Upload
others
View
12
Download
0
Embed Size (px)
Citation preview
ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG
TRƯỜNG CĐ CÔNG NGHỆ THÔNG TIN
BÁO CÁO TỔNG KẾT
ĐỀ TÀI KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ
CẤP CƠ SỞ
VẬN DỤNG PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU TÌNH
HUỐNG TRONG GIẢNG DẠY MÔN HỌC KẾ TOÁN
TÀI CHÍNH
Mã số: T2015-07-06
Chủ nhiệm đề tài: ThS. Nguyễn Linh Giang
Đà Nẵng, 12/2015
ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG
TRƯỜNG CĐ CÔNG NGHỆ THÔNG TIN
BÁO CÁO TỔNG KẾT
ĐỀ TÀI KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ
CẤP CƠ SỞ
VẬN DỤNG PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU TÌNH
HUỐNG TRONG GIẢNG DẠY MÔN HỌC KẾ TOÁN
TÀI CHÍNH
Mã số: T2015-07-06
Xác nhận của cơ quan chủ trì đề tài Chủ nhiệm đề tài
Đà Nẵng, 12/2015
DANH SÁCH THÀNH VIÊN THAM GIA ĐỀ TÀI
Thành viên tham gia đề tài: CN. Trương Hoàng Tú Nhi
MỤC LỤC
Trang
DANH MỤC CÁC BẢNG
DANH MỤC CÁC HÌNH
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
THÔNG TIN KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
MỞ ĐẦU ............................................................................................................... 1
1. Lý do chọn đề tài .............................................................................................. 1
2. Mục đích của đề tài .......................................................................................... 1
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài ................................................. 2
4. Phương pháp nghiên cứu ................................................................................. 2
5. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài ....................................................... 2
6. Kết cấu của đề tài ............................................................................................. 3
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC TÌNH
HUỐNG ................................................................................................................. 4
1.1.Lịch sử hình thành của phương pháp dạy học tình huống ........................ 4
1.2. Các khái niệm liên quan đến phương pháp nghiên cứu tình huống ........ 5
1.2.1.Tình huống ................................................................................................... 5
1.2.2. Tình huống dạy học ........................................................................... .6
1.2.3. Cách thức phân loại tình huống ........................................................ 6
1.2.4. Tiêu chuẩn của một tình huống tốt ................................................... 8
1.3. Phương pháp nghiên cứu tình huống trong dạy học ......................... 9
1.3.1. Khái niệm phương pháp dạy học tình huống ............................... 10
1.3.2. Cách thức soạn thảo tình huống ............................................................. 10
1.3.3. Tiến trình thực hiện phương pháp nghiên cứu tình huống ................... 13
1.3.3.1. Quá trình chuẩn bị .................................................................................. 13
1.3.3.2. Tiến trình thực hiện một buổi học theo phương pháp nghiên cứu tình huống 15
1.3.3.3. Đánh giá buổi thảo luận theo phương pháp nghiên cứu tình huống ...... 18
1.3.4. Ưu điểm, hạn chế và thách thức của phương pháp nghiên cứu tình
huống ................................................................................................................... 20
1.3.4.1. Ưu điểm .................................................................................................. 20
1.3.4.2. Hạn chế và thách thức ............................................................................. 21
1.4. So sánh phương pháp dạy học tình huống với phương pháp dạy học
truyền thống ........................................................................................................ 23
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG TÌNH HÌNH GIẢNG DẠY MÔN HỌC KẾ
TOÁN TÀI CHÍNH TẠI TRƯỜNG CAO ĐẲNG CÔNG NGHỆ THÔNG
TIN ....................................................................................................................... 24
2.1. Thực trạng chung về tình hình dạy học môn học Kế toán tài chính tại
Trường Cao đẳng Công nghệ Thông tin .......................................................... 24
2.2. Thực trạng sử dụng các phương pháp giảng dạy đối với môn học Kế
toán tài chính tại Trường Cao Đẳng Công Nghệ Thông Tin ......................... 25
2.3. Đặc điểm của môn học Kế toán tài chính và khả năng áp dụng phương
pháp nghiên cứu tình huống .............................................................................. 26
CHƯƠNG 3: VẬN DỤNG PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU TÌNH HUỐNG
TRONG GIẢNG DẠY MÔN HỌC KẾ TOÁN TÀI CHÍNH TẠI TRƯỜNG
CAO ĐẲNG CÔNG NGHỆ THÔNG TIN ...................................................... 29
3.1. Nguyên tắc và kỹ năng viết tình huống kế toán tài chính ....................... 29
3.2. Nguồn thông tin dữ liệu phục vụ xây dựng tình huống kế toán tài chính ...... 31
3.3. Vận dụng phương pháp nghiên cứu tình huống trong giảng dạy môn học
Kế toán tài chính ............................................................................................... 33
3.3.1. Cách thức triển khai việc dạy học bằng phương pháp nghiên cứu tình
huống ................................................................................................................... 33
3.3.2. Tổ chức giảng dạy theo phương pháp nghiên cứu tình huống ............. 35
3.3.3. Kết quả việc vận dụng phương pháp tình huống trong môn học Kế toán
tài chính .............................................................................................................. 40
3.4. Đánh giá việc vận dụng phương pháp nghiên cứu tình huống trong
giảng dạy môn học Kế toán tài chính .............................................................. 44
3.4.1. Ưu điểm ................................................................................................... 44
3.4.2. Hạn chế ..................................................................................................... 45
3.5. Các giải pháp nâng cao hiệu quả của việc áp dụng phương pháp nghiên
cứu tình huống trong giảng dạy môn học Kế toán tài chính ......................... 46
3.5.1. Đối với nhà trường và các cấp quản lý ................................................... 46
3.5.2. Đối với giảng viên ..................................................................................... 46
3.5.3. Đối với sinh viên ........................................................................................ 47
KẾT LUẬN ......................................................................................................... 50
TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC
THUYẾT MINH ĐỀ TÀI
HỢP ĐỒNG TRIỄN KHAI THỰC HIỆN
BÀI BÁO ĐƯỢC ĐĂNG LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI
DANH MỤC CÁC BẢNG
Số
hiệu
bảng
Tên bảng Trang
1.1 Bảng đánh giá tình huống 19,20
2.1 Bảng đánh giá của sinh viên về thực trạng dạy học môn
Kế toán tài chính nói chung 25
2.2 Mức độ vận dụng các phương pháp dạy học cụ thể trong
giảng dạy môn học Kế toán tài chính 26
3.1 Ưu điểm của việc vận dụng phương pháp tình huống
trong môn học Kế toán tài chính 43
3.2 Mức độ hình thành các kỹ năng thông qua học theo tình
huống 45
DANH MỤC CÁC HÌNH
Số
hiệu
hình
Tên hình Trang
1.1 Các bước người học trải qua khi giải quyết tình huống 16
3.1 Các giai đoạn trong tiến trình dạy học bằng phương pháp
tình huống
36
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
Cao đẳng Công nghệ Thông tin : CĐ CNTT
Kế toán – Tin học : KT - TH
Kế toán tài chính : KTTC
Nhà xuất bản : NXB
Nghiên cứu tình huống : NCTH
Trước công nguyên : TCN
Thông tư – Bộ tài chính : TT - BTC
Việt Nam Airline : VNA
ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TRƯỜNG CĐ CÔNG NGHỆ THÔNG TIN Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
THÔNG TIN KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
1. Thông tin chung:
- Tên đề tài: Vận dung phương pháp nghiên cứu tình huống trong giảng dạy môn
học Kế toán tài chính
- Mã số: T2015 -07-06
- Chủ nhiệm: Nguyễn Linh Giang
- Thành viên tham gia: Trương Hoàng Tú Nhi
- Cơ quan chủ trì: Trường Cao đẳng Công nghệ Thông tin
- Thời gian thực hiện: 01/2015 – 12/2015
2. Mục tiêu:
Đề tài góp phần làm rõ hơn nữa về phương pháp nghiên cứu tình huống trong
giảng dạy cao đẳng đại học.
Vận dụng phương pháp nghiên cứu tình huống trong giảng dạy môn học Kế
toán tài chính nhằm đổi mới phương pháp giảng dạy, nâng cao chất lượng dạy và học
cho sinh viên chuyên ngành Kế toán – Tin học tại Trường CĐ CNTT.
3. Tính mới và sáng tạo:
Thuộc về nhóm các phương pháp dạy học hiện đại, phương pháp nghiên cứu
tình huống đã chứng tỏ tính ưu việt vượt trội của nó trong việc đưa người học lên đến
vị trí trung tâm của quá trình dạy học, tăng hướng thú học tập của người học, cũng như
nâng cao tính thực tiễn của môn học, rút ngắn khoảng cách giữa đào tạo nhà trường và
nhu cầu thực tiễn xã hội, thực tiễn nghề nghiệp. Có thể nói, phương pháp nghiên cứu
tình huống góp một phần không nhỏ vào việc khai thác tiềm năng trí tuệ của người
học, phát huy tối đa tính tích cực và sáng tạo của họ trong học tập.
4. Tóm tắt kết quả nghiên cứu:
Đề tài nghiên cứu về cơ bản đã đạt được mục tiêu nghiên cứu đặt ra và đạt được
các kết quả sau:
-Làm rõ những vấn đề lý luận cơ bản về phương pháp dạy học nghiên cứu tình
huống.
- Nêu lên thực trạng việc sử dụng phương pháp nghiên cứu tình huống trong
giảng dạy môn học Kế toán tài chính tại Trường Cao đẳng Công nghệ Thông tin.
- Vận dụng phương pháp nghiên cứu tình huống trong giảng dạy môn học Kế
toán tài chính tại Trường Cao đẳng Công nghệ Thông tin.
5. Tên sản phẩm:
01 Bài báo được đăng trên Tạp chí Khoa học và Công nghệ Đại học Đà Nẵng
với tên bài báo “Vận dụng phương pháp nghiên cứu tình huống trong giảng dạy môn
học Kế toán tài chính”
01 Báo cáo tổng kết
6. Hiệu quả, phương thức chuyển giao kết quả nghiên cứu và khả năng áp dụng:
Việc đưa ra tình huống để sinh viên đọc tài liệu và giải quyết sẽ tạo nhiều hứng
thú trong học tập đồng thời giúp sinh viên có điều kiện gắn những kiến thức lý thuyết
vào thực tế. Tạo tính chủ động nghiên cứu và phát huy được hết những lợi ích của làm
việc nhóm, định hướng học tập cho sinh viên cụ thể hơn. Việc phát triển các phương
pháp dạy học tích cực, học tập hợp tác không chỉ còn có ý nghĩa ngay trong quá trình
học tập ở nhà trường mà còn chuẩn bị cho sinh viên những kỹ năng cần thiết phục vụ
cho quá trình công tác, làm việc sau khi ra trường.
Vận dụng phương pháp nghiên cứu tình huống vào trong giảng dạy môn học Kế
toán tài chính giúp cho bài giảng Kế toán tài chính phong phú thông tin hơn, hỗ trợ
cho việc vận dụng các kiến thức đã học với tình huống cụ thể trong thực tiễn, từ đó có
thể vận dụng phương pháp này để đổi mới cách thức soạn giảng đối với các môn học
cùng chuyên ngành, góp phần nâng cao chất lượng đào tạo chuyên ngành Kế toán –
Tin học Tại Khoa HTTT Kinh tế Trường Cao đẳng CNTT.
7. Hình ảnh, sơ đồ minh họa chính
Đà Nẵng, ngày 10 tháng 12 năm 2015
Cơ quan chủ trì Chủ nhiệm đề tài
GIAI ĐOẠN CHUẨN BỊ
Giảng viên công bố yêu cầu, hướng dẫn
tìm hiểu trước nội dung và đưa ra tình
huống
Phân nhóm và chuẩn bị theo nhóm
Các nhóm trình bày tình huống
Thảo luận, nhận xét, đánh giá
Giảng viên tổng kết, đánh giá
GIAI ĐOẠN THỰC HIỆN
GIAI ĐOẠN TỔNG KẾT ĐÁNH GIÁ
Hình 1. Các giai đoạn trong tiến trình dạy học bằng phương pháp tình huống
1
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trong điều kiện cạnh tranh ngày càng gay gắt cùng với sự thay đổi nhanh
chóng của môi trường kinh doanh, khoa học, kỹ thuật và công nghệ, các doanh
nghiệp tuyển dụng có những đòi hỏi nhiều hơn về năng lực của sinh viên tốt nghiệp.
Những yêu cầu về kinh nghiệm thực tiễn và kỹ năng thực hành đối với sinh viên
vừa tốt nghiệp thực sự là một thách thức với việc giáo dục và đào tạo đối với các
trường đại học cao đẳng. Phương pháp nghiên cứu tình huống (Case Study) đã
chứng tỏ là một phương pháp rất hiệu quả trong việc đáp ứng những đòi hỏi của
thực tiễn và được kiểm nghiệm tại nhiều trường đại học nổi tiếng trên thế giới mà
điển hình là đại học Harvard - là chiếc nôi của việc dạy và học bằng tình huống.
Tại Việt Nam, một số trường đại học đã bắt đầu áp dụng phương pháp tình
huống vào giảng dạy và cho thấy những tín hiệu tích cực. Nếu tình huống được xây
dựng có chất lượng và giảng viên có kỹ năng tốt trong việc giảng dạy bằng phương
pháp tình huống sẽ tạo ra những cơ hội giúp sinh viên có được những kinh nghiệm
thực tế, trau dồi và phát triển được các kỹ năng thực hành cần thiết khi ra trường.
Môn học Kế toán tài chính là một trong những môn học trọng tâm trong
chương trình giảng dạy cử nhân cao đẳng chuyên ngành Kế toán – Tin học nhằm
trang bị những kiến thức chuyên ngành cho người học, giúp người học có đủ kiến
thức và kỹ năng để thực hiện công tác kế toán trong các doanh nghiệp. Nội dung
của môn học này vừa mang tính lý thuyết lại vừa gắn liền với các hoạt động thực
tiễn. Trong xu thế đổi mới phương pháp dạy học ở đại học hiện nay, đặc biệt là việc
áp dụng đào tạo theo học chế tín chỉ lấy người học làm trung tâm thì việc vận dụng
phương pháp dạy học tình huống nhằm phát huy năng lực tự học, tự nghiên cứu của
sinh viên, giúp các em nắm vững môn học Kế toán tài chính một cách thông suốt là
thực sự cần thiết. Thông qua việc kết hợp giữa lý thuyết và thực tiễn các tình huống
các em có thể vận dụng vào thực tế công việc sau này đồng thời góp phần nâng cao
chất lượng bài giảng của mỗi giảng viên.
2
Với nhận thức trên, tác giả đã chọn đề tài “Vận dụng phương pháp nghiên
cứu tình huống trong giảng dạy môn học Kế toán tài chính” để nghiên cứu.
2. Mục đích của đề tài
- Về mặt lý luận: Đề tài góp phần làm rõ hơn nữa về phương pháp nghiên
cứu tình huống trong giảng dạy cao đẳng đại học.
- Về mặt thực tế: Vận dụng phương pháp nghiên cứu tình huống trong giảng
dạy môn học Kế toán tài chính nhằm đổi mới phương pháp giảng dạy, nâng cao chất
lượng dạy và học cho sinh viên chuyên ngành Kế toán – Tin học tại Trường Cao
đẳng Công nghệ Thông tin (CĐ CNTT)
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài
- Đối tượng nghiên cứu: Đề tài chủ yếu đi sâu làm rõ nội dung phương
pháp nghiên cứu tình huống và vận dụng phương pháp này vào giảng dạy môn học
Kế toán tài chính nhằm đổi mới phương pháp giảng dạy và nâng cao chất lượng dạy
và học.
- Phạm vi nghiên cứu: Vận dụng phương pháp nghiên cứu tình huống trong
giảng dạy môn học Kế toán tài chính dành cho sinh viên năm 2 chuyên ngành Kế
toán – Tin học Trường CĐ CNTT.
4. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài sử dụng phương pháp nghiên cứu của chủ nghĩa duy vật biện chứng,
phương pháp nghiên cứu tổng kết kinh nghiệm, phương pháp kế thừa, phương pháp
phân tích, tổng hợp,…
5. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài
Việc đưa ra tình huống để sinh viên đọc tài liệu và giải quyết sẽ tạo nhiều
hứng thú trong học tập đồng thời giúp sinh viên có điều kiện gắn kiến thức lý thuyết
vào thực tế. Tạo tính chủ động nghiên cứu và phát huy được hết những lợi ích của
làm việc nhóm, định hướng học tập cho sinh viên cụ thể hơn. Việc phát triển các
phương pháp dạy học tích cực, học tập hợp tác không chỉ còn có ý nghĩa ngay trong
3
quá trình học tập ở nhà trường mà còn chuẩn bị cho sinh viên những kỹ năng cần
thiết phục vụ cho quá trình công tác, làm việc sau khi ra trường.
6. Kết cấu của đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo, đề tài được chia thành 03
chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận về phương pháp dạy học nghiên cứu tình huống
Chương 2: Thực trạng tình hình giảng dạy môn học Kế toán tài chính tại
Trường Cao đẳng Công nghệ Thông tin
Chương 3: Vận dụng phương pháp nghiên cứu tình huống trong giảng dạy
môn học Kế toán tài chính tại Trường Cao đẳng Công nghệ Thông tin
4
CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC NGHIÊN CỨU
TÌNH HUỐNG
1.1.Lịch sử hình thành của phương pháp dạy học nghiên cứu tình huống
Tình huống vốn đã được sử dụng từ lâu trong lịch sử giáo dục thế giới,
thậm chí từ thời Cổ đại. Phương pháp nghiên cứu tình huống (NCTH) đã được đề
cập đến trong nhiều kinh sách, văn học cổ qua các thời đại của Trung Quốc mà
tiêu biểu là Khổng Tử (551-487 TCN), với nhiều tình huống theo hướng nêu vấn
đề đặc sắc, cá thể hóa tiếp nhận, phương pháp xử lí tình huống là những bài học
quý báu về răn dạy con người, được xem là tấm gương về phương pháp giáo dục
tích cực cho hậu thế.
Phương pháp NCTH được sử dụng lần đầu tiên một cách bài bản tại
trường Đại học kinh doanh Harvard. Ngay từ năm 1870, Christopher
Columbus Langdell là người khởi xướng việc sử dụng các tình huống trong
giảng dạy về quản trị kinh doanh. Và sau đó, khoảng từ năm 1909, nhà trường
đã liên tục mời đại diện các doanh nghiệp đến trường trình bày cho sinh viên
nghe về các vấn đề trong thực tế kinh doanh, sau đó, yêu cầu các sinh viên phân
tích, thảo luận về các vấn đề, tình huống đó và đưa ra các kiến nghị về giải
pháp. Đến năm 1921, nhìn thấy tầm qua trọng và tác dụng to lớn của việc áp
dụng phương pháp NCTH trong giảng dạy quản trị nên Copeland đã xuất bản
cuốn sách đầu tiên về phương pháp dạy học nghiên cứu tình huống và nỗ lực
phổ biến phương pháp giảng dạy này trong toàn trường. Phương pháp này sau
đó đã dần được áp dụng phổ biến trong hầu hết các ngành nghề đào tạo như y,
luật, hàng không và trong các trường học ở tất cả các cấp bậc đào tạo, đặc biệt
là đào tạo đại học.
Học tập kinh nghiệm của Trường Đại học kinh doanh Harvard, năm
1919, trường đại học Western Ontario của Canada cũng đã bắt đầu áp dụng
phương pháp tình huống trong giảng dạy kinh doanh (hai người khởi xướng là
5
W. Sherwood Fox - Trưởng khoa cơ bản, và K.P.R Neville - Trưởng phòng
giáo dục). Thậm chí, năm 1922, trường này còn thuê Ellis H. Morrow, một cựu
sinh viên Harvard, đến triển khai phương pháp nghiên cứu tình huống. Ngày
nay, Trường Kinh doanh Richard Ivey của Đại học Western Ontarino đã trở
thành cơ sở uy tín số một ở Canada trong áp dụng phương pháp tình huống vào
giảng dạy.
Được áp dụng mạnh mẽ trong giảng dạy ở lĩnh vực kinh doanh, phương
pháp NCTH đã ngày càng đưa người học đến với trung tâm của buổi học, còn
giáo viên chỉ có vai trò là người hỗ trợ những sinh viên của mình trong việc
liên hệ lý thuyết với thực tiễn một cách đúng đắn và chuẩn xác hơn.
