56
Lịch sử Nhà nước và Pháp luật A.Sự ra đời của Nhà nước và Pháp luật : 1. Nhu cầu trị thủy, làm thủy lợi và chống ngoại xâm là hai trong những nhân tố làm thúc đấy sự ra đời của nhà nước đầu tiên Nhận định: đúng Giải thích: Nước ta là nước nông nghiệp gốc, vị trí hết sức nhạy cảm, phía Bắc là Trung Quốc, phía Nam là Chiêm Thành. Những nền văn minh phương Đông như chúng ta biết, hình thành từ lưu vực những con sông lớn, và là nền văn minh nông nghiệp. Trong nền kinh tế nông nghiệp, thì yêu cầu trị thủy là một yêu cầu tối quan trọng. Thêm nữa, do phụ thuộc rất nhiều vào thiên nhiên nên các tộc người luôn có xu hướng tranh giành những vùng đất tốt, chiến tranh là điều thường xuyên và ko thể tránh khỏi đối với các nước phương Đông. Nhu cầu trị thủy và chống ngoại xâm đặt ra là vấn đề sống còn với sự tồn tại của các tập đoàn người ở phương Đông. Công cuộc trị thủy và chống ngoại xâm đòi hỏi phải có sức mạnh đoàn kết vô cùng lớn. Do vậy các tập đoàn người phải tập hợp lại với nhau mới có thể thực hiện được những công việc này. Khi tập hợp lại như vậy, vai trò của nguời thủ lĩnh, người đứng đầu là rất quan trọng. Người thủ lĩnh, người đứng đầu trở thành người có quyền lực tối cao, có thể áp đặt ý chí của mình lên mọi người. Cộng thêm với sức mạnh tư tưởng từ tôn giáo, vị trí của "vua" ngày càng được nâng cao. Như vậy, sự xuất hiện của "vua" chính là sự xuất hiện của NN, vì sau khi nắm quyền lãnh đạo, "vua" sẽ toàn quyền

dulieu.tailieuhoctap.vndulieu.tailieuhoctap.vn/books/luat/nha-nuoc-phap-luat/... · Web viewSo với các triều đại khác thì quan lại có thể được bổ nhiệm bằng

  • Upload
    others

  • View
    2

  • Download
    0

Embed Size (px)

Citation preview

Page 1: dulieu.tailieuhoctap.vndulieu.tailieuhoctap.vn/books/luat/nha-nuoc-phap-luat/... · Web viewSo với các triều đại khác thì quan lại có thể được bổ nhiệm bằng

Lịch sử Nhà nước và Pháp luật

A.Sự ra đời của Nhà nước và Pháp luật :

1. Nhu cầu trị thủy, làm thủy lợi và chống ngoại xâm là hai trong những nhân tố làm thúc đấy sự ra đời của nhà nước đầu tiên

Nhận định: đúng

Giải thích:

Nước ta là nước nông nghiệp gốc, vị trí hết sức nhạy cảm, phía Bắc là Trung Quốc, phía Nam là Chiêm Thành.

Những nền văn minh phương Đông như chúng ta biết, hình thành từ lưu vực những con sông lớn, và là nền văn minh nông nghiệp. Trong nền kinh tế nông nghiệp, thì yêu cầu trị thủy là một yêu cầu tối quan trọng. Thêm nữa, do phụ thuộc rất nhiều vào thiên nhiên nên các tộc người luôn có xu hướng tranh giành những vùng đất tốt, chiến tranh là điều thường xuyên và ko thể tránh khỏi đối với các nước phương Đông. Nhu cầu trị thủy và chống ngoại xâm đặt ra là vấn đề sống còn với sự tồn tại của các tập đoàn người ở phương Đông.

Công cuộc trị thủy và chống ngoại xâm đòi hỏi phải có sức mạnh đoàn kết vô cùng lớn. Do vậy các tập đoàn người phải tập hợp lại với nhau mới có thể thực hiện được những công việc này. Khi tập hợp lại như vậy, vai trò của nguời thủ lĩnh, người đứng đầu là rất quan trọng. Người thủ lĩnh, người đứng đầu trở thành người có quyền lực tối cao, có thể áp đặt ý chí của mình lên mọi người. Cộng thêm với sức mạnh tư tưởng từ tôn giáo, vị trí của "vua" ngày càng được nâng cao. Như vậy, sự xuất hiện của "vua" chính là sự xuất hiện của NN, vì sau khi nắm quyền lãnh đạo, "vua" sẽ toàn quyền tự mình đặt ra bộ máy giúp việc, bộ máy cai trị, từ đó hình thành nên bộ máy NN.

2. Công hữu về ruộng đất trong công xã nông thôn là nguyên nhân làm chậm sự xuất hiện của nhà nước

Nhận định: đúng

Giải thích: công hữu về ruộng đất, là tư liệu sản xuất quan trọng nhất, làm cho tư hữu về tư liệu sản xuất ít chặt chẽ, mẫu thuẫn ít xảy ra, do đó có xung đột nhưng không gay gắt, không triệt để nên làm cho tư hữu và sự hình thành giai cấp đối kháng chậm phát triển, đó là hai nhân tố quan trọng để làm xuất hiện nhà nước.

Page 2: dulieu.tailieuhoctap.vndulieu.tailieuhoctap.vn/books/luat/nha-nuoc-phap-luat/... · Web viewSo với các triều đại khác thì quan lại có thể được bổ nhiệm bằng

3. Nhu cầu trị thủy, làm thủy lợi và chống chiến tranh không phải là nhân tố đóng vai trò quyết định cho sự ra đời của nhà nước.

Nhận định: đúng

Giải thích: Bản thân hai tác nhân trên không sản sinh ra nhà nước mà nguyên nhân cơ bản dẫn đến sự ra đời của nhà nước vẫn thuộc về những nhân tố nội tại là sự phát triển kinh tế là xuất hiện chế độ tư hữu và sự hình thành các giai cấp đối kháng về mặt lợi ích.

Câu 4: Nêu và phân tích vai trò của các yếu tố dẫn đến sự hình thành NN đầu tiên trong lịch sử VN?

Câu 5:Bạn hãy cho biết quá trình hình thành nhà nước đầu tiên ở Việt Nam có gì khác biệt so với quá trình hình thành nhà nước đầu tiên ở phương Tây và các quốc gia phương Đông khác?

Câu 6: Phân tích những điểm đặc thù trong quá trình hình thành nhà nước của người Việt cổ?

B. Thời kỳ Bắc thuộc và nhà nước Ngô – Đinh – Tiền Lê :

Câu 1. Chính sách cai trị trong thời kỳ Bắc thuộc mang tính thâm hiểm

Nhận định: đúng.

Tăng cường chính sách cưỡng chế, đàn áp, bót lột và đồng hóa, ngu dân.

Áp dụng chính sách quan lại thâm hiểm: dùng người Việt trị người Việt

Câu 2. Chính quyền Ngô – Đinh – Tiền Lê mang tính chất quân quản

Nhận định: đúng

Giải thích:

Nhu cầu thiết yếu bảo vệ chính quyền và thống nhất các thế lực

Tổ chức bộ máy nhà nước thực chất là tổ chức quân sự

Page 3: dulieu.tailieuhoctap.vndulieu.tailieuhoctap.vn/books/luat/nha-nuoc-phap-luat/... · Web viewSo với các triều đại khác thì quan lại có thể được bổ nhiệm bằng

Hình thức nhà nước theo chính thể quân chủ tập quyền

Pháp luật mang tính thiết quân luật: đầy những cấm đoán và bắt buộc, pháp luật mang tính tàn khốc.

Câu 3:Thời Ngô - Đinh - Tiền Lê (938 - 1009) tổ chức và hoạt động của nhà nước mang tính chất quân sự.

- Do hoàn cảnh lịch sử đất nước lúc bấy giờ : trong nước thì loạn lạc tình trạng các cứ diễn ra khắp nơi, bên ngoài giặc ngoại xâm đang dòm  ngó nhà Hán và Chiêm Thành.

-Nhà nước thành lập trong điều kiện như vậy nên bắt buộc phải xây dựng một nhà nước mang nặng tính quân sự nhằm bảo vệ nhà nước non trẻ vừa thành lập.

-Nhà nước được thành lập bằng con đường bạo lực.

C. Phần nhà Lý Trần Hồ :

Định nghĩa tập quyền:

Tập quyền là quyền lực tập trung vào Hoàng Đế. Hoàng Đế giữ các quyền về lập pháp, hành pháp và tư pháp.

Tư pháp: quyền được xét xử, một khi Hoàng Đế xét xử thì bản án sẽ có giá trị chung thẩm

Hành pháp: Hoàng Đế không tự mình thực hiện quyền hành pháp mà thông qua việc thành lập các cơ quan giúp việc và bổ nhiện các quan lại. Trực tiếp quản lý các chính sách về ruộng đất và tô thuế. Là tổng tư lệnh tối cao của quân đội.

Lập pháp: Hoàng Đế đứng trên pháp luật, ban hành tuyệt đối các văn bản pháp luật.

 1. Thể chế quân chủ nhà Trần mang tính tập quyền cao hơn nhà Lý

Nhận định: đúng

Giải thích

Hoàn cảnh ra đời của Nhà Trần khác hẳn nhà Lý. Nhà Lý được sự ủng hộ của dân chúng còn Nhà Trần thực chất là sự chiếm đoạt bằng những cuộc hôn nhân chính trị.

Page 4: dulieu.tailieuhoctap.vndulieu.tailieuhoctap.vn/books/luat/nha-nuoc-phap-luat/... · Web viewSo với các triều đại khác thì quan lại có thể được bổ nhiệm bằng

Có thêm chức danh mới là Thái Thượng Hoàng, người có quyền lực cao hơn nhà vua.Tính chất quý tộc thân vương được tăng cường. Quan đại thần phải là người trong Hoàng tộc, còn nhà Lý thì các quan đại thần không nhất thiết phải có dòng máu Hoàng tộc.

Chính sách kết hôn nội tộc nhằm bảo đảm tính thuần nhất của dòng họ. Rất ưu đãi cho các vương hầu quý tộc: phong cấp đất đai và nắm giữ những chức quyền quan trong triều đình hay các vị trí trọng yếu của quốc gia.

Dùng chính sách hôn nhân để ràng buộc, lôi kéo các thổ quan vùng núi đứng về phía triều đình. Pháp luật của nhà Trần thì tàn khốc hơn nhà Lý nhằm bảo vệ vương quyền một cách tuyệt đối. Không có quan Tể tướng.

 2. Tổ chức chính quyền địa phương thời nhà Trần mang tính vùng miền

Nhận định: đúng

Giải thích:

Về tổ chức hành chính thì có sự phân biệt rõ ràng giữa miền xuôi và miền núi. Dười cấp Lộ ở miền xuôi là Phủ, miền núi là Châu. Bởi miền núi là những vùng biên giới nhạy cảm của Tổ quốc.

Có sự linh hoạt trong chính sách quan lại ở địa phương: chính sách thổ quan ở miền núi để khai thác tính cục bộ vở miền núi và chính sách lưu quan ở miền xuôi để hạn chế tính cục bộ ở miền xuôi.

 3.Bạn cho biết pháp luật thời Lý_Trần có những đặc điểm gì?

 4.So sánh tổ chức BMNN ở TW thời Lý (1010-1225) với nhà Trần (1226-1400). Qua đó lý giải tại sao thời Trần tồn tại chế độ chính trị "Lưỡng đầu" (Vua và Thái Thượng Hoàng)?

Page 5: dulieu.tailieuhoctap.vndulieu.tailieuhoctap.vn/books/luat/nha-nuoc-phap-luat/... · Web viewSo với các triều đại khác thì quan lại có thể được bổ nhiệm bằng

D. Thời kỳ nhà Lê :

I. Về nhà nước

1. Nho giáo ảnh hưởng như thế nào qua các triều đại:

Nhà Lý

Phật giáo là quốc giáo, ảnh hưởng rất sâu sắc đến bộ mặt đời sống xã hội. Nho giáo chính ảnh hưởng đến tổ chức bộ máy nhà nước.

Nhà Trần

Nho giáo lấn áp Phật giáo và trở thành hệ tư tưởng chính trị quan trọng trong việc tổ chức chính quyền.

Nhà Lê:

Nho giáo có mặt trên nhiều lĩnh vực đời sống xã hội

Nho giáo là hệ thống chính trị chính thống

Cơ sở lý luận để xây dựng bộ máy nhà nước

Chuyển hóa thành nội dung pháp luật: nho giáo trực tiếp hoặc gián tiếp đi vào pháp luật bằng những nội dung cụ thể.

Nho giáo trở thành chủ để để thi cử

Điều chỉnh các quan hệ xã hội.

2. Cuộc cải cách chính quyền của Lê Thánh Tông chủ yếu tập trung tăng cường quyền lực của nhà vua và khiến cho bộ máy nhà nước hoạt động hiệu quả hơn.

Nhận định: đúng

Giải thích:

Chính quyền trung ương là cơ quan đầu não của đất nước, có xây dựng một chính quyền trung ương vững mạnh, thể hiện quyền lực nằm trong tay nhà vua và triều đình trung

Page 6: dulieu.tailieuhoctap.vndulieu.tailieuhoctap.vn/books/luat/nha-nuoc-phap-luat/... · Web viewSo với các triều đại khác thì quan lại có thể được bổ nhiệm bằng

ương mới có thể thực hiện được các công việc của triều đình, của đất nước, tạo cơ sở để triển khai các công việc xuống các địa phương.

3. Nguyên nhân và nguyên tắc cải cách chính quyền trung ương và địa phương?

Nguyên nhân:

Bất ổn đã được loại bỏ, xây dựng chính quyền từ quân sự sang dân sự nhằm gắn liền lợi ích của nhà nước với lợi ích của nhân dân.

