115
guyễn Tế Vân (Yuen Chai Wan, 1877-1960) là anh trai của quyền sư Vịnh Xuân quyền nổi tiếng Nguyễn Kỳ Sơn (Yuen Kay Shan, 1889-1956), con trai của thương gia Nguyễn Long Minh – có xưởng pháo hoa ở Phật Sơn. Ông thường được biết với tên Nguyễn Lão Tứ. Khi còn nhỏ ông bị thủy đầu để lại sẹo vĩnh viễn trên mặc nên ông có biệt danh “đậu bì Tế”. Đầu tiên Nguyễn Tế Vân cùng em trai học Vịnh Xuân quyền từ quan án sát Khâm Châu Hoắc Bảo Toàn (Phổ Bá Quyền), giỏi về đao pháp nên có biệt danh là “Hoắc song đao”, là truyền nhân của Vịnh Xuân Xà Hình Hoàng Hoa Bảo và Chí Thiện Vĩnh Xuân Đại Hoa Diện Cẩm trên Hồng Thuyền. Sau khi học được nhiều năm, họ đã làm chủ được các bài quyền, mộc nhân, phi tiêu, đao, côn và kỹ năng thiết thủ (một biến thể của Thiết sa chưởng). Đến khoảng năm 1933, họ mời đồng môn của Hoắc Bảo Toàn là Phùng Thiếu Thanh (khoảng 1863-1936), truyền nhân của Tân Cẩm (Đại Hoa Diện Cẩm) – từng là bộ đầu ở Phật Sơn hoặc cận vệ của thống đốc Tứ Xuyên – về nghỉ hưu tại gia đình và học Vĩnh Xuân quyền của Phùng Thiếu Thanh cho đến lúc ông qua đời vào năm 1936. Anh em Nguyễn Thái Vân đã chủ trì tổ chức tang lễ cho Phùng Thiếu Thanh. Nguyễn Tế Vân cũng như em trai của mình, dạy rất ít đệ tử. Ở Phật Sơn, Diêu Tài (1890-1956) là đệ tử duy nhất của ông. Diêu Tài đã học Vĩnh Xuân quyền từ ông trong gần 15 năm. Sau đó, Nguyễn Tế Vân giới thiệu Diêu Tài đến học với Ngô Trọng Tố (1876-1970), đệ tử Trần Hoa Thuận. Trần Hoa Thuận là đệ tử của Vịnh Xuân quyền vương Lương Tán – truyền nhân của Hoàng Hoa Bảo và Lương Nhị Thái (truyền nhân Lục điểm bán côn của Chí Thiện). Năm 1936, sau khi Phùng Thiếu Thanh mất, Nguyễn Tế Vân được mời dạy Vĩnh Xuân quyền cho hội thương gia người hoa ở Thuận Đức, Nam Hải và Việt Nam. Vì những lý do không rõ, Nguyễn Tế Vân đã chuyển đến Hà Nội, nơi ông được biết đến với tên Nguyễn Tế Công, tứ ông Nguyễn Tế. Do cuộc sống khó khăn, Nguyễn Tế Vân đã phải mở một võ đường để kiếm sống. Hiện có rất nhiều hiểu lầm về danh tánh và nơi ở của ông. Một số câu truyện cho rằng ông đến Việt Nam để kinh doanh. Các đệ tử ở Việt Nam cũng cố gắng thêm vào lịch sử võ học của ông từng học Lương Tán, đây là điều không chính xác. Lai lịch và quá trình học võ của ông được xác định tại Vĩnh Xuân quyền Phật Sơn. Có lẽ Nguyễn Tế Vân đã truyền thụ Vĩnh Xuân quyền theo 2 giáo trình riêng biệt ở Việt Nam. Ông truyền lại cho người Hoa cùng một giáo trình mà ông đã dạy Diêu Tài ở Phật Sơn, với sự bổ sung Lục điểm bán côn và Mộc nhân thung. Đối với đệ tử người Việt, dường như ông chỉ truyền dạy Tiểu niệm đầu, Mộc nhân thung và Lục điểm bán côn. Các thế hệ sau của đệ tử của ông có vẻ như đã được thêm vào một số lượng lớn các kỹ thuật quyền pháp không phải của Vĩnh Xuân quyền. Ngay cả việc thay đổi truyền khẩu về nguồn gốc dòng Vĩnh Xuân

vinh xuan.docx

Embed Size (px)

Citation preview

Page 1: vinh xuan.docx

guyễn Tế Vân (Yuen Chai Wan, 1877-1960) là anh trai của quyền sư Vịnh Xuân quyền nổi

tiếng Nguyễn Kỳ Sơn (Yuen Kay Shan, 1889-1956), con trai của thương gia Nguyễn Long

Minh – có xưởng pháo hoa ở Phật Sơn. Ông thường được biết với tên Nguyễn Lão Tứ. Khi

còn nhỏ ông bị thủy đầu để lại sẹo vĩnh viễn trên mặc nên ông có biệt danh “đậu bì Tế”.

Đầu tiên Nguyễn Tế Vân cùng em trai học Vịnh Xuân quyền từ quan án sát Khâm Châu

Hoắc Bảo Toàn (Phổ Bá Quyền), giỏi về đao pháp nên có biệt danh là “Hoắc song đao”, là

truyền nhân của Vịnh Xuân Xà Hình Hoàng Hoa Bảo và Chí Thiện Vĩnh Xuân Đại Hoa Diện

Cẩm trên Hồng Thuyền. Sau khi học được nhiều năm, họ đã làm chủ được các bài quyền,

mộc nhân, phi tiêu, đao, côn và kỹ năng thiết thủ (một biến thể của Thiết sa chưởng). Đến

khoảng năm 1933, họ mời đồng môn của Hoắc Bảo Toàn là Phùng Thiếu Thanh (khoảng

1863-1936), truyền nhân của Tân Cẩm (Đại Hoa Diện Cẩm) – từng là bộ đầu ở Phật Sơn

hoặc cận vệ của thống đốc Tứ Xuyên – về nghỉ hưu tại gia đình và học Vĩnh Xuân quyền

của Phùng Thiếu Thanh cho đến lúc ông qua đời vào năm 1936. Anh em Nguyễn Thái Vân

đã chủ trì tổ chức tang lễ cho Phùng Thiếu Thanh.

Nguyễn Tế Vân cũng như em trai của mình, dạy rất ít đệ tử. Ở Phật Sơn, Diêu Tài (1890-

1956) là đệ tử duy nhất của ông. Diêu Tài đã học Vĩnh Xuân quyền từ ông trong gần 15

năm. Sau đó, Nguyễn Tế Vân giới thiệu Diêu Tài đến học với Ngô Trọng Tố (1876-1970),

đệ tử Trần Hoa Thuận. Trần Hoa Thuận là đệ tử của Vịnh Xuân quyền vương Lương Tán –

truyền nhân của Hoàng Hoa Bảo và Lương Nhị Thái (truyền nhân Lục điểm bán côn của

Chí Thiện).

Năm 1936, sau khi Phùng Thiếu Thanh mất, Nguyễn Tế Vân được mời dạy Vĩnh Xuân

quyền cho hội thương gia người hoa ở Thuận Đức, Nam Hải và Việt Nam. Vì những lý do

không rõ, Nguyễn Tế Vân đã chuyển đến Hà Nội, nơi ông được biết đến với tên Nguyễn Tế

Công, tứ ông Nguyễn Tế.

Do cuộc sống khó khăn, Nguyễn Tế Vân đã phải mở một võ đường để kiếm sống. Hiện có

rất nhiều hiểu lầm về danh tánh và nơi ở của ông. Một số câu truyện cho rằng ông đến

Việt Nam để kinh doanh. Các đệ tử ở Việt Nam cũng cố gắng thêm vào lịch sử võ học của

ông từng học Lương Tán, đây là điều không chính xác. Lai lịch và quá trình học võ của ông

được xác định tại Vĩnh Xuân quyền Phật Sơn.

Có lẽ Nguyễn Tế Vân đã truyền thụ Vĩnh Xuân quyền theo 2 giáo trình riêng biệt ở Việt

Nam. Ông truyền lại cho người Hoa cùng một giáo trình mà ông đã dạy Diêu Tài ở Phật

Sơn, với sự bổ sung Lục điểm bán côn và Mộc nhân thung. Đối với đệ tử người Việt, dường

như ông chỉ truyền dạy Tiểu niệm đầu, Mộc nhân thung và Lục điểm bán côn. Các thế hệ

sau của đệ tử của ông có vẻ như đã được thêm vào một số lượng lớn các kỹ thuật quyền

pháp không phải của Vĩnh Xuân quyền. Ngay cả việc thay đổi truyền khẩu về nguồn gốc

dòng Vĩnh Xuân quyền của Nguyễn gia, truyền dần từ Ngũ Mai – Nghiêm Nhị – Lương Bác

Trù xuống Hoàng Hoa Bảo, Lương Nhị Thái, Đại Hoa Diện Cẩm và La Vãn Cung.

Đến năm 1955, Nguyễn Tế Vân chuyển vào Sài Gòn, mở võ đường thứ 2 ở khu vực chợ Lớn.

Ông đã đào tạo thêm các đệ tử Nguyễn Duy Hải (Hồ Hải Long), Ngô Sỹ Quý, Lục Viễn Khai

và một số người khác. Nguyễn Tế Vân qua đời vào năm 1960 ở tuổi 84.

Page 2: vinh xuan.docx

Hệ thống Vĩnh Xuân quyền của Nguyễn Tế Vân

Chương trình giảng dạy tại Phật Sơn:

1. Tiểu niệm đầu (có thể là một bài quyền gồm 3 phần có chứa các kỹ thuật của 3 bài quyền cơ bản của Vịnh Xuân quyền),

2. Trúc thung,

3. Nhị tự kiềm dương đoạt mệnh đao,

4. Bát thức tán đả Trúc thung

5. Tản thức.

Chương trình cho người Hoa trong thời gian ở Việt Nam:

1. Tiểu niệm đầu,

2. Tản thức,

3. 108 Mộc nhân thung,

4. Nhị tự kiềm dương đoạt mệnh đao,

5. Lục điểm bán côn,

6. Khuyên thủ,

7. Niêm thủ.

Diêu Kỳ cho rằng Diêu Tài đạy bài Tiểu niệm đầu giống như bài quyền của dòng Cho gia,

một bài bao gồm: Tiểu niệm đầu, Tầm kiều và Biêu chỉ. Diêu Kỳ thuật lại rằng cha ông đã

học từ Nguyễn Tế Vân trong vòng 15 năm, ông cũng đã học Tản thức, Trúc thung, Vòng

xuyến và Nhị tự đao.

Thật khó để xác định xem đây là thông tin chính xác Diêu Kỳ liên quan hay không. Vì nó sẽ

có vẻ rằng Nguyễn Tế Vân có kiến thức chính xác giống như em trai của ông, Nguyễn Kỳ

Sơn, như họ đã học được cùng các sư phụ. Có thể Nguyễn Tế Vân bất đắc dĩ phải dạy Vĩnh

Xuân quyền, cũng giống như em trai của mình, Nguyễn Kỳ Sơn, chỉ có 1 đệ tử là Sằm

Năng.

Tại Sài Gòn, Nguyễn Tế Vân truyền dạy Mộc nhân thung thay vì Trúc thung. Ông cũng dạy

Lục điểm bán côn. Một điều thú vị, nhận thấy bởi Viện nghiên cứu Vịnh Xuân quyền, đó là

anh em họ Nguyễn chỉ có thể dạy đệ tử những gì họ đã học được từ sư phụ đầu tiên, Hoắc

Bảo Toàn, lúc Nguyễn Tế Vân đang dạy Diêu Tài. Vào khoảng năm 1933, khi Phùng Thiếu

Thanh chuyển vào sống tại nhà họ Nguyễn, họ mở rộng học hỏi thêm từ ông ấy. Nó có thể

là 108 Mộc nhân thung và Lục điểm bán côn là tài liệu mà họ chưa được học cho đến khi

gặp Phùng Thiếu Thanh. Do đó, Nguyễn Tế Vân không thể dạy những điều mà ông không

nắm chắc về sau năm 1933.

Chương trình giảng dạy của đệ tử Việt Nam:

1. Tiểu niệm đầu,

2. Ngũ hình khí công,

3. Tiểu mai hoa,

Page 3: vinh xuan.docx

4. Đại mai hoa,

5. Hạc hình thủ bộ,

6. Mộc nhân thung,

7. Lục điểm bán côn,

8. Kiếm pháp,

9. Phi tiêu.

Đệ tử người Việt của Nguyễn Tế Vân (Nguyễn Tế Công) có một chương trình đào tạo hoàn

toàn khác những gì Nguyễn Tế Vân dạy tại Phật Sơn hoặc với những gì ông đã dạy người

Hoa tại Việt Nam. Các chương trình đào tạo khác nhau tại Việt Nam (trong đó cũng được

cho là thay đổi từ Bắc vào Nam) có thể là kết quả của các đệ tử Nguyễn Tế Vân thêm vào

trong tài liệu. Theo điều tra, các cơ chế được sử dụng trong rất nhiều các hình thức không

phải xuất xứ từ Vĩnh Xuân quyền. Có thể là các vật liệu Nguyễn Tế Vân chỉ lưu truyền Tiểu

niệm đầu, Mộc nhân thung, Lục điểm bán côn và phần còn lại của các hình thức đã được

thêm vào từ các thế hệ sau.

Thiếu Lâm Vĩnh Xuân quyền dòng Đặng Tân

Theo lịch sử của dòng Thiếu Lâm Vĩnh Xuân quyền, tên Vĩnh Xuân quyền có nguồn gốc từ

Vĩnh Xuân điện tại chùa Nam Thiếu Lâm. Sau khi thoát khỏi vụ hoả thiêu Nam Thiếu Lâm

do triều đình Mãn Thanh tiến hành, Thiền sư Chí Thiện đã đến lánh nạn tại Hồng Thuyền

với thân phận là một người đầu bếp. Tại đây, ông đã truyền dạy võ công của mình cho

Hoàng Hoa Bảo (người đứng đầu của Hồng Thuyền) và một số người khác cũng làm việc

trong Hồng Thuyền bao gồm Hoa Diện Cẩm, Lương Nhị Thái và Lương Lan Quế. Để bảo vệ

cho Thiền sư Chí Thiện khỏi sự truy sát của triều đình, tất cả học trò tại Hồng Thuyền đều

giữ kín thân phận thật sự của ông và gọi môn võ ông dạy họ là Vĩnh Xuân quyền. Chính vì

vậy, từ đây đã xuất hiện khá nhiều các truyền thuyết khác nhau về môn Vĩnh Xuân quyền.

Hoa Diện Cẩm sau này truyền lại cho một số học trò, trong đó có Phùng Thiếu Thanh

(Fung Siu Ching). Phùng Thiếu Thanh truyền lại cho con trai là Phùng Tín (Fung Tin), anh

em nhà họ Lỗ, Dung Jik, Ma Chung Yi và Đặng Thuyền (Tang Suen). Rất có thể, Đặng

Thuyền là huynh đệ cùng thời với Nguyễn Tế Vân (Nguyễn Tế Công – Yuen Chai Wan – sư

tổ của Vĩnh Xuân quyền Việt Nam) và Nguyễn Kỳ Sơn (Vĩnh Xuân quyền Phật Sơn), bởi

Phùng Thiếu Thanh có dạy cho anh em họ Nguyễn khi ông về ở ẩn tại Phật Sơn.

Đặng Thuyền sau này dạy lại cho con là Đặng Tân (Tang Yik). Đặng Đức rất giỏi về Lục

điểm bán côn, được mệnh danh là vua côn.

Diệp Vấn: Cuộc đời và Võ   thuật Tháng Một 4, 2015

vinhxuanquyen Bài viết, Nhân vật diep van, Vinh Xuan Hong Kong Để lại bình luận

Page 4: vinh xuan.docx

Đại Sư Diệp Vấn

(Ghi chép bởi Diệp Chẩn, con trai của Diệp Vấn)

Sinh ngày tháng 10 năm 1893, qua đời tháng 12 năm 1972 ở tuổi 79. Tôn sư Diệp Vấn đã dành toàn bộ cuộc sống của

mình như là nhà truyền nhân vô địch của Vịnh Xuân Quyền. Ông chịu trách nhiệm đẩy danh tiếng Vịnh Xuân phát huy

tính ưu việt của nó như ngày hôm nay. Khắp thế giới, môn sinh của Vịnh Xuân Quyền tiếp tục xuất bản các bài viết về

Tôn Sư Diệp Vấn, về cuộc sống của ông và những thành tựu. Vì thế, để chào mừng kỷ niệm 100 năm ngày sinh của

Ông biên niên này đang được sản xuất cho tất cả những người quan tâm đến Vịnh Xuân Công phu.

Biên niên sử này viết về Diệp Vấn và đóng góp của ông với phong cách của Vịnh Xuân Quyền. Do đó, các chi tiết của

cuộc sống của mình, đào tạo và nghề nghiệp của ông, sẽ chỉ được viết vắn tắt. Hiện có hàng ngàn môn sinh của Vịnh

xuân quyền và những người không được đề cập trong bài này thông cảm với tác giả vì thiếu thông tin và kiểm chứng.

Diệp Vấn sinh ngày 14 tháng 10 1893 trong triều đại nhà Thanh (Kand Shoui – 05 Tháng 9 trong lịch Trung Quốc) trong

thị trấn Phật Sơn ở tỉnh Quảng Đông sau đó ở Lâm Hội quận. Vì vậy, nơi sinh Diệp Vấn thường được gọi là Lâm Hội,

Quảng Đông.

Cha Ông là Diệp Bá Đa/Yip Oi Dor, mẹ ông là Ng Thủy, ông là một trong bốn anh chị em. Anh trai của ông được gọi là

gei Gak (Diệp Vấn ban đầu còn được gọi là gei Man). Cô em gái tên là Wan Mei (Sik Chung)

– 1899 đến năm 1905 (Ching Kwong Thủy?). Diệp Vấn 6 đến 12 năm tuổi. Địa điểm: Phật Sơn. Ông học Vịnh Xuân

Công phu của Trần Hoa Thuận (Money Changer Wan). Vị trí là thị trấn chính trong Phật Sơn ở đường Yun( Dai Gai?)

trong hội trường gia đình họ Diệp. Khu vườn bây giờ thuộc sở hữu của chính phủ và hội trường không còn ở đó. Đồng

thời học tập cùng với Diệp Vấn có các Sư huynh: Lôi Nhữ Tế, Ngô Trọng Tố, Ngô Tiểu Lỗ và những người khác.

– 1905 (Ching Kwon Thủy?). Diệp Vấn 12 tuổi. Địa điểm: Phật Sơn. Trần Hoa Thuận đã qua đời, nhưng trước khi ông

qua đời, ông căn dặn Ngô Trọng Tố giúp Diệp Vấn để hoàn thành hệ thống Vịnh Xuân. Thi thể của Trần Hoa Thuận đã

được chôn cất bởi các môn đệ của ông trong làng Thuận Đức.

– 1937 (Mãn Quốc năm 26) Diệp Vấn 44 tuổi. Địa điểm: Phật Sơn. Nhật xâm lược miền nam Trung Quốc.

– 1937 đến 1945 (Mãn Quốc năm 26 đến 34) Diệp Vấn 44 đến 52 năm tuổi. Địa điểm: Phật Sơn. Trong suốt 8 năm, Diệp

Vấn đã chiến đấu với người Nhật khi Phật Sơn bị chiếm đóng và cai trị bởi một chính phủ bù nhìn. Tôn Sư thề không

làm việc cho chính phủ bù nhìn, do đó ông đã trở nên rất nghèo và ông đã thường bị đói. May mắn nhờ người bạn tốt

của mình, Chu Trương Chung, cho ông thực phẩm theo thời gian. Diệp Vấn muốn đền đáp lại lòng tốt của mình và do đó

chấp nhận con trai ông, Chu Quang Dụ, là học trò của mình. Từ 1941 đến 1943, ông dạy Vịnh Xuân Công phu trong nhà

máy nghiền bông Vĩnh An. Tại thời điểm này cùng học tập với Chu Quang Dụ có Quốc Phù, Trần Chi, Ngô Vịnh, Luân

Giai, Chu Tế và những người khác. Đây là những môn sinh thế hệ đầu tiên Diệp Vấn truyền dạy. Quách Phú và Luân

Giai vẫn còn sống và giảng dạy Vịnh Xuân quyền ở Trung Quốc ngày hôm nay, tại Phật Sơn, Quảng Châu.

– 1945 (Mãn Quốc năm 34) Diệp Vấn năm 52 tuổi. Địa điểm: Phật Sơn. Năm Nhật đầu hàng.

– 1945 đến 1949 (Mãn Quốc năm 34 đến 38) Diệp Vấn 52 đến 56 năm tuổi. Đến từ: Quảng Châu, Phật Sơn. Trong

khoảng thời gian này, Diệp Vấn bận rộn nhất với công việc của mình tại nơi làm việc, mặc dù yêu thích Vịnh Xuân

quyền, nhưng ông đã dừng giảng dạy nó trong một thời gian. Cho đến khi, vào năm 1948, thông qua người bạn rất tốt

của ông là Đường Giai, ông được giới thiệu với Bành Thụ Lâm để dạy cho anh ta Vịnh Xuân quyền. Qua thời gian bận

rộn này, Diệp Vấn truyền dạy Bành Lâm theo giáo trình ở Thượng Phật Trương Nhị Hiệp Hội.

Page 5: vinh xuan.docx

– 1949 (Man Kwok năm 38) Diệp Vấn 56 tuổi. Đến từ: Macao và Hồng Kông. Diệp Vấn đã đi qua Macao đến Hồng Kông,

nhưng trong khi ở Macao, ông đã có hai tuần ở tại Cho Doi đường với những người bạn sở hữu một cửa hàng gia cầm.

Diệp Vấn đánh Mộc Nhân

– 1950 đến 1953 (Man Kwok năm 39 đến 42) Diệp Vấn 57 đến 60 năm tuổi. Địa điểm: Hong Kong Trong tháng 7 năm

1950, thông qua giới thiệu của Lý Dân, Diệp Vấn bắt đầu giảng dạy ở đường Đại Lâm, Cao Lôn, Hồng Kông. Lớp học

đầu tiên đã được Hiệp hội Công nhân nhà hàng giúp đỡ. Khi ông mở lớp học này chỉ có 8 người bao gồm cả Lương

Tướng và Lạc Diệu. Tất cả những nhân viên nhà hàng, nhưng sau đó có Từ Thượng Điền, Diệp Bì Chính, Triệu Vấn, Lý

Page 6: vinh xuan.docx

Ân Vinh, Luật Bành, Diệp Tiểu Hưng và những người khác. Đây là những người cóvị trí hàng đầu của Hiệp hội Công

nhân nhà hàng lúc này. Diệp Vấn cũng giảng dạy cho công nhân trong chi nhánh nhà hàng Thượng Văn , , Union HQ tại

Hồng Kông. Môn sinh bao gồm Lý Vịnh, Duệ Cường, Lý Lương Phẩm và những người khác.

– 1953 đến 1954 (Man Kwok năm 42 đến 43) Diệp Vấn 60 đến 61 năm tuổi. Địa điểm: Hồng Kông. Khi Lương Tướng

thất bại trong cuộc bầu cử công đoàn, Diệp Vấn buộc phải di chuyển lớp học đến Hội Tần. Học tập tại thời điểm đó có

Hoàng Thuần Lương, Vương Kiều, Vương Trắc, Ngô Trần và những người khác. Diệp Vấn cũng dạy tư nhân tại đền thờ

Hoàng tử Ba trên đường Nguyệt Châu. Môn sinh là Lý Hùng và những người khác.

– 1954 đến 1955 (Man Kwok năm 43 đến 44) Diệp Vấn 61 đến 62 năm tuổi. Địa điểm: Hồng Kông. Lương Tướng đã

được tái bầu làm chủ tịch của các công đoàn lao động nhà hàng và để Diệp Vấn di chuyển lớp học trở lại. Điều này

được gọi là giai đoạn sau của Hiệp hội Công nhân nhà hàng. Tại thời điểm này, tham gia học tập có Lý Cẩm Sinh, Giản

Hoa Tiệp(Victor Kan), Lư Văn Cẩm, Trương Trác Khánh(William Cheung) và những người khác.

– 1955 đến 1957 (Mãn Quốc năm 44 đến 46) Diệp Vấn 62 đến 64 năm tuổi. Địa điểm: Hồng Kông. Diệp Vấn di chuyển

các trường ở phố Lý Đạt , Dao Mã Điếm ở Cao Lôn. Các môn sinh ở đây là Lý Tiểu Long, Trần Thành, Hầu Kiên

Chương, Vi Ngọc Thụ, Bàn lai Bình, Bành Cẩm Phát và những người khác.

– 1957 đến 1962 (Mãn Quốc năm 46 đến 51) Diệp Vấn 64 đến 69 năm tuổi. Địa điểm: Hồng Kông. Trong suốt 5 năm Yip

Man di chuyển qua các trường Lý Trương Oải Xuân. môn sinh là Mạc Bì, Dương Hắc, Mai Dật, Hồ Cẩm Minh và những

người khác. Trong khoảng thời gian này Diệp Vấn giảng dạy chủ yếu là dạy tư. Tại cửa hàng đồ gốm Thuận Kỳ, môn

sinh là Vương Phách Nhị, Vương Vĩ, Dương Chung Hán, Châu Lục Nhị, Hoàng Quốc Dân và những người khác. Tại

Sầm Hạ Từ, Bàng Lực Hồng, môn sinh là những Đường Tào Trí, Chi Lý Phát, Triệu Sán Trác, Đàm Lai và những người

khác. Tại đường Phật Đài, mon sinh là Trương Cẩm Xuyên, Xung Vĩnh Khang.

– 1962 đến 1963 (Mãn Quốc năm 51 so với 52) Diệp Vấn 69 đến 70 năm tuổi. Địa điểm: Hồng Kông. Diệp Vấn di chuyển

trường đến 61 đường Phật Đài, một đơn vị trong việc xây dựng Heng Yip?. Môn sinh được dạy là Trương Nhữ Vinh, Hồ

Luân, Chung Thanh An, Trần Vân Lâm, Trương Thái Nghiêm và Quốc Dân. Dạy tư tại cửa hàng may mặc Nhị Vĩ tại

Tsim Sha Tsui. môn sinh là Peter Trương và một nhóm người của Phó Lực Hồng.

– 1963 đến 1965 (Man Kwok năm 52 đến 54) Diệp Vấn 70 đến 72 năm tuổi. Địa điểm: Hồng Kông. Trường được chuyển

đến tầng trên cùng của nhà hàng Tương Thái ở phố Phúc Xuân, Tai Kok Tsui?. Đây vốn là các kho. Chủ sở hữu là Hồ

Luân đã cho phép sử dụng phòng để dạy. Hầu hết những người từ các trường tại Yip Heng xây dựng cũng di chuyển

đến đây. Cũng như Hồ Luânn còn có Dương Chung Hán, Nhất Dụng Tùng, Bành Cẩm Phát, Chính An, Lý Văn Vĩnh và

Yau Hak. Trong giai đoạn này Diệp Vấn cũng dạy môn sinh chủ yếu là từ phía cảnh sát, tư nhân tại San Po Kong, đường

Hin Hing. Họ gồm Đặng Tăng, Lâm Vĩnh Phát, Khổng Nguyên Chi, Lý Diêu Phi, Vương Các và những người khác.

– 1965 đến 1972 (Man Kwok năm 54 đến 61) Diệp Vấn 72 đến 79 năm tuổi. Địa điểm: Hồng Kông. Các trường học tại

nhà hàng Sang và Diệp Vấn chuyển đến sống trên đường Tung Choi vì ông đã già. Mặc dù ông đã nghỉ hưu song ông

vẫn dạy học tư nhân. Đi đến nhà của Diệp Vấn trong suốt thời gian này, là Vương Chung Hoa (Yat Oak Goi Tse), Hoàng

Hội, Hồng Nhã Tam và những người khác. Ông cũng đã đi ra ngoài giảng dạy để bốn địa điểm:

1. Ving Tsun Athletic Hiệp hội, trong đó, vào năm 1967, là tổ chức võ thuật đầu tiên được đăng ký chính thức với chính

phủ. Hiệp hội Ving Tsun Athletic sau đó đã quyết định mở các lớp học Công phu tại địa chỉ của hiệp hội. Hiệp hội bầu

Diệp Vấn phụ trách giảng dạy. Giúp ông còn có Chính An, Phụng Khôn , Chung Vương Khôn và những người khác.

Thời gian khoảng ba tháng.

2. Trên Waterloo Road, học tập ở đây là Trần Vĩ Hồng, anh em Tiểu Long, cũng Vương Chí An, Trần Cẩm Minh, Chung

Diệu, Lưu Hội Lâm, Cương Văn Nghiêm và những người khác.

3. Chi Yau Road. Khi Trần Vĩ Hông đã có các hoạt động kinh doanh khác và không thể tiếp tục ở Waterloo Road, Diệp

Vấn di chuyển đến tầng thượng của tòa nhà Lưu Hồ Lâm. Tham gia học tập ở đây Vương Chí Minh và ông cũng chính

thức chấp nhận một nữ môn sinh là Ngô Nguyệt

4. Siu Fai Toi. Tại nhà của luật sư Diệp Tịnh Trác và một số môn sinh là khác mời của luật sư. Đây là nơi cuối cùng Diệp

Vấn dạy Vịnh Xuân Công phu.

Diệp Vấn qua đời tại nhà riêng trên đường Tung Choi vào ngày 01 Tháng Mười Hai 1972 (Man Kwok năm 61). Ngày 26

tháng 10 âm lịch của Trung Quốc. Ông rất thích 79 năm của cuộc đời.

Nguồn: http://wingchunquan.blogspot.com/2012/12/diep-van-va-nien-bieu-cuoc-oi-vo-thuat.htmlShare this:

Print

Page 7: vinh xuan.docx

Quyền sư Lục Hào   Kim Tháng Một 4, 2015

vinhxuanquyen Khác Lục Hào Kim, luc vien khai, tran dang quang 1 Phản hồi

Quyền sư Lục Hào Kim

Nói đến Vịnh Xuân quyền, những người yêu võ thuật ở vùng Sài Gòn – Chợ Lớn liền nghĩ ngay đến quyền sư Lục Viễn

Khai và đồ đệ Lục Hào Kim, những truyền nhân đưa môn võ học này tồn tại và phát triển ở Việt Nam.

Vịnh Xuân quyền do danh sư Nguyễn Tế Công truyền bá tại Hà Nội. Đến năm 1954, di cư vào nam, ông tiếp tục dạy

môn công phu này tại Chợ Lớn cho 3 đồ đệ Quang Sáng, Trương Cao Phong và Lục Viễn Khai tại nhà nhị đệ tử Trương

Cao Phong (tiệm may Thượng Hải, đường Đồng Khánh, Q.5). Ngoài dạy võ, Nguyễn Tế Công còn chữa trật đả, gãy

xương tại tiệm thuốc Lôi Công đường (cạnh rạp hát Lido, Q.5).

Sau 8 năm thụ đắc Vịnh Xuân quyền từ Nguyễn sư phụ, Lục Viễn Khai chỉ truyền dạy cho 3 đồ đệ là bằng hữu Lương

Kiều Vũ, bào đệ Lục Hào Kim và nữ võ sĩ Lý Huỳnh Yến tại tiệm photo Thần Quang (Tản Đà, Q.5), bởi Lục Hào Kim là

thợ “tút rửa” ảnh tại đây và tiệm này có khoảng sân để luyện tập. Trong suốt thời gian truyền bá Vịnh Xuân quyền, không

may quyền sư Lục Viễn Khai bị bệnh và ông tạ thế năm 1981, hưởng thọ 60 tuổi. Những gì ông truyền đạt lại đã được 3

đồ đệ nỗ lực giữ gìn, chỉ tiếc là người con trai Nguyễn Trí Thành lại không theo nghề võ.

Lục Hào Kim (sinh năm 1934) tại huyện Thuận Đức, tỉnh Quảng Đông (Trung Quốc), vốn là vận động viên bơi lội, đến

năm 22 tuổi mới theo sư huynh Lục Viễn Khai tập Vịnh Xuân quyền. Ông Lục Hào Kim cho biết: “Lấy nền tảng từ một

môn võ có nguồn gốc từ Nam Thiếu Lâm tại tỉnh Phúc Kiến, Trung Quốc, môn phái Vịnh Xuân quyền từ chỗ chỉ được

truyền dạy âm thầm trong các gia tộc trở thành một trong những phái võ được nhiều người biết đến và say mê luyện tập

nhất, với hàng triệu đệ tử và hàng chục hệ phái trên toàn thế giới”. Vịnh Xuân quyền chỉ duy nhất bài Tiểu Luyện Đầu.

“Theo sư huynh tôi truyền lại thì môn phái không có Ngũ Hình quyền và nội công như ở Hà Nội, tại Hồng Kông, danh sư

Diệp Vấn (sư phụ ngôi sao điện ảnh Lý Tiểu Long – NV) gọi là Tiểu Niệm Đầu và chế tác thêm chiêu thức Trầm Kiều và

Biêu Chỉ”, lão võ sư Lục Hào Kim tâm sự.

Page 8: vinh xuan.docx

Bài danh quyền Tiểu Luyện Đầu gồm 36 chiêu thức như Vân trung hạc (hạc trong mây) là động tác khởi động, Hạc hình

thư bộ (bộ pháp khoan thai), Đại Phật chuyển thân (luyện xoay eo lưng), Song xà xuất động (công kích địch thủ), Nhị tử

kiềm dương mã (tấn pháp), Mai hoa bộ (thân, thủ, bộ pháp), Hạc hình (đánh chỏ, gối và 5 đầu ngón tay), Xà hình (hai tay

dính liền với tay đối phương, luyện khớp dẻo dai), Tam tinh quyền (3 quả đấm thôi sơn liên hoàn) cùng 8 phương pháp

gồm Thán (ém tay), Phục (đè tay), Bòn (lật vai), Trầm (ém tay), Xuyên (xỉa gạt từ dưới hất lên), Biếu (dùng Song chỉ thọc

mắt), Lòn (lật mu bàn tay đánh lên), Tắc (dùng ức bàn tay đánh xuống).

Vịnh Xuân quyền không múa may hoa mỹ lại ít sử dụng đòn chân, chiêu thức tập trung ở mười đầu ngón tay, cạnh mu

bàn tay và cùi chỏ, tấn công yếu huyệt địch thủ từ đỉnh đầu xuống thắt lưng như trán, mắt, cổ, họng, màng tang, yết

hầu… Môn sinh phải luyện hai cánh tay linh hoạt, dẻo dai và uy lực qua phương pháp Tiêu đả (đối kháng, tiêu nghĩa là

hóa giải, đả là tấn công), Niêm thủ (dính tay) kết hợp luyện đánh mộc nhân và bao cát mỗi ngày.

Năm 2014, quyền sư Lục Hào Kim bước sang tuổi 80 nhưng trông ông vẫn nhanh nhẹn, tráng kiện và minh mẫn. Mỗi

ngày hai giờ ông lên tận tầng 3 luyện Tiểu Luyện Đầu, đánh mộc nhân và bao cát. Ngoài dạy kèm Vịnh Xuân quyền cho

vài đồ đệ tại tư gia, quyền sư còn dành thời gian vẽ tranh thủy mặc (ông là hội viên Hội Mỹ thuật TP.HCM, hội viên Hội

Mỹ thuật Việt Nam).

Nguồn: http://thethao.thanhnien.com.vn/pages/20140501/ky-nhan-lang-vo-ky-4-truyen-nhan-vinh-xuan-quyen.aspxShare this:

Print

Trịnh Quốc Định – Niêm   Côn Tháng Mười Hai 27, 2014

vinhxuanquyen Bài viết, Binh khí, Video tran van phung, tran van phung vinh xuan, trinh quoc dinh, Vinh Xuan Ngoc Ha Để lại

bình luận

Cùng với Bát Trảm Đao, Lục Điểm Bán Côn được xem là binh khí đặc trưng của môn Vĩnh Xuân Quyền. Nếu như Bát

Trảm Đao rất phù hợp với lối đánh gần, đòi hỏi sự linh hoạt của đôi tay, sự nhẹ nhàng uyển chuyển của bộ pháp, mang

tính nhu nhuyễn, thì Lục Điểm Bán Côn phù hợp với lối đánh xa, đòi hỏi sức mạnh của đôi tay, sự vững chắc của bộ

pháp, mang tính cương mãnh.

Trong môn Vĩnh Xuân, niêm là một kỹ thuật mang tính đặc trưng của bản môn. Niêm tay đã khó, niêm côn lại càng khó.

Để thực hiện được kỹ thuật niêm côn đòi hỏi người luyện phải có một kungfu nhu nhuyễn lâu năm. Có nhiều tư liệu về

Lục Điểm Bán Côn của các dòng phái ở Trung Quốc và Hồng Kông, nhưng tư liệu về niêm côn thì rất hiếm. Tại Việt Nam

các tư liệu về binh khí, đặc biệt là về Lục Điểm Bán Côn hầu như vắng bóng. Có lẽ vì nó đơn giản quá chăng? Tư liệu về

cố VS. Trịnh Quốc Định dưới đây là một trong những tư liệu hiếm hoi có đề cập đến kỹ thuật niêm côn của môn Vĩnh

Xuân.

Xin giới thiệu để các bạn cùng tham khảo.

VXQuyền

Share this:

Print

Kỹ thuật Vĩnh Xuân Sầm   Năng Tháng Mười Một 23, 2014

vinhxuanquyen Tham khảo, Video Vĩnh xuân Quảng Châu, Vĩnh Xuân Sầm Năng Để lại bình luận

Xin giới thiệu một số kỹ thuật căn bản của Vĩnh Xuân Sầm Năng.

Page 9: vinh xuan.docx

 

Share this:

Print

Trò chuyện cùng võ sư Châu   Phong Tháng Năm 1, 2014

vinhxuanquyen Bài viết, Khác nguyen chau phong, vinh xuan nguyen chau phong,Vĩnh Xuân Trần Văn Phùng Để lại bình luận

Đây là buổi trò chuyện của phóng viên báo Lao Động cùng võ sư Nguyễn Châu Phong, chủ nhiệm võ đường Vĩnh Xuân

Châu Phong, về môn Vĩnh Xuân Quyền. Dưới đây là nội dung buổi trò chuyện.

Trước đây, Vĩnh Xuân quyền từ chỗ chỉ được truyền dạy âm thầm trong các gia tộc, nay trở thành một trong những môn

võ được nhiều người say mê luyện tập nhất, với hàng triệu đệ tử trên toàn thế giới.

Vĩnh Xuân quyền thường gắn với huyền thoại Lý Tiểu Long (1940-1973) – diễn viên võ thuật nổi tiếng Hollywood thập

niên 1970. Tuy nhiên, tìm được một chân sư không hề đơn giản. Võ sư Nguyễn Châu Phong (SN 1956) là một người

như thế, ông là đệ tử lớn của cụ Trần Văn Phùng (một trong những học trò đầu tiên của sư tổ Nguyễn Tế Công – hay

còn gọi là Tài Cống – người truyền bá Vĩnh Xuân vào Việt Nam).

Trên sân võ, thoạt nhìn, cái dáng mảnh mai, cao lòng khòng bề ngoài của võ sư Nguyễn Châu Phong đã đánh lừa các

môn sinh. Khi giao thủ, phản xạ của ông cực nhanh và những cú đánh còn lẹ hơn điện xẹt. Trong chớp mắt, môn sinh đã

nằm lăn trên mặt đất, còn người ngoài đứng xem tuyệt không nhìn rõ đòn ra của ông. Võ sư Nguyễn Châu Phong nhấn

mạnh: Vĩnh Xuân quyền khoan thai mà dũng mãnh.

– Theo ông, đâu là đặc trưng và thế mạnh của Vĩnh Xuân quyền so với các môn phái khác?

– Vĩnh Xuân quyền xuất phát từ Trung Quốc, đặc trưng môn này có nhiều nét đặc dị bởi nó có những bài luyện tập hết

sức đặc biệt như niêm thủ, niêm cước, niêm thân hay linh giác. Hệ thống quyền thuật đơn giản không giống một môn

phái nào, nhìn bề ngoài các môn sinh tập Vĩnh Xuân quyền luyện tập những động tác hết sức đơn giản, khoan thai nhẹ

nhàng, không khoa trương hay bay nhảy, đã có nhiều người không thích vì không hiểu chiều sâu và hiệu quả của nó,

thậm chí còn suy nghĩ: Thế này mà là võ ư? Thực ra, có thể xem Vĩnh Xuân quyền là môn “nhu thuật”, một môn thể thao

nghệ thuật có tư duy logic rất cao. Nó là môn võ dành cho những người yếu, người yếu mà tập nó sẽ khắc phục được

tình trạng sức khỏe (có rất nhiều người mang những bệnh mạn tính trong người, khi tập Vĩnh Xuân đã hết bệnh), thấy

khỏe hơn, sung mãn hơn. Còn người khỏe mà tập nó thì sức lực càng vô cùng và bản thân Vĩnh Xuân quyền còn là môn

võ được đúc kết, cắt gọt đến mức tinh giản, nên tính hiệu quả chiến đấu cực cao…

– Hiện ở VN có mấy nhánh của Vĩnh Xuân quyền và nó có khác nhau nhiều không, thưa ông?

– Ở miền Bắc hiện nay có nhiều nhánh như nhánh cụ Trần Văn Phùng (sư phụ của tôi), nhánh cụ Trần Thúc Tiển, nhánh

cụ Vũ Bá Quý, cụ Ngô Sỹ Quý… và nhiều nhánh ở trong TPHCM nữa…. Về cơ bản, gốc đều như nhau, nhưng trong khi

học Vĩnh Xuân quyền, mỗi người đều hiểu, học nó theo cái ngộ của chính kiến bản thân mình. Sau này, khi phát triển và

truyền dạy theo đó cũng khác nhau.

Page 10: vinh xuan.docx

– Hẳn cũng như các môn phái khác, Vĩnh Xuân quyền đòi hỏi sự khổ luyện, nhưng sự khổ luyện ở đây có gì đặc biệt

không, thưa ông?

– Việc khổ luyện chia theo từng giai đoạn. Sự khổ luyện nằm trong ý thức, với tôi 24h trong ngày là tập và luyện. Không

nhất thiết phải tạo ra một cung thời gian, vì mỗi người có những điều kiện khác nhau. Bất kỳ môn võ nào cũng đều cần

khổ luyện. Nếu có ý chí và quyết tâm cao thì có thể vượt qua tất cả và chắc chắn sẽ thành công.

Theo tôi, tư chất của mỗi người là quan trọng, nhưng quan trọng hơn là anh có thực sự đam mê và trân trọng cái anh

đam mê không. Nếu không đi chuyên sâu thì không hiểu được. Phải gặp được danh sư (còn gọi là chân sư đích thực),

phải được truyền dạy để hiểu thấu đáo. Phải toàn tâm toàn ý, nếu học chỉ để dùng ngay thì chỉ là học cái ngọn hay một

vài kỹ thuật đánh đấm, làm sao hiểu được cái cốt lõi, tinh hoa của võ đạo? Như để hiểu được “tâm ứng thủ” phải là cả

một quá trình rèn luyện, phải được thầy chỉ dạy đến nơi đến chốn, rồi “bắt địch theo ta”… phải đạt tới tinh hoa trong

chiến đấu.

– Thưa ông, trong Vĩnh Xuân quyền có khái niệm “vô chiêu thắng hữu chiêu”?

– Phải hiểu thế nào là “tâm ứng thủ”, đứng trước đối thủ, làm sao biết đối thủ dùng chiêu thức như thế nào, dùng thế tay

hay thế chân nào? Phải có một quá trình luyện tập công phu thì chỉ cần nghĩ tới động tác, chiêu thức thì ngay lập tức

chân, tay sẽ thực hiện những đòn thế chính xác, thành công. Ngoài khổ luyện thì có 3 cấp, đúng hơn là 3 hệ: Hệ chiến

đấu – hệ giao đấu – hệ biểu diễn. Cũng như đẳng cấp trong võ thuật có 3 cấp: Võ biền, võ thuật và võ đạo. Đạt tới võ

đạo là đạt tới tinh hoa của triết lý sống…

– Các lò võ Vĩnh Xuân quyền ở ta hiện nay có nhiều lò tuân theo “cái gốc” căn bản của nó không, thưa ông?

– Cây có 1 gốc, nhưng có nhiều nhánh, 1 nhánh sinh ra nhiều cành. Ở ta, nhiều lò, ngay cả thầy dạy cũng chưa nắm

được gốc cơ bản, toàn là cóp nhặt ba cái chiết chiêu. Đến “bát thủ pháp” – thầy dạy còn chưa biết. “Manh sư” thì nhiều,

danh sư thì ít… cái đó thật đáng buồn! Như “Tiểu hình luyện thủ” là bài quyền của Vĩnh Xuân, các môn sinh mới nhập

môn đều phải tập bài đó để luyện tay. Thủ ở đây là tay, không phải là phòng thủ, đánh thì đỡ, gạt, thủ sau thì công. “Đầu

bất chính, thì chung sinh bất chính” – cái đầu tiên đã sai thì dù có khổ luyện, cả hệ thống về sau đều sai. Ngoài những

chiêu thức, kỹ thuật mà sư phụ từng dạy tôi, người còn truyền lại rất kỹ cho tôi cả về khẩu quyết và tâm pháp…

Vĩnh Xuân quyền còn đi vào thơ ca: “Đôi tay Vĩnh Xuân như hai dải lụa hồng, đánh cho địch thủ như con thuyền say

sóng/ Ta theo địch như hình với bóng/ Địch theo ta như vực sâu thăm thẳm”…

(Nói đến đây, võ sư Nguyễn Châu Phong dắt cậu con trai đang ở tuổi trưởng thành của ông ra tập cho chúng tôi xem. Lẹ

làng, khoan thai mà dũng mãnh, những đòn đánh biến ảo khôn lường, chỉ có điều ông “tua” thật chậm để chúng tôi nhìn

ra được đòn thế).

Page 11: vinh xuan.docx

Võ sư Nguyễn Châu Phong nói tiếp:

Vĩnh Xuân quyền nhu nhưng không nhược, cương mà không cứng. Cứng mà bẻ không gãy. Mềm mà không nắn được.

Để đạt tới công phu đôi tay, học cả đời chưa hết, vì thế Vĩnh Xuân quyền ít dùng chân, vì tay mà đã lợi hại như thế thì

dùng chân còn lợi hại đến đâu. Thực tế cước pháp Vịnh Xuân rất phong phú, bao gồm cả những chiêu thức dùng chân ở

tầm cực thấp với những đòn chấn khớp có uy lực khủng khiếp và những chiêu thức đánh vào sự thăng bằng của đối thủ.

Tuy nhiên, do nguyên tắc “túc bất ly địa” (chân không rời khỏi mặt đất) của Vĩnh Xuân, cước pháp Vĩnh Xuân chỉ truyền

dạy cho học trò cao cấp, sau khi môn sinh đã luyện tập tốt sự thăng bằng và có sự phối hợp với thủ pháp nhuần nhuyễn.

Chưa kể, vũ khí của Vĩnh Xuân quyền còn có “Bát trảm đao”, “Lục điểm bán côn”. Đã học phải học cho đủ, cho thấu đáo,

sau này tùy vào hoàn cảnh nào, gặp cái gì thì dùng cái đó.

Câu chuyện với võ sư Nguyễn Châu Phong thật thú vị, ông nói với chúng tôi không chỉ là võ thuật mà còn là triết học, là

sự cân bằng âm dương hiểu sao cho đúng, là sự vi diệu của võ đạo mà ông đã ngộ được. Cũng vì thế mà khi được hỏi

về những lần ra đòn chiến đấu của ông, Võ sư Nguyễn Châu Phong chỉ cười, không nói…

Với Vĩnh Xuân quyền, phải nắm vững được những kỹ thuật như bát tượng: Nâng, tỳ, vít, đẩy, chấn, triệt, lôi, đả; hay Ngũ

hình quyền biểu hiện 5 ngũ tính: Cương, nhu, dũng, trí, tĩnh. Ngũ tính của con người luân chuyển theo các ảnh hưởng

tác động ngoại lai, có lúc rất cương trực, có lúc rất mềm mại… như 5 con vật long, hổ, báo, xà, hạc… Luyện võ là để lấy

cái dũng, để chế ngự và tiêu diệt sự nhút nhát bản năng của con người, giữ được sự điềm đạm và sáng suốt khi gặp

nguy hiểm, để có những giải pháp phù hợp trong tất cả mọi việc của cuộc sống thường ngày, chứ không phải là lấy việc

đánh đấm hơn thua làm thước đo thành quả.

Nguồn: Báo Lao Động Online

http://laodong.com.vn/lao-dong-hang-ngay/dat-toi-vo-dao-la-dat-toi-tinh-hoa-cua-triet-ly-song-109611.bldShare this:

Print

Đôi tay Vĩnh Xuân   Quyền Tháng Tư 20, 2014

vinhxuanquyen Bài viết, Khác, Tham khảo quyền pháp, vinh xuan quyen 1 Phản hồi

Page 12: vinh xuan.docx

Đôi tay Vĩnh Xuân

Chúng ta thử xem qua hệ thống quyền pháp của Vĩnh Xuân Quyền sẽ rõ. Đó là một công việc khổ luyện gần như cả đời

người để thu thập và ứng dụng một cách thích hợp mỗi động tác và sự kết hợp kỳ diệu của mỗi đòn tay. Nó có điểm

khác biệt cơ bản là không nhất thiết phải thuộc lòng các chiêu thức chiến đấu như một số môn phái khác. Đồng thời có

sự phân giải về các chiêu thức một cách hòa hợp, ăn khớp như một số người quan niệm biểu đồng tình.

Có những người cho rằng quyền Vĩnh Xuân đơn giản và thực dụng nhất. Điều đó, ở một góc độ nào đó, có thể xem như

đúng. Bởi vì suy cho cùng “bát môn pháp” cũng có thể bắt nguồn từ ba tay : Tán thủ, Phục thủ và Bàng thủ (Ngửa bàn

tay, Úp bàn tay, và Đưa khuỷu tay). Ba tay quyền căn bản này bao quát cả trăm ngàn thế tinh hoa biến hóa của quyền

Vĩnh Xuân.

Theo thường lệ, tất cả quyền thuật Trung Hoa đều dùng một phương pháp cổ truyền và duy nhất là đánh và đỡ. Khi đối

phương dùng quyền đánh ta, thì ta dùng một cánh tay để đỡ và dùng một cánh tay khác để đánh lại đối phương, hoặc

dùng chân để phản công đối phương.

Theo thứ tự, thì dù ta đỡ bằng tay hay chân, đều đứng sau cái thể công (đánh hoặc đá của địch). Vả lại, cái đánh trả với

cái đỡ không thể nào làm cùng một lúc được : nghĩa là phải dùng cả hai tay, một tay đỡ và tay khác đánh lại.

Nhưng quyền Vĩnh Xuân thì khác hẳn. Nếu đối phương dùng quyền tay hay dùng đòn chân đánh hoặc đá ta, thì hễ ai đã

tập quyền Vĩnh Xuân thì đều hiểu rằng : Hễ quyền hay cước của địch bị ta tiếp được (có nghĩa là thu hút được), thì tức

khắc ta chỉ dùng một tay hay một chân đánh lại, vì quyền Vĩnh Xuân làm tiêu tan các thế công bằng một kỹ thuật đặc

biệt, và đó cũng là đòn phản công tức khắc.Đó là chỗ tuyệt diệu của quyền pháp Vĩnh Xuân.

Cho nên, quyền pháp Vĩnh Xuân có câu “Đả thủ tức vi Tiêu thủ”, ý nói tay đánh tức là tay giải (Giải là làm tiêu tan cái thế

công của địch).

Còn có một câu khẩu quyết là : “Thủ lưu trung”, nghĩa là hai tay lúc nào cũng để trước giữa ngực (Cả trên, dưới). Khi ta

ra tay đánh địch đều do trung lộ tiến đi (tức là hai cánh tay một quyền, một chưởng). Bao giờ cũng làm thành một hình

trung tâm điểm để phòng ngự đầu và toàn thân. Dù địch mau lẹ và cường mạnh đến đâu, ta đều có thể làm cho đôi tay

của địch lúc nào cũng ở ngoài tay phòng ngự của ta. Như vậy ta chiếm thế thượng phong, có ngay ưu thế dù là công

hay thủ. Cho nên quyền Vĩnh Xuân đánh ra thì thành xung quyền hình chữ nhật do tâm tạng (ở giữa ngực) xuất phát

đường kinh tuyến, thẳng một mặt tiến đánh đối phương, tựa như chạy theo đường cung huyền (như dây cung bật ra).

Page 13: vinh xuan.docx

Nếu địch dùng quyền đánh, ta dùng lối quyền “ném” hay lối quyền “câu”, còn gọi là quyền dây cung. Dù so sánh quyền

pháp giữa các môn phái khác, xuất phát từ hai bên eo với xung quyền hình chữ nhật của Vĩnh Xuân thì quyền Vĩnh

Xuân vẫn dài hơn. Đó là nguyên nhân tại sao quyền Vĩnh Xuân phát xuất từ trước ngực.

Người ta thường dùng cây cung và thân cây cung để ví với tay quyền Vĩnh Xuân, ta cũng có thể dùng cây mây để làm ví

dụ. Khi một lực tấn công phía trước, ta có thể dùng tay ngửa, tay úp hay chìa khuỷu tay (tán, phục, bàng thủ) khiến cho

địch thủ có cảm tưởng như đánh vào một cây mây bị áp lực ảnh hưởng, cong vào một bên; đến khi quyền địch thủ để lộ

ra khuyết điểm (nơi trống, tiện tấn công)thì quyền Vĩnh Xuân như thanh mây bật ngược lại xung thẳng vào đối phương

với sức mạnh vô cùng.

Do đó, trong môn phái Vĩnh Xuân có một câu truyền khẩu “Lai lưu khứ tống, thoát thủ trực xung” (Tới thì giữ, đi thì đưa,

duỗi hoặc rời tay thì tiến tới).

“Đó là phương pháp sử dụng các thế Na, Phục, Bàng… Tuyệt không bao giờ hất ngang hay lắc qua hai bên trái hay mặt.

Đưa là đưa sang phía trước, xung cũng là xung ra phía trước. Còn tay lưu chỉ để tiếp đón hay chận đứng quyền của

địch. Không cần dùng đến sức khỏe mà có thể đẩy được địch qua một bên”.

Chính vì chỗ sâu diệu này mà Võ sĩ Lý Tiểu Long sau khi đã học với Diệp Vấn tiên sinh, đã lãnh hội tinh túy của công

phu quyền pháp Vĩnh Xuân, nên đã cho ra đời môn Triệt Quyền Đạo (có thể tạm tóm tắt là con đường ngắn nhất để biến

thủ thành công, hoặc công thủ không phân biệt, hoặc nôm na hơn: đỡ tức là đánh).

Ngoài quyền pháp sâu diệu, người học Vĩnh Xuân quyền còn phải luyện khí công để chủ động được kình lực của mình.

Kình phải lấy gân làm gốc, có đàn tính, hoạt tính. Tập khí công nội công, chuyển động đường gân, uyển lực phát triển,

lấy khí dẫn lực… chủ động gân cốt, phát triển được kình. Lực phá hủy bên ngoài, kình phá hủy bên trong. Việc phóng

kình như bắn một mũi tên. Kình có thể tụ vào đầu ngón tay, phóng với tốc độ nhanh có thể phá hủy các bộ phận bên

trong. Đó mới thực sự là sự công phá. Khi một người phóng kình đúng, các đầu ngón tay sẽ rung bật lên. Đó là dấu hiệu

công lực của mỗi người. Môn công phu đỉnh cao của kình lực chính là nhất dương chỉ vậy.

