View
232
Download
1
Category
Preview:
Citation preview
Biên dịch: Khoa QHQT | Hiệu đính: Lê Hồng Hiệp
©Dự án Nghiencuuquocte.net 1
CHIẾN TRANH LẠNH TRONG LỊCH SỬ XUNG ĐỘT
THẾ KỶ 20 (PHẦN 2)
Nguồn: Joseph S. Nye (2007). “The Cold War” (Chapter 5), in Joseph S.
Nye, Understanding International Conflicts (New York: Longman), pp. 115-
156.1
Biên dịch: Khoa QHQT | Hiệu đính: Lê Hồng Hiệp
Phần còn lại của Chiến tranh Lạnh
Vào năm 1952, Dwight Eisenhower được bầu làm tổng thống với cam kết đưa ra
trong chiến dịch tranh cử là kết thúc chiến tranh Triều Tiên và tiêu diệt chủ nghĩa
cộng sản. Đảng Cộng hòa cho rằng chính sách ngăn chặn là một sự thỏa hiệp hèn
nhát đối với chủ nghĩa cộng sản. Chính sách đúng đắn phải là tiêu diệt chủ nghĩa
cộng sản. Tuy nhiên trong vòng 6 tháng, thực tế đã cho thấy việc tiêu diệt chủ
nghĩa cộng sản là quá nguy hiểm vì có thể dẫn tới chiến tranh hạt nhân. Sau khi
Stalin mất năm 1953, các mối quan hệ vốn đóng băng trở nên ấm lên dần dần.
Năm 1955 đã diễn ra cuộc gặp thượng đỉnh Mỹ - Xô ở Geneva và hai bên xác nhận
Áo là một quốc gia trung lập. Năm 1956, Khrushchev đã có một bài diễn văn bí mật
phơi bày tội ác của Stalin trước Đại hội Đảng Cộng sản Liên Xô lần thứ 20. Bí mật bị
rò rỉ ra ngoài và góp phần dẫn tới sự bất ổn ở Đông Âu. Hungary tìm cách nổi dậy
nhưng Liên Xô đã can thiệp bằng quân sự để nước này tiếp tục nằm trong khối
cộng sản.
Khrushchev quyết định cần đẩy Mỹ ra khỏi Berlin và đạt được một dàn xếp
cuối cùng đối với Chiến tranh thế giới lần thứ hai nhằm giúp Liên Xô củng cố sự
kiểm soát của mình ở Đông Âu và bắt đầu tận dụng lợi thế của quá trình phi thực 1 Xem Phần 1 tại: http://nghiencuuquocte.net/2014/08/10/chien-tranh-lanh-p1/
#195
14/08/2014
Biên dịch: Khoa QHQT | Hiệu đính: Lê Hồng Hiệp
©Dự án Nghiencuuquocte.net 2
dân hóa ở Thế giới thứ ba. Nhưng những nỗ lực và cách Khrushchev đàm phán với
Mỹ lại khiến người ta liên tưởng tới cách hoàng đế nước Đức tìm cách buộc Anh
đàm phán những năm trước 1914, đầy hăm dọa và lừa dối. Những nỗ lực đòi Mỹ
chấp nhận các điều khoản của Liên Xô đã phản tác dụng. Khrushchev đã thất bại
trong cuộc khủng hoảng 1958 -1961 ở Berlin và cả trong cuộc khủng hoảng tên lửa
ở Cuba năm 1962.
Như chúng ta sẽ thấy ở phần sau, Liên Xô và Mỹ đã tiến quá sát tới bờ vực
của chiến tranh hạt nhân trong cuộc khủng hoảng tên lửa ở Cuba đến mức hai bên
phải điều chỉnh mối quan hệ song phương sang một giai đoạn mới. Từ 1963 đến
1978, mối quan hệ đã bớt căng thẳng và hai bên dần dần đi vào thời kỳ hòa dịu.
Sau khủng hoảng tên lửa ở Cuba, các cuộc đàm phán kiểm soát vũ khí đã dẫn tới
sự ra đời Hiệp ước cấm thử vũ khí nguyên tử hạn chế nhằm ngăn ngừa các thử
nghiệm hạt nhân trong khí quyển vào năm 1963 và Hiệp ước cấm phổ biến vũ khí
nguyên tử (NPT) vào năm 1968. Thương mại song phương bắt đầu dần phát triển,
tình trạng hòa dịu dường như được mở rộng. Chiến tranh Việt Nam cũng đã khiến
Mỹ chú ý nhiều hơn tới mối đe dọa đến từ chủ nghĩa cộng sản ở Trung Quốc.
Từ 1969 đến 1974, chính quyền Nixon đã sử dụng tình trạng hòa dịu như
một phương tiện nhằm theo đuổi các mục tiêu của chính sách ngăn chặn. Sau
khủng hoảng tên lửa Cuba, Liên Xô khởi động việc phát triển vũ trang và đạt được
mức cân bằng về vũ khí nguyên tử với Mỹ. Chiến tranh Việt Nam đã dẫn tới tình
trạng thất vọng của công luận Mỹ về chính sách can thiệp trong Chiến tranh lạnh.
Chiến lược của Nixon gồm 4 điểm chính: (1) thương lượng một hiệp ước kiểm soát
vũ khí chiến lược với Liên Xô để chốt khối lượng vũ khí nguyên tử của hai nước ở
mức tương đối cân bằng; (2) khai thông quan hệ ngoại giao với Trung Quốc và từ
đó tạo ra thế cân bằng quyền lực ba bên ở Châu Á (chứ không đẩy Liên Xô và
Trung Quốc tới chỗ liên minh với nhau); (3) tăng cường thương mại từ đó sử dụng
chiến lược “củ cà rốt” bên cạnh “cây gậy” trong mối quan hệ với Liên Xô; và (4) sử
dụng các “kết nối” để gắn kết những phần khác nhau trong chính sách. Đỉnh cao
của giai đoạn hòa dịu là những năm 1972-1973, nhưng không kéo dài được bao
lâu.
Chiến tranh Trung Đông 1973 và sự giúp đỡ của Liên Xô cho phong trào
chống phương Tây ở Châu Phi dẫn tới cảm giác Mỹ bị lừa dối. Môi trường chính trị
trong nước của Mỹ cũng góp phần làm tình trạng hòa dịu suy yếu khi những nhà
lập pháp Mỹ như Thượng Nghị sĩ Henry Jackson cố gắng gắn vấn đề thương mại với
vấn đề nhân quyền ở Liên Xô, như vấn đề Liên Xô đối xử với người Do Thái. Năm
1975 khi Bồ Đào Nha trao trả độc lập cho Angola và Mozambique, Liên Xô đã giúp
Biên dịch: Khoa QHQT | Hiệu đính: Lê Hồng Hiệp
©Dự án Nghiencuuquocte.net 3
đưa quân Cuba sang các nước này nhằm duy trì các chính phủ thân cộng ở đây.
Trong chiến dịch tranh cử tổng thống 1976, Gerald Ford không bao giờ sử dụng từ
“hòa dịu.” Người kế nhiệm ông là Jimmy Carter cố gắng tiếp tục kéo dài thời kỳ hòa
dịu với Liên Xô trong suốt 2 năm đầu nhiệm kì, nhưng Liên Xô và Cuba lại can thiệp
vào cuộc nội chiến ở Ethiopia, đồng thời Liên Xô tiếp tục phát triển sức mạnh quân
sự, và vào tháng 12/1979 Liên Xô giáng một đòn kết thúc thời kỳ hòa dịu bằng
cách đưa quân vào Afghanistan.
Tại sao sự thù địch lại gia tăng trở lại? Một lý do là người ta thường trông
chờ quá nhiều ở thời kỳ hòa dịu. Hơn nữa vào những năm 1970 có 3 xu hướng tác
động đến vấn đề này. Một là sự phát triển vũ trang của Liên Xô, trong đó Liên Xô
tăng ngân sách quốc phòng lên gần 4% mỗi năm và đưa vào sử dụng những tên
lửa hạng nặng mới khiến các nhà hoạch định quốc phòng Mỹ phải lo lắng. Hai là sự
can thiệp của Liên Xô vào Angola, Ethiopia và Afghanistan. Các nhà lãnh đạo Liên
Xô nghĩ rằng những hành động này có thể được biện minh bởi cái mà họ gọi là
“tương quan lực lượng” thay đổi trong lịch sử, hay chính là niềm tin cho rằng lịch sử
đang đi theo hướng mà chủ nghĩa Mác-Lênin đã dự đoán. Thứ ba là sự thay đổi
trong chính trị nội bộ nước Mỹ, xuất hiện xu hướng thiên hữu phá vỡ liên minh ủng
hộ Đảng Dân chủ. Sự tương tác giữa hành động của Liên Xô và xu hướng chính trị
ở Mỹ đã khẳng định quan điểm cho rằng Chiến tranh lạnh còn tiếp diễn và tình
trạng hòa dịu không thể tồn tại lâu dài. Tuy nhiên thái độ thù địch mới trong những
năm 1980 không phải là sự trở về thời kỳ Chiến tranh lạnh những năm 1950. Có sự
trở lại của các luận điệu thập niên 1950, nhưng hành động thì hoàn toàn khác biệt.
Mặc dù Tổng thống Ronald Reagan gọi Liên Xô là một “Đế chế xấu xa” nhưng ông
vẫn theo đuổi các hiệp định kiểm soát vũ khí. Thương mại song phương gia tăng,
điển hình như về ngũ cốc, và liên lạc được duy trì thường xuyên giữa Mỹ và Liên
Xô. Các siêu cường thậm chí còn phát triển một số qui tắc thận trọng trong cách
hành xử với nhau: không có chiến tranh trực tiếp; không sử dụng vũ khí nguyên tử;
và đàm phán về vũ khí cũng như kiểm soát vũ khí nguyên tử. Vì vậy Chiến tranh
lạnh vào những năm 1980 khác với Chiến tranh lạnh thời kỳ những năm 1950.
Hồi kết của Chiến tranh Lạnh
Chiến tranh lạnh đã thật sự kết thúc vào lúc nào? Do nguồn gốc Chiến tranh lạnh
liên quan chặt chẽ đến việc phân chia Châu Âu của Mỹ và Liên Xô nên thời điểm
chấm dứt Chiến tranh lạnh có thể được tính từ khi việc phân chia này kết thúc, đó
là vào năm 1989. Khi Liên Xô không còn dùng vũ lực để trợ giúp cho chính quyền
Biên dịch: Khoa QHQT | Hiệu đính: Lê Hồng Hiệp
©Dự án Nghiencuuquocte.net 4
Đông Đức và bức tường Berlin bị chọc thủng bởi những nhóm người phấn khích vào
tháng 11/1989, Chiến tranh lạnh có thể được xem là đã kết thúc.
Nhưng tại sao nó lại kết thúc? Nhiều người lập luận rằng chính chính sách
ngăn chặn đã phát huy tác dụng. Ngay sau khi Chiến tranh thế giới lần thứ hai kết
thúc George Kennan đã cho rằng nếu Mỹ có thể ngăn cản được Liên Xô bành
trướng thế lực thì Liên Xô sẽ không thể nuôi dưỡng được hệ tư tưởng của mình và
chủ nghĩa cộng sản sẽ dần dần suy yếu. Các tư tưởng mới rồi sẽ xuất hiện, người ta
sẽ thấy rằng chủ nghĩa cộng sản không phải là trào lưu của tương lai và lịch sử sẽ
không tiếp tục đứng về phía họ. Trong một chừng mực nào đó, Kennan đã đúng.
Sức mạnh quân sự của Mỹ giúp ngăn chặn Liên Xô bành trướng trong khi quyền lực
mềm về văn hóa, giá trị và tư tưởng của Mỹ đã làm xói mòn hệ tư tưởng cộng sản.
Nhưng câu hỏi về thời điểm vẫn còn đó, tại sao lại là năm 1989? Tại sao cuộc chiến
lại kéo dài đến bốn thập kỷ? Tại sao lại tốn nhiều thời gian để kết thúc như thế?
Hay tại sao nó không kéo dài thêm 10 năm nữa? Có lẽ chính sách ngăn chặn đã
phát huy tác dụng nhưng điều đó vẫn chưa đủ để giải đáp tất cả các câu hỏi trên.
Một cách giải thích khác đi theo hướng “sự bành trướng quá mức của các đế
chế.” Nhà sử học Paul Kennedy của Đại học Yale lập luận rằng các đế chế đã bành
trướng quá mức cho đến khi sự bành trướng này làm xói mòn sức mạnh của nội tại
của chính họ. Liên Xô là trường hợp như vậy khi đầu tư hơn ¼ nền kinh tế của
mình cho hoạt động quốc phòng và ngoại giao (trong khi Mỹ chỉ đầu tư vào đó 6%
vào những năm 1980). Nhưng Kennedy cũng nói rằng không một đế chế đa quốc
gia bành trướng quá mức nào trong lịch sử từng tự sụp đổ cho đến khi bị đánh bại
hay suy yếu trong một cuộc chiến tranh lớn giữa các cường quốc. Một cách giải
thích thứ ba là việc Mỹ xây dựng lực lượng quân sự vào thập niên 1980 đã buộc
Liên Xô phải đầu hàng trong Chiến tranh lạnh. Ở chừng mực nào đó đúng là những
chính sách của Tổng thống R. Reagan đã khiến Liên Xô phải dàn trải sức mạnh quá
mức, tuy nhiên đây cũng chưa phải là câu trả lời đầy đủ. Suy cho cùng thì những
giai đoạn Mỹ phát triển sức mạnh quân sự trước kia đã không đem lại tầm ảnh
hưởng mạnh mẽ đến như thế. Vậy tại sao lại là 1989? Chúng ta phải đi tìm những
nguyên nhân sâu xa hơn bởi vì nếu cho rằng chính sách và luận điệu của người Mỹ
vào những năm 1980 là nguyên nhân chính dẫn đến sự suy yếu của Liên Xô có lẽ
chẳng khác nào nói một con gà trống luôn cho rằng chính tiếng gáy của nó đã gọi
mặt trời thức giấc, một ví dụ khác về sai lầm trong việc đưa ra các lập luận nhân
quả.
