27
Việt Nam Dân chủ Cộng hòa 1945–1976 Quốc kỳ Quốc huy Khẩu hiệu Độc lập - Tự do - Hạnh phúc Quốc ca Tiến Quân Ca Vị trí của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (từ 1954) Thủ đô Hà Nội Ngôn ngữ Tiếng Việt Chính thể Dân chủ nhân dân¹ Chủ tịch Hồ Chí Minh (1945 - 1969) Tôn Đức Thắng (1969 - 1975) Thời đại lịch sử Chiến tranh lạnh - Tuyên bố độc lập (từ Nhật) 2 tháng 9, 1945 - Được công nhận 1954 - Giải thể (thống nhất với Cộng hòa Miền Nam Việt Nam) 2 tháng 7, 1976 Diện tích 157.880 km²; (60.958 mi²) Dân số - ước tính 13.000.000 Mật độ 82,3 /km² (213,3 /mi²) Việt Nam Dân chủ Cộng hòa Bách khoa toàn thư mở Wikipedia Việt Nam Dân chủ Cộng hòa là một nhà nước ở vùng Đông Nam Á, được Chủ tịch Hồ Chí Minh tuyên bố thành lập ngày 2 tháng 9 năm 1945 tại Hà Nội. Nhà nước này khẳng định chủ quyền một cách xuyên suốt toàn bộ nước Việt Nam hiện nay theo các hiến pháp Việt Nam [1][2] được thông qua bởi Quốc hội Việt Nam khóa I, dù nhiều vùng lãnh thổ sau này bị quản lý thực tế bởi các nhà nước khác. Cuối cuộc Chiến tranh Đông Dương lần thứ nhất, Việt Nam bị chia làm hai vùng tập kết quân sự tạm thời theo Hiệp định Geneva. Từ năm 1954 đến năm 1976 là một nhà nước độc lập theo chủ nghĩa xã hội, quản lý thực tế miền Bắc Việt Nam. Sau năm 1976, Việt Nam Dân chủ Cộng hòa sát nhập với Cộng hòa Miền Nam Việt Nam thành một nhà nước thống nhất có tên gọi là Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam. Trong Chiến tranh Thế giới II, Việt Nam là một thuộc địa của Pháp, nhưng lại nằm dưới sự chiếm đóng của Nhật Bản. Ngay sau khi Nhật Bản đầu hàng quân Đồng Minh và cuộc Cách mạng tháng 8 năm 1945 thành công, nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa được tuyên bố thành lập tại Hà Nội, chính quyền mới được thiết lập trên toàn bộ đất nước. Hồ Chí Minh người lãnh đạo Việt Minh, trở thành người đứng đầu chính phủ mới. Ngay sau khi Pháp quay trở lại Việt Nam năm 1945, thì cuộc Chiến tranh Đông Dương lần thứ nhất đã nổ ra vào năm 1946. Sau 9 năm chiến tranh, năm 1954 Hiệp định Geneva được ký kết giữa các bên tham chiến, Việt Nam bị chia làm 2 miền lấy vĩ tuyến 17 làm ranh giới. Việt Nam Dân chủ Cộng hòa là chính phủ ở miền Bắc Việt Nam, trong khi đó Quốc gia Việt Nam kiểm soát ở miền Nam Việt Nam. Hiệp Định Geneva xác định cuộc tổng tuyển cử thống nhất 2 miền sẽ diễn ra vào năm 1956. Người Pháp chấp nhận đề nghị của thủ tướng Phạm Văn Đồng, trưởng phái đoàn đàm phán Việt Nam Dân chủ Cộng hòa [3] , là cuộc tổng tuyển cử thống nhất sẽ được đặt dưới sự giám sát của các ủy ban tại chỗ. [4] Hoa Kỳ không công nhận Hiệp định Genève đồng thời thực hiện "Kế hoạch Hoa Kỳ" với sự ủng hộ từ phía Quốc gia Việt Nam và Vương quốc Anh, nhằm trợ giúp cho Quốc gia Việt Nam. [5] Trong Chiến tranh Việt Nam (1955–1975), Việt Nam Dân Chủ Cộng hòa cùng các đồng minh ở phe Xã hội chủ nghĩa gồm cả Liên Xô và Trung Quốc đã chiến đấu chống lại quân đội của chính phủ Việt Nam Cộng hòa, Việt Nam Dân chủ Cộng hòa – Wikipedia tiếng Việt http://vi.wikipedia.org/wiki/Việt_Nam_Dân_chủ_Cộng_hòa 1 of 27 3/1/2014 3:59 PM

Việt Nam Dân chủ Cộng hòa – Wikipedia tiếng Việt

Embed Size (px)

DESCRIPTION

Việt Nam Dân chủ Cộng hòa – Wikipedia tiếng Việt

Citation preview

Việt Nam Dân chủ Cộng hòa

1945–1976 →

Quốc kỳ Quốc huy

Khẩu hiệu

Độc lập - Tự do - Hạnh phúc

Quốc ca

Tiến Quân Ca

Vị trí của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (từ 1954)

Thủ đô Hà Nội

Ngôn ngữ Tiếng Việt

Chính thể Dân chủ nhân dân¹

Chủ tịch Hồ Chí Minh (1945 -1969)Tôn Đức Thắng(1969 - 1975)

Thời đại lịch sử Chiến tranh lạnh

- Tuyên bố độc lập(từ Nhật)

2 tháng 9, 1945

- Được công nhận 1954

- Giải thể (thốngnhất với Cộng hòaMiền Nam Việt Nam)

2 tháng 7, 1976

Diện tích 157.880 km²;(60.958 mi²)

Dân số

- ước tính 13.000.000

Mật độ 82,3 /km² (213,3 /mi²)

Việt Nam Dân chủ Cộng hòaBách khoa toàn thư mở Wikipedia

Việt Nam Dân chủ Cộng hòa là một nhà nước ở vùngĐông Nam Á, được Chủ tịch Hồ Chí Minh tuyên bốthành lập ngày 2 tháng 9 năm 1945 tại Hà Nội. Nhànước này khẳng định chủ quyền một cách xuyên suốttoàn bộ nước Việt Nam hiện nay theo các hiến pháp

Việt Nam[1][2] được thông qua bởi Quốc hội Việt Namkhóa I, dù nhiều vùng lãnh thổ sau này bị quản lý thựctế bởi các nhà nước khác. Cuối cuộc Chiến tranh ĐôngDương lần thứ nhất, Việt Nam bị chia làm hai vùng tậpkết quân sự tạm thời theo Hiệp định Geneva. Từ năm1954 đến năm 1976 là một nhà nước độc lập theo chủnghĩa xã hội, quản lý thực tế miền Bắc Việt Nam. Saunăm 1976, Việt Nam Dân chủ Cộng hòa sát nhập vớiCộng hòa Miền Nam Việt Nam thành một nhà nướcthống nhất có tên gọi là Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩaViệt Nam.

Trong Chiến tranh Thế giới II, Việt Nam là một thuộcđịa của Pháp, nhưng lại nằm dưới sự chiếm đóng củaNhật Bản. Ngay sau khi Nhật Bản đầu hàng quân ĐồngMinh và cuộc Cách mạng tháng 8 năm 1945 thànhcông, nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa được tuyên bốthành lập tại Hà Nội, chính quyền mới được thiết lậptrên toàn bộ đất nước. Hồ Chí Minh người lãnh đạoViệt Minh, trở thành người đứng đầu chính phủ mới.Ngay sau khi Pháp quay trở lại Việt Nam năm 1945, thìcuộc Chiến tranh Đông Dương lần thứ nhất đã nổ ravào năm 1946. Sau 9 năm chiến tranh, năm 1954 Hiệpđịnh Geneva được ký kết giữa các bên tham chiến, ViệtNam bị chia làm 2 miền lấy vĩ tuyến 17 làm ranh giới.Việt Nam Dân chủ Cộng hòa là chính phủ ở miền BắcViệt Nam, trong khi đó Quốc gia Việt Nam kiểm soát ởmiền Nam Việt Nam.

Hiệp Định Geneva xác định cuộc tổng tuyển cử thốngnhất 2 miền sẽ diễn ra vào năm 1956. Người Pháp chấpnhận đề nghị của thủ tướng Phạm Văn Đồng, trưởng

phái đoàn đàm phán Việt Nam Dân chủ Cộng hòa[3], làcuộc tổng tuyển cử thống nhất sẽ được đặt dưới sự giám

sát của các ủy ban tại chỗ.[4] Hoa Kỳ không công nhậnHiệp định Genève đồng thời thực hiện "Kế hoạch HoaKỳ" với sự ủng hộ từ phía Quốc gia Việt Nam vàVương quốc Anh, nhằm trợ giúp cho Quốc gia Việt

Nam.[5]

Trong Chiến tranh Việt Nam (1955–1975), Việt NamDân Chủ Cộng hòa cùng các đồng minh ở phe Xã hộichủ nghĩa gồm cả Liên Xô và Trung Quốc đã chiến đấuchống lại quân đội của chính phủ Việt Nam Cộng hòa,

Việt Nam Dân chủ Cộng hòa – Wikipedia tiếng Việt http://vi.wikipedia.org/wiki/Việt_Nam_Dân_chủ_Cộng_hòa

1 of 27 3/1/2014 3:59 PM

Tiền tệ đồng

¹Theo bản Hiến pháp Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa

1959.

Hoa Kỳ và các đồng minh gồm Australia, Hàn Quốc,Philippines, Thái Lan và các quốc gia khác. Ở thờiđiểm cao trào của cuộc chiến, Hoa Kỳ có tới 600.000quân ở miền Nam Việt Nam. Đây là cuộc chiến tranhkhốc liệt nhất trong thời kỳ Chiến tranh Lạnh, kéo dài21 năm. Chiến tranh kết thúc với thắng lợi hoàn toàncủa các lực lượng Cộng hòa Miền Nam Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng Lao động Việt Nam được ViệtNam Dân chủ cộng hòa hỗ trợ vào năm 1975. Hai nửa của Việt Nam (miền Bắc và miền Nam) đã thống nhấtthành nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam vào năm 1976.

Mục lục

1 Lịch sử1.1 Thành lập1.2 Giai đoạn 1945-1946

1.2.1 Pháp quay trở lại Việt Nam1.2.2 Ký kết Hiệp định sơ bộ Pháp-Việt1.2.3 Ký kết Tạm ước Việt - Pháp1.2.4 Kêu gọi sự ủng hộ của các cường quốc1.2.5 Chiến tranh bùng nổ

1.3 Giai đoạn 1947 - 19541.4 Giai đoạn 1955 - 1976

1.4.1 Ký kết Hiệp định Genève1.4.2 Hỗ trợ tiến hành chiến tranh ở miền Nam1.4.3 Thống nhất hai miền Nam Bắc Việt Nam

2 Hành pháp2.1 Chính phủ Cách mạng Lâm thời

2.1.1 Thành lập2.1.2 Hoạt động

2.2 Chính phủ Liên hiệp Lâm thời

2.2.1 Thành lập2.2.2 Hoạt động

2.3 Chính phủ Liên hiệp Kháng chiến2.3.1 Thành lập2.3.2 Hoạt động

2.4 Chính phủ Liên hiệp Quốc dân2.4.1 Thành lập2.4.2 Hoạt động

2.5 Chính phủ mở rộng từ 1955 đến 19592.6 Chính phủ từ 1960 đến 1976

3 Lập pháp3.1 Quốc hội Khóa I3.2 Quốc hội Khóa II3.3 Quốc hội Khóa III3.4 Quốc hội Khóa IV3.5 Quốc hội Khóa V

4 Tư pháp4.1 Giai đoạn 1945 - 1954

4.1.1 Giải tán một số đảng phái

Việt Nam Dân chủ Cộng hòa – Wikipedia tiếng Việt http://vi.wikipedia.org/wiki/Việt_Nam_Dân_chủ_Cộng_hòa

2 of 27 3/1/2014 3:59 PM

Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc tuyên

ngôn độc lập trên quảng trường

Ba Đình.

4.1.2 Thành lập Bộ Tư pháp4.1.3 Thành lập Toà án Quân sự4.1.4 Thành lập Tòa án Nhân dân Đặc biệt

4.2 Giai đoạn 1955 - 19764.2.1 Xây dựng hệ thống pháp luật4.2.2 Thành lập Viện Công tố Trung ương4.2.3 Thành lập Tòa án Nhân dân Tối cao

5 Phân cấp hành chính6 Chính quyền địa phương7 Các tổ chức chính trị

7.1 Các đảng, tổ chức chống Pháp7.2 Các đảng, tổ chức ủng hộ Bảo Đại

8 Kinh tế8.1 Cải cách ruộng đất8.2 Cải tạo kinh tế8.3 Kế hoạch 5 năm lần thứ nhất (1961-1965)8.4 Giai đoạn 1966-1976

9 Ngoại giao10 Quân đội11 Văn hóa, xã hội12 Giáo dục13 Lãnh đạo qua các thời kỳ14 Nguồn tham khảo15 Xem thêm16 Liên kết ngoài

Lịch sử

Thành lập

Ngày 13/8/1945, Hội nghị toàn quốc Đảng Cộng sản Đông Dương họptại Tân Trào (Tuyên Quang) nhận định thời cơ khởi nghĩa vũ trang giànhchính quyền đã đến đồng thời cử ra Ủy ban khởi nghĩa toàn quốc doTrường Chinh làm chủ tịch. Ðêm 13/8/1945, Ủy ban khởi nghĩa ra Quân

lệnh số 1, kêu gọi toàn dân khởi nghĩa giành chính quyền.[6]

Ngày 16/8/1945, Việt Minh tổ chức Đại hội Quốc dân ở Tân Trào. Đạihội này thông qua 10 chính sách lớn của Việt Minh, thông qua Lệnhtổng khởi nghĩa, quyết định Quốc kỳ nền đỏ, ở giữa có sao vàng nămcánh, chọn bài Tiến quân ca làm Quốc ca và bầu ra Ủy ban Dân tộc Giảiphóng Việt Nam, sau này trở thành Chính phủ Cách mạng Lâm thời, do

Hồ Chí Minh làm Chủ tịch.[7]

Từ ngày 14/8/1946 một số cán bộ Đảng Cộng sản Đông Dương và Việt Minh dù chưa nhận được lệnh khởinghĩa nhưng căn cứ vào tình hình hiện tại và chỉ thị "Nhật - Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta" đãquyết định phát động nhân dân khởi nghĩa tại các tỉnh miền Bắc, miền Trung như Thanh Hóa, Thái Bình,Khánh Hòa ... buộc Đế quốc Việt Nam giao chính quyền cho nhân dân. Cuộc khởi nghĩa lan rộng ra khắp cả

nước.[8][9][10]

Ngày 19/8/1945, Việt Minh tổ chức một cuộc mít tinh tại Quảng trường Nhà hát lớn Hà Nội. Đại diện Việt

Việt Nam Dân chủ Cộng hòa – Wikipedia tiếng Việt http://vi.wikipedia.org/wiki/Việt_Nam_Dân_chủ_Cộng_hòa

3 of 27 3/1/2014 3:59 PM

Mẫu quốc kỳ được sử dụng trong

các giai đoạn 1945 - 1947, 1954 -

1955.

Minh tuyên bố: Tổng khởi nghĩa! Sau đó một cánh tiến thẳng tới PhủKhâm Sai, cơ quan đầu não của chính phủ Đế quốc Việt Nam tại miềnBắc, và nhanh chóng làm chủ toàn bộ khu vực này. Lính bảo vệ Phủ đãhạ vũ khí mà không có bất kỳ hành động kháng cự nào. Khâm sai Bắckỳ Nguyễn Xuân Chữ (người mới đứng ra thay thế ông Phan Kế Toại) bị

bắt giữ và đưa về An toàn khu tại Hà Đông.[11]

Trong Cách mạng Tháng Tám, Đảng Cộng sản Đông Dương (tổ chứcnòng cốt của Việt Minh) đóng vai trò chỉ đạo chung thống nhất, đưa racác quyết sách tổ chức tổng khởi nghĩa giành chính quyền từ tay chínhquyền Đế quốc Việt Nam thân Nhật và lực lượng quân đội đế quốc NhậtBản, dù trên thực tế ở một số tỉnh thành chưa có hay khôi phục lại tổchức đảng. Tại miền Bắc, một số tỉnh chưa có tổ chức đảng nhưng mặt trận Việt Minh hoạt động rất mạnhhầu khắp các tỉnh thành. Tại miền Trung, hoạt động của mặt trận Việt Minh và Đảng Cộng sản khá mạnh.Trong khi đó ở Nam Bộ, hoạt động của Việt Minh có phần yếu hơn, Đảng Cộng sản chưa khôi phục đầy đủsau Nam Kỳ Khởi Nghĩa. Trong Cách mạng Tháng Tám, tổ chức Việt Minh đã thu hút được cả lực lượngThanh niên tiền tuyến do Chính phủ Đế quốc Việt Nam thành lập gia nhập Mặt trận Việt Minh. Tại một số

tỉnh Nam Bộ, Thanh niên tiền phong đóng vai trò quan trọng giành chính quyền.[12]

Ngày 25 tháng 8, 1945, Bảo Đại đọc Tuyên ngôn Thoái vị trước hàng ngàn người tụ họp trước cửa Ngọ Mônvà sau đó trao ấn tín, quốc bảo của hoàng triều cho ông Trần Huy Liệu. Bảo Đại trở thành "công dân VĩnhThụy". Bản Tuyên ngôn Thoái vị có câu nói nổi tiếng "Trẫm muốn được làm Dân một nước tự do, hơn làm

Vua một nước bị trị".[13]

Ngày 27 tháng 8, 1945, theo đề nghị của Hồ Chí Minh, Ủy ban Dân tộc Giải phóng Việt Nam được cải tổthành Chính phủ Cách mạng Lâm thời nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà. Nhiều Ủy viên Việt Minh trongỦy ban Dân tộc Giải phóng Việt Nam đã tự nguyện rút ra khỏi Chính phủ để mời thêm nhiều nhân sĩ ngoài

Việt Minh tham gia.[7]

Việt Nam Dân chủ Cộng hòa được thành lập vào ngày 2 tháng 9 năm 1945 (đây cũng là ngày quốc khánhcủa nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam hiện nay), sau Cách mạng Tháng Tám dưới sự lãnh đạo củamặt trận Việt Minh.

Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tiến hành bầu cử Quốc hội đầu tiên vào ngày 6 tháng Giêng năm 1946. Hiếnpháp thông qua ngày 9 tháng 11. Trong giai đoạn đầu khi thành lập chính quyền toàn quốc, Việt Minh màĐảng Cộng sản làm nòng cốt giữ vai trò lãnh đạo. Trong một thời gian ngắn chính quyền bao gồm nhiều tổchức, đảng phái chính trị tham gia ở cấp trung ương và địa phương (Việt Quốc, Việt Cách, Đại Việt,Trốtxkit, Cao Đài, Hòa Hảo,...). Sau một thời gian vài năm hoạt động bí mật, Đảng Cộng sản ra hoạt độngbán công khai trong tổ chức Việt Minh và Liên Việt, và từ năm 1951 hoạt động công khai chính thức giữ vaitrò lãnh đạo Nhà nước. Tham gia chính quyền sau năm 1954 còn có Đảng Dân chủ và Đảng Xã hội trongMặt trận Tổ quốc Việt Nam, do Đảng Lao động lãnh đạo.

Giai đoạn 1945-1946

Pháp quay trở lại Việt Nam

Ngày 28/11/1943 trước hội nghị Teheran tổng thống Mỹ đã có ý kiến đặt Đông Dương dưới sự quản lý quốctế. Liên Xô đã chấp thuận đề xuất này. Nhưng sau đó Mỹ ủng hộ Pháp để lôi kéo Pháp vào mặt trận chốngLiên Xô. Mỹ cũng nhường chính quyền Tưởng Giới Thạch vào miền Bắc giải giáp quân đội Nhật.

Sau khi Nhật đảo chính Pháp và tuyên bố trao trả độc lập cho Việt Nam. Ngày 11 tháng 3 năm 1945, BảoĐại ra đạo dụ "Tuyên cáo Việt Nam độc lập", tuyên bố hủy bỏ Hòa ước Patenôtre ký với Pháp năm 1884,

khôi phục chủ quyền Việt Nam, thống nhất Bắc Kỳ, Trung Kỳ và Nam Kỳ.[14] Trong tuyên bố của Bảo Đại,

Việt Nam Dân chủ Cộng hòa – Wikipedia tiếng Việt http://vi.wikipedia.org/wiki/Việt_Nam_Dân_chủ_Cộng_hòa

4 of 27 3/1/2014 3:59 PM

bãi bỏ các hiệp ước bảo hộ và mất độc lập với Pháp trước đây, độc lập theo tuyên ngôn Đại đông Á, và "ôngcũng như Chính phủ Việt Nam tin tưởng lòng trung thực của Nhật Bản và nó được xác định làm việc với các

nước để đạt được mục đích".[cần dẫn nguồn]

Ngày 24 tháng 3, 1945, sau khi Nhật đảo chính Pháp tại Đông Dương, de Gaulle đã tuyên bố khẳng định chủquyền Pháp tại Đông Dương, nhưng sẽ cho Đông Dương tự trị và thực thi tự do dân chủ với Hội đồng liênbang được thành lập với không quá 50% là người bản xứ.

Ngày 7 tháng 4 năm 1945, Bảo Đại đã ký đạo dụ số 5 chuẩn y thành phần nội các Trần Trọng Kim và ngày

12 tháng 5 giải thể Viện Dân biểu Trung Kỳ.[cần dẫn nguồn] Tháng 6 năm 1945, chính phủ Trần Trọng Kimđặt quốc hiệu là Đế quốc Việt Nam.

Ngày 16 tháng 8 năm 1945, Trần Trọng Kim tuyên bố bảo vệ "độc lập" giành được 9 tháng 3, và ngày 18tháng 8 tạo ra một ủy ban giải phóng dân tộc, bao gồm tất cả các đảng phái chính trị để lãnh đạo việc giành

lại độc lập cho Việt Nam.[cần dẫn nguồn] Theo lời khuyên của ông Bộ trưởng Bộ Ngoại giao, Bảo Đại gửithông điệp cho Tổng thống Truman, vua nước Anh, Thống chế Tưởng Giới Thạch, Tướng de Gaulle đề nghịcông nhận độc lập của Việt Nam. Tuy nhiên đến 24 tháng 8 ông đã thực hiện câu trả lời Hội đồng Cơ mật

quyết định thoái vị "để không phải là một trở ngại cho sự giải phóng của đất nước".[15]

Ngày 18 tháng 8 năm 1945, vua Bảo Đại đã xác nhận độc lập của Việt Nam sau khi Nhật đầu hàng, đượccông bố vào tháng 3 và đồng thời gửi một thông điệp đến De Gaulle yêu cầu công nhận nền độc lập của ViệtNam. Thông điệp này cho rằng sự độc lập của Việt Nam "chỉ có nghĩa là bảo vệ lợi ích của Pháp và ảnh

hưởng tinh thần Pháp ở Đông Dương".[cần dẫn nguồn] Tuy nhiên De Gaulle dự kiến sẽ hậu thuẫn cho một chếđộ quân chủ mà người đứng đầu không phải là Bảo Đại, người đã thỏa hiệp với Nhật Bản để được "độc lập",

mà là Vĩnh San, được xem như là một người "Gaullist".[16]

Từ cuối tháng 9 năm 1945 quân đội Pháp núp dưới bóng quân Anh vào giải giáp vũ khí quân Nhật, đã quaytrở lại miền Nam Việt Nam. Sự việc này nằm trong tính toán của chính quyền Charles de Gaulle khi Đạichiến thế giới II chưa kết thúc.

Ký kết Hiệp định sơ bộ Pháp-Việt

Ngày 28/2/1946, tại Trùng Khánh, Pháp ký với chính phủ Trung Hoa Dân quốc của Tưởng Giới Thạch hiệpước Hoa - Pháp để quân đội Trung Hoa rút về nước, và đổi lại Pháp trả lại các tô giới và nhượng địa củaPháp trên đất Trung Hoa cũng như nhượng cho Trung Hoa một số quyền lợi tại miền Bắc Việt Nam như việckhai thác một đặc khu tại cảng Hải Phòng và miễn thuế cho hàng hóa Trung Hoa vận chuyển qua Việt Nam.

Trong thời gian đầu, Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa kiên quyết chống lại việc Pháp tái lập chủquyền ở Đông Dương. Sau đó, theo quan điểm của Ban Thường vụ TW 3 Đảng cộng sản Đông Dương (đãlui vào hoạt động bí mật), tháng 3 năm 1946, nếu Pháp cho Đông Dương tự trị theo tuyên bố ngày 24 tháng3 năm 1945 thì kiên quyết đánh, nhưng nếu cho Đông Dương tự chủ thì hòa để phá tan âm mưu của "bọnTàu trắng, bọn phản động Việt Nam và bọn phát xít Nhật còn lại". Đến ngày 6 tháng 3, 1946, Chính phủ kývới Pháp Hiệp định sơ bộ Pháp-Việt 1946, cho phép quân đội Pháp ra Bắc thay thế quân Trung Hoa giải giápquân đội Đế quốc Nhật Bản. Pháp hứa sẽ rút hết quân trong thời hạn 5 năm, mỗi năm rút 3.000 quân. Ngượclại, Chính phủ Pháp công nhận nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa là một quốc gia tự do trong Liên bangĐông Dương và trong khối Liên hiệp Pháp, có chính phủ, nghị viện, quân đội và tài chính riêng. Trước đóPháp và Trung Hoa đã ra thỏa thuận tại Trùng Khánh (Hiệp ước Hoa -Pháp), đồng ý cho quân Pháp ra miềnBắc Việt Nam (28 tháng 2) nhưng khi quân Pháp đổ bộ vào Hải Phòng đã xung đột với quân Trung Hoa dânquốc và lực lượng quân sự địa phương của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.

Một số thành viên trong Chính phủ Liên hiệp thuộc Việt Quốc, Việt Cách... không tán thành việc này, đã lêntiếng phản đối, dân chúng cũng có người băn khoăn, nhưng Chủ tịch Hồ Chí Minh đã bình tĩnh giải thích và

động viên đồng bào để đồng bào hiểu rõ "cần phải biết chịu đựng hy sinh để mưu sự nghiệp lớn"[17]. Mặc dù

Việt Nam Dân chủ Cộng hòa – Wikipedia tiếng Việt http://vi.wikipedia.org/wiki/Việt_Nam_Dân_chủ_Cộng_hòa

5 of 27 3/1/2014 3:59 PM

Hiệp định có chữ ký của Vũ Hồng Khanh nhưng đa số lãnh đạo Việt Quốc rút sự ủng hộ của họ cho chínhphủ Hồ Chí Minh để phản đối, chống lại những gì họ gọi là "thân Pháp" trong chính sách của Việt Minh.Bảo Đại rời khỏi đất nước vào ngày 18 tháng 3, ngày quân Pháp vào Hà Nội. Một hội nghị liên tịch được tổ

chức để khai thông các bất đồng dẫn đến việc thành lập Hội Liên hiệp Quốc dân Việt Nam[18].

Hiệp định Sơ bộ ấn định lực lượng Pháp sau khi trở ra Bắc, phải rút hết sau một thời gian hai bên quy địnhkhông quá 5 năm. Trong khi đó hai bên đình chiến. Nước Pháp cũng công nhận Việt Nam Dân chủ Cộnghòa là một nước tự do, có chính phủ, nghị viện, quân đội, tài chính riêng và là một thành viên trong Liênbang Đông Dương thuộc khối Liên hiệp Pháp. Vấn đề độc lập của Việt Nam bị gác sang một bên vì Phápkhông muốn bàn tới.

Ký kết Tạm ước Việt - Pháp

Ngày 31 tháng 5 năm 1946, phái đoàn chính phủ do Phạm Văn Đồng dẫn đầu khởi hành sang Pháp tham dựHội nghị Fontainebleau tiếp tục đàm phán về các điều khoản đề ra theo Hiệp định sơ bộ 6 tháng Ba. Cùngngày, Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng lên đường sang Pháp tiếp xúc với chính giới Pháp và cộng đồng ngườiViệt tại Pháp. Nội dung chương trình nghị sự được hai đoàn thoả thuận là sẽ thảo luận về các vấn đề như (đã

nêu tại Hiệp định sơ bộ 6/3):[19]

Địa vị của Việt Nam trong khối Liên hiệp Pháp, về quan hệ ngoại giao của Việt Nam.Quan niệm tổng quát về Liên bang Đông Dương.Vấn đề thống nhất nước Việt Nam và việc trưng cầu dân ý.Chi tiết về Liên bang Đông Dương và vấn đề quyền lợi kinh tế của Pháp ở Đông Dương.Dự thảo Hiệp ước.

Hội nghị Fontainebleau sau đó diễn ra kéo dài hơn hai tháng, từ 6 tháng 7 tới 10 tháng 9 năm 1946 nhưng

không đem lại kết quả cụ thể nào vì hai bên đã bế tắc ở hai điểm bất đồng then chốt:[20]

Việc thống nhất Nam Kỳ vào nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (bao gồm Bắc Kỳ và Trung Kỳ).Độc lập chính trị của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.

Quan điểm của Pháp bác bỏ độc lập mà chỉ xét tự trị hay độc lập trong khuôn khổ Liên hiệp Pháp. Hơn nữahọ đòi là phải tái lập trật tự trước tiên rồi sau đó sẽ mở cuộc trưng cầu dân ý ở Nam Kỳ về vấn đề thống nhấtNam Kỳ vào nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Điểm gây nhiều khó khăn nhất là việc chính phủ Pháp đãđơn phương cho phép thành lập Nam Kỳ quốc theo tinh thần Tuyên bố ngày 24 tháng 3 năm 1945 của tướngDe Gaulle, tách rời khu vực này khỏi những phong trào độc lập ở hai miền Bắc và Trung. Ngày 27 tháng 5Cao ủy Đông Dương Georges D'Argenlieu lại còn thông qua việc thành lập Xứ Thượng Nam Đông Dương,

chia cắt Việt Nam thành nhiều mảnh.[21][22]

Việt Nam nhượng bộ về mọi mặt: kinh tế, tài chính và quân sự nhưng phái đoàn Việt Nam đòi Pháp ấn địnhthời hạn để thực hiện cuộc trưng cầu dân ý ở Nam Kỳ. Thấy Pháp chần chừ không trả lời dứt khoát, pháiđoàn Việt Nam bỏ bàn hội nghị ra về ngày 13 tháng 9. Hội nghị Fontainebleau vì vậy tan vỡ.

Tuy nhiên Hồ Chí Minh và Bộ trưởng Bộ Thuộc địa Pháp Marius Moutet không chấp nhận thất bại. Trongkhi Phạm Văn Đồng bỏ về nước, Hồ Chí Minh, Hoàng Minh Giám và Dương Bạch Mai nán lại Paris. Nhằmcứu vớt hòa bình lần cuối Hồ Chí Minh thảo một bản nghị ước vào chiều ngày 11 và trao cho Marius

Moutet.[23] Ba ngày sau, 14 tháng 9 năm 1946, Marius Moutet hồi đáp với một bản nghị ước khác. Đạt đượcđồng thuận, Hồ Chí Minh đã đến tư dinh của Marius Moutet lúc nửa đêm ngày 14 tháng 9 năm 1946 để ký

văn bản này, tức Tạm ước Việt - Pháp (Modus vivendi).[20]

Ngày 14 tháng 9 năm 1946, Pháp và Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ký Tạm ước Việt - Pháp(Modus vivendi). Trong bản Tạm ước này, hai bên Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và Pháp cùng bảo đảm vớinhau về quyền tự do của kiều dân, chế độ tài sản của hai bên; thống nhất về các vấn đề như: hoạt động của

Việt Nam Dân chủ Cộng hòa – Wikipedia tiếng Việt http://vi.wikipedia.org/wiki/Việt_Nam_Dân_chủ_Cộng_hòa

6 of 27 3/1/2014 3:59 PM

Hồ Chí Minh và Phạm Văn Đồng

tại Paris, 1946

các trường học Pháp, sử dụng đồng bạc Đông Dương làm tiền tệ, thốngnhất thuế quan và tái lập cải thiện giao thông liên lạc của Liên bangĐông Dương, cũng như việc thành lập ủy ban tạm thời giải quyết vấn đềngoại giao của Việt Nam. Chính phủ Việt Nam cam kết ưu tiên dùngngười Pháp làm cố vấn hoặc chuyên môn, và hai bên đã đồng ý chấmdứt mọi hành động xung đột, vũ lực cũng như tuyên truyền chống đốinhau, phóng thích tù nhân chính trị, bảo đảm không truy bức người củabên kia, và hợp tác để những kiều dân hai bên không làm hại nhau. Tạmước cam kết sẽ có một nhân vật do Việt Nam chỉ định và Chính phủPháp công nhận được uỷ nhiệm cạnh thượng sứ để xếp đặt cộng tác thihành những điều thoả thuận này. Cuối cùng, Chính phủ hai bên sẽ sớmtiếp tục đàm phán (chậm nhất là vào tháng 1 năm 1947) để tìm cách kýkết những bản thoả thuận riêng nhằm dọn đường cho một hiệp ước

chung dứt khoát.[24][25]

Kêu gọi sự ủng hộ của các cường quốc

Ngoài ra, Chủ tịch Hồ Chí Minh còn gửi thư cho nhiều nguyên thủ quốcgia trên thế giới kêu gọi công nhận nhà nước Việt Nam mới được thành

lập cũng như tranh thủ sự ủng hộ nhưng không nhận được hồi âm (Tổng thống Hoa Kỳ Harry Truman[26],lãnh tụ Liên Xô Stalin, Tổng thống Pháp Léon Blum, bộ trưởng Thuộc địa Pháp Marius Moutet và Nghịviện Pháp,…).

Chiến tranh bùng nổ

Đầu tháng 11 năm 1946, xung đột quân sự đầu tiên nổ ra tại Hải Phòng do Pháp và Việt Nam Dân chủ Cộnghòa tranh chấp quyền kiểm soát tất cả các vấn đề liên quan đến xuất nhập khẩu. Hai ngày sau, TướngJean-Étienne Valluy, tổng chỉ huy quân đội Pháp ở Đông Dương, lệnh cho quân Pháp chiếm toàn quyềnkiểm soát thành phố. Ngày 23 tháng 11, Đại tá Pierre Louis Dèbes gửi tối hậu thư yêu cầu người Việt ra khỏikhu phố Tàu của Hải Phòng và hạ vũ khí. Khi không có phản hồi, Dèbes lệnh cho tàu chiến Pháp bắn phá

thành phố, trong một buổi chiều đã giết chết hơn 6.000 người dân[27] hoặc hơn 2.000 người theo một nguồn

khác.[28]. Sau đó, khoảng 2.000 lính Pháp tràn vào thành phố trong khi pháo tiếp tục bắn phá vùng ngoại ô.Quân Pháp gặp phải hỏa lực mạnh của lực lượng Việt Minh bảo vệ thành phố. Chiến sự kéo dài cho đến khingười lính Việt Minh cuối cùng rút khỏi chiến trường vào ngày 28 tháng 11.

Sau sự kiện Hải Phòng, kế hoạch phòng thủ Hà Nội bắt đầu được chuẩn bị để chính phủ Việt Nam có thờigian sơ tán về các vùng núi lân cận. Một số ít lực lượng chính phủ đóng tại Bắc Bộ phủ và một doanh trạigần đó. Còn phần lớn lực lượng quân sự của Việt Nam trong vùng đóng tại ngoại ô của thủ đô. Bù lại, trongnội thành có gần 10.000 du kích và tự vệ. Đối địch với họ là vài nghìn lính Lê dương Pháp.

Các cơ quan của chính phủ Việt Nam bí mật chuyển dần ra các địa điểm đã được chuẩn bị trước ở bên ngoàithành phố. Trong thành phố, quân dân Hà Nội bắt đầu xây dựng các chiến lũy phòng thủ trên đường phố,quân Pháp cũng củng cố các vị trí phòng thủ của mình. Ngày 6 tháng 12, Hồ Chí Minh kêu gọi Pháp rút vềcác vị trí họ đã giữ từ trước ngày 20 tháng 11, nhưng ông không nhận được phản hồi. Trả lời phỏng vấn củanhà báo Pháp vào hôm sau, Hồ Chủ tịch khẳng định rằng Chính phủ Việt Nam hy vọng tránh được chiếntranh - cái sẽ gây đau khổ lớn cho cả hai nước. "Nhưng nếu chúng tôi phải đối mặt với chiến tranh", ông nói,"chúng tôi sẽ chiến đấu chứ không từ bỏ quyền tự do của mình".

Ngày 12 tháng 12, Léon Brum, thủ tướng mới của Pháp tuyên bố ý định giải quyết xung đột ở Đông Dươngtheo cách sẽ trao lại độc lập cho Việt Nam. Ba ngày sau, Hồ Chí Minh đưa Sainteny một bức thông điệp gửiBrum với các gợi ý cụ thể về cách giải quyết xung đột. Sainteny đánh điện bức thông điệp vào Sài Gòn, yêucầu chuyển tiếp tới Paris.

