Upload
others
View
13
Download
0
Embed Size (px)
Citation preview
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH
Đặng Thanh Hoa
THỦ TỤC RÚT GỌN GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP KINH DOANH, THƯƠNG MẠI TRONG PHÁP LUẬT
TỐ TỤNG DÂN SỰ VIỆT NAM
LUẬN ÁN TIẾN SĨ LUẬT HỌC
TP. HỒ CHÍ MINH, NĂM 2015
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH
Đặng Thanh Hoa
THỦ TỤC RÚT GỌN GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP KINH DOANH, THƯƠNG MẠI TRONG PHÁP LUẬT
TỐ TỤNG DÂN SỰ VIỆT NAM
Chuyên ngành: LUẬT KINH TẾ
Mã số: 62.380.107
LUẬN ÁN TIẾN SĨ LUẬT HỌC
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
1. TS. NGUYỄN VĂN TIẾN
2. TS. NGUYỄN VĂN CƯỜNG
TP. HỒ CHÍ MINH, NĂM 2015
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu
nêu trong Luận án là trung thực. Những kết luận khoa học của Luận án
chưa từng được công bố trong bất kỳ công trình nào của ai khác. Nếu có
sự gian dối, tôi xin chịu hoàn toàn trách nhiệm.
Tác giả Luận án
Đặng Thanh Hoa
!
!
!
MỤC LỤC
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT ................................................................................. v!
PHẦN MỞ ĐẦU ........................................................................................................ 1!
1.!Tính cấp thiết của đề tài ....................................................................................... 1!
2.!Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài ..................................................... 4!
2.1.!Mục đích nghiên cứu .................................................................................................. 4!
2.2.!Nhiệm vụ nghiên cứu ................................................................................................. 4!
3.!Phạm vi, đối tượng nghiên cứu ............................................................................ 5!
3.1.!Phạm vi nghiên cứu .................................................................................................... 5!
3.2.!Đối tượng nghiên cứu ................................................................................................. 5!
4.!Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài ............................................................ 6!
5.!Kết cấu của Luận án ............................................................................................. 6!
TỔNG QUAN VỀ VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU .......................................................... 8!
1. Tổng quan tình hình nghiên cứu ......................................................................... 8!
1.1. Tình hình nghiên cứu ở nước ngoài .......................................................................... 8!
1.2. Tình hình nghiên cứu ở Việt Nam ........................................................................... 11!
1.3. Đánh giá tổng quan tình hình nghiên cứu .............................................................. 15!
2. Cơ sở lý thuyết và phương pháp nghiên cứu ................................................... 16!
2.1. Cơ sở lý thuyết .......................................................................................................... 16!
2.2. Phương pháp nghiên cứu ......................................................................................... 16!
3. Giả thuyết nghiên cứu và câu hỏi nghiên cứu .................................................. 17!
3.1.!Giả thuyết nghiên cứu .............................................................................................. 17!
3.2.! Câu hỏi nghiên cứu ................................................................................................. 17!
NỘI DUNG, KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU ............................................................... 19!
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ THỦ TỤC RÚT GỌN TRONG TỐ TỤNG
DÂN SỰ .................................................................................................................... 19!
1.1. Khái niệm và ý nghĩa của thủ tục rút gọn .............................................................. 19!
1.1.1. Khái niệm thủ tục rút gọn ...................................................................................... 19!
1.1.2. Ý nghĩa của thủ tục rút gọn ................................................................................... 24!
1.2. Cơ sở pháp lý và định hướng xây dựng thủ tục rút gọn ........................................ 30!
1.2.1. Cơ sở pháp lý của việc xây dựng thủ tục rút gọn .................................................. 30!
1.2.2. Định hướng xây dựng thủ tục rút gọn ................................................................... 31!
1.2.3. Mối quan hệ giữa thủ tục rút gọn với các nguyên tắc xét xử cơ bản .................... 33!
1.3.!Đặc điểm của thủ tục rút gọn trong tố tụng dân sự ............................................... 40!
1.3.1.!Thủ tục rút gọn chỉ áp dụng đối với một số vụ án nhất định ................................ 41!
1.3.2. Rút gọn về thành phần tham gia giải quyết tranh chấp ........................................ 48!
1.3.3.!Rút gọn về trình tự và các bước tố tụng ................................................................ 49!
1.3.4.!Rút gọn về cấp xét xử ............................................................................................. 57!
1.3.5.!Rút gọn về thời gian giải quyết tranh chấp ........................................................... 60!
KẾT LUẬN CHƯƠNG 1 ........................................................................................ 62!
CHƯƠNG 2: CƠ SỞ THỰC TIỄN CỦA VIỆC XÂY DỰNG THỦ TỤC RÚT
GỌN GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP KINH DOANH, THƯƠNG MẠI ............ 64!
2.1. !Xây dựng thủ tục rút gọn giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại từ thực
trạng pháp luật tố tụng dân sự ....................................................................................... 65!
2.1.1. Thủ tục giải quyết vụ án tại Tòa án cấp sơ thẩm .................................................. 65!
2.1.2.!Thủ tục giải quyết vụ án tại Tòa án cấp phúc thẩm .............................................. 78!
2.2.!Xây dựng thủ tục rút gọn giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại từ thực
tiễn xét xử của Tòa án ..................................................................................................... 83!
2.2.1.!Đối với tranh chấp mà đương sự thừa nhận toàn bộ nghĩa vụ ............................ 83!
2.2.2.!Đối với tranh chấp đơn giản, giá ngạch thấp và chứng cứ rõ ràng ..................... 92!
2.2.3. Đối với tranh chấp đơn giản, chứng cứ rõ ràng nhưng giá ngạch lớn ................ 99!
KẾT LUẬN CHƯƠNG 2 ...................................................................................... 102!
CHƯƠNG 3: KIẾN NGHỊ VỀ XÂY DỰNG THỦ TỤC RÚT GỌN GIẢI
QUYẾT TRANH CHẤP KINH DOANH, THƯƠNG MẠI ............................... 105!
3.1.!Giải pháp xây dựng thủ tục rút gọn giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương
mại 105!
3.1.1.!Về tiêu chí xác định loại vụ án được giải quyết theo thủ tục rút gọn ................. 107!
3.1.2.!Về rút gọn thành phần tham gia giải quyết tranh chấp ...................................... 117!
3.1.3.!Về rút gọn trình tự, thủ tục giải quyết vụ án ....................................................... 121!
3.1.4.!Về rút gọn thời gian giải quyết vụ án .................................................................. 127!
3.2.!Giải pháp về hoàn thiện pháp luật về thủ tục rút gọn giải quyết tranh chấp kinh
doanh, thương mại ........................................................................................................ 135!
3.2.1.!Sửa đổi, bổ sung Bộ luật tố tụng dân sự ............................................................. 135!
3.2.2.!Ban hành văn bản hướng dẫn thực hiện Bộ luật tố tụng dân sự sửa đổi .......... 138!
3.3.!Giải pháp về thi hành các quy định về thủ tục rút gọn giải quyết tranh chấp kinh
doanh, thương mại ........................................................................................................ 139!
3.3.1.!Quán triệt nhận thức về ý nghĩa và yêu cầu của thủ tục rút gọn ....................... 139!
3.3.2.!Xây dựng cơ chế, tổ chức, nguồn lực và chế tài bảo đảm thực hiện các quy định
về thủ tục rút gọn ............................................................................................................ 140!
KẾT LUẬN CHƯƠNG 3 ...................................................................................... 142!
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ .............................................................................. 144!
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH CÔNG BỐ KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU CỦA
ĐỀ TÀI LUẬN ÁN ..................................................................................................... i!
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO .................................................................. ii!
SỐ LIỆU THỐNG KÊ KẾT QUẢ GIẢI QUYẾT CÁC VỤ KINH DOANH
THƯƠNG MẠI CỦA TÒA ÁN NHÂN DÂN ....................................................... xiv!
KẾT QUẢ ĐIỀU TRA XÃ HỘI HỌC .................................................................. xix!
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
BLTTDS : Bộ luật tố tụng dân sự hiện hành
BLTTDSSĐ : Bộ luật tố tụng dân sự sửa đổi năm 2015
HP 2013 : Hiến pháp năm 2013
HĐTPTANDTC : Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao
NQ49/TW
: Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02-6-2005 của Bộ
Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm
2020
TANDTC : Tòa án nhân dân tối cao
TAND : Tòa án nhân dân
TCDS : Tranh chấp dân sự
TCKDTM : Tranh chấp kinh doanh, thương mại
TTDS : Tố tụng dân sự
TTRG : Thủ tục rút gọn
1
PHẦN MỞ ĐẦU
1.!Tính cấp thiết của đề tài
Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02-6-2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược
cải cách tư pháp đến năm 2020 (NQ49/TW) đã chỉ rõ quan điểm về việc xây
dựng thủ tục rút gọn: “… Xây dựng cơ chế xét xử theo thủ tục rút gọn đối với
những vụ án có đủ một số điều kiện nhất định”. NQ49/TW cũng quy định:
“Cải cách tư pháp phải xuất phát từ yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội… tiếp
thu có chọn lọc những kinh nghiệm của nước ngoài phù hợp với hoàn cảnh
của nước ta và yêu cầu chủ động hội nhập quốc tế…” Vì vậy, việc xây dựng
TTRG trong TTDS là đáp ứng đòi hỏi của yêu cầu cải cách tư pháp hiện nay.
Hiến pháp 2013 (HP 2013) quy định rõ về việc áp dụng TTRG để giải
quyết một số loại vụ án. Để triển khai thi hành HP 2013, việc bổ sung các quy
định về TTRG trong TTDS giải quyết một số loại vụ án về TCDS, trong đó
bao gồm TCKDTM, là cấp thiết. Vì vậy, việc xây dựng TTRG trong TTDS là
một trong những nhiệm vụ cấp thiết để triển khai thi hành HP 2013.
Theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự hiện hành (BLTTDS), các tranh
chấp dân sự (TCDS) nói chung, cũng như các tranh chấp kinh doanh, thương
mại (TCKDTM) nói riêng thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án1 đều được
giải quyết bằng một trình tự thủ tục tố tụng thông thường, áp dụng chung mà
không phân biệt giá trị tranh chấp, tính phức tạp hoặc đơn giản của tranh
chấp, có sự thừa nhận nghĩa vụ của đương sự... Bên cạnh đó, việc quy định về
thời hạn giải quyết các tranh chấp này như hiện nay là không hợp lý. Bởi lẽ, 1 Điều 29 BLTTDS quy định TCKDTM là: 1. Tranh chấp phát sinh trong hoạt động kinh doanh, thương mại giữa cá nhân, tổ chức có đăng ký kinh doanh với nhau và đều có mục đích lợi nhuận bao gồm: a) Mua bán hàng hóa; b) Cung ứng dịch vụ; c) Phân phối; d) Đại diện, đại lý; đ) Ký gửi; e) Thuê, cho thuê, thuê mua; g) Xây dựng; h) Tư vấn, kỹ thuật; i) Vận chuyển hàng hóa, hành khách bằng đường sắt, đường bộ, đường thủy nội địa; k) Vận chuyển hàng hóa, hành khách bằng đường hàng không, đường biển; l) Mua bán cổ phiếu, trái phiếu và giấy tờ có giá khác; m) Đầu tư, tài chính, ngân hàng; n) Bảo hiểm; o) Thăm dò, khai thác. 2. Tranh chấp về quyền sở hữu trí tuệ, chuyển giao công nghệ giữa cá nhân, tổ chức với nhau và đều có mục đích lợi nhuận. 3. Tranh chấp giữa công ty với các thành viên của công ty, giữa các thành viên của công ty với nhau liên quan đến việc thành lập, hoạt động, giải thể, sáp nhập, hợp nhất, chia, tách, chuyển đổi hình thức tổ chức của công ty. 4. Các tranh chấp khác về kinh doanh, thương mại mà pháp luật có quy định.
2 đối với những tranh chấp phức tạp, thời hạn tối đa mà pháp luật quy định là
cứng nhắc, khó thực thi và gây nhiều khó khăn đối với các Tòa án,2 còn đối
với những tranh chấp đơn giản, không nhất thiết cần thời hạn dài như vậy.
Ví dụ: doanh nghiệp A ký kết hợp đồng tín dụng hoàn toàn đúng pháp luật
với một ngân hàng, tuy nhiên doanh nghiệp A (bên vay) đã cố tình không
thực hiện nghĩa vụ thanh toán. Khi thụ lý và giải quyết yêu cầu đòi nợ của
ngân hàng (bên cho vay), Tòa án vẫn phải thực hiện một số thủ tục không cần
thiết như hòa giải, thu thập chứng cứ theo quy định, phải hoãn phiên tòa lần
đầu khi một trong các đương sự hoặc người đại diện của họ được triệu tập
hợp lệ mà vắng mặt dù không có lý do chính đáng và phiên tòa vẫn phải được
xét xử bởi một hội đồng gồm ba thành viên… Ngoài ra, ngay cả khi vụ án đã
được Tòa án cấp sơ thẩm quyết định theo hướng buộc bên vay phải thực hiện
đúng nghĩa vụ mà bên vay đã thừa nhận, bên vay vẫn có quyền kháng cáo dù
chỉ nhằm kéo dài thời hạn thực hiện nghĩa vụ; và trong trường hợp đó Tòa án
cấp phúc thẩm vẫn phải giải quyết vụ án theo thời hạn và thủ tục thông
thường…
Như vậy, từ thực tiễn giải quyết các TCDS nói chung, đặc biệt đối với các
TCKDTM, cho thấy “thủ tục nặng nề, thời gian giải quyết kéo dài,”3 việc áp
dụng tất cả các thủ tục tố tụng như nhau mà không phân biệt tranh chấp phức
tạp, chứng cứ không rõ ràng, đương sự không thừa nhận quyền và nghĩa vụ
của nhau… với những tranh chấp đơn giản, chứng cứ rõ ràng, đương sự thừa
nhận nghĩa vụ… là bất hợp lý.
Rõ ràng, với quy định như vậy, vô hình chung làm ảnh hưởng trực tiếp đến
quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự, môi trường kinh doanh và làm tăng
chi phí trong hoạt động kinh doanh. Chính quy định thời hạn giải quyết kéo
dài vài tháng (mà thực tiễn xét xử có khi lên đến cả năm) của pháp luật tố 2 Tòa án nhân dân tối cao (2015), Báo cáo Tổng kết thực tiễn 10 năm thi hành Bộ luật tố tụng dân sự, Hà Nội, tr.16. 3 Ngô Anh Dũng (2002), “Sự cần thiết phải quy định thủ tục rút ngắn trong pháp luật dân sự”, Tạp chí Tòa án nhân dân, (04), tr.10.
3 tụng dân sự (TTDS) hiện hành đã có những tác động không tốt đến quá trình
quay vòng của đồng vốn nếu tranh chấp trong vụ kiện có liên quan đến tài
sản, tiền, vàng… trong khi đó giá cả trong nền kinh tế thị trường luôn luôn
biến động.4
Ngoài ra, trong xu thế chung, các nước trên thế giới đều tìm cách giải
quyết nhanh các TCKDTM, vì đối với doanh nghiệp thời gian là tiền bạc, là
cơ hội kinh doanh, là sự phát triển của nền kinh tế đất nước, của xã hội, không
thể để doanh nghiệp phải mất quá nhiều thời gian cho một vụ kiện.5 Bên cạnh
đó, thủ tục tố tụng cồng kềnh không cần thiết trong giải quyết một số vụ án về
TCDS, trong đó bao gồm TCKDTM, làm lãng phí nguồn lực xã hội, như đội
ngũ Thẩm phán, Kiểm sát viên, Thư ký Tòa án…6
Vì vậy, việc “đơn giản hóa thủ tục, quy trình và rút ngắn thời gian giải
quyết tranh chấp thương mại xuống còn tối đa 200 ngày (hiện nay là 400
ngày), nhất là đối với tranh chấp quy mô nhỏ và giữa các doanh nghiệp nhỏ
và vừa thông qua Tòa án”7 là một nhu cầu thực sự cần thiết và cấp bách trong
bối cảnh đòi hỏi cải thiện môi trường kinh doanh và năng lực cạnh tranh hiện
nay.
Trên thế giới, bên cạnh thủ tục tố tụng thông thường, nhiều nước đã xây
dựng thủ tục rút gọn (summary procedure) hay còn gọi là thủ tục giản lược
(simplified procedure) để áp dụng xử lý những vi phạm pháp luật nhỏ, giải
quyết những tranh chấp, khiếu kiện có giá trị thấp, những vụ việc đơn giản,
4 Ngô Anh Dũng, (03), tr.10. 5 Tưởng Duy Lượng (2015), Báo cáo khảo sát về chỉ số giải quyết tranh chấp hợp đồng, Hội thảo tham vấn hoàn thiện Bộ luật tố tụng dân sự để cải thiện môi trường kinh doanh do Cơ quan Phát triển Quốc tế Hoa Kỳ (USAID) tổ chức ngày 1-10-2015, Hà Nội, tr.13. 6 Theo số liệu thống kê: ở các đô thị lớn như Thành phố Hồ Chí Minh, trung bình một Thẩm phán một tháng phải giải quyết từ 10 vụ việc trở lên. Tại “Án dân sự: Có nên xử rút gọn?”. [http://duthaoonline.quochoi.vn/DuThao/Lists/TT_TINLAPPHAP/View_Detail.aspx?ItemID=812] (truy cập ngày 28-1-2014). 7 Xem: II.2.b, Nghị quyết số 19/NQ-CP của Chính phủ ngày 12-3-2015 “Về những nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu tiếp tục cải thiện môi trường kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia hai năm 2015 – 2016”.
4 chứng cứ rõ ràng,8 được thừa nhận và áp dụng rộng rãi ở nhiều nước.9 Chính
vì vậy, việc nghiên cứu và xây dựng thủ tục rút gọn (TTRG) để giải quyết một
số vụ án về TCDS nói chung và TCKDTM nói riêng là điều cần thiết trong
bối cảnh hội nhập quốc tế ở nước ta hiện nay.
Do đó, đề tài: “Thủ tục rút gọn giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương
mại trong pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam” thực sự là cần thiết và cấp thiết
trong bối cảnh trên.
2.!Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
2.1.! Mục đích nghiên cứu
Tác giả nghiên cứu luận án này (“Luận án”) nhằm đạt được những mục
đích sau đây:
Một là, làm sáng tỏ cơ sở lý luận về TTRG trong TTDS;
Hai là, phân tích thực trạng pháp luật và thực tiễn giải quyết TCKDTM tại
Tòa án Việt Nam làm cơ sở xây dựng TTRG giải quyết TCKDTM;
Ba là, làm rõ các yêu cầu và đưa ra các đề xuất xây dựng TTRG giải quyết
TCKDTM tại Tòa án Việt Nam.
2.2.! Nhiệm vụ nghiên cứu!
Để đạt được mục đích trên, tác giả đặt ra các nhiệm vụ nghiên cứu sau:
Thứ nhất, phân tích và làm sáng tỏ cơ sở lý luận về TTRG trong TTDS và
thực tiễn áp dụng TTRG ở một số quốc gia trên thế giới;
Thứ hai, phân tích thực trạng pháp luật TTDS và thực tiễn giải quyết
TCKDTM làm cơ sở cho việc xây dựng TTRG giải quyết TCKDTM;
Thứ ba, xây dựng các tiêu chí xác định các vụ án được giải quyết theo
TTRG có tính đến đặc thù áp dụng đối với TCKDTM; 8 Trương Hòa Bình (2014), “Vấn đề áp dụng thủ tục rút gọn trong xét xử và thành lập Tòa giản lược trong hệ thống Tòa án nhân dân”, Tạp chí Tòa án nhân dân, (04), tr.1. 9 Nguyễn Ngọc Khánh (2005), Bộ luật tố tụng dân sự Liên bang Nga, NXB Tư pháp, Hà Nội; Dự án VIE/95/017 (2000), Bộ luật tố tụng dân sự của Cộng hòa Pháp, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội; Michael Bogdan (1994), Luật so sánh, Kluwer Norstedts Juridik Tano (Người dịch: Lê Hồng Hạnh và Dương Thị Hiền), tr.149.
5
Thứ tư, đề xuất xây dựng TTRG và các giải pháp hoàn thiện pháp luật và
cơ chế áp dụng TTRG giải quyết một số vụ án về TCDS nói chung và
TCKDTM nói riêng.
3.!!Phạm vi, đối tượng nghiên cứu
3.1.! Phạm vi nghiên cứu!
Mặc dù Luận án có tên gọi “Thủ tục rút gọn giải quyết tranh chấp kinh
doanh, thương mại trong pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam” nhưng phạm vi
nghiên cứu của Luận án không chỉ giới hạn nghiên cứu TTRG giải quyết
TCKDTM mà còn phải bao gồm TTRG giải quyết TCDS nói chung. Bởi lẽ:
thứ nhất, các quy định trong BLTTDS, về cơ bản, đang được áp dụng cho các
vụ án dân sự nói chung (bao gồm cả các vụ án về TCKDTM)10 và chỉ có một
số quy định riêng áp dụng cho việc giải quyết các vụ án về TCKDTM; thứ
hai, pháp luật tố tụng hiện nay cũng chưa có quy định về TTRG trong TTDS
nên cần thiết phải nghiên cứu về TTRG áp dụng chung trong TTDS vì TTRG
giải quyết TCKDTM phải dựa trên nền tảng TTRG giải quyết TCDS nói
chung.
Ngoài ra, phạm vi nghiên cứu của Luận án cũng chỉ giới hạn ở TTRG giải
quyết vụ án dân sự (tương ứng với tranh chấp) mà không bao gồm giải quyết
việc dân sự (tương ứng với yêu cầu). Cuối cùng, TTRG trong phạm vi nghiên
cứu của Luận án cũng chỉ giới hạn đối với TCKDTM được giải quyết tại Tòa
án chứ không bao gồm các cơ chế ngoài Tòa án như tại các tổ chức trọng tài
thương mại hoặc các cơ chế giải quyết tranh chấp khác.
3.2.! Đối tượng nghiên cứu!
Với cách tiếp cận về phạm vi nghiên cứu nêu trên, đối tượng nghiên cứu
của Luận án bao gồm: 10 Xem: Điều 1 BLTTDS quy định về phạm vi điều chỉnh và nhiệm vụ của BLTTDS: “Bộ luật tố tụng dân sự quy định những nguyên tắc cơ bản trong tố tụng dân sự; trình tự, thủ tục khởi kiện để Tòa án giải quyết các vụ án về tranh chấp dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động (sau đây gọi chung là vụ án dân sự)…”.
6
-! Các Nghị quyết của Đảng, Hiến pháp, BLTTDS và các văn bản pháp
luật của Việt Nam liên quan đến TTDS và TTRG;
-! Thực trạng giải quyết TCKDTM tại Tòa án;
-! TTRG trong TTDS của một số quốc gia trên thế giới;
-! Các quy định về TTRG và các quy định liên quan trong Dự thảo
BLTTDSSĐ.
4.! Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài
Luận án “Thủ tục rút gọn giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại
trong pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam” là một công trình nghiên cứu
chuyên sâu ở Việt Nam. Đây là luận án tiến sĩ đầu tiên nghiên cứu về TTRG
trong TTDS nói chung và trong giải quyết TCKDTM nói riêng. Kết quả
nghiên cứu của Luận án sẽ cung cấp những nội dung, thông tin quan trọng, tin
cậy và có giá trị về cơ sở lý luận và cơ sở thực tiễn cho việc xây dựng TTRG
trong TTDS tại Việt Nam, trong đó có tham khảo kinh nghiệm nước ngoài. Vì
vậy, Luận án có giá trị tham khảo, phục vụ cho công việc nghiên cứu, giảng
dạy và học tập.
Ngoài ra, Luận án cũng phân tích thực tiễn giải quyết TCKDTM trong đó
có các tranh chấp đơn giản, giá ngạch thấp, đương sự thừa nhận nghĩa vụ hoặc
chứng cứ rõ ràng theo thủ tục tố tụng hiện nay làm cơ sở xây dựng TTRG giải
quyết các loại tranh chấp này.
Kết quả Luận án đưa ra các đề xuất và giải pháp xây dựng TTRG giải
quyết một số vụ án về TCDS nói chung và TCKDTM nói riêng. Vì vậy, trong
chừng mực nào đó, Luận án đóng góp cho việc xây dựng các quy định về
TTRG nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động xét xử, tạo điều kiện hơn nữa cho
người dân tiếp cận công lý, bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của mình.
5.!Kết cấu của Luận án
Ngoài Phần mở đầu, Tổng quan nghiên cứu, Những công trình liên quan
7 đến Luận án đã được công bố, Danh mục tài liệu tham khảo, Phần nội dung
của Luận án bao gồm các chương sau đây:
Chương 1: Cơ sở lý luận về thủ tục rút gọn trong tố tụng dân sự.
Chương 2: Cơ sở thực tiễn của việc xây dựng thủ tục rút gọn giải quyết
tranh chấp kinh doanh, thương mại.
Chương 3: Kiến nghị về xây dựng thủ tục rút gọn giải quyết tranh chấp
kinh doanh, thương mại.
8
TỔNG QUAN VỀ VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
1.! Tổng quan tình hình nghiên cứu
1.1.!Tình hình nghiên cứu ở nước ngoài
Hiện nay có khá nhiều công trình, bài viết ở nước ngoài nghiên cứu về TTRG trong TTDS nói chung nhưng có ít công trình nghiên cứu về TTRG giải quyết TCKDTM. Các tài liệu nước ngoài nêu trên có thể chia ra làm ba nhóm sau: (i) những vấn đề chung của TTRG; (ii) tính hiệu quả của TTRG; và (iii) các tiêu chí xác định một vụ án được giải quyết theo TTRG; trình tự, thủ tục và thời hạn giải quyết vụ án theo TTRG.
Thứ nhất, nhóm tài liệu liên quan đến một số vấn đề chung của TTRG gồm một số bài viết phân tích về TTRG như là một thủ tục đơn giản, gọn nhẹ hơn thủ tục thông thường. Các tác giả đã giới thiệu về mô hình Tòa giản lược, các loại vụ việc được áp dụng TTRG và xu hướng áp dụng TTRG của từng nước được đề cập tương ứng. Qua đó cho thấy TTRG đã được áp dụng tại Tòa án khá lâu và ngày càng có xu hướng áp dụng rộng rãi.
Các tài liệu chính về nhóm vấn đề này bao gồm: bài viết “The Pragmatic Court: Reinterpreting the Supreme Court of China” (Tòa án thực dụng: Giải thích lại Tòa án tối cao của Trung Quốc) của tác giả Taisu Zhang;11 bài viết “Simplified Procedure for Court Determination of Disputes Under New York’s Civil Practice Law and Rules” (Thủ tục đơn giản cho Tòa án xác định tranh chấp theo Luật dân sự thực hành của New York) của tác giả Jay C. Carlisle;12 bài viết “When Should a Case be Dismissed? The Economics of Pleading and Summary Judgment Standards” (Khi nào thì một vụ kiện bị đình chỉ? Tính kinh tế của việc khởi kiện và tiêu chuẩn bản án giản lược) của tác giả Keith N. Hylton;13 bài viết “Summary Judgment is Constitutional” (Các bản án giản lược là hợp hiến) của tác giả Edward Brunet.14 11 Taisu Zhang (2012), “The Pragmatic Court: Reinterpreting the Supreme Court of China”, 25 Colum. J. Asian L. 1, p.7. 12 Jay C. Carlisle (1988-1989), “Simplified Procedure for Court Determination of Disputes under New York’s Civil Practice Law and Rules”, 54 Brook. L. Rev. 95, p.126. 13 Keith N. Hylton (2008), “When Should a Case be Dismissed? The Economics of Pleading and Summary Judgment Standards”, 16 Sup. Ct. Econ. Rev. 39, 62. 14 Edward Brunet (2008), “Summary Judgment is Constitutional”, 92 Iowa L. Rev. 162.
9
Thứ hai, nhóm các tài liệu liên quan đến tính hiệu quả của TTRG bao gồm
nhóm tài liệu phân tích về trường phái kinh tế luật và nhóm tài liệu lý giải về
tính ưu việt của TTRG.
Về kinh tế luật, có hai công trình khoa học chính là cuốn sách của Thẩm
phán R. Posner về “Economic Analys of Law”14 (Phân tích kinh tế của pháp
luật) và bài viết “The Great Recession and the Rhetorical Canons of Law and
Economics”15 (Đại khủng hoảng và các quy tắc hùng biện của pháp luật và
kinh tế) của Giáo sư Michael D. Murray. Thẩm phán Posner đã sử dụng triết lý
kinh tế luật để minh chứng rằng mục đích của hệ thống tố tụng nhìn từ góc độ
kinh tế học là nhằm giảm thiểu tối đa các khinh xuất, sơ sót trong quá trình
xét xử và chi phí để vận hành bộ máy và công tác xét xử; và một thủ tục tố
tụng phù hợp cần phải cân nhắc hài hòa giữa các chi phí đi tìm và bảo vệ công
lý với các chi phí vận hành bộ máy tố tụng. Còn theo Giáo sư Michael D.
Murray, trường phái kinh tế luật càng được ứng dụng trong những năm suy
thoái kinh tế không chỉ bởi các nhà làm luật, các nhà kinh tế mà còn bởi các
Thẩm phán, Luật sư, các cán bộ pháp chế của chính phủ… trong quá trình tư
duy và đưa ra các giải pháp, quyết định của mình.
Về tính ưu việt của TTRG, có bài viết “Consumer Dispute Resolution and
Redress in the Global Marketplace”16 (Giải quyết tranh chấp của người tiêu
dùng và chế tài trong thị trường toàn cầu), trong đó tác giả Edward Brunet
cho rằng Tòa án giải quyết các yêu cầu khởi kiện có giá ngạch thấp bằng thủ
tục đơn giản, có giá trị ràng buộc thi hành vẫn sẽ bảo đảm được công lý và
yêu cầu của nền tư pháp mà không tốn chi phí cao và không mất thời gian như
các thủ tục thông thường hiện đang áp dụng một cách khá phức tạp; và bài
14 R. Posner (1986), Economic Analysis of Law, Third Edition. 15 Michael D. Murray, “The Great Recession and the Rhetorical Canons of Law and Economics”, 58 Loy. L. Rev. 615, p.3. 16 Edward Brunet, Organisation for Economic Co-operation and Development (2006), Consumer Dispute Resolution and Redress in the Global Marketplace 24. [http://www.oecd.org/internet/consumer/36456184.pdf] (truy cập ngày 12-12-2014).
10 viết “Three American Ventures in Summary Civil Procedure”17 (Ba mạo hiểm
đối với nước Mỹ trong thủ tục tố tụng dân sự giản lược), tác giả Robert
Wyness Millar xem xét đánh giá các thủ tục giản lược đang được áp dụng ở
Hoa Kỳ, nêu các điểm ưu việt và xu hướng ngày càng áp dụng phổ biến hơn
của các thủ tục đó.
Các công trình nghiên cứu nêu trên tiếp cận pháp luật nói chung và TTRG
từ khía cạnh kinh tế luật. Việc giải quyết các TCKDTM cũng không nằm
ngoài xu hướng và yêu cầu đảm bảo tính hiệu quả, nhanh, gọn, giảm thiểu tối
đa các chi phí mà vẫn đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp cho các bên tranh
chấp. Đây chính là một trong những yêu cầu quan trọng mà mỗi quốc gia khi
xây dựng cơ chế giải quyết TCKDTM đều phải tính đến. Các tài liệu ít nhiều
đều đề cập và khẳng định việc áp dụng TTRG là nhằm giảm thiểu các chi phí,
thời gian cho các chủ thể tham gia tố tụng.
Thứ ba, nhóm các tài liệu liên quan đến các tiêu chí xác định một vụ án được
giải quyết theo TTRG và trình tự, thủ tục, thời hạn giải quyết tranh chấp theo
TTRG, bao gồm hàng loạt các văn bản pháp luật tố tụng của một số nước như:
các Bộ luật tố tụng dân sự của Pháp, Đức, Nhật v.v.
Ngoài ra còn có một số công trình, bài viết như: cuốn sách “Japanese Law”18
(Pháp luật Nhật Bản) của Hiroshi Oda, trong đó tác giả giới thiệu về TTRG
của Nhật Bản, các tiêu chí và trình tự rút gọn; cuốn sách “Civil Procedure”19
(Tố tụng dân sự) của Mary Kay Kane, trong đó tác giả phân tích về các
trường hợp áp dụng TTRG trong TTDS của Hoa Kỳ; công trình nghiên cứu
“A Comparative Study between the Civil Procedures of France, Germany, and
China”20 (Nghiên cứu so sánh giữa thủ tục tố tụng dân sự của Pháp, Đức và 17 Robert Wyness Millar (1928-1929), “Three American Ventures in Summary Civil Procedure”, 38 Yale L. J. pp.193, 194. 18 Hiroshi Oda (2009), Japanese Law, Third Edition, Oxford University Press, pp.409-426. 19 Mary Kay Kane (2003), Civil Procedure, Fifth Edition, Thompson West, pp.160-167. 20 Paul Ranjard (2011), A Comparative Study between the Civil Procedures of France, Germany, and China.[http://www.ipr2.org/storage/Comparative_Study_on_Civil_Procedures_of_France,_Germany_and
11 Trung Quốc), trong đó tác giả Paul Ranjard phân tích so sánh về việc áp dụng
TTRG tại các nước nêu trên về các tiêu chí áp dụng TTRG; tài liệu “Civil
Justice Reform Summit Report”21 (Báo cáo Hội nghị thượng đỉnh về cải cách
tư pháp dân sự), trong đó giới thiệu kinh nghiệm của nhiều quốc gia về việc
giải quyết một số vụ án dân sự theo thủ tục giản lược hơn dựa trên giá trị bằng
tiền của yêu cầu khởi kiện; và một số nguồn thông tin khác được khai thác
trên các trang web.
1.2.!Tình hình nghiên cứu ở Việt Nam
Tại Việt Nam, TTRG trong TTDS đã được một số nhà nghiên cứu quan
tâm ở các cấp độ khác nhau thể hiện tại một số công trình theo các nhóm vấn
đề sau đây: (i) yêu cầu về tính hiệu quả của việc giải quyết TCKDTM; (ii)
nhu cầu và quan điểm về việc xây dựng TTRG ở Việt Nam; (iii) xác định cơ
sở lý luận và thực tiễn để xây dựng TTRG trong TTDS tại Việt Nam; và (iv)
giới thiệu kinh nghiệm nước ngoài về TTRG, bao gồm tiêu chí xác định vụ án
được giải quyết theo TTRG, trình tự, thủ tục và thời hạn giải quyết vụ án theo
TTRG.
Thứ nhất, có một số ít tài liệu liên quan đến yêu cầu về tính hiệu quả của
việc giải quyết TCKDTM đều chung quan điểm giải quyết TCKDTM phải
đảm bảo tính hiệu quả, ngắn, gọn…
Các quan điểm trên được thể hiện ở một số công trình chính sau đây: cuốn
sách “Hoàn thiện pháp luật giải quyết tranh chấp kinh tế ở nước ta hiện nay”22
của tác giả Đào Văn Hội, trong đó tác giả phân tích về yêu cầu cần phải xây
dựng cơ chế giải quyết tranh chấp kinh tế một cách đơn giản, hiệu quả và hấp
dẫn đối với nhà đầu tư, kinh doanh; đề tài nghiên cứu khoa học về “Thực tiễn
_China-EN1067.pdf] (truy cập ngày 12-12-2014). 21 Civil Justice Reform Summit Report (2007), Institute for the Advancement of the American Legal System, University of Denver. 22 Đào Văn Hội (2004), Hoàn thiện pháp luật giải quyết tranh chấp kinh tế ở nước ta hiện nay, NXB Chính trị quốc gia.
12 tranh chấp kinh tế với việc hoàn thiện pháp luật kinh doanh”23 do
GS.TS.NGƯT. Mai Hồng Quỳ làm chủ nhiệm đề tài, trong đó đưa ra quan
điểm về yêu cầu giải quyết TCKDTM một cách hiệu quả để phù hợp với hội
nhập kinh tế quốc tế; cuốn sách “Kinh tế luật” của TS. Lê Nết,24 trong đó tác
giả giới thiệu và phân tích về trường phái kinh tế luật và ứng dụng của các
phân tích kinh tế học trong các ngành luật và trong việc giải quyết tranh chấp.
Ngoài ra còn có một số bài viết, kết quả nghiên cứu phục vụ Hội thảo
“Tham vấn hoàn thiện Bộ luật tố tụng dân sự để cải thiện môi trường kinh
doanh” do Cơ quan Phát triển Quốc tế Hoa Kỳ (USAID) tổ chức ngày 1-10-
2015 tại Hà Nội, trong đó đề cập đến thực trạng giải quyết TCKDTM kém hiệu
quả hiện nay và đề xuất một số khuyến nghị cải thiện môi trường kinh doanh
thông qua cơ chế giải quyết tranh chấp có hiệu quả hơn.
Thứ hai, nhóm tài liệu về nhu cầu và quan điểm về việc xây dựng TTRG ở
Việt Nam gồm một số bài viết được đăng trên tạp chí đề cập đến các vấn đề
khác nhau của TTRG như nhu cầu xây dựng TTRG, phạm vi loại việc được
áp dụng TTRG, mối liên hệ của việc xây dựng TTRG với một số nguyên tắc
cơ bản của luật TTDS và kinh nghiệm từ một số quốc gia có quy định TTRG
trong TTDS...
Về nhóm vấn đề này, có thể kể đến bài viết “Vấn đề áp dụng thủ tục rút
gọn trong xét xử và thành lập Tòa giản lược trong hệ thống Tòa án nhân
dân”,25 trong đó Chánh án Tòa án nhân dân tối cao Trương Hòa Bình đã phân
tích tóm tắt tiền đề của việc quy định TTRG trong pháp luật tố tụng Việt Nam
(tố tụng dân sự, tố tụng hình sự và tố tụng hành chính) và giới thiệu kinh
nghiệm về TTRG, mô hình Tòa giản lược ở một số nước trên thế giới, như:
Nhật Bản, Trung Quốc và Pháp; bài viết “Cần có quy định thủ tục rút gọn 23 Mai Hồng Quỳ (chủ nhiệm đề tài) (1999), “Thực tiễn tranh chấp kinh tế với việc hoàn thiện pháp luật kinh doanh”, Đề tài nghiên cứu khoa học cấp bộ, Thành phố Hồ Chí Minh. 24 Lê Nết (2006), Kinh tế luật, NXB Tri thức. 25 Trương Hòa Bình, (8), tr.1-7.
13 trong Bộ luật tố tụng dân sự”26 của Đỗ Văn Chỉnh và Phạm Thị Hằng, trong
đó nhóm tác giả đã phân tích các quy định về TTRG và khả năng áp dụng
TTRG trong TTDS Việt Nam.
Ngoài ra còn có “Báo cáo nghiên cứu và đề xuất cơ chế, mô hình giải
quyết tranh chấp dân sự theo thủ tục rút gọn tại Tòa án Việt Nam” là một
công trình nghiên cứu do nhóm chuyên gia của Dự án Tăng cường tiếp cận
công lý và bảo vệ quyền thực hiện năm 2015, bao gồm phân tích mô hình
TTDS Việt Nam hiện nay, một số vấn đề lý luận về TTRG giải quyết các
TCDS, kinh nghiệm của một số nước áp dụng TTRG, phân tích kết quả điều
tra xã hội học về một số vấn đề liên quan đến TTRG và đề xuất khuyến nghị
cho việc xây dựng mô hình giải quyết TCDS theo TTRG tại Tòa án Việt
Nam.27
Thứ ba, nhóm tài liệu xác định cơ sở lý luận và thực tiễn để xây dựng
TTRG trong TTDS tại Việt Nam.
Về vấn đề này có hai đề tài: đề tài nghiên cứu khoa học cấp bộ “Một số
vấn đề về cơ sở lý luận và thực tiễn của việc xây dựng Bộ luật tố tụng dân
sự”28 do Tòa án nhân dân tối cao (TANDTC) thực hiện năm 1996 có đề cập
về TTRG, cụ thể về các loại việc phát sinh từ thực tiễn có thể giải quyết theo
TTRG; và đề tài nghiên cứu khoa học cấp bộ “Vấn đề xây dựng thủ tục tố
tụng dân sự rút gọn theo yêu cầu cải cách tư pháp và hội nhập kinh tế quốc tế
hiện nay - Thực trạng và giải pháp” do TS. Trần Anh Tuấn làm chủ nhiệm đề
tài thực hiện năm 201429 được coi là một công trình khá công phu về lý luận 26 Đỗ Văn Chỉnh & Phạm Thị Hằng (2013), “Cần có quy định thủ tục rút gọn trong Bộ luật tố tụng dân sự”, Tạp chí Tòa án nhân dân, (03), tr.14-21. 27 Dự án Tăng cường tiếp cận công lý và bảo vệ quyền tại Việt Nam (2015), Báo cáo nghiên cứu và đề xuất cơ chế, mô hình giải quyết tranh chấp dân sự theo thủ tục rút gọn tại Việt Nam, Hà Nội. 28 Tòa án nhân dân tối cao (1996), “Hoàn thiện pháp luật Việt Nam về thủ tục giải quyết vụ việc dân sự theo định hướng cải cách tư pháp”, Đề tài nghiên cứu khoa học cấp bộ, tr.70-74 & 302-303. 29 Trần Anh Tuấn (chủ nhiệm đề tài) (2014), “Vấn đề xây dựng thủ tục tố tụng dân sự rút gọn theo yêu cầu cải cách tư pháp và hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay - Thực trạng và giải pháp”, Đề tài nghiên cứu khoa học cấp bộ, Hà Nội.
14 và thực tiễn, làm rõ yêu cầu và cơ sở khoa học của việc xây dựng TTRG và đề
xuất các giải pháp xây dựng thủ tục này ở Việt Nam. Tuy nhiên, vì phạm vi
nghiên cứu của đề tài chỉ tập trung đến việc xây dựng TTRG trong pháp luật
TTDS tại Việt Nam nên không có nội dung nào đề cập đến những yêu cầu đặc
thù khi áp dụng TTRG để giải quyết một số vụ án về TCKDTM tại Việt Nam.
Ngoài ra, có một số đề tài nghiên cứu khoa học cấp cơ sở cũng đề cập đến
việc cần thiết phải xây dựng TTRG tại Việt Nam, như: (i) đề tài: “Hoàn thiện
pháp luật Việt Nam về thủ tục giải quyết vụ việc dân sự theo định hướng cải
cách tư pháp”30 do TS. Trần Anh Tuấn làm chủ nhiệm đề tài năm 2010; và (ii)
đề tài: “Giải quyết tranh chấp giữa người tiêu dùng với tổ chức cá nhân kinh
doanh bằng thủ tục rút gọn trong tố tụng dân sự”31 do Thạc sỹ Đặng Thanh
Hoa làm chủ nhiệm đề tài năm 2013.
Thứ tư, nhóm tài liệu giới thiệu kinh nghiệm áp dụng TTRG về tiêu chí
xác định một vụ án có thể giải quyết theo TTRG, trình tự, thủ tục và thời hạn
giải quyết vụ án theo TTRG của một số nước trên thế giới bằng tiếng Việt.
Nhóm tài liệu này bao gồm: cuốn sách “Japanese Law” (Luật Nhật Bản)
phân tích hệ thống Tòa án Nhật Bản, mô hình Tòa giản lược trong pháp luật
Nhật Bản và các quy định về phạm vi loại việc được áp dụng thủ tục đơn giản
trong pháp luật tố tụng dân sự Nhật Bản;32 bài viết “Mô hình Tòa án đơn giản
ở Nhật Bản” của tác giả Ngô Cường;33 hai cuốn kỷ yếu: “Hội thảo pháp luật về
tố tụng dân sự ngày 9&10-11-2000”34 và “Hội thảo pháp luật về tố tụng dân sự
30 Trần Anh Tuấn (chủ nhiệm đề tài) (2010), “Hoàn thiện pháp luật Việt Nam về thủ tục giải quyết vụ việc dân sự theo định hướng cải cách tư pháp”, Đề tài nghiên cứu khoa học cấp cơ sở, Trường Đại học Luật Hà Nội. 31 Đặng Thanh Hoa (chủ nhiệm đề tài) (2013), “Giải quyết tranh chấp giữa người tiêu dùng với tổ chức cá nhân kinh doanh bằng thủ tục rút gọn trong tố tụng dân sự”, Đề tài nghiên cứu khoa học cấp cơ sở, Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh. 32 JICA (1998), Japanese law (Luật Nhật Bản), tập III, NXB Thanh niên, Hà Nội. 33 Ngô Cường (2014), “Mô hình Tòa án đơn giản ở Nhật Bản”, Tạp chí Tòa án nhân dân, (16). 34 Jean-Marie Coulon (2000), Hội thảo pháp luật về tố tụng dân sự ngày 9&10-11-2000, Nhà Pháp luật Việt - Pháp, Hà Nội.
15 ngày 29&30-10-2001”35 của cùng tác giả Jean-Marie Coulon đã giới thiệu
TTRG tại Pháp và trình bày quan điểm của tác giả liên quan đến ưu điểm và
nhược điểm của các quy định về TTRG trong Dự thảo BLTTDS của Việt Nam.
1.3.!Đánh giá tổng quan tình hình nghiên cứu
Qua tổng quan nghiên cứu, tác giả nhận thấy rằng những vấn đề, nội dung
sau đây của TTRG đã được các công trình khoa học nghiên cứu:
Một là, nhu cầu, xu hướng áp dụng TTRG trong việc giải quyết một số
loại tranh chấp tại Tòa án;
Hai là, mô tả kinh nghiệm của một số nước về áp dụng TTRG giải quyết
một số loại tranh chấp tại Tòa án;
Ba là, các quan điểm và đề xuất xây dựng TTRG ở Việt Nam.
Tuy nhiên, các công trình nghiên cứu trước đây còn chưa đề cập một số
nội dung sau liên quan đến TTRG:
Một là, phân tích tương đối cặn kẽ tính hiệu quả của TTRG trong mối
tương quan với yêu cầu bảo đảm công lý và các nguyên tắc tư pháp cơ bản;
Hai là, giới thiệu TTRG của nước ngoài kết hợp có sự lý giải về bối cảnh,
cơ sở, lý do của các quy định về TTRG hoặc đưa ra quan sát, đánh giá, lý giải
và đúc rút về những điểm tương đồng của kinh nghiệm quốc tế đó;
Ba là, phân tích một cách mạch lạc và làm rõ các tiêu chí lựa chọn một vụ
án được giải quyết theo TTRG; các nội dung của TTRG và việc có nhất thiết
phải rút gọn tất cả hay chỉ cần một hoặc một số nội dung đó trong quá trình
giải quyết vụ án theo TTRG;
Bốn là, đánh giá và phân tích thực tiễn giải quyết TCKDTM thông qua các
vụ án cụ thể nhìn từ góc độ nhu cầu áp dụng TTRG và khả năng có thể áp
dụng TTRG qua thực tế giải quyết TCKDTM; và từ đó lý giải các đề xuất xây
dựng TTRG mang tính khoa học dựa trên cơ sở thực tiễn. 35 Jean-Marie Coulon (2001), Hội thảo pháp luật về tố tụng dân sự ngày 29&30-10-2001, Nhà Pháp luật Việt - Pháp, Hà Nội.
16
Do đó, đây là đề tài nghiên cứu đầu tiên về TTRG trong giải quyết
TCKDTM một cách khá toàn diện và tổng thể về lý luận và thực tiễn.
2.!Cơ sở lý thuyết và phương pháp nghiên cứu
2.1.!Cơ sở lý thuyết !
Luận án được nghiên cứu dựa trên các cơ sở lý thuyết sau:
Một là, các quan điểm của Đảng về yêu cầu cải cách tư pháp và hội nhập
kinh tế quốc tế và về xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa;
Hai là, các tư tưởng, học thuyết về nhà nước và pháp luật nói chung và về
pháp luật TTDS nói riêng;
Ba là, các nguyên tắc hiến định, các lý thuyết liên quan đến pháp luật
TTDS của Việt Nam và một số nước, ảnh hưởng đến việc xây dựng TTRG
giải quyết một số TCDS nói chung và TCKDTM nói riêng;
Bốn là, triết lý kinh tế luật trong việc xây dựng pháp luật tố tụng;
Năm là, quan điểm lập pháp của Việt Nam giải quyết TCKDTM tại Tòa án
dựa trên nền tảng thủ tục tố tụng chung nhưng thời hạn giải quyết ngắn hơn.
2.2.!Phương pháp nghiên cứu
Để thực hiện được mục đích và nhiệm vụ nêu trên, tác giả sử dụng các
phương pháp nghiên cứu phổ biến và điển hình trong lĩnh vực luật học như
sau:
- Phương pháp phân tích và tổng hợp được sử dụng xuyên suốt Luận án để
nhận thức từ chi tiết đến khái quát vấn đề được nghiên cứu.
- Phương pháp nghiên cứu tài liệu, các công trình đã được công bố trước
đây ở trong và ngoài nước để tiếp thu các kiến thức, thành tựu của các nhà
khoa học đã đạt được về vấn đề nghiên cứu.
- Phương pháp giải thích luật được sử dụng để làm rõ ý nghĩa của các khái
niệm, thuật ngữ về thủ tục tố tụng, TTRG, thủ tục đơn giản, thủ tục giản lược
của một số nước.
17
- Phương pháp so sánh được sử dụng để tìm ra sự tương đồng và khác biệt
giữa TTRG của một số nước nhằm đưa ra các kiến nghị xây dựng TTRG
trong TTDS nói chung và có tính đến đặc thù của TCKDTM nói riêng.
- Phương pháp nghiên cứu một số vụ án cụ thể để phân tích thực trạng áp
dụng thủ tục TTDS thông thường đối với một số TCKDTM có thể giải quyết
theo TTRG.
- Phương pháp điều tra xã hội học nhằm tìm hiểu quan điểm, ý kiến của
một số đối tượng liên quan (Thẩm phán, Thư ký Tòa án, Hội thẩm nhân dân,
Kiểm sát viên, Luật sư và một số nhà quản lý, nhân viên các doanh nghiệp...)
về thủ tục giải quyết TCKDTM hiện nay và kỳ vọng, mong đợi của họ về việc
giải quyết TCKDTM như thế nào theo họ là hợp lý, những tranh chấp nào có
thể áp dụng TTRG và nội dung TTRG cần được áp dụng...
3.!Giả thuyết nghiên cứu và câu hỏi nghiên cứu
3.1.! Giả thuyết nghiên cứu
Luận án “Thủ tục rút gọn giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại
trong pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam” được nghiên cứu dựa trên giả thuyết:
giải quyết TCKDTM theo thủ tục tố tụng hiện nay tại Tòa án là dài, phức tạp,
không hiệu quả và chưa đáp ứng được yêu cầu cần phải được giải quyết nhanh,
gọn và dứt điểm.
Giả thuyết trên được tác giả xây dựng dựa trên các cơ sở sau đây:
Thứ nhất, qua quá trình nghiên cứu và giảng dạy, tác giả nhận thấy thực
trạng quy định của pháp luật TTDS còn nhiều bất cập;
Thứ hai, qua khảo sát và trao đổi với những người làm trong ngành tư pháp
(Tòa án, Viện Kiểm sát, cơ quan tư pháp địa phương), Luật sư và doanh nghiệp
cho thấy thực tiễn giải quyết các TCKDTM thường bị kéo dài và kém hiệu quả.
3.2.! Câu hỏi nghiên cứu
Xuất phát từ phạm vi nghiên cứu, cơ sở lý thuyết đã nêu ở trên, tác giả đặt
18 ra hai câu hỏi nghiên cứu trọng tâm của Luận án là: (i) các tiêu chí cần thiết
để xác định một TCDS, bao gồm TCKDTM, được giải quyết theo TTRG là
gì?; và (ii) TTRG gồm có những đặc điểm nào?
Ngoài ra, tác giả đặt ra một số câu hỏi liên quan sau:
Thứ nhất, có tiêu chí riêng nào xác định TCKDTM được giải quyết theo
TTRG hay không?
Thứ hai, thành phần tham gia giải quyết vụ án theo TTRG được rút gọn
như thế nào?
Thứ ba, các trình tự, thủ tục tố tụng nào được rút gọn trong quá trình giải
quyết vụ án theo TTRG?
Thứ tư, thời hạn giải quyết vụ án theo TTRG được rút ngắn như thế nào?
Thứ năm, giải quyết vụ án theo TTRG có nhất thiết phải rút gọn tất cả các
nội dung của TTRG? Thời điểm áp dụng TTRG?
Thứ sáu, trong những trường hợp nào chuyển đổi từ TTRG sang thủ tục
thông thường và khi nào chuyển đổi?
19
NỘI DUNG, KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ THỦ TỤC RÚT GỌN
TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ
1.1. Khái niệm và ý nghĩa của thủ tục rút gọn
1.1.1. Khái niệm thủ tục rút gọn
Thuật ngữ thủ tục rút gọn không phải là thuật ngữ duy nhất được sử dụng
khi bàn về giải quyết một số loại tranh chấp đơn giản. Ngoài thuật ngữ nêu
trên, còn có các thuật ngữ tương tự có liên quan được sử dụng như: thủ tục
đơn giản hay thủ tục giản lược...
“Thủ tục rút gọn”, “thủ tục đơn giản” hay “thủ tục giản lược” (procédure
sommaire/summary procedure, simplified procedure) theo pháp luật Pháp là
“thủ tục tố tụng theo đó các thủ tục được đơn giản hóa hơn so với thủ tục tố
tụng thông thường, được áp dụng trước các Tòa án theo thông luật hoặc
trước các Tòa án có thẩm quyền chung trong những trường hợp đặc biệt.”36
Thủ tục tố tụng giản lược theo pháp luật Hoa Kỳ được hiểu là một thủ tục đơn
giản hóa so với thủ tục thông thường, chỉ được áp dụng trong một số trường
hợp nhất định, xét xử không có bồi thẩm đoàn, được áp dụng “để giải quyết
các tranh chấp hoặc kết thúc vụ kiện một cách tương đối nhanh chóng và đơn
giản.”37
TTRG được đề cập với tên gọi là thủ tục giản lược hay thủ tục đơn giản
được quy định trong Bộ luật tố tụng dân sự Pháp. Trong suốt quá trình phát
triển pháp luật tố tụng của Pháp kể từ năm 1806 khi lần đầu tiên ban hành Bộ
luật tố tụng dân sự, TTRG luôn được quy định theo hướng TTRG chỉ áp dụng
cho một số loại vụ việc đáp ứng điều kiện theo luật định với trình tự giải
quyết được rút gọn, đơn giản hơn so với thủ tục tố tụng thông thường. 36 Nguyễn Văn Bình (chủ biên) (2009), Từ điển thuật ngữ pháp luật Pháp - Việt, Nhà pháp luật Việt - Pháp, NXB Từ điển bách khoa, Hà Nội, tr.706. 37 Bryan A. Garner (2009), Black’s Law Dictionary, 9th Edition, St. Paul, MN: West, p.559 (“Summary proceeding: A nonjury proceeding that settles a controversy or diposes of a case in a relatively prompt and simple manner”).
20
Khác với Pháp, TTRG ở Hoa Kỳ không được quy định tại một đạo luật tố
tụng thành văn như tại Bộ luật tố tụng dân sự của Pháp nhưng được xây dựng
trên nền tảng thực tiễn xét xử, thể hiện tại các quy tắc tố tụng dân sự của Tòa
án và ngày càng được áp dụng phổ biến.38 Edward Brunet cho rằng Tòa án
giải quyết các yêu cầu khởi kiện có giá ngạch thấp bằng thủ tục đơn giản, có
giá trị ràng buộc thi hành là hợp hiến,39 bảo đảm được công lý, yêu cầu của
nền tư pháp mà không tốn chi phí cao và không mất thời gian như các thủ tục
thông thường hiện đang áp dụng một cách khá phức tạp.40
Như vậy, TTRG, thủ tục đơn giản hay thủ tục giản lược theo cách hiểu của
hai nước đại diện cho hai trường phái pháp luật phổ biến trên thế giới, đều có
nghĩa là một thủ tục tố tụng riêng biệt so với thủ tục thông thường nhằm giải
quyết một số loại vụ án nhanh gọn hơn thủ tục thông thường nhưng vẫn bảo
đảm công lý.
Ngoài hai nước đại diện cho hai hệ thống pháp luật phổ biến của thế giới
nêu trên, nhiều nước khác cho dù thuộc hệ thống pháp luật nào, với điều kiện
kinh tế - xã hội, kinh nghiệm lập pháp, trình độ dân trí... không giống nhau
nhưng đều xác định TTRG trong TTDS là một thủ tục riêng biệt, độc lập bên
cạnh thủ tục tố tụng thông thường, áp dụng để giải quyết một số loại tranh
chấp đơn giản bởi thành phần giải quyết rút gọn, trình tự và thời gian giải
quyết đơn giản hơn so với thủ tục thông thường.41
Từ điển Tiếng Việt không có thuật ngữ “thủ tục rút gọn” hay “thủ tục giản
38 Xem: Robert Wyness Millar, (19), p.221 và Jay C. Carlisle, (12), p.126. Theo đó, Robert Wyness Millar chứng minh rằng các thủ tục giản lược hiện đang áp dụng ở Hoa Kỳ có những tác dụng tốt và sẽ được áp dụng phổ biến hơn. Jay C. Carlisle cho rằng thủ tục đơn giản đang áp dụng tại New York rất thích hợp để xử lý các tranh chấp đơn giản và thủ tục này nên được sử dụng thường xuyên hơn nữa. 39 Edward Brunet cho rằng theo hệ thống Thông luật, việc sử dụng một số trình tự, thủ tục tố tụng mang tính đơn giản tương tự như việc đưa ra bản án giản lược là hợp hiến, bởi lẽ cần phải tiếp cận và giải thích Hiến pháp một cách thực dụng hơn theo hướng cho phép đổi mới thủ tục một cách phù hợp hơn. Xem: Edward Brunet (2008), (14), p.162. 40 Edward Brunet (2008), (14), p.24. 41 Nhận định này được thể hiện khá thống nhất trong hàng loạt các ấn phẩm về TTRG. Xem: Nguyễn Ngọc Khánh (2005), (9); Dự án VIE/95/017 (2000), (9); Michael Bogdan (1994), (9), tr.149.