Chúng ta có thể hiểu sâu hơn về thời điểm kết thúc Chiến tranh lạnh bằng
cách xoáy vào 3 loại nguyên nhân: nguyên nhân trực tiếp, nguyên nhân gián tiếp
Biên dịch: Khoa QHQT | Hiệu đính: Lê Hồng Hiệp
©Dự án Nghiencuuquocte.net 5
và nguyên nhân sâu xa. Nguyên nhân trực tiếp quan trọng nhất dẫn tới sự kết thúc
Chiến tranh lạnh là từ một cá nhân, đó chính là Mikhail Gorbachev. Gorbachev
muốn cải tổ lại chứ không phải thay thế bộ máy cộng sản của mình. Tuy nhiên,
cuộc cải tổ đã phát triển thành một cuộc cách mạng từ dưới lên hơn là từ trên
xuống. Trong cả chính sách đối nội lẫn đối ngoại, Gorbachev đã tiến hành hàng loạt
các hành động làm đẩy nhanh sự sụp đổ của Liên Xô cũng như sự kết thúc của
Chiến tranh lạnh. Khi lên cầm quyền vào năm 1985, Gorbachev đã cố gắng đưa
Liên Xô vào kỷ luật như một cách vượt qua sự trì trệ về kinh tế lúc bấy giờ. Khi các
nguyên tắc kỷ luật không đủ sức giải quyết vấn đề, ông lại đưa ra ý tưởng
perestroika hay “cải tổ,” nhưng ông không thể cải tổ từ trên xuống vì các mệnh
lệnh của ông luôn bị cản trở bởi các quan chức trong chính quyền. Vì thế để đối
phó với những người này, ông ta đã sử dụng một chiến lược gọi là glasnost, hay
“công khai hóa”, cho phép thảo luận các vấn đề công khai và dân chủ hóa.
Gorbachev cho rằng nêu lên các bất mãn của người dân về cách vận hành của hệ
thống sẽ gây áp lực cho bộ máy chính quyền và từ đó giúp perestroika được thực
hiện. Nhưng một khi công khai hóa và dân chủ hóa cho phép người dân nói ra suy
nghĩ của mình và bỏ phiếu cho điều đó thì nhiều người sẽ nói “Chúng tôi muốn tách
ra. Không thể có kiểu người Liên Xô mới. Đây là một triều đại đế quốc và chúng tôi
không thuộc về đế quốc này.” Gorbachev đã gây nên sự tan rã của Liên Xô và điều
này dần trở nên rõ ràng hơn sau khi một cuộc đảo chính của những người theo
đường lối cứng rắn thất bại vào tháng 8/1991. Cho tới tháng 12/1991, Liên Xô đã
không còn tồn tại.
Chính sách đối ngoại của Gorbachev, cái mà ông gọi là “tư duy mới,” cũng
đã góp phần dẫn đến việc kết thúc Chiến tranh lạnh. Chính sách này có hai yếu tố
rất quan trọng. Một là việc thay đổi tư tưởng mà các nhà kiến tạo nhấn mạnh, như
về khái niệm an ninh chung vốn có thể hóa giải được thế tiến thoái lưỡng nan trong
an ninh bằng cách cùng nhau tham gia đảm bảo an ninh. Gorbachev và những phụ
tá của ông đã nói rằng trong một thế giới nơi mà sự phụ thuộc lẫn nhau đang gia
tăng thì an ninh không phải là một trò chơi có tổng bằng không và tất cả có thể
đều được lợi thông qua hợp tác. Sự tồn tại của các mối đe dọa hạt nhân có nghĩa là
cả thế giới có nguy cơ bị hủy diệt nếu sự cạnh tranh vượt ra ngoài tầm kiểm soát.
Thay vì cố gắng chạy đua có được càng nhiều vũ khí nguyên tử càng tốt,
Gorbachev đã cho ra đời học thuyết “vừa đủ,” theo đó chỉ cần một số lượng vũ khí
nguyên tử tối thiểu nhằm tự vệ. Những khía cạnh khác trong sự thay đổi chính sách
đối ngoại của Gorbachev là quan điểm của ông cho rằng chủ nghĩa bành trướng là
có hại nhiều hơn có lợi. Việc Liên Xô kiểm soát Đông Âu tốn kém quá nhiều mà
đem lại quá ít lợi ích, và việc xâm lược Afghanistan cũng là một thảm họa đắt giá.
Biên dịch: Khoa QHQT | Hiệu đính: Lê Hồng Hiệp
©Dự án Nghiencuuquocte.net 6
Áp đặt một hệ thống theo chủ nghĩa cộng sản lên các quốc gia láng giềng nhằm
đảm bảo an ninh cho Liên Xô không còn là một việc làm cần thiết nữa.
Do đó, đến mùa hè năm 1989, các nước Đông Âu đã được phép tự do hơn.
Hungary đã cho người Đông Đức chạy qua lãnh thổ mình để thoát sang Áo. Việc
nhiều người Đông Đức vượt biên đã tạo áp lực lớn lên chính quyền nước này. Thêm
vào đó các nước Đông Âu không còn dám (hay không còn được Liên Xô ủng hộ)
đàn áp các cuộc biểu tình. Tháng 11, bức tường Berlin bị chọc thủng – một kết cục
đầy kịch tính của hàng loạt các sự kiện diễn ra trong một thời gian rất ngắn. Chúng
ta có thể cho rằng các sự kiện này xuất phát từ những tính toán sai lầm của
Gorbachev. Ông ta nghĩ rằng chủ nghĩa cộng sản có thể cải cách được, nhưng trên
thực tế trong quá trình cải cách ông lại tạo ra một lỗ hổng lớn. Giống như lỗ hổng
của một đập nước, một khi áp lực nước lâu ngày bị kiềm chế bắt đầu bùng nổ, lập
tức mọi thứ bị xé tung và toàn bộ hệ thống sụp đổ.
Nhưng một câu hỏi vẫn chưa được giải đáp, “Tại sao lại là năm 1989? Tại
sao lại dưới thời Gorbachev?” Trong một chừng mực nào đó, Gorbachev là một tai
nạn của lịch sử. Vào đầu những năm 1980, ba nhà lãnh đạo lão thành của Liên Xô
lần lượt qua đời. Chỉ tới năm 1985 thì thế hệ trẻ hơn, những người trưởng thành
dưới thời của Khrushchev, thường được gọi là “thế hệ 1956,” mới nắm được cơ hội
của mình. Nhưng nếu các thành viên trong Bộ Chính trị Đảng Cộng sản Liên Xô
chọn một người có chủ trương cứng rắn chứ không phải Gorbachev vào năm 1985
thì có thể đất nước Liên Xô đang suy yếu kia có thể còn tiếp tục tồn tại thêm 10
năm nữa. Liên Xô sẽ không sụp đổ nhanh chóng đến vậy. Cá tính của Gorbachev
đã góp phần lý giải vấn đề thời gian.
Đối với các nguyên nhân gián tiếp, Kennan và Kennedy đều có thể được
nhắc tới ở đây. Hai nguyên nhân gián tiếp quan trọng đó là quyền lực mềm của các
tư tưởng tự do, được nhấn mạnh trong thuyết kiến tạo, và sự dàn trải sức mạnh
quá mức của Liên Xô như lập luận của các nhà hiện thực. Các tư tưởng về tự do
dân chủ và tư duy mới mà Gorbachev vận dụng là các tư tưởng của phương Tây
mà thế hệ 1956 đã đón nhận. Một trong những kiến trúc sư chủ chốt của
perestroika và glasnost, Aleksandr Yakovlev, từng là một sinh viên tham gia chương
trình trao đổi ở Mỹ và đã bị các học thuyết về chủ nghĩa đa nguyên kiểu Mỹ cuốn
hút. Sự phát triển của các mối liên lạc và giao tiếp xuyên quốc gia đã giúp xuyên
thủng bức mành sắt và giúp văn hóa đại chúng phương Tây cùng các tư tưởng tự
do lan tỏa. Sự phát triển kinh tế của các nước phương Tây cũng mang lại sức lôi
cuốn lớn. Trong khi sức mạnh quân sự giúp ngăn chặn xu hướng bành trướng của
Liên Xô thì chính sức mạnh mềm đã làm xói mòn hệ tư tưởng cộng sản đằng sau
Biên dịch: Khoa QHQT | Hiệu đính: Lê Hồng Hiệp
©Dự án Nghiencuuquocte.net 7
bức mành sắt. Khi sụp đổ vào năm 1989, Bức tường Berlin không phải bị tác động
bởi đạn pháo, mà bởi những nhát búa và những chiếc máy ủi của chính những
người dân.
Về việc dàn trải sức mạnh quá mức, ngân sách khổng lồ dành cho quốc
phòng đã bắt đầu ảnh hưởng lên các mặt khác của đời sống xã hội Liên Xô. Hệ
thống chăm sóc y tế suy giảm và tỉ lệ tử vong ở Liên Xô đã gia tăng (Liên Xô là
nước phát triển duy nhất xảy ra tình trạng này). Cuối cùng, ngay cả quân đội cũng
nhận ra gánh nặng bắt nguồn từ việc dàn trải sức mạnh quá mức. Năm 1984,
nguyên soái Ogarkov, tổng tham mưu trưởng quân đội Liên Xô, nhận ra rằng Liên
Xô cần một nền tảng kinh tế dân sự tốt hơn và được tiếp cận nhiều hơn với công
nghệ và thương mại của phương Tây. Nhưng trong suốt thời kỳ trì trệ đó, những
nhà lãnh đạo bảo thủ đã không sẵn lòng lắng nghe và Ogarkov đã bị buộc phải rời
khỏi vị trí của mình.
Do đó, những nguyên nhân gián tiếp nêu trên là quan trọng, mặc dù rốt
cuộc chúng ta vẫn phải xem xét các nguyên nhân sâu xa, bao gồm sự suy giảm ý
thức hệ cộng sản chủ nghĩa (giải thích theo thuyết kiến tạo) và sự thất bại của nền
kinh tế Liên Xô (giải thích theo thuyết hiện thực). Việc mất uy tín lãnh đạo của chủ
nghĩa cộng sản trong thời kỳ hậu Chiến tranh thế giới lần thứ hai là khá nghiêm
trọng. Ở giai đoạn đầu tiên, ngay sau năm 1945, chủ nghĩa cộng sản thực sự có
sức hút rộng rãi. Nhiều chiến sĩ cộng sản đã dẫn dắt phong trào kháng chiến chống
chủ nghĩa phát xít ở Châu Âu, và nhiều người tin rằng chủ nghĩa cộng sản là trào
lưu của tương lai. Liên Xô đã tạo ra được rất nhiều quyền lực mềm từ ý thức hệ
cộng sản nhưng họ đã nhanh chóng lãng phí điều này. Quyền lực mềm của Liên Xô
bị suy giảm dần dần bởi quá trình phi-Stalin-hóa vào năm 1956, năm những sai lầm
của ông được phơi bày; bởi việc đàn áp ở Hungary năm 1956, ở Tiệp Khắc năm
1968 và ở Ba Lan năm 1981; cũng như bởi sự gia tăng truyền bá xuyên quốc gia
các lý tưởng tự do. Mặc dù trên lý thuyết thì chủ nghĩa cộng sản hướng tới việc
thiết lập bình đẳng giai cấp, nhưng những người kế thừa tư tưởng của Lênin lại
nuôi dưỡng quyền lực trong nước thông qua hệ thống an ninh quốc gia tàn khốc với
những trại cải tạo, trại lao động, kiểm duyệt gắt gao và sử dụng những người chỉ
điểm. Mạng lưới kiểm soát hà khắc đã khiến người dân Liên Xô mất niềm tin vào hệ
thống chính quyền và điều này được thể hiện qua dòng chảy văn chương phản
kháng ngầm cũng như sự chống đối gia tăng của các nhà hoạt động vì nhân quyền.