Khát vọng xây dựng nhà nước Đại Việt hùng cường

Lãnh thổ đã được mở rộng

Bộ máy nhà nước nặng tính quý tộc không còn phù hợp

Nguyên tắc cải cách

- Nguyên tắc tập quyền

- Nguyền tắc tản quyền

- Nguyên tắc pháp chế

4. Sự khác nhau của tổ chức chính quyền địa phương thời vua Lê Thánh Tông so với các triều đại trước đó.

Giai đoạn vua Lê Thánh Tông: 1460 – 1497. Trước khi lên ngôi, vua Lê Thánh Tông đã trải qua giai đoạn sống gần gũi với cuộc sống đời thường của dân chúng, ông đã hiểu được những điểm tốt, xấu cùng tồn tại trong xã hội. Khi lên ngôi, Lê Thánh Tông thấy được những bất cập của bộ máy cầm quyền, những năm đầu thời Lê sơ còn mang nặng “hơi hướng” của thể chế quân chủ quý tộc nhà Trần, việc trọng đãi các quý tộc hoàng tộc và các bậc “khai quốc công thần”. Thêm nữa, cương vực nước Đại Việt đã mở rộng, yêu cầu xây dựng một nước Đại Việt hùng cường; những bài học của các triều đại trước về tổ chức chính quyền địa phương sao cho phát huy hiệu quả nhất. Đo đó Lê Thánh Tông đã tiến hành cải cách hành chính từ trung ương đến địa phương, bên cạnh giữ lại những mặt tích cực của các triều đại trước đồng thời loại bỏ các điểm không tốt, chính từ những lý do đó mà tổ chức chính quyền địa phương thời vua Lê Thánh Tông có những điểm giống và khác các triều đại trước.

Page 7: dulieu.tailieuhoctap.vndulieu.tailieuhoctap.vn/books/luat/nha-nuoc-phap-luat/... · Web viewSo với các triều đại khác thì quan lại có thể được bổ nhiệm bằng

Giai đoạn vua Lê Thánh Tông có hai giai đoạn, thời kỳ 1460 – 1470 và thời kỳ 1471 đến 1497.

Về tổ chức các cấp chính quyền địa phương:

Chia nước thành 12 thừa tuyên đạo, đến năm 1471 thì thêm đạo thừa tuyên thứ 13.

Cả nước chia thành 3 cấp: cấp phủ, cấp huyện – châu, cấp xã.

So với tổ chức các cấp của các triều đại khác thì như sau:

Thời các vua Lê trước Lê Thánh Tông: Chính quyền địa phương gồm các cấp: Đạo, lộ (trấn, phủ), châu, huyện và xã.

Thời Hồ: cấp lộ, cấp phủ, cấp châu, cấp huyện và cấp xã

Thời Trần: cấp lộ, cấp phủ - châu, cấp xã

Thời Lý: cấp lộ - trại, cấp phủ châu, cấp hương – xã – sách

Thời tiền Lê: cấp đạo, cấp hành chính cơ sở giáp, cấp xã.

Sự phân chia các cấp trong chính quyền địa phương thời vua Lê Thánh Tông so với các triều vua Lê trước và triều đại Lý - Trần (ngoại trừ nhà Hồ) vẫn giữ tính vùng miền. Sự phân cấp này nhằm bảo đảm dễ quản lý và ngăn ngừa sự cát cứ. Sự phân chia chính quyền địa phương thời vua Lê Thánh Tông nhằm thu hẹp quyền hành của chính quyền địa phương và tăng sự lệ thuộc vào chính quyền trung ương.

Có sự phân công rõ rệt về chức năng nhiệm vụ trong từng cấp.

Đối với cơ quan ở cấp đạo thì Ty Tuyên chính sứ (đứng đầu là Tuyên chính sứ) được lập ra ở cấp đạo từ năm 1464 thay thế cho quan Hành khiển. Đứng đầu mỗi thừa tuyên đạo lúc đó gồm có hai cơ quan là Đô tổng binh sứ tuy phụ trách việc cai quản quân đội và Thừa chính sứ ty phụ trách việc hành chính và tu pháp. Sự kiện này đánh dấu chuyển hình thức cai quản địa phương bởi một cá nhân, hơn nữa chỉ thiên về quản lãnh quân sự sang hình thức cai quản bằng một cơ quan có một quan chức đứng đầu và có sự phân công chức trách giữa các bộ phận trong ty. Sự phân chia này nhằm xóa bỏ tình trạng lộng quyền dẫn đến xu hướng cát cứ ly tâm của quan lại địa phương đồng thời tạo ra sự thống nhất chỉ đạo từ trên xuoongsm gắn địa phương với trung ương để thống nhất các mặt hoạt động của đất nước. Từ năm 1467, Lê Thánh Tông không chỉ trao quyền cho một cơ quan phụ trách mà quyền hành được chia đều cho 3 cơ quan:

Thừa ty phụ trách các công việc thuộc lĩnh vực hành chính, tài chính, dân sự.

Page 8: dulieu.tailieuhoctap.vndulieu.tailieuhoctap.vn/books/luat/nha-nuoc-phap-luat/... · Web viewSo với các triều đại khác thì quan lại có thể được bổ nhiệm bằng

Đô ty phụ trách quân sự.

Hiến ty có chức năng giám sát mọi công việc trong đạo để tâu lên vua.

Thực hiện giám sát nhau

Năm 1471, vua Lê Thánh Tông cho đặt chứ Hiến sát sứ ở các đạo, sau đó lại đặt chức giám sát ngự sử ở 13 đạo để làm nhiệm vụ theo dõi, giúp đỡ các hiến ty, giám sát đàn hoặc các hành vi sai trái của quan lại các thừa tuyên, phủ, huyện.

Ở cấp phủ: cũng giống như cấp phủ thời các vua Lê trước, chức năng là truyền luyện từ trên xuống cho các huyện – châu, đốc thúc và kiểm tra việc thi hành, thu nộp các loại thuế, các lao dịch, binh dịch.

Ở cấp huyện – châu

Giống các triều vua Lê trước là ở miền núi gọi là châu, đông bằng gọi là huyện. Ở cấp này đặc biệt có một điểm giống các triều trước là có tính vùng miền. Đối với miền núi thì sử dụng các tộc trưởng, tù trưởng để giữ những chức vụ quan trọng nhằm tránh trình trạng chống đối triều đình hay có âm mưu phản loạn.

Một điểm rất khác so với các triều đại khác là tổ chức cấp xã cấp xã.

Chia tách xã theo những qui định có tính qui cũ, xã có 3 loại: xã nhỏ, xã vừa và xã lớn tùy vào số hộ trong xã. Qui định rõ chức vụ của những người đứng đầu xã tránh trình trạng lợi dụng quan hệ họ hàng thông gia để kéo bè kéo cánh. Việc bầu xã trưởng theo qui tắc dân chủ bầu trực tiếp. Vua Lê Thánh Tông đã can thiệp trực tiếp sâu rộng vào trong chính quyền cấp xã, đây là điểm rất khác so với các triều đại trước, nhằm hạn chế nạn cường hào cũng như tình trạng cát cứ ở địa phương.

Về việc bổ nhiệm quan lại

Cũng như các triều đại khác thì quan lại bằng chế độ tập ấm, theo đó con cháu của hoàn thân quốc thích quan lại cao cấp được phong tước vị phẩm hàm thậm chí đươc trao một số cong việc triều chính tuy nhiên thời vua Lê Thánh Tông, những quan lại được tuyển chọn bằng hình thức này được quy định rất chặt chẽ bằng cách quy định rõ trong một số điều ở chương vi chế Bộ luật Hồng Đức nhằm loại trừ những tiêu cực đối với hình thức tuyển dụng này. Một điểm khác với các triều đại khác là quan lại có thể được bổ nhiệm bằng con đường đề cử và việc này cũng được quy định một cách chặt chẽ. So với các triều đại khác thì quan lại có thể được bổ nhiệm bằng con đường thi cử tuy nhiên thời vua Lê Thánh Tông, việc này được rất chú trọng, bởi vì những hạnh hưởng sâu rộng của tư tưởng Nho giáo. Một điểm khác so với các triều đại khác là các quan lại phải trai qua giai

Page 9: dulieu.tailieuhoctap.vndulieu.tailieuhoctap.vn/books/luat/nha-nuoc-phap-luat/... · Web viewSo với các triều đại khác thì quan lại có thể được bổ nhiệm bằng

đoạn thử việc và sát hạch để kiểm tra năng lực. Áp dụng chính sách luân chuyển công tác và chế độ hồi ty để làm trong sạch đội ngũ quan lại chống trình trạng tham nhũng. Qua đó cho thấy các cách thức đào tạo, tuyển dụng và sát hạch quan lại dưới thời vua Lê Thánh Tông tạo ra một đội ngũ quan lại trên nền tảng lập trường của kẻ sĩ theo Nho học.

Như vậy với tổ chức chính quyền địa phương thời vua Lê Thánh Tông, cả nước chia thành 13 thừa tuyên đạo, có 52 phủ, 178 huyện, 50 châu, 20 hương, 36 phường. Nhà nước trực tiếp quản lý các địa phương thông qua hệ thống quan lại.

Tóm lại, tổ chức chính quyền địa phương thời vua Lê Thánh Tông là mô hình tiên tiến nhất của chế độ quan chủ phong kiến đương thời, thể hiện khá hoàn chỉnh tư tưởng chỉ đạo của Lê Thánh Tông: lớn nhỏ cùng ràng buộc nhau, nặng nhẹ cùng kiềm chế nhau, địa phương gắn với trung ương. Tổ chức chính quyền địa phương thời vua Lê Thánh Tông có trình độ chuyên môn hóa cao hơn hẳn so với các triều đại khác và các nước khác ở vùng Đông Nam Á.

5. Phân tích nguyên tắc hạn chế quyền lực và ngăn chặn tình trạng phân quyền cát cứ thể hiện trong tổ chức bộ máy hành chính địa phương sau cải cách của Lê Thánh Tông. Những ưu điểm và hạn chế có thể rút ra cho công tác quản lí hành chính địa phương hiện nay.

Xu hướng chung của các triều đại phong kiến Việt Nam là quân chủ trung ương tập quyền, thể hiện qua hình ảnh nước Việt Nam thống nhất không phân chia suốt gần chục thế kỷ độc lập. Để được như vậy, không phải chỉ nhờ nét văn hóa đặc thù nảy sinh trên điều kiện tự nhiên, kinh tế và lịch sử chống ngoại xâm của Việt Nam mà còn nhờ vào việc các triều đại phong kiến xưa đều có những nỗ lực lớn lao trong việc duy trì quyền lực tập trung. Trong các triều đại đó thì triều đại của Lê Thánh Tông là một trong những triều đại rực rỡ và thành công nhất về mọi phương diện, tất nhiên là cả về tổ chức hành chính địa phương để duy trì quyền lực tập trung.

Triều Lê sơ vốn hình thành sau cuộc chiến tranh giành độc lập, thế nên tổ chức hành chính nhà nước nặng về quân sự để phục vụ cho công tác quốc phòng và trị an, đặc biệt là trong các triều đại đầu tiên. Vì vậy, công tác tổ chức bộ máy hành chính ở địa phương được xây dựng theo hướng tập quyền, thể hiện qua việc hầu hết quyền hành tập trung vào tay một cơ quan đứng đầu bởi một cá nhân (như ở đạo là Hành khiển, ở phủ là tri phủ,…). Nhưng điều này nếu kéo dài thường dễ dẫn đến lạm quyền và tạo điều kiện cho các thế lực địa phương phát triển dẫn đến nguy cơ nội chiến hoặc ít ra là phản loạn. Điều này vẫn thường thấy xảy ra với các địa phận của dân tộc ít người do họ có quyền tự trị tương

Page 10: dulieu.tailieuhoctap.vndulieu.tailieuhoctap.vn/books/luat/nha-nuoc-phap-luat/... · Web viewSo với các triều đại khác thì quan lại có thể được bổ nhiệm bằng

đối lớn (như loạn Nùng Trí Cao thời nhà Lý). Vì vậy, sau khi lên nắm quyền, Lê Thánh Tông bắt đầu tiến hành cuộc cải cách quy mô lớn về tổ chức bộ máy nhà nước, cả trung ương lẫn địa phương, để tăng cường uy quyền của nhà vua và hạn chế quyền lực của địa phương cũng như ngăn chặn các thế lực cát cứ.

Đầu tiên là việc chia, tách, đổi lại các đơn vị hành chính. Biện pháp này không những có ý nghĩa lớn trong việc tổ chức lại công tác quản lí thành một hệ thống quy củ và thống nhất mà còn có tác dụng xóa bỏ, thay đổi địa giới và địa phận cũ của các thế lực quý tộc phong kiến. Kế đến ở mỗi cấp hành chính, Lê Thánh Tông thực hiện việc phân tán quyền lực ra cho các cơ quan và cá nhân khác nhau để tránh tập trung quyền lực quá lớn vào tay một người. Cụ thể như ở cấp đạo, Tam Ty được thành lập để thay nhiệm vụ của quan Hành Khiển (dân sự) và quan Tổng quản (quân sự). Theo đó Thừa ty quản lí hành chính, Đô ty quản lí quân sự và Hiến ty quản lí tư pháp. Các cơ quan đều có chức năng và quyền lực riêng, từ đó giám sát và chế ức quyền lực của nhau, tránh sự lạm quyền. Đây là một bước tiến đáng kể mà so sánh với điều kiện hiện tại, chúng ta có thể thấy rằng bộ máy hành chính địa phương nước CHXHCN Việt Nam đã thừa kế những thành tựu đó khá tốt với cơ quan lập pháp là Hội đồng nhân dân các cấp, cơ quan hành chính là Ủy ban nhân dân các cấp và cơ quan tư pháp là Tòa án nhân dân và Viện kiểm sát nhân dân các cấp.