Việt Nam Dân chủ Cộng hòa – Wikipedia tiếng Việt http://vi.wikipedia.org/wiki/Việt_Nam_Dân_chủ_Cộng_hòa

7 of 27 3/1/2014 3:59 PM

Trong khi chính phủ Pháp đang do dự về yêu cầu của Cao ủy Đông Dương Georges D'Argenlieu về việctăng quân và lập tức hành động quân sự chống lại người Việt, Valluy, người có chung quyết tâm vớid'Argenlieu về việc giữ sự hiện diện của Pháp tại Đông Dương, đã quyết định rằng cần phải khiêu khích HàNội nhằm tạo xung đột và đưa Paris vào sự đã rồi. Ngày 16 tháng 12, ông lệnh cho tướng Morlière phá cácchướng ngại vật mà Việt Minh dựng trong thành phố. Khi bức điện của Hồ Chí Minh gửi Brum vào đến SàiGòn, Vallue viết thêm bình luận của mình, cảnh báo rằng sẽ nguy hiểm nếu trì hoãn các hành động quân sựcho đến năm sau. Đến ngày 19, bức điện mới đến Paris, khi đó đã quá muộn.

Ngày 17 tháng 12, quân Pháp với xe tăng yểm trợ vào các đường phố Hà Nội để phá các công sự mà ViệtMinh dựng trong những ngày trước đó, gây ra vụ thảm sát ở phố Hàng Bún (Hà Nội), rồi dàn quân ra chốtgiữ từ cổng thành Hà Nội đến tận cầu Long Biên và bao vây gây sức ép đồn Công an quận 2 của Hà Nội.Người Việt không phản ứng. Hôm sau, Pháp ra một tối hậu thư đòi chấm dứt dựng chướng ngại vật trên phố.Chiều hôm đó, Pháp ra tối hậu thư thứ hai tuyên bố rằng từ ngày 20, quân Pháp sẽ tự mình đảm nhiệm việctrị an ở Hà Nội. Đáp lại, tối hôm đó, các lực lượng Việt Minh bắt đầu chặn mọi ngả đường từ ngoại ô vàothành phố. Sáng hôm sau (ngày 19 tháng 12), Pháp ra tối hậu thư thứ ba, đòi chính phủ Việt Nam đình chỉmọi hoạt động chuẩn bị chiến tranh, tước vũ khí của Tự vệ tại Hà Nội, và trao cho quân đội Pháp việc duytrì an ninh trong thành phố.

Đối với người Việt, tình hình không khác với sự kiện Hải Phòng hồi tháng trước, khi Đại tá Dèbes cũng đãra các lệnh tương tự trước khi bắn phá thành phố. Sáng ngày 18 tháng 12, Hồ Chủ tịch ra lệnh chuẩn bị chocác cuộc tấn công quân Pháp vào hôm sau. Đồng thời, sợ rằng bức điện gửi Thủ tướng Brum có thể chưađến nơi, ông gửi một bức điện thẳng tới Paris. Sáng 19, để thể hiện thiện chí và cố gắng cứu vãn hòa bình,Hồ Chủ tịch viết một bức thư ngắn và cử cố vấn ngoại giao Hoàng Minh Giám tới gặp Sainteny để đàmphán "tìm giải pháp để cải thiện bầu không khí hiện tại". Sau khi được tin Sainteny từ chối gặp Hoàng MinhGiám, Hồ Chủ tịch triệu tập Hội nghị Thường vụ Trung ương Ðảng mở rộng tại làng Vạn Phúc, Hà Nội, vàtuyên bố rằng trong tình hình hiện tại, không thể nhân nhượng thêm được nữa. Hội nghị duyệt lại Lời kêugọi toàn quốc kháng chiến mà Hồ Chủ tịch đã viết, thông qua văn kiện "Toàn dân kháng chiến" do Tổng Bíthư Trường Chinh dự thảo. Thời điểm bắt đầu nổ súng được quyết định là 8 giờ tối cùng ngày. Chiến tranhĐông Dương bắt đầu.

Leclerc, người tham gia Hiệp định sơ bộ 6 tháng Ba, cũng đã điều tra sự cố dẫn đến xung đột tại miền BắcViệt Nam và việc Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tuyên bố kháng chiến khiến các giải pháp chính trị thất bại.Ngày 27 tháng Giêng năm 1947, tuyên bố của chính phủ Pháp về "Chi tiết các mục tiêu theo đuổi của Phápở Đông Dương" có nêu "để đạt được càng sớm càng tốt với các đại diện đủ điều kiện của người An Nammột thỏa thuận phù hợp với nguyện vọng chính đáng trong Liên hiệp Pháp (...) trên cơ sở độc lập của đấtnước cùng với việc duy trì lợi ích của Pháp và sự hiện diện của (các) căn cứ chiến lược của lực lượng Pháp.Một hỗ trợ lớn và ngay lập tức phải nhằm củng cố chính quyền của Nam Kỳ, nhưng "phần nào đủ điều kiện"

để không đóng cánh cửa đàm phán với Việt Minh." [29]

Giai đoạn 1947 - 1954

Giai đoạn 1955 - 1976

Ký kết Hiệp định Genève

Năm 1954, quân viễn chinh Pháp bị đánh bại tại trận Điện Biên Phủ. Pháp phải chính thức công nhận nhànước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.

Lập trường của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tại bàn đàm phán là: Pháp phải thừa nhận chủ quyền và độc lậpcủa Việt Nam, Campuchia và Lào và rút quân đội khỏi 3 nước này; tiến hành tổng tuyển cử ở ba nước đểthành lập các chính phủ thống nhất. Những cuộc tuyển cử trên phải được tiến hành với điều kiện tất cả cácđảng phái và tổ chức yêu nước được tự do hoạt động dưới sự giám sát của các ủy ban địa phương. Nếu cácđiều kiện trên được chấp nhận chính phủ các nước Đông Dương đồng ý xem xét vấn đề gia nhập khối Liên

Việt Nam Dân chủ Cộng hòa – Wikipedia tiếng Việt http://vi.wikipedia.org/wiki/Việt_Nam_Dân_chủ_Cộng_hòa

8 of 27 3/1/2014 3:59 PM

Hội nghị Genève.

hiệp Pháp. Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đề nghị tham gia đàmphán có đại diện Chính phủ kháng chiến Lào, Campuchia nhưngcác nước phương Tây từ chối.

Theo Hiệp định đã ký kết tất cả ba nước Đông Dưong phải đìnhchỉ chiến sự và rút quân đội các bên đến khu vực quy định. TheoHiệp định Genève về Việt Nam, nước Việt Nam tạm thời bị chiathành hai vùng có giới tuyến là vĩ tuyến 17 trong 2 năm:

Miền Bắc thuộc quyền kiểm soát của chính phủ Việt NamDân chủ Cộng hòa, thủ đô là Hà Nội, chủ tịch chính phủlà Hồ Chí Minh.

Miền Nam thuộc quyền kiểm soát của Quốc gia Việt Namđã tách khỏi khối Liên hiệp Pháp trước khi ký Hiệp định 6 tuần. Quân Pháp sẽ dần rút đi trong 2 năm.Năm 1955, Việt Nam Cộng hòa được thành lập từ Quốc gia Việt Nam sau khi Quốc hội Lập hiến banhành Hiến pháp với thủ đô đặt tại Sài Gòn.

Việc tập kết quân đội hai bên hoàn thành trong thời hạn 300 ngày. Các lực lượng Pháp rút khỏi Lào trong120 ngày, Campuchia 90 ngày. Các đơn vị quân đội Việt Nam Dân chủ Cộng hòa cũng rút khỏi Lào,Campuchia. Tại Lào, quân đội kháng chiến tập kết tại Phong sa lỳ và Sầm Nưa. Các lực lượng kháng chiếnCampuchia phục viên tại chỗ. Các chính phủ Vương quốc Lào và Campuchia bảo đảm cho mọi công dânhưởng quyền tự do ghi trong Hiến pháp. Bầu cử tự do được tổ chức tại Campuchia và Lào vào năm 1955 vàtại Việt Nam theo Tuyên bố cuối cùng của Hiệp định là tháng 7/1956.

Ngay sau thời khắc chia đất nước ra làm hai vùng, đã diễn ra cuộc di cư lớn của gần 900.000 người dânmiền Bắc, mà đa số là người Công giáo, vào miền Nam, với niềm tin "theo Chúa vào Nam". Một số ngườitin theo lời người Pháp cho rằng họ sẽ bị những chính sách của chính quyền miền Bắc bức hại bản thân họ.Khoảng 140 ngàn người khác ở miền Nam, gồm phần lớn là lực lượng kháng chiến của Việt Nam Dân chủCộng hòa tại miền Nam hoặc những người đi theo chủ nghĩa cộng sản, tập kết ra miền Bắc theo Hiệp địnhGenève. Theo như Bản tuyên bố cuối cùng của Hội nghị Genève, sẽ có một cuộc tổng tuyển cử ở cả haimiền sau hai năm để thống nhất đất nước.

Hỗ trợ tiến hành chiến tranh ở miền Nam

Sau 2 năm, dưới sự hậu thuẫn của Mỹ, chính phủ Việt Nam Cộng hòa từ chối tham gia cuộc tổng tuyển cửđể thống nhất đất nước theo Bản tuyên bố cuối cùng của Hội nghị Genève. Sau nhiều cố gắng thương lượngkhông thành, năm 1959, Đảng Lao động Việt Nam đã quyết định hỗ trợ tiến hành chiến tranh ở miền Nam

để thống nhất đất nước và sau đó thực hiện cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa trên toàn quốc.[30]

Với sự viện trợ của Liên Xô và Trung Quốc, Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã hỗ trợ người và của cho Mặttrận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam để đối đầu với Hoa Kỳ và Việt Nam Cộng hòa suốt 16 năm(1959-1975), Việt Nam Dân chủ Cộng hòa luôn là hậu phương lớn của chiến trường miền Nam.

Trong thời Chiến tranh Việt Nam, lãnh thổ của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa chịu nhiều tác hại của cuộcchiến vì các chiến dịch ném bom của quân đội Mỹ với mục đích ngăn chặn sự chi viện của hậu phương miềnBắc cho chiến trường miền Nam Việt Nam. Theo ước tính, không quân Hoa Kỳ đã ném xuống Việt NamDân chủ Cộng hòa khoảng 3 triệu tấn bom các loại.

Thống nhất hai miền Nam Bắc Việt Nam

Với sự kiện 30 tháng 4, 1975, miền Nam Việt Nam được tiếp quản bởi chính quyền lâm thời Cộng hòa miềnNam Việt Nam. Hai miền Việt Nam hợp nhất ngày 2 tháng 7 năm 1976 thành một đất nước thống nhất với

Việt Nam Dân chủ Cộng hòa – Wikipedia tiếng Việt http://vi.wikipedia.org/wiki/Việt_Nam_Dân_chủ_Cộng_hòa

9 of 27 3/1/2014 3:59 PM

Quân đội Nhân dân Việt Nam

đang hành quân trên đường

Trường Sơn qua Lào để vào miền

Nam Việt Nam.

tên gọi mới: Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam.

Hành pháp

Cơ quan hành pháp của Việt Nam Dân chủ Cộng hoà được gọi là Chínhphủ.

Chính phủ Cách mạng Lâm thời

Thành lập

Sau khi Nhật đầu hàng đồng minh, Mặt trận Việt Minh thu hút nhiềuđảng phái nhanh chóng cướp chính quyền từ tay chính phủ Trần TrọngKim và lực lượng quân đội đế quốc Nhật Bản. Tại một số khu vực, khimặt trận Việt Minh cướp chính quyền thì xảy ra xung đột với các cácnhóm vũ trang của Đại Việt, Việt Nam Quốc dân Đảng do các bên đềucùng theo đuổi mục tiêu buộc Đế quốc Việt Nam bàn giao chính quyền

cho họ.[31]

Tổ chức chính quyền đầu tiên là Chính phủ Cách mạng Lâm thời, thành lập ngày 27 tháng 8, 1945 trên cơ sởỦy ban Dân tộc Giải phóng Việt Nam do Việt Minh thành lập trong Cách mạng tháng Tám. Chính phủ Cáchmạng Lâm thời tuyên bố "Chính phủ lâm thời không phải là Chính phủ riêng của Mặt trận Việt Nam độc lậpđồng minh (Việt Minh) như có người đã lầm tưởng. Cũng không phải là một Chính phủ chỉ bao gồm đại biểucủa các chính đảng. Thật là một Chính phủ quốc gia thống nhất, giữ trọng trách là chỉ đạo cho toàn quốc,đợi ngày triệu tập được Quốc hội để cử ra một Chính phủ Dân chủ Cộng hoà chính thức." đồng thời kêu gọi"Vận mệnh ngàn năm của dân tộc đang quyết định trong lúc này. Toàn thể quốc dân hãy khép chặt hàngngũ, đứng dưới lá quốc kỳ, làm hậu thuẫn cho Chính phủ lâm thời, đặng nắm chắc tự do độc lập, cải tạo tổquốc bấy nhiêu lâu đã bị bọn giặc nước tàn phá. Cuộc đấu tranh cho độc lập, tự do, hạnh phúc của dân tộcđang tiếp tục. Bước đường giải phóng dân tộc còn nhiều chông gai hiểm trở. Quốc dân hãy sẵn sàng nghe

hiệu lệnh của Chính phủ, hy sinh phấn đấu bảo vệ quyền độc lập hoàn toàn.".[32] Cựu hoàng Bảo Đại vàGiám mục Lê Hữu Từ được mời làm Cố vấn Tối cao Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.

Hoạt động

Ngay sau khi thành lập, Chính phủ Cách mạng Lâm thời ban hành các sắc lệnh giải tán một số đảng

phái[33][34], với lý do các đảng này "tư thông với ngoại quốc", làm "phương hại đến nền độc lập Việt Nam"(như Việt Nam Quốc xã, Đại Việt Quốc dân đảng...) nhằm kịp thời trừng trị "bọn phản cách mạng", "bảo vệ"

chính quyền non trẻ đồng thời "giáo dục ý thức về tinh thần cảnh giác" cho nhân dân.[35] Cùng với đó là giải

tán các nghiệp đoàn[36] để kiểm soát nền kinh tế[37], thống nhất các tổ chức thanh niên (vào Đoàn Thanhniên Cứu quốc Việt Nam). Đồng thời Chính phủ cũng ban hành sắc lệnh thành lập Hội đồng nhân dân và Ủyban hành chính địa phương các cấp.

Trong cuộc họp đầu tiên của Chính phủ Cách mạng Lâm thời (3/9/1945), toàn bộ các thành viên trong chínhphủ đã thống nhất các phương pháp Chủ tịch chính phủ Hồ Chí Minh để giải quyết các vấn đề cấp bách của

nước mới, bao gồm[38]:

Phát động tăng gia sản xuất, mở các cuộc lạc quyên để chống nạn đói.1.Mở phong trào chống nạn mù chữ.2.Tổ chức càng sớm càng tốt cuộc tổng tuyển cử với chế độ phổ thông đầu phiếu, thực hiện các quyềntự do dân chủ cho nhân dân.

3.

Mở phong trào giáo dục cần, kiệm, liêm, chính, bài trừ các tệ nạn do chế độ thực dân để lại.4.

Việt Nam Dân chủ Cộng hòa – Wikipedia tiếng Việt http://vi.wikipedia.org/wiki/Việt_Nam_Dân_chủ_Cộng_hòa

10 of 27 3/1/2014 3:59 PM

Xóa bỏ các thứ thuế vô lý, trước mắt là thuế thân, thuế chợ, thuế đò; tuyệt đối cấm hút thuốc phiện.5.Tuyên bố tự do tín ngưỡng và lương giáo đoàn kết.6.

