53
PHÒNG NGỪA, PHÁT HIỆN VÀ CAN THIỆP SỚM ĐỐI VỚI MỘT SỐ DẠNG KHUYẾT TẬT I. CÁC DẠNG TẬT VÀ NHỮNG DẤU HIỆU NHẬN BIẾT Theo Nghị định số 28/2012/NĐ-CP của Chính phủ, khuyết tật có các dạng sau: - Khuyết tật vận động - Khuyết tật nhìn - Khuyết tật nghe, nói - Khuyết tật thần kinh, tâm thần - Khuyết tật trí tuệ - Khuyết tật khác 1. Khuyết tật vận động: giảm hoặc mất chức năng cử động đầu, cổ, chân, tay, thân mình dẫn đến hạn chế trong vận động, di chuyển. Các biểu hiện thường thấy của người bị khuyết tật vận động đó là: - Trẻ nhỏ có thể không bú được vì không thực hiện được động tác mút; khi bế đầu trẻ ưỡn ra sau, lưỡi thè ra khi mẹ đặt núm vú vào miệng, thường quấy khóc, không chịu chơi.Trẻ ít hoặc không sử dụng tay, ít hoặc không di chuyển từ chỗ này sang chỗ khác; ít chịu vận động, không chịu chơi, hay ngồi một mình, không tự chăm sóc mình được. Đặc biệt đối với trẻ bị co cứng các khớp, chi hoặc toàn thân; trẻ bị mềm nhẽo một hay nhiều nhóm cơ hoặc toàn thân, trẻ bị trật khớp háng; trẻ có bàn chân nghịch (một hay hai chân) - Người lớn thường ít vận động, ít hoặc không sử dụng tay chân, di chuyển khó khăn, đau khớp, không tự ăn, uống, tắm, rửa, đại tiểu tiện, vệ sinh cá nhân; không tham gia được những công việc trong sinh hoạt hàng ngày của gia đình, cộng đồng và xã hội.

Bài soạn lattest

Embed Size (px)

Citation preview

Page 1: Bài soạn   lattest

PHÒNG NGỪA, PHÁT HIỆN VÀ CAN THIỆP SỚM ĐỐI VỚI MỘT SỐ DẠNG KHUYẾT TẬT

I. CÁC DẠNG TẬT VÀ NHỮNG DẤU HIỆU NHẬN BIẾTTheo Nghị định số 28/2012/NĐ-CP của Chính phủ, khuyết tật có các dạng sau:

-- Khuyết tật vận động-- Khuyết tật nhìn-- Khuyết tật nghe, nói-- Khuyết tật thần kinh, tâm thần-- Khuyết tật trí tuệ-- Khuyết tật khác

1. Khuyết tật vận động: giảm hoặc mất chức năng cử động đầu, cổ, chân, tay, thân mình dẫn đến hạn chế trong vận động, di chuyển.

Các biểu hiện thường thấy của người bị khuyết tật vận động đó là:- Trẻ nhỏ có thể không bú được vì không thực hiện được động tác mút; khi bế

đầu trẻ ưỡn ra sau, lưỡi thè ra khi mẹ đặt núm vú vào miệng, thường quấy khóc, không chịu chơi.Trẻ ít hoặc không sử dụng tay, ít hoặc không di chuyển từ chỗ này sang chỗ khác; ít chịu vận động, không chịu chơi, hay ngồi một mình, không tự chăm sóc mình được. Đặc biệt đối với trẻ bị co cứng các khớp, chi hoặc toàn thân; trẻ bị mềm nhẽo một hay nhiều nhóm cơ hoặc toàn thân, trẻ bị trật khớp háng; trẻ có bàn chân nghịch (một hay hai chân)…

- Người lớn thường ít vận động, ít hoặc không sử dụng tay chân, di chuyển khó khăn, đau khớp, không tự ăn, uống, tắm, rửa, đại tiểu tiện, vệ sinh cá nhân; không tham gia được những công việc trong sinh hoạt hàng ngày của gia đình, cộng đồng và xã hội.

2. Khuyết tật nghe, nói: giảm hoặc mất chức năng nghe, nói hoặc cả nghe và nói, phát âm thành tiếng và câu rõ ràng dẫn đến hạn chế trong giao tiếp, trao đổi thông tin bằng lời nói

Biểu hiện của khuyết tật nghe, nói:- Không thể nghe, không thể nói (không phát âm được hoặc phát âm khó) như

bình thường hoặc sức nghe giảm từ khoảng cách trên 3 mét- Không có khả năng nói mặc dù cơ quan phát âm hoàn toàn bình thường.- Suy giảm chức năng nghe do nhiều nguyên nhân khác nhau; mắc chứng nói

ngọng, nói lắp hoặc không nói được Theo các tổ chức khiếm thính quốc tế, có 3 dạng người khiếm thính:- Người Điếc (the Deaf hay deaf people)- Người nghe kém (Hard of Hearing people)- Người mới bị mất thính lực sau này (Late-deafened people) hay còn gọi là Điếc

đột ngộtDựa vào mức độ suy giảm thính lực (thính lực đồ), tổ chức Y tế Thế giới xác định:

Page 2: Bài soạn   lattest

- Khiếm thính mức I (khiếm thính nhẹ): 21 - 40 dB, không nghe được tiếng nói thầm. Khó nghe được tiếng nói ở những nơi ồn

- Khiếm thính mức II (khiếm thính vừa): 41 - 70 dB, không nghe được tiếng nói thầm và tiếng nói thường. Rất khó nghe được tiếng nói ở những nơi ồn

- Khiếm thính mức III (khiếm thính nặng): 71 - 90 dB, không nghe được ngay cả tiếng nói lớn. Các cuộc nói chuyện được thực hiện rất khó khăn với nhiều nỗ lực.

- Khiếm thính mức IV (khiếm thính sâu): > 90 dB, không nghe được ngay cả khi hét sát vào tai.

Các nguyên nhân gây mất thính lực bao gồm bẩm sinh (di truyền, mẹ truyền sang con…), bệnh (cúm rubella…), do dùng thuốc kháng sinh quá liêu, tai nạn, tuổi tác, các hóa chất, làm việc hoặc sống trong môi trường tiếng ồn

3. Khuyết tật nhìn: giảm hoặc mất khả năng nhìn và cảm nhận ánh sáng, màu sắc, hình ảnh, sự vật trong điều kiện ánh sáng và môi trường bình thường.

Các biểu hiện của khuyết tật nhìn:- Cận thị: Mắt nhìn không rõ khi vật ở xa- Viễn thị: Mắt nhìn không rõ khi vật ở gần- Loạn thị: Mắt nhìn thấy hình ảnh vật thể méo mó, không sắc nét- Quáng gà: Mắt không nhìn thấy ở ánh sáng yếu- Nhìn đôi: Mắt nhìn thấy hai ảnh của cùng một vật- Mất thị trường: Mắt mất một góc nhìn, vùng nhìn- Lòa: Mắt không còn nhìn rõ nữa, mà chỉ còn có thể nhìn thấy mọi vật lờ mờ,

không rõ nét- Mù hoàn toàn: Mắt không mất khả năng nhìn hoặc không có mắt bẩm sinh.- Mù màu: Mắt không có khả năng phân biệt màu sắc nhất định với mức độ khác

nhau, phổ biến nhất mù màu đỏ màu xanh.Khiếm thị hay còn gọi là triệu chứng mất khả năng cảm nhận thị giác một phần

hoặc hoàn toàn (mù, đui). Người khiếm thị là người sau khi được điều trị hoặc điều chỉnh khúc xạ mà thị lực bên mắt tốt vẫn còn từ dưới 3/10 đến trên mức không nhận thức được sáng tối, và bệnh nhân vẫn còn khả năng tận dụng thị lực này để lên kế hoạch và thực thi các hoạt động hàng ngày. Riêng mắt người bị mù hoàn toàn không có khả năng nhận thức sáng tối, không thấy được những gì xung quanh. Chứng mù mắt có thể do rối loạn bẩm sinh, sinh lý hay thần kinh. Người bị lòa hay mờ mắt có thể nhìn thấy một ít, phân biệt được sáng tối hay hình dáng chung chung.

Bảng hướng dẫn của Tổ chức Y tế Thế giới về độ nét của thị lực: - Thị lực từ 6/6 đến 6/18: thị lực bình thường- Thị lực nhỏ hơn 6/18 đến lớn hơn 6/60: thị lực kém- Thị lực nhỏ hơn 6/60 :mù thị lựcỞ Việt nam- Chấn thương khoét bỏ 2 nhãn cầu, không lắp được mắt giả, mức độ thương tật

là 97%- Mù tuyệt đối 2 mắt (thị lực sáng tối âm tính), mức độ thương tật là 91%

Page 3: Bài soạn   lattest

- Một mắt khoét bỏ nhãn cầu, một mắt mù, mức độ thương tật là 87% - Mù 2 mắt, thị lực từ sáng tối đến đếm được ngón tay cách 3 cm đến dưới 1/20,

mức độ thương tật là từ 76% đến 80%- Thị lực của mắt tốt hơn trong 2 mắt từ 1/20 đến 1/10, mức độ thương tật là từ

71% đến 75%- Thị lực của mắt tốt hơn trong 2 mắt từ 1/10 đến 2/10, mức độ thương tật từ

61% đến 70%Trong bản báo cáo Dữ liệu toàn cầu về suy giảm thị lực năm 2002 (Global data on

visual impairment in the year 2002) vào tháng 11 năm 2004 của Tổ chức Y tế Thế giới, tính đến năm 2002 có trên 161 triệu người bị yếu mắt, trong đó 124 triệu bị lòa và 37 triệu bị mù hoàn toàn. Theo ước tính của WHO, các nguyên nhân gây mù phổ biến nhất (không tính tật khúc xạ) trên toàn thế giới năm 2002 là:

- đục thủy tinh thể (47,9%)- tăng nhãn áp (12,3%)- Thoái hóa điểm vàng liên quan đến tuổi (8,7%)- mờ giác mạc (5,1%)- bệnh vỏng mạc tiểu đường (4,8%)- mù từ nhỏ (3,9%)- đau mắt hột (3,6%)- onchocerciasis (0,8%) (hay mù lòa đường sông)

Hiện nay, vẫn còn một số quan niệm sai lầm về người khiếm thị như sau:- Tất cả những người khiếm thị đều hoàn toàn không thấy- Người khiếm thị đương nhiên là có các giác quan còn lại như xúc giác, thính

giác, khướu giác và vị giác rất bén nhậy. (Thực ra Khiếm thị có thể xuất hiện cùng với các bệnh như chậm phát triển tinh thần, rối loạn phổ tự kỷ, bại não, suy giảm thích giác, và động kinh)

- Những người khiếm thị không thể làm việc và không tự lo liệu, không sống một mình được

- Người khiếm thị không thể đọc sách, xem TV, xem phim, sử dụng vi tính hoặc chơi thể thao

- Những người khiếm thị đều giỏi nhạc- Chỉ có người khiếm thị hoàn toàn mới sử dụng gậy để dò đường

4. Khuyết tật thần kinh, tâm thần: rối loạn tri giác, trí nhớ, cảm xúc, kiểm soát hành vi, suy nghĩ và có biểu hiện với những lời nói, hành động bất thường.

Các biểu hiện của người khuyết tật tâm thần, thần kinh:- Nhức đầu, mất ngủ, thay đổi tính tình - Vui vẻ bất thường, múa hát, nói cười ầm ĩ hoặc buồn rầu, ủ rũ, không nói năng

gì- Nghe thấy tiếng nói hay nhìn thấy hình ảnh không có trong thực tế- Tự cho mình có nhiều tài năng xuất chúng hoặc cho là có người theo dõi ám

hại mình- Lên cơn kích động hoặc nằm im không ăn uống gì

Page 4: Bài soạn   lattest

5. Khuyết tật trí tuệ: giảm hoặc mất khả năng nhận thức, tư duy biểu hiện bằng việc chậm hoặc không thể suy nghĩ, phân tích về sự vật, hiện tượng, giải quyết sự việc.

Các biểu hiện đặc trưng của khuyết tật trí tuệ:Đặc trưng phát triển:- Chậm phát triển vận động: trẻ chậm biết lật, ngồi, bò và đi đứng- Chậm biết nói hoặc khó khăn khi nói- Kém hiểu biết về các quy luật xã hội căn bản- Không ý thức được hậu quả về các hành vi của mình- Khó khăn khi tự phục vụ: tự ăn uống, vệ sinh cá nhân- Lăng xăngĐặc trưng về cảm giác, tri giác:- Chậm chạp, ít linh hoạt;- Phân biệt màu sắc, dấu hiệu, chi tiết sự vật kém- Thiếu tính tích cực trong quan sátĐặc trưng về tư duy:- Trẻ khó nhận biết các khái niệm- Tư duy của trẻ thường biểu hiện tính không liên tục- Tư duy lôgíc kém; - Tư duy trẻ còn thiếu tính nhận xét, phê phánĐặc trưng về trí nhớ:- Chậm hiểu cái mới, quên nhanh cái vừa tiếp thu- Quá trình ghi nhớ không bền vững, không đầy đủ- Chỉ ghi nhớ được cái bên ngoài sự vật, khó ghi nhớ cái bên trong, cái khái quátĐặc trưng về chú ý:- Khó tập trung, dễ bị phân tán- Không tập trung vào chi tiết, chỉ tập trung các nét bên ngoài- Kém bền vững- Luôn luôn bị phân tán bởi các sự việc nhỏ- Thời gian chú ý của trẻ chậm phát triển trí tuệ kém hơn nhiều trẻ bình thường

6. Khuyết tật khác: giảm hoặc mất những chức năng cơ thể khiến cho hoạt động lao động, sinh hoạt, học tập gặp khó khăn mà không thuộc các trường hợp trên

Các dạng khuyết tật khác có thể bao gồm dị hình, dị dạng, nạn nhân chất độc da cam, di chứng bệnh phong, hội chứng Down, tự kỷ.

