Lý”, nhưng
về “Sự ”thì hoàn toàn chưa đạt được. Thật ra đây chỉ là Lý Thuyết, vì thực tế
Con Người chưa sản xuất được Con Tàu Vũ Trụ như thế và du hành đạt tới
vận tốc ánh sáng để thí nghiệm bằng “Thực Tế”. Hơn nữa nó vẫn còn quá
chậm so với cái Lý “Sắc Không” trong giấc“ Chiêm Bao”. Chỉ cần một sát
na khi “Thức Dậy” là đã Rõ cái Lý “Sắc tức thị Không”. Bao nhiêu cái Sắc :
bao gồm núi sông, nhà cửa, cầu đường, con người và cả Vũ Trụ mênh mông
trong giấc Chiêm Bao chỉ cần Thức Dậy là “Sắc tức thị Không” và chỉ cần
ngủ Mê trong một sát na là cả cái Vũ Trụ bao la sơn hà đại địa hiện ra NHƯ
THẬT trong Chiêm Bao : “Không tức thị Sắc”. Cái Không Gian và Vũ Trụ
mà Einstein đang quan sát kể cả Bản Thân của Ông cũng là Chiêm Bao thôi,
nhưng Mở Mắt Chiêm Bao. Ông là nhà Bác Học có tài thật sự, cái Thuyết
KIẾN GIẢI CHỨNG ĐẠO CA: “VÔ TRỤ NIẾT BÀN VÀ MA HA BÁT NHÔ
________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________
Thiền Sư HUYỀN GIÁC--Trang | 108 --Kiến Giải: NGỘ THÂM
Tương Đối lừng danh của Ông có giá trị khá cao nhưng nó còn hạn chế theo
Nghiệp Thức của Loài Người, còn nhiều giới hạn và ngăn ngại. Bởi vì tất cả
cái “Không Gian - Space” 4 chiều, 10 chiều của Black Hole, 20 chiều hay cái
Không Gian của các Cõi Trời, Cõi A Tu La, Cõi Ngạ Quỹ…vẫn là các Cõi Mê
giống như Cõi Chiêm Bao và nó chỉ là cái Bóng Trăng dưới Mặt Nước mà
thôi. Chỉ có cái “Hư Không Rỗng Rang -Emptiness”, cái Rỗng Thênh
Không Thánh, cái Không của Chư Phật, Chư Tổ và Thiền Sư chứng Đạo mới
là Mặt Trăng thật. Dù Lý có hay nhưng Sự vẫn là cạn, giống như mò Trăng
đáy Nước thì làm sao gặp được Mặt Trăng thật. Với vận tốc ánh sáng chỉ có
300.000 km/giây thì làm sao Con Tàu Vũ Trụ của Einstein du hành hết được
10 phương Chư Phật. Du hành với vận tốc ánh sáng thật ra chỉ là lý thuyết
suông, thực tế thì Con Người không thể nào thực hiện được, nhưng dù được
cũng phải mất hàng chục tỷ năm, để du hành, trong khi mạng sống Con
Người chưa quá 100 năm, thì làm sao thực hiện ? Do đó đây chỉ là lý thuyết ,
rất khó thực hiện nếu không muốn nói là ảo tưởng ! Cái Lý “Sắc Không” của
Đức Phật vẫn còn là cái “Bí Mật” đối với nhãn thức phàm phu dù có một “Bộ
Óc” thông minh tuyệt đỉnh kể cả loài Trời, vì nó cần phải chứng Ngộ như Đức
Phật và Thiền Sư với con mắt “Bát Nhã” mới thông suốt được.
Hãy nhìn đây mới là cái Lý “Sắc Không” của Bát Nhã Ba La
Mật :
“Bồ Tát siêu Thánh Trí
Lục xứ tất giai đồng
Tâm Không QuánTựTại
Vô Ngại Đại ThầnThông
Thiền môn nhập Chánh Thọ Tam Muội nhiệmTây Đông
Thập phương du lịch biến
Bất kiến Phật hành tung”. (Bồ Đề Đạt Ma).
(Bồ Tát vượt Thánh Trí
Sáu xứ rốt chung đồng
Tâm Không Quán Tự Tại
Vô Ngại Đại Thần Thông
Cửa Thiền vào Chánh Thọ
Tam Muội mặc Tây Đông
Mười phương trải chơi khắp
Nào thấy Phật hành tung)
Đạt tới Bát Nhã Ba La Mật Đa là đạt tới Pháp Giới Chư Phật, cái Sắc
của Chân Sắc, cái Không của Chân Không, nhưng Sắc cũng chẳng Sắc, Không
cũng chẳng Không, Sắc Không là Một, là Bất Nhị, là Cảnh Giới : Lý vô ngại,
Sự vô ngại, Lý Sự vô ngại và Sự Sự vô ngại:
KIẾN GIẢI CHỨNG ĐẠO CA: “VÔ TRỤ NIẾT BÀN VÀ MA HA BÁT NHÔ
________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________
Thiền Sư HUYỀN GIÁC--Trang | 109 --Kiến Giải: NGỘ THÂM
Lý vô ngại : tức là Chân Lý Thực Tánh là Thể Tánh Chân Thật, Thực
Tướng của tất cả Pháp, là Pháp Tánh hay Giới Tánh, Chân Như Tánh. Trong
Vũ Trụ tất cả Pháp đều đồng nhất một Thể Tánh chân thật và Thể Tánh ấy thì
dung thông vô ngại đối với tất cả Tánh.
Sự vô ngại : là tất cả Pháp Sự đều đồng một Thể Tánh chân thật, đồng
lấy Pháp Tánh làm Thể, toàn thể Sự là Pháp Tánh. Pháp Tánh thì dung thông
vô ngại thì tất cả các Sự cũng đều vô ngại.
Lý Sự vô ngại : Lý là Thể Tánh của Sự, Sự là Diệu Dụng của Lý Tánh.
Cho nên Lý Tánh là Lý Tánh của Sự và Sự là Sự Tướng của Lý Tánh. Do đó
Lý Tánh là Toàn Sự, tất cả Sự là Toàn Lý Tánh và Lý Sự dung thông nên
gọi là Lý Sự vô ngại.
Sự Sự vô ngại : Tất cả Pháp Sự đều đồng một Thể Tánh và Thể Tánh thì viên dung vô ngại vô
phân biệt, nên bất cứ một Sự đều dung nhiếp tất cả Sự và đều là tất cả Sự. Tất cả Sự đều dung nhiếp vào
một Sự và tức là một Sự : ‘‘Một là Tất Cả, Tất Cả là Một’’. Bốn cái Pháp Giới của Chư Phật và Bồ Tát này,
Thiền Sư Huyền Giác thu gọn trong sáu câu kệ trong Chứng Đạo Ca :
‘‘Nhất Tánh viên thông nhất thiết Tánh
Nhất Pháp biến hàm nhất thiết Pháp
Nhất Nguyệt phổ hiện nhất thiết thủy
Nhất thiết thủy Nguyệt nhất Nguyệt nhiếp
Chư Phật Pháp Thân nhập ngã Tánh
Ngã Tánh đồng cộng Như Lai hiệp’’.
Tánh Phật và Tánh của Chúng Sanh là bình đẳng là một và một Tánh
dung thông với tất cả Tánh. Tánh Phật trùm khắp tất cả Pháp. Thực Tướng của
Pháp lại là Không, là Vô Tướng, là Không Thân chính là Pháp Thân Phật. Tất
cả Pháp thu nhiếp trong một Pháp, tức là một Pháp. Một Pháp dung nhiếp tất
cả Pháp, tức là tất cả Pháp. Do đó thấy một Pháp tức là thấy tất cả Pháp. Và
“Cái Thấy” của Chư Phật và Bồ Tát là Cái Thấy dung thông vô ngại trên tất
cả Lý và Sự, không phải nhờ vào cái Ánh Sáng vật chất (photon) của thế giới
hữu vi bị giới hạn bởi tốc độ và nhiều ngăn ngại với những Không Gian “Siêu
Hình” mà “Cái Thấy” bằng Tâm, thấy bằng Cái Rõ hay cái Ánh Sáng của
Viên Ngọc Ma Ni, hay Ánh Sáng Bát Nhã, cho nên không còn phân biệt hay
ngăn ngại với tất cả loại Không Gian kể cả sáu cõi Luân Hồi hay mười
phương Chư Phật.
Cũng như Bồ Tát “Quán Tự Tại” với cả Sáu Căn hỗ dụng đồng loạt
là sáu Ban Thần Thông vi diệu trong đó Trí là Trí Tuệ Bát Nhã vượt cả
Thánh Trí vì đã đạt tới Tâm Không, nên không còn ngăn ngại.
“Lục Ban Thần Dụng Không bất Không
Nhất lỏa Viên Quang Sắc phi Sắc”.
KIẾN GIẢI CHỨNG ĐẠO CA: “VÔ TRỤ NIẾT BÀN VÀ MA HA BÁT NHÔ
________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________
Thiền Sư HUYỀN GIÁC--Trang | 110 --Kiến Giải: NGỘ THÂM
(Sáu Ban Thần Dụng Không chẳng Không
Một điểm tròn sáng Sắc chẳng Sắc).
Cửa Thiền tức cửa Không đã nhập Chánh Thọ, tức an trú nơi Niết Bàn
vô sanh, nên mặc tình du hí Tam Muội, Tây cũng như Đông và du lịch khắp cả
10 phương Chư Phật chỉ trong một sát na và không ngăn ngại, nơi đó: “Một là
Tất Cả, Tất Cả là Một”. Bởi vì như một Vật đặt giữa nhiều “Tấm Gương”
sẽ phản chiếu ra vô số Vật, “Gương Tâm” lại trùm khắp cả Hư Không do đó
soi chiếu khắp cả Càn Khôn Vũ Trụ và Vũ Trụ Càn Khôn chỉ là vô số cái
Bóng của cái “Một”.
“Tâm kính minh, giám vô ngại
Quách nhiên oánh triệt châu sa giới
Vạn tượng sum la ảnh hiện trung
Nhất lỏa Viên Quang phi nội ngoại”.
(Thiền Sư Huyền Giác).
(Gương Tâm rõ, soi chẳng ngại
Suốt thông chiếu khắp hà sa giới
Muôn tượng um tùm, ảnh hiện trong
Một điểm Viên Quang không nội ngoại).
Tất cả Vũ Trụ bao la với hàng trăm tỷ Thiên Hà, với hằng sa Thế Giới
khắp 10 phương, gồm sum la vạn tượng, sơn hà đại địa hiện Bóng um tùm
trong chiếc “Gương Tâm”. Nó là Một Điểm Viên Quang chẳng trong chẳng
ngoài nhưng trùm khắp cả Hư Không vô biên. Khi Mê chỉ là Một Điểm, khi
Ngộ“ Một là Tất Cả”. Chẳng hạn như Một Hòn Bọt : khi Mê chấp cái Một là
Thân ; khi Ngộ, Hòn Bọt tan thành cái “Một là Tất Cả”, tức là “Biển Cả”
bao la là Thân. Một Chiếc Lá : khi Mê thì chấp cái tướng Lá là Thân , khi Ngộ
thì cả cái Thân Cây cổ thụ to lớn mới là Thân. Đối với Chúng Sanh cũng vậy,
khi Mê chấp cái Thân “Tứ Đại” này là Thân ; khi Ngộ thì cả Thân Tâm là Hư
Không bình đẳng và hòa nhập với mọi Pháp Giới. Do đó Pháp Thân Phật là
“Một cũng là Tất Cả” , Hư Không vô biên cũng là Pháp Thân Phật, là Như
Lai không đến không đi, trùm khắp, có mặt khắp mọi nơi, chẳng nơi nào
chẳng biết, chẳng nơi nào chẳng thấy (Lục Ban Thần Dụng). Cũng như Bồ Tát
Quan Thế Âm có ngàn tay ngàn mắt, muốn ứng thân nơi nào cũng được, hiện
thân nơi Cõi Mê để cứu chúng sanh trong Mê, hóa thân vào Cõi Không Gian 4
chiều của loài Người, Không Gian 10 chiều trong những Black Holes (?!),
Không Gian của các Cõi Trời, Cõi A Tu La, Cõi Ngạ Quỹ để cứu độ Chúng
Sanh những nơi ấy.
Đối với Pháp Hữu Vi trong sáu cõi Luân Hồi là cõi Mê trong đó
Không Gian và Thời Gian thì phân biệt và nhiều ngăn ngại. Còn đối với
Chư Phật là Pháp Giới Sự Sự vô ngại, trong đó chẳng những cái Không
KIẾN GIẢI CHỨNG ĐẠO CA: “VÔ TRỤ NIẾT BÀN VÀ MA HA BÁT NHÔ
________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________
Thiền Sư HUYỀN GIÁC--Trang | 111 --Kiến Giải: NGỘ THÂM
Gian vô ngại mà Thời Gian cũng vô ngại và Không Gian dung thông với
Thời Gian suốt ba thời : quá khứ hiện tại và vị lai.
Thí dụ Địa Cầu ( hay Hành Tinh A) cách Hành Tinh B một tỷ năm
ánh sáng. Giả sử nhờ kính Thiên Văn tối tân mà người Địa Cầu có thể nhìn
thấy Thế Giới Chúng Sanh ở Hành Tinh B. Tuy nhiên người Địa Cầu chỉ có
thể thấy cái quá khứ cách đây một tỷ năm, vì cái ánh sáng (sóng photon) từ
Hành Tinh B mang tin tức (data) phải mất một tỷ năm truyền đi trong Không
Gian để đến Địa Cầu. Bây giờ người Địa Cầu vượt Không Gian trên Con Tàu
Vũ Trụ tiến về Hành Tinh B. Không đặt vấn đề “Hiệu Ứng” Không Gian và
Thời Gian khi Con Tàu du hành với vận tốc cao và giả sử vận tốc Con Tàu
nhanh hơn vận tốc ánh sáng gấp nhiều lần và không có giới hạn. Khi Con Tàu
đến được điểm O bằng ½ khoảng cách AB thì nhìn thấy cái quá khứ 500 triệu
năm của Chúng Sanh Hành Tinh B, đến được điểm I bằng ¾ AB thì thấy quá
khứ 250 triệu năm, đến được điểm E bằng 9/10 AB thì thấy quá khứ 100 triệu
năm... và cuối cùng Con Tàu đi tới đích là điểm B thì thấy được Chúng Sanh
Hành Tinh B thời hiện tại. Tại điểm B trên Hành Tinh B, người quan sát trên
Con Tàu Vũ Trụ nhìn ngược về Địa Cầu ( tức Hành Tinh A) thì không thấy
Chúng Sanh đang sống ở thời hiện tại là năm 2011 mà chỉ thấy quả Địa Cầu
còn sơ khai chưa có sự sống, toàn là núi lửa phun trào ở thời điểm quá khứ
một tỷ năm ; trong khi lại nhìn thấy Chúng Sanh trên Hành Tinh B đang sinh
hoạt thời hiện tại là năm 2011.
Bây giờ Con Tàu du hành ngược trở về Địa Cầu từ B đến A và quan
sát Địa Cầu. Tùy theo vị trí trong khoảng cách BA mà nhìn thấy quá khứ lùi
dần từ 1 tỷ năm ở điểm B, rồi 500 triệu năm, 250 triệu năm, 100 triệu
năm...cho tới điểm đích là A và Con Tàu hạ cánh trên Địa Cầu, người quan sát
trở về thực tại thấy Chúng Sanh sinh hoạt bình thường ở thời điểm năm 2011.
Trong khi đó, người quan sát trên Con Tàu nhìn ngược trở lại Hành Tinh B thì
thấy Chúng Sanh từ thời hiện tại năm 2011 tại vị trí B tăng dần về quá khứ
100 triệu năm, 250 triệu năm, 500 triệu năm và khi tới điểm đích là A trên Địa
Cầu thì thấy đời sống quá khứ 1 tỷ năm trên Hành Tinh B toàn là
người tiền sử giống như họ đang sống thật sự trong hiện tại năm 2011, nhưng
thực ra họ đã qua đời gần một tỷ năm rồi !
Đối với Địa Cầu ( tức Hành Tinh A) muốn từ thời gian hiện tại trở về
quá khứ vô định ( ∞ ) thì du hành ra Không Gian rời xa điểm A rồi nhìn ngược
trở lại Địa Cầu (bằng kính Thiên Văn cực đại và với điều kiện có ánh sáng
truyền đi từ Địa Cầu). Tùy theo khoảng cách AXn = (AX0, AX1,
AX2,...AX∞) mà nhìn thấy được đời sống quá khứ của Chúng Sanh trên Địa
Cầu ở từng thời điểm Tn = ( T0, T1, T2, ....T∞) . Đối với Hành Tinh B từ quá
KIẾN GIẢI CHỨNG ĐẠO CA: “VÔ TRỤ NIẾT BÀN VÀ MA HA BÁT NHÔ
________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________
Thiền Sư HUYỀN GIÁC--Trang | 112 --Kiến Giải: NGỘ THÂM
khứ vô định muốn trở về hiện tại thì từ Không Gian vô định, Con Tàu Vũ Trụ
du hành tiến gần về điểm B và tùy theo khoảng cách XnB = (X∞B,…X2B,
X1B, X0B) mà nhìn thấy được đời sống của Chúng Sanh trên Hành Tinh B từ
quá khứ vô định cho đến hiện tại ở từng thời điểm Tn = (T∞ ...,T2, T1, T0).
Bây giờ người Hành Tinh B muốn quan sát loài người sống trên Địa
Cầu ở thời gian hiện tại là năm 2011. Họ không thể nhìn thấy được, phải đợi
thời điểm vị lai là một tỷ năm sau : cái ánh sáng mang tin tức hình ảnh Địa
Cầu năm 2011 truyền đi trong không gian tới được Hành Tinh B và khi đó
người Địa Cầu đã trở thành quá khứ một tỷ năm ! Cũng khi đó Hành Tinh B
sẽ chỉ thấy cái quá khứ trong cái hiện tại của cái vị lai một tỷ năm ! Một Vị
Bồ Tát ở Hành Tinh B nhập định thấy được cái hiện tại của Chúng Sanh
đang sống ở Địa Cầu năm 2011, vậy là Vị Bồ Tát này thấy được cái vị lai một
tỷ năm đối với Chúng Sanh ở Hành Tinh B. Vị Bồ Tát đã chuyển được cái vị
lai và cái quá khứ thành cái hiện tại mà người Hành Tinh B ( trong hiện tại
năm 2011) không làm được. Trừ khi họ có thể du hành trên Con Tàu Vũ Trụ
trong một thời gian rất ngắn với vận tốc cao hơn ánh sáng nhiều lần hoặc vô
giới hạn, để có thể hạ cánh trên Địa Cầu bất cứ lúc nào họ muốn và nhìn thấy
tức thời đời sống người Địa Cầu mà không phải mất một tỷ năm du hành trong
Không Gian với vận tốc ánh sáng bị giới hạn chỉ có 300.000 kilomet/giây !?
Đối với Khoa Học “lý thuyết ”, thì Con Người “có thể ”nhìn thấy đời
sống của tất cả Chúng Sanh trong khắp Vũ Trụ ở ba thời : quá khứ, hiện tại, và
vị lai.
Đối với quá khứ, dùng Con Tàu Vũ Trụ đuổi theo cái Ánh Sáng
(sóng hạt photon) mang tin tức hình ảnh của từng Thế Giới đang truyền đi vô
tận ( ∞ ) trong Không Gian xuyên qua kính Thiên Văn có độ phóng đại cực
lớn và tùy theo khoảng cách vị trí từ không (0) cho đến vô cực (0 → ∞) mà
xác định từng thời điểm quá khứ theo ý muốn.
Đối với hiện tại thì Con Tàu Vũ Trụ đó phải “có mặt” khắp mọi nơi
trong vũ trụ trong thời gian ngắn nhất được tính bằng ngày giờ (không phải
kéo dài hàng tỷ năm) để có thể nhìn thấy cái hiện tại của tất cả Thế Giới.
Đối với vị lai, vì ngăn ngại Không Gian và Thời Gian mà cái hiện tại
của Thế Giới này trở thành cái vị lai hàng tỷ năm của Thế Giới kia, do đó nếu
“có mặt” khắp mọi nơi trong thời gian ngắn nhất thì có thể hóa giải cái vị lai
thành cái hiện tại. Ngoài ra, cái hiện tại cũng là cái vị lai của cái quá khứ, và
cái quá khứ này lại là cái vị lai của cái quá khứ trước đó.
Như vậy muốn nhìn thấy tất cả những cái quá khứ, hiện tại và vị lai
của tất cả các cõi nước hay thế giới thì Con Tàu phải du hành xuyên vũ trụ
trong thời gian cực ngắn để “có mặt” khắp mọi nơi : đuổi kịp cái Ánh Sáng
photon mang tin tức (data) của tất cả các cõi nước. Tuy nhiên, sự “có mặt”
nầy, thực tế Con Người không thể làm được vì lệ thuộc vào Nghiệp Lực của
KIẾN GIẢI CHỨNG ĐẠO CA: “VÔ TRỤ NIẾT BÀN VÀ MA HA BÁT NHÔ
________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________
Thiền Sư HUYỀN GIÁC--Trang | 113 --Kiến Giải: NGỘ THÂM
từng loài Chúng Sanh mà trong đó những định luật khoa học về vật lý, về vận
tốc, về không gian và thời gian bị giới hạn và nhiều ngăn ngại.
Đối với Chư Phật 10 phương vì Pháp Thân của các Ngài thì vô tướng,
bình đẳng và trùm khắp Hư Không vô biên, không lệ thuộc vào Nghiệp Lực
hay bất cứ định luật Khoa Học nào nên dung thông với tất cả Không Gian và
Thời Gian :
“Pháp Thân vô khứ vô lai trụ tịch oai nghi bất động ,
Đức tướng phi không phi hữu ,ứng tùy cơ dĩ hằng châu”.
(Pháp Thân không đến không đi ,đứng yên oai nghi bất động,
Đức tướng không phải không cũng không phải là có ,
ứng tùy cơ sanh ra vạn pháp).
Tất cả Pháp Giới là Pháp Thân Chư Phật hay Như Lai biến chiếu cho
nên Chư Phật và Bồ Tát không cần phải đi đâu cả (vô khứ vô lai), không cần
phải dùng Con Tàu Vũ Trụ để du hành mà chỉ ngồi yên trong “Thiền Định”
và quán sát Thế Giới Chúng Sanh trong vô số các cõi nước bằng ngũ nhãn:
(nhục nhãn, thiên nhãn, huệ nhãn, pháp nhãn và Phật Nhãn), quán sát bằng
Tâm với Ánh Sáng Bát Nhã vi diệu. Vì Pháp Thân Như Lai trùm khắp Hư
Không vô biên và tất cả Pháp Giới, nên có thể Hóa Thân hay Ứng Thân ở mọi
nơi và mọi thời như Kinh Hoa Nghiêm nói: “Ba đời nhiều kiếp là một
niệm”. Trong giấc Chiêm Bao, Chúng Sanh cũng nhìn thấy Thế Giới trong
Mộng bằng Tâm và Ánh Sáng của Tâm (khác với Ánh Sáng Mặt Trời), nhưng
Tâm này là Tâm Vọng hay Tâm Mê điên đảo và bị hạn chế theo Nghiệp Thức!
Còn Tâm mà Chư Phật dùng để quán sát hay Hóa Thân, Ứng Thân trong các
cõi nước là Tâm mà Phi Tâm là cái Tâm : Ma Ha Bát Nhã Ba La Mật Đa trùm
khắp tất cả Pháp Giới, thường chiếu thường soi rõ ràng chân thật, không nơi
nào mà chẳng đến, không nơi nào mà chẳng biết, không nơi nào mà chẳng
thấy và chỉ trong một Niệm là cả Pháp Giới Chư Phật hiển bày hay thâu nhiếp
tất cả các cõi nước.
Đây là cái Pháp Giới bất tư nghì của Chư Phật và Bồ Tát, là Pháp Giới
Sự Sự vô ngại: không còn ngăn ngại giữa Không Gian và Không Gian kể cả
Không Gian của các cõi siêu hình như Địa Ngục, Ngạ Quỷ, A Tu La…, giữa
Thời Gian và Thời Gian kể cả ba đời quá khứ hiện tại và vị lai, giữa Không
Gian và Thời Gian, nghĩa là Thế Giới không còn Không Gian và Thời Gian để
phân biệt: có thể đặt vô lượng Thế Giới trong một hạt bụi vi trần, có thể thâu
nhiếp vô số kiếp trong một niệm, có thể đặt quá khứ, hiện tại vào vị lai, có thể
đặt vị lai quá khứ vào hiện tại.
Đối với cái Không Gian dung thông vô ngại nầy, Kinh Hoa Nghiêm
nói:
KIẾN GIẢI CHỨNG ĐẠO CA: “VÔ TRỤ NIẾT BÀN VÀ MA HA BÁT NHÔ
________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________
Thiền Sư HUYỀN GIÁC--Trang | 114 --Kiến Giải: NGỘ THÂM
“Bao nhiêu vi trần trong thế giới
Trong mỗi vi trần thấy các cõi
Bửu quang hiện Phật vô lượng số
Cảnh giới tự tại của Như Lai”.
Có thể đem vô lượng núi Tu Di hay vô lượng Thế Giới nhét vào đầu
sợi lông mà tất cả Thế Giới đó vẫn dung thông không ngăn ngại và thể tướng
thì vẫn như cũ, không thay đổi:
“Vô lượng vô số núi Tu Di
Đều đem vào một sợi lông
Một thế giới để vào tất cả
Tất cả Thế Giới để vào một
Thể Tướng thế giới vẫn như cũ
Vô đẳng vô lượng đều cùng khắp”.
Về Thời Gian thì cũng dung thông vô ngại, văn kinh nói :
“Kiếp quá khứ để hiện, vị lai
Kiếp vị lai để quá, hiện tại
Ba đời nhiều kiếp là một niệm
Chẳng phải dài ngắn: hạnh giải thoát”.
Tất cả kiếp quá khứ, hiện tại và vị lai đều chỉ nhiếp trong một niệm,
nghĩa là vượt Thời Gian, bởi vì Thời Gian chỉ là tương đối và nó chỉ có trong
cõi Mê:
“Tôi hay thâm nhập đời vị lai
Tất cả kiếp thâu làm một niệm
Hết thảy những kiếp trong ba đời
Làm khoảng một niệm tôi đều nhập” .
Chẳng những vậy, mà Không Gian cũng dung thông với Thời Gian, và
cái Không-Thời-Gian chỉ là tương đối, không có thật, nó bị ngăn ngại trong
cõi Mê, đối với Chư Phật mười phương, nó không còn ngăn ngại:
“Khắp hết mười phương các cõi nước
Mỗi đầu lông có đủ ba đời
Phật cùng quốc độ số vô lượng
Tôi khắp tu hành trải trần kiếp
Trong một niệm tôi thấy ba đời
Tất cả các đấng Nhơn Sư Tử
Cũng thường vào trong cảnh giới Phật
Như huyễn, giải thoát và oai lực”.
KIẾN GIẢI CHỨNG ĐẠO CA: “VÔ TRỤ NIẾT BÀN VÀ MA HA BÁT NHÔ
________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________
Thiền Sư HUYỀN GIÁC--Trang | 115 --Kiến Giải: NGỘ THÂM
Vì không ngăn ngại trong khắp Không Gian các cõi từ mười phương
Chư Phật cho đến các cõi Mê trong sáu ngã Luân Hồi, cho nên Phật, Bồ Tát có
thể Hóa Thân hay Ứng Thân trong khắp các cõi để hóa độ chúng sanh.
“Vung tay bắt lấy Hư Không
Rõ ràng nắm được Sắc hồng hà sa
Trời Đâu Suất, cõi Ta Bà
Phiêu du sáu nẻo sơn hà độ sinh ”.
(Ngộ Thâm).
Dù là dạo chơi khắp các Cõi 10 phương Chư Phật, nhưng chẳng thấy
hình bóng của Chư Phật nơi nào cả vì ở đây là Phật Vô Tướng là Phật Gốc,
còn Phật với 32 tướng tốt chỉ là Phật Ngọn; vì Phật có tới những ba thân: Ứng
Thân, Báo Thân và Pháp Thân; ở đây Sắc mà Vô Sắc, Không mà Vô Không:
Sắc tức Bát Nhã, Không tức Bát Nhã, không có cái Không cũng như không có
cái Có, mà là cái Rốt Ráo Rỗng Suốt của Bát Nhã Ba La Mật Đa, cũng là cái
Rỗng Thênh Không Thánh, cái Bổn Lai vô nhất vật, cái Hư Không - Rỗng
Rang - Emptiness. Cái Hư Không vi diệu này khi cần hiển Sắc là ra Sắc, hiển
Không là ra Không, tạo ra ba ngàn Thế Giới, dựng ra Không Gian Vũ Trụ Cõi
Ta Bà, Cõi Trời, Cõi A Tu La, biến ra Black Holes với Không Gian 10 chiều,
20 chiều…Vô Vi biến hóa:‘‘Không tức thị Sắc’’.
Tóm lại, từ cái “Không Gian - Space” 4 chiều của Cõi Ta Bà,
10 chiều của Black Holes…hay Không Gian của các Cõi Trời, Cõi A Tu
La…đều là những Không Gian của Cõi Mê, do Tâm Mê vọng hiển mà duyên
khởi, giống như Biển nổi ngàn Sóng và cái “Sắc Không” nhìn thấy nơi ấy
cũng là Mê. Phải vượt lên khỏi những Không Gian của Thế Giới Mê ấy để đạt
đến cái “Hư Không - Rỗng Rang - Emptiness” và phải phá vỡ luôn chính
cái Hư Không này mới là đạt tới mục đích tối thượng là gặp được Đạo hay
chứng Đạo, ngộ nhập Bát Nhã, đạt tới Niết Bàn Vô Trụ, Vô Sanh. Và khi đó:
“Sóng tức là Nước” và “Sắc tức thị Không”. Thật ra khi đã Ngộ rồi thì cái Hư
Không này cũng không có mà chỉ duy nhất là Tánh, Tự Tánh là cái Chơn Nhất
Bát Nhã, cái Không rốt ráo, Tổ Tông của muôn loài chúng sanh và vạn hữu !
“Rõ ràng Trống Rỗng, Rõ ràng Không,
Rõ ràng Không Huyễn tức Không Không.
Nếu ai vỡ được Hư Không Huyễn
Ta sẽ cùng nhau nhận Tổ Tông ” .
(Ngộ Thâm).
Còn đối với cái Sắc, từ hạt Nguyên Tử duyên khởi sinh ra đủ thứ mọi
vật chất và thành lập cả cái Vũ Trụ bao la này thì quả thật là vi diệu. Cả một
Thế Giới vi mô vi diệu trong một hạt Nguyên Tử với những hạt electrons nhảy
múa điên cuồng để thao tác làm ra vật chất (Sắc). Cả một Thế Giới Vũ Trụ vĩ
KIẾN GIẢI CHỨNG ĐẠO CA: “VÔ TRỤ NIẾT BÀN VÀ MA HA BÁT NHÔ
________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________
Thiền Sư HUYỀN GIÁC--Trang | 116 --Kiến Giải: NGỘ THÂM
mô vi diệu trong đó những Hành Tinh nhảy múa điên cuồng quay tròn để
thành lập Vũ Trụ (Sắc). Tất Cả và Tất Cả cũng chỉ là Mê, là cái Bóng của Bát
Nhã biến chiếu ra: “ Không tức thị Sắc”. Và cái thấy “Sắc Không” này cũng
là Mê. Phải vượt trên cái “Sắc Không” này: Sắc tức Bát Nhã, Không tức Bát
Nhã và như thế “Sắc Không” là Một. Phải phá vỡ luôn cái Sắc, phá vỡ luôn
hạt Nguyên Tử và khi đó cả Vũ Trụ sụp đổ trở về cái KHÔNG tuyệt đối của
Ma Ha Bát Nhã Ba La Mật Đa, tức là Sóng trở về Nước, Sắc trở về Không, là
Chân Tông của Vạn Hữu.
“Tác hữu trần sa hữu
Vi không nhất thiết không”.
(Hạt Bụi nầy có thì Vũ Trụ nầy có
Hạt Bụi nầy không thì Vũ Trụ nầy không có ).
Bởi vì hạt Nguyên Tử là một đơn vị nhỏ nhất và là căn bản vật chất
của cả Vũ Trụ , nên Nguyên Tử tan hoại trở về Không, thì Vũ Trụ cũng tan
hoại trở về Không:
VT = ∑ sigma [Nguyên Tử] = ∑(0) = 0 .
Mỗi Nguyên Tử là một niệm Vô Minh: niệm niệm duyên khởi trùng
trùng sinh ra thế giới Mê là Vũ Trụ. Dứt niệm đạt đến Vô Niệm, Vô Tâm thì
Nguyên Tử tận diệt và khi đó Vũ Trụ hay Thế Giới Mê tan hoại.
“Rõ ràng Sắc Sắc, Rõ ràng Không,
Rõ ràng chẳng Sắc, tức Chân Tông.
Nếu ai vỡ được Sắc trong Mộng
Xin hãy cùng nhau luận Tổ Tông”. (Ngộ Thâm).
Tóm lại, mặc dù không thể thực hiện được bằng thực tế mà chỉ là lý
thuyết suông, Con Tàu Vũ Trụ của Nhà Bác Học Einstein vượt Không Gian
bằng vận tốc ánh sáng sinh ra những hiệu ứng làm co giãn Không Gian và
Thời Gian, giảm kích thước Con Tàu tới zero (0): “Sắc tức thị Không” và
Con Tàu biến mất, chuyển khối lượng thành năng lượng: E = MC2 thì cái năng
lượng này cũng là một hình thức khác của cái Sắc, tức là Sắc, không phải là
cái “Sắc tức thị Không” của Bát Nhã Ba La Mật Đa! Ngay cả khi Con Tàu
du hành vào Black Hole (Hố Đen) với Không Gian cong 10 chiều và mất tích
trong Black Hole để chứng minh rằng Sắc tức thị Không thì chính cái thế
giới Black Hole này là thế giới Hữu Vi, tuy không thấy được bên trong Black
Hole là gì, nhưng người ta vẫn nhìn thấy cái Tướng của nó là Black Hole phân
biệt trong Không Gian do đó Black Hole vẫn là Sắc và có Hình Tướng và như
vậy những gì chứa bên trong Black Hole đều là Sắc, kể cả Con Tàu Vũ Trụ
của Einstein bị mất tích trong đó.
KIẾN GIẢI CHỨNG ĐẠO CA: “VÔ TRỤ NIẾT BÀN VÀ MA HA BÁT NHÔ
________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________
Thiền Sư HUYỀN GIÁC--Trang | 117 --Kiến Giải: NGỘ THÂM
Rốt ráo, Sự đã không đạt mà chính cả Lý cũng không đạt được mặc
dù chỉ là lý thuyết suông! Còn thấy Sắc Không thì vẫn còn là cõi Mê, vẫn còn
trong Thế Giới Hữu Vi, không phải là cái lý Sắc Không của Bát Nhã Ba La
Mật Đa.
“Vô Không, Không bất hữu
Vô Sắc, Sắc vô hình
Sắc Không đồng quy nhất
Tĩnh thổ đắc an ninh”. ( Bồ Đề Đạt Ma).
(Chẳng Không, Không chẳng có
Chẳng Sắc, Sắc không hình
Sắc Không về một mối
Đất tịnh được an lành).
Thật ra với nhãn thức phàm phu, thấy Sắc là Sắc, Không là Không và
phân biệt trên cái Tướng Sắc Không là chỉ thấy cái Bóng Trăng dưới mặt
nước. Theo Tổ Đạt Ma thì chẳng có cái Không mà cũng chẳng có cái Sắc.
Phải là cái Sắc mà chẳng Sắc, Không mà chẳng Không và Sắc Không qui về
Một và cái Một rốt ráo hay là cái Chơn Nhất này mới là cái Chân Sắc hay là
Chân Không đồng một Thể Tánh, là bất nhị, là cái Không “rốt ráo” của Chư
Phật và Thiền Sư, là cái Ma Ha Bát Nhã Ba La Mật Đa. Do đó phải phá vỡ
luôn cái Sắc đối đãi và cái Không đối đãi nhị nguyên này trong Giấc Mộng
Ban Đêm cũng như Giấc Mộng Ban Ngày (nhắm mắt chiêm bao hay mở mắt
chiêm bao) để đạt tới cái lý Sắc Không Rốt Ráo của Ma Ha Bát Nhã Ba La
Mật Đa, chứng được cái Thân Thật là Pháp Thân hay cái Thực Tướng Vô
Tướng không nhân không pháp, ngộ nhập Bát Nhã, đạt Niết Bàn vô trụ:
“Sắc Không đồng qui NHẤT
TĨNH THỔ đắc an ninh”.
KIẾN GIẢI CHỨNG ĐẠO CA: “VÔ TRỤ NIẾT BÀN VÀ MA HA BÁT NHÔ
________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________
Thiền Sư HUYỀN GIÁC--Trang | 118 --Kiến Giải: NGỘ THÂM
PHẦN 4
ĐẠO LÝ GIẢI THOÁT
KIẾN GIẢI CHỨNG ĐẠO CA: “VÔ TRỤ NIẾT BÀN VÀ MA HA BÁT NHÔ
________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________
Thiền Sư HUYỀN GIÁC--Trang | 119 --Kiến Giải: NGỘ THÂM
Kinh nói : “Tam giới duy Tâm” , nhưng Tâm cũng đồng với Hư
Không, do đó Vũ Trụ do Tâm sinh ra thì cũng giống như từ Hư Không sinh ra.
Trong Thế Giới Hữu Vi, nguồn gốc của Vũ Trụ là “Dị Điểm” Big Bang và xét
cho cùng thì cái điểm rốt ráo sinh ra Big Bang chính là Hư Không, cũng chính
là Tâm : Tâm Mê khởi niệm hay Hư Không khởi niệm và Big Bang chính là
cái niệm Vô Minh đầu tiên khởi lên. Do đó muốn tìm cái Chân Lý Vũ Trụ này
thì phải tìm ngay cái Gốc là Hư Không mà Hư Không thì Vô Tướng và không
sinh diệt cũng là cái Không rốt ráo vi diệu hiển ra Sắc : “Không tức thị Sắc”.
Như vậy, muốn tìm cái Chân Lý thực sự thì phải tìm nơi cái: “ Vô
Tướng” tức là nơi cái Không, cái Rỗng Rang - Emptiness, cái Rỗng Thênh
Không Thánh mà Chư Phật, Chư Tổ và Thiền Sư đã tìm ra và chỉ đường cho
chúng sanh hậu thế.
“Diệu Tánh Hư Vô bất khả phan,
Hư Vô Tâm Ngộ đắc hà nan.
Ngọc phần sơn thượng sắc thường nhuận,
Liên phát lô trung thấp vị càn”.
(Thiền Sư Ngộ Ấn-VN)
(Diệu Tánh Rỗng Không chẳng thể vin,
Rỗng Không Tâm Ngộ việc dễ tin.
Tươi nhuần sắc ngọc trong núi cháy,
Lò lửa Hoa Sen nở thật xinh).
Thiền Sư Linh Thảo cũng vậy, ngộ nơi cái Hư Không với cái ý chỉ Bồ
Đề Đạt Ma từ Tây Thiên đến, cho nên vác gậy quơ ngang chỉ cái Hư Không:
“Rỗng Thênh Không Thánh”:
“Phóng khước ngưu thằng tiện xuất gia
Thế trừ tu phát trước cà sa
Hữu nhân vấn ngã Tây lai ý
Trụ trượng hoành khiêu la lí la”.
(Vứt bỏ dây chăn rồi xuất gia
Cạo râu cạo tóc khoác cà sa
Có ai hỏi ý từ Tây đến
Vác gậy quơ ngang la lí la).
Nếu các nhà Bác Học thế gian bỏ quên cái Gốc ( là Hư Không) chỉ
chú ý tới cái Ngọn( là Sự Vật) để tìm Chân Lý, nghĩa là chỉ nghiên cứu trên
Sự Vật suông và trụ nơi Sự Vật cũng giống như đi mò Trăng đáy nước và trụ
nơi cái Bóng Trăng dưới nước tưởng là Mặt Trăng thật thì không bao giờ gặp
KIẾN GIẢI CHỨNG ĐẠO CA: “VÔ TRỤ NIẾT BÀN VÀ MA HA BÁT NHÔ
________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________
Thiền Sư HUYỀN GIÁC--Trang | 120 --Kiến Giải: NGỘ THÂM
được Chân Lý. Người biết Đạo và đi tìm Đạo, biết dựa vào tấm bản đồ chỉ
đường của Chư Phật, Tổ và Thiền Sư, nhìn Bóng Trăng biết chắc là có Mặt
Trăng thật, không chấp, không trụ nơi Bóng Trăng, nhưng biết nương vào
Bóng Trăng phăng tìm ra Mặt Trăng thật. Rất tiếc cho các nhà Bác Học thế
gian nhìn thấy Bóng Trăng, quan sát nó, phân tích nó một cách tỉ mỉ, hiểu biết
về nó, rồi lại trụ vào nó, chấp vào nó, cho là Chân Lý thì đây chỉ là cái Chân
Lý ảo mà thôi. Điều này cũng giống như trong Giấc Mộng, các nhà Bác Học
trong Thế Giới Mộng quan sát và phân tích Vũ Trụ vạn vật trong Mộng, biết
rõ một phần nào về nó, tưởng là Chân Lý, mà thật ra nó cũng là cái Chân Lý
tương đối trong thế giới Mộng, đến khi thức dậy thì tất cả đều không, không
có cả cái Chân Lý tương đối trong Mộng ! Cái vừa huốt khỏi Sự Vật là cái Vô
Vi, chỗ chấm dứt của Khoa Học vì nó vô hình vô tướng là cái Không vi diệu,
cái mà Khoa Học bị giới hạn hoàn toàn không thể nghiên cứu bằng giác quan,
bằng thí nghiệm, bằng toán học hay dụng cụ khoa học, nhưng lại là cái Rốt
Ráo siêu việt, tận cùng của Chân Lý ! Học Giả Egerton C. Baptist (1915-
1983) trong cuốn ‘‘Supreme Science of the Buddha’’ có nhận xét: “Phật Giáo
bắt đầu ở chỗ khoa học chấm dứt. Khoa học không cho chúng ta sự bảo
đảm gì ở nơi đây. Nhưng Phật Giáo có thể đáp ứng sự thách thức của
thuyết nguyên tử, vì kiến thức ở trên mức bình thường của Phật Giáo bắt
đầu ở nơi mà khoa học chấm dứt. Và điều này khá rõ ràng cho bất cứ ai
đã nghiên cứu về Phật Giáo. Bởi vì, qua thiền định, những cấu tử cỡ
nguyên tử tạo thành vật chất đã được thấy và cảm nhận, và những sự
khổ, với sự sinh và diệt của chúng, đã tự tạo ra trong cái mà chúng ta gọi
là linh hồn hay ngã - ảo tưởng của chấp ngã, như giáo lý của Đức Phật
dạy ”. (Buddhism begins where science no assurance herein. But Buddhism
can meet the Atomic Challenge, because the supramundane knowledge of
Buddhism begins where science leaves off. And this is clear enough to anyone
who has made a study of Buddhism. For, though Buddhist Metitation, the
atomic constituents making up matter have been seen and felt, and the sorrow,
or unsatisfactoriness (or Dukkha), of their “arising and passing
away”(dependent on causes) has made itselt with what we call a “Soul” or
“Atma”- the illusion of Sakkayaditthi, as it is called in the Buddha’s
teaching). Chính Đức Phật, Tổ và Thiền Sư trao tấm bản đồ chỉ đường chính
xác, hay biết bao nhiêu Tàng Kinh đồ sộ phân tích Đạo Lý cao siêu, cùng
huyền cực lý chỉ rõ Chân Lý mà các Ngài vẫn cho biết đó chỉ là “ngón tay” để
chỉ Mặt Trăng, không phải là Mặt Trăng thật, nhưng phải nương vào đó để
truy tìm Mặt Trăng thật. Tấm bản đồ và Tàng Kinh của Phật, Tổ và Thiền Sư
chỉ ngay cái Gốc để tìm Chân Lý. Tuy nhiên chúng sanh nhiều căn cơ, nhiều
trí tuệ, nhiều nghiệp chướng sâu dầy khác nhau cho nên Phật, Tổ bất đắc dĩ
phải chỉ ở cái Ngọn nhưng lại hướng về Gốc. Trong khi các nhà Bác Học từ
KIẾN GIẢI CHỨNG ĐẠO CA: “VÔ TRỤ NIẾT BÀN VÀ MA HA BÁT NHÔ
________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________
Thiền Sư HUYỀN GIÁC--Trang | 121 --Kiến Giải: NGỘ THÂM
Ngọn lại hướng ra cái Ngọn, nghĩa là từ Sự Vật lại hướng ra Sự Vật, chứ
không hướng về cái Gốc Chân Không-Rỗng Rang-Emptiness sinh ra cái Dị
Điểm Big Bang mà họ cho là cái cuối cùng: nguồn gốc của vũ trụ. Các nhà
Bác Học “nhìn ra” cái Ngọn Tâm, từ Sự Vật ra Sự Vật trùng trùng duyên
khởi vô lượng vô biên Sự Vật, giống như vào Biển đếm cát, không thể nào
xong việc và đạt đến Chân Lý. Chẳng hạn như ở thế kỷ 19, các nhà Bác Học
cho rằng Dải Ngân Hà ( Milky Way) là Vũ Trụ vì nó quá rộng lớn chứa hàng
trăm tỷ Hệ Mặt Trời. Qua thế kỷ 20, nhờ có kính thiên văn Hubble rất tối tân,
con người quan sát kỹ hơn thì thấy Milky Way không phải là Vũ Trụ mà chỉ là
một Thiên Hà (Galaxy) nhỏ bé, Vũ Trụ còn rộng lớn hơn thế nữa với hàng
trăm tỷ Thiên Hà giống như Milky Way do một Dị Điểm Big Bang nổ ra. Bây
giờ người ta lại còn nghĩ rằng không phải chỉ có một Dị Điểm Big Bang mà có
thể có vô số Dị Điểm Big Bang hay vô số Vũ Trụ (thuyết đa Vũ Trụ)!...Trong
khi cái Thái Dương Hệ (Solar System) bé nhỏ của chúng ta (ví như hạt bụi so
với Vũ Trụ bao la) với 1 Mặt Trời, 9 Hành Tinh trong đó có quả Địa Cầu mà
chúng ta đang sống, các nhà Bác Học không gian đang mò mẫm giống như
người Mù đi trong bóng đêm; bây giờ càng nhìn ra sự vật, sự vật lại hiện ra
trùng trùng với hàng ngàn hàng tỷ tỷ những “bí ẩn” khác làm cho con người
điên đảo, mù tịt và hoàn toàn bất lực. Những cái “bí ẩn” này là do ‘‘Ma Ha
Bát Nhã’’ làm ra, do cái Gốc Rỗng Rang-Emptiness làm ra, nó là nhà ảo
thuật đại tài, biến hóa ra muôn hình, muôn sắc, muôn tượng : “Không tức thị
Sắc” . Do đó, nếu không thể bạo dạn: “Thẳng tận đầu nguồn phăng dấu
Phật”, như Thiền Sư Huyền Giác đã chỉ, mà đang ở nơi Ngọn nhưng biết
hướng về Gốc và phải dò tìm, truy cứu, tham cứu, phăng cho tới tận Gốc thì
cũng đến được Chân Lý và khi đó mới chợt hiểu ra rằng : “Sắc bất dị
Không”-(Sắc chẳng khác với Không). Tuy nhiên biết “Không” vẫn chưa đủ,
còn phải nhập “Không” mới là về tới nhà. Vì biết “Không” dù cao siêu cách
mấy thì vẫn còn ở trên đầu lưỡi hay văn tự suông mà cần phải nhập Tâm cho
đến rốt ráo tận đầu nguồn Tâm để thấy Tánh như Sơ Tổ Bồ Đề Đạt Ma khai
thị : “Trực chỉ nhân Tâm kiến Tánh thành Phật ”.
Nhưng cái gọi là “Trực chỉ nhân Tâm kiến Tánh thành Phật” theo
đúng bản nghĩa của Thiền Tông là “Giáo ngoại biệt truyền, bất lập văn tự”.
Từ việc đưa cành hoa “Niêm hoa vi tiếu” mà Đức Phật truyền Tâm cho Tổ Ca
Diếp, đến việc chỉ dựng một ngón tay của Câu Chi hay cánh cửa dập nát bàn
chân của Vân Môn… có dùng văn tự chi đâu mà Đại Ngộ ! Hay “cây phướn
trước cửa ngã” cho Tổ A Nan, “Rỗng Thênh Không Thánh” cho Lương Võ Đế
chẳng dính dáp gì với ý nghĩa văn tự… Tuy nhiên, cũng không thể bỏ được
văn tự, vì người trí thì ít, người vô trí thì nhiều, người học rồi thì ít, người
chưa học thì nhiều. Nếu không dùng văn tự thì lấy gì để truyền bá, còn nếu
KIẾN GIẢI CHỨNG ĐẠO CA: “VÔ TRỤ NIẾT BÀN VÀ MA HA BÁT NHÔ
________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________
Thiền Sư HUYỀN GIÁC--Trang | 122 --Kiến Giải: NGỘ THÂM
chấp vào văn tự chữ nghĩa là : bỏ mình chạy theo vật ắt hẳn phải mất
mình ! Vì thế mà Phật Thích Ca không thể ngậm miệng, Ngài thao thao thuyết
pháp mà có Đại Tạng Kinh hơn 5000 quyển truyền lại cho đời sau, nhưng rồi
Ngài lại phủ định : suốt 49 năm ta chưa từng nói lời nào ! Bởi vậy, cổ nhân
nói : “Chẳng tại văn tự, chẳng lìa văn tự” là thế ấy !
Cũng vì vậy mà Thiền Sư Tuyết Đậu với cái chánh nhãn siêu tông việt
cách, liếc nhìn trong rừng Văn Sử Kinh Điển tụng ra một trăm tắc công án
Thiền làm tư lương cho các Thiền Tăng nơi các tòng lâm, gọi là Tuyết Đậu
Tụng Cổ. Ngài kín đáo vạch bày chỗ uyên nguyên, nương theo mạng mạch
của các bậc chí Thánh, đại cơ đại ứng của liệt Tổ, chẳng lập tri kiến, tự múa
bút Thần mà vẽ Phật tác Tổ, chỉ thẳng truyền riêng mà thấu được chỗ huyền
vi ! Cho nên kiếm khách giang hồ nơi nơi khen là một tuyệt tác trong thiên hạ
của Thiền Tông. Chỉ có điều là lời gọn ý sâu, Thiền Khách rất khó dùi mài, là
Trâu Sắt nên con muỗi không có chỗ để cắm mỏ ! Bởi vậy học giả nơi nơi
đem 100 tắc Tụng Cổ này kiến giải ra lời chú thích giúp cho con muỗi biết chỗ
cắm mỏ. Hơn 60 năm sau từ khi Tuyết Đậu tịch, Thiền Sư Viên Ngộ xem xét
lại, tìm chỗ uyên nguyên, thanh lọc thâm ý, phát dương tông chỉ, đạt nhiều lợi
ích cao tột. Về sau đồ đệ của Sư là Phổ Chiếu biên soạn lại, đặt tên là Bích
Nham Lục. Vì Bích Nham Lục là một tuyệt tác với biện tài siêu cách, văn
chương tuyệt hảo nên sau khi Thiền Sư Viên Ngộ tịch, các đệ tử chỉ mãi mê lo
tụng ngôn cú, chạy theo vật tự đánh mất mình, phản lại bản nghĩa là “Giáo
ngoại biệt truyền, bất lập văn tự”. Để cứu vãng sự tình, Thiền Sư Đại Huệ
Tông Cảo là đệ tử nối nghiệp Viên Ngộ cho gom hết bản gỗ chất trước sân
chùa đốt sạch… nên suốt 200 năm Thiền Khách ít ai thấy được quyển sách
này ! Tuyết Đậu với tâm lão bà lo lắng cho con cháu quá nhiều; Viên Ngộ xót
thương đệ tử chỉ dẫn rành mạch niêm lại các tụng của Tuyết Đậu ; Đại Huệ
cho một mồi lửa đốt sạch Bích Nham Lục cứu các đệ tử và người sau khỏi
chết đuối trong văn tự chữ nghĩa : cứ thấy nước tự cho là biển, nhận ngón tay
làm mặt trăng, đánh mất tông chỉ của Thiền Tông ! Tâm của Tuyết Đậu, Viên
Ngộ là Tâm của Phật nói Kinh để truyền pháp, Tâm của Đại Huệ là Tâm của
Phật dẹp ngôn thuyết để trở về lại với bản nguyên. Cái nào cũng công dụng
tùy khế cơ ứng xử. Công án Thiền xuất phát từ cuối đời Đường, thịnh vào đời
Tống. Nhưng từ khi Bích Nham Lục bị thiêu hủy, suốt cả mấy trăm năm Thiền
Khách không biết chỗ để dụng công. Cũng vì lẽ đó, niên hiệu Đại Đức (1297-
1307) đời vua Thành Tông nhà Nguyên, ở Nguyên Trung cư sĩ Trương Vĩ
Minh Viễn ra công đi khắp nơi nơi thu nhặt lại đống tro tàn với những bản còn
sót lại, bổ túc những chỗ khiếm khuyết cho khắc lại bản gỗ, do đó Bích Nham
Lục tái xuất trong giới giang hồ là quyển sách bậc nhất của tông môn. Thiền
KIẾN GIẢI CHỨNG ĐẠO CA: “VÔ TRỤ NIẾT BÀN VÀ MA HA BÁT NHÔ
________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________
Thiền Sư HUYỀN GIÁC--Trang | 123 --Kiến Giải: NGỘ THÂM
Khách nơi nơi hoan hỉ làm chỗ dựa cho Thiền Tông, lưu truyền cho đến ngày
nay !
“Rõ ràng trên giấy Trương Công Tử,
Tận lực to lời, gọi chẳng ừ”.(Bích Nham Lục).
Kiến Giải này so với Bích Nham Lục chỉ là một hạt cát trong sa mạc,
đầy những thô thiển vụng về. Bích Nham Lục giống như núi bạc vách sắt
dành cho các bậc thượng căn hay những kiếm khách lỗi lạc. Còn những ai
thuộc hạ căn như người viết có thể tạm dùng như một lữ khách giang hồ vô
danh, đường còn dài, đêm đã tối, dừng lại nơi quán trọ nghèo bên đường nghỉ
qua đêm, biết đâu lại có ít nhiều lợi lạc ! Là hạt cát, tuy nhiên : một hạt cát
“biết nói”, một hạt cát biết “biến hóa thân”! Phật, Tổ và Thiền Sư không bỏ
rơi ai cả, từ thượng căn cũng như hạ căn, từ một vị Bà La Môn uyên bác như
Đại Ca Diếp cho đến người gánh phân như Ưu Bà Ly thuộc giai cấp thấp nhất
trong xã hội đều có thể lãnh hội được Phật Pháp. Và biết đâu hạt cát cũng có
thể làm nên Sự như cái Dị Điểm Big Bang vô cùng nhỏ làm nên hàng trăm tỷ
thiên hà thành vô lượng pháp giới : Một là tất cả, tất cả là một : hạt bụi là vũ
trụ, vũ trụ là một hạt bụi ! Một Sự đều dung nhiếp tất cả Sự và đều là tất cả
Sự. Tất cả Sự đều dung nhiếp vào một Sự tức là một Sự. Sự lại sanh Lý, Lý
sanh Sự, Lý Sự dung thông, Lý cùng tột Lý, Sự cùng tột Sự đạt đến Vô Vi
thành ra Lý vô ngại, Sự vô ngại, Lý-Sự vô ngại và Sự-Sự vô ngại là Pháp Giới
của Chư Phật hiển bày như lời khai thị của Tổ thứ 27 Bát-Nhã-Đa-La
(Prajnatara) :
“Tâm địa sanh chư chủng
Nhân Sự phục sanh Lý
Quả mãn Bồ Đề viên
Hoa khai thế giới khởi”.
(Đất Tâm sanh các giống
Nhân Sự lại sanh Lý
Quả đầy Bồ Đề tròn
Hoa nở thế giới sanh).
Tuy nghèo nàn thô thiển nhưng nhìn trong hạt cát này cũng thấy được
cái vũ trụ càn khôn với ba ngàn thế giới, thấy được lý duyên khởi, kiếp luân
hồi cũng như Đạo Lý Giải Thoát…Thời thế của Bích Nham Lục cách đây 700
năm có khác với thời thế ở thế kỷ 20, 21… Thuở đó khoa học chưa phát triển,
đối với chúng sanh còn đang ì ạch gánh nặng Vô Minh Nghiệp Chướng con
mắt huệ đã bị mù biết lấy gì để chứng minh lời khai thị của Phật của Tổ là siêu
phàm vượt thánh với biện tài vô ngại ! Còn ngày nay với thuyết nguyên tử, cơ
học lượng tử, thuyết tương đối, thuyết Big Bang… với kính hiển vi điện tử,
máy vi tính, máy gia tốc, kính thiên văn Hubble, phi thuyền không gian… vạn
KIẾN GIẢI CHỨNG ĐẠO CA: “VÔ TRỤ NIẾT BÀN VÀ MA HA BÁT NHÔ
________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________
Thiền Sư HUYỀN GIÁC--Trang | 124 --Kiến Giải: NGỘ THÂM
vật, vũ trụ và không gian hiện bày rõ ràng hơn…càng chứng minh lời khai thị
của Phật của Tổ thật quả là siêu việt ! Người viết Kiến Giải không dám lạm
bàn, chỉ vô tư và khách quan khi quan sát phân tích sự vật với cách nhìn thực
tế của thời đại khoa học, thử xem tri thức khoa học hiện đại có đánh ngã và
vượt qua khỏi trí tuệ Phật hay không ? Càng phân tích lại càng kinh ngạc, khi
thấy tri thức khoa học càng phát triển lại càng chứng minh trí tuệ Phật càng
thâm áo cao siêu và vô tận, trong khi tri thức khoa học lại bị giới hạn có nhiều
điểm mù ngăn ngại ! Đạo Lý Phật nằm ngay ở hạt nguyên tử, nằm ngay ở cái
Dị Điểm Big Bang, nằm ngay trên sóng vật chất…và trùm khắp mọi không
gian thời gian từ vô thủy vô chung. Tất cả đều không nằm ngoài cái lý Sắc-
Không vi diệu của Phật, của Tổ và Thiền Sư ! Tận đầu nguồn của nguyên tử
vật chất là Không, tận đầu nguồn của Dị Điểm Big Bang sinh ra Vũ Trụ là
Không, tận đầu nguồn của ba ngàn thế giới là Không…Như vậy tất cả Pháp
đều “Như” : từ hạt nguyên tử, hạt bụi cho đến sơn hà đại địa trùm khắp càn
khôn vũ trụ; “Như” chính là cái “Không” vi diệu, nhận ra được hay không tất
cả chỉ do Mê hay Ngộ mà thôi.
“Bổn mê Ma-Ni vị ngõa lịch,
Hoát nhiên tự giác thị chơn châu,
Vô minh, trí huệ đẳng vô dị,
Đương tri vạn pháp tất giai Như”. (Tổ Huệ Khả).
(Mê bảo Ma-Ni là ngói gạch,
Bỗng nhiên giác ngộ biết chơn châu,
Vô minh trí huệ đồng chẳng khác,
Muôn pháp đều Như, phải liễu tri).
Thấy được Kiến Giải như vậy cùng Phật không khác. Tuy nhiên Phật
thấy tức thời : “Sắc tức thị Không”, còn Kiến Giải này phải kiến giải mới thấy
được Sắc Không !
Do đó Kiến Giải vẫn là Kiến Giải, chỉ là văn tự suông nó chỉ thực sự
có lợi ích khi nhận ra cái “Không” và ngộ nhập vào “Không” mới là chỗ đến
cuối cùng và khi đó liền đạt đến vô sanh, xong hết mọi việc và mọi sự đều rõ
ràng, sống an nhiên, tự tại :
“Kiến Giải trình Kiến giải,
Tự niết mục tác quái.
Niết mục tác quái liễu,
Minh minh thường tự tại”.
(Tuệ Trung Thượng Sĩ).
(Kiến Giải trình Kiến Giải,
Tự dụi mắt làm quái.
KIẾN GIẢI CHỨNG ĐẠO CA: “VÔ TRỤ NIẾT BÀN VÀ MA HA BÁT NHÔ
________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________
Thiền Sư HUYỀN GIÁC--Trang | 125 --Kiến Giải: NGỘ THÂM
Dụi mắt làm quái xong,
Rõ ràng thường tự tại).
Một khi đã “Rõ ràng thường tự tại” đạt tới vô sanh thâm nhập căn nhà
Bát Nhã rồi thì không còn nhiễm ô bởi Sáu Trần dù cho “gót chân” có dính đất
của Sáu Trần, Hoa Sen vẫn nở và vẫn tươi trong lửa đỏ.
“Minh minh thường tự tại,
Diệc niết mục tác quái.