Ngay sau khi tuyên bố độc lập, Chính phủ Cách mạng lâm thời Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tổ chức lễ phátđộng phong trào cứu đói tại Nhà hát lớn Hà Nội. Chính phủ còn phái một ủy ban vào Nam bộ tổ chức vậnchuyển gạo ra Bắc. Chính phủ cũng kêu gọi các hội buôn và người dân tham gia vận chuyển lương thực từNam ra Bắc. Việc vận chuyển gạo từ Nam ra Bắc chỉ thực hiện được trong tháng 9 năm 1945 với số lượngkhông quá 30.000 tấn do chiến tranh bùng nổ khi Pháp đưa quân đội vào Nam Kỳ. Trong thư gửi đồng bàocả nước đăng trên Báo Cứu Quốc ngày 28-9-1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh viết: “Lúc chúng ta nâng bát cơmmà ăn, nghĩ đến kẻ đói khổ, chúng ta không khỏi động lòng. Vậy tôi xin đề nghị với đồng bào cả nước, và tôixin thực hiện trước: Cứ 10 ngày nhịn ăn một bữa, mỗi tháng nhịn ba bữa. Đem gạo đó (mỗi bữa một bơ) đểcứu dân nghèo”. Chính phủ cũng chi ngân sách sửa chữa các quãng đê bị vỡ, củng cố hệ thống đê điều, đắp

thêm một số đê mới. Cho đến đầu năm 1946, hệ thống đê tại miền Bắc đã sửa xong.[39]

Để giải quyết tận gốc nạn đói, Chính phủ Cách mạng lâm thời Việt Nam Dân chủ Cộng hòa kêu gọi nhândân tăng gia sản xuất. Chính phủ còn vận động tư nhân cho mượn các vườn trống quanh nhà để tăng gia sảnxuất. Mỗi địa phương lập ra một tiểu ban để huy động nhân lực và tổ chức sản xuất, lương thực làm ra đượcdùng để cứu tế. Cuối năm 1945 đầu 1946 không còn kịp thời vụ để trồng lúa nữa, nên chính phủ phát độngdành phần lớn đất đai để tranh thủ trồng liên tiếp hai vụ màu (khoai lang, đậu, bắp ...) bù cho phần lúa thiếuhụt. Kết quả sản lượng màu đã tăng gấp 4 lần so với thời kỳ trước năm 1945. Chỉ trong 5 tháng từ tháng11/1945 đến tháng 5/1946 đã đạt 614.000 tấn, tương đương 506.000 tấn lúa, đủ đắp được số thiếu hụt của vụ

mùa năm 1945.[39]

Trong năm 1946, nạn đói cơ bản đã được giải quyết. Ngày 2/9/1946, Bộ trưởng Bộ Nội vụ Võ Nguyên Giáptuyên bố: “Cuộc cách mạng đã chiến thắng được nạn đói, thật là một kỳ công của chế độ dân chủ”. Giáo sưkinh tế Đặng Phong đánh giá việc giải quyết được nạn đói là lý do giải thích tại sao tuyệt đại đa số dân

chúng đã tin và đi theo Việt Minh.[39]

Một thành tựu khác của chính quyền Việt Nam Dân chủ Cộng hòa non trẻ là xóa mù chữ. Năm 1945, có95% dân số Việt Nam mù chữ. Trước thực trạng đó, để xóa mù chữ, từ ngày 8 tháng 9 năm 1945 Chủ tịchHồ Chí Minh ra các sắc lệnh: Sắc lệnh số 17 đặt ra một bình dân học vụ trong toàn cõi Việt nam, Sắc lệnh số19 lập cho nông dân và thợ thuyền những lớp học bình dân buổi tối, Sắc lệnh số 20 định rằng việc học chữquốc ngữ từ nay bắt buộc và không mất tiền. Để phục vụ chiến dịch xoá mù chữ, Nha Bình dân học vụ đượcthành lập ngày 18 tháng 9 năm 1945. Ngày 4 tháng 10 năm 1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh ra lời kêu gọiChống nạn thất học gửi tới toàn dân: "...Muốn giữ vững nền độc lập, muốn làm cho dân mạnh nước giàu,mọi người Việt nam phải hiểu biết quyền lợi của mình, bổn phận của mình, phải có kiến thức, mới có thểtham gia vào công cuộc xây dựng nước nhà và trước hết phải biết đọc, biết viết chữ quốc ngữ. Những ngườiđã biết chữ hãy dạy cho những người chưa biết chữ, hãy góp sức vào bình dân học vụ…Những người chưabiết chữ hãy gắng sức mà học cho biết đi." Các lớp học Bình dân học vụ được mở khắp nơi ở cả ba miền thuhút sự tham gia của mọi lứa tuổi, mọi tầng lớp nhân dân. Người biết chữ dạy cho người không biết chữ. Đếntháng 9 năm 1946, phong trào Bình dân học vụ đã tổ chức được 75.000 lớp học với trên 95.000 giáo viên,

trên 2.500.000 người được phong trào dạy biết đọc, biết viết.[40]

Theo Quyết nghị của Chính phủ, ngày 4/9/1945, Bộ trưởng Bộ Nội vụ Võ Nguyên Giáp thay mặt Chủ tịchChính phủ lâm thời nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, ký ban hành Sắc lệnh số 4 lập "Quỹ độc lập" vớimục đích "để thu nhận các món tiền và đồ vật của nhân dân sẵn lòng quyên giúp Chính phủ để ủng hộ nềnđộc lập của Quốc gia". Tiếp sau đó, cũng trong khuôn khổ Quỹ độc lập, Chính phủ đã đề ra biện pháp tổ

chức "Tuần lễ Vàng” từ ngày 17 đến ngày 24/9/1945.[41] Chủ tịch Hồ Chí Minh đã gửi thư cho đồng bàotoàn quốc nhân dịp "Tuần lễ Vàng”, nêu rõ mục đích của việc lập quỹ là "thu góp số vàng trong nhân dân vànhất là của các nhà giàu có để dùng vào việc cần cấp và quan trọng nhất của chúng ta lúc này là việc quốc

phòng”. Chính phủ đã huy động được tổng cộng 20 triệu đồng và 370kg vàng.[42] Ngân quỹ quốc gia đã cóhàng trăm triệu đồng. Riêng tại Hà Nội, trong “Tuần lễ vàng" nhân dân đã góp được 2.201 lạng vàng, 920 tạ

thóc cùng tiền bạc và các hiện vật khác, tổng trị giá lên 7 triệu đồng Đông Dương.[43] Số tiền này được dùng

Việt Nam Dân chủ Cộng hòa – Wikipedia tiếng Việt http://vi.wikipedia.org/wiki/Việt_Nam_Dân_chủ_Cộng_hòa

11 of 27 3/1/2014 3:59 PM

để mua vũ khí của quân đội Nhật bị quân đội Trung hoa Dân quốc tịch thu và để hối lộ cho các tướng lĩnh

Trung Hoa đang đóng quân tại miền Bắc Việt Nam.[44]

Cùng các hình thức tổ chức "Quỹ độc lập", tuần lễ vàng chính quyền cách mạng còn tổ chức nhiều hình thứckhuyến khích để nhân dân có điều kiện tham gia đóng góp cho tài chính đất nước với hình thức tự nguyệnnhư lập "Quỹ kháng chiến", “Quỹ bình dân học vụ”, "Quỹ giải phóng quân", “Ngày Nam Bộ"... Sự đónggóp, ủng hộ nhiệt tình của nhân dân đã góp phần giải quyết khó khăn về tài chính của Việt Nam Dân chủCộng hòa.

Chính phủ Liên hiệp Lâm thời

Thành lập

Tháng 9 năm 1945, 20 vạn quân Trung Hoa Dân Quốc gồm 4 quân đoàn do tướng Lư Hán làm tổng chỉ huy,theo sự phân công của phe Đồng Minh chia làm hai đường tiến vào miền Bắc giải giáp quân Nhật đã kéovào đóng quân ở Hà Nội và hầu hết các thành phố, thị xã từ biên giới Việt-Trung đến vĩ tuyến 16. Quân củaTưởng Giới Thạch ngoài nhiệm vụ giải giáp quân Nhật còn nhằm thực hiện ý đồ tiêu diệt Đảng Cộng sảnĐông Dương, phá tan mặt trận Việt Minh, giúp các lực lượng đối lập đánh đổ chính quyền do Việt Minh

thành lập, thiết lập chính quyền thân Tưởng.[45]

Các tổ chức Việt Quốc (Vũ Hồng Khanh, Nguyễn Tường Tam đứng đầu), Việt Cách (đứng đầu là NguyễnHải Thần) cũng nhanh chóng từ Trung Quốc đi cùng quân Tưởng trở về Việt Nam. Thành phần các đảng

phái này trong nước không mạnh như Việt Minh.[31][46]

Theo đại tướng Võ Nguyên Giáp, mục đích của Việt Quốc, Việt Cách để mở đường, tạo dựng cơ sở cho

Quân đội Trung Hoa Dân quốc vào Việt Nam[38], gây xung đột vũ trang với Quân giải phóng và cướp chính

quyền các địa phương[45][47] Dựa vào quân đội Tưởng, Việt Quốc và Việt Cách đã chiếm giữ một số nơi ởYên Bái, Vĩnh Yên, Móng Cái, liên tục thực hiện các vụ quấy nhiễu, cướp phá, giết người, rải truyền đơn, rabáo Việt Nam, Thiết Thực, Đồng Tâm nhằm vu cáo nói xấu Việt Minh, chống chính quyền Việt Nam Dân

chủ Cộng hòa và đòi gạt bỏ các bộ trưởng là đảng viên cộng sản ra khỏi chính phủ mới thành lập.[45] Cũngtheo Đại tướng Võ Nguyên Giáp, do sống từ lâu ở nước ngoài, lại không có liên hệ gì với phong trào cáchmạng trong nước, nên Việt Quốc, Việt Cách không nhận được sự ủng hộ của người dân. Tại nhiều nơi cóquân Tưởng và Việt Quốc, Việt Cách đi qua; các cơ quan chính quyền, đoàn thể, lực lượng vũ trang đều dãnra xung quanh tránh xô xát lớn. Nhân dân thực hiện "vườn không, nhà trống". Điều này đã khiến cho quânTưởng gặp nhiều khó khăn trên đường đi, còn Việt Quốc, Việt Cách cũng thất bại trong việc khuếch trương

thanh thế cũng như mục đích của mình.[48] Còn theo sử gia Trần Trọng Kim Việt Quốc, Việt Cách tuy có thế

lực nhờ quân đội Trung Hoa Dân Quốc hỗ trợ, nhưng không thống nhất và không có kỷ luật chặt chẽ,[49]

tuyên truyền nhiều mà không làm được việc gì đáng kể[50]. Thiếu tá Mỹ thuộc OSS, Al Patti nhận xét nhữngngười Quốc gia lưu vong chống cộng quyết liệt, có tham vọng nắm quyền lãnh đạo đất nước nhưng quá kémvề tổ chức, thiếu sự liên kết chính trị, thiếu lãnh đạo và không có một chương trình hành động ra hồn mà chỉ

hy vọng tạo ra một nước Việt Nam độc lập với sự giúp đỡ của Trung Quốc.[51] Sau khi thảo luận với cáclãnh đạo Việt Cách và Việt Nam Quốc dân Đảng, ông nhận thấy những người này tuyệt nhiên không có ýtưởng nào về việc đáp ứng nhu cầu của nhân dân, không một ai có khái niệm về công việc sẽ làm mà chỉchăm chăm mục tiêu "chia sẻ quyền lực với Việt Minh". Ông ta nhận xét: "Họ (Việt Cách, Việt Nam Quốc

dân Đảng) là những kẻ lạc hướng về chính trị, có lẽ vì sống quá lâu ở Trung Quốc".[52]

Tưởng Giới Thạch không có ý định dính líu vào cuộc đấu tranh giành độc lập của Việt Nam. Ông khôngmuốn làm mất lòng Pháp vì Pháp là một cường quốc trong khối Đồng Minh. Ông chủ trương rút hết quân vềnước ngay sau khi giải giáp Nhật. Ngược lại tướng Lư Hán xem lập trường của Tưởng là thiển cận vì đingược lại các nguyên tắc của Hiến chương Đại Tây Dương đã được Trung Hoa Dân Quốc cam kết ủng hộ.Lư Hán chủ trương đóng quân tại miền Bắc Việt Nam lâu dài, đặt Việt Nam dưới sự bảo trợ của Trung Hoa

Việt Nam Dân chủ Cộng hòa – Wikipedia tiếng Việt http://vi.wikipedia.org/wiki/Việt_Nam_Dân_chủ_Cộng_hòa

12 of 27 3/1/2014 3:59 PM

Dân Quốc để Việt Nam có thể độc lập mà không cần đến sự ủng hộ của Pháp. Trong suốt thời gian đóngquân tại miền Bắc Việt Nam, Lư Hán dùng mọi khả năng của mình để làm thất bại mọi kế hoạch của Pháp

giành lại quyền kiểm soát miền Bắc Việt Nam.[53] Người Pháp được đối xử như những người ngoại quốckhác, Pháp không được cử đại diện tham gia vào lễ đầu hàng của Nhật với tư cách một nước trong khốiĐồng Minh, các chỉ huy Pháp tại Hà Nội cũng không được Lư Hán công nhận là đại diện của chính phủ DeGaulle. Bộ phận OSS của Mỹ tại miền Bắc Việt Nam cũng từ chối giúp các chỉ huy Pháp thiết lập một hành

dinh tại Việt Nam.[54] Trước đó OSS đã được lệnh của Tổng thống Mỹ Franklin D. Roosevelt không để choPháp tái chiếm Đông Dương, không được cung cấp vũ khí hay tiếp tế cho Pháp ngoại trừ để thực hiện những

mục tiêu chống Nhật đã được Đồng Minh tán thành.[55]

Việt Nam Quốc dân Đảng và Đại Việt Quốc dân Đảng ủng hộ quan điểm của Lư Hán về việc Trung Quốcđóng quân lâu dài tại Việt Nam để hỗ trợ cho nền độc lập của Việt Nam còn Việt Cách lại ủng hộ quan điểmcủa Tưởng Giới Thạch rút hết quân đội Trung Hoa Dân Quốc về nước sau khi giải giáp Nhật để Nguyễn Hải

Thần lãnh đạo Việt Nam với sự hỗ trợ của Trung Hoa Dân Quốc.[56]

Trong hai ngày 18 và 19 tháng 9 năm 1945, Việt Minh họp bí mật với Việt Cách (ngày 18/9/1945) và ĐạiViệt (ngày 19/9/1945). Trong hai cuộc họp này, Nguyễn Hải Thần đại diện Việt Cách và Nguyễn TườngTam đại diện Đại Việt Quốc dân Đảng đề nghị Hồ Chí Minh đồng ý hợp nhất Việt Minh với Việt Cách vàĐại Việt Quốc dân Đảng. Đối với lời đề nghị này, trong nội bộ Việt Minh có nhiều ý kiến khác nhau. VõNguyên Giáp không đồng ý vì cho rằng những đề nghị đó không có giá trị và không thật thà, chẳng khác gìthay thế chủ nghĩa thực dân Pháp bằng ách thống trị của Trung Quốc nhưng Hoàng Minh Giám lại nghĩ rằngviệc hợp nhất Việt Minh với các đảng phái Quốc gia sẽ làm giảm bớt sự đối lập và tăng cường thế lực choViệt Minh, làm người Trung Quốc yên lòng còn Pháp phải lo ngại, quan trọng nhất là Chính phủ Việt NamDân chủ Cộng hòa trong con mắt của Đồng Minh, đặc biệt là Mỹ, là chính phủ thật sự dân chủ. Cuối cùng

Việt Minh đã từ chối hợp nhất với Việt Cách và Đại Việt Quốc dân Đảng.[57]

Điều làm Hồ Chí Minh lo ngại là trong một số giới, đặc biệt là tầng lớp trung lưu Việt Nam, người ta vẫn

xem ông và Việt Minh là cộng sản vì thế ông phải làm mọi cách để thay đổi điều này[58]. Tháng 11 năm1945, ông quyết định cho Đảng Cộng sản Đông Dương tự giải tán. Về mặt công khai, đảng của ông khôngcòn hiện diện mà chỉ có một bộ phận hoạt động dưới danh nghĩa Hội nghiên cứu chủ nghĩa Mác ở Đông

Dương[59].

Ngày 19 tháng 11 năm 1945, tướng Tiêu Văn đứng ra tổ chức một cuộc hội nghị hòa giải có Việt Nam Quốcdân Đảng, Việt Nam Cách mạng Đồng minh hội và Việt Minh tham gia. Mặt trận Việt Minh đồng ý nhượng

bộ với Việt Quốc, Việt Cách.[31][60] Lãnh đạo Việt Cách Nguyễn Hải Thần được bổ nhiệm vào ghế Phó Chủtịch Chính phủ. Đồng thời hai ghế bộ trưởng Bộ Y tế và Bộ Vệ sinh, một ghế thứ trưởng Bộ Quốc dân Kinh

tế được giao cho các thành viên của Việt Quốc, Việt Cách.[61][62] Tuy nhiên chức trách các Bộ cũng thayđổi. Bộ trưởng Quốc phòng trở thành người lo về tài chính mà không được xem xét danh sách nhân sự, quânsố, súng đạn còn các Bộ trưởng khác của các đảng phái Quốc gia chẳng có chức trách cụ thể gì, không bao

giờ được tham dự bất cứ buổi họp nào của nội các.[63]

Ngày 1 tháng 1 năm 1946 Chính phủ Liên hiệp Lâm thời được thành lập thay thế Chính phủ Cách mạngLâm thời với sự tham gia của một số đảng phái đối lập (Việt Cách, Việt Quốc...) hoạt động ở Trung Quốc

với sự bảo trợ của Trung Hoa Quốc Dân Đảng.[64]

Hoạt động

Ngày 6 tháng 1 năm 1946, Chính phủ Liên hiệp Lâm thời do Chủ tịch Hồ Chí Minh đứng đầu đã tổ chứccuộc Tổng tuyển cử trên toàn quốc, lần đầu tiên đã bầu Quốc hội và thông qua Hiến pháp. Nhiều đảng phái

không có quyền tham gia Tổng tuyển cử đã tìm cách phá hoại[65]. Các đảng này cho là trúng cử chỉ là Việt

Minh cộng sản, chính quyền trong tay nên Việt Minh muốn ai trúng cũng được[66]. Mặc dù bị nhiều đảngphái tuyên truyền vận động dân chúng tẩy chay cuộc bầu cử và ngăn cản việc tổ chức bầu cử ở một số nơi,

Việt Nam Dân chủ Cộng hòa – Wikipedia tiếng Việt http://vi.wikipedia.org/wiki/Việt_Nam_Dân_chủ_Cộng_hòa

13 of 27 3/1/2014 3:59 PM

Các đại biểu Quốc hội khóa 1 chụp ảnh cùng Hồ

Chủ tịch

nhưng tại các địa phương, ở đâu cũng có người tự ứngcử, các cuộc tiếp xúc tranh cử công khai, tự do diễn ra ở

khắp mọi nơi.[67] Theo Việt Minh, cuộc bầu cử diễn ra

công bằng[67]. Tuy nhiên, lá phiếu không bí mật[68] và

theo quan sát của sử gia Trần Trọng Kim[69] thì có nơi

người dân bị cưỡng bách bầu cho Việt Minh.[70]

Sau khi kết quả bầu cử được công bố, sự thật hoàn toànkhông như các đảng phái tuyên truyền. Nhiều đại biểucó uy tín của các giai cấp, tầng lớp, tôn giáo, dân tộcđều trúng cử tại Quốc hội khóa I hầu hết chưa là đảng

viên.[67]

Sau cuộc bầu cử, theo thỏa thuận với Việt Minh, phe đối lập bao gồm một số tổ chức như Việt Nam Cáchmạng Đồng minh hội và Việt Nam Quốc dân Đảng được Trung Hoa Dân quốc ủng hộ, không tham gia Tổngtuyển cử nhưng vẫn được nắm 70 ghế Quốc hội cùng nhiều vị trí trong chính quyền trung ương do chínhsách hòa hợp các đảng phái của Chính phủ. Trong hồi ký Những năm tháng không thể nào quên, đại tướngVõ Nguyên Giáp nhận định các đảng phái này lo sợ thất bại trước sức ủng hộ lớn của cử tri với mặt trận Việt

Minh nên không tham gia bầu cử.[71]

Tại kỳ họp thứ nhất Quốc hội, theo đề nghị của đoàn chủ tịch (Ngô Tử Hạ điều khiển, với Nguyễn Đình Thilàm thư ký, các ghế Quốc hội phân chia tả hữu, theo đó Việt Quốc, Việt Cách (cánh hữu) ngồi bên tay phải,và các đại biểu Việt Minh, Marxist, Xã hội, Dân chủ ngồi bên tay trái, nhưng theo ý kiến của chủ tịch HồChí Minh thì không nên phân chia như vậy, thể hiện một sự đoàn kết trong Quốc hội.

Chính phủ Liên hiệp Kháng chiến

Thành lập

Sau khi Quốc hội được bầu, ngày 2 tháng 3 năm 1946, Chính phủ Liên hiệp Kháng chiến được thành lập đểthay thế Chính phủ Liên hiệp Lâm thời. Ở các địa phương, các cấp chính quyền liên hiệp được thành lậptrong năm 1946.

