Upload
others
View
0
Download
0
Embed Size (px)
Citation preview
CƠ QUAN THƯỜNG TRỰC VÀ BIÊN TẬP NỘI DUNG:
CỤC CHẾ BIẾN VÀ PHÁT TRIỂN THỊ TRƯỜNG NÔNG SẢN Địa chỉ: số 10 Nguyễn Công Hoan, Ba Đình, Hà Nội Điệnthoại: +84 (0)24 62968244 Fax : +84 (0)24 37711125 Email : [email protected] Website : www.agrotrade.gov.vn
NGUỒN DỮ LIỆU: TRUNG TÂM TIN HỌC VÀ THỐNG KÊ Địachỉ: số 2 Ngọc Hà, Ba Đình, Hà Nội Điệnthoại: +84 (0)24 37341635 Fax : +84 (0)24 38230381 Email : [email protected] Website : www.mard.gov.vn
TUẦN 32 NĂM 2017 (07/8 - 11/8/2017)
Tuần qua, dữ liệu nền kinh tế Mỹ cho thấy trong tháng 7/2017, quốc gia này đã tạo
thêm 209.000 việc làm so với kỳ vọng là 183.000 việc làm, tỷ lệ thất nghiệp đang ở mức
4,3% - mức thấp nhất kể từ tháng 3/2001 6. Dữ liệu bảng lương phi nông nghiệp tăng cùng
với tỷ lệ thất nghiệp thấp cho thấy có thể Cục Dự trữ liên bang Mỹ Fed sẽ vẫn cần phải tăng
lãi suất thêm 1 lần nữa trong năm nay.
Thị trường thế giới: Giá gạo Ấn Độ tăng lên trong khi giảm tại Thái Lan do sức ép vụ
thu hoạch sắp tới.
Giá cà phê thế giới biến động giảm trong tuần qua do thị trường bước vào giai đoạn
điều chỉnh sau một thời gian giá cà phê tăng. Bên cạnh đó, kết quả cuộc khảo sát cuối tháng
7/2017 của Reuters dự báo sản lượng sẽ tăng ở những nước sản xuất chủ chốt là Brazil và
Việt Nam trong niên vụ sắp tới cũng tác động tới giá cà phê.
Giá chè tại Bangladesh giảm tuần thứ tư liên tiếp tại phiên đấu giá hàng tuần ngày thứ
ba (8/8) trong bối cảnh lượng cung dư thừa, mặc dù nhu cầu mạnh đối với chè chất lượng đã
hạn chế đà giảm. Giá hạt tiêu Ấn Độ tăng do nguồn cung thắt chặt.
Thị trường trong nước: Giá lúa, gạo tại các tỉnh Đồng bằng sông Cửu Long
(ĐBSCL) tuần qua biến động từ ổn định đến tăng nhẹ do các doanh nghiệp đã thắng thầu
tranh thủ đưa hàng xuất khẩu sang Phi-lip-pin khiến nhu cầu trên thị trường nội địa tăng.
Giá tiêu nội địa những ngày qua tăng do nhu cầu thị trường tăng lên bởi các doanh
nghiệp tăng giá thu mua để đáp ứng các đơn hàng xuất khẩu đã ky.
Giá cá tra nguyên liệu tại ĐBSCL trong tuần qua dao động 22.000 - 24.000 đ/kg tùy
theo chất lượng cá và phương thức thanh toán. Tại Cần Thơ, Đồng Tháp, Vĩnh Long giá cá tra
tăng trong các hợp đồng ký mới đầu tuần này, trong khi đó tại An Giang giá giảm nhẹ.
TUẦN 32 NĂM 2017 (07/8 - 11/8/2017)
Thị trường thế giới: Băng-la-đét đang đàm phán nhập khẩu gạo từ Mi-an-ma sau khi kế
hoạch nhập khẩu gạo từ Thái Lan và Ấn Độ phải hoãn lại do giá cao. Băng-la-đét trở thành
nước nhập khẩu gạo chính trong năm nay do dự trữ cạn kiệt và giá gạo nội địa tăng vọt do
thiên tai.
Người đứng đầu Cơ quan Thu mua gạo nhà nước Băng-la-đét cho biết, một công ty nhà
nước Ấn Độ cũng đang đàm phán bán gạo cho Băng-la-đét sau một nỗ lực thất bại trước khi do
giá cao. Đồng thời, Băng-la-đét cũng vừa ký một Biên bản ghi nhớ với Thái Lan về việc nhập
khẩu 1 triệu tấn gạo mỗi năm từ nay đến năm 2021, với mức giá sẽ phù hợp với giá thị trường
thế giới.
Về diễn biến giá tuần qua, giá gạo Ấn Độ tăng lên trong khi giảm tại Thái Lan do sức
ép vụ thu hoạch sắp tới. Tại Ấn Độ, gạo đồ 5% tấm tăng 3 USD lên 412 USD/tấn, so với 409
USD/tấn tuần trước, do đồng rupee tăng giá buộc các thương nhân phải nâng giá gạo xuất
khẩu mặc dù nhu cầu yếu. Xuất khẩu gạo non-basmati Ấn Độ có thể chậm lại trong vài tháng
tới do giá đắt.
Tại Thái Lan, gạo tiêu chuẩn 5% tấm
được chào bán ở mức 385 – 387 USD/tấn
(FOB Băng Cốc), giảm so với 390 – 392
USD/tấn tuần trước. Giá gạo xuất khẩu Thái
Lan giảm là do sức ép dư cung từ vụ thu
hoạch sắp tới từ giữa tháng 8 đến tháng 9. Sản
xuất gạo tại Thái Lan bị ảnh hưởng bởi lũ ở
miền bắc và đông bắc từ tháng 7, song thương
nhân cho biết xuất khẩu gạo không bị ảnh
hưởng. Bộ trưởng Thương mại Thái Lan
khẳng định xuất khẩu gạo Thái Lan năm nay
sẽ đạt 11 triệu tấn.
Mục tiêu ban đầu của Chính phủ Thái Lan là xuất khẩu 10 triệu tấn gạo. Cho tới thời
điểm này, khối lượng xuất khẩu đã đạt 6,3 triệu tấn, tăng 16% so với cùng kỳ năm ngoái. Năm
2016, khối lượng xuất khẩu đạt 9,63 triệu tấn. Một số tỉnh thuộc khu vực bắc và đông bắc –
nơi trồng lúa chính của nước này – đã bị ảnh hưởng bởi lũ lụt từ tháng 7, với diện tích khoảng
400.000 ha lúa. Theo Chủ tịch Hiệp hội xuất khẩu gạo Thái, lũ lụt không ảnh hưởng tới xuất
khẩu gạo, và hiện vẫn còn quá sớm để đánh giá về mức độ thiệt hại đối với vụ mùa lúa.
Tại Việt Nam, biên độ dao động giá gạo 5% tấm xuất khẩu tuần qua tăng lên 395 – 405
USD/tấn (FOB cảng Sài Gòn), chấm dứt 3 tuần không biến động. Các nhà cung cấp gạo Việt
Nam đang hoàn tất giao 175.000 tấn gạo sang Phi-lip-pin trong tháng 8 – 9. Các hợp đồng
khác đang được giao bao gồm 200.000 tấn gạo sang Băng-la-đét, dự kiến hoàn tất vào giữa
tháng 8.
Thị trường trong nước: Giá lúa, gạo tại các tỉnh ĐBSCL tuần qua biến động từ ổn định
đến tăng nhẹ. So với thời điểm tuần cuối tháng 7, sau khi các doanh nghiệp trong nước trúng
thầu bán 175.000 tấn gạo cho Phi-lip-pin, giá lúa thường IR50404 đã tăng khá.
380
390
400
410
420
31/7 1/8 2/8 3/8 4/8 7/8 8/8 9/8
US
D/t
ấn
, F
OB
Giá gạo xuất khẩu Thái Lan, Việt
Nam tuần 32 (Nguồn: Reuters)
Gạo 5% tấm Thái Lan
Gạo 5% tấm Việt Nam
Nguyên nhân được ly giải là do Phi-lip-pin yêu cầu 120.000 tấn gạo (trong tổng số
250.000 tấn mua từ Việt Nam, Thái Lan và một doanh nghiệp Singapo) phải được giao trong
tháng 8 nên các doanh nghiệp đã thắng thầu trước đó tranh thủ đưa hàng sang Phi-lip-pin khiến
nhu cầu trên thị trường nội địa tăng đẩy giá lên.
Theo hệ thống cung cấp giá tại địa
phương, giá lúa tại các tỉnh ĐBSCL tuần
qua cụ thể như sau: tại An Giang, lúa
IR50404 ổn định ở mức 4.700 đ/kg; lúa
OM 5451 ở mức 5.200 đ/kg. Tại Vĩnh
Long, lúa tươi IR50404 tăng lên 4.700 đ/kg
vào ngày 4/8, sau đó giảm trở lại mức tuần
trước là 4.600 đ/kg; lúa khô giữ ở mức
5.100 đ/kg. Tại Bạc Liêu, các loại lúa chất
lượng cao như OM 5451, OM 6976 ở mức
5.000 – 5.200 đ/kg; giá bán buôn của Công
ty Lương thực Bạc Liêu ở mức 5.300 – 5.400 đ/kg đối với lúa OM 5451, 5.500 – 5.600 đ/kg
đối với lúa OM 4900. Tại Kiên Giang, lúa IR50404 tăng 100 đ/kg lên mức 5.400 đ/kg; lúa OM
4218 ổn định ở mức 6.200 đ/kg; lúa OM 6976 ở mức 6.300 đ/kg; lúa Jasmine ổn định ở mức
6.400 đ/kg.
Theo Bộ Công Thương, Đại sứ quán Bangladesh vừa gửi công hàm về việc Tổng cục
Lương thực - Bộ Lương thực Bangladesh công bố thông báo mời thầu nhập khẩu 50 nghìn
tấn gạo đồ non-basmati, mở cho tất cả các nhà thầu quan tâm cả trong nước và nước ngoài.
