Upload
others
View
2
Download
0
Embed Size (px)
Citation preview
HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH
NGUYỄN VĂN SƠN
VỀ SỰ BIẾN ĐỔI CỦA
QUAN HỆ SẢN XUẤT XÃ HỘI CHỦ NGHĨA
TRONG THỜI KỲ ĐỔI MỚI Ở VIỆT NAM
LUẬN ÁN TIẾN SĨ
CHUYÊN NGÀNH: CHỦ NGHĨA DUY VẬT BIỆN CHỨNG
VÀ CHỦ NGHĨA DUY VẬT LỊCH SỬ
HÀ NỘI - 2017
HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH
NGUYỄN VĂN SƠN
VỀ SỰ BIẾN ĐỔI CỦA
QUAN HỆ SẢN XUẤT XÃ HỘI CHỦ NGHĨA
TRONG THỜI KỲ ĐỔI MỚI Ở VIỆT NAM
LUẬN ÁN TIẾN SĨ
CHUYÊN NGÀNH: CHỦ NGHĨA DUY VẬT BIỆN CHỨNG
VÀ CHỦ NGHĨA DUY VẬT LỊCH SỬ
Mã số: 62 22 03 02
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
1. PGS.TS. TRẦN NGỌC LINH
2. PGS.TS. VŨ HỒNG SƠN
HÀ NỘI - 2017
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của
riêng tôi. Các số liệu, kết quả nêu trong luận án là trung
thực, có nguồn gốc rõ ràng và được trích dẫn đầy đủ theo
đúng quy định.
Tác giả
Nguyễn Văn Sơn
MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU 1
Chương 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU CỦA ĐỀ TÀI 5
1.1. Những công trình nghiên cứu liên quan đến lý luận chung về quan hệ sản
xuất xã hội chủ nghĩa trong thời kỳ đổi mới ở Việt Nam 5
1.2. Những công trình nghiên cứu liên quan đến thực trạng sự biến đổi của
quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa trong thời kỳ đổi mới ở Việt Nam 18
1.3. Những công trình nghiên cứu liên quan đến giải pháp phát triển quan hệ
sản xuất xã hội chủ nghĩa trong thời kỳ đổi mới ở Việt Nam 27
1.4. Khái quát kết quả nghiên cứu của các công trình khoa học đã công bố liên
quan đến đề tài và những vấn đề luận án cần tiếp tục giải quyết 35
Chương 2: QUAN HỆ SẢN XUẤT XÃ HỘI CHỦ NGHĨA TRONG THỜI KỲ
ĐỔI MỚI Ở VIỆT NAM - MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG 39
2.1. Quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa và vai trò của quan hệ sản xuất xã hội
chủ nghĩa trong thời kỳ đổi mới ở Việt Nam 39
2.2. Những nhân tố tác động đến sự biến đổi của quan hệ sản xuất xã hội chủ
nghĩa ở Việt Nam trong thời kỳ đổi mới 62
Chương 3: THỰC TRẠNG SỰ BIẾN ĐỔI CỦA QUAN HỆ SẢN XUẤT XÃ
HỘI CHỦ NGHĨA TRONG THỜI KỲ ĐỔI MỚI Ở VIỆT NAM VÀ NHỮNG
VẤN ĐỀ ĐẶT RA 75
3.1. Thực trạng sự biến đổi của quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa trong thời
kỳ đổi mới ở Việt Nam 75
3.2. Những vấn đề đặt ra trong quá trình phát triển quan hệ sản xuất xã hội chủ
nghĩa ở Việt Nam hiện nay 117
Chương 4: MỘT SỐ PHƯƠNG HƯỚNG, GIẢI PHÁP CHỦ YẾU ĐỂ PHÁT
HUY NHỮNG BIẾN ĐỔI TÍCH CỰC, HẠN CHẾ NHỮNG BIẾN ĐỔI TIÊU
CỰC CỦA QUAN HỆ SẢN XUẤT XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở VIỆT NAM
HIỆN NAY 127
4.1. Phương hướng chủ yếu để phát huy những biến đổi tích cực, hạn chế
những biến đổi tiêu cực của quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam
hiện nay 127
4.2. Một số giải pháp chủ yếu để phát huy những biến đổi tích cực, hạn chế
những biến đổi tiêu cực của quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam
hiện nay 132
KẾT LUẬN 149
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC ĐÃ CÔNG BỐ CỦA TÁC GIẢ
LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN 151
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 152
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
CNTB : Chủ nghĩa tư bản
CNXH : Chủ nghĩa xã hội
HTX : Hợp tác xã
LLSX : Lực lượng sản xuất
QHSX : Quan hệ sản xuất
XHCN : Xã hội chủ nghĩa
DANH MỤC CÁC BẢNG
Trang
Bảng 3.1: Cơ cấu GDP của các thành phần kinh tế 101
Bảng 3.2: Cơ cấu GDP của các thành phần kinh tế năm 2010-2014 110
Bảng 3.3: Giá trị tài sản cố định và đầu tư tài chính dài hạn của các
doanh nghiệp 113
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong các quy luật xã hội thì quy luật: “quy luật quan hệ sản xuất phù
hợp với trình độ của lực lượng sản xuất” có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, bởi
vì đây là quy luật cơ bản, xuyên suốt, chi phối quá trình phát triển của xã hội
loài người.
Ở Việt Nam, trước thời kỳ đổi mới quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa
đã được xác lập một cách nôn nóng, chúng ta đã xóa bỏ các loại quan hệ sản
xuất khác; trong khi trình độ của lực lượng sản xuất còn thấp, quan hệ sản
xuất mới đi quá xa so với trình độ của lực lượng sản xuất, kìm hãm sự phát
triển của lực lượng sản xuất, đã dẫn đến cuộc khủng hoảng về kinh tế -xã hội.
Trong những năm đổi mới, chúng ta đã có sự nhận thức lại, vận dụng
đúng đắn, sáng tạo quy luật: “quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ của lực
lượng sản xuất”, điều chỉnh quan hệ sản xuất cho phù hợp với trình độ của lực
lượng sản xuất, bằng cách phát triển đa dạng các loại hình quan hệ sản xuất,
trong đó có quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa, từ đó tạo ra bước ngoặt căn
bản của kinh tế-xã hội. Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đã đạt được, vẫn
còn yếu kém, bất cập, quan hệ sản xuất còn có mặt chưa phù hợp, hạn chế
trong việc giải phóng lực lượng sản xuất. Do đó, cần tiếp tục, điều chỉnh quan
hệ sản xuất cho phù hợp với lực lượng sản xuất để giải phóng lực lượng sản
xuất, thúc đẩy sản xuất phát triển.
Hiện nay, có nhiều nhân tố tác động đến quan hệ sản xuất xã hội chủ
nghĩa ở nước ta, cùng với xu thế toàn cầu hóa, hợp tác hóa, khu vực hóa đang
diễn ra mạnh mẽ. Chính vì vậy, việc nghiên cứu điều chỉnh quan hệ sản xuất
xã hội chủ nghĩa để thúc đẩy sản xuất phát triển làm cho nước ta hòa nhập với
xu thế của thời đại là hết sức cần thiết.
Trong thời quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta, còn tồn tại nhiều loại
quan hệ sản xuất khác nhau như: quan hệ sản xuất tiền tư bản chủ nghĩa, quan
hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa, quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa… trong đó,
2
quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa ở nước ta luôn được xác định đóng vai trò
chủ đạo trong nền kinh tế quốc dân. Cùng với quá trình đổi mới đất nước
quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa cũng không ngừng được đổi mới, hoàn
thiện. Đảng khẳng định xây dựng, hoàn thiện quan hệ sản xuất xã hội chủ
nghĩa là nhiệm vụ thường xuyên, liên tục trong suốt thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội nhằm thúc đẩy sản xuất phát triển.
Việc xây dựng quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa trong thời kỳ quá độ
ở nước ta rất cần thiết song cũng rất khó khăn, phức tạp, vì đây là con đường
đi chưa có tiền lệ, vừa phải xây dựng, vừa phải tìm tòi thử nghiệm. Do đó,
qua mỗi thời kỳ, mỗi giai đoạn, phải điều chỉnh quan hệ sản xuất để thúc đẩy
sản xuất phát triển và giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa. Muốn thực hiện
được điều này cần phải nghiên cứu sự biến đổi của quan hệ sản xuất xã hội
chủ nghĩa từ khi được hình thành đến nay, nhất là thời kỳ đổi mới.
Chính vì những lý do trên tôi đã lựa chọn đề tài: “Về sự biến đổi của
quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa trong trong thời kỳ đổi mới ở Việt Nam”
để nghiên cứu.
2. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu
2.1. Mục tiêu của luận án
Trên cơ sở phân tích lý luận và thực trạng sự biến đổi của quan hệ sản
xuất xã hội chủ nghĩa ở nước ta, luận án góp phần đưa ra một số phương
hướng, giải pháp chủ yếu nhằm phát huy những biến đổi tích cực, hạn chế
những biến đổi tiêu cực của quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa, để thúc đẩy
sản xuất phát triển.
2.2. Nhiệm vụ của luận án
- Nghiên cứu một số quan điểm lý luận cơ bản về quan hệ sản xuất xã
hội chủ nghĩa và các nhân tố tác động đến sự biến đổi của quan hệ sản xuất xã
hội chủ nghĩa trong thời kỳ đổi mới ở Việt Nam.
- Phân tích thực trạng sự biến đổi của quan hệ sản xuất xã hội chủ
nghĩa trong thời kỳ đổi mới xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
3
- Góp phần đưa ra một số phương hướng và giải pháp chủ yếu để phát
huy những biến đổi tích cực, hạn chế những biến đổi tiêu cực của quan hệ sản
xuất xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay.
3. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
3.1. Cơ sở lý luận
Luận án dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng
Hồ Chí Minh, các quan điểm, đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng
và Nhà nước về quan hệ sản xuất và quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa ở
nước ta trong thời kỳ đổi mới.
Luận án còn kế thừa những quan điểm lý luận của các nhà khoa học về
những nội dung có liên quan.
3.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận án sử dụng tổng hợp các phương pháp nghiên cứu của chủ
nghĩa duy vật biện chứng và duy vật lịch sử để luận giải các nội dung đặt
ra, trong đó chú trọng các phương pháp: lịch sử-logic, phân tích, tổng hợp,
so sánh, quy nạp - diễn dịch…để triển khai nhiệm vụ đặt ra.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1.Đối tượng nghiên cứu
Luận án nghiên cứu sự vận động, biến đổi của quan hệ sản xuất xã hội
chủ nghĩa ở nước ta trong thời kỳ đổi mới được xác định trong hai thành phần
là kinh tế nhà nước và kinh tế tập thể.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Luận án nghiên cứu sự vận động, biên đổi của kinh tế nhà nước và kinh
tế tập thể từ 1986 đến nay.
Trong kinh tế nhà nước, luận án không nghiên cứu toàn bộ thành phần
kinh tế này, mà đi sâu vào nghiên cứu, khảo sát về các doanh nghiệp nhà
nước, bộ phận nòng cốt của kinh tế nhà nước. Trong thành phần kinh tế tập
thể, luận án tập trung khảo sát các hợp tác xã, bộ phận trụ cột của kinh tế tập
thể, để từ đó góp phần đưa ra một số giải pháp chủ yếu nhằm phát huy biến
4
đổi tích cực, hạn chế những biến đổi tiêu cực của quan hệ sản xuất xã hội chủ
nghĩa trong thời kỳ đổi mới ở Việt Nam.
5. Những điểm mới của luận án
Luận án nghiên cứu tổng hợp những nhân tố tác động đến sự biến đổi
của quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa trong thời kỳ đổi mới ở Việt Nam.
Luận án nghiên cứu vai trò của quan hệ sản xuất xã hội chủ trong thời
kỳ đổi mới ở nước ta.
Luận án làm rõ thực trạng sự biến đổi của quan hệ sản xuất xã hội chủ
nghĩa trong thời kỳ đổi mới ở Việt Nam.
Luận án góp phần phân tích những vấn đề còn tồn tại của quan hệ sản
xuất xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay.
Luận án bước đầu đề xuất một số phương hướng, giải pháp chủ yếu
nhằm phát huy những biến đổi tích cực, hạn chế những biến đổi tiêu cực của
quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án
6.1. Ý nghĩa lý luận
Luận án góp phần nâng cao nhận thức về vai trò của quan hệ sản xuất
nói chung và vai trò của quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam nói
riêng trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
Luận án có thể làm tài liệu tham khảo phục vụ cho công tác nghiên
cứu, giảng dạy và những người quan tâm.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Những quan điểm và giải pháp được luận án đề xuất có thể gợi mở cho
các cơ quan quản lý, những người lãnh đạo có những điều chỉnh phù hợp để
phát huy những biến đổi tích cực, hạn chế những biến đổi tiêu cực của quan
hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa ở nước ta.
7. Kết cấu của luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục các công trình khoa học đã
công bố của tác giả liên quan đến luận án và danh mục tài liệu tham khảo,
luận án gồm 4 chương, 10 tiết.
5
Chương 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU CỦA ĐỀ TÀI
1.1. NHỮNG CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN LÝ LUẬN
CHUNG VỀ QUAN HỆ SẢN XUẤT XÃ HỘI CHỦ NGHĨA TRONG THỜI KỲ ĐỔI
MỚI Ở VIỆT NAM
Trong quá trình nghiên cứu, sưu tầm tài liệu, chúng tôi nhận thấy đã có
nhiều công trình nghiên cứu chuyên sâu về quan hệ sản xuất (QHSX) xã hội
chủ nghĩa (XHCN). Các công trình này, nghiên cứu QHSX XHCN trên các
bình diện khác nhau. Điển hình là những công trình nghiên cứu dưới đây.
Với công trình: “Quan niệm của C.Mác về sở hữu và một vài suy nghĩ
về sở hữu ở nước ta hiện nay” [125] của Vũ Hồng Sơn. Đây là một bài báo
khoa học, tác giả đã đi sâu phân tích quan niệm của C.Mác về vấn đề sở hữu.
Theo tác giả, từ trước đến nay, khi nói về sở hữu chúng ta thường hiểu đó là
một hình thức chiếm hữu nhất định về của cải vật chất của xã hội trong từng
thời kỳ lịch sử. Cách hiểu này là đúng đắn nhưng chưa thấu đáo. Theo quan
niệm của chủ nghĩa C.Mác; sở hữu thực chất là mối quan hệ giữa người với
người trong việc chiếm hữu của cải xã hội. Sở hữu là biểu hiện về mặt xã hội
của sự chiếm hữu trong một hình thái kinh tế - xã hội, gắn liền với một tổ
chức nhất định. Do vậy, khi bàn về sở hữu chúng ta phải đề cập đến đối tượng
của sở hữu, đối tượng của sở hữu luôn luôn biến đổi, vì vậy cần phải xác định
rõ đối tượng sở hữu trong từng giai đoạn, từng hoàn cảnh cụ thể. Khi nghiên
cứu phạm trù sở hữu, chúng ta cần phân biệt quyền sở hữu và quyền sử dụng.
Quyền sử dụng có nghĩa là dùng đối tượng sở hữu theo công dụng của nó và
theo chủ trương mong muốn của người sử dụng. Quyền sở hữu và quyền sử
dụng có thể được tập trung trong tay một chủ thể sở hữu, hoặc phân chia giữa
các chủ thể khác nhau ví dụ như: Giám đốc và công nhân là người sử dụng tư
liệu sản xuất trong chủ nghĩa tư bản (CNTB) nhưng không sở hữu chúng. Do
sự phát triển của lực lượng sản xuất, của xã hội hóa mà dẫn đến quyền sử
dụng tách khỏi quyền sở hữu. Việc tách quyền sở hữu và quyền sử dụng là cơ
6
sở lý luận để đổi mới quan hệ sản xuất trong các doanh nghiệp thuộc sở hữu
nhà nước. Điều này có nghĩa là: cần tách rời quyền sở hữu của nhà nước và
quyền tự chủ kinh doanh của doanh nghiệp. Tách rời quyền sở hữu và quyền
sử dụng là thực sự cần thiết để hình thành nền kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Đây là một bài báo khoa học có giá trị khi nghiên
cứu về sở hữu theo quan niệm của C.Mác và vận dụng vào quá trình đổi mới
ở Việt Nam. Quan hệ sở hữu là quan hệ cốt lõi của quan hệ sản xuất, nhưng
ngoài quan hệ sở hữu thì quan hệ sản xuất còn có các mối quan hệ khác chưa
được đề cập đến như: quan hệ tổ chức quản lý, quan hệ trong phân phối kết
quả lao động. Mặc dù vậy, đây là tài liệu có giá trị với chúng tôi và gợi mở
cho chúng tôi nhiều điều trong quá trình viết luận án.
Trong cuốn sách Một số vấn đề lý luận - thực tiễn về chủ nghĩa xã hội
và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam [99] của Phùng Hữu Phú và
các cộng sự, các tác giả đã khái quát về lý luận nhận thức của Đảng về chủ
nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội chủ nghĩa trong 30 năm đổi
mới. Trong đó, có mảng các tác giả có nói về quá trình đổi mới quan niệm về
kinh tế thị trường trong việc đi lên chủ nghĩa xã hội. Theo các tác giả, từ khi
đổi mới năm 1986 Đại hội VI đến năm 2000 chúng ta sử dụng khái niệm:
Kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường, có sự
quản lý của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Ở đây, chúng ta đã
thừa nhận kinh tế thị trường nhưng chưa coi đó là nền kinh tế mà chỉ là một
cơ chế. Đến đại hội IX năm 2001 chúng ta đã chính thức sử dụng khái niệm:
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và coi đây là mô hình kinh tế
tổng quát của nước ta trong thời kỳ quá độ. Nội hàm của định hướng xã hội
chủ nghĩa trong phát triển kinh tế thị trường ngày càng được làm rõ. Điều đó
được thể hiện:
Một là, về mục tiêu của kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
là dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh. Mục tiêu ở đây là vì con
người chứ không phải vì mục tiêu lợi nhuận. Kinh tế thị trường không phải là
mục tiêu, mà chỉ là công cụ để đi đến chủ nghĩa xã hội (CNXH).
7
Hai là, về phương hướng phát triển. Phát triển nền kinh tế nhiều hình
thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò
chủ đạo; kinh tế nhà nước cùng với kinh tế tập thể trở thành nền tảng của nền
kinh tế quốc dân
Ba là, về phân phối. Gắn tăng trưởng kinh tế với tiến bộ và công bằng
xã hội ngay trong từng bước và trong suốt quá trình phát triển. Thực hiện
phân phối theo lao động là chủ yếu, ngoài ra có phân phối theo mức đóng góp
vốn các nguồn lực khác và theo phúc lợi xã hội
Bốn là, về quản lý. Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa quản lý nền
kinh tế, dưới sự lãnh đạo của Đảng, bằng pháp luật, kế hoạch bảo đảm mục
đích định hướng xã hội chủ nghĩa của nền kinh tế…
Có thể nói, đây là cuốn sách phân tích chuyên sâu lý luận về con đường
đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Các tác giả, đã phân tích tư duy đổi mới lý
luận kinh tế thị trường trong 30 năm đổi mới đất nước, vai trò của kinh tế nhà
nước trong nền kinh tế. Tuy nhiên, các vấn đề mà tác giả nêu ra còn chung
chung, khái quát ở tầm vĩ mô, chưa đi sâu phân tích cụ thể, chi tiết về quan hệ
sản xuất XHCN, về vai trò của quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa ở nước ta
trong quá trình đổi mới. Mặc dù vậy, đây là tài liệu tham khảo cần thiết, có
giá trị đối với chúng tôi.
Trong tác phẩm: “Về mô hình kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa ở việt Nam” [78] của Nguyễn Đức Luận. Đây là một bài báo khoa học,
tác giả đã chỉ ra; kinh tế thị trường có nhiều mô hình khác nhau, như mô hình
kinh tế thị trường Mỹ, mô hình kinh tế thị trường Đức, như mô hình kinh tế
thị trường Nhật,… Đặc điểm chung của các mô hình kinh tế thị trường là nền
kinh tế đa sở hữu, vận hành theo cơ chế thị trường, có sự can thiệp của nhà
nước ở mức độ khác nhau. Ở Việt Nam, là mô hình kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa. Quá trình đổi mới ở nước ta, từ Đại hội VI đến Đại
hội IX mới xác định được mô hình kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa là mô hình của nước ta. Đại hội XII tiếp tục khẳng định, thống nhất
8
nhận thức về kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Đến Đại hội XII
có những điểm mới;
- Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là nền kinh tế vận
hành đầy đủ, đồng bộ theo quy luật của kinh tế thị trường.
- Nền kinh tế nhiều thành phần trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò
chủ đạo. Theo tác giả, khi khẳng định kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo là
nét đặc trưng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước
ta, cho phép chúng ta phân biệt với nền kinh tế thị trường ở phương Tây.
- Là nền kinh tế thị trường hiện đại và hội nhập quốc tế.
Theo tác giả, kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta
vừa có sự tương đồng, vừa có sự khác biệt với nền kinh tế thị trường phương
Tây. Tương đồng ở chỗ, “vận hành đầy đủ đồng bộ, theo quy luật của kinh tế
thị trường”, là “nền kinh tế thị trường hiện đại và hội nhập quốc tế”, là nền
kinh tế đa thành phần, đa sở hữu. khác biệt ở chỗ dưới sự lãnh đạo của Đảng
cộng sản, quản lý của Nhà nước xã hội chủ nghĩa, kinh tế nhà nước đóng vai
trò chủ đạo còn ở các nước tư bản là kinh tế tư bản tư nhân, mục tiêu là
CNXH còn mục tiêu của các nước tư bản là phát triển chế độ TBCN.
Có thể nói, tác giả đã bàn về những điểm mới của mô hình kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta chứ không chỉ bàn riêng về
quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa. Hơn nữa, khi bàn về vai trò chủ đạo của
kinh tế nhà nước chỉ nói về mặt lý luận và sự khác biệt của nó với các nước tư
bản, hoàn toàn không đề cập tới sự vận động, biến đổi của thành phần kinh tế
nhà nước. Mặc dùy vậy, đây là tài liệu tham khảo cần thiết cho chúng tôi khi
viết luận án.
Với đề tài: “Nghiên cứu, tổng kết làm sáng tỏ một số vấn đề về lý luận
về mối quan hệ giữa phát triển lực lượng sản xuất và xây dựng, hoàn thiện
từng bước quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa” [97] của Trần Văn Phòng.
Công trình này đã tổng kết làm sáng tỏ những vấn đề lý luận còn bỏ ngỏ chưa
được giải đáp một cách thỏa đáng trong quá trình phát triển xây dựng đất
nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Chẳng hạn như: vấn đề xây
9
dựng lực lượng sản xuất hiện đại ở nước ta, cùng với đó là xây dựng quan hệ
sản xuất tiến bộ, phù hợp với lực lượng sản xuất đó. Theo các tác giả thì lực
lượng sản xuất hiện đại phải được thể hiện trên 2 tiêu chí; trình độ phát triển
cao của người lao động: người lao động phải có tri thức, kỹ năng, kỹ xảo,
nhiều kinh nghiệm, có ý thức tổ chức kỷ luật và tinh thần hợp tác… thứ hai là
tính hiện đại của tư liệu sản xuất nó được thể hiện ở tính hiện đại của công cụ
lao động phải là công nghệ, dây chuyền máy móc hiện đại để có năng suất lao
động cao; tính hiện đại của lực lượng sản xuất còn được thể hiện ở tính hiện
đại của đối tượng lao động và phương tiện lao động. Hiện nay, do ứng dụng
thành tựu khoa học công nghệ hiện đại vào sản xuất nên đối tượng lao động
trở nên “nhân tạo” phổ biến hơn đối tượng lao động tự nhiên. Các phương
tiện lao động cũng ngày càng trở nên hiện đại thuận tiện cho sản xuất và lưu
thông. Do vậy, tính hiện đại của lực lượng sản xuất còn được thể hiện ở tính
ứng dụng khoa học công nghệ hiện đại vào sản xuất, vì khoa học ngày càng
trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp.
Khi xây dựng lực lượng sản xuất hiện đại, thì quan hệ sản xuất tương
ứng với nó cũng phải hiện đại. Ở đây đề tài đã phân tích, làm rõ tính hiện đại
của quan hệ sản xuất XHCN ở nước ta mà trong các văn bản trước đây chưa
được làm rõ đó là: Tính hiện đại của quan hệ sản xuất phải được thể hiện trên
cả 3 mặt; quan hệ trong sở hữu về tư liệu sản xuất, quan hệ trong tổ chức quan
lý sản xuất, và quan hệ trong phân phối sản phẩm lao động.Tiêu chí đánh giá
tính hiện đại thể hiện ở chỗ phù hợp với xu thế phát triển của lực lượng sản
xuất (LLSX) của nhân loại, phù hợp với trình độ phát triển của LLSX và thúc
đẩy LLSX phát triển, tạo ra môi trường lao động lành mạnh thúc đẩy cổ vũ
người lao động sáng tạo cống hiến để đem lại năng suất lao động cao. Biểu
hiện của tính hiện đại của QHSX là năng suất lao động xã hội tăng, đời sống
người lao động không ngừng được nâng cao, điều kiện làm việc được bảo
đảm và thường xuyên cải thiện, phương tiện lao động thường xuyên đổi mới
hiện đại hóa… Đồng thời đề tài cũng làm rõ khái niệm tiến bộ, phù hợp của
quá trình xây dựng QHSX XHCN ở nước ta. Sự tiến bộ của quan hệ sản xuất
10
ở nước ta là tiêu chí căn bản để đánh giá sự khác biệt của QHSX ở ta và
QHSX TBCN, theo các tác giả thì QHSX TBCN có sự phù hợp nhất định với
trình độ của LLSX. Nếu không có sự phù hợp với LLSX thì QHSX TBCN
không phát triển được. Tuy nhiên, QHSX TBCN không có sự tiến bộ vì nó
dựa trên cơ sở bóc lột người lao động và theo nguyên tắc lợi nhuận tối đa cho
giới chủ, không vì con người nói chung, vì người lao động nói riêng. Còn
QHSX XHCN ở nước ta xây dựng tính tiến bộ của nó phải được thể hiện ở
mục đích của nền sản xuất xã hội, phải vì người lao động, phục vụ người lao
động chứ không phải lợi nhuận tối đa.
Tuy nhiên, đề tài chỉ đi sâu vào tổng kết nhiều về mặt lý luận, không đi
sâu nghiên cứu thực trạng về QHSX XHCN ở nước ta, hơn nữa trong đề tài
thì thành phần kinh tế tập thể, kinh tế hợp tác xã còn ít được đề cập nghiên
cứu. Mặc dù vậy, đây là đề tài có giá trị tham khảo rất lớn đối với chúng tôi
trong quá trình nghiên cứu.
Trong cuốn “Sở hữu tư nhân và kinh tế tư nhân ở Việt Nam hiện nay -
một số vấn đề nhận thức về lý luận và thực tiễn” [16] của Lương Minh Cừ,
Vũ Văn Thức. Trong công trình này, các tác giả đặc biệt quan tâm đến đặc
điểm của sở hữu tư nhân, kinh tế tư nhân trong tiến trình phát triển lịch sử thế
giới và Việt Nam; sở hữu tư nhân, kinh tế tư nhân trong nền kinh tế thị trường
định hướng XHCN ở Việt Nam. Có thể khẳng định rằng, công trình này có
giá trị tham khảo rất lớn. Bởi lẽ, các tác giả đã làm rõ được một số vấn đề lý
luận về sở hữu tư nhân và kinh tế tư nhân trong nền kinh tế thị trường định
hướng XHCN; quá trình đổi mới tư duy của Đảng ta về sở hữu tư nhân, kinh
tế tư nhân; đặc điểm của sở hữu tư nhân, kinh tế tư nhân và vai trò của nó đối
với sự phát triển của nền kinh tế nước ta trong thời kỳ đổi mới; các tác giả
cũng đưa ra những cơ sở và lập luận lôgic khi nhận định xu hướng xã hội hóa
sở hữu tư nhân trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN. Tuy nhiên, do
phạm vi nghiên cứu chỉ giới hạn ở sở hữu tư nhân và kinh tế tư nhân, cho nên
công trình này không thể đem đến cái nhìn toàn diện, đầy đủ của mối quan hệ
11
giữa quá trình đổi mới, điều chỉnh sở hữu với sự phát triển của LLSX, ít quan
tâm đến vấn đề QHSX XHCN.
Với bài: “Phát triển quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về sở hữu
trong giai đoạn hiện nay” [76] của Nguyễn Đức Luận. Trong bài báo này,
bên cạnh việc khái quát các quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về sở hữu,
tác giả cũng khẳng định sự cần thiết phải có những bổ sung, phát triển hợp lý
các quan điểm này trong điều kiện của thời đại ngày nay.
Trong cuốn "Vấn đề sở hữu trong nền kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa ở Việt Nam" [155] của Nguyễn Kế Tuấn. Công trình này tập
trung vào 3 vấn đề cơ bản sau: những vấn đề lý luận cơ bản về sở hữu trong
nền kinh tế thị trường định hướng XHCN; thực trạng vấn đề sở hữu, các thành
phần kinh tế và các loại hình doanh nghiệp trong quá trình đổi mới kinh tế ở
Việt Nam; quan điểm, xu hướng và giải pháp đối với vấn đề sở hữu, các thành
phần kinh tế, các loại hình doanh nghiệp trong quá trình xây dựng nền kinh tế
thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam. Đây là một công trình rất công
phu, và có ý nghĩa cả về lý luận và thực tiễn. Các tác giả đã hệ thống hóa,
khái quát hóa quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin và quan điểm của nhiều
nhà nghiên cứu khác về sở hữu, qua đó đã làm sáng tỏ nhiều vấn đề lý luận về
sở hữu, chẳng hạn như về các chế độ sở hữu và các hình thức sở hữu trong
nền kinh tế thị trường; sự phát triển các chế độ sở hữu trong các phương thức
sản xuất xã hội; mối quan hệ giữa sở hữu với các hình thức tổ chức kinh tế
trong nền kinh tế thị trường.
Trong quá trình tìm hiểu công trình này, chúng tôi nhận thấy có một số
vấn đề cần phải trao đổi thêm, chẳng hạn như khi bàn về chế độ sở hữu, các
tác giả cho rằng “chế độ sở hữu là khái niệm mang tính tổng quát chỉ sở hữu ở
khía cạnh bản chất nhất” cách hiểu chế độ sở hữu như vậy rất khác so với các
giáo trình Kinh tế chính trị Mác - Lênin hiện nay. Bên cạnh đó, mối quan hệ
giữa sở hữu đối với LLSX được thể hiện rất mờ nhạt, chưa thực sự làm rõ
được tính đa dạng của các hình thức sở hữu là do sự đa dạng về trình độ của
LLSX điều quy định.
12
Bàn về vấn đề sở hữu có cuốn “Vấn đề sở hữu và phát triển bền vững ở
Việt Nam và Trung Quốc trong những năm đầu thế kỷ XXI” [45] của Lương
Việt Hải. Công trình này là một tập hợp các bài viết của nhiều tác giả khác
nhau.Các bài viết đều tập trung vào việc khái quát và chỉ ra cơ sở khoa học
của những quan điểm, chủ trương mới của Đảng Cộng sản Việt Nam, Đảng
Cộng sản Trung Quốc về sở hữu, nhất là chủ trương đa dạng hóa các hình
thức sở hữu trong những năm thực hiện đường lối đổi mới, cải cách ở 2 nước.
Tuy nhiên, các vấn đề được trình bày trong các tham luận phần nhiều còn
dừng lại ở mức độ chung chung, khái quát, chưa thực sự phân tích một cách
chi tiết về sở hữu ở Việt Nam và Trung Quốc hiện nay.
Viết về kinh tế tập thể có cuốn “Sở hữu tập thể và kinh tế tập thể trong
nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam” [61] của Chử
Văn Lâm. Công trình này gồm có 3 nội dung cơ bản sau: 1) Sở hữu tập thể và
kinh tế hợp tác trong nền kinh tế thị trường - một số vấn đề lý luận và thực
tiễn trên thế giới; 2) Một số vấn đề lý luận và thực trạng phát triển sở hữu tập
thể và kinh tế tập thể trong điều kiện nền kinh tế thị trường định hướng
XHCN ở Việt Nam; 3) Định hướng và các khuyến nghị chính sách phát triển
sở hữu tập thể và kinh tế hợp tác trong thời gian tới. Với việc tập trung nghiên
cứu những nội dung cơ bản trên, các tác giả đã góp phần làm rõ sở hữu tập
thể và kinh tế tập thể theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin và theo
quan điểm của nhiều học giả khác, trên phương diện lý luận cũng như thực
tiễn (thực tiễn trong nước và thực tiễn một số nước trên thế giới, thực tiễn
ở các nước XHCN, hoặc các nước trước đây là XHCN và thực tiễn ở các
nước TBCN). Chính vì vậy, công trình của tác giả Chử Văn Lâm và các
cộng sự, đã cung cấp những cách nhìn đa chiều với nguồn tư liệu rất phong
phú, đa dạng về sở hữu tập thể và kinh tế tập thể. Xuyên suốt công trình
này, các tác giả đã tập trung làm rõ bản chất và các hình thức sở hữu tập
thể; sự khác nhau giữa sở hữu tập thể và và sở hữu hỗn hợp; sự cần thiết
của sở hữu tập thể và kinh tế tập thể cũng như vai trò, vị trí của nó trong
điều kiện nền kinh tế thị trường định hướng XHCN;… Có thể khẳng định
13
rằng, công trình này đã góp phần làm rõ quan điểm của chủ nghĩa Mác -
Lênin về sở hữu tập thể và kinh tế tập thể; một số quan điểm đột phá về
đường lối phát triển sở hữu tập thể và kinh tế tập thể trong điều kiện kinh
tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam; thực trạng phát triển sở hữu
tập thể và kinh tế tập thể ở nước ta sau khi Luật Hợp tác xã (năm 1996) ra
đời;… Tuy nhiên, một số nội dung quan trọng chưa thực sự được các tác
giả làm rõ, chẳng hạn như mối quan hệ giữa những chủ trương, chính sách
mới về sở hữu tập thể đối với sự phát triển LLSX.
Cũng bàn về vấn đề sở hữu, Nguyễn Văn Thức có cuốn: “Sở hữu: lý
luận và vận dụng ở Việt Nam” [137]. Công trình gồm những nội dung cơ bản
sau: lý luận về sở hữu; các loại hình sở hữu và vai trò của chúng đối với sự
phát triển kinh tế - xã hội ở Việt Nam hiện nay; vấn đề cải tạo và xây dựng
các hình thức sở hữu trong quá trình chuyển sang kinh tế thị trường định
hướng XHCN. Dưới góc độ lý luận, với việc phân tích quan điểm của chủ
nghĩa Mác - Lênin và nhiều nguồn tư liệu khác nhau, tác giả Nguyễn Văn
Thức đã nêu lên được quan niệm có tính thuyết phục về sở hữu. Cũng trong
công trình này, tác giả Nguyễn Văn Thức đã đề cập đến nhiều vấn đề khác
nhau liên quan đến sở hữu, chẳng hạn như các vấn đề: sự chiếm hữu, chủ thể
sở hữu và đối tượng sở hữu, sở hữu cá nhân và sở hữu tư nhân, quyền sở hữu
và chế độ sở hữu, loại hình sở hữu và hình thức sở hữu,…trong quá trình
phân tích các vấn đề này, tác giả cũng đã có những khái quát, nhận xét có
giá trị, chẳng hạn như những nội dung nói về quyền sở hữu, chế độ sở
hữu,… (từ trang 53-58). Dưới góc độ thực tiễn, về cơ bản, tác giả của “Sở
hữu: lý luận và vận dụng ở Việt Nam” đã làm rõ được tính tất yếu của sự tồn
tại nhiều hình thức sở hữu và vai trò của chúng đối với sự phát triển kinh tế -
xã hội ở nước ta hiện nay; tác giả cũng chỉ ra được một số nội dung cải tạo
và xây dựng các hình thức sở hữu trong quá trình chuyển sang nền kinh tế
thị trường định hướng XHCN. Tuy nhiên, do sự chi phối của mục đích
nghiên cứu nên tác giả chỉ nói về vai trò của các hình thức sở hữu đối với sự
phát triển kinh tế - xã hội một cách chung chung, không bàn nhiều đến tác
14
động của quá trình đổi mới quan hệ sở hữu đối với việc giải phóng, phát
triển của LLSX.
Trong cuốn “Một số vấn đề về sở hữu ở nước ta hiện nay” [129] của
Nguyễn Văn Thạo, Nguyễn Hữu Đạt. Trong công trình này, các tác giả tập
trung nghiên cứu các vấn đề: nhận thức vấn đề sở hữu ở Việt Nam - Lý luận
và thực tiễn”; thực trạng sở hữu doanh nghiệp nhà nước và sở hữu đất đai ở
Việt Nam”; quan điểm và phương hướng cơ bản định hướng cho việc giải
quyết vấn đề sở hữu ở Việt Nam hiện nay. Với trọng tâm nghiên cứu như vậy,
các tác giả đã khái quát một số quan điểm về sở hữu trên thế giới; hệ thống
hóa các quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về sở hữu thời kỳ trước đổi mới
và trong đổi mới (tính đến năm 2004); đặc biệt là các tác giả đã tập trung sự
nghiên cứu của mình vào những vấn đề bức thiết liên quan đến sở hữu là thực
trạng sở hữu doanh nghiệp nhà nước và sở hữu đất đai ở nước ta, trên cơ sở
đó các tác giả đã đưa ra quan điểm, phương hướng cơ bản cho việc giải quyết
vấn đề sở hữu ở nước ta hiện nay. Mặc dù các tác giả chưa tập trung nhiều
vào việc nghiên cứu quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về sở hữu; các số
liệu có tính cập nhật không cao (chủ yếu từ năm 1980-1999); các phương
hướng còn ở mức chung chung, chưa mang tính đột phá, nhưng đây vẫn là
một công trình có sự nghiên cứu rất công phu về sở hữu, góp phần vào việc
giải quyết những vướng mắc liên quan đến sở hữu ở Việt Nam.
Cuốn sách “Xây dựng quan hệ sản xuất định hướng xã hội chủ nghĩa
và thực hiện tiến bộ công bằng xã hội ở Việt Nam” [119] của Lương Xuân
Quỳ. Trong công trình này, tác giả bàn về các vấn đề cơ bản sau: 1) Nhận
thức về QHSX định hướng XHCN và sự tiến bộ, công bằng xã hội; 2) Những
biến đổi của QHSX và tác động của chúng tới sự phát triển của LLSX, thực
hiện tiến bộ, công bằng xã hội trong 15 năm đổi mới (1986 - 2001) ở Việt
Nam; 3) Phương hướng xây dựng QHSX định hướng XHCN và thực hiện tiến
bộ, công bằng xã hội ở Việt Nam.
Đề tài mà Lương Xuân Quỳ và tập thể tác giả đề cập đến, là một vấn
đề rất rộng lớn, phức tạp, còn có những ý kiến khác nhau. Các tác giả đã
15
làm sáng tỏ nhiều vấn đề lý luận và thực tiễn. Trong đó, nổi bật là các tác
giả đã góp phần làm rõ nội dung và những đặc trưng cơ bản của QHSX
định hướng XHCN; vai trò của QHSX với phát triển LLSX và tiến bộ,
công bằng xã hội theo học thuyết Mác - Lênin; những mâu thuẫn nảy sinh
trong quá trình phát triển LLSX và hoàn thiện QHSX theo định hướng
XHCN; đặc điểm của LLSX trong thời đại ngày nay và tác động của nó đối
với QHSX; đường lối của Đảng ta về việc xây dựng nền kinh tế nhiều
thành phần và thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội ở Việt Nam hiện nay;
thực trạng biến đổi QHSX và những tác động chủ yếu của QHSX đối với
việc tăng trưởng kinh tế, giải phóng LLSX, thực hiện tiến bộ, công bằng xã
hội; phương hướng xây dựng QHSX định hướng XHCN, thực hiện tiến bộ
và công bằng xã hội.
Tuy nhiên, trong công trình của tác giả Lương Xuân Quỳ và các cộng
sự còn có một số nội dung chưa thực sự sáng tỏ, đòi hỏi phải tiếp tục nghiên
cứu. Chẳng hạn như ở phần thứ nhất của công trình, nội dung bàn về vai trò
của QHSX đối với phát triển LLSX và tiến bộ, công bằng xã hội theo học
thuyết Mác - Lênin rất mờ nhạt, chưa rõ; ở phần thứ hai, các tác giả có đề cập
đến một nội dung rất quan trọng là tác động của những biến đổi QHSX đối
với việc thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và giải phóng LLSX, tuy nhiên cách
trình bày vấn đề này có phần đơn giản, vắn tắt, do vậy tính thuyết phục không
cao; ở phần thứ ba, những phương hướng xây dựng QHSX định hướng
XHCN và thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội ở Việt Nam mà các tác giả đưa
ra còn rất chung chung, rất khó để có thể vận dụng vào thực tiễn;…
Trong cuốn "Những quan niệm của Mác - Ăngghen và Lênin về sở hữu
trong chủ nghĩa xã hội" [17] của Lương Minh Cừ. Luận án này tập trung
nghiên cứu các vấn đề: khái niệm sở hữu, vị trí và vai trò của sở hữu trong
CNXH; xóa bỏ chế độ tư hữu và thiết lập chế độ công hữu về tư liệu sản xuất;
sở hữu trong điều kiện nền kinh tế thị trường theo định hướng XHCN ở nước
ta hiện nay. Nhìn chung, luận án đã có những phân tích sâu sắc và hệ thống
hóa được các quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về sở hữu trong CNXH.
16
Tác giả cũng đã lập luận một cách khoa học về việc xóa bỏ chế độ tư hữu,
thiết lập chế độ công hữu là một quá trình lâu dài và phải gắn với sự phát triển
của LLSX. Luận án này cũng chỉ ra được một số sai lầm chủ quan dễ mắc
phải, đồng thời làm rõ được những vấn đề có tính nguyên tắc liên quan đến
việc thiết lập chế độ sở hữu trong quá trình xây dựng CNXH.
Trong cuốn “Sự tồn tại đồng thời nhiều loại hình sở hữu đối với sự
phát triển kinh tế - xã hội ở Việt Nam hiện nay” [136] của Nguyễn Văn Thức.
Trong công trình này, tác giả đặc biệt quan tâm làm rõ lý luận về sở hữu; các
loại hình sở hữu và vai trò của chúng đối với sự phát triển kinh tế xã hội ở
Việt Nam hiện nay; vấn đề cải tạo và xây dựng các quan hệ sở hữu trong quá
trình chuyển sang kinh tế thị trường định hướng XHCN. Luận án này được
hoàn thành trong thời điểm Đảng và Nhà nước ta có những đổi mới mạnh mẽ
về sở hữu, nhất là chủ trương cổ phần hóa các nguồn lực thuộc sở hữu nhà
nước để khai thác, quản lý, sử dụng hiệu quả hơn các nguồn lực của nền sản
xuất. Chính vì vậy, xuyên suốt luận án này là tinh thần đổi mới mạnh mẽ quan
hệ sở hữu nhằm khai thác, phát huy tối ưu LLSX. Bên cạnh đó, tác giả cũng
có những đánh giá xác đáng về vai trò của các hình thức sở hữu trong nền sản
xuất của nước ta hiện nay. Tuy nhiên, khi bàn đến thực tiễn Việt Nam, do sự
chi phối của mục đích nghiên cứu nên tác giả không bàn nhiều đến một số
vấn đề phức tạp, bức xúc liên quan đến sở hữu ở Việt Nam hiện nay. Hơn
nữa, các số liệu thực tiễn được sử dụng trong quá trình lập luận, phân tích về
thực tiễn Việt Nam chưa thực sự phong phú.
Về mặt cơ bản thứ hai của QHSX - quan hệ giữa người với người trong
tổ chức, quản lý sản xuất - cũng là đề tài nghiên cứu của nhiều công trình
nghiên cứu, điển hình là các công trình sau:
Phú Giang với bài “Đổi mới quản lý, cổ phần hóa doanh nghiệp nhà
nước nhằm nâng cao sức cạnh tranh và hiệu quả hoạt động” [40]; Võ Đại
Lược “Kinh tế Việt Nam lý luận và thực tiễn” [79]; Nguyễn Cảnh Nam:
“Quản lý doanh nghiệp nhà nước - Bất cập và đề xuất đổi mới” [88]; Nguyễn
Thành Nam với bài “Phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao: kinh nghiệm
17
từ Viettel” [89]; Phạm Quang Trung với cuốn sách “Mô hình tập đoàn nhà
nước ở Việt Nam đến năm 2020” [152]… Nhìn chung, các công trình trên đều
quan tâm làm rõ vai trò của Nhà nước trong việc quản lý nền kinh tế ở nước
ta hiện nay, tác động của quá trình hội nhập quốc tế đối với các hoạt động tổ
chức, quản lý sản xuất, điều tiết nền kinh tế. Các công trình này cũng đã hệ
thống hóa quá trình xây dựng, hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường ở nước ta,
chỉ ra những thành tựu và hạn chế của quá trình đó, đồng thời đưa ra các giải
pháp khắc phục những hạn chế, thiếu sót của thể chế kinh tế thị trường ở nước
ta hiện nay. Các tác giả trên đều khẳng định sự cần thiết phải nhanh chóng
hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN để nâng cao hiệu quả
quản lý của nhà nước, tạo môi trường thuận lợi cho quá trình sản xuất, kinh
doanh của người dân và doanh nghiệp.
Quan hệ giữa người với người trong việc phân phối sản phẩm cũng là
là một trong những mặt cơ bản của QHSX. Tuy nhiên, trong quá trình tìm
hiểu, sưu tầm tài liệu, chúng tôi nhận thấy không có nhiều công trình nghiên
cứu chuyên sâu về vấn đề này. Dưới đây, là một số công trình nghiên cứu mà
chúng tôi đã tiếp cận, tìm hiểu.
Trong cuốn“Lý luận chung về phân phối của chủ nghĩa xã hội” [8],
của Lý Bân người Trung Quốc. Trong công trình của mình, tác giả Lý Bân
đã nêu lên những luận điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin về phân
phối. Đồng thời, tác giả đã làm sáng tỏ những điều kiện kinh tế ràng buộc
phân phối, trong đó nhấn mạnh đến sự phát triển của LLSX và tình hình
kinh tế - xã hội của đất nước. Khi bàn về những nhân tố thể chế kiềm chế
phân phối, tác giả đã đề cập đến chế độ sở hữu, thể chế kinh tế hàng hóa có
kế hoạch, hệ thống điều hành vĩ mô và phương thức kinh doanh của xí
nghiệp. Theo tác giả, đây là những nhân tố kiềm chế phân phối mà thực
chất đó là những nhân tố quy định, chi phối việc phân phối sản phẩm, lợi
ích. Điều đó cũng có nghĩa là mỗi thay đổi trong các nhân tố đó đều có
những ảnh hưởng đến phân phối. Khi bàn về những đặc điểm cơ bản của
phân phối XHCN, tác giả nhấn mạnh đến tính công bằng trong phân phối,
18
đồng thời cho rằng cần phải nghiên cứu những đặc điểm này ở trạng thái
động, không nên vì khoảng cách giữa phân phối thực tế và yêu cầu của đặc
trưng cần thể hiện mà phủ nhận tính hợp lý của phân phối XHCN cũng như
triển vọng thực tiễn của nó. Với công trình này, tác giả Lý Bân đã có đóng
góp rất lớn trong việc làm sáng tỏ nhiều vấn đề lý luận chung về phân phối
của CNXH. Tuy nhiên, khi bàn đến những vấn đề thực tiễn, do sự chi phối
của mục đích và phạm vi nghiên cứu, nên tác giả chỉ đề cập đến thực tiễn ở
Trung Quốc. Vì vậy, khi tìm hiểu công trình này, người đọc không có cơ
hội để biết về thực trạng cũng như những vấn đề đang đặt ra đối với việc
phân phối sản phẩm ở Việt Nam hiện nay.
Nguyễn Đức Luận với bài “Vấn đề phân phối sản phẩm trong thời kỳ
quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta hiện nay” [77]. Đây là một bài báo
khoa học, đăng trên Tạp chí Lý luận chính trị và truyền thông. Công trình này
khái quát quá trình đổi mới quan hệ phân phối sản phẩm ở nước ta từ năm
1986 đến nay. Tuy nhiên, do đây chỉ là một bài báo khoa học, vì vậy nội dung
của nó còn khái quát, sơ lược, chưa đi vào những vấn đề cụ thể, chi tiết của
vấn đề phân phối sản phẩm ở nước ta hiện nay.
Tóm lại, Các công trình trên đã bàn nhiều về lý luận quan hệ sản xuất
XHCN, nhưng chưa có công trình nào bàn cụ thể, chi tiết về sự biến đổi của
quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa trong thời kỳ đổi mới.
1.2. NHỮNG CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN THỰC
TRẠNG SỰ BIẾN ĐỔI CỦA QUAN HỆ SẢN XUẤT XÃ HỘI CHỦ NGHĨA
TRONG THỜI KỲ ĐỔI MỚI Ở VIỆT NAM
Trong những năm qua, đã có nhiều công trình, bài viết nói về thực
trạng biến đổi về quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa ở các góc độ và khía cạnh
khác nhau. Sau đây là những công trình tiêu biểu.
Trong cuốn “Kinh tế Việt Nam 30 năm chuyển đổi” [133] của tác giả
Phạm Quý Thọ đã đánh giá thực trạng quá trình chuyển đổi nền kinh tế nước
ta từ khi tiến hành đổi mới năm 1986 đến năm 2016 qua 30 năm đổi mới đất
nước. Đây là cuốn sách đánh giá quá trình đổi mới nền kinh tế nước ta trên
19
nhiều lĩnh vực như: vấn đề hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực của nền kinh
tế nước ta những thành tựu và hạn chế, vấn đề sở hữu trong nền kinh tế, vai
trò của thị trường và vai trò của kinh tế nhà nước… Các vấn đề được tác giả
trình bày, thuộc lĩnh vực rộng lớn bao trùm toàn bộ nền kinh tế, trong đó có
đề cập về kinh tế nhà nước.
Tác giả đã trình bày thực trạng quá trình chuyển biến nền kinh tế nước
ta qua các giai đoạn khác nhau chẳng hạn như: giai đoạn 1986-1990 đây là
giai đoạn chuyển đổi về tư duy kinh tế chuyển từ mô hình kế hoạch hóa tập
trung, quan liêu, bao cấp sang phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành
phần. Giai đoạn 1991-2001, chúng ta tiếp tục sự nghiệp đổi mới đất nước như
thông qua Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa
xã hội và khẳng định kinh tế quốc doanh giữ vai trò chủ đạo trong nền kinh
tế. Giai đoạn từ 2001-2016 chuyển sang phát triển kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa, trong quá trình đổi mới đất nước ta giành được nhiều
thành tựu nhưng còn có những hạn chế như: kinh tế phát triển chưa vững
chắc, chất lượng tăng trưởng chưa cao…
Về vai trò của kinh tế nhà nước trong nền kinh tế tác giả cho rằng: kinh
tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo tiếp tục được khẳng định trong hiến pháp sửa
đổi năm 2013.Vai trò của kinh tế nhà nước là cần thiết nhằm khắc phục các
khuyết điểm của kinh tế thị trường, song cũng cần khắc phục các yếu kém của
các doanh nghiệp nhà nước. Đây là cuốn sách, đã đánh giá thực trạng đổi mới
về tư duy lý luận của Đảng ta về chuyển đổi nền kinh tế ở Việt Nam và là tài
liệu tham khảo cần thiết cho chúng tôi. Tuy nhiên, tác giả chỉ chú trọng khái
quát thực trạng về quá trình phát triển tư duy lý luận của Đảng, các số liệu
thực tế chưa nhiều, hơn nữa trong quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa thì quan
hệ quản lý, quan hệ phân phối còn ít được bàn đến.
