74
1 NAMO SHAKYAMUNI BUDDHA Ă n một miếng không cần ă n, tức là chiếm đ oạt phần ă n đ ó của ng ư ời khác".

ăN một miếng không cần ăn, tức là chiếm đoạt phần ăn đó của người khác. trên tinh thần đó, người phật tử nên tránh và phê phán những

Embed Size (px)

DESCRIPTION

 

Citation preview

Page 1: ăN một miếng không cần ăn, tức là chiếm đoạt phần ăn đó của người khác. trên tinh thần đó, người phật tử nên tránh và phê phán những

1

NAMO SHAKYAMUNI

BUDDHAĂn một miếng không cần ăn, tức là chiếm đoạt phần ăn

đó của người khác".

Trên tinh thần đó, người Phật tử nên tránh và phê phán những cuộc ăn nhậu, tiệc tùng lãng phí, những bữa ăn

đáng lẽ để cho 20 người ăn, nhưng chỉ có ba, bốn người

Page 2: ăN một miếng không cần ăn, tức là chiếm đoạt phần ăn đó của người khác. trên tinh thần đó, người phật tử nên tránh và phê phán những

2

1

ăn mà thôi. Ðó là khoe khoang, đó là lãng phí, đó là thiếu lòng trắc ẩn đối với những người nghèo, người đói, ở trong nước cũng như trên thế giới. Chúng ta nên nhớ rằng, ăn một miếng không cần ăn, thì miếng ăn đó sẽ trở thành thuốc độc, đầu độc cơ thể, sinh ra lắm chứng bệnh. Ðó là loại bệnh của người ăn no : Ung Thư , Gan ,

Thận , Tim và bao nhiêu thứ bệnh khác nữa .

Sống biết đủ, bằng lòng với số tài sản của mình, có được nhờ lao động của bản thân, không nghĩ cách làm giàu thêm bằng những lối làm ăn lừa lọc, không chính đáng, phi đạo đức. Cần chú ý là, đạo Phật không phản đối làm giàu, nếu đấy là làm giàu chính đáng. Ðức Phật từng nói với ông Cấp Cô Ðộc rằng, người giàu có những niềm vui như là có được của cải, do lao động của mình

tạo ra, có được của cải để làm việc thiện, có của cải cho nên không phải nợ nần. Nhưng Ðức Phật kết luận là

những niềm vui đó, tuy chính đáng, nhưng vẫn thua xa niềm vui của một người sống thiện, không hề bị lương

tâm khiển trách. (Xem Tăng Chi IV 264 - 265)

Hình thức bố thí thứ ba là vô úy thí. Bảo vệ, che chở, an ủi những người bất hạnh, gặp nạn, thân cô, thế cô, đó

là vô úy thí, tức là bố thí sự không sợ hãi.

Trong sách Phật, còn nói tới một hình thức bố thí nữa, gọi là cung kính thí, tức là thái độ khiêm tốn, bày tỏ

lòng kính trọng đối với mọi người, dù là người kém tuổi mình, không có địa vị xã hội bằng mình. Thái độ kiêu căng ngạo mạn là một thái độ không thể chấp nhận được trong đạo Phật. Vì dưới con mắt đức Phật, mọi

chúng sanh đều có Phật tính, đều có khả năng thành Phật, cho nên đều bình đẳng. Hơn nữa, mình có kính

trọng người ta, thì người ta mới kính trọng mình. Ðó là thái độ có đi có lại trong cuộc sống, là quy luật tự

nhiên.

Ðức Phật lại khẳng định:

Page 3: ăN một miếng không cần ăn, tức là chiếm đoạt phần ăn đó của người khác. trên tinh thần đó, người phật tử nên tránh và phê phán những

3

2

"Này La Hầu La, đối với ai biết mà nói dối, không có xấu hổ, thời Ta nói rằng, người ấy không có việc gì ác mà

không làm. Do vậy, này La Hầu La, ta quyết không nói dối, dù là nói để mà chơi. Như vậy, này La Hầu La,

ngươi phải học tập"

Ðối với đạo Phật, nói dối tai hại trên nhiều mặt. Thứ nhất, nói dối ảnh hưởng tiêu cực đến sự ổn định xã hội.

Nói dối phá hoại sự ổn định đó. Con người chỉ có thể sống chung với nhau trong một bầu không khí tin cậy lẫn nhau, tin cậy rằng, trong giao tiếp, mọi người đều nói thật. Nếu mọi người đều nói dối, thì đó là dấu hiệu của xã hội giải thể và tan rã. Thứ hai, trên bình diện cá

nhân, nói dối có tác dụng tai hại là phản ứng dây chuyền. Nghĩa là, lời nói dối này kéo theo lời nói dối khác rồi một lời nói dối khác nữa, còn nghiêm trọng

hơn, cho tới khi bản thân mình cũng bị bao bọc bởi tấm màn dối trá do mình tạo ra. Một con người như thế ngày càng tách rời xa đích giải thoát và giác ngộ, ngày càng sa đọa vào vòng tội lỗi, khó gỡ ra được. Một người đã

sống không thật với người khác, và với bản thân mình, thì sẽ không bao giờ tìm tới sự thật, chứ đừng nói chứng

ngộ sự thật.

Trong Kinh "Giáo giới La Hầu La tại rừng Am Bà La" (Trung bộ Kinh II, trg 122), đức Phật để lại trong chậu

một ít nước và bảo La Hầu La rằng:

"Này La Hầu La, ngươi có thấy một ít nước còn lại trong chậu không?"

"Thưa có, bạch Thế Tôn."

"Cũng ít vậy, này La Hầu La là đức hạnh Sa môn của những người nào biết mà vẫn nói dối, nói dối mà không

có xấu hổ".

Rồi Ðức Phật hắt chút ít nước trong chậu đi, lật úp chậu lại rồi lật ngửa chậu ra và nói:

Page 4: ăN một miếng không cần ăn, tức là chiếm đoạt phần ăn đó của người khác. trên tinh thần đó, người phật tử nên tránh và phê phán những

4

3

"Này La Hầu La, người có thấy chậu nước này trống không hay không?".

"Thưa có, bạch Thế Tôn".

"Cũng trống không như vậy, này La Hầu La là hạnh Sa môn của người biết mà nói dối, không xấu hổ."

Rồi ở một đoạn sau của Kinh, Ðức Phật lại khẳng định:

"Này La Hầu La, đối với ai biết mà nói dối, không có xấu hổ, thời Ta nói rằng, người ấy không có việc gì ác mà

không làm. Do vậy, này La Hầu La, ta quyết không nói dối, dù là nói để mà chơi. Như vậy, này La Hầu La,

ngươi phải học tập"

Kính thưa quý vị!

Rất mong quý vị, về gia đình, cũng dậy dỗ con cháu mình như vậy, nghĩa là tuyệt đối không nói dối, dù là

nói để mà chơi. Hiện nay, người ta nói dối với nhau một cách quá dễ dàng. Trong nhà, người mẹ muốn dỗ con

nín, không khóc, cũng nói dối. Cha mẹ, muốn đi chơi với nhau một mình, không cho con đi theo cũng nói dối. Chủ nhà mời khách ăn cơm, cũng là mời để mời, chứ

không muốn mời. Khách tuy chưa ăn cơm ở nhà, nhưng để từ chối một lời mời không thật của chủ nhà cũng nói

dối: "Xin lỗi, tôi đã vô phép rồi".

Người ta gọi đó là nói dối theo phép lịch sự. Thế nhưng, thưa quý vị, phép lịch sự, theo đúng nghĩa của nó chính

là không nói dối. Nhất là cha mẹ đối với con cái còn nhỏ, lại càng không nên nói dối. Bởi vì, không nên coi thường trẻ con. Chúng nó biết hết. Một ngày, chính chúng nó sẽ nói dối lại với cha mẹ, với bạn bè, như chúng ta đã nói dối với chúng. Cho nên, thà để cho

chúng khóc cũng không sao. Khóc một chút cũng như tập thể thao, càng khỏe phổi.

Tất nhiên, có những trường hợp, chúng ta không thể nói sự thật được. Nhưng không nói sự thật được thì hãy im

Page 5: ăN một miếng không cần ăn, tức là chiếm đoạt phần ăn đó của người khác. trên tinh thần đó, người phật tử nên tránh và phê phán những

5

4

lặng, chứ đừng có nói dối. Nói dối cũng như ăn vặt, sẽ quen mồm và gây tác hại không nhỏ.

Người Phật tử không những không được nói dối, mà còn không được nói lời chia rẽ, gây hiện tượng mất đoàn

kết. Trái lại, người Phật tử bao giờ cũng nói lời hòa hợp, để đoàn kết lại những người vốn bị chia rẽ, và tăng

cường đoàn kết hơn nữa, đối với những người vốn đã hòa hợp.

Ðộng cơ xấu nói chia rẽ có thể là lòng hận thù, ganh tị đối với sự thành công của người khác, là tâm ác muốn gây đau khổ cho người mà mình không ưa, muốn cho những người khác xung đột nhau, mâu thuẫn nhau,

hiểu lầm nhau.

Khi lời nói xấu, nói chia rẽ đồng thời cũng là lời nói dối, thì hai tội nói dối và nói chia rẽ cộng lại tạo ra nghiệp

ác nghiêm trọng, có thể quyết định người phạm giới tái sinh vào cõi ác, cõi khổ.

Mặt tích cực của giới không nói chia rẽ là nói lời hòa hợp, xuất phát từ động cơ lòng từ, lòng bi. Theo sách Phật, người nói lời hòa hợp thường có nhiều bạn trung

thành với mình, ở đời này cũng như ở đời sau.

Người Phật tử, không những không nói dối, nói chia rẽ, mà cũng không được nói lời ác độc, khó nghe, làm đau lòng người khác. Kích bác người khác với lời chua cay, chửi rủa, mắng nhiếc người hay là chế nhạo người với lời thâm độc đều là những điều ác về lời nói, mà người Phật tử nhất định không phạm, dù là mình có bị trái ý, không bằng lòng. Trong mọi trường hợp, người Phật tử phải biết kiên nhẫn, lại biết thông cảm với những yếu

kém của người khác.

Người Phật tử biết nói đúng thời, đúng lúc, nói lời có ích, tránh nói nhảm nhí, nói lời vô nghĩa. Ðối với người xuất gia, đức Phật thường dặn là chỉ nên nói những lờiđúng sự thật, có lợi lạc đối với người nghe, những lời có liên hệ đến pháp và luật của đạo Phật, những lời hướng tới

Page 6: ăN một miếng không cần ăn, tức là chiếm đoạt phần ăn đó của người khác. trên tinh thần đó, người phật tử nên tránh và phê phán những

6

5

giác ngộ và giải thoát. Lời nói của vị tu sĩ phải có giá trị như là vàng bạc, châu báu đem tặng người nghe, mà lại

tặng đúng lúc, đúng thời.

Người Phật tử tại gia có học Phật, cũng nên tranh thủ nói với mọi người những lời nói có ích, có đạo lý, những

lời nói khiêm tốn, lịch sự, dễ nghe, dễ thấm vào lòng người. Người Phật tử có học Phật, cũng phải tranh thủ nói pháp, pháp thí dù là với một người, hai người cho

đến số đông người.

Tác hại của rượu thì ai cũng biết, nhưng ai cũng uống. Ngay ở nước ta cũng vậy. Uống rượu, uống bia trở thành một cái mốt, một thứ thời thượng, không thể

thiếu trong tất cả bữa tiệc nhỏ hay lớn, dù là tiệc gia đình.

Trên báo chí, tỷ lệ tai nạn giao thông, các vụ tội phạm do say rượu cũng tăng lên tới mức báo động. Thanh thiếu niên ở nước ta uống rượu và hút thuốc lá rất

nhiều, xem đó như là một dấu hiệu của tuổi lớn và lỗi đời.

Các cuộc thí nghiệm khoa học cho thấy, rượu làm nóng cơ thể, chứ không cung cấp được chất dinh dưỡng nào cho cơ thể. Phần lớn rượu hay bia uống vào đều bốc

thành hơi. Chúng ta đứng gần người uống rượu như bị hơi rượu phả vào mặt. Ðiều này chứng tỏ, rượu hay bia uống vào bị đốt cháy trong cơ thể rồi bốc thành hơi tỏa ra ngoài, không có lợi gì cho việc nuôi dưỡng và tái sinh

các tế bào.

Mặc dù rượu uống với liều lượng ít có khả năng kích thích thần kinh, và có thể dùng làm thuốc, thế nhưng

nếu uống nhiều, uống hằng ngày thì lợi bất cập hại, tuy rằng không uống đến mức độ say. Một tờ tạp chí Y học của Anh cho biết, người uống bia hằng ngày có nguy cơ bị ung thư đường ruột gấp 12 lần người không uống bia.

Phụ nữ có thai mà uống rượu, thì dễ bị đẻ non và đau

Page 7: ăN một miếng không cần ăn, tức là chiếm đoạt phần ăn đó của người khác. trên tinh thần đó, người phật tử nên tránh và phê phán những

7

6

màng óc. Uống rượu cũng gây tác hại đến tế bào óc, dù là đối với người lớn.

Vì tất cả những lý do trên, cho nên đạo Phật xem giới cấm rượu là một trong năm giới cơ bản.

Trong Kinh Thiện sanh (Sigalovadasutta), Phật tuyên bố nghiện rượu là một trong sáu nguyên nhân làm cho tan

cửa nát nhà.

Ðức Phật nói: "Này gia chủ, đam mê các loại rượu có sáu nguy hiểm. Tài sản bị tổn thất, hay gây tranh cãi, mắc nhiều bệnh tật, danh dự thương tổn, quần áo hở

hang để lộ âm tàng, trí lực bị tổn hại. Này Gia chủ, nghiện các loại rượu có sáu nguy hiểm như vậy" (Trường bộ kinh, Kinh Giáo thọ Thi Ca La Việt).

Trong Kinh Phật, có chuyện thanh niên nhà giàu Mahadhanasettin phung phí một số tài sản rất lớn trong việc rượu chè, đến nỗi khi về già phải ăn mày để kiếm sống qua bữa. Tệ nghiện rượu, say rượu là đầu mối của bao nhiêu thảm họa gia đình: vợ chồng cãi nhau, đánh nhau, con cái hư hỏng. Người say rượu không còn biết phải trái, có thể phạm đủ mọi tội ác, kể cả giết người.

Người Phật tử, ngay từ tuổi nhỏ, phải được giáo dục về sự cần thiết tự chăm lo sức khỏe của bản thân mình, và giữ gìn tâm hồn trong sách và lành mạnh, để kịp thời ứng phó với mọi biến thiên và cảnh ngộ bất trắc của cuộc sống. Người Phật tử cần nhận thức rõ phung phí sức khỏe, làm mê muội tinh thần bằng lối sống buông

thả và trác táng là một tội lỗi, nhiều khi phải trả giá đắt bằng cả cuộc đời của mình.

Có lần, Ðức Phật thuyết pháp cho ông Cấp Cô Ðộc (Anathapindika) về công đức của bố thí. Ðức Phật nói, bố thí, cúng dường, cho Ðức Phật và Tăng chúng thì có công đức rất lớn. Nhưng có công đức lớn hơn là xây một

Page 8: ăN một miếng không cần ăn, tức là chiếm đoạt phần ăn đó của người khác. trên tinh thần đó, người phật tử nên tránh và phê phán những

8

7

tu viện cho Tăng chúng. Có công đức lớn hơn xây dựng tu viện là thọ tam quy, quy Phật, Pháp, Tăng. Có công đức hơn thọ tam quy là giữ năm giới. Có công đức hơn giữ năm giới là giữ tâm niệm từ bi, dù chỉ là trong giây

phút. Nhưng có công đức hơn tất cả là quan sát sâu sắc đạo lý vô thường của sự vật". (Xem Tăng Chi IV trg 264

- 265)Trong đoạn văn trên, chúng tôi thấy rất rõ là Ðức Phật hết sức coi trọng việc tu tập lòng từ, lòng bi và giữ năm giới. Nếu làm như trong Kinh Từ bi, nếu cả đời chúng ta đi, đứng, nằm, ngồi, chúng ta cũng đều giữ một niệm từ bi, thật sự thương xót mọi người, mọi loài, thì công đức của chúng ta sẽ là vô lượng vô biên. Mà lòng từ, ở mức thấp nhất chính là không sát sinh, không giết hại, và

không khuyến khích giết hại.

Đức Phật nói: "Này, La Hầu La, nhà ngươi nghĩ thế nào? Mục đích của cái gương là gì?".

La Hầu La trả lời: "Bạch Thế Tôn, mục đích là để phản tỉnh"

"Cũng vậy, Đức Phật dạy: "Này La Hầu La, sau khi phản tỉnh nhiều lần, hãy hành thân nghiệp, sau khi phản tỉnh

nhiều lần, hãy hành khẩu nghiệp, sau khi phản tỉnh nhiều lần, hãy hành ý nghiệp".

