View
0
Download
0
Category
Preview:
Citation preview
SỐ 3 TRONG ĐẠO HỌC Viễn Lƣu
1
SỐ 3 TRONG ĐẠO HỌC Viễn Lƣu
Website: bachyhuynhde.org
Email: vienluutd@yahoo.com
Version 1.0
(Đây là tài liệu tu học nội bộ của Bạch-Y-Huynh-Đệ)
---oOo---
BI TRÍ DŨNG
Tại sao số 2? ÂM DƢƠNG
Thuật ngữ ÂM DƢƠNG để chỉ tánh chất nhị nguyên
của hiện tƣợng. Trong tam giới (dục, sắc, vô sắc) tất cả
mọi hiện tƣợng đều là nhị nguyên nên không ngoài âm
dƣơng. Kinh sách Đạo Giáo dùng danh từ Âm Dƣơng
trong lúc kinh sách Phật Giáo dùng danh từ Nhị Nguyên.
Ký hiệu qui ƣớc cổ xƣa cho Âm Dƣơng là một gạch
ngang là Dƣơng (-). Một gạch sổ là Âm (|). Âm Dƣơng
hợp nhất là chữ thập (+). Ở đây ta thấy phảng phất hình
tƣợng ký hiệu chữ Vạn trƣớc ngực của Phật Gia rất gần
với ký hiệu Âm Dƣơng hợp nhất.
Tại sao số 3? CƠ NGẪU
Thuật ngữ Cơ Ngẫu dùng để chỉ chẵn lẻ. Cơ là lẻ và
Ngẫu là chẵn. Về tƣợng hình theo kinh dịch thì hào dƣơng
là chẵn biểu thị bằng một vạch ngang (_) hay một que,
còn hào âm là lẻ biểu thị bằng một vạch ngang đứt đoạn
(--) hay là 2 que. Cho nên về số học thì Cơ = Dƣơng = 1
và Ngẫu = Âm = 2. Do đó trị số nhỏ nhất để tổng hợp Âm
Dƣơng là 1+ 2 = 3, TRINITY.
Theo Tiên gia, con ngƣời có tam bửu là Tinh, Khí,
Thần. Chu kỳ tu hành từ ngƣời lên Tiên Phật là chu kỳ
nghịch hành luyện Tinh hóa Khí, Khí hóa Thần, rồi Thần
hoàn hƣ. Ngƣợc lại chu kỳ đi xuống là Thần, Khí rồi tới
Tinh. Phải có Tinh thì mới tạo xác thân (phàm hay Tiên,
Phật) đƣợc. Cho nên muốn tu đắc Thánh Thai tức thành
Tiên Phật thì phải cần có Thanh-Tinh. Cho nên phải hiểu
vấn đề Thanh và Trƣợc Tinh trong việc tu hành.
Con ngƣời là một vũ trụ thu nhỏ nên dƣới sao trên vậy.
Nghĩa là ngoài vũ trụ bao la rộng lớn, tinh tú ngân hà v.v,
sự cấu tạo hóa sanh cũng không ngoài 3 bậc kể trên: Thần
SỐ 3 TRONG ĐẠO HỌC Viễn Lƣu
2
tới Khí rồi tới Tinh. Và chu kỳ đi ngƣợc lại là Tinh Khí
Thần.
Phật Giáo Đại Thừa dùng ba vị Bồ Tát: Quan Âm, Văn
Thù, Phổ Hiền để tƣợng trƣng cho Bi-Trí- Dũng.
Tâm thức con ngƣời là tổng hợp của ba lực bi trí dũng.
Nếu 3 lực quân bình thì cá nhân sẽ thể hiện là một
ngƣời quân bình, nhân ái, can đảm, hiểu biết tùy theo qui
chế định ƣớc của xã hội hoàn cảnh chung quanh.
Nếu ba lực không đồng đều thì cá nhân sẽ thể hiện sự
mất quân bình. Ví dụ, bi nhiều quá mà trí ít thì trở thành
bi lụy. Ngƣợc lại trí nhiều quá thiếu bi thì trở thành tàn
nhẫn. Xử sự nhƣ cái máy thiếu tình cảm. Còn nếu thiếu
dũng thì thể hiện là thiếu định đoạt. Suốt ngày cứ suy
nghĩ đắn đo thua thiệt, sợ hãi mà chẳng dám làm cái gì cả.
Chỉ mất thì giờ, lại thêm bạc đầu.
6 chữ Bi-Trí-Dũng Tham-Sân-Si sắp thành 3 cặp Bi-
Tham, Trí-Si, Dũng-Sân tƣợng trƣng cho 2 cấp thanh
trƣợc của bộ ba Bi Trí Dũng.
XU
NG
ĐỐ
C
NH
ÂM
ĐỚI
Vĩ Lư
Giáp Tích
Ngọc
Chẩm
Mệnh
Môn
Sắc Giới
Dục Giới
Vô Sắc giới
Thiên Trụ
Biểu Đồ Tam Giới
Ngũ
Tạng
OPC
OPC = consciousness operating point = chỗ hoạt động
của tâm thức trong ngƣời hay trình độ tâm thức. Chúng
sanh đa số có OPC hoạt động đa phần là ở dục giới và sắc
giới bởi vì tâm lực thích suy tƣ và hƣớng về những chủ đề
của dục giới và sắc giới nhƣ ăn uống, khoái lạc, ca nhạc,
phim ảnh TV, v.v. Chỉ một số nhỏ với tƣ tƣởng thanh cao
nhƣ những nhạc sĩ, nhà khoa học, triết gia, bậc tu hành
thanh cao thì mới có tâm thức hoạt động trong vô sắc
giới.
OPC = trình độ tâm thức = tổng thể của 3 phần (bi, trí,
dũng) hay (tham, sân, si). Vì thế Phật Tánh hay điểm linh
quang dù nhỏ xíu tới đâu đều có đủ 3 thành phần này
trong đó.
SỐ 3 TRONG ĐẠO HỌC Viễn Lƣu
3
Trong công phu luyện đạo của Tiên Gia, quan trọng là
Khí và Thần. Cho nên trong vấn đề tu hành, sau khi qua
giai đoạn đậu Thai, những giai đoạn còn lại chỉ là vấn đề
thêm bớt Diên (Khí) và Hống (Thần) cho tới lúc hoàn hƣ.
Tƣơng tự bên Phật Gia 2 chữ quan trọng nhất là Bi và
Trí.
Bi = thƣơng, yêu, rộng lƣợng, tha thứ, v.v. Đó là mặt
tốt. Còn mặt xấu là thù, ghét, ích kỷ, v.v. Nên có đủ tánh
tham, muốn, chán, bỏ, v.v. Đây là cái ý muốn hay WILL.
Nó hiện diện trong chữ Bi, có công năng sắp đặt đƣờng
hƣớng để chọn mục tiêu. Không có lực này thì không có
sáng tạo. Vũ trụ không có mặt, không tồn tại!
Trí = kiến thức nên có thông minh, ngu muội. Trí đi sát
với Bi để góp phần vào sự quyết định chọn mục tiêu và
phƣơng pháp thi hành.
Trí-Huệ là 2 chữ khác nhau. Trí có đƣợc nhờ tƣ duy.
Còn Huệ có đƣợc là nhờ Trí + kinh nghiệm lâu ngày trở
nên bản năng mới.