Trong đợt mở thầu lần này, khối lượng 50.000 tấn (±5%) gạo non-basmati được giao
đến 2 cảng Chittagong (60% khối lượng) và Mongla (40% khối lượng) trong vòng 40 ngày kể
từ ngày ký hợp đồng. Bangladesh tạo cơ hội nhập khẩu gạo của tất cả các nước (trừ Israel) và
gạo thu hoạch trong mùa vụ từ năm 2016 đến nay. Hạn cuối nộp hồ sơ dự thầu
là 13h chiều 8/8/2017(giờ Bangladesh). Mở thầu vào 14h30 chiều cùng ngày.
Theo các chuyên gia chuyên ngành lúa gạo, gạo non – basmati là các loại gạo không
phải basmati, một loại gạo hạt dài được trồng chủ yếu ở Ấn Độ và Pakistan. Gạo đồ là loại gạo
thu được từ thóc được ngâm nước nóng hoặc sấy trong hơi nước rồi phơi khô, sau đó mới được
gia công chế biến qua các công đoạn chế biến khác như xay, xát, đánh bóng. Quá trình đồ gạo
thúc đẩy các chất dinh dưỡng từ cám đi vào bên trong hạt, đặc biệt là vitamin B1, do vậy gạo
trắng đồ chứa 80% dinh dưỡng so với gạo lứt.
4,000
4,300
4,600
4,900
5,200
5,500
31/7 1/8 2/8 3/8 4/8 7/8 8/8 9/8
đ/kg Giá lúa, gạo trong nước tuần 32
(Nguồn: CIS)
Lúa IR50404 tại An Giang (giá tại ruộng-lúa ướt)
Lúa IR50404 tại Vĩnh Long (giá thu mua-lúa khô)
Thị trường thế giới: Giá lợn hơi giao
tháng 8/2017 thị trường Chicago, Mỹ biến
động tăng trong tuần qua với mức tăng 0,9
UScent/lb lên 84,125 UScent/lb. Giá thịt lợn
tăng do các nhà bán lẻ sẵn sàng trả nhiều tiền
hơn cho thịt lợn sau khi các nhà máy chế biến
đóng gói thịt lợn đóng cửa nghỉ lễ vài ngày
trong tháng 8 bù đắp cho giai đoạn làm việc
trong mùa đông.
Xuất khẩu thịt lợn từ EU sang Trung
Quốc trong tháng 5/2017 giảm 19% so với
cùng kỳ năm 2016, xuống còn 284.400 tấn, chủ yếu do giảm xuất khẩu thịt lợn tươi/đông lạnh
sang Trung Quốc. Tuy vậy, lượng xuất khẩu trong tháng 5 cao hơn 9% so với tháng 4. Lượng
xuất khẩu thịt lợn tươi/đông lạnh trong tháng 5 tăng 5% so với tháng 4, nhưng giảm 28% so
với cùng kỳ năm 2016, xuống còn 163.600 tấn. Tuy nhiên, giá trị xuất khẩu chỉ giảm 12%
xuống 430 triệu Euro, nhờ giá xuất khẩu tăng.
Ngược lại, xuất khẩu thịt lợn sang các thị trường châu Á khác tăng mạnh. Trong tháng
5/2017, Nhật Bản tiếp tục là thị trường xuất khẩu thịt lợn lớn thứ 2 của EU, với lượng xuất
khẩu tăng 17% so với tháng 4 và tăng 24% so với cùng kỳ năm 2016. Tổng lượng xuất khẩu
thịt lợn của EU trong 5 tháng đầu năm 2017 đạt gần 890.000 tấn, giảm 9% so với cùng kỳ năm
2016. Tuy nhiên, về giá trị lại đạt 2,2 tỷ Euro, tăng 6% trong cùng kỳ so sánh.
Thị trường trong nước: Giá lợn hơi trong
nước biến động giảm trong tuần qua. Tại miền
Nam, giá lợn hơi Vĩnh Long giảm 3.000 đ/kg
xuống còn 32.000 đ/kg; Giá lợn hơi Đồng Nai
giảm 1.000 đ/kg xuống còn 32.000 – 33.000
đ/kg. Tại miền Bắc, giá lợn hơi tại Vĩnh Tường,
Vĩnh Phúc giảm 2.000 đ/kg, hiện dao động từ
28.000 – 30.000 đ/kg. Giá lợn hơi tại Hưng Yên
giảm 3.000 – 4.000 đ/kg xuống còn 30.000 –
32.000 đ/kg. Giá lợn hơi tại Ninh Bình, Nam
Định giảm 1.000 – 3.000 đ/kg, hiện ở mức 31.000 – 32.000 đ/kg. Giá lợn hơi giảm do Trung
Quốc tiếp tục “đóng biên” nên việc tiêu thụ lợn từ Việt Nam sang đã bị chặn đứng, các thương
lái không dám mua nhiều, chỉ mua chọn một vài điểm trang trại thân, quen và chọn các loại lợn
đẹp để chuyển đi.
Được biết, hàng năm Trung Quốc phải nhập khẩu tới hơn 2 triệu tấn thịt lợn, nhưng chủ
yếu là lợn đã được cấp đông từ các nước châu Âu và Mỹ. Không riêng Trung Quốc mà trên thế
giới, không có nước nào cho phép nhập khẩu lợn sống vào nước mình. Vì thế, muốn xuất khẩu
được lợn Việt Nam cần thay đổi tư duy, hoàn thiện hệ thống giết mổ, chế biến, cấp đông. Hiện
tại số lượng lợn nuôi trong dân vẫn còn khá nhiều, nhất là các doanh nghiệp chăn nuôi trong
nước cũng đang tồn nhiều lợn. Nếu trong thời gian tới mà Trung Quốc vẫn “đóng biên” thì giá
lợn trong nước sẽ tiếp tục giảm.
76
78
80
82
84
86
31/07 02/08 04/08 08/08
Usc
ent/
lb
Giá lợn hơi giao tháng 8/2017 thị
trường Chicago, Mỹ
Nguồn: Reuters
25,000
30,000
35,000
40,000
31/0701/0802/0803/0804/0807/0808/0809/08
đ/kg Giá lợn hơi tại Vĩnh Long
Nguồn: CIS
Thị trường thế giới: Theo dữ liệu giá của Undercurrent News, do đang vào giai đoạn
cao điểm thu hoạch tôm, giá tôm thẻ chân trắng tại trại ở Trung Quốc ổn định ở 3 vùng sản
xuất chính, nhưng vẫn cao hơn năm ngoái. Tháng 6, 7, 8 và 9 là những tháng chủ chốt đối với
người nuôi tôm Trung Quốc, thường thu hoạch tôm chậm hơn so với ở Thái Lan, Việt Nam và
Ấn Độ. Dữ liệu giá tổng hợp tại trang trại hàng tuần từ các khu vực Hải Nam, Quảng Tây và
Phúc Kiến với nhiều kích cỡ khác nhau cho thấy, kể từ tháng 7 giá cả đã ổn định do nguồn
cung tôm tươi được bổ sung vào thị trường.
Tại tỉnh Quảng Đông - tỉnh sản xuất tôm lớn nhất của Trung Quốc - giá tôm thẻ chân
trắng nguyên đầu có vỏ (HOSO) loại 60 con/kg, 80 con/kg và 120 con/kg hiện đang giao dịch
trong khoảng giá tương ứng từ 55- 57 Nhân dân tệ (NDT)/kg (tương đương 8,18 - 8,48
USD/kg), 47 - 50 NDT/kg, và 37 - 38 NDT/kg. Giá tôm cỡ 80 con/kg và 120 con/kg tại tỉnh
Phúc Kiến ổn định ở mức tương ứng là 46 - 47 NDT/kg và 34 - 36 NDT/kg. Tại tỉnh Hải Nam,
loại tôm cỡ 80 con/kg được giao dịch ở mức 42 - 45 NDT/kg.
Giá vẫn ở mức cao hơn năm 2015 và 2016, mặc dù giá tôm cỡ nhỏ không phải ở mức
khá cao. Giá tôm cỡ nhỏ (120 con/kg) ở Quảng Đông cao hơn khoảng 10% so với năm ngoái.
Tuy nhiên, giá tôm cỡ lớn, 60 và 80 con/kg, đang giao dịch ở mức cao hơn 10-15% so với
cùng kỳ năm 2016. Tháng trước, Undercurrent báo cáo vụ thu hoạch tôm đầu tiên của Trung
Quốc ở miền Nam - vùng sản xuất tôm chính của Trung Quốc - đã gây thất vọng do các vấn đề
về dịch bệnh. Theo các phương tiện truyền thông địa phương, dịch bệnh một phần do nhiệt độ
cao và mưa lớn. Ngược lại, ở những nơi khác trên thế giới, sản lượng thu hoạch ở các quốc gia
sản xuất tôm chủ chốt nhìn chung đã tăng lên.
Cũng theo nguồn tin Undercurrent News, có đến sáu (06) nhà máy chế biến cá rô phi ở
Trung Quốc - nước xuất khẩu cá rô phi lớn nhất thế giới - đã phải đóng cửa do các điều kiện
kinh doanh khó khăn kéo dài. Hầu hết các nhà máy ở tỉnh Quảng Tây - tỉnh sản xuất cá rô phi
lớn thứ hai ở Trung Quốc sau Quảng Đông - đã ngừng sản xuất cá rô phi, cho các doanh
nghiệp khác thuê lại hoặc sử dụng để sản xuất các sản phẩm khác.