Trong vòng 20 năm trở lại đây, phương pháp NCTH cũng đã được đưa
vào áp dụng trong giảng dạy ở các trường đại học Việt Nam, đặc biệt ở các
ngành y, luật, sư phạm, quản trị kinh doanh. Tuy chưa phải ở mức phổ biến
nhưng phương pháp này tỏ ra cực kỳ hiệu quả trong việc học gắn với thực tiễn
và làm cho các giờ học trở nên sinh động và hấp dẫn hơn.
1.2. Các khái niệm liên quan đến phương pháp nghiên cứu tình huống
1.2.1.Tình huống
Theo quan điểm triết học, tình huống được nghiên cứu như là một tổ hợp
các mối quan hệ xã hội cụ thể, mà đến một thời điểm nhất định liên kết con người
với môi trường, biến con người thành một chủ thể của một hoạt động có đối tượng
nhằm đạt được một mục tiêu nhất định.
Theo Từ điển Tiếng Việt, tình huống là toàn thể những sự việc xảy ra tại
một địa điểm, trong một thời gian cụ thể, buộc người ta phải suy nghĩ, hành
động, đối phó, tìm cách giải quyết [14].
Một cách tổng quát có thể sử dụng khái niệm tình huống được xem xét về
mặt tâm lí học. Đó là tình huống được quan niệm trên cơ sở quan hệ giữa chủ thể
và khách thể, trong không gian và thời gian. “Tình huống là hệ thống các sự kiện
bên ngoài có quan hệ với chủ thể, có tác dụng thúc đẩy tính tích cực của người đó.
6
Trong quan hệ không gian tình huống xảy ra bên ngoài nhận thức của chủ thể,
trong quan hệ thời gian tình huống xảy ra trước so với hành động của chủ thể.
Trong quan hệ chức năng tình huống là sự độc lập của các sự kiện đối với chủ
thể ở thời điểm mà người đó thực hiện hành động” [13].
1.2.2. Tình huống dạy học
Theo Boehrer (1995): “Tình huống dạy học là một câu chuyện, có cốt
truyện và nhân vật, liên hệ đến một hoàn cảnh cụ thể, từ góc độ cá nhân hay
nhóm, và thường là hành động chưa hoàn chỉnh. Đó là một câu chuyện cụ thể
và chi tiết, chuyển nét sống động và phức tạp của đời thực vào lớp học”.
Tình huống được đưa vào giảng dạy thường ở dưới dạng những bài tập
nghiên cứu. Đặc điểm nổi bật của loại hình bài tập này là phải xoay quanh
những sự kiện có thật hay gần gũi với thực tế trong đó chứa đựng những vấn
đề và mâu thuẫn cần phải giải quyết. Về mặt nội dung, tình huống không
những phải chứa đựng vấn đề mà còn tạo điều kiện dẫn dắt người học tìm
hiểu sâu qua nhiều tầng, lớp của vấn đề. Một tình huống thông thường chưa
phải là một tình huống dạy học. Nó chỉ trở thành tình huống dạy học khi người
giáo viên đưa những nội dung cần truyền thụ vào trong các sự kiện tình huống và
cấu trúc các sự kiện sao cho phù hợp với logic sư phạm, để khi người học giải
quyết nó sẽ đạt được mục tiêu dạy học [1],[2].
Tóm lại, những tình huống trong giảng dạy là những tình huống mang
tính điển hình, miêu tả những sự kiện, hoàn cảnh có thật hay hư cấu nhằm giúp
người học hiểu và vận dụng tri thức. Tình huống được sử dụng nhằm kích thích
người học phân tích, bình luận, đánh giá, suy xét và trình bày ý tưởng của mình
để qua đó từng bước chiếm lĩnh tri thức hay vận dụng những kiến thức đã học
vào những trường hợp thực tế.
1.2.3. Cách thức phân loại tình huống
Có rất nhiều loại tình huống cũng như cách thức phân loại chúng. Một
trong những cách tương đối phổ biến đó là phân loại tình huống theo dạng
7
thức (format) của Boehrer, John và Martin Linsky (1990). Theo cách này thì
tình huống được chia thành 6 dạng cơ bản với những đặc điểm, phương pháp
tiến hành tương đối khác nhau, bao gồm:
- Tình huống lớn (tình huống chi tiết): loại tình huống này thường
được sử dụng trong môn kinh tế học và luật học. Chúng chú trọng tới việc
quyết định được đưa ra là gì, ai là người đưa ra quyết định đó và tầm ảnh
hưởng của những quyết định ấy tới những tầng lớp, đảng phải, bộ phận trong
xã hội ra sao…. Những tình huống loại này có thể kéo dài đến hơn 100 trang.
Người học đọc trước toàn bộ tình huống và chuẩn bị một bản phân tích về
những quyết định có thể đưa ra. Tình huống sau đó sẽ được thảo luận trong
lớp theo từng nhóm lớn, dưới sự điều phối của giáo viên. Tình huống có thể
sẽ được thảo luận trong một, nhiều buổi học hay thậm chí là suốt cả khóa học
[1], [2].
- Tình huống mô tả: loại tình huống này thường được sử dụng trong
việc giảng dạy y khoa và thường không có ranh giới rõ ràng giữa câu trả lời
đúng và sai. Những tình huống loại này có thể kéo dài khoảng 5 trang, mỗi
trang bao gồm một số đoạn văn, thường được đưa ra thảo luận trong một vài
buổi học. Nếu được tiến hành trong nhiều buổi học thì ở mỗi buổi, tình huống
được triển khai đến cho sinh viên theo những khía cạnh khác nhau và giáo
viên có vai trò hướng dẫn, yêu cầu sinh viên giải thích và minh chứng cho
những ý tưởng của mình [1], [2].
Người học trước tiên sẽ làm việc trong nhóm nhỏ để phân tích, mổ xẻ
tình huống nhằm xác định những sự kiện đã biết và những yếu tố chưa biết.
Họ đặt ra các giả thuyết cũng như những mục tiêu tìm hiểu đối với từng phần
của tình huống. Giữa các buổi lên lớp, người học sẽ phải tìm kiếm thông tin
nhằm phân tích và giải quyết tình huống, mục đích buổi học sẽ được đề cập
sau khi tình huống được giải quyết và thảo luận. Học theo cách này, người
học có sự chủ động cao mà không phải bó buộc vào bất cứ một nhóm các câu
hỏi nào cả.
8
- Tình huống nhỏ: là loại tình huống ngắn gọn, được trình bày trong 1
đến 2 đoạn văn. Loại tình huống này có thể được sử dụng trong nhiều hoàn
cảnh khác nhau. Chủ yếu nó được thiết kế để sử dụng trong một buổi học và
do vậy, có nội dung tương đối cô đọng và súc tích. Nó có thể được sử dụng
để giáo viên dẫn dắt vào bài, để người học áp dụng lý thuyết vào thực tiễn
hay đơn giản chỉ là một hoạt động ngắn ở trước hay sau buổi học để “thiết
thực hóa” nội dung lý thuyết đã giảng dạy [1], [2].
- Tình huống trực tiếp: tình huống có thể dài hay ngắn tùy ý, nhưng
ngay sau tình huống sẽ là những câu hỏi trực tiếp để dẫn dắt người học giải
quyết vấn đề.
- Tình huống hạt nhân: loại tình huống này chỉ bao gồm hay hay ba
câu và nhằm truyền tải một nội dung đơn nhất. Loại tình huống này chủ yếu
nhằm khơi gợi và dẫn dắt vào bài học.
- Tình huống lựa chọn: loại tình huống này gần với dạng câu hỏi trắc
nghiệm, nhưng cũng có ngữ cảnh và tình huống rõ ràng. Người học có nhiệm
vụ chọn ra phương pháp giải quyết hợp lý nhất trong 4-5 phương án được đề
ra. Không chỉ áp dụng trong những bài kiểm tra, loại tình huống này còn có
thể được sử dụng trong thảo luận. Ở đó, mỗi nhóm phải bàn luận và chọn lấy
một giải pháp và sẵn sàng bảo vệ cho những luận điểm và lựa chọn của
nhóm mình.
Trên thực tế, không nên tranh cãi “đâu là loại tình huống tốt nhất” vì
không có tình huống nào là tối ưu cho mọi hoàn cảnh, tùy vào những hoàn
cảnh khác nhau, người dạy và người học có thể chọn loại tình huống thích
hợp nhất cho tiết học của mình [1], [2].
1.2.4. Tiêu chuẩn của một tình huống tốt
Theo Herreid (1998) đã chỉ ra những tiêu chí của một tình huống tốt đó
là [9]:
- Một tình huống tốt kể ra một câu chuyện
9
- Một tình huống tốt xoay quanh một vấn đề hấp dẫn
- Một tình huống tốt xảy ra trong vòng 05 năm trở lại đây
- Một tình huống tốt gây dựng ở người học sự thấu cảm với nhân vật
- Một tình huống tốt bao gồm các trích dẫn
- Một tình huống tốt phù hợp với người đọc
- Một tình huống tốt phải có tính sư phạm
- Một tình huống tốt gây dựng được xung đột
- Một tình huống tốt có tính khái quát
- Một tình huống tốt thì ngắn gọn
Tóm lại, để có một tình huống dạy học tốt, thì tình huống đó phải đạt
được những tiêu chí sau đây:
Về mặt nội dung, tình huống phải:
- Mang tính giáo dục
- Chứa đựng mâu thuẫn và mang tính khiêu khích
- Tạo sự thích thú cho người học.
- Nêu ra được những vấn đề quan trọng và phù hợp với người học,...
Về mặt hình thức, tình huống phải:
- Có cách thể hiện sinh động
- Sử dụng thuật ngữ ngắn gọn, súc tính và ẩn danh
- Được kết cấu rõ ràng, rành mạch và dễ hiểu
- Có trọng tâm, và tương đối hoàn chỉnh để không cần phải tìm hiểu
thêm quá nhiều thông tin,...
10
1.3. Phương pháp nghiên cứu tình huống trong dạy học
1.3.1. Khái niệm phương pháp dạy học tình huống
“Học là việc chuẩn bị cho người học vào các tình huống của thực tiễn
cuộc sống” (Robinson), bởi thế, việc học và lĩnh hội tri thức cần phải được gắn
liền với các tình huống của cuộc sống và thực tiễn nghề nghiệp.
Trên thực tế tồn tại nhiều cách gọi khác nhau cho phương pháp này, ví
dụ như: phương pháp dạy học theo tình huống, phương pháp nghiên cứu tình
huống, hay ngắn gọn hơn là phương pháp tình huống.
Theo Hammond, J.S - Đại học Havard: “ Phương pháp nghiên cứu tình
huống (Case Study) là phương pháp dạy học thông qua nghiên cứu trường hợp điển
hình. Ở đây, người học được giới thiệu một tình huống cụ thể, có thật và được đặt
vào vị trí của người ra quyết định để giải quyết vấn đề trong tình huống ấy”.
Theo Nguyễn Hữu Lam (2003): “Phương pháp tình huống là một kỹ
thuật giảng dạy trong đó các thành tố chủ yếu của nghiên cứu tình huống được
trình bày với những người học với các mục đích minh hoạ hoặc các kinh
nghiệm giải quyết vấn đề”
Vậy, phương pháp nghiên cứu tình huống là một kỹ thuật giảng dạy trong
đó những thành tố chính của một tình huống nghiên cứu được trình bày cho sinh
viên với mục đích minh họa hoặc tạo kinh nghiệm giải quyết vấn đề [8], [9].
1.3.2. Cách thức soạn thảo tình huống
Để thiết kế một tình huống cần thiết thực hiện các bước sau:
Bước 1: Xác định mục tiêu bài học và cân nhắc các yếu tố khách quan
Trước tiên, người giáo viên cần phải xác định được mục tiêu bài học, vì xét
cho cùng thì tình huống, dù ở dạng thức nào đi chăng nữa, cũng đều phải phục vụ
một mục đích nào đó. Trong giảng dạy tình huống, thì mục tiêu cần đạt được ấy
chính là mục tiêu bài học. Chính vì thế mà người giáo viên luôn phải đặt cho mình
câu hỏi “Ở bài học này, cần phải đạt được mục tiêu gì, phải cung cấp cho người
11
học những kiến thức gì và phải rèn luyện cho họ những kỹ năng cần thiết gì?” và
tham chiếu vào đó để thiết kế tình huống sao cho phù hợp. Nếu không, sẽ dễ xảy
ra những trường hợp là tình huống nêu ra không có hoặc truyền tải quá ít ý nghĩa
giáo dục. Khi đó, thảo luận tình huống sẽ trở thành một buổi nói chuyện phiếm,
không mang lại tác dụng sư phạm gì cho người được giáo dục [5], [7], [10].
Tiếp đó, người giáo viên cần tính đến các yếu tố khách quan, vì những yếu
tố này có quyết định trực tiếp đến sự thành công của tình huống. Cụ thể là người
giáo viên cần phải tính đến những yếu tố như:
- Thời gian: một buổi thảo luận dựa trên tình huống phải diễn ra “vừa phải”
với khoảng thời gian cho phép.
- Số người học: số người học có ảnh hưởng quan trọng đến tình huống, vì
thiết kế một tình huống cho 20 người sẽ hoàn toàn khác với việc thiết kế một tình
huống cho một nhóm nhỏ 5 người. Thông thường thì số người tham gia thảo luận
ý tưởng khoảng 15 – 20 người.
- Trình độ của người học: dựa vào trình độ của người học mà người dạy cần
đưa ra những tình huống vừa sức, không quá khó để cản trở người học giải quyết
vấn đề nhưng cũng không quá dễ để khiến cho người học cảm thấy nhàm chán.
- Cơ sở vật chất: tùy theo điều kiện vật chất mà người giáo viên lựa chọn
con đường truyền tải nội dung dễ hiểu nhất, như sử dụng máy chiếu, video, tranh
ảnh và thiết kế nhóm thảo luận.
Bước 2: Chuẩn bị tình huống
Lấy ý tưởng
Việc lấy ý tưởng cho một tình huống sẽ tạo tiền đề quan trọng cho một tình
huống tốt. Tuy nhiên thực tế cho thấy việc lấy ý tưởng cho một tình huống là
không hề dễ dàng, bởi nó đòi hỏi rất nhiều thời gian, công sức để tìm được những
ý tưởng hay và mới lạ. Tuy nhiên, có một số nguồn thông tin mà người giáo viên
có thể sử dụng để tạo ý tưởng cho tình huống:
12
+ Các phương tiện thông tin đại chúng: đây là nguồn thông tin phong phú
và đa dạng mà giáo viên có thể tận dụng để khai thác. Sử dụng Ti vi, đài báo, sách
truyện và đặc biệt là Internet, nhiều giáo viên đã tìm được nhiều ý tưởng cho tình
huống dạy học của mình [10], [11].
+ Người học: Người học không chỉ đơn thuần đóng vai trò là người phân
tích và giải quyết tình huống mà họ còn có thể là chủ thể sáng tạo và đề xuất ra
tình huống. Những vấn đề, trường hợp khó giải quyết mỗi cá nhân đã từng gặp
trong cuộc sống sẽ trở thành nguồn tình huống vô tận mà mỗi giáo viên có thể khai
thác và vận dụng một cách thích hợp để phục vụ tốt nhất cho nội dung bài học. Do
đó, người dạy có thể yêu cầu người học chuẩn bị những tình huống theo cá nhân
hay có thể theo nhóm và coi đó như một bài tập nhỏ [10], [11].
+ Kinh nghiệm bản thân: Trong những trường hợp mà không thể tìm kiếm
được những nguồn thông tin bên ngoài thì kinh nghiệm bản thân cũng là nguồn tư
liệu mà người dạy có thể khai thác. Tuy nhiên, thực tế chứng minh là không phải
ai cũng có một nguồn tri thức nền đủ rộng để có thể thiết kế một tình huống cụ thể
và hiệu quả [10], [11].
Viết tình huống
Sau khi đã tạo ra ý tưởng thì cũng là lúc giáo viên có thể bắt tay vào việc
biên soạn tình huống. Nhìn chung, một tình huống tốt thường có 3 phần: Mở đầu,
phát triển và kết thúc. Nhiệm vụ cụ thể của từng phần như sau:
Mở đầu: giới thiệu tình huống và nhân vật, bước đầu tạo lập bối cảnh mà
dựa trên đó, tình huống được diễn ra.
Phát triển: đây tất nhiên là phần chính, vì nó cung cấp cho người học những
chi tiết và dữ kiện cần thiết cho công việc thảo luận, tổng hợp nên giải pháp và
cũng là phần mà những mâu thuẫn, xung đột được đẩy lên đến đỉnh điểm, buộc
người học phải có sự lựa chọn.
13
Kết luận: Khác với một bài làm văn, phần kết luận trong một tình huống
thường là một kết thúc mở với một câu hỏi được nêu ra, yêu cầu người học phải
giải quyết.
Một số lưu ý khi viết tình huống
- Nên dùng văn phong báo chí khi viết tình huống (ngắn gọn, súc tích).
- Nên dùng ngôn ngữ đơn nghĩa, rõ ràng, nên giải thích những thuật ngữ
mới.
- Người viết tình huống phải giữ vai trò trung lập, không đưa ra nhận xét
riêng ảnh hưởng đến người học.
- Có thể là tình huống sống động bằng cách sử dụng những trích dẫn hài
hước.
1.3.3. Tiến trình thực hiện phương pháp nghiên cứu tình huống
1.3.3.1. Quá trình chuẩn bị
Về phía người dạy
Nền tảng cho một tình huống tốt chính là ở khâu chuẩn bị từ phía người học
cũng như người dạy. Đối với người dạy sự chuẩn bị không chỉ dừng lại ở việc soạn
thảo tình huống hay hướng dẫn học sinh cách soạn thảo tình huống mà còn qua
việc chuẩn bị cho buổi thảo luận tình huống.
- Đặt ra những yêu cầu đối với người học
Trước một khóa học về tình huống hay trước những buổi thảo luận về tình
huống, người dạy cần “thảo thuận” với người học về những yêu cầu mà họ cần đạt
được trong quá trình thảo luận. Christensen (1986) đã đưa ra tiêu chí “4Ps” mà
người dạy cần thống nhất với người học trước những buổi thảo luận tình huống,
trong đó bao gồm:
+ Preparation: Sự chuẩn bị trước khi thảo luận
+ Presence: Sự có mặt đầy đủ trong các buổi thảo luận
14
+ Promptness: Sự đúng giờ trong các buổi thảo luận
+ Participation: Sự tích cực trong tham gia thảo luận
Thậm chí, nếu cần thiết người dạy có thể trình bày rõ tiêu chí cho điểm, đánh
giá thảo luận của mình và lắng nghe những ý kiến phả hồi từ trước phía học sinh.
Những quy định và yêu cầu như vậy là rất cần thiết trong việc định hướng người
học trong thảo luận tình huống nhằm đạt được những tiêu chí cần thiết của một
buổi học bằng phương pháp dạy học tình huống, cũng như đảm bảo được tính công
bằng và qua đó, khuyến khích người học tham gia thảo luận tích cực và có trách
nhiệm hơn [5], [7].
Thêm vào đó, người dạy cồn có thể đề ra những quy tắc chung trước các buổi
thảo luận. Việc đề ra những quy tắc chung như vậy sẽ giúp cho người dạy điều
hành buổi học dễ dàng, đồng thời cũng giúp cho buổi thảo luận diễn ra cởi mở và
thành công hơn. Tùy theo từng điều kiện cụ thể mà người dạy đề ra những quy tắc
chung cho phù hợp với nội dung của buổi học.
- Mô tả cấu trúc của một buổi học tình huống và chia nhóm
Trong bước này, người dạy cần giúp người học thấy được tiến trình và cách
thức tiến hành một buổi thảo luận, thời gian cho phép cũng như nhiệm vụ của họ
trong quá trình thảo luận. Đối với những người học lần đầu tham gia thảo luận tình
huống, người dạy cũng cần phải nói rõ vai trò của mình không phải đưa ra đáp án
mà chỉ là người nêu ra các câu hỏi và trợ giúp khi cần thiết. Qua đó, người dạy
khuyến khích tính chủ động, tích cực và tự do trình bày quan điểm của mỗi cá nhân
và những luận chứng, luận cứ để bảo vệ cho quan điểm của cá nhân, nhóm mình [5],
[7].