Kiến quái bất kiến quái,
Kỳ quái tất tự hoại”. (Vua Trần Thánh Tông).
(Rõ ràng thường tự tại
Cũng dụi mắt làm quái
Thấy quái chẳng thấy quái
Quái ấy ắt tự hoại).
Cái “Rõ ràng thường tự tại” này đến nhanh hay chậm còn tùy thuộc
nơi hành giả và con muỗi muốn cắn “Trâu Sắt” sẽ không có chỗ để cắm mỏ,
do đó cần phải có tấm bản đồ chỉ đường của Chư Phật, Chư Tổ và những Bí
Quyết của Thiền Sư để vào cửa rồi “độc hành độc bộ mà đi”. Nhiều hành
giả tự cầm bản đồ chỉ đường của Chư Phật, Chư Tổ mà đi tới đích, cũng có
nhiều Vị cần có thêm sự chỉ dạy hướng dẫn hay khai thị trực tiếp của một Vị
Thầy ngộ đạo, cũng có nhiều Vị vừa có bản đồ vừa có Thầy mà vẫn không
ngộ đạo... Bởi vì, có được tấm bản đồ là một lẽ, còn tùy “cách nhìn vào bản
đồ” và phải có cái Tâm tương ưng cùng tần số để nhận ra Đạo. Cũng vì lẽ đó
mà Cư Sĩ Bàng Long Uẩn phải thốt ra : “Nan nan nan, thập tạ du ma thọ
thượng thang”- (Khó khó khó, mười tạ dầu mè trên cây vuốt !). Khoa Học thì
nhìn về Gốc rồi lại bỏ Gốc “nhìn ra” cái Ngọn, Phật Pháp thì “nhìn vào” Thân
Tâm xem như là Gốc (phản quang tự kỷ), vì Thân cũng chính là Tâm. Nhưng
Tâm không phải chỉ là Thân mà là trùm khắp từ hạt bụi, từ nguyên tử cho đến
tàng cây, đám mây, sơn hà đại địa, cả Hư Không và vũ trụ bao la. Do đó
“phản quang tự kỷ” lại còn là nhìn ra Sự Vật và cái “nhìn về” Gốc Tâm lại
dường như là “nhìn ra” Sự Vật hay nhìn ra Ngọn Tâm giống như các nhà
Khoa Học. Tuy nhiên không phải vậy, vì nhà Khoa Học chấp vào Sự Vật để
phân tích khám phá Chân Lý nơi Sự Vật về Hình Tướng ; còn Phật Pháp hình
thức thì cũng giống như nhìn ra Sự Vật, nhưng “không chấp” không dính nơi
Hình Tướng Sự Vật mà nương nơi Sự Vật để nhận ra cái Rõ, cái Ánh Bát Nhã
ẩn hiện nơi Sự Vật, tức là cái “tuyệt cùng” ở nơi Sự Vật hay cái cửa “Vô Vi”,
cái Gốc Tâm ẩn nơi Sự Vật ; như vậy theo đúng nghĩa lại là “nhìn về” hay
“nhìn vào” Gốc Tâm. Vì nhận ra được cái Ánh Rõ nơi Sự Vật này mà Bà
Bàng Long Uẩn lại nói : “Dị dị dị, bách thảo thượng đầu Tổ Sư ý”- (Dễ dễ
KIẾN GIẢI CHỨNG ĐẠO CA: “VÔ TRỤ NIẾT BÀN VÀ MA HA BÁT NHÔ
________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________
Thiền Sư HUYỀN GIÁC--Trang | 126 --Kiến Giải: NGỘ THÂM
dễ, trên đầu trăm cỏ ý Tổ Sư). “Nhìn ra” như nhà Khoa Học để nhận ra Chân
Lý tương đối của Khoa Học thì rất chậm có khi dài cả thế kỷ hay hơn, “nhìn
vào” như Phật Pháp thường tình thì cũng khá chậm vì phải quán chiếu, tư duy,
dò tìm, truy tầm và nhanh hay chậm còn tùy theo căn cơ của chúng sanh.
Trong khi sự khai thị đột biến của Chư Phật và Thiền Sư hay tự nơi hành giả
khi gặp một cơ duyên bất chợt nào như khi nghe một tiếng động, nhìn một
cành hoa, thấy một cái bóng dưới nước, chợt té ngã…v…v… thì lại có cái
“nhìn tắt” nghĩa là không nhìn ra mà cũng không nhìn vào hay nhìn về, cái
nhìn này nhanh gọn ở ngay trên sự vật hoặc ngay nơi âm thanh hay tiếng
động, Sáu Căn không kịp hay không khởi một niệm nào cả và chỉ trong một
sát na là xong việc : “Sắc tức thị Không”. Ngay đó nhận Tự Tánh hay Bát
Nhã. Ngay đó nhận ra cái Gốc Tâm, thấy Tánh thành Phật.
“Vạch tét cửa mặt
Che đậy Càn Khôn
Hẳn phải tiến lấy
Vượt khỏi căn trần”.( Thiền Sư Quế Sâm).
Do đó dù Kiến Giải là Kiến Giải, là văn tự suông… nhưng hiểu được
Kiến Giải và có Kiến Giải “chân chính”… thì Kiến Giải chính là “Ngọn Đèn
Tâm” soi sáng con đường dẫn đến “Căn Nhà Tánh”, không thể lầm lạc! Có
Ngọn Đèn soi đường, có Bản Đồ chính xác, quyết tâm đi là phải tới nơi. Còn
Kiến Giải sai lầm… trở thành định kiến sai lầm, tối tăm; dù có Bản Đồ của
Chư Phật, Tổ và Thiền Sư nhưng không đọc được Bản Đồ, không có Ngọn
Đèn soi đường… chỉ đưa hành giả vào “Căn Nhà Ma” với sáu ngã luân hồi.
Thiền Sư Lâm Tế chỉ rõ:
- “Thời nay người học Phật pháp cần có Kiến Giải “chân chính”. Nếu
được Kiến Giải “chân chính” thì sinh tử chẳng nhiễm, đi đứng tự do chẳng
cần thù thắng mà thù thắng tự đến… Các ông nếu hay bặt được Tâm luôn
luôn chạy tìm, liền cùng Phật, Tổ chẳng khác. Các ông muốn biết được Phật,
Tổ chăng? Chính trước mắt các ông hiện nghe pháp ấy. Học nhân tin chẳng
đến, liền chạy tìm ra ngoài. Dù có tìm được, cũng chỉ là tướng thù thắng của
văn tự, trọn chẳng đặng ý của Phật, Tổ sống. Chớ lầm!... Thời nay chẳng gặp,
muôn kiếp ngàn đời luân hồi tam giới, chạy theo cảnh thích, rồi phải sống
trong bụng trâu, bụng lừa… Ba cõi không yên như căn nhà lửa, đây không
phải là chỗ các ông dừng lâu, quỷ vô thường giết người trong khoảng chớp
mắt chẳng lựa người sang kẻ hèn, người già kẻ trẻ. Các ông muốn cùng Phật
Tổ chẳng khác, chỉ chớ tìm kiếm bên ngoài. Trên một tâm niệm thanh tịnh
sáng suốt của ông là ngôi nhà Phật “Pháp Thân” của ông. Trên một tâm
KIẾN GIẢI CHỨNG ĐẠO CA: “VÔ TRỤ NIẾT BÀN VÀ MA HA BÁT NHÔ
________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________
Thiền Sư HUYỀN GIÁC--Trang | 127 --Kiến Giải: NGỘ THÂM
niệm vô phân biệt sáng suốt của ông là ngôi nhà Phật “Báo Thân” của ông.
Trên một tâm niệm vô sai biệt sáng suốt là ngôi nhà Phật “Hóa Thân” của
ông. Ba thứ thân này là người hiện nay ở trước mắt nghe pháp của ông. Chỉ
không tìm kiếm bên ngoài, liền có công dụng này… Xác thân tứ đại của các
ông không biết thuyết pháp nghe pháp. Gan, mật, dạ dày, ruột không biết
thuyết pháp nghe pháp. Hư Không chẳng biết thuyết pháp nghe pháp? – Là
một cái “riêng sáng hiện bày rõ ràng” ở trước mặt ông, nó biết thuyết pháp,
nghe pháp. Nếu thấy được như thế đã cùng Phật, Tổ không khác, chỉ trong tất
cả thời đừng cho gián đoạn, chạm mặt đều phải. Chỉ vì tình sinh trí cách,
tưởng dấy thể sai. Do đó, luân hồi trong tam giới, chịu các thứ khổ. Nếu nhầm
chỗ thấy của sơn Tăng thật là rất sâu, thật là giải thoát”.
Thiền Sư Lâm Tế cũng khuyên các Chư Tăng và Cư Sĩ tại gia:
“Đại Đức ! Thời giờ đáng tiếc, chỉ tính đến “nhà bên” lăng xăng học
thiền học đạo, nhận danh nhận cú, cầu Phật cầu Tổ, cầu Thiện tri thức độ.
Chớ lầm ! Các ông sẵn có một cha mẹ, lại cầu vật gì ? Các ông tự phản chiếu
xem ! Cổ nhơn nói : “Diễn Nhã Đạt Đa quên mất đầu, tâm cầu dứt sạch liền
vô sự”. Đại Đức ! cần yếu bình thường chớ có tạo hình thức. Có một bọn tớ
trọc chẳng biết tốt xấu, thấy thần thấy quỷ, chỉ đông vẽ tây, thích mưa thích
tạnh. Bọn người như thế đáng quở trách, có ngày đến trước Lão Diêm Vương
bị nuốt hoàn sắt nóng. Kẻ nam nữ tốt tại gia bị bọn tinh mị dã hồ nầy mê
hoặc, liền tác quái; có ngày quên mất hết những điều cần yếu trong cuộc sống
thanh bạch của mình”.
Do đó có Kiến Giải “chân chính” thì không sợ bị lầm lạc, hoặc nghe
lời xúi giục của tà ma ngoại đạo, Ngài khai thị tiếp:
-“Đạo lưu! Cốt tìm lấy Kiến Giải “chân chính”, dọc ngang trong
thiên hạ, khỏi bị bọn yêu tinh hoặc loạn, vô sự là người quý, chớ tạo tác, chỉ
là bình thường. Các ông nghĩ hướng “nhà bên” cầu vượt qua, tìm ngón tay
gót chân, lầm rồi! Chỉ nghĩ cầu Phật, Phật là danh cú. Các ông lại biết chạy
tìm chăng? Ba đời mười phương Phật Tổ ra đời cũng chỉ vì cầu Pháp. Như
Đạo lưu hiện nay tham học cũng chỉ vì cầu Pháp, được pháp mới xong, chưa
được vẫn như trước luân hồi trong năm đường. Thế nào là PHÁP? Pháp là
tâm pháp, tâm pháp không hình thông suốt mười phương, hiện dụng trước
mắt. Người tin không đến, bèn nhận danh nhận cú, hướng trong danh tự cầu, ý
suy xét Phật pháp, cách xa trời đất. Đạo lưu! Phật pháp không có chỗ dụng
công, chỉ bình thường vô sự. Đi đại đi tiểu, mặc áo ăn cơm, nhọc đến thì nằm,
người ngu cười ta, kẻ trí biết ta. Người xưa nói: “Làm công phu bên ngoài,
KIẾN GIẢI CHỨNG ĐẠO CA: “VÔ TRỤ NIẾT BÀN VÀ MA HA BÁT NHÔ
________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________
Thiền Sư HUYỀN GIÁC--Trang | 128 --Kiến Giải: NGỘ THÂM
thảy là kẻ ngu si”. Các ngươi phải tùy thời làm chủ, ngay đó đều chân, cảnh
đến lôi kéo chẳng được, dù có tập khí nghiệp địa ngục vô gián, tự chuyển
thành biển lớn giải thoát”.
Người có Kiến Giải “chân chính” sẽ phân biệt được đâu là Phật, đâu
là ma, và cũng không chấp dính cả Phật lẫn ma, vì cả Phật lẫn ma đều là hai
cảnh nhiễm tịnh, chướng ngại cho Phật Pháp. Ngài Lâm Tế khai thị tiếp:
“Người xuất gia phải biện được Kiến Giải “chân chính” bình thường,
biết Phật biết ma, rành chân rành ngụy, rõ phàm rõ thánh. Nếu biện được như
thế, gọi là chân xuất gia. Nếu ma Phật không biết, chính là xuất gia này vào
gia kia, gọi là chúng sanh tạo nghiệp chưa được gọi là người chân xuất gia.
Hiện nay có cái ma Phật đồng thể chẳng phân, như nước với sữa hợp. Chỉ có
con ngỗng chúa mới biết uống sữa chừa nước. Hàng đạo lưu mắt sáng ma
Phật đều đánh. Các người nếu mến Phật ghét phàm, thì phải trôi nổi trong
biển sanh tử. Ngươi vừa khởi một niệm tâm nghi ấy là ma. Nếu ngươi đạt
được muôn pháp không sanh, tâm như huyễn hóa, không có một hạt bụi, một
pháp, ngay đó liền thanh tịnh. Nếu chỗ thấy của sơn Tăng, không Phật không
chúng sanh, không xưa không nay, được liền đó được, chẳng trải qua thời tiết,
không tu không chứng, không được không mất, trong tất cả thời lại không có
một pháp riêng. Dù là một pháp vượt hơn cái này, ta nói như mộng như hóa”.
Thiền Sư Lâm Tế, thỉnh thoảng lại hé mở cái Ánh Sáng rạng rỡ của
Chân Tâm, tức cái Rõ, là cái diệu dụng của Chân Như Bát Nhã, và đó cũng là
cái gốc để nhận ra Đạo. Cái này vẫn thường trụ trước mắt và trùm khắp nơi
nào cũng có. Người nào ngộ nhập được nó thì xong hết mọi việc, huyền chỉ tự
thông… Ngài khai thị:
“Sơn tăng nói ra đều phải, hiện nay trước mắt đạo lưu “riêng sáng
rỡ” lắng nghe. Người này nơi nơi chẳng kẹt, thấu suốt mười phương, tự tại
trong tam giới, vào tất cả cảnh sai biệt không thể lôi kéo, trong khoảng sát-na
vào tột pháp giới, gặp Phật nói Phật, gặp Tổ nói Tổ, gặp La-Hán nói La-Hán,
gặp ngạ quỷ nói ngạ quỷ, đi tất cả chỗ dạo các cõi nước, giáo hóa chúng
sanh, mà chưa từng lìa một niệm, tùy chỗ thanh tịnh, ánh sáng thấu mười
phương, muôn pháp nhất như. Đạo lưu! Kẻ đại trượng phu hiện đây mới biết
xưa nay vô sự. Chỉ vì các ngươi chẳng tin đến, niệm niệm tìm cầu, bỏ đầu tìm
đầu, tự không thể thôi, như các vị Bồ-Tát viên đốn mà vào trong pháp giới
hiện thân. Nhằm trong tịnh độ chán phàm mến thánh, bọn người như thế chưa
quên bỏ lấy, tâm nhiễm tịnh vẫn còn. Kiến Giải Thiền Tông chẳng phải như
vậy, thẳng trong hiện tại lại không thời tiết. Nói rằng ta hiểu thiền hiểu đạo,
biện luận thao thao như nước chảy, đều là người tạo nghiệp địa ngục. Nếu là
người chân chính học đạo, chẳng tìm lỗi của thế gian, cấp bách cầu Kiến Giải
“chân chính”, mới mong tròn sáng xong xuôi”.
KIẾN GIẢI CHỨNG ĐẠO CA: “VÔ TRỤ NIẾT BÀN VÀ MA HA BÁT NHÔ
________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________
Thiền Sư HUYỀN GIÁC--Trang | 129 --Kiến Giải: NGỘ THÂM
Một lần nữa, vậy thế nào là Kiến Giải “chân chính” ? Thiền Sư Lâm
Tế khai thị tiếp:
-“Ngươi chỉ tất cả vào phàm vào thánh, vào nhiễm vào tịnh, vào cõi
nước chư Phật, vào lầu các đức Di-Lặc, vào pháp giới Tỳ-Lô-Giá-Na, chỗ chỗ
đều hiện; cõi nước thành trụ hoại không, Phật ra đời chuyển đại pháp luân lại
nhập Niết-Bàn, chẳng thấy có tướng mạo đi lại, tìm cái sanh tử của Ngài trọn
không thể được, liền vào pháp giới vô sinh; nơi nơi dạo qua các cõi nước, vào
thế giới Hoa Tạng, trọn thấy các pháp không tướng, đều không thật pháp, chỉ
có “Đạo nhân vô y” (không chỗ nương) nghe pháp. Đó là mẹ chư Phật, bởi vì
chư Phật đều từ vô y (không chỗ nương) sanh. Nếu ngộ vô y (không chỗ
nương), Phật cũng không thể được. Nếu người thấy được như thế, là Kiến
Giải “chân chính”.
Như vậy rõ ràng là Thiền Sư Lâm Tế xác định cái mục đích rốt ráo
của Kiến Giải “chân chính” là tìm về và ngộ nhập cái “Không” vô tướng
mạo, vô sở trụ, tức không có chỗ nương… cũng gọi là “Đạo nhân vô y”. Cái
mà Tổ Sư Đạt Ma gọi là “Rỗng Thênh Không Thánh”, Lục Tổ Huệ Năng
gọi là “Bổn Lai Vô Nhất Vật”; nơi đó Phật cũng không có thể được nghĩa là
nơi đó Phật cũng vô hình tướng: “Thập phương du lịch biến, bất kiến Phật
hình tung”. Ngài Lâm Tế khai thị:
“Các ngươi nếu muốn trong sanh tử đi đứng tự do, tới lui tự tại thì,
hiện nay nên biết “người nghe pháp” này. Y không hình không tướng, không
cội không gốc, không chỗ ở, mà hoạt bát rõ ràng, ứng hiện muôn thứ hành
động, chỗ dùng chỉ là không chỗ. Bởi đó, càng tìm càng xa, cầu đó thì trái,
gọi đó là bí mật”.
Ngài Lâm Tế khuyên chúng sanh: chớ nhận thế giới này làm bạn vì nó
là mộng huyễn, không thật. Nương vào nó một bữa cơn ăn, manh áo vá mặc
qua ngày, chỉ cốt tầm tri thức, tìm con đường giải thoát, đừng ham mê thú vui,
tiêu phí thì giờ chấp dính lục trần mà tạo nghiệp và bị cột trói vào biển luân
hồi không lối thoát. Ngài khai thị:
“Đạo lưu! Các ngươi chớ nhận lấy kẻ bạn mộng huyễn, trong khoảng
sớm chiều sẽ trở về vô thường. Các ngươi đến trong thế giới này tìm vật gì
làm giải thoát? Tìm lấy một bữa cơm mà ăn, mặc áo vá qua ngày, chỉ cốt
phỏng tầm tri thức. Chớ theo đuổi thú vui, ngày giờ đáng tiếc, niệm niệm vô
thường, nếu thô thì bị bốn thứ đất nước lửa gió ép ngặt, tế thì bị sanh trụ dị
diệt bức bách. Đạo lưu! Thời nay cần biết bốn cảnh vô tướng, mới khỏi bị
cảnh kéo lôi. Các ngươi một niệm tâm nghi bị “Đất” làm ngại. Các ngươi
KIẾN GIẢI CHỨNG ĐẠO CA: “VÔ TRỤ NIẾT BÀN VÀ MA HA BÁT NHÔ
________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________
Thiền Sư HUYỀN GIÁC--Trang | 130 --Kiến Giải: NGỘ THÂM
một niệm tâm ái bị “Nước” nhận chìm. Các ngươi một niệm tâm sân bị “Lửa”
đốt cháy. Các ngươi một niệm tâm hỉ bị “Gió” thổi bay. Nếu khéo biện được
như thế chẳng bị cảnh chuyển. Nơi nơi dùng được cảnh, vọt bên Đông lặn bên
Tây, vọt bên Nam lặn bên Bắc, vọt ở giữa lặn ở bên, vọt ở bên lặn ở giữa, đi
trên nước như đất, đi trên đất như nước. Bởi sao được như vậy? Vì đạt bốn
đại như mộng huyễn. Đạo lưu! Các ngươi hiện nay biết nghe pháp, chẳng
phải tứ đại của các ngươi, cái biết ấy hay dùng được tứ đại. Nếu khéo thấy
được như thế, là đi đứng tự do. Chỗ thấy của sơn Tăng chẳng ngờ pháp ấy.
Các ngươi nếu mến Thánh thì, Thánh chỉ là tên Thánh. Có một nhóm người
học đạo nhắm trong Ngũ Đài Sơn tìm Văn-Thù, trọn đã lầm vậy. Trong Ngũ
Đài Sơn không có Văn-Thù. Các ngươi muốn biết Văn-Thù chăng? Chỉ cái
dùng trước mắt các ngươi trước sau chẳng khác, nơi nơi chẳng nghi, cái ấy là
Văn-Thù sống. Các ngươi một tâm niệm sáng không sai biệt, nơi nơi thảy là
chân Phổ Hiền. Các ngươi một tâm niệm tự hay mở trói, tùy chỗ giải thoát,
đây là Quan Thế Âm. Ba pháp lẫn nhau làm chủ bạn, ra thì đồng thời ra, một
tức ba, ba tức một. Hiểu được như thế, mới nên xem Kinh”.
Thiền Sư Lâm Tế đã chứng đạo, Tổ của phái Lâm Tế, Ngài khuyên
hành giả chớ nên hành trì một pháp môn mà uổng phí thời gian, nhọc công
nhọc sức mà không tìm ra đạo, ngay cả lục độ vạn hạnh mà Ngài cũng cho là
“Phật Sự”, không phải là “Phật Pháp”. Cái mà Ngài khuyên hành giả nên
làm là đạt được Kiến Giải “chân chính” là “Đạo nhân vô y vô sự thuần nhất
không tạp”. Ngài khai thị:
“Đại Đức! Sơn Tăng hôm nay sự bất đắc dĩ nói ra khá nhiều điều
vụng về. Các ngươi chớ nhận lầm. Theo chỗ thấy của tôi, thật không chấp
nhận các thứ đạo lý nhiều như thế, cần dùng liền dùng, chẳng dùng liền thôi.
Các nơi nói lục độ vạn hạnh cho là Phật Pháp. Tôi nói đó là cửa trang
nghiêm, cửa Phật Sự, chẳng phải là Phật Pháp. Cho đến, trì trai giữ giới như
bưng dầu chẳng nghiêng, nếu đạo nhãn chẳng sáng trọn có ngày phải đền lại
nợ cơm tiền. Vì sao như thế? Vì, học đạo chẳng thông lý, đem thân đền tín thí,
trưởng giả tuổi tám mốt, cây kia chẳng sanh nhĩ. Nhẫn đến ở trên chót núi,
một ngày ăn một bữa, thường ngồi chẳng nằm, sáu thời hành đạo, vẫn là
người tạo nghiệp. Hoặc đem đầu mắt tủy não, vợ con đất nước, voi ngựa bảy
báu hoàn toàn thí xả; hành động như thế đều là làm khổ thân tâm, lại chuốc
quả khổ. Đâu bằng vô sự thuần nhất không tạp. Những hàng Bồ-Tát thập địa
mãn tâm muốn tìm dấu vết của vị này trọn không thể được. Do đó, chư thiên
vui mừng, địa thần nâng chân, chư Phật mười phương thảy đều khen ngợi. Bởi
sao như thế? - Vì đạo nhân hiện nghe pháp, chỗ dùng không dấu vết vậy”.
KIẾN GIẢI CHỨNG ĐẠO CA: “VÔ TRỤ NIẾT BÀN VÀ MA HA BÁT NHÔ
________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________
Thiền Sư HUYỀN GIÁC--Trang | 131 --Kiến Giải: NGỘ THÂM
Đạo nhân hiện nghe pháp và chỗ dùng không dấu vết này chính là Đạo
nhân vô y, vô sở trụ, vô hình tướng, diệu dụng hằng sa, cũng chính là cái
Không tuyệt đối của Phật, Tổ và Thiền Sư - là Bát Nhã Chân Như với con
đường của Thiền Sư là: “Trực chỉ nhân Tâm kiến Tánh thành Phật”. Mục
đích rốt ráo của Kiến Giải “chân chính” là cái Không vi diệu này, và đạt được
Kiến Giải “chân chính” là thấy “Sắc tức thị Không”, Sắc Không là một, là
bất nhị và bình đẳng. Thật ra từ Tổ Ca Diếp cho đến Tổ Đạt Ma, Lục Tổ Huệ
Năng hay Thiền Sư Huyền Giác, Thiền Sư Lâm Tế… cũng chỉ có một con
đường duy nhất là ngộ nhập cái Không vi diệu này. Sự khai thị hay thủ thuật
của các Ngài tuy có khác tùy căn cơ, hoàn cảnh hay thời điểm… nhưng cũng
lấy Tâm làm con đường dẫn khởi: “Hướng đạo kỳ do Tâm”. Và Tâm thì
trùm khắp trong thân lẫn ngoài thân kể cả sự vật là Sắc. Người thượng căn và
đạt đạo khi ngay nơi Tâm nhận ra Tánh, ngay nơi Sắc nhận ra Không là bất
nhị. Kẻ hạ căn hay hành giả đang trên con đường tìm đạo thì phải phăng tìm
để nhận ra đâu là gốc Tâm, đi huốt con đường Tâm tới cửa Vô Vi, ngộ nhập
Vô Vi và từ Vô Vi nhảy thẳng vào Tánh. Phật, Tổ, Thiền Sư ngộ đạo nhìn Sự
Vật bằng Tâm hay Ngũ Nhãn thấy tức thì Sắc tức thị Không, còn phàm phu thì
nhìn Sự Vật bằng cái Kiến Văn Giác Tri qua Lục Căn bị giới hạn theo nghiệp
lực, do đó phải biết phăng tìm từ ngọn cho tới gốc Tâm và lấy gốc Tâm làm
căn bản để nhận ra Tánh hay đạt được cái Kiến Giải “chân chính” là cái
Không vi diệu, chỗ nương “vô y” của Phật, Tổ và Thiền Sư.
Ở đây không đề cập tới ngũ nhãn (nhục nhãn, thiên nhãn, huệ nhãn,
pháp nhãn và Phật nhãn), vì hành giả là người đang tìm Đạo chưa có thể có cái
nhìn của thiên nhãn hay Phật nhãn…mà chỉ nhìn bằng nhục nhãn tức con mắt
của phàm phu. Nhưng thông qua nhục nhãn mà có một cách nhìn khác, giống
như nhà Khoa Học cũng dùng con mắt phàm phu nhưng thông qua kính hiển
vi hay kính thiên văn thì lại có kết quả khác siêu việt hơn nhiều. Cái nhìn bằng
Trí, cái nhìn bằng quán chiếu có khác hơn là cái nhìn chỉ duy nhất chấp vào
Nhục Nhãn. Và biết đâu trong một sát na đột biến nào đó, lại có cái nhìn bằng
Tâm y như Phật như Tổ. Cái nhìn với “con mắt Hữu” (cũng gọi là con mắt
Nghiệp vì chỉ thấy theo Nghiệp) chấp vào Hình Tướng của Sự Vật, khác với
cái nhìn của “con mắt Vô” nhìn trên cái “Vô Tướng” của Sự Vật. Do đó cái
nhìn tuy là phàm phu nhưng “nhìn ra bằng mắt trong khi tập trung cả Sáu
Căn và Sáu Căn thì hổ dụng, tương thông, không ngăn bít” như khi đọc
hay tham cứu một đoạn Kinh hay một Luận Thuyết. Chẳng hạn như Thiền Sư
Liễu Quán thắc mắc với câu: “Vạn pháp qui Nhất, Nhất qui hà xứ”-(Vạn vật
qui về Một, Một qui về đâu?). Ngài cố gắng hỏi vị Sư Huynh, nhưng không
được trả lời hay giải thích. Ngài lên núi tìm nơi vắng vẻ ở một mình. Mãi tới
chín năm sau, khi tham cứu sách Bích Nham Lục, lúc đọc được tới câu: “Vạn
KIẾN GIẢI CHỨNG ĐẠO CA: “VÔ TRỤ NIẾT BÀN VÀ MA HA BÁT NHÔ
________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________
Thiền Sư HUYỀN GIÁC--Trang | 132 --Kiến Giải: NGỘ THÂM
pháp qui Nhất, Nhân qui hà xứ”-(Vạn vật qui về Một, Người qui về đâu?),
tức thì liễu ngộ. Hoặc nhìn “bằng lỗ tai” như Thiền Sư Trí Nhàn, đang cuốc
đất, lượm một hòn sỏi liệng vào gốc tre, khi nghe tiếng dội ra, tức thì liễu ngộ.
Hoặc “nhìn thong thả, nhẹ nhàng với tư thế thoải mái, thả lỏng Sáu Căn”
vào một đám mây, một ngọn núi, một tàng cây…tuy nghỉ ngơi nhàn hạ nhưng
có một chút để Tâm nhè nhẹ vào chỗ Như Như Tịch Tịch, giống như người đi
câu đang đợi cá đớp mồi, tuy lặng yên nhưng nếu nghe thấy mồi động mạnh
thì liền đó giật câu. Ngồi thả lỏng Sáu Căn “nhàn khán” vào Sự Vật tuy là
nhìn ra Ngọn Tâm nhưng biết đâu cái Gốc Tâm lại ẩn nơi cái Ngọn Tâm là Sự
Vật! Chính nơi Sự Vật, cái Ánh Bát Nhã tức cái Rõ hay Gốc Tâm, Chân Tâm
đang ẩn nấp lẫn lộn trong cái Thấy ngay trên Sự Vật. Khi Thân Tâm lặng yên
tương đồng cùng tần số với cái Rõ nơi Sự Vật, giống như Sóng Nghiệp, Sóng
Vô Minh hay Sóng Vọng Tưởng lặng yên hoàn toàn trong Thân Tâm, trở về
với Thân Không, Tâm Không (khác với Tâm vô ký hay ngoan không) cũng
như Sóng lặng yên trở về Nước, tức thì Gương Sáng hay Phật Tánh hiện bày
nơi Thân Tâm. Khi Sóng đang yên dần nhưng còn vi tế chưa hẳn là Nước,
chưa hẳn là Gương nhưng nó bắt đầu phản chiếu: tức là cái Ánh Rõ từ từ hiện
ra trên Sự Vật rồi tức thì trùm khắp Hư Không, tức thì cả một Bầu Trời Rõ
hiện ra, cả Thân Tâm ngộ nhập vào đó và thẳng luôn vào Tánh hay Bát Nhã.
Nếu chỉ dừng lại nơi Bầu Trời Rõ thì chỉ là đang ở nơi Mặt Trăng thứ hai,
chưa phải là Triệt Ngộ nhưng cũng đã đạt tới Vô Sanh, nếu thẳng luôn vào
Tánh, thì mới là Triệt Ngộ . Cũng như Chiếc Máy Truyền Hình bắt đúng chính
xác Tần Số Bát Nhã thì Bát Nhã tức thì hiện ra nơi Màn Ảnh hay Tâm Thức;
còn như tần số gần sát nhưng chưa chính xác thì còn bị rè hay mờ, tức là chỉ
nhìn thấy được cái Ánh Rõ của Bát Nhã. Ngay khi đó Cánh Cửa Bát Nhã hay
Cửa Vô Vi đang mở ra, liền nhảy thẳng vào Đất Như Lai:
“Tranh tự Vô Vi Thực Tướng môn,
Nhất siêu trực nhập Như Lai Địa”.
(Thiền Sư Huyền Giác).
(Sao bằng tự cửa Vô Vi ấy,
Một nhảy thẳng liền Đất Như Lai).
Hay như cái “nhìn nhàn rỗi lặng yên” vào bất cứ Sự Vật gì như nhìn
làn khói nhỏ trên núi Côn Lôn, Tâm vọng đến rồi tự đi mặc kệ không cần để ý
tới, chẳng cần niệm Phật hay ngồi Thiền gì cả như cái nhìn của Tuệ Trung
Thượng Sĩ. Hoặc “nhìn bao quát không chú ý vào một điểm nào và lặng
yên Sáu Căn tương thông như Một và lan tỏa khắp Hư Không” như Triệu
Biện, một vị quan đang ở công đường trong lúc rảnh rỗi nghỉ ngơi, cả Sáu Căn
đang tương thông và lặng yên đang giao hòa cùng pháp giới bình đẳng làm
Một như dòng suối trong đang ngưng đọng, bỗng nhiên nghe tiếng sấm nổ,
KIẾN GIẢI CHỨNG ĐẠO CA: “VÔ TRỤ NIẾT BÀN VÀ MA HA BÁT NHÔ
________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________
Thiền Sư HUYỀN GIÁC--Trang | 133 --Kiến Giải: NGỘ THÂM
tức thì liễu ngộ. Thật ra tất cả cái nhìn này phải có cái Tâm tương ưng : tức
phải thực Tâm khao khát muốn đi cầu Đạo Giải Thoát, phải trực Tâm, thuần
đức, tinh khiết, thiêng liêng, cùng một tần số mới có thể nhập vào Đạo. Và khi
đã liễu ngộ rồi thì lại có cái nhìn khác.Chẳng hạn có một hành giả đi tìm Đạo,
khi chưa biết một chút gì về Đạo thì nhìn thấy: “núi sông là núi sông”. Tức là
thấy núi sông là có thật. Khi cùng Thiện Hữu Tri Thức học Đạo được 30 năm
rồi thì thấy: “núi sông không phải là núi sông”. Tức là thấy núi sông là giả
hợp, không thật... Và bây giờ khi Liễu Đạo rồi thì thấy: “núi sông là núi
sông”. Tức là vẫn thấy núi sông nhưng không còn chấp trên Danh Tướng. Cái
nhìn của thi sĩ Tô Đông Pha khi ngộ Đạo rồi cũng vậy:
“Lô Sơn yên tỏa Triết Giang triều
Vị đáo sanh bình hận bất tiêu
Đáo đắc hoàn lai vô biệt sự
Lô Sơn yên tỏa Triết Giang triều”.
(Khói tỏa non Lô, sóng Triết Giang
Khi chưa đến đó luống mơ màng
Đến rồi, hóa cũng không gì khác!
Khói tỏa non Lô, sóng Triết Giang).
Cái “nhìn tắt” của Chư Phật hay Thiền Sư, không kể Ngọn hay là
Gốc, vì với con mắt Bát Nhã: Ngọn cũng là Gốc: ngay trên Sự Vật, không
nhìn ra, không nhìn vào, mà nhìn thẳng, nhìn trực tiếp bằng con mắt huệ, con
mắt “Vô” không còn Nghiệp…là cái nhìn của Tổ Bồ Đề Đạt Ma có ẩn giấu
điều gì bí mật: “Trực chỉ Nhân Tâm, kiến Tánh thành Phật”. Cái gọi là
“Trực chỉ Nhân Tâm” tức là chỉ thẳng Tâm Người và Tâm Người ở đây
không chỉ là ở trong Thân mà ở cả ngoài Thân, đi hết đường Tâm đến cái rốt
ráo từ hạt bụi cho đến Sự Vật ngoài Thân cũng chính là Tâm Người, Tâm
Người và Tâm của Sự Vật, Tâm của cả Vũ Trụ và Hư Không là bình đẳng, là
Một. Cũng vậy, Thân Người, Thân của Sự Vật, Thân của cả Vũ Trụ và Hư
Không là bình đẳng, là Một, chính là Pháp Thân. Khi Lục Tổ Huệ Năng thấy
cơ duyên độ sanh hoằng dương Phật Pháp đã tới, liền đến một ngôi chùa để
xuất gia, thấy hai vị Tăng đang cải nhau về Lá Phướn trên cây cột cờ: một vị
thì cho rằng: “Lá Phướn động”, vị khác lại cho là: “Gió động”. Trong Pháp
hội Tổ tiến đến nói với hai vị Tăng: “Không phải Gió động, không phải
Phướn động, Tâm nhơn giả động”. Vì Tâm của hai vị Tăng động nên mới cải
nhau về Lá Phướn, Phướn động hay Gió động thì mặc kệ, tại sao phải dính
vào Cảnh để động Tâm. Đó là Tâm Mê chạy theo Cảnh. Phướn, Gió và Tâm
của hai vị Tăng đều động, tại sao Tổ nói chỉ có Tâm của hai vị Tăng là động,
còn Phướn và Gió đều không động? Thật ra hai vị Tăng với Tâm Mê đang
KIẾN GIẢI CHỨNG ĐẠO CA: “VÔ TRỤ NIẾT BÀN VÀ MA HA BÁT NHÔ
________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________
Thiền Sư HUYỀN GIÁC--Trang | 134 --Kiến Giải: NGỘ THÂM
động nên chỉ thấy trên cái “Tướng động” của Phướn và Gió mà không thấy
cái “Tướng không động” của Phướn và Gió. Cái “Tướng không động” này
của Phướn và Gió cùng Cái “Tướng Chân Thật” của Tâm hai vị Tăng là
Một. Tổ chẳng phải trách móc hai vị Tăng có Tâm động, mà Tổ muốn khai
thị: “Chính Lá Phướn và Gió là Tâm của hai Vị và nó thực sự không
“động”, vi` Tâm của hai Vị đang “Mê” nên “động” và thấy nó “động””.
Tâm của hai vị Tăng và Lá Phướn là Một, thấy Lá Phướn là Lá Phướn và thấy
nó động thì chỉ thấy trên Hình Tướng và cái “Tướng động” của Lá Phướn là
cái thấy của người Mê. Phải thấy cả hai mặt Thể và Dụng của Sự Vật mới là
cái thấy rốt ráo, chấp Dụng mà bỏ Thể thì cũng giống như chỉ nhìn Bóng
Trăng mà quên đi Mặt Trăng thật. Nước động thì Bóng Trăng trên mặt nước
động, còn Mặt Trăng thật thì “không động”. Trong Kinh Lăng Nghiêm khi
Phật khai thị cho Tổ A Nan về Tâm với ba cái thấy: Cái thấy: “Tâm và Cảnh
phân biệt” của phàm phu, cái thấy “Tâm và Cảnh phi đồng phi dị” của người
mới hiểu Đạo, và cái thấy: “Tâm và Cảnh Nhất Như” của Chư Phật và Bồ
Tát. Tâm của hai vị Tăng và Lá Phướn là Nhất Như, là Một. Nhưng cả hai vị
Tăng không Ngộ trên cái lý lẽ này mà vẫn ở trong Mê với cái Tâm Mê đang
“động”: “Đa Sự nơi Tâm, Đa Tâm nơi Sự”. Còn cái thấy của Lục Tổ là cái
thấy rốt ráo của con mắt Bát Nhã, thấy tức thì: “Sắc tức thị Không”, Sắc tức
Chân Tâm, Sắc tức Chân Không, Sắc tức cái Rõ, Sắc tức Bát Nhã, Sắc tức
Pháp Thân bình đẳng và bao trùm cả Hư Không. Nhìn Hư Không (ngoài Sự
Vật) thì cũng vậy: “Không tức thị Sắc”, Không tức Chân Sắc, Không tức cái
Rõ, Không tức Bát Nhã, Không tức Pháp Thân không Thân, bình đẳng và
trùm khắp. Đây là Cánh Cửa Thiền vi diệu mà Thiền Giả phải nhảy qua khi
Phật, Tổ và Thiền Sư khai thị đột biến; hay chính nơi Thiền Giả gặp một cơ
duyên đột biến nào đó trong một sát na : Cửa Tâm và Cửa Bát Nhã cùng mở ra
một lượt, ngộ nhập làm Một. Qua được Cửa là Ngộ, qua không lọt là vẫn còn
Mê.
Như vậy, nếu chưa sẵn sàng để “nhìn tắt” hay “trực chỉ” : “Sắc tức
thị Không”, đang ở nơi Ngọn mà chưa có thể nhận ngay nơi Ngọn là Gốc
Tâm thì phải biết cách truy tìm : ngay trên Ngọn Tâm mà không nhìn ra Ngọn
Tâm “nhìn về” Gốc Tâm; ngay trên Sự Vật mà không nhìn ra Sự Vật, “nhìn
về” Gốc Sự Vật; ngay trên cái Dị Điểm Big Bang mà không nhìn ra vũ trụ,
“nhìn về” cái Gốc sinh ra Big Bang; ngay trên Hạt Bụi mà không nhìn trên cái
Tướng Bụi hoặc nhìn ra cái duyên khởi của Tướng Bụi là đất đá sơn hà đại
địa mà nhìn trên cái Gốc sinh ra Hạt Bụi hay “Cái Vô Tướng” trên Hạt Bụi;
ngay nơi nguyên tử mà không nhìn ra vật chất, “nhìn về” cái Gốc sinh ra
nguyên tử thì chắc chắn phải gặp Đạo Lý Giải Thoát hay Chân Lý.
KIẾN GIẢI CHỨNG ĐẠO CA: “VÔ TRỤ NIẾT BÀN VÀ MA HA BÁT NHÔ
________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________
Thiền Sư HUYỀN GIÁC--Trang | 135 --Kiến Giải: NGỘ THÂM
Thật ra Đạo Lý Giải Thoát bao trùm từ Vật Chất cho tới Hư Không vô
tận, từ Sắc tới Không, từ Không tới Sắc, từ hạt không gian vi tế vô cùng nhỏ,
hạt quark, hạt electron, tới nguyên tử, phân tử cho tới các hành tinh, thiên hà
và vũ trụ bao la. Chẳng hạn như lấy một nguyên tử là vật chất nòng cốt tạo ra
vũ trụ, vì nó là một tế bào căn bản của vũ trụ. Vũ trụ là một tập hợp của tất cả
nguyên tử hiện hữu trong Hư Không: VT=∑(nguyên tử), [Sigma nguyên
tử].Do đó chỉ cần thấy được Đạo Lý Giải Thoát trong một Nguyên Tử là có
thể thấy được Đạo Lý Giải Thoát của cả vũ trụ.
Một nguyên tử là một vũ trụ nhỏ, một thế giới nhỏ mà các hạt
electrons (âm điện tử) được xem như những cá thể Người sống trên quỹ đạo
của cuộc đời, quay quanh một nhân cứng chứa những protons mang điện tích
dương được xem như là Nghiệp. Thân Báo và Nghiệp Báo hút nhau bởi lực
âm-dương giữa Thân và Nghiệp hay giữa các electrons và nhân nguyên tử.
Các electrons này bị cột chặt với nhân theo quỹ đạo nhất định, không thể nào
thoát ra được cũng như chúng sanh bị Nghiệp trói chặt. Định Nghiệp này cũng
áp dụng cho electron bắt buộc phải quay chung quanh nhân mãi mãi với bán
kính không đổi theo công thức:
Rn=h2n
2/me
2Z .
(h: hằng số Planck, n: chỉ số quỹ đạo electrons, m: khối lượng,
e: điện tích electron, Z: số hiệu nguyên tử).
Đức Phật có nói đến hạt vi tế (hay nguyên tử) chia ra làm 7 phần. Có
lẽ đây là cách nói khái quát? Hay Đức Phật muốn nói đến 7 lớp vỏ, 7 lớp quỹ
đạo electrons? Trong cái Pháp giới duyên khởi Cõi Ta Bà, vật chất đầu tiên là
nguyên tử Hydrogen duyên khởi sinh ra các tướng nguyên tử khác để thành
lập vật chất sơn hà đại địa, các nhà Bác Học nguyên tử cho đến thời điểm đầu
thế kỷ 21 đã tìm thấy được khoảng 110 nguyên tố: từ Hydrogen có 1 electron
đến nguyên tố Unununium (Uun) có 110 electrons; là vật chất nặng nhất; có 7
lớp vỏ. Nếu sau này các nhà Hóa Học có tìm ra thêm vài nguyên tố “hiếm” thì
các electrons cũng chỉ nằm trong lớp vỏ quỹ đạo thứ 7 trong các lớp phụ tầng
s,p,d,f mà thôi. Con số 7 này có lẽ đặc biệt dành cho Quả Địa Cầu và chúng
sanh tại đây. Có thể ở Cõi nào khác, nguyên tử vật chất có nhiều hơn hoặc ít
hơn 7 lớp vỏ. Thật ra nguyên tử vật chất ở Địa Cầu và trong Không Gian hiện
tại có từ 1 đến 7 lớp “quỹ đạo electrons” chính bao quanh một “nhân” cứng
vô cùng nhỏ, giống như “nhân” nguyên tử “mặc” tới 7 lớp “áo” quỹ đạo,
hay 7 lớp “vỏ” quỹ đạo. Chỉ số quỹ đạo này từ vật chất nhẹ nhất là nguyên
tử Hydrogen chỉ có “1 lớp” quỹ đạo: n=1 với hình trạng electrons (electron
configuration) là (1s1 ); Lithium(Li) nguyên tử số là 3, có “2 lớp” quỹ đạo:
Helium [He]2s1 hay (1s
22s
1);…Sodium(Na)nguyên tử số là 11,có “3 lớp” quỹ
KIẾN GIẢI CHỨNG ĐẠO CA: “VÔ TRỤ NIẾT BÀN VÀ MA HA BÁT NHÔ
________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________
Thiền Sư HUYỀN GIÁC--Trang | 136 --Kiến Giải: NGỘ THÂM
đạo: Neon[Ne]3s1
hay(1s22s
22p
63s
1)…Những nguyên tử nặng bắt đầu từ
Francium(Fr) với nguyên tử số là 87 , hình trạng electrons là:
Radon[Rn]7s1;…Uranium(U) nguyên tử số 92 với [Rn]7s
25f
36d
1;…cho tới
nguyên tử nặng nhất là Unununium(Uun), nguyên tử số là 110 với
[Rn]7s25f
146d
8 tất cả đều có “7 lớp” quỹ đạo chính với n =1 tới 7; mỗi tầng
quỹ đạo chính còn có 4 phụ tầng: s,p,d,f xác định rõ cấu trúc và số electrons
hiện hữu trong mỗi quỹ đạo. Những electrons vòng trong gần nhân hơn, lực
hút với nhân càng lớn, giống như Nghiệp càng nặng thì càng khó giải thoát.
Những vòng tròn quỹ đạo cố định này như là những vòng luân hồi và sự có
mặt của nguyên tử là thế gian là đời sống của các electrons, do nhân duyên và
Nghiệp lực tương ứng giữa nhân nguyên tử (Nghiệp) và electrons (chúng
sanh người). Nếu không có một “nhân duyên lớn” nào tác động thì các
electrons vẫn mãi mãi chịu luân hồi theo những vòng quỹ đạo của Nghiệp lực
định sẵn. Tuy nhiên nhờ một “năng lượng đặc biệt” thâm nhập vào Thân
Tâm, bản thân electron nhảy qua những quỹ đạo vòng ngoài ít trói buộc hơn
với nhân, nghĩa là năng lượng cao hơn với quỹ đạo tương ứng với công thức:
En= -me4Z
2/2h
2n
2.
Khi tiếp nhận những năng lượng En này đến mức độ cần và đủ thì
electron tách rời khỏi nhân, tức rời khỏi Nghiệp, được giải thoát thành dòng
điện đầy năng lực (electron thành electricity) thành điện năng, quang năng,
cơ năng, động năng, hóa năng…thần thông diệu dụng tùy cơ biến hóa ra âm
thanh, sắc tướng, muôn màu, muôn vật hoặc trở thành photon ánh sáng, hoặc
thành sóng điện từ tung hoành trong khắp không gian vũ trụ bao la, hoặc trở
thành các hạt không gian vi tế hòa vào Bản Tế Chân Không. Với chúng sanh
cũng vậy, khi tiếp thu được năng lượng Phật Pháp hay năng lượng Bát Nhã
cần và đủ, là Giải Thoát sinh tử, ngộ nhập Chân Như Niết Bàn.
Nhìn sâu vào nguyên tử thấy được Đạo Lý Giải Thoát từ những hạt
electrons được giải thoát. Nhìn ngược về cái gốc cấu tạo nên nguyên tử vật
chất cũng thấy được Đạo Lý nầy. Chẳng hạn, nhìn ngược trở vào tức “nhìn
vào” sâu hơn từ lớp ngoài vào lớp trong cuối cùng hướng về gốc để phân tích
chia chẻ bên trong nguyên tử từ những hạt electrons, protons, neutrons… thì
gặp những hạt cơ bản quarks , rồi tới lớp sâu hơn tiếp tục phân tích bên trong
những hạt cơ bản quarks thì gặp bức xạ Sóng vi tế cũng gọi là sóng gamma(γ)
photon mà khối lượng khi nghỉ hay đứng yên hay ở trạng thái tĩnh là m=0.
Tức là khi ở trạng thái động hay di chuyển thì là Sóng và có năng lượng; khi
nghỉ, đứng yên hay ở trạng thái tĩnh thì mất, khối lượng nghỉ m= 0: Sóng mất
trở về cái Không hay Sóng mất trở thành Nước, Sắc mất trở về với Không.
Sóng gamma(γ) photon này cũng là cái vi tế mà Kinh Kalacakra gọi là hạt
KIẾN GIẢI CHỨNG ĐẠO CA: “VÔ TRỤ NIẾT BÀN VÀ MA HA BÁT NHÔ
________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________
Thiền Sư HUYỀN GIÁC--Trang | 137 --Kiến Giải: NGỘ THÂM
không gian và cuối cùng huốt luôn hạt không gian đụng tới cái “Vô Vi” là cái
Gốc rốt ráo: cái Bản Thể Chân Không tuyệt đối - cái Rỗng Không -Emptiness
- là Đạo Lý Giải Thoát. Như vậy Đạo Lý rõ ràng ẩn nấp nơi vạn tượng và bao
trùm khắp Hư Không:
“Sắc bất dị Không, Không bất dị Sắc.
Sắc tức thị Không, Không tức thị Sắc”.
Nước tức là Sóng, Sóng tức là Nước, Nước và Sóng bất tức bất ly. Sắc
tức là Không, Không tức là Sắc, Sắc và Không bất tức bất ly. Nhìn sâu vào
Sắc hay Vật Chất, đây chính là Sóng. Nếu Kinh Kalacakra nói rằng khi
Nghiệp lực chúng sanh chín muồi thì hạt không gian kết tụ thành vật chất
(Đất, Nước, Gió, Lửa).Thật ra hạt không gian này Đức Phật tạm gọi là “hạt”
để có tên gọi chỉ là phương tiện, nó không phải là vật chất, hay là hạt, mà
chính là Sóng Nghiệp hay Sóng Vô Minh vi tế còn ở trạng thái Tiềm Năng
chưa hiện ra “tướng sóng ” hay “tướng hạt” vì chưa có đủ duyên nên nằm im
nơi Bản Thể. Cái Bản Thể ở đây cũng chính là cái “Tự Tánh hay sanh muôn
Pháp” mà Lục Tổ Huệ Năng đã chứng ngộ ; Tự Tánh này cũng đồng với Phật
Tánh, là Chân Như, là Bát Nhã, là Không hay Chân Không… Ở đây Phật học
và Khoa Học có những điểm khác nhau nhưng cũng có những điểm tương
đồng. Phật Học cho rằng: khi Nghiệp Thức hay Vô Minh khởi động thì Cái
“Tiềm Năng” vi tế còn gọi là Hạt Không Gian trùm khắp một khoảng
Không Gian nào đó trong Hư Không sẽ nổi lên thành Sóng, giống như
biển động nổi sóng. Trong khi Khoa Học đưa vào thuyết Big Bang cho rằng
cái Dị Điểm ban đầu (singular point) vô cùng nhỏ vào thời điểm T= 10-43
giây
rất đậm đặc nổ tung và bành trướng ra rất nhanh với tốc độ theo tỉ lệ thời gian
và không gian là 1050
gồm những hạt Photon năng lượng cao với nhiệt độ vô
cùng nóng tới 1000 tỷ độ K (Kelvin). Những hạt Photons này là những tia
Gamma (γ) có độ dài sóng ngắn và năng lượng rất cao. Điểm tương đồng giữa
Phật Học và Khoa Học là hạt Không Gian hay Photon ban đầu chỉ là Sóng hay
Bức Xạ rồi “Tác” với nhau mà thành vật chất. Ở đây có thể kết hợp Phật Học
và Khoa Học và có thể nói các hạt Không Gian( theo quan điểm Phật Học)
hay các hạt Photons ( theo quan điểm Khoa Học) TÁC với nhau thành các hạt
cơ bản quarks. Khi có quarks xuất hiện mới có cái tướng “vừa sóng vừa hạt”
cũng gọi là “hạt sóng” (wave particles) cho đến khi thành nguyên tử thì mới
thành “hạt” vật chất : Đất, Nước, Gió, Lửa. Rốt ráo lại, trong thế giới Hữu
Vi, nguyên liệu gốc làm ra vật chất từ nguyên tử cho đến vũ trụ chính là
SÓNG : Sóng Nghiệp hay Sóng Vô Minh vi tế. Sóng cũng chính là năng
lượng là vật chất ở một dạng thể khác được nhà Bác Học Albert Einstein
chứng minh với công thức: E=MC2. Trong đó : E(energy) là năng lượng,
KIẾN GIẢI CHỨNG ĐẠO CA: “VÔ TRỤ NIẾT BÀN VÀ MA HA BÁT NHÔ
________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________
Thiền Sư HUYỀN GIÁC--Trang | 138 --Kiến Giải: NGỘ THÂM
C(velocity) là vận tốc ánh sáng với C=300.000 km/giây và M(mass) là khối
lượng vật chất. Thực tế thế gian này là sóng, tất cả đều là sóng: vật chất cấu
tạo bằng sóng. Từ hạt Không Gian hay Photon là sóng gamma (γ) với độ dài
sóng ngắn (short waves) năng lượng cao kết thành quarks rồi thành electrons,
protons, neutrinos…rồi kết hợp thành nguyên tử, phân tử vật chất. Do đó Đất,
Nước, Gió, Lửa cấu tạo nên thân người, thân vật và sơn hà đại địa trong vũ trụ
đều là sóng. Cho đến cái thấy cái nghe cũng phải dựa vào sóng. Vì nếu không
có sóng ánh sáng photon thì chúng sanh không có thể nhìn thấy được; không
có sóng âm thanh, sóng vô tuyến, sóng điện từ chúng sanh không có thể nghe
được; không có sóng ánh sáng Mặt Trời tất cả cây cỏ thực vật ngũ cốc không
có thể bào chế nhựa nguyên qua diệp lục tố thành nhựa luyện để nuôi cây, do
đó con người và hầu hết các loài động vật không có ngũ cốc hay lương thực để
ăn và để sống.“Biển Sóng” mênh mông trùm khắp thế gian, từ thân tâm chúng
sanh muôn loài (Chánh Báo) cho đến nguyên tử, vũ trụ vật chất sơn hà đại địa
(Y Báo) là do Sóng Nghiệp hay Sóng Vô Minh cùng tần số tạo ra, tất cả đều
cùng một Cộng Nghiệp nên mới sống chung và liên hệ được với nhau qua Sáu
Căn. Sáu cõi luân hồi cũng do cái “Sóng Nghiệp” tạo ra cái “ Tướng Nghiệp”
khác nhau của mỗi cõi. Nhưng cũng do Tâm Mê có sóng cùng tần số với cái
Sóng Nghiệp của từng loài chúng sinh.
“Biển Mộng chập chùng say Sắc Sóng
Quê Nhà tĩnh tịch Ánh Tỳ Lô”.
Tuy nhiên Sóng cũng là Nước, Sắc cũng là Không. Ngay trên Sóng,
ngay trên Sắc trở về Nước trở về Không chỉ ở cái Tâm Mê hay là Ngộ mà
thôi. Thật ra Sóng Vô Minh, Sóng Nghiệp hay Sóng trong không gian như
Sóng ánh sáng photon, Sóng điện từ, tia X, tia Gamma (ɣ)…đều không phải là
Nước mà là các loại hình tướng năng lượng, là cái vi tế của Sắc. Mà đối với
“Sắc-Không”, Sắc cũng chính là Không khi ở trạng thái tĩnh giống như đối
với “Sóng-Nước”, Sóng cũng chính là Nước khi ở trạng thái tĩnh. Cho nên có
thể nói chung Sóng hay Sắc cũng chính là Nước hay là Không, đạt ý thì nên
quên lời. Và như thế có thể đồng hóa Sóng của Sắc Trần cũng chính là Nước
hay là Không tùy phương tiện.
“Một hứng lộ đầu cùng,
Đạp phiên ba thị thủy
Triệu Châu lão siêu quần,
Diện Mục chỉ như thị’’.(Thiền Sư Mông Sơn Đức Bị).
(Đường đi chợt hết bước,
Giẫm ngược sóng là nước,
Già Triệu Châu quá chừng,
Mặt mày chẳng chi khác).
KIẾN GIẢI CHỨNG ĐẠO CA: “VÔ TRỤ NIẾT BÀN VÀ MA HA BÁT NHÔ
________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________
Thiền Sư HUYỀN GIÁC--Trang | 139 --Kiến Giải: NGỘ THÂM
Biển Sóng mênh mông trùm khắp, chúng sanh đang say Sắc Sóng
không có chỗ để thoát thân, chỉ còn cách duy nhất : ngay đó, ngay trên Sóng
giẫm ngược Sóng là gặp Nước : “Đạp phiên ba thị thủy” tức là ngay trên
Sóng không nhìn ra Cảnh Sóng mà nhìn ngược lại Cảnh Sóng tức nhìn vào
Nước để nhận diện ra Nước; ngay trên Sắc mà không nhìn ra Sắc Trần, nhìn
huốt cái Sắc, tức là nhìn cái Gốc hiện ra Sắc, tức là cái RÕ cái Ánh Bát Nhã
ngay trên Sắc hoặc vượt hơn cái RÕ tới cái TRONG rồi cái KHÔNG hiện
ra Sắc: “Sắc tức thị KHÔNG”. Cái nhìn ngược lại Sóng, ngược lại Sắc cũng
đồng với cái “nhìn vào” Thân Tâm tìm lại Quê Nhà với ánh Tỳ Lô tĩnh tịch
lặng yên. Ánh Tỳ Lô trong Thân Tâm hay cái Ánh Rõ Bát Nhã ngay nơi Sắc
ngay nơi Sóng, trong ngoài vẫn là một. Biển Sóng hay Biển Sắc Trần là một.
Nếu “nhìn ra” Biển Sóng hay Biển Sắc thì lại càng điên đảo, quay cuồng theo
Sóng theo Sắc không có đường giải thoát. Người biết đối trị với cơn say Sóng
là phải nhắm mắt lại đừng nhìn ra, hay đối với Sắc Trần là nhìn mà không
nhìn, thấy mà không thấy, đừng bám víu vào cái “Cảnh Sóng” điên đảo đang
quay cuồng, mà “nhìn vào”. Đức Phật tuy đắc Chánh Đẳng Chánh Giác, ngoài
việc thí pháp độ sanh, Ngài thường ngồi thiền với đôi mắt sụp xuống không
nhìn ra ngoại trần, mà “nhìn vào” Thân Tâm trong thiền định an trú nơi Phật
Tánh hay Chân Như Bát Nhã. Sơ Tổ Bồ Đề Đạt Ma cũng thế, khi chưa có
duyên độ sanh, Ngài ngồi úp mặt vào vách đá suốt 9 năm, không nhìn ra
ngoại trần, mà “nhìn vào” Thân Tâm an trú nơi Niết Bàn. Đối với chúng sanh
chưa giác ngộ giải thoát, cách “nhìn vào” ở đây giữa Biển Sóng là: “Giẫm
ngược Sóng là Nước”, định Tâm bằng Trí Tuệ để tư duy khám phá Chân Lý,
quán chiếu sâu sát vào Thân Tâm vô ngã chủ, vô sở trụ , vô Sự nơi Tâm vô
Tâm nơi Sự.
“Đứng yên bên hàng dậu,
Hoa mỉm nụ nhiệm mầu.
Kinh ngạc lặng nhìn hoa,
Lại thoáng nghe hoa hát.
Một bài ca thiên thu,
Tôi sụp lạy cúi đầu”. (Quách Thoại).
Đây là một cách nhìn hoa sâu sắc, biết thưởng thức hoa của một nhà
thơ hay. Tuy nhiên cái nhìn ra này, thực sự là cái “nhìn ra sóng trần” của
người thế gian, còn để Sự nơi Tâm, để Tâm nơi Sự. Thấy được cái nhiệm mầu
của hoa, nhưng sau đó bị hoa chuyển: tác động vào Sáu Căn khiến Sáu Căn
khởi niệm: kinh ngạc nhìn lại hoa, rồi lại nghe hoa hát cả một bài ca thiên thu,
ý căn khởi niệm niệm thật là giàu tưởng tượng. Điều này khác với Thiền Sư
ngộ đạo, thấy mà chẳng thấy, nghe mà chẳng nghe, không tức Cảnh sanh
Tâm.
KIẾN GIẢI CHỨNG ĐẠO CA: “VÔ TRỤ NIẾT BÀN VÀ MA HA BÁT NHÔ
________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________
Thiền Sư HUYỀN GIÁC--Trang | 140 --Kiến Giải: NGỘ THÂM
“Tam thập niên lai tầm kiếm khách,
Kỷ hồi lạc diệp, kỷ trừu chi.
Tự tùng nhất kiến đào hoa hậu,
Trực chí như kim bất cánh nghi”.(Thiền Sư Linh Vân)
(Ba chục năm qua tìm kiếm khách,
Bao hồi lá rụng với cành trơ,
Một lần “tự thấy” hoa đào đó,
Cho đến ngày nay hết cả ngờ).