Bàn về thực trạng doanh nghiệp nhà nước có bài "Nợ của các doanh
nghiệp nhà nước: mối đe dọa nợ công của Việt Nam" [1] của Phạm Thế Anh.
Đây là một bài báo khoa học tác giả đã phân tích thực trạng nợ của các doanh
20
nghiệp nhà nước ở Việt Nam.Theo tác giả bài báo tính đến ngày 31-12-2013
quy mô nợ của các doanh nghiệp nhà nước lên tới 1.654.271 tỷ đồng, tăng
16,4% so với năm 2012 và tương đương với 46,2% GDP.Trong đó tập trung
vào một số tập đoàn và tổng công ty như: Tập đoàn Dầu khí 163,1 nghìn tỷ
đồng,Tập đoàn Điện lực 78,6 nghìn tỷ đồng, Tập đoàn Than và Khoáng sản
49,6 nghìn tỷ đồng, Tổng công ty Hàng Hải 47,6 nghìn tỷ đồng, Tổng công ty
Sông Đà 20,4 nghìn tỷ đồng… từ sự phân tích thực trạng nợ của các doanh
nghiệp nhà nước tác giả đi đến kết luận: Khu vực doanh nghiệp nhà nước tuy
chiếm số lượng nhỏ về doanh nghiệp nhưng đang có số nợ rất lớn. Để giảm
thiểu tiêu cực của nợ doanh nghiệp, ảnh hưởng đến nợ công ở Việt Nam cần
phải có kế hoạch trả nợ và cơ cấu lại khu vực doanh nghiệp nhà nước. Theo
chúng tôi, hiệu quả của doanh nghiệp còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố như:
khả năng sinh lời của các doanh nghiệp, kế hoạch trả nợ, quy mô doanh
nghiệp… chứ không chỉ một chỉ tiêu là nợ của doanh nghiệp. Mặc dù vậy,
đây là bài báo có giá trị cho chúng tôi tham khảo, khi đánh giá thực trạng
doanh nghiệp nhà nước.
Nguyễn Đức Độ với bài: “Một số thách thức trong quá trình cổ phần
hóa doanh nghiệp nhà nước tại Việt Nam” [38]. Đây là một bài báo khoa học
tác giả đã chỉ ra thực trạng quá trình cổ phần hóa các doanh nghiệp nhà nước
ở nước ta còn nhiều bất cập:
Thứ nhất, số lượng các doanh nghiệp được cổ phần hóa còn ít trong
giai đoạn 2011-2015, cả nước sắp xếp được 558 doanh nghiệp, trong đó cổ
phần hóa được 478 doanh nghiệp chủ yếu là các doanh nghiệp vừa và nhỏ.
Thứ hai, mức độ cổ phần hóa thấp. Tại hầu hết các doanh nghiệp đã cổ
phần hóa tỉ lệ vốn nhà nước vẫn ở mức trên 50%, trong giai đoạn 2013-2015
quy mô thoái vốn đạt 17 000 tỉ đồng còn nhỏ so với vốn chủ sở hữu 1,3 triệu
tỉ đồng.
Thứ ba, nhiều doanh nghiệp nhà nước cổ phần hóa chưa lên sàn
chứng khoán.
21
Đây là một bài báo, đã nói lên thực trạng quá trình cổ phần hóa các
doanh nghiệp nhà nước ở nước ta và là nguồn tham khảo có giá trị với chúng
tôi khi viết luận án. Tuy nhiên, quan hệ sản xuất không chỉ có cổ phần hóa,
còn có các mặt khác như quan hệ tổ chức quản lý sản xuất, quan hệ phân phối
sản phẩm. Các quan hệ này, còn chưa được đề cập trong bài báo.
Đánh giá thực trạng nền kinh tế nước ta có cuốn “Đổi mới mô hình
tăng trưởng cơ cấu lại nền kinh tế” [2] của Ban Kinh tế Trung ương. Các tác
giả đã chỉ ra thực chất của việc cơ cấu lại nền kinh tế là nhằm chuyển từ phát
triển theo chiều rộng sang phát triển theo chiều sâu, từ phát triển dựa trên số
lượng sang phát triển trên cơ sở chất lượng. Trong cuốn sách các tác giả đã
chỉ ra thực trạng việc triển khai chỉ thị của Thủ tướng chính phủ trong cơ cấu
lại nền kinh tế với các nội dung là: cơ cấu lại đầu tư, trọng tâm là đầu tư công,
cơ cấu lại thị trường tài chính trọng tâm là các ngân hàng thương mại, cơ cấu
lại các doanh nghiệp nhà nước, trọng tâm là các tập đoàn kinh tế và tổng công
ty nhà nước.
Các tác giả đã đánh giá thực trạng quá trình triển khai giai đoạn 2011-
2015 về việc thực hiện đề án cơ cấu lại doanh nghiệp nhà nước với các nội
dung: sắp xếp, cổ phần hóa, thoái vốn nhà nước đầu tư ngoài ngành, lĩnh vực
kinh doanh chính. Tính đến cuối năm 2015 đã có 88/108 tập đoàn kinh tế,
tổng công ty nhà nước đã được phê duyệt đề án. Nhìn chung cổ phần hóa là
để nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp, bảo đảm lợi
ích của người lao động. Kết quả của đề án tính đến ngày 30-9-2014, cả nước
đã thực hiện sắp xếp được 6.875 doanh nghiệp, trong đó cổ phần hóa được
4132 doanh nghiệp,việc thoái vốn thực hiện với kết quả năm 2013 đã thoái
vốn 965,5 tỷ đồng, đến năm 2014 là 2975 tỷ đồng. Tuy nhiên, việc tái cơ cấu
còn chậm so với yêu cầu đạt ra. Đây là cuốn sách đánh giá toàn diện về việc
tái cơ cấu doanh nghiệp nhà nước và là tài liệu tham khảo quý giá với chúng
tôi trong quá trình viết luận án.
Với bài “Đổi mới quản lý của chủ sở hữu nhà nước đối với tập đoàn
kinh tế nhà nước ở Việt Nam” [52] của Phùng Thế Hùng. Tác giả của luận án
22
đã phân tích thực trạng sự biến đổi của các tập đoàn kinh tế nhà nước ở Việt
Nam và thực trạng quản lý nhà nước trên phương diện là chủ sở hữu của các
tập đoàn kinh tế nhà nước. Theo tác giả, quá trình hình thành các tập đoàn
kinh tế nhà nước là quá trình tổ chức sắp xếp lại các doanh nghiệp nhà nước
theo hướng liên kết, sáp nhập lại thành các tập đoàn có quy mô lớn. Các tập
đoàn kinh tế nhà nước ở nước ta có quy mô lớn, chiếm nguồn lực lớn của xã
hội, do vậy, hoạt động của các tập đoàn ảnh hưởng lớn tới xã hội. Các tập
đoàn kinh tế nhà nước ở nước ta hoạt động trong các nghành nghề mũi nhọn
của nền kinh tế, ngoài mục tiêu sản xuất kinh doanh còn có mục tiêu xã hội
chẳng hạn như: phục vụ cho công bằng xã hội, an sinh xã hội, phúc lợi xã hội,
vấn đề quốc phòng, an ninh, xây dựng kết cấu hạ tầng…
Hiện nay, theo tác giả, đa số các tập đoàn làm ăn tốt có lãi, thực hiện
được các mục tiêu về kinh tế - xã hội do Đảng, Nhà nước đề ra. Tuy nhiên,
hiệu quả sản xuất kinh doanh của các tập đoàn không đồng đều, trong số các
tập đoàn kinh tế nhà nước thì doanh thu đến chủ yếu từ Tập đoàn Dầu khí,
Tập đoàn Viễn thông quân đội, Tập đoàn Than và Khoáng sản. Trong những
năm gần đây các tập đoàn kinh tế nhà nước có nhiều biến đổi; một số tập
đoàn còn làm ăn kém hơn các thành phần kinh tế khác. Đặc biệt tập đoàn
Công nghiệp tàu thủy Việt Nam Vinaship và Tổng công ty Hàng hải Vinalies
đã thua lỗ nặng gây thất thoát, lãng phí vốn của nhà nước và gây ra búc xúc
cho nhân dân. Điều này đã dẫn đến mô hình tập đoàn này bị tan rã, được cơ
cấu lại thành tổng công ty nhà nước.
Về mặt quản lý của nhà nước với các tập đoàn kinh tế nhà nước còn
nhiều lỗ hổng như; chủ sở hữu đối với các tập đoàn còn chồng chéo, nhiều
đầu mối, phức tạp dẫn đến hiệu lực quản lý không cao, cơ chế kiểm soát còn
nhiều bất cập chủ yếu theo báo cáo của Hội đồng quản trị của các tập đoàn,
thiếu thẩm định, đánh giá, thông tin chưa kịp thời, dẫn đến sai phạm khó bị
phát hiện… Tuy nhiên, Luận án còn có chỗ phải trao đổi thêm chẳng hạn về
vấn đề thực trạng độc quyền của doanh nghiệp nhà nước, vấn đề thực trạng
23
phân phối sản phẩm trong các tập đoàn kinh tế nhà nước… Tuy vậy, công
trình này là nguồn tham khảo rất có giá trị đối với chúng tôi trong quá trình
viết luận án sau này.
Trong cuốn “Doanh nghiệp nhà nước trong nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa” [49] của Hội đồng Khoa học các Cơ quan Đảng
Trung ương. Các tác giả đã đánh giá thực trạng việc tái cấu trúc các doanh
nghiệp nhà nước ở nước ta trên các mặt: Tái đầu tư công, cổ phần hóa, hiệu
quả hoạt động của doanh nghiệp nhà nước…
Về vấn đề tái cơ cấu đầu tư công và trách nhiệm vai trò của doanh
nghiệp nhà nước. Tác giả Cao Viết Sinh chỉ rõ: Đầu tư công thuộc vốn ngân
sách nhà nước và thuộc kinh tế nhà nước thực trạng là đầu tư phát triển theo
chiều rộng hiệu quả đầu tư thấp, cơ cấu đầu tư giữa các ngành, lĩnh vực, các
vùng địa phương… còn nhiều bất hợp lý, chính sách đầu tư chưa khuyến
khích các doanh nghiệp nhà nước đổi mới công nghệ, nâng cao năng suất.
Về hiệu quả của doanh nghiệp nhà nước tác giả Trần Thị Minh Châu đã
đánh giá khái quát thực trạng hiệu quả của doanh nghiệp nhà nước như: số lượng
doanh nghiệp nhà nước giảm xuống từ 12000 doanh nghiệp trước đổi mới chỉ
còn 3283 năm 2010. Hiệu quả của doanh nghiệp nhà nước hoạt động chưa cao
được thể hiện: tình trạng tài chính nhiều doanh nghiệp nhà nước chưa lành
mạnh, hiệu quả sản xuất kinh doanh thấp hơn các thành phần kinh tế khác…
Thực trạng sử dụng lao động trong doanh nghiệp nhà nước đa số các
doanh nghiệp nhà nước có số lượng lao động lớn, hầu hết các tập đoàn các
tổng công ty đều có chiến lược phát triển nguồn nhân lực, tuy nhiên theo các
tác giả còn một số vấn đề về nguồn nhân lực đặt ra như: tính toàn dụng lao
động thấp, một bộ phân lao động có tinh thần làm việc chưa tốt, lao động
quản lý còn có phẩm chất kém làm thất thoát tài sản, lãng phí tham ô…
Đây là một cuốn sách, đã đánh giá thực trạng của doanh nghiệp nhà
nước ở nước ta hiện nay trên một số mặt, một số lĩnh vực và là tài liệu tham
khảo có giá trị cho chúng tôi sau này.
24
Quan hệ giữa người với người trong việc sở hữu về tư liệu sản xuất là
mặt căn bản của quan hệ sản xuất, vì vậy đã có nhiều công trình nghiên cứu
về vấn đề này tiêu biểu như:
Luận án “Quản lý nhà nước với tập đoàn kinh tế nhà nước ở Việt
Nam” [39] của Nguyễn Thị Hà Đông. Tác giả đã phân tích và đánh giá thực
trạng các tập đoàn kinh tế nhà nước ở nước từ khi tiến hành đổi mới đến năm
2012. Theo tác giả các tập đoàn kinh tế nhà nước ở Việt Nam có đặc trưng là:
được hình thành từ quá trình chuyển đổi, sắp xếp lại các tổng công ty nhà
nước ở nước ta, hoạt động trong các ngành nghề mũi nhọn trong nền kinh tế
quốc dân, hoạt động theo mô hình công ty mẹ - con, chủ sở hữu là nhà nước
bao gồm: Chính phủ, các Bộ, các Ban, ngành..
Về thực trạng các tập đoàn kinh tế nhà nước ở Việt Nam, tác giả cho
rằng đa số các tập đoàn đều làm ăn có lãi đóng góp cho sự tăng trưởng và
phát triển của nền kinh tế. Các tập đoàn nhà nước như: Tập đoàn Điện lực,
Tập đoàn Than và khoáng sản, Tập đoàn Bưu chính Viễn thông, Tập đoàn
Cao su, Tập đoàn Xăng dầu, Tập đoàn Viễn thông quân đội… ngoài mục tiêu
tiến hành các hoạt động sản xuất kinh doanh còn thực hiện mục tiêu khác của
Đảng, Nhà nước như là: ổn định kinh tế vĩ mô, là công cụ để nhà nước điều
tiết nền kinh tế, kìm chế lạm phát…
Các tập đoàn kinh tế nhà nước nắm giữ các ngành nghề mũi nhọn trong
nền kinh tế và chi phối phần lớn thị trường như: Điện chiếm 94%, Than 97%,
Thuốc lá 63%, Giấy 50%, Ximăng 59%, Dầu khí và Bưu chính viễn thông
chiếm thị phần trên cả nước… đây là yếu tố quan trọng để nhà nước thực hiện
điều tiết vĩ mô nền kinh tế. Tuy nhiên, theo tác giả bên cạnh các Tập đoàn làm
ăn có lãi thì vẫn có Tập đoàn làm ăn kém hiệu quả, thua lỗ nặng gây bức xúc
cho xã hội như: Tập đoàn Công nghiệp tàu thủy Việt Nam Vinaship và Tổng
công ty Hàng hải Vinalies đã thua lỗ hàng nghìn tỷ đồng. Nguyên nhân là do
quản lý nhà nước đối với các tập đoàn kinh tế nhà nước chưa tốt.
Bên cạnh những phân tích thực trạng trên, tác giả chưa đánh giá bao
quát các mặt của Tập đoàn kinh tế nhà nước trên các phương diện khác, chẳng
25
hạn vấn đề chủ sở hữu của các tập đoàn, vấn đề phân phối sản phẩm mà chỉ
bàn nhiều về quan hệ tổ chức, quản lý của các tập đoàn kinh tế nhà nước.
Quan hệ trong tổ chức, quản lý sản xuất chỉ là một mặt của quan hệ sản xuất,
mặt khác tác giả chỉ nghiên cứu về các Tập đoàn kinh tế nhà nước, một lực
lượng nòng cốt của doanh nghiệp nhà nước, chứ chưa bao quát hết toàn bộ
doanh nghiệp nhà nước và quan hệ sản xuất XHCN ở nước ta. Đây là luận án
gợi mở cho chúng tôi nhiều điều và làm tài liệu tham khảo cần thiết của
chúng tôi.
Nói về thực trạng đổi mới về sở hữu có cuốn Bản chất của sở hữu
trong nền kinh tế nhiều thành phần ở Việt Nam [72] của Trương Giang Long.
Tác giả đã phân tích thực trạng biến đổi sở hữu ở nước ta trong thời kỳ đổi
mới đó là: nền kinh tế nước ta tồn tại nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành
phần kinh tế, có sở hữu nhà nước, sở hữu tập thể, sở hữu tư nhân và sở hữu
hỗn hợp. tương ứng với các hình thức sở hữu đó hình thành nhiều thành phần
kinh tế là: kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể, kinh tế tư bản nhà nước ở thời kỳ
này và kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài. Các thành phần kinh tế đều có vị trí,
vai trò nhất định trong nền kinh tế nước ta, đều bình đẳng trước pháp luật,
được luật pháp thừa nhận và tạo điều kiện phát triển.Theo tác giả các thành
phần kinh tế vừa thống nhất vừa mâu thuẫn, thống nhất vì: đều hoạt động
trong khuôn khổ pháp luật đều có quyền lợi và nghĩa vụ ngang nhau, dưới sự
điều hành chung của nhà nước thông qua các chủ trương, chính sách, theo
định hướng chung, kinh tế nhà nước có thể liên doanh liên kết với các thành
phần kinh tế khác. Mâu thuẫn được thể hiện: Kinh tế nhà nước phát triển theo
định hướng xã hội chủ nghĩa, các thành phần kinh tế khác đặt mục tiêu lợi
nhuận, lợi ích lên trên hết, kinh tế nhà nước ngoài mục tiêu lợi nhuận còn có
mục tiêu về kinh tế - xã hội. Về việc Kinh tế nhà nước đóng vai trò chủ đạo
tác giả đặt câu hỏi: Hầu hết các nước trên thế giới đều có kinh tế nhà nước, tại
sao chỉ có Việt Nam xác định kinh tế nhà nước đóng vai trò chủ đạo? Tác giả
đã đưa ra câu trả lời; Điều đó là hoàn toàn đúng đắn. Bởi lẽ, không củng cố
tăng cường kinh tế nhà nước thì không thể nói tới định hướng xã hội chủ
26
nghĩa. Điều này không phải tư duy chủ quan mà xuất phát từ thực tiễn khách
quan của Việt Nam.
Tuy nhiên, tác giả chỉ mới nói tới thực trạng sự biến đổi nền kinh tế
nhiều thành phần và vai trò của các thành phần kinh tế trên phương diện nhận
thức thông qua các văn kiện của Đảng, chưa có nhiều số liệu thực tế. Mặc dù
vậy, đây là cuốn sách tham khảo đánh giá thực trạng về phương diện nhận
thức vai trò, vị trí các thành phần kinh tế có giá trị cho chúng tôi tham khảo.
Về thành phần kinh tế hợp tác xã cũng có các công trình nghiên cứu
tiêu biểu như:
Nghiên cứu thực trạng kinh tế tập thể có bài “Luồng gió mới cho kinh
tế hợp tác” [55] của Thu Hường. Tác giả đã phân tích thực trạng các hợp tác
xã ở Việt Nam hiện nay; cả nước có khoảng 20 000 hợp tác xã, từ khi có Luật
hợp tác xã năm 2012 mô hình hợp tác xã kiểu mới đã có những chuyển biến
tích cực. Các hợp tác xã đã làm tốt việc hỗ trợ cho kinh tế hộ phát triển. Đã
xuất hiện các mô hình hợp tác xã làm ăn hiệu quả như: Hợp tác xã Hòa Mỹ ở
Hà Nội đã ứng dụng công nghệ cao vào sản xuất và có số vốn lên đến 226 tỷ
đồng, Hợp tác xã Đại Hiệp ở Quảng Nam có vốn 16 tỷ đồng, Hợp tác xã Anh
Đào có số vốn 50 tỷ đồng… Tuy nhiên, theo tác giả bài báo đa số các hợp tác
xã ở nước ta còn nhỏ bé hiệu quả hoạt đông chưa cao, chưa thu hút được các
hộ kinh doanh cá thể vào hợp tác. Do vậy để phát triển cần đẩy mạnh phong
trào thi đua yêu nước gắn với mô hình hợp tác xã kiểu mới ở nước ta. Đây là
bài báo khoa học đã đánh giá, phân tích phong trào hợp tác xã kiểu mới hiện
nay ở Việt Nam và là nguồn tham khảo quan trọng cho chúng tôi khi nghiên
cứu về kinh tế hợp tác xã.
Tóm lại, các công trình trên, đã bàn nhiều về thực trạng QHSX XHCN
ở các khía cạnh và góc độ khác nhau. Những công trình này, đã gợi mở cho
chúng tôi rất nhiều điều và là nguồn tài liệu tham khảo cần thiết đối với
chúng tôi.
27
1.3. NHỮNG CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN GIẢI PHÁP
PHÁT TRIỂN QUAN HỆ SẢN XUẤT XÃ HỘI CHỦ NGHĨA TRONG THỜI KỲ
ĐỔI MỚI Ở VIỆT NAM
Những năm qua, đã có nhiều công trình, tác giả đưa ra các giải pháp
nhằm phát triển quan hệ sản xuất XHCN ở nước ta trên các phương diện khác
nhau. Sau đây là những công trình tiêu biểu:
Trong phần hai của cuốn sách: “Một số vấn đề lý luận - thực tiễn về
chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam” [99] của
Phùng Hữu Phú và các cộng sự. Từ sự phân tích những mặt tích cực và hạn
chế qua 30 năm đổi mới, các tác giả đã đưa ra các giải pháp nhằm phát triển
nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa như sau:
Thứ nhất, tiếp tục đổi mới căn bản và sâu sắc hơn nhận thức về nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, theo các tác giả nền kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nền kinh tế thị trường
hiện đại và hội nhập quốc tế có sự quản lý của nhà nước và sự lãnh đạo của
Đảng. Là nền kinh tế có quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp với trình độ phát
triển của lực lượng sản xuất; có nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần
kinh tế bình đẳng, hợp tác, cạnh tranh theo pháp luật.
Thứ hai, tiếp tục hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa, đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới.
Thứ ba, đổi mới mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế, phát triển
nhanh và bền vững, bảo đảm nâng cao rõ rệt thực lực của đất nước và đời
sống nhân dân.
Thứ tư, nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng trong bảo đảm định
hướng xã hội chủ nghĩa. Các tác giả cho rằng: Đảng cần tiếp tục đổi mới nội
dung và phương thức lãnh đạo cầm quyền theo hướng không bao biện làm
thay chính quyền. Cần xóa bỏ tình trạng Đảng can thiệp quá sâu vào các hoạt
động của chính quyền.
Thứ năm, đổi mới căn bản vai trò của Nhà nước trong bảo đảm định
hướng xã hội chủ nghĩa. Nhà nước phân phối thu nhập công bằng, bảo đảm an
28
sinh xã hội,và sự hài hòa về lợi ích, Nhà nước hạn chế những khuyết điểm của
kinh tế thị trường, kiện toàn điều tiết vĩ mô nền kinh tế.
Về vấn đề sở hữu các tác giả cho rằng: cần duy trì đa hình thức sở hữu,
ở đó các loại hình doanh nghiệp vừa cạnh tranh vừa hợp tác, bổ sung cho
nhau, khu vực kinh tế nhà nước giữ vai trò hỗ trợ cho khu vực kinh tế tư nhân
góp phần định hướng cho sự phát triển của nền kinh tế. Tuy nhiên, khu vực
kinh tế nhà nước hiện nay ở Việt Nam còn quá lớn đang làm méo mó thị
trường và là gốc rễ của lợi ích nhóm, từ đó làm nẩy sinh tham nhũng, hiệu
quả thấp, thất thoát tài sản nhà nước, cần giảm sở hữu khu vực nhà nước
xuống dưới 15% GDP.
Trong cuốn sách, tác giả Phùng Hữu Phú và các cộng sự đã đưa ra
các giải pháp để phát triển các tập đoàn kinh tế ở nước ta. Trên cơ sở phân
tích thực trạng các tập đoàn kinh tế ở Việt Nam đã đạt được những thành
tựu nhất định như: việc thành lập các tập đoàn kinh tế nhà nước ở nước ta
là phù hợp với xu thế phát triển của quá trình liên kết để tạo thành các
doanh nghiệp có quy mô lớn trên thế giới. Việc hình thành các tập đoàn đã
nâng cao về chất so với trước đây, trình độ công nghệ, quản trị, nhân lực
phần lớn đều tăng so với trước khi thành lập. Tuy nhiên còn có hạn chế:
việc kinh doanh đa ngành, đa lĩnh vực của các tập đoàn là chưa phù hợp
với điều kiện nước ta, do quá coi trọng về quy mô lớn, đa lĩnh vực dẫn đến
không tập trung vào ngành lĩnh vực then chốt, hiệu quả hoạt động thấp, còn
có hạn chế, bất cập về công tác quản trị, điều hành các tập đoàn hiện nay ở
nước ta. Từ sự phân tích tác giả Phùng Hữu Phú đã đưa ra các giải pháp
cho các tập đoàn:
Một là, cần tổ chức lại các tập đoàn. Cần xác định mục tiêu cụ thể của
các tập đoàn, tổ chức lại cho phù hợp với từng giai đoạn của các tập đoàn.
Tăng cường liên kết giữa các doanh nghiệp trong tập đoàn, hình thành các
chuỗi sản xuất kinh doanh.
29
Hai là, đổi mới về quản trị, tổ chức quản lý, điều hành các tập đoàn.
Cải thiện quản trị tập đoàn theo chuẩn mực quốc tế.
Ba là, hoàn thiện cơ chế, chính sách cho các tập đoàn. Tạo điều kiện,
môi trường thuận lợi cho các tập đoàn, khuyến khích phát triển các tập đoàn
thông qua năng lực cạnh tranh, phát triển tự thân…
Bốn là, cơ cấu lại các tập đoàn theo hướng cổ phần hóa, thoái vốn đầu
tư ngoài ngành.
Nhìn chung, các giải pháp do tác giả Phùng Hữu Phú và các cộng sự
đưa ra nhằm phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và
phát triển các tập đoàn nhà nước, là đúng đắn. Tuy nhiên, có nhiều giải pháp
chưa được bàn đến như vấn đề phân phối hiện nay trong kinh tế nhà nước,
doanh nghiệp nhà nước.
Trong cuốn “Tư duy mới về phát triển kinh tế - xã hội Việt Nam trong
bối cảnh mới” [120] của Lương Xuân Quỳ. Trong cuốn sách này, tác giả đã
đưa ra các giải pháp để phát triển nền kinh tế nước ta.
Thứ nhất, phải xác định đúng mô hình kinh tế tổng quát. Theo tác giả,
việc xác định đúng mô hình kinh tế tổng quát giữ vai trò vô cùng quan trọng
đối với sự phát triển kinh tế xã hội của đất nước, bởi mô hình đúng sẽ tạo ra
động lực to lớn thúc đẩy mọi thành phần kinh tế trong xã hội tích cực đầu tư
phát triển các hoạt động sản xuất kinh doanh. Ngược lại, mô hình không phù
hợp sẽ làm cho các thành phần kinh tế đắn đo, làm ăn theo kiểu chụp giật,
lách luật, và hậu quả sẽ làm chậm sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
Từ sự phân tích đó, tác giả đề nghị xây dựng mô hình mới đó là: “Nền
kinh tế thị trường hiện đại Việt Nam”. Theo chúng tôi, mô hình mà tác giả đề
nghị đã được khẳng định trong các văn kiện Đại hội của Đảng mô hình kinh
tế tổng quát của nước ta trong thời kỳ quá độ là: “nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa”. Theo văn kiện XII của Đảng thì đó phải là nền kinh
tế thị trường hiện đại với đầy đủ các loại thị trường và hoạt động theo quy luật
30
thị trường, hội nhập quốc tế. Đồng thời phải có định hướng xã hội chủ nghĩa
gắn tăng trưởng kinh tế với tiến bộ và công bằng xã hội. Bởi vì trên thế giới
không có bất cứ nước nào chỉ có kinh tế thị trường thuần túy, thị trường luôn
có những hạn chế, thất bại của nó, đòi hỏi phải có sự can thiệp của nhà nước ở
các mức độ khác nhau. Do vậy, kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa ở nước ta là đúng đắn.
Thứ hai, phải đổi mới thể chế chính trị phù hợp với thể chế kinh tế.
Thứ ba, phải thay đổi tư duy về sở hữu và thành phần kinh tế. Tác giả
cho rằng: Theo Cương lĩnh xây dựng đất nước năm 1991 và Hiến pháp sửa
đổi năm 2013 thì ở Việt Nam có ba chế độ sở hữu: sở hữu toàn dân, sở hữu
tập thể, sở hữu tư nhân. Tuy nhiên, thực tiễn 30 năm qua cho thấy việc quy
định như vậy là chưa tạo động lực cho sự phát triển. Tác giả cho rằng: cần
xem xét điều chỉnh lại chỉ có hai loại sở hữu là: chế độ công hữu và tư hữu.
Sở hữu nhà nước và sở hữu tập thể đều là công hữu; còn sở hữu cá thể, tiểu
chủ, hay tư nhân đều là tư hữu vì đa phần các nước chỉ có hai chế độ công
hữu và tư hữu.
Thứ tư, tăng cường vai trò của nhà nước về phát triển xã hội để cải
thiện công bằng xã hội. Theo tác giả cần phải đổi mới mối quan hệ giữa quan
hệ phân phối theo nguyên tắc thị trường có sự điều tiết của nhà nước vừa tạo
động lực cho tăng trưởng kinh tế vừa thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội.
Việc phân bổ các nguồn lực phải theo nguyên tắc của thị trường đồng thời
phải phân phối lại theo hướng tăng trưởng kinh tế gắn giảm nghèo, hài hóa lợi
ích của nhà nước - người lao động và người sử dụng lao động. Theo chúng tôi
các giải pháp về phân phối chính là các nguyên tắc mà chúng ta đang sử dụng,
xây dựng trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt
Nam. Các giải pháp mà tác giả đưa ra là nguồn tài liệu tham khảo có giá trị
với chúng tôi.
Trong cuốn “Tập đoàn kinh tế trong việc thúc đẩy tái cơ cấu nền kinh
tế” [36] của Nguyễn Hữu Đạt. Tác giả đã đưa ra các phương hướng và giải
31
pháp nhằm tái cơ cấu các tập đoàn kinh tế nhà nước và thúc đẩy nó phát
triển như:
- Tập đoàn kinh tế cần tập trung phát triển ở các ngành đột phá trong
nền kinh tế như: tài chính tiền tệ, thông tin, hạ tầng giao thông…
- Hình thành các tập đoàn kinh tế mà sở hữu nhà nước chi phối, tập
đoàn kinh tế mà sở hữu tư nhân chi phối và tập đoàn sở hữu hỗn hợp.
- Các giải pháp phát triển các tập đoàn: đẩy mạnh tái cấu trúc các tập
đoàn kinh tế nhà nước, áp dụng hệ thống quản trị hiện đại cho các tập đoàn,
khuyến khích tăng cường liên kết giữa các thành phần kinh tế, xây dựng
nguồn nhân lực chất lượng cao cho các tập đoàn. Tuy nhiên, các phương
hướng và giải pháp của tác giả còn chung chung và bao quát cho các tập đoàn
trong nền kinh tế chứ không chỉ riêng cho kinh tế nhà nước.
Với cuốn “Doanh nghiệp nhà nước trong nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa” [49] của Hội đồng khoa học các cơ quan Trung
ương Đảng. Đây là cuốn sách tập hợp của nhiều tác giả khác nhau có tính
chất chuyên sâu bàn về doanh nghiệp nhà nước, các tác giả đã đưa ra nhiều
giải pháp nhằm phát triển các doanh nghiệp nhà nước như: Tăng cường vai
trò lãnh đạo của Đảng trong tái cấu trúc doanh nghiệp nhà nước, vai trò của
Nhà nước trong việc hoàn thiên thể chế, tạo khung pháp lý cho phát triển
doanh nghiệp nhà nước, tiếp tục, đổi mới sắp xếp lại các doanh nghiệp nhà
nước… Tuy nhiên, các giải pháp mà các tác giả đưa ra chỉ thuần túy mang
tính kinh tế chưa có sự khái quát, bao quát, tổng quát mang tính triết học.
Với công trình: “Đổi mới nâng cao hiệu quả doanh nghiệp nhà nước,
bảo đảm vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước trong nền kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa” [126] của Tạ Ngọc Tấn. Đây là cuốn sách tập
hợp các bài viết của nhiều các tác giả có uy tín bàn về doanh nghiệp nhà nước
trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và là tài liệu tham
khảo có giá trị nhiều mặt với chúng tôi. Các tác giả đã đưa ra nhiều giải pháp
32
phát triển các doanh nghiệp nhà nước thuộc từng lĩnh vực khác nhau: Phải cơ
cấu lại hệ thống ngân hàng thương mại ở nước ta trong giai đoạn hiện nay,
nâng cao hiệu quả doanh nghiệp nhà nước sau cổ phần hóa, xây dựng đội ngũ
cán bộ quản lý trong doanh nghiệp ở nước ta, xây dựng doanh nghiệp hoạt
động công ích ở Việt Nam… cuốn sách này đã bàn về các vấn đề bức xúc của
doanh nghiệp nhà nước ở Việt nam. Tác giả mặc dù đã đưa ra nhiều giải pháp
nhằm phát triển doanh nghiệp nhà nước, nhưng các giải pháp đó chỉ mang
tính riêng lẻ, thuộc từng lĩnh vực của doanh nghiệp nhà nước chứ chưa bao
quát toàn bộ quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa.
Bàn về thực trạng của thành phần kinh tế nhà nước còn có các công
trình sau: Phạm Việt Dũng với bài “Nâng cao hiệu quả doanh nghiệp nhà
nước đảm bảo vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước” [21]; Tô Thị Ánh
Dương với cuốn “Tái đầu tư công, tái cơ cấu doanh nghiệp nhà nước và tái
cơ cấu ngân hàng thương mại” [25]; Nguyễn Thị Hà với bài viết “Bàn về căn
cứ giám sát tài chính đối với doanh nghiệp nhà nước” [43]…
Về thành phần kinh tế tập thể và kinh tế hợp tác xã đã có một số công
trình đề cập tới và đưa ra một số giải pháp nhằm phát triển kinh tế tập thể:
Trong cuốn: “Phát triển kinh tế tập thể trong 30 năm đổi mới ở Việt
Nam” [69] của Liên minh hợp tác xã Việt Nam. Các tác giả cho rằng: trong
30 năm đổi mới, kinh tế tập thể chỉ một lần đổi mới đáng kể sau năm 1986,
chuyển từ mô hình hợp tác xã kiểu cũ sản xuất kinh doanh theo kế hoạch hóa
tập trung, sang mô hình hợp tác xã dịch vụ, hỗ trợ kinh tế hộ phát triển. Kể từ
đó, hợp tác xã ít đổi mới dẫn đến trì trệ kéo dài. Luật hợp tác xã năm 2012 đã
phản ánh đúng đắn hơn bản chất của hợp tác xã là tự nguyện, dân chủ, bình
đẳng. Tác giả đã đề xuất các giải pháp cho sự phát triển kinh tế như sau:
Một là, tăng cường công tác lãnh đạo của các cấp ủy Đảng và chính
quyền các cấp. Các cấp ủy Đảng từ trung ương đến địa phương phải quán triệt
các chủ trương nghị quyết về kinh tế hợp tác xã tránh tình trạng chính sách
33
của Đảng, Nhà nước chỉ được quán triệt ở các Bộ, Nghành sau đó chính
quyền các cấp huyện, xã buông lỏng dần.
Hai là, đẩy mạnh công tác tuyên truyền, nâng cao nhận thức về bản
chất, chính sách pháp luật về kinh tế tập thể.
Ba là, có chính sách hỗ trợ, ưu đãi phát triển các hợp tác xã.
Bốn là, nâng cao chất lượng đào tạo nguồn nhân lực cho các hợp tác xã
Năm là, cần có giải pháp về liên kết tiêu thụ sản phẩm. Các doanh
nghiệp và các hợp tác xã phải tăng cường liên kết với các hợp tác xã sản xuất
để làm rõ xuất xứ hàng hóa, thương hiệu, tiếp thị hàng hóa.
Sáu là, các hợp tác xã phải đẩy mạnh ứng dụng về khoa học công nghệ.
Các hợp tác xã phải đẩy mạnh ứng dụng về khoa học công nghệ để tăng năng
suất lao động. Hợp tác xã phải huấn luyện, cầm tay chỉ việc cho các thành
viên và bà con nông dân về kiến thức, phương pháp áp dụng khoa học công
nghệ vào sản xuất kinh doanh.
Theo chúng tôi các giải pháp mà đồng chí Võ kim Cự chủ tịch liên
minh các hợp tác xã đưa ra là đúng đắn tuy nhiên còn có những vấn đề cần
phải trao đổi thêm chẳng hạn mô hình hợp tác xã cho phù hợp với nước ta và
nền kinh tế thị trường hội nhập quốc tế hiện nay. Trước mắt khi chưa có mô
hình thật sự hiệu quả chúng ta phải đẩy mạnh mô hình hợp tác xã kiểu mới
theo luật hợp tác xã năm 2012 để từ đó tổng kết rút kinh nghiệm, nhân rộng
các mô hình điển hình… Phải làm cho họ thấy được là khi tham gia hợp tác
xã có lợi hơn so với làm ăn cá thể có vậy thì mới thu hút được các hộ làm ăn
cá thể, riêng lẻ vào hợp tác xã, tránh tình trạng gò ép như trước kia. Đây là tài
liệu tham khảo nhiều mặt cho chúng tôi, khi nghiên cứu về kinh tế tập thể,
kinh tế hợp tác xã ở nước ta hiện nay.
Với cuốn “Tư tưởng hợp tác xã kinh nghiệm quốc tế và thực tiễn
Việt Nam” [5] của Bộ Kế hoạch và Đầu tư - Vụ Hợp tác. Cuốn sách bao
gồm những bài viết của các chuyên gia, nghiên cứu về tư tưởng hợp tác xã
34
của một số quốc gia, nghiên cứu kinh nghiệm hoạt động của các hợp tác xã
trên thế giới và thực tiễn hoạt động hợp tác xã ở Việt Nam. Các tác giả đã
đưa ra một số các giải pháp nhằm phát triển kinh tế hợp tác, kinh tế tập thể
ở nước ta, sau khi tổng kết mô hình các hợp tác xã: Hợp tác xã chăn nuôi
Toàn Thắng ở Thanh Ba, Phú Thọ, Hợp tác xã liên doanh nấm ở Yên
Khánh Ninh Bình, Hợp tác xã đánh bắt hải sản xa bờ… Các tác giả có đưa
ra một số giải pháp nhằm phát triển kinh tế tập thể, kinh tế hợp tác xã: Hợp
tác xã phải được tổ chức trên cơ sở phục vụ xã viên, đáp ứng nhu cầu của
xã viên, phải tôn trọng nguyên tắc tự nguyện, bình đẳng của các xã viên…
Tuy nhiên, đây mới chỉ tổng kết một số mô hình Hợp tác xã ở nước ta,
chưa phản ánh hết thực trạng các hợp tác xã ở Việt Nam. Do vậy, các giải
pháp đưa ra còn hạn chế, chưa phản ánh hết thành phần kinh tế tập thể ở
nước ta. Tuy vậy, đây là tài liệu kham khảo có giá trị cho chúng tôi khi bàn
về kinh tế tập thể, kinh tế hợp tác, một thành phần kinh tế quan trọng của
quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa.
Đưa ra các giải pháp cho kinh tế tập thể còn có một số công trình như:
Nguyễn Văn Giàu với bài "Tiếp tục tổ chức triển khai có hiệu quả luật hợp
tác xã năm 2012, góp phần phát triền bền vững mô hình hợp tác xã kiểu mới"
[41]; Lê Mạnh Hùng với luận án "Phát triền hợp tác xã thương mại dịch vụ
trong hội nhập quốc tế" [51]; Bùi Văn Huyền với bài viết "Hợp tác xã ở
Đồng Nai: hiện trạng vấn đề và giải pháp" [53];… Nhìn chung, các công
trình nghiên cứu này đã đưa ra một số giải pháp để phát triển kinh tế tập thể,
phát triển các hợp tác xã ở nước ta và là nguồn tham khảo có giá trị với chúng
tôi trong quá trình viết luận án.
Tuy nhiên, chưa có công trình nào đưa ra các giải pháp một cách toàn
diện trên ba mặt là: sở hữu, tổ chức quản lý và phân phối kết quả lao động cho
quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa ở nước ta trong thời kỳ đổi mới.
35
1.4. KHÁI QUÁT KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU CỦA CÁC CÔNG TRÌNH
KHOA HỌC ĐÃ CÔNG BỐ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ
LUẬN ÁN CẦN TIẾP TỤC GIẢI QUYẾT
1.4.1. Khái quát kết quả nghiên cứu của các công trình khoa học đã
công bố liên quan đến đề tài
Trên đây, là các công trình nghiên cứu được chia thành ba nhóm liên
quan đến những nội dung chính của luận án. Quan hệ sản xuất xã hội chủ
nghĩa ở nước ta trong thời kỳ đổi mới, từ năm 1986 cho đến nay là một đề tài
rộng lớn với hệ thống các công trình nghiên cứu đồ sộ của nhiều học giả khác
nhau. Do vậy, luận án chưa có điều kiện tổng quan hết tất cả các công trình
nghiên cứu mà chỉ mới dừng lại ở mức độ khảo sát các công trình có liên
quan trực tiếp, tiêu biểu đến những nội dung mà luận án nghiên cứu.
Sau khi khảo sát những nhóm công trình nghiên cứu liên quan đến
những nội dung mà luận án triển khai, tác giả nhận thấy rằng, các công trình
đã đề cập đến:
Thứ nhất, các công trình đã nghiên cứu lý luận về QHSX XHCN trên
các phương diện như:
Một là, các công trình đã nghiên cứu lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin
về sở hữu và sự vận dụng của Đảng cộng sản Việt Nam vào sự nghiệp đổi
mới. Những công trình nghiên cứu đều khẳng định sự cần thiết phải phát triển
đa dạng các hình thức sở hữu, ngoài sở hữu nhà nước, sở hữu tập thể cần có
các hình thức sở hữu khác như: sở hữu tư nhân, sở hữu hỗn hợp để hình thành
nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta.
Hai là, các công trình nghiên cứu về mô hình kinh tế tổng quát của
nước ta trong thời kỳ quá độ lên CNXH. Về mảng này có các tác giả như:
Phùng Hữu Phú, Trần Văn Phòng, Trương Giang Long… Các tác giả đều
khẳng định trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước
ta là nền kinh tế thị trường hiện đại, hội nhập, có nhiều hình thức sở hữu,
nhiều thành phần kinh tế; trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo. Các
36
công trình cũng đã tổng kết các quan điểm của Đảng về kinh tế nhiều thành
phần và chỉ ra định hướng xã hội chủ nghĩa là đúng đắn. Kinh tế nhà nước giữ
vai trò chủ đạo là đặc thù của nền kinh tế nước ta nhằm dẫn dắt định hướng đi
lên CNXH, QHSX XHCN không chỉ phù hợp mà còn phải tiến bộ như Đảng
khẳng định trong văn kiện Đại hội XII “có quan hệ sản xuất tiến bộ, phù hợp
với trình độ của LLSX” [34, tr.103].
Các công trình nghiên cứu về lý luận quan hệ sản xuất và quan hệ sản
xuất xã hội chủ nghĩa đã cung cấp cho tác giả một cái nhìn phong phú, sâu
sắc về quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Do đó, Ở chương 2
trong nội dung của luận án, khi nghiên cứu về lý luận quan hệ sản xuất và
quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa và các nhân tố tác động đến sự biến đổi
của quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, tác giả luận án không có
tham vọng đem đến một sự hiểu biết hoàn toàn mới nào về vấn đề này. Kế
thừa thành tựu của những người đi trước luận án đã tập hợp, khái quát lại
một cách hệ thống về quan hệ sản xuất và lý luận về quan hệ sản xuất xã hội
chủ nghĩa ở nước ta theo lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin và quan điểm của
Đảng Cộng sản Việt Nam.
Thứ hai, các công trình đã nghiên cứu thực trạng của QHSX XHCN ở
Việt Nam trong thời kỳ đổi mới.
Các công trình nghiên cứu thuộc nhóm này, được thể hiện trong các
công trình nghiên cứu về các doanh nghiệp nhà nước, các tập đoàn kinh tế,
các hợp tác xã ở nước ta trong thời kỳ đổi mới. Đặc biệt là những năm gần
đây, khi khung hoảng kinh tế tác động vào nước ta là bộc lộ rõ những hạn chế
của QHSX XHCN. Các công trình đã chỉ ra những bức xúc, những mặt trái,
tiêu cực của QHSX XHCN như sự thua lỗ, thất thoát lớn của các tập đoàn,
các doanh nghiệp nhà nước, sự yếu kém của các hợp tác xã ở Việt Nam. Đây
là những tài liệu tham khảo quý giá cho tác giả khi tiến hành viết chương 3
của luận án với nội dung là nói về thực trạng sự biến đổi của quan hệ sản xuất
xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam trong thời kỳ đổi mới. Tuy nhiên, các công trình
37
chỉ nghiên cứu thực trạng quan hệ sản xuất trong những năm gần đây, hoặc
nghiên cứu từng mặt, bộ phận của quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa ở nước
ta, chưa có công trình nào nghiên cứu toàn diện về quan hệ sản xuất xã hội
chủ nghĩa ở nước ta, cũng như chưa có công trình nào đề cập đến sự biến đổi
về quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa ở nước ta trong thời kỳ đổi mới. Ở
chương 3 của luận án tác giả đã nghiên cứu thực trạng sự biến đổi của quan
hệ sản xuất xã hội ở nước ta trong thời kỳ đổi mới trên phương diện quan
điểm của Đảng và thực tiễn của sự biến đổi cả những biến đổi tích cực và biến
đổi tiêu cực.
Thứ ba, các công trình đã đưa ra các phương hướng và những giải pháp
nhằm phát huy những tác động tích cực hạn chế những tác động tiêu cực của
kinh tế nhà nước và kinh tế tập thể. Đây là những tài liệu tham khảo cần thiết
đối với chương 4 của luận án. Tuy nhiên, ở mỗi công trình nghiên cứu này,
các tác giả chủ yếu đưa ra các phương hướng và giải pháp với nội dung mà họ
nghiên cứu là từng mặt, từng bộ phận cụ thể của quan hệ sản xuất. Do vậy,
bên cạnh việc kế thừa những người đi trước, tác giải cũng đưa ra phương
hướng và một số giải pháp chủ yếu của mình nhằm phát huy những biến đổi
tích cực, hạn chế những biến đổi tiêu cực của quan hệ sản xuất xã hội chủ
nghĩa ở Việt Nam hiện nay.
1.4.2. Những vấn đề đặt ra, tác giả cần tiếp tục nghiên cứu
Từ tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận án và những kết quả
đã được khái quát ở trên, tác giả đưa ra một số vấn đề mà luận án cần tập
trung, giải quyết.
Một là, hệ thống hóa lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin và một số các
Đảng cộng sản trên thế giới và Đảng công sản Việt Nam về quan hệ sản xuất
và QHSX XHCN
Hai là, nghiên cứu những nhân tố tác động đến sự biến đổi QHSX
XHCN ở nước ta trong bối cảnh toàn cầu hóa, hợp tác hóa đang diễn ra
mạnh mẽ.
38
Ba là, nghiên cứu vai trò của QHSX XHCN trong thời kỳ đổi mới, định
hướng đi lên CNXH ở Việt Nam
Bốn là, nghiên cứu thực trạng sự biến đổi của QHSX XHCN trong
thời kỳ đổi mới.
Năm là, đề ra các phương hướng và giải pháp chủ yếu nhằm phát huy
những biến đổi tích cực, hạn chế những biến đổi tiêu cực của QHSX XHCN
ở Việt Nam hiện nay.
Tiểu kết chương 1
Trên cơ sở tổng quan các công trình nghiên cứu liên quan đến đề tài
luận án, cho ta thấy rằng; cho đến nay, đã có nhiều các công trình nghiên
cứu về quan hệ sản xuất và quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa trong thời kỳ
đổi mới ở nước ta. Các công trình nghiên cứu trên nhiều phương diện và
cách tiếp cận khác nhau. Tuy nhiên, nghiên cứu về quan hệ sản xuất xã hội
chủ nghĩa dưới góc độ triết học cũng không nhiều. Do đó, đề tài tiếp tục kế
thừa các kết quả của những người đi trước để vận dụng vào nghiên cứu về
sự biến đổi của quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa trong thời kỳ đổi mới ở
Việt Nam hiện nay, để luận giải những vấn đề đang đặt ra dưới góc độ triết
học. Với việc làm này, tác giả tin tưởng rằng, công trình nghiên cứu của
mình sẽ góp phần nhất định trong hệ thống các công trình nghiên cứu về
quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa ở nước ta và góp phần làm tài liệu tham
khảo cho những người làm chính sách liên quan đến quan hệ sản xuất xã hội
chủ nghĩa ở Việt Nam.
39
Chương 2
QUAN HỆ SẢN XUẤT XÃ HỘI CHỦ NGHĨA TRONG THỜI KỲ
ĐỔI MỚI Ở VIỆT NAM - MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG
2.1. QUAN HỆ SẢN XUẤT XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VÀ VAI TRÒ CỦA QUAN
HỆ SẢN XUẤT XÃ HỘI CHỦ NGHĨA TRONG THỜI KỲ ĐỔI MỚI Ở VIỆT NAM
2.1.1. Quan niệm về quan hệ sản xuất và quan hệ sản xuất xã hội
chủ nghĩa
2.1.1.1. Quan niệm của chủ nghĩa Mác - Lênin về quan hệ sản xuất
* Khái niệm quan hệ sản xuất
Quan hệ sản xuất là một mặt của phương thức sản xuất, nếu lực lượng
sản xuất biểu thị mặt thứ nhất của mối “quan hệ song trùng” của sản xuất vật
chất, thì quan hệ sản xuất biểu hiện mặt thứ hai của quan hệ đó, tức là quan hệ
giữa người với người trong quá trình sản xuất.
C.Mác đã chứng minh rằng, sản xuất vật chất là cơ sở tồn tại và phát
triển của xã hội loài người, rằng”:
Đứa trẻ nào cũng biết là một nước sẽ chết đói nếu ngừng lao động,
tôi không nói trong một năm mà ngay trong một vài tuần lễ bởi
một chân lý đơn giản là “Người ta phải có khả năng sống đã rồi
mới có thể “làm ra lịch sử”. Nhưng muốn sống được phải có thức
ăn, thức uống, nhà ở, quần áo và một vài thứ khác nữa [81, tr.40].
Và để có thức ăn, nước uống, quần áo, nhà ở… thì con người cần
phải lao động sản xuất. Chính trong quá trình lao động sản xuất con người
đã thực hiện mối quan hệ song trùng, một mặt là mối quan hệ giữa con
người với tự nhiên, mặt khác là mối quan hệ giữa con người với con người.
Lúc đầu, C.Mác, Ph.Ăngghen gọi đây là hình thức giao tiếp. Sau này,
C.Mác và Ph.Ăngghen mới chính thức sử dụng khái niệm QHSX, quan hệ
sản xuất mang tính ổn định tương đối trong bản chất xã hội của nó. Chính
vì thế mà C.Mác đã khẳng định:
40
Tổng hợp lại thì những quan hệ sản xuất hợp thành cái mà người ta
gọi là những quan hệ sản xuất, là xã hội, và hơn nữa hợp thành một
xã hội ở vào một giai đoạn phát triển lịch sử nhất định, một xã hội
có tính chất độc đáo riêng biệt. Xã hội cổ đại, xã hội phong kiến, xã
hội tư bản đều là tổng thể quan hệ sản xuất như vậy, mỗi tổng thể
đó đồng thời lại đại biểu cho một giai đoạn phát triển đặc thù trong
lịch sử nhân loại [83, tr.553].
Với quan niệm đó, C.Mác đã lấy QHSX với tư cách một tổng thể làm
tiêu chuẩn để trực tiếp phân biệt những giai đoạn phát triển đặc thù trong lịch
sử nhân loại, phân biệt những hình thái khác nhau của xã hội. Quan hệ sản
xuất là cái tạo thành cơ sở kinh tế của xã hội, là cơ sở hiện thực của hoạt động
sản xuất tinh thần của toàn bộ những quan hệ tư tưởng, tinh thần và những
thiết chế tương ứng trong xã hội. Trong Lời tựa viết cho tác phẩm Góp phần
phê phán khoa kinh tế chính trị, C.Mác viết: “Toàn bộ những quan hệ sản
xuất… hợp thành cơ cấu kinh tế của xã hội, tức là cái cơ sở hiện thực trên đó
dựng lên một kiến trúc thượng tầng pháp lý và chính trị và những hình thái ý
thức xã hội nhất định tương ứng với cơ sở hiện thực đó” [84, tr.15]. Như vậy,
theo C.Mác toàn bộ những QHSX xã hội tồn tại hiện thực trong mỗi phương
thức sản xuất “hợp thành” cơ cấu kinh tế của xã hội. Từ trong toàn bộ những
quan hệ xã hội hiện tồn, C.Mác đã chỉ ra QHSX là cái cơ bản, quyết định mọi
quan hệ khác của xã hội. Vậy là, muốn nghiên cứu một xã hội nào đó, chúng
ta phải xuất phát từ QHSX trong xã hội.