Đối với lãnh vực khuyết tật, việc phát hiện sớm và can thiệp sớm hết sức quan trọng, giúp tăng thêm cơ hội phục hồi và hòa nhập xã hội của NKT

II. VAI TRÒ CỦA PHÁT HIỆN SỚM, CAN THIỆP SỚMPhát hiện sớm là đánh giá mức độ phát triển của trẻ theo độ tuổi (thường từ 0 – 6 tuổi) nhằm phát hiện những trẻ có nguy cơ cao bị khuyết tật để có biện pháp hỗ trợCan thiệp sớm là áp dụng bất kỳ dịch vụ hoặc hình thức hỗ trợ nhằm vào trẻ, vào cha mẹ hoặc gia đình và môi trường xung quanh để giúp trẻ phát triển và hòa nhập

Page 5: Bài soạn   lattest

- Đối với trẻ: can thiệp sớm giúp ngăn ngừa các yếu tố nguy cơ dẫn tới chậm phát triển hoặc rối loạn chức năng, tạo ra những kích thích tốt với trẻ và giúp trẻ có mối tương tác với môi trường xung quanh. Can thiệp sớm là một biện pháp hiệu chỉnh chức năng để giúp trẻ duy trì nhịp độ phát triển và ngăn cản không cho tình trạng xấu hơn. Can thiệp sớm sẽ giảm tác dụng phụ của các bệnh mãn tính và suy giảm chức năng vĩnh viễn, ngăn ngừa được khuyết tật phối hợp

- Đối với cha mẹ trẻ: can thiệp sớm khiến cha mẹ đóng góp tích cực vào quá trình hỗ trợ con của mình, nhờ đó họ phát hiện được khả năng và tiềm năng của trẻ cũng như bản thân, đồng thời làm tốt việc dưỡng dục trẻ, đương đầu với các vấn đề cảm xúc. Nhờ can thiệp sớm, cha mẹ học được các kỹ năng tương tác với trẻ, kỹ năng tìm hiểu thông tin và các dịch vụ…

- Đối với gia đình: can thiệp sớm giúp anh chị em ruột của trẻ có thái độ và hành vi đúng mực với trẻ khuyết tật. Can thiệp sớm cũng đảm bảo họ hàng trẻ tham gia vào mạng lưới và hệ thống hỗ trợ để làm vơi đi gánh nặng của cha mẹ trẻ

- Đối với xã hội: can thiệp sớm giúp xã hội nhận thức được sự hiện diện của một bộ phận người khuyết tật trong cộng đồng và họ có quyền như bao người khác. Can thiệp sớm làm tăng cơ hội tiếp cận giáo dục, việc làm cho người khuyết tật và do vậy sẽ làm giảm các chi phí xã hội do tội phạm, thất nghiệp và chi trả cho trợ cấp xã hội

Quy trình hỗ trợ phát hiện sớm, can thiệp sớm gồm: - Bước 1: Sàng lọc tại cộng đồng, giúp phát hiện sớm các dấu hiệu nghi ngờ rối

nhiễu phát triển và giới thiệu đến các cơ sở chuyên môn. - Bước 2: Khám sàng lọc xác định khuyết tật tại Trung tâm hỗ trợ. - Bước 3: Xây dựng kế hoạch can thiệp. - Bước 4: Thực hiện kế hoạch can thiệp. - Bước 5: Đánh giá lại và điều chỉnh kế hoạch.- Bước 6: Thực hiện lại từ bước 2 hoặc chuyển tiếp trẻ sang chương trình khác

1. Phát hiện và can thiệp sớm trẻ bị bại não

Bại não là một loại khuyết tật ảnh hưởng lên sự vận động, tinh thần, giác quan và hành vi của trẻ. Bại não xảy ra do tổn thương não của trẻ trước khi sinh, trong khi sinh và cả sau sinh. Không phải toàn bộ não bị tổn thương mà chỉ một số phần của não. Khi phần não đã bị tổn thương thì không bao giờ hồi phục lại được nữa nhưng chúng cũng không trở nên xấu hơn. Tình trạng của trẻ có thể sẽ được cải thiện hơn hoặc trở nên xấu đi tùy thuộc vào cách thức chúng ta can thiệp vào tình trạng của trẻ.Làm thế nào đế phát hiên sớm trẻ bị bại não?Thông thường, trẻ từ 1 – 3 tháng tuổi

Kỹ năng Thực hiện đượcVận động thô Lật ngửa sang nghiêng, có thể tự lật sấp được.

Nâng cao đầu khi nằm sấpVận động tinh Giữ vật trong tay từ 1-2 phút.

Có thể đưa vật vào miệng.

Page 6: Bài soạn   lattest

Ngôn ngữ - Giao tiếp Phát ra âm thanh để gây sự chú ý của người khác. Cười thành tiếng.

Cá nhân - xã hội Nhìn theo vật chuyển độngNhận thức Biết hóng chuyện, mỉm cười hồn nhiên.

Trẻ từ 4 – 6 tháng tuổi

Kỹ năng Thực hiện đượcVận động thô Lẫy từ ngửa sang sấp và từ sấp sang ngửa

Nâng đầu được lâu hơn khi nằm sấpKhi kéo lên trẻ có thể giữ được đầu thẳngNgồi có trợ giúp vững hơnTrườn ra phía trước và xung quanhGiữ người có thể đứng được

Vận động tinh Biết với tay cầm nắm đồ vậtNgôn ngữ - Giao tiếp Quay đầu về phía có tiếng động, đặc biệt giọng nói của một

người nào đó.Bập bẹ các âm đơn như ma, mu…

Cá nhân - xã hội Thích cười đùa với mọi ngườiBiết giữ đồ chơi

Nhận thức Ham thích môi trường xung quanh

Trẻ từ 7 – 9 tháng tuổi

Kỹ năng Thực hiện đượcVận động thô Tự ngồi được vững vàng.

Tập bò và bò được thành thạo.Có thể vịn đứng dậy khi có thành chắc chắn

Vận động tinh Cầm hai vật và đập hai vật vào nhau.Chuyển tay một vật.Có thể nhặt đồ vật bằng ngón tay cái và một ngón tay khác

Ngôn ngữ - Giao tiếp Quay đầu về phía có tiếng nói.Phát ra âm: bà, cha, ba, măm.

Cá nhân - xã hội Tự ăn bánh.Chơi ú oà, vươn tới đồ chơi ngoài tầm tay.Vẫy tay, hoan hô

Nhận thức Đáp ứng khi gọi tên. Từ chối bằng cách giấu mặt, lấy tay che mặt khi người lớn rửa mặt.

Trẻ 10 – 12 tháng tuổi

Kỹ năng Thực hiện được

Page 7: Bài soạn   lattest

Vận động thô Tập đứng, đứng vững.Tập đi, đi lại được vài bước khi có người dắt tay.Đến tháng 12 trẻ có thể đi được vài bước.

Vận động tinh Sử dụng các ngón tay dễ dàng hơn.Đập hai vật vào nhau.Kẹp bằng hai đầu ngón tay.

Ngôn ngữ - Giao tiếp Có thể nói câu một hai từ.Hiểu câu đơn giản.

Cá nhân - xã hội Chỉ tay vào vật yêu thích.Đập đồ chơi vào bàn, quẳng xuống đất…Lặp lại các hành động gây sự chú ý hoặc gây cười.

Nhận thức Đáp ứng với những mệnh lệnh, yêu cầu đơn giản như “giơ tay lên”, “chào tạm biệt”.Gây sự chú ý với người khác bằng cách kéo quần áo, xấu hổ khi có người lạ.Xấu hổ khi có người lạ.

Nên nghĩ tới khả năng trẻ bị bại não khi thấy các biểu hiện sau:- Lúc sinh trẻ thường có vẻ mềm rũ. Trẻ đẻ ra không khóc ngay hoặc khóc yếu, tím

tái, da trẻ tím và người trẻ mềm rũ ra.

trẻ bại não trẻ bình thường

- Trẻ chậm phát triển hơn so với các trẻ cùng lứa. Trẻ chậm biết ngẩng đầu lên, chậm biết ngồi hoặc chậm biết đi.

- Trẻ có thể không sử dụng hai bàn tay hoặc chỉ sử dụng được một bàn tay.

- Trẻ gặp khó khăn khi bú, nuốt hoặc nhai. Trẻ thường bị nghẹt thở, nghẹn khi ăn hoặc bú. Ngay cả khi trẻ đã lớn hơn tình trạng này cũng vẫn cứ tiếp diễn.

Page 8: Bài soạn   lattest

- Khó khăn khi săn sóc cho trẻ. Thấy khó khi bế ẵm, tắm rửa hay thay quần áo vì trẻ cứng đờ hay ưỡn mạnh ra sau khi trẻ lớn hơn trẻ không học được cách tự ăn hoặc tự mặc quần áo, đi vệ sinh hoặc chơi với các trẻ khác.

- Trẻ có thể mềm đến nỗi đầu luôn rũ xuống hoặc đột nhiên trẻ trở nên cứng đờ như một tấm ván làm khó có thể ôm hoặc bồng được trẻ.

- Sau khi sinh trẻ thường khóc ngằn ngặt nhiều tháng, bị kích thích, khó chịu. Một số trẻ lại lờ đờ, ít đáp ứng.

- Thay đổi hành vi liên tục: đột nhiên khóc rồi lại cười, hay sợ hải, co giật, tức giận.- Trẻ gặp khó khăn trong giao tiếp: không đáp ứng hoặc hành động như trẻ bình

thường

Trí thông minh của trẻ bị bại não sẽ như thế nào?Không nên đánh giá trí thông minh của trẻ qua vẻ bề ngoài, chỉ khoảng hơn một nửa số trẻ bại não bị chậm phát triển trí tuệ. Trẻ học mọi thứ chậm hơn và không thể làm những việc mà trẻ cùng lứa tuổi bình thường làm được

Trẻ bị bại não có gặp vấn đề gì về khả năng nghe, nói và nhìn không?- Trẻ có thể bị điếc hoặc mù do đó nên cố gắng quan sát trẻ thật kỹ và tìm cách thử

xem chức năng nghe và nhìn của trẻ có bị ảnh hưởng hay không.- Trẻ có thể biết nói chậm. Một số trẻ nói được nhưng không rõ hoặc nói một cách

khó khăn.

Trẻ bại não có thể có những vấn đề gì về tâm thần kinh?Trẻ bại não có thể có một hoặc một số vấn đề sau:

- Động kinh - Khó khăn trong giao tiếp: một phần do tình trạng co cứng, mềm rũ, thiếu các điệu

bộ cử chỉ của tay, hoạt động của cơ mặt. - Tính khí thất thường: trẻ đột nhiên khóc rồi lại cười, hay sợ hãi, co giật, tức giận.

Page 9: Bài soạn   lattest

Những trẻ này cần rất nhiều sự giúp đỡ và kiên nhẫn của gia đình để có thể giúp trẻ vượt qua được những khó khăn về mặt tinh thần nói trên.

- Cảm giác đụng chạm, nóng, lạnh, đau và cảm giác về vị trí của cơ thể không mất. Trẻ có thể gặp khó khăn trong việc điều khiển các hoạt động của cơ thể và giữ thăng bằng. Dạy trẻ một cách kiên nhẫn và lập đi lập lại nhiều lần có thể giúp trẻ cảm nhận những cảm giác này tốt hơn.

Có thể giúp được gì cho trẻ bại não?- Bố mẹ của trẻ nên cố gắng giúp trẻ trở thành một người có thể sống một cách độc

lập trong khả năng cho phép. Chỉ trừ khi trẻ bị tổn thương về mặt trí tuệ nặng đến nỗi trẻ không đáp ứng với mọi thứ chung quanh, còn lại các trẻ bại não đều có thể học các kỹ năng thiết yếu để có thể thích nghi với tình trạng của mình. Bố mẹ và các thành viên trong gia đình của trẻ cần học cách để giúp trẻ phát triển các kỹ năng vận động, giao tiếp, tự săn sóc, quan hệ với người khác. Thông qua việc giúp trẻ phát triển các kỹ năng này sẽ giúp cải thiện một phần các triệu chứng của bại não.

- Bố mẹ và các người thân khác của trẻ cần phải biết là không nên làm thay cho trẻ mọi việc mà nên giúp trẻ vừa đủ và động viên để cho trẻ có thể học cách tự làm lấy dần mọi việc trong khả năng của mình. Đây là điều hết sức quan trọng.

