Upload
minhphanphuoc
View
97
Download
0
Embed Size (px)
Citation preview
ĐẶT VẤN ĐỀ
Công tác Dân số - Kế hoạch hoá gia đình là một bộ phận quan trọng
trong chiến lược phát triển đất nước. Đây là một yếu tố cơ bản để nâng cao
chất lượng cuộc sống của từng người, từng gia đình và toàn xã hội. Việc đảm
bảo cung cấp kịp thời, đầy đủ và đa dạng hoá các biện pháp tránh thai có chất
lượng cao là đáp ứng nhu cầu của từng người nhằm tăng tỷ lệ các cặp vợ
chồng sử dụng các biện pháp tránh thai.
Chương trình Dân số và Kế hoạch hóa gia đình của Việt Nam đã được
triển khai từ những năm đầu của thập kỷ 60. Trong suốt 4 thập kỷ qua, Chính
phủ đã coi trọng việc giảm tỷ lệ gia tăng dân số, coi đó là một ưu tiên cho sự
phát triển của xã hội [2], [7]. Điều đó thể hiện qua việc cung cấp các dịch vụ
kế hoạch hóa gia đình.
Khuynh hướng trong nghiên cứu về tránh thai hiện nay trên thế giới là
đa dạng hóa các biện pháp tránh thai nhằm đáp ứng tối đa những nhu cầu cá
nhân của người sử dụng. Tại Việt Nam, thông dụng nhất vẫn là các biện pháp
sử dụng: vòng tránh thai, bao cao su, thuốc viên tránh thai, triệt sản, tránh thai
tự nhiên. Tuy nhiên, tỉ lệ áp dụng biện pháp tránh thai bằng thuốc tiêm tránh
thai, thuốc cấy tránh thai còn thấp [9].
Trên thế giới, vào năm 1990 có hơn 1 triệu phụ nữ ở 51 nước đang sử
dụng Norplantt, trong đó có nhiều nước đã dùng biện pháp này một cách phổ
biến, một số nước khác đang còn đang thử nghiệm. Sau một thời gian, ý
tưởng phát triển một que thuốc duy nhất dùng cấy dưới da có tên là Implanon,
tiện lợi hơn và được nghiên cứu thực hiện tại 9 nước châu Âu, Đông Nam Á.
Một nghiên cứu lớn đã được thực hiện tại Indonesia [7], [8], [9].
1
Ở Việt Nam, thực hiện mục tiêu giảm sinh đến năm 2010, thuốc cấy
tránh thai đã được áp dụng với mục đích tăng sự lựa chọn cho người sử dụng
[7]. Năm 1990, Norplantt là phương pháp tránh thai mới được thử nghiệm lần
đầu tiên ở nước ta. Nó bao gồm 6 mảnh chứa Levonogestrel được cấy dưới da
ở mặt trong cánh tay, có tác dụng tránh thai trong 5 năm và được thực hiện tại
Bệnh viện Phụ sản Trung Ương Hà Nội từ 8/1990 - 12/1991 [6].
Vào năm 2000, Vụ Bảo vệ Bà mẹ - Trẻ em & Kế Hoạch Hoá Gia Đình,
Bộ Y Tế Việt Nam đã tiến hành một nghiên cứu đánh giá hiệu quả tránh thai,
tính an toàn và mức độ chấp nhận của cộng đồng với loại thuốc cấy tránh thai
tại 3 cơ sở: Bệnh viện Phụ sản Trung Ương, Trung tâm Chăm sóc Sức khỏe
Sinh sản tỉnh Hoà Bình, Trung tâm Chăm sóc Sức khỏe Sinh sản tỉnh Thanh
Hoá. Kết quả cho thấy trong 3 năm theo dõi, hiệu quả tránh thai là 100%. Cho
đến năm 2002, biện pháp này bắt đầu được triển khai ở tỉnh Thừa Thiên -
Huế. Tuy nhiên, nghiên cứu việc sử dụng biện pháp này còn có tính riêng lẻ,
chưa có đề tài nào có tính hệ thống.
Xuất phát từ những vấn đề trên, chúng tôi tiến hành thực hiện đề tài:
"Nghiên cứu khả năng chấp nhận, hiệu quả và tác dụng phụ của thuốc
cấy tránh thai Implanon tại tỉnh Thừa Thiên - Huế" nhằm hai mục tiêu cơ
bản sau:
1. Đánh giá hiệu quả tránh thai và khả năng chấp nhận của khách hàng
đối với thuốc cấy tránh thai Implanon.
2. Khảo sát và điều trị một số tác dụng phụ của thuốc cấy tránh thai
Implanon.
2
Chương 1
TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1. SINH LÝ SINH SẢN CỦA NGƯỜI PHỤ NỮ
Hoạt động sinh sản của con người là để duy trì nòi giống. Các chức năng
của cơ quan sinh dục đều được điều hòa và kiểm soát chủ yếu thông qua hệ
thống nội tiết. Vùng dưới đồi kích thích tuyến yên, tuyến yên kích thích
buồng trứng. Các hormon của buồng trứng lại tác động trở lại vùng dưới đồi
tạo thành cơ chế hồi tác (cơ chế điều hoà ngược - feedback mechanism). Các
hormon sinh dục của buồng trứng tác dụng trực tiếp lên các thành phần của
bộ phận sinh dục như tử cung, cổ tử cung, vòi tử cung, âm hộ, âm đạo [10].
1.1.1. Sinh lý hoạt động của hệ trục dưới đồi - tuyến yên - buồng trứng
1.1.1.1. Vùng dưới đồi (Hypothalamus )
Là một cấu trúc thần kinh nhỏ, nằm ở sàn não trên giao thoa thị giác và
dưới não thất ba. Vùng dưới đồi nối trực tiếp với tuyến yên. Về mặt giải phẫu,
vùng dưới đồi (VDĐ) được phân thành 3 vùng: quanh não thất, giữa và bên.
Mỗi vùng được chia nhỏ hơn thành những cấu trúc gọi là nhân. Trung khu
sinh dục của vùng dưới đồi nằm ngay phía dưới hố yên, liên thông với tuyến
yên bằng hệ mạch gánh Popa và Fielding.
Tồn tại nhiều mức độ của cơ chế hồi tác vòng dài; vòng ngắn và vòng cực
ngắn. Hồi tác vòng dài là sự tác động của các hormon trong tuần hoàn đến
vùng dưới đồi, đó là hồi tác của androgen và estrogen lên các thụ thể steroid
vùng dưới đồi và có chức năng điều hoà quan trọng trong hồi tác vòng ngắn.
Vùng dưới đồi chế tiết chủ yếu là các yếu tố giải phóng tuyến yên:
Hormon hướng sinh dục Gn-RH (Gonadotropin Releasing Hormone): Là
hormon duy nhất điều khiển chế tiết LH và FSH. Sự chế tiết Gn-RH theo nhịp
3
và sự chế tiết này bị ảnh hưởng bởi nhiều chất nội tiết và dẫn truyền thần kinh.
Nội tiết tuyến yên cũng được chế tiết theo nhịp gần giống như chế tiết Gn-RH.
1.1.1.2. Tuyến yên
Nếu không kể vùng dưới đồi thì tuyến yên là một tuyến nội tiết chủ đạo
kích thích nhiều tuyến nội tiết khác. Tuyến yên được chia thành 3 vùng hoặc
3 thuỳ: thuỳ trước, thuỳ trung gian, thuỳ sau.
- Thuỳ trước tuyến yên
Thuỳ trước tuyến yên là một tuyến nội tiết thực sự chế tiết ra các hormon
hướng như hormon hướng giáp trạng, hormon hướng vỏ thượng thận, hormon
hướng sinh dục. Trong đó, hormon hướng sinh dục gồm có FSH và LH.
+ FSH là một hormon hướng sinh dục có tác dụng kích thích nang noãn
của buồng trứng phát triển.
+ LH là hormon hướng sinh dục có tác dụng kích thích phóng noãn,
thành lập hoàng thể và kích thích hoàng thể chế tiết.
+ Prolactin là hormon kích thích tuyến vú tiết sữa
Hormon hướng sinh dục FSH và LH được tiết bởi các tế bào
gonadotroph ở thùy trước tuyến yên. Về mặt cấu trúc, có một sự tương đồng
lớn giữa FSH và LH. Chúng đều là glycoprotein, giống nhau ở tiểu đơn vị
alpha, chỉ khác nhau ở cấu trúc của tiểu đơn vị beta có thụ thể đặc hiệu. TSH
và hCG cũng có tiểu đơn vị alpha giống với các hormon hướng sinh dục.
Prolactin được cấu tạo bởi một chuỗi đa peptid gồm 198 amino acid, do
tế bào hướng sữa ở tuyến yên trước tiết ra, kích thích tuyến vú bài tiết sữa.
Chế tiết prolactin chịu sự kiểm soát ức chế có tính trương lực của PIF
(Prolactin inhibiting Factor) do VDĐ tiết ra, nhiều khả năng nhất là
dopamine.
Ngoài ra thuỳ trước tuyến yên còn tiết ra hormon kích thích tuyến giáp,
hormon kích thích vỏ thượng thận, hormon phát triển cơ thể.
4
Thuỳ sau tuyến yên
Thuỳ sau tuyến yên chỉ bao gồm các mô thần kinh, là sự kéo dài trực
tiếp của VDĐ. Nó nằm kề cận với thuỳ trước, nhưng riêng biệt về mặt mô
học, có chức năng chế tiết oxytocin và vasopressin.
1.1.1.3. Buồng trứng
Buồng trứng là một tuyến vừa nội tiết vừa ngoại tiết. Về ngoại tiết,
buồng trứng là nơi sản sinh ra noãn đồng thời cũng là nơi nuôi dưỡng noãn
trưởng thành rồi phóng noãn. Về nội tiết, buồng trứng là nơi sản sinh ra các
hormon sinh dục là estrogen và progesteron.
1.1.2. Sự phát triển - trưởng thành của nang noãn và sự phóng noãn
Sự phát triển, trưởng thành và phóng noãn là một chuỗi các sự kiện có
thứ tự và gắn bó chặt chẽ với nhau dẫn đến sự phóng thích một noãn đủ
trưởng thành, có khả năng thụ tinh vào mỗi chu kỳ của người phụ nữ.
1.1.3. Sự phát triển của nang noãn
Vào tuần thứ 20 của thai kỳ, số lượng noãn đạt mức độ cao nhất (6-7
triệu). Ở thời điểm đó, xảy ra sự thoái hoá của noãn nguyên bào, tiếp theo sau
là thoái hoá của nang noãn. Bé gái lúc sinh ra chỉ có1-2 triệu noãn ở mỗi bên
buồng trứng. Đến tuổi dậy thì, chỉ còn 300.000 nang noãn (trong số 6 - 7 triệu
noãn nguyên thuỷ) sẵn sàng cho phóng noãn. Trong số này chỉ có 400 - 500
nang noãn được phóng. Đến tuổi mãn kinh, buồng trứng gồm mô đệm dày và
rất ít nang noãn còn lại nằm rải rác ở buồng trứng.
Sự phát triển của nang noãn gồm một chuỗi các sự kiện xảy ra một
cách có trật tự dẫn đến sự phóng noãn ở giữa chu kỳ, bao gồm: sự chiêu mộ
các nang noãn, sự chọn lọc các nang noãn, sự vượt trội, sự thoái hoá của nang
noãn và sự phóng noãn, quá trình này bắt đầu từ sự phát triển của noãn
nguyên thuỷ, qua các giai đoạn nang noãn sơ cấp, nang noãn thứ cấp và nang
5
de Graff. Một chu kỳ phát triển nang noãn chỉ có một nang de Grraf trưởng
thành và phóng noãn.
+ Dưới tác dụng của FSH và LH nang noãn lớn lên chín, phóng noãn. Nếu
không được thụ tinh, sau 14 ngày sẽ diễn ra sự tiêu hoàng thể, làm giảm nồng
độ estradiol và progesteron nội sinh dẫn đến hành kinh [1], [2], [3], [4 ], [10].
1.2. TÁC DỤNG CỦA CÁC HORMON SINH DỤC NỮ
1.2.1. Estrogen
- Làm phát triển cơ tử cung bằng cách làm tăng phát triển số lượng, độ
dài và độ lớn của các sợi cơ.
- Làm tăng nhạy cảm của cơ tử cung đối với oxytocin và các nhân tố gây
co cơ.
- Làm phát triển niêm mạc tử cung qua việc kích thích phân bào, gây quá
sản niêm mạc tử cung, ung thư niêm mạc tử cung.
- Khi tụt đột ngột làm bong niêm mạc tử cung, gây chảy máu kinh nguyệt.
- Kích thích các tuyến cổ tử cung chế tiết nhiều chất nhầy, làm cho chất
nhầy trong và loãng khiến tinh trùng dễ xâm nhập lên đường sinh dục trên của
người phụ nữ.
- Làm phát triển các môi lớn và môi nhỏ của âm hộ.
- Làm phát triển biểu mô âm đạo, làm dày thành âm đạo thông qua tác
dụng duy trì làm chậm bong tế bào biểu mô âm đạo.
- Làm phát triển tuyến sữa của vú.
- Ngoài ra còn có tác dụng làm phát triển các đặc tính sinh dục phụ: kích
thích tình dục, làm căng các dây thanh âm khiến giọng nói có âm sắc cao, giữ
nước, giữ natri, gây phù, giữ canxi ở xương [1], [2], [3], [4], [12].
1.2.2. Progesteron
- Làm mềm sợi cơ tử cung, làm giảm nhạy cảm của cơ tử cung với
oxytocin.
6
- Cộng đồng với E làm niêm mạc tử cung chế tiết nhất là sau khi đã có sự
chuẩn bị bằng E. Dùng liều cao kéo dài làm niêm mạc tử cung thiểu dưỡng (teo).
- Chức năng quan trọng của Progesteron là chuẩn bị cho sự làm tổ của trứng.
- Ức chế tiết chất nhầy của các tuyến trong ống cổ tử cung.
- Làm bong các tế bào biểu mô âm đạo.