Đạo đức trong nếp sống người Phật tử

Tỳ kheo Thích Minh Châu

Nhân ngày lễ Phật Đản năm nay, chúng tôi xin trình bày về đề tài: "Nếp sống Phật Giáo", một đề tài mà chính

Đức Bổn Thích Ca đã giảng thuyết nhiều lần, nhưng cụ thể và rõ ràng là trong các bài Kinh Đức Phật dạy người con trai của mình là La Hầu La , sau khi La Hầu La xuất gia. Những bài Kinh này đều có bản dịch trong Trung bộ

Kinh II, Kinh thứ 61 và 62 và trong Trung bộ Kinh III, kinh thứ 147.

Page 9: ăN một miếng không cần ăn, tức là chiếm đoạt phần ăn đó của người khác. trên tinh thần đó, người phật tử nên tránh và phê phán những

9

8

Kinh này đã được Vua A Dục, thế kỷ thứ tư trước Công nguyên khắc trên bia ký Bhàbrà, kêu gọi mọi người xuất

gia và tại gia Phật tử cần phải tụng đọc Kinh này.

Chúng ta không phải là con trai Đức Phật như La Hầu La, nhưng đều là người con tinh thần của Đức Phật.

Những lời chí tình và đầy trí tuê của Đức Phật. Những lời dạy chí tình và đầy trí tuệ của Đức Phật đối với La Hầu

La, cách đây gần ba ngàn năm tại Ấn Độ cũng là lời dạy đối với tất cả chúng ta, những con người Phật Việt Nam,

xuất gia cũng như tại gia, nam cũng như nữ, trẻ cũng như già.

Hôm nay, nhân ngày Đại Lễ Phật Đản trang trọng, chúng ta hãy cùng nhau suy ngẫm về những lời giáo huấn của Đức Phật về nếp sống đạo, nếp sống Phật

giáo.

Đức Phật nói: "Này, La Hầu La, nhà ngươi nghĩ thế nào? Mục đích của cái gương là gì?".

La Hầu La trả lời: "Bạch Thế Tôn, mục đích là để phản tỉnh"

"Cũng vậy, Đức Phật dạy: "Này La Hầu La, sau khi phản tỉnh nhiều lần, hãy hành thân nghiệp, sau khi phản tỉnh

nhiều lần, hãy hành khẩu nghiệp, sau khi phản tỉnh nhiều lần, hãy hành ý nghiệp".

Nếp sống đạo là nếp sống luôn luôn có phản tỉnh, không buông trôi, không phóng túng. Cái gương mà

Đức Phật nói không phải là cái gương soi mặt, mà là cái gương tâm hồn soi chiếu lại mọi ý nghĩ, lời nói và việc làm của mình có hợp hay không với nếp sống đạo; nếp

sống Phật giáo, tức là như lời Phật dạy La Hầu La, có hại hay không có hại đối với mình; đối với người, có lợi hay

không có lợi, đối với mình và đối với người, đem lại hạnh phúc hay là gây ra đau khổ bất hạnh cho mình và

cho người.

Page 10: ăN một miếng không cần ăn, tức là chiếm đoạt phần ăn đó của người khác. trên tinh thần đó, người phật tử nên tránh và phê phán những

10

9

Vì sao Đức Phật lại khuyên chúng ta phải phản tỉnh nhiều lần?

Đó là do quá trình diễn biến của nghiệp, có thể chia làm ba giai đoạn: giai đoạn một là giai đoạn dụng tâm, cũng gọi là tác ý. Thông thường, chúng ta gọi là ý muốn. Thí dụ hôm nay là ngày Lễ Phật Đản. Nhưng ngay từ ngày

hôm qua và trước nữa, có vị đã có ý muốn hôm nay đến chùa lễ Phật, nghe giảng, làm nhiều Phật sự và thiện sự khác. Nhưng cũng có những vị chắc chỉ là số rất ít nhân ngày Lễ Phật Đản lại muốn đi xem bói, xem toán, mong

được "vào cầu" một chuyến để phát tài, phát lộc.

Ngay trong giai đoạn ý muốn này, chúng ta cũng phải phản tỉnh, phải xét xem muốn như vậy là đúng hay

không đúng, hợp hay không hợp với nếp sống đạo, nếp sống Phật giáo, có lợi lạc cho mình và cho người hay không, đem lại hạnh phúc hay là gây ra đau khổ, cho

mình và cho người hay là cho cả hai.

Nếu trong giai đoạn ý muốn, quý vị phản tỉnh thấy vào ngày Lễ Phật đản mà đi xem bói xem toán là không

thích hợp, là nêu gương xấu mê tín dị đoan cho vợ con, họ hàng bè bạn và những người khác thì quý vị hãy kiên quyết từ bỏ ý muốn đó đi. Ngược lại, đối với ý

muốn đi chùa, lễ Phật, nghe thuyết giảng, làm nhiều Phật sự và thiện sự khác. Các vị phản tỉnh thấy ý muốn

đó là tốt đẹp, đem lại an lạc cho mình và cho người khác, hiện nay cũng như về sau, thì quý vị hãy cương

quyết thực hiện ý muốn đó, mà cũng chính vì tuyệt đại đa số các vị đã có ý muốn tốt đẹp đó, cho nên hôm nay

chúng tôi có duyên lành thuyết giảng trong một hội chúng đông đảo và hồ hởi như thế này.

Nếu mọi việc chúng ta làm, mọi lời chúng ta nói, mọi ý nghĩ của chúng ta đều được phản tỉnh xem xét cẩn thận

ngay từ trong giai đoạn ý muốn, như lời Đức Phật dạy La Hầu La, thì bao nhiêu sai lầm, tội ác và bất hạnh đã

không xảy ra trong thế giới đầy đau thương này.

Page 11: ăN một miếng không cần ăn, tức là chiếm đoạt phần ăn đó của người khác. trên tinh thần đó, người phật tử nên tránh và phê phán những

11

10

Đức Phật nói: "Này La Hầu La, nếu trong khi phản tỉnh ngươi biết "Thân nghiệp này ta muốn làm, thân nghiệp này cuả ta có thể đưa đến tự hại, có thể đưa đến hại người, có thể đưa đến cả hai, thời thân nghiệp này là bất thiện, đưa đến đau khổ. Một thân nghiệp như vậy, này La Hầu La, nhà ngươi nhất định chớ có làm. Này La Hầu La, nếu sau khi phản tỉnh, người biết: "Thân nghiệp này ta muốn làm, thân nghiệp này cuả ta không có thể đưa đến tự hại, không có thể đưa đến hại nguời, không có thể đưa đến hại cả hai, thời thân nghiệp này là thiện,

đưa đến an lạc, đem đến quả báo an lạc. Một thân nghiệp như vậy là thiện, này La Hầu La, nhà ngươi nên

làm".

Giai đoạn hai là giai đoạn một việc đã bắt đầu làm, đang làm. Ngay trong giai đoạn này, giai đoạn việc làm đang diễn biến, chúng ta vẫn tiếp tục phản tỉnh: việc này chúng ta đang làm hợp hay không hợp với nếp sống đạo, nếp sống Phật giáo, có gây thiệt hại cho mình, cho người khác, cho cả hai hay không, hay là

ngược lại, có đem an lạc cho mình, cho người khác, cho cả hai hay không? Nếu qua phản tỉnh, xét thấy là có hại cho mình, cho người, cho cả hai thì chúng ta hãy cương

quyết tiếp tục việc làm đó, dù có khó khăn cản trở.

Cũng như ngày hôm nay, quý vị hoan hỉ đến đây lễ Phật, nghe thuyết pháp, làm nhiều thiện sự và Phật sự, trong lòng quý vị cảm thấy an lạc, hạnh phúc, trí tuệ các vị tăng trưởng. Nếu quý vị xét thấy đáng như vậy

thì quý vị hãy yên tâm tiếp tục làm, trong ngày lễ Phật đản này cũng như trong các ngày lễ Phật khác, hay là

mỗi khi có điều kiện.

Trái lại, có những việc quý vị đang làm, đang tiến hành, nhưng trong quá trình làm, quý vị xét thấy không có lợi cho mình, cho người, không có lợi cho cả hai, thì dù ý

muốn ban đầu có tốt chăng nữa, quý vị cũng nên chấm dứt ngay công việc đó.

Page 12: ăN một miếng không cần ăn, tức là chiếm đoạt phần ăn đó của người khác. trên tinh thần đó, người phật tử nên tránh và phê phán những

12

11

Đức Phật dạy La Hầu La rằng: "Này La Hầu La, khi nhà ngươi đang làm một thân nghiệp, nhà ngươi cần phản tỉnh thân nghiệp ấy như sau: Thân nghiệp này ta đang làm, thân nghiệp này của ta đưa đến tự hại, đưa đến hại người, đưa đến hại cả hai, thời thân nghiệp này là

bất thiện, đưa đến đau khổ, đem đến quả báo đau khổ. Này La Hầu La, nếu trong khi phản tỉnh, nhà ngươi biết

thân nghiệp đang làm là bất thiện, như vậy thì nhà ngươi hãy từ bỏ một thân nghiệp như vậy. Nhưng nếu, này La Hầu La, trong khi phản tỉnh, nhà ngươi biết như

sau: thân nghiệp nay ta đang làm không đưa đến tự hại, không đưa đến hại người, không đưa đến hại cả

hai, thời thân nghiệp này là thiện, đưa đến an lạc, đem đến quả báo an lạc, thân nghiệp như vậy, này La Hầu

La, nhà ngươi cần phải tiếp tục làm."

Giai đoạn ba là giai đoạn khi một việc đã được làm xong. Chúng ta cũng cần phản tỉnh xem, việc mà chúng ta đã làm có hợp hay không hợp với nếp sống đạo, nếp sống Phật giáo, có gây thiệt hại hay không cho mình và

cho người, có gây thiệt hại hay không cho cả hai, có đem lại an lạc và hạnh phúc hay không cho mình và cho người khác hay là cho cả hai. Nếu phản tỉnh và

nhận thấy việc đã làm có gây thiệt hại cho mình và cho người khác hay là cho cả hai, thì chúng ta phải thành

thật ăn ăn hối lỗi, trung thực bộc lộ lỗi lầm với vị đạo sư hay là với những người bạn đồng tu, đồng đạo của

mình. Sau đó, hạ quyết tâm từ nay không làm lại một việc làm có hại như vậy nữa. Nhưng nếu, qua phản tỉnh,

nhận thấy việc mình đã làm là hợp với nếp sống đạo, nếp sống Phật giáo, đem lại hạnh phúc an lạc cho mình và cho ngưòi khác, hay cho cả hai, thì chúng ta thật sự hoan hỷ, sẵn sàng làm lại việc đó một lần nữa, nhiều lần nữa mỗi khi có điều kiện, vì hạnh phúc an lạc của

bản thân mình và của mọi người.

Chính Đức Phật cũng đã khuyến cáo La Hầu La nên làm như vậy, sau mỗi việc làm cuả mình: "Này La Hầu La,

sau khi nhà ngươi làm xong một thân nghiệp, nhà ngươi

Page 13: ăN một miếng không cần ăn, tức là chiếm đoạt phần ăn đó của người khác. trên tinh thần đó, người phật tử nên tránh và phê phán những

13

12

cần phải phản tỉnh thân nghiệp ấy như sau: "Thân nghiệp này ta đã làm, thân nghiệp này của ta đưa đến tự hại, đưa đến hại người khác, đưa đến hại cả hai, thời

thân nghiệp này là bất thiện, đưa đến đau khổ, đem đến quả báo đau khổ, nếu trong khi phản tỉnh, này La Hầu La, nhà ngươi biết như sau: Thân nghiệp này ta đã làm, đưa đến tự hại, đưa đến hại người, đưa đến hại cả hai, thời thân nghiệp này là bất thiện đưa đến đau khổ, đem đến quả báo đau khổ. Một thân nghiệp như vậy,

này La Hầu La, nhà ngươi cần phải thưa lên, cần phải tỏ lộ, cần phải trình bày trước các vị Đạo sư, hay trước các

vị đồng Phạm Hạnh có trí. Sau khi đã thưa lên, tỏ lộ, trình bày, cần phải phòng hộ trong tương lai".

"Lại nữa, nếu trong khi phản tỉnh, này La Hầu La, nhà ngươi biết như sau: Thân nghiệp này ta đã làm, không đưa đến tự hại, không đưa đến hại người, không đưa đến hại cả hai, thời thân nghiệp này là thiện, đưa đến

an lạc đem đến quả báo an lạc. Do vậy, này La Hầu La, nhà ngươi phải an trú trong niềm hoan hỷ, tự mình tu

học ngày đêm trong các thiện pháp".

Đối với mỗi việc làm của thân, tức là thân nghiệp, dù khi còn là ý muốn, hay là khi đang làm, hay là sau khi

đã làm xong, Đức Phật đều khuyên La Hầu La cũng như tất cả Phật tử chúng ta đều nên tỉnh táo xem xét, là

thiện hay là bất thiện, nếu là thiện, thì hãy tu học ngày đêm để tăng trưởng những việc làm thiện đó. Và nếu là

bất thiện thì cũng hãy cố gắng ngày đêm để dứt bỏ, đoạn trừ, đề phòng, ăn năn, hối lỗi, để cho những pháp

bất thiện đó không bao giờ còn tái phạm nữa.

Không những đối vói việc làm nơi thân, mà cả đối với lời nói, đối với mỗi ý nghĩ chớm nở trong tâm mình, Đức Phật cũng đều khuyên chúng ta phản tỉnh xem xét là thiện hay bất thiện. Nếu là thiện, thì học tập phát huy tăng trưởng lên, nếu là bất thiện, thì phấn đấu không

mệt mỏi để diệt trừ, xóa bỏ. Và chỉ sau nhiều lần phản tỉnh như vậy đối với việc làm, lời nói và ý nghĩ cuả

Page 14: ăN một miếng không cần ăn, tức là chiếm đoạt phần ăn đó của người khác. trên tinh thần đó, người phật tử nên tránh và phê phán những

14

13

mình, chúng ta mới có thể tiến dần tới chỗ tất cả ba nghiệp của chúng ta, thân nghiệp, khẩu nghiệp, ý

nghiệp dần dần được trong sạch sáng sủa, hoàn toàn hợp với nếp sống đạo, nếp sống Phật giáo. Chúng ta,

dần dần thực hiện theo đúng lời dạy của Đức Phật, như đã ghi trong Kinh Pháp Cú:

"Không làm mọi điều ác,

Thành tựu các hạnh lành,

Tâm giữ ý trong sạch,

Chính lời chư Phật dạy".

Tâm ý giữ trong sạch, phải là mối quan tâm thường xuyên và hàng đầu của mọi Phật tử chúng ta, xuất gia hay tại gia. Vì sao vậy? Thưa quý vị, đây là vì, thông

thường, người ta suy nghĩ trước rồi mới nói, mới làm, tất cả chúng ta đều tâm niệm câu kệ I của Kinh Pháp Cú:

"Ý dẫn đầu các Pháp,

Ý làm chủ, ý tạo,

Nếu với ý ô nhiễm,

Nói lên hay hành động,

Khổ não bước theo sau,

Như bánh xe vật kéo"

Nghĩa là: Tâm ý đã bất thiện, nhơ bẩn, đầy tham sân si, thì lời nói, hành động với tâm ý như vậy cũng sẽ bất thiện, nhơ bẩn, đầy tham sân si, và đem lại quả báo

đau khổ.

Trái lại, như Kinh Pháp Cú nói:

"Nếu với ý thanh tịnh,

Nói lên hay hành động,

An lạc bước theo sau,

Page 15: ăN một miếng không cần ăn, tức là chiếm đoạt phần ăn đó của người khác. trên tinh thần đó, người phật tử nên tránh và phê phán những

15

14

Như bóng không rời hình".

Nếp sống đạo, nếp sống Phật giáo, là nếp sống với tâm ý trong sạch. Đó cũng chính là nếp sống hạnh phúc.

Một niềm hạnh phúc mình tự tạo cho mình, đem lại cho mình chứ không phải người nào khác, dù là cha mẹ, bà con cũng không làm được. Đó chính là ý tứ cuả câu kệ

43 trong kinh Pháp Cú:

"Điều mẹ cha, bà con

Không có thể làm được,

Tám hướng chánh làm được,

Làm được tốt đẹp hơn!".

Tâm hướng chánh là tâm thiện, tâm lành, tâm trong sạch.

Trái lại, con ngưòi có tâm bất thiện cũng là người bất hạnh nhất trên đời, một nỗi bất hạnh còn lớn lao hơn, đáng sợ hơn là điều ác kẻ thú đem lại cho mình nữa.

Kinh Pháp Cú viết:

"Oan gia hại oan gia,

Kẻ thù hại kẻ thù,

Không bằng tâm hướng tà,

Gây ác cho tự thân".

Vì sao Kinh Pháp Cú lại nói như vậy? Đấy là vì tâm bất thiện là kẻ thù ở bên trong, kẻ thù làm hại ngấm ngầm,

cho nên cũng là kẻ thù đáng sợ hơn cả.