Nguồn: VS. Thi Đạt Chí, Trích Tân Võ học – xuất bản tại Hồng Kông số 72/1972

Ý Quyền Luận (Vương Hương Trai)   (1) Tháng Tám 18, 2012

vinhxuanquyen Tham khảo ý quyền, Vương hương trai, đại thành quyền Để lại bình luận

Đại sư Vương Hương Trai

Page 14: vinh xuan.docx

Ý QUYỀN LUẬNTác giả: VƯƠNG HƯƠNG TRAI

Dịch giả: Tuấn Anh

Vai trò quan trọng nhất của đạo quyền thực chất là giải quyết được nhu cầu tạo lập nền tảng tinh thần cho dân tộc, hình

thành những kiến thức căn bản về việc lập quốc có tính chất học thuật, tạo nền tảng tư tưởng triết học nhân sinh, đồng

thời đạo quyền còn được coi là huyết mạch của hệ thống giáo dục xã hội. Sứ mệnh của đạo quyền là phải giúp cho

người học biết tu tâm và bày tỏ tình cảm, thay đổi tâm sinh lý theo chiều hướng có lợi, phát huy được ưu thế vốn có của

mình, để tinh thần luôn minh mẫn và sáng suốt, cơ thể luôn khỏe mạnh, thể hiện được ý nghĩa ích nước lợi dân của đạo

quyền, tuy nhiên thời gian đầu người ta không coi trọng việc truyền bá kỹ thuật ra đòn. Khi đã hoàn thành được sứ mệnh

kể trên thì có thể gọi là “Quyền thuật”, nếu không thì bị coi là những điều dị đoan trái với chủ trương giáo nghĩa chính

thống mà thôi. Luyện tập môn quyền lập dị giống như là uống phải thuốc độc, không thể diễn tả hết bằng lời về những

tác hại của nó. Với mong muốn đem lại lợi ích cho bản thân và cho mọi người, cùng với tâm trạng luôn cảm thấy đau

lòng cũng như không thể nhẫn tâm thờ ơ với những cảnh tai ương mà mình đã tận mắt chứng kiến, bằng những kinh

nghiệm tích lũy được trong hơn 40 năm luyện tập võ đạo, học giả đã tích cực nghiên cứu và tìm hiểu ý nghĩa thực sự

của đạo quyền, nguyên lý và quy tắc khoa học, tự mình thể nghiệm thực tế để có chứng cứ xác thực, loại bỏ những điều

bất lợi, tạo ra bí quyết riêng, giảm bớt nhược điểm và phát huy sở trường, lấy mạnh bù yếu, loại bỏ sự giả tạo giữ lại sự

chân thật sinh động, thể hiện được sự am hiểu đạo lý của nhiều phương diện, phát huy được thế mạnh, chính vì vậy mà

môn quyền thuật này đã trở thành một trong những môn có sức hút đặc biệt nhất hiện nay, rất nhiều người theo học đã

bày tỏ rằng họ cảm thấy rất vui, hạnh phúc và thoải mái khi luyện tập môn quyền thuật này. Chính cái tên “Đại Thành” đã

thể hiện rõ đây là môn quyền của tất cả chúng ta, bởi tất cả những người theo học đều nói rằng họ cảm thấy hứng thứ

với môn quyền này một cách hết sức tự nhiên, tuy nhiên đó chỉ là những điều chúng ta được nghe kể lại mà thôi. Nhìn

vào tình hình thực tế hiện nay, có thể thấy người ta đã đánh giá môn quyền này có ý nghĩa rất quan trọng trong việc rèn

luyện ý chí tinh thần, tình cảm vững bền, tạo sức mạnh tự nhiên cho con người. Nói một cách tổng thể thì môn quyền

thuật này giúp con người thích ứng với môi trường xung quanh; Hay nói cách khác, là lấy nguyên tắc nguyên lý của vũ

trụ làm gốc, nuôi dưỡng tinh thần viên mãn và cơ thể khỏe mạnh, tạo ý chí vững vàng, hư thực vô định, rèn luyện để có

được bản năng xúc giác linh hoạt. Tuy nhiên, chỉ diễn tả bằng lời nói thì sẽ không thể thấy hết được sức mạnh tiềm ẩn,

nhưng thể hiện bằng hành động thì chúng ta sẽ cảm nhận được ngay. Ở đây không bàn luận đến những nhà quyền

thuật bình thường chỉ biết coi trọng hình thức và phương pháp, sử dụng đường quyền cứng nhắc và thô kệch. Thành

thực mà nói do quá coi trọng hình thức và phương pháp, nên những nhà quyền thuật bình thường này đã diễn bài quyền

với những động tác rườm rà, dị hình dị dạng, điều đó càng làm thêm tăng tính thô kệch, đối với môn vận động có tính

quyết liệt cao mà người truyền dạy sai thì người học cũng sẽ tập sai theo, nhưng điều mà người ta không thể ngờ tới là

chính sự vận động đó đã làm tổn thương cơ thể, có thể coi đó là hành động tự sát, bởi thần kinh – tứ chi – khí quản – cơ

bắp sẽ bị hủy hoại dần dần, khiến cho người tập cảm thấy chán chường uể oải dẫn đến suy sụp tinh thần. Như vậy có

thể nói là môn quyền đó đã hoàn thành sứ mệnh của mình hay không? Tuy nhiên, ở đây học giả không dám nói rằng học

môn quyền này là thượng sách, nếu theo luận điểm hiện đại và của thời gian trước đây, thì cũng vẫn có thể khẳng định

rằng đây là môn quyền hết sức độc đáo. Hơn nữa, so với thời đại trước thì kiến thức học thuật ở thời đại này đương

nhiên phải được nâng lên một tầm cao mới, nếu không thì nó sẽ không thể tồn tại và phát triển được! Đó chính là cở sở

để khẳng định rằng môn quyền này thích hợp với việc rèn luyện hệ thống thần kinh và tứ chi, giúp cho người tập có

được trí lực dồi dào, bảo vệ và giữ cho cơ bắp luôn khỏe mạnh rắn chắc, khí huyết lưu thông, hô hấp tốt, hơi thở khỏe

mạnh, từ đó dần dần tăng cường được sức khỏe, hiệu quả thực tế thể hiện ngay sau khi luyện tập. Về phương pháp học

cách tập trung lấy sức lực thì bài viết này chỉ trình bày sơ qua (rậm lời). Tác giả của bài viết này cũng là người đã tham

gia luyện tập quyền đạo. Do tuổi cũng đã cao, hơn nữa để đáp ứng như cầu tìm hiểu sâu môn quyền này, nên học giả

đã cố gắng sưu tầm những kiến thức có nguy cơ thất truyền được ví như là những dấu chân chim hồng trên tuyết, cùng

những ghi chép lộn xộn về những điều mà học giả đã học được thường ngày để viết thành bài này, với mong muốn mọi

người sẽ dễ dàng tham khảo và lĩnh hội được những cái hay của môn quyền này. Ngoài ra, với tâm niệm học hỏi tìm tòi

tri thức là trách nhiệm và tôn chỉ, những người có đức có tài trong nước đã rất tích cực chỉ bảo và đóng góp ý kiến đối

với môn quyền này, hoặc họ đã trực tiếp đến tận nơi để truyền dạy những điều mình biết, bởi họ đều có chung một niềm

say mê với với lĩnh vực này, tuy chỉ là một chút hiểu biết nông cạn nhưng họ cũng muốn góp sức mình để môn quyền

này ngày càng được hoàn thiện hơn, hy vọng ngày càng có nhiều người theo học với tinh thần khiêm tốn học hỏi để có

kiến thức phong phú hơn, một mặt tích cực tìm hiểu tường tận các vấn đề nan giải, mặt khác cố gắng phát huy hết khả

năng vốn có của mình, và luôn hi vọng có thể cùng nhau nghiên cứu vào bất cứ thời điểm nào, để tìm tòi và đúc kết

Page 15: vinh xuan.docx

được những kiến thức cô đọng nhất, tạo nhiều phúc lợi và nâng cao trình độ thể dục thể thao cho mọi người dân, nếu

không thực hiện được những mong muốn bức thiết này, thì họ cảm thấy công việc mà họ đã làm không giá trị gì cả. Tuy

nhiên, nếu hiệu quả nâng cao không được như ý muốn thì cũng sẽ không làm ảnh hưởng đến tinh thần, hoặc làm giảm

trí lực của thế hệ chúng ta. Môn học thuật này lấy tiêu chí nhân loại cùng sở hữu làm nền tảng căn bản, vậy thì làm sao

mà có thể giữ bí quyết cho riêng mình? Cho nên học giả không sợ nội dung sơ sài, mà cố gắng tận dụng hết vốn kiến

thức của mình để viết thành bài này. Tuy nhiên, do khả năng có hạn cho nên không thể trình bày được hết những nét

đặc sắc tinh vi của môn quyền này. Hơn nữa, những ghi chép bằng tay khó có thể giúp cho người đọc hình dung được

nội dung tỉ mỉ hàm chứa trong đó, với tâm niệm thuật lại chi tiết những điều mà mình suy ngẫm, mong mọi người đọc

được một điều thì suy ngẫm ra thành nhiều điều (đọc ít hiểu nhiều). Ngoài ra, với tấm lòng thụ đạo hết sức chân thành

cùng với sự nhiệt tình hứng thú hy vọng sẽ tránh được sự công kích của ngôn luận.

Hà Bắc – Bác Lăng, Vương Hương Trai.

1. Khái quát tình hình luyện tập quyền đạo

Trong những thế kỷ gần đây đại đa số người tập quyền luôn có ý phơi bày sự rắn chắc khác thường của cơ bắp để cho

mọi người biết rằng mình là người biết chơi thể dục thể thao. Nhưng điều mà họ không ngờ tới là chính hiện tượng phát

triển khác lạ đó đã gây trở ngại cho lĩnh vực y tế, và đối với những người hoạt động trong lĩnh vực này thì họ cho rằng

môn quyền đó thực sự không có tác dụng gì hết, đây cũng là điều mà các nhà sinh lý học cấm kị nhất, họ coi sự vận

động đó không có giá trị gì cả. Trong những năm gần đây, trên một số tờ báo đã đăng tải những bài viết chỉ trích vấn đề

trên, tuy có một số bài viết của một số người hiểu lý lẽ thông thường bày tỏ sự đồng tình, xong đại đa số vẫn cho là dung

tục ngu muội, nhẫn tâm gây ảnh hưởng xấu đến lý tưởng tốt đẹp, đặc biệt là nói liều, bêu xấu con người, không thể nói

lên được sự thật, cuối cùng không trách khỏi sự chê trách của nhiều người. Nói chung từ trước cho đến nay học giả đã

tích cực sưu tầm những kiến thức có nguy cơ bị thất truyền (tuyệt học) để mưu cầu phúc lợi cho nhân loại, chính những

nhân sĩ luôn trung thành với tư tưởng chính thống và sự thông minh tuyệt đỉnh đã thông cảm với những hiện tượng phát

sinh trong đời sống xã hội từ trước cho đến nay, mặc dù tiêu chuẩn thấp nhưng họ vẫn muốn xem nó sẽ tiếp diễn như

thế nào. Vì sự tồn tại lâu dài của đạo quyền, họ thực sự không dám đề cập đến cái riêng mà chỉ hy vọng những người

có đức có tài trong nước hiểu và đánh giá đúng về nó.

Đạo quyền được bắt nguồn từ việc áp dụng hình dáng và ý nghĩa tương tự với cách thức vật lộn đọ sức của loài cầm

thù, nhưng đã được phát triển và tiến hóa dần, kết hợp sử dụng yếu tố tinh thần để thể hiện tất cả các mô phạm phép

tắc chuẩn mực, vì vậy các kỹ thuật của môn quyền này cơ bản đã được hình thành ngay từ đầu. Tuy nhiên, các võ sư

thời cận đại lại tạo hình không giống như vậy, họ phát triển môn quyền theo xu hướng có lợi cho tinh thần cũng như ý

chí tình cảm của người tập. Theo cách nói của người xưa: “Dùng lực thì phải chậm rãi và chắc chắn, dùng ý thể hiện sự

linh hoạt uyển chuyển”, vì vậy mà việc tìm tòi thử nghiệm thực tế để tạo ra nét tự nhiên là điều cần thiết phải làm. Tuy

nhiên, dùng lực mà làm cho cơ bắp trì trệ không phát triển tốt, thì xương cốt của cơ thể cũng sẽ không linh hoạt, bởi vậy

những người làm công tác y tế không hưởng ứng điều này. Về phương diện võ thuật mà nói, nếu dùng lực thì sẽ có lúc

hết sức lực, dùng pháp tức là đã thể hiện hết thuật pháp, có phương pháp lại chỉ thể hiện cục bộ, vì vậy sau này người

ta đã sáng tạo thêm, để chứng tỏ mình không học theo bản năng. Khi không thể thống nhất được tinh thần, mà lại không

dốc được hết sức lực thì sẽ không thể làm theo cách hô ứng lực của vũ trụ, khi đó tinh thần của người tập bị hạn chế

trong một phạm vi nhất định, động tác thể hiện trông giống như là giẫm chân tại chỗ và đang do dự không muốn tiến lên.

Tuy nhiên, dùng lực vẫn được coi là cách đề kháng chống cự, mà sự đề kháng chống cự lại phát sinh khi sợ kẻ địch tấn

công, như vậy khi không thể chấp nhận sự tấn công của đối phương, thì liệu bạn có thể không nghĩ cách tấn công đối

phương hay không? Điều này cho thấy tác hại của việc chỉ dùng lực thực sự là rất lớn. Cho nên phải biết cách kết hợp

sử dụng lực (sức lực) và ý (ý chí) cùng thời điểm để tạo ra một nguyên khí tốt cho bản thân, bởi đây là hai nhân tố căn

bản bổ trợ cho nhau, dùng ý tức là dùng lực, bởi ý tức là lực. Tuy nhiên, không thể chỉ dùng lực để làm cho máu ngưng

tụ ở các cơ bắp, mà phải biết dùng ý chi phối để tất cả các cơ bắp luôn ở trạng thái thả lỏng bình thường, nếu không làm

được như vậy thì các cơ bắp của bạn mãi mãi sẽ không thể co về trạng thái tự nhiên được, khi đó bạn cũng sẽ không

còn sức lực để giữ cho cơ thể khỏe mạnh. Một khi không thể giữ được sức sống tự nhiên, thì việc tập dưỡng sinh hay

ứng dụng các kỹ thuật khác cũng đều không có tác dụng. Bạn phải biết là ý chí được tạo ra bởi chính trạng thái tinh thần

của bạn, sức lực cũng thay đổi theo ý chí, ý được coi như là “tướng soái” của lực, lực là “quân” của ý, khi ý căng lực

giãn, cơ bắp được thả lỏng linh hoạt, dâu tóc mọc nhiều, thì sinh lực được coi là mũi nhọn tiên phong trong việc tạo ra

những điều đó, tuy nhiên không phải tự nhiên mà trong ý lại có lực. Chính vì vậy mà hai mươi năm trước môn quyền này

đã từng được gọi với cái tên “Ý quyền”, người xưa lấy chữ “Ý” để thể hiện thần sắc – tinh thần, tức là môn quyền này rất

Page 16: vinh xuan.docx

coi trọng trạng thái ý chí và tinh thần, bởi nó đã thức tỉnh rất nhiều người, bạn có thể xem hình thức là biết được nội

dung (trông mặt mà bắt hình dong), giác ngộ được nhiều phương diện, đây chính là xu thế phát triển chính hiện nay,

nhưng các võ sư bình thường lại hay quan tâm nhiều đến ý kiến cá nhân, có thể coi đây là một thói xấu lâu ngày khó

sửa. Đại đa số không biết bình tĩnh xử lý vấn đề theo hướng lấy mạnh bù yếu, giảm bớt nhược điểm và phát huy sở

trường, nghiên cứu thảo luận những vấn đề không đúng còn tồn tại, mà họ lại cứ bảo thủ giữ nguyên ý kiến của mình,

vậy thì làm sao mà có thể làm được điều gì tốt hơn? Và như vậy thì họ sẽ không biết mình được cái gì và mất cái gì, đó

thật sự là một điều đáng tiếc. Hơn nữa khi trí lực vẫn còn mà lại không cố gắng theo đuổi, thì sẽ khiến cho ý nghĩa chân

chính của đạo quyền bị mai một theo, hy vọng mong muốn chân thành của cá nhân người viết bài này như là một hồi

chuông làm thức tỉnh tinh thần đã bị tê liệt, giúp họ lấy lại tinh thần, dũng mãnh hơn để tiếp tục tiến bước.

2. Luận về tín điều và quy tắc

Việc học quyền không chỉ góp phần rèn luyện tứ chi, mà nó còn ẩn chứa nhiều ý nghĩa hết sức quan trọng. Xét về

phương diện truyền thống, thì trước tiên người học phải có đức hạnh, tiếp theo là phải nghiêm túc tuân thủ các tín điều,

ví dụ như: Tôn sư, kính trên, coi trọng tình thân, có hiếu đối với cha mẹ, tín nghĩa, nhân ái… Tất cả những đức tính này

đều phải có ở người học. Ngoài ra, người học cũng cần phải có sự nhiệt thành của người hiệp khách khắc cốt ghi tâm

lời dạy của phật, luôn có ý chí tích cực học hỏi mọi người, nếu như không có đủ điều kiện các điều kiện trên thì sẽ không

được gọi là võ sư. Chí ít cũng phải có khí phách, tính cách thật thà chất phác, kín đáo thâm trầm, có tinh thần kiên nhẫn

và quả quyết, biết bày tỏ tình cảm với mọi người xung quanh, có tư chất mẫn tiệp (nhanh nhẹn) và dũng cảm, đặc biệt là

phải đáp ứng đủ điều kiện căn bản của người học, nếu không thì khó có thể được truyền dạy. Khi đã đáp ứng được điều

kiện, thì việc truyền dạy theo trình tự cũng là một vấn đề tương đối nan giải. Trước đây, khi các bậc tiền bối truyền dạy

cho một người, thì phải thận trọng xét đi xét lại, do nhân tài hiếm, nên họ không dám coi nhẹ vấn đề tuyển dụng. Theo

trình tự truyền thụ, thì trước hết phải lấy tứ dung ngũ yếu làm gốc. ví dụ như: Đầu thẳng, mắt nhìn thẳng, thần thái trang

nghiêm, tiếng tịnh, ngoài ra truyền bí quyết được cô đọng trong 5 chữ: “Kính – Thận – Ý – Thiết – Hòa”. Sau này 5 chữ

này được viết thành bài ca với ý nghĩa như sau:

Tập quyền ký nhập môn, thủ yếu tôn sư thân, thượng hữu tu trọng nghĩa, võ đức canh cẩn tôn. (Khi đã muốn nhập môn

quyền, thì trước hết phải biết đạo tôn sư, trọng tình thân, coi trọng tình nghĩa bạn bè, càng phải biết rèn luyện và giữ

vững đạo đức tác phong của người theo học quyền đạo).

Động tắc như long hổ, tịnh do cổ phật tâm, cử chỉ nghi cung thận, như đồng hội đại tân. (Động tác như rồng hổ, tâm tĩnh

như tâm phật, cử chỉ phải cung kính cẩn trọng)

Cung tắc thần bất tán, thận như thâm uyên lâm, giả tá vô cùng ý, tinh mãn hỗn nguyên thân. (Thể hiện sự cung kính từ

đáy lòng, cẩn trọng như khi sắp đi đến gần vực sâu, nhưng bề ngoài lại phải vờ như không có ý gì, có tinh lực dồi dào

nhưng lại phải giả vờ hồ đồ).

Hư vô cầu thực thiết, bất thất trung hòa quân, lực cảm như thấu điện, sở học dữ nhật thâm. (Tìm kiếm sự chân thực

trong cái hư vô, trung hòa cân bằng các mặt, khả năng cảm nhận nhanh như luồng điện, đã chú tâm theo học thì nhất

định sẽ có sự tiến bộ rõ rệt).

Vận thanh do nội chuyển, âm vận giống long ngâm, cung thận ý thiết hòa, ngũ tự bí quyết phân. (Chuyển đổi giọng nói

từ bên trong, âm thanh ý vị giống như long ngâm, cung kính cẩn trọng để có sự thân thiết hòa thuận, thông hiểu bí quyết

5 chữ).

Kiến tính minh lý hậu, phản hướng thân ngoại tầm, mạc bị pháp lý câu, canh vật trung học nhân. (Khi đã có được các

đức tính cần phải có và chân lý có liên quan, tiếp tục học hỏi người khác, tránh rơi vào vòng lao lý, càng không nên

chấm dứt việc học hỏi người khác).

4. Luận về đơn trọng và không cứng nhắc mô phỏng

Ở đây chúng ta sẽ luận về nguyên tắc nguyên lý của đạo quyền, không bàn về những động tác luyện tập hàng ngày, mà

chỉ đề cập đến những vấn đề nằm trong khuôn khổ của môn võ thuật, tức là cách giữ cân bằng cơ thể, không được tạo

dáng lệch. Nếu có một số động tác hơi bị mất thăng bằng, thì tức là bạn đã cứng nhắc mô phỏng giống hình dáng thực

tế, khi đó lực cũng bị phá vỡ. Tất cả những yếu tố: Thần – hình – lực – ý đều không được bắt chước phỏng theo y

Page 17: vinh xuan.docx

nguyên, một khi bạn đã bắt chước y nguyên thì chỉ mang tính chất phiến diện, như vậy sẽ không đáp ứng được yêu cầu

của phương diện y tế, học giả nên ghi nhớ điều này. Bạn phải học cách lấy sự thăng bằng nhưng lại không được quá

cứng nhắc. Hơi cứng nhắc thì lại dễ phạm phải bệnh “song trọng”, tất nhiên cũng không được phép quá linh hoạt, nếu

quá linh hoạt thì dễ tạo ra vẻ bề ngoài hào nhoáng nhưng thực chất thì lại không có tác dụng gì, điều này được ví như là

cây có hoa nhưng không có quả. Cụ thể là phải tạo cảm giác thư thái để thực hiện những động tác thay đổi thích hợp,

khi tạo lực cũng không được phép làm gián đoạn điều này, như vậy thì lực sẽ không bị mất đi. Song trọng không phải chỉ

có hai bộ phận chân, mà nó còn có ý nói đến các bộ phận như đầu – tay – vai – khuỷu tay – đầu gối – hông và các khớp

lớn nhỏ đều có độ căng giãn khác nhau khi hơi có một chút lực tác động đến, đây chính là sự khác biệt của yếu tố hư

thực. Ngày nay đại đa số các võ sư đều từ hướng đơn trọng phiến diện đi theo hướng song trọng tuyệt đối, tuy nhiên

phương thức song trọng tuyệt đối dễ bị hủ bại. Còn đối với người học đơn trọng và song trọng, học càng lâu thì càng

thấm. Nói về điều này, những bài luận do chính các võ sư ngày nay biên soạn cũng có chỗ chưa được thỏa đáng, huống

hồ là tác giả, trong phần này tác giả chỉ muốn đề cập đến yếu tố lộ hình phạm quy mà làm phá hỏng cái cốt cách. Không

nên cứng nhắc mô phỏng, bởi điều đó sẽ làm cho các động tác không có sự gắn kết với nhau, dù cho bạn biết sử dụng

thành thạo bí quyết đơn trọng đi chăng nữa, nếu không có khả năng lĩnh hội hiểu ý thì cũng không khác gì việc bạn

không biết cách sử dụng phương pháp song trọng. Nếu các động tác không được thực hiện một cách tự nhiên thì bạn

cũng sẽ cảm thấy không thoải mái, xương cốt không linh hoạt, đây là điều không thể tránh khỏi khi áp dụng phương

pháp cứng nhắc, bạn không thể tùy cơ ứng biến với mọi tình huống, hơn nữa lại không có phương hướng thay đổi, như

vậy càng không thể phát huy được tác dụng như ý muốn. Khi bạn cho rằng mình đã thể hiện thần và ý hết sức tự nhiên,

mà vẫn không ứng dụng được hết khả năng của xúc giác, thì vẫn không có đủ chứng cứ để chứng minh bạn đã thể hiện

tự nhiên. Ví dụ khi hai bên quyết đấu, cái lợi cái hại sẽ thấy ngay trước mắt, nếu không cẩn trọng thì chỉ một chút sơ xuất

nhỏ cũng sẽ gây ra tai nạn đáng tiếc, khi đã tiếp cận mà vẫn chưa có xúc giác, thì tất nhiên sẽ không thể ứng phó ngay

được, sau khi giải quyết xong tình huống đó bạn cũng sẽ lại không biết lúc nào sử dụng động tác nào thì thích hợp, thì

đó gọi là cách ứng phó tình huống tự nhiên, bản năng của bạn sẽ tự động bộc phát để giúp bạn ứng phó tình huống.

5. Thể nghiệm tính thực hư trong sự trừu tượng

Phương pháp nhập môn quyền chính xác được kết tinh trong quá trình vận dụng đồng nhất các yếu tố thần – hình – ý –

lực. Loại hình vận dụng này áp dụng những thứ vô hình không thể nhìn thấy được cũng không thể nghe thấy được, vô

hình còn gọi là vô tượng. Luận theo phương thức hữu hình thì thế của nó như là lá cờ bay phấp phới trong không trung,

duy chỉ có lực của gió là có thể phát huy được tác dụng, hay còn gọi là sự ứng hợp với không khí; Lại ví như cá bơi ở

những khu vực có sóng, bị sóng đánh nhấp nhô và mất phương hướng, lúc này cơ quan thính giác của nó đóng vai trò

xúc giác để tìm cách bơi ngang hay bơi dọc. Một mặt cùng vận động theo sự vận động chung, mặt khác bình tĩnh ứng

phó với tình huống bất ngờ. Phải lấy cái hư vô để suy đoán cái hữu hình, cũng có thể lấy cái hữu hình để phỏng đoán

cái vô hình, nói theo cách nói của phật giáo “Vô vi mà lại hữu vi” (cứ để mọi việc thuận theo tự nhiên, không phải làm gì

cả mà vẫn có triển vọng), “Vạn pháp giai không, tức là thực tượng” (trăm phương nghìn kế cũng như không, tức là cứ để

hình ảnh thực). Ví dụ như khi tìm hiểu đầu mối câu chuyện về việc làm tranh của dòng tộc Hoàng Tân Hồng (Nghê

Hoàng) thì được biết các nét vẽ thanh tú, ẩn chứa trong đó là sự nhẹ nhàng êm ái đặc biệt, tính cơ động và khả năng tạo

hứng thú đều nằm trong cái thần thái vô hình đó, nhưng vẫn có thể cảm nhận được ý nghĩa của nó, cho nên khi tập mà

đứng trước gương thao tác, thì e rằng bạn sẽ không tìm ra được các hình thái cần thiết, như vậy là ý nghĩa nội hàm

không có mà thần thái cũng không còn.

Khi tập cần phải tưởng tượng là mình đang phải đối đầu với kẻ địch ở trong một khoảng không gian chỉ vẻn vẹn có 3

thước ngoài 7 thước trong, xung quanh có nhiều lưỡi gươm đao của kẻ địch, hoặc tưởng tượng ra cảnh đang có con rắn

độc bò đến nên mình phải có khí phách dũng cảm, không được sợ hãi để có thể ứng phó kịp thời, cầu cái thực trong cái

hư để có thể sinh tồn. Khi có nhiều kẻ địch, thì nên cầu cái hư trong cái thực, muốn làm được như vậy thì hàng ngày

phải tích cực luyện tập và thể nghiệm, phải có khả năng kiềm chế tình cảm. Nói tóm lại, phải luôn có tinh thần và ý chí

xung mãn, đồng thời phải biết cách thoát khỏi tất cả yếu tố làm bạn phân tâm.

Bạn phải nhớ kỹ là khi tập thì phải tập từ từ, nhưng tinh thần thì lại phải có sự nhạy bén, đối với một số động tác lấy sức,

vừa biết cách tính toán cụ thể vừa phải biết cách ứng phó kịp thời, trong ngoài phải có sự liên kết với nhau, tính chất hư

thực bổ trợ cho nhau, nhưng tất cả đều phải nhất quán. Lúc nào cũng phải có tinh thần ứng phó tốt, thì sự nhạy bén của

bạn cũng sẽ được rèn luyện và khi cần thiết nó sẽ bột phát một cách tự nhiên. Khi mới học, cần phải học cách đứng

thẳng như cột, dần dần chuyển sang luyện tập những động tác tiếp theo. Nói tóm lại thần – hình – ý và lực phải tạo

Page 18: vinh xuan.docx

thành một thể nhất quán, đồng thời cũng phải kết hợp tứ tâm (đỉnh tâm, bổn tâm, thủ tâm, túc tâm), thần kinh thống nhất,

động mà như không động (khi mới vận động phải đem lại cái cảm giác như không vận động), phải cẩn trọng không để

gây ra tình trạng không hòa hợp, tứ chi xương cốt cũng cùng vận động, cho nên không được thực hiện động tác quá câu

nệ, cũng không được dừng lại đột ngột, mà phải tiếp tục kết hợp chặt chẽ với bầu không khí xung quanh, phát huy tác

dụng của yếu tố căng chùng ở các động tác lấy sức. Tất cả những yếu tố này bạn hoàn toàn có thể thực hiện được (ngõ

hầu có thể thực hiện được).

6. Nguyên tắc chung

Quyền bổn phục ưng, linh không tùng đằng, bình dị cận nhân, lý thú tùng sinh. Nhất pháp bất lập, vô pháp bất dung,

quyền bổn vô pháp, hữu pháp dã không (Đạo quyền vốn dĩ được nhiều người quan tâm, bởi nó đem đến cho người ta

sự linh hoạt và dẻo dai, tạo được vẻ hiền hòa dễ gần, tinh thần và lý trí tràn đầy, nếu chỉ có một cách thì không tồn tại

lâu được, nhưng cũng còn hơn là không có cách gì,

đạo quyền vốn vô pháp mà lại như có pháp).

Tồn lý biến chất, đào dã tính linh, tín nghĩa nhân dũng, tất tại kỳ trung. Lực nhậm tự nhiên, kiểu kiện do long, tổ nạp linh

nguyên, thể hội công năng (Luôn có lý trí thay đổi, dốc hết sức tôi luyện tinh thần – tính tình – tình cảm, sống nhân

nghĩa, hòa nhã và có uy tín. Sức mạnh sẽ đến tự nhiên, khỏe mạnh cường tráng như long thần, phản ứng nhanh nhạy,

thể hiện được công năng).

Bất tức bất ly, lễ nhường kiêm cung, lực hợp vũ trụ, phát huy lương năng. Trì hoàn đắc khu, cơ biến vô hình, thu thị

thính nội, rèn luyện thần kinh. (Không thân cũng không sơ, phải nhường nhau theo lễ nghi, tỏ sự khiêm tốn và cung kính,

hòa mình với trời đất, phát huy năng lực. Ứng biến vô hình, nghe nhìn và suy xét, rèn luyện thần kinh).

Động như nộ hổ, tĩnh tự triết long, thần do vụ báo, lực nhược tê hành. Súc linh thủ mặc, ứng cảm vô cùng. (Khi ở trạng

thái động thì có khí thế bừng bừng dữ dội, khi ở trạng thái tĩnh thì như rồng ẩn, thần như báo beo, lực mạnh như con tê

giác. Tích trữ và nuôi dưỡng tính linh,

giữ cho tâm can luôn bình thản, sẽ có khả năng cảm ứng vô cùng).

7. Bài ca về bí quyết (dịch sang âm hán việt)

Có rất nhiều phương pháp được người xưa viết thành bài ca, để làm công cụ truyền dạy, có sự lược bớt hoặc thay đổi

tuy nhiên vẫn giữ được ý chính, sau khi biên tập bài ca về bí quyết đặc biệt này, tôi xin cung cấp để học giả tham khảo:

Quyền đạo cực vi tế, vật dĩ tiểu đạo thị, khai bích thủ trọng võ, học thuật thủy vu thử.

Đương đại đa thất truyền, hoang đường vô biên tế, quyền đạo cơ phục ưng, vô trường bất hội tập.

Thiết chí xướng quyền học, dục phục cổ nguyên thủy, minh tâm cứu lý tính, kỹ kích nãi kỳ thứ.

Yếu tri quyền chân tủy, thủ do chiến trang khởi, ý tại vũ trụ gian, thể nhận học thí lực.

Bách hài xanh quân hằng, khúc chiết hữu diện tích, phỏng phất khởi vân đoan, hô hấp tịnh trường tế.

Thư thích canh du dương, hình tượng nhược phong trí, tuyệt duyên bính tạp niệm, liễm thần thính vi vũ.

Mãn thân không linh ý, bất dung niêm hào vũ, hữu hình tự lưu thủy, vô hình như đại khí.

Thần miên do như túy, du nhiên thủy trung dục, mặc đối hướng thiên không, hư linh tu định ý

Hồng lư đại dã thân, đào dung vật bất kế, thần cơ tự nội biến, điều tức thính tịnh hư

Thủ tịnh như sở nữ, động tự triết long cử, lực tùng ý tu khẩn, mao phát thế như kích

Cân nhục tù dục phóng, chi điểm lực cổn ti, la hoàn lực vô hình, biên thể đàn hoàng tự.

Page 19: vinh xuan.docx

Quan tiết nhược cơ luân, sủy ma ý trung lực, cân nhục tự kinh sà, lữ bộ phong quyển tịch.

Tòng hoàng khởi cự ba, nhược kình du hoàn thế, đỉnh thượng lực không linh, thân như thằng điếu hệ.

Lưỡng mục thần ngưng liễm, lưỡng nhĩ thính tịnh cực, tiểu phúc ứng thường viên, hung gian vi hàm súc.

Chỉ đoan lực thấu điện, cốt tiết phong lăng khởi, thần thái tự viên tiệp, túc đạp như miêu cự.

Nhất xúc tức bạo phát, tạc lực vô đoạn tục, học giải mạc hiếu kỳ, bình dị sinh thiên thú.

Phản anh tầm thiên lại, khu nhu tự đồng dục, vật vong vật trợ trường, thăng đường tiệm nhập thất.

Như nhược luận ứng địch, quyền đạo vi mạt kỹ, thủ tiên lực quân chỉnh, khu nữu bất thiên ỷ.

Động tĩnh hỗ vi căn, tinh thần đa ám thị, lộ tuyến đạp trọng tâm, tùng khẩn bất hoạt trệ.

Hoàn chuyển cẩn ổn chuẩn, câu thác hỗ dụng nghi. Lợi độn trí hoặc ngu, thiết thẩm đối phương ý.

Tùy khúc hốt tựu thân, hư thực tự chuyển dịch, súc lực như cung mãn, trước địch tự điện cấp.

Ưng thiêm hổ thị uy, túc oản như đâu nê, cốt lạc dữ long tiềm, hỗn thân tận tranh lực.

Súc ý khẳng nhẫn ngoan, đảm đại tâm canh tế, phách triền toàn quả hoàng, tiếp xúc sủy thời cơ.

Tập chi nhược hằng cửu, bất kỳ tự nhiên chí, biến hóa hình vô hình, chu hoàn ý vô ý.

Sất trá tẩu phong vân, bao la tiểu thiên địa, nhược tòng tích tượng sánh, lão trang dữ phật thích.

Ban mã cổ văn chương, hữu quân chung trương tự, đại lý vương duy họa, huyền diệu tương tự.

Tạo nghệ hà năng nhĩ, thiện dưỡng ngô hạo khí, tổng chi tận trừu tượng, tinh thần tu thiết thực.

Hết phần 1 (Còn tiếp)

Nguồn: http://www.thaicucquyen.com

Thiếu Lâm Vĩnh Xuân dòng Tang   Yick

Theo lịch sử của dòng Thiếu Lâm Vĩnh Xuân, tên Vĩnh Xuân có nguồn gốc từ điện Vĩnh Xuân tại chùa Thiếu Lâm. Sau

khi thoát khỏi vụ hoả thiêu Nam Thiếu Lâm do triều đình Mãn Thanh tiến hành, Chí Thiện Thiền Sư đã đến lánh nạn tại

Hồng Thuyền với thân phận là một người đầu bếp. Tại đây, ông đã truyền dạy võ công của mình cho Hoàng Hoa Bảo

(người đứng đầu của Hồng Thuyền), và  một số người khác cũng làm việc trong Hồng Thuyền bao gồm Hoa Diện Cẩm,

Lương Nhị Tì, và Lương Lan Quế. Để bảo vệ cho Chí Thiện Thiền sư khỏi sự truy sát của triều đình, tất cả học trò tại

Hồng Thuyền đều giữ kín thân phận thật sự của ông và  gọi môn võ ông dạy họ là Vĩnh Xuân.  Chính vì vậy, từ đây đã

xuất hiện khá nhiều các truyền thuyết khác nhau về môn Vĩnh Xuân.

Hoa Diện Cẩm sau này truyền lại cho một số học trò, trong đó có Phùng Hiếu Anh (Fung Siu Ching). Phùng Hiếu Anh

truyền lại cho con trai (Fung Tin), anh em nhà họ Lỗ, Dung Jik, Ma Chung Yi và Tang Suen. Rất có thể, Tang Suen là

huynh đệ cùng thời với Nguyễn Tế Công (sư tổ của Vĩnh Xuân Việt Nam), và Nguyễn Kỳ Sơn (Vĩnh Xuân Phật Sơn), bởi

Phùng Hiếu Anh có dạy cho anh em họ Nguyễn khi ông về ở ẩn tại Phật Sơn.

Tang Suen sau này dạy lại cho Tang Yick. Tang Yick rất giỏi về lục điểm bán côn, được mệnh danh là vua côn.

Page 20: vinh xuan.docx

Phả hệ của Thiếu Lâm Vĩnh Xuân dòng Tang Yick

Chí Thiện Thiền Sư – (Hoàng Hoa Bảo) – Hoa Diện Cẩm – Phùng Hiếu Anh (Fung Siu Ching) – Tang Suen – Tang Yick

– Tang Chun Pak

Vĩnh Xuân Phùng gia, làng Cổ   Lao Xin giới thiệu bên dưới đây đoạn video phỏng vấn sư phụ Fung Chun, thuộc Vĩnh Xuân Phùng gia, một nhánh của Vĩnh

Xuân Biên Thân, làng Cổ Lao. Vĩnh Xuân Biên Thân làng Cổ Lao là nhánh Vĩnh Xuân do quyền vương Lương Tán

truyền lại khi về già.  Do vậy, Vĩnh Xuân Cổ Lao có nhiều điểm độc đáo và khác biệt so với những nhánh Vĩnh Xuân

cũng do Lương Tán truyền lại khi ông còn trẻ. Khi về làng Cổ Lao, do đã có tuổi, Lương Tán đã tập hợp lại những kinh

nghiệm tích lũy suốt cả đời ông, cũng như giản lược đi nhiều bài bản, để làm sao truyền lại Vĩnh Xuân một cách nhanh

chóng, dễ hiểu, và tíết kiệm sức lực. Các bài luyện tập không nhiều, nhưng tính linh hoạt rất cao.  Vĩnh Xuân làng Cổ

Lao nổi tiếng với Vĩnh Xuân Quyền Tản Thức (San Sik).  Đây là một chuỗi các động tác và chiêu thức liên hoàn, có tính

linh hoạt và biến đổi rất cao.  Trong một số trường hợp, Tản Thức không có tính chính thức, quy chuẩn mà thường thay

đổi theo tình huống tập luyện.  Tuy vậy, để việc truyền dạy dễ dàng hơn, cũng có một số tản thức được nhóm lại thành

các bộ và đặt theo theo một trình tự nhất định. Phùng gia Thập nhị Tản Thức cũng là một trong những số này. Ngoài ra

còn có: Đại Niệm Đầu (Cổ Lao/ Lý Thắng), Phùng gia Tản Thức (Cổ Lao/Phùng Lim gia), Phùng gia Thập Nhị Tản Thức

(Cổ Lao/Phùng Chun gia), Cổ gia Tản Thức (Cổ Lao/Cổ gia ), Tứ Thập Điểm (Cổ Lao/Tam Yeung).

Phùng gia Thập Nhị Tản Thức Truyền lại từ Fung Chun, gồm 12 thức, 3 động tác mỗi thức, tổng cộng 36 động tác cũng

đi từ Tiểu Luyện Sáo đến Phục Hổ. Ngoài ra còn 6 thức mở rộng.

Bài giảng của Sầm Năng về cước pháp Vịnh   Xuân Võ sư Sầm Năng là một trong số ít các học trò được chân truyền Vịnh Xuân của Đại sư Nguyễn Kỳ Sơn.  Hiện nay hệ

phái của Đại Sư Nguyễn Kỳ Sơn vẫn tiếp tục được truyền dạy tại Trung Quốc và nhiều nơi trên thế giới. Có hai nhánh

chính thuộc hệ phái này: một là từ Võ sư Sầm Năng và hai là từ Wong Jing (truyền cho Mễ Cơ Vương và được kế

nghiệp bởi Hoàng Niệm Di).

Dưới đây là tổng hợp bài giảng của cố võ sư Sầm Năng nói về cước pháp Vịnh Xuân.

 Nguyên lý các đòn đá

Để cho ra một đòn đá chính xác cần phải chú ý những điểm sau:luyện tập, nắm vững thời gian, khoảng cách vị trí, thăng

bằng, đối tượng của đòn đá và độ nhanh nhậy.

Nói nôm na rằng: Luyện công bách biên, thân pháp tự nhiên. Mỗi động tác đều phải thông qua hai người đối luyện không

ngừng lặp lại cho đến khi biến thành tự nhiên, phản xạ bản năng. Bí quyết duy nhất của tất cả các công phu chẳng qua

là việc đối luyện không ngừng (có thể luyện tập với đối tác cố định hoặc không cố định) hoặc luyện tập với mộc nhân.

Nắm vững thời gian là điều kiện quan trọng hàng đầu của tầt cả các kỹ thuật (vận dụng trong chiến đấu), điều này chỉ có

thể đạt được thông qua kinh nghiệm và sự nỗ lực luyện tập. Nếu như yếu tố thời gian không nắm vững, thì cho dù động

tác hoàn mỹ đến mấy cũng không thể giành thắng lợi được. Một số quyền thủ Vịnh Xuân có thói quen dùng một phương

thức chủ động nhưng cố định để ra các đòn cước; nhưng thực tế Vịnh Xuân chú trọng ra đòn sau triệt đòn, để cho quyền

thủ Vịnh Xuân có thể vừa tiêu vừa đả thế tiến công của đối thủ. Khi ở trong trạng thái chuẩn bị, có thể cố gắng chiếm lấy

trung lộ từ sự tiến công của đối phương hoặc cũng là để bổ trợ cho những thiếu sót về kỹ thuật.

Chính vì phương thức đá phần thân dưới của cước pháp Vịnh Xuân, nên thông thường yêu cầu(quyền thủ Vịnh Xuân)

phải rất áp sát đối phương thì các đòn đá mới phát huy được tác dụng; đồng thời cũng vì khoảng cách ra đòn đá thông

thường bằng với khoảng cách ra đòn tay, cho nên Vịnh Xuân Quyền yêu cầu quyền thủ phải án chế được một bộ phận

trên cơ thể đối phương mới ra cước, làm như thế là để tất cả các bộ phận thuộc cơ thể ta đều có thể tham gia vào đòn

đánh, đồng thời mượn địch thủ làm điểm nâng đỡ cho sự cân bằng của ta. Một người mà một bộ phận chân tay bị khống

chế thì càng dễ bị trúng đòn.

Page 21: vinh xuan.docx

Khi mới bắt đầu luyện tập Vịnh Xuân, (Vịnh Xuân quyền thủ) thông thường áp dụng phương thức mặt đối mặt để luyện

tập, lợi dụng các động tác đơn thủ hoặc tổ hợp song thủ tiến hành đối luyện;sau đó Vịnh Xuân Quyền yêu cầu nhập nội

từ một góc độ nào đó, bất kể từ chính diện hay phía cánh đều có thể dùng những động tác tinh tế hóa giải sự tiến công

của đối phương.

Thăng bằng đòi hỏi một mã bộ vững chắc; khi nhấc một chân lên thì chân còn lại phải chịu toàn bộ lực từ cơ thể. Muốn

khắc phục được nhược điểm của sự mất thăng bằng đem đến, Vịnh Xuân Quyền huấn luyện học viên xoay thân, di

chuyển và việc luyện cước, vào thời điểm đầu đều đem phần lớn trọng lượng cơ thể áp đặt lên một chân; vào thời điểm

sau, (Vịnh Xuân quyền thủ) có thể mượn địch thủ để giữ thăng bằng, trong lúc mượn một bộ phận cơ thể đối phương

giữ thăng bằng đồng thời ra đòn cước.

Khi các bạn đã nắm vững những kỹ thuật này, Vịnh Xuân Quyền có thể giúp các bạn phá vỡ hệ thông công thủ của đối

phương một cách nhanh gọn hiệu quả. Chính bởi những kỹ thuật này, Vịnh Xuân chú trọng đánh cận, nhằm một số bộ

phận yếu hiểm trên cở thể làm mục tiêu, ví như đầu gối, háng, nếu ở khoảng cách xa thì những bộ phận như khớp, thận,

xương sườn đều có thể trở thành mục tiêu. Những bộ phận có cơ bắp phát triển và các bộ phận mẫn cảm khác có thể

trở thành đối tượng án chế. Nhưng, sự vận dụng các kỹ thuật này cũng còn phụ thuộc vào các yếu tố như sự nắm bắt

thời gian, cảm giác về cự li, vị trí, thăng bằng của đối thủ

Việc vận dụng chi giác (tức da, phản xạ thần kinh) trong một khoảng cách ngắn nhất, với động tác tinh tế nhất có thể ảnh

hưởng đến phản ứng của đối thủ chính là sở trường của các quyền thủ Vịnh Xuân. Trong phạm vi tay dính tay, cự li ra

đòn của tay và chân là giống nhau, khi bộ phận cước tiếp xúc với đối phương sẽ cảm nhận được sự thay đổi của góc độ

và lực, Vịnh Xuân Quyền thủ đã có thể (dựa vào sự thay đổi này) nhanh chóng cảm nhận chứ không phải nhìn thấy, để

điều chỉnh chính mình. Loại thông tin feedback trở lại này có thể làm cho quyền thủ Vịnh Xuân thông qua sự biến đổi bộ

pháp làm cho mình luôn luôn trong tư thế áp đảo và hóa giải đối phương.

 Tâm pháp

Vịnh Xuân là một loại quyền mang tính khái niệm cao, nói đến Kung fu không phải chỉ nói đến các chiêu thức bề ngoài.

Chiêu thức chẳng qua chỉ là một loại công cụ biểu đạt, mà chính khái niệm mới là linh hồn của những công cụ này.

Giữ vững đường hướng ra đòn theo trung tuyến là phương thức ra đòn đá một cách trực tiếp và đơn giản nhất. Nếu đối

thủ áp sát theo một đường cong, quyền thủ Vịnh Xuân tất có đủ thời gian để phản ứng, thì lúc này một đòn đá sẽ là biện

pháp nhanh gọn nhất. Giữa hai người là đường tí ngọ (đường trung tuyến), chỉ cần đánh trực tiếp vào trung tâm đối

phương là được. Nếu như sự tiến công của đối phương đã chiếm lĩnh được trung tuyến một cách vững vàng, thì quyền

thủ Vịnh Xuân có thể bước tiến thêm một bước, hoặc bước một bước đến phía cánh của đối phương , tạo ra một đường

tí ngọ mới.

Phương thức dùng một chân để ra đòn, trong khi lấy chân khác làm trụ nâng đỡ cơ thể có ưu điểm là khi một chân làm

động tác, thì chân kia sẽ đảm nhiệm việc nâng đỡ toàn bộ khối lượng cơ thể, giữ cho cơ thể ở trạng thái thăng bằng.

Việc dùng chân để chống lại võ khí thực ra cũng không khác mấy so với việc dùng chân để chống lại người, chẳng qua

mục tiêu phải là chân trụ của địch thủ. Trong điều kiện thời gian và phạm vi nhất định, với ý niệm công thủ theo trung

tuyến, quyền thủ Vịnh Xuân có thể bắt đầu với bộ phận mà địch thủ gần mình nhất.

Có lúc đường hướng tiến công gặp trở ngại, (sự ra đòn và phản ứng của quyền thủ Vịnh Xuân) không đủ nhanh và trực

tiếp, lúc này, quyền thủ Vịnh Xuân có thể thừa cơ trước khi đối phương ra đòn , nhập nội, phá vỡ nhịp tiến công và ngăn

chặn đòn đánh. Đường hướng mà (quyền thủ Vịnh Xuân) bị án ngữ sẽ lập tức được sắp xếp và bố trí lại.

Cơ sở

Vịnh Xuân Quyền bao hàm nhiều cước pháp, trong đó mỗi loại kỹ thuật đều có tâm pháp đặc thù riêng, muốn luyện và

sử dụng chúng một cách thuần thục, phải nắm bắt vững vàng những tâm pháp này. Vịnh Xuân không giống với nhiều

môn phái kung fu khác, kỹ thuật đòn cước của Vịnh Xuân không bao giờ áp dụng vào các bộ vị trên thắt lưng. Trong ứng

dụng, Vịnh Xuân thường ra đòn cước một cách trực tiếp có phát lực tương đối mạnh nhằm phá hủy kết cấu của địch thủ

và ngăn chặn địch thủ áp sát. Lực của các đòn đá có thể dùng để tiêu đòn của đối phương từ xa cho đến công đả khống

Page 22: vinh xuan.docx

chế đối thủ ở tầm gần; thêm nữa, đòn cước của Vịnh Xuân không có động tác giả để đánh lừa hoặc thử nghiệm đối

phương, bởi vì khi một đòn cước phát lực quá mức, đồng thời đi với nó là lộ ra sơ hở, người ra đòn cước rất có khả

năng vì điều này mà mất thăng bằng. Cho nên quyền thủ vịnh Xuân sẽ cố gắng bằng mọi biện pháp để bảo đảm đòn đá

này phải trúng.

Phúc Kiến Vĩnh Xuân Bạch Hạc quyền (Fujian Yong Chun Bai He   Ch’uan) Bạch Hạc quyền (Bai He quan) còn được gọi Thiếu Lâm Bạch Hạc quyền (Shaolin Bai He quan), tên phổ biến ở Trung

Quốc là Phúc Kiến Vĩnh Xuân Bạch Hạc quyền (Fujian Yong Chun Bai He Ch’uan , dịch nghĩa tiếng Anh là Fujian Yong

Chun White Crane Boxing) là một môn phái võ thuật thuộc dòng võ miền Nam Trung Hoa xuất xứ từ địa hạt Vĩnh Xuân

(Yong Chun village) tại thành phố Phúc Thanh, thuộc thành phố Phúc Châu, tỉnh Phúc Kiến, có căn bản phát tích từ

chùa Nam Thiếu Lâm Phúc Kiến.

Nguồn gốc và danh xưng

Phúc Kiến Vĩnh Xuân Bạch Hạc quyền là tiền thân của môn phái Hakutsuru Karaté, dịch sang tiếng Việt là Không Thủ

Đạo Bạch Hạc phái của Đại sư Bushi Sokon Matsumura thuộc hệ Thủ Lý-Thủ (Shuri-Te ) trong trường phái Okinawa

Karate sau này, mà vị đại biểu xuất sắc của trường phái Không Thủ Đạo Bạch Hạc này trong thế giới hiện đại chính là

Đại sư Hohan Soken là cháu nội của Đại sư Bushi Sokon Matsumura. Hohan Soken đã từng làm cho cả thế giới kinh

ngạc khi ông vận khí cho thân hình nhẹ như chiếc lá rồi thi triển Kata (diễn quyền pháp) của phái Không Thủ Đạo Bạch

Hạc trên một miếng ván mỏng thả nổi trên mặt nước tại thành phố Thủ Lý (Shuri ) trên đảo Okinawa.

Thành tựu biểu diễn quyền pháp (Kata) trên miếng ván mỏng thả nổi trên mặt nước của Đại sư Hohan Soken đã được

ghi vào sách kỷ lục Guiness (Guiness Record) cùng 2 người nữa là võ sư Thiếu Lâm Hồng gia đại lực sĩ Hà Châu

(người Việt gốc Hoa) cho xe Lu 12 tấn cán qua người và một Đại sư Yoga Ấn Độ chôn sống dưới đất 80 ngày nhịn thở.

Vĩnh Xuân Bạch Hạc quyền và môn Vịnh Xuân quyền có nhiều nét tương đồng nếu không muốn nói đó chỉ là một môn vì

chúng có cùng nơi phát tích với những đặc điểm kỹ pháp giống nhau. Tuy nhiên Vĩnh Xuân Bạch Hạc phái có hệ quyền

pháp rất phong phú và đã ảnh hưởng rất nhiều đến các môn võ miền Nam Trung Hoa về phương pháp phát kình trong

đó có Hồng Gia quyền của Hồng Hy Quan và Bạch Mi quyền của Bạch Mi đạo nhân.

Từ truyền thuyết đến lịch sử

Ngũ Mai sư thái

Tương truyền rằng môn quyền này do Ngũ Mai Lão Ni sáng lập tại Bạch Hạc sơn có tài liệu ghi là Đại Lương sơn, thuộc

tỉnh Vân Nam, Nam Trung Quốc, vào khoảng thế kỷ XIX. Bạch Hạc quyền được sáng chế trên cơ sở bài quyền mô

phỏng cách đách của chim Hạc trong Thiếu Lâm Thập bát La Hán quyền (Shaolin Shihpa Luohan Quan, 18 Monk Fists

và cách di chuyển chân gọi là Triền Túc .

Theo truyền thuyết, có một ni cô Thiếu Lâm ở tại chùa Thiếu Lâm Tung Sơn Hà Nam cùng khoảng thời gian này mà ni

cô này cũng là người được huấn luyện Thiếu Lâm quyền tại Cung Vĩnh Xuân. Tên thật của ni cô này là Lã Tứ Nương

(Lui Sei-Leung hay Lu Si-Niang ) mà tương truyền pháp danh là Ngũ Mai Sư thái ( Ng Mui Si Tai hay Wumei Shitai), còn

gọi là Ngũ Mai Đại Sư ( Wǔ Méi Dà Shī, Ng Mui Dai Si) sau này là sư phụ của Nghiêm Vịnh Xuân (Yim Wing Chun ) –

con gái của Nghiêm Nhị (Yim Yee ) một danh thủ quyền thuật Nam Thiếu Lâm Phúc Kiến. Lã Tứ Nương lúc đó cũng đã

là một danh sư quyền thuật.

Cha của Lã Tứ Nương cũng là một trong trong 8 vị đại tướng của triều nhà Minh đã theo giúp vua Ung Chính (Ung

Chính Đế, Ung Chính Vương) trong công cuộc lật đổ triều nhà Minh và trở thành một trong những vị Hoàng đế đầu tiên

của triều Mãn Thanh. Không bao lâu sau khi lên cầm quyền vị tân Hoàng đế này đã sát hại 8 viên đại tướng này. Truyền

thuyết kể rằng Ngũ Mai đã ám sát Ung Chính Đế để báo thù vụ án diệt môn gia họ Lã xưa kia, và sau đó đã trốn chạy

lên chùa Thiếu Lâm Tung Sơn ở Hà Nam. Thế rồi Lã Tứ Nương đã xuất gia trở thành một ni cô lấy pháp danh là Ngũ

Mai. Một số lưu thuyết cho rằng thật ra Ngũ Mai là một Đạo sĩ bên Đạo giáo. Lã Tứ Nương đã đầu quân vào cửa Phật

Page 23: vinh xuan.docx

nên mới lấy pháp danh là Ngũ Mai mà ngày nay công chúng chỉ biết đến pháp danh này chứ ít người biết tên thật của

bà.

Câu chuyện Phương Thất Nương (Fang Chi-Nian, Fang Qi – Niang)

Một nhà sư của chùa Nam Thiếu Lâm Phúc Kiến đã đào thoát sau vụ đại hỏa thiêu chùa Nam Thiếu Lâm Phúc Kiến vào

năm 1673 tên là Phương Trọng Cung (Fang Zhonggong), còn được biết dưới các tên khác như Phương Chưởng Quang

(Fang Zhang-Guang ), Phương Chấn Đông (Fang Zhen-Dong hay ), Phương Bản Châu (Fang Honshu), Phương Thế

Ngọc (Fang Shi Yu, Fong Sai Yuk ), Phương Tuệ Thạch (Fang Huishi, Fang Huei-shi ) mà tương truyền rằng nhà sư này

là một chuyên gia về Hạc quyền (Hequan, Hok Kuen ) của Nam Thiếu Lâm Phúc Kiến. Sở trường của nhà sư này là môn

Thiếu Lâm Thập Bát La Hán quyền (Shaolin Shiba Luohanquan ). Nhà sư này đã trốn chạy đến chùa Nam Thiếu Lâm

khác cũng tại thành phố Phủ Điền (còn gọi là Bồ Điền) ( Bính âm: Pútián) trong khu vực tỉnh Phúc Kiến để chờ đợi thời

cơ lật đổ triều nhà Thanh sau này. Cứ cho là như vậy, thì đây là ngôi chùa Nam Thiếu Lâm thứ hai có liên hệ mật thiết bí

mật với chùa Nam Thiếu Lâm Phúc Kiến. Sau này, nhà sư này đã di cư đến ngôi làng Vịnh Xuân (Yong Chun).

Tại ngôi làng Vịnh Xuân, Phương Trọng Cung đã hoàn tục xây dựng gia đình. Người con gái thứ bảy của Phương Trọng

Cung tên là Phương Thất Nương, có nghĩa là “người con gái thứ 7 họ Phương”. Phương Trọng Cung đã truyền thụ võ

công Thiếu Lâm cho Phương Thất Nương. Theo lời kể của Đại sư Bushi Matsumura, một này nọ có nhiều người đàn

ông từ ngôi làng bên cạnh đã giết Phương Trọng Cung. Lúc đó Phương Thất Nương chưa đạt đến trình độ bậc thầy võ

Thiếu Lâm, nhưng cô ta muốn trả thù cho cái chết của cha mình. Cô ta tự hỏi làm sao để trả được mối thù này.

Một hôm trong khi Phương Thất Nương đang ở trong nhà, cô ta nghe một số tiếng ồn lạ tai từ một khu rừng tre nhỏ gần

nhà. Cô ta nhìn ra ngoài và trông thấy hai con Hạc đang đánh nhau (hay là đây chỉ là một điệu múa tìm bạn đời của loài

Hạc như một vài truyền thuyết kể lại?). Phương Thất Nương chú ý đến cách chúng tấn công nhau thật chính xác từng

động tác.

Phương Thất Nương đi ra ngoài đến khu rừng tre với một cây gậy tre trên tay và cố gắng xua gậy cho chúng hoảng sợ

bỏ đi. Cô ta đã cố gắng tách đôi hai con Hạc ra bằng cây gậy tre. Mỗi lần cô ta xua gậy hay thọc cây tre vào chúng,

chúng liền né tránh cú đánh của cô ta, và cuối cùng chúng đã bay đi. Phương Thất Nương đã bị loài Hạc này tấn công

và cô ta đã suy tư về chúng rất nhiều. Một truyền thuyết khác nữa cũng y hệt như truyền thuyết này.

Một ngày nọ trong khi Phương Thất Nương đang ở trong nhà ngồi giặt đồ, và cô ta đã trông thấy một con Hạc trên mái

nhà của cô ta. Cô ta thắc mắc sợ con Hạc làm hư hại quần áo mà cô ta đang phơi khô trên sào. Vì vậy Phương Thất

Nương đã lấy một cây tre và cố gắng xua làm con Hạc sợ để bay đi. Khi cô ta cố gắng đập vào đầu con Hạc, con Hạc

bèn né tránh cây gậy và giương đôi cánh đỡ gạt những cú đánh của Phương Thất Nương. Khi Phương Thất Nương cố

gắng đánh vào đôi cánh của con Hạc, con Hạc bèn né cú đánh và dùng những móng vuốt làm chệch hướng đòn đánh

của cô ta. Khi cô ta cố gắng thọc cây tre vào con Hạc, nó cũng né luôn và đánh trả lại cây tre bằng cái mỏ dài nhọn của

nó. Nguyên lý tránh né này của con Hạc đã giúp Phương Thất Nương hiểu ra nguyên lý đúng đắn của sự cứng rắn

(cương) và sự mềm dẻo (nhu) trong quyền pháp Thiếu Lâm.

Chẳng bao lâu sau, Phương Thất Nương đã bắt đầu nghiền ngẫm ra được các phương pháp chiến đấu của con Hạc.