- Làm giảm phát triển mô liên kết ở vú.
- Có tác dụng lợi tiểu, giảm phù.
- Làm tăng nhiệt độ cơ thể từ 0,3- 0,5 độ C.
- Tác dụng kháng Estrogen.
1.3. SINH LÝ CHU KỲ KINH NGUYỆT
Trong chu kỳ kinh nguyệt bình thường, các hormon được chế tiết ra có
tính chu kỳ, trật tự. Song song với sự chế tiết hormon này, nội mạc tử cung
tăng sinh nhằm chuẩn bị cho sự làm tổ của phôi [2], [3], [4]. Và căn cứ trên chu
kỳ kinh nguyệt để lấy mốc, bắt đầu thực hiện cho một biện pháp tránh thai.
1.3.1. Chu kỳ kinh nguyệt bình thường
Ở người, chu kỳ kinh nguyệt có thể chia thành 2 phần:
- Chu kỳ buồng trứng: được chia thành giai đoạn nang noãn và giai đoạn
hoàng thể
+ Giai đoạn nang noãn: cơ chế điều hoà ngược của hormon thúc đẩy sự
phát triển có tính trật tự của một noãn vượt trội, nang này trưởng thành vào
giữa chu kỳ và chuẩn bị cho phóng noãn. Thời gian trung bình của giai đoạn
nang noãn là 10-14 ngày. Sự thay đổi của giai đoạn nang noãn chịu trách
nhiệm cho hầu hết của những thay đổi trong toàn bộ chu kỳ.
+ Giai đoạn hoàng thể: tính từ lúc rụng trứng đến lúc bắt đầu hành kinh,
kéo dài trung bình 14 ngày.
Một chu kỳ kinh nguyệt bình thường kéo dài 21-35 ngày, thời gian hành
kinh 2 - 6 ngày và lượng máu mất trung bình là 20 - 60ml. Tuy nhiên, khi
7
nghiên cứu một số lượng lớn chu kỳ kinh nguyệt, người ta nhận thấy rằng chỉ
khoảng 2/3 phụ nữ trưởng thành có chu kỳ kinh nguyệt kéo dài 21-35 ngày.
Đặc trưng của hai cực của đời sống sinh sản (tuổi dậy thì và tiền mãn kinh) là
có số chu kỳ không phóng noãn hoặc chu kỳ không đều cao hơn.
- Chu kỳ tử cung được phân thành giai đoạn tăng sinh và giai đoạn chế tiết
tương ứng với chu kỳ buồng trứng.
+ Thời kỳ tăng sinh:
Theo quy ước, ngày bắt đầu hành kinh được kể là ngày thứ nhất của chu
kỳ kinh. Sau hành kinh, màng rụng đáy bao gồm các tuyến nguyên thuỷ và
chất đệm dày và chặt nằm kế cận với cơ tử cung. Đáp lại sự gia tăng của
Estrogen trong tuần hoàn, màng rụng chức năng phát triển bằng cách gián
phân liên tục nhằm chuẩn bị cho sự làm tổ của phôi. Đó là đặc trưng của thời
kỳ tăng trưởng. Lúc bắt đầu thời kỳ tăng trưởng, nội mạc tử cung (NMTC)
tương đối mỏng (1-2mm). Thay đổi nổi bật trong thời kỳ này là sự phát triển
của các tuyến nội mạc thẳng, hẹp và ngắn thành những cấu trúc dài hơn, ngắn
hơn ngoằn ngoèo. Trong suốt thời kỳ này, chất đệm dày và đặc. Các cấu trúc
mạch máu ít khi được nhìn thấy.
- Thời kỳ chế tiết:
Ở chu kỳ 28 ngày, sự phóng noãn xẩy ra vào ngày thứ 14. Trong vòng
48-72 giờ sau phóng noãn, progesteron được tiết ra. Điều này chuyển NMTC
sang giai đoạn chế tiết, lòng tuyến chứa các sản phẩm tiết giàu protein. Đối
lập với thời kỳ tăng sinh, đặc trưng của thời kỳ chế tiết là có sự tác động của
progesteron đến tế bào bên cạnh tác động của estrogen. Nói chung, tác động
của progesteron đối lập với tác động của estrogen. Sự xuất hiện của
progesteron sau phóng noãn làm giảm các thụ thể của estrogen ở tế bào
NMTC. Do đó, ở nửa sau của chu kỳ, có sự đối lập giữa quá trình tổng hợp
DNA bởi estrogen với quá trình gián phân của tế bào. Sau rụng trứng 6-7
ngày, hoạt động chế tiết của tuyến đạt cực đại và nội mạc được chuẩn bị tốt
8
nhất cho sự làm tổ của túi phôi. Khoảng 2 ngày trước khi hành kinh, có một
sự gia tăng đáng kể số lượng bạch cầu hạt và bạch cầu lympho (từ hệ thống
mạch máu di cư vào). Sự “thâm nhiễm bạch cầu” này báo trước cho sự suy
sụp mô đệm của nội mạc và khởi phát hành kinh.
1.3.2. Hành kinh
Nếu không có sự làm tổ, các tuyến ngừng lớp chế tiết và xảy ra sự phá
vỡ không đều lớp màng rụng chức năng. Kết quả là bong nội mạc này, tạo nên
hiện tượng hành kinh. Nguyên nhân của bong lớp nội mạc là do sự thoái hóa
của hoàng thể và giảm đột ngột nồng độ estrogen và progesteron do hoàng
thể tiết ra. Với sự tụt giảm của các hormon sinh dục, các động mạch xoắn co
thắt dữ dội, cuối cùng dẫn đến thiếu máu cục bộ NMTC. Đồng thời, các
lysosome bị phá hủy và phóng thích enzym thủy phân protein. Điều này thúc
đẩy hơn nữa sự phá hủy mô tại chỗ. Lớp nội mạc này bị bong ra, để lại màng
rụng đáy - là nguồn gốc cho sự phát triển của nội mạc ở chu kỳ kế tiếp.
Prostaglandin được sản xuất trong suốt chu kỳ kinh nguyệt và đạt nồng độ cao
nhất trong lúc hành kinh. Prostaglandin F2 là một chất có khả năng gây co
mạch, dẫn tới sự co thắt hơn nữa của các tiểu động mạch xoắn và thiếu máu
cục bộ NMTC. Prostaglandin F2 cũng gây co cơ tử cung. Điều này làm
giảm luồng máu đến thành tử cung và tống xuất mô nội mạc khỏi buồng tử
cung một cách tự nhiên.
1.4. SINH LÝ CỦA SỰ THỤ THAI
1.4.1. Sự thụ tinh
Sau khi giao hợp, tinh trùng di chuyển qua âm đạo, vào tử cung rồi đến
vòi trứng. Tinh trùng thường gặp trứng ở 1/3 ngoài của vòi trứng. Tại đây,
khi gặp trứng tinh trùng phá vỡ lớp tế bào hạt bao quanh trứng và lớp vỏ
ngoài của trứng nhờ men hyaluronidase và các men phân giải protein, men
này khuếch tán vào lớp hàng rào làm khép lớp này lại và ngăn không cho tinh
trùng thứ hai xâm nhập vào trứng. Thời gian tồn tại của trứng rất ngắn, chỉ từ
24-48giờ. Tinh trùng tồn tại trong đường sinh dục nữ khoảng 24 - 72 giờ,
9
nhưng khả năng thụ tinh cao nhất là khoảng 12 - 24 giờ. Vì vậy, muốn có hiện
tượng thụ tinh, tinh trùng phải gặp trứng vào đúng ngày rụng trứng hoặc trong
khoảng trước và sau rụng trứng 1 ngày.
1.4.1.1. Trứng đã thụ tinh di chuyển vào buồng tử cung
Nhờ nhu động của ống dẫn trứng, trứng được di chuyển đến tử cung.
Thời gian di chuyển khoảng 4 ngày. Trong thời gian di chuyển trứng trải qua
quá trình phân chia và khi chạm vào niêm mạc tử cung trứng có thể làm tổ
được ngay. Vì lý do nào đó trứng đã thụ tinh không di chuyển được vào
buồng tử cung, trứng có thể phát triển ngay tại tử cung hoặc loa vòi, hoặc do
nhu động theo chiều ngược lại của ống dẫn trứng làm trứng rơi vào ổ bụng.
Những trường hợp này được gọi là chửa ngoài tử cung, nếu không được phát
hiện và xử trí kịp thời sẽ gây nguy cơ tử vong, vỡ chảy máu làm nguy hiểm
đến tính mạng của người mẹ.
1.4.1.2. Trứng làm tổ và phát triển trong buồng tử cung
Sau khi vào đến buồng tử cung, trứng tiếp tục phát triển thêm khoảng 4-5
ngày rồi mới gắn vào niêm mạc tử cung. Như vậy trứng đã thụ tinh thường
làm tổ trong niêm mạc tử cung vào khoảng ngày thứ 7- 8, kể từ khi rụng
trứng, đó cũng là lúc niêm mạc tử cung chuẩn bị đón trứng vào làm tổ. Nơi
trứng làm tổ thường là ở vùng đáy tử cung, mặt sau nhiều hơn mặt trước và là
nơi bằng phẳng nhất [11], [12].
1.5. LỊCH SỬ CÁC BIỆN PHÁP TRÁNH THAI
1.5.1. Lịch sử các biện pháp tránh thai nói chung
Trong nhiều thập kỷ qua, sự sinh sản đã có ý nghĩa với mức độ thay đổi
với con người, tuỳ thuộc vào các mối quan hệ xã hội. Trước đây, cuộc đời
người phụ nữ tập trung vào việc đạt được “sự thành công cao nhất về sinh
sản” đảm bảo tương lai gia đình. Trong các thế kỷ trước, việc mang thai và
sinh đẻ có mức độ bệnh tật và tử vong rất cao mà ngay nay không thể tưởng
tượng được: tỷ lệ tử vong mẹ cho đến cuối thế kỷ XIX được ước lượng vào
10
khoảng 2-10%. Trong bối cảnh này, một điều không ngạc nhiên là các biện
pháp tránh thai xuất hiện sớm và lan tràn rộng rãi trong lịch sử nhân loại.
Cuốn “Chúa sáng tạo ra thế giới” trong Kinh Cựu ước đã bàn về tránh thai
bằng biện pháp giao hợp gián đoạn. Trong thời Ai Cập cổ đại và đế chế La
mã, nút bông vệ sinh đã được dùng như một dụng cụ tránh thai. Vào thế kỷ
XVIII (1797), Jevemy Bentham trở thành một trong những người đầu tiên sử
dụng bọt biển đặt trong âm đạo như là một dụng cụ tránh thai. Hình ảnh lạc
đà đi qua sa mạc có đặt cục đá trong tử cung đó là ý tưởng của vòng tránh
thai sau này. Bao cao su được dùng lần đầu tiên vào thế kỷ XV và XVI làm
bằng bong bóng cá hoặc lụa nhưng không phải để tránh thai mà mục đích là
bảo vệ khỏi lây bệnh. Cho đến tận thế kỷ XIX, với phát minh lưu hóa cao su
vào năm 1843, bao cao su mới được sản xuất và sử dụng rộng rãi. Đến cuối
thế kỷ XIX đã có trên 100 loại màng ngăn âm đạo khác nhau xuất hiện trên
thị trường. Sự phát triển trong các thập kỷ gần đây đã làm xuất hiện nhiều
biện pháp tránh thai khác nhau [72]. Sự phát triển của các biện pháp tránh
thai gắn liền với sự phát triển chung của xã hội nên ngày càng mới, càng
hiệu quả và đa dạng.
Rất khó đưa ra một ngày khởi đầu chính xác của các nghiên cứu khoa
học về tránh thai nội tiết. Ngày 01/03/1919, khi Ludwig Haberlandt đạt được
thành công trong việc đình sản tạm thời các động vật có khả năng sinh sản
bằng cách ghép buồng trứng của các động vật đang mang thai được ghi nhận
là một ngày quan trọng. Bên cạnh đó, sau này, nhiều nghiên cứu tiếp theo về
tránh thai nội tiết được ra đời với nhiều đường dùng khác nhau như uống,
tiêm, cấy dưới da và cho phép dùng để điều trị. Với đại đa số thuốc tránh thai
hiện có, người phụ nữ có thể lựa chọn một chế phẩm nội tiết phù hợp với nhu
cầu riêng biệt của họ. Haberlandt đã suy luận về tính khả thi của tránh thai
đường uống ở người bằng cách tiêm hoặc uống các chất chiết từ buồng trứng.
11
Vào năm 1932, Butenandt và Marrian đã phân tích cấu trúc của estrogen, đến
năm 1934, Allen, Butenandt và Wettstein cũng phân tích cấu trúc của và
progestin. Sau đó, người ta chỉ ra rằng các nội tiết tố steroid buồng trứng và
dẫn xuất của chúng có thể ức chế phóng noãn bằng tác dụng chức năng của
tuyến yên [73]. Các công trình nghiên cứu của Makepiece (1937) và Astwood
& Fevokl (1939) cũng chỉ ra rằng có thể ức chế phóng noãn bằng progesteron.
Năm 1944, Bickenback và Faulikovics chứng minh rằng tiêm 200 mg
progesteron đủ để ức chế phóng noãn ở phụ nữ. Các nhà nghiên cứu Đức là
Inhoffen và Hohlweg đã tổng hợp được ethinyltestoteron, norethisteron và
norethynodel. Đó là các Progestin tổng hợp với hiệu quả ức chế phóng noãn
tuyệt vời (Inhoffen & Hohlweg, 1938). Người ta cũng chỉ ra rằng sử dụng đơn
thuần progestin tổng hợp có thể ức chế một cách chắc chắn sự phóng noãn,
nhưng có tác dụng phụ như ra máu nhỏ giọt, các nghiên cứu sau đó đã phối
hợp progestin với một estrogen. Chế phẩm phối hợp đầu tiên ra đời có tên là
Enovid® . Enovid® đã được thử nghiệm qua nhiều nghiên cứu lâm sàng lớn ở
Nam Mỹ và xuất hiện ở thị trường châu Âu dưới dạng chế phẩm phối hợp
chứa 9,85mg norethydrel và 150g mestranol. Sự phát triển trong các thập kỷ
gần đây đã làm xuất hiện các thuốc tránh thai nội tiết chứa liều thấp có tác
dụng tránh thai cao và ít tác dụng phụ. Bên cạnh đó, người ta cũng đã phát
triển thuốc với nhiều đường dùng khác nhau. Đến nay, nó cũng được sử dụng
rộng rãi trên toàn cầu [2], [4], [5], [6]. Thuốc tránh thai đường uống có 2 loại,
đơn thuần và kết hợp. Thuốc tránh thai kết hợp (phối hợp) gồm có 2 nội tiết tố
là E & P trong một viên thuốc. Thuốc này có 3 loại: 1pha, 2 pha và 3 pha.