Hoạt động

Trong thời gian hoạt động, Chính phủ đã tiếp tục thực hiện các biện pháp, chính sách để giữ vững nền độclập của nước Việt Nam dân chủ non trẻ. Về đối nội đã kêu gọi các đảng phái đoàn kết phụng sự quốc gia,

thực hiện các chính sách kinh tế, quốc phòng, văn hóa, giáo dục...[72] Hồ Chí Minh giao cho Võ NguyênGiáp và Trần Quốc Hoàn, sau này trở thành Bộ trưởng Công an, nhiệm vụ vô hiệu hóa các cuộc biểu tình doViệt Nam Quốc dân Đảng và Việt Nam Cách mệnh Đồng minh Hội tổ chức nhằm chấm dứt hoạt động tuyêntruyền của các đảng này trong dân chúng. Võ Nguyên Giáp kể lại: "Chúng tôi phải trừng trị bọn phá hoại...Nhưng bằng mọi giá phải tránh khiêu khích và đảm bảo không xảy ra xung đột lớn". Võ Nguyên Giáp dùnglực lượng tự vệ và các hội viên Hội Cứu Quốc phá các cuộc biểu tình này. Khi có lộn xộn, lính Trung Quốcbắn chỉ thiên, xông vào giải tán đám biểu tình để vãn hồi trị an. Việt Nam Quốc dân Đảng hoảng hốt khingười Trung Hoa không giúp được gì nhiều trong việc chống lại Việt Minh như họ mong đợi. Ông NguyễnDuy Thanh, một người theo chủ nghĩa quốc gia buồn rầu nhớ lại: "Không có Trung Hoa ủng hộ, những đảng

phái theo chủ nghĩa quốc gia chẳng thể đối phó được với những người Cộng sản"[73]

Về đối ngoại đã thực hiện đàm phán với Chính phủ Pháp, ký với đại diện chính phủ Cộng hòa Pháp J.Sainteny bản Hiệp định sơ bộ Pháp-Việt ngày 6 tháng 3 năm 1946 cho phép 15.000 quân Pháp ra Bắc thaythế cho 20 vạn quân Tưởng rút về nước. Sau khi bản Hiệp định sơ bộ Pháp-Việt được ký ngày 6 tháng 3 năm1946, các đảng phái không cộng sản và thân nước ngoài như Việt Quốc và Việt Cách đã lên tiếng phản đối

Việt Nam Dân chủ Cộng hòa – Wikipedia tiếng Việt http://vi.wikipedia.org/wiki/Việt_Nam_Dân_chủ_Cộng_hòa

14 of 27 3/1/2014 3:59 PM

Chính phủ ký hiệp định này với Pháp.

Từ ngày 19 tháng 4 đến ngày 11 tháng 5 năm 1946 tại Đà Lạt, chính phủ tổ chức một hội nghị dự bị, gặp gỡgiữa 2 phái đoàn Việt và Pháp chuẩn bị cho Hội nghị Fontainebleau chính thức vào tháng 7 năm 1946.

Ngày 31 tháng 5 năm 1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh lên đường sang Pháp theo lời mời của chính phủ nướcnày. Cùng ngày, phái đoàn chính phủ do Phạm Văn Đồng dẫn đầu cũng khởi hành. Trước khi đi, Hồ ChíMinh bàn giao quyền lãnh đạo đất nước cho quyền chủ tịch nước là cụ Huỳnh Thúc Kháng với lời dặn "Dĩbất biến, ứng vạn biến". Trước khi lên đường sang Pháp, Hồ Chí Minh dự đoán thời gian ở Pháp "...có khi

một tháng, có khi hơn"[74] nhưng cuối cùng Chủ tịch Hồ Chí Minh ở Pháp 4 tháng trong lúc phái đoàn doPhạm Văn Đồng dẫn đầu tham dự Hội nghị Fontainebleau (diễn ra từ 6 tháng 7 tới 10 tháng 9 năm 1946).Hội nghị Fontainebleau không đem lại kết quả cụ thể nào. Sau khi phái đoàn của Việt Nam về nước, tạiPháp, ngày 14 tháng 9 năm 1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký với đại diện Pháp bản Tạm ước Việt - Pháp.

Ngày 15/6/1946, người lính cuối cùng của quân đội Trung Hoa Dân Quốc rời khỏi Việt Nam[75]. Các thànhviên Việt Nam Quốc dân Đảng và Việt Nam Cách Mệnh Đồng minh hội mất chỗ dựa hậu thuẫn chính làquân đội Tưởng Giới Thạch và do bất đồng về việc ký Hiệp định sơ bộ Pháp-Việt mùng 6 tháng 3 đã lần

lượt rút khỏi chính phủ Liên hiệp.[cần dẫn nguồn] Lãnh tụ đảng Việt Cách là Nguyễn Hải Thần và các thànhviên Việt Quốc - Việt Cách khác trong chính phủ như Nguyễn Tường Tam, Vũ Hồng Khanh và cánh thânTưởng do Vũ Hồng Khanh lãnh đạo lưu vong sang Trung Quốc. Các đảng viên Đại Việt phần lớn vẫn ở lại

Việt Nam chờ thời cơ.[76]. Nguyễn Tường Tam với tư cách Bộ trưởng Bộ ngoại giao dẫn đầu phái đoàn ViệtNam Dân chủ Cộng hòa tham gia Hội nghị trù bị tại Đà Lạt, nhưng do bất đồng đã không tham gia hầu hết

các phiên họp[77], sau đó cũng không tham gia Hội nghị Fontainebleau, cuối cùng rời bỏ chính phủ[78] (tàiliệu nhà nước nêu Nguyễn Tường Tam thiếu bản lĩnh chính trị, lập trường bấp bênh, biển thủ công quỹ rồi

đào nhiệm sang nước ngoài[79]). Việc các thành viên chủ chốt của Việt Quốc, Việt Cách như Nguyễn HảiThần, Nguyễn Tường Tam, Vũ Hồng Khanh rời bỏ chính phủ, lưu vong sang Trung Quốc đã đánh dấu chấmhết cho thời kỳ hợp tác giữa Việt Minh và các đảng phái không cộng sản tại miền Bắc, trong công cuộc"kháng chiến kiến quốc" mà Chính phủ Liên hiệp Kháng chiến là biểu tượng.

Trong lúc đó, Võ Nguyên Giáp vội vã từng bước tìm cách loại bỏ dần các đảng phái đối lập như Việt Quốc,Việt Cách, Đại Việt, những người Trotskist, lực lượng chính trị Công giáo... Ngày 19/6/1946, Báo Cứu Quốccủa Tổng bộ Việt Minh đăng xã luận kịch liệt chỉ trích "bọn phản động phá hoại Hiệp định sơ bộ Pháp Việtmùng 6 tháng 3". Ngay sau đó Võ Nguyên Giáp bắt đầu chiến dịch truy quét các đảng phái đối lập bằng lựclượng công an và quân đội do Việt Minh kiểm soát với sự giúp đỡ của nhà cầm quyền Pháp. Ông cũng sử

dụng các sỹ quan Nhật Bản trốn tại Việt Nam và một số vũ khí do Pháp cung cấp cho chiến dịch này.[75]

Một trong những sự kiện nổi tiếng nhất trong chiến dịch tiêu diệt các đảng phái đối lập là vụ án phố Ôn NhưHầu. Sau khi từ Trung Quốc về Việt Nam, Việt Nam Quốc dân Đảng ngoài việc tìm cách lật đổ Việt Minh để

cùng với các đảng phái Việt Cách, Đại Việt... chiếm chính quyền.[80] Việt Nam Quốc dân Đảng và Đại ViệtQuốc dân đảng nhờ có vũ khí do Trung Hoa Dân Quốc chuyển giao còn tổ chức các đội vũ trang mang tên"Thần lôi đoàn", "Thiết huyết đoàn", "Hùm xám"... Các đội vũ trang này đã tổ chức nhiều vụ cướp có vũtrang, bắt cóc, tống tiền, tổ chức ám sát những người theo Việt Minh và cả những người trung lập như ôngBa Viên rồi tuyên truyền đổ lỗi cho Việt Minh đã không đảm bảo được an ninh trật tự ở Hà nội và một số đô

thị ở Bắc Bộ.[81] Không những thế đầu tháng 6 năm 1946, Việt Nam Quốc dân Đảng tổ chức cho NghiêmXuân Chi (đảng viên Việt Quốc) ám sát một số lãnh đạo của Việt Minh như Võ Nguyên Giáp, Trường Chinh

và ông Bồ Xuân Luật, một người cũ của Việt Cách nay đứng về phe Việt Minh.[82] Trước những hoạt độnggây mất trật tự an ninh tại Hà Nội và một số thành phố ở Bắc Bộ, Sở Công an Bắc Bộ đã lập chuyên án mà

sau này được lấy tên công khai là Chuyên án số 7 phố Ôn Như Hầu[81]

Ngày 12/7/1946, Việt Nam Công an vụ theo ý kiến chỉ đạo của Trường Chinh (Tổng Bí thư Đảng Cộng sảnĐông Dương, khi đó rút vào hoạt động bí mật. Chức danh công khai là Hội trưởng Hội nghiên cứu Chủ

nghĩa Mác ở Đông Dương)[83], đã thực hiện phá vụ án phố Ôn Như Hầu. Chỉ đạo trực tiếp lực lượng công

Việt Nam Dân chủ Cộng hòa – Wikipedia tiếng Việt http://vi.wikipedia.org/wiki/Việt_Nam_Dân_chủ_Cộng_hòa

15 of 27 3/1/2014 3:59 PM

an phá vụ án này là các ông Lê Giản (Giám đốc Nha Công an Bắc bộ), Nguyễn Tuấn Thức (Giám đốc Công

an Hà Nội) và Nguyễn Tạo (Trưởng nha Điệp báo Công an Trung ương).[84] Lực lượng công an xung phongđã thực hiện khám xét các trụ sở Việt Nam Quốc dân Đảng tại Hà Nội, bắt tại chỗ nhiều thành viên của ViệtNam Quốc dân Đảng cùng nhiều tang vật như truyền đơn, vũ khí, dụng cụ tra tấn, đồng thời phát hiện nhiềuxác chết tại đó... Trong số các thành viên của Quốc dân Đảng bị bắt có một đại biểu Quốc hội Việt Namkhóa I là Phan Kích Nam. Theo điều tra của Nha công an, Việt Nam Quốc dân Đảng đang chuẩn bị nhữnghành động khiêu khích rất nghiêm trọng. Dự định các thành viên của Việt Nam Quốc dân Đảng sẽ phục sẵndọc đường quân Pháp diễu qua nhân ngày quốc khánh Pháp, bắn súng, ném lựu đạn để tạo ra những chuyệnrắc rối giữa Pháp và Chính phủ, gây sự phá hoại hòa bình rồi tung truyền đơn hô hào lật đổ chính quyền và

sau đó đứng ra bắt tay với Pháp.[76]

Trong ngày 12/7/1946, một tiểu đội công an do Lê Hữu Qua chỉ huy[85] bao vây khám xét trụ sở của đảngĐại Việt tại số 132 Duvigneau, do nghi ngờ Đại Việt cấu kết với Pháp âm mưu tiến hành đảo chính chính

quyền cách mạng đúng vào ngày quốc khánh Pháp 14/7/1946.[84] Khi thực hiện cuộc bao vây khám xét này,lực lượng công an chưa có chứng cứ cụ thể và chưa có lệnh của cấp trên. Nhưng vẫn thực hiện bao vâykhám xét để các thành viên Đại Việt không có thời gian rút vào bí mật và tẩu tán truyền đơn, hiệu triệu lậtđổ chính quyền. Lực lượng công an đột kích bất ngờ vào sáng sớm khiến cho lính canh và các đảng viên Đại

Việt không kịp có hành động trở tay.[85] Tại trụ sở của Đại Việt, lực lượng công an đã tìm thấy nhiều truyềnđơn, hiệu triệu chưa kịp tẩu tán cùng nhiều súng ống, lựu đạn.

Ngày 16 tháng 7, quyền chủ tịch nước Huỳnh Thúc Kháng đã có tuyên bố trấn an dư luận: "Những đảngviên Việt Nam Quốc dân Đảng chân chính, được bảo đảm sự tự do hoạt động trong vòng pháp luật...Nhữngkẻ bắt cóc, tống tiền, ám sát thì phải đem ra pháp luật nghiêm trị. Đây không phải là vấn đề đảng phái. Việc

khám xét vừa rồi là việc phải làm để bảo vệ trị an...".[86]

Theo quy định của luật pháp thì Phó Chủ tịch nước và bộ trưởng do Quốc hội bầu, và chỉ phế truất bởi Quốc

hội theo thủ tục quy định của pháp luật.[87] Trong phiên điều trần trước Quốc hội kỳ họp thứ hai liên quanTạm ước và một số thành viên rời Chính phủ, Hồ Chí Minh có nói:

Tạm ước này có ảnh hưởng tới các hiệp ước ký sau không? Trong xã hội loài người, có cái gì mà không ảnhhướng tới cái khác. Tuy vậy, những sự điều đình sau đây không thể vì bản tạm ước này mà bị ràng bó. BảnTạm ước này tùy theo sự thi hành thế nào, sẽ tạo điều kiện đẩy cho những cuộc điều đình sau mau chóng đạtkết quả.Về ông Phó Chủ tịch Nguyễn Hải Thần, ông Bộ trưởng Ngoại giao Nguyễn Tường Tam, ông PhóChủ tịch Quân ủy hội Vũ Hồng Khanh, các ông ấy không có mặt ở đây. Lúc Nhà nước đương gặp bước khókhăn, quốc dân tin ở người nào trao người ấy làm công việc lớn mà các ông ấy lại bỏ đi thì các ông ấy phảihỏi lương tâm thế nào? Những người đã bỏ việc đi kia, họ không muốn gánh vác việc nước nhà hoặc họcũng không đủ năng lực gánh vác, nay chúng ta không có họ ở đây chúng ta cũng cứ gánh vác được như

thường[88].

Dù vậy một số thành viên của Việt Quốc, Việt Cách như Chu Bá Phượng, Bồ Xuân Luật vẫn tiếp tục thamgia Chính phủ, kể cả khi lên Việt Bắc. Trương Đình Tri vẫn tiếp tục tham gia chính phủ sau vụ án Ôn Như

Hầu[89]. Tại kỳ họp thứ hai Quốc hội, vẫn có 37 đại biểu Việt Quốc, Việt Cách tham gia.

Chính phủ Liên hiệp Quốc dân

Thành lập

Ngày 3 tháng 11 năm 1946 Chính phủ Liên hiệp Quốc dân nhiều thành phần được thành lập thay cho Chínhphủ Liên hiệp Kháng chiến nhằm đáp ứng tình hình mới.

Hoạt động

Việt Nam Dân chủ Cộng hòa – Wikipedia tiếng Việt http://vi.wikipedia.org/wiki/Việt_Nam_Dân_chủ_Cộng_hòa

16 of 27 3/1/2014 3:59 PM

Trong thời gian kháng chiến, bộ máy hành chính các cấp có nhiều biến đổi. Tổ chức đơn vị hành chính Khuvà Liên khu. Thành lập các Ủy ban kháng chiến các cấp. Cấp Trung ương, thành lập Bộ Tổng chỉ huy quânđội quốc gia (1947), sau đổi là Bộ Tổng tư lệnh (1948) rồi Bộ Quốc phòng Tổng tư lệnh. Các cơ quan tưpháp cơ bản tổ chức theo cấp xét xử.

Chính phủ mở rộng từ 1955 đến 1959

Ban đầu, Việt Nam Dân chủ Cộng hòa là chính thể của nước Việt Nam thống nhất, nhưng thực tế sau năm1954 thì chỉ quản lý từ Vĩnh Linh trở ra. Sau năm 1954 nhà nước bắt đầu đặt ra các mục tiêu cải tạo xã hộichủ nghĩa.

Chính phủ từ 1960 đến 1976

Lập pháp

Quốc hội Khóa I

Ngày 20 tháng 9 năm 1945, Ủy ban dự thảo Hiến pháp được thành lập theo Sắc lệnh số 34-SL gồm có 7thành viên: Hồ Chí Minh, Vĩnh Thụy, Đặng Thai Mai, Vũ Trọng Khánh, Lê Văn Hiến, Nguyễn LươngBằng, Đặng Xuân Khu (Trường Chinh).

Ngày 9 tháng 11 năm 1946, tại kỳ họp thứ hai Quốc hội khóa I đã thông qua Hiến pháp nước Việt Nam Dânchủ Cộng hòa. Dự kiến trưng cầu dân ý toàn quốc thông qua Hiến pháp, bầu cử Nghị viện nhân dân theo quyđịnh của Hiến pháp mới thay cho Quốc hội lập hiến, nhưng chiến tranh nên không thực hiện được. Khi đóQuốc hội chia theo nhóm: Marxist, xã hội chủ nghĩa, dân chủ, Việt Minh, Đồng Minh hội và Việt Nam Quốc

dân Đảng,[90], không kể các đại biểu trung lập.

Tiếp đó, Dự án luật Lao động được thông qua và ban hành ngày 8 tháng 11 năm 1946. Đây là dự luật đầutiên được thông qua.

Ngày 31 tháng 9 năm 1959, trong kỳ họp tại Hà Nội, Quốc hội khóa I thông qua Hiến pháp mới. Do tìnhhình chiến tranh, Hiến pháp 1946 chưa được chính thức công bố và chưa từng có hiệu lực về phương diện

pháp lý.[91]

Quốc hội Khóa II

Quốc hội Khóa III

Quốc hội Khóa IV

Quốc hội Khóa V

Tư pháp

Giai đoạn 1945 - 1954

Giải tán một số đảng phái

Ngay sau khi thành lập để ổn định tình hình, giữ vững nền độc lập non trẻ, ngoài việc giải tán một số đảng

phái[33][34] với lý do "tư thông với ngoại quốc", "phương hại đến nền độc lập Việt Nam" (như Việt Nam

Việt Nam Dân chủ Cộng hòa – Wikipedia tiếng Việt http://vi.wikipedia.org/wiki/Việt_Nam_Dân_chủ_Cộng_hòa

17 of 27 3/1/2014 3:59 PM

Quốc xã, Đại Việt Quốc dân đảng...) nhằm kịp thời trừng trị "bọn phản cách mạng", bảo vệ chính quyền non

trẻ đồng thời giáo dục ý thức về tinh thần cảnh giác cho nhân dân.[35]; Chính phủ Cách mạng Lâm thời racác sắc lệnh cho phép Ty Liêm phóng có thể bắt những hạng người bị quy là nguy hiểm cho nền Dân chủ

cộng hoà Việt Nam[92].