Mặc dầu là nhìn ra để thấy hoa đào, nhưng cái “Tự Thấy” của Bổn
Tâm khởi niệm chứ không phải là cái thấy ở nhãn căn khởi niệm rồi đối Cảnh
sanh Tâm. Tức là cái Chân Như Tự Tánh khởi Vô Niệm niệm mà Sáu Căn
không khởi niệm, cũng giống như Tổ Ca Diếp nhìn Cành Hoa Sen ở Pháp hội
Linh Sơn. Ngay trên Sóng mà giẫm ngược Sóng gặp Nước, ngay trên Hoa Đào
mà nhận ra Cái Ánh Rõ Bát Nhã. Ngay trên Hoa Đào mà “nhìn vào” Bản
Tâm khiến cho Chân Như khởi niệm thấy được Phật Tánh.
Thiền Sư Huyền Quang, Tam Tổ Thiền Trúc Lâm nhìn Hoa cũng thế:
“Hoa tại trung đình, nhân tại lâu
Phần hương độc tọa tự vong âu
Chủ nhân dữ vật hồn vô cạnh
Hoa hương quần phương xuất nhất đầu”.
(Người ở trên lầu, Hoa dưới sân
Vô ưu ngồi ngắm khói trầm xông
Hồn nhiên người với Hoa vô biệt
Một đóa Hoa vừa mới nở tung).
Rời xa Sóng Trần bên ngoài thì Sóng Trần vọng tưởng bên trong
không có chỗ để nương sẽ tự diệt vì chúng là giả tạo là vô thường. Không cần
phải đuổi theo để diệt vọng mà chỉ cần “tri vọng”, tuy nhiên “tri mà chẳng tri”,
“thấy mà chẳng thấy” trong khi vẫn để Tâm nhẹ nhàng vào chỗ Như Như
Tịch Tịch. Tâm vọng suy dần và tự diệt thì ánh Tỳ Lô tỏa sáng về đến Quê cũ
bình yên, hay ít ra cũng tạm trú được trong cái “Miếu cổ hoang” an toàn. Lúc
ấy Sóng trở thành Nước, Sắc về với Không, tự do tự tại.
Rốt ráo lại, vật chất từ nguyên tử cho đến vũ trụ được làm bằng vật
liệu “Sóng”. Khi Sóng trở về Nước hay Sắc trở về Không thì nguyên tử và vũ
trụ cũng sụp đổ trở về Không và khi đó thế gian Mê tan hoại.
KIẾN GIẢI CHỨNG ĐẠO CA: “VÔ TRỤ NIẾT BÀN VÀ MA HA BÁT NHÔ
________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________
Thiền Sư HUYỀN GIÁC--Trang | 141 --Kiến Giải: NGỘ THÂM
Khám phá ra vụ nổ Big Bang thành lập vũ trụ, các nhà Bác Học tuy
xác minh được bằng những dụng cụ khoa học xem có vẻ như Chân Lý, tuy
rằng có những thông số kỳ lạ khó hiểu. Thật ra những khám phá này chỉ đúng
theo Nghiệp Thức và con mắt hữu tướng của từng loại chúng sanh mà thôi.
Thí dụ đơn giản nhất cũng như Gỗ là thực phẩm của loài mối, nhưng với loài
Người thì chỉ dùng làm dụng cụ chứ không ăn được.Trong Bát Nhã Tâm
Kinh, Đức Phật nói: “Không tức thị Sắc”. Cái Không hiện ra Sắc tức thì trong
một sát na, không phải đợi nhiều tỷ năm từ cái Dị Điểm Big Bang mới hiện ra
Sắc Tướng thế gian. Cái Không ở đâu thì hiện ra Sắc ở đó, không cần phải tập
trung hết năng lượng vi tế vô cùng lớn trong khắp Hư Không dồn nén vào một
Dị Điểm Big Bang vô cùng nhỏ rồi mới nổ và bành trướng ra Hư Không để
thành các hành tinh sơn hà đại địa. Cũng giống như mặt biển đang lặng yên,
một vẫn thạch (Asteroid) trong không gian rơi xuống ở trung tâm tạo ra một
“Động Năng” lớn làm nổi sóng lên khắp đại dương. Động năng này là một
năng lượng, ở đây là một “Động Lượng” truyền động lan ra qua nước để nước
ở nơi đó hiện ra cái tướng sóng:“Nước tức là Sóng”.Cũng như một niệm Vô
Minh đầu tiên khởi lên làm cho niệm niệm duyên khởi ra trùng trùng, niệm đi
tới đâu thì Tâm hiện ra Tướng đến đó, sự truyền động hay truyền năng lượng
đi tới đâu thì nước ở đó nổi lên thành sóng, không phải nước từ trung tâm lan
ra, chỉ có cái năng lượng lan ra với cái tướng của sóng mượn từ nước tại
chỗ đó. Sóng nổi lên khắp đại dương là do Nước ở trùm khắp đại dương đồng
hiện ra Sóng,“Nước và Sóng bất tức bất ly”.Khi sự truyền động ngưng lại trở
về sự lặng yên thì Sóng biến mất, chỉ còn lại duy nhất Nước:“Sóng tức là
Nước”.Khi niệm niệm duyên khởi từ một niệm Vô Minh đầu tiên lắng động
trở về “Vô Niệm”,thì Tâm Tâm trở về Tâm Không thành Phi Tâm,
TÁNH liền hiện bày. TÁNH này chính là cái Hư Không Rỗng Rang-
Emptiness mà các nhà Bác Học đã bỏ quên không để ý đến.
Ở đây rõ ràng nhận xét thấy các nhà Bác Học của thế gian đi về cái
ngọn để tìm Chân Lý nên bị điên đảo và mù tịt. Hẳn các nhà Bác Học cũng
biết đến cái Vô Thường và sinh diệt trong một nguyên tử như thế nào khi có
những hạt năng lượng trong nhân vô cùng nhỏ rất khó quan sát, chúng va
chạm nhau thường xuyên bị hủy diệt và sinh ra những hạt khác cho nên đời
sống của chúng vô cùng ngắn ngủi chỉ có khoảng vài phần tỷ giây, trong khi
các nhà Bác Học lại mò mẫm ra cái ngọn của Chân Lý, giống như vào
biển đếm cát thì biết khi nào mới xong việc. Trong giấc chiêm bao chỉ cần có
1 sát na thôi là cả vũ trụ Càn Khôn đại địa, hằng sa tinh tú hiện ra đầy ắp cả
Hư Không và cũng chỉ trong 1 sát na khi thức dậy thì cái vũ trụ vô biên đó sụp
đổ tan hoại hoàn toàn không để lại một dấu vết. Không cần phải đợi từ khi có
KIẾN GIẢI CHỨNG ĐẠO CA: “VÔ TRỤ NIẾT BÀN VÀ MA HA BÁT NHÔ
________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________
Thiền Sư HUYỀN GIÁC--Trang | 142 --Kiến Giải: NGỘ THÂM
vụ nổ Big Bang đến 4-5 tỷ năm sau mới có Quả Địa Cầu và đợi thêm 20 tỷ
năm nữa vũ trụ này mới tan hoại trở về Không.
Tóm lại, sự khám phá ra vụ nổ Big Bang sinh ra vũ trụ của các nhà
Bác Học thế gian chẳng có giá trị gì đối với Chư Phật, Chư Tổ và Thiền Sư.
Nhưng tạm thời trong thế giới Hữu Vi lấy đó làm phương tiện để phá một
phần nào sự mê muội của các Đức Tin Thần Quyền cho rằng Thượng Đế tạo
ra vũ trụ vì sự khám phá ra vụ nổ Big Bang là một khoa học. Big Bang giống
như một niệm Vô Minh dấy động giữa Chân Không mà ứng cơ cái Diệu Hữu
là vũ trụ, là hai mặt Thể và Dụng, Tánh và Tâm, cánh tay Mặt và cánh tay Trái
của Bát Nhã Chân Như. Cũng như một hòn đá rơi xuống Biển làm cho Mặt
Biển nổi Sóng : Mặt Biển yên lặng là phần Thể của NƯỚC còn Sóng là phần
Dụng của NƯỚC. Như vậy, từ một điểm Vô Minh hay Nghiệp Thức làm
cho Chân Không (Vô, Vô Tướng, Vô Tác) dấy động sinh ra Diệu Hữu
(Hữu, Hữu Tướng, Hữu Tác) . Mặt Biển đang yên lặng bị gió bão nổi lên
thành Sóng. Ba ngàn thế giới, hay Càn Khôn vũ trụ, sum la vạn tượng xuất
hiện là cái Diệu Hữu. Vì có TÁC nên có TƯỚNG vật chất và cái HỮU xuất
hiện tức là Đại Thiên thế giới hay Càn Khôn vũ trụ. Từ Diệu Hữu (Hữu , Hữu
Tướng , HữuTác) trở về lại cái gốc Bản Thể Chân Không thì ngược lại:
(Vô,Vô Tướng, Vô Tác) đúng như Tổ Long Thọ đã khai thị: Thành Niết Bàn (
tức Chân Không) có ba cửa : (Vô, Vô Tướng, Vô Tác). Vô Tác: Sóng yên
lặng trở về Nước. Vô Tác: nguyên tử vật chất tan rã trở về Không thì cả vũ trụ
sụp đổ trở về Không.
“Tác hữu trần sa hữu
Vi không nhất thiết không”.
(Hạt Bụi nầy có thì Vũ Trụ nầy có
Hạt Bụi nầy không, thì cả Vũ Trụ nầy cũng không ).
Nguyên tử Hydrogen nầy “Tác” nên “Có”, thì vũ trụ này “Có”.
Nguyên tử Hydrogen này “Vô Tác” nên “Không” thì cả vũ trụ này cũng tan
hoại, sụp đổ trở về “Không”. Vậy Vô Tác là trở về Chân Không, trở về Niết
Bàn, trở về Bát Nhã, Như Lai Tàng. Ba cái cửa Vô, Vô Tướng, Vô Tác để
nhập vào “Thành Niết Bàn”, ngộ nhập Bát Nhã, ngộ nhập Như Lai Tàng của
Tổ Long Thọ - tuy 3 mà là 1, tuy 1 nhưng lại là 3. Vì vào 1 cửa cũng như đã
vào 3 cửa ; chỉ cần 1 cửa ( bất luận cửa nào) là đã nhập “Thành Niết Bàn”.
KIẾN GIẢI CHỨNG ĐẠO CA: “VÔ TRỤ NIẾT BÀN VÀ MA HA BÁT NHÔ
________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________
Thiền Sư HUYỀN GIÁC--Trang | 143 --Kiến Giải: NGỘ THÂM
*Cửa Vô
VÔ
Vô tợ Hư Vô thể bổn Không
Tướng đồng Vô Tướng cõi Rỗng ,Trong.
Mịt mù thế giới màn sương ảo
Lấp lánh Càn Khôn ,bọt nước sông
Trăng chiếu trăm sông, ngàn ánh Rõ
Nhựt soi vạn núi, Rực trời hồng
Gương trong, sắc tướng như bào huyễn
Soi chiếu muôn chiều, vạn pháp KHÔNG.
*Cửa Vô Tướng
VÔ TƯỚNG
Đại địa quần sanh, Thực Tướng : Vô,
Bổn mê sắc tướng bóng ngũ hồ
Du du sinh tử, lai thiên địa
Ám muội Vô Minh, lạc tam đồ
Biển mộng chập chùng, say sắc sóng
Quê Nhà tĩnh tịch, ánh Tỳ Lô
Trong gương nhìn ảnh soi Chân Tướng
Sạch bụi phong trần, thẳng cửa VÔ.
*Cửa Vô Tác
VÔ TÁC
Tuyệt gốc Vô-Vi liễu Tánh Chân
Hữu-Vi vọng động lạc thức thần
Trùng trùng duyên khởi hà sa giới
Kiếp kiếp trầm luân vạn lý trần
Vô-Niệm, Vô-Tâm, vô sở trụ
Vô-Hành, Vô-Pháp diệc Vô-Nhân
Quán Không, Tự Tánh phi nhất vật
Phi Phật, phi Phàm, thị PHÁP THÂN.
(Ngộ Thâm).
KIẾN GIẢI CHỨNG ĐẠO CA: “VÔ TRỤ NIẾT BÀN VÀ MA HA BÁT NHÔ
________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________
Thiền Sư HUYỀN GIÁC--Trang | 144 --Kiến Giải: NGỘ THÂM
Chỉ cần Vô Tác là thế giới Mê đang dậy Sóng hiện Tướng thế gian sẽ
tỉnh thức trở về Biển Tánh Chân Không, Niết Bàn vắng lặng, Bát Nhã thanh
tịnh. Cái (Vô, Vô Tướng, Vô Tác) và cái ( Hữu, Hữu Tướng, Hữu Tác) là hai
mặt THỂ và DỤNG, là Chân Không và Diệu Hữu, như hai cánh tay Mặt và
Trái của Một cái Thân duy nhất là “MA HA BÁT NHÃ BA LA MẬT ĐA”.
Tuy MA HA BÁT NHÃ hay TỰ TÁNH thì “tự thanh tịnh” (Vô, Vô Tướng,
Vô Tác), nhưng lại “hay sanh muôn Pháp” (Hữu, Hữu Tướng, Hữu Tác). Mê
và Ngộ là Một, cũng như Sóng và Nước là Một. Phật và Chúng Sanh là Một
chỉ khác là ở Mê hay Ngộ: Mê thì có thế giới của (Hữu, Hữu Tướng, Hữu
Tác). Ngộ thì hòa nhập cái (Vô, Vô Tướng, Vô Tác) trở về cái Chân Không vi
diệu, cái (Hư Không Rỗng Rang - Emptiness), cái “Rỗng Thênh Không
Thánh”: không có một vật, không phàm, không thánh, không chúng sanh thọ
giả, không tăng không giảm, không sinh không diệt và trùm khắp…là Kim Chỉ
Nam cho hành giả đi tìm Chân Lý Giải Thoát.
Tóm lại, Bức Tường Mẹ Rỗng Rang- Emptiness mà thế gian bỏ quên
không để ý tới lại là cái Gốc của Chân Lý, là Chân Không, là Hư Không, là
cái Không, là Cánh Cửa Giải Thoát của Chư Phật, Chư Tổ và Thiền Sư.
*Đó là cánh cửa TỔ mà tất cả thiền sinh phải vượt qua để vào căn nhà
Bát Nhã . Là cửa “VÔ”, cửa “VÔ VI”, cửa Không , cửa không cửa, hay cái
cửa Ca Diếp thể hiện cái Ánh Rõ của Chân Tâm Gốc Tánh lẫn lộn trong cái
thấy của nhãn thức phàm phu ,chỉ có Tổ Ca Diếp với Tâm không tương ưng
rốt ráo mới nhận ra và ngộ nhập cái RÕ của Bát Nhã với bầu trời trong
“Rỗng Thênh Không Thánh” mà Tổ ĐẠT MA đã khai thị cho Vua Lương
Võ Đế. Cái Rõ ẩn hiện nơi cái thấy của phàm phu như cò trắng trong truyết ,
như nước với sữa chỉ có con ngỗng chúa mới lược ra được .Cái Ánh Rõ Bát
Nhã ẩn hiện trên Cành Hoa Sen ,trên giọt nước ,ở tàng cây ,ở đám mây ,ngọn
núi và trùm khắp cả Hư Không …nhưng với nhãn thức phàm phu với Tâm Mê
đầy vọng tưởng nghiệp chướng thì không thể nào nhận ra được .
“Bất ly đương xứ thường trạm nhiên
Mịch tức tri quân bất khả kiến”.
(Không rời trước mắt vẫn thường nhiên
Tìm kiếm đã hay không thấy được).
Kẻ phàm phu không sao nhận ra được,vì phải có cái Tâm tương ưng
cùng tần số là Không tức Tâm Không. Đi suốt cả đường Tâm đến tận gốc tận
đầu nguồn Tâm với Tâm Không rốt ráo, thấy Tánh thành Phật, ngộ nhập Bát
Nhã.
KIẾN GIẢI CHỨNG ĐẠO CA: “VÔ TRỤ NIẾT BÀN VÀ MA HA BÁT NHÔ
________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________
Thiền Sư HUYỀN GIÁC--Trang | 145 --Kiến Giải: NGỘ THÂM
Đây là “ Chánh Pháp Nhãn-Tạng ,Niết Bàn Diệu Tâm ,Vi Diệu
Pháp Môn, Thật Tướng Vô Tướng ,Giáo ngoại biệt truyền ,bất lập văn
tự” mà Đức Phật Thích Ca đã truyền cho Tổ thứ nhất là Ca Diếp . Đây cũng là
“Giáo ngoại biệt truyền ,bất lập văn tự,trực chỉ nhân Tâm kiến Tánh
thành Phật” mà Tổ thứ 28 là tổ Bồ Đề Đạt Ma đã du nhập vào Trung Quốc là
Sơ Tổ của Thiền Tông Trung Hoa cho đến Lục Tổ Huệ Năng ,Thiền Sư
Huyền Giác và vô số Thiền Sư ngoại hạng sau nầy …
Tổ Đạt Ma đã thay mặt Phật đã chỉ rõ ràng tức Tâm là Phật ,trực chỉ
nhân Tâm kiến Tánh thành Phật :
“Ngã bổn cầu Tâm bất cầu Phật
Liễu tri tam giới không vô vật
Nhược dục cầu Phật, đản cầu Tâm
Chỉ giá Tâm Tâm ,Tâm thị Phật”.
(Ta thà cầu Tâm chẳng cầu Phật
Rõ ra ba cõi không một vật
Nếu muốn cầu Phật thà cầu Tâm
Chỉ Tâm Tâm ,Tâm ấy tức Phật).
Tổ còn chỉ rõ chính cái Tâm Gốc thanh tịnh là cái cửa “VÔ” vi diệu
nhảy vào đất Như Lai ngộ nhập Bát Nhã. Đó cũng là cái Tâm “Vô Niệm” mà
Lục Tổ Huệ Năng đã nhận ra Tự Tánh .Giống như mặt nước yên lặng như
gương ,không một đợt sóng ,hoặc bụi mờ che khuất soi thấu cả bầu trời trong
vô tận.
Tổ Đạt Ma chỉ rõ:
“Đạt Đạo do Tâm bổn
Tâm tịnh thời hoàn đa
Như liên hoa xuất thủy
Đốn giác đạo nguyên hòa
Thường cư tịch diệt tướng
Bát Nhã chứng nan qua
Độc siêu tam giới ngoại
Cách bất luyến Ta Bà”.
Đạt được ĐẠO là ở cái TÂM GỐC. Cái Tâm Gốc cũng là cái Tâm
Không, hoàn toàn thanh tịnh. Đạt được Tâm Không giống như mặt nước yên
lặng hay tấm gương trong không một chất bụi ám che mờ sẽ có lợi ích vô
cùng soi thấu được bầu trời trong vô tận, hay soi thấu được Phật Tánh, làm
cho Phật Tánh hiển bày ngay nơi Thân Tứ Đại nầy. Giống như Hoa Sen vươn
KIẾN GIẢI CHỨNG ĐẠO CA: “VÔ TRỤ NIẾT BÀN VÀ MA HA BÁT NHÔ
________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________
Thiền Sư HUYỀN GIÁC--Trang | 146 --Kiến Giải: NGỘ THÂM
khỏi mặt nước hiện bày trong Hư Không. Đốn ngộ cái đạo lý siêu việt, thoát
vòng sinh tử và thường sống trong Cái Không tịch diệt vô tướng. Đó cũng là
chứng ngộ Bát Nhã,là căn nhà Niết Bàn vô sanh, vượt qua khỏi Tam giới,
không còn luyến tiếc hoặc ràng buộc bởi cõi Ta Bà đầy ngũ trược và phiền
não.
Đối với chúng sanh còn đang mê muội Vô Minh, càng cầu xin cúng
tế, lễ bái,van xin trong đường mê thì càng lún sâu vào bể khổ luân hồi. Bởi vì
chúng sanh với cái Tâm (Tham, Sân ,Si) làm cho lửa bát thức: (Nhãn, Nhĩ,
Tỷ, Thiệt, Thân ,Ý , Mạt Na, A-Lại-Da) phun trào, lại gặp bão táp lục
trần : (Sắc, Thinh ,Hương,Vị ,Xúc , Pháp) ập đến cuồng quay trong lốc
xoáy điên đảo. Ma ngũ ấm : (Sắc, Thọ, Tưởng, Hành, Thức) quyến rũ mê
lầm, Thân Tứ Đại :(Đất, Nước, Gió, Lửa) luôn luôn nhiễu loạn quấy phá .
Dây ái xích xiềng trói chặt ,tham dục cuốn hút đắm chìm trong biển sâu đen
tối .Nội công ngoại kích làm cho Thân Tâm vẩn đục ,trí tuệ lu mờ. Giữa trận
đồ bát quái với vòng vây Vô Minh dầy đặc, phải rơi vào biển khổ sanh tử trầm
luân không lối thoát. Không có lối thoát bởi vì Nghiệp chồng lên Nghiệp,
Nghiệp cũ chưa thọ báo xong, lại tạo thêm Nghiệp mới, nợ cũ chưa trả xong
lại vay thêm nợ mới, biết bao giờ mới trả cho xong. Trong vô số kiếp
làm “khách phong trần” ngao du lãng tử khắp 6 ngã luân hồi : khi là loài
Người, khi là loài Trời rồi lại rơi vào địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh…mỗi ngày
lại càng đi xa, quên mất “Căn Nhà Xưa”, con mắt Huệ bị nghiệp chướng của
6 ngã luân hồi trong vô số kiếp viễn du làm cho bị mù, chỉ nhìn đời, nhìn đạo
bằng con mắt của phàm phu đầy tham dục và mê muội. Giống như (con thiêu
thân) thấy ánh lửa dục vọng, danh lợi của thế gian tưởng là hào quang thật,
nghe nói phép lạ thần quyền vội tin ngay tưởng là thiên đường thật, nhìn thấy
hào nhoáng bên ngoài của ngoại đạo tưởng là ánh sáng thật vội xông vào,
không ngờ bị thiêu đốt trong lửa Vô Minh không lối thoát.
“Vi vi lãng đãng phong trần khách,
Nhật viễn gia hương vạn lý trình ”.
(Lang thang làm khách phong trần mãi
Ngày một thêm xa chốn Quê Nhà).
Phật, Tổ và Thiền Sư ra đời để cứu vớt chúng sinh ra khỏi biển khổ
mê lầm đến bờ giác yên vui nơi Niết Bàn : thường, lạc, ngã ,tịnh .Các Ngài đã
trao cho chúng ta tấm bản đồ chỉ đường để hồi hương- trở về Căn Nhà Xưa :
căn nhà “MA HA BÁT NHÃ BA LA MẬT ĐA”.
Tấm bản đồ “Chứng Đạo Ca” với cánh cửa “VÔ VI” và căn nhà
“BÁT NHÔ của Thiền Sư Huyền Giác không khác với tấm bản đồ “Trực chỉ
KIẾN GIẢI CHỨNG ĐẠO CA: “VÔ TRỤ NIẾT BÀN VÀ MA HA BÁT NHÔ
________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________
Thiền Sư HUYỀN GIÁC--Trang | 147 --Kiến Giải: NGỘ THÂM
nhân Tâm kiến Tánh thành Phật” của Tổ Bồ Đề Đạt Ma, cũng không khác
với tấm bản đồ “VÔ NIỆM và Bổn Lai Vô Nhất Vật” của Lục Tổ Huệ Năng.
Nó cũng không khác với tấm bản đồ “Niêm Hoa Vi Tiếu” chỉ cái Rõ - cái
Ánh Bát Nhã của Đức Phật Thích Ca trao cho Tổ Ca Diếp ở Pháp hội Linh
Sơn .
Vậy chúng sanh nào đã tỉnh cơn Mê, có bản lĩnh ,có trí tuệ thì đây là
lời nhắc nhở của Đức Phật : “Các ngươi hãy tự đốt đuốc lên mà đi ,đi với
Chánh Pháp”. Chánh Pháp ở đây là tấm bản đồ mà Chư Phật ,Tổ ,Thiền Sư
trao cho.
Các Ngài đã chỉ cho chúng ta biết thế gian nầy là MỘNG ,do TÂM
mê ,điên đảo nên tưởng là thật .Cả 6 căn đều điên đảo chấp dính vào 6 trần và
bị trói buộc vào sinh tử luân hồi :
“Mộng lý minh minh hữu lục thú
Giác hậu không không vô đại thiên”.
(Thiền Sư Huyền Giác).
Vậy khách bể dâu trong 6 cõi ,ai là người tỉnh Mộng ,biết được
Mộng, đã chán với cảnh luân hồi vô số kiếp ,hãy lên đường ,độc hành độc bộ
với tấm bản đồ “MA HA BÁT NHÃ BA LA MẬT ĐA”.
“Thường độc hành thường độc bộ
Đạt giả đồng du Niết Bàn lộ”.
Hãy vượt cho đến đỉnh Tuyết Sơn ,nơi có Pháp Giới Chư Phật mà
Phật, Tổ và Thiền Sư từng nếm vị “ĐỀ HỒ” chứng Niết Bàn Diệu Tâm:
“Tuyết Sơn Phì Nhị cánh vô tạp
Thuần xuất Đề Hồ ngã thường nạp”.
Đường lên đỉnh Tuyết Sơn phải đi bằng cả Thân Tâm với 6 căn hổ
dụng đồng loạt, mút cả đường TÂM ,vượt khỏi “đầu sào trăm trượng” của
Thiền Sư Cảnh Sầm , cho đến tận đầu nguồn MA HA BÁT NHÃ BA LA
MẬT ĐA cũng là cái Rõ hiển bày nơi Cành Hoa Sen ở Pháp hội Linh Sơn mà
Tổ Ca Diếp đã nhận ra và cũng trong sát na đó nhảy thẳng vào ĐẤT NHƯ
LAI ngộ nhập BÁT NHÃ.
“Đường đi lên có Thích Ca Văn Phật
Pháp hội Linh Sơn mở Đạo mầu
Một cánh hoa trao ngàn thuở ngát
Lời Kinh vô tự vút từng câu
Đường đi lên ôi tuyệt vời minh triết
Có cái không bàn nghĩ được đâu
KIẾN GIẢI CHỨNG ĐẠO CA: “VÔ TRỤ NIẾT BÀN VÀ MA HA BÁT NHÔ
________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________
Thiền Sư HUYỀN GIÁC--Trang | 148 --Kiến Giải: NGỘ THÂM
Ngã ư Chánh Giác vô sở đắc
Có cái Tâm nầy vạn pháp thâu
Đường lên hỡi khách bể dâu
Ngắn bằng một niệm dài đâu chớp lòe
Ai ai những khách đi về
Đường lên nẻo Giác đường về nẻo Tâm”.(Trúc Thiên)
TÂM nầy là TÂM KHÔNG ,TÂM ở huốt tận đầu nguồn là phi TÂM
mà Tổ Thương Na Hòa Tu (Sanakavasa ) đã truyền chánh pháp nhãn tạng cho
Tổ thứ 4 là Ưu Ba Cúc Đa (Upagupta) :
“Phi pháp diệc phi Tâm
Vô Tâm diệc vô Pháp
Thuyết thị Tâm Pháp thời
Thị Pháp phi Tâm Pháp”.
TÂM nầy cũng chính là cửa “VÔ” của Triệu Châu, cửa “Vô Môn
Quan” của HUỆ KHAI ,cửa “VÔ VI” của Huyền Giác hay cái cửa Ca Diếp
với cái RÕ BÁT NHÃ ẩn hiện nơi Cành Hoa Sen, nơi tàng cây ,đám mây,
sông núi hay cả vạn pháp và Hư Không .
Tâm nầy là Tâm “ BA LA MẬT ĐA” ở bờ bên kia và ngay đó ngộ
nhập “MA HA BÁT NHÔ thấy Tánh thành Phật.
“BÁT NHÃ thanh tịnh hải
Lý mật nghĩa u thâm
BA LA ĐÁO BỈ NGẠN
Hướng đạo kỳ do Tâm”. (Bồ Đề Đạt Ma).
Rõ ràng Niết Bàn Diệu Tâm hay “MA HA BÁT NHÃ LỰC” của
Thiền Sư Huyền Giác trong Chứng Đạo Ca đồng thuyền, đồng bộ ,đồng hành,
đồng điểm ,đồng tâm với Chư Phật ,Chư Tổ và Thiền Sư .Các Ngài sánh vai
cùng đi ,nhìn cùng một con mắt ,nói cùng một giọng lưỡi :
“Tông diệc thông, thuyết diệc thông
Định huệ viên minh bất trệ không
Phi đản Ngã kim độc đạt liễu
Hằng sa Chư Phật thể giai đồng”. (Thiền Sư Huyền Giác).
(Tông cũng thông ,thuyết cũng thông
Định huệ sáng tròn chẳng trệ không
Nào phải mình ta riêng đạt đấy
Hằng sa Chư Phật thể giai đồng).
KIẾN GIẢI CHỨNG ĐẠO CA: “VÔ TRỤ NIẾT BÀN VÀ MA HA BÁT NHÔ
________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________
Thiền Sư HUYỀN GIÁC--Trang | 149 --Kiến Giải: NGỘ THÂM
Điều lạ lùng cần suy gẫm tham cứu cho tới tận đầu nguồn ,tận gốc rễ
dù cho phải mất suốt 5 năm ,10 năm ,20 năm ,30 năm hay trọn một kiếp người
cũng phải cho xong .Đó là việc phải tham cứu PHÁ VỠ cái “HƯ KHÔNG
Rỗng Rang” vô biên đang trùm khắp tam thiên đại thiên thế giới là gì? Cái
Hư Không nầy có điều gì bí mật mà Chư Phật, Chư Tổ và Thiền Sư đều chú ý
tới một cách trân trọng :
* Tổ Sư thứ 7 BÀ TU MẬT (Vasumitra) khai thị :
“Tâm đồng HƯ KHÔNG giới
Thị đẳng HƯ KHÔNG pháp
Chứng đắc HƯ KHÔNG thời
Vô thị vô phi pháp”.
* Thiền Sư Chân Ngôn cũng nhắc tới nó :
“Diệu bản HƯ VÔ nhật nhật khoa
Hòa phong xuy khởi biến Ta Bà
Nhân nhân tận thức Vô Vi lạc
Nhược đắc Vô Vi thủy thị gia”.
(Hư Không lẽ ấy rất sâu xa
Thổi dịu nơi nơi ngọn gió hòa
Vô Vi tận biết ,người an lạc
Đạt đến Vô Vi mới là nhà).
* Thiền Sư Lương Giới Động Sơn - Khai Tổ Tông Tào Động, khi sắp
tịch cũng khai thị cho các Chư Tăng về cái “Không” vi diệu này, là con
đường tắt nhất để tìm Đạo:
“Học giả hằng sa vô nhất Ngộ
Quá tại tầm tha thiệt đầu lộ
Dục đắc vong hình dẫn tung tích
Nỗ lực ân cần “Không” lý bộ”.
(Kẻ học hằng sa, ngộ mấy người
Lỗi tại tầm y trên đầu lưỡi
Muốn được quên thân bặt dấu vết
Nỗ lực trong “Không” bước ấy ngươi).
* Bàng Long Uẩn thì luôn luôn sống với cái Không nầy .Dù đi đứng
nằm ngồi cũng ở trong cái Không, cái Không rốt sáo ngự trong nhà ông, cái
Không là kho tàng chân thật, cái Không cũng là chỗ ngồi của Chư Phật .
* Triệu Châu thì nói xa nói gần về nó với cái cửa “VÔ”.
* Đức Phật thì chỉ thẳng về nó qua cái Rõ ẩn hiện nơi Cành Hoa Sen
ở Pháp hội Linh Sơn cho Tổ CA DIẾP cũng gọi là cánh cửa Ca Diếp .
KIẾN GIẢI CHỨNG ĐẠO CA: “VÔ TRỤ NIẾT BÀN VÀ MA HA BÁT NHÔ
________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________
Thiền Sư HUYỀN GIÁC--Trang | 150 --Kiến Giải: NGỘ THÂM
*Thiền Sư Huyền Giác cũng chỉ thẳng qua cửa “VÔ VI”.
*Tổ Thiền Tông thứ 14 Long Thọ cũng diễn đạt nó qua thành Niết
Bàn: “Niết Bàn thành hữu tam môn sở vị :Vô,Vô Tướng ,Vô Tác” (Thành
Niết Bàn có 3 cửa : cửa Vô ,cửa Vô Tướng ,cửa Vô Tác).
Hư Không vẫn sờ sờ trước mặt ,vô biên trùm khắp ,nhưng lấy chẳng
được, bỏ chẳng cũng được ,không sinh không diệt ,không tăng cũng không
giảm, nhìn thì chẳng thấy ,chỉ thấy Rỗng không :
“Bất ly đương xứ thường trạm nhiên
Mịch tức tri quân bất khả kiến”.
Nó rỗng mà linh ,không mà diệu ,ứng cơ sinh ra vạn
pháp: “Không tức thị Sắc” như Thiền Sư Chân Nguyên khai thị :
“Một điểm Hư Vô thể bổn không
Vạn ban tạo hóa giá cơ đồng
Bao la thế giới CÀN KHÔN ngoại
Trạm tịch hàn quang sát hải trung”.
Nó là “Thánh Đế Đệ Nhất Nghĩa” mà Sơ Tổ Bồ Đề Đạt Ma đã khai
thị cho Vua Lương Võ Đế : “ Rỗng Thênh Không Thánh”. Rốt ráo lại ,Hư
Không là cái đích cuối cùng mà tấm bản đồ “MA HA BÁT NHÃ BA LA
MẬT ĐA” của Phật,Tổ ,Thiền Sư đã trao cho những ai thực sự đi tìm Chân Lý
,tự giải thoát khỏi sinh tử luân hồi.
“Đạt Ma sừng sững giữa Hư Không
Đứng giữa Trời trong vẫn u huyền”.
Thật khó khó thay ! Đúng là “10 tạ dầu mè trên cây vuốt”. Nhưng
có một điều lạ lùng là Phật ,Tổ và Thiền Sư vừa trao tấm bản đồ “MA HA
BÁT NHÃ BA LA MẬT DA” lại vừa hé mở cánh cửa “MỘNG” như là điều
thực chứng những lời khai thị của các Ngài !
LẠ LÙNG thay giấc MỘNG BAN ĐÊM khi thức dậy và giấc
MỘNG BAN NGÀY khi đại ngộ sao mà giống nhau như MỘT !
Trong giấc Mộng Ban Đêm, chúng sanh Mộng đang MÊ bởi con mắt
Nghiệp Mộng , không thể thấy cái Thân Thật nằm trên giường ,chỉ thấy toàn
là Hư Không Rỗng Rang vô biên . Chỉ khi thức dậy mới biết cái thân trên
giường là HƯ KHÔNG trong Mộng.
Đối chiếu lại, cái Thế Gian Thực Tại có phải là MỘNG BAN
NGÀY hay không ? Nếu đây cũng là Mộng thì rõ ràng cái HƯ KHÔNG
RỖNG RANG vô biên nầy cũng chính là cái THÂN THẬT của mọi chúng
sanh và cả Càn Khôn vũ trụ vạn vật ….là PHÁP THÂN ,là BÁT NHÃ ,là
NHƯ LAI , là NIẾT BÀN…. mà biết bao lời khai thị của Phật ,Tổ ,Thiền Sư
KIẾN GIẢI CHỨNG ĐẠO CA: “VÔ TRỤ NIẾT BÀN VÀ MA HA BÁT NHÔ
________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________
Thiền Sư HUYỀN GIÁC--Trang | 151 --Kiến Giải: NGỘ THÂM
đã nhắc nhở chỉ đường cho chúng sanh MÊ đang sống trong thế gian Mộng,
với con mắt Nghiệp Mộng có tấm bản đồ chính xác để tự giải thoát ra khỏi
cơn Mộng và 6 ngã luân hồi.
Thật vậy ,Phật ,Tổ và Thiền Sư đã nhắc nhở chúng sanh nhiều lần :
Cái thế gian hữu tướng nầy thực sự là Mộng , không phải là thực, đừng bám
víu vào nó để bị luân hồi !
*Trong Kinh Kim Cang,Đức Phật chỉ rõ:
“Nhất thiết Hữu Vi pháp
Như Mộng huyễn bào ảnh
Như lộ diệc như điện
Ưng tác như thị quán”.
(Tất cả pháp Hữu Vi của thế gian đều là mộng, ảo, bọt,bóng,giống
như sương mai điện chớp hãy nghĩ chúng như chiêm bao).
*Thiền Sư Huyền Giác nói :
“Mộng lý minh minh hữu lục thú
Giác hậu không không vô đại thiên”.
(Còn mộng thì còn 6 ngã luân hồi
Giác ngộ rồi thì 3 ngàn thế giới cũng không có).
*Trong Kinh Lăng Già, Bồ Tát Đại Huệ cũng cho biết :
“Viễn ly đoạn thường
Thế gian hằng như Mộng
Tri bất đắc hữu vô
Nhi hưng đại bi Tâm”.
*BỒ ĐỀ ĐẠT MA cũng khai thị:
“Thân tận Vô Minh tận
Thọ báo khước lai kỳ
Trí thân như huyễn hóa
Cấp cấp ngộ “Vô Vi”.
(Không có thân thì Vô Minh tận diệt,
Không có thân thì thọ báo ,nghiệp chướng cũng không đến được
Ngươi hãy biết rằng ,thân ngươi là mộng ,là huyễn ảo
hãy mau ngộ cái “VÔ VI”tức là cái không vi diệu nầy).
Như vậy, Chư Phật, Tổ và Thiền Sư đã phát lộ cái “bí mật” chỉ rõ
cho chúng sanh biết cuộc đời của tất cả chúng sanh trong 6 cõi đều là Mộng
cả. Tất cả Pháp HữuVi đều là Mộng đều là Huyễn không có thật. Bởi vì Tâm
Mê mà hiển ra sắc tướng đủ hình thù và các cõi: từ tam giới lục đạo luân hồi
tam thiên đại thiên. Tất cả là từ cái Không, từ cái Bát Nhã Chân Như mà
hiển ra Sắc Tướng; và từ Sắc Tướng lại nhập về Không, về Bát Nhã Chân
Như: “Sắc tức thị Không, Không tức thị Sắc”. Chỉ cần một niệm Vô Minh
khởi động thì niệm niệm duyên khởi trùng trùng, Bản Thể Chân Như liền ẩn
KIẾN GIẢI CHỨNG ĐẠO CA: “VÔ TRỤ NIẾT BÀN VÀ MA HA BÁT NHÔ
________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________
Thiền Sư HUYỀN GIÁC--Trang | 152 --Kiến Giải: NGỘ THÂM
khuất nơi Hiện Tượng, giống như Nước ẩn nơi Sóng. Tâm Mê hiện tướng Thế
Gian sinh diệt với cái Ngũ Uẩn ( Sắc, Thọ, Tưởng, Hành, Thức) và Lục Trần
(Sắc, Thanh, Hương, Vị , Xúc, Pháp) trôi lăn vào sáu cõi Luân Hồi. Trong
vòng Luân Hồi vô số kiếp lại tạo ra nhiều Nghiệp Chướng càng ngày càng sâu
dầy. Hành trang Nghiệp Chướng càng nặng thì càng khó giải thoát càng chịu
nhiều phiền não nặng nề trong cái Đại Bệnh Sinh Tử. Tuy nhiên chỉ cần một
sát na khi Chứng Ngộ thì bao nhiêu Nghiệp Chướng đều rũ sạch như Ngài
Huyền Giác đã chỉ:
“Đàn chỉ viên thành bát vạn môn
Sát na diệt khước tam kỳ kiếp”.
(Búng tay tám vạn Pháp Môn thành
Nháy mắt rũ xong ba kỳ kiếp).
Lúc đó thì: “Tùy duyên tiêu Nghiệp cũ, hồn nhiên mặc áo Xiêm” và
Thế Giới Mê tan hoại: Sắc tức thị Không.
SẮC TỨC THỊ KHÔNG
Sắc Không, gốc thị “Như Không”
Vô Minh một niệm bập bồng nổi trôi
Mộng du sáu ngã luân hồi
Hành trang nghiệp chướng đắp bồi Mê Cung
Mịt mù vô thủy vô chung
Sắc Không bào ảnh trùng trùng khởi duyên
Lục trần, bể khổ dong thuyền
Tử sinh , sinh tử đảo điên ngục tù
Ngũ hồ dừng bước viễn du
Buông chèo , soi nước hồ thu an lành
Sóng yên , gió lặng , Trời thanh
Ngàn sao, hiển lộ ngọn ngành tươi trong
Sắc hòa mặt nước mênh mông
Không hoà theo Sắc vào lòng biển khơi
Sắc Không tỉnh thức Mộng Đời
Bọt tan theo nước sáng ngời gương trong
Sắc Không Diệu Hữu Chân Không
Không Không, Sắc Sắc, Gương Lòng soi “Không”.
(Ngộ Thâm).
Một khi đã đạt được Lý “Sắc Không” cả Thân Tâm đều tương ưng
với cái Không vi diệu này, thì xem như xong hết mọi việc Thế Gian, an nhiên
tự tại, thảnh thơi việc đời không còn phiền não, tùy duyên mà cứu độ chúng
KIẾN GIẢI CHỨNG ĐẠO CA: “VÔ TRỤ NIẾT BÀN VÀ MA HA BÁT NHÔ
________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________
Thiền Sư HUYỀN GIÁC--Trang | 153 --Kiến Giải: NGỘ THÂM
sanh với lòng Từ Bi và Trí Tuệ Bát Nhã.
“Niên thiếu hà tằng liễu Sắc Không
Nhất Xuân Tâm tại bách hoa trung
Như kim khám phá Ðông hoàng diện
Thiền bản bồ đoàn khán trụy hồng”.
(Trần Nhân Tông).
(Thuở nhỏ chưa tường lẽ Sắc Không
Xuân sang,hoa nở, rộn tơ lòng,
Chúa Xuân nay đã thành quen mặt
Nệm cỏ ngồi thiền ngắm rụng hồng).
Tô Đông Pha, văn hào nổi tiếng trong Văn Chương Trung Quốc vào
cuối đời Đường đầu đời Tống, tinh thông sâu sắc Khổng Học, Lão Học, cuối
cùng kế thừa Thiền Sư Đông Lâm Thường Tổng ngộ nhập cái “Vô Tình
Thuyết Pháp” với cái Lý : “Sắc Không”:
“Quá nhãn vinh khô điện dữ phong
Cửu trường na đắc tự hoa hồng
Thượng nhân yến tọa Quán Không các
Quán sắc quán không, Sắc tức Không”.
(Nghĩa là:Chuyện thịnh suy thành bại lướt qua trước mắt;
nhanh như tia điện chớp hoặc như ngọn gió bay.
Sự lâu bền của nó chẳng được như màu hồng của đóa hoa.
Bậc thượng nhân ngồi yên lặng trên căn gác quán Không;
Quán tưởng Sắc, quán tưởng Không, rồi ngộ ra rằng Sắc chính
là Không).
Còn như Tuệ Trung Thượng Sĩ, Thầy của Tổ Sư Thiền Trúc Lâm Trần
Nhân Tông, một khi đã nhận ra và ngộ nhập cái Lý Sắc Không này, thì cái
Thân Tâm nhỏ bé như Cây Gậy bỗng dưng hóa thành Cọp thành Rồng: tung
lên Sơn Hà sụp đổ, cắm xuống Trời Đất lung lay…an nhàn tự tại, sống giải
thoát ngay trong cái sinh diệt của Thế Gian Mê:
“Nhật nhật trượng trì tại chưởng trung
Hốt nhiên như Hổ hựu như Long
Niêm lai khước khủng sơn hà toái
Trác khởi hoàn phương Nhật Nguyệt lung
Tam xích Song Lâm hà xứ hữu
Lục hoàn Địa Tạng khoái nan phùng
Túng nhiên thế đạo kỳ khu thậm
Bất nại tòng tiền bột tốt ông”.
(Cây gậy ngày ngày nắm dạo rong
Bỗng nhiên như Cọp dữ như Rồng
Tung lên chỉ sợ sơn hà lở
KIẾN GIẢI CHỨNG ĐẠO CA: “VÔ TRỤ NIẾT BÀN VÀ MA HA BÁT NHÔ
________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________
Thiền Sư HUYỀN GIÁC--Trang | 154 --Kiến Giải: NGỘ THÂM
Cắm xuống càng e Nhật Nguyệt rung
Ba thước Song Lâm tìm mỏi mắt
Sáu vòng Địa Tạng kiếm hoài công
Dẫu cho đường tục chông gai mấy
Lão chẳng như xưa bước ngại ngùng).
Tại sao Cây Gậy hay cái Thân Tâm này của Cư Sĩ Tuệ Trung lại có
“Thần Thông” làm tan hoại Núi Sông, che mờ Nhật Nguyệt? Tại sao Thân
Tâm Ông vô tung tích, tìm mỏi mắt không ra, cả Phật Địa Tạng đi giáp
vòng cả sáu cõi Luân Hồi mà cũng chẳng thấy…? Vì Ông đã đạt Đạo, tự
xem cái “Thân Tứ Đại” hay cái “Hòn Bọt” này không phải là “Thân” nữa,
mà nó đã tan hoại hòa nhập vào cái “Không” vô Tướng, cái Nhất Chân, là
Pháp Thân, là Biển Lớn…trùm khắp cả Hư Không. Còn Tâm thì là “Tâm
Không” nhập vào Tánh, vào Bát Nhã vi diệu biến hóa như Rồng. Thân và
Tâm đồng là “Một” là cái “Không” bình đẳng, là “Bát Nhã”, là “Bổn Lai
Vô Nhất Vật”: Phi Tâm phi Vật, phi Phật, phi Phàm…vô Tướng vô Hình,
đồng với cái “Rỗng Thênh Không Thánh”… thì làm sao Phật Địa Tạng tìm
ra!
Lý Sắc Không này là lý Bát Nhã siêu việt là Đại Thần Chú chiếu kiến
Ngũ Uẩn Giai Không, dứt trừ mọi phiền não. Bát Thức chuyển thành Tứ Trí
cuồn cuộn sóng vô tận, lộ hết Thần Uy là Trí Tuệ Bát Nhã; đèn Tâm rực sáng,
soi khắp 10 phương Chư Phật, đạt cứu cánh Niết Bàn Vô Sinh:
“Bát Nhã vi Thần Chú
Năng trừ Ngũ Uẩn nghi
Phiền não giai đoạn tận
Thanh tịnh tự phân ly
Tứ Trí ba vô tận
Bát Thức hữu Thần Uy
Tâm đăng minh Pháp Giới
Tức thử thị Bồ Đề”. (Bồ Đề Đạt Ma).
(Bát Nhã là Thần Chú
Trừ dứt năm Uẩn nghi
Phiền não cũng mất trọn
Thanh tịnh tự phân ly
Bốn Trí cuồn cuộn sóng
Tám thức lộ thần uy
Ðèn Tâm soi Pháp Giới
Ðó tức là Bồ Đề ).
Lý “Sắc Không”, tuy Đức Phật gởi gắm nhiều “Mật Nghĩa” bí
truyền trong Bát Nhã Tâm Kinh hay trong nhiều Kinh liễu nghĩa khác, nhưng
Đức Phật, Tổ và Thiền Sư đôi lúc dường như hé mở cánh cửa Mộng như là
KIẾN GIẢI CHỨNG ĐẠO CA: “VÔ TRỤ NIẾT BÀN VÀ MA HA BÁT NHÔ
________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________
Thiền Sư HUYỀN GIÁC--Trang | 155 --Kiến Giải: NGỘ THÂM
điều “Thực Chứng” cái Lý: “Sắc tức thị Không” siêu huyền cực lý này để
cho những ai có Tâm Bồ Đề thực lòng cầu Đạo đi tìm Chân Lý Giải Thoát có
niềm tin vững chắc. Thật vậy không có một Thí Dụ hay một Phương Tiện nào
nhanh gọn, dễ hiểu hay dễ nhận ra Lý “Sắc Không” bằng giấc “Chiêm Bao”
khi “Thức Dậy”. Kể cả cái Thuyết Tương Đối lừng danh của Nhà Bác Học
Einstein với con Tàu Vũ Trụ vượt Không Gian bằng vận tốc ánh sáng cũng
không nhanh gọn và rõ ràng bằng. Trong giấc Chiêm Bao mọi thế giới Hữu Vi
có Sắc Tướng bao gồm Vũ Trụ Càn Khôn : Đất đá sơn hà đại địa nhà cửa cầu
đường, chúng sanh muôn loài…cho đến âm thanh, ánh sáng, màu sắc, tiền
bạc, châu báu, danh vị, chức tước, giàu sang, nghèo hèn…đều là Hư Vọng hay
là Bóng Ảo không có thật. Cũng như Kinh Kim Cang có nói : “Phàm sở hữu
tướng giai thị Hư Vọng”. Lời Kinh được chứng minh rất rõ ràng là khi
“Thức Dậy”, Thế Giới Hữu Vi trong Chiêm Bao hoàn toàn mất, không để lại
một dấu vết : “Sắc tức thị Không”. Khi ngủ Mộng một người Bình Thường
hay một người Bệnh đang lên cơn Mê, thấy Cảnh Giới Địa Ngục hiện ra y
“Như Thật” với đầy đủ chúng sanh đang thọ Nghiệp : “Không tức thị Sắc”.
Như vậy thì Kinh nói Thế Gian “Thực Tại” này cũng là Chiêm Bao, nhưng
“Mở Mắt Chiêm Bao” thì cũng không khác với cái “Nhắm Mắt Chiêm
Bao”. Do đó cái Thế Giới Hữu Vi “Thực Tại ” này cũng là Hư Vọng vì đang
ở trong Cơn Mê “Mở Mắt Chiêm Bao” nên thấy “Có” như “Thật”. Khi
“Chứng Ngộ” hay “Thức Dậy” thì rõ ràng : “Sắc tức thị Không” và cái
“Không” này là cái Không của người Chứng Đạo, là Chân Không, là Chân
Tông, là Chân Lý tuyệt đối, là Như Lai, là Thực Tướng, là Bát Nhã, là Niết
Bàn Vô Sanh thoát khỏi Luân Hồi. Còn cái “Sắc”, con mắt thấy Sắc là con
mắt ở trong Nghiệp hay trong Mê, trong Mộng nên thấy có Sắc Tướng Như
Thật. Cái Sắc chỉ là cái Bóng của Tâm Mê không có thật, chỉ là “Huyễn Có”.
Nghĩa là Mê là thấy Sắc, Ngộ là thấy Không và Không này không phải là
Ngoan Không (tức là hoàn toàn không có gì), mà là cái Không vi diệu của
Phật, Tổ và Thiền Sư.
TÓM LẠI, Rõ Ràng Chân Lý “Sắc Không” đã hiển bày .Đảo qua đảo
lại giữa thế gian Mộng Ban Đêm và khi “Thức Dậy” với cái “Thân Thật”
nằm trên giường giải thích được rốt ráo lời khai thị siêu huyền cực lý của
Phật,Tổ và Thiền Sư kể cả Kinh Liễu Nghĩa của Đức Phật như Hoa Nghiêm
Kinh ,Bát Nhã Tâm Kinh…ta có tấm bản đồ chính xác .Đối chiếu thế gian
Mộng Ban Đêm với thế gian Mộng Ban Ngày ,ta có chính xác phương hướng
để đi. Chồng tấm bản đồ Mộng Ban Đêm lên Thế Gian Mộng Ban Ngày ,ta
có một tấm bản đồ Chân Lý thực sự và tấm bản đồ nầy lại trùng với tấm bản
đồ “MA HA BÁT NHÃ BA LA MẬT ĐA” mà Phật, Tổ và Thiền Sư đã
trao!
KIẾN GIẢI CHỨNG ĐẠO CA: “VÔ TRỤ NIẾT BÀN VÀ MA HA BÁT NHÔ
________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________
Thiền Sư HUYỀN GIÁC--Trang | 156 --Kiến Giải: NGỘ THÂM
PHẦN 5
LÊN ĐƯỜNG
KIẾN GIẢI CHỨNG ĐẠO CA: “VÔ TRỤ NIẾT BÀN VÀ MA HA BÁT NHÔ
________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________
Thiền Sư HUYỀN GIÁC--Trang | 157 --Kiến Giải: NGỘ THÂM
Có ‘‘Tấm Bản Đồ’’ chính xác trong tay ,chỉ còn “LÊN ĐƯỜNG”
với cả Thân và Tâm với sáu căn thanh tịnh hổ dụng đồng loạt . “LÊN
ĐƯỜNG” với cái TÂM thẳng tận đầu nguồn : Tâm thấu suốt Tâm, trong suốt
rỗng rang không có một vật ; cái Tâm phi Tâm phi Phật phi vật phi phàm, vô
ngã chủ vô năng sở vô sở trụ… tương ưng với cái RỖNG KHÔNG BÁT
NHÃ, cái RỖNG THÊNH KHÔNG THÁNH của Tổ Bồ đề Đạt Ma, cái
TUYỆT HỌC VÔ VI của Thiền Sư Huyền Giác, CÁNH CỬA RÕ CA DIẾP
ở tận đầu nguồn Tâm, hay cái TÂM VÔ : “Vô TÂM nơi Sự, vô Sự nơi TÂM”
của Thiền Sư Đức Sơn…
Trên đường đi tìm Đạo, luôn luôn nhìn “Bản Đồ” mà đi thẳng nhắm
hướng “Mục Tiêu Rốt Ráo” mà đi, không quanh co hoặc ghé vào Bến Bãi
Lục Trần vì rất dễ bị cám dỗ , hoặc lạc đường lạc hướng quên mất đường đi.
Khi đó uổng phí thời gian, nhiều khi uổng phí cả cuộc đời hay nhiều đời nhiều
kiếp lạc vào Mê Cung của Nghiệp Chướng Vô Minh không biết đường trở về.
Nếu gặp ngã ba đường khó xử hoặc trở ngại trên đường đi, gặp ách tắc dọc
đường thì lập tức soi lại Bản Đồ tìm phương hướng chính xác rồi mới tiếp tục
đi, như thế mới không lạc và có niềm tin vững chắc là sẽ đến nơi. Như vậy
mới thấy rằng Tấm Bản Đồ Lên Đường là rất cần thiết, không thể thiếu trong
suốt cuộc hành trình đi tìm Đạo. Nó là Đại Thần Chú, Vô Thượng Chú, Vô
Đẳng Đẳng Chú trừ hết mọi chướng ngại trên đường đi. Phật, Tổ, Thiền Sư
nhờ nó mà đạt Chánh Đẳng Chánh Giác. Nó linh ứng vi diệu, Đức Phật gởi
gắm nhiều Mật Nghĩa thâm sâu, là Tấm Bản Đồ “Bát Nhã” còn gọi là Tấm
Bản Đồ “Sắc Không” hay “Sắc tức thị Không”, Tấm Bản Đồ “Không” hay
“Chân Không” hay Tấm Bản Đồ “Mộng” vì nó đã được trắc nghiệm hay
“Thực Chứng” bằng giấc Chiêm Bao, và cái Mục Tiêu Rốt Ráo của Tấm Bản
Đồ là “Ma Ha Bát Nhã Ba La Mật Đa”.
Còn Tấm Bản Đồ ‘‘Như Lai Địa’’ với cái cửa ‘‘Vô Vi’’ trong Chứng
Đạo Ca của Thiền Sư Huyền Giác, Tấm Bản Đồ “Rỗng Thênh Không
Thánh” với cái cửa “Trực Chỉ Nhân Tâm” hay‘‘Sáu cửa vào động Thiếu
Thất’’ của Sơ Tổ Bồ Đề Đạt Ma, Tấm Bản Đồ “Bổn Lai Vô Nhất Vật” với
cái cửa ‘‘Vô Niệm’’ của Lục Tổ Huệ Năng, Tấm Bản Đồ ‘‘Vô’’ với cái cửa
“Vô Môn Quan” của Thiền Sư Huệ Khai…v…v… tuy cơ duyên có khác,
nhưng thực ra thì cũng đồng điệu như một, đều lấy Tâm làm Tông Chỉ và cửa
Không làm cửa Pháp, chỉ “trực tiếp” vào Cửa, chỉ “tận gốc” vào đầu nguồn
Tâm gốc Tánh để đạt Đạo: “Thẳng tận đầu nguồn phăng dấu Phật”.
Chẳng hạn như, nếu Tấm Bản Đồ “Bát Nhã” chỉ trực tiếp “Sắc tức
thị Không” lấy Tâm (tức Sắc) làm Tông để đạt tới Ma Ha Bát Nhã (tức
Không) như ngay trong cái tựa Kinh (Ma Ha Bát Nhã Ba La Mật Đa Tâm
Kinh) thì đã ẩn chứa lời khai thị trực tiếp của Đức Phật: lấy Tâm làm con
KIẾN GIẢI CHỨNG ĐẠO CA: “VÔ TRỤ NIẾT BÀN VÀ MA HA BÁT NHÔ
________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________
Thiền Sư HUYỀN GIÁC--Trang | 158 --Kiến Giải: NGỘ THÂM
đường hay là Tông Chỉ để đi suốt đường Tâm: đó là cái ( Ma Ha Bát Nhã Ba
La Mật Đa “Tâm”) . Nghĩa là từ Tâm Ngọn đi suốt đường Tâm cho đến Tâm
Gốc tận bờ bên kia, ở đây Đức Phật "chỉ thẳng": không nói đến Tâm Ngọn
mà chỉ ngay cái Gốc tức là Tâm “Ba La Mật Đa” (cũng là cái Cửa Vô Vi của
Thiền Sư Huyền Giác), huốt tận đầu nguồn là Ba La Mật Đa, tới đây thì Tâm
biến dạng thành Phi Tâm, tức là TÁNH, tức là Ma Ha Bát Nhã. Cũng có thể
gộp lại cái (Ma Ha Bát Nhã) và cái (Ba La Mật Đa) và khi đó là cái Tâm “Ma
Ha Bát Nhã Ba La Mật Đa”, là cái Tâm rốt ráo cùng tột là Tâm phi Tâm, tức
là Tánh. Vì Tâm này là Tâm "Phi", tức không còn là Tâm, là cái rốt ráo tận
cùng, tức là cái: "Ma Ha Bát Nhã Ba La Mật Đa". Còn là Tâm thì còn là
Sắc, đạt tới Tánh thì Phi Tâm Phi Sắc, tức là Không, là “Sắc tức thị Không”.
Tổ thứ tư Ưu Bà Cúc Đa (Upagupta) khi truyền Chánh Pháp Nhãn
Tạng cho Tổ thứ năm là Đề Đa Ca (Dhirtaka) có nói bài kệ:
“Tâm tự bổn lai Tâm
Bổn Tâm phi hữu Pháp
Hữu Pháp hữu Bổn Tâm
Phi Tâm phi Bổn Pháp”.
(Tâm tự xưa nay Tâm,
Bổn Tâm chẳng có Pháp.
Có Pháp có Bổn Tâm,
Chẳng Tâm chẳng Bổn Pháp).
Cái Tâm xưa nay vẫn là vậy (Tâm tự bổn lai Tâm). Bổn Tâm là
cái Tâm “Ba La Mật Đa” huốt tận đầu nguồn tức là Tánh và ở trên Tánh thì
không có một Pháp để thấy (Bổn Tâm phi hữu Pháp), đây là mặt Thể của
Tánh. Nhưng nếu thấy có Pháp tức là có cái Bổn Tâm (tức là Tánh hay Tự
Tánh) vì Bổn Tâm hay Tánh hay Tự Tánh tuy “Rỗng Thênh Không Thánh”
nhưng lại “hay sanh muôn Pháp” là cái Chứng Ngộ của Lục Tổ Huệ Năng
(Hữu Pháp hữu Bổn Tâm), đây là mặt Dụng của Tánh. Cuối cùng cái Bổn
Tâm này hay Tánh hay Tự Tánh là Tâm mà Phi Tâm và ở nơi cái Tâm Phi
Tâm không có một Pháp, cả đến cái Pháp Gốc (Bổn Pháp) để sinh ra Pháp
cũng không có, bởi vì có Tâm mới có Pháp còn cái Tâm Phi Tâm này hoàn
toàn không có một Pháp để thấy dù là Pháp Gốc. Tâm này là Tâm (Ma Ha Bát
Nhã Ba La Mật Đa). Và một khi Ngộ Nhập thì : “Phi Tâm phi Bổn Pháp”
tức không còn Tâm và một Pháp cũng không có: “Tâm Pháp song vong
Tánh tức Chân” tức là cái “Ma Ha Bát Nhã Ba La Mật Đa”. Tới đây là chỗ
rốt ráo tận cùng: "Phi Sắc Phi Tâm Phi hạnh Nghiệp", đạt tới "Không Tâm" và
"Không Tâm" là Đạo, là cái Một tột cùng, là Chơn Nhất, là "Ma Ha Bát Nhã
Ba La Mật Đa".