Bên cạnh đó, kinh tế Liên Xô cũng đã suy giảm, phản ánh khả năng ngày
càng hạn chế của hệ thống kế hoạch tập trung trong việc đối phó với những thay
đổi của nền kinh tế thế giới. Stalin đã tạo ra một hệ thống chỉ đạo kinh tế tập trung
Biên dịch: Khoa QHQT | Hiệu đính: Lê Hồng Hiệp
©Dự án Nghiencuuquocte.net 8
hóa trong đó nhấn mạnh nền công nghiệp nặng. Hệ thống này rất thiếu linh hoạt
và kém hiệu quả, đồng thời có xu hướng níu giữ lao động chứ không chuyển lao
động sang những ngành công nghiệp dịch vụ đang rất phát triển. Như nhà kinh tế
học Joseph Schumpeter đã chỉ ra, chủ nghĩa tư bản mang tính sáng tạo cao, luôn
phản ứng linh hoạt với các làn sóng lớn của sự thay đổi về kỹ thuật. Vào cuối thế
kỷ 20, thay đổi cơ bản về kỹ thuật của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ ba
chính là vai trò ngày càng gia tăng của thông tin với tư cách là một nguồn lực khan
hiếm nhất trong nền kinh tế. Hệ thống của Liên Xô rất yếu kém trong việc xử lý
thông tin. Tính bí mật của hệ thống chính trị cũng có nghĩa là dòng chảy thông tin
bị ngưng trệ và chậm chạp.
Trái ngược với cách mà hầu hết lịch sử được ghi lại, các nhà sử học nghiên cứu về
Chiến tranh lạnh cho tới cuối những những năm 1980 vẫn thường xuyên chạy theo
sự kiện chứ không phải ngồi lại để miêu tả lại sự kiện sau khi nó đã hoàn thành.
Chúng ta không có cách nào có thể biết được kết quả cuối cùng, và chúng ta cũng
chỉ có thể xác định được động cơ của một số chứ không phải tất cả các bên tham gia
chủ chốt… Giờ thì chúng ta mới biết. Hay ít nhất là giờ chúng ta biết được nhiều hơn
so với trước kia. Chúng ta sẽ không bao giờ biết được toàn bộ câu chuyện: chúng ta
không có được câu chuyện đầy đủ cho bất kỳ sự kiện lịch sử nào, cho dù sự kiện đó
đã diễn ra cách đây bao lâu. Các sử gia cũng chỉ có thể khôi phục lại những gì đã
thực sự diễn ra trong quá khứ tương tự như những bản đồ miêu tả lại địa hình trên
thực tế. Nhưng chúng ta có thể diễn giải cho quá khứ, giống như những nhà kỹ
thuật bản đồ vẽ lại địa hình một cách tương đối. Và nhờ sự kết thúc của Chiến tranh
lạnh cùng với sự giải mật một số liệu của Liên Xô cũ, Đông Âu và Trung Quốc chúng
ta mới có thể kéo những mô tả lịch sử của chúng ta xích lại gần hơn với những gì
diễn ra trên thực tế.
- John L. Gaddis, “Lịch sử mới về Chiến tranh lạnh”2
Hàng hóa và dịch vụ của Liên Xô không thể duy trì theo tiêu chuẩn quốc tế.
Nền kinh tế thế giới trải qua nhiều biến động vào cuối thế kỷ 20, nhưng các nền
kinh tế phương Tây sử dụng hệ thống thị trường của họ đã có thể dịch chuyển lao
động sang lĩnh vực dịch vụ để tái cấu trúc ngành công nghiệp nặng, đồng thời
chuyển hướng sang lĩnh vực công nghệ cao. Liên Xô không thể theo kịp với những
thay đổi này. Ví dụ, khi Gorbachev lên nắm quyền vào năm 1985, chỉ có 50.000
máy tính cá nhân ở Liên Xô; trong khi ở Mỹ là 30 triệu cái. Bốn năm sau, có khoảng
2 John L. Gaddis, “The New Cold War History”, Foreign Policy Research Institute Footnotes 5:5 (6/1998).
Biên dịch: Khoa QHQT | Hiệu đính: Lê Hồng Hiệp
©Dự án Nghiencuuquocte.net 9
400.000 máy vi tính cá nhân ở Liên Xô thì Mỹ đã có 40 triệu cái. Các nền kinh tế
hướng tới thị trường và các nền dân chủ tỏ ra linh hoạt hơn trong việc thích ứng với
các thay đổi công nghệ so với hệ thống tập trung hóa của Liên Xô mà Stalin đã tạo
ra cho thời kỳ phát triển công nghiệp nặng những năm 1930. Theo một nhà kinh tế
Liên Xô, cho tới cuối những năm 1980, chỉ có 8% công nghiệp Liên Xô là có thể
cạnh tranh được theo tiêu chuẩn quốc tế. Thật khó để có thể duy trì vị trí siêu
cường khi 92% sản phẩm công nghiệp nằm dưới mức trung bình.
Sự kết thúc Chiến tranh lạnh là một trong những sự kiện dẫn tới những thay
đổi lớn trong thế kỷ 20. Nó cũng tương đương với Chiến tranh thế giới lần thứ hai
nếu xét về tác động đối với cấu trúc của hệ thống quốc tế, nhưng lại diễn ra mà
không có chiến tranh. Trong các chương tiếp theo, chúng ta sẽ xem xét ý nghĩa của
sự kiện này đối với chính trị quốc tế trong tương lai.
Tiếp theo sự tan rã của Liên Xô, Nga cũng đã trải qua những chuyển biến
quan trọng. Từ bỏ nền kinh tế kế hoạch hóa của Liên Xô, Nga sau Chiến tranh lạnh
đã tiến lên con đường dân chủ hóa và tự do hóa kinh tế. Tuy nhiên con đường này
đầy rẫy những hiểm nguy. Nghe theo khuyến cáo của Quỹ Tiền tệ Quốc tế, chính
phủ Nga ban đầu áp dụng “liệu pháp sốc” trong kinh tế nhằm giúp chuyển nền kinh
tế tập trung quá độ sang một nền dân chủ tự do. Tuy nhiên, liệu pháp sốc đã phá
vỡ xã hội Nga đến nỗi liệu pháp này đã bị tạm dừng nhằm nhường chỗ cho những
biện pháp dần dần. Khi tình trạng kinh tế trở nên tồi tệ hơn, chủ nghĩa dân tộc Nga
lại được dịp sống lại.
Những nhà lý luận như Michael Doyle đưa ra giả thuyết cho rằng các nước
dân chủ tự do không tiến hành chiến tranh chống lại nhau, và kết luận rằng nếu
Nga quá độ thành công sang nền dân chủ thì điều này sẽ có ý nghĩa tích cực đối
với hòa bình thế giới. Chúng ta vẫn phải chờ xem liệu chính sách ngoại giao Nga có
phù hợp với mô hình hòa bình nhờ dân chủ hay không, hay liệu sự hồi sinh của chủ
nghĩa tập quyền và chủ nghĩa dân tộc Nga sẽ là một thách thức đối với Mỹ và các
nước phương Tây.
Cho dù tương lai sẽ ra sao, một câu hỏi chính vẫn còn đó. Không kém phần
quan trọng so với câu hỏi tại sao Chiến tranh lạnh chấm dứt là câu hỏi tại sao Chiến
tranh lạnh không trở thành chiến tranh “nóng.” Tại sao cuộc chiến này kéo dài lâu
đến vậy mà không có một “cuộc chiến nóng” bùng nổ giữa hai siêu cường? Tại sao
Chiến tranh lạnh không trở thành Chiến tranh thế giới lần thứ ba?
Biên dịch: Khoa QHQT | Hiệu đính: Lê Hồng Hiệp
©Dự án Nghiencuuquocte.net 10
Vai trò của vũ khí hạt nhân
Một số nhà phân tích cho rằng những xã hội tiến bộ đã rút ra được những bài học
từ cuộc Chiến tranh thế giới lần thứ nhất và thứ hai và họ đã không còn muốn có
chiến tranh. Một số người khác thì tin rằng nền “hòa bình lâu dài” trong thời gian
nửa sau thế kỷ 20 xuất phát từ việc các siêu cường hạn chế mục đích bành trướng
của mình. Tuy nhiên nhiều người khác lại tin vào sự ổn định sẵn có của hệ thống
lưỡng cực trong đó hai quốc gia (không phải là hai liên minh chặt chẽ) chiếm ưu
thế áp đảo. Nhưng đối với hầu hết các nhà phân tích, phần lớn câu trả lời đều liên
quan đến bản chất đặc biệt của vũ khí nguyên tử và việc răn đe hạt nhân.
Vật lý học và chính trị học
Sức hủy diệt to lớn của vũ khí nguyên tử gần như vượt quá sự hiểu biết của con
người. Một vụ nổ hạt nhân ở mức một megaton3 có thể tạo ra nhiệt độ lên tới 100
triệu độ C, gấp 4 đến 5 lần nhiệt độ ở tâm mặt trời. Quả bom được thả xuống
Hiroshima năm 1945 chỉ tương đối nhỏ, tương đương với 15.000 tấn thuốc nổ TNT.
Tên lửa ngày nay có thể mang gấp 100 lần hoặc hơn sức nổ đó. Thật ra, tất cả sức
mạnh thuốc nổ được sử dụng trong Chiến tranh thế giới lần thứ hai chỉ tương
đương với một quả bom 3 megaton, và quả bom đó có thể vừa khít đầu một tên
lửa xuyên lục địa loại lớn. Cho tới những năm 1980 Mỹ và Liên Xô có hơn 50.000 vũ
khí nguyên tử.
Một vài ảnh hưởng vật lý của các vụ nổ hạt nhân vẫn chưa được xác định rõ
ràng. Ví dụ, lý thuyết mùa đông hạt nhân cho rằng chiến tranh hạt nhân có thể tạo
ra quá nhiều cácbon và bụi trong không khí, do đó ngăn cản ánh sáng mặt trời và
quá trình quang hợp của thực vật, dẫn tới kết thúc sự sống. Một nghiên cứu của
Viện Hàn lâm Khoa học Quốc gia chỉ ra rằng mùa đông hạt nhân có thể xảy ra
nhưng không chắc chắn. Phần lớn phụ thuộc vào việc các vũ khí nguyên tử được
nhắm vào các thành phố hay vào các vũ khí khác. Đốt cháy các thành phố có thể
tạo khói chứa nhiều cácbon làm cản trở ánh sáng mặt trời, nhưng các nhà khoa học
cũng không biết chính xác là các đám khói sẽ ở trong không khí bao lâu. Nếu bom
phát nổ ở Bắc Bán cầu, liệu khói có di chuyển tới Nam Bán cầu? Một vài người hoài
nghi rằng hậu quả xấu nhất không phải mùa đông hạt nhân mà chỉ là mùa thu hạt
nhân - một giả định cũng không chắc chắn gì hơn. Điều chắc chắn là một cuộc
chiến tranh hạt nhân trên diện rộng sẽ phá hủy nền văn minh như chúng ta đã biết,
ít nhất ở Bắc Bán cầu. Trong bản báo cáo năm 1983 về vũ khí nguyên tử, các giám
3 Một megaton bằng một triệu tấn (ND)
Biên dịch: Khoa QHQT | Hiệu đính: Lê Hồng Hiệp
©Dự án Nghiencuuquocte.net 11
mục Công giáo Mỹ đã không quá lời khi nói rằng “Chúng ta là thế hệ đầu tiên có
khả năng phá hủy những gì đức Chúa đã sáng tạo ra.”4
Vũ khí nguyên tử đã thay đổi bản chất chiến tranh nhưng không thay đổi
cách tổ chức thế giới. Một thế giới vô chính phủ sẽ tiếp tục tồn tại trong kỷ nguyên
hạt nhân. Năm 1946, khi Mỹ đưa ra kế hoạch Baruch nhằm thiết lập việc kiểm soát
vũ khí nguyên tử quốc tế, Liên Xô xem đó như một âm mưu khác của Mỹ. Sau thất
bại này, Albert Einstein phàn nàn rằng mọi thứ đã thay đổi ngoại trừ tư duy của
chúng ta. Có lẽ trong giai thoại này người ta cho rằng ông muốn nói “vật lý đơn
giản hơn chính trị.”
Có cả lý do quân sự và chính trị giải thích cho việc tại sao vũ khí nguyên tử
không gây tác động mạnh ngay sau năm 1945. Những loại vũ khí nguyên tử
nguyên sơ không có sức tàn phá nhiều hơn so với những vũ khí truyền thống nguy
hiểm nhất được sử dụng hàng loạt. Trận oanh tạc bom lửa thành phố Dresden của
Đức năm 1945 khiến nhiều người thiệt mạng hơn so với vụ đánh bom nguyên tử ở
Hiroshima. Dù một vũ khí nguyên tử có thể có tác dụng bằng với cả một đợt không
kích bằng bom thông thường, nhưng thời gian đầu Mỹ không có nhiều vũ khí
nguyên tử đến vậy. Mỹ chỉ có hai quả bom nguyên tử vào năm 1947 và 50 quả vào
năm 1948. Nhiều nhà hoạch định chiến lược quân sự nghĩ rằng bom nguyên tử
không hoàn toàn khác biệt mà chỉ là một sự nâng cấp sức công phá của vũ khí
thông thường mà thôi.