Một biện pháp nữa được Lê Thánh Tông thực thi để tăng cường giám sát với cấp đạo là việc đặt ra các cơ quan giám sát của trung ương, cụ thể là các Ty ngự sử trực thuộc Ngự sử đài, có trách nhiệm đàn hặc và giám sát hoạt động của quan lại cũng như cơ quan nhà nước ở cấp đạo. Đây là một biện pháp tăng cường mạnh mẽ sự kiểm soát của trung ương với địa phương mà so sánh thực tế thì hiện nay chúng ta chưa có cơ quan nào thực sự có quyền hành như thế dù rằng Thanh tra nhà nước vẫn có nhiệm vụ và quyền hạn giám sát, thanh tra. Một ưu điểm nữa của Lê Thánh Tông là quy định quan lại chỉ được tại chức đến năm 65 tuổi, bãi bỏ luật cha truyền con nối cho các công thần. Theo tôi điều này cũng góp phần hạn chế quyền hành của các đại thần, tránh tình trạng cả nhà làm quan. Chế độ Lưu quan, tức là luân chuyển quan lại quanh các địa hạt, tránh trình trạng cát cứ.

Đặc biệt trong việc tăng cường quyền lực trung ương, hạn chế quyền lực địa phương, là việc Lê Thánh Tông trực tiếp can thiệp vào công tác quản lí ở làng xã, vốn được coi là “thành trì” vững chắc của chế độ công xã nông thôn. Đó là thông qua việc ban hành tiêu chuẩn cử xã trưởng cùng với quy định về hương ước, triều đình nhà Lê đã có thể khống chế tương đối đến tận cấp cơ sở, hạn chế đến mức thấp nhất sự thâu tóm quyền lực của địa phương vì ngay cả cơ sở là làng xã cũng bị triều đình trung ương giám sát và ức chế quyền tự trị thì không có lực lượng địa phương nào có thể ngoi lên được. Hiện nay thì khác hẳn, chúng ta đang có tư tưởng bỏ lỏng cấp cơ sở, tập trung vào các cấp trung gian như quận huyện mà không đầu tư đúng mức cho công tác quản lí và công tác cán bộ ở

Page 11: dulieu.tailieuhoctap.vndulieu.tailieuhoctap.vn/books/luat/nha-nuoc-phap-luat/... · Web viewSo với các triều đại khác thì quan lại có thể được bổ nhiệm bằng

cấp phường xã – cấp cơ sở. Đây có thể coi là một sự chậm tiến khi các triều đại phong kiến từng bước thâm nhập vào cơ sở thì chúng ta với điều kiện kinh tế hiện đại lại không tiếp tục phát huy.

Tuy nhiên, qua đó ta cũng đã có thể thấy được các biện pháp cải cách quyết đoán và từng bước Lê Thánh Tông thể hiện quyết tâm hạn chế tính địa phương hóa, cát cứ để tập trung quyền lực về trung ương, phù hợp với văn hóa đoàn kết và nhu cầu xây dựng bảo vệ tổ quốc Đại Việt xưa. Dù rằng còn có những hạn chế nhất định của thời đại, nhưng những cải cách trên đã cho thấy một tư duy “vượt trước” nền chính trị Việt Nam phong kiến cũng như thiên tài cá nhân của Lê Thánh Tông, và qua đó giúp chúng ta rút ra được những bài học lịch sử quý báu trong công cuộc tổ chức quản lí hành chính địa phương, nhất là trên con đường quá độ lên CNXH đầy gian nan.

            Tuy nhiên nếu áp dụng vào thời đại ngày nay, khi chính quyền là "do dân và vì dân" thì chủ nghĩa tập trung (tuyệt đối) sẽ có 1số nhược điểm sau:

- Thiếu tính đại diện. Chính phủ dân chủ phải là đại diện của nhân dân. Do đó nếu chính quyền tập trung hết vào chính phủ trung ương thì làm sao người dân có thể có được đại diện của mình được? Dân có thể bầu ra 1 người, 2 người đại diện cho mình ở thủ đô. Nhưng làm sao có thể kiểm soát chắc chắn hoạt động của những người này khi họ ở xa mình có khi là cả nghìn cây số? Quyền lực sẽ thu về tay 1 số tầng lớp cao cấp.

- Không thể đáp ứng tốt nguyện vọng của nhân dân, bởi chính quyền địa phương mới là người hiểu rõ nhu cầu của nhân dân chứ không phải chính quyền trung ương. Không thể trông đợi 1 quan chức ở Hà Nội hiểu rõ sự phát triển, yêu cầu, đòi hỏi của người dân tỉnh Bình Dương, cũng như không thể trông đợi 1 cán bộ ở quận 1 TpHCM hiểu rõ nhu cầu của huyện Cần Giờ v.v... Chỉ có những người trực tiếp sống và làm việc ngay tại địa phương mới có những hiểu biết tường tận nhất của nhân dân. Nói cách khác, chính quyền địa phương gần gũi với người dân hơn chính quyền trung ương.

Do đó tóm lại 1 chính quyền quá tập trung sẽ dẫn tới mất dân chủ. Tuy nhiên rõ ràng khái niệm dân chủ không tồn tại đối với 1 nhà nước phong kiến. Do đó chính sách của Lê sơ như vậy có thể nói là tương đối tốt. Khi áp dụng vào thời đại ngày nay, thời đại của tự do dân chủ, thì cần phải cẩn thận.

6.Chứng minh tính tản quyền trong cải cách của Lê Thánh Tông

Page 12: dulieu.tailieuhoctap.vndulieu.tailieuhoctap.vn/books/luat/nha-nuoc-phap-luat/... · Web viewSo với các triều đại khác thì quan lại có thể được bổ nhiệm bằng

Khái niệm: Tản quyền có nghĩa là một công việc không tập trung vào một cơ quan, một chức quan mà sẻ chia cho nhiều cơ quan, nhiều chức quan cùng đảm trách. Mỗi cơ quan, mỗi chức quan là đảm nhiệm một nhiệm vụ, một lĩnh vực nhất định và hoạt động độc lập.

Mục đích: tránh tập trung quyền hạn vào một cơ quan, một chức quan, tránh trình trạng ôm đồm bao biện, tránh trình trạng lạm quyền đe dọa tới sự ổn định nhà nước.

Yêu cầu: giới hạn quyền hạn, chức năng nhiệm vụ, đề cao vai trò trách nhiệm của từng cá nhân.

Tính tản quyền thể hiện trước hết ở các cơ quan trung ương.

Tính tản quyền thể hiện rõ nhất ở việc xóa bỏ các cơ quan trung gian và thành lập ra các cơ quan mới:6 bộ, 6 tự, 6 khoa, đảm trách những công việc cụ thể, thể hiện tính chuyên môn hóa, trong đó vai trò giải quyết các công việc hành chính của triều đình được chủ yếu giao cho 6 bộ.

Tách 6 bộ (Lại, Hộ, Lễ, Binh, Hình, Công) ra khỏi Thượng thư sảnh để lập 6 cơ quan riêng cai quản các mặt hoạt động của nhà nước. Mỗi bộ có một Thượng thư phụ trách, chịu trách nhiệm trước Nhà Vua.

Những công việc lặt vặt chuyên trách trong bộ thì giao cho các Thanh lại ty, có quan Lang trung trông coi và quan viên Ngoại lang giúp việc.

Ví dụ: Để công việc bộ Lại được điều hòa nhanh chóng và phân minh, những công việc ó tính cách chuyên môn như thuyên chuyển tuyển bổ và khảo sát quan lại được trao cho một cơ quan đặc trách là Thuyên khảo Thanh lại ty.

Còn những công việc thường nhật của bộ thì giao cho Tư vụ sảnh, có quan tư vụ đứng đầu.

Ví dụ: Nhiệm vụ của bộ Hộ: coi sóc ruộng đất, tài chính, nhân khẩu, tô thuế, kho tàng, thóc tiền và lương của quan quân.

Riêng bộ Hộ và bộ Hình còn thêm Chiếu ma sở có quan Chiếu ma phụ trách việc ghi chép văn thư vào sổ.

Tuy nhiên, công việc của 6 bộ rất nhiều, có nhiều công việc không thể đảm trách hết được, do đó vua Lê Thánh Tông lập ra 6 tự phụ trách công việc phụ của 6 bộ. Điều đáng lưu ý là 6 tự (Đại lý tự, Thái thường tự, Quang lộc tự, Thái bộc tự, Hồng lô tự, Thường bảo tự) là cơ quan độc lập với 6 bộ và chịu sự chỉ đạo trực tiếp của nhà vua.

Page 13: dulieu.tailieuhoctap.vndulieu.tailieuhoctap.vn/books/luat/nha-nuoc-phap-luat/... · Web viewSo với các triều đại khác thì quan lại có thể được bổ nhiệm bằng

Phụ trách ở mỗi tự có chức quan Tự khanh trật Chánh ngũ phẩm và phụ giúp là quan Thiếu khanh Chánh lục phẩm.

Để bảo đảm 6 bộ hoạt động có hiệu quả, các quan lại có trách nhiệm hơn thì vua Lê Thánh Tông thành lập ra 6 khoa (Lại khoa, Hộ khoa, Lễ khoa, Binh khoa, Hình khoa, Công khoa) có chức năng giám sát tương ứng với 6 bộ. Quan phụ trách cao nhất của mỗi khoa là quan Đô cấp sự trung với trật Chánh nhất phẩm, dưới là quan Chấp sự trung trật Chánh bát phẩm. Lục khoa không phải là cơ quan cấp dưới của Lục bộ mà là cơ quan giám sát Lục bộ và báo cáo trực tiếp lên Vua, cho nên mặc dù quan phụ trách ở khoa tuy phẩm trật không lớn nhưng rất có thực quyền.

Ngoài ra, các cơ quan chuyên môn khác được cải cách phù hợp với chức năng nhiệm vụ tương ứng với một đối tương, và đảm trách từng công việc cụ thể hơn.

Từ sự cách cải theo nguyên tắc tản quyền như đã nêu trên ta thấy có nhiều cơ quan mới được thành lập nhưng bộ máy nhà nước trung ương trở nên tinh gọn hơn, hoạt động hiệu quả hơn; nhiều chức quan mới xuất hiện tuy phẩm trật khác nhau nhưng thực quyền như nhau và có trách nhiệm hơn.

Thứ hai là tính tản quyền trong cái cách chính quyền ở địa phương.

Tính tản quyền thể hiện ở việc thành lập 13 đạo để thu hẹp bớt quyền hành của chính quyền địa phương và xóa bỏ một số đơn vị trung gian.

Chính trong việc tổ chức mỗi đạo cũng thể hiện tính tản quyền rõ nét.

Lê Thánh Tông đã cho cải tổ việc quản lý địa phương bằng cách trao quyền phụ trách ở một đạo cho 3 cơ quan:

Thừa ty: phụ trách các công việc thuộc lĩnh vực hành chính, tài chính, dân sự.

Đô ty: phụ trách quân sự.

Hiến ty có chức năng giám sát các công việc trong đạo để tâu lên vua.

Chức quan đứng đầu mỗi cơ quan đảm trách công việc phù hợp với chức năng và trình độ của mình. Ví dụ: Tổng binh xuất thân từ hàng võ, không hiểu chữ nghĩa mà kiêm giữ hai chức sẽ trở ngại cho việc quân ngũ và việc chính trị, vậy

Tông binh chỉ nên chuyên về việc binh.

Để bảo đảm trách nhiệm của từn cá nhân, thì công tác thanh tra giám sát ở các địa phương cũng được chú trong. Vua Lê Thánh Tông cho đặt Giám sát ngự sử ở 13 Đạo làm

Page 14: dulieu.tailieuhoctap.vndulieu.tailieuhoctap.vn/books/luat/nha-nuoc-phap-luat/... · Web viewSo với các triều đại khác thì quan lại có thể được bổ nhiệm bằng

nhiệm vụ theo dõi, giúp đỡ các Hiến ty, giám sát đàn hoặc các hành vi sai trái của quan lại các thừa tuyên, phủ, huyện. Đồng thời Lê Thánh tông cũng quy định rõ chức trách của các quan Giám sát ngự sử.

Ngoài ra, tính tản quyền còn thể hiện rất rõ ở cấp xã.

Chia tách và quy định rõ rõ từng loại xã và người đứng đầu của từng xã.

Bỏ chế độ xã quan và đổi thành xã trưởng. Phân địn rõ số lượng xã trưởng cho từng loại xa: đại xã thì dùng 5 người, trung xã thì dùng 4 người, xã nhỏ thì 2 người và nhỏ dưới 60 hộ thì một người. Quy định rõ về người làm xã trưởng: không cho phép những người là anh em ruột, anh em con chú, bác, cô, cậu, dì già cùng làm xã trưởng. Trông bộ máy chính quyền xã gồm các chức: xã trưởng, xã sử, xã tư. Mỗi chức vụ có một nhiệm vụ triêng biệt. Mỗi xã có thêm nhiều thông nên có thêm chức trưởng thôn để cùng xã trưởng giải quyết công việc.

Nguyên tắc tản quyền ở địa phương mục đích tránh trình trạng cát cứ địa phương ảnh hưởng đến chính quyền trung ương.

7.So sánh bộ máy nhà Lê qua 2 giai đọan : (1428-1460) và giai đọan (1460-1527). Làm rõ bước phát triển về tổ chức nhà nước thời kỳ từ năm 1460-1497.