Thuốc 1 pha có hàm lượng giống nhau giữa các viên thuốc trong vỉ thuốc.
Hiện nay, chế phẩm thuốc dạng này được sử dụng rộng, phổ biến và có hiệu
quả tránh thai cao. Thuốc 2 pha và 3 pha có hàm lượng thuốc thay đổi theo
các giai đoạn trong chu kỳ kinh nguyệt và ít được dùng [10], [73]. Tất cả các
12
viên thuốc ở dạng đơn thuần (chỉ có một nội tiết tố là Progestin) đều có hàm
lượng Progestin giống nhau trong cả liếp thuốc, thường được dùng cho những
phụ nữ sau sinh đang cho con bú [4], [11], [12].
Ưu điểm của thuốc tránh thai dạng uống là hiệu quả tránh thai cao nếu sử
dụng đúng, hồi phục khả năng sinh sản ngay sau khi ngưng sử dụng thuốc,
không ảnh hưởng đến quan hệ tình dục, ngoài lợi ích tránh thai còn có lợi ích
khác, giảm nguy cơ thai ngoài tử cung, giảm vô kinh, thống kinh, giảm lượng
máu khi hành kinh. Điều này có ích cho những người phụ nữ thiếu máu, giảm
hội chứng trước kinh, phòng chống ung thư buồng trứng, ung thư nội mạc tử
cung, và còn dùng làm thuốc tránh thai khẩn cấp.
Nhược điểm của thuốc tránh thai không phòng được các bệnh lây
truyền theo đường tình dục, kể cả HIV và AIDS. Phải uống thuốc đúng giờ
hàng ngày, dễ quên. Những tác dụng phụ chủ yếu xảy ra trong 3 tháng đầu
như là rong huyết, vô kinh, buồn nôn, căng vú, đau đầu. Thuốc tránh thai kết
hợp không phải là lựa chọn thích cho phụ đang cho con bú. Ngoài ra thuốc
tránh thai kết hợp có thể gây ra một số biến chứng tuần hoàn (hiếm gặp), đau
bắp chân dữ dội, ho, tức ngực…[2], [10], [73].
1.5.2. Lịch sử thuốc cấy tránh thai
Cùng với sự phát triển của polyme nhân tạo, ngưòi ta đã có thể chế tạo
được những phương tiện tránh thai cho phép giải phóng liên tục một lượng
nhỏ hormone trong một thời gian dài, đó là các dạng thuốc cấy tránh thai.
Năm 1967, khái niệm về một loại thuốc tránh thai cấy phóng thích thuốc lâu
dài từ viên nang polymer silastic được đề xuất. Thuốc cấy đầu tiên là
Norplantt gồm 6 nang silastic mềm chứa tinh thể Levonorgestrel đã được sử
dụng nhiều trên thế giới. Đây là sản phẩm của hãng Leiras Pharmaceutical -
Phần Lan sản xuất. Một thời gian sau, bộ phận phát triển lâm sàng của N.V.
Organon đã có ý tưởng phát triển một que thuốc duy nhất dùng cấy dưới da.
13
Ý định là thuốc phải đáng tin cậy, có thể làm được và mục đích là đạt được sự
ức chế rụng trứng hoàn toàn. Vì que thuốc sẽ được dùng ngoài đường tiêu hoá
nên một progestogen đã biết là desogestrel được chọn làm hoạt chất. Chất
chuyển hoá có hoạt tính này là 3-ketodesogestrel có danh pháp quốc tế là
etonogestrel (ENG).
Một đơn vị kinh doanh khác của tập đoàn OKZO Nobel, chữ O trong
AKZO là Organon, chuyên về sợi đã có thể sản xuất một copolymer gọi là
EVA tỏ ra thích hợp để chứa chất hormon. Etonogestrel dạng kết tinh được
treo trong chất nền polymer EVA để tạo nên một nhân thuốc, nhân này được
bọc trong một màng EVA. Thành phần cấu tạo này cho phép que cấy duy trì
phóng thích ENG lâu dài. Đó là que cấy tránh thai Implanon. So với các biện
pháp tránh thai khác, thuốc cấy tránh thai đã được chứng minh qua các nghiên
cứu ở nước ngoài là một trong những biện pháp tránh thai hiệu quả, an toàn
và dễ chấp nhận nhất [7], [8], [9]. Trên thế giới hiện có 4 loại thuốc cấy tránh
thai [19], [29], [34], [38], [51], [67].
- Mảnh cấy chứa Levonorgestrel có tác dụng tránh thai trong 5 năm.
Gồm 2 loại: Norplant ® 6 que và Jadelle® 2 que.
- Mảnh cấy Implanon® 1que, chứa Etongestrel (3 keto deogsstrel) có
tác dụng tránh thai trong 3 năm.
- Mảnh cấy chứa Progestogen là Nestorone có 2 loại:
+ Nestorone ® 1que, tác dụng tránh thai trong 2 năm.
+ Elcomtrine® 1 que, tác dụng tránh thai trong 6 tháng.
- Mảnh cấy Uniplant®1 que, tác dụng tránh thai trong 1 năm.
Trên thế giới có đủ 4 loại mảnh cấy tránh thai, nhưng có 2 loại được dùng
phổ biến được chấp nhận rộng rãi đó là Norplant ®, Jadelle® và hiện tại là
Implanon®. Các que cấy tránh thai không ảnh hưởng đến sức khỏe người xử
dụng, đã được tổ chức FDA của Mỹ cho phép xử dụng trên người [51].
14
Norplant của hãng Leiras Pharmaceutical - Phần lan và Implanon của
hãng N.V.Organon - Hà Lan.
Norplant là loại thuốc cấy tránh thai lần đầu tiên xuất hiện trên thị
trường thế giới đã chứng minh tính hiệu quả cao và tiện lợi của thuốc so với
các biện pháp khác. Norplantt chứa Levonogestrel, một loại progestogen, gồm
6 nang thuốc cấy có tác dụng tránh thai trong vòng 5 năm. Từ năm 1983 cho
đến nay, Norplant đã được sử dụng cho phụ nữ và đang là biện pháp được
phép sử dụng ở 60 quốc gia trên thế giới. Kết quả nghiên cứu trên 55.000 phụ
nữ đã chứng minh đây là biện pháp tránh thai có hiệu quả tránh thai cao với tỷ
lệ thất bại (có thai) trong vòng 5 năm sử dụng là 1% (0,26%) [6], [78], [92].
Thời gian cấy que thuốc và thời gian tháo que thuốc khoảng 10 - 20 phút.
Tại Việt Nam, từ năm 1994, thuốc cấy Norplant 6 que đã được đưa vào
chương trình Kế hoạch hóa Gia đình. Tuy tỷ lệ sử dụng chưa cao (500 phụ
nữ) nhưng tính hiệu quả của biện pháp đã được chấp nhận. Sau đó, do giá
thành của thuốc quá cao so với người sử dụng nên biện pháp đó không được
tiếp tục [6], [9].
Thuốc cấy tránh thai Implanon xuất hiện muộn hơn Norplant và có
một số ưu điểm khác biệt. Implanon với thiết kế chỉ gồm một nang duy nhất
có đường kính 2mm và dài 40mm chứa Etonogestrel có tác dụng tránh thai
trong 3 năm. Sự xuất hiện của Implanon với ưu thế có 1 que cấy duy nhất đã
chứng tỏ tính ưu việt của nó, cấy và tháo nhanh 3 phút [7], [9], [12], [13].
Tháng 9 năm 2000, với sự tự nguyện của 120 phụ nữ, ở Hà Nội, nó được cấy
thử nghiệm tại Viện Phụ Sản Trung Ương; ở 2 tỉnh Hoà Bình và Thanh Hoá,
nó được cấy tại cơ sở. Sau khi cấy thử nghiệm và báo cáo tổng kết nghiệm
thu, Implanon đã được Bộ Y tế Việt Nam cho phép và lưu hành. Từ đó, nó
được triển khai tiếp ở các tỉnh thành khác trong cả nước.
15
1.6. TỔNG QUAN THUỐC CẤY TRÁNH THAI IMPLANON
1.6.1. Công thức hóa học của thuốc cấy tránh thai Implanon
Hình 1.1. Công thức cấu tạo của Etonogestrel [70], [73].
Công thức phân tử C22H28O2 (13-Ethyl-17-hydroxy-11-methylene-18,19-
dinor-17a-pregn-4-en-20-yn-3-one) là dẫn chất 19 - nortestosterone và có ái
tính kết gắn cao với các thụ thể progesteron ở các cơ quan đích. Đây là
progesteron ở thế hệ thứ ba có hoạt tính androgen thấp hơn progesteron ở thế
hệ thứ nhất và thứ hai nên không gây nổi mụn, nám mặt, mọc râu ở phụ nữ
[57], [66], [72], [73].
Dược động học
Sau khi cấy que Implanon, etonogestrel nhanh chóng được hấp thu vào
máu. Nồng độ ức chế rụng trứng đạt được trong vòng một ngày. Nồng độ cực
đại trong huyết thanh (từ 427-1270 picrogram/ml), đạt được trong vòng 1-13
ngày. Tốc độ phóng thích của que cấy giảm dần theo thời gian. Do vậy, nồng
độ trong huyết thanh giảm nhanh trong những tháng đầu. Đến cuối năm thứ
nhất, nồng độ trung bình đo được vào khoảng 200 pg/ml (thay đổi trong
16
khoảng 150-261pg/ml ) giảm chậm còn 156 pg/ml (112-202pg/ml) vào cuối
năm thứ ba. Sự biến thiên được nhận thấy trong huyết thanh có thể phần nào
quy cho sự khác biệt về thể trọng. Phân bố 99,5-99% etonogestrel gắn với
protein huyết thanh, chủ yếu là albumin và một tỷ lệ ít hơn gắn với globulin
gắn với hormon sinh dục. Chuyển hoá Etonogestrel được hydroxyl-hoá và
khử trong cơ thể. Các chất chuyển hoá được liên hợp với sulphate và
glucuronide [7], [21], [33], [48], [73], [88]. Sau tháo que cấy tránh thai một
tuần nồng độ etonogestrel là 20 pg/ml, qua tuần thứ hai không còn ENG lưu
hành trong máu [21].
Thải trừ
Sau khi tiêm tĩnh mạch etonogestrel, thời gian bán thải trung bình vào
khoảng 25 giờ và thanh thải huyết thanh vào khoảng7,5 l/giờ. Sự thanh thải
lẫn thời gian bán thải vẫn không thay đổi trong thời gian điều trị. Sự bài tiết
etonogestrel và những chất chuyển hoá của nó, dù cho là dạng tự do hay liên
hợp đều qua nước tiểu và phân (tỷ số 1,5:1) [21], [48].
Số liệu an toàn tiền lâm sàng
Những nghiên cứu độc chất học không phát hiện được bất cứ tác dụng nào
ngoài những tác dụng có tính chất hormon của etonogestrel, bất luận thuốc
được dùng bằng đường nào [7], [33], [48], [51], [58], không ảnh hưởng đến
chức năng của tuyến giáp, tuyến thượng thận [23], cũng như chức năng gan
và chuyển hóa carbon [25], ]26], cũng không ảnh hưởng đến sức khỏe chung
của người xử dụng và cũng không ảnh hưởng đến sự đặc của xương [20].
Ngoài ra không có sự thay đổi chuyển hóa lipít, cholesterol toàn phần,
trịglycrine [80]. An toàn cho phụ nữ [47].
+ Đặc điểm dược dụng
- Danh mục tá dược
. Que cấy
17
. Lõi : Ethylene vinylacetate copolymer ( 28% vinyl acetate ) 46 mg.
. Bề mặt : Ethylene vinylacetate copolymer (14% vinyl acetate) 15mg.
. Ống cấy
Thân bằng acrylonitrile – butadiene – styrene, kèm kim bằng thép
không rỉ và nắp kim bằng polypropylene.
- Tương kỵ
Không có tương kỵ nào.
- Tuổi thọ
Tuổi thọ của Implanon là 3 năm khi được bảo quản ở nhiệt độ 2oC - 300
C, tránh ánh sáng và ẩm ướt. Không được cấy implanon sau hạn dùng ghi trên
bao bì.
- Trình bày
Vỉ có một que cấy, dài 4cm, đường kính 2mm, được chứa trong can-nuyn của
ống cấy vô khuẩn chỉ dùng một lần. Ống cấy vô khuẩn có que cấy được đóng
trong vỉ nhựa làm bằng polyethylene -terephthalate – glycol trong suốt được
hàn kín với giấy không thấm nước. Vỉ nhựa được đựng trong hộp cùng với tờ
hướng dẫn sử dụng [7]. Vỉ thuốc này do công ty N.V.Organon, PO Box 20,
5340 HB Oss, Hà lan sản xuất [41], [58], [67].
1.6.2. Đặc điểm cấu tạo của que cấy tránh thai
Thuốc cấy tránh thai Implanon chỉ có progestin được cấy dưới da, hạn sử
dụng trong thời gian 3 năm. Mỗi que cấy Implanon gồm :
- Lõi dài 40mm, đường kính 2mm và chứa 68mg etonogestrel.