21 lược”. Khái niệm TTRG chỉ có thể được diễn giải thông qua tìm hiểu khái
niệm của cụm từ ghép “thủ tục” và “rút gọn”; theo đó “thủ tục” là: “những
việc cụ thể phải làm theo một trật tự quy định, để tiến hành một công việc có
tính chất chính thức” và “rút gọn” là: “làm cho có hình thức ngắn gọn, đơn
giản hơn”.42 Như vậy, theo cách giải thích này, TTRG có thể được hiểu là
những việc cụ thể được xác định một chủ thể phải làm để tiến hành một công
việc có tính chất chính thức theo một trật tự quy định ngắn gọn, đơn giản.
Ở Việt Nam, TTRG là một khái niệm khá mới mẻ và được du nhập từ bên
ngoài. Ngay tại một trong những công trình nghiên cứu về TTDS đầu tiên ở
nước ta khi đề cập đến một thủ tục tố tụng khác bên cạnh thủ tục tố tụng
thông thường đã dẫn chiếu đến thủ tục giản lược của nước ngoài (Pháp): “thủ
tục giản lược (procédure sommaire) là một thủ tục ít nệ thức, đỡ tốn kém, và
mau chóng hơn, được nhà lập pháp dự liệu như biệt lệ đối với thủ tục tố tụng
thông thường”.43
Tuy nhiên, một số nội dung của TTRG cũng đã được thể hiện trong pháp
luật của Việt Nam ngay từ trước năm 1945 khi quy định về giải quyết một số
loại vụ án có giá ngạch thấp bởi Tòa án cấp sơ thẩm và không được phép
kháng cáo.44 Sau đó, Sắc lệnh 185/SL ngày 26-5-1948 có quy định về rút gọn
42 Hoàng Phê (chủ biên) (2004), Từ điển tiếng Việt, NXB Đà Nẵng, tr.960. 43 Nguyễn Huy Đẩu (1962), Luật dân sự tố tụng Việt Nam, xuất bản dưới sự bảo trợ của Bộ Tư pháp, Sài Gòn, tr.503. 44 Tòa án nhân dân tối cao (2014), Báo cáo về khả năng áp dụng thủ tục đơn giản trong giải quyết một số loại vụ việc dân sự cụ thể và đề xuất mô hình khả thi cho Tòa án Việt Nam, Tài liệu hội thảo do Tòa án nhân dân tối cao tổ chức tháng 11 năm 2014 tại Thành phố Hồ Chí Minh, tr.30. Ví dụ, theo Bắc kỳ viện biên chế, Tòa án cấp sơ thẩm có thẩm quyền giải quyết sơ thẩm và chung thẩm nếu giá ngạch không quá 30 đồng bạc (Điều 6, Nghị định ngày 2-12-1921, Bắc kỳ Pháp viện biên chế công bố); Tòa án tỉnh có thẩm quyền giải quyết sơ thẩm và chung thẩm nếu giá ngạch quá 30 đồng bạc và không tới 100 đồng bạc (Điều 13, Nghị định ngày 2-12-1921, Bắc kỳ Pháp viện biên chế công bố). Tại miền Trung Việt Nam, các Tòa đệ nhị cấp xử chung thẩm và các việc tương tranh động sản hoặc đối với người, việc thương sự, việc đòi tiền bồi hoàn hay bồi thường với giá ngạch trên 500$ nhưng dưới 1.500$, về bất động sản theo giá ngạch đồng niên không quá 150$ (Điều 19, Nghị định ngày 20-10-1947 của Hội đồng chánh lâm thời Trung kỳ về sửa đổi giá ngạch cũ). Tại miền Nam Việt Nam, Tòa xử sơ thẩm và chung thẩm các tố quyền đối nhân và động sản đến mức 7.500 quan tức 750$ hay 750 giạ lúa (mỗi giạ trọng lượng độ 20 kg), các tố quyền bất động sản lợi tức đồng niên 40 giạ lúa hay 300 quan hay 30$ mỗi năm (Sắc lệnh ngày 27-12-1943).
22 theo hướng không cho phép kháng cáo các phán quyết dân sự có giá trị nhỏ.45
Khoản 3 Điều 11 Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án dân sự năm 1989 quy
định TANDTC có quyền giải quyết theo thủ tục sơ thẩm đồng thời chung
thẩm các vụ án thuộc thẩm quyền của Tòa án cấp dưới mà TANDTC lấy lên
để giải quyết. Một nội dung khác của TTRG cũng đã từng được quy định
trong Sắc lệnh 13/SL ngày 24-1-1946 về rút gọn thành phần xét xử khi giải
quyết một số TCDS có giá trị nhỏ và đơn giản.46 Điều 14 LTCTAND năm
1960 quy định rằng trong một số loại vụ án nhỏ, giản đơn và không quan
trọng, Tòa án có thể xét xử không có Hội thẩm nhân dân.
Trong khoa học tố tụng hình sự, TTRG được cho là “thủ tục đặc biệt trong
tố tụng hình sự được áp dụng đối với những vụ án về tội phạm ít nghiêm
trọng, sự việc phạm tội đơn giản, chứng cứ rõ ràng; người thực hiện hành vi
phạm tội bị bắt quả tang, có căn cước, lai lịch rõ ràng”.47 Về phạm vi áp
dụng, TTRG không được áp dụng với tất cả các giai đoạn của tố tụng hình sự
mà chỉ được áp dụng trong các giai đoạn điều tra, truy tố, xét xử sơ thẩm theo
quy định tại Điều 318 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003.
Trong khoa học TTDS, TTRG được đề cập đến trong một công trình
nghiên cứu khoa học cấp bộ gần đây theo hướng thiên về xác định loại việc
được giải quyết theo TTRG: “Thủ tục rút gọn trong tố tụng dân sự là thủ tục
tố tụng để giải quyết đối với những tranh chấp nhỏ, đơn giản và có chứng cứ 45 Về dân sự, Tòa án sơ cấp có thẩm quyền xử chung thẩm: những việc kiện dân sự, thương sự về động sản mà giá ngạch do nguyên đơn định không quá 150 đồng (Sắc lệnh 185 ngày 26-5-1948 tăng lên 300 đồng); hoặc những việc kiện về các khoản lệ phí đã phát sinh ra trước Tòa án ấy không cứ giá ngạch nào. Đối với Tòa đệ nhị cấp cũng có quyền xét xử chung thẩm với những việc kiện về bất động sản mà giá ngạch theo thời giá hôm khởi tố hay theo văn tự là không quá 150 đồng (Sắc lệnh 185 ngày 26-5-1948 tăng lên 300 đồng), những việc kiện về động sản mà giá ngạch trên 450 đồng và dưới 750 đồng (Sắc lệnh 185 ngày 26-5-1948 bỏ loại việc này). 46 Cụ thể, về thẩm quyền của Tòa án sơ cấp khi xét xử việc hộ và việc hình, Điều thứ 10 Sắc lệnh 13/SL ngày 24-1-1946 quy định: “Mỗi tuần lễ, ít ra phải có hai phiên tòa công khai: một phiên hộ và một phiên hình. Tại phiên tòa, Thẩm phán xét xử một mình, lục sự giữ bút ký, lập biên bản án”. Đối với Tòa đệ nhị cấp khi xét xử các về dân sự, thương sự và đối với các vụ án tiểu hình, Điều thứ 17 Sắc lệnh 13/SL ngày 24-1-1946 quy định: “Về dân sự và thương sự, Chánh án xử một mình.” 47 Hoàng Thị Minh Sơn (chủ biên) (2013), Giáo trình Luật tố tụng hình sự Việt Nam, NXB Công an nhân dân, Hà Nội, tr.535.
23 rõ ràng...”.48 Tuy nhiên, trong một công trình nghiên cứu khoa học khác,
TTRG được tiếp cận một cách khá cụ thể và chi tiết hơn: “Thủ tục tố tụng dân
sự rút gọn là loại hình thủ tục tố tụng được giản lược, do một Thẩm phán tiến
hành giải quyết đối với các vụ kiện dân sự, hôn nhân gia đình, kinh doanh,
thương mại, lao động có nội dung đơn giản, rõ ràng hoặc có giá trị nhỏ theo
một trình tự tố tụng đơn giản, nhanh chóng, phán quyết của Tòa án có hiệu
lực pháp luật ngay hoặc có thể bị phản kháng để giải quyết theo thủ tục sơ
thẩm thông thường hoặc thủ tục phúc thẩm được giản lược”.49
Trong văn kiện của Đảng Cộng sản Việt Nam, TTRG được đề cập trong
NQ49/TW như sau: “… Xây dựng cơ chế xét xử theo thủ tục rút gọn đối với
những vụ án có đủ một số điều kiện nhất định.” Trong văn bản pháp lý, “thủ
tục đơn giản” lần đầu tiên được đề cập tại Luật bảo vệ quyền lợi người tiêu
dùng được Quốc hội Việt Nam khóa XII, kỳ họp thứ 8 thông qua ngày 17-11-
2010 và có hiệu lực thi hành từ ngày 01-7-2011. Tuy nhiên, cả văn kiện của
Đảng và luật nêu trên đều không đưa ra khái niệm thế nào là TTRG hoặc thủ
tục đơn giản. Luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng cũng chỉ đưa ra tiêu chí
áp dụng thủ tục đơn giản50 để giải quyết các vụ án dân sự về bảo vệ quyền lợi
người tiêu dùng chứ chưa quy định về thủ tục giải quyết.
Gần đây TTRG được chính thức đề cập trong HP 2013 tại Điều 103 về nguyên tắc tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân và sau đó được quy định tương ứng tại Điều 8 và Điều 10 LTCTAND năm 2014: “Việc xét xử sơ thẩm của Tòa án nhân dân có Hội thẩm tham gia, trừ trường hợp xét xử theo thủ tục rút gọn” và “Tòa án nhân dân xét xử tập thể và quyết định theo đa số, trừ trường hợp xét xử theo thủ tục rút gọn”. Tuy nhiên, cả trong HP 2013 và
48 Nguyễn Công Bình (2014), “Chuyên đề 1: Khái niệm, đặc điểm và ý nghĩa của thủ tục tố tụng dân sự rút gọn”, trích Đề tài nghiên cứu khoa học cấp bộ “Vấn đề xây dựng thủ tục tố tụng dân sự rút gọn theo yêu cầu cải cách tư pháp và hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay - Thực trạng và giải pháp”, do Trần Anh Tuấn làm chủ nhiệm đề tài, Hà Nội, tr.133. 49 Trần Anh Tuấn (2014), (30), tr.15. 50 Điều 41 Luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng quy định về các tiêu chí sau:“Cá nhân là người tiêu dùng khởi kiện; tổ chức, cá nhân trực tiếp cung cấp hàng hóa, dịch vụ cho người tiêu dùng bị khởi kiện; Vụ án đơn giản, chứng cứ rõ ràng; Giá trị giao dịch dưới 100 triệu đồng”.
24 LTCTAND năm 2014 cũng chỉ sử dụng cụm từ “thủ tục rút gọn” chứ không đưa ra khái niệm cụ thể của TTRG.
Khái niệm TTRG lần đầu tiên được diễn giải trong một dự thảo văn bản
quy phạm pháp luật của Việt Nam (Điều 311, Dự thảo BLTTDSSĐ) là: “thủ tục tố tụng được áp dụng để giải quyết các vụ án dân sự có đủ điều kiện theo quy định của Bộ luật này với trình tự đơn giản so với thủ tục giải quyết các vụ án dân sự thông thường nhằm giải quyết vụ án nhanh chóng nhưng vẫn bảo đảm đúng pháp luật”.51
Như vậy, với các tài liệu mà tác giả được tiếp cận nghiên cứu, kể cả nước ngoài hay Việt Nam, dù là thủ tục giản lược, thủ tục đơn giản hay TTRG được
dẫn chiếu khi bàn về thủ tục giải quyết các tranh chấp đơn giản hoặc có giá trị nhỏ đều được hiểu là một thủ tục mang tính rút gọn hơn, giản đơn hơn so với thủ tục thông thường từ hai khía cạnh: (i) thành phần giải quyết tranh chấp; và (ii) trình tự, thủ tục, thời gian giải quyết. Nói cách khác, TTRG có thể được
hiểu là một thủ tục đơn giản, gọn nhẹ hơn so với thủ tục TTDS thông thường về mặt thành phần, trình tự, thủ tục và thời gian giải quyết tranh chấp, được áp dụng đối với một số loại tranh chấp đơn giản hoặc có giá trị thấp.
1.1.2. Ý nghĩa của thủ tục rút gọn
Xây dựng thủ tục tố tụng nói chung và thủ tục tố tụng đơn giản, gọn nhẹ và nhanh chóng nói riêng, ngoài mục đích để bảo đảm công lý còn phải được xem xét từ khía cạnh thời gian và chi phí tố tụng. Tại nội dung dưới đây của
Luận án, tác giả sẽ cố gắng xem xét tính hiệu quả của thủ tục rút gọn trong mối quan hệ với bảo vệ công lý từ góc độ phân tích kinh tế học hay còn được gọi là “triết lý kinh tế luật”.
Triết lý kinh tế luật (law and economics) được xuất hiện vào những năm
1960 mà theo đó các lý thuyết về kinh tế được sử dụng khi nghiên cứu các chế định luật truyền thống: quyền sở hữu, hợp đồng, bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng v.v.52 51 Điều 316 khoản 1 Bộ luật tố tụng dân sự sửa đổi năm 2015 (BLTTDSSĐ) vẫn giữa nguyên nội dung này. 52 Lê Nết, (24), tr.15.
25
Hai nhà kinh tế có công khai phá và phát triển học thuyết này là Ronald
Coase và Guico Calbresi,53 dựa trên các nền móng được xây dựng từ thế kỷ
18 và 19 bởi hai học giả nổi tiếng nhất là Adam Smith và Karl Marx.54 Kinh
tế học giúp lý giải các điều kiện pháp lý và các tác động pháp lý thông qua
những phân tích về “incentives and costs” (lợi ích và chi phí) để hiểu đúng và
tốt hơn các mặt mạnh và mặt yếu của pháp luật, chính sách và hành động
pháp lý. Những người hành nghề pháp luật ngày càng cân nhắc lợi ích và chi
phí, tính hiệu quả và lý thuyết “rational choice” (sự lựa chọn hợp lý)55 trong
quá trình đưa ra các giải pháp và quyết định của mình.56 Ngay trong “Tinh
thần pháp luật” Montesquieu cũng đã đề cập đến tính đơn giản hóa các luật lệ
và hình thức xét xử.57
Hiệu quả là một trong những mục tiêu cơ bản của kinh tế học. Hiệu quả
trong giải quyết tranh chấp là một trong những tiêu điểm của kinh tế luật. Lập
luận của nhà kinh tế học Ronald Coase về giải quyết tranh chấp giữa Nhà máy
bột giặt Unix xả khói làm ám vải dệt lụa đang phơi của Nhà máy dệt Tân
Châu mà theo đó Ronal Coase cho rằng giải pháp tối ưu nhất là Unix bồi
thường cho Tân Châu 750 ngàn đô la Mỹ (USD) để Tân Châu tự trang bị cho
mình thiết bị sấy lụa trong nhà và như vậy Unix không phải tốn 1 triệu USD
để trang bị một thiết bị lọc khí và các thiết bị bảo vệ môi trường khác, đã 53 R. Coase (1960), “The Problems of Social Cost”, 3 Journal of Law and Economics 1; G. Calabresi (1961), “Some thoughts on Risk Distribution and the Law of Torts”, 70 Yale Law Journal 499. 54 Trước đó David Hume nói về tương tác trong các mối quan hệ (game theory) và Rosseau đề cập đến cuộc đấu trí săn hươu. Sau đó, Adam Smith đã giải thích rằng thị trường với bàn tay vô hình tự nó giải quyết được nhiều vấn đề mà pháp luật không giải quyết được. Marx trong bộ Tư bản luận vào năm 1859 cho rằng vì quyền lợi được xây dựng trên các điều kiện kinh tế - xã hội (cơ sở hạ tầng) nên pháp luật (thượng tầng kiến trúc) không thể tách rời hạ tầng cơ sở. Xem: Lê Nết, (24), tr.22. 55 Lê Nết trong cuốn sách “Kinh tế luật” nêu trên sử dụng thuật ngữ “Lựa chọn duy ý chí” khi nhắc đến lý thuyết “rational choice”. Xem: Lê Nết, (24), tr.30. Tuy nhiên, chúng tôi cho rằng sử dụng thuật ngữ “lựa chọn hợp lý” là phù hợp hơn. 56 Michael D. Murray cho rằng trường phái kinh tế luật càng được ứng dụng trong những năm suy thoái kinh tế không chỉ bởi các nhà làm luật, các nhà kinh tế mà còn bởi các Thẩm phán, Luật sư, các cán bộ pháp chế của chính phủ… trong quá trình tư duy, cân nhắc đưa ra các giải pháp và quyết định của mình. Xem: Michael D. Murray, (14), p.3. 57 Montesquieu dành một quyển (Quyển thứ VI) với tiêu đề nêu rõ về đơn giản hóa luật lệ và hình thức xét xử. Xem: Montesquieu (1996), Tinh thần pháp luật, Bản dịch của Hoàng Thanh Đạm, NXB Giáo dục, tr.75.
26 mang lại cho Ronald Coase giải Nobel kinh tế năm 1991.58 Như vậy, khi đối
mặt với một tranh chấp, các bên thường cân nhắc các lợi ích, chi phí và tính
hiệu quả nếu đưa tranh chấp đó ra Tòa án giải quyết.
Thẩm phán Posner – người quảng bá tích cực cho trường phái kinh tế luật
trong tố tụng tại Tòa án cho rằng các phân tích về trình tự, thủ tục pháp lý
cũng tương tự như nhà quản lý kinh doanh tính toán về hiệu quả của hoạt
động kinh doanh của công ty mình.59 Theo Posner, mục đích của hệ thống tố
tụng nhìn từ góc độ kinh tế học là nhằm giảm thiểu tối đa các khinh xuất, sơ
sót trong quá trình xét xử và chi phí để vận hành bộ máy và công tác xét xử.60
Nghĩa là, theo Poster, thủ tục tố tụng phù hợp cần phải cân nhắc “hài hòa giữa
chi phí đi tìm và bảo vệ công lý với chi phí vận hành bộ máy tố tụng.”61
Trước khi Tòa án ra đời, việc giải quyết tranh chấp trong đời sống một
cách hiệu quả khởi thủy được thực hiện thông qua trọng tài.62 Holdsworth khi
bàn về lịch sử trọng tài cho rằng: “Có thể nói rằng thực tiễn trọng tài đã đi
vào các bộ luật nguyên thủy; và sau khi các Tòa án được các quốc gia thành
lập ra […] thì hoạt động trọng tài vẫn tiếp tục vì các bên tranh chấp muốn giải
quyết tranh chấp với thủ tục đơn giản hơn và ít tốn kèm hơn so với giải quyết
tranh chấp tại Tòa án.”63
Ở Việt Nam, ngay từ những năm đầu tiên chuyển đổi cơ chế giải quyết
tranh chấp kinh tế từ cơ quan trọng tài kinh tế nhà nước trước kia sang Tòa
kinh tế, nhiều học giả đã thể hiện quan điểm về tính hiệu quả của giải quyết
các TCKDTM tại Tòa án. GS.TS.NGƯT. Mai Hồng Quỳ khẳng định, trong 58 Lê Nết, (24), tr.20. 59 Larry L. Chubb, “Economic Analysis in the Courts: Limits and Constraints”, 64 Ind. L.J. 769, p.3 60 R. Posner, (14), p.517. 61 Larry L. Chubb, (58), p.3. 62 Đỗ Văn Đại và Trần Hoàng Hải (2011), Pháp luật Việt Nam về Trọng tài thương mại, NXB Chính trị quốc gia, tr.15. 63 Alan Redfern, Martin Hunter, Nigel Blackaby (2004), Constantine Partasides, Pháp luật và thực tiễn Trọng tài thương mại quốc tế, NXB Thomson, Sweet & Maxwell, tr.3 (Bản dịch của Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam năm 2009). Xem: Đỗ Văn Đại và Trần Hoàng Hải, (62), tr.18, về các ưu điểm khác của phương thức giải quyết tranh chấp bằng trọng tài.
27 quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, nâng cao hiệu quả và chất lượng xét xử có
vai trò quan trọng không kém nhiệm vụ hoàn thiện hệ thống pháp luật kinh tế.
Tác giả cũng cho rằng “hiệu quả của hoạt động xét xử không chỉ dừng lại ở
việc giải quyết tốt các mối xung đột, bất đồng trong quá trình kinh doanh”64
mà còn là một trong những phương pháp để đánh giá hiệu quả của các quy
phạm pháp luật. Rõ ràng như vậy, trước hết các quy phạm pháp luật tố tụng
phải được thiết kế theo hướng bảo đảm tính hiệu quả trong hoạt động xét xử
của Tòa án.
Giải quyết TCKDTM phải “phù hợp với nền kinh tế thị trường” với cơ chế
“linh hoạt, mềm dẻo, nhanh gọn và hiệu quả kinh tế cao” để tạo được niềm tin
cho các doanh nghiệp, doanh nhân an tâm đầu tư, phát triển sản xuất…65 Giải
quyết tranh chấp kéo dài, không dứt điểm sẽ làm lỡ cơ hội kinh doanh của
đương sự và như vậy có thể giảm thiểu hoặc làm mất đi nhu cầu đưa tranh
chấp ra Tòa án giải quyết.66
Nhiều nền kinh tế trên thế giới gần đây cũng tiến hành các cải cách thủ tục
TTDS giải quyết tranh chấp dân sự, kinh doanh, thương mại theo hướng đơn
giản, hiệu quả và dễ tiếp cận hơn cho người dân.67 Các quốc gia mặc dù có
những quan điểm khác biệt về triết lý phát triển một nền tư pháp có hiệu quả
nhưng dường như đồng nhất với nhau về việc xây dựng một hệ thống xét xử
64 Mai Hồng Quỳ, (23), tr.89. 65 Đào Văn Hội chỉ ra rằng một trong những nhiệm vụ tối quan trọng của việc thiết kế cơ chế giải quyết tranh chấp bởi Tòa án là phải chú trọng đến cơ chế, trình tự, thủ tục giải quyết thật linh hoạt, nhanh gọn và dứt điểm. Xem: Đào Văn Hội, (22), tr.52 - 54. 66 Việc rút ngắn thời gian giải quyết tranh chấp, đơn giản thủ tục và quy trình giải quyết tranh chấp cũng được coi là một trong những nhiệm vụ trọng tâm để cải thiện môi trường kinh doanh, nâng cao năng lực canh tranh quốc gia của Việt Nam (Điều III.11 của NQ 19 đưa ra yêu cầu về việc rút ngắn thời gian giải quyết tranh chấp thương mại, nhất là các tranh chấp có quy mô nhỏ, thông qua Tòa án xuống còn tối đa 200 ngày). 67 Xem: “Doing Business Reforms” (Cải cách kinh doanh) – Dự án của Ngân hàng Thế giới nghiên cứu môi trường kinh doanh của 189 nước trên thế giới, theo đó Dự án phân tích các nguyên nhân của những hạn chế, cản trở môi trường kinh doanh và phân tích về những cải cách đang diễn ra ở các nền kinh tế đó, trong đó có những cải cách về thủ tục tố tụng để làm giảm thiểu thời gian và chi phí tố tụng giải quyết các tranh chấp kinh doanh, thương mại [http://www.doingbusiness.org/data/exploretopics/enforcing-contracts/reforms] (truy cập ngày 15-10-2015).
28 có thủ tục đơn giản, nhanh chóng, hiệu quả và đem lại công bằng cho người
dân và hấp dẫn đối với các đương sự.68
Việc xây dựng TTRG trong TTDS giúp tiết kiệm thời gian và chi phí tố
tụng. Có một sự thừa nhận chung rằng, nếu áp dụng một thủ tục tố tụng chung
với tất cả các TCDS nói chung và TCKDTM nói riêng mà không phân biệt
tính chất đơn giản, phức tạp, giá trị tranh chấp nhỏ hoặc lớn, hay có hoặc
không sự thừa nhận nghĩa vụ của các đương sự sẽ gây lãng phí về thời gian và
chi phí do quá trình giải quyết bị kéo dài. Vì vậy, việc rút ngắn thời gian giải
quyết các vụ án áp dụng TTRG được xem là một đặc trưng quan trọng khi xây
dựng TTRG ở nhiều nước nhằm mục đích giúp cho đương sự, Tòa án và xã
hội tiết kiệm các chi phí phát sinh trong quá trình giải quyết, hạn chế gián
đoạn và tránh bỏ lỡ chi phí cơ hội trong hoạt động kinh doanh của đương sự.
TTRG cũng mang lại sự thuận lợi cho đương sự trong việc tiếp cận công
lý, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ đồng thời giúp nâng cao hiệu quả
hoạt động và chất lượng công việc của Tòa án. Chính việc áp dụng TTRG tiết
kiệm được thời gian và chi phí nên không những tránh được tâm lý e ngại tiếp
cận đến Tòa án mà còn khuyến khích các bên tranh chấp sử dụng cơ chế hợp
pháp (Tòa án) để giải quyết các xung đột. Điều này góp phần hạn chế việc
đương sự sử dụng các phương thức tiêu cực nhằm giải quyết các tranh chấp
của mình như: bắt cóc, tống tiền, đòi nợ thuê, hình sự hóa tranh chấp kinh
doanh, thương mại...69
Điều quan trọng hơn cả là quy định TTRG được giản lược về thủ tục,
rút ngắn về thời gian, rút gọn về thành phần xét xử và thành phần tham gia tố
tụng mà vẫn đảm bảo việc giải quyết vụ án một cách đúng đắn, chính xác và
bảo đảm công lý sẽ giúp nâng cao hiệu quả hoạt động của Tòa án. Trong một
68 Simon Djankov và các tác giả khác trong quá trình xây dựng phương pháp luận cho Ngân hàng Thế giới nghiên cứu về môi trường kinh doanh đã chỉ ra rõ tính hiệu quả của công tác xét xử là một trong những mục đích hàng đầu của các cải cách tư pháp của các nước trên thế giới.[http://www.doingbusiness.org/methodology/media] (truy cập ngày 15-10-2015). 69 Tòa án nhân dân tối cao, (2014), (44), tr.28.
29 nghiên cứu gần đây do Corina D. Gerety và Richard P. Holme của Viện phát
triển Hệ thống Pháp lý Hoa Kỳ thuộc Đại học Denver thực hiện, cho thấy, có
đến 91% Thẩm phán và 98% Luật sư được hỏi đều cho rằng TTRG làm giảm
bớt thời gian và chi phí tố tụng nhưng vẫn bảo đảm sự công bằng trong việc
giải quyết tranh chấp.70
Tuy nhiên, quá trình áp dụng TTRG không phải ở đâu và lúc nào cũng
thành công. Ở Đức ban đầu giao cho Tòa vi cảnh – Tòa án cấp thấp nhất có
thẩm quyền áp dụng TTRG để giải quyết vụ việc dân sự nhưng sau đó đã phải
chuyển toàn bộ thẩm quyền của Tòa án này cho Tòa sơ thẩm, bởi lẽ nhân sự
của Tòa vi cảnh không đáp ứng được yêu cầu về trình độ và kỹ năng giải quyết
vụ án theo TTRG và khả năng giải trình khi các quyết định của mình bị kháng
cáo.71 Ở Nhật Bản, không có nhiều vụ án được giải quyết theo TTRG.72 Do đó,
hiệu quả của TTRG trong giải quyết tranh chấp còn phụ thuộc vào chính “hiệu
quả” áp dụng TTRG trên thực tế. Các nhà lập pháp và những người hành nghề
luật ở Hòa Kỳ cũng đã từng thách thức ý tưởng áp dụng TTRG ở cấp liên bang
khi họ yêu cầu cần lý giải: “Liệu đưa ra một bộ quy tắc đơn giản nhưng cuối
cùng chẳng có mấy vụ án như vậy được kiện ra Tòa?”73
Ở nước ta, xây dựng TTRG trong TTDS đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp
đã được Bộ Chính trị Đảng Cộng sản Việt Nam chỉ rõ: “cải cách mạnh mẽ
các thủ tục tố tụng tư pháp theo hướng dân chủ, bình đẳng, công khai, minh
bạch, chặt chẽ, nhưng thuận tiện, bảo đảm sự tham gia và giám sát của nhân
dân đối với hoạt động tư pháp…”74 và “cải cách tư pháp phải xuất phát từ
yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội, xây dựng xã hội công bằng, dân chủ, văn
minh; góp phần thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội…; tiếp thu có chọn lọc 70 Rihard P. Holme and Corina D. Gerety (2011), “Simplified Procedure in the Real World under C.R.C.P, 16.1”, 40 Colo. Law. 23, p.24. 71 Dự án Tăng cường tiếp cận công lý và bảo vệ quyền tại Việt Nam (2015), (27), tr.51. 72 Hiroshi Oda, (18), p.411. 73 Eward H. Cooper (2001), “Simplified Rules of Federal Procedure?”, 100 Mich. L. Rev. 1794, p.1797. 74 Đảng Cộng sản Việt Nam (2005), “Nghị quyết số 48-NQ/TƯ ngày 24-5-2005 về Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020”, Hà Nội, tr.5.
30 những kinh nghiệm của nước ngoài phù hợp với hoàn cảnh của nước ta và
yêu cầu chủ động hội nhập quốc tế…”75
Như vậy, TTRG có ý nghĩa cơ bản là tiết kiệm thời gian và chi phí tố tụng
mà vẫn đảm bảo công lý và bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự.
Để đạt được ý nghĩa đó, cần thiết phải cân bằng giữa tăng cường tính hiệu
quả của giải quyết tranh chấp theo TTRG với sự tuân thủ các yêu cầu để đảm
bảo công lý. Chính vì vậy, xây dựng TTRG phải cân nhắc đến các nguyên tắc
cơ bản trong hoạt động xét xử.
1.2. Cơ sở pháp lý và định hướng xây dựng thủ tục rút gọn!
1.2.1. Cơ sở pháp lý của việc xây dựng thủ tục rút gọn
Hội nghị lần thứ ba Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa VIII đã chỉ rõ:
“Hoạt động tư pháp phải nhằm... bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công
dân... Nghiên cứu áp dụng thủ tục rút gọn để xét xử kịp thời một số vụ án đơn
giản, rõ ràng.”76
HP 2013 đã quy định về việc áp dụng TTRG giải quyết một số vụ án theo
quy định của pháp luật. Đây là cơ sở pháp lý cao nhất để có thể xây dựng và
áp dụng TTRG giải quyết TCDS nói chung, trong đó có TCKDTM.
Như vậy, cơ sở chính trị pháp lý của việc xây dựng TTRG tại Việt Nam là
các nghị quyết của Đảng như đã đề cập ở trên và HP 2013.
Ngoài ra, riêng đối với việc giải quyết TCKDTM, nhu cầu cần phải đơn
giản hoá thủ tục quy trình và rút ngắn thời gian giải quyết cũng đã được thể
hiện rất rõ và cụ thể tại Nghị quyết số 19/NQ-CP của Chính phủ ngày 12-03-
2015 về những nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu tiếp tục cải thiện môi trường kinh
doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia hai năm 2015 – 2016. Tại mục
II.2.b của Nghị quyết đã chỉ rõ phải “rút ngắn thời gian giải quyết tranh chấp
75 Đảng Cộng sản Việt Nam (2005), “Nghị quyết 49-NQ/TƯ ngày 2-6-2005 về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020”, Hà Nội, tr.2. 76 Nghị quyết Hội nghị lần thứ ba Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa VIII về chiến lược cán bộ thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước ngày 18-6-1997, Hà Nội, tr.57.
31 thương mại xuống còn tối đa 200 ngày (hiện nay là 400 ngày)..., nhất là đối
với tranh chấp quy mô nhỏ và giữa các doanh nghiệp nhỏ và vừa thông qua
Tòa án”.
1.2.2. Định hướng xây dựng thủ tục rút gọn
NQ49/TW nêu rõ: “Xây dựng cơ chế xét xử theo thủ tục rút gọn đối với
những vụ án có đủ một số điều kiện nhất định”. Như vậy, quan điểm chỉ đạo
của Đảng là TTRG được xây dựng trên tinh thần chỉ áp dụng đối với một số
vụ án đơn giản, rõ ràng nhưng cũng phải bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp
của công dân trong hoạt động tư pháp.
Trong bối cảnh nêu trên, tác giả cho rằng việc xây dựng TTRG trong
TTDS nói chung và áp dụng đối với các TCKDTM nói riêng cần phải dựa
trên các quan điểm chỉ đạo sau đây:
Một là: Tiếp tục thể chế hóa các chủ trương, đường lối của Đảng về cải
cách tư pháp, của Bộ Chính trị và Văn kiện Đại hội Đảng lần thứ XI; trong
đó, xác định yêu cầu đổi mới tổ chức phiên tòa xét xử, xác định rõ hơn vị trí,
quyền hạn, trách nhiệm của người tiến hành tố tụng và người tham gia tố
tụng; tạo điều kiện cho các đương sự chủ động thu thập chứng cứ, bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của mình; hoàn thiện thủ tục giám đốc thẩm, tái
thẩm; xây dựng cơ chế xét xử theo TTRG đối với những vụ án có đủ một số
điều kiện nhất định.77
Hai là: Hài hòa việc tăng cường hiệu quả hoạt động xét xử thông qua
TTRG đồng thời phải bảo đảm các nguyên tắc cơ bản trong hoạt động xét xử,
bảo đảm công lý và các quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự. Cụ thể: Xây
dựng TTRG giải quyết vụ án dân sự trong giai đoạn hiện nay phải đảm bảo
các nguyên tắc cơ bản sau đây: (i) chế độ hai cấp xét xử mà Hiến pháp đã quy
định;78 và (ii) việc xét xử phải được thực hiện trực tiếp thông qua phiên tòa.79
77 Tờ trình số 03/Tr-TANDTC ngày 9-4-2015 về Dự thảo BLTTDSSĐ. 78 Theo kinh nghiệm nước ngoài, tác giả cho rằng, về lâu dài cần cân nhắc việc không cho phép kháng cáo, kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm đối với các vụ án TCKDTM áp dụng TTRG (xem thêm nội dung
32
Ba là: Việc xây dựng TTRG phải được tiến hành trên cơ sở tổng kết thực
tiễn thi hành các quy định của BLTTDS hiện hành nhằm khắc phục những
hạn chế, vướng mắc, bất cập, kế thừa những quy định còn phù hợp; đồng thời,
tham khảo có chọn lọc kinh nghiệm liên quan của các quốc gia trên thế giới.
Bốn là: Việc xây dựng TTRG đối với việc giải quyết các vụ án dân sự nói
chung và giải quyết các TCKDTM nói riêng phải phù hợp với hoàn cảnh, điều
kiện phát triển kinh tế, xã hội hiện nay có tính đến sự ổn định về pháp luật,
bảo đảm tính khả thi trong quá trình áp dụng và tính đồng bộ trong hệ thống
pháp luật.
Căn cứ vào các quan điểm chỉ đạo và các yêu cầu cụ thể đối với việc xây
dựng TTRG nêu trên, theo tác giả việc xây dựng TTRG trong TTDS nói
chung và đối với việc giải quyết các TCKDTM nói riêng được thực hiện theo
các định hướng sau đây:
Thứ nhất, xuất phát từ đặc thù của TTRG là một thủ tục độc lập nhưng
không tách rời thủ tục TTDS, nhằm giải quyết một số loại vụ án có những
điều kiện nhất định nhưng đồng thời vẫn đảm bảo được sự thống nhất của
pháp luật tố tụng nói chung, TTRG cần phải được quy định trong BLTTDS.
Thứ hai, để bảo đảm tính khả thi khi triển khai áp dụng, TTRG cần phải
được quy định chi tiết và cụ thể. Do đó, TTRG cần phải được xây dựng trong
BLTTDSSĐ tại một chương riêng như là một thủ tục riêng biệt so với các thủ
tục tố tụng khác và đồng thời phải xây dựng các văn bản hướng dẫn phù hợp
nhằm triển khai có hiệu quả ngay khi BLTTDSSĐ có hiệu lực thi hành.
này tại tiểu mục 1.2.2.3 của Luận án). Nhưng vẫn rất cần thiết quy định thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm cho tất cả các loại vụ án để bảo đảm có một cơ chế cuối cùng để sửa sai. 79 Theo tác giả, trước mắt việc giải quyết các TCDS nói chung và các TCKDTM nói riêng theo TTRG cũng vẫn phải được thực hiện thông qua việc mở các phiên tòa (nhưng cần phải quy định sao cho phiên tòa đơn giản, gọn nhẹ, rút gọn được bước nào thì nên rút gọn như kinh nghiệm của các nước theo hệ thống Thông luật như Anh, Mỹ). Mặc dù về lâu dài không nhất thiết phải mở phiên tòa để giải quyết các tranh chấp đó (kinh nghiệm của một số nước như Pháp, Đức mà tác giả nghiên cứu, giới thiệu và phân tích tại tiểu mục 1.2.2.2 của Luận án cũng quy định như vậy), vì về bản chất TTRG khi áp dụng giải quyết các vụ án không nhất thiết phải mở phiên tòa. Tuy nhiên, để có thể thực hiện được điều này thì cần phải sửa đổi các quy định tương ứng của Hiến pháp.
33
Thứ ba, vì TTRG là một thủ tục sẽ áp dụng lần đầu tiên trong hoạt động
xét xử các vụ án dân sự, chắc chắn sẽ có những bất cập trong quá trình thực
thi. Do đó, vừa để bảo đảm sự ổn định của pháp luật tố tụng vừa đảm bảo tính
khả thi, cần thiết khi xây dựng các quy định về TTRG một mặt nên đầy đủ và
chi tiết nhưng mặt khác các quy định cũng cần phải mang tính mở và tính
nguyên tắc.
Thứ tư, TTRG có tính đến đặc thù của các loại tranh chấp khác nhau, trong
đó bao gồm cả TCKDTM nhằm thông qua việc giải quyết TCKDTM sẽ hỗ trợ
và thúc đẩy hoạt động kinh doanh và phát triển kinh tế, xã hội của đất nước.
1.2.3. Mối quan hệ giữa thủ tục rút gọn với các nguyên tắc xét xử cơ bản
TTRG được xây dựng dựa trên các nguyên tắc cơ bản mà từng quốc gia
quy định trong hoạt động tư pháp. Ở Việt Nam, theo tác giả, trước mắt các
nguyên tắc cơ bản sau đây của Hiến pháp phải được bảo đảm khi xây dựng
TTRG: xét xử công khai và bảo đảm tranh tụng, chế độ xét xử sơ thẩm và
phúc thẩm và Viện kiểm sát nhân dân kiểm sát hoạt động tư pháp. Về lâu dài,
sau một thời gian TTRG được kiểm chứng qua thực tiễn áp dụng sẽ cân nhắc
và đánh giá liệu có cần thiết tiếp tục áp dụng các nguyên tắc hiến định nêu
trên đối với việc giải quyết các vụ án theo TTRG hay không để đề xuất sửa
đổi Hiến pháp theo hướng phù hợp làm cơ sở cho việc tiếp tục đơn giản và
gọn nhẹ TTRG. Đối với các nguyên tắc luật định sau đây, không nhất thiết
phải tuân thủ khi xây dựng TTRG: giám đốc việc xét xử, quyền quyết định và
tự định đoạt của đương sự, hòa giải trong TTDS.
Thứ nhất, nguyên tắc Tòa án xét xử công khai và nguyên tắc tranh tụng
trong xét xử được bảo đảm
Khoản 3 và khoản 5 Điều 103 HP 2013 quy định: “Tòa án nhân dân xét xử
công khai. Trong trường hợp đặc biệt cần giữ bí mật nhà nước, thuần phong,
mỹ tục của dân tộc, bảo vệ người chưa thành niên hoặc giữ bí mật đời tư theo
yêu cầu chính đáng của đương sự, Tòa án nhân dân có thể xét xử kín”; và
“Nguyên tắc tranh tụng trong xét xử được đảm bảo”.
34 Điều 23a BLTTDS quy định: “Trong quá trình giải quyết vụ án dân sự,
Tòa án bảo đảm để các bên đương sự, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của đương sự thực hiện quyền tranh luận để bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của đương sự”. Khoản 1 Điều 197 BLTTDS quy định: “Tòa án phải
trực tiếp xác định những tình tiết của vụ án bằng cách hỏi và nghe lời trình
bày của nguyên đơn, bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ
án, người đại diện hợp pháp, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
đương sự và những người tham gia tố tụng khác; xem xét, kiểm tra tài liệu,
chứng cứ đã thu thập được; nghe Kiểm sát viên phát biểu ý kiến của Viện
kiểm sát về việc giải quyết vụ án, trong trường hợp có Kiểm sát viên tham gia
phiên tòa. Bản án chỉ được căn cứ vào kết quả tranh tụng, việc hỏi tại phiên
tòa và các chứng cứ đã được xem xét, kiểm tra tại phiên tòa”.
Trước hết, căn cứ vào quy định của HP 2013, việc xét xử phải được tiến
hành công khai, chỉ trừ một số trường hợp đặc biệt nhưng lại không quy định
đối với vụ án giải quyết theo TTRG. Trong khi đó, Điều 103 HP 2013 quy
định nguyên tắc xét xử tập thể có chỉ rõ ngoại lệ đối với trường hợp xét xử
theo TTRG. Như vậy, các nguyên tắc hiến định liên quan đến tố tụng một khi
không chỉ rõ “không áp dụng đối với TTRG” - nghĩa là các nguyên tắc đó
phải được áp dụng đối với TTRG.
Việc xét xử công khai, bảo đảm tranh tụng, phán quyết dựa vào kết quả
tranh tụng tại phiên tòa được quy định tại các điều luật nêu trên chỉ có thể
được thực hiện thông qua việc xét xử trực tiếp tại phiên tòa với sự tham gia
của các bên đương sự. Do đó, giải quyết theo TTRG cũng phải được thực hiện
thông qua phiên tòa có sự tham gia của các đương sự theo quy định của pháp
luật, chứ không chỉ dựa trên hồ sơ để đưa ra phán quyết. Phiên tòa được hiểu
là phiên tòa sơ thẩm và phiên tòa phúc thẩm.
Thứ hai, về nguyên tắc chế độ xét xử sơ thẩm, phúc thẩm được bảo đảm
Khoản 6 Điều 103 HP 2013 quy định: “Chế độ xét xử sơ thẩm, phúc phẩm được bảo đảm.”
35
Căn cứ vào quy định nêu trên thì chế độ xét xử sơ thẩm, phúc thẩm phải
được bảo đảm trong mọi trường hợp mà không ngoại lệ, kể cả trường hợp vụ
án được giải quyết theo TTRG. Nếu Hiến pháp cho phép luật quy định cụ thể
về chế độ hai cấp xét xử thì Hiến pháp đã phải nêu cụ thể: “Chế độ xét xử sơ
thẩm, phúc thẩm được bảo đảm theo luật định.” Điều đó có nghĩa, với quy
định hiện hành của Hiến pháp thì việc xây dựng TTRG ở Việt Nam cho dù có
rút gọn hoặc đơn giản thế nào đi chăng nữa thì cũng không thể rút gọn quy
trình xem xét lại bản án sơ thẩm bởi thủ tục phúc thẩm.
Thứ ba, về nguyên tắc kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng
dân sự
Khoản 1 Điều 107 Hiến pháp 2013 quy định:“Viện kiểm sát nhân dân thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp”.
Đa số các nước trên thế giới, cơ quan Công tố không có vai trò trong các
vụ án dân sự, nhưng ở Việt Nam, từ trước đến nay và theo quy định của HP
2013, Viện kiểm sát có nhiệm vụ “thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt
động tư pháp”.
Chức năng “kiểm sát hoạt động tư pháp” của Viện kiểm sát được quy định
trong các đạo luật về tố tụng. Phạm vi tham gia của Viện kiểm sát trong hoạt
động TTDS vẫn còn có nhiều ý kiến khác nhau, ví dụ Viện kiểm sát thực hiện
giám sát việc tuân theo pháp luật của Tòa án chỉ nên thông qua quyền kháng
nghị hoặc có quan điểm khác cho rằng nên quy định sự tham gia của Viện
kiểm sát như quy định tại khoản 2 Điều 21 của BLTTDS, cụ thể: “Viện kiểm
sát nhân dân tham gia các phiên họp sơ thẩm đối với các việc dân sự; các phiên toà sơ thẩm đối với những vụ án do Tòa án tiến hành thu thập chứng cứ
hoặc đối tượng tranh chấp là tài sản công, lợi ích công cộng, quyền sử dụng
đất, nhà ở hoặc có một bên đương sự là người chưa thành niên, người có nhược điểm về thể chất, tâm thần.”
Như vậy, nguyên tắc kiểm sát trong TTDS nói chung và trong xét xử theo
TTRG nói riêng được thực hiện thông qua hình thức nào là vấn đề phụ thuộc
vào quy định của pháp luật TTDS.
36
Thứ tư, nguyên tắc giám đốc việc xét xử
Khoản 2 Điều 104 HP 2013 quy định: “Tòa án nhân dân tối cao giám
đốc việc xét xử của các Tòa án khác, trừ trường hợp do luật định”. Khoản 2
Điều 20 LTCTAND 2014 quy định nhiệm vụ, quyền hạn của TANDTC:
“Giám đốc việc xét xử của các Tòa án khác, trừ trường hợp do luật định”.
Khoản 2 Điều 29 LTCTAND 2014 quy định nhiệm vụ, quyền hạn của Tòa
án nhân dân cấp cao: “2. Giám đốc thẩm, tái thẩm bản án, quyết định đã có
hiệu lực pháp luật của Tòa án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung
ương, Tòa án nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh và tương
đương thuộc phạm vi thẩm quyền theo lãnh thổ bị kháng nghị theo quy định
của luật tố tụng.
Nói một cách khác, những vụ án nào thuộc đối tượng giám đốc sẽ do các
đạo luật về tố tụng quy định. Do đó, xét xử theo TTRG có thuộc đối tượng
giám đốc hay không là tùy vào quy định của pháp luật TTDS.
Tuy nhiên, thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm là cơ chế cuối cùng để sửa sai
các quyết định tư pháp. Cho nên, cần phải quy định thủ tục giám đốc thẩm,
tái thẩm đối với việc giải quyết tất cả các vụ án về TCDS nói chung và
TCKDTM nói riêng.
Trên thực tế, chúng ta cũng đã có bài học khi không quy định thủ tục phúc
thẩm, giám đốc thẩm đối với xét yêu cầu hủy phán quyết trọng tài gây ra tình
trạng oan sai nên TANDTC đã có công văn80 đề nghị Ủy ban Thường vụ
Quốc hội giải thích khoản 10 Điều 71 Luật trọng tài thương mại năm 2010
theo hướng cho phép áp dụng thủ tục giám đốc thẩm đối với phán quyết của
Tòa án cấp sơ thẩm về yêu cầu hủy quyết định trọng tài.
Vì vậy, thủ tục giám đốc thẩm cần được áp dụng trong mọi trường hợp
như là biện pháp cuối cùng nhằm sửa sai. Vấn đề còn lại chỉ là sử dụng cơ
chế giám đốc thẩm, tái thẩm một cách đúng đắn mà thôi. 80 Công văn số 206/TANDTC - KHXX ngày 31-10-2014 về việc báo cáo, xin ý kiến Ủy ban thường vụ Quốc hội giải thích Luật trọng tài thương mại.
37
Thứ năm, về nguyên tắc quyền quyết định và tự định đoạt của đương sự
Điều 5 của BLTTDS quy định:
“1. Đương sự có quyền quyết định việc khởi kiện, yêu cầu Tòa án có thẩm
quyền giải quyết vụ việc dân sự. Tòa án chỉ thụ lý giải quyết vụ việc dân sự
khi có đơn khởi kiện, đơn yêu cầu của đương sự và chỉ giải quyết trong phạm
vi đơn khởi kiện, đơn yêu cầu đó.
2. Trong quá trình giải quyết vụ việc dân sự, các đương sự có quyền chấm
dứt, thay đổi các yêu cầu của mình hoặc thoả thuận với nhau một cách tự
nguyện, không trái pháp luật và đạo đức xã hội”.
Theo quy định trên, ý chí chủ quan của đương sự “có ý nghĩa quyết định”
không chỉ làm phát sinh vụ án tại Tòa án mà còn trong quá trình giải quyết
các vụ án81 và Tòa án phải có trách nhiệm tôn trọng quyền quyết định và tự
định đoạt của đương sự, trừ trường hợp quyền quyết định và tự định đoạt đó
là “trái pháp luật và đạo đức xã hội”. Tinh thần của nguyên tắc này phù hợp
với một trong những nguyên tắc cơ bản của pháp luật dân sự là thừa nhận tính
có hiệu lực pháp lý của giao dịch dân sự được quy định tại điểm b khoản 1
Điều 122 Bộ luật dân sự rằng giao dịch dân sự có hiệu lực là giao dịch mà
“mục đích và nội dung của giao dịch không vi phạm điều cấm của pháp luật,
không trái đạo đức xã hội”.
Điều này có nghĩa những vấn đề mà nguyên đơn và bị đơn đã thống nhất
được với nhau về quan điểm, khi đó, trong phán quyết của mình, Tòa án
không có cách nào khác là ghi nhận quyền của nguyên đơn đối với bị đơn, trừ
trường hợp sự thừa nhận quyền đó là “vi phạm điều cấm của pháp luật hay
trái đạo đức xã hội”. Trong một vụ án mà toàn bộ yêu cầu khởi kiện của
nguyên đơn đã được bị đơn thừa nhận ngay từ khi khởi kiện hay trong quá
trình giải quyết vụ án, về thực chất, Tòa án chỉ xem xét các yêu cầu khởi kiện 81 Một trong những ý tưởng khá thú vị mà tác giả Mai Hồng Quỳ đưa ra là quyền quyết định và quyền tự định đoạt của đương sự trong tố tụng dân sự cũng là một trong những biện pháp để bảo đảm quyền tự do kinh doanh. Xem: Mai Hồng Quỳ (2012), Tự do kinh doanh và đảm bảo quyền con người tại Việt Nam, NXB Lao động, Thành phố Hồ Chí Minh, tr.207&208.
38 của nguyên đơn có vi phạm điều cấm của pháp luật hoặc trái đạo đức xã hội
hay không, nếu không có sự vi phạm, Tòa án không còn cách nào khác là phải
ghi nhận trong phán quyết của mình các yêu cầu khởi kiện đã được bị đơn
thừa nhận đó.
Do đó, trong các vụ án mà bị đơn đã thừa nhận toàn bộ những yêu cầu
khởi kiện của nguyên đơn, áp dụng thủ tục đơn giản và gọn nhẹ hơn các thủ
tục thông thường vẫn hoàn toàn đảm bảo sự tuân thủ nguyên tắc tôn trọng
quyền quyết định và tự định đoạt của đương sự.
Thứ sáu, về nguyên tắc hòa giải trong tố tụng dân sự
Theo Điều 10 BLTTDS quy định: “Tòa án có trách nhiệm tiến hành hòa
giải và tạo điều kiện thuận lợi để các đương sự thỏa thuận với nhau về việc
giải quyết vụ việc dân sự theo quy định của Bộ luật này”. Cụ thể hơn, khoản 1
Điều 180 BLTTDS quy định: “Trong thời hạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án,
Tòa án tiến hành hòa giải để các đương sự thỏa thuận với nhau về việc giải
quyết vụ án, trừ những vụ án không được hòa giải hoặc không tiến hành hòa
giải được quy định tại Điều 181 và Điều 182 của Bộ luật này”.
Theo quy định trên Tòa án bắt buộc phải tiến hành hòa giải trong tất cả các
vụ án dân sự trừ những vụ án không được hòa giải như các vụ án phát sinh từ
yêu cầu đòi bồi thường thiệt hại đến tài sản của Nhà nước, những vụ án dân
sự phát sinh từ giao dịch trái pháp luật hoặc trái đạo đức xã hội hoặc những
vụ án hòa giải không được, như: bị đơn đã được Tòa án triệu tập hợp lệ đến
lần thứ hai mà vẫn cố tình vắng mặt, đương sự không thể tham gia hoà giải
được vì có lý do chính đáng, đương sự là vợ hoặc chồng trong vụ án ly hôn là
người mất năng lực hành vi dân sự.
Nguyên tắc này cũng nhằm đề cao hơn sự tự quyết và khuyến khích các
đương sự thỏa thuận được với nhau về những vấn đề cần giải quyết. Đồng
thời, nguyên tắc này cũng nhằm mục đích tạo điều kiện để cho các bên có cơ
hội thương lượng về những yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn và tìm ra giải
39 pháp chung mà theo đó bị đơn đáp ứng toàn bộ hay một phần yêu cầu khởi
kiện của nguyên đơn.
Như vậy, việc hòa giải mang tính chất bắt buộc phải được hiểu rằng chỉ áp
dụng khi bị đơn không thừa nhận một phần hoặc toàn bộ yêu cầu khởi kiện
của nguyên đơn. Hay nói cách khác, trong trường hợp bị đơn thừa nhận toàn
bộ nghĩa vụ của mình đối với nguyên đơn nhưng vì lý do nào đó bị đơn không
thực hiện nghĩa vụ của mình đối với nguyên đơn thì việc hòa giải không bắt
buộc phải áp dụng.
Tuy nhiên, xét từ một khía cạnh khác của nguyên tắc hòa giải là tạo điều
kiện để các bên có thể tự thỏa thuận, tự thương lượng về những vấn đề yêu
cầu Tòa án giải quyết (ví dụ: về việc thực thi nghĩa vụ của bị đơn đối với
nguyên đơn trong trường hợp bị đơn đã thừa nhận toàn bộ nghĩa vụ của
mình). Do đó, trong trường hợp bị đơn thừa nhận toàn bộ nghĩa vụ thì hòa
giải vẫn có thể có ý nghĩa nếu việc đó tạo điều kiện để các bên thỏa thuận với
nhau về thực hiện các nghĩa vụ đã được thừa nhận. Vì vậy, khi có yêu cầu
Tòa án tổ chức việc hòa giải, Tòa án vẫn phải tiến hành hòa giải để giúp đỡ
cho các đương sự thống nhất về phương thức, thời gian... thực hiện nghĩa vụ.
Trong trường hợp không có yêu cầu hòa giải từ một trong các đương sự, như
đã nêu trên, Tòa án không có nghĩa vụ phải hòa giải.
Một vấn đề khác được đặt ra là cần phải hài hòa giữa nguyên tắc tôn trọng
và tạo điều kiện cho các bên tranh chấp hòa giải nhưng cũng phải bảo đảm
công lý được đến kịp thời mà không bị trì hoãn. Sẽ là vô lý nếu như phải tiến
hành hòa giải mang tính bắt buộc trong quá trình chuẩn bị xét xử đối với các
tranh chấp giá trị nhỏ, chứng cứ rõ ràng mà bên có nghĩa vụ còn không thực
hiện nghĩa vụ. Việc không hòa giải ở giai đoạn chuẩn bị xét xử không triệt
tiêu cơ hội để các bên có thể hòa giải ngay tại phiên tòa sơ thẩm.
Thứ bảy, về nguyên tắc Tòa án xét xử tập thể
Khoản 1 Điều 103 HP 2013 quy định: “Việc xét xử sơ thẩm của Tòa án
nhân dân có Hội thẩm tham gia, trừ trường hợp xét xử theo thủ tục rút gọn.”
40 Tiếp theo, khoản 4 Điều 103 HP 2013 quy định: “Tòa án nhân dân xét xử tập
thể và quyết định theo đa số, trừ trường hợp xét xử theo thủ tục rút gọn.”82
Như vậy HP 2013 đã chỉ rõ nguyên tắc xét xử tập thể ở cấp sơ thẩm không
áp dụng trong trường hợp xét xử theo TTRG. Bên cạnh đó, khoản 4 Điều 103
HP 2013 quy định về việc xét xử tập thể và quyết định theo đa số, trừ trường
hợp xét xử theo TTRG. Vậy vấn đề đặt ra là phải chăng quy định về xét xử
tập thể theo khoản 4 Điều 103 của HP 2013 nêu trên áp dụng không chỉ ở cấp
xét xử sơ thẩm mà còn ở cấp xét xử phúc thẩm? Hay quy định nêu trên chỉ đề
cập đến trường hợp xét xử theo TTRG ở cấp sơ thẩm? Hay Hiến pháp còn bỏ
ngỏ trường hợp xét xử theo TTRG ở cấp phúc thẩm?
Tác giả cho rằng cần phải hiểu quy định tại khoản 1 Điều 103 HP 2013 về
xét xử theo TTRG không cần có sự tham gia của Hội thẩm nhân dân là việc
xét xử sơ thẩm vụ án theo TTRG được thực hiện bởi một Thẩm phán; còn quy
định tại khoản 4 Điều 103 Hiến pháp 2013 về nguyên tắc xét xử tập thể là sẽ
không áp dụng trong trường hợp xét xử theo TTRG kể cả ở cấp sơ thẩm và
cấp phúc thẩm.
Ngoài ra, nếu Hiến pháp còn bỏ ngỏ và trao cho luật quy định về việc xét
xử tập thể theo TTRG ở cấp phúc thẩm, khi đó Hiến pháp đã phải quy định
rằng: “Tòa án nhân dân xét xử tập thể và quyết định theo đa số, trừ trường
hợp xét xử theo thủ tục rút gọn do luật định.”
Như vậy, nguyên tắc xét xử tập thể không được áp dụng khi xét xử theo
TTRG ở cả hai cấp sơ thẩm và phúc thẩm.