II. Về pháp luật

1.Hãy làm sáng tỏ nhận định sau: Pháp luật thời Lê thế kỉ XV đã thể hiện tính dân tộc sâu sắc?

Trả lời

-Pháp luật hình thành bằng con đường thừa nhận, ban hành những quy định mới trong đó các giá trị truyền thống văn hóa, phong tục tập quán tích cực trong đời sống tinh thần của dân tộc được nhà làm luật thời Lê thừa nhận có chọn lọc, coi trọng chữ hiếu trong mối quan hệ con cái cha mẹ, chữ hòa trong quan hệ anh em.

- Pháp luật hình sự nghiêm trị đồng bóng, bói toán có tính mê hoặc, trong hôn nhân nghiêm cấm tảo hôn hay kết hôn giữa những người có cùng huyết thống.

- Tình làng nghĩa xóm, tinh thần tương thân tương ái, các tập quán trong quan hệ sản xuất, đời sống kinh tế được thừa nhận trong pháp luật. Đây là nét khác biệt so với pháp

Page 15: dulieu.tailieuhoctap.vndulieu.tailieuhoctap.vn/books/luat/nha-nuoc-phap-luat/... · Web viewSo với các triều đại khác thì quan lại có thể được bổ nhiệm bằng

luật phong kiến trung quốc , nó phản ánh rất rõ tinh thần dân tộc của nhà làm luật nhất là pháp luật dân sự thừa nhận rất nhiều tập quán canh nông, thừa nhận loại ruộng đất làng xã…

2. Chứng minh nhận định sau: “Pháp luật phong kiến rất coi trọng mục đích trừng trị của hình phạt, bởi khả năng tự vệ của xã hội phong kiến trước các hành vi xâm hại đến điều kiện tồn tại của xã hội còn yếu.”

3.Chứng minh pháp luật hình sự nhà Lê mang tính giai cấp?

4.Các đăc trưng của pháp luật hôn nhân và gia đình?

4.1. Pháp luật hôn nhân và gia đình chịu sự ảnh hưởng của Nho giáo

Hôn nhân phụ hệ, gia trưởng, đa thuê. Được cụ thể hóa bằng các chuẩn mực của nho giáo sau:

a. Quan hệ cha – con:

Con cái phải hiếu thảo với cha mẹ.

Cha mẹ có nghĩa vụ cấp dưỡng và nuôi dạy con cái: xuất phát từ quyền làm chủ gia đình của người tô trưởng, cha mẹ có quyền dạy dỗ, chăm lo đời sống vật chất cho con cái khi còn sống chung với cha mẹ.

Điều 547: các con còn ở nhà với cha mẹ, mà đi ăn trộm, thì cha bị xử tội biếm; ăn cướp thì cha bị xử tội đồ; nặng thì xử tăng thêm tội; và đều phải bồi thường thay con những tan vật ăn trộm ăn cướp. Nếu con đã ở riêng thì cha bị xử tội phạt hay biếm; cha đã báo quan thì không phải tội; nhưng báo rồi mà còn để con ở nhà thì cũng xử như chưa báo.

Con cái phải phụ tùng mệnh lệnh của cha mẹ: với tư cách là người gia trưởng nên cha mẹ có quyền quyết định những vấn đề quan trong trong gia đình mà không phụ thuộc vào ý chí của con cái.

Điều 2: Khoản 7: bất hiếu, là tố cáo, rủa mắng ông bà, cha mẹ, trái lời cha mẹ dạy bảo; nuôi nấng thiếu thốn, có tang cha mẹ mà lấy vợ lấy chồng, vui chơi ăn mặc như thường; nghe thấy tang ông bà cha mẹ mà giấu, không cử ai; nối dối là ông bà cha mẹ chết.

Page 16: dulieu.tailieuhoctap.vndulieu.tailieuhoctap.vn/books/luat/nha-nuoc-phap-luat/... · Web viewSo với các triều đại khác thì quan lại có thể được bổ nhiệm bằng

Điều 475: lăng mạ ông bà cha mẹ thì xử tội lưu châu ngoài; đánh thì xử lưu đi châu xa; đánh bị thương thì xử tội giảo; vì lầm lỡ mà làm chết, tì xử tội lưu châu ngoài; bị thương thì xử tội đồ làm chủng điền binh. Đánh ông bà ngoại thì giảm tội một bậc.

Pháp luật hôn nhân và gia đình đưa ra những những điều kiện chuẩn mực mà mỗi người trong gia đình ở mỗi vị trí khác nhau cần phải có trong quan hệ gia đình. Khi con cái có hành vi phá vỡ trật tự đó xâm phạm các điều kiện tồn tại của gia đình theo trật tự lễ giáo phong kiến thì pháp luật cho phép cha mẹ có quyền loại bỏ người con đó ra khỏi gia đình.

Điều 354: người nào tranh giành ruộng đất thì phải biếm hai tư. Nếu đã có chúc thư mà còn cố tranh giành thì cũng xử biếm như thế và phải tước mất cả phần của mình nữa. Nếu cha mẹ không nhận làm con, trong chúc thư không có tên mà vẫn cố tranh thì phải biếm ba tư, đòi lại số ruộng đất tranh cho người chủ. Nếu người trưởng họ đảm bảo sai thì phải biếm một tư.

Con cái phải có nghĩa vụ phụng dưỡng cha mẹ khi cha mẹ tuổi cao sức yếu và đó là dịp để con cái báo hiếu cha mẹ. Hành vị phạm nghĩa vụ này sẽ cấu thành tội bất hiếu trong nhóm thập ác tội.

Điều 506: con cháu trái lời dạy bảo, và không phụng dưỡng bề trên mà bị ông bà cha mẹ trình lên quan thì xử tội đồ làm khao đinh; con nuôi, con kế tự mà thất hiếu với cha nuôi, cha kếm thì xử giảm tội trên một bật và mất những tài sản đã được chia.

Nghĩa vụ tang chế, thờ phục cha mẹ khi cha mẹ mất.

Điều 130: có tang ông bà cha mẹ và chồng mà giấu không khóc thì phải tội đồ làm khao đinh, đàn bà đồ làm tang thất phụ. Trong khi tang mà bỏ đồ tang mặc đồ thường và vui chơi đàn hát thì biếm hai tư. Gặp đàn hát mà nghe ay là dự những tiệc vui mừng đều xử phạt 80 trượng.

Điều 543: cha mẹ chết mà nói dối là còn tang người khác, không để đại tang thì xử tội đồ làm khao đinh. Nói dối là ông bà cha mẹ hay chồng chết để đi xin tiền, vay tiền, hay có ý để tránh việc gì, thì phải biếm ba tư. Nói dối là bác chú thím cô anh em chị em chết thì phải biếm một tư.

Điều 317: người nào đang có tang cha mẹ hoặc chồng mà lấy chồng hoặc cưới vợ thì xử tội đồ, người khác biết mà vẫn cứ kết hôn thì xử tội biếm ba tư và đôi vợ chồng mới cưới phải chia lìa.

Điều 408: đang có tang cha mẹ hay tang chồng mà gian dâm cũng xử tội chém.

b. Quan hệ vợ - chồng

Page 17: dulieu.tailieuhoctap.vndulieu.tailieuhoctap.vn/books/luat/nha-nuoc-phap-luat/... · Web viewSo với các triều đại khác thì quan lại có thể được bổ nhiệm bằng

Vợ chồng phải thủy chung.

Nghĩa vụ thủy chung của người vợ: sự thủy chung của người vợ là điều cần thiết, nếu vi phạm là một trong bảy lý do để buộc người chồng phải bỏ vợ.

Điều 321: vợ cả, vợ lẽ tự tiện bỏ nhà chồng đi thì xử tội đồ làm xuy thất tỳ; đi rồi lấy chồng khác thì phải đồ làm chung thất tỳ; người và gia sản phải trả về nhà chồng cũ.

Người chồng phải gánh vác những việc lớn trong gia đình: bảo đảm đời sống vật chất, kinh tế cho cả gia đình, gìn giữ và duy trì trật tự gia đình là trách nhiệm của người chồng theo quan niệm gia trưởng của Nho giáo.

Người vợ phải phục tùng chồng và gia đình chồng. Nhằm đảm bảo lợi ích của gia đình nhà chồng theo chế độ phụ hệ: xuất giá tòng phu.

Nghĩa vụ tang chế của vợ với chồng và cha mẹ chồng: lo toan tang ma, tế tự khi chồng mất hay cha mẹ chồng mất. Vi phạm nghĩa vụ này, người vợ bị khép vào tội thập ác.

Điều 2: Mười tội ác (Thập ác)

Khoản 7: Bất hiếu, … có tang cha mẹ mà lấy vợ lấy chồng, vui chơi ăn mặc như thường; nghe thấy tang ông bà cha mẹ mà giấu. không cử ai; nói dối là ông bà cha mẹ chết.

Khoản 9: Bất nghĩa, … nghe thấy tin chồng chết không cử ai lại vui chơi ăn mặc như thường, cùng là cải giá.

c. Quan hệ anh em.

Anh em phải hòa thuận

Trong gia đình, anh em phải hòa thuận vì mối quan hệ này quyết định sự thịnh suy của gia đình

Điều 52: Anh em không hòa thuận đến nỗi phải tranh giành kiện cáo nhau, thì người trái lẽ phải xử tội nặng hơn người thường một bậc.

Về quan hệ anh em cũng mang nặng tính gia trưởng của nho giáo.

Điều 478: Đánh anh chị hàng ty ma thì phải biếm một tư; hàng tiểu công, đại công, thì tăng tội từng một bậc. Đánh bậc tôn trưởng lại thêm tội một bậc; đánh trọng thương thì xử nặng hơn tội đánh bị thương thường một bậc; đánh chết thì phải tội chém. Bậc tôn trưởng đánh bị thương những con cháu bậc dưới từ hàng ty ma, thì xử nhẹ hơn đánh người thường một bậc; hàng tiểu công, đại công, đều kém dần từng bậc một. Đánh chết

Page 18: dulieu.tailieuhoctap.vndulieu.tailieuhoctap.vn/books/luat/nha-nuoc-phap-luat/... · Web viewSo với các triều đại khác thì quan lại có thể được bổ nhiệm bằng

thì xử tội giảo; đánh chết không phải bằng mũi nhọn và không phải cố ý giết thì xử tội lưu đi châu xa.

Điều 477: Đánh anh chị cậu dì và ông bà cha mẹ vợ thì xử tội đồ làm khao đinh; đánh bị thương thì xử đồ làm tượng phường binh; đánh bị thương gãy chân tay, thì xử làm đồ chuẩn điền binh; đánh bằng gươm giáo bị thương gãy chân tay mù mắt, thì xử lưu đi châu xa; đánh chết thì xử chém, lăng mạ những người nói trên, thì xử biếm hai tư; ngộ xác thì xử đồ làm chuẩn điền bị; làm lỡ làm bị thương thì đồ làm khao đinh. Đối với bác, chú, thiếm, cô đều xử nặng hơn một bậc. Đánh chết em trai, em gái cùng là con cháu gái con rễ con cháu của anh em thì xử đồ làm chuẩn điền binh; đánh chết bằng đồ nhọn sắt và cố ý giết thì xử tội lưu đi châu ngoài. Ngộ sát thì không phải tội, đánh vợ của anh thì xử tội nặng hơn tội đánh người thường một bậc.

Riêng những người chị em dâu có hành vi gây bất hòa với những người anh em khác của gia đình chồng thì ngoài việc xử lý hình sự còn là một trong bảy lý do buộc người chông ly hôn vợ.

Điều 310: vợ cả, vợ lẽ phạm phải điều nghĩa tuyệt như thất xuất mà người chồng chịu giấu không bỏ thì xử tội biếm, tùy theo việc nặng nhẹ.

Trong lĩnh vực thừa kế, nếu có sự tranh giành về quyền được thừa kế thì sẽ bị truất quyền hưởng thừa kế.

Điều 388: ... nếu đã có lệnh của cha mẹ và chúc thư, thì phải theo đúng, trái thì phải mất phần mình.

Giữa anh em còn có nghĩa vụ để tang cho nhau, cao nhất là một năm, ít nhất là ba tháng. Ngoài ra giữa những anh chị em có nghĩa vụ để tang cho nhau thì không được kết hôn.

Điều 319: người vô loại lấy co, dì, chị, em gái, kế nữ, người thân thích, đều phỏng theo luật gian dâm mà trị tội.

4.2. Bảo vệ quyền phụ nữ trong chừng mực nhất định

Pháp luật nhà Lê mặc dù ảnh hưởng bởi tư tưởng Nho giáo và pháp luật Nhà Tống nhưng vẫn có những điểm tiến bộ hơn, mang tính nhân văn hơn đó là bảo vệ quyền phụ nữ. Được thể hiện qua các quyền sau:

4.2.1. Quyền nhân thân

Page 19: dulieu.tailieuhoctap.vndulieu.tailieuhoctap.vn/books/luat/nha-nuoc-phap-luat/... · Web viewSo với các triều đại khác thì quan lại có thể được bổ nhiệm bằng

Các qui định về kết hôn, từ hôn, ly hôn, nuôi con cái.

Bảo vệ danh dự người phụ nữ về kết hôn.

Điều 315: nhà trai đã có sính lễ rồi, mà không lấy nữa, thì phạt 80 trượng và mất đồ sính lễ.

Bảo vệ quyền tự do trong kết hôn.

Điều 338: những nhà quyền thế mà ức hiếp để lấy con gái kẻ lương daanm thì xử tội phạt, biếm hay đồ.

Bảo vệ danh tiết cho người phụ nữ.

Điều 320: tang chồng đã hết mà người vợ muốn thủ tiết, nếu ai không phải là ông bà cha mẹ mà ép gả cho người khác, thì xử biếm ba tư và bắt phải ly dị; người đàn bà phải trả về nhà chồng cũ.