Sau đó, cô ta luôn đi ra ngoài bờ sông gần nhà để quan sát các con Hạc và nghiên cứu sâu thêm các phương pháp của

chúng. Phương Thất Nương đã dùng võ Thiếu Lâm mà cha của cô ta đã dạy cho làm nền tảng, và tích hợp với những

động tác thể hiện các phương thức chiến đấu của loài Hạc vào trong Thiếu Lâm quyền. Phương Thất Nương đã tập

luyện chuyên cần môn võ mới của cô ta sáng tác trong vòng 3 năm liên tiếp, và trở thành một võ sĩ công phu thượng

thặng. Sau khi cô ta giác ngộ ra được chân lý của võ thuật, cô ta đã không trả mối thù giết cha năm xưa nữa. Cô ta đã

trở thành người bất chiến bại, và môn võ do Phương Thất Nương sáng tạo đã được phổ truyền xung quanh khu vực tỉnh

Phúc Kiến. Môn võ Bạch Hạc của Phương Thất Nương đã có ảnh hưởng nhất định đến các bộ quyền pháp của Nam

Thiếu Lâm Phúc Kiến. Câu chuyện của Phương Thất Nương đã cho chúng ta biết một số nguyên lý quan trọng trong tư

tưởng quyền pháp của Bạch Hạc phái.

Các câu truyện truyền thuyết không thể đơn giản tin được với bất kỳ sự chính xác nào, nhưng người ta mong rằng một

số câu chuyện truyền kỳ hé mở một ít tia sáng chân lý trong đó. Rõ ràng có một số sự thực có thực trong đó. Vậy thì

những sự kiện chính yếu là gì? Trong bài “Võ Công Thiếu Lâm Bạch Hạc phái”: trích đoạn Một Cái Nhìn Tổng Quan do

Page 24: vinh xuan.docx

quyền sư Tiến sĩ Dương Tuấn Mẫn (Yang Jwing-Ming ) – sinh năm 1946 – hiện nay là một võ sư và là chuyên gia nghiên

cứu rất nổi tiếng của Trung Quốc về các môn võ thuật Trường quyền của Bắc Thiếu Lâm và Nam quyền của Nam Thiếu

Lâm, chúng ta đọc thấy như sau:

“Theo Tài Liệu Lưu Trữ Địa Hạt Vịnh Xuân: trang số 24, Chương Các Môn Võ Địa Phương, Bạch Hạc phái được truyền

thế cho người họ Trịnh (Zheng ) và họ Lý (Li ) ở địa hạt Vịnh Xuân bởi sư tổ Phương Thất Nương (Fang Qi-Niang , và từ

đó môn Bạch Hạc quyền tiếp tục lan tỏa và được công chúng yêu thích tham gia tập luyện ở vùng Đông Nam Trung Hoa,

đặc biệt là ở các thành phố thuộc tỉnh Phúc Kiến (Fujian, Fukien ) như Phúc Châu (Fuzhou ), Vĩnh Xuân (Yongchun )

thuộc địa hạt thành phố Toàn Châu (Quanzhou ), Phúc Thanh (Fuqing ), Trường Lạc (Changle ), và Phủ Điền (còn dịch

là Bồ Điền) (Putian ). Môn Bạch Hạc quyền cũng được truyền đến đảo Đài Loan (Taiwan) và khu vực Đông Nam Á như

Việt Nam.

Tiến sĩ Dương Tuấn Mẫn cũng đề cập đến sự kiện trong tác phẩm này của ông tại Chương Những Nền Tảng Thiết Yếu

Của Thiếu Lâm Bạch Hạc Phái. Đây là một tài liệu văn bản lưu trữ và những sự kiện được viết trong đó được đưa lên

hàng đầu vượt trên các câu truyện truyền thuyết. Nhưng thậm chí trong đó cũng có những đầu mối liên hệ rõ ràng giữa

Ngũ Mai Đại Sư (Ng Mui Dai Si, Wu Mei Da Shi ), Nghiêm Vịnh Xuân (Yim Wing Chun ) và Phương Thất Nương (Fang

Qi-Niang ):

Trong số những điều lý thú nhất là môn phái Vịnh Xuân Bạch Hạc quyền (Yǒng Chūn Bái Hè Quán, Wihng ChēUn Baahk

Hohk Kyùhn ) được truyền thế qua dòng họ Phương. Hệ thống kỹ pháp chiến đấu của môn Bạch Hạc quyền này có

nhiều điểm tương đồng với hệ thống kỹ pháp do Nghiêm Vịnh Xuân truyền lại đang được truyền bá bởi Diệp Vấn (Yip

Man ). Cả hai môn phái này đều có các bài tập huấn luyện trên Mộc Nhân Thung (Muk Yan Jong, Wooden Dummy )

nghĩa là đánh trên tượng người gỗ.

Có một tài liệu bảo mật cho biết có một võ phái phát triển từ tỉnh Phúc Kiến (Trung Hoa) đến hòn đảo Okinawa trong một

tác phẩm có tên là mà tên gọi là Võ Bị Chí (Wubeizhi , tiếng Nhật phát âm là Bubishi). Đây là một văn bản bí mật của

Thiếu Lâm Bạch Hạc phái Phúc Kiến. Theo Patrick Mc Carthy, vào năm 1922 một người đàn ông tên Lâm Đức Thuận

(Lin Deshun ) đến Đài Loan từ thành phố Phúc Châu tỉnh Phúc Kiến và đã giới thiệu một chi lưu Thiếu Lâm Bạch Hạc

phái Phúc Kiến gọi là “Thực Hạc” phái. Lâm Đức Thuận có trong tay một quyển quyền phổ nhan đề “Võ công di thư các

Đồng Nhân chùa Nam Thiếu Lâm Phúc Kiến” (the “Shaolin Bronze Man book”). Cuốn sách này có nói đến bức tranh về

bức tượng Đồng Nhân (người Đồng) trong tác phẩm Võ Bị Chí mà có nhiều điểm chú ý nổi bật trên đó. Ngày nay gia

đình họ Lưu (Liu) ở Đài Loan đã giữ trong tay quyển quyền phổ này. Mặc dù kích thước quyển sách có khác, nội dung

bên trong cuốn sách rất giống phiên bản cuốn sách bằng ngôn ngữ thổ dân Okinawa viết về kỹ pháp chiến đấu của Bạch

Hạc phái từ tỉnh Phúc Kiến (Trung Hoa) đến hòn đảo Okinawa trong một tác phẩm tên là Võ Bị Chí (Wubeizhi , tiếng

Nhật phát âm là Bubishi), như vậy đây là một phiên bản khác của cuốn sách này.

Phương Vĩnh Xuân (Fang Yong Chun ) và Nghiêm Vịnh Xuân (Yim Wing Chun )

Có một số câu chuyện truyền thuyết lưu truyền trong dân gian tại miền Nam Trung Hoa rằng môn Vĩnh Xuân Bạch Hạc

quyền và Vịnh Xuân quyền có quan hệ mật thiết với nhau do xuất xứ tại huyện thị Vĩnh Xuân thuộc thành phố Phúc

Châu trong tỉnh Phúc Kiến. Có thuyết lại cho rằng nguồn gốc của Vĩnh Xuân Bạch Hạc quyền bắt đầu từ một phụ nữ

xuất thân là một danh thủ Nam Thiếu Lâm quyền tên là Phương Vĩnh Xuân (Fang Yong Chun ) là vợ của Hồng Hy Quan

mà ông này là người sáng lập ra Hồng Gia quyền. Thuyết khác lại cho rằng Vịnh Xuân quyền là do Nghiêm Vịnh Xuân

(Yim Wing Chun ) là môn đồ của Ngũ Mai sáng lập ra sau khi cải biến võ Bạch hạc quyền của sư phụ dạy cho, do vậy

giữa Vĩnh Xuân Bạch Hạc phái Phúc Kiến và Vịnh Xuân quyền thật ra chỉ là tên gọi khác nhau nhưng cùng là một môn

võ xuất xứ từ Ngũ Mai.

Phả hệ Bạch hạc quyền từ Phương Thất Nương

(Fang Zhang Guang) Phương Chưởng Quang

(Fang Qi Niang) Phương Thất Nương

(Zeng Si) Tằng Tứ

Page 25: vinh xuan.docx

(Pan Xian) Phan Hiền

(Pan Dui Jin) Phan Đôi Kim

(Pan Sai Yu) Phan Tái Ngọc , (Pan Dun Chi) Phan Đôn Trì, (Pan Da Ren) Phan Đại Nhậm

(Pan Shen En) Phan Thâm Ân, (Pan Yue Zhao) Phan Nguyệt Chiếu

(Pan Li Qiu) Phan Lợi Thu

(Pan Zhen Tuan) Phan Trinh Đoàn

(Pan Chi Qing) Phan Tự Thanh,

(Pan Shi Sa) Phan Thế Táp,

(Pan Xiao De) Phan Hiếu Đức

Bạch Hạc quyền hay Ngũ Hình quyền Thiếu Lâm Tung Sơn cải biến

Bộ môn võ thuật nổi tiếng nhất tại Cung Vĩnh Xuân (Evergreen Hall) của chùa Thiếu Lâm Tung Sơn vào lúc đó là bộ Ngũ

Hình quyền. Thời gian rồi cũng trôi qua mau, con trai của 4 vị Đại Tướng nhà Minh được gửi lên chùa Thiếu Lâm Tung

Sơn trước kia (Chí Thiện, Bạch Mi, Phùng Đạo Đức, Miêu Hiển) và Ngũ Mai (Lã Tứ Nương) nay đã trở thành võ tăng

Thiếu Lâm Tung Sơn thành tài hạ sơn. Họ được giao sứ mạng huấn luyện võ thuật trong hệ thống các vị giáo đầu Thiếu

Lâm và phải thề rằng phục hồi lại triều nhà Minh. Vào lúc đó vị Đại Tông Sư Tổng giáo đầu của chùa Nam Thiếu Lâm ở

Phúc Kiến viên tịch. 5 người đã trở thành những Đại Sư Trưởng của Nam Thiếu Lâm Phúc Kiến và trở thành “Ngũ Tổ

của Nam Thiếu Lâm Phúc Kiến” (“Five Elders of Fukien Nan Shaolin”).

Họ (Chí Thiện, Bạch Mi, Miêu Hiển, Phùng Đạo Đức, và Ngũ Mai) đã phân tích tình thế của họ rất cẩn thận. Họ cần phải

đáp ứng kế hoạch lật đổ triều Mãn Thanh. Các hệ thống chiến đấu được dạy tại chùa Nam Thiếu Lâm lúc đó dựa trên

nền tảng của Ngũ Hình quyền. Các bộ Ngũ Hình quyền này yêu cầu các võ tăng phải luyện hàng chục năm và nắm vững

(làm chủ được các kỹ pháp) các đường quyền rắc rối dài quá đỗi, mất thời gian luyện tập công phu từ 10 đến 20 năm.

Có rất nhiều kỹ thuật tàn khốc, nhiều kỹ thuật trong số đó hoàn toàn khác biệt nhau, và một vài kỹ pháp trong đó không

hữu dụng lắm, bởi vì những kỹ thuật này không hiệu quả và hiệu suất lắm. Các Đại Tông Sư đã nhận thấy rằng phương

pháp luyện công phu như vậy không thích hợp và không thể chấp nhận được trong việc phát triển nhanh chóng sức

công phá có hiệu quả và hiệu suất thật cao.

Một phương pháp huấn luyện mới thích hợp với những nhu cầu của các nghĩa quân lúc đó thật thiết yếu. Ở miền Nam

Trung Hoa, địa hình cũng khác, và có nhu cầu cần cho chiến thuật cận chiến (đánh trong không gian hẹp). Vì vậy các

nghĩa quân cần một phương pháp chiến đấu hiệu năng hơn và khai thác những điểm yếu kém các bộ môn võ thuật

chiến đấu của kẻ thù. Những gì các nghĩa quân cần là một phương pháp mới tiến bộ hơn những kỹ pháp trước đây. Như

chúng tôi đã chứng minh, phương pháp đã từng được sử dụng trước đây là các sư phụ võ tăng Thiếu Lâm đã cố gắng

mô phỏng một cách chính xác các hình thái cử động của các loài vật mà chúng đã làm để tạo ra các bộ quyền. Điểm chú

trọng khác biệt trong hệ thống quyền pháp mới do 5 vị Đại Sư phát triển là dựa chính ngay trên các cơ năng sinh học

của chính cơ thể con người.

Có nhiều cách phát âm tên của Bạch Hạc phái qua nhiều phương ngữ Trung Hoa khác nhau: Bạch Hạc quyền (Pai Hao

Q’uan, Peh Ho Kuen), Bạch Hạc (Peh Hok, Bak Hok, Pak Hok), Bạch Hạc quyền (Bai He Q’uan) và Hạc quyền (He

Q’uan). Bạch Hạc quyền cũng được biết dưới một tên khá phổ biến Ngũ Tổ quyền (the Southern Five Elder Style hoặc

the Five Ancestors Fist Style hay Wu Zu Q’uan), và Vịnh Xuân Phái (the Yong Chun Style) được phát âm theo tiếng

Quảng Đông (Cantonese) là Wing Chun thường được dịch sang tiếng Việt là Vĩnh Xuân Bạch Hạc quyền (Yong Chun

Bai He quan, Wing Chun Bak Hok Kuen).

Để hiểu rõ nguồn gốc khởi nguyên của Bạch Hạc phái, chúng ta phải hiểu các thời kỳ giai đoạn cách mạng khởi nghĩa ở

Trung Hoa, như vậy chúng ta mới có một cái nhìn tổng thể ở đây. Bạch Hạc phái có lẽ khởi nguyên được hình thành

đúng vào lúc xảy ra vụ hỏa thiêu chùa Nam Thiếu Lâm ở thành phố Toàn Châu thuộc tỉnh Phúc Kiến vào năm 1763 tức

năm Càn Long thứ 28, hoặc là trước hay sau thời điểm này một chút. Sau đó Bạch Hạc phái trở nên một bộ quyền Thiếu

Lâm nổi tiếng. Nói cách khác, theo cách căn bản thì Thiếu Lâm Ngũ Hình quyền đã phát triển thành Bạch Hạc phái. Bạch

Hạc phái vẫn còn duy trì bộ Ngũ Hình quyền và đã hoàn chỉnh bộ quyền thuật này sâu sắc hơn.

Page 26: vinh xuan.docx

Hạc Quyền là tên gọi chung cho 5 phái Hạc quyền của một loại quyền pháp mô phỏng theo thần thái và bộ hình của loài

Hạc. 5 phái Hạc quyền này là Tung Hạc quyền (Zong Hequan the Jumping Crane Boxing), Phi Hạc quyền (Fei Hequan,

the Flying Crane Boxing), Minh Hạc quyền (Ming Hequan hay , the Crying Crane Boxing), Túc Hạc quyền (Su Hequan ,

the Sleeping Crane Boxing) và Thực Hạc quyền (Shi Hequan , the Eating Crane Boxing), mà tất cả các phái Hạc quyền

trên có lịch sử đã ngót 300 năm nay rồi. 5 phái Hạc quyền này hình thành riêng biệt vào gần cuối thời nhà Thanh. Tất cả

5 phái Hạc quyền trên được mọi người theo học có xuất xứ ở miền Nam Trung Hoa.

Đối lập lại với Bạch Hạc phái, mà Bạch Hạc phái đã trở thành dòng Thiếu Lâm quyền chính tông, cũng có nhiều bộ

quyền khác của Thiếu Lâm cũng từ võ Thiếu Lâm mà nổi lên khắp nơi, do có một số môn đồ đã rời khu vực xung quanh

chùa Nam Thiếu Lâm trong thời kỳ cách mạng khởi nghĩa ở Trung Hoa. Một số võ phái trong những nhánh Thiếu Lâm

quyền phân lưu đã trở nên rất nổi tiếng như Hồng gia (Hung Ga), Thái Lý Phật gia quyền (Choy Li Fut Ga Kuen), và Vịnh

Xuân phái (Wing Chun Style) mà dòng Vịnh Xuân này chủ yếu là nhánh phân lưu của Đại Tông Sư Diệp Vấn, tức là sư

phụ của Lý Tiểu Long (Bruce Lee).

Hầu hết những môn đồ của Bạch Hạc phái trong suốt thời kỳ cách mạng khởi nghĩa chống nhà Thanh là những nghĩa

quân. Một số người tin rằng những người sáng tạo Bạch Hạc phái đã chọn cái tên Vĩnh Xuân có nghĩa là ‘’mùa xuân

vĩnh cữu’’ do nhiều lý do:

 Đó là tên của một ngôi làng và một địa hạt gần chùa Nam Thiếu Lâm ở tỉnh Phúc Kiến, và ngôi làng đó hiển nhiên là

có quan hệ với võ thuật của chùa Nam Thiếu Lâm. Những nhà sư hiển nhiên đặt tên cho võ đường cũng cùng tên như

ngôi làng là cung Vĩnh Xuân trong chùa Nam Thiếu Lâm là nơi các nhà sư luyện tập võ nghệ.

Tên của chùa Thiếu Lâm có nghĩa là “khu rừng nhỏ”, và những cây thông trong khu rừng quanh chùa thì “luôn xuân

trẻ” (“Vĩnh Xuân”). Vì vậy tên này là một cách để giấu đi nguồn gốc của võ phái, nhưng vẫn biểu đạt được ý nghĩa biểu

trưng là “võ Thiếu Lâm”.

Những nghĩa quân hay dùng những câu “mật quyết” và những cụm từ như “Phản Thanh Phục Minh!”. Một số người tin

rằng tên Vịnh Xuân (hay Vĩnh Xuân – Yong Chun) là một phần trong cụm từ có ý nghĩa khởi nghĩa cách mạng: “Hãy

luôn nói Khẩu quyết. Không bao giờ quên đất nước của người Hán, mùa Xuân sẽ mãi luôn trở lại”. Mùa Xuân, trong

trường hợp này, chính là đề cập đến khoảng thời gian nhà Minh còn thống trị Trung Hoa hàm ý rằng mãi mãi tôn thờ

nhà Minh vì đó là nền chủ quyền chính trị của dân tộc Hán.

Do những sự cải cách mới này, đã có sự phân tách rạch ròi giữa các bộ môn võ thuật của Bắc Thiếu Lâm và Nam Thiếu

Lâm.

Bắc Thiếu Lâm vẫn giữ những chiêu thức kỹ pháp và các bộ quyền nguyên thủy, và Nam Thiếu Lâm chấp nhận những

bộ quyền hiệu quả và cách tân hợp lý. Khi đề cập Bắc Thiếu Lâm, điều này không có ý nói Thiếu Lâm Tung Sơn ở Hà

Nam mà tất cả các môn đồ của Thiếu Lâm ở miền Bắc thuộc tỉnh Sơn Đông và Hà Bắc (Trung Quốc) bên ngoài chùa

Thiếu Lâm Tung Sơn ở Hà Nam (Trung Quốc).

Lý do để phân biệt là vì Thiếu Lâm Tung Sơn Hà Nam luôn luôn giữ liên lạc rất gần với Nam Thiếu Lâm Phúc Kiến, và

luôn có một sự trao đổi thường xuyên giữa hai ngôi chùa này. Vì vậy chùa Thiếu Lâm Tung Sơn Hà Nam đã bổ sung

những kỹ pháp và các bộ quyền mới của Nam Thiếu Lâm. Những bộ quyền pháp mới này được biết dưới cái tên có một

đặc điểm chung là “Nam quyền” (“Nan Q’uan” or Southern Fist) mà nó không có gì khác biệt với kỹ pháp nền tảng của

Bạch Hạc phái.

Nhiều vị Đại Tông Sư Thiếu Lâm quyền được người ta gọi các môn võ của họ với chính phong cách riêng hay tên riêng

của họ. Ví dụ như, Phùng Đạo Đức đã sáng tạo ra Bạch Hổ phái. Ngũ Mai được cho là sư tổ sáng tạo ra Ngũ Mai phái.

Cũng thật thú vị khi ghi nhận rằng những môn đồ ngày nay của Vịnh Xuân Bạch Hạc phái xem Ngũ Mai phái là môn võ

anh chị em với Bạch Hạc phái.

Nhiều người cho rằng Vịnh Xuân phái xuất xứ từ Ngũ Mai. Nhiều người khác cho rằng Vịnh Xuân phái bắt nguồn trực

tiếp từ Bạch Hạc phái. Nhiều người qui cho rằng nguồn gốc của Chu gia Nam Thiếu Lâm Đường Lang của Chu Á Nam

(Chow Áh Nàam ) cũng có nguồn gốc chung từ phả hệ Bạch Hạc phái, vì các đường quyền căn bản của Chu gia Đường

Lang hiển nhiên cho thấy có một mối liên hệ rất gần với Ngũ Mai.

Page 27: vinh xuan.docx

Phương pháp chiến đấu của Bạch Hạc phái dựa trên ngũ hành, tạo thành Kim hình thủ, Mộc hình thủ, Thủy hình thủ,

Hỏa hình thủ và Thổ hình thủ. Triết lý tấn công – phòng thủ dựa trên tám nguyên tắc: Thôn (túm vào), thổ (nhả ra), phù

(nổi), trầm (chìm), cương (cứng), nhu (mềm), động , tĩnh .

Các lưu phái Bạch Hạc của Nam Thiếu Lâm Phúc Kiến

Theo tác phẩm Nam Quyền Toàn Thư của quyền sư Trương Tuấn Mẫn, dịch giả Thiên Tường, Nhà Xuất Bản Mũi Cà

Mau, năm 2001 thì Bạch Hạc phái Nam Thiếu Lâm Phúc Kiến có 5 lưu phái:

Tung Hạc quyền

Tung Hạc quyền (Zong Hequan , the Jumping Crane Boxing) mô phỏng động tác con Hạc đang chuyển mình sắp sửa

cất cánh bay lên (Hạc đang nhảy nhót), môn quyền này do Phương Thế Bồi (Fang Shi Pei ) người Phúc Thanh (Fuqing )

– tỉnh Phúc Kiến (Fujian), khổ luyện võ công tại Thiên Trúc tự (Tianzhu Temple ) ở Trà Sơn (Cha-shan). Một lần thấy con

Hạc đậu trên ngọn cây cổ thụ cất tiếng hót mà cây rung, nhân đó giác ngộ ra cái khí của chim Hạc là “ha khí” (articulation

energy) lại thấy con tôm búng dưới nước, ngộ ra lực đàn hồi trong thân pháp. Lại lấy hình trạng con chó bị rơi xuống

nước, ngộ ra kình trong sự rung lắc. Về sau Phương Thế Bồi đem những điều ngộ được, sở đắc về khí – kình – lực

dung hợp vào quyền lý, quyền pháp, gọi môn quyền này là Thiếu Lâm Tùng Hạc quyền. Loại quyền này yêu cầu vận

động theo hình tròn, lỏng thân, mềm tay, đòn ra duỗi thẳng, dùng lực toàn thân, kình phát rung bật, đàn hồi. Bài quyền

tiêu biểu có: Triều Thân Tam Giác Quyền, Nhị Thập Tứ Chiêu Pháp, …

Phi Hạc quyền

Phi Hạc quyền (Fei Hequan , the Flying Crane Boxing) mô phỏng động tác con Hạc đang nghiêng mình bay lượn. Tương

truyền Phi Hạc quyền khởi nguyên từ Vĩnh Xuân Bạch Hạc quyền (Yong Chun Bai Hequan) do Trịnh Tập (Zheng Ji ) là

học trò của Trịnh Lễ (Zheng Lǐ ) môn đồ sáng giá nhất của Phương Thất Nương. Phi Hạc quyền cũng vận động theo

hình tròn, lỏng thân, mềm tay, nhưng nhấn mạnh các động tác thủ chưởng (lòng bàn tay) khi phát kình. Trước khi phát

kình thường hay buông lỏng và rung lắc thân hình phối hợp với eo lưng và mã bộ để xuất kình. Trịnh Lễ là quyền sư rất

nổi tiếng ở Thanh Châu (Qingzhou ) về phía tây thành phố Duy Phường (Weifang ) thuộc tỉnh Sơn Đông (Shandong

hay ), và Phúc Thanh (Fuqing ) – tỉnh Phúc Kiến (Fujian ).

Minh Hạc quyền

Minh Hạc quyền (Ming Hequan , the Crying Crane Boxing) mô phỏng động tác con Hạc đang gáy (đang hót), môn quyền

này bắt nguồn từ Vĩnh Xuân Bạch Hạc quyền (Yong Chun Bai Hequan ) do Lâm Thế Hàm (Lin Shixian ) và đệ tử là Tạ

Sùng Tường (Xie Chong-Xiang 1852 – 1930) ở Trường Lạc (Changle ) – tỉnh Phúc Kiến (Fujian ) sáng chế trên cơ sở

Bạch Hạc phái vào cuối đời nhà Thanh. Về sau Tạ Sùng Tường trở thành nhất đại tông sư của Phúc Kiến Minh Hạc

quyền. Môn quyền này yêu cầu xuất tiễn có lực, chụp bắt mau lẹ. Bài quyền tiêu biểu có : Trung Khuôn quyền, Nhị Thập

Bát Tú quyền. Lâm cũng đã truyền thụ Bạch Hạc quyền cho Phan Tự Bát (Pan Yuba ) ở thành phố Phúc Châu (Fuzhou )

– tỉnh Phúc Kiến (Fujian ). Tương truyền rằng Lâm Thế Hàm dạy Bạch Hạc quyền cho Phan Tự Bát, Phan Tự Bát truyền

lại cho Tạ Sùng Tường.

Túc Hạc quyền

Túc Hạc quyền (Su Hequan , the Sleeping Crane Boxing) mô phỏng động tác con Hạc đang đứng nghỉ (ngủ). Truyền từ

cuối đời Thanh, do hòa thượng Giác Thanh (Jue Qing ) ở chùa Thạch Môn (Shimen Temple ) – Liên Giang (Liánjiāng ) –

tỉnh Phúc Kiến (Fujian ) sáng lập. Sau đồ đệ là Lâm Truyền Võ (Lin Chuan-Wu ) ở Thành Môn (Chengmen ) truyền thụ ra

ngoài. Lâm Truyền Võ học 5 năm, khi luỵện thành về mở trường dạy ở Phúc Châu, Tam Bảo, Du Hãng. Môn quyền này

khi luyện giống con Hạc đang đứng ngủ, nhưng không phải ngủ, ý để dụ địch, thoát ẩn mau lẹ, thủ pháp nhanh như

chớp; Bộ pháp vững vàng. Bài quyền tiêu biểu có: Thất Bộ Liên Hoa quyền, Hạc Trảo Triển Uy quyền, đối luyện 34

chiêu, …

Thực Hạc quyền

Thực Hạc quyền (Shi Hequan , the Eating Crane Boxing) mô phỏng động tác con Hạc đang ăn. Ra đời vào cuối đời

Thanh, do Gia Bồ Sư (Yé Bó Shī ) ở Mân Thanh truyền cho Phương Thủy Quan (Fang Shuiguan ) ở Bắc Lĩnh Hạ, thành

phố Phúc Châu (Fuzhou ) – tỉnh Phúc Kiến (Fujian ). Phương Thủy Quan lại truyền cho Diệp Thiệu Đào (Ye Shao-Tao )

ở huyện Thương Sơn (Changshan xian ), Phúc Châu; Diệp Thiệu Đào khổ luyện trong nhiều năm, thực chiến nhiều nơi

và truyền dạy cho nhiều đệ tử, và trở thành Thực Hạc quyền Nhất đại tông sư. Môn quyền này chú trọng thủ hình, lấy

trảo, chưởng, chỉ, câu và đơn châu quyền làm chủ; bộ pháp thường dùng là : “Tam Điểm Ngũ Mai Hoa”. Mã bộ vững

chắc, eo hông xoay như bánh xe.

Page 28: vinh xuan.docx

Nguốn: Wikipedia.org

Vĩnh Xuân Quyền theo hiểu biết của   tôi Tuesday, 6th January 2009

Lính Trỗi ta từng nghe tới “Câu lạc bộ Vĩnh Xuân trường Nguyễn Văn Trỗi” rồi các lò dạy môn phái Vĩnh Xuân của các

thầy Tòan “sứt” k5, Tuấn “phúc” k4, Tiến Long k8… Nay xin ghi lại những kỷ niệm với môn phái theo con mắt của kẻ

ngọai đạo.

1. Nhập môn

Cuối thập niên 70, tôi là giáo viên của Đại học quân sự. Mới qua chiến tranh chống Mỹ, dân ta vốn quen sống nhờ các

đàn anh Nga xô, Trung cộng nay các nguồn viện trợ bị cắt, phải sống vô cùng khó khăn, thiếu thốn; con người là phần tử

nhỏ bé nhất của xã hội cũng phải chịu chung số phận. Trường đóng quân trên Vĩnh Yên cũng vậy. Chỉ kể 1 thí dụ nhỏ thì

thấy ngay nó khó như thế nào: ngay giáo viên cũng phải sống trong những căn nhà mái lợp cọ, vách thưng đất trộn rơm,

cánh cửa là những phiên liếp đan bằng tre nứa. Mùa hè còn mát chứ đông về thì “ghê khủng” vì khí lạnh tràn cả vào nhà

theo kiểu “trong nhà như ngòai trời”(!). Từ bé tôi vốn bị hen phế quản thì lúc này là lúc con bệnh tái phát. Lạnh, ẩm gây

khó thở, đêm nào cũng không ngủ được, lưng dựa vào tường, trong phế quản phát ra tiếng rít “cò cử” như có ai kéo vi-ô-

lông bên cạnh. Mệt mỏi.

Không chịu được, mò về Viện 108 gặp ông bạn Toàn “sứt”, đang công tác tại khoa “Phẫu thuật lồng ngực – tim mạch”,

xin tư vấn. Còn nhớ ngày ấy trước cổng Viện có vườn hoa rất đẹp, tôi rủ Tòan ra ghế đá ngồi bốc phét. Nghe kể khổ,

Tòan khuyên nên tập Vĩnh Xuân vì trong đó có bài khí công tốt cho phế. Tôi là thằng ham mê thể thao nhưng từ khi tốt

nghiệp rất mê đi sửa TV, dàn âm thanh, cassette… nên khi thấy nói đến tập võ là biết phải tiêu tốn thì giờ thì tiếc.

Cũng vì chuyện võ vẽ này mà nhớ ngay tới mấy thằng em ở nhà, cu Trung nhà tôi từng nhảy tầu lên Vĩnh Yên nhờ anh

Phúc Chiến dạy võ Bình Định, chú Tiến Long thì từng có chân trong Liên đòan Võ thuật Kir-si-nhốp ngồi trên khán đài

xem các cuộc tỉ thí. Nghe Tòan thuyết trình nhiều về Vĩnh Xuân nên khi về nhà tôi kể lại cho Long, Trung. Mấy chú em

vốn ngựa non háu đá đã đề nghị liên hệ với anh Tòan để “thử tay”.

Cái phòng trên gác nhà 99 Trần Hưng Đạo thời ấy dành cho bọn trẻ. Long, Nghị mới đi học ở Nga về lấy nơi đó làm nơi

tụ bạ với bạn bè. Đêm đi chơi 12g hơn mới về, các chú lăn ra ngủ tới tận 10g sáng mới dậy, đi ăn sáng ở Cấm Chỉ rồi

lang thang bát phố suốt chiều tới 2-3g mới ăn trưa… Nói chung là lộn xộn! Chiều chiều, Nghị ngồi trên cửa sổ nhìn

xuống đường đệm ghi-ta nghêu ngao hát những bài của Beattles, Beegees, Boney’m… Bà con khu phố đi qua nhìn lên

thấy thế lấy làm khó chịu. Còn bọn trẻ thì “kệ”, chúng tôi sống có ảnh hưởng tới ai?

Theo hẹn Tòan đến. Cả phòng được dọn sạch đồ đạc dùng làm sàn đấu. Hết Long đến Trung, từng thằng vào mà không

sao ra đòn được. Cả người Tòan mềm mại, uyển chuyển, đôi chân và đôi tay luôn dính lấy đối phương làm bọn trẻ thắc

mắc… Và bọn chúng bắt đầu vào học Vĩnh Xuân Quyền.

2. Vĩnh Xuân vào Việt Nam

Vĩnh Xuân là môn vận động dùng cho cánh phụ nữ trong triều đình phong kiến Trung Quốc. Môn võ này tốn kém năng

lượng ít nhất, vận động như vũ đạo, nhưng hiệu quả nhiều nhất. Mọi vận động dựa trên cơ sở đường tròn và đường

thằng, cố gắng đưa tòan bộ thân thể con người trở về với những vận động tự nhiên, sơ khai, bản năng nhất. Cứ hình

dung khi tung con mèo lên trời thì khi rơi xuống đất, con mèo tự chỉnh để 4 chân xoay xuống phía dưới, tạo thành 4 đệm

giảm xóc hạ cánh nhẹ nhàng. Vĩnh Xuân là môn phái nhu quyền, coi cơ thể con người căng trùng như sợi dây cao su.

Chính vì thê mà có thể lấy nhu chế cương.  

Ở Trung Quốc, Phật Sơn thuộc tỉnh Quảng Đông, cách Quảng Châu 40km, được coi là cái nôi sinh ra môn phái Vĩnh

Xuân Quyền.

Từ xa xưa, theo các thương lái người Hoa áp tải các chuyến hàng vào VN đều có các vệ sĩ hộ tống. Họ rất giỏi võ. Họ

vừa bảo vệ thân chủ, bảo vệ tài sản vừa là người dạy dỗ con cái trong nhà luyện tập vận động. Thời gian trước 1945,

thanh niên học sinh HN hay lên Kinh Bắc dự các lễ hội (Lim, Quan Họ…) sau mỗi dịp Tết Nguyên đán. Trong tốp đó có 1

cậu học sinh thường kẹp theo cây đàn vi-ô-lông, lên đến nơi cậu thường giở đàn ra chơi. Tiếng đàn véo von ấy như góp

Page 29: vinh xuan.docx

thêm vui cho lễ hội. Một lần vô tình cậu ấm con 1 ông chủ người Hoa lang thang lên lễ hội, mục kích cậu thanh niên kia

đang say sưa chơi đàn. Chả hiểu sao tiếng đàn ấy đã cuốn hút câu bé. Chờ cho tiếng đàn vừa dứt cậu ta liền đến kết

bạn: “Chào anh! Anh chơi đàn hay quá! Anh có thế dạy tôi chơi đàn được không?”. Trước lời chào xã giao và đề nghị

hơi đường đột làm cậu học sinh ngỡ ngàng. Nghe giọng lơ lớ của cậu bé, anh hỏi: “Vậy ra bạn là… là người Hoa?”.

“Vâng!”. Thế rồi chuyện qua chuyện lại, 2 bạn trẻ kết thân.

– Này, anh dạy tôi đàn, tôi sẽ bảo thầy tôi dạy anh võ.

– Anh đang học võ gì?

– Vĩnh Xuân Quyền. Môn võ này hay lắm. Tôi sẽ giới thiệu anh với thầy tôi.

Ngay chiều hôm ấy, cậu bé đưa bạn mình đến gặp thầy võ. Thầy mừng vì trò yêu có thêm bạn mới nhưng… chuyện

không hề đơn giản. Người Hoa phiêu bạt tứ xứ nhưng có 1 nguyên tắc: không để thất truyền những cái gì được coi là

gia bảo của mình. Cuối cùng vì nể trò là con “láo bản” (thân chủ) mà thầy nhận lời dạy Vĩnh Xuân cho cậu bé VN kia

nhưng “chỉ dạy thực hành chứ không dạy lý thuyết”. Cậu bé VN được nhập môn Vĩnh Xuân Quyền như thế.

Nhưng bọn trẻ lại có những gì rộng mở hơn, thân tình hơn nên “nguyên tắc” của thầy bị trò vi phạm – cậu bé người Hoa

đã dạy hết những lý thuyết học được cho cậu bé người Việt. Cậu bé người Việt đó chính là bác Ngô Sĩ Quý, ông bác họ

đằng mẹ của Tòan “sứt”. Còn ông thầy chính là Tề Công. Sau năm 1954, thầy Tề Công tiếp tục lang bạt vào Nam bộ, trò

Quý không theo được. Cùng học với bác Quý còn có ông Tiển, ông Phùng… Thầy Tề Công vào Nam bộ và có nhiều đệ

tử. Ông mất năm 1959 và sau được chôn cất tại nghĩa trang của người Hoa trên Thủ Dầu Một, Bình Dương. Nghị từng

đến đây thăm thầy. Nhưng đó là chuyện sau này…

Tòan “sứt”, Tuấn “phúc” được học thầy Quý từ đầu những năm 70. Chục năm sau Long, Trung, Nghị mới được theo

thầy Quý. Không hiểu hết các môn phái khác nhưng Vĩnh Xuân không chỉ dạy người ta vận động mà còn dạy người ta

biết sống có tâm, có tình. Ngày bác Quý đi, học trò cùng gia đình tổ chức đám ma cho bác. Trên bàn thờ ở nhà học trò

cùng với tổ tiên đều có chỗ hương khói dành cho thầy Quý. Giỗ bác cả ở HN và TpHCM, các môn đệ đều tập trung về

nhà Việt Trung hay Tuấn “khàn” thắp hương cho thầy. Hàng năm đệ tử đều có họp mặt truyền thống, họ không quên

nhắc đến công ơn của thầy Quý. Thật đáng trân trọng!

問口訣 – Diệp Vấn Khẩu Quyết

• 念頭不正,終生不正

Niệm đầu bất chính, chung sinh bất chính

Nhập môn luyện Tiểu Niệm Đầu cho đúng, nếu sai sau này sẽ sai hết

• 念頭主手(一說守),尋橋主腳(與步)

Niệm đầu chủ thủ (nhất thuyết thủ), tầm kiều chủ cước (dữ bộ )

Bài Tiểu Niệm Đầu chủ luyện tay – Thủ pháp (thuyết khác nói là luyện phòng thủ), bài Tầm Kiều chủ luyện chân (đòn đá

– Cước pháp) và bộ pháp (luyện bộ hình di chuyển)

• 標指不出門 (拳法)

Tiêu chỉ bất xuất môn (quyền pháp )

Bài Tiêu chỉ truyền dạy môn đồ thân tín trong môn phái

• 來留去送,甩手直衝

Lai lưu khứ tống, sủy thủ trực hành

Page 30: vinh xuan.docx

Đối phương đến thì đón lại đi thì tiễn biệt, không theo tay địch, tay địch rời tay ta và sơ hở Trung Tâm Tuyến thì nên

đánh thẳng vào đó liền tức thì.

• 撳頭扢尾,撳尾扢頭,中間(飄)膀起

Khấm đầu cột vĩ, khấm vĩ cột đầu, trung gian (phiêu ) bàng khởi

Đối phương đè phần đầu thì phần dưới nổi lên (cứu ứng), đè phần dưới thì phần đầu nổi lên (cứu ứng), ngay từ đầu ở

một bên mà giữ vững Trung Tâm Tuyến

• 正身子午,側身以膊(為子午)

Chính thân Tý Ngọ, trắc thân dĩ bác (vi Tý Ngọ)

Thân thủ phải luôn ở trên Trung Tâm Tuyến là trục Tý Ngọ Tuyến, khi nghiêng thân người cũng phải luôn nhớ lấy Tý

Ngọ Tuyến (Trung Tâm Tuyến) làm chuẩn trong phép công thủ

• 朝面追形,而(追形)不追手,以形補手,以手補形

Triều diện truy hình, nhi (truy hình) bất truy thủ, dĩ hình bổ thủ, dĩ thủ bổ hình

Ngay khi đối phương vừa xuất đầu lộ diện, ngay lập tức (theo sát đối phương) không theo tay, do lấy hình tư thức đối

phương căn cứ mà biết được tay của đối phương, ngược lại nhờ tay đối phương mà biết được hình đối phương cử

động

• 力由地起,拳由心發,手不出門(手不離午)

Lực do địa khởi, quyền do tâm phát, thủ bất xuất môn (thủ bất li ngọ)

Kình lực xuất phát từ dưới đất (nơi 2 bàn chân và bộ tấn), quyền phát từ nơi tâm ý, khi thủ nhớ không ra ngoài cửa (khi

phòng thủ nhớ không xa rời trục Tý Ngọ Tuyến) – ở đây ý nói 2 tay không nên đưa xa rời ra ngoại thân và Trung Tâm

Tuyến Chính Thân

• 避實擊虛 (遇實則卸,見虛即進)

Tị thực kích hư (ngộ thực tắc tá, kiến hư tức tiến)

Tránh thực mà đánh cái hư (gặp cái thực thì bỏ tránh đi, gặp cái hư thì tiến tới) – ở đây ý nói đối phương thực (mạnh) thì

ta hư (tránh né), đối phương hư (yếu hơn) thì ta thực (đánh thẳng tới)

• 畏打(終)須打,貪打(終)被打。(不畏打,不貪打)

Uỷ đả (chung) tu đả, tham đả (chung) bị đả. (bất uỷ đả, bất tham đả)

Sợ đánh nhau cuối cùng cũng phải đánh nhau, thích đánh nhau cuối cùng lại bị đánh (không sợ đánh, không ham đánh)

– Ở đây ý nói phải để cho tâm ý tĩnh lặng không lo lắng vào việc đánh hay không đánh đối phương

• 轉馬手先行。上馬手先行。(轉馬上馬,樁手先行)

Chuyển mã thủ tiên hành. Thượng mã thủ tiên hành. (chuyển mã thượng mã, trang thủ tiên hành)

Thay đối bộ vị và phương hướng (di chuyển bộ hình) thì tay cũng phải theo trước tiên. Tiến bộ lên thì tay cũng phải lên

theo. (di chuyển mã bộ, tay cũng phải đi theo)

•留情不出手,出手不留情。(留情不打,打不留情)

Page 31: vinh xuan.docx

Lưu tình bất xuất thủ, xuất thủ bất lưu tình. (lưu tình bất đả, đả bất lưu tình)

Đã còn lưu luyến tình cảm thì đừng ra tay đánh, hễ ra tay đánh thì không được lưu luyến tình cảm. (còn giữ tình cảm thì

không đánh, hễ đánh thì không cần giữ tình cảm gì nữa)

• 不挑不格,消打同時

Bất thiêu bất cách, tiêu đả đồng thì

Không biết dẫn dụ đối phương thì chưa phải là biết võ, khi ra tay đánh thì phải đồng thời biết phép biến hóa – Ở đây ý

nói trong võ thuật phải biết dẫn dụ đối phương, biết ra tay đánh người thì cũng phải biết phép biến hóa khi đối phương

phản ứng lại

適用口訣 – Thích Dụng Khẩu Quyết

• 枕手橋上過,攤手中門內,伏手控外門

Chẩm thủ kiều thượng quá, than thủ trung môn nội, phục thủ khống ngoại môn

Chẩm thủ là thế chưởng vỗ xuống tay địch rồi mượn sức địch đánh trả, Than thủ là tay đưa ra chiếm Trung Môn, Phục

thủ chiếm ra ngoài (Ngoại Môn) rồi tay kia còn lại đánh trả. Có thể hiểu thêm là khi gối tay (Chẩm thủ) thì tay phải luôn

nằm trên Kiều Thủ của đối phương, khi tản (gạt) tay đối phương nhớ phòng thủ Trung Tâm Tuyến Nội Thân, khi đè

(phục) tay đối phương phải làm chủ được bên ngoài thân – Ở đây ý nói tay của ta phải luôn nằm trên tay đối phương và

phải luôn giữ điểm trọng yếu là Trung Tâm Tuyến và bao quát bên ngoài thân (tức là kiểm soát các góc độ xoay chuyển)

• 膀手不留橋,間手破中出,構手枕伏化

Bàng thủ bất lưu kiều, gian thủ phá trung xuất, cấu thủ chẩm phục hóa

Dùng Bàng thủ thì không cần giữ tay đối phương lâu, cần len tay đánh vào khoảng không gian giữa trong thân đối

phương, khung tay (khuôn tay quyền) phải luôn trên tay đối phương và ẩn giấu kình lực đi khi biến hóa

• 膀手非手,錯膀非錯

Bàng thủ phi thủ, thác bàng phi thác

Khi dùng Bàng thủ chống đỡ Kiều thủ đối phương, không thể không rõ cách dùng Bàng thủ

用力三論 – Dụng Lực Tam Luận

• 捨力論-捨棄拙力

Sả lực luận – sả khí chuyết lực

Về chuyện không dùng sức (lực), phải vứt bỏ hết chuyện dùng sức (lực) vụng về

• 卸力論-卸去來力

Tá lực luận – tá khứ lai lực

Về chuyện cởi bỏ việc dùng sức (lực), phải cởi bỏ việc dùng sức (lực) chống sức (lực) đến từ đối phương

• 借力論-借用他力

Tá lực luận – tá dụng tha lực

Về chuyện mượn sức (lực), phải biết mượn sức (lực) từ bên ngoài (của đối phương) chống đỡ đối phương

Page 32: vinh xuan.docx

中門論 – Trung Môn Luận

• 中門論-人體中門最弱,是攻擊目標,也是重點守護的地方。手由心發,上至頭頂,中為心窩,下達胯襠。老洪拳、羅漢拳、鶴拳(包括空手道),則分四門八方。詠春則重中門內外。

Trung môn luận – nhân thể trung môn tối nhược, thị công kích mục tiêu, dã thị trọng điểm thủ hộ đích địa phương. Thủ

do tâm phát, thượng chí đầu đỉnh, trung vi tâm oa, hạ đạt khóa đang. Lão Hồng quyền – La Hán quyền – Hạc quyền (bao

quát không thủ đạo), tắc phân tứ môn bát phương. Vịnh Xuân tắc trọng trung môn nội ngoại.

Bàn về Trung môn – trung môn là nơi yếu nhất trên cơ thể con người, thường là mục tiêu bị tấn công nhiều, cần phải

luôn phòng thủ những nơi trọng yếu. Tay ra đòn do tâm trí phát động, ở trên thì có đỉnh đầu, giữa thì là nơi quả tim, dưới

thì là nơi háng đùi và huyệt Trường Cường. Các môn Lão Hồng quyền – La Hán quyền – Hạc quyền (và cả Không Thủ

Đạo), lấy nguyên tắc bốn phương tám hướng. Vịnh Xuân lấy nguyên tắc Trung Môn Nội Ngoại trong phép công thủ

• 直線論-兩點之間,直線最短

Trực tuyến luận – lưỡng điểm chi gian, trực tuyến tối đoản

Bàn về Trực tuyến – có 2 điểm phân chia, thì trực tuyến là đường ngắn nhất trong phép công thủ

• 子午論-用中守中

Tý Ngọ luận – dụng trung thủ trung

Bàn về trục Tý Ngọ – áp dụng Trung (Tâm Tuyến) thì phải phòng thủ từ Trung (Tâm Tuyến).

• 失午論-身手步全論

Thất ngọ luận – thân thủ bộ toàn luận

Bàn về trục Thất Ngọ – áp dụng thân thủ toàn bộ

戰鬥法 – Chiến Đấu Pháp

• 問路尋橋手先行

Vấn lộ tầm kiều thủ tiên hành

Dò đường tìm tay (Kiều thủ) của đối phương phải dùng tay đi trước – nghĩa là khi mới vào trận chưa tấn công được đối

phương thì nên tìm cách bắc cầu (tầm kiều) với một vài bộ phận trên cơ thể đối phương bằng cách dụ đối phương chạm

tay với ta

• 手黐手,無訂(地方)走

Thủ li thủ, vô đính (địa phương) tẩu

Dùng phép dính tay để bám sát đối phương, không để đối phương chạy thoát

• 用巧勁,避拙力-即借力

Dụng xảo kình, tị chuyết lực – tức tá lực

Dùng Kình khéo léo, tránh dùng Lực vụng về (Chuyết Lực) – tức là mượn (Tá 借) lực đối phương khi thực hiện phép Li

Thủ

• 迫步追形

Page 33: vinh xuan.docx

Bách bộ truy hình

Trong vòng 100 bước phải theo sát (truy bức) đối phương – nghĩa là không cho đối phương một giây cơ hội phản công

hồi kích hay bỏ chạy thoát khi thực hiện phép Li Thủ

勁法 – Kình Pháp

• 捨拙力 – 捨棄不必要之力量

Sả chuyết lực – sả khí bất tất yếu chi lực lường

Bỏ hết lực vụng về – bỏ hết không còn gì tức không cần dùng đến lực (sức mạnh) do thể xác – ở đây có nghĩa là không

dùng sức mạnh bề ngoài của kẻ bì phu (cơ bắp)

• 卸來力 – 卸減他人來攻的力量

Tá lai lực – tá giảm tha nhân lai công đích lực lường

Mượn lực đến từ bên ngoài – mượn lực của người bên ngoài (đối phương, ngoại nhân) mới chính là biết dùng sức lực

• 借他力 – 來留去送

Tá tha lực – lai lưu khứ tống

Phải mượn sức từ bên ngoài của địch nhân – đến thì đón đi thì tiễn biệt – ở đây nghĩa là không nên dùng sức đánh

ngoại nhân mà nên dùng sức đối phương đánh lại đối phương cho nên đến thì đón (nương theo sức đối phương mà

kéo) mà đi thì tiễn (mượn sức đối phương hồi về mà trả lại).

• 施巧勁 – 甩手直衝

Thi xảo kình – sủy thủ trực hành

Nên thực hiện kình khéo léo – buông lỏng đôi tay giống như ném thẳng ra khi phát kình (không theo tay địch, không

dùng chuyết lực kháng lại sức địch)

1.拳不離心

Quyền bất ly tâm

2 tay quyền luôn nằm tại Trung Tâm Tuyến 中心線 (Tý Ngọ Tuyến 子午線)

2.足不離地

Túc bất ly địa

2 chân không rời đất

3.速度制拙力– 角度制速度

Tốc độ chế chuyết lực – Giác độ chế tốc độ

Lấy nhanh nhẹn chống lại sức mạnh – lấy góc độ chống lại sự nhanh nhẹn (đổi trục, đổi góc)

4.借力論-借用他力 – 破力不运力

Tá lực luận – tá dụng tha lực – phá lực bất vận lực

Page 34: vinh xuan.docx

Về chuyện mượn sức (lực), phải biết mượn sức (lực) từ bên ngoài (của đối phương) chống đỡ đối phương – nghĩa là

phá sức bất vận sức (buông lỏng)

5.捨力論-捨棄拙力- 的力量

Sả lực luận – sả khí chuyết lực – đích lực lường

Không vận sức (không dùng chuyết lực: lực vụng về) mới vận sức tận lực (phát kình發勁)

6.简異制複杂 – 自然破詞章

Giản dị chế phức tạp – Tự nhiên phá tự chương

Sự đơn giản là bí quyết chế ngự sự phức tạp – vô chiêu thắng hữu chiêu, nghĩa là thuận theo thế tự nhiên

7.直路制橫直 -橫直制直路

Trực lộ chế hoành lộ – hoành lộ chế trực lộ

Đường thẳng chế đường cong – đường cong chế đường thẳng

8.來留去送 (來迎去送)

Lai lưu khứ tống (Lai nghinh khứ tống)

Đến thì đón, đi thì tiễn biệt

9.问手護手(护手)不分別

Vấn thủ Hộ thủ bất phân biệt (trong Vấn có Hộ)

Công thủ là một (trong phép Thủ có phép Công)

10. 無手不歸

Vô thủ bất qui

Dùng đường tròn hóa kình thì quyền pháp lưu loát liên tục không cần rút tay về (hồi qui)

11.脱手直衝

Thoát thủ trực xung

Dùng đường thẳng khi xuất quyền tấn kích đối phương thật cấp kỳ sau khi thoát kiều

Nguồn:  Từ điển Bách Khoa Wikisource

Phép dính tay (chisao) của Vịnh Xuân   Phái Xin giới thiệu với bạn đọc bài viết về “Phép dính tay (Chisao) của môn Vịnh Xuân Thiếu Lâm Phật Sơn”, do Lý Tiểu Long

viết, được đăng trên tại Tạp chí võ thuật “Black Belt”, năm 1969. Ngoài ra các bạn cũng có thể tham khảo thêm đoạn

video clip Lý Tiểu Long tập niêm thủ với tài tử điện ảnh người Mỹ James Coburn. “Chi sao”:thuật dính tay là phương

pháp độc đáo để tập luyện của phái Vịnh Xuân, môn võ Nam phái, do ông Diệp Vấn là Chưởng môn.  Sự thực có nhiều

cách để tập đánh tay “chi sao”. Có cách để lấy kỹ thuật sắc bén, có cách để lấy thủ pháp đúng của môn Vịnh Xuân. Có

người coi “chi sao” như một cách luyện cho sức khỏe, có người học để lấy bén nhậy (linh tay) về xúc giác (linh giác).

“Chi sao” là tất cả cái đó và hơn thế nữa. Đây là ý riêng của tôi hiểu về “chi sao”.

Page 35: vinh xuan.docx

Trong những năm tôi dạy “chi sao”, tôi coi nó như là một cách tập về vừa thế, vừa thân, nhấn mạnh về khí liên tục

(Constant energy flow). Khí liên tục không được nói tới trong phép “chi sao” của Vịnh Xuân. Tôi phải nhấn mạnh ở đây là

vì tôi dạy dùng khí liên tục là để giúp cho có hiệu lực hơn là ứng dụng được, không phải coi như một sức huyền bí bên

trong nào đó như nhiều ông thày muốn cho trò tưởng.

Để cho dễ hiểu, chúng ta hãy thử tưởng tượng rằng “A” có một dòng nước trắng chảy ra từ cánh tay, trong khi “B” có

một dòng nước đen cũng chảy ra hòa với dòng nước của “A”. Hễ cả “A” và “B” cùng cho dòng nước chảy ra, khi hai

dòng đó không lấn vào nhau. Với khí liên tục đó, tất cả các động tác đều thấm nhuần những động tác tâm lý. Nếu có ai

ép vào cánh tay một người có khí đó, người ấy sẽ cảm thấy một luồng khí bắt vào. Không phải là một sức dật lên để

chống lại, mà cảm giác ấn vào một dòng nước phun mạnh. Cánh tay ấy nó sung sức, sống động, có ý hướng và đều

đặn, nói cách khác, rất thích nghi cho việc phải làm.  Nhìn hình “A”, nếu dòng nước đen ngòm một sát na thì dòng nước

trắng sẽ lấn được ngay. Tựa như luồng khí này chảy tới một tảng đá và lùa vào các khe, các góc của nó.

Trong võ Vịnh Xuân, có tập một tay và hai tay bằng cách xoắn tay nhịp nhàng ấy, người tập luyện lấy khí lực. Người tập

phải giữ cho liên tục và tràn vào mọi khe hở có thể được trong lúc xoay chuyển. Càng tập lâu thì lực càng tinh vi và càng

len vào các khe nhỏ được. Muốn tập “chi sao” phải có một ông thầy lành nghề, dần dắt từng bước vào tiếp cho người

học trò cái khí lực thích nghi, giống như một cái máy phát điện vào bình điện. Với người mới tập “chi sao” có thể thành

một trận đấu giật giật, vật lên vật xuống, đánh sang tả sang hữu. Tay như thế không những trở ngại cho sự hiểu biết, mà

còn đưa đến chỗ bị phản công ngay nếu gặp đối thủ sắc sảo. Khí lực đưa ở tay ra “đúng” thì giống như nước chảy qua

một ống nước. Nếu nước cứ tắt lại mở, lại tắt lại mở (gián đoạn) thì các ống nước sẽ giật. Từ cái thế “chi sao” người tập

cố đánh trúng nhau. Với dồn khí, kẻ đó sẽ “hóa giải” sức đối phương, giống như một con thuyền dập dềnh lướt sóng, để

mượn sức địch mà bổ sung cho đòn trả. Quan niệm như thế thì hai tay người thực sự là hai phần nửa của một thế.

Trừ trường hợp các thế một tay, tất cả các thế “chi sao” khác đều theo phép khuỷu tay ở trong. Thế này quan trọng trong

quyền Vịnh Xuân vì nó như một cái đệm, hoặc là một sức phụ, để gạt, nếu cổ tay không kịp nhận ra đối phương tăng

thêm thành công lực. “ Khuỷu tay ở trong” là nhãn hiệu của môn Vịnh Xuân. Khuỷu tay là điểm bất động không phải là

điểm chết. Trong khi cẳng tay và bàn tay thì mềm dẻo khi thay đổi thế khác. Vì thế, hai tay trong phép “chi sao” phải

mềm nhưng không lún, mạnh mẽ cương quyết không cứng rắn.

Người ta có thể xếp Vịnh Xuân vào loai nhu quyền, tuy tôi không tin như vậy. Dù sao, so với các nhu quyền khác thì Vịnh

Xuân tích kiệm động tác hơn. Tất cả các thủ pháp dùng trong “chi sao” làm cho nó có rất nhiều cách dùng. Lúc tấn công,

Vịnh Xuân dùng sức thắng đánh về phía trước. Lúc thủ, Vịnh Xuân dùng đòn gạt cong và cũng dùng đòn thẳng để lấn.

Người đánh quyền Vịnh Xuân giữ hạnh tâm để cho đối phương chuyển xung quanh. Người ấy cũng được tập tránh các

động tác thừa, chỉ đánh thẳng từ giữa ra và vừa đủ từ ngoài vào với trung tâm giữ kín bằng khuỷu tay.

Cách tập tay của Vịnh Xuân với luyện khí, cũng góp vào luyện tập toàn thể cho võ sĩ, nhưng không nên coi là toàn bị, mà

chỉ là phương tiện đi đến mục đích. Có người tập tưởng lầm rằng đánh tay “chi sao” là một phương pháp đánh. Không

phải vậy đó chỉ là môt cách tập dẫn dắt tới một lối riêng, nghĩa là tới các chiêu thức đúng của Vịnh Xuân. Sự nghiên cứu

đường và góc nhọn và nhất là sự luyện dùng đòn khí công.

Nguồn: Vĩnh Xuân Nội Gia

Tác giả: Lý Tiểu Long (Bruce Lee)

Người dịch: Giáo sư Trần Văn Từ               

Người hiệu đính:  Võ sư Hồ Hải Long

Vịnh Xuân Quyền: Truyền thuyết và thực   tại Vịnh Xuân Quyền là một trong những môn võ phát triển mạnh ngoài Trung Quốc (Việt Nam, Mỹ, Âu Châu). Vì khuôn khổ

hạn hẹp của bài báo nên một khảo sát có tính khoa học về lịch sử và lý thuyết của môn phái không thể hoàn thành. Bài

nầy chỉ ghi nhận những điều gom góp từ tư liệu, sự học hỏi và hiểu biết của tác giả.