Nếu giải thích theo lời thông thường: (Ma Ha Bát Nhã Ba La Mật Đa
Tâm Kinh) là Kinh (Trung Tâm) hay Kinh (Cốt Lõi) nói về cái (Ma Ha Bát
KIẾN GIẢI CHỨNG ĐẠO CA: “VÔ TRỤ NIẾT BÀN VÀ MA HA BÁT NHÔ
________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________
Thiền Sư HUYỀN GIÁC--Trang | 159 --Kiến Giải: NGỘ THÂM
Nhã Ba La Mật Đa) thì e rằng thiếu “cái áo nghĩa hay mật nghĩa” thâm huyền
mà Đức Phật gởi gắm trong Bài Kinh? Lời giải nầy tuy có khác với thông
thường, nhưng Tấm Bản Đồ “Bát Nhã” rõ ràng là chẳng khác với Tấm Bản
Đồ “Trực Chỉ Nhân Tâm kiến Tánh thành Phật” của Sơ Tổ Bồ Đề Đạt
Ma:
“Bát Nhã thanh tịnh hải
Lý mật nghĩa u thâm
Ba La Đáo Bỉ Ngạn
Hướng Đạo kỳ do Tâm”.
Lật ngược bài kệ này lại, thì rõ ràng Tổ Đạt Ma cũng lấy Tâm làm
Tông Chỉ, làm con đường để đi : “Hướng Đạo kỳ do Tâm”, và đi huốt đường
Tâm đến tận gốc là “Ba La Đáo Bỉ Ngạn” (tới bờ bên kia) ngộ nhập cái “Bát
Nhã thanh tịnh hải”, tức thì thấy TÁNH thành PHẬT, và Tâm là Sắc, Tánh
là Không: “Sắc tức thị Không”.
Tấm Bản Đồ “Chứng Đạo Ca” với Cái Cửa “Vô Vi” của Thiền Sư
Huyền Giác thì cũng chỉ ngay cái Gốc: “Sắc tức thị Không”, là “Chiếc Cầu
nối” giữa Sắc và Không, giữa Tâm và Tánh, giữa Mê và Ngộ, giữa Thế Gian
và Bát Nhã Chân Như hay Như Lai Niết Bàn…là cái Bí Quyết mà Thiền Sư
Huyền Giác đã khai thị, hay cái kinh nghiệm Chứng Ngộ của Ngài. Trước
đây Ngài phạm lỗi lầm là học nơi Cái Ngọn và học vô số chữ nghĩa văn tự
suông, uổng phí cả một đời người, đáng bị Phật quở trách:
“Ngô tảo niên lai tích học vấn,
Diệc tằng thảo sớ tầm kinh luận.
Phân biệt danh tướng bất tri hưu,
Nhập hải toán sa đồ tự khốn.
Khước bị Như Lai khổ ha trách,
Sổ tha trân bảo hữu hà ích.
Tòng lai tắng đắng giác hư hành,
Ða niên uổng tác phong trần khách”.
(Ta sớm bao năm chuyên học vấn,
Từng viết sớ sao tìm kinh luận,
Phân biệt danh tướng mãi không thôi,
Vào biển đếm cát tự chuốc hận,
Quả đáng bị Như Lai quở trách,
Châu báu của người có gì ích?
Lâu nay đắng đót rõ công suông,
Uổng bấy làm thân phong trần khách!)
Thiền Sư Nguyên Thiều (1648-1728), tông Lâm Tế đời thứ 33,trước
khi tịch có bài kệ chỉ cái Vô Vi với Viên Ngọc Ma Ni . ‘‘Viên Ngọc’’ là Thể,
KIẾN GIẢI CHỨNG ĐẠO CA: “VÔ TRỤ NIẾT BÀN VÀ MA HA BÁT NHÔ
________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________
Thiền Sư HUYỀN GIÁC--Trang | 160 --Kiến Giải: NGỘ THÂM
là Tánh, là Bát Nhã hay là cái Vô Vi ; còn cái ‘‘Ánh Sáng’’của Viên Ngọc là
Dụng , là Tâm, là cái Rõ hay cái cửa Vô Vi:
“Tịch tịch Kính vô ảnh
Minh minh Châu bất dung
Đường đường Vật phi vật
Liêu liêu Không bất không”.
(Lặng lặng Gương không ảnh
Sáng sáng Ngọc không hình
Rõ ràng vật không vật
Rỗng rang không chẳng không).
Tấm Bản Đồ “Niêm Hoa Vi Tiếu” hay “Bổn lai Vô Nhất Vật”…thì
cũng vậy. Nếu nhận ra được Cái Rõ hay cái Ánh Sáng Bát Nhã ngay trên Sắc
kể cả ngay nơi Hư Không tức là đã tới Cái Cửa “Vô Vi” của Thiền Sư Huyền
Giác, ngay nơi đó nhảy thẳng vào Đất Như Lai thì: “Sắc tức thị Không” và
cái Không này là Ma Ha Bát Nhã Ba La Mật Đa.
Rốt ráo lại, tất cả những Tấm Bản Đồ của Chư Phật, Tổ và Thiền Sư
có thể gọi là Tấm Bản Đồ “Bát Nhã” hay Tấm Bản Đồ “Sắc tức thị Không”,
vì mục tiêu cuối cùng là đạt tới cái “Không” hay cái “Ma Ha Bát Nhã Ba La
Mật Đa” thấy TÁNH thành PHẬT.
Trong giấc Mộng Ban Đêm, cả thế giới Hữu Vi gồm sơn hà đại địa và
mỗi chúng sanh đều chỉ là cái Bóng của Thân Tâm đang nằm ngủ Mê trên
giường biến chiếu ra. Thân và Tâm trong Chiêm Bao không có thật, chỉ là
Bóng ảo, do đó hoàn toàn thụ động và tùy thuộc vào cơn Mộng: Do Tâm Mê
điều khiển, do đó không có con đường Giải Thoát. Trong giấc Mộng Ban
Ngày, có Thân Tâm với đủ Sáu Căn và Bát Thức nên hoàn toàn chủ động và
với Tấm Bản Đồ “Bát Nhã” trong tay, thì con đường Giác Ngộ đi tới Giải
Thoát không phải là không thực hiện được một khi đã phát Tâm Bồ Đề. Phật,
Tổ và Thiền Sư đã Chứng Ngộ trước và chỉ đường rõ ràng không thể nào lầm
lẫn được:
“Tâm thị Căn, Pháp thị Trần,
Lưỡng chủng do như kính thượng ngân.
Ngân cấu tận trừ quang thỉ hiện,
Tâm Pháp song vong Tánh tức Chân”.
(Thiền Sư Huyền Giác).
(Tâm là Căn, pháp là Trần,
Thảy đều ngấn bụi ám gương trong.
Bao giờ ngấn hết gương trong lại,
KIẾN GIẢI CHỨNG ĐẠO CA: “VÔ TRỤ NIẾT BÀN VÀ MA HA BÁT NHÔ
________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________
Thiền Sư HUYỀN GIÁC--Trang | 161 --Kiến Giải: NGỘ THÂM
Tâm Pháp cùng quên, Tánh rõ Chân)
Sáu Căn là Tâm, Sáu Căn nói chung cũng là Thân. Do đó Thân cũng
chính là Tâm, tuy Thân chỉ là Tứ Đại (Đất, Nước, Gió, Lửa) nhưng không
phải là loại Tứ Đại vô tri giác. Bởi Tâm là vi diệu, đủ mọi hình trạng biến hóa
từ Gốc cho tới Ngọn. Pháp Trần là Bụi Trần (Sắc, Thinh, Hương, Vị, Xúc,
Pháp) bám vào Sáu Căn làm cho Gương Tâm bị che mờ. Bao giờ “Ngấn Bụi”
bên Sáu Căn không còn dính mắc thì Gương Tâm sáng lại, soi chiếu khắp 10
phương. Lúc đó Tâm và Pháp hay Căn và Trần đều Không, nghĩa là Sáu Căn
không chấp dính Pháp Trần hay Bụi Trần và không khởi niệm đạt đến Tâm
Không hay TâmVô Niệm niệm thì Phật Tánh hiện bày, đạt Đạo Giải Thoát.
Điều này trong Tấm Bản Đồ Mộng đã chỉ rõ: Trong Mộng, Thân Tâm không
có, Pháp Trần cũng không có, chỉ là Bóng Ảo, khi Thức Dậy thì cả Tâm và
Pháp trong Mộng đều là Không do Cái Thân Thật trên giường biến chiếu ra,
Cái Thân Thật này dụ cho Tánh hay Bát Nhã. Tấm Bản Đồ Bát Nhã cũng chỉ
y như vậy: “Vô Sắc, Vô Thọ, Tưởng, Hành, Thức, Vô Nhãn, Nhĩ, Tỷ, Thiệt,
Thân, Ý, Vô Sằc Thinh Hương Vị Xúc Pháp…” . Nghĩa là Tâm và Pháp đều
không có, cho nên không chấp dính và khi đó thấy Tánh thành Phật.
Thân Tâm của chúng sinh giống như Chiếc Máy Truyền Hình có thể
xem được 7 Đài tương ứng với 7 thế giới khác nhau. Sáu Đài từ 1 tới 6 là thế
giới trong Mê có tần số sóng hay Nghiệp Thức khác nhau, bao gồm thế giới
của Địa Ngục, Ngạ quỷ , Súc sanh, A Tu La, Nhân và Thiên. Sáu thế giới này
đều có đầy đủ hình ảnh , sắc tướng, âm thanh và hoạt động riêng biệt: ( Hữu,
Hữu Tướng, Hữu Tác). Cả sáu thế giới trong Mê đều có Tướng vật chất và
Tướng không gian khác nhau vì khác tần số sóng hay khác Nghiệp, nên không
thể liên lạc hoặc nhìn thấy được nhau, trừ một vài thế giới có tính năng đặc
biệt như thần thông, nhập định…Một Đài số 7 là thế giới trong Ngộ có tần số
sóng là “ Không”; không có Nghiệp; Không có một vật để thấy cho nên không
có hình tượng và đứng yên bất động: (Vô, Vô Tướng, Vô Tác); là thế giới của
Niết Bàn hay Bát Nhã Chân Như. Đối với Thân Tâm của chúng sinh Người,
thế giới loài Người hiện ra trên Màn Ảnh Tâm Thức gồm tất cả nhà cửa, sơn
hà, đại địa, vật chất sum la vạn tượng của thế giới người. Thân Tâm người tức
Chánh Báo, thế giới loài Người tức Y Báo có cùng một tần số sóng hay cùng
Nghiệp nên cùng hiện hữu, cùng thấy, nghe, hiểu, biết, xúc chạm với nhau,
ngay cả có cùng một thân, mượn nhau làm thân vì cùng có 4 nguyên tố ( Đất,
Nước, Gió, Lửa) giống y nhau chỉ khác nhau là ở trên Tướng: “Một là Tất
Cả, Tất Cả là Một”. Thân của tất cả chúng sinh và thân của cả sơn hà đại địa,
cả vũ trụ là Một là (Đất, Nước, Gió, Lửa) . Nhưng (Đất, Nước, Gió, Lửa)
cũng là Một cùng một gốc là do một “Dị Điểm” trong vụ nổ Big Bang, là một
niệm Vô Minh bất giác nổi lên giữa biển Chân Không Bát Nhã.
KIẾN GIẢI CHỨNG ĐẠO CA: “VÔ TRỤ NIẾT BÀN VÀ MA HA BÁT NHÔ
________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________
Thiền Sư HUYỀN GIÁC--Trang | 162 --Kiến Giải: NGỘ THÂM
“Vô Minh thật Tánh tức Phật Tánh
Ảo hóa không thân tức Pháp Thân”.
(Thiền Sư Huyền Giác).
Cái Tánh thật của Vô Minh sinh ra Big Bang cũng là Phật Tánh tức là
Không. Cái Ảo Hóa là chúng sinh và vạn vật vũ trụ này thật sự không có Thân
tức là Pháp Thân Phật, tức là Không. Tất cả tại vì Mê vì nhìn bằng con Mắt
Hữu, con mắt của Nghiệp Thức chúng sinh nên thấy là có Thân. Ở trong màn
ảnh Chiếc Máy Truyền Hình, thấy có Thân có người, có nhà cửa cầu đường
núi sông, có âm thanh sắc tướng và mọi hoạt động. Nhưng tất cả chỉ là Bóng
Ảo không thật, khi tắt máy hoặc ngưng tần số sóng vô tuyến thì tất cả trở về
không. Ở trong giấc chiêm bao, chúng sinh thấy có Thân, thấy có vũ trụ vạn
vật đầy ắp trong Hư Không, nhưng khi thức dậy tất cả đều không chỉ là Ảo
Hóa. Nếu không chấp dính với Sắc Trần, biết Thân Tâm này là giả là chiêm
bao, đạt đến Thân không, Tâm không thì xem như được giải thoát :
“Phiên thân nhất trịch xuất phần lung
Vạn sự đô lô nhập nhãn Không
Tam giới mang mang Tâm liễu liễu
Nguyệt hoa Tây một, Nhựt thăng Đông”.
(Xoay mình một ném vượt ra lồng
Muôn sự đều không ,nhập mắt không
Ba cõi thênh thang , lòng sáng rỡ
Trăng Tây vừa lặn, xuất vầng Đông”.
(Tuệ Trung Thượng Sĩ).
Khi Thân Tứ Đại thoát ra khỏi cái lồng Sắc Trần của thế gian, giống
như con chim hồng được thả tự do, bay bổng vào Hư Không, cả Thân Tâm
hòa nhập vào Không thì liền nhìn sự vật với con Mắt Không (con Mắt Bát
Nhã) thấy mọi vật là Không, mặc tình du hí tam muội. Mộng Ban Đêm thấy
Trăng , Trăng lặn về Tây rồi thì Mặt Trời của sự Giác Ngộ mọc lên ở phương
Đông, nhìn thấy đúng sự thật tức Chân Lý.
Bồ Đề Đạt Ma cũng từng khai thị :
“Thân tận Vô Minh tận,
Thọ báo khước lai kỳ.
Trí thân như huyễn hóa
Cấp cấp ngộ “Vô Vi”.
(Không có Thân thì Vô Minh không đến được,
Do đó, không có thọ Nghiệp
Ngươi hãy nhớ rằng Thân ngươi là huyễn mộng
Hãy mau mau ngộ cái “Vô Vi” này).
KIẾN GIẢI CHỨNG ĐẠO CA: “VÔ TRỤ NIẾT BÀN VÀ MA HA BÁT NHÔ
________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________
Thiền Sư HUYỀN GIÁC--Trang | 163 --Kiến Giải: NGỘ THÂM
Tấm Bản Đồ Bát Nhã hay Tấm Bản Đồ Mộng đã chỉ rõ ràng lời khai
thị của Tổ Đạt Ma: “Vô Vô Minh, diệc Vô Vô Minh tận, nãi chí vô lão tử,
diệc vô lão tử tận; vô khổ, tập, diệt, đạo; vô trí diệc vô đắc.” trong Mộng
cũng vậy: không có Vô Minh mà cũng không có Vô Minh tận, không có lão tử
mà cũng không có lão tử tận…vì trong Mộng nếu thấy có Vô Minh và có
Thân thì chỉ là cái Bóng giả tạo không có thật, khi Thức Dậy thì cái Vô Minh
và cái Thân rõ ràng là không có, mà chỉ có cái Thân Thật đang nằm trên
giường, dụ cho Pháp Thân, dụ cho Bát Nhã hay cái Vô Vi mà Tổ Đạt Ma đã
khai thị: “Cấp cấp ngộ Vô Vi”.
Do đó dựa vào Tấm Bản Đồ “Bát Nhã” hay Tấm Bản Đồ “Sắc tức
thị Không” hay Tấm Bản Đồ “Mộng” này thì sự thật là Thế Giới hay cái Vũ
Trụ này không có, và cái nguồn gốc sinh ra cái Vũ Trụ này là cái “Dị Điểm”
Big Bang cũng không có, mà chỉ là “huyễn mộng”, vì tất cả chúng sanh đang
“mở mắt chiêm bao” nên thấy có, là cái thấy của con mắt Nghiệp Mộng của
chúng sanh Người. Đối với chúng sanh các cõi khác nhau như cõi A Tu La
hay Ngạ Quỹ, rất có thể họ cũng “mở mắt chiêm bao” và cũng thấy có cái
Big Bang sinh ra Vũ Trụ và Thế Giới của họ. Thật ra tất cả đều là Mê, đều là
chiêm bao, và chính những cái Big Bang như thế là cái trò Ảo Thuật do
Nghiệp Lực hay Tâm Mê tạo ra bằng cách huyễn hóa. Do đó gỡ bỏ cặp kính
Nghiệp hay cái Tâm Mê thì mới thấy được cái Chân. Big Bang đã không có,
do đó nguyên tử Hydrogen vật chất cũng không có thì Tứ Đại : Đất, Nước,
Gió, Lửa không có. Đất Nước, Gió, Lửa đã không có thì làm gì có cái Thân
Tâm chúng sinh (tức Chánh Báo) và thế giới vũ trụ vật chất của loài Người
chúng sinh này hiện hữu (tức Y Báo)…Do đó, Thân Tâm và Pháp Giới đều là
Không :
“Tâm Pháp song vong, Tánh tức Chân”.
(Tâm và Pháp đều không, Tánh hiện bày).
(Thiền Sư Huyền Giác).
Trường hợp của Thiền Sư Huyền Giác, Ngài ngộ nhập thẳng vào Tánh
từ cái cửa Vô Vi :“Tranh tự Vô Vi Thực Tướng môn”. Nghĩa là từ cái
“Tuyệt Cùng” của mọi sự vật Căn và Trần, là “Cánh Cửa” Rõ thâm nhập vào
“Cái Rõ” tức “Mặt Trăng Thứ Hai” mà không dừng lại hay kẹt lại nơi Cái
Rõ hay “Mặt Trăng Thứ Hai” mà nhảy thẳng vào cái “Rỗng Thênh Không
Thánh” hay cái “Không”: “Nhất siêu trực nhập Như Lai Địa”. Nhiều
trường hợp người Ngộ Đạo tưởng rằng mình đã Ngộ Triệt, nhưng thật ra chỉ ở
Mặt Trăng Thứ Hai , chỉ có vị Thầy đã Ngộ Triệt mới biết được và có thể giúp
và khai thị cho vị này đi đến Triệt Ngộ. Đạt đến “Mặt Trăng Thứ Hai” thì
cũng đã đạt đến Vô Sanh, nhưng vẫn chưa viên mãn, vẫn còn cảm thấy thiếu
KIẾN GIẢI CHỨNG ĐẠO CA: “VÔ TRỤ NIẾT BÀN VÀ MA HA BÁT NHÔ
________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________
Thiền Sư HUYỀN GIÁC--Trang | 164 --Kiến Giải: NGỘ THÂM
hoặc chướng ngại một điều gì rất vi tế, tự mình khám phá ra điều này thì rất
khó, và nếu khám phá ra được mà không có vị Thầy Ngộ Triệt giúp đỡ thì
cũng rất khó mà tự mình tháo gỡ cái vi tế chướng ngại này. Vì lẽ đó mà Thiền
Sư Am Chủ Diệu Phổ chỉ rõ:
“Tâm Pháp song vong du cách Vọng,
Sắc Trần bất nhị thượng dư Trần.
Bách điểu bất lai Xuân hựu quá,
Bất tri thùy thị trụ Am Nhân”.
(Tâm, Pháp đều quên còn cách Vọng,
Sắc, Trần như một vẫn thừa Trần.
Trăm chim chẳng đến, Xuân cứ đến
Nào biết ai là người Trụ Am?).
Còn nhớ Tâm, còn nhớ Pháp thì còn chướng ngại nhiều. Nhưng khi
đạt đến chỗ Tâm Pháp đều quên nhưng vẫn còn cách một cái Vọng vi tế (tức
là cái Bóng của Tâm và Pháp chưa dứt hẳn). Sắc Trần đã thấy không hai mà
vẫn thừa Trần (tức cái Vọng Trần chưa dứt hẳn). Cho nên Ngộ mà chưa Triệt
vì còn kẹt nơi cái Bóng của Sắc Trần, còn Tập Nghiệp dư. Vì Ngộ chưa Triệt
nên không thấy mùa Xuân, vì Xuân đến mà chưa thấy trăm chim. Chính đây
mới là lúc để Tu Đạo, vì thấy được Đạo mới Tu Đạo. Còn chưa thấy Đạo mà
Tu Đạo thì chưa biết được đường Tu của mình đúng hay là sai, nhưng sai mà
hành trì suốt đời thì thật là uổng phí cả một đời người và có thể cả nhiều đời
sau. Trường hợp của Lục Tổ Huệ Năng, tuy đã Ngộ cái “Bổn Lai Vô Nhất
Vật”, nhưng mới ở chỉ “Mặt Trăng Thứ Hai”:
“Bồ Đề bổn vô thọ
Minh kính diệt phi đài
Bổn lai vô nhất vật
Hà xứ nhạ Trần ai”.
Cho đến khi Ngũ Tổ Hoằng Nhẫn giảng Kinh Kim Cang tới câu:
“Ứng vô số sở trụ như sanh kỳ Tâm” thì mới hốt nhiên Đại Ngộ và khi đó
Ngài tự thốt lên: “Không ngờ TỰ TÁNH hay sanh muôn Pháp…”. Trước đó
Lục Tổ Ngộ cái “Bổn Lai Vô Nhất Vật” chỉ là cái Rõ hay cái Vô Vi. Về Lý
thì xem như đã ngộ TÁNH là cái “Rỗng Thênh” không có một vật…lẽ ra là
đã Ngộ Triệt?! Nhưng vì cái Rõ quá gần với TÁNH và hướng về TÁNH cho
nên có thể nhận ra Bầu Trời Trong không có Vật của TÁNH. Có thể nói đứng
trong cái Rõ mà Lục Tổ nhận ra được phần Thể của TÁNH, còn phần Dụng
thì chưa thông. Đến khi nghe câu “Ứng vô số sở trụ như sanh kỳ Tâm” mới
ngộ ra TÁNH thật sự. Vượt qua cái Rõ, nhập vào TÁNH, đứng trong TÁNH
nhìn trở ra mới thấy được cái Dụng của TÁNH: “Không ngờ TỰ TÁNH hay
sanh muôn Pháp”. Chấp Dụng bỏ Thể thì không đạt Chân Lý, chấp Thể bỏ
Dụng thì cái Chân Lý chưa hoàn hảo. Vào TÁNH thì phải thầu rõ luôn cái
KIẾN GIẢI CHỨNG ĐẠO CA: “VÔ TRỤ NIẾT BÀN VÀ MA HA BÁT NHÔ
________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________
Thiền Sư HUYỀN GIÁC--Trang | 165 --Kiến Giải: NGỘ THÂM
Dụng của TÁNH tức là TÂM giống như cái THÂN phải có đủ hai cánh tay
Mặt và Trái tức Chân Không và Diệu Hữu. Như vậy thấy Chân Không Rỗng
Thênh không một vật cũng chưa đủ, phải thấy luôn cả cái Diệu Hữu sinh ra
Pháp Thế Gian, đi vào đời độ chúng với gót chân dính đất của Thế Gian mà
không ô nhiễm. Có thể phân tích cái Sở Ngộ của Lục Tổ qua ba lớp cửa . 1-
Sơ Quan : khi đi bán củi nghe Ông Viên Ngoại đọc Kinh Kim Cang, Ngài có
Sở Ngộ đầu tiên. 2-Trùng Quan : khi đến Ngũ Tổ Hoằng Nhẫn giã gạo ở
chùa trong 8 tháng, Ngài nhận ra cái cửa Rõ hay cửa Vô Vi. 3-Lao Quan : khi
Ngũ Tổ giảng lại Kinh Kim Cang vào lúc canh ba với chỉ một mình Lục Tổ ,
Ngài thâm nhập vào cửa Không là Triệt Ngộ. Thiền Sư Sư Bị (Tông Nhất) khi
thấy vị Sư Huynh là Tuyết Phong chưa Ngộ Triệt nên đã nhiều lần nhắc nhở
khéo: “Hòa Thượng gót chân chưa dính đất”. Một khi đã Triệt Ngộ thì dù
có đi vào đời gặp nhiều giông tố hay phiền não của Thế Gian để độ đời thì vẫn
an nhiên tự tại, hay có giả làm người khùng điên như Tế Điên Hòa Thượng thì
Tánh Phật vẫn không bị ô nhiễm:
“Minh minh thường tự tại
Diệc niết mục tác quái
Kiến quái bất kiến quái
Kỳ quái tất tự hoại”.
(Rõ ràng thường tự tại.
Cũng dụi mắt làm quái
Thấy quái, chẳng thấy quái
Kỳ quái ắt tự hoại).
Đài số 5 ứng với tần số sóng của Người hay Nghiệp Thức loài Người,
màn ảnh truyền hình hiện ra loài Người Ảo và thế giới loài Người Ảo, chỉ là
cái Bóng trên màn ảnh, là Mê. Khi Giác Ngộ hay tắt điện hoặc tắt sóng thì Sắc
Tướng trên màn ảnh truyền hình hay màn ảnh của Tâm Thức mất trở về
Không: “Sắc tức thị Không”. Chính cả cái Tâm Thức này cùng mất trở về
Không, kiến Tánh thành Phật.
Từ cái Quang Minh tịch chiếu, bất giác một niệm Vô Minh nổi lên
trùng trùng duyên khởi ra thế giới và chúng sinh trong 6 nẻo luân hồi chìm
đắm vào bóng Mê với thân ảo, thế giới ảo, không có cách nào thoát ra
được. Vì càng Tác, càng động thì niệm niệm lại sinh ra, thế giới Mộng lại
càng sinh, chúng sinh trong Mộng lại càng điên đảo. Giống như Mặt Biển
càng động là sóng càng nổi lên. Do đó phải buông niệm, vô tác tức trở về “
Vô Niệm”, như “cánh cửa Vô Niệm” của Lục Tổ Huệ Năng, giống như ngừng
tác động thì Mặt Biển từ từ yên lặng trở lại. Lục căn thì điên đảo, vì nó cùng
KIẾN GIẢI CHỨNG ĐẠO CA: “VÔ TRỤ NIẾT BÀN VÀ MA HA BÁT NHÔ
________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________
Thiền Sư HUYỀN GIÁC--Trang | 166 --Kiến Giải: NGỘ THÂM
tần số với Nghiệp Thức chúng sanh, Lục căn vừa khởi niệm, dù cho niệm đầu
hay niệm cuối vẫn là điên đảo thì Vô Minh liền tới, hiện ra thế giới Mê:
“Quang Minh tịch chiếu biến hà sa
Phàm Thánh hàm linh cộng ngã gia,
Nhất niệm bất sinh toàn thể hiện,
Lục căn tài động bị vân già”. (Trương Chuyết).
(Quang minh lặng chiếu khắp hà sa,
Phàm Thánh hàm linh vốn chung nhà.
Một niệm chẳng sinh, toàn thể hiện,
Lục căn vừa động bị che lòa).
Như vậy “ Vô Niệm” thì tất cả trở về nguyên thủy, trở về cái Gốc của
Bản Tánh Chân Như, trở về Không, trở về cái “Rỗng Thênh Không Thánh”,
tức là ngộ nhập cái: ‘ Ma Ha Bát Nhã Ba La Mật Đa”. Lúc đó thì Thân không,
Tâm không, Pháp cũng không: Tâm Pháp đều không thấy Tánh thành Phật.
Đạt được TÂM KHÔNG nầy xem như đã TU đến tận Gốc rồi không
cần phải TU cái Ngọn. TU mà xem như Không TU. Không TU theo pháp thế
gian nhưng lại TU theo Phật CỔ ĐÀM, chư TỔ và Thiền Sư. Không TU theo
hình tướng cầu xin cúng lạy Phật tướng bên ngoài dù cho Phật tướng ấy bằng
vàng ròng, ngọc thạch, châu báu hay kim cương…Nhưng TU Phật nơi “ TỰ
TÂM” vì “TỨC TÂM TỨC PHẬT” và “KHÔNG TÂM là ĐẠO”.
Thật ra nên bỏ luôn chữ TU, vì chữ TU chỉ là tự sửa mình của người
thế gian; một nghĩa khác: TU là hành trì một Pháp môn nào đó của một Tôn
Giáo.Thời Đức Phật không có hành trì cúng tế lễ bái như các Tôn Giáo . Đức
Phật chỉ đi tìm Chân Lý Giải Thoát bằng cách đi du phương tìm học Đạo Lý
và cuối cùng Ngài ngồi dưới gốc cây Bồ Đề suốt 49 ngày để tư duy, quán
chiếu và tìm ra Chân Lý Giải Thoát bằng Thực Chứng. Khi thành Đạo rồi,
Ngài cũng không có lập Tôn Giáo và tự xưng mình là Giáo Chủ, mà chỉ là
Ông Thầy chỉ đường (Thiên Nhân Sư), không có dạy cúng bái tế lễ như các
Tôn Giáo thời bấy giờ, mà chỉ đi thuyết Pháp độ chúng sinh, cứu chúng sanh
ra khỏi đường Mê và giải thoát sinh tử. Các vị Tổ và vô số Thiền Sư ngộ Đạo
cũng thế, không có hành trì hay TU ĐẠO. So với các Tôn Giáo thì xem như
Đức Phật và Thiền Sư không TU không TÁC. Đạo Lý của Đức Phật chỉ có
một vị duy nhất là GIẢI THOÁT, lấy TRÍ TUỆ và TỪ BI làm gốc, không mê
tín dị đoan.
“Kiến Đạo phương tu Đạo
Bất kiến phục hà tu
Đạo tánh như Hư Không
Hư không hà sở tu
KIẾN GIẢI CHỨNG ĐẠO CA: “VÔ TRỤ NIẾT BÀN VÀ MA HA BÁT NHÔ
________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________
Thiền Sư HUYỀN GIÁC--Trang | 167 --Kiến Giải: NGỘ THÂM
Biến quán tu Đạo giả
Bác hỏa mích phù âu
Đản khán lộng khối lỗi
Tuyến đoạn nhất thời hưu”
(Bài kệ không TU không TÁC của Thiền Sư Bổn Tịnh).
(Thấy Đạo mới Tu Đạo
Chẳng thấy lấy gì Tu
Tánh Đạo như Hư Không
Hư không Tu chỗ nào
Khắp nơi người Tu Đạo
Vạch lửa tìm bọt nổi
Chỉ xem người gỗ máy
Đứt dây một lúc dừng).
Thiền Sư Bổn Tịnh từng chỉ Đạo cho một vị Tăng ở triều đình là Pháp
Không về cái ‘‘không Tu, không Tác’’:
‘‘Đạo vốn không Tu ,Đại Đức cưỡng Tu ; Đạo vốn không Tác, Đại
Đức cưỡng Tác ; Đạo vốn không Sự, Đại Đức cưỡng sanh đa Sự ; Đạo vốn
không Biết ở trong ấy cưỡng Biết ,thấy hiểu như thế cùng Đạo trái nhau…, tự
Đại Đức không hội, xin suy gẫm lại ’’.
Thiền Sư Bảo Giám, môn phái Thiền Vô Ngôn Thông đời thứ 9, kế
thừa Thiền Sư Đa Vân. Làm Quan đến chức Cung Hậu Xá Nhân đời Vua Lý
Anh Tông. Năm 30 tuổi Sư từ Quan đến Chùa Bảo Phú xuất gia. Sư thường
dạy chúng: “Muốn tiến đến Tông Thừa của Phật thì phải siêng năng,
nhưng thành Phật Chánh Giác phải nhờ Trí Tuệ. Ví như nhắm bắn cái
đích ngoài trăm bước, mũi tên đến được là nhờ sức mạnh, nhưng trúng
được đích không phải do sức”. Khi sắp tịch, Sư nói kệ:
“Đắc thành Chánh Giác hãn bằng Tu,
Chỉ vị lao lung, Trí Tuệ ưu.
Nhận đắc Ma Ni huyền diệu lý,
Chỉ như Thiên Thượng hiển Kim Ô.
Trí giả du như Nguyệt chiếu Thiên,
Quang hàm trần sát chiếu vô biên.
Nhược nhân yếu thức tu phân biệt,
Lãnh thượng phù sơ tỏa mộ yên.
(Được thành Chánh Giác “ít nhờ Tu”,
Ấy chỉ nhọc nhằn, “Trí Tuệ ưu”.
Nhận được Ma Ni lý huyền diệu,
Ví thể trên không hiện vầng hồng.
KIẾN GIẢI CHỨNG ĐẠO CA: “VÔ TRỤ NIẾT BÀN VÀ MA HA BÁT NHÔ
________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________
Thiền Sư HUYỀN GIÁC--Trang | 168 --Kiến Giải: NGỘ THÂM
Trí giả khác nào Trăng rọi Không,
Chiếu soi khắp cõi sáng không ngần.
Nếu người cần biết, nên phân biệt,
Khói mù man mác phủ non chiều).
Thế gian thường chấp vào Hình Tướng bên ngoài mà cho là Tu, trong
Kinh Kim Cang, Phật nói :
“Nhược dĩ Sắc kiến Ngã
Dĩ âm thanh cầu Ngã
Thị nhân hành Tà Đạo
Bất năng kiến Như Lai”.
(Nếu do Sắc thấy Ta
Do âm thanh cầu Ta
Người ấy hành Đạo Tà
Không thể thấy Như Lai).
Tuy nhiên trong Kinh, Phật có khuyên chúng sinh xây dựng Già Lam,
đúc tạc Hình Tượng, đốt Hương, rắc Hoa, chong Đèn sáng mãi…đủ thứ Công
Đức mới thành Phật Đạo. Theo Tổ Bồ Đề Đạt Ma: Vì chúng sinh căn cơ cùn
lụt nên Phật phương tiện, mượn Pháp Hữu Vi làm thí dụ cho Pháp Vô Vi,
nhưng chúng sanh lại “hiểu lầm”, làm trái ý Phật.
- Xây dựng Già Lam : Là lấy Thân làm ngôi Chùa, nơi thanh tịnh
địa, xa lìa Tam Độc, tịnh Sáu Căn, Thân Tâm vắng lặng như Hư Không.
- Đúc tạc Hình Tượng : Tức là phỏng theo Chân Dung diệu tướng của
Như Lai, không phải đúc vàng, tạc ngọc làm Tượng Phật. Người cầu Đạo phải
biết lấy Thân làm Lò Đúc, lấy Pháp làm Lửa, lấy Trí Tuệ làm Tay Thợ
Khéo, lấy Ba Giới Tụ Tịnh - Sáu Ba La Mật làm Khuôn Đúc, nấu chảy và
rèn đúc chất Chân Như Phật Tánh ở trong Thân thành hình tượng của Chân
Dung, là Pháp Thân thường trụ vi diệu.
- Việc đốt Hương : Không phải là dùng lửa đốt gỗ trầm hương xông
khói mù mịt của Thế Gian, mà là Hương của Pháp Vô Vi (Hương Chánh
Pháp) xông lên làm cho Nghiệp dữ Vô Minh tiêu mất. Đó chính là: Hương
Giới, Hương Định, Hương Huệ, Hương Giải Thoát và Hương Giải Thoát
Tri Kiến. Khi còn tại thế, Phật khuyên các Đệ Tử lấy lửa Trí Tuệ đốt thứ
Hương Báu vô giá này để cúng dường Chư Phật mười Phương.
- Việc rắc Hoa : Là hoằng dương Chánh Pháp, rải rắc gieo trồng khắp
nơi : “Thí Pháp độ sanh”. Hoa Công Đức này làm lợi ích cho vô số chúng
sanh dứt trừ phiền não, phá được Vô Minh đi đến Giải Thoát. Hoa Công Đức
mà Phật xưng tán, mùi hương tỏa khắp mười phương không bao giờ héo rụng,
KIẾN GIẢI CHỨNG ĐẠO CA: “VÔ TRỤ NIẾT BÀN VÀ MA HA BÁT NHÔ
________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________
Thiền Sư HUYỀN GIÁC--Trang | 169 --Kiến Giải: NGỘ THÂM
rốt ráo thường trụ. Còn việc chặt cây, bẻ nhánh để dâng Hoa cúng Phật của
Thế Gian, xúc phạm đến tịnh giới của muôn tượng muôn vật trong Trời Đất,
hủy phá tự nhiên, gây hại cho muôn loài để cầu Phước Báu thì không thể nào
có mà còn tạo thêm Nghiệp xấu.
- Chong Đèn sáng mãi: Cái Ánh Sáng của viên ngọc Ma Ni hay cái
Ánh Rõ Bát Nhã dụ cho ngọn Đèn Tâm, người tìm cầu Đạo Giải Thoát phải
lấy Thân làm Đèn, Tâm làm Tim Đèn, Giới Hạnh làm Dầu đốt. Trí Tuệ sáng
tỏ như ngọn Đèn Chánh Giác chiếu phá tất cả Bóng Đen của vô minh nghiệp
chướng, chuyển Pháp Luân mồi sáng cho nhau, một ngọn Đèn mồi qua trăm
ngàn ngọn Đèn, Đèn Đèn vô cùng vô tận, phát lên ánh Bát Nhã Chân Như vi
diệu trùm khắp. Phật tên Nhiên Đăng cũng theo nghĩa đốt Đèn nầy. Còn Phật
Thích Ca phóng Hào Quang giữa đôi mi chiếu suốt ba ngàn Thế Giới, đó là
Ngọn Đèn Trí Tuệ Bát Nhã. Chúng sanh không hiểu lời nói phương tiện của
Phật lại bày vẽ theo Hình Tướng đốt lên Đèn dầu, Đèn điện soi vào căn nhà
trống nói làm theo lời Phật, mà Trí Tuệ vẫn mờ tối,Tam Độc vẫn còn nguyên.
Ngoài việc chấp vào Hình Tướng mà cho là Tu, Thế Gian còn chấp cả
Kinh Phật và y theo lời Kinh mà không hiểu rõ ý Kinh, cho là Tu theo lời Phật
dạy. Phật từng nói : “Đạt Ý quên Lời.” ; hoặc : “Biết Ta mà không hiểu Ta
tức là hủy báng Ta.” ; hoặc : “Y Kinh mà hiểu nghĩa thì oan cho ba đời Chư
Phật, nhưng sai đi một chữ lại đồng với Ma thuyết.”. Chính Phật cũng nói :
“Ta nói các ngươi đừng vội tin, hãy thử lời nói của Ta như thử vàng, đập
nó vào đá, phân tích nó, nấu chảy nó, nếu nhận xét thấy nó đúng, hợp lý, có
lợi ích thì mới tin”.
Phật dạy : “Ta đã trải qua ba Đại A Tăng Kỳ Kiếp, chịu vô số khổ
nhọc mới thành được Phật Đạo”. Thế Gian liền cho rằng chính Phật phải Tu
lâu tới ba Đại A Tăng Kỳ vô số kiếp mới Ngộ Đạo thành Phật, chúng ta là
phàm phu làm sao chỉ Tu có một kiếp mà thành Đạo được, cho nên cần phải
cầu Phật độ về một Cõi nào đó rồi mới Tu tiếp vài A Tăng Kỳ nữa mới Ngộ
Đạo như Phật. Điều này trong Phá Tướng Luận Tổ Bồ Đề Đạt Ma giải thích :
“Lời Phật nói ra không hề hư dối. A Tăng Kỳ Kiếp tức là Tâm ba độc
(Tham, Sân, Si). Từ trong Tâm ba độc ấy, có đủ thứ “niệm ác” nhiều như
cát sông Hằng. Ở mỗi một niệm ấy là một kiếp, vậy là có hằng hà số kiếp
đếm không xuể, nên nói ba Đại A Tăng Kỳ. Tánh Chân Như bị ba độc che
khuất. Nếu chẳng vượt lên Tâm đại hằng hà sa độc ác ấy thì làm sao giải
thoát. Nếu nay “chuyển được ba độc Tham Sân Si” làm “ba món Giải
Thoát”, đó gọi là vượt qua ba Đại A Tăng Kỳ Kiếp. Chúng sanh ở thời đại
cùng mạt này, căn trí ngu si, cùn lụt, không nhận được ý sâu kín của Như
Lai trong câu nói "Ba Đại A Tăng Kỳ", nên nghĩ Như Lai phải qua vô số
KIẾN GIẢI CHỨNG ĐẠO CA: “VÔ TRỤ NIẾT BÀN VÀ MA HA BÁT NHÔ
________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________
Thiền Sư HUYỀN GIÁC--Trang | 170 --Kiến Giải: NGỘ THÂM
kiếp như cát bụi mới thành Phật, điều ấy hà chỉ khiến người tu ngờ hão mà
lùi bước Bồ Đề sao?”.
Trong khi đó, Pháp Đốn Ngộ của Thiền Sư chỉ cần một sát na, một
cái nháy mắt là đã rũ xong Ba A Tăng Kỳ Kiếp.
“Chứng Thực Tướng , vô nhân pháp,
Sát na diệt khước A Tỳ Nghiệp.
Nhược tương vọng ngữ cuống chúng sanh,
Tự chiêu bạt thiệt trần sa kiếp”.
(Thiền Sư Huyền Giác).
(Chứng Thực Tướng, không nhân pháp,
Sát na rũ sạch A Tỳ Nghiệp.
Bằng đem lời vọng dối chúng sanh,
Tội rút lưỡi nguyện mang cùng kiếp).
Thời Đức Phật có rất nhiều người Ngộ Đạo.Sau khi chứng Chánh
Đẳng Chánh Giác, Đức Phật đi tìm lại những Vị Thầy và những Hành Giả cũ
để giúp đỡ họ. Tuy nhiên những Vị Thầy này đã qua đời. Khi gặp lại năm anh
em Kiều Trần Như, chỉ bài Pháp đầu tiên là Tứ Diệu Đế, cả năm người đều
tỉnh thức và Chứng Đạo. Rồi sau này những Vị Đại Đệ Tử và các Sa Môn đi
theo Ngài, rất nhiều người đã Chứng Đạo. Cho đến những người đã bị Ngoại
Đạo và xã hội từ chối, bị miệt thị là “tiện dân” như kỹ nữ Liên Hoa Sắc từng
ở trong một kỹ viện, Ưu Ba Ly là người chuyên gánh phân …đều Ngộ Đạo.
Sau Đức Phật, ở Ấn Độ, trải qua 28 đời các Vị Tổ Sư, ngoài các Vị Tổ có rất
nhiều người cũng Chứng Đạo mà không cần phải Tu đến ba Đại A Tăng Kỳ…
Ngay thời của Ngài Huyền Giác hay Tổ Huệ Năng, được coi là Mạt Pháp cũng
có rất nhiều người Ngộ Đạo trong một kiếp hiện sinh, khi họ gặp được Chánh
Pháp và Chân Sư.
Thật ra Mạt Pháp, Tượng Pháp hay là Chánh Pháp không thành vấn
đề, miễn là có người Ngộ Đạo ra đời thì Mạt Pháp là Chánh Pháp.Cũng như
thời Đức Phật và trước Đức Phật không có một người Ngộ Đạo và có tới 96
mối Đạo thì quả là Mạt Pháp. Nhưng có Phật Thích Ca đầu tiên Ngộ Đạo ra
đời thì ngay đó là Chánh Pháp. Thế Gian cho thời nay là Mạt Pháp, rất khó Tu
Thiền và rất khó Ngộ Đạo ở Cõi Ta Bà, do đó phải cầu cứu nơi Phật để Phật
đưa về một cõi khác dễ Tu hơn và không bị thoái chuyển…Tuy nhiên, Đức
Phật khi Chứng Đạo đã khám phá ra một Chân Lý tuyệt vời : “Tất cả chúng
sanh đều có Phật Tánh bình đẳng, Ta là Phật đã thành, chúng sanh là
Phật sẽ thành”. Như vậy chúng sanh đã có sẵn hạt giống Phật thì gieo trồng
nơi nào mà không lên, vã lại cõi Ta Bà nầy, nơi Ông Cha đã từng gieo hạt
KIẾN GIẢI CHỨNG ĐẠO CA: “VÔ TRỤ NIẾT BÀN VÀ MA HA BÁT NHÔ
________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________
Thiền Sư HUYỀN GIÁC--Trang | 171 --Kiến Giải: NGỘ THÂM
Phật và hạt Phật đã nẩy mầm kết trái, tại sao Con Cháu phải bỏ đi Ruộng Đất
của Cha Ông đã từng gieo hạt và thành công để đi một nơi nào đó thật xa,
không biết , không thấy, chỉ nghe nói để gieo hạt giống Phật? Là Phật Con có
dòng máu Phật, ít nhiều cũng phải có chút Trí Tuệ Phật thì phải có quyền nghi
ngờ, tư duy và quyền chọn lựa! Có một điều là từ Phật, Tổ và Thiền Sư khi
Chứng Đạo thì tự biết. Cũng như bất cứ một hành giả nào đi tìm Đạo, khi
Chứng Đạo hay chưa Chứng, hoặc Thân Tâm mình đang ở mức độ nào đều
biết rõ ràng, như một người đang ngủ mê khi thức dậy là tự biết mình đã thức
không cần phải hỏi ai cả. Tức là ngay khi còn sống có đủ Thân Tâm hay Sáu
Căn là đã biết mình Chứng Đạo hay là chưa và tự biết mình đã làm gì có đi
vào ba đường ác hay không ? Thí dụ như suốt đời chỉ làm điều thiện, tránh
điều ác… thì người đó đi từ chỗ sáng đi về sáng ; còn như trộm cướp giết
người…thì người đó đi từ chỗ sáng tới chỗ tối, đúng theo luật Nhân Quả...
Như vậy có vẻ chắc chắn hơn là đợi đến lúc lâm chung, Thân Tâm hay
Sáu Căn không còn hoạt động nữa rồi mới biết mình đi về đâu thì e rằng quá
muộn, hay rất khó mà biết hay tin được. Bên trời Tây, có triết gia người Đức
tên là Feuerbach Ludwig Andreas thế kỷ 19, Ông không tin vào Tôn Giáo, vì
chỉ dựa vào Đức Tin hay Niềm Tin suông mà không có Thực Chứng hay Thực
Nghiệm như Khoa Học. Ông phê phán gắt gao Đức Tin Tôn Giáo chẳng hạn
như : Thực sự có Thượng Đế và Thiên Đàng hay không ? Ông cho rằng Con
Người vì lười biếng suy nghĩ, không chịu tư duy nghiên cứu… đã dựng lên
một “Bức Bình Phong” rồi “Siêu Cực Hóa” Bức Bình Phong ấy thành một
Đấng Thượng Đế có toàn năng toàn lực và giàu có. Rồi sau đó bất cứ điều gì
hay chuyện gì đều “giao khoán” hay “phó thác” cho Đấng Thượng Đế mà
mình vừa tạo ra. Chẳng hạn những hiện tượng thiên nhiên như : mưa gió, sấm
sét, bão lụt, hạn hán, động đất, sóng thần, ngay cả bệnh dịch hay chiến tranh
đều phó thác cho là Vị Thượng Đế đó làm ra để hình phạt loài Người. Trong
khi Con Người thì trở nên nghèo nàn đi, bất lực và yếu đuối trước một
Thượng Đế giàu sang, đầy quyền lực. Khi đó, Feuerbach cho rằng Con Người
nếu chịu khó tư duy suy nghĩ và có óc sáng tạo thì mọi việc sẽ ra ánh sáng.
Thí dụ như Trời mưa là do Nước bốc hơi thành mây rồi ngưng tụ, rơi xuống.
Sấm sét là do các đám mây mang điện tích dương của ion H+ và điện tích âm
của ion O- do phân tử Nước (H2O) tách ra khi ở thể khí, hai loại mây mang
điện tích âm và dương nầy khi gặp nhau cho ra tia điện nổ thành sấm sét hay
Trời gầm. Bệnh dịch là do một loại virus gây truyền nhiễm lan rộng ra, phải
nghiên cứu chế thuốc vaccine để ngăn trừ hơn là chỉ ngồi cầu Thượng Đế cứu
rỗi. Có suy nghĩ, nghiên cứu, phân tích như thế thì Thượng Đế sẽ chết, không
còn chỗ đứng trong vũ trụ này nữa. Do đó Thượng Đế chỉ là sự Thể Hiện của
Bóng Tối ngu dốt hay sự ‘‘Lười Biếng Tri Thức’’ của Con Người. Còn Tri
KIẾN GIẢI CHỨNG ĐẠO CA: “VÔ TRỤ NIẾT BÀN VÀ MA HA BÁT NHÔ
________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________
Thiền Sư HUYỀN GIÁC--Trang | 172 --Kiến Giải: NGỘ THÂM
Thức Con Người hay Tri Thức Khoa Học là sự Thể Hiện của Ánh Sáng Chân
Lý, hay Sự Thật, do đó suy ra không có Thượng Đế, mà chính Con Người là
Thượng Đế ! Quan điểm táo bạo của Feuerbach giống Phật Pháp ở điểm chỉ
tin vào Trí Tuệ và có Thực Chứng hay Thực Nghiệm như Khoa Học hơn là
chỉ Tin để mà Tin hay chỉ là Đức Tin suông, mặc dù đó là Truyền Thống lâu
đời hay Sách Vở, Kinh Thư cổ xưa để lại.
Trong Chứng Đạo Ca, Ngài Vĩnh Gia Huyền Giác, một Thiền Sư đã
‘‘Chứng Đạo’’ chỉ rõ : Ngọn Đèn Tâm từ Phật Thích Ca trao cho Tổ Ca Diếp,
rồi truyền qua 28 đời ở Tây Trúc, vào Trung Hoa với Bồ Đề Đạt Ma là Sơ Tổ,
qua sáu đời truyền Y Bát cho tới Lục Tổ Huệ Năng, nếu nghe theo thì người
sau sẽ Đắc Đạo nhiều vô số.
“Lục đại truyền y thiên hạ văn
Hậu nhân Đắc Đạo hà cùng số” .
(Sáu đời truyền y thiên hạ nghe”.
Người sau Đắc Đạo nhiều vô số).
Như vậy Hậu Thế nên nghe Thiền Sư Huyền Giác “Đã Chứng Đạo” ,
khai thị hay nghe người Thế Gian “Chưa Chứng Đạo” chỉ dạy ?
Đạo Phật là Đạo của Trí Tuệ: “Duy Tuệ thị Nghiệp”. Do đó là Phật
Con phải dùng Trí Tuệ để quán chiếu sâu sắc mọi sự việc không nên tin bừa
bãi vào bất cứ việc gì mà lạc vào mê tín, làm trái ý Phật và vô tình làm cho
chúng sanh thụ động đánh mất cái “Phật Tánh” hoặc làm chết đi cái “Phật
Tánh” của chúng sanh mà Đức Như Lai đã khám phá ra: vì Mê nên cõng Phật
đi lạy Phật, cởi Trâu đi tìm Trâu…
Thật ra Đức Phật muốn chúng sanh có sẵn Phật Tánh đều là “Phật
Con” chứ không là “Con Phật”, bởi có câu: “Cha làm Thầy, Con đốt
Sách”. Vì ỷ lại là “Con Phật” nên bê tha, không chịu học hành rèn luyện Trí
Tuệ và Đức Hạnh, ham vui chơi với đời và bạn bè xấu, bị Lục Trần và Ngũ
Dục trói buộc , Tánh Phật bị ô nhiễm bởi Vô Minh và Nghiệp Chướng dày đặc
che khuất không còn sáng suốt, có chuyện phiền não sợ hãi lại đi cầu Phật.
Còn “Phật Con” thì đã là Phật rồi, hạt giống Phật tức “Phật Tánh” đã nẩy
“mầm” tuy còn non, nhưng Pháp Trần không thể ô nhiễm, Trí Tuệ vượt khỏi
Vô Minh, giống như Sư Tử Con mặc dù Tuổi còn nhỏ, Thân còn non, nhưng
tiếng “Hống” lại khỏe mạnh, sắc bén và đầy hùng lực muông thú nghe qua
khiếp đảm, rớt hết Tâm Mê.
“Sư Tử nhi, chúng tùy hậu,
Tam tuế tiện năng đại hao hống.
Nhược thị dã can trục Pháp Vương,
Bách niên yêu quái hư khai khẩu”.
(Thiền Sư Huyền Giác).
KIẾN GIẢI CHỨNG ĐẠO CA: “VÔ TRỤ NIẾT BÀN VÀ MA HA BÁT NHÔ
________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________
Thiền Sư HUYỀN GIÁC--Trang | 173 --Kiến Giải: NGỘ THÂM
(Sư Tử Con chúng theo Mẹ,
Tuổi mới lên ba đà hống khỏe
Chó rừng dầu bén gót Pháp Vương,
Trăm năm yêu quái há mồm suông).
Nếu tất cả chúng sanh đều là Phật Con hay Sư Tử Con như thế thì mới
thật xứng đáng là đã mang dòng máu Phật, tức hạt giống Phật Tánh, và Phật
Tánh này ở ngay nơi Tự Tâm tận đầu nguồn, khi đó Tức Tâm Tức Phật. Cho
nên không cần phải tìm Phật bên ngoài hay cầu Phật bên ngoài Tâm. “Phật
Con” như thế mới là Bản Lĩnh của Phật Tánh, xứng đáng là Con Cháu của
Phật, Tổ và Thiền Sư ngoại hạng:
“Ta thà cầu Tâm chẳng cầu Phật
Rõ ra ba cõi không một vật
Nếu muốn cầu Phật, thà cầu Tâm
Chỉ Tâm Tâm, Tâm ấy tức Phật”.(Bồ Đề Đạt Ma).
Bởi vậy, Kinh Phật phải qua tay Người đã Ngộ Đạo như các Tổ và
Thiền Sư thì trở thành “Pháp Bảo” của Phật, nhưng qua tay người chưa Ngộ
Đạo, hay lời truyền tụng hoặc truyền thống của Thế Gian thì nên xét lại. Phật
Pháp có câu: “Tùng Văn Tư Tu, Nhập Tam-Ma-Địa”. Nghĩa là trước tiên
hãy VĂN tức là nghe, đọc, tham cứu, truy cứu, truy tìm… rồi mới TƯ tức là
tư duy, suy nghĩ, phân tích, so sánh cho thật kỹ… đạt đến “Chánh Tín” rồi
mới TU; nhưng cũng không TU theo Pháp Thế Gian mà theo “Dấu Chân”
của Phật Cồ Đàm, các Tổ và Thiền Sư. Như thế mới khỏi lạc vào Mê Tín hay
Cuồng Tín, uổng phí cả một đời người hay một đời Tu. Một điều vô cùng lợi
ích là đã có Phật, các Tổ và vô số Thiền Sư Ngộ Đạo để lại biết bao nhiêu
Tàng Kinh, Luận Thuyết vô giá, chỉ đường rõ ràng. Nếu không may mắn gặp
được một Vị Thầy Ngộ Đạo chỉ dẫn hay khai thị thì chia sẻ cùng Thiện Hữu
Tri Thức, nhưng phải “ Độc hành độc bộ” như Đức Phật, Chư Tổ và Thiền
Sư đã làm.
Dù cho gặp thời Mạt Pháp thật sự, Phật pháp bị suy đồi như Ngài
Huyền Giác than trách trong thời đại của Ngài:
“Ta ! Mạt Pháp, ác thời thế
Chúng sinh phước bạc nan điều chế.
Khứ thánh viễn hề, tà kiến thâm
Ma cường, Pháp nhược đa oán hại”.
(Than ôi! Mạt Pháp, thời thế ác
Chúng sinh phước mỏng khó điều phục
Xa cách Hiền Thánh, tà kiến sâu
Ma mạnh, Pháp yếu, nhiều ác tệ).
KIẾN GIẢI CHỨNG ĐẠO CA: “VÔ TRỤ NIẾT BÀN VÀ MA HA BÁT NHÔ
________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________
Thiền Sư HUYỀN GIÁC--Trang | 174 --Kiến Giải: NGỘ THÂM
Khi đó Pháp Viên Đốn của Như Lai do Đức Phật truyền cho Tổ Ca
Diếp đến Tổ Đạt Ma rồi Lục Tổ Huệ Năng…bị thế gian xuyên tạc, thù ghét,
thậm chí còn bị hãm hại ( như Tổ Đạt Ma bị thuốc độc tới 6 lần).
“Văn thuyết Như Lai đốn giáo môn
Hận bất diệt trừ như ngõa toái”.
(Nghe nói Như Lai phép đốn tu
Hận chẳng nghiền tan như ngói bể).
Cũng khi đó Pháp Đốn Ngộ “ Vô Niệm” của Lục Tổ Huệ Năng bị
thế gian xuyên tạc gièm xiểm đến nỗi có người đến rình rập để hạ sát Ngài
(Trương Hành Xương - Chí Triệt) và mấy trăm năm sau, người ta vẫn còn tìm
nhục thân của Ngài để xúc phạm. Pháp Đốn Ngộ của Tổ lấy Vô Niệm làm
Tông, Vô Tướng làm Thể, Vô Trụ làm Gốc. Vô Niệm là ngay nơi niệm lìa
niệm, nghĩa là đối với cảnh trần, Tâm chẳng nhiễm, trong niệm lìa cảnh,
chẳng vì đối cảnh sanh Tâm. Vô Tướng là đối với tướng mà Tâm lìa tướng, lìa
được tướng thì Pháp Thể thanh tịnh, đó là lấy Vô Tướng làm Thể. Vô Trụ là
đối với tất cả pháp niệm niệm chẳng trụ , không bị trói buộc, đó là lấy Vô Trụ
làm Gốc. Thật ra người thế gian lấy bụng phàm mà luận Thánh, không hiểu
thấu được hai chữ “ Vô Niệm” của Lục Tổ. Tổ nói: “Vô niệm niệm tức
chánh, hữu niệm niệm thành tà”. Vô Niệm hiểu đúng như Tổ nói cũng tức là
Chánh Niệm . Đại Thừa Khởi Luận có câu: “Nếu được Vô Niệm gọi là
chứng nhập Chân Như”. Kinh Viên Giác cũng có dạy: “Lắng lòng Vô Niệm
là tùy thuận Viên Giác Tánh”. Khi thấy rõ Bản Tâm tức là giải thoát, là đạt
được Bát Nhã Tam Muội tức Vô Niệm. “ Vô Niệm là thấy tất cả Pháp mà
Tâm không nhiễm vương, dính níu” . Do đó, Vô Niệm không phải là dứt bặt
hết tư tưởng, không nghĩ ngợi gì hết như một số người lầm tưởng mà Vô
Niệm tức là Niệm Chân Như. Tổ nói : “Chân Như Tự Tánh khởi niệm thì 6
căn tuy có thấy nghe hiểu biết mà chẳng nhiễm muôn cảnh. Nên Kinh
nói :Phân biệt được các Pháp mà cái Tánh thanh tịnh Niết Bàn chẳng
động ”. Tổ nói tiếp : “Vô là không hai tướng, không có cái Tâm trần lao.
Niệm là niệm Chân Như Bản Tánh, Chân Như là Thể của niệm, niệm là
Dụng của Chân Như. Tự Tánh Chân Như khởi niệm, chứ không phải mắt
tai mũi lưỡi khởi niệm được. Chân Như có Tánh, cho nên khởi Niệm….Tự
Tánh Chân Như khởi niệm, thì 6 căn tuy có thấy nghe hiểu biết mà không
nhiễm vạn cảnh, Chân Tánh thường tự tại".
Điểm quan trọng là biết Tâm vốn là vọng là huyễn nên không chấp,
chứ không phải chạy theo nó để chống hoặc để diệt. Vì vậy cần hiểu Vô Niệm
là đối cảnh mà Tâm không nhiễm, không loạn, chứ không phải là lo diệt bằng
cách không khởi suy nghĩ để đạt đến Tâm không- là ngoan không hay vô ký
KIẾN GIẢI CHỨNG ĐẠO CA: “VÔ TRỤ NIẾT BÀN VÀ MA HA BÁT NHÔ
________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________
Thiền Sư HUYỀN GIÁC--Trang | 175 --Kiến Giải: NGỘ THÂM
cũng thuộc về Tà niệm, khác với Tâm “Không” là Tâm không nhiễm vạn
cảnh khi đối cảnh là Tâm Gốc là Phi Tâm hay Vô Tâm, tức là Tâm mà Phi
Tâm hay Tâm mà Vô Tâm : Vô Tâm nơi Sự, vô Sự nơi Tâm. Ở Pháp hội Linh
Sơn, Đức Phật giơ Cành Hoa Sen lên, Tổ Ca Diếp nhận ngay “tức thì” cái
Ánh Rõ Bát Nhã nơi Cành Hoa Sen bởi cái Tâm Không, cái Tâm mà Vô Tâm
hay cái Tâm Vô Niệm này. Lúc đó Sáu Căn bất động không khởi niệm, nhưng
Tánh Chân Như khởi “ Vô Niệm” niệm ngộ nhập Bát Nhã . Đối với cái nhìn
thông thường của phàm phu trên Cành Hoa Sen lúc Đức Phật khai thị là cái
“nhìn ra” ngọn Tâm bằng cái thấy của nhãn thức trên cái hình tượng của Hoa
Sen rồi khởi niệm phân biệt , phân tích hình dáng màu sắc đẹp xấu qua Sáu
Căn để “nhìn ra” Cành Hoa Sen “thông qua cái Kính Nghiệp của Sáu
Căn ”. Trong khi đó Tổ Ca Diếp cũng nhìn Cành Hoa Sen, về hình thức thì
cũng giống như nhìn ra ngoại cảnh tức nhìn ra ngọn Tâm. Tuy Sáu Căn có
thấy nghe hiểu biết, có phân biệt được các Pháp mà không nhiễm vạn cảnh,
tức là Tâm không động (Vô Tâm) và Sáu Căn không khởi niệm (Vô Niệm).