Nói cách khác QHSX là “bộ xương” trong mỗi hình thái kinh tế - xã
hội. Nếu LLSX là cái cấu thành nền tảng vật chất của toàn bộ lịch sử nhân
loại, thì QHSX là cái tạo thành cơ sở kinh tế của xã hội, là cơ sở hiện thực của
hoạt động sản xuất tinh thần của toàn bộ những quan hệ tư tưởng, tinh thần và
những thiết chế tương ứng trong xã hội. QHSX xét trong nội bộ phương thức
sản xuất, là hình thức phát triển của LLSX; mặt khác, xét trong tổng thể các
quan hệ xã hội thì QHSX “hợp thành” cơ sở kinh tế của xã hội, tức là cái cơ
41
sở hiện thực, trên đó người ta dựng lên kiến trúc thượng tầng tương ứng với
cơ sở thực tại đó.
Như vậy, quan hệ sản xuất theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin
có thể được trình bày một cách khái quát như sau:
Quan hệ sản xuất là khái niệm của chủ nghĩa duy vật lịch sử, dùng để
chỉ mối quan hệ giữa người với người trong quá trình sản xuất vật chất. Đây
là quan hệ kinh tế cơ bản, nó đặc trưng cho một chế độ xã hội nhất định.
Quan hệ sản xuất gồm ba mặt: quan hệ về sở hữu đối với tư liệu sản xuất,
quan hệ trong tổ chức, quản lý sản xuất, quan hệ trong phân phối sản phẩm
lao động.
* Kết cấu của quan hệ sản xuất
Khái niệm trên cho thấy, quan hệ sản xuất gồm có ba mặt cơ bản như
sau: quan hệ giữa người với người trong sở hữu tư liệu sản xuất, trong tổ
chức, quản lý sản xuất, trong phân phối sản phẩm lao động làm ra. Trong ba
mặt của quan hệ sản xuất, quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất là quan hệ xuất
phát, quan hệ cơ bản, đặc trưng cho quan hệ sản xuất trong từng xã hội. Quan
hệ sở hữu về tư liệu sản xuất quyết định quan hệ trong tổ chức, quản lý sản
xuất, quan hệ phân phối sản phẩm cũng như các quan hệ xã hội khác.
Về quan hệ sở hữu tư liệu sản xuất
Trong tác phẩm Hệ tư tưởng Đức, C.Mác đã chỉ ra vai trò quyết định
của quan hệ sở hữu trong quá trình sản xuất. Bởi C.Mác cho rằng, trong tất cả
các giai đoạn phát triển sản xuất trong lịch sử dù có khác nhau thế nào đi nữa,
muốn sản xuất được thì hai nhân tố cơ bản của sản xuất là người lao động và
tư liệu sản xuất phải kết hợp được với nhau. Chừng nào hai nhân tố đó còn bị
tách rời nhau, thì cả hai chỉ là những nhân tố trong trạng thái khả năng của
sản xuất mà thôi. Từ đó C.Mác khẳng định phương pháp đặc thù để thực hành
sự kết hợp ấy, chính là cái dùng để phân biệt các thời kỳ kinh tế khác nhau mà
kết cấu xã hội đã trải qua. Do vậy, sự phát triển của mối quan hệ giữa lao
động và sở hữu bao giờ cũng cần được nghiên cứu dưới góc độ là mối quan
42
hệ giữa các nhân tố khách quan (các tư liệu sản xuất) với các nhân tố chủ
quan (các cá nhân) trong quá trình sản xuất. Điều này được thể hiện cụ thể
trong Hệ tư tưởng Đức, khi ông phân tích các giai đoạn phát triển khác nhau
về sản xuất trong lịch sử.
V.I.Lênin đã có nhiều đóng góp, phát triển về vấn đề QHSX trong thời
kỳ quá độ lên CNXH. Từ thực tiễn của nước Nga, Lênin đã cụ thể hóa lý luận
về “phát triển rút ngắn” để đi lên CNXH thông qua con đường quá độ gián
tiếp. Theo Lênin, nước Nga - một nước kinh tế còn lạc hậu, tất yếu phải trải
qua một thời kỳ quá độ lâu dài, trong đó QHSX và LLSX có “sự đan xen”
“những mảnh của chủ nghĩa xã hội” với “những mảnh của chủ nghĩa tư bản”.
Trạng thái ấy làm cho các yếu tố của CNXH và các yếu tố của CNTB vừa đấu
tranh, cạnh tranh với nhau, vừa nương tựa, thâm nhập vào nhau. Mối quan hệ
chủ đạo giữa “các mảnh” hay các thành phần kinh tế đó, là QHSX, trao đổi,
lưu thông trên cơ sở của trao đổi hàng hóa theo nguyên tắc thị trường.
Quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất (thường biểu hiện thành chế độ sở
hữu) là đặc trưng cơ bản của mỗi hình thái kinh tế - xã hội nhất định, từ quan
hệ sở hữu về tư liệu sản xuất sẽ hình thành nên các quan hệ khác trong hệ
thống quan hệ sản xuất của một xã hội nhất định. Khi lực lượng sản xuất thay
đổi thì quan hệ sở hữu cũng thay đổi theo, lực lượng sản xuất ở một trình độ
nhất định sẽ xác lập nên một quan hệ sở hữu tương ứng với nó. Theo C. Mác
trình độ phát triển của lực lượng sản xuất của mỗi dân tộc biểu lộ ra rõ nhất ở
trình độ phát triển của phân công lao động xã hội:
Những giai đoạn phát triển khác nhau của sự phân công lao động xã
hội cũng đồng thời là những hình thức khác nhau của sở hữu, nghĩa
là mỗi giai đoạn của phân công lao động cũng quy định những quan
hệ cá nhân với nhau tùy theo quan hệ của họ với tư liệu lao động,
công cụ lao động và sản phẩm lao động [81, tr.31].
Trong lịch sử của xã hội loài người có hai hình thức sở hữu chủ yếu về
tư liệu sản xuất là công hữu và tư hữu. Sở hữu công cộng về tư liệu sản xuất
43
xuất hiện trong xã hội cộng sản nguyên thủy và sở hữu tư nhân xuất hiện ở
các chế độ xã hôi như: chiếm hữu nô lệ, phong kiến và tư bản chủ nghĩa.
Cùng với sự phát triển của LLSX, chế độ tư hữu tất yếu sẽ bị phủ định bởi
chế độ công hữu mới tiến bộ hơn.
C.Mác viết:
Nền sản xuất tư bản chủ nghĩa lại đẻ ra sự phủ định của bản thân
nó, với một tính tất yếu của quá trình tự nhiên. Đó là sự phủ định
cái phủ định. Sự phủ định này không khôi phục lại chế độ tư hữu,
mà khôi phục lại chế độ sở hữu cá nhân trên cơ sở những thành tựu
của thời đại tư bản chủ nghĩa: trên cơ sở sự hiệp tác và sự chiếm
hữu công cộng đối với ruộng đất và những tư liệu sản xuất chính
lao động làm ra [85, tr.159-160].
Quan hệ trong tổ chức, quản lý sản xuất
Quan hệ này thể hiện quyền lực của một cá nhân, tổ chức hay cộng
đồng đối với quá trình sản xuất. Mỗi chế độ kinh tế - xã hội đều có một chế
độ tổ chức, quản lý sản xuất riêng. Về thực chất, tổ chức quản lý là việc điều
khiển và tổ chức cách thức vận động của một nền sản xuất nhất định. Người
có quyền tổ chức sản xuất là người quyết định các vấn đề: sản xuất như thế
nào, sản xuất sản phẩm gì và sản xuất cho ai, số lượng bao nhiêu…
Quan hệ tổ chức quản lý phụ thuộc vào trình độ của lực lượng sản xuất
và phụ thuộc vào quan hệ sở hữu tư liệu sản xuất. Điều này được minh chứng
trong lịch sử: nếu như trong xã hội cộng sản nguyên thủy có hình thức tự
quản, thì trong chế độ chiếm hữu nô lệ, phong kiến và tư bản chủ nghĩa, chế
độ tổ chức, quản lý lại mang hình thức khác thích hợp với trình độ của lực
lượng sản xuất và chế độ tư hữu. Trong chế độ sở hữu này thì người chiếm
hữu tư liệu sản xuất trở thành kẻ tổ chức, quản lý sản xuất, người không có tư
liệu sản xuất trở thành người bị quản lý, lao động sản xuất theo sự tổ chức,
lãnh đạo của kẻ sở hữu tư liệu sản xuất. Trong chế độ XHCN thì chế độ tổ
chức, quản lý hoàn toàn khác. Người lao động ở địa vị làm chủ, quan hệ giữa
44
người với người trong sản xuất là hợp tác, bình đẳng. Do đó, việc tổ chức và
quản lý sản xuất được tiến hành theo chế độ tập trung, dân chủ.
Tuy nhiên, khi chưa có chủ nghĩa xã hội phát triển đầy đủ, tức là thời
kỳ quá độ lên CNXH, khi lực lượng sản xuất còn nhiều hạn chế, chế độ công
hữu chưa thực sự được xác lập tuyệt đối thì việc tổ chức, quản lý sản xuất
phải có sự linh hoạt, sáng tạo và cũng cần học hỏi kinh nghiệm, kế thừa thành
tựu của chủ nghĩa tư bản.
Quan hệ trong phân phối sản phẩm lao động
Quan hệ phân phối sản phẩm là một mặt của quan hệ sản xuất, việc
phân phối sản phẩm cho mỗi cá nhân được xác định trên cơ sở tỷ lệ tham dự
của cá nhân vào sản phẩm sản xuất ra. Tuy nhiên, tỷ lệ đó như thế nào lại do
bản chất của mỗi chế độ xã hội quy định. Quan hệ phân phối sản phẩm chịu
sự quy định của quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất và quan hệ tổ chức quản
lý, song nó kích thích trực tiếp đến lợi ích của người lao động, cho nên nó
tác động đến thái độ của con người trong lao động sản xuất, và do đó nó có
thể thúc đẩy hoặc kìm hãm sản xuất. Nếu lợi ích của người tham gia lao
động được bảo đảm, phân phối công bằng thì họ sẽ có thái độ tích cực trong
quá trình sản xuất, do vậy sẽ làm cho năng suất lao động cao và thúc đẩy sản
xuất phát triển. Ngược lại, nếu quan hệ phân phối không phù hợp, tức là
không bảo đảm lợi ích cho những người tham gia vào quá trình sản xuất, khi
đó người lao động có thái độ không tích cực, từ đó dẫn đến kìm hãm sản
xuất phát triển.
* Cơ cấu của các quan hệ sản xuất trong một hình thái kinh tế - xã hội
Trong mỗi hình thái kinh tế-xã hội nhất định bao giờ cũng bao gồm
nhiều quan hệ sản xuất khác nhau, để tạo thành cơ sở hạ tầng của một xã hội
nhất định. Các quan hệ sản xuất đó, có sự tác động qua lại với nhau để tạo
thành một cơ cấu kinh tế nhất định.
Một xã hội cụ thể thường bao gồm có ba loại quan hệ sản xuất cơ bản
đó là; quan hệ sản xuất thống trị, quan hệ sản xuất tàn dư của xã hội cũ và
45
quan hệ sản xuất mầm mống của xã hội tương lai. Trong đó, quan hệ sản xuất
thống trị bao giờ cũng giữ vai trò chủ đạo, chi phối các quan hệ sản xuất khác,
nó quy định xu hướng chung của đời sống kinh tế - xã hội và tạo ra cơ sở hạ
tầng của một xã hội cụ thể, để phân biệt xã hội này với xã hội khác. Tuy
nhiên, quan hệ sản xuất tàn dư và quan hệ sản xuất mầm mống cũng có vai trò
nhất định và có sự tác động trở lại quan hệ sản xuất đóng vai trò chủ đạo.
2.1.1.2. Quan niệm về quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa của các
nhà kinh điển Mác - Lênin và một số Đảng Cộng sản
* Quan niệm của chủ nghĩa Mác - Lênin về quan hệ sản xuất xã hội
chủ nghĩa
Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin mỗi một hình thái kinh tế - xã
hội được đặc trưng bởi một quan hệ sản xuất nhất định, đó là quan hệ sản xuất
thống trị để tạo thành đặc trưng của một cơ sở hạ tầng nào đó. Quan hệ sản xuất
này được hình thành một cách khách quan do trình độ của LLSX quy định.
Đặc trưng của quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa về mặt sở hữu, theo
chủ nghĩa C.Mác là: thủ tiêu chế độ tư hữu, xác lập chế độ công hữu về tư
liệu sản xuất thể hiện bản chất ưu việt, tiến bộ của chủ nghĩa xã hội, tạo ra cơ
sở kinh tế để xây dựng một xã hội công bằng, bình đẳng, tiến bộ. Đây là một
quá trình khó khăn, lâu dài, phức tạp, không thể ngay lập tức có được. Trong
tác phẩm Những nguyên lý của chủ nghĩa cộng sản, Ăngghen đã từng khẳng
định điều đó khi trả lời câu hỏi:
Liệu có thể thủ tiêu chế độ tư hữu ngay lập tức được không? Không
thể được, cũng như không thể làm cho lực lượng sản xuất hiện có tăng
lên ngay lập tức đến mức cần thiết để xây dựng một nền kinh tế công
hữu. Cho nên, cuộc cách mạng của giai cấp vô sản đang có triệu
chứng là sắp nổ ra, sẽ chỉ có thể cải tạo xã hội hiện nay một cách dần
dần, và chỉ khi nào đã tạo nên được một khối lượng tư liệu sản xuất
cần thiết cho việc cải tạo đó thì khi ấy mới thủ tiêu được chế độ tư hữu
[82, tr.469].
46
Một mặt, các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác-Lênin chỉ rõ đặc trưng
của quan hệ sản xuất XHCN là từng bước thiết lập chế độ công hữu về tư
liệu sản xuất, mặt khác về quan hệ tổ chức, quản lý, các ông cũng chỉ rõ: tổ
chức sản xuất của CNXH phải cao hơn CNTB để tăng năng suất lao động.
Lênin khẳng định: sau khi giai cấp vô sản đã làm xong nhiệm vụ giành được
chính quyền rồi “thì tất nhiên có một nhiệm vụ căn bản khác được đặt lên
hàng đầu, đó là: thiết lập một chế độ xã hội cao hơn chủ nghĩa tư bản, nghĩa
là phải tăng năng suất lao động, phải tổ chức lao động theo một trình độ cao
hơn” [66, tr.228-229].
Về tổ chức, quản lý của QHSX XHCN được xác lập trên cơ sở tính tự
nguyện, tự giác khác với tổ chức quản lý của CNTB là bóc lột giá trị thặng
dư. Người khẳng định: “chủ nghĩa cộng sản có nghĩa là năng suất lao động
cao hơn (so với năng suất lao động của chủ nghĩa tư bản) của những người
công nhân tự nguyện, tự giác, liên hiệp với nhau, sử dụng kỹ thuật hiện đại”
[66, tr.25].
Quan hệ trong phân phối của QHSX XHCN theo chủ nghĩa Mác-Lênin
nguyên tắc phân phối theo lao động là nguyên tắc phân phối cơ bản nhất. Đó
là nguyên tắc lao động ngang nhau thì được hưởng ngang nhau, là nguyên tắc,
theo C.Mác, thể hiện sự công bằng trong CNXH.
Tóm lại, các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác- Lênin không đưa ra một
định nghĩa cụ thể, hoàn chỉnh về QHSX XHCN vì thực tiễn xã hội chưa cho
phép. Loài người còn đang ở thời kỳ quá độ từ TBCN lên CNXH, do đó, đây
là vấn đề cần tiếp tục được nghiên cứu.
* Quan niệm của một số Đảng Cộng sản về quan hệ sản xuất xã hội
chủ nghĩa
Trước “đổi mới, mở cửa, cải cách”, hầu hết các Đảng Cộng sản và
Công nhân ở các nước XHCN đều có quan niệm chung về QHSX XHCN là:
xác lập QHSX XHCN được hình thành thông qua cách mạng QHSX, mà cụ
thể là thay đổi triệt để chế độ sở hữu tư nhân bằng sở hữu công cộng dưới hai
47
hình thức toàn dân và tập thể. Các Đảng Cộng sản và Công nhân bị chi phối
quan điểm của Hội nghị các Đảng Cộng sản và Công nhân quốc tế lần thứ
nhất tháng 11/1956 tại Mát-xcơ-va “Thủ tiêu chế độ sở hữu tư bản chủ nghĩa
và xây dựng chế độ sở hữu công cộng, cải tạo nông nghiệp theo chủ nghĩa xã
hội, phát triển kinh tế có kế hoạch” [26, tr.24]. Quan niệm này về cơ bản đã
chi phối trong một thời gian dài việc xây dựng QHSX XHCN ở các nước
XHCN trước đây. Quan hệ sản xuất XHCN mà Liên Xô và các nước Đông
Âu xây dựng theo mô hình kế hoạch hóa tập trung, quan liêu, bao cấp.
Đảng Cộng sản Nam Tư đã không chấp nhận mô hình CNXH tập trung
cao độ kiểu Liên Xô, đưa ra lý luận tự quản XHCN. Lý luận tự quản XHCN
của Nam Tư bao gồm: Lý luận kinh tế tự quản XHCN và Lý luận chính trị tự
quản XHCN. Lý luận kinh tế tự quản XHCN bao gồm: Lý luận về chế độ sở
hữu xã hội. Theo Đảng Cộng sản Nam Tư, sở hữu xã hội sẽ khắc phục được
những hạn chế của sở hữu nhà nước theo mô hình Liên Xô, cũng như sở hữu
của tập đoàn tư bản. Lý luận về tự quản lao động liên hợp - giao quyền quản lý
sản xuất cho người lao động; Lý luận về kết hợp kế hoạch và thị trường
XHCN, công nhận quan hệ hàng hóa - tiền tệ, kết hợp kế hoạch với thị trường,
kế hoạch chỉ đạo thị trường; Lý luận về tái sản xuất mở rộng cho người lao
động mới là người chủ thực sự của tái sản xuất mở rộng. Nhà nước không phải
chủ thể của tái sản xuất mở rộng. Quan niệm này đã thúc đẩy LLSX phát triển
và cũng góp phần xây dựng, củng cố QHSX XHCN. Tuy nhiên, Đảng Cộng
sản Nam Tư giải quyết chưa thỏa đáng mối quan hệ giữa Trung ương và địa
phương trong xây dựng, hoàn thiện QHSX xã hội chủ nghĩa.
Đảng Cộng sản Trung Quốc kể từ khi nước Cộng hòa Nhân dân Trung
Hoa được thành lập, ngay thập kỷ 50 của thế kỷ XX, đã đưa ra quan điểm về
sự điều chỉnh QHSX trong mục tiêu xây dựng CNXH. Tuy nhiên, Trung
Quốc cũng sai lầm trong “đẩy nhanh sở hữu công xã hội nông thôn sang sở
hữu toàn dân” (nhất bình nhị điều). Một số nhà lãnh đạo thế hệ thứ nhất cũng
như một số học giả thời kỳ này như Trần Vân, Tôn Dã Phương, Cố Chuẩn,
48
Vu Quang Viễn, Trác Quýnh đã nêu ra quan điểm đúng về sản xuất hàng hóa;
quy luật giá trị; điều tiết thị trường, song những quan điểm này đã không
được thực hiện bởi quan điểm tả khuynh khi đó về CNXH.
Bước vào cải cách và mở cửa, Trung Quốc coi phát triển “lực lượng
sản xuất tiên tiến” là nền tảng phát triển của Trung Quốc và hoàn thiện thể
chế kinh tế thị trường XHCN là một nhiệm vụ hàng đầu.
Đặc điểm của QHSX XHCN giai đoạn sau 1949 đến trước cải cách và
mở cửa ở Trung Quốc 1978. Ban đầu, sau cách mạng, thể chế kinh tế kế
hoạch ở Trung Quốc được xây dựng theo mô hình của Liên Xô. Thể chế kinh
tế này đã từng phát huy tác dụng tích cực trong hoàn cảnh lịch sử xã hội đặc
biệt thời kỳ đầu mới lập nước. Nhưng do nó loại bỏ quan hệ hàng hóa, tiền tệ,
phủ định tác dụng của cơ chế thị trường nên sự trói buộc của nó đối với sức
sản xuất ngày càng rõ rệt. Trong thời gian lâu dài, Trung Quốc thực hiện cơ
chế kinh tế kế hoạch một cách chặt chẽ, coi quan hệ hàng hóa tiền tệ và kinh
tế thị trường là thuộc phạm trù TBCN. Vì vậy, kinh tế tư nhân, cơ chế thị
trường, kinh tế thị trường không được thừa nhận. Để xây dựng mô hình kinh
tế kế hoạch hóa tập trung, trong cải tạo XHCN ở Trung Quốc, chế độ công
hữu đã được nhanh chóng xác lập. Xuất phát từ quan điểm cho rằng nền kinh
tế càng thuần khiết XHCN càng tốt và quy mô các tổ chức kinh tế XHCN
càng lớn càng tốt, nên các loại hình kinh tế tư nhân ở Trung Quốc bị nhanh
chóng xóa bỏ. Lịch sử cho thấy, việc xác lập QHSX mới, cần phải nhận thức
đầy đủ đặc điểm kinh tế - xã hội của thời kỳ quá độ lên CNXH, phải thực sự
tôn trọng quy luật QHSX phải phù hợp với trình độ của LLSX. Ở Trung Quốc
thời kỳ này, do nhận thức không đúng nên phạm sai lầm đòi xóa bỏ sản xuất
hàng hóa, xóa bỏ quan hệ hàng hóa - tiền tệ, chỉ chú trọng việc thay đổi
QHSX, hoàn toàn coi nhẹ phát triển LLSX.
Đặc điểm của QHSX từ cải cách và mở cửa ở Trung Quốc 1978 đến
nay. Bước đột phá là quan điểm về phát triển kinh tế phi công hữu, Kinh tế
phi công hữu của Trung Quốc, từ chỗ là đối tượng cách mạng trước cải cách
49
mở cửa, đến Đại hội Đảng lần thứ XIII (1987) đã được xác định là sự bổ sung
cần thiết cho nền kinh tế công hữu; từ chỗ được xác định là thành phần quan
trọng cấu thành nên kinh tế thị trường XHCN và được đưa vào chế độ kinh tế
cơ bản trong thời kỳ đầu của CNXH tại Đại hội Đảng lần thứ XVI (năm
2002) đã được xếp ngang với kinh tế công hữu, và trở thành đối tượng được
khuyến khích, ủng hộ và định hướng. Đến năm 1992, Trung Quốc chính thức
thừa nhận thể chế kinh tế thị trường với việc xây dựng nền kinh tế thị trường
XHCN. Thể chế kinh tế thị trường Trung Quốc được hình thành dưới sự lãnh
đạo của Đảng Cộng sản và trong điều kiện chính trị của chính quyền dân chủ
nhân dân. Kinh tế thị trường XHCN hoạt động có sự kết hợp với chế độ kinh
tế cơ bản trong đó công hữu là chủ thể, các thành phần kinh tế khác nhau
cùng phát triển. Kinh tế thị trường XHCN thực hiện nguyên tắc XHCN cùng
nhau giàu có.
Tóm lại, các Đảng Cộng sản trên thế giới có sự nhìn nhận và vận dụng
học thuyết của chủ nghĩa Mác - Lênin một cách khác nhau về QHSX XHCN.
Liên Xô và các nước Đông Âu trước kia cho rằng đó là cơ chế kế hoạch hóa
tập trung, còn Nam Tư cho rằng đó là chế độ tự quản, Trung quốc lại cho rằng
cả công hữu và tư hữu đều quan trọng.
Các Đảng Cộng sản trên thế giới đều có điểm chung là thừa nhận quan
hệ sản xuất XHCN phải dựa trên chế độ công hữu về tư liệu sản xuất, quan
hệ quản lý và phân phối trước kia là cơ chế kế hoạch hóa tập trung, quan
liêu bao cấp, còn ngày nay quan hệ tổ chức quản lý và quan hệ phân phối là
kinh tế thị trường.
* Quan niệm của Đảng Cộng sản Việt Nam về quan hệ sản xuất xã hội
chủ nghĩa
Trước đổi mới (1986 Đảng ta đã nhấn mạnh vai trò mở đường của
QHSX XHCN, tập trung vào hoàn thiện QHSX khi trình độ của LLSX còn
thấp. Đại hội II (1960) chủ trương “phải lấy cải tạo xã hội chủ nghĩa làm
trọng tâm, nhằm cải tạo những quan hệ sản xuất không xã hội chủ nghĩa, mở
50
đường cho sức sản xuất phát triển, đồng thời tiến hành một bước việc xây
dựng chủ nghĩa xã hội” [35, tr.2]. Sau năm 1975, cả nước xây dựng CNXH,
Đảng ta chủ trương tiếp tục hoàn thiện QHSX XHCN ở miền Bắc, cải tạo
XHCN ở miền Nam. Cũng như ở miền Bắc trước đây, công cuộc cải tạo
XHCN ở miền Nam vẫn chủ yếu tập trung vào vấn đề sở hữu. Đại hội VI của
Đảng đã nhận thấy “Về nội dung cải tạo thường nhấn mạnh việc thay đổi
quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất mà không coi trọng vấn đề tổ chức quản lý
và chế độ phân phối” [27, tr.22].
Việc nhận thức và vận dụng sai quy luật này đã làm cho kinh tế khủng
hoảng, đời sống nhân dân khó khăn, kinh tế không phát triển. Đứng trước tình
hình đó, Đảng ta đã thực hiện sự nghiệp đổi mới (1986). Trên tinh thần đổi
mới, Đảng ta đã nhận thấy “Trong nhận thức cũng như trong hành động,
chúng ta chưa thực sự thừa nhận cơ cấu kinh tế nhiều thành phần, chưa nắm
vững và vận dụng đúng quy luật về sự phù hợp giữa quan hệ sản xuất với tính
chất và trình độ của lực lượng sản xuất” [27, tr.23].
Từ Đại hội VI, Đảng ta đã có những nhận thức mới về việc vận dụng
quy luật QHSX phù hợp trình độ phát triển của LLSX. Đến Đại hội IX, Đảng
ta đã nêu cụ thể:
Phát triển lực lượng sản xuất hiện đại gắn liền với xây dựng quan
hệ sản xuất phù hợp trên cả ba mặt sở hữu, quản lý và phân phối.
Tiêu chuẩn để đánh giá hiệu quả căn bản xây dựng quan hệ sản xuất
theo định hướng xã hội chủ nghĩa là thúc đẩy phát triển lực lượng
sản xuất, cải thiện đời sống nhân dân [30, tr.86-87].
Điều quan trọng là Đảng ta đã chú ý quan hệ biện chứng giữa LLSX
và QHSX và xây dựng QHSX trên cả ba mặt: sở hữu, quản lý và phân phối.
Trước đây, đã có lúc chúng ta tuyệt đối hóa quan hệ về sở hữu đối với tư
liệu sản xuất, chưa đánh giá đúng vai trò của quan hệ tổ chức, quản lý sản
xuất và quan hệ phân phối sản phẩm. Hạn chế này đã được khắc phục trong
nhận thức cũng như trong vận dụng xây dựng QHSX XHCN ở nước ta hiện
51
nay. Ngay trong quan hệ sở hữu đối với tư liệu sản xuất, hiện nay chúng ta
cũng đổi mới nhận thức. Cụ thể là chúng ta đã thực hiện đa dạng hóa quan
hệ sở hữu đối với tư liệu sản xuất, trong đó công hữu về tư liệu sản xuất chủ
yếu. Đa dạng hóa về sở hữu đối với tư liệu sản xuất gắn liền với đa dạng hóa
đối tượng sở hữu và đa dạng hóa quan hệ sở hữu. Về quản lý, nếu như trước
đổi mới chúng ta duy trì cơ chế tập trung, bao cấp thì trong quá trình đổi mới
chuyển sang cơ chế thị trường định hướng XHCN có sự quản lý của Nhà
nước nhằm giải phóng mọi tiềm năng sản xuất kinh doanh trong xã hội. Đại
hội XI của Đảng cũng nhấn mạnh “Trong nền kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa, cơ chế thị trường phải được vận dụng đầy đủ, linh hoạt để
phát huy mạnh mẽ và có hiệu quả mọi nguồn lực nhằm phát triển nhanh và
bền vững nền kinh tế, nâng cao đời sống nhân dân” [33, tr.205].
Về phân phối, trước đổi mới, chúng ta thực hiện chế độ phân phối bình
quân, cào bằng. Cơ chế phân phối đó phù hợp trong điều kiện đấu tranh giải
phóng miền Nam thống nhất Tổ quốc. Nhưng trong điều kiện hòa bình, cơ chế
phân phối này đã chưa thật chú trọng đến lợi ích của người lao động, làm giảm,
thậm chí triệt tiêu động lực phát triển sản xuất, kinh doanh. Từ khi đổi mới
(1986) Đảng ta chủ trương đa dạng hóa các hình thức phân phối. Đại hội XI
nhấn mạnh:
Quan hệ phân phối đảm bảo công bằng và tạo động lực cho phát
triển; các nguồn lực được phân bổ theo chiến lược quy hoạch, kế
hoạch phát triển kinh tế - xã hội; thực hiện chế độ phân phối chủ
yếu theo kết quả lao động, hiệu quả kinh tế, đồng thời theo mức
đóng góp vốn cùng các nguồn lực khác và phân phối theo an sinh
xã hội, phúc lợi xã hội [33, tr.74].
Cùng với công bằng trong phân phối sản phẩm lao động, Đảng ta cũng
yêu cầu thực hiện “công bằng trong phân phối các yếu tố sản xuất, tiếp cận và
sử dụng các cơ hội, điều kiện phát triển” [33, tr.205].
Có thể nói, từ trước đến nay, chúng ta nói nhiều tới quan hệ sản xuất,
tới định hướng xã hội chủ nghĩa, nhưng chưa có văn bản, công trình nào đưa
52
ra định nghĩa, khái niệm về QHSX XHCN, đây là một vấn đề còn mới về mặt
lý luận. Trên cơ sở các văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc và các văn kiện khác
của Đảng, cùng với thực tiễn cách mạng nước ta, chúng ta có thể hiểu khái
niệm QHSX XHCN như sau:
Quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa ở nước ta là một loại hình quan hệ
sản xuất dựa trên cơ sở: công hữu về tư liệu sản xuất chủ yếu, quan hệ tổ
chức quản lý đó là nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, với
sự đa dạng về hình thức phân phối: Phân phối theo lao động, theo vốn đóng
góp và theo phúc lợi xã hội, trong đó phân phối theo lao động là hình thức
cơ bản nhất.
Quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa ở nước ta được thể hiện tập trung ở
hai thành phần kinh tế là: kinh tế nhà nước và kinh tế tập thể.
Đảng khẳng định: “Kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo. Kinh tế tập
thể không ngừng được củng cố và phát triển. Kinh tế nhà nước cùng với kinh
tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân”
[33, tr.73-74].
Chúng tôi nhất trí với quan điểm của Đảng, khi khẳng định QHSX
XHCN được thể hiện tập trung ở hai thành phần kinh tế là: kinh tế nhà nước
và kinh tế tập thể. Đặc thù của Việt Nam đi lên CNXH từ một nước LLSX
thấp kém, bỏ qua chế độ TBCN, do đó chúng ta chưa thể có ngay QHSX
XHCN mà phải trải qua một thời kỳ quá độ lâu dài để xây dựng, chỉ khi nào
chúng ta có CNXH có hình thái KT-XH Cộng sản phát triển đầy đủ thì mới có
QHSX XHCN theo nghĩa đầy đủ.
Hiện nay, quan niệm về quan hệ sản xuất XHCN còn có nhiều ý kiến
khác nhau chẳng hạn vấn đề công hữu về tư liệu sản xuất có thể hiểu đó là: sở
hữu toàn dân, sở hữu nhà nước và sở hữu tập thể tương ứng với trình độ khác
nhau của LLSX. Ở nước ta do trình độ của LLSX còn thấp do vậy chưa có
công hữu theo đúng nghĩa bởi vì sở hữu là do trình độ của LLSX quy định.
Chính vì vậy, bàn về QHSX XHCN là một vấn đề khó khăn, khái niệm trên
53
còn chưa hoàn thiện, chưa đầy đủ, QHSX XHCN còn có sự vận động, biến
đổi trong thời kỳ quá độ lên CNXH. Tuy nhiên, chúng tôi phải nhận diện để
đi vào nghiên cứu, khảo sát. Chúng tôi cho rằng: công hữu ở Việt Nam hiện
nay, được biểu hiện trong sở hữu nhà nước và sở hữu tập thể tương ứng với
hai thành phần kinh tế là: kinh tế nhà nước và kinh tế tập thể.
Gần đây một số học giả sử dụng khái niệm khu vực kinh tế thay cho
khái niệm thành phần kinh tế; chẳng hạn như: khu vựu kinh tế nhà nước, khu
vực kinh tế ngoài nhà nước. Khái niệm khu vực kinh tế có những ưu điểm là;
Trong nền kinh tế nhiều thành phần với quan điểm các thành phần kinh tế đều
bình đẳng trước pháp luật thì khái niệm khu vực kinh tế làm cho các thành
phần kinh tế bình đẳng với nhau. Tuy nhiên, khái niệm khu vực kinh tế chỉ
cho ta biết về mặt phạm vi của một khu vực kinh tế nào đó là rộng hay hẹp
trong nền kinh tế chứ không đề cập nhiều tới ai là chủ sở hữu của khu vực đó,
do đó các thành phần kinh tế được coi là bình đẳng với nhau. Mặt khác, khái
niệm khu vực kinh tế cũng có mặt bất cập đó là; không nghiên cứu tới chủ thể
sở hữu, cách thức tổ chức sản xuất và phân phối sản phẩm như thế nào. Hơn
nữa, thành phần kinh tế tập thể thường được xếp vào khu vực ngoài nhà nước,
tức là đồng nhất với thành phần kinh tế tư nhân. Điều này không đúng về mặt
sở hữu cũng như quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về quan hệ sản xuất.
Trong luận án này, chúng tôi sử dụng khái niệm thành phần kinh tế vì
nó cho phép ta tiếp cận dưới góc độ quan hệ sản xuất để nghiên cứu.
Như vậy, quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam thể hiện tập
trung ở hai thành phần là: kinh tế nhà nước và kinh tế tập thể.
2.1.2. Vai trò của quan hệ sản xuất chủ nghĩa xã hội trong thời kỳ
đổi mới ở Việt Nam
2.1.2.1. Vai trò của quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa đối với sự
phát triển của lực lượng sản xuất ở Việt Nam trong thời kỳ đổi mới
Trong mối quan hệ giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất thì lực
lượng sản xuất giữ vai trò quyết định, chi phối. Tuy nhiên, quan hệ sản xuất
54
có tính độc lập tương đối, tác động mạnh mẽ tới sự phát triển của lực lượng
sản xuất, điều đó được thể hiện:
Thứ nhất, quan hệ sản xuất thúc đẩy mạnh mẽ lực lượng sản xuất phát
triển khi nó phù hợp với trình độ của lực lượng sản xuất.
Sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ của lực lượng sản xuất là
một trạng thái mà trong đó tất cả các mặt của quan hệ sản xuất đều “tạo địa
bàn” cho lực lượng sản xuất phát triển. Nghĩa là, nó tạo điều kiện cho việc sử
dụng và kết hợp một cách tối ưu giữa người lao động với tư liệu sản xuất,
kích thích tính tích cực, năng động, sáng tạo, nhiệt tình của người lao động;
kích thích việc ứng dụng khoa học, công nghệ, đổi mới kỹ thuật, quản lý…
tạo điều kiện cho việc giải phóng, huy động, khai thác, tư liệu sản xuất. Nó
đem lại sự kết hợp hài hòa giữa người lao động và tư liệu sản xuất để đem lại
năng suất lao động cao, thúc đẩy sản xuất phát triển.
Sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ của lực lượng sản xuất là
một yêu cầu khách quan đối với sự phát triển của lực lượng sản xuất; lực
lượng sản xuất chỉ có thể phát triển được khi có quan hệ sản xuất phù hợp,
nếu quan hệ sản xuất không phù hợp thì lực lượng sản xuất bị kìm hãm, nền
sản xuất sẽ trì trệ.
Thứ hai, quan hệ sản xuất sẽ kìm hãm lực lượng sản xuất khi nó không
phù hợp với trình độ lực lượng sản xuất.
Tuy đây không phải là yếu tố quyết định trong phương thức sản xuất,
nhưng quan hệ sản xuất cũng có những tác động không nhỏ tới sự phát triển
của lực lượng sản xuất. C,Mác viết: “khi có những lực lượng sản xuất mới
con người cũng thay đổi phương thức sản xuất của mình, và cùng với phương
thức sản xuất thì họ cũng thay đổi các quan hệ kinh tế đã từng là quan hệ tất
yếu…” [86, tr.659]. Chính tính độc lập tương đối của quan hệ sản xuất đã làm
cho quá trình thay đổi đó nhiều khi diễn ra rất khó khăn. Khi không còn phù
hợp với lực lượng sản xuất thì quan hệ sản xuất trở thành lực cản rất lớn đối
với sự phát triển của lực lượng sản xuất. C.Mác khẳng định rằng: “từ chỗ là
55
những hình thức phát triển của lực lượng sản xuất, những quan hệ sản xuất ấy
trở thành những xiềng xích của lực lượng sản xuất. Khi đó bắt đầu thời đại
của một cuộc cách mạng xã hội” [84, tr.15].
Mâu thuẫn gay gắt giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất dù sớm
hay muộn thì cũng nổ ra một cuộc cách mạng. Cách mạng biểu hiện ra là một
kết quả tất yếu của sự mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất.
Khi cuộc cách mạng thành công thì ngay lúc đó những quan hệ sản xuất mới
được xác lập vẫn chưa phải đã thực sự hoàn chỉnh. Việc hoàn chỉnh các quan
hệ sản xuất được diễn ra cùng với sự phát triển của thực tiễn, chính trong sự
phát triển của thực tiễn con người mới có điều kiện để nhận thức đầy đủ hơn
về những quan hệ sản xuất mà mình đang xây dựng. Nếu như quá trình xây
dựng xã hội mới, có những yếu tố của những quan hệ sản xuất không phù hợp
dẫn đến mâu thuẫn với lực lượng sản xuất, đòi hỏi phải được giải quyết nhưng
con người không phát hiện được, cũng như mâu thuẫn đã được phát hiện mà
giải quyết không được hoặc giải quyết một cách sai lầm thì tác dụng kìm hãm
của quan hệ sản xuất sẽ trở thành nhân tố phá hoại lực lượng sản xuất.
Tác động của quan hệ sản xuất đối với lực lượng sản xuất rất đa dạng
và phong phú. Do thực tiễn của thời đại, C.Mác-Ănghen chưa bao giờ đặt ra
vấn đề quan hệ sản xuất vượt trước có khả năng kìm hãm sự phát triển của lực
lượng sản xuất. Bởi vì, xuất phát từ thực tiễn châu Âu lúc đó, quan hệ sản
xuất tư bản chủ nghĩa đang tỏ rõ sự lỗi thời nên đã kìm hãm mạnh mẽ sự phát
triển của lực lượng sản xuất và gây ra nhiều hiện tượng xã hội tiêu cực. Do
vậy, các ông tập trung chủ yếu vào việc xóa bỏ quan hệ sản xuất tư bản chủ
nghĩa, mở đường cho lực lượng sản xuất phát triển.
Đến thời kỳ của Lênin, chủ nghĩa xã hội đã từng bước được xây dựng
trên thực tế, từ đó làm nẩy sinh một loạt vấn đề liên quan đến cải tạo quan hệ
sản xuất cũ, xây dựng quan hệ sản xuất mới để thúc đẩy lực lượng sản xuất
phát triển. Trong điều kiện hòa bình xây dựng chủ nghĩa xã hội, Lênin đã
nhận thấy “Chính sách cộng sản thời chiến” tỏ ra không còn phù hợp, từ đó
56
Lênin đi đến quyết định thay thế chính sách đó bằng chính sách kinh tế
mới(NEP). Căn cứ vào điều kiện ở Nga lúc đó, Lênin đã đưa ra cơ cấu kinh tế
nhiều thành phần, trong đó có cả thành phần kinh tế sản xuất nhỏ, chủ nghĩa
tư bản tư nhân và CNXH.
Theo quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam thì: “không chỉ quan hệ
sản xuất lỗi thời, lạc hậu mới kìm hãm tác động tiêu cực đến lực lượng sản
xuất mà ngay cả quan hệ sản xuất vượt quá xa so với trình độ của lực lượng
sản xuất cũng kìm hãm tác động tiêu cực đến lực lượng sản xuất” [30, tr.57].
Quan điểm này đã được thực tiễn Việt Nam chứng minh và nó càng
làm sâu sắc thêm quan điểm của các nhà kinh điển Mác-Lênin rằng quan hệ
sản xuất phải phù hợp với trình độ của lực lượng sản xuất, chỉ có như vậy thì
sản xuất mới phát triển được. Điều đó có nghĩa là mọi trạng thái không phù
hợp của quan hệ sản xuất với trình độ của lực lượng sản xuất sẽ dẫn đến kìm
hãm lực lượng sản xuất.
Bên cạnh đó, do sự quy định của điều kiện kinh tế-xã hội, cho nên, về
cơ bản C.Mác, Ănghen, Lênin đều nhận định quan hệ sản xuất TBCN không
còn tác động tích cực đối với sự phát triển của LLSX nữa, chế độ TBCN đã
lỗi thời và cản trở sự phát triển của LLSX. Tuy nhiên, những năm 70 của thế
kỷ XX trở đi, CNTB đã có những điều chỉnh lớn về quan hệ sản xuất trên cả
ba mặt: sở hữu, tổ chức, quản lý và phân phối sản phẩm lao động theo hướng
ngày càng đa dạng hóa, dân chủ, xã hội hóa. Những điều chỉnh đó đã tạo ra sự
phù hợp ở một mức độ nhất định với lực lượng sản xuất của CNTB, làm cho
năng suất lao động ngày càng cao, LLSX tiếp tục phát triển mạnh mẽ, đời
sống người lao động được cải thiện. Do vậy, CNTB còn có khả năng tồn tại
trong một thời kỳ tương đối lâu dài, do đó, chúng ta có thể nghiên cứu những
yếu tố tiến bộ trong quan hệ sản xuất TBCN, để vận dụng vào việc phát triển
kinh tế trong thời kỳ quá độ lên CNXH ở Việt Nam.
Hiện nay, các nước XHCN cũng đã có những thay đổi lớn về QHSX;
chẳng hạn, sở hữu ngày càng đa dạng hơn, bình đẳng hơn, chủ thể sở hữu
57
được mở rộng; các nước đã sử dụng kinh tế thị trường trong quản lý nền kinh
tế. Các nguyên tắc phân phối sản phẩm ngày càng đa dạng đã kích thích được
vai trò của người lao động trong sản xuất, chế tạo sản phẩm… Nhờ có các
điều chỉnh về QHSX mà đã làm cho sản xuất ngày càng phát triển, đời sống
nhân dân ngày càng được nâng cao.
Cương lĩnh (2011) của Đảng ta nhấn mạnh CNXH mà nhân dân ta xây
dựng sẽ có “quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp” với lực lượng sản xuất hiện
đại. Sự phù hợp của QHSX ở đây là phù hợp với trình độ phát triển của
LLSX. Biểu hiện của sự phù hợp của QHSX với trình độ phát triển của
LLSX được thể hiện ở năng suất lao động xã hội tăng; đời sống của người
lao động không ngừng được nâng cao; điều kiện làm việc của người lao
động được bảo đảm và thường xuyên được cải thiện; công nghệ sản xuất,
dây chuyền, thiết bị sản xuất, phương tiện lao động thường xuyên được đổi
mới, hiện đại hóa, v.v..
Nếu QHSX chỉ phù hợp với trình độ phát triển của LLSX thì chưa đủ
điều kiện để xác định tính chất của xã hội XHCN mà nhân dân ta xây dựng.
Do vậy, điểm mới nổi bật so với những quan điểm trước đây về vấn đề này là
Cương lĩnh (2011) nhấn mạnh và diễn đạt về QHSX phải “tiến bộ phù hợp”.
Tiến bộ của QHSX phải được thể hiện trước hết ở mục đích của nền sản xuất
xã hội, mà đầu tiên là vì người lao động, phục vụ người lao động chứ không
phải vì mục tiêu lợi nhuận tối đa. Đây là điểm khác biệt căn bản của QHSX
XHCN với QHSX TBCN.
Tóm lại, vai trò của QHSX XHCN đối với LLSX được thể hiện là nó có
thể phù hợp với LLSX hoặc không phù hợp với LLSX. Điều này đòi hỏi con
người phải luôn luôn nhận thức được mâu thuẫn giữa LLSX và QHSX để điều
chỉnh cho phù hợp nhằm thúc đẩy LLSX phát triển. Quan hệ sản xuất XHCN ở
nước ta ngoài vai trò thúc đẩy hoặc kìm hàm LLSX còn phải thể hiện được sự
tiến bộ của mình, đúng như Đảng ta đã khẳng định: “có quan hệ sản xuất tiến
bộ, phù hợp với trình độ của lực lượng sản xuất” [34, tr.102-103].
58
2.1.2.2. Vai trò của quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa đối với việc
củng cố, hoàn thiện kiến trúc thượng tầng và định hướng xã hội chủ nghĩa
ở Việt Nam trong thời kỳ đổi mới
Quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa có vai trò quan trọng trong việc
củng cố, hoàn thiện kiến trúc thượng tầng ở Việt Nam.
Cơ sở kinh tế trong thời kỳ quá độ được Đảng, Nhà nước xác định
trong thời kỳ đổi mới đó là; phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần,
vận hành theo cơ chế thị trường dưới sự lãnh đạo của Đảng theo định hướng
xã hội chủ nghĩa. Trong nền kinh tế nhiều thành phần ở nước ta có nhiều
quan hệ sản xuất, nhiều thành phần kinh tế, trong đó Đảng xác định quan hệ
sản xuất XHCN phải dần trở thành nền tảng của nền kinh tế quốc dân.
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH (Bổ
sung, phát triển năm 2011) được Đại hội XI của Đảng thông qua đã nêu tám
đặc trưng của CNXH mà nhân dân ta xây dựng. Trong đó có đặc trưng về
kinh tế: “có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và
quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp” [33, tr.70].
Chủ nghĩa xã hội mà nhân dân ta sau khi xây dựng thành công phải là
xã hội có nền kinh tế phát triển cao. So với Cương lĩnh xây dựng đất nước
trong thời kỳ quá độ lên CNXH (1991), thì cách diễn đạt về đặc trưng kinh tế
có sự khác biệt nhất định. Trong Cương lĩnh (1991) nêu đặc trưng kinh tế như
sau: “Có một nền kinh tế phát triển cao, dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại
và chế độ công hữu về các tư liệu sản xuất chủ yếu” [28, tr.111]. Trong
Cương lĩnh (2011), không sử dụng cụm từ “dựa trên chế độ công hữu về các
tư liệu sản xuất chủ yếu” khi nói về QHSX. Về đặc trưng kinh tế này, Văn
kiện Đại hội X của Đảng ghi: “có nền kinh tế phát triển cao, dựa trên lực
lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển
của lực lượng sản xuất” [31, tr.68]. Đặc trưng kinh tế của CNXH được ghi
trong Cương lĩnh (2011) có sự kế thừa có chọn lọc từ Cương lĩnh (1991) và
Văn kiện Đại hội X của Đảng. Tuy nhiên, Cương lĩnh (2011) đã chú ý hơn tới
59
khía cạnh tiến bộ của QHSX, chứ không chỉ là khía cạnh phù hợp của QHSX
với trình độ phát triển của LLSX.
Việc xây dựng, hoàn thiện QHSX XHCN ở nước ta sẽ góp phần làm
cho kiến trúc thượng tầng ở nước ta từng bước được củng cố và hoàn thiện.
Nó trở thành cơ sở cho sự lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước và phát
huy quyền làm chủ của nhân dân lao động trong thời kỳ quá độ lên CNXH ở
Việt Nam. Quan hệ sản xuất XHCN ở nước ta là lực lượng vật chất để nhà
nước điều tiết vĩ mô nền kinh tế, làm cơ sở để nhà nước thực hiện phân phối
và phân phối lại trong nền kinh tế quốc dân, thực hiện an sinh xã hội và phúc
lợi xã hội tạo ra một xã hội công bằng, bình đẳng trong nền kinh tế thị trường,
để đi tới một xã hội dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn
minh. Chính vì vậy, việc xây dựng, hoàn thiện QHSX XHCN có vai trò quyết
định trong việc củng cố và hoàn thiện kiến trúc thượng tầng ở nước ta.
Vai trò của quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa đối với quá trình phát
triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.
Trong quá trình đổi mới xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta, Đảng
luôn kiên trì thực hiện nhất quán đường lối phát triển nền kinh tế hàng hóa
nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước
theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Từ Đại hội IX đến nay, Đảng xác định
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là mô hình kinh tế tổng quát
của nước ta trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
Kinh tế thị trường định hướng XHCN là mô hình kinh tế vừa tuân thủ
các quy luật khách quan của kinh tế thị trường, vừa chịu sự chi phối bởi các
quy luật kinh tế của CNXH và các yếu tố bảo đảm tính định hướng XHCN do
Đảng Cộng sản lãnh đạo. Mục đích của nền kinh tế thị trường định hướng
XHCN là phát triển LLSX hiện đại, phát triển kinh tế để xây dựng cơ sở vật
chất - kỹ thuật cho CNXH, nâng cao đời sống của nhân dân. Kinh tế thị
trường định hướng XHCN có sự quản lý của nhà nước bằng pháp luật, chiến
lược, quy hoạch, kế hoạch, chính sách, v.v.. Kinh tế thị trường định hướng
60
XHCN thực hiện phân phối chủ yếu theo kết quả lao động, hiệu quả kinh tế,
đồng thời phân phối theo mức đóng góp vốn và các nguồn lực khác vào sản
xuất kinh doanh; thông qua an sinh xã hội và phúc lợi xã hội. Đó chính là
nhằm xây dựng, hoàn thiện QHSX XHCN. Có xây dựng, hoàn thiện từng
bước QHSX XHCN thì mới giữ vững được định hướng XHCN trong nền kinh
tế thị trường.
Đại hội XI của Đảng Cộng sản Việt Nam xác định “Hoàn thiện thể chế
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa” [33, tr.107] là một trong ba
khâu đột phá cho sự phát triển của Việt Nam và nhấn mạnh: “Phát triển nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa với nhiều hình thức sở hữu,
nhiều thành phần kinh tế, hình thức tổ chức kinh doanh và hình thức phân
phối” [33, tr.73]. Trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, Đảng ta
không coi nhẹ kinh tế tư nhân, thậm chí khẳng định “Kinh tế tư nhân là một
trong những động lực của nền kinh tế” [33, tr.74], Đại hội XII nhấn mạnh
“kinh tế tư nhân là một động lực quan trọng của nền kinh tế” [34, tr.103] song
cần quán triệt “Kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo” [34, tr.103].
Quan điểm xuyên suốt của Đảng và Nhà nước ta luôn khẳng định vai
trò chủ đạo của kinh tế nhà nước, đồng thời coi việc bảo đảm và phát huy vai
trò chủ đạo của kinh tế Nhà nước là một trong những nội dung cơ bản để giữ
vững định hướng XHCN trong nền kinh tế thị trường của nước ta. Khẳng định
vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước là lựa chọn đúng đắn và phù hợp với yêu
cầu, mục tiêu và thực tiễn xây dựng chế độ xã hội xã hội chủ nghĩa ở nước ta.