Nguồn gốc và phát triển

Tại Quảng Đông và Hương Cảng, hiện lưu hành 2 thuyết về nguồn gốc của môn Vịnh Xuân Quyền.

Page 36: vinh xuan.docx

1) Thuyết của Diệp Vấn và Lương Quang Mãn :

Thuyết của Diệp Vấn (Yip Man) cho Vịnh Xuân Quyền bắt nguồn từ Ngũ Mai sư thái, một trong năm người tương truyền

đã trốn thoát cuc hỏa thiêu chùa Thiếu Lâm vào thế kỷ thứ 18. Bốn người kia là Phùng Đạo Đức, Chí Thiện thiền sư,

Bạch Mi đạo nhân và Miêu Hiền.

Ngũ Mai sư thái, sau khi nhìn một cuộc ấu đả giửa con hạc và con cáo, sáng tác ra môn quyền mới rồi truyền môn đó lại

cho Nghiêm Vịnh Xuân. Nghiêm dạy lại cho chồng là Lương Bác Trù. Lương Bác Trù sau đó cho tên là Vịnh Xuân

Quyền.

Đệ tử của Lương Bác Trù là y sĩ Lương Lan Quế. Lương Lan Quế truyền cho Hoàng Hoa Bảo, diễn viên của một đoàn

hát dạo. Vào thời đó, Vịnh Xuân Môn chỉ có quyền thuật và môn đao pháp gọi là Bát trảm đao. Trong đi hát của Hoàng

Hoa Bảo, có một người lái thuyền, tên là Lương Nhị Để, giỏi môn Lục điểm bán côn (môn côn pháp nầy Lương học

với… Chí Thiện thiền sư!). Hai người trao đổi nhau quyền, đao và côn. Lương dựa theo lý thuyết của Vịnh Xuân để sáng

tác ra phương pháp “Li côn” (Niêm côn), tương tự như phương pháp “Li thủ” (Niêm thủ).

Theo Lương Quang Mãn (Quảng Đông), Nghiêm Vịnh Xuân không học với Ngũ Mai sư thái, mà sáng chế môn võ sau

khi nhìn thấy bạch hạc đánh với thanh xà. Bà cùng với chồng là Lương Bác Trù đến Quảng Đông truyền dạy Vịnh Xuân

Quyền cho bốn người hát dạo là Hoàng Hoa Bảo, Lương Nhị Để, A Cẩm (còn có tên là Đại Hoa Diện Cẩm) và Tôn

Phước.

Lương Nhị Để truyền cho Lương Tán, người tỉnh Phật Sơn, một lương y với biệt danh là “Vịnh Xuân Quyền vương”. Ông

có bốn người học trò : hai đứa con trai là Lương Xuân và Lương Bích, Mộc Nhân Hoa và Trần Hoa Thuận tự Hoa Tiền

Hoa.

Trần Hoa Thuận có tất cả 16 học trò : con trai Trần Nhử Miên, những đệ tử Ngô Trọng Tố, Lôi Nhử Tể, Diêu Tài, Quách

Bảo Toàn, Diệp Vấn… Sau khi Trần Hoa Thuận mất, Diệp Vấn tiếp tục học với Ngô Trọng Tố. Sau đó Diệp Vấn được

may mắn thọ giáo với Lương Bích, con trai của Lương Tán.

Trên đây chỉ ghi lại những điều được truyền lại trong giới võ thuật, dỉ nhiên chúng tôi không tin là chuyện Nghiêm Vịnh

Xuân và Ngũ Mai có thật.

2) Thuyết của Bành Nam và Diệp Chuẩn :

Hiện nay tại tỉnh Quảng Đông, Vịnh Xuân Quyền vẩn được truyền dạy.

Theo Bành Nam (Pan Nam, 1909-1995), truyền nhân đời thứ hai của Lôi Nhử Tể và Trần Nhử Miên, môn Vịnh Xuân bắt

nguồn từ ni cô Nhất Trần. Bà có một đệ tử là Trương Ngũ tự Than Thủ Ngũ, người tỉnh Hồ Nam.

Theo Diệp Chuẩn (Yip Chun), con của Diệp Vấn, quyển “Việt kịch sử nghiên cứu” của Khiếu Hà Quân, có ghi lại : “Trước

triều Hoàng Đế Ung Chánh, sự phát triển của hát kịch ở tỉnh Quảng Đông rất hạn chế. Vì thiếu sự tổ chức qui mô. Dưới

triều Hoàng Đế Ung Chánh (1723-1736), Trương Ngũ, tự Than Thủ Ngũ, người tỉnh Hồ Nam đem thuật hát kịch tới tỉnh

Phật Sơn và tổ chức lại Hồng Hoa Hội quán. Từ đó Việt kịch mới phát triển.” Sách còn ghi thêm : “Ngoài hát kịch ra,

Than Thủ Ngũ còn giỏi võ thuật. Thế “Than thủ” của ông danh tiếng trong Võ Lâm.”

Diệp Chuẩn còn tìm được trong “Trung Quốc hí khúc sử” của Mảnh Dao, quyển III, trang 631, xuất bản lần thứ nhất vào

năm 1968, đoạn văn như sau : “Dưới triều Hoàng Đế Ung Chánh, Trương Ngũ không ở lại Kinh được, nên phải lẩn tránh

tại Phật Sơn. Ông còn có biệt danh là Than Thủ Ngũ, rất giỏi văn chương và võ thuật, tinh thông nhạc và thuật hát kịch.

Ông đặc biệt giỏi môn võ của Thiêu Lâm tự. Tại Phật Sơn, ông truyền lại môn hát kịch và võ nghệ trong giới “Hồng

Thuyền đệ tử” và thành lập Hồng Hoa Hội quán. Cho tới nay, Trương Ngũ vẩn được tôn là tổ môn kịch của tỉnh Quảng

Đông.”

Vì chuyện Trương Ngũ tới Phật Sơn xảy ra dưới triều đại Hoàng Đế Ung Chánh (1723-1736), hơn một trăm năm sự tích

Nghiêm Vịnh Xuân (dưới triều Hoàng Đế Đạo Quang trị vì từ 1821 tới 1850) nên Diệp Chuẩn cho thuyết nầy đáng tin

hơn. Vả lại thế Than thủ là một đặc kỹ của Vịnh Xuân Quyền, không tìm thấy trong môn phái khác. Và theo Diệp Chuẩn,

bộ pháp “Nhị tự kiềm dương mã” thích hợp với sư di chuyển trên thuyền bè, nơi mà những người hát dạo thường sống!

Theo Bành Nam, Vịnh Xuân Quyền truyền từ Than Thủ Ngũ (đầu thế kỷ thứ 18) tới Hoàng Hoa Bảo, Lương Nhị Để và

Đại Hoa Diện Cẩm, người trong giới “Hồng thuyền tử đệ”.

Những nơi phát triển Vịnh Xuân Quyền :

Hiện nay tại Trung Quốc, Vịnh Xuân bành trướng tại tỉnh Quảng Đông. Tại Quảng Châu có Bành Nam, Sầm Năng; tại

Phật Sơn có Lương Quang Mãn, Trần Ứng Tùng, Châu Kiện Cường; tại Thuận Đức, có cháu nội của Trần Hoa Thuận;

tại Úc Môn, có Lương Quyền… Tất cả đều có nguồn gốc từ Trần Hoa Thuận.

Page 37: vinh xuan.docx

Diệp Vấn (Yip Man, 1898-1972) là người đầu tiên phổ biến môn Vịnh Xuân tại Hương Cảng. Từ Hương Cảng, Vịnh Xuân

Quyền bành trướng tới Âu Châu (Pháp, Anh, Đức…), Úc Châu và Mỹ Châu.

Môn Vịnh Xuân nhập Việt Nam nhờ công của Nguyễn Tể Vân (1877-1960). Tại đây, ông được biết với tên là Nguyễn Tế

Công hay Cống Xếnh Xáng (Công Tiên sinh). Học trò tại Việt Nam là Nguyễn Duy Hải (1917-1988), Lục Vỉnh Khải

(khoảng 1929-1979), Ngô Sĩ Quý, Trần Văn Phùng (1902-1988), Trần Thúc Tiển, Đổ Bá Vinh…

Bài bản ông truyền tại Việt Nam là Tiểu niểm đầu, Mộc nhân thung, Lục điểm bán côn và Bát trảm đao. Ông còn truyền

thêm bài Ngũ hình quyền.

Theo Võ Lê, tại Sài Gòn, có Hoắc Phi Hùng, Huỳnh Bá Phước, Phùng Điềm truyền dạy Vịnh Xuân Quyền.

Và cuối cùng, chi phái của Diệp Vấn được lưu truyền vào thập niên 1970 trong một thời gian ngắn tại Sài Gòn.

Chương trình và đặc điểm

1) Chương trình :

Tại Trung Quốc và Hương Cảng, quyền thuật bao gồm ba bài quyền : Tiểu niệm đầu, Tầm kiều và Tiêu chỉ, và một bài

Mộc nhân thung. Tại Quảng Đông bài Tiêu chỉ được dạy trước bài Tầm kiều. Hai bài binh khí của môn phái là : Bát trảm

đao và Lục điểm bán côn.

Tại Việt Nam, Nguyễn Tế Công để lại hai chi nhánh :

– theo Hồ Nam Long, tại Sài Gòn, chi nhánh của Nguyễn Hải tự Hồ Hải Long (1917-1988) truyền dạy ba bài quyền : Tiểu

niệm đầu, Ngũ hình quyền và Hạc hình hư bộ, một bài Mộc nhân thung và hai bài Bát trảm đao và Lục điểm bán côn,

– theo Hồ Nam Long, tại Hà Nội, có chi nhánh của Ngô Sĩ Quý; chương trình bao gồm Thủ đầu quyền, Khí công quyền,

Ngũ hình quyền tổng hợp, Long quyền, Xà quyền, Hổ quyền, Báo quyền, Hạc quyền, Nhất linh bát (hay Một linh tám) và

một bài Mộc nhân thung, trong binh khí có hai bài Bát trảm đao và Lục điểm bán côn.

Tại Việt Nam, chỉ bài đầu tiên (Tiểu niệm đầu hay Thủ đầu quyền) giống với bài Tiểu niệm đầu của chi phái Trung Quốc

và Hương Cảng.

Sau đây, xin lược trình các bài bản để trình bày những đắc điểm của môn phái.

2) Tiểu niệm đầu :

Đặc điểm của bài là không chuyển bộ, suốt bài chỉ đứng thế “Nhị tự kiềm dương mã”, thân thể hơi nghiêng về sau. Như

tên cho thấy, bài chứa đựng những thế căn bản quan trọng của môn phái như Than thủ, Bàng thủ, Nhật tự xung quyền,

Phách thủ, Hộ thủ, Phục thủ… Toàn bài đánh hai tay nới giản, không dùng lực, đòn thế xuất phát trên “trung tâm tuyến”.

Bài đặc biệt chú trọng luyện sự biến chuyển từ Phục thủ qua Hộ thủ, lúc luyện hai thế nầy giống như lạy Phật ba lần nên

bài còn có tên là Tam bái Phật.

Thiệu bài Tiểu niệm đầu theo Lương Đỉnh (Leung Ting)

1- Mã khai bán bộ chi Nhị tự kiềm dương mã

2- Giao xoa than thủ giao xoa bát thủ cổn thủ thâu quyền

3- Nhựt tự xung quyền khuyên thủ thâu quyền

4- Than thủ bán khuyên thủ hộ thủ phục thủ

5- Trắc chưởng chánh chưởng than thủ khuyên thủ thâu quyền

6- Tả hữu án thủ hậu án thủ tiền án thủ

7- Lan thủ phất thủ lan thủ song chẩm thủ song than thủ tiêu chỉ thủ

8- Trường kiều án thủ song đề thủ thâu quyền

9- Trắc chưởng hoành chưởng thâu quyền

10- Than thủ chẩm thủ quát thủ

11- Lao thủ hạ lộ hoành chưởng thâu quyền

12- Bàng thủ than thủ ấn chưởng thâu quyền

13- Thoát thủ liên hoàn xung quyền thâu thức

Thiệu bài Tiểu niệm đầu theo Lương Quang Mãn (Quảng Đông)

1- Khai thung mã

2- Song giao tiển

3- Bài chỉ

4- Phật chưởng

5- Sát thủ

6- Lạp thủ

7- Xí chưởng

Page 38: vinh xuan.docx

8- Than thủ

9- Bàng thủ

10- Thoát thủ

3) Tầm kiều :

Bài Tầm kiều chú trọng luyện chuyển bộ theo bộ pháp đặc biệt của môn phái. Lúc tiến theo thế “Đạp bộ”, chân trước

bước kéo chân sau lết theo, trọng tâm thân thể luôn luôn đặt tại chân sau. Lúc địch thủ tấn công, thế “chuyển mã” dời

trung tâm tuyến và dẫn đòn đối thủ vào khoảng không. Đây là lý thuyết “dùng bộ pháp tìm tay (tầm kiều) đối thủ”, “dùng

eo xoay phá giải đòn công của địch”…

Ba thế đá được dẫn nhập : Đề thoái, Trực đăng thoái và Trắc sanh thoái. Môn sinh Vịnh Xuân Quyền thường dùng chân

trước để đá, chân vừa đá liền tiến một bước tới để nhập nội liên hoàn đả kích đối thủ.

Những thủ pháp mới được dạy là Chánh thân vấn thủ, Phê tranh, Xuyên kiều, Trắc thân án thủ, Trừu chàng quyền, Đàn

kiều xung quyền…

Thiệu bài Tầm kiều theo Diệp Chuẩn (Yip Chun)

1- Mã khai bán bộ chi Nhị tự kiềm dương mã

2- Giao xoa than thủ giao xoa bát thủ cổn thủ thâu quyền

3- Nhựt tự xung quyền khuyên thủ thâu quyền

4- Xuyên kiều chuyển mã cập lan thủ (tả hữu phê tranh)

5- Song phục thủ phách thủ chánh chưởng cập h thủ

6- Chuyển thân lan thủ giao xoa than thủ cập chuyển thân bàng thủ

7- Lan thủ xung quyền phất thủ phục thủ thoát thủ khuyên thủ thâu quyền

8- Cầm lan trắc thân lan thủ khởi đề thoái

9- Hoành đạp bộ trắc thân bàng thủ cập trắc thân giao xoa than thủ tam thức

10- Trừu chàng quyền phục thủ thoát thủ khuyên thủ thâu quyền

11- Trực đăng thoái đạp bộ đê bàng thủ cập song than thủ chánh thân song vấn thủ

12- Song trất thủ song ấn chưởng thâu quyền

13- Chuyển thân trắc sanh thoái trắc thân án thủ đàn kiều xung quyền

14- Liên hoàn xung quyền khuyên thủ thâu thức

Thiệu bài Tầm kiều theo Lương Quang Mãn (Quảng Đông)

1- Khai thung mã

2- Song giao tiển

3- Bài chỉ

4- Tầm kiều

5- Lan kiều thủ

6- Đơn bàng thủ

7- Song bàng thủ

8- Tam không thủ

4) Tiêu chỉ :

Bài Tiêu chỉ áp dụng nguyên lý “Dĩ công vi thủ” và “Dĩ đả vi tiêu”. Những kỹ thuật mới là Quải tranh, Trắc thân vấn thủ,

Thượng hạ sạn thủ, Khuyên cát thủ, Thượng hạ canh thủ… và bộ pháp Khấu bộ. Riêng thế đánh chỏ, chi phái Hương

Cảng chỉ có một đòn (chỏ đánh tréo từ trên xuống), sau Diệp Chuẩn thêm hai thế khác : Phê trửu (chỏ đánh ngang) và

Cập trửu (chỏ đánh tréo từ dưới lên) lấy từ chi phái Quảng Đông.

Bài còn dẫn nhập nguyên lý “dùng eo phát lực” và “lực quán chỉ”. Và có tên là Tiêu chỉ vì sử dụng rất nhiều thế tiêu chỉ

thủ (thế xỉa bằng đầu ngón tay).

Thiệu bài Tiêu chỉ theo Diệp Chuẩn (Yip Chun)

1- Mã khai bán bộ chi Nhị tự kiềm dương mã

2- Giao xoa than thủ giao bát thủ cổn thủ thâu quyền

3- Nhựt tự xung quyền khuyên cát thủ thâu quyền

4- Chuyển thân quải tranh tiêu chỉ thủ thâu quyền

5- Khấu bộ chuyển thân quải tranh tiêu chỉ thủ hạ lộ sạn thủ

6- Phục thủ thoát thủ thâu quyền

7- Chuyển thân quải tranh tiêu chỉ thủ

Page 39: vinh xuan.docx

8- Phục thủ thoát thủ thâu quyền

9- Chuyển thân thượng hạ canh thủ phục thủ thoát thủ thâu quyền

10- Trắc thân vấn thủ chẩm thủ chuyển thân phục thủ thoát thủ thâu quyền

11- Tiêu chỉ thủ chuyển thân thượng lộ sạn thủ phất thủ phục thủ thoát thủ thâu quyền

12- Cầm nả thủ trừu chàng quyền ấn chưởng thâu quyền

13- Tam cúc cung đại huýnh hoàn thủ

14- Liên hoàn xung quyền khuyên thủ thâu quyền

Thiệu bài Tiêu chỉ theo Lương Quang Mãn (Quảng Đông)

1- Khai thung mã

2- Song giao tiển

3- Bài chỉ

4- Cập trửu

5- Quải trửu

6- Phê trửu

7- Nhị đồng thủ

8- Dương thủ

9- Tháp chùy

10- Bái phật

5) Li thủ và li cước :

Phương pháp “Li thủ” phát triển phản xạ đôi tay, môn sinh nhập nội vừa tiếp tay đối phương là tìm được sơ hở, tức thì

tấn công. Chủ đích là đạt tới trình độ hai tay đánh đỡ không cần suy nghỉ. Tại Việt Nam, phương pháp có tên là “Niêm

thủ”.

“Li đơn thủ” (tập niêm thủ một tay) được dạy sau bài Tiểu niệm đầu. Đơn li thủ kết hợp theo một chu kỳ những thế Than

thủ, Phục thủ, Chánh chưởng, Chẩm thủ, Nhựt tự quyền và Bàng thủ, và chú trọng sự chuyển biến giữa hai thế Than và

Bàng thủ.

“Li song thủ” bắt đầu với “Bàn thủ” và tiếp với phương pháp “Nhất phục nhị” để cuối cùng tới li thủ tự do, áp dụng nguyên

lý “Bất truy thủ”, “Tá lực xảo đả”, “Tiêu đả đồng thời”, “Tá lực phản đàn, khiêu kiều sang công”, “Kiều để xuyên xuất”, “Án

đầu ngật vỹ”, “Lại lưu khứ tống, súy thủ trực xung”…

Trong phương pháp “Li cước” hai người đứng trên một chân, dùng chân kia chạm nhau, tạo sơ hở bằng những đòn móc

chân (Khấu thoái) để rồi tấn công bằng những thế đá của môn phái.

6) Mộc nhân thung :

Thủ công phản biến thể hiện rõ trong bài nầy. Bài còn chủ luyện lực, kết cấu của mộc nhân buộc người tập phải biết

dùng lực, mới làm rung chuyển thân của mộc nhân. Toàn bài của chi phái Hương Cảng gồm 140 thế sau Diệp Vấn giảm

lại còn 116 thế, trong đó có 16 thế cước của môn phái (thật sự là 8 thế nhưng dùng bên trái và bên phải). Đặc biệt hai

thế Thập tự thoái và Tiệt tảo thoái, ngược lại với tất cả thế cước khác, dùng chân sau để đá.

Theo Lương Đỉnh (Leung Ting), tám thế cước là : Trực đăng thoái, Hoành sanh thoái, Tà đà tất thoái, Thập tự thoái hay

Hoành sái thoái, Tiệt tảo thoái, Khấu đàn thoái, Tà đà cước thoái, Hoành đà tất thoái.

Bài còn phát triển nguyên tắc “Tam giác”.

Bài Mộc nhân thung chi phái Quảng Đông có hơn 160 động tác.

7) Lục điểm bán côn :

Cây côn sử dụng trong môn phái thuộc trường côn, dài ít nhất 2 thước rưỡi. Bộ pháp bao gồm Tứ bình mã và Tý ngọ mã

là những bộ pháp thực dụng trong những môn phái tỉnh Quảng Đông, khác hẳn với những thế tấn đặc biệt của quyền

thuật Vịnh Xuân.

Theo Lương Đỉnh, bảy thế côn căn bản là : Thương, Khuyên cái, Thiêu, Bát, Trừu, Đàn và Bán già.

Côn pháp tuy giới hạn về thế căn bản nhưng được hổ trợ bởi nguyên tắc “Tùy địch chi biến nhi biến”, “Dĩ vô chiêu thắng

hữu chiêu” và phương pháp “Li côn”.

Phương pháp “Li côn” tương tự như “Li thủ”, hai côn giao nhau chuyển động theo “Khuyên côn”, từ đó ta tìm hay tạo sơ

hở, kiềm chế hay đánh rơi côn đối phương để tiến nhập tấn công bụng, ngực, cổ họng hay màng tang địch thủ bằng

những thế “Tiêu long thương”, “Bán già”…

8) Bát trảm đao :

Đao sử dụng trong bài thuộc loại Hồ điệp song đao (song tô). Bài chia ra tám đoạn, mỗi đoạn phân tách một thế đao

Page 40: vinh xuan.docx

chánh. Như côn pháp, đao pháp áp dụng nguyên tắc kiềm chế hay đánh rơi binh khí địch để nhập nội an toàn kết thúc

trận đấu.

Theo Lương Đỉnh, Diệp Vấn chỉ dạy bài Bát trảm đao cho bốn người đệ tử. Hiện nay, nhiều bài đao khác nhau mang tên

nầy, khó phân biệt được bài nào truyền lại từ Diệp Vấn.

Theo Diệp Chuẩn, tám đoạn bài Bát trảm đao là : 1) Giáp đao thức, 2) Lập trảm đao, 3) Than trảm đao, 4) Song canh

đao, 5) Cổn bàng đao, 6) Nhất tự đao, 7) Vấn đao, 8) Quải đao.

Ngoài những bài nêu trên, Vịnh Xuân Quyền còn có nhiều phương pháp luyện tập phụ thuộc bổ túc : đá Tam tinh thung,

đánh bao cát…

Lịch sử Vịnh Xuân Môn hổn hợp nhiều truyền thuyết từ nguồn gốc khác nhau, cần xét lại trong một khuôn khổ khác. Chi

phái của Diệp Vấn phổ biến hơn những chi phái khác. Vịnh Xuân Quyền sử dụng một số giới hạn đòn thế đơn giản

nhưng hữu dụng. Là một phái chuyên cận chiến nên đã phát triển tới mức độ cao phương pháp “niêm thủ thính kình” và

nguyên tắc “mượn lực địch để phản công”. Riêng Lục điểm bán côn tuy không phải là một võ khí dùng đánh gần nhưng

không vượt ngoài lý thuyết đã dựng lên một nên tảng vững chắc cho môn phái.

Tài liệu tham khảo

1) Leung Ting, Wing Tsun Kuen, Hương Cảng, 1978,

2) Genealogy of Ving Tsun Kuen, Hương Cảng, 1990,

3) Yip Chun, 116 Wing tsun dummy techniques, Hương Cảng, 1991,

4) Wu Bin, Li Xingdong và Yu Gongbao, Essentials of Chinese Wushu, Trung Quốc, 1992,

5) Yip Chun và Connor Danny, Wing Chun, skill and philosophy, Luân Dôn, 1992,

6) Võ Lê, Vài danh sư Vịnh Xuân phái trước năm 1975 ở Sài Gòn, Chợ Lớn, Sổ Tay Võ Thuật 35, năm 1996.

Nguồn: Sổ Tay Võ Thuật số 47, tháng 5 năm 1997

Tác giả: Nguyễn Quí Jacques & Dufresne Thomas

100 năm sau: Thực trạng và những vấn đề tiềm ẩn (của Vịnh Xuân Việt   Nam)

Tháng Năm 21, 2009

vinhxuanquyen Bài viết, Khác vinh xuan viet nam, vĩnh xuân việt nam Để lại bình luận

Vịnh Xuân Quyền (VXQ) ở Việt Nam, trong bối cảnh hiện nay, với những hạn chế do lịch sử để lại, có thể nói còn có một

số hạn chế cần có biện pháp tháo gỡ.

Ngày càng …”sáng tạo”

Hiện nay ở Việt Nam, đặc biệt tại Hà Nội và TP Hồ Chí Minh, đang có khá nhiều người tập luyện VXQ.  Tuy cơ bản đều

là võ học do sư tổ Nguyễn Tế Công truyền dạy, nhưng với hòan cảnh du nhập của Vịnh Xuân vào Việt Nam như đã trình

bày, đến nay các chi phái, các võ đường luyện tập và truyền lại cũng có sự khác biệt, chính xác hơn là không hòan tòan

giống nhau.  Chương trình và “giáo án” giảng dạy, thậm chí ngay cả các đòn thế ứng dụng cũng có những nét dị biệt bởi

có nơi chú trọng nhiều đến đòn thế, có nơi chú trọng nhiều đến nội công.  Ngay thế tấn, đã có nơi cao nơi thấp, đòn thế

rộng hoặc hẹp khác nhau đôi phần…Chẳng có “tiêu chuẩn” nào để xác nhận đâu đúng là chân truyền, đâu là sáng tạo

của các thế hệ võ sư sau này hoặc du nhập từ các môn phái khác.  Về vấn đề này, nhiều người lý giải rằng: “VXQ là một

môn võ mà yếu quyết-võ lý-võ triết là quan trọng, đòn thế lại không nhiều mà lại rất phóng khoáng (quyền do tâm phát),

chiêu thức không quá gò bó (vô chiêu vô thức, tâm ứng thủ) nên việc xác định đâu là chân truyền, đâu là sáng tạo, cải

tiến là ..không cần thiết”.  Có lẽ không phải như vậy, bởi sáng tạo, đặc biệt trong võ thuật, nếu không phải từ sự chiêm

Page 41: vinh xuan.docx

nghiệm, tâm huyết của một võ sư đã đạt tới một trình độ cao thâm nhất định, đôi khi có hại, làm suy giảm về thể chất của

người tập luyện, đặc biệt là những người trẻ tuổi.

Vịnh Xuân đang dần rơi vãi ?

Với bối cảnh truyền sang VN như của VXQ, bối cảnh mà nếu ví von như một võ sư ngay trong môn phái Vịnh xuân là

“sờ voi”…  Ai học đến đâu thì biết đến đó (tất nhiên là cũng có những cao đồ được truyền dạy đầy đủ)… Ngày nay trong

môn phái, tuy không ai nói ra, nhưng vẫn ngầm chia thành từng chi nhánh, từng chi võ.  Hơn nữa, theo quan niệm cổ

của giới võ học, các võ sư vẫn giấu nhau những sở học mà mình đang có, nghĩa là chẳng ai nói với ai, chẳng ai truyền

lại cho nhau. Điều này là hết sức bất lợi.

Một nguy cơ có thật

Từ việc hoạt động phân tán, không đồng nhất, mạnh ai người nấy luyện tập theo “bí kíp” riêng của mình, mình tâm đắc

nên ngoài một số bậc “cao thủ” trong làng võ VXQ, thì ở những thế hệ thứ 5, thứ 6…, dù chưa xảy ra những trận “thư

hùng”, nhưng quan niệm “vũ bất đệ nhị” (nghĩa là chả ai phục ai) càng được dịp “phát triển”.  Về sau này, với hòan cảnh

thực tại, ngày càng có thể kéo xa hơn, ai dám quả quyết rằng sẽ không có những bất hòa giữa các môn đồ của chính

VXQ ? Ai dám phủ nhận rằng sẽ không có những mâu thuẫn ngầm trong “một nhà” ? Đây là điều chẳng ai mong muốn,

nhưng lại là một vấn đề có thật…

Tác giả: Nguyễn Giang

Nguồn: Lược trích từ tạp chí Ngày Nay, số Xuân Ất Dậu, 15/1 – 30/2/2005Share this:

Print

Đang tải...

Giới thiệu Vịnh Xuân Kung Fu Nam   Anh Tháng Năm 20, 2009

vinhxuanquyen Bài viết, Nhân vật giác hải đại sư, Huỳnh tường phong, Nam Anh Kung Fu, Nam anh vịnh xuân, Nguyên

Minh, nguyễn tế công, võ sư Nam Anh 6 phản hồi

Võ sư Nam Anh luyện đại đao

Vịnh Xuân Kung Fu Nam Anh, được sáng lập bởi võ sư Nam Anh. Ông học võ Vịnh Xuân (Vĩnh Xuân) của cố võ sư Hồ

Hải Long (một học trò của Đại sư Nguyễn Tế Công), theo một số tài liệu thì nghe nói sau này ông có thụ giáo thêm với

Đại sư Nguyên Minh (Hoàng Tường Phong), cũng là một cao đồ của môn Vịnh Xuân. Ngoài ra ông còn thụ giáo với

nhiều danh sư của các môn phái khác như Thiếu Lâm, Võ Đang, và Bạch Mi. Năm 1986, ông đã thành lập ra Liên đoàn

Page 42: vinh xuan.docx

Quốc tế Vịnh Xuân Chính thống Phái tại Quebec, Canada. Hiện nay ông đang giữ cương vị là chủ tịch của Liên đoàn

này. Xin được giới thiệu dưới đây một số thông tin về tiểu sử của võ sư Nam Anh và hai người thầy đã truyền thụ Vịnh

Xuân cho ông.

Đại sư Nguyên Minh

Ðại Sư Nguyên Minh thuộc dòng dõi họ Hoàng Hoa, sinh năm 1884 tại Phúc Kiến và là điệt tôn của Danh Sư Hoàng Hoa

Bảo. Sinh thời vốn thể chất yếu đuối lại không ăn được thịt cá, dù chỉ một miếng nhỏ cũng làm ông nôn ọe. Mẫu thân

ông rất lo lắng nên tìm đến một vị Thầy nổi tiếng giỏi Nhâm cầm độn toán trong vùng để xin tiên đoán vận mệnh cho cậu

bé. Tuy không tiết lộ những lời tiên tri của vị Thầy nhưng bà quyết định không chút đắn đo, lặn lội đường xa đưa con trai

mình phó thác tại Kim Cương Tự. Năm 6 tuổi ông thọ giới trường trai (chay trường) và được Ðại Sư Viên Hạnh thu nhận

làm đệ tử và ban cho pháp danh là Nguyên Minh (tức có được Tuệ căn).

Sau 18 năm chuyên cần khổ luyện theo đường lối chân truyền, một sáng mùa thu năm 1908, Phương Trượng cho gọi

ông đến và bảo:

– Này con, đã đến lúc con phải hạ sơn để giúp đời vì hiện nay đất nước đang lâm vào cảnh dầu sôi lửa bỏng. Chẳng

bao lâu nữa, Thanh triều sẽ bị diệt vong, Trung Quốc sẽ rơi vào cảnh cực kỳ hỗn loạn, vì thế Tổ Quốc sẽ rất cần đến tất

cả những người con thân yêu… Con hãy thuận theo duyên nghiệp mà chu toàn xứng đáng bổn phận của một trang nam

tử hán thời loạn. Con khá khắc cốt ghi tâm là phải tu thân thì mới tề gia, trị quốc được, đó chính là con đường Tâm đạo.

Thôi đừng lưu luyến nữa, cư dân vùng Hoàng Hà sẽ trông nhờ nơi con!

Năm 1912, tức 1 năm sau khi nhà Thanh sụp đổ, ông tình nguyện tham gia vào quân ngũ như bao thanh niên yêu nước

thời đại. Từ 1937 đến 1945, ông là một trong những vị lãnh đạo mang cấp tướng của liên minh kháng chiến chống Nhật

giải phóng đất nước. Cũng trong thời kỳ ấy, ông đảm trách công tác cứu hộ và cứu tế các nạn nhân bị thiên tai lũ lụt

vùng châu thổ sông Hoàng Hà, nhờ vậy hàng chục vạn sinh mạng đã được cứu sống.

Tháng 9 năm 1945, ông dẫn đầu Ðệ Bát lộ quân của Tướng Lư Hán tiến về Việt Nam giải giới hàng quân Nhật, kết thúc

một cuộc chiến đẫm máu tại Ðông Nam Á.

Suốt 38 năm binh nghiệp, ông nổi tiếng là một vị chỉ huy tài ba với lòng nhân hậu và trí thông minh phi thường. Rời quân

ngũ năm 1949, ông quyết định sinh sống tại Việt Nam và lấy tên mới là Hoàng Tường Phong (ngọn gió vàng tốt lành).

Năm 1985, vị Ðại Sư trên trăm tuổi (101) rời Việt Nam đến Trung Quốc Ðài Bắc (Ðài Loan) và ẩn tu tại một ngôi cổ tự

vùng Nhật Nguyệt Hồ.

Cố võ sư Hồ Hải Long (1917-1988)

 Quyền Sư Hồ Hải Long:

 Phỏng theo tác phẩm VÕ ĐANG BÁT BẢO QUYỀN của Tác giả Nam Anh xuất bản tại Saigon -1972

Quyền sư Hồ Hải Long (tên thật là Nguyễn Duy Hải) sinh năm 1917 tại Ninh Bình (Bắc Bộ Việt Nam), thuộc dòng dõi

“Tướng tướng thế gia” và là hậu duệ của Phó Vệ Úy tướng quân Nguyễn Hữu Khôi (tức Lê Văn Khôi) viên dũng tướng

tay không đánh chết hổ khiến xứ thần Xiêm La phải khiếp phục. Thuở nhỏ tuy gầy ốm nhưng có sức mạnh phi thường

Page 43: vinh xuan.docx

và tánh nóng như lửa nên chú ruột của người là Thạch Nam tiên sinh, chưởng môn phái Hàn Bái, không chịu truyền dạy

cho võ nghệ. Nhưng với năng khiếu sẵn có, người chỉ nhìn trộm mà thuộc lòng bài Ngũ Lộ Mai Hoa Quyền là bài quyền

sở đắc của cụ Hàn và do chuyên cần luyện tập nên trong một dịp cụ Đắc vắng nhà, người đã hàng phục hết các môn

sinh chân truyền của thúc phụ. Do đó cụ Thạch Nam đã cho gọi đến và bắt đầu truyền dạy tất cả sở học cho người.

Mười năm sau, vào năm 1941 người đã có cơ duyên gặp được Đại Sư Nguyễn Tế Công tại Hà Nội, lúc ấy người đã là

một lực sĩ đồng thời là một cao thủ võ thuật được mệnh danh là Hải Nhật, thấy vị thầy Tàu già yếu, được gia đình mời về

dạy võ, người ngạo nghễ ưỡn ngực thách thức “Ông có chịu nổi quả thôi sơn này hay không?”

Chỉ tay vào lồng ngực gầy gò của mình, Đại Sư Tế Công ra dấu sẵn sàng chịu ba quả đấm của Hải Nhật. Bị xem thường

và xúc phạm, người tung ngay một cú đấm sấm sét nhưng bị chận đứng bởi một bức tường đồng vách sắt mà thật ra chỉ

là tấm thân ốm yếu của ông lão.

Điên tiết, người lao vào và kết quả là bị bắn văng vào gụ thờ, nằm sõng soài dưới đống đồ đạc đổ lỏng chỏng mà vẫn

chưa hết bàng hoàng.

Sự việc này thật ấn tượng đối với chàng thanh niên Hải Nhật và đã đánh dấu một khúc quanh trên con đường luyện tập

võ nghệ của người dưới sự chỉ dạy của Đại Sư Nguyễn Tế Công.  Vào năm 1947, người đã oanh liệt đoạt giải vô địch

kiếm thuật mười tỉnh đất Bắc (tại chợ Me Vĩnh Yên) và biệt danh “Hồ Hải Long” đã xuất hiện từ đấy.   

 Vừa kịp thụ đắc quyền danh trấn võ môn Vịnh Xuân Ngũ Hình Khí Công thì chẳng may hành động cách mạng bị bại lộ

(người vốn là một nhà yêu nước chân chính trong thời kỳ cách mạng V.N. 1945-1975) nên người bị thực dân Pháp bắt

cầm tù 5 năm tại bãi biển Đồ Sơn.

Tuy vậy, từ đó tham thiền suy tưởng tự luyện môn khí công nên quyền pháp biến hóa không chiêu thế, chưởng pháp

dũng mãnh gọn gàng, khi vận khí người có thể chịu đựng được hàng trăm quả đấm. Người thường nói: “Trong chiến

đấu mà tính trước đòn thế thì chắc chắn sẽ thảm bại”.

Về hoạt động cách mạng, người đã từng sát cánh chiến đấu bên các bậc danh nhân chí sĩ yêu nước nhưng chỉ kín đáo

giữ một nhiệm vụ khiêm tốn là giáo viên dạy về Luân Lý tại một ngôi trường nhỏ.

Về phương diện Võ thuật, quyền sư Hồ Hải Long là bạn chí thân của cố Võ sư Nguyễn Lộc là người sáng lập Việt Võ

Đạo và võ sư vô địch quyền Anh Nguyễn Quỳnh, người sáng lập môn Tinh Hoa Thuật.

 Năm 1969, Đại Sư Nam Anh đã may mắn được gặp Thầy Hồ Hải Long. Cảm phục hình ảnh chàng trai tiền chiến, sáng

chiến khu Tuyên Quang, chiều biên giới Lào-Việt, đời sương gió chấm phá bằng đôi mắt giai nhân sóng sánh men rượu

và xúc động trước tâm huyết phục vụ đất nước và nhân dân của một nhà cách mạng chân chính, Đại Sư Nam Anh đã tự

nguyện đứng sau lưng người để hoàn thành hoài bão cao đẹp.

Quyền sư Hồ Hải Long mất năm 1988, thọ 71 tuổi. Lúc ấy, Đại Sư Nam Anh đang ở nước ngoài và khi trở về Việt Nam

năm 1992, Đại Sư đã đến thắp nén hương kính viếng người lần cuối.

Page 44: vinh xuan.docx

Võ sư Nam Anh (ảnh chụp năm 1979)

Trưởng môn Nam Anh Vịnh Xuân

Xuất thân từ một gia đình có truyền thống võ thuật lâu đời, Đại Sư Nam Anh đã được ông ngoại truyền thụ võ công

Thiếu Lâm Tự ngay từ thuở ấu thơ. Đến năm 1959, ông được vinh dự trở thành hội viên của Tinh Võ Hội (vốn là một tổ

chức quốc tế về võ thuật và tiêu chí để kết nạp vào hội viên rất chọn lọc) và theo học môn Võ Đang dưới sự huấn luyện

của Đại Sư Quan Thế Minh. Năm 1967, ông có cơ duyên gặp được đạo sĩ Trương Tòng Phú, vốn là Đại Sư chưởng

môn phái Võ Đang nên ông đã quyết định theo Thầy lên núi tu luyện suốt 3 năm ròng

Hạ sơn năm 1969 và từ đó đến năm 1975, ông theo học môn Vịnh Xuân với võ sư Hồ Hải Long (tên thật là Nguyễn Duy

Hải), một trong số các truyền nhân của Đại sư Nguyễn Tế Công. Trong khoảng thời gian ấy, cùng với võ sư Hồ Hải

Long, ông đã sáng lập nên bộ môn Thần Khí Đạo với tinh hoa đặt nặng trên Khí và Thần.

Sau năm 1975, một hoàn cảnh đặc biệt đã khiến ông gặp gỡ Đại Sư Hạng Văn Giai tại trại học tập cải tạo Chí Hòa.

Cùng trong cảnh ngộ là trại viên diện chính trị, giữa hai người đã nảy sinh một mối thâm giao. Suốt trong thời gian từ

1975 đến 1977, ngoài giờ học tập lao động, Đại Sư Hạng Văn Giai đã tâm truyền cho ông sở học thâm sâu về các ngành

học thuật Đông Phương như Phong Thủy, Tướng Pháp và Tử Vi Đẩu Số. Sau khi mãn hạn học tập, ông đã quyết chí lặn

lội tìm kiếm tung tích của Đại sư Nguyên Minh theo lời gửi gắm của Đại Sư Hạng Văn Giai. Sau khi đã gặp và vượt qua

nhiều thử thách, ông đã được Đại Sư Nguyên Minh nhận làm đệ tử thân tín và dốc lòng truyền dạy cho ông để kiện toàn

hết trình độ cao đẳng và siêu đẳng của Vịnh Xuân (từ năm 1977 đến năm 1983).

Sau hơn 30 năm khổ luyện, Đại Sư Nam Anh đã được Đại Sư Nguyên Minh, đại diện ủy quyền của Kim Cương Tự,

chính thức sắc phong Chu Sa Đai đệ cửu đẳng và được chỉ định làm chưởng môn đời thứ 6 Vịnh Xuân Chính Thống

Phái tại Việt Nam. Sự lựa chọn này chủ yếu xét đến kiến văn, trình độ văn hóa và khả năng vận dụng trong xã hội đương

đại.

Trong năm 1978, ông cũng gặp lại Đại Sư Lưu Đại Phong, tức Lục Bình Đạo Nhân, vốn là sư đệ của Đại Sư Trương

Tòng Phú. Cũng là người phái Võ Đang, Lục Bình Đạo Nhân quí ông như một đệ tử thân tín và trở thành cố vấn tinh

thần cho ông.

Đặc biệt vào năm 1980, ông đã khổ công tập luyện thêm Bạch Mi chính thống  phái tại Việt Nam với Đại Sư chưởng môn

Lư Bình Vân, nhờ vậy hóa giải được mối bất hòa trước đây giữa hai môn phái Bạch Mi và Vịnh Xuân.

Bên cạnh sự nghiệp về Võ Thuật, Đại Sư Nam Anh còn hoạt động rất tích cực trong nhiều lĩnh vực chuyên môn, nghề

nghiệp khác :

Page 45: vinh xuan.docx

Tốt nghiệp Cao Học Luật Công Pháp Quốc Tế tại Luật Khoa Đại Học Đường – Sài Gòn, cử nhân văn chương Pháp và

Đức – Đại Học Sư Phạm Sài Gòn.

1969 đến 1973 : Hội viên Nghiệp Đoàn Ký Giả Việt Nam, phó tổng thư ký Tòa soạn Nguyệt san Võ thuật là tạp chí duy

nhất về võ thuật thời đó.

1973 : Luật Sư thuộc Luật Sư Đoàn – Sài Gòn.

1973 đến 1975 : Cố vấn Pháp Lý cho Đại sứ quán Pháp tại Việt Nam

1977 đến 1986 : Hội viên Hội Luật Gia Việt Nam.

Đến Québec – Canada năm 1986, ông là Giáo Sư giảng dạy hơn 9 năm tại Đại Học Montréal, cùng lúc hoàn tất học trình

Tiến Sĩ Luật Thương Mại quốc tế.

Đại Sư Nam Anh còn là Chủ tịch kiêm sáng lập viên Liên Đoàn Quốc Tế Thiếu Lâm Vịnh Xuân Nam Anh Kung Fu và

Liên Đoàn Quốc Tế Vịnh Xuân Chính Thống phái. Đồng thời ông cũng là Chủ tịch kiêm sáng lập viên Hội Án, Ma, Nã tại

Québec và là tác giả của hơn 16 quyển sách các loại từ võ thuật, sinh ngữ, kiến trúc, đến đông y, tử vi đẩu số v.v… xuất

bản trong những năm 1969 – 1975.

Nguồn: Vịnh Xuân Kung Fu Nam Anh (www.shaolinwingchun.com)Share this:

Print

Đang tải...

Đòn cùi trỏ trong Vịnh Xuân Hồng   Kông Tháng Năm 18, 2009

vinhxuanquyen Bài viết, Lý thuyết cùi trỏ trong vịnh xuân, diệp vấn, diep van, lý tiểu long, luong dinh, ly tieu long, lương

đĩnh, vịnh xuân hồng kông 3 phản hồi

Võ công Vịnh Xuân nổi tiếng với những trái đấm thẳng thần tốc được biết tới qua những tên gọi như Trực

Tuyến Quyền, Nhật Tự Quyền… Nhưng trong thủ pháp Vịnh Xuân, các đòn cùi chỏ cũng sắm một vai trò không

kém quan trọng.

Page 46: vinh xuan.docx

Lý Tiểu Long tập mộc nhân

Quyền và chưởng

Nắm đấm hoặc lòng bàn tay (tức Quyền và Chưởng) là những khí giới thiện dụng của mọi môn võ vì thuộc về những

phần dễ vận dụng nhất trong cơ thể. Nhưng, trong kỹ thuật chiến đấu tay không, nhiều khi người ta còn cần vận dụng tới

những phần khác nữa mà cùi chỏ là một.

Cùi chỏ có một cấu trúc nhọn, cứng khiến tự nó trở thành một võ khí hết sức nguy hiểm. Tuy nhiên không phải lúc nào

người ta cũng có thể thay Quyền và Chưởng bằng Cùi Chỏ. Trước tiên, người ta cần lưu ý tới tầm dài ngắn khác nhau

của cánh tay khi xuất Chưởng và khi tung đòn Cùi Chỏ. Hiển nhiên là một đòn Cùi Chỏ luôn luôn chỉ có tầm hoạt động

ngắn bằng một nửa của Quyền hoặc Chưởng. Từ một khoảng cách ngoài nửa thước, người ta có thể giang thẳng cánh

mà nện một cú đấm vào đối thủ. Trong trường hợp này, không nên ngần ngại mà phải chọn ngay cú đấm. Bởi, nếu chọn

một đòn cùi chỏ, người ta sẽ phải mất công tiến lên một bước để thu ngắn khoảng cách lại cho vừa đòn đánh, và như

thế thì cơ hội đánh trúng đối thủ đã mất.

Ngược lại, trong khoảng cách gần hơn và có thể tung đòn cùi chỏ thì bạn không cần băn khoăn về việc sử dụng cùi chỏ,

nếu muốn tặng cho đối thủ một đòn đích đáng. So với Quyền và Chưởng, đòn Cùi Chỏ có một sức công phá tàn khốc

hơn nhiều vì dồn sức đánh vào một vùng hẹp trên thân thể đối thủ. Chính vì lẽ này, đòn cùi chỏ chỉ được tung ra khi mà

các đòn khác không đủ hiệu năng để đánh bại đối thủ.

Người bỏ nhiều thời gian nghiên cứu về đòn cùi chỏ của Vịnh Xuân phái là Chưởng Môn Lương Đỉnh đã nhắc nhở như

sau:

Nếu còn được phép chọn lựa, hãy luôn đánh bằng nấm đấm và chưởng.

Page 47: vinh xuan.docx

Chưởng môn Lương Đĩnh giải thích như sau:

 Khi tấn công bằng nắm đấm hoặc chưởng, toàn thể cánh tay đều di chuyển, và phần thân thể cận kề nhất với đối thủ

chỉ là nấm đấm và cánh tay trước. Trong tình huống này, đối thủ ít có điều kiện phản công và thường phải lo thủ hoặc

bằng cách chặn nắm đấm hoặc bằng cách chặn hoạt động của cánh tay trước. Như thế, người tấn công vẫn hoàn toàn

được rảnh rang để có thể tung tiếp ngọn đòn cùi chỏ. Đòn cùi chỏ trở thành một đòn dự bị để tiếp tục kéo dài đòn tấn

công. Nếu ngay lần đầu ra đòn mà đã tung đòn cùi chỏ thì đã vận dụng nỗ lực cuối cùng và hoàn toàn thất lợi nếu đối

thủ phản ứng hữu hiệu.

Theo quan niệm trên của Chưởng Môn Vịnh Xuân Phái Lương Đĩnh, đòn cùi chỏ được coi như một “lực lượng tổng trừ

bị” chỉ nên tung vào cuộc chiến khi hết sức cần thiết để đánh những cú dứt điểm. Trong thuật ngữ võ học, đòn cùi chỏ

được gọi là Trửu.

Cùi chỏ trong võ công Vịnh Xuân

Chưởng Môn Diệp Vấn xuất phát từ Phật sơn và truyền dạy võ công tại Hongkong, nhưng ngay trong sinh thời của lão

võ sư, người ta ghi nhận được một số điểm khác biệt giữa võ công Vịnh Xuân tại Hongkong và võ công Vịnh Xuân tại

Phật Sơn.

Những khác biệt hiện ra rất rõ rệt và cụ thể ngay từ những bài quyền căn bản của môn phái. Chẳng hạn như bài quyền

trung cấp Tầm Kiều tại Phật Sơn không hoàn toàn giống với bài quyền Tầm Kiều tại Hongkong. Tại Phật Sơn, các môn

sinh Vịnh Xuân của võ sư Triệu Châu khi học bài Tầm Kiều đều biết ba thế đá là đá thốc về trước, đá thốc nghiêng về

bên và đá thốc ngang. Tại Hongkong, môn sinh Vịnh Xuân học bài Tầm Kiều chỉ biết đến cú đá thốc ngang sau khi

Chưởng Môn Lương Đĩnh đã cải biên một phần quyền sáo. Trước đó họ không biết cú đá thốc ngang. Võ sư Triệu Châu

là đệ tử một bạn đồng song của Chưởng Môn Diệp Vấn. Như vậy, lão sư Diệp Vấn là sư thúc của Triệu Châu, lại thường

lui tới Phật Sơn nên không thể có chuyện ông không biết về cú đá thốc ngang kia. Nhiều người cho rằng có lẽ chính ông

đã tiết giảm phần nào kỹ thuật khi truyền dạy tại Hongkong.

Cũng thế, người ta tìm thấy trong bài quyền cao cấp Phiêu Chỉ, các môn sinh Vịnh Xuân tại Hongkong chỉ học có một

đòn cùi chỏ là Cát Trửu, tức là đòn cùi chỏ đánh cắt thẳng xuống từ phía trên đầu. Đòn cùi chỏ này đã được lập lại tới 12

lần trong bài Phiêu Chỉ tại Hongkong. Nhưng trong bài Phiêu Chỉ tại Phật Sơn cũng do chính lão sư Diệp Vấn truyền dạy

lại có tới ba đòn cùi chỏ là các đòn Cát Trửu, Quải Trửu và Bãi Trửu. Quải Trửu là một đòn cùi chỏ đánh chéo xuống

ngang thân mình còn Bãi Trửu là một đòn nhỏ chém tạt ngang vào đối thủ.

Những điểm dị biệt trong võ công của môn phái tại hai địa điểm không xa cách bao nhiêu đã khiến người kế nhiệm lão

sư Diệp Vấn là Tiến Sĩ Chưởng Môn Lương Đĩnh phải giành khá nhiều thời gian để suy nghĩ về sự trạng này. Sau nhiều

lần đi lại nghiên cứu cùng các võ sư tại Phật Sơn, Chưởng Môn Lương Đĩnh đã thực hiện một đợt cải biên các quyền

sáo và đợt cải biên này đã đem lại cho mọi môn sinh Vịnh Xuân 7 kỹ thuật cùi chỏ.

 7 đòn cùi chỏ Vịnh Xuân Hồng Kông hiện nay

Trong quyền sáo cải biên của Chưởng Môn Lương Đĩnh, 7 kỹ thuật cùi chỏ hiện nay của Vịnh Xuân là :

Cát Trửu dùng cùi chỏ đánh từ trên đầu xuống.

Quải Trửu là đòn cùi chỏ thúc ngang.

Bãi Trửu dùng cùi chỏ đánh xéo.

Lan Thủ gập gắp cùi chỏ để đánh bằng cánh tay trước.

Bình Trửu dùng cùi chỏ tạt ngang.

Hậu Trửu đòn cùi chỏ đánh về phía sau.

Trực Lạc Trửu đánh bằng cùi chỏ thẳng đứng thốc xuống.

Bảy kỹ thuật cùi chỏ trên nằm rải rác trong cả ba quyền sáo căn bản của môn phái Vịnh Xuân, chẳng hạn các kỹ thuật

Bình Trửu, Hậu Trửu nằm trong quyền sáo sơ cấp Tiểu Niệm Đầu, kỹ thuật Lan Thủ nằm trong quyền sáo trung cấp Tầm

Kiều và những kỹ thuật khác nằm trong quyền sáo cao cấp Phiêu Chỉ.

Về đặc điểm của từng kỹ thuật trên có thể ghi lại sơ lược như sau :

 Cát Trửu là một đòn cùi chỏ đánh xuống từ một tư thế cao, cắt thẳng vào mục tiêu thường là đầu của đối thủ.

Page 48: vinh xuan.docx

Quải Trửu là một đòn cùi chỏ đánh theo đường chéo và cong, bắt đầu từ mặt suốt xuống phần giữa thân người đối thủ

mà chém xả xuống như một nhát dao. Mục tiêu của đòn này rất rộng, gồm trán, mặt, cổ, xương cổ, vùng ngực đối thủ.

Hiệu lực của Quải Trửu cao về cả công lẫn thủ, có thể giúp hóa giải dễ dàng một đòn chẹn cổ từ trước mặt.

Bãi Trửu nhắm dùng cùi chỏ chặt ngang vào mặt đối thủ. Đòn này rất đắc dụng để chống một đối thủ muốn ôm chầm

lấy bạn trong một khoảng trống hẹp. Đòn có thể tung ra bằng cả hai tay như một đòn kép. Khi tung đòn, cánh tay trước

ở thế gập thẳng góc với cánh tay trên và dùng một động tác vặn hông để đưa cùi chỏ vào tầm trung đòn. Nếu mục tiêu

là một bên đầu đối thủ có thể sử dụng tay kia nắm đầu đối thủ lại khi đòn cùi chỏ tung ra từ phía ngang hông.

Lan Thủ tuy là xếp vào kỹ thuật đánh cùi chỏ nhưng chỉ sử dụng cánh tay trước để đập mạnh bàn tay vào đầu, cổ

ngực hay đối thủ. Khi tung đòn này, cùi chỏ được gập gắt lại cùng với động tác vặn hông cực gắt để tạo ra một lực

xoắn lớn.

Bình Trửu được phóng ra khi cánh tay ở vị thế ngang nhắm vào những phần mềm như yết hầu. Đòn này được coi là

một đòn cùi chỏ hiểm hóc.

Hậu Trửu cũng được coi là một đòn cùi chỏ hiểm hóc và ác liệt không thua Bình Trửu. Hậu Trửu nhắm vào một đối thủ

ở phía sau và dùng mút cùi chỏ làm khí giới trong khi nắm đấm xoay lên trên.

Trực Lạc Trửu là một đòn đánh ở tầm cực gần hoặc trong tình thế khẩn cấp tương tự như lúc đối thủ liều lĩnh lao thẳng

vào mình. Trực Lạc Thủ đánh thốc xuống từ tư thế cùi chỏ thẳng đứng nhắm vào đỉnh cột sống đối thủ và sử dụng mút

cùi chỏ.

Trong võ công Vịnh Xuân, theo quan niệm của Chưởng Môn Lương Đĩnh, sử dụng đòn cùi chỏ là biện pháp cuối cùng.

Điều này không có nghĩa đòn cùi chỏ có hiệu quả cao nhất, nhưng vì tính chất nỗ lực cuối cùng của chúng. Sau khi tung

một đòn cùi chỏ, người ta lâm vào tình thế rất khó tiếp nối thêm bằng một đòn khác. Thêm nữa, đòn cùi chỏ luôn luôn có

sức công phá mạnh hơn những đòn khác và do đó có thể tạo ra những hậu quả thảm khốc cho người trúng đòn. Tuy

nhiên, nếu ở trong một tình thế cấp bách và cần mau chóng tạo an toàn cho mình thì đòn cùi chỏ vẫn là kỹ thuật nên lưu

ý tới.

Chính vì sức công phá mãnh liệt trên của các đòn cùi chỏ mà môn võ Muay Thai của Thái Lan đã đặt biệt chú trọng tới

kỹ thuật này. Theo nhiều chuyên gia võ học thì võ Muay Thai bắt nguồn từ một môn võ Thái Lan khác có tên Linh Lum

(khỉ bay) đã chịu ảnh hưởng khá lớn của môn phái Vịnh Xuân trong các kỹ thuật đánh cùi chỏ. Tất nhiên cũng có nhiều

người không nghĩ thế mà cho rằng võ Linh Lum vẫn có kỹ thuật cùi chỏ riêng, nhưng chính những người này cũng nhìn

nhận là có nhiều điểm giống nhau giữa môn võ này với võ công Vịnh Xuân trong kỹ thuật đánh cùi chỏ và đầu gối.

Tác giả: Bảo Quang

Nguồn: Sưu tầmShare this:

Print

Đang tải...

Vĩnh Xuân: Sự tiềm ẩn và dưỡng   sinh Tháng Năm 16, 2009

vinhxuanquyen Bài viết, Khác dinh trong thuy, Vinh Xuan, vĩnh xuân thăng long 1 Phản hồi

Page 49: vinh xuan.docx

Có không ít người khi nghĩ đến võ thuật đều liên tưởng đến  mẫu người chỉ có sức khoẻ mà hạn chế về tư duy. Trên

thực tế thì hoàn toàn không phải vậy, hầu hết những người tập võ không những xây dựng cho mình được một sức khoẻ

rất tốt mà còn có một tinh thần sảng khoái, bộ óc mẫn tuệ và tư duy phong phú. Học võ nhiều khi cũng như một nghành

nghề lao động, như một môn khoa học vậy, người tập không chỉ hoạt động bằng cơ bắp đơn thuần mà còn như một kỹ

sư, như một nhà khoa học. Để đạt được cảnh giới cao hơn, họ cũng không ngừng nghiên cứu và sáng tạo. “Lao động

sinh ra chân lý” thì cũng hẳn  là điều tất yếu. Chân lý ở đây chính là sức khoẻ và sự mẫn tiệp.