Có vị nêu câu hỏi: Làm sao giữ được cho tâm ý luôn luôn thiện lành trong sạch? Làm sao giữ cho tâm ý

không còn nghĩ ác, nghĩ bất thiện? Làm sao đừng có tham sân si, bớt tham sân si, mặc dù vẫn biết tham sân

si là sai trái, đau khổ?

Page 16: ăN một miếng không cần ăn, tức là chiếm đoạt phần ăn đó của người khác. trên tinh thần đó, người phật tử nên tránh và phê phán những

16

15

Đó là một câu hỏi rất chính đáng, Đức Phật đã từng nói: "Rối ren thay loài người!" (Kinh Kandakara, Trung bộ II Kinh 51) . Có người biết hút thuốc là có hại những vẫn

hút, biết uống rượu là có hại nhưng vẫn uống. Đó là sức mạnh cuả thói quen, một sức mạnh đáng sợ. Cũng như

một người đi mãi trong sương mai, thế nào áo cũng thấm sương. Muốn cho áo mình đươc khô, phải phơi phóng bao nhiêu ngày! Đối với tâm người cũng vậy.

Tâm người nghĩ ác hay nghĩ thiện cũng thành thói quen. Mà đã thành thói quen, nhất là thói quen xấu thì cũng

phải có công phu, mất thời gian mới trừ bỏ được.

Trước hết phải tự tạo cho mình một môi trường tốt với những môi trường tốt, những thiện trí thức, như sách Phật thường nói. Trong kinh Tiểu Kinh Mãn Nguyên

(Kinh Trung Bộ số 110), Đức Phật giới thiệu cho chúng ta rõ thế nào là nếp sống của một người bất thiện. Một người bất thiện, là một người đầy những tánh bất thiện, như không có lòng tin, không biết xấu hổ, không biết sợ hãi, nghe ít, biếng nhác, thất niệm, kém trí tuệ. Người bất tiện suy tư như người bất chánh, suy tư tự làm hại mình, suy tư làm hại người khác, suy tư làm hại cả hai. Người bất thiện nói năng như người bất chánh: Nói láo, nói hai lưỡi, nói lời độc ác, nói lời phù phiếm. Người bất thiện hành động như người bất chánh, sát sanh, lấy của không cho, tà hạnh trong các dục. Như vậy, với những định nghĩa trên chúng ta biết ngay thế nào là người bất thiện và giúp chúng ta tự tránh không trở thành người

bất thiện.

Phật tử thường xuyên đến đây Lễ Phật, nghe giảng kinh đọc sách Phâạt, cùng nhau nói chuyện đạo lý, làm các việc Phật sự và thiện sự, đó chính là tự tạo cho mình

một môi trường tốt bài trừ niệm ác, nẩy sinh niệm lành, niệm thiện. Một người làm thì khó, hay là mới bắt đầu làm thì khó. Nhưng nếu có tổ chức, nhiều người cùng làm và làm nhiều lần, thành quen, thành nếp thì công

việc khó khăn mấy cũng sẽ hoàn thành tốt đẹp.

Page 17: ăN một miếng không cần ăn, tức là chiếm đoạt phần ăn đó của người khác. trên tinh thần đó, người phật tử nên tránh và phê phán những

17

16

Có môi trường tốt rồi, có bạn bè tốt rồi, chúng ta còn phải nổ lực bản thân nữa.

Kinh An Trú Tầm (Kinh thứ 20, Trung Bộ Kinh 1), dạy chúng ta phương pháp nổ lực đúng đắn để nuôi dưỡng

niệm lành, loại trừ niệm ác. Kinh An Trú Tầm nói có năm biện pháp tất cả:

-- Biện pháp thứ nhất: là lấy niệm lành xua đuổi niệm ác. Thí dụ, lấy niệm từ bi xua đuổi niệm sân giận Đức

Phật dùng ví dụ người thợ mộc khéo, dùng một cái nêm hay (Ý nghĩ lành) đánh bật một cái nêm khác (ý nghĩ

ác).

-- Biện pháp thứ hai: Là ngẫm nghĩ về hậu quả tai hại của niệm ác sẽ dẫn tới tội ác và sự trừng phạt. Cũng như một người quan sát thấy mình đang đeo xung

quanh cổ một cái xác chó chết, sợ quá, liền vứt bỏ đi. Cũng như hiện nay, người nghiện thuốc lá suy nghĩ thấy

hút thuốc có thể gây cho mình và con cái mình (ngửi khói thuốc) mắc bệnh ung thư, phát sợ bèn bỏ thuốc

hút.

-- Biện pháp thứ ba: là cố gắng, quên niệm ác đi, đừng nghĩ tới nó nữa. Phật lấy ví dụ một người nhắm mắt để khỏi phải thấy một vật gì đó có thể thúc đẩy mình làm

ác.

-- Biện pháp thứ tư: là hãy chận giòng niệm ác lại, để cho nó giảm bớt sức mạnh. Đức Phật dùng ví dụ một người đang chạy, chuyển sang đi, rồi chuyển sang

đứng, rồi ngồi, rồi nằm. Tôi có thể lấy ví dụ hút thuốc để minh họa lời Phật. Một người nghiện, thấy bao thuốc lá cầm ngay lấy, rút thuốc đánh diêm châm, hít hai ba hơi luôn. Bây giờ thấy bao thuốc, khoan cầm lấy bao,

và khi đã cầm lấy bao rồi, thì khoan rút điếu thuốc rqa, khoan châm diêm, hay là đã châm diêm rồi, thì khoan

hít một hơi v.v... Bởi vì, mỗi khi dừng lại như vậy, chúng ta đều có thể phản tỉnh, nhớ đến lời dặn của thầy thuốc về thuốc lá gây bệnh ung thư như thế nào, lời nhắn của

Page 18: ăN một miếng không cần ăn, tức là chiếm đoạt phần ăn đó của người khác. trên tinh thần đó, người phật tử nên tránh và phê phán những

18

17

vợ hút thuốc tốn tiền như thế nào v.v... nhờ vậy, có thể ngăn không hút thuốc nữa.

-- Biện pháp thứ năm: là dùng ý chí, nghị lực khống chế niệm ác, không cho nó sanh khởi, Phật ví dụ một người

khoẻ vật ngã một người yếu.

Trên đây là năm biện pháp khống chế và loại trừ niệm ác, được Đức Phật giảng trong Kinh "An Trú tầm". Đó là

những lời dạy thiết thực và cụ thể, mọi người đều có thể áp dụng trong cuộc sống hàng ngày. Một điều

chúng ta cần ghi nhớ là tất cả các niệm đều vô thường, dù ác hay thiện, nếu nó không được nuôi dưỡng bằng những niệm tương ứng và nhất là việc làm tương ứng. Tôi lấy ví dụ niệm hút thuốc của người hút thuốc lá.

Niệm hút thuốc đó được nuôi dưỡng bằng những niệm như là hút thuốc là vô hại, hút thuốc thêm sáng kiến,

hút một điếu có thể giảm thọ vài ba giây nhưg cười một tiếng lại tăng thọ bảy giây v.v.. Nếu chúng ta không

nuôi dưõng niệm hút thuốc bằng những niệm như vậy, trái lại chống đối nó, bài trừ nó bằng những niệm như hút thuốc gây bệnh ung thư, hút thuốc hại phổi, hút

thuốc tốn tiền v.v.. thì niệm hút thuốc có thể dần dần không còn chi phối chúng ta như trước nữa. Và chúng ta

có thể tiến tới bỏ thuốc lá mà không gặp khó khăn gì.

Một điều nữa, chúng ta cũng cần ghi nhớ là niệm thiện nói chung mạnh hơn niệm ác, cũng như ánh sáng mạnh hơn bóng tối vậy. Niệm ác sỡ dĩ chi phối chúng ta được

là vì chúng ta không biết nó là ac. Nếu nhận mặt nó được là ác, thì tự nhiên nó sẽ tan biến đi. Chính vì vậy,

mà Kinh sách Phật khuyên chúng ta nên luôn luôn chánh niệm tỉnh giác, biết rõ mình đang nghĩ gì, nói gì, làm gì và ý nghĩ đó, lời nói đó, việc làm đó là thiện hay bất thiện, đem lại an lạc hay đau khổ cho mình và cho người. Có người nghĩ ác mà không biết mình là ác. Con người như thế rất khó tu tập bỏ ác làm lành. Cũng như có người làm điều thiện mà không biết mình làm điều

thiện thì cũng rất khó tăng trưởng điều thiện.

Page 19: ăN một miếng không cần ăn, tức là chiếm đoạt phần ăn đó của người khác. trên tinh thần đó, người phật tử nên tránh và phê phán những

19

18

Cuộc sống của người Phật tử phải là một cuộc sống tỉnh táo, biết thiện là thiện để phát huy điều thiện vốn có, học những điều thiện mình chưa có. Đồng thời cũng

phải biết ác là ác thì mới loại bỏ điều ác mình đã phạm và phòng hộ những điều ác chưa sanh khởi. Nói tóm lại, tăng điều thiện vốn có, học những điều thiện chưa có,

bỏ điều ác vốn có, tránh điều ác chưa có: đó phải là nếp sống tinh tấn của mọi Phật tử chúng ta.

Đó cũng là định nghĩa chữ "Chánh tinh tấn", Sammà vàyama, trong Bát chánh đạo mà Đức Phật khuyên tất cả Phật Tử chúng ta cần phải hành trì. "Vị Thánh đệ tử sống tinh cần tinh tấn từ bỏ các pháp bất thiện, thành tựu các thiện pháp, nổ lực kiên trì tinh tấn, không từ bỏ gánh nặng đối với thiện pháp". (Tăng Chi II, trang 18).

Trên đây, chúng tôi có nói dùng niệm thiện xưa đuổi niệm ác. Các vị có thể hỏi đó là niệm thiện gì?.

Các Kinh Phật thường dạy pháp tu "Tám chánh đạo" bằng chánh Tri kiến, chánh tư duy, chánh ngữ, chánh

nghiệp, chánh mạng, chánh tinh tấn, chánh niệm, chánh định, tám pháp môn tác thành con người toàn

thiện, tám pháp môn xây dựng một nếp sống Phật giáo hoàn mỹ, thiết thực ứng dụng vào đời sống thực tại.

Một con người chí thiện tất nhiên phải là con người có tri kiến chơn chánh có tư duy chơn chánh, có ngôn ngữ chơn chánh, có ba nghiệp chơn chánh, có sinh kế chơn

chánh, có ý niệm chơ chánh và có thiền định chơn chánh.

Thực là sai lầm khi có một người nào đó buộc tội đạo Phật chúng ta như là tiêu diệt mọi tình cảm của con

người, như là phi nhân bản! Trái lại, có thể nói đạo Phật là đạo nhân bản nhất bời vì nói giúp cho mọi ngưòi phấn đấu để trở thành những con người hoàn thiện,

những bậc Thánh trên thế gian này, những con người hội tự một cách đầy đủ và hoàn mỹ nhất những đức

hạnh từ bi và trí tuệ. Con người có trí tuệ và tình thương rộng lớn (từ bi): đó phải là hướng phấn đấu của tất cả

Page 20: ăN một miếng không cần ăn, tức là chiếm đoạt phần ăn đó của người khác. trên tinh thần đó, người phật tử nên tránh và phê phán những

20

19

chúng ta, vì đó là mẫu mực, của con người hoàn thiện theo quan điểm Phật giáo.

Đó là một hướng phấn đấu cụ thể, không có gì là viễn vông xa vời, Đức Phật và hằng bao thế hệ đệ tử đắc

đạo của Ngài chứng tỏ con người mẫu mực hoàn thiện đó không phải là một cấu trúc không tưởng mà đã là, đang là, sẽ là những con người sống, thực tại nếu biết cố gắng phấn đấu theo con đường. Bát chánh đạo mà

Đức Phật đã vạch ra.

Giá trị bất hủ của đạo Phật chính là ở chỗ nó vạch ra con đường cụ thể giúp cho mỗi người chúng ta trở

thành con người hoàn thiện, con người sống hạnh phúc và tự do, con người mẫu mực về trí tuệ và tình thương

rộng lớn.

Đó cũng chính là bức thông điệp mà Đức Phật để lại chúng ta: bức thông điệp kêu gọi mọi người chúng ta

hãy phấn đấu để trở thành những con người hoàn thiện, những con người giải thoat khỏi ba độc Tham, Sân và

Si, những con người tâm giải thoát và trí tuệ giải thoát, xứng đáng là học trò đức Phật, con đẻ tinh thần cuả

Đức Phật.

Trong thế giới đầy hận thù này, chúng ta hãy sống không hận thù, hãy nêu gương sáng của cuộc sống đầy tình thương. Trong thế giới đầy bóng tối này, bóng tối

của đe dọa chiến tranh, và nếp sống phi đạo đức, chúng ta hãy thắp lên ngọn đèn của trí tuệ, của hiểu

biết và thông cảm.

Xã hội không nhìn chúng ta, đánh giá chúng ta qua sách Phật và tượng Phật, mà nhìn chúng ta, đánh giá chúng ta qua con người cụ thể của chúng ta, qua việc làm và lời nói cụ thể của chúng ta, có thể hiện trung

thành hay tương phản lại với ý tưởng từ bi và trí tuệ của Đạo Phật.

Đức Phật cũng vậy, Ngài nhìn chúng ta đánh giá chúng ta không phải qua tượng, tranh Phật, qua sách Phật ghi

Page 21: ăN một miếng không cần ăn, tức là chiếm đoạt phần ăn đó của người khác. trên tinh thần đó, người phật tử nên tránh và phê phán những

21

20

chép lời Ngài có đúng hay không, mà là qua nếp sống hàng ngày cụ thể của Tăng ni Phật tử chúng ta có thật là nếp sống đạo, nếp sống Phật giáo hay không. Nếu thật sự, chúng ta sống, ứng xử, hành động theo đúng những lời dạy cuả Phật, thì dù Đức Phật có nhập Niết

Bàn cách đây ba ngàn năm, nhưng Ngài vẫn luôn luôn ở bên cạnh chúng ta, theo dõi hướng dẫn, khích lệ chúng

ta.

Trong ngày lễ Phật Đản trang trọng này, chúng tôi hy vọng đó là niềm tin của tất cả chúng ta, và tất cả chúng

ta sẽ sống theo niềm tin đó.

Kính chúc tất cả quý vị trọn hưởng một mùa Phật Đản tràn đầy Từ bi và Trí tuệ.

Nam mô Bổn sư Thích Ca Mâu Ni Phật.

Tỳ kheo Thích Minh Châu

http://www.buddhismtoday.com/viet/ddtamly/001-daoduc.htm

Đạo Phật và nền trật tự đạo đức mới

Thích Minh Châu

(Trích lược bài phát biểu tại cuộc hội thảo "Đạo Phật và sự lãnh đạo về hòa bình" 

tổ chức tại Ulan Bato, Mông Cổ, từ ngày 15 đến ngày 20 tháng 8 năm 1989)

(...) Khi loài người đang tiến dần tới ngưỡng cửa của Thế kỷ XXI, một câu hỏi có tính cách hoàn cầu đang làm nhiều người ưu tư lo lắng: "Kỷ nguyên sẽ là kỷ nguyên gì đây trong lịch sử của nhân loại?" Trong

những năm bản lề cuối cùng giữa hai thế kỷ mà chúng ta đang sống, chúng ta đã và đang rút ra những kinh

Page 22: ăN một miếng không cần ăn, tức là chiếm đoạt phần ăn đó của người khác. trên tinh thần đó, người phật tử nên tránh và phê phán những

22

21

nghiệm, những bài học gì, khả dĩ làm chúng ta yên tâm hơn, tin tưởng hơn?

Trước hết, chúng ta đã ý thức được tầm cỡ có tính cách toàn cầu của một số vấn đề bức xúc đang đối mặt với chúng ta. Như vậy, chúng ta sẽ biết được làm thế nào để huy động trí tuệ và sức mạnh của nhân dân thế giới để giải quyết một cách tốt đẹp những vấn đề đó. Thí dụ

các vấn đề chiến tranh và hòa bình, vấn đề xây dựng một nền trật tự kinh tế mới, một nền trật tự đạo đức

mới cho thế giới, vấn đề bảo vệ môi trường của chúng ta.

Tầm cỡ của những vấn đề này vượt qua biên giới các quốc gia các dân tộc, vượt ngoài tầm tay của các người chuyên môn, của các người có quyền lực. Một vấn đề

như chiến tranh và hòa bình, quan hệ đến sự sống còn của nhân loại không thể giao phó cho một số nhà quân

sự và nhà chính trị. Đó là lý do giải thích tại sao các phong trào hòa bình thế giới đã và đang lôi cuốn vào hàng ngũ của mình một số rất đông các tầng lớp dân chúng. Gần hết các nước trên thế giới, tất cả các lục địa, dân tộc tuổi tác, nghề nghiệp, xu hướng chính trị và các hệ phái tôn giáo đã và đang tham gia vào các phong trào ấy. Chỉ có một lực lượng bảo vệ hòa bình, hùng hậu và năng động như thế, mới có sức mạnh để chặn đứng sự nguy hiểm của một cuộc chiến tranh hạt

nhân, chiến đấu chống lại những thế lực hiếu chiến nguy hiểm, và bảo đảm sự chiến thắng của hòa bình và

tiến bộ. Chỉ có một cái nhìn toàn cầu đối với vấn đề chiến tranh và hòa bình mới có thể đem lại cho các

phong trào hòa bình thế giới một thắng lợi lịch sử như vậy.