Giá nhập khẩu cá rô phi đông lạnh của Mỹ hiện chỉ ở mức 0,90 USD/pound - đây là
mức giá thấp nhất trong 10 năm qua. nhiên, theo dữ liệu thương mại, giá cá rô phi Trung Quốc
sang Mỹ vẫn giảm 5,6% trong suốt giai
đoạn đó. Trong khi đó, các quốc gia khác
như Mêhicô, Trung Đông và Nga đang lấp
khoảng trống còn lại của Mỹ, nhưng lại có
khuynh hướng đòi hỏi giá thấp hơn,
thường đạt được bằng cách tăng mạ băng.
Thị trường trong nước: Giá cá tra
nguyên liệu tại ĐBSCL trong tuần qua dao
động 22.000 - 24.000 đ/kg tùy theo chất
lượng cá và phương thức thanh toán. Tại
Cần Thơ, Đồng Tháp, Vĩnh Long giá cá
tra tăng trong các hợp đồng ký mới đầu
tuần này, trong khi đó tại An Giang giá giảm nhẹ.
21500
22000
22500
23000
23500
15/7 18/7 20/7 24/7 27/7 31/7 3/8 7/8 10/8
đ/k
g
Giá trung bình cá tra thịt trắng nguyên
liệu tại Cần Thơ
Tại TP. Bạc Liêu, giá tôm nguyên liệu tuần qua tăng nhẹ đối với tôm sú và giảm nhẹ
với tôm thẻ chân trắng. Cụ thể, giá tôm sú ướp đá cỡ 30 và 40 con/kg tăng 10.000 đ/kg lên các
mức tương ứng 220.000 đ/kg và 170.000 đ/kg; giá tôm thẻ ướp đá tuần này ổn định, cỡ 50, 60
con/kg giữ mức 128.000 đ/kg và 118.000 đ/kg. Tại Sóc Trăng, giá tôm thẻ tuần qua giảm nhẹ:
cỡ 50 và 60 con/kg giảm 1.000 đ/kg xuống lần lượt 136.000đ/kg và 130.000 đ/kg, cỡ 80
con/kg giảm 3.000 đ/kg xuống 123.000 đ/kg.
Mặt hàng tôm được dự báo sẽ tăng
tốc từ nay đến cuối năm, góp phần tăng kim
ngạch xuất khẩu thủy sản đạt trên 7 tỷ
USD. Vùng nuôi tôm lớn nhất nước là
ĐBSCL báo hiệu gặp nhiều thuận lợi. Tính
từ lúc khởi đầu vụ nuôi tôm chính hay còn
gọi là vụ 1, vùng ven biển Trà Vinh tháng 1
tháng 2 thả tôm sớm, sau đó lần lượt tới các
tỉnh Sóc Trăng, Bạc Liêu, Cà Mau… đã lần
lượt thu hoạch và hiện vào giai đoạn cuối
vụ. Một số địa phương lại bắt nhịp thả nuôi
vụ 2.
Đánh giá kết quả sơ bộ cho thấy, đa phần diện tích nuôi tôm bán thâm canh trúng mùa.
Tại Sóc Trăng, nhiều người nuôi tôm giỏi là thành viên Hiệp hội tôm Mỹ Thanh, huyện Trần
Đề và một số trại nuôi tôm qui mô lớn ở thị xã Vĩnh Châu nhờ kiểm soát tốt dịch bệnh, rủi ro
ít, đạt hiệu quả cao. Trong đó đơn cử như trại nuôi tôm Tân Nam trực thuộc Cty CP Thực
phẩm Sao Ta (Sóc Trăng), với 160 ha tôm nuôi theo tiêu chuẩn ASC vừa kết thúc vụ 1 thắng
lớn. Dự kiến còn thêm vụ 2 trong năm 2017 sẽ thu hơn 2.000 tấn tôm sạch.
0
50000
100000
150000
200000
250000
7/6 14/6 21/6 28/6 5/7 12/7 19/7 26/7 2/8 9/8
Giá tôm sú ướp đá nguyên liệu tại Bạc
Liêu
Cỡ 20 con/kg Cỡ 30 con/kg
Thị trường trong nước: Hiện nay trên địa bàn tỉnh Tây Ninh đang vào mùa thu hoạch
rộ nhãn da bò. Tuy nhiên giá loại nhãn này đang giảm sâu khiến người trồng nhãn hết sức khó
khăn, với mức giá chỉ từ 3.500 - 4.000 đ/kg. Như vậy, so với thời điểm này năm ngoái thì hiện
nay giá nhãn rớt xuống kỉ lục. Được biết nguyên nhân chính khiến giá nhãn giảm là do trước
đây chủ yếu xuất sang Trung Quốc, Campuchia… hiện giai đoạn này nhãn đang là vào chính
vụ khiến nguồn cung vượt cầu. Ngoài ra do đang ảnh hưởng của bão lũ, việc di chuyển nhãn
theo đường tiểu ngạch còn nhiều khó khăn khiến hàng bị ùn ứ, hư hỏng. Đồng thời, trên địa
bàn Bà Ria-Vũng Tàu, nhãn xuồng với nhiều chủng loại như: xuồng cơm vàng, cơm trắng, bao
công, hai Duyệt…, với giá dao động từ 50.000 - 110.000 đ/kg.
Theo dự tính, nhãn
chính vụ của Hưng Yên
năm nay sẽ muộn hơn mọi
năm khoảng một tuần, giá
dự báo sẽ cao hơn từ 5.000
- 7.000 đ/kg so với mọi
năm. Theo đánh giá của địa
phương thời điểm đầu
năm 2017, vùng nhãn Hưng
Yên có thể bị mất mùa
khoảng 40 - 50%. Tuy
nhiên, nhờ đẩy mạnh các
biện pháp kích thích ra hoa
như phun hóa chất, quanh cành… đến thời điểm này, năng suất nhãn toàn tỉnh chỉ giảm
khoảng 20 - 30% so với mọi năm. Do sản lượng giảm so với mọi năm nên dự kiến năm nay,
giá nhãn chính vụ có thể đạt trung bình từ 35.000 – 36.000 đ/kg, cao hơn từ 5.000 - 7.000
đ/kg so với năm 2016.
Tuần qua thị trường rau củ tại Lâm Đồng biến động từ ổn định đến tăng nhẹ. Cụ thể giá
bắp cải trắng và tím tăng 2000 - 3000đ/kg lên các mức tương ứng là 8.000đ/kg và 22.000đ/kg;
hành tây tăng 3.000đ/kg lên 16.000đ/kg. Ngoài ra một số loại củ quả khác như khoai tây, cà
chua, củ dền,... đều duy trì ở mức gia của tuần trước.
Tình hình xuất nhập khẩu: Kết thúc 7 tháng đầu năm 2017, giá trị xuất khẩu mặt hàng
rau quả ước đạt hơn 2 tỷ USD, tăng gần 50% so với cùng kỳ năm 2016. Trung Quốc, Nhật
Bản, Hoa Kỳ và Hàn Quốc tiếp tục là 4 thị trường nhập khẩu hàng đầu của hàng rau, quả Việt
Nam khi chiếm hơn 84% tổng giá trị xuất khẩu hàng rau quả. Theo nhiều chuyên gia, những
tháng cuối năm, thị trường thế giới thường có nhu cầu nhập khẩu trái cây nhiệt đới cao hơn so
với những tháng đầu năm, do đáp ứng nhu cầu tăng cao trong các dịp lễ hội lớn nhất hàng năm
như Giáng sinh, Năm mới…
Hiện Việt Nam đã đàm phán và dỡ bỏ được hàng rào kỹ thuật cho các mặt hàng rau quả
xuất khẩu như: Xoài xuất khẩu sang Australia, thanh long xuất khẩu sang Đài Loan, nhãn và
vải xuất khẩu sang Thái Lan... Từ đây đến cuối năm 2017, ngành nông nghiệp sẽ tiếp tục đẩy
mạnh đàm phán để vú sữa, xoài xuất khẩu sang Mỹ; thanh long ruột đỏ sang Nhật và vú sữa,
nhãn, vải, chôm chôm sang Hàn Quốc...
0
5,000
10,000
15,000
20,000
25,000
30,000
đ/k
g
Giá một số loại rau củ tại Lâm Đồng (nguồn: CIS)
Bắp cải trắng loại 1
Bắp cải tím loại 1
Hành tây loại 1
Cà chua thường loại
1
Hoa lơ trắng loại 1
Hoa lơ xanh loại 1
Thị trường thế giới: Thị trường
đường thế giới tuần qua biến động giảm
trong 7 phiên liên tiếp. Chốt phiên giao
dịch hôm 9/8, giá đường thô kỳ hạn
tháng 10/2017 trên sàn New York thiết
lập giảm 0,67 cent (tương đương 4,91%)
so với cách đây một tuần xuống mức
13,64 UScent/lb. Giá đường trắng kỳ
hạn tháng 10 trên sàn London cũng giảm
10,9 USD/tấn (tương đương 2,88%) còn
377,9 USD/tấn.
Theo nhận định, thời tiết khô hạn ở Brazil có thể ảnh hưởng tới sản lượng đường của
nước này trong ngắn hạn.
Thị trường sụt giảm còn bởi khả năng Ấn Độ sẽ cho phép nhập khẩu 200.000 tấn đường
miễn thuế, khi sản lượng giảm xuống dưới mức tiêu thụ trong năm tiếp thị 2016/17 kết thúc
vào ngày 3/9. Nước tiêu dùng đường lớn nhát thế giới này mới đây đã cho phép nhập khẩu
500.000 tấn chất làm ngọt. Bên cạnh đó, giá dầu thô sụt giảm nhẹ cũng tăng thêm áp lực cho
thị trường.
Thị trường trong nước: Giá đường trong nước tuần qua ổn định. Tại Hà Nội giá bán
buôn đường Biên Hòa dao động 19.000 – 20.000 đ/kg; tại An Giang giá đường cát trung ổn
định ở mức 17.500 đ/kg.
Hiệp hội mía đường (VSSA) đã xây dựng đề án thành lập quỹ phát triển mía đường và
gửi các cơ quan chức năng phê duyệt. Một trong các mục tiêu của quỹ này là giúp tái cơ cấu
ngành mía đường theo hướng tăng hiệu quả và phát triển bền vững.