Vĩnh Xuân quyền, theo cách nói trên thì quả là một nghành khoa học ưu việt. Đấy cũng không phải lời nói thái quá vì

trong thực tế, những người theo học Vĩnh Xuân luôn có cơ thể tràn đầy sức khoẻ, bộ óc với tư duy cao và tâm hồn tươi

vui. Nhất là Vĩnh Xuân lại phù hợp mọi lứa tuổi,mọi thể trạng cả nam lẫn nữ…

Những bài tập Vĩnh Xuân qua quá trình nghiên cứu của bao bậc tiền bối đi trước đã phát triển rất đa dạng, phong phú và

đồ sộ. Từ những bài tập thở, hệ thống niêm thủ, 108 thế tập với mộc nhân,nội công…đều là những đúc kết tinh hoa, sự

tìm hiểu nghiêm túc con người. Tinh hoa ở chỗ tập luyện dễ dàng mà đạt được kết quả cao nhất, nghiêm túc ở chỗ

những bài tập được sắp xếp có hệ thống và rất chặt chẽ. Điều cốt yếu là phục vụ cho sức khoẻ cũng như tinh thần của

người tập, nó hoá giải cả bệnh tật và những ưu tư lẫn mâu thuẫn trong cuộc sống…

Tập thở của Vĩnh Xuân( chia làm hai phần thở động và thở tĩnh):

Thở động: là một hình thức dưỡng sinh được các môn sinh tập luyện ngay từ giai đoạn đầu(sơ cấp – trung cấp). Những

bài tập này đều kết hợp với phần cơ bản công của môn phái bao gồm các bài tập tứ tượng, ngũ hình, thủ đầu quyền,

tầm kiều…Đặc biệt là thở động thông qua những chiêu thức của hệ thống niêm thủ, đây là một hình thái vô cùng quan

trọng cho người tập dưỡng sinh đặt nền móng cho việc nâng cao trình độ sau này.

Thở tĩnh (hay còn gọi là tĩnh công): gồm những bài tập thở, quán tưởng đòi hỏi tinh thần phải nhất tâm nhất lực; được

như vậy mới phát huy hết khả năng tiềm ẩn trong cơ thể. Kinh mạch thông suốt, tinh thần sảng khoái- sẽ đạt đến sự

thăng hoa, lấy được sự cân bằng về âm dương sẽ đẩy lùi bệnh tật và sự phiền muộn.

Hệ thống niêm thủ của Vĩnh Xuân.

Đây là một đặc trưng cơ bản của Vĩnh Xuân và cũng là một “ loại thuốc quý” cho sức khoẻ. Ngoài sự bảo dưỡng các ổ

khớp và cơ bắp còn có tác dụng rất lớn về mặt tinh thần. Nó đánh thức sự cảm nhận (gọi là linh giác) của cơ thể, đưa

những tín hiệu về bộ não trung ương một cách nhạy bén. Để cuối cùng đạt tới độ hợp nhất tinh thần và thể xác, còn gọi

Page 50: vinh xuan.docx

là “tâm ứng thủ”, mang lại sự khéo léo hoàn hảo cho các chuyển động của cơ bắp và sự nhanh nhẹn lẫn chính xác trong

mỗi động tác.

Chính vì vậy mà các tiền bối của Vĩnh Xuân như cụ Diệp Vấn (sư phụ ngôi sao võ thuật Lý Tiểu Long) chỉ cao 1.65m;

Vòng Chung Lôi dạy tại Đức cũng chỉ cao 1.65m…đã thường xuyên loại các cao thủ trên 100kg một cách nhanh gọn.

Ngoài những kỹ năng chiến đấu, họ còn có hệ thống khí công, dưỡng sinh thật nghiêm túc thì mới có được khả năng

siêu phàm đó,với một sức vóc nhỏ bé, tuổi cao thì thật khó có thể loại được các cao thủ to lớn ra khỏi cuộc chiến.

Nếu môn sinh được sự chỉ dẫn đúng đắn và kiên trì tập luyện thì đạt được kết quả như trên cũng không phải là điều khó

khăn. Tại Việt Nam cũng  đã có những danh sư  Vĩnh Xuân đạt tới mức độ thượng thừa về nội công và dưỡng sinh,

chữa được những bệnh hiểm nghèo.

-Cụ Trần Thúc Tiển đã vượt qua được bệnh lao, thời đó là một trong tứ chứng nan y.

-Cụ Trần Văn Phùng luôn giữ được sức khoẻ và sự sang suốt đến cuối đời.

-Võ sư Nguyễn Ngọc Nội, võ sư Nguyễn Khắc Chương đã tạo nên những chuyện lạ Việt Nam.

Tại Hà Nội phong trào luyện tập Vĩnh Xuân đã phát triển rực rỡ. Các võ sư và huấn luyện viên đã hợp nhất thành Câu

lạc bộ Vĩnh Xuân Hà Nội,cùng bàn bạc trao đổi đưa ra những phương pháp, giáo trình giảng dạy một cách khoa học

nhất, hiệu quả nhất. Mỗi người đến với Vĩnh Xuân sẽ nhận được những kết quả luyện tập khác nhau tuỳ vào cách nhìn

nhận của mỗi người. Vì thực sự Vĩnh Xuân không hề khô cứng, không hề bất biến như một mục đích cụ thể. Vĩnh Xuân

là con đường, những ai đã và đang đi trên con đường đó đều tìm được chân lý và thành công của riêng mình. Có người

nhận được kết quả là sự chiến đấu và tự vệ hoàn hảo, có người nhận được kết quả chữa bệnh và chống lão hoá,có

người nhận đựoc kết quả sức khoẻ dẻo dai, tinh thần sảng khoái để hoàn thành tốt mọi công việc, cũng có người tập

Vĩnh Xuân để luôn được vui vẻ và biết yêu thương, chia sẻ, hoá giải mọi mâu thuẫn, thù hằn…

Có người nói Vĩnh Xuân là một điều kỳ diệu, thực sự không phải vậy, Vĩnh Xuân là một môn khoa học, con người mới

thực sự là điều kỳ diệu của cuộc sống. Hãy đừng để điều kỳ diệu ấy ngày một yếu đi, già nua và nhuốm đầy sự ưu

phiền. Hãy tươi vui và khoẻ mạnh bằng cách tập luyện hàng ngày khi có thể,sẽ gặt hái được những kết quả nhất định.

Tác giả: Võ sư Đinh Trọng Thủy

Nguồn: Vĩnh Xuân Thăng Long (www.vinhxuankungfu.com)Share this:

Print

Đang tải...

Giai thoại cụ Tế Công tiếp Pak   sifu Tháng Năm 15, 2009

vinhxuanquyen Bài viết, Khác nguyễn tế công, Tế công Để lại bình luận

Trước đây có một ông quan Tuần phủ tên là Cung Đình Vận,vốn là người ham thích võ nghệ. Tự quan cũng biết võ và

rất thích học võ. Quan thuê riêng thầy dạy võ cho mình ở tại nhà, để được quan nhận làm gia sư phải qua được 1 thể lệ:

thắng được quan khi tỷ thí võ nghệ, mà nhiều người không qua được vì: vốn dĩ quan giỏi võ, mà khi tỉ thí với quan phải

nương tay, ai dám dùng đòn sát thương với quan. Pak sifu là gia sư của Cung Đình Vận, người Hoa, phái Hồng gia hay

Bát quái?!

Đầu những năm 40 : Pak sifu nghe tiếng ông Tàu ốm Cấy Công (Tế Công) giỏi võ. Lại nghe người Hoa ở Hà nội đồn đại,

nên đến nhà cụ Tế thách đấu. Lúc vào nhà: Tế Công đang ngồi uống trà với một người học trò (người Việt Nam), Pak

sifu xưng danh, thách Tế Công đấu, nói nếu thắng thì thưởng, bằng thua thì phải đi khỏi Hà nội. Người học trò đứng bật

dậy, thị uy dẫm chân vỡ viên gạch hoa dưới sàn, nói : sao ông dám khinh thầy tôi, hãy thử với tôi trước đã. Pak sifu nhìn

Page 51: vinh xuan.docx

Tế Công nói: ta không đấu với học trò. Đoạn quay sang người học trò: việc người Hoa để người Hoa giải quyết. Cụ Tế

đưa mắt cho học trò, bảo tránh ra. Cụ đứng dậy , cởi áo ngoài, giơ ngực, nói : Ông hãy đấm 3 quả, sau sẽ nói chuyện

đấu.

Pak sifu vận lực đấm quả đầu không hết sức, cụ Tế vẫn đứng yên, khì mũi nói: đấm gì mà chẳng thấy lực đâu, uổng

công học võ. Pak sifu nổi giận lôi đình, dùng hết lực , đấm vào ngực cụ Tế. Lần này chỉ thấy cụ Tế hơi lắc nhẹ thân, Pak

sifu ngã xuống trước mặt, nhìn ra thì cổ tay đã gãy, bàn tay hãy còn nắm đấm treo lòng thòng. Pak sifu gượng đau, nói :

có mắt mà không nhìn thấy núi Thái sơn, cao nhân thứ lỗi. Cụ Tế thở dài, không nói gì, phất tay bảo học trò và người đi

theo Pak sifu, đỡ lên đưa đi. Sau 2 tuần Pak sifu chết.

Nguồn: sưu tầm

Share this:

Print

Thiếu Lâm Phật Sơn Vịnh Xuân   Phái Tháng Năm 10, 2009

vinhxuanquyen Bài viết, Lịch sử diệp vấn, hồ hải long, niêm thủ vĩnh xuân, tay dính trong vịnh xuân, thiếu lâm vịnh xuân Để

lại bình luận

Ngũ Mai Sư Thái

Nếu có người hỏi anh ai lập ra phái Vịnh Xuân, có lẽ anh sẽ trả lời là một vị Hòa thượng hoặc học giả nào đó. Nhưng

những môn đồ của phái Vịnh Xuân có ý nghĩa văn chương là “Xuân thời tươi đẹp” thì nhận là do bà Nghiêm Vịnh Xuân.

Theo truyền thuyết, bà học căn bản võ thuật của một ni sư là Ngũ Mai, cách đây 400 năm. Các ni cô vẫn thường học võ

thuật trong các thời đại và có nhiều bà giỏi lắm. Môn võ truyền qua Leong Bok Sui, Wong Wah Bo, Loeng Yee Tai,

Loeng Jon, Chau Wan Son, Yip Man, Leong Sheong và Wong Soon Sum.

Vì là đàn bà nên Vịnh Xuân thấy các môn võ khác đều quá nặng phần rườm rà và phức tạp về “bệ tấn” và ngoại công.

Để dúng sức hữu hiệu hơn, bà đặt ra phép “chi sao”. Trong phép này người tập luyện đẩy tay nhau liên tục từng cặp mà

không xê chân. Mục đích là để thân pháp mềm mại và đứng vững, giữ vững được thăng bằng của mình. Sau nhiều

tháng luyện tập “đẩy tay”, người học võ thấy cánh tay mình mềm mại khỏe, nhậy cảm dễ phản công một cách tự nhiên.

Người học võ phải tập căn bản hai năm rồi mới được tập “đẩy tay” tự do. Trong khi học thì tập các thế thức căn bản để

đối phó với bất cứ các loại đòn tấn công nào.

Ông Diệp Vấn 79 tuổi, người lãnh đạo hiện tại môn phái Vịnh Xuân chê các lối hoa hòe hoa sói của các môn võ khác và

nhấn mạnh vào sự tiết kiệm động tác trong môn Vịnh Xuân. Ông Diệp Vấn nói: “trong lúc công cũng như thủ, ta phải

Page 52: vinh xuan.docx

dùng chân tay với tối thiểu nỗ lực. Cái đó không có gì mới lạ, đường ngắn nhất giữa 2 điểm là đường thẳng. Vậy

nên không cần đá vòng vo, chỉ cần bật ngắn và tinh diệu, tay ngược lại là đủ”.

Ông Diệp Vấn sinh ở quận Hoa Sơn, tỉnh Quảng Đông thuộc Hoa Nam, đã giỏi võ Vịnh Xuân, khi tới Hông Kông ông ta

mở nhiều trường dạy võ ở đó. Đồ đệ nổi tiếng nhất của ông – Bruce Lee – đã mang một vài bộ môn của Vịnh Xuân vào

Triệt Quyền Đạo.

Bây giờ vì tuổi tác, ông Diệp Vẫn đã thôi không dạy võ nữa. Tuy nhiên, người kế vị là Leong Tinh vẫn tiếp tục dạy võ

Vịnh Xuân trong một võ đường nhỏ ở Kao Loon (Hông Kông). Ở Hoa Kỳ thì còn Tso Yue Kuen, học trò ông Diệp Vấn có

một võ đường nhỏ trong quận tỉnh Trung Hoa ở San Francisco.

Nguồn: Peter Bennett (Đăng tại Tạp chí “Black Bell”, 1972)

Dịch giả: Giáo sư Trần Văn Từ

Hiệu đính: Võ sư Hồ Hải LongShare this:

Print

Vịnh Xuân Quyền: Truyền thuyết và thực   tại Tháng Năm 3, 2009

vinhxuanquyen Bài viết, Lịch sử, Lý thuyết Bài viết, Bành Nam vĩnh xuân, các bài quyền vịnh xuân, Dufresne Thomas, Nguyễn

quí Jacques, pan nam wing chun, vịnh xuân hông kông, Vịnh Xuân Quyền, vĩnh xuân việt nam Để lại bình luận

Vịnh Xuân Quyền là một trong những môn võ phát triển mạnh ngoài Trung Quốc (Việt Nam, Mỹ, Âu Châu). Vì khuôn khổ

hạn hẹp của bài báo nên một khảo sát có tính khoa học về lịch sử và lý thuyết của môn phái không thể hoàn thành. Bài

nầy chỉ ghi nhận những điều gom góp từ tư liệu, sự học hỏi và hiểu biết của tác giả.

Nguồn gốc và phát triển

Tại Quảng Đông và Hương Cảng, hiện lưu hành 2 thuyết về nguồn gốc của môn Vịnh Xuân Quyền.

1) Thuyết của Diệp Vấn và Lương Quang Mãn :

Thuyết của Diệp Vấn (Yip Man) cho Vịnh Xuân Quyền bắt nguồn từ Ngũ Mai sư thái, một trong năm người tương truyền

đã trốn thoát cuc hỏa thiêu chùa Thiếu Lâm vào thế kỷ thứ 18. Bốn người kia là Phùng Đạo Đức, Chí Thiện thiền sư,

Bạch Mi đạo nhân và Miêu Hiền.

Ngũ Mai sư thái, sau khi nhìn một cuộc ấu đả giửa con hạc và con cáo, sáng tác ra môn quyền mới rồi truyền môn đó lại

cho Nghiêm Vịnh Xuân. Nghiêm dạy lại cho chồng là Lương Bác Trù. Lương Bác Trù sau đó cho tên là Vịnh Xuân

Quyền.

Đệ tử của Lương Bác Trù là y sĩ Lương Lan Quế. Lương Lan Quế truyền cho Hoàng Hoa Bảo, diễn viên của một đoàn

hát dạo. Vào thời đó, Vịnh Xuân Môn chỉ có quyền thuật và môn đao pháp gọi là Bát trảm đao. Trong đi hát của Hoàng

Hoa Bảo, có một người lái thuyền, tên là Lương Nhị Để, giỏi môn Lục điểm bán côn (môn côn pháp nầy Lương học

với… Chí Thiện thiền sư!). Hai người trao đổi nhau quyền, đao và côn. Lương dựa theo lý thuyết của Vịnh Xuân để sáng

tác ra phương pháp “Li côn” (Niêm côn), tương tự như phương pháp “Li thủ” (Niêm thủ).

Theo Lương Quang Mãn (Quảng Đông), Nghiêm Vịnh Xuân không học với Ngũ Mai sư thái, mà sáng chế môn võ sau

khi nhìn thấy bạch hạc đánh với thanh xà. Bà cùng với chồng là Lương Bác Trù đến Quảng Đông truyền dạy Vịnh Xuân

Page 53: vinh xuan.docx

Quyền cho bốn người hát dạo là Hoàng Hoa Bảo, Lương Nhị Để, A Cẩm (còn có tên là Đại Hoa Diện Cẩm) và Tôn

Phước.

Lương Nhị Để truyền cho Lương Tán, người tỉnh Phật Sơn, một lương y với biệt danh là “Vịnh Xuân Quyền vương”. Ông

có bốn người học trò : hai đứa con trai là Lương Xuân và Lương Bích, Mộc Nhân Hoa và Trần Hoa Thuận tự Hoa Tiền

Hoa.

Trần Hoa Thuận có tất cả 16 học trò : con trai Trần Nhử Miên, những đệ tử Ngô Trọng Tố, Lôi Nhử Tể, Diêu Tài, Quách

Bảo Toàn, Diệp Vấn… Sau khi Trần Hoa Thuận mất, Diệp Vấn tiếp tục học với Ngô Trọng Tố. Sau đó Diệp Vấn được

may mắn thọ giáo với Lương Bích, con trai của Lương Tán.

Trên đây chỉ ghi lại những điều được truyền lại trong giới võ thuật, dỉ nhiên chúng tôi không tin là chuyện Nghiêm Vịnh

Xuân và Ngũ Mai có thật.

2) Thuyết của Bành Nam và Diệp Chuẩn :

Hiện nay tại tỉnh Quảng Đông, Vịnh Xuân Quyền vẩn được truyền dạy.

Theo Bành Nam (Pan Nam, 1909-1995), truyền nhân đời thứ hai của Lôi Nhử Tể và Trần Nhử Miên, môn Vịnh Xuân bắt

nguồn từ ni cô Nhất Trần. Bà có một đệ tử là Trương Ngũ tự Than Thủ Ngũ, người tỉnh Hồ Nam.

Theo Diệp Chuẩn (Yip Chun), con của Diệp Vấn, quyển “Việt kịch sử nghiên cứu” của Khiếu Hà Quân, có ghi lại : “Trước

triều Hoàng Đế Ung Chánh, sự phát triển của hát kịch ở tỉnh Quảng Đông rất hạn chế. Vì thiếu sự tổ chức qui mô. Dưới

triều Hoàng Đế Ung Chánh (1723-1736), Trương Ngũ, tự Than Thủ Ngũ, người tỉnh Hồ Nam đem thuật hát kịch tới tỉnh

Phật Sơn và tổ chức lại Hồng Hoa Hội quán. Từ đó Việt kịch mới phát triển.” Sách còn ghi thêm : “Ngoài hát kịch ra,

Than Thủ Ngũ còn giỏi võ thuật. Thế “Than thủ” của ông danh tiếng trong Võ Lâm.”

Diệp Chuẩn còn tìm được trong “Trung Quốc hí khúc sử” của Mảnh Dao, quyển III, trang 631, xuất bản lần thứ nhất vào

năm 1968, đoạn văn như sau : “Dưới triều Hoàng Đế Ung Chánh, Trương Ngũ không ở lại Kinh được, nên phải lẩn tránh

tại Phật Sơn. Ông còn có biệt danh là Than Thủ Ngũ, rất giỏi văn chương và võ thuật, tinh thông nhạc và thuật hát kịch.

Ông đặc biệt giỏi môn võ của Thiêu Lâm tự. Tại Phật Sơn, ông truyền lại môn hát kịch và võ nghệ trong giới “Hồng

Thuyền đệ tử” và thành lập Hồng Hoa Hội quán. Cho tới nay, Trương Ngũ vẩn được tôn là tổ môn kịch của tỉnh Quảng

Đông.”

Vì chuyện Trương Ngũ tới Phật Sơn xảy ra dưới triều đại Hoàng Đế Ung Chánh (1723-1736), hơn một trăm năm sự tích

Nghiêm Vịnh Xuân (dưới triều Hoàng Đế Đạo Quang trị vì từ 1821 tới 1850) nên Diệp Chuẩn cho thuyết nầy đáng tin

hơn. Vả lại thế Than thủ là một đặc kỹ của Vịnh Xuân Quyền, không tìm thấy trong môn phái khác. Và theo Diệp Chuẩn,

bộ pháp “Nhị tự kiềm dương mã” thích hợp với sư di chuyển trên thuyền bè, nơi mà những người hát dạo thường sống!

Theo Bành Nam, Vịnh Xuân Quyền truyền từ Than Thủ Ngũ (đầu thế kỷ thứ 18) tới Hoàng Hoa Bảo, Lương Nhị Để và

Đại Hoa Diện Cẩm, người trong giới “Hồng thuyền tử đệ”.

Những nơi phát triển Vịnh Xuân Quyền :

Hiện nay tại Trung Quốc, Vịnh Xuân bành trướng tại tỉnh Quảng Đông. Tại Quảng Châu có Bành Nam, Sầm Năng; tại

Phật Sơn có Lương Quang Mãn, Trần Ứng Tùng, Châu Kiện Cường; tại Thuận Đức, có cháu nội của Trần Hoa Thuận;

tại Úc Môn, có Lương Quyền… Tất cả đều có nguồn gốc từ Trần Hoa Thuận.

Diệp Vấn (Yip Man, 1898-1972) là người đầu tiên phổ biến môn Vịnh Xuân tại Hương Cảng. Từ Hương Cảng, Vịnh Xuân

Quyền bành trướng tới Âu Châu (Pháp, Anh, Đức…), Úc Châu và Mỹ Châu.

Môn Vịnh Xuân nhập Việt Nam nhờ công của Nguyễn Tể Vân (1877-1960). Tại đây, ông được biết với tên là Nguyễn Tế

Công hay Cống Xếnh Xáng (Công Tiên sinh). Học trò tại Việt Nam là Nguyễn Duy Hải (1917-1988), Lục Vỉnh Khải

(khoảng 1929-1979), Ngô Sĩ Quý, Trần Văn Phùng (1902-1988), Trần Thúc Tiển, Đổ Bá Vinh…

Bài bản ông truyền tại Việt Nam là Tiểu niểm đầu, Mộc nhân thung, Lục điểm bán côn và Bát trảm đao. Ông còn truyền

thêm bài Ngũ hình quyền.

Theo Võ Lê, tại Sài Gòn, có Hoắc Phi Hùng, Huỳnh Bá Phước, Phùng Điềm truyền dạy Vịnh Xuân Quyền.

Và cuối cùng, chi phái của Diệp Vấn được lưu truyền vào thập niên 1970 trong một thời gian ngắn tại Sài Gòn.

Chương trình và đặc điểm

1) Chương trình :

Tại Trung Quốc và Hương Cảng, quyền thuật bao gồm ba bài quyền : Tiểu niệm đầu, Tầm kiều và Tiêu chỉ, và một bài

Mộc nhân thung. Tại Quảng Đông bài Tiêu chỉ được dạy trước bài Tầm kiều. Hai bài binh khí của môn phái là : Bát trảm

đao và Lục điểm bán côn.

Tại Việt Nam, Nguyễn Tế Công để lại hai chi nhánh :

Page 54: vinh xuan.docx

– theo Hồ Nam Long, tại Sài Gòn, chi nhánh của Nguyễn Hải tự Hồ Hải Long (1917-1988) truyền dạy ba bài quyền : Tiểu

niệm đầu, Ngũ hình quyền và Hạc hình hư bộ, một bài Mộc nhân thung và hai bài Bát trảm đao và Lục điểm bán côn,

– theo Hồ Nam Long, tại Hà Nội, có chi nhánh của Ngô Sĩ Quý; chương trình bao gồm Thủ đầu quyền, Khí công quyền,

Ngũ hình quyền tổng hợp, Long quyền, Xà quyền, Hổ quyền, Báo quyền, Hạc quyền, Nhất linh bát (hay Một linh tám) và

một bài Mộc nhân thung, trong binh khí có hai bài Bát trảm đao và Lục điểm bán côn.

Tại Việt Nam, chỉ bài đầu tiên (Tiểu niệm đầu hay Thủ đầu quyền) giống với bài Tiểu niệm đầu của chi phái Trung Quốc

và Hương Cảng.

Sau đây, xin lược trình các bài bản để trình bày những đắc điểm của môn phái.

2) Tiểu niệm đầu :

Đặc điểm của bài là không chuyển bộ, suốt bài chỉ đứng thế “Nhị tự kiềm dương mã”, thân thể hơi nghiêng về sau. Như

tên cho thấy, bài chứa đựng những thế căn bản quan trọng của môn phái như Than thủ, Bàng thủ, Nhật tự xung quyền,

Phách thủ, Hộ thủ, Phục thủ… Toàn bài đánh hai tay nới giản, không dùng lực, đòn thế xuất phát trên “trung tâm tuyến”.

Bài đặc biệt chú trọng luyện sự biến chuyển từ Phục thủ qua Hộ thủ, lúc luyện hai thế nầy giống như lạy Phật ba lần nên

bài còn có tên là Tam bái Phật.

Thiệu bài Tiểu niệm đầu theo Lương Đỉnh (Leung Ting)

1- Mã khai bán bộ chi Nhị tự kiềm dương mã

2- Giao xoa than thủ giao xoa bát thủ cổn thủ thâu quyền

3- Nhựt tự xung quyền khuyên thủ thâu quyền

4- Than thủ bán khuyên thủ hộ thủ phục thủ

5- Trắc chưởng chánh chưởng than thủ khuyên thủ thâu quyền

6- Tả hữu án thủ hậu án thủ tiền án thủ

7- Lan thủ phất thủ lan thủ song chẩm thủ song than thủ tiêu chỉ thủ

8- Trường kiều án thủ song đề thủ thâu quyền

9- Trắc chưởng hoành chưởng thâu quyền

10- Than thủ chẩm thủ quát thủ

11- Lao thủ hạ lộ hoành chưởng thâu quyền

12- Bàng thủ than thủ ấn chưởng thâu quyền

13- Thoát thủ liên hoàn xung quyền thâu thức

Thiệu bài Tiểu niệm đầu theo Lương Quang Mãn (Quảng Đông)

1- Khai thung mã

2- Song giao tiển

3- Bài chỉ

4- Phật chưởng

5- Sát thủ

6- Lạp thủ

7- Xí chưởng

8- Than thủ

9- Bàng thủ

10- Thoát thủ

3) Tầm kiều :

Bài Tầm kiều chú trọng luyện chuyển bộ theo bộ pháp đặc biệt của môn phái. Lúc tiến theo thế “Đạp bộ”, chân trước

bước kéo chân sau lết theo, trọng tâm thân thể luôn luôn đặt tại chân sau. Lúc địch thủ tấn công, thế “chuyển mã” dời

trung tâm tuyến và dẫn đòn đối thủ vào khoảng không. Đây là lý thuyết “dùng bộ pháp tìm tay (tầm kiều) đối thủ”, “dùng

eo xoay phá giải đòn công của địch”…

Ba thế đá được dẫn nhập : Đề thoái, Trực đăng thoái và Trắc sanh thoái. Môn sinh Vịnh Xuân Quyền thường dùng chân

trước để đá, chân vừa đá liền tiến một bước tới để nhập nội liên hoàn đả kích đối thủ.

Những thủ pháp mới được dạy là Chánh thân vấn thủ, Phê tranh, Xuyên kiều, Trắc thân án thủ, Trừu chàng quyền, Đàn

kiều xung quyền…

Thiệu bài Tầm kiều theo Diệp Chuẩn (Yip Chun)

1- Mã khai bán bộ chi Nhị tự kiềm dương mã

2- Giao xoa than thủ giao xoa bát thủ cổn thủ thâu quyền

Page 55: vinh xuan.docx

3- Nhựt tự xung quyền khuyên thủ thâu quyền

4- Xuyên kiều chuyển mã cập lan thủ (tả hữu phê tranh)

5- Song phục thủ phách thủ chánh chưởng cập h thủ

6- Chuyển thân lan thủ giao xoa than thủ cập chuyển thân bàng thủ

7- Lan thủ xung quyền phất thủ phục thủ thoát thủ khuyên thủ thâu quyền

8- Cầm lan trắc thân lan thủ khởi đề thoái

9- Hoành đạp bộ trắc thân bàng thủ cập trắc thân giao xoa than thủ tam thức

10- Trừu chàng quyền phục thủ thoát thủ khuyên thủ thâu quyền

11- Trực đăng thoái đạp bộ đê bàng thủ cập song than thủ chánh thân song vấn thủ

12- Song trất thủ song ấn chưởng thâu quyền

13- Chuyển thân trắc sanh thoái trắc thân án thủ đàn kiều xung quyền

14- Liên hoàn xung quyền khuyên thủ thâu thức

Thiệu bài Tầm kiều theo Lương Quang Mãn (Quảng Đông)

1- Khai thung mã

2- Song giao tiển

3- Bài chỉ

4- Tầm kiều

5- Lan kiều thủ

6- Đơn bàng thủ

7- Song bàng thủ

8- Tam không thủ

4) Tiêu chỉ :

Bài Tiêu chỉ áp dụng nguyên lý “Dĩ công vi thủ” và “Dĩ đả vi tiêu”. Những kỹ thuật mới là Quải tranh, Trắc thân vấn thủ,

Thượng hạ sạn thủ, Khuyên cát thủ, Thượng hạ canh thủ… và bộ pháp Khấu bộ. Riêng thế đánh chỏ, chi phái Hương

Cảng chỉ có một đòn (chỏ đánh tréo từ trên xuống), sau Diệp Chuẩn thêm hai thế khác : Phê trửu (chỏ đánh ngang) và

Cập trửu (chỏ đánh tréo từ dưới lên) lấy từ chi phái Quảng Đông.

Bài còn dẫn nhập nguyên lý “dùng eo phát lực” và “lực quán chỉ”. Và có tên là Tiêu chỉ vì sử dụng rất nhiều thế tiêu chỉ

thủ (thế xỉa bằng đầu ngón tay).

Thiệu bài Tiêu chỉ theo Diệp Chuẩn (Yip Chun)

1- Mã khai bán bộ chi Nhị tự kiềm dương mã

2- Giao xoa than thủ giao bát thủ cổn thủ thâu quyền

3- Nhựt tự xung quyền khuyên cát thủ thâu quyền

4- Chuyển thân quải tranh tiêu chỉ thủ thâu quyền

5- Khấu bộ chuyển thân quải tranh tiêu chỉ thủ hạ lộ sạn thủ

6- Phục thủ thoát thủ thâu quyền

7- Chuyển thân quải tranh tiêu chỉ thủ

8- Phục thủ thoát thủ thâu quyền

9- Chuyển thân thượng hạ canh thủ phục thủ thoát thủ thâu quyền

10- Trắc thân vấn thủ chẩm thủ chuyển thân phục thủ thoát thủ thâu quyền

11- Tiêu chỉ thủ chuyển thân thượng lộ sạn thủ phất thủ phục thủ thoát thủ thâu quyền

12- Cầm nả thủ trừu chàng quyền ấn chưởng thâu quyền

13- Tam cúc cung đại huýnh hoàn thủ

14- Liên hoàn xung quyền khuyên thủ thâu quyền

Thiệu bài Tiêu chỉ theo Lương Quang Mãn (Quảng Đông)

1- Khai thung mã

2- Song giao tiển

3- Bài chỉ

4- Cập trửu

5- Quải trửu

6- Phê trửu

7- Nhị đồng thủ

Page 56: vinh xuan.docx

8- Dương thủ

9- Tháp chùy

10- Bái phật

5) Li thủ và li cước :

Phương pháp “Li thủ” phát triển phản xạ đôi tay, môn sinh nhập nội vừa tiếp tay đối phương là tìm được sơ hở, tức thì

tấn công. Chủ đích là đạt tới trình độ hai tay đánh đỡ không cần suy nghỉ. Tại Việt Nam, phương pháp có tên là “Niêm

thủ”.

“Li đơn thủ” (tập niêm thủ một tay) được dạy sau bài Tiểu niệm đầu. Đơn li thủ kết hợp theo một chu kỳ những thế Than

thủ, Phục thủ, Chánh chưởng, Chẩm thủ, Nhựt tự quyền và Bàng thủ, và chú trọng sự chuyển biến giữa hai thế Than và

Bàng thủ.

“Li song thủ” bắt đầu với “Bàn thủ” và tiếp với phương pháp “Nhất phục nhị” để cuối cùng tới li thủ tự do, áp dụng nguyên

lý “Bất truy thủ”, “Tá lực xảo đả”, “Tiêu đả đồng thời”, “Tá lực phản đàn, khiêu kiều sang công”, “Kiều để xuyên xuất”, “Án

đầu ngật vỹ”, “Lại lưu khứ tống, súy thủ trực xung”…

Trong phương pháp “Li cước” hai người đứng trên một chân, dùng chân kia chạm nhau, tạo sơ hở bằng những đòn móc

chân (Khấu thoái) để rồi tấn công bằng những thế đá của môn phái.

6) Mộc nhân thung :

Thủ công phản biến thể hiện rõ trong bài nầy. Bài còn chủ luyện lực, kết cấu của mộc nhân buộc người tập phải biết

dùng lực, mới làm rung chuyển thân của mộc nhân. Toàn bài của chi phái Hương Cảng gồm 140 thế sau Diệp Vấn giảm

lại còn 116 thế, trong đó có 16 thế cước của môn phái (thật sự là 8 thế nhưng dùng bên trái và bên phải). Đặc biệt hai

thế Thập tự thoái và Tiệt tảo thoái, ngược lại với tất cả thế cước khác, dùng chân sau để đá.

Theo Lương Đỉnh (Leung Ting), tám thế cước là : Trực đăng thoái, Hoành sanh thoái, Tà đà tất thoái, Thập tự thoái hay

Hoành sái thoái, Tiệt tảo thoái, Khấu đàn thoái, Tà đà cước thoái, Hoành đà tất thoái.

Bài còn phát triển nguyên tắc “Tam giác”.

Bài Mộc nhân thung chi phái Quảng Đông có hơn 160 động tác.

7) Lục điểm bán côn :

Cây côn sử dụng trong môn phái thuộc trường côn, dài ít nhất 2 thước rưỡi. Bộ pháp bao gồm Tứ bình mã và Tý ngọ mã

là những bộ pháp thực dụng trong những môn phái tỉnh Quảng Đông, khác hẳn với những thế tấn đặc biệt của quyền

thuật Vịnh Xuân.

Theo Lương Đỉnh, bảy thế côn căn bản là : Thương, Khuyên cái, Thiêu, Bát, Trừu, Đàn và Bán già.

Côn pháp tuy giới hạn về thế căn bản nhưng được hổ trợ bởi nguyên tắc “Tùy địch chi biến nhi biến”, “Dĩ vô chiêu thắng

hữu chiêu” và phương pháp “Li côn”.

Phương pháp “Li côn” tương tự như “Li thủ”, hai côn giao nhau chuyển động theo “Khuyên côn”, từ đó ta tìm hay tạo sơ

hở, kiềm chế hay đánh rơi côn đối phương để tiến nhập tấn công bụng, ngực, cổ họng hay màng tang địch thủ bằng

những thế “Tiêu long thương”, “Bán già”…

8) Bát trảm đao :

Đao sử dụng trong bài thuộc loại Hồ điệp song đao (song tô). Bài chia ra tám đoạn, mỗi đoạn phân tách một thế đao

chánh. Như côn pháp, đao pháp áp dụng nguyên tắc kiềm chế hay đánh rơi binh khí địch để nhập nội an toàn kết thúc

trận đấu.

Theo Lương Đỉnh, Diệp Vấn chỉ dạy bài Bát trảm đao cho bốn người đệ tử. Hiện nay, nhiều bài đao khác nhau mang tên

nầy, khó phân biệt được bài nào truyền lại từ Diệp Vấn.

Theo Diệp Chuẩn, tám đoạn bài Bát trảm đao là : 1) Giáp đao thức, 2) Lập trảm đao, 3) Than trảm đao, 4) Song canh

đao, 5) Cổn bàng đao, 6) Nhất tự đao, 7) Vấn đao, 8) Quải đao.

Ngoài những bài nêu trên, Vịnh Xuân Quyền còn có nhiều phương pháp luyện tập phụ thuộc bổ túc : đá Tam tinh thung,

đánh bao cát…

Lịch sử Vịnh Xuân Môn hổn hợp nhiều truyền thuyết từ nguồn gốc khác nhau, cần xét lại trong một khuôn khổ khác. Chi

phái của Diệp Vấn phổ biến hơn những chi phái khác. Vịnh Xuân Quyền sử dụng một số giới hạn đòn thế đơn giản

nhưng hữu dụng. Là một phái chuyên cận chiến nên đã phát triển tới mức độ cao phương pháp “niêm thủ thính kình” và

nguyên tắc “mượn lực địch để phản công”. Riêng Lục điểm bán côn tuy không phải là một võ khí dùng đánh gần nhưng

không vượt ngoài lý thuyết đã dựng lên một nên tảng vững chắc cho môn phái.

Page 57: vinh xuan.docx

Tài liệu tham khảo

1) Leung Ting, Wing Tsun Kuen, Hương Cảng, 1978,

2) Genealogy of Ving Tsun Kuen, Hương Cảng, 1990,

3) Yip Chun, 116 Wing tsun dummy techniques, Hương Cảng, 1991,

4) Wu Bin, Li Xingdong và Yu Gongbao, Essentials of Chinese Wushu, Trung Quốc, 1992,

5) Yip Chun và Connor Danny, Wing Chun, skill and philosophy, Luân Dôn, 1992,

6) Võ Lê, Vài danh sư Vịnh Xuân phái trước năm 1975 ở Sài Gòn, Chợ Lớn, Sổ Tay Võ Thuật 35, năm 1996.

Nguồn: Sổ Tay Võ Thuật số 47, tháng 5 năm 1997

Tác giả: Nguyễn Quí Jacques & Dufresne ThomasShare this:

Print

Đang tải...

Thế nào là chân truyền? ai là người được chân   truyền? Tháng Tư 14, 2009

vinhxuanquyen Bài viết, Khác, Tham khảo Chân truyền trong vĩnh xuân, nguồn gốc vịnh xuân, vịnh xuân chân truyền Để lại

bình luận

Bài viết này đề cập đến các vấn đề liên quan đến môn Thái Cực Quyền. Nhưng có giá trị tham khảo hữu ích cho môn

Vĩnh Xuân và nhiều môn khác. Bài viết theo hình thức vấn đáp, nội dung hay và hóm hỉnh, đáng để chúng ta suy ngẫm.

Cuồng Sinh luận Thái Cực Quyền

Vấn: Người ta thường nói rằng Thái cực quyền (TCQ) là Nội gia quyền, tiên sinh thấy sao ạ?

Đáp: Sự thực như vậy, không hoài nghi gì.

Vấn: Vậy TCQ hay ở chỗ nào?

Đáp: Lý luận độc đáo, công pháp tạo được sinh diện mới. Luyện quyền này có thể không thành công, nhưng không hại

thân. Khác với các loại quyền khác ở đó.

Vấn: TCQ có thể đánh người không? tại sao thấy ít cao thủ TCQ đánh người?

Đáp: Không đánh người, không gọi là quyền, quyền tức là đánh người! Môn phái nào cũng vậy. Môn TCQ được chân

truyền ít, người tập thì đông, nhưng đạt chân căn ít, thuyết đại ngôn nhiều. Đắc chân truyền thì thành đại sư.

Vấn: Thế nào gọi là chân truyền? ai được chân truyền.

Đáp: Lột tả được bản chất cốt lõi của công pháp tức là chân truyền. Dăm ba câu có thể nói hết, dăm ba chục ngày có

thể luyện tập thành công, ai đạt được điều này tức được chân truyền; ai mà ngày tháng luyện tập bất kiến công, người

đó không được chân truyền.

Vấn: Người ta thường nói là tập TCQ cần hao tốn tâm lực, mỗi ngày luyện 7-8 giờ, vài chục năm như 1 ngày, thì mới

thấy công hiệu, xin hỏi nói như vậy có đúng không?

Đáp: TCQ là gì, có giá trị gì với đời người! Một hai ngày có thể, cả đời người còn cha mẹ, vợ con? Nếu như vậy thì dạy

người dương gian hay dạy âm hồn nơi âm phủ?

Vấn: Tiên sinh nói TCQ luận viết không sai, mọi người đều đọc 1 quyển sách, công hiệu sao khác nhau như trời với đất

vậy?

Đáp: thư là tử chữ, văn là hoạt văn. Đọc sách nơi không chữ, có mấy người làm được? lại còn đọc cắt đoạn, có lúc ý

nặng tạp… như thế khác nào chết đọc sách, đọc sách chết, đọc chết sách… như thế làm sao thấy chân kungfu?

Vấn: Tiên sinh nói vậy quá nặng! Sách là giấy trắng mực đen, sao có thể thay đổi?

Đáp: Các bậc tiền bối viết sách như vậy sao? Chẳng có tí bản thảo gốc nào, dựa vào cái gì để in? sao có thể tuyệt đối

tin tưởng? câu ‘Hoàng sa viễn thượng bạch vân gian’đều bị viết thành ‘Hoàng hà viễn thượng…’in thành sách lớn nhỏ;

trong quyền thuật, ai dám khẳng định không có sai sót nào? Điều đó cần khảo sát lại.

Vấn: Các đại sư đời sau tiếp đời trước truyền lại, làm sao sai được?

Đáp: Tại sao không? Anh xem Thái cực Bát pháp, trong đó có chữ ‘chỏ’, đại sư đều truyền ‘dĩ chỏ bộ…nhân’. Vạn người

nói như nhau, không chút sai biệt mà không biết ‘chỏ’ trong tiếng địa phương Hà nam có ý nghĩa là ‘nâng cử’. Các đại sư

đều không nghĩ rằng trong 8 đó chữ thì 7 chữ là kỹ pháp, sao lại có 1 chữ là tên 1 bộ phận cơ thể?…

Page 58: vinh xuan.docx

Vấn: Tiên sinh nói rằng 1 số chữ phải đổi vị trí mới hiểu được chân ý, vậy có gì làm chứng?

Đáp: Câu ‘cực nhu nhuyễn nhiên hậu cực kiên cương, cực trầm trọng nhiên hậu cực linh hoạt’ là sai. Chính xác là ‘cực

nhu nhuyễn nhiên hậu cực linh hoạt, cực trầm trọng nhiên hậu cực kiên cương’. Thân thể nhu nhuyễn tự nhiên động tác

sẽ linh hoạt, nắm vững kỹ thuật phát thanh tự nhiên phát lực cương mãnh, điều đó ai cũng biết…

Vấn: Tiên sinh nói rằng có chỗ phải đọc ngược lại là thế nào ạ?

Đáp: Câu ‘động chi tắc phân, tĩnh chi tắc hợp’! cần đọc là ‘động chi tắc hợp, tĩnh chi tắc phân’ mới có ích. ‘Động chi tắc

hợp’ tức ‘đả đắc chỉnh kình’.’Tĩnh chi tắc hợp’ tức đối lập hỗ tranh, tự ngã phương đại. Động thì thức tán, tĩnh thì thu lại!

Câu ‘lập như bình chuẩn, hoạt tựa xa luân’ thành ‘lập như xa luân, hoạt tựa bình chuẩn’. ‘Lập như xa luân’ mới có tể kiến

lực đắc lực; ‘hoạt tựa bình chuẩn’ mới ‘1 cọng lông không thể thêm’…

Vấn: Trời ạ, vậy là ngược lại hoàn toàn!

Đáp: Không phải giật mình, anh cứ nghe theo tôi nói mà tập thử. Tôi yêu quyền, càng yêu chân quyền, chân lý. Tôi cho

rằng lý luận mà không chỉ đạo được thực tiễn thì lý luận đó đó không phải chân lý.

Vấn: Theo tiên sinh ai là người phát minh ra TCQ.

Đáp: Người ta nếu không mượn gia phả, ngũ giới mà ‘thư điển vong tổ’, không nhìn hình ảnh, ai biết tổ tông trông thế

nào. TCQ có lịch sử lâu đời, lịch đồ không thống nhất, bất tất phải tự sáng tạo này nọ, gây bất lợi cho tâm; học tốt, luyện

tốt TCQ là cách kỷ niệm tốt nhất với Sáng tổ TCQ. Tên của Sáng tổ là gì, bất tất truy tìm làm gì?

Vấn: Tôi luyện TCQ đã được mấy năm, mọi người đều bảo tôi tập tốt, chỉ có tiên sinh bảo rằng chưa tốt. Không biết tôi

đã làm gì chưa đúng?

Đáp: Theo tôi thấy, anh phạm phải những sai lầm mà đa số người tập TCQ phạm phải:

– luyện quyền qui phạm cứng nhắc, không khác nào bản sao của thầy. Căn bản thiếu thiên tính, linh tính và ngộ tính,

đem việc mình luyện quyền thành quyền luyện mình…

– anh mang hy vọng thực chiến vào đẩy tay, phạm sai lầm trong tư tưởng chỉ đạo. Cần biết rằng thôi thủ là tiền đề tiếp

thủ chiến đấu, mà thực tế đấm đá không để anh tiếp thủ; tuy luận thôi thủ anh không kém, nhưng thực tế anh còn xa mới

biết nổi tam lưu quyền của quyền anh…

– anh luyện thiên vạn lượt quyền giá thì có thể luyện thành kungfu nhất xúc chi phát, vô điểm bất phát đàn lực chăng?

những cái đó không cùng 1 cách thức! anh đi quyền người cứng đơ, vạn năm anh cũng không học được phát lực; muốn

học phát lực, anh phải nghiên cứu quĩ tích vận động.

Vấn: Những điều tiên sinh nói, tôi chưa từng được nghe sư phụ giảng. Đối với sư phụ, tôi rất tôn kính, phải chăng sư

phụ đối với tôi vẫn bảo thủ?

Đáp: Tôi không tiện nói…

Nguồn: Internet

Dịch giả: Quân (Thaicucquyen)Share this:

Print

Sư tổ Nguyễn Tế Công luyện mộc   nhân Tháng Tư 8, 2009

vinhxuanquyen Bài viết, Mộc nhân, Video mộc nhân vịnh xuân, mộc nhân vĩnh xuân, nguyễn tế công, nguyễn tế vân, Nguyen

Te Cong, nguyen te van, tài cống, tập mộc nhân Để lại bình luận

Xin giới thiệu các với các huynh đệ hai đoạn slide show Đại sư Nguyễn Tế Công, sư tổ của Vĩnh Xuân Việt Nam,

đang luyện với mộc nhân. Các bức ảnh trong hai slide show này thuộc bộ ảnh gần 100 bức ảnh chụp đại sư Tế Công

đánh mộc nhân khi người đã bát thập cổ lai hi. Đây là những tư liệu ảnh lịch sử hết sức quí giá cho các thế hệ những

người luyện tập môn Vĩnh Xuân sau này. Xin chân thành cảm ơn vị huynh đệ đã cất công làm ra các slide show này.

Share this:

Print

Page 59: vinh xuan.docx

Phá gia chi tử (Đường quyền Vĩnh   Xuân) Tháng Tư 6, 2009

vinhxuanquyen Bài viết, Khác, Lý thuyết, Phim tư liệu, Video Bài viết, hoang hoa bao, luong nhi ti, luong tan, vinh xuan quyen

Để lại bình luận

Có lẽ đây là một trong những bộ phim hay nhất từ trước đến nay về môn Vĩnh Xuân Quyền. Bộ phim này được sản xuất

năm 1982 tại Hồng Kông do các diễn viên nổi tiếng Yuen Biao, Lam Ching Ying, và Samo Hung, thủ vai Lương Tán,

Lương Nhị Tì và Hoàng Hoa Bảo.

Bộ phim nói về các nhân vật lịch sử trong môn Vĩnh Xuân là Lương Tán, Lương Nhị Tì và Hoàng Hoa Bảo. Lương Nhị Tì

là quyền sư rất giỏi về côn pháp Thiếu Lâm, còn Hoàng Hoa Bảo rất giỏi về quyền pháp Vĩnh Xuân. Hai người đã trao

đổi các tuyệt kỹ của mình cho nhau và hình thành nên những kỹ thuật mới hết sức hiệu quả của môn Vĩnh Xuân. Sau

này họ truyền lại các tuyệt kỹ Vĩnh Xuân của mình cho Lương Tán, một lương y ở Phật Sơn rất đam mê võ thuật. Lương

Tán với các tuyệt kỹ học được đã làm rạng danh môn Vĩnh Xuân. Ông được người đời gọi là Vĩnh Xuân quyền vương.

Xin giới thiệu đoạn phim hai vị ân sư đang truyền dạy cho các tuyệt kỹ của môn Vĩnh Xuân cho Lương Tán. Đoạn phim

rất hài những cũng rất hay. Mời các bạn cùng xem.

Share this:

Print

Giới thiệu chi phái Vịnh Xuân Phật Sơn Diêu   Tài Tấm ảnh trên là tấm ảnh chụp kỷ niệm tại Phật Sơn giữa chi phái của cố võ sư Trần Văn Phùng do võ sư Trịnh

Quốc Định  dẫn đầu (đứng thứ 4 từ bên phải sang) với võ sư Diêu Trung Cường, tác giả của bài viết (người mặc áo đỏ,

đứng thứ 3 từ bên phải sang) và võ sư Nguyễn Tổ Đường, cháu nội của Đại sư Nguyễn Kỳ Sơn (đứng thứ 4 từ bên trái

sang). Võ sư Diêu Trung Cường là cháu nội của cố võ sư Diêu Tài, học trò đầu tiên của tôn sư Nguyễn Tế Công trước

khi người sang Việt Nam. Diêu Tài rất nổi tiếng tại Phật Sơn, ông được xem là một trong Phật Sơn Tam Hùng (gồm có:

Nguyễn Kỳ Sơn- em trai của sư tổ Nguyễn Tế Công, Diêu Tài và Diệp Vấn). Để biết rõ hơn về chi phái Vịnh Xuân Diêu

Tài xin tham khảo bài viết của võ sư Diêu Trung Cường.

 

Chi phái Vịnh Xuân Diêu Tài

Phật Sơn Vịnh Xuân quyền là quyền thuật nổi tiếng của chi phái phía nam, nguồn gốc của Vịnh Xuân phái bắt nguồn ở

Quách Bảo Toàn Khâm Châu và Lương Tán Phật Sơn truyền xuống, Vịnh Xuân quyền có nguồn gốc từ Nghiêm Vịnh

Xuân. Vịnh Xuân là người huyện Nam Điền tỉnh Phúc Kiến, từ nhỏ mất mẹ hai cha con dựa vào nhau mà sống. Nghiêm

Tứ phụ thân của Vịnh Xuân theo học võ nghệ ở Thiếu Lâm, ông là đệ tử tục gia của Thiếu Lâm, là anh em với Ngũ Mai,

Chí Thiện v.v… Sau khi Nghiêm Tứ học xong võ thuật ở Thiếu Lâm về huyện thành quê nhà mở cửa hàng bán đậu phụ.

Thời gian nhàn rỗi thì truyền dạy võ thuật Thiếu Lâm cho Vịnh Xuân.

Giữa năm Gia Khánh triều Thanh, đại sư Ngũ Mai vân du đến núi Cửu Liên, ở tại một thiền viện. Nghiêm Tứ sau khi hay

tin vội đưa con gái đến thăm hỏi có ý xin Ngũ Mai nhận Vịnh Xuân làm môn đồ, xin được tiếp tục nâng cao. Một ngày kia

sau khi Vịnh Xuân luyện tập được không lâu, bỗng nghe trong rừng có tiếng chim hạc kêu, bay lên bay xuống lấy làm lạ.

Nên Vịnh Xuân âm thầm quan sát, nhìn thấy chim hạc trắng đang đang tranh đấu với một con rắn độc. Chim hạc trắng

với sự linh hoạt của đôi cánh và cái mỏ mà mổ con rắn độc, con rắn độc cũng tư thế để nghênh chiến. Vịnh Xuân quan

sát hồi lâu, thấy có sự liên quan tới nguyên lý võ thuật và chợt giác ngộ ra. Tự mình sáng tạo ra một bài võ và xin Ngũ

Mai chỉnh sửa cho. Trải qua nhiều năm rèn luyện nghiên cứu, lần lượt sáng tạo ra ba bài quyền: Tiểu Niệm Đầu, Tầm

Kiều, Tiêu Chỉ và Nhị Tự Kiềm Dương Mã Đoạt Mệnh Đao.

Page 60: vinh xuan.docx

Người dân tỉnh Quảng Tây Lương Bá Trù vốn người yêu thích võ thuật, có một ngày kia cùng bạn bè uống rượu say, tàn

cuộc trên đường trở về nhìn thấy ánh sáng hắt ra ở một cửa hàng bán đậu phụ, bên trong vọng ra có tiếng luyện công.

Lương dừng chân nhìn trộm qua khe cửa, thấy một cô gái lanh lợi đang luyện võ, hai chân hơi trùng xuống, hai đầu mũi

chân hướng vào trong, chân ở cự ly hẹp, ra đòn có nội lực, quyền pháp chặt chẽ trước giờ Lương chưa bao giờ thấy cả,

lấy làm kinh ngạc vô cùng. Sớm ngày hôm sau Lương hỏi thăm bạn bè biết đấy là Nghiêm Vịnh Xuân con gái của

Nghiêm Tứ đệ tử Thiếu Lâm, võ thuật tinh thông, chưa lập gia đình. Lương có ý làm quen, thử tay thì thua, ngưỡng mộ

Vịnh Xuân võ thuật cao cường, có ý muốn cầu thân với Vịnh Xuân. Bởi Nghiêm Tứ không có con cháu trai nên yêu cầu

Lương ở rể họ Nghiêm. Sau Lương được Vịnh Xuân truyền dạy môn võ này, trình độ võ học của Lương Bá Trù thăng

tiến nhanh chóng, là chân truyền của Vịnh Xuân.

Giữa năm Gia Khánh triều Thanh, có người Khâm Châu Quảng Tây tên gọi La Vãn Cung có quan hệ bạn bè vong niên

với cha của Vịnh Xuân, rất ngưỡng mộ tài năng võ thuật của Vịnh Xuân. Bởi vậy, sau khi Vịnh Xuân và Lương Bá Trù

thành thân, hai vợ chồng truyền dạy cho La Vãn Cung. Được sư phụ hết lòng dạy dỗ, khổ công luỵên tập, võ nghệ tinh

thông nên danh tiếng khắp thiên hạ với danh hiệu La Vãn Cung tinh thông xuất thần quyền pháp. Sau này La Vãn Cung

truyền dạy cho Quách Bảo Toàn người Hạ Tứ phủ Khâm Châu. Quách từ nhỏ đã say mê võ thuật đã theo học sư phụ La

Vãn Cung nhiều năm, cố gắng luyện công học hết kỹ thuật võ công của thầy. Sau khi Quách Bảo Toàn học thành liền

dậy cho đồ đệ ở Khâm Châu, danh nổi khắp vùng Hạ Tứ phủ, thành thầy dạy võ nổi tiếng, bởi sử dụng song đao mà có

tên Quách Bảo Toàn song đao.

Nguyễn Tế Vân người chấn Phật Sơn (nay gọi Tế mặt dỗ), người cha của Tế là danh gia vọng tộc ở Phật Sơn. Nguyễn

Tế Vân từ nhỏ đã là người ham mê võ thuật, đã từng mời rất nhiều thầy dạy võ nhưng vẫn chưa hài lòng. Một lần theo

cha xuống vùng Khâm Châu làm ăn, tình cờ gặp được võ sư Quách Bảo Toàn nổi tiếng Khâm Châu lúc đó. Cha của

Nguyễn với hậu lễ (bốn trăm lạng bạc trắng ) để mời Quách Bảo Toàn đến Phật Sơn truyền dạy võ công cho Nguyễn Tế

Vân. Từ đó, Nguyễn toàn tâm toàn ý, khổ công luyện tập, mỗi ngày tài nghệ võ thuật tiến bộ vượt bậc, cao thâm, thành

bậc cao thủ.

Diêu Tài: sinh năm Quang Tự nhà Thanh thứ mười sáu (năm 1890-1856), tên gọi Tài lực sĩ, Tài béo, có sức khỏe kinh

người, có thể dang hai tay treo một bồ thóc nâng lên nhẹ nhàng mà mặt không biến sắc. Từ nhỏ theo thầy Nguyễn Tế

Vân học võ, được thầy truyền dạy bài bản chuyên sâu, hơn nữa từ nhỏ vốn đã mê võ nên dưới sự chỉ bảo nhiệt tâm của

Thầy và ngày đêm khổ luyện đã đạt trình độ cao thâm võ thuật trong vòng mười năm. Truyền kỳ về Diêu Tài lúc sinh thời

rất nhiều, những năm 20 đã từng hạ đổ võ sư nổi tiếng ở Nam Hải người tự lập ra võ đài, người này tự nhận mình là

người có võ thuật phi thường, có cây gỗ bằng miệng bát mà chỉ dùng tay gạt một cái thì gãy, tự nhận đánh bại tất cả cao

thủ võ lâm ở Nam Hải, Phật Sơn, mấy cao thủ lên đài tỷ thí đều bị thua hết. Lúc đó Diêu Tài ở dưới đài thấy rất bực tức

nói một mình thì bị phát giác, ép không lên võ đài không được, sau khi Diêu Tài lên đài với tuyệt kỹ võ công Vịnh Xuân

mượn lực đánh lực, đánh cho tên võ sư này rơi khỏi võ đài, tên võ sư này không còn gì để nói nữa, tâm phục khẩu phục,

chỉ còn biết cuốn gói rời khỏi Quảng Đông về quê, tất cả anh em bạn bè đều võ tay lấy làm vui.

Cuối năm Gia Khánh, Hoàng Hoa Bảo võ sinh hội quán Quỳnh Hoa Phật Sơn và Nhị Hoa Diện Lương Nhị Thể xuống

thuyền hồng diễn xuất(thuyền hồng- gánh hát) ở đây đã gặp Lương Bá Trù, hay biết tinh tuý môn võ Vịnh Xuân, có ý

được theo học, Lương Bá Trù nhận lời thu nhận hai người làm đồ đệ, là đệ tử chân truyền của Lương.

Mấy năm trôi qua, ở chấn Phật Sơn có người tên Lương Tán người làng Cổ Lao Tam Châu huyện Hạc Sơn. Cha của

Lương Tán vốn là ông chủ hiệu thuốc, mở tiệm thuốc Sinh Thảo ở Phật Sơn, sống bằng nghề bán thuốc. Lương Tán từ

nhỏ đã thích học y thuật, theo cha lên Sinh Thảo đường để phụ việc, tích cực học y thuật, đặc biệt chuyên khoa về cao

trị chấn thương, có tâm nghiên cứu nhưng vẫn chưa có được bao nhiêu thành tựu. Sau khi cha qua đời, Lương mở rộng

tìm thầy bạn bè, sau gặp gỡ Hoàng Hoa Bảo ở hội quán Quỳnh Hoa và kết giao bạn bè.