Etonogestrel là một chất chuyển hoá có hoạt tính sinh học là desogestrel, một
proestagen được sử dụng rộng rãi trong thuốc viên ngừa thai. Lõi chứa 40%
EVA (ethylen vinyl acetate) và 60% etonogestrel.
- Màng: 100% là EVA dày 0,06 mm.
18
Que cấy này được đựng trong can - nuyn của ống cấy vô khuẩn được
dùng một lần. Que cấy implanon không bị phân huỷ sinh học và đặt đúng vị
trí dưới da sẽ không gây cản trở, nhưng có thể sờ thấy que trong suốt thời gian
sử dụng. Que cấy có thể dễ dàng được định vị và rút ra khi hết thời hạn sử
dụng hoặc rút ra sớm hơn nếu không muốn tránh thai [41]. Khi tháo que nếu
không sờ thấy que, siêu âm tại chỗ cấy để tìm và tiến hành thủ thuật tháo que
[45], [49], [54], [81].
Hình 1.2. Cấu trúc của que cấy Implanon [72]
Hình 1.3. Hình ảnh que cấy tránh thai [72]
1.6.3. Cơ chế tránh thai của Implanon
Implanon tránh thai nhờ vào 3 cơ chế [59], [76].
Một là ức chế rụng trứng (không có nang noãn vượt trội).
Hai là làm đặc chất nhầy cổ tử cung ngăn chặn sự xâm nhập của tinh
trùng lên đường sinh dục nữ.
19
Maìng kiãøm soaït täúc âäü phoïng thêch (0,06mm)
a. Loîi: 40% EVA60 %
etonogestrelb. Maìng: 100% EVA
a
b
Ba là ngăn chặn sự phát triển của niêm mạc tử cung. Dưới tác dụng của
progestagen kéo dài nội mạc sẽ thiểu dưỡng [11], [12], [32], [41], [48], [57],
[59], [67].
Tác dụng tránh thai của Implanon chủ yếu đạt được nhờ sự ức chế rụng
trứng. Trong 2 năm đầu sử dụng, không thấy rụng trứng và trong năm thứ 3
sự rụng trứng cũng rất hiếm hoi [7], [53], [73], [72], [74].
Sau khi cấy Implanon, Etonogestrel nhanh chóng phóng thích vào tuần
hoàn nồng độ cực đại trong huyết tương từ 60-70 microgam/ngày, 35- 45
microgam/ngày sau 1 năm, 30- 40 microgam/ngày sau 2 năm và 25- 30
microgam/ngày vào cuối năm thứ ba. Như vậy là tốc độ phóng thích giảm dần
theo thời gian. Với liều 30 microgam ENG được giải phóng 1 ngày, cần thiết
để ức chế một cách tin cậy đỉnh LH [7], [8], [67], [72], [73].
1.6.4. Hiệu quả tránh thai
Hiệu quả tránh thai của biện pháp rất cao. Chỉ số Pearl Index: 0.0,
khoảng tin cậy 95%. Theo nghiên cứu của một tổ chức ở Inđonêxia, theo dõi
53.530 vòng kinh, không xẩy ra trường hợp nào có thai. Các nghiên cứu khác
thực hiện trên thế giới thì chỉ số thất bại của biện pháp cấy tránh thai này cũng
bằng không (pearl index) [6], [7], [9], [14], [36], [37], [41], [52], [56], [57],
[59], [67], [74].
Thuận lợi
Biện pháp tránh thai này mới, hiện đại, kín đáo, cấy một lần tránh thai được
thời gian dài 3 năm, có tác dụng tránh thai nhanh ngay khi cấy (< 24 giờ) nên
cấy trong vòng từ ngày thứ nhất đến ngày thứ năm của chu kỳ kinh nếu là vòng
kinh đều thì có hiệu quả tránh thai cao chỉ số pearl bằng 0 [7], [14], [57], [73],
[74]. Thuốc không ảnh hưởng đến sự tiết sữa, cũng như chất lượng của sữa
[38], [69], không có những tác dụng phụ của viên thuốc tránh thai kết hợp.
Không ảnh hưởng tới ham muốn tình dục. Là thuốc tránh thai hồi phụ sinh sản
20
nhanh, khách hàng không thích hoặc có tác dụng phụ thì tháo ra [18], [38],
[41], [47], [58], [71], [76]. An toàn, kinh tế và tiết kiệm, là biện pháp tránh thai
của thế kỷ này, nhiều phụ nữ chấp nhận [36], [37], [41], [44], [43], [47], [52],
[62], [65], [74].
Không thuận lợi: đây là biện pháp tránh thai không phòng tránh được
HIV và các bệnh lây qua đường tình dục [8], [26], [48], [79]. Trong năm đầu
xử dụng nang cơ năng buồng trứng to lên, sau đó tự thoái triển, không ảnh
hưởng đến tình hình sức khỏe nói chung [46], [67].
Lợi ích cho sức khoẻ nói chung: thuốc có thể làm giảm hoặc khỏi
thống kinh, giảm bớt nguy cơ ung thư nội mạc tử cung [50], giảm bớt nguy
cơ viêm nhiễm phần phụ và chửa ngoài tử cung [29], [37], [44], [48], [58],
[74]. Đây là biện pháp tránh thai an toàn, hiệu quả tránh thai cao [44], [47],
[51], [57],
- Tác dụng phụ ( Tác dụng không mong muốn)
+ Do thuốc cấy tránh thai:
. Rối loạn kinh nguyệt: Vô kinh, rong kinh ra máu thấm giọt,rong
huyết, kinh thưa [40], [43], [76].
. Nhức đầu, chóng mặt, tăng cân, nám da, căng và đau vú, mụn trứng
cá, [58], [60], [67].
. Nhìn chung các tác dụng phụ thường nhẹ và chấp nhận được [47],
[50], [52], [68], [69], [87], [91].
. Dị ứng với các thành phần của thuốc [7], [50], [71], [72].
+ Do thuốc tê:
Sốc lidocain gây chết người (hiếm khi xảy ra)
+ Tại chỗ cấy:
. Bầm tím chỗ cấy [16], [32], [40]
. Nhiễm trùng chỗ cấy (nếu không tuân thủ nguyên tắc vô khuẩn)
21
. Cấy không đúng kỹ thuật thì que có thể chồi ra hoặc không có que cấy
ở trong vị trí cấy [22], [63], [67].
. Đau và ngứa chỗ cấy [7], [36], [38].
. Do khách hàng sờ nắn nhiều quá làm gãy nang cấy [66].
- Thay đổi các hình thái ra máu âm đạo
Trong khi dùng thuốc ngừa thai chỉ chứ progestogen, một số phụ nữ có
thể thấy xuất huyết âm đạo dạng ra máu thấm giọt, kinh kéo dài, vô kinh, rong
huyết. Những thay đổi này thường là những lý do để phụ nữ từ chối không
dùng biện pháp này. Do đó, cần phải tư vấn cho chị em phụ nữ trước khi họ
chọn, sử dụng que cấy implanon [7], [9], [11], [15], [18], [35], [73], [74],.
Cách theo dõi các hình thức ra máu âm đạo theo quy định của Tổ chức Y
tế Thế giới được dùng phổ biến. Ở phụ nữ dùng biện pháp tránh thai không có
hormon hoặc dùng thuốc viên tránh thai kết hợp vẫn có thể nhận ra các chu kỳ
ra huyết đều đặn bình thường với thời gian trung bình là 28 ngày, còn gọi là
hành kinh và ra huyết do nghỉ thuốc [9], [15], [67].
Khi tránh thai bằng thuốc không có estrogen liên tục trong thời gian dài,
như thuốc cấy chẳng hạn, không có hormon nào bị gián đoạn, do đó, không
xảy ra xuất huyết do nghỉ thuốc và không thể nhận ra các chu kỳ kinh. Như
vậy, khi dùng thuốc tránh thai phóng thích progestogen liên tục hình thái ra
huyết âm đạo có thể thay đổi. Để mô tả hình thái xuất huyết không chu kỳ
trong thời gian dùng progestogen liên tục người ta dùng một hệ thống gọi là
thời gian đối chiếu 90 ngày [9], [15], [22], [28]. Trong một chu kỳ đối chiếu
90 ngày có 3 - 4 đợt hành kinh là bình thường. Nếu 90 ngày đó không có đợt
ra máu nào gọi là vô kinh. Nếu có 1-2 đợt ra máu thì gọi là kinh thưa. Còn
nếu trong chu kỳ 90 ngày có 5-6 đợt ra huyết thì gọi là rong huyết. Nếu một
đợt ra huyết đó kéo dài liên tục trên 14 ngày gọi là rong kinh.
22
Các biện pháp tránh thai là những biện pháp nhằm ngăn chặn sự gặp gỡ
của tinh trùng và trứng. Nó có thể là một hàng rào cơ học hoặc hoá học ngăn
cản sự thành lập giao tử, hoặc ngăn chặn sự làm tổ của trứng, mỗi biện pháp
tránh thai đều có những ưu điểm và tác dụng không mong muốn, nhất là
phương pháp tránh thai nội tiết hay xảy ra xáo trộn kinh nguyệt [31], [37], [42].
Implanon là một trong những biện pháp nhằm bảo vệ sức khoẻ mà tất
cả các cặp vợ chồng có thể thực hiện. Việc phòng tránh thai ngoài kế hoạch
và giãn khoảng cách sinh có tác động sâu sắc đến việc bảo vệ sức khoẻ,
giảm tỷ lệ mắc bệnh và tử vong bà mẹ, trẻ em, không ảnh hưởng đến sự phát
triển của trẻ [7], [19], [28], [36], [47]. Tuy nhiên việc áp dụng các biện pháp
tránh thai phải là một quyết định tự nguyện dựa trên sự lựa chọn một biện
pháp thích hợp của khách hàng sau khi đã nhận được đầy đủ thông tin về mỗi
biện pháp. Vai trò của nhân viên y tế là cung cấp cho khách hàng tất cả các
thông tin về những thuận lợi, không thuận lợi cũng như cách sử dụng của mỗi
biện pháp.
Hiệu quả của biện pháp tránh thai được đánh giá bằng chỉ số Pearl
Index (P):
Số trường hợp thất bại *1200
P = ---------------------------------------------
Số vòng kinh quan sát được
P: số trường hợp thất bại có thai /100 phụ nữ sử dụng phương pháp
tránh thai /1 năm. Ngoài vấn đề hiệu quả tránh thai cao, các phương pháp
tránh thai còn phải không ảnh hưởng đến sức khoẻ người sử dụng và được sự
chấp nhận xử dụng một cách rộng rãi của cộng đồng [4], [11], [72].
Tình hình nghiên cứu trên thế giới về thuốc tránh thai mảnh cấy
Có rất nhiều nghiên cứu trên thế giới về mảnh cấy tránh thai của các
nước, tổ chức Y tế Thế Giới kể cả hãng sản xuất ra que cấy. Họ nghiên cứu về
23
tính an toàn, hiệu quả tránh thai, khả năng chấp nhận của cộng đồng, các tác
dụng phụ của mảnh cấy tránh thai. Kết quả nghiên cứu đã chứng minh tính
hiệu quả cao, an toàn và tiện lợi của thuốc cấy tránh thai so với các phương
pháp tránh thai khác.
Tại Thái Lan, một nghiên cứu mở không so sánh trong 4 năm tiến hành
trên 100 phụ nữ khoẻ mạnh với mảnh cấy Implanon. Kết quả của nghiên cứu
này cho thấy không có trường hợp nào có thai trong số 296 lượt phụ nữ sử
dụng. Với chu kỳ tham khảo 90 ngày, trung bình đã có 10 ngày ra máu thấm
giọt và 2 kỳ ra máu. Vô kinh 24-39% trong 2 năm đầu, đau đầu 7%, một số ít
đối tượng ngừng sử dụng sớm do chảy máu không đều. Sau tháo que có 6
trường hợp có thai ngay cho thấy sự phục hồi sinh sản nhanh. Thời gian cấy
que thuốc chiếm 0,5 phút và thời gian lấy que thuốc là 2,5 phút. Qua nghiên
cứu, có thể kết luận Implanon có hiệu quả tránh thai cao, sử dụng rộng rãi, dễ
chấp nhận, đặt và tháo que dễ dàng không gây tai biến [16], [52], [57], [58].
Tại Indonesia, việc nghiên cứu được tiến hành trên 200 phụ nữ trong
thời gian 4 năm cũng cho thấy biện pháp cấy này có hiệu quả tránh thai cao,
chỉ số pearl là 0 (95%), với chu kỳ kinh đối chiếu có ra máu bất thường,
không có kinh [16].
Ở châu Âu, việc nghiên cứu được tiến hành trên qui mô lớn với 635
phụ nữ khoẻ mạnh tại 21 trung tâm ở 9 quốc gia khác nhau cũng cho thấy
cũng cho thấy không có trường hợp nào có thai xảy ra trong quá trình sử dụng
Implanon (chỉ số Pearl Index of 0). Có 31% ngưng sử dụng trong 2 năm đầu
và nguyên nhân chính để ngưng sử dụng là ra máu không đều. Đặt que và
tháo que dễ dàng trong hầu hết các đối tượng (97%). Khả năng thụ thai hồi
phục nhanh chóng sau khi tháo que thuốc [9], [15], [37], [47].
Tại Việt Nam đã có các nghiên cứu về thuốc cấy tránh thai. Đó là
nghiên cứu của giáo sư Trần Thị Phương Mai công tác tại Bộ Y Tế Vụ SKSS
với mẫu nghiên cứu là 120 đối tượng thuộc 3 trung tâm: Bệnh viện Phụ Sản
24
Trung Ương với 40 đối tượng, Trung tâm CSSKSS tỉnh Thanh Hoá 40 đối
tượng và trung tâm CSSKSS tỉnh Hoà Bình 40 đối tượng trong thời gian ba
năm có kết quả như sau: hiệu qủa tránh thai là 100%. Có 3 hình thái ra máu âm
đạo được chấp nhận hơn đó là ra máu âm đạo bình thường 38%, ra máu âm
đạo thưa 36% và vô kinh là 20%, ra máu dày chiếm tỷ lệ 16% ít được khách
hàng chấp nhận và các tác dụng phụ khác như đau đầu, chóng mặt, buồn nôn,
căng ngực, nổi mụn, các tác dụng phụ này chỉ thoáng qua không trầm trọng và
không cần phải điều trị, năm đầu có 5 trường hợp bỏ cuộc (tháo que cấy), năm
thứ hai có 11 trường hợp bỏ cuộc và năm thứ ba có thêm 8 đối tượng nữa bỏ
cuộc. Trong số 24 đối tượng bỏ cuộc có 12 trường hợp tháo que cấy vì bị tác
dụng phụ là rong huyết. Thủ thuật cấy và tháo que cấy đơn giản dễ thực hiện.