Dũng = lực, sức mạnh, can đảm cần thiết để thi hành
một sự việc. Chúng ta thƣờng nói là lúc còn trẻ, nhờ tinh-
khí-thần sung mãn nên lòng hăng hái, thích làm nhiều
chuyện. Còn ngƣợc lại lúc về già thì tinh-khí-thần cạn kiệt
nên chẳng còn muốn làm những chuyện mình thích nữa.
Điều này cho thấy vì Tinh khô cạn nên Dũng là sức khỏe
cũng yếu đi theo tuổi già.
Bộ ba Bi-Trí-Dũng hợp lại sẽ quyết định vị trí hoạt
động của tâm thức, consciousness operating point, OPC,
hay trình độ tâm thức của con ngƣời.
Theo biểu đồ Tam Giới bên trên, tâm thức loài ngƣời
hiện nay hay OPC đang ở mức D3/D4 tức là giữa dục và
sắc giới. Nếu muốn vào cõi vô sắc thì phải tu hành để
thăng hoa tâm thức. Muốn thăng hoa tâm thức thì trƣớc
tiên cần chuyển hƣớng hay mục tiêu. Thay vì tiếp tục ham
thích chuyện dục lạc thinh sắc, thì phải chuyển cái tâm
thành thích những chuyện thanh tịnh, cao thƣợng hơn,
thuộc về vô sắc. Rồi thì phần trí thì phải biết cách làm sao
để chuyển từ dục, sắc vào vô sắc giới. Sau cùng thì phải
có đủ nghị lực, sức khỏe để thi hành đạt mục tiêu.
Trong kinh Phật, việc đầu tiên Phật dạy là phải Ly Dục.
Chữ LY là một động từ. Để làm một chuyện gì thì phải có
ý muốn, tức là phải có lực Bi trong đó để đặt mục tiêu.
Kinh không dùng chữ bỏ, đoạn, hay diệt mà chỉ dùng
chữ LY. Bởi vì để bỏ, đoạn, hay diệt thì lại phải tạo ra lực
bỏ, đoạn, hay diệt tức là tạo thêm niệm mới. Nó sẽ giữ
không cho cái tâm rời cõi đó đƣợc. Trong lúc LY là rời xa
hay chuyển hƣớng mục tiêu nên không tạo thêm niệm mới
hay lực mới. Và có nhƣ vậy thì mới có thể có ngày rời bỏ
đƣợc cõi dục, sắc hoặc vô sắc. Cho nên nếu tu hành mà
SỐ 3 TRONG ĐẠO HỌC Viễn Lƣu
4
không hiểu chỗ này để dụng công cho đúng cách thì
không bao giờ thoát tam giới đƣợc. Đó đích thực là tu a-
tăng-tỳ kiếp đấy.
Trong kinh Tiểu Không, CulaSunnata Sutta, Phật dạy
Tỳ-Kheo cách tu để an trú trong Tánh Không, vƣợt tam
giới. Đầu tiên để thoát dục giới, Phật dạy cách giảm muôn
niệm trong dục giới xuống chỉ còn một niệm Lâm Tƣởng.
Sau đó, Phật mới dạy cách giảm muôn niệm trong sắc giới
xuống chỉ còn một niệm Đất Tƣởng. Trong phần này Phật
đánh đổ luôn niệm Lâm Tƣởng còn sót lại trong phần dục
giới. Tƣơng tự, Phật dạy cách tiến vào vô sắc giới bằng
cách quán Không Vô Biên Xứ và đánh tan niệm Địa
Tƣởng ở sắc giới, rồi tới Thức Vô Biên Xứ, Vô Sở Hữu
Xứ, Vô Tƣởng Xứ, rồi Vô Tƣớng Định và cuối cùng là
Xả tức là Diệt Tận Định, vƣợt tam giới.
Qua đoạn tóm tắt về kinh Tiểu Không trên đây, chúng
ta thấy sự quan trọng của Bi Trí Dũng.
Bi là biết đặt mục tiêu lìa dục, sắc, mà hƣớng về vô sắc
rồi vƣợt vô sắc.
Trí là biết cách dời OPC hay tâm lực từ dục giới, qua
sắc giới, vào vô sắc, rồi vƣợt tam giới.
Dũng là kiên trì, tinh tấn.
Cho nên phải BI ĐÚNG, TRÍ TỎ và DŨNG ĐỦ thì
mới nên cơm cháo đƣợc!
Kính bút,
Viễn Lƣu, Aug/15/2016
---oOo---
TAM GIỚI
Trong tâm thức 13 tầng thì tầng 13 là Đạo, là Phật giới.
Tầng 11, 12 là Bồ Tát và tầng 9,10 là cho hàng A-La-
Hán. Ở đây chúng ta chỉ bàn tới 3 cõi luân hồi gồm dục
giới, sắc giới và vô sắc giới.
1
2
3
4
5
67
13
Dục
Giới
Sắc
Giới
Vô Sắc
Ngoài Tam
Giới
Biểu Đồ Tam Giới và 13
Tầng Tâm Thức
Nhân Loại Ngày Nay
1
2
3
4
5678
91011 12
Theo hình đồ Tam Giới trên thì cõi luân hồi chia làm 3
cõi: vô sắc, sắc và dục giới.
Kinh Phật định nghĩa tâm thức con ngƣời là một tập
hợp của ngũ uẩn (sắc, thọ, tƣởng, hành, thức) đúng với lối
sắp xếp của hệ thống 7 luân xa trong cơ thể nhƣ sau:
SỐ 3 TRONG ĐẠO HỌC Viễn Lƣu
5
Sắc = D1 = thể xác, (đất đá).
Thọ = D2 = cảm xúc, (cây cỏ).
Tƣởng = D3 = tình cảm, (loài vật)
Hành = D4 = sáng tạo cấp thấp, biết thay đổi hoàn cảnh
(con ngƣời)
Thức = D5 = sáng tạo cấp cao, biết lẽ đúng sai (thần,
thánh, địa tiên)
Loài ngƣời là một sinh vật đã tiến hóa qua những giai
đoạn: đất đá, cỏ cây, thú vật nên tâm thức của con ngƣời
hiện nay là một tiến trình của ngũ uẩn từ sắc, thọ, tƣởng,
hành, tới thức.
Theo hình đồ trên thì Ngũ Uẩn tả tâm thức loài ngƣời
hiện đại nằm trong phạm vi 2 cõi: dục và sắc giới.
Dục Giới: Thiên về ngũ dục, ham muốn đòi hỏi của thể
xác.
Sắc Giới: Chủ về sáng tạo, văn học, âm nhạc, nghệ
thuật, kỹ thuật cấp thấp, hạ trí
Vô Sắc Giới: Chủ về tâm linh, triết học, âm nhạc, văn
học, khoa học, nghệ thuật sáng tác cấp cao, thƣợng trí.
Sau đây là những chủ đề về vô sắc thiền định mà Đức
Thích Ca đặt ra để hƣớng dẫn tỳ kheo tu hành ở tầng vô
sắc giới từ thô đến tế, từ thấp đến cao.
Không Vô Biên Xứ
Thức Vô Biên Xứ
Vô Sở Hữu Xứ
Phi Tƣởng Phi Phi Tƣởng Xứ.
Ta thử đặt câu hỏi tại sao đức Phật lại đặt ra 4 bậc
thiền Vô Sắc theo thứ tự trên mà không đặt theo thứ tự
khác?
Để trả lời câu hỏi này, trƣớc tiên cần hiểu cái “biết”
của tâm hoạt động nhƣ thế nào.