Hoàng Hoa Bảo và nhóm người ở gánh hát trong diễn võ thuật đã sớm nổi danh ở vùng Quảng Đông, lúc đó Hoàng Hoa

Bảo sống ở phố Thanh Vân chợ Khoái Tử chỉ cách tiệm thuốc của Lương Tán có trăm bước, Hoàng Hoa Bảo thường

sang nhà Lương Tán ngồi chơi, sau kết thành bạn thân. Lương Tán thấy Hoàng Hoa Bảo là người tinh thông môn võ

Vịnh Xuân, nên bái Hoàng Hoa Bảo làm thầy. Mấy năm sau, Hoàng Hoa Bảo theo thuyền đi biểu diễn. Khi chia tay

Hoàng Hoa Bảo gặp sư đệ Lương Nhị Thể, hai người vốn rất thân với nhau nên thân lại càng thân, do vậy nhờ Lương

Page 61: vinh xuan.docx

Nhị Thể bồi dưỡng cho Lương Tán để kế tục võ thuật họ Hoàng và Lương, vậy nên Lương Tán là đệ tử chân truyền của

Hoàng Hoa Bảo. Lương Nhị Thể không những tinh thông võ thuật, y thuật cũng vô cùng thâm hậu, dưới sự tận tâm

truyền dạy, hơn nữa Lương Tán thông minh, y võ đều đạt thành công. Lúc đó đã vào năm cuối Đạo Quang, Lương tiếp

tục hành y cứu thế, mở hiệu thuốc Tán Sinh Đường, kiêm y nắn bó gãy xương. Lương là người làm việc thiện, được

lòng mọi người và quảng giao rộng rãi giang hồ hào kiệt có tên gọi “Vua quyền Vịnh Xuân- ông Tán Phật Sơn” nổi tiếng

khắp vùng Phật Sơn. Nhưng đệ tử được Lương Tán truyền dạy không nhiều vì Lương Tán là con người chất văn, thư

sinh, không thích dạy võ cho người, chỉ dậy võ cho con trai Lương Xuân, Lương Bích, Trần Hoa Thuận (tức người đi đổi

tiền) và người ở tiệm thịt lợn là Lương Quý.

Trần Hoa Thuận ở ngõ Tứ Tiện Phật Sơn mở võ quán nhưng môn đồ không nhiều, chỉ dạy cho con trai Trần Nhữ Miên

và Lôi Nhữ Tế v.v… Cha của Ngô Trọng Tố và Trần Hoa Thụân vốn là bạn thân (cha của Ngô là chủ hiệu đồ gốm sứ, gia

đình giàu có, thường tài trợ cho Trần Hoa Thuận), Ngô Trọng Tố rất thích võ thuật, được cha mời Trần Hoa Thuận về

làm thầy, sau thành đệ tử chân truyền của Trần Hoa Thuận.

Về sau, Nguyễn Tế Vân muốn đi An Nam (tức Việt Nam) để quảng bá võ Vịnh Xuân, bởi nhận thấy Diêu Tài là vốn quý

võ học, có đưa Diêu Tài đến nhà Ngô Trọng Tố, bái Ngô Trọng làm thầy để được dạy dỗ thêm (Nguyễn Tế Vân và Ngô

Trọng Tố vốn là bạn hữu thân thiết), Ngô Trọng Tố chuyên tâm bỗi dưỡng cho Diêu Tài, cùng với Nguyễn Kỳ Sơn và

Diệp Vấn cùng được thầy Ngô chỉ dạy, đào tạo nâng cao, ba người thường trao đổi với nhau. Sau này Diêu Tài cũng

mời ông Quách Bảo Toàn chỉ đạo nâng cao, lúc đó trình độ Diêu Tài càng được nâng cao. Lúc đó người trong môn phái

Vịnh Xuân gọi Nguyễn Kỳ Sơn, Diêu Tài và Diệp Vấn là “Ba người hùng Vịnh Xuân” danh tiếng một thời.

Ngô Trọng Tố từng mở một võ quán ở phố lớn Thạch Lộ Đầu, lúc đó dưới sự quản lý của Ngô, phần lớn là giới những

thương nhân giàu có như ông chủ hiệu bánh Hợp Ký tên Hà Triệu Sơ, danh y thiết đả Lý Thọ Bành ( người tập Lục Điểm

Bán Côn tương đối có thành tựu), ông chủ hiệu ngũ kim Đại Ích tên Trương Thăng Nhược, Lý Thí Hào ông chủ nhỏ hiệu

Lý Chúng Sinh đường, Lương Phúc Sơ người quản lý kho trà của Bình Tâm và La Hậu Phố chủ hàng rượu Anh Tụ và

Hoắc Gia Siêu con nhà giàu có và con của Ngô Trọng Tố là Ngô Nhất Phi v.v… Ngô Trọng Tố trong giới võ thuật giao du

rất rộng, chơi với bạn bè coi vàng như đất, rất trọng nghĩa khí nên khi ông Ngô sắp mất thì cuộc sống rất khó khăn, lúc

đó Diêu Tài, Lý Thọ Bành, Lý Thiệu Sơ và Tiển Thất nuôi ông.

Còn về quyền thuật của chi phái Vịnh Xuân Diêu Tài chia ra gồm có: Tiểu Niệm Đầu, Tầm Kiều, Tiêu Chỉ. Vũ khí có: Nhị

Tự Kiềm Dương Mã Đoạt Mệnh Đao, Lục Điểm Bán Công v.v… Diêu Tài khi thành công sau này đem toàn bộ tuyệt kỹ

bản môn truyền cho con trai là Diêu Kỳ và Cao Bình, Cao Mãn, Diêu Thích, Hoắc Siêu (từ sớm di cư và phát triển môn

võ ở Hồng Kông), Lương Thích Lân, Ngô Thất, Trần Châu, Tiển Thất, Lâm Thụy Văn, Lâm Thụy Ba, Trần Hồng, Ngô

Nhật Minh v.v…

Diêu Kỳ: (1922-1996). Từ nhỏ theo cha học võ Vịnh Xuân được luyện Vịnh Xuân nhiều năm nên được chân truyền của

cha. Thời trẻ từng học của Ngô Trọng Tố, Nguyễn Kỳ Sơn và y thuật và côn thuật của Lý Thọ Bành – ngườicó biệt danh

là vua côn, thường giao lưu học tập với ba người hùng Vịnh Xuân, đạt độ tinh tuý võ Vịnh Xuân. Thời kỳ đảm nhận trợ

giáo cho cha, sau khi cha qua đời lên đảm nhận dạy chính, giúp đệ tử sau này để thành tài, sự cống hiến phát triển của

chi phái Vịnh Xuân Diêu Kỳ là không thể mai một. Truyền thuyết về Diêu Kỳ rất nhiều, những năm 40 từng đến Hồng

Kông mưu sinh, đảm nhiệm chức cố vấn y học của Tổng công hội Hồng Kông, lúc đó tình hình Hông Kông vô cùng rối

loạn, các thế lực băng phái rầm rộ, ông đã từng cọ sát với băng nhóm xã hội đen Hồng Kông lúc đó nhiều lần. Dù chúng

bố trí hàng trăm người nhưng ông vẫn đơn thân độc mã đến tham dự nói với chủ bang và xảy ra các xung đột. Diêu Kỳ

chỉ một đòn đánh đã chế phục được tên bang chủ, anh hùng trọng anh hùng nên ông hai người kết bạn. Còn về quyền

thuật của Diêu Kỳ Vịnh Xuân gồm: Tiểu Niệm Đầu, Tầm Kiều, Tiêu Chỉ; vũ khí gồm có: Nhị Tự Kiềm Dương Mã Đoạt

Mệnh Đao và Liêm Đao, Lục Điểm Bán Côn và Niêm Côn; Thung pháp gồm: Trúc Thung, Đao Thung, Côn Thung; Thủ

pháp có: Than Thủ, Phục Thủ, Bàng Thủ, Canh Thủ, Bạt Thủ, Đàn Thủ, Nạp Thủ, Sát Thủ, Cát Thủ, Câu Thủ, Tầm Kiều

Thủ, Lan Kiều Thủ, Tiêu Chỉ Thủ, Giao Triển Thủ, Công Than Thủ, Thoát Thủ v.v… Chưởng pháp gồm có: Phật chưởng,

Xí Chưởng, Hoành Chưởng, Để Chưởng, Thiết chưởng, Tắc Chưởng, Đốn Chưởng, Bái Phật Chưởng v.v… Quyền

pháp có: Xung quyền, Bạo Quyền, Sát Quyền, Tiễn Quyền, Phao Quyền v.v… Cước pháp có: Hoàn Hình Cước , Đao

Cước, Bạt Cước, Đạp Cước, Tắc Thân Cước, Trích Tinh Cước v.v… Mã bộ gồm có: Nhị Tự Kiềm Dương Mã, Độc

Cước Mã, Tiền Tiễn Hậu Cung Mã, Tẩu Mã, Tiến Mã, Thối Mã, Tọa Mã, Chuyển Mã, Tọa Hậu Mã v.v… Chỉu Pháp có:

Page 62: vinh xuan.docx

Quỳ Chỉu, Phê Chỉu, Bạt Chỉu v.v… Luyện kỹ thủ pháp có: Đơn Khuyên Thủ, Song Khuyên Thủ, Đơn Chiếm Kiều, Song

Chiếm Kiều, Đơn Liêm Thủ, Song Liêm Thủ và Quá Thủ v.v… Luyện kỹ tán thủ có: Đơn Xà Hình Thủ, Song Xà Hình

Thủ, Xí Mã, Bão Cầu, Xuất Kiên, Đả Đăng, Tẩu Mã Chỉu, Liên Để Chỉu v.v… Niêm thủ là võ công thượng thừa của võ

Vịnh Xuân, lúc bắt đầu hai người tập đơn niêm thủ và song niêm thủ, hai bên công thủ, người luỵên tập thủ pháp thành

thục, hai người nhắm mắt niêm thủ. Người có kỹ thuật cao hơn một bực, hai người đứng trên Bát tiên đài nhắm mắt

niêm thủ, hai bên công thủ lẫn nhau, nếu người luyện tập thủ pháp không thuần thục rất dễ bị ngã xuống đài. Trúc Thung

rút ra miếng ván đóng lên tường đục sẵn 11 lỗ đóng những ngọn trúc có độ dài thích hợp, luỵên tập thủ pháp thiên biến

vạn hóa. Nhị Tự Kiềm Dương Đoạt Mệnh Đao: chủ yếu phân thành 12 chiêu thức, đao pháp là vận dụng thủ pháp của

Vịnh Xuân quyền, kết hợp công thủ làm cơ sở, đưa địch thủ đến chỗ chết. Lục Điểm Bán Côn hay còn gọi là Thử Vĩ Côn,

Điếu Ngư Côn, dài bảy thước hai, chiêu thức nhìn chung là sáu chiêu rưỡi. Người được Diêu Kỳ chân truyền có: Đồ đệ

đầu tiên Hà Hải Lâm, con trai Diêu Vĩnh Cường, Diêu Hán Cường, Diêu Trung Cường và Lương Quyền, Khu Tuyền,

Vương Bỉnh, Hà Hiển Quang, Xuyển Xương, Lục Bách Hằng, Hoàng Chử, Chung Húc Giang, Quách Như Minh, Lương

Vĩ Thành, Hoàng Trụ, Hứa Gia Tích, Cao Thiếu Diêu, Lương Kính Kỳ, Trần Chí Cương, Chu Xuân Vinh, Chiêu Nguyên,

Lâm Tuyết Mai v.v…

Những người luyện môn võ Vịnh Xuân trên đây mỗi người có thành tựu riêng, thu thập được nhiều môn đồ, đưa môn võ

Vịnh Xuân phát triển đi lên.

Tác giả: Diêu Trung Cường

Dịch giả: Võ sư Phan Dương Bình

Vịnh Xuân Hồng Kông đi về   đâu Người Sáng Lập 

Võ phái Vịnh Xuân ở Hồng Công bắt nguồn từ Tôn sư Diệp Vấn. Nó được thành lập vào cuối những năm 1940. Vịnh Xuân quyền nhanh chóng được chú ý do sự vượt trội và sâu sắc của nó. Nhiều người đến theo học Vịnh Xuân và nó trở thành một võ phái lớn trong những năm 1950. Vịnh Xuân đã đạt được nhiều vinh quang và sự nổi tiếng. Sau 40 năm phát triển liên tục, Vịnh Xuân lan truyền từ Hồng Công ra tòan thế giới. Mức độ thành công và sự phát triển kỳ diệu như vậy của Vịnh Xuân rất ít thấy trong võ sử Trung hoa.Đồng Nguyên Dị Lưu (cùng gốc khác phái)Hiện nay, Vịnh Xuân được học trên tòan thế giới. Có nhiều môn sinh và võ sư. Hầu hết các môn phái Vịnh Xuân hải ngoại đều có nguồn gốc từ dòng Tôn sư Diệp Vấn. Một số võ sư học trực tiếp Diệp Tôn sư, một số học từ các đệ tử của cụ.Một nửa thế kỷ qua đã có nhiều thay đổi cơ bản trong Vịnh Xuân quyền. Các võ sư khác nhau có các môn sinh khác nhau, và điều đó dẫn tới các cách hiểu khác nhau về quyền thuật. Họ cũng có suy nghĩ và phương pháp khác nhau trong luyện tập. Người ta đã thêm bớt từ nguyên gốc. Các kiến thức cũng bị thất truyền hay rơi rụng. Đã có các sai lầm không được sửa chữa. Như vậy là đã có các phiên bản Vịnh Xuân khác nhau đều phát triển và truyền lại tới nay. Đó bao gồm rất nhiều các trường phái với các tiêu chuẩn và đặc tính khác nhau. Vịnh Xuân trở nên phổ biến rất nhanh. Điều này là tốt, tuy nhiên sự giữ vững được tính chuẩn xác không thể bị coi thường. Số lượng là quan trọng nhưng chất lượng cần phải được giữ nghiêm. Nếu cứ phát triển như hiện nay, chẳng bao lâu nữa, Vịnh Xuân sẽ mất những điều căn bản như Diệp Tôn sư đã từng truyền dạy. Chúng ta phải xem xét cẩn thận tình trạng hiện nay của Vịnh Xuân, từ đó quyết định về phương hướng cho sự luyện tập và phát triển của Vịnh Xuân.Lưỡng Đại Chủ Lưu – Truyền Thống Phái và Cách Tân PháiVịnh Xuân hiện nay là một bát trận đồ. Nó có hai dòng chính. Để đơn giản, chúng ta gọi đó là Truyền thống Phái (TTP) và Cách tân Phái (CTP). Đầu tiên, thử xem mấy từ này có ý tứ gì.Truyền thống Phái: Là phái có ý thức gìn giữ những tri thức và quyền thuật do Diệp tôn sư truyền dạy từ những năm 1950. Họ dạy và truyền bá những nguyên tắc của Vịnh Xuân quyền nguyên gốc. TTP đã có những công lao lớn trong việc phát triển nhanh chóng Vịnh Xuân.

Page 63: vinh xuan.docx

Cách tân Phái: Người khởi xướng CTP học Diệp Tôn sư vào những năm cuối đời của cụ. Diệp tôn sư đã truyền cho ông ta các nguyên tắc cơ bản của quyền thuật và mộc nhân thung. Ông đã tập luyện chuyên cần, đến Phật sơn nhiều lần để nghiên cứu nguồn gốc Vịnh Xuân. Sau khi tìm hiểu và suy nghĩ sâu sắc, ông đã có những thay đổi và cách tân Vịnh Xuân, rồi truyền lại những điều đó cho các đện tử của mình. Hiện nay, trường phái của ông có nhiều người theo trên toàn thế giới cả ở Mỹ, Đức, Ai cập và nhiều nước khác.Cả hai phái đều có hệ thống lý thuyết của mình về công và thủ trong Vịnh Xuân. Họ cũng có cách kiến giải riêng về quyền pháp. Họ có các nguyên tắc độc đáo và sâu sắc dựa trên nguyên tắc của Vịnh Xuân về “tá lực” 借  力  (mượn lực), “tá lực” 卸力  (Trút lực), và “Lái lực” (chuyển hướng lực). Cả hai phái đều có những thành tựu nổi bật trong việc truyền bá và phát triển Vịnh Xuân.Thủ Pháp Bất ĐồngBây giờ chúng ta thử xem sự khác biệt về nguyên tắc giữa hai phái. TTP và CTP khác nhau đáng kể về quyền pháp trong cả Than Thủ 摊手  (Tay Mở), Bàng 膀  Thủ (Tay Cánh, Vai), Phục 伏  Thủ (Tay Ẩn) và Cổn 滾  Thủ (Tay Quay, Lăn tay), Tọa Mã 坐马  (thế tấn), Chuyển Mã 轉  馬  (Chuyển thế). Họ cũng hiểu khác nhau về nguyên tắc “Lai Lưu Khứ Tống” 來留去送 (Đến thì lưu giữ, rút thì đuổi theo) của Vịnh Xuân, cũng như các nguyên tắc mượn lực, trút lực, lái lực.Các phương pháp khác nhau có thể được phân phó như sau:1. Than Thủ: TTP: Khuỷu tay đặt trước ngực tạo thành hai đỉnh của chữ W, lòng bàn tay thẳng, chỉ tạo góc rất nhỏ ở cổ tay. CTP: Khuỷu tay kéo gần vào giữa ngực, trung chính. Cổ tay tạo một góc tù.2. Bàng Thủ : TTP: Cánh tay và cẳng tay tạo nên một góc. Cẳng tay quay đồng thời khi cánh tay vươn ra trước ngực, tạo thành bàng thủ. CTP: Góc giữa cẳng tay và cánh tay là khác. Khi xuất thủ, khuỷu tay quay trước, sau đó tòan cánh tay mới vươn ra trước ngực tạo thành bàng thủ. CTP cho rằng sẽ là sai nếu dùng bàng thủ trước khi chạm vào tay tấn công của đối thủ3. Phục Thủ: TTP: Góc ở khuỷu tay cũng như Than Thủ. CTP: Khuỷu tay đặt ở giữa ngực, trung chính4. Cổn Thủ : TTP: Nhấn mạnh rằng cổn thủ là sự phối hợp của Bàng thủ, Than thủ và Chuyển Mã. CTP: Khác về một số yếu tố của Than Thủ và Chuyển Mã.5. Tọa Mã: TTP: Chân tạo thành góc lớn hơn 60 độ. CTP: Góc đó bằng 60 độ.6. Chuyển Mã : TTP: Một số dùng giữa lòng bàn chân, một số dùng gót để xoay chân đồng thời chuyển mã bộ. CTP: Dùng giữa bàn chân, và xoay lần lượt từng chân để chuyển mã.7. Cả hai phái có tọa mã và chuyển mã khác nhau, do đó dẫn tới sự khác nhau trong tá lực, mượn lực, chuyển lực, cũng như cách áp dụng nguyên tắc “Lai Lưu Khứ Tống”.Ai đúng Ai Sai?Than Thủ, Bàng Thủ và Phục Thủ là quyền thuật căn bản của Vịnh Xuân. Nhị Tự Kiềm Dương Mã, Chuyển Mã pháp và Dụng lực pháp là nền tảng của các nguyên tắc cơ bản trong Vịnh Xuân. Đây là những kỹ thuật cần phải thuần thục trước khi có thể đạt được trình độ cao hơn trong Vịnh Xuân. Vậy ai đúng? Điều này cần phải suy xét cẩn thận.Chúng ta cần bình tâm xem xét, khảo sát và đánh giá các phương pháp của họ. Định kiến môn phái và so sánh cao thấp ở đây là không thích hợp. Chúng ta phải khai tâm để tìm được hướng đúng cho Vịnh Xuân phát triển và truyền bá.Vịnh Xuân Tâm PhápỞ bậc cao của Vịnh Xuân, điều trọng yếu là nghệ thuật chứ không phải là các kỹ năng về thủ pháp và mộc nhân. Điều quan trọng hơn cả là Vận Dụng Lực. Thuật ngữ này bao gồm cả tá lực, mượn lực, chuyển lực, cũng như mượn sức địch phản công, và cảm nhận lực của địch. Những nguyên lý này, khi kết hợp với các thủ pháp thích hợp sẽ bảo vệ được mình và thắng được địch. Những nguyên lý này tạo thành Tâm Pháp của Vịnh Xuân. Tức các “phương pháp” mà môn sinh phải thuần thục trước khi có thể đạt đến trình độ “tứ lạng bát thiên cân”.

Page 64: vinh xuan.docx

Chúng tôi không định làm giảm tầm quan trọng của luyện tập nâng cao sức lực. Sức lực và tâm pháp là đồng hành, bổ sung cho nhau, phụ thuộc lẫn nhau. Tuy nhiên, Tâm pháp phải đi trước, sức lực theo sau. Trong Vịnh Xuân, tâm pháp dứt khoát quan trọng hơn Sức lực.Học từ Quá Khứ để Xây Dựng Tương LaiVịnh Xuân luôn tiến hóa, truyền tới nhiều nước, và ngày càng đa dạng. Chúng tôi đã xem xét hai phái chính, nhưng còn có nhiều phái khác với các phương pháp còn khác nữa. Một số phái xác định nghiêm khắc các nguyên tắc và giữ được các nguyên tắc. Nhưng cũng nhiều phái, không quan tâm, không nhất quán và không có các tiêu chuẩn thống nhất.Các nguyên tắc của Vịnh Xuân không nhất thiết phải giữ nguyên mãi. Chúng ta cũng không cần phải đưa Vịnh Xuân quyền về một khuôn, cũng không cho rằng các sáng tạo và lý thuyết mới là bất hợp pháp. Chúng ta có thể nghiên cứu và sáng tạo mới về cách hiểu các chiêu thức trong quyền thuật, Mộc nhân, Bát Chảm Đao. Chừng nào các sáng tạo này là hợp lý, thiết thực, hữu hiệu và được chứng nghiệm thông qua thực nghiệm và khảo sát, chúng cần được khuyến khích vì có thể làm giàu thêm Vịnh Xuân.Chúng tôi cảm thấy các thủ pháp và chiêu thức căn bản của Vịnh Xuân là không thể thay đổi. Quyền lý của Vịnh Xuân cũng không thể thay đổi. Chúng là cốt lõi của Vịnh Xuân. Xa rời chúng có nghĩa là bỏ Vịnh Xuân.Vịnh Xuân Cần Sự Phát Triển Lành MạnhVịnh Xuân hiện tại khá hỗn lọan và rải rác. Nếu không được định hướng, tình hình sẽ ngày càng tồi tệ. Vịnh Xuân ngày càng xa rời nguyên gốc . Với thời gian, những điều căn bản của Vịnh Xuân có thể bị suy yếu và thất truyền.Đại Hội Vịnh Xuân Thế GiớiTôi tin rằng chúng ta cần phải có đại hội Vịnh Xuân thế giới để các môn sinh Vịnh Xuân gặp nhau, trao đổi kinh nghiệm. Sửa đổi những lệch lạc. Xem xét các nguyên tắc căn bản, các quyền pháp nền tảng để chuẩn hóa cho các đời sau.Hồng Công là quê hương của Vịnh Xuân dòng Diệp Vấn. Ở đó cũng qui tụ các võ sư hàng đầu Vịnh Xuân, đó là thánh địa của Vịnh Xuân. Trong nhiều năm qua, Hiệp hội Vịnh Xuân Hồng Công ra sức phổ biến Vịnh Xuân và thúc đẩy đoàn kết môn phái. Đó là trung tâm tinh thần của Vịnh Xuân tòan thế giới. Đó là lý do tại sao Hồng Công là nơi lý tưởng để tổ chức Đại hội như vậy. Hiệp hội Vịnh Xuân Hồng Công là người tổ chức lý tưởng của Đại hội này.Các thế hệ tiền bối của Vịnh Xuân vẫn còn khỏe và hoạt động tích cực. Họ có thể tham gia Đại hội và rất có ích cho Đại hội.Kết luậnVịnh Xuân là võ phái tinh tế và phong phú. Hầu như mỗi chiêu thức đều đã được suy tính cẩn trọng. Vịnh Xuân chỉ bao gồm ba quyền sáo (khuôn sáo), một mộc nhân thung, một đao pháp, và một côn pháp. Vịnh Xuân có vẻ đơn giản, nhưng tất cả các bộ phần này tồn tại trong một thể thống nhất, bổ sung cho nhau. Sự kết hợp chúng tạo ra vô số các chiêu thức. Nếu Vịnh Xuân được luyện tập đúng, tâm pháp được hiểu thấu đáo, không có lực nào có thể thắng được nó. Đó là một võ phái xứng đáng cho chúng ta nghiên cứu và truyền bá rộng rãi, để lại cho các đời sau.Tác giả: Bố Kiến HoaDịch giả: Vĩnh Xuân Nội Gia 

Lịch sử môn phái Vịnh Xuân dòng đại sư Diệp Vấn (phần 5 và   hết)

Tháng Ba 18, 2009

vinhxuanquyen Bài viết, Lịch sử diệp vân, diep van, vịnh xuân, vịnh xuân hồng kông, yipman 4 phản hồi

Trong loại bài đã đăng trên 4 số báo trước về lịch sử của môn võ Vịnh Xuân, chúng tôi đã dừng lại ở Trần Hoa

Thuận, chưởng môn đời thứ bảy của môn phái Vịnh Xuân Quyền.

Cần lưu ý rằng họ Trần là chưởng môn duy nhất của Vịnh Xuân Quyền đã không được học hỏi toàn bộ các chiêu thức

của môn phái do sư phụ ông, “Vịnh Xuân Quyền Vương” Lương Tán, đã không truyền thụ những món đòn “cao cấp”

Page 65: vinh xuan.docx

nhất của môn phái, vì lo rằng Trần Hoa Thuận có thể chiến thắng các con trai mình, tức các võ sư Lương Xuân và

Lương Bích. Tuy nhiên, nhờ có thể lực tuyệt vời, trong đời, Trần Hoa Thuận đã chiến thắng trong vô số các trận thách

đấu và tiếp tục làm rạng danh môn Vịnh Xuân. Và có lẽ, điều quan trọng nhất là trong số 16 môn sinh mà họ Trần dạy

trong suốt đời mình, có một đệ tử trẻ tuổi nhất đã đưa Vịnh Xuân lên hàng những môn võ được thế giới biết đến: đó là

đại võ sư Diệp Vấn, chưởng môn của tất cả các nhánh Vịnh Xuân Hồng Công.

 

8. Diệp Vấn:

Đại võ sư Diệp Vấn, học trò cuối cùng của chưởng môn Trần Hoa Thuận, sinh ngày 14-10-1893 tại Phổ Sơn trong một

gia đình khá giả: cha mẹ ông có một điền trang lớn và một căn nhà dài bằng một dãy phố ngay ở trung tâm thành phố.

Rất được chiều chuộng và hầu như không phải đụng tay vào bất cứ việc gì, nhưng Diệp Vấn đã khiến mọi người ngạc

nhiên khi ông tỏ ý muốn theo học võ thuật. Năm 13 tuổi, họ Diệp bắt đầu theo học Vịnh Xuân Quyền dưới sự hướng dẫn

của đại sư phụ họ Trần. Trần Hoa Thuận và gia đình họ Diệp có một mối giao tình bền chặt vì vị đại võ sư, do không có

lò võ riêng, đã mướn nhà thờ tổ của họ Diệp để làm nơi tập. Tuy nhiên, Trần Hoa Thuận có khá ít môn sinh, một phần vì

học phí rất đắt (thường là ba đĩnh bạc một tháng). Là con trai của “ông chủ”, chẳng mấy chốc, Diệp Vấn đã có mối quan

hệ rất thân tình với vị võ sư họ Trần và vào một ngày nọ, Trần Hoa Thuận thật ngạc nhiên khi thấy “cậu chủ” mang ba

đĩnh bạc đến xin nhận ông làm sư phụ. Họ Trần muốn kiểm tra xem Diệp Vấn lấy đâu ra khoản tiền không nhỏ đó và ông

đã đến hỏi thân phụ Diệp Vấn; hóa ra đó là số tiền tiết kiệm mà Diệp Vấn đã cất trong một chú lợn đất, và cậu bé đã

không tiếc rẻ đập vỡ con lợn để có tiền đi học võ. Cảm kích trước sự kiên quyết và lòng nhiệt thành của cậu bé nhỏ tuổi,

Trần Hoa Thuận, dù tuổi đã cao, vẫn nhận Diệp Vấn làm đồ đệ và đó là người môn sinh cuối cùng, đồng thời cũng trẻ

nhất, của vị chưởng môn thứ bảy của Vịnh Xuân Quyền.

Chân dung Đại Sư Diệp Vấn

 

Tuy vậy, thoạt đầu, võ sư Trần cũng không thật để tâm đến việc dạy dỗ cậu bé Diệp Vấn vì ông cho rằng “cậu ấm” Diệp vốn quen được chiều chuộng và quá mảnh khảnh, yếu ớt để học võ. Để “giải tỏa” suy nghĩ đó, Diệp Vấn đã cố gắng hết mình: với trí thông minh và lòng cần cù, cậu bé kiên trì học hỏi từ các sư huynh và cuối cùng, đã chiếm được thiện cảm của sư phụ Trần Hoa Thuận. Đại võ sư Trần Hoa Thuận qua đời sau 3 năm dạy dỗ Diệp Vấn. Trước khi mất, ông ủy thác chàng thiếu niên Diệp Vấn cho Ngô Trọng Tố, môn sinh “cao cấp” nhất của ông, người đã từng giúp đỡ Diệp Vấn trong những năm trước đó. Một thời gian ngắn sau, Diệp Vấn rời Phổ Sơn và chuyển đến Hương Cảng để theo học ở trường St. Stephen’s College. Trong những năm theo học Trung học, Diệp Vấn là một cậu bé tinh nghịch, hiếu động và hay cùng bạn bè gây gổ với các bạn người Âu. Dù nhỏ con, nhưng nhờ giỏi võ nên Diệp Vấn thường chiến thắng trong

Page 66: vinh xuan.docx

những cuộc đọ sức đó. Về sau, hồi tưởng lại thời thiếu niên, Diệp Vấn thừa nhận rằng thời kỳ đó, nhiều khi ông đã tỏ ra rất tự phụ về trình độ võ thuật của mình. Tuy nhiên, có một trận thua nhớ đời, khiến Diệp Vấn tỉnh ngộ và đã mang lại cho ông bất ngờ lớn nhất trong sự nghiệp võ thuật. Một ngày nọ, Lai, một người bạn cùng lớp bảo Diệp Vấn: “Tại hãng buôn lụa, cha tớ có một ông bạn chừng 50 tuổi, giỏi võ. Cậu có dám thử sức với ông ấy không?” Là một chàng trai chưa biết đến mùi thất bại và không biết sợ ai, Diệp Vấn hứa sẽ đến gặp người đàn ông trung niên đó. Đến ngày hẹn, người bạn cùng lớp dẫn Diệp Vấn đến hãng buôn lụa ở phố Jervois (Hương Cảng) và sau khi chào hỏi người đàn ông nọ, Diệp Vấn nêu ý định của mình. Người đàn ông trung niên – được giới thiệu là “ông Lương” – mỉm cười đáp: “À, ra thế, cậu là môn sinh của võ sư Trần Hoa Thuận đáng kính à? Còn trẻ thế này, cậu đã học được gi từ sư phụ rồi? Cậu học bài quyền Tầm Kiều [bài thứ hai trong hệ thống các bài quyền Vịnh Xuân] chưa?” Diệp Vấn muốn thử sức đến nỗi anh không buồn để ý đến những câu hỏi đó: chỉ trả lời nhát gừng vài câu không ăn nhập gì, cậu đã cởi áo khoác để chuẩn bị “vào trận”.  

Khi ấy, “ông Lương” mỉm cười bảo Diệp Vấn muốn tấn công vào đâu cũng được, ông chỉ tự vệ, không phản công và sẽ không gây thương tích cho chàng trai. Câu nói này càng khiến Diệp Vấn càng nổi cáu, tuy nhiên, anh cố trấn tĩnh, ra đòn rất kín và cẩn trọng. Họ Diệp tung ra những đòn ác liệt, nhưng “ông Lương” tránh được một cách dễ dàng và điềm tĩnh, rồi nhiều lần đẩy Diệp vấn ngã dúi dụi xuống sàn. Cứ mỗi lần ngã, Diệp Vấn lại cố đứng dậy và tấn công tiếp, nhưng cuối cùng anh đành cúi đầu nhận thua cuộc. Về sau, Diệp Vấn mới biết rằng “ông Lương” chẳng phải ai khác, ngoài võ sư Lương Bích, con trai cả của đại võ sư Lương Tán, chưởng môn đời thứ sáu của môn Vịnh Xuân Quyền, sư phụ của Trần Hoa Thuận. Chàng trai Diệp Vấn đã xin được làm đệ tử của Lương Bích và trong bốn năm, Lương Bích đã truyền lại cho họ Diệp tất cả những chiêu thức mà Trần Hoa Thuận không được học từ Lương Tán. 

Diệp Vấn luyện quyền

 

Năm 24 tuổi, sau khi đã khổ luyện thành công mọi “bí kíp” của môn phái Vịnh Xuân Quyền, Diệp Vấn trở về Phổ Sơn, thành phố quê hương, và trong vòng 20 năm, ông đã khiến giới võ lâm miền Nam Trung Hoa phải suy tôn là bậc thầy vì trình độ Vịnh Xuân siêu đẳng. Tuy nhiên, theo truyền thống của môn

Page 67: vinh xuan.docx

phái, Diệp Vấn không hề nghĩ đến chuyện “truyền nghề” cho bất cứ ai, kể cả các con trai, mà chỉ trao đổi võ thuật với các võ sư lừng danh thuộc các môn phái khác. Khi ấy, chưa ai biết rằng vào những thập niên sau, Diệp Vấn sẽ trở thành một người thầy vĩ đại trong lịch sử môn phái…  

Trong vòng hơn 20 năm từ 1914 đến 1937, Diệp Vấn chủ yếu làm việc trong quân ngũ và cơ quan cảnh sát, và không ít lần, nhờ trình độ võ thuật siêu đẳng, ông đã khiến các địch thủ phải nể vì. Những khi rỗi rãi, ông thường giao du và trao đổi với các võ sư khác để luyện tập và nâng cao trình độ. Tuy nhiên, ông không hề có ý truyền nghề cho ai, kể cả 2 con trai (về sau, 2 người con này – đặc biệt là Diệp Chuẩn – đều trở thành những đại võ sư của môn phái, nhưng họ vẫn tiếc rẻ là đã không được cha dạy dỗ cho từ nhỏ).Năm 1937, phát-xít Nhật chiếm đóng miền Nam Trung Quốc. Khi đó, Diệp Vấn vẫn ở Phổ Sơn và chẳng mấy chốc, ông đã phải sống nhục nhã dưới ách thống trị ngoại bang. Một chính quyền bù nhìn được lập ra tại quê hương Diệp Vấn và người võ sư – ngoài đời là một cảnh sát – đã thề không bao giờ chịu khuất phục. Trong vòng hơn 8 năm (1937-1945), Diệp Vấn đã gia nhập những nhóm du kích chống Nhật và do đó, gia đình ông cũng bị liên lụy: ông khuynh gia bại sản, nhiều lúc bị đói khát. May là họ Diệp có một người bạn tên là Chow Cheng Chung hay giúp ông chút đồ ăn thức uống và để trả ơn, Diệp Vấn đã dạy Vịnh Xuân cho con trai ông ta (Chow Kwang Yiu). Ngoài ra, chừng một chục người nữa cũng được thụ giáo vị đại võ sư và đây là thế hệ môn sinh đầu tiên của ông (đa số đến nay đã qua đời). Năm 1945, phát-xít Nhật đầu hàng Đồng minh. Khi đó, Diệp Vấn đã 52 tuổi. Trong vòng 3 năm, ông phải bỏ nghề võ để làm việc kiếm sống. Tuy nhiên, đến năm 1949, khi Dảng Cộng sản Trung Quốc lên nắm quyền ở Đại Lục, Diệp Vấn bị trưng thu toàn bộ gia sản và phải chạy sang Hồng Công. Ở đây, thoạt đầu, chưa ai biết ông già 55 tuổi, dáng người gày gò và trầm tĩnh, nhưng tốt bụng ấy, lại là chưởng môn của một môn phái lừng danh.  

Diệp Vấn và lớp Vịnh Xuân đầu tiên của mình ở Hồng Kông

 

Page 68: vinh xuan.docx

Diệp Vấn và đại đệ tử Leung Sheung (bên trái, phía sau)

 

Diệp Vấn và lớp học đầu tiên của ông tại Hồng Công, trong đó Leung Sheung là trưởng tràng 

Sang Hồng Công được mấy tháng, để kiếm sống, Diệp Vấn phải làm việc trong một quán ăn và ở đó, ông làm quen với một thanh niên 29 tuổi tên là Leung Sheung. Leung Sheung học võ từ năm 14 tuổi, ông ta có thân hình to lớn và thể lực tuyệt vời, sau 15 năm khổ luyện võ thuật, họ Leung đã trở thành bậc thày của nhiều môn như Thái Lý Phật, Bạch Mi… Năm 1949, khi Diệp Vấn sang đến Hồng Công thì Leung Sheung đang là chủ tịch Hiệp hội những nhân viên tiệm ăn (Restaurant Workers Association), đồng thời là võ sư trong lò võ của Hiệp hội. Thư ký của Hiệp hội, Lee Man, một người bạn cũ của Diệp Vấn, có kể cho Leung Sheung biết rằng ông có một người quen vốn là đại võ sư Vịnh Xuân mới từ Đại Lục sang; Lee Man đang tìm người “bảo lãnh” cho Diệp Vấn và ông nghĩ rằng với uy tín của mình, Leung Sheung có thể giữ vai trò đó. Đã từ lâu, Leung Sheung để tâm đến môn võ Vịnh Xuân, nhưng thời đó ở Hồng Công không ai dạy môn võ này nên ông rất háo hức và chờ đợi cuộc gặp mặt với Diệp Vấn. Tuy nhiên, từ cái nhìn đầu tiên, họ Leung đã cảm thấy thất vọng: ông già Diệp Vấn người mảnh dẻ, gày guộc, không có vẻ gì là giỏi võ. Rốt cục, sau một hồi trò chuyện, Diệp Vấn cũng đồng ý “đọ tay” với Leung Sheung. 

 Cuộc đấu diễn ra trong một phòng của Hiệp hội những nhân viên tiệm ăn. Nó chỉ kéo dài trong chớp mát, nhưng đã để lại ấn tượng suốt đời trong tâm trí người võ sĩ lực lưỡng Leung Sheung. Theo hồi tưởng của họ Leung, cho dù ông đã giở mọi chiêu quyền cước để tấn công Diệp Vấn, nhưng vị sư phụ có tuổi này vẫn bình thản tiến lên từng bước và dồn ông ta vào góc tường. Rồi, cuối cùng, Leung Sheung chỉ thấy Diệp Vấn nâng tay lên và ông ta bị bắn ra xa, nằm chỏng gọng dưới sàn đất. Lập tức, Leung Sheung cúi đầu bái họ Diệp làm sư phụ và vào tháng Giêng 1950, ông đã trở thành học trò đầu tiên ở Hồng Công của đại võ sư Diệp Vấn (trong khóa học đầu gồm 8 môn sinh đó, còn có những nhân viên khác trong ngành như Lok Yiu, Tsui Sheung Tin, Lo Man Kam…, về sau đều trở thành những hảo thủ lừng danh của môn phái Vịnh Xuân).

Page 69: vinh xuan.docx

 Cần nói thêm vài lời về người môn sinh đầu tiên tại Hương Cảng của Diệp Vấn: Leung Sheung là người đầu tiên, vào năm 1957, đã mở lò võ riêng. Năm 1968, ông được bầu là chủ tịch Hiệp hội Vịnh Xuân Hồng Công (Hong Kong Ving Tsun Athletic Association) khi Hội này được thành lập, và giữ cương vị đó đến khi mất vào năm 1978. Nhiều người coi Leung Sheung là học trò xuất sắc nhất của Diệp Vấn; cho đến nay, các nhà “Vịnh Xuân học” vẫn cho rằng hiếm ai giỏi Tiêu Chỉ (bài quyền cao cấp nhất của Vịnh Xuân) như Leung Sheng. (Hết)Share this:

Print

Đang tải...

Lịch sử môn phái Vịnh Xuân dòng đại sư Diệp Vấn (Phần   4) Tháng Ba 12, 2009

vinhxuanquyen Bài viết, Lịch sử lương nhị tì, lương tán, vịnh xuân, Vịnh Xuân Quyền, Vinh Xuan Để lại bình luận

Phần trước của loạt bài về lịch sử môn võ Vịnh Xuân dừng lại ở Lương Tán, người chưởng môn thứ sáu

của môn phái (sau các bậc tiền bối Nghiêm Vịnh Xuân, Lương Bác Trù, Lương Lan Quế, Hoàng Hoa Bảo,

Lương Nhị Tỳ).  

Ngũ Mai Sư thái và Nghiêm Vịnh Xuân

Là một lương y lừng danh ở vùng Phật Sơn, Lương Tán đã cố gắng để tìm một môn võ phù hợp với sức khỏe và

thể trạng của ông; những môn võ Bắc phái với các thế tấn thấp, các đòn đánh tốn sức và những chiêu thức nhiều

khi ít hiệu quả không thích hợp với ông. Sau nhiều năm dài tìm kiếm, cuối cùng, vận may đã đến với Lương Tán:

ông có dịp gặp gỡ (và chữa chạy cho) Lương Nhị Tỳ, khi đó đã đứng tuổi. Bậc cao thủ Vịnh Xuân này đã nhận

người lương y làm đệ tử và truyền thụ hết cho Lương Tán những gì mình biết.

  

Page 70: vinh xuan.docx

Lương Nhị Tì dạy Lương Tán Vịnh Xuân

 

Từ trái sang: Yuen Biao (trong vai Lương Tán) và Lam Ching Ying (trong vai Lương Nhị Tỳ), phim “Đường quyền Vịnh

Xuân” (The Prodigal Son, 1982)

Về sau, Lương Tán nổi tiếng trong giới võ lâm đến mức các danh gia võ nghệ đương thời đã đặt mục tiêu thắng được

ông như một vinh quang tuyệt đỉnh, nhưng chưa bao giờ họ Lương thất bại. Cùng các bậc tôn sư võ thuật như Hoàng

Phi Hùng (Thiếu Lâm Hồng Gia Quyền), Trần Hùng Sinh (người sáng lập Thái Lý Phật), Lương Tán thuộc hàng cao thủ

bậc nhất trong hệ Nam Quyền ở Phổ Sơn và danh hiệu “Vịnh Xuân Quyền Vương” được đặt cho ông, là rất xứng đáng!

6. Trần Hoa Thuận:

Dù nổi tiếng như vậy, nhưng Lương Tán vẫn hành nghề y và không bao giờ có ý mở lò võ. Tuy nhiên, trong 36 năm của

nghiệp võ, ông cũng có ba đệ tử, trong số đó dĩ nhiên có hai con trai ông – Lương Xuân và Lương Bích -, cũng như một

môn sinh kỳ quặc, được người đương thời gọi là Hoa “Mộc Thủ” (hay Mộc Nhân Hoa). Họ Ngô đặc biệt có hai cánh tay

cực khỏe, thường làm gãy tay những mộc nhân khi tập luyện và đó là lý do của cái tên Hoa “Mộc Thủ”.

Cạnh hiệu thuốc của ông lang Lương Tán, có một quầy đổi tiền mà chủ nhân của nó tên là Trần Hoa Thuận. Họ Trần đã

muốn học hỏi môn võ Vịnh Xuân từ lâu, nhưng vì biết Lương Tán có rất ít môn sinh nên ông không dám ngỏ lời với vị đại

võ sư. Tuy nhiên, cứ tối đến, Trần Hoa Thuận lại hé cửa để xem trộm các buổi tập và hi vọng rằng có thể học lỏm những

đòn quyền cước của môn võ này. Sau một thời gian dài tự tập, và thỉnh thoảng có cùng luyện với Hoa “Mộc Thủ”, Trần

Hoa Thuận cảm thấy đã đến lúc có thể diện kiến sư phụ Lương Tán.

Tuy nhiên, vào ngày hôm đó, Lương Tán có việc đi vắng và chỉ có con trai thứ của ông, Lương Xuân, ở tại hiệu thuốc.

Lương Xuân nhận lời thách đấu vì muốn thử xem trình độ của mình đến đâu. Dù học võ lâu ngày nhưng Lương Xuân

không bao giờ khổ luyện như Trần Hoa Thuận: được ít hiệp, Trần Hoa Thuận đánh bại Lương Xuân, khiến họ Lương

ngã vật ra chiếc ghế bành của thân phụ và làm gãy chân ghế. Hoảng sợ, hai người tìm cách lắp lại chân ghế và “thủ

tiêu” mọi tang tích, nhưng khi Lương Tán trở về và ngôi lên ghế, lập tức chiếc ghế lại gãy. Tất nhiên, vị đại võ sư “điều

tra” được ngay là điều gì đã xảy ra: sau đó, ông cho gọi Trần Hoa Thuận và nhận làm đệ tử.

Nhanh chóng, Trần Hoa Thuận trở thành một đại đệ tử của sư phụ Lương Tán. Tuy nhiên, nhận thấy họ Trần có thể lực

tuyệt vời và lo rằng người môn sinh này có thể chiến thắng cả hai con trai mình, Lương Tán không truyền lại những

chiêu thức “cao cấp” nhất cho Trần Hoa Thuận. Năm 73 tuổi, Lương Tán nghỉ việc và rời Phổ Sơn về làng cũ nơi chôn

rau cắt rốn. Tại đây, ông vẫn tiếp tục dạy dỗ một vài môn sinh cho đến khi qua đời vào năm 76 tuổi (năm 1901).

Ở lại Phổ Sơn, Trần Hoa Thuận được coi là người kế nghiệp Lương Tán và trở thành chưởng môn đời thứ bảy của môn

phái Vịnh Xuân Quyền. Cũng như sư phụ, trong đời, Trần Hoa Thuận đã chiến thắng trong vô số các trận thách đấu và

tiếp tục làm rạng danh môn Vịnh Xuân. Tuy nhiên, cần lưu ý rằng ông là chưởng môn duy nhất của Vịnh Xuân Quyền đã

không được hỏi hỏi toàn bộ các chiêu thức của môn phái.

Page 71: vinh xuan.docx

Cả đời, trong vòng 36 năm nghiệp võ, Trần Hoa Thuận chỉ dạy 16 môn sinh (kể cả con trai ông, Trần Nhữ Miên), trong

đó, người trẻ nhất chính là đại võ sư Diệp Vấn, chưởng môn của tất cả các nhánh Vịnh Xuân Hồng Công, sư phụ của Lý

Tiểu Long, người đầu tiên đã phá bỏ một “taboo” trong lịch sử môn phái Vịnh Xuân: trong những thập niên ở Hồng Công,

ông đã công khai truyền thụ Vịnh Xuân cho rất nhiều đệ tử, trong số đó, có cả những đệ tử gốc ngoại quốc.

(Hết phần 4 và còn tiếp)

Share this:

Print

Đang tải...

Lịch sử môn phái Vịnh Xuân dòng đại sư Diệp Vấn (phần   3) Tháng Ba 10, 2009

vinhxuanquyen Bài viết, Lịch sử lương tán, Vịnh Xuân Phật Sơn Để lại bình luận

Trong hai số báo trước, chúng tôi đã điểm qua về sự hình thành của môn võ Vịnh Xuân Quyền và các chưởng môn đầu tiên

của môn phái: Nghiêm Vịnh Xuân, Lương Bác Trù, Lương Lan Quế, Hoàng Hoa Bảo, Lương Nhị Tỳ.  

 

 

Đại sư Diệp Vấn dạy Lý Tiểu Long niêm thủ

Để tóm tắt, có thể nói rằng những nền móng đầu tiên của Vịnh Xuân Quyền đã được khởi thảo từ cuối thế kỷ XVII,

khi người Thanh thống trị Trung Quốc và tại chùa Thiếu Lâm (Hà Nam), nhiều thanh niên Hán yêu nước đã được

rèn luyện võ nghệ để tham gia phong trào cách mạng với mục đích “phục quốc”. Ngay từ khi đó, các cao đồ của

Thiếu Lâm đã nhận thấy hệ thống võ nghệ truyền thống của Thiếu Lâm quá phức tạp, rườm rà và lại không thật

hiệu quả trong giao đấu thực tế. Vì thế, 5 vị cao tăng (Ngụ Mai, Bạch Mi, Phùng Đạo Đức, Miên Hiển và Chí Thiện)

đã quyết định khởi thảo môn “Thiếu Lâm cách mạng”, thực chất là một môn võ cải cách, để các môn đồ có thể học

hỏi một cách nhanh chóng và sử dụng hiệu quả các chiêu thức trong chiến đấu. Môn võ “cách mạng” ấy được hình

thành và luyện tập trong một căn phòng lớn của chùa Thiếu Lâm, có tên gọi là Vĩnh Xuân (Mùa xuân vĩnh cửu).

Tuy nhiên, giữa chừng, vào ngày 13-8-1723, với sự đưa đường một tên phản đồ, triều đình nhà Thanh đã dùng đại

quân tấn công và đốt phá Thiếu Lâm Tự: trong cuộc đấu này, các nhà sư Thiếu Lâm, dù võ nghệ cao cường và

chiến đấu rất dũng cảm, nhưng họ đã không thể cự lại được với một đạo quân chính quy đông hơn họ gấp nhiều

lần.

Đa số các môn đồ Thiếu Lâm qua đời trong cuộc đấu không cân sức, chỉ một vài vị cao tăng – trong số đó có 5 nhà sư đang

tâm huyết với môn võ cải cách – là trốn được và họ thường lánh nạn xuống miền Nam. Trong số đó, Ngụ Mai lão ni lánh nạn

Page 72: vinh xuan.docx

tại một vùng núi phía Nam Trung Quốc; tại đây, bà tiếp tục đơn giản hóa “Thiếu Lâm cách mạng” và biến nó thành một môn

võ cận chiến, phù hợp với những người có thể trạng trung bình, đặc biệt là phụ nữ. Cụ thể, gần 40 bài quyền của Thiếu Lâm

Quyền đã được rút xuống còn 3 bài (Tiểu Niệm Đầu, Tầm Kiều và Tiêu Chỉ), các chiêu thức mô phỏng động vật (Ngũ Hình

Quyền) được bỏ đi, các động tác ngoạn mục, nhưng nhiều khi không hiệu quả và tốn sức được giản lược, các thế tấn thấp,

rườm rà và những cú đá cao cũng được thay bằng tấn cao và đá thấp. Do được chuyển thành một môn cận chiến nên môn võ

mới của Ngụ Mai lão ni (sau được các đệ tử của bà đặt tên là Vịnh Xuân Quyền) chủ yếu sử dụng đòn tay, rất kín, nhanh và

hiệu quả: các thế quyền cước được khai triển theo đường thẳng, nhằm đến đích nhanh nhất. Đặc biệt, các đòn tấn công và

phòng ngự chỉ dừng lại ở mức cần thiết, nhằm đỡ tốn sức ở mức tối đa: trong trường hợp có thể, đòn phản công được tung ra

ngay lập tức, đồng thời với thế phòng ngự. Để đạt được khả năng này, Ngụ Mai lão ni – và sau này, Nghiêm Vịnh Xuân, nữ

truyền nhân của bà, người được coi là chưởng môn đời thứ nhất của Vịnh Xuân Quyền – đã “chế” ra một phương phức tập

luyện có một không hai, rất đặc trưng cho môn phái: Niêm Thủ và Niêm Cước (hai môn sinh luyện với nhau, “cảm nhận” được

đòn thế và ý định của nhau qua sự tiếp xúc thường xuyên và liên tục giữa tay và chân họ, chứ không dùng mắt – thông thường,

các cao đồ Vịnh Xuân Quyền hay bịt mắt khi luyện).

5. Lương Tán (1826-1901):

Phần trước của loạt bài viết về Vịnh Xuân Quyền dừng lại ở chỗ môn võ này được truyền từ bà Nghiêm Vịnh Xuân qua người

chồng bà, Lương Bác Trù, rồi qua các thế hệ chưởng môn sau đó như Lương Lan Quế, Hoàng Hoa Bảo và Lương Nhị Tỳ.  

 

 

Vĩnh Xuân Quyền Vương - Lương Tán

Như chúng ta đã biết, Hoàng Hoa Bảo và Lương Nhị Tỳ đều là thành viên của đoàn tuồng Hồng Chỉ (Chỉ Đỏ), dọc

ngang sông nước Trung Quốc trên những con thuyền dễ làm nơi ẩn náu cho những người hoạt động cách mạng

“phản Thanh phục Minh”. Giữa thế kỷ XVIII, trong một lần “lưu diễn”, đoàn Hồng Chỉ dừng chân ở thị trấn Phổ

Sơn; khi đó, họ Lương đột ngột ngã bệnh (có sách cho rằng Lương Nhị Tỳ bị chứng hen suyễn kinh niên). Ông đã

tìm đến một lang y tên là Lương Tán; khi tiếp xúc, Lương Tán đã kinh ngạc trước trình độ võ thuật ở mực thượng

thừa của người bệnh nhân, và đã bái phục xin được làm đệ tử. Sau một thời gian luyện tập chuyên cần, Lương

Tán đã không phụ lòng sư phụ: ông đã chiến thắng trong vô số những cuộc thách đấu mà thường thường, chỉ

người thắng cuộc mới thoát khỏi cái chết. Với thời gian, Lương Tán được coi là chưởng môn thứ sáu của Vịnh

Xuân Quyền và giới quyền cước đương thời đã tôn ông là “Đệ nhất võ thuật” (hay Vịnh Xuân Quyền Vương, nghĩa

là “ông vua Vịnh Xuân”).

Page 73: vinh xuan.docx

Trước nhà của bậc tiền bối Lương Tán ở Phổ Sơn

Trước trình độ võ thuật cao siêu của Lương Tán, người đời sau cho rằng ông không những được học hỏi từ Lương Nhị Tỳ, mà

Hoàng Hoa Bảo cũng truyền thụ kiến thức cho vị lương y. (Bộ phim võ thuật “Đường quyền Vịnh Xuân” của Hồng Công đã

“tiểu thuyết hóa” mối quan hệ giữa Lương Tán và hai vị chưởng môn họ Lương & họ Hoàng rất thành công). Thậm chí, người

ta còn đồn rằng Lương Tán còn học được một số bài quyền từ chính chưởng môn đời thứ hai của Vịnh Xuân Quyền, là ông

Lương Bác Trù. Một điều chắc chắn, nếu Ngụ Mai lão ni là người khởi thảo ra Vịnh Xuân, Nghiêm Vịnh Xuân là người tập

hợp các chiêu thức Vịnh Xuân thành hệ thống thì chính Lương Tán là người đưa Vịnh Xuân lên hàng những môn võ khiến giới

võ lâm kính nể.

 (Hết phần 3, còn tiếp) Share this:

Print

Lịch sử môn phái Vịnh Xuân dòng đại sư Diệp Vấn(phần   2) Tháng Ba 8, 2009

vinhxuanquyen Bài viết, Lịch sử lịch sử, lương nhị tì, lương tán, ngũ mai lão ni,Vinh Xuan Để lại bình luận

Ở lần đăng trước, chúng tôi đã điểm qua sự hình thành của môn phái Thiếu Lâm Vịnh Xuân Quyền và ba nhân vật quan trọng nhất trong thuở “hồng hoang” đó: bà Ngũ Mai, một đại cao tăng của Thiếu Lâm Hà Nam, chưởng môn nhân Bạch Hạc Quyền, người đã giản lược hóa và hợp lý hóa các chiêu thức phức tạp và rối rắm của Thiếu Lâm Quyền truyền thống, và thiết lập hệ thống Vịnh Xuân Quyền rất hiệu quả và thực tiễn; bà Nghiêm Vĩnh Xuân, được coi là chưởng môn nhân đời thứ nhất của Vịnh Xuân Quyền; và chồng bà, ông Lương Bác Trù, chưởng môn đời thứ hai.  

 

 

Page 74: vinh xuan.docx

Ngũ Mai Lão Ni

 

Đầu thế kỷ XVIII, một vị cao tăng rời chùa Thiếu Lâm Hà Nam và chu du tới núi Hồng ở tỉnh Hồ Nam. Tại đây, ông thành lập một tu viện và bắt đầu dạy môn Thiếu Lâm cách mạng, môn võ “cải cách”, được gạn lọc từ những tinh túy của La Hán Quyền, Đường Lang Quyền, Ưng Trảo Quyền và một số dòng võ khác. Một trong những đệ tử của ông tên là Chương Ngũ, một diễn viên tuồng Hồ Nam. Chương Ngũ cũng rất nhiệt tình tham gia cách mạng. Ông được mọi người gọi là “Ngũ Tán Thủ” bởi kỹ năng tán thủ tuyệt đỉnh. Trong những năm 30 của thế kỷ XVIII, Chương Ngũ buộc phải chạy trốn đến phía Nam vì hoạt động cách mạng của mình. Cuối cùng, ông dừng chân tại Phổ Sơn (Quảng Đông). Nơi đây, ông tập hợp các hội viên của đoàn tuồng Hồng Chỉ (Chỉ Đỏ) thành lập hội Hồng Hoa Vũ và dạy họ kiến thức tuồng cũng như môn Thiếu Lâm cách tân. 