Người phụ nữ có thể từ hôn nhằm bảo đảm sự an toàn, sự hạnh phúc cho trương lai của họ

Điều 322: Con gái hứa gả chồng mà chưa thành hôn nếu người con trai bị ác tật hay phạm tội hoặc phá tán gia sản thì cho phép người con gái được kêu quan mà trả đồ lễ.

Luật Hồng Đức qui định trong ba trường hợp sau thì người chồng không được ly dị vợ.

Đoạn 165 Hồng Đức thiện chính thư có quy định bổ sung: người vợ đã để xong ba năm tang cha mẹ chồng; lúc lấy nhau nghèo hèn về sau giàu có và lúc lấy nhau người vợ còn người thân nhưng lúc bỏ nhau người vợ không còn người thân nào.

Người phụ nữ có quyền quyền ly hôn. Nếu người chồng vi phạm nghĩa vụ chung sống.

Điều 308: Phàm chồng đã bỏ lửng vợ 5 tháng không đi lại (vợ được trình với quan sở tại và xã quan làm chứng) thì mất vợ. Nếu vợ đã có con, thì cho hạn một năm.

Và có hành vi vô lễ với cha mẹ vợ

Điều 333: nếu con rể lấy chuyện phi lý mà mắng nhiếc cha mẹ vợ, đem việc thư quan sẽ cho ly dị.

Điều 402: quyến rũ con gái chưa có chồng, thì xử như tội gian dâm thường, và phải nộp tiền tạ, nhiều ít tính theo bậc sang hèn, trả cho cha mẹ người con gái; người con gái không phải tội.

Page 20: dulieu.tailieuhoctap.vndulieu.tailieuhoctap.vn/books/luat/nha-nuoc-phap-luat/... · Web viewSo với các triều đại khác thì quan lại có thể được bổ nhiệm bằng

Luật Hồng Đức còn bảo vệ phụ nữ một khi họ phạm tội, pháp luật vẫn dành cho họ sự khoan hồng, bao dung: không bị đánh bằng trượng, không thi hành án tử hình đang nuôi con nhỏ, hay các mức hình phạt đồ dành cho họ nhẹ nhàng hơn sơ với nam giới...

Điều 680: Đàn bà phải tội tử hình trở xuống, nếu đang có thai, thì phải để sinh đẻ sau một trăm ngày, mới đem hành hình. Nếu chưa sinh mà đem hành hình thì ngục quan bị xử biếm hai tư ngục lại bị tội đồ làm bản cục đinh. Dù đã sinh rồi nhưng chưa đủ hạn 100 ngày mà hành hình thì ngục quan và ngục lại bị tội biếm hay tội phạt. Nếu khi chưa sinh mà thi hành tội xuy thì ngục quan bị phạt tiền 20 quan, ngục lại bị tội 80 trượng. Nếu vì đánh roi để xảy ra trọng thương hay bị chết, thì khép vào tội lầm lỡ giết người hay làm bị thương. Sau khi sinh đẻ chưa đủ 100 ngày, mà đem thi hành xuy hình, thì chiếu theo tội lúc chưa sinh mà giảm cho một bậc.

4.2.2. Bảo vệ về mặt tài sản cho phụ nữ.

Tuy pháp luật về thừa kế còn mang nặng tính nho giáo nhưng ở pháp luật Triều Lê vẫn mang tính nhân văn thể hiện ở chỗ con gãi cũng có quyền thừa kế

Điều 391: Người giữ hương hỏa có con trai trưởng thì dùng con trai trưởng, không có con trai trưởng thì dùng con gái trưởng…

Điều 397: Người ông là Trần Giáp sinh được trai gái hai con, trai trưởng là Trần Ất, gái là Trần Thị Bính, Trần Ất sinh được một gái Trần Thị Đinh, còn thơ ấu thì Trần Ất chết. Ông là Trần Giáo lập chúc thư giao phần ruoogj đất hương hỏa cho Trần Thị Bính giữ. Khii Trần Thị Bính chết, thì phần hương hỏa phải trả lại cho con gái Trần Ất là Trần Thị Đinh giữ.

4.2.3Có quyền sở hữu tài sản

Điều 376: Vợ chồng đã có con thì một người chết trước sau đó con cũng lại chết, thì điền sản thuộc về chồng hay vợ.

Chia tài sản khi ly hôn

4.3. Pháp luật hôn nhân gia đình có những giá trị, chuẩn mực về tập quán

a. Những tập quán phù hợp thì được cụ thể hóa trong pháp luật.

b. Dùng pháp luật để loại bỏ những tập quán tiêu cực.

Page 21: dulieu.tailieuhoctap.vndulieu.tailieuhoctap.vn/books/luat/nha-nuoc-phap-luat/... · Web viewSo với các triều đại khác thì quan lại có thể được bổ nhiệm bằng

5. Hãy chứng minh rằng pháp luật nhà Lê là sự kết hợp hài hòa của hai nhân tố nhân trị và pháp trị.

Pháp luật nhà Lê là hệ thống pháp luật hoàn thiện nhất, là đỉnh cao trong tiến trình lập pháp của xã hội phong kiến Việt Nam. Thời kỳ nhà Lê, hệ tư tưởng Nho giáo được coi là một hệ tư tưởng chiếm vị trí độc tôn trong việc tổ chức, cai trị xã hội. Ý thức hệ chủ đạo của Nho giáo là dùng lễ trị, nhân trị để duy trì trật tự xã hội. Tư tưởng lễ trị là dùng lễ nghĩa để giáo hóa dân chúng, là nền tảng của mọi quan hệ xã hội theo những thứ bậc, trật tự, gồm quan hệ vua tôi lấy chữ trung làm đầu; quan hệ thầy trò coi trọng chữ nghĩa; quan hệ giữa cha mẹ với con cái lấy chữa hiếu làm trọng, quan hệ anh em lấy chữa hòa để duy trì và bạn bè dùng chữ tín để xác lập,…Bên cạnh đóm chủ nghĩa nhân trị đề cao các giá trị đạo đức khác, đòi hỏi con người xử sự với nhau phải có lòng nhân ái, độ lượng, thương yêu nhau; giữa nhà nước với dân chúng (nhất là đối với người phạm tội) phải có sự khoan hồng, nhân đạo.

….

Tuy nhiên để cho các giáo lý này được thấm nhuần và trở thành quy phạm xử sự bắt buộc trong xã hội nên cần phải dùng pháp trị, hình trị. Tức trong một số trường hợp để bảo đảm các giá trị nhân, lễ này phát huy tối đa hiệu lực cần phải dùng đến những hình phạt đối với người không tuân thủ. Đối với người phạm vào tội thập ác mà xâm phạm đến khách thể là các quan hệ chính trị (tội mưu phản, tội mưu bạn, tội mưu đại nghịch, tội bất kính) làm ảnh hưởng đến an nguy Tổ Quốc (đại diện là vua); khách thể là các quan hệ hôn nhân gia đình (tội ác nghịch, tội bất hiếu, tội bất mục, tội nội loạn) làm ảnh hưởng đến các quan hệ xã hội; khách thể là các luân lý đạo đức xã hội (tội bất đạo, tội bất nghĩa) nhóm tội thập ác là nhóm tội đặc biệt nghiêm trọng đã xâm phạm vào những khách thể mà không thể tha thứ được, hình phạt giành cho tội phạm này thường rất nghiêm khắc, rất nặng nề hạn chế những qui định mang tính giảm nhẹ, đặc biệt khi đã cấu thành hình thức.

Pháp luật không nêu định nghĩa về hình phạt nhưng hình phạt là loại chế tài phổ biến nhất áp dụng cho hầu hết các hành vi vi phạm pháp luật bất kể trong lĩnh vực nào. Chính vì không có sự phân định rõ ràng giữa hành vi phạm tội với những loại vi phạm pháp luật khác nên chế tài mang nặng tính trừng trị, nghiêm khắc nhất. Tính nghiêm khắc của hình phạt thể hiện ở chỗ nó luôn đem đến những bất lợi cho người bị kết án sự tước bỏ hoặc hạn chế những quyền tự do nhân thân hay tài sanrm thậm chí cả quyền được sống, Pháp luật phong kiến nói chung và của nhà Lê nói riêng dùng hình phạt để bảo vệ nội dung và khách thể của pháp luật vốn được xây dựng trên cở sở nhân trị và đức trị, Nói cách khác việc dùng hình phạt (pháp trị) để bảo vệ các giá trị tư tưởng nhân văn của học thuyết Khổng – Mạnh. Vì lẽ đó, nội dung của pháp luật hình sự thể hiện rõ nét nhất sự kết hợp

Page 22: dulieu.tailieuhoctap.vndulieu.tailieuhoctap.vn/books/luat/nha-nuoc-phap-luat/... · Web viewSo với các triều đại khác thì quan lại có thể được bổ nhiệm bằng

giữa hai hệ tư tưởng pháp trị với lễ trị và nhân trị. Điều này thể hiện rõ nét hơn trong chế định hình phạt của luật nhà Lê. Việc quy định hình phạt thể hiện sự cứng nhắc thậm chí quá tỷ mỉ và phân hóa theo mức độ hậu quả do hành vi phạm tội gây ra.

Cả hai ý thức hệ nêu trên thẩm thấu một cách nhuần nhuyễn hòa quyện vào nhau và được cụ thể hóa thành các quy phạm pháp luật. Quan niệm nhân trị, lễ trị được các nhà làm luật lấy làm cơ sở để xây dựng nên nội dung của pháp lật cũng như xác định khách thể trong các quan hệ pháp luật. Tư tưởng pháp trị được các nhà làm luật sử dụng để cụ thể hóa thành các cách thứ bảo vệ nội dung và khác thể của pháp luật. Đây là sự kết hợp hoàn hảo giữa nhân, lễ và pháp và được thể hiện trong toàn bộ hệ thống pháp luật nhà Lê. Vì vậy, không có gì mâu thuẩn khi điều luật này đề cao các giá trị lễ nghĩa nhân văn nhưng điều luật khác thể hiện sự mạnh tay (thậm chí thái quá) của pháp luật trong việc trừng trị người phạm tội.

6. Chứng minh pháp luật nhà Lê bảo vệ các tập quán?

Phổ biết nhất là các tập quán được sử dụng trong đời sống chính trị như nguyên tắc truyền ngôi theo nguyên tắc thế tập, tập quán trong đời sống dân sự như tập quán về sở hữu ruộng đất, tập quán canh tác, vay mượn, tập quán phân biệt đẳng cấp hay trọng nam khi nữ ít nhiều được thừa nhận trong quan hôn nhân gia đình; tập quán phân chia và sở hữu ruộng đất hay canh thu tô trong quan hệ sở hữu ruộng đất…

Trong lĩnh vực pháp luật hình sự

Trong nhóm tội thập ác thì pháp luật cũng đã bảo vệ tập quán về bảo vệ tổ quốc; bảo vệ vương quyền; con cái phải hiếu thảo với ông bà, cha mẹ; trò phải kính thầy

Điều 2:

Khoản 1: Mưu phản, là mưu mô là nguy đến xã tắc

Khoản 7: Bất hiếu, là tố cáo, rủa mắng ông bà, cha mẹ, trái lời cha mẹ dạy bảo; nuôi nấng thiếu thốn, có tang cha mẹ mà lấy vợ lấy chồng, vui chơi ăn mặc như thường;

Khoản 8: Bất nghĩa, là giết quan bản phủ và các quan đương chức tại ngiệm; giết thầy học; nghe tin chồng chết không cử ai lại vui chơi ăn mặc như thường, cùng là cải giá;

Phạm những tội này thương hình phạt rất hà khắc.

Tập quán bảo vệ quyền lợi cho giai cấp thông trị

Page 23: dulieu.tailieuhoctap.vndulieu.tailieuhoctap.vn/books/luat/nha-nuoc-phap-luat/... · Web viewSo với các triều đại khác thì quan lại có thể được bổ nhiệm bằng

Điều 7: Những người thuộc về nghị thân mà phạm tội thì họ tôn thất, họ hoàn thái hậu đều được miễn những tội đánh roi, đánh trượng, thích mặt; họ hoàng hậu thì được chuộc bằng tiền.

Trong lĩnh vực pháp luật dân sự

Trong lĩnh vực pháp luật về hôn nhân gia đình

7.Tính nhân đạo và tiến bộ của Bộ luật Hồng Đức ?

Bộ luật Hồng Đức là một tên gọi khác của bộ Quốc triều hình luật (Lê triều hình luật), đây là một công trình pháp luật tiêu biểu được nhà Hậu Lê xây dựng, được coi là bộ luật nổi bật nhất, quan trọng nhất và có vai trò rất đặc biệt nhất trong lịch sử pháp quyền phong kiến Việt Nam.

Mặc dù mang bản chất giai cấp phong kiến nhưng bộ luật Hồng Đức lại chứa đựng nhiều yếu tố tiến bộ với những quy phạm bảo vệ quyền lợi của người dân, của tầng lớp dưới, của nô tì, người cô quả, tật … Nhiều quy định của bộ luật tập chung bảo vệ người dân chống lại sự ức hiếp, sách nhiễu của cường hào, quan lại.

Đặc biệt bộ luật Hồng Đức còn có một số quy định bảo vệ quyền lợi của phụ nữ, trẻ em, người dân tộc thiểu số, điều đó phản ánh truyền thống nhân đạo, truyền thống tôn trọng phụ nữ, tư tưởng “lấy dân làm gốc”, lấy làng xã làm nền tảng của quốc gia…

Tính dân tộc thể hiện đậm nét trong việc kế thừa và phát huy những thành tựu pháp luật của các triều đại trước, kết hợp với những ưu điểm của pháp luật phong kiến Trung Hoa để xây dựng lên một bộ luật phù hợp với hoàn cảnh, điều kiện cụ thể của Việt Nam.