Sự đối đầu Mỹ - Xô nổi lên cũng làm chậm thay đổi tư duy chính trị. Liên Xô
không tin tưởng Liên Hiệp Quốc vì tổ chức này phụ thuộc quá nhiều vào Mỹ. Mỹ
cũng không thể ép buộc Liên Xô hợp tác vì Châu Âu đã bị biến thành con tin giữa
Mỹ và Liên Xô. Nếu Mỹ đe dọa tấn công hạt nhân, Liên Xô có thể đe dọa xâm lược
Châu Âu bằng các lực lượng thông thường. Kết quả là một sự bế tắc. Những tác
động vật lý mang tính cách mạng của công nghệ hạt nhân ban đầu không đủ để
thay đổi cách các quốc gia hành xử trong một hệ thống vô chính phủ.
Giai đoạn thứ hai của cách mạng hạt nhân diễn ra năm 1952 khi bom hydro
được thử nghiệm lần đầu tiên. Bom hydro (hay còn gọi là bom H) sử dụng năng
lượng nhiệt hạch được tạo ra khi các nguyên tử kết hợp lại với nhau, thay vì tách ra
khỏi nhau như trong bom phân hạch thời kỳ trước đó. Bom H làm gia tăng mạnh
mẽ sức phá hủy của một vũ khí đơn lẻ. Vụ nổ nhân tạo lớn nhất trên bề mặt trái
đất diễn ra vào năm 1961 khi Liên Xô cho nổ một quả bom hydro 60 megaton, gấp
20 lần tất cả sức mạnh thuốc nổ được dùng trong Chiến tranh thế giới lần thứ hai.
4 United States Catholic Conference, “The Challenge of Peace: God’s Promise and Our Response,” Origins 13:1 (19/5/1983), trang 1.
Biên dịch: Khoa QHQT | Hiệu đính: Lê Hồng Hiệp
©Dự án Nghiencuuquocte.net 12
Trớ trêu là thay đổi quan trọng hơn đi kèm với sự phát triển của bom H là
khả năng thu nhỏ. Công nghệ nhiệt hạch giúp bom H có thể chứa đựng sức mạnh
tàn phá khủng khiếp trong những thiết bị kích thước rất nhỏ. Những hệ thống
chuyên chở bom nguyên tử thời kỳ sơ khai phải tăng kích thước và đòi hỏi nhiều
không gian hơn khi những quả bom cũng trở nên lớn hơn. Máy bay ném bom B-36
là một máy bay lớn gồm tám động cơ cùng một khoang lớn để chứa chỉ một quả
bom. Ngược lại, một quả bom H có cùng khả năng phá hủy có kích thước nhỏ hơn
nhiều. Sau khi một quả bom H được gắn vào đầu tên lửa đạn đạo, chiến tranh hạt
nhân xuyên lục địa có thể diễn ra trong vòng chỉ 30 phút so với 8 giờ để một máy
bay B-36 có thể bay cùng khoảng cách như vậy.
Việc gia tăng sức phá hủy của bom H cũng ảnh hưởng sâu sắc tới hệ quả
của chiến tranh hạt nhân. Giờ đây chiến tranh sẽ không còn được coi chỉ là việc mở
rộng chính trị bằng các phương tiện khác. Karl von Clausewitz (1780-1831), một vị
tướng và một chiến lược gia quân sự người Áo thế kỷ 19, nói rằng chiến tranh là
một hoạt động chính trị và do đó ông nhấn mạnh chiến tranh tận diệt là một điều
ngớ ngẩn. Sức tàn phá khủng khiếp của vũ khí nguyên tử có nghĩa là giờ đây
phương tiện quân sự đã trở nên quá chênh lệch so với tất cả mục tiêu chính trị mà
một đất nước có thể theo đuổi. Sự chênh lệch giữa mục tiêu và phương tiện khiến
người ta không dám sử dụng vũ khí nguyên tử, thứ vũ khí “tối thượng,” trong phần
lớn các tình huống. Vũ khí nguyên tử đã không được sử dụng kể từ năm 1945, cho
nên đã tồn tại quan điểm xem vũ khí nguyên tử chỉ là để phô trương sức mạnh mà
thôi. Thực tế vũ khí nguyên tử quá mạnh, quá khủng khiếp.
Bom H đã gây nên năm ảnh hưởng chính trị quan trọng dù nó không thể
biến đổi tình trạng vô chính phủ mà trong đó thế giới tồn tại. Trước hết, nó làm hồi
sinh khái niệm chiến tranh hạn chế. Nửa đầu thế kỷ 20 chứng kiến sự thay đổi từ
chiến tranh giới hạn của thế kỷ 19 sang hai cuộc chiến tranh thế giới, những cuộc
chiến đã cướp đi mạng sống hàng chục triệu người. Vào giữa thế kỷ, các nhà phân
tích xem thế kỷ 20 là “thế kỷ của chiến tranh toàn diện.” Nhưng chiến tranh trong
nửa sau thế kỷ 20 lại giống các cuộc chiến tranh cũ của thế kỷ 18 và 19 hơn. Ví dụ,
các cuộc chiến tranh ở Việt Nam và Triều Tiên khiến hơn 55.000 người Mỹ chết
nhưng các cuộc chiến này vẫn là những cuộc chiến giới hạn về phạm vi và quy mô.
Ở Việt Nam và Afghanistan, Mỹ và Liên Xô chấp nhận thất bại mà không sử dụng
vũ khí nguyên tử.
Thứ hai, các cuộc khủng hoảng thay thế chiến tranh trung tâm trở thành
“khoảnh khắc sự thật.” Trong quá khứ, chiến tranh là lúc để lật ngửa mọi lá bài.
Nhưng trong kỷ nguyên nguyên tử, chiến tranh gây nên sức tàn phá quá lớn và
Biên dịch: Khoa QHQT | Hiệu đính: Lê Hồng Hiệp
©Dự án Nghiencuuquocte.net 13
những khoảnh khắc sự thật kiểu cũ trở nên quá nguy hiểm. Trong suốt Chiến trang
lạnh, khủng hoảng Berlin, khủng hoảng tên lửa Cuba và khủng hoảng Trung Đông
vào đầu những năm 1970 đóng vai trò tương tự như chiến tranh, là khoảng thời
gian chứng kiến tương quan lực lượng thực sự về sức mạnh quân sự. Thứ ba, vũ
khí nguyên tử khiến cho răn đe trở thành chiến lược chủ chốt. Giờ đây điều quan
trọng là tổ chức sức mạnh quân đội nhằm làm cho đối phương lo sợ khiến họ
không dám tấn công. Trong Chiến tranh thế giới lần thứ hai, Mỹ dựa vào khả năng
huy động và dần dần xây dựng một cỗ máy chiến tranh sau khi chiến tranh đã bắt
đầu, nhưng cách tiếp cận đó sẽ không còn hiệu quả khi chiến tranh hạt nhân có thể
diễn ra chóng vánh trong vài giờ đồng hồ.
Ảnh hưởng chính trị thứ tư là sự phát triển trên thực tế của các cơ chế kiểm
soát thận trọng của các siêu cường. Hai siêu cường, bất chấp ý thức hệ đối lập,
cùng có chung lợi ích then chốt: tránh chiến tranh hạt nhân. Suốt Chiến tranh lạnh,
Mỹ và Liên Xô tiến hành các cuộc chiến tranh ủy nhiệm hay chiến tranh gián tiếp ở
các khu vực ngoại vi mà không có bất kỳ trường hợp nào hai nước này đối đầu trực
tiếp. Hơn nữa, hai bên đều phát triển phạm vi ảnh hưởng của riêng mình. Cho dù
Mỹ nói về việc tiêu diệt chủ nghĩa cộng sản ở Đông Âu vào những năm 1950, trên
thực tế, khi người Hungary nổi dậy chống sự áp đặt của Liên Xô vào năm 1956, Mỹ
đã không vội vã giúp Hungary vì lo sợ chiến tranh hạt nhân. Tương tự, trừ trường
hợp Cuba, Liên Xô tương đối thận trọng đối với việc xâm nhập vào Tây Bán cầu. Cả
hai nước đều tuân thủ quy tắc không sử dụng vũ khí nguyên tử. Cuối cùng, các siêu
cường đã học được cách liên lạc với nhau. Sau khủng hoảng tên lửa Cuba,
Washington và Matxcơva phát triển một đường dây nóng cho phép liên lạc ngay lập
tức giữa các nhà lãnh đạo hai bên. Công nghệ giúp hợp tác trở nên dễ dàng hơn
trong thời kỳ khủng hoảng thông qua việc làm cho liên lạc giữa các nhà lãnh đạo
trong hệ thống lưỡng cực trở nên linh hoạt và riêng tư hơn. Cùng lúc đó, quá trình
pháp điển hóa một số hiệp ước kiểm soát vũ khí, bắt đầu bằng Hiệp ước cấm thử
vũ khí hạt nhân hạn chế (LTBT) năm 1963, cùng với những cuộc đàm phán kiểm
soát vũ khí thường xuyên, đã trở thành một cách nhằm thảo luận về sự ổn định của
hệ thống hạt nhân.
Thứ năm, các quan chức xem vũ khí nguyên tử nói chung và bom H nói
riêng không thể dùng được trong chiến tranh. Đó không chỉ là vấn đề liên quan tới
khả năng tàn phá của bom H. Khác với vũ khí thông thường, việc sử dụng vũ khí
nguyên tử luôn bị coi là một điều không thể chấp nhận được. Vào cuối những năm
1960, các kỹ sư và các nhà khoa học đã có thể làm nghèo vũ khí nguyên tử để Mỹ
có thể sử dụng một số vũ khí nguyên tử ở Việt Nam và chiến tranh Vùng Vịnh, hay
Liên Xô sử dụng ở Afghanistan, mà không gây ra những sự tàn phá khủng khiếp
Biên dịch: Khoa QHQT | Hiệu đính: Lê Hồng Hiệp
©Dự án Nghiencuuquocte.net 14
như của bom H. Tuy nhiên cả Mỹ và Nga đều hạn chế sử dụng những vũ khí
nguyên tử được làm nghèo này và thay vào đó lựa chọn những vũ khí có sức tàn
phá cao khác như bom napalm, bom lửa và các loại vũ khí thông thường khác. Một
phần người ta sợ rằng khi dùng bất kỳ vũ khí nguyên tử nào, cho dù chúng có
giống với vũ khí thông thường đến mấy, cũng có thể mở đường cho việc sử dụng
tất cả các loại vũ khí nguyên tử khác và rủi ro này là không thể chấp nhận được.
Ngoài ra còn có một lý do khác. Kể từ khi quả bom đầu tiên được thả xuống
Hiroshima, người ta vẫn có cảm giác rằng sử dụng vũ khí nguyên tử là phi đạo đức
và vượt quá phạm vi có thể chấp nhận được trong chiến tranh. Dù khó để cụ thể
hóa được những ràng buộc về mặt đạo đức như vậy nhưng rõ ràng vấn đề này vẫn
luôn hiện diện trong các cuộc tranh luận về vũ khí nguyên tử và cũng là một lý do
để các nước không sẵn sàng sử dụng chúng.
Cân bằng sợ hãi
Vũ khí nguyên tử tạo ra một dạng cân bằng quyền lực đặc biệt mà đôi lúc được gọi
là “cân bằng sợ hãi.” Việc kiểm tra sức mạnh quốc gia chủ yếu mang tính tâm lý
hơn là thực tế. Mỗi bên đều theo đuổi chính sách ngăn chặn bên còn lại giành ưu
thế vượt trội hơn mình, tuy nhiên kết quả đạt được lại khác với những hệ thống
trước đó. Không giống hệ thống cân bằng quyền lực thế kỷ 19 với năm cường quốc
thay đổi các liên minh với nhau, Chiến tranh lạnh rõ ràng xoay quanh hai siêu
cường, mỗi bên đều có khả năng phá hủy bên còn lại trong nháy mắt.
Những vấn đề gắn với tình thế tiến thoái lưỡng nan an ninh cổ điển không
được hóa giải bởi mối đe dọa của vũ khí nguyên tử, nhưng các siêu cường đều
hành động một cách cẩn trọng cho dù hai bên có ý thức hệ khác biệt. Sự cẩn trọng
cũng có tác động giống như việc duy trì liên lạc thường xuyên diễn ra trong thời kỳ
cân bằng quyền lực đa cực thế kỷ 19. Hơn nữa, các siêu cường cũng cố gắng tính
toán cân bằng lực lượng tương tự như thời kỳ các chính khách so sánh các tỉnh
thành, số bộ binh và pháo binh với nhau.
Cân bằng sợ hãi xảy ra cùng lúc với giai đoạn lưỡng cực. Một vài nhà tân
hiện thực như Kenneth Waltz định nghĩa lưỡng cực là tình thế mà ở đó sức mạnh
tập trung vào hai nước lớn, nhưng tình trạng lưỡng cực thuần khiết là rất hiếm. Thế
lưỡng cực diễn ra thường xuyên hơn trong lịch sử khi các liên minh gắn kết chặt
chẽ tới mức sự linh hoạt dường như biến mất, như từng diễn ra trong cuộc Chiến
tranh Peloponnese. Mặc dù là những quốc gia độc lập, các liên minh xoay quanh
Athens và Sparta đã gắn kết với nhau chặt chẽ thành hai cực. Tương tự, thời điểm
Biên dịch: Khoa QHQT | Hiệu đính: Lê Hồng Hiệp
©Dự án Nghiencuuquocte.net 15
trước Chiến tranh thế giới lần thứ nhất, hệ thống liên minh cũng cố kết chặt chẽ với
nhau thành hai cực.