Chính khi vừa nhìn thấy Cành Hoa Sen mà Sáu Căn không khởi
niệm, cái Ánh Rõ Bát Nhã nơi Cành Hoa Sen thâm nhập tràn vào Sáu
Căn đang đồng loạt trống rỗng giống như nước tự tràn vào chỗ trũng
rỗng không. Điều này cũng giống như Tổ Ca Diếp tuy hình thức là nhìn ra
Cành Hoa Sen nhưng nội dung hay thực chất thì lại là “nhìn vào” Sáu Căn
của Thân Tâm từ cái Ánh Rõ Bát Nhã nơi Cành Hoa Sen, (tức là nhìn về Gốc
Tâm chứ không phải nhìn ra ngọn Tâm thông qua cái thấu kính Nghiệp của
Sáu Căn khởi động) và tức thì trong cái sát na ấy Ánh Bát Nhã này tràn ngập
cả Thân Tâm làm cho Phật Tánh hiện bày. Thân Tâm với Sáu Căn có Phật
Tánh tiềm ẩn giống như Chiếc Máy Truyền Hình nhận sóng vô tuyến phát ra
từ Đài Phát Sóng. Đài Phát Sóng ở đây là Ánh Rõ Bát Nhã nơi Cành Hoa Sen
phát ra Tần Số Bát Nhã truyền vào Sáu Căn đang mở cửa trống rỗng không
ngăn ngại, không chận bít vì không khởi niệm. Sáu Căn ở đây nhận sóng Bát
Nhã từ Cành Hoa Sen tức là “nhìn vào” Thân Tâm, khác với Sáu Căn khởi
niệm tức là “nhìn ra” ngoại trần. Tần Số Bát Nhã tức là Chân Như khởi niệm
từ Cành Hoa Sen cùng tần số với Chân Như Phật Tánh của Thân Tâm không
bị Sáu Căn ngăn ngại hoặc che mờ nên “bắt được sóng” với nhau tức là
“dung thông” với nhau làm cho Chân Như Phật Tánh khởi niệm phát lộ hòa
nhập với Ánh Rõ Bát Nhã đang trùm khắp Hư Không. Cái niệm Chân Như ,
hay cái “Vô Niệm” niệm khởi trước từ cái Ánh Rõ Bát Nhã nơi Cành Hoa
Sen chiếu vào Sáu Căn của Thân Tâm mà Thân Tâm trong cái sát na này lại
là Vô Thân và Vô Tâm tương ưng với cái “Vô Niệm” niệm làm phát lộ Phật
Tánh. Trong cái sát na đó nhất niệm Chân Như Phật Tánh duyên khởi hòa
nhập với Bầu Trời Rõ MA HA BÁT NHÃ làm MỘT. Chiếc Máy Truyền
KIẾN GIẢI CHỨNG ĐẠO CA: “VÔ TRỤ NIẾT BÀN VÀ MA HA BÁT NHÔ
________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________
Thiền Sư HUYỀN GIÁC--Trang | 176 --Kiến Giải: NGỘ THÂM
Hình bắt được sóng Bát Nhã nên hiện ra Tướng Bát Nhã.Thật ra đây không
phải là “nhìn vào” Thân Tâm tức là phản quang tự kỷ còn phải tư duy quán
chiếu mất nhiều thời gian, còn ở đây cái khai thị vô ngôn đột biến này của
Đức Phật chỉ xảy ra trong một sát na và trong cái sát na đó Tổ Ca Diếp đã ngộ
nhập Bát Nhã. Ở đây phải là cái “nhìn tắt” cái “nhìn trực tiếp”, cái
nhìn bằng “trí nhãn” không phải bằng ‘‘thức nhãn’’ thông qua con mắt
Nghiệp…tức là cái nhìn : ‘‘Trực chỉ Nhân Tâm kiến Tánh thành Phật’’.
Bởi vì lúc đó Tâm của Ngài Ca Diếp chính là Cành Hoa Sen, là Một, là bình
đẳng ; Thân của Ngài Ca Diếp cũng chính là Cành Hoa Sen, là Một, là Pháp
Thân thanh tịnh. Ngài Ca Diếp nhìn Cành Hoa Sen nhận ngay được Tâm
mình, nhận ngay được Thân mình và Tâm này là Tâm mà Phi Tâm tức Vô
Tâm ; Thân này là Thân mà Phi Thân tức Vô Thân hay Pháp Thân, tức thì
thấy Tánh, tức thì ngộ nhập Bát Nhã. Cành Hoa Sen chính là Bát Nhã, Thân
Tâm Ngài Ca Diếp lúc đó là Vô Thân, là Vô Tâm, chính là Bát Nhã. Thiền Sư
Huệ Hải chỉ rõ : “ Tất cả chỗ mà Vô Tâm, tức là Vô Niệm ”. Thiền Sư Hoàng
Bá cũng khai thị : “Cúng dường mười phương Chư Phật không bằng cúng
dường một Đạo Nhân Vô Tâm . Tại sao ? Người Vô Tâm là người Vô tất cả
Tâm, chẳng phải tuyệt không. Cái bản thể Như Như, bên trong như gỗ đá
chẳng lay chẳng động, bên ngoài như Hư Không, chẳng nghẽn chẳng ngại,
không năng sở, không phương sở, không tướng mạo, không được không mất…
Dụ cho Tâm này, tức cái Tâm của Vô Tâm, lìa tất cả tướng, chúng sanh và
Chư Phật chẳng có khác biệt, hễ được Vô Tâm thì đến cứu cánh…Chứng ngộ
được Tâm này có nhanh chậm, có kẻ nghe Pháp trong một niệm liền được Vô
Tâm, có kẻ đến thập địa mới được Vô Tâm. Lâu hay mau cũng phải đến Vô
Tâm mới xong. Lúc ấy mới biết vô tu, vô chứng, thật vô sở đắc…Tâm tự Vô
Tâm. Cũng chẳng có kẻ Vô Tâm, nếu đem Tâm làm cho Vô Tâm thì Tâm lại
trở thành có ”.
“Cư trần lạc Đạo thả tùy duyên
Cơ tắc xan hề khốn tắc miên
Gia trung hữu bảo hưu tầm mịch
Đối cảnh Vô Tâm mạc vấn thiền”.
(Vua Trần Nhân Tông - Tổ Sư Thiền Trúc Lâm - VN).
(Ở đời vui Đạo, thả tùy duyên,
Ðói đến thì ăn, mệt ngủ liền.
Của báu trong nhà, thôi tìm kiếm,
Ðối cảnh Vô Tâm, chớ hỏi Thiền!).
Vô Niệm của Lục Tổ Huệ Năng nếu chiết tự ra thì ‘‘Vô’’là không
khởi niệm nơi sáu căn, còn ‘‘Niệm’’ là Chân Như Tự Tánh khởi niệm. Cái Vô
KIẾN GIẢI CHỨNG ĐẠO CA: “VÔ TRỤ NIẾT BÀN VÀ MA HA BÁT NHÔ
________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________
Thiền Sư HUYỀN GIÁC--Trang | 177 --Kiến Giải: NGỘ THÂM
Niệm này có ý nghĩa thâm áo sâu sắc. Nếu hiểu Vô Niệm của Lục Tổ một
cách thật đơn giản mà không làm mất đi cái áo nghĩa thâm huyền thì có thể
xem chữ “Niệm” là một ý niệm, một khái niệm, một tri giác đã có, đang có
hay sẽ có khi đã, đang hay sẽ tiếp xúc với trần lao. Những tri giác này thông
qua Sáu Căn mới có,do căn và trần chạm nhau mới có, tức là thông qua cái
Kính Nghiệp của chúng sanh là Vô Minh, tà kiến, điên đảo, chấp dính, phiến
diện, thiếu sót …Vô Niệm là hãy bỏ luôn cái niệm Vô Minh của trần lao này
đi, thì mới nhận được cái mới của Minh, của Tự Tánh, của Chân Như Bát
Nhã. Thí dụ một ly nước chứa đầy nước suối cũ bị hư thì không thể nào chứa
được nước suối mới tinh khiết; do đó phải đổ bỏ hết nước suối cũ đi thì mới
nhận được nước suối mới, hoặc là phải có cái ly không, không có chứa một
vật gì cả thì có thể chứa được vật khác. Một hòn Bọt phải quên đi cái Ngã của
mình là Bọt Nước, không còn cả một niệm dù là vi tế về cái Thân Bọt của trần
lao, dính với trần lao, nghĩa là phải mất luôn cả cái Thân Bọt của trần lao,
‘‘ly’’ với cái cảnh của trần lao thì mới trở về với “Nước” được và trở thành
Biển Cả “Mất để còn, ly để nhập” là cái quan điểm sơ đẳng để hội Đạo. Nghĩa
là phải “mất mình”, mất đi cái Ta, cái Ngã của Ta, do Vô Minh chấp thân chấp
tướng nên thấy Ta là người, Ta là Phật, Ta là phàm, là thánh, là ngạ quỷ súc
sanh, là cây cỏ, là sự vật , là đất nước gió lửa…mất rồi thì còn lại khoảng
trống tức thì Chân Như Tự Tánh khởi niệm lắp đầy Sáu Căn, tức là trở về cái
Vô Niệm thâm áo của Lục Tổ Huệ Năng, tương đồng với cái Vô Tâm : Tâm
của Vô Tâm , Phi Tâm : Tâm của Phi Tâm, trở về với Chân Như Bát Nhã ngộ
nhập với cái Không Rỗng Suốt của Tự Tánh, kiến Tánh thành Phật.
Còn chữ “Niệm” trong Chánh Niệm là cái năng lượng của Tâm thông
qua 6 căn : đi đứng nằm ngồi nghe nhìn hoạt động suy nghĩ làm việc … Người
học Đạo phải biết nuôi dưỡng cái năng lượng của Chánh Niệm và luôn luôn
sống với cái năng lượng nầy khi 6 căn ứng xử với 6 trần giống như vị Tướng
giữ thành có 6 cửa :
“Học đạo nhu như thủ cấm thành
Trú phòng lục tặc dạ tinh tinh
Trung quân chúa tướng năng hành lệnh
Bất động can qua trị thái bình”.
(Thiền Sư Diệu Phổ).
(Học đạo ví như giữ cấm thành
Ngày ngừa lục tặc, tối tinh tinh
Trong quân chúa tướng hay hành lệnh
Chẳng động gươm đao trị thái bình).
KIẾN GIẢI CHỨNG ĐẠO CA: “VÔ TRỤ NIẾT BÀN VÀ MA HA BÁT NHÔ
________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________
Thiền Sư HUYỀN GIÁC--Trang | 178 --Kiến Giải: NGỘ THÂM
Một vị tướng giỏi lúc nào cũng tỉnh thức sáng suốt (dạ tinh tinh) tức là
luôn giữ Chánh Niệm để canh chừng lục tặc (sắc, thanh, hương, vị , xúc, pháp)
ở 6 cửa thành tức lục căn (mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý). Trong quân vị chủ
tướng thi hành lệnh nghiêm ngặt, tức giữ Chánh Niệm triệt để không suy
chuyển, nên biết rõ ràng địch( vọng tưởng) đang xuất hiện ở cửa thành nào
(tức căn nào : mắt, tai, mũi, lưỡi, thân hay là ý…) có bao nhiêu địch quân
(tham, sân , si, mạn, nghi, tật, đố…) và đề phòng vững chắc nên địch không
dám hoành hành đánh phá, tự động lui quân biến mất mà không cần phải động
binh. Như vậy có tỉnh thức sáng suốt, giữ vững Chánh Niệm, biết (Chăn Trâu)
thì biết rõ vọng tưởng tự sinh ra rồi tự diệt đi vì chúng là vô thường, giả tạo,
không có thật. Do đó không cần phải tác ý, không cần phải hành trì hay chạy
theo rượt đuổi để tiêu diệt chúng, mà chỉ cần “tri vọng” tức “biết vọng” là đủ.
Đây là một cách giữ Chánh Niệm trong sự tỉnh thức của Thiền Sư Diệu Phổ
dạy cách Chăn Trâu một cách nghiêm túc. Còn Tuệ Trung Thượng Sĩ, cũng
dạy Chăn Trâu nhưng nhẹ nhàng hơn : thả lỏng 6 căn, không khởi niệm,
không niệm Phật cũng chẳng cầu Thiền, Tâm vọng tự sinh thì tự diệt, miễn là
sáu căn không chủ động chạy theo cảnh. Cách Chăn Trâu này dành cho những
hành giả đã có Tâm bình an hay đã có kinh nghiệm sâu dầy : vượt hơn Chánh
Niệm, không khởi Niệm, hướng về cái Vô Niệm của Tổ Huệ Năng, hay cái Vô
Tâm của Thiền Sư Hoàng Bá :
“Đường trung đoan tọa tịch vô nghiên,
Nhàn khán Côn Luân nhất lũ yên.
Tự thị quyện thời Tâm tự tức,
Bất quan nhiếp niệm, bất quan Thiền”.
(Giữa nhà không nói, chỉ ngồi yên,
Nhàn ngắm Côn Luân sợi khói lên.
Lúc mệt mỏi rồi Tâm tự tắt,
Cần chi niệm Phật với cầu Thiền).
(Tuệ Trung Thượng Sĩ).
Giữ Chánh Niệm trong mọi thời, mọi lúc, tức là giữ cho thân tâm an
lạc, cũng là biết cách Chăn Trâu giữ cho thân, khẩu, ý được thanh tịnh, biết
cách giữ thành như một vị tướng giỏi giữ 6 căn không dính mắc với 6 trần để
đạt tới bước cao hơn là : Chánh Định hay Vô Niệm , Vô Tâm …. Tuy nhiên
cột niệm, buộc niệm chết cứng một chỗ mà không tiêu hóa được niệm thì lại
có hại cho thân tâm, vì trong Tâm có Vật có hại cho sự phát triển trí tuệ và sự
giải thoát. Trong nhà Thiền gặp lúc cái sát na đột biến dù là Chánh Niệm cũng
phải bỏ, tức là phải biết “ Buông Niệm ” để đạt đến Vô Niệm hay Vô Tâm ngộ
nhập Chân Như Bát Nhã. Bởi vì dù là Chánh Niệm, nhưng cũng từ 6 căn khởi
niệm, mà 6 căn thì điên đảo, còn ở trong Nghiệp Thức. Chánh Niệm dù là
KIẾN GIẢI CHỨNG ĐẠO CA: “VÔ TRỤ NIẾT BÀN VÀ MA HA BÁT NHÔ
________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________
Thiền Sư HUYỀN GIÁC--Trang | 179 --Kiến Giải: NGỘ THÂM
niệm đầu, niệm giữa hay niệm cuối thì vẫn còn ở trong Nghiệp do 6 căn khởi
niệm, không phải là Chân Như khởi niệm nên chưa đạt đến Chân Như. Khi
Lục Tổ Huệ Năng khai thị cho Huệ Minh lúc rượt theo Tổ để giành lại y bát.
Tổ nói : “Không nghĩ thiện (tức là buông Chánh Niệm), không nghĩ ác (tức bỏ
cả Tà Niệm) cái gì là Bản Lai Diện Mục của Thượng Tọa Minh ? ”. Chính nhờ
buông cả Chánh Niệm lẫn Tà Niệm, đạt tới Vô Niệm mà Huệ Minh đã Đại
Ngộ nơi đây.
Như vậy, Chánh Niệm chỉ là bước khởi đầu còn cách Vô Niệm một
khoảng cách rất xa, vì một bên là Sáu Căn khởi niệm còn một bên là Chân
Như Phật Tánh khởi niệm. Nếu chỉ dừng lại ở Chánh Niệm, tuy Thân Tâm có
an lạc, nhưng không thể đạt đến sự Chứng Ngộ tâm linh như Chư Phật và
Thiền Sư. Vì thật ra cả ba cái Tâm: Tâm quá khứ, Tâm vị lai và Tâm hiện tại
đều không có. Nếu thấy cái Tâm hiện tại còn là Tâm và muốn cho Tâm an lạc
hạnh phúc thì đây chỉ là cái Tâm Mê của thế gian và sự hạnh phúc an lạc đó
chỉ là tạm thời giống như liều thuốc ngủ hay thuốc an thần của các Nhà Tâm
Lý Học, một khi hết thuốc hay Vô Minh và Chướng Nghiệp đến thì Tâm này
không còn an lạc nữa! Phật Pháp không phải để chuyên trị cái bệnh “Bất
An” (hay Stress) của Tâm Lý Học thế gian đem lại hạnh phúc cá nhân gia
đình và xã hội, điều này đã có các nhà Tâm Lý và các Tôn Giáo làm rồi và đây
chỉ là cái “Tiểu An”. Đức Phật từng nói : “Nước biển có vị mặn, Đạo Ta chỉ
có một vị duy nhất là Giải Thoát”. Đây mới là cái Đại An mà Đức Phật trị
liệu cho Chúng Sanh thoát khỏi cái Đại Bệnh “Sinh Tử Luân Hồi” mà người
thế gian không làm được. Do đó hành trì Chánh Niệm chưa phải là cái Rốt
Ráo để đạt Đạo Giải Thoát mà chỉ là Bước Đầu còn phải vượt xa hơn.
Bài kệ “Thủ Nê Ngưu” của Tuệ Trung Thượng Sĩ : Thầy dạy Đạo của
Vua Trần Nhân Tông (Tổ Sư Thiền Trúc Lâm – Việt Nam) chỉ rõ điều này :
“Một mình giữ một con Trâu Đất
Xỏ mũi đem về chẳng ngớt chăn
Đem đến Tào Khê mà thả quách
Phăng phăng nước cuộn trái cầu lăn”.
Nghĩa là dù giữ Chánh Niệm triệt để, biết cách chăn Con Trâu Đất
(tức là Tâm và Thân Tứ Đại), nhưng tốt nhất là đem Con Trâu Đất ấy thả trên
đất Tào Khê thì mới an toàn và xong chuyện, không còn phải lo lắng gì nữa,
tức là sẽ được cái Đại An của sự Giải Thoát : “Đem đến Tào Khê mà thả
quách”. Đất Tào Khê là nơi Lục Tổ Huệ Năng hành Đạo, và Đạo của Ngài
lấy Bảo Đàn Kinh với Pháp Vô Niệm làm căn bản. Chủ ý của Ngài Tuệ Trung
là phải vượt khỏi Chánh Niệm để đạt đến cái “Vô Niệm” của Tổ Huệ Năng thì
KIẾN GIẢI CHỨNG ĐẠO CA: “VÔ TRỤ NIẾT BÀN VÀ MA HA BÁT NHÔ
________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________
Thiền Sư HUYỀN GIÁC--Trang | 180 --Kiến Giải: NGỘ THÂM
đạt đến cái Rốt Ráo và an nhiên tự tại : “Phăng phăng nước cuộn trái cầu
lăn”. Do đó nếu chỉ biết hành trì Chánh Niệm và dừng lại nơi đây thì chỉ mới
đi có bước đầu, tuy có thể giúp cho người thế gian được an Tâm tạm thời (đạt
được cái Tiểu An), nhưng đối với Đạo Giải Thoát thì cần phải tiến xa hơn.
Mặc khác, một khi cột niệm nơi Tâm để làm cho Tâm an hay để trừ vọng
tưởng phiền não mà cho là thực tập Chánh Niệm thì vô tình “để Sự nơi Tâm
để Tâm nơi Sự” là một chướng ngại cho Trí Tuệ và sự Giải Thoát. Do đó dù
là Chánh Niệm cũng phải biết Buông Niệm hay tiêu hóa Niệm: ngay nơi Niệm
mà lìa Niệm, không phải Sáu Căn khởi niệm và rồi cột Niệm nơi Sáu Căn, mà
phải “vô” Niệm nơi Sáu Căn và “hữu” Niệm nơi Chân Như Phật Tánh
(tức Chân Như Phật Tánh khởi Niệm) chính là VÔ NIỆM đồng nhất với VÔ
TÂM, tức là cái TÂM mà PHI TÂM. Đây là cái Rốt Ráo vượt khỏi Chánh
Niệm đạt tới cái Vô Niệm của Lục Tổ Huệ Năng.
Pháp Vô Niệm của Tổ Huệ Năng tuy bị thế gian bài xích xưa nay,
nhưng thực tế đem lại lợi ích cho vô số người ngộ Đạo, làm cho Thiền Tông
Trung Hoa lần đầu tiên rẽ hướng đi khác với Thiền Tông Ấn Độ( tùy duyên
bất biến) và rực sáng trên bầu trời Trung Hoa từ Hoa Nam rồi lan nhanh ra
Hoa Bắc( làm cho pháp Tiệm Ngộ của Ngài Thần Tú bị lu mờ ). Chính Đại sư
Thần Tú tự than và khuyên đệ tử :
- Ngài Huệ Năng được Vô sư Trí, thâm nhập Tối thượng thừa, ta thật
không sánh bằng. Huống chi Thầy ta là Ngũ Tổ đã đích thân truyền y pháp
cho Ngài, đâu phải vô cớ mà truyền. Ta bận không thể đi xa thân cận Ngài,
ngồi đây mà luống thọ ân vua (Võ Tắc Thiên). Các ngươi đừng nên lưu luyến
ở đây, hãy đến Tào Khê tham bái mà giải quyết (những nghi ngờ về Phật
pháp).
Một ngày kia, Đại sư Thần Tú gọi môn đệ là Chí Thành, bảo:
- Ông thông minh nhiều trí, hãy vì tôi đến Tào Khê nghe pháp, nghe
điều gì thì nhớ kỹ về thuật lại cho tôi.
Sau này, Thần Hội đệ tử xuất sắc của Tổ Huệ Năng ra Hoa Bắc, bị
nhiều người gièm xiểm, hãm hại, tố cáo với nhà Vua. Nhưng pháp Tiệm Ngộ
của Đại Sư Thần Tú bị lu mờ dần ở Hoa Bắc nhường chỗ cho pháp Đốn Ngộ
của Lục Tổ Huệ Năng. Sau Tổ Huệ Năng có biết bao nhiêu Thiền Sư ngoại
hạng ra đời thay thế Phật độ sinh.
Dù cho chúng sanh lăng xăng chạy theo Pháp trần, thích hình tượng
bên ngoài, thích Chùa to, Phật lớn, Phật vàng, Phật ngọc….mà quên đi việc
rèn Tâm luyện Trí như Thiền Sư Lạc Phố đã cảnh giác:
KIẾN GIẢI CHỨNG ĐẠO CA: “VÔ TRỤ NIẾT BÀN VÀ MA HA BÁT NHÔ
________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________
Thiền Sư HUYỀN GIÁC--Trang | 181 --Kiến Giải: NGỘ THÂM
“Nhất phiến bạch vân hoành cốt khẩu ,
Kỷ đa qui điểu tận mây sào”.
(Một áng mây trắng che cửa hang
Bầy chim bay về đều quên tổ).
Hình tượng cái chùa to tráng lệ và Ông Phật to bằng vàng, bằng ngọc
ở trong chùa sẽ là áng mây trắng che mất cửa hang….( tức là hang Tâm của
chính mình) nên bầy chim bay về đều quên tổ ( tức là quên đi tức Tâm mình là
Phật) mà chỉ thấy cái tượng chùa to và cái tượng Ông Phật to bằng vàng, bằng
ngọc ở trong chùa rồi cầu xin lạy lục Ông Phật trong chùa đó cho mình được
nhiều phước và được về Tây Phương Cực Lạc. Khi đó Ngài Huyền Giác nói:
“Cầu Phật thi công tảo vãn thành”
(Ra công cầu Phật mấy thuở thành?).
Dù cho thế thời điên đảo, chúng sanh mê muội, Phật pháp suy đồi,
chùa chiền biến chất như trong thời đại Ngài Huyền Giác nhưng nếu giữ được
“ Ngọn Đèn Tâm” mà Đức Phật đã trao truyền trực tiếp cho Tổ Ca Diếp đầu
tiên, qua 28 đời ở Tây Thiên cho đến Tổ Bồ Đề Mạt Đa rồi vào Trung Quốc
với 6 đời truyền y bát cho tới Lục Tổ Huệ Năng được thiên hạ nghe theo thì
người sau vẫn đắc Đạo nhiều vô số:
“Lục đại truyền y thiên hạ văn,
Hậu nhân đắc đạo hà cùng số”.(ThS. Huyền Giác).
Rất may, ngọn đèn Tâm đó vẫn còn cháy sáng, Chư Tổ và Thiền Sư
vẫn giữ nó trong tấm bản đồ “Ma Ha Bát Nhã Ba La Mật Đa” để chúng sanh
tự mồi lửa Tâm mình với Tâm Phật hòa làm một sáng lên trí Bát Nhã và ngộ
nhập Bát Nhã. Tấm bản đồ này cũng là Bài Kinh Vô Tự Vô Ngôn vô cùng vi
diệu và nhiệm mầu là nguyên cả Bầu Trời Rõ Chân Không vô tận cũng là Ánh
Bát Nhã tràn ngập Đạo Lý. Các Ngài với lòng từ bi vô hạn còn chỉ rõ cả cửa
vào. Đức Phật thì chỉ cánh cửa RÕ: “ Niêm Hoa Vi Tiếu”; Tổ Long Thọ chỉ 3
cửa: “ Vô, Vô Tướng, Vô Tác”; Bồ Đề Đạt Ma chỉ tới 6 cửa: “Thiếu Thất Lục
Môn”; Lục Tổ Huệ Năng chỉ cái “Cửa Vô Niệm”, Thiền Sư Sư Bị thì
chỉ “Cánh cửa Ca Diếp”; Triệu Châu lại chỉ cửa “Không”. Huệ Khai thì chỉ
cánh cửa “Vô”; Huyền Giác lại chỉ cửa “Vô Vi”….Dù bao nhiêu cửa cũng chỉ
là Một Cửa, tất cả cửa đều không khác, qua được một cửa là đã vào “Căn Nhà
Xưa”: Căn nhà: “Ma Ha Bát Nhã Ba La Mật Đa”.
Cái căn nhà : “Ma Ha Bát Nhã Ba La Mật Đa” bất khả tư nghì, vi
diệu và rốt ráo này, Tổ và Thiền Sư thường khai thị ngắn gọn chỉ trong một
chữ “NHƯ”, “VÔ” hay là “KHÔNG”. Trong Bát Nhã Tâm Kinh, một câu
ngắn gọn: “Sắc tức thị Không” nói lên cái áo nghĩa thâm sâu, siêu huyền cực
KIẾN GIẢI CHỨNG ĐẠO CA: “VÔ TRỤ NIẾT BÀN VÀ MA HA BÁT NHÔ
________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________
Thiền Sư HUYỀN GIÁC--Trang | 182 --Kiến Giải: NGỘ THÂM
lý và cũng là cái Chân Lý Vũ Trụ tuyệt vời. Thật vậy chỉ một câu: “Sắc tức
thị Không” của Đức Phật, người nào đã am hiểu rõ ràng tận gốc tận cùng, tuy
nhiên đây chỉ là đạt trên Lý, Sự thì vẫn còn ngăn ngại, có thể đặt làm “công
án” Thiền, quán chiếu cái KHÔNG cho đến lúc bất chợt ngộ nhập vào
KHÔNG, hoặc nhìn vào Hư Không với cái ‘‘cánh cửa Rõ Vô Vi’’ và có cái
‘‘Tâm tương ưng’’ thuần đức thì “có thể” đạt Đạo vô sanh, an trú nơi cái
Không hay Niết Bàn thường lạc ngã tịnh. Nghĩ đến điều này, quả thực Đức
Phật phải có cái Trí Tuệ siêu việt (Trí Bát Nhã) và lòng từ bi vô hạn, muốn độ
hết thảy chúng sanh thoát khỏi luân hồi , nên đã trao Tấm Bản Đồ Bát Nhã vi
diệu này, chỉ rõ ràng, tuy về hình thức thì thấy dường như Đức Phật giấu giếm
nhiều “Mật nghĩa u thâm”, nhưng đối với những ai chịu khó tư duy quán chiếu
thật sâu sắc thì sẽ thấy rõ và thấu hiểu được cái Lý Như Như hay cái Lý Sắc
Không vi diệu của vũ trụ. Như đã luận giải ở phần trên, nhờ những phát minh
Khoa Học đã chứng minh nhiều lời nói của Đức Phật là chính xác, chẳng hạn
như: trong ly nước có vi trùng, vật chất không có tự tánh mà là do duyên
hợp… Còn nhiều điều bí mật như cái Lý: “Sắc Không” mà Khoa Học ngày
nay chưa giải lý nổi. Thật ra vì các nhà Khoa Học cứ nghiên cứu cái Bóng
Trăng cho nên không bao giờ nhìn thấy được Mặt Trăng thật hay Chân Lý.
Bởi vì các Nhà Khoa Học chỉ nghiên cứu trên cái Tướng của Sự Vật mà không
nghiên cứu trên cái Vô Tướng hay cái Vô Vi mà Thiền Sư Huyền Giác đã khai
thị:
“Tuyệt học Vô Vi nhàn Đạo nhân”.
Đối với vũ trụ, các Nhà Bác Học Không Gian đã khám phá ra nguyên
thủy của vũ trụ là một Dị Điểm Big Bang (singular point) vô cùng nhỏ với
đường kính D = 10-33
centimet , nổ ra cách đây 15 tỷ năm ở thời điểm Planck
(T = 10-43
giây), và họ cho đây là cái tột cùng nguồn gốc vũ trụ! Nói theo Phật
Pháp thì đây là chỉ mới khám phá ra cái Dụng và còn ở trên Sự Tướng, tức là
chỉ quan sát trên cái Bóng Trăng mà chưa nhận ra cái phần Thể, tức là cái Vô
Tướng trên Sự Vật hay là Mặt Trăng thật. Nói theo Thiền Sư Cảnh Sầm thì
chưa nhảy qua khỏi “đầu sào trăm trượng” mà cũng chưa đi hết “trăm
trượng đầu sào”. Còn nói theo Ngài Huyền Giác là chưa đạt tới cái “Vô Vi”
mà cũng chưa đến được “cửa Vô Vi” cho nên chưa thấy được Chân Lý tối
thượng. Phải đi hết “trăm trượng đầu sào” và phải huốt khỏi “đầu sào trăm
trượng”, huốt khỏi sự vật, ở đây là phải huốt khỏi cái máy động, cái hình
tướng, cái sự vật của Dị Điểm Big Bang, tức là cái “Tuyệt Cùng” ngay trên
Dị Điểm Big Bang: là cái “cửa Vô Vi”, “đột phá” ngay “cửa Vô Vi” để nhập
vào “Vô Vi”, chính là cái “Không”, cái Hư Không - Rỗng Rang - Emptiness
ở thời điểm T0 = 0 giây. Cái “Không” này là nguồn gốc, là Mẹ Đẻ ra vũ trụ
với hàng trăm tỷ Thiên Hà: “Không tức thị Sắc”. Cái “Không” này cũng gọi
KIẾN GIẢI CHỨNG ĐẠO CA: “VÔ TRỤ NIẾT BÀN VÀ MA HA BÁT NHÔ
________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________
Thiền Sư HUYỀN GIÁC--Trang | 183 --Kiến Giải: NGỘ THÂM
là Tánh hay Bát Nhã, còn cái Dị Điểm Big Bang là một điểm của Tâm hay
một niệm Vô Minh ảo hóa duyên khởi trùng trùng sinh ra vũ trụ!
Còn đối với vật chất, sơn hà, đại địa trong vũ trụ, nếu chia chẻ phân
tích vật chất này để xem cái “Cốt Tủy” bên trong, cái Tướng Thật hay cái Tự
Tánh của nó là gì? Nếu chia cắt như vậy cho đến cái cực nhỏ thì ta được một
Phân Tử vật chất (molecule). Rồi bên trong Phân Tử tiếp tục chia chẻ phân
tích thì thấy Phân Tử gồm nhiều nguyên tử (atoms) kết hợp lại. Thí dụ như
Phân Tử Đường saccharic (sugar) với công thức hóa học là C12H22O11 gồm 12
nguyên tử Carbon (C) kết hợp với 22 nguyên tử Hydrogen (H) và 11 nguyên
tử Oxygen (O). Tiếp tục chia chẻ phân tích bên trong mỗi nguyên tử thì thấy
hàng trăm hạt vi tế bên trong nhân nguyên tử như protons, neutrons,
neutrinos…và các hạt electrons quay chung quanh nhân. Tiếp tục chia chẻ
phân tích bên trong những hạt này thì thấy các hạt quarks, thí dụ một hạt
electron gồm 3 hạt quarks (2downs+1up) kết hợp lại. Cuối cùng phân tích bên
trong mỗi hạt quark thì thấy sóng gamma (γ) photon vi tế năng lượng cao.
Sóng gamma photon là năng lượng, là đầu mối tạo ra vật chất có khối lượng
với công thức biến đổi năng lượng thành khối lượng tạo ra vật chất của Nhà
Bác Học Einstein là : E = MC2, trong đó E (energy) là năng lượng, M (mass)
là khối lượng vật chất và C (velocity) là vận tốc sóng - hạt photon ánh sáng.
Sóng gamma photon này ở thể “Động” thì là năng lượng và có cái Tướng
“Sóng”, nhưng lúc nghỉ hay ở trạng thái “Tĩnh” thì khối lượng nghỉ là M = 0
và khi đó năng lượng nghỉ cũng mất : E0 = 0.
E0 = MC2 = (0)(300.000)
2 = 0.
Như vậy ở trạng thái “Động” thì là Sóng có năng lượng và năng
lượng này biến thành khối lượng vật chất tức là Sắc; ở trạng thái “Tĩnh” thì
cái Tướng “Sóng” mất, khối lượng và năng lượng cũng mất, tức là cái SẮC
mất và trở về KHÔNG. Như vậy Vật Chất chỉ “hiện hữu” khi ở trạng thái
“Động”, còn ở trạng thái “Tĩnh” thì “biến mất” nhập vào Không. Do đó Vật
Chất “không có thật” và cũng không có Tự Tánh, tức là Tánh Không. Vật
chất chỉ là ảo hóa hay là cái Bóng của cái KHÔNG : giống như Biển động thì
Nước nổi lên thành Sóng; Biển yên lặng thì Sóng mất trở thành Nước. Rốt ráo
lại giống như Biển Nước, khi ở trạng thái Động (TÁC) do Vô Minh hay
Nghiệp Lực tác động, thì từ cái KHÔNG với cái năng lượng “Động” hiện ra
cái Tướng Sóng vi tế, rồi năng lượng Sóng này chuyển thành vật chất có khối
lượng, là cái SẮC. Khi ở trạng thái “Tĩnh” (VÔ TÁC) thì Sóng vi tế mất thì
vật chất mất, vật chất là SẮC, tức là SẮC trở về KHÔNG: “Sắc tức thị
Không”. Sóng này tùy duyên mà biến hoá ra vô số thể trạng khác nhau tùy
theo biên độ (amplitude), độ dài sóng (wave-length) tần số (frequency), chu kỳ
KIẾN GIẢI CHỨNG ĐẠO CA: “VÔ TRỤ NIẾT BÀN VÀ MA HA BÁT NHÔ
________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________
Thiền Sư HUYỀN GIÁC--Trang | 184 --Kiến Giải: NGỘ THÂM
(period), hằng số pha ( phase constant)…là cái Diệu Hữu. Thí dụ một phương
trình Sóng thật đơn giản: y = ymsin(ωt+ф). (ym= biên độ, ω (omega) = tần số,
t = thời gian, ф (phi) = pha sóng) có dạng Sóng hình Sin và chu kỳ Sóng là
T=2π/ω. Mỗi chu kỳ T là một niệm; có vô lượng hình tướng Sóng, truyền đi
với vô lượng chu kỳ hay là vô lượng niệm mà tạo tác ra cái Sắc. Ngoài việc
chuyển từ năng lượng thành khối lượng vật chất, Sóng còn có thể hiện ra
những tướng khác như : âm thanh, màu sắc, hình ảnh, động năng, cơ năng,
nhiệt năng, hóa năng, điện năng, quang năng, nguyên tử năng…cho tới cái
thấy nghe hiểu biết…cả đến cái Thân Tâm Người và Thân Tâm Vũ Trụ ! Cái
tướng Sóng sau một chu kỳ T hay một niệm, là một “Vi Sóng” tương ưng với
một “Vi Sắc”. Niệm niệm trùng trùng duyên khởi với vô lượng “Vi Sóng”
tương ưng với vô lượng “Vi Sắc”, sinh ra Càn Khôn Vũ Trụ và sum la vạn
tượng đầy ắp trong Hư Không. Tận đầu nguồn Sóng là Phi Sóng, là cái cửa Vô
Vi, tương ưng với tận đầu nguồn Sắc là Phi Sắc cũng tương ưng với tận đầu
nguồn Tâm là Phi Tâm. Vì Sóng là cái Tướng vi tế của Tâm… là một. Sóng
nổi lên là Tâm động, Sóng mất là Tâm tĩnh lặng bắt đầu chiếu soi là chiếc
Gương Tâm, giống như Sóng mất trở về Nước và Mặt Nước lặng yên như
Gương bắt đầu chiếu soi. Ba ngàn thế giới hiện Bóng trong chiếc Gương này.
Như vậy Càn Khôn Vũ Trụ chỉ là cái Bóng của chiếc Gương Tâm và Gương
Tâm là Ánh Rõ hay Ánh Sáng của Tánh, của Bát Nhã hay Viên Ngọc Ma Ni.
Rốt ráo, Tâm động nổi Sóng thành Sắc với ba ngàn thế giới, Tâm tĩnh Sóng
mất, Sắc trở về Không…Đối với người ngộ đạo với cái Tâm Vô, đạt đến Vô
Vi, thấy Sắc tức Không, đâu đâu cũng là Bát Nhã, Niết Bàn hay Pháp Thân
thanh tịnh bình đẳng hòa chung với Hoa Tạng Pháp Giới làm một…
Nói cho cùng thì Vật Chất từ hạt Nguyên Tử cho đến Vũ Trụ bao la
đều do Tâm làm ra và Tâm là một nhà ảo thuật đại tài hiển ra cái Sắc, biến hóa
một cách vi diệu (Diệu Hữu) từ Gốc Tâm cho đến Ngọn Tâm đủ thứ hình thù,
màu sắc, âm thanh, sơn hà, đại địa, cây cỏ và muôn loài chúng sanh…cho nên
Kinh nói: “nhất thiết duy Tâm tạo”. Tâm cũng là Sắc là cái Dụng của Tánh,
của Bát Nhã hay cái KHÔNG. Nhưng tột cùng thì Tâm và Sắc cũng chẳng có,
chỉ là cái Bóng của Tánh hay của cái KHÔNG. Người thế gian không ngờ
rằng cái Sắc tức Vật Chất: từ hạt Nguyên Tử cho tới Vũ Trụ “không thật có”
mà chỉ là cái “Bóng” của cái KHÔNG hay Bát Nhã! Và khi Khoa Học phân
tích nghiên cứu đến cái tận cùng nguồn gốc sinh ra Vũ Trụ là cái Dị Điểm Big
Bang vô cùng nhỏ ở thời điểm Planck T = 10-43
giây; nhưng ở thời điểm T= 0
giây là giao điểm giữa cái Dị Điểm Big Bang và cái KHÔNG, vừa huốt cái
Sắc, cái năng lượng, cái máy động, chính là cái ‘‘cửa Vô Vi’’, ngay đó liền
đụng tới cái KHÔNG là Bản Thể của cái SẮC, là cái Rốt Ráo mà Khoa Học
lại bỏ qua! Khoa Học cũng nghiên cứu phân tích trên cái SẮC tức Vật Chất thì
KIẾN GIẢI CHỨNG ĐẠO CA: “VÔ TRỤ NIẾT BÀN VÀ MA HA BÁT NHÔ
________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________
Thiền Sư HUYỀN GIÁC--Trang | 185 --Kiến Giải: NGỘ THÂM
thấy cái tận cùng của Vật Chất là Sóng vi tế ở trạng thái “Động”, nhưng ở
trạng thái “Tĩnh” thì Sóng mất, năng lượng hay khối lượng cũng mất
(M=E=0), vừa huốt cái Tướng Sóng vi tế, cái năng lượng, khối lượng, vừa
huốt cái “máy động” (Tác) của Sóng là trạng thái “Tĩnh”, tức là cái “cửa Vô
Vi”, thì cũng đụng tới cái KHÔNG và chính cái KHÔNG này là Bản Thể hiển
ra cái SẮC hay Vật Chất, tức là cái Dụng nhưng Khoa Học cũng lại bỏ qua,
chỉ chấp Dụng mà bỏ Thể, chấp cái Bóng Trăng mà bỏ qua Mặt Trăng thật!
Nếu Khoa Học phân tích hình tướng Sự Vật từ nguyên tử vật chất cho tới
nguồn gốc vũ trụ tới tận đầu nguồn, không dừng lại ở trạng thái “Động” của
Sóng vật chất vi tế mà tiến tới trạng thái “Tĩnh”, không dừng lại ở thời điểm
Planck T = 10-43
giây mà tiến tới thời điểm T=0 giây thì sẽ đụng tới cái
KHÔNG : Cái KHÔNG này vừa giải thích rằng Vật Chất và Vũ Trụ “không
thật có”, vừa giải thích Vật Chất và Vũ Trụ từ cái KHÔNG mà ra và cái
KHÔNG này không phải là không ngơ hay “ngoan không” vô tích sự mà là
cái KHÔNG vi diệu là Chân Lý tột cùng!
Khoa Học dùng thí nghiệm nhưng chưa đi huốt con đường Tâm hay
Sắc cho nên chưa thấy được cái tột cùng của Chân Lý. Trong khi Chư Phật,
Tổ và Thiền Sư “nhảy qua khỏi đầu sào trăm trượng” hay đạt tới “cái cửa
Vô Vi” và ngay đó nhảy thẳng vào Tánh là cái KHÔNG rốt ráo nên đạt tới
Chân Lý tuyệt đối. Chẳng hạn như cái thấy của Tổ Long Thọ: “Thành Niết
Bàn có ba cửa: Vô, Vô Tướng, Vô Tác” là cái thấy tận cùng của Chân Lý.
Bởi vì cái KHÔNG rốt ráo, tức là Bát Nhã, Chân Như, Thật Tướng hay Niết
Bàn thì không có một vật (VÔ), không có hình tướng Sắc hay là Tâm (Vô
Tướng) và trong sáng thường chiếu thường soi tĩnh tịch lẳng lặng và bất động
như Gương (Vô Tác). Khoa Học nhảy không qua cái cửa này, còn thiếu một
bước là “đầu sào trăm trượng” và cái “cửa Vô Vi” của Thiền Sư. Khoa Học
biết được cái nguồn gốc Vũ Trụ là một Dị Điểm Big Bang (tức là một điểm
của Tâm và Sắc) ở thời điểm Planck, nhảy qua khỏi cái thời điểm này tức là
T=0 giây cho đến T = -1 giây thì đã lọt vào cái KHÔNG hay cái “thành Niết
Bàn” (Vô, Vô Tướng, Vô Tác) của Tổ Long Thọ. Khoa Học cũng đã phân tích
thấy được cái căn bản tột cùng của Vật Chất là Sóng vi tế năng lượng cao ở
trạng thái “Động”, còn ở trạng thái “Tĩnh” thì Sóng mất và khối lượng vật chất
cũng mất: M=0. Khoa Học cũng không nhảy qua khỏi cái Cửa này vì còn chấp
cái “Tướng Sóng” và cái “Tướng Động” của Sóng Vật Chất. Nếu thêm một
bước nữa là đã tới cái cửa Vô Vi tức là chỗ không còn “máy động” (trạng thái
Tĩnh) không còn hình tướng (không còn cái Tướng Sóng) thì tìm thấy cái căn
nguyên rốt ráo của Vật Chất chính là cái KHÔNG trở về ba cái cửa Vô, Vô
Tướng, Vô Tác của Tổ Long Thọ.
KIẾN GIẢI CHỨNG ĐẠO CA: “VÔ TRỤ NIẾT BÀN VÀ MA HA BÁT NHÔ
________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________
Thiền Sư HUYỀN GIÁC--Trang | 186 --Kiến Giải: NGỘ THÂM
Chư Phật, Tổ và Thiền Sư nhìn Sự Vật bằng Tâm với ngũ nhãn,
còn Người Thế Gian thì nhìn bằng Lục Căn qua cái “Thấu Kính Nghiệp”, bị
“khúc xạ” theo Nghiệp Tướng, bị dao động và điên đảo…. Tâm này là Tâm
“không” bất động như Mặt Nước lặng yên, như chiếc Gương trong không có
ngấn bụi soi sáng cả ba ngàn thế giới. Đó là cái Tâm “Vô Niệm” của Lục Tổ
Huệ Năng, cái Tâm “Vô Vi” của Thiền Sư Huyền Giác, cái Tâm “Vô Tâm”
của Thiền Sư Hoàng Bá, cái Tâm “Vô” của Thiền Sư Đức Sơn, hay cái Tâm
“Vô, Vô Tướng,Vô Tác” của Tổ Long Thọ…
“ Nhất niệm bất sinh toàn thể hiện,
Lục căn tài động bị vân già”. (Trương Chuyết)
(Một niệm chẳng sinh, toàn thể hiện,
Lục căn vừa động bị che lòa).
Cái “Bí Quyết” ở đây là “Tĩnh”, tức “không Động”, không khởi
niệm thì Chân Lý hay Sự Thật hiển bày đạt tới cái KHÔNG : “Nhất niệm bất
sinh toàn thể hiện”. Niệm ở đây là sáu căn khởi niệm. Một niệm của sáu căn
vừa khởi lên, hay vừa “Động” thì Vô Minh hay Nghiệp Lực liền đến che mờ
cái Chân Như Tự Tánh : “Lục căn tài động bị vân già”. Vật Chất cũng vậy,
khi Sóng Vật Chất khởi lên một niệm, tức là một chu kỳ T thì liền ngay đó có
cái Tướng Sóng sinh ra SẮC tạo ra cái Tướng của Thế Gian “Mê”. Do đó,
“Tĩnh” thì trở về cái Tự Nhiên, cái Như Nhiên, cái Như Như, hay cái Như
(Pháp nhĩ như thị) và rốt ráo là cái KHÔNG trùm khắp và bình đẳng. Một điều
lạ là tuy Tĩnh lặng, không động, vô niệm, vô trụ, vô Tâm…nhưng vô niệm nơi
sáu căn mà Chân Như Tự Tánh khởi niệm Bát Nhã lộ toàn thân, vô Tâm mà
Đại Tâm Đại Ứng trùm Pháp Giới, vô trụ mà “Ứng vô sở trụ như sanh Kỳ
Tâm”!... Còn “Động” thì cái Như Như ấy bị Vô Minh, Nghiệp Lực hay cái
“Tướng Động” che mờ sinh ra cái Bóng Sắc Trần với cái Tướng phân biệt
của Sắc mà sinh ra Ngã Chấp có Năng Chấp Sở Chấp, điên đảo trong cái Mê,
mất đi cái Tính Chơn Nhất của Đại Đạo.
Cũng như một Hòn Bọt “tự mất mình”, không còn chấp cái “Ngã
Bọt” mà trở về với Nước (Vô), không còn cái “Tướng Bọt” mà hòa chung
với Biển Cả bao la (Vô Tướng), không còn cái “Tướng Động” lắc lư điên đảo
mà trở về với Biển Nước lặng yên như Gương (Vô Tác), soi thấu suốt Bầu
Trời trong vô tận. Mặt Nước nếu “Động” nổi lên ngàn Sóng, thì không thể soi
thấu Bầu Trời trong. Tâm “Động” cũng vậy, Sóng Vô Minh hay Sóng Nghiệp
nổi lên sắc tướng Thế Gian mê. Tâm “Tĩnh” đạt đến Tâm không : “Vô, Vô
Tướng, Vô Tác” thì Thế Gian mê tan hoại, Bát Nhã Niết Bàn lộ nguyên hình.
Bên ngoài thấy Sắc chạy theo Sắc là “Động”, bên trong “Vô Niệm”
thấy được Tự Tánh là “Tĩnh”. Chỉ cần thấy được Tự Tánh là xong hết mọi
KIẾN GIẢI CHỨNG ĐẠO CA: “VÔ TRỤ NIẾT BÀN VÀ MA HA BÁT NHÔ
________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________
Thiền Sư HUYỀN GIÁC--Trang | 187 --Kiến Giải: NGỘ THÂM
việc, thấy được Tự Tánh là có đủ Tam Thân, Tứ Trí, hoàn tất tám cửa giải
thoát, sáu cửa lục thông, là “thân chứng” những diệu dụng của Tâm như
Thiền Sư Huyền Giác chỉ rõ:
“Tam thân, tứ trí thể trung viên
Bát giải, lục thông Tâm địa ấn”.
(Ba thân bốn trí thể tròn nguyên
Tám giải, sáu thông Tâm ấn hiệp).
Rốt ráo của Thanh Tịnh là “Tĩnh” tức Bồ Đề, Tổ Đạt Ma nói:
“Thanh tịnh tự phân ly
Tứ Trí ba vô tận
Bát Thức hữu thần uy
Tâm đăng minh Pháp Giới
Tức thử thị Bồ Đề”.
(Thanh tịnh tự phân ly
Bốn Trí cuồn cuộn sóng
Tám Thức lộ thần uy
Đèn Tâm soi Pháp Giới
Đó tức là Bồ Đề).
Nói về Tam Thân Tứ Trí một khi “chứng” được Tự Tánh, Lục Tổ
Huệ Năng giải thích :
“Tự Tánh cụ tam thân
Phát minh thành tứ trí
Bất ly kiến văn duyên
Siêu nhiên đăng Phật địa
Ngô kim vị nhữ thuyết
Đế tín vĩnh vô mê
Mạc học trì cầu giả
Chung nhật thuyết Bồ Đề”.
Nghĩa là Tự Tánh có đầy đủ Ba Thân: Thanh tịnh Pháp Thân là Tự
Tánh thanh tịnh của mình dung thông và trùm khắp tất cả Tánh. Viên mãn
Báo Thân là Trí Tuệ bất sanh bất diệt của mình. Thiên bá ức Hóa Thân là
tất cả những hạnh lành của mình.
Từ Ba Thân phát minh thành Tứ Trí:
1-Thành Sở Tác Trí (tức Ngũ Thức: nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân chuyển
thành Trí).
KIẾN GIẢI CHỨNG ĐẠO CA: “VÔ TRỤ NIẾT BÀN VÀ MA HA BÁT NHÔ
________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________
Thiền Sư HUYỀN GIÁC--Trang | 188 --Kiến Giải: NGỘ THÂM
2- Diệu Quán Sát Trí (tức là thức thứ sáu: Ý Thức chuyển thành Trí).
3-Bình Đẳng Tánh Trí (tức là thức thứ bảy: Mạt Na Thức chuyển
thành Trí).
4-Đại Viên Cảnh Trí (tức là thức thứ tám: A-Lại-Da Thức chuyển
thành Trí).
Tất cả chẳng lìa duyên thấy nghe, siêu nhiên bước lên quả Vị Phật.
Lục Tổ vì chúng sanh mà nói, và điều này là niềm tin chắc chắn “Đế Tín”
không mê lầm; không nên tìm cầu bên ngoài, trọn ngày nói Bồ Đề mà không
hiểu Bồ Đề là gì?! Như vậy từ Tự Tánh mới có được Ba Thân và từ Ba Thân
mới có được Tứ Trí. Nếu lìa Ba Thân mà nói Tứ Trí thì Trí này không có
Thân, thì Trí là vô Trí. Tổ nói kệ:
“Đại viên cảnh trí tánh thanh tịnh
Bình đẳng tánh trí tâm vô bệnh
Diệu quán sát trí kiến phi công
Thành sở tác trí đồng viên cảnh
Ngũ bát lục thất quả nhân chuyển
Đãn dụng danh ngôn vô Thật Tánh
Nhược ư chuyển xứ bất lưu tình
Phồn hưng, vĩnh xử Na-già định”.
Nghĩa là Đại Viên Cảnh Trí là Tánh thanh tịnh của nhân giả. Bình
Đẳng Tánh Trí là Tâm không bệnh tức là không duyên theo Sắc Trần. Diệu
Quán Sát Trí là làm tất cả mà như không có làm, tức là không chấp công chấp
ngã hay có năng có sở. Thành Sở Tác Trí thì đồng với Đại Viên Cảnh Trí. Ngũ
thức và thức thứ tám; thức thứ sáu và thức thứ bảy là trên quả và nhân chuyển:
tức là thức thứ sáu, thức thứ bảy là nhân, còn ngũ thức và thức thứ tám là quả
(lục thất nhân trung chuyển; ngũ bát quả thượng viên). Những thức này
chỉ dụng danh ngôn mà không có Thật Tánh. Nếu ngay trên chỗ chuyển mà
không dấy niệm (vô niệm) tức là sáu căn không Động mà Tĩnh, không có lưu
tình, thì ngay nơi chỗ phồn hưng (ồn náo) mà vẫn ở trong đại định Na-già.
Điều này Tổ thứ 22 Ma-Noa-La (Manorhita) Thiền Tông có nói:
“Tâm tùy vạn cảnh chuyển
Chuyển xứ thật năng u
Tùy lưu nhận đắc Tánh
Vô hỷ diệc vô ưu”.
(Tâm theo muôn cảnh chuyển
Chỗ chuyển thật kín sâu
Tùy dòng nhận được Tánh
Không mừng cũng không lo).
KIẾN GIẢI CHỨNG ĐẠO CA: “VÔ TRỤ NIẾT BÀN VÀ MA HA BÁT NHÔ
________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________
Thiền Sư HUYỀN GIÁC--Trang | 189 --Kiến Giải: NGỘ THÂM
Chuyển Tám Thức thành Trí này, chỗ Bí Quyết là “Tĩnh”, nghĩa là
không khởi niệm tức vô niệm, không lưu tình: “Vô hỷ diệc vô ưu” Cái Bí
Quyết thứ hai là chỉ cần chuyển cái “Nhân” là thức thứ sáu (Ý Thức) và thức
thứ bảy (Mạt Na Thức) thì được cái “Quả” tự nhiên chuyển theo là Ngũ Thức
(nhãn, nhĩ ,tỷ, thiệt, thân) và thức thứ tám (A-Lại-Da Thức). Trong Duy Thức
Luận có nói rõ công dụng của mỗi thức trong Bát Thức như sau :
“Bát cá đệ huynh nhất cá si
Độc hữu nhất cá tối lưu ly
Ngũ cá môn tiền tố mãi mại
Nhất cá gia trung tác chủ y”.
Nghĩa là trong tám anh em “Bát Thức” có một đứa “ngu si” nhất đó
là anh thứ bảy (Mạt Na Thức) bởi vì chấp Ngã; anh thứ sáu (Ý Thức) thì khôn
lanh nhất “tối lưu ly” có công hàng đầu đưa nhân giả tới chỗ giác ngộ giải
thoát, nhưng cũng có tội bậc nhất đưa nhân giả vào địa ngục cũng dễ dàng:
“công vi thủ, tội vi khôi”; từ anh thứ nhất tới anh thứ năm (nhãn, nhĩ ,tỷ,
thiệt, thân) chỉ lo việc buôn bán tiếp xúc với khách trần bên ngoài; còn Ông
Chủ thì ở trong nhà lo tàng trữ cất giữ mọi “Tích Sản” trong nhiều đời nhiều
kiếp là thức thứ tám (A-Lại-Da Thức). Anh A-Lại-Da này còn có những
nhiệm vụ đặc biệt như sau:
“Hạo hạo Tam Tàng bất khả cùng
Uyên thâm thất lãng cảnh vi phong
Thọ huân trì chủng căn thân khí
Khứ hậu lai tiên tác chủ ông”.
(Vòi vọi ba Tàng thật khôn cùng
Vực sâu, “Bảy Sóng”chốn cuồng phong
Nhận gom giữ chủng căn thân khí
Đi sau đến trước, Chủ là Ông).
Nghĩa là thức thứ tám A-Lại-Da là Tàng Thức có ba Tàng mênh mông
vòi vọi là: Năng Tàng (có công năng tàng trữ tất cả chủng tử (hạt giống) trong
nhiều đời nhiều kiếp), Sở Tàng (là nơi tất cả Pháp hiện hành huân tập vào) và
Ngã Ái Chấp Tàng (chấp cái kiến phần của thức này làm Ngã là người Chủ
khả ái cố giữ chặt không buông tha). A-Lại-Da là cái “vực sâu” thăm thẳm
chứa “Bảy Sóng” cuồn cuộn là chỗ tạo thành Gió Nghiệp luân chuyển là “tài
sản” của Căn Thân và Sắc Trần (tức là khí) thọ nhận, huân tập trong nhiều đời
nhiều kiếp rồi cầm giữ tích chứa thành Nghiệp Chủng. Thức này khi con
người chết thì đi sau cùng; khi luân hồi thì thọ nhập vào bào thai trước hết, là
Ông Chủ tạo tác dẫn Nghiệp tái sinh ở đời sau. Trong A-Lại-Da,“Bảy Sóng”
KIẾN GIẢI CHỨNG ĐẠO CA: “VÔ TRỤ NIẾT BÀN VÀ MA HA BÁT NHÔ
________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________
Thiền Sư HUYỀN GIÁC--Trang | 190 --Kiến Giải: NGỘ THÂM
cùng nổi lên (tức là Động) thì tạo nên Gió Nghiệp thổi vào biển Luân Hồi.
Trong “Bảy Sóng” thì Ý Thức và Mạt Na Thức là tối quan trọng trong Mê
hay Ngộ. Bởi vì Ý Thức là “tối lưu ly” là tinh khôn nhất , dẫn đầu trong việc
chuyển Nghiệp; còn Mạt Na Thức thì “si mê” chỉ biết ôm chấp cái ngã
chướng ô nhiễm là ngã kiến, ngã si, ngã mạn và ngã ái, không chịu buông tha
nên bị trói cột vào Nghiệp hay Chủng Tử luân hồi. Hai thức này chuyển thì
Ngũ Thức và Bát Thức tự động chuyển theo: “Lục thất “nhân” trung
chuyển; ngũ bát “quả” thượng viên”. Khi đó thì ngũ thức (nhãn, nhĩ ,tỷ,
thiệt, thân) biến thành “Thành Sở Tác Trí”, còn thức thứ tám (A-Lại-Da
Thức) chuyển thành “Đại Viên Cảnh Trí” là Biển Tánh thanh tịnh. Sáu căn
không khởi niệm tức “Vô Niệm”, Mạt Na Thức không khởi niệm tức “Vô
Ngã” thì “Bảy Sóng” lặng yên tức là “Tĩnh”thì: “Bát Thức hữu thần uy,
Tâm đăng minh Pháp Giới”. Nếu “Bảy Sóng” trong Bát Thức dấy động,
nổi cuồng phong dẫn Nghiệp tái sanh đẩy chúng sanh là Chánh Báo vào Biển
Luân Hồi, thì “Bảy Sóng” trong hạt nguyên tử do Vô Minh hay Nghiệp Lực
tác động tạo ra cái Sắc tức Y Báo là Thế Gian Mê cùng Nghiệp là căn nhà của
Chúng Sanh Mê đang thọ Nghiệp. “Bảy Sóng” này là Bảy lớp “quỹ đạo
electron” bị cột dính cứng chắc và quay chung quanh nhân nguyên tử (được
xem như là Nghiệp vi tế) như những vòng tròn luân hồi, duyên khởi tạo tác
thành thế giới vật chất từ Nguyên Tử cho tới Vũ Trụ là cái Sắc hay Y Báo của
Chúng Sanh cùng Nghiệp Quả. Bát Thức cũng chính là Tâm, nếu “Bảy Sóng”
trong Bát Thức lặng yên như chiếc Gương trong thì soi sáng cả ba ngàn Thế
Giới: “Tâm đăng minh Pháp Giới”; thì “Bảy Sóng” trong cái Sắc cũng lặng
yên, thế giới Mê tan hoại: Sắc trở về Không; cả Tâm và Cảnh (tức Sắc) Nhất
Như đồng trở về Thế Giới Nhất Chơn, tức là cái Không hay Bát Nhã Chân
Như…
Chứng Ngộ “Tự Tánh” đạt Tam Thân Tứ Trí với “Bảy Sóng” lặng
yên tịch diệt này nhờ khai thị của Lục Tổ Huệ Năng, Thiền Sư Trí Thông trình
kệ:
“Tam Thân nguyên ngã thể
Tứ Trí Bản Tâm minh
Thân Trí dung vô ngại
Ứng vật nhiệm tùy hình
Khởi tu giai vọng động
Thủ trụ phỉ chân tinh
Diệu chỉ nhân Sư hiểu
Chung vong nhiễm ô danh”.