Theo Quyết định 899 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án tái cơ cấu ngành nông
nghiệp theo hướng nâng cao giá trị và phát triển bền vững, đến năm 2020 sẽ ổn định diện tích
mía nguyên liệu ở mức 300.000 héc ta, sản xuất 2 triệu tấn đường và định hướng đến năm
2030 sản xuất khoảng 2,6 triệu tấn đường. Để đạt được mục tiêu trên, ngành mía đường phải
thực hiện đồng bộ các giải pháp từ sản xuất nguyên liệu đến sản phẩm đường và sau đường,
cạnh đường.
Đối với sản xuất nguyên liệu mía phải đổi mới, áp dụng tiến bộ khoa học, công nghệ
theo hướng cơ giới hoá, hiện địa hoá, công nghệ cao từ khâu giống, làm đất, gieo trồng, bón
phân, tưới, chăm sóc, thu hoạch, vận chuyển. Mục đích là đạt năng suất mía bình quân trên 70
tấn/héc ta, năng suất đường 7 tấn/héc ta, chữ đường 10 CCS, chi phí sản xuất dưới 500.000
đồng/tấn mía nguyên liệu, để người trồng mía có lợi nhuận khoảng 40 triệu đồng/héc ta.
Đối với các nhà máy phải cơ cấu sản phẩm đường theo hướng tăng tỷ trọng đường thô,
giảm và tiến tới không sản xuất đường trắng, thay vào đó là đường tinh luyện; đồng thời đẩy
mạnh đầu tư sản xuất sản phẩm sau đường, cạnh đường như điện đồng phát từ bã mía, rượu,
cồn, ethanol sinh học từ mật rỉ và mía, phân bón vi sinh từ bã bùn, nước giải khát... để giá
đường sản xuất ra đạt dưới 10.500 đ/kg.
360
370
380
390
400
410
USD/tấn
Giá đường trắng London kỳ hạn tháng
10/2017 Nguồn: Reuters
Sản lượng muối niên vụ 2016 – 2017 tại Bến Tre thu hoạch đạt thấp, ước khoảng
59.000 tấn, giảm một nửa so với niên vụ muối 2015 - 2016. Nhờ đó, giá muối năm 2017 cao
hơn so với cùng kỳ năm 2016, với mức tăng khoảng 1.000 đ/kg. Một số diêm dân năm ngoái
không bán muối do giá xuống quá thấp, năm nay tranh thủ bán ra khi giá muối lên để kiếm lời.
Vì chất lượng muối Bến Tre không bằng các tỉnh khác, UBND tỉnh khuyến khích người
dân chuyển đổi diện tích muối sang nuôi trồng thủy sản, trồng rừng nhưng rất khó vì người dân
không có vốn, diện tích nhỏ, lẻ. Theo quy hoạch đến năm 2020, cả tỉnh Bến Tre còn 900 ha
diện tích làm muối.
Hiện nay, Chi Cục Phát triển nông thôn Bến Tre đã trình Bộ Nông nghiệp và Phát triển
nông thôn kế hoạch phối hợp cùng Công ty TNHH Gia Thịnh (Tp. Hồ Chí Minh) triển khai
chuyển đổi diện tích 7 ha muối truyền thống sang muối trải bạt (xã Bảo Thạnh, huyện Ba Tri).
Sản lượng muối làm ra nếu không bán được thì Công ty TNHH Gia Thịnh sẽ thu mua để sản
xuất và chế biến muối trắng, muối tôm,...
Theo hệ thống cung cấp giá tại địa phương, giá muối tuần qua tăng tại Nam Định và ổn
định tại Bạc Liêu, Hưng Yên và Hà Nội. Cụ thể như sau: tại Bạc Liêu, giá bán buôn muối đen
không đổi ở mức 850 – 950 đ/kg; muối trắng ở mức 1.200 – 1.300 đ/kg. Tại Nam Định, giá
bán buôn muối thường tiếp tục xu hướng tăng, từ 1.800 đ/kg lên 1.900 đ/kg.
Tại Hưng Yên, giá muối vẫn giữ ổn định, muối iot có giá 5.000 đ/kg, muối thường là
3.800 đ/kg. Tại Hà Nội, giá muối thô ở mức 2.900 đ/kg, muối tinh là 3.200 đ/kg.
600
800
1000
1200
1400
1600
1800
2000
31/7 02/08 04/08 07/08 09/08
đ/k
g
Giá muối trong nước tuần 32
(Nguồn: CIS)
Muối thường tại Nam Định Muối đen tại Bạc Liêu
Muối trắng tại Bạc Liêu
Thị trường thế giới: Thị trường cà
phê thế giới biến động giảm trong tuần qua.
So với cuối tuần trước, giá cà phê Robusta kỳ
hạn giao tháng 9/2017 giảm 5 USD/tấn
xuống mức 2.136 USD/tấn. Giá cà phê giảm
do thị trường bước vào giai đoạn điều chỉnh
sau một thời gian giá cà phê tăng. Bên cạnh
đó, kết quả cuộc khảo sát cuối tháng 7/2017
của Reuters dự báo sản lượng sẽ tăng ở
những nước sản xuất chủ chốt là Brazil và
Việt Nam trong niên vụ sắp tới cũng tác động
tới giá cà phê.
Theo báo cáo của Công ty tư vấn Safras & Mercado, nông dân Brazil đã thu hoạch xong
80% vụ cà phê 2017 – 2018 tính đến ngày 1/8. Cụ thể, diện tích Arabica đã được thu hoạch là
74%, cao hơn mức 69% của cùng kỳ năm ngoái. Trong khi đó, nông dân gần như đã thu hoạch
xong diện tích Robusta, với tiến độ thu hoạch đạt 98%. Safras dự báo, sản lượng cà phê niên
vụ này của Brazil đạt 51,1 triệu bao. Như vậy, với tiến độ thu hoạch như trên, Safras ước tính
nông dân Brazil đã thu về khoảng 40,7 triệu bao. Tiến độ thu hoạch vụ cà phê hiện tại của
Brazil nhanh hơn so với cùng kỳ năm ngoái và mức trung bình của 5 năm qua.
Theo chuyên gia phân tích Gil Barabach tại Safras, tiến độ thu hoạch nhanh hơn nhờ
thời tiết khô ráo, nhưng một số nông dân đang lo ngại sản lượng sẽ thấp hơn kỳ vọng. Kích cỡ
hạt cà phê thu hoạch về nhỏ hơn so với vụ trước nên có thể sẽ ảnh hưởng tới tổng khối lượng
của cả niên vụ. Hơn nữa, một số vùng trồng cà phê cũng đang chịu cảnh bị sâu đục thân.
Thị trường trong nước: Thị trường
cà phê trong nước biến động giảm cùng với
xu hướng thị trường cà phê thế giới. So với
cuối tuần trước, giá cà phê vối nhân xô các
tỉnh Tây Nguyên giảm 400 – 600 đ/kg
xuống còn 44.900 – 45.600 đ/kg. Giá cà
phê Robusta giá FOB giao tại cảng
TP.HCM giảm 8 USD/tấn xuống còn 2.046
USD/tấn.
Thị trường cà phê nội địa vẫn trong
trạng thái im ắng kéo dài để chờ mức giá kỳ
vọng, trong khi nông dân cũng muốn thanh
ly hàng để chuẩn bị bước vào vụ mùa mới.
Giao dịch trên thị trường cà phê Việt Nam đã chịu tác động mạnh vì chất lượng hạt cà
phê trong cuối vụ. Khu vực trông cà phê chủ chốt tại Việt nam đã phải chịu thiệt hại từ trận
mưa lớn vào cuối tháng 12 năm ngoái, ảnh hưởng tới nguồn cung và chất lượng hạt, khiến khối
lượng xuất khẩu cà phê giảm 16% trong 7 tháng đầu tiên của năm nay.cCác nhà xuất khẩu
không ký hợp đồng mới vì lo ngại tình trạng thời tiết tương tự sẽ xuất hiện trong năm nay,
trong khi nhiều nhà nhập khẩu đang tìm kiếm hạt cà phê có chất lượng cao hơn.
2080
2100
2120
2140
2160
2180
31/07 01/08 02/08 03/08 04/08 07/08 08/08 09/08
USD/tấn
Giá Robusta kỳ hạn giao tháng
9/2017 thị trường London
Nguồn: Reuters
43000
44000
45000
46000
47000
31/0701/0802/0803/0804/0807/0808/0809/08
đ/k
g
Giá cà phê vối nhân xô các tỉnh Tây
Nguyên
Nguồn: CIS
Đắc lắc- TP Buôn Mê Thuột
Đà Lạt - Lâm Đồng
Thị trường thế giới: Giá chè
tại Bangladesh giảm tuần thứ tư liên
tiếp tại phiên đấu giá hàng tuần (8/8)
trong bối cảnh lượng cung dư thừa,
mặc dù nhu cầu mạnh đối với chè
chất lượng đã hạn chế đà giảm.
Giá chè Bangladesh ở mức
trung bình 207,12 taka (tương đương
2,60 USD/kg), giảm so với 209,64
taka/kg tại phiên đấu giá trước đó.
Theo một quan chức cao cấp của
National Brokers, nhu cầu về chè chất lượng đã làm giảm nhu cầu của người tiêu dùng trong
nước trong khi nguồn cung lớn hơn tuần trước. Khoảng 24,5% trong số 2,80 triệu kg được
cung cấp tại trung tâm đấu giá duy nhất tại Chittagong vẫn không bán được. Trong phiên đấu
giá trước đó, 22% trong số 2,53 triệu kg chào bán chưa được bán.
