View
381
Download
1
Category
Preview:
Citation preview
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Cây ngô (Zea mays L.) là một trong ba cây cốc quan trọng cung cấp
lương thực cho con người và thức ăn cho vật nuôi. Ngô còn là nguồn nguyên
liệu cho ngành công nghiệp lương thực - thực phẩm - dược phẩm và công
nghiệp nhẹ. Hiện nay, ngô đang được quan tâm đặc biệt với vai trò là nguồn
nguyên liệu để sản xuất nhiên liệu sinh học.
Với ý nghĩa quan trọng trong nền kinh tế, cùng với tính thích ứng rộng
và tiềm năng năng suất cao, cây ngô được hầu hết các quốc gia trên thế giới
gieo trồng (166 nước) và diện tích ngày càng mở rộng. Năm 2007, sản xuất
ngô thế giới đạt kỷ lục cả 3 chỉ tiêu: Diện tích 158,0 triệu ha (chỉ sau lúa mì -
214,2 triệu ha, vượt qua lúa nước - 155,8 triệu ha), năng suất 50,1 tạ/ha (lúa
nước 42,3 tạ/ha, lúa mì 28,3 tạ/ha) và sản lượng 791,8 triệu tấn - chiếm gần
40% trong tổng sản lượng 3 cây lương thực hàng đầu trên thế giới (lúa nước:
659,6 triệu tấn, lúa mì: 606 triệu tấn) (FAOSTAT, 2009) [67].
Hạn chế về mặt dinh dưỡng của ngô là một số axit amin không thay thế
như lysine, triptophan, methionine có hàm lượng thấp. Cải thiện chất lượng
protein ở ngô là một trong những hướng được đầu tư nghiên cứu nhiều của các
nhà chọn tạo giống trên thế giới. Với sự nỗ lực của các nhà khoa học ở Trung
tâm Cải lương Ngô và Lúa mì quốc tế (CIMMYT), các giống ngô chất lượng
protein cao (QPM - Quality Protein Maize) với nội nhũ cứng có năng suất và
các đặc tính nông sinh học tương đương nhưng hàm lượng các axit amin
không thay thế cao gấp đôi ngô thường đã được tạo ra và đang trở thành một
xu hướng chính trong chọn tạo giống ngô của thế giới hiện nay.
Ở Việt Nam, ngô tuy chỉ chiếm 12,9% diện tích cây lương thực có hạt,
nhưng có ý nghĩa quan trọng thứ hai sau cây lúa. Gần 30 năm qua, nhất là từ
1
những năm sau 1990, sản xuất ngô nước ta đã đạt được những thành tựu đáng
ghi nhận. Năm 2008 là năm đạt diện tích (1125,9 nghìn ha), năng suất
(40,2 tạ/ha) và sản lượng (4531,2 nghìn tấn) cao nhất từ trước đến nay. So với
năm 1990, diện tích và năng suất tăng 2,6 lần, còn sản lượng tăng 7 lần (Tổng
cục Thống kê, 2009) [45]. Đạt được những kết quả trên là nhờ sự định hướng
đúng đắn và đầu tư cao độ của Nhà nước đối với ngành ngô, cũng như sự nỗ
lực vượt bậc của những người làm công tác nghiên cứu và khuyến nông đối
với cây ngô. Đó cũng là kết quả từ sự giúp đỡ có hiệu quả của các tổ chức
quốc tế, trong đó có CIMMYT. Chương trình phát triển ngô QPM đã được
CIMMYT tạo mọi điều kiện để Việt Nam tiếp nhận được những kết quả mới
nhất. Viện Nghiên cứu Ngô đã nghiên cứu lai tạo, thử nghiệm một số giống
ngô lai QPM và thành công bước đầu tạo ra được giống ngô lai HQ2000.
Giống HQ2000 là sản phẩm khởi đầu của chương trình tạo giống ngô QPM ở
nước ta. Để đáp ứng nhu cầu đa dạng của sản xuất ở các vùng miền khác nhau
trong cả nước, cần thiết phải chọn tạo ra được nhiều giống ngô QPM mới,
trong đó có giống ngô QPM thụ phấn tự do (TPTD) cho vùng Trung du và
miền núi phía Bắc.
Mặc dầu đã đạt được những thành tựu quan trọng, nhưng sản lượng ngô
nước ta vẫn chưa đáp ứng đủ nhu cầu tiêu dùng trong nước ngày một tăng
nhanh. Hiện nay, nước ta phải nhập khoảng 600.000 – 800.000 tấn/năm để
làm nguyên liệu chế biến thức ăn chăn nuôi. Để đáp ứng nhu cầu về ngô, có
thể giải quyết bằng hai hướng: Một là mở rộng diện tích và đầu tư thâm canh
các giống ngô lai có năng suất cao; hai là tăng diện tích các giống ngô có hàm
lượng và chất lượng protein cao (QPM).
Thái Nguyên là một tỉnh đại diện cho vùng Trung du và miền núi phía
Bắc có điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội còn nhiều khó khăn. Nhiều vùng
sản xuất ngô đã trồng bằng các giống ngô lai, nhưng do điều kiện đất đai,
2
nước tưới, khả năng đầu tư, trình độ của người dân chưa đáp ứng được yêu
cầu thâm canh nên hiệu quả của các giống ngô lai không cao. Trong những
điều kiện như vậy, các giống ngô TPTD cải tiến sẽ phù hợp hơn. Đặc biệt là
các giống ngô QPM TPTD sẽ rất có ý nghĩa khi mà một bộ phận đáng kể
đồng bào dân tộc thiểu số đang sử dụng ngô làm lương thực chính. Tuy nhiên,
cho đến nay các giống ngô QPM TPTD thích hợp cho vùng miền núi phía
Bắc là chưa có.
Điều kiện môi trường và các biện pháp kỹ thuật canh tác khác nhau ảnh
hưởng đến năng suất ngô nhưng có làm thay đổi hàm lượng và chất lượng
protein (các axit amin không thay thế) của giống ngô QPM hay không. Yếu tố
phân bón có góp phần cải thiện chất lượng protein của giống ngô QPM và ngô
thường hay không. Đây là những vấn đề chưa được nghiên cứu sâu trên thế
giới cũng như ở Việt Nam. Đã có nhiều nghiên cứu về phân bón trên ngô
thường ở nước ta và trên ngô QPM cũng mới chỉ bắt đầu. Cho đến nay,
nghiên cứu xác định ảnh hưởng của các liều lượng đạm, lân, kali qua các mùa
vụ khác nhau đến năng suất hạt, hàm lượng và chất lượng protein của giống
ngô QPM TPTD so sánh với ngô lai thường chưa được công bố trên thế giới
và ở Việt Nam.
Xuất phát từ những cơ sở khoa học và thực tiễn trên, chúng tôi tiến hành
nghiên cứu đề tài: "Nghiên cứu ảnh hưởng của liều lượng đạm, lân, kali
đến sinh trưởng, phát triển, năng suất và chất lượng của giống ngô chất
lượng protein cao có triển vọng tại Thái Nguyên".
2. Mục tiêu của đề tài
- Xác định được giống ngô QPM TPTD triển vọng cho tỉnh Thái Nguyên
cũng như các tỉnh miền núi phía Bắc.
- Xác định lượng phân đạm, lân và kali tối ưu cho giống ngô QPM
TPTD triển vọng.
3
- Xác định được ảnh hưởng của các liều lượng đạm, lân, kali đến năng
suất, hàm lượng và chất lượng protein đối với giống ngô QPM TPTD so sánh
với giống ngô lai thường.
3. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài
3.1. Ý nghĩa khoa học
- Đề tài đã bổ sung thêm dữ liệu khoa học về các giống ngô QPM TPTD
ở điều kiện miền núi phía Bắc.
- Đề tài đã xác định được ảnh hưởng của các liều lượng đạm, lân, kali
đến sinh trưởng, phát triển và năng suất ngô QPM TPTD so sánh với giống
ngô lai thường.
- Đề tài đã xác định được ảnh hưởng của các liều lượng đạm, lân, kali
đến hàm lượng và chất lượng protein của giống ngô QPM TPTD so sánh với
giống ngô lai thường.
3.2. Ý nghĩa thực tiễn
- Đề tài đã chọn được một giống ngô QPM TPTD có khả năng sinh
trưởng, phát triển tốt, cho năng suất cao và ổn định, có hàm lượng và chất
lượng protein cao, thích nghi với điều kiện Thái Nguyên và miền núi
phía Bắc.
- Đề tài đã xác định được công thức phân bón thích hợp cho giống ngô
QPM TPTD QP4 và giống ngô lai thường LVN10 trồng tại Thái Nguyên và
miền núi phía Bắc.
4
Chương 1
TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1. Cơ sở khoa học của đề tài
Với vai trò làm lương thực cho người (17%), thức ăn cho chăn nuôi
(gần 70%) và làm nguyên liệu cho các ngành công nghiệp thực phẩm, dược
phẩm và công nghiệp nhẹ khác (khoảng 10%) (Ngô Hữu Tình, 2009) [42],
ngô đã được hầu hết các quốc gia và vùng lãnh thổ trên thế giới gieo trồng và
liên tục mở rộng sản xuất.
Tất cả các nước trồng ngô nói chung đều ăn ngô với các mức độ khác
nhau. Toàn thế giới (giai đoạn 1995 - 1997) sử dụng 17% sản lượng ngô làm
lương thực cho người, trong đó ở các nước đang phát triển là 30%, các nước
phát triển khoảng 4%. Các nước ở Trung Mỹ, Nam Á và châu Phi sử dụng
ngô làm lương thực chính. Các nước Đông Nam Phi sử dụng 72% sản lượng
ngô làm lương thực cho người, Tây Trung Phi 66%, Bắc Phi 45%, Tây Á
23%, Nam Á 75%, Đông Nam Á và Thái Bình Dương 43%, Đông Á 12%,
Trung Mỹ và vùng Caribe 56%, Nam Mỹ 9%, Đông Âu và Liên Xô cũ 7%,
Tây Âu, Bắc Mỹ và các nước phát triển khác 4% (Ngô Hữu Tình, 2009) [42].
Vì vậy, ngô là một cây trồng rất quan trọng đảm bảo an ninh lương thực trên
phạm vi toàn thế giới.
Việt Nam là quốc gia có truyền thống lúa nước lâu đời, lương thực chính
là gạo, song người dân cũng rất thích ăn ngô dưới dạng ngô luộc, ngô nướng,
ngô rang, bỏng ngô. Trước kia còn nghèo đói và do mất mùa, nông dân vẫn
thường ăn ngô dưới dạng độn với cơm hoặc ngô bung. Hiện nay, đồng bào
một số dân tộc thiểu số vùng cao như H'mông, Dao... vẫn ăn ngô như nguồn
lương thực chính theo truyền thống và vì điều kiện kinh tế còn nghèo dưới
dạng mèn mén.
5
Do chất lượng protein ở ngô không cao vì hàm lượng một số axit amin
không thay thế như lysine, triptophan, methionine thấp nên việc sử dụng ngô
nhiều có ảnh hưởng đến dinh dưỡng cho người và vật nuôi. Trước thực tế đó,
các nhà khoa học trên thế giới đã nghiên cứu chọn tạo ra các giống ngô QPM
với hàm lượng protein cao hơn và đặc biệt có hàm lượng lysine, triptophan,
methionine gấp đôi ngô thường. Hiện nay có nhiều giống ngô lai QPM đã
được đưa vào sản xuất, còn giống TPTD QPM ít hơn. Giống lai QPM có năng
suất cao chủ yếu phù hợp cho các vùng trồng ngô thâm canh, còn đối với các
vùng đồi núi còn nhiều hạn chế về cơ sở hạ tầng, kỹ thuật canh tác, giống ngô
TPTD QPM khả thi hơn.
Miền núi phía Bắc nước ta là vùng khó khăn về điều kiện tự nhiên, kinh
tế - xã hội. Người dân vùng này còn rất nghèo, thiếu vốn đầu tư cho sản xuất
nông nghiệp. Ở một số vùng khó khăn những người dân nghèo đói vẫn phải
sử dụng ngô làm lương thực và một số đồng bào dân tộc có tập quán sử dụng
ngô làm lương thực chính từ lâu đời. Vì vậy, việc sử dụng giống ngô QPM là
một nhu cầu thiết thực và cấp bách, góp phần giảm chi phí đầu tư cho sản
xuất, đồng thời đạt được năng suất và chất lượng protein cao, đem lại hiệu
quả kinh tế, đặc biệt có thể giảm tỷ lệ suy dinh dưỡng cho người dân miền
núi, đảm bảo an ninh lương thực, nâng cao chất lượng dinh dưỡng trong thức
ăn chăn nuôi, đẩy mạnh công cuộc xoá đói giảm nghèo, phát triển kinh tế - xã
hội nông thôn miền núi.
Đất canh tác ở vùng miền núi rất ít, vì vậy việc mở rộng diện tích trồng
ngô là rất khó khăn đồng thời việc tăng năng suất ngô gặp trở ngại do dinh
dưỡng đất ở vùng này nghèo kiệt và khả năng thâm canh đầu tư của người dân
thấp. Cho nên việc sử dụng giống ngô TPTD QPM vừa cho năng suất cao vừa
đạt chất lượng protein cao là rất phù hợp và hiệu quả.
6
Hiện nay, việc nghiên cứu ảnh hưởng của điều kiện ngoại cảnh, môi
trường canh tác đến chất lượng của ngô QPM trên thế giới còn rất ít. Ở Việt
Nam, nghiên cứu về vấn đề này mới chỉ bắt đầu. Vấn đề được đặt ra là giống
ngô QPM có chất lượng protein cao nhưng liệu nó có thay đổi chất lượng ở
những điều kiện ngoại cảnh, môi trường canh tác khác nhau không. Liệu
trong cùng một điều kiện môi trường canh tác giống nhau, sự thay đổi về chất
lượng protein của giống ngô QPM so với ngô thường có khác nhau không. Ở
nước ta đến nay những nghiên cứu về phân bón ảnh hưởng đến năng suất thì
nhiều nhưng chưa có nghiên cứu nào về ảnh hưởng của phân đạm, lân, kali
đến năng suất và chất lượng protein của giống ngô TPTD QPM và so sánh với
giống ngô lai thường.
Xuất phát những cơ sở khoa học trên, chúng tôi đã tiến hành thực hiện
đề tài này.
1.2. Tình hình sản xuất ngô trên thế giới và ở Việt Nam
1.2.1. Tình hình sản xuất ngô trên thế giới
Ngô là cây ngũ cốc lâu đời và phổ biến trên thế giới, không cây nào sánh
kịp với cây ngô về tiềm năng năng suất hạt, về quy mô, hiệu quả ưu thế lai.
Ngô còn là cây điển hình được ứng dụng nhiều thành tựu khoa học về
các lĩnh vực di truyền học, chọn giống, công nghệ sinh học, cơ giới hoá, điện
khí hoá và tin học vào công tác nghiên cứu và sản xuất.
Ngành sản xuất ngô thế giới tăng liên tục từ đầu thế kỷ 20 đến nay. Theo
số liệu của Tổ chức Nông - Lương Liên Hợp Quốc (FAO), năm 2007 diện tích
ngô đã vượt qua lúa nước, với 158,0 triệu ha, năng suất 50,1 tấn/ha và sản
lượng đạt kỷ lục 791,8 triệu tấn. Trong hơn 40 năm qua, ngô là cây trồng có tốc
độ tăng trưởng về năng suất cao nhất trong các cây lương thực chủ yếu. So với
năm 1961, năm 2007 năng suất ngô trung bình của thế giới tăng thêm hơn 31,1
tạ/ha (từ 19 lên 50,1 tạ/ha), lúa nước tăng hơn 23,3 tạ/ha (từ 19 lên 42,3 tạ/ha),
còn lúa mì thêm 17,3 tạ/ha (từ 11 lên 28,3 tạ/ha) (FAOSTAT, 2009) [67].
7
Bảng 1.1. Sản xuất ngô, lúa mì, lúa nước thế giới giai đoạn 1961-2007
Năm
Ngô Lúa mì Lúa nước
D. tích
(triệu
ha)
NS
(tạ/ha)
Sản
lượng
(triệu
tấn)
D. tích
(triệu
ha)
NS
(tạ/ha)
Sản
lượng
(triệu
tấn)
D. tích
(triệu
ha)
NS
(tạ/ha)
Sản
lượng
(triệu
tấn)
1961 104,8 19,0 204,2 200,9 11,0 219,2 115,3 19,0 215,3
2004 145,0 49,0 714,8 217,2 29,0 625,1 150,6 40,0 595,8
2005 145,6 48,0 696,3 218,5 28,0 621,5 152,6 41,0 622,1
2006 148,6 47,0 704,2 212,3 28,0 593,2 153,0 41,0 622,2
2007 158,0 50,1 791,8 214,2 28,3 606,0 155,8 42,3 659,6
Nguồn: FAOSTAT, 2009 [67]
Kết quả trên có được, trước hết là nhờ ứng dụng rộng rãi lý thuyết ưu thế
lai trong chọn tạo giống, đồng thời không ngừng cải thiện các biện pháp kỹ
thuật canh tác. Đặc biệt, từ 10 năm nay cùng với những thành tựu trong chọn
tạo giống lai nhờ kết hợp phương pháp truyền thống và công nghệ sinh học thì
việc ứng dụng công nghệ cao trong canh tác đã góp phần đưa sản lượng ngô
thế giới vượt lên trên lúa mì và lúa nước. Những thành tựu mà ngành ngô thế
giới đạt được trong những năm gần đây có thể nói là đã vượt ngoài mọi dự
đoán lạc quan nhất. Năm 1995, sản lượng ngô thế giới là 517 triệu tấn, năm
1998 đã đạt 615 triệu tấn, năm 2000 do điều kiện khí hậu khó khăn giảm
xuống còn 593 triệu tấn, vậy mà vào năm 2007 đã đạt tới 792 triệu tấn. Tức là
chỉ sau có 12 năm, sản lượng ngô thế giới đã tăng thêm hơn 50%. Riêng 7
năm gần đây đã tăng thêm gần 300 triệu tấn. Và giá ngô thế giới vẫn ở mức
cao. Trong khi đó, vào năm 2003, Viện Nghiên cứu Chương trình lương thực
thế giới (IFPRI) dự báo nhu cầu ngô trên thế giới vào năm 2020 chỉ lên đến
852 triệu tấn (dẫn theo Ngô Hữu Tình, 2009) [42].
8
Dân số thế giới ngày càng tăng nhanh, trong khi đó diện tích đất canh tác
ngày càng thu hẹp do sa mạc hóa và xu thế đô thị hóa. Nền nông nghiệp thế
giới ngày nay luôn phải trả lời làm thế nào để giải quyết đủ năng lượng cho 8
tỷ người vào năm 2021 và 16 tỷ người vào năm 2030. Để giải quyết được câu
hỏi này, ngoài biện pháp phát triển nền nông nghiệp nói chung thì phải nhanh
chóng chọn ra những giống cây trồng trong đó có các giống ngô năng suất
cao, ổn định có khả năng chống chịu tốt với điều kiện khí hậu ngày càng biến
đổi phức tạp. Một trong những thành tựu quan trọng trong chọn tạo giống sinh
vật nói chung và cây ngô nói riêng là việc nghiên cứu thành công và phát triển
nhanh giống biến đổi gen. Với cây ngô, chỉ sau 12 năm áp dụng, năm 2008,
diện tích trồng ngô chuyển gen trên thế giới đã đạt 37,3 triệu ha, riêng ở Mỹ
đã lên đến 30 triệu ha, chiếm 85% trong tổng số 35,2 triệu ha ngô của nước
này (GMO-COMPASS, 2009) [68]. Nhờ chuyển gen kháng thuốc trừ cỏ và
kháng sâu đục thân, việc sản xuất ngô được thuận tiện hơn, giảm thuốc bảo vệ
thực vật từ đó giảm sự ô nhiễm môi trường và tăng hiệu quả kinh tế. Những
nghiên cứu về chuyển gen chịu hạn, chịu rét, chịu chua, chịu mặn, chịu đất
nghèo đạm và kháng một số bệnh do virut ở ngô cũng đã những kết quả bước
đầu. Khi những nghiên cứu trên được ứng dụng vào thực tiễn sẽ góp phần
khai thác tối đa tiềm năng năng suất ở ngô. Điều đó sẽ có một ý nghĩa vô cùng
lớn đối với ngành sản xuất ngô thế giới, đặc biệt ở các nước đang phát triển
việc sản xuất ngô phụ thuộc chủ yếu vào thiên nhiên, trong đó có Việt Nam.
1.2.2. Tình hình sản xuất ngô ở Việt Nam
Ngô là cây lương thực quan trọng thứ 2 sau cây lúa ở nước ta. Ngô được
đưa vào Việt Nam cách đây khoảng 300 năm (Ngô Hữu Tình, 2009) [42]. Do
có vai trò quan trọng đối với kinh tế xã hội cộng với điều kiện khí hậu nhiệt
đới gió mùa nên ngô đã nhanh chóng được mở rộng, trồng khắp các vùng
miền cả nước.
9
Cùng với sự tiến bộ của toàn thế giới, việc phát triển sản xuất ngô ở Việt
Nam trong vài thập kỷ cuối thế kỷ 20 cũng đã thu được những kết quả quan
trọng. Đạt được thành tựu lớn trong sản xuất ngô ở nước ta trong những năm
gần đây là nhờ có những chính sách khuyến khích của Đảng và Nhà nước
trong việc áp dụng thành công những tiến bộ khoa học kỹ thuật về giống, kỹ
thuật canh tác vào sản xuất nên cây ngô đã có những bước tiến mạnh về diện
tích, năng suất và sản lượng.
Năng suất ngô Việt Nam đến cuối những năm 1970 chỉ đạt 10 tạ/ha do
trồng các giống ngô địa phương với kỹ thuật canh tác lạc hậu. Từ giữa những
năm 1980, nhờ hợp tác với CIMMYT, nhiều giống ngô cải tiến đã được trồng
ở nước ta, góp phần đưa năng suất lên gần 15 tạ/ha vào đầu những năm 1990.
Tuy nhiên, ngành sản xuất ngô nước ta thực sự có những bước tiến nhảy vọt
là từ đầu những năm 1990 đến nay, gắn liền với việc mở rộng giống lai và cải
thiện các biện pháp kỹ thuật canh tác. Năm 1991, diện tích trồng giống lai
chưa đến 1% trên hơn 400 nghìn ha trồng ngô, năm 2007 giống lai đã chiếm
khoảng 95% trong số hơn 1 triệu ha. Năm 1994, sản lượng ngô Việt Nam
vượt ngưỡng 1 triệu tấn, năm 2000 vượt ngưỡng 2 triệu tấn và năm 2008 có
diện tích, năng suất và sản lượng cao nhất từ trước đến nay: Diện tích 1.125,9
nghìn ha, năng suất 40,2 tạ/ha, sản lượng vượt ngưỡng 4 triệu tấn - 4,5 triệu
tấn (Tổng cục Thống kê, 2009) [45].
Bảng 1.2. Sản xuất ngô Việt Nam giai đoạn 1961 – 2008
Năm
Chỉ tiêu1961 1975 1990 1994 2000 2005 2007 2008
Diện tích (1000 ha) 229,20 267,0 432,0 534,6 730,2 1052,6 1096,1 1125,9
Sản lượng (1000 tấn) 260,10 280,60 671,0 1143,9 2005,9 3787,1 4303,2 4531,2
Năng suất (tạ/ha) 11,4 10,5 15,5 21,4 27,5 36,0 39,3 40,2
Nguồn: Tổng cục Thống kê, 2009 [45]
10
Năm 1961, năng suất ngô nước ta bằng 60% trung bình thế giới (11,4/ 19
tạ/ha). Suốt gần 20 năm sau đó, trong khi năng suất ngô thế giới tăng liên tục
thì năng suất của ta lại giảm, và vào năm 1979 chỉ còn bằng 29% so với trung
bình thế giới (9,9/33,9 tạ/ha). Mặc dầu là cây lương thực thứ hai sau lúa nước,
song do truyền thống lúa nước, cây ngô không được chú trọng nên chưa phát
huy hết tiềm năng ở Việt Nam.
Từ năm 1980 đến nay, năng suất ngô nước ta tăng nhanh liên tục với tốc
độ cao hơn trung bình của thế giới. Năm 1980, bằng 34% so với trung bình
thế giới (11/32 tạ/ha); năm 1990 bằng 42% (15,5/37 tạ/ha); năm 2000 bằng
65,5% (27,5/42 tạ/ha); năm 2005 bằng 75% (36/48 tạ/ha) và năm 2007 đã đạt
78,4% (39,3/50,1 tạ/ha).
Cây ngô có khả năng thích ứng rộng, có thể được trồng nhiều vụ trong
năm và trồng ở hầu hết các địa phương trong cả nước. Tiềm năng phát triển
cây ngô ở nước ta là rất lớn cả về diện tích và thâm canh tăng năng suất.
Các giống ngô lai có tiềm năng năng suất cao đã và đang được phát triển
ở những vùng ngô trọng điểm, vùng thâm canh, có thuỷ lợi, những vùng đất
tốt như: Đồng bằng sông Hồng, Đồng bằng sông Cửu Long, Đông Nam Bộ,
Tây Nguyên để đạt năng suất cao. Tuy nhiên, ở các tỉnh miền núi, những
vùng khó khăn, canh tác chủ yếu nhờ nước trời, đất xấu, đầu tư thấp thì giống
ngô thụ phấn tự do chiến ưu thế và chiếm một diện tích khá lớn.
1.2.3. Tình hình sản xuất ngô ở vùng Đông Bắc
Đông Bắc là vùng núi và trung du, nó được phân cách với vùng Tây Bắc
bởi dãy Hoàng Liên Sơn, bao gồm 10 tỉnh (Hà Giang, Cao Bằng, Bắc Kạn,
Tuyên Quang, Lào Cai, Yên Bái, Thái Nguyên, Lạng Sơn, Bắc Giang, Phú Thọ).
Ở vùng Đông Bắc, ngô là cây lương thực chính chỉ đứng sau cây lúa.
Năm 2008, diện tích lúa là 498,4 nghìn ha, diện tích ngô là 243,9 nghìn ha.
Trong vùng có khoảng 115 nghìn ha ruộng bậc thang hàng năm trồng 1 vụ lúa
11
mùa nhờ nước trời - bỏ hoá vụ Xuân (Tổng cục Thống kê, 2009) [45]. Đây là
quỹ đất cần được khai thác để trồng ngô vụ Xuân bằng giống ngắn ngày
chịu hạn.
Nhìn chung, vụ ngô chính trong vùng là vụ Xuân Hè, gieo cuối tháng 2
hoặc đầu tháng 3 và thu hoạch vào cuối tháng 6 hoặc đầu tháng 7. Vụ ngô này
chiếm 65 – 70% tổng diện tích gieo trồng ngô. Ngô Thu Đông trong vùng
được gieo vào cuối tháng 7 hoặc đầu tháng 8 và thu hoạch vào tháng 11
chiếm 10 – 15%. Ngoài hai vụ trên thì còn vụ ngô Đông được trồng sau khi
thu hoạch lúa mùa sớm. Diện tích trồng ngô vụ này chiếm khoảng 15 – 20%
(được trồng nhiều ở các tỉnh Thái Nguyên, Bắc Giang, Phú Thọ)
Ba tỉnh Hà Giang, Cao Bằng và Lào Cai có diện tích ngô lớn hơn diện
tích lúa. Tại Hà Giang, năm 2008 diện tích ngô là 46,4 nghìn ha trong khi
diện tích lúa là 36,7 nghìn ha; tương tự Cao Bằng có diện tích ngô là 38,4
nghìn ha trong khi diện tích lúa chỉ có 31,2 nghìn ha; Lào Cai có diện tích ngô
là 28,8 nghìn ha, diện tích lúa là 28,5 nghìn ha (Tổng cục Thống kê, 2009)
[45]. Nghĩa là ở ba tỉnh này, ngô là cây trồng quan trọng số một.
Khác với cây lúa, cây ngô có thể phát triển ở cả những vùng đất có độ
dốc 15 – 20% nên nó có vị trí quan trọng, góp phần tích cực thay đổi cơ cấu
cây trồng trên đất dốc, thay thế nhanh chóng diện tích trồng cây lúa nương và
cây sắn trong sản xuất nông nghiệp.
Ngô là cây trồng truyền thống của đồng bào các dân tộc miền núi, mặt
khác do dễ trồng, dễ bảo quản và tiêu thụ hơn các cây trồng khác nên diện
tích ngô vùng Đông Bắc tăng dần hàng năm (diện tích ngô năm 2000 là 160
nghìn ha, năm 2008 là 243,9 nghìn ha). Diện tích ngô tăng chủ yếu do tăng vụ
trên đất một vụ lúa mùa (ruộng bậc thang) và tăng diện tích trồng ngô vụ 2.
Do sử dụng giống ngô lai và tăng đầu tư phân bón đã giúp năng suất ngô tăng
và lợi nhuận của nông dân trồng ngô tăng dần (năng suất ngô năm 2000 là
12
24,9 tạ/ha, năm 2008 là 34,3 tạ/ha). Sản lượng ngô trong vùng cũng tăng dần
hàng năm, năm 2000 đạt 412,6 nghìn tấn, năm 2008 đạt 798 nghìn tấn. Tỉnh
Lạng Sơn có năng suất ngô đạt cao nhất 46 tạ/ha (năm 2008). Hà Giang là
tỉnh có sản lượng ngô lớn nhất trong vùng, đạt 112,9 nghìn tấn (năm 2008)
(Tổng cục Thống kê, 2009) [45].
Việc mở rộng diện tích được tưới chủ động cho cây trồng ở vùng núi cao
là vấn đề khó khăn vì địa hình canh tác trên nền đất dốc, nương rẫy và sườn
núi, nguồn nước tưới ở xa; nông dân nghèo thiếu vốn đầu tư; chi phí xây dựng
công trình tưới nước lớn hơn nhiều so với vùng đồng bằng. Như vậy, chủ yếu
diện tích ngô trong vùng được trồng ở vùng cao nhờ nước trời, chỉ có một
phần nhỏ diện tích ở vùng thấp là có tưới. Vì vậy, giải pháp tối ưu cho việc
nâng cao năng suất và sản lượng ngô ở vùng này là sử dụng các giống ngô
chịu hạn, các giống ngô TPTD QPM và áp dụng các biện pháp kỹ thuật mới,
trong đó có kỹ thuật bón phân.
1.2.4. Tình hình sản xuất ngô ở Thái Nguyên
Cùng với sự phát triển ngô trong cả nước, tỉnh Thái Nguyên trong những
năm gần đây cũng rất quan tâm phát triển sản xuất ngô và đã thu được nhiều
kết quả khả quan. Nhờ có các thành tựu khoa học kỹ thuật mới, được nông
dân ứng dụng mạnh mẽ vào sản xuất ngô nên diện tích, năng suất và sản
lượng ngô ở Thái Nguyên tăng nhanh trong những năm gần đây.
Qua bảng 1.3 cho thấy: Từ năm 2000 đến 2004, diện tích ngô của tỉnh
Thái Nguyên tăng từ 10,7 nghìn ha lên 15,9 nghìn ha, năm 2005 diện tích
không tăng, đến năm 2006 thì diện tích giảm nhẹ (15,3 nghìn ha). Nhưng đến
năm 2008 diện tích trồng ngô của tỉnh tăng vọt, đạt 20,6 nghìn ha. Năng suất
ngô của tỉnh tăng đều từ năm 2000 đến năm 2006 (28,8 - 35,2 tạ/ha). Năm
2007, năng suất ngô của tỉnh đạt cao nhất từ trước đến nay, đạt 42,0 tạ/ha cao
hơn trung bình cả nước (39,3 tạ/ha). Năm 2008 do thời tiết khí hậu bất thường
13
(ngô bị ngập lụt trong vụ Đông) nên năng suất giảm hơn so với năm 2007 (đạt
41,1 tạ/ha). Sản lượng ngô năm 2008 đạt cao nhất từ trước đến nay (84,7
nghìn tấn). Điều này chứng tỏ ở tỉnh Thái Nguyên, cây ngô đã được Đảng và
Chính quyền địa phương chú trọng đầu tư phát triển. Và đạt được thành tựu
như vậy là nhờ áp dụng tốt các tiến bộ khoa học kỹ thuật mới vào sản xuất
ngô như giống mới, kỹ thuật canh tác. Tuy nhiên, sản xuất ngô ở tỉnh cần
được đầu tư phát triển nhiều hơn nữa như tăng vụ, mở rộng diện tích, sử dụng
giống mới, giống TPTD QPM, thâm canh tăng năng suất nhằm khai thác tối
đa tiềm năng sẵn có của tỉnh.
Bảng 1.3. Diện tích, năng suất và sản lượng ngô của tỉnh Thái Nguyên
giai đoạn 2000 - 2008
NămDiện tích
(1000 ha )
Năng suất
( tạ/ha)
Sản lượng
(1000 tấn )
2000 10,7 28,8 30,8
2001 9,7 30,6 29,7
2002 11,6 32,8 38,0
2003 13,4 32,6 43,7
2004 15,9 34,3 54,6
2005 15,9 34,7 55,1
2006 15,3 35,2 53,9
2007 17,8 42,0 74,9
2008 20,6 41,1 84,7
Nguồn: Tổng cục Thống kê, 2009 [45]
Ngoài việc thâm canh ngô lai ở những vùng thuận lợi, cần tăng cường sử
dụng các giống ngô thụ phấn tự do cải tiến ở những vùng khó khăn, nhằm
tăng năng suất, sản lượng và chất lượng ngô, nâng cao hiệu quả kinh tế, góp
phần xoá đói giảm nghèo cho nông dân. Đặc biệt phải tiến hành nghiên cứu
khả năng thích ứng của các giống ngô TPTD có chất lượng protein cao và mở
14
rộng các giống mới ra sản xuất nhằm đảm bảo nhu cầu lương thực, đồng thời
nâng cao được chất lượng lương thực cho đồng bào dân tộc thiểu số vùng cao
và góp phần giảm giá thành sản phẩm ngành chăn nuôi, nâng cao hiệu quả
kinh tế. Ở những vùng thuận lợi trong tỉnh thì thâm canh sản xuất những
giống ngô lai chất lượng protein cao. Còn những vùng khó khăn, vùng cao thì
cần tiến hành nghiên cứu thử nghiệm, xây dựng mô hình trình diễn để xác
định những giống ngô TPTD QPM thích hợp nhất. Đồng thời việc xác định
các biện pháp kỹ thuật chính, trong đó có chế độ phân bón thích hợp cho
giống ngô TPTD QPM triển vọng là rất cần thiết.
1.3. Tình hình nghiên cứu và sản xuất ngô QPM trên thế giới và ở Việt Nam
1.3.1. Lợi ích dinh dưỡng và kinh tế của ngô QPM
Hiện nay trên hành tinh của chúng ta có hàng tỷ người đang thiếu đói:
Đói tinh bột, đói dinh dưỡng protein và vitamin. Ngô là nguồn lương thực
chính cho người nghèo đói. Người đã nghèo khó thường chẳng được ăn nhiều,
khẩu phần ăn thường ngày của họ thiếu protein và những dinh dưỡng quan
trọng khác, ảnh hưởng tới sức khoẻ và sự phát triển. Trong vài thập kỷ gần
đây, các nhà khoa học của CIMMYT đã tạo ra các giống ngô QPM có hình
dạng và mùi vị giống như ngô thường, năng suất bằng hoặc cao hơn, khả năng
chống chịu sâu, bệnh tương đương hoặc khá hơn, đồng thời hàm lượng lysine,
triptophan và methionine gần như gấp hai lần ngô thường, các axit amin thiết
yếu khác cho dinh dưỡng con người tương đương ngô thường (CIMMYT,
2001) [62].
Sử dụng ngô QPM có ý nghĩa to lớn đối với dinh dưỡng con người và
động vật – đặc biệt là động vật dạ dày một khoang. Đối với con người, ngô
QPM đóng vai trò rất quan trọng, nhất là ở những nước đang phát triển và ở
những nơi sử dụng ngô làm lương thực chính.
15
Sự nổi bật về ý nghĩa sinh học và dinh dưỡng của ngô QPM đã được
chứng minh nhiều ở chuột, lợn, trẻ em ở lứa tuổi nhỏ, vị thành niên và người
lớn. Từ kết quả nghiên cứu thí nghiệm ở lợn, Maner đã rút ra kết luận rằng chỉ
dùng ngô opaque-2 cũng cung cấp đủ protein cho lợn trong giai đoạn vỗ béo,
trước và trong thời kỳ có chửa. Ở Guatemala, Bressani đã chỉ ra rằng, ngô
opaque-2 đạt 90% giá trị dinh dưỡng của protein trong sữa ở trẻ nhỏ. Ở
Colombia, trẻ em mắc bệnh thiếu protein trầm trọng (Kwashiorkor) được
chữa khỏi và có lại được sức khoẻ bình thường bằng những bữa ăn mà chỉ có
ngô opaque-2 là nguồn protein duy nhất (Vasal, 2001) 94.
Giống như trẻ em, người lớn cũng có thể có lợi rất lớn khi sử dụng QPM
do hàm lượng lysine và triptophan cao. Graham và CS đã trình bày những kết quả
rất thú vị là trẻ từ tuổi thứ hai được nuôi bằng QPM – nguồn protein duy nhất
trong thành phần bữa ăn mà vẫn phát triển bình thường (Vasal, 2001) 94.
QPM ưu việt hơn ngô thường là có giá trị sinh học và mức sử dụng
protein thực. Bressani đã tổng kết lại những nghiên cứu ở trẻ em đã khỏi bệnh
suy dinh dưỡng và thấy rằng QPM là nguồn protein cho những đứa trẻ đó.
Điều này đã dẫn đến sự cân bằng đạm và cải thiện điều kiện về sức khoẻ. Tác
giả đã đưa ra lời khuyên: QPM là giải pháp có tính thực tế đối với thức ăn
được chế biến tại nhà cho trẻ mới cai sữa (Vasal, 2001) 94.
Theo lời của Norman Borlaug – Nguyên Tổng giám đốc CIMMYT, “Tôi
cho rằng đã đến lúc phải có những nỗ lực nghiêm túc để đưa ngô này vào
việc sử dụng thương mại để phục vụ nhu cầu của con người”. QPM có thể
đóng vai trò quan trọng hơn nhiều khi được sử dụng làm thức ăn cho động
vật. Tăng cường việc sử dụng ngô làm thức ăn trong chăn nuôi trên toàn cầu
có thể có lợi gián tiếp đối với con người và tạo nên ảnh hưởng lớn (Vasal,
2001) 94].
16
Sử dụng ngô QPM thay thế cho ngô thường làm tăng được chiều cao và
trọng lượng của trẻ em: 12% (95% IC: 7 - 18%) tăng thêm trọng lượng cơ thể,
9% (95% IC: 6 - 15%) tăng thêm chiều cao (Pixley, 2008) [80].
Việc phát triển sản xuất các giống ngô QPM đặc biệt có ý nghĩa trong
việc xoá đói giảm nghèo ở những nước đang phát triển và những vùng khó
khăn. Khi đời sống của các nước đang phát triển trong những thập kỷ tới được
cải thiện, thì nhu cầu protein động vật sẽ tăng nhanh chóng, đòi hỏi nguồn
nguyên liệu ngô làm thức ăn gia súc ngày một lớn.
1.3.2. Tình hình nghiên cứu và sản xuất ngô QPM trên thế giới
1.3.2.1. Lịch sử phát triển ngô mang gen opaque-2 nội nhũ xốp
a. Khái niệm gen opaque-2
Gen opaque-2 được phát hiện đầu tiên bởi Emerson và cộng sự (1935).
Nhưng đến năm 1963, Mertz (1964) (Đại học Tổng hợp Purdue) mới phát
hiện ra gen đột biến opaque-2 quy định hàm lượng lysine, triptophan cao
trong nội nhũ ngô. Các nhà khoa học đã liên tục có sự tìm tòi các cặp alen đột
biến mới có thể quy định chất lượng protein tốt hơn, tăng hàm lượng lysine và
triptophan (2 axit amin cần thiết có hàm lượng hạn chế trong protein nội nhũ
của ngô) (Vasal, 2002) [95].
Trong hơn 30 năm qua, nhiều nhà khoa học đã phát hiện ra vài gen đột
biến khác có thể thay đổi theo hướng có lợi về đặc tính protein nội nhũ của
ngô nhưng chưa tìm thấy thể đột biến nào tốt hơn opaque-2. Các đột biến khác
như floury-2 (fl2), opaque-7 (o7), opaque-6 (o6), floury-3 (fl3), mucronate (Mc) và
nội nhũ khuyết thiếu (De-B30). Hai thể đột biến như vậy được tìm ra bởi Nelson
(1981) là opaque 7749 và opaque 7455 (o11). Opaque 7749 là một dạng quý vì
lysine trong đó không cao bằng opaque-2 nhưng cao hơn một cách đáng kể so
với dạng ngô thường và tỷ lệ prolamin cao hơn (Vasal, 2002) [95].
17
Ngày nay, ngô mang gen opaque-2 có hàm lượng protein là 11 - 13%,
lysine/protein là 4% và triptophan/protein từ 0,8 - 0,9% trong khi ngô thường
tương ứng là 9%, 2 - 2,2% và 0,4 - 0,5% (Vasal, 2002) [95].
b. Thành phần hoá sinh
Ở hầu hết các loại ngô thương phẩm, nội nhũ chiếm 80 - 85%, còn phôi
chiếm khoảng 8 - 10% tổng khối lượng chất khô của hạt. Mặc dù có sự dao
động giữa các lớp ngô, kiểu gen và môi trường, nhưng ước tính lượng protein
trong nội nhũ chiếm tới 80% tổng hàm lượng protein trong hạt. Protein trong
nội nhũ bao gồm các dạng khác nhau. Dựa vào độ bền vững của nó mà chúng
có thể phân loại thành albumin (tan trong nước), globulin (tan trong dung dịch
muối), zein hoặc prolamine (tan trong rượu mạnh) và glutelin (tan trong
kiềm). Trong nội nhũ ngô thường, tỷ lệ trung bình của các dạng protein như
sau: Albumin 3%, globulin 3%, zein 60% và glutelin 34%. Trái lại, protein
trong phôi có nhiều albumin hơn (60% tổng protein của phôi). Dạng tan trong
rượu chỉ chiếm một phần nhỏ (5 - 10%). Hàm lượng lysine trong prolamine
(zein trong ngô) thấp, chỉ khoảng 0,1g/100g protein, không đủ nuôi sống
chuột. Nếu thêm vào lượng triptophan và lysine (0,5%) thì sẽ làm cho chuột
sinh trưởng gần như bình thường. Tương tự, triptophan cũng chiếm tỷ lệ rất ít
trong zein. Lysine trong glutelin của ngô cao hơn đáng kể, chiếm khoảng 3
đến 2g/100g protein, thậm chí cao hơn (Vasal, 2001) [94].
Dạng đột biến opaque-2 có hàm lượng lysine và triptophan tăng lên là do
sự tổng hợp zein bị ức chế. Tỷ lệ các dạng protein có mặt trong protein của
ngô đột biến gen opaque-2 thay đổi thành 13,2% albumin, 3,9% globumin,
22,8% zein và 50,0% glutein. Vậy khi tỷ lệ zein giảm (thành phần chứa ít
lysine) thì tỷ lệ những thành phần khác có lysine và triptophan cao hơn được
tăng lên (Vasal, 2001) [94].
18
c. Cơ sở di truyền của ngô mang gen opaque-2
Đột biến opaque-2 nằm trên nhiễm sắc thể số 7 (vị trí 16), floury-2 nằm
trên nhiễm sắc thể số 4 (vị trí 63), opaque-7 nằm trên nhiễm sắc thể số 10 (vị
trí 87), floury-3 nằm trên nhiễm sắc thể số 8 (cánh dài) và De-B30 trên nhiễm
sắc thể số 7 (cánh ngắn). Các dạng đột biến o2, o6, o7 và o11 chỉ gây ảnh hưởng
sinh hoá đối với sự tổng hợp của zein chỉ khi thể hiện trong điều kiện đồng
hợp tử lặn. Đây là thuận lợi căn bản để chọn lọc các dạng ngô mang gen
opaque ở các thế hệ tự phối cũng như backcrossing. Hai thể đột biến (fl2 và
fl3) trội không hoàn toàn và có biểu hiện không cố định đối với chất lượng
protein và tính dục của hạt phụ thuộc vào sự có mặt của một hay nhiều gen
lặn trong nội nhũ tứ bội. Vì vậy, ngày nay fl2 và fl3 không được sử dụng nữa.
Đột biến De-B30 tác động như một gen trội về ảnh hưởng liều lượng đối với
tính dục và hàm lượng zein trong hạt. Trừ opaque-6 được coi là gen cấu trúc,
các dạng khác là gen điều tiết. Tất cả những biến thể này có một đặc tính
chung là thành phần prolamine thấp, nội nhũ dạng bột phấn xốp và sự thiếu
hụt lượng chất khô được tạo ra, vì vậy cũng không được quan tâm hơn (Vasal,
2002) [95].
d. Những hạn chế của giống ngô opaque-2 nội nhũ xốp
Vào giai đoạn 1964 - 1970, các nhà chọn tạo giống ngô trên thế giới cố
gắng truyền các gen đột biến opaque-2 và floury-2 vào những giống ngô có
nền di truyền rộng. Khi các gen đột biến được truyền thành công vào giống
ngô nào đó thì giống đó được gọi là giống ngô opaque-2. Đầu năm 1970, các
giống ngô opaque-2 nội nhũ xốp đã sẵn sàng để đưa vào sản xuất thương mại
tại Braxin, Columbia, Ấn độ và một số nước khác. Sau đó những nước này
cùng với Mỹ đã có xu hướng tăng trưởng trong việc sản xuất ngô opaque-2.
Tiếp đến là Nga và Hungary cũng tiến hành sản xuất ngô opaque-2 nhưng
chưa có một thống kê chính xác nào về diện tích gieo trồng. Vào giữa năm
19
1970, mặc dù sản xuất ngô opaque-2 mới bắt đầu ở những nước trên nhưng đã
gặp phải những hạn chế của ngô mang gen opaque-2 so với ngô không mang
gen opaque-2 (ngô thường) như sau: Năng suất hạt giảm 10 - 15% so với các
giống ngô thường cùng gốc do sự ngừng tích luỹ chất khô vào hạt sớm hơn so
khoảng 7 – 10 ngày; dạng hạt khó chấp nhận: Tất cả những đột biến chất
lượng protein cao (bao gồm cả opaque-2) có đặc tính chung là có kiểu hình
hạt đục, dạng bột phấn xốp. Theo Bjarnason và Vasal (1992) [60] rất có thể
nguyên nhân của dạng hạt xốp là do sự sắp xếp lỏng lẻo của các hạt tinh bột
gây ra các khoảng trống không khí, sự phân bố khác nhau của protein và sự
tăng các chất cơ bản không kết tinh của protein; bệnh thối bắp nặng hơn do sử
dụng nguồn cung cấp gen o2 dễ nhiễm bệnh thối bắp. Ngoài ra, loại ngô này
còn bị nứt vỏ hạt và chín chậm hơn; côn trùng trong kho gây hại mạnh hơn;
ẩm độ cao khi thu hoạch; nảy mầm kém ở những khu vực khí hậu lạnh, vào
thời điểm gieo trồng nhiệt độ thấp thì ngô mang gen opaque-2 có thể nảy
mầm kém và cây con sinh trưởng yếu; hạt dễ vỡ: Trong điều kiện nhiệt đới
ẩm, hạt dễ vỡ là một trong những nguyên nhân dẫn đến tỷ lệ nhiễm bệnh cao
(Alexander (1966) [56]; Harstead (1969) [69]; Vasal (1975) [93]; Vasal
(2001) [94]; Vasal và CS (1980) [96]; Vasal và CS (1984) [97]).
1.3.2.2. Lịch sử phát triển ngô opaque-2 nội nhũ cứng
a. Phát hiện về ngô opaque-2 nội nhũ cứng
Trong khi các vấn đề trở ngại của opaque-2 đang được tìm cách khắc
phục, các nhà nghiên cứu ở CIMMYT thấy trong chương trình biến đổi có
nhiều hạt ngô được sửa chữa từng phần, nghĩa là nội nhũ của một số hạt trở
nên cứng không hoàn toàn. Lúc đó ý nghĩa của các hạt kiểu như vậy chưa
được hiểu rõ và hầu hết các nhà chọn giống loại bỏ. Vào năm 1969, Paez và
cộng sự đã công bố tầm quan trọng của các loại hạt như vậy, John Longquist
và Asnani tách riêng gửi về phân tích nghiên cứu ảnh hưởng của việc sửa
20
chữa đến các đặc tính sinh hoá. Nhưng các hạt được sửa chữa như vậy lại
nghèo dinh dưỡng đến 25% so với khi chưa biến đổi. Các nhà khoa học đã
phát hiện ra một số quần thể đang chuyển đổi thành opaque-2 và các tổ hợp
lai giữa những quần thể như vậy có tần số cao các hạt sửa chữa và giữ được
đặc tính chất lượng protein như ngô opaque-2 (Vasal, 2002) [95].
b. Khái niệm về ngô QPM
QPM là ngô mang gen lặn opaque-2 nhưng đã được sửa chữa một số đặc
tính như sau: Nội nhũ cứng, có tính chống chịu sâu bệnh và các điều kiện bất
thuận như hạn, đổ, úng như ngô thường, phẩm chất dinh dưỡng hạt thương
phẩm tốt, ít bị sâu mọt phá hại khi bảo quản và nảy mầm như ngô bình
thường. Việc sửa chữa này thành công nhờ sử dụng hệ gen biến đổi trong quá
trình lai truyền opaque-2. Như vậy, ngô QPM có đầy đủ ưu điểm như ngô
thường về năng suất và chống chịu nhưng hàm lượng protein cao hơn và chất
lượng protein, đặc biệt hàm lượng lysine và triptophan gấp đôi ngô thường.
Có được giống ngô QPM như hiện nay là nhờ có thêm một hệ gen gọi là
hệ gen biến đổi (modifying gene system). Hệ gen biến đổi là một loạt các gen
mà bản thân chúng không quy định một tính trạng nào nhưng khi tương tác
với gen đột biến opaque-2 thì làm thay đổi sự biểu hiện kiểu hình của đột biến
này. Hiệu quả của tương tác này có thể ảnh hưởng đến bất kỳ tính trạng nào
nhưng rõ nhất là thay đổi dạng hạt. Một số nghiên cứu đã tổng kết rằng cấu
trúc hạt ngô sửa chữa do hệ gen di truyền số lượng với hiệu ứng gen cộng giữ
vai trò quan trọng (Bjarnason, Vasal, 1992) [60].