Cũng ở trong bước này mà người dạy có thể thực hiện chia nhóm đối với
người học theo những tiêu chí, mục đích riêng của buổi học cũng như môn học.
Việc chia nhóm như thế nào có thể được quyết định bởi giáo viên (dựa vào trình độ
của người học để có thể xen kẽ những học sinh giỏi và những học sinh còn yếu) hay
cũng có thể do người học tự quyết định (bốc thăm, tự chọn,…).
15
- Chuẩn bị kiến thức cho người học
Thông thường, để người học có thể tiến hành thảo luận đạt kết quả cao,
người dạy có thể sẽ phải trang bị cho người học một số những kiến thức cần thiết.
Những sự chuẩn bị này có thể là qua những bài giảng, những bản phát tay hay
những danh sách tài liệu hướng dẫn đọc thêm ở nhà. Tuy nhiên, cũng có trường
hợp người dạy sẽ không chuẩn bị cho người học và yêu cầu học phải tự tìm tòi lấy
nội dung kiến thức để phục vụ cho buổi thảo luận. Mặc dầu vậy, sự định hướng
của giáo viên cho người học trong giai đoạn này sẽ giúp nâng cao chất lượng của
buổi thảo luận và đảm bảo sự hoàn thành mục tiêu bài học của buổi thảo luận.
Về phía người học
Trước mỗi buổi thảo luận, người học có thể tìm thêm các tài liệu để chuẩn
bị cho buổi thảo luận tình huống. Tuy nhiên, đối với người học, tiêu điểm của
phương pháp NCTH chính là các buổi thảo luận nhóm. Trong thảo luận tình
huống, người học sẽ đưa ra ý kiến, đặt ra những câu hỏi, xây dựng luận chứng,
luận cứ trên cơ sở những luận điểm của cá nhân/nhóm. Sau đó phân tích, tổng hợp
các ý kiến tranh luận, tự điều chỉnh hướng thảo luận và học hỏi kinh nghiệm từ
những người khác thông qua trao đổi, tranh luận quan điểm. Thêm nữa, trong khâu
chuẩn bị, dưới sự hướng dẫn của giáo viên, sinh viên cũng được học cách sưu tầm,
chỉnh sửa, biên soạn hay thiết kế hệ thống các tình huống phục vụ cho các nội
dung học tập khác nhau.
1.3.3.2. Tiến trình thực hiện một buổi học theo phương pháp nghiên cứu tình
huống
Trong một tiết dạy học áp dụng phương pháp NCTH thì vai trò trung tâm
thuộc về người học. Mặc dù vậy, vai trò của người giáo viên như một người điều
phối, dẫn dắt và trợ giúp cũng rất quan trọng. Giáo viên có nhiệm vụ mở đầu cuộc
thảo luận, thu hút ý kiến của người học, bàn rộng thêm những ý kiến đáng chú ý,
chỉ ra những luận điểm trái ngược, tạo nên sự kết nối trong các buổi thảo luận và
hướng buổi thảo luận đi theo nội dung bài học. Nói tóm lại là định hướng và trợ
16
giúp người học hơn là truyền đạt thông tin, giải thích hay đưa ra hướng giải quyết.
Tùy theo khả năng của học sinh mà người giảng viên có thể bắt đầu áp dụng
phương pháp NCTH ở những cấp độ khác nhau mà ở đó, vai trò của họ cũng thay
đổi theo hướng chuyển dần người học về vị trí trung tâm của buổi học.
Theo Garvin D.A (2003), trước một tình huống, người học sẽ phải lần lượt
trải qua các bước như sau [6]:
Bước 1. Đọc tình huống và xác định những vấn đề cốt yếu mà người ra quyết
định đương đầu
Đây là bước tiếp cận đầu tiên với tình huống của người học. Ở đó, người học
có nhiệm vụ chính chỉ ra được đâu là mấu chốt, mâu thuẫn của vấn đề để theo đó
giải quyết đúng mâu thuẫn, vấn đề mà tình huống nêu ra, tránh đi lạc đề hay giải
quyết không thấu đáo vấn đề.
Đối với bước này, điều đầu tiên là người học cần phải đọc qua để nắm được
cốt truyện, các tuyến nhân vật và có những nhận thức ban đầu về vấn đề cần giải
quyết. Cách tốt nhất là một thành viên trong nhóm sẽ đọc to tình huống cho những
thành viên còn lại ghi chép và vạnh ra những ý chính. Điều này sẽ giúp tiết kiệm
thời gian đồng thời nâng cao sự tập trung của các thành viên khác trong nhóm thảo
Bước 1. Đọc tình huống và xác định những vấn đề cốt yếu mà người
ra quyết định đương đầu
Bước 2. Xác định những dữ liệu cần để phân tích các vấn đề và để
tổng hợp thành các giải pháp
Bước 3. Đưa ra phân tích và so sánh những giải pháp khác nhau
đương đầu
Bước 4. Đề xuất phương hướng hành động
Hình 1.1. Các bước người học trải qua khi giải quyết tình huống
17
luận. Thông thường, vấn đề mà tình huống nêu ra thường được đặt dưới dạng câu
hỏi trực tiếp ở cuối đoạn.
Bước 2: Xác định những dữ liệu cần để phân tích các vấn đề và để tổng hợp
thành các giải pháp
Trong giai đoạn này, người học phải thực hiện hai bước nhỏ:
- Chỉ ra những dữ liệu quan trọng mà đề bài cung cấp để giải quyết vấn đề.
- Dựa vào đó có sự phân tích, tổng hợp để đưa ra được những hướng giải
quyết khác nhau cho vấn đề được đặt ra.
Để thực hiện bước này, người học cần:
- Nắm ý chính của toàn bộ tình huống, nghiên cứu kỹ tiêu đề, dàn ý, phần mở
đầu và kết luận của tình huống.
- Đọc, nghiên cứu và gạch chân dưới những từ và cụm từ quan trọng.
- Xác định được vấn đề mấu chốt trong tình huống trước. Sau đó, đọc lại tình
huống lần nữa để nhặt ra những thông tin, dữ kiện cần thiết để giải quyết vấn đề.
- Có thể có những giải pháp nào cho cùng một vấn đề của tình huống? Trong
những giải pháp đề ra, giải pháp nào có tính hiệu quả hơn giải pháp kia? Những tác
động (hậu quả) của những giải pháp ấy là gì?
Bước 3: Đưa ra, phân tích và so sánh những giải pháp khác nhau
Đây là phần mà mỗi cá nhân sẽ đưa ra ý kiến của mình để từ đó so sánh và
phân tích những ưu điểm, nhược điểm của từng tình huống trong việc giải quyết
những vấn đề đã nêu ở trên.
Bước 4: Đề xuất phương hướng hành động
Đây là bước cuối, sau quá trình thảo luận, khi các nhóm thảo luận đã nhất trí
về một phương án hiệu quả nhất và đề xuất lên giáo viên. Ở đây, tình huống, vấn đề
được giải quyết.
18
Nhìn chung, ở bước nào đi nữa, người học cũng cần lưu ý những nguyên tắc
sau để có thể học tập tình huống một cách hiệu quả:
- Cần biết chuẩn bị cho việc trình bày những ý tưởng và chứng minh cho
những ý tưởng ấy. Đồng thời cần phải biết lắng nghe những ý kiến và nhận định của
người khác. Không ngại sử dụng những ý tưởng của người khác để làm vững chắc
hơn những luận điểm của mình.
- Tham gia tích cực và chủ động vào hoạt động thảo luận.
- Nếu muốn nêu lên một vấn đề mới trong cuộc thảo luận, cần chú ý đề xuất
vấn đề một cách thích hợp khi cuộc thảo luận chuẩn bị chuyển sang một đề tài mới
hay liên hệ vấn đề muốn nêu với vấn đề đang được thảo luận.
- Cần phải chú ý đi đúng hướng thảo luận. Cũng cần phải lưu tâm rằng ai đã
nói, ai chưa trình bày ý kiến và cần tạo điều kiện để những người khác cũng được
tham gia thảo luận.
- Không ngại nêu lên ý kiến hay yêu cầu giải thích khi chưa nắm bắt được
vấn đề.
Tóm lại, phương pháp dạy học tình huống là phương pháp đưa người học lên
chiếm giữ vị trí trung tâm của buổi học. Chính vì thế mà không phải tình huống,
không phải giáo viên mà chính mỗi cá nhân sẽ là nhân tố quan trọng nhất quyết định
yếu tố thành công của phương pháp dạy học tình huống.
1.3.3.3. Đánh giá buổi thảo luận theo phương pháp nghiên cứu tình huống
Đánh giá sau mỗi buổi thảo luận có thể được thực hiện bởi mỗi giáo viên
nhưng có lẽ hiệu quả nhất vẫn là để cho người học tự đánh giá lấy. Sau đây là một
mẫu đánh giá tiết học tình huống mà người dạy có thể phát tay cho mỗi người học,
sau đó thu lại để tổng kết, đánh giá hiệu quả của buổi học. Điều này giúp cho người
dạy có thể rút kinh nghiệm, đưa ra những điều chỉnh hợp lý để những buổi thảo luận
tình huống sau được diễn ra hiệu quả và chất lượng hơn.
19
Bảng 1.1. BẢNG ĐÁNH GIÁ TÌNH HUỐNG
Hãy đánh giá tình huống bằng cách nêu ra mức độ đồng ý của bạn với những
nhận định sau. Lưu ý rằng mức đồng ý của bạn tương ứng với thang điểm sau [12]:
3. Xuất sắc 2. Tốt 1.Tạm ổn 0. Kém
Tính hiệu quả của tình huống
3 Tình huống phục vụ tốt cho mục tiêu bài học, thúc đẩy người học nắm vững
nội dung bài học sau khi nghiên cứu và thảo luận tình huống
2 Tình huống có hướng đến mục tiêu bài học, nhưng không thúc đẩy người
học tự tìm tòi để nắm được nội dung bài học
1 Chỉ có một vài mục tiêu bài học được hướng tới trong tình huống
0 Tình huống không phục vụ cho mục tiêu bài học
Tính phù hợp của nội dung tình huống
3 Vấn đề được nêu ra trong tình huống vừa phù hợp với nội dung bài học, vừa
phù hợp với trình độ, khả năng của người học
2 Vấn đề được nêu ra trong tình huống phù hợp với nội dung bài học nhưng
chưa phù hợp với trình độ khả năng của người học
1 Những vấn đề mà tình huống nêu ra không phù hợp với nội dung bài học
(quá cụ thể hay quá chung chung)
0 Tình huống không nêu ra được vấn đề nào cả
Tính trọng tâm của tình huống
3 Tình huống chứa đựng đầy đủ dữ kiện, trong đó bao gồm những chi tiết và
ví dụ cụ thể, những dữ kiện trong tình huống giải thích rõ ràng và liên kết
logic với vấn đề nêu ra
2 Tình huống có nêu ra được vấn đề nhưng chưa thật sự hoàn chỉnh. Những
dữ kiện trong tình huống giúp người học xác định rõ hơn vấn đề của tình
huống, nhưng một số dữ kiện cần thiết còn bị thiếu
1 Những dữ kiện trong tình huống không được liên hệ rõ ràng với vấn đề mà
tình huống nêu ra khiến cho người học cảm thấy có nhiều chi tiết không cần
thiết
0 Vấn đề mà tình huống nêu ra trừu tượng, không rõ ràng. Người học không
20
thấy được mối liên hệ giữa dữ kiện và vấn đề mà tình huống nêu ra
Tính trung thực của bối cảnh tình huồng
3 Bối cảnh của tình huống phản ánh những tình huống có thật, và những hoạt
động trên nền bối cảnh ấy mô phỏng lại được những hoạt động thực của
những nhà chuyên môn trong lĩnh vực mà người học đang nghiên cứu
2 Một số yếu tố trong bối cảnh còn thiếu tính chính xác và sinh động. Tuy
nhiên, bối cảnh tình huống nhìn chung vẫn chứa đựng những yếu tố thực
giúp cho người học có thể xử lý được vấn đề một cách hiệu quả.
1 Bối cảnh tình huống có vẻ chân thực, nhưng lại không giúp cho người học
có thể học tập và thu nhặt kiến thức và kỹ năng.
0 Bối cảnh tình huống không mang tính chân thực
Tính chặt chẽ của tình huống
3 Những chi tiết trong tình huống được sắp xếp theo trật tự logics và mạch lạc
và thường được xếp theo trật tự thời gian
2 Có đôi chỗ các chi tiết trong tình huống bị sắp xếp chưa thật hợp lý
1 Các chi tiết trong tình huống không được sắp xếp một cách logic. Không thể
xác định được mối quan hệ giữa chúng
0 Các chi tiết sắp xếp lộn xộn. Mỗi liên hệ giữa các chi tiết không rõ ràng.
Sự rành mạch của tình huống
3 Tình huống dễ hiểu. Các chi tiết được sắp xếp hợp lý và ngôn ngữ đơn giãn.
Những thuật ngữ chuyên môn được sử dụng một cách hạn chế, hoặc nếu có
dùng thì ý nghĩa của chúng cũng trình bày rõ ràng hoặc có thể suy đoán
được
2 Tình huống hơi khó hiểu. Không phải tất cả mọi chi tiết đều trình bày rõ
ràng và bằng ngôn ngữ đơn giản
1 Có nhiều chỗ khá tối nghĩa trong tình huống. Hầu hết các chi tiết được làm
phức tạp hóa một cách không cần thiết
0 Có quá nhiều thuật ngữ chuyên môn. Ngôn từ không đơn giản
(Nguồn: Penn State Schreyer Institue for Teaching Excellence, 2004, Case
Evaluation Rubric)
21
1.3.4. Ưu điểm, hạn chế và thách thức của phương pháp nghiên cứu tình huống
1.3.4.1. Ưu điểm
Phương pháp nghiên cứu tình huống giúp gắn lý thuyết với thực tiễn trong
dạy học, nâng cao tính thực tiễn của môn học, giảm thiểu rủi ro của người học khi
tham gia thực tiễn cuộc sống, thực tiễn nghề nghiệp. Sau khi tiếp thu các kiến thức
lý thuyết, việc giải quyết các bài tập tình huống sẽ giúp người học có cái nhìn sâu
hơn và thực tiễn hơn về vấn đề lý thuyết đã được học. Thông qua việc giải quyết
tình huống, người học sẽ có điều kiện để vận dụng linh hoạt các kiến thức lý thuyết.
Phương pháp NCTH góp phần nâng cao tính tích cực, chủ động, sáng tạo và
hứng thú học tập của người học. Trong dạy học theo tình huống các nhóm học sinh
phải chủ động tìm kiếm và phân tích các thông tin để đi tìm các giải pháp có thể có
cho tình huống. Để đáp ứng được yêu cầu này, người học phải chủ động tư duy,
thảo luận/ tranh luận trong nhóm để tìm hiểu sâu thêm về lý thuyết cũng như thực
tiễn và tìm ra các giải pháp cho các tình huống. Chính trong quá trình suy nghĩ,
tranh luận, bảo vệ các giải pháp người học đã tham gia vào quá trình nhận thức. Sự
tham gia tích cực đó đã góp phần tạo ra sự hứng thú và say mê học tập, sáng tạo của
người học.
Phương pháp NCTH giúp người học nâng cao kỹ năng làm việc nhóm, kỹ
năng phân tích, giải quyết vấn đề, kỹ năng trình bày, bảo vệ và tranh luận, phản biện
ý kiến trước tập thể. Để giải quyết tình huống, học sinh thường phải làm việc theo
nhóm. Cả nhóm cùng phân tích và thảo luận để đi đến giải pháp, sau đó trình bày
giải pháp của mình cho cả lớp. Với cách học như vậy, người học học được cách
chia sẻ kiến thức, thông tin để cùng đạt được mục tiêu chung. Thêm nữa, người học
cũng học được cách tôn trọng và lắng nghe ý kiến của người khác trong quá trình
làm việc nhóm hay tranh luận về các giải pháp.
Trong phương pháp NCTH, giáo viên cũng có điều kiện trao đổi, học hỏi
những kinh nghiệm và những cách nhìn, giải pháp mới từ phía người học, thông qua
22
đó mà góp phần làm phong phú hơn nội dung giảng dạy cũng như hoàn thiện các
tình huống dạy học.
Tình huống dạy học trong phương pháp NCTH thường là những tình huống
mang tính phức hợp, để giải quyết nó, người học cần vận dụng tổng hợp kiến thức
của nhiều phần khác nau trong một môn học, thậm chí kiến thức của nhiều môn
học, Nhờ vậy, phương pháp NCTH góp phần giúp người học biết cách liên kết, xâu
chuỗi các phần nội dung đơn lẻ thành một bức tranh tổng thể về kiến thức.
1.3.4.2. Hạn chế và thách thức
Phương pháp NCTH không phải chiếc chìa khóa vạn năng trong giảng dạy,
nó bộc lộ một số hạn chế nhất định mà Herreid (1994) đã cho thấy, như:
- Đôi khi đơn giản hóa tính phức tạp của các sự kiện, số liệu và nguyên tắc.
- Đòi hỏi cả người học và người dạy phải có những kỹ năng nhất định.
- Việc ngại áp dụng những phương pháp mới thay thế cho những phương
pháp giảng bài truyền thống cũng là một cản trở đối với việc phát triển loại hình
giảng dạy này.
Ngoài những hạn chế như Herreid đã nêu ra ở trên, quá trình thực hiện
phương pháp NCTH cũng gặp phải những khó khăn, thách thức nhất định, về cả
mặt chủ quan và khách quan.
- Phương pháp NCTH làm gia tăng không những khối lượng làm việc của
giảng viên mà còn đỏi hỏi giảng viên phải luôn chấp nhận đổi mới, cập nhật các
thông tin, kiến thức và kỹ năng mới. Để có những bài tập tình huống thực tế, sát với
điều kiện hoàn cảnh mới của xã hội, giảng viên phải đầu tư thời gian và trí tuệ để
tiếp cận thực tiễn, trên cơ sở đó mới có thể thu thập hay xây dựng được các tình
huống dạy học mới, mang tính thời sự.
- Phương pháp NCTH đòi hỏi thực hiện những kỹ năng khá phức tạp trong
giảng dạy, như cách tổ chức lớp học, bố trí thời lượng, đặt câu hỏi, tổ chức và
khuyến khích người học tranh luận, dẫn dắt mạch thảo luận, nhận xét, phản biện.
23
Đây thực sự là những thách thức lớn đối với giảng viên trong quá trình ứng dụng
phương pháp này.
- Đối với người học, thách thức lớn nhất là phương pháp NCTH đòi hỏi ở họ
sự năng động, sáng tạo và khả năng tư duy độc lập, bởi thế có một bộ phận không
nhỏ người học sẽ có những lúng túng nhất định khi được học theo phương pháp
này.
- Phương pháp NCTH nếu sử dụng quá liều sẽ làm giảm hiệu quả việc tiếp
thu các tri thức lý thuyết và làm người học nhiều khi lầm tưởng rằng thực tế luôn
luôn diễn ra đúng như những tình huống cụ thể đã được học.
- Môi trường vật chất là các thách thức khách quan, bao gồm các yếu tố về
điều kiện trang bị vật chất, quy mô lớp học, sự hợp tác của các tổ chức xã hội trong
quá trình cung cấp thông tin. Quy mô lớp học đông người không thể đảm bảo tổ
chức thảo luận một cách hiệu quả. Để buổi thảo luận có chất lượng, người học phải
tự trang bị các kiến thức lý thuyết và thông tin liên quan trước khi lên lớp. Điều này
đòi hỏi có thời gian và các phương tiện học tập như: thư việc, sách giáo klhoa, tài
liệu tham khảo, báo, tạp chí, Internet,…
1.4. So sánh phương pháp dạy học tình huống với phương pháp dạy học truyền
thống
Trong phương pháp giảng dạy truyền thống, người dạy có nhiệm vụ phân
tích nội dung bài học và sau đó, lựa chọn phương thức thích hợp nhằm truyền tải
nội dung ấy đến với người học. Trái lại, ở phương pháp dạy học tình huống, người
học sẽ phải tự phân tích tài liệu, trong khi người dạy chỉ đóng vai trò hướng dẫn và
trợ giúp bằng cách đề ra những yêu cầu, thúc đẩy sự tương tác giữa người học trong
tiết học, định hướng thảo luận, đảm bảo tiến trình diễn ra thông suốt và giúp người
học rút ra kết luận sau mỗi buổi học.