Phật học định nghĩa cái biết qua 3 chữ: căn trần thức.
Lục trần tiếp xúc lục căn sinh ra lục thức rồi mới tới cái
biết.
Đó còn gọi là tiến trình của ngũ uẩn theo thứ tự dƣới
đây
Biểu Đồ Tiến Trình Ngũ Uẩn
1 6 căn tiếp
xúc 6 trần
Sắc Căn tiếp xúc Trần sanh Thọ nên
có tới 6 thọ.
2 Thọ Thọ có: khổ, lạc, vô khổ vô lạc
3 Tƣởng Tƣởng: lục/so ký ức để định danh
tánh, xác định đối tƣợng
4 Hành Tạo một động lực tâm lý
nội/ngoại: yêu, chán, ghét để tiến
tới hành động
5 Sinh 6
thức
Thức Thức của mỗi căn
6 Biết Biết Biết = Thức = tổng hợp của 6
thức
Qua biểu đồ trên ta thấy rằng một khi ta biết một cái gì,
thì cái biết đó là một tổng hợp của 6 tiến trình ngũ uẩn:
SỐ 3 TRONG ĐẠO HỌC Viễn Lƣu
6
sắc, thọ, tƣởng, hành, thức của 6 căn (nhãn, nhĩ, tỉ, thiệt,
thân, ý)
Ví dụ, khi ta đƣa mắt nhìn một bông hồng. Ngay giây
phút ta Biết đó là một bông hồng đỏ tƣơi đẹp mới nở là ta
đã trải qua đủ một tiến trình ngũ uẩn: Sắc là mắt thấy hoa
hồng đỏ, Thọ là cảm giác vui vẻ, Tưởng là đã xác định
đƣợc đó là bông hồng màu đỏ, Hành là lòng nổi lên ƣa
thích cái hoa, và Thức của nhãn thức và tỉ thức (mùi hoa
hồng) trong ví dụ này.
Cho nên cái Biết là kết quả của tiến trình ngũ uẩn của
tâm đối với đối tƣợng.
Sắc và Không hay Có và Không
Lấy ví dụ 1 cây viết chì. Nếu nhìn chung quanh chu vi
cây viết chì ta sẽ thấy đó là khoảng không gian hay
Không. Tƣơng tự nhìn lên bầu trời, mặt trăng, mặt trời to
lớn thế kia cũng bị bao bọc bởi không gian hay cái
Không. Thế cho nên không có một vật gì là không nằm
trong Không. Phải có Không để mà phân biệt, xác định,
biên định Sắc. Tƣơng tự có thể nói không có vật gì mà
không sanh/biến/hiện ra từ Không.
Trên đời không có một vật gì đã sanh ra mà có thể tồn
tại mãi mãi. Cuối cùng cũng sẽ bị tan rã thành cát bụi rồi
biến mất hay trở về Không. Cho nên Không là bản thể của
vũ trụ. Tại bản thể, vật chất nằm ở trạng thái tĩnh dƣới
dạng nhỏ nhất tạm gọi là sơ hạt, hay vi trần.
Sự hình thành của vật từ Không thành Sắc rồi trở lại
Không là do tác động của nghiệp lực. Khi nghiệp lực còn
thì Sắc kết, khi nghiệp lực hết thì Sắc tan.
Trong Bát Nhã Tâm kinh có câu:
Sắc tức thị Không, Không tức thị Sắc
Sắc bất dị Không, Không bất dị Sắc
để chỉ sự kiện này.
Vì Sắc từ Không mà ra nên về mặt thô/tế thì Sắc là thô
mà Không là tế. Trong tam cõi thì dục và sắc giới là thô
trong khi đó vô sắc giới là tế. Đức Phật dạy thiền định
trong kinh Tiểu Không là đi từ thô tới tế. Tuần tự đi từ
dục giới qua sắc giới rồi mới tới vô sắc giới. Tƣơng tự đối
tƣợng của tâm trong thiền định cũng thế. Ở Dục giới dùng
Lâm Tƣởng, khi vào sắc giới thì dùng Địa Tƣởng và cuối
cùng tại vô sắc giới thì dùng Không Tƣởng, nên gọi tầng
thiền này là Không Vô Biên Xứ.
Theo thứ tự của biểu đồ tiến trình ngũ uẩn, bắt đầu từ
Tưởng tới Thức rồi mới tới Biết. Tƣởng lại có thể chia
làm hai loại. Ví dụ, Tƣởng dựa trên danh tánh/ký ức để
xác định hoặc chế biến để tạo ra một hình ảnh. Đây là cái
Tƣởng thông thƣờng mà ai cũng biết. Ngoài ra còn có cái
Tƣởng không dựa trên danh tánh/ký ức để làm đối tƣợng
cho cái Biết hay Thức. Nên có thể sắp Tƣởng theo hai tiến
trình sau:
Tưởng (dựa trên danh/tánh) -> Thức -> Biết (1)
Tưởng (không dựa trên danh/tánh) -> Biết (2)
Vì thế sau khi an trú đƣợc trong Không Vô Biên Xứ thì
tầng kế tiếp của thiền định là Thức Vô Biên Xứ theo tiến
trình (1) kể trên. Lúc này đối tƣợng của thiền định vẫn
SỐ 3 TRONG ĐẠO HỌC Viễn Lƣu
7
còn là Thức nênTƣởng ở đây vẫn còn dựa trên danh
tánh/ký ức.
Sau khi an trú đƣợc ở Thức Vô Biên Xứ thì mới tiến
tiếp vào Vô Sở Hữu Xứ. Ở đây không còn thức và tƣởng
dựa trên danh tánh/ký ức nên chẳng còn cái gì có thể tƣ
nghì, nên là trống không (nothingness). Tuy nhiên vẫn
còn cái biết về sự trống không này. Vì thế đối tƣợng của
cái biết là Tƣởng của tiến trình (2), tức là Tƣởng không
dựa trên danh tánh/ký ức.
Sau khi an trú đƣợc ở đây rồi thì tầng kế tiếp là bỏ luôn
cái biết doTƣởng tạo thành. Nên tầng này còn đƣợc gọi là
Phi Tưởng Phi Phi Tưởng Xứ, hay Vô Tưởng Xứ, tức
là không tƣởng về tƣởng xứ. Đây là cái biết do không có
Tƣởng nên còn gọi là Vô Tướng Định. Đây là tầng cao
nhất của cõi Vô Sắc Giới theo lời Phật dạy.
Cuối cùng vì hiểu rằng cái biết này cũng chỉ là sản
phẩm của tâm trong ba cõi tạo ra, nên Phật dạy hành giả
Xả luôn cái định này. Xả đƣợc tâm của tam giới thì còn
lại tâm “Ngoài Tam Giới” tức “Niết Bàn”, nên là chấm
dứt luân hồi, từ D9 trở lên.
Kính bút,
Viễn Lƣu, modified Mar/01/2017
Note: Có ngƣời hỏi tôi thêm về câu “Sắc tức thị Không,
Không tức thị Sắc” và “Sắc bất dị Không, Không bất dị
Sắc” nên giờ xin nói thêm:
Hai câu này là từ trong bài “Bát Nhã Tâm Kinh”. Trong
bài này có hai chữ cần để ý là Tướng và Tánh.
Tướng thì dễ hiểu rồi. Ví dụ Sắc là Tƣớng.
Còn Tánh thì sao? theo chỗ sở biết thì chữ Tánh trong
phật học không đồng nghĩa với chữ Tánh thƣờng sử
dụng.