Theo kinh nghiệm của các nhà khoa học CIMMYT, chất lượng protein
và sự thay đổi dạng hạt nhờ hệ gen biến đổi nhìn chung có tương quan nghịch
với nhau. Tức là các hạt càng được sửa chữa nội nhũ thì chất lượng protein
càng giảm. Ta chỉ có thể chờ đợi trường hợp ngoại lệ (hạt sửa chữa nhưng
duy trì chất lượng protein) nhờ những phân tích chất lượng mẫu. Nghĩa là nhà
21
chọn giống phải luôn dung hoà giữa nội nhũ của hạt được sửa chữa và chất
lượng thay đổi đến mức nào. Trong một chu kỳ chọn lọc đầu tiên của quá
trình cải tạo, lai truyền gen opaque-2, số lượng mẫu cần loại bỏ nhiều, tiếp
theo khi có sự tích luỹ các gen cải tiến có lợi thì số mẫu cần loại sẽ ít đi.
Trong quá trình chọn lọc, nhà chọn giống thu được kiểu gen mong muốn phụ
thuộc vào các vật liệu khác nhau. Sự biểu hiện kiểu hình của hệ gen biến đổi
có thể bị ảnh hưởng của cây mẹ. Vì mô nội nhũ ngô ở dạng tam bội, cây mẹ
đóng góp 2 alen trong nội nhũ, cây bố đóng góp 1 alen, nên ta có thể chờ đợi
cây mẹ góp phần ảnh hưởng nhiều hơn cây bố (Vasal, 2002) [95].
1.3.2.3. Thực trạng về áp dụng tiến bộ kỹ thuật ngô QPM trên thế giới
Từ 1963 đến 1969, ngô mang gen opaque-2 nội nhũ xốp không mang lại
hiệu quả trong sản xuất đã gây cho nhiều chương trình ngô ở các quốc gia thất
vọng, chán nản. Sau đó những thành công của CIMMYT trong việc phát hiện,
phát triển QPM đã tái tạo lại mối quan tâm và làm sống lại những hoạt động
tạo giống QPM ở một số nước. Có hơn 20 nước đang phát triển (Benin,
Braxin, Burkina Faso, Colombia, Ấn Độ, El Sanvadorr, Peru, Ethiopia,
Ghana, Guatemala, Guinea, Mali, Mehico, Nam Phi, Nicaragoa, Trung Quốc,
Việt Nam) phụ thuộc vào các hoạt động tạo giống QPM ở CIMMYT. Những
nước này đã và đang sử dụng các quần thể QPM, các dòng, các giống hỗn hợp
và tổng hợp được phát triển tại CIMMYT. Thậm chí ở Mỹ, một số trường đại
học theo đuổi về QPM cũng đã sử dụng nguyên liệu của CIMMYT làm
nguyên liệu ban đầu để tăng cường việc tạo những dòng và giống lai QPM.
Đặc biệt ở trường Đại học Illinois, Urbana, Texas, Công ty hạt giống lai
Crow, một số nước Braxin, Trung Quốc, Cộng hòa Nam Phi và những nước
khác chủ yếu sử dụng nguyên liệu QPM của CIMMYT chứ chưa nghiên cứu
tạo nguồn nguyên liệu QPM của mình. Bên cạnh nguồn nguyên liệu ban đầu
(vốn gen và quần thể QPM) có sự thích nghi, thời gian sinh trưởng, màu sắc
22
và kết cấu hạt khác nhau, CIMMYT đã tạo ra hàng trăm giống thí nghiệm
tổng hợp. Từ năm 1985, sự phát triển giống lai QPM đã được tiến hành và đã
tạo ra các giống tổng hợp, dòng tự thụ và giống lai. Nhiều tổ hợp lai đã được
mở rộng diện tích ở các nước khác nhau.
Các nước rất quan tâm đến trồng ngô QPM. Ở Trung Mỹ thử nghiệm
QPM làm thức ăn cho người và gia súc. Guatemala đã mở rộng giống TPTD
QPM tên là Nutricta từ Tuxpeno QPM. Chương trình quốc gia ở Guatemala
và các nước Trung Mỹ khác đang đánh giá những dòng và giống lai QPM
vàng và trắng của CIMMYT và thử nghiệm riêng ngô vàng làm thức ăn gia súc.
Một số nước ở Nam Mỹ đã được mở rộng giống QPM. Năm 1988,
Braxin tạo ra giống thụ phấn tự do BR 451 – giống này tỏ ra thích ứng tốt với
môi trường Braxin và rất thuận lợi cho việc sản xuất ngô bột. Năm 1990,
1410 tấn hạt giống đã được cung cấp cho nông dân, đủ trồng cho 70.500 ha
(Magnavaca, 1992) [74]. Ở Ghana năm 1997, ba giống ngô lai QPM đã được
công nhận là: GH-110-5, GH-2328-88. Thành công trong việc đưa ra giống
của Ghana vào sản xuất đã dấy lên mối quan tâm của các nước lân cận của
Châu Phi như Benin, Togo và các nước miền Nam và miền Đông châu Phi.
Nhiệm vụ toàn cầu năm 2001 là phải thúc đẩy sản xuất loại ngô QPM ở
Ghana và các nước Châu Phi khác. Hiện nay các nước này đang trong quá
trình nhân nhanh hạt giống cho vài nghìn ha sản xuất.
Ở châu Á, Trung Quốc có chương trình tạo giống ngô QPM mạnh nhất.
Một số giống thụ phấn tự do và giống lai đã được tạo ra như Zhongdan 206,
Zhongdan 3850, Zhongdan 3710 đang được trồng ở phía Bắc. Năm 1998,
chương trình ngô ở Ấn độ đã cho ra đời giống Shaski-1 năng suất cao, dạng
hạt cải tiến chấp nhận được.
Trong 2 năm 1999 - 2000, 14 nước đang phát triển đã phối hợp với
CIMMYT nghiên cứu và đưa ra sản xuất rộng những giống ngô lai và ngô thụ
23
phấn tự do QPM và một số nước đã nâng chương trình phát triển QPM thành
chương trình trọng điểm. Năm 2000, hơn 730.000 ha ở những nước đang phát
triển gieo trồng QPM và tiềm năng cho việc đẩy mạnh sử dụng QPM là rất
lớn (CIMMYT, 2001) 62].
Về năng suất, các giống ngô lai và ngô thụ phấn tự do QPM ưu tú đã
được xác định qua khảo nghiệm ở nhiều địa điểm đã được đánh giá tại 40
nước ở châu Phi, châu Á và châu Mỹ - La Tinh. Kết quả các giống lai QPM
cho năng suất cao hơn ít nhất 1 tấn/ha so với các giống ngô lai thường tốt
nhất, năng suất của các giống thụ phấn tự do QPM đã và đang được đánh giá
là tương đương hoặc lớn hơn các giống thụ phấn tự do thường. Các chuyên
gia CIMMYT đã và đang thiết lập hàng ngàn thí nghiệm cải tạo các giống thụ
phấn tự do QPM để khảo nghiệm và sử dụng trong tương lai. Việc chuẩn bị
đã được đặt ra bằng việc sử dụng những phân tử đánh dấu ADN giúp cho việc
chuyển những gen chất lượng protein vào những giống ngô thường ưu tú. Các
giống ngô tổng hợp QPM có những tính trạng đặc biệt đặc trưng như độ cao
đóng bắp đều và thấp, chống chịu sâu đục bắp và đổ rễ và đáng chú ý nhất là
hàm lượng tryptophan (0,11% toàn hạt), lysine (0,475% toàn hạt) và protein
(11,0% toàn hạt) cao hơn rất nhiều so với hàm lượng của những chất này
trong ngô thường (0,05; 0,225 và 9,0%). Những đặc trưng này làm cho các
giống tổng hợp QPM trở lên hấp dẫn với nông dân, sẽ giúp họ tăng năng suất
và giảm tỷ lệ suy dinh dưỡng (CIMMYT, 2001) [62].
Với những ưu điểm của giống QPM và với những thành tựu mà các nhà
khoa học đã đạt được trong những thập kỷ qua trong nghiên cứu tạo giống
QPM, ngày 12 tháng 10 năm 2000, Tổ chức lương thực thế giới đã trao giải
thưởng cho CIMMYT và nhà tạo giống ngô Surinder Kumar Vasal, nhà hoá
sinh ngũ cốc Evangelina của CIMMYT ghi nhận về những cống hiến của họ
tại CIMMYT suốt từ năm 1970 đến những năm 80 trong việc tạo giống QPM.
24
Hàng năm giải thưởng được trao cho những cá nhân đã thúc đẩy sự phát triển
của loài người bằng việc cải tiến số lượng, chất lượng hoặc tạo thêm nguồn
lương thực cho thế giới. Tiến sĩ Vasal tập trung vào phương pháp tạo giống
truyền thống để tuyển một loạt những gen đặc biệt, loại bỏ ảnh hưởng không
mong muốn của gen opaque-2. Để khẳng định giá trị gia tăng của protein vẫn
được duy trì trong quá trình lai tạo và chọn lọc, Villegas và nhóm cộng sự đã
tiến hành phân tích hàm lượng axit amin trong protein của khoảng 20.000
mẫu ngô hạt mỗi năm (CIMMYT, 2001) 62.
Về chất lượng protein, đã phân tích các enzime trong việc tạo giống ngô
QPM ở Trung Quốc, Ấn Độ và Zimbabwe cho thấy các giống lai QPM có
hàm lượng lysine và triptophan cao hơn các giống ngô thường làm đối chứng
từ 70 - 100%. Vài giống ngô lai mới có chứa protein cao đến 13,5% và
tryptophan cao đến 4,5%. Qua vài năm thử nghiệm trên đồng ruộng cho thấy
sự lẫn phấn từ ngô thường sang ngô QPM là không đáng kể, chỉ ở những hàng
biên của cánh đồng QPM trồng cạnh cánh đồng ngô thường chỉ bị giảm 10%.
Còn ở giữa ruộng QPM thì chất lượng protein giảm rất ít hoặc không bị giảm.
Do vậy, khi chọn hạt giống để gieo những vụ sau thì nên chọn những ô giữa
cánh đồng (CIMMYT, 2001) 62.
Những giống QPM cả thụ phấn tự do lẫn giống lai đều có thể tạo ra cho
sản xuất thương mại trên đồng ruộng của nông dân. Sự chọn lựa các giống thụ
phấn tự do hoặc giống lai thay đổi từ nước này sang nước khác phụ thuộc một
số yếu tố bao gồm sức mạnh của chương trình quốc gia, lực lượng con người
được đào tạo và hạ tầng cơ sở của việc sản xuất hạt giống của cả tư nhân lẫn
Nhà nước. Nhìn chung các giống lai thông dụng hơn ở các nước phát triển. Ở
những nước đang phát triển, gieo trồng cả giống lai lẫn giống thụ phấn tự do;
riêng một số nước như Argentina, Brazil, El Salvadol, Ai Cập, Thổ Nhĩ Kỳ,
Thái Lan, Trung Quốc và Zimbabwe hầu hết trồng giống lai. Vấn đề trồng
25
giống QPM opaque xốp và opaque kết cấu nội nhũ cải tiến đều quan trọng
như nhau. Ở những nước ngô được trồng làm thức ăn cho chăn nuôi thì có thể
sử dụng ngô nội nhũ cứng hoặc xốp. Còn ở những nước đang phát triển, nơi
mà ngô được sử dụng chủ yếu làm lương thực cho người, thì dạng ngô đá và
răng ngựa cứng được ưa chuộng hơn. Vì vậy nhu cầu về ngô nội nhũ cứng
hay xốp phụ thuộc vào mục đích sử dụng (làm lương thực, thức ăn chăn nuôi
hoặc các mục đích công nghiệp) (Vasal, 2001) 94.
Với một số lượng lớn vật liệu QPM, CIMMYT tạo ra hàng trăm giống
thí nghiệm tổng hợp bằng cách tái tổ hợp 10 gia đình tốt nhất được chọn lọc
trên cơ sở thí nghiệm quốc tế thử nghiệm đời con cháu. Bắt đầu từ năm 1985,
sự phát triển giống lai QPM đã được chú trọng và đã tạo ra được các giống
tổng hợp, dòng tự thụ và giống lai. Đa số các nguồn nguyên liệu này đã được
đánh giá trong các thí nghiệm giống thí nghiệm chuẩn (EVT) hoặc thí nghiệm
giống lai. Gần đây, những dòng tự thụ QPM có kí hiệu từ CML140 đến
CML194 đã được công bố và có sự thích ứng cả ở vùng nhiệt đới lẫn cận
nhiệt đới. Trong những năm gần đây việc thử nghiệm những giống ngô QPM
đã được tăng cường và kết quả là đã xác định được những giống tốt nhất cho
một số nước đang phát triển.
Hoạt động phát triển QPM đã và đang được chú trọng, quan tâm với
mức độ tăng dần ở nhiều nước trong những năm gần đây. Thành tích có thể
chấp nhận được của các nguồn nguyên liệu QPM với chất lượng protein như
là một phần thưởng thúc đẩy các chương trình quốc gia thay thế ngô thường
trong nhu cầu lương thực cho con người và làm thức ăn cho chăn nuôi ở Mỹ
và các nước sản xuất ngô khác để giảm giá thành protein động vật. Sự khích
lệ sản xuất thương mại và sử dụng QPM nên được ưu tiên; ít nhất là những
nước mà QPM đã cho kết quả tốt (Vasal, 2001) 94.
26
Một số giống ngô QPM mới được đưa vào sản xuất ở châu Phi những
năm gần đây: Lishe-K1, Lishe-H1, Lishe-H2 (2000); BHQP-542 Longe-5
(Nalongo) (2001), WSQ104, KH500Q, KH631Q (2005), TAN611 (2007),
BHYQP-545, Pool15QPM, NASECO (2008). Một số giống ngô QPM mới
được đưa vào sản xuất ở các nước châu Á: IPB Var 6 của Philippin năm 2008;
Jawari Mughazi-08 của Ápganixtan - 2008; 2 OPVs của Indonesia - 2004;
BHM5 của Băngladet - 2007; HQPM-1 (2005), Shaktiman-3, -4 (2006),
HQPM-5 (2007), HQPM-7 & Vivek-9 QPM (2008) của Ấn độ (Pixley, 2008) [80].
Tại Indonesia, Giống QPM Srikandi Putih-1 cho năng suất 7,91 tấn/ha
hay tăng 13,4% so với ngô thường tốt nhất (MS-2) và giống QPM Srikandi
Kuning-1 cho năng suất 7,92 tấn/ha hay tăng 2% so với đối chứng ngô thường
Bisma. Ngô trắng và Ngô vàng QPM có hàm lượng lysine 0,36% và 0,459%;
hàm lượng tryptophan 0,071% và 0,085% (Yasin và CS, 2007) [101].
Hai giống ngô QPM mới của Indonesia là Srikandi Kuning-1 và
Srikandi Putih-1 có những đặc điểm sau: Giống Srikandi Kuning-1 có hàm
lượng protein là 10,38%, lysine 0,477%, triptophan 0,093%, năng suất 7,9
tấn/ha; giống Srikandi Putih-1 có hàm lượng protein là 10,44%, lysine 0,41%,
triptophan 0,087%, năng suất 8,1 tấn/ha. So sánh với giống ngô thường
Lamuru thì số liệu tương ứng là 8,49%; 0,278%; 0,064%; 7,6 tấn/ha (Made và
CS, 2008) [73].
1.3.3. Tình hình nghiên cứu và sản xuất ngô QPM ở Việt Nam
Ở Việt Nam, vào năm 1989, giống ngô QPM nội nhũ cứng Pop63 đã
được khu vực hoá và một số địa phương đã trồng, tuy nhiên do năng suất
không cao bằng giống thường (VM1) và hạt trắng nên đã không mở rộng được.
Mặc dù còn nhiều khó khăn về tài chính, cơ sở vật chất song xuất phát từ
những nhu cầu sử dụng và lợi ích của ngô QPM, Viện Nghiên cứu Ngô đã
nhập nội một số nguyên liệu QPM (1998) và hợp tác với CIMMYT lai tạo
thành công giống lai đơn, đặt tên là HQ2000, có năng suất cao tương đương
27
với ngô lai thường nhưng hàm lượng protein cao hơn ngô thường. Hàm lượng
protein là 11,0% (ngô thường 8,5 – 9,0%), trong đó lysine/protein là 4,0%,
triptophan/protein là 0,82% (ngô thường là 2,0% và 0,5%) (Lê Quý Kha, Trần
Hồng Uy, 2002) 21. Tháng 4/2004, giống HQ2000 đã được Hội đồng khoa
học - Bộ NN&PTNT cho phép công nhận chính thức (Lê Quý Kha và CS,
2004) [22]. Vào năm 2004, diện tích sử dụng giống HQ2000 trên toàn quốc
đã lên tới hơn 10 ngàn ha. Năm 2003, giống HQ2000 đã tham gia thị trường
xuất khẩu Băngladet và Lào được 30 tấn.
Giống ngô HQ2000 đã được triển khai mô hình ở các vùng sinh thái
khác nhau trên toàn quốc, thích nghi tốt, cũng như LVN10, đạt năng suất 5 -7
tấn/ha là không khó khăn nếu áp dụng đúng quy trình kỹ thuật. Hạt ngô thịt
HQ2000 đã được đưa vào sử dụng thử như: Cho người ăn, làm mèn mén ở
Bắc Hà – Lào Cai, chất lượng ngon (được người H'Mông chấp nhận); thử
nghiệm chăn nuôi lợn sữa xuất khẩu ở HTX Trung Châu – Đan Phượng – Hà
Nội đạt kết quả tốt; thử nghiệm chăn nuôi gà ở Trạm Thử nghiệm thức ăn gia
súc Thụy Phương – Viện Chăn nuôi; thử nghiệm chăn nuôi gà ở Lạc Thuỷ -
Hoà Bình; bước đầu thử nghiệm chăn nuôi bò sữa ở Trung tâm Bò sữa và
Đồng cỏ Ba Vì – Hà Tây và HTX Nông nghiệp Phù Đổng – Gia Lâm – Hà
Nội. Các mô hình sử dụng HQ2000 làm lương thực đã được thử nghiệm tại
Lào Cai, Hà Giang, Cao Bằng đều cho thấy mèn mén bằng ngô HQ2000 có vị
đậm và ngậy hơn, bột mịn – dễ ăn hơn các loại ngô lai thường khác.
Trong năm 2001, Viện Nghiên cứu Ngô cũng đã xác định được 2 tổ hợp
lai QPM mới cho năng suất cao hơn HQ2000 đó là: CML166 x CML168 x
CML172 cho năng suất vượt HQ2000 18% và tổ hợp lai CLQ6601 x
CML172 vượt HQ2000 11% (Phan Xuân Hào, Vũ Đức Quang, 2002) [15].
Hiện nay, Viện đang gửi các giống ngô QPM đi khảo nghiệm quốc gia để
đánh giá khả năng thích ứng, sinh trưởng phát triển, chống chịu, năng suất và
chất lượng của các giống ngô QPM ở nhiều địa phương, nhiều vùng trong cả nước.
28
Từ năm 2001 - 2005, Trường Đại học Nông Lâm Thái Nguyên phối hợp
với Viện Nghiên cứu Ngô đã tiến hành khảo nghiệm một số giống ngô chất
lượng protein cao và thu được kết quả như sau: Thí nghiệm ở vụ Xuân và vụ
Thu Đông 2002 cho kết quả hai giống QP2 và QP3 khá đồng đều và ổn định
qua hai vụ, có thời gian sinh trưởng ngắn, có khả năng chống chịu sâu bệnh
tốt, có năng suất thực thu tương đương với hai giống đối chứng (Q2 và
HQ2000). Đặc biệt, hai giống này có hàm lượng protein đạt 11,1 và 11,4%
tương đương HQ2000 (11,3%) và cao hơn hẳn Q2 (8,2%); hàm lượng
lysine/protein đạt 4,1 và 4,3% cao hơn hẳn hai đối chứng (2,6 và 3,9%) (Phan
Xuân Hào, Trần Trung Kiên, 2004) [16].
So sánh 6 giống ngô TPTD QPM với đối chứng HQ2000 vụ Xuân 2005
tại Tuyên Quang cho kết quả giống QP4 có thời gian sinh trưởng trung bình,
thấp cây, cho năng suất cao nhất (đạt 39,22 tạ/ha) nhưng thấp hơn đối chứng
(57,29 tạ/ha) (Dương Văn Sơn, 2007) [37].
Trong số 60 dòng QPM đánh giá ở vụ Thu Đông 2007 tại Đan Phượng -
Hà Nội chọn ra được 10 dòng (D3, D6, D8, D21, D22, D24, D42, D58 và
D59) có năng suất khá cao (23,37 - 45 tạ/ha), chống đổ, ít nhiễm bệnh ở thân
và bắp, trong đó 3 dòng đạt năng suất vượt đối chứng 2 (32,3 tạ/ha) là D2
(38,6 tạ/ha), D24 (37,6 tạ/ha), D31 (44,7 tạ/ha) (Châu Ngọc Lý và CS, 2008) [25].90 dòng thuần QPM được phát triển từ 8 dòng ngô thường (C2, C4,
C135, C154, C164, C172, T2, T5) và 4 giống lai thường (SC1614, SC18161,
SC7114, C919) và HQ2000 (giống lai QPM) có khả năng kết hợp chung cao
đã lai với phôi và cây trồng tái tạo phản ứng dây chuyền dòng AC24 và
CML161 (QPM). Sau 4 vụ chọn lọc, sử dụng SSR primers phi057 và phi112
phát hiện ra 30 dòng thuần có gen o2o2. Bằng phương pháp chuyển đổi
backerossing truyền thống với dòng CML161 và CML165 (QPM) cùng với
sự chọn lọc dưới đèn huỳnh quang, 8 dòng ngô thuần QPM mới được phát
29
triển từ hai dòng ngô thuần thường (TCH1 và DF7) có năng suất và khả năng
kết hợp chung cao (Chau Ngoc Ly và CS, 2008) [61].
Ba mươi tám dòng QPM mới phát triển, 6 dòng QPM từ CYMMYT và 1
dòng ngô thường (đối chứng) được đánh giá năng suất và đặc điểm nông sinh
học vụ Xuân 2008 tại Đan Phượng - Hà Nội. Thông qua đánh giá và áp dụng
chỉ số chọn lọc (SI), 6 dòng QPM thể đơn bội kép: V62, V64, V66, V68, V72
và C141 (SI = 14,34 - 17,52), 7 dòng QPM chuyển đổi theo phương pháp
truyền thống: Q1, Q5, Q11, Q16, Q18, Q21, KQ1 (SI = 15,0 - 17,85),
CML161 và CML161/422 đã được chọn. Những dòng này có khả năng chống
chịu tốt với bệnh thối bắp (8,3 - 33,7%), lá xanh bền, trạng thái cây và bắp tốt
(điểm 2 - 3), năng suất từ 25,48 - 46,89 tạ/ha. Những dòng này tạo ra nhiều
giống lai nhiều triển vọng (Chau Ngoc Ly và CS, 2008) [61].
Trong điều kiện Việt Nam, chúng ta hoàn toàn có thể sử dụng ngô
QPM và chọn tạo được nhiều giống ngô QPM phục vụ sản xuất. Chương trình
tạo giống và triển khai ngô QPM sẽ phát triển nhanh chóng và có hiệu quả ở
Việt Nam, vì nó là xu hướng tất yếu của khoa học công nghệ thế kỷ XXI, vì
nó có lợi cho dân và hợp lòng dân.
1.3.4. Các yếu tố ảnh hưởng đến hàm lượng và chất lượng protein ở ngô
Tổng hợp protein liên quan chặt chẽ với việc thu nhận và tích lũy N
trong cây ngô, hai quá trình này không cùng tốc độ như nhau trong quá trình
sinh trưởng phát triển của cây ngô. Tốc độ tổng hợp protein cao nhất trong
cây ngô ở giai đoạn đầu cho đến khi ngô được 6 lá, protein trong mô ở giai
đoạn này đạt 24 – 25% trong tổng số chất khô. Giai đoạn tiếp theo hình thành
mạnh nhất sinh khối chung thì hàm lượng protein giảm nhanh (còn 12%).
Giai đoạn trỗ cờ phun râu đến cuối giai đoạn sinh trưởng của cây ngô thì hàm
lượng protein gần như ở mức ổn định trong khoảng 5 – 7%. Trong hạt ngô
cũng biến động tương tự như các cơ quan sinh dưỡng khác, ở giai đoạn đầu
30
protein 15 – 18%. Cùng với sự phát triển của hạt tăng tích lũy cacbonhydrat
thì hàm lượng protein ở giai đoạn chín hoàn toàn hạ xuống còn 8 – 9%, trong
một số giống lai còn thấp hơn (Tomov, 1984) [90].
Hàm lượng protein cũng như các thành phần axit amin bị thay đổi bởi
những tác động của các yếu tố di truyền, môi trường canh tác. Thường những
thay đổi về lượng protein thì cũng thay đổi thành phần axit amin. Tác động
mạnh nhất đến hàm lượng và chất lượng ptotein của ngô là những yếu tố di
truyền (giống), tiếp đến là yếu tố môi trường gồm khí hậu (ẩm độ, nhiệt, ánh
sáng) và kỹ thuật nông học (phân bón, tưới nước, mật độ). Trong nhiều
trường hợp, môi trường tương quan với giống ảnh hưởng đến hàm lượng và
chất lượng protein. Vì vậy, về mặt tổng hợp protein cần thiết ngô được trồng
trong điều kiện tối ưu về giống và kỹ thuật canh tác (Tomov, 1984) [90].
- Yếu tố di truyền (giống): Nhiều nghiên cứu cho thấy đồng thời với
việc tăng hàm lượng protein thì năng suất giảm. Giống lai có năng suất cao thì
hàm lượng protein thấp, giảm từ 9 - 10% còn 7 - 8% so với giống gốc ban
đầu. Lý do là trong các giống lai tốc độ tích luỹ cacbonhydrat nhanh hơn tích
luỹ protein. Từ đó nảy sinh ra vấn đề khó khăn, khi đưa được những giống lai
năng suất cao thì cũng khó nâng cao được hàm lượng lysine và triptophan,
ngay cả khi Mezt phát hiện ra gen opaque (Zuber và CS, 1980) [102].
- Yếu tố khí hậu: Ảnh hưởng cúa các giống lai khác nhau đến thay đổi
hàm lượng protein phụ thuộc vào tổng lượng mưa. Những năm ít mưa thì hàm
lượng protein cao hơn. Yếu tố nước là tác động nghịch, cùng với tăng lượng
mưa thì hàm lượng protein giảm. Yếu tố nhiệt độ là tác động thuận, tăng tổng
tích ôn hữu hiệu thì hàm lượng protein tăng. Như vậy, hàm lượng protein thay
đổi khác nhau ở những điều kiện khí hậu khác nhau, protein tăng ở vùng phía
Nam, giảm ở vùng phía Bắc do lạnh hơn (Zuber và CS, 1980) [102].
31
- Yếu tố kỹ thuật canh tác:
+ Tưới nước: Tác động bằng tưới nhân tạo cung cấp nước tối ưu làm
tăng năng suất nhưng làm giảm protein trong hạt. Các nghiên cứu chỉ ra rằng
hàm lượng protein giảm trong điều kiện có tưới mạnh hơn trong điều kiện đất
xấu, không đảm bảo dinh dưỡng cho cây ngô. Trong trường hợp đủ nước
nhưng thiếu đạm hay dinh dưỡng nói chung thì năng suất chung có thể tăng
nhưng lại giảm hàm lượng protein (dẫn theo Tomov, 1984) [90].
Trong điều kiện có tưới, hàm lượng protein trong mô giảm đồng thời
giảm hàm lượng zein (thành phần chứa ít lysine) và tăng tương đối hàm lượng
albumin, globumin và glutein (có chứa nhiều lysine và triptophan). Với kết
quả đó, chất lượng protein được cải thiện. Như vậy, trong điều kiện mưa
nhiều hoặc có tưới đầy đủ thì hàm lượng protein có thể giảm nhưng làm tăng
chất lượng protein (Mertz, 1964) [76].
+ Mật độ: Mật độ tác động đến chất lượng protein tương tự như tưới
nước, tăng mật độ làm giảm hàm lượng protein, đồng thời giảm zein và tăng
hàm lượng albumin, globumin và glutein, tức là tăng chất lượng protein
(Mertz, 1969) [75].
+ Phân bón: Phân N ảnh hưởng lớn nhất đến tích lũy protein trong ngô.
Cùng với việc tăng liều lượng phân bón, đặc biệt là phân N thì sẽ giảm tỷ suất
năng suất ngô trên đơn vị phân N nhưng làm tăng khối lượng protein trong
hạt cũng như trong tổng sinh khối nói chung, dẫn đến tăng nồng độ protein
trong các mô của cây và đảm bảo tăng năng suất protein trên đơn vị diện tích
gieo trồng (Tomov, 1984) [90].
Bón N tăng làm tăng sản lượng protein, nhưng chủ yếu là tăng zein. Với
liều lượng phân bón trung bình thì không thay đổi đáng kể hàm lượng zein và
vẫn đảm bảo tăng chất lượng protein. Khi bón không cân đối các loại phân,
32
với liều lượng 300N làm giảm chất lượng (khối lượng axit amin không thay
thế) và một số chất khác trên đơn vị diện tích (Tomov, 1984) [90].
Vấn đề nghiên cứu các yếu tố ảnh hưởng đến sự thay đổi hàm lượng
protein là rất phức tạp. Vì hàm lượng protein bị ảnh hưởng rất nhiều nhân tố
di truyền và không di truyền, tác động của những nhân tố đó rất phức tạp và
trong một số trường hợp theo các hướng khác nhau. Thực tế cho thấy thông
qua chọn giống và điều kiện kỹ thuật nông học có thể tác động để thu được
những giống lai năng suất cao, đồng thời nâng cao được hàm lượng protein
với các thành phần axit amin được cải thiện. Vì vậy, nghiên cứu các yếu tố
riêng rẽ ảnh hưởng đến hàm lượng protein phải được nghiên cứu một cách
đồng bộ. Tóm lại, tăng năng suất và chất lượng protein bằng chọn giống và kỹ
thuật canh tác là khả thi và mở ra triển vọng lớn trong tương lai (Tomov,
1984) [90].
1.4. Tình hình nghiên cứu phân bón cho ngô trên thế giới và ở Việt Nam
1.4.1. Tình hình nghiên cứu phân bón cho ngô trên thế giới
Cây ngô là một cây ngũ cốc quang hợp theo chu trình C4, là cây ưa
nhiệt, có hệ thống rễ chùm phát triển (FAO, 1995) [66].
Cây ngô là cây có tiềm năng năng suất lớn. Trong các biện pháp thâm
canh tăng năng suất ngô, phân bón giữ vai trò quan trọng nhất. Theo Berzeni
và Gyorff (1996) [5] thì phân bón ảnh hưởng tới 30,7% năng suất ngô còn các
yếu tố khác như mật độ, phòng trừ cỏ dại, đất trồng có ảnh hưởng ít hơn.
Sự hút các chất dinh dưỡng thay đổi theo các giai đoạn sinh trưởng, phát
triển của ngô. Dựa vào biến đổi hình thái của cây để xác định nhu cầu dinh
dưỡng từng thời kỳ cho ngô.
Viện Kỹ thuật Cây ngũ cốc và Thức ăn gia súc (Pháp) chia quá trình sinh
trưởng phát triển của cây ngô ra làm 4 giai đoạn:
33
- Giai đoạn tăng trưởng chậm: Từ khi mọc đến khi 7 – 8 lá: Đây là giai
đoạn hình thành và phát triển bộ rễ. Đây cũng là giai đoạn phân hoá tạo bông
cờ. Giai đoạn này lượng dinh dưỡng cây hút không lớn chỉ bằng 1 – 4% tổng
lượng dinh dưỡng so với cả vòng đời cây hút.
Sự hút chất dinh dưỡng ở thời kỳ đầu tuy chậm nhưng rất quan trọng cho
ngô, bao gồm các dạng dễ hấp thu của các hợp chất chứa NPK so với tổng
lượng dinh dưỡng và tổng chất khô đã tích luỹ được. Sau mọc 20 – 30 ngày
ngô tích luỹ được 4% chất khô, 9% lân, 10% đạm, 14% kali; sau 60 ngày:
45% chất khô, 57% lân, 66% đạm, 92% kali.
- Giai đoạn tăng trưởng nhanh: Từ 7 – 8 lá đến sau trỗ 15 ngày: Ở giai
đoạn này các bộ phận trên mặt đất (thân lá) và dưới mặt đất đều tăng trưởng
rất nhanh. Các cơ quan sinh trưởng phát triển mạnh, lượng tinh bột và chất
khô trong bắp tăng nhanh. Đây là giai đoạn cây hấp thu tối đa dinh dưỡng
bằng 75 – 95% tổng lượng dinh dưỡng so với cả vòng đời cây hút. Thiếu chất
dinh dưỡng ở thời kỳ 8 – 11 lá sẽ cản trở sinh trưởng của lá và giảm từ 10 –
20% năng suất, đặc biệt ở thời kỳ trỗ cờ phun râu cây đòi hỏi dinh dưỡng rất
gay gắt, nếu thời kỳ này một nửa số lá héo khô lúc này sẽ làm giảm 25 – 30%
năng suất.
- Thời kỳ nở hoa, ngô đã hút gần như toàn bộ số kali cần thiết và lượng
lớn đạm và lân.
- Giai đoạn chín: Quá trình tích luỹ chất khô đã hoàn thành, ngô bắt đầu
mất nước nhanh, các bộ phận sinh trưởng sinh dưỡng chuyển sang màu vàng.
Hầu hết các giống đều cần khoảng 60 ngày để hoàn thành hạt; trong đó các
giống ngắn ngày cần ít hơn, khoảng 35 – 40 ngày trong thời gian hình thành
hạt, mỗi ngày bình quân tạo thành 2,5 – 3% trọng lượng hạt khi chín hoàn toàn.
34
Trong giai đoạn chín cây ngô thực hiện các chức năng phân phối lại
lượng dinh dưỡng đã hấp thụ. Lượng dinh dưỡng cây hấp thụ được không chỉ
tích luỹ ở hạt mà còn một lượng lớn ở thân lá.
Để đạt năng suất cao và ổn định, ngô cần được bón phân cân đối, đặc
biệt là giữa các yếu tố NPK. Điều này được chứng minh rất rõ qua các thí
nghiệm bón các tổ hợp phân cho ngô trong suốt 28 vụ của Viện Kali quốc tế
cho thấy chỉ có bón cân bằng NPK năng suất ngô mới cao và ổn định.
Theo Johnson và CS (dẫn theo De., 1973) [63], năng suất trung bình của
các giống ngô lai là 6.838 kg/ha, với liều lượng phân bón: 95N – 67P2O5 –
20K2O kg/ha.
Theo Shan (1994) [82], mức bón phân được khuyến cáo cho ngô ở Đài
Loan là 175 kg N + 95 kg P2O5 + 70 kg K2O/ha.
Theo Sinclair và Muchow (1995) [83], hàng thập kỷ gần đây, năng suất
ngô tăng lên có liên quan chặt chẽ với mức cung cấp N cho ngô. Đạm được
cây ngô hút với một lượng lớn và đạm có ảnh hưởng khác nhau rõ rệt đến sự
cân bằng cation và anion ở trong cây. Khi cây hút N – NH4+ sự hút các cation
khác chẳng hạn như K+, Ca2+, Mg2+ sẽ giảm trong khi sự hút anion đặc biệt là
Phosphorus sẽ thuận lợi. Xảy ra chiều hướng ngược lại, khi cây hút N nitrat
(Mengel, 1968) (dẫn theo Arnon, 1974) [57]. Tùy thuộc vào tuổi của cây, với
cây ngô non sự hút amonium-N nhanh hơn sự hút đạm nitrat, trái lại các cây
ngô già dạng đạm hút chủ yếu là đạm nitrat và có thể chiếm tới hơn 90% tổng
lượng đạm cây hút (Coic, 1964) (dẫn theo Arnon, 1974) [57].
Đạm cũng là thành phần cấu trúc của vách tế bào (William, 1993) [99].
Đạm là yếu tố cần thiết cho sự sinh trưởng của cây và là thành phần của tất cả
các protein. Đạm là yếu tố dinh dưỡng quan trọng nhất để xác định năng suất
ngô. Khi thiếu N chồi lá mầm sẽ không phát triển đầy đủ, sự phân chia tế bào ở
đỉnh sinh trưởng bị kìm hãm và kết quả là giảm diện tích lá, kích thước của cây
35
và năng suất giảm. Phân đạm có thể tạo ra sự tăng diện tích lá hiệu quả ngay từ
đầu vụ và duy trì một diện tích lá xanh lớn vào cuối vụ để quá trình đồng hóa
quang hợp đạt cực đại (Patrick, 2001 [79]; Wolfe và CS, 1988 [100]).
Mức đạm thấp làm giảm số hạt và năng suất hạt (Barbieri và CS, 2000)
[58]. Các giống ngô lai khác nhau có thể sử dụng phân đạm ở mức độ khác
nhau, năng suất cây trồng cao cần phải cung cấp một lượng lớn phân bón, đặc
biệt là đạm (Debreczeni, 2000) [64].
Năng suất ngô vùng Nhiệt đới thấp hơn năng suất ngô vùng Ôn đới bởi
số hạt/ diện tích đất và chỉ số thu hoạch (HI) của ngô Nhiệt đới thấp hơn ngô
của vùng Ôn đới (Goldsworthy và CS, 1974; Fisher và Palamer, 1983) (dẫn
theo Mitsuru, 1994 [77], 1995 [78]). Nhìn chung, cây ngô quang hợp theo chu
trình C4 và nó phù hợp nhiệt độ cao, người ta thừa nhận là ngô có thể đạt
năng suất chất khô cao ở vùng Nhiệt đới (Evan, 1985) (dẫn theo Mitsuru,
1994) [77].
Để đạt được năng suất cao một lượng đạm hữu hiệu phải được cây hút
(Mitsuru và CS, 1991a; 1992; 1994) (dẫn theo Mitsuru, 1994) [77]. Từ 50 –
60% đạm trong hạt đã được lấy từ đạm đồng hoá ở trong lá và thân, trước thời
kỳ ra hoa (Crowford và CS, 1982; Mitsuru và CS, 1991b) (dẫn theo Mitsuru,
1995) [78].
Poss và Saragoni (1992) nhận thấy rằng 13 – 36 kg N/ha đã bị rửa trôi
bên dưới vùng rễ ngô trong thời kỳ sinh trưởng. Mayers (1988) thông báo
rằng cây ngô chỉ hấp thu 20 – 40% lượng đạm cung cấp trong suốt thời gian
sinh trưởng (dẫn theo Sing và CS, 2004) [84]. Đạm cũng rễ bị mất bởi một
phần các hợp chất đạm khoáng bị rửa trôi khỏi lớp đất cày (Misuxtin,
Peterburgxki, 1975) [30].
Năng suất ngô cao chỉ có thể đạt được khi thời gian diện tích lá xanh kéo
dài và tỷ lệ đồng hoá đạm cao sau thời kỳ ra hoa (Mitsuru, 1994) [77].
36
Một số báo cáo về khả năng hút N cũng đã chỉ ra rằng tốc độ đồng hoá
cực đại xảy ra gần giai đoạn phun râu (Hay và CS, 1953; Hanway, 1962;
Mengel và Barber, 1974; Bigeriego và CS, 1979) và kết thúc vào cuối giai
đoạn tung phấn (dẫn theo Mitsuru, 1995) [78].
Theo Moxolov (1979) [31], nếu mức dinh dưỡng nitơ đủ thì kali sẽ xâm
nhập vào cây nhiều hơn và sự hút kali mạnh hơn là nguyên nhân thúc đẩy
nhanh chu trình chuyển hoá các hợp chất phốt pho trong cây.
Theo Uhart và Andrade, 1995 [91], [92], thiếu đạm làm chậm sinh trưởng
của hai giai đoạn sinh trưởng sinh dưỡng và sinh trưởng sinh thực, giảm tốc độ
ra lá, hạn chế mạnh đến sự phát triển diện tích lá. Thiếu đạm hạn chế đến hiệu
quả sử dụng bức xạ, nhất là thời kỳ ra hoa, ảnh hưởng đến năng suất bắp tổng
số. Cũng theo hai tác giả trên việc cung cấp và tích luỹ N ở thời kỳ ra hoa có
tính quyết định số lượng hạt ngô, thiếu N trong thời kỳ này làm giảm khả năng
đồng hoá C của cây, nhất là giai đoạn ra hoa sẽ giảm năng suất hạt.
Dự trữ đạm ở cây ngô có ảnh hưởng rất lớn đối với sự sinh trưởng và
phát triển lá, sự tích luỹ sinh khối và sự tăng trưởng của hạt (Muchow, 1988
(1994) (dẫn theo Thomas và CS, 1995) [88], ảnh hưởng về sau của đạm là
quan trọng khi đánh giá phản ứng của cây trồng đối với phân N. Số liệu dẫn
ra của Rhoads (1984) [81] ở một thí nghiệm ngô tưới nước theo rãnh cho
thấy: Năng suất ngô 1.200 kg/ha khi không bón đạm và 6.300 kg/ha khi bón
224 kg/ha N trên đất chưa bao giờ trồng ngô và năm trước đó không bón đạm.
Ở năm tiếp theo năng suất ngô là 4.400 kg/ha khi không bón đạm và 7.000
kg/ha khi bón N ở mức 224 kg/ha.
Nghiên cứu đánh giá ảnh hưởng vai trò của phân đạm và S đến sự sinh
trưởng, năng suất và chất lượng của giống ngô lai (Cargill 707), tác giả
Hussain và CS, (1999) [71], cho rằng sự cung cấp phân bón ở các mức 150N
+ 30S và 150N + 20S (kg/ha) làm tăng một cách tương ứng khối lượng chất
37
khô/cây, số hạt/ bắp và khối lượng hạt/ bắp so với các xử lý khác. Năng suất
ngô đạt cao nhất (5,59 tấn/ ha) ở công thức bón 150N + 30S (kg/ha).
Theo Velly và CS (dẫn theo De., 1973) [63], khi bón cho ngô với liều
lượng: 40 kg N/ha năng suất thu được 12,11 tạ/ha; 80 kg N/ha năng suất thu
được 15,61 tạ/ha; 120 kg N/ha năng suất thu được 32,12 tạ/ha; 160 kg N/ha
năng suất thu được 41,47 tạ/ha; 200 kg N/ha năng suất thu được 52,18 tạ/ha.
Phốt pho là một thành phần của nhân tế bào và là nguyên tố rất cần thiết
cho quá trình phân chia tế bào, đặc biệt sự phân chia mạnh mẽ mô đỉnh sinh
trưởng. Người ta cũng cho rằng P kích thích sự hình thành rễ cây ngô, trợ
giúp quá trình chín của cây và ảnh hưởng đến sự phát triển của hạt (Arnon,
1974) [57].
Ở giai đoạn cây non của cây ngô, một lượng lân dễ tiêu phát hiện ở trong
đất có vai trò thúc đẩy Nitrat hoá (Pleshkov, 1958) (dẫn theo Arnon, 1974) [57].
Cung cấp đầy đủ P có vai trò trong giai đoạn đầu của sự sinh trưởng khi
mà có thể ảnh hưởng đến sự phát triển của hệ thống rễ chưa đủ khả năng hút
lân từ kho dự trữ trong đất (Piere và Polhman, 1933) (dẫn theo Arnon, 1974)
[57]. Thiếu P giai đoạn này có thể ảnh hưởng đến sự phát triển của các bộ
phận sinh sản nguyên thuỷ, sự thiếu hụt không thể bù đắp được bằng việc
cung cấp P muộn.
Các tác giả Seats và Stanberry (1963) (dẫn theo Arnon, 1974) [57] cho
rằng: Lân trong đất thường ở hai dạng chất khoáng và chất hữu cơ. Về số
lượng thường thấp hơn N và K và ở mức độ rất khác nhau từ 0,1 – 0,4%, hiếm
khi lớn hơn 0,5%. Hầu hết lân trong đất đều ở dạng vô cơ. Số lượng
Phosphorus trong dung dịch đất là rất nhỏ, thường dao động trong phạm vi
0,1 – 0,5ppm trong hầu hết các loại đất.
Theo tác giả Akhtar và CS (1999) [55], năng suất ngô hạt đạt cao nhất
6,02 tấn/ha, khối lượng 1.000 hạt là 405,2 gam ở công thức bón phân theo tỷ
38
lệ 125-75 kg P-K/ha. Sự tăng năng suất hạt là do có sự tăng diện tích lá/cây,
chiều dài bắp, số hạt/ bắp và khối lượng 1.000 hạt.
Kali cần thiết cho hoạt động của nguyên sinh chất, điều khiển đóng mở
khí khổng, nâng cao khả năng chống chịu sâu bệnh, khô hạn và nhiệt độ thấp.
Kali súc tiến quá trình quang hợp, vận chuyển các sản phẩm quang hợp tích
lũy về hạt (Afendulop, 1972) [1].
Theo Oparin (1977) [35], trong tế bào thực vật kali phân bố không đều,
nó không có trong nhân và lục lạp. Kali đặc biệt nhiều ở các cây non nghĩa là
ở giai đoạn mà trong cây đang xảy ra sự phân bào mạnh và tổng hợp các chất
hữu cơ.
Kali được yêu cầu để củng cố sức trương của cây và duy trì khả năng
thẩm thấu của tế bào, trong các tế bào bảo vệ, khống chế sự đóng mở của khí
khổng (Huber, 1985) [70]. Kali được đòi hỏi như là một chất hoạt hoá cho
hơn 60 enzim ở trong mô đỉnh sinh trưởng (Sucler, 1985) [86].
Điều quan trọng ở trong tế bào phân chia chất nguyên sinh, là kali tác
động đến sự kéo dài tế bào. Đầy đủ kali, vách tế bào dày hơn và mô tế bào ổn
định hơn. Chính vì tác động này mà tế bào sinh trưởng bình thường, tăng
cường sức chống đỡ, chống sâu (Beringer, Northdurft, 1985) [59].
Kali tham gia vào quá trình tạo ra hợp chất cao năng ATP liên quan đến
sự tổng hợp tinh bột cũng như protein (Tisdale và CS, 1985) [89]. Sự thiếu
hụt kali là kết quả của việc cây trồng lấy đi một lượng lớn kali, tỷ lệ cung cấp
kali thấp, tình trạng thiếu kali trong một số loại đất cũng như sự rửa trôi kali ở
những vùng mưa nhiều.
Theo Dauphin (1985) (dẫn theo Subandi và CS, 1998) [85] để tạo ra mỗi
một tấn hạt, cây ngô hút từ 23 – 24 kg N; 6,5 – 11 kg P2O5 và 14 – 42 kg
K2O/ha từ đất. Yêu cầu dinh dưỡng thay đổi khác nhau tuỳ thuộc vào giống
39
và mức năng suất được tạo ra. Một năng suất ngô cao không thể thiếu được sự
cung cấp dinh dưỡng thật đầy đủ.
Theo Thomas Dieroff và CS (2001) [87], lượng dinh dưỡng mà ngô hút
như sau:
- Ngô lai năng suất 4,5 tấn/ha tổng lượng hút 115 kg N; 20 kg P2O5; 75
kg K2O; 9 kg Ca; 16 kg Mg; 12 kg S/ha.
- Ngô địa phương năng suất 2,5 tấn/ha tổng lượng hút 65 kg N; 11 kg
P2O5; 42 kg K2O; 5 kg Ca; 16 kg Mg; 12 kg S/ha.
Ở tỉnh Jinlin - Trung Quốc, bón 150 – 169 kg K2O tăng năng suất ngô từ
1,2 – 1,6 tấn/ha (tăng từ 12 – 21%). Ở tỉnh Liaoning, trên nền NP bón 112,5
kg K2O/ha tăng năng suất ngô từ 17,3 - 23,2%, bón 225 K2O/ha tăng năng
suất ngô từ 20,1 - 26,2 % (Lei và CS, 2000) [72].
S là thành phần cấu tạo của 2 axit amin cysteine và methionine và rất cần
thiết để hình thành nên protein, các vitamin và sự tổng hợp của một số
hoocmôn (Willam, 1993) [99].
Như vậy, trên thế giới có rất nhiều nghiên cứu về phân bón cho ngô
thường. Tuy nhiên, đối với ngô chất lượng protein cao, các nhà khoa học trên
thế giới tập trung quan tâm đến công tác tạo giống chứ chưa quan tâm nhiều
đến nghiên cứu ảnh hưởng của các kỹ thuật canh tác, trong đó có phân bón
đến năng suất và chất lượng của giống ngô QPM, đồng thời so sánh sự ảnh
hưởng đến ngô QPM và ngô thường. Đặc biệt là chúng tôi chưa tìm được tài
liệu nào công bố việc nghiên cứu ảnh hưởng của đạm, lân, kali đến chất
lượng protein của ngô QPM TPTD so sánh với ngô lai thường.
1.4.2. Tình hình nghiên cứu phân bón cho ngô ở Việt Nam
Trong phạm vi nghiên cứu thuộc chương trình phát triển lương thực, Tạ
Văn Sơn (1995) [38] đã nghiên cứu nhu cầu dinh dưỡng cây ngô ở vùng Đồng
bằng sông Hồng, thu được kết quả như sau:
40
- Để tạo ra 1 tấn hạt, ngô lấy đi từ đất trung bình một lượng đạm, lân,
kali là: N = 22,3 kg; P2O5 = 8,2 kg; K2O = 12,2 kg.
- Lượng NPK tiêu tốn để sản xuất ra 1 tấn ngô hạt là: N = 33,9 kg; P2O5
= 14,5 kg; K2O = 17,2 kg.
- Tỉ lệ nhu cầu dinh dưỡng NPK là: 1: 0,35: 0,45.
- Tỉ lệ N: P: K thay đổi trong quá trình sinh trưởng phát triển như sau:
Bảng 1.4. Nhu cầu dinh dưỡng của cây ngô trong giai đoạn sinh trưởng (%)
Nguyên tố 6 - 7 lá Trỗ cờ Thu hoạch
N 51,7 47,4 52,2
P2O5 8,3 9,8 19,1
K2O 40,0 42,7 28,7
Nguồn: Tạ Văn Sơn (1995) [38]
Kết quả này phù hợp với các nghiên cứu của nước ngoài và thể hiện rõ là
hút kali được hoàn thành sớm trước phun râu, còn các chất dinh dưỡng khác
như đạm và lân còn tiếp tục đến lúc ngô chín.