Vai trò đó là tất yếu đối với một quốc gia đang trong quá trình xây dựng và
hoàn thiện nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa vì mục
tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Kinh tế nhà nước
giữ vai trò chủ đạo được chế định trong Hiến pháp là hoàn toàn có cơ sở, chế
định đó là cần thiết cho sự tồn tại hạ tầng kinh tế và QHSX xã hội chủ nghĩa,
là yếu tố định hướng quan trọng cho nền kinh tế phát triển theo đúng mục tiêu
của chế độ. Vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước cùng với sự ổn định của thể
61
chế chính trị sẽ là những yếu tố hợp thành niềm tin cho đầu tư và phát triển,
tạo điều kiện bình đẳng cho các thành phần kinh tế cùng phát triển.
Kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo có thể hiểu một cách khái quát
nhất theo nghĩa có vai trò quyết định trong việc giữ vững định hướng XHCN;
đảm bảo sự ổn định và phát triển kinh tế, chính trị, xã hội của đất nước. Vai
trò chủ đạo của kinh tế nhà nước được thể hiện ở những nội dung cụ thể như:
nắm giữ các ngành, lĩnh vực then chốt, trọng yếu (ngân sách, tín dụng, ngân
hàng, an ninh, quốc phòng…) để phát huy vai trò đòn bẩy, đẩy nhanh tốc độ
tăng trưởng kinh tế và giải quyết các vấn đề xã hội; là lực lượng vật chất quan
trọng để Nhà nước thực hiện chức năng điều tiết và quản lý vĩ mô nền kinh tế
một cách có hiệu quả; tạo nền tảng, sức mạnh vật chất cần thiết để Nhà nước
có thực lực hữu hiệu làm chức năng định hướng cho sự hình thành chế độ xã
hội mới - chế độ XHCN, chủ động triển khai các chính sách phát triển kinh tế
- xã hội, giữ vững an ninh quốc gia, đảm bảo an sinh xã hội, thực hiện công
bằng, xóa đói giảm nghèo, thu ngắn cách biệt giữa thành thị và nông thôn,
giữa các nhóm dân tộc, chăm lo đời sống người lao động có thu nhập thấp,
đối tượng chính sách, nhóm yếu thế… Thiếu thực lực vật chất này thì mọi
chính sách, mọi biện pháp can thiệp của nhà nước vào nền kinh tế không có
thành quả trong hiện thực. Bên cạnh đó, kinh tế nhà nước còn có vai trò quan
trọng trong việc mở đường, tạo môi trường và điều kiện hỗ trợ, thúc đẩy các
thành phần kinh tế khác cùng phát triển theo định hướng XHCN, “dẫn dắt”
những thành phần kinh tế khác đi theo quỹ đạo chính là đề cao lợi ích chung
cho số đông và cho toàn xã hội, hướng đến mục tiêu chung của toàn dân tộc là
dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, đảm bảo phát triển ổn
định và bền vững, gắn tăng trưởng kinh tế với đảm bảo các mục tiêu tốt đẹp
của chế độ xã hội XHCN…, khắc phục được những khiếm khuyết của kinh tế
thị trường tư bản chủ nghĩa như chỉ chú trọng bảo vệ lợi ích cá nhân, chạy
theo hiệu quả kinh tế là chính, tập trung đáp ứng nhu cầu của đối tượng người
giàu, có tiền của, xem nhẹ thậm chí bỏ qua nhu cầu của người nghèo hoặc
62
những đối tượng yếu thế trong xã hội,.. Doanh nghiệp nhà nước là bộ phận
quan trọng của kinh tế nhà nước, giữ vị trí then chốt trong nền kinh tế, là công
cụ vật chất quan trọng để Nhà nước định hướng và điều tiết vĩ mô, làm lực
lượng nòng cốt, góp phần chủ yếu để kinh tế nhà nước thực hiện vai trò chủ
đạo trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Có thể nói, QHSX XHCN có vai trò quan trọng, nó tạo ra cơ sở nền
tảng cho việc củng cố hoàn thiện kiến trúc thượng tầng ở Việt Nam và giữ
vững định hướng XHCN. Đại hội XII vừa qua cũng chỉ rõ, một trong những
mối quan hệ lớn cần được quan tâm và giải quyết tốt trong suốt thời kỳ quá
độ ở nước ta: “Thống nhất nhận thức về nền kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa” [34, tr.102].
2.2. NHỮNG NHÂN TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN SỰ BIẾN ĐỔI CỦA QUAN HỆ
SẢN XUẤT XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở VIỆT NAM TRONG THỜI KỲ ĐỔI MỚI
2.2.1. Lực lượng sản xuất
Trong lịch sử nhân loại, quan hệ sản xuất nói chung và quan hệ sản
xuất xã hội chủ nghĩa nói riêng luôn luôn vận động, biến đổi cùng với sự phát
triển của xã hội, với sự thay đổi của phương thức sản xuất. Sự biến đổi của
quan hệ sản xuất do nhiều yếu tố tác động trước hết là lực lượng sản xuất.
Khuynh hướng của sản xuất vật chất là không ngừng vận động, biến
đổi, phát triển. Sự biến đổi và phát triển đó xét đến cùng là bắt nguồn từ sự
biến đổi và phát triển của lực lượng sản xuất. Sự vận động, phát triển của lực
lượng sản xuất quyết định và làm thay đổi quan hệ sản xuất phù hợp với nó.
Bởi vì, trong quá trình lao động sản xuất người lao động luôn luôn tìm cách
cải tạo công cụ lao động để bớt nặng nhọc và có năng suất cao hơn, đồng
thời người lao động cũng luôn tích lũy kinh nghiệm, hoàn thiện kỹ năng, kỹ
xảo, trên cơ sở ấy sáng tạo ra các công cụ mới để chinh phục tự nhiên, sáng
tạo ra những vật liệu mới, máy móc mới, biến giới tự nhiên thành thiên
nhiên thứ hai của mình, đó cũng là quá trình thúc đẩy lực lượng sản xuất
phát triển không ngừng. Lực lượng sản xuất là do con người tạo ra, nhưng
63
nó tồn tại một cách khách quan không phụ thuộc vào ý muốn chủ quan của
con người, vì:
Thứ nhất, lực lượng sản xuất không phải chỉ do một cá nhân tạo ra, nó
là sản phẩm tổng hợp của sự hợp tác và phân công lao động của cả cộng đồng
tạo ra. Sự hợp tác và phân công lao động ấy không lệ thuộc vào ý muốn của ai
cả, là một tất yếu khách quan của sự phát triển của xã hội. Trong cuốn Hệ tư
tưởng Đức Mác viết:
Lực lượng xã hội, tức lực lượng sản xuất được nhân lên gấp bội và
ra đời từ sự hợp tác và phân công lao động quy định cho những cá
nhân khác nhau - xuất hiện trước những cá nhân ấy, không phải như
một lực lượng kết hợp của bản thân họ, vì bản thân sự kết hợp đó
không phải là tự nguyện, mà là tự nhiên; và sự xuất hiện như một
lực lượng xa lạ, ở bên ngoài họ, lực lượng mà bản thân họ cũng
chẳng biết từ đâu đến và sẽ đi đâu, lực lượng mà do đó họ không
chế ngự được và trái lại, lực lượng ấy đang trải qua một chuỗi đặc
biệt những giai đoạn và những trình độ phát triển chẳng những độc
lập với ý chí ấy và hành động ấy [81, tr.49].
Thứ hai, mỗi một người, một thế hệ không thể lựa chọn lực lượng sản
xuất cho mình, mà kế thừa một cách tự nhiên những lực lượng sản xuất do thế
hệ trước để lại, cho dù anh ta có thích hay không thích điều đó. Mác viết:
Cũng chẳng cần phải nói thêm rằng người ta không được tự do lựa
chọn những lực lượng sản xuất của mình - những lực lượng hợp
thành toàn bộ lịch sử của họ - vì mỗi lực lượng sản xuất, là một lực
lượng sản xuất đã đạt được, tức là sản phẩm của hoạt động đã qua
[86, tr.657].
Lực lượng sản xuất phát triển liên tục và lần lượt trải qua các trình độ:
thủ công, cơ khí, điện khí hóa, điện tử, tự động hóa, tin học hóa.Trình độ thủ
công là trình độ thấp, tồn tại trong các chế độ, cộng sản nguyên thủy, chiếm
hữu nô lệ, xã hội phong kiến. Trình độ cơ khí ra đời cùng với sự ra đời của
64
phương thức sản xuất TBCN, ở trình độ này con người lao động bằng máy
móc làm cho năng suất lao động cao, của cải tăng lên không ngừng. Ngày
nay, con người đã vươn tới trình độ điện khí hóa, điện tử, tin học hóa…
Tương ứng với trình độ của lực lượng sản xuất là tính chất của lực
lượng sản xuất. Trước CNTB là tính chất của lực lượng sản xuất mang tính cá
nhân tương ứng với nó là trình độ thủ công của LLSX. Đến khi máy móc ra
đời, lực lượng sản xuất ở trình độ cơ khí thì tính chất của LLSX mang tính xã
hội, do sự phân công và hợp tác trong lao động sản xuất, do vậy, những người
sản xuất phải hợp tác, trao đổi sản phẩm cho nhau tạo ra tính chất xã hội của
LLSX. Ngày nay, cùng với sự phát triển của LLSX thì tính chất của LLSX
ngày càng được xã hội hóa sâu sắc và mang tính quốc tế hóa cao độ.
Cùng với sự phát triển của LLSX thì QHSX cùng vận động, phát triển
theo cho phù hợp. Sự phù hợp của QHSX đối với trình độ của LLSX là một
tất yếu khách quan nó do trình độ của LLSX quy định. Sự phù hợp của QHSX
với trình độ của LLSX là một trạng thái mà trong đó QHSX là hình thức phát
triển của LLSX. Trong trạng thái đó, tất cả các mặt của QHSX đều tạo địa
bàn đầy đủ cho LLSX phát triển. Điều đó có nghĩa là nó tạo điều kiện sử dụng
và kết hợp một cách tối ưu giữa người lao động và tư liệu sản xuất để đem lại
năng suất lao động cao.
Sự phù hợp của QHSX với trình độ của LLSX diễn ra theo một quá
trình: phù hợp - không phù hợp- phù hợp. Bởi vì, khi tư liệu sản xuất phát
triển, người lao động được nâng cao về trình độ làm cho LLSX được nâng lên
một trình độ mới, trong khi đó QHSX phát triển chậm hơn vì nó gắn với các
thiết chế xã hội, lợi ích của giai cấp cầm quyền. Khi LLSX phát triển đến một
trình độ nhất định làm cho QHSX từ chỗ phù hợp trở thành không phù hợp,
đó là trạng thái mâu thuẫn giữa LLSX và QHSX, mâu thuẫn này ngày càng
gay gắt và làm cho QHSX trở thành xiềng xích của LLSX. Một đòi hỏi khách
quan là phải xóa bỏ QHSX cũ thiết lập QHSX mới phù hợp với trình độ của
LLSX để thúc đẩy LLSX tiếp tục phát triển. LLSX lại tiếp tục phát triển đến
65
một giai đoạn nào đó QHSX từ chỗ phù hợp trở thành không phù hợp, do vậy
con người lại phải thay đổi QHSX mới cho phù hợp với trình độ mới của
LLSX. Vì vậy, việc phát hiện và giải quyết mâu thuẫn giữa LLSX và QHSX
phụ thuộc vào nhân tố chủ quan của con người.
Trong quá trình xây dựng CNXH ở nước ta Đảng ta cũng đã ý thức được
sự thiếu hụt của chúng ta khi xây dựng CNXH đó là LLSX hiện đại. Từ đó,
Đảng có nhiều chủ trương chính sách nhằm thúc đẩy LLSX phát triển như đẩy
mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, khoa học công nghệ cùng với
giáo dục đào tạo là quốc sách hàng đầu… trong mô hình CNXH mà nhân dân
ta xây dựng Đảng ta khẳng định đặc trưng về kinh tế là: “có nền kinh tế phát
triển cao, dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và chế độ công hữu về tư liệu
sản xuất chủ yếu” [28, tr.111].
Ngày nay, với sự bùng nổ của cách mạng khoa học công nghệ, của nền
kinh tế tri thức cùng với quá trình đẩy mạnh công nghiệp hóa hiện đại hóa ở
nước ta đã làm cho LLSX ở nước ta phát triển nhanh chóng. Với quan điểm
“đi tắt đón đầu” chúng ta đã ứng dụng các thành tựu mới của cách mạng khoa
học công nghệ vào sản xuất như: công nghệ thông tin, công nghệ sinh học,
công nghệ vật liệu mới… Chính điều này, làm cho LLSX ở nước ta phát triển
mạnh mẽ, trình độ của LLSX được nâng lên không ngừng.Theo quy luật của
sản xuất vật chất, của chủ nghĩa duy vật lịch sử thì LLSX quyết định sự biến
đổi của QHSX, do vậy, khi mà LLSX đã phát triển mạnh mẽ thì đòi hỏi
QHSX XHCN cũng phải được điều chỉnh theo để bảo đảm sự phù phợp với
trình độ mới của LLSX ở Việt Nam hiện nay.
Tóm lại, sự biến đổi của QHSX XHCN ở Việt Nam hiện nay chịu tác
động của nhiều nhân tố, mà trước hết là sự phát triển nhanh chóng, mạnh mẽ
của LLSX.
2.2.2. Kiến trúc thượng tầng
Kiến trúc thượng tầng có tác động mạnh mẽ đến sự biến đổi của quan
hệ sản xuất, mà trực tiếp là sự lãnh đạo của Đảng và sự quản lý của Nhà nước.
66
Đặc biệt trong thời kỳ quá độ xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta thì QHSX
XHCN chịu sự tác động to lớn đối với vai trò định hướng của Đảng và quá
trình quản lý của Nhà nước.
Đường lối chính trị của Đảng ta là kiên trì chủ nghĩa Mác-Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh để xây dựng thành công CNXH trên đất nước ta. Trong
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH (Bổ sung, phát
triển năm 2011), khi xác định đặc trưng kinh tế của CNXH mà nhân dân ta
xây dựng nêu rõ: “có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất
hiện đại và quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp” [33, tr.70]. Trong đặc trưng
kinh tế này đã bao hàm cả yếu tố LLSX và QHSX. Đường lối chính trị này là
nhân tố chủ quan đóng vai trò quan trọng trong việc xác định mục tiêu kinh tế
của CNXH mà nhân dân ta xây dựng. Trên cơ sở đó, tác động, ảnh hưởng đến
việc nhận thức và giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa phát triển LLSX hiện
đại và xây dựng, hoàn thiện từng bước QHSX XHCN ở nước ta. Đường lối
chính trị của Đảng ta đặc biệt ảnh hưởng trực tiếp đến việc xây dựng, hoàn
thiện QHSX XHCN ở nước ta. Điều này được thể hiện, đường lối chính trị
của Đảng ta có vai trò rất lớn trong việc hạn chế những tiêu cực của cơ chế thị
trường, động viên sự sáng tạo, lòng nhiệt tình và tinh thần trách nhiệm của
người lao động. Chính đường lối chính trị này sẽ quy định mục tiêu của sự
phát triển kinh tế-xã hội cũng như định hướng phát triển QHSX.
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH (Bổ
sung, phát triển năm 2011) đã xác định rõ mục tiêu mà toàn Đảng, toàn dân,
toàn quân ta phấn đấu là xây dựng nước ta thành nước: Dân giàu, nước mạnh,
dân chủ, công bằng, văn minh [33, tr.70]. Mục tiêu tổng quát khi kết thúc thời
kỳ quá độ ở nước ta là xây dựng được về cơ bản nền tảng kinh tế của CNXH
với kiến trúc thượng tầng về chính trị, tư tưởng, văn hóa phù hợp, tạo cơ sở để
nước ta trở thành một nước XHCN ngày càng phồn vinh, hạnh phúc [33,
tr.71]. Như vậy, mục tiêu của sự phát triển kinh tế - xã hội ở nước ta nói
chung, mục tiêu của sự phát triển LLSX ở nước ta nói riêng, xét đến cùng đều
67
nhằm vì con người, phục vụ con người và cho con người. Mục tiêu này đóng
vai trò quan trọng trong việc xác định mục đích của nền sản xuất xã hội, của
sự phát triển kinh tế - xã hội. Chính mục đích của nền sản xuất xã hội đến lượt
nó lại tác động mạnh mẽ đến sự phát triển của LLSX. Nếu mục đích của nền
sản xuất xã hội mà vì lợi nhuận tối đa sẽ thúc đẩy LLSX phát triển bằng
mọi giá nhằm nâng cao hiệu suất, hiệu quả lợi nhuận cho nhà đầu tư. Khi
ấy, nhà sản xuất có thể sẽ ít để ý, quan tâm tới hệ quả, tác động trái của sự
phát triển LLSX bằng mọi giá. Có thể vấn đề môi trường, vấn đề xã hội của
việc phát triển LLSX không được giải quyết thỏa đáng và kịp thời. Như
vậy thì cuối cùng cũng cản trở LLSX cũng như QHSX phát triển theo
hướng lành mạnh, có lợi cho từng cá nhân và cả xã hội. Nếu mục đích của
nền sản xuất xã hội mà vì con người, trước hết là vì người lao động thì sự
phát triển của LLSX luôn luôn được cân nhắc trong sự tương thích, phù
hợp, hài hòa với môi trường tự nhiên. Những vấn đề xã hội do sự phát triển
của LLSX hiện đại sẽ được quan tâm, chú ý giải quyết tối ưu nhất. Như
vậy, LLSX sẽ phát triển nhưng nằm trong tầm kiểm soát của con người vì
mục tiêu phục vụ con người.
Mục đích của nền sản xuất còn ảnh hưởng tới quan điểm phân phối sản
phẩm lao động làm ra. Điều này ảnh hưởng quan trọng tới việc xây dựng,
hoàn thiện QHSX nói chung, QHSX XHCN nói riêng. Việc phân phối sản
phẩm lao động do tính chất của QHSX quyết định. Chính quan hệ sở hữu về
tư liệu sản xuất, xét đến cùng sẽ quy định mục đích của sự phát triển kinh tế -
xã hội, của sự phát triển LLSX. Như vậy, mục tiêu của sự phát triển kinh tế -
xã hội nói chung, của phát triển LLSX hiện đại và xây dựng, hoàn thiện từng
bước QHSX XHCN sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến việc nhận thức và giải quyết
mối quan hệ giữa phát triển LLSX hiện đại và xây dựng, hoàn thiện từng
bước QHSX XHCN ở nước ta.
Sự lãnh đạo khoa học, đúng đắn của Đảng, sự quản lý có hiệu quả của
Nhà nước đóng vai trò quan trọng đối với quá trình vận động biến đổi của
68
QHSX XHCN. Vai trò của Đảng và Nhà nước còn được thể hiện ở chỗ, Đảng,
Nhà nước đóng vai trò quan trọng trong việc xác định đúng đắn mục tiêu phát
triển kinh tế - xã hội, mục tiêu phát triển LLSX. Việc xác định đúng mục tiêu
phát triển kinh tế - xã hội, mục tiêu phát triển LLSX sẽ ảnh hưởng trực tiếp
đến việc xây dựng, hoàn thiện từng bước QHSX XHCN ở nước ta. Đồng thời,
Đảng và Nhà nước còn là lực lượng tổ chức, thực hiện, triển khai mục tiêu
phát triển kinh tế - xã hội cũng như quá trình phát triển LLSX hiện đại và
xây dựng, hoàn thiện từng bước QHSX XHCN. Đảng và Nhà nước cũng
chính là lực lượng chuyển hóa những cơ hội do điều kiện quốc tế, hội nhập,
toàn cầu hóa thành hiện thực, nội lực trong nước để xây dựng, hoàn thiện
từng bước QHSX XHCN ở nước ta. Cũng chính Đảng và Nhà nước là lực
lượng chủ động lãnh đạo, quản lý, ngăn chặn, sàng lọc những tác động tiêu
cực do hội nhập quốc tế, toàn cầu hóa gây ra. Đảng và Nhà nước còn đề ra
những chính sách cho phát triển giáo dục, đào tạo, khoa học công nghệ để
phát triển LLSX hiện đại. Đồng thời, Đảng và Nhà nước cũng là nhân tố chủ
quan chủ động đưa ra đường lối, chính sách, pháp luật để từng bước hoàn
thiện QHSX XHCN. Đảng và Nhà nước còn ban hành, tổ chức thực hiện các
chính sách kinh tế và chính sách xã hội tạo môi trường cho việc phát huy
tính tích cực của người lao động. Nói cách khác, Đảng, Nhà nước giải
phóng, phát huy những tiềm năng sáng tạo của con người, của xã hội, tạo
nên sức mạnh của cả cộng đồng thúc đẩy phát triển LLSX hiện đại. Trên cơ
sở đó góp phần thúc đẩy QHSX XHCN ở nước ta vận động biến đổi theo
định hướng xã hội chủ nghĩa.
Sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng và quản lý của Nhà nước có vai trò to
lớn đối với sự hình thành, biến đổi của QHSX XHCN ở nước ta.
2.2.3. Toàn cầu hóa, hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực
Nhân tố quốc tế góp phần tạo nên sự khác biệt trong quá trình phát triển
của quan hệ sản xuất ở các quốc gia. Nhân tố này bao gồm sự ảnh hưởng tác
động lẫn nhau giữa các quốc gia, dân tộc trên thế giới.Trong quá trình phát
69
triển của lịch sử thế giới, quan hệ giữa lịch sử nhân loại và lịch sử dân tộc là
quan hệ giữa cái phổ biến và cái đặc thù, giữa chỉnh thể và bộ phận. Chỉ trên
cơ sở phân tích, lý giải, so sánh chúng ta mới có thể lý giải được sự khác biệt
trong quá trình phát triển của quan hệ sản xuất ở các quốc gia, dân tộc.
Ngày nay, do sự phát triển mạnh mẽ của lực lượng sản xuất với sự cải
tiến không ngừng của công cụ lao động, của trình độ tay nghề của người lao
động và sự bùng nổ của cách mạng khoa học, công nghệ đã làm cho các nước
trên thế giới ngày càng xích lại gần nhau hơn, quan hệ về kinh tế, chính trị,
văn hóa ngày càng được tăng cường giữa các quốc gia, dân tộc. Sự tăng
cường hợp tác, liên kết giữa các nước trên thế giới đã hình thành phong trào
toàn cầu hóa. Toàn cầu hóa tác động đến mọi mặt của đời sống xã hội của các
nước từ trao đổi hàng hóa, thương mại đến văn hóa, xã hội… trong đó nổi bật
nhất là quan hệ sản xuất (quan hệ kinh tế) giữa các nước.
Do đó, quá trình vận động biến đổi của QHSX XHCN ở nước ta còn
phụ thuộc vào nhân tố quốc tế nhất là quá trình toàn cầu hóa. Đặc điểm nổi
trội của nhân tố quốc tế là quá trình toàn cầu hóa mà mở đầu từ toàn cầu hóa
về kinh tế. Toàn cầu hóa thúc đẩy sự phát triển LLSX cũng như QHSX toàn
thế giới, ảnh hưởng tới sự phân công lao động trên toàn thế giới. Toàn cầu
hóa tạo ra những cơ hội thuận lợi cho chúng ta phát triển LLSX hiện đại trong
một thời gian ngắn. Chẳng hạn, toàn cầu hóa cho ta cơ hội hợp tác quốc tế
cũng như học hỏi kinh nghiệm về đào tạo nguồn nhân lực cho phát triển
LLSX hiện đại; kế thừa được thành tựu khoa học, công nghệ của các nước
phát triển; học hỏi được kinh nghiệm quản lý sản xuất; toàn cầu hóa tác động
đến sự gia tăng nguồn vốn đầu tư vào Việt Nam.
Nước ta vốn là một nước nông nghiệp lạc hậu, có xuất phát điểm thấp,
ít vốn nên để thúc đẩy phát triển LLSX hiện đại không thể không cần đến
nguồn vốn đầu tư từ bên ngoài; toàn cầu hóa là đòn bẩy để thúc đẩy sự phát
triển của khoa học, công nghệ của nước ta,v.v.. Trên cơ sở đó phát triển
LLSX hiện đại và từng bước xây dựng, hoàn thiện QHSX phù hợp. Tuy
70
nhiên, toàn cầu hóa cũng tạo ra những thách thức cho những nước chưa phát
triển như nước ta trong việc xây dựng, hoàn thiện từng bước QHSX XHCN.
Chẳng hạn, phân hóa xã hội giàu - nghèo ngày càng gia tăng, lợi ích người lao
động bị vi phạm, tạo ra sự bất công trong xã hội, môi trường ngày càng ô
nhiễm v.v.. Những tác động tiêu cực này sẽ trực tiếp hoặc gián tiếp ảnh hưởng
đến việc xây dựng, hoàn thiện từng bước QHSX XHCN.
Ngoài quá trình toàn cầu hóa thì môi trường quốc tế cũng ảnh hưởng
quan trọng tới sự biến đổi của QHSX XHCN. Nếu môi trường quốc tế hòa
bình, ổn định, tăng trưởng kinh tế,v.v.. sẽ tác động tích cực tới việc sự vận
động, biến đổi của QHSX XHCN. Ngược lại, môi trường chiến tranh, bất
bình đẳng, khủng hoảng kinh tế, v.v.. sẽ tác động tiêu cực tới biến đổi của
QHSX XHCN.
Toàn cầu hóa với sự phát triển tự do về thương mại, hàng hóa và vai trò
ngày càng tăng của các công ty xuyên quốc gia đã tác động mạnh mẽ tới quan
hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa ở nước ta cả về mặt tích cực và tiêu cực. Mặt
tích cực của toàn cầu hóa được thể hiện khi chúng ta tham gia vào các định
chế toàn cầu như: Tổ chức thương mại thế giới (WTO) Apec, Asean,… làm
cho thị trường được mở rộng, thu hút được nhiều nguồn vốn đầu tư của nước
ngoài, với sự đa dạng hóa trong quan hệ sở hữu tư liệu sản xuất, khoa học
công nghệ tiên tiến, kỹ năng tổ chức, quản lý tiên tiến để phát triển sản xuất.
Mặt khác cạnh tranh ngày càng gay gắt, nền kinh tế có thể lệ thuộc vào các
nước lớn chi phối quá trình toàn cầu hóa. Chẳng hạn cuộc khủng hoảng ở các
nước Đông Nam Á năm 1997-1998 bao gồm các nước như: Thái Lan,
Indonesia, Malaixia, Philiphines bắt nguồn từ sự rút vốn của nguồn vốn đầu
tư nước ngoài làm cho các nước Đông Nam Á rơi vào khủng hoảng, sản xuất
giảm sút, thất nghiệp gia tăng nền kinh tế bị suy thoái.
Đối với nước ta toàn cầu hóa tác động tới quan hệ sản xuất xã hội chủ
nghĩa trên cả ba mặt: sở hữu, tổ chức quản lý và phân phối sản phẩm. Về mặt
sở hữu tư liệu sản xuất quá trình toàn cầu hóa đã thu hút được nguồn vốn
71
không nhỏ vào nước ta bao gồm cả vốn ODA và FDI, hàng tỷ đôla vốn đầu tư
của nước ngoài vào nước ta đã hình thành nên sự thay đổi về sở hữu làm cho
hình thức sở hữu hỗn hợp ngày càng tăng. Vốn đầu tư nước ngoài có thể liên
kết với các doanh nghiệp nhà nước trên một số lĩnh vực như: dầu khí, điện
lực, ngân hàng, sản xuất điện tử, dệt may… từ đó hình thành nên thành phần
kinh tế tư bản nhà nước. Khi tham gia vào toàn cầu hóa cạnh tranh ngày càng
gay gắt với sự làm ăn kém hiệu quả của các doanh nghiệp nhà nước buộc
chúng ta phải cổ phần hóa, thoái vốn để tái cơ cấu lại doanh nghiệp nhà nước,
từ đó làm cho nguồn vốn sở hữu của nhà nước được thu hẹp lại và việc sử
dụng có hiệu quả hơn.
Về quan hệ tổ chức, quản lý khi tham gia vào toàn cầu hóa, doanh
nghiệp nhà nước có thể liên kết, liên doanh với doanh nghiệp nước ngoài,
qua đó, có thể học tập được kinh nghiệm tổ chức, quản lý của các nước tiên
tiến. Mặt khác, do phải cạnh tranh với các công ty xuyên quốc gia có tiềm
lực lớn, chúng ta phải thay đổi về quản lý hình thành các tổng công ty, tập
đoàn kinh tế nhà nước để tạo ra tiềm lực đủ sức cho cạnh tranh. Do vậy, mô
hình tổ chức, quản lý của QHSX XHCN đã được thay đổi cho phù hợp với
thực tiễn.
Về quan hệ phân phối sản phẩm cũng bị ảnh hưởng, bởi vì khi vốn đầu
tư nước ngoài vào nước ta để cạnh tranh, thu hút người lao động, nhân tài họ
thường trả lương cao hơn so với doanh nghiệp nhà nước. Vì vậy, buộc các
doanh nghiệp nhà nước phải tăng lương cho người lao động và làm cho đời
sống của người lao động được nâng lên so với trước đây. Bên cạnh đó, các
doanh nghiệp nước ngoài luôn tính đến hiệu quả kinh tế vì vậy, họ trả công
theo lao động rất đúng và thực chất, qua đó các doanh nghiệp nhà nước của
chúng ta cũng học tập về phân phối theo lao động tốt hơn nhằm kích thích
tính tích cực, sáng tạo của người lao động.
Tóm lại, nhân tố quốc tế, toàn cầu hóa tác động mọi mặt tới đời sống
của các quốc gia dân tộc mà trước hết trên phương diện kinh tế. Do đó, nó tác
72
động trực tiếp và gián tiếp tới quá trình vận động biến đổi của QHSX XHCN
ở nước, cả về mặt tích cực và tiêu cực, cơ hội và thách thức.
2.2.4. Các quan hệ sản xuất khác
Trong một hình thái kinh tế-xã hội nhất định, quan hệ sản xuất thường
tồn tại dưới nhiều hình thức khác nhau như: quan hệ sản xuất tàn dư của xã
hội trước, quan hệ sản xuất đóng vai trò chủ đạo và quan hệ sản xuất mầm
mồng của xã hội tương lai. Trong đó, quan hệ sản xuất đóng vai trò chủ đạo,
chi phối, quy định bản chất của mỗi hình thái kinh tế - xã hội trong mỗi giai
đoạn lịch sử. Các quan hệ sản xuất khác mang tính tất yếu nhưng không đóng
vai trò chi phối mà chỉ bổ sung làm cho quan hệ sản xuất phát triển đa dạng
phong phú. Trong thực tế các quan hệ sản xuất không tồn tại biệt lập mà có sự
tác động lẫn nhau, liên kết với nhau dưới nhiều hình thức muôn hình, muôn
vẻ để tạo thành cơ sở hạ tầng của một hình thái kinh tế - xã hội nào đó.
Ở nước ta, trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội còn tồn tại nhiều
quan hệ sản xuất khác nhau, nó do trình độ của lực lượng sản xuất ở nước ta
quy định. Do bản chất khác nhau của các loại hình quan hệ sản xuất, chúng
vừa thống nhất, vừa mâu thuẫn, xung đột với nhau. Điều đó tác động đến cả
hình thái kinh tế - xã hội trong thời kỳ quá độ. Do vậy, việc xây dựng quan hệ
sản xuất theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta muốn trở thành hiện
thực, phải xây dựng, củng cố được vai trò chủ đạo của quan hệ sản xuất xã
hội chủ nghĩa dựa trên cơ sở sở hữu toàn dân và tập thể.
Trước đổi mới, chúng ta đã xóa bỏ đi các quan hệ sản xuất khác bằng
các biện pháp hành chính, trong khi các điều kiện cho các quan hệ sản xuất
vẫn tồn tại, dẫn đến vi phạm quy luật khách quan làm cho QHSX vượt quá xa
so với trình độ của LLSX. Chính sự tồn tại một loại hình quan hệ sản xuất xã
hội chủ nghĩa chiếm ưu thế tuyệt đối trong nền kinh tế với cơ chế kế hoạch
hóa, tập trung đã làm cho nền kinh tế nước ta không có cạnh tranh, không có
động lực cho sự phát triển. Vì sự thiếu vắng các quan hệ sản xuất khác trong
nền kinh tế, đã dẫn đến QHSX XHCN tuy chiếm số lượng lớn, tuyệt đối
73
nhưng lại trì trệ không phát triển được và đẩy đất nước ta lâm vào khủng
hoảng về kinh tế-xã hội.
Khi tiến hành công cuộc đổi mới chúng ta đã cho phát triển đa dạng hóa
các quan hệ sản xuất cho phù hợp với trình độ của LLSX, do đó đã thúc đẩy
sản xuất phát triển. Quan điểm của Đảng là phát triển một nền kinh tế hàng hóa
nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước
theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Đất nước ta quá độ lên CNXH từ một nước
sản xuất nhỏ LLSX thấp kém lại bỏ qua chế độ TBCN, do vậy, để định hướng
đi lên CNXH chúng ta luôn luôn khẳng định: trong các quan hệ sản xuất thì
QHSX XHCN đóng vai trò chủ đạo, chi phối dẫn dắt các loại hình QHSX khác
“Kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo. Kinh tế tập thể không ngừng được củng
cố và phát triển. Kinh tế nhà nước cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở thành
nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân” [33, tr.73-74].
Trong mỗi hình thái kinh tế-xã hội luôn có một quan hệ sản xuất đóng
vai trò chủ đạo để tạo thành đặc trưng của một cơ sở hạ tầng nào đó. Do đó,
nếu QHSX XHCN ở nước ta hoạt động không tốt, hiệu quả sản xuất kinh
doanh kém, năng suất không cao bằng các loại hình quan hệ sản xuất khác
chẳng hạn như: QHSX TBCN thì dần dần nó sẽ đánh mất vai trò chủ đạo,
không tạo ra được một cơ sở kinh tế vững chắc để làm công cụ cho Đảng
Cộng sản Việt Nam, Nhà nước điều tiết nền kinh tế, khi đó nền kinh tế sẽ có
nguy cơ đi chệch hướng XHCN. Mặt khác nếu QHSX XHCN mà hoạt động
tốt hơn các loại hình QHSX khác, làm tốt vai trò chủ đạo của mình thì nó có
thể dẫn dắt, hỗ trợ các loại hình QHSX khác ở nước ta đi lên CNXH, một chế
độ công bằng, bình đẳng dựa trên cơ sở công hữu là chủ yếu.
Như vậy, các quan hệ sản xuất ở nước ta chúng vừa thống nhất, vừa đối
lập, tác động qua lại lẫn nhau, thúc đẩy nhau cùng phát triển tạo ra một cơ sở
hạ tầng của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta, dưới sự dẫn dắt, hỗ
trợ của QHSX XHCN.
74
Tiểu kết chương 2
Lý luận về quan hệ sản xuất và vai trò của quan hệ sản xuất đối với sự
phát triển của lực lượng sản xuất, của kiến trúc thượng tầng là những nội dung
cơ bản của chủ nghĩa duy vật lịch sử. Theo lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin,
quan hệ sản xuất có một vai trò tác động kép trong một hình thái kinh tế -xã hội,
một mặt nó có vai trò thúc đẩy, hoặc kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản
xuất, mặt khác, quan hệ sản xuất cũng là cơ sở, nền tảng để hình thành nên một
kiến trúc thượng tầng tương ứng.
Đối với nước ta, trong thời kỳ quá độ lên CHXN, còn tồn tại nhiều loại
quan hệ sản xuất khác nhau thì QHSX XHCN có vai trò đặc biệt quan trọng
trong việc thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển, tạo ra cơ sở nền tảng cho sự
lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước và dẫn dắt các loại quan hệ sản xuất
khác đi lên CNXH.
Sự vận động, biến đổi của QHSX XHCN ở nước ta chịu tác động của
nhiều nhân tố khác nhau, trước hết là lực lượng sản xuất. Lực lượng sản xuất
luôn luôn vận động và biến đổi nó đòi hỏi QHSX cũng phải biến đổi theo để bảo
đảm sự phù hợp. Kiến trúc thượng tầng mà trực tiếp là sự lãnh đạo, định hướng
của Đảng và sự quản lý của Nhà nước, có tác động mạnh mẽ tới sự vận động,
biến đổi của quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Các quan hệ sản xuất
khác ở nước ta chúng vừa thống nhất, vừa mâu thuẫn tác động qua lại nhau tạo
thành cơ sở hạ tầng đặc trưng của thời kỳ quá độ ở nước ta, do đó cũng tác động
đến sự biến đổi của QHSX XHCN. Nhân tố toàn cầu hóa, hợp tác khu vực và
quốc tế, cũng góp phần tác động đến sự biến đổi của QHSX XHCN nó tạo ra cả
cơ hội và thách thức trong quá trình hội nhập ở Việt Nam.
Việc làm sáng tỏ những vấn đề lý luận trên đây là cơ sở quan trọng để
nghiên cứu, sự biến đổi quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay.
75
Chương 3
THỰC TRẠNG SỰ BIẾN ĐỔI CỦA QUAN HỆ SẢN XUẤT XÃ HỘI
CHỦ NGHĨA TRONG THỜI KỲ ĐỔI MỚI Ở VIỆT NAM
VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA
3.1. THỰC TRẠNG SỰ BIẾN ĐỔI CỦA QUAN HỆ SẢN XUẤT XÃ HỘI
CHỦ NGHĨA TRONG THỜI KỲ ĐỔI MỚI Ở VIỆT NAM
3.1.1. Thực trạng về sự biến đổi của quan hệ sản xuất xã hội chủ
nghĩa thể hiện ở kinh tế nhà nước
Đại hội lần VIII của Đảng năm 1996 Đảng, Nhà nước chính thức sử
dụng khái niệm thành phần kinh tế nhà nước thay cho khái niệm kinh tế quốc
doanh. Đến nay, có nhiều cách hiểu khác nhau chưa thống nhất về thành phần
kinh tế nhà nước.
Loại ý kiến thứ nhất cho rằng: kinh tế nhà nước là những hoạt động
kinh tế mà Nhà nước là chủ sở hữu, có quyền định đoạt, tổ chức quản lý.
Theo quan điểm này, kinh tế nhà nước bao gồm các bộ phận như: doanh
nghiệp nhà nước, tài sản công, dự trữ quốc gia, tài chính nhà nước. Một số
học giả còn cho rằng: bao gồm ngân sách nhà nước, tài nguyên quốc gia, hệ
thống chính sách của nhà nước.
Loại ý kiến thứ hai như tác giả Vũ Đình Bách còn cho rằng: kinh tế
nhà nước bao gồm tổng thể các nguồn lực nhà nước, do vậy có nội dung
rất rộng.
Kinh tế nhà nước là một khái niệm mở có thể hiểu theo mức độ rộng,
hẹp khác nhau tùy theo mục đích nghiên cứu.
Chúng tôi cho rằng: kinh tế nhà nước theo nghĩa rộng bao gồm hai lĩnh
vực chính: các doanh nghiệp nhà nước và kinh tế nhà nước phi doanh nghiệp
như: tài nguyên quốc gia, các quỹ dự trữ quốc gia, hệ thống ngân hàng nhà
nước, bảo hiểm nhà nước… trong đó, các doanh nghiệp nhà nước đóng vai trò
là nòng cốt.
Theo nghĩa hẹp, kinh tế nhà nước đồng nghĩa với hệ thống các doanh
nghiệp nhà nước.
76
Chúng tôi nghiên cứu, khảo sát bộ phận cốt lõi nhất, nòng cốt nhất của
kinh tế nhà nước là các doanh nghiệp nhà nước, bộ phận còn có nhiều tranh
cãi và gây bức xúc trong những năm vừa qua hay kinh tế nhà nước được hiểu
theo nghĩa hẹp để nghiên cứu.
Từ khi đổi mới đến nay, kinh tế nhà nước có sự vận động, biến đổi qua
nhiều giai đoạn khác nhau:
* Giai đoạn 1986 - 2001
Trong giai đoạn này, sự biến đổi của quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa
được thể hiện qua ba kỳ đại hội là: Đại hội VI, VII, VIII của Đảng, xuất phát
từ thực trạng trình độ của lực lượng sản xuất còn lạc hậu, quan hệ sản xuất đi
quá xa so với trình độ của lực lượng sản xuất. Trong khi đó các loại hình quan
hệ sản xuất khác bị xóa bỏ một cách nóng vội dẫn đến vi phạm quy luật khách
quan. Do đó, Đảng và Nhà nước đã có sự nhận thức lại quy luật quan hệ sản
xuất phù hợp với trình độ của lực lượng sản xuất.
Quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa ở nước ta đã có sự đổi mới mang
tính bước ngoặt, được thể hiện tập trung trong Văn kiện Đại hội VI,VII,VIII
và các Nghị quyết, văn bản pháp luật khác của Đảng và Nhà nước. Sự đổi mới
được thể hiện trên cả ba mặt của quan hệ sản xuất: sở hữu, tổ chức quản lý và
phân phối sản phẩm. Cụ thể là:
Về quan hệ sở hữu
Sự chuyển đổi nhận thức về quan hệ sở hữu của Đảng, là một quá trình,
trải qua nhiều kỳ Đại hội Đảng, bắt nguồn từ Đại hội VI của Đảng.
Đại hội lần VI của Đảng với tinh thần “nhìn thẳng vào sự thật, đánh
giá đúng sự thật, nói rõ sự thật” [27, tr.12] sau khi đã phân tích tình hình về
kinh tế - xã hội ở nước ta đã khẳng định: “quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa
chậm được củng cố. Vai trò chủ đạo của kinh tế quốc doanh suy yếu. Các
thành phần kinh tế phi xã hội chủ nghĩa chưa được sử dụng và cải tạo tốt”
[27, tr.18]. Đại hội VI đã chủ trương đổi mới quan hệ sản xuất là nhiệm vụ
thường xuyên, liên tục trong suốt thời kỳ quá độ lên CNXH và bao gồm 3
77
mặt: xây dựng chế độ công hữu về tư liệu sản xuất, chế độ quản lý và chế độ
phân phối.
Đại hội VI xác định:
Nền kinh tế có cơ cấu nhiều thành phần là một đặc trưng của thời
kỳ quá độ. Ở nước ta, các thành phần kinh tế đó là:
Kinh tế xã hội chủ nghĩa bao gồm khu vực quốc doanh và tập
thể, cùng với bộ phận kinh tế gia đình gắn liền với thành phần
kinh tế đó.
Các thành phần kinh tế khác gồm: kinh tế tiểu sản xuất hàng hóa
(thợ thủ công, nông dân cá thể, những người buôn bán và kinh
doanh dịch vụ cá thể); kinh tế tư bản tư nhân; kinh tế tư bản nhà
nước dưới nhiều hình thức, mà hình thức cao là công tư hợp doanh;
kinh tế tự nhiên, tự cấp, tự túc, trong một bộ phận dân tộc thiểu số ở
Tây Nguyên và các vùng núi khác [27, tr.56-57].
Đại hội VI đã khẳng định kinh tế nhiều thành phần có ý nghĩa chiến
lược, và là đặc trưng của thời kỳ quá độ lên CNXH ở nước ta, điều này là
khách quan phù hợp với trình độ của LLSX ở nước ta. Trong nền kinh tế
nhiều thành phần đa dạng về sở hữu thì sở hữu nhà nước hay sở hữu toàn dân,
mà Nhà nước là đại diện luôn được Đảng, xác định đóng vai trò chủ đạo. Đại
hội VI của Đảng xác định: “điều quan trọng nhất là củng cố và phát triển kinh
tế xã hội chủ nghĩa, trước hết là làm cho kinh tế quốc doanh giữ vai trò chủ
đạo, chi phối được các thành phần kinh tế khác” [27, tr.58].
Đến Đại hội VII năm 1991, vấn đề đổi mới nền kinh tế bắt nguồn từ
Đại hội VI tiếp tục được thúc đẩy hơn nữa. Đại hội VII khẳng định tiếp tục sự
nghiệp đổi mới toàn diện đất nước: “tiếp tục đổi mới toàn diện và đồng bộ,
đưa công cuộc đổi mới đi vào chiều sâu với bước đi vững chắc” [28, tr.61].
Đến đại hội VII vấn đề sở hữu của QHSX XHCN được Đảng xác định rõ hơn,
bên cạnh việc thừa nhận sự tồn tại lâu dài, khách quan của các loại hình sở
hữu khác thì sở hữu nhà nước của các đơn vị quốc doanh phải được thu hẹp
lại để tập trung phát triển có hiệu quả.
78
Do đó, Đại VII đã tiến xa hơn Đại VI đó là xác định những ngành,
những lĩnh vực mà kinh tế quốc doanh cần nắm giữ chứ không phát triển tràn
lan như trước: “khẩn trương sắp xếp lại và đổi mới quản lý kinh tế quốc
doanh, bảo đảm kinh tế quốc doanh phát triển có hiệu quả, nắm những lĩnh
vực và ngành then chốt để phát huy vai trò chủ đạo trong nền kinh tế” [28,
tr.67]. Để đổi mới sắp xếp lại các đơn vị quốc doanh sao cho có hiệu quả thì
cần chuyển đổi sở hữu từ sở hữu nhà nước sang các hình thức sở hữu khác.
Giải pháp là giảm sở hữu nhà nước để tập trung vào các cơ sở trọng điểm, làm
ăn có hiệu quả bằng cách giải thể các xí nghiệp làm ăn thua lỗ và tiến hành cổ
phần hóa doanh nghiệp nhà nước “chuyển hình thức sở hữu hoặc giải thể các
cơ sở thua lỗ kéo dài và không có khả năng vươn lên” [28, tr.67].
Trong giai đoạn này Đảng đã tiến hành đổi mới về sở hữu trong doanh
nghiệp nhà nước bằng cách thí điểm cổ phần hóa: “chuyển một số doanh
nghiệp quốc doanh có điều kiện thành công ty cổ phần và thành lập một số
công ty quốc doanh cổ phần mới. Phải làm thí điểm, chỉ đạo chặt chẽ, rút kinh
nghiệm chu đáo trước khi mở rộng trên phạm vi thích hợp” [28, tr.69].
Đến Đại hội VIII, khái niệm kinh tế quốc doanh được thay bằng khái
niệm kinh tế nhà nước. Khái niệm kinh tế nhà nước rộng hơn khái niệm kinh
tế quốc doanh. Bởi vì, ngoài hệ thống các doanh nghiệp nhà nước, kinh tế nhà
nước còn bao gồm các bộ phận khác như: Tài nguyên quốc gia, các quỹ quốc
gia…trong đó hệ thống các doanh nghiệp nhà nước là nòng cốt.
Đại hội VIII làm rõ nghĩa hơn về vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước
mà nòng cốt là các doanh nghiệp nhà nước, ngoài việc nắm giữ các ngành,
lĩnh vực then chốt, kinh tế nhà nước còn phải làm đòn bẩy cho tăng trưởng
kinh tế, giải quyết các vấn đề xã hội, dẫn dắt các thành phần kinh tế khác, làm
lực lượng để nhà nước điều tiết nền kinh tế, Đại hội khẳng định:
Tiếp tục đổi mới và phát triển có hiệu quả kinh tế nhà nước để làm
tốt vai trò chò chủ đạo: làm đòn bẩy đẩy nhanh tăng trưởng kinh tế
và giải quyết những vấn đề xã hội; mở đường, hướng dẫn, hỗ trợ
79
các thành phần kinh tế khác cùng phát triển; làm lực lượng vật
chất để Nhà nước thực hiện chức năng điều tiết và quản lý vĩ mô,
tạo nền tảng cho chế độ xã hội mới [29, tr.93].
Đại hội VIII đã cụ thể hóa hơn nữa trong việc xác định những lĩnh vực,
những ngành then chốt cần nắm giữ đó là: ngành kết cấu hạ tầng xã hội, tài
chính, ngân hàng bảo hiểm, cơ sở thương mại, dịch vụ quan trọng, cơ sở sản
xuất liên quan tới quốc phòng, an ninh:
Tập trung nguồn lực để phát triển kinh tế nhà nước trong những
ngành, những lĩnh vực trọng yếu như kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội,
hệ thống tài chính, ngân hàng, bảo hiểm, những cơ sở sản xuất
thương mại; dịch vụ quan trọng, một số doanh nghiệp thực hiện
những nhiệm vụ có liên quan đến quốc phòng an ninh [29, tr.93].
Về sở hữu, để kinh tế nhà nước hoạt động có hiệu quả trong giai đoạn
này, nhà nước tiếp tục cổ phần hóa để chuyển đổi từ sở hữu nhà nước sang
các công ty cổ phần nhằm huy động vốn cho sản xuất kinh doanh: “triển khai
tích cực và vững chắc việc cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước để huy động
thêm vốn, tạo thêm động lực thúc đẩy doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả, làm
cho tài sản nhà nước ngày càng tăng thêm” [29, tr.94].
Cụ thể hóa các quan điểm của Đảng về đa dạng hóa các hình thức sở
hữu trong nền kinh tế Nhà nước đã ban hành các quyết định như:
Ngày 9/3/1987 Hội đồng Bộ trưởng đã ban hành Nghị định số 27/NĐ
về kinh tế tư doanh và Nghị định số 29/NĐ về kinh tế gia đình, cho phép phục
hồi lại kinh tế tư nhân. Những Nghị định này góp phần cho sở hữu tư nhân
phục hồi và phát triển bên cạnh sở hữu nhà nước và sở hữu tập thể.
Cũng trong năm 1987, Nhà nước ban hành Luật Đầu tư nước ngoài tại
Việt Nam. Theo Luật này, Nhà nước khuyến khích các tổ chức cá nhân nước
ngoài đầu tư vốn và kỹ thuật vào Việt Nam, Nhà nước Việt Nam bảo hộ quyền
sở hữu đối với vốn và các quyền lợi khác của các tổ chức cá nhân nước ngoài.
Với sự ra đời của Luật Đầu tư nước ngoài đã có thêm thành phần kinh tế có
80
vốn đầu tư nước ngoài tại Việt Nam góp phần quan trọng thể chế hóa quan
điểm phát triển đa dạng hóa các hình thức sở hữu, các thành phần kinh tế ở
nước ta.
Vấn đề sở hữu và các thành phần kinh tế tiếp tục được khẳng định rõ
trong Hiến pháp năm 1992. Hiến pháp quy định: “Nhà nước thực hiện nhất
quán chính sách kinh tế nhiều thành phần với nhiều hình thức tổ chức sản xuất,
kinh doanh đa dạng dựa trên chế độ sở hữu toàn dân, sở hữu tập thể, sở hữu tư
nhân trong đó sở hữu toàn dân và sở hữu tập thể là nền tảng” [103, tr.19].
Năm 1995 Nhà nước ban hành Luật Doanh nghiệp nhà nước ngày
20/4/1995 nhằm phát huy vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước và tăng cường
quản lý đối với các doanh nghiệp nhà nước, bảo đảm quyền và lợi ích hợp
pháp cũng như thực hiện đúng các mục tiêu của nhà nước giao cho Doanh
nghiệp nhà nước.
Thực hiện chủ trương cổ phần hóa các doanh nghiệp nhà nước, Chính
phủ đã ban hành Quyết định số 202/CT ngày 8/6/1992 về việc thí điểm
chuyển doanh nghiệp nhà nước thành công ty cổ phần. Tiếp theo Chính phủ
ban hành Nghị định 28-CP ngày 7/5/1996 về việc chuyển một số doanh
nghiệp nhà nước thành công ty cổ phần, đã đưa ra các ưu đãi khi cổ phần hóa
như: miễn thuế 50% cho hai năm liên tiếp, được miễn thuế trước bạ, được vay
vốn tại ngân hàng như với các doanh nghiệp nhà nước khác…
Nhằm thúc đẩy cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước Nhà nước đã ban
hành Nghị định số 44/1998/NĐ-CP ngày 29-6-1998 về việc chuyển doanh
nghiệp nhà nước thành công ty cổ phần, trong đó quy định rõ các doanh
nghiệp nhà nước cổ phần hóa được hưởng nhiều ưu đãi sau: được hưởng ưu
đãi theo quy định của Luật khuyến khích đầu tư trong nước, miễn lệ phí
trước bạ, được tiếp tục vay vốn và lãi xuất như doanh nghiệp nhà nước,
được quyền tiếp tục xuất khẩu như trước cổ phần hóa, các khoản chi phí cho
chuyển thành công ty cổ phần được khấu trừ vào tiền bán cổ phần thuộc vốn
nhà nước…
81
Các văn bản của Nhà nước trên lĩnh vực sở hữu đối với các doanh
nghiệp nhà nước được dần hoàn thiện hơn, đầy đủ hơn để chuyển đổi từ mô
hình kinh tế kế hoạch hóa tập trung quan liêu bao cấp sang kinh tế thị trường.