Như vậy, có thể thấy rằng trong phương pháp giảng dạy cũ, người học tiếp
xúc với tài liệu không phải trực tiếp mà là gián tiếp qua người dạy. Trong khi đó, ở
phương pháp tình huống, người học không những có được cơ hội được tiếp xúc trực
24
tiếp với tài liệu, mà họ còn có thể tương tác với người dạy cũng như những người
học khác trong quá trình học tập. Thêm nữa, nếu như trong phương pháp giảng dạy
cũ, người giảng viên nắm vai trò trung tâm của “quyền lực tri thức” thì ở phương
pháp tình huống, trọng tâm của buổi học đã chuyển dần về phía người học, khiến
người học có thể chủ động hơn trong việc quyết định nội dung cũng như phương
thức học tập của mình.
Tóm lại, Chương 1 đã đi sâu phân tích các nội dung cơ bản làm cơ sở lý luận
cho đề tài nghiên cứu như trình bày tổng quan về lịch sử nghiên cứu vấn đề trên thế
giới và Việt Nam, giải thích những khái niệm cơ bản liên quan đến đề tài. Đặc biệt,
đã trình bày làm nổi bật các nội dung liên quan đến phương pháp nghiên cứu tình
huống trong dạy học như khái niệm, cấu trúc tiến trình thực hiện, ưu nhược điểm
của phương pháp này,…
25
CHƯƠNG 2
THỰC TRẠNG TÌNH HÌNH GIẢNG DẠY MÔN HỌC KẾ TOÁN TÀI
CHÍNH TẠI TRƯỜNG CAO ĐẲNG CÔNG NGHỆ THÔNG TIN
ĐÀ NẴNG
2.1. Thực trạng chung về tình hình dạy học môn học Kế toán tài chính tại
Trường Cao đẳng Công nghệ Thông tin
Làm rõ về thực trạng chung tình hình dạy học môn Kế toán tài chính (KTTC)
tại Trường CĐ CNTT tác giả đã thực hiện khảo sát và đưa ra sự đánh giá của sinh
viên chuyên ngành KT –TH về tình hình dạy học môn KTTC sau đây:
Bảng 2.1. Bảng đánh giá của sinh viên về thực trạng dạy học môn Kế
toán tài chính nói chung
Ý kiến đánh giá chung việc giảng dạy môn học Kế
toán tài chính
Tỷ lệ sinh viên
(%)
Nhiệt tình giảng dạy, yêu nghề 85%
Giảng chủ yếu lý thuyết, ít gắng với thực tiễn 60%
Dạy khô khan, nhàm chán, đơn điệu 40%
Trước tiên, các giảng viên giảng dạy môn học KTTC ở Trường Cao đẳng
Công nghệ Thông tin đều được đánh giá là những giáo viên có phẩm chất đạo đức
tốt, có trách nhiệm cao với nghề nghiệp. Có đến 85% số sinh viên được hỏi đánh giá
giảng viên dạy KTTC của họ rất yêu nghề và nhiệt tình trong giảng dạy. Thực tế
này không chỉ được các em sinh viên đánh giá cao mà ngay cả những đồng nghiệp
trong và ngoài trường cũng có những đánh giá rất tốt về sự tận tâm với nghề của các
giảng viên giảng dạy môn học KTTC ở đây. Trong quá trình giảng dạy, các giảng
viên tuy đã cố gắng tạo điều kiện để sinh viên hiểu bài và học tập tốt, nhưng trên
thực tế vẫn có đến 60% sinh viên được hỏi cho rằng giáo viên giảng dạy vẫn thiên
về truyền thụ lý thuyết mà ít gắn với thực tiễn. Chính điều này đã dẫn đến dư luận
lưu truyền trong nhiều sinh viên rằng môn học KTTC là một môn lý thuyết khô
26
khan, không hấp dẫn (chiếm đến 40% sinh viên được hỏi). Việc vận dụng lý thuyết
vào thực tiễn giảng dạy và đưa ra các tình huống thực tế để làm sáng tỏ lý thuyết
được giảng viên thực hiện còn hạn chế. Việc giảng dạy KTTC chưa thực sự làm
được chức năng dạy kỹ năng nghề kế toán cho sinh viên. Với thời gian eo hẹp, dù
giảng viên có cố gắng đến đâu đi nữa thì việc thực hành của sinh viên nếu chỉ được
tiến hành trên lớp thì hiệu quả tác động với việc hình thành kỹ năng nghề là còn hạn
chế. Thực tế cho thấy, có những giảng viên, với vốn kinh nghiệm của bản thân,
trong khi giảng cũng đã cố gắng liên hệ lý thuyết với thực tiễn ở các doanh nghiệp,
nhưng cũng có trường hợp giảng viên chỉ dừng ở mức độ truyền thụ tri thức lý
thuyết, “bám sát” giáo trình. Chính việc giảng dạy xa rời với thức tiễn như thế đã
dẫn đến những lúng túng hạn chế của sinh viên khi thực tập nghề.
2.2. Thực trạng sử dụng các phương pháp giảng dạy đối với môn học Kế toán
tài chính tại Trường Cao Đẳng Công Nghệ Thông Tin
Kết quả điều tra sinh viên chuyên ngành KT-TH cũng cho thấy việc vận
dụng các phương pháp dạy học cụ thể trong giảng dạy môn học KTTC tại Trường
CĐ CNTT thể hiện dưới bảng sau:
Bảng 2.2. Mức độ vận dụng các phương pháp dạy học cụ thể trong giảng
dạy môn học Kế toán tài chính
Các Phương pháp dạy học cụ thể Mức độ vận dụng
Thường
xuyên
Thỉnh
thoảng
Không
bao giờ
1. Phương pháp thuyết trình 100%
2. Phương pháp vấn đáp 35% 45% 10%
3. Phương pháp trực quan 30% 70%
4. Phương pháp phân vai 100%
5. Phương pháp làm việc theo nhóm 20% 80%
6. Phương pháp nghiên cứu tình huống 5% 95%
7. Phương pháp Project 100%
8. Các phương pháp khác 100%
27
Có thể nhận thấy phương pháp thuyết trình đang được sử dụng thường xuyên
trong giảng dạy môn học KTTC. Trong khi 100% sinh viên được hỏi rằng thuyết
trình một chiều được các giáo viên thường xuyên sử dụng trong giờ giảng thì
phương pháp vấn đáp tỷ lệ này là 35%. Đối với các phương pháp dạy học tích cực
khác như phương pháp dạy học theo tình huống, phân vai, phương pháp project,
hợp tác làm việc theo nhóm thì ý kiến đánh giá của sinh viên như vậy cũng là hiển
nhiên. Một mặt, các lý thuyết dạy học mới này cũng chưa được thông dụng ở Việt
Nam cả về lý thuyết lẫn thực tiễn và còn tương đối mới mẻ.
Ngoài ra, kết quả điều tra ở bảng trên cũng cho thấy sinh viên cũng đã ý thức
được rất rõ vai trò của các yếu tố như nội dung giảng dạy phải mang tính thực tiễn,
phương pháp giảng dạy, trang thiết bị cơ sở vật chất,… đối với việc nâng cao chất
lượng dạy học. Có đến 70% sinh viên phản hồi cho rằng cần thiết phải cải tiến
phương pháp dạy học nhằm phát huy tính tích cực học tập của sinh viên và 75%
sinh viên đề nghị phải gắn nội dung dạy học với thực tiễn nghề kế toán ở các doanh
nghiệp.
Thêm vào đó, có thể nói Phương pháp NCTH trước đây phần nào đã được áp
dụng trong giảng dạy môn học KTTC nhưng rất ít khi. Phạm vi áp dụng phương
pháp này chỉ dưới hình thức giảng viên đưa ra một số tình huống và yêu cầu sinh
viên suy nghĩ và đưa ra các phương án giải quyết có thể có. Vì vậy sinh viên chỉ
tham gia giải quyết một vài tình huống nên tác dụng của phương pháp này đối với
việc hình thành kỹ năng giải quyết các tình huống ngành nghề thực tiễn là rất hạn
chế.
2.3. Đặc điểm của môn học Kế toán tài chính và khả năng áp dụng phương
pháp nghiên cứu tình huống
Môn học KTTC nằm trong chương trình giảng dạy cho sinh viên ngành KT-
TH Trường Cao đẳng Công nghệ Thông tin, với Khung chương trình đào tạo 108
tín chỉ môn học này được chia thành 2 học phần: Kế toán tài chính doanh nghiệp 1
(3 tín chỉ tương ứng 45 tiết lý thuyết), Kế toán tài chính doanh nghiệp 2 (3 tín chỉ
tương ứng 45 tiết lý thuyết). Bắt đầu từ năm học 2014 – đến nay khi khung chương
28
trình chuyên ngành Kế toán – Tin học chuyển sang 100 tín chỉ thì môn học này
gồm: Kế toán tài chính doanh nghiệp 1 (4 tín chỉ tương ứng 45 tiết lý thuyết và 30
tiết bài tập), Kế toán tài chính doanh nghiệp 2 (3 tín chỉ tương ứng 30 tiết lý thuyết
và 30 tiết bài tập), thường được dạy vào Học kỳ 3, Học kỳ 4 của Khóa đào tạo.
Ngoài ra còn có các học phần tự chọn liên quan đến kế toán tài chính như: Kế toán
doanh nghiệp xây lắp, Kế toán doanh nghiệp du lịch – dịch vụ, Kế toán thuê tài sản,
thường được dạy vào Học kỳ 5 của Khóa đào tạo.
- Học phần Kế toán tài chính doanh nghiệp 1 gồm những nội dung sau:
Chương 1: Tổng quan về kế toán tài chính
Chương 2: Kế toán tài sản bẳng tiền
Chương 3: Kế toán hàng tồn kho
Chương 4: Kế toán tài sản cố định
Chương 5: Kế toán các nghiệp vụ thanh toán
Chương 6: Kế toán tập hợp chi phí và tính giá thành
- Học phần Kế toán tài chính doanh nghiệp 2 gồm những nội dung sau:
Chương 1: Kế toán thuế
Chương 2: Kế toán lưu chuyển hàng hóa trong doanh nghiệp thương mại
Chương 3: Kế toán doanh thu, chi phí hoạt động tài chính, thu nhập và chi
phí khác
Chương 4: Kế toán xác định và phân phối kết quả kinh doanh
Chương 5: Kế toán nguồn vốn chủ sở hữu
Môn học KTTC trang bị cho người học những kiến thức cơ bản cũng như
tổng quát về kế toán tài chính áp dụng trong các doanh nghiệp. Nội dung của môn
học này đi từ việc giới thiệu tổng quát về kế toán tài chính trong doanh nghiệp như
vai trò của kế toán tài chính, qui trình kế toán, các giả thuyết và nguyên tắc kế toán
29
được vận dụng cho đến những vấn đề kỹ thuật – nghiệp vụ kế toán trên các phần
hành cụ thể như: kế toán tài sản cố định, kế toán hàng tồn kho, kế toán bán hàng và
cung cấp dịch vụ, kế toán doanh thu chi phí thu nhập, kế toán xác định và phân phối
kết quả kinh doanh…
Đặc điểm của môn học KTTC là khối lượng kiến thức nhiều, không chỉ các
kiến thức về kế toán tài chính mà còn liên quan đến môi trường pháp lý của kế toán
như: Luật kế toán, Chế độ kế toán, Chuẩn mực kế toán,… Các vấn đề, tình huống
(bài tập) liên quan đến môn học thông thường phải phản ánh được các tình huống kế
toán phát sinh tại các doanh nghiệp ngoài thực tế. Đồng thời, sau khi học xong học
môn học này người học phải có kỹ năng xử lý hạch toán các nghiệp vụ kinh tế cơ
bản trong doanh nghiệp đồng thời lên được sổ sách và các báo cáo kế toán của
doanh nghiệp.
Ngoài ra, môn học KTTC không chỉ mang tính lý thuyết mà còn ứng dụng
trong thực tế nghề nghiệp kế toán nên việc giảng dạy môn học này cũng có những
nét khác biệt so với các môn học cùng chuyên ngành khác. Người dạy vừa phải nắm
vững các kiến thức về chuyên môn, vừa phải hiểu rõ và cập nhật nắm bắt các thông
tin, các tình huống và hoạt động của thực tiễn, điều đó không chỉ mang lại không
khí học tập tốt đối với người học mà còn có ý nghĩa quan trọng trong việc nâng cao
hiệu quả dạy học. Bởi thế không chỉ các nội dung dạy học cần gắn liền với thực tế
mà các phương pháp dạy học cũng phải thiên về các phương pháp thực hành, trong
đó phương pháp NCTH thế hiện được chức năng ưu việt của mình.
Vì vậy, việc áp dụng phương pháp NCTH vào giảng dạy môn học KTTC là
rất cần thiết và khả thi, ngoài ra sẽ làm cho những bài học trở nên có sức thuyết
phục cao hơn đối với sinh viên. Phương pháp NCTH có thể được áp dụng trong
giảng dạy môn học KTTC dưới 2 hình thức:
+ Dưới dạng các tình huống mẫu do giáo viên đưa ra đan xen trong các bài
giảng nhằm minh họa cho từng nội dung dạy học cụ thể.
30
+ Dưới dạng các buổi thảo luận tình huống. Ở những buổi thảo luận này toàn
bộ thời gian tập trung cho việc giải quyết các tình huống trên cơ sở áp dụng các kiến
thức đã học.
Như vậy, Chương 2 đã cho thấy thực trạng chung về tình hình dạy học môn
Kế toán tài chính tại Trường CĐ CNTT, đặc trưng của môn học Kế toán tài chính
và khả năng vận dụng phương pháp nghiên cứu tình huống trong giảng dạy môn học
này.
31
CHƯƠNG 3
VẬN DỤNG PHƯƠNG PHÁP TÌNH HUỐNG TRONG GIẢNG DẠY MÔN
HỌC KẾ TOÁN TÀI CHÍNH TẠI TRƯỜNG CAO ĐẲNG CÔNG NGHỆ
THÔNG TIN
3.1. Nguyên tắc và kỹ năng viết tình huống kế toán tài chính
Khi xây dựng một hệ thống các tình huống để giảng dạy cho một môn học cụ
thể, người viết tình huống cần cân nhắc một số vấn đề như: lựa chọn tình huống
nào, những chi tiết nào trong tình huống đó được giữ lại, chi tiết nào nên loại bỏ để
đạt được mục tiêu của bài giảng. Qua kinh nghiệm giảng dạy môn học KTTC và
quá trình nghiên cứu và xây dựng các tình huống cho môn KTTC, chúng tôi rút ra
một số kinh nghiệm về nguyên tắc và kỹ năng viết tình huống kế toán như sau:
Xây dựng tình huống kế toán phải lưu ý tới tính chất thực tế của tình huống
đưa ra làm cho người học tiếp nhận các sự kiện trong tình huống đó và có cảm giác
họ đang nghiên cứu một vấn đề kế toán tài chính thực tế. Khi xây dựng tình huống
trong kế toán tài chính không chỉ nêu chi tiết, cụ thể các sự kiện diễn ra trong tình
huống mà cần đưa ra những thông tin xác thực về thời gian, địa điểm vụ việc kế
toán diễn ra …. Việc đưa ra thông tin “thật” này tạo cho người học tâm lý như họ
đang nghiên cứu về một trường hợp kế toán tài chính có thật, với những người thật,
việc thật và họ được đặt vào trong hoàn cảnh giống như đang được giao trọng trách
với một vai trò cụ thể như kế toán phần hành, kế toán tổng hợp, nhà quản trị doanh
nghiệp…trong việc giải quyết trường hợp kế toán tài chính đó. Khi đó người học sẽ
cảm thấy hứng thú và có trách nhiệm với những quyết định, lập luận và giải thích
của họ trong quá trình nghiên cứu tình huống.
Tình huống đưa ra là một bản báo cáo tóm tắt tường trình lại những sự kiện
của một vụ việc kế toán tài chính cụ thể được sắp xếp theo một trật tự logic nhất
định. Những thông tin đưa ra trong tình huống không bao gồm các phân tích, kết
luận mang tính định hướng cho người học. Khi chúng ta đưa ra những kết luận
mang tính gợi ý, nó sẽ hạn chế khả năng tư duy sáng tạo của người học, khiến người
32
học thường chỉ suy nghĩ và lựa chọn một trong số các phương án mà tình huống đưa
ra. Trong khi nếu để họ suy nghĩ độc lập, có thể họ sẽ đưa ra nhiều phương án giải
quyết độc đáo và hay hơn những gợi ý mà người viết tình huống có thể nghĩ ra.
Người viết tình huống có thể hỗ trợ cho người học những kiến thức cần thiết để giải
quyết tình huống thông qua việc cung cấp cho người học những tài liệu liên quan
trực tiếp đến việc tìm ra lời giải tình huống đó, kể cả việc giải đáp một số câu hỏi
của học viên khi cần.
Một tình huống có thể phục vụ để giảng dạy cho một môn học, một bài học
hoặc một phần nội dung của bài học. Vì vậy, khi xây dựng tình huống, người viết
tình huống cần xác định rõ mục tiêu của việc nghiên cứu tình huống đó để lựa chọn
một lượng thông tin vừa đủ cung cấp cho người học. Người viết tình huống cần đặt
những câu hỏi như: Tình huống này được sử dụng để giảng dạy bài nào? Mục tiêu
của việc nghiên cứu tình huống này là gì? Thông qua việc nghiên cứu tình huống
này, sinh viên có thể học được kiến thức lý thuyết gì? Những kỹ năng nào sinh viên
có thể đạt được khi nghiên cứu tình huống đó?... Những thông tin đưa ra trong tình
huống chỉ cần ở mức độ vừa và đủ để giúp người học có thể đạt được mục tiêu của
bài học. Nếu lượng thông tin đưa ra quá nhiều, có sự kết hợp nhiều nội dung trong
một tình huống sẽ gây ra sự nhàm chán, mất thời gian và có thể vấn đề không được
giải quyết triệt để, sẽ phá vỡ kết cấu bài giảng. Ví dụ, khi đưa ra một tình huống
giúp sinh viên nghiên cứu vấn đề “ Ảnh hưởng của các phương pháp xác định giá trị
hàng tồn kho đến lợi nhuận của doanh nghiệp”, người viết tình huống đưa ra các chi
tiết khiến sinh viên tranh luận sôi nổi về các phương pháp xác định giá trị hàng tồn
kho thực hiện như thế nào? Mỗi phương pháp áp dụng thích hợp cho doanh nghiệp
nào? ... trên cơ sở đó mới có căn cứ để đi vào giải quyết vấn đề ảnh hưởng của các
phương pháp xác định giá trị hàng tồn kho đến lợi nhuận của doanh nghiệp. Sự
tranh luận sa đà vào những vấn đề phụ sẽ làm cho sinh viên không hiểu được nhiệm
vụ của họ là đang nghiên cứu vấn đề chính là “Ảnh hưởng của các phương pháp xác
định giá trị hàng tồn kho đến lợi nhuận của doanh nghiệp” và hệ quả là sinh viên sẽ
không nắm được những kiến thức lý thuyết cũng như các kỹ năng của bài “Ảnh
33
hưởng của các phương pháp xác định giá trị hàng tồn kho đến lợi nhuận của doanh
nghiệp”. Ngược lại, nếu tình huống quá đơn giản, những thông tin mà tình huống
cung cấp không đủ để giải quyết vấn đề sẽ làm cho người học cảm giác như bị đánh
đố và họ không có đủ dữ liệu để giải quyết tình huống này. Khi đó, mục tiêu của bài
học sẽ không đạt được.
Người viết tình huống cần có sự hiểu biết sâu sắc về người học để xây dựng
tình huống phù hợp với khả năng của người học. Tình huống quá khó sẽ làm cho
người học cảm thấy công việc quá sức và cảm giác tự ti sẽ làm cho họ không còn
hứng thú với môn học. Ngược lại, tình huống quá dễ sẽ làm người học thấy môn
học tẻ nhạt, buồn chán, không hữu ích. Vấn đề khó khăn của người viết tình huống
là cần hiểu rõ năng lực của người học, đặt mình vào địa vị của người học để xây
dựng những tình huống ở mức độ từ dễ đến khó trong khả năng của phần lớn người
học để họ có thể thực hiện nhiệm vụ của mình được đặt ra trong tình huống và thấy
hứng thú với môn học.