Theo Đường Hồng Dật (2003) [12] trung bình với năng suất 60 tạ/ha ngô
hạt, cây ngô lấy từ đất 155 kg N, 60 kg P2O5, 115 kg K2O (tương đương 337
kg urê, 360 kg supe lân, 192 kg clorua kali).
Theo tác giả Ngô Hữu Tình (1995) [40], trên đất phù sa sông Hồng tỷ lệ
nhu cầu dinh dưỡng của N, P, K cho cây ngô đạt năng suất cao là 1: 0,35 :
0,45 và liều lượng bón phân cho năng suất cao là: 180N – 60P2O5 – 120K2O;
ở Duyên hải miền Trung: 120N – 90P2O5 – 60K2O; miền Đông Nam bộ: 90N
– 90P2O5 – 30K2O; Đồng bằng sông Cửu Long: 150N – 50P2O5 – 0K2O.
Theo Phạm Kim Môn (1991) [32], với ngô Đông trên đất phù sa sông
Hồng liều lượng phân bón thích hợp là: 150 – 180 kg N; 90 kg P2O5; 50 – 60
kg K2O/ha.
41
Theo Trần Hữu Miện (1987) [27] thì trên đất phù sa sông Hồng lượng
phân bón phù hợp là: 120N – 90P2O5 – 60K2O cho năng suất 40 – 50 tạ/ha;
150N – 90P2O5 – 100K2O cho năng suất 50 – 55 tạ/ha; 180N – 90P2O5 –
100K2O cho năng suất 65 – 75 tạ/ha.
Theo Nguyễn Văn Bộ (2007) [7], lượng phân bón khuyến cáo cho ngô
phải tuỳ thuộc vào đất, giống ngô và thời vụ. Giống có thời gian sinh trưởng
dài hơn, có năng suất cao hơn cần phải bón lượng phân cao hơn. Đất chua
phải bón nhiều lân hơn, đất nhẹ và vụ gieo trồng có nhiệt độ thấp cần bón
nhiều kali hơn. Liều lượng khuyến cáo chung cho ngô là:
+ Đối với giống chín sớm:
- Trên đất phù sa: 8 – 10 tấn phân chuồng; 120 – 150 kg N; 70 – 90 kg
P2O5 ; 60 – 90 kg K2O/ha.
- Trên đất bạc màu: 8 – 10 tấn phân chuồng; 120 – 150 kg N; 70 – 90 kg
P2O5; 100 – 120 kg K2O/ha.
+ Đối với giống chín trung bình và chín muộn:
- Trên đất phù sa: 8 – 10 tấn phân chuồng; 150 – 180 kg N; 70 – 90 kg
P2O5 ; 80 – 100 kg K2O/ha.
- Trên đất bạc màu: 8 – 10 tấn phân chuồng; 150 – 180 kg N; 70 – 90 kg
P2O5 ; 120 – 150 kg K2O/ha.
Theo Nguyễn Thế Hùng (1996) [19], trên đất bạc màu vùng Đông Anh –
Hà Nội, giống ngô LVN10 có phản ứng rất rõ với phân bón ở công thức bón
120N – 120P2O5 – 120K2O/ha và cho năng suất hạt gấp 2 lần so với công thức
đối chứng không bón phân. Cũng theo tác giả thì trên đất bạc màu, hiệu suất của
1 kg NPK là 8,7 kg; 1 kg N là 11,3 kg; 1 kg P205 là 4,9 kg; 1 kg K20 là 8,5 kg.
Tác giả Vũ Cao Thái cũng cho rằng liều lượng và tỷ lệ phân bón cho ngô
khác nhau trên các loại đất khác nhau. Theo ông, trên đất phù sa nên bón 120
kg N – 60 kg P2O5 – 90 kg K2O/ha, tỷ lệ N:P:K là 1:0,5:0,75. Trên đất xám
42
bạc màu bón 100 kg N – 100 kg P2O5 – 150 kg K2O/ha với tỷ lệ là 1:1:1,5
(dẫn theo Ngô Hữu Tình, 2003) [41].
Theo Nguyễn Văn Bào (1996) [4], liều lượng phân bón thích hợp cho
ngô ở các tỉnh miền núi phía Bắc (Hà Giang) là 120 kg N – 60 kg P2O5 – 50
kg K2O/ha cho các giống thụ phấn tự do và 150 kg N – 60 kg P2O5 – 50 kg
K2O/ha cho các giống lai.
Theo Viện Khoa học Nông nghiệp miền Nam (Đỗ Trung Bình, 2000),
liều lượng phân bón cho 1 ha ngô ở vùng Đông Nam bộ và Tây Nguyên là:
120 kg N – 90 kg P2O5 – 60 kg K2O cho vụ Hè Thu, còn vụ Thu Đông (vụ 2)
có thể tăng lượng K2O lên 90 kg (dẫn theo Ngô Hữu Tình, 2003) [41].
Trên đất xám của vùng Đông Nam bộ, theo kết quả nghiên cứu của Trần
Thị Dạ Thảo và Nguyễn Thị Sâm (2002), liều lượng phân bón cho ngô có
hiệu quả kinh tế cao nhất là 180 kg N – 80 kg P2O5 – 100 kg K2O/ha (giống
LVN99) (dẫn theo Ngô Hữu Tình, 2003) [41].
Các loại phân khác nhau với mức bón khác nhau có ảnh hưởng lớn đến
sự sinh trưởng và năng suất ngô LVN10 vụ Xuân 2000, vì vậy việc sử dụng
loại phân và lượng phân cần được xác định trên cơ sở lợi nhuận ở cả 3 loại
phân mức bón kinh tế là 200 kg NPK/ha. Phân NPK Lâm Thao loại 5-10-3 là
rất phù hợp với cây ngô với lượng bón tối đa là 350 kg NPK/ha, sử dụng ở
mức bón N-P-K: 100-50-50 là kinh tế nhất (Ngô Hữu Tình và CS, 2001) [43].
Theo Lê Quý Tường và Trần Văn Minh, lượng phân bón thích hợp cho
ngô lai trên đất phù sa cổ ở duyên hải Trung bộ trong vụ Đông Xuân là 10 tấn
phân chuồng + 150-180 kg N + 90 kg P2O5 + 60 kg K2O/ha (tỷ lệ NPK là
1,7:1:0,7 hoặc 2:1:0,7), tiêu tốn lượng đạm từ 22,6 – 28,8 kgN/1 tấn ngô hạt;
vụ Hè Thu bón 10 tấn phân chuồng + 150 kg N + 90 kg P2O5 + 60 kg K2O/ha
(tỷ lệ NPK là 1,7:1:0,7), tiêu tốn lượng đạm từ 27,9 – 28,4 kgN/1tấn ngô hạt
(dẫn theo Trần Văn Minh, 2004) [29].
43
Bón phân vô cơ kết hợp phân hữu cơ cho ngô đã làm tăng năng suất ngô
và giúp cải thiện độ phì trong đất, theo Bùi Đình Dinh (1988, 1994) để đảm
bảo cho cây trồng có năng suất cao, ổn định, bón phân hữu cơ chiếm 25% tổng
số dinh dưỡng, còn 75% phân hoá học (dẫn theo Trần Văn Minh, 2004) [29].
Hiệu quả của phân bón chỉ có thể phát huy đầy đủ khi có chế độ phân
bón hợp lý, bón cân đối giữa các nguyên tố. Bón phân cho ngô để đạt hiệu
quả kinh tế cao phải căn cứ vào đặc tính của loại giống ngô, yêu cầu sinh lý
của cây ngô qua các thời kỳ sinh trưởng, tình trạng của cây trên đồng ruộng,
tính chất đất, đặc điểm loại phân bón, kỹ thuật trồng trọt và điều kiện khí hậu
thời tiết.
Bón cân đối đạm – kali có hiệu lực cao hơn nhiều so với lúa. Bội thu do
bón cân đối (trung bình của nhiều liều lượng đạm) có thể đạt 33 tạ/ha trên đất
phù sa sông Hồng; 37,7 tạ/ha trên đất bạc màu; 11,7 tạ/ha trên đất xám và 3,9
tạ/ha trên đất đỏ vàng. Xét về hiệu quả kinh tế thì bón phân cân đối cho ngô
trên đất bạc màu, đất xám có lãi hơn nhiều so với đất phù sa và đất đỏ vàng
(Nguyễn Văn Bộ, 2007) [7].
Theo tác giả Bùi Huy Hiền (2002) [17], từ năm 1985 đến nay tình hình sử
dụng phân đạm ở nước ta tăng trung bình là 7,2%/năm, phân lân là 13,9%/năm,
phân kali là 23,9%/năm. Tổng lượng N + P2O5 + K2O trong 15 năm qua tăng
trung bình 9,0%/năm. Tỷ lệ N : P2O5 : K2O trong 10 năm qua đã cân đối hơn
với tỷ lệ tương ứng qua các năm 1990, 1995 và 2000 là 1 : 0,12 : 0,05; 1 :
0,46 : 0,12 và 1 : 0,44 : 0,37. Lượng phân bón/ha cũng đã tăng lên qua các năm
1990, 1995, 2000 với tổng lượng N : P2O5 : K2O tương ứng là 58,7; 117,7 và
170,8 kg/ha, tỷ lệ này còn thấp so với các nước phát triển như Mỹ, Hàn Quốc,
Pháp, Nhật với tổng lượng N : P2O5 : K2O khoảng 240 – 400 kg/ha.
Theo Vũ Hữu Yêm (1995) [53], ảnh hưởng của bón đạm như sau: Không
bón năng suất đạt 40 tạ/ha; bón 40 kg N năng suất đạt 56,5 tạ/ha; bón 80 kg N
44
năng suất đạt 70,8 tạ/ha; bón 120 kg N năng suất đạt 76,2 tạ/ha; bón 160 kg N
năng suất đạt 79,9 tạ/ha.
Trên đất phù sa cổ, đối với giống ngô lai LVN4 bón đạm ở các liều
lượng nền 1 + 150N, nền 1 + 180N, nền 1 + 210N đều làm năng suất hơn đối
chứng 1 (không bón phân) từ 26,64 - 32,48 tạ/ha trong vụ Đông Xuân và
28,43 - 30,98 tạ/ha trong vụ Hè Thu. Lượng đạm tăng từ 120 - 210N thì năng
suất ngô cũng tăng theo, nhưng hiệu quả kinh tế cao nhất là bón 10 tấn phân
chuồng + 150N + 90P2O5 + 60K2O/ha (Lê Quý Tường và CS, 2001) [49].
Khi nghiên cứu về phân bón cho ngô trên đất bạc mầu, Nguyễn Thế
Hùng (1996) [19], đã chỉ ra rằng phân N có tác dụng rất rõ đối với ngô trên
đất bạc mầu, song lượng bón tối đa là 225 kg/ha, ngưỡng bón N kinh tế là 150
kg/ha trên nền cân đối P – K.
Kết quả nghiên cứu bón đạm cho ngô của Đào Thế Tuấn cho thấy ở
Đồng bằng sông Hồng với mức bón đạm 90 kgN/ha, hiệu suất bón đạm đối
với ngô địa phương là 13 kg ngô hạt/1 kg N và ngô lai là 18 kg ngô hạt/1 kg
N. Bón đến mức 180 kg N/ha đã đạt 9 – 14 kg ngô hạt/1 kg N (dẫn theo Trần
Văn Minh, 2004) [29].
Trần Hữu Miện (1987) [27] để tạo ra 1 tấn ngô hạt trong vụ ngô Đông
miền Bắc cần 25 – 28 kg N, vụ Xuân 28 – 32 kg N, vụ Hè Thu 32 – 35 kg N,
Thu Đông 30 – 32 kg N.
Kết quả nghiên cứu của Lê Quý Kha (2001) [20] đã chỉ ra rằng mặc dầu
trong điều kiện ít có khả năng đầu tư đạm và thiếu nước, ví dụ như nhờ nước
trời, tốt hơn hết vẫn phải chia nhỏ lượng đạm làm nhiều lần để bón thì hiệu
quả sử dụng đạm của cây ngô mới cao.
Đạm là yếu tố quan trọng nhất đối với cây ngô, nghiên cứu vai trò của
đạm đối với cây ngô ở Việt Nam mới chỉ được đề cập về liều lượng dùng và tỷ
lệ giữa nó với các yếu tố dinh dưỡng khác. Nghiên cứu ảnh hưởng của đạm
45
đến năng suất và chất lượng các loại giống ngô, trong đó có giống ngô TPTD
QPM so sánh với ngô lai thường thì chưa được nghiên cứu ở nước ta.
Lân hữu cơ rất đa dạng, đóng vai trò quan trọng trong quá trình trao đổi
chất, hút chất dinh dưỡng và vận chuyển các chất đó trong cây. Tác dụng chủ
yếu của lân thể hiện trên một số mặt sau đây: Phân chia tế bào, tạo thành chất
béo và protein; thúc đẩy việc ra hoa, hình thành quả và quyết định phẩm chất
hạt giống; hạn chế tác hại của việc bón thừa đạm; thúc đẩy việc ra rễ đặc biệt
là rễ bên và lông hút; làm cho thân cây ngũ vững chắc, đỡ đổ; cải thiện chất
lượng sản phẩm (trích theo Nguyễn Ngọc Nông, 1999) [33].
Theo Trần Văn Minh (1995) [28], bón lân có khả năng rút ngắn thời gian
sinh trưởng của ngô, làm tăng năng suất một cách rõ rệt. Lân Supe có hiệu lực
trên hầu hết các loại đất, lân nung chảy có hiệu quả cao hơn trên đất đồi núi.
Nghiên cứu bón phân lân cho ngô trên đất đỏ Bazan, Đặng Bê (1978) đã
thu được hiệu suất phân lân từ 8 – 10 kg ngô hạt/kg P2O5 và mức bón 60 kg
P2O5/ha thì lân Văn Điển có hiệu quả hơn Supe lân (dẫn theo Trần Văn Minh,
2004) [29].
Theo Evangelista (1999) năng suất ngô tăng lên cùng với việc tăng liều
lượng lân, năng suất chỉ bắt đầu giảm xuống khi bón đến mức 160 kg P2O5/ha
(dẫn theo Trần Văn Minh, 2004) [29].
Theo Trần Văn Minh (1995) [28] liều lượng bón lân thích hợp cho ngô
trên đất phù sa cổ và đất bãi ven sông miền Trung là 90 kg P2O5/ha, kết quả này
cũng phù hợp với kết quả nghiên cứu năm 1988 và 1989 của Trịnh Quang Võ
(Trạm nông hoá thổ nhưỡng Quảng Ngãi), Ngô Hữu Tình (1995), Quách Ngọc
Ân (1997) ở duyên hải Nam Trung bộ: Phân lân làm tăng năng suất ngô theo tỷ
lệ thuận đến mức 120 kg P2O5, nhưng ngưỡng kinh tế là 90 kg P2O5/ha.
Theo các tác giả Lê Văn Khoa và CS (1996) [24]; Oparin (1977) [35], cho
rằng vai trò của lân đối với sự sống có một nghĩa lớn vì lân tồn tại trong tế bào
của động thực vật, nó có trong nhân tế bào, enzim, vitamin. Lân tham gia vào
46
việc tạo thành và chuyển hoá Hidrat Cacbon, chất chứa nitơ, tích luỹ năng
lượng tế bào sống. Lân còn đóng vai trò quan trọng trong hô hấp và lên men.Hiệu lực phân lân đối với ngô bội thu 8 – 10 kg ngô hạt/kg P2O5, trong
nhiều trường hợp hiệu lực lân không rõ hoặc làm giảm năng suất do kỹ thuật
bón không phù hợp hoặc nhất là lượng bón lân quá cao so với lượng đạm
hoặc bón không kèm kali (Nguyễn Văn Bộ, 1993) [6].
Theo các tác giả Vũ Hữu Yêm và CS (1999) [54], trên đất phù sa Sông
Hồng không được bồi không nên bón quá 90 kg P2O5/ha cho ngô, bón đến 120
kg thì hiệu suất phân lân xuống thấp. Trên đất bạc màu ngô rất cần lân, bón
đến 120 kg P2O5 so với 90 kg P2O5 hiệu suất phân lân vẫn ổn định. Trên đất
mặn và phèn nhẹ có thể bón cho ngô đến 120 kg P2O5/ha, khi gặp điều kiện
thuận lợi bón 1 kg P2O5 có thể đạt 16 kg ngô hạt trong vụ Xuân và 11 kg ngô
hạt trong vụ Đông.
Như vậy, nghiên cứu ảnh hưởng của lân đến năng suất và chất lượng
protein của giống ngô TPTD QPM so sánh với giống ngô lai thường thì chưa
được công bố ở nước ta.
Theo kết quả của Nguyễn Trọng Thi và Nguyễn Văn Bộ (1999) [39],
trên đất bạc màu, trồng ngô bón K đạt hiệu lực rất cao. Hiệu quả sử dụng K
đạt trung bình 15 – 20 kg ngô hạt/kg K2O. Liều lượng bón kali cho ngô trên
đất phù sa sông Hồng từ 60 – 90; trên đất bạc màu 90 – 120 kg K2O/ha. Bón
kali liều lượng 30 – 210 kg K2O/ha không làm gia tăng năng suất ngô vùng
Tây sông Hậu. Hiệu lực của phân kali trên đất phù sa sông Hồng đạt 5,2 kg
ngô hạt/kg K2O.
Theo Tạ Văn Sơn (1995) [38], trên đất phù sa sông Hồng bón phân kali
đã làm tăng năng suất ngô rõ rệt và đặc biệt trên nền N cao. Phân lân có hiệu
lực rõ rệt đối với ngô trên đất phù sa sông Hồng trên nền 180N – 120K 2O có
thể bón tới 150P2O5.
47
Trên đất bạc màu khi bón kali cân đối với đạm, hiệu suất của N trong vụ
Xuân tăng 62%, trong vụ Mùa tăng 124% (Nguyễn Văn Bộ, 1993) [6].
Theo Nguyễn Văn Bộ và CS (1999) [8], ngô là cây trồng có tiềm năng
năng suất rất cao đồng thời cũng lại có nhu cầu dinh dưỡng lớn. Trung bình
với năng suất 6 tấn/ha cây ngô hút 155 kg N; 60 kg P2O5; 115 kg K2O; 15,7 kg
Cu; 35,5 kg MgO và 16 kg S.
Hiệu lực phân kali: với ngô ở Việt Nam tăng năng suất 310 kg ngô
hạt/ha, hiệu suất 5,2 kg ngô/kg K2O trên đất phù sa Sông Hồng (Nguyễn Văn
Bộ và CS, 1999) [8].
Theo Nguyễn Trọng Thi và Nguyễn Văn Bộ (1999) [39], đối với cây ngô
trồng vụ Đông để đạt năng suất 4 – 5 tấn/ha cần bón 30 – 60 kg K 2O trên đất
phù sa Sông Hồng; 60 - 90 kg K2O trên đất bạc màu.
Theo Nguyễn Vy (1998) [52], Vũ Hữu Yêm và CS (1999) [54], trên đất
phù sa Sông Hồng hiệu lực phân kali tăng dần chứng tỏ việc trồng ngô liên
tục trong đất phù sa trong đê làm đất kiệt dần kali. Hiệu suất kali vụ Đông cao
hơn vụ Xuân, không nên bón cho ngô quá 90 kg K2O/ha vì từ 120 kg K2O/ha
hiệu suất kali bón giảm nhanh. Ngô rất cần bón kali, kali trong đất rất linh
động, đất trồng ngô liên tục thường bị thiếu, bởi kali có mặt chủ yếu trong
thân, lá ngô sẽ bị lấy đi khi người dân thu hoạch cây ra khỏi ruộng. Trên đất
bạc màu ngô rất cần bón kali, bón đến 150 kg/ha hiệu suất vẫn còn cao. Trên
đất vàn hai vụ lúa, một vụ ngô Đông nếu bón quá nhiều kali năng suất ngô sẽ
giảm, chỉ cần bón ở mức 60 kg K2O /ha sẽ cho hiệu suất phân kali rất cao.
Trên đất mặn và đất phèn nhẹ cây ngô phản ứng yếu với kali, không nên bón
quá 60 kg K2O /ha, nhiều trường hợp ngô phản ứng không rõ với kali (Vũ
Hữu Yêm và CS, 1999) [54].
48
Trên đất bạc màu, không bón kali, cây trồng chỉ hút được 80 – 90 kg
N/ha trong khi đó bón kali làm cây trồng hút được tới 120 – 150 kg N/ha
(Nguyễn Văn Bộ, 2007) [7].
Theo tác giả Đỗ Tuấn Khiêm (1996) [23], thí nghiệm ở vùng Đông Bắc
cho thấy sử dụng các chế phẩm phân bón sinh học như Komix BFC, Thiên
Nông, Agrofil có tác dụng làm tăng năng suất ngô từ 8 – 14%.
Căn cứ để xác định số lượng và tỷ lệ bón các loại phân NPK, phân
chuồng, độ phì nhiêu của đất, nhu cầu dinh dưỡng của giống và trạng thái cây
trên đồng ruộng, thời tiết, khí hậu, mùa vụ, chế độ luân canh và mật độ trồng.
Theo hướng dẫn của Cục Trồng trọt (2006) [11], để đạt năng suất ngô
trên 7 tấn/ha ở các tỉnh miền Bắc, thì lượng phân bón như sau:
- Đối với loại đất tốt: 10 - 15 tấn phân chuồng; 150 - 180 kg N; 100 - 120
kg P2O5; 80 - 100 kg K2O/ha.
- Đối với đất trung bình: 10 - 15 tấn phân chuồng; 180 - 200 kg N; 120 -
140 kg P2O5; 100 - 120 kg K2O/ha.
Cây ngô là loại cây cần nhiều dinh dưỡng do đó để đạt năng suất cao
nhất thiết phải bón đầy đủ và cân đối, đặc biệt là N-P-K. Hiện nay ở nước ta,
trong đó có vùng Trung du và miền núi phía Bắc, người dân vẫn còn tập quán
sử dụng phân bón lượng thấp và chủ yếu bón phân đạm mà không bón lân và
kali. Đây là một nguyên nhân thứ yếu làm cho năng suất ngô trong vùng rất
thấp. Vì vậy, việc khuyến cáo và hướng dẫn kỹ thuật bón phân cho ngô đạt
hiệu quả cao là rất cần thiết và cấp bách.
1.4.3. Tình hình nghiên cứu phân bón đến chất lượng ngô thường và
ngô QPM
Một số nghiên cứu đã chỉ ra rằng ngô QPM được trồng trong đất nghèo
đạm thì có hàm lượng protein thấp hơn. Tuy nhiên, chất lượng protein (lysine
và tryptophan) không bị ảnh hưởng. Nói cách khác, QPM vẫn còn là QPM khi
được trồng trong đất nghèo đạm. Các nghiên cứu cũng đã cho thấy rằng chất
49
lượng protein được duy trì khi ngô QPM được trồng trong các điều kiện khô
hạn. Ngô QPM duy trì được chất lượng protein khi được cách ly tốt với ngô
thường (dẫn theo Vivek và CS, 2008) [98]. Trường Cao đẳng Rajasthan - Đại học Nông nghiệp Udaipur, Ấn Độ
trong mùa mưa 2003 và 2004 đã nghiên cứu phát triển và đánh giá quản lý
chất dinh dưỡng tổng hợp trên năng suất ngô QPM và những thuộc tính đất.
Thí nghiệm gồm có 3 mức phân bón (75% RDF, 100% RDF và 125% RDF;
RDF = 90 kg N + 40 kg P2O5/ha), 3 nguồn phân hữu cơ (đối chứng, FYM và
vermicompost) và 2 nguồn P (DAP và SSP) được lặp lại 3 lần trong RBD.
FYM và vermicompost đã được sử dụng như liều bổ sung qua các công thức
mức phân bón và áp dụng 20 ngày trước khi gieo. Áp dụng 125% RDF tăng
cường đáng kể tốc độ tăng trưởng và các yếu tố cấu thành năng suất, năng
suất, hấp thụ N và P, duy trì tình trạng dinh dưỡng cao hơn trong đất và chứng
tỏ có lợi khi so sánh với 100% và 75% RDF. Thêm nữa, 125% RDF cũng ưu
đãi độ phì nhiêu đất so với các công thức khác. Sự kết hợp của FYM và
vermicompost với phân hoá học đã cho thấy hiệu quả tương đương nhau đối
với tất cả tham số. Tuy nhiên, nguồn P đã không mang sự biến đổi trong bất
kỳ tham số nào. Từ nghiên cứu này, có thể kết luận rằng áp dụng 125% RPF
cùng với 10 tấn FYM hoặc 3 tấn vermicompost/ha đạt độ màu mỡ tối ưu cho
năng suất QPM cao bền vững trên Vertisols (Dilip, Godawat, 2008) [65].
Bón phân cân đối làm tăng hàm lượng protein trong hạt ngũ cốc, tăng
hàm lượng các vitamin trong rau và hoa quả, tăng hàm lượng đường trong
mía (Nguyễn Văn Bộ, 2007) [7].
Bón phân cân đối và vừa phải có thể làm tăng chất lượng sản phẩm.
Thiếu chất dinh dưỡng, bón phân không cân đối hoặc bón quá nhu cầu của
cây đều làm giảm chất lượng nông sản. Giữa các bộ phận trong cây thì phân
50
bón làm thay đổi thành phần hoá học của lá dễ hơn là làm thay đổi thành phần
hoá học của hạt (Nguyễn Ngọc Nông, 1999) [33].
Trên đất bạc màu, Lê Văn Hải (2002) [14] cho rằng mức phân bón phù
hợp và kinh tế đối với giống ngô lai HQ2000 là 100 kg N – 120 kg P2O5 – 160
kg K2O/ha. Theo tác giả, với liều lượng này tổng lượng hút (NPK) lớn, hiệu
suất sử dụng phân bón cao (N = 60,32%, P2O5 = 31,03%, K2O = 32,92%).
Ngoài các nguyên tố đa lượng, khi sử dụng phân bón có chứa lưu huỳnh
(S) thì năng suất và hàm lượng protein cao hơn đối chứng (Ngô Xuân Hiền,
1998) [18].
Theo Vũ Kim Bảng (1991) [2], (1997) [3], xử lý NAA; 2,4D; ZnSO4
không chỉ ảnh hưởng đến năng suất hạt mà còn thay đổi chất lượng dinh
dưỡng của hạt ngô, hàm lượng các axit amin không thay thế như lysine,
triptophan ở các công thức xử lý đều cao hơn đối chứng không xử lý.
Phun dung dịch ZnSO4 lên lá ngô đã làm tăng diện tích lá và chỉ số diện
tích lá (LAI) ở thời kỳ chín sữa, hàm lượng protein ở các công thức xử lý đều
cao hơn đối chứng tăng từ 3,6 – 8,9%, hàm lượng đường tăng từ 2,54 – 4,89%
(Vũ Kim Bảng, 1997) [3].
Như vậy, nghiên cứu ảnh hưởng của phân bón đến chất lượng ngô còn
rất ít ở Việt Nam. Nghiên cứu ảnh hưởng của phân bón đến năng suất của
giống ngô lai QPM cũng mới chỉ bắt đầu. Đặc biệt là ở nước ta chưa có
nghiên cứu ảnh hưởng của đạm, lân, kali đến năng suất và chất lượng (hàm
lượng và chất lượng protein) của giống ngô TPTD chất lượng protein cao so
sánh với giống ngô lai thường. Vì vậy, chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề tài
ảnh hưởng của các liều lượng đạm, lân, kali đến sinh trưởng phát triển, năng
suất và chất lượng protein của giống ngô chất lượng protein cao có triển
vọng tại Thái Nguyên.
51
Chương 2
VẬT LIỆU, NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Vật liệu nghiên cứu
2.1.1. Thí nghiệm khảo nghiệm giống
Thí nghiệm được tiến hành với 6 giống ngô QPM TPTD mới chọn tạo
có triển vọng và 2 giống đối chứng. Nguồn gốc của các giống được trình bày ở
bảng 2.1.
Bảng 2.1. Nguồn gốc của các giống tham gia thí nghiệm
TTTên
giốngNguồn gốc, phương pháp và chu kỳ chọn lọc
Cơ quan
chọn tạo
1 QP1 [(CLQ2509 x CLQ2507) x CLQ6602] x OPV3 - C6 Viện NC Ngô
2 QP2 [(CLQ2509 x CLQ2507) x CLQ2602] x OPV3 - C6 Viện NC Ngô
3 QP3 S99 TLYQ HG – AB (OPV3) - C12 CIMMYT
4 QP4 (CML161 x CML165) x OPV3 - C7 Viện NC Ngô
5 QP5 (CML161 x CML163) x OPV3 - C7 Viện NC Ngô
6 QP6[(CLQ2509 x CLQ2507) x CLQ2602] x OPV2 - C6
(OPV2: S99 TLYQ HG-A)Viện NC Ngô
7Q2
(đ/c 1)
Là giống ngô TPTD thường, được công nhận năm
1990. Hiện nay, giống Q2 đang được trồng nhiều ở
miền núi phía Bắc.
Viện NC Ngô
8HQ2000
(đ/c 2)
Là ngô lai QPM, được công nhận năm 2004. Hiện
nay, giống HQ2000 đang được sản xuất nhiều ở
miền Bắc.
Viện NC Ngô
(C: chu kỳ chọn lọc); 5 tổ hợp trên (QP1, QP2, QP4, QP5, QP6) cùng với
OPV3 (QP3) được chọn lọc đám 1 vụ sau đó chọn lọc bắp trên hàng cải tiến.
52
2.1.2. Thí nghiệm phân bón
Trên cơ sở kết quả thí nghiệm khảo nghiệm giống QPM TPTD, chọn
được giống ngô QP4 có triển vọng để tiến hành 3 thí nghiệm phân bón (N, P,
K) cùng giống ngô thường LVN10 làm đối chứng.
- Giống LVN10: Là giống ngô lai thường, do Viện Nghiên cứu Ngô
chọn tạo, được công nhận năm 1994, đang được trồng phổ biến ở Việt Nam.
- Phân đạm: Phân Urê (46% N).
- Phân lân: Phân lân Supe (16% P2O5).
- Phân kali: Phân Kaliclorua (60% K2O).
2.2. Địa điểm và thời gian nghiên cứu
2.2.1. Địa điểm tiến hành đề tài
Các thí nghiệm khảo nghiệm giống và phân bón được thực hiện tại
Trường Đại học Nông Lâm Thái Nguyên. Xây dựng mô hình tại các tỉnh Thái
Nguyên, Hà Giang, Tuyên Quang.
* Điều kiện đất thí nghiệm:
Thí nghiệm phân đạm, lân, kali được tiến hành tại Trung tâm Thực hành
thực nghiệm – Trường Đại học Nông Lâm Thái Nguyên trên đất xám bạc
màu, có thành phần cơ giới nhẹ, kết cấu kém, rất nghèo các chất dinh dưỡng,
chua và thường bị khô hạn. Để có số liệu chính xác, chúng tôi đã tiến hành lấy
mẫu đất trước khi làm thí nghiệm để phân tích thành phần dinh dưỡng chính
trong đất và tính chất vật lý, kết quả như sau:
Đạm tổng số : 0,089% Mùn : 1,65% Tỷ trọng : 2,66 g/cm3
Lân tổng số : 0,048% pHKCL: 5,6 Dung trọng : 1,34 g/cm3
Kali tổng số : 0,21% Độ xốp : 49,6%
Kết quả phân tích cho thấy đất thí nghiệm phân đạm, lân, kali có hàm
lượng đạm tổng số trung bình, hàm lượng lân tổng số loại nghèo, hàm lượng
53
kali tổng số loại nghèo, hàm lượng mùn trung bình, đất chua ít và độ xốp
trung bình (theo Nguyễn Ngọc Nông, 2000 [34]; Trần Văn Chính, 2006) [10].
2.2.2. Thời gian tiến hành đề tài
- Thí nghiệm khảo nghiệm giống: Vụ Xuân (2004 và 2005), vụ Thu
Đông (2004 và 2005).
- Các thí nghiệm về phân bón: Vụ Xuân (2005 và 2006), vụ Thu Đông 2005.
- Thử nghiệm, xây dựng mô hình: Vụ Xuân (2006 và 2007), vụ Thu
Đông 2006.
2.3. Nội dung và phương pháp nghiên cứu
2.3.1. Nội dung nghiên cứu
2.3.1.1. Khảo nghiệm giống ngô thụ phấn tự do QPM
So sánh 6 giống ngô TPTD QPM với 2 đối chứng Q2 và HQ2000 vụ
Xuân 2004 và 2005, vụ Thu Đông 2004 và 2005.
2.3.1.2. Nghiên cứu ảnh hưởng của một số liều lượng đạm đến sinh
trưởng, phát triển, năng suất và chất lượng của giống QPM so sánh với ngô
thường
Nền: 10 tấn phân chuồng + 80P2O5 + 80K2O
Công thức 1 - 5: N1 - 0N, N2 - 60N, N3 - 120N, N4 - 180N, N5 - 240N
(mỗi công thức phân đạm tiến hành trên 02 giống ngô: Giống ngô QPM
TPTD QP4 và giống ngô lai thường LVN10).
2.3.1.3. Nghiên cứu ảnh hưởng của một số liều lượng lân đến sinh trưởng,
phát triển, năng suất và chất lượng của giống QPM so sánh với ngô thường
Nền: 10 tấn phân chuồng + 120N + 80K2O
Công thức 1 - 5: P1 - 0P2O5, P2 - 40P2O5, P3 - 80P2O5, P4 - 120P2O5, P5 -
160P2O5
(mỗi công thức phân lân tiến hành trên 02 giống ngô: Giống ngô QPM
TPTD QP4 và giống ngô lai thường LVN10).
54
2.3.1.4. Nghiên cứu ảnh hưởng của một số liều lượng kali đến sinh trưởng,
phát triển, năng suất và chất lượng của giống QPM so sánh với ngô thường
Nền: 10 tấn phân chuồng + 120N + 80P2O5
Công thức 1 - 5: K1 - 0K2O, K2 - 40K2O, K3 - 80K2O, K4 - 120K2O, K5 -
160K2O
(mỗi công thức phân kali tiến hành trên 02 giống ngô: Giống ngô QPM
TPTD QP4 và giống ngô lai thường LVN10).
2.3.1.5. Xây dựng mô hình trình diễn giống ngô QP4
Mô hình sử dụng phương pháp ô mẫu trình diễn. Các mô hình ô mẫu
được nông dân trực tiếp làm, có hướng dẫn của cán bộ kỹ thuật. Trước khi
làm mô hình, nông dân được tập huấn về kỹ thuật.
- Địa điểm: Mô hình được bố trí tại huyện Yên Minh – tỉnh Hà Giang
trên đất ruộng bậc thang bỏ hoá vụ xuân; huyện Phổ Yên - tỉnh Thái Nguyên
trên đất bãi ven sông, đất cát pha bạc màu; huyện Hàm Yên - tỉnh Tuyên
Quang trên đất dốc.
- Thời gian: vụ Xuân 2006, vụ Thu Đông 2006, vụ Xuân 2007.
- Số lượng và quy mô các mô hình:
+ Tại Yên Minh – Hà Giang: Diện tích mô hình là 2 ha thực hiện vào vụ
Xuân 2006; 5,3 ha thực hiện vào vụ Xuân 2007.
+ Tại Phổ Yên - Thái Nguyên: Diện tích mô hình là 0,5 ha thực hiện vào
vụ Thu Đông 2006.
+ Tại Hàm Yên - Tuyên Quang: Diện tích mô hình là 0,2 ha thực hiện
vào vụ Xuân 2006.
- Các chỉ theo dõi, đánh giá khi xây dựng mô hình: Thời gian sinh
trưởng, chiều cao cây, chiều cao đóng bắp, đánh giá chung về khả năng chống
chịu sâu bệnh và điều kiện bất thuận, các yếu tố cấu thành năng suất, năng
suất hạt khô, hướng sử dụng sản phẩm, khả năng mở rộng ra sản xuất.
55
2.3.2. Phương pháp nghiên cứu
2.3.2.1. Phương pháp thí nghiệm
Tiến hành theo Quy trình Khảo nghiệm ngô Quốc tế của CIMMYT; Quy
phạm Khảo nghiệm giống ngô Quốc gia số 10 TCN 341 - 98; Quy trình Khảo
nghiệm của Viện Nghiên cứu Ngô; Quy phạm Thử nghiệm phân bón số 10
TCN 216 – 95.
a. Phương pháp bố trí thí nghiệm
+ Thí nghiệm so sánh giống: Thí nghiệm được bố trí theo khối ngẫu
nhiên hoàn chỉnh (RCB) gồm 8 công thức với 3 lần nhắc lại. Diện tích 1 ô là
14 m2 (5 m x 2,8 m) trồng 4 hàng, hàng cách hàng 70 cm, cây cách cây 25 cm
(mật độ 5,7 vạn cây/ha), gieo 2 hạt trên hốc và tỉa để một cây trên hốc. Các
chỉ tiêu theo dõi được thực hiện ở 2 hàng giữa của ô.
* Sơ đồ thí nghiệm so sánh giống:
Dải bảo vệ
Dải
bảo
vệ
1 6 4 3 7 2 5 8
Dải
bảo
vệ
7 5 2 6 8 4 1 3
2 4 8 7 1 3 6 5
Dải bảo vệ
+ Thí nghiệm phân bón: Ba thí nghiệm phân đạm, lân, kali là thí
nghiệm hai nhân tố được bố trí theo kiểu ô phụ - Split-Plot Design, 3 lần nhắc
lại, phân bón (N, P, K) là nhân tố chính gồm 5 công thức và 2 nhân tố phụ là
G1 - QP4 và G2 - LVN10. Diện tích thí nghiệm ô chính là 42 m2 (10 x 4,2 m),
ô phụ là 21 m2 (5 x 4,2 m). Gieo trồng 6 hàng/ô với khoảng cách 70 x 25 cm
(mật độ 5,7 vạn cây/ha), các chỉ tiêu theo dõi ở 4 hàng giữa ô.
56
* Sơ đồ thí nghiệm phân bón:
Dải bảo vệ
Dải bảo vệ
3A 5B 1B 4A 2B
Dải bảo vệ
3B 5A 1A 4B 2A
1B 3B 2A 5B 4B
1A 3A 2B 5A 4A
4B 2A 3B 1A 5A
4A 2B 3A 1B 5B
Dải bảo vệ
(Phần chữ số: Là các công thức phân bón: Đạm; Lân; Kali.
Phần chữ cái: Là các công thức giống ngô)
b. Quy trình kỹ thuật
Tiến hành theo Quy trình Khảo nghiệm ngô Quốc tế của CIMMYT; Quy
phạm Khảo nghiệm giống ngô Quốc gia số 10 TCN 341 - 98; Quy trình Khảo
nghiệm của Viện Nghiên cứu Ngô; Quy phạm Thử nghiệm phân bón số 10
TCN 216 – 95.
* Phân bón:
57
- Lượng bón:
+ Thí nghiệm so sánh giống: 10 tấn phân chuồng + 150N + 90P2O5 +
90K2O + 600 kg vôi bột/ ha.
+ Thí nghiệm phân bón: 10 tấn phân chuồng/ha + NPK theo các công
thức thí nghiệm + 600 kg vôi bột/ ha.
Phân chuồng: Thành phần gồm phân bò + rơm rạ + trấu. Phân chuồng
được ủ đến hoai mục mới đem đi bón cho đất thí nghiệm.
- Phương pháp bón phân:
- Bón lót: 100% phân chuồng + 100% phân lân + 100% vôi bột (phân
chuồng và phân lân được trộn đều bón theo hàng rạch sâu 10 – 12 cm; vôi bột
được rải đều trên đất khi bừa lần cuối).
- Bón thúc: chia làm 3 lần:
Lần 1: 1/3 N + 1/2 K2O (khi ngô được 3 - 4 lá thật), rạch rãnh sâu 3 - 5 cm
theo hàng ngô cách gốc 5 – 7 cm rồi bón và lấp kín phân kết hợp vun nhẹ).
Lần 2: 1/3 N + 1/2 K2O (khi ngô được 7 - 9 lá), rạch rãnh sâu 5 - 7 cm
theo hàng ngô cách gốc 10 – 12 cm rồi bón và lấp kín phân kết hợp vun cao).
Lần 3: Bón nốt lượng phân còn lại (trước trỗ 7 – 10 ngày), rạch rãnh sâu
7 - 10 cm theo hàng ngô cách gốc 13 – 15 cm rồi bón và lấp kín phân kết hợp
vun cao).
* Chăm sóc:
+ Khi ngô 3 - 5 lá: Xới vun nhẹ quanh gốc kết hợp với bón thúc lần 1,
tưới nước (để đất đủ ẩm 70 – 80%) và tỉa định cây.
+ Khi ngô 7 - 9 lá: Xới xáo diệt cỏ dại kết hợp với bón thúc lần 2, tưới
nước (để đất đủ ẩm 70 – 80%) và vun cao chống đổ.
+ Trước trỗ 7 - 10 ngày: Bón nốt lượng phân còn lại kết hợp vun nhẹ và
tưới nước (để đất đủ ẩm 70 – 80%).
58
- Tưới nước: Nếu đất khô thì phải tưới nước cho ngô, đặc biệt phải giữ
cho đất đủ ẩm (khoảng 70 - 80% độ ẩm tối đa đồng ruộng) ở 3 thời kỳ:
+ Khi ngô 6 – 7 lá.
+ Khi ngô xoáy nõn (trước trỗ cờ từ 10 – 12 ngày).
+ Khi ngô thụ phấn xong – chín sữa (sau khi trỗ cờ từ 10 – 15 ngày).
Chú ý, cần tưới đồng đều, sau khi tưới hoặc khi mưa phải thoát hết nước
đọng trong ruộng.
* Phòng trừ sâu bệnh:
Chỉ phòng trừ sâu bệnh khi đến ngưỡng phòng trừ theo hướng dẫn chung
của ngành Bảo vệ thực vật.
* Thu hoạch:
Thu hoạch khi ngô chín sinh lý (khi chân hạt có vết đen hoặc 75% số cây
có lá bi khô), tuy nhiên nếu thời tiết cho phép thì có thể thu hoạch muộn hơn.
2.3.2.2. Các chỉ tiêu và phương pháp theo dõi
Tiến hành theo hướng dẫn của CIMMYT, Viện nghiên cứu ngô và Quy
phạm khảo nghiệm giống ngô Quốc gia số 10 TCN 341-98.
a. Chỉ tiêu thời gian sinh trưởng
- Ngày gieo.
- Ngày mọc: Khoảng 50% số cây mọc.
- Ngày tung phấn: Ghi số ngày từ gieo đến khi có khoảng 50% số cây
trong ô tung phấn (khi những bao phấn ở 1/3 phía trên bông cờ tung phấn thì
coi cây đó đã tung phấn).
- Ngày phun râu: Ghi số ngày từ gieo đến khi có khoảng 50% số cây
trong ô phun râu (tính những cây có râu dài 2 - 3cm).
- Ngày chín sinh lý (TGST): Ghi số ngày từ gieo đến khi có khoảng 50%
số bắp có chấm đen ở chân hạt hoặc khoảng 75% cây có lá bi khô.
59
b. Chỉ tiêu hình thái
- Chiều cao cây (cm): Chọn 10 cây (trừ các cây đầu hàng), đo từ gốc sát
mặt đất đến điểm phân nhánh cờ đầu tiên.
- Chiều cao đóng bắp (cm): Trên 10 cây đã đo chiều cao cây, xác định
chiều cao đóng bắp bằng cách đo từ gốc sát mặt đất đến đốt đóng bắp trên
cùng (Bắp thứ nhất).
Chiều cao cây và chiều cao đóng bắp đo vào thời gian sau khi ngô phun
râu 2 - 3 tuần hoặc trước khi thu hoạch.
- Số lá thật trên cây (lá): Đếm số lá trên cây (đánh dấu lá thứ 5, lá thứ
10,...).
- Diện tích lá: Đo diện tích lá khi cây thụ phấn thụ tinh xong, tiến hành
đo chiều dài và chiều rộng của tất cả các lá trên cây. Sau đó áp dụng công
thức tính diện tích lá của Montgomery (1906):
Diện tích lá (m2) = chiều dài x chiều rộng x 0,75
Chỉ số diện tích lá (m2 lá/m2 đất) = m2 lá/cây x số cây/m2
- Trạng thái cây (điểm): Số liệu về đặc tính này được lấy vào giai đoạn lá
bi trở vàng, khi mà các cây còn xanh và bắp đã phát triển đầy đủ. Ở mỗi ô
đánh giá các đặc tính như: Chiều cao cây, chiều cao đóng bắp, độ đồng đều
của các cây, thiệt hại do sâu, bệnh và độ đổ ngã, theo thang điểm từ 1 - 5
(điểm 1 là rất tốt, điểm 5 là xấu).
- Trạng thái bắp (điểm): Sau khi thu hoạch, để xác định được chỉ tiêu này
thì căn cứ vào các đặc tính như thiệt hại do sâu, bệnh, kích thước bắp, độ dày
hạt và độ đồng đều của bắp theo thang điểm từ 1 - 5, điểm 1 là tốt nhất và
điểm 5 là xấu nhất.
- Độ bao bắp: Trước khi thu hoạch 1 - 3 tuần, khi bắp đã phát triển hoàn
toàn vỏ bọc đã khô, đánh giá độ bao bắp theo thang điểm từ 1 - 5.
+ Điểm 1: Rất kín - Bẹ che kín đầu bắp và kéo dài khỏi bắp.
+ Điểm 2: Kín - Bao kín đầu bắp.
60
+ Điểm 3: Hơi hở - Bao không chặt đến đầu bắp.
+ Điểm 4: Hở - Lá bi không che kín bắp để hở đầu bắp.
+ Điểm 5: Rất hở - Đầu bắp hở nhiều.
- Dạng hạt, mầu sắc hạt.
c. Chỉ tiêu chống chịu
* Chỉ tiêu chống đổ: Theo dõi tất cả các lần nhắc lại sau đợt gió to và
trước thu hoạch.
- Đổ rễ (%): Tính % số cây bị nghiêng một góc bằng hoặc lớn hơn 300 so
với chiều thẳng đứng của cây.
- Đổ gãy thân (%): Tính % số cây bị gãy ở đoạn thân phía dưới bắp trước
khi thu hoạch.
* Chỉ tiêu chống chịu sâu bệnh:
- Sâu đục thân, đục bắp: Ghi số cây bị sâu đục lỗ (chủ yếu là đục dưới
bắp), đánh giá mức độ bị sâu đục thân hại theo thang điểm từ 1 - 5.
+ Điểm 1: < 5% số cây, số bắp bị sâu
+ Điểm 2: 5 - < 15% số cây, số bắp bị sâu
+ Điểm 3: 15 - < 25% số cây, số bắp bị sâu
+ Điểm 4: 25 - < 35% số cây, số bắp bị sâu
+ Điểm 5: 35 - < 50% số cây, số bắp bị sâu
- Rệp cờ, bệnh đốm lá, bệnh khô vằn, vàng lá, phấn đen: Điểm từ 1 - 5.
+ Điểm 1: Không nhiễm (không có lá bị bệnh)
+ Điểm 2: Nhiễm nhẹ (> 5 - 15% diện tích lá bị bệnh)
+ Điểm 3: Nhiễm vừa (> 15 - 30% diện tích lá bị bệnh)
+ Điểm 4: Nhiễm nặng (> 30 - 50% diện tích lá bị bệnh)
+ Điểm 5: Nhiễm rất nặng (trên 50% diện tích lá bị bệnh)
- Khả năng chịu hạn, chịu úng, chịu rét
+ Điểm 1: Tốt
+ Điểm 2: Khá
61
+ Điểm 3: Trung bình
+ Điểm 4: Kém
+ Điểm 5: Rất kém
(Theo dõi bệnh hại ngô vào 2 thời kỳ trước và sau trỗ cờ, chủ yếu sau trỗ cờ).
d. Chỉ tiêu năng suất và các yếu tố cấu thành năng suất
- Tổng số cây, số cây 1 bắp, 2 bắp, không bắp trên mỗi ô (theo dõi trước
khi thu hoạch 1 - 3 ngày).
- Số bắp/cây (tổng số bắp/tổng số cây trên ô).
- Chiều dài bắp (cm): Đo từ đáy bắp đến đầu mút đóng hạt của 10 bắp rồi
lấy giá trị trung bình.
- Đường kính bắp (cm): Đo phần giữa bắp của 10 bắp rồi lấy giá trị trung
bình.
- Số hàng hạt/bắp (hàng): Một hàng được tính khi có >50% số hạt so với
hàng dài nhất. Đếm số hàng của 10 bắp rồi lấy giá trị trung bình.
- Số hạt/hàng (hạt): Đếm hàng hạt có chiều dài trung bình trên bắp. Đếm
số hàng của 10 bắp rồi lấy giá trị trung bình.
(Các chỉ tiêu: Chiều dài bắp, đường kính bắp, số hàng hạt/bắp, số
hạt/hàng chỉ đo đếm trên các bắp thứ nhất của các cây theo dõi, không đo đếm
trên các bắp thứ hai).
- Khối lượng 1000 hạt (g): Ở ẩm độ 14%, đếm 2 mẫu, mỗi mẫu 500 hạt,
cân khối lượng của 2 mẫu được P1 và P2. Nếu hiệu số 2 lần cân (mẫu nặng -
mẫu nhẹ) không chênh lệch nhau quá 5% so với khối lượng trung bình của 2
mẫu thì P = P1 + P2. Nếu sự chênh lệch nhau giữa 2 mẫu >5% so với khối
lượng trung bình của 2 mẫu thì phải cân lại. (Nếu khối lượng 2 lần cân chênh
lệch nhau không quá 2g thì chấp nhận được).
- Tổng số bắp/ô (bắp): Tổng số bắp 2 hàng thu hoạch.
- Khối lượng bắp tươi/ô (kg).
62
- Tỷ lệ hạt/bắp khi thu hoạch (%): Mỗi công thức lấy trung bình 10 bắp
rồi tẽ hạt để tính tỷ lệ.
- Độ ẩm (%): Tẽ hạt của 10 bắp (ở hàng thu khoảng 140 gram), đo độ ẩm
ngay sau khi thu.
- Năng suất thực thu (tạ/ha): Bẻ bắp tại ruộng, cân riêng từng ô, tính tỷ lệ
hạt tươi/ bắp tươi. Năng suất qui về ẩm độ 14%.