KIẾN GIẢI CHỨNG ĐẠO CA: “VÔ TRỤ NIẾT BÀN VÀ MA HA BÁT NHÔ
________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________
Thiền Sư HUYỀN GIÁC--Trang | 191 --Kiến Giải: NGỘ THÂM
Nghĩa là nếu Ngộ rồi thì thấy Ba Thân nguyên là thể của chính mình,
Tứ Trí là Bản Tâm sáng của mình, cả Thân và Trí đều dung thông vô ngại, khi
đó tùy cơ ứng vật không bị vướng mắc. Còn như khởi niệm tu hành là vọng
động; giữ trụ kềm chế thì không hợp với lẽ chân. Nhờ Thầy mà hiểu được diệu
chỉ, cái danh hay cái tên là nhiễm ô cũng phải quên đi.
Rốt ráo lại, chứng được Tự Tánh hòa cùng Biển Tánh thanh tịnh, đạt
được Tam Thân Tứ Trí mà trong đó Bát Thức chuyển thành Trí cũng chính là
Tâm. Sóng Nghiệp lặng yên, không còn ngã sở thì Tâm “Tịnh” hòa cùng Biển
Tâm trùm khắp Hư Không vô biên, là chiếc “Gương” soi rõ ba ngàn Thế Giới
cùng với Biển Tánh Chân Như là Một.
Như vậy Mê hay Ngộ chỉ có hai trạng thái TĨNH và ĐỘNG. Tĩnh là
Chư Phật, Tổ và Thiền Sư ngộ Đạo. Còn Động là Chúng Sanh Mê trong sáu
cõi luân hồi. Trong Mê thì có “Động”, trong “Động” có “Dụng”, nhất
“Động” nhất “Dụng”, sinh ra “Hữu”, là cái tướng Mê do Vô Minh hay
Nghiệp Lực tác động, có cái “Tướng Động” là năng lượng chuyển thành khối
lượng vật chất tạo ra Sắc Tướng Thế Gian Mê do Sóng Nghiệp hay Sóng Vô
Minh duyên thành Sóng Vật Chất vi tế duyên khởi biến hóa thành nguyên tử
cho đến vũ trụ, nguyên tử và vũ trụ đều “Động” mà hiện hữu. Thế Giới Mê
tuy có Sắc Tướng nhưng không thật, chỉ là vọng khởi, huyễn ảo, là Bóng của
cái KHÔNG vô hình tướng. Trái với Mê là Ngộ, trong Ngộ thì có “Tĩnh”,
trong “Tĩnh” thì không “Động”, không “Động” thì không “Dụng”, không
“Động” không “Dụng” là cái Tướng Không không Tướng, tức là “KHÔNG”
là cái Tướng của Bát Nhã Niết Bàn. Thật ra Bát Nhã thì Như Như “Bất
Động”, nhưng lại có cái “Dụng” là “Hay sanh muôn Pháp” là cái Diệu Hữu
của Chân Như. Cái “Dụng” này là Vạn Pháp Thế Gian từ Gốc Tâm hay Mặt
Trăng Thứ Hai trở ra Ngọn Tâm do “Động” mà huyễn hóa thành đủ thứ sum
la vạn tượng hiện đầy trong Hư Không. Tuy nhiên dù “Hiện Hữu” nhưng
không thật có, chỉ là huyễn hóa, là Tánh Không nên “Diệu”. Với con mắt Bát
Nhã thì ngay trên Động mà Bất Động, ngay trên Dụng mà Không Dụng, ngay
trên Pháp Thế Gian hay cái “Bóng Trăng” mà “trực chỉ” thấy “Mặt Trăng
Thật”, thấy Sắc tức Không, tức là “Không Động” và “Không Dụng” ngay
trên cái tướng “Động Dụng” của Pháp Thế Gian. Do đó trong “Tĩnh”, đâu
đâu Vạn Pháp cũng đều Như! Do dứt Vô Minh hay Nghiệp Lực tác động nên
Sóng Vật Chất vi tế biến mất thì Vật Chất từ Nguyên Tử cho đến Vũ Trụ của
Thế Gian Mê sụp đổ tan hoại: Sắc trở về Không. “Tĩnh” cũng như Mặt Nước
Biển yên lặng thì Sóng mất, trở về với Nước. Trong “Tĩnh” : Sắc về với
Không, Sóng về với Nước, tức là về lại Gốc, trở lại Nguồn, về Căn Nhà Xưa:
căn nhà “Ma Ha Bát Nhã Ba La Mật Đa” vô thủy.
KIẾN GIẢI CHỨNG ĐẠO CA: “VÔ TRỤ NIẾT BÀN VÀ MA HA BÁT NHÔ
________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________
Thiền Sư HUYỀN GIÁC--Trang | 192 --Kiến Giải: NGỘ THÂM
Nói tới “Động” và “Tĩnh”, cũng nên phân biệt cái “Động” và
“Tĩnh” mà Lục Tổ Huệ Năng đề cập tới loài Hữu Tình như chúng sanh và
loài Vô Tình như cây cỏ, đất đá… Hữu Tình là biết “Động”, còn Vô Tình thì
không biết “Động”. Ở đây chỉ nói về hình thức bên ngoài của loài Vô Tình
như đất đá,…là “Bất Động” tức Vô Tri; khi không nói đến nội dung bên
trong với những hạt hay sóng vật chất luôn luôn động. Nếu chấp cái “Bất
Động” này để hành trì thì người Tu cũng giống như gỗ đá thì bất động vẫn là
bất động, không thể đạt được cái “ Chân Thật Bất Động”. Vì vậy Lục Tổ
Huệ Năng có nhắc nhở:
“Hữu Tình tức biết động
Vô Tình tức không động
Nếu tu hạnh bất động
Đồng Vô Tình bất động”.
Muốn tìm cái “Chân Thật Bất Động”, là loài Hữu Tình, chúng sanh
có sáu căn hoạt động thì ngay trên “Động” có “Bất Động”, tức là ngay trên
sáu căn (thấy nghe hiểu biết, xúc chạm…) là cái Tướng Động nhưng không
đuổi theo sáu trần, nghĩa là tuy có thấy có nghe có hiểu biết… nhưng “không
khởi niệm”. Đây chính là ngay trên “Động” có “Bất Động”, ngay trên niệm
mà lìa niệm, tức “Vô Niệm” hay ngay trên cảnh mà lìa cảnh, tức “Vô Tâm”.
Còn như bất động hoàn toàn: không thấy không nghe không hiểu biết…thì bất
động vẫn là bất động, đồng với loài Vô Tình như đất đá cây cỏ, không có Phật
Tánh:
“Nếu tìm Chân Bất Động
Trên động có bất động
Bất động là bất động
Vô Tình không Phật Tánh.” (Lục Tổ Huệ Năng).
Trở về cái Mê hay Ngộ ở hai trạng thái TĨNH và ĐỘNG. Ngay khi
Ngộ thì Sắc về với Không: Chánh Báo và Y Báo đều hòa chung với cái Hư
Không vô biên là Pháp Thân bình đẳng trong Hoa Tạng Pháp Giới. Ngay khi
Ngộ thì Sóng hay Hòn Bọt mất, hòa với Biển Nước lặng yên; cái Ngã Sóng
mất, cái Ngã Bọt mất, hòa thành Biển Cả bao la. Ngay khi Ngộ thì Thân Tâm
mất, Thân là Pháp Thân: Hư Không vô biên, Tâm là Đại Tâm thành Biển Tánh
bao la dung thông với tất cả Tánh. Con mắt “Vô” của Sa Môn thấy cái
“Dụng” ở trong “Động” nhận ra tức thời cái “Thể” ở trong “Tĩnh”, thấy
“Tướng” mà “Vô Tướng”, thấy Vật tức Tâm, thấy Sắc tức Không, thấy Đại
Địa Quần Sanh là Thế Giới Nhất Chơn bình đẳng. Tất cả Sum La Vạn Tượng
đều đồng loạt mở toang con mắt Bát Nhã rực cả Bầu Trời Hư Không vô tận:
“Đại Địa Quần Sanh nhãn hoát khai”. Con mắt “Vô Tướng” của Tổ Long
KIẾN GIẢI CHỨNG ĐẠO CA: “VÔ TRỤ NIẾT BÀN VÀ MA HA BÁT NHÔ
________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________
Thiền Sư HUYỀN GIÁC--Trang | 193 --Kiến Giải: NGỘ THÂM
Thọ cũng vậy: Không thấy Như Lai đâu cả, mà đâu đâu cũng thấy Như Lai,
không thấy Pháp Thân Phật đâu cả, mà đâu đâu cũng thấy Pháp Thân Phật,
không thấy Niết Bàn đâu cả mà đâu đâu cũng gặp Niết Bàn, không thấy Bát
Nhã đâu cả, mà đâu đâu cũng là Bát Nhã… Bởi vì tất cả cái thấy hay cái
Chứng Ngộ này đều ở trong “Tĩnh” tức Vô Tác. Vô Tác ở đây cũng đồng với
Vô Niệm, Vô Tâm hay vô sở trụ. Tất cả cái thấy “Vô, Vô Tướng, Vô Tác”
này đều ở trong “Tĩnh”. “Tĩnh” là trở về cái Chân Lý vĩnh hằng và tuyệt đối
của Vạn Hữu là “Sắc tức thị Không”.
Điều này được “Thực Chứng” bằng giấc Chiêm Bao. Chiêm Bao là
do cái Tâm Mê đang “Động” hiện ra Thế Giới Chiêm Bao mà trong đó cái
SẮC tức là Vật Chất và Vũ Trụ trong Chiêm Bao không có thật, chỉ là cái
Bóng của Thân Tâm đang nằm ngủ mê trên giường biến chiếu ra và cái Thân
Tâm này, Chúng Sanh trong Chiêm Bao không thể nhìn thấy mà chỉ thấy là
Hư Không Rỗng Rang. Khi “Thức Dậy” tức là không còn Mê hay không ở
trạng thái Động của cái Tâm Mê trong Chiêm Bao, mà ở trạng thái Tĩnh thì cái
SẮC mất hay Vật Chất và Vũ Trụ trong Chiêm Bao mất, chỉ có cái “Thân
Thật” ở trên giường đang “Thức Dậy”. Cái “Thân Thật” này giải mã cái Bí
Mật mà chúng sanh trong Chiêm Bao không thể hiểu nổi. Nó biến hóa vô
cùng: sơn hà, đại địa, mọi chúng sanh, cây cỏ, muông thú…cả ba ngàn thế
giới Chiêm Bao, nó làm ngược rồi làm xuôi mà chúng sanh trong Chiêm Bao
không hiểu không biết, nhìn thì chẳng thấy sờ thì không đụng, chỉ thấy Hư
Không rỗng rang! Cái “Thân Thật” này vừa là Hư Không, Pháp Thân, Bát
Nhã, Niết Bàn, Chân Lý tuyệt đối của Thế Giới Chiêm Bao, vừa là Thế Giới
Nhất Chân: “Một là Tất Cả” hay cái Không vi diệu: “Không tức thị Sắc”…
Đem Tấm Bản Đồ Mộng “Nhắm Mắt Chiêm Bao” này chồng lên Tấm Bản
Đồ Mộng “Mở Mắt Chiêm Bao” của Chúng Sanh hiện tại thì sẽ khám phá ra
cái Đạo Lý siêu việt “Sắc tức thị KHÔNG”, chẳng những “Thực Chứng”
bằng giấc Chiêm Bao mà còn “Thực Chứng” bằng Khoa Học như đã luận giải
ở phần trên ! Người đi tìm Đạo có thể dựa vào hai cái “Thực Chứng” này để
có niềm tin vững chắc đạt tới “Chánh Tín” và hình dung ra phần nào cái
“Thực Chứng” của Chư Phật, Tổ và Thiền Sư Ngộ Đạo:
“Mộng lý minh minh hữu lục thú
Giác hậu không không vô đại thiên”.
(Thiền Sư Huyền Giác).
Nghĩa là còn Mộng, còn Mê thì còn sáu ngã luân hồi, Giác rồi hay dứt
Mộng hết Mê, Ngộ rồi hay đã Thức Dậy thì gặp cái KHÔNG, tức là Niết Bàn,
Bát Nhã, Chân Như, Thực Tướng…Và khi đó ba ngàn thế giới cũng không
KIẾN GIẢI CHỨNG ĐẠO CA: “VÔ TRỤ NIẾT BÀN VÀ MA HA BÁT NHÔ
________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________
Thiền Sư HUYỀN GIÁC--Trang | 194 --Kiến Giải: NGỘ THÂM
có…Nghĩa là cái SẮC: từ nguyên tử Vật Chất cho đến Vũ Trụ đều “không
có”, đạt đến cái Chân Lý tuyệt đối: “Sắc tức thị KHÔNG”.
Tóm lại còn Mê thì thấy Sắc, Ngộ rồi hay Thức Dậy thì Sắc mất trở về
Không, trở về cái “Thân Thật” là Pháp Thân, là Thật Tướng là Niết Bàn, là
Bát Nhã Chân Như…Cảm ơn Khoa Học và Nhà Bác Học Einstein đã phân
tích tới cái tận cùng của Vật Chất là Sóng vi tế năng lượng cao và Năng
Lượng có thể chuyển thành Khối Lượng Vật Chất và nhờ đó giải được cái
Lý Sắc Không của Đức Phật Thích Ca. Nhưng Khoa Học dừng lại nơi cái
Tướng Sóng hay cái Tướng Sắc mà không biết Sóng Vật Chất này cũng giống
như Sóng Nước và như thế : Sóng trở về Nước cũng giống như Sắc trở về
Không . Do đó Khoa Học không thể “nhảy qua đầu sào trăm trượng” của
Thiền Sư Cảnh Sầm hay “cái cửa Vô Vi” của Thiền Sư Huyền Giác để đạt tới
cái Chân Lý rốt ráo và ngộ nhập với cái Chân Lý này. Tuy nhiên cũng nhờ
Khoa Học mới biết được cái Đạo Lý tuyệt vời “Sắc tức thị Không” của Đức
Phật Thích Ca cũng như những khai thị trợ duyên siêu việt của Tổ và Thiền
Sư ngộ đạo. Tận đầu nguồn, vừa huốt khỏi cái Sắc, cái Sóng, cái máy động
của Sự Vật trên hình tướng, tức là cái Vô Vi thì nhận ra được cái KHÔNG là
Mẹ Đẻ ra tất cả mọi sự vật: từ nguyên tử vật chất cho tới cả vũ trụ. Như vậy đã
quá rõ ràng với lời Kinh Bát Nhã:
“Sắc bất dị Không, Không bất dị Sắc
Sắc tức thị Không, Không tức thị Sắc”.
Và lời Kinh này xem như đã được chứng minh bằng Khoa Học!
Tuy nhiên Khoa Học chưa thấy được điều này, vì Khoa Học còn chấp trên
hình tướng, nên bị “kẹt” hay bị chướng ngại, vừa đụng tới cái Gốc của Sự Vật
là cái Không thì Khoa Học lại quay đầu trở ra cái Ngọn, tức là Khoa Học vẫn
còn bị điên đảo ở nơi cái Bóng Trăng!
Giới hạn của Khoa Học là chỉ khám phá ra được phần “Dụng” trên vật
hữu hình, hữu tướng, tức là nhận ra được cái Hiện Tượng hay cái Bóng Trăng.
Còn phần “Thể” trên cái Vô Tướng, phi Sự Vật, tức là cái Bản Thể hay Mặt
Trăng thật thì chưa khám phá ra được. Đức Phật đã nhìn thấy được cái Chân
Lý tuyệt đối: Sắc tức thị Không. Và cái Không này, chính là Bát Nhã, là Thật
Tướng, là Bản Thể của Vũ Trụ và Vật Chất… là Căn Nhà xưa của mọi Chúng
Sanh trong sáu ngã Luân Hồi, là Niết Bàn thường lạc ngã tịnh. Muốn Ngộ
Nhập hay trở về Căn Nhà xưa thì phải có cái Tâm tương ưng, huốt cả đường
Tâm đạt tới cái Tâm không là cái Tâm Vô Vi của Thiền Sư Huyền Giác, cái
Tâm Vô Niệm của Lục Tổ Huệ Năng hay cái Tâm Vô: Vô Tâm nơi Sự, vô Sự
nơi Tâm của Thiền Sư Đức Sơn… Cái Không là cái Chân Lý tuyệt vời của Vũ
KIẾN GIẢI CHỨNG ĐẠO CA: “VÔ TRỤ NIẾT BÀN VÀ MA HA BÁT NHÔ
________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________
Thiền Sư HUYỀN GIÁC--Trang | 195 --Kiến Giải: NGỘ THÂM
Trụ và Chúng Sanh là cái Ma Ha Bát Nhã Ba La Mật Đa mà Đức Phật với Trí
Tuệ siêu việt khi đạt Chánh Đẳng Chánh Giác đã khám phá ra và chỉ đường
rành rẽ cho Chúng Sanh với Tấm Bản Đồ Bát Nhã “Sắc tức thị Không” là Kim
Chỉ Nam cho hành giả đi tìm Chân Lý Giải Thoát.
Đức Phật trao Tấm Bản Đồ “Bát Nhã”; Thiền Sư Huyền Giác chỉ con
đường tắt: “Tuyệt học Vô Vi” tức là cái “cửa Vô Vi”: ( Tranh tự Vô Vi Thực
Tướng môn ) để trực tiếp nhảy thẳng vào đất Như Lai hay căn nhà Bát Nhã : (
Nhất siêu trực nhập Như Lai Địa ) khỏi phải mất nhiều thời gian nhiều đời
nhiều kiếp dò tìm như vào biển đếm cát, mà không đến nơi hay không tìm ra
Đạo…Từ khi Đức Phật Thích Ca đạt Chánh Đẳng Chánh Giác, tìm được con
đường GIải Thoát, có Đức Phật cung cấp Bản Đồ chính xác, có Thiền Sư Ngộ
Đạo chỉ con đường tắt đến tận cửa vào mà các Ngài đã đi qua với những kinh
nghiệm “Thực Chứng” vô cùng quý giá, tất cả chúng sanh từ đây được
hưởng một ân huệ vô giá là có con đường Giải Thoát khỏi phiền não và sinh
tử luân hồi! Tuy nhiên vì thế lực Vô Minh cõi Ta Bà rất nặng nề và chúng
sanh với đủ mọi thứ Cộng Nghiệp, Biệt Nghiệp sâu dầy trong nhiều đời nhiều
kiếp, trong khi Phật Pháp chưa ra đời hay đã ra đời rồi nhưng chưa đủ duyên,
con người từ sự mông muội, ngu si đi đến mê tín, cuồng tín rồi dục vọng,
tham vọng quyền lực… nhưng rồi cũng tự thấy bất lực trước cái chết, sợ thiên
tai, địa ách, bệnh tật… cho nên đôi lúc cầu Thần Quyền hay “tự kỷ ám thị”
bị loạn tâm loạn tưởng nằm mơ hay ảo giác tự cho là thấy Phật, thấy Thần,
gặp mặt Thượng Đế… do Tâm Mê tạo tác để thỏa mãn cho cái Ngã cái
Nghiệp hay tham vọng, dục vọng… lầm tưởng tự cho là Ngộ Đạo, là Sứ Giả
của Thượng Đế, rồi tự xưng là Giáo Chủ của Một Tôn Giáo hay một Pháp
Môn. Cũng có nhiều người thực tâm đi tìm Đạo, tự lập ra Pháp Môn tu tập,
nhưng không tìm ra Đạo! Thời Đức Phật còn tại thế cách đây hơn 2500 năm,
đã có tới những 96 mối Đạo, Tôn Giáo hay Pháp Môn như thế! Tuy nhiên, chỉ
có duy nhất Đức Phật Thích Ca là tìm ra Đạo đạt Chánh Đảng Chánh Giác.
Rất nhiều Sa Môn ngoại Đạo như Bà La Môn hay các Tôn Giáo khác lìa bỏ
những Pháp Môn hay Tôn Giáo của mình, đi theo Phật và cũng đắc Đạo! Còn
tất cả những mối Đạo kia, nếu không phải là những Tà Thần, Tà Pháp hay Tà
Giáo có tính cách Hoang Tưởng Mê Tín hay Cuồng Tín… thì cũng chỉ là
những Pháp Môn hay Tôn Giáo của những “Đức tin” mơ hồ, cạn cợt, hoặc sai
lầm, chưa đạt được mục đích Giải Thoát! Từ đó cho đến ngày nay ( thế kỷ 21)
có một số Tôn Giáo mới ra đời, tuy nhiên không có một Tôn Giáo nào có thể
so sánh được với Đạo Phật về tính nhân bản, lòng nhân ái, không hận thù
không hiếu sát, không mê tín cuồng tín, có lòng khoan dung hỉ xã, sự an lạc
cho tất cả chúng sanh, không có Giáo Luật ràng buộc hay cột trói tín đồ, đem
lại một mùa Xuân yên lành và miên viễn cho tất cả mọi chúng sanh từ loài
KIẾN GIẢI CHỨNG ĐẠO CA: “VÔ TRỤ NIẾT BÀN VÀ MA HA BÁT NHÔ
________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________
Thiền Sư HUYỀN GIÁC--Trang | 196 --Kiến Giải: NGỘ THÂM
người cho đến loài vật chim muông cây cỏ…. Một Đạo Phật Trí Tuệ siêu việt
và lòng từ bi vô hạn, đạt Chân Lý Giải Thoát!
Tuy nhiên, vì Pháp Trần là ô nhiễm Tham Sân Si và Nghiệp Chướng
Vô Minh, cho nên gặp được Phật Pháp không phải là dễ, gặp được Chánh
Pháp lại càng khó hơn. Đối với chúng sanh chưa đủ duyên lành, Nghiệp
Chướng Vô Minh quá nặng, dù có gặp Phật Pháp, nhưng chưa chắc đã hiểu rõ
hay ứng dụng được Phật Pháp cho mục đích Giải Thoát! Kinh Phật hay Pháp
Phật, nếu qua tay phàm phu thì chỉ là một mớ văn tự suông vô giá trị, qua tay
người mang nặng Tà Kiến, Tà Tư Duy thì trở thành Tà Pháp, còn qua tay
người có Đạo hay các Chư Tổ và Thiền Sư thì trở thành Bảo Pháp của Phật
giúp người trừ được phiền não và có thể đạt đến bờ Giải Thoát. Do đó
Pháp Phật không thể để cho kẻ phàm phu hay cho những người có tham vọng
chính trị, quyền lực, danh vọng tiền tài vật chất hay tà kiến thế gian sử dụng
hay diễn dịch tự ý theo cái Nghiệp hay cái Ngã Kiến, Sở Kiến sai lầm của
mình. Phật từng nói: “Biết Ta mà không hiểu Ta, chỉ là hủy báng Ta!” .
Ở Trung Hoa thời Tam Quốc khi nhà Hán suy, giặc giã nổi lên như
ong, ba anh em (Trương Lương, Trương Bảo, Trương Giác) lợi dụng thời cơ
mượn một phần Phật Pháp pha trộn với những mê tín bùa chú, trị bệnh… để
khuyến dụ dân chúng. Lúc đầu khá thành công trong tham vọng quyền lực, bắt
đầu sự nghiệp với chiêu bài : lấy hình thức Tôn Giáo làm Chính Trị : “Thế
Thiên Hành Đạo”, dựa vào sự mê tín của quần chúng, tập hợp được khoảng
100 vạn quân, sử gọi là giặc Khăn Vàng. Tuy nhiên về sau, Bùa Chú hay Phép
Lạ không linh ứng, cả ba anh em đều bị Lưu Bị, Quan Công và Trương Phi
chém đầu, giặc Khăn Vàng tan rã.
Ngày nay, có một số nơi Phật Pháp bị “pha chế quá liều” với Thế
Gian Pháp. Phật Pháp ở đây trở thành Pháp chết, trống rỗng nặng nề về hình
thức, hoặc mê tín… Đôi khi mượn danh Phật, mượn Pháp Phật, mượn nhà
chùa để kinh doanh thương mại, lừa gạt chúng sanh một cách tinh vi… Đức
Phật có cảnh báo trước : thời Mạt Pháp, Ma Phật lẫn lộn rất khó phân biệt.
Nhiều Vị nói Phật Pháp, giảng Phật Pháp rất hay, nhưng chưa chắc đã là chân
tu ! Có một Vị Đại Đệ Tử hỏi : “khi Phật nhập diệt rồi thì lấy ai làm
Thầy ? ”. Phật trả lời : “hãy lấy Giới Luật làm Thầy”. Đây quả là thước đo
khá chính xác! Do đó, hễ thấy Vị nào phạm nhiều Giới Luật như sống xa xỉ
tiền tài vật chất phí phạm của bá tánh, vẽ vời nhiều “Phật Sự”, nói láo hay
vọng ngữ có tâm ngã mạn, hay nóng giận, tham danh lợi thế gian, sống chung
đụng ăn ở chung với nữ giới nhiều ngày nhiều tháng hay nhiều năm, có quan
KIẾN GIẢI CHỨNG ĐẠO CA: “VÔ TRỤ NIẾT BÀN VÀ MA HA BÁT NHÔ
________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________
Thiền Sư HUYỀN GIÁC--Trang | 197 --Kiến Giải: NGỘ THÂM
hệ ái dục nam nữ dù tinh vi kín đáo hay lộ liễu… thì dù có thao thao giảng
pháp hấp dẫn cách mấy cũng nên lánh xa !
Có Pháp Môn hay Tôn Giáo mượn một phần Phật Pháp rồi pha trộn
một cách gượng ép với các Tôn Giáo Thần Quyền khác như Bà La Môn, Ki-
Tô-Giáo… đặt Thượng Đế lên cao nhất, đem Phật xuống dưới thấp ngang
hàng với các Vị Thần Bà La Môn, sửa lại Pháp Phật cho một số Vị Phật có
nhiệm vụ riêng như luyện hồn chúng sanh sau khi chết để đưa đi đầu thai mà
không phải là Nghiệp Lực… Phật Pháp ở đây không phải là Chánh Pháp !
Có Pháp Môn về hình thức thì giống Phật Giáo nhưng nội dung hoàn
toàn phản Phật Giáo. Vị Pháp Chủ dùng cái chước là truyền Tâm Ấn để trói
chặt tín đồ, dùng pháp “Quán Âm” khi nghe được âm thanh của Thượng Đế là
Đắc Đạo. Tuy nhiên trong Kinh Kim Cang Phật nói: “Nhược dĩ Sắc kiến
Ngã, Dĩ âm thanh cầu Ngã, Thị nhân hành Tà Đạo, bất năng kiến Như
Lai?!”…
Có Pháp Môn lạm danh Thiền, “mượn” những “chiêu” Thiền thật đặc
sắc của Phật, Tổ và Thiền Sư ngày xưa làm vốn liếng, do đó cảm hóa dễ
dàng người mới học Đạo. Tuy nhiên sau đó lại báng Phật, bài Tổ, tự cho là
ngộ Đạo rồi đem cái Nghiệp cái Ngã cái Sở Kiến sai lầm của mình vào thì trở
nên lạc lõng vô vị. Học phương Tây về Thần Quyền rồi đem Thượng Đế Ki-
Tô vào nhà Thiền, chế tác những pháp Thiền kỳ lạ quái gở, điển hình
như “Thiền Động” (Dynamic Meditation), nghĩa là trước khi ngồi Thiền cả
tập thể ca hát nhảy múa cực kỳ sôi động…
Thiền Sư Huyền Giác cũng than trách những ác tệ làm suy đồi Phật
Pháp, làm hại chúng sanh trong thời đại Ngài, thì ngày nay những ác tệ cũng
có thể làm cho Phật Pháp suy đồi:
“Ta ! Mạt Pháp, ác thời thế
Chúng sinh phước bạc nan điều chế.
Khứ thánh viễn hề, tà kiến thâm
Ma cường, Pháp nhược đa oán hại”.
(Thiền Sư Huyền Giác).
(Than ôi! Mạt Pháp, thời thế ác
Chúng sinh phước mỏng khó điều phục
Xa cách Hiền Thánh, tà kiến sâu
Ma mạnh, Pháp yếu, nhiều ác tệ).
Ma mạnh Pháp yếu dẫn dắt chúng sanh đi theo con đường Mê là do
hành giả chưa đạt tới niềm tin Chánh Tín. Nghe hay đọc mà vội tin ngay thì dễ
KIẾN GIẢI CHỨNG ĐẠO CA: “VÔ TRỤ NIẾT BÀN VÀ MA HA BÁT NHÔ
________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________
Thiền Sư HUYỀN GIÁC--Trang | 198 --Kiến Giải: NGỘ THÂM
trở thành mê tín, tà tín rồi chấp vào sự mê tín, tà tín đó thành ra cuồng
tín…Nếu chịu khó quán chiếu sâu sắc, suy xét, phân tích, truy tìm, học
hỏi…như lời Đức Phật dặn dò: “phải thử nó như thử vàng”…thì mọi việc
trắng đen sẽ hiển bày, nhận diện được chánh tà và khi đó có niềm tin Chánh
Tín bắt đầu tu tập (Văn, Tư, Tu) thì mới không bị lầm lạc. Đức Phật có dặn dò
rất kỹ dù là Kinh Sách ngày xưa để lại ,hay lời nói của một Vị Giáo Chủ nổi
tiếng, Truyền Thống lâu đời để lại…cũng đừng tin, mà phải suy xét, so sánh,
phân tích cho thật kỹ nếu thấy đúng, hợp lý,có giá trị, có lợi ích thì mới tin. Từ
đó “khám phá” ra được nhiều điều tưởng rằng linh thiêng, là pháp mầu là
phép lạ… rốt cuộc cũng chỉ là trí tuệ vụn vặt, cạn cợt hoặc sai lầm của phàm
phu. Cũng từ đó, giúp cho hành giả đi tìm Chân Lý Giải Thoát khỏi bị lầm
lạc : nhận Ma làm Phật, Phàm Tăng cho là Thánh Tăng, Tà Giáo cho là Chánh
Giáo, Tà Pháp cho là Chánh Pháp…
Điều chắc chắn mà không sợ bị lầm là cứ theo “Dấu Chân” của Phật
của Tổ mà đi, vì các Ngài đã “Chứng Đạo” ; dựa vào Tấm Bản Đồ mà Phật
đã trao từ Ngài Ca Diếp truyền qua 28 đời Tổ Sư cho tới Sơ Tổ Bồ Đề Đạt
Ma, Lục Tổ Huệ Năng, Thiền Sư Huyền Giác…tất cả đều nhờ Tấm Bản Đồ
này mà Chứng Ngộ với Trí Tuệ Bát Nhã siêu việt thì hậu sinh có thể dùng
Tấm Bản Đồ này mà không sợ bị lạc đường, cộng thêm với những Bí Quyết
hay kinh nghiệm Chứng Đạo của các Ngài chỉ thẳng Cửa Vào thì con đường
đi tìm Chân Lý Giải Thoát không còn xa vời như các Ngài đã khuyên bảo và
khai thị…Còn đối với Pháp Môn mới lạ, của người đời nay, sau khi phân tích
tận đầu nguồn thì rõ ràng chỉ là trí phàm phu cạn cợt, có cái rất sai lầm và ác
tệ…không phải của người Chứng Đạo…
Cuối cùng “trí phàm phu không thể nào sánh được với Trí Bát
Nhã của Chư Phật”. Rốt ráo lại hầu hết những Pháp Môn “hiện đại” ngày
nay đều không có giá trị Tâm Linh, Chứng Ngộ hay Giải Thoát siêu việt như
của Phật, Tổ và Thiền Sư ngày xưa! Vậy thì tại sao người đi tìm Đạo ngày nay
không theo dấu chân của Phật, của Tổ và Thiền Sư Ngộ Đạo ngày xưa, lại
chạy theo “thời trang” chỉ có lớp sơn bên ngoài là đẹp, bên trong thì cạn cợt,
lắm lúc sai lầm một cách đáng thương ! Ngày xưa cũng có những hiện tượng
Phật Pháp suy đồi, nhưng nhờ có Thiền Sư Ngộ Đạo ra đời chỉ đường dẫn lối,
nên Tà Pháp không thắng nổi Chánh Pháp:
“Bờ bên kia có Đức Sơn hiền Thánh
Bao sớ Kinh một gánh đốt thành than
Răng như gươm, miệng phun máu ngang tàng
Dẹp ô nhiễm lan tràn nơi Cửa Phật”.
KIẾN GIẢI CHỨNG ĐẠO CA: “VÔ TRỤ NIẾT BÀN VÀ MA HA BÁT NHÔ
________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________
Thiền Sư HUYỀN GIÁC--Trang | 199 --Kiến Giải: NGỘ THÂM
Thiền Sư Đức Sơn, thông suốt nhiều Kinh Tạng, nhất là Kinh Kim
Cang còn có biệt danh là Chu Kim Cang. Ngài gánh nhiều Kinh Sớ đi lùng sục
hang ổ của cái “đám Ma Vương” Thiền Tông phương Nam. Người ta tu rất
nhiều kiếp còn chưa Ngộ, mà cái “bọn” này dám nói “Tu nhất kiếp, Ngộ
nhất thời”, phải lấy Kinh Sớ ra chứng minh cho “bọn” này biết tay, để đền
ơn Phật. Tuy nhiên sau khi Đại Ngộ với sự khai thị của Thiền Sư Sùng Tín, bị
đánh cho một gậy, không ngó lại, đi thẳng lên đỉnh núi cao cất am tranh, răng
như rừng gươm, miệng như chậu máu, quở Phật mắng Tổ, truyền cái Đạo của
Ngài Sùng Tín. Quở Phật mắng Tổ: Ý nói khi đã Ngộ, thấy được cái thấy của
Phật của Tổ, vì quá kính Phật trọng Tổ mà phải dùng “lời nghịch” để diễn tả.
Răng như rừng gươm, miệng như chậu máu: Ngài mắng các vị “Phàm Tăng”,
không chịu lo tu để Ngộ Đạo cứu khổ chúng sinh ….Pháp của Ngài sắc bén,
thủ thuật kỳ đặc mạnh mẽ. Khi “Mưa Pháp” thì “răng như rừng gươm,
miệng như chậu máu” chém đứt Vô Minh, rũ sạch Tà Kiến, tận diệt Ngã
Chấp…dễ đưa người tới chỗ Ngộ Đạo.
Tóm lại, LÊN ĐƯỜNG đi tìm ĐẠO GIẢI THOÁT cứ nắm vững Tấm
Bản Đồ của Phật, Tổ hay Thiền Sư ngộ Đạo ngày xưa mà đi thẳng, không nên
ghé vào “Bến Bãi” của Pháp Trần hay của Ngoại Đạo mà lạc mất phương
hướng !
*Trong tất cả Pháp Môn, Thiền Tông đặt Trí Tuệ lên hàng đầu, nhưng
lại bị mang tiếng là thời Mạt Pháp khó tu, rất ít hoặc không có người thành
Đạo! Ngày xưa Phật Thích Ca “chủ động” đi tìm Chân Lý và đạt được Chân
Lý. Các Tổ và Thiền Sư nhờ có Đức Phật đi trước dẫn đường, noi gương Phật,
học theo Phật, chủ động đi tìm Chân Lý và cũng đạt được Giác Ngộ Giải
Thoát y như Phật. Đức Phật nhiều lần căn dặn : “Các ngươi hãy tự đốt đuốc
lên mà đi và đi với Chánh Pháp”! Đức Phật Thích Ca tu Thiền mà thành
Đạo, thuyết Pháp nhiều Kinh Điển siêu việt, trực tiếp cứu khổ chúng sanh cõi
Ta Bà. Nhưng hầu như chúng sanh ngày nay thích cúng lạy tế lễ và cầu xin
nhiều hơn là theo dấu chân Đức Phật Thích Ca trên con đường Giải Thoát !
Phật Thích Ca chứng Đạo không phải nhờ cúng lạy và cầu xin mà tự thân tìm
Đạo bằng Trí Tuệ. Không phải bác bỏ hoàn toàn việc cúng lạy và cầu xin,
nhưng nếu chỉ biết cúng lạy và cầu xin suông thì dù là Thiền Tông, Tịnh Độ
hay Mật Tông, Tiểu Thừa hay Đại Thừa… cũng không thể nào đạt được mục
đích Giải Thoát như Đức Phật. Đi theo con đường của Phật Thích Ca hay Phật
A-Di-Đà… con đường nào cũng là Đạo, vì Phật nào thì cũng là Phật ! Miễn là
đừng mê tín và biết dùng Chánh Pháp của Phật mà tự độ và độ chúng sanh,
không chen lẫn quá nhiều Pháp Thế Gian để rồi Chánh Pháp bị lu mờ. Phật là
bình đẳng, không phân biệt, Pháp Môn nào cũng được, nhưng phải sáng suốt
KIẾN GIẢI CHỨNG ĐẠO CA: “VÔ TRỤ NIẾT BÀN VÀ MA HA BÁT NHÔ
________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________
Thiền Sư HUYỀN GIÁC--Trang | 200 --Kiến Giải: NGỘ THÂM
và có lý trí phán đoán. Không có thể nói, vì hợp với “căn cơ” vừa với sức
mình, mà nhắm mắt đi theo Ngoại Đạo, Tà Đạo hay một Pháp Môn nào đó;
trong khi cái gọi là “căn cơ” chưa chắc là “căn cơ” mà có thể chỉ là cái
Nghiệp Chướng, cái sở thích hoặc cái hiểu biết yếu kém, cạn cợt hoặc sai lầm
của mình, nhưng cố chấp thành định kiến rồi thành Mê Tín hay Cuồng Tín!
Ngày nay, Pháp Môn Tịnh Độ với niệm danh hiệu Phật A-Di-Đà khá thịnh
hành. Tuy nhiên, nếu chỉ biết cúng lạy và niệm Phật suông thì dễ đi đến chỗ
mê tín. Còn hiểu sâu về Phật A-Di-Đà, công phu bằng trí tuệ với Bản Tánh
Di-Đà nơi Tự Tâm thì Pháp Môn niệm Phật cũng đạt kết quả Giải Thoát chẳng
khác Thiền Tông… Niệm Phật có thể chia ra ba cấp từ thấp tới cao: niệm Phật
để cầu xin, niệm Phật nhất tâm bất loạn và niệm Phật trong Vô Niệm Vô
Tướng.
1-Pháp Môn Tịnh Độ độ cho “Người Chết”:
- Niệm Phật cầu xin được Vãng Sanh.
Theo Kinh Điển Hán Tạng của Phật Giáo Bắc Tông, Pháp Môn Tịnh
Độ cầu Vãng Sanh về Cõi Tây Phương Cực Lạc để cứu chúng sanh, rước
chúng sanh về một nơi an toàn, không còn luân hồi, để tiếp tục cuộc hành
trình tu tập. Gọi là Cực Lạc vì thế giới đó không còn khổ, tu không thối
chuyển, có sông suối, chim ca, gió hú, có 7 báu toàn là lưu ly, bách ngọc, mã
não, sa cừ…cảnh đẹp vô cùng vô tận, nhất là không có sinh tử, tiếp tục tu cho
đến Cửu Phẩm Liên Hoa đạt đến Niết Bàn rốt ráo…Được Vãng Sanh về Cõi
Tây Phương Cực Lạc thì không còn bị ám ảnh bởi cái chết nữa, bởi vì cái chết
thật là đáng sợ đối với hầu hết chúng sanh nhất là bị lôi cuốn trong vòng luân
hồi dài vô tận, không có lối thoát, nếu Nghiệp Chướng nặng thì bị đầu thai vào
ba đường ác là Địa Ngục, Ngạ Quỷ, Súc Sanh không biết làm sao thoát ra
được, thì thật là khủng khiếp càng đáng sợ hơn!
Cũng theo Kinh Điển Hán Tạng, khi còn ở cõi Ta Bà chỉ cần tu theo
Tịnh Độ, niệm Lục Tự Di Đà là: “Nam Mô A-Di-Đà-Phật” là được cứu độ.
Theo lời phát nguyện của Phật A-Di-Đà chỉ cần niệm hồng danh Ngài có 10
tiếng trước khi chết thì được Phật độ về Cõi Cực Lạc tức được Vãng Sanh.
Thật ra khi còn sống hay trước khi lâm chung người ta đã niệm hàng trăm
thậm chí hàng ngàn lần, ngoài ra còn được các Chư Tăng hay cả một ban hộ
niệm trợ duyên trước khi, trong khi và sau khi lâm chung… Rồi trong vòng
thời gian 49 ngày (7 thất) còn được cúng thất, niệm Phật, đọc Kinh và cuối
cùng là cúng 100 ngày. Ngoài ra còn cúng trai tăng, cúng sám hối cho vong
linh, phóng sinh làm phước…Tất cả đều thật chu đáo… thì niềm tin được
Vãng Sanh về Cõi Cực Lạc rất lớn. Trong khi Thiền Tông thì không có cúng
KIẾN GIẢI CHỨNG ĐẠO CA: “VÔ TRỤ NIẾT BÀN VÀ MA HA BÁT NHÔ
________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________
Thiền Sư HUYỀN GIÁC--Trang | 201 --Kiến Giải: NGỘ THÂM
lạy, cúng vong, niệm hay hộ niệm nhiều như thế… Như vậy xem ra Thiền
Tông không có độ cho người chết!
Tỳ Kheo Pháp Tạng (tức Phật A-Di-Đà sau này) vì lòng Từ Bi rộng
lớn muốn độ hết thảy chúng sanh nên có 48 lời nguyện trong đó lời phát
nguyện thứ 11 nói rằng: “Một hành giả nào chỉ niệm 10 niệm danh hiệu Ta
mà không Vãng Sanh Tây Phương thì ta nguyện sẽ không thành Phật”.
Và rồi Tỳ Kheo Pháp Tạng đã thành Phật và danh hiệu Ngài là A-Di-Đà. Dựa
vào sự kiện này mà có một số Vị Pháp Sư Tịnh Độ tin tưởng rằng vì Phật
không bao giờ nói dối, các Vị nhấn mạnh đến tha lực của Phật và hiểu rằng tha
lực của Phật là vô tận, là Thượng Đế muốn làm gì cũng được cầu xin là cho
ngay và lời phát nguyện thứ 11 kia phải là sự thật. Do đó các vị Pháp Sư
và Phật Tử tin chắc vào điều này nên Pháp Môn niệm Phật vãng sanh càng
ngày càng rầm rộ! Vì tu theo Tịnh Độ thì quá dễ, chỉ cần niệm Phật 10 niệm là
được về Tây Phương, trong khi có nhiều người đã niệm Phật gấp trăm gấp
ngàn lần như thế và còn đang tiếp tục niệm Phật; do đó có những Vị Pháp Sư
mạnh dạn tuyên bố theo Tịnh Độ 100% là được Vãng Sanh về cõi Tây Phương
Cực Lạc của Phật A-Di-Đà, mang cả Nghiệp Chướng về cõi đó tu tiếp cho đến
Cửu Phẩm Liên Hoa đắc Đạo, dễ hơn Thiền Tông rất nhiều.
Tuy nhiên, dựa vào câu nói của Đức Phật Thích Ca: “Đừng tin những
gì do Kinh Sách từ xưa để lại… mà phải suy xét, phân tích cho thật
kỹ…” cho nên có nhiều người phản biện về sự việc trên và cho rằng Kinh
Điển Hán Tạng của Phật Giáo Bắc Tông, có nhiều sửa đổi hoặc diễn dịch sai
lệch, không có tính cách chính thống như kinh điển Pali của Phật Giáo Nam
Tông ?! Hoặc cũng có thể lời phát nguyện đó, còn nhiều“ ẩn dụ” sâu kín, cần
phải được tìm hiểu, phân tích hoặc đánh giá thêm… Có người luận giải : 48
lời phát nguyện của Tỳ Kheo Pháp Tạng chỉ là NHÂN. Vì lòng Từ Bi rộng
lớn mà Vị Tỳ Kheo này phát nguyện để cứu chúng sanh. Nhưng ! Lời hứa là
lời hứa còn Chân Lý hay Thực Tại thì vẫn là Chân Lý hay Thực Tại. Khi đắc
Đạo trở thành Phật A-Di-Đà đạt Quả Vị Phật thì lại khác, phải trở về Thực Tại
hay Chân Lý trong đó Luật Nhân Quả phải được tôn trọng đối với chúng sanh
chưa chứng ngộ Vãng Sanh, còn mang đầy Nghiệp Chướng và Tham Sân Si!
Lầm lẫn cho NHÂN Vị cũng là QUẢ Vị, thì không đúng với Thực Tế hay
Chân Lý! Trong một Pháp hội, Đức Phật bảo mọi người hãy nặn sữa từ chiếc
sừng của một con bò, hoặc nấu cơm từ cát… Kết quả: không ai có thể làm
được việc này kể cả Đức Phật. Bởi vì phải theo đúng luật nhân quả. Sừng
không có chứa sẵn sữa nên không có thể nặn ra sữa; còn cát là cát, cơm là
cơm,trong cát không có cơm nên không thể nấu ra cơm! Thuở xưa có một vị
Tăng hiểu lầm Nhân Quả rồi dạy cho chúng sanh cũng hiểu lầm và mê theo
KIẾN GIẢI CHỨNG ĐẠO CA: “VÔ TRỤ NIẾT BÀN VÀ MA HA BÁT NHÔ
________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________
Thiền Sư HUYỀN GIÁC--Trang | 202 --Kiến Giải: NGỘ THÂM
mình mà phải bị đọa làm 500 kiếp chồn, sau nhờ Thiền Sư Bá Trượng khai thị
giải tỏa cho sự mê lầm “bất muội nhân quả” mà trở lại kiếp người, tiếp tục
cuộc đời tu. Nói theo Pháp Thế Gian là “chí công vô tư” hay “Luật Nước”
khác với “Lệ Nhà”. Còn nói theo Phật Pháp là cái thấy của Tỳ Kheo Pháp
Tạng lúc “chưa chứng Đạo” khác với cái thấy của Tỳ Kheo Pháp Tạng “đã
chứng Đạo” trở thành Phật A Di Đà! Chuyện thành Phật là do công đức tu tập
riêng hay cái khả năng riêng của Ngài, Ngài có từ chối cũng không được. Bởi
vì một khi có đủ công đức đạt Quả Vị Phật, dù có từ chối thì cũng là Phật; còn
chuyện lời hứa hay lời phát nguyện của Ngài để cứu chúng sanh là một vấn đề
khác. Dù thành Phật, Ngài không thể sửa đổi được Chân Lý hay Luật Nhân
Quả!
“Liễu tức nghiệp chướng bổn lai không
Vị liễu ưng tu hoàn túc trái”
(Ngộ rồi nghiệp chướng hóa thành không
Chưa ngộ, nợ xưa đành trang trải).
(Thiền Sư Huyền Giác).
Cõi Tây Phương Cực Lạc của Phật A-Di-Đà là do Tâm của Ngài với 48 lời
nguyền mà hiện ra thành lập một Quốc Độ hay một Cõi Nước riêng của Phật
A-Di-Đà. Nhưng muốn đến Cõi Nước đó cần phải có giấy phép “xuất cảnh”
ở cõi Ta Bà, đó là luật Nhân Quả, phải hoàn tất hết mọi thủ tục “thuế quan”
và hợp pháp! Thiền Tông khi chứng ngộ phải đạt đến Tâm Không hay Vô
Tâm, Phật Tánh hiển bày, không còn Nghiệp Chướng Tham Sân Si, vì đã
chuyển Nghiệp thành ba món Giải Thoát, tức là đã hoàn tất hết mọi thủ tục
“thuế quan” và hợp pháp, có giấy phép “xuất cảnh” ở cõi Ta Bà để ‘‘nhập
cảnh” vào cõi Niết Bàn! Đạt đến Tâm Không hay Vô Tâm, ngộ nhập Thể
Tánh thì không còn Nghiệp, không còn Nhân Quả. A-Lại-Da-Thức (thức thứ
tám) đã chuyển thành Đại Viên Cảnh Trí, ngộ nhập Bát Nhã; vì là Tâm
Không, không còn Nghiệp nên không có “Bảy Sóng” (nhãn thức, nhĩ thức, tỷ
thức, thiệt thức, thân thức, ý thức và Mạt-Na-Thức) trong Bát Thức nổi lên
hiện hành trong Tâm, nên không có Gió Nghiệp thổi vào biển Luân Hồi…
Trong khi đó, niệm Phật cầu Vãng Sanh, tuy tạm thời Tâm được an, nhưng
Nghiệp Chướng vẫn còn nguyên : chưa chuyển được Nghiệp, Tham Sân Si
vẫn còn nguyên : chưa chuyển thành ba món Giải Thoát. Cho nên tuy hình
thức bên ngoài là Tâm an, nhưng thực chất bên trong Tâm vẫn động: “Bảy
Sóng” vẫn luôn vận hành tạo Gió Nghiệp thổi vào biển Luân Hồi. Chỉ khi đạt
được “Nhất Tâm Bất Loạn”, mặc dù còn Nghiệp, nhưng “Bảy Sóng” trong
Tâm bị kềm chặt không thể nổi lên hiện hành thành Sóng Nghiệp hay Gió
Nghiệp. Khi đó, tất cả Nghiệp Chủng đều bị trói chặt nằm im “vô tác” bất
động như vật chết nên không còn mang năng lực tạo tác… Do đó thoát được
luật Nhân Quả, có giấy phép “xuất cảnh” qua được cửa ải cõi Ta Bà, từ đây
KIẾN GIẢI CHỨNG ĐẠO CA: “VÔ TRỤ NIẾT BÀN VÀ MA HA BÁT NHÔ
________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________
Thiền Sư HUYỀN GIÁC--Trang | 203 --Kiến Giải: NGỘ THÂM
được đón rước dễ dàng vào Quốc Độ của Phật A-Di-Đà… Đạt được “Nhất
Tâm Bất Loạn” như thế là tự “chứng ngộ” Vãng Sanh!
Tuy nhiên, niệm Phật đạt đến Nhất Tâm Bất Loạn trong lúc lâm chung
không phải là chuyện dễ vì đủ thứ tạp niệm nổi lên hiện hành như thân thể đau
nhức, mệt mỏi, tai ù, mắt mờ, miệng đắng, mê sảng, sợ sệt, trí lảng, không còn
sáng suốt... Hơn nữa, nghiệp chủng vi tế nhiều đời nhiều kiếp trong thức A-
Lại-Da nổi lên gây sóng gió bão tố, bị vô số “chủ nợ” bao vây tứ phía khó
chạy thoát... khiến cho những câu niệm Phật yếu ớt không trấn áp nổi những
cơn lốc xoáy dữ dội của Nghiệp Lực và Vô Minh! Do sáu căn không thanh
tịnh nên rất khó tập trung để niệm Phật. Có người cho rằng mặc dù vậy, chỉ
cần niệm cuối cùng cầu Vãng Sanh trong giây phút Cận Tử thì cũng được
Vãng Sanh Cực Lạc, bởi vì niệm không thể trùng với nhau được. Nếu niệm
cuối cầu Vãng Sanh trong giây phút Cận Tử hiện hành thì tạp niệm không thể
chen vào nên được Vãng Sanh, vì niệm cuối lúc Cận Tử rất quan trọng trong
việc đầu thai vào kiếp khác... Nếu Phật A-Di-Đà làm được điều này để rước
chúng sanh về cõi Cực Lạc, thì Phật Thích Ca cũng có thể làm được vì cùng là
Phật. Do đó tất cả những người tu Thiền chỉ cần niệm cuối trong lúc Cận Tử
cầu Phật Thích Ca cũng đều về được Niết Bàn ! Điều này rất khó, Thiền Tông
không tin như vậy, mà phải dựa vào sự “chứng ngộ” nơi Bản Tâm. Thiền Sư
Huyền Giác nói: “Ra công cầu Phật mấy thuở thành?! ”. Tịnh Độ cũng có
câu : “Bất dĩ thiểu thiện căn phước nhân duyên đắc sanh Bỉ Quốc”. Nghĩa
là không thể lấy phước báu ít, căn lành ít, nhân duyên ít mà có thể Vãng Sanh
Tây Phương được !
Ngoại trừ sự “chứng ngộ” Vãng Sanh đạt quả vị Thánh như các Bậc
A-La-hán, ngay khi còn sống đã biết chắc rằng mình sẽ về cõi Tịnh Độ, còn
hầu hết chúng sanh đều không thể biết được điều này, chỉ “tin để mà tin” để
được an tâm. Cũng có nhiều người đưa ra những bằng chứng Vãng Sanh,
nhưng rất mù mờ, không có tính cách thuyết phục, có khi nặng nề về mê tín
nhiều hơn… Cho nên có những người phản biện việc xác định niệm Phật
100% được Vãng Sanh và luận giải rằng: Đức Phật từng nói “hãy đến để mà
thấy” tức là đến để mà thấy cái Thực Tại Chân Lý hiện bày bằng Thực
Chứng, không phải chỉ ‘‘đến để mà tin’’. Chân Lý giống như một Lâu Đài
cổ nguy nga tráng lệ có tự đời nào không biết và cũng không biết do ai làm ra.
Trên đường đi tìm Chân Lý bỗng nhiên Đức Phật tìm thấy nó xuất hiện giữa
khu rừng hoang dầy đặc cây cối che khuất. Sau khi định vị Lâu Đài, Đức Phật
trở về chỉ đường cho chúng sanh đến để thấy Lâu Đài đó. Lâu Đài này không
phải do Đức Phật làm ra, Đức Phật chỉ là người “khám phá” ra nó. Mọi giá trị
như đồ dùng, cây cảnh, nghệ thuật điêu khắc có trong Lâu Đài đều tự nó là
KIẾN GIẢI CHỨNG ĐẠO CA: “VÔ TRỤ NIẾT BÀN VÀ MA HA BÁT NHÔ
________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________
Thiền Sư HUYỀN GIÁC--Trang | 204 --Kiến Giải: NGỘ THÂM
như vậy như luật Nhân Quả, Tứ Diệu Đế, Bát Chánh Đạo… là Chân Lý tuyệt
đối có tự nhiên trong Lâu Đài Bát Nhã mà Đức Phật không thể sửa đổi được
nó. Đối với Phật A Di Đà cũng vậy, Ngài chỉ là người khám phá ra Lâu Đài cổ
đó; mọi thứ đã có sẵn trong Lâu Đài, Ngài không thể sửa đổi được ! Ngài cũng
không thể vì lời phát nguyện kia không độ được hết thảy chúng sanh về Cõi
Nước của Ngài mà không làm Phật, bởi vì “Chân Lý là như vậy”! Điều này
hoàn toàn khác hẳn với cái gọi là “hãy đến để mà tin” , tức là chỉ có niềm tin
suông mà không thấy không biết và đây là đa số truyền thống bản chất của các
Đức Tin Thần Quyền của Ngoại Đạo, nó giống như “chiếc bánh ở trên bầu
trời” (the pie-in-the-sky) người ta không thể nhìn thấy nó, không nếm được
mùi vị của nó, không thể ăn được nó, chỉ “tin để mà tin” là có nó mà thôi !
Có nhiều người trước khi lâm chung thấy Phật A-Di-Đà hiện ra với nhiều Vị
Bộ Tát đến đón… mọi người cho đây là bắng chứng Vãng Sanh Cực Lạc ?!
Thật ra đây chỉ là ảo giác hay vọng tưởng, do nhân duyên niệm Phật, lòng ham
muốn hay “tự kỷ ám thị” mà Tâm hiện ra Phật. Đại Sư Tăng Triệu có giải
thích rõ điều này trong Bửu Tạng Luận. Thiền Sinh ngồi Thiền cũng nhiều lúc
thấy Phật hay Tổ hiện ra cũng cho đó là vọng tưởng nên có câu : “Gặp Phật
giết Phật, gặp Tổ giết Tổ” ! Thật ra Phật A-Di-Đà không nói dối ; tuy nhiên
những lời phát nguyện của Ngài lúc “chưa chứng đạo” có giới hạn là không
thể sửa đổi được luật Nhân Quả một khi đã thành đạo; cho nên không thể độ
hết tất cả chúng sanh còn mang đầy Nghiệp Chướng Tham Sân Si về cõi Nước
của Ngài.
- Ở đây không bàn đến đúng sai, tính xác thực hay không xác thực của
luận giải phản biện ở trên và cũng không bàn đến đúng sai, về vấn đề niệm
Phật A-Di-Đà có được Vãng Sanh 100% hay không, mà chỉ bàn về phần Công
Đức nơi Tự Thân. Là Phật Con thì phải biết dùng trí tuệ phán đoán, phân tích
thật kỹ Phật Pháp rồi mới dụng công tu hành, diệt tham sân si và ngã chấp nơi
Tự Thân … Không nên ỷ lại mà phó thác hết mọi chuyện cho Phật mà mình
thì không làm gì cả, chỉ cốt là “cầu xin” và chỉ “tin để mà tin” để được an
tâm như một vị thuốc an thần để rồi tự lừa gạt chính mình ! Ỷ lại vào “phước
đức” nhiều như Lương Võ Đế, tạo dựng hàng ngàn ngôi chùa, nuôi hàng ngàn
chư tăng,…mà không tạo được một chút nhỏ “công đức” nào nơi tự thân bằng
cách dùng trí tuệ chuyển đổi tâm thức diệt tham sân si và ngã chấp thành ba
món giải thoát… nên cũng chỉ là uổng công suông !
“Giác tức liễu, bất thi công,
Nhất thiết hữu vi pháp bất đồng.
Trụ tướng bố thí sanh thiên phước,
Do như ngưỡng tiễn xạ hư không.
KIẾN GIẢI CHỨNG ĐẠO CA: “VÔ TRỤ NIẾT BÀN VÀ MA HA BÁT NHÔ
________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________
Thiền Sư HUYỀN GIÁC--Trang | 205 --Kiến Giải: NGỘ THÂM
Thế lực tận, tiễn hoàn trụy,
Chiêu đắc lai sanh bất như ý”.
(Thiền Sư Huyền Giác).
(Biết là xong tất chẳng cần công,
Thảy thảy hữu vi pháp chẳng đồng.
Của cho trụ tướng phước trời hưởng,
Ví như tên bắn nhắm hư không.
Ðà bắn hết mũi tên rơi,
Kiếp sau hận cũ lại bời bời).
Tạo phước đức nhiều cũng là điều tốt, nhưng cái chính yếu là công
đức nơi tự thân mới có thể chuyển đổi được Nghiệp cũ. “Của cho trụ tướng
phước trời hưởng” . Người đã tạo phước nhiều ở kiếp này hay nhiều kiếp
trước thì giống như được hưởng phước trời. Tuy nhiên, như tên bắn lên hư
không, hết đà lại rơi xuống, tức là hưởng hết phước rồi lại tới tai họa ! “Kiếp
sau hận cũ lại bời bời ”. Chỉ có công đức của mình nơi tự thân thì mới
chuyển được Nghiệp : “Lục thất nhân trung chuyển, ngũ bát quả thượng
viên”. Tức là thức thứ sáu (Y’ Thức hiên hệ tới trí tuệ) và thức thứ bảy (Mạt
Na Thức liên hệ tới ngã chấp) là nhân chuyển, thì ngũ thức (nhân, nhĩ, tỉ, thiệt,
thân) và bát thức ( A-Lại-Da) chuyển theo là Quả.
Niệm Phật để cầu xin dành cho những người yếu đuối cạn cợt, gặp
nguy hiểm hay giây phút sắp lâm chung, vì sợ chết mà phải niệm Phật để cầu
xin, nhưng thường ngày chỉ biết chạy theo Pháp Trần với đủ thứ tham sân si...
Niệm Phật trong trường hợp này chỉ dựa niềm tin vào tha lực tức là sự cứu độ
của Phật để được an tâm trong cuộc sống đầy bất trắc : sinh lão bệnh tử ; còn
thật sự có được Vãng Sanh hay không là chuyện khác. Cũng khi đó, niệm hay
hộ niệm có lợi ích là vào phút lâm chung để kiềm chế những Chủng Nghiệp ác
trong A-Lại-Da Thức không trỗi dậy, mà bình Tâm với những Nghiệp thiện
hay Ý Niệm thiện lành trong giây phút “Cận Tử” để được sanh về các cõi lành
: Nhân, Thiên hoặc A-Tu-La, tiếp tục luân hồi, chưa hẳn là Vãng Sanh. Điều
này Ngoại Đạo cũng có thể làm được vì có rất nhiều người Ngoại Đạo thường
làm việc Thiện, không làm điều ác, hoặc ngay cả người thế gian không có Đạo
cũng làm được… khi chết họ đi từ Chỗ Sáng về Cõi Sáng… Niệm hay hộ
niệm cho người Ngoại Đạo còn tùy theo duyên cơ nếu người ấy không tin
Vãng Sanh hay không tin Phật A-Di-Đà mà niệm Phật ồn ào gây loạn Tâm
hay Tâm sân vào phút lâm chung thì thật là tai hại! Còn “hộ niệm” trong
trường hợp Tâm - Tâm tương ứng thì lại khác và điều này liên quan tới
“Thiền” mà không phải là “Tịnh”. Chẳng hạn như thời Đức Phật còn tại thế,
Mục Kiền Liên là một trong 10 Đại Đệ Tử của Đức Phật, ngồi Thiền và “nhập
KIẾN GIẢI CHỨNG ĐẠO CA: “VÔ TRỤ NIẾT BÀN VÀ MA HA BÁT NHÔ
________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________
Thiền Sư HUYỀN GIÁC--Trang | 206 --Kiến Giải: NGỘ THÂM
định” thấy Mẹ đang bị cực hình trong Địa Ngục A-Tỳ chịu nhiều đau đớn
không cầm lòng được nên Ngài hỏi Phật làm cách nào để cứu Mẹ. Đức Phật
chỉ cách nhờ thần lực của đông đảo Chư Tăng và của chính Ngài là người thân
hộ niệm cho Mẹ. Hộ niệm ở đây không phải là niệm Phật hay đọc Kinh A-Di-
Đà mà dùng “thiền định” để hộ niệm bằng cách Tâm truyền Tâm. Tâm của
Ngài Mục Kiền Liên là chính, dễ tương ưng với Tâm của người Mẹ vì có cùng
một thân. Tâm của đông đảo Chư Tăng và Tâm của Ngài Mục Kiền Liên trong
“thiền định” có oai lực cảm ứng dung thông tác động đến Tâm của người Mẹ
ở Cõi Địa Ngục làm cho Bà Mẹ nhìn thấy Con đang khóc lóc đau đớn khuyên
can thương xót và cùng Chư Tăng hồi hướng cho Bà. Một lòng vì thương Con
nhớ Con, một lòng vì cảm kích trước lòng Từ Bi của đông đảo Chư Tăng làm
cho Tâm Bà chuyển hướng, hối hận, ăn năn, sám hối, buông xả, không còn
lòng thù hận căm ghét, mà hướng tới Phật cầu giải thoát. Do Tâm chuyển (Lục
thất nhân trung chuyển, ngũ bát quả thượng viên), bức màn Vô Minh và
Nghiệp Chướng rơi rớt. trong giây phút hồi tâm với lòng thành thật sám hối,
trực nhận cái Đạo Lý Buông Xả để Giải Thoát mà đột biến Bà được chuyển
kiếp ngay trong một sát na về Cõi Trời. Tuy nhiên Bà vẫn không được Vãng
Sanh Cực Lạc Quốc. Lên Cõi Trời là do Tâm chuyển, Nghiệp nặng rơi rớt,
nhưng Nghiệp nhẹ vẫn còn, nên vẫn phải bị luân hồi trừ phi có duyên với Phật
Pháp và chứng ngộ để đạt Vô Sanh Niết Bàn như Ngải Mục Kiền Liên !