1.3.!Đặc điểm của thủ tục rút gọn trong tố tụng dân sự
Thông qua việc nghiên cứu khái niệm TTRG hay thủ tục đơn giản, thủ tục
giản lược, hiệu quả của TTRG và mục đích và yêu cầu của việc xây dựng
TTRG, tác giả cho rằng có thể nhận diện về TTRG là một thủ tục tố tụng
riêng giải quyết một số loại tranh chấp đáp ứng một số tiêu chí nhất định, là 82 Điều 14 của BLTTDS vẫn chỉ đang ghi nhận nguyên tắc này theo nội dung “Tòa án xét xử tập thể và quyết định theo đa số” chứ chưa có cụm từ “trừ trường hợp xét xử theo thủ tục rút gọn”.
41 thủ tục được rút gọn hơn về thành phần tham gia giải quyết tranh chấp, về
trình tự, thủ tục và thời gian giải quyết tranh chấp.
1.3.1.!Thủ tục rút gọn chỉ áp dụng đối với một số vụ án nhất định
TTRG tồn tại bên cạnh thủ tục TTDS thông thường. Với bản chất đơn giản,
rút gọn về thủ tục và rút ngắn về thời gian cũng như về thành phần giải quyết
và tham gia tố tụng, TTRG không thể là một thủ tục có thể áp dụng cho việc
giải quyết tất cả các vụ án về TCDS trong đó có TCKDTM. Đối với những
tranh chấp phức tạp, chứng cứ không rõ ràng hoặc không có sự thừa nhận
nghĩa vụ từ đương sự… không thể giải quyết một cách đơn giản và rút gọn
được, bởi lẽ cần phải cung cấp, thu thập, tổng hợp, nghiên cứu và đánh giá
chứng cứ để làm sáng tỏ sự thật khách quan của vụ án cũng như cần phải tiến
hành các hoạt động hòa giải và việc giải quyết cần thông qua một tập thể để
bảo đảm phán quyết được đưa ra đúng đắn.
Ngược lại, đối với những vụ án đơn giản, giá trị tranh chấp nhỏ hoặc đã có
sự thừa nhận nghĩa vụ của đương sự, Tòa án không nhất thiết phải cần nhiều
thời gian, phải tiến hành tất cả những hoạt động tố tụng và phải xét xử vụ án
bởi một tập thể... mà vẫn có thể giải quyết vụ án một cách chính xác, đúng
đắn và bảo vệ một cách hiệu quả quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự,
đồng thời giúp đương sự và Tòa án tiết kiệm thời gian, chi phí. Chính vì thế,
TTRG là một thủ tục chỉ để giải quyết đối với những tranh chấp đặc thù, đáp
ứng các điều kiện cơ bản do luật định như: tranh chấp đơn giản, chứng cứ rõ
ràng, các đương sự thừa nhận nghĩa vụ hoặc giá ngạch thấp.
Vấn đề đặt ra là các điều kiện nào cần được đáp ứng cho một tranh chấp
được giải quyết theo TTRG. Một tranh chấp được áp dụng TTRG có phải là
tranh chấp hội đủ các điều kiện: đơn giản, chứng cứ rõ ràng, giá ngạch thấp,
đương sự thừa nhận nghĩa vụ hay chỉ cần có một số trong các điều kiện đó?
Rõ ràng rằng, trong vụ án mà bị đơn đã thừa nhận hoàn toàn nghĩa vụ thì về
bản chất các bên đương sự không có tranh chấp về các yêu cầu khởi kiện. Tòa
án chỉ có nghĩa vụ và thẩm quyền xem xét sự thừa nhận nghĩa vụ đó có vi
42 phạm điều cấm của pháp luật và trái đạo đức xã hội hay không để ra một phán
quyết ghi nhận quyền của nguyên đơn, nghĩa vụ của bị đơn theo các yêu cầu
khởi kiện. Đối với những tranh chấp loại này, chứng cứ rõ ràng và giá ngạch
thấp là các yếu tố không liên quan và không cần thiết để xem xét quyết định
áp dụng TTRG. Nhưng đối với tranh chấp mà bị đơn thừa nhận một phần
nghĩa vụ, khi đó về bản chất vẫn còn tranh chấp giữa các bên; do đó cần cân
nhắc các yếu tố khác: tranh chấp có đơn giản hay không và giá ngạch tranh
chấp như thế nào để quyết định việc áp dụng TTRG.
Ngoài ra, kinh nghiệm áp dụng TTRG của nhiều nước trên thế giới cũng
cho thấy chỉ cần một yếu tố “giá ngạch thấp” đã đủ để áp dụng TTRG (như tại
Pháp, Anh, Hoa Kỳ, Thái Lan, Hàn Quốc, Singapore…).83
Tuy nhiên, cách tiếp cận trên chưa giải quyết được trường hợp mặc dù giá
ngạch thấp nhưng bản chất tranh chấp phức tạp hoặc quyết định của Tòa án có
hệ quả lớn đến các vụ việc tương tự của chính đương sự hoặc làm tiền lệ ảnh
hưởng đến đường lối xét xử và áp dụng pháp luật sau này. Do đó, nếu áp dụng
TTRG để giải quyết loại tranh chấp đó có thể không bảo đảm quyền và lợi ích
hợp pháp của đương sự hoặc có thể dẫn đến hệ quả không mong muốn đối với
việc duy trì công lý trong xã hội.
Chính vì vậy, tác giả có một cách tiếp cận khác giải quyết được vấn đề nêu
trên là: đối với tranh chấp có giá ngạch thấp, Tòa án áp dụng TTRG trừ
trường hợp nguyên đơn hoặc bị đơn có lý do hợp lý để phản đối việc áp dụng
TTRG. Trong trường hợp việc phản đối là có cơ sở thì Tòa án chuyển sang
thủ tục thông thường để giải quyết. Ngược lại, Tòa án cũng có quyền quyết 83 Xem: Điều R 221-3, 221-4 Luật tổ chức tư pháp năm 2012 của Pháp; xem: quy định tương tự của Anh [https://www.citizensadvice.org.uk/law-and-rights/legal-system/taking-legal-action/small-claims/] (truy cập ngày 23-4-2015); [http://www.nolo.com/legal-encyclopedia/small-claims-suits-how-much-30031.html] (truy cập ngày 23-4-2015); Điều 368.1 Bộ luật tố tụng dân sự Nhật Bản; Trần Anh Tuấn, Trương Quang Dũng (2014), “Chuyên đề 4: Thủ tục tố tụng dân sự rút gọn theo pháp luật một số nước trên thế giới và việc xây dựng thủ tục tố tụng dân sự rút gọn ở Việt Nam”, trích Đề tài nghiên cứu khoa học cấp bộ “Vấn đề xây dựng thủ tục tố tụng dân sự rút gọn theo yêu cầu cải cách tư pháp và hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay - Thực trạng và giải pháp”, do Trần Anh Tuấn làm chủ nhiệm đề tài, Hà Nội, tr.183-185.
43 định áp dụng TTRG tại bất cứ thời điểm nào khi xuất hiện điều kiện áp dụng
TTRG, kể cả tại phiên tòa sơ thẩm.
Cũng có quan điểm khác cho rằng để áp dụng TTRG cần phải có đủ các
yếu tố: “vụ án có tình tiết đơn giản, quan hệ pháp luật rõ ràng, đương sự đã
thừa nhận nghĩa vụ; tài liệu, chứng cứ đầy đủ, rõ ràng, đủ cơ sở giải quyết,
Tòa án không phải thu thập tài liệu, chứng cứ; các đương sự đều có địa chỉ
nơi cư trú, trụ sở rõ ràng; không có đương sự cư trú ở nước ngoài, tài sản
tranh chấp ở nước ngoài.”84 Tác giả cho rằng quan điểm này cần phải cân
nhắc thêm một cách nghiêm túc. Thứ nhất, khi đương sự đã thừa nhận nghĩa
vụ thì các yếu tố chứng cứ rõ ràng, đầy đủ v.v. là không còn liên quan và
không cần thiết, như đã phân tích ở trên. Thứ hai, việc đáp ứng tất cả các điều
kiện: chứng cứ rõ ràng và đương sự thừa nhận nghĩa vụ v.v. là một việc rất
khó xảy ra trên thực tế và điều đó làm giảm, thậm chí có thể triệt tiêu hiệu quả
áp dụng trên thực tế của một chế định mới về TTRG.
Ở các phần tiếp theo của Luận án sẽ cho thấy ngoài tiêu chí bị đơn thừa
nhận nghĩa vụ, giá ngạch thấp, nhiều nước còn quy định các vụ án về đòi nợ,
yêu cầu buộc thanh toán hoặc buộc thực hiện một trái vụ nhỏ, hoặc tranh chấp
đơn giản và chứng cứ rõ ràng cũng được giải quyết theo TTRG.
Tóm lại, có sự tương đồng giữa các nước về các tiêu chí xác định một vụ án
được giải quyết theo TTRG khi có một trong các yếu tố sau: (i) giá ngạch
thấp; (ii) chứng cứ rõ ràng; hoặc (iii) đương sự thừa nhận nghĩa vụ.
1.3.1.1. Tranh chấp có giá ngạch thấp
Theo Paul Ranjard, sau khi phân tích và so sánh TTRG của một số nước
trên thế giới, nhận thấy giá ngạch của tranh chấp là một căn cứ để Tòa án khi
thụ lý quyết định tranh chấp đó được giải quyết bởi Tòa án cấp thấp hơn theo
thủ tục giản lược.85 Qua nghiên cứu pháp luật TTDS về TTRG của một số
nước có thể nhận thấy rằng tất cả đều có chung tiêu chí xác định loại vụ án áp 84 Quan điểm này được thể hiện tại Điều 312 Dự thảo BLTTDSSĐ. 85 Paul Ranjard (2011), (20).
44 dụng TTRG trong TTDS là những tranh chấp tài sản có giá ngạch thấp (hay
một số nước gọi là vụ kiện nhỏ).
Ở Pháp, theo Điều R 221-3, Điều R 221-4 và Điều R 231-3 Luật tổ chức tư
pháp năm 2012, những tranh chấp có giá trị nhỏ không vượt quá 4.000 Euro
(EUR) được giải quyết theo TTRG bởi một Thẩm phán tại Tòa sơ thẩm có
thẩm quyền hẹp hoặc Tòa án cơ sở. Ở Đức, TTRG được quy định trong quyển
7, Bộ luật tố tụng dân sự Đức áp dụng đối với những vụ khiếu kiện nhỏ có giá
ngạch dưới 6.000 EUR và được giải quyết bởi Tòa án địa hạt (Amtsgerchte)
(AG).86
Tại Vương Quốc Anh, vụ kiện có giá trị 10.000 Bảng Anh (GBP) trở
xuống được coi là vụ kiện nhỏ,87 được giải quyết theo TTRG bởi Tòa án địa
hạt.88 Tại Mỹ, pháp luật các bang về cơ bản đều quy định rằng vụ án có giá
ngạch thấp được coi là vụ kiện nhỏ và được giải quyết theo thủ tục giản lược.
Giá ngạch thấp do từng tiểu bang quy định, cơ bản trong khoảng từ 2.500 đô
la Mỹ (USD) đến 25.000 USD.89 Đa số tiểu bang quy định vụ kiện nhỏ để áp
dụng TTRG là các vụ kiện đòi nợ/tiền có giá trị không vượt quá 5.000 USD.
Tiểu bang New York quy định giá ngạch thấp 5.000 USD ở các thành phố và
3.000 USD cho các vùng ngoại ô.90
Nhiều nước khu vực cũng quy định áp dụng TTRG để giải quyết các tranh
chấp có giá trị thấp. Nhật Bản quy định các vụ kiện có giá trị dưới 900.000
đồng yên Nhật (JPY) được giải quyết theo TTRG.91 Một số nước khác của
Châu Á quy định mức giá ngạch thấp như sau: Thái Lan: dưới 50.000 bạt Thái 86 Carsten Mahnke (2014), Báo cáo về thủ tục rút gọn: Kinh nghiệm quốc tế và khuyến nghị cho Việt Nam, Tài liệu hội thảo “Mô hình thủ tục rút gọn trong tố tụng dân sự - kinh nghiệm quốc tế và đề xuất cho Việt Nam”, do Tòa án nhân dân tối cao tổ chức ngày 24&25-11-2014 tại Thành phố Hồ Chí Minh, tr.17. 87 https://www.citizensadvice.org.uk/law-and-rights/legal-system/taking-legal-action/small-claims/ (truy cập ngày 23-4-2015). 88 https://www.judiciary.gov.uk/you-and-the-judiciary/going-to-court/county-court/county-court/ (truy cập ngày 23-4-2015). 89 http://www.nolo.com/legal-encyclopedia/small-claims-suits-how-much-30031.html (truy cập ngày 29-4-2015). 90 http://www.smallclaims.com/?cat=35 (truy cập ngày 29-4-2015). 91 Hiroshi Oda, (18), pp.411, 412.
45 Lan (THB); Hàn Quốc: dưới 5.000.000 won Hàn Quốc (KRW); Singapore: (i)
Các tranh chấp về mua bán hàng hoá có giá ngạch không quá 2.000 đô la
Singapore (SGD); (ii) Các tranh chấp hợp đồng dịch vụ có giá ngạch không
quá 5.000 SGD; (iii) Các vụ kiện đòi bồi thường thiệt hại về tài sản có giá
ngạch từ 5.000 SGD đến 10.000 SGD.92
Như vậy, kinh nghiệm nước ngoài cho thấy chỉ cần một tiêu chí giá ngạch
thấp là đủ để vụ án được giải quyết theo thủ tục giản lược hoặc TTRG. Giá
ngạch bao nhiêu được coi là thấp để áp dụng TTRG phụ thuộc vào quy định
của từng nước và xác định giá ngạch thấp cũng phải dựa trên tính khả thi của
quy định về TTRG.93
1.3.1.2. Tranh chấp có chứng cứ rõ ràng
Kinh nghiệm của nhiều nước trên thế giới, ngoài tiêu chí giá ngạch thấp,
một tranh chấp được giải quyết bởi TTRG là tranh chấp đơn giản mà không
phụ thuộc vào giá trị tranh chấp.
Ở Pháp, theo Điều 1405 Bộ luật tố tụng dân sự Pháp và Luật số 81-1 ngày
2-1-1981 khuyến khích tín dụng doanh nghiệp của Pháp, thủ tục ra lệnh thanh
toán nợ là một thủ tục giản đơn được thực hiện bởi Tòa án trong những
trường hợp có yêu cầu về: (i) khoản nợ có nguồn gốc từ một hợp đồng hoặc từ
một nghĩa vụ theo điều lệ và là một số tiền nhất định; nếu là do hợp đồng thì
được xác định theo các điều khoản của hợp đồng, kể cả điều khoản phạt (nếu
có); (ii) nợ do cam kết nhận hoặc rút hối phiếu, ký nhận một kỳ phiếu, chuyển
nhượng hoặc bảo lãnh các loại tín phiếu ấy hoặc nhận chuyển nhượng một
khoản nợ.
Theo Điều 1425-1 Bộ luật tố tụng dân sự Pháp, thủ tục ra lệnh buộc thực
92 Trần Anh Tuấn, Trương Quang Dũng, (83), tr.181&184. 93 Trong quá trình xây dựng ý tưởng đưa TTRG vào tố tụng dân sự Liên bang Hoa Kỳ, Trung tâm Tư pháp Liên bang đã phải tiến hành khảo sát, điều tra và thống kê xem các vụ việc với các giá ngạch khác nhau như thế nào đã được khởi kiện ra trước Tòa án để xác định mức giá ngạch làm căn cứ đề xuất áp dụng TTRG. Xem: Eward H. Cooper (2001), (73), p.1797.
46 hiện một công việc: nếu giá trị của trái vụ không vượt quá thẩm quyền của
Tòa sơ thẩm thẩm quyền hẹp, đương sự có thể làm đơn đề nghị Tòa sơ thẩm
thẩm quyền hẹp cho thanh toán bằng hiện vật trái vụ phát sinh từ hợp đồng
giữa người không phải là thương nhân.
Đức cũng quy định áp dụng TTRG giải quyết các yêu cầu ra lệnh buộc
thanh toán. TTRG được áp dụng đối với tất cả các khiếu kiện liên quan đến
việc thanh toán một khoản tiền bằng EUR không phụ thuộc vào giá ngạch vụ
kiện, trừ một số trường hợp do pháp luật quy định.94
Tại Vương Quốc Anh, TTRG cũng áp dụng giải quyết các vụ án mà giá
trị tranh chấp lớn hơn 10.000 GBP nhưng nội dung tranh chấp đơn giản và
các đương sự đều đồng ý áp dụng TTRG. Các vụ án loại này thường là các
khiếu kiện về tiêu dùng (ví dụ: bồi thường đối với dịch vụ bị lỗi, bồi thường
cho hàng hóa bị lỗi hoặc chất lượng công việc), các tranh chấp giữa chủ nhà
và người thuê nhà về việc sửa chữa, tiền cọc, khu vực thuê... nhưng không
phải về quyền sở hữu, nợ lương hoặc tiền bồi thường (khi cho nhân viên
nghỉ việc mà không thông báo đúng luật), khiếu nại về tai nạn, tranh chấp về
quyền sở hữu hàng hóa;95
Một tiêu chí khác mà Anh quy định về những vụ án đơn giản, chứng cứ
rõ ràng áp dụng TTRG là những vụ án khi Tòa án xét thấy nguyên đơn thực
tế không có khả năng thành công trong vụ kiện, hoặc bị đơn thực tế không
có khả năng bảo vệ thành công vụ kiện và không có lý do thuyết phục nào
cho thấy cần thiết phải đưa tranh chấp ra giải quyết tại phiên tòa. Tòa án
xem xét áp dụng TTRG trong những trường hợp nêu trên sau khi có yêu cầu
của một bên đương sự và yêu cầu đó đã được phía bên kia cho ý kiến phản
hồi.96
Ở nhiều tiểu bang của Hoa Kỳ, các vụ kiện về nợ không được thanh toán, 94 Carsten Mahnke (2014), (81), tr.18. 95 Carsten Mahnke (2014), (81), tr.5. 96 https://www.justice.gov.uk/courts/procedure-rules/civil/rules/part24 (truy cập ngày 23-4-2015).
47 tiền thuê còn thiếu, hoàn trả tiền ký quỹ, tài sản bị hư hại hay bị thiệt hại, các
hóa đơn bác sĩ hoặc hóa đơn bệnh viện và một số tranh chấp đơn giản khác đều
được coi là các yêu cầu nhỏ và được giải quyết theo TTRG.97
Nhật Bản quy định việc áp dụng TTRG đối với thủ tục ra lệnh thanh toán
là những yêu cầu thanh toán tiền, những vật thay thế hoặc một số lượng nhất
định chứng khoán có thể chuyển nhượng, như được quy định tại Điều 382 Bộ
luật tố tụng dân sự Nhật Bản.
Điều 189 Bộ luật tố tụng dân sự Trung Quốc quy định rằng, thủ tục yêu
cầu thanh toán nợ được áp dụng khi chủ nợ yêu cầu người mắc nợ thanh toán
tiền hoặc một chứng khoán có thể chuyển nhượng, theo đó, chủ nợ có thể nộp
đơn lên Tòa án có thẩm quyền yêu cầu một lệnh trả nợ, nếu đáp ứng được hai
yêu cầu sau: (a) chủ nợ và người mắc nợ không liên quan đến nghĩa vụ tranh
chấp khác; và (b) lệnh đòi nợ có thể tống đạt được đến người mắc nợ.
Rõ ràng, các nước theo hệ thống Dân luật (Pháp, Đức, Nhật v.v.) cho phép
áp dụng TTRG giải quyết các yêu cầu về thanh toán nợ, thực hiện nghĩa vụ
thanh toán. Các tranh chấp nợ hoặc về nghĩa vụ thanh toán thông thường là
tranh chấp đơn giản xét từ hai góc độ pháp luật áp dụng và xác định sự thật
khách quan của tranh chấp. Các yêu cầu về thực hiện các trái vụ nhỏ, theo tác
giả, cũng có bản chất đơn giản và chứng cứ rõ ràng như các tranh chấp về vay
nợ hoặc yêu cầu thực hiện nghĩa vụ thanh toán. Anh và Hoa Kỳ - đại diện cho
hệ thống Thông luật cũng quy định áp dụng TTRG để giải quyết các tranh
chấp về đòi nợ, các vụ tranh chấp mà chứng cứ rõ ràng (như sẽ trình bày dưới
đây) chứng tỏ rằng các tranh chấp đó, tương tự như các nước theo hệ thống
Dân luật, là các tranh chấp đơn giản, chứng cứ rõ ràng.
Như vậy, có thể thấy rằng ngoài tiêu chí giá ngạch thấp, các tranh chấp
đơn giản, chứng cứ rõ ràng cũng được giải quyết theo TTRG tại nhiều nước
trên thế giới mà không phụ thuộc vào giá trị tranh chấp. 97 http://www.smallclaims.com/?cat=35 (truy cập ngày 29-4-2015).
48 1.3.2. Rút gọn về thành phần tham gia giải quyết tranh chấp
Về thành phần tham gia giải quyết tranh chấp theo TTRG có sự thừa nhận
chung theo hướng: việc giải quyết và xét xử chỉ do một Thẩm phán tiến hành
từ khi thụ lý cho đến khi xét xử sơ thẩm. Cơ chế một Thẩm phán xét xử mà
không có sự tham gia của Bồi thẩm đoàn nhằm đẩy nhanh tiến trình giải quyết
một số vụ việc dân sự, giảm bớt chi phí tố tụng, tiết kiệm cho ngân sách nhà
nước cũng như đương sự, đồng thời nâng cao trách nhiệm cá nhân của Thẩm
phán và điều quan trọng hơn cả là vì TTRG chỉ áp dụng để giải quyết những
tranh chấp đơn giản, chứng cứ rõ ràng... nên sự tham gia của những người
tham gia tố tụng khác như Hội thẩm, Bồi thẩm đoàn là không cần thiết. Ví dụ,
ở Anh, việc xét xử các vụ án theo TTRG không cần có sự tham gia của Bồi
thẩm đoàn.
Về sự tham gia của Viện kiểm sát, dường như đại đa số các nước trên thế
giới đều quy định cơ quan công tố không có vai trò trong việc giải quyết các
vụ án dân sự. Cơ quan công tố, theo họ, chỉ có quyền năng chính là truy tố và
buộc tội trong các vụ án hình sự. Ở Việt Nam và một số ít nước còn lại mà
pháp luật còn chịu sự ảnh hưởng nhất định của hệ thống pháp luật xã hội chủ
nghĩa trước đây, vai trò của Viện kiểm sát còn mở rộng trong việc giám sát
hoạt động xét xử của Tòa án và do đó, Viện kiểm sát có vai trò, chức năng với
các mức độ khác nhau và tùy vào từng thời điểm lịch sử cụ thể, trong quá
trình giải quyết vụ án dân sự.
Về sự tham gia của người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự
(Luật sư) trong quá trình giải quyết tranh chấp theo TTRG, về cơ bản quan
điểm của phần lớn các nước cho rằng đây là quyền của đương sự nhờ người
khác bảo vệ quyền lợi của mình nên pháp luật không can thiệp miễn là sự
tham gia của họ không làm trì hoãn hoặc cản trở đến việc áp dụng TTRG. Tuy
nhiên, cũng có nước khi quy định cụ thể về việc hạn chế sự tham gia của Luật
sư trong những vụ án áp dụng TTRG nhằm mục đích giảm chi phí cho đương
sự và cũng để hạn chế việc xét xử vụ án bị kéo dài khi có sự tham gia của
49 Luật sư (như đối với Philippin, Luật sư không được chấp nhận tại phiên xét
xử nhưng không cấm Luật sư giúp đỡ và hỗ trợ đương sự thực hiện các công
việc chuẩn bị cho phiên xét xử hoặc cho các vấn đề khác ngoài phiên xét
xử...).98 Ngay ở Hoa Kỳ, nơi có thể coi là có số lượng Luật sư nhiều nhất trên
thế giới tính theo bình quân đầu người, pháp luật tố tụng cũng không quy định
cần phải có Luật sư tham gia trong các vụ án được giải quyết theo TTRG.99
Như vậy, có sự thừa nhận chung rằng một trong những nội dung của TTRG
là việc rút gọn thành phần tham gia giải quyết tranh chấp chỉ bởi một Thẩm
phán, không có sự tham gia của công tố viên, không bắt buộc phải có Luật sư
nhưng không hạn chế Luật sư tham gia với điều kiện sự tham gia của họ
không làm ảnh hưởng đến tiến trình giải quyết vụ án theo TTRG.
1.3.3.!Rút gọn về trình tự và các bước tố tụng
(i)!Trình tự và các bước tố tụng theo TTRG của một số nước
Ở Pháp, trình tự giải quyết tranh chấp theo TTRG khá đơn giản. Đối với
các vụ án có giá ngạch thấp, theo Điều 1407 Bộ luật tố tụng dân sự Pháp, các
bên phải cung cấp đầy đủ thông tin về vụ tranh chấp để Thẩm phán xem xét.
Sau đó, Thẩm phán sẽ triệu tập hai bên đến một phiên hòa giải. Nếu các bên
không hòa giải được, Thẩm phán sẽ đưa ra phán quyết trên cơ sở hồ sơ và
chứng cứ các bên cung cấp và chỉ triệu tập các bên đến để nghe phán quyết.
Đối với các vụ án đòi thanh toán nợ, theo Điều 1419 Bộ luật tố tụng dân sự
Pháp, chủ nợ hoặc người được ủy quyền gửi đơn (điền đầy đủ thông tin theo
quy định) và các tài liệu chứng minh yêu cầu đến Phòng thư ký lục sự. Sau
đó, Tòa án ra quyết định buộc thanh toán khoản nợ mà không cần phải mở
phiên tòa.
Đối với các yêu cầu thực hiện một công việc nhỏ, theo Điều 1425-5 Bộ
luật tố tụng dân sự Pháp, Thẩm phán sau khi xem xét các tài liệu, nếu thấy 98 Tòa án nhân dân tối cao, (44), tr.12. 99 http://www.nycourts.gov/COURTS/nyc/smallclaims/startingcase.shtml (truy cập ngày 29-4-2015).
50 đơn yêu cầu có căn cứ, ra quyết định (lệnh) ấn định đối tượng của trái vụ, thời
hạn và các điều kiện để thực hiện trái vụ. Lục sự tống đạt quyết định (lệnh) đó
cho các đương sự bằng thư bảo đảm có yêu cầu xác nhận. Nếu bị đơn thực
hiện quyết định (lệnh) đúng trong thời hạn, nguyên đơn thông báo cho Lục sự
để xóa sổ thụ lý. Nếu một phần hoặc toàn bộ quyết định (lệnh) thi hành nghĩa
vụ không được thực hiện, Tòa án sẽ mở phiên tòa xét xử, sau khi hòa giải
không thành, như quy định tại Điều 1425-8 Bộ luật tố tụng dân sự Pháp.
Tương tự như Pháp, pháp luật TTDS Đức cũng quy định trình tự giải quyết
theo TTRG được giản lược một cách tối đa. Bộ luật tố tụng dân sự Đức quy
định rằng:100 thủ tục ra lệnh thanh toán nợ (hay lệnh thanh toán tiền -
Mahnverfahren) là một thủ tục ít tốn kém, nhanh và hiệu quả cho chủ nợ, đặc
biệt là không cần mở phiên tòa nếu con nợ đã thừa nhận nghĩa vụ của mình
nhưng không muốn hoặc không thể trả nợ. Tòa án có thẩm quyền ra lệnh
thanh toán nợ theo thủ tục xét xử nhanh đối với yêu cầu thanh toán các khoản
nợ đã rõ ràng.101 Theo đó, thủ tục này hoàn toàn tự động hóa và đương sự
được quyền nộp đơn yêu cầu qua mạng.102 Bất kỳ hành vi nào được khởi kiện
theo thủ tục này đều được Tòa án ưu tiên giải quyết.
Thủ tục ra lệnh thanh toán rút gọn bao gồm hai giai đoạn, tạo điều kiện
cho bị đơn hai cơ hội để ngăn cản Tòa án ban hành lệnh cưỡng chế thi hành
án và có thể chuyển khiếu kiện sang thủ tục thông thường. Cụ thể:
- Giai đoạn 1: Nguyên đơn điền vào một đơn yêu cầu các thông tin liên
quan các bên đương sự, Tòa án có thẩm quyền và chi tiết các yêu cầu khởi
kiện. Đơn khởi kiện sẽ được kiểm tra một cách tự động bởi một chương trình
phần mềm máy tính mà không cần sự giám sát của con người. Chính vì vậy, ở
giai đoạn này tính chân thực và hợp lý của khiếu kiện chưa được kiểm tra 100 Tài liệu mà tác giả nghiên cứu không đề cập đến trình tự giải quyết theo TTRG khi áp dụng cho các vụ khiếu kiện nhỏ mà chỉ giới thiệu trình tự giải quyết theo TTRG khi áp dụng cho thủ tục ra lệnh thanh toán. 101 Michael Bogdan (1994), (9), tr.149. 102 Carsten Mahnke (2014), (81), tr.18.
51 (mới đơn thuần kiểm tra về thủ tục pháp lý mà chưa xét đến nội dung khiếu
kiện). Đối với các vụ án được giải quyết theo quy trình tự động hóa, các đơn
khởi kiện được giải quyết không chậm hơn sau ngày làm việc đầu tiên sau
ngày nộp đơn khởi kiện. Cụ thể, ngay sau đó, Tòa án ban hành một lệnh yêu
cầu thanh toán và gửi cho bị đơn (người có thể phản đối lại lệnh đó). Nếu
trong vòng hai tuần sau khi nhận được lệnh yêu cầu thanh toán (Widerspruch)
mà bị đơn phản đối thì yêu cầu khởi kiện sẽ được chuyển sang thủ tục tố tụng
thông thường để giải quyết (theo Điều 269-I Bộ luật tố tụng dân sự Đức). Nếu
bị đơn không phản đối và không thi hành lệnh yêu cầu thanh toán thì giai
đoạn 2 được bắt đầu.
- Giai đoạn 2: Điều 701 Bộ luật tố tụng dân sự Đức quy định: nguyên đơn
được phép tiếp tục yêu cầu áp dụng một lệnh cưỡng chế thi hành trong thời
hạn sáu tháng kể từ ngày tống đạt lệnh yêu cầu thanh toán. Trong trường hợp
bị đơn không phản đối lệnh cưỡng chế thi hành, Tòa án không phải mở phiên
tòa xét xử. Nếu trong vòng hai tuần sau khi nhận được lệnh cưỡng chế thi
hành (Einspruch) mà bị đơn phản đối thì Tòa án chuyển yêu cầu khởi kiện
sang thủ tục thông thường để giải quyết.
Trình tự giải quyết tranh chấp theo TTRG ở Anh cũng khá đơn giản. Các
vụ kiện thuộc đối tượng áp dụng TTRG do một Thẩm phán thay vì bồi thẩm
đoàn giải quyết. Sau khi thụ lý vụ án, nếu tranh chấp thuộc vụ kiện nhỏ,
trong thông báo thụ lý Tòa án sẽ nêu rõ vụ kiện thuộc loại hình nào và các
đương sự cần phải chuẩn bị những công việc gì cho phiên tòa và thời gian
dự kiến mở phiên tòa. Việc thu thập chứng cứ không buộc phải tuân thủ
nghiêm ngặt các quy định về chứng cứ. Tòa án sẽ ấn định ngày mở phiên tòa
và thông báo cho hai bên ít nhất hai mươi mốt ngày trước ngày mở phiên
tòa.103 Đương sự phải xuất trình các tài liệu ít nhất mười bốn ngày trước
ngày mở phiên tòa. Phiên tòa được xét xử công khai hoặc xử kín theo thỏa
thuận của các bên. Tòa án có thể áp dụng bất kỳ trình tự tố tụng, phương 103 http://www.justice.gov.uk/courts/procedure-rules/civil/rules/part27 (truy cập ngày 23-4-2015).
52 thức điều hành nào tại phiên tòa mà Tòa án cho là công bằng, và không yêu
cầu nhất thiết người khai tuyên thệ và đối chất.104 Trong trường hợp xét thấy
không cần mở phiên tòa mà chỉ cần căn cứ vào các chứng cứ bằng văn bản đã
được xuất trình có thể giải quyết được tranh chấp, Tòa án đề xuất với các bên
không cần mở phiên tòa. Nếu có đương sự phản đối, Tòa án phải mở phiên tòa
để giải quyết vụ kiện. Việc không phản hồi của đương sự có thể được coi là
đồng ý với đề xuất của Tòa án và vụ án được giải quyết dựa trên hồ sơ vụ kiện.
Thẩm phán sẽ ra phán quyết và gửi bản sao phán quyết cho các đương sự.105
Ở Hoa Kỳ, nói chung trình tự giải quyết vụ kiện theo thủ tục giản lược
khá đơn giản. Ví dụ, tại tiểu bang New York, đối với các vụ án có giá ngạch
thấp, nguyên đơn đến văn phòng của Tòa tiểu tụng và điền thông tin vào mẫu
đơn kiện. Đơn kiện phải nêu rõ tổng số tiền của vụ kiện, chi tiết của vụ kiện,
thông tin của bị đơn và kèm theo chứng cứ chứng minh.106 Sau khi hoàn thiện
đơn khởi kiện và nộp án phí, Lục sự sẽ thông báo cho nguyên đơn về ngày mở
phiên tòa. Vào ngày mở phiên tòa, nguyên đơn sẽ lựa chọn đưa vụ kiện ra xét
xử bởi Thẩm phán hoặc một Trọng tài viên. Việc lựa chọn Trọng tài viên sẽ
làm cho quá trình giải quyết vụ kiện không mang tính chính thức nhưng đảm
bảo giải quyết vụ kiện nhanh chóng. Trường hợp nguyên đơn không có mặt tại
phiên tòa, vụ kiện bị đình chỉ. Nếu bị đơn không có mặt tại phiên tòa thì
nguyên đơn phải đưa ra đủ bằng chứng để Tòa án đưa ra phán quyết có lợi đối
với bị đơn.107 Trong suốt phiên tòa, hai bên có cơ hội để đưa ra các tài liệu và
bằng chứng chứng minh cho lập luận của mình và tất cả các nhân chứng sẽ
được xem xét và thẩm vấn. Nguyên đơn có thể yêu cầu Thẩm phán hoặc Trọng
tài viên thẩm vấn bị đơn về tài sản của bị đơn.108
Trong trường hợp căn cứ vào hồ sơ vụ án thấy tranh chấp đơn giản, chứng 104 Carsten Mahnke (2014), (81), tr.10. 105 Carsten Mahnke (2014), (81), tr.8&9. 106 http://www.nycourts.gov/COURTS/nyc/smallclaims/startingcase.shtml (truy cập ngày 29-4-2015). 107 http://www.nycourts.gov/COURTS/nyc/smallclaims/appearing.shtml (truy cập ngày 29-4-2015). 108 http://www.nycourts.gov/COURTS/nyc/smallclaims/trial.shtml (truy cập ngày 29-4-2015).
53 cứ rõ ràng, theo yêu cầu của một bên đương sự, Thẩm phán sẽ đưa ra phán
quyết rút gọn đối với toàn bộ hoặc một phần của tranh chấp mà không cần mở
phiên tòa. Bên đưa ra yêu cầu cần phải chứng minh rằng đối với sự kiện hoặc
vấn đề mà bên yêu cầu đang đề nghị Tòa án đưa ra phán quyết rút gọn trên
thực tế rõ ràng không tồn tại tranh chấp và vì vậy, bên yêu cầu xứng đáng
được nhận một phán quyết nhanh gọn trên cơ sở của pháp luật. Thời gian để
một bên yêu cầu Tòa đưa ra phán quyết rút gọn là ba mươi ngày sau khi hoàn
tất thu thập thông tin.109
Ở Nhật Bản, tranh chấp có giá ngạch từ 300.000 JPY trở xuống được giải
quyết theo thủ tục còn đơn giản hơn nữa. Điều 370 Bộ luật tố tụng dân sự Nhật
Bản quy định, việc tranh luận sẽ kết thúc vào ngày đầu tiên của phiên tòa, trừ
những trường hợp đặc biệt. Do vậy, các bên phải đưa ra những chứng cứ trước
hoặc trong ngày tranh luận đó. Ngay sau khi kết thúc tranh luận, Thẩm phán sẽ
đưa ra phán quyết. Kèm theo phán quyết, Thẩm phán sẽ tuyên bố một lệnh thi
hành tạm thời có hoặc không có bảo đảm. Trong những vụ án này, Tòa án
không cho phép đưa ra yêu cầu phản tố.110
Riêng đối với yêu cầu thanh toán, Thư ký Tòa giản lược gửi văn bản nhắc
nhở cho con nợ khi nhận được yêu cầu có cơ sở của chủ nợ về thanh toán tiền.
Trong vòng hai tuần sau khi nhận được văn bản nhắc nhở, nếu con nợ không
khiếu nại thì trong vòng ba mươi ngày sau đó chủ nợ có quyền yêu cầu Tòa
án ra tuyên bố tạm thi hành văn bản nhắc nợ. Khi có yêu cầu này, Tòa án phải
ra tuyên bố tạm thi hành đó. Trong vòng hai tuần nếu con nợ không khiếu nại
đối với tuyên bố tạm thi hành thì văn bản nhắc nhở thanh toán sẽ được coi là
giấy xác nhận nợ và chủ nợ có thể căn cứ vào đó để yêu cầu cưỡng chế thi
hành. Nếu con nợ khiếu nại thì tuyên bố tạm thi hành sẽ không còn hiệu lực
và tranh chấp được chuyển sang thủ tục thông thường để giải quyết. Thủ tục
này không hạn chế số tiền yêu cầu.111 109 Nguyên tắc 56, Bộ luật tố tụng dân sự Liên bang Hoa Kỳ. 110 Hiroshi Oda, (18), p.412. 111 Ngô Cường, (33), tr.44.
54
Trình tự giải quyết tranh chấp theo TTRG ở Trung Quốc đã được cải cách
theo hướng đơn giản hơn nhiều so với thủ tục tố tụng thông thường, được
thiết kế một cách gọn nhẹ ngay từ khâu yêu cầu khởi kiện (đương sự có thể
khởi kiện bằng miệng đối với loại vụ án đơn giản) để yêu cầu Tòa án giải
quyết,112 các bước tiến hành giải quyết vụ kiện cũng được quy định đơn giản
hóa tối đa. Chẳng hạn, đối với vụ kiện đơn giản, theo Điều 146 Bộ luật tố tụng
dân sự Trung Quốc, Tòa án có thể giải quyết ngay hoặc quyết định vào một
ngày khác nhưng thời hạn giải quyết các loại việc theo TTRG không quá ba
tháng. Bên cạnh đó, Tòa án có thể áp dụng các phương pháp đơn giản để triệu
tập các bên và nhân chứng. Vụ án được giải quyết theo thủ tục này do một
Thẩm phán thực hiện và không buộc phải tuân theo các quy định thông báo,
điều tra, thẩm vấn, xét hỏi, tranh luận như giải quyết vụ việc theo thủ tục thông
thường, theo quy định tại Điều 145 Bộ luật tố tụng dân sự Trung Quốc.
Riêng đối với thủ tục ra lệnh thanh toán nợ, theo quy định tại Điều 189 Bộ
luật tố tụng dân sự Trung Quốc, người khởi kiện phải làm đơn yêu cầu ra lệnh
thanh toán nợ, trong đơn phải ghi rõ số tiền hoặc số lượng chứng khoán có thể
chuyển nhượng được yêu cầu và phải dựa trên bằng chứng, tài liệu thực tế.
Tòa án sẽ thông báo thụ lý đơn cho chủ nợ trong thời hạn năm ngày kể từ
ngày nộp đơn, như được quy định tại Điều 90 Bộ luật tố tụng dân sự Trung
Quốc. Sau khi thụ lý đơn, theo quy định tại Điều 191 Bộ luật tố tụng dân sự
Trung Quốc, Tòa án sẽ kiểm tra những tài liệu, bằng chứng do chủ nợ cung
cấp và nếu quan hệ giữa quyền của chủ nợ và nghĩa vụ của con nợ là rõ ràng,
hợp pháp, Tòa án sẽ ra quyết định yêu cầu con nợ thanh toán nợ trong vòng
mười lăm ngày kể từ ngày thụ lý đơn khởi kiện. Trong trường hợp không có
cơ sở nêu trên, Tòa án sẽ ra lệnh bác bỏ đơn khởi kiện.
(ii)! Nhận xét chung về trình tự và các bước tố tụng theo TTRG
Khác với thủ tục tố tụng thông thường, mà theo đó, trong quá trình giải 112 Nhật Bản cho phép gửi đơn khởi kiện qua thư điện tử. Hàn Quốc cho phép nguyên đơn đến Tòa án trực tiếp trình bày yêu cầu khởi kiện với cán bộ thụ lý vụ án mà không cần làm đơn khởi kiện bằng văn bản. Cán bộ thụ lý vụ án có trách nhiệm ghi chép lại nội dung yêu cầu của nguyên đơn.
55 quyết vụ án, Tòa án và đương sự phải tiến hành đầy đủ và tất cả các hoạt động
tố tụng như thu thập, cung cấp, tổng hợp, nghiên cứu, đánh giá chứng cứ, hòa
giải, và tại phiên tòa phải tiến hành đầy đủ các bước trình tự phiên tòa..., việc
áp dụng TTRG sẽ đơn giản hóa về trình tự, thủ tục hoặc giai đoạn tố tụng, loại
bỏ một số hoạt động không cần thiết như: không phải tiến hành thu thập
chứng cứ, không phải hòa giải khi đương sự không có yêu cầu, loại bỏ bước
tranh luận tại phiên tòa, không có quyền kháng cáo trong một số trường
hợp...113 Có quốc gia quy định đột phá theo hướng đương sự có thể đến Tòa
án trực tiếp trình bày yêu cầu khởi kiện bằng lời nói mà không cần phải làm
đơn khởi kiện (như đối với Hàn Quốc, nguyên đơn không nhất thiết phải làm
đơn kiện (bằng văn bản) mà có thể đến Tòa án trực tiếp trình bày với cán bộ
thụ lý vụ án. Cán bộ thụ lý vụ án có trách nhiệm ghi chép lại nội dung yêu cầu
của nguyên đơn).114
Về trình tự tiến hành TTRG tại phiên tòa, các nước theo hệ thống Thông
luật cũng có những hình thức giải quyết tranh chấp vẫn qua xét xử tại phiên
tòa nhưng thủ tục được rút gọn nhằm giảm chi phí và thời gian giải quyết
tranh chấp tương tự như TTRG (summary proceeding) trong hệ thống Dân
luật. Theo đó, vụ kiện theo trình tự giản đơn sẽ được giải quyết bằng một
phiên tòa nhanh gọn hơn, Thẩm phán có thể bỏ qua các bước không cần thiết
(như thủ tục áp dụng với vụ kiện nhỏ ở Anh, Hoa Kỳ) và chỉ tuyên phần quyết
định của Tòa án về việc giải quyết vụ án, còn phần nội dung vụ án, nhận định
của Tòa án được ghi ngay trong biên bản phiên tòa (như ở Hàn Quốc).
Ngoài ra, các nước đều quy định về thành phần giải quyết vụ kiện rút gọn
hơn so với thủ tục thông thường, chỉ do một Thẩm phán tiến hành. Hầu như
các nước đều có quy định về cơ chế chuyển đổi từ áp dụng TTRG sang áp
dụng thủ tục TTDS thông thường. Cụ thể hơn, trong quá trình Tòa án giải 113 Xem: Điều 145 Bộ luật tố tụng dân sự Trung Quốc quy định vụ án được giải quyết theo thủ tục này do một Thẩm phán thực hiện giải quyết và không buộc phải tuân theo các quy định thông báo, điều tra, thẩm vấn, xét hỏi, tranh luận như giải quyết vụ việc theo thủ tục thông thường… 114 Trần Anh Tuấn, Trương Quang Dũng, (83), tr.183.
56 quyết nếu xuất hiện những tình tiết phức tạp, nghiêm trọng Tòa án sẽ chuyển
tranh chấp sang giải quyết theo thủ tục tố tụng thông thường (được Trung
Quốc áp dụng); hoặc khi có sự phản đối từ phía bị đơn, dựa trên yêu cầu của
đương sự, Tòa án xem xét quyết định chuyển đổi từ việc áp dụng TTRG sang
giải quyết theo thủ tục thông thường (như được quy định tại khá nhiều nước).
Tuy nhiên, dù TTRG có giản lược như đề cập ở trên vẫn phải đảm bảo
tuân thủ các trình tự, hoạt động tố tụng nhất định và cần thiết do pháp luật
TTDS quy định từ khi khởi kiện, thụ lý, trong quá trình chuẩn bị xét xử, tại
phiên tòa để giải quyết vụ án, hoặc quyền kháng cáo trong toàn bộ hoặc một
số trường hợp khi áp dụng TTRG... Những thủ tục nào là cơ bản và nhất thiết
cần phải thực hiện để Tòa án có thể thực thi công lý trong việc giải quyết
tranh chấp đúng pháp luật, bảo vệ đầy đủ và đúng quyền và lợi ích hợp pháp
của đương sự sẽ phụ thuộc vào bản chất của tranh chấp thuộc đối tượng áp
dụng TTRG. Cụ thể là: tranh chấp đó có đơn giản không, đã được các bên
thừa nhận nghĩa vụ chưa, giá ngạch vụ kiện thấp nhưng nội dung tranh chấp
có phức tạp không, chứng cứ có rõ ràng không.
Đối với tranh chấp mà bị đơn thừa nhận toàn bộ nghĩa vụ, rõ ràng rằng các
bước tố tụng như thu thập chứng cứ, hòa giải, lấy lời khai của đương sự là
không cần thiết. Tuy nhiên, những bước tố tụng nêu trên lại là cần thiết đối
với tranh chấp mà các bên còn có ý kiến khác nhau về chứng cứ hoặc chứng
cứ mà các bên cung cấp không rõ ràng cần phải thu thập hoặc phải xác minh.
Ngoài ra, vấn đề có áp dụng chế độ xét xử phúc thẩm trong TTRG hay
không có nhiều quan điểm khác nhau. Một loại quan điểm cho rằng đối với
những vụ án được xét xử bởi TTRG, không cho phép kháng cáo, kháng nghị
theo thủ tục phúc thẩm như được thừa nhận ở một số nước trên thế giới. Một
loại quan điểm khác cho rằng nguyên tắc hai cấp xét xử cần được bảo đảm
ngay cả đối với vụ án được xét xử theo TTRG nhằm bảo đảm tránh được sai
sót trong hoạt động tư pháp, bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự
57 thông qua hoạt động tư pháp.115
Như vậy, một trong những nội dung cơ bản của TTRG là giảm thiểu một
hoặc một số trình tự, thủ tục và giai đoạn tố tụng, phụ thuộc vào bản chất của
tranh chấp được xét xử theo TTRG. Cụ thể:
(i)! Đối với vụ án đương sự thừa nhận toàn bộ nghĩa vụ, các trình tự thu
thập chứng cứ, lấy lời khai, hòa giải là không cần thiết và có thể được bỏ qua;
(ii)!Đối với vụ án đơn giản, giá ngạch thấp và chứng cứ rõ ràng, các trình
tự lấy lời khai, hòa giải, thu thập, xác minh chứng cứ là không cần thiết và có
thể được bỏ qua toàn bộ hoặc một phần;
(iii)! Đối với vụ án giá ngạch thấp, nhưng phức tạp hoặc chứng cứ chưa rõ
ràng, có mâu thuẫn... việc lấy lời khai, thu thập hoặc xác minh chứng cứ là
cần thiết và không được bỏ qua;
(iv)! Đối với vụ án mặc dù giá ngạch lớn nhưng đơn giản và chứng cứ rõ
ràng, các trình tự lấy lời khai, hòa giải, thu thập xác minh chứng cứ là không
cần thiết và cũng có thể được bỏ qua.
1.3.4.!Rút gọn về cấp xét xử
Về cơ chế kháng cáo phúc thẩm đối với bản án sơ thẩm được giải quyết
theo TTRG quy định của các nước không giống nhau. Một số nước quy định
rõ không cho phép kháng cáo. Như tại Pháp, đương sự không được quyền
kháng cáo phúc thẩm đối với bản án sơ thẩm được giải quyết theo TTRG nếu
như giá ngạch của vụ án đó có giá trị dưới 4.000 EUR. Đối với Đức, những
tranh chấp có giá ngạch dưới 6.000 EUR, đương sự không có quyền yêu cầu
phúc thẩm. Đối với Trung Quốc, không ghi nhận quyền kháng cáo đối với các
phán quyết khi giải quyết theo TTRG trong TTDS.
Một số nước khác vẫn cho phép kháng cáo đối với một số hoặc toàn bộ
phán quyết khi áp dụng TTRG. Như ở Đức, chỉ cho phép đương sự kháng cáo 115 Các quan điểm trái chiều như trên được thể hiện qua nhiều tranh luận tại các diễn đàn, hội thảo khoa học trong quá trình bàn về việc xây dựng TTRG hoặc sửa đổi, bổ sung BLTTDS.
58 đối với tranh chấp có giá ngạch từ 6.000 EUR trở lên hoặc khi được Tòa án sơ
thẩm cho phép và ghi rõ trong bản án.116 Đối với Anh, đương sự có quyền
kháng cáo quyết định của Thẩm phán với điều kiện đương sự đó đã tham gia
phiên tòa và yêu cầu kháng cáo có cơ sở và được đưa ra ngay sau khi kết thúc
phiên tòa.
Đặc biệt đối với Thái Lan, pháp luật của nước này cho phép kháng cáo
phúc thẩm nhưng nội dung kháng cáo bị hạn chế (không cho phép đương sự
kháng cáo bản án sơ thẩm về vấn đề sự kiện của vụ án nhưng có quyền kháng
cáo về vấn đề áp dụng pháp luật).117
Ở Pháp, đối với các phán quyết của Tòa án giải quyết các tranh chấp có giá
ngạch thấp sẽ có hiệu lực pháp luật ngay mà không bị kháng cáo theo trình tự
phúc thẩm theo Điều 847-3 Bộ luật tố tụng dân sự Pháp. Đối với các phán
quyết của Tòa án ra lệnh thanh toán nợ, người mắc nợ có quyền phản đối lệnh
trả nợ như quy định tại Điều 1409 và Điều 1412 Bộ luật tố tụng dân sự Pháp.
Đơn kháng án tùy trường hợp sẽ phải gửi đến Tòa sơ thẩm thẩm quyền hẹp đã
ra lệnh trả nợ hoặc Chánh án Tòa thương mại đã ra quyết định.118 Đối với
trường hợp Tòa án bác đơn ra lệnh thanh toán hoặc buộc thực hiện một công
việc, người yêu cầu không có quyền kháng cáo nhưng vẫn có quyền khởi kiện
lại theo thủ tục thông thường (theo Điều 1425-9 Bộ luật tố tụng dân sự Pháp)
hoặc có thể yêu cầu vụ việc được chuyển ngay đến Tòa án có thẩm quyền.
Nếu Thẩm phán chỉ chấp nhận một phần yêu cầu, chủ nợ cũng không được
kháng cáo quyết định, nhưng có quyền không tống đạt lệnh của Tòa án cho
con nợ và có quyền khởi kiện theo thủ tục thông thường (Điều 1409 Bộ luật
tố tụng dân sự Pháp). 116 Hải Lộc (2011), “Tìm hiểu hệ thống Tòa án và công tác đào tạo các chức danh tư pháp của Cộng hòa Liên bang Đức” [http://moj.gov.vn/ct/tintuc/Pages/nghien-cuu-trao-doi.aspx?ItemID=4366] (truy cập ngày 23-4-2015). 117 Trần Anh Tuấn, Trương Quang Dũng, (83), tr.183. 118 Điều 1416, Bộ luật tố tụng dân sự Pháp quy định: “Người mắc nợ có quyền phản kháng lệnh trả nợ trong thời hạn 1 tháng kể từ ngày tống đạt quyết định của Tòa án. Tuy nhiên trong trường hợp không tống đạt cho chính người mắc nợ, đơn kháng án có thể được chấp nhận cho đến khi hết hạn một tháng tiếp theo văn bản tống đạt đầu tiên hoặc sau khi đã thực hiện biện pháp ngăn chặn người mắc nợ phân tán một phần hoặc toàn bộ tài sản của mình”.
59
Pháp luật TTDS Anh cho phép quyền kháng cáo. Nhưng quyền kháng cáo
phải được thực hiện một cách nhanh chóng, thời hạn rất giới hạn. Đương sự
thua kiện có quyền kháng cáo chống lại quyết định của Thẩm phán với điều
kiện đương sự đó có tham gia phiên xét xử và phải yêu cầu (có lý do chính
đáng hoặc có lập luận) với Thẩm phán cho phép kháng cáo khi kết thúc
phiên xét xử.119 Có thể đưa ra kháng cáo đối với các phán quyết cho các vụ
kiện nhỏ chỉ trong trường hợp có sự sai sót về luật pháp hoặc một số vi
phạm nghiêm trọng khác trong các thủ tục tố tụng Tòa án thông thường.
Tại Hoa Kỳ, đương sự có thể kháng cáo đối với quyết định trong vụ kiện
nhỏ. Tuy nhiên, đương sự chỉ được quyền kháng cáo nếu đủ chứng cứ cho rằng
phán quyết của Tòa án “rõ ràng là sai.”120
Tại Nhật Bản, nhìn chung, như quy định tại Điều 397 Bộ luật tố tụng dân
sự Nhật Bản, phán quyết cuối cùng của Tòa án giải quyết theo TTRG không
được kháng cáo lên Tòa phúc thẩm. Tuy nhiên, trong thời hạn hai tuần kể từ
ngày nhận được quyết định của Tòa án, đương sự có thể đưa ra yêu cầu phản
đối quyết định đó. Trong trường hợp yêu cầu phản đối hợp lệ, vụ kiện sẽ được
khôi phục lại đến giai đoạn trước khi kết thúc việc tranh luận và chuyển sang
thủ tục thông thường.121
Pháp luật TTDS Trung Quốc không ghi nhận quyền kháng cáo đối với các
phán quyết khi giải quyết theo TTRG nhưng cho phép người có nghĩa vụ trả
nợ được quyền phản đối đối với thủ tục ra lệnh thanh toán của Tòa án. Đối
với thủ tục ra lệnh thanh toán, theo quy định tại Điều 191 Bộ luật tố tụng dân 119 Carsten Mahnke (2014), (81), tr.12. 120 https://www.nycourts.gov/courthelp/pdfs/SmallClaimsHandbook.pdf, p.11 (truy cập ngày 29-4-2015). 121 Các trường hợp được coi là yêu cầu hợp lệ bao gồm: (i) Trường hợp nguyên đơn khởi kiện vụ án có giá ngạch thấp theo TTRG vi phạm khoản 1 Điều 368 Bộ luật tố tụng dân sự Nhật Bản; (ii) Trường hợp Tòa án yêu cầu nguyên đơn phải nộp bản thông báo ghi rõ số lần đã khiếu kiện vụ án trong một khoảng thời gian hợp lý theo khoản 3 Điều 386 Bộ luật tố tụng dân sự Nhật Bản nhưng nguyên đơn không nộp; (iii) Trường hợp không thể tống đạt giấy triệu tập cho bị đơn vào ngày đầu tiên tranh luận bằng bất kỳ phương pháp nào khác mà không cần phải sử dụng đến việc niêm yết công khai; (iv) Trường hợp Tòa án nhận thấy không hợp lý khi giải quyết vụ kiện theo TTRG. Lưu ý: đương sự không được quyền kháng cáo đối với những quyết định trên của Tòa án về việc chuyển vụ án từ TTRG sang thủ tục thông thường.
60 sự Trung Quốc, trong vòng mười lăm ngày kể từ khi nhận được lệnh buộc
thanh toán, người có nghĩa vụ trả nợ phải thanh toán hết nợ hoặc có thể đưa ra
một yêu cầu phản đối bằng văn bản và gửi đến Tòa án. Trong trường hợp
không thực hiện được lệnh buộc thanh toán hoặc có yêu cầu phản đối, theo
quy định tại Điều 192 Bộ luật tố tụng dân sự Trung Quốc, Tòa án ra quyết
định kết thúc vụ án theo TTRG và yêu cầu buộc thanh toán sẽ hết hiệu lực
ngay lập tức. Trong trường hợp này, chủ nợ có thể khởi kiện lại vụ kiện theo
thủ tục thông thường.
Như vậy, đối với các phán quyết giải quyết theo TTRG ở nhiều quốc gia,
pháp luật tố tụng không cho phép kháng cáo hoặc cho phép kháng cáo phúc
thẩm nhưng nội dung kháng cáo bị hạn chế ở việc chỉ cho phép kháng cáo về
áp dụng pháp luật.
1.3.5.!Rút gọn về thời gian giải quyết tranh chấp
Với mục tiêu chung khi xây dựng TTRG là nhằm đơn giản hóa thủ tục,
giải quyết nhanh, có hiệu quả các tranh chấp nhỏ, đơn giản... Chính vì vậy,
pháp luật TTDS của nhiều nước trên thế giới khi quy định về TTRG trong
TTDS đều có ghi nhận về thời gian giải quyết vụ án ngắn hơn so với thủ tục
TTDS thông thường. Trung Quốc thời hạn giải quyết tranh chấp theo TTRG
là không quá ba tháng; Hàn Quốc là hai tháng rưỡi so với thủ tục thông
thường là sáu tháng. Thời gian trung bình giải quyết xong một vụ kiện có giá
trị nhỏ ở Anh là ba mươi mốt tuần.122 Đặc biệt có một số nước khi áp dụng
TTRG giải quyết đối với việc ra lệnh thanh toán, thủ tục này được rút ngắn có
khi chỉ vài tuần kể từ thời điểm thụ lý yêu cầu như tại các nước Nga, Đức,
Nhật Bản, Trung Quốc, Hàn Quốc…123 Thời gian giải quyết vụ việc nhỏ tại
Hoa Kỳ là trong vòng hai đến ba tháng kể từ ngày nguyên đơn nộp đơn kiện
(ví dụ: đối với bang California, từ năm 2004 đến năm 2013, 70-80 % các vụ 122 http://open.justice.gov.uk/courts/civil-cases/ (truy cập ngày 23-4-2015). 123 Xem: Nguyên tắc 56, Bộ luật tố tụng dân sự Liên bang Hoa Kỳ; Điều 146, Bộ luật tố tụng dân sự Trung Quốc; Điều 296-I Bộ luật tố tụng dân sự Đức; Điều 126, 128 Bộ luật tố tụng dân sự Liên bang Nga; Trần Anh Tuấn, Trương Quang Dũng, (83), tr.183&185.