NSTT
(tạ/ha)=
Pôx
Phạt khô mẫux
(100 – A0)x 100
Sô Pbắp khô mẫu (100 – 14)
Trong đó, Pô: Khối lượng bắp tươi/ô (kg);
Ao: Ẩm độ bắp tươi khi thu hoạch (%);
Sô: Diện tích ô thí nghiệm (m2);
Phạt khô mẫu: Khối lượng hạt khô của mẫu
Pbắp khô mẫu: Khối lượng bắp khô của mẫu
(100 – 14): Tính năng suất ở độ ẩm hạt 14%
e. Chỉ tiêu chất lượng
Phân tích hàm lượng protein, các axit amin (trong đó có lysine và
methionine) trong hạt ngô tại Viện Khoa học Sự sống - Đại học Thái Nguyên.
- Phân tích protein tổng số theo phương pháp Kjeldahl trên hệ thống
phân tích Gerhadht (trước khi công phá không tách đạm khoáng trong hạt).
- Phân tích 18 axit amin (lysine/protein và methionine/protein) theo
phương pháp của Speecman Stein và Moore trên máy phân tích axit amin tự
động Biochrom 20 của Anh.
f. Phân tích đất
- Phân tích các chỉ tiêu về hóa học trong đất thí nghiệm tại Viện Khoa
học Sự sống - Đại học Thái Nguyên.
- Phân tích các chỉ tiêu theo các phương pháp sau:
+ pHKCL: Xác định trên máy đo pH theo TCVN 6429:1999.
+ Hàm lượng mùn (%): Xác định theo phương pháp của Tiurin.
63
+ Hàm lượng đạm tổng số (%): Xác định theo phương pháp Kjeldahl.
Công phá mẫu bằng H2SO4 đặc (d = 1,84).
+ Hàm lượng lân tổng số (%): Đo trên máy quang phổ tử ngoại khả kiến.
Công phá mẫu bằng H2SO4 đặc + HClO4 đặc.
+ Hàm lượng kali tổng số (%): Đo trên máy quang phổ hấp thu nguyên
tử. Công phá mẫu bằng H2SO4 đặc + HClO4 đặc.
2.3.2.3. Phương pháp lấy mẫu hạt để phân tích chất lượng
Thụ phấn hỗn hợp 30 cờ trong một nguồn: Tiến hành cách ly bắp
trước khi phun râu (chọn bắp đã xuất hiện một vài râu ngô bắt đầu nhú ra khỏi
lá bi, tiến hành cắt đầu bắp và dùng bao chụp kín toàn bộ bắp vào đầu buổi
sáng) và chọn những cây tốt nhất điển hình của giống: cao cây, cao bắp vừa
phải, sinh trưởng phát triển tốt, không sâu bệnh, có sức sống khoẻ, thời gian
tung phấn - phun râu gần nhau. Bao cờ của 30 cây chuẩn ở hai hàng giữa
của một nguồn (bao cờ khi đã tung phấn được 1/3 bông cờ, bao vào cuối buổi
chiều). Cách ly cờ 1 - 2 ngày (những phấn lạ trên cờ có thời gian chết để chỉ
lấy phấn mới), sau đó hỗn hợp phấn của 30 cờ rắc vào các bắp đã chọn và
cách ly ở hai hàng bên. Thụ phấn xong, dùng bao chụp kín bắp và ghim chặt
với thân ngô để không cho nhận thêm phấn lạ. Khi thu hoạch chọn những bắp
tốt nhất trong số những bắp đã cách ly để phân tích chất lượng.
2.3.3. Phương pháp xử lý số liệu
- Thu thập và tổng hợp số liệu được tiến hành xử lý trên phần mềm Excel
2003.
- Các số liệu thí nghiệm được xử lý thống kê trên máy vi tính theo
chương trình IRRISTAT 4.0.
- Phân tích tương quan giữa các liều lượng đạm, lân, kali và năng suất,
chất lượng theo chương trình SPSS 13.0.
- Tính phương trình tương quan, lượng bón tối đa về kỹ thuật, tối thích
về kinh tế trên phần mềm Excel 2003.
64
Chương 3
KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN
3.1. Kết quả khảo nghiệm giống ngô chất lượng protein cao tại Thái Nguyên
3.1.1. Khả năng sinh trưởng và phát triển của các giống ngô chất lượng
protein cao vụ Xuân và vụ Thu Đông (2004 và 2005) tại Thái Nguyên
3.1.1.1. Thời gian sinh trưởng của các giống ngô thí nghiệm
Thời gian sinh trưởng của cây ngô dài hay ngắn phụ thuộc vào nhiều yếu
tố như giống, mùa vụ, thời tiết khí hậu, điều kiện sinh thái. Thời gian gieo hạt
các giống ngô thí nghiệm như sau: vụ Xuân 2004 (03/3/2004), vụ Xuân 2005
(09/3/2005), vụ Thu Đông 2004 (15/8/2004), vụ Thu Đông 2005 (11/8/2005).
Qua theo dõi các thời kỳ sinh trưởng và phát triển của các giống ngô thí
nghiệm ở hai vụ: vụ Xuân và vụ Thu Đông (2004 và 2005), chúng tôi thu
được kết quả thể hiện ở bảng 3.1a và 3.1b.
Bảng 3.1a. Thời gian sinh trưởng của các giống ngô thí nghiệm
vụ Xuân (2004 và 2005) tại Thái Nguyên
Giống
Thời gian từ gieo đến … (ngày)
Tung phấn Phun râu Chín sinh lý
X. 04 X. 05 TB X. 04 X. 05 TB X. 04 X. 05 TB
QP1 71 59 65 73 61 67 121 118 120
QP2 70 58 64 72 60 66 120 116 118
QP3 71 60 66 74 63 69 119 116 118
QP4 67 57 62 69 59 64 118 115 117
QP5 71 59 65 73 61 67 121 116 119
QP6 69 59 64 72 62 67 121 116 119
Q2 (đ/c1) 72 60 66 75 63 69 117 115 116
HQ2000
(đ/c2)68 62 65 70 64 67 123 120 122
65
Số liệu bảng 3.1a và 3.1b cho thấy các giai đoạn sinh trưởng, phát triển
của các giống ngô thí nghiệm có nhiều biến động, các giống khác nhau thì các
thời kỳ sinh trưởng của chúng cũng khác nhau và ở mỗi vụ cũng khác nhau.
Với mỗi giai đoạn sinh trưởng, phát triển thì mỗi giống có những đặc trưng
nhất định. Giống có thời gian sinh trưởng dài thì các giai đoạn sinh trưởng
cũng dài và ngược lại, điều này ảnh hưởng trực tiếp đến khả năng hình thành
các cơ quan và khả năng tích luỹ vật chất khô của cây.
Bảng 3.1b. Thời gian sinh trưởng của các giống ngô thí nghiệm
vụ Thu Đông (2004 và 2005) tại Thái Nguyên
Giống
Thời gian từ gieo đến … (ngày)
Tung phấn Phun râu Chín sinh lý
TĐ.
04
TĐ.
05TB
TĐ.
04
TĐ.
05TB
TĐ.
04
TĐ.
05TB
QP1 56 56 56 59 57 58 120 112 116
QP2 57 55 56 60 57 59 119 110 115
QP3 56 57 57 58 59 59 119 110 115
QP4 56 52 54 58 54 56 119 108 114
QP5 56 55 56 59 58 59 118 111 115
QP6 57 56 57 60 59 60 120 114 117
Q2 (đ/c1) 57 56 57 60 59 60 117 107 112
HQ2000
(đ/c2)56 53 55 59 55 57 120 115 118
a. Giai đoạn từ gieo đến tung phấn của các giống ngô thí nghiệm
Thời gian từ gieo đến tung phấn của các giống ngô QPM thí nghiệm
trung bình 2 vụ Xuân 2004 và 2005 biến động từ 62 - 66 ngày. Trong đó,
giống QP4 có thời gian từ gieo đến tung phấn ngắn nhất là 62 ngày, sớm hơn
hai đối chứng 3 - 4 ngày (Q2: 66 ngày; HQ2000: 65 ngày), các giống còn lại
66
tương đương hai đối chứng. Vụ Xuân 2005, các giống ngô thí nghiệm có thời
gian từ gieo đến tung phấn ngắn hơn vụ Xuân 2004. Nguyên nhân là do vụ
Xuân 2005 ngô được gieo vào ngày 09/3/2005 muộn 6 ngày hơn so với vụ
Xuân 2004 (03/3/2004) nên giai đoạn nẩy mầm - mọc gặp điều kiện có mưa
và nhiệt độ cao hơn (trung bình nhiệt độ 4 ngày sau gieo là 21,5oC - vụ Xuân
2005; 18,4oC - vụ Xuân 2004) làm cho thời gian ngô mọc nhanh hơn (trung
bình 2 ngày). Đồng thời giai đoạn trước trỗ cờ 20 ngày - tung phấn, nhiệt độ
trung bình là 27,1oC (vụ Xuân 2005), 25,8oC (vụ Xuân 2004) làm cho ngô trỗ
sớm hơn (theo số liệu của Đài Khí tượng thủy văn Thái Nguyên, 2008) [13].
Trung bình 2 vụ Thu Đông 2004 và 2005, thời gian từ gieo đến tung
phấn của các giống ngô QPM thí nghiệm ngắn hơn vụ Xuân, biến động từ 54 - 57
ngày. Trong đó, giống QP4 có thời gian từ gieo đến tung phấn ngắn nhất (54
ngày) sớm hơn đối chứng 1 – Q2 3 ngày, tương đương đối chứng 2 – HQ2000
(Q2: 57 ngày; HQ2000: 55 ngày), các giống ngô QPM thí nghiệm còn lại có
thời gian từ gieo đến tung phấn tương đương so với đối chứng 1.
Thời gian từ gieo đến tung phấn của các giống ngô thí nghiệm ở vụ Xuân
dài hơn ở vụ Thu Đông từ 7 – 10 ngày. Vì vụ Xuân đầu vụ nhiệt độ thấp, ít
mưa hơn vụ Thu Đông nên cây ngô sinh trưởng chậm hơn, kéo dài giai đoạn
sinh trưởng sinh dưỡng hơn vụ Thu Đông.
b. Giai đoạn từ gieo đến phun râu của các giống ngô thí nghiệm
Trung bình vụ Xuân (2004 và 2005), thời gian từ gieo đến phun râu của
các giống ngô QPM thí nghiệm biến động từ 64 - 69 ngày. Trong đó, giống
QP4 có thời gian từ gieo đến phun râu ngắn nhất, ngắn hơn hai đối chứng từ 3 – 5 ngày
(Q2: 69 ngày; HQ2000: 67 ngày). Khoảng cách tung phấn - phun râu (ASI)
của các giống QPM thí nghiệm từ 2 - 3 ngày. Trong đó, giống QP1, QP2,
QP4, QP5 có khảng cách ASI là 2 ngày tương đương với đối chứng 2 – HQ2000;
Các giống QP3, QP6 có ASI là 3 ngày tương đương đối chứng 1 – Q2.
67
Trung bình vụ Thu Đông (2004 và 2005), thời gian từ gieo đến phun râu
của các giống ngô QPM thí nghiệm ngắn hơn vụ Xuân, biến động từ 56 - 60
ngày. Trong đó, giống QP4 có thời gian từ gieo đến phun râu ngắn nhất (56
ngày) ngắn hơn đối chứng 1 – Q2 4 ngày, tương đương đối chứng 2
(HQ2000: 57 ngày). ASI của các giống QP1, QP3, QP4 là 2 ngày tương
đương đối chứng 2; QP2, QP5 và QP6 là 3 ngày tương đương đối chứng 1.
Tóm lại, qua thí nghiệm vụ Xuân và Thu Đông cho thấy, hai giống QP1
và QP4 có ASI tương đương đối chứng HQ2000.
c. Thời gian sinh trưởng của các giống ngô thí nghiệm
Số liệu bảng 3.1a và 3.1b (trung bình 2 vụ Xuân và 2 vụ Thu Đông) cho
thấy: Thời gian sinh trưởng của các giống QPM ở vụ Xuân dài hơn vụ Thu
Đông. Các giống QPM thí nghiệm ở vụ Xuân có thời gian sinh trưởng biến
động từ 117 - 120 ngày, trong đó giống có thời gian sinh trưởng ngắn nhất là QP4
(117 ngày) dài hơn đối chứng Q2 1 ngày và ngắn hơn đối chứng HQ2000 5
ngày (Q2: 116 ngày; HQ2000: 122 ngày); QP1 có thời gian sinh trưởng dài
nhất (120 ngày) dài hơn so với đối chứng 1 và ngắn hơn so với đối chứng 2.
Ở vụ Thu Đông, các giống QPM có thời gian sinh trưởng biến động từ 114 -
117 ngày, trong đó giống có thời gian sinh trưởng ngắn nhất là QP4 (114
ngày) dài hơn đối chứng 1 (Q2) 2 ngày và ngắn hơn đối chứng 2 (HQ2000) 4
ngày (Q2: 112 ngày; HQ2000: 118 ngày); QP6 có thời gian sinh trưởng dài
nhất (117 ngày) dài hơn so với đối chứng 1 và ngắn hơn so với đối chứng 2.
Trung bình thời gian sinh trưởng của các giống ngô thí nghiệm vụ Thu
Đông ngắn hơn vụ Xuân từ 3 – 6 ngày. Mặc dầu thời gian từ gieo đến trỗ của
các giống QPM ở vụ Xuân dài hơn nhưng giai đoạn sau trỗ lại ngắn hơn vụ
Thu Đông, do ở vụ Xuân giai đoạn đầu nhiệt độ và độ ẩm thấp, giai đoạn sau
nhiệt độ và độ ẩm cao. Còn vụ Thu Đông thì ngược lại, cuối vụ rét sớm, nhiệt
độ thấp dần và lượng mưa ít hơn đầu vụ nên giai đoạn sinh trưởng sinh thực
68
kéo dài, quá trình tích luỹ vật chất khô về hạt diễn ra chậm, đặc biệt là vụ Thu
Đông 2004.
Tóm lại, các giống ngô QPM thí nghiệm có thời gian sinh trưởng thuộc
nhóm trung bình sớm. Trong đó, giống QP4 có thời gian sinh trưởng
ngắn nhất.
3.1.1.2. Một số đặc điểm hình thái của các giống ngô thí nghiệm
a. Chiều cao cây và chiều cao đóng bắp của các giống ngô thí nghiệm
Số liệu bảng 3.2 cho thấy: Trung bình vụ Xuân (2004 và 2005), chiều
cao cây của các giống ngô QPM thí nghiệm biến động từ 197,6 - 217,9 cm,
tương đương đối chứng 2 (HQ2000: 208,0 cm), các giống QP1 – QP5 thấp
hơn đối chứng 1, giống QP6 tương đương đối chứng 1 (Q2: 229,6 cm). Trong
đó, giống QP4 đạt chiều cao cây thấp nhất, giống QP6 có chiều cao cây cao
nhất (217,9cm).
Trung bình vụ Thu Đông (2004 và 2005), chiều cao cây của các giống
ngô QPM thí nghiệm cao hơn vụ Xuân, biến động từ 208,2 - 227,0 cm, thấp
hơn đối chứng 1 - Q2, tương đương đối chứng 2 - HQ2000 (Q2: 253,1 cm;
HQ2000: 216,0 cm). Giống ngô QP4 có chiều cao cây thấp nhất (208,2 cm),
giống QP6 có chiều cao cây cao nhất (227,0cm).
Tóm lại, các giống ngô QPM thí nghiệm đều có chiều cao cây thấp hơn
so với Q2 và tương đương HQ2000. Đây là một đặc điểm có lợi vì những
giống ngô QPM thấp cây sẽ có khả năng chống đổ tốt, hạn chế đổ gẫy, nhất là
trong điều kiện vụ Xuân thường có mưa giông và gió to vào cuối vụ. Giống
QP4 có chiều cao cây thấp nhất và đạt độ đồng đều cao tương đương
HQ2000, cao hơn Q2.
69
Bảng 3.2. Chiều cao cây và chiều cao đóng bắp của các giống ngô
thí nghiệm vụ Xuân và vụ Thu Đông (2004 và 2005) tại Thái Nguyên
Giống
Chiều cao cây (cm) Chiều cao đóng bắp (cm)
X.
04
X.
05TB
TĐ.
04
TĐ.
05TB
X.
04
X.
05TB
TĐ.
04
TĐ.
05TB
QP1 205,1 209,6 207,4 215,1 210,3 212,7 110,4 114,0 112,2 116,3 111,6 114,0
QP2 204,2 206,7 205,5 204,4 214,6 209,5 107,4 108,8 108,1 105,4 115,4 110,4
QP3 199,8 205,2 202,5 209,3 212,0 210,7 107,9 108,5 108,2 109,0 118,8 113,9
QP4 196,9 198,3 197,6 215,0 201,4 208,2 102,4 100,6 101,5 110,4 100,5 105,5
QP5 217,3 215,9 216,6 225,9 218,9 222,4 114,9 112,1 113,5 120,8 119,0 119,9
QP6 216,4 219,4 217,9 233,8 220,2 227,0 116,4 115,7 116,1 122,2 120,4 121,3
Q2
(đ/c1)227,7 231,4 229,6 263,2 243,0 253,1 132,0 139,4 135,7 147,4 136,4 141,9
HQ2000
(đ/c2)205,1 210,9 208,0 216,7 215,3 216,0 106,4 109,2 107,8 102,7 112,3 107,5
CV,% 6,5 6,3 6,5 5,5 4,9 5,3 4,1 4,8 4,6 4,7 4,0 4,5
LSD05 9,3 13,6 12,4 10,7 12,3 11,5 11,0 9,1 10,5 10,8 15,5 13,4
Số liệu ở bảng 3.2 cho thấy: Chiều cao đóng bắp của các giống ngô QPM
thí nghiệm trung bình vụ Xuân (2004 và 2005) biến động từ 101,5 - 116,1 cm
thấp hơn đối chứng 1 – Q2 và tương đương đối chứng 2 – HQ2000 (Q2:
135,7 cm; HQ2000: 107,8 cm). Giống ngô QP4 có chiều cao đóng bắp thấp
nhất (101,5 cm), cao nhất là giống QP6 (116,1 cm). Chiều cao đóng bắp của
các giống ngô QPM thí nghiệm bằng 51,4 – 54,1% chiều cao cây, thấp hơn so
với đối chứng 1 (Q2: 59,1%), tương đương với đối chứng 2 (HQ2000:
51,8%).
Trung bình vụ Thu Đông (2004 và 2005), chiều cao đóng bắp của các
giống ngô QPM thí nghiệm biến động từ 105,5 - 121,3 cm thấp hơn so với đối
70
chứng 1 (Q2: 141,9 cm), tương đương với đối chứng 2 (HQ2000: 107,5 cm).
Giống ngô QP4 có chiều cao đóng bắp thấp nhất (105,5 cm), QP6 có chiều
cao đóng bắp cao cao nhất (121,3 cm). Chiều cao đóng bắp của các giống ngô
QPM thí nghiệm bằng 50,6 - 54,3% chiều cao cây, thấp hơn so với đối chứng
1 (Q2: 56,1%), tương đương với đối chứng 2 (HQ2000: 51,6%).
Tóm lại, các giống ngô QPM thí nghiệm có chiều cao đóng bắp trung
bình bằng 1/2 chiều cao cây. Đây là một đặc điểm tốt để ngô có khả năng
chống đổ gẫy tốt, hạn chế sâu bệnh hại và có khả năng cơ giới hoá. Giống
QP4 có chiều cao đóng bắp đạt độ đồng đều cao tương đương đối chứng
HQ2000, cao hơn Q2.
b. Số lá trên cây và chỉ số diện tích lá của các giống ngô thí nghiệm
Số liệu bảng 3.3 cho thấy: Số lá/cây của các giống ngô QPM chênh lệch
không lớn giữa vụ Xuân và vụ Thu Đông. Trung bình vụ Xuân (2004 – 2005),
các giống ngô QPM thí nghiệm có số lá biến động từ 18,5 - 19,6 lá. Trong đó,
giống QP1, QP2, QP3, QP6 có số lá/cây thấp hơn đối chứng 1, giống QP4,
QP5 tương đương đối chứng 1 (Q2: 19,8 lá); giống QP3 có số lá/cây thấp hơn
đối chứng 2, các giống còn lại tương đương đối chứng 2 (HQ2000: 19,4 lá).
Trung bình vụ Thu Đông (2004 và 2005), các giống ngô QPM thí
nghiệm có số lá/cây biến động từ 18,8 - 20,0 lá. Trong đó, giống QP1, QP2,
QP3, QP6 có số lá/cây thấp hơn đối chứng 1, giống QP4, QP5 tương đương
đối chứng 1 (Q2: 20,4 lá); giống QP3 có số lá/cây thấp hơn đối chứng 2, các
giống còn lại tương đương đối chứng 2 (HQ2000: 19,7 lá).
Tóm lại, giống QP4 có số lá ổn định cao tương đương đối chứng
HQ2000 ở cả hai vụ Xuân và Thu Đông và ổn định qua 4 vụ thí nghiệm.
Qua bảng 3.3, cho thấy: Trung bình vụ Xuân (2004 và 2005), các giống
ngô QPM thí nghiệm có chỉ số diện tích lá (CSDTL) biến động từ 2,9 - 3,4 m2
lá/m2 đất. Trong đó, giống QP4 có chỉ số diện tích lá cao nhất (3,4 m2 lá/m2
71
đất) tương đương đối chứng 1 (Q2: 3,5 m2 lá/m2 đất), các giống QPM còn lại
thấp hơn đối chứng 1; Giống QP3 có chỉ số diện tích lá thấp nhất (2,9 m 2
lá/m2 đất) thấp hơn đối chứng 2 (HQ2000: 3,3 m2 lá/m2 đất), các giống QPM
còn lại tương đương đối chứng 2.
Bảng 3.3. Số lá/cây và chỉ số diện tích lá của các giống ngô thí nghiệm
vụ Xuân và vụ Thu Đông (2004 và 2005) tại Thái Nguyên
Giống
Số lá/cây (lá) CSDTL (m2 lá/m2 đất)
X.
04
X.
05TB
TĐ.
04
TĐ.
05TB
X.
04
X.
05TB
TĐ.
04
TĐ.
05TB
QP1 18,8 19,8 19,3 20,3 18,7 19,5 3,4 2,8 3,1 3,3 3,3 3,3
QP2 18,5 19,9 19,2 20,3 18,9 19,6 3,1 2,9 3,0 3,2 3,2 3,2
QP3 18,2 18,7 18,5 20,3 17,3 18,8 3,0 2,7 2,9 3,4 2,7 3,0
QP4 19,0 20,2 19,6 20,1 19,6 19,9 3,6 3,2 3,4 3,7 3,4 3,5
QP5 19,0 19,9 19,5 20,7 19,3 20,0 3,2 2,9 3,1 3,1 3,4 3,3
QP6 18,4 19,3 18,9 20,3 17,9 19,1 3,2 2,8 3,0 3,2 3,0 3,1
Q2
(đ/c1)19,3 20,3 19,8 21,5 19,3 20,4 3,6 3,4 3,5 4,2 3,1 3,6
HQ2000
(đ/c2)19,0 19,8 19,4 20,0 19,4 19,7 3,4 3,1 3,3 3,5 3,3 3,4
CV,% 2,1 2,8 2,6 1,9 2,4 2,2 3,4 3,0 3,3 3,2 2,8 3,1
LSD05 0,5 0,4 0,5 0,7 0,8 0,7 0,3 0,3 0,3 0,4 0,4 0,3
Trung bình vụ Thu Đông (2004 và 2005), các giống ngô QPM thí
nghiệm có chỉ số diện tích lá biến động từ 3,0 - 3,5 m2 lá/m2 đất. Trong đó,
giống QP1, QP4 và QP5 có chỉ số diện tích lá tương đương đối chứng 1 (Q2:
3,6 m2 lá/m2 đất), giống QP2, QP3 và QP6 thấp hơn đối chứng 1; Giống QP3
có chỉ số diện tích lá thấp nhất (3,0 m2 lá/m2 đất) thấp hơn đối chứng 2
72
(HQ2000: 3,4 m2 lá/m2 đất), các giống QPM còn lại tương đương đối chứng 2.
Qua kết quả thí nghiệm vụ Xuân và Thu Đông (2004 – 2005) cho thấy giống
QP4 có chỉ số diện tích lá cao nhất, tương đương hai giống đối chứng Q2 và
HQ2000.
Tóm lại, giống ngô QP4 có các đặc điểm hình thái khá tốt, đạt độ đồng
đều cao và ổn định qua 4 vụ thí nghiệm tương đương HQ2000.
3.1.2. Khả năng chống chịu của các giống ngô thí nghiệm vụ Xuân và vụ
Thu Đông (2004 và 2005) tại Thái Nguyên
3.1.2.1. Khả năng chống đổ của các giống ngô thí nghiệm
Số liệu bảng 3.4 cho thấy: Trung bình 2 vụ Xuân và 2 vụ Thu Đông, tỷ
lệ đổ rễ vụ Xuân biến động từ 4,1% (QP4) - 12,0% (QP6) thấp hơn đối chứng
1 (Q2: 27,9%); giống QP2 và QP4 có tỷ lệ đổ rễ tương đương đối chứng 2
(HQ2000: 3,8%), các giống QPM còn lại cao hơn đối chứng 2. Tỷ lệ đổ rễ vụ
Thu Đông biến động từ 3,4% (QP4) - 20,2 % (QP6) thấp hơn đối chứng 1
(Q2: 25,3%); giống QP4 có tỷ lệ đổ rễ thấp nhất (3,4%) tương đương đối
chứng 2 (HQ2000: 3,3%), các giống QPM còn lại cao hơn đối chứng 2.
Tỷ lệ gãy thân trung bình vụ Xuân biến động từ 1,5 (QP4) - 4,4%
(QP3), trong đó giống QP3 có tỷ lệ gãy thân cao nhất (4,4%) tương đương đối
chứng 1 (Q2: 5,7%), các giống QPM còn lại thấp hơn đối chứng 1; hai giống
QP4 và QP5 có tỷ lệ gãy thân tương đương đối chứng 2 (HQ2000: 1,3%), các
giống QPM còn lại cao hơn đối chứng 2. Trung bình vụ Thu Đông các giống
QPM thí nghiệm có tỷ lệ gãy thân thấp hơn vụ Xuân, biến động từ 0,9 (QP4) -
4,2% (QP6) thấp hơn đối chứng 1 (Q2: 8,5%); các giống QP1, QP4 và QP5
có tỷ lệ gãy thân tương đương đối chứng 2 (HQ2000: 0,7%), các giống QP2,
QP3 và QP6 cao hơn đối chứng 2.
Nhìn chung, các giống ngô QPM thí nghiệm thấp cây, bộ rễ phát triển
tốt, chống đổ rễ, gãy thân khá mặc dù gặp mưa gió to vào cuối vụ Xuân.
73
Giống QP4 có khả năng chống đổ rễ, gãy thân tốt nhất tương đương HQ2000
và tốt hơn Q2. Bảng 3.4. Tỷ lệ đổ rễ và gãy thân của các giống ngô thí nghiệm vụ Xuân
và vụ Thu Đông (2004 và 2005) tại Thái Nguyên
Giống
Đổ rễ (%) Gãy thân (%)
X.
04
X.
05TB
TĐ.
04
TĐ.
05TB
X.
04
X.
05TB
TĐ.
04
TĐ.
05TB
QP1 3,8 9,4 6,6 14,1 7,1 10,6 1,7 4,2 3,0 1,0 2,3 1,7
QP2 3,9 6,8 5,3 10,0 5,0 7,5 2,2 3,6 2,9 1,7 2,6 2,2
QP3 7,7 5,0 6,3 5,2 5,9 5,6 3,2 5,5 4,4 1,0 4,9 3,0
QP4 3,9 4,3 4,1 4,4 2,4 3,4 1,3 1,7 1,5 0,0 1,7 0,9
QP5 11,5 11,3 11,4 11,2 10,4 10,8 1,4 2,8 2,1 0,0 2,7 1,4
QP6 4,7 19,3 12,0 28,2 12,1 20,2 3,1 5,4 4,3 4,5 3,8 4,2
Q2
(đ/c1)32,0 23,9 27,9 30,6 20,0 25,3 4,2 7,1 5,7 11,9 5,1 8,5
HQ2000
(đ/c2)4,2 3,4 3,8 1,7 4,9 3,3 1,1 1,5 1,3 0,0 1,4 0,7
CV,% 4,2 3,7 4,0 3,5 3,9 3,8 2,5 3,0 2,8 2,7 2,4 2,6
LSD05 2,9 2,1 2,0 3,0 2,5 2,2 1,0 1,8 1,3 1,5 1,2 1,5
3.1.2.2. Khả năng chống chịu sâu, bệnh của các giống ngô thí nghiệm
Chúng tôi đã tiến hành theo dõi tình hình sâu bệnh hại các giống ngô thí
nghiệm từ khi gieo đến khi thu hoạch và phát hiện có những sâu bệnh hại
chính sau: Sâu đục thân (Ostrinia nubilalis, Ostrinia funacalis), rệp cờ
(Rhopalosiphum maydis), bệnh khô vằn (Rhizoctonia solani) và bệnh đốm lá
(đốm lá lớn - Helminthosporium turcicum; đốm lá nhỏ - H. maydis). Mức độ
74
bị nhiễm sâu bệnh của các giống ngô thí nghiệm ở vụ Xuân và vụ Thu Đông
(2004 và 2005) được thể hiện ở bảng 3.5 và 3.6.
a. Khả năng chống chịu sâu của các giống ngô thí nghiệm
Nhìn vào bảng 3.5 cho thấy: Trung bình vụ Xuân (2004 và 2005), tất cả
các giống ngô QPM thí nghiệm đều bị sâu đục thân hại ở mức độ từ điểm 3 -
điểm 4. Các giống QP1, QP4 và QP5 bị sâu đục thân hại trung bình (điểm 3)
nhẹ hơn đối chứng Q2, tương đương đối chứng HQ2000; các giống QP2, QP3
và QP6 bị sâu đục thân hại nặng hơn (điểm 4) tương đương đối chứng Q2,
nặng hơn đối chứng HQ2000. Trung bình vụ Thu Đông (2004 và 2005), các
giống ngô QPM thí nghiệm bị sâu đục thân hại ở mức độ nhẹ hơn vụ Xuân,
biến động từ điểm 2 - điểm 3. Các giống ngô QP1, QP2, QP4 và QP5 bị sâu
đục thân hại nhẹ (điểm 2) tương đương đối chứng HQ2000, nhẹ hơn đối
chứng Q2; hai giống QP3 và QP6 bị sâu đục thân hại nặng hơn (điểm 3)
tương đương đối chứng Q2, nặng hơn so với đối chứng HQ2000.
Bảng 3.5. Mức độ nhiễm sâu của các giống ngô thí nghiệm vụ Xuân
và vụ Thu Đông (2004 và 2005) tại Thái Nguyên
Giống
Sâu đục thân (điểm 1 – 5) Rệp cờ (điểm 1 – 5)
X.
04
X.
05TB
TĐ.
04
TĐ.
05TB
X.
04
X.
05TB
TĐ.
04
TĐ.
05TB
QP1 2 3 3 2 2 2 2 2 2 2 3 3
QP2 3 4 4 2 2 2 2 2 2 2 3 3
QP3 3 4 4 3 3 3 2 3 3 3 4 4
QP4 2 3 3 2 1 2 2 2 2 2 3 3
QP5 2 3 3 2 2 2 2 2 2 2 3 3
QP6 3 4 4 2 3 3 2 3 3 3 4 4
75
Q2
(đ/c1)3 4 4 3 2 3 3 3 3 3 4 4
HQ2000
(đ/c2)2 3 3 2 1 2 2 2 2 2 3 3
Từ kết quả trên cho chúng tôi thấy ở vụ Xuân (2004 và 2005), sâu đục
thân phát sinh, phát triển gây hại ngô nhiều hơn vụ Thu Đông (2004 và 2005).
Sâu đục thân phát sinh, phát triển gây hại mạnh làm ảnh hưởng đến sự sinh
trưởng, giảm khả năng chống đổ của các giống ngô thí nghiệm vụ Xuân (2004
và 2005), làm giảm năng suất và phẩm chất ngô.
Qua theo dõi thí nghiệm, trung bình vụ Xuân (2004 và 2005) rệp cờ ngô
xuất hiện gây hại trên các giống ngô thí nghiệm ít hơn vụ Thu Đông (điểm 2 –
điểm 3), trong đó các giống QP1, QP2, QP4 và QP5 bị rệp cờ hại nhẹ (điểm
2) tương đương đối chứng HQ2000, nặng hơn đối chứng Q2; hai giống QP3
và QP6 bị rệp cờ hại nặng hơn (điểm 3) tương đương đối chứng Q2, nặng hơn
đối chứng HQ2000. Còn ở vụ Thu Đông (2004 và 2005) thì rệp cờ lại phát
sinh phát triển gây hại mạnh trên tất cả các giống ngô thí nghiệm (điểm 3 -
điểm 4). Các giống QP1, QP2, QP4 và QP5 bị rệp cờ hại ở mức độ điểm 3,
nhẹ hơn so với đối chứng Q2, tương đương đối chứng HQ2000; hai giống
QP3 và QP6 bị rệp cờ hại nặng (điểm 4), nặng hơn so với đối chứng HQ2000,
tương đương đối chứng Q2.
b. Khả năng chống chịu bệnh của các giống ngô thí nghiệm
Qua bảng 3.6, cho thấy: Các giống ngô QPM thí nghiệm trung bình vụ
Xuân (2004 và 2005) bị nhiễm bệnh khô vằn nhẹ (điểm 1 – điểm 2). Các
giống QP1, QP4 và QP5 không bị nhiễm bệnh khô vằn (điểm 1) tương đương
đối chứng HQ2000; các giống QP2, QP3 và QP6 bị nhiễm nhẹ (điểm 2) tương
đương đối chứng Q2. Ở vụ Thu Đông (2004 và 2005), các giống ngô QPM thí
nghiệm đều bị nhiễm bệnh khô vằn nặng hơn vụ Xuân, biến động từ điểm 2 -
76
điểm 3. Các giống QP1, QP4 và QP5 bị nhiễm bệnh khô vằn nhẹ (điểm 2)
tương đương đối chứng HQ2000; các giống QP2, QP3 và QP6 bị nhiễm trung
bình (điểm 3) tương đương đối chứng Q2.
Bảng 3.6. Mức độ nhiễm bệnh của các giống ngô thí nghiệm vụ Xuân
và vụ Thu Đông (2004 và 2005) tại Thái Nguyên
Giống
Khô vằn (điểm 1 – 5) Đốm lá (điểm 1 – 5)
X.
04
X.
05TB
TĐ.
04
TĐ.
05TB
X.
04
X.
05TB
TĐ.
04
TĐ.
05TB
QP1 1 1 1 2 2 2 2 2 2 2 2 2
QP2 1 2 2 2 3 3 2 2 2 2 2 2
QP3 1 2 2 3 2 3 3 2 3 2 3 3
QP4 1 1 1 2 2 2 2 1 2 1 2 2
QP5 1 1 1 2 2 2 3 2 3 1 2 2
QP6 1 2 2 2 3 3 3 2 3 1 2 2
Q2
(đ/c1)1 2 2 3 3 3 3 2 3 2 3 3
HQ2000
(đ/c2)1 1 1 2 2 2 2 1 2 1 2 2
Trung bình vụ Xuân (2004 và 2005), các giống ngô QPM thí nghiệm bị
bệnh đốm lá ở mức độ trung bình (điểm 2 - điểm 3). Các giống QP1, QP2 và
QP4 bị nhiễm bệnh nhẹ (điểm 2) tương đối chứng HQ2000, nhẹ hơn so với
đối chứng Q2; các giống QP3, QP5 và QP6 bị nhiễm bệnh nặng hơn (điểm 3)
tương đương đối chứng Q2, nặng hơn so với đối chứng HQ2000. Còn ở vụ
Thu Đông (2004 và 2005), các giống ngô QPM thí nghiệm bị nhiễm bệnh
đốm lá nhẹ hơn vụ Xuân, ở mức độ điểm 2 – điểm 3, trong đó giống QP3 bị
hại nặng nhất (điểm 3) tương đương đối chứng Q2, nặng hơn đối chứng
77
HQ2000; các giống QPM còn lại bị nhiễm bệnh đốm lá nhẹ (điểm 2) tương
đương đối chứng HQ2000, nhẹ hơn đối chứng Q2.
3.1.3. Trạng thái cây, độ bao bắp, trạng thái bắp của các giống ngô thí
nghiệm vụ Xuân và vụ Thu Đông (2004 và 2005) tại Thái Nguyên
Qua theo dõi các chỉ tiêu này, chúng tôi thu được kết quả ở bảng 3.7a và 3.7b.
Bảng 3.7a. Trạng thái cây, độ bao bắp, trạng thái bắp của các giống ngô
thí nghiệm vụ Xuân (2004 và 2005) tại Thái Nguyên
Đơn vị: điểm 1 - 5
GiốngTrạng thái cây Độ bao bắp Trạng thái bắp
X. 04 X. 05 TB X. 04 X. 05 TB X. 04 X. 05 TB
QP1 2 3 3 2 3 3 3 3 3
QP2 2 3 3 2 3 3 3 4 4
QP3 3 4 4 2 3 3 3 4 4
QP4 2 2 2 2 2 2 2 3 3
QP5 3 3 3 2 3 3 3 3 3
QP6 2 3 3 2 3 3 3 4 4
Q2 (đ/c1) 3 4 4 2 2 2 3 4 4
HQ2000
(đ/c2)2 2 2 2 2 2 2 3 3
3.1.3.1. Trạng thái cây của các giống ngô thí nghiệm
Nhìn vào bảng 3.7a và 3.7b, cho thấy: Ở vụ Xuân (2004 và 2005), trạng
thái cây của các giống QPM thí nghiệm đạt từ điểm 2 – điểm 4, trong đó
giống QP4 có trạng thái cây tốt nhất (điểm 2) tương đương đối chứng
HQ2000, tốt hơn đối chứng Q2 (điểm 4); xấu nhất là giống QP3 (điểm 4)
tương đương đối chứng Q2, xấu hơn đối chứng HQ2000. Ở vụ Thu Đông
(2004 và 2005), trạng thái cây của các giống QPM thí nghiệm đạt điểm 2 –
78
điểm 3, trong đó giống QP4 có trạng thái cây tốt nhất (điểm 2) tốt hơn hai đối
chứng; các giống QPM còn lại đạt điểm 3 tương đương đối chứng HQ2000,
tốt hơn đối chứng Q2 (điểm 4). Bảng 3.7b. Trạng thái cây, độ bao bắp, trạng thái bắp của các giống ngô
thí nghiệm vụ Thu Đông (2004 và 2005) tại Thái Nguyên
Đơn vị: điểm 1 - 5
GiốngTrạng thái cây Độ bao bắp Trạng thái bắp
X. 04 X. 05 TB X. 04 X. 05 TB X. 04 X. 05 TB
QP1 3 3 3 2 3 3 3 4 4
QP2 3 3 3 2 3 3 3 4 4
QP3 3 3 3 3 3 3 4 4 4
QP4 2 2 2 2 2 2 3 3 3
QP5 2 3 3 2 3 3 3 4 4
QP6 3 3 3 2 3 3 3 4 4
Q2 (đ/c1) 4 3 4 2 3 3 4 3 4
HQ2000
(đ/c2)2 3 3 2 2 2 2 3 3
3.1.3.2. Độ bao bắp của các giống ngô thí nghiệm
Vụ Xuân (2004 và 2005), các giống ngô QPM thí nghiệm đều có độ bao
bắp trung bình, từ điểm 2 – điểm 3, trong đó giống QP4 có độ bao bắp kín đầu
bắp (điểm 2) tương đương với hai đối chứng; các giống QPM còn lại hơi hở -
bao không chặt đến đầu bắp (điểm 3) kém hơn hai đối chứng (điểm 2). Còn
vụ Thu Đông (2004 và 2005) thì giống QP4 có độ bao bắp kín đầu bắp (điểm
2) tương đương đối chứng HQ2000, kín hơn đối chứng Q2 (điểm 3); các
giống QPM còn lại hơi hở - bao không chặt đến đầu bắp (điểm 3) tương
đương đối chứng Q2, hở hơn đối chứng HQ2000 (điểm 2).
3.1.3.3. Trạng thái bắp của các giống ngô thí nghiệm
79
Qua số liệu bảng 3.7a và 3.7b, cho thấy: Các giống ngô QPM thí nghiệm
ở vụ Xuân (2004 và 2005) có trạng thái bắp trung bình (điểm 3 – điểm 4),
trong đó các giống QP1, QP4 và QP5 đạt điểm 3 tương đương đối chứng
HQ2000; các giống QP2, QP3 và QP6 điểm 4 tương đương đối chứng Q2.
Còn vụ Thu Đông (2004 và 2005), các giống ngô QPM thí nghiệm có trạng
thái bắp từ điểm 3 – điểm 4, trong đó giống QP4 đạt trạng thái bắp tốt nhất
(điểm 3) tương đương đối chứng HQ2000, tốt hơn Q2 (điểm 4); các giống
QPM khác đạt điểm 4 tương đương Q2 và xấu hơn đối chứng HQ2000.
Tóm lại, qua 4 vụ thí nghiệm cho thấy giống ngô QP4 có trạng thái cây,
độ bao bắp, trạng thái bắp tốt nhất, tương đương HQ2000 và tốt hơn Q2.
3.1.4. Năng suất và các yếu tố cấu thành năng suất của các giống ngô thí
nghiệm vụ Xuân và vụ Thu Đông (2004 và 2005) tại Thái Nguyên
Nhìn vào bảng 3.8a và 3.8b cho thấy rằng trong cùng một điều kiện sinh
thái, điều kiện thí nghiệm như nhau, các giống khác nhau có số liệu về các
yếu tố cấu thành năng suất và năng suất khác nhau. Những giống nào có khả
năng sinh trưởng phát triển mạnh, thích nghi với điều kiện ngoại cảnh thì có
khả năng cho bắp, hạt tốt, là cơ sở cho năng suất cao. Ở mỗi mùa vụ khác
nhau, có điều kiện ngoại cảnh khác nhau cho năng suất và các yếu tố cấu
thành năng suất cũng khác nhau và mức độ tuỳ từng giống ngô.
3.1.4.1. Chiều dài bắp của các giống ngô thí nghiệm
Số liệu bảng 3.8a cho thấy: Trung bình vụ Xuân (2004 và 2005), các
giống ngô QPM thí nghiệm có chiều dài bắp biến động từ 14,6 - 15,6 cm,
trong đó giống QP3 có chiều dài bắp thấp nhất (14,6 cm) thấp hơn đối chứng
1 (Q2: 15,3 cm), các giống QPM khác tương đương đối chứng 1; hai giống
QP4 và QP6 có chiều dài bắp tương đương đối chứng 2 (HQ2000: 15,8cm),
các giống QPM khác thấp hơn đối chứng 2. Trung bình vụ Thu Đông (2004
và 2005), các giống ngô QPM thí nghiệm có chiều dài bắp ngắn hơn vụ Xuân,
biến động từ 14,3 - 15,4cm, trong đó giống QP3 có chiều dài bắp thấp nhất
(14,3 cm) thấp hơn đối chứng 1 (Q2: 15,2 cm), các giống QPM khác tương
80
đương đối chứng 1; hai giống QP4 và QP6 có chiều dài bắp tương đương đối
chứng 2 (HQ2000: 15,7cm), các giống QPM khác thấp hơn đối chứng 2.
Tóm lại, hai giống QP4 và QP6 có chiều dài bắp đồng đều và ổn định
qua vụ Xuân và Thu Đông (2004 và 2005) tương đương Q2 và HQ2000.
3.1.4.2. Đường kính bắp của các giống ngô thí nghiệm
Trung bình vụ Xuân (2004 và 2005) đường kính bắp của các giống ngô
QPM thí nghiệm từ 3,9 - 4,3 cm, trong đó các giống QP1, QP4 và QP5 có
đường kính bắp tương đương đối chứng 1 (Q2: 4,2 cm), các giống còn lại
thấp hơn đối chứng 1; chỉ có giống QP4 có đường kính bắp tương đương đối
chứng 2 (HQ2000: 4,4 cm), các giống còn lại thấp hơn đối chứng 2. Ở vụ Thu
Đông (2004 và 2005), đường kính bắp của các giống ngô QPM cao hơn vụ
Xuân, biến động từ 4,1 - 4,6 cm, trong đó các giống QP1, QP4 và QP5 có
đường kính bắp tương đương đối chứng 1 (Q2: 4,5 cm), các giống còn lại
thấp hơn đối chứng 1; giống QP4 có đường kính bắp tương đương đối chứng
2 (HQ2000: 4,7 cm), các giống còn lại thấp hơn đối chứng 2.
Tóm lại, qua 4 vụ thí nghiệm cho thấy giống QP4 có đường kính bắp cao
nhất, đồng đều và ổn định tương đương hai đối chứng.
3.1.4.3. Số hàng hạt/bắp của các giống ngô thí nghiệm
Qua bảng 3.8a, cho thấy: Trung bình vụ Xuân (2004 và 2005), các giống
QPM thí nghiệm có số hàng hạt/bắp biến động từ 13,9 - 14,8 hàng. Trong đó,
hai giống QP1 và QP4 có số hàng hạt/bắp cao hơn đối chứng 1 (Q2: 13,6
hàng), các giống còn lại tương đương đối chứng 1; tất cả các giống QPM thí
nghiệm có số hàng hạt/bắp tương đương đối chứng 2 (HQ2000: 14,5 hàng).
Trung bình vụ Thu Đông (2004 và 2005), các giống QPM thí nghiệm có
số hàng hạt/bắp cao hơn vụ Xuân, biến động từ 14,4 - 14,9 hàng. Trong đó,
các giống QP1, QP4 và QP5 có số hàng hạt/bắp cao hơn đối chứng 1
(Q2: 13,9 hàng), các giống còn lại tương đương đối chứng 1; tất cả các giống
81
QPM thí nghiệm có số hàng hạt/bắp tương đương đối chứng 2 (HQ2000:
14,8 hàng).
Tóm lại, hai giống QP1 và QP4 có số hàng hạt/bắp đạt cao, đồng đều và
ổn định qua các vụ thí nghiệm, cao hơn đối chứng Q2 và tương đương đối
chứng HQ2000.
82
Bảng 3.8a. Năng suất và các yếu tố cấu thành năng suất của các giống ngô thí nghiệm
vụ Xuân và Thu Đông (2004 và 2005)
Giống
Chiều dài bắp (cm) Đường kính bắp (cm) Số hàng hạt/bắp (hàng)
X.
04
X.
05TB
TĐ.
04
TĐ.
05TB
X.
04
X.
05TB
TĐ.
04
TĐ.
05TB
X.
04
X.
05TB
TĐ.
04
TĐ.
05TB
QP1 15,5 14,5 15,0 14,0 15,3 14,7 4,0 4,2 4,1 4,5 4,5 4,5 14,5 14,0 14,3 14,4 14,9 14,7
QP2 15,3 14,9 15,1 13,5 15,6 14,6 3,9 4,1 4,0 4,4 4,2 4,3 14,2 13,7 14,0 14,6 14,3 14,5
QP3 14,8 14,4 14,6 13,6 15,0 14,3 3,8 4,0 3,9 4,4 3,8 4,1 14,0 13,8 13,9 14,8 14,0 14,4
QP4 15,8 15,4 15,6 14,6 16,1 15,4 4,1 4,4 4,3 4,5 4,7 4,6 14,9 14,7 14,8 14,5 15,2 14,9
QP5 15,0 14,7 14,9 13,4 15,5 14,5 3,9 4,2 4,1 4,3 4,4 4,4 14,3 14,0 14,2 15,3 14,3 14,8
QP6 15,4 14,9 15,2 14,3 15,7 15,0 4,0 4,0 4,0 4,4 4,0 4,2 14,1 13,6 13,9 14,3 14,7 14,5
Q2
(đ/c1)15,9 14,6 15,3 14,3 16,0 15,2 4,1 4,2 4,2 4,6 4,4 4,5 13,9 13,2 13,6 13,7 14,1 13,9
HQ2000
(đ/c2)15,4 16,1 15,8 15,0 16,4 15,7 4,3 4,4 4,4 4,6 4,8 4,7 14,6 14,4 14,5 14,7 14,9 14,8
CV,% 4,5 5,0 4,9 5,2 4,4 4,8 3,0 3,7 3,5 3,1 2,8 3,0 2,5 3,2 2,9 3,0 2,6 2,8
LSD05 0,7 0,7 0,6 0,8 0,7 0,8 0,2 0,1 0,1 0,1 0,2 0,1 0,6 0,7 0,6 0,8 0,8 0,7
8283
Bảng 3.8b. Năng suất và các yếu tố cấu thành năng suất của các giống ngô thí nghiệm
vụ Xuân và Thu Đông (2004 và 2005)
Giống
Số hạt/hàng (hạt) P1000 hạt (g) Năng suất thực thu (tạ/ha)
X.
04
X.
05TB
TĐ.
04
TĐ.
05TB
X.
04
X.
05TB
TĐ.
04
TĐ.
05TB
X.
04
X.
05TB
TĐ.
04
TĐ.
05TB
QP1 30,2 28,7 29,5 31,0 31,8 31,4 310,4 299,5 305,0 310,0 311,0 310,5 52,5 43,2 47,9 58,3 52,3 55,3
QP2 29,7 28,3 29,0 30,6 30,1 30,4 306,6 292,0 299,3 280,4 313,6 297,0 49,5 44,5 47,0 60,2 51,9 56,1
QP3 29,3 27,6 28,5 29,5 29,9 29,7 298,7 285,0 291,9 314,6 295,3 305,0 45,4 41,8 43,6 63,0 45,6 54,3
QP4 30,9 30,2 30,6 31,4 34,3 32,9 311,8 309,7 310,8 312,3 321,0 316,7 55,0 52,3 53,7 67,3 59,3 63,3
QP5 29,8 28,6 29,2 29,0 33,5 31,3 309,3 299,5 304,4 314,8 307,2 311,0 49,2 43,2 46,2 63,5 50,3 56,9
QP6 29,2 28,2 28,7 32,0 31,5 31,8 307,8 289,0 298,4 303,0 298,0 300,5 47,1 42,8 45,0 64,9 47,3 56,1
Q2
(đ/c1)30,2 29,4 29,8 30,1 32,2 31,2 305,3 291,1 298,2 326,0 305,8 315,9 53,9 47,9 50,9 61,3 56,3 58,8
HQ2000
(đ/c2)33,1 31,6 32,4 33,0 36,5 34,8 316,6 308,6 312,6 299,4 317,0 308,2 60,1 56,8 58,5 74,1 63,0 68,6
CV,% 5,7 6,5 6,2 6,1 5,6 5,9 5,6 5,1 5,5 6,0 5,4 5,8 9,6 10.2 10,9 8,9 11,3 13,7
LSD05 1,5 1,8 1,7 1,6 2,2 1,8 10,4 14,5 11,4 14,7 13,2 11,6 5,4 6,5 5,7 8,8 6,8 6,3
8384
3.1.4.4. Số hạt/hàng của các giống ngô thí nghiệm
Số liệu bảng 3.8b, cho thấy: Trung bình vụ Xuân (2004 và 2005), các
giống QPM thí nghiệm có số hạt/hàng biến động từ 28,5 - 30,6 hạt, tương
đương đối chứng 1 (Q2: 29,8 hạt) và thấp hơn đối chứng 2 (HQ2000: 32,4
hạt), trong đó giống QP4 có số hạt/hàng cao nhất (30,6 hạt), thấp nhất là QP3
(28,5 hạt). Ở vụ Thu Đông (2004 và 2005), các giống QPM thí nghiệm có số
hạt/hàng cao hơn vụ Xuân, biến động từ 29,7 - 32,9 hạt, tương đương đối
chứng 1 (Q2: 31,2 hạt) và thấp hơn đối chứng 2 (HQ2000: 34,8 hạt), trong đó
giống QP4 có số hạt/hàng cao nhất (32,9 hạt), thấp nhất là QP3 (29,7 hạt).