Thành lập Bộ Tư pháp

Bộ Tư pháp Việt Nam được thành lập ngày 28 tháng 8 năm 1945 cùng với Chính phủ Cách mạng lâm thờido luật sư Vũ Trọng Khánh làm Bộ trưởng, sau tháng 3 năm 1946 thì chuyển giao cho luật sư Vũ Đình Hòe.Đến năm 1960, Bộ Tư pháp giải thể.

Thành lập Toà án Quân sự

Ngày 13/9/1945, Chủ tịch Chính phủ Cách mạng Lâm thời Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ban hành sắc lệnh

thành lập các toà án quân sự [93][94][95][96] để xử tất cả các người nào vi phạm vào một việc gì có phươnghại đến nền độc lập của nước Việt Nam dân chủ cộng hoà.Theo quy định về thành lập Tòa án Quân sự theoSắc lệnh 21/SL ngày 14/2/1946 và Sắc lệnh 170/SL của Chủ tịch Chính phủ ngày 14/4/1948. "Toà án quânsự xử tất cả các người nào phạm một việc gì, sau hay trước ngày 19 tháng 8 dương lịch năm 1945, cóphương hại đến nền độc lập của nước Việt Nam dân chủ cộng hoà. Trừ những việc nào mà phạm nhân làbinh sĩ, dù là tòng phạm hay chính phạm, thì thuộc về nhà binh tự xử lấy." Tòa án quân sự có thể tuyên án:tha bổng, tịch thu một phần hay tất cả tài sản, phạt tù từ 1 đến 10 năm, phạt khổ sai từ 5 đến 10 năm, xử tử.Những quyết nghị của tòa án quân sự sẽ đem thi hành ngay, không có quyền chống án, trừ trường hợp xử tử,tội phạm có quyền đề đơn lên Chủ tịch Chính phủ xin ân giảm. Bản án hoãn thi hành để chờ quyết nghị củaChủ tịch Chính phủ.

Thành lập Tòa án Nhân dân Đặc biệt

Sắc lệnh số 150/SL ngày 12/4/1953 thành lập Tòa án nhân dân đặc biệt ở những nơi phát động quần chúng.Mục đích để đảm bảo việc thi hành chính sách ruộng đất, giữ gìn trật tự xã hội, củng cố chính quyền nhândân, đẩy kháng chiến đến thắng lợi. Nhiệm vụ Tòa án: - Trừng trị những kẻ phản cách mạng, những cườnghào gian ác, những kẻ chống lại hoặc phá hoại chính sách ruộng đất; -Xét xử những tranh chấp về tài sản,ruộng đất liên quan đến các vụ án trên; -Xét xử những tranh cãi về phân định thành phần giai cấp.

Thẩm quyền Tòa án nhân dân đặc biệt huyện hoặc liên huyện đặt dưới sự lãnh đạo của Ủy ban kháng chiếnhành chính tỉnh và đi xử lưu động ở các xã có phát động quần chúng. Việc thành lập Toà án nhân dân đặcbiệt ở huyện hay liên huyện do Uỷ ban kháng chiến hành chính tỉnh quyết định và Uỷ ban kháng chiến hànhchính liên khu duyệt y. Tòa án nhân dân đặc biệt có Chánh án, 6 đến 10 thẩm phán, đa số là trung nông vàbần cố nông, bần cố nông nhiều hơn trung nông. Chánh án và một nửa số thẩm phán do Uỷ ban kháng chiếnhành chính tỉnh chọn lựa và Uỷ ban kháng chiến hành chính liên khu duyệt y. Một nửa số thẩm phán doNông hội hoặc Hội nghị đại biểu nông dân ở huyện hay liên huyện cử ra. Khi đến xã nào xử thì lấy thêm đạibiểu nông dân ở xã đó, nhưng số đại biểu lấy vào không được quá 1/3 tổng số thẩm phán. Sắc lệnh số233/SL ngày 14/6/1955 sửa lại quy định trong Sắc lệnh 150/SL: Khi phân toà đến xã nào xử thì lấy thêm 5đại biểu nông dân của xã đó. Số đại biểu này do Hội nghị đại biểu nông dân xã bầu ra, và phải là bần cốtrung nông; số bần cố nông phải nhiều hơn trung nông. Các đại biểu này có quyền hạn và nhiệm vụ củanhững thẩm phán.

Tòa án này có quyền tuyên: tha bổng, cảnh cáo, bồi thường, tịch thu tài sản, tước quyền công dân, quản chếđịa phương, phạt tù có thời hạn, phạt tù chung thân, xử tử hình. Đối với việc duyệt án, án tù dưới 5 năm doUỷ ban kháng chiến hành chính tỉnh duyệt và do Chủ tịch Uỷ ban kháng chiến hành chính tỉnh ký vào bảnán. án từ 5 năm tù trở lên chung thân và án tử hình thì do Uỷ ban kháng chiến hành chính liên khu duyệt vàdo Chủ tịch Uỷ ban kháng chiến hành chính liên khu ký vào bản án. Trong 10 ngày sau khi tuyên án, ngườibị án có quyền chống án.

Việt Nam Dân chủ Cộng hòa – Wikipedia tiếng Việt http://vi.wikipedia.org/wiki/Việt_Nam_Dân_chủ_Cộng_hòa

18 of 27 3/1/2014 3:59 PM

Giai đoạn 1955 - 1976

Xây dựng hệ thống pháp luật

Sau kháng chiến chống Pháp, Quốc hội khóa I đến khóa V đã thông qua nhiều bộ luật đóng góp vào hệthống văn bản quy phạm pháp luật của nền Tư pháp Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Ngoài ra Chủ tịch nướcViệt Nam Dân chủ Cộng hòa cũng ban hành các sắc lệnh quy định những vấn đề mà Quốc hội chưa banhành luật.

Ngày 14/12/1956, Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra sắc lệnh số 282/SL quy định về chế độ báochí. Sắc lệnh này quy định tất cả các báo chí đều được hưởng quyền tự do ngôn luận, không phải kiểm duyệttrước khi in (Điều 4). Muốn xuất bản một tờ báo phải xin phép trước, phải làm đầy đủ những thủ tục về khaibáo. Sau khi được cơ quan phụ trách về báo chí của Chính phủ cấp giấy phép, tờ báo mới bắt đầu được hoạt

động (điều 8).[97]

Ngày 20/5/1957, Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra sắc lệnh số 102/SL-L004 ban hành Luật quyđịnh quyền lập hội. Luật này quy định lập hội phải xin phép và thể lệ lập hội sẽ do Chính phủ quy định (điều3). Đồng thời những hội đã thành lập trước ngày ban hành Luật quy định quyền lập hội và đã hoạt độngtrong vùng tạm bị chiếm trong thời kỳ kháng chiến, nay muốn tiếp tục hoạt động, đều phải xin phép lại (điều

4).[98]

Thành lập Viện Công tố Trung ương

Năm 1958, Viện Công tố Trung ương (sau là Viện Kiểm sát Nhân dân Tối cao) được thành lập với Việntrưởng đầu tiên là ông Bùi Lâm.

Thành lập Tòa án Nhân dân Tối cao

Tháng 5 năm 1959, Tòa án Nhân dân Tối cao được thành lập với Chánh án Tòa án Nhân dân Tối cao là Luậtsư Phạm Văn Bạch.

Phân cấp hành chính

Sau Cách mạng, đơn vị hành chính các cấp gồm: Kỳ, tỉnh, huyện, xã. Thành phố Hà Nội trực thuộc trungương. Thành phố Hải Phòng, Sài Gòn- Chợ Lớn trực thuộc kỳ, các thành phố Nam Định, Vinh, Bến Thủy,Huế và Đà Nẵng đều tạm coi là thị xã.

Thời kỳ kháng chiến, tổ chức thêm các đơn vị hành chính cấp Khu và Liên khu. Thủ đô kháng chiến đặt ởViệt Bắc.

Theo Hiến pháp năm 1959, Việt Nam Dân chủ Cộng hòa phân cấp hành chính như sau:

“ Các đơn vị hành chính trong nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa phân định nhưsau:Nước chia thành tỉnh, khu tự trị, thành phố trực thuộc trung ương;Tỉnh chia thành huyện, thành phố, thị xã;Huyện chia thành xã, thị trấn.Các đơn vị hành chính trong khu vực tự trị do luật định ”

Việt Nam Dân chủ Cộng hòa – Wikipedia tiếng Việt http://vi.wikipedia.org/wiki/Việt_Nam_Dân_chủ_Cộng_hòa

19 of 27 3/1/2014 3:59 PM

—Điều 78, Hiến pháp Việt Nam Dân Chủ Cộng hòa 1959

Trong thành phố trực thuộc trung ương, thời kỳ 1954-1958 có các cấp hành chính quận (ở cả nội thành vàngoại thành), dưới quận có khu phố (ở nội thành) và xã (ở ngoại thành, ngoài ra có phố là cấp không thôngdụng, như phố Gia Lâm ở Hà Nội). Năm 1958, nội thành bỏ quận, thay bằng khu phố (gọi tắt là khu), dướikhu phố là khối dân phố, ngoại thành có quận (từ năm 1961 đổi là huyện) và xã. Năm 1974, đổi tên gọi khốidân phố thành cấp tiểu khu.

Từ năm 1955, Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã thiết lập Khu tự trị Thái Mèo (sau đổi là Khu tự trị Tây Bắc),gồm ba tỉnh Lai Châu, Sơn La, Nghĩa Lộ, và năm 1956 thiết lập Khu tự trị Việt Bắc gồm 6 tỉnh Cao Bằng,Lạng Sơn, Thái Nguyên, Bắc Cạn, Hà Giang, Tuyên Quang. Khu tự trị là đơn vị hành chính đệm giữa Trungương và cấp tỉnh. Năm 1975 cấp này bị bãi bỏ.

Chính quyền địa phương

Các tổ chức chính trị

Giai đoạn 1945 -1950 Việt Nam có nhiều đảng phái, tổ chức chính trị thuộc nhiều khuynh hướng chính trị,

có ý thức hệ khác nhau[99]. Sau khi Quốc gia Việt Nam thành lập thì Đảng Lao động Việt Nam cũng đượcthành lập, hoạt động công khai. Đến thời điểm đó và Việt Nam Dân chủ Cộng hòa chỉ còn ba đảng: ĐảngLao động, Đảng Dân chủ và Đảng Xã hội trong Mặt trận Liên Việt. Ba đảng này hoạt động công khai trongvùng do Việt Nam Dân chủ Cộng hòa kiểm soát và ủng hộ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Tất cả các đảngphái, tổ chức khác đều hoạt động công khai trong vùng do Pháp và Quốc gia Việt Nam kiểm soát và ủng hộQuốc gia Việt Nam chống Việt Nam Dân chủ Cộng hòa do Đảng Lao động Việt Nam lãnh đạo.

Các đảng, tổ chức chống Pháp

Việt Minh: là tổ chức lớn nhất, không có học thuyết rõ ràng, nhưng theo tài liệu của Mỹ, theo chủ

nghĩa dân tộc siêu việt (preeminent nationalist), hợp nhất với Liên Việt từ tháng 3 năm 1949[100]1.

Đảng Cộng sản Đông Dương: tuyên bố giải tán 1945 (do Pháp, Mỹ, và Trung Hoa đều chống cộng

sản) nhưng theo CIA năm 1931: 1500 thành viên, 1946: 50.000 thành viên, 1950: 400,000 thành viên

trong Việt Minh, và là nòng cốt tổ chức này[100]

2.

Việt Nam Dân chủ Đảng: là tổ chức của giới trung lưu, phần lớn hoạt động ở Bắc kỳ, ủng hộ chính

phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa[100]3.

Việt Nam Xã hội Đảng: theo khuynh hướng dân chủ xã hội, ủng hộ chính phủ Việt Nam Dân chủ

Cộng hòa[100]4.

Việt Nam Quốc dân Đảng: có hệ tư tưởng là chủ nghĩa dân tộc và chủ nghĩa xã hội theo học thuyết

Tam dân, một nhóm sau tách ra theo kháng chiến[100]5.

Việt Nam Cách mệnh Đồng minh Hội: là một nhóm liên minh năm 1942, sau suy yếu[100]6.

Phong trào Trotskyist: chống cả Pháp lẫn Việt Minh, sau suy yếu[100]7.

Các đảng, tổ chức ủng hộ Bảo Đại

Mặt trận Thống nhất Quốc gia Liên hiệp: là một liên minh[100]1.Việt Nam Cách mệnh Đồng minh Hội: tái thành lập năm 1946 ở Trung Quốc, có khoảng 5.000 thành

viên, định hòa giải với Việt Minh nhưng không thành, ủng hộ Bảo Đại nhưng đòi cứng rắn với

Pháp[100]

2.

Việt Nam Quốc dân đảng (không kể nhóm theo Việt Minh): có khoảng 5.000 thành viên chủ yếu ở3.

Việt Nam Dân chủ Cộng hòa – Wikipedia tiếng Việt http://vi.wikipedia.org/wiki/Việt_Nam_Dân_chủ_Cộng_hòa

20 of 27 3/1/2014 3:59 PM

miền Bắc, ủng hộ Bảo Đại[100]

Việt Nam Dân chủ Xã hội Đảng: tách ra từ các nhóm Bình Xuyên, Hòa Hảo, Cao Đài theo Việt Minh

ban đầu, ở Nam kỳ, sau đó tháng 11 năm 1947 do tranh chấp với Hòa Hảo, không còn hoạt động[100]4.

Đoàn thể Dân chúng: chống Việt Minh, thành lập ở Hà Nội, đến 1949 gần như tan rã[100]5.

Việt Nam Quốc gia Thanh niên Đoàn: nhóm nhỏ Bắc kỳ[100]6.Đoàn thể Cao Đài: là tổ chức do Phạm Công Tắc lãnh đạo, bị chia rẽ. Vào tháng Giêng năm 1948,Cao Đài đã ký kết một hiệp ước hòa bình với Phật giáo Hòa Hảo, và cam kết hỗ trợ cho Bảo Đại.

Phạm Công Tắc công khai đứng về phía chính phủ Bảo Đại vào tháng Bảy năm 1949.[100]

7.

Phật giáo Hòa Hảo: chống Anh -Pháp giai đoạn 1945 thời Huỳnh Phú Sổ, sau ủng hộ cho phục hồi

Bảo Đại, nhưng quan hệ với các phe phái khác và Pháp còn căng thẳng.[100]8.

Tịnh độ cư sĩ: chủ yếu người gốc Hoa.[100]9.Việt Nam Liên đoàn Công giáo: ban đầu ủng hộ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, sau được Ngô Đình

Diệm đưa vào Mặt trận Thống nhất Quốc gia Liên hiệp ủng hộ Bảo Đại.[100]10.

Liên khu Bình Xuyên: ban đầu hợp tác với Việt Minh, sau một nhóm tách ra hợp tác với Bảo Đại,nhưng cảnh giác với Pháp

11.

Việt Nam Quốc gia Liên hiệp: thành lập tháng 12 năm 1947, tại Hà Nội vận động chính trị ủng hộ Bảo

Đại, nhưng hoạt động ít hiệu quả.[100]12.

Việt Nam Phục quốc Đồng minh Hội: phục hồi từ 1947 từ các phần tử dân tộc chủ nghĩa theo gươngNhật Bản, hoạt động ít hiệu quả, trong năm 1946 và 1947 Cường Để vận động Mỹ chống Pháp, Hồ

Chí Minh và Bảo Đại hòa giải, nhưng Cường Để chết 1951, tổ chức tan vỡ.[100]

13.

Các tổ chức thuận Pháp: Đảng Dân chủ Đông Dương, Đảng Dân chủ Nam Kỳ, Mặt trận Nhân dânĐông Dương, và Phong trào Nhân dân Nam Kỳ, ủng hộ cho giải pháp của Pháp, ít nhiều hỗ trợ cho

Bảo Đại.[100]

14.

Kinh tế

Cải cách ruộng đất

Giữa năm 1955 và năm 1956, một cuộc cải cách ruộng đất được tiến hành với mục đích lấy ruộng đất củađịa chủ, cường hào để chia cho nông dân. Cuộc cải cách đã có phạm nhiều sai lầm như đấu tố nhầm, xử tộikhông thông qua tòa án hoặc chỉ qua "tòa án nhân dân". Các nhà lãnh đạo chính quyền, trong đó có chủ tịchHồ Chí Minh, đã chính thức xin lỗi trước dân chúng về các sai lầm này đồng thời cách chức và xử phạtnhiều cán bộ.