Sản lượng chè của Ấn Độ trong năm 2017 có thể sẽ không thay đổi hoặc giảm nhẹ so
với năm trước. Theo số liệu của Hội đồng Chè Ấn Độ, cả nước đã sản xuất được 1.267,36 triệu
kg chè trong năm 2016. Sản lượng chè Ấn Độ trong tháng 6 đã giảm gần 3% xuống 143,02
triệu kg. Sự sụt giảm này chủ yếu do sản lượng thấp ở miền Bắc Ấn Độ, giảm gần 5% đạt mức
116,4 triệu kg. Tuy nhiên, tính trong 6 tháng đầu năm, tổng sản lượng chè tăng 4,51% so với
cùng kỳ 2016, đạt 443,15 triệu kg.
Theo báo cáo của ICRA, nhu cầu đối với chè của Ấn Độ trên thị trường toàn cầu đã
tăng do Kenya và Sri Lanka - hai thị trường xuất khẩu lớn gặp khó khăn về sản xuất trong năm
nay. Trong khi Ấn Độ chỉ xuất khẩu khoảng 20% chè sản xuất trong nước, song đóng một vai
trò quan trọng trong việc duy trì sự cân bằng giữa cung - cầu và mức giá. Với khả năng sản
lượng chè của Kenya và Sri Lanka giảm trong năm 2017 và với xu hướng giá quốc tế, triển
vọng xuất khẩu từ Ấn Độ được dự báo có vẻ thuận lợi.
Thị trường trong nước: Tại Thái Nguyên, giá chè nguyên liệu tuần này không có biến
động. Cụ thể, giá chè cành chất lượng cao giữ mức 185.000 đ/kg, chè xanh búp khô và chè
xanh búp khô (đã sơ chế loại 1) lần lượt ở mức 130.000 đ/kg và 100.000 đ/kg.
Năm (05) năm trở lại đây, ngành Nông nghiệp và PTNT đã tích cực phối hợp với các
cấp, ngành liên quan chỉ đạo, hướng dẫn người dân trong tỉnh sản xuất chè theo hướng an toàn;
xây dựng các mô hình sản xuất chế biến chè an toàn theo quy trình VietGAP. Nhờ đó, đến nay,
diện tích chè sản xuất theo quy trình VietGAP chiếm khoảng trên 75% trong gần 18.680ha chè
kinh doanh của tỉnh. Tuy vậy, diện tích chè được cấp Giấy chứng nhận đạt tiêu chuẩn
VietGAP của tỉnh vẫn còn rất khiêm tốn. Hiện nay, toàn tỉnh mới có trên 700ha chè được cấp
giấy chứng nhận VietGAP, chiếm 3,3% tổng diện tích chè của tỉnh, với sản lượng chè búp tươi
đạt khoảng 8.500 tấn. Bởi lẽ, thực tế cho thấy, hiện tại, người tiêu dùng đang ngày càng quan
tâm đến sản phẩm chè an toàn; thị trường xuất khẩu ngày càng kiểm soát chặt vấn đề vệ sinh
an toàn thực phẩm và dư lượng thuốc bảo vệ thực vật.
190
195
200
205
210
215
220
225
6/6 13/6 20/6 4/7 11/7 18/7 25/7 1/8 8/8
taka
/kg
Giá chè tại Băng-la-đét
Nguồn: Reuteurs
Thị trường thế giới: Sản xuất điều
khô niên vụ năm 2017/2018 được dự báo
tăng ở các nước sản xuất lớn như Ấn Độ,
Bờ Biển Ngà. Các nhà giao dịch cũng cho
rằng nguồn cung từ hai nước này tăng sẽ
bù đắp cho tình trạng suy giảm sản lượng
tại Campuchia và vụ điều thu hoạch trễ tại
Việt Nam.
Tại Bờ Biển Ngà với diện tích trồng
18.735 ha và sản lượng điều ước đạt 12
721,4 tấn, theo dự báo của hội đồng quản
trị Hợp tác xã sản xuất điều CA-VICA, dự
kiến vào cuối năm 2017, doanh thu sẽ đạt gần 6,3 tỷ FCFA. Năm 2016, hợp tác xã đã sản xuất
được 8.000 tấn hạt điều với doanh thu hơn 4 tỷ FCFA.
Tuần qua thị trường hạt điều không có chuyển biến nhiều, mức giá các loại hạt điều ở
Tại Delhi, Ấn Độ vẫn ổn định về giá, điều nhân loại 180 giá 1087,5 Rs/kg, loại 210 tăng nhẹ từ
980 Rs/kg lên 985 Rs/kg, loại 240 giá 935 Rs/kg và loại 320 giá 842,5 Rs/kg.
Thị trường trong nước: Hiện nay dù điều kiện thời tiết bất lợi, các loại dịch bệnh như
sâu róm đỏ, bọ trĩ, bọ xít muỗi… hoành hành, gây thiệt hại đáng kể cho nông dân trồng điều tại
nhiều địa phương trên cả nước khiến sản lượng, năng suất giảm mạnh, các doanh nghiệp (DN)
bị hạn chế về khả năng cung ứng thành phẩm ra thị trường. Trong khi đó, sức mua trên thị
trường cũng có phần hơi chậm. Những yếu tố đó khiến cho lượng điều XK giảm. Nhưng bù
lại, giá nhân điều XK lại tăng lên đáng kể. Cụ thể theo Bộ NN&PTNT, 7 tháng đầu năm, khối
lượng XK hạt điều ước đạt 186 nghìn tấn và 1,83 tỷ USD, giảm 2,2% về khối lượng nhưng
tăng 24,2% về giá trị so với cùng kỳ năm 2016. Giá hạt điều XK bình quân nửa đầu năm đạt
hơn 9.700 USD/tấn, tăng 26,5% so với cùng kỳ năm 2016. Hoa Kỳ, Hà Lan và Trung Quốc
vẫn duy trì là 3 thị trường NK điều lớn nhất của Việt Nam, chiếm thị phần lần lượt là 36,9%,
15,1% và 12% tổng giá trị XK hạt điều. Chính vì vậy, dù lượng XK giảm, nhưng giá trị XK lại
tăng khá.
Theo dự báo, trong 6 tháng cuối năm, diễn biến có thể cũng không khác mấy so với 6
tháng đầu năm. Ngành điều vẫn đứng trước sức ép lớn về nguồn nguyên liệu, giá điều nguyên
liệu cao... Do đó, giá nhân điều XK cũng khó có khả năng điều chỉnh theo hướng giảm xuống.
Bởi vậy, lượng nhân điều XK có thể vẫn chỉ ở mức 350.000 tấn như năm ngoái, nhưng giá trị
XK vẫn sẽ tăng và dự kiến đạt khoảng 3,3 tỷ USD, trong đó, giá trị XK nhân điều là 3 tỷ USD.
Giá thu mua hạt điều đang ở mức cao kỷ lục với mức bình quân khoảng 50.000 đ/kg hạt
khô nhập kho. Tại Bình Phước, giá bán buôn hạt điều nhân loại W240 và W320 đang mức giá
là 265.000 đ/kg và 255.000 đ/kg.
0
500
1000
1500
3/8 4/7 07/8 8/8 9/8
Rs/
kg
Diễn biến giá điều nhân giao ngay thị
trường Delhi, Ấn Độ
Nguồn: Cashewinfo)
hạt điều ww 180 hạt điều ww 210
hạt điều ww 240 hạt điều ww 320
Thị trường thế giới: Thị trường
hạt tiêu Ấn Độ biến động tăng trong tuần
qua. So với cuối tuần trước, giá hạt tiêu
giao ngay tăng 700 Rs/tạ lên 48.000
Rs/tạ (tiêu xô) và 50.000 Rs/tạ (tiêu chọn
lọc). Giá tiêu Ấn Độ xuất khẩu sang thị
trường châu Âu và Mỹ tăng 175 USD/tấn
lên các mức giá lần lượt là 8.100
USD/tấn và 8.350 USD/tấn. Giá hạt tiêu
tăng do nguồn cung thắt chặt.
Năm nay, không chỉ Trung Quốc
đẩy mạnh thu mua tiêu Việt Nam mà thị trường Ấn Độ cũng đang nhập khẩu số lượng lớn.
Theo VPA, trong 6 tháng đầu năm nay, Ấn Độ đã nhập khẩu 7.355 tấn tiêu của Việt Nam.
Mới đây, Ấn Độ đã tái khởi động giao dịch hạt tiêu kỳ hạn trên sàn NCDEX và những
tín hiệu ban đầu cho thấy khá tốt do thu hút được nhiều nhà đầu tư tham gia. Trước mắt, sàn
NCDEX sẽ giao dịch 3 kỳ hạn: kỳ hạn tháng 9/2017, tháng 10/2017 và tháng 11/2017.
Được biết, do nhiều nguyên nhân khác nhau đã khiến NCDEX tạm ngừng giao dịch hạt
tiêu kỳ hạn cuối năm 2012, mặc dù lúc bấy giờ Ấn Độ là nhà sản xuất và xuất khẩu hồ tiêu số
1 thế giới. Đến khi Việt Nam trở thành nhà sản xuất và xuất khẩu hồ tiêu hàng đầu, Hiệp hội
Hồ tiêu Việt Nam (VPA) đã không giấu tham vọng xây dựng một sàn giao dịch hồ tiêu mang
tầm quốc tế tại thành phố Hồ Chí Minh, với sự hợp tác từ Mumbai. Trong khi sàn SMX ở
Singapore cũng đã ngừng giao dịch hồ tiêu trước đó vì không hiệu quả.
Thị trường trong nước: Thị trường
hạt tiêu trong nước biến động tăng nhẹ
trong tuần qua. So với cuối tuần trước, giá
hạt tiêu tại Đắc Lắc – Đắc Nông, Gia Lai
và Bà Rịa Vũng Tàu tăng 1.000 đ/kg lên
88.000 – 92.000 đ/kg. Giá tiêu tại Đồng
Nai tăng 2.000 đ/kg lên 89.000 đ/kg. Giá
tiêu nội địa những ngày qua tăng là do nhu
cầu thị trường tăng lên do các doanh
nghiệp tăng giá thu mua để đáp ứng các
đơn hàng xuất khẩu đã ky.