Tóm lại, các giống QPM thí nghiệm có số hạt/hàng đồng đều và ổn định
tương đương Q2 nhưng thấp hơn HQ2000, trong đó giống QP4 đạt cao nhất.
3.1.4.5. Khối lượng 1000 hạt của các giống ngô thí nghiệm
Khối lượng 1000 hạt của các giống ngô QPM thí nghiệm trung bình vụ
Xuân (2004 và 2005) biến động từ 291,9 – 310,8g. Trong đó, giống QP4 có
khối lượng 1000 hạt cao nhất (310,8g) cao hơn đối chứng 1 (Q2: 298,2g), các
giống QPM khác tương đương đối chứng 1; các giống QP1, QP4 và QP5
tương đương đối chứng 2 (HQ2000: 312,6g), các giống QPM còn lại thấp hơn
đối chứng 2.
Khối lượng 1000 hạt của các giống ngô QPM thí nghiệm trung bình vụ
Thu Đông (2004 và 2005) biến động từ 297,0 - 316,7g. Trong đó, hai giống
QP2 và QP6 có khối lượng 1000 hạt thấp hơn đối chứng 1 (Q2: 315,9g), các
giống QPM còn lại tương đương đối chứng 1; Tất cả các giống QPM thí
nghiệm có khối lượng 1000 hạt tương đương đối chứng 2 (HQ2000: 308,2g)
3.1.4.6. Năng suất thực thu của các giống ngô thí nghiệm
Năng suất thực thu là chỉ tiêu quan trọng nhất trong công tác chọn tạo
giống cũng như trong sản xuất ngô. Năng suất thực thu là chỉ tiêu tổng hợp
các yếu tố, phản ánh trung thực nhất, rõ nét nhất về đặc điểm di truyền và tình
85
hình sinh trưởng, phát triển của giống trong điều kiện trồng trọt và sinh thái
nhất định. Giống có tiềm năng năng suất cao chỉ có thể phát huy tiềm năng
năng suất tốt nhất khi giống đó được nuôi dưỡng trong điều kiện thích hợp.
Do vậy, trong cùng một điều kiện khí hậu, đất đai, cùng chế độ chăm sóc như
nhau, những giống nào phù hợp thì mới có khả năng sinh trưởng và phát triển,
chống chịu tốt và cho năng suất cao.
Kết quả ở bảng 3.8b cho thấy: Trung bình của 2 vụ Xuân và 2 vụ Thu
Đông, các giống QPM thí nghiệm vụ Thu Đông đạt năng suất thực thu cao
hơn vụ Xuân. Năng suất thực thu trong vụ Xuân biến động từ 43,6 - 53,7
tạ/ha. Trong đó, giống đạt năng suất cao nhất là QP4 (53,7 tạ/ha) bằng
105,5% so với đối chứng 1 (Q2: 50,9 tạ/ha) và bằng 91,8% so với đối chứng 2
(HQ2000: 58,5 tạ/ha). Ở vụ Thu Đông, các giống QPM thí nghiệm đạt năng
suất thực thu từ 54,3 - 63,3 tạ/ha. Trong đó, giống đạt năng suất cao nhất là
QP4 (63,3 tạ/ha) bằng 107,7% so với đối chứng 1 (Q2: 58,8 tạ/ha) và bằng
92,3% so với đối chứng 2 (HQ2000: 68,6 tạ/ha). Vậy, giống QP4 đạt năng
suất khá cao và ổn định qua các vụ thí nghiệm, tương đương đối chứng Q2 và
HQ2000.
Qua xử lý thống kê cho thấy: Trung bình vụ Xuân (2004 và 2005) thì 4
giống QP1, QP2, QP4 và QP5 đạt năng suất thực thu tương đương đối chứng
1 – Q2, hai giống QP3 và QP6 đạt thấp hơn đối chứng 1; Giống QP4 đạt năng
suất thực thu tương đương đối chứng 2 – HQ2000, các giống QPM còn lại đạt
thấp hơn đối chứng 2, sự sai khác này có ý nghĩa ở mức độ tin cậy 95%.
Trung bình vụ Thu Đông (2004 và 2005) thì tất cả các giống QPM thí nghiệm
đạt năng suất thực thu tương đương đối chứng 1 – Q2; Giống QP4 đạt năng
suất thực thu tương đương đối chứng 2 – HQ2000, các giống QPM còn lại đạt
thấp hơn đối chứng 2, sự sai khác này có ý nghĩa ở mức độ tin cậy 95%.
86
0
10
20
30
40
50
60
70
80
QP
1
QP
2
QP
3
QP
4
QP
5
QP
6
Q2
HQ
200
0Giống
Nă
ng
suất
thự
c t
hu
(tạ/
ha
)
Vụ Xuân
Vụ Thu Đông
Biểu đồ 3.1. Năng suất thực thu của các giống ngô thí nghiệm trung bình
vụ Xuân và vụ Thu Đông (2004 và 2005) tại Thái Nguyên.
Tóm lại, qua 4 vụ thí nghiệm cho thấy giống ngô QP4 có năng suất cao
nhất, ổn định và tương đương hai giống đối chứng Q2 và HQ2000.
Kết quả nghiên cứu của chúng tôi phù hợp với kết quả khảo nghiệm tại
Đan Phượng vụ Xuân 2004, vụ Thu 2004, vụ Xuân 2005 đã chọn được giống
QP4 cho năng suất cao nhất tương đương Q2 và HQ2000 (Viện Nghiên cứu
Ngô, 2006) [50]; tại Sông Bôi vụ Xuân 2004, vụ Thu 2004, vụ Xuân 2005 đã
chọn được giống QP4 cho năng suất cao nhất tương đương Q2 và thấp hơn
HQ2000 (Trung tâm Nghiên cứu và Sản xuất giống ngô Sông Bôi, 2005) [48];
tại Mai Nham - Vĩnh Phúc, Cao Xá - Phú Thọ, Từ Liêm - Hà Nội, Cẩm Thủy
- Thanh Hóa vụ Xuân 2004, vụ Đông 2004 đã chọn được 2 giống QP2 và QP4
tương đương HQ2000 và cao hơn Q2 (Trung tâm Khảo kiểm nghiệm giống
cây trồng TƯ, 2005) [47]; tại Cát Hanh 1, An Nhơn và Nhơn Thọ 2 - Bình
Định và Sơn Tịnh - Quảng Ngãi vụ Hè Thu 2004, Đông Xuân 2004 và 2005,
87
Hè Thu 2005 đã chọn được 2 giống QP4 và QP5 có năng suất tương đương
hoặc cao hơn Q2 (Trạm Khảo kiểm nghiệm giống cây trồng miền Trung và
Tây Nguyên, 2005) [46]; tổng hợp kết quả so sánh và khảo nghiệm các giống
TPTD QPM tại tất cả các điểm từ vụ Xuân 2004 đến Xuân 2005 đã chọn
được giống QP4 có năng suất ổn định và cao tương đương đối chứng Q2
(QP4: 55,67 tạ/ha; Q2: 55,07 tạ/ha) (Viện Nghiên cứu Ngô, 2006) [51].
3.1.5. Hàm lượng protein, lysine và methionine của các giống ngô thí nghiệm
Chất lượng hạt là một chỉ tiêu quan trọng đối với nông sản phẩm nói
chung và ngô nói riêng. Để đánh giá chất lượng hạt ngô thì hàm lượng protein
là chỉ tiêu quan trọng trong nghiên cứu và có ý nghĩa lớn đối với nhu cầu
nâng cao chất lượng lương thực đáp ứng đầy đủ dinh dưỡng cho con người và
thức ăn trong chăn nuôi. Đánh giá hàm lượng các axit amin không thay thế
trong hạt ngô là để đánh giá chính xác chất lượng protein. Đề tài đã tiến hành
phân tích axit amin trên máy tự động phân tích axit amin Biochrom 20. Hạn
chế của máy phân tích này là cho kết quả 18 axit amin mà trong đó không có
triptophan. Vì vậy, chúng tôi đã tiến hành phân tích và báo cáo kết quả các
chỉ tiêu hàm lượng protein tổng số, lysine/protein và methionine/protein của
các giống ngô thí nghiệm ở ba vụ: Xuân 2004, Thu Đông 2004, Xuân 2005.
Kết quả phân tích được thể hiện ở bảng 3.9.
Số liệu phân tích trung bình 3 vụ (Xuân 2004, Thu Đông 2004 và Xuân
2005) ở bảng 3.9 cho thấy: Các giống QPM thí nghiệm có hàm lượng protein
tổng số biến động từ 10,01 - 11,06%, cao hơn hẳn so với giống đối chứng 1
(Q2: 8,65%). Trong đó, giống có hàm lượng protein tổng số cao nhất là QP4
(11,06%) tương đương đối chứng 2 (HQ2000: 11,05%), các giống QPM còn
lại có hàm lượng protein tổng số thấp hơn đối chứng 2. Các giống ngô QPM
thí nghiệm có hàm lượng protein cao hơn giống ngô thụ phấn tự do thường
Q2 từ 15,7 - 27,9%, trong đó cao nhất là giống QP4 (27,9%), thấp nhất là
QP6 (15,7%).
88
Bảng 3.9. Hàm lượng protein, lysine và methionine của các giống ngô
thí nghiệm vụ Xuân (2004 và 2005) và Thu Đông 2004
Giống
Protein tổng số (%) Lysine/Protein (%) Methionine/Protein (%)
X.
04
TĐ.
04
X.
05TB
X.
04
TĐ.
04
X.
05TB
X.
04
TĐ.
04
X.
05TB
QP1 10,40 9,82 10,00 10,07 3,70 3,52 3,60 3,61 2,69 2,66 2,68 2,68
QP2 10,71 10,10 10,30 10,37 3,86 3,65 3,71 3,74 2,79 2,78 2,80 2,79
QP3 10,80 9,65 9,80 10,08 3,80 3,48 3,50 3,59 2,38 2,21 2,36 2,32
QP4 11,32 10,76 11,10 11,06 4,11 3,77 4,05 3,98 3,14 2,89 2,98 3,00
QP5 10,53 9,71 9,95 10,06 3,90 3,10 3,60 3,53 2,45 2,18 2,39 2,34
QP6 10,60 9,53 9,90 10,01 3,82 3,22 3,50 3,51 2,39 2,35 2,36 2,37
Q2 (đ/c1) 8,70 8,95 8,30 8,65 2,50 2,71 2,30 2,50 1,92 1,98 1,87 1,92
HQ2000
(đ/c2)11,18 10,88 11,08 11,05 4,15 3,84 3,95 3,98 3,06 2,96 3,01 3,01
CV,% 1,54 1,75 1,63 1,85 1,58 1,80 1,69 1,87 1,65 1,88 1,76 1,83
LSD05 0,44 0,54 0,59 0,64 0,18 0,11 0,16 0,17 0,19 0,10 0,14 0,16
Các giống QPM thí nghiệm có hàm lượng lysine biến động từ 3,51 - 3,98%,
cao hơn hẳn so với đối chứng 1 (Q2: 2,50%). Trong đó, giống có hàm lượng
lysine cao nhất là QP4 (3,98%) tương đương với đối chứng 2 (HQ2000:
3,98%), các giống còn lại có hàm lượng lysine thấp hơn đối chứng 2. Các
giống ngô QPM thí nghiệm có hàm lượng lysine cao hơn giống ngô thụ phấn
tự do thường Q2 từ 40,4 - 59,2%, trong đó cao nhất là giống QP4 (59,2%),
thấp nhất là QP6 (40,4%).
Hàm lượng methionine biến động từ 2,32 - 3,00%, cao hơn hẳn so với
đối chứng 1 - Q2 (1,92%), trong đó giống QP4 có hàm lượng methionine đạt
cao nhất (3,00%) tương đương với đối chứng 2 - HQ2000 (3,01%). Các giống
ngô QPM thí nghiệm có hàm lượng methionine cao hơn giống ngô thụ phấn
89
tự do thường Q2 từ 20,8 - 56,3%, trong đó cao nhất là giống QP4 (56,3%),
thấp nhất là QP6 (20,8%). Tóm lại, các giống ngô TPTD QPM thí nghiệm đều có hàm lượng
protein, lysine và methionine cao hơn giống ngô thụ phấn tự do thường Q2,
tương đương với giống ngô lai QPM - HQ2000. Đặc biệt, giống QP4 có năng
suất tương đương nhưng có hàm lượng protein, lysine và methionine cao hơn
hẳn so với giống đối chứng Q2.
0.001.002.003.004.005.006.007.008.009.00
10.0011.0012.00
Protein Lysine Methionine
Hàm
lượ
ng %
QP1
QP2
QP3
QP4
QP5
QP6
Q2
HQ2000
Biểu đồ 3.2. Hàm lượng protein, lysine và methionine của các
giống ngô thí nghiệm tại Thái Nguyên (trung bình 3 vụ)
Tóm lại, qua 4 vụ khảo nghiệm vụ Xuân và vụ Thu Đông (2004 và
2005) ở Thái Nguyên cho thấy giống ngô TPTD QPM – QP4 là giống có
nhiều triển vọng: Có thời gian sinh trưởng thuộc nhóm chín trung bình sớm,
90
thấp cây, có độ đồng đều khá tốt về nhiều đặc điểm, tỷ lệ hạt/bắp 76 – 78%,
dạng hạt 1/2 răng ngựa vàng, chống đổ tốt, chịu hạn tốt, chống sâu bệnh khá.
Về năng suất thì đều khá cao và ổn định qua các vụ thí nghiệm, trong điều
kiện thí nghiệm ở Thái Nguyên không thấp hơn giống lai QPM HQ2000 và
giống thụ phấn tự do Q2 (đạt 53,7 tạ/ha trong vụ Xuân và 63,3 tạ/ha trong vụ
Thu Đông). Đặc biệt, về hàm lượng và chất lượng protein thì tương đương
giống HQ2000 và cao hơn hẳn giống Q2: Hàm lượng protein đạt 11,06%
tương đương HQ2000 (11,05%) và cao hơn hẳn Q2 (8,65%); lysine/protein
đạt 3,98% cao hơn so với Q2 và tương đương HQ2000 (2,50 và 3,98%);
methionine/protein đạt 3,00% cao hơn so với Q2 và tương đương HQ2000
(1,92 và 3,01%). Kết quả nghiên cứu này của chúng tôi trùng với kết quả
khảo nghiệm ở nhiều vùng sinh thái khác cũng đã xác định được QP4 là
giống triển vọng. Từ kết quả khảo nghiệm, chúng tôi tiến hành các thí nghiệm
phân bón cho giống ngô QPM TPTD QP4 so sánh với giống ngô lai thường
LVN10 vụ Xuân (2005 và 2006), vụ Thu Đông 2005 tại Thái Nguyên.
3.2. Kết quả thí nghiệm ảnh hưởng của liều lượng đạm đến sinh trưởng,
phát triển, năng suất và chất lượng của giống ngô chất lượng protein
cao tại Thái Nguyên
Vai trò của đạm trong việc nâng cao năng suất ngô đã được các nhà khoa
nghiên cứu và khẳng định. Tuy nhiên, việc nghiên cứu vai trò của đạm đến
chất lượng ngô chưa được nghiên cứu nhiều. Đặc biệt, việc nghiên cứu ảnh
hưởng của đạm đến năng suất và chất lượng của giống ngô chất lượng protein
cao so sánh với giống ngô thường thì chưa được nghiên cứu trên thế giới và ở
Việt Nam.
Để nghiên cứu vấn đề này, chúng tôi đã tiến hành thí nghiệm một số liều
lượng đạm trên giống ngô QPM – QP4 và giống ngô thường LVN10 vụ Xuân
2005, vụ Thu Đông 2005 và vụ Xuân 2006 tại Thái Nguyên nhằm xác định
91
được ảnh hưởng của liều lượng đạm đến năng suất và chất lượng của giống
ngô chất lượng protein cao so sánh với giống ngô thường. Kết quả thu được
như sau:
3.2.1. Ảnh hưởng của liều lượng đạm đến thời gian sinh trưởng qua các
thời kỳ phát dục của giống QP4 và LVN10
Thời gian sinh trưởng của ngô dài hay ngắn phụ thuộc vào các yếu tố
như giống, mùa vụ, thời tiết khí hậu, điều kiện sinh thái, kỹ thuật canh tác
trong đó có phân bón, đặc biệt là đạm. Qua theo dõi các thời kỳ sinh trưởng
phát triển của giống ngô QP4 và LVN10 qua các công thức bón phân đạm ở
vụ Xuân 2005, vụ Thu Đông 2005, vụ Xuân 2006, chúng tôi thu được kết quả
ở bảng 3.10.
3.2.1.1. Ảnh hưởng của liều lượng đạm đến giai đoạn từ gieo đến tung phấn
Số liệu bảng 3.10 cho thấy: Trung bình ba vụ cho thấy ảnh hưởng của
liều lượng đạm đến thời gian từ gieo - tung phấn biến động từ 63 (180N) – 66
ngày (0N) ở giống QP4 và từ 66 (180N)– 69 ngày (0N) ở giống LVN10.
Trong đó, ở liều lượng 180N qua các giống có thời gian từ gieo - tung phấn
ngắn nhất, liều lượng 0N dài nhất và liều lượng 240N có xu thế muộn hơn
liều lượng 180N. Như vậy, bón N cao và cân đối với PK làm rút ngắn thời
gian từ gieo đến tung phấn.
Ở vụ Thu Đông, chúng tôi thấy thời gian từ gieo đến tung phấn của các
giống ngô qua các liều lượng đạm ngắn hơn so với vụ Xuân. Giống ngô QP4
qua các liều lượng đạm có thời gian từ gieo đến tung phấn ngắn hơn giống
LVN10.
Kết quả này phù hợp với nghiên cứu của Uhart và Andrade (1995) [91],
[92] thiếu đạm làm chậm sinh trưởng của hai giai đoạn sinh trưởng sinh
dưỡng và sinh trưởng sinh thực.
92
Bảng 3.10. Ảnh hưởng của liều lượng đạm đến thời gian sinh trưởng
qua các thời kỳ phát dục của giống ngô QP4 và LVN10
Lượng
đạmGiống
Thời gian từ gieo đến … (ngày)
Tung phấn Phun râu Chín sinh lý
X.
05
TĐ.
05
X.
06TB
X.
05
TĐ.
05
X.
06TB
X.
05
TĐ.
05
X.
06TB
0NQP4 70 60 68 66 74 63 71 69 116 107 110 111
LVN10 75 62 71 69 78 66 75 73 120 112 117 116
60NQP4 69 58 67 65 72 60 69 67 117 109 112 113
LVN10 74 60 69 68 77 63 72 71 122 114 120 119
120NQP4 68 56 66 63 70 57 68 65 118 111 112 114
LVN10 73 58 69 67 75 60 71 69 124 116 121 120
180NQP4 68 56 66 63 70 57 67 65 119 112 115 115
LVN10 73 58 68 66 75 59 69 68 125 118 122 122
240NQP4 69 57 67 64 71 59 69 66 121 115 117 118
LVN10 74 59 70 68 76 61 72 70 127 121 124 124
3.2.1.2. Ảnh hưởng của liều lượng đạm đến giai đoạn từ khi gieo đến
phun râu
Trung bình ba vụ cho thấy ảnh hưởng của liều lượng đạm đến thời gian
từ gieo – phun râu biến động từ 65 (120 - 180N) – 69 ngày (0N) ở giống QP4
và từ 68 (180N) – 73 ngày (0N) ở giống LVN10. Trong đó, liều lượng 180N
qua các giống có thời gian từ gieo – phun râu ngắn nhất, liều lượng 0N dài
nhất và liều lượng 240N có xu thế muộn hơn liều lượng 180N từ 1 – 2 ngày.
Như vậy, bón N cao và cân đối với PK làm rút ngắn thời gian từ gieo đến
phun râu.
93
Ảnh hưởng của liều lượng đạm qua các giống đến khoảng cách tung
phấn - phun râu (ASI) biến động từ 2 (120 – 240N) – 4 ngày (0N). Như vậy,
không bón đạm và bón ít làm kéo dài khoảng cách tung phấn – phun râu, ảnh
hưởng xấu đến quá trình thụ phấn thụ tinh và giảm năng suất sau này.
Giống ngô QP4 qua các liều lượng đạm có thời gian từ gieo đến phun
râu ngắn hơn giống LVN10. Ảnh hưởng của liều lượng đạm đến giống ngô
QPM TPTD QP4 thấp hơn giống ngô lai thường LVN10 ở liều lượng 0 –
60N.
3.2.1.3. Ảnh hưởng của liều lượng đạm đến thời gian sinh trưởng
Số liệu bảng 3.10 cho thấy: Ảnh hưởng của liều lượng đạm qua các
giống đến thời gian sinh trưởng biến động từ 111 (0N) – 118 ngày (240N) ở
giống QP4 và từ 116 (0N) – 124 (240N) ở giống LVN10. Như vậy, ảnh
hưởng của đạm qua các giống đến thời gian sinh trưởng thể hiện rất rõ rệt,
tăng dần theo các công thức bón đạm tăng, lượng đạm cao (240N) làm thời
gian sinh trưởng kéo dài hơn 7 ngày (giống QP4) và 8 ngày (giống LVN10)
so với không bón đạm (0N).
Giống ngô QP4 qua các liều lượng đạm có thời gian sinh trưởng ngắn
hơn giống LVN10. Ảnh hưởng của liều lượng đạm đến giống ngô QPM
TPTD QP4 thấp hơn giống ngô lai thường LVN10 ở mức 180N và cân đối
với PK làm rút ngắn thời gian từ gieo đến tung phấn. Vụ Thu Đông có thời
gian sinh trưởng của các giống ngô qua các mức đạm ngắn hơn so với vụ
Xuân.
3.2.2. Ảnh hưởng của liều lượng đạm đến các đặc điểm hình thái của giống
ngô QP4 và LVN10
3.2.2.1. Ảnh hưởng của liều lượng đạm đến chiều cao cây và chiều cao đóng
bắp
94
Qua số liệu ở bảng 3.11 cho thấy: Trung bình ba vụ, ảnh hưởng của liều
lượng đạm qua các giống đến chiều cao cây biến động từ 171,3 (0N) – 205,3
cm (240N) ở giống QP4 và từ 191,9 (0N) – 235,6 cm (240N) ở giống LVN10;
đến chiều cao đóng bắp biến động từ 92,6 (0N) – 111,0 cm (240N) ở QP4 và
từ 106,7 (0N) – 131,2 cm (240N) ở LVN10. Như vậy, ảnh hưởng của đạm
đến chiều cao cây và chiều cao đóng bắp của giống QP4 và LVN10 rất rõ,
bón tăng đạm làm tăng chiều cao cây và chiều cao đóng bắp theo tỷ lệ thuận.
Ở liều lượng 240N có chiều cao đóng bắp tăng thêm 19,9% (QP4), 22,8%
(LVN10) so với không bón đạm (0N). Giống QP4 có chiều cao cây và chiều
cao đóng bắp thấp hơn giống LVN10, đồng thời ảnh hưởng của đạm đến
chiều cao cây ít hơn so với giống LVN10, đây là một đặc điểm có lợi giúp
cho cây ngô có khả năng chống đổ gãy tốt hơn.
Bảng 3.11. Ảnh hưởng của liều lượng đạm đến chiều cao cây và
chiều cao đóng bắp của giống ngô QP4 và LVN10
Lượng
đạmGiống
Chiều cao cây (cm) Chiều cao đóng bắp (cm)
X.05 TĐ.05 X.06 TB X.05 TĐ.05 X.06 TB
0NQP4 172,7 175,4 165,7 171,3 93,3 95,7 88,7 92,6
LVN10 196,0 194,3 185,5 191,9 110,0 105,5 104,6 106,7
60NQP4 180,6 183,0 173,0 178,9 97,5 98,9 92,9 96,4
LVN10 215,0 210,9 204,6 210,2 118,3 115,5 111,7 115,2
120NQP4 186,6 190,2 184,5 187,1 101,3 101,3 98,3 100,3
LVN10 220,7 215,7 212,1 216,2 122,0 118,8 115,2 118,7
180NQP4 195,2 195,5 189,7 193,5 105,0 105,6 98,6 103,1
LVN10 225,3 221,9 218,3 221,8 124,0 123,1 119,5 122,2
240NQP4 204,3 210,2 201,5 205,3 111,7 113,7 107,6 111,0
LVN10 235,9 240,4 230,5 235,6 134,3 131,5 127,8 131,2
95
Tóm lại, bón đạm đến liều lượng 240N làm tăng sự phát triển thân lá,
sẽ làm tăng khả năng quang hợp và tăng năng suất ngô.
3.2.2.2. Ảnh hưởng của liều lượng đạm đến số lá trên cây và chỉ số diện tích lá
Khi thiếu N chồi lá mầm sẽ không phát triển đầy đủ, sự phân chia tế bào
ở đỉnh sinh trưởng bị kìm hãm và kết quả là giảm diện tích lá, kích thước của
cây và năng suất giảm. Phân đạm có thể tạo ra sự tăng diện tích lá hiệu quả
ngay từ đầu vụ và duy trì một diện tích lá xanh lớn vào cuối vụ để quá trình
đồng hóa quang hợp đạt cực đại (Patrick, 2001) [79], Wolfe và CS (1988)
[100]. Năng suất ngô cao chỉ có thể đạt được khi thời gian diện tích lá xanh
kéo dài và tỷ lệ đồng hoá đạm cao sau thời kỳ ra hoa (Mitsuru, 1994) [77].
Ảnh hưởng của liều lượng đạm qua các giống đến số lá/cây trung bình ba
vụ biến động từ 18,8 (0N) – 20,2 lá (240N) ở giống QP4 và từ 18,8 (0N) –
20,3 lá (240N) ở giống LVN10. Như vậy, ảnh hưởng của đạm đến số lá/cây
của giống QP4 và LVN10 không lớn. Hai giống QP4 và LVN10 có số lá/cây
tương đương nhau (bảng 3.12).
Bảng 3.12. Ảnh hưởng của liều lượng đạm đến số lá trên cây và
chỉ số diện tích lá của giống ngô QP4 và LVN10
Lượng
đạmGiống
Số lá/cây (lá) CSDTL (m2lá/m2đất)
X.05 TĐ.05 X.06 TB X.05 TĐ.05 X.06 TB
0NQP4 19,1 18,8 18,5 18,8 2,3 2,5 2,5 2,4
LVN10 19,0 18,9 18,5 18,8 2,3 2,6 2,7 2,5
60NQP4 19,6 19,3 19,2 19,4 2,9 2,9 2,9 2,9
LVN10 19,8 19,5 19,3 19,5 3,0 3,1 3,1 3,1
120NQP4 20,0 19,7 19,4 19,7 3,1 3,3 3,1 3,2
LVN10 20,1 20,0 19,6 19,9 3,2 3,4 3,4 3,3
180N QP4 20,2 20,3 19,7 20,1 3,4 3,6 3,5 3,5
96
LVN10 20,3 20,4 19,9 20,2 3,6 3,9 3,8 3,8
240NQP4 20,4 20,5 19,8 20,2 3,6 3,8 3,6 3,7
LVN10 20,4 20,6 20,0 20,3 3,9 4,2 4,0 4,0
Ảnh hưởng của liều lượng đạm qua các giống đến chỉ số diện tích lá
trung bình ba vụ biến động từ 2,4 (0N) – 3,7 m2lá/m2đất (240N) ở giống QP4
và từ 2,5 (0N) – 4,0 m2lá/m2đất (240N) ở giống LVN10. Như vậy, ảnh hưởng
của liều lượng đạm đến chỉ số diện tích lá của giống QP4 và LVN10 rất rõ rệt,
tăng dần tỷ lệ thuận theo liều lượng đạm tăng. Ở liều lượng 240N có CSDTL
tăng thêm 54,2% (QP4), 60% (LVN10) so với không bón đạm (0N).
Như vậy, đạm ảnh hưởng không lớn đến số lá/cây nhưng làm tăng mạnh
chỉ số diện tích lá góp phần tăng năng suất ngô sau này. Kết quả này của
chúng tôi phù hợp với nghiên cứu của Patrick (2001) [79], Wolfe và CS
(1988) [100], (Mitsuru, 1994) [77] và theo Uhart và Andrade, 1995 [91], [92]
thiếu đạm làm giảm tốc độ ra lá, hạn chế mạnh đến sự phát triển diện tích lá.
3.2.3. Ảnh hưởng của liều lượng đạm đến khả năng chống chịu của giống
ngô QP4 và LVN10
3.2.3.1. Ảnh hưởng của liều lượng đạm đến khả năng chống đổ
Số liệu bảng 3.13 cho thấy: Ảnh hưởng của liều lượng đạm qua các
giống đến tỷ lệ đổ rễ trung bình ba vụ biến động từ 5,8 (0N) – 14,4% (240N)
ở giống QP4 và từ 7,2 (0N) – 13,5% (240N) ở giống LVN10. Như vậy, ảnh hưởng
của liều lượng đạm qua các giống đến tỷ lệ đổ rễ rất rõ rệt, bón đạm cao
(240N) đã làm tỷ lệ đổ rễ cao hơn mức 0N – 180N, đây là do mức đạm cao
làm phát triển mạnh chiều cao cây nên khi gặp gió to, cây dễ bị đổ nghiêng.
Ảnh hưởng của liều lượng đạm qua các giống đến tỷ lệ gãy thân trung
bình ba vụ biến động từ 1,8 (180N) – 4,0% (60N) ở giống QP4 và từ 2,6
(180N) – 5,1% (60N) ở giống LVN10. Liều lượng 180N có tỷ lệ gãy thân
97
thấp nhất, liều lượng 60N có tỷ lệ gãy thân cao nhất. Nguyên nhân có kết quả
như vậy là do ở liều lượng 60N bị sâu đục thân hại mạnh hơn ở liều lượng
180N nên liều lượng 60N có tỷ lệ gãy thân cao nhất. Giống QP4 qua các liều
lượng đạm có tỷ lệ gãy thân thấp hơn LVN10.
Bảng 3.13. Ảnh hưởng của liều lượng đạm đến đến tỷ lệ đổ rễ,
gẫy thân của giống ngô QP4 và LVN10
Lượng
đạmGiống
Đổ rễ (%) Gãy thân (%)
X.05 TĐ.05 X.06 TB X.05 TĐ.05 X.06 TB
0NQP4 4,7 6,2 6,6 5,8 4,0 3,6 3,8 3,8
LVN10 5,7 8,5 7,5 7,2 5,5 4,1 4,2 4,6
60NQP4 5,7 9,5 8,2 7,8 3,7 3,2 5,1 4,0
LVN10 4,6 9,8 9,6 8,0 5,1 3,8 6,5 5,1
120NQP4 4,5 8,5 10,4 7,8 3,3 1,2 3,7 2,7
LVN10 5,6 9,0 10,5 8,4 5,3 2,0 6,1 4,5
180NQP4 6,0 10,2 12,2 9,5 3,1 0,5 1,7 1,8
LVN10 6,5 11,5 13,6 10,5 4,0 1,4 2,4 2,6
240NQP4 9,9 14,5 18,7 14,4 4,1 4,3 2,5 3,6
LVN10 9,8 13,4 17,3 13,5 4,5 4,4 3,7 4,2
3.2.3.2. Ảnh hưởng của liều lượng đạm đến khả năng chống chịu sâu bệnh
Nhìn bảng 3.14 cho thấy: Trung bình ba vụ, ảnh hưởng của liều lượng
đạm qua các giống đến mức độ nhiễm sâu đục thân biến động từ điểm 3 – 4,
trong đó liều lượng 180N bị sâu hại nhẹ nhất ở cả 2 giống (điểm 3), mức 0 – 60N
bị sâu đục thân hại nặng nhất (điểm 4). Giống ngô QP4 qua các liều lượng đạm bị
nhiễm sâu đục thân nhẹ hơn giống LVN10. Như vậy, bón đạm ảnh hưởng đến
98
khả năng chống sâu đục thân, không bón và bón đạm ít làm cây sinh trưởng
phát triển yếu dễ bị sâu phá hại hơn bón đạm cao và cân đối với lân - kali.
Ảnh hưởng của liều lượng đạm qua các giống đến mức độ nhiễm bệnh
khô vằn biến động từ điểm 2 – 4. Liều lượng 240N bị nhiễm bệnh khô vằn
nặng hơn liều lượng 0 – 180N. Giống ngô QP4 qua các liều lượng đạm bị
nhiễm bệnh khô vằn nhẹ hơn giống LVN10. Như vậy, bón đạm ở liều lượng
cao – 240N không cân đối với PK thì dễ bị nhiễm bệnh khô vằn hơn. Liều
lượng 120N – 180N có khả năng chống chịu sâu bệnh tốt ở cả hai giống ngô
QP4 và LVN10.
Bảng 3.14. Ảnh hưởng của liều lượng đạm đến tỷ lệ nhiễm sâu bệnh
của giống ngô QP4 và LVN10
Lượng
đạmGiống
Sâu đục thân
(điểm 1 - 5)
Bệnh khô vằn
(điểm 1 - 5)
X.05 TĐ.05 X.06 TB X.05 TĐ.05 X.06 TB
0NQP4 4 3 4 4 2 2 3 2
LVN10 4 3 4 4 3 2 4 3
60NQP4 3 3 5 4 2 2 2 2
LVN10 4 3 5 4 3 3 3 3
120NQP4 3 2 4 3 2 2 3 2
LVN10 4 2 5 4 3 3 3 3
180NQP4 3 2 3 3 2 2 2 2
LVN10 4 2 3 3 3 2 3 3
240NQP4 3 3 3 3 3 3 3 3
LVN10 4 3 4 4 4 3 4 4
99
Tóm lại, bón đạm có ảnh hưởng đến khả năng chống chịu của hai giống
ngô QPM - QP4 và ngô thường LVN10, bón mức đạm 120N – 180N ngô có
khả năng chống chịu tốt hơn mức 0N – 60N và 240N. Giống QPM TPTD
QP4 có khả năng chống đổ gãy tốt hơn giống ngô lai thường LVN10.
3.2.4. Ảnh hưởng của liều lượng đạm đến các yếu tố cấu thành năng suất
và năng suất của giống QP4 và LVN10
Nhìn vào bảng 3.15a chúng tôi thấy: Trung bình ba vụ, ảnh hưởng của
liều lượng đạm qua các giống đến chiều dài bắp biến động từ 12,1 (0N) – 16,6
cm (240N) ở QP4 và từ 12,3 (0N) – 18,6 cm (240N) ở LVN10. Như vậy, ảnh
hưởng của đạm đến chiều dài bắp của giống QP4 và LVN10 rất rõ rệt, tăng
theo các liều lượng đạm tăng (tỷ lệ thuận), ở liều lượng 240N tăng thêm
37,2% (QP4) và 51,2% (LVN10) so với không bón đạm (0N). Giống QP4 qua
các liều lượng đạm có chiều dài bắp ngắn hơn LVN10. Ảnh hưởng của liều
lượng đạm đến chiều dài bắp của giống QPM TPTD QP4 thấp hơn giống ngô
lai thường LVN10.
Trung bình ba vụ, ảnh hưởng của liều lượng đạm qua các giống đến
đường kính bắp biến động từ 3,5 (0N) – 5,0 cm (240N) ở QP4 và từ 3,5 (0N)
– 5,4 cm (240N) ở LVN10. Như vậy, ảnh hưởng của đạm đến đường kính bắp
của giống QP4 và LVN10 rất rõ, tăng tỷ lệ thuận theo các liều lượng đạm
tăng, với liều lượng 240N tăng thêm 42,9% (QP4) và 54,3% (LVN10) so với
không bón đạm (0N). Giống QP4 qua các liều lượng đạm có đường kính bắp
thấp hơn LVN10. Ảnh hưởng của liều lượng đạm đến đường kính bắp của
giống QPM TPTD QP4 thấp hơn giống ngô lai thường LVN10.
Như vậy, bón đạm tăng làm tăng chiều dài và đường kính bắp, là cơ sở
để tăng số lượng hạt trên bắp, nâng cao năng suất ngô.
100
Số liệu ở bảng 3.15a cho thấy: Trung bình ba vụ, ảnh hưởng của liều
lượng đạm qua các giống đến số hàng hạt/bắp không lớn, biến động từ 12,8 (0N)
– 14,4 hàng (240N) ở giống QP4, từ 12,4 (0N) – 13,9 hàng (240N) ở giống
LVN10. Giống QP4 qua các liều lượng đạm có số hàng hạt/bắp cao hơn giống
LVN10. Ảnh hưởng của liều lượng đạm đến số hàng hạt/bắp của giống ngô
QPM TPTD QP4 tương đương với ngô lai thường LVN10.
Bảng 3.15a. Ảnh hưởng của liều lượng đạm đến các yếu tố cấu thành
năng suất và năng suất của giống ngô QP4 và LVN10
Lượng
đạmGiống
Chiều dài bắp
(cm)
Đường kính bắp
(cm)
Hàng hạt/bắp
(hàng)
X.
05
TĐ.
05
X.
06TB
X.
05
TĐ.
05
X.
06TB
X.
05
TĐ.
05
X.
06TB
0NQP4 11,9 11,8 12,5 12,1 3,7 3,5 3,4 3,5 12,5 13,0 12,9 12,8
LVN10 12,2 11,8 13,0 12,3 3,7 3,4 3,4 3,5 12,2 12,6 12,5 12,4
60NQP4 14,1 14,1 13,8 14,0 4,2 4,1 4,1 4,1 13,4 13,7 13,5 13,5
LVN10 14,7 15,9 15,1 15,2 4,3 4,1 4,1 4,2 13,1 13,2 13,2 13,2
120NQP4 15,3 14,8 14,3 14,8 4,4 4,5 4,5 4,5 14,0 14,1 13,9 14,0
LVN10 16,8 16,5 16,4 16,6 4,6 4,7 4,8 4,7 13,5 13,6 13,6 13,6
180NQP4 16,2 15,7 16,1 16,0 4,6 5,0 4,8 4,8 14,2 14,5 14,2 14,3
LVN10 17,9 17,4 17,6 17,6 5,0 5,3 5,1 5,1 13,7 13,9 13,9 13,8
240NQP4 16,5 16,8 16,4 16,6 4,9 5,1 5,1 5,0 14,2 14,6 14,3 14,4
LVN10 18,4 18,9 18,5 18,6 5,3 5,5 5,4 5,4 13,8 14,0 13,9 13,9
CV,% (đạm) 6,2 7,0 6,5 5,2 6,1 5,8 2,1 2,4 2,0
CV,% (giống) 5,1 5,3 5,9 4,3 4,5 4,0 2,7 2,6 2,4
LSD05 (đạm) 0,5 0,9 0,6 0,2 0,1 0,2 0,5 0,4 0,4
LSD05 (giống) 1.1 1.2 1.3 0,2 0,1 0,1 0,2 0,3 0,1
101
Nhìn vào bảng 3.15b cho thấy: Ảnh hưởng của liều lượng đạm qua các
giống đến số hạt/hàng trung bình ba vụ biến động từ 23,0 (0N) – 34,1 hạt
(240N) ở QP4 và từ 23,5 (0N) – 38,2 hạt (240N) ở LVN10. Như vậy, ảnh
hưởng của liều lượng đạm đến số hạt/hàng của giống QP4 và LVN10 rất rõ
rệt, tăng tỷ lệ thuận theo các liều lượng đạm tăng, ở liều lượng 240N tăng
thêm 48,3% (QP4) và 62,6% (LVN10) so với không bón đạm (0N). Giống
QPM QP4 qua các liều lượng đạm có số hạt/hàng thấp hơn ngô thường
LVN10. Ảnh hưởng của liều lượng đạm đến số hạt/hàng của giống QPM
TPTD QP4 thấp hơn giống ngô lai thường LVN10.
Kết quả của chúng tôi phù hợp với nghiên cứu của (Barbieri và CS,
2000) [58], mức đạm thấp làm giảm số hạt và năng suất hạt; của Uhart và
Andrade (1995) [91], [92] việc cung cấp và tích luỹ N ở thời kỳ ra hoa có tính
quyết định số lượng hạt ngô, thiếu N trong thời kỳ này làm giảm khả năng
đồng hoá C của cây, nhất là giai đoạn ra hoa sẽ giảm năng suất hạt.
Bảng 3.15b. Ảnh hưởng của liều lượng đạm đến các yếu tố cấu thành
năng suất và năng suất của giống ngô QP4 và LVN10
Lượng
đạmGiống
Hạt/hàng (hạt) P1000hạt (g) NSTT (tạ/ha)
X.
05
TĐ.
05
X.
06TB
X.
05
TĐ.
05
X.
06TB
X.
05
TĐ.
05
X.
06TB
0NQP4 23,8 23,8 21,3 23,0 256,0 275,2 261,9 264,4 21,0 27,3 25,0 24,4
LVN10 24,8 23,9 21,9 23,5 278,2 280,6 269,0 275,9 22,7 26,6 26,5 25,3
60NQP4 29,1 29,6 27,6 28,8 274,3 295,5 280,3 283,4 37,8 39,3 40,4 39,2
LVN10 31,6 31,4 28,9 30,6 301,5 306,7 295,3 301,2 40,2 42,2 42,6 41,7
120NQP4 31,7 33,9 29,8 31,8 295,7 310,0 291,9 299,2 47,1 51,2 48,5 48,9
LVN10 33,3 34,3 32,0 33,2 311,6 319,6 310,7 314,0 50,8 55,3 52,6 52,9
180NQP4 32,4 35,8 31,6 33,3 307,7 319,4 305,0 310,7 55,0 58,7 55,6 56,4
LVN10 35,1 37,7 34,0 35,6 324,8 330,1 317,8 324,2 58,9 63,5 59,9 60,8
102
240NQP4 32,9 36,2 33,3 34,1 318,0 325,0 317,4 320,1 56,3 60,9 57,4 58,2
LVN10 37,4 40,4 36,8 38,2 332,7 340,5 329,2 334,1 62,4 67,6 64,6 64,9
CV,% (đạm) 7,3 7,8 8,0 8,2 9,9 9,1 12,6 15,9 13,3
CV,% (giống) 5,2 4,9 4,6 5,5 6,5 5,9 7,4 8,9 7,9
LSD05 (đạm) 1,4 1,5 2,0 8,5 8,0 10,7 5,5 7,8 6,5
LSD05 (giống) 2,2 1,6 1,9 17,4 10,1 12,5 2,7 3,2 3,4
Ảnh hưởng của liều lượng đạm qua các giống đến khối lượng 1000 hạt
trung bình ba vụ biến động từ 264,4 (0N) – 320,1g (240N) ở QP4 và từ 275,9
(0N) – 334,1g (240N) ở LVN10. Như vậy, ảnh hưởng của liều lượng đạm đến
khối lượng 1000 hạt của giống QP4 và LVN10 rất rõ rệt, tăng tỷ lệ thuận theo
các liều lượng đạm tăng, ở liều lượng 240N tăng thêm 21,1% ở cả 2 giống
QP4 và LVN10 so với không bón đạm (0N). Giống QP4 qua các liều lượng
đạm có khối lượng 1000 hạt thấp hơn LVN10. Ảnh hưởng của liều lượng đạm
đến khối lượng 1000 hạt của giống QPM TPTD QP4 giống ngô lai thường
LVN10 tương đương nhau.
Tóm lại, đạm làm tăng khối lượng 1000 hạt và tăng năng suất hạt sau
này. Kết quả của chúng tôi phù hợp với nghiên cứu của Muchow, 1988
(1994), dự trữ đạm ở cây ngô có ảnh hưởng rất lớn đối với sự sinh trưởng và
phát triển lá, sự tích luỹ sinh khối và sự tăng trưởng của hạt (dẫn theo Thomas
và CS, 1995) [88].
Kết quả ở bảng 3.15b cho thấy: Sự biến động về năng suất thực thu cũng
thể hiện rõ với các liều lượng đạm tăng từ 0 đến 240N. Vụ Xuân 2005, năng
suất thực thu của QP4 biến động từ 21,0 tạ/ha đến 56,3 tạ/ha, còn LVN10
tăng từ 22,7 tạ/ha đến 62,4 tạ/ha; vụ Thu Đông 2005, năng suất QP4 biến
động từ 27,3 tạ/ha đến 60,9 tạ/ha và LVN10 từ 26,6 tạ/ha đến 67,6 tạ/ha; vụ
Xuân 2006, năng suất thực thu tăng từ 25,0 tạ/ha đến 57,4 tạ/ha ở QP4 và còn
LVN10 tăng từ 26,5 tạ/ha đến 64,6 tạ/ha. Ảnh hưởng của liều lượng đạm qua
103
các giống đến năng suất thực thu trung bình ba vụ biến động từ 24,4 (0N) –
58,2 tạ/ha (240N) ở giống QP4 và từ 25,3 (0N) – 64,9 tạ/ha (240N) ở giống
LVN10. Như vậy, bón đạm đã làm tăng năng suất thực thu rất rõ. Năng suất ở
liều lượng 240N tăng thêm 138,5% (QP4) và 156,5% (LVN10) so với không
bón đạm (0N).
Qua xử lý thống kê ở ba vụ cho thấy: Tất cả các công thức có bón đạm
qua các giống (60N – 240N) đều có năng suất thực thu cao hơn công thức
không bón đạm (0N) một cách có ý nghĩa ở mức tin cậy 95%. Năng suất thực
thu qua các công thức bón đạm đạt được như sau: Liều lượng 0N đạt năng
suất thấp nhất, tiếp đến là liều lượng 60N, 120N, ở các liều lượng 180N –
240N thì năng suất thực thu tương đương nhau ở mức tin cậy 95%. Giống
QP4 đạt năng suất thực thu trung bình qua các công thức bón đạm thấp hơn
giống LVN10 một cách có ý nghĩa. Ảnh hưởng của liều lượng đạm đến năng
suất thực thu của giống QP4 và của giống LVN10 tương đương nhau, tăng
dần theo mức đạm tăng nhưng ở mức 240N thì tăng không có ý nghĩa ở mức
độ tin cậy 95%. Trong cùng một liều lượng đạm, năng suất thực thu của giống
QP4 thấp hơn giống LVN10 ở liều lượng 120N – 240N, còn ở liều lượng 0N
– 60N thì tương đương nhau ở mức độ tin cậy 95%.
104
0
10
20
30
40
50
60
70
N1 N2 N3 N4 N5
Công thức bón đạm
Năn
g su
ất (
tạ/h
a)
QP4
LVN10
Biểu đồ 3.3. Ảnh hưởng của liều lượng đạm đến năng suất của giống ngô QP4 và LVN10 (trung bình 3 vụ)
Kết quả nghiên cứu của chúng tôi phù hợp với các nghiên cứu của
Sinclair và Muchow (1995) [83], năng suất ngô tăng lên có liên quan chặt chẽ
với mức cung cấp N cho ngô; Patrick (2001) [79], Wolfe và CS, (1998) [100],
đạm là yếu tố dinh dưỡng quan trọng nhất để xác định năng suất ngô. Khi
thiếu N chồi lá mầm sẽ không phát triển đầy đủ, sự phân chia tế bào ở đỉnh
sinh trưởng bị kìm hãm và kết quả là giảm diện tích lá, kích thước của cây và
năng suất giảm. Phân đạm có thể tạo ra sự tăng diện tích lá hiệu quả ngay từ
đầu vụ và duy trì một diện tích lá xanh lớn vào cuối vụ để quá trình đồng hóa
quang hợp đạt cực đại; Barbieri và CS (2000) [58], mức đạm thấp làm giảm
số hạt và năng suất hạt; Debreczeni (2000) [64], các giống ngô lai khác nhau
có thể sử dụng phân đạm ở mức độ khác nhau, năng suất cây trồng cao cần
phải cung cấp một lượng lớn phân bón, đặc biệt là đạm; Uhart và Andrade
105
(1995) [91], [92] thiếu đạm làm chậm sinh trưởng của hai giai đoạn sinh
trưởng sinh dưỡng và sinh trưởng sinh thực, giảm tốc độ ra lá, hạn chế mạnh
đến sự phát triển diện tích lá. Thiếu đạm hạn chế đến hiệu quả sử dụng bức
xạ, nhất là thời kỳ ra hoa, ảnh hưởng đến năng suất bắp tổng số. Cũng theo
hai tác giả trên việc cung cấp và tích luỹ N ở thời kỳ ra hoa có tính quyết định
số lượng hạt ngô, thiếu N trong thời kỳ này làm giảm khả năng đồng hoá C
của cây, nhất là giai đoạn ra hoa sẽ giảm năng suất hạt.
3.2.5. Tương quan giữa liều lượng đạm và năng suất của giống ngô QP4
và LVN10
Để có kết luận chính xác về quan hệ giữa liều lượng đạm bón với năng
suất của giống ngô TPTD QP4 và giống ngô thường LVN10 (trung bình ba
vụ), từ đó có thể dự đoán được năng suất ngô, chúng tôi tiến hành phân tích
tương quan, kết quả thể hiện ở bảng 3.16.