Trong 3.563 xã thuộc 22 tỉnh và những vùng ngoại thành ở miền Bắc đã thực hiện cải cách ruộng đất, cácđội cải cách ruộng đất đã chỉ ra 47.890 địa chủ, chiếm 1,87% tổng số hộ và 2,25% tổng số nhân khẩu ở nôngthôn. Trong số địa chủ đó, có 6.220 hộ là cường hào gian ác, chiếm 13% tổng số hộ địa chủ. Nghị quyết củaHội nghị Trung ương Đảng Lao động Việt Nam lần thứ 14 về tổng kết cải cách ruộng đất đã nêu rõ: "Nhữngtên địa chủ có nhiều tội ác với nông dân và là phản động đầu sỏ cùng một số tổ chức của chúng đã bị quầnchúng tố cáo và bị trừng trị theo pháp luật". Số địa chủ bị tuyên án tử hình trong chương trình Cải cáchruộng đất không được thống kê chính xác và gây tranh cãi. Các nhà nghiên cứu phương Tây đưa ra các số

liệu rất khác nhau và không thống nhất, theo Gareth Porter: từ 800 đến 2.500 người bị tử hình;[101] theoEdwin E. Moise (sau một công cuộc nghiên cứu sâu rộng hơn): vào khoảng 5.000; theo giáo sư sử học

James P. Harrison: vào khoảng 1.500 người bị tử hình cộng với 1.500 bị giam giữ.[102]. Do tiến hành vội vã,nhiều địa chủ bị kết án oan sai, nên từ năm 1956, các chiến dịch sửa sai được tiến hành, các địa chủ bị kết án

oan được trả tự do, minh oan, trả lại danh dự và được tạo điều kiện sinh sống[103]. Qua cải cách ruộng đất ởmiền Bắc, trên 810.000 hecta ruộng đất của đế quốc và địa chủ, ruộng đất tôn giáo, ruộng đất công và nửacông nửa tư đã bị tịch thu, trưng thu, trưng mua để chia cho 2.220.000 hộ nông dân lao động và dân nghèo ởnông thôn, bao gồm trên 9.000.000 nhân khẩu. Như vậy là 72,8% số hộ ở nông thôn miền Bắc đã được chia

Việt Nam Dân chủ Cộng hòa – Wikipedia tiếng Việt http://vi.wikipedia.org/wiki/Việt_Nam_Dân_chủ_Cộng_hòa

21 of 27 3/1/2014 3:59 PM

ruộng đất. Tính đến tháng 4 năm 1953, số ruộng đất trực tiếp tịch thu của địa chủ chia cho nông dân bằng

67,67% tổng số ruộng đất mà địa chủ chiếm hữu nǎm 1945.[104]

Cải tạo kinh tế

Năm 1958, Chủ tịch Hồ Chí Minh công bố: Thời kỳ khôi phục kinh tế đã kết thúc và mở đầu thời kỳ pháttriển kinh tế một cách có kế hoạch. Tháng 11/1958, Đảng Lao động quyết định đề ra kế hoạch phát triểnkinh tế, văn hóa trong 3 năm 1958-1960 và tiến hành cải tạo xã hội chủ nghĩa (bao gồm hợp tác hoá nông

nghiệp và cải tạo tư bản tư doanh)[105][106], kế hoạch phát triển và cải tạo kinh tế, phát triển văn hóa của

Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa được Quốc hội thông qua ngày 14 tháng 12 năm 1958[107]. Đếncuối năm 1960, ở miền Bắc có 84,8% số hộ nông dân đã gia nhập hợp tác xã, chiếm 76% tổng diện tích canhtác, 520 hợp tác xã ngư nghiệp chiếm 77,2% tổng số hộ đánh cá, có 269 hợp tác xã nghề muối chiếm 85%tổng số hộ làm muối. Ở thành thị, 100% số cơ sở công nghiệp tư bản tư doanh thuộc diện cải tạo đã được tổchức thành xí nghiệp công tư hợp doanh, xí nghiệp hợp tác, 1.553 doanh nhân thành người lao động. Có90% tổng số thợ thủ công trong diện cải tạo đã tham gia các hợp tác xã thủ công nghiệp, trong đó hơn70.000 thợ thủ công chuyển sang sản xuất nông nghiệp. Trong lĩnh vực thương nghiệp, đến 60% tổng sốngười buôn bán nhỏ, làm dịch vụ, kinh doanh ngành ăn uống thuộc diện cải tạo đã tham gia hợp tác xã, tổ

mua bán, làm đại lý cho thương nghiệp quốc doanh và trên 10.000 người đã chuyển sang sản xuất.[108]

Kế hoạch 5 năm lần thứ nhất (1961-1965)

Giai đoạn 1966-1976

Ngoại giao

Việt Nam Dân chủ Cộng hòa được Pháp công nhận là một nước tự do thuộc Liên hiệp Pháp tại Hiệp định sơbộ năm 1946. Sau đó, được các nước trong phe xã hội chủ nghĩa cũng như các nước khác công nhận sau này,khởi đầu bởi Trung Quốc và Liên Xô vào năm 1950. Tiếp theo là các nước Ba Lan, Tiệp Khắc, Đông Đức,Hungary, Bungary, Triều Tiên, Albania, Romania. Năm 1954, Cộng hòa Nhân dân Mông Cổ mới đặt quanhệ ngoại giao với Việt Nam. Cùng năm, khi tiếp quản Hà Nội, Chủ tịch Hồ Chí Minh ra lệnh công nhận cơquan ngoại giao của Ấn Độ tại Hà Nội. Ngày 17 tháng 10 năm 1954, Thủ tướng Ấn Độ Jawaharlal Nehru

sang thăm Việt Nam.[109]

Các nước Tây phương thì mãi đến năm 1967, Pháp mới lập phòng liên lạc và đại diện bán chính thức rồi đếnThụy Sĩ năm 1968. Tuy nhiên đây là chỉ cấp bán chính thức, không có đại sứ. Năm 1969 Thụy Điển là quốcgia Tây Âu đầu tiên thiết lập ngoại giao toàn phần với Miền Bắc kể cả trao đổi đại sứ. Theo sau đó làSenegal (1969), Ceylon (1970), Thụy Sĩ (1971), Ấn Độ (1972), Chile, và Pakistan. Tính đến hết tháng 12

năm 1972, có 49 quốc gia bang giao với nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.[110]

Năm 1975 Việt Nam Dân chủ Cộng hòa cùng Cộng hòa Miền Nam Việt Nam đứng hai đơn gia nhập Liên

hiệp quốc nhưng bị Hoa Kỳ phủ quyết cả hai.[111] Tuy nhiên cũng năm này Việt Nam Dân chủ Cộng hòađược gia nhập hai cơ quan quốc tế là WMO (World Meteorological Organization, Tổ chứ Khí tượng Thếgiới) ngày 7 tháng 8, 1975 và WHO (World Health Organization, Tổ chức Y tế Thế giới) ngày 22 tháng 10,1975. Đây là hai tổ chức quốc tế đầu tiên (không kể những tổ chức riêng của khối xã hội chủ nghĩa) quốc gia

này tham gia.[110]

Quân đội

Quân đội Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ban đầu gồm nhiều lực lượng độc lập nhau, ở cả trong nam lẫn ngoàibắc. Sau nhiều lần sát nhập, tổ chức lại, các lực lượng quân sự do Việt Minh và các nhóm chính trị khác chỉ

Việt Nam Dân chủ Cộng hòa – Wikipedia tiếng Việt http://vi.wikipedia.org/wiki/Việt_Nam_Dân_chủ_Cộng_hòa

22 of 27 3/1/2014 3:59 PM

huy thống nhất trong một hệ thống quân sự duy nhất là Vệ quốc đoàn, sau Vệ quốc đoàn đổi tên thành Quânđội Quốc gia Việt Nam.

Ở miền Nam, Vệ quốc đoàn có nhiều đơn vị của các giáo phái Cao Đài, Hòa Hảo, Bình Xuyên tuy chấphành những chỉ thị quân sự của cấp trên nhưng lại từ chối tiếp nhận các chính ủy do cấp trên cử xuống. Saunhững xung đột quân sự giữa các đơn vị do giáo phái chỉ huy với những đơn vị do Việt Minh chỉ huy, vànhất là sau khi giáo chủ Huỳnh Phú Sổ của Hòa Hảo mất tích (Hòa Hảo cho là do Việt Minh thủ tiêu), lựclượng quân sự của các giáo phái Cao Đài, Hòa Hảo, Bình Xuyên ly khai khỏi Vệ quốc đoàn hợp tác với

chính phủ Cộng hòa tự trị Nam Kỳ và sau này với Quốc gia Việt Nam.[cần dẫn nguồn]

Năm 1950, Quân đội Quốc gia Việt Nam đổi tên thành Quân đội Nhân dân Việt Nam. Sau 1954, quân độiViệt Nam Dân chủ Cộng hòa vẫn giữ tên gọi Quân đội Nhân dân Việt Nam.

Văn hóa, xã hội

Giáo dục

Lãnh đạo qua các thời kỳ

Nguồn tham khảo

^ Hiến pháp năm 1946 của Việt Nam Dân chủCộng hòa (http://thuvienphapluat.vn/archive/Hien-phap/Hien-phap-1946-Viet-Nam-Dan-Chu-Cong-Hoa-vb36134t6.aspx)

1.

^ Hiến pháp năm 1959 của Việt Nam Dân chủCộng hòa (http://www.moj.gov.vn/vbpq/Lists/Vn%20bn%20php%20lut/View_Detail.aspx?ItemID=890)

2.

^ The Pentagon Papers (1971), Beacon Press, vol.3, p. 134.

3.

^ The Pentagon Papers (1971), Beacon Press, vol.3, p. 119.

4.

^ The Pentagon Papers (1971), Beacon Press, vol.3, p. 140.

5.

^ Lệnh khởi nghĩa (*) (Quân lệnh số 1 của ủy bankhởi nghĩa) (http://www.nhandan.com.vn/chinhtri/tin-tuc-su-kien/item/10074902-.html), Báo Nhândân, 12/08/2010

6.

^ a b Giai đoạn 1945-1954: Kháng chiến và Kiếnquốc, I - TỪ ỦY BAN DÂN TỘC GIẢI PHÓNGĐẾN CHÍNH PHỦ LÂM THỜI NƯỚC VIỆTNAM DÂN CHỦ CỘNG HÒA(http://www.chinhphu.vn/portal/page/portal/chinhphu/noidungchinhsachthanhtuu?categoryId=698&articleId=10001588), CỔNG THÔNG TIN ĐIỆNTỬ CHÍNH PHỦ

7.

^ Sự kiện ngày 14-8-1945 là mốc son rực rỡ(http://www.baokhanhhoa.com.vn/Doithoai-Diendan/2007/08/235007/), TÙNG LINH,14/08/2007, Báo điện tử Khánh Hòa

8.

^ Thái Bình tổng khởi nghĩa giành chính quyền9.

tháng 8 năm 1945 (http://www.thaibinh.gov.vn/ct/introduction/Lists/lshc/View_Detail.aspx?ItemId=1), Cổng thông tinđiện tử Tỉnh Thái Bình^ Quảng Trị trong những ngày mùa thu năm 1945(http://baoquangtri.vn/default.aspx?TabID=74&modid=405&ItemID=71792), BÁO QUẢNG TRỊĐIỆN TỬ, 19/08/2013

10.

^ Hà Nội, ngày 19-8-1945(http://tapchihuongnghiep.com.vn/PrintPreview.aspx?ID=4408), trích hồi ký của LêTrọng Nghĩa, Tạp chí Hướng nghiệp & Hoà nhập

11.

^ Năm 1945, Thanh niên Tiền phong là thành viêncủa Mặt trận Việt Minh(http://ubmttq.hochiminhcity.gov.vn/TinTuc/thongtinkhac/Lists/Posts/Post.aspx?List=1db6fada-2f4d-484d-b1a8-afb5e73b4a85&ID=548&Web=244ac557-7073-4a30-a303-9c1cb4e71212),09/08/2013, Bùi Hiển, Ủy ban mặt trận tổ quốc ViệtNam TP.HCM

12.

^ Bảo Đại, Con Rồng Việt Nam, Nguyễn PhướcTộc Xuất Bản, 1990, trang 186-188

13.

^ Tản mạn nhân vật lịch sử Trần Trọng Kim quanhững trang hồi ký (Kỳ II): Chính khách bất đắc dĩ?(http://tiasang.com.vn/Default.aspx?tabid=116&News=7258&CategoryID=42), Trần Văn Chánh,Tạp chí Nghiên cứu và Phát triển, số 6-7 (104-105),2013

14.

^ Stéphane Just: A propos d'une possibilitéthéorique et de la lutte pour la dictature duprolétariat trên La Vérité" n°588 (Septembre 1979)

15.

^ Paul-Marie de La GORCE:De Gaulle-Leclerc: deLondres à l'Indochine Espoir n°132, 2002

16.

Việt Nam Dân chủ Cộng hòa – Wikipedia tiếng Việt http://vi.wikipedia.org/wiki/Việt_Nam_Dân_chủ_Cộng_hòa

23 of 27 3/1/2014 3:59 PM

^ Ba quyết định lịch sử của Chủ tịch Hồ Chí Minh!(http://www.tuyengiao.vn/Home/Tuyen-truyen/27019/Ba-quyet-dinh-lich-su-cua-Chu-tich-Ho-Chi-Minh), Trần Thanh Mai, Tạp chí của BanTuyên giáo Trung ương, số ra ngày 18/12/2010,Trích: "Tuy nhiên, khi biết tin Hiệp định sơ bộ đượcký kết, dư luận các đảng phái quốc gia và thân nướcngoài như Việt Cách, Việt Quốc đã lên tiếng phảnđối, nhân dân cũng còn chỗ băn khoăn, thì Chủ tịchHồ Chí Minh đã bình tĩnh giải thích và động viênđồng bào rằng: cần phải biết chịu đựng hy sinh đểmưu sự nghiệp lớn. Đành phải hy sinh không gianđể tranh thủ thời gian…và nhất là “phải biết giànhthắng lợi từng phần”."

17.

^ United States – Vietnam Relations, 1945–1967: AStudy Prepared by the Department of Defense/I. B

18.

^ CÙNG TRUNG ƯƠNG ĐẢNG VÀ CHÍNHPHỦ LÃNH ĐẠO CUỘC KHÁNG CHIẾNCHỐNG THỰC DÂN PHÁP (1945 - 1954)(http://123.30.190.43:8080/tiengviet/tulieuvankien/tulieuvedang/details.asp?topic=168&subtopic=463&leader_topic=981&id=BT19121236285)

19.

^ a b Tønnesson, Stein. Vietnam 1946: How the WarBegan. Berkeley, CA: California University Press,2010. tr 83-85

20.

^ Lê Đình Chi. Người Thượng Miền Nam Việt Nam.Gardena, CA: Văn Mới, 2006. tr 569-612

21.

^ Duncanson, Dennis. Government and Revolutionin Vietnam. New York: Oxford University Press,1968. tr 165

22.

^ Pierre Quatrpoint. Sự mù quáng của tướng DeGaulle đối với cuộc chiến ở Đông Dương. NXBChính trị quốc gia. Hà Nội. 2008. trang 77 (bảntiếng Việt do Đặng Văn Việt dịch)

23.

^ Ban nghiên cứu lịch sử Đảng. Văn kiện Đảng(1945-1954). NXB Sự thật. Hà Nội. 1978, trang256-260

24.

^ Hồ Chí Minh. Toàn tập - Tập 4. NXB Chính trịquốc gia. Hà Nội. 2000. trang 328-330

25.

^ Có thể xem nội dung bức thư (bằng tiếng Anh) tại[1] (http://rationalrevolution.net/war/collection_of_letters_by_ho_chi_.htm). Bứcthư này không được trả lời cũng như không đượccông bố trước công chúng tới tận năm 1972

26.

^ Barnet, Richard J. (1968). Intervention andRevolution: The United States in the Third World(http://www.thirdworldtraveler.com/Insurgency_Revolution/America_Vietnam_IAR.html). World Publishing.tr. 185. ISBN 0-529-02014-9.

27.

^ Prados, John (August 2007, Volume 20, Number1). The Smaller Dragon Strikes(http://HistoryNet.com). MHQ: The QuarterlyJournal of Military History. tr. 50. ISSN 1040-5992.

28.

^ Paul-Marie de La GORCE:De Gaulle-Leclerc: deLondres à l'Indochine Espoir n°132, 2002.

29.

^ Xem thêm bài Đường Trường Sơn để biết thêmvề tuyến đường chiến lược viện trợ cho miền Nam.

30.

^ a b c Chiến khu Trần Hưng Đạo, Chương 3 -Chiến khu Trần Hưng Đạo trong tổng khởi nghĩatháng 8 và những tháng đầu bảo vệ chính quyềncách mạng (8/1945-10/1945),trang 106,114,115,118- 123, Bộ tư lệnh quân khu 3, Nxb Quân đội nhândân, 1993

31.

^ Tuyên cáo của Chính phủ lâm thời Việt Nam Dânchủ cộng hoà (http://moj.gov.vn/65nam/News/Lists/TuLieu/View_Detail.aspx?ItemID=21), Cổngthông tin điện tử Bộ Tư pháp Việt Nam

32.

^ a b SẮC LỆNH CỦA CHỦ TỊCH CHÍNH PHỦLÂM THỜI SỐ 8 NGÀY 5 THÁNG 9 NĂM 1945(http://www.vietlaw.gov.vn/LAWNET/docView.do?docid=7&type=html&searchType=fulltextsearch&searchText=)

33.

^ a b SẮC LỆNH CỦA CHỦ TỊCH CHÍNH PHỦLÂM THỜI SỐ 30 NGÀY 12 THÁNG 9 NĂM1945 (http://www.vietlaw.gov.vn/LAWNET/docView.do?docid=30&type=html&searchType=fulltextsearch&searchText=)

34.

^ a b Nhớ mãi về bác Bùi Lâm, Tạp chí Kiểm sát(http://tapchikiemsat.org.vn/viewtopic/phap-luat-78/Nho-bac-Bui-Lam-630.html)

35.

^ SẮC LỆNH CỦA CHỦ TỊCH CHÍNH PHỦLÂM THỜI SỐ 36 NGÀY 22 THÁNG 9 NĂM1945 (http://www.vietlaw.gov.vn/LAWNET/docView.do?docid=40&type=html&searchType=fulltextsearch&searchText=)

36.

^ Bộ Giáo dục và Đào tạo, Phan Ngọc Liên (Tổngchủ biên), Lịch sử 12 nâng cao, NXB Giáo dục,Thanh Hóa, 2008. Trang 169.

37.

^ a b Võ Nguyên Giáp, Những năm tháng không thểnào quên, NXB Trẻ, 2009. Trang 33, 34, 35, 36.

38.

^ a b c Chống giặc đói (http://tuoitre.vn/Chinh-tri-Xa-hoi/Phong-su-Ky-su/69250/chong-giac-doi.html#ad-image-0), GS ĐẶNG PHONG,Báo Tuổi Trẻ, 07/03/2005

39.

^ Chủ tịch Hồ Chí Minh với phong trào Bình dânhọc vụ (http://www.archives.gov.vn/Pages/Tin%20chi%20ti%E1%BA%BFt.aspx?itemid=99&listId=c2d480fb-e285-4961-b9cd-b018b58b22d0&ws=content/),Phạm Hải Yến, Trung tâm Lưu trữ Quốc Gia III

40.

^ TUẦN LỄ VÀNG 1945 - MỘT KỲ TÍCH CỦACÁCH MẠNG 60 NĂM VỀ TRƯỚC(http://baobariavungtau.com.vn/chinh-tri/200509/TuaN-Le-VaNG-1945-MoT-Ky-TiCH-Cua-CaCH-MaNG-60-NaM-Ve-TRuoC-184842/)

41.

^ Tuần lễ Vàng - sức mạnh lòng dân(http://congly.com.vn/thoi-su/thoi-cuoc/tuan-le-vang-suc-manh-long-dan-29245.html)

42.

^ Năm 1945 - Chính phủ lâm thời đề ra những biệnpháp giải quyết khó khăn về tài chính(http://123.30.190.43:8080/tiengviet/tulieuvankien/tulieuvedang/details.asp?topic=168&subtopic=463&leader_topic=981&id=BT27121257105)

43.

^ Why Vietnam, Archimedes L.A Patti, Nxb Đà44.