Tuy nhiên, thời kỳ này do mới chuyển đổi chúng ta chưa thể chuyển
hoàn toàn sang nền kinh tế thị trường mà chỉ chuyển sang hạch toán XHCN,
thí điểm cổ phần hóa… do vậy các quy định của Đảng, Nhà nước còn chậm
cho việc chuyển đổi, còn thiếu nhiều các quy định về việc hình thành, phát
triển nền kinh tế thị trường như: sự bình đẳng giữa các thành phần kinh tế, các
lĩnh vực cần thiết phải duy trì 100% vốn sở hữu nhà nước… những thiếu sót
đó được khắc phục dần trong các giai đoạn đổi mới tiếp theo.
Về quan hệ tổ chức quản lý
Khi tiến hành đổi mới Đại hội VI của Đảng đã chỉ rõ đổi mới phải đồng
bộ không chỉ có quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất mà còn bao gồm các quan
hệ khác của quan hệ sản xuất: “xây dựng quan hệ sản xuất mới gồm 3 mặt;
xây dựng chế độ công hữu về tư liệu sản xuất, chế độ quản lý và phân phối xã
hội chủ nghĩa” [27, tr.57]. Cùng với quan hệ sở hữu thì quan hệ tổ chức quản
lý và quan hệ phân phối cũng được đổi mới.
Đại hội VI khẳng định rằng cơ chế quản lý cũ đã cản trở sự phát triển
của QHSX:
Cơ chế quản lý tập trung quan liêu, bao cấp từ nhiều năm nay
không tạo ra được động lực phát triển, làm suy yếu kinh tế xã hội
chủ nghĩa, hạn chế việc sử dụng và cải tạo các thành phần kinh tế
khác, kìm hãm sản xuất, làm giảm năng suất, chất lượng, hiệu quả,
gây rối loạn trong phân phối lưu thông, và đẻ ra nhiều hiện tượng
tiêu cực trong xã hội [27, tr.62].
Do vậy, khi tiến hành đổi mới Đại hội VI đã xác định: “phương hướng
đổi mới cơ chế quản lý kinh tế đã được khẳng định là xóa bỏ tập trung quan
liêu, bao cấp, xây dựng cơ chế mới phù hợp với quy luật khách quan và với
trình độ phát triển của nền kinh tế” [27, tr.63]. Cơ chế mới ở đây chính là cơ
82
chế thị trường, của sản xuất hàng hóa với các quy luật khách quan của nó
như: quy luật giá trị, quy luật cung cầu và các quy luật khác. Tuy nhiên, khi
tiến hành đổi mới, do đây là vấn đề còn mới mẻ, do hạn chế nhận thức lúc bấy
giờ, Đại hội VI chỉ xác định và coi đây là quan hệ hàng hóa, tiền tệ chưa đầy
đủ theo nghĩa kinh tế thị trường: “việc sử dụng đầy đủ và đúng đắn quan hệ
hàng hóa - tiền tệ trong kế hoạch hóa nền kinh tế quốc dân là một tất yếu
khách quan” [27, tr.63].
Cùng với việc đổi mới cơ chế quản lý từ tập trung quan liêu, bao cấp
sang cơ chế thị trường đối với QHSX XHCN cần phải trao quyền tự chủ cho
các xí nghiệp quốc doanh: “Các đơn vị kinh tế quốc doanh và tập thể là những
đơn vị sản xuất hàng hóa xã hội chủ nghĩa, có quyền tự chủ sản xuất, kinh
doanh, tự chủ về tài chính, các tập thể lao động thật sự có vai trò của người
làm chủ trong việc tổ chức và quản lý sản xuất kinh doanh” [27, tr.64].
Chính sự đổi mới, cởi trói của Đại hội VI đã tạo ra tiền đề, và là bước
ngoặt cho QHSX XHCN ở nước ta vận động, phát triển theo cơ chế thị
trường và làm cơ sở cho quá trình đổi mới sau này. Đó chính là tách rời
quyền quản lý hành chính của nhà nước với chức năng sản xuất kinh doanh
của doanh nghiệp.
Công tác kế hoạch hóa cũng được thay đổi, thay vì kế hoạch hóa dựa
trên cơ sở hành chính mệnh lệnh như trước đây, khi đổi mới Đại hội VI xác
định kế hoạch phải căn cứ vào thị trường có nghĩa là chuyển từ định lượng
sang định tính. Điều đó có nghĩa là; nếu trước kia làm kế hoach phải căn cứ
vào số lượng được cấp trên giao, thì nay phải căn cứ vào nhu cầu của thị
trường để quyết định làm kế hoạch cho sản xuất kinh doanh.
Đại hội VII tiếp tục sự nghiệp đổi mới từ Đại hội VI, So với Đại hội
VI, Đại hội VII đã xác định rõ hơn cơ chế quản lý nền kinh tế nước ta là cơ
chế thị trường có sự quản lý của nhà nước bằng pháp luật, kế hoạch, chính
sách và các công cụ khác, không chỉ là quan hệ hàng hóa, tiền tệ như Đại hội
VI. Bên cạnh đó thì còn có các hình thức quản lý khác được đổi mới như: cho
83
thuê, khoán, giao vốn… “Tiến hành việc giao vốn và áp dụng rộng rãi các
hình thức khoán trong xí nghiệp quốc doanh” [28, tr.67-68]. Đại hội VII cũng
làm rõ quyền tự chủ trong sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp quốc
doanh tức là tách rời quyền sở hữu và quyền sử dụng về tư liệu sản xuất: “Sửa
đổi và bổ sung các cơ chế chính sách cần thiết để giải quyết đúng đắn mối
quan hệ giữa quyền sở hữu và quyền sử dụng, quan hệ giữa nhà nước và xí
nghiệp quốc doanh” [28, tr.67].
Một trong những đổi mới về quan hệ quản lý đó là: bên cạnh xác định
những lĩnh vực, những ngành cần nắm giữ thì Đại hội VII khẳng định cần
phải sắp xếp lại các doanh nghiệp nhà nước theo hướng hình thành các công
ty, xí nghiệp lớn có khả năng cạnh tranh trong kinh tế. Do đó, giai đoạn 1990-
1991 chúng ta đã thành lập các tổng công ty còn gọi là tổng công ty 90, 91.
Các tổng công ty này. đóng vai trò chủ lực, then chốt trong nền kinh tế và
cạnh tranh với nước ngoài: “Xây dựng một số công ty hoặc liên hiệp xí
nghiệp lớn, có uy tín và có khả năng cạnh tranh trong quan hệ kinh tế với
nước ngoài” [28, tr.68].
Trong giai đoạn này, nhà nước tập trung chủ yếu vào việc củng cố các
doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả, đồng thời sắp xếp lại các doanh nghiệp
nhà nước và tổ chức lại thành các doanh nghiệp lớn có sức mạnh để cạnh
tranh trên thị trường: “tổ chức hợp lý các tổng công ty, bảo đảm vừa tránh
phân tán về lực lượng, vừa tránh độc quyền hoặc trở thành cấp hành chính
trung gian” [28, tr.95].
Đại hội VIII tiếp tục khẳng định xóa bỏ cơ chế tập trung quan liêu, bao
cấp hình thành cơ chế thị trường và nói rõ hơn Đại hội trước là theo định
hướng xã hội chủ nghĩa: “nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận hành
theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng xã hội chủ
nghĩa tiếp tục được xây dựng một cách đồng bộ hơn và có hiệu quả hơn” [29,
tr.11]. Chính vì vậy, vai trò của kinh tế nhà nước không giảm đi mà tăng lên
để định hướng nền kinh tế đi lên CNXH.
84
Để kinh tế nhà nước làm tốt vai trò chủ đạo cần phải đổi mới các doanh
nghiệp nhà nước, tách chức năng quản lý nhà nước với chức năng sản xuất
kinh doanh của doanh nghiệp, tách rời quyền sở hữu với quyền sử dụng tài
sản. Đảng khẳng định: “đổi mới tổ chức quản lý doanh nghiệp nhà nước, phát
huy cao độ quyền tự chủ của các doanh nghiệp trong việc thực hiện nhiệm vụ
được giao” [29, tr.25].
Thể chế hóa các quan điểm của Đảng, Nhà nước đã ban hành các văn
bản trên phương diện tổ chức quản lý đối với các doanh nghiệp nhà nước
nhằm đổi mới quan hệ tổ chức quản lý để chuyển dần sang kinh tế thị
trường như:
Quyết định 217/HĐ BT ngày 14/11/1987 về đổi mới kế hoạch hóa và
hạch toán kinh doanh xã hội chủ nghĩa đối với các xí nghiệp quốc doanh,
Nghị định 98/HĐBT ngày 2/6/1988 về quyền làm chủ tập thể của công nhân
viên chức tại các xí nghiệp quốc doanh, Nghị định 27/HĐBT ngày 22/3/1989
về điều lệ liên hiệp xí nghiệp quốc doanh… các văn bản này đã góp phần xóa
bỏ dần cơ chế tập trung, quan liêu chuyển sang cơ chế thị trường, tuy nhiên
thời kỳ này chỉ là hạch toán kinh doanh xã hội chủ nghĩa, trao quyền tự chủ
cho các doanh nghiệp nhà nước.
Nhằm tạo điều kiện cho việc tổ chức sắp xếp lại các doanh nghiệp nhà
nước ngày 1/10/1994 Nhà nước đã ban hành Luật Phá sản doanh nghiệp được
áp dụng cho các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế trong đó có các
doanh nghiệp nhà nước. Với sự ra đời luật này đã tạo hành lang pháp lý cho
việc giải thể các doanh nghiệp nhà nước làm ăn thua lỗ kéo dài là một biện
pháp để tổ chức sắp xếp lại các doanh nghiệp nhà nước.
Tiếp theo ngày 3-10-1996 Chính phủ đã ban hành Nghị định 59/CP về
việc hạch toán kinh doanh đối với các doanh nghiệp nhà nước. Như vậy Nghị
định này đã xác định cơ chế quản lý rõ hơn; không chỉ là hạch toán kinh
doanh XHCN mà là hạch toán kinh doanh theo cơ chế thị trường.
85
Ngày 10/9/1999 Nhà nước đã ban hành Nghị quyết về việc: giao, bán,
khoán kinh doanh, cho thuê doanh nghiệp nhà nước. Nghị định chỉ rõ: mục
tiêu của việc giao, bán khoán, cho thuê kinh doanh với các doanh nghiệp nhà
nước là nhằm tiếp tục đổi mới sắp xếp các doanh nghiệp nhà nước quy mô
nhỏ, thua lỗ kéo dài hoặc không cần duy trì sở hữu nhà nước. Đây là một
bước tiến nhằm đổi mới cơ chế quản lý nhà nước đổi với các doanh nghiệp
nhà nước theo cơ chế thị trường.
Về mặt quản trị doanh nghiệp nhà nước trong giai đoạn này cũng có sự
biến đổi quan trọng, thực hiện chủ trương của Đảng về việc thành lập các
doanh nghiệp nhà nước có quy mô lớn, có khả năng chi phối nền kinh tế và
cạnh tranh với bên ngoài. Nhà nước đã ban hành Quyết định 90/TTg ngày
7/3/1994 sắp xếp lại các doanh nghiệp nhà nước có quy mô lớn trên 500 tỷ
đồng tập trung vào những lĩnh vực then chốt của nền kinh tế còn gọi là các
tổng công ty 90. Tiếp theo là Quyết định 91/TTg ban hành ngày 7/3/1994 về
việc thành lập các doanh nghiệp nhà nước có quy mô rất lớn trên 1000 tỷ
đồng còn gọi là các tổng công ty 91. Việc ban hành các quyết định này là một
bước đổi mới trong công tác quản lý doanh nghiệp nhà nước nhằm giảm về số
lượng các doanh nghiệp nhưng nâng cao về quy mô của doanh nghiệp nhà
nước. Các doanh nghiệp nhà nước theo mô hình tổng công ty 90 và 91 đã có
Hội đồng quản trị do Nhà nước bổ nhiệm để tăng thêm quyền chủ động trong
việc điều hành doanh nghiệp theo cơ chế thị trường và tự chịu trách nhiệm về
kết quả kinh doanh của tổng công ty.
Ngày 20/4/1995 nhà nước ban hành Luật Doanh nghiệp nhà nước là một
bước tiến trong quản lý điều hành các doanh nghiệp nhà nước nhằm tránh tình
trạng các cơ quan quản lý can thiệp trực tiếp vào các hoạt động sản xuất kinh
doanh của các doanh nghiệp, tăng quyền chủ động cho các doanh nghiệp nhà
nước, đồng thời các doanh nghiệp nhà nước đã có đầy đủ tư cách pháp nhân phải
tự chịu trách nhiệm về các hoạt động của mình. Với sự ra đời luật doanh nghiệp
nhà nước các doanh nghiệp nhà nước với tư cách là chủ thể của sản xuất hàng
hóa theo mô hình kinh tế thị trường đã được thừa nhận về mặt pháp lý.
86
Về quan hệ phân phối
Đại hội VI của Đảng cũng đánh dấu bước ngoặt trong việc đổi mới về chế
độ phân phối nói chung và quan hệ phân phối trong kinh tế quốc doanh nói
riêng. Đại hội đã tiến hành xóa bỏ phân phối bình quân, tiến hành phân phối theo
lao động, căn cứ vào năng suất, chất lượng để trả lương cho người lao động, từ
đó tạo động lực cho người lao động gắn bó với xí nghiệp. Đại hội khẳng định:
Việc thực hiện đúng nguyên tắc phân phối theo lao động đòi hỏi sửa
đổi một cách căn bản chế độ tiền lương theo hướng bảo đảm yêu cầu
tái sản xuất sức lao động, khắc phục tính chất bình quân, xóa bỏ từng
phần cung cấp còn lại trong chế độ tiền lương áp dụng các hình thức
trả lương gắn với kết quả lao động và hiệu quả kinh tế [27, tr.72].
Quan hệ phân phối này đã khắc phục được những hạn chế trong phân
phối trước đây, như tính ỷ lại, thụ động của người lao động, đồng thời kích
thích tính tích cực sáng tạo của người lao động.
Đại hội VII cụ thể hóa hơn nữa chế độ phân phối theo lao động, để kích
thích nền kinh tế hàng hóa phát triển thì Đảng chú trọng tới việc điều chỉnh từ
trả lương bằng hiện vật sang trả lương bằng tiền, kết hợp hài hòa giữa lợi ích
cá nhân và lợi ích xã hội:
Cải cách cơ bản chính sách tiền lương và tiền công theo các nguyên
tắc: tiền lương và tiền công phải dựa trên số lượng và chất lượng
lao động, bảo đảm tái sản xuất sức lao động; tiền tệ hóa tiền lương,
xóa bỏ chế độ bao cấp ngoài lương dưới hình thức hiện vật; thực
hiện mối tương quan hợp lý về tiền lương và thu nhập của các bộ
phận xã hội [28, tr.74].
Ngoài ra Đảng cũng khuyến khích mọi người tăng thu nhập và làm giàu
dựa trên kết quả lao động và hiệu quả kinh tế; bảo hộ các nguồn thu nhập hợp
pháp; điều tiết hợp lý thu nhập giữa các bộ phận dân cư, các ngành, các
vùng… Trong thời gian này, quan hệ phân phối có sự đổi mới đó là việc nhà
nước ban hành bộ luật lao động tạo cơ sở pháp lý cho việc thực hiện chế độ
phân phối mới, quy định về mức lương tối thiểu. Bộ luật này quy định rõ:
87
“người lao động được trả lương trên cơ sở thỏa thuận với người sử dụng lao
động nhưng không thấp hơn mức lương tối thiểu do Nhà nước quy định theo
năng suất, chất lượng, hiệu quả công việc” [106, tr.11]. Quy định này thể hiện
rõ nhận thức mới về phân phối sản phẩm trong nền kinh tế nhiều thành phần
trong đó có kinh tế nhà nước: phân phối theo cơ chế thị trường, thích ứng với
đổi mới về tổ chức, quản lý.
Bên cạnh việc phân phối theo lao động là chủ yếu Đại hội VIII, còn xác
định đa dạng hóa các hình thức phân phối như theo các nguồn lực khác, theo
phúc lợi xã hội: “Thực hiện nhiều hình thức phân phối, lấy phân phối theo kết
quả lao động và hiệu quả kinh tế là chủ yếu, đồng thời phân phối dựa trên mức
đóng góp các nguồn lực khác vào kết quả sản xuất kinh doanh và phân phối theo
phúc lợi xã hội” [29, tr.92]. Ngoài việc đa dạng hóa phân phối thì còn gắn với
việc nâng cao địa vị của người lao động và thực hiện công bằng xã hội: “xác lập,
củng cố và nâng cao địa vị làm chủ của người lao động trong nền sản xuất xã
hội, thực hiện công bằng xã hội ngày càng tốt hơn” [29, tr.92]. Đồng thời, chúng
ta còn phân phối và phân phối lại thu nhập theo hướng thu hẹp khoảng cách giàu
- nghèo, khuyến khích làm giàu hợp pháp đi đôi với xóa đói giảm nghèo.
Trong lĩnh vực phân phối Nhà nước đã ban hành các quy định cụ
thể như:
Quyết định 76/HĐBT của Hội đồng Bộ trưởng về việc trả lương theo
kết quả lao động đã chỉ rõ: Gắn chặt việc trả lương, trả thưởng với kết quả lao
động, hiệu quả sản xuất. Hướng sự quan tâm vật chất của tập thể và cá nhân
người lao động vào việc tăng năng suất lao động, hạ giá thành sản phẩm, tăng
số lượng và chất lượng sản phẩm, tiết kiệm nguyên liệu, nhiên liệu, vật liệu,
sử dụng tốt công suất thiết bị, máy móc để hoàn thành và hoàn thành vượt
mức kế hoạch sản xuất - kinh doanh.
Tiếp theo Nhà nước ban hành Pháp lệnh về Hợp đồng lao động ngày
10/9/1990, quy định giữa người lao động và chủ sử dụng lao động có quyền ký
kết các hợp đồng lao động cần quy định về công việc, thời gian, tiền lương…
nhưng không thấp hơn mức tiền lương tối thiểu do nhà nước quy định. Với sự
88
ra đời pháp lệnh này đã tạo điều kiện cho thị trường lao động phát triển và xóa
bỏ việc trả lương bình quân do nhà nước quy định như trước kia.
Ngày 5/7/1994 Luật Lao động được ban hành đã tạo ra cơ sở pháp lý cho
việc trả lương thưởng theo quy luật thị trường và gắn tiền lương thu nhập theo
kết quả lao động. Bộ Luật chỉ rõ: “người lao động được trả lương trên cơ sở
thỏa thuận với người sử dụng lao động nhưng không thấp hơn mức lương tối
thiểu do Nhà nước quy định và theo năng xuất, chất lượng, hiệu quả công việc”
[106, tr.11]. Quy định này thể hiện nhận thức mới về phân phối sản phẩm theo
cơ chế thị trường thích ứng với đổi mới trong sở hữu, tổ chức quản lý.
Tuy nhiên, trong các doanh nghiệp nhà nước cơ chế trả lương vẫn
được thực hiện theo chế độ công chức nhà nước chưa thực sự theo nguyên tắc
thị trường điều này được thể hiện ở Quyết định 1998/QĐ-TTg của Thủ tướng
chính phủ về tiền lương, phụ cấp của chủ tịch hội đồng quản trị thành viên
ban kiểm soát đối với các tổng công ty vẫn theo chế độ công chức nhà nước.
Điều này là một hạn chế, chưa gắn lợi ích của người được trả lương với kết
quả kinh doanh của đơn vị mà họ trực tiếp phụ trách.
Tổ chức thực hiện.
Thực hiện các chủ trương của Đảng, Nhà nước về việc đổi mới quan hệ
sản xuất xã hội chủ nghĩa trong kinh tế nhà nước đã có những biến đổi bước
đầu quan trọng, tạo ra những điều kiện, tiền đề cho quá trình đổi mới tiếp theo:
Thứ nhất, về quan hệ sở hữu.
Nền kinh tế với sự đa dạng hóa về sở hữu, nhiều thành phần kinh tế đã
được hình thành và phát triển. Từ một nền kinh tế chỉ có hai hình thức sở hữu
là toàn dân và tập thể với hai thành phần kinh tế là kinh tế nhà nước và kinh tế
tập thể cho Đến Đại hội IX chúng ta có 6 thành phần kinh tế là: “kinh tế nhà
nước, kinh tế tập thể, kinh tế cá thể và tiểu chủ, kinh tế tư bản tư nhân, kinh tế
có vốn đầu tư nước ngoài, kinh tế tư bản nhà nước” [30, tr.30].
Chúng ta đã tiến hành cổ phần hóa các doanh nghiệp nhà nước để
chuyển đổi sở hữu trong doanh nghiệp nhà nước. Đặc biệt năm 1992 chúng ta
đã làm thí điểm doanh nghiệp cổ phần hóa đây là bước ngoặt quan trọng trong
89
nỗ lực tìm ra hướng đi mới nhằm nâng cao hiệu quả đầu tư và cải thiện kết
quả kinh doanh của doanh nghiệp nhà nước. Theo Quyết định số 203-CT
ngày 8/6/1992 về danh sách doanh nghiệp nhà nước được chọn để chỉ đạo thí
điểm cổ phần hóa bao gồm: Nhà máy xà bông miền Nam, Nhà máy Diêm
thống nhất, Xí nghiệp nguyên liệu chế biến thức ăn gia súc, Xì nghiệp chế
biến gỗ Long Bình, Công ty vật tư tổng hợp Hải Hưng, Xí nghiệp sản xuất
bao bì, Xí nghiệp may mặc Legamex. Từ việc thí điểm này, cổ phần hóa đã
làm thay đổi về quan hệ sở hữu trong các doanh nghiệp nhà nước, quá trình
cổ phần hóa sau đó diễn ra nhanh hơn.
Cổ phần hóa các doanh nghiệp nhà nước diễn ra mạnh mẽ theo số liệu
thống kê trong giai đoạn “từ 1992-2000 chúng ta đã cổ phần hóa được 588
doanh nghiệp nhà nước, nhưng hầu như chỉ tập trung vào giai đoạn 1996-
2000 (khoảng 583 doanh nghiệp). Đa số các doanh nghiệp sau khi cổ phần
hóa đều làm ăn tốt hơn trước” [134, tr.125].
Thứ hai, về quan hệ tổ chức, quản lý.
Chúng ta đẩy mạnh việc sắp xếp lại các doanh nghiệp nhà nước để
giảm dần số lượng các doanh nghiệp nhà nước như: giao, bán, khoán, cho
thuê và cho phá sản các doanh nghiệp làm ăn kém hiệu quả.
Qua đổi mới sắp xếp lại các doanh nghiệp nhà nước thời kỳ này giảm
đi nhanh chóng theo số liệu thống kê: “từ khoảng 12000 doanh nghiệp năm
1986 xuống còn 5 280 doanh nghiệp năm 2000. Trong đó 48% là sát nhập vào
các doanh nghiệp lớn hơn, 52% giải thể [87, tr.115]. Như vậy, số lượng doanh
nghiệp nhà nước đã giảm đi hơn một nửa. “Mặc dù số lượng giảm nhưng
đóng góp vào GNP vẫn ổn định ở các mức tương ứng là 30,5% và 31,01%
năm giai đoạn 1998-2000” [134, tr.126].
Việc tổ chức sắp xếp lại các doanh nghiệp nhà nước cũng làm cho số
lượng giảm đi nhưng quy mô doanh nghiệp lại tăng lên “số lượng doanh
nghiệp có vốn dưới 1 tỷ đồng đã giảm gần gần 50% năm 1994, xuống còn
33% năm 1996, và 26% năm 1999. Số doanh nghiệp có vốn trên 10 tỷ đồng
tăng lên tương ứng là 10%, 15% và 20% năm 1999. Đồng thời, vốn bình quân
90
cho một doanh nghiệp cũng tăng từ 3,3 tỷ đồng lên hơn 11 tỷ đồng năm 1996
và hơn 18 tỷ đồng năm 1999” [87, tr.116].
Trong giai đoạn này chúng ta đã thành lập được 17 tổng công ty 91 và
76 tông công ty 90 hoạt động trong các ngành quan trong của đất nước như:
sắt thép, xi măng, dầu khí. Lương thực… Qua đó, các Tổng công ty đã huy
động được nguồn vốn đổi mới công nghệ, mở rộng sản xuất và tăng cường
cạnh tranh, khai thác thị trường trong và ngoài nước.
Thứ ba, về quan hệ phân phối.
Trong giai đoạn này, cơ chế phân phối bình quân, phân phối theo tem
phiếu và hiện vật dần dần được xóa bỏ. Chúng ta đã chuyển dần sang trả
lương bằng tiền mặt, gắn việc trả lương theo năng suất, chất lượng và hiệu
quả kinh tế và theo cơ chế thị trường. Những quy định về lương tối thiểu và
khoảng cách giữa lương tối thiểu và tối đa liên tục tăng: mức lương tối thiểu
năm 1989 là 22 500 đồng, năm 1991 là 39 375 đồng, năm 1993 là 110 000
đồng, năm 1997 là 144 000đ và năm 2000 là 180 000đ. Khoảng cách lương
tối thiểu và tối đa cũng tăng dần năm 1990 là: 1-1,82, năm 1993 là: 1-10…
những chuyển biến tích cực đó đã tạo được sự hài hòa giữa người lao động và
chủ sử dụng lao động và kích thích người lao động hăng say làm việc gắn
lương với kết quả lao động và tạo điều kiện tiền đề cho đổi mới tiếp theo.
Bên cạnh những sự biến đổi tích cực, quan hệ sản xuất xã hội chủ
nghĩa trong kinh tế nhà nước còn có những biến đổi tiêu cực như:
Một là, hiệu quả của doanh nghiệp nhà nước thấp, theo số liệu thống
kê: “tính đến năm 2000 số doanh nghiệp có lãi thực sự chiếm 40%, số doanh
nghiệp bị lỗ chiếm 20%, còn lại là tình trạng không ổn định, khi lỗ khi lãi và
lãi cũng không lớn” [87, tr.125].
Hai là, còn ảnh hưởng nặng nề của tư duy bao cấp, theo tác giả Ngô
Quang Minh:
Nhà nước phải thường xuyên hỗ trợ cho doanh nghiệp nhà nước
giai đoạn 1997-1999, ngân sách nhà nước đã đầu tư trực tiếp cho
doanh nghiệp gần 8000 tỷ đồng, trong đó 6482 tỷ đồng cấp bổ sung
91
cho doanh nghiệp, 1464 tỷ đồng là bù lỗ, hỗ trợ các doanh nghiệp.
Ngoài ra nhà nước còn miễn giảm thuế 2288 tỷ đồng, xóa nợ 1088
tỷ đồng, khoanh nợ 3392 tỷ đồng, giãn nợ 540 tỷ đồng, cho vay tín
dụng ưu đãi 8685 tỷ đồng [87, tr.126].
Tổng kết quá trình đổi mới giai đoạn này, Đại hội IX khẳng định:
“Quan hệ sản xuất có mặt chưa phù hợp hạn chế việc giải phóng và phát triển
lực lượng sản xuất. Chưa có chuyển biến đáng kể trong việc đổi mới và phát
triển doanh nghiệp nhà nước” [30, tr.153].
* Giai đoạn 2001-2017
Đến Đại hội IX chúng ta đã xác định được mô hình kinh tế tổng quát
trong thời kỳ quá độ lên CNXH là: “nền kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa” [30, tr.86]. Và khẳng định: “kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa có nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, trong đó kinh
tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở thành
nền tảng vững chắc” [30, tr.87]. Do đó, kinh tế nhà nước tiếp tục được đổi
mới để làm tốt vai trò chủ đạo trong nền kinh tế.
Về quan hệ sở hữu.
Về mặt sở hữu, Đại hội IX xác định cụ thể hơn so với đại hội trước, đại
hội VIII chỉ xác định những ngành, lĩnh vực nhà nước cần nắm giữ đó là kết
cấu hạ tầng, tài chính, ngân hàng, bảo hiểm, ngành liên quan đến quốc phòng,
an ninh. Đến Đại hội IX các ngành, lĩnh vực then chốt, quan trọng trong nền
kinh tế được nhà nước đầu tư “phát triển thêm doanh nghiệp mà Nhà nước
đầu tư 100% vốn hoặc có cổ phần chi phối ở một số ngành, lĩnh vực then chốt
và địa bàn quan trọng” [30, tr.96].
Đại hội IX đã chỉ rõ những ngành, lĩnh vực mà doanh nghiệp nhà nước
với những ngành nhà nước không cần nắm giữ 100% vốn thì đẩy mạnh cổ
phần hóa, thực hiện đa dạng hóa về sở hữu. Đại hội xác định: “Thực hiện tốt
chủ trương cổ phần hóa và đa dạng hóa sở hữu đối với những doanh nghiệp
mà nhà nước không cần nắm 100% vốn” [30, tr.97].
92
Đại hội X khẳng định:
Cơ cấu lại doanh nghiệp nhà nước, tập trung chủ yếu vào một số
lĩnh vực kết cấu hạ tầng, sản xuất tư liệu sản xuất và dịch vụ quan
trọng của nền kinh tế và một số lĩnh vực công ích. Đẩy mạnh và mở
rộng diện cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước, kể cả các tổng công
ty nhà nước [31, tr.85].
Đại hội X đã xác định trọng tâm là mở rộng cổ phần hóa các doanh
nghiệp nhà nước trong nền kinh tế, nhằm hình thành và phát triển nền kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta.
Đại hội XI và XII của Đảng đều nhấn mạnh ” đẩy mạnh cổ phần hóa”
các doanh nghiệp nhà nước.
Quán triệt các quan điểm của Đảng về đa dạng hóa sở hữu trong doanh
nghiệp nhà nước, Nhà nước ban hành Quyết định 58/2002/QĐ-TTg của Thủ
tướng chính phủ ngày 26-4-2002 về việc ban hành tiêu chí danh mục phân
loại doanh nghiệp nhà nước và Tổng công ty nhà nước. Theo quyết định này,
sở hữu nhà nước trong các doanh nghiệp được thu hẹp lại, các doanh nghiệp
nhà nước 100% vốn chỉ bao gồm các doanh nghiệp độc quyền như: vật liệu
nổ, phóng xạ, thuốc lá, điện.., các doanh nghiệp bảo đảm cho vùng sâu, vùng
xa, các doanh nghiệp đặc thù như: xuất bản, xổ số và các ngành quan trọng
khác do chính phủ quy định… Còn loại thứ hai, cổ phần hóa nhưng nhà nước
nắm cổ phần chi phối như: sản xuất đường, sữa dầu thực vật, kiểm định hàng
hóa… các doanh nghiệp không quan trọng Nhà nước nắm cổ phần dưới 50%
hoặc không nắm cổ phần. Loại hình thứ ba, các doanh nghiệp thua lỗ kéo dài
thì chuyển đổi về sở hữu bằng cách sáp nhập hoặc giải thể.
Tiếp theo là: Quyết định số 38/2007/QĐ-TTg ngày 20/3/2007(về ban
hành tiêu chí, danh mục phân loại doanh nghiệp nhà nước 100% vốn nhà
nước) và Quyết định 14/2011/QĐ-TTg ngày 4/3/2011(về tiêu chí phân loại
doanh nghiệp nhà nước). Nhờ có các văn bản pháp lý đó hướng dẫn cụ thể,
việc đổi mới sắp xếp lại doanh nghiệp nhà nước được thực hiện theo hướng
93
thu hẹp dần các ngành, các lĩnh vực nhà nước nắm 100% vốn và các ngành
lĩnh vực nhà nước nắm cổ phần chi phối trên 50% vốn.
Chính phủ ban hành Nghị định số 99/2012/NĐ-CP về phân công, phân
cấp thực hiện các quyền, trách nhiệm, nghĩa vụ của chủ sở hữu đối với
doanh nghiệp nhà nước và vốn Nhà nước đầu tư vào doanh nghiệp. Theo
Nghị định này Thủ tướng đại diện cho chủ sở hữu có quyền đối với các tập
đoàn, tổng công ty nhà nước, các Bộ thực hiện chức năng theo ngành mình
như: Bộ Tài chính chịu trách nhiệm giám sát tài chính, Bộ Nội vụ có chức
năng bổ nhiệm nhân sự, Bộ Lao động chịu trách nhiệm về tiền lương, Bộ Kế
hoạch đầu tư chịu trách nhiệm về thực hiện kế hoạch, chiến lược… Ở đây,
đã có sự phân công phân cấp về việc thực hiện quyền của chủ sở hữu nhưng
còn có nhiều hạn chế là quá nhiều đầu mối, nhiều chủ sở hữu dẫn đến hiệu
quả không cao.
Quyết định 58/2016/QĐ-TTg của Thủ tướng chính phủ về tiêu chí
phân loại Doanh nghiệp nhà nước, Doanh nghiệp có vốn nhà nước và Danh
mục Doanh nghiệp nhà nước thực hiện sắp xếp giai đoạn 2016-2020. Theo
quyết định này các ngành, lĩnh vực thuộc danh mục nhà nước nắm giữ 100%
vốn chỉ bao gồm 11 ngành: Đo đạc bản đồ phục vụ cho an ninh quốc phòng,
sản xuất vật liệu nổ, truyền tải điện, quản lý kết cấu hạ tầng, dịch vụ không
lưu, bảo đảm hàng hải, bưu chính công ích, kinh doanh xổ số, xuất bản, in,
đúc tiền, sản xuất vàng miếng và tín dụng chính sách phục vụ kinh tế xã hội.
Các doanh nghiệp nhà nước thuộc diện cổ phần hóa nhà nước nắm giữ
trên 65% vốn bao gồm 8 ngành: quản lý khai thác các cảng, hàng không, dịch vụ
thông tin dẫn đường, khai thác khoáng sản quy mô lớn, tài chính, ngân hàng.
Những doanh nghiệp nhà nước thuộc diện cổ phần hóa Nhà nước nắm
trên 50% và dưới 65% bao gồm 10 ngành: sản xuất hóa chất cơ bản, vận
chuyển hàng không, buôn bán gạo, nhập khẩu xăng dầu, sản xuất thuốc lá,
cung cấp viễn thông mạng, trồng chế biến cao su, cà phê tại địa bàn chiến
lược, doanh nghiệp bảo đảm nhu cầu cho đồng bào miền núi, kinh doanh bán
94
lẻ điện. Như vậy, các lĩnh vực thuộc sở hữu nhà nước và nhà nước nắm cổ
phần chi phối đã được thu hẹp lại rất nhiều so với thời kỳ trước.
Về quan hệ tổ chức, quản lý.
Để hình thành nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa trong
giai đoạn này, Đảng tiếp tục đổi mới mạnh mẽ cơ chế quản lý các doanh
nghiệp nhà nước được bắt nguồn từ giai đoạn trước như:
Tách bạch chức năng sở hữu và chức năng sản xuất kinh doanh của
doanh nghiệp, Đại hội IX xác định “phân biệt quyền của chủ sở hữu và quyền
kinh doanh của doanh nghiệp” [30, tr.97]. Đại hội X quyền tự chủ của doanh
nghiệp được xác định rõ nghĩa hơn. “Doanh nghiệp nhà nước có quyền tài
sản, thực sự tự chủ, tự chịu trách nhiệm trên thị trường và trước pháp luật.
Gắn trách nhiệm, quyền hạn và lợi ích của người quản lý doanh nghiệp với
kết quả của doanh nghiệp” [31, tr.84]. Đến Đại hội XI cơ chế quản lý có sự
hoàn thiện hơn theo cơ chế thị trường “phân định rõ quyền sở hữu của nhà
nước và quyền kinh doanh của doanh nghiệp” [33, tr.110]. Đại hội XII tách
bạch chức năng sản xuất kinh doanh và chức năng khác “Tách bạch nhiệm vụ
sản xuất kinh doanh và nhiệm vụ chính trị công ích. Tách chức năng chủ sở
hữu tài sản, vốn và chức năng quản lý nhà nước” [34, tr.106].
Như vậy, trong giai đoạn từ 2001-2017 các quan điểm của Đảng đã có
sự biến đổi nhằm phân định rõ chức năng của doanh nghiệp nhà nước trên thị
trường và chức năng quản lý của chủ sở hữu, để tránh sự can thiệp hành chính
vào công việc sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, góp phần hình thành
nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Trong giai đoạn này, Đảng khẳng định tiếp tục xóa bỏ bao cấp trong
doanh nghiệp nhà nước tạo ra sự cạnh tranh bình đẳng giữa các thành phần
kinh tế, các loại hình doanh nghiệp.
Đại hội IX khẳng định: “tiếp tục đổi mới cơ chế chính sách đối với
doanh nghiệp nhà nước để tạo động lực cho phát triển và nâng cao hiệu quả
theo hướng: xóa bỏ bao cấp; doanh nghiệp cạnh tranh bình đẳng trên thị
trường, tự chịu trách nhiệm về sản xuất, kinh doanh; nộp đủ thuế và có lãi”
95
[30, tr.97]. Đại hội X tiếp tục khẳng định “xóa bỏ mọi hình thức phân biệt đối
xử theo hình thức sở hữu” [31, tr.84]. Và nhấn mạnh:
Hoàn thiện cơ chế chính sách để các doanh nghiệp nhà nước thực
sự hoạt động trong môi trường cạnh tranh, công khai, minh bạch,
nâng cao hiệu quả. Xóa bỏ độc quyền và đặc quyền sản xuất kinh
doanh của doanh nghiệp nhà nước. Doanh nghiệp nhà nước có
quyền tài sản, thực sự tự chủ, tự chịu trách nhiệm trên thị trường và
trước pháp luật. Gắn trách nhiệm, quyền hạn và lợi ích của người
quản lý doanh nghiệp với kết quả của doanh nghiệp [31, tr.84-85].
Đại hội XI cũng chỉ rõ: “Bảo đảm quyền tự do kinh doanh và bình đẳng
giữa các thành phần kinh tế” [33, tr.110]. Đại hội XI còn chỉ rõ “Hoàn thiện cơ
chế chính sách để phát triển mạnh kinh tế tư nhân trở thành một trong những
động lực của nền kinh tế” [33, tr.209]. Đại hội XII nhấn mạnh hơn “kinh tế tư
nhân là một động lực quan trọng của nền kinh tế, các chủ thể của các thành
phần kinh tế bình đẳng, hợp tác và cạnh tranh theo pháp luật” [34, tr.103].
Trong tổ chức quản lý Đảng có chủ trương tổ chức sắp xếp lại các
doanh nghiệp nhà nước theo hướng giảm về số lượng, tăng về chất lượng hình
thành các tập đoàn kinh tế mạnh đủ sức cạnh tranh với bên ngoài. Việc hình
thành các tập đoàn kinh tế bắt đầu từ Đại hôi IX, Đại hội khẳng định: “xây
dựng các tập đoàn kinh tế mạnh trên cơ sở các tổng công ty nhà nước, có sự
tham gia của các thành phần kinh tế” [30, tr.96].
Đại hội X nhấn mạnh “Thúc đẩy việc hình thành một số tập đoàn kinh
tế mạnh, tầm cỡ khu vực, có sự tham gia cổ phần của nhà nước, của tư nhân
trong và ngoài nước, các tổng công ty bảo hiểm, các quỹ đầu tư… Trong đó,
Nhà nước giữ cổ phần chi phối” [31, tr.85].
Đại hội XI, các tập đoàn kinh tế, các doanh nghiệp nhà nước bắt đầu
bộc lộ những yếu kém, bất cập do ảnh hưởng bởi cuộc khủng hoảng kinh tế
thế giới 2008-2010. Đảng có chủ trương đổi mới, cơ cấu lại nền kinh tế,
chuyển đổi mô hình tăng trưởng, chuyển từ tăng trưởng theo chiều rộng sang
chiều sâu, nâng cao năng suất, chất lượng và hiệu quả kinh tế, trong đó có các
96
tập đoàn kinh tế. Đại hội lần thứ XII của Đảng cụ thể hóa hơn nữa và nhấn
mạnh “Cơ cấu lại doanh nghiệp nhà nước với trọng tâm là các tập đoàn kinh
tế, tổng công ty nhà nước” [34, tr.23].
Đảng chủ trương cơ cấu lại ngành nghề của các tập đoàn, tổng công ty
theo hướng thoái vốn khỏi các lĩnh vực khác chỉ đầu tư vào lĩnh vực chính
được giao nhằm nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh và trở thành nòng cốt
của kinh tế nhà nước.
Cụ thể hóa các chủ trương của Đảng, Nhà nước đã ban hành các văn
bản pháp lý khác như:
Luật Doanh nghiệp ban hành ngày 29/11/2005 có hiệu lực 1/7/2006,
với sự ra đời luật doanh nghiệp này đã đánh dấu sự thay đổi to lớn với
doanh nghiệp nhà nước; nó tạo ra khuôn khổ pháp lý cho sự bình đẳng,
thống nhất giữa các loại hình doanh nghiệp, giữa doanh nghiệp nhà nước
với các doanh nghiệp khác. Với việc ban hành luật doanh nghiệp 2005 toàn
bộ các công ty nhà nước phải chuyển đổi thành công ty cổ phần hoặc công
ty tránh nhiệm hữu hạn một thành viên do Nhà nước nắm giữ 100% vốn
điều lệ. Do đó, sở hữu nhà nước được xác định rõ hơn và bình đẳng với các
loại sở hữu khác.
Nhà nước đã quyết định cho thành lập các Tập đoàn kinh tế làm nòng
cốt trong doanh nghiệp nhà nước, kinh tế nhà nước, từ năm 2005-2011 đã
thành lập 12 tập đoàn kinh tế nhà nước như: Tập đoàn Viettel, Tập đoàn Dệt
may, Xăng dầu, Hóa chất, Bưu chính Viễn thông, Điện lực… làm cơ sở cho
nhà nước hướng dẫn, điều tiết vĩ mô nền kinh tế.
Nhà nước ban Quyết định số 339/QĐ-TTg của Thủ tướng chính phủ
ngày 19-2-2013 phê duyệt đề án tái cơ cấu kinh tế gắn với chuyển đổi mô
hình tăng trưởng giai đoạn 2013-2020. Và chỉ thị số 11/CT-TTg của Thủ
tướng chính phủ ban hành ngày 19-6-2013 về nhiệm vụ triển khai trong năm
2013-2015 nhằm thực hiện đề án tái cơ cấu kinh tế gắn với chuyển đổi mô
hình tăng trưởng giai đoạn 2013-2020.
97
Tiếp theo Nhà nước ban hành Nghị định 115/2014/NĐ-CP quy định
chế độ giám sát, kiểm tra việc thực hiện chiến lược, kế hoạch, mục tiêu,
nhiệm vụ được giao của doanh nghiệp nhà nước. Tuy nhiên còn có hạn chế
đó là; có quá nhiều cơ quan đại diện cho chủ sở hữu cho doanh nghiệp nhà
nước dẫn đến hiệu quả giám sát không cao, khi xẩy ra sai phạm không ai
chịu trách nhiệm.
Về quan hệ phân phối.
Đại hội IX đã cụ thể hóa chế độ phân phối ở nước ta là đa dạng hóa về
phân phối, nếu Đại hội VIII chỉ nói phân phối theo lao động và các nguồn lực
khác thì Đại hội IX xác định ngoài phân phối theo lao động, còn có phân phối
theo vốn đóng góp nhằm huy động nguồn vốn của xã hội vào sản xuất kinh
doanh và phân phối theo phúc lợi xã hội: “thực hiện phân phối chủ yếu theo
kết quả lao động và hiệu quả kinh tế, đồng thời phân phối theo mức đóng góp
vốn và các nguồn lực khác vào sản xuất kinh doanh và thông qua phúc lợi xã
hội” [30, tr.88].
Ngoài việc đa dạng hóa các hình thức phân phối thì Đại hội IX cũng
chú ý tới vấn đề công bằng trong phân phối để tạo động lực cho phát triển sản
xuất. Do đó, việc thực hiện tốt các chính sách xã hội được coi trọng nhằm
giảm chênh lệch giàu, nghèo, các điều kiện làm việc, lao động được cải thiện.
Đại hội khẳng định:
Chăm lo cải thiện điều kiện làm việc, bảo đảm an toàn và vệ sinh
lao động, phòng chống tai nạn bệnh nghề nghiệp cho người lao
động… cải cách cơ bản chế độ tiền lương cán bộ công chức theo
hướng tiền tệ hóa đầy đủ tiền lương; điều chỉnh tiền lương tương
ứng với nhịp độ tăng thu nhập của xã hội [30, tr.105].
Chính sách phân phối giai đoạn này tiếp tục được điều chỉnh theo cơ
chế thị trường, các doanh nghiệp được tự chủ trả lương, thưởng trên cơ sở
năng suất, chất lượng và hiệu quả kinh tế, ngoài ra còn có các chính sách
xóa đói giảm nghèo và các chính sách xã hội khác nhằm tạo công bằng trong
phân phối.
98
Đại hội X khẳng định thực hiện đa dạng các hình thức phân phối, trong
đó phân phối theo lao động là chính: “thực hiện chế độ phân phối chủ yếu
theo kết quả lao động, hiệu quả kinh tế, đồng thời theo mức đóng góp vốn
cùng các nguồn lực khác và thông qua phúc lợi xã hội” [31, tr.77-78].
Đại hội XI làm rõ tính công bằng trong phân phối: “quan hệ phân phối
phải bảo đảm công bằng và tạo động lực cho phát triển” [33, tr.74]. Đại hội
XII đã gắn tăng trưởng kinh tế với công bằng trong phân phối: “thực hiện tiến
bộ và công bằng xã hội trong từng bước, từng chính sách phát triển” [34,
tr,103]. Đại hội XII đề ra chủ trương phải bảo đảm đời sống cho người lao
động trên cơ sở việc làm và an sinh xã hội: “Giải quyết tốt lao động việc làm
cho người lao động, bảo đảm an sinh xã hội” [37, tr.136].
Thực hiện các quan điểm, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật
của Nhà nước, quan hệ sản xuất XHCN thể hiện ở kinh tế nhà nước đã có
những biến đổi tích cực:
Một là, về quan hệ sở hữu.
Qua quá trình đổi mới, sắp xếp lại các doanh nghiệp nhà nước, đã làm
cho sở hữu của QHSX XHCN trong kinh tế nhà nước đã được có sự thay đổi.
Các ngành, lĩnh vực thuộc doanh nghiệp nhà nước mà nhà nước nắm giữ
100% và cổ phần chi phối được thu hẹp lại. Theo số liệu thống kê:
Các ngành, lĩnh vực nhà nước nắm 100% vốn đã giảm đi rõ rệt, từ 42
ngành năm 2002, xuống 30 ngành năm 2004 và còn 19 ngành năm 2007, và
20 ngành năm 2011. Các ngành nhà nước nắm trên 50% vốn đã giảm từ 48
ngành, năm 2002 xuống 26 ngành năm 2004, 27 ngành năm 2007 và 27
ngành năm 2011 [19, tr.17].
Qua đó đã tạo điều kiện, địa bàn cho các thành phần kinh tế khác
phát triển
Cổ phần hóa các doanh nghiệp diễn ra mạnh mẽ: “Trong thời kỳ 2001-
2006 có khoảng 3 830 doanh nghiệp được sắp xếp lại ở Việt Nam, trong đó cổ
phần hóa được 2472 doanh nghiệp chiếm tỷ trọng 64,5% tổng số doanh nghiệp
nhà nước được sắp xếp, còn tính đến năm 2013 đã cổ phần hóa được 3659
99
doanh nghiệp chiếm 57,4%” [134, tr.135]. Tuy nhiên giai đoạn 2013-2015 quá
trình cổ phần hóa diễn ra chậm lại theo số liệu thống kê: “trong giai đoạn 2013-
2015 cả nước sắp xếp được 558 doanh nghiệp trong đó cổ phần hóa được 478
đơn vị chủ yếu là doanh nghiệp quy mô nhỏ” [38, tr.10]. Đánh giá công tác cổ
phần hóa, tại Hội nghị triển khai công tác sắp xếp, đổi mới doanh nghiệp giai
đoạn 2016-2020 ngày 6/12/2016 Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc kết luận:
Phần lớn các doanh nghiệp sau cổ phần hóa làm ăn có lãi. Tổng vốn
chủ sở hữu của các doanh nghiệp Nhà nước tăng từ 810.000 tỷ đồng
lên 1.234.000 tỷ đồng. Thực tế công tác cổ phần hóa năm 2015 cho
thấy, 350 doanh nghiệp cổ phần hóa đều làm ăn hiệu quả, nộp ngân
sách, lợi nhuận trước thuế tăng 49%, nộp ngân sách tăng 27%, vốn
điều lệ đều tăng 72%, thu nhập người lao động tăng tới 33%... Đây
là ví dụ cho thấy quá trình cổ phần hóa, sắp xếp lại doanh nghiệp
Nhà nước là rất ích lợi” [59]. Thủ tướng nhấn mạnh “phải coi công
tác sắp xếp, đổi mới doanh nghiệp Nhà nước là nhiệm vụ chính trị
quan trọng của năm 2017 [59].
Hai là, về quan hệ tổ chức, quản lý.
Trong thời kỳ này, quan hệ tổ chức quản lý doanh nghiệp nhà nước đã
được thực hiện theo hướng tổ chức, sắp xếp lại các doanh nghiệp nhà nước
sao cho giảm về số lượng, tăng về chất lượng.
Qua đổi mới sắp xếp lại các doanh nghiệp nhà nước giảm đi nhanh
chóng: “Năm 2001, cả nước có khoảng gần 6.000 doanh nghiệp nhà nước, thì
đến năm 2011, có 1.369 doanh nghiệp nhà nước, và tính đến hết tháng 10-
2016, còn 718 doanh nghiệp nhà nước. Về cơ bản, doanh nghiệp nhà nước đã
tập trung vào những ngành, lĩnh vực then chốt, cung cấp sản phẩm, dịch vụ
công ích thiết yếu” [59]. Như vậy, số doanh nghiệp nhà nước đã giảm đi hơn
8 lần, chỉ còn lại các doanh nghiệp nhà nước lớn, đóng vai trò nòng cốt bảo
đảm cho điều tiết vĩ mô nền kinh tế.
Qua đổi mới sắp xếp lại doanh nghiệp nhà nước cho ta thấy số doanh
nghiệp nhà nước giảm đi nhưng quy mô lại tăng lên, theo số liệu thống kê:
100
“tính bình quân cho một doanh nghiệp tăng từ 39,91 tỷ đồng năm 2000 lên
257,75 tỷ đồng năm 2009 tăng gấp 6,46 lần; tính bình quân cho một lao động
tăng từ 0,11 tỷ đồng lên 0,52 tỷ đồng, tăng gấp 4,73 lần” [126, tr.44].
Trong giai đoạn này, chúng ta đã tổ chức sắp xếp lại các Tổng công ty
90 và 91 để thành lập 12 Tập đoàn kinh tế như: Tập đoàn Điện lực, Tập đoàn
Xăng dầu, Tập đoàn Hóa chất, Tập đoàn Than và khoáng sản, Tập đoàn Bưu
chính viễn thông, Tập đoàn Cao su, Tập đoàn Viễn thông quân đội Viettel,
Tập đoàn Công nghiệp xây dựng, Tập đoàn Công nghiệp tàu thủy, Tập đoàn
Nhà và đô thị, Tập đoàn Bảo Việt. Các tập đoàn này đóng vai trò nòng cốt của
doanh nghiệp nhà nước và là cơ sở để nhà nước điều tiết nền kinh tế, tăng
cướng sức cạnh tranh với doanh nghiệp bên ngoài.