2. Phát hiện và can thiệp sớm trẻ tự kỷ

Tự kỷ là một dạng khuyết tật suốt đời do rối loạn của hệ thần kinh ảnh hưởng đến hoạt động của não bộ. Nghiên cứu đã chỉ ra rằng Rối loạn phổ tự kỷ ở trẻ được phát hiện thông qua sàng lọc tại thời điểm trẻ 18 tháng hoặc sớm hơn. Kết quả chẩn đoán trước khi trẻ 2 tuổi bởi một chuyên gia giàu kinh nghiệm có thể coi là đáng tin cậy. Tuy nhiên, rất nhiều trẻ em lớn tuổi mới được làm chẩn đoán xác định. Sự chậm trễ này khiến nhiều trẻ em tự kỷ không nhận được sự giúp đỡ sớm khi trẻ cần.Rối loạn tự kỷ càng được chẩn đoán sớm, thì trẻ sớm đươc nhận các can thiệp kịp thời. Can thiệp sớm giúp cải thiện chỉ số IQ, ngôn ngữ, và các kỹ năng sống khác trong sinh hoạt hàng ngày, từ đó cải thiện hành vi thích nghiBảng kiểm tra CHAT (Checklist for Autism in Toddlers) thực hiện khi trẻ 18 tháng tuổi

Phần A: do phụ huynh điền1. Bé có thích được đu đưa, lắc lư trên đầu gối của không? có - không2. Bé có quan tâm đến các bé khác không? có - không3. Bé có thích leo trèo không? như leo cầu thang? có - không4. Bé có thích chơi ú oà hay trốn tìm không? có - không5. Bé có biết chơi giả bộ, ví dụ như pha một tách nước trà, bằng cách dùng một cái

tách và bình trà bằng đồ chơi không? có – không6. Bé có bao giờ dùng ngón trỏ để chỉ vật gì mà bé muốn hỏi XIN hay không? có -

không7. Bé có bao giờ dùng ngón tay trỏ chỉ vật mà bé quan tâm không? có - không

Page 10: Bài soạn   lattest

8. Bé có biết chơi phù hợp với các đồ chơi nhỏ (như xe ô-tô, các khối), mà không bỏ vào miệng ngậm, không mân mê hoặc ném đi không? có - không

9. Bé có bao giờ mang một vật gì cho bạn xem không? có – không

Phần B: do bác sĩ hoặc nhân viên y tế điền1. Trong lúc được bác sĩ khám, bé có tiếp xúc mắt với bạn không? có - không2. Bạn gây sự chú ý của bé, rồi thử chỉ vào một đồ chơi và nói “Coi kìa, đó là (nói

tên đồ chơi)!” Nhìn mặt bé. Bé có nhìn theo đồ vật mà bạn đang chỉ không? có - không

3. Bạn gây sự chú ý của bé, rồi bạn cho bé một cái tách và một ấm trà đồ chơi và bảo “Con có thể pha một tách trà cho bác không?” Bé có biết giả bộ rót trà, giả bộ uống không? có - không

4. Bạn hỏi bé “Đèn đâu?” “Chỉ cho bác đèn đi.” Bé có biết lấy ngón trỏ chỉ vào đèn không? có - không

5. Bé có biết xây tháp với các khối không? và nếu có, bao nhiêu khối? có - không

Lưu ý:- B2. Để chấm điểm có ở mục này, bạn cần đảm bảo rằng bé không chỉ nhìn vào tay

bạn, mà bé còn nhìn theo đồ vật mà bạn chỉ- B3. Bạn có thể chọn một ví dụ về trò chơi giả bộ khác để chấm điểm có ở mục

này.- B4. Nếu bé chưa biết đèn là gì, thì bạn có thể hỏi bé “con gấu bông đâu?” hoặc chỉ

một vật khác ngoài tầm tay của bé. Cho điểm có ở mục này, nếu bé nhìn vào mặt bạn lúc bạn chỉ con gấu.

Những mục chính của bảng CHATPhần A

A5: Chơi giả bộA7: Chú ý liên kết

Phần BB2: Theo dõi một vật được chỉ bằng ngón trỏB3: Giả bộB4: Chỉ một vật nào đó

Những mục phụ của bảng CHATPhần A

A1: Chơi đu đưaA2: Quan tâm xã hộiA3: Phát triển vận độngA4: Chơi xã hộiA6: Chỉ bằng ngón trỏ để yêu cầuA8: Chơi chức năngA9: Cho xem một vật gì

Page 11: Bài soạn   lattest

Phần BB1: Tiếp xúc mắtB5: Tháp với các khối

Thẩm định nguy cơ- Nguy cơ cao: Thất bại (trả lời KHÔNG) các mục A5, A7, B2, B3, B4- Nguy cơ trung bình: Thất bại mục A7, B4 (nhưng không thuộc nguy cơ cao)- Nguy cơ thấp: Nếu không thuộc hai mức độ nguy cơ trên

Những khuyến cáo về xử trí:- Nhóm nguy cơ cao: Giới thiệu trẻ đến một phòng khám phát triển và khoa giáo

dục đặc biệt.- Nhóm nguy cơ trung bình: Khả nghi cao - giới thiệu như trên; Khả nghi thấp -

kiểm tra lại một tháng sau- Nhóm nguy cơ thấp: Nếu có bất kỳ một câu trả lời KHÔNG, kiểm tra lại một

tháng sau.Các nghiên cứu đã chứng minh là can thiệp giáo dục sớm dẫn đến những kết quả tốt cho trẻ và gia đình. Can thiệp sớm có thể bao gồm việc dạy trẻ nhận biết những gì đang xảy ra trong môi trường xung quanh, biết chú ý, biết bắt chước hành vi, dần dần cải thiện những kỹ năng giao tiếp của trẻ. Gia đình trẻ cần được giới thiệu tới các trung tâm can thiệp sớm để được lượng giá nếu nghi ngờ chậm phát triển

3. Phát hiện và can thiệp sớm trẻ khiếm thính

Hiện nay, việc phát hiện tình trạng khiếm thính ở trẻ thường rất muộn, đa phần sau 2 tuổi nên việc điều trị cả điếc và ngôn ngữ đều rất khó khăn. Trẻ khiếm thính thường chậm nói hoặc không nói được từ đó dẫn đến chậm phát triển ngôn ngữ và gây khó khăn cho việc học tập. Sàng lọc thính lực cho trẻ sơ sinh trước khi xuất viện về nhà sẽ giúp phát hiện từ rất sớm những trẻ có vấn đề về thính giác để kịp thời can thiệp, điều này có ý nghĩa rất quan trọng với sự phát triển ngôn ngữ và khả năng nói của trẻ. Trẻ sơ sinh bị khiếm thính nếu được phát hiện và can thiệp sớm sẽ có thể nghe, nói và phát triển như các trẻ bình thường khác. Tất cả trẻ sơ sinh bình thường hoặc có biểu hiện bệnh lý đều cần được kiểm tra thính lực thông qua chương trình sàng lọc khiếm thính trước khi mẹ xuất viện khi sinh. Do trẻ bị khiếm thính có thể có vẻ ngoài hoàn toàn bình thường nên cho trẻ sàng lọc khiếm thính là biện pháp hữu hiệu để phát hiện sớm những vấn đề liên quan đến thính lực của trẻ để chẩn đoán và can thiệp sớm.Để đánh giá mức độ khiếm thính có thể sử dụng máy đo thính lực (audiometer) hoặc sử dụng giọng nói (voice test). Có nhiều cấp độ hay mức độ khiếm thính khác nhau. Chúng được đo bằng đơn vị decibel (dB) khi đề cập đến mức độ hay độ lớn hay âm lượng hoặc hertz (Hz) khi đề cập đến độ cao thấp hay tần số của âm thanh tiếng nói. Tật khiếm thính có các mức độ như sau:

Độ khiếm thính

Máy đo thính

Giọng nói Hướng xử trí

Page 12: Bài soạn   lattest

Nhẹ 20 – 40 dB

- Trẻ có thể nghe được tiếng nói nhưng chỉ là những đoạn rời rạc. Những từ ngắn, phần cuối của từ và những âm từ không rõ thườngbị bỏ sót và không nghe được.- Tiếng ồn trong lớp học và trong môi trường chung quanh sẽ làm cho trẻ khó nghe hơn- Trẻ có thể nghe và nhắc lại giọng nói bình thường cách 1 mét

Có thể dùng máy trợ thính

Vừa 41 – 60dB

- Trẻ có thể không nghe được tới 50% lời nói của người khác và thậm chí còn hơn nữa nếu tiếng ồn xung quanh tăng lên.- Nếu trẻ không được đeo máy trợ thính thì hậu quả thường là vốn từ của trẻ bị hạn chế và phát âm không rõ.- Chất lượng giọng nói của trẻ cũng có thể bị ‘đều đều’ gần như không biến đổi vì trẻ khôngcó khả năng theo dõi giọng nói của chính mình.- Trẻ có thể nghe và nhắc lại giọng nói lớn cách 1 mét

Cần dùng máy trợ thính thường xuyên

Nặng 61 - 90 dB

- Trẻ không nghe được phần lớn âm thanh tiếng nói. Ngoài ra, các kỹ năng nói có thể không phát triển được nếu âm thanh không được khuyếch đại nhờ máy trợ thính và trẻ cần được điều chỉnh ngôn ngữ và trị liệu về ngôn ngữ.- Trẻ chỉ nghe được 1 số từ khi hét thật lớn vào tai

- Cần dùng máy trợ thính thường xuyên.- Nếu không có máynghe thì phải học cách đọc môi hoặc ngôn ngữ điệu bộ.

Rất nặng > 91 dB

- Trẻ gần như không nghe được âm thanh gì cả (đặc biệt là lời nói). Khả năng nói không thể phát triển được nếu không dùng máy trợ thính hay cấy thiết bị trợ thính ốc tai.- Trẻ không có khả năng nghe và hiểu cả khi hét vào tai

- Máy trợ thính có thể giúp phần nào.- Cấy ốc tai- Học đọc môi và ngôn ngữ ký hiệu là chính nếu không sử dụng được máy trợ trính hoặc được cấy ốc tai.

Khiếm 1500 Hz–

- Trẻ chủ yếu không nghe được những âm thanh có tần số cao và không phải lúc nào cũng nghe được các phụ âm.

Page 13: Bài soạn   lattest

thínhtần số cao

8000 Hz - Trẻ có thể bị mất nhiều đoạn thông tin bằng lời nói và mức độ tiếng ồn xung quanh cao càng khiến cho trẻ khó nghe được âm thanh hơn nữa.

Đối với trẻ nhỏ, bố mẹ hoặc người trực tiếp chăm sóc là người có thể biết tốt nhất trẻ khả năng nghe của trẻ. Ở trẻ bình thường, ở mỗi độ tuổi khác nhau có những đáp ứng khác nhau với âm thanh như được mô tả trong bảng dưới đây:

Tuổi (tháng)

Đáp ứng với âm thanh

<1 Một vài dấu hiệu như mở mắt, chớp mắt. Giật mình hay tỉnh giấc khi có tiếng động to gần trẻ

6 Quay đầu hoặc mắt nhìn theo hướng phát âm thanh9 Lắng nghe và tự phát ra các loại âm từ lớn đến nhỏ

12 Biết tên mình và một số từ, bắt đầu bập bẹ nói18 Biết chỉ một số đồ vật quen thuộc khi được yêu cầu, biết nói một số từ đơn

giản24 Có thể nghe những từ rất nhỏ và nhận biết hướng của nó, có khả năng nói

những câu đơn giản

4. Phát hiện và can thiệp sớm trẻ khiếm thị

Một số dấu hiệu sau đây cho thấy trẻ có tật về mắt- Trẻ không đáp ứng với ánh sáng, không nhìn theo ánh sáng, không nhìn theo dãi

tua màu sắc - Trẻ bé không quay đầu nhìn theo đồ vật, không với tay theo đồ vật - Trẻ đi lại phải lần sờ và hay va chạm vào đồ vật xung quanh, tìm kiếm đồ chơi, đồ

vật khó khăn. - Trẻ không có sự tiếp xúc bằng mắt, mắt nhìn lờ đờ- Trẻ phải điều chỉnh, nghiêng đầu, xoay cổ hoặc cố định một bên mặt để nhìn bằng

mắt còn lại- Trẻ với tay không chính xác khi với lấy các đồ vật- Hai mắt chuyển động không đồng đều hay một mắt di chuyển- Mắt chuyển động ngang hay thẳng đứng quá nhanh (rung giật nhãn cầu)- Không có đồng tử mắt trong veo, đen (giác mạc bị mờ, con ngươi trắng, hai mắt

có tròng đỏ nhiều, hiện tượng phản sáng khi chụp ảnh có đèn flash)- Thường xuyên ướt nước mắt khi trẻ không khóc do tắc lệ đạo- Có phản ứng không thỏai mái với ánh sáng mạnh (chứng sợ sáng)- Kết mạc của mắt thường xuyên bị đỏ- Hình dáng, kích cỡ và cấu tạo mắt bất thường rõ rệt.

III. PHÒNG NGỪA KHUYẾT TẬT

Page 14: Bài soạn   lattest

Nhiều khuyết tật bẩm sinh là không thể phòng ngừa, tuy nhiên cũng có thể giảm thiểu tối đa nguy cơ của nhiều khuyết tật bệnh bằng cách:

- Tránh kết hôn cận huyết thống- Tiêm phòng sởi, Rubella (ít nhất 1 tháng trước khi mang thai). Nếu thai phụ có

bệnh mãn tính, ví dụ đái tháo đường, cần phải có những chế độ theo dõi và điều trị cẩn thận từ trước và trong khi mang thai.

- Khi mang thai, phụ nữ nên uống acid folic phòng ngừa các bệnh do khuyết tật về ống thần kinh. Khuyết tật ống thần kinh của thai nhi phát sinh rất sớm, trước khi người phụ nữ nhận ra mình có thai, vì vậy người phu nữ cần dùng thuốc trước khi có thai khoảng 2 tháng và trong 3 tháng đầu thai nghén. Acid folic có ở trong một số loại rau lá sẫm hay đậu, tuy nhiên số lượng từ thức ăn là hoàn toàn không đủ. Chính vì vậy, người phụ nữ cần sử dụng viên đa vitamin hay viên acid folic với liều 0.4 mg mỗi ngày. Các thuốc sử dụng khi mang thai cần phải được đảm bảo nguy cơ thấp nhất đối với thai nhi và nên tư vấn bác sĩ chuyên khoa bất cứ thuốc nào cần dùng kể cả những thuốc điều trị cảm cúm thông thường hay vitamin.