Cán bộ y tế được tập huấn sẽ thực hiện thủ thuật cấy và tháo que được [9].
Nghiên cứu của Trần Đức Chiến ở Bắc Giang với 300 đối tượng theo dõi trong
một năm có các kết quả sau: hiệu quả tránh thai là 100%, sự chấp nhận của
cộng đồng là 99,2%, tỷ lệ vô kinh là 15,9%, ra máu thưa là 19%, ra máu bình
thường là 69,5%, thủ thuật cấy que dễ, không có tai biến trầm trọng, có 6
trường hợp bỏ cuộc chiếm tỷ lệ 2 % [5]. Qua tình hình nghiên cứu về thuốc cấy
tránh thai như trên ta thấy đây là một biện pháp tránh thai mới của thế kỷ này,
có nhiều ưu điểm, được phụ nữ tin dùng, tuy nhiên còn một vài tác dụng phụ
không mong muốn, các tác dụng phụ không mong muồn này chỉ thoáng không
cần phải điều trị. Ưu điểm lớn nhất của biện pháp là hiệu quả tránh thai cao, an
toàn cho sức khỏe, có thai lại ngay sau khi ngưng sử dụng biện pháp [7], [9],
[11], [16], [18],[21], [28], [41], [44], [47],[51].
25
Chương 2
ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU
Đối tượng nghiên cứu gồm tất cả phụ nữ trong độ tuổi sinh đẻ có nhu
cầu áp dụng kế hoạch hóa gia đình, không có các bệnh nội khoa, tự nguyện sử
dụng phương pháp tránh thai bằng que cấy Implanon đến tại TT CSSKSS tỉnh
Thừa Thiên - Huế. Có 288 đối tượng đáp ứng đầy đủ các tiêu chuẩn nhận vào
và loại ra khỏi nghiên cứu. Mẫu được chọn trong 3 tháng đầu và sau đó theo
dõi sau 1 tháng, 3 tháng, 6 tháng, 9 tháng, 12 tháng. Sau 12 tháng tiến hành
đánh các tiêu chuẩn của mục tiêu nghiên cứu.
2.1.1. Tiêu chuẩn nhận vào nghiên cứu
- Tối thiểu 18 tuổi nhưng không quá 40 tuổi vào thời điểm chọn đối tượng
- Tự nguyện chọn thuốc cấy tránh thai Implanon
- Đồng ý hợp tác với cán bộ y tế trong quá trình theo dõi, sẵn sàng tới
khám lại theo hẹn và trả lời phỏng vấn
- Có ít nhất một con sống.
- Kinh nguyệt đều với chu kỳ 24 - 35 ngày.
- Đang có kinh từ ngày thứ 1 đến ngày 5 của chu kỳ kinh bình thường
- Chỉ số thân khối 18-24,5 (40-50Kg)
- Có sức khỏe tốt về thể chất và tinh thần.
- Huyết áp tối đa từ 100-120mmHg và huyết áp tối thiểu từ 60-
80mmHg
2.1.2. Tiêu chuẩn loại khỏi nghiên cứu
- Có chống chỉ định với Implanon.
- Chảy máu âm đạo không rõ nguyên nhân.
- Đang có thai hoăc nghi ngờ có thai.
26
- Đang cho con bú
- Có tăng huyết áp, huyết áp tâm thu >140 mmHg và/ hoặc huyết áp
tâm trương >90 mmHg.
- Tiền sử trước đây trong khi có thai hoặc khi sử dụng các steroid sinh
dục có: vàng da, hoặc ngứa, sỏi mật, viêm tắc tĩnh mạch.
- Bệnh nội tiết, đái đường, tim ….
- Khối u ở vú, u cơ quan sinh dục.
- Trước đây hoặc hiện tại đang dùng một trong các thuốc sau đây
barbiturat, thuốc chống lao rifamicin, thuốc chống nấm griseofulvin.
- Không tuân thủ được quy trình theo dõi
2.2. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.2.1. Phương pháp nghiên cứu
Nghiên cứu thuộc loại nghiên cứu tiến cứu, theo dõi dọc.
2.2.2. Vật liệu nghiên cứu
- Que cấy tránh thai Implanon nạp sẵn trong ống cấy vô trùng, của
hãng Organon sản xuất. Que này được dùng một lần, cấy dưới da, có tác dụng
tránh thai trong 3 năm.
- Các dụng cụ và phương tiện cần thiến cho cấy que tránh thai.
. Dụng cụ cần thiết cho khám toàn thân như : máy đo huyết áp, ống
nghe tim phổi, cân trọng lượng, ….
. Dụng cụ cần thiết để khám phụ khoa : mỏ vịt, găng tay vô khuẩn….
. Săng vô khuẩn.
. Dung dịch sát khuẩn.
. Băng cá nhân, gạc vô khuẩn.
. Bộ dụng cụ cấy vô khuẩn.
. Bơm tiêm 5 ml.
. Bộ dụng cụ tháo que cấy và dao mổ.
27
. Máy siêu âm Plus 250 của nhật.
- Thuốc . Gây tê tại chỗ : Lidocain 1% x 2ml.
. Addrrenalin : Để xử trí sốc phản vệ có thể xảy ra khi
gây tê tại chỗ.
. Kháng sinh đường uống :doxycylin 100mg.
. Thuốc tránh thai hết hợp : Idial vỷ.
2.2.3. Phương tiện nghiên cứu
- Phiếu nghiên cứu được thiết kế để thu thập các thông tin và dữ liệu
phụ vụ cho nghiên cứu.
- Hồ sơ khách hàng.
- Phiếu theo dõi và xử trí các tác dụng phụ.
- Sổ theo dõi khách hàng qua các lần tái khám theo định kỳ.
2.3. ĐỊA ĐIỂM NGHIÊN CỨU
Nghiên cứu được tiến hành tại Trung tâm CSSKSS tỉnh 30 Lý Thường
Kiệt TP Huế
2.4. THỜI GIAN NGHIÊN CỨU
Nghiên cứu được bắt đầu vào tháng 5 năm 2006 và kết thúc vào tháng
8 năm 2007, tổng cộng là 15 tháng bao gồm :
- 3 tháng chọn đối tượng.
- 12 tháng theo dõi và ghi nhận các số liệu liên quan đến thuốc cấy.
- Sau đó là theo dõi đánh giá, xử lý số liệu và hoàn thành nghiên cứu.
2.5. CÁC BƯỚC TIẾN HÀNH
2.5.1. Tư vấn
- Tư vấn chung : đủ điều kiện nhận vào nghiên cứu
- Tư vấn riêng biệt : thảo luận đầy đủ các thông tin về thuốc cấy tránh thai.
. Ưu điểm, nhược điểm.
28
. Các tác dụng phụ không mong muốn có thể xảy ra khi sử dụng thuốc
câý tránh thai.
. Thời điểm cấy tốt nhất.
. Cách cấy và tháo que cấy.
. Thời gian xử dụng để tránh thai.
. Những thay đổi về các hình thức ra máu sau khi sử dụng que cấy.
. Khả năng có thai trở lại sau khi tháo que cấy.
. Lịch hẹn tái khám.
Khách hàng sau khi được tư vấn hài lòng, tự nguyện chọn phương pháp
cấy. Thỏa mãn tất cả các tiêu chuẩn chọn vào nghiên cứu sẽ được khám và
cấy thuốc tránh thai.
2.5.2. Thu thập thông tin
Các thông tin thu thập được trong quá trình hỏi bệnh, khám bệnh được
nhập vào phiếu điều tra nghiên cứu theo mẫu in sẵn.
2.5.2.1. Thông tin chung
- Họ và tên :
- Số con sống
1con
2 con
3 con
4 con
5 con
- Tuổi
< 20
20 - 24
25 - 29
30 - 34
35 - 39
29
- Mục đích ngừa thai :
Giãn khoảng cách sinh
Chấm dứt sinh
- Địa bàn cư trú :
Nông thôn
Thành thị
- Nghề nghiệp phân bố theo các nhóm như sau : buôn bán, nội trợ, cán bộ
công chức, giáo viên, kỹ sư, khác.
- Trình độ văn hóa : tiểu học, trung học, cao đẳng, đại học.
- Tiền sử mang thai : số lần có thai, số lần đẻ, số con hiện có.
- Các biện pháp tránh thai đã dùng trước đó.
2.5.2.2. Thông tin riêng
Bắt đầu có kinh năm :
- Tính chất kinh nguyệt : Đều hay không đều.
Chu kỳ kinh nguyệt bao nhiêu ngày.
Thời gian ra kinh
Lượng kinh
Đang có kinh ngày thứ mấy.
Đủ điều kiện sử dụng biện pháp cấy tránh thai.
2.5.3 Khám
2.5.3.1. Khám toàn thân
- Khám lâm sàng : Đo huyết áp, đếm mạch.
Khám tim phổi (Hỏi tiền sử nội ,ngoại , sản khoa).
- Cận lâm sàng : Siêu âm tử cung phần phụ.
2.5.3.2. Khám chuyên khoa
- Âm hô, âm đạo
- Cổ tử cung
30
- Phần phụ hai bên
- Khám vú
- Chọn khách hàng đủ điều kiện.
2.6 THỜI ĐIỂM CẤY QUE THUỐC TRÁNH THAI
2.6.1.Tốt nhất là trong vòng ngày thứ nhất đến ngày thứ 5 của chu kỳ kinh tự
nhiên của người phụ nữ.
2.6.2. Đang uống thuốc tránh thai kết hợp chuyển sang, tốt nhất nên cấy
Implanon vào ngày kế tiếp sau khi uống viên thuốc tránh thai của ngày hôm trước.
2.6.3.Đang dùng thuốc tiêm tránh thai chuyển qua với điều kiện thuốc tiêm
tránh thai còn thời gian tác dụng ngừa thai.
2.6.4. Sau sẩy thai tự nhiên hoặc sau nạo hút thai với điều kiện lòng tử cung
sạch, có thể cấy thuốc tránh thai ngay hoặc sau 5 ngày.
2.6.5. Sau sinh, con đang bú, chưa có kinh, chắc chắn là không có thai.
Trong nghiên cứu này chỉ chọn đối tượng ở điều kiện 2.6.1.
2.7. THỦ THUẬT CẤY QUE TRÁNH THAI
. Tiến hành thủ thuật cấy Implanon
- Phải tiến hành cấy que thuốc implanon trong điều kiện vô khuẩn, và
phải được bác sỹ thành thạo kỹ thuật cấy thực hiện.
- Xác định khách hàng không có tiền sử dị ứng với etonogestrel, thuốc
tê hoặc các thuốc liên quan.
- Để đối tượng nằm ngửa cánh tay không thuận giang ra ngoài và hơi
gập khuỷu, nếu muốn có thể ngồi. Que Implanon sẽ được cấy xuống dưới da
bằng ống cấy vô khuẩn đã nạp sẵn que cấy.
- Sắp xếp vật liệu, dụng cụ sao cho dễ lấy.
- Phải cấy que ở mặt trong cánh tay(tay không thuận), khoảng 6-8 cm
trên nếp gấp khuỷu, trong rãnh giữa cơ hai đầu và cơ ba đầu cánh tay (rãnh
nhị đầu trong).
31
- Đánh dấu vị trí cấy.
- Lau sạch chỗ cấy bằng bông gòn tẩm thuốc sát khuẩn.
- Gây tê bằng thuốc tê dạng xịt, hoặc với 2ml lidocain (1%) tiêm sát
dưới da dọc theo “ rãnh cấy ”.
- Cẩn thận tháo ống cấy vô khuẩn chứa que cấy Implanon ra khỏi vị nhựa.
Phải giữ vỉ nhựa sao cho đầu kim hướng lên trên, đề phòng que cấy rơi ra.
- Dùng mắt kiểm tra sự hiện diện của que cấy trong phần kim loại của
ca-nuyn (kim). Nếu que cấy thò ra khỏi kim, búng nhẹ vào phần plastic của
ca-nuyn để làm que cấy trở lại vị trí ban đầu.
- Đừng chạm vào kim trên ca-nuyn hoặc que cấy trong ống cấy bằng tay
trần. Nếu bị vấy nhiễm, bỏ ra để huỷ. Mở một bì mới và tiếp tục làm thủ thuật
- Giữ ống cấy dọc theo cánh tay.
- Căng da quanh chỗ cấy bằng ngón cái và ngón trỏ. Chọc kim vào
khoảng ngăn cách giữa cơ hai đầu và cơ ba đầu (Rãnh nhị đầu trong), sát
ngay dưới da, càng nông càng tốt, hơi song song với mặt da, trong khi vừa
dùng đầu kim để nâng da lên. Đâm kim vào hết chiều dài của nó.
- Điều quan trọng là giữ kim ở lớp hạ bì bằng cách chọc kim đội da lên.
Nếu không làm thế, que thuốc có thể bị cấy xuống sâu và sau này khó rút ra.
- Dùng một tay giữ cố định ca-nuyn để tránh những cử động không cần
thiết. Bẻ xi ống cấy bằng cách ấn vào cán nòng bịt
- Xoay nòng bịt một góc 90 độ so với ca-nuyn. Giữ chặt cố định nòng
bịt trên cánh tay.
- Dùng tay kia kéo nhẹ ca-nuyn khỏi cánh tay trong khi vẫn giữ nòng bịt
cố định tại chỗ. (Thủ thuật này trái ngược với tiêm thuốc là phải đẩy pít-tông
còn bơm tiêm được giữ cố định).