Waltz lập luận rằng thế lưỡng cực là trạng thái đặc biệt ổn định của hệ thống
bởi nó đơn giản hóa việc trao đổi thông tin và các tính toán. Mặt khác, các hệ thống
lưỡng cực thiếu linh hoạt và phóng đại tầm quan trọng các cuộc xung đột ở khu
vực ngoại vi như cuộc Chiến tranh Việt Nam. Lịch sử cho thấy, thông thường thế
lưỡng cực sẽ bị xói mòn hoặc bùng nổ thành chiến tranh. Nếu vậy, tại sao thế
lưỡng cực không bùng nổ thành chiến tranh sau Chiến tranh thế giới lần thứ hai?
Có thể sự cẩn trọng do vũ khí nguyên tử đem lại chính là câu trả lời và sự ổn định
mà Waltz cho là bắt nguồn từ thế lưỡng cực thực ra chỉ là hiệu ứng của bom
nguyên tử mà thôi. Sự tàn phá khủng khiếp của vũ khí nguyên tử có thể đã giúp
tạo ra sự ổn định thông qua “hiệu ứng quả cầu pha lê,” hay khả năng dự đoán
được tương lai của các quốc gia.5 Hãy tưởng tượng, vào tháng 8/1914, Hoàng đế
Đức, Sa hoàng và Hoàng đế Áo-Hung nhìn vào quả cầu pha lê và thấy được những
hình ảnh của năm 1918. Họ sẽ thấy họ bị tước mất ngai vàng, đế chế của họ bị tan
rã và hàng triệu thần dân của họ chết. Liệu lúc đó họ có dám tiến hành chiến tranh
năm 1914 không? Có lẽ là không. Hiểu biết về ảnh hưởng vật lý của vũ khí nguyên
tử có thể giống như ảnh hưởng của việc đưa cho các nhà lãnh đạo giai đoạn sau
1945 quả cầu pha lê. Do các mục tiêu chính trị dù lớn đến đâu cũng đều không thể
biện minh cho sự tàn phá mà vũ khí hạt nhân gây ra nên họ sẽ không muốn chấp
nhận rủi ro. Dĩ nhiên, hiệu ứng quả cầu pha lê sẽ biến mất vì những tai nạn và tính
toán sai lầm, nhưng sự so sánh trên cho thấy tại sao thế lưỡng cực kết hợp với vũ
khí nguyên tử lại tạo nên một giai đoạn hòa bình lâu dài nhất giữa các cường quốc
chủ chốt kể từ khi hệ thống quốc gia hiện đại ra đời đến nay.
Những vấn đề của răn đe hạt nhân
Răn đe hạt nhân chỉ là một trong các biện pháp răn đe nói chung, song đặc tính
của vũ khí nguyên tử đã thay đổi cách các siêu cường tiếp cận quan hệ quốc tế
trong suốt thời kỳ Chiến tranh lạnh. Răn đe hạt nhân ủng hộ cho lập luận “Nếu anh
tấn công tôi, tôi có thể không đủ khả năng ngăn chặn cuộc tấn công của anh,
nhưng tôi có thể trả đũa rất dữ dội đến nỗi anh sẽ không dám tấn công tôi ngay từ
đầu.” Vì vậy, vũ khí nguyên tử đã đưa ra một khía cạnh mới cho một khái niệm cũ.
Một cách để đánh giá tính hiệu quả của răn đe hạt nhân là dùng phép phân
tích trái với thực tế. Liệu Chiến tranh lạnh có trở thành chiến tranh nóng nếu không 5 Quả cầu pha lê là một dụng cụ mà các nhà tiên tri, thầy bói… thường dùng để đưa ra các dự báo về tương lai (ND)
Biên dịch: Khoa QHQT | Hiệu đính: Lê Hồng Hiệp
©Dự án Nghiencuuquocte.net 16
có vũ khí nguyên tử? Nhà chính trị học John Mueller lập luận rằng vũ khí nguyên tử
không liên quan, nó không khác gì câu chuyện “tiếng gáy của con gà.” Ông cho
rằng người Châu Âu đã không còn coi chiến tranh như là một công cụ chính trị từ
sau kết cục kinh hoàng của Chiến tranh thế giới lần thứ nhất. Hòa bình bắt nguồn
từ chính nhận thức ngày càng cao về sự khủng khiếp của chiến tranh, ít nhất là
trong xã hội các nước phát triển. Theo Muller, Hitler là một ngoại lệ, một kẻ hiếm
hoi không nhận thức được bài học từ Chiến tranh thế giới lần thứ nhất và đã tiếp
tục muốn tiến hành chiến tranh. Sau Chiến tranh thế giới lần thứ hai, nỗi khiếp sợ
chiến tranh càng trở nên mạnh mẽ hơn. Tuy nhiên, hầu hết các nhà nghiên cứu tin
rằng vũ khí nguyên tử đóng vai trò quan trọng trong việc ngăn ngừa Chiến tranh
thế giới lần thứ ba. Khủng hoảng ở Berlin, Cuba, và ở Trung Đông có thể đã vượt ra
khỏi tầm kiểm soát nếu không có sự thận trọng của các quốc gia khi nhìn thấy
trước những hậu quả tàn khốc của chiến tranh hạt nhân.
VŨ KHÍ HẠT NHÂN VÀ CHIẾN TRANH VIỆT NAM
Khi Tổng thống Kennedy đưa ra quyết định đầu tiên về việc tăng sự hiện diện của
quân đội Mỹ vào những năm 1962-1963,… ông có hai suy nghĩ: Điều gì sẽ xảy ra
nếu Krushchev không tin tưởng ông trong cuộc khủng hoảng ở Berlin năm 1961 -
1962 và cuộc khủng hoảng tên lửa ở Cuba năm 1962?
Tôi nghĩ rằng chúng ta đã sai lầm khi kết luận rằng người Trung Quốc sẽ
không can thiệp vào cuộc chiến tranh Triều Tiên năm 1950, và điều đó đã ảnh
hưởng đến quyết định không xâm lược miền Bắc Việt Nam của người Mỹ. Quân đội
nói rằng họ không nghĩ Trung Quốc sẽ đưa quân can thiệp vào Việt Nam, nhưng nếu
họ can thiệp thì sẽ dẫn đến chiến tranh hạt nhân, và điều đó đã quyết định việc Mỹ
không xâm lược miền Bắc Việt Nam.
Ngoại trưởng Dean Rusk6
Điều đó đã dẫn tới một số câu hỏi. Một trong số đó là “Cái gì răn đe?” Để
việc răn đe có hiệu quả các quốc gia cần có khả năng gây thiệt hại cũng như khả
năng đe dọa khiến các quốc gia khác phải lo sợ là vũ khí nguyên tử sẽ được sử
dụng. Mối đe dọa đáng tin đến đâu phụ thuộc vào những lợi ích liên quan đến cuộc
xung đột. Ví dụ, Mỹ đe dọa đánh bom Matxcơva nhằm trả đũa cho một cuộc tấn
công hạt nhân là có thể tin được. Nhưng giả sử Mỹ đe dọa ném bom Matxcơva nếu
Liên Xô không rút quân khỏi Afghanistan vào năm 1980. Chắc chắn là Mỹ có khả
năng để làm điều đó, song lời đe dọa không đáng tin bởi những lợi ích của Mỹ liên
quan đến Afghanistan là quá thấp và Liên Xô cũng có thể dễ dàng đe dọa đánh
6 Ngoại trưởng Dean Rusk, The New York Times, 30/4/1985, trang 6.
Biên dịch: Khoa QHQT | Hiệu đính: Lê Hồng Hiệp
©Dự án Nghiencuuquocte.net 17
bom Washington. Vì vậy việc răn đe không chỉ liên quan tới năng lực thực hiện răn
đe của mỗi quốc gia mà còn phụ thuộc vào mức độ đáng tin của sự răn đe đó.
Vấn đề mức độ đáng tin của răn đe dẫn đến sự phân biệt giữa răn đe ngăn
chặn các mối đe dọa đối với lãnh thổ của nước mình và việc răn đe mở rộng nhằm
bảo vệ lãnh thổ các nước đồng minh. Ví dụ, Mỹ không thể chặn Liên Xô đưa quân
vào Afghanistan bằng răn đe hạt nhân, nhưng trong vòng 4 thập kỷ của Chiến
tranh lạnh, Mỹ đã đe dọa sử dụng vũ khí nguyên tử nếu Liên Xô xâm phạm đến các
nước Tây Âu nằm trong khối NATO. Vì vậy, để xem xét ảnh hưởng của vũ khí
nguyên tử trong việc mở rộng răn đe và ngăn ngừa chiến tranh, chúng ta phải tìm
hiểu các cuộc khủng hoảng lớn khi các bên có mức độ lợi ích liên quan cao.
Liệu rằng lịch sử có thể giải đáp những câu hỏi về tác động của vũ khí
nguyên tử được không? Không hoàn toàn, nhưng có thể một phần nào đó. Từ 1945
– 1949, chỉ riêng Mỹ có vũ khí nguyên tử, nhưng chưa sử dụng. Vì vậy đã tồn tại sự
tự kiềm chế ngay cả trước khi tồn tại sự răn đe hạt nhân lẫn nhau. Một phần là do
kho vũ khí còn ít, hiểu biết về loại vũ khí mới này còn hạn chế, và Mỹ sợ rằng Liên
Xô sẽ thâu tóm toàn bộ Châu Âu với lực lượng quân đội thông thường đồ sộ của
mình. Cho tới thập niên 1950, cả Mỹ và Liên Xô đều đã có vũ khí nguyên tử và
trong vài cuộc khủng hoảng các nhà lãnh đạo Mỹ đã xem xét đến việc sử dụng loại
vũ khí này. Vũ khí nguyên tử không được sử dụng trong Chiến tranh Triều Tiên, hay
khi Trung Quốc huy động lực lượng xâm lược Đài Loan vào năm 1954 và 1958.
Tổng thống Mỹ Truman và Eisenhower bác bỏ việc sử dụng vũ khí nguyên tử bởi
một số lý do. Trong Chiến tranh Triều Tiên, việc sử dụng vũ khí nguyên tử có chặn
bước được người Trung Quốc hay không vẫn không rõ ràng và Mỹ còn lo ngại về
phản ứng của Liên Xô. Thực tế luôn tồn tại nguy cơ các đe dọa leo thang dẫn tới
việc Liên Xô có thể dùng vũ khí nguyên tử giúp đồng minh Trung Quốc của mình. Vì
vậy, mặc dù Mỹ có ưu thế về số lượng vũ khí nguyên tử nhưng nước này vẫn e ngại
trước nguy cơ xảy ra chiến tranh quy mô lớn hơn vượt ra ngoài phạm vi Trung
Quốc và Triều Tiên.
Thêm vào đó, vấn đề đạo đức và công luận cũng đóng một vai trò nhất định
trong vấn đề này. Vào thập niên 1950, chính quyền Mỹ ước tính số công dân sẽ bị
thiệt mạng nếu xảy chiến tranh hạt nhân quá cao khiến ý kiến sử dụng vũ khí
nguyên tử bị gạt đi. Tổng thống Eisenhower khi được hỏi về việc sử dụng vũ khí
nguyên tử đã nói: “Lạy Chúa, chúng tôi không thể dùng thứ vũ khí khủng khiếp này
để chống lại người Châu Á lần thứ hai trong vòng chưa đầy 10 năm.”7 Mặc dù Mỹ
7 Stephen E. Ambrose, Eisenhower (New York: Simon & Schuster, 1983) trang 184.
Biên dịch: Khoa QHQT | Hiệu đính: Lê Hồng Hiệp
©Dự án Nghiencuuquocte.net 18
có nhiều vũ khí nguyên tử hơn Liên Xô vào những năm 1950, song nhiều yếu tố kết
hợp nêu trên đã khiến người Mỹ không dám sử dụng chúng.