Chữ Tánh trong Phật Giáo là để chỉ cái bản thể của
sự vật (vẫn là Tƣớng nhƣng ở dạng căn bản nhất). Trong
kinh Tiểu Không, đức Phật dạy Không hay Không Gian là
bản thể của sự vật, còn gọi là Tánh Không, Chân
Không.
Chữ Tánh ngoài Phật Giáo đƣợc dùng để chỉ tánh chất
của một vật (Tƣớng). Ví dụ, lửa có tánh là nóng hay tánh
chất của lửa là nóng. Tƣơng tự, nƣớc có tánh ƣớt, gió có
tánh di động, v.v.
Không (Không Ngơ) đối với Tánh Không, Chân
Không.
Tánh Không = Chân Không = Bản thể của vũ trụ ở
trạng thái tĩnh. Không gian yên lặng chứa đầy sơ hạt hay
vi trần và vắng bóng của nghiệp lực.
SỐ 3 TRONG ĐẠO HỌC Viễn Lƣu
8
Không = Không ngơ = khái niệm Không Có để đối với
khái niệm Có trong ngôn ngữ. Tức là “không có cái gì
hết”.
Từ Tánh Không thanh tịnh, gió nghiệp lực thổi qua
biến thành nhân duyên tác động lên những sơ hạt đã nằm
sẵn trong Không để tạo nên Sắc. Đấy tức là Sắc tức thị
Không, Không tức thị Sắc.
Sắc là do nhân duyên hợp lại nên cuối cùng khi nhân
duyên nghiệp lực hết thì Sắc cũng phải tan rã để trở lại
trạng thái sơ hạt ban đầu. Đấy tức là Sắc bất dị Không,
Không bất dị Sắc.
Cho nên một khi Gió Nghiệp nổi lên thì vạn vật Có,
một khi gió nghiệp lặn thì vạn vật Không. Vì thế vạn vật
hay Sắc Tƣớng là Vô Thƣờng. Tƣơng tự, ba cõi (dục, sắc,
vô sắc) đều do tâm tạo ra nên cũng vô thƣờng.
Kính bút,
Viễn Lƣu, Modified Mar/01/2017
---oOo---
TAM BÀNH LỤC TẶC
Note: Hình Đồ của Đạo Hữu Hồ Đạo Hạnh.
Tam Bành Lục Tặc là tên khác của Tam Thi Cửu Cổ.
Tam Bành + Lục Tặc = 9 huyệt hay 9 điểm nằm dọc
theo cột xƣơng sống mà hành giả phải khai mở trên con
đƣờng tu hành. Đây chính là ý về chuyện thầy trò Đƣờng
Tam Tạng đi thỉnh kinh trong truyệ Tây Du Ký phải chịu
đủ 81 nạn thì mới tới đƣợc Tây Phƣơng. Ở đây có nghĩa
là hành giả phải vƣợt (8+1=9) cửu khiếu dọc theo đốc
SỐ 3 TRONG ĐẠO HỌC Viễn Lƣu
9
mạch thì mới tới đƣợc huyệt Bách Hội hay Ao Diêu Trì
mà gặp Phật.
Cửu cổ hay cửu khiếu từ dƣới lên có tên nhƣ sau:
Bách Hội Ao Diêu
Trì
Tam
Bành
Vô Sắc Kim Tiên,
La Hán
Ngọc Chẩm
(Quan)
Phục Cổ Bành
Cừ
Vô Sắc Thiên
Tiên
Thiên Trụ Long Cổ Vô Sắc Địa Tiên
Đào Đạo Bạch Cổ Sắc
Giới
Thánh
Thần Đạo Nhục Cổ Sắc
Giới
Thần
Giáp Tích Xích Cổ Sắc
Giới
Ngƣời
Huyền Xu Cách Cổ Sắc
Giới
Ngƣời
Mệnh Môn
(Quan)
Phế Cổ Bành
Chất
Dục
Giới
Động Vật
Long Hổ Vĩ Cổ Dục
Giới
Cỏ Cây
Vĩ Lƣ
(Quan)
Khƣơng
Cổ
Bành
Kiều
Dục
Giới
Đất Đá
Chín điểm trên là những tụ điểm hay huyệt đạo trên cơ
thể, trong cột xƣơng sống, trong đƣờng gân v.v.
Tƣơng tự nhƣ hệ thống luân xa, chín điểm này nằm
trên đƣờng Đốc mạch trong thân ánh sáng D5 chứ không
nằm trong thân vật chất D3. Cho nên nếu mổ ngƣời ra thì
không thấy nhƣng vẫn có thể cảm nhận đƣợc trong lúc
vận khí.
Trong đạo học cổ xƣa để diễn tả những trở ngại trong
lúc dắt khí vận công, ngƣời ta đặt tên 3 cửa ải hay 3 bành
là tên của cho ba vị thần trấn 3 cửa đó để ngăn chận thử
thách ngƣời tu hành. Một cách vắn tắt, mỗi vị tại mỗi cửa
(dục, sắc, vô sắc) dùng những cám dỗ ƣa thích hay dọa
nạt của nhiều trình độ khác nhau để làm xao động lòng
ngƣời tu hành tại mỗi chặng đƣờng trong lúc thiền định,
trong lúc ngủ, hay sinh hoạt bình thƣờng. Đây chính là để
miêu tả sự thay đổi về trạng thái tâm lý vật lý trong tâm
hành giả trên bƣớc đƣờng tu hành. Ví dụ, nam hành giả
trƣớc khi vƣợt ngọc chẩm, sẽ không thiếu những lần bị
thiên ma hiện ra ma nữ lõa lồ để cám dỗ trong giấc mơ.
Giống nhƣ Đức Phật đã từng bị thiên ma cám dỗ vậy. Đây
chính là những thử thách do tam bành tạo ra để thử sức kẻ
tu hành. Hay một cách nhìn khác là bài thi lên lớp của
hành giả.
Sau lƣng cũng nhƣ trƣớc ngực. Nếu sau lƣng có đốc
mạch thì trƣớc ngực có nhâm mạch. Sau lƣng có tam quan
thì trƣớc ngực có tam điền. Sau lƣng có tam bành thì phía
trƣớc có tam tiêu trong dạ dày, v.v. Âm Dƣơng phải cân
đối và quân bằng.
Hiểu những việc làm, thử thách của Tam Bành Lục Tặc
sẽ giúp cho hành giả biết trình độ tu hành của mình tới
đâu để tự tầm tự tiến.
SỐ 3 TRONG ĐẠO HỌC Viễn Lƣu
10
Cho nên muốn tu hành đạt đạo bằng những pháp môn
của các đạo sƣ Á Đông, hành giả nên có một kiến thức tối
thiểu về y học đông phƣơng.
---oOo---
TAM ĐIỀN hay TAM ĐƠN ĐIỀN
7 cõi luân hồi chia làm 3 cõi dục, sắc và vô sắc giới. Ở
mỗi cõi chúng sanh mang một thể xác vật chất khác nhau.
Vì thế tam giới có tam thân. Loài ngƣời tại trái đất hiện
nay thì mang thân xác của cõi dục giới. Cõi địa tiên thì
mang thân xác cõi Sắc Giới còn gọi là Kim Thân. Trong
kinh Phật có nõi rõ là thân xác của chúng sanh trong cõi
sắc giới chỉ có nhãn, nhĩ, tỉ nhƣng không có thiệt và xúc.