Bảng 3.16. Mô hình tương quan tuyến tính dự đoán năng suất giống ngô QP4 và LVN10 dựa trên liều lượng đạm
Giống Hàm tương quan tuyến tính Hệ số tương quan R2
QP4 Năng suất = 2846 + 14,133N** 0,926
LVN10 Năng suất = 2946 + 16,383N** 0,945
(N: Liều lượng đạm; **: Tương quan có ý nghĩa ở mức 99%)
Số liệu bảng 3.16 cho thấy năng suất hai giống ngô QP4 và LVN10
tương quan thuận và rất chặt với liều lượng đạm bón. Với liều lượng đạm bón
cụ thể và dựa vào hàm tương quan tuyến tính ước lượng trên có thể dự đoán
được năng suất của giống ngô QP4 và LVN10.
106
NS (QP4) y = -0.0006x2 + 0.2756x + 24.431
R2 = 0.9992
0
10
20
30
40
50
60
70
0 60 120 180 240 300
Đạm (kg N/ha)
Tạ/
ha
NS (LVN10) y = -0.0006x2 + 0.2967x + 25.474
R2 = 0.9997
0
10
20
30
40
50
60
70
0 60 120 180 240 300
Đạm (kg N/ha)
Tạ/
ha
Biểu đồ 3.4. Đồ thị năng suất QP4
theo các liều lượng đạm
Biểu đồ 3.5. Đồ thị năng suất
LVN10 theo các liều lượng đạm+ Phương trình tương quan giữa liều lượng đạm và năng suất giống ngô
TPTD QP4 (trung bình ba vụ) là đường parabon ứng với hàm số:
y = -0,0006x2 + 0,2756x + 24,431
- Lượng bón tối đa về kỹ thuật là 230 kg N/ha.
- Lượng bón tối thích về kinh tế là 215 kg N/ha.
+ Phương trình tương quan giữa liều lượng đạm và năng suất giống ngô
lai thường LVN10 (trung bình ba vụ) là đường parabon ứng với hàm số:
y = -0,0006x2 + 0,2967x + 25,474
- Lượng bón tối đa về kỹ thuật là 248 kg N/ha.
- Lượng bón tối thích về kinh tế là 233 kg N/ha.
107
3.2.6. Ảnh hưởng của liều lượng đạm đến hàm lượng và chất lượng protein
của giống ngô QP4 và LVN10
Qua số liệu bảng 3.17, cho thấy: Ảnh hưởng của các liều lượng đạm
đến hàm lượng protein tổng số của các giống ngô rất rõ, biến động từ 7,48%
(0N) - 11,33% (240N) ở giống QP4 và từ 7,66% (0N) – 8,92% (120N) ở
giống LVN10. Hàm lượng protein tăng tỷ lệ thuận theo các liều lượng đạm
tăng, liều lượng 240N tăng thêm so với liều lượng 0N là 51,5% ở QP4 và
16,3% ở LVN10. Như vậy, yếu tố đạm ảnh hưởng lớn đến hàm lượng protein
và có xu thế tăng theo lượng bón đạm tăng. Qua xử lý thống kê ở hai vụ cho
thấy: Các công thức có bón đạm qua các giống có hàm lượng protein cao hơn
có ý nghĩa so với công thức không bón đạm ở mức độ tin cậy 95%; công thức
1 (0N) đạt hàm lượng protein thấp nhất, công thức 5 (240N) đạt hàm lượng
protein cao nhất, công thức 3 (120N) và công thức 4 (180N) đạt hàm lượng
protein tương đương nhau ở mức độ tin cậy 95%. Giống QP4 qua các liều
lượng đạm có hàm lượng protein cao hơn giống LVN10 ở mức độ tin cậy
95%. Ảnh hưởng của liều lượng đạm đến hàm lượng protein ở giống QPM
TPTD QP4 cao hơn so với giống ngô lai thường LVN10.
Bảng 3.17. Ảnh hưởng của liều lượng đạm đến hàm lượng protein, lysine
và methionine của các giống ngô vụ Xuân và Thu Đông 2005
Lượng
đạmGiống
Protein tổng số
(%)
Lysine/Protein
(%)
Methionine/Protein
(%)
X.
05
TĐ.
05TB
X.
05
TĐ.
05TB
X.
05
TĐ.
05TB
0NQP4 7,70 7,25 7,48 1,95 1,86 1,91 1,64 1,75 1,70
LVN10 7,91 7,40 7,66 1,61 1,55 1,58 1,43 1,55 1,49
60N QP4 9,87 9,01 9,44 2,91 2,83 2,87 2,72 2,78 2,75
108
LVN10 8,72 8,30 8,51 2,39 2,30 2,35 1,74 1,81 1,78
120NQP4 11,05 10,99 11,02 4,09 4,05 4,07 3,12 3,20 3,16
LVN10 9,09 8,75 8,92 2,66 2,48 2,57 1,98 2,05 2,02
180NQP4 11,03 10,87 10,95 4,13 4,03 4,08 3,18 3,24 3,21
LVN10 9,00 8,80 8,90 2,63 2,65 2,64 2,06 2,12 2,09
240NQP4 11,37 11,28 11,33 4,30 4,23 4,27 3,36 3,43 3,40
LVN10 8,93 8,89 8,91 2,60 2,72 2,66 2,22 2,40 2,26
CV,% (đạm) 2,51 2,74 2,10 2,35 2,02 2,33
CV,% (giống) 1,66 1,89 1,71 1,95 1,60 1,81
LSD05 (đạm) 0,12 0,22 0,08 0,15 0,19 0,25
LSD05 (giống) 0,72 0,65 0,54 0,47 0,32 0,39
Ảnh hưởng của các liều lượng đạm đến hàm lượng lysine của các giống
ngô rất rõ, biến động từ 1,91% (0N) - 4,27% (240N) ở giống QP4 và từ
1,58% (0N) – 2,66% (240N) ở giống LVN10. Hàm lượng lysine tăng dần theo
các liều lượng đạm tăng, liều lượng 240N tăng thêm so với 0N là 123,6% ở
QP4 và 68,4% ở LVN10.
Qua xử lý thống kê ở hai vụ cho thấy các công thức có bón đạm qua các
giống có hàm lượng lysine cao hơn có ý nghĩa so với công thức không bón
đạm ở mức độ tin cậy 95%; công thức 1 (0N) đạt hàm lượng lysine thấp nhất,
tiếp đến là công thức 2 (60N); công thức 3 (120N), công thức 4 (180N) và
công thức 5 (240N) đạt hàm lượng lysine tương đương nhau ở mức độ tin cậy
95%. Giống QP4 qua các liều lượng đạm có hàm lượng lysine cao hơn giống
LVN10 ở mức độ tin cậy 95%. Trong cùng một liều lượng đạm thì giống QP4
đạt hàm lượng lysine cao hơn giống LVN10 ở tất cả các công thức. Ảnh
hưởng của các liều lượng đạm đến hàm lượng lysine của giống QPM TPTD
QP4 cao hơn so với giống ngô lai thường LVN10.
109
Ảnh hưởng của các liều lượng đạm đến hàm lượng methionine của các
giống ngô rất rõ, biến động từ 1,70% (0N) - 3,40% (240N) ở giống QP4 và từ
1,49% (0N) – 2,26% (240N) ở giống LVN10. Hàm lượng methionine tăng
dần theo các liều lượng đạm tăng và ở liều lượng 240N hàm lượng
methionine tăng hơn so với không bón đạm là 100,0% ở QP4 và 51,7% ở
LVN10. Qua xử lý thống kê cho thấy các công thức có bón đạm qua các
giống có hàm lượng methionine cao hơn chắc chắn so với công thức không
bón đạm ở mức độ tin cậy 95%; công thức 1 (0N) đạt hàm lượng methionine
thấp nhất; công thức 3, công thức 4 và công thức 5 đạt hàm lượng methionine
tương đương nhau ở mức độ tin cậy 95%. Giống QP4 qua các liều lượng đạm
có hàm lượng methionine cao hơn giống LVN10 chắc chắn ở mức độ tin cậy
95%. Trong cùng một liều lượng đạm thì ở tất cả các công thức giống QP4
đạt hàm lượng methionine cao hơn giống LVN10. Ảnh hưởng của các liều
lượng đạm đến hàm lượng methionine của giống QPM TPTD QP4 cao hơn so
với giống ngô lai thường LVN10.
Tóm lại, ảnh hưởng của liều lượng đạm đến hàm lượng và chất lượng
protein của giống ngô QPM TPTD QP4 và ngô lai thường LVN10 rất rõ. Bón
đạm tăng làm tăng hàm lượng protein, tuy nhiên bón lượng đạm quá cao
không làm tăng chất lượng protein thêm nhiều so với lượng đạm trung bình.
Ảnh hưởng của liều lượng đạm đến hàm lượng và chất lượng protein của
giống ngô QPM TPTD QP4 cao hơn giống ngô lai thường LVN10.
0.00
1.00
2.00
3.00
4.00
5.00
6.00
7.00
8.00
9.00
10.00
11.00
12.00
QP4 LVN10 QP4 LVN10 QP4 LVN10
Protein Lysine Methionine
Hàm
lượng
%
N1
N2
N3
N4
N5
110
Biểu đồ 3.6. Ảnh hưởng của liều lượng đạm đến hàm lượng protein,
lysine và methionine của giống ngô QP4 và LVN10 (TB 2 vụ)
Kết quả nghiên cứu của chúng tôi phù hợp với kết luận của Tomov
(1984) [90], bón N tăng làm tăng sản lượng protein, nhưng chủ yếu là tăng
zein. Với liều lượng phân bón trung bình thì không thay đổi đáng kể hàm
lượng zein và vẫn đảm bảo tăng chất lượng protein. Khi bón không cân đối
các loại phân, với liều lượng 300N làm giảm chất lượng (khối lượng axit amin
không thay thế) và một số chất khác trên đơn vị diện tích.
Kết quả nghiên cứu của chúng tôi có điểm khác so với nhận xét của tác
giả Vivek và CS (2008) [98], một số nghiên cứu đã chỉ ra rằng ngô QPM
được trồng trong đất nghèo đạm thì có hàm lượng protein thấp hơn. Tuy
nhiên, chất lượng protein (lysine và tryptophan) không bị ảnh hưởng. Nói
cách khác, QPM vẫn còn là QPM khi được trồng trong đất nghèo đạm. Kết
quả nghiên cứu của chúng tôi được tiến hành trên đất cát pha bạc màu rất
nghèo đạm tại Thái Nguyên đã cho thấy trên nền 10 tấn phân hữu cơ + 80 kg
P2O5 + 80 kg K2O/ha, các công thức có bón đạm đã làm tăng hàm lượng
111
protein so với công thức không bón đạm và ở liều lượng 120 - 240N đạt hàm
lượng lysine và methionine cao hơn 0 - 60N. Kết quả cũng cho thấy giống
ngô QPM QP4 vẫn cho hàm lượng lysine và methionine cao ở liều lượng 0 -
60N so với giống ngô thường LVN10. Như vậy, ở liều lượng đạm thấp giống
ngô QPM QP4 vẫn cho chất lượng protein cao hơn giống ngô thường LVN10.
Kết quả nghiên cứu của chúng tôi cũng cho thấy trong vụ Xuân giống
ngô QPM TPTD QP4 và ngô lai thường LVN10 có hàm lượng protein và
lysine cao hơn so với vụ Thu Đông. Nguyên nhân là do vụ Xuân có nhiệt độ
trung bình 25,20C/tháng cao hơn vụ Thu Đông (23,10C/tháng). Kết quả này
phù hợp với kết luận của Zuber và CS, 1980 [102], yếu tố nhiệt độ là tác động
thuận, tăng tổng tích ôn hữu hiệu thì hàm lượng protein tăng.
3.2.7. Tương quan giữa liều lượng đạm và chất lượng của giống ngô QP4
và LVN10
Để có kết luận chính xác về quan hệ giữa liều lượng đạm bón với hàm
lượng và chất lượng protein của giống ngô QP4 và LVN10 (trung bình ba vụ),
chúng tôi tiến hành phân tích tương quan, kết quả thể hiện ở bảng 3.18.
Bảng 3.18. Mô hình phân tích tương quan giữa liều lượng đạm với hàm
lượng và chất lượng protein của giống ngô QP4 và LVN10
Chỉ tiêu
chất lượngGiống
Hàm tương quan tuyến
tính
Hệ số tương
quan R2
ProteinQP4 Pr = 8,202 + 0,015N* 0,818
LVN10 Pr = 8,002 + 0,005Nns 0,709
LysineQP4 Lys = 2,254 + 0,1N* 0,845
LVN10 Lys = 1,87 + 0,004Nns 0,731
Methionin
e
QP4 Met = 2,072 + 0,006N* 0,801
LVN10 Met = 1,558 + 0,003N** 0,954
112
(ns: Tương quan không có ý nghĩa; *,**: Tương quan có ý nghĩa ở mức 95%, 99%)
Số liệu bảng 3.18 cho thấy hàm lượng protein và chất lượng protein
(lysine và methionine) của giống QPM TPTD QP4 tương quan thuận và chặt
với liều lượng đạm bón. Còn đối với giống ngô lai thường LVN10, hàm lượng
protein và lysine tương quan không ý nghĩa, nhưng hàm lượng methionine
tương quan chặt với liều lượng đạm. Như vậy, có thể dựa vào hàm tương quan
tuyến tính ước lượng để dự đoán chất lượng ptotein của giống ngô QPM TPTD
QP4.
3.2.8. Hiệu quả kinh tế của các liều lượng đạm với giống ngô QP4 và LVN10
Công thức N1 (0N) do năng suất của hai giống ngô QP4 và LVN10 đạt
rất thấp nên hiệu quả kinh tế đạt thấp nhất. Đối với giống ngô QPM - QP4, ở
công thức N4 – 180N đạt hiệu quả kinh tế cao nhất; công thức N5 – 240N năng
suất thực thu tăng so với công thức N4 nhưng do mức phân đạm đầu tư cao
nên hiệu quả kinh tế thấp hơn công thức N4. Đối với giống ngô thường
LVN10, ở công thức N5 – 240N đạt hiệu quả kinh tế cao nhất.
Bảng 3.19. Hiệu quả kinh tế của liều lượng đạm đến giống ngô QP4
và LVN10 (trung bình 3 vụ)
Lượng đạm GiốngNăng suất
(kg/ha)Lãi thuần(1.000 đ)
0NQP4 2.440 3.547
LVN10 2.530 3.799
60NQP4 3.920 7.039
LVN10 4.170 7.739
120NQP4 4.890 9.103
LVN10 5.290 10.223
180NQP4 5.640 10.551
LVN10 6.080 11.783
113
240NQP4 5.820 10.403
LVN10 6.490 12.279
Ghi chú: Giá: Ngô hạt: 2.800 đ/kg; Phân chuồng: 200 đ/kg; Đạm Urê: 5.000 đ/kg; Lân Supe: 1.500 đ/kg; Kaliclorua: 4.000đ/kg
Biểu đồ 3.7. Hiệu quả kinh tế của liều lượng đạm đếngiống ngô QP4 và LVN10 (trung bình 3 vụ)
3.2.9. Hiệu quả nông học của N với giống ngô QP4 và LVN10
Hiệu quả nông học của N qua các giống ở cả ba vụ giảm dần từ 60N - 240N,
trong vụ Xuân 2005 biến động từ 28,0 (60N) - 14,7 kg ngô hạt/kg N (240N) ở
giống QP4 và từ 29,2 (60N) - 16,5 kg ngô hạt/kg N (240N) ở giống LVN10;
vụ Thu Đông 2005 biến động tương ứng từ 20,0 - 14,0 kg ngô hạt/kg N (QP4)
và từ 26,0 - 17,1 kg ngô hạt/kg N (LVN10); vụ Xuân 2006: 25,7 - 13,5 kg ngô
hạt/kg N (QP4) và từ 26,8 - 15,9 kg ngô hạt/kg N (LVN10); trung bình 3 vụ
biến động từ 24,7 – 14,1 kg ngô hạt/kg N (QP4) và từ 27,3 – 16,5 kg ngô
hạt/kg N (LVN10). Giống QPM TPTD QP4 có hiệu quả nông học của N thấp
hơn giống ngô lai thường LVN10. Hiệu quả nông học của N cả hai giống ở vụ
0123456789
10111213
N1 N2 N3 N4 N5
Công thức bón đạm
Lãi
thuần (
triệ
u đ
ồng)
QP4
LVN10
114
Xuân đạt cao hơn so với ở vụ Thu Đông. Hiệu quả nông học của N đạt cao
như vậy là do thí nghiệm được tiến hành trên đất cát pha bạc màu có hàm
lượng dinh dưỡng trong đất thấp, đặc biệt là hàm lượng N tổng số ở mức
trung bình.
Bảng 3.20. Hiệu quả nông học của N qua các liều lượng bón
đến giống ngô QP4 và LVN10 Đơn vị tính: Kg ngô/kg N
Lượng đạm Giống X.05 TĐ.05 X.06 TB
0NQP4 - - - -
LVN10 - - - -
60NQP4 28,0 20,0 25,7 24,7
LVN10 29,2 26,0 26,8 27,3
120NQP4 21,8 19,9 19,6 20,4
LVN10 23,4 23,9 21,8 23,0
180NQP4 18,9 17,4 17,0 17,8
LVN10 20,1 20,5 18,6 19,7
240NQP4 14,7 14,0 13,5 14,1
LVN10 16,5 17,1 15,9 16,53.2.10. Ảnh hưởng của liều lượng đạm đến năng suất protein của giống
ngô QP4 và LVN10
Số liệu bảng 3.21 cho thấy ảnh hưởng của liều lượng đạm đến năng
suất protein của giống ngô QPM QP4 và ngô thường LVN10 rất rõ, biến động
từ 182,5 (0N) – 659,4 kg/ha (240N) ở giống QP4 và từ 193,8 (0N) – 578,3
kg/ha (240N) ở giống LVN10. Mức bón 240N đạt năng suất protein cao nhất
ở cả hai giống. Ở mức 0N – 60N giống ngô QPM TPTD QP4 có năng suất
protein tương đương giống ngô lai thường LVN10. Mức 120 – 240N tuy năng
suất ngô hạt của giống QPM TPTD QP4 thấp hơn ngô lai thường LVN10
nhưng năng suất protein cao hơn. Ảnh hưởng của liều lượng đạm đến năng
115
suất protein của giống ngô QPM TPTD QP4 cao hơn so với giống ngô lai
thường LVN10. Như vậy, giống ngô QPM TPTD QP4 năng suất ngô hạt thấp
hơn giống ngô lai thường nhưng do hàm lượng protein cao nên năng suất
protein đạt cao hơn.
Bảng 3.21. Ảnh hưởng của liều lượng đạm đến năng suất protein
của giống ngô QP4 và LVN10 (TB 3 vụ)
Đơn vị tính: Kg/ha
GiốngLiều lượng đạm
0N 60N 120N 180N 240N
QP4 182,5 370,0 538,9 617,6 659,4
LVN10 193,8 354,9 471,9 541,1 578,3
Kết quả nghiên cứu của chúng tôi phù hợp với kết luận của Tomov
(1984) [90], phân đạm ảnh hưởng lớn nhất đến tích lũy protein trong ngô.
Cùng với việc tăng liều lượng phân, đặc biệt là phân đạm thì sẽ giảm tỷ suất
năng suất ngô trên đơn vị phân N nhưng làm tăng khối lượng protein trong
hạt cũng như trong tổng sinh khối nói chung, dẫn đến tăng nồng độ protein trong
các mô của cây và đảm bảo tăng năng suất protein trên đơn vị diện tích gieo
trồng.
Tóm lại, liều lượng đạm 180N cho năng suất và hiệu quả kinh tế cao
nhất với hai giống QPM QP4 và ngô thường LVN10. Liều lượng 240N đạt
hàm lượng protein cao nhất. Liều lượng 120 - 240N đạt hàm lượng lysine và
methionine cao tương đương nhau. Ảnh hưởng của liều lượng đạm đến sinh
trưởng, phát triển và năng suất của giống ngô QPM TPTD QP4 thấp hơn so
với giống ngô lai thường LVN10. Ngược lại, ảnh hưởng của liều lượng đạm
đến hàm lượng và chất lượng protein của giống ngô QPM TPTD QP4 cao
hơn so với giống ngô lai thường LVN10.
116
3.3. Kết quả thí nghiệm ảnh hưởng của liều lượng lân đến sinh trưởng,
phát triển, năng suất và chất lượng của giống ngô chất lượng protein
cao tại Thái Nguyên
3.3.1. Ảnh hưởng của liều lượng lân đến thời gian sinh trưởng qua các thời
kỳ phát dục của giống ngô QP4 và LVN10
Qua theo dõi các thời kỳ sinh trưởng phát triển của giống ngô QP4 và
LVN10 qua các công thức bón phân lân ở vụ Xuân 2005, vụ Thu Đông 2005,
vụ Xuân 2006, chúng tôi thu được kết quả ở bảng 3.22.
3.3.1.1. Ảnh hưởng của liều lượng lân đến giai đoạn từ gieo đến tung phấn
Số liệu bảng 3.22 cho thấy: Ảnh hưởng của liều lượng lân đến thời gian
từ gieo - tung phấn biến động từ 63 (120 – 160P2O5) – 69 ngày (0P2O5) ở
giống QP4 và từ 65 (120 – 160P2O5) – 72 ngày (0P2O5) ở giống LVN10.
Trong đó, các liều lượng 120 – 160P2O5 qua các giống có thời gian từ gieo -
tung phấn ngắn nhất, liều lượng 0P2O5 dài nhất. Như vậy, bón P cao và cân
đối với NK làm rút ngắn thời gian từ gieo đến tung phấn.
Ở vụ Thu Đông, thời gian từ gieo đến tung phấn của các giống ngô qua
các liều lượng lân ngắn hơn so với vụ Xuân. Giống ngô QP4 qua các liều
lượng lân có thời gian từ gieo đến tung phấn ngắn hơn giống LVN10.
3.3.1.2. Ảnh hưởng của liều lượng lân đến giai đoạn từ khi gieo đến phun râu
Trung bình ba vụ cho thấy ảnh hưởng của liều lượng lân đến thời gian từ
gieo – phun râu biến động từ 65 (120 - 160P2O5) – 73 ngày (0P2O5) ở giống
QP4 và từ 67 (120 - 160P2O5) – 77 ngày (0P2O5) ở giống LVN10. Như vậy,
bón lân mức 120 - 160P2O5 làm rút ngắn thời gian từ gieo đến phun râu từ 8 –
10 ngày so với không bón lân.
Bảng 3.22. Ảnh hưởng của liều lượng lân đến thời gian sinh trưởng
qua các thời kỳ phát dục của giống ngô QP4 và LVN10
Đơn vị tính: Ngày
117
Lượng
lânGiống
Thời gian từ gieo đến
Tung phấn Phun râu Chín
X. 05TĐ.
05X. 06 TB X. 05
TĐ.
05X. 06 TB X. 05
TĐ.
05X. 06 TB
0P2O5
QP4 72 62 72 69 76 66 76 73 121 116 120 119
LVN10 76 66 75 72 80 70 80 77 127 124 125 125
40P2O5
QP4 70 59 69 66 73 62 72 69 120 114 117 117
LVN10 73 62 71 69 76 65 74 72 125 120 122 122
80P2O5
QP4 69 57 67 64 71 59 69 66 119 112 115 115
LVN10 71 60 69 67 74 62 72 69 124 117 120 120
120P2O5
QP4 68 56 66 63 70 58 68 65 118 110 114 114
LVN10 70 58 68 65 72 60 70 67 123 115 119 119
160P2O5
QP4 68 56 66 63 70 58 68 65 117 109 114 113
LVN10 70 57 68 65 72 59 70 67 122 115 118 118
Ảnh hưởng của liều lượng lân qua các giống đến khoảng cách tung phấn
- phun râu (ASI) biến động từ 2 (80 - 160P2O5) – 4-5 ngày (0P2O5). Như vậy,
không bón lân và bón quá ít làm kéo dài khoảng cách tung phấn – phun râu,
ảnh hưởng xấu đến quá trình thụ phấn thụ tinh và giảm năng suất sau này.
Giống ngô QP4 qua các liều lượng lân có thời gian từ gieo đến phun râu
ngắn hơn giống LVN10.
3.3.1.3. Ảnh hưởng của liều lượng lân đến thời gian sinh trưởng
Số liệu bảng 3.22 cho thấy ảnh hưởng của lân qua các giống đến thời
gian sinh trưởng biến động từ 113 (160P2O5) – 119 ngày (0P2O5) ở giống QP4
và từ 118 (160P2O5) – 125 (0P2O5) ở giống LVN10. Như vậy, ảnh hưởng của
lân đến thời gian sinh trưởng qua các công thức (trung bình ba vụ) thể hiện rất
rõ. Bón lân tăng làm rút ngắn thời gian sinh trưởng, ở liều lượng lân 160P 2O5
118
cây ngô sinh trưởng ngắn hơn 6 ngày (QP4) và 7 ngày (LVN10) so với không
bón lân (0P2O5). Giống ngô QP4 qua các liều lượng lân có thời gian sinh
trưởng ngắn hơn giống LVN10. Ảnh hưởng của liều lượng lân đến thời gian
sinh trưởng giống của giống ngô QPM TPTD QP4 ít hơn giống ngô lai
thường LVN10. Vụ Thu Đông có thời gian sinh trưởng của các giống ngô qua
các liều lượng lân ngắn hơn so với vụ Xuân.
Kết quả nghiên cứu của chúng tôi phù hợp với nghiên cứu của Trần Văn
Minh (1995) [28], bón lân có khả năng rút ngắn thời gian sinh trưởng của
ngô, làm tăng năng suất một cách rõ rệt.
3.3.2. Ảnh hưởng của liều lượng lân đến các đặc điểm hình thái của giống
ngô QP4 và LVN10
3.3.2.1. Ảnh hưởng của liều lượng lân đến chiều cao cây và chiều cao
đóng bắp
Qua số liệu bảng 3.23 cho thấy: Trung bình ba vụ, ảnh hưởng của lân
qua các giống đến chiều cao cây biến động từ 183,5 (0P2O5) – 205,2 cm
(160P2O5) ở giống QP4 và từ 196,6 (0P2O5) – 227,2 cm (160P2O5) ở giống
LVN10; đến chiều cao đóng bắp biến động từ 98,6 (0P2O5) – 107,6 cm
(160P2O5) ở QP4 và từ 111,4 (0P2O5) – 122,8 cm (160P2O5) ở LVN10.
Trung bình của ba vụ thí nghiệm cho thấy, ảnh hưởng của lân đến chiều
cao cây và chiều cao đóng bắp của các giống rất rõ. Bón lân tăng làm tăng
chiều cao cây, ở liều lượng 160P2O5 làm tăng thêm 11,8% (QP4) và 15,6%
(LVN10) so với không bón lân (0P2O5). Giống QP4 có chiều cao cây và chiều
cao đóng bắp thấp hơn giống LVN10, đồng thời ảnh hưởng của liều lượng lân
đến chiều cao cây ít hơn so với LVN10 (bảng 3.23).
Bảng 3.23. Ảnh hưởng của liều lượng lân đến chiều cao cây và chiều cao
đóng bắp của giống ngô QP4 và LVN10
Giống Chiều cao cây (cm) Chiều cao đóng bắp (cm)
119
Lượng
lânX.05 TĐ.05 X.06 TB X.05 TĐ.05 X.06 TB
0P2O5
QP4 183,1 186,8 180,6 183,5 97,8 100,5 97,6 98,6
LVN10 199,9 194,2 195,7 196,6 108,3 114,4 111,5 111,4
40P2O5
QP4 189,7 192,3 186,7 189,6 99,9 100,9 97,9 99,6
LVN10 209,7 210,0 205,6 208,4 115,8 118,3 115,1 116,4
80P2O5
QP4 195,5 197,9 191,6 195,0 104,8 102,6 98,7 102,0
LVN10 219,0 219,5 214,6 217,7 120,2 119,5 118,0 119,2
120P2O5
QP4 200,7 207,6 198,2 202,2 105,0 105,4 103,3 104,6
LVN10 223,3 226,4 221,0 223,6 122,9 121,7 118,3 121,0
160P2O5
QP4 203,3 210,9 201,5 205,2 107,5 107,0 108,4 107,6
LVN10 226,6 230,3 224,8 227,2 122,2 125,6 120,7 122,8
3.3.2.2. Ảnh hưởng của liều lượng lân đến số lá trên cây và chỉ số diện tích lá
Ảnh hưởng của liều lượng lân qua các giống đến số lá/cây trung bình ba
vụ biến động từ 18,7 (0P2O5) – 20,1 lá (160P2O5) ở giống QP4 và từ 18,8
(0P2O5) – 20,3 lá (160P2O5) ở giống LVN10. Như vậy, ảnh hưởng của liều
lượng lân đến số lá/cây của giống QP4 và LVN10 không rõ. Hai giống QP4
và LVN10 có số lá/cây tương đương nhau (bảng 3.24).
Ảnh hưởng của liều lượng lân qua các giống đến chỉ số diện tích lá trung
bình ba vụ biến động từ 2,6 (0P2O5) – 3,6 m2lá/m2đất (160P2O5) ở giống QP4
và từ 2,6 (0P2O5) – 3,8 m2lá/m2đất (160P2O5) ở giống LVN10. Như vậy, ảnh
hưởng của liều lượng lân đến chỉ số diện tích lá của giống QP4 và LVN10 rất
rõ, tăng tỷ lệ thuận theo mức bón lân tăng. Liều lượng 160P2O5 làm tăng thêm
38,5% ở QP4 và 46,2% ở LVN10 so với không bón lân (0P2O5).
Bảng 3.24. Ảnh hưởng của liều lượng lân đến số lá và chỉ số diện tích lá
của giống ngô QP4 và LVN10
120
Lượng
lânGiống
Số lá (lá) CSDTL (m2 lá/m2 đất)
X.05 TĐ.05 X.06 TB X.05 TĐ.05 X.06 TB
0P2O5
QP4 18,9 18,7 18,6 18,7 2,4 2,7 2,6 2,6
LVN10 19,0 18,8 18,7 18,8 2,4 2,8 2,7 2,6
40P2O5
QP4 19,5 19,4 19,3 19,4 2,8 3,0 2,9 2,9
LVN10 19,6 19,6 19,3 19,5 2,9 3,1 3,0 3,0
80P2O5
QP4 19,8 19,9 19,6 19,8 3,1 3,3 3,2 3,2
LVN10 20,0 20,0 19,7 19,9 3,2 3,4 3,3 3,3
120P2O5
QP4 20,0 20,2 19,9 20,0 3,4 3,6 3,6 3,5
LVN10 20,2 20,3 20,1 20,2 3,5 3,8 3,7 3,7
160P2O5
QP4 20,0 20,3 20,1 20,1 3,5 3,7 3,5 3,6
LVN10 20,3 20,4 20,2 20,3 3,7 3,9 3,8 3,8
Như vậy, lân ảnh hưởng không lớn đến số lá nhưng làm tăng chỉ số diện
tích lá góp phần tăng năng suất sau này. Ảnh hưởng của liều lượng lân đến
chỉ số diện tích lá của giống QPM TPTD QP4 thấp hơn giống ngô lai thường
LVN10.
3.3.3. Ảnh hưởng của liều lượng lân đến khả năng chống chịu của giống
ngô QP4 và LVN10
3.3.3.1. Ảnh hưởng của liều lượng lân đến khả năng chống đổ
Kết quả ở bảng 3.25 cho thấy: Ảnh hưởng của liều lượng lân qua các
giống đến tỷ lệ đổ rễ trung bình ba vụ biến động từ 4,0 (120P2O5) – 10,8%
(0P2O5) ở giống QP4 và từ 4,6 (120P2O5) – 13,5% (0P2O5) ở giống LVN10.
Như vậy, bón lân làm cây ngô sinh trưởng khoẻ, cứng cây, giảm tỷ lệ đổ rễ rất rõ.
Ảnh hưởng của liều lượng lân qua các giống đến tỷ lệ gãy thân trung
bình ba vụ biến động từ 2,1 (160P2O5) – 5,5% (0P2O5) ở giống QP4 và từ 3,0
(120-160P2O5) – 6,7% (0P2O5) ở giống LVN10 (bảng 3.25).
Bảng 3.25. Ảnh hưởng của liều lượng lân đến tỷ lệ đổ rễ, gãy thân
121
của giống ngô QP4 và LVN10
Lượng
lânGiống
Đổ rễ (%) Gãy thân (%)
X.05 TĐ.05 X.06 TB X.05 TĐ.05 X.06 TB
0P2O5
QP4 8,3 10,5 13,5 10,8 6,9 5,0 4,6 5,5
LVN10 10,1 12,0 18,4 13,5 7,8 6,3 5,9 6,7
40P2O5
QP4 5,6 6,7 9,8 7,4 5,4 3,3 3,1 3,9
LVN10 6,2 8,3 12,9 9,1 6,0 4,5 4,6 5,0
80P2O5
QP4 3,5 5,9 7,5 5,6 3,8 2,1 3,0 3,0
LVN10 4,5 6,7 9,5 6,9 4,5 3,2 4,1 3,9
120P2O5
QP4 2,3 4,2 5,5 4,0 2,5 1,7 2,5 2,2
LVN10 4,0 4,0 5,8 4,6 4,1 2,5 2,5 3,0
160P2O5
QP4 2,1 4,5 5,9 4,2 2,5 2,0 1,8 2,1
LVN10 3,6 4,9 6,3 4,9 3,8 2,4 2,9 3,0
Tóm lại, trung bình ba vụ cho thấy liều lượng lân ảnh hưởng rất rõ đến tỷ
lệ đổ rễ và gãy thân, bón lân tăng làm giảm tỷ lệ đổ rễ và gãy thân, liều lượng
120P2O5 có tỷ lệ đổ rễ thấp nhất và cao nhất là ở liều lượng 0P 2O5; ở liều
lượng 120P2O5 - 160P2O5 có tỷ lệ gãy thân thấp hơn ở liều lượng 0P2O5 -
80P2O5. Giống QP4 qua các liều lượng lân có tỷ lệ đổ rễ, gãy thân thấp hơn
giống LVN10.
3.3.3.2. Ảnh hưởng của liều lượng lân đến khả năng chống chịu sâu bệnh
Nhìn bảng 3.26, cho thấy: Trung bình ba vụ, ảnh hưởng của liều lượng
lân qua các giống đến mức độ nhiễm sâu đục thân biến động từ điểm 3 – 5,
trong đó liều lượng 120 - 160P2O5 bị sâu hại nhẹ nhất ở cả 2 giống (điểm 3),
mức 0P2O5 bị sâu đục thân hại nặng nhất (điểm 4 – QP4; 5 – LVN10). Giống
ngô QP4 qua các liều lượng lân bị nhiễm sâu đục thân nhẹ hơn giống LVN10.
Như vậy, bón lân ảnh hưởng đến khả năng kháng sâu đục thân, không bón và
122
bón lân ít làm cây sinh trưởng phát triển yếu dễ bị sâu phá hại hơn bón lân cao
và cân đối với đạm - kali.
Bảng 3.26. Ảnh hưởng của liều lượng lân đến tỷ lệ bị nhiễm sâu đục thân và
bệnh khô vằn của giống ngô QP4 và LVN10
Lượng
lânGiống
Sâu Đục thân (điểm 1-5) Bệnh Khô vằn (điểm 1-5)
X.05 TĐ.05 X.06 TB X.05 TĐ.05 X.06 TB
0P2O5
QP4 5 3 4 4 3 2 3 3
LVN10 5 4 5 5 3 3 4 3
40P2O5
QP4 4 3 3 3 2 2 3 2
LVN10 4 4 4 4 3 3 3 3
80P2O5
QP4 3 2 3 3 2 2 2 2
LVN10 4 3 4 4 3 3 3 3
120P2O5
QP4 3 2 3 3 2 2 2 2
LVN10 4 3 3 3 2 2 3 2
160P2O5
QP4 3 2 3 3 2 2 3 2
LVN10 3 2 3 3 3 2 3 3
Ảnh hưởng của liều lượng lân qua các giống đến mức độ nhiễm bệnh
khô vằn biến động từ điểm 2 – 3. Liều lượng 120P2O5 bị nhiễm bệnh khô vằn
nhẹ nhất (điểm 2), liều lượng 0P2O5 bị hại nặng nhất (điểm 3) ở cả hai giống.
Giống ngô QP4 qua các liều lượng lân bị nhiễm bệnh khô vằn nhẹ hơn giống
LVN10.
Liều lượng lân khác nhau cũng ảnh hưởng đến mức độ nhiễm sâu đục
thân và bệnh khô vằn, bón lân tăng làm giảm tỷ lệ nhiễm sâu bệnh. Liều
lượng 120P2O5 - 160P2O5 có tỷ lệ nhiễm sâu đục thân thấp hơn ở liều lượng
0P2O5 - 80P2O5. Ở liều lượng 120P2O5 bị nhiễm bệnh khô vằn thấp nhất trong
cả hai giống.
123
Tóm lại, bón lân có ảnh hưởng đến khả năng chống chịu của giống QP4
và LVN10, bón lượng lân cao 120 - 160P2O5 ngô có khả năng chống chịu tốt
hơn ở lượng 0P2O5 - 80P2O5. Giống QP4 có khả năng chống đổ rễ, gãy thân
và sâu bệnh tốt hơn LVN10.
3.3.4. Ảnh hưởng của liều lượng lân đến các yếu tố cấu thành năng suất và
năng suất của giống ngô QP4 và LVN10
Số liệu bảng 3.27a cho thấy: Ảnh hưởng của liều lượng lân đến chiều dài
bắp biến động từ 13,1 cm (0P2O5) – 16,2 cm (160P2O5) ở QP4 và từ 13,5 cm
(0P2O5) – 17,7 cm (160P2O5) ở LVN10. Như vậy, liều lượng lân ảnh hưởng
lớn đến chiều dài bắp, liều lượng lân tăng thì chiều dài bắp cũng tăng, ở lượng
160P2O5 chiều dài bắp tăng hơn 23,7% (QP4) và 31,1% (LVN10) so với
không bón lân.
Ảnh hưởng của liều lượng lân đến đường kính bắp biến động từ 3,8 cm
(0P2O5) – 4,8 cm (160P2O5) ở QP4 và từ 3,9 cm (0P2O5) – 5,0 cm (160P2O5) ở
LVN10. Như vậy, liều lượng lân ảnh hưởng lớn đến đường kính bắp, liều
lượng lân tăng thì đường kính bắp cũng tăng, ở liều lượng 160P2O5 tăng thêm
26,3% (QP4) và 28,2% (LVN10) so với không bón lân (0P2O5).
Bảng 3.27a. Ảnh hưởng của liều lượng lân đến các yếu tố cấu thành
năng suất và năng suất của giống ngô QP4 và LVN10
Lượng
lânGiống
Dài bắp
(cm)
Đường kính bắp
(cm)
HH/
bắp
(hàng)
Hạt/hàng
(hạt)
X.
05
TĐ.
05
X.
06TB
X.
05
TĐ.
05
X.
06TB TB
X.
05
TĐ.
05
X.
06TB
0P2O5
QP4 13,0 13,4 12,8 13,1 3,9 3,8 3,7 3,8 13,6 26,6 26,5 25,7 26,3
LVN10 13,6 13,9 13,0 13,5 4,0 3,8 3,8 3,9 13,2 28,0 27,6 26,6 27,4
40P2O5 QP4 14,3 14,3 14,0 14,2 4,1 4,3 4,1 4,2 14,0 29,7 30,5 28,7 29,6
124
LVN10 14,9 15,2 14,5 14,9 4,3 4,3 4,3 4,3 13,7 30,2 31,6 29,2 30,3
80P2O5
QP4 15,1 15,0 14,5 14,9 4,3 4,6 4,4 4,4 14,2 31,1 33,8 30,0 31,6
LVN10 16,4 16,4 16,5 16,4 4,5 4,7 4,7 4,6 13,9 33,0 34,9 32,5 33,5
120P2O5
QP4 15,8 15,7 15,9 15,8 4,5 4,9 4,7 4,7 14,4 31,8 35,0 31,9 32,9
LVN10 17,0 17,5 17,8 17,4 4,8 5,1 4,9 4,9 14,1 34,5 36,8 34,6 35,3
160P2O5
QP4 16,0 16,0 16,5 16,2 4,6 4,9 4,8 4,8 14,4 31,9 35,4 32,5 33,3
LVN10 17,3 17,9 18,0 17,7 4,9 5,2 5,0 5,0 14,1 34,7 37,3 35,3 35,8
CV,% (lân) 5,8 6,4 6,0 5,0 6,0 5,6 6,8 7,4 7,1
CV,% (giống) 4,9 5,1 5,4 4,1 4,3 3,9 5,2 4,9 4,6
LSD05 (lân) 0,3 0,5 0,4 0,2 0,1 0,1 0,3 0,4 0,5
LSD05 (giống) 0,9 1,1 1,0 0,2 0,1 0,1 1,5 1,2 1,6
Ảnh hưởng của lân đến số hàng hạt/bắp không lớn, biến động từ 13,6
(0P2O5) - 14,4 hàng (120P2O5 - 160P2O5 ) ở QP4 và từ 13,2 (0P2O5) - 14,1
hàng (120P2O5 - 160P2O5) ở LVN10.
Liều lượng lân ảnh hưởng lớn đến số hạt/hàng và khối lượng 1000 hạt.
Ảnh hưởng của liều lượng lân đến số hạt/hàng biến động từ 26,3 hạt (0P2O5) – 33,3
hạt (160P2O5) ở QP4 và từ 27,4 hạt (0P2O5) – 35,8 hạt (160P2O5) ở LVN10.
Liều lượng lân tăng thì số hạt/hàng cũng tăng, ở liều lượng 160P2O5 tăng
thêm 26,6% (QP4) và 30,7% (LVN10). Cùng theo đó khối lượng 1000 hạt
cũng biến động từ 268,1g (0P2O5) – 312,8g (160P2O5) ở QP4 và từ 283,6g
(0P2O5) – 324,2g (160P2O5) ở LVN10. Ở liều lượng 160P2O5 khối lượng 1000
hạt tăng thêm 16,7% (QP4) và 14,3% (LVN10) so với không bón lân (0P2O5).
Bảng 3.27b. Ảnh hưởng của liều lượng lân đến các yếu tố cấu thành năng
suất và năng suất của giống ngô QP4 và LVN10
Lượng
lânGiống
P1000hạt (g) NSTT (tạ/ha)
X.05 TĐ.05 X.06 TB X.05 TĐ.05 X.06 TB
125
0P2O5
QP4 260,1 279,0 265,3 268,1 25,3 32,3 28,9 28,8
LVN10 280,7 290,7 279,5 283,6 27,6 31,2 30,5 29,8
40P2O5
QP4 287,7 300,5 284,0 290,7 35,7 42,7 39,0 39,1
LVN10 299,5 305,0 298,7 301,1 39,0 43,8 42,1 41,6
80P2O5
QP4 296,3 311,3 294,0 300,5 44,5 50,3 47,0 47,3
LVN10 310,0 316,7 306,7 311,1 48,3 53,7 51,9 51,3
120P2O5
QP4 307,1 317,1 309,3 311,2 50,5 55,5 54,3 53,4
LVN10 321,6 325,0 317,0 321,2 56,7 61,7 59,7 59,4
160P2O5
QP4 308,7 318,6 311,1 312,8 51,7 56,8 55,0 54,5
LVN10 325,0 328,3 319,4 324,2 57,9 62,1 60,9 60,3
CV,% (lân) 7,2 8,9 8,5 10,4 12,8 11,7
CV,% (giống) 5,0 5,5 5,2 6,4 7,0 8,6
LSD05 (lân) 5,3 5,6 4,8 4,5 3,0 3,4
LSD05 (giống) 12,5 8,6 10,3 3,3 2,7 3,0
Như vậy, bón lân làm tăng chiều dài, đường kính bắp, số hạt/hàng và
khối lượng 1000 hạt, làm cơ sở cho tăng năng suất ngô hạt. Kết quả của
chúng tôi cũng khá phù hợp với kết quả nghiên cứu của Akhtar và CS, (1999)
[55], sự tăng năng suất hạt là do có sự tăng diện tích lá/cây, chiều dài bắp, số
hạt/ bắp và khối lượng 1000 hạt. Theo Arnon (1974) [57], lân kích thích sự
hình thành rễ cây ngô, trợ giúp quá trình chín của cây và ảnh hưởng đến sự
phát triển của hạt.
Ảnh hưởng của liều lượng lân đến năng suất thực thu (NSTT) trung bình
ba vụ được thể hiện rõ nhất, tăng theo các liều lượng lân tăng. Năng suất thực
thu biến động từ 28,8 (0P2O5) - 54,5 tạ/ha (160P2O5) ở giống QP4 và từ 29,8
(0P2O5) - 60,3 tạ/ha (160P2O5) ở giống LVN10. Ở liều lượng 160P2O5, năng
suất thực thu tăng hơn 89,2% ở QP4 và 102,4% ở LVN10 so với không bón
lân (0P2O5) (bảng 3.27b).
126
Qua xử lý thống kê ở ba vụ cho thấy tất cả các công thức có bón lân qua
các giống (40P2O5 - 160P2O5) đều có năng suất thực thu cao hơn công thức
không bón lân (0P2O5); Công thức 120P2O5 và 160P2O5 có năng suất thực thu
tương đương nhau ở mức tin cậy 95%. Giống QP4 đạt NSTT trung bình qua
các công thức bón lân thấp hơn giống LVN10 ở mức tin cậy 95%. Trong cùng
một liều lượng lân, NSTT của giống QP4 thấp hơn giống LVN10 ở mức
80P2O5 – 160P2O5, còn ở mức 0P2O5 – 40P2O5 thì tương đương nhau. Ảnh
hưởng của các liều lượng lân đến NSTT của giống QPM TPTD QP4 tương
đương giống ngô lai thường LVN10, tăng dần theo liều lượng lân tăng nhưng
ở liều lượng 160P2O5 thì không tăng. Kết quả này phù hợp với kết quả nghiên
cứu của Trần Văn Minh (1995) [28]; và kết quả nghiên cứu của Evangelista
(1999) năng suất ngô tăng lên cùng với việc tăng liều lượng lân, năng suất chỉ
bắt đầu giảm xuống khi bón đến mức 160 kg P2O5/ha (dẫn theo Trần Văn
Minh, 2004) [29].
127
0
10
20
30
40
50
60
70
P1 P2 P3 P4 P5
Công thức bón lân
Năn
g s
uấ
t th
ực
thu
(tạ
/ha)
QP4
LVN10
Biểu đồ 3.8. Ảnh hưởng của liều lượng lân đến năng suất của
giống ngô QP4 và LVN10 (trung bình 3 vụ)
3.3.5. Tương quan giữa liều lượng lân và năng suất của giống ngô QP4 và
LVN10
Để có kết luận chính xác về quan hệ giữa liều lượng lân bón với năng
suất của giống ngô TPTD QP4 và giống ngô thường LVN10, chúng tôi tiến
hành phân tích tương quan.
Bảng 3.28. Mô hình tương quan tuyến tính dự đoán năng suất
giống ngô QP4 và LVN10 dựa trên liều lượng lân
Giống Hàm tương quan tuyến tính Hệ số tương quan R2
QP4 Năng suất = 3148 + 16,425P** 0,933
LVN10 Năng suất = 3272 + 19,7P** 0,936
(P: Liều lượng lân; **: Tương quan có ý nghĩa ở mức 99%)
128
Số liệu bảng 3.28 cho thấy năng suất hai giống ngô QP4 và LVN10
tương quan thuận và rất chặt với liều lượng lân bón. Với liều lượng lân bón cụ
thể và dựa vào hàm tương quan tuyến tính ước lượng trên có thể dự đoán
được năng suất của giống ngô QP4 và LVN10.
NS (QP4) y = -0.0009x2 + 0.3107x + 28.551
R2 = 0.9979
0
10
20
30
40
50
60
70
0 40 80 120 160 200
Lân (kg P2O5/ha)
Tạ/
ha
NS (LVN10) y = -0.001x2 + 0.3641x + 29.377
R2 = 0.9953
0
10
20
30
40
50
60
70
0 40 80 120 160 200
Lân (kg P2O5/ha)
Tạ/
ha
Biểu đồ 3.9. Đồ thị năng suất QP4
theo các liều lượng lân
Biểu đồ 3.10. Đồ thị năng suất
LVN10 theo các liều lượng lân
+ Phương trình tương quan giữa liều lượng lân và năng suất giống ngô
TPTD QP4 (trung bình ba vụ) là đường parabon ứng với hàm số:
y = -0,0009x2 + 0,3107x + 28,551
- Lượng bón tối đa về kỹ thuật là 173 kg P2O5/ha.
- Lượng bón tối thích về kinh tế là 170 kg P2O5/ha.
+ Phương trình tương quan giữa liều lượng lân và năng suất giống ngô
lai thường LVN10 (trung bình ba vụ) là đường parabon ứng với hàm số:
129
y = -0,001x2 + 0,3641x + 29,377
- Lượng bón tối đa về kỹ thuật là 182 kg P2O5/ha.
- Lượng bón tối thích về kinh tế là 179 kg P2O5/ha.
3.3.6. Ảnh hưởng của liều lượng lân đến hàm lượng và chất lượng protein
của giống ngô QP4 và LVN10
Số liệu bảng 3.29 cho thấy ảnh hưởng của các liều lượng lân đến hàm
lượng protein tổng số của các giống ngô rất rõ, biến động từ 9,05% (0P2O5) -
11,03% (120P2O5) ở giống QP4 và từ 8,07% (0P2O5) – 8,88% (120P2O5) ở
giống LVN10. Hàm lượng protein tổng số tăng dần theo các liều lượng lân
tăng và dừng lại ở liều lượng 120P2O5, tăng hơn so với không bón lân là
21,8% ở QP4 và 7,8% ở LVN10.
Qua xử lý thống kê cho thấy các công thức 40 – 160P2O5 có hàm lượng
protein tổng số cao hơn có ý nghĩa so với công thức 0P2O; liều lượng lân
120 – 160P2O5 đạt hàm lượng protein tương đương nhau và cao nhất ở mức độ
tin cậy 95%. Giống QP4 qua các liều lượng lân có hàm lượng protein cao hơn
giống LVN10 có ý nghĩa ở mức độ tin cậy 95%. Trong cùng một liều lượng
lân thì giống QP4 đạt hàm lượng protein cao hơn giống LVN10 ở tất cả các
công thức. Ảnh hưởng của các liều lượng lân đến hàm lượng protein của
giống QPM TPTD QP4 rất rõ, tăng dần theo các liều lượng lân tăng đến mức
120P2O5; đến giống ngô lai thường LVN10: Không bón lân đạt thấp nhất, tiếp
đến là liều lượng 40P2O5, các liều lượng 80 - 120 - 160P2O5 đạt tương đương
nhau ở mức độ tin cậy 95%.