- Các bệnh lây truyền qua đường tình dục cũng có khả năng cao gây ra khuyết tật thai nhi. Do đó, trong lần khám thai sớm, người phụ nữ cần được làm các xét nghiệm chẩn đoán các bệnh lây truyền qua đường tình dục; phòng chống các nhiễm khuẩn khác.

- Phụ nữ có thai cần có chế độ dinh dưỡng, chăm sóc đầy đủ đúng cách, khám thai định kỳ. Sản phụ không nên uống đồ uống có cồn vào bất kỳ lúc nào của thai kỳ

- Khi mang thai, người phụ nữ cần tránh tiếp xúc với chì, thủy ngân, thuốc trừ sâu, hay các loại phóng xạ. không nên ăn các loại cá biển chứa hàm lượng thủy ngân khá cao như cá ngừ, cá kiếm, cá mập; không sử dụng vitamin A liều cao.

- Khi trẻ ra đời, người mẹ cần thực hiện chương trình tiêm chủng đầy đủ cho trẻ, Theo dõi và điều trị vàng da sơ sinh, thận trọng khi ghi đơn thuốc cho trẻ vì có một số loại thuốc gây độc cho trẻ

- Phát hiện sớm và can thiệp sớm khuyết tật

Page 15: Bài soạn   lattest

LÀM VIỆC VỚI GIA ĐÌNH CÓ NGƯỜI KHUYẾT TẬT

I. MỘT SỐ NGUYÊN TẮC CƠ BẢNĐề cao trẻ khuyết tật

- Mỗi trẻ là một cá thể độc đáo. Vì thế, hội viên Caritas nhìn vào phẩm giá của trẻ trước khi nhìn vào tình trạng khuyết tật của em

- Luôn gọi tên trẻ thay vì gọi Thằng bé down, con bé khuyết tật nhà anh/chị…- Nói về những điểm tích cực, những mặt mạnh của trẻ và tránh phỏng đoán- Khi có thể thì chia sẻ thông tin với cả cha mẹ lẫn sự có mặt của trẻ khuyết tật vì trẻ

cũng cần được biết rõ bản thânTôn trọng cha mẹ và gia đình

- Hỗ trợ và tăng năng lực- Cẩn trọng trong việc cung cấp thông tin, chấp nhận rằng ta không biết hết tất cả

mọi sự và sẵn sàng nghiên cứu, học hỏi- Trung thực, thẳng thắn, không che giấu thông tin- Cho gia đình cơ hội đặt câu hỏi và kiểm tra xem họ có hiểu đúng những gì ta nói- Quân bình giữa thực tại và hy vọng – không phóng đại tình trạng khuyết tật cũng

không tạo ra một tương lai hão huyền- Xây dựng tương quan và sự tin tưởng dựa trên từ tâm- Đừng tiêm những tư tưởng tiêu cực về trẻ khuyết tật hay nghi ngờ về khả năng giải

quyết những thách đố của gia đình- Chỉ cho cha mẹ thấy rằng chúng ta cần họ cộng tác và mời gọi họ tham gia ra

quyết định- Biết rõ các nguồn lực và nối kết trẻ và gia đình với các nguồn lực, các mạng lưới

hỗ trợ

II. CÁCH TIẾP CẬN, HỖ TRỢ NKT VÀ GIA ĐÌNH HỌ

1. Thay đổi cái nhìn từ từ thiện đến quyền của NKT

Việc hỗ trợ NKT và gia đình của họ trải qua nhiều giai đoạn lịch sử. Tương ứng với các giai đoạn này là các mô hình trợ giúp khác nhau. Các mô hình này vừa thể hiện cách nghĩ vừa cho thấy cách hành xử của những người không khuyết tật đối với những người khuyết tật

Mô hình từ thiện: Ở mô hình này, người khuyết tật bị xem là bất lực và cần được chăm sóc. Họ là người mà người khác nên làm giúp cho hoặc bảo vệ vì họ là nạn nhân của những bi kịch cá nhân hay những hoàn cảnh bất hạnh. Những người “có lòng tốt” thấy tội nghiệp họ, nghĩ rằng họ đang gặp khó khăn đang cần sự thương hại và lòng từ thiện mà không nhìn thấy giá trị của họ. Thái độ vừa bảo vệ vừa tỏ lòng thương hại như thế thực ra đang tước mất của người khuyết tật quyền có được cơ hội bình đẳng, cơ hội tiếp cận giáo dục có chất lượng, chăm sóc y tế, việc làm và những nhu cầu xã hội khác. Ngày nay, ta có thể bắt gặp mô hình này trong cách các gia đình giữ họ trong nhà hay chính phủ nuôi

Page 16: Bài soạn   lattest

họ trong những trung tâm riêng biệt chứ không bảo đảm cho họ có được nguồn hỗ trợ hoặc các thông tin cần thiết để họ có thể tự làm gì đó cho riêng mình.

Mô hình y tế: Trong mô hình này người khuyết tật được đồng hoá với sự khiếm khuyết và bị xem như “tật nguyền”, “không hoàn hảo” hay “không bình thường”. Họ được mô tả là không thể lấy quyết định được, là bệnh nhân cần điều trị, phục hồi. Họ bị cho là phụ thuộc, giới hạn. Vì thế, một phần nhỏ của xã hội (chủ yếu là các thành viên trong gia đình hay những chuyên viên y tế) tham gia vào việc quản lý, chăm sóc người khuyết tật. Người khuyết tật được đưa đến khu vực đặc biệt, xa cách xã hội “bình thường”. Người khuyết tật cũng không có cơ hội giải trí, không được kết hôn hay lập gia đình được. Trách nhiệm trở lại tình trạng bình thường thuộc về người khuyết tật và một phần hệ thống y tế. Nhiều người khuyết tật tiếp thu những cái nhìn tiêu cực đó và có những cảm giác tự ti, đánh giá thấp bản thân. Mặc dù mô hình y tế có thể cung cấp sự chăm sóc và hỗ trợ hết sức cần thiết nhưng chúng lại loại trừ người khuyết tật ra khỏi các hoạt động xã hội và không xem họ là những công dân hoàn toàn có khả năng tham gia xã hội.

Mô hình xã hội: Chính những nỗ lực của người khuyết tật và những hành động tập thể của họ đã tạo ra sự thay đổi sâu sắc trong quan niệm về khuyết tật. Thách thức mọi thành kiến và thái độ phân biệt đối xử, phong trào Khuyết tật xuất hiện từ những năm 1990 đã tạo được sự thay đổi lớn trong nhận thức và thực hành. Những tiến triển gần đây trong lĩnh vực khuyết tật, ví dụ như luật chống phân biệt đối xử và các chính sách về cơ hội bình đẳng, đã làm gia tăng nhận thức rằng người khuyết tật bị ngăn cản tham gia vào mọi lãnh vực cuộc sống một cách bất công và vô cớ. “Mô hình xã hội” đưa ra một cách hiểu mới, xem khuyết tật là vấn đề bị loại trừ và gạt ra bên lề xã hội. Mô hình này nhìn ra được vấn đề chính đó là chính thế giới này là “thế giới tật nguyền”, là một xã hội vô tâm và phân biệt đối xử do những người không khuyết tật điều khiển. Giải pháp cho vấn đề này là những giải pháp mang tính chính trị, xã hội, ví dụ như kiến trúc xây dựng thiết kế tốt hơn, tiếp cận giao thông, giáo dục hội nhập… “Sự tàn tật” chỉ có thể loại bỏ bằng vịêc tạo ra những thay đổi tích cực trong xã hội

Mô hình hỗ trợ dựa trên quyền của người khuyết tật: Mô hình tin rằng ai cũng có phẩm giá nên có quyền bình đẳng. Với cách hiểu này, mọi kiểu can thiệp theo lối từ thiện và các loại dịch vụ mang tính áp đặt đều không phù hợp. Người khuyết tật được xem là những người sở hữu quyền và quản lý sự phát triển của bản thân mình một cách trực tiếp hoặc thông qua người đại diện của họ. Cách tiếp cận này biến những nhu cầu của người khuyết tật thành quyền lợi mà họ có quyền đòi hỏi và tranh đấu để đạt được. Đồng thời, nó cũng đặt cho xã hội và các tổ chức trách nhiệm tìm ra những nguyên nhân sâu xa của sự phân biệt đối xử, các định kiến đã ngăn cản người khuyết tật tận hưởng trọn vẹn nhân quyền. Nó mời gọi những chiến lược tăng quyền lực cho người khuyết tật nhằm giúp họ có những chọn lựa riêng và tự điều khiển cuộc đời mình càng nhiều càng tốt.

Đối với hội viên Caritas, việc trợ giúp người khuyết tật và gia đình của họ không đơn thuần là một công việc bác ái, từ thiện nhưng còn là một trách nhiệm bảo vệ quyền lợi cho người khuyết tật để họ sống xứng đáng với nhân phẩm của mình

Page 17: Bài soạn   lattest

2. Kỹ năng giao tiếp với NKT và gia đình

Việc sử dụng từ ngữNgôn từ có thể làm cho sống hoặc làm cho chết. Những từ ngữ tích cực có sức vực

người khác lên

Nên Không nên

Người khuyết tật Người tàn tật

Người không khuyết tật Người bình thường

Khiếm thị/ khuyết tật nhìn Mù/đui/ chột

Khiếm thính /nghe kém/ khuyết tật nghe, nói

Câm điếc

Khuyết tật vận động Què / cụt/ thọt/ xi cà que

Người mắc chứng tê liệt Người bại liệt

Người khuyết tật trí tuệ/ chậm phát triển trí tuệ

Người kém phát triển

Người khuyết tật thần kinh, tâm thần  Người điên /khùng / mát/ té giếng

Người mắc bệnh phong Người cùi/hủi

Người có H Người Sida

Những nguyên tắc giao tiếp cơ bản

- Điều quan trọng bậc nhất là cư xử với người khuyết tật như họ là những con người

- Hãy nhìn con người hơn là nhìn vào tình trạng khuyết tật của họ- Không sử dụng khuyết tật để mô tả con người vì điều này làm cho NKT mất

lòng tin vào chính bản thân mình. - Tránh tò mò hỏi những câu hỏi về tình trạng khuyết tật của họ khi mới gặp gỡ- Biết rằng NKT có quyền như mọi người, vì vậy họ có quyền tham gia vào mọi

họat động xã hội - Tôn trọng, lịch sự, nhã nhặn với NKT- Lưu ý khỏang thời gian phụ trội ta có thể mất thêm khi giao tiếp với người

khuyết tật- Trước khi giúp NKT, nên hỏi họ “Tôi có thể giúp gì cho anh / chị?” Nếu họ

đồng ý thì hỏi tiếp “Tôi giúp anh / chị như thế nào?”- Nếu họ là người sống độc lập, họ sẽ vui vẻ cảm ơn và từ chối lời đề nghị giúp

đỡ. Đừng buồn mà hãy quan sát cách họ làm và hỏi họ làm thế nào để sống độc lập như vậy

Page 18: Bài soạn   lattest

- Tránh thương hại hay khinh miệt hay xem NKT là siêu phàm. Tránh đưa ra những giả định về năng lực của NKT. Chỉ có họ là người biết rõ họ có thể và không thể làm những gì

- Nếu cần phải phê bình thì phê bình cách thực hiện chứ không phê bình khuyết tật hay con người

- Thư giản. Ai cũng có khi phạm lỗi cả. Hãy xin lỗi nếu tạo ra sự bối rối. Hãy giữ óc khôi hài và sẵn lòng giao tiếp

Kỹ năng giao tiếp và hỗ trợ các dạng khuyết tật khác nhau

Giao tiếp và hỗ trợ người khiếm thị

Hiện nay, vẫn còn một số quan niệm sai lầm về người khiếm thị như sau:- Tất cả những người khiếm thị đều hoàn toàn không thấy- Người khiếm thị đương nhiên là có các giác quan còn lại như xúc giác, thính

giác, khướu giác và vị giác rất bén nhậy. Thực ra Khiếm thị có thể xuất hiện cùng với các bệnh như chậm phát triển tinh thần, rối loạn phổ tự kỷ, bại não, suy giảm thích giác, và động kinh

- Những người khiếm thị không thể làm việc và không tự lo liệu, không sống một mình được

- Người khiếm thị không thể đọc sách, xem TV, xem phim, sử dụng vi tính hoặc chơi thể thao

- Những người khiếm thị đều giỏi nhạc- Chỉ có người khiếm thị hoàn toàn mới sử dụng gậy để dò đường

Những điều nên nhớ khi giao tiếp với người khiếm thị - Nhiều người khiếm thị rất kỵ từ “mù, tàn tật”- Giới thiệu tên của mình và những người có mặt. Trong chỗ làm việc, nên giới

thiệu thêm chức vụ. Nhiều người khiếm thị không thích tiết mục "Đố Vui Không Có Thưởng”

- Gọi tên hoặc chạm nhẹ vào người khiếm thị khi cần nói điều gì. Nói chuyện trực tiếp với người khiếm thị, không cần qua người cùng đi

- Nói chuyện với khoảng cách âm lượng và tốc độ bình thường. Có thể sử dụng những từ như "thấy, xem..."

- Cung cấp thông tin về khung cảnh và diễn biến xung quanh. Hỏi xem có cần thêm thông tin gì nữa không

- Dùng những từ định vị cụ thể: bên trái, bên phải. Có thể định hướng theo phương vị mặt đồng hồ. Tránh dùng "bên này, bên kia, đằng đó, đây nè..."