61 kiện nhỏ được giải quyết xong trong vòng 90 ngày).124
Tác giả cho rằng, khi TTRG bao gồm cả việc rút gọn một hoặc một số trình
tự, thủ tục và giai đoạn tố tụng thì đương nhiên thời gian xét xử theo TTRG
cũng được rút ngắn hơn. Ngắn gọn hơn bao nhiêu là vấn đề không đơn thuần
dựa vào một tiêu chí cụ thể nào đó mà phụ thuộc vào nhiều yếu tố: bản chất
của tranh chấp, trình tự, thủ tục tố tụng nào được rút gọn, khối lượng công
việc của Thẩm phán, đội ngũ giúp việc của Thẩm phán...
Đối với vụ án bị đơn thừa nhận hoàn toàn nghĩa vụ hay nói cách khác là bị
đơn thừa nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện, rõ ràng Tòa án không cần thiết phải
thực hiện bất kỳ trình tự, thủ tục tố tụng nào ngoài việc mở phiên tòa để kiểm
tra tính xác thực của việc thừa nhận đó. Vì vậy, thời hạn giải quyết các loại
tranh chấp này là một thời gian ngắn nhất, hợp lý phụ thuộc vào khối lượng
công việc của Thẩm phán, đội ngũ giúp việc của Thẩm phán, cơ sở vật chất
của Tòa án (có đủ phòng xử án), thời gian cấp, tống đạt văn bản tố tụng cho
các bên đương sự...
Đối với các vụ án mà nội dung tranh chấp phức tạp, chứng cứ chưa rõ ràng,
có mâu thuẫn về chứng cứ cần phải thu thập, xác minh thêm hoặc cần phải
tiến hành hòa giải vì các bên đương sự có yêu cầu nên thời hạn giải quyết các
tranh chấp đó phụ thuộc (ngoài những yếu tố khách quan nêu trên) vào thời
gian để thực hiện các trình tự, thủ tục tố tụng được coi là cần thiết.
Tuy nhiên, trong bất kỳ trường hợp nào, vì vụ án được giải quyết theo
TTRG là bao gồm việc rút gọn một hoặc một số trình tự, thủ tục tố tụng nhất
định nên đương nhiên thời hạn chuẩn bị xét xử các vụ án theo TTRG phải
ngắn hơn thời hạn chuẩn bị xét xử các vụ án theo thủ tục thông thường. Tóm
lại, một trong những nội dung của TTRG là rút ngắn về thời gian giải quyết
tranh chấp và việc rút ngắn như thế nào phụ thuộc vào bản chất của tranh
chấp và trình tự, thủ tục tố tụng cụ thể nào được rút gọn. 124 http://www.courts.ca.gov/documents/2014-Court-Statistics-Report.pdf, p.42 (truy cập ngày 29-4-2015).
62
KẾT LUẬN CHƯƠNG 1
Qua nghiên cứu cơ sở lý luận về TTRG trong TTDS, tác giả đi đến một số
kết luận sau đây:
Thứ nhất, về khái niệm TTRG: TTRG có thể được hiểu là một thủ tục đơn
giản, gọn nhẹ hơn so với thủ tục tố tụng dân sự thông thường về thành phần
giải quyết, trình tự, thủ tục và thời gian giải quyết tranh chấp, được áp dụng
đối với một số loại tranh chấp nhỏ, đơn giản, chứng cứ rõ ràng hoặc đương sự
thừa nhận nghĩa vụ.
Thứ hai, về tính hiệu quả của TTRG: TTRG nhằm tiết kiệm thời gian và
chi phí tố tụng cho đương sự, Tòa án và xã hội mà vẫn bảo đảm công lý,
quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự.
Thứ ba, HP 2013 đã quy định về việc áp dụng TTRG giải quyết một số vụ
án theo quy định của pháp luật. Đây là cơ sở pháp lý cao nhất để có thể xây
dựng và áp dụng TTRG giải quyết TCDS nói chung, trong đó có TCKDTM
Thứ tư, hài hòa việc tăng cường hiệu quả hoạt động xét xử thông qua
TTRG đồng thời phải bảo đảm các nguyên tắc cơ bản trong hoạt động xét xử,
bảo đảm công lý và các quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự.
Cụ thể: Xây dựng TTRG giải quyết vụ án dân sự trong giai đoạn hiện nay
phải đảm bảo các nguyên tắc cơ bản sau đây: xét xử công khai, bảo đảm tranh
tụng và bảo đảm chế độ hai cấp xét xử.
Thứ năm, kinh nghiệm của nhiều nước trên thế giới cho thấy đặc điểm thứ
nhất của TTRG là chỉ áp dụng giải quyết một số vụ án đáp ứng một trong các
tiêu chí sau: (i) giá ngạch thấp; (ii) đơn giản và chứng cứ rõ ràng; hoặc (iii)
đương sự thừa nhận nghĩa vụ. Giá ngạch thấp do mỗi quốc gia quy định và
căn cứ vào những tiêu chí khác nhau.
Thứ sáu, ngoài đặc điểm về tiêu chí nêu trên, TTRG có những đặc điểm
khác như sau: (i) rút gọn thành phần giải quyết vụ án; (ii) rút gọn trình tự, thủ
tục hoặc giai đoạn tố tụng; và (iii) rút gọn thời hạn giải quyết tranh chấp.
63
Thứ bảy, về TTRG đối với các TCKDTM: các nước không có TTRG riêng
áp dụng đối với việc giải quyết các TCKDTM.
Từ các kết luận trên đây, trong Chương 2 tiếp theo, tác giả sẽ đánh giá các
quy định của pháp luật, thực tiễn áp dụng các quy định đó trong quá trình giải
quyết TCKDTM và đánh giá việc giải quyết TCKDTM tại Tòa án Việt Nam
thông qua các vụ án cụ thể làm cơ sở để tác giả đưa ra các đề xuất xây dựng
TTRG tại Việt Nam trong Chương 3 của Luận án.
64
CHƯƠNG 2: CƠ SỞ THỰC TIỄN CỦA VIỆC XÂY DỰNG THỦ TỤC
RÚT GỌN GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP KINH DOANH, THƯƠNG MẠI
Theo số liệu thống kê của TANDTC, trong thời gian từ năm 2005 đến
năm 2014, tỷ lệ các vụ việc mà Tòa án phải giải quyết hàng năm tăng khoảng
15%; các vụ việc về kinh doanh, thương mại và lao động có tỷ lệ tăng cao hơn
so với các vụ việc dân sự khác (xem Phụ lục đính kèm Luận án). Các số liệu
thống kê cũng cho thấy tỷ lệ giải quyết xong các vụ án về TCKDTM tại cả hai
cấp sơ thẩm và phúc thẩm trong những năm gần đây có xu hướng thấp đi.
Điều đó có thể lý giải bởi sự gia tăng khối lượng các TCKDTM và quá tải
trong hoạt động xét xử.125
Trong quá trình nghiên cứu Luận án, tác giả đã tiến hành khảo sát điều tra
xã hội học (Khảo sát) vào khoảng thời gian từ tháng 01 đến tháng 06 năm
2015 lấy ý kiến của hai nhóm đối tượng: nhóm thứ nhất là những người làm
trong các cơ quan tư pháp như Tòa án, Viện Kiểm sát, cơ quan tư pháp địa
phương và giới Luật sư (Người làm công tác pháp luật); và nhóm thứ hai là
những người làm trong doanh nghiệp (Nhà doanh nghiệp) làm sáng tỏ hai vấn
đề: (i) về thủ tục giải quyết TCKDTM hiện nay; và (ii) kỳ vọng, mong đợi của
người được khảo sát về việc giải quyết TCKDTM như thế nào theo họ là hợp
lý, nhất là đối với các TCKDTM đơn giản, giá ngạch thấp, đương sự thừa
nhận nghĩa vụ hoặc chứng cứ rõ ràng.126 Đa số những Người làm công tác
pháp luật và Nhà doanh nghiệp đều cho rằng việc giải quyết TCKDTM theo 125 Chi tiết xem thêm Phụ lục số 02 về “Số liệu thống kê kết quả giải quyết các vụ việc dân sự của các Tòa án nhân dân” trong Báo cáo Tổng kết thực tiễn 10 năm thi hành Bộ luật tố tụng dân sự, Hà Nội, ngày 26-2-2015, tr.2. 126 Ngoài ra tác giả còn tham khảo và sử dụng một số kết quả khảo sát từ các công trình nghiên cứu khoa học khác, gồm: (i) Báo cáo khảo sát về chỉ số giải quyết tranh chấp hợp đồng của Tưởng Duy Lượng trình bày tại Hội thảo tham vấn hoàn thiện Bộ luật tố tụng dân sự để cải thiện mội trường kinh doanh do Cơ quan Phát triển Quốc tế Hoa Kỳ (USAID) tổ chức ngày 1-10-2015 tại Hà Nội; và (iii) Báo cáo nghiên cứu và đề xuất cơ chế, mô hình giải quyết tranh chấp dân sự theo thủ tục rút gọn tại Việt Nam (2015) do Dự án Tăng cường tiếp cận công lý và bảo vệ quyền tại Việt Nam thực hiện, Hà Nội. Trong Báo cáo của Dự án nêu trên có nêu kết quả khảo sát 56 Thẩm phán, Thẩm tra viên TAND các cấp, Kiểm sát viên, Luật sư và một số Người làm công tác pháp luật. Qua so sánh với kết quả Khảo sát do tác giả thực hiện, về cơ bản kết quả khảo sát của Dự án là phù hợp với kết quả Khảo sát do tác giả thực hiện. Do đó, trong Luận án, tác giả nói chung sẽ chỉ dẫn chiếu đến kết quả Khảo sát của tác giả.
65 thủ tục tố tụng hiện nay còn kéo dài và mong muốn có được một thủ tục đơn
giản và hiệu quả hơn.
Trong chương này, tác giả trước hết sẽ đánh giá thực trạng pháp luật tố
tụng dân sự làm cơ sở cho việc xây dựng TTRG; và sau đó sẽ đánh giá thực
tiễn xét xử một số TCKDTM thông qua các vụ án cụ thể làm cơ sở cho việc
xây dựng TTRG.
2.1. Xây dựng thủ tục rút gọn giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương
mại từ thực trạng pháp luật tố tụng dân sự
BLTTDS không quy định thủ tục tố tụng riêng cho giải quyết TCKDTM.
Do đó, cũng giống như thủ tục tố tụng giải quyết các TCDS nói chung, thủ tục
tố tụng giải quyết TCKDTM cũng trải qua các thủ tục sơ thẩm, phúc thẩm,
giám đốc thẩm, tái thẩm... Tuy vậy, BLTTDS có quy định khác biệt về thời
hạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm khi giải quyết TCKDTM, cụ thể là ngắn hơn so
với thời hạn giải quyết TCDS nói chung. Điều này cho thấy nhu cầu giải
quyết nhanh, rút ngắn thời gian tố tụng giải quyết TCKDTM đã được quán
triệt trong quan điểm lập pháp.
Tuy nhiên, hiện các quy định tại BLTTDS còn có những bất cập nhất định
dẫn đến việc áp dụng các quy định đó trong hoạt động xét xử của Tòa án
không thống nhất, không mang lại hiệu quả như mong muốn. Yêu cầu xây
dựng một thủ tục đơn giản, hiệu quả, giảm chi phí mà vẫn đảm bảo công lý
trước hết đòi hỏi phải có sự nhìn nhận, phân tích từ chính các quy định của
pháp luật nội tại về vấn đề này. Phần tiếp theo sau đây (mục 2.1.1), tác giả tập
trung phân tích, đánh giá các quy định liên quan của pháp luật TTDS và việc
áp dụng chúng trên thực tế có những bất cập cụ thể nào làm cản trở và kéo dài
việc giải quyết một số loại TCKDTM.
2.1.1. Thủ tục giải quyết vụ án tại Tòa án cấp sơ thẩm
2.1.1.1.!Nhận đơn khởi kiện và thụ lý vụ án
Điều 167 BLTTDS quy định: “Tòa án phải nhận đơn khởi kiện do đương
66 sự nộp trực tiếp tại Tòa án hoặc gửi qua bưu điện và phải ghi vào sổ nhận
đơn. Trong thời hạn năm ngày làm việc, kể từ ngày nhận được đơn khởi kiện,
Tòa án phải xem xét và có một trong các quyết định sau đây: 1. Tiến hành thủ
tục thụ lý vụ án nếu vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của mình; 2. Chuyển
đơn khởi kiện cho Tòa án có thẩm quyền và báo cho người khởi kiện, nếu vụ
án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án khác; 3. Trả lại đơn khởi kiện cho
người khởi kiện, nếu việc đó không thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án.”
Quy định về thời hạn xem xét đơn khởi kiện trong vòng năm ngày làm
việc trên thực tế không được tuân thủ trong nhiều trường hợp. Nếu không giải
quyết được vấn đề này thì các quy định về TTRG sẽ không có ý nghĩa trên
thực tế vì thời gian giải quyết vụ án đã bị trì hoãn ngay từ khâu “đầu vào”
này.
Trước hết, quy định về người khởi kiện phải ghi rõ nội dung, yêu cầu khởi
kiện (Điều 164 BLTTDS) và phải kèm theo các tài liệu, chứng cứ chứng minh
(Điều 165 BLTTDS) chưa rõ ràng. Ví dụ: trong đơn khởi kiện phải ghi tên,
địa chỉ của người bị kiện nhưng có cần thiết phải gửi kèm tài liệu chứng minh
người bị kiện thực sự cư trú tại địa chỉ nêu ở đơn khởi kiện? Nhiều Tòa án
hiểu theo hướng cần thiết phải chứng minh điều đó và vì vậy, Tòa án chỉ xem
xét thụ lý vụ án khi và chỉ khi đương sự cung cấp văn bản xác nhận của chính
quyền địa phương về nơi cư trú của bị đơn là cá nhân hoặc về nơi trụ sở hoạt
động của bị đơn là tổ chức.127
Tiếp đến, không có cơ chế kiểm soát “ngày nhận đơn” làm cơ sở xác định
Tòa án có tuân thủ hay không về thời hạn xem xét đơn trong năm ngày làm
việc vì Điều 167 không bắt buộc Tòa án khi tiếp nhận đơn khởi kiện phải cấp
giấy biên nhận cho người khởi kiện. 127 Trong thực tiễn, khi tiếp nhận đơn khởi kiện đối với TCKDTM, có Tòa án yêu cầu người khởi kiện đến cơ quan đăng ký kinh doanh hoặc chính quyền cơ sở nơi người bị kiện cư trú xác nhận (vào đơn hoặc một văn bản khác) là bị đơn hiện vẫn đang cư trú tại địa chỉ được ghi nhận trong đơn khởi kiện thì mới nhận đơn. Xem: tài liệu của Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương (2015), “Góp ý dự thảo Bộ luật tố tụng dân sự (sửa đỗi) để cải thiện môi trường kinh doanh theo Nghị quyết 19 của Chính phủ”, Hội thảo tham vấn hoàn thiện Bộ luật tố tụng dân sự để cải thiện mội trường kinh doanh do Cơ quan Phát triển Quốc tế Hoa Kỳ (USAID) tổ chức ngày 1-10-2015, Hà Nội, tr.8.
67
Việc xem xét đơn khởi kiện để quyết định thụ lý vụ án trên thực tế được
thực hiện khác nhau nhưng đều thông qua một quy trình thống nhất: tiếp
nhận, nghiên cứu đơn khởi kiện, các tài liệu kèm theo và báo lãnh đạo Tòa án
quyết định việc thụ lý.128 Với quy trình nêu trên, rất khó có thể để Tòa án
quyết định thụ lý trong thời hạn năm ngày làm việc.129
Ngoài các lý do nêu trên, qua trao đổi với một số lãnh đạo của một số Tòa
án cấp quận huyện và thẩm phán có kinh nghiệm lâu năm tại một số Tòa án
cấp tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương,130 việc không tuân thủ thời hạn
xem xét thụ lý vụ án còn có một lý do chủ quan của Tòa án: Tòa án phải chịu
áp lực về việc tuân thủ thời hạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm tối đa cho phép là
bốn tháng. Trong nhiều trường hợp, Tòa án trì hoãn việc thụ lý cho đến khi
xét thấy các công việc cần giải quyết (đề nghị đương sự làm rõ một số vấn đề
của vụ án, xác minh một số vấn đề như địa chỉ của bị đơn, người có quyền và
lợi ích liên quan, bổ sung chứng cứ…)126 đã thực hiện cơ bản xong mới tiến
hành thụ lý vụ án để khi chính thức thụ lý vụ án sẽ bảo đảm việc có thể đưa
vụ án ra xét xử trong thời hạn luật định.
Vi phạm thời hạn xem xét đơn khởi kiện và thụ lý vụ án sẽ triệt tiêu tất cả
các ý nghĩa của quy định thời hạn chuẩn bị xét xử nói chung và mục đích, ý
nghĩa của một thủ tục tố tụng đơn giản, gọn nhẹ hơn nói riêng. Mọi nỗ lực 128 Nhóm Chuyên gia thuộc Viện Quản lý Kinh tế Trung ương (2014), Báo cáo khảo sát thực trạng quản lý hành chính Tòa án nhân dân địa phương ở Việt Nam, Hà Nội. 129 Trên thực tế, thời hạn xem xét việc thụ lý vụ án thông thường từ khi nhận đơn khởi kiện đến khi Tòa án thụ lý trung bình mất 30 ngày hoặc 45 ngày và trong trường hợp cần phải sửa đổi, bổ sung đơn khởi kiện một lần thì khoảng 70 ngày; những trường hợp phải bổ sung đơn khởi kiện hai, ba lần thì phải mất nhiều thời gian hơn. Xem: Tưởng Duy Lượng, (5), Hà Nội, tr.4. 130 Các cuộc trao đổi được tác giả thực hiện qua điện thoại hoặc gặp trực tiếp các Thẩm phán qua các hội thảo góp ý sửa đổi BLTTDS hoặc qua các hình thức khác. Tuy nhiên, các Thẩm phán được phỏng vấn đều đề nghị không nêu tên và Tòa án cụ thể vì những lý do tế nhị. 126 Xem: khoản 5 Điều 9 Nghị quyết 05/2012/NQ-HĐTP ngày 03/12/2012 hướng dẫn việc trả lại đơn khởi kiện theo quy định tại khoản 2 Điều 169 BLTTDS do đơn khởi kiện ghi “không đúng” địa chỉ của người bị kiện, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan còn có cách hiểu khác nhau, ảnh hưởng rất lớn đến quyền khởi kiện của người khởi kiện: ghi đúng địa chỉ là tại thời điểm các bên giao dịch hay đúng địa chỉ là tại thời điểm phát sinh tranh chấp hay ghi đúng địa chỉ là tại thời điểm khởi kiện. Vậy, để xác định người khởi kiện ghi “không đúng” Tòa án chỉ còn cách phải yêu cầu người khởi kiện có trách nhiệm xác minh và bổ sung chính xác địa chỉ của người khởi kiện.
68 làm đơn giản, ngắn gọn và hiệu quả hơn quá trình tố tụng sẽ không còn ý
nghĩa nếu như không xử lý được sự trì hoãn của giai đoạn “đầu vào” này.
2.1.1.2.! Chuẩn bị xét xử sơ thẩm
Trong giai đoạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm, theo quy định của BLTTDS, Tòa
án và đương sự phải tiến hành nhiều hoạt động tố tụng quan trọng và cần thiết
chuẩn bị cho việc xét xử tại phiên tòa sơ thẩm (nếu có) trong tương lai, ví dụ:
thông báo về thụ lý vụ án; cấp, tống đạt, thông báo văn bản tố tụng; triệu tập
đương sự đến Tòa án lấy lời khai; thu thập chứng cứ; tiến hành việc hòa giải...
Tuy nhiên, các quy định của BLTTDS còn nhiều bất cập làm ảnh hưởng đến
việc giải quyết TCKDTM không được thực hiện một cách nhanh chóng hơn.
(i)!Về thủ tục tống đạt, thông báo văn bản tố tụng
Đối với đương sự là các tổ chức, Điều 153 BLTTDS quy định:“…văn bản
tố tụng phải được giao trực tiếp cho người đại diện theo pháp luật hoặc người
chịu trách nhiệm nhận văn bản của cơ quan, tổ chức đó và phải được những
người này ký nhận…”. Trong trường hợp những người nêu trên không chịu ký
nhận, trên thực tế người thực hiện tống đạt phải lập biên bản về việc không
thực hiện được việc tống đạt và có xác nhận của chính quyền địa phương.
Trong trường hợp không thực hiện tống đạt trực tiếp được, người tống đạt sử
dụng cách thức niêm yết. Khoản 3 Điều 154 BLTTDS quy định thời gian từ khi
thông báo bằng hình thức niêm yết công khai đến thời điểm tiến hành thủ tục tố
tụng nêu trong thông báo phải cách nhau ít nhất mười lăm ngày. Như vậy,
trong trường hợp đương sự không hợp tác, thời gian cần phải chờ đợi cho vài
lần niêm yết văn bản tố tụng cũng đã vài tháng.
Các quy định nêu trên về tống đạt, thông báo văn bản tố tụng không cho
phép thực hiện các công việc đó thông qua các hình thức đơn giản và thuận lợi
hơn nhiều trong bối cảnh công nghệ thông tin hiện nay (như thông qua hệ
thống thư điện tử) khi mà dường như hầu hết các doanh nghiệp đều sử dụng
thư điện tử và các hình thức liên lạc điện tử khác. Pháp luật tố tụng dân sự hoàn
toàn có thể quy định cho phép hình thức tống đạt, thông báo văn bản tố tụng
69 này, bởi lẽ đương sự thường chủ yếu là các doanh nghiệp, thương gia trong các
TCKDTM. Nếu vậy, thời hạn giải quyết các TCKDTM chắc chắn sẽ giảm đi
một cách đáng kể.
(ii)! Về việc lấy lời khai đương sự
Tác giả cho rằng, một trong các lý do làm cho việc xét xử sơ thẩm của Tòa
án hiện nay bị kéo dài chính là các quy định của pháp luật tố tụng về việc lấy
lời khai của các đương sự. Điều 86 BLTTDS quy định: “Thẩm phán chỉ tiến
hành lấy lời khai của đương sự khi đương sự chưa có bản khai hoặc nội dung
bản khai chưa đầy đủ, rõ ràng…” Mặc dù quy định nêu trên chỉ cho phép
Thẩm phán lấy lời khai khi “chưa có bản khai” nhưng quy định đó còn có thể
hiểu và được áp dụng phổ biến trên thực tế, theo hướng “Thẩm phán triệu tập
đương sự đến Tòa án để lấy lời khai khi đương sự chưa có bản khai.” Hơn nữa,
để có bản khai của đương sự thì Tòa án phải triệu tập đương sự lên Tòa án để
đề nghị họ viết bản khai. Do đó, việc triệu tập đương sự để họ làm bản khai
hoặc lấy lời khai dường như là một thủ tục bắt buộc. Điều này làm kéo dài thời
gian chuẩn bị xét xử sơ thẩm.
Có thể có những vụ án đơn giản khi trong văn bản trả lời đơn khởi kiện (ý
kiến về đơn khởi kiện)131 bị đơn không phản đối nghĩa vụ hoặc các tài liệu,
chứng cứ mà nguyên đơn cung cấp cho thấy tình tiết vụ án đơn giản, chứng cứ
rõ ràng và đủ để xác định tình tiết khách quan và áp dụng pháp luật nhưng bị
đơn cố tình không hợp tác. Trong khi đó, căn cứ vào quy định tại Điều 86
BLTTDS, Tòa án vẫn phải triệu tập đương sự một cách không cần thiết làm
kéo dài thời gian chuẩn bị xét xử.
Đối với những vụ án nêu trên hoàn toàn có thể bỏ qua việc lấy lời khai của
đương sự và Tòa án có thể kiểm chứng các tình tiết khách quan, đơn giản và rõ
ràng đó tại phiên tòa. Các quy định của pháp luật hiện hành chưa cho phép thực
hiện điều này. 131 Theo Điều 174 và Điều 175 BLTTDS, người được thông báo về việc Tòa án đã thụ lý vụ án có trách nhiệm nộp cho Tòa án “văn bản ghi ý kiến của mình” chứ không quy định cụ thể và rõ ràng văn bản đó là “bản khai” của đương sự.
70
(iii)! Về hòa giải bắt buộc
Theo các quy định từ Điều 180132 đến Điều 187 BLTTDS, Tòa án cấp sơ
thẩm phải tiến hành hòa giải đối với hầu hết các vụ án về TCKDTM (trừ
những vụ án không được tiến hành hòa giải hoặc không tiến hành hòa giải
được theo quy định tại Điều 181 và Điều 182 BLTTDS). Tòa án triệu tập các
đương sự để tổ chức các phiên hòa giải, kể cả trong các vụ án đơn giản, chứng
cứ rõ ràng, giá ngạch thấp, đương sự thừa nhận nghĩa vụ, hoặc đương sự cố
tình không thực hiện nghĩa vụ v.v. để chứng minh trong hồ sơ vụ án đã tiến
hành hoạt động hòa giải. Quy định này, vô hình chung chỉ mang tính hình
thức nhưng nếu Tòa án không thực hiện thì bị coi là vi phạm nghiêm trọng
thủ tục tố tụng và bản án hoặc quyết định sơ thẩm có khả năng bị hủy nếu có
kháng cáo, kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm hoặc giám đốc thẩm…
Đối với những trường hợp nêu trên có thể bỏ qua hoạt động hòa giải trong
giai đoạn chuẩn bị xét xử, trừ khi đương sự có yêu cầu Tòa án tiến hành hòa
giải, và thay vào đó Tòa án có thể tiến hành hòa giải ngay tại phiên tòa. Các
quy định của pháp luật hiện hành chưa cho phép thực hiện điều này.
Chia sẻ quan điểm này, kết quả Khảo sát mà tác giả thực hiện trong quá
trình nghiên cứu Luận án cho thấy 110/165 Nhà doanh nghiệp (chiếm 66,6%)
và 61/97 Người làm công tác pháp luật được hỏi (chiếm 62,9%) cho rằng thủ
tục hòa giải bắt buộc đối với TCKDTM đơn giản, chứng cứ rõ ràng, đương sự
thừa nhận nghĩa vụ là không cần thiết và Tòa án chỉ tiến hành hòa giải khi có
yêu cầu của các bên đương sự.
(iv)!Quy định về thời hạn chuẩn bị xét xử
Điều 179 BLTTDS quy định như sau:
“1. Thời hạn chuẩn bị xét xử các loại vụ án được quy định như sau:
132 Điều 180 BLTTDS quy định: “Trong thời hạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án, Tòa án tiến hành hoà giải để các đương sự thỏa thuận với nhau về việc giải quyết vụ án, trừ những vụ án không được hòa giải hoặc không tiến hành hòa giải được...”
71
a) Đối với các vụ án quy định tại Điều 25 và Điều 27 của Bộ luật này,
thời hạn là bốn tháng, kể từ ngày thụ lý vụ án;
b) Đối với các vụ án quy định tại Điều 29 và Điều 31 của Bộ luật này,
thời hạn là hai tháng, kể từ ngày thụ lý vụ án.
Đối với vụ án có tính chất phức tạp hoặc do trở ngại khách quan thì
Chánh án Tòa án có thể quyết định gia hạn thời hạn chuẩn bị xét xử, nhưng
không quá hai tháng đối với vụ án thuộc trường hợp quy định tại điểm a và
một tháng đối với vụ án thuộc trường hợp quy định tại điểm b khoản 1 Điều
này.
2. Trong thời hạn chuẩn bị xét xử quy định tại khoản 1 Điều này, tùy
từng trường hợp, Tòa án ra một trong các quyết định sau đây:
a) Công nhận sự thoả thuận của các đương sự;
b) Tạm đình chỉ giải quyết vụ án;
c) Đình chỉ giải quyết vụ án;
d) Đưa vụ án ra xét xử.
3. Trong thời hạn một tháng kể từ ngày có quyết định đưa vụ án ra xét
xử, Tòa án phải mở phiên tòa; trong trường hợp có lý do chính đáng thì thời
hạn này là hai tháng”
Như vậy, thời điểm để tính thời hạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm quy định cho
các loại vụ án đều là “kể từ ngày thụ lý vụ án”. Đối với vụ án về TCKDTM,
thời hạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm không phân biệt vụ án phức tạp hay đơn
giản, giá trị tranh chấp lớn hay nhỏ, có sự thừa nhận của đương sự hay chưa
v.v. đều từ hai đến bốn tháng (sau khi đã được Tòa án gia hạn tối đa).133
133 Tuy nhiên, về vấn đề này, kết quả Khảo sát mà tác giả thực hiện cho thấy một kết quả thống nhất là đa số Người làm công tác pháp luật hoặc các Nhà doanh nghiệp đều cho rằng thời hạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm TCKDTM bốn tháng (trong trường hợp tối đa theo luật định) là dài. Trả lời câu hỏi về thời hạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm đối với các TCKDTM hiện nay nếu đã gia hạn tối đa có 54,6% Người làm công tác pháp luật cho rằng là dài, 40,2% cho là chưa phù hợp. Kết quả Khảo sát đối với Nhà doanh nghiệp cũng cho con số tương tự: đa số các doanh nghiệp cho rằng, thời gian gia hạn tối đa như hiện
72
Việc quy định một thời hạn chung như trên là chưa hợp lý. Bởi lẽ, rất
nhiều trường hợp thời hạn chuẩn bị xét xử bốn tháng (đã gia hạn tối đa)
không đủ để giải quyết với các TCKDTM phức tạp, cần thu thập, nghiên cứu,
đánh giá chứng cứ và phân tích các vấn đề pháp lý có liên quan, tiến hành hòa
giải v.v.134 Trong khi đó, như đã phân tích ở trên, những vụ án về TCKDTM
đơn giản, giá ngạch thấp, bị đơn đã thừa nhận nghĩa vụ của mình, chứng cứ rõ
ràng không cần phải tiến hành khá nhiều trong số các hoạt động tố tụng và
như vậy thời hạn chuẩn bị xét xử có thể không cần nhiều như vậy.
Kết quả Khảo sát cho thấy đối với các TCKDTM thuộc đối tượng nêu trên,
thời hạn chuẩn bị xét xử hiện nay là chưa phù hợp và cần phải được rút ngắn
hơn nhiều. Cụ thể: 27,8% Người làm công tác pháp luật cho rằng thời hạn
chuẩn bị xét xử sơ thẩm nên dưới một tháng, 36,1%: nên dưới hai tháng,
29,95%: nên dưới ba tháng. Như vậy, có đến 63,9% Người làm công tác pháp
luật cho rằng thời hạn xét xử sơ thẩm các TCKDTM có giá ngạch thấp, đương
sự thừa nhận nghĩa vụ chỉ dưới hai tháng là phù hợp; và chỉ có 6,2% Người
làm công tác pháp luật cho rằng thời hạn hơn ba tháng là phù hợp.
Tương tự câu hỏi trên, trong số Nhà doanh nghiệp được hỏi có 33,5% cho
rằng thời hạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm dưới một tháng là hợp lý, 40,2% trả lời
nên quy định thời hạn dưới hai tháng và 23,8% thì thời hạn đó nên dưới 3
tháng. Như vậy, có đến 73,7% Nhà doanh nghiệp được hỏi cho rằng đối với
những loại TCKDTM đó, thời hạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm hiện nay là dài và
nên quy định theo hướng dưới hai tháng; và chỉ có 2,4% số người được hỏi trả
lời thời hạn này trên ba tháng là phù hợp.
này là dài (trong số 168 Nhà doanh nghiệp được hỏi, chỉ có 26,8% Nhà doanh nghiệp cho rằng thời gian này là chưa đủ, và 28% trong số họ cho rằng thời gian quy định hiện nay là phù hợp). 134 Việc giải quyết án từ khi thụ lý đến khi tuyên án kéo dài là phổ biến. Một Tòa án quận (thuộc thành phố Hồ Chí Minh) có số vụ án kết thúc trong thời gian ba tháng chỉ chiếm 10%, bốn tháng: 20%. Nếu tính toán theo lý thuyết thì thời gian trung bình từ khi nhận đơn khởi kiện đến khi kết thúc vụ án tại Tòa án cấp sơ thẩm mà luật quy định đối với vụ án đơn giản cũng mất từ sáu đến bảy tháng (nếu vụ án phức tạp thì mất từ bảy đến tám tháng), chưa tính trường hợp phải sửa đổi, bổ sung đơn khởi kiện nhiều lần, hoãn phiên tòa hai lần trở lên… Đặc biệt nếu vụ án thuộc trường hợp tạm đình chỉ không biết khi nào mới kết thúc. Xem: Tưởng Duy Lượng, (5), tr.4.
73 Đối với những TCKDTM mà bị đơn thừa nhận toàn bộ nghĩa vụ của mình,
tuyệt đại đa số (149/166) người được hỏi: 90% Nhà doanh nghiệp cho rằng
thủ tục tố tụng hiện nay là không phù hợp và cần phải được áp dụng thủ tục
đơn giản rút gọn hơn, và đa số Người làm công tác pháp luật (77/94, chiếm
79%) cũng thống nhất quan điểm này.
Một mặt, có thể cho rằng không nhất thiết phải quy định một thời gian
ngắn hơn đối với những vụ án nêu trên với lý do các quy định hiện hành chỉ
khống chế thời hạn tối đa chứ không quy định thời hạn tối thiểu để giải quyết
một vụ án; vì vậy, Tòa án hoàn toàn có thể đưa ra xét xử những vụ án đó
trong thời gian ngắn hơn chứ không bắt buộc phải trong thời hạn tối đa mà
luật quy định. Tuy nhiên, việc không có các quy định về thời hạn tối đa ngắn
hơn giải quyết các TCKDTM có tính chất đơn giản sẽ không tạo ra trách
nhiệm cho Tòa án trong việc bắt buộc phải giải quyết nhanh chóng những vụ
án về TCKDTM đặc thù này.
Như vậy, pháp luật TTDS hiện nay quy định chung về thời hạn chuẩn bị
xét xử sơ thẩm cho tất cả các vụ án về TCKDTM mà không phân biệt tính
chất đơn giản hay phức tạp của vụ án, giá trị tranh chấp hoặc có hay không sự
thừa nhận nghĩa vụ của đương sự… Quy định xơ cứng như vậy đã không giải
quyết được bản chất của vấn đề, dẫn đến thực trạng có những vụ án cần thiết
phải có nhiều thời gian để thực hiện các công việc chuẩn bị xét xử (ít nhất
cũng phải bằng chính thời gian chuẩn bị xét xử đã quy định cho vụ án dân sự
và hôn nhân gia đình hoặc cần thiết phải kéo dài hơn) để đảm bảo hiệu quả và
chất lượng của những công việc chuẩn bị xét xử.
Mặt khác, cũng chính việc quy định thời hạn chuẩn bị xét xử “cào bằng”
như hiện nay dẫn đến một thực tế là Tòa án đã dài thời gian chuẩn bị xét xử
kể cả đối với những vụ án đơn giản, chứng cứ rõ ràng hoặc đương sự đã thừa
nhận nghĩa vụ với nhau… làm cho thời hạn tố tụng bị kéo dài, thiệt hại về
thời gian, chi phí không chỉ cho các đương sự mà cho cả Tòa án và cho toàn
xã hội một cách không cần thiết.
74 2.1.1.3.!Mở và tiến hành phiên tòa sơ thẩm
Theo quy định hiện nay của BLTTDS, ngoài những trường hợp không phải
mở phiên tòa sơ thẩm do các đương sự đã hòa giải được với nhau hoặc có căn
cứ để Tòa án đình chỉ giải quyết vụ án, tất cả các vụ án, cho dù tranh chấp đó
có đơn giản, giá ngạch thấp, đương sự thừa nhận nghĩa vụ hoặc có chứng cứ
rõ ràng, đều phải được tiến hành xét xử trực tiếp tại phiên tòa sơ thẩm. Quy
định này hoàn toàn phù hợp để bảo đảm nguyên tắc hiến định “xét xử công
khai và đảm bảo tranh tụng”.
Kết quả Khảo sát cũng cho những nhận định tương tự. Đa số các ý kiến
được điều tra cho rằng thủ tục giải quyết các TCKDTM đơn giản, chứng cứ rõ
ràng hoặc có giá ngạch thấp thông qua việc xét xử trực tiếp, công khai tại
phiên tòa như quy định của pháp luật tố tụng hiện tại là phù hợp. 121/164 Nhà
doanh nghiệp được hỏi (chiếm 73,8%) và 87/96 Người làm công tác pháp luật
được hỏi (chiếm 90,6%) cho rằng vẫn cần phải mở phiên tòa để giải quyết các
loại tranh chấp đó.
Tuy nhiên, các quy định của pháp luật hiện hành về việc thu xếp để mở
phiên tòa và tổ chức phiên tòa theo dự kiến còn có những vướng mắc nhất
định sau đây.
(i)!Về việc hoãn phiên tòa
Khoản 1 Điều 199 BLTTDS quy định: “Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ
nhất, đương sự hoặc người đại diện của họ, người bảo vệ quyền và lợi ích
hợp pháp của đương sự phải có mặt; trường hợp có người vắng mặt thì Hội
đồng xét xử hoãn phiên tòa, trừ trường hợp người đó có đơn đề nghị xét xử
vắng mặt”.
Theo quy định trên, Tòa án đương nhiên phải hoãn phiên tòa lần thứ nhất
kể cả trong trường hợp đã được triệu tập hợp lệ nhưng một trong các đương
sự vắng mặt mà không có lý do chính đáng. Tác giả cho rằng, đương sự là
nguyên đơn mà không đưa ra được lý do chính đáng hoặc cũng không phải vì
75 trường hợp bất khả kháng mà vắng mặt, mặc nhiên có thể hiểu là nguyên đơn
không còn có nhu cầu Tòa án tiếp tục giải quyết tranh chấp của mình. Ngược
lại, nếu đương sự là bị đơn, chính việc không đến Tòa án theo giấy triệu tập
hợp lệ mà không có lý do chính đáng (ví dụ vì sự kiện bất khả kháng), Tòa án
vẫn có thể tiến hành việc xét xử mà không cần phải hoãn phiên tòa. Quy định
như vậy để tránh trường hợp bị đơn cố tình trốn tránh nhằm kéo dài thời gian.
Kinh nghiệm của một số nước trên thế giới (như Anh, Hoa Kỳ, Canada…)
cho thấy trong những trường hợp bị đơn không tham gia các thủ tục tố tụng
theo yêu cầu của Tòa, được triệu tập hợp lệ đến phiên tòa mà vắng mặt không
có lý do chính đáng, Tòa án áp dụng quy định “xét xử khiếm diện” và ra phán
quyết đáp ứng các yêu cầu của nguyên đơn (default judgment) dựa trên các
bằng chứng mà nguyên đơn cung cấp.135
Ngoài ra, căn cứ quy định về sự tham gia của đại diện Viện kiểm sát trong
đa số phiên tòa sơ thẩm (xem thêm khoản 2 Điều 21 BLTTDS) nên nhiều
trường hợp phiên tòa bị hoãn vì lý do vắng mặt đại diện Viện kiểm sát. Vì
vậy, thời hạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm đối với các vụ án về TCKDTM đơn
giản, giá ngạch thấp, đương sự đã thừa nhận nghĩa vụ vẫn có thể bị kéo dài
chỉ vì sự vắng mặt của đại diện Viện kiểm sát.
Tóm lại, có thể nhận thấy rằng quy định hiện nay về việc hoãn phiên tòa
trong trường hợp có một trong các đương sự hoặc người đại diện hợp pháp
của họ vắng mặt lần thứ nhất mà không cần nêu lý do; thành phần giải quyết
vụ án có sự tham gia của Viện kiểm sát trong một số phiên tòa là những bất
cập dẫn đến hoãn phiên tòa làm kéo dài việc giải quyết tranh chấp một cách
không cần thiết.
(ii)! Về sự tham gia của đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa sơ thẩm
Trong hoạt động TTDS, Viện kiểm sát nhân dân là cơ quan kiểm sát việc 135 Janet Walker & Garry D.Watson (2006), Preliminary or Summary Procedure: Scope and Importance - General Report (Common Law), México: Universidad Nacional Autónoma de México, III. General Report.
76 tuân theo pháp luật trong hoạt động tư pháp, trong đó có nội dung kiểm sát
hoạt động xét xử của Tòa án. Vai trò, chức năng của Viện kiểm sát trong
TTDS nói chung và tại phiên tòa sơ thẩm nói riêng được quy định cụ thể các
Điều 21, Điều 207 và Điều 234 BLTTDS. Theo đó, Viện kiểm sát tham gia
hầu hết các phiên tòa sơ thẩm (khoản 2 Điều 21 BLTTDS) và phiên tòa sơ
thẩm có thể bị hoãn nếu vắng mặt đại diện Viện kiểm sát trong các trường
hợp Viện kiểm sát phải có mặt (quy định tại Điều 207 và Điều 208 BLTTDS).
Tuy nhiên, theo theo quy định tại Điều 234 BLTTDS, tại phiên tòa sơ
thẩm Viện kiểm sát chỉ phát biểu ý kiến về việc chấp hành pháp luật của
những người tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng dân sự, kể từ khi thụ lý
vụ án cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án mà không phát biểu về
quan điểm giải quyết vụ án. Vấn đề đặt ra: vậy sự tham gia của đại diện Viện
kiểm sát tại phiên tòa sơ thẩm có thiết thực và bắt buộc hay không để thực
hiện quyền năng giám sát hoạt động xét xử hay có thể thực hiện được quyền
năng đó thông qua thẩm quyền kháng nghị bản án, quyết định của Tòa án cấp
sơ thẩm?
Có quan điểm cho rằng136 trong các phương thức kiểm sát thì hoạt động
kiểm sát tại phiên tòa là phương thức hiệu quả nhất. Nếu chỉ tham gia nghiên
cứu hồ sơ, bản án, quyết định thì Viện Kiểm sát rất khó phát hiện vi phạm.
Bởi lẽ, theo yêu cầu của cải cách tư pháp, hoạt động xét xử tại phiên tòa,
phiên họp là trọng tâm trong giải quyết các vụ việc dân sự và phán quyết của
Tòa án phải căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, phiên họp. Do đó, nếu
Viện kiểm sát không tham gia phiên tòa, phiên họp sẽ không giải quyết tốt
được quyền kiểm sát của mình.
Quan điểm khác137 cho rằng pháp luật tố tụng quy định Viện kiểm sát tham
gia quá nhiều vào quá trình tố tụng làm kéo dài thời gian giải quyết tranh
136 Nguyễn Xuân Thủy, [http://www.thesaigontimes.vn/131616/Dai-bieu-QH-Vien-Kiem-sat-can-co-mat-tai-toa-dan-su.html] (truy cập ngày 28-6-2015). 137 Tưởng Duy Lượng, (5), tr.7.
77 chấp. Viện kiểm sát tham gia các phiên tòa sơ thẩm theo quy định tại khoản 2
Điều 21 BLTTDS để thực hiện công việc nêu tại Điều 234 BLTTDS hiện nay
là không cần thiết. Theo PGS.TS. Nguyễn Thị Hoài Phương, cần cân nhắc
bản chất vụ việc dân sự cốt là ở hai bên đương sự tự định đoạt để từ đó xem
xét mức độ cần thiết về sự tham gia của Viện kiểm sát trong quá trình tố tụng,
còn “nếu cho Viện kiểm sát tham gia tố tụng tại phiên tòa sơ thẩm dân sự chỉ
để nhận định về tố tụng xem Tòa xử đúng hay sai thì không có ý nghĩa.”138
Viện kiểm sát hoàn toàn có thể kiểm sát công việc trên thông qua kiểm tra hồ
sơ vụ án trong suốt quá trình giải quyết vụ án cho đến khi thực hiện quyền
kháng nghị phúc thẩm.
Cho dù chưa có sự ngã ngũ giữa hai quan điểm nêu trên, việc tham gia của
Viện kiểm sát tại phiên tòa xét xử các tranh chấp đơn giản, giá ngạch thấp,
chứng cứ rõ ràng hoặc đương sự đã thừa nhận nghĩa vụ, thiết nghĩ là không
cần thiết bởi lẽ đối với các vụ án đó thì khả năng có vi phạm về tố tụng dường
như rất ít. Theo kết quả khảo sát gần đây của nhóm chuyên gia Dự án Tăng
cường tiếp cận công lý và bảo vệ quyền cho thấy 83,8% số người được hỏi
cho rằng Kiểm sát viên nên kiểm sát việc giải quyết vụ việc dân sự thông qua
hồ sơ vụ việc mà không cần tham gia phiên tòa.139
Tóm lại, về việc tham gia của Viện kiểm sát trong quá trình tố tụng giải
quyết các TCKDTM còn có những bất cập nhất định cần nghiên cứu và sửa
đổi để làm sao vẫn bảo đảm vai trò và chức năng kiểm sát của Viện kiểm sát
trong hoạt động xét xử, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của những người
yếu thế nhưng đồng thời vẫn đảm bảo nguyên tắc tự do quyết định và định
đoạt của đương sự trong việc giải quyết một cách hiệu quả các vụ án về
TCDS nói chung và TCKDTM nói riêng, nhất là những vụ án về TCKDTM
đơn giản, chứng cứ rõ ràng hoặc đương sự đã thừa nhận nghĩa vụ. 138 Nguyễn Thị Hoài Phương , “Sửa đổi Bộ luật tố tụng dân sự: Viện Kiểm sát tham gia phiên tòa dân sự, không cần thiết?” [https://luatminhkhue.vn/dan-su/sua-doi-bo-luat-to-tung-dan-su-vien-kiem-sat-tham-gia-phien-toa-dan-su,-khong-can-thiet-.aspx] (truy cập ngày 25-9-2014). 139 Dự án Tăng cường tiếp cận công lý và bảo vệ quyền (2015), (27), tr.58.
78
(iii)! Về thành phần xét xử sơ thẩm
Điều 52 BLTTDS về thành phần của hội đồng xét xử sơ thẩm quy định:
“Hội đồng xét xử sơ thẩm vụ án dân sự gồm một Thẩm phán và hai Hội thẩm
nhân dân. Trong trường hợp đặc biệt thì Hội đồng xét xử sơ thẩm có thể gồm
hai Thẩm phán và ba Hội thẩm nhân dân.”
Quy định của HP 2013 và LTCTAND 2014 về việc không áp dụng
nguyên tắc xét xử tập thể trong vụ án giải quyết theo TTRG là cơ sở pháp lý
cho việc xây dựng quy định về rút gọn thành phần xét xử chỉ còn một Thẩm
phán khi áp dụng TTRG. Vấn đề còn lại là xem xét thực tiễn năng lực và trình
độ của Thẩm phán hiện nay để có thể khẳng định tính khả thi khi quy định
này được triển khai trên thực tế.
Từ kết quả Khảo sát cũng cho thấy, để đảm bảo một số TCKDTM được
giải quyết theo TTRG một cách khách quan và đúng pháp luật, đa số Nhà
doanh nghiệp đều nhìn nhận rằng trình độ, năng lực và phẩm chất của Thẩm
phán hiện nay cần phải được cải thiện hơn nữa. Điều này thể hiện thông qua
việc trả lời câu hỏi “liệu với trình độ, năng lực, phẩm chất của Thẩm phán
hiện nay thì việc áp dụng TTRG có phù hợp và đảm bảo việc giải quyết vụ án
khách quan và đúng pháp luật hay không?”, theo đó chỉ có 47,6% đồng ý và
53,4% không đồng ý.
Như vậy có nghĩa đa số trong những người được hỏi còn “lăn tăn” về trình
độ của Thẩm phán hiện nay khi giao cho họ thẩm quyền một mình giải quyết
một số loại vụ án về TCKDTM. Điều đó đòi hỏi phải có những biện pháp tăng
cường hơn nữa năng lực của Thẩm phán.
2.1.2.!Thủ tục giải quyết vụ án tại Tòa án cấp phúc thẩm
Tương tự như quy định về thủ tục sơ thẩm, BLTTDS không có quy định
thủ tục phúc thẩm áp dụng riêng cho những vụ án về TCKDTM có tiêu chí để
có thể áp dụng TTRG. Như vậy, đối với những vụ án này hiện nay đều áp
dụng chung thủ tục phúc thẩm như sau.
79 2.1.2.1.!Quy định về việc kháng cáo, kháng nghị và phạm vi xét xử phúc thẩm
Với quy định hiện nay tại Điều 243 và Điều 250 BLTTDS,140 có thể nhận
thấy rằng quyền kháng cáo phúc thẩm của đương sự và quyền kháng nghị của
Viện kiểm sát hoàn toàn không bị hạn chế về phạm vi kháng cáo (đối với
đương sự) và phạm vi kháng nghị (đối với Viện kiểm sát). Quy định này hoàn
toàn phù hợp với nguyên tắc bảo đảm chế độ hai cấp xét xử sơ thẩm và phúc
thẩm mà Điều 103 HP 2013 đã quy định. Chính vì vậy, không thể vì bất kỳ lý
do nào kể cả mục đích rút ngắn thủ tục tố tụng mà được phép loại bỏ quy định
về cấp xét xử thứ hai, đặc biệt là loại bỏ quyền kháng cáo của đương sự. Kết
quả Khảo sát cho thấy 87/165 Nhà doanh nghiệp được hỏi (chiếm 52,7%) và
54/93 Người làm công tác pháp luật được hỏi (chiếm 58%) không đồng ý với
nhận định “không cần phải xét xử phúc thẩm nhưng vẫn cần giám đốc thẩm”.
Điều đó có nghĩa đa số những người được hỏi cho rằng thủ tục phúc thẩm vẫn
cần được áp dụng đối với việc giải quyết những vụ án về TCKDTM có tiêu
chí có thể áp dụng TTRG.
Tuy nhiên, tác giả cho rằng còn có bất cập trong quy định về phạm vi
kháng cáo, kháng nghị. Cụ thể hơn, trong các vụ án về TCKDTM đơn giản và
chứng cứ rõ ràng, giá trị tranh chấp nhỏ, hoặc đương sự đã thừa nhận hoàn
toàn nghĩa vụ… việc cho phép kháng cáo, kháng nghị đối với toàn bộ nội
dung bản án, quyết định sơ thẩm, bao gồm việc xác định sự thật của vụ án
cũng như việc áp dụng pháp luật bởi Tòa án cấp sơ thẩm là không phù hợp.
Bởi lẽ, đối với các vụ án trên, xuất phát từ tính chất chung đều là các vụ án
đơn giản nên ít khi Tòa án cấp sơ thẩm có thể sai sót trong việc xác định sự
thật khách quan của vụ án. Trong những trường hợp này, Tòa án cấp phúc
thẩm chỉ cân nhắc và xem xét lại việc áp dụng pháp luật của Tòa án cấp sơ
thẩm đã chính xác hay chưa. 140 Điều 243 BLTTDS quy định: “Đương sự, người đại diện của đương sự, cơ quan, tổ chức khởi kiện có quyền làm đơn kháng cáo bản án, quyết định tạm đình chỉ, đình chỉ giải quyết vụ án của Tòa án cấp sơ thẩm để yêu cầu Tòa án cấp trên trực tiếp giải quyết lại theo thủ tục phúc thẩm”. Điều 250 BLTTDS quy định: “Viện trưởng Viện kiểm sát cùng cấp và cấp trên trực tiếp có quyền kháng nghị bản án, quyết định tạm đình chỉ, đình chỉ giải quyết vụ án của Tòa án sơ thẩm để yêu cầu Tòa án cấp trên trực tiếp giải quyết lại theo thủ tục phúc thẩm”.
80
Ngoài ra, với quy định về phạm vi kháng cáo và kháng nghị nêu trên dẫn
đến trường hợp Tòa án cấp phúc thẩm luôn dự kiến ấn định trước một khoảng
thời gian tối đa mà luật pháp quy định để bảo đảm có đủ thời gian xem xét
toàn bộ nội dung vụ án kể cả tình tiết sự kiện, nghiên cứu hồ sơ, chứng cứ…
Đây là một trong những lý do chủ quan và khách quan từ phía Tòa án làm cho
thời hạn chuẩn bị xét xử phúc thẩm trong thực tế xét xử bị kéo dài.
Tóm lại, việc quy định về quyền kháng cáo, kháng nghị phúc thẩm là phù
hợp nhưng quy định phạm vi kháng cáo, kháng nghị đối với những vụ án về
TCKDTM có tiêu chí có thể áp dụng TTRG cần phải xuất phát từ bản chất cơ
bản của những vụ án đó là đơn giản và có chứng cứ rõ ràng, hoặc đơn giản và
có giá ngạch thấp, hoặc đương sự đã thừa nhận toàn bộ nghĩa vụ. Vì vậy, Tòa
án cấp phúc thẩm không cần phải xem xét, đánh giá các chứng cứ để cân nhắc
các tình tiết và sự thật khách quan của vụ việc đã được xác định tại thủ tục sơ
thẩm mà chỉ xem xét lại việc áp dụng pháp luật của Tòa án cấp sơ thẩm đã
chính xác và hợp pháp hay chưa. Có như vậy, Tòa án cấp phúc thẩm mới có
thể rút ngắn thời gian giải quyết vụ án mà vẫn đảm bảo một cách hài hòa các
quyền và lợi ích chính đáng của tất cả các đương sự.
2.1.2.2.!Quy định về thủ tục chuẩn bị xét xử phúc thẩm
Tương tự như thủ tục sơ thẩm, thời hạn chuẩn bị xét xử phúc thẩm cũng
được xác định từ thời điểm Tòa án cấp phúc thẩm thụ lý vụ án để xét xử phúc
thẩm. Theo quy định tại Điều 258 BLTTDS, thời hạn chuẩn bị xét xử phúc
thẩm vụ án về TCDS nói chung (trong đó có TCKDTM) cũng giống như thời
hạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm - trong khoảng thời gian từ hai tháng đến bốn
tháng (tính cả thời gian gia hạn tối đa mà pháp luật cho phép).
Thực tiễn qua tìm hiểu từ việc trao đổi với một số Thẩm phán, thời hạn
này cơ bản phù hợp và Tòa án có thể tuân thủ đúng quy định hiện hành mà
không cần phải tìm lý do để tạm đình chỉ nhằm kéo dài thời hạn này một cách
hợp pháp như ở giai đoạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm. Giải thích cho thực tiễn
này có một số lý do như sau: thứ nhất, thủ tục phúc thẩm là cấp xét xử thứ
81 hai, hồ sơ vụ án đã được xây dựng đầy đủ từ cấp sơ thẩm; và thứ hai, Tòa án
cấp phúc thẩm không có trách nhiệm phải tiến hành hoạt động hòa giải.
Như vậy, quy định về thời hạn giải quyết vụ án về TCKDTM ở cấp phúc
thẩm như hiện nay là tương đối phù hợp đối với các vụ án thông thường. Tuy
nhiên, đối với những vụ án về TCKDTM đơn giản, có giá ngạch thấp, hoặc bị
đơn đã thừa nhận nghĩa vụ thiết nghĩ không cần thiết quy định thời hạn tối đa
áp dụng như đối với các vụ án khác. Vì pháp luật không quy định về thời hạn
ngắn hơn, trên thực tế Tòa án thường giải quyết các vụ án đó trong thời hạn
tối đa và như vậy không bảo đảm được nhu cầu giải quyết các tranh chấp đó
một cách nhanh, gọn.
Kết quả Khảo sát cho thấy, đối với nhóm Người làm công tác pháp luật khi
trả lời câu hỏi về thời hạn chuẩn bị xét xử phúc thẩm đối với những vụ án về
TCKDTM có tiêu chí để có thể áp dụng TTRG: 53,1% số người được hỏi cho
rằng thời hạn chuẩn bị xét xử của cấp phúc thẩm hiện nay là dài, 32,3% cho
rằng là chưa phù hợp và 14,6 % cho rằng là ngắn. Các Nhà doanh nghiệp
cũng có ý kiến nhận xét tương tự: đa số những người được hỏi (47,3% cho
rằng thời hạn này là dài; 20% cho rằng là chưa đủ trong một số trường hợp và
32,7 % cho rằng là phù hợp).
Do đó, quy định về thời hạn chuẩn bị xét xử phúc thẩm đối với những vụ
án đơn giản và có chứng cứ rõ ràng, hoặc đơn giản và có giá ngạch thấp, hoặc
đương sự đã thừa nhận toàn bộ nghĩa vụ cần quy định ngắn hơn so với thời
hạn chuẩn bị xét xử phúc thẩm các vụ án về TCKDTM thông thường khác.
2.1.2.3. Thủ tục tiến hành phiên tòa xét xử phúc thẩm
BLTTDS không quy định hoạt động hòa giải trong thủ tục phúc thẩm. Do
vậy, phiên tòa phúc thẩm được tiến hành ngay sau khi hết thời hạn chuẩn bị
xét xử phúc thẩm quy định tại Điều 258 BLTTDS nếu không có căn cứ để
Tòa án cấp phúc thẩm ban hành quyết định tạm đình chỉ xét xử phúc thẩm
hoặc đình chỉ xét xử phúc thẩm.
Phiên tòa phúc thẩm áp dụng chung cho tất cả các vụ án dân sự và vụ án
82 về TCKDTM, trong đó có những TCKDTM có tiêu chí để áp dụng TTRG
hiện có ba vấn đề đặt ra như sau:
Một là, về việc hoãn phiên tòa: Theo Điều 266 BLTTDS, việc hoãn phiên
tòa cũng áp dụng tương tự như đối với phiên tòa sơ thẩm. Cụ thể, nếu người
kháng cáo hoặc người không kháng cáo nhưng có liên quan đến nội dung
kháng cáo, kháng nghị vắng mặt lần thứ nhất không có lý do dù đã được Tòa
án triệu tập hợp lệ, phiên tòa phúc thẩm vẫn đương nhiên phải hoãn. Quy định
này vô hình chung cũng làm cho thời hạn chuẩn bị xét xử bị kéo dài không
cần thiết, như tác giả đã phân tích ở phần trên về phiên tòa sơ thẩm.