Hiểm họa của một chiến tranh toàn cầu đã huy động được nhân dân thế giới chống lại sự hiện hữu của chiến tranh. Những năm cuối của thế kỷ XX đã và đang chứng

kiến những bước đi lịch sử, tiến tới một kỷ nguyên không có vũ khí hạt nhân và không có vũ khí hóa học.

Page 23: ăN một miếng không cần ăn, tức là chiếm đoạt phần ăn đó của người khác. trên tinh thần đó, người phật tử nên tránh và phê phán những

23

22

Nhưng chúng ta không được buông lơi cảnh giác. Dầu cho hiểm họa của một chiến tranh hạt nhân được chận

đứng lại, nhưng các chiến tranh cục bộ với tất cả sự biểu hiện tàn khốc và phi nhân vẫn còn tồn tại. Bạo lực chánh trị và quân sự vẫn diễn ra giữa một số quốc gia, giữa nhân dân sắc tộc khác nhau, cho đến giữa những dân tộc cùng tôn thờ lý tưởng giống nhau, cùng một ý thức hệ chính trị như nhau. Trong những năm gần đây, sự quan hệ giữa các quốc gia đã có một sự thay đổi lớn theo chiều hướng tốt đẹp. Chung sống hòa bình thông cảm lẫn nhau, đối thoại hơn là đối đầu, thị trường thay

vì chiến trường. Còn trong tình hình chính trị, nội bộ của nhiều nước cũng có xu hướng tốt đẹp mở rộng dân chủ,

tránh áp đặt và áp lực trong lãnh vực văn hóa và tư tưởng, coi trọng và thông cảm đối với những tư tưởng dị

biệt.

Chúng tôi tha thiết hy vọng rằng tiến trình dân chủ hóa và nhân bản hóa chính trị trong mối quan hệ giữa các

nước, cũng như trong tình hình nội bộ mỗi nước, sẽ được tăng cường và đi sâu hơn nữa từ nay cho đến năm 2000. Như vậy, chúng ta chuẩn bị cho một kỷ nguyên

thật sự hòa bình, hòa bình cho toàn thể hành tinh, không phải chỉ cho một số khu vực, hòa bình cho toàn

thể loài người, không phải chỉ cho dân chúng sống trong một vài địa danh. Mọi hình thức chiến tranh,

không phải chỉ chiến tranh hạt nhân, cần phải loại bỏ. Tất cả mọi biểu hiện bạo lực cần phải bị diệt trừ một

cách vĩnh viễn.

Chúng ta thấy, và đây là một bài học thứ hai của chúng ta, mọi vấn đề bức xúc và nguy kịch có tánh cách toàn cầu cần phải giải quyết với cái nhìn toàn cầu và với lực

lượng toàn cầu, và cần phải giải quyết một cách sâu sắc, triệt để từ bên trong nội tâm của mọi người, và

chính ở đây, đạo Phật với môn tâm lý học nội quán và nội tâm đặc sắc của mình, có thể có phần đóng góp.

Page 24: ăN một miếng không cần ăn, tức là chiếm đoạt phần ăn đó của người khác. trên tinh thần đó, người phật tử nên tránh và phê phán những

24

23

Trước tiên, đạo Phật hoan nghênh mọi phong trào hòa bình và động viên mọi Phật tử tích cực tham gia vào

các phong trào đó. Vì bảo vệ hòa bình tức là bảo vệ sự sống, là thực hiện giới sát sanh, giới cấm hàng đầu của

đạo đức Phật giáo. Đạo Phật nhất định chống lại mọi chiến tranh xâm lược, vì chiến tranh xâm lược bao giờ cũng kèm theo tước đoạt đất đai và tài sản, xâm phạm vào công việc nội bộ của nước khác và dân tộc khác.

Đây là phạm vào hai giới cấm quan trọng của đạo đức Phật giáo: Cấm lấy của không cho và cấm những hành động bất thiện. Đạo Phật phủ nhận mọi hành động và

mọi biểu hiện bạo lực, dưới bất cứ lý do nào, trừ trường hợp tự vệ chính đáng.

Tất cả Phật tử chúng tôi đều ghi nhớ lời dạy như sau của Đức Phật trong Kinh Pháp cú, số 5:

"Với hận diệt hận thù,Đời này không có được. Không hận, diệt hận thù,Là định luật ngàn thu."

Đạo Phật đề cao nỗ lực toàn thể cá nhân, hướng tới tạo ra giữa các dân tộc giữa các quốc gia cũng như giữa con người với nhau một bầu không khí thông cảm lẫn

nhau, tin tưởng và kính trọng lẫn nhau, loại bỏ mọi thành kiến, như tự ty mặc cảm, tự cao tự đại, rất hại

đến nhân phẩm và giá trị con người.

Chúng tôi, những người Phật tử xem là hết sức khẩn thiết xây dựng một nền kinh tế mới, một nền trật tự đạo đức mới có khả năng làm lắng dịu mọi sân hận và mọi biến động, làm lành mạnh hóa không khí chính trị quốc tế hiện tại, chuẩn bị cho một kỷ nguyên mới nhân đạo

hơn và có ý nghĩa hơn.

Chúng tôi nghĩ rằng tình trạng kinh tế phân cực hiện nay, một bên là một ít nước công nghiệp hóa, khéo phát triển và giàu có, và một bên là đa số các nước nghèo đói và chậm tiến, là một tình trạng xây dựng

Page 25: ăN một miếng không cần ăn, tức là chiếm đoạt phần ăn đó của người khác. trên tinh thần đó, người phật tử nên tránh và phê phán những

25

24

trên sự buôn bán không công bằng, mua nguyên liệu giá rẻ mạt và bán hàng công nghiệp với giá cắt cổ. Sự buôn bán không công bằng này không thể kéo dài hơn nữa, vì nó nuôi dưỡng nguy cơ chiến tranh và bạo loạn.

Chúng tôi nghĩ rằng muốn loại trừ tình trạng kinh tế phân cực hiện tại và xây dựng một nền trật tự kinh tế mới với nhiều công bằng và bình đẳng hơn, chúng ta cần phải xây dựng một nền trật tự đạo đức mới, dựa trên những nếp tư duy đổi mới, và dựa trên một số nguyên lý nhân bản được toàn thể loài người có thể

chấp nhận.

Nếu không có một nền trật tự đạo đức thế giới mới làm nền tảng đạo đức, thời rất khó mà xây dựng thành công một nền trật tự kinh tế thế giới mới. Và dầu cho có xây

dựng thành công cũng không có thể vững bền. Tình trạng phân cực rồi sẽ được tái diễn như cũ, và có thể

trầm trọng hơn.

Vì vậy theo ý chúng tôi, ưu tiên một số dành cho sự xây dựng một nền trật tự đạo đức mới, dựa vào một số

nguyên lý căn bản nhân đạo, được cộng đồng thế giới chấp nhận. Và đối với vấn đề hiện đại này, đạo Phật với

truyền thống là một đạo hòa bình, có thể có những đóng góp có giá trị.

Chúng tôi nghĩ rằng một trong những đóng góp lớn nhất của đạo Phật vào nền trật tự đạo đức thế giới mới này là thuyết "Vô Ngã". Lý thuyết này, trên bình diện đạo

đức, đóng một vai trò tích cực trong sự nghiệp xây dựng một nếp sống đạo đức cho con người hiện đại của

chúng ta. Đặc điểm tâm lý bệnh hoạn của con người hiện đại là tìm kiếm các dục lạc và tích tập tài sản. Để

đảm bảo cá nhân hưởng thụ, con người hiện đại cố gắng chiếm hữu cho mình mọi của cải vật chất có thể có được. Trong xã hội, của cải vật chất có sự hạn chế,

còn lòng tham con người thời không đáy. Đây là lý do vì sao không thể tránh khỏi xung đột và tranh đấu giữa người với người, giữa quốc gia với quốc gia, giữa dân

Page 26: ăN một miếng không cần ăn, tức là chiếm đoạt phần ăn đó của người khác. trên tinh thần đó, người phật tử nên tránh và phê phán những

26

25

tộc với dân tộc. Nguồn gốc của chiến tranh chính nằm ở nơi đây. Với thuyết vô ngã, chúng ta có thể nói, đạo

Phật đã đào bới lên cội rễ tất cả hiện tượng chiến tranh, các cuộc xung đột và đối đầu. Với một cái nhìn sâu vào thuyết "vô ngã", một Phật tử có thể sống hòa hợp và thân hữu với tất cả mọi người. Một Phật tử một khi đã

giác ngộ sẽ thoát khỏi sự kềm kẹp của tham (Lobha) và sân (Dosa). Con người tham đắm một vật gì cho mình,

nhưng khi tự mình không có mặt, thời lòng tham sẽ không còn đối tượng và không có sự kích thích để tồn

tại. Đối với sân cũng vậy. Khi cái ta bị chống đối không có thỏa mãn, thời lòng sân sẽ nổi lên. Nhưng khi không còn cái Ngã thời lòng sân biến mất một cách tự nhiên.

Một danh từ khác "Lòng vị tha" có ý nghĩa tương tự, nhấn mạnh đến sự giúp đỡ tích cực cho các người khác. Một Phật tử đã thấm nhuần với nguyên tắc "Vô ngã" sẽ hưởng mọi ý nghĩ, lời nói và hành động của mình đem lại hạnh phúc và an lạc cho loài người và các loài hữu tình như là cứu cánh và mục đích của mình. Trong khi

đức Phật còn tại thế và cả sau khi Ngài nhập diệt tại Ấn Độ, chỗ đản sanh đức Phật, và trong bất cứ nước nào có đạo Phật hiện diện, lý tưởng "Vô Ngã, Vị Tha" luôn luôn

là chuẩn mức của nếp sống đạo đức Phật Giáo, dù là đối với người xuất gia hay tại gia. Như chúng ta đã được

biết, lý tưởng Bồ Tát của Đại Thừa Phật Giáo chỉ là sự nối tiếp của lý tưởng Vô Ngã Vị Tha đã được tìm thấy

trong đạo Phật Nguyên Thủy. Trong Kinh tạng Pàli của đạo Phật Nguyên Thủy, đức Phật đã khích lệ các đệ tử

của mình như sau:

"Này các Tỷ kheo, các người cần phải du hành, vì an lạc cho số đông, vì hạnh phúc cho số đông, vì lòng thương

tưởng cho đời, vì hạnh phúc của Chư Thiên và Loài người. Các người hãy thuyết giảng Chánh pháp tuyệt

diệu trong ban đầu, tuyệt diệu ở chặng giữa, tuyệt diệu ở đoạn cuối, đầy đủ trong ý nghĩa và ngôn thuyết. Các

người hãy đề cao đời sống Phạm Hạnh toàn diện và thanh tịnh". (Mahavagga 19)

Page 27: ăN một miếng không cần ăn, tức là chiếm đoạt phần ăn đó của người khác. trên tinh thần đó, người phật tử nên tránh và phê phán những

27

26

Ngoài ra lý thuyết "Vô Ngã" của đạo Phật còn có ý nghĩa bản thể luận và giải thoát luận rất sâu sắc. Mọi sự vật trong thế giới này là vô thường, là vô ngã, là không có thực thể, thời cứu cánh thực sự, dù là sắc đẹp lộng lẫy, dù là danh vọng cao xa, dù là tiền rừng bạc biển

v.v... tất cả đều là vô thường, vô ngã, không có thực thể nội tại. Không có gì cần phải tham đắm, không có gì để vơ lấy của mình. Con người phải thấu triệt lý vô ngã là con người giải thoát, tuy sống giữa đời mà không bị đời trói buộc, với thái độ luôn luôn bình tĩnh, thanh thoát,

an nhiên và tự tại.

Đức Phật được tôn thờ như một sứ giả hòa bình tuyệt diệu. Khi Du sĩ Dìghajànu hỏi Thế Tôn dạy những gì, đức Phật đã giải thích rất rõ ràng: "Theo lời dạy của Ta, giữa thế giới của Chư Thiên, Ma Vương và Phạm Thiên, trong

quần chúng Sa Môn và Bà La Môn, Chư Thiên và loài người, không có sự tranh luận với một ai ở đời". (M.i 109a). Ngài lại tuyên bố thêm: "Này các Tỳ kheo, Ta không có tranh luận với đời, chỉ có đời tranh luận với

Ta. Này các Tỳ kheo, một vị thuyết Chánh pháp không có tranh luận với một ai ở đời" (Tương Ưng III, 165). Đức

Phật tuyên bố rất rõ ràng, mục đích thuyết pháp của Ngài là không có tranh luận với các bậc lãnh đạo các tôn giáo khác và không có tranh luận, tranh thắng

trong những lời dạy của Ngài. Ngài chỉ rõ con đường thoát khỏi đau khổ, con đường đưa đến giác ngộ, giải

thoát. Với những ai bị lòng sân chi phối, hệ thuộc, Ngài dạy Mettà hay lòng Từ để chinh phục lòng sân. Với

những ai thiên về làm hại người khác, Ngài dạy Karunà hay lòng Bi để trở thành những người không làm hại ai.

Đối với những ai không có lòng hoan hỷ trước thành công của những người khác, Ngài dạy Mudità hay lòng

Hoan Hỷ để chúng biết như thế nào là san sẻ hạnh phúc đối với các người khác. Đối với những ai ai ưa thích trả thù trả oán, Ngài dạy Upekkha hay Xả để vô hiệu hóa sự hận thù của chúng. Như vậy, Ngài có những liều

Page 28: ăN một miếng không cần ăn, tức là chiếm đoạt phần ăn đó của người khác. trên tinh thần đó, người phật tử nên tránh và phê phán những

28

27

thuốc để chữa trị nhiều chứng bệnh tâm thần và những bệnh lý của thế giới.

Ở Việt Nam trong quá khứ, dưới hai triều đại nhà Lý và nhà Trần, có những ông vua kiêm Thiền sư như vua

Trần Thái Tông, từng tuyên bố ông xem Ngai Vua như chiếc giày rách. Cháu Vua Trần Thái Tông là Trần Nhân Tông, sau khi lãnh đạo thành công trong cuộc kháng

chiến thắng lợi chống quân xâm lược Nguyên Mông đã đắp áo cà sa, và trở thành vị sáng lập phái Thiền Tông

Việt Nam đầu tiên gọi là Trúc Lâm Yên Tử. Vua Trần Nhân Tông có làm bài phú bằng tiếng Nôm nổi tiếng,

kết thúc bằng bốn câu thơ chữ Hán, nói lên phong thái an nhiên tự tại của Vua, khi đối mặt với những thăng

trầm của cuộc đời:

"Ở đời vui đạo mặc tùy duyên,Hễ đói thì ăn, mệt ngủ liền.

Báu sẵn trong mình, thôi tìm kiếm, Lặng lòng đối cảnh, hỏi chi Thiền."

Hai câu cuối của bài thơ ngắn này xác chứng phong thái an nhiên tự tại của nhà Vua: "Khi đối mặt với thử thách, chúng ta giữ tâm chúng ta an nhiên tự tại". Ở đây có nghĩa là đối với tánh vô thường của thế giới khách quan, tâm nhà Vua luôn luôn an nhiên tự tại,

không một chút gợn sóng. Câu này cũng nói lên một tư tưởng rất cơ bản của đạo Phật. Mỗi con người đều tự có trong mình nền móng giác ngộ được gọi là Phật tánh.

Con người đã sẵn có trí tuệ giác ngộ chói sáng và bừng sáng. Như vậy con người không cần hướng ra ngoài để

tìm hạnh phúc và giác ngộ.

Các thiếu sót cơ bản của con người hiện đại của chúng ta là chiều hướng đánh mất con người thật của mình, và chạy theo cái Ta giả với những khao khát, thèm muốn cuồng loạn, không bao giờ có thể thỏa mãn. Với một

nếp sống văn minh vật chất rất cao, con người hiện đại sống một đời sống vật chất rất phong phú. Nhưng đời sống tinh thần và nguyện vọng tâm lý của con người

Page 29: ăN một miếng không cần ăn, tức là chiếm đoạt phần ăn đó của người khác. trên tinh thần đó, người phật tử nên tránh và phê phán những

29

28

không được thỏa mãn và bị dao động. Con người hiện đại luôn luôn có cảm giác bất an dao động và mất

thăng bằng. Với một tâm lý như vậy rất dễ hướng dẫn nhiều người đi đến ma túy các bệnh viện tâm thần và

có khi đi đến tự sát.