Đánh giá các tập đoàn, Tác giả Phùng Thế Hùng cho rằng: “Đa số các
tập đoàn đề có lãi, lợi nhuận trước thuế năm 2013 là 171 670 tỷ đồng, tăng
17% so với năm 2012” [55, tr.74]. Các tập đoàn nhà nước ngoài việc tham gia
sản xuất kinh doanh còn thực hiện nhiệm vụ chính trị, xã hội, an ninh, quốc
phòng, đầu tư cho vùng sâu, vùng xa…
Thực hiện chủ trương đổi mới mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh
tế, đổi mới doanh nghiệp nhà nước giai đoạn 2011-2015. Chúng ta đã thu
được kết quả tốt tích cực theo đánh giá của Ban Kinh tế trung ương:
Gần bốn năm triển khai thực hiện Đề án cơ cấu lại doanh nghiệp nhà
nước, hiệu quả hoạt động, sức cạnh tranh của doanh nghiệp nhà nước có cải
thiện; vốn chủ sở hữu tăng, tỷ xuất lợi nhuận tính trên vốn và doanh thu đạt
10%-15%, nộp ngân sách nhà nước tăng 27%/năm, đóng góp GDP chiếm
khoảng 32%; trong bối cảnh có nhiều khó khăn, các doanh nghiệp nhà nước
đã duy trì hoạt động sản xuất kinh doanh, bảo toàn và phát triển vốn nhà
nước, góp phần ổn định kinh tế vĩ mô và tăng trưởng kinh tế [2, tr.87].
Ba là, về quan hệ phân phối.
Trong giai đoạn này, chúng ta đã xóa bỏ cơ chế trả lương theo cơ chế
kế hoạch hóa tập trung, thực hiện trả lương, thưởng và các khoản khác theo
101
cơ chế thị trường. Việc trả lương theo cơ chế thị trường đã kích thích được lợi
ích của người lao động, từ đó giúp cho sản xuất phát triển.
Cách tính lương tháng hiện nay được xác định theo quy định tại
thông tư số 220/2013/TT-BTC và Nghị định số 71/2013 của Chính phủ. Cơ
chế để thưởng viên chức quản lý doanh nghiệp là căn cứ vào xếp loại viên
chức doanh nghiệp theo hiệu quả hoạt động và mức độ hoàn thành chỉ tiêu
nhà nước giao về tỉ xuất lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu. Căn cứ xếp loại
viên chức A,B,C để tính lương viên chức quản lý nếu hoàn thành xuất sắc
thì được thưởng 1,5 tháng lương. Việc trả lương theo chế độ viên chức cho
cán bộ quản lý, đặc biệt là cán bộ quản lý cấp cao là chưa theo cơ chế thị
trường chưa tạo ra động lực cho cán bộ quản lý yên tâm công tác và làm
giàu chính đáng.
Bên cạnh những biến đổi tích cực QHSX XHCN thể hiện ở kinh tế nhà
nước, doanh nghiệp nhà nước còn có những biến đổi tiêu cực:
Thứ nhất là, sở hữu nhà nước, doanh nghiệp nhà nước tuy có giảm
nhưng vẫn chiếm tỷ trọng rất lớn trong cơ cấu GDP của cả nước.
Bảng 3.1: Cơ cấu GDP của các thành phần kinh tế
Đơn vị tính %
Năm 2010 2011 2012 2013 2014 2015
Kinh tế nhà nước 29,34 29,01 29,39 29,01 28,73 28,69
Kinh tế tập thể 3,99 3,98 4,00 4,03 4,04 4,01
Kinh tế tư nhân 6,90 7,34 7,97 7,78 7,79 7,88
Kinh tế cá thể 32,07 32,55 32,65 31,71 31,50 31,33
Kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài 15,15 15,66 16,04 17,36 17,89 18.07
Nguồn: Niên giám thống kê 2015 [148, tr.174]
Như vậy, kinh tế nhà nước tuy có giảm những vẫn chiếm 28,69% GDP
của cả nước tỷ lệ này cần giảm xuống để cho các thành phần kinh tế khác
phát triển.
Thứ hai, nhiều doanh nghiệp làm ăn thua lỗ, đánh giá hiệu quả hoạt
động của doanh nghiệp nhà nước tác giả Chu Văn Cấp cho rằng:
102
Hàng năm có 12% doanh nghiệp nhà nước thua lỗ, mức lỗ bình
quân của một doanh nghiệp nhà nước cao hơn 12 lần so với khu
vực khác. Lợi nhuận trước thuế / vốn chủ sở hữu của doanh nghiệp
nhà nước chỉ đạt 13,1% thấp hơn nhiều so với lãi suất vay của
ngân hàng thương mại. Đặc biệt có đến 80% tổng số lợi nhuận
trước thuế đến từ 4 tập đoàn: Dầu khí, Viễn thông quân đội, Bưu
chính viễn thông, và Cao su. Các tập đoàn kinh tế và tổng công ty
còn lại, tỷ lệ lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu rất thấp [126, tr.47].
Trong giai đoạn này, QHSX XHCN tiếp tục được củng cố, đổi mới
hoàn thiện theo hướng giảm về số lượng, tăng về chất lượng để làm tốt vai trò
chủ đạo trong nền kinh tế.
3.1.2. Thực trạng về sự biến đổi của quan hệ sản xuất xã hội chủ
nghĩa thể hiện ở kinh tế tập thể
Cùng với kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể là bộ phận thứ hai hợp thành
quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Tuy nhiên, kinh tế tập thể chiếm
số lượng nhỏ bé trong nền kinh tế quốc dân, do vậy ít được chú ý bàn đến
trong nền kinh tế thị trường hiện nay. Quan điểm của Đảng, Nhà nước là phát
triển kinh tế tập thể cùng với kinh tế nhà nước dần trở thành nền tảng của nền
kinh tế quốc dân. Xuất phát từ một nước sản xuất nhỏ còn phổ biến, lực lượng
sản xuất thấp tiến lên CNXH. Do vậy, phát triển kinh tế hợp tác để chuyển từ
sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn XHCN là một tất yếu khách quan. Kinh tế tập
thể ở nước ta được hình thành từ khi Đảng lãnh đạo nhân dân đấu tranh giành
được chính quyền và phát triển qua nhiều giai đoạn khác nhau.
* Giai đoạn 1986 - 2001
Quá trình đổi mới về kinh tế tập thể trong giai đoạn này được thể hiện
thông qua văn kiện Đại hội VI, VII, VIII và các văn kiện khác.
Đại hội VI của Đảng đánh dấu bước ngoặt trong đổi mới kinh tế tập
thể, kinh tế hợp tác. Đối với thành phần kinh tế hợp tác thành phần thứ hai
của QHSX xã hội chủ nghĩa, Đại hội đã chỉ ra tư tưởng đổi mới đó là “khoán”
trong nông nghiệp và chuyển sang “hạch toán kinh doanh xã hội chủ nghĩa”
với các hợp tác xã tiểu thủ công nghiệp, tín dụng, mua bán.
103
Để củng cố kinh tế tập thể, phải nâng cao trình độ tổ chức, quản lý
và tăng cường cơ sở vật chất - kỹ thuật đi đôi với thực hiện quan hệ
trao đổi liên kết với kinh tế quốc doanh, kinh tế gia đình, trước hết
là cung ứng vật tư, nguyên liệu, và tiêu thu sản phẩm. Trong nông
nghiệp, giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa nhà nước, kinh tế
quốc doanh với các hợp tác xã, đồng thời cải tiến quản lý nội bộ với
các các hợp tác xã, hoàn thiện phương thức khoán sản phẩm cuối
cùng đến nhóm và người lao động [27, tr.59].
Trước thời kỳ đổi mới, với quan điểm xóa bỏ sự tồn tại của các loại
hình quan hệ sản xuất khác, kinh tế tập thể phát triển nhanh chóng với số
lượng lớn. Trong lĩnh vực nông nghiệp chúng ta tiến hành xây dựng các hợp
tác xã bậc thấp và bậc cao dựa trên đưa người nông dân cá thể vào làm ăn hợp
tác xã. Trong thương nghiệp ta tiến hành xóa bỏ tư thương, xây dựng các hợp
tác xã thương nghiệp mua bán, điều này đã tạo ra sự không phù hợp giữa
QHSX tiên tiến với trình độ thấp kém của LLSX, gây khó khăn cho sản xuất
và đời sống nhân dân, dẫn đến hiện tượng khoán chui trong nông nghiệp.
Trong sản xuất nông nghiệp, chúng ta đã thủ tiêu chủ thể sản xuất kinh
doanh là các hộ nông dân, đưa họ vào làm ăn hợp tác xã. Trong các hợp tác xã,
với cơ chế quản lý chỉ huy tập trung được điều hành bởi các ban hợp tác xã ở
tất cả các khâu, các quá trình sản xuất với chế độ phân phối thông qua công
điểm. Các hợp tác xã đã phải thực hiện chức năng phi kinh tế với chế độ cấp
phát giao nộp hiện vật… là gánh nặng đè lên tài chính của các hợp tác xã.
Trước thực trạng sa sút của sản xuất nông nghiệp và sự bất cập của mô
hình hợp tác xã kiểu cũ ở một số địa phương như: Phú Thọ, Hải Phòng… đã
xuất hiện hiện tượng “khoán hộ”, “khoán chui”. Đây là đòi hỏi tất yếu của
cuộc sống mở ra lối thoát cho sản xuất nông nghiệp. Tổng kết thực tiễn, Ban
Bí thư trung ương Đảng đã ra chỉ thị 100/CT năm 1981 về khoán sản phẩm
đến nhóm và người lao động trong nông nghiệp. Với cơ chế khoán này người
nông dân đã được giao ruộng đất và tự tổ chức ba khâu trong sản xuất nông
104
nghiệp (gieo trồng, chăm bón và thu hoạch), các công việc còn lại do hợp tác
xã đảm nhiệm. Một định mức khoán về chi phí sản xuất, khoán công điểm,
khoán sản phẩm được định ra dựa trên cơ sở sản lượng trung bình của ba vụ
trước đó.
Chỉ thị 100/CT-TW đã mang lại một sinh khí mới cho sản xuất nông
nghiệp: sức sản xuất nông nghiệp tăng lên, thu nhập và đời sống người nông
dân được cải thiện. Tuy nhiên, chỉ thị 100/CT cũng bộc lộ những hạn chế
như: người nông dân chưa thực sự được làm chủ trên mảnh đất của mình, hợp
tác xã là người quản lý chi phối các hoạt động kinh tế của nông dân.
Để khắc phục hạn chế trên, 4-1988, Bộ Chính trị đã ra Nghị quyết 10
(khoán 10) Nghị quyết khẳng định:
Đối với các hộ cá thể và tư nhân, sau khi đã nộp thuế cho nhà
nước, họ sẽ được hưởng toàn bộ phần lương thực còn lại, được
quyền tự do tiêu thụ sản phẩm ở những nơi có lợi; đối với các xã
viên trong hợp tác xã, được thực hiện nguyên tắc phân phối theo
lao động và theo cổ phần đóng góp của xã viên vào hợp tác xã,
khắc phục chủ nghĩa bình quân và tình trạng bao cấp tràn lan trong
phân phối [32, tr.483].
Đáng giá Nghị quyết 10, Đại hội VII đã khẳng định:
Kinh tế tập thể trong nông nghiệp đã chuyển sang thực hiện rộng rãi
cơ chế khoán, hộ xã viên là những đơn vị kinh tế tự chủ, được giao
quyền sử dụng đất… Nhưng hiện nay phần lớn các ban quản lý hợp
tác xã và tập đoàn sản xuất đang lúng túng trong hoạt động, chưa
thực hiện được việc tổ chức khâu dịch vụ sản xuất, tiêu thụ, một số
nhiệm vụ quản lý cần thiết; tình trạng khoán trắng cho các xã viên
còn diễn ra phổ biến [28, tr.26].
Như vậy, từ mô hình hợp tác xã cũ chuyển sang mô hình hợp tác xã
mới theo cơ chế thị trường đã làm thay đổi tư duy về hợp tác xã, khiến cho
các hợp tác xã gặp nhiều khó khăn, lúng túng.
105
Trong lĩnh vực khác như: tiểu thủ công nghiệp, tín dụng, mua bán, các
hợp tác xã khi tiến hành đổi mới cũng gặp nhiều khó khăn khiến cho kinh tế
hợp tác thu hẹp lại:
Trong lĩnh vực sản xuất, tiểu thủ công nghiệp khoảng 20% số hợp tác
xã đã vươn lên thích nghi với cơ chế thị trường. Một bộ phận lớn đang
rất khó khăn, khoảng 20% các hợp tác xã đã giải thể hoặc chuyển sang
hoạt động dưới dạng tư nhân. Phần lớn các hợp tác xã mua bán kinh
doanh thua lỗ và lúng túng về phương thức hoạt động [28, tr.26-27].
Đến Đại hội VII của Đảng vấn đề đổi mới về sở hữu của kinh tế tập thể
được xác định rõ hơn so với Đại hội VI. Kinh tế tập thể được hình thành trên cơ
sở sở hữu tập thể về tư liệu sản xuất với nguyên tắc: “tiếp tục đổi mới và kiện
toàn kinh tế tập thể theo nguyên tắc tự nguyện, dân chủ, bình đẳng, phát huy và
kết hợp hài hòa sức mạnh của tập thể và của xã viên” [28, tr.68]. Trong lĩnh vực
nông nghiệp chúng ta đã tách rời quyền sử dụng và quyền sở hữu, đất đai thuộc
sở hữu toàn dân giao cho các hộ xã viên quyền sử dụng lâu dài, đồng thời tăng
cường gắn kết các hợp tác xã với xã viên: “tiếp tục đổi mới cơ chế quản lý các
hợp tác xã nông nghiệp theo hướng vừa bảo đảm quyền tự chủ của hộ xã viên,
vừa tăng cường vai trò của các ban quản trị trong một số việc quản lý, điều hành
sản xuất, làm tốt những khâu dịch vụ cần thiết” [28, tr.68]. Vấn đề sở hữu của
kinh tế tập thể được khẳng định rõ trong Hiến pháp năm 1992:
Nhà nước thực hiện nhất quán chính sách phát triển nền kinh tế thị trường
định hướng XHCN. Cơ cấu kinh tế nhiều thành phần với nhiều hình thức tổ chức
sản xuất kinh doanh đa dạng dựa trên chế độ sở hữu toàn dân, sở hữu tập thể, sở
hữu tư nhân, trong đó sở hữu toàn dân và tập thể là nền tảng [103].
Trên lĩnh vực nông nghiệp Luật đất đai ra đời năm 1993, đã tạo điều kiện
cho sản xuất nông nghiệp phát triển khi tách rời quyền sử dụng đất và quyền sở
hữu, giao quyền tự chủ sản xuất cho các hộ xã viên: “Hộ gia đình, cá nhân được
Nhà nước giao đất có quyền chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê, thừa kế, thế
chấp sử dụng đất” [104]. Nhờ có các văn bản chỉ đạo trên mà chúng ta đã kết
106
hợp hài hòa lợi ích của các xã viên và hợp tác xã một cách tự nguyện và thúc đẩy
sản xuất phát triển. Kinh tế tập thể đã góp phần đưa nước ta thoát khỏi “khủng
hoảng kinh tế - xã hội nghiêm trọng và kéo dài 15 năm” [29, tr.12].
Đại hội VIII có sự đổi mới hơn so với Đại hội VII, đó là lần đầu tiên Đại
hội VIII đã đưa ra khái niệm kinh tế hợp tác: “Kinh tế hợp tác mà nòng cốt là các
hợp tác xã là hình thức liên kết tự nguyện của những người lao động nhằm kết
hợp sức mạnh của từng thành viên với sức mạnh tập thể để giải quyết hiệu quả
hơn những vấn đề của sản xuất kinh doanh và đời sống” [29, tr.95].
Để phát triển kinh tế hợp tác Đại hội VIII đưa ra nguyên tắc đầy đủ hơn so
với Đại hội VII đó là: “phát triển kinh tế hợp tác với nhiều hình thức đa dạng từ
thấp đến cao, từ tổ nhóm hợp tác đến các hợp tác xã; tuân thủ nguyên tắc tự
nguyện, bình đẳng, cùng có lợi, quản lý dân chủ” [29, tr 95]. Ngoài ra trên lĩnh
vực phân phối, Đại hội VIII của Đảng cũng làm rõ hình thức phân phối của kinh
tế hợp tác đó là: “Hợp tác xã được tổ chức trên cơ sở đóng góp cổ phần và sự
tham gia lao động trực tiếp của các xã viên, phân phối theo lao động và theo cổ
phần, mỗi xã viên có quyền như nhau đối với công việc chung” [29, tr.95].
Đặc biệt là năm 1996 đã ra đời Luật hợp tác xã, với sự ra đời Luật hợp
tác xã đã đánh dấu bước ngoặt trong việc chuyển đổi mô hình hợp tác xã kiểu
cũ sang hợp tác xã kiểu mới. Luật hợp tác xã ra đời là một quá trình nhận thức
đúng đắn hơn về vị trí vai trò của kinh tế hợp tác là một pháp nhân trong kinh
tế thị trường. Điều đó có nghĩa là mọi hoạt động của sản xuất kinh doanh
quyền lợi và nghĩa vụ của khu vực kinh tế tập thể được bảo đảm bằng luật
pháp, ngang bằng với pháp nhân kinh tế khác. Theo tác giả Chử Văn Lâm:
Sau khi thực hiện Luật hợp tác xã năm 1996 đến 31/12/2001, đã có
8.343 hợp tác xã làm thủ tục chuyển đổi, (chiếm 44,8%), 6.909 hợp
tác xã tự giải thể hoặc không hoạt động (chiếm 37,2% hợp tác xã cũ).
Ngoài ra còn 11701 hợp tác xã đang làm thủ tục chuyển đổi hoặc
chưa chuyển đổi, có 3190 hợp tác xã mới được thành lập [61, tr.117].
Trong giai đoạn này, kinh tế tập thể mà nòng cốt là các hợp tác xã có sự
biến đổi có tính bước ngoặt thể hiện là số lượng các hợp tác xã giảm đi nhanh
107
chóng, các hợp tác xã bị giải thể thay vào đó là các hộ xã viên chuyển sang kinh
doanh cá thể. Theo số liệu thống kê của liên minh các hợp tác xã Việt Nam:
“Năm 1986 cả nước có khoảng 74.490 hợp tác xã thì đến năm 1996 chỉ còn
18.607 hợp tác xã và đến năm 2000 chỉ còn 15.144 hợp tác xã” [69, tr.105]. Như
vậy số lượng các hợp tác xã đã giảm đi 5 lần.
Nguyên nhân chủ yếu là do, trong giai đoạn này nền kinh tế nước ta
đã hình thành nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận động theo cơ chế
thị trường có sự quản lý của nhà nước, tạo ra sự cạnh tranh trên thị trường.
Cơ chế quản lý cũ của các hợp tác xã (HTX), cơ chế kế hoạch hóa tập trung
không còn phù hợp.
* Giai đoạn 2001-2017
Quan điểm đổi mới giai đoạn này được thể hiện thông qua văn kiện Đại
hội IX, X, XI, XII và các văn kiện khác của Đảng và nhà nước.
Để phát triển quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa, đối với kinh tế tập thể
Đại hội IX đã có sự phát triển so với Đại hội VIII, đó là Đại hội IX đã xác
định rõ hơn về sở hữu của kinh tế tập thể: “các hợp tác xã dựa trên sở hữu của
các thành viên và sở hữu tập thể, liên kết rộng rãi những người lao động, các
hộ sản xuất, kinh doanh, các doanh nghiệp nhỏ và vừa, không giới hạn quy
mô lĩnh vực và địa bàn” [30, tr.98]. Như vậy, kinh tế hợp tác không chỉ bao
gồm sở hữu của các thành viên góp lại như: người lao động, các hộ sản xuất
kinh doanh… mà còn bao gồm cả sở hữu chung, tài sản chung của người lao
động, các hộ sản xuất kinh doanh… được hình thành trong quá trình sản xuất
kinh doanh dưới sự liên kết lại của họ với tư cách là một pháp nhân trong
kinh tế. Để phát triển kinh tế tập thể cần phải có sự hỗ trợ của nhà nước. Do
vốn ít, thiếu kinh nghiệm trong sản xuất, thiếu thông tin thị trường do đó để
thành phần kinh tế tập thể phát triển nhà nước cần có chính sách hỗ trợ họ.
Đại hội IX khẳng định: “Nhà nước giúp đỡ hợp tác xã đào tạo cán bộ, ứng
dụng khoa học công nghệ, nắm bắt thông tin, mở rộng thị trường, xây dựng
các quỹ hỗ trợ phát triển hợp tác xã, giải quyết nợ tồn đọng” [30, tr.98].
Đại hội X của Đảng khẳng định: “Tổng kết thực tiễn, sớm có chính
sách, cơ chế cụ thể khuyến khích phát triển mạnh hơn các loại hình kinh tế tập
108
thể đa dạng về hình thức sở hữu và hình thức sản xuất kinh doanh” [31, tr.86].
Đại hội X có sự phát triển hơn trước đó là tăng cường vốn góp trong kinh tế
tập thể: “khuyến khích việc tăng vốn góp và các nguồn vốn huy động từ thành
viên để tăng nguồn vốn hoạt động của hợp tác xã, tăng vốn đầu tư phát triển,
tăng tài sản và quỹ không chia trong hợp tác xã” [31, tr.86]. Đại hội X của
Đảng cũng chú trọng nguyên tắc trong hình thành hợp xã và đề ra các nguyên
tắc đó là: “Hợp tác xã và các loại hình kinh tế hợp tác hoạt động theo nguyên
tắc: hợp tác tự nguyện; dân chủ, bình đẳng và công khai; tự chủ, tự chịu trách
nhiệm và cùng có lợi; hợp tác và phát triển cộng đồng” [31, tr.86]. Như vậy,
ngoài nguyên tắc; tự nguyện, dân chủ, bình đẳng, Đại hội X còn đề ra các
nguyên tắc khác như: công khai, tự chủ và tự chịu trách nhiệm, ngoài nhiệm
vụ phát triển sản xuất kinh doanh thì các hợp tác xã còn có trách nhiệm về
văn hóa xã hội là hợp tác và phát triển cộng đồng.
Đại hội XI của Đảng cũng đề ra các chính sách nhằm phát triển sản
xuất kinh doanh của các hợp tác xã: “tạo điều kiện thuận lợi để kinh tế tập thể
phát triển đa dạng, mở rộng quy mô; có cơ chế chính sách hợp lý trợ giúp các
tổ chức kinh tế hợp tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, mở rộng thị trường, ứng
dụng công nghệ mới, tiếp cận vốn” [33, tr.110].
Đại hội XII khẳng định: “tiếp tục đổi mới nội dung và phương thức
hoạt động của kinh tế tập thể, kinh tế hợp tác xã; đẩy mạnh liên kết và hợp tác
dựa trên quan hệ lợi ích, áp dụng phương thức quản lý tiên tiến, phù hợp với
cơ chế thị trường” [34, tr.107].
Cụ thể hóa các chủ trương của Đảng năm 2012, chúng ta đã thông qua
Luật hợp tác xã mới thay cho các Luật hợp tác xã trước đây. Luật hợp tác xã
năm 2012 có sự khác biệt so với Luật hợp tác xã cũ, đó là đã quy định cụ thể
hơn rõ ràng hơn về mục tiêu và hình thức tổ chức, quản lý trong các hợp tác
xã theo đúng bản chất của hợp tác xã là giúp đỡ, hợp tác, tương trợ lẫn nhau
cùng phát triển. Chẳng hạn, về mục tiêu của hợp tác xã là đáp ứng nhu cầu
chung của các thành viên về cung ứng dịch vụ đầu vào hoặc đầu ra cho các
109
thành viên trong hợp tác xã. Điều này có tác dụng tốt hơn so với từng thành
viên tự làm, tăng cường khả năng cạnh tranh của từng thành viên trong nền
kinh tế thị trường và phù hợp với mục tiêu định hướng xã hội chủ nghĩa của
chúng ta. Trong quản lý hợp tác xã thực hiện theo nguyên tắc: tự nguyện, dân
chủ, công khai, bình đẳng giữa các thành viên. Nguyên tắc của hợp tác xã là:
bình đẳng và tương trợ lẫn nhau, do đó, không có tình trạng áp bức, bóc lột…
Để làm được điều này Luật hợp tác xã năm 2012 quy định rõ mức góp vốn tối
đa của mỗi thành viên không quá 20% để không có thành viên nào chiếm cổ
phần chi phối, các thành viên đều bình đẳng trong các quyết định của mình.
Về quan hệ phân phối, hợp tác xã có sự kết hợp hài hòa lợi ích của các thành
viên hợp tác xã và hợp tác xã phân phối được thực hiện theo lao động của các
xã viên và theo cổ phần góp vốn. Quan hệ phân phối ở đây do bản chất của
hợp tác xã là liên kết, hợp tác và tương trợ lẫn nhau không có ai có quyền
quyết định chi phối. Do vậy, trong quan hệ phân phối là hoàn toàn bình đẳng
theo lao động và vốn góp của các xã viện. Quan hệ phân phối này đúng với
nguyên tắc của chủ nghĩa xã hội, vì vậy đã gắn kết các thành viên của hợp tác
xã lại với nhau vì mục tiêu kinh tế và xã hội.
Kết quả hoạt động của kinh tế tập thể mà nòng cốt là kinh tế hợp tác
trong giai đoạn 2001 - nay (2017) như sau:
Doanh thu của khu vực kinh tế tập thể ngày càng tăng theo số liệu
thống kê: “Năm 2010 doanh thu là 86.000 tỷ đồng, năm 2011 là 11.679 tỷ
đồng, năm 2012 là 129.821tỷ đồng, năm 2013 là 144.296 tỷ đồng, năm 2014
là 158.964 tỷ đồng” [148, tr.150].
Qua việc thực hiện chuyển đổi mô hình hợp tác xã theo luật hợp tác xã
năm 1996, sửa đổi năm 2003 và luật hợp tác xã kiểu mới năm 2012 số lượng
các hợp tác xã ngày càng tăng. Theo số liệu thống kê của liên minh hợp tác xã
Việt Nam: “tính đến ngày 31-12-2011 cả nước có 19500 hợp tác xã, tăng
4650 hợp tác xã so với năm 2001, tốc độ tăng giai đoạn 2007-2011 là 31%,
cao hơn giai đoạn 2002-2006 là 13%, thu hút khoảng 13 triệu xã viên và
người lao động các cơ sở sản xuất nhỏ” [69, tr.138].
110
Tuy nhiên, mặc dù kinh tế tập thể có sự tăng trưởng qua các năm theo
doanh thu, nhưng tỷ trọng của kinh tế tập thể còn chiếm tỷ trọng nhỏ bé trong
nền kinh tế quốc dân theo số liệu thống kê: tính theo tỷ lệ % cơ cấu tổng sản
phẩm trong nước.
Bảng 3.2: Cơ cấu GDP của các thành phần kinh tế năm 2010-2014.
Đơn vị tính %
Năm 2010 2011 2012 2013 2014
Kinh tế nhà nước 29,34 29,01 29,39 29,01 28,73
Kinh tế tập thể 3,99 3,98 4,00 4,03 4,04
Kinh tế tư nhân 6,90 7,34 7,97 7,78 7,79
Kinh tế cá thể 32,07 32,55 32,65 31,71 31,50
Kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài
15,15 15,66 16,04 17,36 17,89
Nguồn: Niên giám thống kê năm 2014 [147, tr.152]
Như vậy, trong cơ cấu tổng sản phẩm trong nước GDP thì kinh tế tập
thể vẫn chiếm tỷ lệ nhỏ bé nhất trong nền kinh tế chỉ từ 3,99% - 4,04% (từ
năm 2010 - 2014), trong khi đó kinh tế cá thể mặc dù có giảm đi nhưng vẫn
chiếm số lượng lớn trong nền kinh tế từ: 32,07% - 31,50% [147, tr.152]. Điều
này cho chúng ta thấy; kinh tế tập thể còn chưa thu hút được nhiều hộ kinh
doanh cá thể vào làm ăn tập thể.
3.1.3. Đánh giá chung
Về quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa thể hiện ở kinh tế nhà nước, mà
nòng cốt là các doanh nghiệp nhà nước.
Những biến đổi tích cực được thể hiện:
Thứ nhất, số lượng các doanh nghiệp nhà nước đã giảm đi liên tục qua
các năm. Năm 1986 ta có khoảng 12000 doanh nghiêp, đến năm 2001, cả
nước có khoảng gần 6.000 doanh nghiệp nhà nước, thì đến năm 2011, có
1.369 doanh nghiệp nhà nước, và tính đến hết tháng 10-2016, còn 718 doanh
nghiệp nhà nước. Như vậy, số lượng doanh nghiệp nhà nước đã giảm đi 17
lần so với trước đổi mới.
111
Thứ hai, chất lượng các doanh nghiệp nhà nước được tăng cường.
Điều này được thể hiện; chúng ta đã hình thành các tập đoàn kinh tế lớn
đóng vai trò nòng cốt, xương sống cho doanh nghiệp nhà nước và cả nền
kinh tế như: Tập đoàn Viễn thông quân đội, Tập đoàn Điện lực, Tập đoàn
Cao su, Tập đoàn Dệt may…Từ chỗ các doanh nghiệp nhà nước quy mô
nhỏ, vốn ít chúng ta đã ta đã thành lập các tổng công ty và các tập đoàn kinh
tế lớn đóng vai trò đầu tầu của nền kinh tế tăng cường khả năng hợp tác cạnh
tranh với bên ngoài.
Hiện nay các tập đoàn, tổng công ty nhà nước tập trung nắm giữ các
ngành lĩnh vực quan trọng của nền kinh tế như: Dầu khí, sắt thép, xi măng,
ngân hàng, bảo hiểm, cao su, vận tải, xây dựng, đóng tàu, thương mại…
Đây là lực lượng vật chất to lớn và là cơ sở để nhà nước điều tiết vĩ mô nền
kinh tế.
Thứ ba, các ngành, lĩnh vực thuộc sở hữu 100% vốn doanh nghiệp nhà
nước đã được thu hẹp lại tập trung vào các lĩnh vực trọng yếu của nền kinh tế
để làm tốt hơn vai trò chủ đạo, tạo điều kiện, địa bàn cho các thành phần kinh
tế khác phát triển. Từ chỗ doanh nghiệp quốc doanh 100% vốn nhà nước năm
1986 ở hầu hết các ngành, lĩnh vực trong nền kinh tế thì đến năm 2016 chỉ
còn chiếm 19 ngành tập trung vào những ngành then chốt trọng yếu trong nền
kinh tế.
Thứ tư, doanh nghiệp nhà nước góp phần quan trọng để kinh tế nhà
nước ổn định kinh tế và giải quyết các vấn đề của xã hội tạo ra một xã hội
công bằng hơn, khắc phục mặt trái của kinh tế thị trường như: phân hóa giàu
nghèo, an sinh xã hội, lạm phát. Các doanh nghiệp nhà nước trong các ngành
điện lực, xăng dầu, ngân hàng… đã đóng góp nhiều vào ổn định vĩ mô trong
thời kỳ chịu ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng toàn cầu năm 2008-2010.
Điện lực đã đầu tư hàng nghìn tỷ đồng về lưới điện cho vùng sâu, vùng
xa, các đồng bào dân tộc ít người tạo điều kiện cho các nơi đó phát triển. Tác
giả Dương Quang Thành khẳng định:
112
Đến nay, 100% số huyện 99,4% số xã và 98,31% số hộ nông dân
được sử dụng điện. Đặc biệt tại các vùng đồng bào dân tộc thiểu số,
vùng sâu, vùng xa, chỉ 10 năm trước đây tỷ lệ có điện còn rất thấp
dưới 30%, nhưng đến nay đa số địa bàn và nhân dân được sử dụng
điện và chỉ ra hiệu quả về kinh tế - xã hội là: Quá trình điện khí hóa
đóng góp 30% - 40% trong việc phát triển kinh tế tại khu vực nông
thôn, góp phần tích cực vào việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế của các
hộ đồng bào dân tộc thiểu số, góp phần phát triển mạnh các ngành,
nghề thủ công, sản xuất hàng hóa, thực hiện xóa đói giảm nghèo
một cách hiệu quả [127, tr.105].
Tập đoàn Bưu chính viễn thông đầu tư về vùng sâu, vùng xa về hạ tầng
viễn thông mà doanh nghiệp tư nhân hoặc các thành phần kinh tế khác không
muốn làm, đã góp phần nâng cao dân trí, cải thiện đời sống nhân dân và phát
triển kinh tế, xã hội ở những nơi đó.
Đánh giá hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp nhà nước báo cáo của
Bộ Tài chính đã khẳng định:
Hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, nhất là các Tập
đoàn, Tổng công ty nhà nước có chuyển biến tích cực, tình hình tài
chính mạnh hơn, vốn nhà nước đầu tư vào các doanh nghiệp được
bảo toàn và phát triển, đóng góp số thu cho ngân sách nhà nước góp
phần ổn định kinh tế vĩ mô và tăng trưởng kinh tế [6, tr.17-18].
Những biến đổi tiêu cực:
Thứ nhất, doanh nghiệp nhà nước chiếm phần lớn nguồn lực của xã hội
Doanh nghiệp nhà nước chiếm tỷ trọng nhỏ về số lượng (khoảng 0,75%
tổng số doanh nghiệp của cả nước) nhưng khu vực doanh nghiệp nhà nước ở
nước ta đang nắm giữ một lượng của cải nguồn lực khổng lồ của đất nước.
(Theo số liệu thống kê của niên giám thống kê 2015). Giá trị tài sản cố định
và đầu tư tài chính dài hạn của các doanh nghiệp tại thời điểm 31/12 hàng
năm phân theo loại hình doanh nghiệp.
113
Bảng 3.3: Giá trị tài sản cố định và đầu tư tài chính dài hạn
của các doanh nghiệp
Đơn vị: nghìn tỷ đồng
Năm
Loại hình DN 2010 2011 2012 2013 2014
Doanh nghiệp nhà nước 1759 2416,5 2496,8 2973,1 3358,6
Doanh nghiệp ngoài nhà nước 2129,7 2151,1 2424,3 3231,0 3455,8
Doanh nghiệp có vốn đầu tư
nước ngoài
770,2 1023,1 1175,9 1419,0 1635,8
Cơ cấu %
Doanh nghiệp nhà nước 37,75 43,22 40,95 39 39,75
Doanh nghiệp ngoài nhà nước 45,72 38,48 39,76 42,38 40,91
Doanh nghiệp có vốn đầu tư
nước ngoài
16,53 18,3 19,29 18,62 19,35
Nguồn: Niên giám thống kê năm 2015 [148, tr.297].
Như vậy, tính đến ngày 31-12-2014 doanh nghiệp nhà nước chiếm
nguồn lực rất lớn là 3358,6 nghìn tỷ đồng tương đương với 39,75% vốn đầu
tư của toàn xã hội.
Thứ hai, các doanh nghiệp nhà nước được hưởng nhiều ưu đãi hơn so
với các thành phần kinh tế khác như:
Ưu đãi về đất đai; các doanh nghiệp nhà nước được cấp đất dễ dàng
hơn các thành phần kinh tế khác và được cấp đất ở vị trí thuận lợi như gần
đường giao thông, nguồn nguyên liệu, gần nơi tiêu thụ… Đây là một lợi thế
rất lớn, tuy nhiên doanh nghiệp nhà nước lại sử dụng không mấy hiệu quả.
Ưu đãi về tín dụng, các doanh nghiệp nhà nước gần như không phải thế
chấp khi vay vốn ngân hàng, nếu có thế chấp thì cũng là thế chấp tài sản của
nhà nước để vay vốn ngân hàng. Do đó, các doanh nghiệp nhà nước thường
vay nhiều vốn nhưng hiệu quả sử dụng thấp.
Doanh nghiệp nhà nước còn được nhà nước bảo trợ phần lớn trong tín
dụng đầu tư của nhà nước; được giãn nợ, khoanh nợ, khi cần thiết thì xóa nợ.
114
tập đoàn Vinaship được nhà nước bảo trợ vay vốn hàng nghìn tỷ đồng nhưng
hoạt động kém hiệu quả.
Doanh nghiệp được nhà nước độc quyền kinh doanh ở một số sản
phẩm hàng hóa mà tư nhân khó chen chân vào như: Điện lực, xăng dầu,
khoáng sản…
Tuy nắm giữ nguồn lực rất lớn của đất nước và được hưởng nhiều ưu
đãi so với loại hình doanh nghiệp khác nhưng doanh nghiệp nhà nước hoạt
động kém hiệu quả, được thể hiện:
Một là, hiệu quả sử dụng vốn thấp.
Theo số liệu thống kê: “Để tạo ra 1 đồng doanh nghiệp nhà nước cần
2,2 đồng tiền vốn, trong khi đó doanh nghiệp nước ngoài là 1,3 đồng, doanh
nghiệp tư nhân là 1,2 đồng” [126, tr.32]. Điều này có nghĩa là doanh nghiệp
nhà nước hiệu quả sử dụng vốn chỉ bằng 54% của khu vực tư nhân. Các tập
đoàn kinh tế nhà nước có tỷ lệ nợ trên vốn sở hữu rất cao hơn 3 lần, theo báo
cáo của Bộ Tài chính đến tháng 17/10/2016, có nhiều Tập đoàn, Tổng công ty
doanh nghiệp nhà nước có hệ số nợ phải trả/ vốn chủ sở hữu lớn hơn 3: “có
25 Tập đoàn, Tổng công ty có tỷ lệ nợ phải trả/Vốn chủ sở hữu lớn hơn 3 lần;
Công ty mẹ là 23 đơn vị như: Tổng công ty Phát thanh truyền hình thông tin
(32,84 lần); Tổng công ty Xăng dầu quân đội (19,77 lần); Tổng công ty 36
(15,09 lần); Tổng công ty Xây dựng Trường Sơn (9,37 lần)… Tổng công ty
Sông Đà (3,17 lần)” [9, tr.7]. Đồng thời số tiền vay nợ nước ngoài của các
doanh nghiệp nhà nước cũng rất lớn: các công ty mẹ nợ nước ngoài là
300.230 tỷ đồng. Trong đó, Công ty mẹ - Tập đoàn Điện lực Việt Nam là
208.962 tỷ đồng; Công ty mẹ - Tập đoàn Dầu khí quốc gia Việt Nam là
23.645 tỷ đồng; Công ty mẹ - Tập đoàn Than – Khoáng sản Việt Nam
(22.845) tỷ đồng; Công ty mẹ Tổng công ty Cảng hàng không Việt Nam là
13.119 tỷ đồng [6, tr.8]. Điều này, cho ta thấy các doanh nghiệp nhà nước
chủ yếu sử dụng vốn đi vay, vốn chủ sở hữu còn thấp đến áp lực trả nợ gốc
và lãi vay là rất lớn dễ dẫn đến mất khả năng thanh khoản và là một trong
các nguyên nhân làm cho các doanh nghiệp nhà nước thua lỗ.
115
Hai là, nhiều doanh nghiệp, tập đoàn kinh tế kinh doanh thua lỗ:
Hàng năm có 12% doanh nghiệp nhà nước thua lỗ, mức lỗ bình quân
của một doanh nghiệp nhà nước cao hơn 12 lần so với khu vực khác [126,
tr.47]. Nhiều doanh nghiệp nhà nước thua lỗ hàng ngàn tỷ đồng gây bức xúc
trong nhân dân như: Tập đoàn Công nghiệp tàu thủy Vinaship, Tổng công ty
hàng hải Vinalie, và các dự án: mở rộng thép Thái Nguyên, đạm Ninh Bình,
Xơ sợi Đình Vũ. Điều này, đã làm thất thoát một nguồn vốn lớn của Nhà
nước và của nhân dân, làm mất niền tin của nhân dân vào các doanh nghiệp
nhà nước, ảnh hưởng đến ngân sách nhà nước và niền tin của nhân dân với
cán bộ nhà nước.
Ba là, mô hình quản trị của các tập đoàn kinh tế, tổng công ty còn
nhiều bất cập
Trong 30 năm đổi mới chúng ta đã thành lập được 12 tập đoàn kinh tế
nhà nước và nhiều tổng công ty nhà nước đóng vai trò nòng cốt của doanh
nghiệp nhà nước, làm công cụ để nhà nước ổn định điều tiết vĩ mô nền kinh
tế, tăng cường hợp tác cạnh tranh với bên ngoài. Bên cạnh những mặt tích cực
như: chiếm lĩnh thị trường, tạo điều kiện cho đổi mới mua sắm về khoa học
công nghệ hiện đại cho sản xuất kinh doanh, là lực lượng để nhà nước điều
tiết vĩ mô nền kinh tế… mô hình quản trị này còn bộc lộ nhiều hạn chế bất
cập như: thất thoát và lãng phí lớn trong đầu tư, đầu tư tràn lan ra ngoài ngành
dẫn đến không hiệu quả.
Do đó, đã có 3 tập đoàn kinh tế bị giải thể do không hoàn thành nhiệm
vụ là: Tập đoàn Công nghiệp và Tàu thủy bị giải thể cơ cấu lại thành tổng
công ty do thua lỗ nặng, Tập đoàn Nhà và Đô thị, Tập đoàn Công nghiệp và
xây dựng cũng bị giải thể. Chính vì vậy, chúng ta đã không thành lập các tập
đoàn mới mà phải cổ phần hóa, kiện toàn công tác quản trị doanh nghiệp.
Tổng kết hoạt động của doanh nghiệp nhà nước, Đại hội Đảng toàn
quốc lần thứ XII chỉ rõ: “Hiệu quả sản xuất kinh doanh của nhiều doanh
nghiệp nhà nước thấp, chưa tương xứng với tài sản, thất thoát, lãng phí còn
lớn” [34, tr.255].
116
* Về quan hệ sản xuât xã hội chủ nghĩa thể hiện ở kinh tế tập thể, mà
nòng cốt là các hợp tác xã.
Những chuyển biến tích cực.
Sau 30 năm đổi mới kinh tế tập thể mà nòng cốt là các hợp tác xã đã có
những chuyển biến mạnh mẽ ở nước ta, điều này được thể hiện:
Một là, chúng ta đã chuyển đổi thành công mô hình hợp tác xã kiểu cũ
với cơ chế tập trung quan liêu bao cấp theo kiểu gò ép đông về số lượng, kém
về chất lượng sang hợp tác xã kiểu mới trên cơ sở liên kết tự nguyện, bình
đẳng cùng có lợi. Điều này đúng với tinh thần và thực chất của hợp tác xã,
phù hợp với QHSX XHCN là; liên kết tự nguyện, không có sự ép buộc, quản
lý dân chủ không có áp bức, bóc lột, bất công và cùng nhau, giúp đỡ nhau
phát triển mang bản chất tốt đẹp của kinh tế tập thể ở nước ta.
Hai là, chúng ta đã chuyển đổi kinh tế tập thể sang cơ chế thị trường và
đã có luật Hợp tác xã ra đời năm 1996 và được sửa đổi năm 2003 và luật Hợp
tác xã kiểu mới năm 2012. Điều này tạo cơ sở pháp lý cho kinh tế hợp tác xã
có tư cách pháp nhân, bình đẳng trước pháp luật với các thành phần kinh tế
khác trong sản xuất kinh doanh chứ không phải dựa vào sự ưu ái của nhà
nước như trước đây. Do đó, các hoạt động như vay vốn, thành lập, ký kết các
hợp đồng kinh tế Hợp tác xã đã có đầy đủ tư cách pháp nhân và kinh doanh
theo pháp luật.
Những biến đổi tiêu cực
Thứ nhất, kinh tế tập thể mặc dù có sự hỗ trợ, ưu đãi của nhà nước
nhưng số lượng còn hạn chế, quy mô còn nhỏ bé, kinh tế tập thể hiện nay
chiếm số lượng nhỏ bé nhất trong các thành phần kinh tế ở nước ta chỉ từ 3%
- 5% GDP, thua xa kinh tế cá thể 31% - 32% GDP và các thành phần kinh tế
khác. Đa số các Hợp tác xã có quy mô nhỏ bé chỉ từ 1 tỷ đến vài chục tỷ
đồng, nhỏ bé hơn nhiều so với kinh tế nhà nước, kinh tế tư bản tư nhân và
kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài.
Thứ hai, quá trình chuyển đổi theo Luật hợp tác xã năm 2012 còn
chậm. Tính đến 30/6/2016 cả nước có khoảng 20 062 hợp tác xã, có 14.365
117
hợp tác xã cần chuyển đổi theo Luật hợp tác xã năm 2012. Tuy nhiên, quá
trình chuyển đổi còn chậm, tính đến 1/7/2016 cả nước có 9.189 HTX đã hoàn
thành chuyển đổi, chiếm 64% tổng số HTX nằm trong diện chuyển đổi. Nhiều
tỉnh, thành phố thực hiện công tác chuyển đổi còn chậm như Hà Giang mới
đạt 17%, Lai Châu đạt 25%, Cà Mau đạt 34%, Tp. Hà Nội đạt 41,7% [37].
3.2. NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA TRONG QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN QUAN
HỆ SẢN XUẤT XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
3.2.1. Vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước trong nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa
Hiện nay, trên thế giới có nhiều mô hình kinh tế thị trường khác nhau
như: mô hình kinh tế thị trường ở các nước châu Âu, mô hình kinh tế thị
trường của Nhật Bản, mô hình kinh tế thị trường của Mỹ…Mỗi mô hình kinh
tế lại có đặc trưng riêng và đều có điểm chung là cơ sở kinh tế là tư bản tư
nhân đóng vai trò chủ đạo chi phối
Đối với nước ta, Mô hình kinh tế tổng quát của nước ta trong thời kỳ
quá độ lên chủ nghĩa xã hội được Đảng, Nhà nước xác định là: “kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa” [30, tr.23].Trong nền kinh tế đó có
nhiều hình sở hữu, nhiều thành phần kinh tế trong đó: “kinh tế nhà nước giữ
vai trò chủ đạo, kinh tế nhà nước cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở thành
nền tảng vững chắc của nền kinh tế” [34, tr.96].
Về vấn đề vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước trong nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa còn có nhiều quan điểm khác nhau.
Quan điểm thứ nhất, cho rằng không cần vai trò chủ đạo của kinh tế
nhà nước trong nền kinh tế.
Theo quan điểm này, chỉ cần phát triển nền kinh tế thị trường Việt
Nam hiện đại, bởi vì kinh tế thị trường là chung cho nhân loại không có thị
trường TBCN cũng như không có thị trường CNXH. Do đó không cần định
hướng XHCN, bỏ vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước để cho các thành
phần kinh tế tự do phát triển. Hơn nữa, kinh tế nhà nước làm ăn kém hiệu
118
quả, nhiều doanh nghiệp nhà nước, tập đoàn kinh tế làm ăn thua lỗ do tham
ô, tham nhũng làm thất thoát vốn của nhà nước, đó là tài sản của nhân dân.
Vì vậy, theo họ kinh tế nhà nước không cần chủ đạo trong nền kinh tế, quan
điểm này có các tác giả: Lê Du Phong, Lương Xuân Quỳ, Nguyễn Văn
Nam… đều đề nghị mô hình kinh tế tổng quát của nước ta là: “Nền kinh tế
thị trường hiện đại”.
Quan điểm thứ hai, cho rằng cần thiết phải phát triển kinh tế thị trường
và định hướng XHCN, tác giả Phùng Hữu Phú cho rằng; đây là một bước tiến
về mặt lý luận của Đảng khi khẳng định trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã
hội ở nước ta là: “Nền kinh tế thị trường ở Việt Nam chưa phải là nền kinh tế
thị trường xã hội chủ nghĩa, cũng không phải nền kinh tế thị trường tự do, mà
là nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa” [99, tr.264], và nhấn
mạnh “Định hướng xã hội chủ nghĩa không phải là “cái đuôi” được gán ghép
chủ quan vào nền kinh tế thị trường, mà là tính chất của nền kinh tế thị trường
mà Việt Nam đang xây dựng” [99, tr.270]. Trong nền kinh tế nhiều thành
phần thì kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo. Tác giả Phùng Quốc Hiển cho
rằng: “kinh tế Nhà nước giữ vai trò chủ đạo là thực thể khách quan trong nền
kinh tế thị trường định hướng XHCN” [133, tr 91].
Chúng tôi cho rằng, kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo trong nền kinh
tế nhiều thành phần ở nước ta đã được Đảng, Nhà nước khẳng định qua các
văn kiện Đại hội Đảng lần VI, VII, VII, IX, X, XI và XII của Đảng, Hiến
pháp sửa đổi năm 2013. Qua 30 năm đổi mới chúng ta đều khẳng định kinh tế
nhà nước giữ vai trò chủ đạo. Tuy nhiên, vai trò chủ đạo đó được thể hiện như
thế nào là vấn đề đang đặt ra. Tổng kết quá trình đổi mới tổng bí thư Nguyễn
Phú Trọng nhận xét: “Đổi mới cũng là một quá trình sửa lại những nhận thức
không đúng về cái cũ - cái cũ ấy là cái đúng - để hiểu đúng nó hơn, vận dụng
có hiệu quả hơn vào thực tiễn mới” [95, tr.285].
Vấn đề vai trò chủ đạo của QHSX XHCN trong kinh tế nhà nước được
đặt ra trên cả ba mặt là quan hệ sở hữu, tổ chức quản lý và phân phối.
119
Về quan hệ sở hữu đối với tư liệu sản xuất.
Bản chất của các doanh nghiệp nhà nước và tập đoàn kinh tế nhà nước
là sở hữu toàn dân do nhà nước là người đại diện, nhà nước cử ra hội đồng
quản trị thay mặt nhà nước. Tuy nhiên, về mặt nhà nước đại diện chủ sở hữu
là chính phủ, đứng đầu là Thủ tướng chính phủ quyết định, phê duyệt thành
lập các tập đoàn, tổng công ty nhà nước và các bộ như Bộ Tài chính, Bộ Kế
hoạch và đầu tư, Bộ Công thương, Bộ Nội vụ, Bộ Giao thông vận tải… mỗi
bộ quản lý một mảng, chẳng hạn về vốn thuộc Bộ Tài chính, về tiền lương,
thưởng thuộc Bộ Lao động thương binh và xã hội, cán bộ thuộc Bộ Nội
vụ… các bộ thường quản lý theo ngành mang tính hành chính. Do nhiều bộ,
ban, ngành cùng quản lý dẫn đến không thống nhất, không có ai đứng ra
chịu trách nhiệm khi sai phạm. Điển hình như Tập đoàn Công nghiệp tàu
thủy Vinaship và Vinalines đã sai phạm khi đầu tư tràn lan mua tàu cũ, tham
nhũng của các cán bộ đại diện cho sở hữu nhà nước, làm thất thoát thua lỗ
hàng nghìn tỷ đồng nhưng không quy trách nhiệm được cho ai, bộ nào quản
lý. Đảng ta chủ trương phát triển đa dạng các hình thức sở hữu, các thành
phần kinh tế, các loại hình doanh nghiệp; bảo hộ các quyền và lợi ích hợp
pháp của các chủ sở hữu tài sản thuộc các hình thức sở hữu, các loại hình
doanh nghiệp trong nền kinh tế. Đổi mới, hoàn thiện pháp luật, cơ chế, chính
sách về sở hữu đối với đất đai, tài nguyên, vốn và các loại tài sản công được
quản lý, sử dụng có hiệu quả, khắc phục tình trạng thất thoát, lãng phí v.v…
Nhưng trên thực tế, chủ trương này vẫn chưa được thực hiện tốt. Kinh tế nhà
nước - sở hữu nhà nước, tuy được ưu tiên - nhất là cơ chế chính sách, vốn,
v.v… nhưng hoạt động kém hiệu quả, thất thoát lớn, "sở hữu toàn dân"
dường như "vô chủ" do đó mà người ta có thể nâng khống giá lên đến 1.300
lần [4], v.v.. Trong lúc đó nhiều chủ thể thuộc một số thành phần kinh tế
khác, quyền sở hữu chưa thực sự được tôn trọng đúng mức, chưa được đối
xử bình đẳng với sở hữu nhà nước.