Khủng hoảng tên lửa Cuba
Trường hợp tiêu biểu cho răn đe hạt nhân là cuộc khủng hoảng tên lửa Cuba vào
tháng 10/1962. Khoảng thời gian kéo dài 13 ngày này có lẽ là chuỗi sự kiện gần với
chiến tranh nguyên tử nhất trong kỷ nguyên hạt nhân. Nếu một người hoàn toàn
ngoài cuộc nhìn vào sẽ thấy Mỹ có kho vũ khí nguyên tử vượt trội gấp 17 lần so với
Liên Xô. Giờ đây chúng ta đều biết rằng Liên Xô lúc đó chỉ có khoảng 20 tên lửa
đầu đạn hạt nhân xuyên lục địa có thể vươn tới lãnh thổ Mỹ, nhưng tại thời điểm
đó, Tổng thống Kennedy không hề biết thông tin này. Tại sao lúc đó Mỹ không cố
gắng phủ đầu ngăn chặn Liên Xô bằng cách tấn công các điểm đặt tên lửa của Liên
Xô trước, một vùng tương đối dễ tấn công? Câu trả lời là ngay cả khi chỉ có một
hoặc hai tên lửa của Liên Xô vượt qua được đợt tấn công và đáp xuống một thành
phố của Mỹ thì nguy cơ đó cũng đã đủ răn đe Mỹ khiến nước này không dám tấn
công trước. Thêm vào đó, cả Kennedy và Khrushchev đều sợ rằng các chiến lược
sáng suốt và những tính toán cẩn thận cũng đều có thể vượt ra ngoài vòng kiểm
soát. Khrushchev đã dùng một hình ảnh so sánh thú vị cho việc này trong bức thư
gửi Kennedy: “Hãy cẩn trọng bởi cả hai chúng ta đều đang nắm hai đầu sợi giây
thừng mà trên đó có nút thắt chiến tranh.”8
NHỮNG “VẤN ĐỀ NGHIÊM TRỌNG NHẤT”
Tới giữa tháng 10/1962, Chiến tranh lạnh đã tăng cao theo những cách không lường
trước được. Cuba, từng gần như là một thuộc địa của Mỹ, giờ đây chuyển vào quỹ
đạo của Liên Xô. Cuối tháng 9, báo chí Mỹ bắt đầu đưa tin về việc vận chuyển vũ khí
của Liên Xô tới Cuba, Tổng thống John F. Kennedy nói với công chúng Mỹ rằng, theo
những gì ông biết, những thứ vũ khí này chỉ là để phòng thủ, không phải tấn công.
Điều này đã được thủ tướng Liên Xô Nikita Khrushchev đảm bảo chắc chắn. Kennedy
nói rằng “nếu không phải như vậy thì sẽ xuất hiện những vấn đề trầm trọng nhất.”
Gần 9 giờ sáng thứ Ba ngày 16/10, trợ lý phụ trách các vấn đề an ninh quốc
gia của Kennedy, McGeorge Bundy, mang đến tận phòng ngủ của ông những bức
ảnh cho thấy “những vấn đề nghiêm trọng nhất” đã xuất hiện. Bức ảnh được chụp
từ trên cao bởi máy bay trinh thám U-2 cho thấy Liên Xô đang giúp Cuba lắp đặt
những tên lửa đạn đạo mang đầu đạn hạt nhân nhắm vào các thành phố của Mỹ.
8 Ronald R. Hope, biên tập, Soviet Views on the Cuban Missile Crisis: Myth and Reality in Foreign Policy Analysis (Washington, DC: University Press of America, 1982) trang 48.
Biên dịch: Khoa QHQT | Hiệu đính: Lê Hồng Hiệp
©Dự án Nghiencuuquocte.net 19
Đối với Kennedy, sự hiện diện của những tên lửa này là không thể chấp nhận
được. Và lời nói dối của Krushchev cũng vậy. Trong 13 ngày tiếp theo, Kennedy và
đội ngũ cố vấn tranh cãi làm sao để giải quyết thách thức trên. Họ biết kết quả có
thể là chiến tranh hạt nhân, và trong suốt các buổi thảo luận, các chuyên gia quốc
phòng dân sự của Kennedy đã đưa ra một thông tin đáng e ngại là người dân Mỹ rất
dễ bị tổn thương trước các cuộc tấn công.
- Ernest May và Philip Zelikow, Những cuốn băng về Kennedy9
Hai mươi lăm năm sau sự kiện, tại một hội thảo ở Florida, những người Mỹ tham
gia Ủy ban điều hành Hội đồng An ninh Quốc gia của Tổng thống Kennedy đã gặp
gỡ các học giả nhằm tái hiện lại cuộc khủng hoảng tên lửa Cuba. Một trong những
điểm khác biệt đáng ngạc nhiên là mức độ sẵn sàng chấp nhận rủi ro của những
người tham dự rất khác nhau. Điều này phụ thuộc vào việc mỗi người lo sợ đến
mức nào về viễn cảnh chiến tranh hạt nhân. Robert McNamara, Bộ trưởng Quốc
phòng của Kennedy, trở nên càng lúc càng thận trọng theo diễn tiến của cuộc
khủng hoảng. Lúc đó ông cho rằng xác suất diễn ra chiến tranh hạt nhân trong
cuộc khủng hoảng tên lửa ở Cuba ở mức một trên năm mươi (dù vào những năm
1990 ông đánh giá xác suất rủi ro cao hơn khi biết được rằng lúc đó Liên Xô đã
chuyển vũ khí hạt nhân tới Cuba). Douglas Dillon, Bộ trưởng Tài chính, lại cho rằng
nguy cơ chiến tranh hạt nhân chỉ là bằng không. Ông không cho rằng tình hình có
thể đưa đẩy đến chiến tranh hạt nhân và vì vậy ông sẵn sàng gây sức ép mạnh hơn
với Liên Xô và chấp nhận rủi ro nhiều hơn so với McNamara. Tướng Maxwell Taylor,
chủ tịch Ban tham mưu liên quân, cũng nghĩ rằng nguy cơ chiến tranh hạt nhân là
rất thấp, ông phê phán việc Mỹ để Liên Xô rút khỏi khủng hoảng tên lửa Cuba quá
dễ dàng. Quan điểm của ông là đáng ra Mỹ nên mạnh tay hơn, yêu cầu phế truất
Chủ tịch Fidel Castro của Cuba. Tướng Taylor nói rằng: “Tôi chắc rằng chúng ta đã
đẩy họ vào thế bất lực, tôi không bao giờ lo lắng nhiều về kết quả cuối cùng.”10
Nhưng nguy cơ mất kiểm soát đè nặng lên vai Tổng thống Kennedy, người đã giữ
một lập trường rất thận trọng, thực tế là thận trong hơn so với mong muốn của
một số cố vấn của ông. Bài học của câu chuyện này là chỉ cần một chút răn đe hạt
nhân thôi cũng đủ tạo ra nhiều tác động. Rõ ràng răn đe hạt nhân đã tạo nên sự
khác biệt trong cuộc khủng hoảng tên lửa ở Cuba.
9 Ernest R. May và Philip D. Zelikow, biên tập, The Kennedy Tapes: Inside the White House During the Cuban Missile Crisis (Cambridge MA: Belknap & Havard University Press, 1997), trang 1. 10 James Blight và David Welch, On the Brink: Americans and Soviets Reexamine the Cuban Missile Crisis (New York: Hill & Wang, 1989), trang 80.
Biên dịch: Khoa QHQT | Hiệu đính: Lê Hồng Hiệp
©Dự án Nghiencuuquocte.net 20
Tuy nhiên, vẫn còn đôi chút mơ hồ về cuộc khủng hoảng khiến khó có thể
quy toàn bộ kết quả trên cho răn đe hạt nhân. Nhìn chung công luận cho rằng Mỹ
đã thắng, nhưng vấn đề Mỹ đã thắng ra sao và tại sao lại thắng lại rất khó để xác
định. Ít nhất có thể đưa ra ba cách lý giải. Một quan điểm cho rằng Mỹ có nhiều vũ
khí nguyên tử hơn Liên Xô nên Liên Xô đã nhượng bộ. Cách giải thích thứ hai liên
quan đến tầm quan trọng của các lợi ích mà hai siêu cường theo đuổi trong cuộc
khủng hoảng. Cuba nằm ở “sân sau” của Mỹ nhưng là một “canh bạc từ xa” của
Liên Xô. Do đó, Mỹ không chỉ có nhiều lợi ích hơn so với Liên Xô mà còn có lợi thế
về lực lượng thông thường. Cuộc phong tỏa hải quân của Mỹ và khả năng Mỹ xâm
lược Cuba cũng đóng vai trò quan trọng. Gánh nặng tâm lý đặt lên vai Liên Xô bởi
lợi ích nhiều hơn cùng lực lượng thông thường sẵn sàng tham chiến đã khiến sự răn
đe của Mỹ đáng tin hơn.
Cuối cùng, mặc dù cuộc khủng hoảng tên lửa Cuba được gọi là chiến thắng
của người Mỹ nhưng nó cùng chỉ là một sự thỏa hiệp mà thôi. Người Mỹ có 3 lựa
chọn trong cuộc khủng hoảng này. Một là xung đột trực tiếp, nghĩa là đánh bom
khu vực lắp đặt tên lửa của Liên Xô; hai là gây sức ép lên Cuba bằng cách phong
tỏa bao vây nhằm thuyết phục Liên Xô dỡ bỏ các tên lửa; ba là mua chuộc, trao đổi
với Liên Xô những gì Liên Xô mong muốn như rút các tên lửa của Mỹ khỏi Thổ Nhĩ
Kỳ. Trong một thời gian dài những người liên quan không nói nhiều về giải pháp
mua chuộc nhưng các bằng chứng sau này cho thấy rằng lời hứa rút những tên lửa
đã cũ kỹ khỏi Thổ Nhĩ Kỹ có ý nghĩa quan trọng hơn những gì người Mỹ đã nghĩ tại
thời điểm đó. Chúng ta có thể kết luận rằng răn đe hạt nhân có vai trò quan trọng
trong các cuộc khủng hoảng và vấn đề hạt nhân đã hiện hữu trong suy nghĩ của
Kennedy. Trái lại, số lượng vũ khí không mấy quan trọng. Tỷ lệ số vũ khí nguyên tử
không có mấy ý nghĩa vì người ta lo sợ rằng chỉ cần một vài vũ khí nguyên tử cũng
đã đủ để có thể gây ra thảm họa.
Các vấn đề đạo đức
Sau khủng hoảng tên lửa Cuba năm 1962, căng thẳng trong Chiến tranh lạnh đã
được phần nào xoa dịu, như thể Mỹ và Liên Xô đã bị đẩy đến trước bờ vực chiến
tranh, giật mình nhìn lại và rồi thoái lui. Năm 1963, một đường dây nóng cho phép
thực hiện các cuộc đối thoại trực tiếp giữa Washington và Matxcơva được thiết lập;
một hiệp ước về kiểm soát vũ khí và giới hạn thử nghiệm vũ khí nguyên tử trên khí
quyển đã được ký; tổng thống Kennedy tuyên bố Mỹ sẵn sàng tăng cường giao
thương với Liên Xô, căng thẳng giữa hai bên đã dịu bớt. Bên cạnh đó, mặc dù trong
suốt những năm cuối thập niên 1960, Mỹ bị vướng vào Chiến tranh Việt Nam nhưng
Biên dịch: Khoa QHQT | Hiệu đính: Lê Hồng Hiệp
©Dự án Nghiencuuquocte.net 21
những nỗ lực kiểm soát vũ khí giữa hai bên vẫn được tiếp tục. Tuy nhiên, sau sự
kiện Liên Xô xâm lược Afghanistan năm 1979, nỗi lo sợ về nguy cơ chiến tranh hạt
nhân một lần nữa lại xuất hiện. Kết quả là trong khoảng thời gian Chiến tranh lạnh
tăng cường trở lại từ 1980 đến 1985, các cuộc thảo luận về vấn đề cắt giảm vũ khí
chiến lược đã bị trì hoãn, các luận điệu trở nên cứng rắn hơn và ngân sách quốc
phòng cũng như kho vũ khí nguyên tử của hai bên đều gia tăng. Tổng thống
Ronald Reagan đã nói về khả năng chiến tranh hạt nhân, và các tổ chức hòa bình
đã tiếp tục yêu cầu đóng băng và cuối cùng là tiêu hủy toàn bộ vũ khí nguyên tử.
Trong bầu không khí lo lắng và căng thẳng dâng cao, rất nhiều người đã đặt
ra câu hỏi: “Việc răn đe hạt nhân có phù hợp với đạo đức hay không?” Như chúng
ta đã thấy trong các chương trước, thuyết chiến tranh chính nghĩa cho rằng việc
đưa ra các phán xét về mặt đạo đức cần phải đáp ứng một số điều kiện. Tự vệ
thường được coi là chính nghĩa, nhưng phương tiện và hậu quả của cuộc chiến
cũng không kém phần quan trọng. Xét về mặt phương tiện, thường dân phải được
tách biệt khỏi binh lính, và về mặt hậu quả, cần phải có sự hợp lý trong mối quan
hệ giữa kết quả và phương tiện.
“Chiến tranh hạt nhân có phù hợp với mô hình chiến tranh chính nghĩa hay
không?” Về mặt kỹ thuật, điều này là có thể. Các loại vũ khí nguyên tử được làm
nghèo như đạn pháo và ngư lôi có thể được sử dụng để chống lại hệ thống radar,
tàu ngầm, tàu thủy trên biển hoặc hầm chỉ huy nằm sâu dưới mặt đất. Trong
trường hợp đó, chúng ta có thể phân biệt giữa thường dân và binh lính và giảm
thiểu những tác động tiêu cực của vũ khí. Nếu cuộc chiến dừng lại ở đó, chúng ta
có thể xếp vũ khí nguyên tử nằm trong phạm vi chiến tranh chính nghĩa. Nhưng
cuộc chiến có thể dừng lại ngay đúng thời điểm đó không hay còn có khả năng tiếp
tục leo thang? Leo thang chiến tranh hạt nhân là một rủi ro lớn, liệu có gì đáng giá
bằng hàng trăm triệu mạng sống hay thậm chí vận mệnh của cả hành tinh?