Việt Nam Dân chủ Cộng hòa – Wikipedia tiếng Việt http://vi.wikipedia.org/wiki/Việt_Nam_Dân_chủ_Cộng_hòa

24 of 27 3/1/2014 3:59 PM

Nẵng, 2008, trang 551 - 552

^ a b c Lê Mậu Hãn (chủ biển), Trần Bá Đệ, NguyễnVăn Thư, Đại cương lịch sử Việt Nam - Tập 3,NXB Giáo dục, 2007. Trang 10.

45.

^ Việt Nam Quốc dân Đảng trong thời kỳ thoái tràovà biến chất (1930-1954), Nguyễn Văn Khánh, Tạpchí nghiên cứu lịch sử số 6/410(2010), Viện sử họcViệt Nam

46.

^ Võ Nguyên Giáp, Những năm tháng không thểnào quên, NXB Trẻ, 2009. Trang 35

47.

^ Đại tướng Võ Nguyên Giáp, Tổng tập Hồi ký,Những năm tháng không thể nào quên, NXBQĐND, trang 158, 159.

48.

^ Một Cơn Gió Bụi, Chương 6: Chính phủ ViệtNam và tình thế trong nước, Trần Trọng Kim(http://vanhoanghean.vn/thu-vien-lich-su-van-hoa/mot-con-gio-bui-hoi-ky-cua-le-than-tran-trong-kim), Tạp chí Văn hóa Nghệ An

49.

^ Một Cơn Gió Bụi, Chương 9: Đi sang Tàu, TrầnTrọng Kim (http://vanhoanghean.vn/thu-vien-lich-su-van-hoa/mot-con-gio-bui-hoi-ky-cua-le-than-tran-trong-kim), Tạp chí Văn hóa Nghệ An

50.

^ Why Vietnam, Archimedes L.A Patti, Nxb ĐàNẵng, 2008, trang 537, 543

51.

^ Cecil B. Currey. Chiến thắng bằng mọi giá. NXBThế giới. Trang 174

52.

^ Why Vietnam, Archimedes L.A Patti, Nxb ĐàNẵng, 2008, trang 548, 549, 554

53.

^ Why Vietnam, Archimedes L.A Patti, Nxb ĐàNẵng, 2008, trang 563 - 564

54.

^ Why Vietnam, Archimedes L.A Patti, Nxb ĐàNẵng, 2008, trang 78

55.

^ Why Vietnam, Archimedes L.A Patti, Nxb ĐàNẵng, 2008, trang 549

56.

^ Why Vietnam, Archimedes L.A Patti, Nxb ĐàNẵng, 2008, trang 544 - 545

57.

^ Why Vietnam, Archimedes L.A Patti, Nxb ĐàNẵng, 2008, trang 543

58.

^ Theo bài "Tai bay vạ gió" trong ngoại giao?Những nỗi truân chuyên của Việt Nam trên conđường hội nhập Phong trào Quốc tế Cộng sản(1945–1950), Christopher Goscha của Đại họcQuébec tại Montréal, đăng tại tạp chí Journal ofVietnamese Studies(http://www.ucpressjournals.com/journal.asp?jIssn=1559-372X) thì khi gặp nhau ởTrung Quốc năm 1950, Lưu Thiếu Kì đã nói vớiông rằng Đảng Cộng sản Trung Quốc đã nhận xéthành động này của Việt Nam như sự "xa rời lýtưởng cộng sản".

59.

^ Why Vietnam, Archimedes L.A Patti, Nxb ĐàNẵng, 2008, trang 591 - 592

60.

^ Võ Nguyên Giáp, Những năm tháng không thểnào quên, NXB Trẻ, 2009. Trang 108.

61.

^ Lê Mậu Hãn (chủ biển), Trần Bá Đệ, Nguyễn VănThư, Đại cương lịch sử Việt Nam - Tập 3, NXBGiáo dục, 2007. Trang 17.

62.

^ Cecil B. Currey. Chiến thắng bằng mọi giá. trang177, NXB Thế giới, 2013

63.

^ Võ Nguyên Giáp, Những năm tháng không thểnào quên, NXB Trẻ, 2009. Trang 33.

64.

^ Võ Nguyên Giáp, Những năm tháng không thểnào quên, NXB Trẻ, 2009. Trang 113.

65.

^ Mãi mãi ghi nhớ Quốc hội khoá I (17/05/2011)(http://daidoanket.vn/index.aspx?Menu=1427&Chitiet=30238&Style=1), Thái Duy, Báo Đại ĐoànKết, số ra ngày 17/05/2011, trích "Bọn phản độngtưởng trúng cử chỉ là Việt Minh cộng sản, chúngcho là chính quyền trong tay nên Việt Minh muốn aitrúng cũng được."

66.

^ a b c Mãi mãi ghi nhớ Quốc hội khoá I (17/05/2011) (http://daidoanket.vn/index.aspx?Menu=1427&Chitiet=30238&Style=1), Thái Duy, Báo Đại Đoàn Kết, số ra ngày17/05/2011

67.

^ Nohlen, D, Grotz, F & Hartmann, C (2001)Elections in Asia: A data handbook, Volume II, p.324 ISBN 0-19-924959-8

68.

^ Cựu Thủ tướng chính quyền được bảo quân độiNhật Bản bảo hộ.

69.

^ Một cơn gió bụi, Chương VI: Chính phủ ViệtNam và tình thế trong nước(http://vi.wikisource.org/wiki/M%E1%BB%99t_c%C6%A1n_gi%C3%B3_b%E1%BB%A5i/Ch%C6%B0%C6%A1ng_VI)

70.

^ Võ Nguyên Giáp, Những năm tháng không thểnào quên, NXB Trẻ, 2009. Trang 99.

71.

^ Đại tướng Võ Nguyên Giáp - Tổng tập Hồi ký,Những năm tháng không thể nào quên, trang 315

72.

^ Cecil B. Currey. CHiến thắng bằng mọi giá. NXBThế giới. Trang 177 -178

73.

^ Bác Hồ - hồi kí, NXB Văn học, trang 112, phầnkể của Nguyễn Lương Bằng.

74.

^ a b Chiến thắng bằng mọi giá, trang 196-197,Cecil B. Currey, Nxb Thế Giới, 2013

75.

^ a b Đại tướng Võ Nguyên Giáp - Tổng tập Hồi ký,Những năm tháng không thể nào quên, trang 290

76.

^ Đại tướng Võ Nguyên Giáp, Tổng tập Hồi Ký,Những năm tháng không thể nào quên, trang 274

77.

^ Việt Nam, một thế kỷ qua, Nguyễn Tường Bách(http://lmvn.com/truyen/index.php?func=viewpost&id=c6j6GAnIk1u39gHBrZ4ou5OJb8b4i3nB&ssid=3300), Nxb Thạch Ngữ, California, 1998

78.

^ Bộ trưởng Nguyễn Tường Tam, Trang web BộNgoại giao (http://www.mofahcm.gov.vn/vi/mofa/bng_vietnam/nr050225105543/nr050225105648/nr050302090431/ns050302091503/view)

79.

^ Võ Nguyên Giáp, Những năm tháng không thểnào quên, NXB Trẻ, 2009. Trang 288-289

80.

^ a b Phạm Văn Quyền (chủ biên). 60 năm Công annhân dân Việt Nam. NXB Công an nhân dân. 2006.trang 104.

81.

^ Nguyễn Trọng Khuê (chủ biên). Những trang sửvẻ vang của Công an nhân dân Việt Nam(1945-2005). NXB Công an nhân dân. Hà Nội.2005. trang 14-16

82.

Việt Nam Dân chủ Cộng hòa – Wikipedia tiếng Việt http://vi.wikipedia.org/wiki/Việt_Nam_Dân_chủ_Cộng_hòa

25 of 27 3/1/2014 3:59 PM

^ Vụ án Ôn Như Hầu qua lời kể của Đại tá TrầnTấn Nghĩa, Báo Công an Nhân dân Điện tử, 8:40,28/08/2005 (http://vnca.cand.com.vn/vi-vn/truyenthong/2005/9/50213.cand), Trích: "Theo ôngkể, cuối tháng 6/1946, Nha Công an Trung ươngnhận được nguồn tin của cơ sở phát hiện được âmmưu của thực dân Pháp câu kết với bọn phản độngQuốc dân Đảng đang chuẩn bị thực hiện âm mưuđảo chính chính phủ của Chủ tịch Hồ Chí Minh.Sau khi xin ý kiến trung ương về âm mưu thâm độcnày, đồng chí Trường Chinh, Tổng Bí Thư đảng talúc bấy giờ đã cho ý kiến chỉ đạo phải tập trungtrấn áp bọn phản cách mạng, nhưng phải có đủchứng cứ."

83.

^ a b Con trai “ông tiên thuốc nam” phá vụ án ÔnNhư Hầu (http://phaply.net.vn/ben-khung-cua-tu-phap/ho-so-vu-an/con-trai-ong-tien-thuoc-nam-pha-vu-an-on-nhu-hau.html), Thanh Sơn – Kiến Quốc,Pháp lý online, 3/3/2011

84.

^ a b Vụ án phố Ôn Như Hầu, thiếu tướng Lê HữuQua, Báo Nhân Dân, ngày 19/8/2005

85.

^ Đại tướng Võ Nguyên Giáp - Tổng tập Hồi ký,Những năm tháng không thể nào quên, trang 292

86.

^ HIẾN PHÁP NƯỚC Việt Nam DÂN CHỦCỘNG HOÀ (QUỐC HỘI NƯỚC Việt Nam DÂNCHỦ CỘNG HOÀ THÔNG QUA NGÀY9-11-1946), CHƯƠNG IV, CHÍNH PHỦ(http://vietlaw.gov.vn/LAWNET/docView.do?docid=290&type=html)

87.

^ Hồ Chủ tịch trả lời chất vấn qua lời kể TướngGiáp (http://khampha.vn/toi/ho-chu-tich-tra-loi-chat-van-qua-loi-ke-tuong-giap-c8a3130.html)

88.

^ Chủ tịch Hồ Chí Minh trả lời chất vấn Quốc hội(http://vietbao.vn/Phong-su/Chu-tich-Ho-Chi-Minh-tra-loi-chat-van-Quoc-hoi/40201922/265)

89.

^ Stein Tennesson:Vietnam 1946: How the WarBegan, University of California Press, tr.91

90.

^ Phạm Duy Nghĩa, Bản Hiến pháp sáu mươi nămtrước và những món nợ lịch sử(http://www.tuoitre.com.vn/Tianyon/Index.aspx?ArticleID=187737&ChannelID=3)

91.

^ SẮC LỆNH CỦA CHỦ TỊCH CHÍNH PHỦLÂM THỜI SỐ 33A NGÀY 13 THÁNG 9 NĂM1945 (http://www.vietlaw.gov.vn/LAWNET/docView.do?docid=33&type=html&searchType=fulltextsearch&searchText=)

92.

^ SẮC LỆNH CỦA CHỦ TỊCH CHÍNH PHỦLÂM THỜI SỐ 33C NGÀY 13 THÁNG 9 NĂM1945 (http://www.vietlaw.gov.vn/LAWNET/docView.do?docid=36&type=html&searchType=fulltextsearch&searchText=)

93.

^ SẮC LỆNH CỦA CHỦ TỊCH CHÍNH PHỦLÂM THỜI SỐ 37 NGÀY 26 THÁNG 9 NĂM1945 (http://www.vietlaw.gov.vn/LAWNET/docView.do?docid=41&type=html&searchType=fulltextsearch&searchText=)

94.

^ SẮC LỆNH CỦA CHỦ TỊCH CHÍNH PHỦLÂM THỜI SỐ 40 NGÀY 29 THÁNG 9 NĂM

95.

1945 (http://www.vietlaw.gov.vn/LAWNET/docView.do?docid=44&type=html&searchType=fulltextsearch&searchText=)^ SẮC LỆNH CỦA CHỦ TỊCH CHÍNH PHỦLÂM THỜI SỐ 77-C NGÀY 28 THÁNG 12 NĂM1945 (http://www.vietlaw.gov.vn/LAWNET/docView.do?docid=84&type=html&searchType=fulltextsearch&searchText=)

96.

^ Sắc lệnh số 282/SL ngày 14 tháng 12 năm 1956(http://moj.gov.vn/vbpq/Lists/Vn%20bn%20php%20lut/View_Detail.aspx?ItemID=1058), CHỦ TỊCHNƯỚC Việt Nam DÂN CHỦ CỘNG HOÀ

97.

^ SẮC LỆNH SỐ 102/SL-L004 NGÀY 20-5-1957QUY ĐỊNH QUYỀN LẬP HỘI(http://www.moj.gov.vn/vbpq/Lists/Vn%20bn%20php%20lut/View_Detail.aspx?ItemID=1034), Quốc hội ViệtNam

98.

^ United States – Vietnam Relations, 1945–1967: AStudy Prepared by the Department of Defense/I. B.The Character and Power of the Viet Minh

99.

^ a b c d e f g h i j k l m n o p q r s t United States –Vietnam Relations, 1945–1967: A Study Preparedby the Department of Defense/I. B. The Characterand Power of the Viet Minh

100.

^ Gavin W. Jones, "Population Trends and Policiesin Vietnam: Population and Development Review",Vol. 8, No. 4 (Dec., 1982), pp. 783-810

101.

^ The Endless War: Vietnam Struggle ForIndependence, Columbia University Press, 1989,trang 149

102.

^ KẾ HOẠCH TIẾN HÀNH SỬA CHỮA SAILẦM VỀ CẢI CÁCH RUỘNG ĐẤT NHIỆM VỤCHUNG (http://thuvienphapluat.vn/archive/Van-ban-khac/Ke-hoach-sua-chua-sai-lam-cai-cach-ruong-dat-vb53946t33.aspx),KEHOACH-TTg, Phạm Văn Đồng, Hà Nội, ngày20 tháng 12 năm 1956

103.

^ Nghị quyết của Hội nghị Trung ương lần thứ 14về tổng kết cải cách ruộng đất(http://123.30.190.43:8080/tiengviet/tulieuvankien/vankiendang/details.asp?topic=191&subtopic=9&leader_topic=545&id=BT2090533858), Văn kiệnhội nghị, Báo điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam

104.

^ Lê Mậu Hãn (chủ biên), Trần Bá Đệ, Nguyễn VănThư,..., Đại cương Lịch sử Việt Nam tập 3, NXBGiáo dục, 2007. Trang 147, 148.

105.

^ Báo cáo về nhiệm vụ kế hoạch ba năm(1958-1960) phát triển và cải tạo kinh tế quốc dân(http://123.30.190.43:8080/tiengviet/tulieuvankien/vankiendang/details.asp?topic=191&subtopic=9&leader_topic=545&id=BT2090533685), Văn kiệnĐảng, Báo điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam

106.

^ NGHỊ QUYẾT VỀ TÌNH HÌNH, NHIỆM VỤVÀ KẾ HOẠCH 3 NĂM (1958 - 1960) PHÁTTRIỂN VÀ CẢI TẠO KINH TẾ, PHÁT TRIỂNVĂN HOÁ (http://www.moj.gov.vn/vbpq/Lists/Vn%20bn%20php%20lut

107.

Việt Nam Dân chủ Cộng hòa – Wikipedia tiếng Việt http://vi.wikipedia.org/wiki/Việt_Nam_Dân_chủ_Cộng_hòa

26 of 27 3/1/2014 3:59 PM

/View_Detail.aspx?ItemID=950), QUỐC HỘINƯỚC VIỆT NAM DÂN CHỦ CỘNG HOÀ HỌPKHOÁ THỨ IX, CỔNG THÔNG TIN ĐIỆN TỬBỘ TƯ PHÁP^ Giai đoạn 1955-1975: Xây dựng CNXH và Đấutranh thống nhất đất nước, Phần 2: Hoàn thành Cảitạo xã hội chủ nghĩa, bước đầu phát triển kinh tế vàvăn hóa - đưa miền Bắc vào thời kỳ quá độ lên chủnghĩa xã hội (http://www.chinhphu.vn/portal/page/portal/chinhphu/noidungchinhsachthanhtuu?categoryId=797&

108.

articleId=10001575), Cổng Thông tin điện tử Chínhphủ^ Viện Sử học, Việt Nam những sự kiện lịch sử(1945-1975), NXB Giáo dục, 2006. Trang 145.

109.

^ a b Bühler, Konrad G. State succession andmembership in international organizations. TheHague: Kluwer Law International, 2001. tr 68-92

110.

^ Odd Arne Westad, Sophie Quinn-Judge. TheThird Indochina War: conflict between China,Vietnam and Cambodia, 1972-79. Abingdon, UK:Routledge, 2006. tr 69

111.

Xem thêm

Chính phủ Cách mạng lâm thời Việt Nam Dân chủ Cộng hòaChính phủ Liên hiệp Lâm thời Việt Nam Dân chủ Cộng hòaChính phủ Liên hiệp Kháng chiến Việt Nam Dân chủ Cộng hòaChính phủ Liên hiệp Quốc dân

Liên kết ngoài

Tiền nhiệm:Nhà Nguyễn

Đế quốc Việt Nam

Việt Nam Dân chủ Cộng hòa1945–1954

Kế nhiệm:CHXHCN Việt NamViệt Nam Dân chủ Cộng hòa

(Vĩ tuyến 17 Bắc)1954–1976

Lấy từ “http://vi.wikipedia.org/w/index.php?title=Việt_Nam_Dân_chủ_Cộng_hòa&oldid=15774743”

Thể loại: Trang thiếu chú thích trong bài Cựu quốc gia trong lịch sử Việt Nam

Cựu cộng hòa xã hội chủ nghĩa Khởi đầu năm 1945 Chấm dứt năm 1976 Chiến tranh Việt Nam

Cựu quốc gia châu Á Việt Nam Dân chủ Cộng hòa Quốc gia cổ trong lịch sử Việt Nam

Chiến tranh Đông Dương Vùng phân chia

Trang này được sửa đổi lần cuối lúc 03:41, ngày 24 tháng 2 năm 2014.Văn bản được phát hành theo Giấy phép Creative Commons Ghi công/Chia sẻ tương tự; có thể ápdụng điều khoản bổ sung. Xem Điều khoản Sử dụng để biết thêm chi tiết.Wikipedia® là thương hiệu đã đăng ký của Wikimedia Foundation, Inc., một tổ chức phi lợi nhuận.

Việt Nam Dân chủ Cộng hòa – Wikipedia tiếng Việt http://vi.wikipedia.org/wiki/Việt_Nam_Dân_chủ_Cộng_hòa

27 of 27 3/1/2014 3:59 PM