Còn thân xác của chúng sanh trong cõi vô sắc thì chỉ có
thức nên có thể biến hóa đủ thứ. Vì thế cõi trời cao có tên
là hóa lạc, tha hóa tự tại.
Con ngƣời mang xác thân dục giới. Hai thân sắc giới và
vô sắc giới còn lại thì tiềm ẩn bên trong cơ thể.
Thân D5 hay thân sắc giới còn có tên là etheric body có
hình dáng y hệt nhƣ thân dục giới D3/D4 bằng thể khí
nằm trùm lên thân D3. Ta có thể nhận diện đƣợc thân này
bằng qua hào quang bọc chung quanh cơ thể. Thân này
chứa bộ luân xa, bộ kỳ kinh bát mạch và tam điền. Vì vậy
mổ thân D3/D4 ra thì chỉ thấy máu, mỡ, xƣơng nhƣng
không thấy thân D5. Tuy nhiên Đông y dùng kim châm
cứu hay tập khí công thì có thể cảm nhận đƣợc những
phần này trong cơ thể.
Việc tu hành của loài ngƣời trong cõi dục giới là làm
khai mở thân sắc giới và thân vô sắc giới tiềm ẩn trong cơ
thể trƣớc khi có thể vƣợt tam giới bằng cách tu hành
thăng hoa trình độ tâm thức.
1
2
3
4
5
6
7
13
Hạ Điền
Trung Điền
Thượng Điền
Biểu Đồ Tam Điền
Nhân Loại Hôm Nay
Mặt phía trƣớc ngực có tam điền là Thƣợng Điền,
Trung Điền và Hạ Điền tƣơng ứng với tam quan phía lƣng
là Ngọc Chẩm, Giáp Tích và Mệnh Môn.
Đây là ba hồ chứa khí trong ngƣời.
SỐ 3 TRONG ĐẠO HỌC Viễn Lƣu
11
- Hạ đơn điền nằm chỗ luân xa 3 nơi rún thuộc dục
giới.
- Trung đơn điền nằm chỗ luân xa 4 nơi tim thuộc sắc
giới.
- Thƣợng đơn điền nằm chỗ luân xa 6 ngang trán
thuộc vô sắc giới.
Loài ngƣời vì mang xác thân dục giới nên hạ đan điền
là tối quan trọng. Đây là cửa ngõ để khai mở những phần
thuộc lãnh vực huyền bí tâm linh. Vì thế việc tu hành hay
luyện khí công đều phải từ bụng mà khai triển ra.
Câu niệm của PLTC trong Pháp Lý: “Đầy rún, đầy
ngực, tung lên bộ đầu” chỉ rõ là phải bắt đầu từ hạ đan
điền đi lên tới thƣợng đan điền.
Thực Phẩm cho tam điền:
Khí qua hơi thở là thức ăn của tam điền. Càng tĩnh
chừng nào thì khí càng liễm vô nhiều chừng nấy. Không
phải cứ thở mạnh, sâu và tác ý dắt khí là khí vào nhiều.
Ba cõi có ba thân với ba đan điền khác nhau nên thức
ăn cũng khác nhau dù đều là khí. Thế nên biết Khí cũng
có nhiều loại.
Hơi thở ngoài trời hít vào ngƣời chứa đủ loại khí từ cõi
thanh tịnh tới cõi ta bà nhƣ sau:
Hƣ Linh Chi Khí
Hạo Nhiên Khí
Tiên Thiên Khí
Hoàng Cực Khí
Ngũ Hành Khí
Bát Quái Khí
Tuy nhiên cơ thể chỉ có thể hấp thụ loại khí tùy theo
trình độ tâm thức của hành giả. Ở dục giới, hạ điền của
chúng sanh đã hoạt động nên mọi ngƣời đều bắt đƣợc khí
Bát Quái. Nếu có tu luyện thì có thể bắt đƣợc khí Ngũ
Hành, nên Hoa Chì nở. Ở sắc giới, trung điền có thể bắt
đƣợc Hoàng Cực và Tiên Thiên Khí. Ở Vô Sắc Giới,
thƣợng điền có thể bắt đƣợc Hạo Nhiên và Hƣ Linh Chi
Khí.
Muốn lên đƣợc Sắc Giới, khai trung điền thì điều kiện là
phải mở đƣợc luân xa Hòa Cảm hay Bi. Vì thế trong việc
tu hành trƣớc tiên là học chữ BI. Thiếu Bi thiếu Hòa sẽ
không bao giờ mở đƣợc luân xa Hòa Cảm. Luân xa Hòa
Cảm không mở thì trung điền không bắt đƣợc khí nên
Hoa Bạc không nở đƣợc. Trung điền không nở hoa thì
miễn bàn chuyện tam hoa tụ đỉnh!
Tƣơng tự, điều kiện để mở thƣợng điền là Trí-Tuệ, tức
luân xa 6 tại ấn đƣờng. Thƣợng điền có đầy khí thì Hoa
Vàng mới có thể nở.
Trong Pháp Lý Vô Vi có câu:
“Pháp Luân Thường Chuyển Huệ Tâm Khai”.
Tam Hoa Chì, Bạc, Vàng nở theo thứ tự từ dƣới lên.
Cho nên một vị Tiên Phật thì có đủ Bi, Trí, Dũng ….
không có Tiên, Phật nào mà NGU hết!
SỐ 3 TRONG ĐẠO HỌC Viễn Lƣu
12
Có nhiều ngƣời cầm pháp quí trong tay tu đã lâu mà chỉ
đƣợc có sức khỏe tốt. Mong rằng vài hàng trên đây có thể
giúp các bạn ít nhiều trên con đƣờng tu hành.
Xin tặng các bạn bài thơ sau:
Vô Vi pháp quí trong tay
Tu bằng trí ý sau thành mới tin
Đầu tiên sửa tánh học Bi
Luân xa Hòa Cảm mở thì mới linh
Ngày đêm tinh tấn hành trì
Soi Hồn Niệm Phật rồi thì Chiếu Minh
Pháp Luân kế tiếp Định-Thiền
Khí thần sung mãn Tam Điền nở hoa.
KB: Viễn Lƣu, 09/04/2016
Hy vọng bài viết mang lại lợi ích cho các bạn trên
đƣờng tu.
Chúc các bạn may mắn.
Kính bút,
Viễn Lƣu, 09/04/2016
---oOo---
KUNDALINY HỎA XÀ Sushuma, Pingala, Ida
Trên đây là hình ảnh của hệ thống Hỏa Xà, Kundalini có
7 luân xa, nằm trong thân D5 hay thân sắc giới.
Ba thành phần chính của hệ thống Hỏa Xà là: Pingala,
Ida, và Sushuma. Sushuma hay hỏa xà là con rắn ở giữa
chạy dọc theo cột xƣơng sống tƣợng trƣng cho trí tuệ và
bị quấn chặt 2 bên bởi 2 con rắn Pingala và Ida, tƣợng
trƣng cho một âm một dƣơng. Nếu dùng bộ ba tham-sân-
si để luận thì 2 con rắn 2 bên là tham và sân, còn con giữa
là si. Khi nào hết tham sân si thì trí-tuệ mới hiển lộ.
SỐ 3 TRONG ĐẠO HỌC Viễn Lƣu
13
Nơi nào 2 con rắn âm dƣơng quấn hỏa xà thì nơi ấy khí
hay năng lƣợng, hay điển bị nghẽn. Vì khí điển bị nghẽn,
tích tụ ở đó nên chỗ đó đƣợc gọi là luân xa, hay khí huyệt.