Ngày nay, trẻ em, phụ nữ, người tàn tật, người già yếu… được xếp vào nhóm “đối tượng dễ bị tổn thương” cần có sự quan tâm, giúp đỡ của cộng đồng thì hơn 500 năm trước, trong bộ luật Hồng Đức đã có những quy định về trách nhiệm của xã hội, nhất là của quan chức đối với nhóm người này. Đây chính là một trong những điểm tiến bộ, nhân đạo của pháp luật thời Hậu Lê.

Page 24: dulieu.tailieuhoctap.vndulieu.tailieuhoctap.vn/books/luat/nha-nuoc-phap-luat/... · Web viewSo với các triều đại khác thì quan lại có thể được bổ nhiệm bằng

1. Những quy định nhân đạo đối với người phạm tội

Điều luật đầu tiên đề cập đến vấn đề này là điều 16, theo đó những người phạm tội “từ 70 tuổi trở lên, 15 tuổi trở xuống và những kẻ phế tật (tức những kẻ si, câm, cơ thể què quặt, gẫy tay chân) phạm tội lưu, đồ trở xuống được chuộc bằng tiền…

80 tuổi trở lên, 10 tuổi trở xuống và những kẻ bệnh nặng (là những ác tật như điên cuồng, tay chân bại liệt, mù hai mắt) phạm tội phản nghịch, giết người, đáng lẽ phải xử tử thì trong trường hợp này phải tâu lên để vua quyết định. Những người này phạm tội trộm, đánh người bị thương thì cũng cho chuộc tội; 90 tuổi trở lên, 7 tuổi trở xuống, dù phạm tử tội cũng không áp dụng hình phạt”.

Trong xử lý tội phạm, bộ luật Hồng Đức còn lưu ý đến thời điểm phạm tội sao cho có lợi cho tội nhân khi áp dụng luật, theo đó “khi phạm tội chưa già, tàn tật. Khi già, tàn tật mới phát giác tội thì xử tội theo luật già, tàn tật…Khi còn nhỏ mà phạm tội, khi lớn mới phát giác tội thì xử tội theo luật tuổi nhỏ” (điều 17).

Luật còn nghiêm cấm áp dụng hình thức tra khảo với một số đối tượng và vấn đề liên quan đến người làm chứng, tại điều 665 quy định: “Những người đáng được nghị xét giảm tội như 70 tuổi trở lên, 15 tuổi trở xuống, người bị phế tật thì không được tra khảo họ, chỉ cần căn cứ lời khai của nhân chứng mà định tội.

Nếu trái luật này thì coi như cố ý buộc tội cho người. Luật có ghi điều được phép ẩn giấu cho nhau như người 80 tuổi trở lên, 10 tuổi trở xuống và người bệnh nặng đều không được buộc họ làm chứng”.

Trong những trường hợp nhất định, pháp luật nghiêm cấm việc đối xử bạo ngược với tù nhân, như trường hợp người tù bị mắc bệnh thì không được tiến hành tra khảo: “…Nếu tù có bệnh ung nhọt, không chờ lành lại tra khảo thì người ra lệnh bị xử biếm. Nếu tù bệnh

Page 25: dulieu.tailieuhoctap.vndulieu.tailieuhoctap.vn/books/luat/nha-nuoc-phap-luat/... · Web viewSo với các triều đại khác thì quan lại có thể được bổ nhiệm bằng

ấy mà đánh roi, trượng thì phạt 30 quan tiền, nhân đó tù chết thì bị biếm 2 tư…” (điều 669).

Nếu thuộc trường hợp phải nộp tiền ứng với tang vật bị tịch thu nhưng “tội nhân nghèo khổ cùng cực không nộp nổi thì thuộc lại được phép trình bản ty, để nơi đây tâu lên vua định đoạt” (điều 697).

Bên cạnh đó để tránh việc lạm dụng bạo lực với tù nhân và bảo vệ quyền lợi thiết yếu của họ, tại điều 707 có quy định: “Ngục giám vô cớ hành hạ tù nhân đến bị thương thì xử theo luật đánh người bị thương. Nếu xén bớt áo quần, cơm, đồ ăn của tù nhân thì căn cứ vào việc bớt xén đó kết tội ăn trộm; hoặc bởi đánh đập, bớt cơm mà tù nhân chết thì bị xử đồ hay lưu. Ngục quan và giám ngục quan biết sự việc không tố giác thì cũng bị tội trên, nhưng được giảm một bậc”.

2. Những quy định nhân đạo đối với người gặp khó khăn đặc biệt

Đối với những người gặp hoàn cảnh khó khăn, không có ai để nương tựa thì quan chức địa phương phải có trách nhiệm giúp đỡ họ, điều 294 quy định: “Ở những phường hẻm hay trong kinh thành hoặc ở hương thôn, xã có người bệnh tật không ai nuôi nấng, nằm ở dọc đường sá, cầu, điếm, chùa, quán thì cho phép quan bản phường xã đó dựng lều cho họ ở, chăm sóc che chở, cấp cơm cháo, thuốc men cứu sống họ, không được bỏ mặc họ rên rỉ, khốn khổ. Không may kẻ ấy chết thì trình quan trên, liệu bề chôn cất, không được để hài cốt phơi bày ra đó. Nếu trái lệnh này thì quan phường xã bị biếm hay bị bãi chức...”.

Một số đối tượng cũng cần được giúp đỡ khác là “những người góa vợ, góa chồng cô độc và người tàn phế nặng, nghèo khổ không người thân nương tựa, không khả năng tự kiếm sống thì quan sở tại phải nuôi dưỡng họ, nếu bỏ rơi họ thì bị đánh 50 roi biếm một tư. Nếu họ được cấp cơm áo mà thuộc lại ăn bớt thì xử theo luật người giữ kho ăn trộm của công”.

Page 26: dulieu.tailieuhoctap.vndulieu.tailieuhoctap.vn/books/luat/nha-nuoc-phap-luat/... · Web viewSo với các triều đại khác thì quan lại có thể được bổ nhiệm bằng

3. Những quy định nhân đạo, tiến bộ đối với phụ nữ và trẻ em

Đối với phụ nữ, quyền lợi của đối tượng này được đề cập chủ yếu trong hai chương “Hộ hôn” và “Điền sản” với những quy định thể hiện sự coi trọng cá nhân và vai trò của người phụ nữ cũng như bảo vệ quyền lợi của họ trong việc hương hỏa, tế lễ, thừa kế và sở hữu tài sản.

Người vợ, theo phong tục và quy định phải lệ thuộc vào chồng nhưng trong bộ luật Hồng Đức địa vị của người vợ có những độc lập nhất định như họ có quyền có tài sản riêng, có quyền xin ly hôn trong một số trường hợp, ví dụ tại điều 308 quy định: “Chồng xa cách vợ không lui tới suốt 5 tháng thì vợ được phép trình quan sở tại, quan xã làm chứng thì chồng đó mất vợ. Nếu đã có con thì gia hạn 1 năm. Những người công sai đi xa không áp dụng luật này. Nếu đã thôi vợ mà cản trở người khác cưới vợ cũ thì xử biếm”.

Trong trường hợp cưỡng ép phụ nữ kết hôn cũng bị tội, điều 320 quy định như sau: “Mãn tang chồng nhưng người vợ thủ tiết, nếu ngoài ông bà, cha mẹ, kẻ nào khác gả ép người phụ nữ đó thì bị biếm ba tư và buộc phải ly dị. Trả người đàn bà về chồng cũ…” hoặc “những nhà quyền thế mà ức hiếp để cưới con gái lương dân thì xử phạt, biếm hay đồ” (điều 338).

Khi xảy ra tình trạng ly hôn, luật xác định tài sản của vợ chồng được hình thành từ 3 nguồn: Tài sản của chồng thừa kế từ gia đình nhà chồng; tài sản của người vợ thừa kế từ gia đình nhà vợ và tài sản do hai vợ chồng tạo dựng trong quá trình hôn nhân (tài sản chung). Khi gia đình tồn tại, tất cả tài sản được coi là của chung; khi ly hôn, tài sản của ai, người đó được nhận riêng và chia đôi tài sản chung của hai người.

Bộ luật Hồng Đức xử rất nặng đối với những trường hợp xâm phạm thân thể, tiết hạnh của người phụ nữ, kẻ nào “hiếp dâm thì xử lưu hay chết. Phải nộp tiền tạ tội hơn một bậc đối với tiền tạ tội gian dâm thường. Nếu gây thương tích cho người đàn bà thì xử nặng hơn một bậc đánh người bị thương.

Page 27: dulieu.tailieuhoctap.vndulieu.tailieuhoctap.vn/books/luat/nha-nuoc-phap-luat/... · Web viewSo với các triều đại khác thì quan lại có thể được bổ nhiệm bằng

Nếu làm chết người đàn bà thì điền sản kẻ phạm tội phải giao cho nhà người bị chết” (điều 403); “gian dâm với con gái nhỏ 12 tuổi trở xuống, dù nó thuận tình thì vẫn xử như tội hiếp dâm” (điều 404).

Nếu “chồng đánh vợ bị thương thì xử như tội đánh người bị thương nhưng nhẹ hơn 3 bậc. Nếu đánh chết thì xử như tội đánh chết người nhưng nhẹ hơn 3 bậc, tiền đền mạng bớt 3 phần. Cố ý giết vợ thì giảm một bậc tội; nếu có tội bị chồng đánh, không may chết thì xử riêng. Đánh vợ bé bị thương, sứt gãy trở lên thì nhẹ tội hơn đánh vợ 2 bậc…” (điều 482).

Trong trường hợp người phụ nữ có việc liên quan đến kiện tụng hoặc bị tội thì họ vẫn được bảo vệ ở mức độ nhất định, nếu “quan coi ngục, lại ngục, ngục tốt gian dâm với đàn bà, con gái có chuyện thưa kiện thì tội nặng hơn một bậc so với tội gian dâm thông thường. Nếu có thuận tình thì giảm 3 bậc tội cho các gian phụ ấy.

Nếu họ bị hiếp thì không xử tội họ” (điều 409). Đặc biệt tại điều 680 quy định: “Đàn bà phạm tội tử hình trở xuống, nếu đang mang thai thì phải đợi sau khi sinh đẻ 100 ngày mới đem hành hình. Nếu chưa sinh mà đem hành hình thì ngục quan bị biếm hai tư, ngục lại bị tội đồ làm bản cục đinh.

Dù đã sinh nhưng chưa hết hạn 100 ngày mà hành hình thì ngục quan và ngục lại bị xử biếm hay bị phạt. Nếu khi chưa sinh mà thi hành tội đánh roi thì ngục quan bị phạt 20 quan tiền, ngục lại bị đánh 80 trượng. Nếu do đánh roi đưa đến trọng thương hay chết thì xử vào tội “quá tất sát thương” (lỡ tay giết người, làm bị thương người)…”.

Một số tội, nếu người phạm tội là phụ nữ thì được giảm nhẹ, như việc xử lý tội ăn trộm, ăn cướp: “Ăn trộm có cầm khí giới thì xử tội ăn cướp và có giết người thì xử tội giết người. Đàn bà được giảm tội” (điều 429), hoặc trường hợp đầy tớ ăn trộm đồ của chủ, nếu là “tớ gái thì được giảm tội” (điều 441).

Page 28: dulieu.tailieuhoctap.vndulieu.tailieuhoctap.vn/books/luat/nha-nuoc-phap-luat/... · Web viewSo với các triều đại khác thì quan lại có thể được bổ nhiệm bằng

Luật cũng quy định một số vấn đề khác liên quan đến phụ nữ, như cấm “lấy thuốc sảy thai làm người sảy thai, hay là người xin thuốc sảy thai cũng đều xử đồ. Vì sthai mà chết thì người cho thuốc bị xử theo tội giết người” (điều 424). Với một số tội, mức xử phạt đối với phụ nữ còn nhẹ hơn đàn ông, ví dụ điều 450 quy định: “…Kẻ lạ vào vườn người ta thì xử biếm, đàn bà được giảm một bậc”.

Bên cạnh bảo vệ quyền lợi của người phụ nữ, bộ luật Hồng Đức còn chú ý đến đối tượng trẻ em, tại điều 313 có quy định: “Trẻ nhỏ mồ côi và phụ nữ tự bán mình không người bảo lãnh thì kẻ mua và kẻ viết văn khế, kẻ làm chứng đều bị xử roi, trượng theo luật (nữ bị đánh 50 roi, nam bị đánh 80 trượng) đòi lại tiền trả cho kẻ mua, hủy bỏ văn khế. Kẻ cô độc, khốn cùng từ 15 tuổi trở lên tự nguyện bán mình thì cho phép”.

Nếu ai “bắt được trẻ con đi lạc thì phải báo quan làm bằng chứng thật, có ai đến nhận thì được lấy tiền nuôi dưỡng (mỗi tháng 5 tiền), trái luật không cho người ta nhận con thì xử tội nhẹ hơn tội quyến rũ một bậc” (điều 604). Trường hợp kẻ nào “làm chuyện ngược ngạo (lượm trẻ lạc về, không nuôi còn hành hạ) để đến nỗi con người ta chết thì đánh 80 trượng, đền 5 quan tiền nhân mạng cho cha mẹ đứa trẻ chết” (điều 605).

4. Những quy định nhân đạo đối với một số đối tượng khác

Những đối tượng này gồm có người thiểu số, nô tỳ, người làm thuê, ở đợ, người mất khả năng nhận thức…, như tại điều 435 quy định hình thức xử lý với hành vi “trấn lột quần áo, đồ đạc của trẻ em, của kẻ khùng điên, của người say rượu thì bị xử tội đồ và phải đền gấp đôi”.