- Bằng cách giữ nòng bịt tại chỗ và đồng thời rút ca-nuyn, que cấy sẽ
nằm yên trong cánh tay.
32
- Ngay sau khi rút kim ra, đặt gạc vô khuẩn lên vết thương. Sờ nắn que
cấy để kiểm tra chắc chắn là thủ thuật đã được hoàn tất một cách thành công.
- Băng ép để giảm thiểu nguy cơ chảy, tụ máu.
- Ống cấy chỉ dùng một lần và phải xử lý thích hợp theo qui trình xử lý
chất thải sinh học nguy hiểm.
- Theo dõi khách hàng vài phút xem có dấu hiệu ngất hay chảy máu ở
nơi cấy thuốc hay không trước khi cho về. Giải thích cho khách hàng biết có
thể thấy máu tụ và đau trong vài ngày đầu trong khi thuốc tê đã hết tác dụng.
- Khuyên khách hàng giữ khô vùng cấy trong vòng 24 giờ. Có thể tháo gạc
và băng ép trong 24 giờ. Quay lại phòng khám nếu có kích ứng ở nơi cấy thuốc.
- Tuân thủ lịch khám theo cam kết [7], [57], [59].
Hình 1.4. Cách cấy que Implanon [73]
33
2.8. THỦ THUẬT THÁO QUE
- Để khách hàng nằm nghiêng trên bàn khám, cánh tay có cấy que thuốc
chìa ra ngoài và hơi gập khuỷu.
- Yêu cầu khách hàng gập tay lại để dễ sờ thấy que thuốc.
- Định vị que cấy bằng cách sờ nắn. Trong trường hợp không định vị
được que cấy bằng sờ nắn, nên làm siêu âm để phát hiện. Đối với một số đầu
dò, có thể cần đặt một đệm silicone giữa da và đầu dò siêu âm để dễ nhìn thấy
hình ảnh của que cấy.
- Đánh dấu đầu xa của que cấy.
- Sát trùng vùng da chứa que cấy.
- Gây tê tại chỗ đã cấy que thuốc. Tiêm thuốc tê ở phía dưới que cấy.
Nếu tiêm ở phía trên que cấy sẽ bị phù da, gây khó khăn cho việc định vị que
cấy.
- Rạch da dài 2 mm ở đầu dưới của que cấy vị trí gần khuỷu tay.
- Nhẹ nhàng đẩy que cấy bằng ngón trỏ và ngón giữa của tay trái trong
khi tay phải cầm dao mổ tiếp tục rạch cho đến khi thấy được đầu que cấy.
Kẹp que thuốc bằng kẹp phẫu tích không mấu và rút ra.
- Nếu que cấy bị bọc lại bởi mô sơ xung quanh, thì phải rạch mô sơ đó
rồi dùng kẹp rút que ra.
- Nếu không thấy được đầu que, nhẹ nhàng luồn kẹp vào đường rạch và
kẹp que cấy.
- Rồi dùng một kẹp phẫu tích khác bóc tách cẩn thận mô xung quanh
que cấy. Khi đó mới có thể rút que ra được. Nếu chưa thì cứ kẹp que như vậy
và rạch nhẹ vào đầu que đã kẹp cho rách bao sơ đó thì que cấy sẽ trồi lên và
có thể rút que ra được.
- Nếu đường rạch to phải đóng da lại, còn đường rạch nhỏ chỉ cần băng
ép lại bằng băng gạc vô khuẩn là được.
34
- Theo dõi khách hàng trong 5-10 phút, nếu tốt thì cho về. Trước khi ra
về phải dặn khách hàng giữ khô vết thương, uống kháng sinh, quay lại nếu có
bất cứ chuyện gì tại vết rạch. Khả năng sinh sản trước đây của bạn sẽ trở lại
bình thường rất nhanh và có thể có thai lại bất cứ lúc nào. Do đó bạn nên
dùng ngay một biện pháp tránh thai khác nếu không muốn có thai lại
2.9. THEO DÕI SAU CẤY THUỐC TRÁNH THAI ĐỂ ĐÁNH GIÁ
CÁC TÁC DỤNG PHỤ KHÔNG MONG MUỐN VÀ XỬ TRÍ CÁC TÁC
DỤNG PHỤ
2.9.1. Theo dõi
Sau khi cấy thuốc với 5 lần theo dõi trong 12 tháng (1tháng, 3 tháng, 6 tháng
9 tháng, 12 tháng) khách hàng sẽ được theo dõi các vấn đề sau.
- Hiệu quả tránh thai của biện pháp.
Được đánh giá bằng việc xảy ra có thai trong quá trình nghiên cứu.
Phải tiến hành làm xét nghiệm thử thai nếu nghi ngờ rằng đối tượng có thai.
(chậm kinh trên 2 tuần).
- Mức độ chấp nhận của cộng đồng đối với biện pháp này.
Có phiếu phỏng vấn căn cứ trên phiếu để đánh giá sự hài lòng hay không hài
lòng, tạm được của đối tượng nghiên cứu.
- Huyết áp, cân nặng.
Căn cứ trên huyết áp trước khi cấy và sau khi cấy que. Qua theo dõi các
lần tái khám để đánh giá huyết áp và cân nặng có bị ảnh hưởng không.
- Đánh giá các hình thái ra máu âm đạo trong thời gian cấy thuốc: bằng
phiếu theo dõi kinh nguyệt. Số liệu của đối tượng hoàn thành ít nhất là một
giai đoạn 90 ngày theo dõi mới đưa vào nghiên cứu và phân tích.
- Dữ liệu về hình thái ra máu âm đạo được xếp theo tiêu chuẩn của tố
chức y tế thế giới (WHO) như bảng dưới đây.
35
Bảng 2.1. Định nghĩa các hình thái ra máu âm đạo
Hình thái ra máu âm đạo Định nghĩa
Vô kinh Không ra máu trong mỗi giai đoạn 90 ngày
Ra máu âm đạo thưa Có1-2 đợt ra máu trong mỗi giai đoạn 90 ngày
Ra máu âm đạo bình thường Có 4-5 đợt ra máu trong mỗi giai đoạn 90 ngày
Ra máu âm đạo dày Có nhiều > (5-6) đợt ra máu trong mỗi 90 ngày
Ra máu kéo dài (rong kinh) Một đợt ra máu kéo dài trên 14 ngày
- Các tác dụng phụ.
- Xử trí các tác dụng phụ gặp phải trong lúc dùng que cấy tránh thai.
2.9.2. Các tác dụng phụ không mong muốn và xử trí tác dụng phụ
2.9.2.1. Tác dụng phụ không mong muốn thuộc kinh nguyệt
Sau khi sử dụng que cấy tránh thai sẽ có những tình huống sau (vô kinh,
kinh ít, ra máu thấm giọt, rong kinh kéo dài, ra máu dày (rong huyết)).
- Vô kinh: Tư vấn cho khách hàng yên tâm, không cần điều trị. Nều
khách hàng chưa hài lòng nên khám chuyên khoa và siêu âm tử cung phần
phụ để khách hàng yên tâm.
- Kinh ít : Tư vấn cho khách hàng yên tâm.
- Ra máu thấm giọt: Tư vấn để khách hàng yên tâm hoặc điều trị với
thuốc Ibuprofen 400mg uống 3 viên/1 ngày chia 3 lần, trong 3-5 ngày chấm
dứt ra huyết.
- Rong kinh - rong kinh kéo dài: Máu ra kéo dài từ 10-15 ngày và
lượng máu ra nhiều thấm 2 băng vệ sinh
Phác đồ điều trị rong kinh kéo dài:
Phác đồ 1: Dùng viên tránh thai kết hợp (Idial):
1viên/1ngày trong 21 ngày.
Phác đồ 2: Dùng 2 viên/1 ngày trong 3-5 ngày sự ra máu sẽ chấm dứt
và giảm liều còn 1viên/ngày trong 1 tuần.
36
- Đánh giá kết quả điều trị:
.Theo dõi và đánh giá kết quả điều trị rong kinh kéo dài bằng sự
chấm dứt ra máu sau 2 đợt điều trị.
. Nếu chấm dứt ra máu âm đạo, khách hàng tiếp tục xử dụng thì theo
dõi tiếp, còn nếu không hài lòng muốn đổi biện pháp thì cho đổi biện pháp
tránh thai khác và tháo que cấy ra.
- Ra máu dày (rong huyết): So với chu kỳ đối chiếu (90 ngày) ra máu >
6 lần. nếu khách hàng muốn điều trị điều trị, còn không muốn điều trị
muốn tháo que không điều trị mà sẽ tháo que cấy.
Phải xác định các hình thái ra máu âm đạo theo quy định của Tổ chức Y tế
thế giới trước khi điều trị.
2.9.2.1. Các tác dụng phụ không mong muốn khác
- Đau đầu: Tìm nguyên nhân.
Đo huyết áp cao (trước khi cấy H/A không cao, sau cấy H/A tăng
phải theo dõi trong 1 tuần. Nếu H/A duy trì 140/90 mmHg tư vấn cho khách
hàng yên tâm và theo dõi H/A hàng ngày. Còn nếu có chiều hướng gia tăng
kèm theo đau đầu nên chuyển biện pháp khác, tháo que.
Do thuốc cấy tránh thai: điều trị bằng Paracetamol, đau đầu chia ra 3 loại.
- Không ảnh hưởng đến sinh hoạt hàng ngày.
- Ảnh hưởng đến sinh hoạt hàng ngày.
. Chịu đựng được.
. Không chịu đựng được.
- Ảnh hưởng nhiều đến sinh hoạt hàng ngày.
Tùy theo mức độ đau, tiếp tục duy trì que cấy tránh thai hoặc phải
chuyển biện pháp khác.
Do các nguyên nhân khác thì điều trị theo nguyên nhân.
37
- Tăng cân: 1 năm khoảng 2 đến 4 kilogam chấp nhận đuợc, còn nhiều
quá nên chuyển biện pháp khác.
- Buồn nôn: tìm nguyên nhân, khám chuyên khoa và làm xét nghiệm
thử thai để loại trừ. Do thuốc phải tư vấn để khách hàng yên tâm
- Nám da: thẩm mỹ nên cân nhắc chọn lựa tùy tình hình của khách
hàng có hướng giải quyết thỏa đáng.
- Căng vú: Trong thời gian đầu cấy thuốc tránh thai, sau tự hết không
cần điều trị.
Các tác dụng phụ này thoáng qua trong thời gian đầu cấy thuốc, không
ảnh hưởng đến sức khỏe và không cần phải điều trị
2.9.2.3. Theo dõi bỏ cuộc
- Lý do bỏ cuộc
-Bỏ cuộc theo tuổi.
2.10. XỬ LÝ SỐ LIỆU
Xử lý số liệu theo chương trình thống kê Y học dựa vào phần mềm Epi
info 6.0.
38
Nhóm nghiên cứu thuốc cây tránh thai Implanon
Điều kiện chọn vào nghiên cứu
- 18-40t,tự nguyện chọn phương pháp cấy tranh thai này
- Có sức khoẻ tốt về tinh thần và thể chất
- Kinh nguyệt đều, với chu kỳ 24-35 ngày (ngày thứ nhất- thứ 5 của vòng
kinh)
- Chỉ số thân khối 18-25
- Huyết áp tâm thu 130mmHg. Huyết áp tâm trường 60mmHg.
39
Khám theo dõi sau 12 tháng
Nội dung theo dõi trong 12 tháng có 5 lần tái khám.- Khám phụ khoa, khám trong, siêu âm tử cung phần phụ cho khách hàng vô kinh.- HA, cân nặng.- Vị trí que cấy tránh thai còn nằm tại chỗ hoặc có dấu hiệu gì bất thường tại vị trí que cấy.- Kiểm tra thẻ nhật ký kinh nguyệt.- Đánh giá các hình thức ra máu âm đạo trong thời gian cấy thuốc.- Các tác dụng phụ kể từ những lần khám sau.- Mức độ chấp nhận của khách hàng- Phỏng vấn sâu các đối tượng tái khám theo mẫu sẵn có.
Kết quả theo dõi
- Hiệu quả tránh thai- Mức độ chấp nhận của người sử dụng- Các tác dụng phụ - xử trí các tác dụng phụ đó.
Sơ đồ 2.1. Quy trình nghiên cứu
Chương 3
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
Theo dõi trong vòng 1 năm từ ngày 8/5/2006 đến ngày 25/7/2007, với
số lượng 288 khách hàng đáp ứng tiêu chuẩn chọn bệnh để cấy thuốc tránh
thai Implanon tại Trung tâm Chăm sóc Sức khỏe Sinh sản tỉnh Thừa Thiên -
Huế, chúng tôi có được những kết quả như sau:
3.1. ĐẶC ĐIỂM CHUNG CỦA ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU
3.1.1. Đặc điểm về nhóm tuổi
Bảng 3.1. Phân bố theo nhóm tuối
Nhóm tuổi Số trường hợp Tỷ lệ %
20-24 16 5,6
25-29 76 26,4
30-34 135 46,9
35-39 61 21,1
Tổng cộng 288 100
Biểu 3.1. Phân bố theo nhóm tuối
Qua bảng 3.1, chúng tôi thấy đối tượng có độ tuổi từ 30-34 chiếm tỷ lệ 46,9%, thứ
đến là nhóm tuổi 25-29 chiếm 26,4%, và cuối cùng là nhóm 20-24 tuổi chiếm 5,6%.
40
3.1.2. Phân bố theo nghề nghiệp
Bảng 3.2 . Nghề nghiệp của các đối tượng nghiên cứu
Nghề nghiệp Số trường hợp Tỷ lệ %
CBCNV 60 20,8
Buôn bán 96 33,3
Nội trợ 47 16,4
Khác 85 29,5
Tổng cộng 288 100,0
Biểu đồ 3.2. Nghề nghiệp của các đối tượng nghiên cứu
Bảng 3.2 cho thấy, khách hàng nhiều nhất là làm nghề buôn bán, chiếm
tỷ lệ là 33,3%; tiếp tới là các nghề khác có tỷ lệ là 29,5%, cán bộ công nhân
viên với tỷ lệ là 20,8% và sau cùng là khách hàng nội trợ chiếm 16,4%.