Theo Kundalini Hỏa Xà thì có 7 chỗ quấn nên có 7 luân
xa. LX Hệ Thống 7 Hệ Thống 13 (trƣớc mặt) (sau lƣng)
7 Sahasrara Bách Hội, Diêu Trì Diêu Trì
6 Ajna Ấn Đƣờng Ngọc Chẩm
5 Visuddhi Yết Hầu Thiên Trụ
4 Anahata, Hòa Cảm Chấn Thủy Giáp Tích
3 Manipurata Rún, Tề Luân Mệnh Môn
2 Swadhishtana Khí Hải Long Hổ
1 Mulahadra Hội Âm Vĩ Lƣ Note: Hệ Thống 7 và 13 luân xa thật ra chỉ cùng một thứ nhưng có tên gọi khác
nhau. Dùng để phân biệt hai trường phái nguyên căn và hóa căn tại địa cầu này.
Thƣờng thì 2 con rắn Âm Dƣơng quấn Hỏa Xà chỉ một
vòng. Tuy nhiên cũng có những chỗ bị quấn nhiều vòng.
Chỗ nào bị quấn nhiều vòng thì chỗ đó là chỗ nghẹt nhiều
và khó mở nhất. Trong 7 luân xa thì luân xa 4 là chỗ bị
quấn chặt nhất nên khó mở nhất. Nên chi trong Đông Y
gần chỗ chỗ đó đằng trƣớc là huyệt chấn thủy, đằng sau là
huyệt giáp tích.
Trong ngƣời gần chỗ luân xa 4 là tim, có ngũ hành thuộc
hỏa, là tạng quan trọng nhất trong ngũ tạng. Tim cùng vần
với Tâm cũng chính nơi hoạt động của trực giác và là
ngƣỡng cửa để tìm về bổn tâm của con ngƣời.
Đây là chỗ mà trƣờng thi tâm linh gạn lọc để chọn ngƣời
đủ tài đức lên học làm Tiên làm Phật. Bài thi ở đây chính
là chữ BI, yêu thƣơng, hòa đồng.
Để mở luân xa thì phải dùng hơi thở, tức là gió hay
phong hợp với 2 con rắn pingala và ida, tức là một âm
một dƣơng, hay một nƣớc một lửa. Ở đây cần có đủ thủy,
hỏa, phong, và ý thì mới có thể điều động để mở luân xa.
Con ngƣời vì có nghiệp nên 2 đƣờng nƣớc lửa Pingala
và Ida này bị nghẹt không ít thì nhiều và không đều nhau.
Luân xa bị chặn không hoạt động nên khí không thể chạy
vào trong cột Sushuma đƣợc nên tham, sân, si hiện đủ.
Mức độ tham-sân thì tỉ lệ thuận với độ nghẽn và mất
cân bằng của 2 đƣờng nƣớc lửa Pingala và Ida. Còn mức
độ Trí-Tuệ thì tỉ lệ thuận với độ thông của cột Sushuma.
Dụng cụ dùng để thông 2 đƣờng nƣớc lửa và quay luân
xa là hơi thở và ý, tức là Thần và Khí. Khi 2 đƣờng nƣớc
lửa thông ngang chỗ luân xa thì độ xiết chặt của 2 con rắn
dãn ra, nhờ đó khí mới có thể đi vào cột hỏa xà Sushuma,
và luân xa mới quay.
Cách thức an toàn để khai mở hỏa xà là trƣớc tiên mở 6
luân xa từ 2 tới 6, rồi sau cùng mới mở luân xa 1,
Mulahadra. Mulahadra là địa lực, rất mạnh và rất khó kềm
chế. Nếu Mulahadra đƣợc mở trƣớc những luân xa khác
thì hành giả có thể gặp những tai biến tâm lý khó lƣờng
và đƣa đến sự mất quân bằng trong đời sống mà ta thƣờng
SỐ 3 TRONG ĐẠO HỌC Viễn Lƣu
14
gọi là “tẩu hỏa nhập ma”. Ví dụ luân xa 3 ở bụng chƣa
thông nên sự ham muốn về dục giới còn nhiều. Nếu vô
tình luân xa 1, Mulahadra, đƣợc khai hỏa thì luồng năng
lực Kundalini sẽ bộc phát từ huyệt hội âm đi lên. Khi tới
bụng đụng luân xa 3 bị nghẽn nên luồng năng lƣợng
Kundalini dội ngƣợc trở lại xuống bộ phận sinh dục. Vì
không có chỗ thoát nên luồng hỏa hầu sẽ hoành hành. Nếu
lúc đó tánh tình còn háo sắc thì sẽ trở thành tên cuồng
dâm. Hoặc nếu ham mê quyền lực thì sẽ trở thành một kẻ
bạo lực, tham quyền, thủ đoạn không diễn tả đƣợc.
Khi một luân xa quay hoạt động thì khí lực chỗ đó tạm
gọi là hết nghẽn, nên có thể chảy vào trong cột Sushuma.
Vì thế chỗ 7 luân xa là những nơi mà có thể đem khí vào
trong cột hỏa xà Sushuma. Tuy nhiên nhƣ đã trình bày
trong phần Tam Điền bên trên, với thân xác D3 của cõi
dục giới, luân xa 3 là chỗ ƣu việt nhất cho việc tu hành.
Nên cái bụng là chỗ đầu tiên để mà dụng công tu hành.
Từ Kundalini Yoga Ấn Độ, tới Mật Tông Đại Thủ Ấn,
Thiên Tiên Đại Đạo Trung Quốc, Cao Đài, tới Pháp Lý
Vô Vi v.v.., mọi phƣơng pháp thở đều bắt đầu từ cái
BỤNG! Đây là chỗ dễ và an toàn nhất để mở cột xƣơng
sống và những luân xa còn lại.
Một khi 7 luân xa đƣợc khai mở, luân xa 1,7 thông nhau
còn gọi là thiên địa hay âm dƣơng hiệp nhất. Lúc này khí
vào trong ngƣời không còn nƣơng theo đƣờng hơi thở ra
vô từ mũi nữa, mà sẽ tự động chia làm 2 nhánh âm dƣơng
mà ra vào tại huyệt hội âm và bách hội. Đây là chỗ mà
sách vở nói là đắc đạo thì không còn thở bằng mũi nữa mà
thở bằng đỉnh đầu.
Trong pháp tu “Đại Thủ Ấn tức Maha-Mudra” của Đại
Thừa Phật Giáo Mật Tông Tây Tạng, pháp thiền
Kundalini đƣợc dùng trong phần đầu để khai mở những
luân xa trong bản thể. Sau đó pháp quán về Tánh Không
đƣợc sử dụng để đƣa hành giả vƣợt Tam Giới tới chỗ
Giác Ngộ.
Đây là bài viết giản lƣợc giới thiệu về pháp thiền
Kundalini hay Hỏa Xả hay Chân Hỏa Tam Muội. Bài này
trình bày về phần lý của pháp thiền Kundalini, hay thiền 7
luân xa, để các bạn có thể thấy sự tƣơng đồng và khác biệt
với pháp thiền luyện đan của Thiên Tiên Đại Đạo bên
Đạo Gia, tam thừa cửu chuyển, thuộc hệ thống 13 luân xa.
Chúng tôi hy vọng bài viết này mang lại lợi ích cho các
bạn trên con đƣờng tu hành.
Chúc các bạn may mắn.