Năm 1962, Kennedy đã khăng khăng yêu cầu mỗi quốc gia thành viên Hội đồng Bảo
an Liên Hiệp Quốc đọc cuốn “The Guns of August” (Tiếng súng tháng Tám) của
Barbara Tuchman. Cuốn sách kể câu chuyện về việc các quốc gia Châu Âu đã vô tình
làm Chiến tranh thế giới lần thứ nhất bùng nổ như thế nào. Tác giả đã bắt đầu bằng
việc trích dẫn lời tiên đoán của Bismark rằng “một điều xuẩn ngốc đáng nguyền rủa
tại Balkan” sẽ châm ngòi cho cuộc chiến tranh tiếp theo. Sau đó, bà đã liên kết một
chuỗi các sự kiện diễn ra sau vụ Hoàng thái tử Áo – Hung Franz Ferdinand bị ám sát
ngày 28/6/1914 bởi một phần tử theo chủ nghĩa dân tộc người Serbia - những sự
kiện tự thân chúng rất vặt vãnh nhưng lại dẫn tới cuộc xung đột quân sự khủng
khiếp nhất trong lịch sử thế giới. Thời gian cũng như lãnh đạo các quốc gia, khi đứng
trước bờ vực của sự thù địch, đã cố gắng đẩy lùi nguy cơ chiến sự nhưng các sự kiện
Biên dịch: Khoa QHQT | Hiệu đính: Lê Hồng Hiệp
©Dự án Nghiencuuquocte.net 22
lại cứ cuốn họ tiến về phía trước.
Tổng thống Kennedy nhắc nhở chúng ta về cuộc đàm luận năm 1914 giữa hai
thủ tướng nước Đức về vấn đề nguồn gốc chiến tranh. Một người hỏi: “Làm thế nào
nó lại xảy ra?” Và người kế nhiệm ông ta trả lời: “À, giá như chúng ta biết được!” Đó
chính là cách Kennedy nhắc nhở chúng ta về mối nguy hiểm thường trực trong các
tính toán sai lầm.
- Robert McNamara, Sa lầy vào thảm họa11
Trong Chiến tranh lạnh, một số người đã tuyên bố: “Thà làm cộng sản còn
hơn phải chết.” Tuy nhiên, đó cũng có thể là cách đặt câu hỏi không chính xác.
Thay vào đó, chúng ta nên hỏi: “Có thỏa đáng hay không khi chấp nhận một rủi ro
nhỏ nhưng có thể dẫn tới một tai họa lớn?” Trong cuộc khủng hoảng tên lửa Cuba,
có một tin đồn cho rằng Tổng thống Kennedy đã nhận định trong thời điểm đó,
nguy cơ xảy ra một cuộc chiến tranh thông thường có thể là một phần ba. Và nguy
cơ leo thang thành chiến tranh hạt nhân với Liên Xô còn ở mức thấp hơn. Liệu
Kennedy có lí do chính đáng để chấp nhận rủi ro đó không? Chúng ta có thể đặt ra
tình huống giả định trái với thực tế: Nếu Kennedy không sẵn sàng chấp nhận rủi ro
trong cuộc khủng hoảng Cuba, liệu Khrushchev sẽ có thực hiện điều gì đó nguy
hiểm hơn hay không? Điều gì sẽ xảy ra nếu thành công của Liên Xô sau đó dẫn tới
một cuộc khủng hoảng hạt nhân hay thậm chí một cuộc chiến tranh thông thường
với quy mô lớn hơn, ví dụ về vấn đề Berlin hay kênh đào Panama chẳng hạn?
Có thể khẳng định vũ khí nguyên tử đóng một vai trò đáng kể trong việc
ngăn cản Chiến tranh lạnh trở thành chiến tranh nóng. Trong những năm 1980,
những giám mục của Giáo hội Công giáo Mỹ nói rằng: răn đe hạt nhân chỉ có thể
được xem là một phương thức tạm thời cho tới khi tìm được phương thức tốt hơn.
Nhưng sự tạm thời đó kéo dài bao lâu? Ngày nào vũ khí nguyên tử còn tồn tại, việc
răn đe hạt nhân ít nhiều vẫn sẽ tiếp tục được theo đuổi. Mặc dù thứ vũ khí này đã
khiến các quốc gia phải thận trọng hơn trong thời kỳ Chiến tranh lạnh nhưng cảm
giác mãn nguyện sẽ hết sức nguy hiểm. Mỹ và Liên Xô phải cần nhiều thời gian mới
học được cách kiểm soát vũ khí nguyên tử, và không có gì chắc chắn là những hệ
thống kiểm soát như vậy sẽ tồn tại ở những quốc gia có tham vọng hạt nhân như
Bắc Triều Tiên và Iran. Hơn nữa các nhóm khủng bố cũng không thèm màng đến
chuyện kiểm soát những vũ khí như vậy.
11 Robert McNamara, Blundering into Disaster: Surviving the First Century of the Nuclear Age (New York: Pantheon, 1986), trang 14.
Biên dịch: Khoa QHQT | Hiệu đính: Lê Hồng Hiệp
©Dự án Nghiencuuquocte.net 23
Mối quan ngại về việc phổ biến vũ khí nguyên tử vẫn tiếp tục. Trong khi 189
quốc gia đã ký Hiệp ước không phổ biến vũ khí nguyên tử thì Ấn Độ và Pakistan đã
thử nghiệm những vũ khí của mình vào năm 1998, và các quốc gia khác như Iraq,
Iran, Libya và Bắc Triều Tiên vẫn tiếp tục theo đuổi vũ khí nguyên tử bất chấp đã
ký hiệp ước. Vấn đề cũng được quan tâm không kém là sự lan rộng của các loại vũ
khí không phải vũ khí thông thường như vũ khí sinh học và hóa học. Ví dụ, Lybia và
Iraq đã xây dựng các cơ sở vũ khí hóa học, còn Iraq đã sử dụng chúng trong cuộc
chiến tranh với Iran (1980-1988). Sau Chiến tranh vùng Vịnh năm 1991, các thanh
sát viên Liên Hiệp Quốc đã phát hiện và phá hủy các chương trình vũ khí nguyên
tử, hóa học và sinh học của nước này. Nỗi lo sợ những chương trình như vậy sẽ
được thực hiện lại là một trong những nguyên nhân dẫn đến cuộc chiến tranh Iraq
năm 2003. Những phản ánh trên báo chí về việc các loại nguyên liệu sản xuất vũ
khí nguyên tử đã bị đưa ra khỏi các nước thuộc Liên Xô cũ và xuất hiện trên thị
trường chợ đen quốc tế chứng tỏ rằng những loại vũ khí này vẫn tiềm ẩn nguy cơ
gây căng thẳng và đưa các quốc gia đến bờ vực chiến tranh. Năm 2004, người ta
phát hiện ra việc nhà khoa học hạt nhân người Pakistan A. Q. Khan đã bán các bí
quyết hạt nhân cho một số nước, bao gồm Libya, Iran và Bắc Triều Tiên. Hơn nữa,
những thông tin về việc các nhóm khủng bố như giáo phái Aum Shinrikyo tại Nhật
Bản hay mạng lưới AlQaeda của Osama bin Laden đang nghiên cứu sản xuất vũ khí
nguyên tử và vũ khí sinh học cho thấy những vũ khí này có thể một ngày nào đó
cũng sẽ nằm trong tay các chủ thể phi nhà nước.
Những mối lo ngại của cộng đồng quốc tế về vũ khí hủy diệt hàng loạt hàm
chứa cả khía cạnh đạo đức lẫn hiện thực. Quan điểm đạo đức chống lại vũ khí
nguyên tử được chia sẻ không chỉ bởi các quốc gia không có khả năng hoặc không
có tham vọng sản xuất vũ khí nguyên tử mà còn bởi cả các quốc gia đang sở hữu
loại vũ khí này như Mỹ, Pháp và Nga. Vũ khí hóa học và sinh học đã bị lên án kể từ
Chiến tranh thế giới lần thứ nhất, khi việc sử dụng khí mù tạt đã dẫn đến sự phản
đối lan rộng ở các quốc gia thuộc phe Liên minh lẫn phe Trục. Khía cạnh hiện thực
cũng không khó giải thích: vũ khí hủy diệt hàng loạt chứa đựng nguy cơ leo thang
chiến tranh và khả năng tàn phá khốc liệt. Bất cứ khi nào những loại vũ khí này
được sử dụng, sự vận động của các cuộc xung đột sẽ thay đổi. Các quốc gia yếu sở
hữu vũ khí nguyên tử hay vũ khí hóa học và sinh học có khả năng đe dọa các quốc
gia mạnh tốt hơn; trong khi các quốc gia mạnh với các loại vũ khí này có thể đe
dọa và răn đe đối thủ một cách có hiệu quả hơn. Cùng lúc đó, nguy cơ các loại vũ
khí trên sẽ được sử dụng nếu một cuộc khủng hoảng vượt ra ngoài kiểm soát càng
làm gia tăng mức độ căng thẳng, cho dù đó là giữa Mỹ và Bắc Triều Tiên hay giữa
Ấn Độ và Pakistan. Và mối đe dọa đến từ việc các tổ chức khủng bố cũng có thể sở
Biên dịch: Khoa QHQT | Hiệu đính: Lê Hồng Hiệp
©Dự án Nghiencuuquocte.net 24
hữu và sử dụng vũ khí nguyên tử đã bổ sung thêm một khía cạnh đáng sợ khác
chứng minh việc răn đe hạt nhân không phải là một cách ứng phó hiệu quả. Chiến
tranh lạnh có thể đã kết thúc, nhưng kỷ nguyên của vũ khí nguyên tử và vũ khí hủy
diệt hàng loạt vẫn còn tiếp tục.