2-Pháp Môn Tịnh Độ độ cho “Người Sống”:
- Niệm Phật nhất tâm bất loạn.
Theo Kinh điển Pali của Phật Giáo Nam Tông và theo các chú sở A-
Tỳ-Đàm có tất cả 5 cõi Tịnh Độ, nằm trong 16 cõi Phạm Thiên hữu sắc, là chỗ
tái sinh của các bậc Thanh Văn Bất Lai. Những cõi ấy chỉ toàn là các vị Bất
Lai và La Hán. Năm cõi Tịnh Độ này vẫn là cõi hữu sắc, có những lâu đài, hoa
viên rất nghiêm trang… là dấu vết tối thiểu còn sót lại của cõi ngũ uẩn. Cõi
thấp nhất là Vô Phiền (Aviha) có thọ mạng 1000 đại kiếp, cõi Vô Nhiệt
(Atappa) 2000 đại kiếp, cõi Thiện Hiện (Sudassa) 4000 đại kiếp, cõi Thiện
Kiến (Sudassi) 8000 đại kiếp, và cõi Sắc Cứu Cánh (Akanittha) có thọ mạng
16000 đại kiếp. Năm cõi Tịnh Độ này dành cho các vị đã chứng quả Thánh
như: Tu Đà Hoàn, Tư Đà Hàm, A Na Hàm và A La Hán.
Vãng Sanh vào các cõi Tịnh Độ này là cả một quá trình tu chứng
công phu lâu dài: tạo thật nhiều phước đức công đức, nhiều căn lành diệt tham
sân si chuyển hóa Tâm Thức như quả vị Thánh, quán tưởng sâu sắc bản chất
Cõi Tịnh Độ. Điều tối quan trọng là Phải “Nhất Tâm Bất Loạn”: Niệm Phật
cho đến Nhất Tâm Bất Loạn. Hoặc thực thi Bát Chánh Đạo và phải đạt tới
KIẾN GIẢI CHỨNG ĐẠO CA: “VÔ TRỤ NIẾT BÀN VÀ MA HA BÁT NHÔ
________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________
Thiền Sư HUYỀN GIÁC--Trang | 207 --Kiến Giải: NGỘ THÂM
Nhất Tâm là Chánh Định. Bất Loạn là giữ được Chánh Định như thế xuyên
suốt thời gian ngồi Thiền, tụng Kinh, niệm Phật, ăn cơm, đi đứng nằm ngồi …
Niệm Phật ở đây không còn là cầu xin nữa mà là niệm nơi Tự Tâm
cho đến ‘‘Nhất Tâm Bất Loạn’’ là tự chứng Vãng Sanh đạt được quả vị
Thánh. Tuy vẫn còn nhiều Nghiệp Chướng (trần sa hoặc) nhưng vì Tâm Bất
Loạn, các Nghiệp này bị trói chặt, nằm im bất động, không còn năng lực tạo
tác, nên vượt qua được vòng Nghiệp Chướng Nhân Quả, cắt đứt luân hồi được
về cõi Tây Phương Cực Lạc hay Tịnh Độ của các bậc Thanh Văn Bất Lai…Tự
Tâm cũng chính là Bát Thức ở tận đầu nguồn Tâm. Thức Thứ Tám hay A-Lại-
Da-Thức cũng gọi là Tàng Thức vì nó ‘‘tàng trữ’’ vô số Nghiệp Chủng từ
nhiều đời nhiều kiếp, là cái Vực Thẳm sâu kín chứa đủ thứ Nghiệp Chủng
dưới sạng Sóng Nghiệp (Bảy Sóng : Nhãn Thức, Nhĩ Thức, Tỷ Thức, Thiệt
Thức, Thân Thức, Ý Thức và Mạt-Na-Thức) . Niệm Phật cho đến ‘‘Nhất
Tâm Bất Loạn’’, tuy còn Nghiệp, còn Tâm chưa đạt tới Vô Tâm để thấy
Tánh, nhưng Bảy Sóng bị trói chặt nằm im bất động, nên Nghiệp Lực không
thể trỗi dậy hiện hành trong A-Lại-Da-Thức, cho nên không thể tạo thành Gió
Nghiệp thổi vào biển Luân Hồi, thoát được vòng Nghiệp Quả, được vào các
cõi Tịnh Độ…
- Ở đây cũng không phân biệt Kinh Điển Hán Tạng của Phật Giáo Bắc
Tông hay Kinh Điển Pali của Nam Tông, cái nào đúng cái nào sai, mà chỉ
dựa vào lời khuyên của Đức Phật: “Y Kinh mà hiểu nghĩa thì oan cho ba
đời Chư Phật’’. Cho nên khi xem Kinh không thể chấp vào văn tự suông mà
phải suy xét, phân tích, truy cứu thật kỹ theo chiều sâu với ý nghĩa toàn diện
đen trắng hay những ẩn dụ sâu kín mà Đức Phật muốn gởi gắm và phải có cái
nhìn tổng thể hơn là cục bộ. Do đó, khi đi sâu vào ý nghĩa thâm áo trong lời
phát nguyện, mới khám phá ra những điều vi diệu ngay trên cái danh hiệu A-
Di-Đà. Lời phát nguyện thứ 11 của Phật A-Di-Đà nói rằng: “Một hành giả
nào chỉ niệm 10 niệm danh hiệu Ta mà không Vãng Sanh Tây Phương thì
ta nguyện sẽ không thành Phật”. Thật ra, mười niệm danh hiệu A-Di-Đà
này không phải là niệm theo văn tự hay cái tên suông vì cái tên chỉ là giả danh
không có một chút ý nghĩa, công đức hay hiệu năng hiệu lực diệu dụng nào cả.
Đây không phải là cái tên giả danh suông mà là Bản Thể A-Di-Đà với vô
lượng nghĩa thâm áo. Trong Kinh Lăng Nghiêm Bản Thể A-Di-Đà là cái Vô
Lượng Quang, Vô Lượng Thọ cũng là Bản Giác Minh Diệu và Tánh Giác
Diệu Minh mà Đức Phật Thích Ca khai thị cho Tổ A-Nan, là nơi Tịnh Độ
thanh tịnh. Do đó phải niệm bằng Tâm và phải là cái Tâm thanh tịnh Vô
Lượng Quang và nếu đạt được Tâm thanh tịnh A-Di-Đà này thì chỉ cần 10
niệm thanh tịnh liên tục như thế thì Tự Tâm đạt tới cõi Tịnh Độ của Phật A-
KIẾN GIẢI CHỨNG ĐẠO CA: “VÔ TRỤ NIẾT BÀN VÀ MA HA BÁT NHÔ
________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________
Thiền Sư HUYỀN GIÁC--Trang | 208 --Kiến Giải: NGỘ THÂM
Di-Đà ! Như vậy, 10 câu niệm Phật này : thứ nhất là phải “Nhất Tâm Bất
Loạn’’, thứ hai là phải “liên tục’’. Thực hiện mười câu niệm Phật này không
phải dễ mà vô cùng khó khăn, thật nhiều công phu, công đức và trí tuệ sâu
dầy ! Bởi vì Tâm thường chạy theo lục trần (Sắc, Thanh, Hương, Vị, Xúc,
Pháp). Đang niệm Phật thấy hình tướng Phật hoặc cảnh bên ngoài hoặc trong
Tâm mà không lìa được Sắc là loạn, nghe âm thanh chính mình hay nhiều
người đang niệm mà không lìa được Thanh là loạn, ngửi mùi nhang trên bàn
Phật mà không lìa được Hương là loạn, niệm Phật khô cả miệng lưỡi khát
nước miệng đắng mà không lìa được Vị là loạn, đứng lâu hoặc quỳ mỏi cả
thân mà không lìa được Xúc là loạn, niệm còn ghi nhớ trong ý mà không lìa
được Pháp là loạn. Tất cả đều làm cho Tâm loạn ngay trong câu niệm Phật chỉ
thấy toàn là Nghiệp mà không thể thấy được cảnh giới Phật A-Di-Đà. Giữa hai
câu niệm Phật lại nghe một tiếng chuông, tiếng mõ hay bất cứ một tiếng động
nào… không lìa được niệm, chạy theo âm thanh, câu niệm Phật bị “ thanh
niệm” xen vào nên không còn liên tục. Giữa hai câu niệm Phật, vọng tưởng
hiện ra, “vọng niệm” xen vào nên không còn liên tục. Giữa hai câu niệm Phật,
cảm thấy mệt mỏi, buồn ngủ (hôn trầm) hay cảm nhận hơi thở ra vào…“thân
niệm” xen vào nên không còn liên tục. Giữa hai câu niệm Phật, còn thấy
mình là người đang niệm Phật, “ngã niệm” xen vào nên không còn liên tục.
Giữa hai câu niệm Phật, còn thấy mình chủ động niệm Phật và có động tác
niệm Phật, cả thân tâm đều động, “động niệm” xen vào nên không còn liên
tục… Đây là những “Niệm Thô’’ dễ nhận diện, nhưng rất khó tiêu trừ làm
cho câu niệm Phật bị gián đoạn không liên tục và loạn Tâm. Ngoài “Niệm
Thô’’ lại còn “Niệm Tế’’ rất tinh vi, phải là những Bậc tu hành công đức sâu
dầy trải nhiều chứng nghiệm mới hy vọng kềm chế được. Như đã luận giải ở
trên, đó là Bảy Sóng (Nhãn Thức, Nhĩ Thức, Tỷ Thức, Thiệt Thức, Thân
Thức, Ý Thức và Mạt-Na-Thức) chứa trong A-Lại-Da-Thức. Nghiệp Chủng
chứa từ nhiều đời nhiều kiếp tàng trữ trong A-Lại-Da (Thức Thứ Tám) dưới
dạng Sóng Nghiệp tức Bảy Sóng. Mỗi một Sóng hay một chu kỳ Sóng là một
niệm Vô Minh. Có vô số niệm hay sóng vi tế như thế chứa đầy trong Tâm (A-
Lại-Da) tuy chưa nổi lên hiện hành nhưng vẫn tự do phục binh chờ sẵn ẩn nấp
nơi đáy Tâm sẵn sàng “nổi loạn’’. Nhiều lúc Tâm lặng yên như mặt nước
biển, nhưng thật ra đang có những dòng nước chảy ngầm dưới đáy là vô số
những Sóng Nghiệp vi tế đang âm ĩ sâu kín nơi đáy Tâm chưa được chuyển
hóa , tiêu hóa hay kềm chế. Làm sao cột trói chặt được những Sóng Nghiệp vi
tế này để chúng không còn tự do nổi lên hiện hành hoặc chuyển hóa, tiêu hóa
được chúng ; khi đó Tâm mới thực sự lặng yên hay bất loạn. Đây phải là một
quá trình công phu lâu dài, công đức dày dạn, trí tuệ thâm áo do chính nơi Tự
Tâm. Chỉ cần Niệm Phật được 10 niệm Liên Lục và Nhất Tâm Bất Loạn
như thế là đạt tới Tâm thanh tịnh A-Di-Đà, chứng ngộ Vãng Sanh đạt quả vị
KIẾN GIẢI CHỨNG ĐẠO CA: “VÔ TRỤ NIẾT BÀN VÀ MA HA BÁT NHÔ
________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________
Thiền Sư HUYỀN GIÁC--Trang | 209 --Kiến Giải: NGỘ THÂM
Thánh, không cần phải đợi Đức Phật A-Di-Đà tiếp đón, mà tự do muốn vào
các cõi Tịnh Độ hay Tây Phương Cực Lạc lúc nào cũng được như các Bậc A-
La-Hán ! Bởi vì khi đạt được “Nhất Tâm Bất Loạn’’ nơi Tự Tâm thì tương
ưng với cõi Tịnh Độ hay Tây Phương Cực Lạc nên dung thông vô ngại, cảnh
Cực Lạc tức khắc hiện bày. Tóm lại, Pháp Môn Tịnh Độ và niệm Phật A-Di-
Đà chỗ rốt ráo không phải là niệm danh hiệu suông để cầu tha lực bên ngoài
mà là niệm nơi Tự Tâm thấu suốt Tâm với Bản Tánh A-Di-Đà… là một Bửu
Pháp của Phật chẳng kém Thiền Tông !
Trước đây vì thời thế mà Pháp Môn Tịnh Độ có lúc bị xuống cấp chỉ
là một “Pháp Chết” chuyên lo việc ma chay cúng tế dành cho “Người Chết”
và có tính cách mê tín. Ngày nay, ở một mức độ tích cực, độ cho người chết
và độ luôn cho người sống, khi đó Tịnh Độ là một “Pháp Sống” dành cho
“Người Sống” và lấy “Pháp Sống” này độ luôn cho “Người Chết”. Những
hình thức tiêu cực, rườm rà, mê tín, thương mại hay nặng tính cách thế gian…
nên được đơn giản hóa … trả lại sự trong sáng và thanh tịnh cho Tịnh Độ. Vì
nếu không theo được dấu chân Phật, Tổ và Thiền Sư trên con đường giải thoát
sinh tử luân hồi ngay trong kiếp này, hay con đường của các bậc Thanh Văn
Bất Lai, chứng Vãng Sanh, cắt đứt luân hồi, về các cõi Tịnh Độ hay Tây
Phương Cực Lạc, thì cũng độ cho chúng sanh cõi Ta Bà này thoát khỏi ba
đường ác trong lục đạo luân hồi ! Hay ít ra cũng tạo duyên lành về Phật Pháp
và độ cho những chúng sanh còn vô minh u tối, mê muội bản tâm, ái nghiệp
sâu dày…một khi đã hồi Tâm tỉnh thức hay bị thất bại trên đường đời, gặp chỗ
khốn cùng trong đau khổ… có con đường để giải thoát. Tịnh Độ có chỗ đứng
xứng đáng trong Phật Pháp, dễ độ Thế vì bình dân, dễ hiểu, dễ đi sâu vào quần
chúng hơn là Thiền Tông. Tuy nhiên cũng dễ bị Thế Gian Pháp lấn áp, nếu
không khéo sẽ trở nên mê tín và lạc lỏng. Nhập Thế để độ Thế chớ không
phải để cho Thế độ rồi mắc kẹt nơi Pháp Thế Gian ! Riêng đối với người xuất
gia, Pháp Môn Tịnh Độ là cả một quá trình tu chứng công phu lâu dài và đặt
nặng trên công đức tu hành nơi Tự Tâm và Trí Tuệ, còn việc ma chay cúng lạy
tế lễ hay các pháp thế gian khác chỉ là việc phụ. Đối với Phật Tử không phải ỷ
lại chỉ cầu tha lực niệm danh hiệu Phật A-Di-Đà 10 niệm là được Vãng
Sanh! Dù cho có niệm 1 triệu lần, tụng một ngàn quyển Kinh, đem hết của cải
tài sản tạo phước đức bằng cách xây dựng cả ngàn ngôi chùa, cúng dường
hàng ngàn Chư Tăng như Vua Lương Võ Đế mà không có một chút nhỏ công
đức nơi Tự Thân hay Tự Tâm bằng trí tuệ để diệt trừ phiền não, tham sân si và
ngã chấp thì cũng chẳng được kết quả gì ! Trong Kinh Tứ Thập Nhị Chương,
Phật dạy : cúng dường cho một trăm, một ngàn, một vạn… bá tánh không
bằng cúng dường cho một Vị Sa Di ; cúng dường cho một trăm, một ngàn,
một vạn… Vị Sa Di không bằng cúng dường cho một Vị Bồ Tát; cúng dường
KIẾN GIẢI CHỨNG ĐẠO CA: “VÔ TRỤ NIẾT BÀN VÀ MA HA BÁT NHÔ
________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________
Thiền Sư HUYỀN GIÁC--Trang | 210 --Kiến Giải: NGỘ THÂM
cho một trăm, một ngàn, một vạn Vị Bồ Tát… không bằng cúng dường cho
một Vị Phật ; cúng dường cho một trăm, một ngàn, một vạn Vị Phật… không
bằng cúng dường cho một “Đạo Nhân Vô Tu Vô Chứng”. Đạo Nhân Vô Tu
Vô Chứng này chính là Phật Tánh nơi Tự Tâm của chính mình : “tức Tâm
tức Phật”. Cúng dường cho Phật Tánh nơi Tự Tâm của chính mình, làm cho
Phật Tánh “thức dậy” thì tự mình đã là Phật rồi, không cần phải cầu Phật ở
bên ngoài. Điều này Đức Phật Thích Ca đã khám phá ra được khi Ngài đạt
Chánh Đẳng Chánh Giác : “Ta là Phật đã thành, tất cả chúng sanh là Phật
sẽ thành”, vì tất cả chúng sanh đều sẵn có Phật Tánh bình đẳng nơi Tự Tâm !
Cho nên là một “Pháp Sống”, Pháp Môn Tịnh Độ vận dụng nơi “Tự Tâm”
công phu rất nhiều không phải chỉ biết hay ỷ lại vào câu Niệm Phật để cầu xin
Phật A Di Đà bên ngoài độ cho mình về Cõi Tây Phương Cực Lạc ; Tịnh Độ
cũng vận dụng rất nhiều trí tuệ để quán chiếu, suy xét, phân tích…nhận diện
chính xác pháp trần để không bị ô nhiễm, thấu rõ Kinh Điển sâu sắc rồi mới
áp dụng tu hành như lời Phật dạy. Đức Phật từng nói: Đừng tin những gì do
Kinh sách ngày xưa để lại, đừng tin những gì dù đó là lời nói của một vị Giáo
Chủ nổi tiếng,…ngay cả lời nói của Ta cũng đừng nên tin vội…mà phải biết
suy xét, phân tích cho thật kỹ… thử nó như thử vàng, đập nó vào đá, nấu chảy
nó… Đây quả là một lời khuyên quý báu của Bậc Chánh Đẳng Chánh Giác,
giúp cho chúng sanh khỏi bị lạc lầm mà rơi vào sự mê tín hay cuồng tín.
3-Tịnh Độ là Tự Tánh Di Đà:
- Niệm Phật trong Vô Niệm Vô Tướng.
Nếu hiểu Phật A-Di-Đà một cách rốt ráo rộng rãi phóng khoáng thì A-
Di-Đà có nghĩa là “Vô Lượng Quang, Vô Lượng Thọ”. Vô Lượng Quang là
Ánh Sáng Bát Nhã với Trí Tuệ vô lượng cũng chính là Chân Tâm. Vô Lượng
Thọ là cái không sanh diệt cũng chính là Tánh, Tự Tánh, cái Không, Bát Nhã
hay Niết Bàn… Vậy A-Di-Đà cũng chẳng khác gì Tâm Tánh, Phật Tánh hay
Tự Tánh của Thiền Tông dung thông với tất cả Tánh và trùm khắp. Tự Tánh
Di Đà là Chân Tánh bình đẳng sẵn có ở trong thân tất cả chúng sanh, ở ngoài
thân và trùm khắp Hư Không vô biên, là cái siêu việt nhất, cái rốt ráo nhất của
vũ trụ càn khôn cũng chính là cái “Không” vi diệu. Tự Tánh Di Đà là Viên
Ngọc Ma Ni dụ cho Tánh hay Tự Tánh, Bát Nhã Chân Như hay Niết Bàn, là
cái “Vô Lượng Thọ” chiếu ra cái Ánh Sáng Vô Lượng của Viên Ngọc là Ánh
Sáng Bát Nhã, là cái Ánh Rõ, hay cái Vô Vi, là Chân Tâm hay Tâm Gốc là cái
“Vô Lượng Quang”. Như vậy Tự Tánh Di Đà là cái Vô Lượng Quang Vô
Lượng Thọ: Chân Tâm và Gốc Tánh. Cái Ánh Sáng Vô Lượng hay Ánh Sáng
Bát Nhã, Ánh Sáng Trí Tuệ Vô Lượng là Chân Tâm. Cái bất sanh bất diệt Vô
Lượng Thọ, hay Chân Như Bát Nhã Niết Bàn là Gốc Tánh. Cái mà Sơ Tổ Bồ
KIẾN GIẢI CHỨNG ĐẠO CA: “VÔ TRỤ NIẾT BÀN VÀ MA HA BÁT NHÔ
________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________
Thiền Sư HUYỀN GIÁC--Trang | 211 --Kiến Giải: NGỘ THÂM
Đề Đạt Ma nói: “Trực chỉ nhân Tâm kiến Tánh thành Phật” chẳng khác gì
với Thiền Tông!
“Cõi Ta Bà có tòa Cực Lạc,
Dòng sông Mê, Biển Giác chẳng xa
Y theo giáo pháp Thích Ca
Tự nhiên Bản Tánh Di Đà phóng quang”.
Hiểu Tịnh Độ là Bản Tánh Di Đà một cách phóng khoáng như thế, thì
Niệm Phật lại có thêm nhiều lợi ích khác. Phật Tử hay Tăng Ni thường chào
hỏi hay gặp bất cứ một sự việc gì thường dùng hai chữ: “Mô Phật” thật ngắn
gọn, hoặc bốn chữ “A Di Đà Phật” hoặc trọn lục tự Di Đà : “Nam Mô A Di
Đà Phật”. Niệm Phật ở đây không còn chấp vào hình tướng Phật A Di Đà. Do
đó có thể dùng hai chữ ngắn gọn là “Mô Phật” ám chỉ Vô Lượng Phật bình
đẳng khắp mười phương cũng là cái Không vi diệu ngay trước mắt và trùm
khắp và khi đó đâu đâu cũng là Phật! Cũng như dùng bốn chữ: “A Di Đà
Phật” mà cũng không chấp vào cái tướng Phật A Di Đà mà chính là cái “Vô
Lượng Quang, Vô Lượng Thọ” là cái Tự Tánh Di Đà của chính mình bắt đầu
từ đầu nguồn Tự Tâm, ngộ nhập Bản Tánh Di Đà trùm khắp là cái Hư Không
vô ngại hay Chân Không vi diệu ở trước mắt. Niệm cả câu: “Nam Mô A Di
Đà Phật” là qui về nương tựa chỉ sống với cái Bản Tánh Di Đà này là cái
Không vô sở trụ rốt ráo và trùm khắp (Qui Không), niệm cho đến Vô Niệm
Vô Tâm để hòa nhập với cái Không vi diệu này! Hiểu như thế thì Niệm Phật
dù là chỉ hai chữ “Mô Phật”, bốn chữ “A Di Đà Phật” hay lục tự Di Đà: “Nam
Mô A Di Đà Phật” đều có nhiều lợi ích cao tột. Và cái lợi ích sơ đẳng nhất,
thực tế nhất, nhưng cũng rất quan trọng, tránh được sự quấy nhiễu của trần lao
là tập “Nhẫn”, tập “Nhịn” để đối trị với trần lao diệt tham sân si ngã chấp và
đi xa hơn là “Hưu” (ngưng) và cuối cùng là “Mặc” thân tâm được an định.
“Nhẫn nhẫn nhẫn, trái chủ oan gia tùng thử tận
Nhiêu nhiêu nhiêu, thiên tai vạn họa nhất tề tiêu
Mặc mặc mặc, vô hạn thần tiên tùng thử đắc
Hưu hưu hưu, cái thể công danh bất tự do”.
(Thân nhẫn, miệng nhẫn, tâm (hay ý) nhẫn thì những điều trái chủ
oan gia từ đây dứt hết.
Thân nhịn, miệng nhịn, tâm nhịn thì ngàn tai muôn họa đều tiêu tan.
Thân nín, miệng nín, tâm nín thì cảnh giới thần tiên vô hạn cũng do
đây mà được.
Thân ngưng, miệng ngưng, tâm ngưng thì danh đời dù lớn lao nhất
trên thế gian cũng không làm gì được ta).
KIẾN GIẢI CHỨNG ĐẠO CA: “VÔ TRỤ NIẾT BÀN VÀ MA HA BÁT NHÔ
________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________
Thiền Sư HUYỀN GIÁC--Trang | 212 --Kiến Giải: NGỘ THÂM
Như vậy để đạt được “Lý” là chứng Vãng Sanh Cực Lạc thì phải có
câu niệm Phật là “Sự”. Phải có “Sự” thì “Lý” mới đạt. Lý không Sự thì chỉ
là Lý rỗng, Sự không Lý thì chỉ là Sự cùng! Từ hai chữ “Mô Phật” đơn giản
đến bốn chữ “A-Di-Đà-Phật” rồi lục tự Di-Đà: “Nam-Mô-A-Di-Đà-Phật”
với bản nghĩa qui về nương tựa vào Bản Tánh Di Đà nơi Tự Tâm đều có công
năng diệt trừ phiền não tham sân si ngã chấp. Niệm Phật để Nhẫn, tránh những
điều trái chủ oan gia. Niệm Phật để Nhịn, tránh ngàn tai muôn họa đến với
chính mình. Niệm Phật để Ngưng, tức là ly Pháp Trần, danh đời dù lớn lao
nhất trên thế gian cũng không làm gì được ta. Niệm Phật để Tịnh, Tâm thanh
tịnh đạt đến Nhất Tâm Bất Loạn để về với Cõi Phật! Câu niệm Phật đầu tiên
thì thô và có vẻ vô nghĩa, nhưng niệm thường lại thấy tế và có ý nghĩa vì trừ
được nhiều phiền não lậu hoặc cũng giống như ngồi Thiền. Thoạt đầu thì niệm
bằng âm thanh sắc tướng có vẻ cầu xin nương vào tha lực của Phật A-Di-Đà,
nhưng từ từ buông âm thanh buông sắc tướng, không còn nương tựa vào Phật
A-Di-Đà bên ngoài mà nương tựa Bản Tánh Di-Đà nơi Tự Tâm. Càng niệm
sâu thì đạt đến Vô Tâm, thì Đại Tâm Đại Ứng, là cái Vô Lượng Quang Vô
Lượng Thọ, là Viên Ngọc Ma Ni chơn Tâm gốc Tánh, cái Không rốt ráo hay
Ma Ha Bát Nhã Ba La Mật Đa! Câu niệm Phật A-Di-Đà từ thô tới tế đạt đến
Bản Giác Minh Diệu trong Kinh Lăng Nghiêm, là cái Vô Lượng Quang Vô
Lượng Thọ trùm khắp thế giới Hoa Nghiêm, bí áo của Kinh Hoa Nghiêm, cốt
tủy của Kinh Pháp Hoa… là kim chỉ nam cho các Bậc Bồ Tát để không bị lạc
đường. Bởi vì tất cả đều Qui Không: “Sắc tức thị Không”, là cái Hư Không
vi diệu trùm khắp vô biên ứng cơ sinh ra Hoa Tạng Pháp Giới: “Không tức
thị Sắc”, là Tấm Bản Đồ Ma-Ha-Bát- Nhã-Ba-La-Mật-Đa!
Bản Tánh Di Đà cũng chính là Pháp Thân của tất cả chúng sinh trùm
khắp cả Đông Tây Nam Bắc nơi nào cũng có chiếu sáng khắp mười phương,
là vầng trăng ngự giữa trời cao rộng, là Tánh và chiếu sáng trùm khắp bằng
cái ánh sáng vi diệu của nó tức là Tâm. Như một vầng trăng hiện trên mặt
nước sông hồ thành ra vô số trăng: “Một là Tất Cả”, Tánh Phật thể nhập
trong tất cả chúng sinh bình đẳng và trùm khắp. Cũng vậy, Tánh Phật trùm
khắp hiển hiện trong mỗi một chúng sanh “Tất Cả là Một”. Từ cái sáng rõ
của Tâm (cái riêng sáng hiện bày rõ ràng hay cái Rõ) mà nhận ra Tánh và
Tánh này chính là Bản Tánh Di Đà, không cần phải đi đâu xa vì nó hiện diện
trong mọi chúng sinh và trùm khắp mười phương.
“Tâm nội Di Đà tử mạc khu
Đông Tây Nam Bắc, Pháp Thân chu
Trường không chỉ kiến cô luân nguyệt
Sát hải trừng trừng dạ mạn thu”.
(Bài kệ “Thị tu Tây phương Nghiệp”của Tuệ Trung Thượng Sĩ)
KIẾN GIẢI CHỨNG ĐẠO CA: “VÔ TRỤ NIẾT BÀN VÀ MA HA BÁT NHÔ
________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________
Thiền Sư HUYỀN GIÁC--Trang | 213 --Kiến Giải: NGỘ THÂM
(Di Đà vốn thật Pháp Thân ta
Nam Bắc Đông Tây khắp chói lòa
Trăng thu ngự giữa trời cao rộng
Đêm lắng trùng dương rạng chiếu xa).
Tự Tánh hay Tự Tánh Di Đà là ở nơi Tự Tâm đạt đến Vô Vi tức là tận
đầu nguồn Tâm và huốt khỏi Tâm: Tâm mà Phi Tâm. Khi đó Niệm Phật là Tự
Tánh Di Đà Niệm Phật, còn sáu căn thì không khởi một niệm, nghĩa là Chân
Như Tự Tánh Niệm Phật, Phật Tánh hiện bày thấy được Tự Tánh. Lúc đó
thì “Vô-Niệm” là Niệm, “Vô-Thiền” là Thiền: không chấp vào tướng Ngồi
Thiền hay tướng Niệm Phật. Niệm Phật không “âm thanh”,không “sắc
tướng”, không “cầu xin”, không chấp tướng Phật A-Di-Đà, không chấp
tướng Phật Thích-Ca, dù đi đứng nằm ngồi hay đang làm việc ở trong “Động”
mà “Bất Động” dù thân và cảnh đang ở nơi “Tướng” mà “Vô Tướng”; khi
đó Phật là Thực Tướng Vô Tướng rốt ráo và “Niệm Phật” chính là “Vô
Niệm”! Trong cái “Vô Niệm” mà “Niệm” sâu thẫm này tất cả sum la vạn
tượng, sơn hà đại địa đều đồng loạt Niệm Phật, Niệm Pháp, Niệm Tăng.
Nhưng Niệm Phật mà Phi Phật, Niệm Pháp mà Phi Pháp, Niệm Tăng mà Phi
Tăng. .…là Bát Nhã Chân Như đang niệm, sum la vạn tượng đồng loạt mở
toang con mắt Bát Nhã trùm khắp Hư Không: “Đại Địa quần sanh nhãn hoát
khai”, đâu đâu cũng là Bát Nhã, Niết Bàn hay Cực Lạc… Tất cả đều bất nhị,
bình đẳng trong vô tướng, tịch diệt vô thân trong Vô Ngã, dung thông trong
Chơn Nhất mà chưa từng rời một Niệm và ngôi Tam Bảo là cái Không rốt ráo
đồng với Hư Không rỗng suốt trùm khắp vô biên! Như vậy, cái rốt ráo sâu
thẫm và phóng khoáng của Pháp Môn Tịnh Độ là Niệm Phật trong Vô Niệm
Vô Tướng chẳng khác với Thiền Tông, là Vô Niệm của Lục Tổ Huệ Năng là
Tự Tánh Chân Như hay Tự Tánh A-Di-Đà khởi niệm. Tự Tánh Di Đà này ở
trong thân, ở ngoài thân, là cái Không ở ngay trước mặt rỗng suốt,
trống lặng, phi vật phi Phật phi phàm, bình đẳng, không sinh diệt, dung thông
vô ngại và trùm khắp Hoa Tạng Pháp Giới….
Tóm lại, Pháp Môn Niệm Phật trong Tịnh Độ Tông từ thấp lên cao,
niệm từ âm thanh sắc tướng tập trung cả sáu căn, cho đến Nhất Tâm Bất Loạn,
rồi huốt khỏi Tâm đạt đến Vô Vi sáu căn không còn niệm mà Chân Như Tự
Tánh niệm Phật đạt đến Vô Niệm Vô Tướng thấy Tánh thành Phật là cái niệm
trong Vô Niệm Vô Tướng của Thiền Tông. Tịnh và Thiền lại gặp nhau ở điểm
rốt ráo! Như vậy cần gì phải phân biệt Tịnh Độ với Thiền Tông; bởi vì trong
Tịnh có Thiền, trong Thiền có Tịnh. Cả hai đều đạt tới cái mục đích rốt ráo là
cái Không cũng là Bản Tánh Di Đà, là Ma Ha Bát Nhã Ba La Mật Đa. Chỉ có
KIẾN GIẢI CHỨNG ĐẠO CA: “VÔ TRỤ NIẾT BÀN VÀ MA HA BÁT NHÔ
________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________
Thiền Sư HUYỀN GIÁC--Trang | 214 --Kiến Giải: NGỘ THÂM
một điều là Thiền thì đi tắt, nhanh và gọn, còn Tịnh thì cứ thông thả mà đi…
nhưng cũng tới đích!
Cho nên niệm Phật phải đi từ thô đến tế, và phải lên lớp không thể cứ
ôm chấp ở một mức độ thô thiển chỉ biết ỷ lại vào câu niệm Phật suông, chấp
tướng Phật A-Di-Đà bên ngoài để cầu xin rồi tin chắc là sẽ được Vãng Sanh,
mà không biết qui về nương tựa Bản Tánh A-Di-Đà thâm áo nơi Tự Tâm, để
lo rèn luyện trí tuệ và công đức nơi tự thân, tạo nhiều duyên lành, chuyển hóa
Tâm Thức, diệt tham sân si ngã chấp… Niệm thô thiển và cứ ôm chấp danh
tướng như thế dễ đi đến chỗ mê tín, không thể khẳng định là được Vãng Sanh!
Cũng không thể cho rằng Thiền Tông thì không có ai chứng Đạo vì tin rằng
đây là thời Mạt Pháp?!
Dù có chứng thì người thực sự chứng Đạo cũng rất ít khi lộ diện, vì họ
không tham danh lợi ồn ào của thế gian, tùy duyên cơ hay thời thế mà xuất xử,
như Lục Tổ Huệ Năng ẩn nơi nhóm thợ săn trong rừng suốt 15 năm mới ra độ
chúng sanh. Nhiều vị thấy chúng sanh mê muội nặng nề, khó giáo hóa thì mai
danh ẩn tích không ai biết đến, hoặc thị tịch nhập Niết Bàn… Đối với Thiền
Tông, vì muốn đi tắt đi nhanh trong một kiếp hoặc một số kiếp không dài lắm,
cho nên có nhiều khó khăn chướng ngại, nhất là chỉ dựa vào tự lực và trí tuệ
nhiều hơn là tha lực bên ngoài. Tuy nhiên, đã có Phật, có Tổ đi trước chỉ
đường, cái Chủng Tử Phật Tánh sẵn có, Tấm Bản Đồ Bát Nhã ở trong tay, cái
“Bí Quyết” vào cửa “Không” của Phật, Tổ và Thiền Sư còn giữ lại trong A-
Lại-Da-Thức, nếu đời nay chưa chứng, đường đi chưa tới đích, thì vẫn tiếp tục
phần còn lại hay cái quãng đường còn lại ở đời sau…
*Phật Giáo Tây Tạng có Tông phái KAGYU thay vì gọi là Tánh, Tự
Tánh, Phật Tánh, Tự Tánh Di Đà, Bát Nhã, Thực Tướng, cái Không hay Chân
Như, Bản Tế… thì Tông này gọi là “Đại Thủ Ấn” (Mahamudra) là cái “rốt
ráo” để ngộ nhập và chứng đạo chẳng khác gì Thiền Tông! Hãy xem lời khẩu
truyền “mật” của Vị Sơ Tổ TILOPA truyền lại cho Vị Tổ thứ hai là
NAROPA được khám phá ở tu viện Gyalwa tại Rumtek, Sikkim (Tây Tạng).
(Bản dịch bằng tiếng Anh của Kunzang Tenzin do Vô Huệ Nguyên, Việt dịch;
người viết chỉ hiệu đính hai chữ (“Không Gian” thành “Hư Không”).
Đại Thủ Ấn:
Chí tâm đảnh lễ 84 Đại Thành Tựu Giả!
Chí tâm đảnh lễ Đại Thủ Ấn!
Chí tâm đảnh lễ Kim Cang Thánh Nữ!
KIẾN GIẢI CHỨNG ĐẠO CA: “VÔ TRỤ NIẾT BÀN VÀ MA HA BÁT NHÔ
________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________
Thiền Sư HUYỀN GIÁC--Trang | 215 --Kiến Giải: NGỘ THÂM
1-Đại Thủ Ấn không thể truyền dạy. Nhưng Naropa, con là kẻ thông
minh xuất chúng,
Con đã trải qua bao khổ hạnh,
Với lòng khoan dung nhẫn nại trong đau khổ và hết lòng với Đạo Sư,
Hỡi con yêu dấu, hãy cất giữ mật truyền này vào tim con.
2-Có gì nâng đỡ Hư Không bao la không? Nó tựa vào đâu?
Giống như Hư Không, Đại Thủ Ấn chẳng tựa vào đâu;
Con hãy thảnh thơi và an định trong thanh tịnh,
Hãy nới lỏng và buông bỏ mọi ràng buộc.
3-Khi nhìn chăm chú thấu suốt vào bầu trời trống rỗng thì nhãn quan
chấm dứt;
Cũng như thế, khi Tâm tự nhìn thấu Tâm
Thì chuỗi lan man và dòng ý niệm chấm dứt
Lúc đó là Đại Ngộ.
Đại Thủ Ấn cũng giống như Hư Không rỗng không trong suốt, vô
sở trụ, trùm khắp, như như bất động và hoàn toàn thanh tịnh. Do đó phải
thảnh thơi và an định trong thanh tịnh, buông bỏ hết mọi ràng buộc của thế
gian thì mới có thể “làm bạn” và hòa nhập được với nó. Điều này Tuệ Trung
Thượng Sĩ cũng từng nhắc nhở :
“Cũng vì ham muốn phải long đong,
Ném quách mà ra khỏi bụi hồng.
Buông thỏng hai tay lên Phật Tổ,
Một lần phủi giũ, một lần xong”.
Khi nhìn chăm chú thấu suốt vào Hư Không trống rỗng trong suốt
không có một vật, thì nhãn quan chấm dứt, nhãn thức không còn. Cũng vậy,
khi Tâm tự nhìn thấu Tâm thì Biển Sóng ý niệm lặng yên : Sóng về với Nước,
lúc đó là Đại Ngộ. Điều này cũng chẳng khác gì khai thị của Tổ Đạt Ma :
“Trực chỉ nhân Tâm, kiến Tánh thành Phật”. Hay khai thị của Thiền Sư
Trương Chuyết : “Nhất niệm bất sanh, toàn thể hiện”. Vì khi chuỗi lan man
và dòng ý niệm chấm dứt, Tâm không còn vọng tưởng và lặng yên như Gương
thì bắt đầu chiếu sáng và Tánh hiển bày, cũng là lúc Đại Ngộ…
4-Như sương mù buổi sáng biến mất trong khí mỏng,
Chẳng đi đâu nhưng tan biến hết,
Những làn sóng ý niệm, xuất hiện trong tâm, rồi tan biến,
Đó là lúc con ngộ ra Chân Tính của Tâm.
KIẾN GIẢI CHỨNG ĐẠO CA: “VÔ TRỤ NIẾT BÀN VÀ MA HA BÁT NHÔ
________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________
Thiền Sư HUYỀN GIÁC--Trang | 216 --Kiến Giải: NGỘ THÂM
Sương mù là hơi nước có trong không khí, sau khi đọng lại thành
những giọt nước trên cành cây ngọn cỏ, gặp ánh nắng mặt trời thì tự tan biến,
trở về với không khí hoặc tiếp tục đọng lại thành nước, trả lại bầu trời trong.
Làn sóng ý niệm hay vọng tưởng cũng vậy, xuất hiện trong Tâm rồi tan biến
trở về Gốc Tâm. Lúc này Tâm tự nhìn thấu Tâm trong suốt không có một vật
lặng yên như Gương, Tâm trở về Chân Tính của Tâm hay là Bản Thể Tâm
cũng gọi là Tâm Bản Nhiên, bắt đầu chiếu sáng. Ngộ nhập ánh sáng này là ánh
sáng trí tuệ và vượt thoát luân hồi.
5-Hư Không thật chẳng có mầu chẳng có hình dạng
Nên chẳng nhuốm đen hoặc trắng;
Cũng như vậy, Tâm Bản Nhiên không sắc không tướng
Nên không thể là đen hay trắng.
6-Bóng tối vô tận chẳng có sức
Làm đen tối tim sáng mặt trời;
Cũng thế, những kiếp luân hồi vô tận chẳng có sức
Che lấp nổi sự trong sáng của Tâm Bản Nhiên.
7-Dù Hư Không được gọi là “trống không”,
Nhưng thực ra làm sao diễn tả;
Dù Tâm Bản Nhiên được gọi là “trong sáng”,
Nhưng đó chỉ là ngôn từ.
Như đã giải thích ở phần hai về “Tâm và Tánh”, lấy thí dụ Viên
Ngọc Ma Ni để nói về Tánh, Ánh Sáng do Viên Ngọc chiếu ra để nói về Tâm.
Con đường của Tâm đạt tới Tánh là con đường giác ngộ, như Tổ Bồ Đề Đạt
Ma khai thị : “Trực chỉ nhân Tâm kiến Tánh thành Phật”. Tâm Bản
Nhiên ở đây Tổ TILOPA muốn nói đến Tâm ở tận đầu nguồn Bản Thể của
Tâm và Như Nhiên, có thể gọi đây là Tánh hay Viên Ngọc Ma Ni. Khi phân ra
làm hai phần Thể và Dụng : Viên Ngọc Ma Ni hay Tánh là Thể, Ánh Sáng do
Viên Ngọc chiếu ra hay Chân Tâm là Dụng, thì dễ hiểu và thuận lý hơn. Con
đường Tâm từ Ngọn cho đến Gốc Tâm là Dụng, Gốc Tâm hay Chân Tâm lại
chiếu ra cái Bóng của nó sinh ra càn khôn vũ trụ sum la vạn tượng hiện đầy
trong Hư Không : “Nhất thiết duy Tâm tạo”. Tâm cũng giống như một
“Tàng Cây” to, có Gốc thì bất động, không sinh diệt… còn Ngọn như cành
và lá thì động và sanh diệt. Ngay Gốc Tâm là cái cửa Vô Vi, vừa huốt khỏi
mọi hình tướng của Tâm là Gốc Tâm hay Chân Tâm chính là cái Rõ hay Ánh
Sáng của Viên Ngọc hay Mặt Trăng Thứ Hai hay cái Cửa Vô Vi này nhảy
thẳng vào Tánh hay Viên Ngọc thì cái Rõ không còn mà là cái Trong rồi cái
KIẾN GIẢI CHỨNG ĐẠO CA: “VÔ TRỤ NIẾT BÀN VÀ MA HA BÁT NHÔ
________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________
Thiền Sư HUYỀN GIÁC--Trang | 217 --Kiến Giải: NGỘ THÂM
Không ! Tạm chia làm 3 lớp cửa là Cái Rõ, Cái Trong rồi Cái Không là tận
cùng rốt ráo chính là Chân Như Bát Nhã. Tổ TILOPA gọi đây là Tâm Bản
Nhiên là Bản Thể hay Chân Tánh của Tâm. Như vậy có thể gọi Tâm Bản
Nhiên là Tánh, cũng giống như Tánh hay Tự Tánh : không sinh diệt, không
màu sắc, không hình tướng, luôn luôn trong sáng. Cũng như Hư Không, nó
rỗng rang, trống không, nhưng lại vi diệu, không làm sao diễn tả được. Những
kiếp luân hồi vô tận không có sức che lấp nỗi sự trong sáng của nó. Tâm Bản
Nhiên hay Tánh này lại biến hóa vô cùng, ở trong thân, ngoài thân, trùm khắp
và bình đẳng hòa nhập trong tất cả Chúng Sanh cũng như Vạn Pháp và Hư
Không. Ở trong thân gọi là Phật Tánh, Tự Tánh hay Tự Tâm. Dù cho vô số
kiếp luân hồi có che lấp nó trong bóng tối Vô Minh dày đặc nhưng một khi nó
được khơi dậy thì chiếu sáng khắp mười phương !
8-Tâm Bản Nhiên giống như Hư Không;
Nó bao trùm và ôm trọn mọi vật trong ánh mặt trời.
Hãy cứ yên lặng và thoải mái trong thanh thản hồn nhiên,
Hãy lắng im để âm thanh dội vang vang dội,
Hãy để Tâm con yên tịnh và theo dõi sự tận cùng của muôn thế giới.
9-Thân xác thật ra trống rỗng như cây sậy,
Và Tâm, như Hư Không thanh khiết, hoàn toàn không tư tưởng:
Hãy thảnh thơi trong thực tính mà chẳng buông bỏ hay kiểm soát
Tâm không đối tượng chính là Đại Thủ Ấn
Con hãy thực hành miên mật thích nghi, rồi con sẽ ngộ.
Hư Không trống rỗng là cái mà Thiền Sư để ý tới, nó là Chân Tâm
(Mặt Trăng Thứ Hai, Ánh Sáng của Viên Ngọc Ma Ni) hay là Gốc Tánh (Mặt
Trăng Thật, Viên Ngọc Ma Ni) tùy theo mức độ chứng ngộ của hành giả.
Chưa chứng được cái Hư Không này thì Hư Không vẫn là Hư Không vẫn là
Vọng Tưởng mặc dù thấy nó như vô tướng, bất động, trùm khắp và không
sinh diệt.
Tổ Sư thứ 7 BÀ TU MẬT (Vasumitra) khai thị :
“Tâm đồng HƯ KHÔNG giới
Thị đẳng HƯ KHÔNG PHÁP
Chứng đắc HƯ KHÔNG thời
Vô thị vô phi pháp”.
Tổ TILOPA so sánh Tâm Bản Nhiên cũng giống như Hư Không, nó
bao trùm và ôm trọn mọi vật trong vũ trụ bao la. Hãy yên lặng và thoải mái
trong thanh thản hồn nhiên, lắng im để âm thanh dội vang vang dội, để Tâm
yên tịnh và theo dõi sự tận cùng của muôn thế giới thì tất cả từ từ mờ nhạt
KIẾN GIẢI CHỨNG ĐẠO CA: “VÔ TRỤ NIẾT BÀN VÀ MA HA BÁT NHÔ
________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________
Thiền Sư HUYỀN GIÁC--Trang | 218 --Kiến Giải: NGỘ THÂM
lặng chìm và mất dạng trong Hư Không. Thân xác cũng vậy, trống rỗng như
cây sậy rồi cũng hòa nhập vào Hư Không. Và Tâm, như Hư Không thanh
khiết, trống rỗng, hoàn toàn không tư tưởng : Tâm phi Tâm. Hãy thảnh thơi
trong thực tính, chẳng buông bỏ hay kiểm soát. Lúc đó, Tâm không đối
tượng chính là Đại Thủ Ấn. Thực hành miên mật thích nghi, rồi sẽ ngộ! Như
vậy lời khai thị “mật truyền” này của Tổ TILOPA chẳng khác gì với Thiền
Tông cả. Vua Trần Nhân Tông - Tổ Sư Thiền Trúc Lâm (Việt Nam) cũng từng
khai thị :
“Cư trần lạc Đạo thả tùy duyên
Cơ tắc xan hề khốn tắc miên
Gia trung hữu bảo hưu tầm mịch
Đối cảnh Vô Tâm mạc vấn thiên”.
(Ở đời vui Đạo, thả tùy duyên,
Đói đến thì ăn, mệt ngủ liền.
Của báu trong nhà, thôi tìm kiếm,
Đối cảnh Vô Tâm, chớ hỏi Thiền !).
Thiền Sư Bổn Tịnh nói : “Tức Tâm là Phật, Không Tâm là Đạo” .
Thiền Sư Hoàng Bá cũng khai thị : “Cúng dường mười phương Chư Phật
không bằng cúng dường một Đạo Nhân Vô Tâm… Cái Bản Thể Như Như, bên
trong như gỗ đá chẳng lay chẳng động, bên ngoài như Hư Không chẳng
nghẽn chẳng ngại, vô năng sở, vô phương sở, vô tướng mạo, không được
không mất…Dụ cho Tâm này, tức cái Tâm của Vô Tâm lìa tất cả tướng, chúng
sanh và Chư Phật chẳng có khác biệt, hễ được Vô Tâm thì đến cứu cánh…” .
Thiền Sư Đức Sơn cũng nói : “Vô Tâm nơi Sự, Vô Sự nơi Tâm”. “Vô Tâm”
này cũng là “Vô Niệm” của Lục Tổ Huệ Năng! Tuy nhiên Tâm này vô tu vô
chứng vô sở đắc : “Tâm tự Vô Tâm”. Nếu đem Tâm làm cho “Vô Tâm” thì
Tâm lại trở thành có, là vô tâm của phàm phu, không phải là “Vô Tâm” hay
“Không Tâm” hay “Tâm Phi Tâm” của người chứng Đạo !
10-Sự trong sáng của Đại Thủ Ấn không thể hiển lộ
Trong Kinh sách hay những khảo luận siêu hình,
Về Mật chú, Bát Nhã Ba La Mật hay Tam Tạng Kinh Điển;
Sự trong sáng đã bị che phủ bởi ý niệm và tư tưởng.
11-Vì đóng khung trong giáo lý cứng nhắc nên Chân Tính Mật
Nguyện đã bị tổn hại,
Nhưng khi chấm dứt hoạt động tâm trí thì mọi quan niệm cứng nhắc
sẽ tan biến;
Khi những làn sóng biển là sự yên tịnh sâu thẳm của chính nó,
KIẾN GIẢI CHỨNG ĐẠO CA: “VÔ TRỤ NIẾT BÀN VÀ MA HA BÁT NHÔ
________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________
Thiền Sư HUYỀN GIÁC--Trang | 219 --Kiến Giải: NGỘ THÂM
Khi Tâm không còn lang thang trong vô định, vô tưởng,
Thì chính Mật Nguyện kiên trì sẽ là ánh đèn soi sáng Tâm đen tối.
Đại Thủ Ấn hay Tâm Bản Nhiên tuy Rỗng không như Hư Không
nhưng lại trong sáng và vi diệu, cũng là cái Bản Giác Minh Diệu (Kinh Lăng
Nghiêm). Nó không thể “hiển lộ” trong Kinh Sách hay những khảo luận siêu
hình về Mật chú, Bát Nhã Ba La Mật hay Tam Tạng Kinh Điển. Tất cả những
thứ này chỉ là phương tiện để đạt tới cứu cánh, là “ngón tay” để chỉ “Mặt
Trăng”! Học Kinh Điển là để có cái “Kiến Văn Giác Tri” hiểu được Lý
Đạo. Hiểu rồi thì phải buông cái “Kiến Văn Giác Tri”. Nó sẽ là con dao hai
lưỡi vừa làm sáng con mắt Đạo, vừa đâm mù con mắt Đạo. Những ý niệm và
tư tưởng sinh ra từ cái Kiến Văn Giác tri, trở thành Vọng Thức trong sáu căn
che mờ Tự Tánh ! Do đó dù có đọc hay tụng một ngàn quyển Kinh, rồi chấp
vào văn tự chữ nghĩa làm cho niệm niệm sinh ra lấp đầy sáu căn, Đại Thủ Ấn
không có chỗ để hiển bày. Dùng âm thanh đọc tụng cho thật nhiều tưởng rằng
công phu, nhưng thật ra chỉ làm cho thần khẩu suy kiệt ; dùng sắc tướng cúng
lạy tế lễ thật nhiều tưởng rằng được phước, nhưng thật ra chỉ làm cho thân căn
mệt mỏi mất công suông ! Cứ thảnh thơi và an định trong thanh tịnh hoặc
nhìn chăm chú thấu suốt vào bầu trời trống rỗng nhãn quan chấm dứt, nhãn
thức không còn cho đến khi Tâm tự nhìn thấu Tâm, không còn Vọng Tưởng
thì Sóng trở về Nước, là lúc Đại Ngộ. Cái gọi là “công phu” này của Tổ
TILOPA, chẳng có gì là công phu cả, vì nó rất “nhàn”, nhưng lại đạt kết quả !
Nó giống cái Vô Vi của Lão Tử, nghĩa là “Vô mà Vi, vô sở bất Vi” (không
làm mà làm, không có chỗ nào mà không làm), và vượt khỏi cái Vô Vi này,
đạt tới cái cửa Vô Vi của Thiền Sư Huyền Giác là thâm nhập vào cái Hư
Không, tức là Đại Thủ Ấn. Điều này cũng chẳng khác với cái gọi là “công
phu” của Tuệ Trung Thượng Sĩ :
“Đường trung đoan tọa tịch vô nghiên,
Nhàn khán Côn Luân nhất lũ yên.
Tự thị quyện thời Tâm tự tức,
Bất quan nhiếp niệm, bất quan Thiền”.
(Giữa nhà không nói, chỉ ngồi yên,
Nhàn ngắm Côn Luân sợi khói lên.
Lúc mệt mỏi rồi Tâm tự tắt,
Cần chi niệm Phật với cầu Thiền).
Tổ TILOPA có cái thấy chẳng khác Thiền Tông : Vì đóng khung
trong giáo lý cứng nhắc nên Chân Tính Mật Nguyện bị tổn hại ; nhưng khi
chấm dứt hoạt động tâm trí thì mọi quan niệm cứng nhắc sẽ tan biến ; khi
những làn sóng biển là sự yên tịnh sâu thẳm của chính nó; khi Tâm không còn
lang thang trong vô định, vô tưởng, thì chính Mật Nguyện kiên trì sẽ là ánh
KIẾN GIẢI CHỨNG ĐẠO CA: “VÔ TRỤ NIẾT BÀN VÀ MA HA BÁT NHÔ
________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________
Thiền Sư HUYỀN GIÁC--Trang | 220 --Kiến Giải: NGỘ THÂM
đèn soi sáng Tâm đen tối! Thái Tử Chiêu Minh, chia Kinh ra đủ loại, phân giải
rõ ràng, biết bao là công phu. Lương Võ Đế, tạo phước xây chùa, độ Tăng,
nhưng ngã sở, ngã kiến lại không đoạn được. Cả hai Cha Con đều chú trọng
về hình thức và văn tự suông, nhưng chẳng được kết quả gì, thật là uổng công
suông. Thi hào Nguyễn Du, đi Sứ nước Trung Hoa, hành trang duy nhất là
quyển Kinh Kim Cang, đọc Kinh suốt cuộc hành trình dài ngàn dặm. Ông
ngừng đọc Kinh, ghé lại đất Lương thuở xưa thăm đài phân Kinh của Thái Tử
Chiêu Minh, Đài đã hoang tàn, chỉ còn trụ đá với vài vết văn tự. Trụ đá còn
đấy, nhưng người xưa thì ở đâu và Đạo ở đâu mà cả hai Cha Con Lương Võ
Đế suốt cả cuộc đời tìm không ra? Cuối cùng, Nguyễn Du đã ngộ và Ông hiểu
ra rằng : “Kinh Vô Tự” mới là “Chân Kinh” !
“Bờ bên kia có Ma Ha Ca Diếp
Một sát na Tâm nhiếp cả Đạo mầu
“Niêm Hoa Vi Tiếu”, vạn Pháp gồm thâu
Kinh Vô Tự, một bầu Chân Không rộng”.
(Ngộ Thâm).
12-Hãy dẹp bỏ tính thông minh tự mãn, từ bỏ những nguyên lý
giáo điều,
Thì chân tính của mọi truyền thống và kinh sách sẽ được hiển lộ.
Khi hòa nhập trong Đại Thủ Ấn, là lúc con thoát khỏi ngục tù của
luân hồi;
Thênh thang trong Đại Thủ Ấn, tội lỗi và tiêu cực tính sẽ tiêu tan;
Khi là thầy của Đại Thủ Ấn, con sẽ là ánh sáng của Kinh Điển.
13-Kẻ nào ngụp lặn trong vô minh là khinh thường Đại Thủ Ấn,
Họ chẳng biết gì ngoài vùng vẫy trong biển luân hồi khổ đau.
Hãy thương xót những ai đau khổ hằng khao khát!
Luôn chán khổ và mong giải thoát, hãy trung thành với sư phụ,
Khi ơn phước của Ngài chạm đến tim con thì Tâm được giải phóng.
14-Con ơi! hãy lắng nghe với lòng an lạc!
Dính mắc vào luân hồi là vô ích; đó là cội nguồn mọi khắc khoải
lo âu.
Vì say đắm trần gian là vô nghĩa, nên hãy kiếm tìm sự thật!
15-Vượt thoát khỏi tâm nhị nguyên là cái nhìn Tối thượng ;
Tâm tịch tĩnh lặng yên là Thiền tối thượng;
Tự nhiên như nhiên là pháp Hành tối thượng;
Rồi khi mọi hy vọng và sợ hãi không còn là thành quả đã đạt.
KIẾN GIẢI CHỨNG ĐẠO CA: “VÔ TRỤ NIẾT BÀN VÀ MA HA BÁT NHÔ
________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________
Thiền Sư HUYỀN GIÁC--Trang | 221 --Kiến Giải: NGỘ THÂM
Thật ra tất cả những cái biết gọi là “Tri Thức”, dù là thông minh xuất
chúng như những nhà Bác Học ở cõi Thế Gian hay các cõi Trời thì vẫn còn bị
hạn chế hay điên đảo bởi Nghiệp Lực. Nếu tự mãn hay cố chấp vào nó mà cho
là Chân Lý với cái Kiến Văn Giác Tri của phàm phu thì con mắt Đạo sẽ bị mù.
Vì đó là cái thấy hay cái Tri Thức bị khúc xạ bởi “Nghiệp Tướng” theo từng
loài : Tướng “Người”, Tướng “Trời”, Tướng “A-Tu-La”, Tướng “Ngạ
Quỹ”, Tướng “Súc Sanh”… Mỗi cõi đều có cái Chân Lý tương đối riêng của
nó, nhưng tất cả chỉ nằm trong Bóng Mê, giống như Chiêm Bao, thức dậy rồi
thì tất cả đều không có ! Còn những nguyên lý giáo điều chỉ trói buộc con
người làm kẻ nô lệ tâm linh hay nô lệ Thần Quyền, không có con đường Giải
Thoát. Đạo Phật không có Giáo Điều hay Giáo Luật để ràng buộc hay cột trói
mà chỉ có Giới Luật để “Ly” với Pháp Trần, không bị Pháp Trần trói buộc,
chướng ngại trên con đường Giải Thoát. Như thế, buông đi cái Ngã Kiến, Ngã
Sở, Ngã Chấp, “Ly” Pháp Trần thì Chân Tánh hiển bày. Trong giấc Chiêm
Bao, vì Mê nên tưởng là thật với thân thật thế giới thật cố bám díu vào Pháp
Trần Chiêm Bao với ngã ái ngã dục ngã kiến ngã sở… thành “Bệnh” bị Vô
Minh trói buộc trong Chiêm Bao, không thể “thức dậy ” thoát khỏi ngục tù
hay vô số kiếp luân hồi trong giấc Chiêm Bao, thoát khỏi cái “Thân Giả
Tạm” chỉ là cái Bóng Ảo trong Chiêm Bao, hòa nhập vào cái “Thân Thật” là
Pháp Thân, Chân Tánh hay Tự Tánh… tức là Đại Thủ Ấn !
“Phiên thân nhất trịch xuất phần lung
Vạn sự đô lô nhập nhãn Không
Tam giới mang mang Tâm liễu liễu
Nguyệt hoa Tây một, Nhựt thăng Đông”.