Hai là, về sự tham gia của Viện kiểm sát: Theo quy định tại Điều 264
BLTTDS, Kiểm sát viên Viện kiểm sát cùng cấp phải tham gia tất cả các
phiên tòa phúc thẩm. Cũng tương tự như sự phân tích vai trò của Viện kiểm
sát khi thực hiện chức năng kiểm tra và giám sát hoạt động tư pháp nói chung
và hoạt động TTDS nói riêng, theo tác giả, nếu hướng quy định hạn chế sự
tham gia của Viện kiểm sát ở thủ tục sơ thẩm nên quy định ở phiên tòa phúc
thẩm cũng cần phải có quy định hạn chế sự tham gia của Viện kiểm sát.
Ba là, về thành phần xét xử phúc thẩm: Theo quy định hiện nay, thành
phần hội đồng xét xử phúc thẩm bao gồm ba Thẩm phán (Điều 53 BLTTDS).
Quy định này hoàn toàn không phù hợp đối với những vụ án về TCKDTM có
tiêu chí áp dụng TTRG… Thẩm phán phải tập trung vào xem xét và giải
quyết tất cả các vụ án mà không có sự phân biệt tính chất tranh chấp đơn giản
hay phức tạp là thực sự không phù hợp và không cần thiết, gây lãng phí nhân
lực cho Tòa án và xã hội.
Kết quả Khảo sát cũng cho thấy, đa số Nhà doanh nghiệp và Người làm
công tác pháp luật được hỏi đều cho rằng thủ tục tố tụng yêu cầu phải xét xử
tập thể đối với TCKDTM có giá ngạch thấp, chứng cứ rõ ràng hoặc nội dung
tranh chấp đơn giản là không phù hợp. 110/165 Nhà doanh nghiệp được hỏi
(chiếm 66,7%) và 53/96 Người làm công tác pháp luật được hỏi (chiếm
55,2%) cho rằng chỉ cần một Thẩm phán giải quyết các loại tranh chấp đó.
83
Do HP 2013 đã cho phép thành phần xét xử vụ án theo TTRG chỉ cần một
Thẩm phán, vấn đề này sẽ được giải quyết một cách đơn giản thông qua sửa
đổi BLTTDS.
2.2.! Xây dựng thủ tục rút gọn giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương
mại từ thực tiễn xét xử của Tòa án
Theo phản ánh của nhiều Thẩm phán tại các hội thảo khoa học về thực
tiễn giải quyết TCDS, cũng như Báo cáo tổng kết thi hành BLTTDS những
năm qua, trong tổng số các vụ án mà toàn hệ thống Tòa án thụ lý giải quyết
nêu trên, có không ít những vụ án có chứng cứ rõ ràng, nội dung tranh chấp
đơn giản, bị đơn thừa nhận nghĩa vụ hoặc không phản đối yêu cầu khởi kiện
của nguyên đơn, vụ án có giá ngạch thấp nhưng vẫn phải giải quyết theo trình
tự thủ tục tố tụng thông thường gây mất thời gian, tiền bạc, công sức của cơ
quan tố tụng và các đương sự. Hơn nữa, có rất nhiều các vụ án bị đơn cố tình
không thực hiện nghĩa vụ, lạm dụng quyền kháng cáo để kéo dài thời gian
giải quyết vụ án góp phần làm cho tình trạng án tồn đọng kéo dài và gây sức
ép không nhỏ cho cán bộ nhất là các Thẩm phán đã giải quyết vụ án.141
Trong phần dưới đây của Luận án, tác giả sẽ phân tích và đánh giá thực
trạng Tòa án giải quyết một số tranh chấp thuộc đối tượng có thể áp dụng
TTRG để từ đó minh chứng rằng việc áp dụng TTRG là xuất phát từ nhu cầu
thực tiễn và hoàn toàn có thể áp dụng TTRG để giải quyết một số loại TCDS
nói chung và TCKDTM nói riêng.
Tác giả sẽ phân tích từ các vụ án đó để làm cơ sở xác định các tiêu chí áp
dụng TTRG và nội dung của TTRG (rút gọn về thành phần tham gia giải
quyết, rút gọn về trình tự, thủ tục và thời hạn giải quyết).
2.2.1.!Đối với tranh chấp mà đương sự thừa nhận toàn bộ nghĩa vụ
Trong quá trình nghiên cứu Luận án, tác giả đã tìm hiểu số lượng đáng kể 141 Nguyễn Văn Cường & Phùng Thị Hoàn (2014), “Chuyên đề 6: Thực tiễn giải quyết các vụ việc dân sự và yêu cầu về xây dựng thủ tục rút gọn”, trích Đề tài nghiên cứu khoa học cấp bộ “Vấn đề xây dựng thủ tục tố tụng dân sự rút gọn theo yêu cầu cải cách tư pháp và hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay - Thực trạng và giải pháp”, do Trần Anh Tuấn làm chủ nhiệm đề tài, Hà Nội, tr.199&200.
84 các vụ án về TCKDTM và thấy rằng khá nhiều vụ án đơn giản, bị đơn đã thừa nhận hoàn toàn nghĩa vụ nhưng Tòa án vẫn phải tiến hành các thủ tục tố tụng thông thường dẫn đến thời gian giải quyết tranh chấp kéo dài mà kết quả giải
quyết không có gì khác ngoài việc tuyên một phán quyết chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn. Có thể nhận thấy tính đơn giản của tranh chấp và sự thừa nhận nghĩa vụ của bị đơn trong các vụ án mà tác giả sưu tầm
được sau đây.
Thứ nhất, nhóm các vụ án mà bị đơn đã thừa nhận hoàn toàn nghĩa vụ và đề xuất được giảm lãi và chậm thực hiện nghĩa vụ mà không có tranh chấp gì.
Vụ Ngân hàng Thương mại Kỹ thương Việt Nam kiện Công ty TNHH Đầu tư Xây dựng Thương mại Xuân Định,142 Nguyên đơn khởi kiện yêu cầu Bị đơn thanh toán khoản vay gốc là 14.960.000.000 đồng và khoản lãi là
28.716.341.790 đồng. Bị đơn thừa nhận toàn bộ khoản vay gốc và khoản lãi chưa thanh toán nêu trên nhưng cho rằng “nếu nguyên đơn giảm lãi thì bị đơn tiếp tục thanh toán tiền gốc; nhưng nếu không giảm lãi thì Tòa xử theo pháp luật.” TAND quận 3 Thành phố Hồ Chí Minh đã thụ lý vụ án này vào ngày
10-2-2014.
Vụ Ngân hàng Thương mại Cổ phần Petrolimex kiện Ông Nguyễn Quốc Thanh – Chủ doanh nghiệp tư nhân thương mại Vạn Phúc,143 thụ lý ngày 31-
1-2013 và được TAND quận 2 Thành phố Hồ Chí Minh xét xử ngày 23-1-2014: Nguyên đơn khởi kiện yêu cầu Bị đơn số tiền nợ gốc là 2.000.000.000 đồng và tiền lãi là 2.482.019.271 đồng. Bị đơn thừa nhận toàn bộ các khoản
tiền còn nợ nêu trên và đồng ý trả toàn bộ tiền gốc nhưng xin giảm lãi và “cho phép Bị đơn giãn tiến độ thanh toán nợ vì chưa bán được nhà và điều kiện tài chính của Bị đơn đang gặp khó khăn”;
Vụ Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam kiện Trần Thị Kim Hoa và Nguyễn Văn Thắng,144 theo đó Bị đơn thừa nhận hoàn toàn 142 Theo Bản án số 26 /2014/KDTM-ST ngày: 06-8-2014 của TAND quận 3, Thành phố Hồ Chí Minh. 143 Theo Bản án số: 01/2014/KDTM-ST ngày: 23-01-2014 của TAND quận 2, Thành phố Hồ Chí Minh. 144 Theo Bản án số: 46/2014/KDTM-ST ngày: 21-5-2014 của TAND quận Gò Vấp, Thành phố Hồ Chí Minh.
85 nghĩa vụ thanh toán 3.739.854.167 đồng là nợ gốc và lãi cho Nguyên đơn nhưng đề nghị Nguyên đơn cho thanh toán làm nhiều đợt trong thời hạn sáu tháng.
Vụ Công ty Cổ phần Mía đường La Ngà kiện Công ty TNHH Sản xuất -
Thương mại Anh Đăng,145 Bị đơn thừa nhận toàn bộ khoản tiền mua hàng là
hơn 10 tỷ đồng nhưng xin giảm lãi và đề nghị được thanh toán mỗi tháng
100.000.000 đồng cho đến khi hết nghĩa vụ.
Vụ Công ty Cổ phần Bê tông Lafarge kiện Công ty Cổ phần Nam Thái
Sơn,146 Tòa án thụ lý ngày 19-10-2012 về việc Bị đơn không thanh toán
888.012.526 đồng (tiền mua bê tông), Bị đơn cũng thừa nhận toàn bộ yêu cầu
khởi kiện nêu trên về tiền mua hàng và về lãi chậm trả nhưng “xin” được thực
hiện nghĩa vụ làm năm đợt, sau sáu tháng kể từ ngày thụ lý.
Thứ hai, nhóm các vụ án mà bị đơn mặc dù thừa nhận toàn bộ nghĩa vụ
nhưng không thực hiện được nghĩa vụ vì không có khả năng thanh toán, khả
năng thực hiện nghĩa vụ hoặc đơn giản là không có thiện chí thực hiện nghĩa
vụ.
Vụ Ngân hàng Thương mại Cổ phần Đại Á kiện Công ty TNHH Sản xuất
Thương mại Hoành Tráng,147 Nguyên đơn khởi kiện ngày 29-11-2013 và
TAND quận 11 Thành phố Hồ Chí Minh xét xử vào ngày 22-9-2014, theo đó
Nguyên đơn yêu cầu Bị đơn phải thanh toán 689.400.000 đồng tiền nợ gốc và
195.346.153 đồng tiền nợ lãi. Bị đơn không có phản đối nào với các yêu cầu
khởi kiện nêu trên của Nguyên đơn mà chỉ nêu quan điểm “đang gặp khó
khăn không thể trả được nợ và đề nghị Tòa án giải quyết theo pháp luật.”
Vụ Công ty Cổ phần Thép và Thương mại Hà Nội kiện Công ty Cổ phần
Xây lắp Dầu khí Sài Gòn,148 Bị đơn thừa nhận toàn bộ khoản tiền mua cốt
145 Theo Bản án số: 36/2014/KDTM-ST ngày: 17-9-2014 của TAND quận 6, Thành phố Hồ Chí Minh. 146 Theo Bản án số: 03/2013/KDTM-ST ngày: 09-4-2013 của TAND quận 10, Thành phố Hồ Chí Minh. 147 Theo Bản án số: 33/2014/KDTM-ST ngày: 22-9-2014 của TAND quận 11, Thành phố Hồ Chí Minh. 148 Theo Bản án số: 19/2014/KDTM-ST ngày: 21-07-2014 của TAND quận 3, Thành phố Hồ Chí Minh.
86 thép bê tông và một số vật liệu khác nhưng “do khó khăn” nên chưa thanh
toán được tiền mua hàng.
Vụ Công ty Cổ phần Đầu tư - Xây dựng Đông Dương kiện Công ty TNHH
Xây dựng - Thương mại Đình Nguyễn,149 Nguyên đơn yêu cầu Bị đơn thanh
toán số tiền thuê giàn giáo và phụ kiện sử dụng tại công trình xây dựng còn
thiếu là 740.881.038 đồng và Bị đơn thừa nhận toàn bộ nghĩa vụ nhưng không
đưa ra bất kỳ lý do nào về việc không thực hiện nghĩa vụ của mình.
Vụ Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn kiện Công ty TNHH
Thắng Nam,150 thụ lý ngày 31-7-2013, Nguyên đơn khởi kiện yêu cầu Bị đơn
trả 3.750.000.000 đồng tiền gốc và 1.361.446.250 đồng tiền lãi. Bị đơn thừa
nhận toàn bộ các khoản nợ nêu trên nhưng do “điều kiện kinh tế khó khăn”
nên chưa thanh toán và đề nghị Nguyên đơn giảm lãi.
Qua thực tiễn xét xử các vụ án nêu trên, tác giả nhận thấy hoàn toàn có cơ
sở để xây dựng TTRG, dựa vào kết quả phân tích các vấn đề sau: (i) tính chất
đơn giản của vụ án qua việc đương sự thừa nhận nghĩa vụ có thể được xem
như là một tiêu chí để áp dụng TTRG; (ii) thành phần tham gia giải quyết các
vụ án này không cần thiết phải như hiện nay và hoàn toàn có thể gọn nhẹ
được hơn; và (iii) trình tự, thủ tục giải quyết các vụ án đó còn rườm rà, phức
tạp không cần thiết và có cơ sở để có thể rút gọn hơn trình tự, thủ tục này.
Những đánh giá và phân tích về những vấn đề này ở nội dung dưới đây sẽ
làm cơ sở để tác giả kiến nghị, định hướng xây dựng TTRG trong chương 3
Luận án.
(i)!Đánh giá về tính chất đơn giản của vụ án qua việc thừa nhận nghĩa vụ
Qua các vụ án về TCKDTM nêu trên, tính đơn giản được hiểu chính là sự
thật khách quan của vụ án đã rõ và Tòa án chỉ cần kiểm tra tính hợp pháp của 149 Theo Bản án số: 192/2014/KDTM-ST ngày: 10-9-2014 của TAND quận Tân Bình, Thành phố Hồ Chí Minh. 150 Theo Bản án số: 05/2014/KDTM-ST ngày: 23-01-2014 của TAND quận Bình Thạnh, Thành phố Hồ Chí Minh.
87 các yêu cầu khởi kiện. Việc bị đơn thừa nhận nghĩa vụ của mình có thể được
thể hiện trong chính hồ sơ kèm theo đơn khởi kiện của nguyên đơn, tại ý kiến
của bị đơn về việc thụ lý vụ án, hoặc trong quá trình giải quyết vụ án.
Trong các vụ án được trích dẫn ở trên, bị đơn thừa nhận hoàn toàn nghĩa
vụ theo đơn khởi kiện hoặc thừa nhận nghĩa vụ nợ nhưng còn tranh chấp về
lãi chậm trả, về cơ bản, Tòa án chỉ phải kiểm tra tính hợp pháp của yêu cầu
khởi kiện về phần lãi chậm trả, cụ thể là cách tính lãi có phù hợp với quy định
của pháp luật hay không. Khi nguyên đơn đã tính lãi phù hợp với các quy
định của pháp luật, trên thực tế Tòa án quyết định chấp nhận toàn bộ yêu cầu
khởi kiện của nguyên đơn. Tòa án chỉ điều chỉnh lãi trong trường hợp nguyên
đơn tính lãi chậm trả cao hơn so với quy định của pháp luật. Nói chung, trong
các vụ án mà bị đơn đã thừa nhận nghĩa vụ thì Tòa án chỉ cần kiểm tra sự thừa
nhận đó có vi phạm điều cấm hoặc trái đạo đức xã hội hay không để chấp
nhận sự thừa nhận của đương sự. Việc kiểm tra mang tính pháp lý này cũng
không có gì phức tạp.
(ii)! Đánh giá về thành phần tham gia giải quyết
Trong những vụ án nêu trên, Tòa án chỉ cần kiểm tra tính hợp pháp của
các yêu cầu khởi kiện. Hầu hết các vụ án thuộc loại này, cuối cùng Tòa án
cũng chỉ ra phán quyết chấp nhận toàn bộ hoặc cơ bản các yêu cầu khởi kiện
nhưng vẫn phải bảo đảm việc xét xử bởi một hội đồng xét xử tập thể gồm một
Thẩm phán và hai Hội thẩm nhân dân cùng với sự tham gia của đại diện Viện
kiểm sát.
Thực tế xét xử, có các vụ án đã có sự thừa nhận hoàn toàn nghĩa vụ từ
phía bị đơn, Tòa án đã gửi hồ sơ cho Viện kiểm sát nghiên cứu nhưng vì theo
quy định phải có Viện kiểm sát tham gia nên Tòa án chỉ có thể tiến hành
phiên tòa khi có mặt của Kiểm sát viên. Tuy nhiên, với tính chất của các vụ
án như vậy, những “đóng góp” của Viện kiểm sát trong các trường hợp này
dường như rất hạn chế. Ví dụ, trong vụ Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển
Nông thôn Việt Nam kiện Trần Thị Kim Hoa và Nguyễn Văn Thắng (đã viện
88 dẫn ở trên), ý kiến của Viện kiểm sát chỉ giới hạn như sau: “Qua kiểm sát
việc giải quyết vụ án từ khi thụ lý vụ án thấy rằng Thẩm phán đã thực hiện đúng nội dung quy định tại Điều 41 Bộ luật tố tụng dân sự trong quá trình
giải quyết vụ án về thẩm quyền thụ lý vụ án, xác định tư cách pháp lý và mối
quan hệ của những người tham gia tố tụng cũng như thời hạn gửi các văn bản tố tụng, hồ sơ cho Viện kiểm sát nghiên cứu.”
Như vậy, việc gửi hồ sơ cho Viện kiểm sát nghiên cứu và sự tham gia của
Viện kiểm sát tại phiên tòa cũng chỉ giới hạn ở việc kiểm tra tính hợp pháp
của các yêu cầu khởi kiện và của các trình tự, tố tụng chứ không có ý kiến gì
về nội dung và đề xuất về phương án giải quyết vụ án vì bị đơn đã thừa nhận
nghĩa vụ.
Tác giả cho rằng, đối với các vụ án này hoàn toàn có cơ sở để rút gọn
thành phần xét xử, chỉ cần một Thẩm phán giải quyết và hoàn toàn không cần
phải có sự tham gia của Viện kiểm sát tại phiên toà sơ thẩm. Điều này sẽ giúp
cho vụ án được giải quyết nhanh gọn, đỡ tốn kém hơn mà kết quả giải quyết
vụ án vẫn đúng pháp luật và đảm bảo công lý.
(iii)!Đánh giá về trình tự, thủ tục và thời hạn tố tụng
Thứ nhất, tại giai đoạn sơ thẩm.
-!Việc triệu tập đương sự lấy lời khai và tiến hành hòa giải
Tòa án phải mất khá nhiều thời gian để triệu tập được các đương sự đến
lấy lời khai và tiến hành hòa giải. Trong vụ Ngân hàng Thương mại Kỹ
thương Việt Nam kiện Công ty TNHH Đầu tư Xây dựng Thương mại Xuân Định,151 TAND quận 3 Thành phố Hồ Chí Minh thụ lý vụ án từ ngày 10-2-
2014 nhưng phải mất sáu tháng để tiến hành hòa giải, thu thập chứng cứ, lấy
lời khai. Tương tự, trong vụ Ngân hàng Thương mại Cổ phần Petrolimex kiện Ông Nguyễn Quốc Thanh – Chủ doanh nghiệp tư nhân thương mại Vạn
Phúc,152 thụ lý ngày 31-1-2013 và được TAND quận 2 Thành phố Hồ Chí
151 Theo Bản án số: 26 /2014/KDTM-ST ngày: 06-8-2014 của TAND quận 3, Thành phố Hồ Chí Minh. 152 Theo Bản án số: 01/2014/KDTM-ST ngày: 23-01-2014 của TAND quận 2, Thành phố Hồ Chí Minh.
89 Minh xét xử ngày 23-1-2014. Đúng gần một năm sau kể từ ngày thụ lý,
TAND quận 2 Thành phố Hồ Chí Minh mới thực hiện xong các công việc lấy
lời khai và hòa giải để quyết định đưa vụ án ra xét xử.
Đa số các trường hợp việc hòa giải đều không thành công mặc dù bị đơn
thừa nhận hoàn toàn yêu cầu của nguyên đơn nhưng các bên không thống nhất
được với nhau về phương thức thực hiện nghĩa vụ hoặc nguyên đơn không
chấp nhận các đề nghị của bị đơn về việc giảm bớt nghĩa vụ của bị đơn. Và
như vậy, việc triệu tập bị đơn đến lấy lời khai và hòa giải nhiều lần cũng chỉ
là những thủ tục mang tính hình thức.
-!Việc Tòa án phải triệu tập nhiều lần và hoãn phiên tòa khi bị đơn cố tình
vắng mặt
Trong nhiều trường hợp, bị đơn không thể phản đối các yêu cầu khởi kiện
của nguyên đơn nhưng cố tình trì hoãn việc xét xử bằng việc vắng mặt tại các
lần triệu tập và tại phiên tòa. Như trong vụ Ngân hàng Nông nghiệp và Phát
triển Nông thôn kiện Công ty TNHH Thắng Nam,153 thụ lý ngày 31-7-2013,
Tòa án phải mất sáu tháng kể từ ngày thụ lý để triệu tập Bị đơn đến hòa giải,
lấy lời khai và đến phiên tòa nhưng Bị đơn đều viện cớ vắng mặt nên Tòa án
phải hoãn phiên hòa giải, hoãn phiên tòa làm cho thời hạn giải quyết vụ án bị
kéo dài.
Như vậy, thực trạng giải quyết một số loại vụ án về TCKDTM, khi bị đơn
đã thừa nhận hoàn toàn nghĩa vụ nhưng vì nhiều lý do khác nhau bị đơn
không thực hiện nghĩa vụ mà Tòa án vẫn phải tiến hành các thủ tục tố tụng
theo quy định của pháp luật, vẫn phải bảo đảm việc hòa giải cho dù đa số
trường hợp mang tính hình thức, với vai trò và sự đóng góp không thực sự cần
thiết. Do đó, việc thực hiện các trình tự, thủ tục tố tụng chung và thời hạn giải
quyết các vụ án đó trên thực tế đều từ ít nhất là năm tháng trở lên, thậm chí có
vụ đến cả một năm, là những bất cập phổ biến của tố tụng hiện hành. 153 Theo Bản án số: 05/2014/KDTM-ST ngày: 23-01-2014 của TAND quận Bình Thạnh, Thành phố Hồ Chí Minh.
90
Thứ hai, đối với thủ tục phúc thẩm
Thực tiễn giải quyết các TCKDTM có chứng cứ rõ ràng hoặc bị đơn thừa
nhận nghĩa vụ, sau khi Tòa án cấp sơ thẩm ra bản án buộc thực hiện nghĩa vụ
thường bị đơn vẫn cứ thực hiện quyền kháng cáo. Tòa án cấp phúc thẩm vẫn
phải thụ lý vụ án để xét xử phúc thẩm và tiến hành các công việc chuẩn bị cho
việc xét xử phúc thẩm. Thông thường khoảng thời gian đó là vài tháng, nhưng
cuối cùng Tòa án cấp phúc thẩm chỉ ban hành quyết định đình chỉ việc xét xử
phúc thẩm vì bị đơn rút đơn kháng cáo hoặc quyết định giữ nguyên bản án sơ
thẩm.
Trong vụ Ngân hàng TMCP Công thương Việt Nam kiện Công ty TNHH
Hoàng Minh,154 Tòa án cấp sơ thẩm đã quyết định chấp nhận các yêu cầu khởi
kiện của Nguyên đơn và buộc Bị đơn phải trả cho Nguyên đơn tổng số tiền là
17.433.467.919 đồng. Bị đơn đã kháng cáo. Sau gần ba tháng chuẩn bị xét xử
phúc thẩm, tại phiên tòa phúc thẩm ngày 30-9-2014, Bị đơn rút kháng cáo và
Tòa án cấp phúc thẩm ra quyết định đình chỉ xét xử phúc thẩm.
Trong vụ Công ty TNHH nhựa đường Chevron Việt Nam kiện Công ty
đường bộ 230,155 về tranh chấp hợp đồng mua bán hàng hóa mà theo đó Bị
đơn cũng thừa nhận toàn bộ nghĩa vụ nhưng vẫn kháng cáo phán quyết của
Tòa án cấp sơ thẩm. Sau 5 tháng chuẩn bị xét xử phúc thẩm, Bị đơn rút đơn
kháng cáo và TAND thành phố Hà Nội ra quyết định đình chỉ xét xử phúc
thẩm vào tháng 11-2012. Trong vụ Công ty cổ phần sản xuất lưới thép rọ đá
Việt Nam kiện Công ty cổ phần đầu tư xây dựng và xuất nhập khẩu Cảnh
Viên,156 với các chứng cứ rõ ràng, Tòa án cấp sơ thẩm đã chấp nhận yêu cầu
khởi kiện của Nguyên đơn nhưng Bị đơn vẫn kháng cáo. Sau hơn ba tháng
chuẩn bị xét xử phúc thẩm, vào tháng 1-2013 TAND thành phố Hà Nội đã ra
quyết định đình chỉ xét xử phúc thẩm vì Bị đơn rút đơn kháng cáo.
154 Theo Bản án số: 01/2014/KDTM-ST ngày 03-7-2014 của TAND thành phố Lai Châu, tỉnh Lai Châu. 155 Theo Bản án số: 01/2012/KDTM-ST ngày 26-6-2012 của TAND quận Gia Lâm, thành phố Hà Nội. 156 Theo Bản án số: 06/2012/KDTM-ST ngày 28-9-2012 của TAND quận Cầu Giấy, thành phố Hà Nội.
91
Tương tự, hàng loạt các vụ án về TCKDTM khác bị đơn thừa nhận nghĩa
vụ hoặc chứng cứ rõ ràng mà bị đơn “cố tình” kháng cáo nhưng sau đó rút
kháng cáo dẫn đến hệ quả đương nhiên là Tòa án cấp phúc thẩm ra quyết định
đình chỉ việc xét xử phúc thẩm sau thời hạn chuẩn bị xét xử phúc thẩm khá
dài, như vụ Công ty cổ phần kỹ thuật và thiết bị y tế Sài Gòn kiện Công ty cổ
phần thương mại và kỹ thuật Việt Nam157 (sau hai tháng chuẩn bị xét xử phúc
thẩm)...
Tóm lại, từ thực trạng nêu trên cho thấy đối với TCKDTM mà tính chất
đơn giản và bị đơn thừa nhận hoàn toàn nghĩa vụ, thực tế giải quyết tranh
chấp ở Tòa án cấp sơ thẩm vẫn phải tiến hành toàn bộ các trình tự, thủ tục tố
tụng theo quy định của pháp luật, kể cả việc hòa giải và có lẽ để làm điều đó
nên thời hạn giải quyết các tranh chấp đó ở cấp sơ thẩm không dưới bốn tháng
- thời hạn đã gia hạn tối đa mà pháp luật quy định giải quyết vụ án về
TCKDTM nói chung.
Các vụ án cụ thể dẫn chiếu ở trên cũng cho thấy rốt cuộc Tòa án cấp sơ
thẩm cũng sẽ đưa ra phán quyết chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của
nguyên đơn vì bị đơn đã thừa nhận hoàn toàn nghĩa vụ của mình. Việc duy
nhất Tòa án cấp sơ thẩm phải làm là kiểm tra tính hợp pháp của yêu cầu khởi
kiện - điều mà tác giả cho rằng không cần hơn năm tháng để giải quyết như
thực tế cho thấy (đã được tác giả phân tích ở trên). Vì vậy, rõ ràng rằng, với
thủ tục tố tụng hiện hành là không phù hợp đối với việc giải quyết các
TCKDTM mà bị đơn thừa nhận hoàn toàn các nghĩa vụ của mình. Đây là bất
cập lớn cần được giải quyết.
Ngoài ra, trình tự, thủ tục kháng cáo, kháng nghị, xét xử phúc thẩm các
bản án sơ thẩm giải quyết TCKDTM mà bị đơn thừa nhận toàn bộ các nghĩa
vụ cũng cho thấy còn tồn tại lớn trong thực tiễn xét xử vì Tòa án cấp phúc
thẩm về cơ bản cuối cùng vẫn giữ nguyên bản án sơ thẩm hoặc ra quyết định
đình chỉ việc xét xử phúc thẩm (trong trường hợp bị đơn rút kháng cáo), thời 157 Theo Bản án [không đề số] ngày 30-1-2013 của TAND quận Đông Anh, thành phố Hà Nội.
92 hạn để thực hiện việc đó là ba hoặc bốn tháng hoặc hơn thế là điều không cần
thiết. Cũng không cần thiết để cần một Hội đồng xét xử gồm ba Thẩm phán
thực hiện một công việc không phức tạp như vậy.
2.2.2.!Đối với tranh chấp đơn giản, giá ngạch thấp và chứng cứ rõ ràng
Trong quá trình nghiên cứu Luận án, tác giả đã cố gắng tìm hiểu những vụ
án về TCKDTM có giá ngạch dưới 100.000.000 đồng - ngưỡng của các Dự
thảo BLTTDSSĐ trước đây đã đưa ra áp dụng cho TTRG mà theo đó chứng
cứ đã rõ ràng và nội dung tranh chấp đơn giản để xem xét và đánh giá thực
trạng giải quyết các tranh chấp này hiện nay tại Tòa án như thế nào. Tuy
nhiên, không có nhiều vụ án về TCKDTM có giá trị dưới 100.000.000 đồng
hoặc ở ngưỡng xung quanh 100.000.000 đồng.
Dựa vào một số vụ án có giá ngạch ở ngưỡng nêu trên đã thu thập được,
tác giả cũng có chung một nhận xét tương tự như đối với những vụ án về
TCKDTM mà bị đơn thừa nhận hoàn toàn nghĩa vụ của mình, như đã phân
tích ở phần trên của Luận án, Tòa án vẫn phải tiến hành tất cả các trình tự, thủ
tục tố tụng áp dụng chung và thời hạn giải quyết các vụ án đó đều ở mức từ
trên năm tháng ở cấp sơ thẩm và trên bốn tháng ở cấp phúc thẩm.
Tương tự về các vụ án mà đương sự thừa nhận nghĩa vụ, dưới đây là nội
dung đánh giá, phân tích các vụ án đơn giản, giá ngạch thấp và chứng cứ rõ
ràng về (i) cách xác định tính chất đơn giản, giá ngạch thấp và chứng cứ rõ
ràng như là một tiêu chí để có thể áp dụng TTRG; (ii) thành phần tham gia
giải quyết các vụ án này; và (iii) trình tự, thủ tục giải quyết các vụ án đó có
rườm rà, phức tạp không cần thiết hay không.
Những nội dung phân tích này làm cơ sở để tác giả kiến nghị, định hướng
xây dựng TTRG trong Chương 3 Luận án.
(i)!Đánh giá về tính chất đơn giản, giá ngạch thấp và chứng cứ rõ ràng
Thứ nhất, về tính chất đơn giản của vụ án
Theo tác giả, ngoài việc xác định một tranh chấp có đơn giản hay không
93 phụ thuộc vào việc đánh giá mức độ phức tạp của việc áp dụng pháp luật, hệ
quả pháp lý của việc áp dụng pháp luật hoặc tác động của việc giải quyết
tranh chấp đó đối với đương sự của vụ án còn có yếu tố đơn giản trong việc
xác định sự thật khách quan của vụ án.
Trong vụ Phạm Văn Quang kiện Ngân hàng TMCP Ngoại thương Việt
Nam158 ra TAND quận 1 Thành phố Hồ Chí Minh, Nguyên đơn đã yêu cầu Bị
đơn trả lại số tiền rất nhỏ là 5.500 đồng phí ATM. Mặc dù đây là vụ án về
TCDS nhưng tác giả nêu tại đây để minh chứng về kết quả giải quyết tranh
chấp có thể có tác động vượt quá phạm vi của vụ án. Theo nội dung vụ kiện:
ngày 3-4-2013, Nguyên đơn đến trụ ATM của VCB đặt ở Quang Trung (Gò
Vấp) để rút 15.000.000 đồng. Mọi lần Nguyên đơn chỉ cần giao dịch ba lần
(mỗi lần được rút 5.000.000 đồng) và chỉ mất phí rút tiền là 3.300 đồng (bao
gồm 10% VAT). Tuy nhiên, thời điểm đó trụ ATM ở đây chỉ còn tiền mệnh
giá 50.000 đồng nên Nguyên đơn phải rút đến tám lần, mỗi lần 1.750.000
đồng và phải chịu phí rút tiền là 8.800 đồng. Như vậy, so với mọi lần, Bị đơn
đã mất thêm 5.500 đồng và vì cho rằng đây là hành vi lừa dối khách hàng để
thu lợi thêm nên Nguyên đơn khởi kiện. Sau gần một năm thụ lý, ngày 23-1-
2014 TAND quận 1 Thành phố Hồ Chí Minh đưa vụ án ra xét xử sơ thẩm bác
yêu cầu của Nguyên đơn đòi Bị đơn trả lại 5.500 đồng phí ATM.
Về vụ án trên có hai quan điểm như sau: quan điểm thứ nhất cho rằng,
trong bối cảnh phát triển kinh tế và với trình độ, năng lực của Thẩm phán hiện
tại, việc bỏ công sức và nguồn lực để thực hiện toàn bộ các thủ tục tố tụng
trong một khoảng thời gian dài như vậy đối với một vụ án đã rõ ràng, và đặc
biệt giá ngạch thấp như đã nêu là một bất cập lớn của thủ tục tố tụng hiện
hành. Quan điểm thứ hai cho rằng vụ kiện này tuy có giá trị nhỏ nhưng có thể
để lại hậu quả lớn với doanh nghiệp vì doanh nghiệp sẽ phải thanh toán hay
bồi thường cho một loạt khách hàng trong những vụ kiện tương tự (nếu có) và
do đó, việc Tòa án vẫn phải áp dụng theo thủ tục thông thường giải quyết và
thời gian giải quyết vụ án bị kéo dài là điều bình thường. 158 Theo Bản án số: 04/2014/DS-ST ngày: 23-01-2014 của TAND quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh.
94
Tác giả cho rằng, trong các tranh chấp có bản chất nêu trên Tòa án cần
phải cân nhắc ý kiến của các đương sự để quyết định liệu tranh chấp đó có
đơn giản hay không, từ đó xác định một thủ tục tố tụng phù hợp áp dụng
nhằm bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự.
Trong một số trường hợp, một TCKDTM có thể được coi là không phức
tạp về mặt chứng cứ nhưng có khó khăn trong việc áp dụng pháp luật nên cần
thiết phải được xem xét một cách thận trọng. Ngoài ra, cũng có những trường
hợp mà giá trị tranh chấp không lớn nhưng kết quả giải quyết tranh chấp có
thể ảnh hưởng đến uy tín, danh dự của doanh nhân, thương hiệu của doanh
nghiệp hoặc hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp đòi hỏi phải xem xét kỹ
lưỡng và thận trọng.
Ví dụ, trong vụ Ngô Lê Anh Chi kiện Công ty TNHH MTV Kem và
H.Hai.O,159 Nguyên đơn khởi kiện yêu cầu Bị đơn trả lại 3.000 USD tiền đặt
cọc để bảo đảm việc thực hiện hợp đồng với Nguyên đơn, theo đó bị đơn có
trách nhiệm giao mặt bằng kinh doanh cho Nguyên đơn kinh doanh một mặt
hàng của Nguyên đơn và hai bên chia đôi lợi nhuận. Do Nguyên đơn không
được tiếp tục thuê mặt bằng đó với bên thứ ba nên Nguyên đơn không có mặt
bằng kinh doanh theo hợp đồng và Nguyên đơn khởi kiện yêu cầu Bị đơn trả
lại tiền đặt cọc. Tòa án cấp sơ thẩm chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Nguyên
đơn với lý do Bị đơn vi phạm nghĩa vụ. Mặc dù vụ án này Tòa án cấp phúc
thẩm giữ nguyên bản án sơ thẩm nhưng với lý do khác: giao dịch giữa
Nguyên đơn và Bị đơn bằng ngoại tệ nên bị coi là vô hiệu và do đó các bên
phải hoàn trả lại nhau những gì đã nhận (Bị đơn phải trả lại Nguyên đơn tiền
đặt cọc đã nhận của Nguyên đơn). Trong vụ án này, việc đặt cọc bằng ngoại
tệ có bị coi là vi phạm hay không là vấn đề pháp lý còn có các quan điểm
khác nhau dẫn đến nhận định khác nhau giữa Tòa án cấp sơ thẩm và Tòa án
cấp phúc thẩm. 159 Theo Bản án số: 76/2013/KDTM-ST ngày: 28-8-2013 của TAND quận 7, Thành phố Hồ Chí Minh và Bản án số: 445/2014/KDTM-PT ngày: 01-4-2014 của TAND Thành phố Hồ Chí Minh.
95
Thứ hai, về xác định giá ngạch thấp, qua thực tế tìm kiếm các bản án về TCKDTM có giá ngạch trên dưới 100.000.000 đồng, tác giả thấy có rất ít các vụ án về TCKDTM có giá trị dưới 100.000.000 đồng được đưa ra Tòa án giải
quyết. Lý giải điều này xét từ khía cạnh kinh tế luật như đã đề cập ở Chương 1 của Luận án thì các doanh nghiệp hầu như ít khi khởi kiện các tranh chấp đó ra Tòa án, bởi lẽ họ cân nhắc chi phí và thời gian phải bỏ ra để theo đuổi vụ
kiện với kết quả đạt được và chi phí cơ hội có thể bị mất nếu theo đuổi vụ kiện.160
Do đó, xác định giá trị TCKDTM làm cơ sở cho việc áp dụng thủ tục tố
tụng phù hợp cần phải dựa trên thực tiễn kinh doanh và quan điểm của các doanh nghiệp. Ngoài ra, việc xác định giá ngạch thấp còn phụ thuộc vào một số yếu tố khác như: tính chất, quy mô của giao dịch và đối tượng tham gia
giao dịch, ví dụ: có thể khoản vay 100.000.000 đồng trong hợp đồng tín dụng giữa một cá nhân và tổ chức tín dụng là lớn đối với cá nhân nhưng lại là nhỏ giữa một doanh nghiệp với tổ chức tín dụng...
Thứ ba, về việc xác định chứng cứ rõ ràng, tác giả cho rằng đây là vấn đề
phụ thuộc vào từng vụ án cụ thể và theo cách đánh giá chủ quan của Thẩm phán dựa trên các tài liệu, chứng cứ mà đương sự xuất trình cho Tòa án.
Tóm lại, từ đánh giá thực tiễn xét xử thông qua một số vụ án cụ thể nêu
trên cho thấy ở nước ta không thể chỉ dựa vào giá ngạch thấp để xác định vụ án đó đơn giản và có thể được giải quyết theo TTRG như nhiều nước trên thế giới như tác giả đã phân tích ở Chương 1 mà còn phải dựa vào tính chất của
từng vụ án, ví dụ: liệu kết quả giải quyết có ảnh hưởng danh tiếng, uy tín kinh doanh hoặc có hệ quả về tài sản, kinh tế, vật chất khác đối với đương sự, mức độ phức tạp về mặt pháp lý liên quan đến tranh chấp v.v.
(ii)! Đánh giá về thành phần tham gia giải quyết tranh chấp
Về thành phần tham gia giải quyết các TCKDTM, một khi đã xác định 160 Nhiều nhà doanh nghiệp thể hiện quan điểm về việc một trong những yếu tố quan trọng nhất họ cân nhắc khi quyết định có khởi kiện hay không là “số tiền thu về không xứng đáng với thời gian và công sức bỏ ra để theo đuổi vụ kiện”. Xem: Ngô Ngọc Trai (2015), “Tố tụng chậm trễ tác hại cho nền kinh tế”, Tạp chí Luật sư, (07), tr.30.
96 được tranh chấp đó là đơn giản về việc áp dụng pháp luật, chứng cứ rõ ràng
thì không cần thiết phải cần một Hội đồng xét xử tập thể để quyết định sự thật
khách quan của vụ án và áp dụng pháp luật giải quyết tranh chấp này. Ngoài
ra, xuất phát từ bản chất đơn giản của tranh chấp nên cũng không cần thiết
phải có sự tham gia của Viện kiểm sát.
Như trong vụ Công ty TNHH quản lý và kinh doanh bất động sản Phố
Cảnh kiện Công ty TNHH Dịch vụ bảo vệ Thanh niên xung phong,161 khởi
kiện ngày 20-10-2012, Nguyên đơn khởi kiện yêu cầu Bị đơn phải bồi hoàn
cho Nguyên đơn số tiền 98.000.000 đồng là giá trị chiếc xe máy bị mất tại bãi
gửi xe của Nguyên đơn do Bị đơn đảm nhiệm việc trông giữ theo hợp đồng
với Nguyên đơn mà Nguyên đơn đã bồi thường cho người gửi xe.
Bị đơn cho rằng Nguyên đơn cũng phải chịu trách nhiệm về việc mất mát
này vì vào thời điểm bị mất xe, cũng có nhân viên an ninh bảo vệ của Nguyên
đơn đang làm việc. Bị đơn cũng cho rằng hợp đồng giữa Nguyên đơn và Bị
đơn không quy định về nghĩa vụ của Bị đơn phải trông giữ xe máy (hợp đồng
đó quy định Bị đơn có trách nhiệm bảo vệ tài sản cho Nguyên đơn tại bãi xe).
Như vậy, trong vụ án này, tất cả các tình tiết khách quan của vụ án đã rõ
ràng. Tòa án chỉ cần nhận định và đưa ra phán xét về trách nhiệm của Bị đơn
dựa theo hợp đồng và các quy định của pháp luật. Tuy nhiên, mãi đến ngày 7-
3-2013 Tòa án mới mở phiên tòa xét xử và quyết định chấp nhận yêu cầu khởi
kiện của Nguyên đơn chỉ dựa trên lập luận rằng (i) trách nhiệm của Bị đơn về
việc bảo vệ tài sản có nghĩa bao gồm cả nghĩa vụ trông giữ xe máy; và (ii)
việc nhân viên bảo vệ của Nguyên đơn không có nghĩa vụ bảo vệ tài sản đã
được giao cho Bị đơn trông giữ theo hợp đồng.
Từ những phân tích trên rõ ràng cho thấy trong vụ án này không cần thiết
phải mất nhiều thời gian và cần cả một Hội đồng xét xử chỉ để ghi nhận trách
nhiệm của Bị đơn theo thỏa thuận trong hợp đồng. Sự có mặt của Viện kiểm
sát tại phiên tòa trong trường hợp này cũng chỉ mang tính hình thức. 161 Theo Bản án số: 14/2013/KDTM-ST ngày: 7-3-2013 của TAND quận 7, Thành phố Hồ Chí Minh.
97
(iii)!Đánh giá về trình tự, thủ tục và thời hạn giải quyết
Trong các vụ án đơn giản, giá ngạch thấp, chứng cứ rõ ràng, mặc dù về
bản chất các đương sự vẫn còn có tranh chấp nội dung khởi kiện nhưng trên
thực tế hồ sơ đã đầy đủ chứng cứ để có thể xác định được sự thật khách quan
của vụ án và giải quyết được tranh chấp mà không cần thiết phải triệu tập
đương sự đến lấy lời khai hoặc tổ chức các buổi hòa giải trong quá trình
chuẩn bị xét xử. Trong vụ Công ty CP SX-TM-XNK Hoàng Việt kiện Nguyễn
Trúc Phương - Chủ sở hữu Công ty TNHH MTV TM-DV,162 thụ lý ngày 21-
11-2011, Nguyên đơn đòi lại tiền đặt cọc 100.000.000 đồng để đảm bảo việc
ký kết hợp đồng sang nhượng nhà hàng tại 46 Trần Huy Liệu, Thành phố Hồ
Chí Minh từ Bị đơn. Tuy nhiên, việc ký kết hợp đồng sang nhượng nhà hàng
không được thực hiện vì Nguyên đơn không có mặt tại Phòng Công chứng và
cho rằng chưa có sự đồng ý của chủ căn nhà 46 Trần Huy Liệu về việc cho
phép Bị đơn cho thuê lại địa điểm nhà hàng tại 46 Trần Huy Liệu mà Bị đơn
đang thuê của chủ nhà.
Trong hồ sơ vụ án này có văn bản của chủ nhà được lập sau khi đặt cọc và
trước khi Nguyên đơn và Bị đơn dự kiến ký kết hợp đồng sang nhượng, theo
đó, chủ nhà đồng ý cho Bị đơn cho thuê lại địa điểm kinh doanh nhà hàng tại
46 Trần Huy Liệu. Như vậy, mấu chốt của tranh chấp chính là có sự đồng ý
của bên cho thuê về việc cho phép bên thuê cho thuê lại và vấn đề này đã
được xác định bởi chứng cứ bằng văn bản có trong hồ sơ. Tuy nhiên, Tòa án
vẫn phải triệu tập các bên đương sự đến Tòa án lấy lời khai và để hòa giải
nhiều lần trong khoảng thời gian sáu tháng. Ngày 25-5-2012 Tòa án quyết
định bác đơn yêu cầu đòi tiền đặt cọc của Nguyên đơn vì lý do Nguyên đơn
có lỗi không giao kết hợp đồng khi Bị đơn đã có sự chấp thuận về việc cho
thuê lại và sẵn sàng giao kết hợp đồng.
Tác giả cho rằng, có thể bỏ qua thủ tục triệu tập đương sự để lấy lời khai
và tiến hành hòa giải trong quá trình chuẩn bị xét xử. Tòa án hoàn toàn có thể
kiểm tra các chứng cứ rõ ràng đó và tiến hành hòa giải ngay tại phiên tòa. 162 Theo Bản án [không đề số]/KDTM-ST ngày: 25-05-2012 của TAND Thành phố Hồ Chí Minh.
98
Thứ hai, đối với thủ tục phúc thẩm
Đối với những vụ án về TCKDTM mặc dù có giá ngạch thấp, nội dung
tranh chấp đơn giản hay phức tạp, chứng cứ có rõ ràng hay không thì ở giai
đoạn phúc thẩm Tòa án vẫn tiến hành các thủ tục tố tụng chung với thời hạn
chuẩn bị xét xử phúc thẩm về cơ bản là như đối với các vụ án về TCKDTM
có giá ngạch cao, nội dung tranh chấp phức tạp… Trong vụ Ngô Lê Anh Chi
kiện Công ty TNHH MTV Kem và H.Hai.O nêu trên, thời gian chuẩn bị xét xử
phúc thẩm cũng gần bốn tháng (thụ lý phúc thẩm ngày 12-12-2013 và xử
phúc thẩm ngày 1-4-2014) trong khi mấu chốt vụ án chỉ là việc đặt cọc bằng
ngoại tệ có bị coi là vô hiệu hay không. Tương tự, trong vụ Công ty CP SX-
TM-XNK Hoàng Việt kiện Nguyễn Trúc Phương - Chủ sở hữu Công ty TNHH
MTV TM-DV đã được dẫn chiếu ở trên, thời hạn chuẩn bị xét xử phúc thẩm là
trên sáu tháng (thụ lý phúc thẩm ngày 21-11-2011 và ngày mở phiên tòa xét
xử phúc thẩm là 25-5-2012) trong khi hồ sơ vụ án đã rõ ràng về chứng cứ.
Tuy nhiên, cũng có nhiều trường hợp thời gian chuẩn bị xét xử ở cấp phúc
thẩm khoảng hai tháng. Trong vụ Công ty TNHH quản lý và kinh doanh bất
động sản Phố Cảnh kiện Công ty TNHH Dịch vụ bảo vệ Thanh niên xung
phong, với nội dung tranh chấp đơn giản và chứng cứ rõ ràng như đã phân
tích ở trên, Tòa án cấp phúc thẩm thụ lý ngày 2-5-2013 nhưng chỉ khoảng một
tháng sau đó vào ngày 10-6-2013 đã ra quyết định đưa vụ án ra xét xử, và
phiên tòa phúc thẩm đã diễn ra vào ngày 19-7-2013, sau hai tháng kể từ ngày
thụ lý phúc thẩm vụ án. Điều đó chứng tỏ, Tòa án cấp phúc thẩm hoàn toàn có
thể chỉ cần một tháng để chuẩn bị cho việc xét xử phúc thẩm đối với một số
tranh chấp đơn giản, chứng cứ rõ ràng và các vấn đề cần xem xét ở cấp phúc
thẩm cũng không phức tạp…
Như vậy, trên thực tế việc giải quyết một số loại TCKDTM ở cả cấp sơ
thẩm và phúc thẩm không cần thiết phải mất nhiều thời gian như trên. Một số
trình tự, thủ tục tố tụng hiện nay hoàn toàn có thể được giản lược hoặc không
áp dụng mà vẫn bảo đảm việc giải quyết các TCKDTM đúng pháp luật.
99 2.2.3. Đối với tranh chấp đơn giản, chứng cứ rõ ràng nhưng giá ngạch lớn
Trên thực tế có khá nhiều tranh chấp giá trị lớn nhưng tính chất của tranh
chấp đơn giản về mặt áp dụng pháp luật và chứng cứ rõ ràng để xác định sự
thật khách quan của vụ án. Dựa vào một số vụ án có tính chất nêu trên đã thu
thập được, tác giả cũng có chung một nhận xét tương tự như đối với những vụ
án về TCKDTM mà bị đơn thừa nhận hoàn toàn nghĩa vụ của mình theo đơn
khởi kiện của nguyên đơn, hoặc có tính chất đơn giản, chứng cứ rõ ràng như
đã phân tích ở phần trên của Luận án, Tòa án vẫn phải tiến hành tất cả các
trình tự, thủ tục tố tụng áp dụng chung và thời hạn giải quyết các vụ án đó đều
ở mức từ trên năm tháng ở cấp sơ thẩm và trên bốn tháng ở cấp phúc thẩm.
Tương tự như phần đề cập về các vụ án mà đương sự thừa nhận nghĩa vụ,
sau đâu tác giả sẽ đánh giá, phân tích các vụ án đơn giản, giá ngạch thấp và
chứng cứ rõ ràng về (i) cách xác định tính chất đơn giản và chứng cứ rõ ràng
như là một tiêu chí để có thể áp dụng TTRG; (ii) thành phần tham gia giải
quyết các vụ án đó có cần thiết phải như hiện nay và có thể gọn nhẹ được hơn
hay không; và (iii) trình tự, thủ tục giải quyết các vụ án đó có rườm rà, phức
tạp không cần thiết hay không.
Những đánh giá và phân tích về những vấn đề nêu trên được trình bày
dưới đây sẽ làm cơ sở kiến nghị xây dựng TTRG trong Chương 3 Luận án.
(i)!Đánh giá về tính chất đơn giản, giá ngạch thấp và chứng cứ rõ ràng
Trong vụ án kinh doanh thương mại thụ lý số 179/2012/TLST-KDTM ngày
27-11-2012,163 Nguyên đơn là Ngân hàng Thương mại Cổ phần Sài Gòn đã
khởi kiện Bị đơn là Công ty TNHH Lắp ráp điện tử Thương mại Kỹ thuật Sáng
Tạo ra TAND quận 3 Thành phố Hồ Chí Minh để yêu cầu Bị đơn thanh toán số
tiền lãi 2.628.614.536 đồng (gồm lãi trong hạn và lãi quá hạn) phát sinh liên
quan đến Hợp đồng tín dụng số 140.0607.11-B với số tiền vay vốn là 4,8 tỷ
đồng giữa Nguyên đơn và Bị đơn vào ngày 02-3-2011. Liên quan đến yêu cầu 163 Theo Bản án sơ thẩm số 10/2014/KDTM-ST của Tòa án nhân dân quận 3 - Thành phố Hồ Chí Minh ngày 22-4-2014.
100 này, Bị đơn phản đối yêu cầu thanh toán lãi của Nguyên đơn vì cho rằng
Nguyên đơn không được tính lãi quá hạn đối với Bị đơn và đồng thời, Bị Đơn
cũng đề nghị Nguyên đơn điều chỉnh lại lãi suất cho phù hợp với lãi suất trung
bình trên thị trường. Ngày 22-4-2014, Tòa án nhân dân quận 3 - Thành phố Hồ
Chí Minh đã ra bản án sơ thẩm, trong đó, Tòa chấp nhận toàn bộ yêu cầu của
Nguyên đơn và bác phản đối của Bị đơn.
Trong vụ án kinh doanh thương mại thụ lý số 180/2013/TLST-KDTM ngày
27-11-2012,164 Nguyên đơn là Ngân hàng Thương mại Cổ phần An Bình đã
khởi kiện Bị đơn là Công ty cổ phần Đầu tư - Xây dựng - Thiết bị dầu khí Chí
Thép ra TAND quận Tân Bình Thành phố Hồ Chí Minh để yêu cầu Bị đơn
thanh toán tổng số tiền là 16.867.003.737 đồng, trong đó nợ gốc là
12.295.250.395 đồng, lãi trong hạn là 411.794.924 đồng và lãi quá hạn là
4.159.958.418 đồng phát sinh liên quan đến Hợp đồng cấp hạn mức số
1487/11/TD/I.18 với hạn mức tín dụng là 12,3 tỷ đồng giữa Nguyên đơn và Bị
đơn vào ngày 02 -12-2011. Liên quan đến yêu cầu này, Bị đơn đồng ý trả
khoản gốc nhưng phản đối yêu cầu thanh toán lãi quá hạn vì Bị Đơn cho rằng
Nguyên đơn đã tính lãi suất quá cao so với quy định. Ngày 30-7-2014, TAND
quận Tân Bình Thành phố Hồ Chí Minh đã ra bản án sơ thẩm, trong đó, Tòa
chấp nhận toàn bộ yêu cầu của Nguyên đơn và bác phản đối về lãi quá hạn của
Bị đơn.
Trong mỗi vụ án nêu trên, giữa Nguyên đơn và Bị đơn có hợp đồng tín dụng
cụ thể, rõ ràng và các khoản vay đã được giải ngân. Do đó, Bị đơn khó có thể
chối cãi trách nhiệm đối với các khoản nợ của mình đối với Nguyên đơn. Vấn
đề còn lại của tranh chấp chỉ còn ở chỗ xác định lãi suất cho phù hợp theo quy
định của pháp luật. Vấn đề pháp lý trong trường hợp này, theo tác giả, không
phức tạp. Do đó, tính chất của vụ án là đơn giản về mặt pháp lý và chứng cứ rõ
ràng. Tuy nhiên, việc xác định tính chất đơn giản và chứng cứ rõ ràng của vụ 164 Theo Bản án sơ thẩm số 140/2014/KDTM-ST của Tòa án nhân dân quận Tân Bình - Thành phố Hồ Chí Minh ngày 30-7-2014.
101 án là hoàn toàn phụ thuộc vào vấn đề tranh chấp còn tồn tại giữa các bên, quan
hệ pháp lý của tranh chấp và nhận thức chủ quan của Tòa án.
Vì vậy, cũng tương tự như các tranh chấp đơn giản, giá ngạch thấp và chứng
cứ rõ ràng, các đương sự cần có được cơ hội để cho ý kiến về việc áp dụng thủ
tục tố tụng phù hợp (thủ tục tố tụng thông thường hay TTRG). Tuy nhiên, vì
đây là các tranh chấp có giá trị lớn và việc quyết định áp dụng thủ tục tố tụng
nào sẽ có thể ảnh hưởng đến kết quả giải quyết của vụ án và vì án phí của các
vụ án cũng không nhỏ, cho nên, tác giả thiết nghĩ, chỉ nên áp dụng TTRG để
giảm thiểu chi phí tố tụng khi có yêu cầu hoặc sự đồng ý của các đương sự của
vụ án.
(ii)! Đánh giá về thành phần tham gia giải quyết tranh chấp
Trong trường hợp có sự đồng thuận của các đương sự về tính chất đơn giản,
chứng cứ rõ ràng của vụ án và Tòa án cũng xét thấy như vậy, theo tác giả, cũng
không cần thiết một tập thể Hội đồng xét xử để đánh giá sự thật khách quan
của vụ án và việc áp dụng pháp luật để giải quyết tranh chấp.
Ngoài ra, cũng không cần thiết phải có sự tham gia của Viện kiểm sát tại
phiên tòa sơ thẩm xét xử vụ án này cũng như phiên toà phúc thẩm nếu không
phải do Viện kiểm sát kháng nghị. Bởi lẽ, khó có khả năng có sự vi phạm pháp
luật trong việc giải quyết các tranh chấp đơn giản và chứng cứ đã rõ ràng.
(iii)! Đánh giá về trình tự, thủ tục và thời hạn giải quyết tranh chấp
Về trình tự, thủ tục và thời hạn giải quyết các tranh chấp loại này, về bản
chất không có gì khác biệt so với các tranh chấp đơn giản, chứng cứ rõ ràng
và giá ngạch thấp như đã phân tích ở điểm (iii) của tiểu mục 2.2.2. Giá ngạch
thấp hay lớn trong các vụ án đơn giản, chứng cứ rõ ràng không ảnh hưởng
đến việc quyết định về trình tự, thủ tục và thời hạn giải quyết tranh chấp.
102
KẾT LUẬN CHƯƠNG 2
Thông qua việc đánh giá thực trạng pháp luật TTDS và thực tiễn giải
quyết TCKDTM tại Tòa án làm cơ sở xây dựng TTRG, tác giả đưa ra một số
kết luận như sau.
Một là, các quy định của pháp luật tố tụng hiện hành và việc áp dụng các
quy định đó cho thấy:
Thứ nhất, các quy định về đơn khởi kiện, các tài liệu kèm theo đơn khởi
kiện, việc xem xét và quyết định thụ lý vụ án còn chưa rõ ràng làm cho việc
xem xét đơn khởi kiện của nhiều trường hợp không thực hiện được trong thời
hạn năm ngày làm việc như pháp luật quy định. Chính vì vậy, trên thực tế, ít
trường hợp Tòa án tuân thủ được thời hạn xem xét đơn khởi kiện này. Bên
cạnh đó, pháp luật hiện hành cũng không có cơ chế kiểm soát việc trì hoãn
thời hạn xem xét đơn khởi kiện. Đây là vấn đề cần phải giải quyết để bảo đảm
tính khả thi của các quy định về thời hạn theo thủ tục tố tụng thông thường
giải quyết tranh chấp, và đặc biệt trong trường hợp áp dụng TTRG.
Thứ hai, các quy định về cấp, tống đạt, thông báo văn bản tố tụng hiện
hành còn nhiều bất cập làm cho thời hạn thực hiện các hoạt động tố tụng này
bị chậm chễ. Các quy định hiện nay chưa cho phép thực hiện việc tống đạt,
thông báo văn bản tố tụng thông qua các hình thức tin cậy và đơn giản hơn
nhiều, ví dụ thông qua thư điện tử.
Thứ ba, các quy định về lấy lời khai của đương sự được hiểu trên thực tế
theo hướng nếu đương sự chưa có bản khai thì Tòa án triệu tập đương sự để
lấy lời khai mới có thể đưa vụ án ra xét xử. Quy định đó cũng có nghĩa để có
bản khai Tòa án phải triệu tập đương sự đến Tòa án để đề nghị họ làm bản
khai. Như vậy, trên thực tế vụ án nào Tòa án cũng đều triệu tập đương sự,
trong khi đó có những vụ án mà tranh chấp đơn giản, giá trị thấp, chứng cứ rõ
ràng, việc triệu tập đương sự để lấy lời khai tại giai đoạn chuẩn bị xét xử là
hoàn toàn không cần thiết.
103
Thứ tư, các quy định về hòa giải bắt buộc cũng cho thấy có những bất cập
làm kéo dài việc giải quyết một số vụ án, đặc biệt là những vụ án có đủ điều
kiện áp dụng TTRG. Hơn nữa, trong các vụ án này, hòa giải trong quá trình
chuẩn bị xét xử chỉ mang tính hình thức, trong khi hoàn toàn có thể thực hiện
được việc hòa giải ngay tại phiên tòa sơ thẩm.
Thứ năm, các quy định về thời hạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm áp dụng chung
cho các tranh chấp mà không phân biệt tính phức tạp của tranh chấp, chứng
cứ đã rõ ràng… dẫn đến bất cập trên thực tế, thời hạn quá ít cho những vụ án
phức tạp, chứng cứ không rõ ràng..., cần phải có nhiều thời gian hơn để chuẩn
bị xét xử nhưng lại không cần thiết cho những vụ án đơn giản, chứng cứ rõ
ràng... hoàn toàn có thể giải quyết được trong thời hạn ngắn hơn.
Thứ sáu, quy định hiện hành cho phép đương sự kháng cáo tất cả các vấn
đề của bản án sơ thẩm (tình tiết khách quan của vụ án và việc áp dụng pháp
luật) là chưa hợp lý. Bởi lẽ, trong những trường hợp đương sự thừa nhận toàn
bộ nghĩa vụ hoặc chứng cứ rõ ràng, thiết nghĩ việc cho phép kháng cáo về
tình tiết khách quan của vụ án là không cần thiết.
Thứ bảy, quy định về việc hoãn phiên tòa trong trường hợp đương sự,
người đại diện hợp pháp của đương sự được triệu tập hợp lệ lần thứ nhất
nhưng vắng mặt kể cả khi không có lý do chính đáng là chưa hợp lý.
Thứ tám, quy định hiện hành về thành phần tham gia giải quyết tranh chấp
còn có những bất cập theo hướng không cần thiết phải giải quyết các tranh
chấp đơn giản, chứng cứ rõ ràng, giá ngạch thấp bởi một hội đồng xét xử tập
thể và với sự tham gia của đại diện Viện kiểm sát.
Hai là, đánh giá về việc Tòa án giải quyết một số tranh chấp đơn giản,
đương sự thừa nhận nghĩa vụ, chứng cứ rõ ràng, giá ngạch thấp cho thấy:
Thứ nhất, đối với các tranh chấp mà tất cả các đương sự thừa nhận nghĩa vụ
theo yêu cầu khởi kiện, tính chất của các vụ án này là đơn giản về mặt áp
dụng pháp luật vì Tòa án chỉ cần kiểm tra tính hợp pháp của sự thừa nhận
104 nghĩa vụ của các đương sự, xem việc thừa nhận đó có vi phạm điều cấm của
pháp luật hoặc có trái đạo đức xã hội hay không. Tòa án không cần xác định
sự thật khách quan của các vụ án này vì các đương sự đã thừa nhận nghĩa vụ.
Do đó, nhiều hoạt động tố tụng (ví dụ: triệu tập đương sự để lấy lời khai, tiến
hành hòa giải, xác minh, thu thập chứng cứ, tiến hành đối chất…) là không
cần thiết và có thể bỏ qua trong quá trình chuẩn bị xét xử. Ngoài ra, vì tính
chất của các tranh chấp đó là đơn giản nên không cần thiết phải có hội đồng
xét xử với sự tham gia của đại diện Viện Kiểm sát để có thể giải quyết các
loại tranh chấp đó.
Thứ hai, đối với các tranh chấp mà Tòa án cho rằng đơn giản về mặt áp
dụng pháp luật, chứng cứ rõ ràng và giá ngạch thấp, Tòa án có thể giải quyết
đúng đắn các tranh chấp đó mà không cần thiết phải tiến hành tất cả các trình
tự, thủ tục tố tụng và cũng không nhất thiết cần có sự tham gia của đại diện
Viện Kiểm sát. Tuy nhiên, vì các vụ án đó còn có sự tranh chấp về sự thật
khách quan của vụ án hoặc việc áp dụng pháp luật có thể dẫn đến hệ quả phức
tạp... nên cần cho phép đương sự có ý kiến về việc áp dụng thủ tục tố tụng
thông thường hay TTRG để giải quyết tranh chấp.
Thứ ba, đối với các tranh chấp mà Tòa án cho rằng đơn giản về mặt áp
dụng pháp luật, chứng cứ rõ ràng nhưng giá trị tranh chấp lớn, tương tự như
các tranh chấp đơn giản và chứng cứ rõ ràng và giá ngạch thấp, việc giải
quyết các tranh chấp đó hoàn toàn có thể thực hiện một cách đúng đắn theo
quy định của pháp luật với một thủ tục đơn giản và gọn nhẹ hơn thủ tục thông
thường hiện nay. Tuy nhiên, vì các tranh chấp loại này có giá trị lớn và kết
quả giải quyết tranh chấp có tác động không nhỏ đến lợi ích của đương sự,
cho nên cần có sự đồng thuận của các đương sự trong việc xác định các tranh
chấp đó là đơn giản và chứng cứ rõ ràng, để có thể áp dụng một thủ tục tố
tụng đơn giản, gọn nhẹ hơn so với thủ tục thông thường.
105
CHƯƠNG 3: KIẾN NGHỊ VỀ XÂY DỰNG THỦ TỤC RÚT GỌN GIẢI
QUYẾT TRANH CHẤP KINH DOANH, THƯƠNG MẠI
Trong quá trình nghiên cứu đề tài Luận án tác giả đã dựa trên các dự thảo
BLTTDSSĐ tại từng thời điểm tương ứng. Các đề xuất kiến nghị về việc xây
dựng TTRG trong Luận án này dựa trên các quy định về TTRG trong dự thảo
BLTTDSSĐ (Dự thảo BLTTDSSĐ) trình ra Kỳ họp thứ 10 Quốc hội khóa
VIII từ ngày 20 tháng 10 năm 2015 đến ngày 27 tháng 11 năm 2015. Do tại
thời điểm hoàn thiện Luận án này, BLTTDSSĐ, trong đó có các quy định về
TTRG, đã được Quốc hội thông qua tại Kỳ họp nêu trên nên tác giả cũng sẽ
có những bình luận thích hợp.
3.1.!Giải pháp xây dựng thủ tục rút gọn giải quyết tranh chấp kinh
doanh, thương mại! !
Dự thảo BLTTDS quy định TTRG bao gồm những nội dung cơ bản sau:
Thứ nhất, về tiêu chí (điều kiện) áp dụng TTRG: Theo quy định tại Điều
312 Dự thảo BLTTDSSĐ, một vụ án được giải quyết theo TTRG khi đáp ứng
đầy đủ các điều kiện sau:
(i) Vụ án có tình tiết đơn giản, quan hệ pháp luật rõ ràng, đương sự đã
thừa nhận nghĩa vụ; tài liệu, chứng cứ đầy đủ, rõ ràng, đủ cơ sở giải quyết
Tòa án không phải thu thập tài liệu, chứng cứ;
(ii) Các đương sự đều có địa chỉ nơi cư trú, trụ sở rõ ràng;
(iii) Không có đương sự cư trú ở nước ngoài, tài sản tranh chấp ở nước
ngoài.165
Thứ hai, về thời điểm xác định áp dụng TTRG: Theo quy định tại Điều
313 Dự thảo BLTTDSSĐ, thời hạn xác định vụ án thuộc đối tượng áp dụng
TTRG là trong vòng ba mươi ngày kể từ ngày thụ lý vụ án.166 165 Điều 317 BLTTDSSĐ về cơ bản giữ nguyên tinh thần quy định nêu trên theo hướng một vụ án được giải quyết theo TTRG thì cần phải hội tụ đầy đủ các điều kiện nêu trên. 166 Điều 318 BLTTDSSĐ quy định trong thời hạn không quá một tháng kể từ ngày thụ lý vụ án Tòa án ra quyết định đưa vụ án ra xét xử theo TTRG.
106
Thứ ba, về thủ tục hòa giải: Theo quy định tại Điều 315 Dự thảo
BLTTDSSĐ, việc hòa giải được thực hiện tại phiên tòa.167
Thứ tư, về chuyển từ TTRG sang thủ tục thông thường: Theo quy định tại
Điều 317 Dự thảo BLTTDSSĐ, tại phiên tòa nếu phát sinh yếu tố, tình tiết
làm cho vụ án không còn đủ điều kiện để giải quyết theo TTRG thì chuyển
sang giải quyết theo thủ tục chung.168
Thứ năm, về hiệu lực của bản án, quyết định theo TTRG: Theo quy định
tại Điều 316 Dự thảo BLTTDSSĐ, bản án của Tòa án theo TTRG có thể bị
kháng cáo, kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm, và có thể bị kháng nghị theo
thủ tục giám đốc thẩm hoặc tái thẩm.169
Thứ sáu, về thành phần xét xử: Theo quy định tại Điều 62 Dự thảo
BLTTDSSĐ chỉ một Thẩm phán xét xử vụ án theo TTRG dù ở cấp sơ thẩm
hay cấp phúc thẩm.170
Thứ bảy, về một số thời hạn: Theo các Điều 313, 319 và 320 Dự thảo
BLTTDSSĐ quy định rút ngắn một số thời hạn sau: thời hạn chuẩn bị xét xử
sơ thẩm rút ngắn xuống còn ba mươi ngày; thời hạn chuẩn bị xét xử phúc
thẩm cũng rút ngắn xuống còn một tháng; thời hạn mở phiên tòa kể từ khi ra
quyết định đưa vụ án ra xét xử rút ngắn xuống còn mười lăm ngày kể từ ngày
ra quyết định áp dụng TTRG; thời hạn kháng cáo rút xuống còn bảy ngày làm
việc; thời hạn kháng nghị của Viện kiểm sát cùng cấp rút xuống còn bảy ngày
làm việc và của Viện kiểm sát cấp trên rút xuống còn mười ngày.171
Thứ tám, về việc mở phiên tòa: Theo Điều 315 và Điều 319 Dự thảo 167 Điều 320 BLTTDSSĐ giữ nguyên quy định này. 168 Khoản 3 Điều 317 BLTTDSSĐ quy định việc chuyển sang thủ tục thông thường được thực hiện trong giai đoạn chuẩn bị xét xử chứ không phải là tại phiên tòa sơ thẩm như quy định tại Dự thảo BLTTDSSĐ và có bổ sung các căn cứ mà theo đó thì vụ án đang được giải quyết theo TTRG được chuyển đổi sang thủ tục thông thường. 169 BLTTDSSĐ giữ nguyên các quy định về vấn đề này. 170 BLTTDSSĐ giữ nguyên các quy định về vấn đề này. 171 BLTTDSSĐ giữ nguyên các quy định trên về thời hạn ngoài việc quy định thời hạn xét xử sơ thẩm rút xuống còn mười ngày kể từ ngày ra quyết định đưa vụ án ra xét xử.
107 BLTTDSSĐ, cần phải mở phiên tòa sơ thẩm nhưng không mở phiên tòa phúc
thẩm mà mở phiên họp phúc thẩm.172
Thứ chín, về việc hoãn phiên tòa: Theo Điều 223 và Điều 311 Dự thảo
BLTTDSSĐ, việc hoãn phiên tòa đối với vụ án áp dụng TTRG cũng giống
như phiên tòa theo thủ tục thông thường, và như vậy Tòa án phải hoãn phiên
tòa khi đã triệu tập hợp lệ lần thứ nhất mà đương sự hoặc người đại diện của
đương sự, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự vắng mặt mà
không cần có lý do trừ trường hợp đương sự có đơn đề nghị xét xử vắng
mặt.173
Thứ mười, về sự tham gia của Viện kiểm sát: Theo quy định tại Điều 22
của Dự thảo BLTTDSSĐ về nguyên tắc kiểm sát việc tuân theo pháp luật
trong TTDS đang vẫn ghi nhận theo hướng giữ nguyên như Điều 21 của
BLTTDS và Điều 213 đã có ghi nhận sự tham gia của Kiểm sát viên (nếu có).
Bên cạnh đó, Điều 319 Dự thảo BLTTDSSĐ có quy định rõ về việc Viện
kiểm sát chỉ tham gia phiên họp phúc thẩm trong trường hợp Viện kiểm sát
kháng nghị.174
Trong phần dưới đây, tác giả sẽ trình bày về các kiến nghị cụ thể.
3.1.1.!Về tiêu chí xác định loại vụ án được giải quyết theo thủ tục rút gọn
Theo quy định tại Điều 312 Dự thảo BLTTDSSĐ, một vụ án được giải
quyết theo TTRG khi có đủ các điều kiện như sau:
(i) Vụ án có tình tiết đơn giản, quan hệ pháp luật rõ ràng, đương sự đã 172 Điều 324 BLTTDSSĐ đã quy định việc giải quyết vụ án theo TTRG tại cấp phúc thẩm cũng phải được thực hiện thông qua phiên tòa phúc thẩm chứ không phải là phiên họp như quy định tại Dự thảo BLTTDSSĐ. 173 Điều 320 và Điều 324 BLTTDSSĐ đã bổ sung quy định về việc hoãn phiên tòa như sau: (i) Đối với phiên tòa sơ thẩm, trường hợp Kiểm sát viên vắng mặt thì Hội đồng xét xử vẫn tiến hành xét xử và trường hợp bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đã được triệu tập hợp lệ mà vắng mặt không có lý do chính đáng thì Thẩm phán vẫn tiến hành phiên tòa; và (ii) Đối với phiên tòa phúc thẩm, trường hợp Kiểm sát viên vắng mặt thì Hội đồng xét xử vẫn tiến hành xét xử, trừ trường hợp Viện kiểm sát có kháng nghị phúc thẩm và trường hợp đương sự không kháng cáo đã được triệu tập hợp lệ mà vắng mặt không có lý do chính đáng thì Thẩm phán vẫn tiến hành phiên tòa. 174 BLTTDSSĐ đã quy định theo hướng việc tham gia của Viện kiểm sát tại phiên tòa được thực hiện theo quy định chung nhưng việc không có mặt của Viện kiểm sát không đương nhiên dẫn đến việc hoãn phiên tòa (xem chú thích nêu trên)
108 thừa nhận nghĩa vụ; tài liệu, chứng cứ đầy đủ, rõ ràng, đủ cơ sở giải quyết
Tòa án không phải thu thập tài liệu, chứng cứ;
(ii) Các đương sự đều có địa chỉ nơi cư trú, trụ sở rõ ràng;
(iii) Không có đương sự cư trú ở nước ngoài, tài sản tranh chấp ở nước
ngoài;
Tác giả cho rằng, để một TCDS (trong đó bao gồm TCKDTM) phải đáp
ứng toàn bộ các tiêu chí nêu trên đây mới đủ điều kiện để áp dụng TTRG là
chưa phù hợp bởi các lý do sau:
Thứ nhất, Dự thảo BLTTDSSĐ quy định đáp ứng hai điều kiện “đương sự
đã thừa nhận nghĩa vụ” và “tài liệu, chứng cứ rõ ràng, đủ cơ sở giải quyết Tòa
án không cần thu thập tài liệu, chứng cứ” là chưa hợp lý, vì đương sự đã thừa
nhận nghĩa vụ nên không cần phải đáp ứng điều kiện tài liệu, chứng cứ rõ
ràng. Cụ thể hơn, việc thừa nhận nghĩa vụ của đương sự được pháp luật cho
phép theo Điều 80 BLTTDS175 được coi là chứng cứ và cơ sở để Tòa án áp
dụng pháp luật để giải quyết tranh chấp.
Mặt khác, nếu cần đáp ứng cả điều kiện đương sự thừa nhận nghĩa vụ khi
vụ án đã đáp ứng tiêu chí là hồ sơ đã có tài liệu, chứng cứ rõ ràng đủ để Tòa
án giải quyết tranh chấp căn cứ theo pháp luật thì vô hình chung loại bỏ một
trường hợp không thể áp dụng TTRG khi mặc dù các đương sự không thừa
nhận nghĩa vụ nhưng hồ sơ đã đủ tài liệu và chứng cứ để giải quyết vụ án. Do
đó, tác giả cho rằng cần phải tách rời hai tiêu chí nêu trên như là hai tiêu chí
lựa chọn (chỉ cần đáp ứng được một trong hai tiêu chí đó).
Thứ hai, việc quy định cần phải đáp ứng tiêu chí “các đương sự đều có địa
175 Khoản 2 và khoản 3 Điều 80 BLTTDS quy định: “2. Một bên đương sự thừa nhận hoặc không phản đối những tình tiết, sự kiện mà bên đương sự kia đưa ra thì bên đương sự đó không phải chứng minh. 3. Đương sự có người đại diện tham gia tố tụng thì sự thừa nhận của người đại diện được coi là sự thừa nhận của đương sự.” Các quy định nêu trên vẫn được giữ lại tại Điều 92 BLTTDSSĐ.
109 chỉ nơi cư trú, trụ sở rõ ràng” và “không có đương sự cư trú ở nước ngoài, tài
sản tranh chấp ở nước ngoài” cũng chưa hợp lý. Bởi lẽ, trong trường hợp
đương sự không có nơi cư trú rõ ràng hoặc có đương sự cư trú ở nước ngoài, tài
sản tranh chấp ở nước ngoài, mặc dù thời gian giải quyết tranh chấp có thể
không được “rút gọn” nhưng, theo tác giả, tranh chấp đó vẫn có thể giải quyết
được theo TTRG bằng một Thẩm phán. Hay nói cách khác, tác giả cho rằng nội
dung của TTRG không nhất thiết là phải “rút gọn” tất cả các yếu tố thuộc về
nội dung của TTRG.
Vì vậy, nên thiết kế các tiêu chí (điều kiện) của vụ án được áp dụng TTRG
để làm sao khi áp dụng có thể theo hướng rút gọn một hoặc một số trình tự, thủ
tục chứ không nhất thiết phải rút gọn toàn bộ. Có như vậy mới đảm bảo được
tính khả thi các quy định của pháp luật về TTRG và khai thác triệt để ý nghĩa
của việc áp dụng TTRG. Bởi theo tác giả, “rút gọn” không đơn thuần chỉ nhìn
vào thời hạn chuẩn bị xét xử được rút ngắn mà vẫn có thể nhận thấy nội dung
“rút gọn” khi các trình tự, thủ tục tố tụng tiếp sau đó vẫn được thực hiện theo
hướng đơn giản, tinh gọn về thành phần xét xử, về trình tự tiến hành phiên tòa
và có thể cả toàn bộ thủ tục phúc thẩm (nếu có) sau đó.
Như vậy, khác với quan điểm của ban soạn thảo Dự thảo BLTTDSSĐ, tác
giả cho rằng để xác định các tiêu chí, các điều kiện của một vụ án về TCDS
nói chung và vụ án về TCKDTM nói riêng được áp dụng TTRG cần thiết các
tiêu chí đó phải được xây dựng làm sao để có thể áp dụng được một hoặc một
số nội dung của TTRG (rút gọn về thời hạn tố tụng, giản lược một số hoạt
động tố tụng, hoặc rút gọn về thành phần xét xử…) chứ không nhất thiết phải
áp dụng rút gọn toàn bộ các nội dung của TTRG.
Chính vì còn một số bất cập theo quy định tại Điều 312 của Dự thảo
BLTTDSSĐ về các điều kiện để vụ án dân sự được áp dụng TTRG như đã
phân tích ở trên, tác giả đề xuất không nên quy định một vụ án phải đáp ứng
tất cả các tiêu chí như một số quan điểm đã nêu trong thời gian qua và được
thể hiện trong Dự thảo BLTTDSSĐ. Thay vào đó, chỉ nên quy định một số
110 các tiêu chí, điều kiện lựa chọn mà khi vụ án về TCDS nói chung và vụ án về
TCKDTM nói riêng có một trong các tiêu chí này hoàn toàn có thể áp dụng
TTRG. Ngoài ra, theo tác giả vẫn nên quy định đối với vụ án đơn giản, có giá
ngạch thấp cũng phải được xem là một trong những tiêu chí được áp dụng
TTRG để giải quyết.176
BLTTDSSĐ được Quốc hội thông qua tại Kỳ họp thứ 10 Quốc hội khóa
VIII nêu trên về cơ bản vẫn giữ nguyên các quy định của Dự thảo
BLTTDSSĐ về tiêu chí xác định vụ án được áp dụng TTRG. Tác giả cho
rằng, sẽ cần một thời gian để kiểm chứng những nhận xét nêu trên và những
kiến nghị sau đây của tác giả sẽ vẫn giữ nguyên giá trị.
Theo tác giả, quy định các tiêu chí để áp dụng TTRG trong TTDS sẽ được
áp dụng chung mà không phân biệt giữa vụ án dân sự với vụ án về TCKDTM.
Tuy nhiên, xuất phát từ đặc thù giữa bản chất của hai loại TCDS với
TCKDTM nên sẽ có sự khác biệt khi quy định về mức giá ngạch thấp giữa hai
loại vụ án về TCDS nói chung với vụ án về TCKDTM nói riêng. Vì vậy, tác
giả đề xuất TTRG được áp dụng cho cả vụ án về TCDS nói chung và vụ án về
TCKDTM nói riêng khi đó phải là một vụ án đơn giản (được hiểu là vụ án
đơn giản trong việc xác định sự thật vụ án và đơn giản trong việc áp dụng
pháp luật khi giải quyết).
Theo tác giả, một vụ án khi có một trong các tiêu chí sau đây có thể được
giải quyết theo TTRG:
(i)! Đương sự đã thừa nhận hoàn toàn nghĩa vụ của mình;
176 Dự thảo BLTTDSSĐ đã bỏ tiêu chí “tranh chấp có giá trị dưới 100.000.000 đồng” để xem là một trong những điều kiện áp dụng TTRG. Theo tác giả vẫn phải nên giữ quy định về vụ án có giá ngạch thấp, đơn giản để áp dụng TTRG vì theo nội dung mà Nghị quyết số 19/NQ-CP của Chính phủ ngày 12-3-2015 “Về những nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu tiếp tục cải thiện môi trường kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia hai năm 2015 – 2016” đã ghi nhận “rút ngắn thời gian giải quyết tranh chấp thương mại... nhất là đối với tranh chấp quy mô nhỏ” (tác giả cho rằng tranh chấp quy mô nhỏ chính là tranh chấp đơn giản và có giá ngạch thấp). Nhưng giá ngạch thấp cụ thể là bao nhiêu thì không nên ấn định trong quy định của BLTTDS. Vì quy định như vậy sẽ mang tính xơ cứng và rất khó điều chỉnh trong thực tế, nhiều khả năng sau một thời gian quy định đó sẽ không còn phù hợp và đặt ra nhu cầu sửa đổi, như vậy sẽ làm cho tính ổn định của BLTTDDS không cao.
111
(ii)! Vụ án đơn giản, có giá ngạch thấp theo quy định của pháp luật, chứng
cứ rõ ràng và không có sự phản đối hợp lý của đương sự; hoặc
(iii)!Vụ án đơn giản, chứng cứ rõ ràng (không phụ thuộc vào giá ngạch)
mà các đương sự đồng ý áp dụng TTRG.
Thứ nhất, đối với vụ án mà đương sự thừa nhận toàn bộ nghĩa vụ theo yêu
cầu khởi kiện
Như tác giả đã phân tích tại tiểu mục 2.2.1. trong Chương 2 của Luận án,
đối với các tranh chấp mà bị đơn thừa nhận toàn bộ nghĩa vụ theo đơn khởi
kiện và việc thực hiện các nghĩa vụ đó là không vi phạm điều cấm của pháp
luật hoặc trái đạo đức xã hội, Tòa án đương nhiên sẽ phải chấp nhận các yêu
cầu khởi kiện của nguyên đơn. Do đó, các tranh chấp loại này được coi là đơn
giản và khi giải quyết Tòa án không cần thiết phải tiến hành tất cả các thủ tục,
trình tự tố tụng thông thường như hiện nay để giảm thiểu thời gian và chi phí
cho đương sự, cho Tòa án và cho xã hội mà vẫn bảo đảm công lý.
Tòa án chỉ cần tiến hành các thủ tục thật cần thiết để kiểm tra hai vấn đề:
(i) có đúng là bị đơn đã hoàn toàn tự nguyện thừa nhận nghĩa vụ của mình và
việc thừa nhận đó không bị lừa dối, đe dọa hoặc nhằm che đậy một hành vi,
giao dịch bất hợp pháp khác; và (ii) tính hợp pháp của các yêu cầu khởi kiện
của nguyên đơn. Khi đó, giá trị tranh chấp không phải là yếu tố hay điều kiện
liên quan và cần thiết để cân nhắc việc áp dụng TTRG trong trường hợp này.
Nhiều nước như Anh, Pháp, Đức, Nhật Bản, Trung Quốc và một số nước
khác như tác giả đã phân tích tại tiểu mục 1.3.1.2. trong Chương 1 của Luận
án quy định rằng các vụ án về đòi nợ được áp dụng TTRG dựa trên một thực
tế là các yêu cầu đòi nợ thường là những yêu cầu có chứng cứ rõ ràng và bị
đơn không thể phủ nhận được. Trong trường hợp như vậy, về bản chất các vụ
án về đòi nợ là bị đơn đương nhiên phải thừa nhận nghĩa vụ và Tòa án ghi
nhận nghĩa vụ đó thông qua một thủ tục tư pháp đơn giản nhất làm cơ sở cho
việc thi hành án.
112 Xét từ cách tiếp cận nêu trên, tác giả cho rằng kể cả trong trường hợp các
tranh chấp về tín dụng có nhiều người có quyền và nghĩa vụ liên quan (ví dụ
liên quan đến bảo lãnh, thế chấp...) hoặc đương sự không có địa chỉ cư trú rõ
ràng, hoặc ở nước ngoài, cho dù thời gian xét xử những vụ án đó không “rút
gọn” hơn so với các tranh chấp khác (đôi khi còn dài hơn nhiều) nhưng ít ra
Tòa án cũng đã áp dụng được một nội dung của TTRG là không cần phải xét
xử bởi một tập thể hoặc không phải tiến hành hòa giải bắt buộc (tác giả sẽ đề
cập chi tiết hơn ở các phần liên quan tại tiểu mục 3.1.2.1 và 3.1.2.2 dưới đây
của Luận án).
Thứ hai, đối với vụ án đơn giản, có giá ngạch thấp theo quy định của
pháp luật, chứng cứ rõ ràng và không có sự phản đối hợp lý của đương sự
Thông thường, khi giá trị tranh chấp không lớn thì bản chất tranh chấp là
không phức tạp hoặc chứng cứ rõ ràng, không cần nhiều thời gian để xác định
sự thật của vụ án và không khó khăn trong việc áp dụng pháp luật. Hơn nữa,
tác giả cho rằng, khả năng Thẩm phán có những sai sót trong việc đánh giá
chứng cứ, xác định sự thật khách quan trong những vụ án về TCKDTM có giá
ngạch thấp cũng có thể xảy ra về mặt lý thuyết nhưng chắc chắn ở mức độ rất
thấp. Tuy nhiên, kể cả nếu việc giải quyết những tranh chấp loại này có rủi ro
về sai lầm trong xét xử thì hệ quả sẽ là không lớn (trong chừng mực có thể
chấp nhận được) đối với các đương sự.
Ngoài ra, nỗi lo âu về khả năng Thẩm phán có thể có những hành động
tiêu cực trong quá trình giải quyết trong những vụ án về TCKDTM có giá
ngạch thấp cũng là không cao. Bởi lẽ, ít nhiều, đối với vụ án về TCKDTM có
giá ngạch thấp sẽ khó có những sự tác động và can thiệp từ phía bên ngoài
Tòa án, từ phía các đương sự đối với Thẩm phán. Nói một cách khác, Thẩm
phán cũng sẽ khó bị tác động, mua chuộc bởi những vụ án về TCKDTM có
giá ngạch thấp vì việc mua chuộc về cơ bản cũng ở mức thấp xuất phát từ
chính giá ngạch thấp.
Cũng cần nói thêm rằng, đối với tiêu chí này việc áp dụng TTRG kể cả khi
113 bị đơn không thừa nhận nghĩa vụ. Bởi lẽ, một khi vụ án đã xác định đơn giản,
chứng cứ rõ ràng, việc không thừa nhận nghĩa vụ của bị đơn đôi khi chỉ để
nhằm kéo dài, trì hoãn việc thực hiện nghĩa vụ của mình như tại điểm (iii) tiểu
mục 2.2.1 trong Chương 2 của Luận án mà tác giả đã phân tích. Việc hạn chế
rủi ro cho đương sự trong các vụ án như vậy đã được hỗ trợ bằng chính quy
định vụ án đơn giản và có giá ngạch thấp.
Do đó, để cân bằng lợi ích của xã hội, hiệu quả giải quyết tranh chấp, vẫn
nên giữ quy định về điều kiện áp dụng TTRG đối với các tranh chấp có giá
ngạch thấp. Điều này cũng phù hợp với kinh nghiệm của nhiều quốc gia trên
thế giới theo hai hệ thống Dân luật và Thông luật đã ghi nhận tiêu chí trên mà
tác giả đã trình bày tại tiểu mục 1.3.1.1 trong Chương 1 của Luận án mà theo
đó hầu hết các nước đều coi giá ngạch thấp là một tiêu chí để Tòa án đương
nhiên áp dụng một thủ tục tố tụng đơn giản và gọn nhẹ hơn thủ tục thông
thường.
Tuy nhiên, có những loại tranh chấp giá ngạch thấp nhưng bản chất lại
không hề đơn giản, nhất là những tranh chấp mà các vấn đề pháp lý liên quan
mới mẻ, chưa thông dụng ở nước ta hoặc những tranh chấp mà việc xác định
sự thật của vụ án đòi hỏi nhiều thời gian để chứng minh, xác minh hoặc đánh
giá chứng cứ mà tác giả đã chứng minh qua một số vụ án điển hình tại tiểu
mục 2.2.2 trong Chương 2 của Luận án. Đối với những vụ án đó, theo tác giả,
rõ ràng nên để một tập thể cân nhắc và thận trọng đánh giá và đưa ra phán
quyết đúng sai, và cũng không thể rút ngắn về thời gian trong quá trình chuẩn
bị xét xử và khi xét xử. Và như vậy, TTRG nếu áp dụng đối với các tranh
chấp này là không phù hợp.
Ngoài ra, cũng có những vụ án mặc dù tranh chấp có giá ngạch thấp
nhưng kết quả giải quyết vụ án có thể tạo ra tiền lệ về áp dụng pháp luật hoặc
có tác động vượt quá phạm vi quyền và nghĩa vụ của đương sự trong vụ án đó
như tác giả đã trình bày cũng tại tiểu mục 2.2.2 trong Chương 2 của Luận án.
Đối với những trường hợp đó, việc giao cho một Thẩm phán ở cấp sơ thẩm và
114 một Thẩm phán ở cấp phúc thẩm quyết định những vấn đề đó theo TTRG sẽ
có thể tạo ra một rủi ro pháp lý cho xã hội và đối với sự phát triển kinh tế,
hoạt động đầu tư, kinh doanh… Tương tự, sẽ là rủi ro nếu giao cho một Thẩm
phán quyết định đương sự phải thực hiện một nghĩa vụ mà điều đó tạo ra tiền
lệ để các nguyên đơn tiềm năng trong tương lai cũng khởi kiện tương tự đối
với đương sự đó hoặc phán quyết đó có thể làm ảnh hưởng lớn đến uy tín,
danh dự, thương hiệu và hoạt động kinh doanh của đương sự, đặc biệt là đối
với những TCKDTM.
Vì vậy, theo quan điểm của tác giả, những vụ án có tính chất nêu trên
không nên áp dụng TTRG nếu như đương sự đưa ra sự phản đối hợp lý hoặc
Tòa án cho rằng các tình tiết của vụ án là phức tạp trong việc xác định sự thật
khách quan của vụ án hoặc áp dụng pháp luật. Việc xác định tính hợp lý của
sự phản đối áp dụng TTRG nên dành cho Tòa án xem xét tùy vào từng trường
hợp cụ thể.
Về việc xác định mức nào là “giá ngạch thấp”, tác giả đề xuất không nên
ấn định mức giá ngạch ngay trong BLTTDSSĐ mà giao cho Hội đồng Thẩm
phán TANDTC quy định và điều chỉnh linh hoạt tại từng thời điểm cụ thể.
Ngoài ra, theo tác giả, cũng cần phải có sự khác biệt trong việc xác định
mức giá ngạch thấp áp dụng đối với các TCKDTM và đối với các TCDS
khác, đây cũng chính là điểm khác biệt rất cơ bản giữa việc áp dụnng TTRG
giải quyết TCDS với TCKDTM. Đề xuất dựa vào những cơ sở chính như sau:
Một là, không ấn định một con số cụ thể để xác định mức giá ngạch thấp
khi chưa có đầy đủ các cơ sở khoa học. Vì đây là vấn đề khá phức tạp và đòi
hỏi việc nghiên cứu phải toàn diện, cần nhiều thời gian, khảo sát, thống kê
hiệu quả, chính xác từ rất nhiều thông số khác nhau như điều kiện phát triển
kinh tế và xã hội của từng vùng miền, địa phương, tỷ lệ lạm phát, dựa vào
mức lương tối thiểu, mức thu nhập bình quân đầu người… qua từng thời kỳ.
Do đó, quy định vấn đề này cần phải theo hướng linh hoạt hóa trong các quy
định, nên giao cho ngành tư pháp sự chủ động xác định mức cụ thể về giá
115 ngạch thấp qua quá trình vận dụng, triển khai, rút kinh nghiệm khi đưa TTRG
vào triển khai trên thực tế áp dụng.
Hai là, sẽ không thể có việc ấn định chung một giá ngạch thấp áp dụng
cho tất cả các loại tranh chấp (dân sự, đất đai, hôn nhân và gia đình, kinh
doanh, thương mại…) vì sẽ không hợp lý, đặc biệt là đối với các vụ án về
TCKDTM. Ví dụ 100.000.000 đồng177 có thể được coi là giá trị cao trong
tranh chấp về vay nợ giữa hai người nông dân nhưng lại là “quá thấp” đối với
phần lớn các TCKDTM. Theo như tác giả đã phân tích về thực trạng Tòa án
giải quyết các vụ án về TCKDTM, có rất ít các TCKDTM có giá ngạch
100.000.000 đồng được khởi kiện trước Tòa án, bởi lẽ với giá trị tranh chấp
đó “số tiền thu về không xứng đáng với thời gian và công sức bỏ ra để theo
đuổi vụ kiện”178 nên người có quyền lợi bị xâm phạm ít khi khởi kiện ra Tòa.
Nói một cách khác, theo các doanh nghiệp, với số tiền đó họ sẽ không đi
kiện vì từ lúc đưa một vụ án ra Tòa cho đến lúc thi hành án xong, mất rất
nhiều thời gian179 và gây mệt mỏi cho các doanh nghiệp, số tiền nếu thắng
kiện được là 100.000.000 đồng so với công sức và thời gian bỏ ra là không
xứng đáng. Chính vì lẽ đó, việc pháp điển hóa trong BLTTDSSĐ cụ thể về
mức giá ngạch thấp đối với tất cả các loại tranh chấp làm tiêu chí áp dụng
TTRG là không phù hợp. Nhưng điều đó không có nghĩa là loại bỏ tiêu chí
giá ngạch thấp là điều kiện áp dụng TTRG, vì như vậy, vô hình chung pháp
luật đã giới hạn các vụ án được áp dụng TTRG và điều này cũng không phù
hợp với xu hướng của pháp luật các nước trên thế giới mà tác giả đã trình bày
tại tiểu mục 1.3.1.1 trong Chương 1 của Luận án.
Ngoài ra, tác giả cũng cho rằng, nếu vẫn giữ nguyên quy định phải đáp
ứng ba tiêu chí còn lại như trong Dự thảo BLTTDS (vụ án có tình tiết đơn
177 Đây là mức giá ngạch thấp mà các Dự thảo BLTTDSSĐ trước đây đã ghi nhận. 178 Ngô Ngọc Trai, (161), tr.30. 179 Nghị quyết 19/NQ-CP đã chỉ ra thời gian giải quyết tranh chấp thương mại hiện nay là 400 ngày và yêu cầu hoàn thiện các văn bản pháp luật có liên quan làm sao đơn giản hoá thủ tục và rút ngắn thời gian giải quyết chỉ còn lại tối đa 200 ngày.
116 giản, quan hệ pháp luật rõ ràng, đương sự đã thừa nhận nghĩa vụ; tài liệu,
chứng cứ đầy đủ, rõ ràng, đủ cơ sở giải quyết Tòa án không phải thu thập tài
liệu, chứng cứ; các đương sự đều có địa chỉ nơi cư trú, trụ sở rõ ràng; và
không có đương sự cư trú ở nước ngoài, tài sản tranh chấp ở nước ngoài) dẫn
đến khả năng trên thực tế sẽ khó có thể có vụ án về TCKDTM nào hội tụ đầy
đủ ba điều kiện (tiêu chí) theo luật định để áp dụng giải quyết theo TTRG.
Với hệ quả như vậy, việc quy định TTRG cho các vụ án về TCSD nói chung
và TCKDTM nói riêng sẽ mang tính phi thực tế và vô hình chung mục tiêu áp
dụng TTRG sẽ có nguy cơ không đạt được.
Ba là, việc quy định một số tiền cụ thể ngay trong bộ luật là chưa hợp lý
trong điều kiện kinh tế - xã hội và lạm phát ở nước ta. Kinh nghiệm xây dựng
pháp luật hình sự trước đây cho thấy việc xác định mức độ hậu quả nghiêm
trọng của một số tội phạm không quy định trong Bộ luật hình sự mà ghi nhận
trong các văn bản dưới luật được quy định tại từng thời điểm cụ thể. Do đó,
nếu ấn định một con số cụ thể trong BLTTDSSĐ thì khả năng lớn một thời
gian sau quy định này sẽ không còn phù hợp và đặt ra nhu cầu sửa đổi, làm
cho tính ổn định của pháp luật không cao.
Bốn là, đề xuất trên đây cũng dựa trên kết quả điều tra xã hội học. Kết quả
Khảo sát cho thấy, 74% Người làm công tác pháp luật và 77,1% các Nhà
doanh nghiệp cho rằng giá ngạch thấp thuộc đối tượng áp dụng TTRG nên để
TANDTC hướng dẫn cho linh hoạt và phù hợp với từng thời kì.
Thứ ba, vụ án đơn giản, chứng cứ rõ ràng (không phụ thuộc vào giá
ngạch) mà các đương sự có yêu cầu áp dụng TTRG
Tác giả đề xuất chỉ nên cho phép áp dụng TTRG giải quyết TCDS (trong
đó có TCKDTM) khi đáp ứng đầy đủ các điều kiện sau: (a) nội dung tranh
chấp không phức tạp về mặt xác định sự thật khách quan của vụ án và về mặt
áp dụng pháp luật để giải quyết vụ án; (b) chứng cứ rõ ràng; và (c) tất cả các
bên đương sự đều đề nghị hoặc không phản đối việc áp dụng TTRG. Đề xuất
như vậy nhằm bảo đảm tính khả thi của việc áp dụng TTRG, ý nghĩa của việc
117 áp dụng TTRG, quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự. Bởi lẽ, những tranh
chấp loại này không đòi hỏi có giá ngạch thấp mà ngược lại, có khi giá trị
tranh chấp lớn. Như vậy, đối với những vụ án này chỉ có thể được giải quyết
theo TTRG khi không đòi hỏi Tòa án phải mất nhiều thời gian xác định sự
thật của vụ án, cân nhắc việc áp dụng pháp luật, và như vậy mới có thể tránh
rủi ro về việc giao cho một Thẩm phán quyết định số phận của tranh chấp có
giá trị lớn. Đặc biệt, TTRG trong trường hợp này chỉ được áp dụng khi và chỉ
khi chính các đương sự quyết định thông qua việc yêu cầu hoặc không phản
đối Tòa án áp dụng TTRG để giải quyết tranh chấp của họ.
So với dự thảo trước đây, Dự thảo BLTTDSSĐ đã không còn quy định
“Đối với tranh chấp có giá trị trên 100.000.000 đồng, chỉ áp dụng TTRG nếu
ngoài các điều kiện nêu trên và đồng thời các đương sự phải có đề nghị áp
dụng TTRG”. Hay nói cách khác, việc Tòa án áp dụng TTRG không còn dựa
trên cơ sở phải đồng thời có yêu cầu của các đương sự. Tác giả nhận thấy đối
với những tranh chấp có giá ngạch cao, mặc dù vụ án đơn giản, chứng cứ rõ
ràng và đương sự thừa nhận nghĩa vụ… vẫn cần thiết nên có điều kiện chỉ áp
dụng TTRG khi và chỉ khi các bên đương sự đồng ý và có đơn yêu cầu Tòa án
áp dụng TTRG để giải quyết tranh chấp của họ vì về nguyên tắc họ có quyền
được tiếp cận công lý thông qua một trình tự, thủ tục tố tụng đầy đủ.
3.1.2.!Về rút gọn thành phần tham gia giải quyết tranh chấp
Thứ nhất, rút gọn và hạn chế sự tham gia của đại diện Viện kiểm sát
Khoản 2 Điều 313 Dự thảo BLTTDSSĐ có ghi nhận một trong những nội
dung chính của quyết định đưa vụ án ra giải quyết theo TTRG là “Họ, tên
Kiểm sát viên...”. Như vậy, có thể hiểu rằng sự tham gia của Viện kiểm sát tại
phiên tòa sơ thẩm áp dụng theo thủ tục tố tụng chung mà không phân biệt khi
áp dụng TTRG.
Theo tác giả, để hài hòa giữa việc bảo đảm nguyên tắc hiến định là Viện
kiểm sát thực hiện chức năng giám sát hoạt động xét xử và hiệu quả công tác
xét xử, nên xác định vai trò tham gia của Viện kiểm sát tại giai đoạn sơ thẩm
118 đối với các vụ án được giải quyết theo TTRG ở mức đủ để bảo đảm việc thực
hiện chức năng giám sát của Viện kiểm sát.
Tác giả đồng quan điểm cho rằng quan hệ TCDS và đặc biệt là TCKDTM
là những quan hệ tư, quyền định đoạt thuộc về đương sự, nên hạn chế sự can
thiệp của cơ quan nhà nước, của Viện kiểm sát.180 Đối với các vụ án được giải
quyết theo TTRG, về cơ bản các tình tiết của vụ án đã rõ, không khó để xác
định sự thật khách quan của vụ án. Do đó, vấn đề còn lại mà Viện kiểm sát
cần quan tâm là việc Tòa án áp dụng pháp luật có đúng không. Do đó, theo
tác giả để các vụ án được giải quyết một cách nhanh gọn theo TTRG quy định
về vai trò của Viện kiểm sát tham gia trong quá trình tố tụng ở giai đoạn sơ
thẩm chỉ nên giới hạn ở việc thực hiện quyền kháng nghị vì các vụ án đó
không phức tạp kể cả về mặt xác định sự thật khách quan của vụ án và áp
dụng pháp luật nên Viện kiểm sát không cần thiết phải tham gia phiên tòa để
giám sát trực tiếp hoạt động xét xử của Tòa án.
Mặt khác, cũng cần phải quy định việc kháng nghị phúc thẩm chỉ thuộc
quyền hạn của Viện kiểm sát cùng cấp (không áp dụng cho Viện kiểm sát cấp
trên trực tiếp) và chỉ giới hạn cho phép kháng nghị về việc áp dụng pháp luật
của Tòa án cấp sơ thẩm. Có như vậy mới rút ngắn được thời gian giải quyết
vụ án, bản án sơ thẩm có hiệu lực và được đưa ra thi hành nhanh hơn vì
không phải mất thời gian chờ đợi hết thời hạn kháng nghị của Viện kiểm sát
(đặc biệt là của Viện kiểm sát cấp trên).181
Về vai trò và phạm vi tham gia của Viện kiểm sát tại cấp phúc thẩm, tác
giả đồng ý với nội dung quy định tại Điều 323 Dự thảo BLTTDSSĐ, theo
hướng đại diện Viện kiểm sát không tham gia phiên họp phúc thẩm182 trừ
180 Viện nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương, (127), tr.10. 181 Xem: Tưởng Duy Lượng (2015), (5). Theo tài liệu này ghi nhận, các Tòa án tính trung bình từ khi thụ lý đến khi kết thúc vụ án tại Tòa án mất khoảng từ sáu tháng đến bảy tháng; nếu tính từ khi nhận đơn khởi kiện đến khi hết thời hạn kháng nghị của Viện kiểm sát cấp trên trực tiếp thì còn dài hơn nữa. 182 Ở đây tác giả ghi nhận “phiên họp phúc thẩm” vì theo quy định của Điều 323 Dự thảo BLTTDSSD sẽ không mở phiên tòa phúc thẩm. Nhưng theo quan điểm của tác giả vẫn phải mở phiên tòa phúc thẩm (sẽ
119 trường hợp việc xét xử phúc thẩm được thực hiện do có kháng nghị của Viện
kiểm sát.
Thứ hai, về việc rút gọn thành phần xét xử khi giải quyết theo TTRG
Theo thủ tục tố tụng hiện hành, Hội đồng xét xử sơ thẩm là một tập thể, có
thể bao gồm ba thành viên (một Thẩm phán và hai Hội thẩm nhân dân) hoặc
năm thành viên (hai Thẩm phán và ba Hội thẩm nhân dân) và Hội đồng xét xử
phúc thẩm là ba thành viên (ba Thẩm phán) (xem các Điều 52 và 53
BLTTDS). Riêng đối với TTRG, thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm và Hội
đồng xét xử phúc thẩm vụ án dân sự đều do một cá nhân Thẩm phán tiến hành
(Điều 62 Dự thảo BLTTDSSĐ). Tác giả đồng ý với nội dung Dự thảo về
thành phần Hội đồng xét xử cấp sơ thẩm đối với vụ án dân sự nói chung và
đối với vụ án về TCKDTM nói riêng được giải quyết theo TTRG đều chỉ gồm
một Thẩm phán và tại Hội đồng xét xử phúc thẩm cũng chỉ cần một Thẩm
phán (quy định tại Điều 62 của Dự thảo BLTTDSSĐ).
Quan điểm trên dựa vào những cơ sở chính sau đây:
Một là, quy định về thành phần xét xử ở cả cấp sơ thẩm và phúc thẩm chỉ
có một Thẩm phán là để bảo đảm sự phù hợp với HP 2013. Như đã phân tích
ở tiểu mục 1.1.3. trong Chương 1 của Luận án, tinh thần của HP 2013 về vấn
đề này thể hiện khá rõ là HP 2013 quy định việc xét xử theo TTRG được thực
hiện bởi một Thẩm phán, không phân biệt việc xét xử đó là sơ thẩm hay phúc
thẩm. Việc xét xử bởi một Thẩm phán cũng được đa số Người làm công tác
pháp luật và đại diện doanh nghiệp ủng hộ. Kết quả Khảo sát cho thấy,
110/165 các Nhà doanh nghiệp được hỏi (chiếm 66,7%) và 53/96 Người làm
công tác pháp luật được hỏi (chiếm 55,2%) cho rằng chỉ cần một Thẩm phán
giải quyết các loại tranh chấp đó.
Hai là, với bản chất của việc giải quyết các vụ án đơn giản về TCDS nói
chung và về TCKDTM nói riêng có giá trị thấp, bị đơn đã thừa nhận nghĩa vụ, được trình bày tại điểm (v), tiểu mục 3.2.2.2 trong chương 3 này) và khi đó Viện kiểm sát cũng chỉ tham gia phiên tòa phúc thẩm nếu Viện kiểm sát có kháng nghị.
120 hoặc những tranh chấp mà nội dung không phức tạp, chứng cứ rõ ràng và
không gặp khó khăn trong quá trình áp dụng pháp luật... không cần thiết phải
có sự thảo luận, trao đổi nhằm đưa ra những kết luận đúng đắn cho một phán
quyết sơ thẩm hay phúc thẩm.
Ba là, với trình độ, năng lực của Thẩm phán hiện nay thì một Thẩm phán
hoàn toàn có khả năng kiểm tra tính hợp pháp của các yêu cầu khởi kiện, nhất
là trình độ, năng lực của Thẩm phán Tòa án cấp sơ thẩm đã được tăng lên
đáng kể sau một thời gian Tòa án cấp sơ thẩm được tăng thẩm quyền. Điều đó
bảo đảm rằng một Thẩm phán có thể đảm nhiệm tốt việc xét xử các vụ án theo
TTRG mà không cần có sự tham gia của Hội thẩm nhân dân và đại diện Viện
kiểm sát. Tương tự, trình độ và năng lực của Thẩm phán Tòa án cấp phúc
thẩm cũng được tăng lên rõ rệt trong những năm vừa qua đủ để có thể bảo
đảm xem xét lại việc áp dụng pháp luật của Tòa án cấp sơ thẩm khi giải quyết
các vụ án theo TTRG.
Vì vậy, để xác định được sự thật vụ án và việc áp dụng các quy định của
pháp luật để giải quyết đối với những tranh chấp mà nội dung không phức tạp,
chứng cứ rõ ràng và không gặp khó khăn trong quá trình áp dụng pháp luật
hoặc đương sự đã thừa nhận nghĩa vụ hoàn toàn trong khả năng giải quyết bởi
một Thẩm phán. Điều này cũng được thể hiện qua kết quả Khảo sát, mà theo
đó 66% Người làm công tác pháp luật cho rằng trình độ và năng lực của
Thẩm phán hiện nay có thể đảm nhiệm việc một mình giải quyết các tranh
chấp theo TTRG.
Thêm vào đó, tất cả các Thẩm phán đều đã có trình độ đại học, đều có kinh
nghiệm thực tiễn xét xử tại Tòa án, hoặc qua trường đào tạo về nghề Thẩm
phán, và quy trình tuyển chọn Thẩm phán cũng ngày càng khắt khe và đòi hỏi
cao hơn… Do đó, chất lượng xét xử sơ thẩm của đội ngũ Thẩm phán trong
các vụ án có giá trị thấp nói chung là phù hợp và đúng pháp luật.
Bốn là, không cần phải quan ngại về việc liệu Thẩm phán có lạm quyền
hoặc tiêu cực trong khi giải quyết tranh chấp theo TTRG bởi lẽ trong các
121 trường hợp bị đơn đã thừa nhận hoàn toàn nghĩa vụ của mình, nguyên đơn
không cần phải làm bất kỳ điều gì để được chấp nhận các yêu cầu khởi kiện
đó. Còn trong trường hợp vụ án có giá ngạch thấp, về cơ bản Thẩm phán sẽ
khó có thể lạm quyền hoặc tiêu cực để đưa ra phán quyết thiếu công bằng khi
các vụ án đó nội dung tranh chấp khá rõ ràng trong việc xác định sự thật của
vụ án và việc áp dụng pháp luật. Hơn nữa, khi giá ngạch thấp, đương nhiên
động cơ “tiêu cực” cũng ít đi và Thẩm phán khó để chấp nhận rủi ro, bởi lẽ
khi bị phát hiện có hành vi tiêu cực sẽ làm ảnh hưởng đến vị thế và sự nghiệp
của Thẩm phán, nhất là trong bối cảnh hiện nay Thẩm phán được bổ nhiệm
với nhiệm kỳ dài và bền vững hơn nhiều so với trước đây.
Cuối cùng, quy định một Thẩm phán giải quyết vụ án theo TTRG cũng
hoàn toàn phù hợp với kinh nghiệm của nhiều quốc gia trên thế giới, đặc biệt
các nước theo hệ thống Thông luật vai trò cá nhân của Thẩm phán rất được
coi trọng và có ý nghĩa quyết định khi giải quyết các vụ khiếu kiện nhỏ thông
qua cơ chế phán quyết rút gọn mà tác giả trình bày tại tiểu mục 1.1.2.1 trong
Chương 1 của Luận án.
3.1.3.!Về rút gọn trình tự, thủ tục giải quyết vụ án
Dựa trên các trình tự, thủ tục TTDS thông thường hiện nay đã được phân
tích với những hạn chế, bất cập như đã nêu tại Chương 2 Luận án, tác giả cho
rằng đối với các vụ án về TCDS nói chung và các vụ án về TCKDTM nói
riêng được giải quyết theo TTRG có một số trình tự, thủ tục tố tụng sau đây
cần phải được quy định một cách đơn giản hoá và linh hoạt và rút gọn hơn.
(i)!Về thủ tục tống đạt, thông báo văn bản tố tụng
So với các dự thảo trước đây, Điều 172 Dự thảo BLTTDSSĐ đã bổ sung
thêm một thủ tục cấp, tống đạt hoặc thông báo bằng phương tiện điện tử theo
quy định của pháp luật giao dịch điện tử.183 Tác giả ủng hộ quy định mới bổ
183 Điều 173 khoản 2 BLTTDSSĐ cũng quy định về việc này với điều kiện là theo yêu cầu của đương sự hoặc người tham gia tố tụng khác phù hợp với quy định của pháp luật về giao dịch điện tử.
122 sung này, quy định này thực sự có ý nghĩa đối với việc áp dụng TTRG, đặc
biệt trong việc giải quyết các TCKDTM khi mà nguyên đơn, bị đơn và những
người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan về cơ bản đều sử dụng mạng
internet trong hoạt động của mình. Tuy nhiên, để việc triển khai thực hiện quy
định này một cách hiệu quả cần thiết có những hướng dẫn cụ thể, rõ ràng và
kịp thời vì đây là phương thức tống đạt mới.
Ngoài ra, đối với các biện pháp tống đạt truyền thống, cần thiết phải bảo
đảm kinh phí để tống đạt nhanh nhất có thể các quyết định, thông báo, văn
bản của Tòa án cho các đương sự trong các vụ án nói chung và đặc biệt trong
các vụ án được giải quyết theo TTRG nói riêng. Tác giả cho rằng, việc tiết
kiệm được thời gian từ rút ngắn các khoảng thời gian tống đạt nêu trên sẽ tiết
kiệm được nhiều chi phí của xã hội, của Tòa án và của đương sự để hoàn toàn
có thể bù đắp các chi phí chuyển phát nhanh nhất có thể.
(ii)! Về việc triệu tập đương sự để lấy lời khai
Về bản chất, hoạt động thu thập chứng cứ bằng cách Tòa án triệu tập
đương sự để lấy lời khai chỉ đặt ra khi vụ án có nội dung phức tạp, chứng cứ
chưa đầy đủ, ý kiến của các bên đương sự không thống nhất, mâu thuẫn thông
qua nội dung trình bày của nguyên đơn trong đơn khởi kiện và của bị đơn
trong văn bản trả lời về việc bị nguyên đơn khởi kiện… Khi đó, Tòa án trong
nhiệm vụ và quyền hạn của mình và để nhằm giải quyết vụ án một cách chính
xác và hợp pháp, sẽ triệu tập đương sự để lấy lời khai, thu thập chứng cứ làm
sáng tỏ sự thật khách quan của vụ án. Như vậy, căn cứ vào các tiêu chí được
đề xuất nêu trên để xác định vụ án được giải quyết theo TTRG, tác giả cho
rằng việc triệu tập đương sự đến Tòa để lấy lời khai là không cần thiết vì:
Một là, trong trường hợp đương sự đã thừa nhận nghĩa vụ mà bằng chứng
thể hiện thông qua nội dung trong văn bản của bị đơn trả lời đơn khởi kiện
của nguyên đơn. Theo đó, trong nội dung văn bản trả lời, bị đơn đã không
phản đối các yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn. Vì vậy, rõ ràng rằng, Tòa án
không cần phải triệu tập bị đơn, nguyên đơn để lấy lời khai, không cần phải
123 xác minh chứng cứ trong trường hợp này.
Hai là, trong trường hợp tranh chấp có giá ngạch thấp nhưng chứng cứ rõ
ràng và việc áp dụng pháp luật không đến mức phức tạp, Tòa án cũng không
cần thiết phải triệu tập đương sự để nghe các bên trình bày về các tình tiết liên
quan đến vụ án, về các quan điểm của họ đối với việc áp dụng pháp luật.
Ba là, đối với trường hợp mà nội dung tranh chấp không phức tạp, chứng
cứ rõ ràng và tất cả các đương sự đề nghị Tòa án áp dụng TTRG để giải quyết
tranh chấp giữa họ với nhau, Tòa án cũng không cần triệu tập đương sự để lấy
lời khai vì nội dung tranh chấp không phức tạp và chứng cứ đã rõ ràng nên
các bên đương sự mới dám đề nghị Tòa án áp dụng TTRG giải quyết tranh
chấp giữa họ với nhau.
Vấn đề còn lại là khi nào Tòa án thông báo cho các đương sự về việc áp
dụng TTRG để đương sự thực hiện quyền phản đối việc áp dụng TTRG (trong
trường hợp vụ án có tiêu chí là giá ngạch thấp). Tác giả cho rằng, cần phải
thông báo cho các bên sớm nhất có thể để các bên thực hiện quyền phản đối
đó. Ngay sau khi Tòa án nhận được văn bản trả lời đơn khởi kiện của bị đơn,
Tòa án đã có thể quyết định có hay không việc áp dụng TTRG sau khi xem
xét ý kiến phản hồi của bị đơn về đơn khởi kiện. Do đó, thời điểm phù hợp và
sớm nhất để Tòa án gửi cho các bên đương sự thông báo về việc áp dụng
TTRG giải quyết vụ án là thời điểm hợp lý (vài ngày) sau khi nhận được văn
bản trả lời đơn khởi kiện của bị đơn.
Việc quy định nêu trên là nhằm bảo đảm cho việc không trì hoãn các trình
tự, thủ tục thông thường cần phải áp dụng nếu như vụ án được chuyển sang
giải quyết theo thủ tục thông thường khi có ý kiến phản đối của một trong các
bên đương sự. Nếu quy định về việc đương sự chỉ được thông báo về việc áp
dụng TTRG khi nhận được thông báo về việc đưa vụ án ra xét xử như được
quy định tại Dự thảo BLTTDSSĐ,184 theo tác giả là hơi quá muộn.
184 Điều 318 khoản 3 BLTTDSSĐ vẫn giữ nguyên cách tiếp cận của Dự thảo BLTTDSSĐ về vấn đề này.
124
Mặt khác, chính vì việc xác định nguyên lý chung khi áp dụng TTRG là có
thể áp dụng rút gọn một hoặc một số nội dung như: rút gọn về thời hạn tố
tụng, giản lược một số hoạt động tố tụng, hoặc rút gọn về thành phần xét
xử… chứ không nhất thiết phải áp dụng toàn bộ các nội dung của TTRG, tác
giả cho rằng việc quyết định áp dụng TTRG có thể thực hiện vào bất kỳ giai
đoạn nào trong quá trình giải quyết vụ án nếu ở giai đoạn đó các tiêu chí áp
dụng đã được đáp ứng. Ví dụ, trong vụ án mà ban đầu bị đơn không thừa nhận
toàn bộ nghĩa vụ nhưng trong quá trình lấy lời khai, tiến hành hòa giải mà
đương sự thừa nhận toàn bộ các yêu cầu của nguyên đơn, theo tác giả, cần
phải quy định cho phép ngay tại thời điểm đó Tòa án ban hành quyết định áp
dụng TTRG (như vậy vụ án có thể trước đó đã áp dụng các hoạt động tố tụng
của thủ tục thông thường nhưng kể từ thời điểm có quyết định áp dụng
TTRG, các nội dung của TTRG sẽ được triển khai áp dụng). Đồng thời, cũng
cần quy định, trong bất kỳ giai đoạn nào của quá trình tố tụng nếu căn cứ cho
việc áp dụng TTRG không còn nữa, Tòa án hoàn toàn có quyền quyết định
không tiếp tục áp dụng TTRG.
(iii)! Về việc hòa giải
Theo quy định tại khoản 2 Điều 315 Dự thảo BLTTDSSĐ, việc hòa giải sẽ
thực hiện ngay tại phiên tòa sơ thẩm chứ không thực hiện trong quá trình
chuẩn bị xét xử sơ thẩm. Theo quy định này, một mặt, có thể hiểu rằng Tòa án
không còn có trách nhiệm hòa giải trong giai đoạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm
nhưng Tòa án vẫn phải có trách nhiệm chủ động tiến hành hòa giải giữa các
đương sự ngay tại phiên tòa sơ thẩm. Mặt khác, cũng có thể hiểu Tòa án cần
phải tiến hành hòa giải trong giai đoạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm và cả tại phiên
tòa sơ thẩm.
Tác giả cho rằng, không nên quy định hòa giải là thủ tục bắt buộc đối với
các vụ án về TCDS nói chung và các vụ án về TCKDTM nói riêng được giải
quyết theo TTRG ở thủ tục sơ thẩm (kể cả hòa giải trước hoặc tại phiên tòa sơ
thẩm) và ở thủ tục phúc thẩm, trừ trường hợp đương sự yêu cầu Tòa án tiến
hành hòa giải tại thủ tục sơ thẩm. Đề xuất này xuất phát từ một số lý do sau:
125
Một là, mục đích cơ bản của thủ tục hòa giải là Tòa án (với vai trò là bên
thứ ba, trung gian) giúp đỡ, tạo điều kiện để các bên có thể thỏa thuận với
nhau về những nội dung tranh chấp. Bao gồm việc xác định những tình tiết
khách quan của vụ án mà các bên còn chưa thống nhất, các nội dung của từng
yêu cầu khởi kiện được bị đơn thừa nhận hoặc còn tranh chấp… Từ đó, xác
định những vấn đề còn tồn tại để Tòa án xem xét và phân xử. Ngoài ra, mục
đích quan trọng hơn hết của thủ tục hòa giải là hướng tới sự tự nguyện thỏa
thuận để giải quyết tranh chấp giữa các đương sự mà không cần Tòa án phải
xem xét và phân xử. Do đó, đối với những vụ án mà bị đơn đã thừa nhận toàn
bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn và lý do duy nhất nguyên đơn phải kiện
ra Tòa là bị đơn không có điều kiện hoặc không có thiện chí thực hiện nghĩa
vụ. Vì vậy, trong trường hợp này, việc hòa giải bắt buộc chỉ mang tính hình
thức và không cần thiết.
Hai là, đối với những vụ án bản chất tranh chấp không phức tạp, chứng cứ
rõ ràng mà bị đơn không thực hiện nghĩa vụ hoặc là bị đơn không có điều
kiện, hoặc không có thiện chí thực hiện nghĩa vụ, tương tự như đối với trường
hợp bị đơn thừa nhận toàn bộ nghĩa vụ như đã nêu ở trên. Ngoài ra, trong
những trường hợp này, việc hòa giải bắt buộc để nhằm mục đích xác định
những vấn đề các bên còn tranh cãi hoặc đã thừa nhận là không cần thiết với
những chứng cứ đã rõ ràng và bản chất, nội dung khởi kiện không phức tạp.
Ba là, việc không quy định thủ tục hòa giải bắt buộc trong trường hợp áp
dụng TTRG không có nghĩa pháp luật không cho phép các đương sự có thể tự
họ thực hiện việc đàm phán, thương lượng, thỏa thuận… để giải quyết tranh
chấp của mình tại bất kỳ giai đoạn nào của quá trình tố tụng (trong đó bao
gồm cả thủ tục sơ thẩm và thủ tục phúc thẩm). Nói một cách khác, trong suốt
quá trình tố tụng (trước và tại phiên tòa), các đương sự hoàn toàn có quyền tự
thương lượng, thỏa thuận giải quyết các tranh chấp. Kết quả của việc tự thỏa
thuận giữa các đương sự có thể dẫn đến: hoặc các đương sự đề nghị Tòa án
ghi nhận những nội dung mà họ đã thỏa thuận được và Tòa án xem xét, ban
hành quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự theo đúng trình tự
126 luật định (trước phiên tòa hoặc tại phiên tòa); hoặc nguyên đơn sẽ từ bỏ việc
khởi kiện (rút đơn khởi kiện hoặc không đến Tòa theo lần triệu tập hợp lệ) và
Tòa án ban hành quyết định đình chỉ giải quyết vụ án và chấm dứt vụ kiện.
Bốn là, quy định về việc các bên đương sự có thể yêu cầu Tòa án tiến hành
hòa giải cũng tạo điều kiện để các bên đương sự có cơ hội thương lượng và
giải quyết vụ án không cần Tòa án phải xét xử khi các bên đương sự thực sự
có nhu cầu và thiện chí hòa giải. Tuy nhiên, quyền yêu cầu Tòa án thực hiện
việc hòa giải cần thiết đương sự phải thực hiện nếu còn thời hạn chuẩn bị xét
xử sơ thẩm (hợp lý nhất là ngay sau khi được Tòa án thông báo về việc thụ lý
đơn khởi kiện, hoặc khi đương sự yêu cầu (hoặc không phản đối) quyết định
áp dụng TTRG của Tòa án).
(iv)!Về phạm vi kháng cáo, kháng nghị phúc thẩm
Các vụ án được giải quyết theo TTRG đều là những vụ án đơn giản nên
việc xác định sự thật khách quan của các vụ án này cũng đơn giản vì nội dung
tranh chấp không phức tạp, chứng cứ rõ ràng, hoặc bị đơn đã thừa nhận hoàn
toàn các yêu cầu khởi kiện. Bên cạnh đó, cũng phải thừa nhận rằng hiện nay
các Thẩm phán của Tòa án cấp sơ thẩm đã cơ bản có khả năng về chuyên
môn, nghiệp vụ, kinh nghiệm đưa ra phán quyết độc lập về tình tiết khách
quan của vụ việc có độ chính xác cao, và vì thế tỷ lệ sai sót trong trường hợp
này là thấp. Do đó, việc cho phép kháng cáo, kháng nghị đối với việc xác
định tình tiết vụ kiện trong những vụ án về TCKDTM có giá ngạch thấp hoặc
trong trường hợp bị đơn đã thừa nhận nghĩa vụ của mình là không cần thiết.
Như vậy, về cơ bản Tòa án cấp sơ thẩm ít có thể sai lầm khi quyết định về
tình tiết khách quan của vụ án. Do đó, tác giả cho rằng cần mạnh dạn quy
định phạm vi kháng cáo, kháng nghị đối với bản án, quyết định sơ thẩm theo
TTRG chỉ nên giới hạn ở việc kháng cáo, kháng nghị về việc áp dụng pháp
luật của Tòa án cấp sơ thẩm...185 Điều này chắc chắn sẽ làm giảm thiểu đi
những kháng cáo, kể cả kháng nghị, chỉ để nhằm kéo dài thời gian tố tụng.
185 Xem thêm kinh nghiệm của Thái Lan về cùng vấn đề này đã được tác giả nêu tại Chương 1 Luận án.
127
(v)! Về phiên tòa phúc thẩm
Khoản 1 Điều 321 Dự thảo BLTTDSSĐ quy định không cần mở phiên tòa
phúc thẩm để giải quyết kháng cáo đối với bản án của Tòa án cấp sơ thẩm áp
dụng TTRG, tác giả cho rằng quy định như vậy là chưa hợp lý vì không phù
hợp với nguyên tắc hiến định là việc xét xử phải được tiến hành công khai,
trực tiếp và bảo đảm việc tranh luận, như tác giả đã phân tích tại Chương 1
của Luận án.186
Mặt khác, đành rằng các vụ án được giải quyết theo TTRG có giá ngạch
thấp, nội dung tranh chấp đơn giản, chứng cứ rõ ràng hoặc các đương sự thừa
nhận nghĩa vụ và Tòa án cấp phúc thẩm không khó khăn khi xem xét lại
những vấn đề về tình tiết vụ án (theo quan điểm của tác giả là cấp phúc thẩm
không xem xét lại việc xác định sự thật khách quan của vụ án được giải quyết
theo TTRG) nhưng xem xét lại việc áp dụng pháp luật của Tòa án cấp sơ thẩm
là nhiệm vụ chủ yếu và quan trọng của Tòa án cấp phúc thẩm.
Do đó, việc không quy định trong Dự thảo BLTTDSSĐ cho phép các bên
tranh chấp trình bày và tranh luận về việc áp dụng pháp luật tại phiên tòa
phúc thẩm, theo ý kiến của tác giả là chưa phù hợp.
3.1.4.!Về rút gọn thời gian giải quyết vụ án
Qua phân tích các nội dung thể hiện việc rút gọn trình tự thủ tục giải quyết
vụ án theo TTRG cho thấy, việc rút gọn các hoạt động tố tụng một mặt vừa
đơn giản hoá trình tự thủ tục khi giải quyết vụ án theo TTRG, mặt khác cũng
chính việc đơn giản hóa này sẽ giúp cho thời hạn tố tụng được rút ngắn.
Bên cạnh đó, để có thể rút gọn thời gian giải quyết vụ án theo TTRG, tác
giả đề xuất cần phải có những quy định cụ thể, định lượng và kiểm soát được
thời gian thực tế từ khi khởi kiện cho đến khi Tòa án kết thúc việc giải quyết
vụ án.
(i)!Đối với thủ tục sơ thẩm 186 Kiến nghị này của tác giả đã được ghi nhận tại Điều 323 và 324 BLTTDSSĐ.
128
Thứ nhất, về thủ tục nhận đơn khởi kiện và thụ lý vụ án
Như nội dung tại chương 2 Luận án, thực trạng pháp luật và thực tiễn của
hoạt động nộp, nhận và xem xét đơn khởi kiện theo thủ tục tố tụng thông
thường hiện nay đang có nhiều bất cập khiến cho thời hạn giải quyết TCDS
nói chung bị kéo dài ngay từ những hoạt động tố tụng đầu tiên mà chưa có cơ
chế kiểm soát và tăng trách nhiệm của Tòa án. Vì vậy, để phát huy tính hiệu
quả của TTRG, tác giả đề xuất cần quy định theo hướng:
Một là, trước mắt nếu vẫn giữ nguyên quy định cùng với việc nộp đơn
khởi kiện, “người khởi kiện phải gửi kèm theo đơn khởi kiện tài liệu, chứng
cứ để chứng minh cho yêu cầu của mình là có căn cứ và hợp pháp” thì cần
phải có hướng dẫn cụ thể về các tài liệu chứng cứ cần phải nộp theo đơn khởi
kiện chỉ để nhằm hai mục đích xác định được thẩm quyền của Tòa án nhận
đơn và khẳng định được người khởi kiện có quyền khởi kiện. Đối với các
chứng cứ, tài liệu khác hoàn toàn có thể bổ sung sau thời điểm Tòa án thụ lý
và yêu cầu đương sự nộp bổ sung nhằm chứng minh cho yêu cầu của họ và
làm cơ sở để Tòa án giải quyết vụ án. Dự thảo đã quy định về phương thức
tống đạt hoặc thông báo bằng phương tiện điện tử thì cũng nên triển khai áp
dụng hình thức thông báo này ngay từ giai đoạn tố tụng đầu tiên khởi kiện và
thụ lý. Triển khai việc đưa các mẫu đơn lên cổng thông tin điện tử của
TANDTC, Tòa án cấp cao và các Tòa án địa phương…
Về lâu dài, để giảm tải thời gian và đơn giản hoá thủ tục nhận đơn, xem
xét đơn, chúng tôi ủng hộ quan điểm nên quy định theo hướng khi nộp đơn
khởi kiện không đòi hỏi đương sự phải có tài liệu, chứng cứ chứng minh yêu
cầu của mình là có căn cứ và hợp pháp và đồng thời quy định khi nhận đơn
khởi kiện là thụ lý ngay và người khởi kiện phải nộp một khoản phí khởi kiện
(đây được coi là phí xem xét thẩm quyền và cơ sở khởi kiện không phải là
khoản về tạm ứng án phí, án phí)187 nhằm đề cao trách nhiệm của Tòa án và
người khởi kiện. Quy định này giúp để kiểm soát về thời gian tố tụng của Tòa 187 Tưởng Duy Lượng, (5), tr.14&15.
129 án, tăng trách nhiệm cho Tòa án và của cả người khởi kiện. Tuy nhiên, để
kiến nghị này khả thi, đòi hỏi phải có sự cải tiến đồng bộ, minh bạch, công
khai về các điều kiện khởi kiện và để người khởi kiện hoàn toàn chủ động
chuẩn bị hồ sơ khởi kiện một cách đầy đủ.
Hai là, phải bổ sung quy định Tòa án có trách nhiệm cấp giấy xác nhận đã
nhận đơn và xác định về thời hạn trả lời đơn nhằm củng cố quyền lợi và trách
nhiệm của người khởi kiện khi nộp đơn. Đặc biệt bổ sung quy định này làm
tăng trách nhiệm của Tòa án trong việc thực hiện đúng, chính xác về các thời
hạn mà pháp luật đã quy định. Quy định này cũng sẽ giúp từng bước công
khai, minh bạch các hoạt động tố tụng của Tòa án. Ngoài ra, đề xuất nêu trên
cũng góp phần tạo cơ chế giám sát từ ngay chính người khởi kiện, qua đó họ
có thể phát hiện sự vi phạm về thời hạn xem xét đơn khởi kiện từ phía Tòa án
(nếu có).
Thứ hai, về thời điểm xác định vụ án có thể được áp dụng TTRG
Khoản 1 Điều 313 Dự thảo BLTTDSSĐ quy định: “Trong thời hạn ba
mươi ngày kể từ ngày thụ lý vụ án theo quy định tại Điều 191 của Bộ luật này,
nếu xét thấy vụ án đủ điều kiện áp dụng thủ tục rút gọn quy định tại Điều 312
của Bộ luật này thì Thẩm phán được phân công giải quyết vụ án phải ra quyết
định đưa vụ án ra giải quyết theo thủ tục rút gọn và mở phiên tòa xét xử trong
thời hạn mười lăm ngày kể từ ngày ra quyết định.”188
Với quy định như dự thảo nêu trên, thời hạn ba mươi ngày là không khả
thi. Bởi lẽ, quy định của khoản 1 Điều 194 Dự thảo BLTTDSSĐ,189 trong thời
hạn năm ngày làm việc Tòa án phải thông báo bằng văn bản về việc thụ lý
cho các đương sự và những người có liên quan (kể cả Viện kiểm sát). Tiếp
đến, người được thông báo có mười lăm ngày để trả lời đơn khởi kiện và có
quyền xin gia hạn thời hạn này tối đa là mười lăm ngày. Nếu tính cộng dồn
188 Điều 318 BLTTDSSĐ giữ nguyên các quy định như trên. 189 Điều 318 khoản 1 BLTTDSSĐ quy định thời hạn này là không quá 01 tháng.
130 năm ngày làm việc (tương ứng khoảng bảy ngày thông thường) để Tòa án
thông báo về việc thụ lý vụ án, cộng với thời gian gửi thông báo đến các
đương sự và những người có liên quan khác, vậy tổng thời hạn này về lý
thuyết đã là khoảng ba mươi bảy ngày. Do đó, quy định này chưa phù hợp vì:
Một là, trong trường hợp bị đơn đề nghị gia hạn thời hạn trả lời thông báo
thụ lý vụ án, dẫn đến thực tế vụ án sau đó có đáp ứng tiêu chí áp dụng TTRG
cũng không còn cơ hội áp dụng TTRG.
Hai là, mặc dù không có tiêu chí (điều kiện) để áp dụng TTRG trong vòng
một tháng nêu trên nhưng sau khi triệu tập đương sự (chắc chắn chỉ có thể xảy
ra sau một tháng kể từ ngày thụ lý vụ án) mà xuất hiện điều kiện áp dụng
TTRG (đương sự thừa nhận nghĩa vụ, chứng cứ rõ ràng, vụ án đơn giản), Tòa
án cũng không thể áp dụng TTRG, trong khi vụ án đó hoàn toàn có thể áp
dụng được TTRG ít nhất là về thành phần xét xử không cần bởi một tập thể,
và việc áp dụng TTRG ở cấp phúc thẩm (nếu có).
Ba là, có những vụ án Tòa án có thể xác định có tiêu chí có thể áp dụng
TTRG ngay từ khâu xem xét thụ lý vụ án, ví dụ trong hồ sơ khởi kiện có đầy
đủ chứng cứ bị đơn và các đương sự khác thừa nhận nghĩa vụ, giá ngạch vụ
kiện thấp và nội dung tranh chấp đơn giản, chứng cứ rõ ràng. Trong các
trường hợp đó, Tòa án hoàn toàn có thể ra thông báo về việc áp dụng TTRG
cho bị đơn và các đương sự khác vào thời điểm gửi thông báo về việc thụ lý
vụ án. Và như vậy, việc Tòa án giải quyết vụ án khi đó đã có thể rút ngắn
được một tháng (xét về mặt rút gọn thời gian).
Bốn là, chính vì việc xác định nguyên lý chung khi áp dụng TTRG là có
thể áp dụng rút gọn một hoặc một số nội dung như: rút gọn về thời hạn tố
tụng, giản lược một số hoạt động tố tụng, hoặc rút gọn về thành phần xét
xử… chứ không nhất thiết phải áp dụng toàn bộ các nội dung của TTRG. Tác
giả cho rằng việc quyết định áp dụng TTRG nên quy định theo hướng có thể
thực hiện vào bất kỳ giai đoạn nào trong quá trình giải quyết vụ án khi xác
định được tiêu chí áp dụng đã được đáp ứng.
131
Ví dụ, trong vụ án mà ban đầu bị đơn không thừa nhận toàn bộ nghĩa vụ
nhưng trong quá trình lấy lời khai, tiến hành hòa giải mà đương sự thừa nhận
toàn bộ các yêu cầu của nguyên đơn thì, theo tác giả, cần phải quy định cho
phép ngay tại thời điểm đó Tòa án ban hành quyết định áp dụng TTRG (như
vậy vụ án có thể trước đó đã áp dụng các hoạt động tố tụng của thủ tục thông
thường nhưng kể từ thời điểm có quyết định áp dụng TTRG, các nội dung của
TTRG sẽ được triển khai áp dụng đối với những nội dung rút gọn còn lại ở sơ
thẩm và kể cả phúc thẩm sau đó nếu có kháng cáo, kháng nghị hợp pháp).
Đồng thời, cũng cần quy định, trong bất kỳ giai đoạn nào của quá trình tố
tụng nếu căn cứ cho việc áp dụng TTRG không còn nữa thì Tòa án hoàn toàn
có quyền quyết định không tiếp tục áp dụng TTRG.
Thứ ba, về thời hạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm
Vì Tòa án cấp sơ thẩm không phải tiến hành các trình tự, thủ tục tố tụng
thông thường trong quá trình chuẩn bị xét xử, ngoài việc thông báo cho bị đơn
về đơn khởi kiện, thông báo cho các bên về việc áp dụng TTRG để giải quyết
vụ án, nên thời hạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm được rút ngắn đi một cách cơ
bản.
Tác giả đề xuất rằng trong trường hợp bị đơn thừa nhận toàn bộ nghĩa vụ
của mình theo đơn khởi kiện tại văn bản trả lời đơn khởi kiện (ý kiến về việc
thụ lý vụ án), Tòa án ra quyết định đưa vụ án ra xét xử. Trong trường hợp vụ
án được giải quyết theo TTRG do giá ngạch thấp, Tòa án ra quyết định đưa vụ
án ra xét xử ngay sau khi nhận được sự khẳng định của các bên đương sự về
việc không phản đối việc xét xử theo TTRG hoặc hết thời hạn dự kiến đương
sự phải trả lời nhưng đương sự không trả lời thông báo của Tòa án về việc áp
dụng TTRG.
Trong cả hai trường hợp nêu trên, cân nhắc các khoảng thời gian đủ để tiến
hành việc gửi thông báo về đơn khởi kiện, thời gian chuẩn bị đơn trả lời đơn
khởi kiện, thời gian ra thông báo về áp dụng TTRG và để Tòa án có thể nhận
được trả lời của đương sự về việc áp dụng TTRG, cần thiết thời hạn chuẩn bị
132 xét xử sơ thẩm đối với vụ án được giải quyết theo TTRG là không quá hai
tháng. Đề xuất này cũng phù hợp với dự kiến của đa số Người làm công tác
pháp luật và mong đợi của Nhà doanh nghiệp theo kết quả Khảo sát. Theo đó,
80,9% Người làm công tác pháp luật và 73,7% Nhà doanh nghiệp cho rằng
thời hạn tối đa mà họ mong đợi Tòa án giải quyết tranh chấp là hai tháng.
Thứ tư, về việc hoãn phiên tòa sơ thẩm
Điều 311 và 315 Dự thảo BLTTDSSĐ quy định về phạm vi áp dụng
TTRG và phiên tòa sơ thẩm giải quyết theo TTRG, qua đó cho thấy phiên toà
sơ thẩm tiến hành tương tự các quy định của phiên tòa dân sự theo thủ tục
thông thường (loại trừ có quy định mới về việc hòa giải tại phiên tòa sơ thẩm)
và như vậy phiên tòa sơ thẩm đương nhiên vẫn bị hoãn nếu một trong các
đương sự hoặc người đại diện của họ đã được Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ
nhất mà vẫn vắng mặt cho dù không có lý do chính đáng (trừ trường hợp có
đơn yêu cầu xét xử vắng mặt). Tác giả cho rằng, đối với vụ án áp dụng TTRG
cần quy định theo hướng phiên tòa sơ thẩm vẫn tiến hành nếu bị đơn hoặc
người đại diện của họ đã được triệu tập hợp lệ lần thứ nhất mà vắng mặt
không có lý do chính đáng.190 Trong trường hợp nguyên đơn hoặc người đại
diện của họ được triệu tập hợp lệ lần thứ nhất mà vắng mặt không có lý do
chính đáng, Tòa án đình chỉ giải quyết vụ án.
Đề xuất trên đây của tác giả xuất phát từ một số cơ sở chính sau:
Một là, xuất phát từ việc quy định các điều kiện để tranh chấp được áp
dụng TTRG cho thấy, hoãn phiên tòa khi đương sự đã được triệu tập hợp lệ
lần thứ nhất mà vẫn vắng mặt không có lý do chính đáng và cũng không có
đơn xin xét xử vắng mặt là không có cơ sở và không hợp lý. Nếu đương sự đã
không đưa ra được lý do chính đáng và cũng không phải vì trường hợp bất
khả kháng mà vắng mặt, hoặc là họ không có nhu cầu Tòa án tiếp tục giải
quyết tranh chấp của mình (áp dụng trong trường hợp đương sự là nguyên
190 Kiến nghị này của tác giả đã được ghi nhận tại Điều 321 khoản 1 BLTTDSSĐ.
133 đơn) hoặc là họ đang cố tình trốn tránh nhằm kéo dài thời gian (trong trường
hợp đương sự là bị đơn).
Hai là, theo kinh nghiệm khi áp dụng TTRG của các nước trên thế giới, có
một trường hợp được ghi nhận có liên quan đến TTRG, nhằm tiết kiệm thời
gian cũng như chi phí cho các bên trong tranh tụng, đó là “xét xử khiếm
diện”. Xét xử khiếm diện là hình thức xét xử được áp dụng khi bị đơn không
có phản hồi lại đối với thông báo về tranh tụng hoặc tham gia vào tranh tụng
đúng theo thời gian quy định. Khi đó, Tòa án sẽ giải quyết và ra phán quyết
đáp ứng yêu cầu của bên nguyên dựa trên các bằng chứng mà họ cung cấp
trước Tòa án.191
Như vậy, tương tự khi áp dụng tại Việt Nam, trong trường hợp đã được
triệu tập hợp lệ nhưng bị đơn không đến mà không có lý do chính đáng, trong
trường hợp này cần phải coi là họ cố tình trốn tránh và Tòa án vẫn phải tiếp
tục xét xử vụ án để đảm bảo quyền và lợi ích chính đáng của nguyên đơn,
đồng thời, đáp ứng được mục tiêu đơn giản, rút gọn thời gian, tiết kiệm chi
phí khi áp dụng TTRG trong TTDS.
Tóm lại, ở trường hợp trên, không cần thiết hoãn phiên tòa mà phải xử lý
ngay tại phiên tòa tùy thuộc tư cách đương sự khác nhau để có hướng xử lý
hậu quả phù hợp. Đó là, đối với nguyên đơn, Tòa án nên ban hành quyết định
đình chỉ giải quyết vụ án (vì mặc nhiên hiểu rằng nguyên đơn không có nhu
cầu tiếp tục giải quyết vụ án). Ngược lại, đối với bị đơn, Tòa án phải tiếp tục
xét xử vắng mặt bị đơn (vì bị đơn đang cho thấy rằng họ muốn trì hoãn và kéo
dài việc giải quyết tranh chấp khi không đến Tòa án theo giấy triệu tập hợp lệ
của Tòa án).
(ii) Đối với thủ tục phúc thẩm
Theo các quy định về thủ tục thông thường tại cấp phúc thẩm, việc giải
quyết vụ án tại cấp phúc thẩm về cơ bản và trong đại đa số trường hợp là tại
191 Janet Walker & Garry D.Watson (135)
134 phiên tòa phúc thẩm. Tòa án cấp phúc thẩm không phải thực hiện các trình tự,
thủ tục tố tụng trong giai đoạn chuẩn bị xét xử phúc thẩm như Tòa án cấp sơ
thẩm (triệu tập đương sự lấy lời khai, tiến hành hòa giải, xác minh chứng cứ
khi cần thiết...).
Do đó, tác giả cho rằng nội dung rút gọn về thời hạn ở thủ tục phúc thẩm
khi áp dụng TTRG bao gồm các vấn đề sau:
Thứ nhất, về thời hạn kháng cáo, kháng nghị và kháng cáo quá hạn
Vì tính chất của các vụ án được giải quyết theo TTRG là không phức tạp
về nội dung tranh chấp, chứng cứ và việc áp dụng pháp luật, tác giả cho rằng
việc quy định thời hạn mười lăm ngày để đương sự có quyền kháng cáo kể từ
ngày tuyên án hoặc kể từ ngày đương sự được giao bản án hoặc bản án được
niêm yết (quy định tại khoản 1 Điều 245 BLTTDS); và thời hạn kháng nghị từ
mười lăm đến ba mươi ngày đối với Viện kiểm sát cùng cấp hoặc cấp trên
trực tiếp với Tòa án cấp sơ thẩm kể từ ngày tuyên án hoặc ngày Viện kiểm sát
nhận được bản án (quy định tại khoản 1 Điều 252 BLTTDS) là khá dài và
không cần thiết. Tác giả cho rằng, thời hạn kháng cáo của đương sự nên quy
định rút xuống còn năm ngày làm việc là phù hợp và thời hạn kháng nghị của
Viện kiểm sát cũng nên rút xuống còn mười ngày làm việc là hợp lý.192
Thứ hai, về thời hạn chuẩn bị xét xử phúc thẩm
Về thời hạn chuẩn bị xét xử phúc thẩm, tác giả cho rằng Tòa án cấp phúc
thẩm có thể ra quyết định đưa vụ án ra xét xử ngay sau khi nhận được hồ sơ
của vụ án do Tòa án cấp sơ thẩm chuyển lên. Do đó, thời hạn chuẩn bị xét xử
phúc thẩm, tác giả đề xuất là nên rút xuống còn một tháng.193
(iii) Về thủ tục cấp trích lục bản án, bản án
Sau khi kết thúc xét xử sơ thẩm cũng như phúc thẩm, các bên đương sự
đều mong muốn làm sao nhận được bản án càng sớm càng tốt, đặc biệt là đối
192 Kiến nghị này của tác giả đã cơ bản được ghi nhận tại Điều 322 BLTTDSSĐ. 193 Kiến nghị này của tác giả đã được ghi nhận tại Điều 323 khoản 1 BLTTDSSĐ.
135 với những vụ án áp dụng TTRG để họ có thể thực hiện các quyền tiếp theo
của mình như yêu cầu thi hành án và đặc biệt là thực hiện quyền kháng cáo
phúc thẩm. Vì vậy, thời hạn cấp trích lục bản án, bản án nên rút ngắn hơn nếu
vụ án giải quyết theo TTRG. Cụ thể, chúng tôi đề xuất rút ngắn xuống còn ba
ngày đối với việc cấp trích lục bản án và năm ngày đối với việc cấp bản án để
Tòa án gửi cho các đương sự và Viện kiểm sát.194
3.2.!Giải pháp về hoàn thiện pháp luật về thủ tục rút gọn giải quyết
tranh chấp kinh doanh, thương mại
3.2.1.!Sửa đổi, bổ sung Bộ luật tố tụng dân sự
Theo tác giả, BLTTDS cần được sửa đổi, bổ sung những quy định như sau:
(i)!Bổ sung một phần riêng quy định về thủ tục giải quyết vụ án theo
TTRG gồm 2 Chương về TTRG tại Tòa án cấp sơ thẩm và TTRG tại Tòa án
cấp phúc thẩm.
(ii)! Quy định về điều kiện áp dụng TTRG là các vụ án đáp ứng được một
trong những tiêu chí sau: (a) Vụ án mà bị đơn thừa nhận các nghĩa vụ theo
yêu cầu khởi kiện; hoặc (b) Vụ án đơn giản, giá ngạch thấp theo quy định của
pháp luật và chứng cứ rõ ràng, trừ trường hợp đương sự phản đối hợp lý việc
áp dụng TTRG; hoặc (c) Vụ án đơn giản, chứng cứ rõ ràng và theo yêu cầu
của tất cả các đương sự.
(iii)!Sửa đổi Điều 14 BLTTDS theo hướng Tòa án xét xử tập thể vụ án dân
sự và quyết định theo đa số, trừ trường hợp xét xử theo TTRG.195
(iv)!Sửa đổi Điều 86 và Điều 87 BLTTDS theo hướng Tòa án có thể tiến
hành lấy lời khai của đương sự, người làm chứng, trừ trường hợp vụ án được
giải quyết theo TTRG.196
(v)! Sửa đổi Điều 88 BLTTDS theo hướng Tòa án tiến hành đối chất trừ 194 BLTTDSSĐ không có quy định riêng về vấn đề này đối với vụ án được giải quyết theo TTRG. 195 Điều 14 BLTTDSSĐ đã sửa đổi theo hướng nêu trên. 196 Điều 98 và Điều 99 BLTTDSSĐ chưa sửa đổi theo hướng nêu trên.
136 trường hợp vụ án được giải quyết theo TTRG.197
(vi)!Sửa đổi, bổ sung Điều 181 BLTDS theo hướng Tòa án không tiến
hành hòa giải đối với vụ án được giải quyết theo TTRG, trừ trường hợp có
yêu cầu của tất cả các đương sự.198
(vii)! Sửa đổi khoản 3 Điều 179 BLTTDS về thời hạn mở phiên tòa theo
hướng bổ sung quy định về trừ trường hợp vụ án được giải quyết theo TTRG,
đồng thời quy định về thời hạn mở phiên tòa tại Chương về TTRG tại Tòa án
cấp sơ thẩm theo hướng Tòa án phải mở phiên tòa trong thời hạn mười lăm
ngày kể từ ngày ra quyết định đưa vụ án ra xét xử, và bổ sung quy định trong
trường hợp có lý do chính đáng thời hạn này là một tháng.199
(viii)!Quy định tại Chương giải quyết vụ án dân sự theo TTRG tại Tòa án
cấp sơ thẩm về việc Tòa án gửi thông báo cho đương sự về việc áp dụng
TTRG trong thời hạn nhất định, ví dụ năm ngày kể từ ngày Tòa án nhận được
trả lời đơn khởi kiện của bị đơn hoặc trong thời hạn hợp lý theo quy định của
pháp luật mà Tòa án không nhận được trả lời đơn khởi kiện. Việc quy định
thời hạn hợp lý sẽ do TANDTC hướng dẫn phụ thuộc vào một số điều kiện
khách quan nhất định, ví dụ thời hạn cần để chuyển thông báo về thụ lý vụ án
cho bị đơn, thời hạn cần để chuyển trả lời đơn khởi kiện đến Tòa án…200
(ix)!Sửa đổi, bổ sung các quy định liên quan đến sự tham gia của Viện
kiểm sát tại các phiên tòa sơ thẩm, phúc thẩm. Cụ thể, sửa đổi khoản 2 và
khoản 3 Điều 21 và khoản 1 Điều 207 BLTTDS theo hướng “Viện kiểm sát
nhân dân tham gia đối với các phiên tòa sơ thẩm… trừ trường hợp vụ án được
giải quyết theo TTRG” và “Viện kiểm sát nhân dân tham gia đối với phiên 197 Điều 100 BLTTDSSĐ chưa sửa đổi theo hướng nêu trên. 198 Điều 205 BLTTDSSĐ đã được sửa đổi theo hướng Tòa án không tiến hành hòa giải đối với vụ án được giải quyết theo TTRG. 199 Khoản 1 Điều 203 BLTTDSSĐ đã sửa đổi khoản 1 Điều 179 BLTTDS theo hướng nêu trên. Đồng thời, các Điều 318 BLTTDSSĐ và Điều 323 BLTTDSSĐ đã quy định về thời hạn mở phiên tòa sơ thẩm và phiên tòa phúc thẩm. 200 Các kiến nghị này chưa được chấp nhận khi thông qua BLTTDSSĐ. Tác giả vẫn giữ nguyên quan điểm cần tiếp tục nghiên cứu về vấn đề này cho những lần sửa đổi bộ luật tới.
137 tòa, phiên họp phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm theo quy định của Bộ luật
này”.201
(x)! Bổ sung tại Chương giải quyết vụ án dân sự theo TTRG tại Tòa án cấp
phúc thẩm điều luật quy định về phạm vi kháng cáo, kháng nghị phúc thẩm
theo thủ tục rút gọn, với nội dung giới hạn kháng cáo, kháng nghị về việc áp
dụng pháp luật của Tòa án cấp sơ thẩm.202
(xi)!Quy định tại Chương về TTRG tại Tòa án cấp phúc thẩm theo hướng
thời hạn kháng cáo là năm ngày làm việc và thời hạn kháng nghị là bảy ngày
làm việc.203 Đồng thời không ghi nhận quyền kháng nghị phúc thẩm của Viện
kiểm sát cấp trên đối với các bản án, quyết định theo thủ tục rút gọn.204
(xii)! Sửa đổi, bổ sung khoản 2 Điều 241 BLTTDS về thời hạn gửi bản án
cho đương sự, Viện kiểm sát cùng cấp theo hướng trong thời hạn năm ngày
Tòa án phải giao hoặc gửi bản án cho các đương sự và Viện kiểm sát cùng
cấp trong trường hợp vụ án được giải quyết theo TTRG.205
(xiii)! Sửa đổi, bổ sung Điều 243 BLTTDS và Điều 250 BLTTDS về nội
dung kháng cáo, kháng nghị theo hướng chỉ cho phép kháng cáo, kháng nghị
về mặt áp dụng pháp luật của Tòa án cấp sơ thẩm trong trường hợp vụ án
được giải quyết theo TTRG. Cần bổ sung quy định về vấn đề này tại Chương
về TTRG tại Tòa án cấp sơ thẩm.206
(xiv)!Sửa đổi, bổ sung Điều 263 BLTTDS về phạm vi xét xử phúc thẩm
201 Các kiến nghị này chưa được chấp nhận khi thông qua BLTTDSSĐ. Tác giả vẫn giữ nguyên quan điểm cần tiếp tục nghiên cứu về vấn đề này cho những lần sửa đổi bộ luật tới. 202 Các kiến nghị này chưa được chấp nhận khi thông qua BLTTDSSĐ. Tác giả vẫn giữ nguyên quan điểm cần tiếp tục nghiên cứu về vấn đề này cho những lần sửa đổi bộ luật tới. 203 Kiến nghị này đã được ghi nhận tại Điều 311 BLTTDSSĐ. 204 Kiến nghị này chưa được chấp nhận khi thông qua BLTTDSSĐ. Tác giả vẫn giữ nguyên quan điểm cần tiếp tục nghiên cứu về vấn đề này cho những lần sửa đổi bộ luật tới. 205 Kiến nghị này chưa được chấp nhận khi thông qua BLTTDSSĐ. Tác giả vẫn giữ nguyên quan điểm cần tiếp tục nghiên cứu về vấn đề này cho những lần sửa đổi bộ luật tới. 206 Kiến nghị này chưa được chấp nhận khi thông qua BLTTDSSĐ. Tác giả vẫn giữ nguyên quan điểm cần tiếp tục nghiên cứu về vấn đề này cho những lần sửa đổi bộ luật tới.
138 theo hướng Tòa án cấp phúc thẩm chỉ xem xét lại về mặt áp dụng pháp luật
của Tòa án cấp sơ thẩm trong trường hợp vụ án được giải quyết theo TTRG.
Cần bổ sung quy định về vấn đề này tại Chương về TTRG tại Tòa án cấp sơ
thẩm.207
(xv)! Sửa đổi, bổ sung Điều 21 và khoản 2 Điều 264 BLTTDS về sự tham
gia của Viện kiểm sát tại phiên tòa sơ thẩm và phiên tòa phúc thẩm theo
hướng đại diện Viện kiểm sát chỉ tham gia phiên tòa phúc thẩm trong trường
hợp có kháng nghị của Viện kiểm sát.208
3.2.2.!Ban hành văn bản hướng dẫn thực hiện Bộ luật tố tụng dân sự sửa
đổi
TTRG là một chế định hoàn toàn mới trong TTDS ở nước ta, do đó để áp
dụng TTRG một cách có ý nghĩa và hiệu quả cần phải ban hành một số văn
bản quy phạm pháp luật hướng dẫn áp dụng TTRG về một số vấn đề mà
không thể hoặc không nên quy định chi tiết trong BLTTDSSĐ sau đây:
(i)! Hướng dẫn về việc xác định giá ngạch thấp là điều kiện áp dụng
TTRG.
(ii)! Hướng dẫn về trình tự thụ lý, xem xét và xử lý vụ án thuộc đối tượng
áp dụng TTRG; việc phân công Thẩm phán phụ trách, trình tự giải quyết các
yêu cầu, khiếu nại liên quan; thời hạn và nội dung thông báo về thụ lý vụ án
có thể áp dụng TTRG, thông báo về việc áp dụng TTRG; về cơ sở xem xét
tính hợp lý của việc phản đối áp dụng TTRG; về cách tính thời hạn liên quan
đến TTRG như thời hạn gửi các thông báo, giấy triệu tập phiên tòa, quyết
định đưa vụ án ra xét xử, thời hạn gửi bản án sơ thẩm cho các đương sự và
cho Viện kiểm sát, thời hạn kháng cáo, kháng nghị...
(iii)!Hướng dẫn về phạm vi xét xử phúc thẩm: những nội dung nào được 207 Kiến nghị này chưa được chấp nhận khi thông qua BLTTDSSĐ. Tác giả vẫn giữ nguyên quan điểm cần tiếp tục nghiên cứu về vấn đề này cho những lần sửa đổi bộ luật tới. 208 Kiến nghị này chưa được chấp nhận khi thông qua BLTTDSSĐ. Tác giả vẫn giữ nguyên quan điểm cần tiếp tục nghiên cứu về vấn đề này cho những lần sửa đổi bộ luật tới.
139 coi là xem xét lại ở cấp phúc thẩm về áp dụng pháp luật, những nội dung nào
được coi là liên quan đến việc xác định sự thật khách quan của vụ án không
thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án cấp phúc thẩm.
Tác giả cho rằng cơ sở và nội dung đề xuất nêu trên hoàn toàn có tính khả
thi. Bởi lẽ, hệ thống TAND được cơ cấu tổ chức lại theo LTCTAND sửa đổi,
theo hướng TANDTC tập trung vào việc hướng dẫn áp dụng pháp luật và tổng
kết công tác xét xử, do đó TANDTC có nhiều điều kiện hơn trong việc đưa ra
các hướng dẫn áp dụng TTRG. Thêm vào đó, với quy định mới về việc tuyển
chọn, bổ nhiệm và phê chuẩn Thẩm phán TANDTC theo hướng bảo đảm các
Thẩm phán TANDTC là những người có năng lực, trình độ và kinh nghiệm
cao, hoàn toàn hy vọng các văn bản hướng dẫn của TANDTC về TTRG sẽ
được ban hành kịp thời và bảo đảm về chất lượng.
3.3.! Giải pháp về thi hành các quy định về thủ tục rút gọn giải quyết
tranh chấp kinh doanh, thương mại
TTRG chỉ được áp dụng có ý nghĩa và khả thi trên thực tế khi và chỉ khi,
ngoài các giải pháp về hoàn thiện khuôn khổ pháp luật như nêu trên, cần phải
có một số giải pháp khác sau đây:
3.3.1.!Quán triệt nhận thức về ý nghĩa và yêu cầu của thủ tục rút gọn
Như đã đánh giá ở Chương 2, theo đó các thời hạn mà pháp luật quy định
thường không được tuân thủ trên thực tế. Tác giả cho rằng với một chế định
mới về TTRG, trong đó các thời hạn đưa ra đều được rút gọn hơn so với các
thời hạn thông thường nên vấn đề đầu tiên cần giải quyết để bảo đảm các quy
định về TTRG được thực thi có ý nghĩa trên thực tế là quán triệt nhận thức
của các Tòa án, Thẩm phán và cán bộ Tòa án về yêu cầu áp dụng TTRG.
Các Tòa án và đội ngũ cán bộ Tòa án cần phải nhận thức rõ về yêu cầu
cấp bách cần phải áp dụng TTRG trong một số trường hợp mà pháp luật quy
định để từ đó nâng cao ý thức thực thi các quy định của pháp luật tố tụng
trong tất cả các khâu tố tụng, từ việc tiếp nhận đơn khởi kiện của nguyên đơn,
140 thụ lý đơn khởi kiện, ra các thông báo cần thiết về thụ lý đơn khởi kiện, về áp
dụng TTRG... Nếu Tòa án và đội ngũ cán bộ của Tòa án không nhận thức
được đầy đủ yêu cầu về việc áp dụng TTRG mà vẫn “xử lý” các vụ việc đó
theo tuần tự và thông lệ như đã và đang áp dụng đối với những tranh chấp
thông thường khác thì chắc chắn ý nghĩa của chế định TTRG sẽ không đạt
được trên thực tế.
3.3.2.! Xây dựng cơ chế, tổ chức, nguồn lực và chế tài bảo đảm thực hiện
các quy định về thủ tục rút gọn
Theo tác giả hiện nay hệ thống cơ sở hạ tầng của Tòa án về dữ liệu pháp
luật cũng tốt hơn nhiều so với trước đây để các Thẩm phán và cán bộ Tòa án
có thể truy cập các thông tin và quy định liên quan của pháp luật trong quá
trình chuẩn bị công tác xét xử. Điều đó dẫn đến giảm thiểu nhiều thời gian để
Tòa án xác định tính phức tạp của những vấn đề pháp lý áp dụng cho vụ án
thuộc đối tượng áp dụng TTRG, và cũng giảm thiểu đáng kể thời gian để Tòa
án kiểm tra tính hợp pháp của các yêu cầu của nguyên đơn trong trường hợp
bị đơn thừa nhận nghĩa vụ (thuộc một trong những trường hợp áp dụng
TTRG).
Tuy nhiên, để đảm bảo việc triển khai áp dụng TTRG được thuận lợi và
hiệu quả, cần thiết mỗi Tòa án tùy thuộc vào điều kiện vật chất và các nguồn
lực cụ thể của mình để xây dựng một cơ chế và trình tự tổ chức phù hợp thực
hiện việc áp dụng TTRG có sự phân công rõ ràng người chịu trách nhiệm
“đầu vào, đầu ra” và thời gian xử lý từng đầu việc. Cụ thể, việc phân công
Thẩm phán chịu trách nhiệm xử lý các đơn khởi kiện có thể thuộc trường hợp
áp dụng TTRG, trách nhiệm của bộ phận nhận đơn khởi kiện trình Thẩm phán
phụ trách việc thụ lý đơn, mối quan hệ giữa Thẩm phán phụ trách và lãnh đạo
Tòa án trong việc xem xét, cân nhắc có áp dụng TTRG, thẩm quyền xem xét
và quyết định về việc có chấp nhận sự phản đối của đương sự đối với việc áp
dụng TTRG, về việc chuyển vụ án theo TTRG sang thủ tục thông thường...
Ngoài ra, mỗi Tòa án cũng cần xây dựng các trình tự kiểm tra, giám sát
141 việc áp dụng TTRG nhằm bảo đảm việc áp dụng các thủ tục này là đúng đắn
ngay từ giai đoạn đầu tiên áp dụng TTRG.
Tiếp theo, TANDTC cần xây dựng lộ trình sơ kết, kiểm tra, tổng kết định
kỳ, đột xuất việc thực hiện các quy định về TTRG, đồng thời bảo đảm nguồn
lực để sẵn sàng hướng dẫn kịp thời các Tòa án địa phương.
Tác giả cho rằng cần phải xây dựng và thực thi các chế tài đủ mạnh để bảo
đảm các Tòa án, Thẩm phán và các cán bộ liên quan của Tòa án không vi
phạm các quy định về TTRG. Các chế tài đó phải được nghiên cứu kỹ lưỡng
và được xây dựng trên cơ sở đủ mạnh nhưng đồng thời vẫn bảo đảm sự độc
lập của Thẩm phán khi xét xử, tính chủ động và linh hoạt của Tòa án cũng
như của Thẩm phán trong việc áp dụng TTRG trong những trường hợp mà
pháp luật tố tụng cho phép.
142
KẾT LUẬN CHƯƠNG 3
Một số kết luận chính của Chương 3 có thể được tóm tắt như sau:
(i)!Về điều kiện áp dụng TTRG: khác với quan điểm của ban soạn thảo Dự
thảo BLTTDSSĐ quy định điều kiện để áp dụng TTRG phải hội tụ toàn bộ
các tiêu chí, tác giả cho rằng để xác định các điều kiện của một vụ án về
TCDS nói chung và vụ án về TCKDTM nói riêng được áp dụng TTRG cần
thiết các tiêu chí đó phải được xây dựng làm sao để có thể áp dụng được một
hoặc một số nội dung của TTRG (rút gọn về thời hạn tố tụng, giản lược một
số hoạt động tố tụng, hoặc rút gọn về thành phần xét xử…) chứ không nhất
thiết phải áp dụng rút gọn toàn bộ các nội dung của TTRG.
Một vụ án có thể thuộc đối tượng rút gọn về thành phần xét xử, hoặc trình
tự, thủ tục tố tụng vẫn hoàn toàn có thể áp dụng TTRG để giải quyết cho dù
thời gian xét xử có thể không được rút gọn.
Do đó, tác giả đề xuất một TCDS hay một TCKDTM khi chỉ cần có đủ
một trong ba tiêu chí sau đây sẽ được áp dụng TTRG: (i) các đương sự thừa
nhận nghĩa vụ; (ii) đơn giản, giá ngạch thấp theo quy định của pháp luật,
chứng cứ rõ ràng và không có sự phản đối hợp lý của đương sự; hoặc (iii) đơn
giản, chứng cứ rõ ràng và có đề nghị hoặc có sự đồng ý áp dụng TTRG của tất
cả các đương sự.
(ii)!Về việc không mở phiên tòa phúc thẩm: quy định về việc không mở
phiên tòa phúc thẩm là không phù hợp với nguyên tắc hiến định về việc xét
xử phải được tiến hành công khai, trực tiếp và bảo đảm việc tranh luận.
(iii)!Về mối quan hệ giữa các quy định về thủ tục chung với TTRG: Dự
thảo BLTTDSSĐ chưa quy định tại một số điều liên quan ở các phần khác
Phần thứ 4 về TTRG về việc không áp dụng các quy định đó trong trường hợp
vụ án được giải quyết theo TTRG là chưa phù hợp vì việc không quy định
“trừ trường hợp vụ án được giải quyết theo thủ tục rút gọn” tại các điều luật
143 liên quan đó sẽ dẫn đến việc trên thực tế Tòa án gặp khó khăn khi không rõ có
áp dụng các điều luật đó hay không đối với vụ án được giải quyết theo TTRG.
(iv)!Về thời điểm áp dụng TTRG: Cần quy định về việc TTRG có thể được
áp dụng vào bất kỳ thời điểm nào trong quá trình giải quyết vụ án khi xuất
hiện điều kiện để áp dụng TTRG.
(v)!Về hòa giải: Cần quy định việc hòa giải không mang tính bắt buộc
trong vụ án được giải quyết theo TTRG.
(vi)!Về mở phiên tòa: Mặc dù vụ án được giải quyết theo TTRG nhưng vẫn
phải mở phiên tòa để bảo đảm nguyên tắc xét xử công khai, trực tiếp và các
đương sự có quyền tranh luận.
(vii)!Về sự tham gia của Viện kiểm sát: Nên quy định cụ thể về việc đại
diện Viện kiểm sát chỉ tham gia phiên tòa phúc thẩm đối với vụ án được giải
quyết theo TTRG trong trường hợp có kháng nghị của Viện kiểm sát cùng
cấp.
(viii)!Về tổ chức thực hiện các quy định về TTRG: Việc áp dụng TTRG có
hiệu quả hay không phụ thuộc vào việc cần có những giải pháp tổng thể để
quán triệt nhận thức về ý nghĩa của TTRG, xây dựng cơ chế, tổ chức phù hợp,
bảo đảm nguồn lực để có thể thi hành có hiệu quả các quy định về TTRG.
(ix)!Về đặc thù của TTRG trong việc giải quyết TCKDTM: TTRG được áp
dụng chung cho việc giải quyết các vụ án về TCDS, trong đó có TCKDTM.
Tuy nhiên, các giao dịch về kinh doanh, thương mại có những đặc thù riêng
(thường giá trị giao dịch lớn) nên khi xác định tiêu chí tranh chấp có giá
ngạch thấp của các TCKDTM thuộc đối tượng áp dụng TTRG không thể đồng
nhất với mức giá ngạch như của các vụ án về TCDS khác.
Mặt khác, việc rút gọn về thời gian giải quyết các vụ án về TCKDTM
theo TTRG cũng cần phải được rút gọn nhiều hơn so với thời gian giải quyết
các vụ án về TCDS khác vì một nguyên tắc của TTDS là giải quyết các vụ án
về TCKDTM phải được nhanh chóng hơn so với các vụ án về TCDS khác.
144
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
Luận án có những kết luận và kiến nghị chính sau đây:
Thứ nhất, TTRG đang được triển khai xây dựng trong bối cảnh hoàn toàn
thuận lợi và có tính khả thi cao, cụ thể:
(i) Đã có quy định của Hiến pháp về việc áp dụng TTRG tạo cơ sở chính
trị pháp lý cho cả hệ thống chính trị và tư pháp thực hiện những quy định của
tố tụng dân sự về TTRG khi được ban hành.
(ii) Có sự đồng thuận cao trong giới khoa học pháp lý và thực tiễn xét xử
về nhu cầu áp dụng TTRG trong quá trình giải quyết một số vụ án thuộc đối
tượng có thể áp dụng một thủ tục gọn nhẹ, đơn giản hơn so với thủ tục thông
thường mà vẫn bảo đảm công lý, quyền và lợi ích hợp pháp của các đương sự.
(iii) Về năng lực và trình độ của đội ngũ Thẩm phán đã được nâng lên
đáng kể. Tất cả các Thẩm phán đều có trình độ đại học và trên đại học, đều có
nhiều kinh nghiệm thực tiễn xét xử tại Tòa án, hoặc qua các trường đào tạo về
nghề Thẩm phán và quy trình tuyển chọn Thẩm phán cũng ngày càng khắt
khe và đòi hỏi cao hơn...
(iv) Nhận thức pháp lý của đương sự, đặc biệt của các doanh nghiệp được
tăng lên trong những năm vừa qua và cùng với đội ngũ chuyên gia pháp lý
của các doanh nghiệp, đội ngũ Luật sư đã được phát triển một cách đáng kể
về số lượng và chất lượng, hoàn toàn có cơ sở để các đương sự trong vụ án
dân sự nói chung và vụ án về TCKDTM nói riêng có đủ điều kiện và khả
năng tham gia trong suốt quá trình tố tụng của Tòa án một cách kịp thời và
hiệu quả hơn.
Như vậy, TTRG cần được xây dựng trên tinh thần của các Nghị quyết của
Đảng và Hiến pháp 2013 nhằm tăng cường hơn nữa hiệu quả của hoạt động
xét xử nhưng phải bảo đảm các tranh chấp được giải quyết đúng pháp luật và
bảo đảm quyền và lợi ích của đương sự.
145
Thứ hai, trong tương lai gần TTRG cần được xây dựng trên tinh thần bảo
đảm các nguyên tắc hiến định và các nguyên tắc cơ bản của TTDS, bao gồm
các nguyên tắc: chế độ hai cấp xét xử; xét xử công khai, trực tiếp và bảo đảm
quyền tranh luận... Tuy nhiên, lâu dài, sau khi đã qua thực tiễn thi hành TTRG
và một khi đã đủ các điều kiện cần thiết, tác giả nhận thấy cần có sự tiếp tục
sửa đổi hoàn thiện từ chính các nguyên tắc hiến định để làm sao xây dựng
một TTRG đúng với bản chất đơn giản, gọn nhẹ, giảm thiểu tối đa các chi phí
mà vẫn đảm bảo công lý.
Thứ ba, TTRG chỉ được áp dụng để giải quyết các vụ án dân sự chứ
không bao gồm giải quyết các việc dân sự. Nội dung của TTRG bao gồm rút
gọn về thành phần xét xử, trình tự và thời gian xét xử.
Thứ tư, việc xây dựng TTRG ở nước ta cần được dựa trên những nguyên
lý cơ bản về TTDS nói chung và TTRG nói riêng, có tham khảo các kinh
nghiệm tốt được đúc rút từ các nền pháp lý đã có trải nghiệm áp dụng TTRG
một cách linh hoạt phù hợp với hoàn cảnh cụ thể của nước ta.
Thứ năm, các quy định của TTRG phải được phân tích và mổ xẻ từ nhiều
lăng kính khác nhau trên tinh thần không vì tạo ra một khuôn khổ pháp lý
cứng nhắc chỉ để rút gọn về thời gian xét xử như vậy sẽ không mang tính khả
thi. Các quy định hiện hành của pháp luật tố tụng về thời hạn chuẩn bị xét xử
trong các vụ án về TCDS nói chung và TCKDTM nói riêng về cơ bản đã là
ngắn so với các nước trên thế giới nhưng thực tế xét xử dường như khó có thể
đáp ứng được các thời hạn luật định đó. Cách tiếp cận hiện nay của các nhà
làm luật theo hướng chỉ hướng tới rút gọn về thời gian xét xử dường như sẽ
lại đi vào vết mòn cũ khi chưa đưa ra được các giải pháp khắc phục những
nguyên nhân còn tồn tại của việc chưa tuân thủ được các thời hạn chuẩn bị xét
xử theo luật định hiện nay. Điều đó rất có khả năng dẫn đến một thực tế là
TTRG sẽ không phát huy được ý nghĩa căn nguyên của nó.
Thứ sáu, các tiêu chí áp dụng TTRG được đề xuất một cách chính thống
146 trong Dự thảo BLTTDSSĐ chưa được xây dựng dựa trên nền tảng khoa học
và kinh nghiệm quốc tế và chưa tính đến các đặc thù của Việt Nam. Luận án
đưa ra hai đề xuất hoàn toàn mới với cách tiếp cận xây dựng tiêu chí áp dụng
TTRG theo hướng linh hoạt và nội dung của TTRG cũng mang tính linh hoạt
sẽ bảo đảm được tính khả thi và hiệu quả cao của việc áp dụng TTRG trên
thực tế. Luận án cũng đưa ra những luận điểm và đề xuất mới về tính hài hòa
và cân bằng giữa tăng tính hiệu quả của công tác xét xử thông qua việc áp
dụng TTRG với việc bảo đảm những nguyên tắc cơ bản của Hiến pháp,
nguyên tắc cơ bản của tố tụng dân sự nhằm bảo đảm công lý, bảo vệ quyền và
lợi ích hợp pháp của đương sự. Các quy định về TTRG trong Dự thảo
BLTTDS dường như chưa lưu tâm một cách thỏa đáng vấn đề quan trọng này.
Tuy nhiên, vì giới hạn của Luận án không thể giải quyết hết các vấn đề
của TTRG, nhất là khi nước ta còn chưa có kinh nghiệm thực tế áp dụng
TTRG trong TTDS, Luận án còn chưa giải quyết được một số vấn đề sau đây:
Thứ nhất, chưa mô tả chi tiết một số tiêu chí của TTRG, ví dụ: về việc xác
định như thế nào là một vụ án đơn giản (mặc dù trong nội dung Luận án tác
giả đã giải thích một cách khái quát là đơn giản về mặt xác định sự thật của
vụ án và đơn giản về áp dụng pháp luật); và thế nào là vụ án có chứng cứ rõ
ràng. Đây sẽ là những vấn đề cần phải làm rõ trong quá trình áp dụng TTRG
nhưng khó có thể phân tích một cách chi tiết được trong khuôn khổ của một
luận án tiến sỹ vì phạm vi của vấn đề đó là quá rộng và chỉ có thể thực hiện
được điều đó khi TTRG được trải nghiệm triển khai áp dụng một thời gian
trên thực tế.
Hai là, chưa chỉ ra các ngưỡng giá ngạch thấp khác nhau làm cơ sở để áp
dụng TTRG. Thực sự, đây là vấn đề khá phức tạp và đòi hỏi việc nghiên cứu
toàn diện nhiều yếu tố liên quan nhưng lại không thuộc phạm vi trọng tâm của
Luận án. Cách tiếp cận của tác giả về vấn đề này theo hướng nên linh hoạt
hóa trong các quy định mang tính định lượng trong các đạo luật mà nên dành
cho ngành tư pháp sự chủ động xác định trong quá trình thi hành TTRG, dựa
147 trên tính chất của mỗi loại hình tranh chấp khác nhau, điều kiện phát triển
kinh tế, xã hội của từng vùng miền, địa phương... cũng như tùy thuộc vào
từng thời điểm cụ thể.
Những vấn đề nêu trên dù chưa được giải quyết một cách tận cùng trong
khuôn khổ của một luận án nhưng là những vấn đề khá thú vị và cần tiếp tục
nghiên cứu, quan sát và trải nghiệm từ thực tế áp dụng TTRG. Tác giả sẽ tiếp
tục nghiên cứu những vấn đề này trong các công trình khoa học tiếp theo của
mình về TTRG./.
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH CÔNG BỐ KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
CỦA ĐỀ TÀI LUẬN ÁN!
A.! Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Trường và cấp Bộ đã tham gia và thực hiện
1.! Chủ nhiệm Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Trường: “Giải quyết tranh chấp giữa người tiêu dùng với tổ chức, cá nhân kinh doanh bằng Thủ tục đơn giản/ rút gọn trong tố tụng dân sự”. Nghiệm thu ngày 31-7-2013. Xếp loại: Tốt;
2.! Thành viên tham gia Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ Vấn đề xây dựng thủ tục rút gọn theo yêu cầu cải cách tư pháp và hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay – Thực trạng và giải pháp”, năm 2014 (chủ nhiệm đề tài: TS. Trần Anh Tuấn). Cụ thể: Viết chuyên đề “Yêu cầu cải cách tư pháp, hội nhập kinh tế quốc tế với việc xây dựng thủ tục tố tụng dân sự rút gọn ở Việt Nam” cùng với TS. Trần Anh Tuấn. Nghiệm thu ngày 25-12-2014. Xếp loại: Xuất sắc.
B.! Bài viết tại hội thảo và trên các tạp chí khoa học chuyên ngành luật trong nước
3.! Đặng Thanh Hoa, (2015), “Góp ý dự thảo Bộ luật tố tụng dân sự (sửa đổi): giải quyết vụ án dân sự theo thủ tục rút gọn”, Tài liệu hội thảo “Góp ý sửa đổi toàn diện Bộ luật tố tụng dân sự”, do Trường đại học Luật Tp. Hồ Chí Minh tổ chức ngày 17-9-2015;
4.! Đặng Thanh Hoa, (2015), “Sự tham gia của Viện kiểm sát trong các phiên tòa xét xử sơ thẩm và phúc thẩm vụ án dân sự theo thủ tục rút gọn”, Tạp chí dân chủ pháp luật điện tử, ngày 15-9-2015;
5.! Đặng Thanh Hoa, (2015), “Xây dựng điều kiện áp dụng thủ tục rút gọn”, Tạp chí Tòa án nhân dân, (19);
6.! Đặng Thanh Hoa, (2015), “Kinh nghiệm quốc tế - đề xuất xây dựng thủ tục rút gọn trong tố tụng dân sự Việt Nam”, Tạp chí Luật sư, (10);
7.! Đặng Thanh Hoa, (2015), “Góp ý Dự thảo Bộ luật Tố tụng dân sự sửa đổi: về thủ tục rút gọn trong tố tụng dân sự”, Tạp chí Khoa học pháp lý số 3, (88);
8.! Đặng Thanh Hoa, (2015), “Hiệu lực của bản án – quyết định theo thủ tục rút gọn”, Tạp chí Tòa án nhân dân, (10);
9.! Đặng Thanh Hoa (2013), “Giải quyết tranh chấp của người tiêu dùng theo thủ tục rút gọn”, Tạp chí Dân chủ & Pháp Luật, (8).
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
A. Danh mục các văn kiện của Đảng và chính sách của Nhà nước
1.! Đảng Cộng sản Việt Nam (2005), Nghị quyết số 48-NQ/TƯ ngày 24-5-
2005 về Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam
đến năm 2010, định hướng đến năm 2020, Hà Nội
2.! Đảng Cộng sản Việt Nam (2005), Nghị quyết 49-NQ/TW ngày 2-6-2005
về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020, Hà Nội.
3.! Nghị quyết Hội nghị lần thứ ba Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa
VIII – Hà Nội, 1997.
4.! Nghị quyết số 19/NQ-CP của Chính phủ ngày 12-03-2015 về những
nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu tiếp tục cải thiện môi trường kinh doanh,
nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia hai năm 2015 – 2016.
B. Danh mục văn bản pháp luật
5.! Bộ luật dân sự Việt Nam (1995), NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
6.! Bộ luật dân sự Việt Nam (2005), NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
7.! Bộ luật tố tụng dân sự Cộng hòa nhân dân Trung Hoa (2002), Bản dịch
tiếng Việt, Hà Nội.
8.! Bộ luật tố tụng dân sự Cộng hòa Pháp (1998), NXB Chính trị Quốc gia,
Hà Nội.
9.! Bộ luật tố tụng dân sự Liên bang Nga (2005), NXB Tư pháp, Hà Nội.
10.! Bộ luật tố tụng dân sự Việt Nam năm 2004 – Sửa đổi bổ sung năm 2011
(2011), NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
11.! Tìm hiểu Hiến pháp Nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam sửa đổi
2013, NXB Đồng Nai, Đồng Nai.
12.! Luật tổ chức tòa án nhân dân (2014), NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
13.! Luật trọng tài thương mại năm (2014), NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
14.! Sắc lệnh 51/SL ngày 17-04-1946 về thẩm quyền của Tòa án và sự phân
công các nhân viên Nghị quyết số 428/NQ-UBTVQH13 ngày 29-12-
2011 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về triển khai thực hiện Nghị quyết
của Quốc hội về Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh của Quốc hội
nhiệm kỳ khóa XIII.
15.! Sắc lệnh số 131/SL ngày 24-01-1946 về cách tổ chức các Tòa án và các
ngạch Thẩm phán.
16.! Nghị quyết số 45/2013/QH13 ngày 18-6-2013 về điều chỉnh Chương
trình xây dựng luật, pháp lệnh nhiệm kỳ Quốc hội khóa XIII và Chương
trình xây dựng luật, pháp lệnh năm 2014.
C. Danh mục các tài liệu tham khảo
Tài liệu tham khảo bằng tiếng Việt
17.! Trương Hòa Bình (2014), “Vấn đề áp dụng thủ tục rút gọn trong xét xử
và thành lập Tòa giản lược trong hệ thống Tòa án nhân dân”, Tạp chí Tòa
án nhân dân, (04).
18.! Nguyễn Văn Bình (Chủ biên) (2009), Từ điển thuật ngữ pháp luật Pháp
– Việt, Nhà pháp luật Việt – Pháp, NXB Từ điển bách khoa, Hà Nội.
19.! Michael Bogdan (1994), Luật so sánh, Kluwer Norstedts Juridik Tano
(Người dịch: Lê Hồng Hạnh và Dương Thị Hiền).
20.! Đỗ Văn Chỉnh, Phạm Thị Hằng (2013), “Cần có quy định thủ tục rút gọn
trong Bộ luật tố tụng dân sự”, Tạp chí Tòa án nhân dân, (03).
21.! Jean-Marie Coulon (2000), “Kỷ yếu Hội thảo pháp luật về tố tụng dân
sự”, Nhà pháp luật Việt – Pháp tổ chức ngày 9&10-11-2000, Hà Nội.
22.! Jean-Marie Coulon (2001), “Kỷ yếu Hội thảo pháp luật về tố tụng dân
sự”, Nhà pháp luật Việt – Pháp tổ chức ngày 29&30-10-2001, Hà Nội.
23.! Ngô Cường (2014), “Mô hình Tòa án đơn giản ở Nhật Bản”, Tạp chí Tòa
án nhân dân, (16).
24.! Nguyễn Quang Du (2004), “Một số vấn đề về thủ tục rút gọn trong dự
thảo BLTTDS – Kinh nghiệm của Cộng hòa Liên bang Đức”, Kỷ yếu các
tọa đàm tổ chức tại Việt Nam trong khuôn khổ dự án JICA, Quyển 6.
25.! Ngô Anh Dũng (2002), “Sự cần thiết phải quy định thủ tục rút ngắn trong
pháp luật dân sự”, Tạp chí Tòa án nhân dân, (04).
26.! Dự án Tăng cường tiếp cận công lý và bảo vệ quyền tại Việt Nam (2015),
Báo cáo nghiên cứu và đề xuất cơ chế, mô hình giải quyết tranh chấp dân
sự theo thủ tục rút gọn tại Việt Nam, Hà Nội.
27.! Đỗ Văn Đại và Trần Hoàng Hải (2011), Pháp luật Việt Nam về Trọng tài
Thương mại, NXB Chính trị quốc gia.
28.! Nguyễn Huy Đẩu (1962), Luật dân sự tố tụng Việt Nam, NXB Khai Trí,
Sài Gòn.
29.! Lê Thu Hà (2003), Một số suy nghĩ về cơ chế xét xử vụ án dân sự, NXB
Chính trị quốc gia, Hà Nội.
30.! Lê Thu Hà (2003), Một số suy nghĩ về cơ chế xét xử vụ án dân sự, NXB
Chính trị quốc gia, Hà Nội.
31.! Lê Thu Hà (2006), Bình luận khoa học: Một số vấn đề của pháp luật tố
tụng dân sự và thực tiễn áp dụng, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
32.! Lê Thu Hà (2010), Tổ chức xét xử vụ án dân sự đáp ứng yêu cầu cải cách
tư pháp, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
33.! Phan Chí Hiếu (2005), “Thực trạng pháp luật giải quyết tranh chấp kinh
doanh ở Việt Nam”, Tạp chí Dân chủ và Pháp luật, (12).
34.! Đặng Thanh Hoa (2013), “Giải quyết tranh chấp của người tiêu dùng
theo thủ tục rút gọn”, Tạp chí Dân chủ và Pháp luật, (08).
35.! Đặng Thanh Hoa (chủ nhiệm đề tài) (2013), “Giải quyết tranh chấp giữa
người tiêu dùng với tổ chức cá nhân kinh doanh bằng thủ tục rút gọn
trong tố tụng dân sự”, Báo cáo tổng kết đề tài khoa học và công nghệ cấp
cơ sở, Trường Đại học Luật Tp. Hồ Chí Minh.
36.! Đào Văn Hội (1999), Giải quyết tranh chấp kinh tế bằng Tòa án, NXB
Chính trị quốc gia.
37.! Đào Văn Hội (2004), Hoàn thiện pháp luật giải quyết tranh chấp kinh tế
ở nước ta hiện nay, NXB Chính trị quốc gia.
38.! Bùi Thị Dung Huyền, Lê Thế Phúc (2010), “Xét xử theo thủ tục đơn giản
các vụ án dân sự – Nhu cầu và định hướng”, Tạp chí Tòa án nhân dân,
(05).
39.! JICA (1998), Japanese law (Luật Nhật Bản), tập III, NXB Thanh niên,
Hà Nội.
40.! Khoa Pháp luật Dân sự Trường Đại học Luật Hà Nội (2014), “Xu hướng
đơn giản hóa thủ tục tố tụng trên thế giới và những vấn đề đặt ra đối với
Việt Nam”, Hội thảo cấp khoa do Khoa Pháp luật Dân sự Trường Đại
học Luật Hà Nội tổ chức ngày 10-10-2014, Hà Nội.
41.! Tưởng Duy Lượng (2015), Báo cáo khảo sát về chỉ số giải quyết tranh
chấp hợp đồng, Hội thảo tham vấn hoàn thiện Bộ luật tố tụng dân sự để
cải thiện môi trường kinh doanh do Cơ quan Phát triển Quốc tế Hoa Kỳ
(USAID) tổ chức ngày 1-10-2015, Hà Nội.
42.! Lê Nết (2006), Kinh tế luật, NXB Trí thức.
43.! Montesquieu, Tinh thần pháp luật, Bản dịch của Hoàng Thanh Đạm,
NXB Giáo dục, 1996.
44.! Nhà pháp luật Việt - Pháp (1998), “Thủ tục xét xử cấp thẩm và việc thi
hành các bản án, quyết định của Tòa án”, Tài liệu hội thảo về pháp luật
tố tụng dân sự, Hà Nội.
45.! Phạm Hữu Nghị (1999), “Về cơ chế giải quyết tranh chấp kinh tế ở nước
ta trong giai đoạn hiện nay”, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, (12).
46.! Nguyễn Như Phát (2001), “Pháp luật tố tụng và các hình thức tố tụng
kinh tế”, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, (11).
47.! Hoàng Phê (chủ biên) (2004), Từ điển tiếng Việt, NXB Đà Nẵng - Trung
tâm Từ điển học.
48.! Mai Hồng Quỳ (chủ nhiệm đề tài) (1999), “Thực tiễn tranh chấp kinh tế
với việc hoàn thiện pháp luật kinh doanh”, Đề tài nghiên cứu khoa học
cấp bộ, Thành phố Hồ Chí Minh.
49.! Mai Hồng Quỳ (2012), Tự do kinh doanh và đảm bảo quyền con người
tại Việt Nam, NXB Lao động, Thành phố Hồ Chí Minh.
50.! Alan Redfern, Martin Hunter, Nigel Blackaby (2004), Constantine
Partasides, Pháp luật và thực tiễn Trọng tài thương mại quốc tế, NXB
Thomson, Sweet & Maxwell (Bản dịch của Phòng Thương mại và Công
nghiệp Việt Nam năm 2009).
51.! Võ Hồng Sơn (2010), “Cần bổ sung thủ tục đơn giản vào Bộ luật tố tụng
dân sự”, Tạp chí Tòa án nhân dân, (11).
52.! Hoàng Thị Minh Sơn (chủ biên), (2013), Giáo trình Luật tố tụng hình sự
Việt Nam, NXB Công an nhân dân, Hà Nội.
53.! Đào Xuân Tiến (2004), “Góp ý kiến dự thảo Bộ luật tố tụng dân sự”, Tạp
chí Nghiên cứu lập pháp, (04).
54.! Tòa án nhân dân tối cao (1995), “Một số vấn đề về cơ sở lý luận và thực
tiễn của việc xây dựng Bộ luật tố tụng dân sự”, Đề tài nghiên cứu khoa
học cấp bộ, Hà Nội.
55.! Tòa án nhân dân tối cao (1996), “Hoàn thiện pháp luật Việt Nam về thủ
tục giải quyết vụ việc dân sự theo định hướng cải cách tư pháp”, Đề tài
nghiên cứu khoa học cấp bộ, Hà Nội.
56.! Tòa án nhân dân tối cao (2000), “Về pháp luật tố tụng dân sự”, Kỷ yếu dự
án VIE/95/017 Tăng cường năng lực xét xử tại Việt Nam, Hà Nội.
57.! Tòa án nhân dân tối cao (2005), Báo cáo tổng kết công tác ngành Tòa án
năm 2005 và phương hướng nhiệm vụ năm 2006 của ngành Tòa án nhân
dân, Hà Nội.
58.! Tòa án nhân dân tối cao (2006), Báo cáo tổng kết công tác ngành Tòa án
năm 2006 và phương hướng nhiệm vụ năm 2007 của ngành Tòa án nhân
dân, Hà Nội.
59.! Tòa án nhân dân tối cao (2007), Báo cáo tổng kết công tác ngành Tòa án
năm 2007 và phương hướng nhiệm vụ năm 2008 của ngành Tòa án nhân
dân, Hà Nội.
60.! Tòa án nhân dân tối cao (2008), Báo cáo tổng kết công tác ngành Tòa án
năm 2008 và phương hướng nhiệm vụ năm 2009 của ngành Tòa án nhân
dân, Hà Nội.
61.! Tòa án nhân dân tối cao (2009), Báo cáo tổng kết công tác ngành Tòa án
năm 2009 và phương hướng nhiệm vụ năm 2010 của ngành Tòa án nhân
dân, Hà Nội.
62.! Tòa án nhân dân tối cao (2010), Báo cáo của Tòa án nhân dân tối cao số
20/BC-TANDTC ngày 01/09/2010 về tổng kết 5 năm thi hành Bộ luật tố
tụng dân sự, Hà Nội.
63.! Tòa án nhân dân tối cao (2010), Bản tổng hợp ý kiến Bộ, ngành về dự án
Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật tố tụng dân sự ngày 1-9-
2010, Hà Nội.
64.! Tòa án nhân dân tối cao (2010), Báo cáo tổng kết công tác ngành Tòa án
năm 2010 và phương hướng nhiệm vụ năm 2011 của ngành Tòa án nhân
dân, Hà Nội.
65.! Tòa án nhân dân tối cao (2011), Báo cáo tổng kết công tác ngành Tòa án
năm 2011 và phương hướng nhiệm vụ năm 2012 của ngành Tòa án nhân
dân, Hà Nội.
66.! Tòa án nhân dân tối cao (2012), Báo cáo tổng kết công tác ngành Tòa án
năm 2012 và phương hướng nhiệm vụ năm 2013 của ngành Tòa án nhân
dân, Hà Nội.
67.! Tòa án nhân dân tối cao (2013), Báo cáo tổng kết công tác ngành Tòa án
năm 2013 và phương hướng nhiệm vụ năm 2014 của ngành Tòa án nhân
dân, Hà Nội.
68.! Tòa án nhân dân tối cao (2014), Báo cáo tổng kết công tác ngành Tòa án
năm 2014 và phương hướng nhiệm vụ năm 2015 của ngành Tòa án nhân
dân, Hà Nội.
69.! Tòa án nhân dân tối cao (2014), Mô hình thủ tục rút gọn trong tố tụng
dân sự - kinh nghiệm quốc tế cho Việt Nam, Tài liệu hội thảo về chương
trình đối tác tư pháp, do Tòa án nhân dân tối cao tổ chức tại Tp. Hồ Chí
Minh tổ chức các ngày 24&25-11-2014.
70.! Tòa án nhân dân tối cao (2015), Báo cáo Tổng kết thực tiễn 10 năm thi
hành Bộ luật tố tụng dân sự, Hà Nội.
71.! Nguyễn Thị Thu Thủy (2011), “Khả năng áp dụng thủ tục rút gọn trong
tố tụng dân sự Việt Nam”, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, (12).
72.! Phan Hữu Thư (2001), Xây dựng Bộ luật tố tụng dân sự - Những vấn đề
lý luận và thực tiễn, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
73.! Ngô Ngọc Trai (2015), “Tố tụng chậm trễ gây tác hại cho nền kinh tế”,
Tạp chí Luật sư, (07).
74.! Trần Anh Tuấn (2009), Pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam trong quá
trình hội nhập quốc tế, trong cuốn “Pháp luật Việt Nam trong tiến trình
hội nhập quốc tế và phát triển bền vững”, NXB Công an nhân dân, Hà
Nội.
75.! Trần Anh Tuấn (chủ nhiệm đề tài) (2010), “Hoàn thiện pháp luật Việt
Nam về thủ tục giải quyết vụ việc dân sự theo định hướng cải cách tư
pháp”, Đề tài nghiên cứu khoa học cấp cơ sở, Trường Đại học Luật Hà
Nội.
76.! Trần Anh Tuấn (chủ nhiệm đề tài) (2014), “Vấn đề xây dựng thủ tục tố
tụng dân sự rút gọn theo yêu cầu cải cách tư pháp và hội nhập kinh tế
quốc tế hiện nay - Thực trạng và giải pháp”, Đề tài nghiên cứu khoa học
cấp bộ, Hà Nội.
77.! Nguyễn Thị Thu Thủy (2011), “Khả năng áp dụng thủ tục rút gọn trong
tố tụng dân sự Việt Nam”, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, (12).
78.! Trường Đại học Luật Hà Nội (2009), Pháp luật Việt Nam trong tiến trình
hội nhập quốc tế và phát triển bền vững, NXB Công an nhân dân.
79.! Viện khoa học pháp lý - Bộ Tư pháp (1996), “Chuyên đề: Luật tố tụng
dân sự”, Thông tin khoa học pháp lý, (01).
80.! Viện khoa học pháp lý - Bộ Tư pháp (2003), “Chuyên đề: Một số vấn đề
cải cách tư pháp ở Trung Quốc”, Thông tin khoa học pháp lý (12), Hà
Nội.
81.! Viện khoa học pháp lý - Bộ Tư pháp (2004), “Chuyên đề: Tổng hợp ý
kiến đóng góp về dự thảo Bộ luật tố tụng dân sự”, Thông tin khoa học
pháp lý, (01), Hà Nội.
82.! Viện khoa học pháp lý - Bộ Tư pháp (2004), “Một số vấn đề về Luật tố
tụng dân sự nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa”, Thông tin khoa học
pháp lý, (03), Hà Nội.
83.! Viện kiểm sát nhân dân tối cao (2010), “Viện kiểm sát tổ chức hội nghị
lấy ý kiến toàn ngành về dự án luật sửa đổi bổ sung một số điều của Bộ
luật tố tụng dân sự 2004”, Tạp chí Viện kiểm sát, (17).
84.! Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương (2015), “Góp ý dự thảo Bộ
luật tố tụng dân sự (sửa đỗi) để cải thiện môi trường kinh doanh theo
Nghị quyết 19 của Chính phủ”, Hội thảo tham vấn hoàn thiện Bộ luật tố
tụng dân sự để cải thiện mội trường kinh doanh do Cơ quan Phát triển
Quốc tế Hoa Kỳ (USAID) tổ chức ngày 1-10-2015, Hà Nội.
85.! Viện nghiên cứu khoa học pháp lý (2008), Một số vấn đề về pháp luật
dân sự Việt Nam từ thế kỉ VI đến thời Pháp thuộc (tái bản), NXB Chính
trị quốc gia, Hà Nội.
86.! Viện nghiên cứu nhà nước và pháp luật, Trung tâm khoa học xã hội và
nhân văn quốc gia (2001), “Những quan điểm cơ bản về Bộ luật TTDS
Việt Nam”, Báo cáo tổng quan đề tài nghiên cứu khoa học, Hà Nội.
Tài liệu tham khảo bằng tiếng Anh
87.! Edward Brunet (2008), “Summary Judgment is Constitutional”, 92
Iowa L. Rev.
88.! Jay C. Carlisle (1988-1989), “Simplified Procedure for Court
Determination of Disputes under New York’s Civil Practice Law and
Rules”, 54 Brook. L. Rev.
89.! Larry L. Chubb, “Economic Analysis in the Courts: Limits and
Constraints”, 64 Ind. L.J. 769.
90.! R. Coase (1960), “The Problems of Social Cost”, 3 Journal of Law and
Economics 1; G. Calabresi (1961), “Some thoughts on Risk
Distribution and the Law of Torts”, 70 Yale Law Journal 499.
91.! “Civil Procedure Code of France” [http://civillawnetwork. wordpress.
com/2008/01/08/the-civil-procedure-code-of-france/].
92.! “Civil Procedure Code of Japan” [http://www. courts. go.
jp/english/proceedings/civil_suit. html#ii_b_4].
93.! “Civil Procedure Code of Singapore”
[http://www.singaporelaw.sg/content/CivilProcedure.html#Section7].
94.! Civil Procedure Code of Thailand
[http://195.83.177.9/upl/pdf/code_39.pdf].
95.! “Civil Procedure Code of United States”
[http://www.dcsc.gov/dccourts/docs/SUPERIOR_COURT_RULES_O
F_CIVIL_PROCEDURE_090707.pdf].
96.! Japan International Cooperation Agency (1998), Japaness Law -
Volume 2.
97.! Christian Koller (2014), Chapter 2: Civil Justice in the Austrian-
German Tradition, 34 IUS Gentium.
98.! Michael D. Murray, “The Great Recession and the Rhetorical Canons
of Law and Economics”, 58 Loy. L. Rev. 615.
99.! Bryan A. Garner (2009), Black’s Law Dictionary, 9th Edition, St. Paul,
MN: West.
100.!Carl F. Goodman (2004), Summary Courts and Special Cases, Justice
and Civil Procedure in Japan, Ocean Publications Inc.
101.!Corina D. Gerety and Rihard P. Holme (2011), “Simplified Procedure
in the Real World Under C.R.C.P, 16.1”, 40 Colo. Law. 23.
102.!Carl F.Gooldman (2004), Justice and Civil Procedure in Japan, Ocean
Publications Inc.
103.!Corina Gerety (2010), Survey of the Colorado Bench & Bar on
Colorado’s Simplified Pretrial Procedure for Civil Actions 1, IAALS.
104.!Milton D. Green (1979), Section 8. Summary Judgment, Basic Civil
Procedure, Foundation Press.
105.!Dan Fenno Henderson (2000), The Summary Courts, Civil Procedure
in Japan - Parker School of Foreign and Comparative Law, Columbia
University, Transnational Juris Publications, Inc.
106.!Organisation for Economic Co-operation and Development (2006),
Consumer Dispute Resolution and Redress in the Global Marketplace
24, [http://www.oecd.org/internet/consumer/36456184.pdf].
107.!Ministry of the Attorney General (Jan 1, 2010), “Fact Sheet: Simplified
Procedure under Rule 76 of the Rules on Civil Procedure 2”,
[http://www.attorneygeneral.jus.gov.on.ca/english/courts/civil/fact_she
et_simplified_procedure_76.pdf].
108.!Geofrey C.Hazard Jr, Colin C.Tait, William A.Fletcher (2010),
Pleading and Procedure – State and Federal, Case and Materials, 8th
Edition, University Casebook Series.
109.!Keith N. Hylton (2008), “When Should a Case be Dismissed? The
116.!http://www.nolo.com/legal-encyclopedia/small-claims-suits-how-much-
30031.html.
117.!http://www.justice.gov.uk/courts/procedure-rules/civil/rules/part27.
118.!http://open.justice.gov.uk/courts/civil-cases/.
119.!http://www.nycourts.gov/COURTS/nyc/smallclaims/startingcase.shtml.
120.!http://www.nycourts.gov/COURTS/nyc/smallclaims/trial.shtml.
121.!http://www.courts.ca.gov/documents/2014-Court-Statistics-Report.pdf
122.!https://www.nycourts.gov/courthelp/pdfs/SmallClaimsHandbook.pdf
123.!http://www.doingbusiness.org/data/exploretopics/enforcing-
contracts/reforms
Economics of Pleading and Summary Judgment Standards”, 16 Sup.
Ct. Econ. Rev.
110.!Ministry of Justice of the United Kingdom's website
[http://www.justice. gov.uk/courts/procedure-rules/civil/rules].
111.!Robert Wyness Millar (1928-1929), “Three American Ventures in
Summary Civil Procedure”, 38 Yale L. J.
112.!Paul Ranjard (2011), “A Comparative Study between the Civil
Procedures of France, Germany and China”
[http://www.ipr2.org/storage/Comparative_Study_on_Civil_Procedures
_of_France,_Germany_and_China-EN1067.pdf].
113.!R. Posner (1986), Economic Analysis of Law, Third Edition.
114.!Suja A. Thomas (2004), “The Seventh Amendment, Modern Procedure,
and the English Common Law”, 82 Washington U.L.Q.
115.!Taisu Zhang (2012), “The Pragmatic Court: Reinterpreting the
Supreme Court of China”, 25 Colum. J. Asian L.
Tài liệu tham khảo trên trang web
124.!http://congly.com.vn/hoat-dong-nganh/xay-dung-phap-lenh-thu-tuc-rut-
gon-trong-to-tung-dan-su-bao-dam-viec-giai-quyet-cac-vu-viec-dan-su-
duoc-nhanh-chong-chinh-xac-45114.html
125.!http://duthaoonline.quochoi.vn/DuThao/Lists/TT_TINLAPPHAP, Án
dân sự: Có nên xử rút gọn?
126.!http://duthaoonline.quochoi.vn/DuThao/Lists/TT_TINLAPPHAP, Thủ
tục rút gọn: Chỉ xử trong vòng một tháng?
127.!http://moj.gov.vn/ct/tintuc/Pages/nghien-cuu-trao-doi.aspx, Hải Lộc,
“Tìm hiểu hệ thống Tòa án và công tác đào tạo các chức danh tư pháp
của Cộng hòa Liên bang Đức”.
128.!http://www.thesaigontimes.vn/130855/Nhung-he-luy-kinh-te-vi-su-le-
the-trong-to-tung-dan-su.html, Lương Văn Trung, “Những hệ lụy kinh tế
về sự lê thê trong tố tụng dân sự”.
129.! http://tuoitre.vn/tin/phap-luat/20150615/tham-phan-di-hoc-nghi-quyet-
hop-cong-doan-nghi-phep-la-duong-su-lanh-du/761907.html, Trương
Trọng Nghĩa, “Thẩm phán đi học nghị quyết, nghỉ phép đương sự lãnh
đủ”.
130.! http://www.thesaigontimes.vn/131616/Dai-bieu-QH-Vien-Kiem-sat-
can-co-mat-tai-toa-dan-su.html, Nguyễn Xuân Thủy, “Đại biểu Quốc
hội: Viện Kiểm sát cần có mặt tại Tòa dân sự”.
131.!https://luatminhkhue.vn/dan-su/sua-doi-bo-luat-to-tung-dan-su-vien-
kiem-sat-tham-gia-phien-toa-dan-su,-khong-can-thiet-.aspx, Nguyễn Thị
Hoài Phương, “Sửa đổi Bộ luật tố tụng dân sự: Viện Kiểm sát tham gia
phiên tòa dân sự, không cần thiết?”.
SỐ LIỆU THỐNG KÊ KẾT QUẢ GIẢI QUYẾT CÁC VỤ KINH DOANH
THƯƠNG MẠI CỦA TÒA ÁN NHÂN DÂN
(Ban hành kèm theo Báo cáo số 43/TANDTC-KHXX ngày 26-02-2015
của Tòa án nhân dân tối cao)
I. Năm 2005
TAND các cấp đã giải quyết theo thủ tục sơ thẩm, phúc thẩm và giám đốc
thẩm được 1.223 vụ việc trong tổng số 1.495 vụ việc, đạt 82%, trong đó:
- TAND cấp sơ thẩm đã giải quyết 1035 vụ việc trong số 1.260 vụ việc đã thụ
lý, đạt 82,1% (các TAND cấp huyện đã giải quyết 169 vụ việc; các TAND cấp
tỉnh đã giải quyết 866 vụ việc);
- TAND cấp phúc thẩm đã giải quyết 174 vụ việc trong tổng số 219 vụ việc đã
thụ lý, đạt 80% (các TAND cấp tỉnh đã giải quyết 10 vụ việc; các Tòa Phúc
thẩm TANDTC đã giải quyết 164 vụ việc);
- Các Hội đồng giám đốc thẩm, tái thẩm đã giải quyết 14 vụ việc trong tổng số 16
vụ việc đã thụ lý, đạt 88% (các Ủy ban Thẩm phán TAND cấp tỉnh đã giải quyết
01 vụ việc; Tòa kinh tế và HĐTPTANDTC đã giải quyết 13 vụ việc).
Tỷ lệ các bản án, quyết định giải quyết tranh chấp yêu cầu về TCKDTM bị hủy
là 2,5%, bị sửa là 3,9%. So với năm 2004 tỷ lệ các bản án, quyết định bị hủy
tăng 0,3%, bị sửa tăng 1,3%.
II. Năm 2006
TAND các cấp đã giải quyết theo thủ tục sơ thẩm, phúc thẩm và giám đốc
thẩm được 2.274 vụ việc trong tổng số 2866 vụ việc, đạt 79,4% (số vụ yêu cầu
tuyên bố phá sản đã giải quyết là 16/53 vụ), trong đó:
- TAND cấp sơ thẩm đã giải quyết 1978 vụ việc trong số 2498 vụ việc đã thụ
lý, đạt 79,2% (các TAND cấp huyện đã giải quyết 689 vụ việc; các TAND cấp
tỉnh đã giải quyết 1.289 vụ việc);
- TAND cấp phúc thẩm đã giải quyết 280 vụ việc trong tổng số 347 vụ việc đã
thụ lý, đạt 80,7% (các TAND cấp tỉnh đã giải quyết 73 vụ việc; các Tòa Phúc
thẩm TANDTC đã giải quyết 207 vụ việc);
- Các Hội đồng giám đốc thẩm, tái thẩm đã giải quyết 16 vụ việc trong tổng số 21
vụ việc đã thụ lý, đạt 76,2% (các Ủy ban Thẩm phán TAND cấp tỉnh đã giải
quyết 01 vụ việc; Tòa kinh tế và Hội đồng Thẩm phán (HĐTP) TANDTC đã giải
quyết 15 vụ việc).
Tỷ lệ các bản án, quyết định giải quyết tranh chấp yêu cầu về TCKDTM bị hủy là
2%, bị sửa là 3%. So với năm 2005 tỷ lệ các bản án, quyết định bị hủy giảm
0,05%, bị sửa tăng 0,9%. Trong đó, tỷ lệ các bản án quyết định của TAND cấp sơ
thẩm bị hủy để giải quyết lại chiếm 2,3%, sửa chiếm 3,4%; tỷ lệ các bản án, quyết
định của TAND cấp phúc thẩm bị hủy chiếm 3,2%.
III. Năm 2007
TAND các cấp đã giải quyết theo thủ tục sơ thẩm, phúc thẩm và giám đốc
thẩm được 4.206 vụ việc trong tổng số 4.798 vụ việc, đạt 87,7%, trong đó:
- TAND cấp sơ thẩm đã giải quyết 3.783 vụ việc trong số 4.287 vụ việc đã thụ
lý, đạt 88,2% (các TAND cấp huyện đã giải quyết 1948 vụ việc; các TAND
cấp tỉnh đã giải quyết 1.835 vụ việc);
- TAND cấp phúc thẩm đã giải quyết 401 vụ việc trong tổng số 485 vụ việc đã
thụ lý, đạt 82,7% (các TAND cấp tỉnh đã giải quyết 158 vụ việc; các Tòa Phúc
thẩm TANDTC đã giải quyết 243 vụ việc);
- Các Hội đồng giám đốc thẩm, tái thẩm đã giải quyết 22 vụ việc trong tổng số 26
vụ việc đã thụ lý, đạt 84,6% (các Ủy ban Thẩm phán TAND cấp tỉnh đã giải
quyết 4 vụ việc; Tòa kinh tế và HĐTPTANDTC đã giải quyết 18 vụ việc).
IV. Năm 2008
TAND các cấp đã giải quyết theo thủ tục sơ thẩm, phúc thẩm và giám đốc
thẩm được 5.343 vụ việc trong tổng số 6.034 vụ việc, đạt 88,5%, trong đó:
- TAND cấp sơ thẩm đã giải quyết 4.748 vụ việc trong số 5.384 vụ việc đã thụ
lý, đạt 88,2% (các TAND cấp huyện đã giải quyết 1.948 vụ việc; các TAND
cấp tỉnh đã giải quyết 1.835 vụ việc);
- TAND cấp phúc thẩm đã giải quyết 538 vụ việc trong tổng số 626 vụ việc đã
thụ lý, đạt 82,7% (các TAND cấp tỉnh đã giải quyết 262 vụ việc; các Tòa Phúc
thẩm TANDTC đã giải quyết 276 vụ việc);
- Các Hội đồng giám đốc thẩm, tái thẩm đã giải quyết 21 vụ việc trong tổng số
24 vụ việc đã thụ lý, đạt 87,5% (các Ủy ban Thẩm phán TAND cấp tỉnh đã giải
quyết 0 vụ việc; Tòa kinh tế và HĐTPTANDTC đã giải quyết 21 vụ việc).
V. Năm 2009
TAND các cấp đã giải quyết theo thủ tục sơ thẩm, phúc thẩm và giám đốc
thẩm được 7.347 vụ việc trong tổng số 8.477 vụ việc, đạt 86,7%, trong đó:
- TAND cấp sơ thẩm đã giải quyết 6.574 vụ việc trong số 7.612 vụ việc đã thụ
lý, đạt 86,4%(các TAND cấp huyện đã giải quyết 3.250 vụ việc; các TAND
cấp tỉnh đã giải quyết 3.324 vụ việc);
- TAND cấp phúc thẩm đã giải quyết 728 vụ việc trong tổng số 807 vụ việc đã
thụ lý, đạt 90,2 % (các TAND cấp tỉnh đã giải quyết 388 vụ việc; các Tòa Phúc
thẩm TANDTC đã giải quyết 340 vụ việc);
- Các Hội đồng giám đốc thẩm, tái thẩm đã giải quyết 45 vụ việc trong tổng số 58
vụ việc đã thụ lý, đạt 77,6 % (các Ủy ban Thẩm phán TAND cấp tỉnh đã giải quyết
8 vụ việc; Tòa kinh tế và HĐTPTANDTC đã giải quyết 37 vụ việc).
VI. Năm 2010
TAND các cấp đã giải quyết theo thủ tục sơ thẩm, phúc thẩm và giám đốc
thẩm được 7.789 vụ việc trong tổng số 9.271 vụ việc, đạt 84 %, trong đó:
- TAND cấp sơ thẩm đã giải quyết 6.879 vụ việc trong số 8.256 vụ việc đã thụ
lý, đạt 83,3 % (các TAND cấp huyện đã giải quyết 3.351 vụ việc; các TAND
cấp tỉnh đã giải quyết 3.528 vụ việc);
- TAND cấp phúc thẩm đã giải quyết 870 vụ việc trong tổng số 961 vụ việc đã
thụ lý, đạt 90,5% (các TAND cấp tỉnh đã giải quyết 551 vụ việc; các Tòa Phúc
thẩm TANDTC đã giải quyết 319 vụ việc);
- Các Hội đồng giám đốc thẩm, tái thẩm đã giải quyết 54 vụ việc trong tổng số 40
vụ việc đã thụ lý, đạt 74,1% (các Ủy ban Thẩm phán TAND cấp tỉnh đã giải
quyết 14 vụ việc; Tòa kinh tế và HĐTPTANDTC đã giải quyết 26 vụ việc).
VII. Năm 2011
TAND các cấp đã giải quyết theo thủ tục sơ thẩm, phúc thẩm và giám đốc
thẩm được 9249 vụ việc trong tổng số 11.009 vụ việc, đạt 84%, trong đó:
- TAND cấp sơ thẩm đã giải quyết 8.418 vụ việc trong số 10.040 vụ việc đã
thụ lý, đạt 83,8% (các TAND cấp huyện đã giải quyết 4.183 vụ việc; các
TAND cấp tỉnh đã giải quyết 4.235 vụ việc);
- TAND cấp phúc thẩm đã giải quyết 790 vụ việc trong tổng số 910 vụ việc đã
thụ lý, đạt 86,8% (các TAND cấp tỉnh đã giải quyết 435 vụ việc; các Tòa Phúc
thẩm TANDTC đã giải quyết 355 vụ việc);
- Các Hội đồng giám đốc thẩm, tái thẩm đã giải quyết 41 vụ việc trong tổng số 59
vụ việc đã thụ lý, đạt 69,5% (các Ủy ban Thẩm phán TAND cấp tỉnh đã giải
quyết 07 vụ việc; Tòa kinh tế và HĐTPTANDTC đã giải quyết 34 vụ việc).
VIII. Năm 2012
TAND các cấp đã giải quyết theo thủ tục sơ thẩm, phúc thẩm và giám đốc
thẩm được 13.081 vụ việc trong tổng số 1.5452 vụ việc, đạt 84,7 %, trong đó:
- TAND cấp sơ thẩm đã giải quyết 11.995 vụ việc trong số 14.215 vụ việc đã
thụ lý, đạt 84.4% (các TAND cấp huyện đã giải quyết 8863 vụ việc; các
TAND cấp tỉnh đã giải quyết 3.132 vụ việc);
- TAND cấp phúc thẩm đã giải quyết 1.023 vụ việc trong tổng số 1.137 vụ việc
đã thụ lý, đạt 90 % (các TAND cấp tỉnh đã giải quyết 566 vụ việc; các Tòa
Phúc thẩm TANDTC đã giải quyết 457 vụ việc);
- Các Hội đồng giám đốc thẩm, tái thẩm đã giải quyết 63 vụ việc trong tổng số
100 vụ việc đã thụ lý, đạt 63 % (các Ủy ban Thẩm phán TAND cấp tỉnh đã giải
quyết 15 vụ việc; Tòa kinh tế và HĐTPTANDTC đã giải quyết 48 vụ việc).
IX. Năm 2013
TAND các cấp đã giải quyết theo thủ tục sơ thẩm, phúc thẩm và giám đốc
thẩm được 16.085 vụ việc trong tổng số 18.864 vụ việc, đạt 85,3%, trong đó:
- TAND cấp sơ thẩm đã giải quyết 14.767 vụ việc trong số 17.426 vụ việc đã
thụ lý, đạt 84,7% (các TAND cấp huyện đã giải quyết 1.3824 vụ việc; các
TAND cấp tỉnh đã giải quyết 943 vụ việc);
- TAND cấp phúc thẩm đã giải quyết 1.191 vụ việc trong tổng số 1.292 vụ việc
đã thụ lý, đạt 92,2% (các TAND cấp tỉnh đã giải quyết 920 vụ việc; các Tòa
Phúc thẩm TANDTC đã giải quyết 271 vụ việc);
- Các Hội đồng giám đốc thẩm, tái thẩm đã giải quyết 127 vụ việc trong tổng số
146 vụ việc đã thụ lý, đạt 87 % (các Ủy ban Thẩm phán TAND cấp tỉnh đã giải
quyết 47 vụ việc; Tòa kinh tế và HĐTPTANDTC đã giải quyết 80 vụ việc).
X. Năm 2014
TAND các cấp đã giải quyết theo thủ tục sơ thẩm, phúc thẩm và giám đốc
thẩm được 11.211 vụ việc trong tổng số 18.371 vụ việc, đạt 61%, trong đó:
- TAND cấp sơ thẩm đã giải quyết 1099 vụ việc trong số 16.883 vụ việc đã thụ
lý, đạt 59,8% (các TAND cấp huyện đã giải quyết 9.526 vụ việc; các TAND
cấp tỉnh đã giải quyết 573 vụ việc);
- TAND cấp phúc thẩm đã giải quyết 980 vụ việc trong tổng số 1.310 vụ việc
đã thụ lý, đạt 74,8% (các TAND cấp tỉnh đã giải quyết 837 vụ việc; các Tòa
Phúc thẩm TANDTC đã giải quyết 143 vụ việc);
- Các Hội đồng giám đốc thẩm, tái thẩm đã giải quyết 132 vụ việc trong tổng số
178 vụ việc đã thụ lý, đạt 74,2 % (các Ủy ban Thẩm phán TAND cấp tỉnh đã giải
quyết 72 vụ việc; Tòa kinh tế và HĐTPTANDTC đã giải quyết 60 vụ việc).
KẾT QUẢ ĐIỀU TRA XÃ HỘI HỌC
1.! Kết quả bảng hỏi dành cho cán bộ tư pháp
Câu 1: Ông/bà/anh/chị cho biết thời hạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm đối với các
tranh chấp kinh doanh, thương mại hiện nay nếu đã gia hạn thì tối đa 4 tháng
là
Câu trả lời lựa chọn Tỷ lệ Số người
trả lời
1. Dài 54.6% 53
2. Ngắn 5.2% 5
3. Chưa phù hợp cho một số trường hợp 40.2% 39
Tổng số người trả lời 97
Số người không trả lời 0
Câu 2: Ông/bà/anh/chị cho biết thời hạn chuẩn bị xét xử phúc thẩm đối với
các tranh chấp kinh doanh thương mại hiện nay nếu đã gia hạn thì tối đa 4
tháng là
Câu trả lời lựa chọn Tỷ lệ Số người trả lời
1. Dài 53,1% 51
2. Ngắn 14,6% 14
3. Chưa phù hợp cho một số trường hợp 32,3% 31
Tổng số người trả lời 96
Số người không trả lời 1
Câu 3: Theo Ông/bà/anh/chị trong những trường hợp tranh chấp, yêu cầu kinh doanh thương mại đơn giản, chứng cứ rõ ràng hoặc giá ngạch thấp thì
Câu trả lời lựa chọn Đồng ý/Có
Không đồng
ý/Không
Tỷ lệ trung bình
Số người trả lời
1. Chỉ cần 1 Thẩm phán xét xử sơ thẩm
53 43 0 0 0 0,00 96
2. Không cần thủ tục hòa giải trừ trường hợp các bên có yêu cầu
61 36 0 0 0 0,00 97
3. Không cần phải xét xử phúc thẩm nhưng cần giám đốc thẩm
30 66 0 0 0 0,00 96
4. Có cần phải mở phiên tòa 87 9 0 0 0 0,00 96
5. Có cần sự tham gia của Viện kiểm sát
82 15 0 0 0 0,00 97
Tổng số người trả lời 97
Số người không trả lời 0
(Câu 3.4) Thời hạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm là
Câu trả lời lựa chọn Tỷ lệ Số người
trả lời
Dưới 1 tháng 27,8% 27
Dưới 2 tháng 36,1% 35
Dưới 3 tháng 29,9% 29
Trên 3 tháng 6,2% 6
Tổng số người trả lời 97
Số người không trả lời 0
Câu 4: Theo ông/bà/anh/chị thì tranh chấp, yêu cầu kinh doanh thương mại
đơn giản hoặc chứng cứ rõ ràng là
Câu trả lời lựa chọn Tỷ lệ Số người
trả lời
1.Những vụ án có hồ sơ, tài liệu xác định ngay quyền
và nghĩa vụ của các bên và các bên không có tranh
chấp, mâu thuẫn về chứng cứ
69,6% 64
2. Loại tranh chấp là thông dụng và không liên quan
đến lĩnh vực pháp luật phức tạp 30,4% 28
Tổng số người trả lời 92
Số người không trả lời 5
Câu 5: Theo ông/bà/anh/chị thì pháp luật cần xác định thế nào là tranh chấp, yêu
cầu kinh doanh, thương mại đơn giản hoặc chứng cứ rõ ràng hay chỉ quy định
chung và giao cho Tòa án linh hoạt tự quyết định trong từng trường hợp cụ thể:
Câu trả lời lựa chọn Đồng
ý
Không
đồng ý
Tỷ lệ
trung
bình
Số
người
trả lời
Pháp luật cần quy định cụ
thể 85 8 0 0 0 1,09 93
Để Tòa án xem xét và tự
quyết định cho linh hoạt 36 52 0 0 0 1,59 88
Tổng số người trả lời 95
Số người không trả lời 2
Câu 6: Theo ông/bà/anh/chị tranh chấp, yêu cầu kinh doanh, thương mại có giá
ngạch cao nhất ở mức dưới đây thì nên áp dụng thủ tục rút gọn:
Câu trả lời lựa chọn Tỷ lệ Số người
trả lời
Dưới 100 triệu 64,1% 59
Dưới 200 triệu 35,9% 33
Con số khác (Xin vui lòng ghi cụ thể) 0,0% 0
Tổng số người trả lời 92
Số người không trả lời 5
Câu 7: Theo ông/bà/anh/chị tranh chấp, yêu cầu kinh doanh, thương mại có
giá ngạch nên để Tòa án tối cao tự xác định, hướng dẫn mức giá ngạch cho
linh hoạt và phù hợp với từng thời kì:
Câu trả lời lựa chọn Tỷ lệ Số người
trả lời
Đồng ý 77,4% 72
Không đồng ý 22,6% 21
Tổng số người trả lời 93
Số người không trả lời 4
Câu 8: Theo ông/bà/anh/chị đối với tranh chấp, yêu cầu kinh doanh, thương mại mà bên có nghĩa vụ là bị đơn thừa nhận toàn bộ nghĩa vụ thì:
Câu trả lời lựa chọn
Đồng ý Không đồng ý
Tỷ lệ trung bình
Số người trả lời
1. Nên áp dụng thủ tục rút gọn
77 17 0 0 0 1,18 94
2. Không được kháng cáo - kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm
39 54 0 0 0 1,58 93
3. Không được giám đốc thẩm, tái thẩm
38 54 0 0 0 1,59 92
4. Ý kiến khác 0 0 0 0 0 0,00 0
Xin vui lòng nêu cụ thể 0
Tổng số người trả lời 95
Số người không trả lời 2
Câu 9: Trong trường hợp phải/muốn khởi kiện ra Tòa án thì
ông/bà/anh/chị mong muốn thời gian giải quyết ở Tòa án là bao lâu:
Câu trả lời lựa chọn Tỷ lệ Số người
trả lời
Từ 1 đến 2 tháng 80,9% 76
Từ 2 đến 4 tháng 19,1% 18
Ý kiến khác (xin vui lòng nêu cụ thể) 0,0% 0
Tổng số người trả lời 94
Số người không trả lời 3
Câu 10: Theo ông bà với trình độ, năng lực, phẩm chất của Thẩm phán hiện
nay thì việc áp dụng thủ tục rút gọn vẫn phù hợp và vẫn đảm bảo khách
quan, công bằng và công lý:
Câu trả lời lựa chọn Tỷ lệ Số người
trả lời
Đồng ý 66,0% 62
Không đồng ý 34,0% 32
Tổng số người trả lời 94
Số người không trả lời 3
2.! Kết quả Khảo sát dành cho Doanh nghiệp
Câu 1: Ông/bà/anh/chị đã từng tham gia giải quyết tranh chấp, yêu cầu kinh
doanh, thương mại tại Tòa án chưa?
Câu trả lời lựa chọn Tỷ lệ Số người trả
lời
1. Thường xuyên 19.2% 32
2. Thỉnh thoảng 23.4% 39
3. Hiếm khi 10.8% 18
4. Chưa bao giờ 46.6% 78
Tổng số người trả lời 167
Số người không trả lời 1
Câu 2: Ông/bà/anh/chị cho biết thời hạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm đối với các
tranh chấp kinh doanh, thương mại hiện nay nếu đã gia hạn thì tối đa 4 tháng là
Câu trả lời lựa chọn Tỷ lệ Số người trả lời
1. Phù hợp 28,0% 47
2. Chưa đủ trong một số trường hợp 26,8% 45
3. Dài trong một số trường hợp 45,2% 76
Tổng số người trả lời 168
Số người không trả lời 0
Câu 3: Ông/bà/anh/chị cho biết thời hạn chuẩn bị xét xử phúc thẩm đối với các
tranh chấp kinh doanh thương mại hiện nay nếu đã gia hạn thì tối đa 4 tháng là
Câu trả lời lựa chọn Tỷ lệ Số người trả lời
1. Phù hợp 32,7% 54
2. Chưa đủ trong một số trường hợp 20,0% 33
3. Dài trong một số trường hợp 47,3% 78
Tổng số người trả lời 165
Số người không trả lời 3
Câu 4: Ông/bà/anh/chị từ góc độ là đương sự và trong bối cảnh phát triển kinh
tế hiện nay thì có nên áp dụng các thủ tục rút gọn, đơn giản, ngắn gọn đối với
các tranh chấp, yêu cầu KDTM đơn giản, chứng cứ rõ ràng, giá ngạch thấp...
hay không?
Câu trả lời lựa chọn Tỷ lệ Số người trả lời
Đồng ý 90,9% 150
Không đồng ý 9,1% 15
Tổng số người trả lời 165
Số người không trả lời 3
Câu 5: Theo Ông/bà/anh/chị trong những trường hợp tranh chấp, yêu cầu kinh doanh thương mại đơn giản, chứng cứ rõ ràng hoặc giá ngạch thấp thì
Câu trả lời lựa chọn Đồng ý/Có
Không đồng
ý/Không
Tỷ lệ trung bình
Số người trả lời
1. Chỉ cần 1 Thẩm phán xét xử sơ thẩm
110 55 0 0 0 0,00 165
2. Không cần thủ tục hòa giải trừ trường hợp các bên có yêu cầu
110 55 0 0 0 0,00 165
3. Không cần phải xét xử phúc thẩm nhưng cần giám đốc thẩm
78 87 0 0 0 0,00 165
4. Có cần phải mở phiên tòa
121 43 0 0 0 0,00 164
5. Có cần sự tham gia của Viện kiểm sát
104 63 0 0 0 0,00 167
Tổng số người trả lời 168
Số người không trả lời 0
Câu 5.4: Thời hạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm là
Câu trả lời lựa chọn Tỷ lệ Số người
trả lời
Dưới 1 tháng 33,5% 55
Dưới 2 tháng 40,2% 66
Dưới 3 tháng 23,8% 39
Dưới thời hạn khác (xin vui lòng nêu rõ bao nhiêu tháng) 2,5% 4
Tổng số người trả lời 164
Số người không trả lời 4
Câu 6: Theo ông/bà/anh/chị thì tranh chấp, yêu cầu kinh doanh, thương mại
đơn giản hoặc chứng cứ rõ ràng là
Câu trả lời lựa chọn Tỷ lệ Số người
trả lời
1. Những vụ án có hồ sơ, tài liệu xác định ngay quyền
và nghĩa vụ của các bên và các bên không có tranh
chấp, mâu thuẫn về chứng cứ
77,9% 127
2. Loại tranh chấp là thông dụng và không liên quan
đến lĩnh vực pháp luật phức tạp 22,1% 36
Tổng số người trả lời 163
Số người không trả lời 5
Câu 7: Theo ông/bà/anh/chị thì pháp luật cần xác định thế nào là tranh chấp,
yêu cầu kinh doanh, thương mại đơn giản hoặc chứng cứ rõ ràng hay chỉ quy
định chung và giao cho Tòa án linh hoạt tự quyết định trong từng trường hợp
cụ thể:
Câu trả lời lựa chọn Đồng
ý
Không
đồng ý
Tỷ lệ
trung
bình
Số
người
trả lời
- Pháp luật cần quy
định cụ thể: 135 29 0 0 0 1,18 164
- Để Tòa án xem xét
và tự quyết định cho linh
hoạt
70 78 0 0 0 1,53 148
Tổng số người trả lời 167
Số người không trả lời 1
Câu 8: Theo ông/bà/anh/chị tranh chấp, yêu cầu kinh doanh, thương mại có giá
ngạch cao nhất ở mức dưới đây thì nên áp dụng thủ tục rút gọn:
Câu trả lời lựa chọn Tỷ lệ Số người trả
lời
Từ 100 triệu trở xuống 51,2% 84
Từ 200 triệu trở xuống 37,8% 62
Con số khác (Xin vui lòng ghi cụ thể) 11,0% 18
Tổng số người trả lời 164
Số người không trả lời 4
Câu 9: Theo ông/bà/anh/chị thì nên để Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn việc
xác định mức giá ngạch của tranh chấp, yêu cầu kinh doanh, thương mại được
áp dụng thủ tục rút gọn cho linh hoạt và phù hợp với từng thời kì:
Câu trả lời lựa chọn Tỷ lệ Số người
trả lời
Đồng ý 77,1% 128
Không đồng ý 22,9% 38
Tổng số người trả lời 166
Số người không trả lời 2
Câu 10: Theo ông/bà/anh/chị đối với tranh chấp, yêu cầu kinh doanh, thương mại mà bên có nghĩa vụ là bị đơn thừa nhận toàn bộ nghĩa vụ thì:
Câu trả lời lựa chọn Đồng ý Không đồng ý
Tỷ lệ trung bình
Số người trả lời
1. Nên áp dụng thủ tục rút gọn
149 17 0 0 0 1,10 166
2. Không được kháng cáo - kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm
78 86 0 0 0 1,52 164
3. Không được giám đốc thẩm, tái thẩm
67 92 0 0 0 1,58 159
4. Ý kiến khác 4 0 0 0 0 1,00 4
Xin vui lòng nêu cụ thể 4
Tổng số người trả lời 166
Số người không trả lời 2