Kính bút,
Viễn Lƣu, 09/05/2016, modified 03/01/2017
---oOo---
SỐ 3 TRONG ĐẠO HỌC Viễn Lƣu
15
BA NGÔI: MỘT HAI BA
Bên Cao Đài, các tín đồ gọi Đức Ngô Viên Chiêu là Ngôi
Hai, ngƣời sáng lập ra Đạo Cao Đài. Còn vị kia là Đức
Hộ Pháp Phạm Công Tắc. Vậy ý nghĩa của Ngôi Hai là
gì?
Một cách vắn tắt: Trong Đại Đạo, Ba Ngôi Một, Hai, Ba
đồng nhất thể.
Ngôi Một: là tên hiệu dành cho những vị nằm trong lãnh
vực cai trị. Ví dụ, Ngọc Hoàng Thƣợng Đế, Ngọc Đế,
Phật Vƣơng v.v...
Ngôi Hai: là tên hiệu dành cho những vị xuống thế mở
đạo nhƣng không dính tới bên cai trị, lãnh đạo. Ví dụ nhƣ
Đức Ngô Viên Chiêu mở đạo Cao Đài, chuyên dạy đạo bí
pháp Cao Đài Luyện Đan, Chúa Jesus xuống mở đạo Ki
Tô và Đức Thích Ca xuống mở đạo Phật.
Bên Vô Vi, Đức Vĩ Kiên là Đức Ngọc Đế Trời Đao Lợi
nên thuộc về Ngôi Một. Đức Vĩ Kiên lại là phân điển của
Đức Di Đà nên chi Đức Di Đà cũng là Ngôi Một. Tƣơng
tự, đức Di Lặc Thiên Tôn, còn có tên là Di Lặc Phật
Vƣơng, là Long Hoa Giáo Chủ nên là Ngôi Một.
Chƣa hết, Tổ Bồ Đề Đạt Ma là chiết thân của đức Di Lặc
nhƣng chỉ đi dạy đạo mà thôi. Cho nên cần để ý là Đức
Thích Ca kỳ này (2,500 năm trƣớc) xuống đây đóng vai
Ngôi Hai khai mở đạo Phật. Trong lúc Đức Di Đà tại trái
đất đóng vai Ngôi Một.
Vì thế Đức Thích Ca, Gautama còn có tên là “Cosmo
Budhha” và Đức Di Lặc, Matreiya, còn có tên là
“Planetary Buddha”.
Ngôi Ba: là chúng sinh.
Trƣớc khi dứt lời, thử phân tích bên Ki Tô Giáo.
BênThiên Chúa giáo có 3 ngôi: Cha, Con, và Thánh Thần.
Ở đây Cha là Chúa Cả hay Thƣợng Đế, là vị nắm quyền
lực cai quản muôn loài nên là Ngôi Một. Con là chúa
Jesus, là con của Chúa Cả đƣợc đƣa xuống trần mở đạo
nên là Ngôi Hai.
Kính chúc các bạn may mắn,
Kính bút,
Viễn Lƣu, Sept/28/2016
---oOo---
SỐ 3 TRONG ĐẠO HỌC Viễn Lƣu
16
Lý, Khí, Tượng, Tam Thiên (trích từ trang 6 trong sách “Đạo Nghĩa Căn Bản”, của Nhất
Quán Tùng Thư, http://www.nhatquantungthu.com/)
Lý Thiên: Vô hình, vô sắc, vô thanh, vô xú là một chân lý
hƣ linh, tịch nhiên bất động, bao la vạn tƣợng. Khi động
thì chí thánh, chí linh, vô vi bất nhập, cảm nhi tùy thông.
Mặc dù vô hình, vô sắc, nhƣng hình hình sắc sắc đều từ
chân lý hƣ không này mà ra. Chƣa có thiên địa thì chân lý
này đã tồn tại, lúc thiên địa bị hủy diệt thì chân lý này vẫn
tồn tại và lại sinh ra thiên địa cùng vạn vật. Chân lý hƣ
không này nơi Nho giáo gọi là Lý Thiên, Tiên Thiên; Lão
giáo gọi là Vô Cực Thiên, Đạo; Phật giáo gọi là Chân
Không, Hợp Nhất Tƣớng… Danh từ tuy khác nhau nhƣng
đều chỉ một thực thể vô tƣớng. Hình vô tƣớng tức là chân
tƣớng, vô thể chi thể gọi là thực thể. Thánh, Phật, Bồ Tát,
Đại La Kim Tiên đều ngự tại Thiên này nên vạn kiếp bất
hoại. Chƣởng quản thiên này là Đức Vô Cực Chí Tôn (Vô
Cực, Lão Mẫu, Minh Minh Thƣợng Đế, Duy Hoàng
Thƣợng Đế, Huyền Huyền Thƣợng Nhân…)
Khí Thiên: là thể khí của vũ trụ, ta thƣờng gọi là trời. Khí
có âm có dƣơng. Dƣơng thuộc thanh tính nhẹ, âm thuộc
trƣợt tính nặng. Hai khí đối đãi, vận chuyển lƣu hành mà
sinh Tứ thời. Khí thiên vô hình nhƣng hữu sắc và có tích,
từ tứ thời vận chuyển mà ta biết đƣợc Xuân-Hạ-Thu-
Đông, cảm giác đƣợc mùa hạ nóng và mùa đông lạnh.
Vạn vật trong vũ trụ đều nằm trong vòng Thái Cực Khí
Thiên. Nếu không có Trời này thì Nhật Nguyệt Tinh tú
không thể treo ở trên không và vạn vật sẽ không tồn tại
đƣợc. Chƣ thiên trong vòng Thiên Đạo đều ngụ tại khí
thiên, tùy theo công đức lớn hay nhỏ, thời gian có thể từ
vài trăm năm đến hàng nghìn năm. Chƣởng quản về Thiên
này là Đức Ngọc Hoàng Đại Đế.
Tượng Thiên: Phàm vật có hình sắc có tƣớng, mắt có thể
thấy đƣợc đều thuộc phần Tƣợng Thiên. Trên thì nhật
nguyệt tinh tú, dƣới thì núi sông hồ hải. Động vật và thực
vật đều ở trong phạm vi của Tƣợng Thiên. Lý thuộc Tiên
Thiên, Khí và Tƣợng thuộc hậu thiên2. Đạo Đức Kinh:
“Thiên Địa vạn vật sanh ƣ hữu, hữu sinh ƣ vô”. Mọi vật
đều là tự thiên địa mà ra, thiên địa lại từ Vô mà có. Vô tức
là Lý, là Đạo. Từ Lý sinh Khí, từ Khí sinh Tƣợng. Từ Vô
sinh Hữu lại từ Hữu trở về Vô. Vô sinh Hữu: Nhất bổn
tán vạn thù; Hữu nhập Vô: Vạn thù quy nhất bổn. Tƣợng
có hình sắc nên hoại trƣớc, Khí hữu sắc vô hình nên hoại
sau, Lý vô hình vô sắc nên bất hoại.