Wong Sheung Leung (Hoàng Thuần Lương, 1935-1997), đại đệ tử của chưởng môn Diệp Vấn, kỳ thủ bậc nhất của Vịnh Xuân Hồng CôngĐầu thế kỷ XIX, nhà Thanh tàn phá chùa Thiếu Lâm Phúc Kiến và một lần nữa, những người sống sót lại phải chạy trốn. Chí Thiện thiền sư, một trong 5 vị cao tăng đã thoát khỏi chùa Thiếu Lâm Hà Nam khi ngôi chùa này bị triều đình nhà Thanh đốt cháy cuối thế kỷ XVIII, đã chu du thiên hạ dạy võ cho những đệ tử với hi vọng các môn sinh của ông sẽ tiếp tục đào tạo những người khác để quảng đại các dòng võ cách mạng với mục đích lật đổ nhà Thanh vào một ngày nào đó. Nghe danh đoàn tuồng Hồng Chỉ cùng tên tuổi của Chương Ngũ, Chí Thiện thiền sư đã tìm đến họ.Những đoàn tuồng Hồng Chỉ lúc đó trở thành cái nôi của phong trào cách mạng. Họ có thể đi lại và hóa trang khéo léo nên dễ trá hình; có thể nói những đoàn tuồng này chính là chỗ ẩn náu lý tưởng có những ai bị triều đình nhà Thanh lùng bắt. Chí Thiện thiền sư đã sống một thời gian với đoàn tuồng Hồng Chỉ: thoạt đầu, ông còn đóng giả vai đầu bếp, nhưng cuối cùng mọi người cũng nhận ra ông là một vị cao đồ trong võ học và xin ông dạy những bí kiếp của Thiếu Lâm Quyền để họ sử dụng trong cuộc kháng chiến “phản Thanh, phục Minh”. Chí Thiện thiền sư đã

Page 75: vinh xuan.docx

dạy môn võ “cải tổ” của Thiếu Lâm cho các thành viên đoàn tuồng Hồng Chỉ; những kỹ thuật “nới lỏng” của thiền sư đã được thiết kế để có thể vượt qua những gì mà người Mãn Châu học được từ môn phái Thiếu Lâm “chính thống”. Nhiều hình mẫu căn bản và các khái niệm mới được sáng tạo để đem lại cho môn võ cách tân này lợi thế cả về lý thuyết lẫn kỹ thuật thực hành.4. Lương Lan Quế, Hoàng Hoa Bảo và Lương Nhị Tỳ:Lương Bác Trù và Nghiêm Vịnh Xuân, hai chưởng môn nhân đầu tiên của Vịnh Xuân Quyền, đã có một thời gian đi chu du đây đó và cuối cùng họ dừng chân tại Quảng Châu, Quảng Đông. Tại đây, họ đã gặp đoàn tuồng Hồng Chỉ đang đi lưu diễn trên sông nước Trung Hoa (có giả thiết cho rằng vợ chồng họ nghe đồn Chí Thiện thiền sư đang ẩn náu ở đoàn tuồng này nên tới đó để tìm ông). Một số thủy thủ và diễn viên trên con thuyền Hồng Chỉ đã được Lương Bác Trù chỉ bảo về võ học. Sau một thời gian chắt lọc những động tác căn bản của môn võ và nối ráp lại với nhau, Vịnh Xuân Quyền dần dần được định hình với các bài quyền như Tiểu Niệm Đầu, Tầm Kiều, Tiêu Chỉ, còn các hình thức khác thì giống như Bạch Hạc và Hồng Gia Quyền bởi vì chúng có cùng nguồn gốc là Thiếu Lâm Quyền.Thời gian sau, Lương Bác Trù truyền toàn bộ kiến thức võ học của mình cho một lương y tên là Lương Lan Quế. Theo truyền thống thời ấy, Lương Lan Quế hầu như không bao giờ sử dụng những ngón quyền cước Vịnh Xuân Quyền và ông cũng không dạy công khai cho bất cứ ai: trong đời, họ Lương chỉ có một môn sinh duy nhất là Hoàng Hoa Bảo, một thành viên đoàn tuồng Hồng Chỉ, nổi tiếng vì tính tình cương trực và thẳng thắn. Cuối cùng, họ Hoàng được coi là chưởng môn nhân đời thứ ba của Thiếu Lâm Vịnh Xuân Quyền.Trong đoàn tuồng, Hoàng Hoa Bảo có một người bạn thân tên là Lương Nhị Tỳ, người đã được đại sư Chí Thiện truyền cho các tuyệt chiêu của Lục Điểm Bán Côn (loại côn dài của Thiếu Lâm). Họ Lương là một thủy thủ, ông thường xuyên sử dụng gậy chèo thuyền và như thế, Lục Điểm Bán Côn, trong tay ông, đã được phát triển thành một môn côn quyền tuyệt hảo.Về sau, Hoàng Hoa Bảo đã trao đổi các chiêu thức với Lương Nhị Tỳ và như thế, họ Lương nhận được các bí quyết về Niêm thủ của Vịnh Xuân Quyền, còn kỹ thuật Lục Điểm Bán Côn được đưa vào môn phái Vịnh Xuân, như một dạng đặc biệt của kỹ thuật trường côn Thiếu Lâm. Lương Nhị Tỳ cũng nhận ra rằng áp dụng nguyên tắc Niêm thủ khi đánh gậy, các thế côn của ông trở nên nhanh hơn và hiệu quả hơn; rốt cục, ông đã thiết lập kỹ thuật Niêm côn lừng danh và bổ sung nó vào Lục Điểm Bán Côn. Sau Hoàng Hoa Bảo, họ Lương trở thành chưởng môn đời thứ 4 của Vịnh Xuân Quyền.(Hết phần 2, và còn tiếp)Như đã nói ở lần trước, lịch sử môn phái Vịnh Xuân gắn liền với những cuộc khởi nghĩa, với phong trào cách mạng với mục tiêu giành lại Trung Hoa từ ách người Thanh, trả lại cho dân Hán. Cũng chính vì thế mà các chùa Thiếu Lâm ở vùng Hà Nam và Phúc Kiến đã được coi như các tụ điểm cách mạng, với những “hảo hán” tinh thông võ nghệ và thấm đượm tinh thần huynh đệ, trọng nghĩa khinh tài.Share this:

Print

Lịch sử môn phái Vịnh Xuân dòng đại sư Diệp Vấn(Phần   1) Tháng Ba 8, 2009

vinhxuanquyen Bài viết, Lịch sử lịch sử, Vinh Xuan, wingchun Để lại bình luậnXin giới thiệu với bạn đọc các bài viết của tác giả H.Linh, đăng trên báo điện tử Nhịp Cầu Thế Giới, về lịch sử môn phái Vịnh Xuân của dòng đại sư Diệp Vấn, Hồng Kông. Đại sư Diệp Vấn  là người có công rất lớn trong việc thúc đẩy sự phát triển của môn Vịnh Xuân đương đại. Các học trò của ông như Lý Tiểu Long với Triệt Quyền Đạo, Lương Đĩnh với Tân Vịnh Xuân (Wing Tsun) đã tiếp tục truyền bá các giá trị của môn Vịnh Xuân cho thế giới phương tây vào đầu những năm 70 của thế kỷ XX. Đến nay môn phái Vịnh Xuân đã phát triển rất mạnh ở Mỹ, Châu Âu, và châu Úc (Liên đoàn Wing Tsun có đến 62 nước thành viên).LỊCH SỬ MÔN PHÁI VỊNH XUÂN QUYỀN (1)Là một trong số ba bốn trăm môn phái võ lớn nhỏ xuất hiện trong lịch sử Trung Quốc, Thiếu Lâm Vịnh Xuân Quyền chiếm một vị trí đặc biệt trong làng võ truyền thống Trung Hoa, chẳng những vì vẻ đẹp và tính hiệu quả, hợp lý trong mọi chiêu thức, mà còn vì lịch sử hào hùng và cũng không kém phần lãng mạn của nó. 

Page 76: vinh xuan.docx

Lý Tiểu Long, truyền nhân nổi tiếng nhất của Vịnh Xuân Quyền, với cú đấm lừng danh được “chế biến” từ miếng đòn cơ bản nhất của môn phái Vịnh XuânĐặc biệt, Thiếu Lâm Vịnh Xuân Quyền còn được biết đến trên toàn thế giới từ thập niên 70 của thế kỷ trước, thông qua Lý Tiểu Long, một truyền nhân của môn phái, được biết đến với những bộ phim võ thuật như “Đường Sơn đại huynh”, “Tinh võ môn”, “Mãnh long quá giang”, “Long tranh hổ đấu”… Cho đến nay, Thiếu Lâm Vịnh Xuân Quyền đã vượt ra khỏi biên giới Trung Quốc, Hồng Công, đến với nhiều nước trên thế giới, đáp ứng sự say mê, mến mộ của mọi người. (International Wing Tsun Martial-Art Association, do đại võ sư Lương Đĩnh đứng đầu, hiện đang là liên đoàn võ thuật lớn nhất trên thế giới với 62 nước thành viên).1. Bối cảnh:Khoảng năm 1720, người Mãn Châu xâm lược Trung Quốc, lật đổ nhà Minh lập nên nhà Thanh. Chùa Thiếu Lâm ở tỉnh Hà Nam và Phúc Kiến trở thành trọng điểm của phong trào “phản Thanh, phục Minh” và các môn võ của họ – được xem như ngôi sao Bắc Đẩu của võ lâm Trung Hoa – bắt đầu được khuếch trương để dùng trong các cuộc nổi dậy. Vì mục đích trao đổi cũng như mục đích chung này, hai đại môn phái Võ Đang và Nga My được sát nhập. Một số khẩu hiệu cách mạng xuất hiện trong thời kỳ này, như “Vịnh viễn chi nhất” (Wing Yin Chi Ji – luôn luôn nói với một lòng quyết tâm, nhất quán); “Bất vong Hán Tộc” (Mo Mong Hong Juk – không được quên dân tộc Hán); “Dai Day Wu Chun” (mùa xuân sẽ trở lại)… Những khẩu hiệu này cuối cùng được cô đọng lại thành một từ đơn giản là “Vĩnh Xuân” (mãi mãi mùa xuân, mùa xuân vĩnh cửu). Vì bản chất quảng đại của các trường phái Thiếu Lâm truyền thống hoặc có lẽ một số kẻ phản bội đã dạy môn võ này cho người Mãn Châu, Thiếu Lâm cần có những kỹ thuật mới với những phương pháp hiệu quả hơn, tốt hơn cho ứng dụng và truyền thụ lại cho mọi người để đánh đổ nhà Thanh. Môn võ Thiếu Lâm cải tổ, hay còn gọi là Thiếu Lâm cách mạng, đã được hình thành như vậy.Triều đình Mãn Thanh, đứng đầu là hoàng đế Càn Long, với hệ thống quân đội hùng mạnh do những tên phản đồ, phản quốc của Thất đại môn phái Trung Hoa nắm giữ, đã mở nhiều chiến dịch tấn công tiêu diệt phong trào yêu nước; lần lượt, nhiều phong trào tan vỡ. Một số ít phải bôn ba hải ngoại, chờ ngày phục quốc. Chùa Thiếu Lâm Hà Nam cũng là một mục tiêu mà nhà Mãn Thanh nhằm tới. Đại quân triều đình – dưới sự chỉ huy của chủ tướng Trần Văn Hoa đã tấn công chùa Thiếu Lâm – cùng sự trợ lực của một số tên phản đồ. Các nhà sư – những bậc võ nghệ siêu quần của Thiếu Lâm – đã chiến đấu vô cùng quyết liệt và tiêu diệt được nhiều kẻ địch. Tuy nhiên, với kế hỏa công và lực lượng quá đông đảo, quân đội Mãn Thanh đã giành thắng lợi sau nhiều giờ chiến đấu vất vả. Nhiều môn đồ của Thiếu Lâm đã hy sinh, một số khác bị quân lính Mãn Thanh bắt được trong khi đang thương tích trầm trọng. Tuy nhiên, trong số các đại cao thủ Thiếu Lâm, đã có 5 nhà sư trốn thoát: Ngụ Mai lão ni (Ngụ Mai sư thái), Bạch Mi đạo nhân (sau này sáng tạo ra dòng Nam Quyền nổi tiếng là Thiếu Lâm Bạch Mi), Phùng Đạo Đức (về sau làm quan cho nhà Thanh), Miêu Hiển (chính là ông ngoại của Phương Thế Ngọc, một nhân vật võ lâm nổi tiếng, hay được biết đến trong các bộ phim kiếm hiệp) và Chí Thiện thiền sư. Những người chạy thoát này đã bôn tẩu khắp nơi để lánh nạn.2. Ngụ Mai lão ni và Chí Thiện thiền sưNgụ Mai lão ni đã chọn chùa Bạch Hạc trên núi Đại Lương – một ngọn núi nằm giữa ranh giới hai tỉnh Tứ Xuyên và Vân Nam – làm nơi ẩn náu. Tương truyền, Lão Ni sư trong một đêm thanh vắng giữa rừng khuya, đã chứng kiến cuộc ác đấu sống còn giữa một con hạc và một con rắn. Từ đó nung nấu và hình thành một môn công phu mới, thường được gọi là Bạch Hạc Quyền, có một tính cách khác hẳn với bao công phu trước đó. Đó là sự gọn gàng, uyển chuyển, linh hoạt và tìm ra con đường ngắn nhất trong phép công và thủ.

Page 77: vinh xuan.docx

  Ngũ Mai lão ni và Bạch Hạc Quyền (tranh cổ)Cùng thời gian này, Chí Thiện thiền sư bỏ trốn tới Thiếu Lâm Phúc Kiến (Thiếu Lâm Nam phái) và tiếp tục sự nghiệp phát triển các dòng võ cách tân. Cuối thế kỷ XVIII, Chí Thiện nhận một số đệ tử, trong đó có Hồng Hy Quan (người sau này sáng lập Hồng Gia Quyền) và Nghiêm Nhị tại võ đường Vịnh Xuân (được đặt tên theo theo khẩu hiệu Vịnh Xuân). Sau này, Nghiêm Nhị trở thành đại đệ tử của Thiếu Lâm Phúc Kiến, đã học được những môn võ công cách tân và các kỹ thuật cũng được sáng tạo ở đây. Nghiêm Nhị lấy một người vợ địa phương và sau đó sinh một cô con gái đặt tên là Nghiêm Vịnh Xuân. Cái tên Nghiêm Vịnh Xuân có thể là ảnh hưởng từ võ đường Vĩnh Xuân, có điều chữ Vĩnh được thay bằng chữ Vịnh cho phù hợp với tên của nữ giới.Vào năm 1810, một đại đệ tử Thiếu Lâm cũ của Thiếu Lâm Phúc Kiến tên là Lương Bác Trù tới Quảng Tây, làm nghề buôn muối. Ông đã gặp và yêu Nghiêm Vịnh Xuân ở đây. Lương Bác Trù là một đại đệ tử Thiếu Lâm nên Nghiêm Nhị đã đồng ý và thu xếp cho hai người cưới nhau. Tuy nhiên, Do bị những tay quyền chức ở Quảng Đông mưu hại, Nghiêm Nhị đã phải cùng Vịnh Xuân bỏ trốn tới Tứ Xuyên, mở quán đậu phụ dưới chân núi Đại Lương. Nghiêm Nhị góa vợ, sống với cô con gái và đã sớm gây được cảm tình với dân chúng quanh vùng, trong đó có Ngũ Mai lão ni.3. Nghiêm Vịnh Xuân và Lương Bác Trù:Chuyện chẳng may, nhan sắc của Vịnh Xuân bị lọt vào mắt một tên vô lại, có quyền thế lớn ở vùng Đại Lương và đồng thời cũng là một cao thủ Thiếu Lâm. Tên này xin ngỏ ý cưới Xuân làm vợ, Nghiêm Nhị từ chối ngay bởi đã hứa gả Xuân cho Lương Bác Trù. Tuy nhiên, tên vô lại này vẫn một mực khăng khăng đòi cưới cho được Vịnh Xuân. Hắn đã cho Nghiêm Nhị biết ngày mà hắn cho là “ngày lành tháng tốt” để đến rước Xuân về làm vợ. Cha con họ Nghiêm vô cùng lo lắng vì võ công của Vịnh Xuân, tuy đã khá cao siêu, nhưng chưa thể địch nổi với tên vô lại kể trên và đồng bọn.Ngũ Mai lão ni vẫn thường lui tới mua đậu phụ ở cửa hàng của Nghiêm Nhị. Biết được chuyện bất bình, bà quyết định đưa Vịnh Xuân lên chùa Bạch Hạc trên núi Đại Lương để truyền thụ võ học, hầu đối phó với bọn vô lại. Tương truyền rằng vì thời gian học võ của Vịnh Xuân quá ngắn, và ngày “cưới” đã gần kề, Ngũ Mai lão ni đã truyền dạy cho Nghiêm Vịnh Xuân một giáo trình võ học đặc biệt, rút tỉa từ kinh nghiệm nhiều năm giang hồ của bà, cũng như dựa vào thể trạng của người phụ nữ. Một bên là sự tận tình chỉ dạy của một bậc cao thủ võ lâm, một bên là sự quyết tâm luyện tập của một người bị cường quyền ức hiếp cho nên chẳng bao lâu, sự thành công đến với Vịnh Xuân khá nhanh chóng, đến mức chính Ngũ Mai lão ni cũng không ngờ. Trong lễ đưa dâu, cùng với sự tham dự của Ngũ Mai lão ni, khi kiệu cưới về đến nhà tên vô lại, một trận kịch chiến đã xảy ra giữa “cô dâu” Vịnh Xuân cùng toàn thể nhóm đưa dâu, với tên vô lại và bọn gia nô của hắn. Kết quả, Vịnh Xuân đã đại thắng với những chiêu thức ngắn gọn, không rườm rà, cực kỳ nhanh và hiệu quả, khiến tên vô lại và bè lũ, cũng là những cao thủ Thiếu Lâm, phải chịu thương vong nằm la liệt, một số khác tháo chạy. 

Page 78: vinh xuan.docx

Đại sư phụ Lương Đĩnh (phải) và võ sư Mádai Norbert (Hungary) luyện Niêm thủ, một bài võ đặc thù của Thiếu Lâm Vịnh Xuân QuyềnGia đình đoàn tụ, mọi người đều vui mừng nhưng tức tốc thu gom đồ đạc, của cải dọn đi nơi khác, vì sợ bị báo thù. Riêng Vịnh Xuân quỳ lạy cha, xin được theo Ngũ Mai lão ni vừa trả ân nghĩa của bà đã tận tâm giúp đỡ cô, vừa để xin tiếp tục học tập võ nghệ hầu đạt mức thành đạt cao hơn. Ngũ Mai lão ni hết lời từ chối, vì sợ Vịnh Xuân không quen nếp sống tu hành khổ hạnh. Nhưng Vịnh Xuân vẫn một mực xin theo. Cuối cùng, với sự nhất trí của Nghiêm Nhị và quyết tâm của Vịnh Xuân, Ngũ Mai lão ni đã chấp nhận nàng làm môn đồ của mình. Khi Ngũ Mai lão ni qua đời, nhiều môn đồ võ phái Thiếu Lâm Bạch Hạc đề nghị Nghiêm Vịnh Xuân nối tiếp ngôi vị chưởng môn nhưng Vịnh Xuân đã từ chối, xin nhường ngôi vị xứng đáng đó lại cho các bậc tỷ huynh của mình trong môn phái.Sau đó, Vịnh Xuân cùng cha về Quảng Đông, và thành hôn với Lương Bác Trù. Nàng đem hết sở học của mình về võ thuật truyền lại cho chồng. Lương Bác Trù vốn là cao đồ Thiếu Lâm nhưng khi đến với hệ thống võ thuật mới lạ do vợ truyền lại, ông đã tỏ ra say mê vô cùng bởi tính linh diệu độc đáo của nó. Sau khi vợ qua đời, Bác Trù quyết định lấy tên vợ đặt cho hệ thống võ học mới được truyền thụ từ giáo trình đặc biệt của Ngũ Mai lão ni. Từ đó môn phái Thiếu Lâm Vịnh Xuân ra đời, tạo thêm sự phong phú cho làng võ lâm Trung Quốc. Và, những truyền nhân đầu tiên của môn phái Thiếu Lâm Vịnh Xuân, chính là Nghiêm Vịnh Xuân và Lương Bác Trù.Tác giả: H.Linh tổng hợp, theo các tư liệu võ thuật quốc tế

Tinh túy quyền thuật Vịnh Xuân Phật   Sơn  Xin giới thiệu bạn đọc bài viết “Tinh tuý của quyền thuật Vịnh Xuân Phật Sơn”  của cố võ sư Lục Viễn Khải, đăng trên

báo Quang Hoa 24.10.73. Võ sư Lục Viễn Khải là người Trung Quốc, ông học Vĩnh Xuân của cụ Tế Công sau khi cụ di

cư vào Nam năm 1954. Võ sư Lục Viễn Khải cùng với võ Sư Đỗ Bá Vinh và võ sư Hồ Hải Long, có thể được xem là

những học trò ưu tú nhất trong lớp học trò thứ hai tại Việt Nam của cụ Tế Công. Hiện nay không rõ chi phái của cố võ sư

Lục Viễn Khải có còn ai tiếp tục truyền dạy Vĩnh Xuân không? nghe nói ông có truyền Vĩnh Xuân lại cho một số học trò,

trong đó có một người tên là Lý Huỳnh Yến, hiện vẫn đang sống tại Sài Gòn. Xin tham khảo bài viết của cố võ sư Lục

Viễn Khải dười đây để cùng sưu ngâm thêm các yếu quyết trong luyện quyền thuật và binh khí của môn Vịnh Xuân. 

 Cái chết của Lý Tiểu Long người Trung quốc – quốc tịch Mỹ – một ngôi sao sáng đóng phim về võ hiệp đã làm chấn động giới võ thuật và điện ảnh toàn thế giới vì trí thông minh và thiên tài võ thuật của Lý đã khiến người ta bái phục. Cái chết này giống như một quả tinh cầu hào quang sán lạn đột nhiên nổ tung trong không gian người ta thấy một luồng sáng dữ dội bùng lên trong chớp nhoáng rồi lập tức theo tiếng nổ tiêu tan đi, nhưng ấn tượng huy hoàng vẫn còn vĩnh viễn lưu lại trong thế gian, nhất là trong giới điện ảnh và võ thuật vì hai giới này đã mất một vị anh tài mà mọi người đều luyến tiếc.  Qua việc thu lượm được ở sách báo Hương Cảng, Lý Tiểu Long lúc bắt đầu học võ là học phái Vịnh Xuân. Rồi sau có học nhiều các môn phái võ học khác, cho nên mới đạt đến trình độ tinh thâm như vậy và mới nổi tiếng trên thế giới là một võ sư đại tài. Ở đây không bàn đến tài hoa trời phú cho tinh thần học hỏi không ngừng của Lý, nhưng phải nói rằng thành tựu đạt được của Lý Tiểu Long đã để lại trong giới võ thuật Trung quốc một trang sử huy hoàng.   Ngoài việc nhỏ lệ đồng tình thương người đã khuất, tiện bút viết bàn về quyền nghệ, kiếm pháp và Lục điểm bán côn của phái Vịnh Xuân để các bạn ở Hương Cảng cách xa Việt Nam hiểu thêm về quyền thuật

Page 79: vinh xuan.docx

của phái Vịnh Xuân mà ít người biết tới. Có biết đâu ở Việt Nam nhiều nhà chính khách cũng là những đồ đệ của phái này. Ở miền bắc Việt Nam phái này lưu truyền từ từ lâu. Còn tại miền Nam, mới có độ hơn mười năm do tôn sư Nguyễn Tế Công di tản đem vào, nhưng ít người được chân truyền. Tác giả học được là do tôn sư truyền lại trong thời gian di tản vào Nam. Nhưng tôn sư vào được ít năm thì mất, hưởng thọ 84 tuổi, cho nên thời gian học thì ngắn, kỹ thuật tiếp thu được còn thô thiển. Nhưng cũng may là ân sư trong lúc còn sống giảng dạy không tiếc sức cho nên cũng tiếp thu được không ít các điều hay lạ. Tác giả (LVK) trong năm 1966 đã từng giới thiệu tóm tắt trong 8 kỳ ở báo tiếng Hoa Viễn đông nhật báo về quyền thuật phái Vịnh Xuân. Nhưng thời kỳ đó chưa được nhiều người chú ý. Nhân dịp cái chết của Lý Tiểu Long – một môn đồ của phái Vịnh Xuân – làm cho tác giả cảm hứng lại đem những điều hiểu biết của mình bổ xung vào những điểm đã viết trước đây. Quyền thuật của phái Vịnh Xuân nguồn gốc của nó thuộc phái “Quyền thuật nội gia Thiếu Lâm“. Nhưng các sách nổi tiếng trong nước chỉ biết nói đến ba môn nội gia là Thái cực, Hình ý và Bát quái, không biết rằng phái Vịnh Xuân cũng là quyền thuật nội gia của môn phái Thiếu Lâm.  Phái này lấy Tam Tinh, Ngũ Hình làm cương lĩnh, lấy Thất Đáo, Bát Môn làm phương pháp, tay nắm thành hình chữ nhật, đấm thì đấm thẳng. Các loại quyền phổ thông khác thì nắm tay hình quả trứng, khi đấm ra thì đấm vòng hai bên ngược hẳn nhau. Ngay cả thế tấn cũng khác, từ đầu đến cuối chỉ dùng thế Kiềm dương di chân trụ. Bài tập vỡ lòng lúc đầu cũng tập trên thế “đứng chân trụ giữ thế Kiềm dương” thì thân thể giữ nguyên không di chuyển, hai chân bám chân bám chặt đất , đầu gối hơi khuỵu – gọi là kiềm dương – nghĩa là che hạ bộ, toàn thân hơi ngả về sau. Thế lúc đứng yên và lúc di chuyển là một, đây là phép đánh, phép lập thân, tập chân của quyền Vịnh Xuân. Nếu đem cách này biểu diễn cho mọi người xem thì không hấp dẫn như các loại quyền khác có tính hoạt bát và mỹ quan. Quá trình tập luyện của phái này là bắt đầu bằng bài tập vỡ lòng, các phái khác cho là chẳng có gì là lạ, là hay cả. Thực vậy, bài tập vỡ lòng này không có gì là ghê gớm cả. Chẳng qua chỉ là bài tập nhập môn về cách đứng tấn và cách che bộ hạ. Đặc điểm của nó là không tập tấn riêng mà kết hợp tập tấn và tập tay đồng thời với nhau để khỏi phí thời gian. Khi đã thuần thục rồi thì tiếp tục tập “tiêu đả”, nghĩa là vừa tiêu đòn vừa đánh. Cách tập phải hai người cùng tập hay là phải tập với thầy. Đấy là cách tập thực chiến khi hai người tay không đánh nhau. Việc luyện tập này phải nghiêm túc. Khi ra đòn tay hoặc chân nguyên tắc là phait tập đi tập lại nhiều lần cho đến khi thành phản xạ vô điều kiện (tâm ứng thủ) mới thôi. Nghĩa là đến khi nào phát quyền phải trúng đích, tiêu quyền không hụt đòn, rồi mới tiếp tục chuyển sang hai tay chạm nhau để tập “Linh giác” mà thường gọi là “Niêm thủ” tức là thực chiến khi hai tay tiếp xúc nhau. Tập Linh giác phải tập đến khi nào không cần mở mắt mà vẫn biết sự biến hoá tay chân của địch và sức mạnh hay yếu. Đấy là dùng cái mềm hoá cái cứng, dùng cái cứng phá cái mềm. Hai cái này chế ngự nhau hoặc hai cái hoá giải nhau. Từ tập “Tiêu đả” đến “Niêm thủ” có 8 phép tập tay là:   

Xuyên – đấm chọc Thân – đỡ ngửa bàn tay (gạt rộng

ra)

Tiêu – phóng tay chọc     Phục – đỡ sấp bàn tay

Kinh – lấy cùi chỏ đỡ Bàng – gạt cổ tay

Tháp – dập đánh Trầm – đỡ xiết bằng cổ tay

 Tám phép này đã nói rõ ở bài viết trước không nói thêm. Nay chỉ nói về “Lục điểm bán côn”, gọi là bán côn vì độ dài của côn này là do nửa độ dài của hai loại côn cộng lại hình thành. Trong chế độ cổ, dùng côn cho bộ binh thì dùng loại côn ngắn cho dễ vận dụng. Lọai này dài 4,8m (thước Trung quốc) .Loại côn này dùng cho kị binh . Độ dài của nó gấp đôi loại côn ngắn tức là 9,6m .Nếu có thêm một mũi nhọn nữa thì thành trường thương. Phép đánh côn ngắn và côn dài khác nhau . Đánh côn dài thì người sử dụng côn phải có cánh tay mạnh hơn người mới có thể gạt đâm được. Khi công kích dùng khoảng cách xa và chủ yếu là hướng về phía trước đâm giết. Còn đánh côn ngắn khi vận dụng phải linh hoạt, trên bổ dưới hất, đánh ngang phải trái cho nên chân tay phải nhanh nhẹn, lấy việc đánh dọc đánh ngang, bổ trên hất dưới làm chủ yếu. Cho nên côn dài thích hợp cho kỵ binh. Côn ngắn thích hợp cho bộ binh dùng cận chiến trên mặt phẳng. Mỗi loại đều có ưu điểm nhược điểm của nó. Cho nên “Lục điểm bán côn” lấy cái ưu điểm

Page 80: vinh xuan.docx

của hai loại cộng lại, lấy chiều dài của côn dài rút đi 2,4m và thêm vào chiều dài của côn ngắn 2,4m, tức là chiều dài của “Lục điểm bán côn” là 7,2m.   

 Phép đánh lấy côn ngắn 3 điểm:  Toả hầu (khoá hầu)Trung bình (trung bình)Dịch tự (rút đầu mối)  Phép đánh lấy côn dài 3 điểm:  Cái côn (côn che đầu)Hạ khiêu (hất dưới)Hoành đả (đánh ngang)  Cộng hai cái thành 6 điểm, cho nên vì thế gọi là “Lục điểm bán côn”. So với loại côn “Cửu long bán đảo” của Hương Cảng cũng thế, nhưng côn của Hương Cảng có thêm nửa điểm, chứ không 9 con rồng thêm nửa con rồng.   Bài ca về côn như sau  

Côn pháp tinh thông lục điểm cườngHoành phi trung lộ nhập trùng dươngKhuyên trầm dịch tự xuyên trừu đãngThượng hạ phiên phi thế hiển dương 

 Dịch:  Côn pháp tinh thông sáu điểm cườngPhất đường giữa để đâm côn vào giữaXoay vòng thấp rút côn lắc lư rồi chọcLật, bay, trên, dưới, thế rất hùng mạnh  Kiếm của Vịnh Xuân thì thân nhẹ và dài. Phép tập có 6 pháp là: Khuyên – Trầm – Trật – Thích – Phất – Lắc. Bộ pháp là bước phẳng và bước leo núi nghiêng người tiến lên. Lùi và tiến hơi nhảy nhẹ nhàng, luôn giữ cho linh hoạt. Không động thì thôi, nhưng khi động thì như chim bay, cá nhảy, tìm cơ hội mà tinh luyện, kiếm cũng như quyền phải biết phối hợp cứng mềm.  Bài ca về kiếm như sau:  Bạch xà thổ tín, ngư bộ biền thuKhuyên trầm phản thủ, tước dược chi đầuThanh đình điểm thuỷ, ưng lạc ngư phủHoành khiên thập tự, bàn phúc xuyên trừuThuỳ phong xạ đấu, lôi hồn điện tẩuTrảo tiến chảo thoái, quang nhược long duHùng yên viên bộ, hớt tả hớt hữuKiếm cập, lý cập, quán dịch yết hầu  Dịch:  Sau khi phụt đâm, nghiêng mình thu bước vềLật tay xoay tròn như chim nhảy đầu cànhNhư chuồn chuồn quệt nước, như chim sa cá nhảyNhảy ngang chữ thập, lại xoay đâm rồi rútHạ mũi xuống đâm nhanh như tên, sấm chớpLiệu tiến liệu thoái như rồng lượn chơiLúc trái lúc phải, bước nhanh như vượn, lưng như gấuKiếm đến chân đến chọc đúng yết hầu  Khi lương sư dạy cho học kiếm thấy khó khăn hơn học quyền vì bộ pháp và thân hình có những chỗ khác nhau, giữ cho khí bên trong được đầy đủ lại càng khó .Nắm kiếm mà tiến phải luyện thế nào cho mềm dẻo như sợi mây. Cổ tay và khớp tay phải dẻo, nếu cứng dùng kiếm không linh.   Bắt đầu là học lục pháp : Khuyên – Trầm – Trật – Thích – Phất – Lắc  

Page 81: vinh xuan.docx

 Sau khi tinh thông lục pháp mới thực tập biến đổi. Sau nhiều lần luyện tập mới thu được những kinh nghiệm thực tế. Khi thật thuần thục thì sinh xảo diệu. Có thầy chỉ đạo kết hợp với bản thân kiên trì tu dưỡng thì mới đạt được kết quả cao.   Tập đao ở Vịnh Xuân có song đao, đơn khiên đao và đao cán dài. Đao chẳng qua là hai tay nối dài ra mà thôi cho nên phép tập tay và thân hình cũng không khác gì quyền, duy có đơn khiên đao phải có sức đều của lưng tay để một mặt dùng khiên, một mặt dùng tay hai bên thay đổi che, đánh. Dùng khiên che đòn đánh của vũ khí địch và tiến đánh bằng đao phía bên của địch. Còn dùng đao cán dài thì hai tay nắm chặt cán đao (đao và cán ngang nhau) quay qua vai phía bên phải chém. Khi chiến đấu dùng sức toàn thân chém phía trái địch, chém đao cán dài rất khó trúng. Trúng phải thì bên trái trúng đao, trúng trái thì phải trúng, nhảy hậu sợ không kịp trừ phi có khí giới đỡ mới được. Những kiểu chém vát rất mạnh. Hai tay đỡ bi chấn động, trả đòn lại không phải dễ, cho nên phép chém chếch là phép chém chủ yếu của đao pháp. Ngoài ra như thế trung bình, thế cuốn phong, thế co bật, mỗi thế khi chiến đấu có khác, khó mà mô tả hết.  Bài ca về Đao :  Đoạn 1:  Song đao khởi thế, tả hữu tà phiLiên chi khảm trúc, đao phá phúc?Biên thân liêu trảm, quy dịa yên?Ngọc hoàn phản – huân địch – trảm  Đoạn 2:  Đao giữ binh trường, phi xích dựĐao phong đối chuẩn hạ tà phiTrưu dằn đồng kích liên can sạtThuận thế trung bình thích hướng tâm  NGŨ HÌNH CA QUYẾT CỦA VỊNH XUÂN PHÁI  Long hình ca quyết   Long thái thượng hạ khúcKhí hùng kiêm lực túcLai khứ tiềm kỳ hìnhCương kiện trực thôi khôhận thử mệnh long hình   Tạm dịch  Hình rồng trên dưới uốn congKhí hùng thế mạnh sức thêm lạ thườngĐi, lại tiềm ẩn hành tungÝ đồ do bạn khiến dùng trong tayRắn danh, đánh vỡ muôn loàiThế nên được gọi là bài “Hình long”  Xà hình ca quyết  Xà hình thủ pháp điêuThân thúc thiện triền miênTiết loạn khuỷu vi khúcBiên chỉ hướng dịch tiền  Kỳ như năng trị cương  Nhân thử viết xà hình  Tạm dịch  Hình xà nhanh nhẹn đôi tay  Loè ra, thụt lại, cuộn hoài chẳng raXếp bằng năm ngón đánh qua kẻ thù  Trị “cương” ắt giữ thế “nhu”  Hình xà nhờ vậy dẹp thù thảnh thơi  

Page 82: vinh xuan.docx

Hổ hình ca quyết  Hổ hình tòng biên bộcCầm nà, câu, đàn, giácLực phát dũng như tiềnKiên, yêu thương hạ lạc  Kỳ dũng khả khắc ngoan  Nhân thủ mệnh hổ hình  Tạm dịch:  Hổ hình rình rập bên hông  Rành đòn : đục, búng, móc, thông cầm nàLực thời thần tốc phát ra  Vai, hông cựa quậy thủ là dưới trên  Bởi hình bài được mang tên  Ngoan, hung muốn diệt chớ quên bài này  Báo hình ca quyết  Báo hình ấn nhi hung,Khí tế toan kì trungĐầu, khuỷu kiêm tranh, tất  Dung hội học là xong  Cơ trí phục cường quật  Nhân thủ mệnh báo hình  Tạm dịch:  Hình beo kín đáo mà hung,  Đường đi, thế bước tập trung trong bàiGối, đầu, gót cẳng, chỏ tay  Dung hoà “tịnh” hạc, “nhu” xà, “cương” long  Mưu trí chứa sẵn trong lòng  Thẳng tay áp đảo cường ngông, liệt cuồng  Hạc hình ca quyết  Hạc hình truỵ khuỷu tranh,  Ngưng thần động lý phiên,Quyên, trầm, hượt, thoát, lâu,  Tiến, thối hổ liên hoàn,  Kỳ tịnh năng chế động,Nhân thử viết hạc hình.  Tạm dịch :  Hạc hình, chỏ, gót hạ trần  Tập trung ý trí, ắt cầm chốt then  Tiến, lui trong thế đã quen  Khoanh, trầm, trượt, sút, chảy xen nhau dùng  Tịnh, yên ngự chế động hung,Hạc hình là thế: lạ lùng nhưng hay.   

Nguồn: Võ Sư Lục Viễn Khaiđăng trên báo Quang Hoa 24.10.73

Vĩnh Xuân Việt Nam (Phần 3 và   hết) Tháng Hai 24, 2009

vinhxuanquyen Bài viết, Lịch sử, Lý thuyết Học trò cụ tế công, lịch sử vĩnh xuân việt nam, nguyễn mạnh nhâm, nguyễn tế

công Để lại bình luận

 

Page 83: vinh xuan.docx

Võ sư Hồ Hải Long tập cùng học trò

(Tiếp theo và hết) 

III. Một số điểm về võ học Vịnh Xuân

1. Luyện tập cơ bản ( cơ bản công)

1.1-Tấn: chủ yếu đứng hai chân, theo thế Kiềm Dương, 2 bàn chân quay vào trong (Nhị tự kiềm dương mã) chân khuỵu

xuống một chút làm hai đầu gối quay vào trong chỉ còn cách nhau bằng một bề ngang nắm tay.

1.2-Tay:

Tay nắm (quyền) hình chữ nhật (Nhật tự quyền) chủ yếu đấm thẳng ra trước theo đường giữa (tý ngọ chuỳ)

Tay xoè (chưởng) cần chú ý khép ngón tay cái (Phật chưởng) hoặc cong ngón tay tạo thành trảo.

Ứng dụng tất cả các phần của chi trên (ngón tay, hai cạnh bàn tay, đốt ngón tay, mu cổ tay, cẳng tay, cánh tay, khuỷu

tay,… kể cả vai, đầu, trán…)

Có nhiều kiểu thế tay nhưng chủ yếu có 8 thế chính: Than Thủ, Bàng Thủ, Tháp Thủ, Trầm Thủ, Kinh Thủ, Phục Thủ,

Xuyên Thủ, Tiêu (Phiêu) Thủ.

1.3-Chân: Vịnh Xuân Quyền không dùng nhiều thế đá (cước). Vì chủ yếu phát triển ở miền Nam Trung Quốc nên quyền

chiếm ưu thế (Nam quyền Bắc cước). Tuy nhiên VXQ cũng có những cú đá rất nổi tiếng: Xuyên tâm cước, Vô ảnh

cước…

 Tất nhiên khi dùng chân, VXQ cũng tận dụng tất cả các bộ phận hữu ích để tấn công hoặc hoá giải đòn thế của địch:

mông, đầu gối, ống quyển, gót chân, mũi chân, mu chân , cạnh bàn chân.

 2. Các bài quyền

Đó là những bài tập luyện các thế võ liên tiếp, có những bài tập một mình, có những bài tập hai người (song luyện, đối

luyện..v..v..)

2.1 – Tiểu niệm đầu- còn có tên khác: Thủ đầu quyền, Tiểu luyện đầu…(bài học vỡ lòng)2.2- Tầm kiều.

2.3- Tiêu chỉ

2.4- Mộc nhân thung (Hình dạng mộc nhân đôi khi cũng thay đổi tý chút). Mỗi chi phái đều có 1, 2, 3, 4… bài, tập với

mộc nhân (người gỗ) hoặc tập với người khác (thầy, bạn), cũng có thể tập một mình ( không thung)

2.5- Ngũ hình quyền (Long, Xà, Hổ, Hạc, Báo, Tổng hợp) : các bài võ luyện theo hoạt động, chiến đấu, dáng điệu (hình)

của một số con vật – Đây chính là ứng dụng của phỏng sinh học(bionic).

2.6- Khí công quyền – còn có tên là Bài vận khí, Phật gia khí công quyền.

2.7- Một số chi phái còn có thêm những bài võ khác

3. – Vũ khí.

Vũ khí là tay nối dài. Trước hết cần tập quyền, sau mới đến vũ khí.

Hầu hết các chi phái đều có Bát trảm đao và Côn ( Lục điểm bán côn, Tam điểm bán côn)

Page 84: vinh xuan.docx

3.1 – Bát trảm đao: Sử dụng đôi đao ngắn ( khuảng 60 cm) có tay quai có thể quay vào được, có nhiều tên: Âm dương

đoạt mệnh song đao, Hồ Điệp đao, Nhân tự song đao, Hổ vĩ song đao…). Trong lịch sử kháng Nhật, Mã Chiếm Sơn

cùng một đội quân dùng song đao đánh giáp lá cà đã chiến thắng đội quân Nhật nổi tiếng sử dụng trường kiếm.

3.2- Lục điểm bán côn

Tương truyền bài côn này là từ Chí Thiện thiền sư, sau được nhập thêm vào kho tàng Vịnh Xuân Quyền (do Lương Nhị

Tỷ trao đổi với Hoàng Hoa Bảo). Có thể là Tề mi côn , Trường côn (có thể có một đầu nhọn, trở thành thương).

Có chi phái có tam điểm bán côn.

Lục điểm bán côn hay tam điểm bán côn là ở chỗ có 6,5 điểm hay 3,5 điểm trong kỹ thuật sử dụng (côn pháp). Sáu thế

côn chính là : Toả hầu – Trung bình – Dịch tự – Cái côn – Hoành đả – Hạ khiêu.

3.3- Các vũ khí khác.

Các chi phái khác nhau có thể có thêm một số vũ khí khác.

–  Đại đao (Quan đao) – tức đao dài, to như của Quan Vân Trường (đời Hậu Hán).

– Kiếm, bài kiếm của Việt Nam, (liễu diệp kiếm) có sáu thế chính: khuyên-trầm-trát-thích-phất-lặc.

– Phi tiêu: cụ Tế Công vẫy tay phóng ra một lúc 5 lưỡi dao nhỏ cắm vào cửa gỗ, phải lấy kìm mới nhổ ra được.

– Lưu tinh chuỳ (chuỳ dây). Trước đây cụ Tế Công có dạy cho ông Đinh Công Niết ở Hoà Bình (uỷ viên quốc hội Việt

Nam) – tháng tập một lần.

– Khiên đao (dùng đao và khiên)

4. Tập luyện quyền cước như thế nào?

Môn sinh VXQ phải tập luyện thật chuyên cần, các động tác khởi động chú ý nhiều đến làm mềm, linh hoạt các khớp

( phá khớp), thăng bằng, du đẩy.

Tiếp đến tập các động tác cơ bản: đánh hoặc đỡ, hoặc vừa đỡ vừa đánh bằng chi trên, chi dưới, vai, hông…

Tập Tán thủ: các thế võ riêng rẽ – Tập Ly thủ: các đòn đánh liên tiếp – Tập Niêm thủ: để tăng cường khả năng cảm nhận

của tay (linh giác), tiến tới quen dần thực chiến – Tập các bài quyền – Mộc nhân – Mộc mã – Tập vũ khí – Tập đấu tự do

– Tuý đả – Điểm huyệt ( 12 tử huyệt đánh theo 12 giờ trong ngày đêm) – Tham gia thi đấu “ Quyền tay dính”

Có thể tập một mình, có thể nhìn gương để chỉnh các động tác (đối kính), với người khác (thầy, bạn…) và với những

dụng cụ hỗ trợ tập luyện…

5.- Dụng cụ hỗ trợ luyện tập

5.1- Mộc nhân (người gỗ)

Tiếng Hán là mộc nhân thung, dùng cho môn sinh tự luyện. Có khá nhiều kiểu thay đổi nhưng cơ bản là một cột gỗ

(đường kính khuảng 30 cm), chôn xuống đất cao khuảng 2m, thay cho thân người và những tay gỗ ngang thay cho các

thế tay: ở cao (thượng), giữa (trung) và thấp (hạ) và 2 cái thật thấp (mức đầu gối mắt cá chân đê luyện cước pháp).

Thường có thêm các chi tiết khác để luyện côn, kiếm.

Mộc nhân và các ‘tay’ cố định cần có độ “dơ’ di động đôi chút để tập đỡ chấn thương mạnh và tạo âm thanh dễ nghe.

Các chi phái có những mộc nhân thay đổi tý chút: vị trí tay, độ di động, số lượng các tay…có độ phản hồi nhiều hay ít.

Gần đây, do những môn sinh ở nhà tầng không có điều kiện chôn, người ta đã cải tiến mộc nhân đứng trên giá đỡ, đặt

trên sàn.

Page 85: vinh xuan.docx

Tập thành thục, đòn thế gọn gàng, âm thanh (do đòn đánh vào mộc nhân) nghe rất thú vị. Sư tổ Nguyễn Tế Công kể lại:

thời cụ tập, mộc nhân được để trong cái buồng nhỏ, sư phụ giữ chìa khoá, khi cho học sinh vào tập mới mở cửa buồng

cho vào, xong lại khoá lại và ông thầy lại giữ lấy chìa khoá. Thời kỳ mới đây ở Hồng Kông, Diệp Vấn có mộc nhân nhưng

đắp chiếu để ở chỗ khuất, chỉ học trò nào được tập mộc nhân ông mới bỏ chiếu ra cho tập, xong lại đậy kín. Chỗ để mộc

nhân lại rất gần cổng ra vào, Diệp Vấn đi đâu về cũng “tranh thủ” tập 1-2 lần trước khi vào nhà.

5.2. Các dụng cụ hỗ trợ khác

Còn rất nhiều các thiết bị được chế ra để luyện các kỹ năng VXQ (quyền cước, vũ khí…) mỗi chi phái lại có thêm những

công cụ độc đáo riêng rất hữu hiệu, sáng tạo…Ví dụ cọc tre, khung gỗ, mộc mã (ngựa gỗ để tập cưỡi ngựa), bảng huyệt

vị để tập đả huyệt..

Các dụng cụ này rất đa dạng, có lẽ do các chi phái sáng tạo thêm và gần đây du nhập những dụng cụ của các môn tập

khác (có cải tiến hay không). Bởi vậy, trên đây chúng tôi chỉ đưa ra một số được biết qua tập luyện, các thông tin…

6. Linh Giác (Niêm Thủ)

 Đây là một trong những môn công phu rất đặc biệt , độc đáo của VXQ – một trong những vấn đề quan trong nhất của

luyện tập.

 Điều chắc chắn là, từ những điều học tập ở Võ đường đến những trận đánh nhau thật có một khoảng cách khá xa: địch

thủ đánh ra một đòn không “chờ đợi”, ta hoá giải rồi mới rút tay (hay chân) về để đánh tiếp và đặc biệt, không báo giờ

báo trước sẽ đánh đòn nào vào chỗ nào…(!!!)

 Người võ sinh, dù có tinh tường lanh lẹ đến mấy cũng không thể kịp thời đối phó bằng cách chỉ nhìn thấy đòn địch và áp

dụng một miếng võ thích hợp như khi tập ở Võ đường mà ở đó bao giờ anh ta cũng biết trước được đòn “địch” và dùng

thế võ đã học được để đánh lại bao giờ cũng đắc thủ(!). Ngoài đời, đòn địch bao giờ cũng rất nhanh, không dễ dàng gì

mà vừa nhìn thấy “bằng mắt” và trả đòn chính xác ngay được. Bởi vì thông thường, đòn đánh của địch phải được nhìn

thấy, thần kinh thị giác chuyển lên não bộ – từ đây não mới “ chỉ thị” cho tay và/hay chân hoạt động. Dù hiện tượng nhận

tín hiệu và ra lệnh hành động của não bộ rất nhanh nhưng vẫn là “quá chậm “ để chiến đấu. Chính vì vậy, trong cuộc

chiến với ngoại vật, cơ thể chúng ta đã phải tự bảo vệ bằng một cơ chế vô thức: Phản xạ – để duy trì cuộc sống trước

hiểm nguy – Ví dụ, khi ta vô tình sờ tay vào nước nóng, hay bị một cái gai nào đó đâm vào tay… ta chưa biết chuyện gì

xảy ra nhưng tay ta đã giật mạnh và co lại tức thì.

 Tập linh giác (tay dính, niêm thủ) trong VXQ chính là dựa trên cơ chế phản xạ đó bằng cách tập đi tập lại nhiều lần,

bằng tiếp xúc tay với đối tác. Nó làm tăng cảm giác của đôi tay và khi đã tiếp xúc với tay địch, tay ta có thể cảm nhận và

phát hiện đòn tấn công theo hướng nào, mạnh hay yếu (nghe lực, thính kình) và tự động lập tức xuất ra những đòn thế

phù hợp để đối phó (theo cơ chế phản xạ) trong khi não chưa kịp ra lệnh. Và chỉ có nhờ vậy mới có thể ứng phó kịp thời

với các đòn của đối phương.

 Xin lấy ví dụ như khi tập đánh đàn Guitar, đầu tiên ta phải học đọc các nốt nhạc cơ bản (đồ, rê, mi…) rồi tập các nốt này

trên cần đàn (bấm vào đâu, đánh vào dây nào?) một cách chậm chạp. Nhưng sau một thời gian rèn luyện (tập đi tập lại),

người nhạc sĩ dần dần đã thành thạo (tạo được phản xạ) . Người nhạc sĩ lúc này chỉ thoáng nhìn vào bản nhạc, nhìn

đến đâu tay đàn đánh theo đến đó, không cần đọc tên nốt nhạc là gì nữa… mà vẫn đảm bảo được tiết tấu, nhịp, tình

cảm, và các sắc thái biểu cảm của âm thanh hài hoà và chính xác….(các nhạc sĩ gọi đó là chơi “à vue”).

 Người môn sinh VXQ , (khi đã luyện tập giỏi ) khi gặp địch thủ ra đòn tấn công – có khi liên tục, ở nhiều góc độ….- chân

tay tự động sẽ xuất đòn hoá giải và/hay phản công một cách hữu hiệu, hợp lí (nhiều khi mắt chưa kịp nhìn, óc chưa kịp

nghĩ – vì nhanh quá!) Đó là cơ chế phản xạ (tâm ứng thủ, nhờ linh giác).

Có thể minh hoạ cơ chế phản xạ như sau:

+ Bình thường: Phản ứng của cơ thể đối với sự vật qua 3 bước:

Page 86: vinh xuan.docx

Bước 1: Nhận biết sự vật qua giác quan (mắt, tai…)

Bước 2 : Thông tin được chuyển lên não và não xử lý nó – ra lệnh hành động.

Bước 3 : Cơ quan (chân, tay…) hành động theo lệnh của não.

+ Phản xạ : đi thẳng từ bước 1 đến bước 3 không qua não bộ. 

Theo sơ đồ sau đây.

Bình thường: Nhận biết (1) –> Não (2) –> Hành Động (3)

Phản xạ: Nhận biết (1) —————–> Hành Động (3)

 Để tạo được khả năng linh giác (tay dính ) này, môn sinh VXQ phải tập với một người khác (thầy, bạn) tiến dần từng

bước: dính một tay (đơn niêm thủ) , rồi đến dính hai tay (song niêm thủ), các động tác ngày càng phức tạp, biến hoá…,

kèm theo di chuyển (mã),… tiến đến có thể tập đánh đỡ trong tối, bịt mắt – đặc biệt là đòn ra bất kỳ, (không báo trước),

đòn đỡ hoàn toàn tự do, (tâm ứng thủ), không gò bó, miễn là có hiệu quả. Nhờ kiên trì tập luyện Tay dính, môn xinh VXQ

quen dần với thực chiến (bài tập ngày càng phức tạp, đòn thế bất ngờ, mạnh, liên hoàn tấn công – hoá giải/phản

công…). Có thể nói tập Tay dính là CẦU NỐI GIỮA BÀI TẬP VÀ THỰC CHIẾN. Đã tập các thế võ, các bài võ, môn sinh

VXQ muốn có kinh nghiệm thực chiến thì phải qua đánh nhau thật – điều này nguy hiểm và không phải lúc nào cũng

thực hiện được (người thầy võ khiêm tốn thường nói với học trò: Tôi dạy anh được 5 phần, anh tự tìm hiểu được 2

phần, còn 3 phần anh sẽ thu được sau này thông qua thực tế chiến đấu). Chính nhờ tập tay dính họ có được những kinh

nghiệm khá gần gũi với thực tế chiến đấu – điều này có thể hoàn thiện nốt bằng các cuộc thi đấu dính tay mà gần đây

môn phái VXQ mới đề xuất và đã có những trận thi đấu thí điểm tại Phật Sơn, Trung Quốc. Sau khi được tập luyện như

vậy, môn sinh VXQ chắc chắn sẽ có đủ khả năng đối đầu với những cuộc chiến gay go nhất mà họ bất đắc dĩ phải chiến

đấu.

 Trong tập tay dính cũng có võ đường cho dùng mũ áo bảo vệ. Một số đòn thế bị cấm, (Ví dụ xỉa vào mắt).

Trong lúc tập tay dính, người ta luôn cần thư giãn, ý nghĩ chỉ tập trung vào niêm thủ (càng thư giãn càng tốt, càng tập

trung tinh thần càng tốt – tập tay dính càng có hiệu quả), lại luôn phải di chuyển, quay người, vận động toàn thân, các

khớp… do vậy, ngoài tác dụng chiến đấu, tập tay dính còn là phương pháp tập dưỡng sinh rất tốt, có tác dụng “thiền

động”…rất có lợi cho sức khoẻ, mỗi ngày tập được độ 30 phút – 1 tiếng thì rất tốt. ở nước ngoài chúng tôi thấy nhiều

người đi tập tay dính tuần 2-3 lần, họ coi đây là một thứ thể thao như chơi bóng Tennis, Golf…

Tuy nhiên, muốn tập có hiệu quả (võ thuật cũng như dưỡng sinh) cần lưu ý 2 điểm sau đây:

 a. VXQ là cách đánh của phụ nữ. Bởi vậy không nên dùng lực nhiều, chỉ dùng khi cần thiết. VXQ chủ trương dùng lực

hợp lí, như người đi chợ dùng tiền, vì tiền có hạn nên không thể gặp cái gì cũng mua để rồi khi cần mua món đồ thực sự

cần thiết thì lại hết tiền mất rồi. Tập tay dính làm sao đạt: MỀM DẺO KHÉO NHANH MẠNH.

 b. Người tập cần luôn nhớ đây là luyện tập giữa các bạn đồng môn, cần có tinh thần thương yêu đoàn kết giúp đỡ nhau

cùng tập (như anh em trong gia đình). Tuyệt đối không được coi đây là tỉ thí , thi đấu. Mục tiêu của tập tay dính tuyệt đối

không phải là đánh trúng được bạn tập, và nếu bạn có lỡ tay đánh trúng ta thì ta không nên coi mình là kém, là thua và

cố tìm cách trả đòn (trả thù), ghen ghét nhau…Đó là những điều rất nên tránh để Tập Tay Dính trở thành một dạng tập

thú vị, tao nhã, hữu ích giữa các đồng đạo.

 Ngoài ra quan điểm DÍNH còn được VXQ áp dụng cho cả chi dưới (niêm cước), vũ khí như côn (niêm côn), đao (niêm

đao), kiếm (niêm kiếm)…..

  7. – Nôi công

Vịnh Xuân Quyền , ngoài việc tập luyện các bài quyền, đòn thế… còn rất quan tâm về khí – với nhiều tên gọi khác nhau

và có lẽ nội dung cũng khác nhau chút ít – như Nội Công, Khí Công, Dịch cân kinh, Thận khí quy nguyên….

 Vai trò của khí công thể hiện rõ rệt nhất trong truyền thuyết của Đạt Ma Sư tổ: sau 9 năm luyện tập (cửu niên diện bích),

ông đã trở thành chưởng môn Thiếu Lâm Tự. Minh chủ Vũ Lâm với những bài võ nổi tiếng (Thập bát La hán chưởng…).

Page 87: vinh xuan.docx

 Trung Quốc có câu nói: Tập võ mà không luyện công, đến già chỉ còn con số không (Đả quyền bất luyện công, đáo lão

nhất trường không) hoặc : lực bất đả quyền, quyền bất đả công (có sức không đánh được võ, có võ không đánh được

người luyện công).

 Nội công cơ bản là luyện thở (hô hấp, điều tức, thổ nạp) với tập trung ý nghĩ ở một điểm (nhất điểm), đan điền (ý thủ

đan điền), thư giãn, dần dần đi đến điều khiển ý khí (thần dẫn khí, khí dẫn huyết-lực) theo các đường kinh lạc (điều tức),

khai thông huyệt đạo dần dần đả thông được sinh tử huyền quan (nhâm đốc) dẫn theo tiểu chu thiên, đại chu thiên (đạo

dẫn), hoà nhập với vũ trụ (thiên nhân hợp nhất), lúc này thì sinh lão bệnh tử không còn là quy luật với người tập nữa.

Những giai đoạn khổ luyện của các cao nhân (được gọi là nhập tuất) kéo dài hàng bao nhiêu năm, với cơ duyên, với

danh sư, với căn cốt tiên thiên mà cũng không phải giờ họ cũng giúp họ đạt đến tình trạng “cảnh giới” như vậy.

 Chúng ta trong thực tế, luyện tập công phu phải tiến hành đồng thời với các hoạt động của cuộc sống trong xã hội với

tất cả những khó khăn, phức tạp, lo âu…, thời gian không phải nhiều (kể cả những người tập chuyên nghiệp), không

phải ai cũng có được danh sư thật (danh sư không thật thì rất nhiều!!), căn cốt không chắc gì đã có… Bởi thế có lẽ

không ai dám hi vọng đạt được cảnh giới trong thế giới văn minh công nghiệp này.