Theo điều 363 “mua nô tỳ mà không đem văn tự trình quan xét hỏi mà lại tự ý xâm chữ vào mặt nô tỳ thì phạt 10 quan tiền”, trường hợp “xâm chữ vào kẻ ở đợ bắt làm nô tỳ cho mình” thì bị xử lưu, phạt 50 quan tiền, ngoài ra còn phải “trả tiền xóa chữ theo luật định” (điều 365). Nếu “những nô tỳ được cho về làm lương dân, cấp giấy rồi mà còn bắt chúng ở lại làm tôi tớ với mình thì bị phạt 50 roi, biếm một tư. Người nô tỳ vẫn được trở về theo giấy cấp” (điều 291).

Page 29: dulieu.tailieuhoctap.vndulieu.tailieuhoctap.vn/books/luat/nha-nuoc-phap-luat/... · Web viewSo với các triều đại khác thì quan lại có thể được bổ nhiệm bằng

Trong trường hợp “nô tỳ có tội, chủ không thưa quan mà đánh chết thì xử biếm 3 tư. Các nô tỳ ấy không có tội mà đánh chết thì xử đồ. Giết nô tỳ coi từ đường, mồ mả thì xử nặng hơn tội trên một bậc. Nô tỳ sai phạm, dạy bảo đánh bằng roi vô tình làm nó chết, hay ngộ sát thì xử tùy nặng nhẹ…” (điều 490).

Đối với người dân tộc thiểu số, bộ luật Hồng Đức cũng có một số điều đề cập đến, đặc biệt là nhằm bảo vệ họ trước sự sách nhiễu của quan lại, như việc cấm quan quân giữ cửa ải khi thấy “khách buôn bán và dân Man Liêu qua cửa ải mà đòi tiền của họ thì bị biếm hai tư.

Đền trả lại cho gấp hai số tiền” (điều 71) hoặc “khi chiêu dụ dân Man Liêu mà tự tiện phá nhà cửa lấy súc vật tài sản của dân thì bị tội biếm hay bị đồ, lại phải bồi thường gấp đôi số tiền trả cho dân” (điều 163). Nếu giả mạo chỉ lệnh của quan trên để “đòi trưng thu sản vật của dân Man Liêu thì xử lưu châu ngoài và đền gấp hai tang vật” (điều 531), còn nếu “thu thuế của dân Man Liêu mà không đến trình người cai quản thì xử biếm một tư” (điều 595).

Việc xử lý đối với người dân tộc phạm tội cũng có những cân nhắc nhẹ nhàng hơn, áp dụng cả tục lệ của họ, tại điều 40 có quy định: “Những người miền thượng du (miền núi) cùng phạm tội với nhau thì theo phong tục xứ ấy mà định tội. Những người thượng du phạm tội với người trung châu (vùng đồng bằng) thì theo luật mà định tội”.

Trong trường hợp “người Man Liêu cướp, giết lẫn nhau thì xử nhẹ hơn tội cướp, giết người thường một bậc. Nếu hoà giải được với nhau thì cũng cho” (điều 451), trường hợp “quan quản giám các dân Man Liêu tự ý trông coi các vụ kiện trong hạt riêng, sai người đem tráp đi bắt người hoặc ức hiếp dân thì xử phạt 40 trượng biếm 2 tư” (điều 164), còn khi bắt tội phạm là người thiểu số mà “không trình quan quản giám người Man Liêu thì bị xử biếm một tư” (điều 703).

Page 30: dulieu.tailieuhoctap.vndulieu.tailieuhoctap.vn/books/luat/nha-nuoc-phap-luat/... · Web viewSo với các triều đại khác thì quan lại có thể được bổ nhiệm bằng

Có thể nói bộ luật Hồng Đức hay Quốc triều hình luật là văn bản pháp lý bậc nhất, là đỉnh cao nhất của thành tựu pháp luật Việt Nam so với các triều đại trước đó và cả về sau. Đánh giá về giá trị của bộ luật Hồng Đức, sách Lịch triều hiến chương loại chí của Phan Huy Chú viết: “Đời vua Lê có ban hành bộ Hồng Đức hình luật, các đời sau vẫn theo bộ luật ấy.

Tuy có vài sự sửa đổi nhỏ trong lời văn, hay trong cách xếp đặt loại mục tuỳ theo thời kỳ, song các điều khoản căn bản vẫn không thay đổi. Bộ luật ấy đã được dùng làm quy củ để cai trị trong nước và cải thiện lòng người”.

Trong sớ tấu dâng lên vua Gia Long năm Ất Hợi (1815), tổng tài Nguyễn Văn Thành viết: “Nước ta trong các triều đại trị vì từ trước đến nay, triều đại nào cũng đều có bộ luật của triều đại ấy. Xem qua bộ luật Hồng Đức thì biết rằng thời bấy giờ việc phạm tội đã được xếp thành thứ bậc để dễ truy tầm, còn sắc luật thì rất giản lược mà phân minh…”.

Những điều đó đã đủ thấy rằng bộ luật Hồng Đức đã được vận dụng vào công quyền Việt Nam và được xem là chuẩn mực của nền cổ luật nước ta qua nhiều triều đại; bên cạnh tính giai cấp nó còn mang tính nhân đạo, tiến bộ và tính dân tộc đặc trưng.

 8.Hãy chứng minh pháp luật nhà Lê sơ (thế kỷ 15) là sự kết hợp, pha trộn giữa các giá trị đạo đức, tập quán của người Việt và nho giáo?

-Các giá trị kinh điển của nho giáo được quy định trong nội dung của hệ thống pháp luật nhà Lê, dùng các chủ thuyết của nho giáo để bài xích những tập quán, thói hư tật xấu mà trước hết là đội ngũ quan quyền.

- Tư tưởng nhân đạo, trọng lễ nghĩa của nho giáo; con cái hiếu thảo với cha mẹ, tấm lòng yêu thương con người là những giá trị đạo đức, tập quán tốt đẹp của người việt. Tất cả điều hiện diện trong những nguyên tắc xây dựng pháp luật của nhà Lê:Con cháu chịu tội thay cho ông bà cha mẹ thì được miễn giảm trách nhiệm hình sự, hoặc không thi hành án đối với phụ nữ có thai hay đang nuôi con dưới 100 ngày tuổi.

9. Pháp luật thời Lê sơ (thế kỷ 15) mang bản chất giai cấp sâu sắc.

-Đúng.

Page 31: dulieu.tailieuhoctap.vndulieu.tailieuhoctap.vn/books/luat/nha-nuoc-phap-luat/... · Web viewSo với các triều đại khác thì quan lại có thể được bổ nhiệm bằng

-Pháp luật mang nặng ý chí của giai cấp thống trị thông qua những cải cách hành chính của Lê Thánh Tông bằng tư tưởng chỉ đạo: lớn nhỏ ràng buộc nhau, nặng nhẹ kìm chế nhau, địa phương gắn liền với trung ương.

10. Thông qua pháp luật về dân sự và hôn nhân – gia đình thời Lê sơ, anh (chị) hãy chứng minh tính bình đẳng trong các quan hệ tài sản và quan hệ hôn nhân gia đình .

Pháp luật về dân sự và hôn nhân – gia đình thời Lê sơ mà cụ thể là hai chương “ Hộ hôn” và “Điền sản “ trong bộ “ Quốc triều hình luật” hay còn gọi là bộ Luật Hồng Đức đã phần nào thể hiện tính bình đẳng trong các quan hệ tài sản và quan hệ hôn nhân gia đình .

Trong quan hệ hôn nhân và gia đình người vợ có nghĩa vụ ngang hàng với người chồng như nghĩa vụ đồng cư có trách nhiệm lẫn nhau, người chồng không được ngược đãi vợ (Điều 482 BLHĐ).Điều 2,7-BLHĐ qui định việc để tang cho nhau, cấp dưỡng nuôi dạy con cái ,phụng dưỡng cha mẹ ; tang chế khi cha mẹ mất .Lần đầu tiên trong lịch sử Bộ Luật Hồng Đức có qui định một quyền đặc biệt đối với phụ nữ đó là quyền được ly hôn chồng, theo đó người vợ có quyền ly hôn chồng trong trường hợp chồng vi phạm nghĩa vụ đồng cư trong thời gian năm tháng liên tục , nếu đã có con là một năm (Điều 308 BLHĐ) hoặc chồng có hành vi vô lễ với bố mẹ vợ (Điều 333 BLHĐ); nếu vợ đem đơn đến công đường thì bộ luật cho phép cưỡng bức ly hôn .Nghĩa là ,người chồng không làm tròn nghĩa vụ với vợ thì vợ cũng không buộc phải làm tròn bổn phận của mình .

Quy định này không có trong bất kỳ bộ luật nào trước hay sau triều Lê .Ngay cả khi Luật bắt buộc chồng phải bỏ vợ ngoài ý muốn chủ quan ,Điều 310 qui định : Vợ, nàng dâu đã phạm vào điều thất xuất nhưng người vợ đang ở trong ba trường hợp tam bất khứ thì người chồng không được ly hôn .Điều 167 qui định rỏ hình thức thuận tình ly hôn : khi ly hôn giấy ly hôn được làm dưới hình thức hợp đồng , người vợ và người chồng giữ mỗi bên một bản làm bằng ; người vợ được chia nửa tài sản chung của vợ chồng và nhận lại phần tài sản riêng nếu ly hôn không do lỗi vợ ;con cái thường thuộc về chồng nhưng nếu muốn giữ con ,người vợ có quyền đòi chia một nửa số con .

Sau khi ly hôn quan hệ nhân thân giữa vợ chồng hoàn toàn chấm dứt hai bên đều có quyền kết hôn với người khác mà không bị pháp luật ngăn cấm .Điều 308BLHĐ nếu người chồng ngăn cản người khác lấy vợ đã ly hôn thì bị tội biếm .Trong quan hệ tài sản ,Điều 388 BLHĐ qui định đối với tài sản cha mẹ để lại , pháp luật nhà Lê không phân biệt con trai con gái , nếu cha mẹ mất hết thì lấy 1/20 số ruộng đất làm hương hỏa , giao cho người con trưởng giữ,còn lại chia đều cho các con ,nếu người giữ hương hỏa có con

Page 32: dulieu.tailieuhoctap.vndulieu.tailieuhoctap.vn/books/luat/nha-nuoc-phap-luat/... · Web viewSo với các triều đại khác thì quan lại có thể được bổ nhiệm bằng

trai trưởng thì dung con trai trưởng,không có con trai trưởng thì dung con gái trưởng (Điều 391 BLHĐ).Điều 374,375,376 BLHD qui định rỏ việc phân chia và thừa kế tài sản ,thừa nhận việc vợ chồng có sở hữu tài sản chung và tài sản riêng được phân chia cụ thể khi ly hôn ,mỗi người điều được nhận như nhau .

Tóm lại thông qua bộ Luật Hồng Đức tính bình đẳng trong các quan hệ tài sản và quan hệ hôn nhân gia đình được thể hiện rỏ nét trong các điều qui định về hôn nhân và tài sản .Đây là những qui định hết sức tiến bộ bảo vệ người phụ nữ trước thái độ trong nam khinh nữ trong xã hộ phong kiến ,vai trò của người phụ nữ đã được đề cao hơn rất nhiều so với các bộ luật đương thời trong khu vực.

11.Pháp luật dân sự và hôn nhân gia đình nhà Lê sơ không cho phép con cái có quyền sở hữu tài sản của mình khi cha mẹ còn sống .

-Nhận định này đúng

-Theo điều 354,388,374,377,380,388 –Chế định thừa kế của pháp luật nhà Lê thế kỷ thứ XV hay còn gọi là bộ Luật Hồng Đức có qui định : khi cha mẹ còn sống,không phát sinh các quan hệ thừ kế nhằm bảo vệ và duy trì sự trường tồn của gia đình ,dòng họ .

12.Tổ chức chính quyền cấp “Đạo” thời kỳ đầu nhà Lê sơ là đơn vị hành chính theo nguyên tắc” trung ương tập quyền” kết hợp với chính quyền quân quản “?

-Nhận định này sai .

-Tổ chức bộ máy thời kỳ đầu nhà Lê sơ mang tính chất quân sự ,chính quyền quân quản .Đối với việc tổ chức chính quyền cấp “Đạo” phản ánh sự thỏa hiệp giữa chính quyền trung ương và chính quyền địa phương trong giai đoạn đầu của nền độc lập .

=> trung ương tản quyền kết hợp với nền hành chính quân quản.

13. Việc vua Lê Thánh Tông cho phép người dân trực tiếp bầu ra chức danh xã trưởng là biểu hiện của nguyên tắc “tản quyền” .

-Nhận định này là đúng .

Page 33: dulieu.tailieuhoctap.vndulieu.tailieuhoctap.vn/books/luat/nha-nuoc-phap-luat/... · Web viewSo với các triều đại khác thì quan lại có thể được bổ nhiệm bằng

-Vì theo nội dung của nguyên tắc tản quyền : không tập trung quyền hạn vào một CQ ,chuyển quyền hạn của cấp trên cho cấp dưới hoặc chuyển từ trung ương xuống địa phương do đó việc cho phép người dân trực tiếp bầu ra chức danh xã trưởng là biểu hiện của nguyên tắc “tản quyền” .

14. Pháp luật hôn nhân gia đình nhà Lê sơ nghiêm cấm quan lại cưới con gái trong địa hạt mình quản lý hoặc con cái nhà làm nghề hát xướng nhằm mục đích bảo vệ trật tự giai cấp?

-Nhận định này là sai .