- Không nên để khoảng lặng quá lâu- Tránh dùng những kiểu nói hoài nghi, coi thường, hạ thấp khả năng của người

khiếm thị- Nếu có việc phải ra đi trong lúc nói chuyện, nhớ báo cho người khiếm thị biết.

Không nên để người khiếm thị "nói chuyện với ma"

Page 19: Bài soạn   lattest

- Cứ thoải mái, nếu có sai sót thì xin lỗi. Đừng né tránh người khiếm thị vì sợ nói điều gì sai

Khi trợ giúp người khiếm thị: - Hỏi xem người ấy có cần sự trợ giúp không. Hãy hãy tôn trọng tính tự lập của

mỗi người, đừng giúp nếu họ từ chối- Nếu họ cần dẫn đường, đừng lôi kéo, đẩy hoặc dìu họ đi. Để họ chủ động nắm

cánh tay của mình và tự nhiên bước đi, họ sẽ theo sau- Khi di chuyển, khoảng cách phù hợp giữa ta và họ là cách nhau nửa bước chân - Báo cho họ biết trước khi có chướng ngại vật và dẫn họ tránh qua. Lời chỉ dẫn

phải rõ ràng, dứt khoát, và chính xác - Khi mời người khiếm thị ngồi, nhẹ nhàng đặt tay người ấy lên lưng và tay ghế

để họ xác định chỗ trước khi cho ngồi - Khi ngồi chung bàn với người khiếm thị, nên giới thiệu tên từng món ăn, hỏi

họ thích dùng gì, sau đó lần lượt gắp các món ấy cho vào chén của họ- Chớ di dời đồ đạc của người khiếm thị khi chưa được sự đồng ý của họ, nhất là

cây gậy

Giao tiếp và hỗ trợ người khiếm thính

"Người khiếm thính có thể làm được tất cả mọi việc như người nghe, trừ việc nghe"

(Hiệu trưởng trường Đại học Gallaudet)

Khi giao tiếp với người khiếm thính: - Hãy để người khiếm thính chỉ cho ta cách giao tiếp với họ (đọc hình môi hoặc

viết ra giấy…)- Không che miệng khi nói chuyện- Nó chậm rãi và rõ ràng, không hét to, giao tiếp bằng mắt, và sử dụng ngôn ngữ

cơ thể (cử chỉ điệu bộ) kèm theo- Ngồi gần khi nói chuyện. Khoảng cách xa thì âm thanh càng giảm, nên nếu ta

đứng xa vài mét thì người khiếm thính sẽ không nghe được. - Đừng lặp lại ngay điều mới vừa nói, hãy để cho người khiếm thính có thời gian

hiểu- Đừng cười cợt khi người khiếm thính không nghe. Hãy kiên nhẫn và cố gắng

chuyển giọng một cách nhẹ nhàng - Bảo đảm giữ được môi trường giao tiếp yên tĩnh - Dùng câu ngắn đơn giản- Tránh hút thuốc hay nhai kẹo cao su khi nói

Giao tiếp và hỗ trợ NKT vận động

Page 20: Bài soạn   lattest

Khi lên kế họach một cuộc họp hay một sự kiên, hãy nghĩ đến vấn đề tiếp cận của NKT, ví dụ đường dốc cho xe lăn, thang máy, nhà vệ sinh… Nếu không có được sự tiếp cận này, hãy nói cho NKT biết trước

Sử dụng giọng nói bình thường khi chào đón NKT. Đừng lên giọng, trừ khi được yêu cầu. Tránh xoa đầu, xoa vai hay bất kỳ hành vi kẻ cả nào hay hạ giá người khuyết tật

Nếu muốn bắt tay với người bị cụt tay hay mang tay giả, ta có thể hỏi ý kiến họ “Tôi có thể bắt tay anh/chị được không?”

Ngồi hoặc hơi cúi xuống một chút khi nói chuyện với người sử dụng xe lăn sao cho vừa với tầm mắt của họ

Hãy nhìn thẳng và nói chuyện trực tiếp với NKT, chứ không nói với người đi kèm họăc người thông dịch/ người chăm sóc. Cũng không nhìn vào xe lăn của họ. Không xem NKT là người bất lực

Hãy kiên nhẫn và trọn lòng quan tâm để ý đến NKT, đặc biệt là những người nói chậm hoặc phát âm khó. Đừng bao giờ làm bộ hiểu người ta nói gì nếu thực ra ta không hiểu. Hãy xin người đó lập lại hay đưa cho họ 1 cây viết và 1 tờ giấy

Tình nguyện giúp đỡ nếu NKT gặp khó khăn nhưng phải hỏi trước và cũng không được bực tức nếu người ta không để mình giúp. Nhiều người xem sự tự lập là điều hãnh diện và xem sự cố chấp của ta là coi khinh họ

Phải xin phép trước khi dời các dụng cụ hỗ trợ NKT như xe lăn, gậy, nạng. Cẩn thận không làm hư hỏng các dụng cụ hỗ trợ của NKT

Không dựa vào xe lăn hay các dụng cụ hỗ trợ. Hãy nhớ rằng xe lăn là khỏang không riêng tư của người sử dụng nó. Nó là công cụ di chuyển của người ấy như ta có xe máy làm phương tiện di chuyển vậy

Khi song hành, đi chậm ½ bước chân so với tốc độ đi của NKT Khi gọi điện thoai, chấp nhận để chuông reo lâu hơn 1 tí để NKT có thời gian

đến nhấc điện thoại lên Người sử dụng xe lăn biết rằng trẻ con thường tò mò. Nếu một đứa trẻ hỏi một

câu hỏi làm ta bối rối, đừng quở mắng hay đánh nó mà hãy để NKT xử lý tình huống này

3. Các hoạt động có thể hỗ trợ

Các hoạt động hỗ trợ gia đình NKT

Khuyến khích họ bộc lộ cảm xúc và đối phó với chúngNhững cảm xúc tiêu cực như cay đắng, tức giận là điều không thể tránh khỏi một khi họ nhận ra rằng những ước mơ hi vọng đặt vào đứa con của mình giờ đây đã thực sự thay đổi. Cha mẹ cần phương cách khám phá sự oán hận, cay đắng đó và đẩy lùi chúng để có thể nhìn đời cách tích cực hơn, sẵn sàng đón đầu những thách đố mới bằng tất cả năng lượng và sáng kiến của mìnhNhiều người, đặc biệt là những người cha có khuynh hướng đè nén cảm xúc vì họ cho rằng đối với nam giới, thể hiện cảm xúc là dấu hiệu của sự yếu đuối. Hội viên Caritas cần

Page 21: Bài soạn   lattest

nhìn nhận những cảm xúc nơi họ là hết sức bình thường và khuyến khích họ mạnh dạn bày tỏ cảm xúc, nói lên những đau khổ, mất mát, sợ hãi của mình. Hãy khẳng định với họ rằng sự bộc lộ này không làm mất đi sự mạnh mẽ của một người, trái lại nó thể hiện sự dũng cảm đối diện với khó khăn của người ấy. Đừng vội giải thích gì nhưng khuyến khích cha mẹ đặt câu hỏi

Hướng dẫn họ chia sẻ với bạn đời, gia đình và những người thân quenNhiều cha mẹ chôn chặt hoặc đè nén cảm xúc. Thậm chí họ xem khuyết tật là điều cấm kỵ. Họ không nói ra được với người bạn đời những suy nghĩ, những lo lắng, buồn khổ của mình về tình trạng khuyết tật của con. Rồi người này thường lo rằng mình không thể là nguồn nâng đỡ của người kia. Thực ra, càng chia sẻ với nhau trong những lúc khó khăn thì càng làm tăng lên sức mạnh của cả hai. Điều quan trọng là hội viên Caritas giúp đôi bên hiểu rằng người bố sẽ có những cảm xúc và phản ứng khác với người mẹ vì họ ở các vai trò khác nhau. Đồng thời, hội viên Caritas cũng chỉ cho họ phương thế tạo ra những tương quan gắn bó, thương yêu nâng đỡ giữa cha mẹ với nhau; khuyến khích họ dành thời gian cho nhau, ăn uống, làm việc chung, nói chuyện và lắng nghe nhau (có thể cố gắng tìm những chủ để khác không liên quan đến khuyết tật); động viên họ cùng chia sẻ trách nhiệm để qua đó nhận ra nhu cầu và bận tâm của nhau.Cha mẹ cũng cần tâm sự với những đứa con khác vì chúng cũng cần được biết và chúng cũng bị tác động ít nhiều. Nếu cha mẹ cảm thấy khó nói với con cái hoặc không thể chịu được những phản ứng có thể có của trẻ thì họ có thể nhờ người thân nào đó mà trẻ tin cậy trao đổi với chúng. Cha mẹ có thể dạy cho các con chấp nhận và nâng đỡ người anh/em khuyết tật, biết thông cảm nếu họ phải dành thời gian nhiều hơn cho đứa con khuyết tật, phụ giúp cha mẹ trong công việc. Thêm vào đó, cha mẹ có thể trải lòng với những người thân quen như bạn thân, cha mẹ ruột của mình… để họ cùng chia sẻ gánh nặng tinh thần với mình.

Giúp họ tìm sự trợ giúp từ những cha mẹ khác24 giờ sau khi biết tin con mình bị khuyết tật, một người mẹ nhận được một câu thật ý nghĩa từ một người cha có con chậm phát triển trí tuệ: “Có lẽ hôm nay chị không thể nhận ra điều này nhưng chắc chắn một ngày nào đó trong đời chị sẽ khám phá ra rằng có một đứa con khuyết tật là một ân phúc.” Câu này đã khiến người mẹ thắc mắc đồng thời thắp lên một tia hy vọng cho chị. Chị tin ở tương lai, tin vào các chương trình hỗ trợ, các tài nguyên sẵn có và sự tiến triển của trẻ. Vì thế, hội viên Caritas tìm cách kết nối cha mẹ trẻ khuyết tật với những cha mẹ mạnh mẽ khác để họ được cung cấp thêm thông tin, được học biết cách và được hỗ trợ chăm sóc trẻ, được nâng đỡ tinh thần chống lại cảm giác đơn độc, căng thẳng. Hãy xin phép họ cho tên, số điện thoại để cho những nhóm hỗ trợ sẵn có

Hướng họ đến những nguồn tài nguyên tích cực trong đờiMột khi cha mẹ cảm thấy đau khổ, họ cần được hướng ra bên ngoài, gặp gỡ những người bằng xương bằng thịt thay vì ngồi gặm nhấm nỗi đau của mình. Đau khổ sẽ vơi bớt khi chia sớt thay vì tự cô lập mình. Một trong những nguồn sức mạnh và khôn ngoan phụ huynh có thể cậy dựa là linh mục hoặc nhà tham vấn. Hãy hướng họ đến nguồn này để được nâng đỡ. Một câu nói của

Page 22: Bài soạn   lattest

những vị này có thể rất hiệu quả: “Mỗi sáng, ngay khi anh/ chị thức dậy, trước khi bắt đầu một ngày mới, hãy nhận ra tình trạng bất lực trước hoàn cảnh hiện tại của mình rồi trao cho Chúa và tin tưởng nơi Ngài.” Mặt khác, dù cha mẹ có yêu thương trẻ khuyết tật đến mức nào, dù trẻ hết sức cần đến họ, như mọi người khác, cha mẹ cũng cần nghỉ ngơi. Họ cần có thời gian cần thiết cho những hoạt động họ yêu thích. Điều này đem lại nhiều lợi ích cho sức khỏe tâm thần. Họ cũng cần thời gian bên nhau hay bên người thân mà không còn phải lo lắng trách nhiệm con cái. Thêm vào đó, những trẻ không khuyết tật trong gia đình cũng cần cha mẹ quan tâm cho chúng nữa. Hãy chuyển gửi họ đến các dịch vụ có sẵn trong cộng đồng như các trung tâm can thiệp sớm, các trường chuyên biệt hay hòa nhập, trung tâm phục hồi chức năng…Trẻ khuyết tật cần phát triển những tương quan xã hội để hình thành nhân cách và sống đúng phẩm giá của minh. Những tương quan xã hội này được lớn lên không chỉ trong môi trường gia đình nhưng còn nhờ những tương tác với người bên ngoài. Trẻ cần cơ hội để tham gia một cách toàn diện trong gia đình và trong đời sống cộng đồng. Đó là lý do tại sao cha mẹ cần tìm sự trợ giúp bên ngoài. Đó có thể là một trung tâm phục hồi chức năng, một trường học; hay thậm chí là một cá nhân tự nguyện. Cha mẹ có thể nói chuyện với cán bộ địa phương, ban hành giáo, trưởng hội hiền mẫu hoặc gia trưởng để biết được các nguồn lực bên trong và bên ngoài cộng đồng. Bạn bè, họ hàng, mạng lưới cha mẹ có con khuyết tật, các hội viên… đều có thể là nguồn trợ lực.