41
3.1.3. Địa bàn cư trú
Bảng 3.3. Phân bố theo địa bàn cư trú
Địa chỉ Số trường hợp Tỷ lệ %
Nông thôn 92 31,9
Thành phố 196 68,1
Tổng cộng 288 100
Biểu đồ 3.3. Phân bố theo địa bàn cư trú
Qua bảng 3.3, ta thấy khách hàng ở thành thị chiếm số đông (tỷ lệ
68,1%), còn vùng nông thôn ít hơn (tỷ lệ 31,9%).
42
3.1.4. Trình độ học vấn
Bảng 3.4. Phân bố theo trình độ học vấn của đối tượng nghiên cứu
Trình độ học vấn Số trường hợp Tỷ lệ %
Tiểu học 43 14,9
TH CS 157 54,5
THPT 52 18,1
Đại học 36 12,5
Tổng số 288 100,0
Biểu đồ 3.4. Phân bố theo trình độ học vấn của đối tượng nghiên cứu
Qua bảng 3.4, ta thấy chiếm tỷ lệ đông trong nghiên cứu là đối tượng có
trình độ phổ thông cơ sở, chiếm 54,5 %; thứ hai là phổ thông trung học,
chiếm 18,1%; đại học là 12,5%, cuối cùng là tiểu học chiếm 14,9%.
43
3.1.5. Đặc điểm về số con
Bảng 3.5. Phân bố về số con của đối tượng nghiên cứu
Số con sống Số trường hợp Tỷ lệ %
1 con 57 19,8
2 con 149 51,7
3 con 58 20,2
4 con 24 8,3
Tổng số 288 100,0
Biểu đồ 3.5. Phân bố về số con của đối tượng nghiên cứu
Từ bảng 3.5, chúng ta thấy chiếm tỷ lệ cao là các đối tượng có 2 con
51,7%; sau đó là 3 con với tỷ lệ là 20,2%, tiếp theo nữa là 1 con chiếm tỷ lệ
19,8% và cuối cùng là 4 con 8,3%.
44
3.1.6 Các biện pháp tránh thai đã dùng
Bảng 3.6. Các biện pháp tránh thai đã sử dụng trước khi cấy que
tránh thai
Biện pháp tránh thai đã sử dụng Số trường hợp Tỷ lệ %
Bao cao su 117 40,6
Xuất tinh ra ngoài âm đạo 89 30,9
Tính vòng kinh 46 16,0
Không dùng 36 12,5
Tổng cộng 288 100,0
Biểu đồ 3.6. Các biện pháp tránh thai đã sử dụng trước khi cấy que tránh thai
Qua biểu đồ, ta thấy các đối tương nghiên cứu chủ yếu là dùng bao cao
su chiếm tỷ lệ 40,6%, thứ đến là xuất tinh ngoài âm đạo 30,9%, sau nữa là
dùng biện pháp tính vòng kinh nhân tạo 16% và cuối cùng là không dùng biện
pháp là 12,5%.
45
3.1.7. Đặc điểm của huyết áp trước khi cấy que
Bảng 3.7. Đặc điểm của huyết áp
Huyết áp
(mm Hg)Số trường hợp Tỷ lệ
100/60 81 28,14 HATĐ
111,42±7,11
HATT
71,81±5,98
110/70 105 36,46
120/80 103 35,40
Tổng cộng 288 100%
Biểu đồ 3.7. Đặc điểm của huyết áp
Huyết áp từ 120 /80 mmHg chiếm 35,4%, HA 110/70 mmHg chiếm
36,46%, còn HA 100/60 chiếm 28,1%
Huyết áp tối đa trung bình là 111,427,11mmHg. Huyết áp tối thiểu trung
bình là 71,815,98 mmHg.
46
3.1.8. Đặc điểm cân nặng trước khi cấy que thuốc
Bảng 3.8. Cân nặng trung bình trước khi cấy que tránh thai
Cân nặng (Kg) Số trường hợp Tỷ lệ % SD
40-44 8 2,8 43,76 0,71
45-49 238 82,6 47,19 1,28
50 42 14,6 51,27 1,51
Tổng cộng 288 100,0 47,69 2,05
Biểu đồ 3.8. Cân nặng trung bình trước khi cấy que tránh thai
Qua bảng 3.8, ta thấy đối tượng có cân nặng 45- 49 kg chiếm tỷ lệ
82,6%. Đối tượng trên 50 kg chiếm tỷ lệ 14,6%. Đối tượng có cân nặng 40-
44 kg chiếm tỷ lệ 2,8%. Cân nặng trung bình trước khi cấy que Implanon là
47,69 2,05 kg.
47
3.1.9. Tính chất chu kỳ kinh nguyệt trước khi cấy que
Bảng 3.9. Đặc điểm chu kỳ kinh nguyệt của đối tượng nghiên cứu
Chu kỳ kinh
(Ngày)Số trường hợp Tỷ lệ % X SD
24-30 249 86,5 28,68 0,96
31-35 26 9 31,69 0,47
35 13 4,5 35,00 0,52
Tổng số 288 100,0 29,40 1,72
Biểu đồ 3.9. Đặc điểm chu kỳ kinh nguyệt của đối tượng nghiên cứu
Qua bảng 3.9, ta thấy phần lớn đối tượng nghiên cứu có chu kỳ kinh
nguyệt: 24-30 ngày chiếm tỷ lệ 86,5 %. Chu kỳ kinh: 31-35 ngày có 26
trường hợp chiếm 9%. Chu kỳ kinh > 35 có 13 đối tượng chiếm tỷ lệ là 4,5
%. Số ngày trung bình của một chu kỳ kinh là 29,40 1,72 ngày.
48
3.1.10. Thời gian ra kinh của mỗi chu kỳ kinh trước khi cấy que thuốc
Bảng 3.10. Số ngày có kinh của mỗi chu kỳ kinh
Số ngày ra máu kinh (ngày) Số trường hợp Tỷ lệ % X SD
1-3 250 86,8 2,4 0,63
4-6 38 13,2 4,7 0,70
Tổng số 288 100,0 2,7
1,0
Biểu đồ 3.10. Số ngày có kinh của mỗi chu kỳ kinh
Có kinh 1-3 ngày chiếm tỷ lệ 86,8%, còn lại 4-6 ngày 13,2%. Số ngày ra
máu trung bình là 2,7 1,0 ngày.
49
3.1.11. Đặc điểm lượng máu mất cho 1 kỳ hành kinh trước khi cấy que
Bảng 3.11. Lượng kinh ra của một chu kỳ kinh
Lượng máu mất
(Băng vệ sinh)Số trường hợp Tỷ lệ%
Ít 40 13,9
Bình thường 222 77,1
Nhiều 25 8,6
Rất nhiều 1 0,4
Tổng cộng 288 100,0
Qua bảng 3.11, ta thấy phần lớn đối tượng nghiên cứu có lượng máu
kinh ra bình thường chiếm tỷ lệ 77,1%. Ra máu kinh lượng nhiều chiếm tỷ lệ
8,7%. Ra máu rất nhiều chiếm tỷ lệ 0,4%. Có kinh, lượng máu kinh ra ít
chiếm tỷ lệ 13,9 %.
3.2. THEO DÕI SAU CẤY THUỐC TRÁNH THAI (TÁI KHÁM THEO
CHU KỲ HẸN)
3.2.1. Tái khám sau khi sử dụng que cấy tránh thai (Implanon)
Bảng 3.12. Sự hiện diện của que cấy tại vị trí cấy sau mỗi lần thăm khám
Số que tránh thai
Tái khám (tháng)
Số người
đi khámTỷ lệ
Số que
tháoLý do
1 288 288 100,0 0
3 269 263 98,4 19 rong huyết
6 268 251 93,7 1 rong kinh
9 266 249 93,6 2 nổi mụn
12 266 266 100 0
Tổng cộng 22
50
Sau 1 tháng có 288 khách hàng tái khám đạt tỷ lệ 100%. Sau 3 tháng có
263 khách hàng tái khám đạt tỷ lệ 98,4%. Sau 6 tháng có 251 khách hàng tái
khám đạt tỷ lệ 93,7%. Sau 9 tháng có 249 khách hàng tái khám đạt tỷ lệ
93,6%. Sau 12 tháng có 266 khách hàng tái khám đạt tỷ lệ 100%.
3.2.2. Đánh giá sự chấp nhận biện pháp
Bảng 3.13. Mức độ chấp nhận của đối tượng nghiên cứu
Chấp nhận Số trường hợp Tỷ lệ %
Hài lòng 272 94,4
Tạm được 10 3,5
Không hài lòng 6 2,1
Tổng số 288 100,0
Biểu đồ 3.11. Mức độ chấp nhận của đối tượng nghiên cứu
Qua bảng 3.13, ta thấy đối tượng hài lòng với biện pháp cấy tránh thai
chiếm tỷ lệ 94,4. Khách hàng cảm thấy tạm được chiếm tỷ lệ 3,5 % và số
khách hàng không hài lòng chiếm tỷ lệ 2,1%.
51
3.2.3. Hiệu quả tránh thai của que cấy Implanon
Bảng 3.14. Hiệu quả tránh thai của que cấy Implanon
Thời gian (Tháng)
Hiệu quả T/thai
1n=288
3n263
6n251
9n249
12n266
Không có thai
(T/công)
số lượng 288 263 251 249 266
Tỷ lệ % 100 100,0 100,0 100,0 100,0
Có thai (T/bại)
Số lượng 0 0 0 0 0
Tỷ lệ % 0 0 0 0 0
Chỉ số P 0 0 0 0 0
Qua bảng 3.14, ta thấy:
Sau cấy 1 tháng có 288 khách hàng đi khám, không có trường hợp nào
thất bại, chiếm tỷ lệ 100%, chỉ số Pearl = 0. Sau 3 tháng có 263 người đi
khám, không có khách hàng nào thất bại. Sau 6 tháng có 251 khách hàng đi
tái khám, không có trường hợp nào thất bại. Sau 9 tháng có 249 đối tượng tái
khám. Sau 12 tháng có 266 đối tượng tái khám, không có trường hợp nào có
thai, chỉ số pearl = 0.
Biểu đồ 3.12. Tỷ lệ thành công
52
3.2.4. Theo dõi cân nặng và huyết áp
Bảng 3.15. Cân nặng và huyết áp trong thời gian dùng que cấy
tránh thai implanon
Số liệu Trước cấyThời gian sau khi cấy que
1 3 6 9 12
HATĐ/
HATT
(mmHg)
111,427,
3
71,815,9
8
111,41 6,88
72,875,90
112,13 6,88
72,745,94
112,877,0
2
73,175,87
113,06,8
72,935,83
114,275,98
73,825,42
Cân nặng
(Kg)
47,692,0
547,50 1,95 47,671,95 47,542,55 47,631,93 47,551,5
Số
trường
hợp
288 288 263 251 247 269
Tỷ lệ % 100% 100% 91,3% 87,2% 85,7% 93,4%
Với bảng này ta thấy khách hàng có huyết áp tối đa trung bình trước cấy
là 111,42 7,3 và sau cấy là 114,275,98. Huyết áp tối thiểu trung bình
trước cấy là 71,81 5,98 và sau cấy là 73,82 5,42 .Cân nặng trung bình
trước cấy là 47,69 2,05 kg và sau cấy là 47,55 1,5 kg.
3.2.5. Tác dụng phụ tại chỗ (Biến chứng tại chỗ cấy)
Bảng 3.16 .Các biến chức tại chỗ cấy que tránh thai
Biến chứng chỗ cấy Số trường hợp Tỷ lệ %
Biến chứng (Bầm tím chỗ cấy) 23 7,9
Không biến chứng 265 92,1
Tổng số 288 100,0
Qua bảng 3.16, ta thấy khách hàng không có biến chứng tại chỗ chiếm
92,1%, còn có biến chứng bầm tím tại chỗ cấy chiếm tỷ lệ 7,9%.
53
3.2.6. Tác dụng phụ liên quan đến kinh nguyệt
Bảng 3.17. Các tác dụng phụ về kinh nguyệt
Tác dụng phụSố trường hợp
(n)
Tỷ lệ
%
Vô kinh 84 29,2
Rong kinh 10 3,5
Rong huyết 19 6,6
Có kinh nguyệt bình thường 175 60,7
Tổng số 288 100,0
Biểu đồ 3.13. Các tác dụng phụ về kinh nguyệt
Với bảng 3.17 ta thấy vô kinh chiến tỷ lệ 29,2%, số đối tượng rong
kinh chiếm tỷ lệ 3,5%, số đối tượng rong huyết chiếm 6,6%, số đối tượng có
kinh bình thường chiếm tỷ lệ 60,7%.
54
Tỷ lệ %
3.2.7. Các tác dụng phụ khác
Bảng 3.18. Các tác dụng phụ khác
Tác dụng phụ Số trường hợp Tỷ lệ %
Buồn nôn 22 7,6
Đau đầu 15 5,2
Nổi mụn 7 2,4
Căng vú 28 9,7
Tăng cân 2 0,7
Giảm cân 0 0
Khác 0 0
Qua bảng 3.18 ta thấy buồn nôn chiếm tỷ lệ 7,6%, tác dụng phụ đau
đầu là 5,2%, căng vú chiếm tỷ lệ 9,7%, nổi mụn chiếm 2,4 %, tăng cân chiếm
tỷ lệ 0,7%.