-Vua Lê Thánh Tông trong ý thức và hành động đều lấy dân làm quý .Ông chăm lo chu đáo đến sự ấm no của dân nên qui định cấm quan lại cưới con gái trong địa hạt mình quản lý hoặc con cái nhà làm nghề hát xướng nhằm mục đích bảo vệ con gái nhà lương dân chứ không nhằm mục đích bảo vệ trật tự giai cấp.

 15. Những quy định nào của PL Hôn nhân gia đình thời Lê thế kỉ XV phản ánh bản chất chế độ hôn nhân phụ hệ nho giáo, nhưng đồng thời cũng thể hiện địa vị của người phụ nữ trong XH phong kiến VN?

16.Hãy làm sáng tỏ nhận định: PL giai đoạn 1428 - 1527 mặc dù đã đặc biệt quan tâm đến đời sống của người dân, tuy nhiên vẫn thể hiện tính giai cấp rõ nét?

17. Các biện pháp được đặt ra trong cuộc cải cách của vua Lê Thánh Tông đều nhằm tăng cường quyền lực tuyệt đối cho nhà Vua. Anh chị hãy cho biết đó là những biện pháp nào và chứng minh thông qua tổ chức BMNN ở TW của nhà Lê giai đoạn 1460 đến 1527 ?

18.PL nhà Lê thế kỉ XV rất chú trọng đến việc bảo vệ quyền sở hữu đối với đất đai. Anh chị hãy lí giải vì sao và chứng minh thông qua các quy định của PL trong bộ Quốc triều hình luật .

Page 34: dulieu.tailieuhoctap.vndulieu.tailieuhoctap.vn/books/luat/nha-nuoc-phap-luat/... · Web viewSo với các triều đại khác thì quan lại có thể được bổ nhiệm bằng

19.PL dân sự về Hợp đồng của nhà Lê thế kỉ XV thể hiện sự quan tâm của nhà làm luật đối với đời sống người dân. Anh chị hãy phân tích nhận địng trên

20.Làm sáng tỏ nguyên tắc “tập quyền” được thể hiện trong tổ chức BMNN TW thời Lê (1460-1497)?

21.Trình bày quan điểm của anh chị về nhận định sau : pháp luật HS,HNGĐ thế kỷ XV ,bảo vệ trật tự trong quan hệ Vua-Tôi, Cha-Con, Chồng -Vợ.

22.Hãy làm sáng tỏ nhận định: PL hôn nhân gia đình thế kỷ XV vừa là công cụ bảo vệ, duy trì chế độ hôn nhân phụ hệ, gia trưởng vừa đồng thời bảo vệ những lợi ích chính đáng của người phụ nữ.

 23.Tại sao nói hệ thống pháp luật Việt Nam thời kỳ Lê sơ (1428 - 1527) chỉ chú trọng đến luật hình sự mà ít chú trọng đến luật dân sự?

 24.Trình bày những đặc điểm cơ bản của pháp luật thời Lê thế kỷ XV. Phân tích 1 đặc điểm mà anh (chị) tâm đắc nhất ?

25.Phân tích bộ máy nhà nước thời Lê thánh tông để chứng minh bộ máy nhà nước thời Lê được xây dựng trên cơ sở các cuộc cải cách của vua Lê?

26. Bạn hãy trình bày những điểm tiến bộ trong các quy định thuộc lĩnh vực dân sự của pháp luật thời Lê sơ?

 27. Chứng minh tổ chức bộ máy nhà nước thời vua Lê Thánh tông đã được tổ chức, hoàn thiện trên cơ sở những biện pháp cái cách của ông.

Page 35: dulieu.tailieuhoctap.vndulieu.tailieuhoctap.vn/books/luat/nha-nuoc-phap-luat/... · Web viewSo với các triều đại khác thì quan lại có thể được bổ nhiệm bằng

28.Hãy làm sáng tỏ nhận định : "pháp luật hình sự thời Lê thế kỷ 15 thật sự là cái mẫu mực để trị nước, cái khuôn phép để buộc dân".

E. Phần Nhà Nguyễn:

1. Nhà Nguyễn mang tính chuyên chế.

a. Tính chuyên chế là bằng mọi biện pháp phải giữ được quyền lợi của giai cấp thống trị, một nền chính trị phản dân chủ, dùng quân đội, công cụ bạo lực để bảo vệ nhà nước

b. Nguyên nhân dẫn đến tính chuyên chế của nhà Nguyễn

- Hoàn cảnh lịch sử ra đời rất phức tạp, thời kỳ loạn lạc kéo dài, phương Tây dòm ngó.

- Nền kinh tế đối đầu giữa kinh tế nông nghiệp tự cung tự cấp với công nghiệp, thị trường của phương Tây.

- Nho giáo gặp phải sự đối đầu của ý thức hệ Kito.

Để bảo đảm quyền lợi của mình, nhà Nguyễn bắt buộc phải chuyên chế.

c. Tính chuyên chế thể hiện

Hoàng Đế có quyền lực rộng lớn trải trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội.

- Bằng pháp luật nhà Nguyễn duy trì quyền hạn tuyệt đối của nhà Vua, không chia sẻ, không nhân nhượng hoặc ủy thác cho bất kỳ một ai.

- Đặt lệ “Tứ bất” nhằm hạn chia sự phân chia quyền lực: không lập Tể tướng, không lập Hoàng hậu, không lập Thái tử, không lập Trạng nguyên.

2. Chính quyền địa phương giai đoạn 1802-1830 tổ chức một cách thận trọng và dè dặt ?

a. Nguyên nhân

Page 36: dulieu.tailieuhoctap.vndulieu.tailieuhoctap.vn/books/luat/nha-nuoc-phap-luat/... · Web viewSo với các triều đại khác thì quan lại có thể được bổ nhiệm bằng

Vì nhà Nguyễn đứng trước nhiều khó khoăn và thử thách mới do hoàn cảnh lịch sử mang lại. Đàng ngoài là vùng đất nghịch do nhiều sĩ phu và dân chúng vẫn còn chống đối. Đàng trong là vùng đất mới còn nhiều biến động nên chưa thật sự ổn định

b. Cách thực hiện

Chia nước làm 3 miền: miền Bắc, miền Nam và miền Trung

Tổ chức chính quyền cấp thành cho miền Bắc và miền Nam: quản lý theo nguyên tắc trung ương tản quyền. Thời kỳ đầu vẫn theo chế độ quân quản, đứng đầu là hai vị Tổng trấn với quyền hành rộng rãi.

3. Lập cấp thành thời nhà Nguyễn là biện pháp mang tính ứng phó linh hoạt tạm thời, bảo đảm cho sự tồn tại của nhà Nguyễn.

a. Nguyên nhân: Nhà Nguyễn mới thành lập nên chưa ổn định, chưa đủ khả năng để trực tiếp quản lý đặc biệt là vùng đất nghịch ở Đàng ngoài và vùng đất mới ở Đàng Trong.

b. Biệm pháp:

- Bắc thành nhà Nguyễn dùng chính sách cai trị đặc biệt: dùng thổ quan để cai trị là các cựu thần nhà Lê

- Tổng trấn đứng đầu cấp thành được vua ban sắc ấn riêng, trực tiếp điều khiển, kiểm soát các trấn trực thuộc.

- Năm 1831 vua Minh Mạnh thực hiện cải cách tránh trình trạng chuyên quyền: xóa bỏ cấp thành, thành lập tỉnh và dưới sự kiểm soát của nhà Vua, vị trí các tỉnh ngang nhau.

4. Tại sao vua Minh Mang (1820 - 1840) thành lập ra chính quyền cấp tỉnh.

- Vì cấp thành sau thời gian tồn tại đã hoàn thành vai trò kiến tạo sự ổn định ở hai đầu Nam Bắc nếu để thành tồn tại sẽ dẫn đến sự tập trung quyền lực đe đọa đến chính quyền trung ương.

5.Anh (chị) hãy giải thích tại sao vua Gia Long đưa ra hai biện pháp sau nhằm cũng cố quyền lực của mình ngay sau khi thành lập vương triều nhà Nguyễn :

Page 37: dulieu.tailieuhoctap.vndulieu.tailieuhoctap.vn/books/luat/nha-nuoc-phap-luat/... · Web viewSo với các triều đại khác thì quan lại có thể được bổ nhiệm bằng

a/ Khẳng định vai trò tuyệt đối của mình trong quân đội ,an ninh quốc phòng và ngoại giao ?

b/ Thành lập chính quyền cấp “Thành “

Giai đoạn đầu mới thành lập, nhà Nguyễn phải đứng trước nhiều khó khăn và thử thách mới do hoàn cảnh lịch sử mang lại .Chính quyền nhà Nguyễn mà đứng đầu là Vua Gia Long phải đối phó với thù trong giặc ngoài -một tình hình chính trị hết sức phức tạp .Ở phía Bắc nhà Nguyễn chưa thật sự thu phục được lòng dân ,còn xuất hiện nhiều thế lực chống đối nhà Nguyễn từ sỉ phu cho đến dân chúng chưa sẳn sang hướng về triều Nguyễn .Ở phí Nam là vùng đất mới ,nơi tụ cư của nhiều sắc tộc, đất Gia Định lại trải qua nhiều biến động lịch sử nên chưa thật sự ổn định .Về đối ngoại nhà Nguyễn còn đứng trước nguy cơ xâm lược của nhà Thanh ,người Xiêm và một số nước Châu Âu như Pháp,Tây Ban Nha,… .Sau khi thống nhất đất nước nhà Nguyễn không đủ khà năng và uy tín để trực tiếp quản lý cả hai vùng Nam Bắc vì vậy nhà Nguyễn chọn Phú Xuân ,đầu não cai trị của Chúa Nguyễn để định đô xuất phát từ những lý do chính trị xã hội như trên .Nhằm đảm bảo độc lập chủ quyền ,sự tồn tại của chính thể quân chủ kiểu mới, phú hợp với hoàn cảnh lịch sử lúc bấy giờ ,ở chính quyền địa phương chúa Nguyễn đã thiết lập tổ chức hành chính trung gian là cấp thành với quy chế quản lý đặc biệt .Chúa Nguyễn thiết lập cấp thành ở hai miển Nam ,Bắc và quản lý cấp thành theo nguyên tắc “trung ương tản quyền “.Đứng đầu mỗi cấp thành là quan Tổng trấn ,mỗi trấn có ba Tào trực thuộc giúp việc .

Quan Tổng trấn thường là các đại công thần ,nhà Vua bổ nhiệm các cựu thần nhà Lê ,các quan làm trong Lục bộ đứng đầu mỗi Tào .Đối với vùng ngoại trấn hoặc dân tộc ít người duy trì dùng biện pháp thổ quan để cai trị .Cấp thành là tổ chức hành chính trung gian giữa triều đình với chính quyền địa phương ,là điểm tựa của chính quyền trung ương và triều đình nhà Nguyễn lãnh đạo các thành theo nguyên tắc “trung ương tản quyền “thông qua các Tổng Trấn , các Tào và các cơ quan giúp việc bên trong .Vai trò chủ yếu của cấp thành là kịp thời giải quyết các tranh chấp,binh biến .Nhìn chung vua Gia Long thành lập chính quyền cấp “Thành “nhằm cũng cố quyền lực của mình ngay sau khi thành lập vương triều nhà Nguyễn đã khẳng định được vai trò tuyệt đối của mình trong quân đội ,an ninh quốc phòng và ngoại giao.Nhà nước triều Nguyễn tồn tại với tư cách một quốc gia độc lập, có chủ quyền .

6.Nguyên nhân nào đã dẫn đến sự cải cách và nội dung cải cách chính quyền địa phương từ năm 1831 đến 1884?

Page 38: dulieu.tailieuhoctap.vndulieu.tailieuhoctap.vn/books/luat/nha-nuoc-phap-luat/... · Web viewSo với các triều đại khác thì quan lại có thể được bổ nhiệm bằng

-Nhằm chấm dức tình trạng phân quyền qua các thành, giản lượt quan viên của tổ chức thành, vua giải quyết công việc trực tiếp không qua khâu trung gian.

-Tránh chuyên quyền, chấm dứt tình trạng cường hào, hạn chế trì trệ trong kiện tụng…

-Nhằm tạo thuận lợi cho việc , thu thuế khóa, bắt lính.

7.So sánh tổ chức chính quyền địa phương thời Lê (1460-1497) với thời Nguyễn (1831-1884). Qua đó hãy chỉ ra bước phát triển về tổ chức nhà nước ở địa phương từ thế kỷ XV đến XIX

Bài Tập chia Thừa kế theo luật Hồng Đức:

Câu 1: Văn A-Thị B là vợ chồng, có 2 con chung là Văn C và Văn D. Thị B chết trước, văn A kết hôn với Thị E. Văn A và Thị E nhận Văn H làm con nuôi. Văn A,Thị E chưa có con chung thì Văn A chết.

 Chia di sản của A theo Luật Hồng Đức, biết:

Tài sản riêng của Văn A là 1,5 sào

Tài sản chung AB là 6 sào

Tài sản chung AE là 3 sào

Câu 2:Phạm văn A cưới Lê thị B có 2 con là Phạm thị C và Phạm văn D, nhận Lê thị E làm con nuôi. 10 năm sau, thị B ốm chết. Sau đó, văn A đi lấy vợ khác là Lê thị G, không có con chung. 4 năm sau, văn A chết. Thị G tái giá lấy văn K.

Hãy chia tài sản của A, B biết:

- tài sản riêng của A là 4 sào, của B là 1 sào.

- tài sản chung của AB là 6 sào, AG là 4 sào

Page 39: dulieu.tailieuhoctap.vndulieu.tailieuhoctap.vn/books/luat/nha-nuoc-phap-luat/... · Web viewSo với các triều đại khác thì quan lại có thể được bổ nhiệm bằng