120
Về quan hệ tổ chức, quản lý sản xuất.
Do cơ chế tập trung, quan liêu bao cấp nên trong một thời gian dài, các
doanh nghiệp nhà nước được bao cấp của nhà nước. Khi tiến hành đổi mới
các doanh nghiệp nhà nước lực lượng nòng cốt của kinh tế nhà nước, với
quan điểm kinh tế nhà nước đóng vai trò nền tảng của nền kinh tế quốc dân,
các doanh nghiệp nhà nước tiếp tục được ưu đãi hơn các thành phần kinh tế
khác về nhiều mặt như: đất đai, tiếp cận vốn ngân hàng, bảo trợ của nhà nước
về tín dụng, khoanh nợ, giãn nợ… Chính sự bao cấp của nhà nước đã dẫn đến
các doanh nghiệp nhà nước không chịu đổi mới trông chờ, ỷ lại vào nhà nước,
một số doanh nghiệp nhà nước hoạt động trong lĩnh vực độc quyền do lợi thế
của doanh nghiệp mà nhà nước tạo ra như: Điện lực, Dầu khí, Viễn thông…
điều này dẫn đến không có sự cạnh tranh của các thành phần kinh tế khác làm
mất động lực cho nền kinh tế và khả năng đổi mới nâng cao về năng suất, chất
lượng sản phẩm. Đây chính là tàn dư của cơ chế cũ cơ chế tập trung, quan liêu
bao cấp, do vậy để doanh nghiệp nhà nước hoạt động có hiệu quả phải xóa bỏ
hoàn toàn cơ chế cũ chuyển sang cơ chế thị trường, doanh nghiệp nhà nước
phải thật sự, hoàn toàn bình đẳng với các loại hình quan hệ sản xuất khác,
thành phần kinh tế khác, đặc biệt là trong bối cảnh toàn cầu hóa, hội nhập
kinh tế hiện nay.
Việc tổ chức, quản lý sản xuất, quản lý vốn nhiều khi còn tùy tiện dẫn
tới "cố ý làm trái các quy định của Nhà nước về quản lý kinh tế, gây hậu quả
nghiêm trọng" [54]. Người lao động trên thực tế không có quyền tham gia
quản lý sản xuất, chỉ có quyền quản lý sản xuất về hình thức. Do đó, người
lao động không có quyền thực chất trong giám sát hoạt động sản xuất kinh
doanh của doanh nghiệp. Vì tổ chức, quản lý sản xuất còn nhiều yếu kém, bất
cập nên năng suất lao động thấp, hiệu quả đầu tư sản xuất, kinh doanh thấp.
Về quan hệ trong phân phối sản phẩm lao động.
Hiện nay, người lao động trong các doanh nghiệp nhà nước chưa có
quyền làm chủ thực sự, chưa được hưởng đúng mức về thành quả lao động
121
của mình. Vì, chúng ta chưa có cơ chế chính sách để người lao động kiểm
soát các hoạt động của doanh nghiệp, nên kinh tế nhà nước dường như vô
chủ, người lao động được trả lương thấp không tương xứng với thành quả lao
động của mình dẫn đến năng suất chất lượng thấp. Bộ trưởng Đinh La Thăng
đánh giá: Vietnam Airlines hay Vinalies đều là những doanh nghiệp có truyền
thống, có thương hiệu, song trong tình hình mới, muốn người lao động gắn bó
thì không chỉ dựa vào yếu tố này cũng như tình cảm của họ mà trước tiên phải
từ lợi ích kinh tế.
Trong phân phối sản phẩm hiện nay các cán bộ nhà nước được trả
lương theo chế độ công chức nhà nước, do đó không khuyến khích họ gắn bó
với doanh nghiệp nhà nước mà thường lợi dụng chức vụ để tham ô, tham
nhũng làm giàu phi pháp.
Kinh tế nhà nước mà nòng cốt là các doanh nghiệp nhà nước, hiệu
quả kinh tế và sức cạnh tranh của doanh nghiệp nhà nước nhìn chung còn
thấp, năng lực, quản trị điều hành của một số tập đoàn, tổng công ty còn
yếu kém, bất cập, làm thất thoát vốn, tài sản của nhà nước, để xảy ra nợ
xấu, thua lỗ liên tục kéo dài. Nhiều tập đoàn, tổng công ty nhà nước lại
mạo hiểm đầu tư ngoài ngành, lấn sân sang một số lĩnh vực khác, như đầu
tư tài chính, bất động sản, khai khoáng… và khi làm ăn thua lỗ, gây lãng
phí, thất thoát vốn nhà nước thì các tập đoàn lại xin được "giải cứu". Để
kinh tế nhà nước làm tốt vai trò chủ đạo trong nền kinh tế chúng ta phải
nâng cao về chất lượng, phải chuyển từ chiều rộng sang chiều sâu. Tác giả
Võ Đại Lược cũng cho rằng: “Cần cụ thể hóa vai trò chủ đạo của kinh tế
nhà nước, kinh tế quốc doanh theo hướng không trái với các nguyên tắc
của thị trường” [79, tr.140].
3.2.2. Vấn đề hợp tác xã kiểu mới trong nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa
Trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta
Đảng, Nhà nước luôn xác định: kinh tế nhà nước đóng vai trò chủ đạo cùng
122
với kinh tế tập thể phải trở thành nền tảng của nền kinh tế quốc dân. Quá trình
đổi mới kinh tế tập thể, kinh tế hợp tác được bắt đầu từ lĩnh vực nông nghiệp
với các chỉ thị như khoán 10 đã cởi trói cho sản xuất nông nghiệp, đã xác định
đúng đắn hơn vai trò của các xã viên trong hợp tác xã và vai trò của các hợp
tác xã trong quan hệ với các xã viên của mình. Nhờ đó, năng suất lao động
trong nông nghiệp không ngừng tăng lên, đất nước ta từ chỗ thiếu lương thực
tiến tới dư thừa và xuất khẩu. Quá trình đổi mới kinh tế hợp tác được thúc đẩy
bởi các văn bản chỉ đạo của Đảng và Nhà nước như quan điểm của các kỳ Đại
hội VII, VIII, IX, X, XI và XII của Đảng. Đặc biệt là sự ra đời luật hợp tác xã
năm 1996 và luật hợp tác xã năm 2003, đã đánh dấu bước ngoặt cho sự đổi
mới kinh tế hợp tác ở nước với tư cách là một pháp nhân bình đẳng với các
thành phần kinh tế khác. Tuy nhiên, Luật hợp tác xã cũ chưa thể hiện đầy đủ
được bản chất tốt đẹp của kinh tế hợp tác, cũng như chưa có sự phân biệt cụ
thể rõ ràng sự khác biệt giữa các hợp tác xã với doanh nghiệp. Để khắc phục
các thiếu sót đó Nhà nước đã thông qua Luật hợp tác xã mới năm 2012 thay
thế cho Luật hợp tác xã cũ trước đây.
Sau 4 năm triển khai Luật Hợp tác xã năm 2012, đến nay nhiều mô
hình hợp tác xã kiểu mới đã bước đầu hình thành, từ khi triển khai Luật HTX
2012 đến năm 2016 cả nước đã thành lập mới được 3.053 HTX. Nhiều hợp
tác xã hoạt động hiệu quả, phát huy tốt những lợi thế của luật hợp tác xã mới
để áp dụng vào thực tiễn. Các hợp tác xã mới thành lập đều xuất phát từ nhu
cầu thực tiễn và nguyện vọng của người lao động, các xã viên, có phương án
sản xuất kinh doanh cụ thể rõ ràng đáp ứng được nhu cầu của các thành viên.
Tuy nhiên, thời hạn để các hợp tác xã kiểu cũ chuyển sang mô hình hợp tác xã
kiểu mới đã hết ½ thời gian quy định, nhưng vẫn còn tỷ lệ lớn các hợp tác xã
chưa chuyển đổi, nhiều địa phương còn lúng túng trong việc chỉ đạo thực hiện
sự chuyển đổi.
Theo số liệu thống kê của Liên minh hợp tác xã Việt Nam: “đến cuối
năm 2014 mới có 1.092/ 18.592 hợp tác xã chuyển đổi sang mô hình hợp tác
123
xã kiểu mới theo Luật hợp tác xã năm 2012, chiếm 5,87%. Tính đến tháng 5/
2015 mới có khoảng 2500 hợp tác xã chuyển đổi sang hợp tác xã kiểu mới
chiếm khoảng 13,5%” [41, tr.31].
Tính đến 30/6/2016 cả nước có khoảng 20 062 hợp tác xã, có 14.365
hợp tác xã cần chuyển đổi theo Luật hợp tác xã năm 2012. Tuy nhiên, quá
trình chuyển đổi còn chậm, tính đến 1/7/2016 cả nước có 9.189 HTX đã
hoàn thành chuyển đổi, chiếm 64% tổng số HTX nằm trong diện chuyển
đổi. Nhiều tỉnh, thành phố thực hiện công tác chuyển đổi còn chậm như Hà
Giang mới đạt 17%, Lai Châu đạt 25%, Cà Mau đạt 34%, thành phố Hà
Nội đạt 41,7% [37].
Để phát triển kinh tế tập thể, kinh tế hợp tác xã chúng ta cần tích cực
chuyển đổi mô hình hợp tác xã kiểu cũ sang mô hình hợp tác xã kiểu mới,
nhằm đáp ứng yêu cầu của kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế. Tuy nhiên,
quá trình chuyển đổi ở nước ta còn chậm còn nhiều lúng túng. Đây là vấn đề
đang đặt ra với kinh tế tập thể ở nước ta hiện nay.
3.2.3. Vấn đề hoàn thiện về cơ chế, chính sách, pháp luật liên quan
đến quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa trong nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa
Trong những năm đổi mới, nhiều quan điểm chủ trương của Đảng đã
được Nhà nước thể chế hóa thành cơ chế, chính sách và pháp luật để thực thi
trong cuộc sống nhằm hình thành nền kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa ở nước ta. Tuy nhiên, còn nhiều các chủ trương quan điểm của
Đảng chưa được thể chế hóa hoặc thể chế hóa còn chậm như:
Vấn đề định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta, do việc thể chế hóa còn
chậm dẫn đến hiểu chưa đúng về mô hình kinh tế ở nước ta. Định hướng xã
hội chủ nghĩa trên phương diện kinh tế, chính trị, xã hội, văn hóa chưa được
làm rõ, chưa thể chế hóa thành các văn bản của pháp luật. Dẫn đến có nhiều
cách hiểu khác nhau hoặc chỉ hiểu chung chung.
124
Về sự bình đẳng giữa các thành phần kinh tế cũng đã có nhưng cụ thể
hóa thành các văn bản của nhà nước chưa hoàn chỉnh, dẫn đến còn có sự phân
biệt đối xử trên thực tế giữa doanh nghiệp nhà nước và các doanh nghiệp khác
về tiếp cận vốn vay, giãn nợ khoanh nợ, xóa nợ…
Vấn đề phân định giữa chủ sở hữu và người đại diện có quyền sử dụng
còn hạn chế, cơ quan đại diện cho sở hữu nhà nước trong trong doanh nghiệp
nhà nước còn chồng chéo, phức tạp nhiều đầu mối… do đó, khi sai phạm
không ai đứng ra chịu trách nhiệm, chủ sở hữu trong doanh nghiệp nhà nước
chưa được quy định rõ ràng, quyền và trách nhiệm của chủ sở hữu trong
doanh nghiệp nhà nước, quyền và trách nhiệm của người sử dụng tài sản
trong các doanh nghiệp cũng chưa được quy định rõ ràng.
Vấn đề gắn tăng trưởng kinh tế với tiến bộ và công bằng xã hội, vấn đề
bảo đảm cuộc sống cho người lao động. Tiền lương tối thiểu hiện nay còn
thấp, chưa đáp ứng được nhu cầu và bảo đảm được đời sống của người lao
động. Điều này khiến cho người làm công ăn lương, người lao động gặp
nhiều khó khăn, nhất là với nhóm thu nhập thấp. Trong các doanh nghiệp, còn
có sự chênh lệch lớn về phân phối, thu nhập, tiền lương của người lao động
cũng như các cán bộ quản lý, còn chưa phản ánh đúng sự đóng góp của từng
cá nhân vào doanh nghiệp.
Trong kinh tế tập thể, các hợp tác xã còn có quy mô nhỏ, cơ sở vật chất
nghèo nàn, lạc hậu; năng suất, chất lượng lao động, năng lực cạnh tranh còn
thấp, do vậy rất khó cạnh tranh trong nền kinh tế thị trường hội nhập hiện nay.
Vấn đề hỗ trợ cho sự phát triển của các hợp tác xã chưa có cơ chế
rõ ràng, sự liên kết giữ doanh nghiệp với hợp tác xã cũng chưa được cụ
thể hóa. Nhiều chủ trương chính sách hỗ trợ cho các hợp tác xã chậm
được cụ thể hóa, chậm được triển khai. Công tác giáo dục, đào tạo về hợp
tác xã là rất quan trọng, nhưng triển khai chưa tích cực, chưa đạt hiệu quả
cao, thiếu các cơ chế chính sách, pháp luật cụ thể về giáo dục đào tạo cho
các hợp tác xã.
125
Các chủ trương về hỗ trợ các hợp tác xã về vốn, công nghệ, thị trường,
đào tạo nguồn nhân lực chậm được cụ thể hóa. Sự liên kết giữa các hợp tác xã
với nhau, giữa hợp tác xã với doanh nghiệp nhằm cung cấp các sản phẩm và
dịch vụ chưa có cơ chế chính sách cụ thể, chưa được thể chế hóa.
*Một số dự báo xu hướng biến đổi của QHSX XHCN ở Việt Nam.
Qua nghiên cứu sự biến đổi của QHSX XHCN từ 1986 đến nay, chúng
tôi đưa ra một số dự báo về xu hướng như sau:
Thứ nhất, QHSX XHCN ở nước ta cần giảm về số lượng, nâng cao về
chất lượng để làm tốt vai trò của mình trong nền kinh tế.
Thứ hai, cần tiếp tục xóa bao cấp trong các doanh nghiệp nhà nước để
tạo ra sự cạnh tranh lành mạnh, bình đẳng giữa các thành phần kinh tế và hội
nhập quốc tế.
Thứ ba, cần chuyển đổi mô hình hợp tác xã kiểu cũ sang kiểu mới để
tăng cường liên kết, hợp tác cạnh tranh trong nền kinh tế thị trường.
Thứ tư, tăng cường cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước để góp phần
hình thành nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Tiểu kết chương 3
Từ khi đổi mới năm 1986 đến nay, QHSX XHCN đã có sự biến đổi
quan trọng góp phần hình thành nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa ở nước ta. Sự biến đổi của QHSX XHCN được thể hiện trên cả ba mặt
là: quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất, quan hệ trong tổ chức, quản lý và quan
hệ trong phân phối kết quả sản xuất. Về quan hệ sở hữu; Các ngành, lĩnh vực
thuộc diện 100% vốn nhà nước đã được thu hẹp lại tập trung hơn vào các
ngành, lĩnh vực quan trọng của nền kinh tế quốc dân, từ việc hầu như các
doanh nghiệp nhà nước bao trùm toàn bộ nền kinh tế đến nay giảm xuống còn
19 ngành 100%. Quá trình cổ phần hóa, sắp xếp, đổi mới các doanh nghiệp
nhà nước diễn ra mạnh mẽ làm cho số lượng giảm đi nhanh chóng từ 12000
doanh nghiệp đến năm 2016 chỉ còn 718 doanh nghiệp là những doanh nghiệp
126
lớn hoạt động trên các ngành, nghề quan trọng đóng vai trò là công cụ để nhà
nước điều tiết vĩ mô nền kinh tế. Về quan hệ tổ chức quản lý chúng ta đã từng
bước xóa bỏ cơ chế tập trung, quan liêu, bao cấp để hình thành nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Tách bạch chức năng chủ sở hữu và
chức năng sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, tạo ra sự cạnh tranh lành
mạnh giữa doanh nghiệp nhà nước và các thành phần kinh tế khác. Về quan
hệ phân phối; chúng ta đã xóa bỏ cơ chế phân phối bình, trả lương bằng hiện
vật sảng trả lương theo lao động, theo năng xuất và hiệu quả kinh tế.
Bên cạnh những biến đổi tích cực còn có biến đổi tiêu cực như: tỷ
trọng sở hữu trong doanh nghiệp nhà nước còn lớn trong nền kinh tế, hiệu
quả đầu tư thấp, nhiều doanh nghiệp thua lỗ, mô hình quản trị tập đoàn còn
nhiều bất cập.
Quan hệ sản xuất XHCN trong kinh tế tập thể, kinh tế hợp tác cũng có
những biến đổi tích cực được thể hiện: chúng ta đã chuyển đổi mô hình hợp
tác xã từ kế hoạch hóa, tập trung quan liêu, bao cấp sang kinh tế thị trường
dựa trên liên kết tự nguyện, bình đẳng, dân chủ thể hiện đúng đắn bản chất
của kinh tế tập thể, đã ban hành luật hợp tác xã kiểu mới nhằm phát triển kinh
tế tập thể, gần đây kinh tế tập thể có sự khởi sắc trở lại..Tuy nhiên, kinh tế tập
thể ở nước ta còn có biến đổi tiêu cực; số lượng giảm xuống, chiếm tỷ lệ rất
nhỏ bé trong nền kinh tế, chưa thu hút đông đảo các hộ kinh doanh cá thể vào
làm ăn tập thể.
Để phát huy biến đổi tích cực, hạn chế biến đổi tiêu cực, chúng ta phải
có các giải pháp kịp thời, để QHSX XHCN ngày càng làm tốt vai trò của
mình trong nền kinh tế.
127
Chương 4
MỘT SỐ PHƯƠNG HƯỚNG, GIẢI PHÁP CHỦ YẾU
ĐỂ PHÁT HUY NHỮNG BIẾN ĐỔI TÍCH CỰC, HẠN CHẾ
NHỮNG BIẾN ĐỔI TIÊU CỰC CỦA QUAN HỆ SẢN XUẤT
XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
4.1. PHƯƠNG HƯỚNG CHỦ YẾU ĐỂ PHÁT HUY NHỮNG BIẾN ĐỔI
TÍCH CỰC, HẠN CHẾ NHỮNG BIẾN ĐỔI TIÊU CỰC CỦA QUAN HỆ SẢN
XUẤT XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
4.1.1. Nâng cao vai trò lãnh đạo của Đảng, hiệu lực quản lý của
Nhà nước trong quá trình phát triển quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa
trong thời kỳ đổi mới
Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, hiệu lực quản lý của Nhà nước
trong việc phát huy những biến đổi tích cực của QHSX XHCN ở nước ta là
gia tăng quyền lực chính trị đối với nắm bắt, định hướng, điều chỉnh, ngăn
chặn những mặt, xu hướng chệch hướng, đồng thời giữ vững định hướng phù
hợp với quy luật, với đặc điểm nền kinh tế ở nước ta trong bối cảnh toàn cầu
hóa về kinh tế.
Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, hiệu lực quản lý của Nhà nước
trong một thể thống nhất không tách rời. Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng
phải thông qua tính hiệu quả, hiệu lực của Nhà nước trong quản lý thì mới có
tính hiện thực. Tính hiệu quả, hiệu lực của Nhà nước trong quản lý cũng chỉ
có được khi có sự tăng cường sự lãnh đạo của Đảng. Xét về vai trò của hai tổ
chức này có sự khác nhau về chức năng, vai trò trong việc xây dựng, hoàn
thiện QHSX XHCN ở nước ta, nhưng thống nhất với nhau về mục tiêu. Để
phát huy những biến đổi tích cực của QHSX XHCN, chúng ta phải tăng
cường sự lãnh đạo của Đảng, hiệu quả quản lý của Nhà nước. Bởi vì, sự lãnh
đạo của Đảng là nhân tố quyết định bảo đảm giữ vững định hướng XHCN
trong xây dựng QHSX ở nước ta. Trong nền kinh tế thị trường định hướng
128
XHCN còn sơ khai, chưa hoàn thiện, chúng ta lại chưa có nhiều kinh nghiệm
thì việc lãnh đạo, định hướng chính trị của Đảng nhằm hoàn thiện từng bước
QHSX XHCN là vô cùng quan trọng. Tất nhiên, phải đổi mới sự lãnh đạo của
Đảng trong vấn đề này. Khắc phục tình trạng Đảng bao biện, làm thay, chủ
quan, nóng vội nhưng cũng tránh khuynh hướng “bỏ mặc”, thiếu lãnh đạo, chỉ
đạo. Đảng lãnh đạo, giải quyết vấn đề phải tuân theo đúng quy luật kinh tế
khách quan, tuân thủ pháp luật và vì mục tiêu XHCN. Cùng với tăng cường
sự lãnh đạo của Đảng thì phải nâng cao hiệu quả quản lý của Nhà nước trong
việc xây dựng, hoàn thiện từng bước QHSX XHCN. Hạn chế những biến đổi
tiêu cực của QHSX XHCN là vấn đề phức tạp trong điều kiện hội nhập kinh
tế và kinh tế của chúng ta chưa phát triển bền vững. Do vậy, Nhà nước phải
nâng cao hiệu quả quản lý bằng tổng hợp các biện pháp: pháp luật, hành
chính, kiểm tra, giám sát, chính sách, giáo dục, động viên,v.v.. Bản thân tính
chất “thị trường” của nền kinh tế nhiều thành phần ở nước ta luôn luôn ẩn
chứa những khả năng tự phát làm mất ổn định sự phát triển LLSX cũng như
hàm chứa những biến đổi tiêu cực của QHSX XHCN. Trong điều kiện chúng
ta còn thiếu những bộ luật để kiểm soát nền kinh tế nói chung thì Nhà nước
cần đẩy mạnh việc xây dựng và thông qua các bộ luật, để trên cơ sở đó có cơ
sở pháp lý quản lý nền kinh tế. Đồng thời, với mỗi thành phần kinh tế, ngoài
quản lý bằng pháp luật, chính sách thì cần phải có những bộ máy, con người
có trình độ chuyên môn, có năng lực phẩm chất thực hiện việc kiểm tra, giám
sát hoạt động kinh tế của các thành phần kinh tế nhưng tuyệt nhiên không can
thiệp thô bạo vào hoạt động kinh doanh, xây dựng QHSX của của các thành
phần kinh tế. Tuy nhiên, bộ máy, con người phải gọn nhẹ, quản lý phải hiệu
quả, thiết thực.
Để tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, hiệu quả quản lý của Nhà nước
trong việc hạn chế những biến đổi tiêu cực của QHSX XHCN ở nước ta cần
thực hiện:
129
Một là, không ngừng tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng và tính hiệu
lực của Nhà nước trong việc hoàn thiện hệ thống lý luận về QHSX XHCN ở
nước ta hiện nay. Các vấn đề lý luận để nhằm phát triển QHSX XHCN như:
Vấn đề chủ sở hữu trong doanh nghiệp nhà nước, quan hệ giữa chủ sở hữu và
người đại diện cho chủ sở hữu, vấn đề quản lý trong các doanh nghiệp nhà
nước tuân thủ các quy luật của thị trường, tránh độc quyền, làm sao để kinh tế
nhà nước có thể dẫn dắt, hỗ trợ các thành phần kinh tế khác phát triển. Vấn đề
phân phối một cách công bằng, hiệu quả để tạo động lực trong các doanh
nghiệp nhà nước hiện nay.
Hai là, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, hiệu quả quản lý Nhà nước
trong việc phát huy những biến đổi tích cực của QHSX XHCN ở nước ta hiện
nay bằng biện pháp hoàn thiện cơ chế hoạt động giữa các tổ chức trong hệ
thống chính trị. Cần hoàn thiện cơ chế; Đảng lãnh đạo - Nhà nước quản lý -
Nhân dân làm chủ. Trong cơ chế này, Đảng lãnh đạo bằng chủ trương, đường
lối đề ra trong việc sắp xếp, đổi mới các doanh nghiệp nhà nước. Nhà nước
quản lý các doanh nghiệp nhà nước bằng luật pháp, cơ chế, chính sách, Nhà
nước phải thể chế hóa kịp thời các quan điểm của Đảng về công tác đổi mới
doanh nghiệp nhà nước. Nhà nước là người đứng ra làm đại diện chủ sở hữu,
do đó các doanh nghiệp phải chịu trách nhiệm trước chủ sở hữu của mình về
hiệu quả sử dụng vốn cũng như thực hiện các mục tiêu do chủ sở hữu đề ra.
Nhân dân là người làm chủ các tư liệu sản xuất vì vậy nhân dân có quyền
giám sát các hoạt động trong doanh nghiệp nhà nước. Cần xây dựng cơ chế để
nhân dân có thể giám sát hoạt động trong doanh nghiệp nhà nước.
Ba là, nâng cao tính hiệu lực của chức năng kiểm tra, giám sát của
Đảng và năng lực điều hành, quản lý của Nhà nước trong việc phát huy những
biến đổi tích cực, hạn chế những biến đổi tiêu cực của QHSX XHCN ở nước
ta hiện nay. Công tác kiểm tra, giám sát của chủ thể đối với các hoạt động của
kinh tế nhà nước mà nòng cốt là các doanh nghiệp nhà nước cần được tăng
130
cường nhằm kịp thời phát hiện những sai phạm xẩy ra và kịp thời sửa chữa,
ngăn ngừa những biểu hiện tiêu cực trong quá trình hoạt động của doanh
nghiệp sao cho phù hợp với mục tiêu đề ra của chủ thể.
4.1.2. Phát triển quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa trên cơ sở vận
dụng sáng tạo quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ của lực
lượng sản xuất
Để lực lượng sản xuất phát triển, vấn đề quan trọng nhất là quan hệ
sản xuất phải phù hợp với trình độ của lực lượng sản xuất. Bởi vì, chỉ có
quan hệ sản xuất phù hợp thì lực lượng sản xuất mới được huy động, tham
gia một cách tích cực vào quá trình sản xuất và được triển khai có hiệu quả,
chỉ khi đó mới tạo điều kiện tối ưu cho việc sử dụng và kết hợp giữa người
lao động với tư liệu sản xuất, mới tạo ra môi trường thuận lợi để lực lượng
sản xuất phát triển.
Đảng cộng sản Việt Nam đã vận dụng sáng tạo quy luật này vào điều
kiện cụ thể của nước ta. Sự vận dụng sáng tạo được thể hiện, C.Mác-
Ăngnghen chỉ nói quan hệ sản xuất phải phù hợp với trình độ của lực lượng
sản xuất để thúc đẩy sản xuất phát triển, thì Đảng khẳng định quan hệ sản
xuất ở nước ta, đặc biệt là QHSX XHCN không chỉ phù hợp với trình độ của
lực lượng sản xuất mà còn phải thể hiện được sự tiến bộ của mình. Đại hội lần
thứ XII của Đảng chỉ rõ: “có quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp với trình độ
của lực lượng sản xuất” [34, tr.103]. Sự tiến bộ được thể hiện ở mục đích của
nền sản xuất xã hội là phải vì nhân dân, vì người lao động. Đây là điểm khác
căn bản của QHSX XHCN với các quan hệ sản xuất khác. Tiến bộ là tính chất
xã hội của QHSX mà chúng ta đang lựa chọn đó là chế độ XHCN; một chế độ
của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân lấy phục vụ nhân đân làm thước đo
cao nhất. Chính vì vậy, QHSX XHCN ở nước ta ngoài việc phải phù hợp với
trình độ của LLSX để thúc đẩy sản xuất phát triển còn phải dẫn dắt, tạo điều
131
kiện cho các quan hệ khác phát triển, phải định hướng đi lên CNXH. Chính
thực tiễn phát triển của nền sản xuất nước ta trong những năm qua đã đòi hỏi
như vậy trong các năm tiếp theo.
Để xây dựng được một quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ của lực
lượng sản xuất thì trước hết phải xác định đúng trình độ của lực lượng sản
xuất. Sau 30 năm đổi mới, lực lượng sản xuất ở nước ta đã có nhiều tiến bộ,
cùng với quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, khoa học công nghệ ngày
càng được đưa vào sản xuất nhiều hơn. Lực lượng sản xuất xã hội chủ nghĩa ở
nước ta mà nòng cốt là các tập đoàn kinh tế nhà nước đã có sự hiện đại hóa,
đã hình thành các tập đoàn kinh tế lớn với máy móc công nghệ hiện đại đóng
vai trò chủ lực của nền kinh tế, đủ sức chi phối, dẫn dắt các loại hình QHSX
khác và đủ sức cạnh tranh với nước ngoài trong quá trình hội nhập quốc tế
như: Tập đoàn Viễn thông quân đội, Tập đoàn Điện lực, Tập đoàn Bưu chính
viễn thông, Tập đoàn Dệt may, Tập đoàn Cao su…
Các tập đoàn này, đã đầu tư hàng ngàn tỉ đồng mua các loại máy móc,
áp dụng khoa học công nghệ hiện đại vào trong sản xuất kinh doanh, sánh
ngang với các nước trong khu vực và trên thế giới. Chẳng hạn Tập đoàn viễn
thông quân đội Viettel, tổng công ty sữa Vinamilk đã có thể cạnh tranh thắng
lợi với các công ty nước ngoài trên sân nhà mà còn đầu tư ra nước ngoài
chiếm lĩnh thị trường… Do vậy, quan hệ sản xuất cũng phải được đổi mới cho
phù hợp. Để có quan hệ sản xuất tiến bộ, phù hợp với trình độ phát triển cao
của LLSX thì: chúng ta phải đổi mới đồng bộ quan hệ sản xuất trên cả ba mặt;
sở hữu tư liệu sản xuất, quan hệ tổ chức quản lý và quan hệ phân phối sản
phẩm lao động sao cho quan hệ sản xuất tạo điều kiện, địa bàn cho lực lượng
sản xuất phát triển để đem lại năng suất, chất lượng và hiệu quả kinh tế cao.
Để thực hiện tốt quy luật này chúng ta cần phải:
132
Một là, phát triển sở hữu nhà nước sao cho giảm về số lượng, tăng về
chất lượng, các cơ quan đại diện chủ sở hữu trong doanh nghiệp nhà nước cần
quy về một mối để dễ quản lý thích ứng với cơ chế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa.
Hai là, xây dựng cơ chế quản lý mới theo kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa. Trong nền kinh tế các loại hình doanh nghiệp, các thành
phần kinh tế vừa hợp tác, vừa cạnh tranh bình đẳng trước pháp luật.
Ba là, thực hiện đa dạng hóa các hình thức phân phối cho phù hợp với
trình độ của lực lượng sản xuất đã phát triển hiện nay.
Bốn là, phải tập trung vào những ngành, lĩnh vực then chốt, quan trọng
của nền kinh tế nhằm dẫn dắt tạo điều kiện cho các quan hệ khác phát triển và
điều tiết vĩ mô nền kinh tế.
Năm là, đối với kinh tế tập thể do lực lượng sản xuất còn thấp, năng
lực còn hạn chế, do đó cần phải triệt để tuân thủ nguyên tắc: tự nguyện,
bình đẳng, dân chủ, công khai, minh bạch trong kết nạp các xã viên vào
hợp tác xã.Thực hiện đúng Luật hợp tác xã năm 2012, phải bảo đảm tính
tương trợ, hợp tác, giúp đỡ lẫn nhau của các thành viên hợp tác xã, tăng
cường tính cộng đồng trong hợp tác xã vì lợi ích của các xã viên cũng như
của hợp tác xã.
4.2. MỘT SỐ GIẢI PHÁP CHỦ YẾU ĐỂ PHÁT HUY NHỮNG BIẾN ĐỔI
TÍCH CỰC, HẠN CHẾ NHỮNG BIẾN ĐỔI TIÊU CỰC CỦA QUAN HỆ SẢN
XUẤT XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
4.2.1. Giải pháp về sở hữu
* Đối với sở hữu của quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa thể hiện ở kinh
tế nhà nước
Trong quan hệ sản xuất thì quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất đóng vai
trò quyết định nhất, nó chi phối các quan hệ sản xuất khác như; quan hệ tổ
133
chức, quản lý sản xuất và quan hệ phân phối sản phẩm làm ra. Do đó, để phát
huy được những biến đổi tích cực của QHSX XHCN trước hết chúng ta cần
đổi mới về quan hệ sở hữu trong kinh tế nhà nước.
Để đổi mới kinh tế nhà nước nhằm củng cố QHSX XHCN cần: Đổi
mới hoạt động của các doanh nghiệp nhà nước.Vì các doanh nghiệp nhà nước
là bộ phận quan trọng, nòng cốt của kinh tế nhà nước. Đảng ta luôn khẳng
định kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo trong nền kinh tế nhiều thành phần
định hướng XHCN. Để các doanh nghiệp nhà nước thực hiện đúng vai trò dẫn
dắt, hỗ trợ, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế
khác hoạt động và phát triển.
Việc đổi mới quan hệ sở hữu doanh nghiệp nhà nước cần thực hiện tốt
các giải pháp sau:
Một là, Nhà nước cần xác định rõ chủ sở hữu trong doanh nghiệp
nhà nước.
Mặc dù đã có sự phân công phân cấp đại diện chủ sở hữu nhà nước
trong các doanh nghiệp nhà nước theo Nghị định 99/2012/NĐ-CP, nhưng
bộ máy đại diện chủ sở hữu nhà nước ở các cơ quan, tổ chức nhà nước là
cấp trên của doanh nghiệp nhà nước còn phức tạp, nhiều đầu mối, khó
thống nhất.
Do vậy, thường xảy ra tình trạng làm thất thoát vốn sở hữu trong các
doanh nghiệp nhà nước, do tham ô, tham nhũng là vì có quá nhiều cơ quan
đóng vai trò là chủ sở hữu gồm: Thủ tướng đối với các tập đoàn, các bộ,
ngành mỗi bộ ngành phụ trách một mảng… do đó, khi có tình trạng thất thoát
vốn xẩy ra không có ai thực sự chịu trách nhiệm, làm cho sở hữu công dường
như “vô chủ”, tình trạng “cha chung không ai khóc”. Do đó, để các doanh
nghiệp nhà nước hoạt động có hiệu quả chúng ta phải có một cơ quan đứng ra
thay mặt nhân dân làm chủ sở hữu và chịu trách nhiệm trước nhân dân về tài
134
sản trong doanh nghiệp nhà nước. Có như vậy, chúng ta mới khắc phục được
những hạn chế trước đây và thúc đẩy doanh nghiệp nhà nước phát triển làm
nòng cốt cho kinh tế nhà nước.
Theo chúng tôi, để khắc phục tình trạng chồng chéo, phức tạp, nhiều
chủ sở hữu trong doanh nghiệp nhà nước hiện nay, chúng ta cần thành lập một
cơ quan chuyên trách làm đại diện chủ sở hữu đối với các doanh nghiệp nhà
nước dưới sự kiểm soát của Quốc hội. Đại hội lần thứ XII của Đảng cũng
khẳng định: “sớm xóa bỏ chức năng đại diện chủ sở hữu nhà nước của các bộ
Uỷ ban nhân dân đối với vốn, tài sản nhà nước tại các doanh nghiệp. Thành
lập một cơ quan chuyên trách làm đại diện chủ sở hữu đối với doanh nghiệp
nhà nước” [34, tr.106].
Có như vậy, sở hữu nhà nước mới được quy về một mối, quốc hội cơ
quan quyền lực cao nhất của nhà nước thay mặt nhân dân đứng ra giám sát
đối với chủ sở hữu này và cơ quan đại diện chủ sở hữu phải chịu trách nhiệm
trước quốc hội về vai trò chủ sở hữu của mình.
Hai là, giảm sở hữu nhà nước, Doanh nghiệp nhà nước cần tập trung
vào những ngành, lĩnh vực thiết yếu, quan trọng.
Hiện nay, sở hữu của doanh nghiệp nhà nước trong nền kinh tế còn rất
lớn “chiếm tới 39,75% vốn đầu tư của toàn xã hội” [148, tr.297] mà hiệu quả
đầu tư lại không cao. Do vậy, cần giảm sở hữu nhà nước trong nền kinh tế.
Nhà nước chỉ nên duy trì sở hữu nhà nước ở những ngành, lĩnh vực trọng
yếu của nền kinh tế, các lĩnh vực khác cần đẩy mạnh cổ phần để cho các
thành phần kinh tế khác đầu tư, phát triển.
Cần thiết phải duy trì các doanh nghiệp nhà nước trong lĩnh vực liên
quan đến quốc phòng an ninh, những ngành nghề cung cấp các dịch vụ công
ích phục vụ an sinh xã hội, cung cấp các hàng hóa cơ bản cho nền kinh tế,
lĩnh vực nghiên cứu và triển khai các tiến bộ khoa học - công nghệ mới
mang tính chất lan tỏa. Các doanh nghiệp nhà nước nên dần dần rút khỏi các
135
lĩnh vực, ngành nghề mà các doanh nghiệp ngoài nhà nước có khả năng
tham gia và đang hoạt động tốt, nhằm tăng cường tính cạnh tranh cho thị
trường, đồng thời Nhà nước cũng thu hồi lại được một phần vốn giành cho
đầu tư phát triển.
Ba là, đẩy mạnh cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước nhằm xã hội hóa
sở hữu nhà nước.
Hiện nay, quá trình cổ phần hóa diễn ra còn chậm “trong giai đoạn
2011 -2015 cả nước mới cổ phần hóa được 478 đơn vị, mức độ cổ phần hóa
còn thấp, tại hầu hết các doanh nghiệp được cổ phần hóa tỷ lệ sở hữu của nhà
nước vẫn chiếm ở mức trên 50%” [38, tr.10]. Cổ phần hóa doanh nghiệp nhà
nước là để thu hút nguồn vốn của xã hội vào trong hoạt động sản xuất kinh
doanh của các doanh nghiệp nhà nước, tạo ra sự chuyển biến trong sở hữu tư
liệu sản xuất, từ đó tạo động lực cho quá trình sản xuất. Trong những năm tới,
cần đẩy mạnh việc cổ phần hóa các doanh nghiệp nhà nước. Đây là một
nhiệm vụ trọng tâm trong cải cách doanh nghiệp nhà nước như Đại hội Đảng
lần XII khẳng định: “Đẩy mạnh thoái vốn đầu tư ngoài ngành, cổ phần hóa và
bán hết phần vốn nhà nước trong các doanh nghiệp nhà nước không cần nắm
giữ theo cơ chế thị trường” [34, tr.291].
Trong quá trình cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước cần xác định hai
loại hình các doanh nghiệp đó là: doanh nghiệp vốn nhà nước chiếm đa số
trên 51% và doanh nghiệp mà vốn nhà nước không cần chiếm tỷ trọng
khống chế dưới 50%. Đối với các lĩnh vực, ngành nghề quan trọng trong nền
kinh tế như: ngân hàng, tài chính, bảo hiểm,… an sinh xã hội nhà nước cần
duy trì sở hữu khống chế >51%, nhằm định hướng điều tiết nền kinh tế, với
các ngành nghề, lĩnh vực không quan trọng cần đẩy mạnh cổ phần hóa
doanh nghiệp nhà nước.
Bốn là, tăng cường liên kết, liên doanh giữa doanh nghiệp nhà nước với
các thành phần kinh tế khác để hình thành sở hữu hỗn hợp.
136
Liên kết, liên doanh nhằm tạo động lực cho doanh nghiệp nhà nước
phát triển, nhằm đa dạng hóa sở hữu trong doanh nghiệp nhà nước, để thu hút
vốn cho doanh nghiệp nhà nước, tạo chuyển biến trong sở hữu, từ đó tạo động
lực cho sản xuất kinh doanh.
Để thu hút các nguồn lực cho doanh nghiệp nhà nước phát triển như:
vốn, khoa học công nghệ hiện đại, kinh nghiệm tổ chức, quản lý, doanh
nghiệp nhà nước cần tăng cường liên kết với các doanh nghiệp thành phần
kinh tế khác nhất là các doanh nghiệp nước ngoài mà trước đây chúng ta gọi
là kinh tế tư bản nhà nước. Các doanh nghiệp nước ngoài thuộc các nước tư
bản phát triển vốn có tiềm lực mạnh về nguồn vốn, khoa học công nghệ cao
và kinh nghiệm trong tổ chức quản lý sản xuất trong công nghiệp hiện đại, do
vậy để doanh nghiệp nhà nước phát triển có hiệu quả chúng ta cần tăng cường
liên kết trên các lĩnh vực như: xây dựng kết cấu hạ tầng vì cần vốn lớn, tin
học, nắp ráp ô tô, xe máy, đóng tàu…
* Đối với quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa thể hiện kinh tế tập thể
Kinh tế hợp tác xã (HTX) là hình thức liên kết tự nguyện của những
người lao động, kết hợp sức mạnh tập thể với sức mạnh của từng thành
viên để giải quyết có hiệu quả hơn những vấn đề của sản xuất - kinh doanh
và đời sống.
Hợp tác xã là tổ chức kinh tế tập thể, đồng sở hữu, có tư cách pháp
nhân, do ít nhất 07 thành viên tự nguyện thành lập và hợp tác tương
trợ lẫn nhau trong hoạt động sản xuất, kinh doanh, tạo việc làm nhằm
đáp ứng nhu cầu chung của thành viên, trên cơ sở tự chủ, tự chịu
trách nhiệm, bình đẳng và dân chủ trong quản lý hợp tác xã [115].
Kinh tế HTX không phải chỉ để giúp những người sản xuất nhỏ có đủ
sức cạnh tranh, chống lại sự chèn ép của doanh nghiệp lớn, mà về lâu dài
cùng kinh tế nhà nước trở thành nền tảng của nền kinh tế quốc dân. Phát triển
kinh tế HTX không chỉ nhằm mục đích kinh tế, mà còn có mục tiêu xã hội:
137
việc làm, thu nhập, xóa đói, giảm nghèo, tương trợ, giúp đỡ nhau trong đời
sống.Trong thời gian tới cần đẩy mạnh phát triển kinh tế HTX theo các giải
pháp sau:
- Tôn trọng nguyên tắc bình đẳng, đồng sở hữu trong hợp tác xã.
Đây là bản chất trong sở hữu tập thể, thể hiện sự khác biệt so với các
thành phần kinh tế khác. Để thực hiện nguyên tắc này theo Luật hợp tác xã
kiểu mới năm 2012 thì cần phải tuân thủ nguyên tắc mức vốn góp của các
thành viên trong hợp tác xã không quá 20% vốn điều lệ của hợp tác xã để
không ai có quyền sở hữu chủ yếu và quyết định mà dựa trên quyết định tập
thể. Trong trường hợp cần huy động vốn, hợp tác xã có thể huy động vốn từ
các thành viên để mở rộng sản xuất kinh doanh trên cơ sở đồng thuận của các
thành viên.
- Phân biệt rõ hai loại tài sản trong hợp tác xã để tránh chồng chéo là:
tài sản được chia và tài sản không được chia.
Đối với tài sản không được chia bao gồm: Quyền sử dụng đất khi nhà
nước giao đất, cho thuê đất, khoản trợ cấp hỗ trợ không hoàn lại của nhà
nước, phần trích lập quỹ đầu tư phát triển. Tài sản được chia bao gồm các tài
sản khác theo pháp luật chẳng hạn vốn góp cho sản xuất kinh doanh. Việc xác
định phân biệt hai loại tài sản này nhằm tạo sự đồng thuận, tránh sự tranh
chấp trong hợp tác xã và giúp cho hợp tác xã phát triển
- Đẩy mạnh công tác tuyên truyền giáo dục để nhân dân hiểu rõ về
quyền lợi, lợi ích khi tham gia hợp tác xã. Đẩy mạnh công tác tuyên truyền,
giáo dục pháp luật sâu rộng trong nhân dân và cán bộ về vai trò, vị trí của
Hợp tác xã kiểu mới, về nội dung của pháp luật về Hợp tác xã, làm cho mọi
người dân hiểu biết kỹ lưỡng các quy định của pháp luật, tự nguyện lựa chọn
khi lập Hợp tác xã. Tổ chức đào tạo, bồi dưỡng kiến thức về luật pháp và
quản lý HTX kiểu mới cho đội ngũ cán bộ quản lý Hợp tác xã.
138
4.2.2. Giải pháp về tổ chức, quản lý
Để thúc đẩy QHSX XHCN phát triển cần thực hiện đồng bộ các giải
pháp sau:
* Đối với quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa thể hiện ở kinh tế nhà nước
Thứ nhất, cần xóa bỏ bao cấp trong doanh nghiệp nhà nước, các doanh
nghiệp nhà nước chuyển hoàn toàn sang cơ chế thị trường bình đẳng với các
thành phần kinh tế khác.
Cho đến nay, với quan điểm kinh tế nhà nước đóng vai trò chủ đạo
trong nền kinh tế quốc dân, chúng ta đã có nhiều ưu đãi cho doanh nghiệp nhà
nước so với các thành phần kinh tế khác về; tiếp cận nguồn vốn của ngân
hàng, khi thua lỗ được nhà nước khoanh nợ, dãn nợ, thậm chí xóa nợ. Chính
vì vậy, đã tạo sự ỷ lại vào nhà nước và hoạt động kém hiệu quả của doanh
nghiệp nhà nước và tạo ra bất bình đẳng giữa các loại hình quan hệ sản xuất.
Đảng, Nhà nước khẳng định các thành phần kinh tế, các loại hình doanh
nghiệp đều bình đẳng trước pháp luật, do đó chúng ta phải xóa bỏ cơ chế “xin
cho", tàn dư của thời kỳ bao cấp với doanh nghiệp nhà nước từ đó tạo động
lực cho doanh nghiệp nhà nước phát triển. Cần xóa bỏ các ưu đãi của nhà
nước đối với các doanh nghiệp nhà nước, các doanh nghiệp nhà nước phải
hoạt động theo cơ chế thị trường, phải cạnh tranh bình đẳng với các thành
phần kinh tế khác trong nền kinh tê. Có xóa bỏ bao cấp trong các doanh
nghiệp nhà nước mới tạo điều kiện để doanh nghiệp nhà nước vươn lên, làm
ăn có hiệu quả, đóng góp cho ngân sách nhà nước, dẫn dắt, hỗ trợ các thành
phần kinh tế khác phát triển.
Thứ hai, Nhà nước cần phân định rõ hai loại hình doanh nghiệp nhà
nước đó là; doanh nghiệp nhà nước hoạt động vì mục tiêu chính trị - xã hội và
doanh nghiệp nhà nước vì mục tiêu lợi nhuận.
Doanh nghiệp nhà nước luôn có hai nhiệm vụ là sản xuất kinh doanh và
nhiệm vụ về chính trị - xã hội. Doanh nghiệp nhà nước ngoài chức năng sản
139
xuất kinh doanh còn có nhiệm vụ to lớn khác là thực hiện các nhiệm vụ về
chính trị - xã hội của Đảng và Nhà nước như: đầu tư cho vùng sâu, vùng xa,
nông thôn miền núi, xây dựng kết cấu hạ tầng, đầu tư vào những nơi ít lợi
nhuận mà tư nhân không muốn làm, ổn định kinh tế vĩ mô...
Hiện nay, chúng ta chưa có sự phân định rõ ràng hai loại hình doanh
nghiệp nhà nước này, do vậy, rất khó đánh giá hiệu quả hoạt động của doanh
nghiệp nhà nước, nhiều khi còn lẫn lộn giữa hai loại mục tiêu này. Chính vì
chưa rõ hai loại hình doanh nghiệp cho nên nhiều khi doanh nghiệp nhà nước
làm ăn thua lỗ chúng ta lại bù lỗ, hoặc xóa nợ.
Đây là hai mục tiêu chiến lược của doanh nghiệp nhà nước; một mặt
doanh nghiệp nhà nước phải tuân theo quy luật của thị trường, phải hoạt động
vì lợi nhuận, mặt khác doanh nghiệp nhà nước phải trở thành công cụ của nhà
nước thực hiện điều tiết vĩ mô nền kinh tế, thực hiện mục tiêu xã hội như xóa
đói, giảm nghèo, an sinh xã hội... Để doanh nghiệp nhà nước hoạt động có
hiệu quả cần phân định rõ: nếu doanh nghiệp nhà nước hoạt động vì lợi nhuận
phải lấy hiệu quả kinh tế làm thước đo, phải tuân thủ quy luật của thị trường
như quy luật cung-cầu, cạnh tranh, giá cả, giá trị và cạnh tranh bình đẳng với
các thành phần kinh tế khác. Doanh nghiệp hoạt động vì mục tiêu xã hội phải
lấy thước đo phục vụ xã hội làm thước đo cao nhất không thể dựa vào lợi
nhuận chẳng hạn như; đầu tư cho vùng sâu, vùng xa, vùng dân tộc ít người,
thực hiện an sinh xã hội hoặc các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực công
ích an ninh, quốc phòng, xây dựng kết cấu hạ tầng, các cơ sở nghiên cứu khoa
học... với các doanh nghiệp này, nhà nước có thể phải bù lỗ vì mục tiêu xã
hội, vì một xã hội công bằng, văn minh theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Đại hội XII của Đảng khẳng định: “Tách bạch nhiệm vụ sản xuất kinh doanh
và nhiệm vụ chính trị, công ích" [34, tr.106].
Thứ ba, Nhà nước nên phân định rõ chức năng chủ sở hữu và chức
năng quản lý kinh doanh của nhà nước trong các doanh nghiệp nhà nước.
140
Để thực hiện chức năng chủ sở hữu trong các doanh nghiệp nhà nước,
Nhà nước chỉ cần giao vốn, mục tiêu, nhiệm vụ sản xuất kinh doanh cho các
doanh nghiệp nhà nước, còn quyết định sản xuất kinh doanh như thế nào? Sản
xuất cái gì? Số lượng bao nhiêu cần giao cho các doanh nghiệp tự quyết định,
tự chịu trách nhiệm trước chủ sở hữu.
Nhà nước không nên can thiệp quá sâu vào hoạt động sản xuất kinh
doanh của doanh nghiệp theo kiểu hành chính mệnh lệnh, cần để cho doanh
nghiệp nhà nước có quyền tự chủ trong sản xuất kinh doanh phù hợp với cơ
chế thị trường và tuân thủ pháp luật.
Nhà nước chỉ cần làm tốt khâu giám sát của chủ sở hữu đối với mục
tiêu, nhiệm vụ mà Nhà nước giao cho doanh nghiệp. Muốn vậy, cần tách chức
năng quản lý nhà nước về kinh tế và chức năng sản xuất kinh doanh của
doanh nghiệp trong doanh nghiệp nhà nước.
Thứ tư, Nhà nước cần xây dựng đội ngũ quản trị giỏi trong các doanh
nghiệp nhà nước.
Con người là yếu tố quyết định trong sản xuất kinh doanh, do đó, để
cho tổ chức quản lý kinh doanh tốt, nhà nước cần xây dựng được đội ngũ
quản trị giỏi có đạo đức tốt. Để làm được điều này nhà nước cần có cơ chế bổ
nhiệm thích hợp và có chính sách thỏa đáng để thu hút các nhà quản trị giỏi.
Điều này đã được thực tiễn chứng minh, bên cạnh những doanh nghiệp làm
ăn thua lỗ, làm thất thoát hàng ngàn tỉ đồng của nhà nước như: Vinaship,
Vinalie.. vẫn có nhiều doanh nghiệp, tập đoàn nhà nước kinh doanh có lãi
phát triển nhanh chóng, chi phối thị trường, vươn ra nước ngoài, làm chỗ dựa
cho nhà nước điều tiết nền kinh tế, bình ổn thị trường chẳng hạn như: Tập
đoàn viễn thông quân đội Viettel, tổng công ty sữa nhà nước Vinamilk...đây
là hai doanh nghiệp điển hình đã vươn lên nhanh chóng từ một doanh nghiệp
vừa và nhỏ nhờ công tác quản trị hiện đại đã nắm bắt thị trường có hiệu quả.
Để doanh nghiệp nhà nước phát triển trong những năm tới chúng ta cần mở
141
rộng mô hình quản trị này, cần xây dựng được đội ngũ quản trị giỏi thích nghi
với kinh tế thị trường thời kỳ hội nhập sâu rộng như hiện nay.