Theo Sở NNPTNT Đồng Nai, toàn tỉnh có gần 15.000ha tiêu, năng suất trung bình
khoảng 4 tấn/ha, cho người trồng thu lãi hàng trăm triệu đồng/năm. Tuy nhiên, việc lạm dụng
thuốc, phân bón hóa học khiến dư lượng thuốc bảo vệ thực vật (BVTV) trên tiêu vẫn ở mức
cao. Vì vậy, liên kết trồng tiêu sạch là hướng đi tốt, đảm bảo tính bền vững. Đồng Nai đã lên
phương án xây dựng cánh đồng mẫu lớn, khuyến khích liên kết sản xuất hồ tiêu sạch xuất
khẩu. Chương trình sản xuất tiêu sạch đang được tiếp tục triển khai trong năm qua với những
quy định chặt chẽ, hài hòa lợi ích với người nông dân.
47000
48000
49000
50000
51000
52000
12/6 16/6 3/7 10/7 14/7 21/7 27/7 3/8 9/8R
s/tạ
Giá tiêu xô giao ngay tại thị trường Ấn
Độ
Nguồn: Business Line
70000
80000
90000
100000
1/8 2/8 3/8 4/8 5/8 6/8 7/8 8/8 9/8 10/8
đ/k
g
Giá hạt tiêu đen xô tại một số tỉnh
Nguồn: CIS
Đắk Lăk - Đắk Nông Gia Lai
Bà Rịa-Vũng Tàu Đồng Nai
Thị trường thế giới: Sau khi
giảm mạnh vào tuần trước, giá cao su
giao kỳ hạn tại Sở Giao dịch hàng hóa
Tokyo, Nhật Bản (TOCOM) đã thiết lập
mức cao nhất trong 2 tuần nhờ sự tăng
giá tích cực trên thị trường cao su
Thượng Hải đã thúc đẩy hoạt động mua
vào. Kết thúc phiên giao dịch 9/8, hợp
đồng benchmark tháng 1/2018 đạt 215,4
yên/kg, tăng 5,6 yên so với phiên trước
và tăng 8,6 yên/kg so với cuối tuần
trước.
Giá cao su giao kỳ hạn tháng 1/2018 tại Sở giao dịch kỳ hạn Thượng Hải tăng 505
NDT, hoặc 3,2% trong phiên giao dịch qua đêm 9/8, lên mức 16.560 NDT (tương đương
2.469,8 USD)/tấn.
Thị trường trong nước: Theo hệ
thống cung cấp giá tại địa phương, giá
mủ cao su nguyên liệu tại Bình Phước
tiếp tục tăng giảm thất thường trong
tuần qua, từ mức 285 đồng/độ giảm
xuống 280 đồng/độ (7/8), sau đó tăng
trở lại 285 đồng/độ (9/8). Giá thu mủ
cao su dạng nước tại Đồng Nai giữ ở
mức 12.500 đ/kg sau khi giảm giá vào
tuần trước.
Chính phủ vừa ban hành Quyết
định số 1137/QĐ-TTg ngày 03/8/2017 phê duyệt Đề án Nâng cao năng lực cạnh tranh các mặt
hàng xuất khẩu của Việt Nam đến năm 2020, định hướng đến năm 2030. Theo đó, cao su là
một trong tám mặt hàng nông thủy sản đang có lợi thế xuất khẩu được tập trung nâng cao năng
lực cạnh tranh.
Những mặt hàng nông thủy sản khác cũng được đưa vào Đề án gồm: gạo, cà phê, thủy
sản, hạt tiêu, hạt điều, sắn và sản phẩm chế biến từ sắn, rau quả.
Bên cạnh đó, nhóm hàng công nghiệp chế biến từ cây cao su cũng được xếp vào nhóm
sản phẩm đang có lợi thế xuất khẩu để đưa vào Đề án như đồ gỗ (đồ gỗ cao su), phương tiện
vận tải và phụ tùng (lốp xe, linh kiện cao su kỹ thuật cho ngành ô tô).
Mục tiêu chung của Đề án là nâng cao năng lực cạnh tranh hàng hóa xuất khẩu Việt
Nam trên thị trường thế giới giai đoạn 2016 – 2020 và 2021 – 2030, phấn đấu kim ngạch xuất
khẩu hàng hóa đến năm 2020 tăng gấp trên 3 lần năm 2010, cân bằng cán cân thương mại vào
năm 2020 và đạt thặng dư thương mại thời kỳ 2021 – 2030.
190
195
200
205
210
215
220
1/8 2/8 3/8 4/8 7/8 8/8 9/8
Yên
/kg
Giá cao su kỳ hạn tại Tocom tuần 32
(Nguồn: Reuters)
hợp đồng benchmark tháng 1/2018
200
250
300
350
400
1/8 2/8 3/8 4/8 7/8 8/8 9/8
đ/độ
Giá mủ cao su trong nước tuần 32 (Nguồn: CIS)
Thị trường thế giới: Thị trường gỗ
xẻ giao kỳ hạn tại Sở Giao dịch hàng hóa
Chicago (Mỹ) tuần qua diễn biến giảm trở
lại. Trong đó, hợp đồng kỳ hạn tháng
9/2017 đạt mức 368 USD/tbf lúc đóng cửa
phiên 09/8, tăng 0,4 USD so với phiên 07/8,
song giảm tới 5,8 USD so với phiên cuối
tuần trước (04/8) ở mức 373,8 USD/tbf.
Trong vài năm qua, Hàn Quốc đã trở
thành nhà nhập khẩu gỗ viên nén lớn nhất
châu Á và đứng thứ 3 thế giới. Nhu cầu về
gỗ viên nén ở Hàn Quốc dự đoán sẽ tiếp tục tăng trong những năm tới. Việt Nam đã và đang là
nhà cung cấp gỗ viên nén với số lượng lớn cho châu Á, chiếm khoảng 65% tổng lượng nhập
khẩu vào cuối năm 2016 và đầu năm 2017.
Nhập khẩu gỗ viên nén của khu vực châu Á đạt mức cao nhất trong quy 4/2016, khi
Nhật Bản và Hàn Quốc cùng nhập khẩu với khối lượng đạt 630.000 tấn gỗ viên nén. Mặc dù
khối lượng nhập khẩu giảm nhẹ trong quy 1/2017, nhưng vẫn cao hơn 40% so với quy 1/2016.
Hàn Quốc hiện là nước nhập khẩu gỗ viên nén lớn nhất châu Á và đứng thứ 3 trên thế
giới trong năm 2016, sau Anh và Đan Mạch. Mặc dù khối lượng nhập khẩu vào Nhật Bản tăng
gấp 3 lần từ năm 2014 đến năm 2016, nhưng việc sử dụng gỗ viên nén vẫn còn ở mức thấp.
Việc tiêu thụ gỗ viên nén ở Nhật Bản và Hàn Quốc đã tăng khá mạnh trong 4 năm qua
vì những yêu cầu mới của chính phủ nhằm giảm khí thải các-bon và tăng việc sử dụng năng
lượng tái tạo. Xu hướng sử dụng gỗ viên nén tăng gần đây và có thể sẽ tiếp tục tăng trong thời
gian tới, do được thúc đẩy bởi các ưu đãi và các quy định như tiêu chuẩn danh mục năng lượng
tái tạo. Với nhu cầu cấp thiết thay thế năng lượng hạt nhân và thuế suất đối với gỗ viên nén
thấp, dự kiến Nhật Bản sẽ tăng nhập khẩu gỗ viên nén trong vòng 5 năm tới.
Việt Nam đã và đang là nhà cung cấp gỗ viên nén lớn cho thị trường châu Á trong 3
năm qua, chiếm gần 2/3 số lô hàng đến Nhật Bản và Hàn Quốc trong năm 2016. Canada là nhà
cung cấp lớn cho thị trường châu Á, nhưng thị phần của nước này đã giảm từ 22% trong năm
2014 xuống còn 14% vào năm 2016. Tuy nhiên, trong quy 1/2017, Canada đã tăng lượng hàng
đến châu Á lên thứ hai và đạt mức cao nhất trong quy, thị phần lên tới 21%.
330
340
350
360
370
380
390
400
31/7 1/8 2/8 3/8 4/8 7/8 8/8 9/8
Giá gỗ xẻ tại thị trường Chicago, Mỹ
tuần 32
(Nguồn: Reuters)
hợp đồng tháng 9/2017
Thị trường trong nước: Số liệu tổng hợp tình hình xuất khẩu gỗ tròn và gỗ xẻ thô của
Việt Nam trong năm 2016 và những tháng đầu năm 2017 cho thấy, năm 2016, gỗ tròn từ rừng
trồng xuất khẩu đạt 721 m3 về khối lượng gỗ keo và đạt giá trị 34.733 USD, trong khi gỗ cao
su đạt 43 m3 về khối lượng và 3.244 USD về giá trị. Gỗ xẻ từ rừng trồng xuất khẩu đạt khối
lượng và giá trị cao, tốc độ tăng trưởng xuất khẩu nhanh: gỗ cao su: 139.075 m3 ~ 36.756.000
USD (năm 2015) đã tăng vọt lên 268.270 m3 ~ 60.589.000 USD (năm 2016) và tiếp tục tăng
mạnh lên 94.860 m3 ~ 20.591.000 USD trong 4 tháng đầu năm 2017. Gỗ Keo: 63.000 m3 ~
6.512.000 USD ( năm 2016), và 19.900 m3 ~ 2.231.000 USD (4 tháng đầu năm 2017). Gỗ
Bạch đàn: 17 m3 ~ 4.288 USD (2015), lên 205 m3 ~ 40.885 USD (2016). Và tốc độ tăng
trưởng xuất khẩu gỗ xẻ từ rừng trồng đã tăng rất mạnh trong cùng kỳ 4 tháng đầu năm giai
đoạn 2013 – 2017.