Dạy họ sống giây phút hiện tạiLo lắng về tương lai có thể khiến cho cha mẹ sợ hãi. Hãy dạy họ sống với thực tại của ngày hôm nay, loại bỏ đi những câu hỏi không có câu trả lời như “chuyện gì sẽ xảy ra nếu, tương lai sẽ ra sao…” Vì lo lắng về tương lai chỉ làm suy giảm nội lực mà phụ huynh đang có, hãy hướng họ tập trung vào giây phút hiện tại trong thời điểm này, chấp nhận thực tại cuộc sống và chấp nhận rằng có những thứ có thể thay đổi nhưng cũng có những điều không thể thay đổi được, giúp họ dồn năng lượng vào những gì họ có thể thay đổi được và đặc biệt là cố gắng duy trì những sinh hoạt thường nhật

Giúp họ học hiểu những thuật ngữ và tìm kiếm thông tinNếu hội viên Caritas có kiến thức thì có thể giải nghĩa cặn kẽ các thuật ngữ chuyên môn cho cha mẹ. Nếu không vững về những thuật ngữ này, hội viên Caritas có thể khuyến khích cha mẹ đừng ngần ngại hỏi những nhà chuyên môn, những cha mẹ khác hoặc tìm kiếm, chọn lọc sách báo và các phương tiện truyền thông để hiểu cho rõ. Nhờ đó, họ hiểu rõ con mình hơn.

Duy trì cái nhìn tích cực nơi họThái độ tích cực là một trong những công cụ giúp cha mẹ đương đầu với các vấn đề. Hội viên Caritas sẽ giúp cho cha mẹ nhận ra rằng luôn có mặt tích cực trong mọi khó khăn, rắc rối. Ví dụ một đứa trẻ bị Down là điều tiêu cực nhưng nó có sức khỏe tốt, không mắc chứng bệnh gì trong nhiều năm qua là điều rất tích cực. Việc duy trì cái nhìn tích cực nơi phụ huynh làm giảm đi những điều tiêu cực và làm cho cuộc sống dễ thở hơn.Dạy họ chăm sóc bản thân

Page 23: Bài soạn   lattest

Trong thời điểm gặp căng thẳng, nhiều người không quan tâm gì đến sức khỏe của mình và điều này góp phần tạo nên tình trạng kiệt sức nơi họ. Hội viên Caritas sẽ phải dạy họ tự chăm sóc – tránh thương hại và xem bản thân như nạn nhân, không bỏ bữa nhưng ăn uống, nghỉ ngơi đầy đủ, dành thời gian cho bản thân, học giảm stress, làm công việc mình ưa thích, tìm đến những người khác để được nâng đỡ tinh thần, được thấu cảm và tạo cơ hội cho họ chia sẻ sự thấu cảm với những người đồng cảnh ngộ. Hội viên Caritas có thể nói với họ rằng họ là linh hồn của gia đình. Chính họ chứ không phải ai khác sẽ phải đối phó với những vấn đề liên quan đến tình trạng khuyết tật của con mình – bác sĩ, các thành viên trong gia đình, sức khỏe và việc học tập của con họ, nấu nướng, chăm sóc cho con cái…, vì thế, họ cần phải tự chăm sóc cho bản thân để gia đình họ được khỏe mạnh

Cùng họ tìm ra phương cách đối phó với người khácCha mẹ có thể cảm thấy buồn tủi hoặc tức giận vì cách thức những người xung quanh phản ứng với họ hoặc con của họ. Những phản ứng không phù hợp đó chủ yếu là do người ta thiếu hiểu biết hoặc không biết dùng từ ngữ thế nào cho đúng mực. Hội viên Caritas sẽ ngồi xuống thảo luận với cha mẹ về những phản ứng, những cái nhìn chòng chọc, những câu hỏi chất vấn có thể xảy ra của những người xung quanh và cùng họ quyết định phương cách đương đầu với chúng

Nhắc nhở rằng trẻ khuyết tật này là con của họHội viên Caritas giúp cha mẹ nhìn nhận rằng trẻ khuyết tật trước hết là “một đứa trẻ” nên cần được đối xử như những đứa trẻ khác. Cần chỉ ra những yếu tố bình thường và tích cực của trẻ bên cạnh tình trạng khuyết tật. Luôn kêu tên trẻ chứ không nói “Đứa con khuyết tật của anh/chị”. Bên cạnh đó, hội viên Caritas cần khẳng định rằng trước hết và trên hết, đứa bé này là con của họ. Nó có thể phát triển khác với những đứa trẻ khác nhưng điều này không làm cho nó bớt đi phẩm giá hay phần người và cũng không suy giảm nhu cầu được cha mẹ nó yêu thương, nuôi nấng. Hãy thúc đẩy họ yêu thương và đón nhận trẻ như một người con thực sự bằng một tình yêu vô điều kiện. Khuyến khích cha mẹ tạo mối dây ràng buộc với con bằng những cử chỉ như bồng ẵm, vuốt ve, mỉm cười, nói chuyện với trẻ và tôn trọng trẻ với nhân phẩm trọn vẹnNhư những đứa con khác, trẻ khuyết tật cũng cần được biết thông tin về tình trạng khuyết tật, được hiểu lý do tại sao mình lại khác biệt so với người khác, tại sao lại cần những trang thiết bị đặc biệt. Cha mẹ cũng cần lựa dịp để trao đổi với trẻ về những vấn đề này và dạy cho trẻ những kỹ năng hữu ích như tự lên tiếng, xây dựng các mục tiêu cá nhân và đưa ra những quyết định cho cuộc sống của nó. Mặc dù trẻ khuyết tật không giống như những đứa trẻ khác nhưng chúng có quyền được hưởng cơ hội bình đẳng như mọi trẻ em – được nuôi dưỡng, đi học, vui chơi, tham gia xã hội, làm việc... để gia tăng mức độ trách nhiệm và mức độ độc lập. Trẻ khuyết tật có thể tự giúp bản thân hoặc những người khác bằng nhiều cách, bao gồm làm những công việc nhà. Cha mẹ cần được dạy:

- Trẻ khuyết tật là người có khả năng => dám trao việc việc cho chúng, mong đợi và khuyến khích chúng hoàn thành để gia tăng niềm tự hào và năng lực của chúng

Page 24: Bài soạn   lattest

- Không mong đợi hay động viên trẻ góp phần vào việc tự chăm sóc bản thân hoặc phụ những việc vặt là truyển đi một thông điệp rằng trẻ không có khả năng giúp gì cho ai mà thay vào đó là phụ thuộc vào người khác

- Để trẻ làm cho bản thân những gì nó có thể làm- Không nuông chìu và xem nó như trẻ sơ sinh kẻo chúng thao túng mọi người- Trẻ không thể bước đi nếu cha mẹ cứ mãi “bồng bế” nó - Dĩ nhiên, tình trạng và mức độ khuyết tật có thể ảnh hưởng đến năng lực tham gia

các công việc trong nhà của trẻ nhưng điều đó không có nghĩa là cha mẹ làm thay tất cả

- Cần có óc thực tế, không mong đợi quá mức, không giao những gì không thể làm. Nếu mong đợi quá sức, trẻ có nguy cơ từ chối làm. Nếu mong đợi quá thấp, sẽ không khuyến khích được trẻ làm hết sức. Cha mẹ chính là người biết được công việc gì là vừa sức trẻ

Các hoạt động hỗ trợ người khuyết tậtHội viên Caritas không phải là chuyên viên y tế, cũng không phải là giáo viên giáo

dục đặc biệt hay nhà trị liệu tâm lý. Vậy đâu là những công việc họ có thể làm?

Công tác giáo dục và dạy nghề: Hội viên Caritas có thể- Tìm hiểu những vấn đề học sinh KT có thể hoặc đang gặp phải để trở thành công

cụ chuẩn bị môi trường học đường đón tiếp và giúp trẻ KT thích nghi- Nâng cao nhận thức cho giáo viên, cho gia đình của trẻ khuyết tật, dân cư địa

phương nơi trẻ sinh sống về ích lợi của giáo dục hòa nhập - Đảm bảo việc xây dựng, thực hiện và theo dõi kế hoạch học tập của trẻ được thực

hiện bằng cách phối hợp chặt chẽ với cha mẹ, giáo viên và các chuyên gia liên quan

- Lôi kéo những học sinh không khuyết tật kết bạn và giúp đỡ trẻ khuyết tật- Vận động cho trẻ đến trường- Tư vấn cho trường tạo điều kiện thích hợp, tư vấn chính sách hỗ trợ trẻ khuyết tật- Đồng hành trẻ trong giai đoạn đầu giúp trẻ tìm ra biện pháp, cách thức vượt qua

khó khăn, khủng hoảng có thể gặp phải- Tìm kiếm học bổng- ……….

Công tác chăm sóc sức khoẻ và phục hồi chức năng thể chất: Hội viên Caritas có thể- Giáo dục phòng ngừa KT- Giúp cải thiện vệ sinh và dinh dưỡng- Nhắc nhở bà mẹ quan tâm đến việc Tiêm chủng và chăm sóc thai nhi - Phát hiện sớm, can thiệp sớm: nắm rõ tình trạng phát triển hiện tại của trẻ để sẵn

sàng cung cấp thông tin về nguồn lực và các dịch vụ sẵn có cho gia đình, cùng gia đình xây dựng và thực hiện kế hoạch can thiệp

- Giúp thích nghi sau khi xuất viện: tư vấn, giúp họ và gia đình xem xét bố trí lại nhà ở sao cho thuận tiện và an toàn; cho lời khuyên, thăm viếng, làm việc nhà, đi

Page 25: Bài soạn   lattest

mua sắm, chăm sóc NKT trong một thời gian để dạy họ cách thích nghi với cuộc sống mới

- Giảm giới hạn về chức năng: cung cấp các bài tập tăng khả năng hoặc các phương tiện giúp giảm giới hạn về chức năng cho NKT

- Tư vấn và giới thiệu trung tâm chăm sóc người khuyết tật: nếu người khuyết tật gặp khó khăn khi sống tại nhà và muốn vào trung tâm, hội viên Caritas sẽ giúp người khuyết tật xem xét lại quyết định của mình, xem xét tình trạng tài chính, tư vấn và tìm chỗ cho họ

- Dịch vụ hỗ trợ khẩn cấp: hỗ trợ di chuyển, nhân viên cấp cứu trong trường hợp khẩn cấp, chuyển gửi đến cơ quan thích hợp và sắp xếp để có hỗ trợ tài chánh cho những hạng mục đặc biệt

- ………………

Công tác phục hồi chức năng xã hội

Phục hồi nghề nghiệp:- Tư vấn: hướng dẫn NKT chọn nghề phù hơp, lập ra mục tiêu nghề nghiệp và vận

động tìm việc, can thiệp khủng hoảng nghề nghiệp- Huấn nghệ: mở những khoá dạy nghề hoặc nối kết các cơ sở dạy nghề giới thiệu

NKT đến học những nghề phù hợp với tình trạng sức khoẻ của họ.- Theo dõi, giám sát, đánh giá sau quá trình phục hồi: xem xét xem công việc có phù

hợp với thân chủ không, đảm bảo cho NKT được hưởng lương và những chế độ xứng hợp, giúp NKT cải thiện hoặc chuyển đổi chỗ làm hoặc công việc nếu cần

- Tập huấn những kỹ năng liên quan đến nghề nghiệp như viết hồ sơ xin việc, phỏng vấn, giao tiếp trong nơi làm việc, giữ việc, chi tiêu, quản lý thời gian….

- Hỗ trợ tự doanh, sản xuất: pháp lý, thủ tục, phương thức sản xuất

Giúp gia tăng tương quan xã hội: - Cung cấp các khoá đào tạo kĩ năng sống cho NKT - Tạo những cơ hội cho NKT đi ra ngoài giao lưu gặp gỡ và chuyện trò với người

khác, tham gia vào các hoạt động vui chơi giải trí, thể dục thể thao và các hoạt động khác để gia tăng tính tự lập

- Cung cấp các phương tiện di chuyển và các phương tiện tiện ích- Phát triển mạng lưới NKT

Công tác vận động và biện hộ- Tư vấn an sinh xã hội và hỗ trợ tiếp cận các dịch vụ của nhà nước- Hướng dẫn người khuyết tật tiếp cận với các cơ quan chức năng và các tổ chức xã

hội để được hưởng các chế độ phúc lợi xã hội dành cho mình - Hướng dẫn gia đình và người khuyết tật nắm được những thủ tục cần thiết, cũng

như những quyền cơ bản có liên quan - Chuyển gửi NKT đến các chuyên gia- Vận động và biện hộ nhân danh NKT

Page 26: Bài soạn   lattest

- Tiếp cận và nghiên cứu thực tế đời sống NKT để đề ra các giải pháp, kiến nghị xóa bỏ rào cản và thay đổi nhận thức, thái độ của xã hội đối với NKT, tạo điều kiện cho NKT hòa nhập cộng đồng

- Phổ biến pháp luật- Vận động NKT, gia đình và cộng đồng tham gia chương trình phục hồi chức năng

dựa vào cộng đồng - Làm việc với nhà nước và các ban ngành liên quan tạo ra những chính sách và luật

lệ bảo vệ quyền công dân, chống phân biệt đối xử, gia tăng sự hòa nhập xã hội cho NKT

- Nâng cao nhận thức của xã hội để có cái nhìn khác về NKT

4. Một số kỹ năng cơ bản để làm việc với NKT và gia đình

KY NĂNG QUAN SATKhái niệm

Trong giao tiếp “Hành động nói nhiều điều hơn ngôn từ”. 7% nội dung được thể hiện bằng lời, 93% nội dung được thể hiện bằng giao tiếp không lời (cử chỉ, chất giọng…). Như vậy quan sát là một kỹ năng rất cần thiết trong tham vấn.