Ảnh hưởng của các liều lượng lân đến hàm lượng lysine của các giống
ngô rất rõ, biến động từ 2,87 (0P2O5) - 4,26% (160P2O5) ở QP4 và từ 2,1
(0P2O5) – 2,73% (160P2O5) ở LVN10. Hàm lượng lysine tăng dần theo các
liều lượng lân tăng và ở liều lượng 160P2O5 hàm lượng lysine tăng hơn so với
không bón lân là 48,4% ở QP4 và 30,0% ở LVN10. Xử lý thống kê cho thấy
các công thức (40 – 160P2O5) có hàm lượng lysine cao hơn có ý nghĩa so với
130
công thức 0P2O5 ở mức độ tin cậy 95%; công thức 120 – 160P2O5 đạt hàm
lượng lysine tương đương nhau ở mức độ tin cậy 95%. Giống QP4 qua các
liều lượng lân có hàm lượng lysine cao hơn giống LVN10 có ý nghĩa ở mức
độ tin cậy 95%. Ảnh hưởng của liều lượng lân đến hàm lượng lysine của
giống QPM - QP4 rất rõ, tăng dần theo các liều lượng lân tăng, đạt cao nhất ở
liều lượng 160P2O5; đến giống ngô thường LVN10: Kông bón lân đạt thấp
nhất, tiếp đến là liều lượng 40P2O5, các liều lượng 80 – 160P2O5 đạt tương
đương nhau ở mức độ tin cậy 95%.
Bảng 3.29. Ảnh hưởng của liều lượng lân đến hàm lượng protein, lysine và
methionine của các giống ngô thí nghiệm vụ Xuân và Thu Đông 2005
Lượng
lânGiống
Protein tổng số
(%)
Lysine/Protein
(%)
Methionine/Protein
(%)
X.
05
TĐ.
05TB
X.
05
TĐ.
05TB
X.
05
TĐ.
05TB
0P2O5
QP4 9,09 9,00 9,05 2,95 2,78 2,87 2,41 2,60 2,51
LVN10 8,24 7,90 8,07 2,23 1,97 2,10 1,67 1,79 1,73
40P2O5
QP4 10,48 9,68 10,08 3,45 3,30 3,38 2,83 2,91 2,87
LVN10 8,34 8,33 8,34 2,56 2,27 2,42 1,86 1,94 1,90
80P2O5
QP4 10,60 10,63 10,62 3,94 3,85 3,90 3,03 3,10 3,07
LVN10 8,85 8,68 8,77 2,78 2,45 2,62 2,02 2,06 2,04
120P2O5
QP4 11,07 10,98 11,03 4,12 4,09 4,11 3,11 3,19 3,15
LVN10 8,98 8,78 8,88 2,86 2,56 2,71 2,09 2,12 2,11
160P2O5
QP4 10,95 10,91 10,93 4,28 4,24 4,26 3,16 3,28 3,22
LVN10 8,75 8,27 8,51 2,96 2,50 2,73 2,12 2,15 2,14
CV,% (lân) 2,22 2,35 1,98 2,17 2,00 2,13
CV,% (giống) 1,71 1,82 1,85 1,79 1,56 1,66
LSD05 (lân) 0,21 0,30 0,13 0,10 0,06 0,07
LSD05 (giống) 0,75 0,80 0,59 0,67 0,42 0,56
131
Ảnh hưởng của các liều lượng lân đến hàm lượng methionine của các
giống ngô rất rõ, biến động từ 2,51 (0P2O5) - 3,22% (160P2O5) ở giống QP4
và từ 1,73 (0P2O5) – 2,14% (160P2O5) ở giống LVN10. Hàm lượng
methionine tăng dần theo các liều lượng lân tăng và ở liều lượng 160P2O5,
hàm lượng methionine tăng hơn so với không bón lân là 28,3% ở QP4 và
23,7% ở LVN10. Qua xử lý thống kê cho thấy các công thức có bón lân qua
các giống có hàm lượng methionine cao hơn có ý nghĩa so với công thức
không bón lân ở mức độ tin cậy 95%; công thức 4, 5 (120 – 160 P2O5) đạt
hàm lượng methionine cao nhất ở mức độ tin cậy 95%. Giống QP4 qua các
mức lân có hàm lượng methionine cao hơn giống LVN10 có ý nghĩa ở mức
độ tin cậy 95%. Ảnh hưởng của các liều lượng lân đến hàm lượng methionine
của giống QPM TPTD QP4 tương tự như với giống ngô lai thường LVN10.
Biểu đồ 3.11. Ảnh hưởng của liều lượng lân đến hàm lượng protein,
lysine và methionine của giống ngô QP4 và LVN10 (TB 2 vụ)
0.00
1.00
2.00
3.00
4.00
5.00
6.00
7.00
8.00
9.00
10.00
11.00
12.00
QP4 LVN10 QP4 LVN10 QP4 LVN10
Protein Lysine Methionine
Hàm
lượn
g %
P1
P2
P3
P4
P5
132
Như vậy, ảnh hưởng của các liều lượng lân đến hàm lượng protein tổng
số, lysine/protein và methionine của giống QPM TPTD QP4 cao hơn so với
giống ngô lai thường LVN10.
3.3.7. Tương quan giữa liều lượng lân và chất lượng của giống ngô QP4 và
LVN10
Để có kết luận chính xác về quan hệ giữa liều lượng lân bón với hàm
lượng và chất lượng protein của giống ngô TPTD QP4 và giống ngô thường
LVN10, từ đó có thể dự đoán được chất lượng protein, chúng tôi tiến hành
phân tích tương quan, kết quả ở bảng 3.30.
Số liệu bảng 3.30 cho thấy hàm lượng protein và chất lượng protein
(lysine và methionine) của giống QPM TPTD QP4 tương quan thuận và chặt
với liều lượng lân bón. Còn đối với giống ngô lai thường LVN10, hàm lượng
lysine và methionine tương quan có ý nghĩa, nhưng hàm lượng protein lại
tương quan không ý nghĩa với liều lượng lân. Như vậy, có thể dựa vào hàm
tương quan tuyến tính ước lượng trên và lượng lân bón để dự đoán chất lượng
ptotein của giống ngô QPM TPTD QP4.
Bảng 3.30. Mô hình phân tích tương quan giữa liều lượng lân với hàm
lượng và chất lượng protein của giống ngô QP4 và LVN10
Chỉ tiêu
chất lượngGiống
Hàm tương quan tuyến
tính
Hệ số tương
quan R2
ProteinQP4 Pr = 9,4 + 0,012P* 0,842
LVN10 Pr = 8,23 + 0,004Pns 0,472
LysineQP4 Lys = 3,002 + 0,009P** 0,938
LVN10 Lys = 2,206 + 0,004P* 0,869
MethionineQP4 Met = 2,624 + 0,004P* 0,886
LVN10 Met = 1,778 + 0,003P** 0,923
133
(ns: Tương quan không có ý nghĩa; *,**: Tương quan có ý nghĩa ở mức 95%, 99%)
3.3.8. Hiệu quả kinh tế của các liều lượng lân với giống ngô QP4 và
LVN10
Ở mức không bón lân (0P2O5) do năng suất thực thu trung bình ba vụ của
hai giống QP4 và LVN10 đạt rất thấp nên hiệu quả kinh tế đạt thấp nhất. Với liều
lượng 120P2O5 ở cả hai giống QP4 và LVN10 đạt hiệu quả kinh tế cao nhất.
Bảng 3.31. Hiệu quả kinh tế của liều lượng lân đến
giống ngô QP4 và LVN10 (trung bình 3 vụ)
Lượng lân GiốngNăng suất
(kg/ha)
Lãi thuần
(1.000 đ)
0P2O5
QP4 2.880 4.227
LVN10 2.980 4.507
40P2O5
QP4 3.910 6.736
LVN10 4.160 7.436
80P2O5
QP4 4.730 8.657
LVN10 5.130 9.777
120P2O5
QP4 5.340 9.990
LVN10 5.940 11.670
160P2O5
QP4 5.450 9.923
LVN10 6.030 11.547
Ghi chú: Giá: Ngô hạt: 2.800 đ/kg; Phân chuồng: 200 đ/kg; Đạm Urê:
5.000 đ/kg; Lân Supe: 1.500 đ/kg; Kaliclorua: 4.000đ/kg.
134
0123456789
10111213
P1 P2 P3 P4 P5
Công thức bón lân
Lãi
th
uần
(tr
iệu
đồn
g)
QP4
LVN10
Biểu đồ 3.12. Hiệu quả kinh tế của liều lượng lân đến
giống ngô QP4 và LVN10 (trung bình 3 vụ)
3.3.9. Hiệu quả nông học của P với giống ngô QP4 và LVN10
Hiệu quả nông học của P qua các giống ở cả ba vụ giảm dần từ 40 -
160P2O5, trong vụ Xuân 2005 biến động từ 26,0 (40P2O5) - 16,5 kg ngô hạt/kg
P2O5 (160P2O5) ở giống QP4 và từ 28,5 (40P2O5) - 20,4 kg ngô hạt/kg P2O5
(160P2O5) ở giống LVN10; vụ Thu Đông 2005 biến động tương ứng từ 26,0 -
15,3 kg ngô hạt/kg P2O5 (QP4) và từ 31,5 - 18,6 kg ngô hạt/kg P2O5 (LVN10);
vụ Xuân 2006: 25,3 - 16,3 kg ngô hạt/kg P2O5 (QP4) và từ 29,0 - 20,0 kg ngô
hạt/kg P2O5 (LVN10); trung bình 3 vụ biến động từ 25,8 (40P2O5) – 16,1 kg
ngô hạt/ kg P2O5 (160P2O5) ở giống QP4 và từ 29,5 (40P2O5) – 19,1 kg ngô
hạt/ kg P2O5 (160P2O5) ở giống LVN10. Ở liều lượng 40 – 120P2O5 qua các
135
giống hiệu quả nông học của P ổn định nhưng ở liều lượng 160P2O5 hiệu quả
nông học của P có xu thế giảm mạnh. Giống QPM TPTD QP4 có hiệu quả
nông học của P thấp hơn giống ngô lai thường LVN10. Hiệu quả nông học
của P với cả hai giống ở vụ Xuân đạt tương đương so với ở vụ Thu Đông.
Bảng 3.32. Hiệu quả nông học của P qua các liều lượng bón
đến giống ngô QP4 và LVN10
Đơn vị tính: Kg ngô/kg P2O5
Lượng
lânGiống X.05 TĐ.05 X.06 TB
0P2O5
QP4 - - - -
LVN10 - - - -
40P2O5
QP4 26,0 26,0 25,3 25,8
LVN10 28,5 31,5 29,0 29,5
80P2O5
QP4 24,0 22,5 22,6 23,1
LVN10 25,9 28,1 26,8 26,9
120P2O5
QP4 21,0 19,3 21,2 20,5
LVN10 24,3 25,4 24,3 24,7
160P2O5
QP4 16,5 15,3 16,3 16,1
LVN10 20,4 18,6 20,0 19,1
Như vậy, kết quả nghiên cứu bón lân cho ngô trên đất bạc màu của
chúng tôi cũng phù hợp với nghiên cứu của các tác giả Vũ Hữu Yêm và CS
(1999) [54], trên đất bạc màu ngô rất cần lân, bón đến 120 kg P2O5 so với 90
kg P2O5 hiệu suất phân lân vẫn ổn định.
Tuy nhiên, kết quả nghiên cứu của chúng tôi cho thấy hiệu quả nông học
của P đạt rất cao và cao hơn so với các kết quả nghiên cứu của Nguyễn Văn
Bộ (1993) [6], hiệu lực phân lân đối với ngô bội thu 8 – 10 kg ngô hạt/kg
P2O5; của Đặng Bê (1978), nghiên cứu bón phân lân cho ngô trên đất đỏ
136
Bazan đã thu được hiệu suất phân lân từ 8 – 10 kg ngô hạt/kg P2O5 (dẫn theo
Trần Văn Minh, 2004) [29]. Chúng tôi có thể giải thích như sau: Thí nghiệm
phân lân được tiến hành trên đất cát pha bạc màu của trường Đại học Nông
Lâm Thái Nguyên, có hàm lượng lân tổng số loại nghèo (0,048%) do vậy khi
bón lân cho ngô thì thu được năng suất và hiệu quả nông học qua các liều
lượng lân cao hơn nhiều so với không bón lân. Trong thí nghiệm của chúng
tôi cũng có thêm bón vôi (600 kg vôi bột/ ha) nên pH đất gần đạt trung tính
làm nâng cao hiệu quả nông học của lân. Thí nghiệm phân lân trên nền có bón
phân chuồng + 120 kg N + 80 kg K2O/ha, được chăm sóc tốt và tưới nước đầy
đủ đảm bảo độ ẩm đạt gần bằng sức chứa ẩm tối đa đồng ruộng nên hiệu quả
nông học của P được nâng cao.
Tóm lại, ảnh hưởng của lân đến các giống ngô rất rõ rệt, năng suất ngô
tăng lên khi tăng liều lượng lân, kết quả này cũng phù hợp với nghiên cứu của
Evangelista (1999), năng suất ngô tăng lên cùng với việc tăng liều lượng lân,
năng suất chỉ bắt đầu giảm xuống khi bón đến mức 160 kg P2O5/ha (dẫn theo
Trần Văn Minh, 2004) [29].
3.3.10. Ảnh hưởng của liều lượng lân đến năng suất protein của giống ngô
QP4 và LVN10
Số liệu bảng 3.33 cho thấy ảnh hưởng của liều lượng lân đến năng suất
protein của giống ngô QPM – QP4 và ngô thường LVN10 rất rõ, biến động từ
260,6 (0P2O5) – 595,7 kg/ha (160P2O5) ở giống QP4 và từ 240,5 (0P2O5) –
527,5 kg/ha (120P2O5) ở giống LVN10. Liều lượng 160P2O5 cho năng suất
protein cao nhất ở giống QP4; còn với giống LVN10 là ở liều lượng 120P2O5.
Năng suất ngô hạt của giống QP4 thấp hơn LVN10 nhưng năng suất protein
cao hơn so với LVN10. Ảnh hưởng của liều lượng lân đến năng suất protein
của giống ngô QPM TPTD QP4 cao hơn so với giống ngô lai thường LVN10.
137
Bảng 3.33. Ảnh hưởng của liều lượng lân đến năng suất protein
của giống ngô QP4 và LVN10 (TB 3 vụ)
Đơn vị tính: Kg/ha
GiốngLiều lượng lân
0P2O5 40P2O5 80P2O5 120P2O5 160P2O5
QP4 260,6 394,1 502,3 589,0 595,7
LVN10 240,5 346,9 449,9 527,5 513,2
Tóm lại, với hai giống ngô QPM TPTD QP4 và ngô lai thường LVN10,
liều lượng lân 120P2O5 cho năng suất và hiệu quả kinh tế cao nhất. Liều
lượng lân 120 – 160P2O5 cho hàm lượng protein, lysine và methionine cao
nhất. Ảnh hưởng của liều lượng lân đến sinh trưởng, phát triển và năng suất
của giống ngô QPM TPTD QP4 thấp hơn so với giống ngô lai thường
LVN10. Ngược lại, ảnh hưởng của liều lượng lân đến hàm lượng và chất
lượng protein của giống ngô QPM TPTD QP4 cao hơn so với giống ngô lai
thường LVN10.
3.4. Kết quả thí nghiệm ảnh hưởng của liều lượng kali đến sinh trưởng,
phát triển, năng suất và chất lượng của giống ngô chất lượng protein
cao tại Thái Nguyên
3.4.1. Ảnh hưởng của liều lượng kali đến thời gian sinh trưởng qua các
thời kỳ phát dục của giống ngô QP4 và LVN10
Qua theo dõi các thời kỳ sinh trưởng phát triển của giống ngô QP4 và
LVN10 qua các công thức bón phân kali ở vụ Xuân 2005, vụ Thu Đông 2005,
vụ Xuân 2006, chúng tôi thu được kết quả ở bảng 3.34.
138
Bảng 3.34. Ảnh hưởng của liều lượng kali đến thời gian sinh trưởng
của giống ngô QP4 và LVN10
Đơn vị tính: Ngày
Lượng
kaliGiống
Thời gian từ gieo đến…
Tung phấn Phun râu Chín sinh lý
X. 05TĐ.
05X. 06 TB X. 05
TĐ.
05X. 06 TB X. 05
TĐ.
05X. 06 TB
0K2OQP4 72 60 70 67 76 64 74 71 122 114 117 118
LVN10 79 65 76 73 83 69 80 77 128 123 127 126
40K2OQP4 69 57 66 64 72 60 70 67 120 112 116 116
LVN10 76 61 72 70 79 64 75 73 126 120 124 123
80K2OQP4 67 55 64 62 69 57 66 64 117 110 114 114
LVN10 74 59 70 68 76 61 73 70 123 118 122 121
120K2OQP4 65 53 62 60 66 55 63 61 115 109 112 112
LVN10 71 57 68 65 73 58 70 67 120 116 121 119
160K2OQP4 64 53 62 60 66 55 64 62 115 108 112 112
LVN10 70 56 67 64 72 58 69 66 119 115 121 118
3.4.1.1. Ảnh hưởng của liều lượng kali đến giai đoạn từ gieo đến tung phấn
Số liệu bảng 3.34 cho thấy: Ảnh hưởng của liều lượng kali đến thời gian
từ gieo - tung phấn biến động từ 60 (120 – 160K2O) – 67 ngày (0K2O) ở
giống QP4 và từ 64 (160K2O) – 73 ngày (0K2O) ở giống LVN10. Trong đó,
liều lượng 120K2O qua các giống có thời gian từ gieo - tung phấn ngắn nhất,
liều lượng 0K2O dài nhất. Như vậy, bón K cao và cân đối với NP làm rút ngắn
thời gian từ gieo đến tung phấn.
Ở vụ Thu Đông, thời gian từ gieo đến tung phấn của các giống ngô qua
các mức kali ngắn hơn so với vụ Xuân. Giống ngô QP4 qua các mức kali có
thời gian từ gieo đến tung phấn ngắn hơn giống LVN10. Ảnh hưởng của liều
139
lượng kali đến thời gian từ gieo đến tung phấn của giống ngô QPM TPTD
QP4 ít hơn so với ngô lai thường LVN10.
3.4.1.2. Ảnh hưởng của liều lượng kali đến giai đoạn từ khi gieo đến phun râu
Trung bình ba vụ cho thấy ảnh hưởng của liều lượng kali đến thời gian
từ gieo – phun râu biến động từ 61 (120K2O) – 71 ngày (0K2O) ở giống QP4
và từ 66 (160K2O) – 77 ngày (0K2O) ở giống LVN10. Ảnh hưởng của liều
lượng kali qua các giống đến khoảng cách tung phấn - phun râu (ASI) biến
động từ 1-2 ngày (80 – 160K2O) đến 3-6 ngày (0 – 40K2O). Như vậy, không
bón kali và bón quá ít làm kéo dài khoảng cách tung phấn – phun râu, ảnh
hưởng xấu đến quá trình thụ phấn thụ tinh và giảm năng suất sau này.
Giống ngô QPM TPTD QP4 qua các liều lượng kali có thời gian từ gieo
đến phun râu ngắn hơn giống ngô thường LVN10.
3.4.1.3. Ảnh hưởng của liều lượng kali đến thời gian sinh trưởng
Số liệu bảng 3.34 cho thấy ảnh hưởng của lân qua các giống đến thời
gian sinh trưởng trung bình ba vụ biến động từ 112 (120 – 160K2O) – 118
ngày (0K2O) ở giống QP4 và từ 118 (160K2O) – 126 (0K2O) ở giống LVN10.
Như vậy, ảnh hưởng của kali đến thời gian sinh trưởng qua các công thức thể
hiện rất rõ, bón tăng kali làm rút ngắn thời gian sinh trưởng, ở mức kali
160K2O cây ngô sinh trưởng ngắn hơn 6 ngày (QP4) và 8 ngày (LVN10) so
với không bón kali (0K2O). Ảnh hưởng của mức bón kali đến giống QPM
TPTD QP4 ít hơn giống ngô lai thường LVN10 (2 ngày).
3.4.2. Ảnh hưởng của liều lượng kali đến các đặc điểm hình thái của giống
ngô QP4 và LVN10
3.4.2.1. Ảnh hưởng của liều lượng kali đến chiều cao cây và chiều cao đóng bắp
Kết quả ở bảng 3.35 cho thấy: Trung bình ba vụ, ảnh hưởng của kali qua
các giống đến chiều cao cây biến động từ 186,2 (0K2O) – 201,8 cm (160K2O)
ở giống QP4 và từ 203,4 (0K2O) – 224,6 cm (160K2O) ở giống LVN10; đến
140
chiều cao đóng bắp biến động từ 98,3 (40K2O) – 103,7 cm (160K2O) ở QP4
và từ 112,2 (0K2O) – 121,7 cm (160K2O) ở LVN10. Như vậy, ảnh hưởng của
kali đến chiều cao cây và chiều cao đóng bắp của các giống rất rõ, tăng liều
lượng kali làm tăng chiều cao cây, ở mức 160K2O làm tăng thêm 8,4% (QP4)
và 10,4% (LVN10) so với không bón kali (0K2O). Giống QPM QP4 có chiều
cao cây và chiều cao đóng bắp thấp hơn giống ngô thường LVN10, đồng thời
ảnh hưởng của kali đến chiều cao cây cũng ít hơn.
Bảng 3.35. Ảnh hưởng của liều lượng kali đến chiều cao cây và chiều cao đóng
bắp của giống ngô QP4 và LVN10
Lượng
kaliGiống
Chiều cao cây (cm) Chiều cao đóng bắp (cm)
X.05 TĐ.05 X.06 TB X.05 TĐ.05 X.06 TB
0K2OQP4 186,7 189,0 182,9 186,2 100,4 99,3 98,4 99,4
LVN10 205,4 203,3 201,5 203,4 113,0 113,6 110,0 112,2
40K2OQP4 189,3 192,3 186,0 189,2 98,3 99,5 97,0 98,3
LVN10 210,7 209,0 208,6 209,4 115,4 114,9 113,6 114,6
80K2OQP4 195,3 197,4 190,1 194,3 100,7 101,2 99,5 100,5
LVN10 217,6 214,3 213,0 215,0 119,1 117,0 115,3 117,1
120K2OQP4 201,4 204,6 196,8 200,9 101,0 102,6 102,6 102,1
LVN10 222,6 224,5 220,4 222,5 120,0 119,7 119,2 119,6
160K2OQP4 201,5 205,7 198,2 201,8 101,8 103,5 105,9 103,7
LVN10 224,0 227,1 222,7 224,6 122,3 122,0 120,8 121,7
3.4.2.2. Ảnh hưởng của liều lượng kali đến số lá và chỉ số diện tích lá
Ảnh hưởng của liều lượng kali qua các giống đến số lá/cây trung bình ba
vụ biến động từ 18,9 (0K2O) – 20,0 lá (120-160K2O) ở giống QP4 và từ 18,8
(0K2O) – 20,2 lá (120-160K2O) ở giống LVN10. Như vậy, ảnh hưởng của liều
141
lượng kali đến số lá/cây của giống ngô QPM TPTD QP4 và ngô lai thường
LVN10 không rõ. Hai giống QP4 và LVN10 có số lá/cây tương đương nhau.
Ảnh hưởng của liều lượng kali qua các giống đến chỉ số diện tích lá
trung bình ba vụ biến động từ 2,6 (0K2O) – 3,5 m2lá/m2đất (120-160K2O) ở
giống QP4 và từ 2,7 (0K2O) – 3,7 m2lá/m2đất (160K2O) ở giống LVN10. Như
vậy, ảnh hưởng của kali đến chỉ số diện tích lá của các giống rất rõ, tăng dần
theo liều lượng kali tăng. Trung bình ba vụ cho thấy mức 160K2O làm tăng
thêm 34,6% ở QP4 và 37,0% ở LVN10 so với không bón kali (0K2O). Như
vậy, kali ảnh hưởng không lớn đến số lá nhưng làm tăng chỉ số diện tích lá
góp phần tăng năng suất sau này. Ảnh hưởng của liều lượng kali đến giống
QPM TPTD QP4 thấp hơn so với giống ngô lai thường LVN10.
Bảng 3.36. Ảnh hưởng của liều lượng kali đến số lá và chỉ số diện tích lá
của giống ngô QP4 và LVN10
Lượng
kaliGiống
Số lá/cây (lá) CSDTL (m2lá/m2đất)
X.05 TĐ.05 X.06 TB X.05 TĐ.05 X.06 TB
0K2OQP4 19,3 19,1 18,3 18,9 2,5 2,7 2,5 2,6
LVN10 19,1 18,8 18,6 18,8 2,6 2,8 2,6 2,7
40K2OQP4 19,5 19,3 18,7 19,2 2,8 3,0 2,9 2,9
LVN10 19,5 19,5 19,1 19,4 2,8 3,0 2,8 2,9
80K2OQP4 19,5 19,6 19,2 19,4 3,0 3,3 3,1 3,1
LVN10 19,9 20,1 19,8 19,9 3,1 3,3 3,2 3,2
120K2OQP4 20,2 20,0 19,7 20,0 3,4 3,7 3,4 3,5
LVN10 20,2 20,3 20,1 20,2 3,5 3,8 3,6 3,6
160K2OQP4 20,3 20,0 19,8 20,0 3,4 3,6 3,5 3,5
LVN10 20,2 20,3 20,2 20,2 3,6 3,8 3,7 3,7
142
3.4.3. Ảnh hưởng của liều lượng kali đến đến khả năng chống chịu của
giống ngô QP4 và LVN10
3.4.3.1. Ảnh hưởng của liều lượng kali đến khả năng chống đổ
Số liệu bảng 3.37 cho thấy: Ảnh hưởng của liều lượng kali qua các
giống đến tỷ lệ đổ rễ trung bình ba vụ biến động từ 3,7 (160K2O) – 13,5% (0K2O)
ở giống QP4 và từ 5,2 (160K2O) – 16,2% (0K2O) ở giống LVN10. Như vậy,
bón kali làm cây ngô sinh trưởng khoẻ, cứng cây, giảm tỷ lệ đổ rễ rất rõ.
Ảnh hưởng của liều lượng kali qua các giống đến tỷ lệ gãy thân trung
bình ba vụ biến động từ 1,3 (120K2O) – 6,5% (0K2O) ở giống QP4 và từ 2,4
(120-160K2O) – 7,7% (0K2O) ở giống LVN10.
Bảng 3.37. Ảnh hưởng của liều lượng kali đến tỷ lệ đổ rễ, gãy thân
của giống ngô QP4 và LVN10
Lượng
kaliGiống
Đổ rễ (%) Gãy thân (%)
X.05 TĐ.05 X.06 TB X.05 TĐ.05 X.06 TB
0K2OQP4 10,4 10,7 19,5 13,5 7,8 5,8 6,0 6,5
LVN10 11,6 13,2 23,7 16,2 8,8 6,4 7,8 7,7
40K2OQP4 7,9 9,2 13,6 10,2 6,3 4,6 5,3 5,4
LVN10 8,9 10,4 16,4 11,9 8,0 4,6 7,2 6,6
80K2OQP4 6,0 5,6 8,8 6,8 4,1 2,5 2,9 3,2
LVN10 6,5 8,7 10,9 8,7 5,0 2,7 5,8 4,5
120K2OQP4 5,0 3,6 5,6 4,7 2,1 0,5 1,2 1,3
LVN10 5,1 5,0 7,0 5,7 2,9 2,0 2,2 2,4
160K2OQP4 3,6 3,0 4,5 3,7 2,3 0,9 1,9 1,7
LVN10 4,7 4,1 6,7 5,2 3,0 1,5 2,6 2,4
Như vậy, trung bình ba vụ cho thấy liều lượng kali ảnh hưởng rất rõ đến
tỷ lệ đổ rễ và gãy thân. Bón kali với liều lượng tăng làm giảm tỷ lệ đổ rễ và
143
gãy thân. Liều lượng 160K2O có tỷ lệ đổ rễ thấp nhất và cao nhất là ở mức
0K2O với cả hai giống (bảng 3.37).
3.4.3.2. Ảnh hưởng của liều lượng kali đến khả năng chống chịu sâu bệnh
Nhìn số liệu bảng 3.38 cho thấy: Trung bình ba vụ, ảnh hưởng của liều
lượng kali qua các giống đến mức độ nhiễm sâu đục thân biến động từ điểm 2 – 5,
trong đó liều lượng 120K2O bị sâu hại nhẹ nhất ở cả 2 giống (điểm 2), mức
0K2O bị sâu đục thân hại nặng nhất (điểm 4 – QP4; 5 – LVN10). Giống ngô
QP4 qua các liều lượng kali bị nhiễm sâu đục thân nhẹ hơn giống LVN10.
Như vậy, bón kali ảnh hưởng đến khả năng kháng sâu đục thân, không bón và
bón kali ít làm cây sinh trưởng phát triển yếu dễ bị sâu phá hại hơn bón kali
cao và cân đối với đạm - lân.
Bảng 3.38. Ảnh hưởng của liều lượng kali đến tỷ lệ bị nhiễm sâu đục thân và
bệnh khô vằn của giống ngô QP4 và LVN10
Lượng
kaliGiống
Sâu Đục thân (điểm 1 – 5) Bệnh Khô vằn (điểm 1 - 5)
X.05 TĐ.05 X.06 TB X.05 TĐ.05 X.06 TB
0K2OQP4 5 3 4 4 3 2 3 3
LVN10 5 4 5 5 3 3 4 3
40K2OQP4 4 3 4 4 3 2 3 3
LVN10 5 3 5 4 3 3 4 3
80K2OQP4 3 2 3 3 2 2 2 2
LVN10 4 3 4 4 3 3 3 3
120K2OQP4 2 2 2 2 2 2 2 2
LVN10 3 2 2 2 2 2 2 2
160K2OQP4 3 2 3 3 2 2 3 2
LVN10 3 2 3 3 2 2 3 2
144
Ảnh hưởng của liều lượng kali qua các giống đến mức độ nhiễm bệnh
khô vằn biến động từ điểm 2 – 3. Các liều lượng 120 – 160K2O bị nhiễm bệnh
khô vằn nhẹ nhất (điểm 2), liều lượng 0 – 40K2O bị hại nặng nhất (điểm 3) ở
cả hai giống. Giống ngô QPM TPTD QP4 qua các mức kali bị nhiễm bệnh
khô vằn nhẹ hơn giống ngô lai thường LVN10.
Như vậy, liều lượng kali khác nhau cũng ảnh hưởng đến mức độ nhiễm
sâu đục thân và bệnh khô vằn, bón tăng kali làm giảm tỷ lệ nhiễm sâu bệnh.
Liều lượng 120K2O có tỷ lệ nhiễm sâu đục thân thấp nhất và cao nhất ở liều
lượng 0K2O. Ở liều lượng 120 - 160K2O bị nhiễm bệnh khô vằn nhẹ hơn ở
liều lượng 0 - 40K2O trong cả hai giống.
Tóm lại, bón kali làm tăng khả năng chống chịu của giống QP4 và
LVN10. Bón mức kali cao 120 – 160K2O ngô có khả năng chống chịu tốt hơn
ở mức 0 – 80K2O. Giống QPM TPTD QP4 có khả năng chống đổ rễ, gãy thân
và chống chịu sâu bệnh tốt hơn ngô lai thường LVN10. Kết quả nghiên cứu
của chúng tôi phù hợp với Afendulop (1972) [1], kali cần thiết cho hoạt động
của nguyên sinh chất, điều khiển đóng mở khí khổng, nâng cao khả năng
chống chịu sâu bệnh, khô hạn và nhiệt độ thấp. Kali súc tiến quá trình quang
hợp, vận chuyển các sản phẩm quang hợp tích lũy về hạt.
3.4.4. Ảnh hưởng của liều lượng kali đến các yếu tố cấu thành năng suất
và năng suất của giống ngô QP4 và LVN10
Ảnh hưởng của liều lượng kali đến chiều dài bắp biến động từ 13,3 cm
(0K2O) – 16,0 cm (120 – 160K2O) ở QP4 và từ 13,7 cm (0K2O) – 17,4 cm
(160K2O) ở LVN10. Như vậy, kali ảnh hưởng đến chiều dài bắp, liều lượng
kali tăng thì chiều dài bắp cũng tăng, ở liều lượng 160K2O chiều dài bắp tăng
hơn 20,3% (QP4) và 27,0% (LVN10) so với không bón kali.
Ảnh hưởng của liều lượng kali đến đường kính bắp biến động từ 3,8 cm
(0K2O) – 4,8 cm (120 – 160K2O) ở QP4 và từ 3,7 cm (0K2O) – 5,0 cm (120 –
145
160K2O) ở LVN10. Như vậy, liều lượng kali tăng thì đường kính bắp cũng
tăng, ở liều lượng 160K2O tăng thêm 26,3% (QP4) và 35,1% (LVN10) so với
không bón kali (0K2O). Ảnh hưởng của kali đến chiều dài và đường kính bắp
của giống QPM TPTD QP4 ít hơn so với giống ngô lai thường LVN10.
Bảng 3.39a. Ảnh hưởng của liều lượng kali đến các yếu tố cấu thành năng
suất và năng suất của giống ngô QP4 và LVN10
Lượn
g kaliGiống
Chiều dài bắp
(cm)
Đường kính bắp
(cm)
Hàng hạt/bắp
(hàng)
X. 05TĐ.
05X. 06 TB X. 05
TĐ.
05X. 06 TB X. 05
TĐ.
05X. 06 TB
0K2OQP4 13,7 13,3 13,0 13,3 3,9 3,9 3,7 3,8 12,8 13,1 13,0 13,0
LVN10 14,0 13,7 13,4 13,7 3,9 3,7 3,6 3,7 12,7 13,0 13,0 12,9
40K2OQP4 14,9 14,2 13,9 14,3 4,3 4,2 4,0 4,2 13,3 13,5 13,3 13,4
LVN10 15,5 14,7 14,7 15,0 4,3 4,2 4,0 4,2 13,2 13,3 13,2 13,2
80K2OQP4 15,5 15,2 14,4 15,0 4,6 4,5 4,3 4,5 13,9 13,9 13,8 13,9
LVN10 16,3 16,6 16,0 16,3 4,6 4,7 4,4 4,6 13,7 13,8 13,5 13,7
120K2OQP4 16,0 15,9 16,0 16,0 4,6 5,0 4,8 4,8 14,2 14,2 14,1 14,2
LVN10 17,4 17,0 17,6 17,3 4,8 5,2 4,9 5,0 14,0 14,2 14,1 14,1
160K2OQP4 15,9 15,9 16,2 16,0 4,7 4,9 4,9 4,8 14,1 14,4 14,1 14,2
LVN10 17,4 16,8 18,0 17,4 4,7 5,2 5,0 5,0 14,0 14,3 14,1 14,1
CV,% (kali) 6,7 6,9 6,4 5,5 6,4 6,1 2,0 2,2 2,1
CV,% (giống) 4,9 5,1 5,4 4,1 4,3 3,9 2,5 2,4 2,4
LSD05 (kali) 0,4 0,5 0,7 0,1 0,2 0,3 0,3 0,4 0,3
LSD05 (giống) 0,6 0,5 0,8 0,1 0,1 0,1 0,1 0,1 0,1
Kali ảnh hưởng không lớn đến số hàng hạt/bắp, trung bình ba vụ biến
động từ 13,0 (0K2O) - 14,2 hàng (120K2O và 160K2O) ở QP4 và từ 12,9
146
(0K2O) - 14,1 hàng (120K2O và 160K2O) ở LVN10. Số hàng hạt/bắp tăng dần
từ liều lượng 0 – 120K2O sau đó thì dừng lại. Giống QP4 có số hàng hạt/bắp
trung bình cao hơn giống LVN10 từ 1 - 2 hàng.
Ảnh hưởng của liều lượng kali đến số hạt/hàng biến động từ 25,9 hạt
(0K2O) – 34,0 hạt (160K2O) ở QP4 và từ 26,4 hạt (0K2O) – 36,3 hạt (160K2O) ở
LVN10. Như vậy, kali ảnh hưởng lớn đến số hạt/hàng, tăng liều lượng kali thì
số hạt/hàng cũng tăng, trung bình ba vụ cho thấy ở liều lượng 160K2O tăng
thêm 31,3% (QP4) và 37,5% (LVN10) so với không bón kali (0K2O).
Bảng 3.39b. Ảnh hưởng của liều lượng kali đến các yếu tố cấu thành năng suất
và năng suất của giống ngô QP4 và LVN10
Lượng
kaliGiống
Hạt/hàng (hạt) P1000hạt (g) NSTT (tạ/ha)
X. 05TĐ.0
5X. 06 TB
X.
05
TĐ.
05
X.
06TB
X.
05
TĐ.
05X. 06 TB
0K2OQP4 25,5 25,5 26,7 25,9 272,2 280,3 266,2 272,9 26,6 29,1 27,6 27,8
LVN10 25,9 26,3 26,9 26,4 279,4 289,4 275,0 281,3 25,4 29,8 28,4 27,9
40K2OQP4 28,9 30,9 28,0 29,3 280,3 300,3 275,0 285,2 37,7 41,7 37,0 38,8
LVN10 29,0 31,2 28,6 29,6 290,3 298,0 285,4 291,2 38,6 43,6 40,0 40,7
80K2OQP4 30,2 33,0 30,8 31,3 307,7 310,7 298,7 305,7 46,2 50,8 47,5 48,2
LVN10 33,2 33,6 31,2 32,7 309,0 314,4 306,8 310,1 49,9 53,7 50,6 51,4
120K2OQP4 31,6 35,2 32,5 33,1 318,0 320,4 315,3 317,9 53,0 58,5 56,3 55,9
LVN10 35,0 36,2 34,0 35,1 323,2 329,5 321,6 324,8 57,0 62,7 60,0 59,9
160K2OQP4 32,9 35,6 33,4 34,0 319,1 321,0 316,4 318,8 53,3 59,0 56,8 56,4
LVN10 36,2 38,1 34,5 36,3 326,4 331,1 324,0 327,2 57,8 63,6 60,9 60,8
CV,% (kali) 6,3 7,1 7,2 7,3 8,0 7,1 10,4 13,9 12,0
CV,% (giống) 4,8 4,4 4,7 5,7 6,2 5,4 6,0 7,5 6,9
LSD05 (kali) 1,2 1,1 1,0 6,0 4,7 5,1 4,5 5,6 5,9
LSD05 (giống) 1,3 1,0 0,7 6,0 5,9 6,8 2,4 2,9 2,8
147
Ảnh hưởng của liều lượng kali đến khối lượng 1000 hạt biến động từ
272,9g (0K2O) – 318,8g (160K2O) ở QP4 và từ 281,3g (0K2O) – 327,2g
(160K2O) ở LVN10. Ở liều lượng 160K2O khối lượng 1000 hạt tăng thêm
16,8% (QP4) và 16,3% (LVN10) so với không bón kali (0K2O). Ảnh hưởng
của kali đến khối lượng 1000 hạt của giống QPM TPTD QP4 và giống ngô lai
thường LVN10 tương đương nhau.
Số liệu ở bảng 3.39b cho thấy ảnh hưởng của kali đến năng suất thực thu
trung bình ba vụ được thể hiện rõ nhất, tăng dần theo các liều lượng kali tăng.
Năng suất thực thu biến động từ 27,8 (0K2O) - 56,4 tạ/ha (160K2O) ở QP4 và
từ 27,9 (0K2O) - 60,8 tạ/ha (160K2O) ở LVN10. Ở liều lượng 160K2O, năng
suất thực thu tăng thêm 102,9% ở QP4 và 117,9% ở LVN10 so với không bón
kali (0K2O). Ảnh hưởng của các liều lượng kali đến năng suất thực thu của
giống QPM TPTD QP4 ít hơn so với giống ngô lai thường LVN10.
0
10
20
30
40
50
60
70
K1 K2 K3 K4 K5
Công thức bón kali
Năn
g s
uất
thự
c th
u (
tạ/h
a)
QP4
LVN10
Biểu đồ 3.13. Ảnh hưởng của liều lượng kali đến năng suất của giống ngô QP4 và LVN10 (trung bình ba vụ)
148
Qua xử lý thống kê NSTT ở ba vụ cho thấy tất cả các công thức có bón
kali trung bình ở các giống (40K2O – 160K2O) đều có năng suất thực thu cao
hơn công thức không bón kali (0K2O); công thức 120K2O và 160K2O có năng
suất thực thu qua các giống tương đương nhau ở mức tin cậy 95%. Giống ngô
QPM TPTD QP4 qua các mức kali đạt năng suất thực thu tương đương giống
ngô thường lai thường LVN10 ở mức tin cậy 95%. Trong cùng một mức kali,
NSTT của giống QP4 thấp hơn giống LVN10 ở mức 120K2O – 160K2O, còn
ở mức 0K2O – 80K2O thì tương đương nhau. Ảnh hưởng của các mức kali
đến NSTT của giống QPM TPTD QP4 tương đương ngô lai thường LVN10,
tăng dần theo mức kali tăng nhưng dừng lại ở mức 120K2O.
3.4.5. Tương quan giữa liều lượng kali và năng suất của giống ngô QP4 và
LVN10
Để có kết luận chính xác về quan hệ giữa liều lượng lân bón với năng
suất của giống ngô QP4 và LVN10, chúng tôi tiến hành phân tích tương quan
thu được kết quả như sau:
Bảng 3.40. Mô hình tương quan tuyến tính dự đoán năng suất
giống ngô QP4 và LVN10 dựa trên liều lượng lân
Giống Hàm tương quan tuyến tính Hệ số tương quan R2
QP4 Năng suất = 3056 + 18,575K** 0,932
LVN10 Năng suất = 3114 + 21,25K** 0,933
(K: Liều lượng kali; **: Tương quan có ý nghĩa ở mức 99%)
Số liệu bảng 3.40 cho thấy năng suất hai giống ngô QP4 và LVN10
tương quan thuận và rất chặt với liều lượng kali. Dựa vào hàm tương quan
tuyến tính ước lượng và liều lượng kali bón cụ thể có thể dự đoán được năng
suất của giống ngô QP4 và LVN10.
149
NS (QP4) y = -0.001x2 + 0.3479x + 27.317
R2 = 0.994
0
10
20
30
40
50
60
70
0 40 80 120 160 200
Kali (kg K2O/ha)
Tạ/
ha
NS (LVN10) y = -0.0012x2 + 0.3982x + 27.426
R2 = 0.9956
0
10
20
30
40
50
60
70
0 40 80 120 160 200
Kali (kg K2O/ha)
Tạ/
ha
Biểu đồ 3.14. Đồ thị năng suất QP4
theo các liều lượng kali
Biểu đồ 3.15. Đồ thị năng suất
LVN10 theo các liều lượng kali
+ Phương trình tương quan giữa liều lượng kali và năng suất giống ngô
TPTD QP4 (trung bình ba vụ) là đường parabon ứng với hàm số:
y = -0,001x2 + 0,3479x + 27,317
- Lượng bón tối đa về kỹ thuật là 174 kg K2O/ha.
- Lượng bón tối thích về kinh tế là 167 kg K2O/ha.
+ Phương trình tương quan giữa liều lượng kali và năng suất giống ngô
lai thường LVN10 (trung bình ba vụ) là đường parabon ứng với hàm số:
y = -0,0012x2 + 0,3982x + 27,426
- Lượng bón tối đa về kỹ thuật là 166 kg K2O/ha.
- Lượng bón tối thích về kinh tế là 160 kg K2O/ha.
150
3.4.6. Ảnh hưởng của liều lượng kali đến hàm lượng và chất lượng protein
của giống ngô QP4 và LVN10
Số liệu bảng 3.41 cho thấy ảnh hưởng của các liều lượng kali đến hàm
lượng protein tổng số của các giống ngô biến động từ 10,15 (0K2O) - 11,13%
(160K2O) ở giống QP4 và từ 8,29% (0K2O) – 8,55% (80K2O) ở giống
LVN10. Hàm lượng protein ở liều lượng 160K2O tăng hơn so với không bón
kali là 9,7% (QP4) và 2,7% (LVN10). Xử lý thống kê ở hai vụ cho thấy các
công thức 80 – 160K2O qua các giống có hàm lượng protein cao hơn có ý
nghĩa so với công thức không bón kali (0K2O) ở mức độ tin cậy 95%; công
thức 80 - 120 - 160K2O có hàm lượng protein tương đương nhau ở mức độ tin
cậy 95%. Giống QPM TPTD QP4 qua các mức kali có hàm lượng protein cao
hơn giống ngô lai thường LVN10 có ý nghĩa ở mức độ tin cậy 95%. Trong
cùng một mức kali thì giống QP4 đạt hàm lượng protein cao hơn giống
LVN10 ở tất cả các công thức. Ảnh hưởng của các mức kali đến hàm lượng
protein của giống QPM TPTD QP4 như sau: liều lượng 0 – 40K2O thấp nhất,
tiếp đến là 80K2O, 120 – 160K2O tương đương nhau; đối với giống ngô lai
thường LVN10 thì không có sự sai khác giữa các công thức. Như vậy, ảnh
hưởng của các liều lượng kali đến hàm lượng protein của giống QPM TPTD
QP4 rất rõ, còn đến ngô lai thường LVN10 thì ảnh hưởng không rõ.
Ảnh hưởng của các liều lượng kali đến hàm lượng lysine của các giống
ngô biến động từ 2,99 (0K2O) - 4,13% (160K2O) ở giống QP4 và từ 2,19
(0K2O) – 2,83% (160K2O) ở giống LVN10. Hàm lượng lysine tăng dần theo
các liều lượng kali tăng và ở mức 160K2O, hàm lượng lysine tăng hơn so với
không bón kali là 38,1% ở QP4 và 29,2% ở LVN10. Xử lý thống kê ở hai vụ
cho thấy các công thức có bón kali qua các giống có hàm lượng lysine cao
hơn có ý nghĩa so với công thức không bón kali ở mức độ tin cậy 95%; công
thức 1 (0K2O) đạt hàm lượng lysine thấp nhất, công thức (80 – 160K2O) đạt
151
hàm lượng lysine tương đương nhau ở mức độ tin cậy 95%. Giống QP4 qua
các liều lượng kali có hàm lượng lysine cao hơn giống LVN10 có ý nghĩa ở
mức độ tin cậy 95%. Trong cùng một mức kali thì giống QP4 đạt hàm lượng
lysine cao hơn giống LVN10 ở tất cả các công thức. Ảnh hưởng của các mức
kali đến hàm lượng lysine của giống QPM TPTD QP4 như sau: đạt thấp nhất
là ở 0K2O, ở liều lượng 80 - 160K2O đạt tương đương; đến giống ngô lai
thường LVN10: không bón kali đạt thấp nhất, 40 – 160K2O đạt tương đương
nhau ở mức độ tin cậy 95%.
Bảng 3.41. Ảnh hưởng của liều lượng kali đến hàm lượng protein, lysine và
methionine của các giống ngô thí nghiệm vụ Xuân và Thu Đông 2005
Mức
kaliGiống
Protein tổng số
(%)
Lysine/Protein
(%)
Methionine/Protein
(%)
X.
05
TĐ.
05TB
X.
05
TĐ.
05TB
X.
05
TĐ.
05TB
0K2OQP4 10,18 10,11 10,15 3,05 2,92 2,99 2,58 2,72 2,65
LVN10 8,38 8,20 8,29 2,23 2,15 2,19 1,75 1,82 1,79
40K2OQP4 10,30 10,26 10,28 3,51 3,47 3,49 2,86 2,96 2,91
LVN10 8,41 8,32 8,37 2,54 2,46 2,50 1,84 1,95 1,90
80K2OQP4 10,68 10,58 10,63 3,95 3,80 3,88 3,08 3,12 3,10
LVN10 8,56 8,53 8,55 2,68 2,64 2,66 1,93 2,03 1,98
120K2OQP4 11,09 10,78 10,94 4,10 3,88 3,99 3,14 3,17 3,16
LVN10 8,30 8,60 8,45 2,79 2,72 2,76 2,11 2,20 2,16
160K2OQP4 11,15 11,10 11,13 4,15 4,10 4,13 3,18 3,29 3,24
LVN10 8,50 8,51 8,51 2,86 2,80 2,83 2,09 2,11 2,10
CV,% (kali) 2,78 2,42 2,07 2,10 2,28 2,23
CV,% (giống) 1,69 1,57 1,71 1,65 1,52 1,46
LSD05 (kali) 0,19 0,22 0,14 0,16 0,13 0,12
LSD05 (giống) 1,25 1,06 0,74 0,66 0,60 0,63
152
Biểu đồ 3.16. Ảnh hưởng của liều lượng kali đến hàm lượng protein,
lysine và methionine của giống ngô QP4 và LVN10 (TB 2 vụ)
Ảnh hưởng của các liều lượng kali đến hàm lượng methionine của các
giống ngô biến động từ 2,65 (0K2O) - 3,24% (160K2O) ở giống QP4 và từ
1,79 (0K2O) – 2,16% (120K2O) ở giống LVN10. Ở mức 160K2O, hàm lượng
methionine tăng hơn so với không bón kali là 22,3% ở QP4 và 17,3% ở
LVN10. Qua xử lý thống kê cho thấy các công thức có bón kali qua các giống
có hàm lượng methionine cao hơn có ý nghĩa so với công thức không bón kali
ở mức độ tin cậy 95%; công thức 1 (0K2O) đạt hàm lượng methionine thấp
nhất, công thức 80 – 160K2O đạt hàm lượng methionine tương đương nhau ở
mức độ tin cậy 95%. Giống QP4 qua các mức kali có hàm lượng methionine
cao hơn giống LVN10 có ý nghĩa ở mức độ tin cậy 95%. Trong cùng một
0.00
1.00
2.00
3.00
4.00
5.00
6.00
7.00
8.00
9.00
10.00
11.00
12.00
QP4 LVN10 QP4 LVN10 QP4 LVN10
Protein Lysine Methionine
Hàm
lượn
g %
K1
K2
K3
K4
K5
153
mức kali thì ở tất cả các công thức giống QP4 đạt hàm lượng methionine cao
hơn giống LVN10. Ảnh hưởng của các mức kali đến hàm lượng methionine
của giống QPM TPTD QP4: tăng dần từ 0 – 80K2O đến (120 – 160K2O); đối
với giống ngô lai thường LVN10 thì không có sự sai khác giữa các công thức.
Như vậy, ảnh hưởng của các liều lượng kali đến hàm lượng protein tổng
số, lysine, methionine của giống QPM TPTD QP4 cao hơn so với giống ngô
lai thường LVN10.