Dĩ nhiên đạo Phật không tán thán một đời sống túng thiếu nghèo đói và khổ hạnh. Đạo Phật cũng không đề cao một đời sống chạy theo dục vọng vật chất, thật sự

đê tiện, hạ liệt và đầy thú tánh, làm con người trở thành ươn hèn về thể xác, hôn ám, ngu đần về trí tuệ. Trái lại,

đạo Phật luôn luôn đề cao an lạc và hạnh phúc tinh thần, một đời sống có đạo đức cao đẹp hướng thượng, một sự rạng rỡ hạnh phúc giác ngộ và giải thóat. Đạo Phật khuyến khích mọi người trở về với con người thật

của chính mình, với bản tánh chân thật của chính mình, trở về với đời sống hòa hài với xã hội, hòa hài tự mình

với thiên nhiên, giữa thân với tâm, giữa từ bi với trí tuệ, giữa cảm giác với lý trí. Đạo Phật xác nhận mọi người

đều có thể thành tựu một đời sống nội tâm hòa hài như vậy, nếu con người ước muốn và hành động theo lời

Phật dạy, phù hợp với một nếp sống Phật giáo đầy đủ giới hạnh và trí tuệ. Một đời sống tránh xa hai sự cực đoan, một bên là hưởng thọ các dục hèn mọn hạ liệt, một bên là hành hạ xác thân, hành trì khổ hạnh, một

nếp sống chói sáng trong suốt, hướng thượng, giới hạnh cao đẹp, một nếp sống mà mọi người, từ phương đông, phương tây, nam và nữ, trẻ và già, xuất gia hay tại gia

đều có thể sống và hướng đến. Chính là nếp sống thánh đạo tám ngành có danh tiếng, một nếp sống bao gồm

cả giới, định và tuệ.

Một đời sống đạo đức như vậy sẽ đem lại thiền định nội tâm, và một thiền định nội tâm như vậy sẽ bảo đảm sự

sáng suốt của trí tuệ, và một người có trí tuệ có thể nhìn sự vật như Thật. Chính nhờ thái độ như vậy, con người có khả năng làm chủ bản thân, làm chủ sự vật

khách quan, chớ không phải nô lệ cho chúng. Thật đáng tiếc, thông điệp Giới-Định-Tuệ của đức Phật đã trở

Page 30: ăN một miếng không cần ăn, tức là chiếm đoạt phần ăn đó của người khác. trên tinh thần đó, người phật tử nên tránh và phê phán những

30

29

thành nạn nhân của chính con người, đã bị phủ lên trên bao nhiêu lớp màn huyền bí, mê tín, dị đoan, kinh viện, khiến cho tinh thần và lời văn của bản thông điệp trong sáng và giản dị đó đã bị xuyên tạc, bóp mép, trở thành

đổi khác, xa lạ với chính ngay con người.

Nay đã đến lúc các nhà học giả, các Phật tử hãy trả lại cho những nguyên lý căn bản của đạo Phật tánh trong

sáng và giản dị nguyên thủy. Chính nhờ tánh trong sáng và giản dị này, các nguyên lý căn bản của đạo

Phật mới có thể đi sâu vào lòng người, mới được đông đảo nhân dân thế giới tiếp thu trở thành lẽ sống căn

bản của mình, biến thành những hành động về thân, về lời, về ý của mình. Chúng trở thành một sức mạnh vật

chất vô địch, biến đổi thế giới chiến tranh và bất ổn này thành một thế giới hòa bình và hạnh phúc, và như vậy biến đổi kỷ nguyên thứ XXI này thành một kỷ nguyên

của con người, một kỷ nguyên trong ấy các giá trị nhân bản là thước đo, là tiêu chuẩn của mọi giá trị. Hạnh

phúc hay không hạnh phúc của con người sẽ trở thành sợi chỉ đỏ, con đường ranh giới, phân biệt rõ ràng thật

hay giả, thành công hay thất bại, chánh kiến và tà kiến, một kỷ nguyên trong ấy con người trở thành vị quan tòa

sáng suốt tối thượng, đánh giá mọi hệ thống chính trị và xã hội xem hệ thống nào là ưu việt, đầy những sức

sống, hệ thống nào đã lỗi thời và phải rút lui khỏi vũ đài lịch sử.

Phương châm hướng nội, quay về với chính mình, với con người thật của mình, không được hiểu lầm là đạo Phật kêu gọi một nếp sống tiêu cực chán đời và phi xã hội. Trái lại, đó là phương châm thiết thực nhất, sống

động nhất và tích cực nhất để cải tạo xã hội và thế giới. Đạo Phật cũng đã nói đến xây dựng Niết bàn ngay trên thế giới này. Toàn thể vấn đề xoay quanh câu hỏi: "Phải

bắt đầu từ đâu?" Bắt đầu từ xã hội để cải tạo xã hội chăng? Bắt đầu từ thế giới để cai tạo thế giới chăng?

Page 31: ăN một miếng không cần ăn, tức là chiếm đoạt phần ăn đó của người khác. trên tinh thần đó, người phật tử nên tránh và phê phán những

31

30

Đạo Phật quan niệm rằng bắt đầu như vậy là không thiết thực, như vậy là đặt cái xe trước con vật. Đạo Phật chủ trương rằng con người phải bắt đầu với chính mình, làm cho con người hoàn toàn ý thức được chính mình,

con người phải hiểu chính mình thay cho đổi chính mình, tự hoàn thiện mình, tự cải tạo mình cho được tốt đẹp hơn, trong một sự chiến đấu không mệt mỏi, trong từng giờ trong từng ngày, trong toàn bộ cuộc sống của mình. Chỉ có như vậy xã hội và thế giới mới trở thành lành mạnh hơn, tốt đẹp hơn và hiền thiện hơn. Nếu

không có con người lành mạnh, làm sao chúng ta chờ đợi một sự quan hệ xã hội lành mạnh, thật sự đạo đức, hiền thiện và cao đẹp? Nếu những tư tưởng hòa bình,

hạnh phúc, hòa hợp không có thấm nhuần sâu đậm vào trong nội tâm của mỗi con người, thời làm sao có thể chờ đợi một thế giới hòa bình, hạnh phúc và hòa hợp

được?

Kính thưa quí vị,

Cho phép chúng tôi trích dẫn một vài lời dạy của Đức Phật, những lời rất đơn giản nhưng tràn đầy trí tuệ và từ

bi:

"Chiến thắng sinh thù oán,Thất bại chịu khổ đau.Sống tịch tịnh an lạc.

Bỏ sau mọi thắng bại."(Pháp cú 201)

Người Phật tử thấu triệt lý vô ngã, không đặt mình đối lập với một người nào khác, không tranh giành hơn

thua với những người khác. Chính ở đây giải thích thái độ thăng bằng, thanh thoát, đứng lên trên tất cả, bỏ ra đằng sau mọi thắng bại. Người Phật tử xem quan trọng

bậc nhất là sự chiến thắng đối với tham sân si đang tiềm ẩn trong chính mình. Người Phật tử xem chúng là những kẻ thù từ bên trong. Không những chúng làm

Page 32: ăN một miếng không cần ăn, tức là chiếm đoạt phần ăn đó của người khác. trên tinh thần đó, người phật tử nên tránh và phê phán những

32

31

bản thân chúng ta đau khổ, chúng còn là nguồn gốc sầu muộn và đau khổ cho người khác.

"Tự thắng tốt đẹp hơnHơn chiến thắng người khác.Người khéo điều phục mình, 

Thường sống tự chế ngự".

"Dầu tại bãi chiến trường,Thắng ngàn ngàn quân địch 

Tự thắng mình tốt hơnThật chiến thắng tối thượng". 

(Pháp cú 104-103)

Để kết thúc bài thuyết trình chúng tôi muốn giới thiệu một nền trật tự đạo đức mới, được xây dựng từ những

lời dạy Đức Phật, và được áp dụng trong thời điểm hiện tại, nếp sống đạo đức này sẽ làm giảm thiểu những

nguy cơ một chiến tranh hạt nhân và mở đầu một kỷ nguyên trong đó hòa bình, an toàn và hòa hợp sẽ trở thành những đặc điểm thường hằng nổi bật nhất, và các giá trị con người được tán dương và tôn trọng:

Hiến dâng đời sống của chúng ta cho hạnh phúc và an lạc của mọi loài hữu tình, phục vụ cho hòa bình, giải trừ

quân bị và tình huynh đệ quốc tế.

Sống một đời sống bình dị, lành mạnh và biết đủ, để hiến nhiều thì giờ, nhiều năng lực cho hòa bình và hạnh

phúc của mọi loài hữu tình.

Từ bỏ mọi hành động đưa đến xung đột và chiến tranh, thực hiện mọi hoạt động đưa đến hòa bình hòa hợp và

thông cảm quốc tế.

Tôn trọng đời sống của mọi loài hữu tình, tôn trọng đời sống hành tình của chúng ta, tôn trọng môi trường sống

trong sạch của chúng ta.

Chung sống hòa bình, cộng đồng hợp tác, trong tinh thần hòa hợp quốc tế và tình huynh đệ con người.

Page 33: ăN một miếng không cần ăn, tức là chiếm đoạt phần ăn đó của người khác. trên tinh thần đó, người phật tử nên tránh và phê phán những

33

32

http://www.buddhismtoday.com/viet/ddtamly/003-daophat.htm

Năm giới: Một nếp sống lành mạnh, an lạc, hạnh phúc

Hòa Thượng Thích Minh Châu

Bài giảng tại Thiền Viện Vạn Hạnh, mùa Phật Ðản 2537 (1993)

Hằng năm, vào ngày lễ Phật đản, Phật tử Thiền viện Vạn Hạnh cùng bè bạn thân hữu đều tập hợp tại nơi giảng đường này, đảnh lễ cúng dường đức Phật, và

nghe chúng tôi thuyết giảng về những lời đức Phật dạy.

Mấy năm nay, chúng tôi tranh thủ thuyết giảng nhiều về chủ đề đạo đức Phật giáo. Tháng ba vừa rồi vào hai ngày mười và mười một, cũng tại nơi đây, Viện Nghiên cứu Phật học đã tổ chức cuộc hội thảo quốc tế, với chủ

đề: Ðạo đức Phật giáo trong thời hiện đại.

Cuộc hội thảo, ngoài phái đoàn các giáo sư từ nước Cộng hòa Liên Bang Ðức đến, còn quy tụ đông đảo quý vị Hòa thượng, Thượng tọa, Ðại đức, Phật tử, quý vị giáo

sư, các nhà nghiên cứu khoa học, các nhà hoạt động chính trị và xã hội có tên tuổi. Bế mạc cuộc hội thảo,

chúng tôi đã khẳng định một chân lý, tuy được đức Phật chúng ta tuyên bố cách đây hơn hai nghìn rưỡi năm,

nhưng đến nay vẫn mang đầy đủ tất cả giá trị hiện thực của nó.

Chân lý đó là: Sống đạo đức là sống an lạc và hạnh phúc.

Ðức Phật còn nói cụ thể hơn nữa:

"Các người phải siêng năng tu tập các điều thiện, nhờ tu tập điều thiện mà được mạng sống lâu dài, nhan sắc thắm tươi, sống yên ổn, vui vẻ, của cải dồi dào, uy tín

Page 34: ăN một miếng không cần ăn, tức là chiếm đoạt phần ăn đó của người khác. trên tinh thần đó, người phật tử nên tránh và phê phán những

34

33

đầy đủ". (Trường A Hàm Kinh Chuyển luân vương tu hành)

Kính thưa quý vị!

Ðối với chúng ta, những người Phật tử, xuất gia hay tại gia, tu tập điều thiện, chính là giữ giới. Ðối với người tại

gia, là giữ năm giới và đối với người xuất gia, là giữ mười giới, 250 giới, hay hơn nữa. Nhưng đối với toàn

thể những người Phật tử tại gia hay xuất gia, năm giới là căn bản, là mức đạo đức tối thiểu cho một con người, dù là Phật tử hay không, sống xứng đáng là con người,

có nhân cách, có nhân phẩm.

Năm giới Phật giáo là chuẩn mức đạo đức cho loài người nói chung, giá trị phổ biến của chúng, giá trị toàn cầu của chúng được các nhà đạo đức học, triết học, xã hội

học trên thế giới công nhận.

Ðáng chú ý nhất là sự đánh giá của Albert Schweitzer, nhà Ấn Ðộ học người Ðức. Ông viết: "Ðức Phật đã sáng

tạo ra một nền đạo đức nội tâm hoàn thiện nhất, và trong lĩnh vực này, đức Phật đã nói lên những chân lý đạo đức có giá trị bất hủ, nền đạo đức không phải của riêng đất nước Ấn Ðộ mà của cả loài người nói chung. Ðức Phật là một trong những nhà đạo đức học vĩ đại

nhất, kỳ tài nhất mà thế giới có được". (Albert Schweitzer - Indian thought and its development. trg

117 - Tư tưởng Ấn Ðộ và sự phát triển của nó).

Trước khi giảng thuyết cụ thể về năm giới chúng tôi muốn điểm sơ qua về một vài lợi ích thiết thực của một

cuộc sống theo đúng năm giới trong thời hiện nay.

Lợi ích của năm giới trong cuộc sống hiện tại

Người sống thiện, giữ năm giới không bao giờ cảm thấy gánh nặng của sợ hãi và hổ thẹn. Trái lại gánh nặng

này đè lên tâm của người ác, người phá năm giới suốt ngày đêm, khiến anh ta ăn không ngon, ngủ không

yên... Người sống thiện, giữ năm giới thường có vị trí

Page 35: ăN một miếng không cần ăn, tức là chiếm đoạt phần ăn đó của người khác. trên tinh thần đó, người phật tử nên tránh và phê phán những

35

34

xứng đáng trong xã hội, có uy tín và tiếng tăm, đến tham dự cuộc hội họp nào cũng với thái độ tự tin và

đường hoàng. Trái lại, người sống ác, phá năm giới vì mất lòng tin cậy của mọi người cho nên không thể được

xã hội giao những vị trí xứng đáng, tiếng xấu đồn xa, đến dự cuộc hội họp nào cũng với thái độ sợ hãi và

thiếu tự tin.

Người sống thiện giữ năm giới, sống và làm việc một cách sáng tạo và vui vẻ, hòa hợp với mọi người gần hay xa. Trái lại, người sống ác, phá năm giới, vì bị lương tâm thường xuyên cắn rứt, bao giờ cũng thấy lo lắng sợ hãi,

do đó không thể sống vui vẻ sáng tạo.

Người sống thiện, giữ đúng năm giới có cái chết bình thản và tỉnh táo, vì khi gần chết thường hồi tưởng lại

những việc thiện mình thường xuyên làm trong đời, hồi tưởng lại những người mình đã từng giúp đỡ, nghĩ tới Phật, Pháp, Tăng là Tam Bảo, ba của báu luôn luôn hướng dẫn mình trong cuộc sống thiện và hướng

thượng. Những người sống thiện và giữ năm giới như vậy, chắc chắn là sau khi chết sẽ được tái sinh vào các

cõi lành.

Trái lại người sống ác, phá năm giới không những sống lo âu mà cũng chết trong tâm trạng sợ hãi và mê muội. Anh ta, một cách không có ý thức, hồi tưởng lại những việc ác làm trong đời, hình ảnh những người mà anh đã giết hoặc đối xử tàn nhẫn, và cũng với tâm trạng sợ hãi và lo âu đó, anh ta qua đời tái sanh vào các cõi ác, như súc sanh, quỷ đói và địa ngục. (Xem Tăng chi II trg 211)

Cuốn "Maha Dhammapala Jataka" (Jatakas Tập 4., trg 50, Bản Anh) kể chuyện thanh niên Dhammapala ngạc

nhiên vì thấy con trai thầy giáo mình chết đột nhiên, khi còn nhỏ tuổi. Thầy giáo hỏi vì sao anh ngạc nhiên, thì anh trả lời là trong gia đình anh, mọi người đều sống

thọ và chết già.

Page 36: ăN một miếng không cần ăn, tức là chiếm đoạt phần ăn đó của người khác. trên tinh thần đó, người phật tử nên tránh và phê phán những

36

35

Thầy giáo muốn kiểm tra lời học trò mình có nói đúng hay không, bèn tranh thủ đi thăm gia đình của

Dhammapala, vốn ở xa, và báo tin cho cha Dhammapala rằng Dhammapala đã chết đột ngột.

Người cha cười và nói rằng trong gia đình ông không có người nào chết lúc nhỏ tuổi cả, vì từ bảy đời nay, gia

đình ông sống theo đúng năm giới, và chính nhờ sống theo năm giới mà mọi người trong họ ông từ bảy đời,

đều sống thọ và chết lúc tuổi già.