3.2. Nguồn thông tin dữ liệu phục vụ xây dựng tình huống kế toán tài chính
Để đảm bảo độ chân thực của tình huống, không nên tự sáng tạo ra các tình
huống mà cần lấy “chất liệu” từ cuộc sống. Vì vậy, tìm kiếm nguồn thông tin có vai
trò quan trọng giúp xây dựng được tình huống tốt. Thông tin dữ liệu xây dựng ngân
hàng tình huống có thể khai thác từ các nguồn sau:
- Từ các cơ quan quản lý kinh tế tài chính Nhà nước
Các chính sách, thông tư, chế độ, quyết định của các cơ quan quản lý kinh tế
tài chính Nhà nước có thẩm quyền như Chính phủ, Bộ tài chính, Cơ quan Thuế,…
là nguồn thông tin quan trọng giúp xây dựng ngân hàng tình huống. Ưu điểm của
nguồn thông tin này là người viết tình huống có nguồn dữ liệu dồi dào và khả năng
lựa chọn rộng để phục vụ cho nhiều nội dung giảng dạy khác nhau trong chương
trình. Khi xây dựng tình huống để giảng dạy cho một bài học hoặc một nội dung
trong bài học, giáo viên có thể chọn lọc một phần dữ liệu trong hồ sơ đó phù hợp
với mục đích và yêu cầu của bài giảng. Thông qua nguồn dữ liệu từ cơ quan Nhà
34
nước, người viết tình huống còn có thể biết được quan điểm của cơ quan có thẩm
quyền khi giải quyết vụ việc đó và phát hiện độ “vênh” giữa lý luận và thực tiễn.
- Từ hoạt động thực tiễn của giảng viên
Ngoài nhiệm vụ chính là giảng dạy tại các trường đại học cao đẳng, ngày nay
có rất nhiều giảng viên là cộng tác viên, tư vấn về kế toán và phân tích tài chính cho
các doanh nghiệp. Trong quá trình hoạt động thực tiễn này, giảng viên sẽ có một
vốn tri thức và kinh nghiệm phong phú về lĩnh vực giảng dạy của mình và đây sẽ
trở thành một nguồn thông tin quan trọng cho họ khi xây dựng các tình huống phục
vụ cho hoạt động giảng dạy. Những kinh nghiệm từ hoạt động thực tiễn này có ưu
điểm là được rút ra từ chính những vấn đề mà họ phải giải quyết nên người viết tình
huống không những có nguồn thông tin khá đầy đủ mà họ còn có sự hiểu biết sâu
sắc về vấn đề.
- Từ người học
Người viết tình huống có thể khai thác nguồn thông tin phong phú từ sinh
viên thông qua các đề tài tiểu luận cuối khoá, báo cáo thực tập và khoá luận tốt
nghiệp. Đây là những nguồn thông tin đã được người học chọn lọc từ quá trình thực
tập tại các đơn vị thực tập theo một chủ đề nhất định. Vì vậy, khi khai thác nguồn
thông tin này, người viết tình huống sẽ thuận lợi và tiết kiệm rất nhiều thời gian,
công sức. Tuy nhiên, nguồn thông tin này có điểm hạn chế là dữ liệu đã được sinh
viên “xử lý” nên đôi khi không đủ để người viết tình huống sử dụng hoặc sinh viên
không có kinh nghiệm khi xử lý thông tin nên làm giảm giá trị của tình huống.
- Từ các phương tiện đại chúng như truyền hình, báo chí,
Internet,…
Truyền hình, báo chí và Internet và các phương tiện đại chúng khác cung cấp
một nguồn thông tin phong phú và đa dạng cho người viết tình huống. Thông
thường, những vấn đề tài chính kế toán được nêu lên trên các phương tiện thông tin
đại chúng đều là những tình huống thực tế gặp phải. Điều quan trọng là người viết
tình huống cần nhìn thấy được những vấn đề kế toán tài chính được nêu ra trong
35
một số vụ việc được đưa tin và khai thác nội dung thông tin một cách hiệu quả.
Người nghiên cứu tình huống kế toán có thể khai thác thông tin từ các bản tin kinh
tế tài chính từ các kênh truyền hình như VTV1, VITV, InfoTV-VTVcab9, FBNC….
Ngoài ra thông tin còn được thu thập từ các tờ báo như Kinh tế Sài Gòn, Thanh
Niên; các trang web như www.webketoan.com, www.người làm kế toán.net, www.
dayketoan.net hoặc các tạp chí chuyên ngành như tạp chí Kế toán - Kiểm toán,
Kinh tế tài chính, Thời báo Kinh tế Sài Gòn… Tuy nhiên, những thông tin từ báo
chí thường được tóm tắt ngắn gọn hoặc được nhìn nhận qua “lăng kính” chủ quan
của người viết nên gây một số khó khăn nhất định cho người khai thác tình huống.
Vì vậy, người viết tình huống cần có những chỉnh sửa hợp lý để phù hợp với nội
dung và yêu cầu của bài giảng.
Có ý kiến cho rằng giảng viên có thể sử dụng các tình huống có sẵn từ các tài
liệu nước ngoài, đặc biệt là trong lĩnh vực thương mại quốc tế. Các tình huống này
được chuẩn bị hết sức chuyên nghiệp bởi các chuyên gia. Tuy nhiên, đôi khi các dữ
kiện trong tình huống này rất xa lạ với môi trường kinh tế, chính trị, xã hội của Việt
Nam, khi các tiền đề về thị trường, doanh nghiệp và khách hàng còn rất khác biệt.
Vì vậy, chúng ta có thể nghiên cứu các tình huống của nước ngoài để học hỏi cách
thức xây dựng tình huống mà không nên lấy nguyên mẫu tình huống của nước ngoài
để giảng dạy kế toán ở Việt Nam.
Tóm lại, nguồn thông tin là yếu tố rất quan trọng để xây dựng một tình
huống tốt. Những thông tin này có thể được so sánh với nguyên liệu của quá trình
sản xuất. Người viết tình huống không thể ngồi nghĩ ra các tình huống mà không
xuất phát từ cuộc sống thực tế. Vì vậy, việc lựa chọn nguồn thông tin để khai thác
tình huống sẽ giúp người viết tình huống tiết kiệm thời gian, chi phí, công sức, đồng
thời có những tình huống hay, sinh động và đạt được các mục đích, yêu cầu của bài
giảng.
36
3.3. Vận dụng phương pháp nghiên cứu tình huống trong giảng dạy môn học
Kế toán tài chính
3.3.1. Cách thức triển khai việc dạy học bằng phương pháp tình huống
Phương pháp dạy học bằng tình huống gồm có ba thành phần liên quan:
- Thứ nhất: nội dung của tình huống cần nêu bật các vấn đề được đặt ra mang
tính thực tiễn cao, tính logic của vấn đề cần được mang ra phân tích, đánh giá cụ
thể.
- Thứ hai: phân tích tình huống, từ các vấn đề nêu ra trong tình huống sinh
viên xây dựng các câu hỏi cụ thể về các vấn đề cần giải quyết, cần quan tâm, cách
thức giải quyết vấn đề trong tình huống.
- Thứ ba: thảo luận tình huống, nêu ra các giải pháp để giải quyết các vấn đề
gắn với nội dung môn học.
Từ đó các giai đoạn trong tiến trình dạy học theo phương pháp tình huống
được đưa ra như sau:
GIAI ĐOẠN CHUẨN BỊ
Giảng viên công bố yêu cầu,
hướng dẫn tìm hiểu trước nội
dung và đưa ra tình huống
Phân nhóm và chuẩn bị theo
nhóm
Các nhóm trình bày tình
huống
Thảo luận, nhận xét, đánh giá
Giảng viên tổng kết, đánh giá
GIAI ĐOẠN THỰC HIỆN
GIAI ĐOẠN TỔNG KẾT
ĐÁNH GIÁ
Hình 3.1. Các giai đoạn trong tiến trình dạy học bằng phương pháp tình huống
37
Giai đoạn chuẩn bị: giảng viên công bố yêu cầu của bài học, hướng dẫn sinh
viên tìm hiểu trước nội dung và đưa ra tình huống cần giải quyết. Sau đó, giảng viên
thực hiện việc phân nhóm, các nhóm học tập họp nhóm phân tích chủ đề, đưa ra các
câu hỏi và giả thuyết để giải quyết tình huống do giảng viên đưa ra. Trong giai đoạn
này đòi hỏi giảng viên cần chuẩn bị hết sức kỹ lưỡng, trong đó nổi bật nhất là nêu
được vấn đề để hấp dẫn người học trong tình huống đưa ra, đồng thời tình huống đó
cần có liên hệ sâu với nội dung bài giảng môn học. Đối với sinh viên cần có tinh
thần học tập nghiêm túc, làm việc theo nhóm, phân chia công việc rõ ràng và cụ thể.
Giai đoạn thực hiện: các nhóm sinh viên trình bày tình huống, sau đó lớp tiến
hành thảo luận, nhận xét và đánh giá. Việc thảo luận trong và giữa các nhóm là bắt
buộc đối với tất cả các cá nhân, nó không những giúp sinh viên phát triển được khả
năng giao tiếp và các kỹ năng xã hội mà còn phát triển được quá trình nhận thức đó
chính là đọc hiểu, phân tích, đánh giá,…
Giai đoạn tổng kết đánh giá: cuối buổi thảo luận, giảng viên hướng dẫn các
nhóm cùng tổng kết, đánh giá kết quả của buổi thảo luận, sau đó giáo viên “chốt” lại
về các mặt: đánh giá về hình thức và nội dung trình bày và giải pháp giải quyết tình
huống của các nhóm; đánh giá về các giải pháp mà các nhóm khác đưa ra cho các
tình huống; đánh giá chất lượng kết quả của buổi thảo luận, tinh thần thái độ tham
gia buổi thảo luận của các sinh viên.
3.3.2. Tổ chức giảng dạy theo phương pháp tình huống
Tổ chức giảng dạy theo phương pháp NCTH trong môn học KTTC gồm hai
phương pháp thảo luận và tranh luận được sử dụng để tổ chức giải quyết tình
huống:
+Phương pháp thảo luận: Giảng viên giới thiệu tình huống cho lớp học, sau
đó nêu ra hệ thống câu hỏi để hướng dẫn lớp thảo luận. Trong quá trình thảo luận,
giảng viên có thể đưa ra các gợi ý để giúp nội dung thảo luận sôi nổi và đi đúng
hướng. Tùy theo nội dung vấn đề mà giảng viên nên hoặc không nên tổng kết thảo
luận và giải đáp các câu hỏi [5],[8].
38
+ Phương pháp tranh luận: Thường được dùng trong trường hợp tình
huống đề cập đến hai quan điểm hoặc giải pháp trái ngược nhau cho cùng một vấn
đề, ví dụ trường hợp có nên hay không ghi nhận một khoản doanh thu. Việc tranh
luận bảo vệ quan điểm sẽ làm tăng tính chủ động và phát triển tư duy của người
học, giúp người học hiểu sâu và lý giải vấn đề một cách thông suốt, từ đó đạt được
mục tiêu của tình huống đề ra trong giảng dạy [5] [8].
Ví dụ minh họa một Case study được áp dụng trong giảng dạy môn học Kế
toán tài chính.
Tiết giảng “Kế toán ghi nhận doanh thu đối với giao dịch bán hàng hóa,
cung cấp dịch vụ theo chương trình dành cho khách hàng truyền thống”
Nôi dung tình huống:
Hãng hàng không Việt Nam Airline (VNA) thực hiện chương trình Bông
Sen Vàng dành cho khách hàng thường xuyên như sau: Trong thời hạn 1 năm nếu
khách hàng bay đạt 25.000 dặm/1 năm, thì khách hàng sẽ được tặng 01 chặn bay
khứ hồi Hà Nội – Đà Nẵng hoặc 01 đêm sử dụng dịch vụ miễn phí tại Bà Nà Hill.
Trong năm khách hàng A tích lũy được số dặm là 25.100 dặm, do đó khách hàng đủ
điều kiện để đổi 01 vé máy bay khứ hồi Hà Nội – Đà Nẵng hạng phổ thông và tài
khoản tích lũy của khách hàng còn dư là 100 dặm sau khi nhận vé thưởng [4],[10].
Tổng doanh thu cung cấp trong kỳ cho khách hàng A là 102.888.000 đồng
(bằng tiền gửi Ngân hàng).
Chuyến bay Hà Nội – TP Hồ Chí Minh tương đương 708 dặm.
Giá vé Hà Nội – TP Hồ Chí Minh: 2.997.000 đồng/chiều, chưa bao gồm thuế
giá trị gia tăng.
Giá vé khứ hồi Hà Nội – Đà Nẵng là 5.000.000 đồng
Giá 01 đêm ở Bà Nà Hill là 5.000.000 đồng/đêm.
Hoa hồng đại lý VNA được hưởng trong trường hợp VNA làm đại lý cho Bà
Nà Hill 25%.
39
Giả sử giá vốn là: 3.500.000 đồng trong trường hợp VNA không đóng vai trò
làm đại lý mà mua đứt bán đoạn dịch vụ và cung cấp miễn phí cho khách hàng.
Hệ thống các câu hỏi:
1. Cho biết đặc điểm của giao dịch bán hàng hóa, cung cấp dịch vụ theo
chương trình dành cho khách hàng truyền thống trong trường hợp tình huống của
VNA?
2. Cho biết nguyên tắc ghi nhận doanh thu đối với giao dịch bán hàng hóa,
cung cấp dịch vụ theo chương trình dành cho khách hàng truyền thống?
3. Kế toán ghi nhận doanh thu bán hàng hóa cung cấp dịch vụ cho khách
hàng trong trường hợp của VNA này như thế nào?
4. Trường hợp khách hàng A thực hiện đổi điểm lấy vé thưởng dịch vụ bay
do VNA cung cấp, kế toán sẽ ghi nhận như thế nào?
5. Trường hợp khách hàng A thực hiện việc đổi dặm lấy 01 đêm sử dụng
dịch vụ tại Bà Nà Hill, kế toán sẽ ghi nhận như thế nào:
a. Nếu Việt Nam Airline đóng vai trò là đại lý cho Bà Nà Hill?
b. Nếu Việt Nam Airline không đóng vai trò là đại lý cho Bà Nà Hill?
6. Hãy cho biết kế toán sẽ sử dụng các chứng từ và sổ chi tiết và sổ tổng hợp
nào để phản ánh nghiệp vụ kinh tế trên đối với từng Câu hỏi 4, Câu hỏi 5a, Câu hỏi
5b trong trường hợp VNA áp dụng hình thức Nhật ký chung và có sử dụng các sổ
Nhật ký đặc biệt?
Hướng dẫn tài liệu tham khảo:
* Tài liệu bắt buộc
- Giáo trình Kế toán tài chính doanh nghiệp, chủ biên TS. Nguyễn Công
Phương, Trường Đại học Kinh tế Đà Nẵng, NXB Tài Chính, 2010
- Bài giảng Kế toán tài chính, Bộ môn Kế toán – Tin học, Khoa Hệ thống
Thông tin Kinh tế, Trường Cao đẳng Công nghệ Thông tin Đà Nẵng, 2014
40
- Giáo trình Kế toán tài chính doanh nghiệp, chủ biên TS Đặng Thị Hòa – TS
Phạm Đức Hiếu, NXB Giáo dục Việt Nam, 2009
- Thông tư 200/TT-BTC ban hành ngày 22/12/2014 về Hướng dẫn Chế độ kế
toán doanh nghiệp.
* Tài liệu tham khảo
- Tạp chí Kế toán – Kiểm toán
- Tạp chí tài chính
- Các Website: webketoan.vn, danketoan.com, giaiphapexcell.com,
gdt.gov.vn
Tính thực tiễn của tình huống
Hiện nay, có rất nhiều doanh nghiệp kinh doanh áp dụng các chương trình
bán hàng dành cho khách hàng truyền thống, tuy nhiên Chế độ kế toán chưa có sự
hướng dẫn cụ thể, dẫn đến người làm kế toán ở các doanh nghiệp còn rất mơ hồ
trong việc ghi nhận doanh thu trong trường hợp này. Chỉ đến khi Thông tư 200/TT-
BTC ban hành ngày 22/12/2014 thì khái niệm chương trình dành cho khách hàng
truyền thống mới được đưa ra lần đầu tiên. Chương trình dành cho khách hàng
truyền thống khác với các chương trình chiết khấu, khuyến mãi đó là đối với
chương trình này, khách hàng được tích điểm thưởng để khi đạt đủ số điểm theo
quy định sẽ được nhận một lượng hàng hóa, dịch vụ miễn phí hoặc được giảm giá
chiết khấu. Như vậy, tình huống Việt Nam Airline đưa ra thực sự nóng hổi, giúp
cho người học có thể hình dung về thực tế một cách rõ ràng hơn và có thể vận dụng
các chế độ chính sách kế toán mới để giải quyết vấn đề một cách triệt để [2],[3].
Tổ chức giảng dạy
Giảng viên giới thiệu tình huống cho lớp học và cung cấp các kiến thức cần
thiết về mặt lý thuyết liên quan đến tình huống đưa ra. Giảng viên cần thiết phải giải
thích thật chi tiết tình huống để sinh viên hiểu rõ các vấn đề cần giải quyết và xác
định nhiệm vụ vai trò của sinh viên khi tham gia vào tình huống đó. Sau đó, giảng
41
viên sẽ tiến hành giảng dạy Case study theo phương pháp thảo luận nhóm và phản
biện. Giảng viên cho sinh viên thảo luận khoảng 10 -15 phút trên, tiếp theo các
nhóm sinh viên sẽ lên trình bày và các nhóm khác phản biện. Trong quá trình phản
biện, giảng viên đóng vai trò là người hướng dẫn, điều hành chung và có thể đưa ra
các gợi ý để kích thích sinh viên tham gia trao đổi sôi nổi và đi đúng trọng tâm của
bài giảng.
Tổ chức lớp học và phân bổ thời gian
- Đối với công tác chuẩn bị: Giảng viên đưa ra tình huống, hướng dẫn các tài
liệu bắt buộc và tài liệu tham khảo cho sinh viên trước 1- 2 buổi, để các em làm việc
theo nhóm thảo luận trước ở nhà, nhằm tiết kiệm thời gian trình bày và thảo luận
trên lớp để dành nhiều thời gian cho tranh luận và phản biện.
- Đối với cách thức chia nhóm: Sinh viên được chia theo nhóm với sĩ số
khoảng 5- 7 người. Các nhóm được chia trên tinh thần tự nguyện kết hợp với phân
công của giảng viên từ đầu khóa học và không thay đổi trong suốt khóa học. Giảng
viên hướng dẫn sinh viên cách tổ chức nhóm như: bầu trưởng nhóm, tên nhóm, ghi
danh sách thành viên, cách thống nhất phương án giải quyết vấn đề của nhóm…
- Đối với việc tổ chức thảo luận, báo cáo: các nhóm lên trình bày theo nội
dung đã phân công, nhóm tự chọn người đại diện trình bày, thời gian trình bày tối
đa là khoảng 5-10 phút, sau đó nhóm trả lời phản biện của các nhóm còn lại, giảng
viên cũng có thể hỏi những vấn đề trong nội dung trình bày trên cơ sở đó tạo hứng
thú cho sinh viên mạnh dạn trình bày ý kiến và để không khí lớp học trở nên sôi nổi
hơn. Các thành viên trong nhóm có thể thảo luận nội dung và cách thức trả lời sau
đó cử đại diện nhóm trả lời hoặc chỉ điểm từng cá nhân trong nhóm trả lời.
Qua đó có thể đánh giá được nhóm nào chuẩn bị tốt nhóm nào không. Sau
khi nhóm báo cáo trả lời phản biện xong, các nhóm khác nếu thấy không thống nhất
với cách trả lời đó có thể trình bày cách giải quyết của nhóm mình hoặc bổ sung,
chất vấn thêm. Cuối cùng giảng viên là người tổng kết lại các vấn đề của mỗi nhóm
42
thảo luận, trên cơ sở đó và rút ra những nội dung lý thuyết mà sinh viên cần nắm
được.
Phương pháp đánh giá người học
- Đối với đánh giá cá nhân: thông qua hoạt động thảo luận trên lớp giảng
viên có cơ sở cho việc cộng điểm khuyến khích các cá nhân. Việc đánh giá phải
được tiến hành công khai, có tham khảo ý kiến của các nhóm khác. Bên cạnh đó
giảng viên có thể hỏi bất cứ vấn đề nào đối với bất cứ cá nhân nào liên quan đến
nhóm thực hiện để đánh giá phân loại cá nhân trong nhóm [8].