Theo đó, chủ trương tạm ngừng xuất khẩu gỗ tròn, gỗ xẻ từ rừng trồng trong nước và gỗ
cao su ở dạng gỗ tròn và gỗ xẻ thô sẽ tác động tích cực đến các hoạt động sản xuất của các cơ
sở, nhà máy chế biến gỗ vì nó bảo đảm được nguồn cung cấp nguyên liệu gỗ từ rừng trồng ổn
định và bền vững cho chế biến đồ gỗ xuất khẩu có giá trị gia tăng cao, đáp ứng được yêu cầu
của khách hàng, thị trường EU, Úc, Mỹ về chất lượng, giá cả và tiến độ giao hàng.
Bảo đảm lợi ích lâu bền cho người trồng rừng, nhờ giữ được cây gỗ lớn và có thị trường
đầu ra ổn định, bảo đảm thanh toán, xây dựng liên kết chặt chẽ trong suốt chuỗi cung ứng sản
phẩm gỗ từ rừng trồng đến nhà máy chế biến, hình thành được văn hoá kinh doanh lành mạnh
và tuân thủ pháp luật.
Việc dừng xuất khẩu gỗ tròn và gỗ xẻ thô cũng sẽ có tác động đến hoạt động kinh
doanh xuất khẩu gỗ tròn và gỗ xẻ thô của Việt Nam. Tuy nhiên, lượng gỗ tròn và gỗ xẻ này
được giữ lại cho chế biến trong nước sẽ vừa tạo ra giá trị gia tăng gấp nhiều lần giá trị kim
ngạch xuất khẩu hiện tại; vừa giữ được hình ảnh tích cực cho ngành chế biến gỗ hợp pháp và
bền vững của Việt Nam trước các đối tác, khách hàng tại các thị trường lớn EU, Hoa Kỳ… đó
là một lợi thế. Hơn nữa, hạn chế xuất khẩu gỗ nguyên liệu thô, gia tăng chế biến sâu trong
ngành lâm nghiệp là chủ trương đúng đắn của Chính phủ trong nhiều năm qua. Quan điểm này
cũng được nhiều nước trong khu vực ủng hộ và áp dụng nghiêm ngặt như Lào, Myanmar,
Indonesia, Malaysia để bảo đảm nguồn nguyên liệu cho ngành chế biến gỗ trong nước. Đặc
biệt là trong bối cảnh Trung Quốc đóng cửa rừng hoàn toàn sẽ tạo ra lực hút nguyên liệu gỗ vô
cùng lớn trên toàn cầu chảy vào Trung Quốc, mà dấu hiệu gần đây là doanh nghiệp Việt Nam
gặp khó khăn trong việc nhập khẩu gỗ nguyên liệu từ các nước truyền thống như đã phân tích
trên đây.
Việc dừng xuất khẩu gỗ tròn và gỗ xẻ thô cũng được phép áp dụng nếu nhằm một trong
các “mục đích công cộng quan trọng” như quy định tại điều XX – Hiệp định GATT của WTO
mà Việt Nam đã tham gia. Vì gỗ được xem là tài nguyên thiên nhiên và có y nghĩa rất quan
trọng trong nhận thức bảo vệ môi trường, do đó, các cam kết quốc tế hiện nay đều coi các biện
pháp hạn chế số lượng xuất khẩu nhằm “bảo vệ môi trường” là “mục tiêu hợp pháp” và được
phép áp dụng.
Thị trường thế giới: Nhìn diễn biến
trong tuần qua, tại thị trường kỳ hạn
Chicago, Mỹ giá của mặt hàng đậu tương
biến động tăng liên tiếp trong mấy phiên
giao dịch gần đây. Cụ thể, trong phiên giao
dịch ngày 9/8, mức giá của mặt hàng này
tăng phiên thứ 3 liên tiếp, do lo ngại về
thời tiết khô ở khắp khu vực trồng trọng
điểm của Mỹ, đẩy giá tăng lên mức cao
nhất gần 1 tuần. Tuy nhiên, nếu so với
mức giá bình quân tuần trước, mặt hàng
đậu tương giảm 0,2% từ mức giá 964
UScent/bushel xuống còn 961
UScent/bushel.
Nếu như mặt hàng đậu tương có dấu hiệu giảm thì mặt hàng ngô lại tăng nhẹ so với tuần
trước. Cụ thể, giá ngô bình quân tuần trước đạt mức 365,65 Uscent/bushel thì mức giá tuần
này tăng lên mức giá 371,4 UScent/bushel.
Số liệu Hải quan cho biết, nhập khẩu đậu tương của Trung Quốc trong tháng 7/2017
tăng 30%, lên mức cao nhất kể từ ít nhất năm 2010. EU cho biết, thuế nhập khẩu ngô lần đầu
tiên trong gần 3 năm, do giá ở mức thấp cùng với nguồn cung thức ăn chăn nuôi toàn cầu dồi
dào.
Thị trường trong nước: Giá
thức ăn chăn nuôi và nguyên liệu trong
nước tuần qua vẫn ổn định mặc dù giá
một số sản phẩm chăn nuôi giảm mạnh.
Tuy nhiên, gần đây do nhu cầu tăng lại
từ phía thương nhân Trung Quốc, thị
trường thịt heo đã tăng mạnh trở lại,
song điều này không tác động nhiều
đến việc thay đổi thị trường thức ăn
chăn nuôi. Theo hệ thống giá tại địa
phương, giá thức ăn chăn nuôi hỗn hợp
tại tỉnh Hưng Yên vẫn giữ ở mức ổn
định của tuần trước. Cụ thể, giá cám
viên dành cho heo ổn định ở mức giá 9.800đ/kg; giá cám đậm đặc dành cho heo có giá là
14.700đ/kg và giá cám viên dành cho vịt vẫn ở mức giá là 9.200đ/kg.
0
200
400
600
800
1000
1200
31/07 01/08 02/08 03/08 04/08 07/08 08/08 09/08
Usc
en
t/b
ush
el
Giá ngô và đậu tương tại thị trường
Chicago, Mỹ (nguồn: Reuters)
Ngô ( 09/17) Đậu tương (08/17)
0
2000
4000
6000
8000
10000
12000
14000
16000
31/07 01/08 02/08 03/08 04/08 07/08 08/08 09/08
đ/k
g
Giá một số thức ăn hỗn hợp tại Hưng Yên
(nguồn: CIS)
Cám viên dành cho heo
Cám đậm đặc dành cho heo Cám viên dành cho vịt
Thị trường thế giới: Giá Ure
bán lẻ thị trường Mỹ giảm trong tuần
qua với mức giảm 5 USD/tấn xuống
còn 283,5 USD/tấn. Giá DAP bán lẻ
ổn định ở mức 423,5 USD/tấn. Giá
DAP bán buôn Vịnh Mỹ hiện là
317,45 USD/tấn, giảm 1,55 USD/tấn
so với tuần trước đó. Giá Kali bán lẻ
giảm 2,5 USD/tấn xuống còn 325
USD/tấn.
Giá bán lẻ tất cả các loại phân
bón tại thị trường Mỹ đều giảm so với cùng kỳ năm ngoái. Giá phân bón 10-34-0 giảm 22%,
giá UAN32 giảm 15%, giá Ure và UAN28 giảm 11%. Giá DAP giảm 6%, giá MAP giảm 5%
trong khi giá Kali giảm 2%.
Thị trường trong nước: Việc áp thuế tự vệ đối với loại phân bón thông dụng là DAP
theo quy định của Bộ Công thương là trên 1,8 triệu đồng/tấn, tuy có hiệu lực từ ngày 19/8, thế
nhưng giá DAP trên thị trường tuần qua đã tang mạnh lên 1,5 - 1,9 triệu đồng/tấn (tức tăng
1.500 - 1.900 đ/kg).
Do DAP là nguyên liệu chính sản xuất phân tổng hợp NPK (còn gọi là phân 3 màu)
gồm Urê, DAP và Kali nên các doanh nghiệp sản xuất phân bón buộc phải kéo giá phân NPK
tăng theo từ 300.000 - 500.000 đ/tấn tùy theo công thức hàm lượng phối trộn, trong đó NPK
20-20-15 tăng mạnh nhất từ 400.000 - 500.000 đ/tấn.
Trong các loại phân bón, ngoài Urê và Kali thì DAP cũng là loại phân bón rất quan
trọng phục vụ sản xuất nông nghiệp Ngoài việc sử dụng làm thành nguyên liệu phối trộn NPK
như nói ở trên, DAP còn được cho là một loại phân đơn chủ yếu bón cho lúa, cây ăn trái, rau
màu, cây công nghiệp, đặc biệt đối với đất nhiễm phèn thì DAP vừa có tác dụng hạ phèn, kiến
tạo bộ rễ ra chồi đâm nhánh tốt cho cây trồng nên nông dân rất ưa chuộng.
Trên thị trường hiện đang có các loại phân bón DAP phổ biến gồm DAP 16-44 (đạm
16%; lân 44%) và DAP 18-46 của Trung Quốc; DAP 18-46 của Nga và Hàn Quốc; riêng Việt
Nam có DAP 16-45 của Nhà máy phân bón DAP Vinachem Đình Vũ (Hải Phòng) và Nhà máy
SX Phân bón DAP Lào Cai. Trong đó, phân DAP Trung Quốc chiếm thị phần lớn.
Tại chợ phân bón Trần Xuân Soạn (quận 7, TP.HCM), giá DAP cao nhất là DAP 18-46
của Hàn Quốc giá khoảng 12.500 đ/kg; thứ hai của Nga là 9.500 đ/kg; tiếp theo DAP 18-46
của Trung Quốc khoảng 9.000 đ/kg; còn DAP 16-44 là 8.800 đ/kg. Cuối cùng là DAP 16-45
của hai đơn vị Đình Vũ và Lào Cai khoảng 8.000 đ/kg. Hiện nay, giá DAP nói chung đã tăng
1.500 đ/kg, nhưng thị trường chưa hút hàng mạnh do nước lũ ở vùng ĐBSCL đang lên, vùng
Tây Nguyên lại chưa vào giai đoạn bón phân đợt 3. Dự báo vào đầu tháng 9, mặt hàng DAP sẽ
tăng mạnh hơn.