Sống theo đúng năm giới thì sống thọ: Ðó là lời Ðức Phật dạy, mà cũng là một Chân lý được các bậc minh triết phương Ðông khẳng định. Chúng ta những người hậu thế, không nên vội chê bai là mê tín. Hiện nay,

khoa học y tế hiện đại phát hiện rằng, tế bào con người rất nhạy cảm với nếp sống đạo đức hay là phi đạo đức. Chính cuộc sống phi đạo đức làm yếu các tế bào bạch huyết cầu, khiến cho những tế bào đó bị yếu đi, không

đủ sức bảo vệ cơ thể, vì vậy cơ thể dễ lâm bệnh. Hệ thần kinh, bị những hành động và tư tưởng ác, bất thiện

làm cho mất thăng bằng, không đủ sức điều khiển sự phát triển lành mạnh của các tế bào. Từ đó sinh ra các

tế bào ung thư, mà sự phát triển vô tổ chức, tạo ra những khối u ác tính. Ðồng thời, những tình cảm ác, bất thiện kèm theo sự lo âu, sợ hãi, lương tâm cắn rứt v.v... kích thích các tuyết nội tiết bài tiết vào trong máu đủ các thứ chất độc. Trong khi những tình cảm thiện, tư

tưởng thiện lại kích thích các tuyến nội tiết bài tiết vào trong máu nhiều chất bổ làm cho toàn cơ thể khỏe

mạnh, tinh thần sảng khoái.

Ðó là những phát hiện và khẳng định của khoa Y học hiện đại, cho chúng ta thấy mối liên quan trực tiếp giữa cuộc sống đạo đức và sức khỏe của cơ thể con người. Một sự liên quan mà các nhà minh triết phương Ðông

đã nói tới, cách đây hàng mấy nghìn năm.

Có thể khẳng định, theo cuốn Dhammapala Jataka, là cuộc sống thiện, giữ đúng năm giới của đạo Phật, có

Page 37: ăN một miếng không cần ăn, tức là chiếm đoạt phần ăn đó của người khác. trên tinh thần đó, người phật tử nên tránh và phê phán những

37

36

thể giúp cho con người sống thọ, khỏe mạnh cả về vật chất cũng như tinh thần.

Ðức Phật khẳng định nếu không giữ năm giới, thì người nam cư sĩ sẽ sống cuộc đời luôn lo âu và sợ hãi. Trái lại, nếu giữ đúng năm giới thì người nam cư sĩ không còn lo

âu sợ hãi.

"Thành tựu năm pháp này, này các tỷ kheo, nam cư sĩ không còn sợ hãi. Thế nào là năm?

"Từ bỏ sát sanh, từ bỏ lấy của không cho, từ bỏ tà hạnh trong các dục, từ bỏ nói láo, từ bỏ đắm say rượu men,

rượu nấu".

Ðức Phật còn nói lại ý kiến vừa rồi, dưới hình thức một bài kệ để chúng ta dễ đọc dễ nhớ:

Ai sát hại sinh linh,Và nói láo ở đời,

Lấy của cải không cho,Ði đến vợ người khác,Và người mãi đắm say,

Uống rượu men rượu nấu,... Ðược gọi năm ác giới.

Mạng chung, sanh ác tuệ.Bị rơi vào địa ngục.

Như chúng ta thấy, sống phá năm giới, Ðức Phật gọi là sống theo năm ác giới, và người đó khi sống thì sống trong sợ hãi, khi chết thì phải đọa xuống địa ngục.

Ngược lại, nếu người đó sống theo đúng năm giới, thì khi sống đã không lo âu sợ hãi, mà sau khi chết, sẽ

được sanh lên các cõi lành:

"Ai không hại sanh linh,Không nói láo ở đời,

Không lấy của không cho,Không đi đến vợ người,

Người nào không đắm sayRượu men và rượu nấu,

Page 38: ăN một miếng không cần ăn, tức là chiếm đoạt phần ăn đó của người khác. trên tinh thần đó, người phật tử nên tránh và phê phán những

38

37

... Ðược gọi là có giới,Mạng chung sanh trí tuệ,

Ðược sanh lên cõi lành. (Tăng Chi II, 210, 211)

Trong 49 năm thuyết pháp, Ðức Phật đã dành nhiều thời giờ để trực tiếp nói chuyện với những gia chủ sống tại gia, có vợ, có con, với nhiều tài sản. Ðối với những

người như vậy, Ðức Phật luôn luôn khuyến cáo họ sống đạo đức, sống thiện, giữ năm giới.

Thí dụ, gia chủ Dighajanu, thuộc bộ tộc Kolya thưa với Ðức Phật rằng: "Bạch Thế Tôn, chúng con là những

người gia chủ, hưởng thọ các dục vọng, sống ràng buộc với vợ con, dùng các hương chiên đàn ở Kasi, đeo và dùng các vòng hoa, hương liệu, phấn sáp, vàng bạc. Bạch Thế Tôn, Thế Tôn hãy thuyết pháp cho những người như chúng con, thuyết như thế nào để những

pháp ấy đem đến cho chúng con hạnh phúc an lạc ngay trong hiện tại, và hạnh phúc an lạc cả trong tương lai".

(Tăng Chi III, trg 119)

Ðức Phật bèn giảng cho gia chủ Dighajanu về bốn pháp là:

1) Sống đầy đủ tháo vát, tức là làm thật giỏi, thật thiện xảo nghề nghiệp của mình.

2) Biết giữ gìn tài sản do nghề nghiệp lương thiện làm ra, không để mất mát, lãng phí.

3) Ðược nuôi dưỡng và sống có đạo đức. Ðức Phật gọi đó là làm bạn với thiện. Ðức Phật nói: Với những người đầy đủ giới đức, thì học tập đầy đủ giới đức. Với những

người đầy đủ bố thí, thì học tập đầy đủ bố thí. Với những người đầy đủ trí tuệ, thì học tập đầy đủ trí tuệ".

(Tăng Chi III, trg 121)

4) Cuối cùng, Phật khuyên gia chủ hãy biết sống một nếp sống thăng bằng, điều hòa, không đam mê đàn bà, không đam mê rượu chè, không đam mê cờ bạc,

không giao du với bọn ác". Ðức Phật ví bốn điều cấm kỵ

Page 39: ăN một miếng không cần ăn, tức là chiếm đoạt phần ăn đó của người khác. trên tinh thần đó, người phật tử nên tránh và phê phán những

39

38

trên đây như bốn cái cửa, nếu mở ra thì tài sản bị thất tán hết, nhưng biết đóng lại, tức là: "không đắm say đàn bà, không đắm say rượu chè, không đắm say cờ bạc, lại biết giao du với người thiện lành", thì tài sản

trong nhà sẽ ngày càng dồi dào, phong phú. (Tăng Chi III, trg 118)

Ðược Ðức Phật giải thích về lợi ích sống theo năm giới như vậy, quý vị hãy cùng với chúng tôi tìm hiểu nội

dung của năm giới như thế nào, và chúng ta, những con người sống trong thời đại hiện nay, nên nhận thức năm

giới như thế nào?

Nhận thức nội dung năm giới, trong hoàn cảnh hiện nay

1) Giới sát sinh:

Ðứng đầu năm giới là giới sát sinh, yêu cầu mọi người chớ có tự tay mình giết hay bảo người khác giết. Ngược lại, yêu cầu phải trân trọng giá trị thiêng liêng của sự sống, đối với loài người cũng như mọi loài. Bảo vệ, tôn

trọng, nâng cao giá trị của sự sống, đó là một khái niệm trung tâm của đạo đức Phật giáo. Cống hiến lớn của đạo Phật là coi trọng mọi dạng sống, chứ không phải chỉ riêng dạng sống loài người. Ðức Phật lên án mọi

hình thức hủy hoại sự sống, khi còn tại thế Ðức Phật lên án tập tục tế đàn của đạo Bà la môn, vì giết để cúng thần hàng chục, hàng trăm dê, cừu, bò một lần. Ðức

Phật cũng phê bình thú vui săn bắn của vua chúa. Và lẽ tất nhiên, Ðức Phật phản đối chiến tranh dưới mọi hình thức, trừ trường hợp khi cả một dân tộc, một quốc gia bị xâm lăng và phải tự vệ. Ở Việt Nam, những ông vua Phật tử như Lý Thái Tổ, Lý Thánh Tông, Lý Nhân Tông, Trần Thái Tông và Trần Nhân Tông đã lãnh đạo cuộc

kháng chiến của toàn dân chống lại các cuộc xâm lăng của quân đội, của nhà Tống và nhà Nguyên. Tuy nhiên,

do luật nhà Phật quy định, đã là tu sĩ, đã xuất gia thì không được cầm vũ khí. Muốn cầm vũ khí ra trận, người

Page 40: ăN một miếng không cần ăn, tức là chiếm đoạt phần ăn đó của người khác. trên tinh thần đó, người phật tử nên tránh và phê phán những

40

39

tu sĩ phải hoàn tục, làm cái việc mà trong sách thường nói: "Cởi áo cà sa, khoác áo chiến bào".

Giới luật nhà Phật đối với tu sĩ xuất gia bao giờ cũng nghiêm ngặt hơn là đối với người tại gia. Trong thời đức Phật còn tại thế ở Ấn Ðộ, tăng sĩ khất thực hằng ngày

để sống, do đó, trong luật có quy định, Tu sĩ không được đốn cây, phá cây, đào đất, vì làm như vậy có thể

giết hại các loài sinh vật nhỏ. Kinh tạng Pali nói tới những dạng sống thô sơ (ekindriya jiva, hay sappanaka uda) sống trong các loài cây, cỏ và cả ở trong nước và đất. (Trong các bộ luật (Vinaya Pitaka cuốn III trg 126 và Vinaya cuốn 14 trg 125) đều có những quy định cụ

thể và chi tiết như vậy).

Ðó là sự thể hiện của lòng từ bi của Ðức Phật, một lòng từ lòng bi bao quát tất cả mọi dạng sống trên trái đất này, dù là lớn hay nhỏ, mắt thấy được hay không thấy được, như đã nói trong Kinh Từ bi thuộc Kinh tạng Pali:

" Loài được thấy, không thấy,Loài sống xa, không xa

Các loài hiện đang sống,Các loài sẽ được sanh

Mong mọi loài chúng sanhSống hạnh phúc an lạc.

... Hãy tu tập từ tâm,Trong tất cả thế giới,

Hãy tu tập tâm ý,Không hạn lượng rộng lớn.

Phía trên và phía dưới.Cũng vậy cả bề ngang,

Không hạn chế, trói buộc,Không hận, không thù địch.

Như tấm lòng người mẹ,Ðối với con của mình,Trọn đời lo che chở,

Con độc nhất của mình.Cũng vậy đối tất cả,

Page 41: ăN một miếng không cần ăn, tức là chiếm đoạt phần ăn đó của người khác. trên tinh thần đó, người phật tử nên tránh và phê phán những

41

40

Các hữu tình chúng sanhHãy tu tập tâm ý

Không hạn lượng rộng lớn".

(Tập Kinh Kinh Từ Bi trg 25)

Ðức Phật cho rằng từ bi là tráng thái tâm thức tốt đẹp nhất ở thế gian này, và khuyến cáo học trò mình, tất cả

mọi Phật tử dù là đi, đứng hay, nằm ngồi, đều an trú niệm của mình ở lòng từ, lòng bi không hạn lượng đó.

Trong Kinh tạng Pali, Ðức Phật thường hay khuyên cáo các Tỷ kheo đệ tử Phật hãy chăm tu tập bốn vô lượng tâm, tức là các tâm từ, bi, hỷ, xả, mở rộng không hạn

chế cho tất cả các loài hữu tình ở khắp bốn phương, dù nhỏ, hay lớn, thấy được hay không thấy được, đều bao quát trong bốn tâm từ, bi, hỷ, xả rộng lớn vô biên đó.

Mãi gần đây, phương Tây mới lập ra môn học mới gọi là "Ðạo đức học môi trường" (environnmental ethics), đặt vấn đề bảo vệ cây cỏ, nước, không khí và các loài vật. Ðó là một bước đáng khen của khoa học Tây phương tiếp cận thuyết từ bi rộng lớn của đạo Phật. Nhà Phật

học Nhật Bản Hajime Nakamura viết rằng:

"Theo đạo Phật, người chỉ là một loài hữu tình, không có quyền, khai thác bừa bãi không có hạn chế các loài động vật thực vật, cũng là một bộ phận của Thiên

nhiên" (Hajime Nakamura - Encyclopedia of Bioethics - Tập I.Free Press. New York. trg 371)

Nhà Phật học Nakamura viết tiếp: "Một trong những đặc sắc nổi bật của tư tưởng Phật giáo là một nếp sống hài

hòa với thiên nhiên, một nếp sống an lạc trong một cảnh trí thiên nhiên tươi đẹp, thanh tịnh, đầy thẩm mỹ

và đạo vị". (Sách đã dẫn, trg 371)

Chắc quý vị có thể thắc mắc là làm sao kết hợp được thuyết từ bi của đạo Phật với yêu cầu của khoa học nông nghiệp hiện đại, dùng hàng loạt thuốc trừ sâu,

thuốc diệt cỏ, phân hóa học để bảo vệ mùa màng, tăng

Page 42: ăN một miếng không cần ăn, tức là chiếm đoạt phần ăn đó của người khác. trên tinh thần đó, người phật tử nên tránh và phê phán những

42

41

sản lượng nông nghiệp v.v... Ðúng là khoa học nông nghiệp hiện đại có những thành tựu nhất định trong

việc bảo vệ mùa màng, diệt trừ sâu cắn lúa và cỏ dại, và tăng năng suất và sản lượng ngũ cốc một cách đáng kể. Nhưng, chúng ta cũng không được quên hậu quả tai hại lâu dài của việc lạm dụng phân hóa học, thuốc trừ sâu và thuốc diệt cỏ. Ðất, nước, bị ô nhiễm trên một diện rộng lớn, đất đai màu mỡ trước kia ngày càng bị cằn cỗi, thành phần hóa học và sinh vật trong đất bị mất cân đối. Nước sông nước biển cũng bị ô nhiễm

nghiêm trọng, thậm chí tại một số vùng, nhiều sông, hồ, ao không còn có thể nuôi sống cá, tôm, cua và bất cứ một loài thủy sản nào khác! Mãi gần đây, các nhà khoa học nông nghiệp mới bắt đầu tỉnh ngộ và gióng

tiếng chuông báo động, yêu cầu trở lại dùng phân sinh vật, cấm không dùng thuốc trừ sâu và thuốc diệt cỏ trên quy mô lớn. Nói chung khoa học nông nghiệp

phương Tây đang có xu hướng rõ rệt, bảo vệ duy trì cân bằng sinh thái trong đất và nước, cây cỏ, nhằm tạo ra một năng xuất ổn định, cung cấp một số lượng nông

phẩm có thể ít hơn, nhưng chất lượng dinh dưỡng cao hơn.

Một thắc mắc thứ hai quý vị có thể nêu lên về giới sát sinh là ăn thịt cá, có mâu thuẫn với thuyết từ bi của đạo

Phật hay không?

Quý vị đều biết rõ là trong thời đức Phật tại thế, Ðức Phật không có yêu cầu tu sĩ không được ăn thịt, cá. Thí chủ cúng dường gì thì ăn nấy, dù là thịt, cá, trứng đều

có thể dùng không phân biệt. Hiện nay, ở các nước theo Phật giáo Nam tông, như Campuchia, Lào, Thái lan, Sri Lanka tăng sĩ vẫn theo truyền thống đó của đạo Phật,

nhưng họ chỉ ăn mỗi ngày một bữa, nếu quá ngọ thì họ không ăn nữa. Trái lại, ở các nước theo Phật giáo Bắc tông như Việt Nam, Trung Quốc có một số lớn tăng sĩ ăn trường trai, nhưng ăn nhiều bữa. Ở các xứ như Tây Tạng, Mông Cổ, tuy là theo Phật giáo Bắc tông, nhưng

Page 43: ăN một miếng không cần ăn, tức là chiếm đoạt phần ăn đó của người khác. trên tinh thần đó, người phật tử nên tránh và phê phán những

43

42

tăng sĩ ở đấy vẫn ăn mặn. Một bộ phận lớn của Tăng sĩ Nhật Bản và Triều Tiên cũng ăn mặn.

Tại sao như vậy? Ðức Phật là một giáo chủ rất thực tế. Ngài biết rằng, trên thế giới có những vùng, trong năm có nhiều tháng tuyết bao phủ khắp nơi, cây cỏ không

mọc được, thì tăng sĩ ăn chay thế nào được.

Vì vậy, đạo Phật đề ra thuyết thịt trong sạch. Thịt có thể ăn được, nếu mình không chứng kiến, không nghe biết con vật bị giết thịt, cũng biết rõ, con vật đã không

bị giết thịt để cho mình ăn. Thịt như vậy gọi là thịt trong sạch và có thể ăn được.

Tất nhiên, ở những nơi nào, với người nào có điều kiện ăn chay và cảm thấy ăn chay ngon, có lợi thật sự cho sức khỏe, thì nên ăn chay. Vấn đề này không nên áp

đặt, mà nên tùy theo hoàn cảnh và sở thích từng người mà giải quyết hợp lý. Theo đạo Phật, không phải ăn

chay là sẽ được giải thoát, cũng không phải ăn mặn thì sẽ phải luân hồi sanh tử. Vấn đề là ở lòng tham hay không tham. Có người ăn thịt mà không tham, lại có

người ăn chay mà tham. Tham ăn, cũng như tham sắc, danh, tiền, ngủ nghỉ đều dẫn tới luân hồi sanh tử.