Không dám kể đến những công phu đặc dị thường được biểu diễn bởi các môn phái, thực tế chúng tôi thấy Nội Công đã

chữa được khá nhiều bệnh như đau dạ dày, viêm xoang, hen phế quản, lao phổi (phối hợp với thuốc), bệnh trĩ, táo

bón… Xin lấy những thí dụ mà nhiều người biết : Sư phụ tôi bị Lao phổi thời kỳ thứ 3, ho ra máu, có nước màng phổi.Cụ

đã khỏi hẳn bệnh, cố võ sư Trần Thúc Tiển còn có được hai lá phổi chịu được những cú đấm rất mạnh. Ngay GS Phạm

Khắc Quảng (nguyên Chủ tịch Mặt trận Tổ quốc Hà Nội, giám đốc bệnh viện Lao-Bệnh phổi), trong khi chữa bệnh cho

sư phụ tôi đã thấy được sự kỳ diệu cũng đã tập luyện VXQ (học cụ Tế Công). Năm 1954 khi đến phòng tập, tôi thấy giáo

sư Phạm Khắc Quảng đang chịu những quả đấm rất mạnh vào bụng và bản thân ông cũng rất thọ (trên 80 tuổi). Gần

đây, Giáo sư Ngô Gia Hy, một bậc thầy đáng kính trong nghành Y ( Tiết Niệu) mới mất thọ 90 tuổi. Tôi nghĩ rằng việc

luyện tập khí công đã có vai trò quan trọng giúp cụ sống thọ và khỏe mạnh cho đến những năm cuối đời vì Giáo sư Ngô

Gia Hy cũng là một nhà khí công rất lão luyện.

Sư tổ Nguyễn Tế Công nhờ nội công mà có cách dạy học trò rất độc đáo: người thầy tập trực tiếp với học trò xuất đòn

đánh thẳng (hết sức mạnh của học trò ) vào ngực, bụng, mạng sườn sư phụ bằng quyền, chưởng, cạnh tay, khuỷu tay…

suốt trong buổi tập. Người thầy chịu đòn liên tục của nhiều học trò (thay nhau tập) trong 4-5 giờ liền. Sư phụ không cần

phải nhịn hơi, lấy “gồng” làm gì cả mà vẫn vừa dạy vừa chịu đòn vừa nói chuyện hay giảng các thế võ… và không hề

đau đớn, mệt nhọc.

 Võ sư Trần Thúc Tiển từ năm 1954 dạy võ cũng theo hình thức đó – để cho học trò (cao to, nặng hơn mình nhiều)

thường xuyên xuất đòn vào cơ thể cụ… Hơn nữa, các cụ còn có thể dạy võ như vậy cho đến khi đã cao niên: cụ Tế

Công trên 80 tuổi, cụ Trần Thúc Tiển gần 70 tuổi.

 Qua tìm hiểu, chúng tôi thấy hiện nay chưa có chi phái nào ở nước ngoài dạy, huấn luyện VXQ theo cách này.

 Rất may là hiện nay một số võ sư VXQ Việt Nam vẫn còn duy trì được hình thức huấn luyện độc đáo này.

 Qua kinh nghiệm bản thân và các học trò, tôi thấy tập nội công thực là khó khăn vô cùng, đặc biệt là việc ngồi thiền (tĩnh

toạ).

 Người ta có thể tập các thế võ, các bài tập một mình (đơn luyện) hoặc với bạn, nhất là khi có 4-5 người thì tập rất

vui,liên tục 2-3 giờ dễ dàng… Nhưng với ngồi thiền trong đêm thanh vắng một mình, chống lại sự buồn ngủ, mệt mỏi sau

một ngày lao động vất vả (nhiều khi đầy rẫy những khó khăn, bực bội…) thì không phải ai cũng có đủ nghị lực và ý chí

để làm được. Hơn nữa phải làm như vậy trong nhiều năm… Ngoài ra, tập nội công dù rất chăm chỉ, dù tập trung được ý

nghĩ (điều này cũng khó khăn vô cùng) thì tiến bộ cũng không thể rõ rệt như tập bài, tập tấn được – tiến bộ chỉ có thể

quan sát thấy sau nhiều tháng, nhiều năm. Có lẽ vì thế mà người ta gọi đó là Công Phu.

 Tôi thường lấy ví dụ hiện tượng nước chảy đá mòn: Nếu ta đứng cạnh nhìn dòng nước chảy trên tảng đá cả một ngày

trời cũng chẳng thấy tảng đá mòn đi bao nhiêu!! Nhưng nếu một năm sau ta quay lại thì mới thấy tảng đá ấy có mòn đi

Page 88: vinh xuan.docx

thật! Vậy, nếu có đủ lòng tin, chúng ta hãy tập thiền – coi như đánh răng rửa mặt hàng ngày vậy, lâu dần bạn sẽ quen đi

và nếu bỏ một buổi tập sẽ thấy như “thiếu một điều gì đó”. Sau nhiều năm luyện tập, môn sinh VXQ chắc chắn sẽ đạt

được những thành quả quý báu!

 Để động viên học trò, tôi thường nhắc lại bài thơ của Bác Hồ mà tôi rất thấm thía:

 “Gạo đem vào giã bao đau đớn.

Gạo giã xong rồi trắng tựa bông.

Sống ở trên đời người cũng vậy.

Gian nan rèn luyện mới thành công.”

Và thường thì các môn sinh cũng rất đồng cảm… Muốn được nên người, muốn thành công, chỉ có một con đường chân

chính duy nhất: gian nan rèn luyện!

8. Yếu quyết

Ngoài việc luyện tập các thế (miếng) võ, các bài võ, ly thủ, tán thủ, niêm thủ… VXQ còn dạy các môn đồ những yếu

quyết, đó là đường lối, quan niệm, những nguyên tắc cần quán triệt trong khi tập luyện hay chiến đấu sao cho đạt được

hiệu quả cao nhất mà ta muốn (ý đáo)

Xin giới thiệu một số:

8.1 – Tý Ngọ Tuyến.

 Là đường giữa (trung lộ), đường chia đôi thân thể, đi từ huyệt Ấn Đường (giữa hai lông mày) đến Đan Điền (bụng

dưới). Môn đồ VXQ phải cố gắng bảo vệ Tý Ngọ Tuyến (TNT) của mình và tấn công địch thủ trên đường này (tối ưu).

–         Khuỷu tay ở đường giữa (thủ lưu trung tuyến), cách ngực bề ngang một nắm tay (Lý Tiểu Long nói: khuỷu tay giữ

ở chéo áo là nhãn hiệu của VXQ).

–         Bàn chân xoay 60˚, thân người xoay 90˚, hướng phía bên thân mình ra trước (biên thân), lực chủ yếu ở chân sau

(80%). Như thế phần nguy hiểm (nằm ở TNT) được che đi – còn đòn trở nên dài hơn đòn địch vì tay ta ở gần địch hơn

(theo lý thuyết trường thắng đoản) .

–         Nếu đảm bảo được vững chân trụ và trùng dãn toàn bộ cơ thể (tinh thần, cơ bắp), lực ra đòn sẽ rất mạnh – xuất

phát từ lòng đất – qua chi duới – cơ thể – vai – tay – địch thủ, ứng dụng được lục hợp ( Thần-khí; Ý Lực; Nội-Ngoại; Vai-

Hông; Tay-Chân; Khuỷu tay- Đầu gối.)

–         Chân phải vững: VXQ ví phần dưới cơ thể như cái gốc cây, nếu vững thì phần trên cơ thể có thể dễ dàng xoay

chuyển , nghiêng, ngả…tuỳ tình huống để đạt hiểu quả cao nhất.

Sư phụ tôi (võ sư Trần Thúc Tiển) vào khoảng năm 1955-1956, người bé nhỏ, chỉ nặng hơn 40 kg, đứng một chân mà

võ sư Phạm Xuân Nhàn, vô địch Quyền Anh, 57 kg, lấy đà mà đẩy không bật được. Cũng nên chú ý là thầy tôi lúc đó

khoảng 50 tuổi, trước đây bị lao phổi rất nặng (cả khái huyết, cả có nước màng phổi), Võ sư Phạm Xuân Nhàn mới độ

ngoài 20. (Sự kiện này đã được chính Võ sư Phạm Xuân Nhàn kể lại ngày 14/9/2003 tại buổi ra mắt của CLB Vịnh Xuân

Hà Nội trước hàng ngàn quan khách).

8.2 – Lai Lưu Khứ Tống, Thoát Thủ Trực Xông.

 “ (Khi) địch đến ta tiếp – địch đi ta theo – khi tay ta được tự do (không vướng mắc) thì tấn công thẳng về phía trước.”

 Khi lực tấn công đến, môn sinh VXQ không chống lại, nhưng tiếp nhận có thể làm chệch hướng tý chút (nên nhớ rằng :

chống lại lực tấn công, ví dụ một quả đấm thì khó, nhưng nếu đẩy chệch quả đấm sang bên một chút thì chỉ cần một

ngón tay cũng đủ) và dính theo. Khi lực đi thì theo nó và có khi còn bổ sung lực cho nó, và khi sự tiếp xúc mất đi (hoặc

có thể bị bắt chéo) thì ta tấn công thẳng ra trước theo Tý Ngọ Tuyến.

Page 89: vinh xuan.docx

 Đây là CẬN CHIẾN – môn sinh VXQ không bao giờ chuẩn bị sẵn các thế đánh trước mà tuỳ địch thủ ra đòn thế nào mà

có phản đòn. Nhờ tập luyện linh giác, tay có khả năng “nhìn thấy” (tay có mắt = nhãn thủ) trước khi mắt kịp thấy (vì quá

nhanh, có khi đòn còn bị che lấp) đồng thời tay cũng thấy được đòn địch nặng hay nhẹ, hướng của lực (nghe được lực :

thính kình). Bàn tay lúc đó như là người hỏi thăm đường đi (vấn thủ: tay hỏi). Khi đã biết đòn của địch, ta tự động biến

chiêu xuất đòn (quyền do tâm phát) mà không phụ thuộc hoàn toàn vào não bộ.

 Lý Tiểu Long cũng nói rõ quan điểm này: tôi không biết sẽ ra đòn gì trước khi chiến đấu. Đòn tôi đánh tuỳ thuộc vào

phía địch thủ ra đòn thế nào (tức là không chuẩn bị sẽ ra đòn nào trước).

 8.3 – Phản Thủ Đồng Thời

 Kỹ thuật phản thủ đồng thời cần phải luyện rất kỹ, là đặc điểm độc đáo trong VXQ – (còn gọi là Liên Tiêu Đái Đả). Phải

nhiều năm khổ luyện mới có thể thi triển được thốn kình – tiêu đả.

 Trong chiến đấu, VXQ luôn luôn giành thế chủ động tấn công – mặc dù địch tấn công trước, (động trước), ta động sau,

nhưng đã động là tấn công ngay, có thể kèm theo đỡ, nhưng cũng có thể không cần đỡ đòn địch (tiêu đả), vì đòn ta sẽ

đến người địch trước (tiên đáo), khi ấy đòn địch sẽ tự triệt tiêu. Đây cũng là sách lược của Mao Trạch Đông: phương

pháp phòng ngự tốt nhất là tấn công. Tiêu đả chỉ có hiệu quả (uy lực) khi biết ứng dụng thốn kình (đòn đánh khi tay ta

chỉ cách địch một thốn = 1,5cm).

 8.4 – Đòn đánh theo khuôn

 Vì đòn VXQ là cận chiến, tiết kiệm di chuyển, chủ yếu thân pháp sử dụng quay người để né đòn địch, tiếp đón và bảo trì

lực tấn công của địch (để lợi dụng cho đòn tấn công của mình), nên rất cần độ chính xác cao, sai lệch sẽ nguy hiểm

ngay, (theo đúng khuôn). Môn đồ VXQ luôn ở ngay gianh giới giữa thắng và thua – giống như khi đánh bóng bàn, trái

bóng luôn là sát lưới, sang thì được (thắng), nếu chỉ hơi thấp một chút thì bóng sẽ rơi về phía mình (thua). Sự ảo diệu

của VXQ chính là nằm ở đây, nó đòi hỏi kỹ thuật chính xác, khổ luyện, và bình tĩnh mềm dẻo khi thực hiện. Bởi thế, VXQ

đặc biệt hiệu quả trong chiến đấu (cận chiến) – nhưng cũng là một nhược điểm: biểu diễn không đẹp mắt, không hoành

tráng.

 Trong tài liệu “ Những bí mật của Lý Tiểu Long”, William Cheung có kể rằng: Diệp Vấn một hôm đã truyền thụ bí mật

này cho ông và nói “ta sẽ dạy cho con cách chiến đấu của người đàn bà” và cho biết ông học được kỹ thuật này từ

Lương Bích, con của Lương Tán. Vì Trần Hoa Thuận, người thầy trước của Diệp Vấn, vóc người to lớn, khoẻ mạnh nên

Lương Tán không dạy các chiêu thức này. Cũng có nguồn tin cho rằng Lương Tán không dạy Trần Hoa Thuận các chiêu

thức đặc biệt này vì sợ ông sẽ thắng con mình là Lương Bích (người bé nhỏ).Là sư huynh đồng thời là bạn thân của Lý

Tiểu Long, William Cheung tiết lộ rằng Lý Tiểu Long vì không biết “cách đánh của đàn bà” nên gặp khó khăn khi đấu với

người tây to khỏe, dài tay. Do đó đành bỏ dở VXQ và chuyển qua Triệt Quyền đạo (tấn công từ xa với những cú đá vừa

mạnh mẽ vừa đẹp mắt).

 THAY CHO LỜI KẾT LUẬN

 Chúng tôi vừa trình bày một số nét sơ lược về VỊNH XUÂN QUYỀN. Môn NỘI GIA CÔNG PHU này được ra đời trong

bối cảnh lịch sử đặc biệt: Hán tộc nổi dậy chống lại sự thống trị của Mãn tộc (Thanh triều 1644-1911). Ngay từ ban đầu,

môn phái Vịnh Xuân đã phải hoạt động rất kín đáo dưới sự truy sát của nhà Thanh – từ cơ sở huấn luyện, võ sư đến võ

sinh đều được giữ rất bí mật – ngay cả sau này, khi chính phủ nhân dân Trung Quốc nắm chính quyền thì trong thời gian

đầu võ thuật cũng chưa được khuyến khích phát triển – đặc biệt trong thời kỳ Cách mạng văn hoá – một số võ đường,

võ sư bị đàn áp; chỉ đến thời kỳ đổi mới, võ thuật mới có điều kiện nở rộ và VXQ cũng đã dần dần bước ra từ màn bí

mật để sánh vai cùng các môn công phu khác.

Từ một số người tập lẻ tẻ ban đầu, ở Việt Nam hiện nay số môn sinh VXQ đã khá đông – đáng chú ý là giới tri thức

chiếm đa số – khoảng 60-70% (cũng như ở các nước khác trên thế giới).

Có thể tóm lại rằng VXQ (Nội gia công phu) là một môn võ đặc biệt, mới được sáng tạo mấy trăm năm nay ở miền Nam

Trung Quốc (Phật Sơn). Hiện nay, VXQ được thế giới đánh giá rất cao và đang phát triển khá mạnh ở hầu khắp các

Page 90: vinh xuan.docx

nước trên thế giới. Việt Nam có may mắn được tiếp thu VXQ khá sớm, và cũng có những nét độc đáo của mình. Các

môn đồ VXQ ở Việt Nam đang cố gắng tập hợp, cùng các nhà nghiên cứu VXQ của cả nước để đoàn kết lại, hợp tác với

nhau tiến tới thành lập HỘI VÕ THUẬT VỊNH XUÂN VIỆT NAM để có điều kiện hơn trong việc học tập, giúp đỡ lẫn nhau,

tiếp thu những tinh hoa quý báu của VXQ để có thể phát triển cho nhân dân tập luyện, lưu truyền ở nước ta, cũng như

có điều kiện hội nhập, tiếp xúc, trao đổi với giới võ học quốc tế.

Có người hỏi tôi: “ thời đại bây giờ là thời đại súng đạn, làm gì có môn võ nào có đòn thế nhanh, mạnh , hữu hiệu như

súng lục, tiểu liên cực nhanh. Việc gì mà vất vả tập luyện, cứ mua lấy một khẩu súng…”.

Trong một chừng mực nào đó thì ý kiến trên không phải không đúng. Tuy nhiên, tôi nghĩ rằng tập luyện võ thuật có hai

mục đích : rèn luyện thân thể và chiến đấu.

Rèn luyện thân thể là mục đích đầu tiên và quan trọng hơn. Qua luyện tập Vịnh Xuân Quyền, chúng ta không những có

được một cơ thể khoẻ mạnh, ít bệnh tật, học tập lao động có hiệu quả hơn, minh mẫn, dẻo dai…nhưng đặc biệt VXQ

còn tạo cho người tập ý chí vững vàng, đầu óc minh mẫn, khả năng tập trung tư tưởng cao và dài lâu (vào một vấn đề

nghiên cứu, học tập…) nhờ luyện tập Nội dưỡng công. Môn sinh của VXQ trở thành người điềm tĩnh, bình thản trước

những tình thế khó khăn, nguy hiểm (dù xảy ra đột ngột) và chính sự bình tĩnh này sẽ giúp anh ta/cô ta sáng suốt giải

quyết vấn đề một cách kịp thời, hợp lý, logic.

Chiến đấu – mục tiêu thứ hai cũng có lúc, trở nên rất cần thiết, có khi cực kỳ quan trọng để cứu sống bản thân (hoặc

người khác) , hoặc có thể hoàn thành nhiệm vụ. Võ thuật là một môn học chính khoá quan trọng của các lực lượng vũ

trang ở bất cứ quốc gia nào: quân đội, công an, tình báo, đặc công… Trong thực tế, dù có súng, ngay các các lực lượng

vũ trang này vẫn có lúc phải sử dụng võ thuật như : không có sẵn vũ khí trong tay (hoặc súng bị đánh văng đi), súng hết

đạn, điều kiện không được nổ súng (trong đám đông, cần giữ không phát tiếng động…), đối tượng chưa đáng bị bắn (ví

dụ công an nếu bị một người say rượu tấn công, hoặc một kẻ xấu tấn công công an bằng tay…). Người dân bình thường

càng không có điều kiện và càng không nên giữ kè kè vũ khí bên mình (ngay khi ta có giấy phép sử dụng…).

Mặt khác, khi đã học võ, người ta đã tự trang bị cho mình vũ khí. Việc sử dụng vũ khí đó như thế nào chính là cái đạo

của người luyện võ.

Bản thân tôi khi nhận học trò bao giờ cũng đặc biệt quan tâm đến đạo đức và chỉ thu nhận khi biết chắc là họ có đạo đức

tốt. Điều này còn được lưu ý trong suốt quá trình luyện tập, nếu có biểu hiện xấu, học viên sẽ bị đào thải. Võ thuật chỉ là

để phòng thân (tự vệ, cứu người) trong trường hợp đặc biệt cần thiết. Tuyệt đối không dùng võ trong những việc trái đạo

đức (phản bội tổ quốc, đàn áp hay hà hiếp người khác…) đó là trái với VÕ ĐỨC. Ngay việc sử dụng võ thuật để tỷ thí ,

gây sự đánh nhau cũng bị nghiêm cấm ở các lớp võ của tôi để tránh những hiềm khích, những rối loạn không cần thiết,

ảnh hưởng trật tự trị an v..v.. Tôi thường dạy học trò :” phương pháp tốt nhất để thắng một trận đánh nhau là nên tránh

việc đánh nhau”. Người học võ cần khiêm tốn, hoà nhã, nêu cao chữ ‘Nhẫn” , nhưng biết tôn trọng bảo vệ chính nghĩa,

không được tự cao tự mãn cho mình là nhất ( vũ vô đệ nhị, văn vô đệ nhất). Phải biết võ học là vô bờ, núi cao còn có núi

cao hơn.

 Một lần nữa tôi cũng muốn bày tỏ ở đây quan điểm: tập võ là để rèn luyện tinh thần, thể lực, võ đức và võ thuật. Phải

rèn cái TÂM, chứ không nên chỉ cố tập lấy cái TÀI như Nguyễn Du, một nhà văn, thơ nổi tiếng đồng thời là người cũng

rất uyên thâm về võ học (Hồng Sơn Hiệp Lộ) viết:

Chữ tâm kia mới bằng ba chữ tài.

Và đây cũng là cái tâm của tôi khi viết bài này, kính cẩn hướng tới sư tổ, sư phụ của tôi và các bậc tiền bối của Vịnh

Xuân Phái, cũng như chân thành chia sẻ với các bạn đồng môn, và những nhà nghiên cứu, yêu thích Vịnh Xuân Phật

Gia Công Phu.

Nguồn: Võ sư Nguyễn Mạnh Nhâm, chủ nhiệm CLB Vĩnh Xuân Hà Nội

Share this:

Page 91: vinh xuan.docx

Print

Vĩnh Xuân Việt Nam (Phần   2) Tháng Hai 24, 2009

vinhxuanquyen Bài viết, Lịch sử các học trò tôn sư tế công, lịch sử vĩnh xuân việt nam, nguyễn tế công, Tế công Để lại bình

luận

  

Ảnh sư Tổ Nguyễn Tế Công chụp cùng ông Trần Thúc Tiển

Đến nay đã có nhiều website được tra cứu (cả của các nước, cả của Việt Nam), nhiều bài báo khảo luận giới thiệu

VXQ… Đó là những tư liệu, thông tin rất quý báu của những người có nhiệt tình nghiên cứu, tìm hiểu viết ra và rất được

độc giả hoan nghênh… Tuy nhiên, những thông tin đó nhiều khi rất khác nhau, nhiều khi trái ngược nhau và đôi khi có

những sai lầm rất đáng tiếc – Như bài “ Sích Vồ – người võ sĩ công an huyền thoại” đăng trên báo An Ninh Thế Giới ( 2

số trong tháng 10/2004). Nhà văn trẻ Dương Bình Nguyên đã viết một bài rất hay, giới thiệu một cao thủ luyện tập say

mê ( suốt đời) và đã có những thành tựu đặc biệt…Nhưng anh đã viết hoàn toàn sai lạc về nhân thân võ sư Trần Thúc

Tiển?!

Một sự kiện rất đáng quan tâm đó là CÂU LẠC BỘ VỊNH XUÂN HÀ NỘI đã được thành lập. Lễ ra mắt Câu lạc bộ (ngày

14/09/2003) đã được tổ chức rất hoành tráng tại nhà thi đấu (Sở TDTT Hà Nội) và được đông đảo các môn phái, những

người yêu võ ủng hộ. Việc ra đời của CÂU LẠC BỘ VỊNH XUÂN HÀ NỘI đánh dấu một bước tiến của môn sinh VXQ ở

nước ta.

Bản thân tôi (tác giả) may mắn là người đầu tiên được tôn sư Trần Thúc Tiển truyền dạy VXQ năm 1954, từ bấy đến nay

vẫn luôn luyện tập theo sự chỉ dạy của người. Do yêu cầu của nhiều bạn bè, thanh niên … cũng đã tiến hành huấn luyện

từ năm 1981.

Là môn đồ VX, đã tập luyện, nghiên cứu, giảng dạy VXQ khá lâu, chúng tôi xin phép giới thiệu một số thông tin, tư liệu

về VXQ mà bản thân thu lượm được nhờ sự chỉ dạy của tôn sư, qua nghiên cứu sách báo, tin học và cũng từ chiêm

nghiệm của chính bản thân qua 50 năm chăm chỉ luyện tập và hướng dẫn môn sinh.

Mong rằng những tư liệu này sẽ giúp ích phần nào cho các môn sinh VXQ cũng như các nhà nghiên cứu, yêu thích võ

học nói chung và VXQ nói riêng.

Page 92: vinh xuan.docx

II. Sự hình thành Vịnh Xuân Quyền ở Trung Quốc và các nước

1. Sơ Lược Lịch Sử

Vịnh Xuân Quyền – được hình thành vào đời Ung Chính – Càn Long nhà Thanh (1644-1911) – Trung Hoa – được

khoảng 300 năm nay – đúng vào lúc dân tộc Hán muốn lật đổ nhà Thanh (Phản Thanh Phục Minh) để khôi phục lại đế

chế cũ. Trung tâm lớn nhất, có uy tín nhất và trình độ võ thuật cao nhất chính là chùa Thiếu Lâm – các môn phái võ ở

Trung Quốc về cơ bản đều từ Thiếu Lâm tự mà ra (công phu xuất Thiếu Lâm). Chính tại cái “nôi võ thuật” này các chiến

sĩ cách mạng chống lại Thanh triều được đào tạo – Vua Thanh biết điều đó và đã ra tay trấn áp, nhiều lần thiêu huỷ

Thiếu Lâm tự, tàn sát chư tăng (Thiếu Lâm trường hận).

Trước tình thế đó, các vị cao tăng phải hoạt động gấp rút, không thể cứ đào tạo võ sĩ theo bài bản cũ: 15-20 năm hay lâu

hơn nữa mới “tốt nghiệp”, sau khi qua được trận đồ của 108 người gỗ (mộc nhân) mới được “hạ sơn” . Để đáp ứng nhu

cầu lúc đó, cần phải có một môn võ hữu hiệu (hiệu quả cao ) có thể đánh thắng các môn sinh của các võ phái khác,

nhưng lại không được quá rườm rà, phức tạp và tập luyện với thời gian ngắn hơn. Với kinh nghiệm luyện tập , huấn

luyện võ học cũng như kinh nghiệm trong chiến đấu thực hành (hành hiệp), đúc rút tinh hoa của môn võ Thiếu Lâm cũng

như các môn võ đương thời (Bạch Hạc, Võ Đang, Hồng Gia..) các đại sư (theo tương truyền có 5 người, gọi là “Ngũ

Tổ” : Ngũ Mai, Chí Thiện thiền sư , Miêu Hiển, Bạch Mi đạo nhân và Phùng Đạo Đức) đã sáng tạo ra một môn võ mới lấy

tên là Vịnh Xuân Công Phu, lấy mật hiệu bái tổ là một tay nắm một tay xoè – biểu hiện chữ Minh – gọi là Minh tự cung

thủ lễ.

Do phải tránh sự truy lùng của Thanh triều, việc dạy võ, luyện võ phải được giữ bí mật – người tập phải dấu tên, nơi tập

phải kín đáo – và các sư phụ càng phải bí mật hơn – chủ yếu dùng tên giả, bí danh…và tất cả – võ học cũng như lịch sử

môn phái chỉ được truyền miệng. Những tư liệu chúng ta có được ngày nay đều là nhờ trí nhớ lưu truyền lại qua các thế

hệ – không thể tránh khỏi những điều trùng lặp, nhớ, quên – và có thể pha thêm cả hư cấu. Vì thế , những nhân vật chủ

yếu (võ sư sáng tổ) của môn VXQ (như Ngũ tổ, Nghiêm Vịnh Xuân, Than Thủ Ngũ, Lương Bác Trù, Đại Hoa Diện Cẩm,

Nhất Trần Am Chủ…) đến nay không ai rõ tông tích, tên thật và ngay cả các vị đó ai là thật ai là hư cấu…Tại các chi

phái, lưu truyền rất nhiều truyền thuyết về các vị, đến nay chúng ta không có đủ bằng chứng để khẳng định hay phủ

định.

Tuy vậy cũng có thể tin chắc là VXQ phát sinh và phát triển ở miền nam Trung Quốc, tập trung chủ yếu ở Phật Sơn, với

nhiều nhân vật trọng yếu trong Hồng Thuyền (một đoàn hát kịch lưu diễn rong ruổi theo đường thuỷ) và Hồng Hoa Hội,

rất có thể có liên hệ khá chặt chẽ với Thiên Địa Hội. Khi bị nhà Thanh trấn áp, các vị lãnh tụ (võ sư cao đồ VXQ) di tản đi

rất nhiều nơi và cả sang nhiều nước vùng phía Nam, Đông Nam Trung Quốc (Việt Nam, Thái Lan, Malaysia, Indonisia,

Singapore…) và truyền dạy VXQ tại đó. Ngoài Hồng Kông, Phật Sơn, khuảng gần 20 chi phái VXQ được biết đến với

những điểm chung cũng như những điểm riêng của mỗi chi phái. Xin liệt kê một số chi phái lớn:

1.Vịnh Xuân Quyền Hồng Kông (Diệp Vấn)

2.Vịnh Xuân Quyền Bành Nam – Nhất Trần am chủ truyền dạy (Phật Sơn)3.Vịnh Xuân Quyền Việt Nam (Nguyễn Tế

Công)

4. Vịnh Xuân Quyền Quảng Châu – Nguyễn Kỳ Sơn

5. Vịnh Xuân Quyền Cổ Lao (Lương Tán)

6. Vịnh Xuân Quyền Nam Dương (Tào Đức An)

7. Vĩnh Xuân Quyền Bào Hoa Liên (Đại Đông Phong) – Phật Sơn và Hồng Kông

8. Vĩnh Xuân Quyền Chí Thiện Thiền Sư (Vĩnh Xuân Điện) – Phật Sơn

9. Vĩnh Xuân Quyền Hồng Quyền (Nhất Trần Đại Sư – Than thủ Ngũ) – Quảng Đông

10. Vĩnh Xuân Quyền Phúc Kiến (Phương Thế Ngọc)

11. Vịnh Xuân Quyền Malaysia (Diệp Kiên -1930)

12. Vịnh Xuân Quyền Diêu Kỳ Phật Sơn (Nguyễn Tế Công và Ngô Trọng Tố).

13. Và nhiều chi phái khác….

Một điểm đáng lưu ý là : Có những chi phái võ, không có tên là Vịnh Xuân nhưng lại có nhiều điểm rất giống với Vịnh

Xuân (khoảng 70-80%), như ở Phúc Kiến (Long Hình Quyền, Ngũ Tổ Quyền…) và bắc Thái Lan (môn võ Phi Hầu – theo

truyền thuyết là từ Tề Thiên Đại Thánh?!!) Vậy thì có nhiều phái VXQ hay đây cũng là VXQ chính thống nhưng sư truyền

dấu tên và lấy tên khác thay vào?

Page 93: vinh xuan.docx

B. Tên gọi: Vịnh Xuân Quyền hay Vĩnh Xuân Quyền?

1. Vịnh Xuân Quyền (Wing Chun Kuen hoặc Wing Tsun Kuen)

Đa số (khuảng 80% chi phái) nhận tên là Vịnh Xuân Quyền (Vịnh 咏 hoặc có nghĩa là ngâm nga, ca ngợi). Họ công nhận

VXQ bắt nguồn từ Ngũ Mai sư bá truyền dạy cho Nghiêm Vịnh Xuân và lấy tên của Nghiêm Vịnh Xuân đặt cho môn võ

này.

Tuy vậy, cũng có nhiều truyền thuyết về Nghiêm Vịnh Xuân: Theo Diệp Vấn và một số người thì bà là con Nghiêm Nhị,

một cao thủ Thiếu Lâm, lánh nạn ở chân núi Đại Lương, làm nghề bán đậu hủ. Biết Nghiêm Vịnh Xuân bị một tên cướp

trong vùng bắt phải lấy làm vợ, Ngũ Mai sư bá đã truyền dạy cho bà võ nghệ và sau đó bà đã đánh bại tên cướp. Lương

Bác Trù cũng là một cao thủ phái Hồng Gia (có tài liệu cho là một thương nhân) đã gặp và đem lòng yêu cô gái họ

Nghiêm, nhất là khi được xem trộm cô luyện tập võ nghệ cùng bố là Nghiêm Nhị dưới ánh trăng. Nghiêm Vịnh Xuân

truyền lại Vịnh Xuân Quyền cho chồng và hai vợ chồng về Phật Sơn và Hồng Thuyền dạy Vịnh Xuân Quyền . Sau khi

Lương Bác Trù mất, Nghiêm Vịnh Xuân quy y ở chùa Vĩnh Xuân ở huyện Kiến Xương thuộc tỉnh Quảng Đông. Nguồn tin

khác lại cho biết Nghiêm Vịnh Xuân mất sớm, Lương Bác Trù đi đến nhiều địa điểm để dạy võ và sau không biết mất ở

đâu, năm nào. Không thấy có nguồn tin nào nói về hậu duệ của ông bà cả.

Cố võ sư Trần Thúc Tiển biết hai truyền thuyết về Nghiêm Vịnh Xuân – Một truyền thuyết đã được Võ sư Nguyễn Ngọc

Nội kể lại trong bài “Vĩnh Xuân Việt Nam – Những bí mật quá khứ và hiện tại” (báo Ngày Nay, số 23-2003, tr.36-37) gần

giống tư liệu của Diệp Vấn. Truyền thuyết thứ hai như sau: Ngũ Mai sư bá – lúc đó tu ở Bạch Hạc Sơn – một hôm đi hái

thuốc thấy một hài nhi bị bỏ ở trong rừng, mình bọc trong một cái chăn màu hồng rất đẹp, có viết chữ Nghiêm. Bà nghĩ

rằng bé gái này là từ một gia đình quyền quý họ Nghiêm, lúc đó lại là mùa xuân nên đặt tên là Vịnh Xuân. Nghiêm Vịnh

Xuân lớn dần, được truyền dạy văn hoá, đạo và môn võ Ngũ Mai mới sáng tạo dựa trên võ Thiếu Lâm, Bạch Hạc, kinh

nghiệm chiến đấu của bản thân và nhất là sau khi quan sát cuộc chiến đấu giữa một con chim hạc và một con rắn.

Trước khi hạ sơn, Nghiêm Vịnh Xuân có hỏi tên môn phái thì Ngũ Mai bảo: con là người đầu tiên được ta dạy môn võ

này, cứ lấy tên con mà đặt cũng được.

2. Vĩnh Xuân Quyền (Weng Chun Kuen)

Một số chi phái khác (khoảng 20%) lại nhận là Vĩnh Xuân Quyền (chữ Vĩnh 永 khác chữ Vịnh 咏 là không có bộ ngôn

hoặc chữ khẩu ở bên trái, có nghĩa là dài lâu). Các ý kiến này cũng cho rằng, nguồn gốc Vịnh Xuân Quyền hơi khác, có

thể là:

Do các cao thủ Thiếu Lâm sáng tạo ra ở Cung Vĩnh Xuân (trong chùa Thiếu Lâm), do đó gọi là Vĩnh Xuân Quyền.

Do Ngũ Mai và Chí Thiện thiền sư sáng tạo ra ở Cung Vĩnh Xuân.

Do Chí Thiện thiền sư sáng tạo ra và dạy cho các cao thủ ở Hồng Thuyền (khi ông trốn tránh ở đây làm việc như một

đầu bếp).

Do Nhất Trần am chủ (sư nữ) dạy cho Than thủ Ngũ ( khi trốn về Phật Sơn), Than Thủ Ngũ dạy cho các vị ở Hồng

Thuyền (Hoàng Hoa Bảo, Đại Hoa Diện Cẩm, Lê Phúc Tôn…). Tên Vĩnh Xuân Quyền là do chữ Vĩnh bắt nguồn từ tên

Trần Vĩnh Hoa (một trong những người sáng lập ra Thiên Địa Hội) – Chữ Xuân là tổng hợp của 3 chữ : chữ Đại là hàm ý

chỉ nhà Đại Minh, chữ Thiên là lấy từ tên Thiên Địa Hội, và chữ Nhật là mặt trời biểu hiện ánh sáng trở lại. Vĩnh Xuân trở

thành khẩu hiệu bí mật – có nghĩa là chỉ có lật đổ nhà Thanh thì mới có được tự do (theo chi phái Bành Nam ở Phật

Sơn).

Bào Hoa Liên Vĩnh Xuân Quyền cho rằng Vĩnh Xuân Quyền bắt nguồn từ một nhân vật cách mạng, có biệt hiệu là Đại

Đông Phong (một sư ông mà người ta không biết tên), bị Thanh triều truy nã, Ông trốn ở Quảng Đông trong nhà hai anh

em Tăng Quốc Lương và Tăng Quốc Chương. Tuy là quan thời đó nhưng hai anh em họ Tăng không yêu gì nhà Thanh

– và được Đại Đông Phong dạy võ – Hai ông sau này lại dạy võ cho một người con nuôi tên là Lê Đạt Sinh từ lúc 9 tuổi,

khoảng 10 năm sau Lê Đạt Sinh về sống ở Phật Sơn, nhưng phải đi đày biết xứ trong 30 năm vì đã giết chết đối thủ

trong một cuộc đấu dao. Sau khi mãn hạn, ông lại về Phật Sơn và truyền thụ Vĩnh Xuân Quyền. Theo chi phái này Vĩnh

Xuân lấy từ mật khẩu cách mạng Vĩnh ngôn thất chí, vô vong Hán Tộc, đại địa hồi Xuân, (đại ý: luôn nói lời quyết tâm,

không quên nhà Hán, đất nước hồi xuân).

Page 94: vinh xuan.docx

Vĩnh Xuân là tên một vùng thuộc tỉnh Phúc Kiến – Nơi môn võ được tập luyện, do đó đặt tên là Vĩnh Xuân Quyền.

Vĩnh Xuân là cách gọi lạc đi để đảm bảo bí mật cho môn phái.

Vĩnh Xuân và Vịnh Xuân âm đọc rất giống nhau nên có thê lẫn khi truyền khẩu từ người này sang người khác mà thôi.

Vĩnh Xuân là tên một nữ hiệp, vợ của Hồng Hi Quan, đó là Phương Vĩnh Xuân.

 2. Các điểm chung về nguồn gốc VXQ

Tuy có nhiều truyền thuyết , nhiều thông tin lắm khi trái ngược nhau như đã nêu nhưng chúng ta vẫn thấy những điểm

chung.

VXQ có xuất xứ từ Thiếu Lâm Tự, là một môn võ mới được sáng tạo, chỉ khuảng 300 năm nay, trên cơ sở các kinh

nghiệm giang hồ, các môn võ khác, đúc rút tinh tuý sao cho thực dụng, hiệu quả, thời gian tập không quá dài, có thể giúp

người yếu (hoặc phụ nữ) chế ngự kẻ mạnh, phải chăng mục tiêu là để sớm đào tạo ra những cao thủ tham gia cách

mạng (Phản Thanh Phục Minh)?

Địa điểm khởi nguồn của VXQ là ở phía nam Trung Quốc, khá tập trung ở Phật Sơn và liên quan nhiều đến một đoàn ca

kịch lưu động, rong ruổi trên một chiếc thuyền màu hồng (Hồng Thuyền). Ngoài Trung Quốc, các đại sư di tản chủ yếu

sang các nước phía Nam và Đông Nam Trung Quốc và truyền thụ võ nghệ cho nhân dân bản địa.

Các vị tông sư, tiền bối chủ yếu là những nhân vật được biết đến với Pháp danh, Biệt danh – Không biết tên thật, quê

quán, đời tư ra sao – các thông tin về lịch sử (và võ học) chủ yếu được bí truyền trong gia đình (nội gia) hoặc trong các

nhóm bí mật – không ghi thành sách (bí kíp). Những điều dị biệt trên cũng được phản ánh rõ rệt trong võ học.

 (Hết phần 2, Còn tiếp) 

Share this:

Print

Vĩnh Xuân Việt Nam (Phần   1) Tháng Hai 24, 2009

vinhxuanquyen Bài viết, Lịch sử hồ hải long, Ngô Sí Quý, nguyễn mạnh nhâm,nguyễn tế công, tế vân, tran thuc tien, tran van

phung, Trần Thúc Tiển, trần văn phùng, việt hương, vietnamwingchun, vinhxuanvietnam, Vũ bá quý 1 Phản hồi

Câu lạc bộ Vĩnh Xuân Hà Nôi, chùa Tảo Sách, xuân 2008

Xin giới thiệu tới bạn đọc một bài viết giới thiệu về môn phái Vĩnh Xuân Việt Nam, của PGS.TS. Nguyễn Mạnh Nhân,

một trong những cao đồ của chi phái cố võ sư Trần Thúc Tiển. Hiện ông là chủ nhiệm câu lạc bộ Vĩnh Xuân Hà Nội.

 I.       Sơ Lược Về Sự Hình Thành Và Phát Triển Vịnh Xuân Quyền Ở Việt Nam

Page 95: vinh xuan.docx

Dân tộc Việt Nam vốn rất quý trọng võ thuật (hiếu võ). Phải chăng, đó là vì chúng ta sống trên một đất nước nhỏ, thường

xuyên bị nạn ngoại xâm đe doạ. Lịch sử 4000 năm của chúng ta chủ yếu là những trang sử oanh liệt giữ nước, chống

xâm lược – như nhà thơ Tố Hữu đã viết:

“ Có lẽ ngàn năm đã dạn dày

Anh hùng xưa để giống hôm nay.”

Trong cộng đồng Việt Nam, nói đến Võ Thuật, ngoài võ cổ truyền dân tộc (võ ta), người ta còn nhắc đến Thiếu Lâm, Võ

Đang, Côn Lôn, Bạch Hạc, Sơn Đông, Không động…(võ Tàu), Nhu đạo, Ju-jitsu, Hiệp khí đạo (Aikido), Karatê (võ Nhật)

và các môn võ khác như Thái cực đạo (Tai quan đô), Pen cat Silat, Quyền Thái, Quyền Anh (boxe)…, nhưng rất ít người

biết đến VỊNH XUÂN QUYỀN.

Cho đến vài ba thập niên trước đây, VỊNH XUÂN QUYỀN ( VXQ) là một môn võ còn ít được biết đến, ngay cả ở Trung

Quốc cũng như ở Âu Mĩ. Có những nhà quyền thuật “cao thủ”, những người nghiên cứu võ học nhiều khi còn hiểu rất

”mơ hồ” về môn võ này. (Năm 1985, bản thân tôi được gặp Võ sư Hoàng Nam ở Paris (Pháp) – ông là một Võ sư, một

nhà nghiên cứu sâu về võ học Á đông – năm ấy con ông vừa được giải thưởng trong một cuộc thi đấu Kong Fu của

thanh niên – võ sư Hoàng Nam khi ấy vừa viết một cuốn sách bằng tiếng Pháp giới thiệu Võ cổ truyền Trung Quốc, nêu

khá kỹ về các môn phái- nhưng với VXQ ông chỉ viết được có mấy dòng, và thực ra không chính xác lắm. Tôi hỏi thì ông

cho biết thực tế bản thân chưa gặp được người nào tập luyện VXQ, và những điều viết trong sách là “nghe nói” thôi).

Quả thật, người Việt Nam đã có “cơ duyên” được truyền dạy VXQ từ khá sớm – trước Hồng Kông 3, 4 thập kỉ. Sư tổ của

Vịnh Xuân Quyền Việt Nam (VXQVN) là Nguyễn Tế Công (Nguyễn Thái Vân, Tài Cống) lánh nạn (có nguồn tin là tham

gia kháng chiến) sang VN năm 1907 – Lúc đầu ở Hải Phòng, sau mới chuyển về Hàng Buồm (mở hiệu Nắn Bó Xương),

cuối cùng chuyển về phố Hàng Giầy, chỉ dạy võ thôi. Cụ sinh năm 1877 ở Tân Hội, Quảng Đông, Trung Quốc, thân phụ

là Nguyễn Long Minh, một thương gia giàu có mở xưởng pháo hoa ở Phật Sơn. Cụ là con thứ tư, cùng người em thứ

năm là Nguyễn Kỳ Sơn được gia đình bỏ ra một món tiền lớn để xin học võ của Hoắc Bảo Toàn (Phổ Bá Quyền) vì tiền

học võ thời đó rất đắt(!!). Hoắc Bảo Toàn là một bộ đầu ở Phật Sơn, nổi tiếng về VXQ, nhất là đao pháp. Ông là học trò

của Hoàng Hoa Bảo (Cháu Ngũ Mai) và Đại Hoa Diện Cẩm. Sau khi học Hoắc Bảo Toàn, hai anh em lại tiếp tục xin theo

học Phùng Tiểu Thanh, học trò Đại Hoa Diện Cẩm, là quan án sát Quảng Châu – cũng rất nổi tiếng về VXQ, đặc biệt là

côn thuật (Hình như đã có tỷ đấu với Lương Tán?) – Lúc ấy Phùng Tiểu Thanh đã có tuổi (70 tuổi). Trước thịnh tình của

gia đình họ Nguyễn, Phùng Tiểu Thanh đồng ý đến ở trong nhà họ Nguyễn và đồng ý dạy cho một nhóm 8 người: 2 anh

em cụ Tế Công và 6 người khác. Cụ mất năm 74 tuổi và được gia đình họ Nguyễn an táng chu đáo. Gia đình cụ Tế

Công ở rất gần gia đình Diệp Vấn (cũng rất giàu có). Trong thời cách mạng văn hoá, gia đình cụ Diệp Vấn gặp một số

khó khăn về kinh tế cũng đã được gia đình họ Nguyễn giúp đỡ.

Khi mới sang Việt Nam, cụ Nguyễn Tế Công (NTC) làm quản gia – bảo tiêu cho một nhà tư sản (có mỏ ở Bắc Việt)

người Hoa – và dạy võ cho Cam Túc Cường – con trai gia chủ. Cam Túc Cường là nhạc sĩ sáng tác – mỗi ngày lễ

thường biểu diễn múa lụa – với 5m lụa mềm, nhưng lụa không bao giờ chấm đất.

Lúc đầu cụ có một người con gái, võ thuật cao cường nhưng sau mất sớm (hình như do ung thư vú). Sau này cụ tục

huyền và có 2 con: 1 trai (A. Dếnh), 1 gái (A. Dung) cùng theo cụ vào Nam Bộ năm 1954. Lúc này 2 người còn rất nhỏ.

Cụ sống ở Chợ Lớn (Thành phố Hồ Chí Minh), dạy võ và mất năm 1959, thọ 82 tuổi. Hai anh chị con cụ NTC hình như

không học được nhiều VXQ.

Tháng 3 năm 2004, chúng tôi có dịp hành hương tới Phật Sơn – được đến chiêm bái bàn thờ Hoắc Nguyên Giáp ( một

trong 10 kỳ nhân võ học đương đại Trung Quốc – người sáng lập ra Tinh Võ Môn) tại võ đường Phật Sơn – một nơi rất

nổi tiếng, rất đẹp, hoành tráng. Rất may mắn, tôi được Ban Chấp Hành Hội võ thuật Phật Sơn gồm chủ tịch danh dự và

nhiều vị lãnh đạo, võ sư, võ sinh tiếp thân mật – cũng qua đây, tôi được thắp hương tại võ đường Diêu Kỳ – do cố võ sư

Diêu Tài sáng lập – và Diêu Tài chính là học trò cụ Tế Công (trước khi sang Việt Nam).

Trong báo “ngày nay” số 13, năm 2003, trong bài “ Vịnh Xuân Quyền khảo lược” tác giả Hoa Nhi T.S đã có một bài viết

khá sâu về VXQ, nhưng rất tiếc là tác giả đã nêu tên sư tổ Nguyễn Tế Công lại là Nguyên Tế Công. Thực ra cụ họ

Nguyễn (như đã nêu trên). Đợt thăm Trung Quốc (3/2004) chúng tôi cũng có đến Quảng Châu được phu nhân và con

trai cố võ sư Sâm Năng (hiện là chủ tịch Hội VXQ Quảng Châu) tiếp, ở buổi họp mặt này tôi hân hạnh được gặp võ sư

Page 96: vinh xuan.docx

Nguyễn Tổ Đường là cháu nội Nguyễn Kỳ Sơn – gọi Nguyễn Tế Công bằng ông bác ruột – ông hiện là thư ký Hội VXQ

Quảng Châu và cũng là họ Nguyễn.

Từ khi sang Việt Nam, cho đến năm 1954, cụ NTC có dạy khá nhiều học trò ở Hà Nội. Tuy nhiên những cao đồ được

biết đến thì không nhiều. Thường giới võ học hay nhắc đến các võ sư sau đây: Việt Hương, Trần Văn Phùng, Trần Thúc

Tiển, Vũ Quý và Ngô Sĩ Quý. Sau khi cụ NTC chuyển vào Nam, 3 võ sư Trần Văn Phùng, Trần Thúc Tiển và Vũ Quý bắt

đầu thu nhận học trò. Cụ Ngô Sĩ Quý lúc đầu có đến học cụ Trần Thúc Tiển một thời gian, rồi sau cũng mở lớp truyền

dạy VXQ. Hình như cụ Việt Hương không mở lớp dạy VXQ.

Giờ đây các cụ đều đã khuất và để lại nhiều học trò giỏi.

Võ sư Trần Văn Phùng (1900-1988) quê ở Hải Dương, tính tình cương trực, khảng khái. Cụ học võ từ rất sớm (từ 16

tuổi) nhiều môn võ, nhưng sau theo học VXQ của NTC, từng một thời theo sư phụ làm bảo tiêu và được cụ NTC rất yêu

mến mà truyền cho nhiều bí thuật. Cụ tham gia cách mạng (chiếm Bắc Bộ Phủ, bắt Cung Đình Vận – một tên phản

động). Cụ mất năm 1988, để lại nhiều học trò giỏi: Hoạ sĩ Đỗ Tuấn, giáo sư tiến sĩ Lê Kim Thành (Hiện ở Nga), võ sư

Trịnh Quốc Định (nhờ tập VXQ đã khỏi bệnh lao phổi nặng), hoạ sĩ Mai Ánh Châu, võ sư Thái Bá Sao (võ đường ở

Thanh Xuân), võ sư Vũ Văn Hồng (Lạc Trung) và nhiều người khác.

Võ sư Ngô Sĩ Quý, xuất thân từ một gia đình khoa bảng – là một giáo viên thẩm mĩ, một nhạc sĩ Violon…ông là con

người hào hoa, phong nhã, sống cởi mở, kiến thức võ học rất cao siêu. Sau khi tham gia kháng chiến, ông về làm ở Bộ

Giáo dục. Ông mất năm 1998, thọ 77 tuổi (1921-1998). Ông dạy được nhiều học trò giỏi: tiến sĩ , bác sĩ Hoàng Quốc

Toàn (phó Chủ nhiệm Khoa mổ tim mạch Quân y viện 108), bác sĩ CK1 Dương Quốc Tuấn (Viện Dinh dưỡng Việt Nam),

bác sĩ Nguyễn Đăng Dũng (Viện mắt Trung Ương), võ sư Nguyễn Đức Dũng, võ sư Nguyễn Việt Trung, võ sư Trần Hậu

Tuấn (thành phố Hồ Chí Minh) và rất nhiều người khác.

Võ sư Vũ Quý (Vũ Bá Quý) vốn gốc ở Hải Dương – nhà có ôtô cho thuê nên còn có tên là “Quý ôtô”. Cụ hay để tóc ngắn

(húi đầu bốc) rất nhanh nhẹn, cụ tính vui vẻ, khoát hoạt và đòn ra rất mạnh mẽ và thần tốc…võ sư Vũ Quý từng đoạt giải

vô địch võ tự do Đông Dương (1939) và nhiều giải khác; lúc có tuổi cụ về quê ở Hải Dương và dạy Vũ Gia Thân Pháp;

cụ có nhiều học trò giỏi thành danh – dạy võ không chỉ trong nước mà còn mở võ đường ở Châu Âu – và đã mời cụ qua

thăm. Cụ mất năm 1994, thọ 84 tuổi.

Võ sư Trần Thúc Tiển người Thanh Trì (Nam Dư hạ) Hà Nội. Cụ sinh năm 1912 ở Quảng Châu Văn Trạm Giang, Trung

Quốc (cụ thân sinh làm việc ở đó). Cụ theo Tây học (đỗ Diplom) và là một doanh nhân. Cụ có nghề nấu rượu tây, mở

nhà in Chấn Hưng ở 35 Hoà Mã (sau bị Pháp đốt vì in tài liệu cho Việt Minh). Cụ đặc biệt người bé nhỏ, gầy yếu, bị lao

phổi nặng – nhờ tập VX nên khỏi hẳn. Cụ rất hiền lành, tính tình điềm đạm khiêm tốn… cụ mất năm 1980, thọ 69 tuổi. Cụ

tiếp tục dạy một số bạn đồng môn khi cụ Tế Công đã đi Nam: bác sĩ Phạm Khắc Quảng, bác sĩ Lê Văn Trung, ông

Nguyễn Văn Phương…và nhiều học trò mới trong đó có tôi, bác sĩ Nguyễn Văn Lễ (nguyên phó giám đốc bệnh viện Đa

khoa Thái Nguyên), võ sư cao cấp Phan Dương Bình (Bình Bún), võ sư Nguyễn Xuân Thi (nguyên chủ tịch Hội võ cổ

truyền Hà Nội), kỹ sư Nguyễn Ngọc Nội, luật sư Nguyễn Thành Vinh, nhạc sĩ Nguyễn Xuân Khoát, ông Vũ Văn Luân

(Chủ tịch Hội đồng quản trị Công ty Bưu Chính Viễn Thông Việt Nam trong nhiều năm là chủ tịch liên đoàn võ cổ truyền

VN) ..v..v..Võ sư Trần Thúc Tiển sinh hạ được nhiều con nhưng chỉ có hai anh Trần Thiết Côn (Sinh) và Trần Hoài Ngọc

là học được đến trình độ cao – đặc biệt anh Trần Thiết Côn lĩnh hội được nhiều tinh tuý của VXQ, bản lĩnh cao cường,

nội công thâm hậu….

Tại thành phố Hồ Chí Minh, sư tổ NTC chỉ sống có mấy năm (1954-1959) nhưng cũng đã truyền dạy được cho khá nhiều

học trò thành danh như Lục Viễn Khai, giáo sư kiến trúc Đỗ Bá Vinh, Bộ trưởng Bộ Y tế (miền Nam), bác sĩ Nguyễn Bá

Khả, võ sư Nguyễn Duy Hải ( Hải Tàu – Hồ Hải Long) và nhiều người khác…

Hiện nay ở Việt Nam, đặc biệt là ở Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh có khá nhiều người học tập VXQ.

Môn đồ thuộc thế hệ thứ 3 và thứ 4 nữa (tính từ sư tổ Tế Công) hiện đang tập luyện, huấn luyện VXQ tại nhà hay tại các

võ đường.

Page 97: vinh xuan.docx

Nhiều võ đường (VĐ) có khá nhiều võ sinh như VĐ Cột Cờ (Vs. Nguyễn Đức Dũng, Vs. Hoàng Quốc Toàn, Vs. Nguyễn

Đăng Dũng, Vs. Nguyễn Văn Trung….); VĐ Hàng Trống ( Vs. Nguyễn Hữu Thế, Vs. Nguyễn Nam Vinh); VĐ Tăng Bạt Hổ

( Vs. Đặng Tuấn Hải), VĐ ở Thanh Xuân (Vs. Thái Bá Sao); VĐ Hàng Buồm (Vs. Phan Dương Bình, Vs. Nguyễn Đức

Long…); VĐ của VS Nguyễn Ngọc Nội ;VĐ Lạc Trung (Vs. Vũ Văn Hồng); VĐ Ngọc Hà (Vs. Trịnh Quốc Định); VĐ phố

Phó Đức Chính ( Vs. Nguyễn Tiến Mỹ); VĐ Ngõ 103 Bạch Mai (Vs. Trần Văn Nguyên); VĐ ở Bạch Đằng ( Vs. Đỗ Tuấn);

VĐ ở thành phố Hải Dương (Vs. Đoàn Chí Thanh); VĐ ở Hà Tây ( Vs. Thích Đạo Liên); VĐ Trần Bình Trọng ( Vs. Đinh

Trọng Thuỷ). ở thành phố Hồ Chí Minh có Võ đường Nam Chính Trực , VĐ của Vs. Trần Hậu Tuấn và…nhiều VĐ

khác…

Nhiều võ sư cũng đã truyền dạy VXQ ở nước ngoài. Người đầu tiên chính là giáo sư tiến sĩ Hoàng Vĩnh Giang (Giám

đốc Sở TDTT Hà Nội). Là một cao đồ của VXQ, ông đã truyền thụ cho các bạn Liên Xô cũ từ những năm 1979, 1980.

Hiện nay, việc các võ sư Việt Nam qua các nước để dạy VXQ cũng như các đoàn ngoại quốc sang tập huấn VXQ ở

nước ta hoặc các cá nhân người nước ngoài trong thời gian sống và công tác tại Việt Nam đã đến học VXQ với các vị

thầy người Việt Nam…. đã trở thành chuyện bình thường.

Trong một số đặc biệt về VỊNH XUÂN QUYỀN báo Inside Kong Fu, tạp chí khá uy tín , đã nêu: ” Phải chăng VỊNH XUÂN

QUYỀN Việt Nam là một mắt xích quý giá đã bị thất lạc và tại đây nó đã bắt đầu một cuộc hành trình mới ?”

Có lẽ đó là do một “cơ duyên” đặc biệt, chính sư tổ Nguyễn Tế Công đã phải thốt ra “ Vịnh Xuân sang Việt Nam mất rồi!”,

trước khi rời Hà Nội vào thành phố Hồ Chí Minh – đúng nửa thế kỷ trước đây – 1954.

 (Hết phần 1, còn tiếp) 

Kỹ thuật Vịnh Xuân quyền thường được tóm lược trong Vịnh Xuân Yếu Lĩnh:

Triền 缠 (quấn)

Thiểm 閃 (tránh, né)

Xuyên 穿 (xiên qua, luồn qua)

Tải 載 (dẫn lái)

và 10 Kiều Thủ tóm lược như sau:

Khuyên 圈 (xoay tròn)

Than 攤 (tản ra)

Bàng 膀 (tạt qua bên)

Chẩm 枕 (gối đè lên)

Khấu 扣 (giằng chặt)

Phục 伏 (nằm lên)

Page 98: vinh xuan.docx

Phao 拋 (quăng, ném)

Khiêu 挑 (dẫn dụ)

Liêu 撩 (nâng lên, vén lên)

Xuyên 穿 (xiên qua, luồn qua)

Bành Nam Vĩnh Xuân Quyền

彭南  永  春 拳

Đôi khi được gọi là Phật Sơn Thiếu Lâm Vĩnh Xuân, do Bành Nam sáng lập.  Ông có 30 năm học trong Hồng

Thuyền, và dựa trên Trần Nhữ Miên VXQ và Lê Diệp Trì VXQ, cũng như thêm một số thức như Hong Kuyen

Fu Mei Seung Do, và Ng Jee Mui Fa Hei Gong (mà bây giờ được gọi là Sun Hei Gwai Yuen - Thận Khí Quy

Nguyên) của Ng Man-Long vào môn phái của mình.

Phả hệ: