Upload
canhtranly
View
31
Download
0
Embed Size (px)
Citation preview
Tục ngữ người Việt với việc phản ánh tri thức
dân gian về thế giới tự nhiên và các mối quan hệ
xã hội.
Thái Phương Thảo
Trường Đại học KHXH&NV Luận văn ThS. Chuyên ngành: Văn học dân gian
Người hướng dẫn: GS.TS. Nguyễn Xuân Kính, Mã số: 60 22 36 Năm bảo vệ:2013
Abstract: Tìm hiểu việc phản ánh tri thức dân gian về thế giới tự nhiên và mối quan hệ
xã hội trong tục ngữ: dự đoán thời tiết qua việc chiêm nghiệm những triệu chứng báo
trước của thiên nhiên; ứng dụng trong việc canh tác nông nghiệp; ứng dụng trong chăn
nuôi. Thống kê, so sánh và đưa ra nhận xét các biện pháp nghệ thuật thể hiện qua hai bộ
phận tục ngữ phản ánh thế giới tự nhiên và phản ánh các mối quan hệ xã hội.
Keywords: Tục ngữ, Văn học dân gian, Văn học Việt Nam
Content:
MỤC LỤC
MỤC LỤC ................................................... 1
QUY ƯỚC TRÌNH BÀY .......................................... 5
1. Kí hiệu viết tắt ............................................ 5
2. Về xuất xứ tài liệu .......................................... 5
MỞ ĐẦU .................................................... 6
1. Lý do chọn đề tài ............................................ 6
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề ...................................... 7
3. Giới thuyết một số khái niệm ................................... 9
4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu ................................ 10
5. Đối tượng nghiên cứu ........................................ 10
6. Phương pháp nghiên cứu ...................................... 11
7. Bố cục của luận văn ......................................... 11
Chương 1. ................................................... 12
TỤC NGỮ NGƯỜI VIỆT VỚI VIỆC PHẢN ÁNH TRI THỨC DÂN GIAN VỀ THẾ
GIỚI TỰ NHIÊN .............................................. 12
1.1. Dự đoán thời tiết ........................................ 12
1.1.1. Dự đoán thời tiết qua việc chiêm nghiệm những triệu chứng báo trước của
thiên nhiên ............................................... 12
1.1.2. Dự đoán thời tiết qua việc quan sát động vật .................... 19
1.1.3. Dự đoán thời tiết qua việc quan sát thực vật ..................... 21
1.2. Ứng dụng trong việc canh tác nông nghiệp ......................... 23
1.2.1. Ứng dụng trong trồng lúa ................................. 23
1.2.2. Kinh nghiệm trồng một số loại cây khác........................ 31
1.3. Ứng dụng trong chăn nuôi .................................... 34
1.3.1. Kinh nghiệm đánh bắt cá ................................ 34
1.3.2. Kinh nghiệm chăn thả gia súc gia cầm ......................... 36
TIỂU KẾT CHƯƠNG 1 ......................................... 39
Chương 2. ................................................... 40
TỤC NGỮ NGƯỜI VIỆT VỚI VIỆC PHẢN ÁNH TRI THỨC DÂN GIAN VỀ CÁC
MỐI QUAN HỆ XÃ HỘI ........................................ 40
2.1. Mối quan hệ trong gia đình ................................... 40
2.1.1. Mối quan hệ giữa ông bà - cháu, cha mẹ - con: ................... 40
2.1.2. Mối quan hệ vợ chồng ................................... 45
2.1.3. Mối quan hệ mẹ chồng – nàng dâu, bố mẹ vợ – con rể, dì ghẻ – con chồng, bố
dượng – con vợ: ........................................... 49
2.1.4. Mối quan hệ giữa anh chị em ruột trong gia đình: ................. 52
2.1.5. Mối quan hệ họ hàng .................................... 55
2.2. Tục ngữ phản ánh mối quan hệ ngoài xã hội. ....................... 58
2.2.1. Mối quan hệ bạn bè, thầy trò trong tục ngữ ..................... 58
2.2.2. Mối quan hệ đồng bào, hàng xóm láng giềng: .................... 62
2.2.3. Mối quan hệ giữa chủ và người làm thuê ....................... 64
2.2.4. Mối quan hệ vua quan và dân trong tục ngữ ..................... 65
TIỂU KẾT CHƯƠNG 2 ......................................... 69
Chương 3. ................................................... 70
SO SÁNH CÁC BIỆN PHÁP NGHỆ THUẬT THỂ HIỆN QUA MẢNG ĐỀ TÀI VỀ THẾ
GIỚI TỰ NHIÊN VÀ CÁC MỐI QUAN HỆ XÃ HỘI ..................... 70
3.1. Xét về mặt nghĩa. ......................................... 70
3.1.1. Nghĩa của những câu tục ngữ phản ánh tri thức về thế giới tự nhiên ..... 71
3.1.2. Nghĩa của những câu tục ngữ phản ánh tri thức về các mối quan hệ xã hội . 73
3.2. Xét về mặt cấu trúc ........................................ 77
3.2.1. Cấu trúc của những câu tục ngữ phản ánh thế giới tự nhiên .......... 78
3.2.2. Cấu trúc của những câu tục ngữ phản ánh các mối quan hệ xã hội ...... 80
3.3. Xét về cách gieo vần và nhịp điệu............................... 82
3.3.1. Về cách gieo vần : ...................................... 82
3.3.2. Nhịp điệu : ........................................... 85
TIỂU KẾT CHƯƠNG 3 ......................................... 92
KẾT LUẬN ................................................. 93
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................... 95
Chương 1.
TỤC NGỮ NGƯỜI VIỆT VỚI VIỆC PHẢN ÁNH
TRI THỨC DÂN GIAN VỀ THẾ GIỚI TỰ NHIÊN
Bằng những câu nói ngắn gọn, súc tích tục ngữ đã
“Diễn đạt rất hoàn hảo toàn bộ kinh nghiệm đời sống, kinh
nghiệm xã hội, lịch sử của nhân dân lao động” (Gorki).
Những kinh nghiệm ấy được rút ra trong lịch sử đấu tranh
tự nhiên và đấu tranh xã hội, được thể nghiệm nhiều lần
trong nhận thức, đã trở nên thành những chân lý có tính
chất phổ biến và được toàn nhân dân lao động công nhận
và sử dụng.
Đó là những kinh nghiệm lâu đời và có tính chất tập thể
được rút ra trong quá trình quan sát các hiện tượng tự
nhiên, quá trình dùng sức người biến cải thiên nhiên, hiện
tượng tự nhiên, quá trình xây dựng kinh tế sản xuất.
Tục ngữ người Việt với việc phản ánh tri thức dân gian
về thế giới tự nhiên được xem xét dưới 3 góc độ:
- Dự đoán thời tiết: Người bình dân xưa đã dự đoán
thời tiết qua ba yếu tố:
+ Chiêm nghiệm qua các triệu chứng báo trước của
thiên nhiên:
Đã từ lâu thiên nhiên là đối tượng không thể tách
rời với cuộc sống lao động và sinh hoạt của con người.
Việc sản xuất nông nghiệp luôn gắn chặt với từng sự
thay đổi của thiên nhiên. Vì vậy, việc khám phá và tìm
hiểu một cách cụ thể, chính xác tự nhiên để từ đó con
người có những cách ứng xử, biến đổi và cải tạo thiên
nhiên nhằm phát triển cuộc sống của mình ở mức cao
hơn. Người Việt từ đó có thể cùng chung sống với thiên
nhiên mà không hề bị lệ thuộc vào nó, thông qua những
công việc hàng ngày con người đã quan sát, đúc kết cho
mình và những thế hệ đời sau những kinh nghiệm và
bài học vô cùng quý báu để con người có thể ứng dụng
một cách linh hoạt và sáng tạo trong cuộc sống của
mình ở từng thời kỳ và thời điểm khác nhau.
Thời tiết luôn là một trong những nhân tố tác động
trực tiếp đến năng suất và sản lượng cây trồng và vật
nuôi. Nếu không nắm bắt được những quy luật của thời
tiết thì dù người lao động có bỏ ra công sức bao nhiêu
cũng không thể thu về lợi ích cho mình. Và vì thế, từ
buổi bình minh của loài người, người Việt đã đúc kết ra
những kinh nghiệm dự báo thời tiết cho mình dựa trên
những yếu tố như chiêm nghiệm bằng thời gian, những
triệu chứng báo trước của thiên nhiên, qua việc quan sát
động thực vật để từ đó ứng dụng và ứng phó với tự thay
đổi của thiên nhiên để canh tác nông nghiệp, phát triển
sản xuất.
Trước hết, những câu nói ấy ban đầu là câu nói của
một cá nhân trong cộng đồng. Rồi từ đó, nó được đúc
kết kiếm chứng rồi chuyển từ người này sang người
khác, nó đã trở thành câu nói của cả cộng đồng người,
là tri thức không thể thiếu trong đời sống lao động của
con người Việt.
Dự đoán thời tiết qua thời gian trong một năm
Thời gian nông lịch của người Việt từ ngàn xưa cho
đến nay được chia thành mười hai tháng, từ tháng một
đến tháng mười hai hay còn được chia thành bốn mùa
xuân, hạ, thu, đông.
Căn cứ vào thời gian này mà người dân Việt đã xem
xét chiêm nghiệm thời tiết. Theo đó, các hiện tượng của
thiên nhiên như mưa, nắng, bão, gió đều được đề cập
một cách tương đối đầy đủ.
Ngoài ra, ông cha ta còn dự đoán các hiện tượng
thời tiết dựa vào các triệu chứng báo trước của thiên nhiên.
Điều này, cho thấy óc nhận xét tinh tế của nhân dân ta. Họ
không chỉ dừng lại ở việc trông trời trông đất, khả năng
quan sát mà còn trông mây trông mưa để có thể phòng
chống và tránh được những ảnh hưởng nặng nề của thiên
tai.
Tục ngữ phản ánh tất cả những kiểu thời tiết, hiện
tượng của thiên nhiên nhưng xét trong tổng số những câu
tục ngữ nói về các hiện tượng tự nhiên thời tiết trong Tục
ngữ Việt Nam, số câu tục ngữ nói về mưa và nắng là nhiều
nhất. Bởi lẽ mưa nắng quyết định việc được mất trong sản
xuất nông nghiệp. Người dân chú trọng hai kiểu thời tiết
này dưới nhiều góc độ và quan sát chúng, dự báo dựa vào
những triệu chứng báo trước của thiên nhiên.
Những hiện tượng báo hiệu trời mưa được quan sát
qua các kiểu hiện tượng báo trước như: mống, ráng, sấm,
chớp, thâm, gió….Nhân dân ta đã quan sát các triệu trứng
báo trước của thiên nhiên và đặc biệt đã chú ý đến hai hiện
tượng của trời đó là sấm, chớp. Dự báo thời tiết mưa người
bình dân còn dựa vào thâm, sầm hay màu sắc của bầu trời.
Ngoài ra, quan sát mặt trời, mặt trăng, mây, sao… để dự
báo thời tiết nắng mưa.
Rõ ràng rằng, theo kinh nghiệm của dân gian, khi
mặt trăng có quầng thì trời sẽ hạn hán, có tán tản ra bên
ngoài thì trời sẽ có mưa. Hay khi có mây xanh thì trời
nắng, mây trắng thì trời sẽ đổ mưa. Cũng căn cứ vào kiểu
thời tiết này thì cứ trời có ít sao thì sẽ có mưa lớn, nhiều
sao thì không mưa mà có nắng to. Dựa theo đó mà người
dân sẽ biết phải phòng chống thiên tai, lũ lụt, hạn hán như
thế nào và nhắc nhở mọi người trong việc trồng cây, hoa
màu và con giống để có thể có được năng suất cao khi gặp
phải những thay đổi bất thường. Từ những kinh nghiệm
trông trời, trông đất này mà người dân đã có được những
kinh nghiệm trong gieo trồng, chăn nuôi, giúp họ biết trước
được sẽ được hay mất mùa.
Ngay từ buổi bình minh con người đã khẳng định
được khả năng về trí tuệ của mình. Những kinh nghiệm ấy
xét trên lĩnh vực khoa học thì nó chỉ là việc dự báo thời tiết
một cách đơn thuần nhưng xét trên một góc độ khác thì đó
là cả cách nhìn, nhận xét, đánh giá, nhận xét tinh tường của
thế hệ trước mà cho tới ngày nay nó vẫn còn nguyên vẹn
giá trị. Nó thể hiện cách nhìn, cách cảm, cách nhận biết của
người nông dân về hiện tượng diễn ra quanh mình.
+ Dự đoán thời tiết qua việc quan sát động vật
Người dân chú ý đến các loại động vật như kiến, cóc,
ếch, én, quạ, chuồn chuồn.
Đó là những quan sát của người dân Việt với những âm
thanh, hình ảnh hàng ngày có thể nhìn thấy, nghe thấy,
trông thấy được. Trong tục ngữ Việt còn có bộ phận những
câu tục ngữ đuợc quan sát qua hình ảnh những con chim,
trong đó hình ảnh của những con chim én, con quạ, con sáo
được nhân dân ta chú ý và đề cập đến như là những biểu
tượng báo trước kiểu thời tiết mưa nắng.
Người nông dân trong quá trình làm việc đã rút ra được
những kinh nghiệm quý báu cho mình. Khi làm việc trên
đồng ruộng họ nhìn thấy những hiện tượng thường xuyên
diễn ra và đúc rút được những kinh nghiệm quý báu ấy.
Loài vật có mối quan hệ mật thiết với việc sản xuất của
người dân. Từ đó, họ dựa vào những loài vật ấy để dự báo
thời tiết nhằm sản xuất cho kịp thời vụ tránh được những
thiệt hại cho việc chăm bón và nuôi trồng. Kinh nghiệm ấy
là những bài học không thể nào thiếu được trong việc sản
xuất của người dân.
+ Dự đoán thời tiết qua việc quan sát thực vật
Ngoài một số loài vật được nhân dân quan sát như là
một đối tượng để dự báo thời tiết, người nông dân còn căn
cứ vào một số loài thực vật, cây cỏ. Người nông dân ấy
nhận biết một cách sâu sắc cần chú ý đến thời tiết, hiện
tượng mưa nắng để có biện pháp ứng phó kịp thời trong
sản xuất. Trong khi không có các dụng cụ chuyên nghiệp
để dự báo thì người nông dân chỉ có biện pháp là căn cứ
vào những dấu hiệu xung quanh mình.
Nằm trong khu vực có khí hậu nhiệt đới ẩm gió mùa,
rất thuận lợi cho việc sinh trưởng và phát triển của những
loại động thực vật vì thế ngoài việc căn cứ vào những loài
động vật người dân còn dựa vào những loài thực vật có
những thay đổi nhạy cảm với các loại hiện tượng thời tiết.
Một số loài thực vật được nhân dân để ý đến nhiều có thể
kể đến như cỏ gà, rễ si, lá tre ….
Rõ ràng với những cây cỏ, thực vật vô cùng nhỏ bé mà
gũi với đời sống hàng ngày của người dân mà nhân dân ta
đã đưa ra những kinh nghiệm vô cùng quý báu, dự báo thời
tiết, dự đoán trước được sự thay đổi bất ngờ bất thường của
thiên nhiên. Chúng ta cũng dễ dàng nhận thấy được sự gắn
bó của nhân dân với công việc lao động mà từ đó mới nảy
sinh và quan sát được những mối liên hệ mật thiết giữa
những cây cỏ thực vật với thời tiết.
Tục ngữ nói về thiên nhiên, thời tiết ra đời và phát triển
trong thực tiễn đấu tranh và chinh phục thiên nhiên của
người Việt. Nó phản ánh mối quan hệ tích cực của con
người đối với tự nhiên – tích cực vì nó nhằm tìm hiểu, cải
tạo thế giới tự nhiên. Sự cải tạo ấy một mặt thể hiện ở
khuynh hướng lợi dụng những điều kiện tự nhiên sẵn có
mặt khác tìm cách phát huy sự tác động của con người vào
điều kiện tự nhiên ấy để lao động sản xuất có kết quả. Từ
việc làm ấy, nhân dân ta đã tìm cách để áp dụng vào sản
xuất trong công việc trồng trọt cũng như chăn nuôi và các
hình thức lao động khác.
- Ứng dụng trong việc canh tác nông nghiệp
Trong cuộc sống lao động sản xuất hàng ngày, nhân
dân ta luôn chú trọng đến diễn biến của thời tiết và nhận
xét các hiện tượng của nó. Từ đó, trải qua nhiều thời kỳ,
nhân dân ta đã tích lũy được những kinh nghiệm và tổng
hợp tương đối chính xác diễn biến khí hậu trong cả năm.
Những kinh nghiệm ấy có phần phù hợp với khoa học và
thực tiễn đã có những tác dụng nhất định trong quá trình
đấu tranh với thiên tai, đảm bảo sản xuất có kết quả.
+ Ứng dụng trong trồng lúa
Trong bộ phận câu tục ngữ nói về kinh nghiệm lao
động thì phần lớn là những câu tục ngữ nói về nghề trồng
trọt, mà chủ yếu là nghề trồng lúa nước. Như chúng ta đã
biết suốt thời kỳ phong kiến, lao động sản xuất của nhân
dân ta vẫn là sản xuất nông nghiệp. Cho tới ngày nay, nước
ta vẫn là một nước nông nghiệp, cư dân người Việt sinh
sống chủ yếu trên dải đồng bằng sông và đồng bằng ven
biển. Vì thế, nghề trồng lúa nước là một nghề chiếm ưu
thế. Dựa vào các điều kiện tự nhiên sẵn có mà nhân dân ta
đã biết áp dụng trong lao động sản xuất để thu lại hiệu quả
kinh tế cao nhất. Điều này thể hiện rõ ràng trong tục ngữ,
nó được chứng minh bằng việc số lượng của những câu tục
ngữ nói về nghề trồng lúa chiếm đại đa số, trong đó mọi
mặt của việc trồng lúa nước đều được đề cập một cách đầy
đủ và rõ nét từ việc nhận thức về đặc tính của những loại
lúa khác nhau cho đến kinh nghiệm làm mạ, cày bừa, cấy
lúa và chăm bón… tất cả đều được thể hiện một cách đầy
đủ và sinh động trong tục ngữ của người Việt.
Đó là những kinh nghiệm về nhận thức những đặc
tính của những loại lúa khác nhau ở Việt Nam, kinh
nghiệm làm mạ, địa điểm gieo mạ, cách gieo mạ, làm
ruộng, cấy lúa, chăm bón. Từ những thực tiễn lao động sản
xuất mà nhân dân ta đã để lại một kho tàng tri thức nông
nghiệp quan trọng về việc trồng lúa từ khâu gieo mạ cho
đến khâu chăm bón. Tất cả được vẽ lại một cách tỉ mỉ và kĩ
càng. Điều này cho ta thấy khả năng quan sát nhận biết các
sự vật hiện tượng của nhân dân ta từ ngàn xưa. Với những
kinh nghiệm ấy ta cũng có thể khẳng định nước Việt ta
xuất phát từ một nước nông nghiệp, cây canh tác chủ yếu
là cây lúa nước, là quê hương của những người thuần
nông, hiền lành, chất phác mà có những nhận xét, óc phán
đoán tinh tế, sáng tạo để lại những bài học kinh nghiệm vô
cùng to lớn cho muôn đời sau. Đó là một kho tàng tri thức
vô cùng phong phú và đa dạng.
+ Kinh nghiệm trồng một số loại cây khác
Căn cứ vào điều kiện tự nhiên mà cha ông ta còn có
thể phát triển một số loại cây trồng khác ngoài cây lúa là
sản phẩm nông nghiệp chính. Đó là việc trồng một số loại
cây hoa màu. Cây hoa màu cũng chiếm một phần không
nhỏ trong quá trình canh tác của nhân dân ta mặc dù mỗi
loại mang những đặc điểm khác nhau. Người dân thường
trồng các loại cây này trên vùng đất khô, đất màu mỡ hay
còn có thể xen canh gối vụ với cây lúa. Một số loại hoa
màu được nhân dân ta trồng nhiều như cây đỗ, vừng, lạc,
dưa, khoai, các loại củ …. Thời gian gieo trồng từng loại
này cũng phải phụ thuộc vào từng thời điểm khác nhau
trong năm.
- Ứng dụng trong chăn nuôi
+ Kinh nghiệm đánh bắt cá
Ở nước ta cùng với nghề trồng trọt thì nghề đánh cá,
chăn nuôi trồng dâu nuôi tằm cũng chiếm những vị trí
quan trọng trong đời sống lao động của nhân dân. Điều đó
được phản ánh khá đầy đủ trong những câu tục ngữ nói về
chăn nuôi.
Nhân dân thường nói:
“Thứ nhất canh trì, thứ nhì canh viên, tam
thứ canh điền.”
Nghĩa là nuôi cá là nghề thu lại lợi nhuận kinh tế
cao nhất, sau đó mới đến làm vườn và làm ruộng. Trong
nghề nuôi cá, dân gian có cả một kho kinh nghiệm về chăn
thả và đánh bắt. Từ quá trình chọn điều kiện để thả, chọn
con giống và quá trình đánh bắt… tất cả đều được tái hiện
một cách sinh động. Mỗi nơi, mỗi loại cá có những yêu cầu
riêng và vì thế, những bài học kinh nghiệm đó là cả một
kho tàng vô giá trong quá trình nuôi thả cá. Những kinh
nghiệm ấy quả đã chứng tỏ sự yêu thích và gắn bó mật
thiết với cuộc sống lao động của những người lao động
xưa. Đồng thời cũng khẳng định khả năng quan sát và nhận
xét tinh tế của những người bình dân xưa. Bởi lẽ, những
kinh nghiệm ấy vẫn được các thế hệ sau sử dụng như là
những công thức không thể nào thay đổi được.
+ Kinh nghiệm chăn thả gia súc gia cầm
Trước tiên đó là kinh nghiệm chọn giống. Việt Nam
là nước nông nghiệp điển hình. Trâu là con vật có vai trò
lớn trong sản xuất nông nghiệp. Công việc chính của nhà
nông như cày bừa, vận chuyển thóc gạo... đều do trâu đảm
nhiệm. Trâu gắn bó thân thiết với cả đời người nông dân vì
thế nó đã đi vào đời sống vật chất và tinh thần của người
nông dân Việt Nam từ xa xưa. Hình ảnh con trâu đã được
thể hiện trong văn học dân gian, đặc biệt là thể hiện trong
tục ngữ Việt Nam một cách đậm nét. Đó là kinh nghiệm
chọn và chăn nuôi các giống vật nuôi như trâu, bò, lợn,
gà… những con vật nhỏ bé ấy đi vào tục ngữ một cách tự
nhiên và mang những giá trị biểu cảm cao phản ánh đời
sống sinh hoạt và lao động của người dân Việt bao đời nay.
Chương 2.
TỤC NGỮ NGƯỜI VIỆT VỚI VIỆC PHẢN ÁNH TRI
THỨC DÂN GIAN VỀ CÁC MỐI QUAN HỆ XÃ HỘI
Các mối quan hệ xã hội được phản ánh đầy đủ trên hai
phương diện: đó là các mối quan hệ trong gia đình Việt và
các mối quan hệ ngoài xã hội. Đó là những mối quan hệ
phong phú, phức tạp và sâu rộng phản ánh muôn mặt của
đời sống tạo nên một xã hội thống nhất và vẹn toàn nằm
trong những khuôn mẫu, thể chế nhất định. Đó là những
mối quan hệ trong gia đình và ngoài xã hội
- Mối quan hệ trong gia đình
+ Mối quan hệ giữa ông bà - cháu, cha mẹ - con:
Sự nghiệp của gia đình do ông bà, cha mẹ xây dựng và
tạo lập. Thế hệ sau là con cháu tiếp nối, lưu truyền và phát
triển. Trong gia đình, đó là mối quan hệ ruột thịt thiêng
liêng, cao cả. Tục ngữ đã coi mối quan hệ ấy như là một
đối tượng phản ánh không thể tách rời:
“Con người có cố có ông, như cây có cội như sông có
nguồn”.
Trước tiên, đó là quan hệ giữa cha mẹ và con cái. Nó
được phản ánh sâu sắc mà đầy đủ trong tục ngữ, thể hiện
cách nghĩ, cách sống và cách cảm của người Việt.
Đó là sự yêu thương, lo lắng bảo vệ con của những
đấng sinh thành. Dù ở bất kỳ nơi đâu, làm gì, cha mẹ luôn
hướng về những đứa con của mình, bởi lẽ con cái là nguồn
động viên tinh thần không thể thiếu, không thể tách rời của
cha mẹ.
Đó là vai trò “trụ cột gia đình” của người cha, vai trò
không thể thiếu được ở trong bất kỳ một gia đình nào.
Người cha cho con lòng can đảm, dũng cảm vượt qua mọi
chông gai, thử thách của cuộc sống; cho con khí chất mạnh
mẽ, dám làm dám chịu và để con đủ lông đủ cánh khẳng
định bản thân mình trong cuộc sống.
Đó còn là vai trò của người mẹ đối với con cái. Tục
ngữ thường nói “công cha, nghĩa mẹ”. Nếu như nói về tình
cha con tục ngữ khẳng định “phụ tử tình thâm” thì nói đến
tình mẫu tử, tục ngữ một lần nữa đề cao vai trò của người
mẹ mà trước hết đó là sự hy sinh lớn lao, âm thầm mà lặng
lẽ của người mẹ “chỗ ướt mẹ nằm chỗ ráo con lăn”.
Bên cạnh việc ca ngợi công ơn của người mẹ, tục ngữ
cũng lên án, phê phán một cách nghiêm khắc với những
người con thiếu trách nhiệm, thiếu tình thương, không làm
tròn nghĩa vụ và bổn phận của người con đối với cha mẹ.
Tục ngữ cũng đặt ra vấn đề trách nhiệm của cha mẹ với
con cái trong việc nuôi dạy chúng.
Không có người cha người mẹ nào lại không muốn
chứng kiến sự thành đạt của con và hạnh phúc khi thấy con
cái phát huy được cái chí của mình. Vì thế câu tục ngữ như
là những bài học, lời cảnh tỉnh và cũng là sự mong mỏi lớn
lao của cha ông vào thế hệ sau. Dân tộc ta luôn coi trọng
con người. Vì vậy những bài học về tình cha mẹ – con cái,
ông bà - cháu được phản ánh sâu sắc truyền từ đời này
sang đời khác. Nó được phản ánh nhiều mặt, nhiều khía
cạnh nói lên sự sâu sắc trong lối sống, lối nghĩ của người
dân Việt.
+ Mối quan hệ vợ chồng
Quan hệ vợ chồng là mối quan hệ được đề cập đến
nhiều trong tục ngữ. Bắt đầu từ mối quan hệ này mà nảy
sinh và hình thành nhiều mối quan hệ khác trong gia đình
và ngoài xã hội.
Xét trong mối quan hệ gia đình, mối quan hệ vợ chồng
là mối quan hệ gắn bó gần gũi cả về thể xác và tâm hồn.
người vợ và người chồng đảm nhiệm những trách nhiệm
khác nhau trong gia đình. Mỗi người một tính cách, một
suy nghĩ vì thế không thể tránh khỏi những xô xát trong
cuộc sống chung, nhưng tục ngữ cũng đã lên tiếng phê
phán những thói trăng hoa bên ngoài của người chồng và
bênh vực cho người vợ chịu thương chịu khó chấp nhận
hoàn cảnh vượt lên những khó khăn trong cuộc sống. điều
đó chứng tỏ mơ ước về một cuộc sống gia đình hạnh phúc
hướng tới một xã hội tốt đẹp đã tồn tại từ ngàn xưa.
+ Mối quan hệ mẹ chồng – nàng dâu, bố mẹ vợ – con
rể, dì ghẻ – con chồng, bố dượng – con vợ:
Theo quan niệm truyền thống, người dân cho rằng
những mối quan hệ này là mối quan hệ xa cách, không
chung huyết thống. Phản ánh những mối quan hệ không
cùng huyết thống trong gia đình, tục ngữ Việt cũng phản
ánh một cách chân thực và tỉ mỉ. Đồng thời cũng cất lên
tiếng chia sẻ với những thân phận bị chà đạp, có cuộc sống
không được vẹn toàn, hạnh phúc. Điều đó thể hiện lối nghĩ
và cảm thông sâu sắc của người Việt bao nhiêu đời nay.
+ Mối quan hệ giữa anh chị em ruột trong gia đình:
Bên cạnh mối quan hệ bố mẹ – con cái, mối quan hệ
anh chị em trong gia đình cũng là mối quan hệ được đề cập
nhiều, phong phúc ở nhiều khía cạnh khác nhau. Mối quan
hệ này thực tế là mối quan hệ của những người ruột thịt,
người thân, đó là mối quan hệ giữa anh chị em ruột, anh
em rể và chị em dâu.
Coi trọng sự yêu thương, quý mến và giúp đỡ lẫn
nhau, tục ngữ còn coi trọng nghĩa tình mối quan hệ anh chị
em trong gia đình. Người Việt luôn hướng đến sự thuận
hoà, bình an và hạnh phúc, họ luôn mong ước đến sự tốt
lành. Và điều ấy được phản ánh đầy đủ, ngắn gọn trong tục
ngữ.
+ Mối quan hệ họ hàng
Mối quan hệ họ hàng là mối quan hệ có cùng huyết
tộc. Nó gắn liền với đặc điểm sinh sống của bộ phận cư
dân người Việt. Họ sống theo đơn vị làng, xã và những
người có họ hàng thường ở bên cạnh nhau cùng nhau sinh
sống, giúp đỡ, tương trợ lẫn nhau.
Một gia đình bao giờ cũng có hai họ: họ nội (bên
cha) và họ ngoại (bên mẹ). Đây là mối quan hệ gia đình
được mở rộng từ gia đình hạt nhân (cha mẹ và con cái).
- Tục ngữ phản ánh mối quan hệ ngoài xã hội.
Các mối quan hệ này bị chi phối bởi mối quan hệ
trong gia đình. Tục ngữ dạy cho các thế hệ sau biết cách
ứng xử ở trong gia đình và đồng thời chỉ cho họ biết cách
ứng xử ở ngoài xã hội. Trong xã hội cũ, người bình dân
luôn sống trong cái đói, cái nghèo, những cảnh cơ hàn…
Cuộc sống đó giúp họ nhận ra cần phải gắn bó mình với
môi trường chung, gắn mình với cả cộng đồng người để
tìm thấy sự hoà thuận, cùng nhau xây dựng và phát triển
một cuộc sống tốt đẹp hơn. Các mối quan hệ trong xã hội
được đề cập đến trong tục ngữ tương đối nhiều phản ánh
lối sống và suy nghĩ của người dân Việt từ xa xưa.
+ Mối quan hệ bạn bè, thầy trò trong tục ngữ
Mối quan hệ bạn bè, thầy trò là mối quan hệ được nhân
dân ta quan tâm. Không ai sống mà không có bạn bè,
không có người hướng đường chỉ lối.
Trong khi nói đến mối quan hệ bạn bè, tục ngữ đề cập
đến những kinh nghiệm chọn bạn bởi vì bạn bè có tầm ảnh
hưởng vô cùng to lớn tới nhân cách và sự nghiệp của con
người đồng thời cũng khuyến khích việc học tập những
điều hay điều tốt từ những người bạn xung quanh, bên
cạnh đó cũng không thể không đề phòng với những người
bạn có tính xấu.
Trong mối quan hệ thày trò, người dân Việt cũng lưu ý
tới việc kính thày, tôn trọng người thày đã, đang và sẽ dạy
mình. Điều đó tạo nên truyền thống tôn sư trọng đạo của
dân tộc Việt. Tục ngữ đã đề cao vai trò và tầm ảnh hưởng
của người thầy trong việc giáo dục đạo đức cũng như kiến
thức cho học sinh. Người thầy quyết định một phần không
nhỏ trong sự phát triển con người.
+ Mối quan hệ đồng bào, hàng xóm láng giềng:
Người dân Việt vẫn thường nhắc nhở nhau, dân tộc
được sinh ra bởi cái bọc trăm trứng của mẹ Âu Cơ. Vì thế,
mối quan hệ đồng bào, hàng xóm láng giềng là mối quan
hệ ruột thịt, gắn bó với nhau. Vì có tinh thần đoàn kết
tương hỗ giúp đỡ lẫn nhau mà đã giúp cho dân tộc Việt
chiến thắng mọi kẻ thù xâm lược, chiến thắng trước thiên
tai, hiểm hoạ.
Tục ngữ khẳng định người hàng xóm láng giềng là
những anh em gần gũi sớm hôm, tối lửa tắt đèn có nhau.
Sống trong môi trường làng xã có anh em láng giềng là
điều kiện cần và không thể thiếu được. Điều đó tạo nên sự
đoàn kết trong cộng đồng xã hội, nó tạo nên sức mạnh lớn
chiến thắng mọi kẻ thù.
+. Mối quan hệ giữa chủ và người làm thuê
Trong xã hội xưa, nền kinh tế nước ta là nền kinh tế
chủ yếu phát triển dựa vào nông nghiệp mà chưa phát triển
những ngành nghề khác. Quan hệ giữa chủ và người làm
thuê la quan hệ mâu thuẫn với nhau về mọi mặt từ địa vị xã
hội, đến tiếng nói, từ tài sản, việc làm và sự hưởng thụ, từ
tính cách đến lối sống.
Đó là mối quan hệ muôn đời không thể dung hoà được.
Nó chỉ có thể được giải quyết khi người dân lao động làm
thuê biết đứng lên đấu tranh và giành lấy sự làm chủ cuộc
sống về cho mình. Với việc phản ánh mối quan hệ này, tục
ngữ đã khẳng định một cách chân thực mà sâu sắc về sự
thiếu công bằng trong xã hội phong kiến xưa đã chèn ép
cuộc sống của người dân lao động chân chính, đẩy họ vào
nỗi khổ thiếu thốn cả về vật chất và tinh thần. Qua đó, tục
ngữ lên án xã hội với thực trạng “cá lớn nuốt cá bé” trong
xã hội xưa.
+ Mối quan hệ vua quan và dân trong tục ngữ
Giống như mối quan hệ giữa chủ và người làm thuê, tục
ngữ một lần nữa đi sâu hình ảnh của mối quan hệ đối lập
giữa giai cấp thống trị và kẻ bị trị nhưng ở mức độ cao hơn
đó là mối quan hệ giữa vua quan và dân. Đây là mối quan
hệ tồn tại bền bỉ và dai dẳng trong xã hội phong kiến duy
trì ở nước ta từ trước cách mạng tháng Tám.
Tục ngữ vẽ lên quan niệm của người dân về thân phận
thấp cổ bé họng của người dân nghèo và cái sự định danh
phận từ trước của những bậc vua chúa, con cháu vua chúa.
Tục ngữ cũng đã dành một phần không nhỏ để phản
ánh mối quan hệ giữa vua quan và dân trong xã hội cũ. Có
thể nói, đó là mối quan hệ có nhiều mâu thuẫn và gay gắt
nặng nề mà không thể bỏ qua, dung hòa được. Vua quan
luôn là đối tượng mà người dân chĩa mũi nhọn, chĩa con
mắt đấy oán giận và thù ghét. Tục ngữ đã phê phán một
cách gay gắt thói tham nhũng ăn chơi mà không chú ý đến
cuộc sống của những người bên dưới, là con dân luôn chịu
cảnh hà hiếp oan trái.
Chương 3.
SO SÁNH CÁC BIỆN PHÁP NGHỆ THUẬT ĐƯỢC
THỂ HIỆN QUA HAI BỘ PHẬN CỦA TỤC NGỮ
PHẢN ÁNH TRI THỨC VỀ THẾ GIỚI TỰ NHIÊN
VÀ CÁC MỐI QUAN HỆ XÃ HỘI
- Xét về mặt nghĩa.
+ Nghĩa của những câu tục ngữ phản ánh tri thức về
thế giới tự nhiên
Với những câu tục ngữ phản ánh thế giới tự nhiên và
các mối quan hệ với thế giới tự nhiên đa vốn chỉ mang một
mặt nghĩa, đó là nghĩa đen.
Lối suy nghĩ của tục ngữ ban đầu là lối suy nghĩ dựa
vào kinh nghiệm, dựa vào quan sát trực tiếp sự vật cụ thể.
Có nghĩa là ban đầu nó được dùng với nghĩa đen, nghĩa
trực tiếp để phản ánh một sự vật hoặc một hiện tượng cụ
thể nào đó.
Những câu tục ngữ nói về những nhận thức của nhân
dân ta về thế giới tự nhiên, lao động sản xuất nông nghiệp
chúng tôi nhận thấy tác giả dân gian đã sử dụng lối nói trực
tiếp, hiển ngôn. Từ đó, bộ phận những câu tục ngữ này
thường chỉ mang một nghĩa – nghĩa đen. Điều đó phù hợp
với việc truyền bá tri thức dân gian về kinh nghiệm nhận
thức thế giới tự nhiên và lao động sản xuất từ đời này sang
đời khác. Nó mộc mạc, dễ hiểu bởi với phương thức tạo
nghĩa này tác giả dân gian thường không sử dụng hình ảnh
cũng như các biện pháp chơi chữ, tu từ.
Điều này cũng giúp cho việc truyền bá những kinh
nghiệm đó một cách dễ dàng hơn. Vì thế, nó thường chỉ
mang một nghĩa hay còn gọi là nghĩa đen là điều hoàn toàn
dễ hiểu. Đọc mỗi câu tục ngữ nói về thiên nhiên thời tiết
hay các kinh nghiệm áp dụng ta đều thấy điều này.
+ Nghĩa của những câu tục ngữ phản ánh tri thức về
các mối quan hệ xã hội
Với bộ phận câu tục ngữ đúc kết những kinh nghiệm,
những quan niệm phản ánh về các mối quan hệ xã hội,
những triết lý nhân sinh thông thường vừa có nghĩa đen và
vừa có nghĩa bóng.
Rõ ràng, những câu tục ngữ có khả năng mở rộng nghĩa
là những câu nói về những quan niệm về xã hội, nhân sinh.
Khi mở rộng nghĩa, nghĩa của tục ngữ không còn mang
tính cố định khi chỉ về một hiện tượng, sự vật cụ thể nữa
mà có thể đề cập đến nhiều sự vật, hiện tượng mà người ta
có thể đồng nhất hoá. Nghĩa biểu trưng của tục ngữ không
chỉ phản ánh một sự vật, hiện tượng mà đã tiến đến khái
quát hoá, trừu tượng hoá tức là đã tiến đến gần với tư duy
khoa học. Nghĩa biểu trưng của tục ngữ được dùng để phản
ánh những quy luật chung nhất của thế giới khách quan,
quy luật vận động và phát triển của xã hội.
Chính vì đại bộ phận tục ngữ nói về các mối quan hệ xã
hội được cấu tạo bằng phương pháp biểu trưng nên chúng
ta cho rằng cách nói của bộ phận những câu tục ngữ là
cách nói ví von, cách nói có hình ảnh dựa trên những mối
quan hệ liên tưởng tương đồng hoặc logic khách quan. Do
đó, tiếp cận cấu trúc logic của tục ngữ không thể không tìm
đến phương pháp biểu trưng của tục ngữ.
Chính những hình ảnh đó mà làm cho những câu tục
ngữ mang những tri thức về các mối quan hệ xã hội có tính
giáo dục rất cao. Không chỉ dừng lại ở giai đoạn lúc bấy
giờ mà cho tới ngày hôm nay những bài dạy ấy vẫn còn
mang những nét nghĩa giáo dục vô cùng to lớn.
- Xét về mặt cấu trúc
Mỗi câu tục ngữ là một câu hoàn chỉnh về mặt ngữ
pháp, diễn đạt một ý trọn vẹn. Về mặt cấu trúc, câu tục ngữ
có nhiều nét đặc sắc, trong đó có hai đặc điểm nổi bật: tính
ngắn gọn chắc và tính đối xứng của tục ngữ.
+ Cấu trúc của những câu tục ngữ phản ánh thế giới
tự nhiên
Ở bộ phận những câu tục ngữ nói về thế giới tự nhiên
và các kinh nghiệm trong lao động sản xuất chủ yếu là
những mô hình cấu trúc đối xứng đơn với các cấu trúc
như : so sánh định nghĩa, cấu trúc suy luận.
Cấu trúc so sánh định nghĩa thường có dạng a là b, a
như b, a => b,…
Cấu trúc suy luận lôgíc thường có các dạng: a thì b (và
các dạng tương đương như có a thì có b, không a thì không
b), muốn a phải b, chưa a đã b, ….
+ Cấu trúc của những câu tục ngữ phản ánh các mối
quan hệ xã hội
Cũng là cấu trúc đối xứng nhưng ở những câu tục ngữ
nói về các mối quan hệ xã hội lại có sự khác nhau. Nếu
như ở những câu tục ngữ nói về tự nhiên là cấu trúc đối
xứng đơn so sánh định nghĩa và cấu trúc suy luận lôgic thì
ở bộ phận những câu tục ngữ này là cấu trúc đối xứng đơn
so sánh thứ bậc và cấu trúc đối xứng kép.
Cấu trúc đối xứng đơn so sánh thứ bậc có các dạng: a
bằng n.b (với n > ), a không bằng b, a hơn b,…
Cấu trúc suy luận lôgíc thường có các dạng: a thì b
(đồng dạng với a thì b của cấu trúc đối xứng đơn), a + a’’,
a # b, a + a’ + a”… ,dạng a + a’, dạng a # b, dạng a thì b.
Rõ ràng, để giải thích đúng, sâu nghĩa và ý của câu tục
ngữ, trước hết cần nắm chắc cấu trúc đối xứng của nó. Cấu
trúc câu tục ngữ có tính chất bền vững, được xây dựng bởi
ba loại vật liệu chính là từ ngữ, nhịp và vần. Những vật
liệu này được kết hợp chặt chẽ, hài hòa với nhau để tạo ra
sức biểu đạt hoàn hảo của câu.
- Xét về cách gieo vần và nhịp điệu giữa hai mảng đề
tài này thì chúng có những nét tương đồng dễ nhận biết.
+ Về cách gieo vần :
Đọc tục ngữ, ta thấy người bình dân xưa dùng cả hai
cách gieo vần: gieo vần liền và vần cách.
Vần liền là loại vần nối đính giữa hai vế của câu tục
ngữ với nhau hay có thể diễn đạt khác đi là âm tiết cuối
của vế trước bắt vần với âm tiết đầu của vế sau, loại vần
này chiếm 27% trên tổng số câu tục ngữ.
Vần cách là cách gieo vần được sử dụng nhiều nhất.
Chúng thường có các cách gieo cách từ một đến năm âm
tiết.
Bên cạnh đó còn có một số câu tục ngữ tiếp thể lục bát
có sự hiệp vần.
Tiếng Việt thuộc loại hình các ngôn ngữ đơn lập và vai
trò của thanh điệu cũng đảm nhận chức năng riêng trong
việc tạo hoà âm.
+ Nhịp điệu :
Nhịp điệu là yếu tố tổ chức biểu đạt nghệ thuật thuộc
các chủng loại khác nhau mà trong nghệ thuật thính giác
như âm nhạc, thơ ca… thể hiện tiêu biểu.
Xem xét nhịp của tục ngữ trong những câu có từ 4 đên
4 âm tiết có những sự khác nhau.
Chung quy lại, tục ngữ trong tiếng Việt có từ 4 âm tiết
và 4 âm tiết là dài nhất. Sự ngừng ngắt của nhịp bao giờ
cũng gắn liền với nội dung cụ thể từng loại tục ngữ. Hơn
thế sự ngừng nhịp luôn gắn với sự hiệp vần và cấu trúc
từng vế trong tục ngữ.
Tùy theo mỗi câu tục ngữ mà vần và nhịp được thể hiện
khác nhau, tạo nên sự nhịp nhàng, cân đối, sinh động…
cho câu. Qua đó, thể hiện được cái hay cái đẹp của ngôn
ngữ dân tộc, đặc biệt là sự mẫu mực về tính chính xác, tính
sinh động, tính hình tượng và tính nhịp nhàng. Sự hòa đối
là yếu tố tạo sự cân đối, nhịp nhàng, kiến trúc vững chắc
cho tục ngữ. Từ đó nó cũng mang những nội dung nghĩa
khác nhau.
KẾT LUẬN
Một điều dễ nhận thấy là xét về mặt số lượng những
câu tục ngữ nói về thế giới tự nhiên và những câu tục ngữ
nói về các mối quan hệ xã hội thì số lượng của những câu
phản ánh tri thức dân gian về các mối quan hệ xã hội là
nhiều hơn cả, nó chiếm đến 2/3 tổng số câu tục ngữ trong
«Tục ngữ Việt Nam». Điều này cũng cho chúng ta thấy
rằng : từ xa xưa cá mối quan hệ trong xã hội đã là đề tài
được người dân chú ý, đó là những mối quan hệ vô cùng
phong phú và đa dạng, nó phản ánh được cuộc sống muôn
màu muôn vẻ vốn đã tồn tại từ lâu trong xã hội người Việt.
Nó cũng khẳng định, người bình dân xưa không những chỉ
biết quan tâm đến thế giới tự nhiên và cải tạo nó theo ý
muốn chủ quan của mình mà còn biết quan tâm đến nhau
cuộc sống của nhau. Chính vì thế mà tục ngữ không chỉ
dừng lại ở việc dạy cho người ta cách làm mà còn định
hướng cho con người cách sống. Đó là tính giáo dục của
tục ngữ nói riêng và trong các thể loại khác của văn học
nói chung.
Nội dung và những đặc điểm thi pháp của tục ngữ rất
phong phú. Ngoài những đặc điểm giống nhau về mặt thi
pháp chúng ta cũng dễ nhận ra đặc điểm khác nhau lớn
nhất giữa hai bộ phận phản ánh của tục ngữ là về mặt
nghĩa. Nghĩa của những câu tục ngữ phản ánh tri thức về
thế giới tự nhiên chỉ có một nghĩa, đơn giản và dễ hiểu
nhằm truyền bá những kinh nghiệm được nhận biết từ thế
giới tự nhiên, còn bộ phận những câu tục ngữ phản ánh tri
thức về những mối quan hệ xã hội thì thường có cả nghĩa
đen và nghĩa bóng, điều này cho thấy sự khéo léo, tế nhị
trong lời nói của người bình dân xưa. Ngoài việc họ có một
óc nhận xét, phán đoán tinh tế về thế giới tự nhiên thì họ
cũng có một đời sống tinh phần phong phú, kín đáo và ý
nhị.