- Đối với đánh giá nhóm: thông qua các tiêu thức cho điểm trước khi thảo
luận đã đề ra, giảng viên tiến hành đánh giá công khai cho từng tiêu chí như: trình
bày đúng giờ, nội dung trình bày dễ hiểu, trả lời các câu hỏi phản biện, tinh thần
hợp tác và hỗ trợ nhóm có tốt không...[8].
3.3.3. Kết quả việc vận dụng phương pháp tình huống trong môn học Kế toán tài
chính
Qua việc vận dụng phương pháp tình huống trong 2 buổi học dành cho sinh
viên lớp 14A chuyên ngành Kế toán – Tin học, kết quả khảo sát ý kiến đánh giá của
sinh viên đã cho thấy hiệu quả rất cao trong việc áp dụng phương pháp NCTH trong
môn học Kế toán tài chính thể hiện các mặt sau:
Tăng hiệu quả và giá trị thực tiễn của môn học Kế toán tài chính
Kết quả khảo sát cho thấy 100% sinh viên đánh giá cao hiệu quả của việc áp
dụng phương pháp NCTH trong giảng dạy môn học KTTC, trong đó có 80% sinh
viên đánh giá ở mức Rất tốt và Tốt: tăng tính thực tiễn môn học (81%); giúp hình
dung các nghiệp vụ kế toán tài chính (83%); tăng hứng thú môn học (80%); giúp
khắc sâu các kiến thức lý thuyết (72%) thể hiện ở Bảng 3.1
43
Bảng 3.1. Ưu điểm của việc vận dụng phương pháp tình huống trong môn học
Kế toán tài chính
Rất
tốt
Tốt Khá Trung
bình
Yếu Rất
yếu
Giúp môn học gần gũi hơn với thực tiễn KTTC
hiện nay
35% 46% 19% 0% 0% 0%
Giúp hình dung các nghiệp vụ kế toán 40% 43% 17% 0% 0% 0%
Tăng hứng thú học môn KTTC 45% 35% 20% 0% 0% 0%
Giúp khắc sâu kiến thức lý thuyết đã học trên
lớp
40% 32% 28% 0% 0% 0%
Ngoài ra, hầu hết các sinh viên được hỏi (93%) đánh giá mức độ phù hợp với
thực tiễn của các tình huống kế toán tài chính đưa ra trong các buổi thảo luận, trong
đó có đến 75% ý kiến sinh viên đánh giá sự phù hợp với mức Tốt và Rất tốt.
Hình thành và phát triển các kỹ năng học tập tích cực
Quá trình nghiên cứu cho thấy việc áp dụng phương pháp NCTH trong dạy
học KTTC giúp sinh viên hình thành và phát triển những kỹ năng cơ bản như sau:
- Kỹ năng phân tích để xác định vấn đề: khi tiếp cận một tình huống, việc
đầu tiên của người học là phải nghiên cứu xác định chính xác những vấn đề mấu
chốt mà tình huống đề cấp đến. Ví dụ, trong một tình huống kế toán “vấn đề” có thể
là về việc đo lường các đối tượng kế toán, những nguyên nhân dẫn đến đo lường sai
các đối tượng kế toán, và cách thức xử lý,...Có xác định đúng vấn đề mới có cơ sở
đưa ra những ý kiến bình luận, đánh giá hay giải pháp phù hợp. Đây không chỉ là
một kỹ năng cần thiết cho kế toán khi thực hiện công việc của mình mà còn cần
thiết cho mỗi cá nhân trong cuộc sống. Chính nhờ xác định trúng và đúng vấn đề
mới có thể đưa ra các giải pháp phù hợp cho từng tình huống. Kết quả khảo sát cho
thấy 82% sinh viên đánh giá cao (từ mức khá trở lên) vai trò của phương pháp
NCTH đối với việc góp phần hình thành cho sinh viên kỹ năng phân tích để xác
định vấn đề.
- Kỹ năng giao tiếp và làm việc nhóm: điểm yếu nổi bật của sinh viên trong
nhà trường nói chung, ở Trường CĐ CNTT tin nói riêng là sự hạn chế về kỹ năng
44
giao tiếp và hợp tác làm việc trong nhóm. Do thời lượng học lý thuyết trên lớp khá
cao, phần thời gian cho hoạt động làm việc nhóm hầu như không có nên sinh viên ít
có điều kiên rèn luyện những kỹ năng này cũng là điều dễ hiểu. Trên thực tế, với
việc vận dung phương pháp tình huống vào giảng dạy, giáo viên phải đưa ra những
chủ đề tình huống nghiên cứu để sinh viên tự học ở nhà theo nhóm. Như vậy để
chuẩn bị cho buổi thảo luận trên lớp, mỗi cá nhân trước hết sẽ tự tìm kiếm thông tin
tài liệu liên quan đến tình huống, tìm ra các giải pháp cho các tình huống đó, từng
nhóm sẽ bàn bạc, tranh luận về nội dung của tình huống cùng các giải pháp đưa ra,
sau đó sửa chữa hoặc bổ sung. Kết quả khảo sát cho thấy sinh viên đánh gia cao vai
trò của phương pháp NCTH trong giảng dạy môn học KTTC đối với việc hình
thành kỹ năng giao tiếp và hợp tác nhóm (80% đánh giá từ mức khá trở lên).
- Kỹ năng trình bày vấn đề/quan điểm trước tập thể: ở môn học KTTC, theo
cách phân bổ thời gian và cách dạy truyền thống, số giờ dành riêng cho các buổi
thảo luận không nhiều, bởi thế sinh viên ít hoặc không có điều kiện để trình bày các
ý kiến, quan điểm của cá nhân mình về nội dung học tập hay ứng dụng thực tiễn nào
đó. Với cách học theo phương pháp NCTH, sinh viên có cơ hội được trình bày ý
kiến cá nhân và tranh luận, thứ nhất là trước nhóm, thứ hai là trong các buổi thảo
luận toàn lớp. Thực tế cho thấy, do thiếu kinh nghiệm trình bày vấn đề và tranh luận
trước tập thể nên trong buổi thảo luận đầu tiên về các tình huống trong kế toán
những phút đầu phần lớn sinh viên còn có thái độ rụt rè, ngượng ngùng, lắp bắp khi
nói trước cả lớp, trông chờ vào ý kiến của các bạn khác, nhóm khác và thái độ này
được đặc biệt cải thiện ở buổi tranh luận sau. Kết quả khảo sát cho thấy các sinh
viên đánh giá mới chỉ ở mức độ tương đối cao tác động của các buổi tình huống
trong việc góp phần hình thành kỹ năng trình bày vấn đề, quan điểm trước tập thể
(có 70% ý kiến chọn từ mức Khá trở lên).
- Kỹ năng tranh luận, đưa ra luận điểm và bảo vệ ý kiến: Kết quả khảo sát
cho thấy sinh viên đánh giá khá cao ý nhĩa của các tranh luận trong buổi học áp
dụng phương pháp NCTH. Đánh giá tác động của phương pháp tình huống đến việc
giúp sinh viên hình thành kỹ năng tranh luận, đưa ra luận điểm và bảo vệ ý kiến có
45
65% sinh viên chọn từ mức khá trở lên. Đây thực sự là một kết quả đáng khích lệ
bởi trên thực tế không ít sinh viên còn chưa có thói quen và kỹ năng đưa ra luận
điểm và bảo bệ ý kiến của mình.
- Kỹ năng so sánh đánh giá các phương án, ra quyết định và giải quyết tình
huống: trước một tình huống kế toán có thể sẽ có nhiều phương án giải quyết và đối
với mỗi phương án giải quyết được đưa ra cũng có nhiều ý kiến nhận xét, bình luận
khác nhau, thậm chí trái chiều nhau. Để đưa ra được phương án giải quyết đúng, có
cơ sở pháp lý và khoa học hoặc để đánh giá những hạn chế của các phương án giải
quyết sai, chưa tốt sinh viên phải dựa trên những kiến thức về nguyên lý kế toán,
các văn bản pháp lý, các quy định hướng dẫn về kế toán nhằm phân tích đúng sai,
hay dở của các giải pháp, trên cơ sở đó lựa chọn phương án giải quyết tình huống
tối ưu. Kết quả khảo sát cho thấy sinh viên đánh giá cao vai trò của phương pháp
NCTH trong dạy học KTTC đối với việc hình thành kỹ năng so sánh, đánh giá các
phương án và kỹ năng qua quyết định, giải quyết vấn đề ( trên 70% ý kiến sinh viên
chọn từ mức khá trở lên)
Dưới đây là bảng tổng hợp mức độ hình thành các kỹ năng thông qua việc áp
dụng phương pháp tình huống trong dạy học KTTC.
Bảng 3.2. Mức độ hình thành các kỹ năng thông qua học theo tình huống
Rất
tốt
Tốt Khá Trung
bình
Yếu Rất
yếu
Kỹ năng phân tích để xác định vấn đề 10% 40% 32% 15% 3% 0%
Kỹ năng giao tiếp và hợp tác làm việc nhóm 15% 34% 31% 15% 5% 0%
Kỹ năng trình bày vấn đề/quan điểm trước tập
thể
10% 32% 28% 20% 10% 0%
Kỹ năng tranh luận, đưa ra luận điểm và bảo vệ
ý kiến
2% 15% 48% 30% 5% 0%
Kỹ năng so sánh, đánh giá các phương án 7% 28% 37% 21% 7% 0%
Kỹ năng ra quyết định, giải quyết vấn đề 6% 27% 38% 20% 9% 0%
46
Như vậy, kết quả khảo sát cho thấy việc vận phương pháp tình huống vào
giảng dạy góp phần hình thành và phát triển một số các kỹ năng cơ bản và quan
trọng đối với sinh viên.
Ngoài ra, trong phần khảo sát ý kiến của sinh viên, kết quả cho thấy trên
90% sinh viên cho rằng nên áp dụng thường xuyên phương pháp tình huống trong
dạy học môn học KTTC, và có 75% sinh viên cho rằng số giờ thực hành giải quyết
tình huống như đã thực hiện 2 buổi mỗi buổi 2 tiết là ít. Điều đó cho thấy bản thân
sinh viên đã ý thức được tầm quan trọng của những giờ học thực hành cũng như vai
trò của các kỹ năng xử lý tình huống kế toán trong thực tiễn nghề nghiệp của họ sau
này. Vì vậy, để vận dụng tối ưu phương pháp tính huống trong giảng dạy, giảng
viên cần tăng sự lồng ghép các tình huống KTTC vào phần giảng kiến thức lý
thuyết và nâng cao yêu cầu cũng như nội dung thảo luận nhóm, thông qua đó mà
yêu cầu về thảo luận nhóm (ngoài giờ trên lớp) cũng tăng lên.
3.4. Đánh giá việc vận dụng phương pháp nghiên cứu tình huống trong giảng
dạy môn học Kế toán tài chính
3.4.1. Ưu điểm
Việc vận dụng phương pháp nghiên cứu tình huống trong giảng dạy môn học
Kế toán tài chính mang lại nhiều ưu điểm như sau:
- Giúp nâng cao được tính thực tiễn của môn học KTTC. Cụ thể, sau khi đã
được cung cấp các kiến thức lý thuyết, bài tập tình huống sẽ giúp sinh viên có cái
nhìn sâu hơn và thực tiễn hơn về vấn đề lý thuyết đã được học. Từ đó, thông qua
việc xử lý tình huống, sinh viên sẽ có điều kiện để vận dụng linh hoạt các kiến thức
lý thuyết.
- Giúp nâng cao tính chủ động, sáng tạo và sự hứng thú của sinh viên trong
quá trình học. Khác với việc tiếp thu lý thuyết một cách thụ động, khi được giao các
bài tập tình huống, các nhóm học tập cần chủ động tìm kiếm và phân tích các thông
tin để đi đến giải pháp cho tình huống. Như vậy, để đáp ứng được yêu cầu này, sinh
viên phải chủ động tư duy, thảo luận và tranh luận trong nhóm hay với giảng viên,
47
tìm hiểu thêm về lý thuyết, tài liệu tham khảo để đạt đến giải pháp. Chính trong quá
trình tư duy, tranh luận, bảo vệ và sửa đổi các đề xuất - giải pháp của mình, sinh
viên đã tham gia vào quá trình nhận thức. Sự tham gia tích cực đó góp phần tạo ra
sự hứng thú và say mê học tập, sáng tạo của sinh viên. Đây chính là lúc quá trình
dạy và học tập trung vào học phương pháp học, phương pháp tiếp cận, phân tích và
tìm giải pháp chứ không chỉ giới hạn ở việc học các nội dung cụ thể.
- Giúp sinh viên được rèn luyện và nâng cao kỹ năng làm việc nhóm, kỹ
năng phân tích, giải quyết vấn đề, kỹ năng trình bày, bảo vệ và phản biện ý kiến
trước đám đông. Để giải quyết tình huống, sinh viên được yêu cầu làm việc trong
nhóm từ 5- 7 thành viên, cả nhóm cùng phân tích và thảo luận để đi đến giải pháp,
sau đó trình bày giải pháp của mình cho cả lớp. Lúc này sinh viên tiếp thu được
kinh nghiệm làm việc theo nhóm, chia sẻ kiến thức, thông tin để cùng đạt đến mục
tiêu chung. Các kỹ năng như trình bày, bảo vệ và phản biện ý kiến cũng được hình
thành trong bối cảnh này. Sinh viên cũng học được cách tôn trọng và lắng nghe ý
kiến của người khác để làm cho vốn kiến thức của mình phong phú hơn.
- Trong vai trò là người dẫn dắt giảng viên cũng sẽ tiếp thu được rất nhiều
kinh nghiệm và những cách nhìn hay giải pháp mới từ phía người học để làm phong
phú bài giảng và điều chỉnh nội dung tình huống nghiên cứu. Đây cũng là một kênh
quan trọng để giảng viên thu thập kinh nghiệm từ người học.
- Các tình huống tốt sẽ có tính chất liên kết lý thuyết rất cao. Để giải quyết
một tình huống một cách tốt nhất, sinh viên phải vận dụng và điều chỉnh nhiều kiến
thức lý luận khác nhau, đây chính là lúc các lý thuyết rời rạc của một môn học được
nối lại thành bức tranh tổng thể. Như vậy, ở mức độ ứng dụng cao hơn, sinh viên
không chỉ vận dụng kiến thức của một môn học mà trong nhiều trường hợp phải vận
dụng kiến thức của nhiều môn học khác nhau.
3.4.2. Hạn chế
Bên cạnh các ưu điểm đạt được thì việc vận dụng phương pháp nghiên cứu
tình huống vào giảng dạy môn học Kế toán tài chính còn bộc lộ một số hạn chế:
48
- Phương pháp NCTH khó có thể giúp giảng viên chuyển tải đầy đủ những
kiến thức cơ bản, thiết yếu về bài học. Vì vậy, nó cần được phối hợp với các
phương pháp khác, ví dụ phương pháp thuyết giảng, phương pháp phân tích và
phương pháp dạy học dựa trên vấn đề.
- Với các lớp đông, sẽ rất khó để mọi sinh viên đều có cơ hội phát biểu hoặc
tham gia đầy đủ các hoạt động học tập, đồng thời giảng viên sẽ gặp khó khăn trong
việc tổ chức lớp học theo phương pháp này. Việc phân chia theo khu vực và sinh
viên ngồi theo nhóm với nhau là một biện pháp hữu hiệu, ngoài ra giảng viên phải
làm việc tích cực hơn, di chuyển nhiều hơn trong lớp học.
- Giảng dạy theo phương pháp này đòi hỏi có nhiều thời gian, trong khi theo
học chế tín chỉ thì thời lượng dành cho các môn học nhìn chung bị giảm bớt. Điều
này đòi hỏi sinh viên phải dành thêm thời gian tự học để chuẩn bị trước những yêu
cầu do giảng viên đặt ra. Việc giảng viên tư vấn cho sinh viên cách tự đọc tài liệu,
tự tìm tài liệu tham khảo và cách thức làm việc nhóm sẽ giúp sinh viên học tập hiệu
quả hơn, quản lý thời gian tốt hơn.
- Để xây dựng được những tình huống có hiệu quả cao, giảng viên cần đầu tư
nhiều thời gian để tiếp cận các nguồn thông tin khác nhau từ thực tiễn cuộc sống và
lĩnh vực nghề nghiệp có liên quan. Chịu khó cập nhật thông tin trên các phương tiện
thông tin đại chúng, các trang web chuyên ngành và tham khảo các chương trình
truyền hình về các vấn đề liên quan đến kế toán tài chính là rất quan trọng.
3.5. Giải pháp nâng cao hiệu quả của việc áp dụng phương pháp nghiên cứu
tình huống trong giảng dạy môn học Kế toán tài chính
3.5.1. Đối với nhà trường và các cấp quản lý
- Cần cấu trúc lại nội dung chương trình giảng dạy môn học Kế toán tài
chính sao cho logic và khoa học hơn. Nên loại bỏ những kiến thức hàn lâm, tăng
kiến thức thực tiễn và cập nhật.
- Có hình thức thi cử phù hợp với cách dạy, các bài tập giải quyết tình huống
phải trở thành một nội dung kiểm tra/thi cử bắt buộc.
49
- Thường xuyên tổ chức những buổi nâng cao năng lực giảng dạy cho giảng
viên và các buổi sinh hoạt học thuật về các chủ đề chuyên môn khác nhau liên quan
đến đổi mới nội dung, phương pháp dạy học.
- Tổ chuyên môn nên tăng cường thực hiện các đề tài nghiên cứu đổi mới
phương pháp dạy học, sau đó báo cáo các kết quả nghiên cứu và áp dụng vào giảng
dạy.
3.5.2. Đối với giảng viên
- Giảng viên cần nắm vững bản chất và cách thức tiến hành phương pháp
NCTH trong dạy học, phương pháp NCTH có nhiều ưu điểm nổi bật tuy niên nếu
lạm dụng hoặc không áp dụng khéo léo, đúng cách thì dễ làm mất thời gian và hiệu
quả cũng không cao, dễ làm phá vỡ cấu trúc lý thuyết của bài học.
- Giảng viên phải rèn luyện sự nhạy cảm nghề nghiệp và thói quen thường
xuyên sưu tầm, quan sát, ghi chép những tình huống có thực do tự trải nghiệm, quá
trình thực tế tại các doanh nghiệp hàng năm, từ các phương tiện thông tin đại
chúng,...
- Trên cở sở những tình huống sưu tầm, biên soạn được tiến hành xây dựng
ngân hàng các tình huống dạy học. Các tình huống dạy học không chỉ đơn giản
được trình bày dưới dạng viết mà còn cần được bổ sung bằng các tình huống sống
động dưới dạng hình ảnh, đoạn phim tư liệu nhằm tạo thêm sự sinh động, hấp dẫn
nhằm cuốn hút sự chú ý của người học.
- Trong quá trình lên lớp, giảng viên phải biết khuyến khích và tạo điều kiện
để sinh viên tham gia tranh luận, biết cách đưa ra luận điểm và bảo vệ ý kiến, tự tin
và biết cách tư duy phản biện, phê phán trong quá trình học và tự học,...
3.5.3. Đối với sinh viên
- Sinh viên cần có thái đội đúng đắn với các yêu cầu học tập ở bậc cao đẳng
đại học.
- Trong quá trình học tập, với sự hướng dẫn của giảng viên, sinh viên phải
tích cực rèn luyện những kỹ năng cơ bản như: kỹ năng đọc sách, kỹ năng tự học, tự
nghiên cứu, kỹ năng tìm kiếm và xử lý thông tin, kỹ năng thuyết trình, kỹ năng lập
luận, bảo vệ ý kiến cá nhân, kỹ năng hợp tác trong làm việc nhóm, năng lực tư duy
phê phán, phản biện,…
50
KẾT LUẬN
Việc đưa ra tình huống để sinh viên đọc tài liệu và giải quyết sẽ tạo nhiều
hứng thú trong học tập, giúp sinh viên có điều kiện gắn những kiến thức lý thuyết
vào thực tế. Đồng thời tạo tính chủ động nghiên cứu và phát huy được hết những lợi
ích của làm việc nhóm, định hướng học tập cho sinh viên cụ thể hơn. Việc phát triển
các phương pháp dạy học tích cực, học tập hợp tác không chỉ còn có ý nghĩa ngay
trong quá trình học tập ở nhà trường mà còn chuẩn bị cho sinh viên những kỹ năng
cần thiết phục vụ cho quá trình công tác, làm việc sau khi ra trường.