Không tham thì được giải thoát, trước mắt là giải thoát khỏi phải ràng buộc với những điều mình ham thích.

Thân tâm nhờ đó mà được nhẹ nhàng, thoải mái.

Kính thưa quý vị!

Mặc dù quý vị không ăn chay trường, chỉ ăn chay trong những ngày nhất định, nhưng quý vị hãy bồi dưỡng cho mình và con cháu mình lòng thương yêu đối với loài vật, nhất là những động vật đáng thương, đáng quý, lại có ích như con chó, con mèo, con bò, con ngựa v.v... Quý vị và con cháu, bạn bè quý vị hãy học cho được, tu tập

cho được tâm trạng từ bi, mà trong Kinh Từ bi, Ðức Phật đề cao như là tâm trạng tốt nhất trong cõi thế này.

Với tâm trạng ấy, được duy trì và bồi dưỡng trong mỗi giây phút của đời sống quý vị, thì có thể đảm bảo chắc

Page 44: ăN một miếng không cần ăn, tức là chiếm đoạt phần ăn đó của người khác. trên tinh thần đó, người phật tử nên tránh và phê phán những

44

43

chắn hạnh phúc đời này và đời sau sẽ đến với quý vị, không tách rời quý vị, không khác gì bóng đi theo hình, âm vang không rời tiếng, bánh xe lăn theo bước chân

con bò kéo xe:

"Ý dẫn đầu các phápÝ làm chủ, ý tạo.

Nếu với ý thanh tịnh,Nói lên hay hành độngAn lạc bước theo sau

Như bóng không rời hình

(Kinh Pháp Cú, Kệ 1 và 2)

Tâm ý thanh tịnh, trong Kinh pháp Cú, chính là tâm từ, tâm bi mà đức Phật ca ngợi như là cái tâm trạng tốt đẹp

nhất trên thế gian này.

Có lần, Ðức Phật thuyết pháp cho ông Cấp Cô Ðộc (Anathapindika) về công đức của bố thí. Ðức Phật nói, bố thí, cúng dường, cho Ðức Phật và Tăng chúng thì có công đức rất lớn. Nhưng có công đức lớn hơn là xây một tu viện cho Tăng chúng. Có công đức lớn hơn xây dựng tu viện là thọ tam quy, quy Phật, Pháp, Tăng. Có công đức hơn thọ tam quy là giữ năm giới. Có công đức hơn giữ năm giới là giữ tâm niệm từ bi, dù chỉ là trong giây

phút. Nhưng có công đức hơn tất cả là quan sát sâu sắc đạo lý vô thường của sự vật". (Xem Tăng Chi IV trg 264

- 265)

Trong đoạn văn trên, chúng tôi thấy rất rõ là Ðức Phật hết sức coi trọng việc tu tập lòng từ, lòng bi và giữ năm giới. Nếu làm như trong Kinh Từ bi, nếu cả đời chúng ta đi, đứng, nằm, ngồi, chúng ta cũng đều giữ một niệm từ bi, thật sự thương xót mọi người, mọi loài, thì công đức của chúng ta sẽ là vô lượng vô biên. Mà lòng từ, ở mức thấp nhất chính là không sát sinh, không giết hại, và

không khuyến khích giết hại.

Còn mặt tích cực của giới không sát sinh là gì? Xưa nay, chúng ta thường hiểu một cách hạn hẹp mặt tích cực

Page 45: ăN một miếng không cần ăn, tức là chiếm đoạt phần ăn đó của người khác. trên tinh thần đó, người phật tử nên tránh và phê phán những

45

44

của giới không sát sinh là phóng sanh, là vào những ngày lễ hội lớn, tổ chức mua cá đem thả lại xuống sông,

mua chim nuôi ở lồng rồi đem thả cho bay đi tự do... Chúng tôi không phản đối gì những cử chỉ tốt đẹp, có giá trị biểu trưng như vậy. Nhưng chúng tôi muốn đề

nghị một nhận thức rộng rãi hơn về thế nào là mặt tích cực của giới sát sinh. Ðó là quý trọng, bảo vệ, làm

phong phú thêm, nâng cao chất lượng của sự sống ở mọi cấp, trong tất cả mọi hình thức. Nếu hiểu như thế thì tham gia các phong trào chống chiến tranh, bảo vệ hòa bình, chống bạo loạn và bạo hành, khuyến khích hòa hợp và đối thoại trong phạm vi quốc tế, khu vực, quốc gia, địa phương đều là thể hiện mặt tích cực của

giới không sát sinh. Ðồng thời, tham gia cuộc vận động bảo vệ môi sinh trong phạm vi quốc tế, khu vực, quốc

gia, địa phương, cho tới quận, phường, khu phố... Bởi lẽ bảo vệ môi trường sống, cũng tức là bảo vệ sự sống, nâng cao chất lượng sống. Chúng tôi hiểu môi trường sống không chỉ hạn chế ở không khí, đất và nước, mà còn bao gồm cả lối sống, tập quán sống, vệ sinh hay

phản vệ sinh, đầu độc xã hội hay là làm lành mạnh hóa xã hội của cá nhân chúng ta từng gia đình chúng ta.

Chúng tôi rất mong cho mỗi chùa, thiền viện Phật giáo, thậm chí cho tới mỗi gia đình Phật tử đều sẽ là những

trung tâm lớn hay nhỏ của đạo đức Phật giáo, được thể hiện trong nếp sống hằng ngày, là những trung tâm của

lòng từ, bi, hỷ, xả, những trung tâm đoàn kết và hòa hợp, những trung tâm của một lối sống giản dị, lành

mạnh và đức hạnh. Kính thưa quý vị! Ðó chính là bảo vệ sự sống và nâng cao chất lượng sống. Ðó chính là mặt

tích cực của giới sát sinh.

Nếu văn minh phương Tây tạo ra những mẫu người sống ngăn cách và cô độc, "đèn nhà ai rạng nhà ấy", thì

văn minh phương Ðông và đặc biệt là văn minh Phật giáo phải tạo ra những mẫu người biết sống hòa hài với mọi người, quan tâm tới mọi người, thông cảm sâu sắc

Page 46: ăN một miếng không cần ăn, tức là chiếm đoạt phần ăn đó của người khác. trên tinh thần đó, người phật tử nên tránh và phê phán những

46

45

và chân tình với niềm vui cũng như nỗi khổ của mọi người.

2) Giới không lấy của không cho.

Thuộc phạm vi giới này, không phải chỉ là những hành vi trộm cắp lộ liễu, mà còn gồm cả những hành vi như

buôn lậu, tham nhũng, lừa đảo, lật lọng trong buôn bán để kiếm những món lời bất chính, lạm dụng hay chiếm

dụng của công v.v...

Ở các nước công nghiệp phát triển và một số các nước khác, việc khai thác bừa bãi tài nguyên thiên nhiên, đặc

biệt là loại tài nguyên không thể phục hồi được, như quặng kim loại, dầu mỏ, hay là khó phục hồi như rừng gỗ, loài động vật hiếm phải được kết tội như là những

hành vi chiếm đoạt tài sản của hậu thế.

Thánh Gandhi nói "Ăn một miếng không cần ăn, tức là chiếm đoạt phần ăn đó của người khác". Trên tinh thần đó, người Phật tử nên tránh và phê phán những cuộc ăn nhậu, tiệc tùng lãng phí, những bữa ăn đáng lẽ để cho

20 người ăn, nhưng chỉ có ba, bốn người ăn mà thôi. Ðó là khoe khoang, đó là lãng phí, đó là thiếu lòng trắc ẩn

đối với những người nghèo, người đói, ở trong nước cũng như trên thế giới. Chúng ta nên nhớ rằng, ăn một

miếng không cần ăn, thì miếng ăn đó sẽ trở thành thuốc độc, đầu độc cơ thể, sinh ra lắm chứng bịnh. Ðó

là loại bệnh của người ăn no: bệnh đường ruột, bệnh dạ dày, các loại bệnh tiêu hóa, bệnh huyết áp, bệnh béo

bệu và bao nhiêu thứ bệnh khác nữa.

Mặt tích cực của giới không lấy của không cho là:

a) Sống trung thực, lương thiện, tuyệt đối không xâm phạm tới tài sản, của cải của người khác, dù là cây kim,

sợi chỉ.

b) Sống biết đủ, bằng lòng với số tài sản của mình, có được nhờ lao động của bản thân, không nghĩ cách làm

Page 47: ăN một miếng không cần ăn, tức là chiếm đoạt phần ăn đó của người khác. trên tinh thần đó, người phật tử nên tránh và phê phán những

47

46

giàu thêm bằng những lối làm ăn lừa lọc, không chính đáng, phi đạo đức. Cần chú ý là, đạo Phật không phản đối làm giàu, nếu đấy là làm giàu chính đáng. Ðức Phật từng nói với ông Cấp Cô Ðộc rằng, người giàu có những niềm vui như là có được của cải, do lao động của mình

tạo ra, có được của cải để làm việc thiện, có của cải cho nên không phải nợ nần. Nhưng Ðức Phật kết luận là

những niềm vui đó, tuy chính đáng, nhưng vẫn thua xa niềm vui của một người sống thiện, không hề bị lương

tâm khiển trách. (Xem Tăng Chi IV 264 - 265)

c) Sống mà biết bố thí luôn luôn và sẵn sàng giúp đỡ người khác trên mọi mặt. Bố thí có nhiều loại: Tài thí là giúp đỡ người thiếu thốn bằng của cải vật chất. Ðó là

hình thức bố thí phổ thông nhất. Pháp thí là giảng pháp cho những người chưa được biết Phật pháp. Ðó là loại bố thí được Ðức Phật ca ngợi là bậc nhất. Pháp thí là

đem điều thiện, điều phải, điều hay, đẹp mình học được từ Phật pháp chia xẻ với người khác cùng biết và được

lợi như mình.

Có người hiểu một cách hạn hẹp chỉ có tăng sĩ mới làm việc pháp thí. Không phải vậy, Tăng sĩ thuyết pháp là

một hình thức của pháp thí. Nếu có một vị nào đó trong giảng tòa này, đem nội dung bài giảng của chúng tôi ngày hôm nay phổ biến lại cho gia đình, con cái, bạn bè, thân hữu, như vậy thưa quý vị, cũng là pháp thí.

Dùng mọi hình thức để phổ biến Phật pháp, đó là pháp thí. Thuyết pháp hằng giờ như chúng tôi ngày hôm nay là pháp thí đã đành, giảng giải lại cho một người khác nghe chỉ một lời Phật dạy mà thôi cũng là pháp thí. Ở

đoạn trên, tôi có nhắc lại một lời Ðức Phật nói một niệm quán vô thường,công đức còn lớn hơn là cúng dường Phật và Tăng chúng, lớn hơn cả xây chùa và tu viện,

hơn cả thọ tam quy, ngũ giới v.v...

Vì vậy, chúng tôi khuyến cáo các vị ít nhất cũng tìm hiểu đạo lý vô thường, là một trong ba pháp ấn của đạo

Phật, và giảng giải cho mọi người biết về đạo lý vô

Page 48: ăN một miếng không cần ăn, tức là chiếm đoạt phần ăn đó của người khác. trên tinh thần đó, người phật tử nên tránh và phê phán những

48

47

thường đó. Công đức của các vị thực là lớn lao vô cùng. Vì sao? Vì chỉ khi nào hiểu được đạo lý vô thường, thì

mới dứt bỏ được lòng tham, lòng sân, lòng si, mở được cửa vào cảnh giới Niết Bàn an lạc. Cảnh giới Niết bàn, là

cảnh giới không tham, không sân, không si. Mà muốn không tham, sân và si thì phải hiểu sâu sắc đạo lý vô

thường.

Hình thức bố thí thứ ba là vô úy thí. Bảo vệ, che chở, an ủi những người bất hạnh, gặp nạn, thân cô, thế cô, đó

là vô úy thí, tức là bố thí sự không sợ hãi.

Tùy hỷ thí là chia xẻ niềm vui của người khác. Mặt trái của tùy hỷ thí là lòng ganh ghét, đố kỵ, không có lòng

hoan hỷ đối với sự thành đạt của người khác. Trong bốn vô lượng tâm được nói tới trong Kinh tạng Pali,

có tâm hỷ. Ðó chính là hạnh tùy hỷ, sẵn sàng chia xẻ niềm vui của tất cả mọi người, mọi chúng sanh. Lòng hỷ (tùy hỷ) bao giờ cũng đi kèm với lòng từ. Bởi vì lòng từ

chính là lòng sẵn sàng đem lại niềm vui cho người khác. Mà chia xẻ niềm vui cũng tức là cung cấp niềm vui,

đem lại niềm vui.

Trong sách Phật, còn nói tới một hình thức bố thí nữa, gọi là cung kính thí, tức là thái độ khiêm tốn, bày tỏ

lòng kính trọng đối với mọi người, dù là người kém tuổi mình, không có địa vị xã hội bằng mình. Thái độ kiêu căng ngạo mạn là một thái độ không thể chấp nhận được trong đạo Phật. Vì dưới con mắt đức Phật, mọi

chúng sanh đều có Phật tính, đều có khả năng thành Phật, cho nên đều bình đẳng. Hơn nữa, mình có kính

trọng người ta, thì người ta mới kính trọng mình. Ðó là thái độ có đi có lại trong cuộc sống, là quy luật tự

nhiên.

3) Giới không tà dâm:

Con người hay từ cực đoan này nhảy sang một cực đoan khác. Có người cười nhạo đồ đệ của Khổng tử

Page 49: ăN một miếng không cần ăn, tức là chiếm đoạt phần ăn đó của người khác. trên tinh thần đó, người phật tử nên tránh và phê phán những

49

48

là "nam nữ thọ thọ bất thân" nhưng con người hiện đại lại lún sâu vào một cực đoan khác tức là cuộc sống tình dục không hạn chế, mà những ảnh hưởng tiêu cực đã

bộc lộ phổ biến: gia đình tan nát, tỷ lệ ly dị cao, dẫn tới tình cảnh trẻ con sống bơ vơ, thiếu tình cảm, không

được giáo dục, cho nên tỷ lệ thanh thiếu niên phạm tội ngày càng nhiều, số thanh niên nghiện ngập, hút xách, mua bán dâm bừa bãi ngày càng đông. Một trong hậu quả tai hại nhất của lối sống tình dục bừa bãi là bệnh Sida, mà sự xuất hiện và lan tràn mau chóng là mối lo chung cho cả nhân loại, bởi vì đó là một chứng bệnh

hiện nay xem như là không chữa trị được.

Trong một bối cảnh xã hội và thế giới như vậy, tầm quan trọng của giới thứ ba, giới không tà dâm của đạo Phật càng nổi bật lên, như một nhu cầu bức xúc hàng

đầu.

Chúng ta cần nhớ rằng, nhân loại từ tình trạng dã man chuyển sang tình trạng văn minh là nhờ có thiết chế gia đình. Tình thương của người mẹ đối với con cái đóng vai

trò lớn trong sự ổn định thiết chế gia đình. Con người cảm thấy được an ủi, bớt cô độc, được bước đầu giáo

dục về tình thường đồng loại, trong cánh tay ôm ấp của người mẹ, trong tiếng ru con của người mẹ.

Thế nhưng nếp sống tình dục bừa bãi của con người hiện đại đã phá hoại thiết chế gia đình đó của con người, khiến cho con người tuy không phải quay lại

cuộc sống man dã,thì cũng sống phi đạo đức, mất hết tính người. Ðó là điều đáng sợ, nhưng phải nói ra,

không nói không được. Chỉ có loài vật mới quan hệ tình dục bừa bãi. Nhưng con người cũng bắt đầu quan hệ

tình dục bừa bãi như vậy, lại còn phô trương trên màn ảnh một cách công khai, không chút xấu hổ e thẹn.

Kính thưa quý vị!

Ðó chính là cái vòng luẩn quẩn của con người gọi là văn minh, gọi là hiện đại. Cảm thấy sống làm người là khổ,

Page 50: ăN một miếng không cần ăn, tức là chiếm đoạt phần ăn đó của người khác. trên tinh thần đó, người phật tử nên tránh và phê phán những

50

49

thì lại đâm đầu xuống sống không ra con người nữa để rồi cảm thấy đau khổ hơn. Nhưng đạo Phật đã vạch cho con người chúng ta một lối thoát ra khỏi cuộc sống đau

khổ hiện tại, là lối sống đạo đức, hướng thượng theo năm giới, mười thiện, lối sống tránh cả hai cực đoan: đam mê dục vọng tầm thường, cũng như sống ép xác

khổ hạnh.