(Xoay mình một ném vượt ra lồng
Muôn sự đều không ,nhập mắt không
Ba cõi thênh thang , lòng sáng rỡ
Trăng Tây vừa lặn, xuất vầng Đông”.
(Tuệ Trung Thượng Sĩ).
Thênh thang trong cái Không hay Đại Thủ Ấn thì tội lỗi và những tiêu
cực với sáu ngã luân hồi trong giấc Chiêm Bao đều tiêu tan:
“Mộng lý minh minh hữu lục thú
Giác hậu không không vô đại thiên”.
(Thiền Sư Huyền Giác).
(Trong mộng lao xao bày sáu nẻo
Tỉnh ra bằng bặt chẳng ba nghìn).
Khi là thầy của Đại Thủ Ấn, thì ánh sáng của Kinh Điển sẽ hiển bày :
“Tông diệc thông ,Thuyết diệc thông
Định huệ viên minh bất trệ không
KIẾN GIẢI CHỨNG ĐẠO CA: “VÔ TRỤ NIẾT BÀN VÀ MA HA BÁT NHÔ
________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________
Thiền Sư HUYỀN GIÁC--Trang | 222 --Kiến Giải: NGỘ THÂM
Phi đãn ngã kim độc đạt liễu
Hằng sa Chư Phật thể giai đồng”.(Th.S Huyền Giác).
(Tông cũng thông, Thuyết cũng thông
Định huệ sáng tròn chẳng trệ không
Nào phải mình ta riêng đạt đấy
Hằng sa Chư Phật thể giai đồng).
Còn kẻ nào khinh thường Đại Thủ Ấn hay cái Không này, mãi mê
say đắm trần gian không lo tìm kiếm sự thật, ngụp lặn trong vô minh vô số
kiếp; thật đáng thương, họ chẳng biết gì ngoài vùng vẫy trong biển luân hồi
đau khổ !
‘‘Vượt thoát khỏi tâm nhị nguyên là cái nhìn tối thượng”: bởi vì
“Một là tất cả, tất cả là Một”. Chỉ cần quên đi “Tâm nhị nguyên” là có thể
bao dung được tất cả Pháp Giới. Sự đối lập giữa Hữu và Vô, Sắc và Không,
Mê và Ngộ, Phàm và Thánh, Phật và Chúng Sanh, Phiền Não và Bồ Đề, Sống
và Chết, Nhơ và Sạch… chỉ là sự đối lập giả tạo! Chân lý chỉ có một, bởi vì
“Huyễn Hóa” mà phân thành hai thành Nhị Kiến. Nhơ Sạch chỉ là giả danh,
Sắc Không là giả tướng, Sống Chết chỉ là một đợt sóng chìm nổi trong vô
định… Tâm “nhất nguyên” là tổng giai không bao trùm tất cả Pháp Giới,
không có sống chết hay sinh tử, là Niết Bàn thanh tịnh, như Sóng trở về với
Nước!
“Tòng vô hiện hữu, hữu vô thông
Hữu hữu, vô vô, tất cánh đồng
Phiền não, Bồ Đề nguyên bất nhị
Chân như, vọng niệm, tổng giai không”.
(Tuệ Trung Thượng Sĩ).
“Tâm tịch tĩnh lặng yên là Thiền tối thượng’’: Tâm tịch tĩnh lặng
yên thì cũng giống như Mặt Nước lặng yên như Gương bắt đầu soi chiếu cả
Bầu Trời vô định, mọi Chân Lý hiển bày chân thật không chướng ngại:
“Tâm kính minh, giám vô ngại
Quách nhiên oánh triệt châu sa giới
Vạn tượng sum la ảnh hiện trung
Nhất lỏa Viên Quang phi nội ngoại”.
(Thiền Sư Huyền Giác).
(Gương Tâm rõ, soi chẳng ngại
Suốt thông chiếu khắp hà sa giới
Muôn tượng um tùm, ảnh hiện trong
Một điểm Viên Quang không nội ngoại).
“Tự nhiên như nhiên là pháp Hành tối thượng’’: Bởi vì “Bình
thường Tâm thị Đạo”. Không cần phải chú trọng quá nhiều về hình thức như
tế lễ cúng lạy, nặng nề về trì giới nhẫn nhục thái quá… giữ trung đạo, tất cả
KIẾN GIẢI CHỨNG ĐẠO CA: “VÔ TRỤ NIẾT BÀN VÀ MA HA BÁT NHÔ
________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________
Thiền Sư HUYỀN GIÁC--Trang | 223 --Kiến Giải: NGỘ THÂM
Pháp đều tự nhiên như nhiên, là “pháp Hành tối thượng” đạt thành quả Giác
Ngộ.
16-Tâm trong trẻo tự nhiên ở bên kia bờ Tâm ảnh:
Hãy đi đường vô-đường để theo đường của Chư Phật;
Hãy nương theo vô-pháp để đạt đại ngộ.
Phật dạy: “Tâm là Tông chỉ, cửa Không là của Pháp”. Đi huốt con
đường Tâm từ ngọn cho tới Gốc, chỉ chú ý tới cái Gốc, nơi mà Tâm không còn
là Tâm: tâm phi Tâm, trong trẻo tự nhiên như nhiên, tướng mà vô tướng, vật
mà phi vật, pháp mà vô pháp…đạt tới cái Không rốt ráo của Chư Phật. Khi đó
là đi con đường để theo đường của Chư Phật, nương theo pháp mà vô pháp để
đạt đại ngộ như Đức Phật từng khai thị cho Tổ Ca Diếp:
“Pháp bổn Pháp Vô-Pháp
Vô-Pháp Pháp diệc Pháp
Kim phó vô Pháp thời
Pháp Pháp hà tằng Pháp”.
(Pháp, gốc Pháp không phải Pháp
Pháp không Pháp cũng là Pháp
Nay khi trao cái không Pháp
Mọi Pháp đâu từng là Pháp).
17-Con ơi! Hãy lắng nghe với lòng thương cảm!
Con hãy nhìn sâu vào những tình trạng khó hiểu buồn đau trong đời,
Chẳng có gì tồn tại, chúng huyễn ảo như mơ,
Những ảo tưởng vô nghĩa chỉ mang lại buồn nản và nhàm chán
Con hãy quay đi và buông bỏ những đeo đuổi trần gian.
18-Hãy cắt bỏ những dính mắc vào quê hương và bè bạn
Mà thiền định đơn độc trong rừng sâu núi thẳm;
Hãy ở đó trong trạng thái vô-thiền
Và vô-chứng-đắc thì con sẽ ngộ ra Đại Thủ Ấn.
Ly với Pháp Trần mà thực chất chỉ là mộng tưởng huyễn ảo đầy phiền
não trói buộc; về với Pháp Không không Pháp tự do thênh thang với Chân
Tánh. Tìm đến nơi thanh tịnh hoặc chốn rừng sâu núi thẳm để thiền định đơn
độc, sống tự nhiên như nhiên trong trạng thái thiền mà vô thiền, vô-chứng-đắc
thì sẽ ngộ ra Đại Thủ Ấn.
“Thường độc hành, thường độc bộ
Ðạt giả đồng du Niết-Bàn lộ”.
(ThS. Huyền Giác).
KIẾN GIẢI CHỨNG ĐẠO CA: “VÔ TRỤ NIẾT BÀN VÀ MA HA BÁT NHÔ
________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________
Thiền Sư HUYỀN GIÁC--Trang | 224 --Kiến Giải: NGỘ THÂM
19-Một cây trổ ra đầy cành và lá
Nhưng khi rễ bị cắt thì chúng sẽ héo tàn;
Cũng thế, khi gốc rễ của Tâm bị cắt đứt,
Thì cành lá của cây luân hồi sẽ rụi tàn.
Như đã diễn tả ở Phần II Tâm và Tánh, Tâm giống như một tàng cây
to với “Con đường Giải Thoát ” chia làm hai phần Vọng Tâm và Chân Tâm
tương ưng với Ngọn Tâm và Gốc Tâm : Ngọn Tâm thì sinh diệt, luân hồi ; còn
Gốc Tâm thì không sinh diệt, là cái cửa Vô Vi để nhập vào Tánh. Ở đây Tổ
TILOPA chỉ chú ý tới phần Vọng Tâm diễn tả Tâm là : “tàng cây luân hồi”
trổ ra đầy cành và lá, khi rễ bị cắt thì chúng sẽ héo tàn. Gốc rễ ở đây là Vọng
Thức, là Pháp Trần. Khi gốc rễ (tức Vọng Thức hay Pháp Trần) của Tâm bị
cắt đứt, thì cành lá của cây luân hồi sẽ rụi tàn, là con đường Giải Thoát.
20-Chỉ một ngọn đèn có thể xóa tan đen tối của hàng ngàn kiếp;
Thì chỉ một ánh chớp của Tâm trong sáng
Cũng thanh tẩy được nghiệp chướng và vô minh.
Tổ Bồ Đề Đạt Ma khai thị: “Trực chỉ nhân Tâm kiến Tánh thành
Phật”. Chỉ cần Tâm người “trực chỉ” thấy Tánh là đạt đạo Giải Thoát. Thấy
Tánh là đạt tới Tâm Không. Là chỗ rốt ráo Bản Thể của Tâm hay Tâm Bản
Nhiên. Đối với Thiền Tông, trong một sát na đốn ngộ, chỉ một ánh chớp của
Tâm trong sáng, cũng thanh tẩy được nghiệp chướng và vô minh xóa tan đen
tối của vô số kiếp luân hồi:
“Chứng “Thực Tướng” vô nhân pháp,
Sát na diệt khước A-Tỳ nghiệp”.
(Chứng Thực Tướng không nhân pháp,
Sát na rũ sạch A-Tỳ nghiệp).
(Th.S Huyền Giác).
Chẳng những chỉ một ánh chớp của Tâm trong sáng xóa tan đen tối
của hàng ngàn kiếp mà còn soi sáng Trí Tuệ, bao trùm cả Pháp Giới, vượt
thoát luân hồi, đạt đến Niết Bàn Vô Sanh:
“Tứ Trí ba vô tận
Bát Thức hữu Thần Uy
Tâm đăng minh Pháp Giới
Tức thử thị Bồ Đề”. (Bồ Đề Đạt Ma).
(Bốn Trí cuồn cuộn sóng
Tám thức lộ thần uy
Ðèn Tâm soi Pháp Giới
Ðó tức là Bồ Đề ).
KIẾN GIẢI CHỨNG ĐẠO CA: “VÔ TRỤ NIẾT BÀN VÀ MA HA BÁT NHÔ
________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________
Thiền Sư HUYỀN GIÁC--Trang | 225 --Kiến Giải: NGỘ THÂM
Chỉ cần ở Tâm người, không cần phải cầu bên ngoài, chỉ một ánh
chớp của Tâm trong sáng, là có cả một mùa Xuân vĩnh cửu với đầy đủ hoa
thơm cỏ lạ :
“Học giả phân phân bất nại hà,
Đồ tương linh đích khổ tương ma.
Báo quân hưu ỷ tha môn hộ
Nhất điểm xuân quang xứ xứ hoa’’ .
(Học Đạo mênh mang ai có hay,
Gạch đem mài gạch nhọc nhằn thay,
Của Người anh hãy thôi nương tựa,
Một ánh Xuân về, hoa đó đây).
(Tuệ Trung Thượng Sĩ) .
21-Con ơi! Hãy lắng nghe trong an lạc!
Sự thật bên kia bờ Tâm thức không thể hấp thụ bởi Tâm kiên cố;
Ý nghĩa của vô-hành không thể hiểu được trong đam mê tạo tác;
Để thông suốt ý nghĩa của vô-hành và bên kia bờ Tâm tưởng,
Con hãy cắt bỏ mọi gốc rễ của Tâm và an định trong sự tỉnh thức
rỗng rang.
22-Để dòng ô nhiễm của niệm tưởng được thanh tẩy;
Con hãy tránh mọi vọng tưởng dù tích cực hay tiêu cực
Hãy để chúng xuất hiện như chúng là:
Thế giới hiện tượng không thêm không bớt, chính là Đại Thủ Ấn.
23-Nền tảng vô sinh thường hằng làm tan rã những khát vọng
và huyễn tưởng của con:
Đừng tự cao hay tính toán mà hãy an định trong bản tính vô sinh
Và hãy để những ý niệm của con và vũ trụ tan rã.
Bên kia bờ Tâm thức không thể hấp thụ bởi Tâm kiên cố với những ý
niệm, khái niệm, hay tư tưởng của pháp thế gian....là những vọng tưởng dù
tích cực hay tiêu cực. Cố chấp vào nó sẽ làm cho con mắt Đạo bị mù. Phải
vượt qua khỏi những vọng tưởng hay vọng thức này để đạt tới Vô-Vi cũng là
Vô-Hành. Ý nghĩa của Vô-Hành không thể hiểu được trong đam mê tạo tác
với những ý niệm hay vọng thức của Pháp Trần. Do đó phải cắt bỏ mọi gốc rễ
của Tâm là Vọng Tâm hay Vọng thức và an định trong sự tỉnh thức rỗng
rang. Vô-Hành cũng tương đồng với Vô-Tác, Vô-Vi, Vô-Niệm, Vô-Tâm, Vô
Pháp, tất cả đều vô sở trụ… ngộ nhập cái Không rốt ráo, là Pháp Thân vi diệu:
KIẾN GIẢI CHỨNG ĐẠO CA: “VÔ TRỤ NIẾT BÀN VÀ MA HA BÁT NHÔ
________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________
Thiền Sư HUYỀN GIÁC--Trang | 226 --Kiến Giải: NGỘ THÂM
Tuyệt gốc Vô-Vi liễu Tánh Chân
Hữu-Vi vọng động lạc thức thần
Trùng trùng duyên khởi hà sa giới
Kiếp kiếp trầm luân vạn lý trần
Vô-niệm, Vô-Tâm, vô sở trụ
Vô-Hành, Vô-Pháp diệc Vô-Nhân
Quán Không, Tự Tánh phi nhất vật
Phi Phật, phi Phàm, thị PHÁP THÂN.
(Vô Tác - Ngộ Thâm).
Một cách đơn giản Vô-Hành hay Vô-Tác thì Sóng trở về với Nước
lặng yên như Gương là Tâm Bản Nhiên bắt đầu phản chiếu và soi thấu Bầu
Trời trong vô tận. Vô-Hành hay Vô-Tác thì từ nguyên tử cho đến vũ trụ đều
tan rã trở về Không: “Sắc tức thị Không”, trở về với bản thể như nhiên
thường hằng tức là Đại Thủ Ấn. Nền tảng vô sinh thường hằng làm tan rã
những khát vọng và huyễn tưởng. Do đó phải an định trong bản tính vô sinh;
không cố chấp hay dính mắc vào ngã kiến, ngã sỡ, buông niệm ly trần để
những ý niệm hay vọng tưởng và vũ trụ của thế gian mê tan rã.
24-Tri kiến cao nhất sẽ mở ra các cửa;
Thiền định tối thượng sẽ dẫn đến các điểm sâu vô tận ;
Pháp hành tối thượng là kiên trì mà không bị kiềm chế;
Và sự thành tựu cao nhất là sự hiện hữu bình thường không có hy
vọng hay sợ hãi.
Tri kiến cao nhất sẽ mở ra các cửa, nhưng để vào được cửa thì phải
buông cả cái tri kiến này “Vô Tri mà Tri, Vô sở bất Tri” như Tổ thứ 25 Bà-
Xá-Tư-Đa (Basiasita) khai thị:
“Thánh nhân thuyết tri kiến,
Đương cảnh vô thị phi.
Ngã kim ngộ kỳ Tánh
Vô Đạo diệc vô Lý”.
(Thánh nhân nói tri kiến,
Ngay cảnh không phải quấy.
Nay Ta ngộ Tánh ấy,
Không Đạo cũng không Lý).
Thiền định tối thượng sẽ dẫn đến các điểm sâu vô tận ,vì khi đó hòa
nhập với tất cả Pháp Giới trùm khắp; từ hạt bụi hạt nguyên tử cho đến vũ trụ
bao la, không có chỗ nào mà chẳng thấy. Chân tướng của tất cả Pháp Giới
thoát khỏi bức màn Vô Minh, lộ toàn thân trong ánh sáng vi diệu của Tâm Bản
Nhiên.
KIẾN GIẢI CHỨNG ĐẠO CA: “VÔ TRỤ NIẾT BÀN VÀ MA HA BÁT NHÔ
________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________
Thiền Sư HUYỀN GIÁC--Trang | 227 --Kiến Giải: NGỘ THÂM
Pháp Hành tối thượng là kiên trì mà không bị kiềm chế, nghĩa là vẫn
kiên trì nơi Hành mà Vô-Hành, Vô-Tác, Vô-Niệm, Vô-Tâm… chẳng bị ràng
buộc cột trói hay kiềm chế. Ngay nơi động mà tịnh, ngay nơi vật mà phi vật,
ngay nơi tướng mà phi tướng, ngay nơi niệm mà lìa niệm, ngay nơi cảnh mà
Tâm không dính mắc.
Sự thành tựu cao nhất là sự hiện hữu bình thường không có hy vọng
hay sợ hãi. Tâm bình thường là Đạo và Đạo thì ngay trước mắt nơi nào cũng
có. Mặc áo, ăn cơm, rửa bát, bửa củi, gánh nước, đi đứng, ngủ nghỉ, nằm ngồi
hay đang làm việc… đều là Đạo; ngọn cỏ, tàng cây, đám mây, sơn hà đại địa
cho đến hạt bụi hạt nguyên tử hay Hư Không bao la… đều là Đạo! Vì tất cả
đều đang “niệm” rồi chấp niệm nên niệm niệm duyên khởi mà hiện hữu và có
tướng sinh diệt. Sự hiện hữu bình thường không có hy vọng hay sợ hãi, là
ngay nơi niệm mà lìa niệm, ngay nơi động mà lìa động, ngay nơi cảnh mà lìa
cảnh, ngay nơi vật mà lìa vật, ngay nơi pháp trần mà lìa pháp trần, đạt tới Vô-
Niệm, Vô-Hành, Vô-Tâm… là sự thành tựu cao nhất! Mặc dù tất cả Pháp Trần
đang niệm mà hiện hữu, có ngã có nhân, có năng có sở, trở thành nhị kiến của
thế gian mê, nhưng với sự hiện hữu bình thường của thế gian mê mà trong đó
tất cả đều “Ly’’ không ngã nhân vô năng sở trở về cái “Một” hay “Chơn
Nhất” thì niệm Vô Minh sinh ra Pháp Trần tịch diệt. Khi đó tất cả Pháp Trần
đều niệm Phật niệm Pháp niệm Tăng, không còn là niệm Vô Minh mà là cái
niệm Chân Như của Tự Tánh, nơi đó Phật cũng Phi, Pháp cũng Phi mà tăng
cũng Phi… là cái Không rốt ráo vi diệu, là cái Đại Thủ Ấn! Khi đó mọi
sự hiện hữu bình thường đều là Đạo: núi sông là núi sông, khói non Lô là
khói non Lô, sóng Chiết Giang là sóng Chiết Giang…là cái nhìn với “Tri
Kiến Phật” hay “Pháp nhĩ Như Thị”.
25-Lúc đầu, Nghiệp Lực của con như dòng sông đổ vào
thung lung dốc;
Rồi nhẹ nhàng lang thang như khúc giữa của sông Hằng;
Và cuối cùng, như dòng sông trở thành một với đại dương,
Nơi bất nhị, mẹ và con là một.
Cũng như Thiền Tông ngộ nhập cái Không, khi ngộ nhập Đại Thủ
Ấn, tức là đắc Đạo và khi đó Nghiệp Chướng không còn, đạt Niết Bàn Vô
Sanh. Cũng như Chiêm Bao khi “thức dậy”, tất cả Nghiệp Chướng dù có
nặng nề với vô số kiếp trong Địa Ngục A Tỳ trong thế giới Chiêm Bao đều
dứt sạch, không để lại dấu vết khi “thức dậy” mà hòa nhập với cái Thân Thật
là Pháp Thân, cái Không hay Đại Thủ Ấn ; nơi bất nhị, mẹ và con là
một !
KIẾN GIẢI CHỨNG ĐẠO CA: “VÔ TRỤ NIẾT BÀN VÀ MA HA BÁT NHÔ
________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________
Thiền Sư HUYỀN GIÁC--Trang | 228 --Kiến Giải: NGỘ THÂM
26-Nếu Tâm con u tối không thể thực hành lời dạy bảo này,
Hãy giữ hơi thở tự nhiên và tống ra nhựa sống của nhận thức,
Hãy tập nhìn chăm chú - phương pháp tu luyện nhất Tâm,
Hãy kiên trì kỷ luật đến khi hoàn toàn an trú trong tỉnh thức.
Nếu những ai Tâm còn u tối không thể thực hành lời dạy bảo này. Tổ
TILOPA còn có phương pháp tu luyện nhất Tâm là tập nhìn chăm chú để xóa
tan vọng thức hay vọng tưởng, giữ hơi thở tự nhiên không cột niệm, kiên trì
kỷ luật đến khi hoàn toàn an trú trong tỉnh thức.
27-Khi thực hành, thì tính giác của đại lạc và không tính sẽ thức dậy:
Được hợp nhất trong ơn phước của tuệ giác và phương tiện,
Sẽ từ từ chảy xuống, dừng lại rồi ngược về Tâm Bồ Đề,
Nối kết với cội nguồn, rồi lan tỏa khắp châu thân.
Nếu con không còn tham ái và bám chấp thì tính giác sẽ khơi dậy.
28-Con sẽ trường thọ và trẻ mãi như mặt trăng tròn đầy,
Luôn rạng rỡ và trong sáng, năng lực như sư tử,
Con sẽ mau thành tựu sức mạnh trần gian và đại giác ngộ.
Nguyện cho lời chỉ dạy cốt tủy này về Đại Thủ Ấn
Sẽ tồn tại mãi mãi trong tim những chúng sinh may mắn.
Thực hành phương pháp tu luyện nhất Tâm bằng cách tập nhìn chăm
chú và kiên trì kỷ luật cho đến khi hoàn toàn an trú trong tỉnh thức. Khi đó
vọng tưởng không còn thì tính giác của đại lạc và không tính sẽ thức dậy hợp
nhất trong “Định” sinh tuệ giác và phương tiện, sẽ từ từ chảy xuống dừng lại
rồi ngược về Tâm Bồ Đề , tại nơi đây tức Tâm là Phật nối kết với cội nguồn
Phật Tánh rồi lan tỏa khắp châu thân khắp cả sáu căn, cả sáu căn là Tâm Bổ
Đề, là sáu Ban Thần Dụng… Khi đó Phật Tánh hiển bày, thành tựu sức mạnh
trần gian và đại giác ngộ, hòa nhập với tất cả Pháp Giới bình đẳng là cái Như
cái Một hay Chơn Nhất, trở về cái trong suốt rỗng rang trùm khắp như Hư
Không, tức là Đại Thủ Ấn chẳng khác với Thiền Tông!
Tóm lại, Đại Thủ Ấn mà Sơ Tổ TILOPA “mật truyền” cho Nhị Tổ
NAROPA chẳng khác gì lời khai thị của Đức Phật Thích Ca: “Tâm là tông
chỉ, cửa Không là cửa Pháp” hay của Sơ Tổ Bồ Đề Đạt Ma: “Giáo ngoại biệt
truyền, bất lập văn tự, trực chỉ nhân Tâm, kiến Tánh thành Phật”. Khi
“Tâm tự nhìn thấu Tâm”, chuỗi lan man và dòng ý niệm chấm dứt… là lúc
Đại Ngộ theo cách của Tổ TILOPA thì chẳng khác với cái gọi là “trực chỉ
nhân Tâm” của Tổ Đạt Ma, Tâm tự “Vô Tâm” của Thiền Sư Hoàng Bá, cái
KIẾN GIẢI CHỨNG ĐẠO CA: “VÔ TRỤ NIẾT BÀN VÀ MA HA BÁT NHÔ
________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________
Thiền Sư HUYỀN GIÁC--Trang | 229 --Kiến Giải: NGỘ THÂM
lưỡi kiếm “Vô” của Triệu Châu, cái cửa “Vô Vi” của Thiền Sư Huyền Giác
hay cửa “Vô Niệm” của Lục Tổ Huệ Năng… Con đường Giải Thoát đó chẳng
khác với con đường của Đức Phật Thích Ca đã dạy là con đường “vô đường”,
tức là cái Không trùm khắp, ở ngay trước mặt, nơi nào cũng có; Pháp mà “vô
pháp” không chấp dính pháp trần; hành mà “vô hành” vô tác, tự nhiên như
nhiên, không đam mê tạo tác, mà vẫn an định nơi cái Không rỗng suốt; thiền
mà “vô thiền” vô sở đắc với Tâm tĩnh tịch lặng yên… Nếu không thực hiện
được những điều này, Tổ TILOPA cũng có phương pháp thực hành tu luyện
nhất Tâm cho đến khi hoàn toàn an trú trong tỉnh thức và khi đó Tánh Giác
của đại lạc và Không Tánh sẽ thức dậy… chẳng khác với Thiền Tông !
Như vậy thì đâu đâu cũng là Như, cái Một hay Chơn Nhất. Đâu đâu
cũng là Cực Lạc, Bát Nhã hay Niết Bàn. Đâu đâu cũng là Phật, Tánh, Phật
Tánh, Tự Tánh Di Đà, Pháp Thân, Như Lai hay là Đại Thủ Ấn …Do đó nên
xóa bỏ ranh giới giữa Tịnh Độ, Thiền Tông, Mật Tông; xóa bỏ cái danh từ
Tịnh Độ, Thiền Tông hay Mật Tông…mà duy nhất chỉ là cái Đạo Giác Ngộ
không phải chỉ của Phật Thích Ca, Phật A-Di-Đà mà của Vô Lượng Phật khắp
mười phương. Nói ngắn gọn là cái Đạo Giác Ngộ của Phật. Nhưng chữ Phật
đã có nghĩa là người Giác Ngộ, do đó nên bỏ luôn chữ Phật hay Đạo Phật, chỉ
gọi là “Đạo Giác Ngộ” hay “Đạo Giải Thoát”. Như vậy tất cả chúng sanh
không phân biệt Tôn Giáo cùng có chung một mục đích “Giác Ngộ” là chấm
dứt phiền não, thoát khỏi vòng sinh tử luân hồi trở về Căn Nhà Xưa là Căn
Nhà “Ma Ha Bát Nhã Ba La Mật Đa” hay Niết Bàn Cực Lạc hay la Đại Thủ
Ấn … đều có thể tham cứu “Đạo Giác Ngộ” để tìm Chân Lý Giải Thoát và
đạt được Giác Ngộ Giải Thoát!
Còn việc cố chấp tranh cải về thời Mạt Pháp hay Chánh Pháp thì ngay
thời Lục Tổ Huệ Năng và Thiền Sư Huyền Giác đã là thời Mạt Pháp, nhưng
vẫn có vô số người Ngộ Đạo: “Hậu nhân đắc Đạo hà cùng số”. Thế gian
biện luận rằng: Thời Mạt Pháp chỉ có thể phải nương tựa vào “Tha Lực” bên
ngoài, không nên Tu Thiền hay Tự Tu Chứng dù là với Chánh Pháp của Phật
Thích Ca. Khi đó Thiền Sư Huyền Giác khuyên hành giả:
“Giả sử thiết luân đỉnh thượng triền
Định huệ viên minh chung bất thất
Nhật khả lãnh nguyệt khả nhiệt
Chúng ma bất năng hoại chân thuyết
Tượng giá tranh vanh mạn tiến đồ
Thùy kiến đường lang năng cự triệt?”
KIẾN GIẢI CHỨNG ĐẠO CA: “VÔ TRỤ NIẾT BÀN VÀ MA HA BÁT NHÔ
________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________
Thiền Sư HUYỀN GIÁC--Trang | 230 --Kiến Giải: NGỘ THÂM
(Ví phỏng thiết luân trên đầu chuyển
Định huệ sáng tròn luôn chẳng biến
Nguyệt dầu thành lửa, nhật thành băng
Ma nào phá được chân thuyết hiện?
Xe voi dốc ngược vững đường lên
Sức mấy bọ trời ngăn bước tiến?).
Đạo Lý của Đức Phật và những lời khai thị của Tổ và Thiền Sư lắm
lúc quá cao siêu khó hiểu. Tuy nhiên Phật, Tổ và Thiền Sư có giảng giải rõ
ràng và hành giả cũng phải quán chiếu, tư duy thì trí tuệ mới phát triển được
(Văn Tư Tu). Thời xa xưa đã có biết bao nhiều người Ngộ Đạo cũng nhờ cái
siêu việt khó hiểu này, nếu quá dễ Con Người sẽ sinh lười biếng suy nghĩ và
Bộ Óc loài người với Bộ Gene thông minh sẽ suy thoái trong những thế hệ
mai sau… Nhà Toán Học Pascal có câu nói: “Con Người là Cây Sậy biết suy
nghĩ”. Tuy Con Người rất yếu đuối như Cây Sậy, thể lực thua xa các loài dã
thú như voi, cọp, beo, gấu… thế mà Cây Sậy yếu đuối kia lại làm Chúa Tể cả
sơn lâm và thống trị luôn Quả Địa Cầu vượt hết tất cả loài cầm thú khác dù có
sức mạnh hơn con người. Khi một đứa trẻ mới ra đời, nó còn rất ngây ngô
chưa hiểu biết điều gì. Phải tập đi, tập nói rồi học hành. Nhưng vài chục năm
sau nó sẽ “đi đôi giày bảy dặm”, trở thành một chuyên gia lỗi lạc, một chính
khách lưu loát, một nhà Khoa Học đại tài… Chẳng lẽ nó cứ phải tập đi mãi và
học đánh vần ABC suốt cuộc đời! Trường học cũng như trường đời hay
trường Đạo phải có ngày lên lớp và thi đậu thành nhân, thành quả. Lúc đầu thì
học cái dễ, từ từ lên cao, không đứng yên một chỗ. Nguyên lý của vũ trụ là
“Dịch” tức là di chuyển, hướng về cái khó, cái lạ, cái bí mật để khám phá vũ
trụ cũng như đời sống Tâm Linh. Đạo của Đức Phật Thích Ca đi bằng đôi
chân vững chắc: Trí Tuệ và Từ Bi luôn luôn thích ứng với mọi thời đại. Đôi
chân này còn siêu việt hơn đôi giày bảy dặm của Thế Gian, nó sẽ phóng cao
lên giữa Hư Không, nhảy qua khỏi “đầu sào trăm trượng”, vượt qua “cửa
Vô Vi”, nhập vào cái “Không” giẫm nát cả ba ngàn thế giới, không phải chỉ
mãi mê trong Vô Minh lo làm ông chủ nhất thời sắp khánh tận với biết bao
nhiêu nợ nần nghiệp chướng, càng lo làm ăn lại càng thua lỗ (ý nói lo làm giàu
bất chánh, sát hại chúng sanh, nói dối lừa đảo… tuy có nhiều tiền của giàu
sang, nhưng lại thua lỗ là khi chết không mang theo được, chỉ mang cái nợ là
cái Nghiệp ác đã tạo tác đi vào ba đường ác là Địa Ngục, Ngạ Quỹ, Súc Sanh)
trên cái cõi Ta Bà đầy “ngũ trược” chịu bao phiền não: sinh, lão, bệnh, tử
trong cái cảnh luân hồi bất đắc dĩ này! Là Phật Con với hạt giống Phật Tánh
sẵn có thì phải noi gương Phật, Tổ và Thiền Sư Ngộ Đạo, phải là Sư Tử, là
Voi lớn, không theo dấu chân Thỏ như lời khuyên của Thiền Sư Huyền Giác:
KIẾN GIẢI CHỨNG ĐẠO CA: “VÔ TRỤ NIẾT BÀN VÀ MA HA BÁT NHÔ
________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________
Thiền Sư HUYỀN GIÁC--Trang | 231 --Kiến Giải: NGỘ THÂM
“Đại Tượng bất du ư Thố kính
Đại Ngộ bất câu ư tiểu tiết
Mạc tương quản kiến báng thương thương
Vị liễu, ngô kim vị Quân quyết”.
(Voi lớn đâu thèm đi lối thỏ
Ngộ lớn sá gì chút tiết nhỏ
Đừng nhìn trong ống biếm trời xanh
Chưa tỏ, vì anh ta mở rõ).
Tóm lại, việc thứ nhất : có Đức Phật truyền trao Tấm Bản Đồ chỉ
đường chính xác để trở về căn nhà xưa: Căn nhà Ma Ha Bát Nhã Ba La Mật
Đa. Việc thứ hai : có Thiền Sư chỉ đường tắt trên Tấm Bản Đồ đi tới ngay
Cửa Vào, lắm lúc các Ngài còn trao tận tay “chìa khóa” để mở cửa, nhưng
nếu không có chìa khóa thì hành giả phải tự phá nát cửa mà vào! Việc thứ ba:
là tự hành giả phải LÊN ĐƯỜNG : độc hành độc bộ mà đi và với Chánh Pháp
tức là với “Tấm Bản Đồ Bát Nhã” và cái “Bí Quyết” của Thiền Sư để vào
Cửa, hành giả có niềm tin vững chắc, đó là Chánh Tín và niềm tin này là “Mẹ
đẻ của Chư Phật”. Chư Phật cũng nhờ niềm tin này mà đạt Đạo. Hành giả
được xem là đã “Thấy Đạo”. Bây giờ mới bắt đầu phải Tu Đạo, vì có “Thấy
Đạo” mới Tu Đạo như Thiền Sư Bổn Tịnh dặn dò:
“Thấy Đạo mới Tu Đạo
Chẳng thấy lấy gì Tu
Tánh Đạo như Hư Không
Hư Không Tu chỗ nào?”.
Cái Tu Đạo này là ở Tâm, là phải đạt đến “Tâm không” cùng tần số
với Tánh để nhập vào Tánh như Tổ Bồ Đề Đạt Ma đã khai thị: “Trực chỉ
nhân Tâm kiến Tánh thành Phật”. Như vậy Đường Đi đã Rõ bước, Cửa
Vào cũng đã thông, chỉ còn có cái Tâm “Đa Sự” nên chưa lọt vào Cửa được,
bởi vậy giai đoạn này là phải “TU TÂM” để nhập TÁNH. Chừng nào đạt tới
cái Tâm không, Tâm thấu suốt Tâm, không còn “Bảy Sóng”, không có một
vật lẳng lặng như Gương thì cánh “Cửa Rõ Vô Vi” từ từ mở ra ngộ nhập Vô
Vi ( Mặt Trăng Thứ Hai), ngay đó nhảy thẳng vào Tánh, sấn ngược lên tới
“đỉnh Tuyết Sơn” cũng là cái KHÔNG hay cái Ma Ha Bát Nhã Ba La Mật
Đa, du hí Tam Muội hay Niết Bàn vô trụ.
“Tứ sơn thiên bích vạn thanh tùng
Liễu đắc đô lô nhất thiết không
Hỷ đắc lư nhi tam cước tại
Mạch kỵ đã sấn tận cao phong”.
KIẾN GIẢI CHỨNG ĐẠO CA: “VÔ TRỤ NIẾT BÀN VÀ MA HA BÁT NHÔ
________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________
Thiền Sư HUYỀN GIÁC--Trang | 232 --Kiến Giải: NGỘ THÂM
(Bốn núi ngàn tường muôn bụi rặm
Hiểu ra mới biết thảy đều không
Mừng nay có được lừa ba cẳng
Sấn ngược đường lên đỉnh tận cùng).
(Tuệ Trung Thượng Sĩ).
Vậy thì hãy ‘‘LÊN ĐƯỜNG’’ với tấm bản đồ : Ma Ha Bát Nhã Ba
La Mật Đa của Chư Phật, Tổ và Thiền Sư Ngộ Đạo. ‘‘LÊN ĐƯỜNG’’ học
cái “Bí Quyết” (cái Tuyệt Cùng, cái Vô Vi) chỉ con đường tắt, đọc được Tấm
Bản Đồ, phăng tìm ngay tận đầu nguồn, tận gốc ‘‘Cửa Vào’’ căn nhà Bát
Nhã mà các Ngài đã để lại trong Tàng Kinh, luận thuyết hay thơ kệ vô giá !
‘‘Độc hành độc bộ” mà đi phăng theo ‘‘dấu vết’’ của các Ngài, nếu cần thì
phải ‘‘học đồ’’ theo từng ‘‘dấu chân’’ và ‘‘nét kiếm’’ của các Ngài và phải
tư duy quán chiếu thật kỹ để khỏi bị lầm lạc, đạt tới niềm tin ‘‘Chánh
Tín’’. ‘‘LÊN ĐƯỜNG’’ với cái‘‘Tâm không’’ không chấp dính với lục
trần, cái Tâm‘‘Vô Niệm’’của Lục Tổ Huệ Năng, cái Tâm‘‘Vô Tâm’’của
Thiền Sư Hoàng Bá, hay cái Tâm‘‘Vô’’của Thiền Sư Đức Sơn, cái Tâm ‘‘Phi
Tâm’’vô ngã chủ , phi Phật, phi Thánh, phi phàm, phi vật : thuần đức, thiêng
liêng, tinh khiết....Tiếp tục mồi Ánh Lửa Bát Nhã mà chính tay Đức Phật
Thích Ca trao truyền cho Tổ Đại Ca Diếp ở Pháp Hội Linh Sơn, rồi truyền qua
28 đời Tổ Sư Tây Thiên vào Trung Quốc với Sơ Tổ Bồ Đề Đạt Ma cho tới
Lục Tổ Huệ Năng , Thiền Sư Huyền Giác …và vô số các Vị Thiền Sư Triều
Tiên, Nhật Bản, Việt Nam….
Nhìn theo gót chân các bậc Tiền Nhân, ‘‘LÊN ĐƯỜNG’’ đi tìm
Chân Lý Giải Thoát không nhất thiết phải là xuất gia hay tại gia, tuy xuất gia
thì có điều kiện lợi hơn. Vào trong nhà chùa, trong tu viện, nhưng nếu nhà
chùa hay tu viện bị biến chất, không có Đạo Giải Thoát thì đi du phương tìm
Đạo nơi các Tòng Lâm. Hoặc tự một mình vào rừng sâu tham cứu Đạo Lý
dưới Gốc Cây Bồ Đề như Đức Phật Thích Ca, hoặc cất am tranh nơi rừng
hoang núi vắng như Thiền Sư Diệu Phổ, hoặc ở tại gia như gia đình Bằng
Long Uẩn, Tuệ Trung Thượng Sĩ, hoặc đi tham vấn các Thiền Sư như Thi sĩ
Tô Đông Pha, hoặc ngay cả đang còn làm việc tại quan trường như Triệu
Biện. Điều Quan trọng là phải biết “Buông Bỏ” hoặc ít ra phải xem nhẹ việc
đời, không để cho Thế Gian Pháp trói buộc: “Vô Tâm nơi Sự, vô Sự nơi
Tâm”.
“Cũng vì ham muốn phải long đong,
Ném quách mà ra khỏi bụi hồng.
Buông thỏng hai tay lên Phật Tổ,
Một lần phủi giũ , một lần xong”.
(Tuệ Trung Thượng Sĩ).
KIẾN GIẢI CHỨNG ĐẠO CA: “VÔ TRỤ NIẾT BÀN VÀ MA HA BÁT NHÔ
________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________
Thiền Sư HUYỀN GIÁC--Trang | 233 --Kiến Giải: NGỘ THÂM
*Đối với Phật Tử hay Cư Sĩ tại gia, có thể mượn hai câu thơ trong
bài thơ “Nhàn” của Thi Sĩ Nguyễn Công Trứ làm cách sống Đạo :
“Thị tại môn tiền náo
Nguyệt lai môn hạ nhàn”
Nghĩa là trước cửa nhà là cái chợ đầy ồn náo bon chen thị phi danh lợi
của Thế Gian, cửa sau nhà là Mặt Trăng thanh tịnh có thể hưởng nhàn hoặc xa
lánh thế tục bụi trần hay hướng về Mặt Trăng thanh tịnh mà Tu Tâm dưỡng
Tánh. Có thể sống Đạo với Ánh Trăng như thả lỏng sáu căn “nhàn khán”
nhìn Trăng và Hư Không hoặc tư duy quán tưởng ngồi thiền thường xuyên
dưới Ánh Trăng… cơ hội gặp một nhân duyên lớn hay có đủ nhân duyên như
trái cây đã chín chỉ gặp một cơn gió thoảng nhẹ là có thể chín rụng tự nhiên
trên mặt đất, khi đó có thể thấy sao Mai mọc như Đức Phật Thích Ca đã từng
thấy, và cũng khi đó cả Thân Tâm cùng hòa với “Mặt Trăng” thật làm Một !
Tu tại gia cũng là một điều tốt, cũng có đủ Kinh Điển sách vở, băng cassette,
video, đĩa dvd…Ngồi tại nhà có thể nghiên cứu Kinh Điển hoặc nghe Phật
Pháp đủ loại với máy vi tính (nếu cần), bằng không chỉ cần một vài quyển
Kinh liễu nghĩa là đủ ! Tại nhà cũng có thể tụng kinh niệm Phật, ngồi Thiền,
tư duy quán chiếu… Tại nhà cũng như ở chùa hay nơi rừng sâu núi vắng cũng
đều có cái Không trùm khắp và cái Không này là ngôi Tam Bảo rốt ráo có đủ
Phật Pháp Tăng : Phật mà phi Phật, Pháp mà phi Pháp, Tăng mà phi Tăng, cả
Phật Pháp Tăng đều là Không…Đối với chùa chiền, tu viện, thiền viện, nếu có
Vị chân tu trụ trì hay bất cứ Vị Tăng hay Ni nào mặc dù chưa ngộ Đạo nhưng
có Đạo cao Đức trọng, có Đức Hạnh, biết giữ gìn giới luật Nhà Phật…thì nên
lui tới học hỏi hay tu tập, vì những nơi này có đủ ngôi Tam Bảo: Phật Pháp
Tăng đúng nghĩa rất quý và đáng trân trọng có thể làm nơi nương tựa ! Còn
nếu Vị trụ trì không phải là chân tu, chỉ là thầy cúng thông thường, không có
Đạo Pháp, dính mắc nhiều Pháp Trần, thích chùa to nặng hình thức vật chất,
phung phí nhiều tiền bạc của Bá Tánh, kinh doanh thương mại… thì không
nên đến. Hoặc có những Vị thuyết giảng rất hay nhưng lại nhiều vọng ngữ
ngụy ngôn ngã mạn, Sáu Căn không thanh tịnh, không có Đức Hạnh, tiền bạc
tài vật mờ ám, liên hệ nam nữ không rõ ràng, không giữ giới luật nhà
Phật…thì cũng không nên đến, chỉ làm mất thời gian vô ích mà còn tạo thêm
Nghiệp xấu ! Nếu chùa chiền, tu viện, thiền viện bị biến chất không có Đạo
Giải Thoát, thì Phật Tử hay Cư Sĩ tại gia vẫn rộng đường tu : ở tại nhà, hoặc
cất am tranh một nơi thanh tịnh và theo lời khuyên của Tổ Bồ Đề Đạt Ma: lấy
Thân làm ngôi Chùa, nơi thanh tịnh địa, xa lìa Tam Độc, tịnh Sáu Căn, Thân
Tâm vắng lặng như Hư Không. Cũng không cần phải đúc vàng, tạc ngọc làm
Tượng Phật, mà phỏng theo Chân Dung diệu tướng của Như Lai : lấy Thân
làm Lò Đúc, lấy Pháp làm Lửa, lấy Trí Tuệ làm Tay Thợ Khéo, lấy Ba Giới
Tụ Tịnh - Sáu Ba La Mật làm Khuôn Đúc, nấu chảy và rèn đúc chất Chân
KIẾN GIẢI CHỨNG ĐẠO CA: “VÔ TRỤ NIẾT BÀN VÀ MA HA BÁT NHÔ
________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________
Thiền Sư HUYỀN GIÁC--Trang | 234 --Kiến Giải: NGỘ THÂM
Như Phật Tánh ở trong Thân thành hình tượng của Chân Dung, là Pháp
Thân thường trụ vi diệu. Trong khi dụng Thân làm ngôi Chùa, nơi thanh tịnh
địa có đủ ngôi Tam Bảo : Phật Pháp Tăng đều Như hay là cái Không trùm
khắp, cũng như trong khi dụng Thân làm Lò Đúc chất Chân Như Diệu Tánh
của Như Lai, thì có thể cái cửa Vô Vi chợt xuất hiện hay từ từ mở ra là cái
“riêng sáng hiện bày rõ ràng” (cách nói của Thiền Sư Lâm Tế), nó ở trong
Thân, ở ngoài Thân bao trùm khắp cả Pháp Giới ! Có thể tạm gọi đây là cái
Rõ. Thật ra nó có ba trạng thái : cái Rõ, cái Trong rồi tới cái Không mới là rốt
ráo. Nhưng cũng chẳng phải là ba, ba mà là một, nhưng một cũng là ba tùy
theo đứng trong Nghiệp hay là ở trong Tánh. Ngài Lâm Tế dặn dò rằng với cái
Rõ hay cái “riêng sáng hiện bày rõ ràng” này chỉ trong tất cả thời đừng cho
gián đoạn. Cái Rõ là Mặt Trăng Thứ Hai, còn bám trên Sự Vật và Hư Không.
Chừng nào cả Sự Vật và Hư Không sụp đổ, đều là Không : ‘‘Sắc tức thị
Không’’ thì Cái Rõ , Cái Trong, Cái Không tuy ba mà là một, đạt tới cái rốt
ráo là Không là cái mà Cư Sĩ Bàng Long Uẩn đã ngộ nhập và Ông luôn luôn
sống với cái Không, gửi cả thân tâm vào Không, trở thành một Đạo Nhân
“nhàn”, không còn lo ngại việc sinh tử ! (xem bài thơ vịnh cái Không của Cư
Sĩ Bàng Long Uẩn). Thật ra cái Rõ hay cái “riêng sáng hiện bày rõ
ràng” xuất hiện rồi lại mất là do hành giả chưa thật sự ngộ nhập vào cái Rõ
(hay cái Vô Vi) mà chỉ mới đứng ngoài cửa, gần sát với nó nên có thể cảm
nhận được nó. “Cái Sáng” bao gồm luôn “Cái Rõ” này ở trong Thân lẫn
ngoài Thân và trùm khắp, làm cho cả Thân Tâm an lạc lạ thường, Trí Tuệ sáng
suốt minh mẫn ! Tuy nhiên vẫn chưa phải là ngộ nhập, mà chỉ “đứng gần ở
ngoài cửa”. Nó có thể hiện diện trong nhiều giờ, nhiều ngày hay nhiều
tháng…nhưng rồi bỗng nhiên lại mất ! Tại sao mất ? Thiền Sư Lâm Tế chỉ rõ :
‘‘Chỉ vì tình sinh trí cách, tưởng dấy thể sai’’. Tức là vì còn bám víu vào
Pháp Trần tạo Nghiệp, chấp ngã hoặc cống cao ngã mạn, chưa đến nơi mà tự
cho là ngộ đạo, rồi từ bỏ giới luật, dan díu Pháp Trần nên Sáu Căn bị ô nhiễm,
không tiếp tục con đường tu để đạt đến chỗ rốt ráo, cho nên chẳng những mất
Đạo mất đi một đời tu mà còn có thể bị đọa vào ba đường ác ! Do đó phải tiếp
tục “Chăn Trâu” cho đến lúc “Trâu Đen” trở thành “Trâu Trắng” hoặc đến
được “Tào Khê ” mới thực sự là an toàn !
“Một mình giữ một con Trâu Đất
Xỏ mũi đem về chẳng ngớt chăn
Đem đến Tào Khê mà thả quách
Phăng phăng nước cuộn trái cầu lăn”.
(Tuệ Trung Thượng Sĩ).
Tóm lại, chỉ khi “ngộ nhập” được cái Rõ hay cái Vô Vi thì mới đạt
đến Vô Sanh mà không còn sợ bị Pháp Trần hay Vô Minh Nghiệp Chướng
làm ô nhiễm :
KIẾN GIẢI CHỨNG ĐẠO CA: “VÔ TRỤ NIẾT BÀN VÀ MA HA BÁT NHÔ
________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________
Thiền Sư HUYỀN GIÁC--Trang | 235 --Kiến Giải: NGỘ THÂM
“Minh minh thường tự tại,
Diệc niết mục tác quái.
Kiến quái bất kiến quái,
Kỳ quái tất tự hoại”.
(Rõ ràng thường tự tại
Cũng dụi mắt làm quái
Thấy quái chẳng thấy quái
Quái ấy ắt tự hoại).
Đường kiếm “Tuyệt học Vô Vi” của Thiền Sư Huyền Giác quả
thật lợi hại, chẳng kém lưỡi kiếm “Vô” sắc bén của Triệu Châu hay thanh
gươm “Vô niệm” thần kỳ của Lục Tổ Huệ Năng : múa Kiếm Thần xé nát Hư
Không, tịnh Sáu Căn phăng dấu Tổ tìm vết chân Phật, diệt Ngã Sở hòa cùng
Biển Lớn, soi Gương Tâm khơi lại đầu nguồn tới cửa Vô Vi. Ngay đây chém
đứt Vô Minh, nhảy thẳng vào đất Như Lai mở toang con mắt Huệ thấy Tánh !
Đây là con đường tắt mà Kiếm Khách giang hồ nơi nơi có thể “thao luyện”
với Lưỡi Gươm “Bát Nhã” linh diệu, nét Kiếm “Vô Vi” tuyệt vời mà Thiền
Sư Huyền Giác đã vẽ từng nét rõ ràng trong Chứng Đạo Ca :
“Tranh tự Vô Vi Thực Tướng môn,
Nhất siêu trực nhập Như Lai Địa”.
(Sao bằng tự cửa Vô Vi ấy,
Một nhảy thẳng liền đất Như Lai).
Trường hợp của Cư Sĩ Triệu Biện là khá đặc biệt, nhưng cũng từ cái
cửa Vô Vi ấy nhảy thẳng liền Đất Như Lai. Ông ngồi yên lặng suối lòng
không động như nước trong , tất cả Sáu Căn thanh tịnh là tận đầu nguồn Tâm
tới cửa Vô Vi . Tiếng sấm nổ cửa lòng chợt mở, tiếng sấm là chất xúc tác là cơ
duyên bên ngoài hỗ trợ làm cho cả Thân Tâm Ông nhảy qua khỏi cửa Vô Vi
trực nhập Đất Như Lai…Là Cư Sĩ nhưng thật ra còn dính với đời khá nhiều.
Ông là một Đại Quan dưới triều Tống, là tục gia, đệ tử của Thiền Sư Tương
Sơn Pháp Tuyền. Nhân một hôm quan sự rảnh rỗi, ngồi nghỉ ngơi tại công
đường, bỗng nhiên khi nghe tiếng sấm nổ bên tai, tức thì hoát nhiên đại ngộ,
Ông liền làm bài kệ:
“Mặc tọa công đường hư ẩn kỷ,
Tâm nguyên bất động trạm như thủy
Nhất thanh tịnh lịch đỉnh môn khai,
Hoán khởi tùng tiền tự gia để ”.
(Ngồi lặng công đường luống tựa ghế,
Suối lòng không động như nước trong
Nghe sấm nổ cửa lòng chợt mở
Này, lão đang ngồi ở Quê Nhà).
KIẾN GIẢI CHỨNG ĐẠO CA: “VÔ TRỤ NIẾT BÀN VÀ MA HA BÁT NHÔ
________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________
Thiền Sư HUYỀN GIÁC--Trang | 236 --Kiến Giải: NGỘ THÂM
Đối với Triệu Biện, đã có Tâm Tìm Đạo từ trước. Ông là một vị quan
thanh liêm trọng Đạo Lý, có cái Tâm thuần đức, thanh khiết, lại có sẵn tấm
bản đồ Đạo Lý trong tay.Tuy làm quan lớn, nhưng danh vọng tiền tài không
buộc trói được Ông, làm việc chỉ vì lợi ích cho chúng sinh, chúng sinh đang
cần Ông, khó thay thế được. Mặc dù vậy, sự đời vẫn làm Ông bận rộn, là
những đám mây Vô Minh che tối “Hang Tâm” của Ông. Tuy nhiên, những
đám mây này đôi lúc cũng có “Khe Hở” và cũng lúc đó cả 6 căn của Thân
Tâm Ông đang nghỉ ngơi thả lỏng bất động như mặt nước trong, tiếng sấm nổ
bất chợt ngay lúc đó như một giọt nước tràn ly, làm cho cả Thân Tâm với 6
căn hổ dụng đồng loạt thức dậy một lượt, tạo một năng lượng siêu việt xuyên
qua “ Khe Hở” của tấm màn Vô Minh xé toạc bức màn này ngộ nhập Bát
Nhã. Cái “xé toạc” tấm màn Vô Minh nầy để ngộ nhập Bát Nhã cũng giống
như cái “vạch tét cửa mặt” nhận ra ngay cái che đậy Càn Khôn tức thì nắm
lấy, vượt khỏi cả căn và trần như Thiền Sư Quế Sâm khai thị :
“Tạt phá diện môn
Cái phú Càn Khôn
Quyết tu tiến thủ,
Thoát khước căn trần”. (Vạch tét cửa mặt,
Che đậy Càn Khôn.
Hẳn phải tiến lấy,
Vượt khỏi căn trần).
Thật ra Phật, Tổ và các Thiền Sư không có TU gì cả mà chỉ “ĐI
TÌM CHÂN LÝ” và tìm ngay Cái Gốc, ngay tận Đầu Nguồn chứ không tìm
nơi Ngọn:
“Thẳng tận đầu nguồn phăng dấu Phật
Chọn lá tìm cành ta chẳng đương”.
(Thiền Sư Huyền Giác).
Các Ngài thương chúng sanh để ở trên đầu, dặn dò cặn kẽ: Đạo ngay
trước mặt, không cần phải đi đâu xa, như Thiền Sư Sư Bị đã khai thị: “Tột 10
phương thế giới là một hòn Minh Châu, ngươi hội để làm gì?”. Ngài chỉ
thêm: “ Giống như người ngồi trong biển cả nước ngập lút đầu, còn đưa tay
hỏi người xin được nước uống”.
Đạo đang ở trùm khắp, nơi nào cũng có: “Mở mắt ra là thấy Đạt
Ma”. Ngay cõi TA BÀ đã là cõi Cực Lạc hay Niết Bàn, chính Đức Phật Thích
Ca đã chứng ngộ và thành Phật ngay cõi Ta Bà này, cũng như các vị Tổ và vô
số các vị Thiền Sư ngoại hạng…
“Biển sâu nước khỏa cũng bằng
Mây tan gió tịnh Bóng Trăng sáng lòa
KIẾN GIẢI CHỨNG ĐẠO CA: “VÔ TRỤ NIẾT BÀN VÀ MA HA BÁT NHÔ
________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________
Thiền Sư HUYỀN GIÁC--Trang | 237 --Kiến Giải: NGỘ THÂM
Cõi TA BÀ có tòa CỰC LẠC,
Dòng sông MÊ biển GIÁC chẳng xa
Y theo giáo pháp THÍCH CA
Tự nhiên BẢN TÁNH DI ĐÀ phóng quang”.
(Sám Thảo Lư).
Đạo Lớn đang ở trùm khắp cả Hư Không và ở ngay trên sự vật : từ
hạt bụi, từ nguyên tử cho đến vũ trụ bao la !!!
“Ba ngàn thế giới tay sờ đụng,
Mắt chẳng nhìn ra bởi Trí Mù”.
TRÍ MÙ bởi vì TÂM MÊ. TÂM MÊ là một cơn ĐẠI MỘNG có đủ
sáu ngã luân hồi .TÂM NGỘ là KHÔNG; là VÔ TRỤ NIẾT BÀN; là “MA
HA BÁT NHÃ BA LA MẬT ĐA”.
KIẾN GIẢI CHỨNG ĐẠO CA: “VÔ TRỤ NIẾT BÀN VÀ MA HA BÁT NHÔ
________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________
Thiền Sư HUYỀN GIÁC--Trang | 238 --Kiến Giải: NGỘ THÂM
ĐẠI MỘNG
Một điểm Viên Quang bỗng hóa Rồng
Âm dương mây khí nổi cuồng phong
Hư Không dậy sóng Càn Khôn xuất
Pháp Pháp tụ hình hiện núi sông
Lục đạo TÂM MÊ ngàn dặm chướng
Luân hồi ĐẠI BỆNH thế gian đồng
Mộng du chư tướng phô trò huyễn Chợt tỉnh về nhà SẮC tức KHÔNG.
(Ngộ Thâm).
KIẾN GIẢI CHỨNG ĐẠO CA: “VÔ TRỤ NIẾT BÀN VÀ MA HA BÁT NHÔ
________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________
Thiền Sư HUYỀN GIÁC--Trang | 239 --Kiến Giải: NGỘ THÂM
BỌT NƯỚC
Từ thuở Vô Minh đã có ta,
Mãi mê lãng tử phải xa nhà
Lắc lư Bọt Nước soi Trời Đất
Điên đảo thế đời, lạc cảnh Ma
Sinh tử chập chùng bao sóng gió
Tử sinh đưa đón mỗi sát na
Sắc Không Thân Bọt trôi tìm Bến
Chợt nhận Biển Nhà : Pháp Thân ta.
(Ngộ Thâm).
NGỘ THÂM
MICHIGAN , August 24th
, 2011.
KIẾN GIẢI CHỨNG ĐẠO CA: “VÔ TRỤ NIẾT BÀN VÀ MA HA BÁT NHÔ
________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________
Thiền Sư HUYỀN GIÁC--Trang | 240 --Kiến Giải: NGỘ THÂM
VÀI NÉT VỀ TÁC GIẢ
NGỘ THÂM
1. Tiểu Sử:
Ngộ Thâm là Pháp Danh của một Cư Sĩ Phật Tử ẩn danh quê ở Long An -
Việt Nam, sinh năm 1950. Ông sang Mỹ năm 1984, tốt nghiệp Đại Học Hoa
Kỳ năm 1991 ngành Điện Tử, trường University Of California Santa
Barbara (UCSB). Khi tìm hiểu và nghiên cứu về Vũ Trụ và Không Gian,
không thỏa mãn với những Tri Thức Khoa Học hiện tại, Ông nhận thấy cánh
tay của Khoa Học quá ngắn, không thể vươn dài trùm khắp Không Gian và
Hư Không vô biên để nhìn thấu suốt cái Tướng Chân Thật của nó. Cảm
nhận rõ ràng Nguồn Gốc của Vũ Trụ không phải chỉ dừng lại ở cái Dị Điểm
Big Bang (singular point) mà phải vượt qua khỏi cái Dị Điểm này, tới cái tận
cùng là cái “Không” siêu việt vô hình tướng, Vật Chất cũng vậy, đầu nguồn
của Vật Chất cũng là cái “Không” siêu việt đó. Điều này lại trùng hợp với
cái Lý: “Sắc tức thị Không” của Đạo Phật. Từ đó Ông bắt đầu nghiên cứu,
học hỏi về Đạo Phật và “thỏa mãn” với cái Lý: “Sắc Không” của nhà Phật.
Nhân tiện trình bày cái Kiến Giải thô thiển của mình về Lý “Sắc Không” qua
bài thơ “Chứng Đạo Ca” của Thiền Sư Huyền Giác.
2. Tác Phẩm:
2.1- Kiến Giải CHỨNG ĐẠO CA
"VÔ TRỤ NIẾT BÀN & MA HA BÁT NHÃ". (02-08-2011).
2.2- Thơ Thiền NGỘ THÂM.
(23-02-2006).
3. Website: www.benkiabogiac.com(*)
Chú thích:
(*) Tất cả Tác Phẩm của Ngộ Thâm được giới thiệu trên Website riêng
của Ông. Tên Website www.benkiabogiac.com - "Bên Kia Bờ Giác"- được lấy từ tên của
một bài thơ dài nhất (188 câu) trong Tác Phẩm "Thơ Thiền NGỘ THÂM". Để tôn trọng
bản quyền Tác Giả, sở hữu trí tuệ - mọi sao chép, trích dẫn xin ghi rõ nguồn gốc lấy từ
www.benkiabogiac.com.Xin chân thành cám ơn và trân trọng giới thiệu cùng quý độc giả.
Trân Trọng,
Webmaster
www.benkiabogiac.com
KIẾN GIẢI CHỨNG ĐẠO CA: “VÔ TRỤ NIẾT BÀN VÀ MA HA BÁT NHÔ
________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________
Thiền Sư HUYỀN GIÁC--Trang | 241 --Kiến Giải: NGỘ THÂM
Mục Lục
Phần 1: Ma Ha Bát Nhã trong Chứng Đạo Ca
của Thiền Sư Huyền Giác-------------Trang 4
Phần 2: Tâm và Tánh--------------------------------------------Trang 26
Phần 3: Không Gian và Hư Không
Nguyên Tử và Vũ Trụ---------------------------Trang 68
Phần 4: Đạo Lý Giải Thoát-------------------------------------Trang 118
Phần 5: Lên Đường ----------------------------------------------Trang 156
Vài nét về Tác Giả NGỘ THÂM -------------------Trang 240
Mục Lục--------------------------------------------------Trang 241