Hơn thế nữa, việc vận dụng phương pháp nghiên cứu tình huống vào trong
giảng dạy môn học Kế toán tài chính giúp cho bài giảng phong phú thông tin hơn,
hỗ trợ cho việc vận dụng các kiến thức đã học với tình huống cụ thể trong thực tiễn,
giúp bài giảng có chất lược tốt hơn nhằm góp phần nâng cao chất lượng đào tạo của
nhà trường.
Đề tài nghiên cứu về cơ bản đã đạt được mục tiêu nghiên cứu đặt ra:
Một là, làm rõ những vấn đề lý luận cơ bản về phương pháp dạy học nghiên
cứu tình huống.
Hai là, làm rõ thực trạng việc sử dụng phương pháp nghiên cứu tình huống
trong giảng dạy môn học Kế toán tài chính tại Trường Cao đẳng Công nghệ Thông
tin.
Ba là, vận dụng phương pháp nghiên cứu tình huống trong giảng dạy môn
học Kế toán tài chính tại Trường Cao đẳng Công nghệ Thông tin.
Nhóm tác giả nghiên cứu đề tài hy vọng kết quả nghiên cứu của đề tài sẽ
được vận dụng hữu ích cho công tác giảng dạy và học tập môn học Kế toán tài
chính tại Trường Cao đẳng Công nghệ Thông tin.
51
1
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] Boehrer, J & Linsky,M (1990), Teaching with Cases Learning to Question, In
M.D.Svinicki (ed), The Changing Face os College Teaching. New Direction for
Teaching and Learning, no 42 San Francisco, Jossey – Bass.
[2] Boehrer, J. (1995), How to teach a case, Kennedy School of Government Case
Programme, Case No C18 – 95 – 1285.0 available from
http://www.kgscase.harvard.edu
[3] Bộ tài chính, Chế độ kế toán doanh nghiệp - Hệ thống tài khoản kế toán – Quyển 1
(2015), NXB Tài chính, Hà Nội.
[4] Bộ tài chính, Chế độ kế toán doanh nghiệp – Báo cáo tài chính doanh nghiệp độc
lập báo cáo tài chính hợp nhất chứng từ và sổ kế toán ví dụ thực hành – Quyển 2
(2015), NXB Tài chính, Hà Nội.
[5] Christensen, C. Roland & Abby J. Hansen (1986). Teaching and the case method.
Boston: Havard Business School Publishing Division.
[6] Garvin, D.A (2003) Making the Case: Professional education for the world of
practice. Harvard Magazine. http://harvardmagazine.com/2003/09/makeing-the-
case-html.
[7] Harvard business School (1989), Learning by the Case Method in Marketing.
[8] Herreid, C.F (1994), What is a Case? Bringing to Science Education the Establish
Teaching Tool os Law anf Medicine. Journal of College Science Teaching.
[9] Herreid, C.F (1997/98), What makes a good case? Journal of College Science
Teaching 27(3):163-165.
[10] Lê Công Triêm (chủ biên), Nguyễn Đức Vũ, Trần Thị Tú Anh (2002), Một số vấn
đề hiện nay của phương pháp dạy học đại học, NXB GD, Hà Nội.
[11] Nguyễn Hữu Lam, Giảng dạy theo phương pháp tình huống, Chương trình Giảng
dạy Kinh tế Fullbringt (01/10/2003 – 04/10/2003) tại FETP.
2
[12] Penn State Schreyer Institue for Teaching Excellence (2004), Case Evaluation
Rubric 26 Appril, 2010 from
http://www.schreyerinstitute.psu.edu/pdf/caseEvalRubric.pdf.
[13] Vũ Dũng (2001), Từ điển Tâm lý học, NXB Khoa học xã hội.
[14] Viện Ngôn ngữ học Việt Nam (2001), Từ điển tiếng Việt (2001), NXB Thanh
niên.
PHỤ LỤC
PHIẾU KHẢO SÁT THÔNG TIN DÀNH CHO SINH VIÊN
Để nắm bắt thông tin về việc dạy và học các học phần thuộc môn học Kế toán tài
chính tạo điều kiện đổi mới phương pháp giảng dạy nhằm nâng cao chất lượng dạy và học
môn học này. Các bạn vui lòng điền đầy đủ thông tin và hoàn thành phiếu khảo sát dưới đây.
Rất mong nhận được sự hợp tác của các bạn.
Câu 1. Giảng viên giảng dạy nhiệt tình và yêu nghề ?
A. Có B. Không
Câu 2. Giảng viên chủ yếu dạy lý thuyết ít gắn với thực tiễn ?
A. Có B. Không
Câu 3. Tiết dạy của các học phần Kế toán tài chính thường khô khan, nhàm chán và
đơn điệu ?
A. Có B. Không
Câu 4. Bạn hãy cho đánh giá mức độ vận dụng các phương pháp dạy học cụ thể mà
giảng viên áp dụng trong giảng dạy các học phần thuộc môn học Kế toán tài chính
Các Phương pháp dạy học cụ thể Mức độ vận dụng
Thường
xuyên
Thỉnh
thoảng
Không bao
giờ
1. Phương pháp thuyết trình
2. Phương pháp vấn đáp
3. Phương pháp trực quan
4. Phương pháp phân vai
5. Phương pháp làm việc theo nhóm
6. Phương pháp nghiên cứu tình huống
7. Phương pháp Project
8. Các phương pháp khác
Câu 5. Theo bạn giảng viên có nên áp dụng phương pháp dạy học bằng tình huống
(đưa ra các tình huống để sinh viên thảo luận và tư đó làm rõ nội dung bài học)
vào môn học này để gia tặng sự hứng thú với môn học?
A. Có B. Không
Câu 6. Bạn cho các ý kiến để nâng cao chất lượng việc học và dạy môn học Kế toán
tài chính đối với bản thân và giáo viên?
Đối với giảng viên: ..........................................................................................................
...........................................................................................................................................
...........................................................................................................................................
Đối với bản thân: ..............................................................................................................
...........................................................................................................................................
...........................................................................................................................................
Cám ơn các bạn!
PHIẾU KHẢO SÁT THÔNG TIN DÀNH CHO SINH VIÊN
Đề nghị các em hãy đánh dấu tương ứng với mức độ từ 1 đến 6:
1. Rất tốt 2. Tốt 3. Khá 4. Trung bình 5. Yếu 6. Rất yếu
Câu hỏi 1 2 3 4 5 6
Câu 1. Hãy đánh giá ý nghĩa thực tiễn của phương pháp nghiên cứu
tình huống (NCTH) trong môn học Kế toán tài chính (KTTC)?
Câu 2. Hãy đánh giá mức độ các kỹ năng bạn thấy mình rèn luyện
được thông qua quá trình chuẩn bị tình huống cũng như giải quyết
các tình huống được đưa ra trong giờ học môn KTTC:
a. Kỹ năng phân tích để xác định vấn đề
b. Kỹ năng giao tiếp và hợp tác làm việc nhóm
c. Kỹ năng trình bày vấn đề/quan điểm trước tập thể
d. Kỹ năng tranh luận, đưa ra luận điểm và bảo vệ ý kiến
e. Kỹ năng so sánh, đánh giá các phương án
f. Kỹ năng ra quyết định, giải quyết vấn đề
Câu 3. Hãy đánh giá giá trị thực tiễn của những giờ học giải quyết
tình huống của môn học KTTC
Câu 4. Các em hãy đánh giá những ưu điểm của việc vận dụng
phương pháp nghiên cứu tình huống kế toán trong KTTC:
a.Giúp môn học gần gũi hơn với thực tiễn KTTC hiện nay
b.Giúp hình dung các nghiệp vụ kế toán
c.Tăng hứng thú học môn KTTC
d. Giúp khắc sâu kiến thức lý thuyết đã học trên lớp
Câu 5. Theo các em thì số tiết dành cho những giờ thực hành giải quyết các tình huống kế
toán như chúng ta vừa tiến hành là
a. Quá nhiều b. Nhiều c. Vừa đủ d. ít e. Quá ít
Câu 6. Theo các em có nên áp dụng thường xuyên phương pháp nghiên cứu tình huống ở
môn học KTTC
a. Có b. Không
Cám ơn các bạn!
1 TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ, ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG - SỐ …………..
VẬN DỤNG PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU TÌNH HUỐNG
TRONG GIẢNG DẠY MÔN HỌC KẾ TOÁN TÀI CHÍNH
THE APPLICATION OF CASE STUDY METHOD IN TEACHING
FINANCIAL ACCOUNTING
Nguyễn Linh Giang
Trường Cao đẳng Công nghệ Thông tin - Đại học Đà Nẵng; Email: [email protected]
Tóm tắt - Trong những năm gần đây, có rất nhiều phương pháp dạy học tích cực được áp dụng với mục đích phát huy tối đa tính chủ động của sinh viên trong quá trình học tập, góp phần vào việc đổi mới phương pháp dạy học đại học và đáp ứng yêu cầu đào tạo theo học chế tín chỉ. Nội dung bài viết này tác giả mong muốn được chia sẻ kinh nghiệm việc vận dụng phương pháp nghiên cứu tình huống trong giảng dạy môn học Kế toán tài chính nhằm tạo ra nhiều hứng thú trong học tập, đồng thời giúp sinh viên có điều kiện gắn những kiến thức lý thuyết vào thực tế, có ý thức tự nghiên cứu, có khả năng làm việc nhóm, khả năng thuyết trình,... Việc phát triển các phương pháp dạy học tích cực và học tập hợp tác không chỉ có ý nghĩa ngay trong quá trình học tập ở nhà trường mà còn chuẩn bị cho sinh viên những kỹ năng cần thiết phục vụ cho quá trình công tác, làm việc sau khi các em tốt nghiệp ra trường.
Từ khóa - Phương pháp dạy học tích cực; sinh viên; quá trình học tập; phương pháp nghiên cứu tình huống; kế toán tài chính.
Abstract- In recent years, there are many active teaching methods, which are applied to maximize the activity of the students in the learning process, contributing to the renewal of university teaching methods and meet the demand of the credit system education. In this article the author wishes to share experience in the application of case study method, which is to create more interest in learning and help students the conditions to attach the theoretical knowledge in practice, improve self study, have the capabiliting get of teamwork and delivering presentation,...The development of active teaching methods and learning cooperation are not only meaningful within the learning process at the university but also prepare students to have necessary skills for their job after they graduate from college.
Key words - Active teaching method; students; learning process; case study method; financial accounting
1. Đặt vấn đề
Trong điều kiện cạnh tranh ngày càng gay
gắt cùng với sự thay đổi nhanh chóng của môi
trường kinh doanh, khoa học, kỹ thuật và công
nghệ, cộng đồng kinh doanh có những đòi hỏi
nhiều hơn về năng lực của sinh viên tốt nghiệp.
Những yêu cầu về kinh nghiệm thực tiễn và kỹ
năng thực hành đối với sinh viên vừa tốt nghiệp
thực sự là một thách thức với việc giáo dục và
đào tạo đối với các trường đại học cao đẳng.
Phương pháp tình huống (Case Study) đã chứng
tỏ là một phương pháp rất hiệu quả trong việc
đáp ứng những đòi hỏi của thực tiễn và đã được
kiểm nghiệm tại nhiều trường đại học nổi tiếng
trên thế giới mà điển hình là đại học Harvard -
là chiếc nôi của việc dạy và học bằng tình
huống. Nếu tình huống được xây dựng có chất
lượng và giảng viên có kỹ năng tốt trong việc
giảng dạy bằng phương pháp tình huống thì sẽ
tạo ra những cơ hội giúp sinh viên có được
những kinh nghiệm thực tế, trau dồi và phát
triển được các kỹ năng thực hành cần thiết khi
ra trường [7].
Môn học Kế toán tài chính là một trong
những môn học trọng tâm trang bị những kiến
thức chuyên ngành cho người học, giúp người
học có đủ kiến thức và kỹ năng để thực hiện
công tác kế toán trong các doanh nghiệp. Các
nội dung của môn học này vừa mang tính lý
thuyết lại vừa gắn liền với các hoạt động thực
tiễn. Trong xu thế đổi mới phương pháp dạy học
ở đại học hiện nay, đặc biệt là việc áp dụng đào
tạo theo học chế tín chỉ lấy người học làm trung
tâm thì việc vận dụng phương pháp dạy học tình
huống vào môn học Kế toán tài chính sẽ phát
huy được năng lực tự học, tự nghiên cứu của
sinh viên, giúp các em nắm vững môn học Kế
toán tài chính một cách thông suốt, thông qua
việc kết hợp giữa lý thuyết và thực tiễn các tình
huống các em có thể vận dụng vào thực tế công
việc sau này đồng thời góp phần nâng cao chất
lượng bài giảng của mỗi giảng viên [7], [8].
2. Nội dung và đặc điểm của môn học Kế
toán tài chính
Môn học Kế toán tài chính nằm trong
chương trình giảng dạy cho sinh viên ngành Kế
toán – Tin học - Trường Cao đẳng Công nghệ
Thông tin, được chia làm 2 học phần gồm Kế
toán tài chính doanh nghiệp 1 gồm 4 tín chỉ và
Kế toán tài chính doanh nghiệp 2 gồm 3 tín chỉ,
thường được dạy vào Học kỳ 3, Học kỳ 4 của
Khóa đào tạo. Môn học này trang bị cho người
học những kiến thức cơ bản cũng như tổng quát
về kế toán tài chính áp dụng trong các doanh
nghiệp. Nội dung của môn học đi từ việc giới
Nguyễn Linh Giang 2
thiệu tổng quát về kế toán tài chính trong doanh
nghiệp như vai trò của kế toán tài chính, quy
trình kế toán, các giả thuyết và nguyên tắc kế
toán được vận dụng cho đến những vấn đề kỹ
thuật – nghiệp vụ kế toán trên các phần hành cụ
thể như: kế toán tài sản cố định, kế toán hàng
tồn kho, kế toán bán hàng và cung cấp dịch vụ,
kế toán doanh thu chi phí thu nhập, kế toán xác
định và phân phối kết quả kinh doanh…[8]
Đặc điểm của môn học Kế toán tài chính là
khối lượng kiến thức nhiều, không chỉ các kiến
thức về kế toán tài chính mà còn liên quan đến
môi trường pháp lý của kế toán như: Luật kế
toán, Chế độ kế toán, Chuẩn mực kế toán,…
Các vấn đề, tình huống (bài tập) liên quan đến
môn học thông thường phải phản ánh được các
tình huống kế toán phát sinh tại các doanh
nghiệp ngoài thực tế. Đồng thời, sau khi học
xong học môn học này người học phải có kỹ
năng xử lý hạch toán các nghiệp vụ kinh tế cơ
bản trong doanh nghiệp đồng thời lên được sổ
sách và các báo cáo kế toán của doanh nghiệp
[8].
Tóm lại, môn học Kế toán tài chính không
chỉ mang tính lý thuyết mà còn ứng dụng trong
thực tế nghề nghiệp kế toán nên việc giảng dạy
môn học này cũng có những nét khác biệt so với
các môn học cùng chuyên ngành khác. Người
dạy vừa phải nắm vững các kiến thức về chuyên
môn, vừa phải hiểu rõ và cập nhật nắm bắt các
thông tin, các tình huống và hoạt động của thực
tiễn, điều đó không chỉ mang lại không khí học
tập tốt đối với người học mà còn có ý nghĩa
quan trọng trong việc nâng cao hiệu quả dạy
học.
3. Phương pháp dạy học dựa trên nghiên cứu
tình huống
3.1. Sự ra đời của phương pháp nghiên cứu
tình huống
Case Study hay còn gọi Case Method là
phương pháp dạy học bắt đầu được khởi xướng
từ những năm 40 của thế kỷ 20 bởi James B.
Conant ở Đại học Havard, Hoa Kỳ. Đến những
năm 80, các trường Luật và Thương mại của
Đại Học Havard bắt đầu sử dụng rộng rãi các
“case”, là những ví dụ điển hình trong thực tế,
để làm nội dung chính cho sinh viên thảo luận
trong các môn học. Từ sự thành công ở các
trường này, phương pháp nghiên cứu tình huống
đã dần được mở rộng sang các ngành đào tạo
khác. Đến nay, nó đã trở thành một trong các
phương pháp giảng dạy chủ đạo ở bậc đại học
và cao đẳng. Nhiều trường đại học đã thành lập
riêng các trung tâm nghiên cứu và phát triển
phương pháp giảng dạy này, tiêu biểu như Đại
học Buffalo - Hoa Kỳ [4], [5].
3.2. Thế nào là nghiêncứu tình huống
Theo John Boehrer – Hiệu trưởng đầu tiên
của Trường Đại học Havard Kenedy School:
“Tình huống là một câu chuyện, có cốt truyện
và nhân vật, liên hệ đến một hoàn cảnh cụ thể,
từ góc độ cá nhân hay nhóm, và thường là hành
động chưa hoàn chỉnh. Đó là một câu chuyện cụ
thể và chi tiết, chuyển nét sống động và phức
tạp của đời thực vào lớp học” [1].
Còn theo Giáo sư John S. Hammond - Đại
học Havard: “Phương pháp nghiên cứu tình
huống là phương pháp dạy học thông qua
nghiên cứu trường hợp điển hình. Ở đây, người
học được giới thiệu một tình huống cụ thể, có
thật và được đặt vào vị trí của người ra quyết
định để giải quyết vấn đề trong tình huống ấy”
[6].
Như vậy, phương pháp học bằng cách
nghiên cứu tình huống giống như tìm cách giải
quyết một bài toán hóc búa. Một tình huống
được đưa ra phải là tình huống có vấn đề thực
sự, đó là tình huống chứa thông tin đầy đủ để
người học có thể nắm bắt, phân tích và cảm thấy
mình thực sự đang đối mặt để giải quyết tình
huống đấy.
3.3. Mục đích của việc dạy học dựa trên
phương pháp tình huống
Với phương pháp dạy học truyền thống, sinh
viên chỉ việc đến lớp lắng nghe, học những slide
bài giảng có sẵn và ghi chép những kiến thức từ
giảng viên chứ không có sự học chủ động từ
chính bản thân mình. Trong khi đó, mục đích
của việc dạy học dựa trên phương pháp tình
huống là nhằm tạo ra một buổi học sinh động,
xây dựng môi trường học tập lấy sinh viên làm
trung tâm, nơi mà sinh viên cảm thấy thoải mái
khi tham gia trao đổi, thảo luận với nhau. Dẫn
đến, việc sử dụng phương pháp giảng dạy bằng
tình huống sẽ làm thay đổi cách học thụ động
của sinh viên như:
-Thông qua các tình huống thực tiễnsẽ giúp
sinh viên hiểu rõ hơn về thực tế của một tổ chức
và khả năng ứng dụng của nội dung môn học.
- Tăng cường khả năng tư duy, phân tích và
giải quyết vấn đề của sinh viên.
- Giúp cho sinh viên rèn luyện các kỹ năng
mềm như kỹ năng thuyết trình, kỹ năng làm việc
nhóm, kỹ năng lãnh đạo, kỹ năng tổ chức công
việc...vào quá trình thực hiện giải quyết các vấn
đề của tình huống.
- Phát huy được tính chủ động, sáng tạo và
hứng thú của sinh viên trong quá trình học.
Khác với việc tiếp thu lý thuyết một cách thụ
động, khi được giao các bài tập tình huống, sinh
3 TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ, ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG - SỐ …………..
viên phải chủ động tìm kiếm và phân tích thông
tin để tìm ra giải pháp cho tình huống.
Với việc áp dụng phương pháp dạy học bằng
tình huống, giảng viên sẽ sắp xếp đưa ra các
tình huống trên cơ sở nội dung môn học Kế toán
tài chính, các tình huống được đúc kết qua thực
tiễn hoạt động kinh doanh diễn ra tại các doanh
nghiệp như: các tình huống kinh doanh, các
nghiệp vụ kinh tế phát sinh, vai trò của nhà quản
lý... Do đó phương pháp dạy học bằng tình
huống áp dụng cho môn học Kế toán tài chính là
rất phù hợp.
3.4. Vận dụng phương pháp nghiên cứu tình
huống trong giảng dạy môn học Kế toán tài
chính
Phương pháp dạy học bằng tình huống gồm
có ba phần có liên quan với nhau:
Thứ nhất: Nội dung của tình huống cần nêu
bật các vấn đề được đặt ra mang tính thực tiễn
cao, tính logic của vấn đề phải được mang ra
phân tích, đánh giá cụ thể.