Quan sát là quá trình tri giác (bằng nhiều giác quan) có chủ đích nhằm xác định các đặc điểm của thân chủ qua những biểu hiện của hành động, cử chỉ, lời nói, sự tương tác…

Nhạy bén trong quan sát là: Khám phá ra những hành vi không lời và sử dụng hữu hiệu những gì quan sát

được Không bỏ sót, không chỉ thấy những gì chúng ta muốn thấy (sẽ phán đoán sai ->

phạm sai lầm)Lợi ích của việc quan sát

Kỹ năng quan sát tốt rất hữu dụng cho việc lắng nghe tích cực. Việc quan sát thân chủ có thể đem lại vô sô các thông tin sâu săc hơn những gì ta

nghe được Quan sát giúp đo lường và nhận định tâm trạng và tình cảm của đối tượng Qua quan sát, ta có thể làm cho việc giao tiếp trở nên chính xác và hiệu quả

hơn. Một cái mỉm cười, thay đổi vị trí, nhìn lén….. đều có ý nghĩa. Từ những dấu hiệu này, ta có thể suy đoán và tạo ra một môi trường thân thiện hơn cho thân chủ bộc lộ bản thân

Quan sát cung có thể giúp ta điều chinh lời nói, những hư từ như “A, Uh”, ngôn ngữ hình thể và hành vi của mình

Nhờ quan sát những phản ứng của thân chủ, ta có thể điều chỉnh biểu lộ của khuôn mặt sao cho phù hợp với nội dung, cảm xúc và tông giọng của thân chủ.

Bên cạnh đó, ta cũng phải hết sức ý thức những hành vi không lời kỳ quặc hoặc không phù hợp với những gì tham vấn viên nghe được (Vd có người cười khi đang nói hoặc nghe một chuyện buồn)

Quan sát tôt cung có thể giúp tham vấn viên cảnh tinh thân chủ để họ thay đôi hành vi và thái độ sao cho phù hợp hơn

Page 27: Bài soạn   lattest

Những điểm cần quan sátTrong khi quan sát, ta để ý đến những đặc điểm sau:

Đặc điểm thể lý: cân năng, chiều cao Phong thái của đối tượng: cởi mở hay khép kín Dáng điệu - cách đứng, ngồi: cứng hay thoải mái Sắc mặt: bình thường hay đang biểu hiên một trạng thái cảm xúc đặc biệt như

buồn, sợ, vui, giận dữ, thất vong, bồn chồn… Anh mắt: nhìn thẳng, nhìn phía khác hay nhìn xuống, có vẻ lơ là, chú ý Cử chỉ của tay chân, đầu: ít cử động, hay cử động nhiều, nhanh hay chậm Vị trí của đối tượng: cao hơn, ngang tầm hay thấp hơn, khoảng cách xa, vừa

hay quá gần Phản ứng sinh lý tự động: thở gấp, thở dài, đỏ mặt, tái mặt, và sự giãn nở

đồng tử Diện mạo bên ngoài: cách ăn mặc, chải chuốt, trang sức

KY NĂNG LẮNG NGHE TÍCH CỰC

Giới thiệuRất hiếm người có thể thực sự tập trung vào người nói, dẹp qua một bên những

bận tâm của mình, chấp nhận rằng người nói có thể không thích thú gì kinh nghiệm của mình. Họ là những người lắng nghe thiên tài

Khác nhau giữa nghe và lắng nghe “Nghe” là tình huống âm thanh lọt vào lỗ tai và đem lại cho người nghe một ý

nghĩa nào đó. Nó là một hành động của trí óc, khi ta bỗng nhiên bị “làm phiền” bởi một tiếng động nào đó trong không gian.

“Lắng nghe” là chủ động tiếp nhận âm thanh và tìm hiểu ý nghĩa của nó. Lắng nghe có một ý nghĩa vô cùng quan trọng, nó làm nên ý nghĩa của mọi mối quan hệ trong cuộc sống.

Richard Nelson John (2005)1 cho rằng động từ “listen” – lắng nghe có thể được diễn giải bằng:

L: looking at – nhìn vào người nói (nhưng không nhìn chòng chọc)Learning – khám phá từ những gì quan sát được (ngôn ngữ cơ thể và vẻ bên ngoài)

I: Interested in – bày tỏ sự quan tâm đến người đang nóiInvolved – sẵn lòng để hết tâm trí vào những gì người kia đang nói

S: sensing, sensitive, supporting, safe – cảm nhận cảm xúc của người nói, nhạy bén, nâng đỡ và giữ bí mật an toàn

T: trusting – tin tưởng rằng người kia biết rõ những gì họ cần, và có khả năng tự quyết định, hy vọng rằng người đó sẽ tin tưởng tôi

E: Enabling, empowering, empathizing – làm cho người đó có thể trở nên chính bản thân, tăng năng lực và thấu cảm

1 Richard Nelson John. (2005). Practical Counseling and Helping Skills. London: Sage Publication

Page 28: Bài soạn   lattest

N: not – không giải quyết vấn đề dùm, không cho lời khuyên, không đáp ứng nhu cầu bản thân tôi nhưng lắng nghe nhu cầu của người kia

Các cấp độ của lắng ngheCấp độ 1: Lắng nghe ngôn từỞ cấp độ này, người nghe tập trung vào việc tiếp nhận ngôn từ được đối phương

phát ra. Tuy nhiên, tập trung hoàn toàn để lắng nghe trong vòng năm phút là điều không dễ. Những lời lẽ người nói nói ra gây ra một phản ứng nơi người nghe là điều không tránh khỏi. Những ý tưởng đó sẽ dội lại trong ta và tạo thành một chuỗi những suy nghĩ. Ta có thể không đồng ý và muốn đưa ra quan điểm. Bên cạnh đó, có những tiếng động xung quanh, thời tiết nóng bức, đói bụng hay khó chịu bực bội trong mình cũng cản trở việc tập trung lắng nghe ngôn từ

Cấp độ 2: Nghe và đón nhận toàn bộ thông điệp Có một rào cản cản trợ khả năng lắng nghe cốt yếu này, đó là “Biết rồi, khổ lắm,

nói mãi!” Ví dụ khi ta phải lắng nghe một câu chuyện được kể nhiều lần rồi hay nghe một đồng nghiệp nói về công việc mà ta biết rành, ta có khuynh hướng “đóng tai lại”, “cắt cái rụp” rồi chuyển sang một vấn đề khác. Cũng vậy, thân chủ cũng có thể kể lể dài dòng những vấn đề mà ta đã quen thuộc với những “loại” thân chủ đó. Do đó nhiều khi ta không đón nhận vì “Biết rồi, khổ lắm, nói mãi”

Để có thể nghe và đón nhận toàn bộ thông điệp, người lắng nghe cần phải: Ý thức rằng đối với người nói, kinh nghiệm của họ là độc nhất Đón nhận toàn bộ nội dung của thông điệp là biểu lộ sự không xét đoán Không thể cho rằng những gì không quan trọng đối với ta thì cũng không quan

trọng đối với người nói Cần lắng nghe mọi điều với lòng tôn trọngCấp độ 3: Không chi lắng nghe những gì được nói ra mà “nghe” cả cách thức

nóiMức độ này đòi hỏi nhiều năng lượng và nỗ lực. Nghe được cảm xúc, nội dung và

nhạy cảm với ý nghĩa được gọi là khả năng “lắng nghe bằng lỗ tai thứ ba”. Đây là kỹ năng bậc cao đáng được những tham vấn viên vận dụng vì nó cho thân chủ thấy rằng họ được lắng nghe và được thấu cảm.

Một số chướng ngại cản trở lắng nghe mức độ 3: Sự phân tâm/ chia trí: tiếng ồn, những chuyển động, mùi, chỗ ngồi không thoải

mái, các yếu tố bên ngoài có thể cản trở tập trung Nghe chập chờn: thông thường ta suy nghĩ nhanh gấp bốn lần nói. Kết quả là ta

có khuynh hướng sử dụng ¾ thời gian cho suy nghĩ hơn là tập trung lắng nghe “Ngoài tầm phủ sóng”: những thông điệp phức tạp làm cho ta khó hiểu và kết

quả là ta “bưng tai” lai. Sau cùng, có thể ta không nhớ người kia nói gì Bị sa lầy vào những sự kiện: trong khi cố gắng lắng nghe chính xác nội dung,

ta có thể để vô đầu một số sự kiện nào đó nhưng sau đó thì để người nói đi qua những sự kiện khác mất và mình thì không theo kịp

Sử dụng giấy viết: để bảo đảm mình nắm được các sự kiện, ta thử viết ra giấy. Tuy nhiên, thông thường, không thể nắm bắt được mọi sự bằng cách viết ra như thế này. Hơn nữa, viết lách lúc này có thể làm cản trở tương quan giữa ta

Page 29: Bài soạn   lattest

Nghe sao cho người ta nóiNói sao cho người ta nghe

với thân chủ và ta không thể tiếp xúc bằng mắt cũng như quan sát được những ngôn ngữ không lời

Khuynh hướng “Tôi biết rồi”: sau một vài câu chúng ta có thể biết câu chuyện sắp tới sẽ là gì (vì trước đó có thể ta đã nghe câu chuyện rồi). Vì thế ta không thèm nghe nữa bởi vì ta nghĩ mình sẽ chẳng học được điều gì mới hết

Mơ màng: khi mệt mỏi, mắt ta đờ đẫn, đầu óc ta chạy đâu mất dù vẻ bên ngoài có vẻ đang chú tâm lắng nghe. Người nói sẽ nhận ra điều này và không muốn bộc lộ nữa

Khác biệt quan điểm / Khuynh hướng “Anh/chị sai rồi”: người nói có thể phủ nhận quan điểm, nền tảng lý thuyết của ta. Trong trường hợp như thế, thay vì lắng nghe, ta có thể bắt đầu lập kế hoạch điều chỉnh họ hoặc tệ hại hơn nữa, ta bắt đầu xét đoán, lên án họ

Vấn đề >< con người: ta có thể quá tập trung vào các chi tiết của một vấn đề (để làm sao giải quyết nó) mà không lắng nghe con người đang nói và như vậy ta không nắm được những gì người ấy cảm nhận

Một số điều cần lưu ý để có thể lắng nghe chủ động và tích cựcĐể nghe đầy đủ và chính xác Nhìn vào người đang nói chuyện Giữ thinh lặng (bên trong và bên ngoài) trong khi đang nghe Loại bỏ những yếu tố làm mất tập trung: điện thoại, người cản trởĐể tạo điều kiện cho người đôi thoại cảm thấy thoải mái và muôn nói Chuẩn bị không gian mát mẻ, yên tĩnh, riêng tư; chỗ ngồi Chứng tỏ đang nghe bằng cách nhìn thẳng vào người đối thoại, nghiêng người

về phía trước gật đầu khi cần Đáp ứng với câu nói của người khác bằng tiếng đệm, bằng nét mặt và những

cử chỉ không lời khác Bày tỏ sự kiên nhẫn, không ngắt lời, đợi cho thân chủ nói hết ý rồi mới trả lờiĐể thể hiện sự đồng cảm với người nói Kìm chế những cảm giác tiêu cực như chán nghe, cho là không quan trọng để

nghe…. Không phán xét tức thời những gì người khác đang nói Đặt câu hỏi làm rõ hơn ý của người khácĐể tự lượng giá kỹ năng lăng nghe Tôi đã lắng nghe như thế nào? Trong lúc nghe, những gì đang xảy ra trong tôi (phán đoán, liên tưởng, tìm câu

trả lời…)? Tôi đã phân tâm lúc nào, đoạn nào trong khi nghe? Và tôi đã làm gì để giới hạn

sự phân tâm đó? Tôi có nắm được chủ đề, nội dung chính / trọng tâm của thông điệp? Tôi có phân biệt được hành vi hoặc tâm tình, suy nghĩ của thân chủ?

Page 30: Bài soạn   lattest

KY NĂNG PHẢN HỒI

Phản hồi không phải là lập lại như con vẹt. Phản hồi là cách tham vấn viên diễn đạt lại bằng từ ngữ của mình về những gì thân chủ đã nói, đã cảm nhận. Vai trò của phản hồi

Phản hồi có những ích lợi sau: Để thân chủ cảm thấy được lắng nghe và được hiểu, được khích lệ, được tôn

trọng; từ đó cởi mở, sẵn sàng chia sẻ hết để được giải tỏa Rút gọn và làm rõ nghĩa những điều thân chủ muốn nói, làm nổi bật ý chính để

cả hai bên cùng hiểu vấn đề rõ hơn Khiến cho tham vấn viên biết chắc chắn điều mình hiểu là chính xác hay

không. Nếu chưa chính xác, thân chủ có thể điều chỉnh lại Tạo cơ hội cho thân chủ chia sẻ chi tiết hơn và đúng hướng hơn điều họ muốn

nói (đi sâu vào câu chuyện theo hướng nhà tư vấn muốn tìm hiểu) Giúp thân chủ nghe lại và ý thức rõ hơn về những điều họ vừa nói, đồng thời sẽ

nảy sinh ý thức trách nhiệm với lời nói của mình Giúp đôi bên kiểm soát nhịp độ và thời gian của một buổi tham vấn: Giúp

những thân chủ nói quá nhiều đừng lặp lại những điều đã nói, nhờ đó đẩy nhanh cuộc đối thoại

Một số phương pháp phản hồiPhản hồi nội dungPhản hồi nội dung là trình bày lại những ý chính đã nghe bằng một vài từ ngắn

gọn theo cách hiểu của mình để thân chủ có cơ hội kiểm tra xem những thông điệp có được hiểu đúng không, có cần đính chính, bổ sung hoặc giải thích cho rõ hơn không.

Phản hồi nội dung tốt có thể giúp thân chủ cảm thấy rõ ràng hơn về những gì họ đang cố gắng bày tỏ. Nó cũng có thể giúp cho những người có suy nghĩ nhanh hay những suy nghĩ rối loạn chậm lại. Với tư cách là người nghe, nó giúp ta đồng hành với người nói.