Ðối với người xuất gia, đạo Phật yêu cầu một cuộc sống phạm hạnh, từ bỏ mọi hình thức dâm dục. Ðấy không

phải là khổ hạnh. Ðấy là yêu cầu tối thiểu của một cuộc sống thật sự giải thoát, hướng tới sự giác ngộ hoàn thiện. Nhưng đối với người Phật tử tại gia, đạo Phật

không đặt yêu cầu cao như vậy. Ðạo Phật chỉ yêu cầu họ có quan hệ tình dục chính đáng, với người chồng, người vợ chính thức của mình. Quan hệ vợ chồng là

quan hệ vừa có tình, vừa có nghĩa, là trụ cột của mọi quan hệ khác trong gia đình, như quan hệ cha mẹ và

con cái, quan hệ anh, chị em, và rộng hơn nữa là quan hệ họ hàng thân thuộc. Trụ cột mà vững vàng, lành

mạnh thì mọi quan hệ khác trong gia đình cũng sẽ vững vàng và lành mạnh theo. Mà quan hệ gia đình ổn định, lành mạnh, lại là cơ sở của một xã hội ổn định và lành

mạnh. Giữ đúng giới "không tà dâm", người chồng, người vợ, người cha, người mẹ đóng vai trò rất lớn, có thể nói là quyết định trong sự nghiệp làm lành mạnh, và ổn định xã hội, cũng như giáo dục và bồi dưỡng thế

hệ tương lai.

4) Giới không nói dối

Tức là giới cấm vọng ngữ. Ðối với đạo Phật, nói dối tai hại trên nhiều mặt. Thứ nhất, nói dối ảnh hưởng tiêu

cực đến sự ổn định xã hội. Nói dối phá hoại sự ổn định đó. Con người chỉ có thể sống chung với nhau trong

một bầu không khí tin cậy lẫn nhau, tin cậy rằng, trong giao tiếp, mọi người đều nói thật. Nếu mọi người đều nói dối, thì đó là dấu hiệu của xã hội giải thể và tan

Page 51: ăN một miếng không cần ăn, tức là chiếm đoạt phần ăn đó của người khác. trên tinh thần đó, người phật tử nên tránh và phê phán những

51

50

rã. Thứ hai, trên bình diện cá nhân, nói dối có tác dụng tai hại là phản ứng dây chuyền. Nghĩa là, lời nói dối này

kéo theo lời nói dối khác rồi một lời nói dối khác nữa, còn nghiêm trọng hơn, cho tới khi bản thân mình cũng bị bao bọc bởi tấm màn dối trá do mình tạo ra. Một con người như thế ngày càng tách rời xa đích giải thoát và giác ngộ, ngày càng sa đọa vào vòng tội lỗi, khó gỡ ra được. Một người đã sống không thật với người khác, và với bản thân mình, thì sẽ không bao giờ tìm tới sự thật,

chứ đừng nói chứng ngộ sự thật.

Trong Kinh "Giáo giới La Hầu La tại rừng Am Bà La" (Trung bộ Kinh II, trg 122), đức Phật để lại trong chậu

một ít nước và bảo La Hầu La rằng:

"Này La Hầu La, ngươi có thấy một ít nước còn lại trong chậu không?"

"Thưa có, bạch Thế Tôn."

"Cũng ít vậy, này La Hầu La là đức hạnh Sa môn của những người nào biết mà vẫn nói dối, nói dối mà không

có xấu hổ".

Rồi Ðức Phật hắt chút ít nước trong chậu đi, lật úp chậu lại rồi lật ngửa chậu ra và nói:

"Này La Hầu La, người có thấy chậu nước này trống không hay không?".

"Thưa có, bạch Thế Tôn".

"Cũng trống không như vậy, này La Hầu La là hạnh Sa môn của người biết mà nói dối, không xấu hổ."

Rồi ở một đoạn sau của Kinh, Ðức Phật lại khẳng định:

"Này La Hầu La, đối với ai biết mà nói dối, không có xấu hổ, thời Ta nói rằng, người ấy không có việc gì ác mà

không làm. Do vậy, này La Hầu La, ta quyết không nói dối, dù là nói để mà chơi. Như vậy, này La Hầu La,

ngươi phải học tập"

Page 52: ăN một miếng không cần ăn, tức là chiếm đoạt phần ăn đó của người khác. trên tinh thần đó, người phật tử nên tránh và phê phán những

52

51

Kính thưa quý vị!

Rất mong quý vị, về gia đình, cũng dậy dỗ con cháu mình như vậy, nghĩa là tuyệt đối không nói dối, dù là

nói để mà chơi. Hiện nay, người ta nói dối với nhau một cách quá dễ dàng. Trong nhà, người mẹ muốn dỗ con nín, không khóc, cũng nói dối. Cha mẹ, muốn đi chơi

với nhau một mình, không cho con đi theo cũng nói dối. Chủ nhà mời khách ăn cơm, cũng là mời để mời, chứ

không muốn mời. Khách tuy chưa ăn cơm ở nhà, nhưng để từ chối một lời mời không thật của chủ nhà cũng nói

dối: "Xin lỗi, tôi đã vô phép rồi".

Người ta gọi đó là nói dối theo phép lịch sự. Thế nhưng, thưa quý vị, phép lịch sự, theo đúng nghĩa của nó chính là không nói dối. Nhất là cha mẹ đối với con cái còn nhỏ, lại càng không nên nói dối. Bởi vì, không nên coi thường trẻ con. Chúng nó biết hết. Một ngày, chính chúng nó sẽ nói dối lại với cha mẹ, với bạn bè, như chúng ta đã nói dối với chúng. Cho nên, thà để cho chúng khóc cũng

không sao. Khóc một chút cũng như tập thể thao, càng khỏe phổi.

Tất nhiên, có những trường hợp, chúng ta không thể nói sự thật được. Nhưng không nói sự thật được thì hãy im lặng, chứ đừng có nói dối. Nói dối cũng như ăn vặt, sẽ

quen mồm và gây tác hại không nhỏ.

Người Phật tử không những không được nói dối, mà còn không được nói lời chia rẽ, gây hiện tượng mất đoàn

kết. Trái lại, người Phật tử bao giờ cũng nói lời hòa hợp, để đoàn kết lại những người vốn bị chia rẽ, và tăng

cường đoàn kết hơn nữa, đối với những người vốn đã hòa hợp.

Ðộng cơ xấu nói chia rẽ có thể là lòng hận thù, ganh tị đối với sự thành công của người khác, là tâm ác muốn gây đau khổ cho người mà mình không ưa, muốn cho những người khác xung đột nhau, mâu thuẫn nhau,

hiểu lầm nhau.

Page 53: ăN một miếng không cần ăn, tức là chiếm đoạt phần ăn đó của người khác. trên tinh thần đó, người phật tử nên tránh và phê phán những

53

52

Khi lời nói xấu, nói chia rẽ đồng thời cũng là lời nói dối, thì hai tội nói dối và nói chia rẽ cộng lại tạo ra nghiệp ác

nghiêm trọng, có thể quyết định người phạm giới tái sinh vào cõi ác, cõi khổ.

Mặt tích cực của giới không nói chia rẽ là nói lời hòa hợp, xuất phát từ động cơ lòng từ, lòng bi. Theo sách Phật, người nói lời hòa hợp thường có nhiều bạn trung

thành với mình, ở đời này cũng như ở đời sau.

Người Phật tử, không những không nói dối, nói chia rẽ, mà cũng không được nói lời ác độc, khó nghe, làm đau lòng người khác. Kích bác người khác với lời chua cay, chửi rủa, mắng nhiếc người hay là chế nhạo người với lời thâm độc đều là những điều ác về lời nói, mà người Phật tử nhất định không phạm, dù là mình có bị trái ý, không bằng lòng. Trong mọi trường hợp, người Phật tử phải biết kiên nhẫn, lại biết thông cảm với những yếu

kém của người khác.

Người Phật tử biết nói đúng thời, đúng lúc, nói lời có ích, tránh nói nhảm nhí, nói lời vô nghĩa. Ðối với người

xuất gia, đức Phật thường dặn là chỉ nên nói những lờiđúng sự thật, có lợi lạc đối với người nghe, những lời

có liên hệ đến pháp và luật của đạo Phật, những lời hướng tới giác ngộ và giải thoát. Lời nói của vị tu sĩ phải

có giá trị như là vàng bạc, châu báu đem tặng người nghe, mà lại tặng đúng lúc, đúng thời.

Người Phật tử tại gia có học Phật, cũng nên tranh thủ nói với mọi người những lời nói có ích, có đạo lý, những

lời nói khiêm tốn, lịch sự, dễ nghe, dễ thấm vào lòng người. Người Phật tử có học Phật, cũng phải tranh thủ nói pháp, pháp thí dù là với một người, hai người cho

đến số đông người.

5) Giới không uống rượu và các chất say khác.

Tác hại của rượu thì ai cũng biết, nhưng ai cũng uống. Ngay ở nước ta cũng vậy. Uống rượu, uống bia trở

Page 54: ăN một miếng không cần ăn, tức là chiếm đoạt phần ăn đó của người khác. trên tinh thần đó, người phật tử nên tránh và phê phán những

54

53

thành một cái mốt, một thứ thời thượng, không thể thiếu trong tất cả bữa tiệc nhỏ hay lớn, dù là tiệc gia

đình.

Trên báo chí, tỷ lệ tai nạn giao thông, các vụ tội phạm do say rượu cũng tăng lên tới mức báo động. Thanh thiếu niên ở nước ta uống rượu và hút thuốc lá rất

nhiều, xem đó như là một dấu hiệu của tuổi lớn và lỗi đời.

Các cuộc thí nghiệm khoa học cho thấy, rượu làm nóng cơ thể, chứ không cung cấp được chất dinh dưỡng nào

cho cơ thể. Phần lớn rượu hay bia uống vào đều bốc thành hơi. Chúng ta đứng gần người uống rượu như bị hơi rượu phả vào mặt. Ðiều này chứng tỏ, rượu hay bia uống vào bị đốt cháy trong cơ thể rồi bốc thành hơi tỏa ra ngoài, không có lợi gì cho việc nuôi dưỡng và tái sinh

các tế bào.

Mặc dù rượu uống với liều lượng ít có khả năng kích thích thần kinh, và có thể dùng làm thuốc, thế nhưng

nếu uống nhiều, uống hằng ngày thì lợi bất cập hại, tuy rằng không uống đến mức độ say. Một tờ tạp chí Y học

của Anh cho biết, người uống bia hằng ngày có nguy cơ bị ung thư đường ruột gấp 12 lần người không uống bia.

Phụ nữ có thai mà uống rượu, thì dễ bị đẻ non và đau màng óc. Uống rượu cũng gây tác hại đến tế bào óc, dù

là đối với người lớn.

Vì tất cả những lý do trên, cho nên đạo Phật xem giới cấm rượu là một trong năm giới cơ bản.

Trong Kinh Thiện sanh (Sigalovadasutta), Phật tuyên bố nghiện rượu là một trong sáu nguyên nhân làm cho tan

cửa nát nhà.

Ðức Phật nói: "Này gia chủ, đam mê các loại rượu có sáu nguy hiểm. Tài sản bị tổn thất, hay gây tranh cãi, mắc nhiều bệnh tật, danh dự thương tổn, quần áo hở

hang để lộ âm tàng, trí lực bị tổn hại. Này Gia chủ,

Page 55: ăN một miếng không cần ăn, tức là chiếm đoạt phần ăn đó của người khác. trên tinh thần đó, người phật tử nên tránh và phê phán những

55

54

nghiện các loại rượu có sáu nguy hiểm như vậy" (Trường bộ kinh, Kinh Giáo thọ Thi Ca La Việt).

Trong Kinh Phật, có chuyện thanh niên nhà giàu Mahadhanasettin phung phí một số tài sản rất lớn trong việc rượu chè, đến nỗi khi về già phải ăn mày để kiếm sống qua bữa. Tệ nghiện rượu, say rượu là đầu mối của bao nhiêu thảm họa gia đình: vợ chồng cãi nhau, đánh nhau, con cái hư hỏng. Người say rượu không còn biết phải trái, có thể phạm đủ mọi tội ác, kể cả giết người.

Người Phật tử, ngay từ tuổi nhỏ, phải được giáo dục về sự cần thiết tự chăm lo sức khỏe của bản thân mình, và

giữ gìn tâm hồn trong sách và lành mạnh, để kịp thời ứng phó với mọi biến thiên và cảnh ngộ bất trắc của cuộc sống. Người Phật tử cần nhận thức rõ phung phí sức khỏe, làm mê muội tinh thần bằng lối sống buông

thả và trác táng là một tội lỗi, nhiều khi phải trả giá đắt bằng cả cuộc đời của mình.

Kết Luận

Kính thưa quý vị!

Như vậy, trong bài thuyết pháp nhân ngày lễ Phật đản hôm nay, chúng tôi đã trình bày khá chi tiết nội dung của năm giới nhà Phật, nên được nhận thức dưới con

mắt của con người hiện đại như thế nào.

Ở nước Việt Nam chúng ta đang chuyển mình trong thời đại đổi mới và mở cửa này, cuộc sống đạo đức có xuống cấp thật, trong mấy chục năm lại đây, nhưng không đến

nỗi tồi tệ. Văn minh vật chất phương Tây tuy có xâm nhập vào nước ta và có ảnh hưởng tiêu cực đến một bộ

phận của nhân dân ta, nhất là đối với từng lớp thanh thiếu niên, nhưng vẫn gặp phải sự đối kháng mạnh mẽ của giáo dục gia đình, tôn giáo, trường học, được chính quyền hỗ trợ. Cho nên, tình hình của đạo đức xã hội ta không đến nỗi quá bi quan, như một vài người lo lắng.

Page 56: ăN một miếng không cần ăn, tức là chiếm đoạt phần ăn đó của người khác. trên tinh thần đó, người phật tử nên tránh và phê phán những

56

55

Tuy nhiên, chúng ta cần nhận thức rõ trách nhiệm của chúng ta, những người cha, người mẹ, các bậc đàn anh, trước tình hình đang biến chuyển mau lẹ. Hướng biến

chuyển có thể tốt, hay xấu là tùy ở nỗ lực của chúng ta. Phương hướng hoạt động của chúng ta có thể là:

- Hết sức hỗ trợ cho chương trình xóa đói giảm nghèo của chính phủ, bằng những việc làm thiết thực, có ý

nghĩa từ thiện xã hội.

- Khuyến cáo chính phủ sớm tăng lương cho công nhân viên chức, cho người hưu trí, giảm bớt mức chênh lệch thu nhập giữa công nhân viên Nhà nước, và công nhân viên làm việc cho các hãng nước ngoài hoạt động tại

Việt Nam.

- Tuyên truyền, đề cao mọi giá trị đạo đức truyền thống, trong đó có đạo đức Phật giáo, như việc chúng tôi làm hôm nay trên giảng tòa này, như việc quý vị sẽ làm ở

gia đình, với bài giảng này của chúng tôi.

Kính thưa toàn thể quý vị!

Qua thời gian khoảng một giờ, chúng tôi đã cố gắng trình bày cho toàn thể quý vị định nghĩa năm giới theo lời đức Phật dạy, nêu rõ những lợi ích do giữ năm giới này đem lại cho những ai thành tâm thực hành. Chúng tôi cũng cố gắng phân tích cả hai mặt tích cực và tiêu cực của mỗi giới và sự áp dụng của từng giới trong đời sống cá nhân của từng người, của từng gia đình, quốc

gia và xã hội.

Ðiều quan hệ là chúng ta cố gắng đem áp dụng năm giới này của đức Phật vào đời sống cá nhân của mình, của gia đình mình. Có áp dụng như vậy, chúng ta mới xây dựng một xã hội văn minh và lành mạnh, thực sự

hạnh phúc và an lạc.

Như chúng tôi đã thường nói với quý vị, chúng ta cố gắng xây dựng Thiền viện Vạn Hạnh này thành một môi trường tu học lý tưởng cho Phật tử Vạn Hạnh tại gia và

Page 57: ăN một miếng không cần ăn, tức là chiếm đoạt phần ăn đó của người khác. trên tinh thần đó, người phật tử nên tránh và phê phán những

57

56

xuất gia của chúng ta. Và muốn vậy, chúng ta cố gắng ứng dụng năm giới vào đời sống cá nhân của mình, đời

sống gia đình của mình. Chúng ta có gắng phổ biến năm giới này cho nhiều người được biết để cùng nhau ứng dụng năm giới này trong đời sống cá nhân và gia đình của mình. Chúng ta cố gắng, người người hành trì năm giới, nhà nhà hành trì năm giới, người người phổ biến

năm giới, nhà nhà phổ biến năm giới, như vậy chúng ta cùng nhau xây dựng một xã hội lành mạnh, có đạo đức, có văn minh, thiết thực lợi ích cho thế hệ của chúng ta, chúng ta còn giúp cho thế hệ trẻ, con cháu của chúng

ta được sống trong một xã hội tương lai tươi đẹp.

Kính chúc toàn thể quý vị một mùa Phật Ðản sáng chói hào quang của năm giới được thiết thực ứng dụng, đem

lại hạnh phúc an lạc cho toàn thể quý vị, cho toàn thể gia đình quý vị!

Nam mô Bổn sư Thích Ca Mâu Ni Phật.Thích Minh Châu

Chân thành cám ơn cư sĩ Bình Anson đã gửi tặng các phiên bản điện tử

http://www.buddhismtoday.com/viet/ddtamly/028-namgioi.htm