Thứ hai: Phân tích tình huống, từ các vấn đề
nêu ra trong tình huống phải xây dựng các câu
hỏi cụ thể về các vấn đề cần giải quyết, cần
quan tâm, cách thức giải quyết vấn đề trong tình
huống.
Thứ ba: Thảo luận tình huống, nêu ra các
giải pháp để giải quyết các vấn đề gắn với nội
dung môn học.
Tổ chức giảng dạy theo Case Study trong
môn học Kế toán tài chính gồm hai phương
pháp thảo luận và tranh luận được sử dụng để tổ
chức giải quyết tình huống:
+Phương pháp thảo luận: Giảng viên giới
thiệu tình huống cho lớp học, sau đó nêu ra hệ
thống câu hỏi để hướng dẫn lớp thảo luận.
Trong quá trình thảo luận, giảng viên có thể đưa
ra các gợi ý để giúp nội dung thảo luận sôi nổi
và đi đúng hướng [5],[7].
+ Phương pháp tranh luận: Thường được
dùng trong trường hợp tình huống đề cập đến
hai quan điểm hoặc giải pháp trái ngược nhau
cho cùng một vấn đề, ví dụ trường hợp có nên
hay không ghi nhận một khoản doanh thu. Việc
tranh luận bảo vệ quan điểm sẽ làm tăng tính
chủ động và phát triển tư duy của người học,
giúp người học hiểu sâu và lý giải vấn đề môt
cách thông suốt, từ đó đạt được mục tiêu của
tình huống đề ra trong giảng dạy [5] [7].
Ví dụ minh họa một Case Study được áp
dụng trong giảng dạy môn học Kế toán tài
chính.
Tiết giảng “Kế toán ghi nhận doanh thu đối
với giao dịch bán hàng hóa, cung cấp dịch vụ
theo chương trình dành cho khách hàng
truyền thống”
Nôi dung tình huống:
Việt Nam Ariline thực hiện chương trình
Bông Sen Vàng dành cho khách hàng thường
xuyên như sau: Trong thời hạn 1 năm nếu khách
hàng bay đạt 25.000 dặm/1 năm, thì khách hàng
sẽ được tặng 01 chặn bay khứ hồi Hà Nội – Đà
Nẵng hoặc 01 đêm sử dụng dịch vụ miễn phí tại
Bà Nà Hill. Trong năm khách hàng A tích lũy
được số dặm là 25.100 dặm, do đó khách hàng
đủ điều kiện để đổi 01 vé máy bay khứ hồi Hà
Nội – Đà Nẵng hạng phổ thông và tài khoản tích
lũy của khách hàng còn dư là 100 dặm sau khi
nhận vé thưởng [3],[9].
Tổng doanh thu cung cấp trong kỳ cho
khách hàng A là 102.888.000đồng (bằng tiền
gửi Ngân hàng).
Chuyến bay Hà Nội – TP Hồ Chí Minh
tương đương 708 dặm.
Giá vé Hà Nội - TP Hồ Chí Minh:
2.997.000đồng/chiều, chưa bao gồm thuế
GTGT.
Giá vé khứ hồi Hà Nội – Đà Nẵng là
5.000.000đồng
Giá 01 đêm ở Bà Nà Hill là
5.000.000đồng/đêm.
Hoa hồng đại lý VNA được hưởng trong
trường hợp Việt Nam Airline làm đại lý cho Bà
Nà Hill 25%.
Giả sử giá vốn là: 3.500.000 đồng trong
trường hợp Việt Nam Arline không đóng vai trò
làm đại lý mà mua đứt bán đoạn dịch vụ và
cung cấp miễn phí cho khách hàng.
Hệ thống các câu hỏi:
1. Cho biết đặc điểm của giao dịch bán
hàng hóa, cung cấp dịch vụ theo chương
trình dành cho khách hàng truyền thống
trong trường hợp tình huống của Việt
Nam Airline?
2. Cho biết nguyên tắc ghi nhận doanh thu
đối với giao dịch bán hàng hóa, cung cấp
dịch vụ theo chương trình dành cho
khách hàng truyền thống?
3. Kế toán ghi nhận doanh thu bán hàng
hóa cung cấp dịch vụ cho khách hàng
trong trường hợp của Việt Nam Airline
này như thế nào?
4. Trường hợp khách hàng A thực hiện đổi
điểm lấy vé thưởng dịch vụ bay cho Việt
Nam Airline cung cấp, kế toán sẽ ghi
nhận như thế nào?
5. Trường hợp khách hàng A thực hiện việc
đổi dặm lấy 01 đêm sử dụng dịch vụ tại
Bà Nà Hill, kế toán sẽ ghi nhận như thế
nào:
a. Nếu Việt Nam Airline đóng vai trò
là đại lý cho Bà Nà Hill?
b. Nếu Việt Nam Airline không đóng
vai trò là đại lý cho Bà Nà Hill?
Nguyễn Linh Giang 4
6. Hãy cho biết kế toán sẽ sử dụng các
chứng từ và sổ chi tiết và sổ tổng hợp
nào để phản ánh nghiệp vụ kinh tế trên
đối với từng Câu hỏi 4, Câu hỏi 5a, Câu
hỏi 5b trong trường hợp Việt Nam
Airline áp dụng hình thức Nhật ký chung
và có sử dụng các sổ Nhật ký đặc biệt?
Hướng dẫn tài liệu tham khảo:
* Tài liệu bắt buộc
- Giáo trình Kế toán tài chính doanh nghiệp,
chủ biên TS. Nguyễn Công Phương, Trường
Đại học Kinh tế Đà Nẵng, NXB Tài Chính,
2010
- Bài giảng Kế toán tài chính, Bộ môn Kế
toán – Tin học, Khoa Hệ thống Thông tin Kinh
tế, Trường Cao đẳng Công nghệ Thông tin Đà
Nẵng, 2014
- Giáo trình Kế toán tài chính doanh nghiệp,
chủ biên TS Đặng Thị Hòa – TS Phạm Đức
Hiếu, NXB Giáo dục Việt Nam, 2009
- Thông tư 200/TT-BTC ban hành ngày
22/12/2014 về Hướng dẫn Chế độ kế toán doanh
nghiệp.
* Tài liệu tham khảo
- Tạp chí Kế toán – Kiểm toán
- Tạp chí tài chính
- Các Website:
webketoan.vn,
danketoan.com,
giaiphapexcell.com,
gdt.gov.vn
Tính thực tiễn của tình huống:
Hiện nay, có rất nhiều doanh nghiệp kinh
doanh áp dụng các chương trình bán hàng dành
cho khách hàng truyền thống, tuy nhiên Chế độ
kế toán chưa có sự hướng dẫn cụ thể, dẫn đến
người làm kế toán ở các doanh nghiệp còn rất
mơ hồ trong việc ghi nhận doanh thu trong
trường hợp này. Chỉ đến khi Thông tư 200/TT-
BTC ban hành ngày 22/12/2014 thì khái niệm
chương trình dành cho khác hàng truyền thống
mới được đưa ra lần đầu tiên. Chương trình
dành cho khách hàng truyền thống khác với các
chương trình chiết khấu, khuyến mãi đó là đối
với chương trình này, khách hàng được tích
điểm thưởng để khi đạt đủ số điểm theo quy
định sẽ được nhận một lượng hàng hóa, dịch vụ
miễn phí hoặc được giảm giá chiết khấu. Như
vậy, tình huống Việt Nam Airline đưa ra thực sự
nóng hổi, giúp cho người học có thể hình dung
về thực tế một cách rõ ràng hơn và có thể vận
dụng các chế độ chính sách kế toán mới để giải
quyết vấn đề một cách triệt để [2],[3].
Tổ chức giảng dạy:
Giảng viên giới thiệu tình huống cho lớp học
và cung cấp các kiến thức cần thiết về mặt lý
thuyết liên quan đến tình huống đưa ra. Giảng
viên cần thiết phải giải thích thật chi tiết tình
huống để sinh viên hiểu rõ các vấn đề cần giải
quyết và xác định nhiệm vụ vai trò của sinh viên
khi tham gia vào tình huống đó. Sau đó, giảng
viên sẽ tiến hành giảng dạy Case Study theo
phương pháp thảo luận nhóm và phản biện.
Giảng viên cho sinh viên thảo luận khoảng 10 -
15 phút, tiếp theo các nhóm sinh viên sẽ lên
trình bày và các nhóm khác phản biện. Trong
quá trình phản biện, giảng viên đóng vai trò là
người hướng dẫn, điều hành chung và có thể
đưa ra các gợi ý để kích thích sinh viên tham gia
trao đổi sôi nổi và đi đúng trọng tâm của bài
giảng.
Tổ chức lớp học và phân bổ thời gian:
- Đối với công tác chuẩn bị: Giảng viên đưa
ra tình huống, hướng dẫn các tài liệu bắt buộc
và tài liệu tham khảo cho sinh viên trước 02
buổi, để các em làm việc theo nhóm thảo luận
trước ở nhà, nhằm tiết kiệm thời gian trình bày
và thảo luận trên lớp để dành nhiều thời gian
cho tranh luận và phản biện.
- Đối với cách thức chia nhóm: Sinh viên
được chia theo nhóm với sĩ số khoảng 5 - 7
người. Các nhóm được chia trên tinh thần tự
nguyện kết hợp với phân công của giảng viên từ
đầu khóa học và không thay đổi trong suốt khóa
học. Giảng viên hướng dẫn sinh viên cách tổ
chức nhóm như: bầu trưởng nhóm, tên nhóm,
ghi danh sách thành viên, cách thống nhất
phương án giải quyết vấn đề của nhóm…
- Đối với việc tổ chức thảo luận, báo cáo:
các nhóm lên trình bày theo nội dung đã phân
công, nhóm tự chọn người đại diện trình bày,
thời gian trình bày tối đa là khoảng 5-10 phút,
sau đó nhóm trả phản biện của các nhóm còn
lại, giảng viên cũng có thể hỏi những vấn đề
trong nội dung trình bày trên cơ sở đó tạo hứng
thú cho sinh viên mạnh dạn trình bày ý kiến và
để không khí lớp học trở nên sôi nổi hơn. Các
thành viên trong nhóm có thể thảo luận nội dung
và cách thức trả lời sau đó cử đại diện nhóm trả
lời hoặc chỉ điểm từng cá nhân trong nhóm trả
lời.
Qua đó có thể đánh giá được nhóm nào
chuẩn bị tốt nhóm nào không. Sau khi nhóm báo
cáo trả lời phản biện xong, các nhóm khác nếu
thấy không thống nhất với cách trả lời đó có thể
trình bày cách giải quyết của nhóm mình hoặc
bổ sung, chất vấn thêm.Cuối cùng, giảng viên là
người tổng kết lại các vấn đề của mỗi nhóm
thảo luận, trên cơ sở đó và rút ra những nội
5 TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ, ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG - SỐ …………..
dung lý thuyết mà sinh viên cần nắm được.
Phương pháp đánh giá người học:
- Đối với đánh giá cá nhân: thông qua hoạt
động thảo luận trên lớp giảng viên có cơ sở cho
việc cộng điểm khuyến khích các cá nhân. Việc
đánh giá phải được tiến hành công khai, có
tham khảo ý kiến của các nhóm khác. Bên cạnh
đó giảng viên có thể hỏi bất cứ vấn đề nào đối
với bất cứ cá nhân nào liên quan đến nhóm thực
hiện để đánh giá phân loại cá nhân trong nhóm
[7].
- Đối với đánh giá nhóm: thông qua các tiêu
thức cho điểm trước khi thảo luận đã đề ra,
giảng viên tiến hành đánh giá công khai cho
từng tiêu chí như: trình bày đúng giờ, nội dung
trình bày dễ hiểu, trả lời các câu hỏi phản biện,
tinh thần hợp tác và hỗ trợ nhóm có tốt
không...[7].
4. Đánh giá việc vận dụng phương pháp
nghiên cứu tình huống trong giảng dạy môn
học Kế toán tài chính
4.1. Ưu điểm
Việc vận dụng phương pháp nghiên cứu tình
huống trong giảng dạy môn học Kế toán tài
chính mang lại nhiều ưu điểm như sau:
- Giúp nâng cao được tính thực tiễn của môn
học Kế toán tài chính. Cụ thể, sau khi đã được
cung cấp các kiến thức lý thuyết, bài tập tình
huống sẽ giúp sinh viên có cái nhìn sâu hơn và
thực tiễn hơn về vấn đề lý thuyết đã được học.
Từ đó, thông qua việc xử lý tình huống, sinh
viên sẽ có điều kiện để vận dụng linh hoạt các
kiến thức lý thuyết.
- Giúp nâng cao tính chủ động, sáng tạo và
sự hứng thú của sinh viên trong quá trình học.
Khác với việc tiếp thu lý thuyết một cách thụ
động, khi được giao các bài tập tình huống, các
nhóm học tập cần chủ động tìm kiếm và phân
tích các thông tin để đi đến giải pháp cho tình
huống. Như vậy, để đáp ứng được yêu cầu này,
sinh viên phải chủ động tư duy, thảo luận và
tranh luận trong nhóm hay với giảng viên, tìm
hiểu thêm về lý thuyết, tài liệu tham khảo để đạt
đến giải pháp.Chính trong quá trình tư duy,
tranh luận, bảo vệ và sửa đổi các đề xuất - giải
pháp của mình, sinh viên đã tham gia vào quá
trình nhận thức. Sự tham gia tích cực đó góp
phần tạo ra sự hứng thú và say mê học tập, sáng
tạo của sinh viên. Đây chính là lúc quá trình dạy
và học tập trung vào học phương pháp học,
phương pháp tiếp cận, phân tích và tìm giải
pháp chứ không chỉ giới hạn ở việc học các nội
dung cụ thể.
- Giúp sinh viên được rèn luyên và nâng cao
kỹ năng làm việc nhóm, kỹ năng phân tích, giải
quyết vấn đề, kỹ năng trình bày, bảo vệ và phản
biện ý kiến trước đám đông. Để giải quyết tình
huống, sinh viên được yêu cầu làm việc trong
nhóm từ 5- 7 thành viên. Cả nhóm cùng phân
tích và thảo luận để đi đến giải pháp, sau đó
trình bày giải pháp của mình cho cả lớp. Lúc
này sinh viên tiếp thu được kinh nghiệm làm
việc theo nhóm, chia sẻ kiến thức, thông tin để
cùng đạt đến mục tiêu chung. Các kỹ năng như
trình bày, bảo vệ và phản biện ý kiến cũng được
hình thành trong bối cảnh này. Sinh viên cũng
học được cách tôn trọng và lắng nghe ý kiến của
người khác để làm cho vốn kiến thức của mình
phong phú hơn.
- Trong vai trò là người dẫn dắt giảng viên
cũng sẽ tiếp thu được rất nhiều kinh nghiệm và
những cách nhìn hay giải pháp mới từ phía
người học để làm phong phú bài giảng và điều
chỉnh nội dung tình huống nghiên cứu. Đây
cũng là một kênh quan trọng để giảng viên thu
thập kinh nghiệm từ người học.
- Các tình huống tốt sẽ có tính chất liên kết
lý thuyết rất cao.Để giải quyết một tình huống
một cách tốt nhất, sinh viên phải vận dụng và
điều chỉnh nhiều kiến thức lý luận khác nhau,
đây chính là lúc các lý thuyết rời rạc của một
môn học được nối lại thành bức tranh tổng thể.
Như vậy, ở mức độ ứng dụng cao hơn, sinh viên
không chỉ vận dụng kiến thức của một môn học
mà trong nhiều trường hợp phải vận dụng kiến
thức của nhiều môn học khác nhau.
4.2. Hạn chế
Bên cạnh các ưu điểm đạt được thì việc vận
dụng phương pháp nghiên cứu tình huống vào
giảng dạy môn học Kế toán tài chính còn bộc lộ
một số hạn chế:
- Phương pháp nghiên cứu tình huống khó
có thể giúp giảng viên chuyển tải đầy đủ những
kiến thức cơ bản, thiết yếu về bài học. Vì vậy,
nó cần được phối hợp với các phương pháp
khác, ví dụ phương pháp thuyết giảng, phương
pháp phân tích và phương pháp dạy học dựa
trên vấn đề.
- Với các lớp đông, sẽ rất khó để mọi sinh
viên đều có cơ hội phát biểu hoặc tham gia đầy
đủ các hoạt động học tập, đồng thời giảng viên
sẽ gặp khó khăn trong việc tổ chức lớp học theo
phương pháp này. Việc phân chia theo khu vực
và sinh viên ngồi theo nhóm với nhau là một
biện pháp hữu hiệu, ngoài ra giảng viên phải
làm việc tích cực hơn, di chuyển nhiều hơn
trong lớp học.
- Giảng dạy theo phương pháp này đòi hỏi
có nhiều thời gian, trong khi theo học chế tín chỉ
thì thời lượng dành cho các môn học nhìn chung
bị giảm bớt. Điều này đòi hỏi sinh viên phải
dành thêm thời gian tự học để chuẩn bị trước
những yêu cầu do giảng viên đặt ra. Việc giảng
viên tư vấn cho sinh viên cách tự đọc tài liệu, tự
tìm tài liệu tham khảo và cách thức làm việc
Nguyễn Linh Giang 6
nhóm sẽ giúp sinh viên học tập hiệu quả hơn,
quản lý thời gian tốt hơn.
- Để xây dựng được những tình huống có
hiệu quả cao, giảng viên cần đầu tư nhiều thời
gian để tiếp cận các nguồn thông tin khác nhau
từ thực tiễn cuộc sống và lĩnh vực nghề nghiệp
có liên quan. Chịu khó cập nhật thông tin trên
các phương tiện thông tin đại chúng, các trang
web chuyên ngành và tham khảo các chương
trình truyền hình về các vấn đề liên quan đến
kinh tế tài chính là rất quan trọng.
5. Kết luận
Tóm lại, việc đưa ra tình huống để sinh viên
đọc tài liệu và giải quyết sẽ tạo nhiều hứng thú
trong học tập, giúp sinh viên có điều kiện gắn
những kiến thức lý thuyết vào thực tế. Đồng
thời tạo tính chủ động nghiên cứu và phát huy
được hết những lợi ích của làm việc nhóm, định
hướng học tập cho sinh viên cụ thể hơn. Việc
phát triển các phương pháp dạy học tích cực,
học tập hợp tác không chỉ còn có ý nghĩa ngay
trong quá trình học tập ở nhà trường mà còn
chuẩn bị cho sinh viên những kỹ năng cần thiết
phục vụ cho quá trình công tác, làm việc sau khi
ra trường.
Hơn thế nữa, việc vận dụng phương pháp
nghiên cứu tình huống vào trong giảng dạy môn
học Kế toán tài chính giúp cho bài giảng phong
phú thông tin hơn, hỗ trợ cho việc vận dụng các
kiến thức đã học với tình huống cụ thể trong
thực tiễn, giúp bài giảng có chất lược tốt hơn
nhằm góp phần nâng cao chất lượng đào tạo của
nhà trường.
Tài liệu tham khảo
[1] Boehrer, J. (1995), How to teach a case, Kennedy
School of Government Case Programme.
[2] Bộ tài chính, Chế độ kế toán doanh nghiệp - Hệ thống tài khoản kế toán – Quyển 1 (2015), NXB Tài chính, Hà
Nội.
[3] Bộ tài chính, Chế độ kế toán doanh nghiệp – Báo cáo tài chính doanh nghiệp độc lập báo cáo tài chính hợp nhất
chứng từ và sổ kế toán ví dụ thực hành – Quyển 2
(2015), NXB Tài chính, Hà Nội.
[4] Conant, James B. (1949). The growth of the
experimental sciences: An experiment in general
education. New Haven, CT: Yale University Press. [5] Christensen, C. Roland & Abby J. Hansen
(1986). Teaching and the case method. Boston: Havard
Business School Publishing Division. [6] Harvard business School (1989), Learning by the Case
Method in Marketing. [7] Lê Công Triêm (chủ biên), Nguyễn Đức Vũ, Trần Thị
Tú Anh (2002), Một số vấn đề hiện nay của phương
pháp dạy học đại học, NXB GD, Hà Nội. [8] TS. Nguyễn Công Phương, Giáo trình kế toán tài chính
doanh nghiệp (2010), NXB Tài chính.
[9] Chương trình giảng dạy kinh tế Fulbright tại Việt Nam: http://www.fetp.edu.vn