2
Sự thay đổi của thời tiết đất trời có thể dự đoán được vì thuộc
phần Khí và Tượng nên gọi là Khí Tượng
Thân ngƣời hội đủ Lý, Khí, Tƣợng tam thiên. Linh tính
do Thiên phú, có từ Vô Cực Lý Thiên. Tính này chí thánh
chí linh, lịch kiếp bất hoại, mọi suy tƣ động tác của ngƣời
đều do Lý Tính điều khiển, nhƣng bị vật dục và khí bỉnh
che lấp, nên có mà không biết. Tiên Phật Thánh Hiền vì
biết đƣợc Tính xuất xứ từ Lý nên dụng công phu tồn Tâm
dƣỡng Tính, minh Tâm kiến Tính, tu Tâm luyện Tính, để
Tính này hợp với Lý của Lý Thiên. Thiên nhân hợp nhất,
lịch kiếp trƣờng tồn, bất sinh bất diệt. Phàm nhân vì mê
SỐ 3 TRONG ĐẠO HỌC Viễn Lƣu
17
trong phần Lý này nên lƣu lãng trên đƣờng sinh tử luân
hồi. Thánh phàm khác biệt tại mê và ngộ mà thôi. Khí
trong thân ngƣời thuộc về sự hô hấp, khí này thông với
khí của Thái Cực Khí Thiên, sự thay đổi bất thƣờng của
Khí Thiên có ảnh hƣởng trực tiếp đến sức khỏe của ngƣời.
Khoa châm cứu chứng minh rằng khí huyết lƣu hành
trong thân huyệt ngƣời đều ứng với 2 khí lƣu hành của
Thái Cực và dùng phƣơng pháp này để trị bệnh. Đan gia
dùng phƣơng pháp dƣỡng khí và vận khí để đả thông kỳ
kinh bát mạch, trì chay ngồi thiền để kết đan, luyện đến
mức dƣơng thần xuất khiếu, làm tiên Tiêu dao trong vòng
Khí Thiên. Nếu đƣợc Minh Sƣ chỉ điểm khiếu Vô Cực
trong thân ngƣời, thì siêu Khí nhập Lý, thành Đại La Kim
Tiên mà bất sanh bất diệt Phần Tƣợng của ngƣời là phần
hình hài có từ cha mẹ, từ hai khí âm dƣơng và ngũ hành
mà ra. Một khi chết thì phần hình hài hoại trƣớc, kế đến
thì phách tán, nhƣng phần Linh Tính thì bất diệt, tùy theo
thiện ác của ngƣời đã làm mà đầu thai làm ngƣời hay súc,
thay họ đổi tên, quanh đi quẩn lại trong vòng lục đạo luân
hồi. Biết đƣợc thân do tứ đại hòa hợp mà tạo ra, có ngày
sẽ hoại, dù có công danh phú quý cũng chỉ ngắn ngủi vài
chục năm, hãy tìm đƣờng phỏng sƣ tầm Đạo tu phần Tính
để hoàn nguyên, liễu thoát con đƣờng sinh tử, làm bạn
cùng Tiên Phật Thánh Hiền, trở về cõi bất sanh, bất diệt
thế mới không uổng công sống làm ngƣời trong kiếp này.
--oOo--
Tam Thừa Đại Pháp (trích từ trang 8 trong sách “Đạo Nghĩa Căn Bản”, của Nhất
Quán Tùng Thư, http://www.nhatquantungthu.com/)
Pháp chia làm Thƣợng, Trung, Hạ tam thừa. Cho nên có
sự phân biệt giữa Đốn, Tiệm, Quyền, Thực. Đốn là đốn
ngộ, Tiệm là tiệm tu, Quyền là pháp môn phƣơng tiện,
Thực là chân pháp là Niết Bàn diệu tâm của chƣ Tổ.
Thƣợng thừa: Là Tánh Lý tâm pháp của tam giáo. Tâm
pháp có tông có mạch, có ẩn có hiện, do Minh Sƣ khẩu
truyền tâm ấn, trực chỉ kiến tánh thoát Khí hoàn Lý. Đó là
Đốn pháp, là bí truyền mà từ cổ chí kim nếu không phải là
Minh Sƣ, không có Thiên mệnh của Thƣợng Đế, Thánh
Phật cũng không dám tùy ý truyền thụ. Đức Phật Thích
Ca “ niêm hoa” ngài Ca Diếp mỉm cƣời; Đức Khổng Tử
nói “ Nhất dĩ quán chi”, thầy Tăng Tử đáp “ Duy”. Đó là
tâm pháp thƣợng thừa, thầy trò đều lấy tâm ứng tâm, mà
không ở nơi văn tự. Đắc tâm pháp thì thành Thánh thành
Phật Trung Thừa: Tham thiền nhập định chuyển pháp
luân, vận khí hành châu thiên, luyện đan thái cực, tiến
dƣơng thối phù…, đó là phƣơng pháp trung thừa. Dù
luyện đến mức xuất thần, ngao du sơn thủy, vẫn ở trong
vòng Thái Cực, không rời hai khí âm dƣơng, chỉ là Tiên
trong vòng Khí Thiên. Hạ Thừa: Gõ mõ tụng kinh, xây
cầu đắp đƣờng, cứu bần tế nan, thuộc về hạ thừa (Tiểu
thừa), bất kiến Chân Đạo, chỉ tu lấy phúc của kiếp sau.
Kiếp này tu phúc thì kiếp sau hƣởng thụ, một khi phúc tận
thì vinh hoa phú quý cũng hết 3
--oOo--
SỐ 3 TRONG ĐẠO HỌC Viễn Lƣu
18
Đạo tâm, Nhân Tâm và Huyết Tâm (trích từ trang 25 trong sách “Đạo Nghĩa Căn Bản”, của Nhất
Quán Tùng Thư, http://www.nhatquantungthu.com/)
Tâm chƣa phát gọi là Tính, Tính đã phát gọi là tâm, tâm
tính nhất thể nhƣng 2 mặt. Tâm xuất phát từ Lý Tính là
Đạo tâm, phát xuất từ Khí Tính là Nhân tâm.
Đạo Tâm chí thiện vô ác, nơi mà Phật gọi là bồ đề tâm,
Nho gọi là Lương tâm. Nhân tâm có thiện có ác, tùy theo
tính tình của ngƣời, lúc giận thì sinh lòng oán ghét, khi
vui thì tỏ lòng mừng. Một kẻ cắp, biết đƣợc ăn cắp là một
hành vi xấu, nhƣng vẫn hành nghề này. Hành động ăn cắp
thuộc về nhân tâm, biết đƣợc ăn cắp là việc không nên
làm, một khi đã làm rồi thì lòng áy náy không yên. Đó là
lƣơng tâm, đạo tâm. Từ điểm này cho ta thấy mọi ngƣời
đều có lƣơng tâm, Phật Tính. Tính này không vì ở Phật
mà tăng, cũng không vì ở chúng sanh mà giảm, chỉ khác
nhau tại mê và ngộ mà thôi.
Huyết tâm là trái tim bằng thịt của ta, chủ về sự tuần
hoàn lƣu thông của máu trong thân ngƣời. Đạo tâm thuộc
Lý, Nhân tâm thuộc Khí, Huyết tâm thuộc Tượng.
Trong thời kỳ xích tử (HÀI NHI) chƣa biết đến vật dục,
bản tính vô thiện vô ác. Đến lúc trƣởng thành biết vui biết
mừng, biết oán, biết hờn, phần lƣơng tri bị vật dục che lấp
làm mất đi bản tính ban đầu. Cho nên tu Đạo là trừ đi
phần Nhân Tâm thể hiện phần Đạo tâm. Nho viết:“ Phản
kỳ xích tử chi tâm”, Phật viết: “minh tâm kiến tánh” là
vậy!
Kính chúc các bạn may mắn,
Kính bút,
Viễn Lƣu, Mar/01/2017
Recommended