170
175
180
185
190
16/6 23/6 30/6 7/7 13/7 21/7 28/7 4/8U
SD
/tấ
n
Giá Ure giao ngay thị trường Yuzhny,
Ucraina
Nguồn: Reuters
Như vậy, trên thị trường giá
DAP trong nước vẫn còn thấp, ly do
chính theo phản ảnh của các doanh
nghiệp sản xuất phân bón là do tâm lý
nông dân vẫn còn ưa chuộng “hàng
ngoại”; thứ hai, hàng DAP trong nước
thường hay chậm tan, màu sắc (DAP
có các màu xanh, vàng, đen, nâu) hay
bị thay đổi khi để lâu, trong khi phân
ngoại thì màu sắc tương đối ổn định
hơn.
10000
10500
11000
11500
12000
12500
13000
13500
đ/k
g
Giá bán lẻ phân bón Đầu trâu - Nguồn:
CIS
Hưng Yên Lâm Đồng Vĩnh Long
Triển vọng xuất khẩu cá tra sang thị trường EU
Cách đây 8 năm, EU là thị trường xuất khẩu (XK) cá tra hàng đầu của Việt Nam, chiếm
tới 30% tổng XK nhưng nay chỉ chiếm 12,6%. Giá nhập khẩu (NK) trung bình vào thị trường
này cũng đã giảm đi đáng kể. Để đẩy mạnh XK, nhiều DN cá tra Việt Nam đã và đang thay đổi
cách tiếp cận một cách tích cực sang thị trường này, trong đó có việc tăng sản phẩm cá tra chế
biến cao cấp (thuộc mã HS 16) giá cao.
Cá tra Việt Nam được công nhận có những thế mạnh về giá cả phải chăng, hương vị
thơm, đã được rút xương và dễ chế biến, cạnh tranh mạnh mẽ với các sản phẩm cá thịt trắng
bản địa. Nhưng chính vì tiêu chí giá rẻ đã khiến cá tra Việt Nam bị một số nhóm cạnh tranh lợi
ích với cá tra tại Đức, Pháp, Tây Ban Nha truyền thông tiêu cực. Họ đánh vào tâm ly coi ngành
cá tra Việt Nam là ngành sản xuất thiếu kiểm soát và có vấn đề về chất lượng, an toàn thực
phẩm và những lo ngại về môi trường, sức khỏe và an sinh xã hội. Chiến dịch bôi xấu này tập
trung tại một số quốc gia từ năm 2008 - 2011 đã khiến chỉ trong vài tuần, nhu cầu tiêu thụ cá
tra tại Bắc Âu giảm sút nghiêm trọng, lượng tiêu thụ giảm từ 3-4 lần. Đầu năm 2017, Đài
truyền hình Tây Ban Nha lại tiếp tục đánh vào “điểm yếu” về giá của cá tra Việt Nam bằng
truyền thông bôi xấu.
Điều đó càng minh chứng rằng, những nhận định và lập luận của một số chuyên gia cho
rằng, giá cả không phải “lực hút” đối với người tiêu dùng Châu Âu là đúng. Bởi nhiều sản
phẩm hải sản khác như: Cá thịt trắng, cá hồi, cá ngừ có mức giá cao gấp từ 3-10 lần so với cá
tra phile đông lạnh vẫn đang được tiêu thụ tốt tại nhiều thị trường Châu Âu. Với mức giá thấp
như nhiều năm qua, cá tra Việt Nam bị rơi vào phân khúc bán lẻ cho những người thu nhập
thấp, người già… mà đáng lẽ nó hoàn toàn có thể có mặt tại nhiều phân khúc khác.
Theo Hiệp hội chế biến xuất khẩu thủy sản ( Vasep), tính đến giữa tháng 5/2017, xuất
khẩu cá tra sang thị trường EU đạt 71,9 triệu USD, giảm 24,8% so với cùng kỳ năm trước.
Tuy vậy, giá trị XK sản phẩm cá tra chế biến (HS 16) vẫn tăng tại nhiều thị trường lớn
như: Tây Ban Nha, Hà Lan. Ngoài ra, trong nhóm sản phẩm nhóm cá tra đông lạnh (HS 03), đã
có nhiều DN giảm dần sản phẩm cá tra nguyên con đông lạnh, cá tra cắt khoanh đông lạnh, cá
tra phile đông lạnh còn thịt đỏ, cá tra block đông lạnh, cá tra gấp đuôi đông lạnh hay sản phẩm
cá tra phile đông lạnh, 20% với mức giá trung bình từ 1,2 - 2,3 USD/kg… và tăng sản phẩm
với tỷ lệ mạ băng thấp hơn, hàm ẩm thấp hơn để có giá bán cao hơn. Thực tế, tại nhiều thị
trường cũng đang chấp nhận và tăng NK sản phẩm đông lạnh chất lượng cao hơn. So với sản
phẩm chế biến cao cấp thì nhóm hàng đông lạnh có mức giá thấp hơn, trung bình từ 1,4 đến
3,65 USD/kg. Nghĩa là, bản thân nhóm hàng này cũng có sự phân khúc mức giá cao thấp khác
nhau tùy loại sản phẩm và khách hàng. Điều đó nói lên rằng, nếu các DN cá tra Việt Nam biết
tập trung tiếp thị và khôn ngoan bán trong các phân khúc thì vẫn có thể đạt giá trị cao trong
xuất khẩu.
Hiện nay, sản phẩm cá tra phile, mạ băng 0%, 10% đang được tiêu thụ khá tốt tại một
số thị trường EU như: Bỉ, Đức, Hy Lạp hay Anh. Trong đó, mức giá cao nhất đang chào bán
tại thị trường Anh và Bỉ sản phẩm cá tra phile đông lạnh, 0% với giá trung bình từ 3,07 - 3,95
USD/kg. Do đó, so với cùng kỳ năm 2016, khối lượng XK của nhiều DN giảm nhưng tổng giá
trị XK nhóm hàng đông lạnh (HS 0304) vẫn tăng do giá cao hơn.
Thống kê tổng hợp hải quan cho thấy, trong quý I/2017, sản phẩm cá tra xiên que đông
lạnh XK sang thị trường Hy Lạp giá khá tốt, trung bình từ 3,25 - 3,35 USD/kg. Do đó, một số
DN cá tra đang đẩy mạnh XK cá tra phile đông lạnh và xiên que sang thị trường này.
Tại một số thị trường NK khác cũng đang đón nhận các sản phẩm cá tra phile đông
lạnh, tỷ lệ mạ băng 0%, 10% với giá tốt như: Đức với mức giá NK trung bình từ 3,12 – 3,25
USD/kg; Anh từ 3,45 – 3,67 USD/kg; Hà Lan từ 3,07 - 3,48 USD/kg; Hy Lạp với mức trung
bình từ 3,45 - 3,65 USD/kg.
Một số nhà NK lớn tại EU như: Vandermaesen (Bỉ); A.Espersen (Đan Mạch); Link
Seafood Services GMBH (Đức) hay Anova Seafood B.V… cũng đang duy trì NK sản phẩm cá
tra phile đông lạnh với mức giá khá tốt so với các thị trường và khách hàng khác tại Châu Âu.
Khối lượng XK cá tra phile, tỷ lệ mạ băng 20% XK sang thị trường Hungari, Pháp hay
Italy trong quy I đầu năm nay của nhiều DN tăng từ 5-25% so với cùng kỳ năm trước. Tuy
nhiên, giá trị NK tăng không nhiều. Giá NK trung bình sản phẩm phile đông lạnh hay cắt khúc,
nguyên con đông lạnh tại hungari từ 1,2 – 2,02 USD/kg; tại Pháp từ 1,25 – 1,48 USD; Italy từ
1,4 – 1,75 USD/kg.
Thị trường EU vẫn còn nhiều tiềm năng cho các DN XK cá tra tiếp tục đẩy mạnh thêm
tại nhiều phân khúc, do đó nhiều DN vẫn đang kiên trì đẩy mạnh bán hàng sang thị trường này.
Với khối lượng có thể thấp hơn nhưng giá trị XK có thể giữ vững hoặc cao hơn, do doanh số
tăng khi đẩy mạnh phân khúc cá tra phile đông lạnh giá cao hơn, hàm ẩm, tỷ lệ mạ băng thấp
hơn. Nhìn xa hơn, với sản phẩm giá trị cao, chất lượng cao, các DN XK cá tra Việt Nam có thể
thuyết phục khách hàng, người tiêu dùng tăng mua và yên tâm về hàng hóa. Với các nhà NK
họ tiếp tục phát triển các phân khúc sở trường thay vì lo phải cạnh tranh với các sản phẩm giá
thấp trong mã HS 0304.
Đã tới lúc, các DN XK cá tra Việt Nam cần thay đổi tư duy và cách tiếp cận người tiêu
dùng, khách hàng Châu Âu. Qua phân tích trên cho thấy, chúng ta hoàn toàn có thể gia tăng
XK qua việc lựa chọn thông minh theo phân khúc và phương thức bán hàng. Và đây là hướng
đi đúng đắn để có thể duy trì sự bền vững cho ngành cá tra Việt Nam trong tương lai.
Tài liệu tham khảo:
- Vasep
- Chinhphu.vn
- vinanet.com.vn
- Nông nghiệp Việt Nam
- Thông tấn xã Việt Nam
- Báo Công Thương;
- Kinhtenongthon.vn;
- Tintucnongnghiep.com;
- Tổng Cục Hải quan.