* Đối với quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa thể hiện kinh tế tập thể
Phát triển kinh tế Hợp tác xã phải tuân thủ 5 nguyên tắc: 1) Tự nguyện;
2) Quản lý dân chủ và bình đẳng; 3) Tự chịu trách nhiệm và cùng có lợi; 4)
Chia lãi đảm bảo kết hợp lợi ích của xã viên và sự phát triển của Hợp tác xã;
5) Hợp tác và phát triển cộng đồng.
- Xây dựng và phát triển kinh tế hợp tác xã đa dạng với nhiều hình thức
từ thấp đến cao, nòng cốt là các Hợp tác xã kiểu mới. Xây dựng các chế độ cụ
thể khuyến khích phát triển các tổ hợp tác, Hợp tác xã đa dạng từ thấp đến
cao, và theo đặc điểm của từng vùng, từng ngành phù hợp với nhu cầu của
người lao động, của các hộ sản xuất kinh doanh. Tiếp tục tạo điều kiện để các
hợp tác xã mở rộng quy mô, phạm vi, địa bàn hoạt động, tăng cường sự liên
kết giữa hợp tác xã với doanh nghiệp, hợp tác xã với ngân hàng, hợp tác xã
với các thành phần kinh tế khác để tăng cường hiệu quả của các hợp tác xã.
- Nhà nước tạo điều kiện về mọi mặt và quản lý Hợp tác xã bằng pháp
lý, cơ chế, chính sách; tài chính, đào tạo đội ngũ cán bộ quản lý, ứng dụng
khoa học công nghệ... nhằm giúp cho kinh tế hợp tác, Hợp tác xã phát triển,
thúc đẩy kinh tế hộ đẩy mạnh sản xuất hàng hoá, trên cơ sở có nhu cầu hợp
tác mà hình thành Hợp tác xã từ giản đơn đến phức tạp.
- Những năm tới cần chú trọng xây dựng các Hợp tác xã đã đăng ký
hoạt động theo luật làm sao thực sự trở thành các Hợp tác xã kiểu mới có sức
hấp dẫn và thu hút đối với đông đảo người lao động, củng cố uy tín Hợp tác
xã trong toàn xã hội.
- Song song với quá trình chuyển đổi các Hợp tác xã cũ cần thúc đẩy,
khuyến khích xây dựng các Hợp tác xã kiểu mới trong tất cả các lĩnh vực
kinh tế, xã hội. Lựa chọn một số lĩnh vực đủ điều kiện xây dựng thử mô
hình liên hiệp các Hợp tác xã trên cơ sở các nguyên tắc Hợp tác xã, các quy
142
định của pháp luật như lĩnh vực thuỷ sản, tín dụng. Phấn đấu hình thành
được các mô hình Hợp tác xã kiểu mới thực thụ (cả HTX cũ trở thành HTX
kiểu mới là HTX kiểu mới mới xây dựng) để nhân rộng và phát triển vào
các năm tiếp theo.
- Tăng cường vai trò, trách nhiệm của tổ chức Liên minh Hợp tác xã,
Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể nhân dân, hội, hiệp hội trong phát triển kinh tế
Hợp tác xã.
- Hoàn thiện cơ chế chính sách hỗ trợ để các hợp tác xã phát triển. Nhà
nước cần có chính sách hỗ trợ về giáo dục đào tạo nhằm tạo ra nguồn nhân
lực chất lượng cao, hỗ trợ về tín dụng, về khoa học cộng nghệ và về thị
trường cho các hợp tác xã để cho các hợp tác xã vươn lên có thể cạnh tranh
trên thị trường.
4.2.3. Giải pháp về phân phối sản phẩm
Hồ Chủ tịch đã nói chúng ta không sợ thiếu chỉ sợ phân phối không
công bằng. Để phân phối có hiệu quả trong QHSX XHCN hiện nay cần phải
thực hiện các giải pháp sau:
* Đối với quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa thể hiện ở kinh tế nhà nước
Một là, doanh nghiệp nhà nước phải triệt để tuân thủ nguyên tắc phân
phối theo lao động, xóa bỏ bao cấp trong doanh nghiệp nhà nước.
Trước thời kỳ đổi mới (trước 1986) chúng ta phân phối bình quân, cào
bằng đã dẫn đến lợi ích người lao động vi phạm, không kích thích được sản
xuất làm cho năng suất, chất lượng giảm, đẩy đất nước lâm vào khủng hoảng
về kinh tế - xã hội. Trong những năm đổi mới, chúng ta đã đa dạng hóa quan
hệ phân phối có phân phối theo lao động, phân phối theo vốn góp và phân
phối theo phúc lợi xã hội. Nhờ có chính sách phân phối đúng đắn đã làm cho
sản xuất phát triển đất nước thoát ra khỏi khủng hoảng về kinh tế - xã hội.
Hình thức phân phối này được thực hiện trong toàn bộ nền kinh tế trong đó có
quan hệ sản xuất XHCN, nền tảng của kinh tế.
143
Trong những năm gần đây, khi kinh tế thị trường phát triển đã dẫn đến
bộc lộ những mặt trái của kinh tế thị trường, người ta muốn làm giàu nhanh
chóng, bằng mọi giá, phân cực xã hội ngày càng tăng. Trong QHSX XHCN
cũng có những yếu kém bất cập, tình trạng tham ô, tham những, làm trái quy
định của nhà nước để trục lợi cho bản thân, quyền lợi người lao động bị vi
phạm nhiều doanh nghiệp nhà nước kinh doanh thua lỗ, người lao động không
có việc làm nhưng lãnh đạo vẫn hưởng lương cao: chẳng hạn công ty Vosco
thuộc tổng công ty hàng hải việt nam Vinalines làm ăn thua lỗ hàng trăm tỉ
đồng trong nhiều năm nhưng lãnh đạo quản lý vẫn hưởng lương cao.
Theo tác giả Thu Hoài thì “Kinh doanh bết bát, song lãnh đạo của
Vosco luôn nhận lương cao hơn so với thị trường. Năm 2015, Tổng giám đốc
Cao Minh Tuấn có thu nhập trên 880 triệu đồng, tương ứng 73 triệu đồng một
tháng. Hai Phó tổng giám đốc là ông Nguyễn Hoàng Dũng và Lâm Việt Tiến
có thu nhập lần lượt ở mức 751, 721 triệu đồng, tương ứng trên 60 triệu đồng
một tháng” [50].
Đây là việc làm trái với nguyên tắc phân phối theo lao động ở nước
ta hiện nay, vì phải căn cứ vào năng suất, chất lượng và hiệu quả kinh tế để
trả lương cho người lao động, trong đó có lao động quản lý. Do đó, để kích
thích tính sáng tạo, hăng say của người lao động, để người lao động gắn bó
với doanh nghiệp đặc biệt là doanh nghiệp nhà nước do nhân dân làm chủ
thì chúng ta phải triệt để tuân theo nguyên tắc phân phối theo lao động,
doanh nghiệp phải làm ăn hiệu quả phải kinh doanh có lãi, với năng suất,
chất lượng hiệu quả cao thì cán bộ quản lý mới có lương cao được. Cần trả
lương tương xứng với đóng góp của người lao động trong doanh nghiệp
nhà nước.
Có chính sách trả lương phù hợp với đội ngũ lãnh đạo doanh nghiệp
nhà nước để họ yên tâm công tác, có trách nhiệm với doanh nghiệp gắn bó
144
giữa quyền lợi và trách nhiệm không cần phải tham ô, tham nhũng mới có thể
làm giàu.
Hai là, Nhà nước nên bỏ chế độ kiêm nhiệm, phân phối theo công
chức, viên chức trong doanh nghiệp nhà nước.
Hiện nay ở nước ta vẫn phân phối theo chế độ công chức do nhà nước
bổ nhiệm đối với cán bộ quản lý. Chính việc phân phối theo công chức đối
với đội ngũ cán bộ quản lý trong doanh nghiệp nhà nước đã tách rời việc trả
lương cho cán bộ với hiệu quả kinh doanh trong doanh nghiệp, do chế độ trả
lương theo công chức chưa cao vì vậy một số cán bộ quản lý đã tham ô tham
nhũng làm giàu phi pháp. Để cán bộ quản lý gắn bó với doanh nghiệp nhà
nước làm giàu chính đáng nhà nước cần có chế độ trả lương hợp lý theo kết
quả kinh doanh của doanh nghiệp và theo cơ chế thị trường, có như vậy mới
thu hút được đội ngũ cán bộ quản lý giỏi về với doanh nghiệp nhà nước và
giúp họ yên tâm công tác gắn bó lâu dài với doanh nghiệp.
Ba là, doanh nghiệp nhà nước ngoài phân phối theo lao động phải đa
dạng hóa các hình thức phân phối như; theo vốn góp đối với doanh nghiệp
nhà nước cổ phần và theo phúc lợi xã hội. Đặc biệt là phúc lợi xã hội để tạo ra
sự đoàn kết, gắn bó trong doanh nghiệp và công bằng trong phân phối.
* Đối với quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa thể hiện kinh tế tập thể
Để Luật hợp tác xã kiểu mới đi vào hoạt động và phát huy hiệu quả
trong lĩnh vực phân phối cần phải.
Thực hiện đúng nguyên tắc phân phối trong kinh tế hợp tác xã quy định
đó là:
- Phân phối thu nhập trong hợp tác xã phải theo mức độ sử dụng sản
phẩm, dịch vụ của các thành viên hợp tác xã. Nguyên tắc này thể hiện được
đúng bản chất của kinh tế tập thể, kinh tế hợp tác là phục vụ các thành viên, đáp
ứng nhu cầu về sản xuất kinh doanh của các thành viên, gắn thành viên với hợp
tác xã vì bản chất của hợp tác xã là phục vụ các thành viên trong hợp tác xã.
145
- Ngoài phân phối theo mức độ sử dụng dịch vụ, cần phân bổ phân phối
theo vốn góp để tạo công bằng trong phân phối thu nhập và khuyến khích các
thành viên góp vốn vào hợp tác xã.
Tóm lại, phát triển kinh tế nhà nước và kinh tế tập thể là yếu tố hết sức
quan trọng, có ý nghĩa quyết định trong việc xây dựng QHSX XHCN. Nhất là
trong giai đoạn hiện nay, khi Việt Nam đang thực hiện xây dựng nền kinh tế thị
trường định hướng XHCN, phát triển kinh tế nhà nước và kinh tế tập thể có ý
nghĩa quan trọng trong việc định hướng, dẫn dắt, điều tiết vĩ mô nền kinh tế.
4.2.4. Hoàn thiện hệ thống pháp luật tạo môi trường pháp lý phù
hợp để phát huy tính năng động của các chủ thể trong nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa
Trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta có
nhiều thành phần kinh tế, nhiều loại hình quan hệ sản xuất tham gia. Do đó,
để phát huy tính năng động của các chủ thể kinh tế, của các loại hình quan hệ
sản xuất khác nhau nhà nước phải tạo lập được hành lang pháp lý một cách
thông suốt, bình đẳng cho các thành phần kinh tế cụ thể là:
Hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN, giải quyết hài
hòa quan hệ giữa nhà nước với thị trường.
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đòi hỏi phải có sự quản
lý của nhà nước nhằm hạn chế mặt tiêu cực phát huy mặt tích cực của kinh tế
thị trường. Trong nền kinh tế thị trường nhà nước cần tạo ra được hành lang
pháp lý, môi trường phù hợp để cho các chủ thể trong nền kinh tế phát triển,
cạnh tranh lành mạnh, nhà nước định hướng nền kinh tế đi theo định hướng
xã hội chủ nghĩa.
Để hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN, giải quyết
hài hòa quan hệ giữa nhà nước với thị trường chúng ta cần giải quyết tốt một
số giải pháp cơ bản sau:
Một là, tạo lập môi trường bình đẳng giữa kinh tế Nhà nước với các
thành phần kinh tế khác. Trong nền kinh tế thị trường có nhiều loại hình quan
146
hệ sản xuất, nhiều thành phần kinh tế tham gia, tất cả đều là một bộ phận của
nền kinh tế quốc dân thống nhất vừa hợp tác vừa cạnh tranh với nhau để phát
triển. Vì vậy, để cho nền kinh tế phát triển nhà nước phải tạo lập được môi
trường cạnh tranh bình đẳng giữa các loại hình doanh nghiệp các thành phần
kinh tế về việc tiếp cận các nguồn lực để phát triển như: vốn vay ngân hàng,
thuế quan, đất đai…
Hai là, tiếp tục nâng cao nhận thức về nền kinh tế thị trường định
hướng XHCN. Thống nhất về nhận thức, khẳng định rõ giá trị của nền kinh tế
thị trường định hướng XHCN đã, đang xây dựng và phát triển ở Việt Nam.
Xác định rõ bản chất, nội dung của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN;
đảm bảo giải quyết hài hòa quan hệ giữa nhà nước với thị trường trong phát
triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN. Tạo điều kiện thuận lợi để thể
chế kinh tế thị trường phát huy tác dụng, đảm bảo phát triển nhanh và bền
vững. Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam là nền
kinh tế vận hành đầy đủ theo các quy luật của thị trường, đồng thời bảo đảm
định hướng xã hội chủ nghĩa. Đó là nền kinh tế thị trường hiện đại và hội
nhập quốc tế có sự quản lý của nhà nước XHCN, do Đảng Cộng sản Việt
Nam lãnh đạo. Trong nền kinh tế ấy, có nhiều thành phần kinh tế, nhiều hình
thức sở hữu, trong đó kinh tế nhà nước đóng vai trò chủ đạo, các thành phần
kinh tế đều bình đẳng, hợp tác và cạnh tranh theo pháp luật.
Ba là, tiếp tục đổi mới và hoàn thiện thể chế về sở hữu. Đây là một
nhiệm vụ trọng tâm trong hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng
XHCN. Để kinh tế nhà nước là nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân
cần thực hiện tốt các yêu cầu sau: hoàn thiện hệ thống pháp luật về sở hữu
nhà nước, kinh tế nhà nước và doanh nghiệp nhà nước, trong đó phải làm rõ
được các nội dung cụ thể: Quy định quyền và nghĩa vụ của chủ sở hữu nhà
nước và những người có liên quan trong việc chiếm hữu, sử dụng và định
đoạt tài sản; Quy định các biện pháp bảo vệ khi quyền sở hữu nhà nước bị
xâm phạm.
147
Bốn là, hoàn thiện thể chế phân phối đảm bảo gắn kết giữa tăng trưởng
kinh tế với tiến bộ, công bằng xã hội trong phát triển nền kinh tế thị trường
định hướng XHCN. Xây dựng, hoàn thiện luật pháp, cơ chế, chính sách phân
bổ nguồn lực thực hiện các mục tiêu (kinh tế, xã hội, môi trường); cơ chế,
chính sách đảm bảo phân phối hiệu quả và hợp lý kết quả từ hoạt động sản
xuất kinh doanh hay từ thành quả của tăng trưởng kinh tế do kinh tế thị
trường định hướng XHCN đem lại. Kết nối tốt phân phối thành quả của tăng
trưởng với tiến bộ, công bằng xã hội ngay trong từng bước đi, từng chính sách
phát triển. Điều đó, thể hiện ngay trong nội dung, phương thức phân bổ các
nguồn lực xã hội được gắn kết trong chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát
triển của quốc gia. Đồng thời, đổi mới cơ chế phân phối và phân phối lại
thành quả kinh tế hợp lý, hài hòa giữa lợi ích của Nhà nước, người lao động.
Năm là, hoàn thiện thể chế đảm bảo nâng cao vai trò lãnh đạo của Đảng,
hiệu lực, hiệu quả quản lý của Nhà nước trong nền kinh tế thị trường định
hướng XHCN. Hoàn thiện thể chế đảm bảo nâng cao vai trò lãnh đạo của
Đảng, hiệu lực, hiệu quả quản lý của Nhà nước, trước hết phải tiếp tục làm rõ
nội dung phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN; phân định rõ chức
năng của thị trường và chức năng quản lý của Nhà nước đối với phát triển kinh
tế. Đổi mới tư duy kinh tế và thực hiện tốt phương châm - Nhà nước không bao
biện, làm thay các tổ chức kinh tế, nhất là doanh nghiệp nhà nước, tập đoàn
kinh tế nhà nước, mà lãnh đạo bằng pháp luật, bằng tổ chức; bằng chỉ đạo,
kiểm tra, giám sát các hoạt động kinh tế của các tổ chức kinh tế thuộc thành
phần kinh tế nhà nước cũng như mọi thành phần kinh tế khác.
Tiểu kết chương 4
Qua 30 năm, đổi mới QHSX XHCN ở nước ta đã có những biến đổi
tích cực ngày càng phù hợp với trình độ của LLSX và góp phần thúc đẩy sản
xuất ở nước ta phát triển.Tuy nhiên, bên cạnh những biến đổi tích cực QHSX
148
XHCN ở nước ta còn có những biến đổi tiêu cực làm ảnh hưởng tới sự phát
triển của LLSX, ảnh hưởng tới vai trò định hướng XHCN ở nước ta. Để hạn
chế những biến đổi tiêu cực, phát huy những biến đổi tích cực của QHSX
XHCN ở nước ta, chúng tôi đã đưa ra một số phương hướng và giải pháp cơ
bản như: Xác định rõ chủ sở hữu trong doanh nghiệp nhà nước, đẩy mạnh cổ
phần hóa doanh nghiệp nhà nước nhằm xã hội hóa sở hữu nhà nước, cần xóa
bỏ bao cấp trong doanh nghiệp nhà nước, các doanh nghiệp nhà nước chuyển
hoàn toàn sang cơ chế thị trường bình đẳng với các thành phần kinh tế khác.
nhà nước cần xây dựng đội ngũ quản trị giỏi trong các doanh nghiệp nhà
nước. Phân phối trong doanh nghiệp nhà nước phải triệt để tuân theo nguyên
tắc theo lao động phải căn cứ vào; năng xuất chất lượng và hiệu quả để trả
lương cho cán bộ quản lý, phải bảo đảm thu nhập cho người lao động
Đối với kinh tế tập thể cần đẩy mạnh việc chuyển đổi mô hình hợp tác
xã trên cơ sở Luật Hợp tác xã kiểu mới năm 2012 đã ban hành để HTX hỗ trợ
đắc lực cho các hộ kinh doanh cá thể phát triển. Phát triển đang dạng các hình
thức liên kết hợp tác trong kinh tế tập thể tôn trọng nguyên tắc; tự nguyện,
bình đẳng, dân chủ...
Việc thực hiện các giải pháp trên đây sẽ góp phần làm cho QHSX
XHCN sẽ phát huy được những biến đổi tích cực, khắc phục những biến đổi
tiêu cực, tạo điều kiện cho LLSX phát triển và làm tốt công tác dẫn dắt, hỗ trợ
các thành phần kinh tế khác phát triển.
149
KẾT LUẬN
Quá trình vận động, biến đổi của QHSX XHCN trong thời kỳ đổi mới
được mở đầu bằng Đại hội VI của Đảng, cho đến nay, đã trải qua 8 kỳ Đại
hội. Sự vận động, biến đổi của QHSX XHCN ở nước ta được chia làm hai
giai đoạn chính:
Giai đoạn đầu đổi mới, trải qua 3 kỳ Đại hội từ năm 1986 đến năm
2001 là quá trình tìm tòi, thử nghiệm chuyển đổi mô hình nền kinh tế nước ta
từ kế hoạch hóa, tập trung sang nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận
hành theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của nhà nước, theo định hướng xã
hội chủ nghĩa. Trong giai đoạn này, QHSX XHCN có sự biến đổi tích cực để
thích nghi với cơ chế mới như: về quan hệ sở hữu được đổi mới tập trung hơn
vào các ngành lĩnh vực trọng yếu trong nền kinh tế, thí điểm cổ phần hóa, giải
thể các xí nghiệp thua lỗ… Quan hệ tổ chức, quản lý được chuyển sang hạch
toán xã hội chủ nghĩa và sau đó là cơ chế thị trường, quá trình tổ chức, sắp
xếp lại các doanh nghiệp nhà nước được thực hiện dưới các hình thức: giao,
bán, khoán, cho thuê, hình thành các tổng công ty. Quan hệ phân phối chuyển
sang trả bằng tiền thay cho hiện vật, từ bình quân sang trả theo, lao động và
hiệu quả kinh tế. Đối với kinh tế tập thể, chúng ta đã áp dụng rộng rãi chính
sách khoán và ra đời luật hợp tác xã năm 1996.
Giai đoạn từ năm 2001 đến nay, Đây là giai đoạn chúng ta đã xác định
được mô hình kinh tế tổng quát là: kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa. Qua các kỳ Đại hội IX, X, XI, XII mô hình kinh tế lại được làm rõ,
củng cố thêm cùng với đó là sự biến đổi của QHSX XHCN cho phù hợp với
thực tiễn đất nước và làm tốt vai trò chủ đạo trong nền kinh tế. Sự biến đổi
được thể hiện: quan hệ sở hữu được tập trung hơn vào các ngành, lĩnh vực
then chốt, trọng yếu trong nền kinh tế để đóng vai trò là cộng cụ ổn định điều
tiết vĩ mô, dẫn dắt các thành phần kinh tế khác, đẩy mạnh cổ phần hóa, tách
chức năng sở hữu với chức năng sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Quan
hệ tổ chức được biến đổi theo hướng xóa bỏ bao cấp hình thành cơ chế thị
150
trường, các thành phần kinh tế ngày càng được bình đẳng vừa hợp tác, vừa
cạnh tranh theo thị trường, doanh nghiệp nhà nước cũng được tổ chức sắp xếp
lại sao cho giảm về số lượng, tăng về chất lượng, hình thành các Tổng công ty
và Tập đoàn kinh tế nhà nước đóng vai trò là nòng cốt trong doanh nghiệp
nhà nước. Quan hệ phân phối chuyển sang kinh tế thị trường trả lương theo
năng suất, chất lượng và hiệu quả kinh tế, gắn tăng trưởng kinh tế với công
bằng xã hội. Trong kinh tế tập thể, chúng ta đã chuyển đổi mô hình từ hợp tác
xã kiểu cũ sang hợp tác xã kiểu mới.
Tuy nhiên, QHSX XHCN ở nước ta hiện nay, còn có những biến đổi tiêu
cực tạo thành lực cản đối với sự phát triển của LLSX, chưa thực sự nêu gương
về năng suất, chất lượng cho các loại quan hệ sản xuất khác. Điều này, được
thể hiện; nhiều doanh nghiệp nhà nước làm ăn kém hiệu quả, thua lỗ kéo dài
làm thất thoát vốn của nhà nước và nhân dân hàng nghìn tỷ đồng gây bức xúc
trong dư luận. Trong quản lý, doanh nghiệp nhà nước còn ảnh hưởng cơ chế
tập trung, quan liêu, bao cấp cơ chế xin- cho, chưa thực sự chuyển hoàn toàn
theo cơ chế thị trường. Trong phân phối còn chưa tuân thủ nguyên tắc phân
phối theo lao động, người lao động là chủ thể nhưng không có quyền thực sự
trong doanh nghiệp, lương thấp, trong khi đó cán bộ quản lý trả lương theo chế
độ công chức nhà nước không gắn trực tiếp với hoạt động kinh doanh của
doanh nghiệp, do vậy họ thường lợi dụng chức vụ để tham ô, tham nhũng làm
giàu phi pháp. Kinh tế tập thể ngày càng thu hẹp, không thể hiện được mục
tiêu, bản chất của mình, quá trình chuyển đổi mô hình hợp tác xã còn chậm.
Do đó, đổi mới quan hệ sản xuất XHCN phải được thực hiện đồng bộ
trên cả ba mặt của quan hệ sản xuất. Để thực hiện điều này, chúng tôi đã đề ra
các giải pháp như: 1) Giải pháp về sở hữu. 2) Giải pháp về tổ chức quản lý.
3) giải pháp về phân phối và giải pháp về 4) Hoàn thiện hệ thống pháp luật
tạo môi trường pháp lý phù hợp để phát huy tính năng động của các chủ thể
trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Những giải pháp mà chúng tôi đề ra trên đây, là những ý kiến để những
người làm chính sách tham khảo.
151
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC ĐÃ CÔNG BỐ
CỦA TÁC GIẢ LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN
1. Nguyễn Văn Sơn (2016), “Một số giải pháp nâng cao hiệu quả của Doanh
nghiệp nhà nước ở nước ta hiện nay”, Tạp chí Giáo dục lý luận,
(251), tr.45-47.
2. Nguyễn Văn Sơn (2016), “Hợp tác xã kiểu mới trong nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa”, Tạp chí Giáo dục lý luận,
(242), tr.107-111.
3. Nguyễn Văn Sơn (2016), “Bàn thêm về vai trò của kinh tế nhà nước trong
nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam”, Tạp
chí Kinh tế và Quản lý, (19), tr.83-86.
4. Nguyễn Văn Sơn (2013), “Học thuyết hình thái kinh tế - xã hội của chủ
nghĩa Mác - Lênin và sự vận dụng ở Việt Nam”, Tạp chí Khoa học và
Công nghệ, (15), tr.97-99.
5. Nguyễn Văn Sơn (2013), “Vai trò của kinh tế nhà nước theo tinh thần
Đại hội Đảng lần thứ XI”, Tạp chí Khoa học và Công nghệ, (14),
tr.72-74.
6. Nguyễn Văn Sơn (2012), “Tư duy của Đảng ta về các thành phần kinh tế
trong các văn kiện đại hội Đảng”, Tạp chí Khoa học và Công nghệ,
(9), tr.69-72.
152
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Phạm Thế Anh (2016), “Nợ của các doanh nghiệp nhà nước: mối đe dọa
nợ công của Việt Nam”, Tạp chí Nghiên cứu kinh tế (453), tr.29-35.
2. Ban Kinh tế Trung ương (2015), Đổi mới mô hình tăng trưởng và cơ cấu
lại nền kinh tế, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
3. Ban Kinh tế Trung ương (2015), Hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
4. Lương Bằng (2016), "Nâng khống giá tàu lên 1300 lần nguyên tổng giám
đốc bị khởi tố", tại trang http://nld.com.vn, [truy cập ngày
15/7/2016].
5. Bộ Kế hoạch và Đầu tư - Vụ Hợp tác xã (2012), Tư tưởng hợp tác xã kinh
nghiệm quốc tế và thực tiễn Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
6. Bộ Tài chính (2016), Báo cáo số 428/BC-CP về hoạt động đầu tư, quản lý,
sử dụng vốn nhà nước tại doanh nghiệp nhà nước trong phạm vi
toàn quốc, Hà Nội.
7. Bộ Tư pháp (2010), Quy định pháp luật về tổng công ty, tập đoàn kinh tế
nhà nước, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
8. Lý Bân (1999), Lý luận chung về phân phối của chủ nghĩa xã hội, Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội.
9. Vũ Đình Bách (2001), Đổi mới, tăng cường thành phần kinh tế nhà nước,
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
10. Trịnh Đức Chính (2016), "Giải pháp đẩy mạnh cổ phần hóa, thoái vốn nhà
nước tại doanh nghiệp", Tạp chí Tài chính, (10), tr.24-27
11. Phạm Minh Chính (2011), "Về vấn đề tái cơ cấu nền kinh tế - suy ngẫm và
hành động", Tạp chí Cộng sản, (830), tr.27-37.
12. Kim Văn Chính (Chủ nhiệm) (2008), Vấn đề chủ đạo của kinh tế nhà nước
trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta
hiện nay, Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ 2007-2008, Học viện
Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
153
13. Nguyễn Cúc (2012), "Tái cấu trúc doanh nghiệp nhà nước phù hợp với sự
vận động các quan hệ sở hữu trong nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa", Tạp chí Cộng sản, (842), tr.43-47.
14. Nguyến Đình Cung (2015), Doanh nghiệp nhà nước và méo mó thị
trường, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
15. Nguyễn Đình Cung (2016), "Công tác quản trị doanh nghiệp nhà nước tại
Việt Nam", Tạp chí Kinh tế, (11), tr.18-23.
16. Lương Minh Cừ, Vũ Văn Thực (2011), Sở hữu tư nhân và kinh tế tư nhân
ở Việt Nam hiện nay - một số vấn đề nhận thức về lý luận và thực
tiễn, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
17. Lương Minh Cừ (1995), Những quan niệm của Mác-Ăngghen và Lêin về
sở hữu trong chủ nghĩa xã hội, Luận phó tiến sĩ Triết hoc, Học viện
Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
18. Trần Tiến Cường (2011), "Nâng cao sức cạnh tranh của tập đoàn kinh tế
nhà nước", Tạp chí Cộng sản, (827) tr.67-70.
19. Trần Tiến Cường (2012), “Ngành, lĩnh vực cần duy trì sở hữu nhà nước
trong tầm nhìn chiến lược phát triển kinh tế xã hội đến năm 2020”,
Tạp chí Nghiên cứu kinh tế, (413), tr.14-26.
20. Nguyễn Chí Dũng, Nguyễn Quốc Phẩm (Đồng chủ biên) (2015), Những
vấn đề cấp bách trong vận dụng, phát triển lý luận về hình thái kinh
tế - xã hội ở Việt Nam hiện nay, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
21. Phạm Việt Dũng (2011), "Nâng cao hiệu quả doanh nghiệp nhà nước bảo
đảm vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước", Tạp chí Cộng sản, (824),
tr.57-61.
22. Phạm Việt Dũng (2014), "Về kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa và vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước ở Việt Nam", Tạp chí
Cộng sản, (875), tr.70-75.
23. Phạm Việt Dũng (2016), "Đẩy mạnh cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước,
tạo động lực cho phát triển kinh tế," Tạp chí Cộng sản, (109), tr.71-75.
154
24. Phạm Bảo Dương (2012), "Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về pát triển
các hợp tác xã kiểu mới trong nông nghiệp", Tạp chí Nghiên cứu
kinh tế, (6) tr.39-46.
25. Tô Thị Ánh Dương (2015), Tái cơ cấu đầu tư công, tái cơ cấu doanh
nghiệp nhà nước và tái cơ cấu ngân hàng thương mại, Nxb Khoa
học Xã hội, Hà Nội.
26. Đảng Cộng sản Việt Nam (1957), Cương lĩnh của chúng ta, Nxb Sự thật,
Hà Nội.
27. Đảng Cộng sản Việt Nam (1987), Văn kiện Đại hội đại biểu lần thứ VI,
Nxb Sự thật, Hà Nội.
28. Đảng Cộng sản Việt Nam (1991), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ VII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
29. Đảng Cộng sản Việt Nam (1996), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
30. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ IX, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
31. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ X, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
32. Đảng Cộng sản Việt Nam (2007), Văn kiện Đảng toàn tập, tập 48, Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội.
33. Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ XI, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
34. Đảng Cộng sản Việt Nam (2016), Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần
thứ XII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
35. Đảng Lao động Việt Nam (1960), Văn kiện Đại hội đại biểu lần thứ III,
Nxb Sự thật, Hà Nội.
36. Nguyễn Hữu Đạt (2015), Tập đoàn kinh tế trong việc thúc đẩy tái cơ cấu
nền kinh tế, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
155
37. Lưu Đoàn (2016), "Tiếp tục hỗ trợ hợp tác xã chuyển đổi theo luật", tại
trang thoibaokinhdoanh.vn, [truy cập ngày 20/12/2016].
38. Nguyễn Đức Độ (2016), "Một số thách thức trong quá trình cổ phần hóa
doanh nghiệp nhà nước tại Việt Nam", Tạp chí Tài chính (10),
tr.10-12.
39. Nguyễn Thị Hà Đông (2011), Quản lý nhà nước đối với tập đoàn kinh tế
nhà nước ở Việt Nam, Luận án Tiến sỹ, Viện Khoa học xã hội Việt
Nam, Hà Nội.
40. Phú Giang (2011), "Đổi mới quản lý, cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước
nhằm nâng cao sức cạnh tranh và hiệu quả hoạt động", Tạp chí
Cộng sản, (50), tr.17-20.
41. Nguyễn Văn Giàu (2015), "Tiếp tục tổ chức triển khai có hiệu quả luật hợp
tác xã năm 2012, góp phần phát triển bền vững mô hình hợp tác xã
kiểu mới", Tạp chí Cộng sản, (871), tr.26-32.
42. Võ Thanh Hà (2016), "Tháo gỡ điểm nghẽn, đẩy mạnh tái cơ cấu doanh
nghiệp nhà nước", Tạp chí Tài chính, (633), tr.27-28.
43. Nguyễn Thị Hà (2016), "Bàn về căn cứ giám sát tài chính đối với doanh
nghiệp nhà nước", Tạp chí Tài chính doanh nghiệp, (632), tr.46-48.
44. Phạm Thu Hà (2014), "Thực trạng và tư duy phát triển hợp tác xã trong
thời gian tới", Tạp chí Thông tin và Dự báo kinh tế xã hội, (99),
tr.11-15.
45. Lương Việt Hải (Chủ biên) (2008), Vấn đề sở hữu và phát triển bền vững
ở Việt Nam và Trung Quốc trong những năm đầu thế kỷ XXI, Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội.
46. Nguyễn Lê Quý Hiển (2011), "Sự chuyển biến quan hệ sở hữu trong doanh
nghiệp nhà nước cổ phần hóa ở Việt Nam", Tạp chí Nghiên cứu kinh
tế, (403), tr.34-44.
47. Nguyễn Lê Quý Hiển (2012), Sự chuyển biến quan hệ sở hữu trong cổ
phần hóa doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam, Luận án tiến sĩ, Đại
học Quốc gia, Hà Nội.
156
48. Phan Văn Hiếu (2016), "Hợp tác xã kiểu mới: Giải pháp đột phá phát triển
nông nghiệp Việt Nam hiện nay", Tạp chí Tài chính, (634), tr.103-104.
49. Hội đồng khoa học các Cơ quan Đảng trung ương (2013), Doanh nghiệp
nhà nước trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa,
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
50. Thu Hoài (2016), "Sếp công ty con Vinalies nhận lương cực khủng do thua
lỗ", tại trang http//www. datviet, [truy cập 16/9/2016].
51. Lê Mạnh Hùng (2012), Phát triển Hợp tác xã thương mại dịch vụ trong
hội nhập kinh tế quốc tế, Luận án Tiến sĩ Quản lý kinh tế, Học viện
chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
52. Phùng Thế Hùng (2015), Đổi mới quản lý của chủ sở hữu nhà nước đối
với tập đoàn kinh tế nhà nước ở Việt Nam, Luận án Tiến sĩ Kinh tế,
Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam, Hà Nội.
53. Bùi Văn Huyền (2010), "Hợp tác xã ở Đồng Nai: hiện trạng, vấn đề và giải
pháp", Tạp chí Nghiên cứu kinh tế, (390), tr.60-70.
54. Sỹ Hưng (2016), "Bắt tạm giam nguyên Phó tổng giám đốc ngân hàng
Đông Á", tại trang http://nld.com.vn, [truy cập ngày 23/4/2017].
55. Thu Hường (2016), "Luồng gió mới cho kinh tế hợp tác", Tạp chí Thời
báo kinh doanh, (245), tr.27-30.
56. Nguyễn Minh Khải (2012), "Tái cơ cấu các quan hệ sở hữu để định hướng
xã hội chủ nghĩa nền kinh tế thị trường", Tạp chí Cộng sản, (835),
tr.62-65.
57. Nguyễn Ngọc Khánh (2016), "Hoàn thiện phương pháp phân phối lợi
nhuận sau thuế trong các doanh nghiệp nhà nước tại Việt Nam", Tạp
chí Nghiên cứu kinh tế, (11), tr.19-25.
58. Nguyễn Linh Khiếu (2013), "Quan điểm của C.Mác, Ph.Ăng-ghen về thời
kỳ quá độ và một số vấn đề đặt ra với nước ta hiện nay", Tạp chí
Cộng sản, (847), tr.29-32.
59. Gia Kiên (2016), "Hội nghị toàn quốc công tác triển khai sắp sếp doanh nghiệp
nhà nước giai đoạn 2016-2020", tại trang http//www.chinhphu.vn, [truy
cập ngày 7/12/2016].
157
60. Trần Xuân Kiên (2010), Triển vọng kinh tế Việt Nam trong thế kỷ thứ XII,
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
61. Chử Văn Lâm (2006), Sở hữu tập thể và kinh tế tập thể trong nền kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, Nxb Chính trị
quốc gia, Hà Nội.
62. Đàm Kiến Lập (2010), "Sở hữu xã hội chủ nghĩa và sở hữu trong thời kỳ
quá độ lên chủ nghĩa xã hội", Tạp chí Nghiên cứu kinh tế, (391),
tr.3-11.
63. V.I.Lênin (1995), Toàn tập, tập 1, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
64. V.I.Lênin (1995), Toàn tập, tập 24, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội
65. V.I.Lênin (1995), Toàn tập, tập 27, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội
66. V.I.Lênin (1995), Toàn tập, tập 36, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
67. V.I.Lênin (1995), Toàn tập, tập 39, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
68. V.I.Lênin (1995), Toàn tập, tập 42, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
69. Liên minh Hợp tác xã Việt Nam (2016), Phát triển kinh tế tập thể trong 30
năm đổi mới ở Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
70. Liên minh Hợp tác xã Việt Nam (2016), Phát triển kinh tế tập thể trong
điều kiện Việt Nam đổi mới và hội nhập quốc tế, Nxb Chính trị quốc
gia, Hà Nội.
71. Bùi Đức Long (2016), "Thoái vốn nhà nước tại doanh nghiệp: Thực tiễn
tại tổng công ty đầu tư và kinh doanh vốn nhà nước", Tạp chí Tài
chính, (642), tr.17-18.
72. Trương Giang Long (2005), Bản chất của sở hữu trong nền kinh tế nhiều
thành phần ở Việt Nam, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội.
73. Hoàng Vĩnh Long (2011), "Vinaship - bài học cho chiến lược phát triển",
Tạp chí Nghiên cứu kinh tế, (392), tr.41-45.
74. Ngô Thắng Lợi, Trần Thị Văn Hoa (Đồng chủ biên) (2016), Động lực tăng
trưởng kinh tế Việt Nam triển vọng đến năm 2020, Nxb Chính trị
quốc gia, Hà Nội.
158
75. Nguyễn Đức Luận (2011), "Tiến trình đổi mới quan hệ sở hữu ở nước ta từ
năm 1986 đến nay", Tạp chí Thông tin khoa học xã hội, (12), tr.24-31.
76. Nguyễn Đức Luận (2011), “Phát triển quan điểm của chủ nghĩa Mác-
Lênin về sở hữu trong giai đoạn hiện nay”, Tạp chí Lý luận chính trị
(12), tr.19-24.
77. Nguyễn Đức Luận (2013), “Vấn đề phân phối sản phảm trong thời kỳ quá
độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta hiện nay”, Tạp chí Lý luận và
truyền thông, (3), tr.32-35.
78. Nguyễn Đức Luận (2016), “Về mô hình kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa ở Việt Nam”, Tạp chí Triết học, (6), tr.10-16.
79. Võ Đại Lược (2011), Kinh tế Việt Nam lý luận và thực tiễn, Nxb Khoa học
xã hội, Hà Nội.
80. Lê Quốc Lý (chủ biên) (2014), Thành công và những bài học đắt giá của
doanh nghiệp nhà nước, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
81. C.Mác, Ph.Ăngghen (1995), Toàn tập, tập 3, Nxb Chính trị quốc gia,
Hà Nội.
82. C.Mác, Ph.Ăngghen (1995), Toàn tập, tập 4, Nxb Chính trị quốc gia,
Hà Nội.
83. C.Mác, Ph.Ăngghen (1995), Toàn tập, tập 6, Nxb Chính trị quốc gia,
Hà Nội.
84. C.Mác, Ph.Ăngghen (1995), Toàn tập, tập 13, Nxb Chính trị quốc gia,
Hà Nội.
85. C.Mác, Ph.Ăngghen (1995), Toàn tập, tập 23, Nxb Chính trị quốc gia,
Hà Nội.
86. C.Mác, Ph.Ăngghen(1995), Toàn tập, tập 27, Nxb Chính trị quốc gia,
Hà Nội.
87. Ngô Quang Minh, (2004), Kinh tế nhà nước và quá trình đổi mới doanh
nghiệp nhà nước, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
159
88. Nguyễn Cảnh Nam (2015), "Quản lý doanh nghiệp nhà nước - Bất cập và
đề xuất đổi mới", Tạp chí Kinh tế và dự báo, (11), tr.76-80.
89. Nguyễn Thành Nam (2016), "Phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao:
kinh nghiệm từ Viettel", Tạp chí Tài chính, (633), tr.117-118.
90. Nguyễn Công Nghiệp (Chủ biên) (2006), Phân phối trong nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
91. Nguyễn Thiện Nhân (2015), "Phát triển các hợp tác xã nông nghiệp kiểu
mới - khâu đột phá để cơ cấu lại nông nghiệp và nâng cao thu nhập
bền vững cho nông dân", Tạp chí Cộng sản, (873), tr.16-22.
92. Lê Hữu Nghĩa (2014), "Giải quyết mối quan hệ giữa phát triển lực lượng
sản xuất và xây dựng hoàn thiện từng bước quan hệ sản xuất xã hội
chủ nghĩa phải phù hợp với thực tiễn Việt Nam", Tạp chí Cộng sản,
(861), tr.63-69.
93. Vũ Văn Ninh ((2013), "Xây dựng doanh nghiệp nhà nước xứng đáng là
nòng cốt của nền kinh tế quốc dân theo tinh thần nghị quyết hội nghị
trung ương 6 khóa XI", Tạp chí Cộng sản, (849), tr.14-16.
94. Nguyễn Quốc Phẩm (2012), Nhận thức mới về chủ nghĩa xã hội và xây
dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
95. Đặng Phong (2008), Tư duy kinh tế Việt Nam chặng đường gian nan và
ngoạn mục, Nxb Trí thức, Hà Nội.
96. Trần Văn Phòng (2015), "Một số vấn đề lý luận về mối quan hệ giữa phát
triển lực lượng sản xuất và từng bước xây dựng quan hệ sản xuất xã
hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay", Tạp chí Khoa học xã hội Việt
Nam số, (7), tr.49-56.
97. Trần Văn Phòng (Chủ nhiệm đề tài) (2015), Nghiên cứu, tổng kết làm sáng
tỏ một số vấn đề về lý luận về mối quan hệ giữa phát triển lực lượng
sản xuất và xây dựng, hoàn thiện từng bước quan hệ sản xuất xã hội
chủ nghĩa, Đề tài khoa học cấp Bộ, Học viện Chính trị quốc gia Hồ
Chí Minh.
160
98. Phùng Hữu Phú (2009), (Trưởng ban), "Mô hình kinh tế tổng quát trong
thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Viêt Nam: Cơ sở lý luận và
thực tiễn", Kỷ yếu hội thảo khoa học quốc gia, Hà Nội.
99. Phùng Hữu Phú và các cộng sự (2016), Một số vấn đề lý luận - thực tiễn về
chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam,
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
100. Vũ Văn Phúc (2012), “Đổi mới nhận thức về doanh nghiệp nhà nước
trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội
nhập quốc tế”, Tạp chí cộng sản, (838), tr.32-38.
101. Đỗ Thanh Phương (2016), “Sở hữu toàn dân về tư liệu sản xuất nền tảng
để phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa theo
quan điểm Đại hội lần thứ XII của Đảng”, Tạp chí Khoa học Chính
trị (9), tr.56-62.
102. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (1987), Luật Đầu tư
nước ngoài tại Việt Nam, Nxb Pháp Lý, Hà Nội.
103. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (1992), Hiến pháp
nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia,
Hà Nội.
104. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (1993), Luật Đất
đai (1993), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
105. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (1994), Luật Khuyến
khích đầu tư trong nước, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
106. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (1994), Luật Lao
động nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Nxb Chính trị
quốc gia, Hà Nội.
107. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (1995), Luật Doanh
nghiệp nhà nước, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
108. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (1996), Luật Hợp
tác xã, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
161
109. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (1998), Luật Khuyến
khích đầu tư trong nước, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
110. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (1999), Luật Doanh
nghiệp và các văn bản hướng dẫn thi hành, Nxb Chính trị quốc gia,
Hà Nội.
111. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2001), Luật Đất
đai đã được sửa đổi bổ sung năm 1998 (2001), Nxb Chính trị quốc
gia, Hà Nội.
112. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2003), Luật Doanh
nghiệp nhà nước (2003), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
113. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2003), Luật Đầu tư
nước ngoài tại Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
114. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2010), Luật Đất
đai năm 2003, đã được sửa đổi bổ sung năm 2009, Nxb Chính trị
quốc gia, Hà Nội.
115. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2010), Luật Hợp
tác xã năm 2003 và các văn bản hướng dẫn thi hành, Nxb Chính trị
quốc gia, Hà Nội.
116. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2011), Luật Doanh
nghiệp năm 2005, đã được sửa đổi bổ sung năm 2009, Nxb Lao
động, Hà Nội.
117. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2011), Luật Đầu tư
năm 2005, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
118. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2012), Luật Hợp
tác xã, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
119. Lương Xuân Quỳ (2002), Xây dựng quan hệ sản xuất định hướng xã hội
chủ nghĩa và thực hiện tiến bộ công bằng xã hội ở Việt Nam, Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội.
162
120. Lương Xuân Quỳ (2015), Tư duy mới về phát triển kinh tế - xã hội Việt
Nam trong bối cảnh mới, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
121. Phạm Phị Quý (2000), Xây dựng và hoàn thiện quan hệ sản xuất mới ở
Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
122. Võ Thị Kim Sa (2012), “Sự khác biệt giữa hợp tác xã và công ty: nhìn từ
bản sắc hợp tác xã” Tạp chí Nghiên cứu kinh tế, (405), tr.69-73.
123. Mai Lâm Sơn (2016), "Nâng cao hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp
nhà nước", Tạp chí Con số và sự kiện, (7), tr.15-16.
124. Mai Lâm Sơn (2016), “Bàn về mô hình quản trị doanh nghiệp nhà nước”,
Tạp chí Thông tin và dự báo Kinh tế - xã hội, (127), tr.6-10.
125. Vũ Hồng Sơn (2017), “Quan niệm của C.Mác về sở hữu và một vài suy
nghĩ về sở hữu ở nước ta hiện nay”, Tạp chí Triết học (2), tr.12-18.
126. Tạ Ngọc Tấn (Chủ biên) (2012), Đổi mới nâng cao hiệu quả doanh
nghiệp nhà nước bảo đảm vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước
trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội.
127. Dương Quang Thành (2015), “Tập đoàn Điện lực Việt Nam tiếp tục
khẳng định vị trí,vai trò trong phát triển kinh tế quốc dân”, Tạp chí
Cộng sản, (103), tr.103-108.
128. Trần Thành (2014), “Cơ sở khoa học của sự phát triển kinh tế nhà nước
và kinh tế tập thể ở nước ta hiện nay”, Tạp chí Triết học, (6), tr.3-8.
129. Nguyễn Văn Thạo, Nguyễn Hữu Đạt (2004), Một số vấn đề về sở hữu ở
nước ta hiện nay, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
130. Nguyễn Xuân Thắng (2012), “Một số luận điểm mới về phát triển kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay”, Tạp chí
Lý luận chính trị (8), tr.10-14.
131. Nguyễn Văn Thế (2016), "Hiến pháp sửa đổi", tại trang http://vnexpress.net,
[truy cập ngày 28/11/2016].
132. Trần Đình Thiên (2012), “Tái cơ cấu khu vực doanh nghiệp nhà nước:
xác định vấn đề và tìm kiếm giải pháp”, Tạp chí Nghiên cứu kinh tế
số, (405), tr.3-7.
163
133. Phạm Quý Thọ (2015), Kinh tế Việt Nam 30 năm chuyển đổi, Nxb Thông
tin và Truyền thông, Hà Nội.
134. Nguyễn Quang Thuấn (2014) Cải cách doanh nghiệp ở Việt Nam sau 30
năm đổi mới, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
135. Lương Thu Thủy (2016), “Tái cơ cấu doanh nghiệp nhà nước giai đoạn
2011-2015 và một số kiến nghị”, Tạp chí Quản lý nhà nước, (242),
tr.53-57.
136. Nguyễn Văn Thức (2001), Sự tồn tại đồng thời nhiều loại hình sở hữu
đối với sự phát triển kinh tế - xã hội ở Việt Nam hiện nay, Luận án
tiến sĩ Triết học, Trung tâm khoa học xã hội và Nhân văn quốc gia,
Hà Nội.
137. Nguyễn Văn Thức (2004), Sở hữu: lý luận và vận dụng ở Việt Nam, Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội.
138. Đặng Quyết Tiến (2016), “Cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước: chặng
đường 2011 - 2015 và định hướng 2016 - 2020”, Tạp chí Tài chính,
(10), tr.6-9.
139. Tổng cục Thống kê (1987), Niên giám thống kê 1986, Nxb Thống kê,
Hà Nội.
140. Tổng cục Thống kê (1991), Niên giám thống kê 1989, Nxb Thống kê,
Hà Nội.
141. Tổng cục Thống kê (1996), Niên giám thống kê 1997, Nxb Thống kê,
Hà Nội.
142. Tổng cục Thống kê (1999), Niên giám thống kê 1998, Nxb Thống kê,
Hà Nội.
143. Tổng cục Thống kê (2004), Niên giám thống kê 2003, Nxb Thống kê,
Hà Nội.
144. Tổng cục Thống kê (2009), Niên giám thống kê 2008, Nxb Thống kê,
Hà Nội.
145. Tổng cục Thống kê (2011), Niên giám thống kê 2010, Nxb Thống kê,
Hà Nội.
164
146. Tổng cục Thống kê (2013), Niên giám thống kê 2012, Nxb Thống kê,
Hà Nội.
147. Tổng cục Thống kê (2014), Niên giám thống kê 2013, Nxb Thống kê,
Hà Nội.
148. Tổng cục Thống kê (2015), Niên giám thống kê 2014, Nxb Thống kê,
Hà Nội.
149. Song Trà (2011), "Cổ phần hóa thành công từ phương thức mua bán nợ",
Tạp chí Cộng sản, (50), tr.11-13.
150. Nguyễn Thị Lê Trâm (2016), "Đánh giá về phát triển nguồn nhân lực của
một số tập đoàn kinh tế ở Việt Nam", Tạp chí Tài chính (632), tr.95-96
151. Phạm Đức Trung (2015), "Tái cơ cấu doanh nghiệp nhà nước gắn với
chuyển đổi mô hình tăng trưởng: kết quả và những vấn đề đặt ra",
Tạp chí Kinh tế và dự báo, (5), tr.57-60.
152. Phạm Quang Trung (2013), Mô hình tập đoàn nhà nước ở Việt Nam đến
năm 2020, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
153. Nguyễn Minh Tú (chủ biên), (2011), Mô hình hợp tác xã kiểu mới góp
phần xây dựng hợp tác xã, đoàn kết, cùng chia sẻ thịnh vượng và
quản lý dân chủ, Nxb Khoa học kỹ thuật, Hà Nội.
154. Nguyễn Văn Tuân (2016), "An sinh xã hội Việt Nam sau 30 năm đổi
mới", Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam, (104), tr.12-19.
155. Nguyễn Kế Tuấn (chủ biên) (2010), Vấn đề sở hữu trong nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, Nxb Chính trị
quốc gia, Hà Nội.
156. Trần Minh Tuấn (2010), "Từ hệ số ICOR bàn về hiệu quả hoạt động
của doanh nghiệp nhà nước", Tạp chí Nghiên cứu kinh tế, (384),
tr.36-44.
157. Đỗ Thế Tùng (2004), “Lý luận của V.J. Lênin về các thành phần kinh tế
trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở một nước tiểu nông”,
Tạp chí Lý luận chính trị (4), tr.11-19.
165
158. Lê Xuân Tùng (1989), Các thành phần kinh tế và cách mạng quan hệ
sản xuất, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
159. Lê Xuân Tùng (2008), Quan hệ sản xuất trong nền kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
160. Vũ Huy Từ (2006), Tiếp tục đổi mới doanh nghiệp ở Việt Nam, Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội.
161. Ủy ban Thường vụ Quốc hội (2009), Báo cáo giám sát việc thực hiện
chính sách, pháp luật về quản lý, sử dụng vốn, tài sản nhà nước tại
các tập đoàn tổng công ty nhà nước, Hà Nội.