3.4.7. Tương quan giữa liều lượng kali và chất lượng của giống ngô QP4
và LVN10
Để có kết luận chính xác về quan hệ giữa liều lượng kali bón với hàm
lượng và chất lượng protein của giống ngô QP4 và LVN10, chúng tôi tiến
hành phân tích tương quan, kết quả thể hiện ở bảng 3.42.
Bảng 3.42. Mô hình phân tích tương quan giữa liều lượng kali với
hàm lượng và chất lượng protein của giống ngô QP4 và LVN10
Chỉ tiêu
chất lượngGiống
Hàm tương quan tuyến
tính
Hệ số tương quan
R2
ProteinQP4 Pr = 10,102 + 0,007K** 0,982
LVN10 Pr = 8,33 + 0,001Kns 0,610
LysineQP4 Lys = 3,14 + 0,007K* 0,910
LVN10 Lys = 2,28 + 0,004K* 0,914
Methionin
e
QP4 Met = 2,726 + 0,004K* 0,917
LVN10 Met = 1,81 + 0,002K* 0,869
(ns: Tương quan không có ý nghĩa; *,**: Tương quan có ý nghĩa ở mức 95%, 99%)
Số liệu bảng 3.42 cho thấy hàm lượng protein và chất lượng protein
(lysine và methionine) của giống QPM TPTD QP4 tương quan thuận và chặt
với liều lượng kali. Còn đối với giống ngô lai thường LVN10, hàm lượng
154
lysine và methionine tương quan có ý nghĩa, nhưng hàm lượng protein lại
tương quan không ý nghĩa với liều lượng kali. Như vậy có thể dựa vào lượng
kali bón và hàm tương quan tuyến tính ước lượng trên để dự đoán chất lượng
ptotein của giống ngô QPM TPTD QP4.
3.4.8. Hiệu quả kinh tế của các liều lượng kali với giống ngô QP4 và
LVN10
Ở mức không bón kali (0K2O) do năng suất thực thu trung bình ba vụ
của hai giống QP4 và LVN10 đạt rất thấp nên hiệu quả kinh tế đạt thấp nhất.
Với mức bón 120K2O, ở cả hai giống QPM QP4 và ngô thường LVN10 đạt
hiệu quả kinh tế cao nhất (bảng 3.43).
Bảng 3.43. Hiệu quả kinh tế của liều lượng kali đến
giống ngô QP4 và LVN10 (trung bình 3 vụ)
Liều lượng kali GiốngNăng suất
(kg/ha)
Lãi thuần
(1.000 đ)
0K2OQP4 2.780 3.729
LVN10 2.790 3.757
40K2OQP4 3.880 6.542
LVN10 4.070 7.074
80K2OQP4 4.820 8.907
LVN10 5.140 9.803
120K2OQP4 5.590 10.796
LVN10 5.990 11.916
160K2OQP4 5.640 10.669
LVN10 6.080 11.901
Ghi chú: Giá: Ngô hạt: 2.800 đ/kg; Phân chuồng: 200 đ/kg; Đạm Urê:
5.000 đ/kg; Lân Supe: 1.500 đ/kg; Kaliclorua: 4.000đ/kg.
155
0123456789
10111213
K1 K2 K3 K4 K5
Công thức bón kali
Lã
i th
uầ
n (
triệ
u đ
ồn
g)
QP4
LVN10
Biểu đồ 3.17. Hiệu quả kinh tế qua liều lượng kali của
giống ngô QP4 và LVN10 (trung bình ba vụ)
3.4.9. Hiệu quả nông học của K với giống ngô QP4 và LVN10
Hiệu quả nông học của K qua các giống ở cả ba vụ giảm dần từ 40 - 160K2O,
trong vụ Xuân 2005 biến động từ 27,8 (40K2O) - 16,7 kg ngô hạt/kg K2O
(160K2O) ở QP4 và từ 33,0 (40K2O) - 19,5 kg ngô hạt/kg K2O (160K2O) ở
LVN10; vụ Thu Đông 2005 biến động tương ứng từ 31,5 - 18,7 kg ngô hạt/kg
K2O (QP4) và từ 34,5 - 21,6 kg ngô hạt/kg K2O (LVN10); vụ Xuân 2006: Từ
24,9 - 18,3 kg ngô hạt/kg K2O (QP4) và 29,0 - 20,8 kg ngô hạt/kg K2O
(LVN10); trung bình 3 vụ biến động từ 27,5 – 17,9 kg ngô hạt/ kg K2O (QP4)
và 32,0 – 20,6 kg ngô hạt/ kg K2O (LVN10). Ở liều lượng 160K2O hiệu quả
nông học của K có giảm mạnh. Giống QPM TPTD QP4 có hiệu quả nông học
của K thấp hơn giống ngô lai thường LVN10. Hiệu quả nông học của K của
cả hai giống ở vụ Xuân đạt thấp hơn so với ở vụ Thu Đông.
156
Bảng 3.44. Hiệu quả nông học của K qua các liều lượng bón
đến giống ngô QP4 và LVN10
Đơn vị tính: Kg ngô/kg K2O
Lượng
kaliGiống X.05 TĐ.05 X.06 TB
0K2OQP4 - - - -
LVN10 - - - -
40K2OQP4 27,8 31,5 23,5 27,5
LVN10 33,0 34,5 29,0 32,0
80K2OQP4 24,5 27,1 24,9 25,5
LVN10 30,6 29,9 27,8 29,4
120K2OQP4 22,0 24,5 23,9 23,4
LVN10 26,3 27,4 26,3 26,7
160K2OQP4 16,7 18,7 18,3 17,9
LVN10 19,5 21,6 20,8 20,6
Nghiên cứu của chúng tôi cho kết quả hiệu quả nông học của K đạt rất
cao và cao hơn so với các kết quả nghiên cứu của Nguyễn Trọng Thi và
Nguyễn Văn Bộ (1999) [39], trên đất bạc màu trồng ngô bón K đạt hiệu lực
rất cao, đạt trung bình 15 – 20 kg ngô hạt/kg K2O, còn trên đất phù sa Sông
Hồng chỉ đạt 5,2 kg ngô hạt/kg K2O. Thí nghiệm phân kali của chúng tôi
được tiến hành trên đất cát pha bạc màu tại trường Đại học Nông Lâm Thái
Nguyên, có hàm lượng kali tổng số thuộc loại nghèo (0,21%) do vậy khi bón
kali cho ngô thì thu được năng suất và hiệu quả nông học qua các liều lượng
kali cao hơn nhiều so với không bón kali.
Tóm lại, ảnh hưởng của kali đến các giống ngô QPM TPTD QP4 và ngô
lai thường LVN10 rất rõ, năng suất ngô tăng lên cùng với việc tăng liều lượng
kali. Tuy nhiên đến mức 160K2O năng suất có xu hướng không tăng, kết quả
157
này cũng phù hợp với nghiên cứu của Nguyễn Trọng Thi và Nguyễn Văn Bộ
(1999) [39], trên đất bạc màu trồng ngô bón K đạt hiệu lực rất cao. Hiệu quả
sử dụng K đạt trung bình 15 – 20 kg ngô hạt/kg K2O. Liều lượng bón kali cho
ngô trên đất phù sa sông Hồng từ 60 – 90; trên đất bạc màu 90 – 120 kg
K2O/ha; của Vũ Hữu Yêm và CS (1999) [54], trên đất bạc màu ngô rất cần
bón kali, bón đến 150 kg/ha hiệu suất vẫn còn cao.
3.4.10. Ảnh hưởng của liều lượng kali đến năng suất protein của giống ngô
QP4 và LVN10
Số liệu bảng 3.45 cho thấy ảnh hưởng của liều lượng kali đến năng suất
protein của giống ngô QPM – QP4 và ngô thường LVN10 rất rõ, biến động từ
282,2 (0K2O) – 627,7 kg/ha (160K2O) ở giống QP4 và từ 231,3 (0K2O) – 517,4
kg/ha (160K2O) ở giống LVN10. Mức bón 160K2O đạt năng suất protein cao
nhất ở cả hai giống. Năng suất ngô hạt của giống QP4 thấp hơn LVN10
nhưng năng suất protein cao hơn so với LVN10. Ảnh hưởng của kali đến
năng suất protein của giống ngô QPM TPTD QP4 cao hơn so với giống ngô
lai thường LVN10. Bảng 3.45. Ảnh hưởng của liều lượng kali đến năng suất protein
của giống ngô QP4 và LVN10 (TB 3 vụ)
Đơn vị tính: Kg/ha
GiốngLiều lượng kali
0K2O 40K2O 80K2O 120K2O 160K2O
QP4 282,2 398,9 512,4 611,5 627,7
LVN10 231,3 340,7 439,5 506,2 517,4
Tóm lại, với cả hai giống QP4 và LVN10, liều lượng 120K2O cho năng
suất và hiệu quả kinh tế cao nhất. Liều lượng 80 – 160K2O cho hàm lượng
158
protein, lysine và methionine cao hơn liều lượng 0 – 40K2O. Ảnh hưởng của
liều lượng kali đến hàm lượng và chất lượng protein của giống ngô QPM
TPTD QP4 rất rõ, còn với ngô lai thường LVN10 thì không rõ. Ảnh hưởng
của liều lượng kali đến sinh trưởng, phát triển và năng suất của giống ngô
QPM TPTD QP4 thấp hơn so với giống ngô lai thường LVN10. Ngược lại,
ảnh hưởng của liều lượng kali đến hàm lượng và chất lượng protein của
giống ngô QPM TPTD QP4 cao hơn so với giống ngô lai thường LVN10.
Qua bảng 3.46 cho thấy ảnh hưởng của các liều lượng đạm, lân, kali đến
một số chỉ tiêu chính của giống QP4 và LVN10 rất rõ. Ở các mức bón đạm
240N, lân 160P2O5, kali 160 K2O, kết quả các chỉ tiêu chính đạt được tăng
thêm nhiều so với đối chứng không bón đạm (0N), lân (0P2O5), kali (0K2O).
Bảng 3.46. Ảnh hưởng của mức 240N so với 0N; 160P2O5 - 0P2O5;
160K2O - 0K2O ở một số chỉ tiêu chính đối với giống ngô QP4
và LVN10 (trung bình ba vụ)
Chỉ tiêuĐơn vị
tính
N P2O5 K2O
QP4 LVN10 QP4 LVN10 QP4 LVN10
Thời gian sinh trưởng Ngày +7,0 +8,0 -6,0 -7,0 -6,0 -8,0
Chiều cao cây % +19,9 +22,8 +11,8 +15,6 +8,4 +10,4
Chỉ số diện tích lá % +54,2 +60,0 +39,1 +44,7 +34,6 +37,0
Năng suất thực thu % +138,5 +156,5 +89,2 +102,4 +102,9 +117,9
Protein tổng số % +51,5 +16,3 +20,8 +5,5 +9,7 +2,7
Lysine/Protein % +123,6 +68,4 +48,4 +30,0 +38,1 +29,2
Methionine/Protein % +100,0 +51,7 +28,3 +23,7 +22,3 +17,3
Qua biểu đồ 3.18 cho thấy: Ảnh hưởng của các liều lượng đạm, lân, kali
đến các chỉ tiêu chính sinh trưởng, phát triển và năng suất của giống ngô
QPM TPTD QP4 thấp hơn so với giống ngô lai thường LVN10.
159
0
10
20
30
40
50
60
70
N1 N2 N3 N4 N5 P1 P2 P3 P4 P5 K1 K2 K3 K4 K5
Mức đạm Mức lân Mức kali
Nă
ng
su
ất
(tạ/h
a)
QP4
LVN10
Biểu đồ 3.18. Ảnh hưởng của liều lượng đạm, lân, kali đến năng suất
giống ngô QP4 và LVN10
Biểu đồ 3.19. Ảnh hưởng của liều lượng đạm, lân, kali đến hàm lượng protein (Pr), lysine (Lys) và methionine (Met) của giống ngô QP4 và LVN10
Biểu đồ 3.19 cho thấy: Ảnh hưởng của các liều lượng đạm, lân, kali đến
các chỉ tiêu chất lượng của giống ngô QPM TPTD QP4 cao hơn so với giống
ngô lai thường LVN10.
Trong ba yếu tố đạm, lân, kali thì đạm có ảnh hưởng rõ nhất đến sinh
trưởng, phát triển, năng suất, hàm lượng và chất lượng protein của cả hai
giống ngô QP4 và LVN10.
Từ kết quả 3 thí nghiệm về phân bón (đạm, lân, kali) cho thấy trên nền
10 tấn phân chuồng có 3 công thức phân bón tốt nhất sau:
(1) 180N + 80P2O5 + 80K2O
(2) 120N + 120P2O5 + 80K2O
(3) 120N + 80P2O5 + 120K2O
0
2
4
6
8
10
12
N1 N2 N3 N4 N5 P1 P2 P3 P4 P5 K1 K2 K3 K4 K5
Hàm lượng (%)
Pro. QP4
Pro. LVN10
Lys. QP4
Lys. LVN10
Met. QP4
Met. LVN10
Mức đạm Mức lân Mức kali
160
Nhằm lựa chọn được một công thức phân bón thích hợp nhất cho giống
ngô QPM QP4 để thử nghiệm ở một số tỉnh miền núi phía Bắc, chúng tôi tiến
hành so sánh các chỉ tiêu năng suất và chất lượng đạt được của 3 công thức trên.
Bảng 3.47. So sánh các chỉ tiêu năng suất và chất lượng của ba
công thức đã chọn từ 3 thí nghiệm phân đạm, lân, kali
Công thức
phân bón
Năng suất
ngô hạt
(tạ/ha)
Hàm
lượng
protein
(%)
Năng suất
protein
(kg/ha)
Hàm
lượng
lysine (%)
Hàm
lượng
methionine
(%)
Lãi thuần
(1.000 đ)
1 56,4 10,95 617,6 4,08 3,21 10.551
2 53,4 11,03 589,0 4,11 3,15 9.990
3 55,9 10,94 611,5 3,99 3,16 10.796
Số liệu bảng 3.47 cho thấy công thức 1 (180N + 80P2O5 + 80K2O) có 3
chỉ tiêu đạt cao nhất, đó là năng suất ngô hạt, năng suất protein và hàm lượng
methionine; công thức 2 (120N + 120P2O5 + 80K2O) có 2 chỉ tiêu đạt cao nhất:
Hàm lượng protein và lysine; công thức 3 (120N + 80P2O5 + 120K2O) có 1 chỉ
tiêu lãi thuần đạt cao nhất. Như vậy, công thức 180N + 80P2O5 + 80K2O là tốt
nhất, thích hợp nhất với giống QP4 và được chọn làm thử nghiệm trong xây
dựng mô hình giống ngô QP4 ở một số tỉnh miền núi phía Bắc.
3.5. Kết quả xây dựng mô hình
Từ kết quả khảo nghiệm một số giống ngô thụ phấn tự do chất lượng
cao, chúng tôi đã chọn được giống QP4 có triển vọng nhất, có khả năng sinh
trưởng phát triển tốt, chống chịu khá, ổn định, có tiềm năng năng suất cao,
đặc biệt có chất lượng protein cao. Kết quả thí nghiệm phân bón vụ Xuân và
vụ Thu Đông 2005 cho thấy công thức 180N + 80P2O5 + 80K2O cho năng
161
suất hạt và năng suất protein cao nhất. Chúng tôi đã phối hợp với dự án
"Nghiên cứu có sự tham gia đối với sự phát triển vùng cao - PRDU" do Trung
tâm Nông nghiệp Nhiệt đới Quốc tế (CIAT) quản lý đã tiến hành xây dựng
mô hình trình diễn giống ngô QPM TPTD QP4 vụ Xuân năm 2006 tại huyện
Yên Minh, tỉnh Hà Giang; số hộ tham gia: 9 hộ; diện tích mô hình: 1 ha trên
đất ruộng bỏ hoá vụ Xuân; giống đối chứng: Ngô Trắng địa phương và Ngô
Đỏ địa phương; ngày gieo trồng: 15/3/2006; mật độ 5,7 vạn cây/ha; lượng
phân bón: 180 kg N + 80 kg P2O5 + 80 kg K2O. Kết quả xây dựng mô hình
thử nghiệm như sau:
Giống ngô QPM TPTD QP4 có thời gian sinh trưởng trung bình sớm
(117 ngày) ngắn hơn hai giống Trắng và Đỏ địa phương (đối chứng) 11 - 15 ngày.
Giống QP4 thấp cây (180,5 cm) thấp hơn so với hai giống địa phương 70 - 100 cm;
chiều cao đóng bắp trung bình 65,5 cm, thấp hơn hai giống đối chứng từ
60 - 90 cm, do đó có khả năng chống đổ tốt hơn giống địa phương. Đây là một
đặc điểm quý được cộng đồng địa phương đánh giá cao và chấp nhận.
Bảng 3.48. Một số đặc điểm sinh trưởng phát triển và năng suất của
giống ngô QP4 vụ Xuân 2006 tại Hà Giang
GiốngTGST
(ngày)
Chiều
cao
cây
(cm)
C. cao
đóng
bắp
(cm)
Chiều
dài
bắp
(cm)
Đường
kính
bắp
(cm)
Số
hàng
hạt
(hàng)
Số hạt/
hàng
(hạt)
Năng
suất
(tạ/ha)
QP4 117 180,5 65,5 15,0 4,5 16,0 27,2 37,5
Trắng ĐP 132 280,0 159,3 14,0 4,0 13,2 27,0 28,0
Đỏ ĐP 128 249,0 125,0 12,5 3,9 11,5 22,0 21,0
162
Giống QPM TPTD QP4 có chiều dài bắp trung bình 15 cm, dài hơn đối
chứng 1 - 2,5 cm; bắp to, đường kính bắp 4,5 cm, to hơn giống địa phương
0,5 - 0,6 cm. Số hàng hạt trên bắp đạt 16 hàng, nhiều hơn đối chứng từ 2,8 - 4,5
hàng; số hạt/hàng cũng nhiều hơn do đó năng suất đạt cao hơn (đạt 37,5
tạ/ha), bằng 133,9 - 178,6% so với đối chứng, tức là cao hơn 7,5 - 16,5 tạ/ha
so với đối chứng. Đây là đặc điểm nổi bật và quan trọng nhất của giống ngô
QPM TPTD QP4 được cộng đồng địa phương đánh giá cao.
Giống QPM TPTD QP4 có độ đồng đều về chiều cao cây, chiều cao
đóng bắp, dạng cây, dạng bắp đạt cao, trong khi giống địa phương bị lẫn tạp
và thoái hóa nhiều nên độ đồng đều kém.
Từ kết quả mô hình trình diễn giống mới vụ Xuân 2006 rất tốt, người
nông dân chấp nhận sử dụng và nhân rộng giống ngô QPM TPTD QP4. Vụ
Xuân 2007, chúng tôi tiếp tục xây dựng mô hình sản xuất giống ngô QPM
TPTD QP4 trên địa bàn huyện Yên Minh, tỉnh Hà Giang với diện tích 5,3 ha
trên đất bỏ hoá vụ Xuân và đất đồi dốc. Lượng phân bón đầu tư cho 1 ha là
180 kg N + 80 kg P2O5 + 80 kg K2O. Kết quả giống ngô QPM TPTD QP4 đạt
năng suất trung bình 35,8 tạ/ha. Với sản lượng ngô thu được, một phần người
nông dân Yên Minh chọn lọc ở những bắp ngô tốt, hạt tốt để làm giống cho
vụ sau hoặc bán cho nông dân các huyện bên cạnh, còn lại để làm lương thực
vì ngô QP4 ăn ngon hơn nhiều các giống ngô khác.
Kết quả xây dựng mô hình cả hai vụ (vụ Xuân 2006 và vụ Xuân 2007)
đã được đánh giá thông qua Hội nghị đầu bờ và Hội thảo khoa học có người
nông dân địa phương tham gia, đánh giá tại đồng ruộng và trong phòng. Ý
kiến của tất cả người dân mong muốn trồng tiếp ở các vụ sau và thực tế giống
QP4 đã được nhân rộng.
Giống ngô QP4 được gieo trồng thử nghiệm tại huyện Hàm Yên – tỉnh
Tuyên Quang vụ Xuân 2006 với diện tích 0,2 ha trên đất dốc, có 5 hộ tham
gia. Lượng phân bón 180 kg N + 80 kg P2O5 + 80 kg K2O/ha. Kết quả thu
163
được như sau: Giống ngô QP4 sinh trưởng, phát triển tốt, tỷ lệ nẩy mầm cao
(95 – 98%), độ đồng đều khá, có thời gian sinh trưởng trung bình 113 ngày,
chiều cao cây 205 cm, chiều cao đóng bắp 98 cm, khả năng chống đổ khá, ít
nhiễm sâu bệnh, năng suất trung bình đạt 38,1 tạ/ha, màu sắc hạt vàng phù
hợp với thị hiếu của nông dân địa phương. Giống ngô QP4 sinh trưởng, phát
triển khá phù hợp với điều kiện thời tiết, khí hậu của Tuyên Quang, đáp ứng
được nhu cầu ngô làm lương thực của đồng bào các dân tộc thiểu số vùng cao,
đồng thời cũng đáp ứng được tập quán tự để giống cho vụ sau của đồng bào
các dân tộc tại địa phương.
Gieo trồng thử nghiệm giống ngô QPM TPTD QP4 tại huyện Phổ Yên –
tỉnh Thái Nguyên vụ Đông 2006 với diện tích 0,5 ha trên đất bãi ven sông chủ
yếu là đất cát pha bạc màu, có 11 hộ tham gia. Lượng phân bón cho 1 ha là
180 kg N + 80 kg P2O5 + 80 kg K2O. Kết quả mô hình như sau: Giống ngô
QPM TPTD QP4 sinh trưởng tốt, độ đồng đều khá, có thời gian sinh trưởng
trung bình 110 ngày, chiều cao cây 209 cm, chiều cao đóng bắp 101 cm, khả
năng chống đổ tốt, khả năng chống sâu bệnh khá, chịu hạn tốt, chịu rét tốt,
chiều dài bắp 15,5 cm, tỷ lệ hạt/bắp 76,9%, hạt bán răng ngựa, màu vàng,
khối lượng 1000 hạt đạt 280,7g, năng suất trung bình đạt 42,3 tạ/ha.
KẾT LUẬN VÀ ĐỀ NGHỊ
1. Kết luận
1 - Qua khảo nghiệm 6 giống ngô thụ phấn tự do QPM trong 4 vụ tại
Thái Nguyên đã chọn được giống QP4 triển vọng: Thời gian sinh trưởng
thuộc nhóm chín trung bình sớm, thấp cây, chống đổ tốt, chịu hạn tốt, chống
sâu bệnh khá. Năng suất khá cao và ổn định, tương đương đối chứng HQ2000
và Q2 (đạt 53,7 tạ/ha trong vụ Xuân và 63,3 tạ/ha trong vụ Thu Đông). Hàm
lượng protein 11,06%, lysine 3,98% và methionine 3,00% tương đương giống
164
lai QPM HQ2000 (11,05%; 3,98%; 3,01%) và cao hơn hẳn Q2 (8,65%;
2,50%; 1,92%).
- Kết quả xây dựng mô hình giống ngô QPM thụ phấn tự do QP4 và kỹ
thuật mới tại một số tỉnh cho thấy giống QP4 có thời gian sinh trưởng trung
bình sớm, khả năng chống chịu tốt, năng suất đạt từ 35,8 – 42,3 tạ/ha. Sản
lượng ngô được nông dân dùng làm lương thực và để giống cho vụ sau.
2 - Liều lượng đạm 180N (nền: 10 tấn PC + 80P2O5 + 80K2O), liều lượng
lân 120P2O5 (nền: 10 tấn PC + 120N + 80K2O) và liều lượng kali 120K2O
(nền: 10 tấn PC + 120N + 80P2O5) đối với hai giống QP4 và LVN10 cho năng
suất và hiệu quả kinh tế cao nhất.
- Liều lượng đạm 240N (+ nền), liều lượng lân 120 – 160P2O5 (+ nền) và
liều lượng kali 80 – 160K2O (+ nền) cho hàm lượng protein cao nhất.
- Liều lượng đạm 120 – 240N (+ nền), liều lượng lân 120 – 160P2O5
(+ nền) và liều lượng kali 80 – 160K2O (+ nền) cho chất lượng protein cao nhất.
3 - Trong ba yếu tố đạm, lân và kali thì đạm là yếu tố ảnh hưởng lớn nhất
đến sinh trưởng, phát triển, năng suất, hàm lượng và chất lượng protein của
giống ngô QPM và ngô thường.
4 - Ảnh hưởng của liều lượng kali đến hàm lượng và chất lượng protein
của giống ngô QPM rất rõ, còn ngô thường thì không rõ.
5 - Ảnh hưởng của đạm, lân, kali đến sinh trưởng, phát triển và năng suất
của giống ngô QPM thấp hơn so với giống ngô thường, còn với hàm lượng và
chất lượng protein thì ngược lại.
2. Đề nghị
- Tiếp tục phát triển giống ngô QPM thụ phấn tự do QP4 ở vùng miền
núi phía Bắc.
165
- Khuyến cáo sử dụng công thức phân bón 180N + 80P2O5 + 80K2O cho
giống ngô QP4 tại Thái Nguyên và các tỉnh miền núi phía Bắc.
166
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU
LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI ĐÃ ĐƯỢC CÔNG BỐ
[1] Đỗ Tuấn Khiêm, Trần Trung Kiên (2005), "Nghiên cứu khả năng
sinh trưởng, phát triển của một số giống ngô chất lượng protein cao vụ Thu
Đông 2004 tại Thái Nguyên", Tạp chí Nông nghiệp và Phát triển nông thôn,
Tháng 10/2005, Tr. 23–26.
[2] Trần Trung Kiên, Phan Xuân Hào (2007), “Ảnh hưởng của liều
lượng đạm đến sinh trưởng, phát triển và năng suất của giống ngô chất lượng
protein cao (QPM) - QP4 và ngô thường - LVN10 tại Thái Nguyên”, Tạp chí
Khoa học và Công nghệ Nông nghiệp Việt Nam, Số 4(5)/2007, Tr. 18–26.
[3] Phan Xuân Hào, Đỗ Tuấn Khiêm, Trần Trung Kiên (2008), “Kết
quả khảo nghiệm một số giống ngô chất lượng protein cao (QPM) vụ Xuân và
vụ Thu Đông 2004 - 2005 tại Thái Nguyên”, Tạp chí Khoa học và Công nghệ
Đại học Thái Nguyên, 3(47) tập 2 năm 2008, Tr. 55–61.
[4] Trần Trung Kiên, Phan Xuân Hào, Đỗ Tuấn Khiêm (2008), “Ảnh
hưởng của các liều lượng đạm, lân, kali đến năng suất và chất lượng protein
của giống ngô chất lượng protein cao (QPM) - QP4 và ngô thường - LVN10
tại Thái Nguyên”, Tạp chí Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Số 11 -
tháng 11/2008, Tr. 36-42.
[5] Tran Trung Kien, Phan Xuan Hao, Đo Tuan Khiem (2008), “The
effect of nitrogen, phosphorus, potassium dosages on the grain yeild and
quality protein of quality protein maize variety (QPM) - QP4 and normal
maize variety - LVN10 in Thai Nguyen, Vietnam’, Book of Abstracts - The
Tenth Asian Regional Maize Workshop, Makassar, Indonesia, Oct. 20-23,
2008 (được báo cáo bằng Poster; đang được in trong cuốn sách "Maize for
Asia - Emerging Trends & Technologies").
167
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tài liệu tiếng Việt
1. Afendulop, K.P. (1972), “Ảnh hưởng của phân bón đến quá trình phát triển
các cơ quan của cây ngô” (tài liệu dịch), Một số kết quả nghiên cứu của
cây ngô, NXB Khoa học và Kỹ thuật, Hà Nội.
2. Vũ Kim Bảng (1991), “Nghiên cứu ảnh hưởng của việc xử lý một số chất
kích thích sinh trưởng và nguyên tố vi lượng đến chất dinh dưỡng ở hạt
ngô”, Kết quả nghiên cứu khoa học 1986 – 1991, Khoa Nông học –
Trường Đại học Nông nghiệp I Hà Nội, Tr. 23-24.
3. Vũ Kim Bảng (1997), Nghiên cứu ảnh hưởng của việc phun lên lá dung
dịch ZnSO4 đến một số chỉ tiêu sinh trưởng, sinh lý, sinh hoá, năng suất,
chất lượng hạt ngô, Luận án Tiến sĩ nông nghiệp, Hà Nội.
4. Nguyễn Văn Bào (1996), Nghiên cứu một số biện pháp kỹ thuật góp phần
tăng năng suất ngô ở Hà Giang, Luận án PTS Khoa học Nông nghiệp, Hà
Nội.
5. Berzenyi, Z., Gyorff, B. (1996), “Ảnh hưởng của các yếu tố trồng trọt khác
nhau đến năng suất ngô”, Báo Nông nghiệp và Công nghệ thực phẩm,
7(199), Tr. 5.
6. Nguyễn Văn Bộ (1993), “Hiệu lực phân kali bón cho cây ngũ cốc ăn hạt
trên các loại đất có hàm lượng kali tổng số khác nhau”, Tuyển tập Công
trình Nghiên cứu Khoa học Kỹ thuật Nông nghiệp, NXB Nông nghiệp, Tr.
108–114.
7. Nguyễn Văn Bộ (2007), Bón phân cân đối và hợp lý cho cây trồng, NXB
Nông nghiệp, Hà Nội.
168
8. Nguyễn Văn Bộ, Emutert, Nguyễn Trọng Thi (1999), Một số kết quả
nghiên cứu về phân bón cân đối cho cây trồng ở Việt Nam, Kết quả
Nghiên cứu khoa học, Quyển 3, NXB Nông nghiệp, Hà Nội.
9. Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (2001), Tuyển tập Tiêu chuẩn
nông nghiệp Việt Nam, tập 1, Tr. 55-71.
10. Trần Văn Chính (2006), Giáo trình thổ nhưỡng học, NXB Nông nghiệp,
Hà Nội.
11. Cục Trồng trọt - Bộ NN&PTNT (2006), Hướng dẫn quy trình kỹ thuật
thâm canh một số giống cây trồng, NXB Nông nghiệp, Hà Nội.
12. Đường Hồng Dật (2003), Sổ tay hướng dẫn sử dụng phân bón, NXB
Nông nghiệp, Hà Nội.
13. Đài Khí tượng thuỷ văn Thái Nguyên (2008), Số liệu khí tượng năm
2001–2007, Thái Nguyên.
14. Lê Văn Hải (2002), Nghiên cứu phản ứng của giống ngô lai chất lượng
protein cao HQ-2000 với phân bón trên đất bạc màu huyện Hiệp Hoà -
Bắc Giang, Luận văn Thạc sĩ nông nghiệp, Hà Nội.
15. Phan Xuân Hào, Vũ Đức Quang (2002), "Thực trạng sản xuất ngô ở Việt
Nam và chương trình nghiên cứu công nghệ sinh học về cây ngô", Hội
nghị ngô khu vực Châu Á lần thứ VIII, Băng Cốc, Thái Lan, tháng 8/2002.
16. Phan Xuân Hào, Trần Trung Kiên (2004), “Kết quả khảo nghiệm một số
giống ngô chất lượng protein cao tại Thái Nguyên”, Tạp chí Nông nghiệp
và Phát triển nông thôn, số 1/2004, Tr. 29-31.
17. Bùi Huy Hiền (2002), "Tình hình sử dụng phân bón ở Việt Nam và vai trò
của phân hỗn hợp NPK khi bón đầy đủ và cân đối để thâm canh cây trồng
và bảo vệ môi trường", Hội thảo sản xuất và sử dụng phân bón Lâm
Thao, Hà Nội, Tr. 1-2.
169
18. Ngô Xuân Hiền (1998), Ảnh hưởng của các loại phân chứa Lưu huỳnh (S)
đến năng suất, chất lượng đậu tương đông và ngô đông trên đất bạc màu,
Báo cáo khoa học – Viện Thổ nhưỡng Nông hoá, Hà Nội.
19. Nguyễn Thế Hùng (1996), “Xác định chế độ bón phân tối ưu cho giống
ngô LVN10 trên đất bạc màu vùng Đông Anh – Hà Nội”, Kết quả Nghiên
cứu Khoa học Nông nghiệp 1995 – 1996, NXB Nông nghiệp, Hà Nội.
20. Lê Quý Kha (2001), "Ảnh hưởng của thiếu nước và đạm vào giai đoạn
trước trỗ đến các yếu tố cấu thành năng suất và năng suất ở ngô nhiệt đới,
Tạp chí Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, số 4/2001, Tr. 221–222.
21. Lê Quý Kha, Trần Hồng Uy (2002), "Chất lượng Protein và khu vực hóa
giống ngô HQ2000", Tạp chí Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, số
4/2002, Tr. 361–364.
22. Lê Quý Kha, Trần Hồng Uy, Surinder K. Vasal, Châu Ngọc Lý, Bùi
Mạnh Cường, Nguyễn Tiến Trường, Đỗ Văn Dũng (2004), Quyết định
công nhận giống chính thức HQ2000, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông
thôn, Hà Nội.
23. Đỗ Tuấn Khiêm (1996), Nghiên cứu kỹ thuật trồng ngô xuân trên đất
ruộng một vụ ở một số tỉnh miền núi Đông Bắc Việt Nam, Luận án Phó
tiến sĩ khoa học nông nghiệp, Hà Nội.
24. Lê Văn Khoa, Trần Khắc Hiệp, Trịnh Thị Thanh (1996), Hóa học nông
nghiệp, NXB Đại học Quốc gia, Hà Nội.
25. Châu Ngọc Lý, Lê Quý Kha, Nguyễn Thế Hùng, Nguyễn Bá Huy,
Nguyễn Việt Long (2008), "Khảo sát tập đoàn dòng ngô thuần có chất
lượng protein cao (QPM) mới chọn tạo ở miền Bắc Việt Nam", Tạp chí
Khoa học và Phát triển, Trường Đại học Nông nghiệp Hà Nội, tập VI số
2/2008, Tr. 110-115.
170
26. Nguyễn Đình Mạnh (2004), Phân tích Nông hóa - Thổ nhưỡng, NXB
Nông nghiệp, Hà Nội.
27. Trần Hữu Miện (1987), Cây ngô cao sản ở Hà Nội, NXB Nông nghiệp,
Hà Nội.
28. Trần Văn Minh (1995), Biện pháp kỹ thuật thâm canh ngô ở miền Trung,
Báo cáo nghiệm thu đề tài KN 01 – 05, NXB Nông nghiệp, Hà Nội.
29. Trần Văn Minh (2004), Cây ngô - Nghiên cứu và sản xuất, NXB Nông
nghiệp, Hà Nội.
30. Misuxtin, E.N., Peterburgxki, A.V. (1975), Đạm sinh học trong trồng trọt,
người dịch Nguyễn Xuân Hiển và CTV, NXB Khoa học và Kỹ thuật, Hà Nội.
31. Moxolov, I.V. (1979), Cơ sở sinh lý của việc sử dụng phân khoáng, người
dịch Phạm Đình Thái, Nguyễn Như Khanh, NXB Khoa học và Kỹ thuật,
Hà Nội.
32. Phạm Kim Môn (1991), “Dinh dưỡng khoáng và hiệu lực phân bón đối
với ngô đông sau 2 lúa trên đất phù sa sông Hồng”, Nông nghiệp và Quản
lý kinh tế, số 6/1991.
33. Nguyễn Ngọc Nông (1999), Giáo trình Nông hóa học, NXB Nông nghiệp,
Hà Nội.
34. Nguyễn Ngọc Nông (2000), Phân bón và dinh dưỡng cây trồng - Giáo
trình cao học ngành Trồng trọt, Trường Đại học Nông Lâm Thái Nguyên,
Thái Nguyên.
35. Oparin, A.I. (1977), Cơ sở sinh lý thực vật, Tập II, người dịch Lê Doãn
Diên và CTV, NXB Khoa học và Kỹ thuật, Hà Nội.
36. Hoàng Văn Phụ, Đỗ Thị Ngọc Oanh (2002), Giáo trình phương pháp
nghiên cứu trong trồng trọt, NXB Nông nghiệp, Hà Nội.
171
37. Dương Văn Sơn (2007), "Kết quả so sánh giống ngô chất lượng cao vụ
Xuân 2005 tại xã Hùng Đức, huyện Hàm Yên, tỉnh Tuyên Quang", Tạp
chí Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Kỳ 1 - Tháng 3/2007, Tr. 77–78.
38. Tạ Văn Sơn (1995), “Kỹ thuật sử dụng phân bón thâm canh ngô”, Nghiên
cứu cơ cấu luân canh tăng vụ, các biện pháp kỹ thuật canh tác ngô, xây
dựng mô hình trồng ngô lai vùng thâm canh giai đoạn 1991 - 1995, NXB
Nông nghiệp, Hà Nội, Tr. 51-66.
39. Nguyễn Trọng Thi, Nguyễn Văn Bộ (1999), “Hiệu lực của kali trong mối
quan hệ với phân bón cân đối cho một số cây trồng trên một số loại đất ở
Việt Nam”, Kết quả nghiên cứu khoa học, Quyển 3, NXB Nông nghiệp,
Hà Nội.
40. Ngô Hữu Tình (1995), “Nghiên cứu cơ cấu luân canh tăng vụ và các biện
pháp kỹ thuật canh tác cây ngô, xây dựng mô hình trồng ngô lai ở các
vùng thâm canh giai đoạn 1991 – 1995”, Nghiên cứu cơ cấu luân canh
tăng vụ, các biện pháp kỹ thuật canh tác ngô, xây dựng mô hình trồng
ngô lai vùng thâm canh canh giai đoạn 1991 - 1995, NXB Nông Nghiệp,
Hà Nội, Tr. 5–38.
41. Ngô Hữu Tình (2003), Cây ngô, NXB Nghệ An, Nghệ An.
42. Ngô Hữu Tình (2009), Chọn lọc và lai tạo giống ngô, NXB Nông nghiệp,
Hà Nội.
43. Ngô Hữu Tình, Lê Văn Dũng, Bùi Thế Hùng, Lê Thị Gấm (2001), "So
sánh hiệu lực của một số loại phân bón tới sự sinh trưởng phát triển của
giống ngô LVN10 vụ Xuân 2000, Tạp chí Nông nghiệp và Phát triển
nông thôn, số 1/2001, Tr. 60–61.
44. Tổng cục Thống kê (2009), Niên giám thống kê 2008, NXB Thống kê, Hà Nội.
45. Tổng cục Thống kê (2009).
172
46. Trạm Khảo kiểm nghiệm giống cây trồng miền Trung và Tây Nguyên
(2005), Báo cáo kết phần khảo nghiệm giống ngô TPTD tại Duyên hải
Nam Trung bộ năm 2004 - 2005 – Đề tài nghiên cứu chọn tạo giống ngô
TPTD giai đoạn từ năm 2001- 2005, Quảng Ngãi.
47. Trung tâm Khảo kiểm nghiệm giống cây trồng TƯ (2005), Báo cáo tổng
kết quả khảo nghiệm giống ngô TPTD mới – Đề tài nghiên cứu chọn tạo
giống ngô TPTD giai đoạn từ năm 2001- 2005, Hà Nội.
48. Trung tâm NC & SX giống ngô Sông Bôi (2005), Báo cáo kết quả thực
hiện đề tài nghiên cứu chọn tạo giống ngô TPTD đáp ứng cho nhu cầu của
sản xuất 5 năm 2001- 2005, Hoà Bình.
49. Lê Quý Tường, Trương Đích, Trần Văn Minh và CTV (2001), "Xác định
mức bón đạm hợp lý đối với giống ngô lai LVN4 trên đất phù sa cổ ở
Quảng Ngãi", Tạp chí Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, số 7/2001,
Tr. 448–449.
50. Viện Nghiên cứu Ngô (2006), Báo cáo kết quả chọn tạo giống ngô thụ
phấn tự do QPM, Hà Tây.
51. Viện Nghiên cứu Ngô (2006), Báo cáo kết quả nghiên cứu khoa học công
nghệ (2001 – 2005), Hà Tây.
52. Nguyễn Vy (1998), Độ phì nhiêu thực tế, NXB Nông nghiệp, Hà Nội.
53. Vũ Hữu Yêm (1995), Giáo trình phân bón và cách bón phân, NXB Nông
nghiệp, Hà Nội.
54. Vũ Hữu Yêm, Karl H. Diekmann, Hà Triệu Hiệp và CTV (1999), “Kết
quả nghiên cứu phân bón chương trình hợp tác nghiên cứu giữa ĐHNN I
và Norsk, Hydro Đông Dương (1996 – 1998), Báo cáo thí nghiệm sử
dụng phân bón ở miền Bắc Việt Nam, Hà Nội.
Tài liệu tiếng Anh
173
55. Akhtar, M., Ahmad, S., Mohsin, S., Mahmood, T. (1999), “Interactive
effect of phosphorus and potassium nutrition on the growth and yield of
hybrid maize, (Zea mays L,)”, University of Agriculture, Faisalabad,
(Pakistan), Dept of Agronomy, Literature Update on Maize, 5 (6),
CIMMYT.
56. Alexander, D.E. (1966), “Problems associated with breeding opaque-2
corn and some proposed solutions”, Proc. High Lysine Corn, Conf. E. T.
A. N. Mertz. O. E. Washington D. C., Corn refiners Association Inc.:156.
57. Arnon, I. (1974), Mineral Nutrition of Maize, International Potash
Institute, pp. 15-21, 76-78, 100-101, 117-118, 270.
58. Barbieri, P.A., Sainz, H.R., Andrade, F.H., Echeverria, H.E. (2000), “Row
spcing effect at different levels of Nitrogen availability in Maize”,
Agronomy Journal, 92(2), Literature Update on Maize, Vol,6, CIMMYT,
pp. 283 – 288.
59. Beringer, H. and Northdurft, F. (1985), “Effects of potassium on plant and
cellular structures”, in: Potassium in agriculture, R, D, Munson, ed,
American Society of Agronomy, Crop Science Society of America and
Soil Science Society of America, Madison, WI, pp. 351 – 364.
60. Bjarnason, M.a, Vasal, S.K. (1992), “Breeding of quality protein maize
(QPM)”, Plant Breeding, Rev, J, Janick: 181.
61. Chau Ngoc Ly, Le Quy Kha, Bui Manh Cuong, Do Van Dung (2008),
"Performance of newly developed QPM inbred lines nurseries by anther
culture and conventional conversion from normal maize lines in North
Vietnam", Book of Abstracts, 10th Asian Regional Maize Workshop,
Makassar, Indonesia, 20-23 October 2008.
62. CIMMYT (2001), The Quality Protein Maize Revolution.
63. De. Geus (1973), Fertilizer guide for tropic and sutropic.
174
64. Debreczeni, K. (2000), “Response of Two Maize Hybrids to Different
Fertilizer – N forms, (NH4 – N and NO3 – N), Communication in soil
science Plant analysis”, (31), Literature Update on Maize, 2000, Vol,6,
CIMMYT, pp. 11 – 14.
65. Dilip Singh, S.L.Godawat (2008), "Effect of Integrated Nutrient
Management on Quality Protein Maize Productivity and Soil Health in
Vertisols of Central India", Book of Abstracts, 10th Asian Regional
Maize Workshop, Makassar, Indonesia, 20-23 October 2008.
66. FAO (1992), Maize in Human Nutrition, Rome.
67. FAOSTAT DATABASE, 2009.
68. GMO - COMPASS, 2/2009.
69. Harstead, D.D. a. B., L.F. (1969), High lysine maize in its proper
perspective, Proc, 24th Annual Corn and Sorghum Research Conference,
American Seed Trade Assoc, Chicago IL.
70. Huber, S.C. (1985), “Role of potassium in photosynthesis and respirator”,
in: Potassium in agriculture, R, D, Medison, Ed, American Society of
Agronomy, Crop Science Society of America and Soil Science Society of
America, Madison, WI.
71. Hussain, I., Mahmood, T., Ullah, A., Ali (1999), "Effect on nitrogen and
sulphur on growth, yield and quality of hybrid Maize (Zea mays L.)",
Literature Update on Maize, University of Agriculture, Faisalabad,
(Pakistan), Dept of Agronomy, Vol. 5 (6), CIMMYT.
72. Lei, Y., Zhang, B., Zhang, M., Zhao, K., Qio, W., and Wang, X. (2000),
“Corn Response to Potassium in Liaoning Province”, Better Crops, 14
(1), pp. 6 – 8.
175
73. Made, J. Mejaya, A. Takdir, N. Iriany, M. Pabendon, M. Yasin HG
(2008), "Development of Improved Maize Varieties in Indonesia", 10th
Asian Regional Maize Workshop, Makassar, Indonesia, 20-23 October 2008.
74. Magnavaca, R.M., E.T. (1992), “Quality protein maize development in
Brazil”, Quality protein maize,, St Paul,, Conference paper, St, Paul: AACC.
75. Mertz, E.T., (1969), Conf. on Amino-acid Forttfication of protein Foods,
Cambridge, Mass, Sept., p. 16-18.
76. Mertz, E.T., Bates, L.S., and Nelson, O.E., (1964), “Mutant gene that
changes protein composition and increases lysine content of maize
endosperm”, Science, 145, p. 279-280.
77. Mitsuru Osaki (1994), “Comparison of productivity between tropical and
temperate maize I, Leaf senescence and productivity in relation to
nitrogen nutrien”, Soil Sci, Plant nutr., 41 (3), pp. 439 – 450.
78. Mitsuru Osaki (1995), “Comparison of productivity between tropical and
temperate maize I, Parameters determining the productivity in relation to
the amount of nitrogen absorbed”, Soil Sci, Plant nutr., 41 (3), pp. 451 – 459.
79. Patrick, Loo (2001), Guidelines for Trials in Corn for Hybrid Seeds
Production, pp. 92, 117.
80. Pixley, K. (2008), "Agriculture for nutrition: Maize biofortification
strategies and progress", 10th Asian Regional Maize Workshop,
Makassar, Indonesia, 20-23 October 2008.
81. Rhoads, F.M. (1984), Nitrogen or water stress: Their interrelationships,
American Society of Agronomy, Crop Science Society of America and
Soil Science Society of America, Madison, Wisconsin USA, pp, 307 – 308.
82. Shan Ney Huang (1994), "Soil Management for sustainable food
production in Taiwan", Hualian District Agricultural Improvement
176
station Chiang Town, Hualian Prefuture R. O. C., Extension bulletin 390,
pp. 4, 10 – 12.
83. Sinclair, Tr., Muchow, R.C. (1995), “Effect of Nitrogen supply on maize Yield,
1, modeling physiological Response”, Agronomy Journal 87(4), pp. 632 – 641.
84. Sing, N.N., Pever, H. Zaidi, Meena Mehta and Poonam Yadav (2004),
Abiotic stresses, The Major constraint limiting Maize production and
productivity in south and southeast Asia. Improving maize productivity
under Abiotic stresses, ICAR and CIMMYT Hydrabad, India, pp. 1-3.
85. Subandi, Fadhly, A.F. and Momuat, E.O. (1998), “Fertilization and
Nutrient Management for Maize cropping in Indonesia”, Proceedings of the
seventh Asian regional Maize Workshop, Losbanos, Phillipines, pp. 385 – 387.
86. Sucler, C.H. (1985), “Role of potassium in enzyme catalysts”, in:
Potassium in agriculture, R, D, Munson, ed American Society of
Agronomy, Crop Science Society of America and Soil Science Society of
America, Madison, WI, pp. 337 – 349.
87. Thomas Dieroff, Thomas Fairhurst and Ernst Mutert (2001), Soil Fertility
Kit, pp, 38, 108.
88. Thomas, R., Sinclair, Russell, C. Muchow (1995), “Effect on nitrogen
supply on maize yield : I Modeling Physiological Responses”, Agronomy
Journal Vol 87, (4), pp, 632 – 641.
89. Tisdale, S.I., Nelson, W.I. and Beaton, J.D. (1985), Soil fertility and
fertilizer 4th, Ed, Macmillan, New York.
90. Tomov, N. (1984), Tsarevisata v Bungaria, Sofia, p. 57-63, 103-110.
91. Uhart, S.A., Andrade, F.H.a. (1995), “Nitrogen deficiency in maize, 1,
Effects on crop growth, development, dry matter, partitionaing and kernel
Set”, Crop science 35 (5), pp, 1376 – 1383.
177
92. Uhart, S.A., Andrade, F.H.b. (1995), “Nitrogen deficiency in maize, 2,
Carbon Nitrogen interaction Effects kernel number and grian yield, 1”,
Crop science 35 (5), pp, 1384 – 1389.
93. Vasal, S.K. (1975), “Use of genetic modifier to obtain normal - type
kernel with the opaque-2 gene”, High Quality Protein Maize, Hutchinson
Ross Publishing Stroudsburg, P.A.:197.
94. Vasal, S.K. (2001), “High Quality Protein Corn”, Specialty Corns, Boca
Raton London New York Washington, D.C., CRC Press.
95. Vasal, S.K. (2002), High Quality Protein Corn, Boca Raton London New
York Washington, D. C., CRC Press.
96. Vasal, S.K., Villegas, E., Bjarnason, M., Gelaw, B. and Goertz, P. (1980),
“Genetic modifiers and breeding strategies in developing hard endosperm
opaque-2 materials”, Improvement of Quality Traits of Maize for Grain
and Sillage Use, W, G, a, P, Pollmer, R, H,, Nighoff, The Hague: 37.
97. Vasal, S.K., Villegas, E. and Tang, C.Y. (1984), “Recent advances in the
development of quality protein maize at The Ineternaitonal Maize and
Wheat Improvement Center”, Cereal Grain Protein Improvement,
Vienna, IAEA:167.
98. Vivek, B.S., A.F. Krivanek, N. Palacios-Rojas, S. Twumasi-Afriyie and
A.O. Diallo (2008), Breeding Quality Protein Maize (QPM), Protocols for
Developing QPM Cultivars, Cimmyt, p. 34.
99. William Bennet F. (1993), Nutrient Deficiencies and Toxicities in Crop
Plant, pp. 2.
100. Wolfe, D.W., Henderson, D.W., Hsiao, T.C. and Alvino, A. (1988),
Interactive Water and Nitrogen Effect on Senescence Leaves Published in
Argon, J. (80), pp. 865-870.
178
101. Yasin, H.G., Made J. Mejaya, Firdaus Kasim and Subandi (2007),
“Development of Quality Protein Maize (QPM) in Indonesia”, In
Proceedings of the Ninth Asian Regronal Maize Workshop, China
Agricultural Science and Technology Press, 2007, p. 282-285.
102. Zuber, M., T.R. Colbert, L.L. Darrah (1980), Crop Sci., 20, N6, p. 711 -
717.
179
Recommended