Nói lại ý chính của một câu nói bằng từ ngữ riêng của mình không phải là chuyện dễ dàng. Nó đòi hỏi phải luyện tập nhiều.

Làm như thế nào? Lời dẫn + những từ trọng tâm mà thân chủ đã nói + nội dung chính mà thân chủ đã

nói (bằng từ ngữ của mình) + Kiểm tra xem mình hiểu có đúng khôngMột số lời dẫn có thể sử dụng: Dường như là… Có vẻ như em đang …. Hình như…. Như vậy, em muốn nói rằng….

Phản hồi cảm xúcPhản hồi cảm xúc là khả năng nhận và phát lại các nội dung cảm xúc thay vì nội

dung sự kiện. Phản hồi cảm xúc tốt là cơ sở tạo nên sự hiểu biết lẫn nhau từ đó dẫn tới sự hợp tác trong tiến trình tham vấn. Kỹ năng này liên quan chặt chẽ đến sự thấu cảm. Bằng

Page 31: Bài soạn   lattest

cách cho thân chủ biết rằng mình nghe cả những cảm xúc của thân chủ, tham vấn viên cho thấy rằng mình thật sự đang cố gắng hiểu những cảm xúc của người nói.

Để có thể phản hồi cảm xúc, tham vấn viên không chỉ nghe những cảm xúc được thân chủ nói ra mà còn phải

Quan sát những cử động nơi thân thể và khuôn mặt của thân chủ; cung giọng, âm sắc, tốc độ nói của người đó

Diễn dịch, gọi tên các loại cảm xúc, tình cảm mà thân chủ đã bộc lộ Dùng lời lẽ của mình nói lại với thân chủ những cảm xúc mà họ đã thể hiện

trong tham vấnMuốn phản hồi cảm xúc, ta không chỉ cần nghe mà còn cần phải nhớ và có một

vốn từ vựng phong phú để chúng ta có thể nói lại mà không làm thay đổi ý nghĩa câu nói của người kia

Một số từ ngữ có thể dùng để diễn tả các loại cảm xúc: Buồn (xuống tinh thần, thất vọng, đau lòng, tủi thân, nản lòng, chán nản…) Vui (hứng khởi, hân hoan, thích thú, hạnh phúc, vui thích, thoải mái …) Giận (bực mình, tức giận, giận dữ, hận, thù, giận ghét, bất bình…) Lo âu, sợ (lo lắng, hoảng hốt, sợ hãi, khiếp đảm, hoang mang, bất an…) Dằn vặt (giày vò, ám ảnh, mặc cảm tội lỗi…) Tổn thương và mất mát (đau, bị xúc phạm, thất bại, thua….)Làm như thế nào?Lời dẫn + những từ ngữ nói về cảm xúc của thân chủ + Kiểm tra sự chính xácVài lời dẫn gợi ý Trông anh/chị có vẻ như đang cảm thấy… Chắc lúc đó anh/chị cảm thấy… Cảm xúc của anh/chị lúc này là… Tôi cảm nhận anh/chị đang… Nét mặt/Cử chỉ/Anh mắt của anh/chị cho thấy hình như anh/chị đang…

Phản hồi nội dung và cảm xúcPhản hồi cả nội dung và cảm xúc rất hữu ích khi sử dụng song song với nhau vì nó

cho phép người nói biết rằng cả nội dung và cảm xúc của họ được người kia lắng nghe.

Phản hồi phản chiếuTham vấn viên giữ vai trò như một tấm gương “phản chiếu lại” những gì thân chủ

đã nói bằng cách nhắc lại nguyên văn lời của họ. Phương pháp này giúp cho thân chủ nhận thức lại vấn đề mình đang nói. Tuy nhiên, tham vấn viên không nên lạm dụng kiểu phản hồi này vì sẽ khiến cho thân chủ có cảm thấy khó chịu vì như bị nhại lại những gì mình đã nói Những điều nên và không nên làm khi phản hồi

Nên Thận trọng cân nhắc khi phản hồi để tránh phản hồi sai và phải rơi vào hoàn

cảnh lúng túng Ở vị trí trung lập: không chê bai, xét đoán, hoặc tâng bốc qua đáng

Page 32: Bài soạn   lattest

Phản hồi với thông tin cụ thể, ngắn gọn, rõ ràng và đúng lúc: Không làm cho thân chủ thêm rối vì những câu phản hồi dài dòng, tối nghĩa; không vội hoặc để quá lâu mới phản hồi mà biết lựa thời điểm phù hợp

Sử dụng các từ và cụm từ mang tính giả định: “phải chăng”, “dường như”, “có phải là” thay vì đưa ra những câu phản hồi mang tính xác quyết và chủ quan

Xem xét những phản ứng của thân chủ khi lắng nghe phản hồi để biết phải làm gì sau đó

Không nên Chỉ trích, đùa cợt cá nhân người nhận phản hồi hoặc nói cho bõ tức Cường điệu quá mức sự thật Lặp lại một cách máy móc như vẹt Phán xét, đánh giá Nêu quá nhiều ý kiến Moi lại những việc xảy ra đã quá lâu

KY NĂNG ĐẶT CÂU HỎITầm quan trọng của việc đặt câu hỏi

Kỹ năng đặt câu hỏi là một kỹ năng rất quan trọng trong tham vấn. Nó đem lại những lợi ích sau đây:

Giúp đôi bên có thể bắt đầu câu chuyện Giúp tham vấn viên thu thập thông tin liên quan đến: (a) cái nhìn tổng quát về

vấn đề, (b) những sự kiện then chốt của vấn đề, (c) cảm xúc của thân chủ truớc vần đề, (d) nguyên nhân dẫn đến vấn đề (e) những điểm mạnh/yếu của thân chủ

Khích lệ thân chủ nói hoặc làm thân chủ nói ít lại về những đề tài không nên triển khai

Giúp cho thân chủ cảm nhận được sự quan tâm của nhà tham vấn đối với vấn đề của mình từ đó họ có thể phòng vệ hay chia sẻ

Giúp nhà tham vấn hướng thân chủ về đề tài nhất định, tránh lạc đường Giúp đôi bên kiểm soát được diễn tiến của buổi tham vấn

Các dạng câu hỏi thường sử dụng trong tham vấnCâu hỏi đóng Với câu hỏi loại này, người được hỏi chỉ có thể trả lời có/không, rồi/chưa, đúng

/sai… Câu hỏi loại này cho ta rất ít thông tin. Vì vậy nó được gọi là câu hỏi đóng. Nhược điểm lớn nhất của câu hỏi đóng là nó có khuynh hướng kềm hãm cuộc đối thoại và đôi khi làm cho thân chủ thấy rằng tham vấn viên kiếm soát tình hình và vì thế họ có thể tỏ ra không bằng lòng hay bực bội

Tuy nhiên, ta có thể sử dụng câu hỏi đóng để: Khơi gợi sự kiện khi người nói có vẻ bối rối hay lúng túng hay ngần ngại chưa

dám nói. Vd: em có đi học không? Khép lại một đề tài không có tính xây dựng hoặc không có ích cho tiến trình tư

vấn

Page 33: Bài soạn   lattest

Cần: hạn chế dùng câu hỏi đóng vì nó cho chúng ta biết rất ít về người đang nói chuyện với tanên dùng nhiều câu hỏi mở vì khi dùng loại câu hỏi này, ta dễ dàng biết được người đang đối thoại có suy nghĩ gì và sẽ hành động như thế nào. Câu hỏi mở tạo điều kiện cho đối tượng chia sẻ thoải mái không nên dùng câu hỏi gợi ý vì nó dễ cho những câu trả lời không thật

Giúp xoáy vào trọng tâm và tập trung thu thập thông tin ở một vấn đề cụ thể nào đó. “Còn vấn đề gì khác nữa không ?”

Câu hỏi mởCâu hỏi loại này mở ngỏ cho nhiều câu trả lời và cung cấp nhiều thông tin hơn

Người được hỏi có thể nói nhiều hơn. Các câu hỏi có chữ: ai? Gì? Như thế nào? Bằng cách nào? Bao lâu? ở đâu? Khi nào? đều là những câu hỏi mở

Câu hỏi mở dùng để: Khơi gợi cảm xúc và cho phép người nói có cảm giác rằng mình kiểm soát tình

hình hơn Khích lệ chia sẻ tối đa, tự do và cởi mở hơnƯu điểm của câu hỏi mở là làm cho người nói tiếp tục nói. Nhưng nếu liên tục hỏi

hết câu này đến câu kia thì làm cho thân chủ có cảm tưởng như bị hỏi cung vậyCâu hỏi gợi ýĐây là loại câu hỏi người hỏi đưa ra gợi ý cho người được hỏi. Loại câu hỏi có gợi

ý có thể làm cho người trả lời không nói sự thậtVd: Cứ chần chừ mãi sẽ làm cho bệnh tình nặng thêm. Vậy chị thấy sao?

Câu hỏi phứcCâu hỏi phức thường có từ “hoặc/hay” (vd ông cảm thấy buồn hay ông đã cảm

thấy thanh thản?). Đặt câu hỏi phức có thể bị cho là thiếu tôn trọng thân chủ. Thân chủ có thể nghĩ “tham vấn viên đang nghĩ mình không có khả năng trả lời”.

Vì thế, cần suy nghĩ kỹ trước khi đặt câu hỏi phức. Tốt hơn hết là nên tránh vì chúng làm cho người nói rối mà không biết nên trả lời cái gì.

Câu hỏi “tại sao”Mặc dù “tại sao”được xem là câu hỏi mở, nhưng dùng câu hỏi “tại sao” thường

không đem lại nhiều hiệu quả. “Tại sao” này có thể dẫn đến những “tại sao” khác (giống trẻ con thường hay hỏi “tại sao”). Đôi khi thân chủ sẽ cảm thấy như mình bị “bắt bí” dù mình đâu biết lý do tại sao.

Vd: “Tại sao cha mẹ lại nghĩ rằng cháu điên khùng?”. Câu hỏi này không trả lời được vì chỉ có ba mẹ mới biết câu trả lời là gì!

Page 34: Bài soạn   lattest

Một số vấn đề có thể nảy sinh khi đặt câu hỏi Việc đặt câu hỏi có thể động viên người nói. Tuy nhiên, nếu sử dụng sơ ý thì nó có

thể đem lại hậu quả xấu. Đặt quá nhiều câu hỏi: có thể khiến thân chủ tự vệ Câu hỏi dưới dạng câu nói: áp đặt quan điểm lên thân chủ Câu hỏi không thích hợp với văn hóa: có thể tạo bực dọc nơi thân chủ Câu hỏi tại sao: thân chủ có thể cảm thấy bị vặn hỏi, tra hỏi và sẽ bất hợp tácVì thế, tham vấn viên hãy tạo thói quen kiểm tra trước khi hỏi bằng những câu hỏi

sau: Tại sao mình định hỏi câu này? Mình có thật sự cần biết không? Nó giúp gì cho người kia?

Page 35: Bài soạn   lattest

XÂY DỰNG KẾ HOẠCH HOẠT ĐỘNG CHO MẢNG KHUYẾT TẬT CỦA GIÁO XỨ

Lên kế hoạch là quá trình xem xét quỹ thời gian và dự định sẽ làm gì để đạt được những mục tiêu đã đề ra Ý nghĩa của kế hoạch hoạt động

- Tư duy có hệ thống - Phối hợp mọi nguồn lực của tổ chức hữu hiệu hơn- Tập trung vào các mục tiêu - Sẵn sàng ứng phó và đối phó với những thay đổi của môi trường bên ngoài- Kiểm tra và đánh giá

Yêu cầu của một kế hoạch hoạt động đơn giản- Xác định được các mục tiêu cụ thể, vừa sức- Xác định được các bước hoặc các công việc cần thực hiện để hoàn thành các

mục tiêu đề ra- Nêu rõ người phụ trách cho từng công việc- Quy định thời gian cho từng công việc - Đoán trước được kết quả đạt được- Chỉ ra được các bằng chứng cho thấy công việc đạt được kết quả

Thực hành lập kế hoạch hoạt động đơn giản

Những công việc liên quan đến lãnh vực Khuyết tật mà giáo xứ của chúng tôi đã làm trong năm qua:Công việc:…………………….………………………………….. cho ……. người

Những gì chúng tôi muốn làm trong năm nay:Công việc:…………………….………………………………….. cho ……. người

Mục tiêu cụ thể

Các bước thực hiện/ công việc cần làm

Người trách nhiệm

Thời gian thực hiện

Kết quả đầu ra

Chứng minh

Tuyển thêm hội viên Caritas lo về khuyết tật

- trình Cha và nhờ Ngài thông báo- tiếp nhận người đăng ký- Ra mắt nhóm lo về KT

- Ông Lâm

- Cô Hoài

9/2016

10/2016

Có được nhóm ít nhất 10 người lo mảng KT

- Danh sách nhóm viên

Page 36: Bài soạn   lattest

Khảo sát người khuyết tật trong giáo xứ

- tổ chức họp phân chia trách nhiệm, địa bàn & xác định các thông tin cần tìm hiểu- Đến thăm từng nhà người khuyết tật và thu thập thông tin

- Trưởng nhóm kêu gọi cuộc họp

- Tất cả nhóm viên

11/2016

11 – 12/2016

Số lượng và thông tin chi tiết về NKT trong giáo xứ

Hồ sơ những người khuyết tật trong giáo xứ

Hỗ trợ NKT và gia đình

- Thăm viếng hàng tháng- Tìm hiểu thông tin về chính sách của nhà nước liên quan đến KT- Tìm hiểu và vận động các nguồn hỗ trợ

- Tất cả các nhóm viên theo địa bàn- Cô….

- Anh…..