Biên niên sử: Chiến tranh Lạnh
1943 Hội nghị Teheran giữa Stalin, Churchill và Roosevelt
1944
Tháng 7 Hội nghị Bretton Woods: thành lập Quỹ tiền tệ quốc tế và Ngân hàng Thế giới
Tháng 8 Hội nghị Dumbarton Oaks : Thành lập Liên Hiệp Quốc
Tháng 10 Cuộc gặp gỡ giữa Churchill và Stalin tại Matxcơva: phân chia khu vực ảnh hưởng ở Bancăng
1945
Tháng 2 Hội nghị Yalta giữa Stalin, Churchill và Roosevelt
Tháng 4 Roosevelt qua đời
Tháng 5 Phát xít Đức đầu hàng
Tháng 4-6 Hội nghị San Francisco: thông qua Hiến chương Liên Hiệp Quốc
Tháng 7 Cuộc thử nghiệm bom A lần đầu tiên; Hội nghị Potsdam giữa Truman, Churchill/Attlee, Stalin
Tháng 8 Bom A phá hủy Hiroshima và Nagasaki, Liên Xô tham chiến tại Châu Á; Nhật Bản đầu hàng
1946 Bài diễn văn “Bức màn sắt” của Churchill; nội chiến Hy Lạp tái diễn
1947
Tháng 3 Công bố học thuyết Truman
Tháng 6 Công bố kế hoạch Marshall
Tháng 10 Matxcơva thành lập Cục Thông tin Quốc tế Cộng sản (Cominform)
1948
Tháng 2 Cuộc đảo chính của Đảng Cộng sản Tiệp Khắc
Tháng 3 Bắt đầu phong tỏa một phần Berlin
Tháng 6 Cầu hàng không Berlin bắt đầu, Nam Tư bị khai trừ ra khỏi Cominform
Biên dịch: Khoa QHQT | Hiệu đính: Lê Hồng Hiệp
©Dự án Nghiencuuquocte.net 25
Tháng 11 Truman tái đắc cử tổng thống
1949
Tháng 4 Hiệp ước Bắc Đại Tây Dương được ký tại Washington
Tháng 5 Chấm dứt phong tỏa Berlin
Tháng 8 Liên Xô cho nổ quả bom A đầu tiên
Tháng 9 Thành lập nước Cộng hòa Liên bang Đức (Tây Đức)
Tháng 10 Thành lập nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa và Cộng hòa Dân chủ Đức (Đông Đức)
1950
Tháng 2 Kí kết Hiệp ước Xô – Trung
Tháng 4 Báo cáo NSC-68 được soạn thảo
Tháng 6 Chiến tranh Triều Tiên bùng nổ
1952 Vụ thử bom H đầu tiên của Mỹ; Eisenhower đắc cử tổng thống, Dulles trở thành ngoại trưởng
1953
Tháng 3 Stalin qua đời
Tháng 6 Đông Berlin nổi dậy
Tháng 7 Đình chiến tại Triều Tiên
Tháng 8 Vụ thử bom H đầu tiên của Liên Xô
Tháng 9 Khrushchev trở thành bí thư thứ nhất Đảng Cộng sản Liên Xô
1954 Trung Quốc oanh tạc quần đảo Kim Môn và Mã Tổ
1955 Tây Đức gia nhập NATO; ký Hiệp ước Warsaw; ký Hiệp ước về nước Áo, Áo trở thành nước trung lập
1956
Tháng 2 Khrushchev phê phán Stalin tại Đại hội Đảng lần thứ 12
Tháng 6 Nổi loại Poznan ở Ba Lan
Tháng 10 Bắt đầu phong trào nổi dậy ở Hungary
Tháng 11 Liên Xô can thiệp vào Budapest
1957
Tháng 8 Liên Xô phóng tên lửa đạn đạo xuyên lục địa lần đầu tiên
Biên dịch: Khoa QHQT | Hiệu đính: Lê Hồng Hiệp
©Dự án Nghiencuuquocte.net 26
Tháng 10 Phóng vệ tinh Sputnik
1958
Tháng 2 Mỹ phóng vệ tinh đầu tiên
Tháng 8 Trung Quốc đe dọa Đài Loan
1959
Tháng 1 Thắng lợi của Fidel Castro tại Cuba
Tháng 9 Khrushchev thăm Mỹ
1960
Tháng 2 Vụ thử bom A đầu tiên của Pháp
Tháng 5 Máy bay trinh thám U-2 bị bắn hạ trên bầu trời Liên Xô, Hội nghị thượng đỉnh Paris thất bại
1961
Tháng 4 Chiến dịch Vịnh Con Lợn 12 thất bại
Tháng 6 Khrushchev và Kennedy gặp gỡ tại Viên
Tháng 8 Xây dựng bức tường Berlin
Tháng 10 Sự cố xảy ra tại điểm kiểm soát Charlie, Berlin; căng thẳng leo thang
1962 Khủng hoảng tên lửa Cuba
1963
Tháng 6 Kennedy thăm Berlin, tuyên bố “Tôi là người Berlin” như một cử chỉ thể hiện tình đoàn kết
Tháng 10 Kennedy kí Hiệp định hạn chế thử nghiệm vũ khí hạt nhân giới hạn; Liên Xô, Mỹ và Anh cấm thử vũ khí trên khí quyển, dưới nước và trong vũ trụ
Tháng 11 Kennedy bị ám sát, Johnson giữ chức tổng thống
1964
Tháng 8 Đạo luật Vịnh Bắc Bộ được quốc hội Mỹ thông qua, tăng cường sự tham chiến của Mỹ tại Việt Nam
Tháng 10 Khrushchev bị phế truất, Brezhnev và Kosygin lên thay thế
Tháng 11 Trung Quốc cho thử quả bom nguyên tử đầu tiên
1966
12 Chiến dịch Vịnh Con Lợn (Bay of Pigs) (17 – 21/4/1961): Là chiến dịch do CIA thực hiện nhằm xâm lược Cuba và lật đổ Chủ tịch Fidel Castro (ND)
Biên dịch: Khoa QHQT | Hiệu đính: Lê Hồng Hiệp
©Dự án Nghiencuuquocte.net 27
Tháng 3 Biểu tình chống chiến tranh Việt Nam tại Mỹ và một số nước Châu Âu
Tháng 4 Bắt đầu Cách mạng Văn hóa Trung Quốc
1967
Tháng 1 Mỹ, Liên Xô và 60 quốc gia khác đồng ý tham gia Hiệp định hạn chế sử dụng vũ trụ vì mục đích quân sự
Tháng 6 Trung Quốc cho thử quả bom H đầu tiên
1968
Tháng 1 Cải cách Mùa xuân Praha tại Tiệp Khắc; Cuộc nổi dậy xuân Mậu Thân 1968 tại Việt Nam
Tháng 7 Hiệp định không phổ biến vũ khí nguyên tử được ký bởi Mỹ, Liên Xô và 58 quốc gia khác
Tháng 8 Liên Xô can thiệp vào Tiệp Khắc
Tháng 11 Nixon đắc cử tổng thống
Tháng 12 Lực lượng lính Mỹ đạt cực đại với 535.000 người ở Việt Nam
1969 Đàm phán hạn chế vũ khí chiến lược (SALT) được khởi động với sự tham gia của Mỹ và Liên Xô
1970
Tháng 2 Hội nghị đàm phán hòa bình giữa Mỹ và Việt Nam diễn ra tại Paris
Tháng 4 Quân đội Mỹ xâm lược Campuchia; 4 sinh viên Đại học Kent State bị Vệ binh quốc gia sát hại trong một cuộc biểu tình chống chiến tranh
1971 Cộng Hòa Nhân dân Trung Hoa gia nhập Liên Hiệp Quốc
1972
Tháng 2 Nixon thăm Trung Quốc
Tháng 5 Ký Hiệp ước SALT I, phong tỏa một số tên lửa đạn đạo xuyên lục địa và tàu ngầm mang tên lửa đạn đạo
1973
Tháng 1 Hiệp định Paris thiết lập việc ngừng bắn và dàn xếp chính trị trong cuộc Chiến tranh Việt Nam
Tháng 5 Đông Đức và Tây Đức thiết lập quan hệ ngoại giao chính thức
Tháng 9 Chính quyền xã hội chủ nghĩa Chile do Savaldor Allende lãnh đạo bị lật đổ trong một cuộc đảo chính do Mỹ giật dây
Tháng 10 Cuộc chiến tranh Yom Kippur giữa Israel và các nước Ả Rập; Mỹ và Liên Xô suýt bị kéo vào xung đột; Các nước Ảrập áp đặt lệnh cấm vận dầu lửa đối với Mỹ đến tháng 3/1974
Biên dịch: Khoa QHQT | Hiệu đính: Lê Hồng Hiệp
©Dự án Nghiencuuquocte.net 28
1974 Nixon từ chức do vụ scandal Watergate13, Gerald Ford đắc cử tổng thống
1975
Tháng 4 Mỹ rút khỏi Việt Nam sau sự sụp đổ của chính quyền Sài Gòn
Tháng 7 Các nhà du hành vũ trụ Mỹ và Liên Xô kết nối liên lạc trong không gian; Mỹ và Liên Xô kí Thỏa ước Helsinki, cam kết chấp nhận biên giới Châu Âu và bảo vệ quyền con người
1976 Jimmy Carter đắc cử tổng thống
1979
Tháng 1 Mỹ và Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa thiết lập quan hệ ngoại giao đầy đủ
Tháng 6 Hiệp định SALT II hạn chế các tên lửa và máy bay ném bom tầm xa được ký bởi Carter và Brezhnev
Tháng 7 Lực lượng Sandinista lật đổ chế độ độc tài Somoza tại Nicaragua
Tháng 12 Liên Xô xâm lược Afghanistan; Mỹ áp đặt lệnh trừng phạt và tẩy chay thế vận hội Olympic Matxcơva
1980 Học thuyết Carter tuyên bố Vịnh Ba Tư là mối quan tâm hàng đầu của Mỹ
1981
Tháng 1 Lech Walesa lãnh đạo Công đoàn Đoàn kết Ba Lan thực hiện các cuộc đình công bất hợp pháp; Ronald Reagan nhậm chức tổng thống; Iran trao trả các con tin Mỹ
Tháng 12 Thiết quân luật được ban bố ở Ba Lan
1982 Reagan phác thảo Hiệp ước cắt giảm vũ khí chiến lược (START) nhằm cắt giảm số lượng tên lửa đạn đạo xuyên lục địa và vũ khí nguyên tử chiến lược của cả hai bên
1983
Tháng 3 Reagan đề xuất Sáng kiến Phòng thủ Chiến lược (SDI), thường được gọi là “Chiến tranh giữa các vì sao,” nhằm phát triển kỹ thuật phòng thủ tên lửa
Tháng 11 Mỹ bắt đầu triển khai tên lửa tầm trung INF Pershing II tại Tây Đức
1985 Mikhail Gorbachev trở thành Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Liên Xô; Đàm phán về vấn đề hạt nhân và không gian diễn ra tại Geneva dựa trên mô hình của START
1986
Tháng 10 Tại hội nghị thượng đỉnh Reykjavik, Reagan từ chối đề xuất của Gorbachev
13 Watergate (1972 – 1974) là một vụ bê bối chính trị trên chính trường Mỹ liên quan đến việc tổng thống Nixon cho đặt máy nghe trộm trong phòng họp của Đảng Dân chủ trong chiến dịch tranh cử tổng thống năm 1972. Năm 1974, sự việc bị phanh phui. Trước nguy cơ bị phế truất, Nixon quyết định từ chức. (ND)
Biên dịch: Khoa QHQT | Hiệu đính: Lê Hồng Hiệp
©Dự án Nghiencuuquocte.net 29
về việc Liên Xô cắt giảm đáng kể số vũ khí nếu Mỹ từ bỏ chương trình SDI
Tháng 11 Việc Mỹ tài trợ bí mật cho lực lượng Contra ở Nicaragua thông qua việc bán vũ khí cho Iran bị bại lộ
1987 Tại hội nghị thượng đỉnh Washington, Reagan và Gorbachev đồng ý hủy bỏ INF và hướng tới hoàn thành Hiệp định START
1988
Tháng 4 Liên Xô đồng ý rút quân khỏi Afghanistan trước tháng 2/1989
Tháng 6 Gorbachev phát biểu trước các vị lãnh đạo Đảng Cộng sản về việc phải sửa đổi những nhân tố cơ bản trong học thuyết chủ nghĩa cộng sản
Tháng 8 Cuba rút quân khỏi Angola
Tháng 11 George H.W.Bush đắc cử tổng thống Mỹ
1989
Tháng 6 Quân đội Trung Quốc đàn áp những người biểu tình đòi dân chủ tại quảng trường Thiên An Môn
Tháng 11 Bức tường Berlin sụp đổ, hàng ngàn người Đông Đức tràn sang Tây Đức
1990
Tháng 5-6 Hội nghị thượng đỉnh Washington diễn ra giữa Bush và Gorbachev
Tháng 10 Thống nhất Đông Đức và Tây Đức
Tháng 11 Hiệp ước Lực lượng Vũ trang Thông thường tại Châu Âu được ký, cắt giảm quy mô lục quân các nước thành viên
Tháng 12 Lech Walesa đắc cử tổng thống Ba Lan
1991
Tháng 7 Bush và Gorbachev ký hiệp ước START, cam kết tiêu hủy hàng ngàn vũ khí nguyên tử
Tháng 8 Vụ đảo chính lật đổ Gorbachev thất bại, nhưng quyền lực được chuyển qua Tổng thống Nga Boris Yeltsin
Tháng 9 Tất cả máy bay ném bom SAC, tàu chở dầu, tên lửa đạn đạo xuyên lục địa Minuteman II được dỡ bỏ lệnh báo động
Tháng 12 Liên Xô sụp đổ, Mỹ công nhận Armenia, Belarus, Kazakhstan, Kyrgyzstan, Nga và Ukraine
Biên dịch: Khoa QHQT | Hiệu đính: Lê Hồng Hiệp
©Dự án Nghiencuuquocte.net 30
GIỚI THIỆU DỰ ÁN NGHIENCUUQUOCTE.NET
Mục đích Nghiencuuquocte.net là một dự án phi chính trị, phi lợi nhuận nhằm mục đích phát triển nguồn học liệu chuyên ngành nghiên cứu quốc tế bằng tiếng Việt và thúc đẩy việc học tập, nghiên cứu các vấn đề quốc tế tại Việt Nam. Lý do ra đời Trong khi số người học tập và nghiên cứu về các vấn đề quốc tế ở Việt Nam ngày càng gia tăng thì việc tiếp cận các tài liệu mang tính học thuật của thế giới về lĩnh vực này còn rất hạn chế vì hai lý do: Thứ nhất, các tài liệu này thường phải trả phí mới tiếp cận được, trong khi các trường đại học và viện nghiên cứu của Việt Nam hầu như không có chi phí trang trải. Thứ hai, các tài liệu này chủ yếu được xuất bản bằng tiếng Anh, khiến nhiều sinh viên, nhà nghiên cứu, và đặc biệt là quảng đại độc giả quan tâm đến các vấn đề quốc tế nói chung, gặp khó khăn trong việc tiếp thu, lĩnh hội. Nghiencuuquocte.net ra đời với hi vọng sẽ góp phần khắc phục được các vấn đề trên. Hoạt động chính Hoạt động chính của Nghiencuuquocte.net là biên dịch sang tiếng Việt và xuất bản trên website của mình các nguồn tài liệu mang tính học thuận bằng tiếng Anh về lĩnh vực quan hệ quốc tế, bao gồm chính trị quốc tế, kinh tế quốc tế, và luật pháp quốc tế. Các tài liệu này chủ yếu là các bài báo trên các tập san quốc tế, các chương sách, hoặc các tài liệu tương ứng, đã được xuất bản bởi các nhà xuất bản, các trường đại học và viện nghiên cứu có uy tín trên thế giới.
Dự án ưu tiên biên dịch và xuất bản:
• Các bài viết mang tính nền tảng đối với lĩnh vực nghiên cứu quốc tế; • Các bài viết có nhiều ảnh ảnh hưởng trong lĩnh vực này; • Các bài viết liên quan trực tiếp hoặc có ảnh hưởng, hàm ý gián tiếp đến Việt Nam; • Các bài viết được đông đảo độc giả quan tâm.
Trang chủ dự án: http://nghiencuuquocte.net/ Thông tin thêm về Dự án: http://nghiencuuquocte.net/about/ Danh mục các bài đã xuất bản: http://nghiencuuquocte.net/muc-luc/ Theo dõi Dự án trên Facebook: https://www.facebook.com/DAnghiencuuquocte Ý kiến đóng góp và mọi liên hệ xin gửi về: Lê Hồng Hiệp, nghiencuuquocte@gmail.com
Recommended