3.2.8. Các hình thái ra máu âm đạo trong thời gian áp dụng biện pháp
Bảng 3.19. các hình thái ra máu âm đạo
Hình thái
ra máu âm đạo
3 tháng 6 tháng 9tháng 12tháng
n % n % n % n %
Vô kinh 84 29,2 84 29,2 84 29,2 84 29,2
Ra máu âm đạo
bình thường107 37,2 106 36,8 105 36,4 107 37,2
Ra máu
âm đạo thưa68 23,6 69 23,9 70 24,3 68 22,6
Ra máu
âm đạo dày19 6,6 Bỏ cuộc
Ra máu
âm đạo kéo dài0 0,00 10 3,5 1 0,35
55
Bảng 19 cho thấy tỷ lệ vô kinh là 29,8%, đợt ra máu bình thường
khoảng 37,2%, ra máu âm đạo thưa chiếm tỷ lệ 22,6%, ra máu âm đạo kéo dài
chiếm tỷ lệ giảm dần từ 3,2% còn 0,35% sau điều trị, ra máu âm đạo dày
(rong huyết) là 6,6% đều bỏ cuộc.
3.2.9. Xử trí các tác dụng phụ
Bảng 3. 20. Hướng xử trí các tác dụng phụ
Xử trí Số trường hợp Tỷ lệ %
Không can thiệp 276 95,8
Có can thiệp 12 4,2
Tổng cộng 288 100,0
Biểu đồ 3.14. Hướng xử trí các tác dụng phụ
Bảng 20 cho thấy các tác dụng phụ không phải xử trí chiếm tỷ lệ 95,8%
các tác dụng phụ phải xử lý chiếm tỷ lệ 4,2%.
56
3.2.10. Xử trí các tác dụng phụ sau cấy que tránh thai
Bảng 3.21. Cách điều trị các tác dụng phụ sau cấy que tránh thai
Tên tác dụng phụSố
lượng
Không
điều trị
Có điều trị Kết quả
Theo
phác đồTư vấn Tốt Không
Vô kinh 84 84 0 84 84 0
Ra máu kéo dài
(rong kinh)10 0 10 0 9 1
Ra máu dày
(rong huyết)19 0 0 0 0 0
Biểu đồ 3.15. Điều trị các tác dụng phụ của que tránh thai
Qua bảng 21 ta thấy vô kinh có 84 trường hợp không phải điều trị đạt tỷ lệ
100%, rong kinh có 1 trường hợp điều trị thất bại chiếm tỷ lệ 0,35%, rong
huyết có 19 trường hợp không điều trị phải bỏ cuộc chiếm.
57
3.2.11. Tình hình bỏ cuộc theo số chu kỳ theo dõi
Bảng 3.22. Tình hình bỏ cuộc theo số tháng tồn tại que cấy
Số tháng dùng que cấySố bỏ cuộc
Tỷ lệ % Tiếp tục
xử dụng
Tỷ lệ
3 tháng 19 6,6 269 93,4
6 tháng 1 0,4 268 93,1
9 tháng 2 0,7 268 93,1
12 tháng 0 0 268 93,1
Tổng cộng 22 7,7 266
Bảng 22 trên cho thấy khách hàng tiếp tục sử dụng que cấy tránh thai ở
tháng thứ 12 chiếm tỷ lệ cao 93,1%, bỏ cuộc (tháo que) chiếm tỷ lệ 7,7%.
3.2.12. Tình hình bỏ cuộc do chu kỳ kinh nguyệt
Bảng 3. 23. Tỷ lệ bỏ cuộc theo hình thái ra máu âm đạo
Tác dụng phụ Số trường hợp Tỷ lệ %
Vô kinh 0 0
Rong huyết 19 6,59
Rong kinh 1 0,35
Tổng cộng 20 6,94
Qua bảng 23 ta thấy bỏ cuộc vì rong huyết chiếm 6,59% và bỏ cuộc vì
rong kinh chiếm tỷ lệ 0,35%.
58
3.2.13. Tỷ lệ bỏ cuộc theo nhóm tuổi
Bảng 3.24. Tình hình bỏ cuộc theo nhóm tuổi
Nhóm tuổiMẫu chung (288)
n Tỷ lệ %
20 tuổi 0 0
20 - 24 tuổi 4 1,38
25 - 29 tuổi 14 4,19
30 - 34 tuổi 4 1,38
35 - 39 tuổi 0 0
40 tuổi 0 0
Tổng cộng 22 6,95
Qua bảng 24 ta thấy bỏ cuộc nhiều nhất là nhóm tuổi 25-29 chiếm
4,19%, sau đó đến nhóm tuổi 30-34 có tỷ lệ là 1,38% và cuối cùng là nhóm
tuổi 20-24% chiếm tỷ lệ 1,38%.
3.2.14. Tình hình bỏ cuộc theo tác dụng phụ toàn thân
Bảng 3.25. Tỷ lệ bỏ cuộc do tác dụng phụ
Tác dụng phụ
Tổng số bỏ cuộc Mẫu toàn thể
Bỏ cuộc Tiếp tục
Tỷ lệ %Số/Lg
Tỷ lệ%
Số/LgTỷ lệ
Buồn nôn = 3 0 0,0 3 15,0 1,04
Căng vú = 6 0 0,0 6 30,0 2,08
Chóng mặt = 2 0 0,0 2 10,0 0,69
Đau đầu = 7 0 0,0 7 35,0 2,43
Nổi mụn =2 2 10,0 0 0,0 0,69
Qua bảng 25, ta thấy tác dụng phụ đau đầu chiếm tỷ lệ cao là 2,43%, sau
đó là cảm giác căng vú là 2,08%, buồn nôn có tỷ lệ 1,04% và cuối cùng là nổi
mụn và chóng mặt 0,69%.
59
3.2.15. Vai trò của tư vấn đối với tác dụng phụ vô kinh
Bảng 3.26. Sự chấp nhận của bệnh nhân vô kinh
Hướng can thiệpTác dụng phụ vô kinh
n Tỷ lệ %
Chấp nhận sau khi được tư vấn 79 94,04 0,001
Không chấp nhận khi nghe tư vấn 5 5,95
Tiếp tục 84 100
Qua bảng 3.26, ta thấy có 94,04% khách hàng vẫn hài lòng với tác dụng
phụ là vô kinh khi được tư vấn, còn 5,95% không hài lòng với vô kinh; 100%
khách hàng chấp nhận tác dụng phụ vô kinh này .
60
Chương 4
BÀN LUẬN
Chúng tôi tiến hành nghiên cứu này tại Trung tâm CCSKSS tỉnh Thừa
Thiên Huế từ tháng 5 năm 2006 đến tháng 7 năm 2007, với 288 đối tượng
cấy que tránh thai Impanon, được theo dõi đánh giá trong 12 tháng với 5 đợt
tái khám xin tập trung bàn luận các vấn đề sau đây:
4.1. ĐẶC ĐIỂM CHUNG CỦA MẪU NGHIÊN CỨU
4.1.1. Độ tuổi của các đối tượng nghiên cứu
Kết quả nghiên cứu của chúng tôi ở bảng 3.1 cho thấy đối tượng cấy
Implanon tập trung cao ở độ tuổi sau:
25 - 29 có 76 khách hàng chiếm 26,4%
30 - 34 có 135 khách hàng chiếm 46,9%
35 - 39 có 61 khách hàng chiếm 21,1%
Cả ba nhóm tuổi từ 25 đến 39 đều dùng biện pháp này, chiếm tỷ lệ là
94,4% một tỷ lệ rất cao; trong khi đó, tỷ lệ dùng thuốc cấy tránh thai này với
nghiên cứu của các tác giả các như Trần Đức Chiến 78,4% [5], Trần Phương
Mai cũng vào khoảng 86,3% [9]. Như vậy, kết quả nghiên cứu của chúng tôi
và các tác giả khác đều có một điểm chung là các đối tượng sử dụng que cấy
tránh thai tập trung chủ yếu ở độ tuổi 25-39. Điều này phản ánh nhu cầu thực
hiện các biện pháp tránh thai ở nhóm tuổi này cao hơn và đây cũng là điều
quan tâm của các gia đình. Vì mục đích hạn chế có thai ngoài ý muốn và
hưởng thụ trong cuộc sống, họ đã tự nguyện đến với dịch vụ chăm sóc sức
khoẻ để sử dụng biện pháp tránh thai cho bản thân. Tuổi trung bình của nhóm
nghiên cứu là 29,68 7,02, theo Weisberg E [86] tuổi trung bình là 30 ở
độ tuổi này họ đã có đủ số con mong muốn nên muốn có một biện pháp tránh
thai an toàn, kéo dài và hiệu quả cao. Theo Affandi [15], [16] tuổi trung bình
61
muốn áp dụng biện pháp tránh thai kéo dài và hiệu quả là ở độ tuổi 25-36
chiếm 77,5%. Theo KiriwatO [52] là 28-36 tuổi. Nghiên cứu của chúng tôi
cũng phù hợp với các nghiên cứu của các tác giá đó. Kết quả này cho ta thấy
Implanon que cấy tránh thai phù hợp với các lứa tuổi khác nhau.
Độ tuổi của một người phụ nữ có thể ảnh hưởng đến tính phù hợp và sự
chấp nhận của một số biện pháp tránh thai nhất định. Nói cách khác, tuổi trẻ
thường không có các chống chỉ định về mặt bệnh lý đối với việc sử dụng các
biện pháp tránh thái (trừ những thanh niên chưa sinh lần nào, là người không
nên sử dụng dụng cụ tử cung). Tuổi trẻ có thể có khó khăn trong việc tuân thủ
những yêu cầu đối với việc sử dụng biện pháp như hàng ngày phải uống một
viên, và họ cũng tỏ ra khó chấp nhận các tác dụng phụ hơn, vì vậy tỷ lệ bỏ cuộc
của họ cao hơn. Cấy que là 92 trường hợp, bỏ cuộc 18 chiếm tỷ lệ 6,25% [14].
Theo bảng 3.24, tỷ lệ bỏ cuộc của chúng tôi ở độ tuổi 20-29 tuổi là 18
người chiếm tỷ lệ 6,25%. Nghiên cứu của chúng tôi cũng phù hợp với nhận
đình trên.Trái lại, phụ nữ trên > 30 tuổi - 40 tuổi có nhiều khả năng có các
chống chỉ định bệnh lý hơn đối với việc sử dụng các biện pháp tránh thai. Các
biện pháp hoocmôn, vốn gây ra những mô hình kinh nguyệt không đều, có thể
không phù hợp bởi vì chúng có thể che lấp hiện tượng ra huyết không đều liên
quan đến vấn đề có bản chất phụ khoa. Ngoài ra, việc ra huyết không đều có
thể gây ra khó khăn trong việc xác định tình trạng sức khoẻ, hay gặp hơn ở
những người lớn tuổi (béo phì, đái đường, cao HA, giãn tĩnh mạch cũng có
thể ngăn cản một số phụ nữ trong nhóm tuổi này sử dụng một số biện pháp.
Bất chấp những hạn chế đó, những phụ nữ không có chống chỉ định với
thuốc tránh thai nội tiết thì vẫn có thể sử dụng được. Các lợi ích của thuốc
tránh thai nội tiết: có hiệu quả tránh thai cao, giảm bớt các vấn đề phụ khoa
(bao gồm chứa ngoài tử cung, lạc nội mạc tử cung, u nang buồng trứng cơ
năng, ung thư nội mạc tử cung, và ung thư buồng trứng). Với nghiên cứu của
62
chúng tôi, tuổi từ 30 - 39 tuổi cấy thuốc tránh thai là 186 đối tượng chiếm tỷ
lệ 64,8% và bỏ cuộc là 4 đối tượng chiếm tỷ lệ 1,39%.
Qua đây, ta thấy thuốc Impanon phù hợp với mọi lứa tuổi và được
những người > 30 tuổi chấp nhận nhiều hơn.
4.1.2. Nghề nghiệp của đối tượng nghiên cứu
Bảng 3.2 cho thấy các đối tượng sử dụng que cấy này gồm nhiều lĩnh
vực nghề nghiệp. Đối tượng buôn bán chiếm tỷ lệ 33,3%, đứng thứ hai là cán
bộ công nhân viên, còn lại là các nghề nghiệp như nội trợ: 16,4%, các nghề
khác là 29,5%. Thoả mãn nhu cầu được tiếp cận với dịch vụ mới của các chị
em góp phần hạ thấy tỷ lệ gia tăng dân số và góp phần giảm tỷ lệ tử vong mẹ
và các tai biến sản khoa cũng như mang thai ngoài ý muốn. Điều này chứng
tỏ biện pháp cấy tránh thai được đông đảo quần chúng trong cộng đồng chấp
nhận. Theo tác giả Trần Thị Phương Mai nghiên cứu tại ba trung tâm Hà Nội,
Thanh Hoá, Hoà Bình, các đối tượng cũng bao gồm nhiều nghề nghiệp khác
nhau, buôn bán chiếm tỷ lệ 57,63%, cán bộ công chức là 22,32%, còn lại
12,05% là các nghề khác. Tác giả Trần Đức Chiến nghiên cứu năm 2005 tại
tỉnh Bắc Giang với ba trăm đối tượng bao gồm các nghề như làm ruộng chiếm
tỷ lệ 84,7%, kỹ sư, chiếm 0,3% và 15,3% là các nghề khác. Yếu tố nghề
nghiệp ở đây không có ý nghĩa gì, chỉ mang tính chất tham khảo chung cho
từng vùng dân cư. Tuy vậy, cần tăng cường công tác tư vấn, đi công tác ngoại
viện để tất cả chị em phụ nữ cư trú tại tất cả các vùng dân cư sinh sống đều
được nhận dịch vụ này, nhất là chị em vùng sâu vùng xa.
4.1.3. Địa bàn cư trú
Bảng 3.3 cho thấy số phụ nữ cư trú ở vùng nông thôn tự nguyện tham
gia vào nghiên cứu là 31,9%, ở thành phố chiếm tỷ lệ 68,1% . Có tỷ lệ này là
do trung tâm CSSKSS tỉnh nằm ở trung tâm thành phố Huế, giao thông thuận
tiện, đi lại dễ dàng, chị em phụ nữ thành phố được tiếp cận với nhiều kênh
63
thông tin đại chúng nên họ đi cấy thuốc nhiều hơn so với số phụ nữ ở nông
thôn. Theo nghiên cứu của tác giả trần Thị Phương Mai [9] năm 2003, các đối
tượng nghiên cứu cũng tập chung phần lớn ở thành phố chiếm tỷ lệ 76,9% và
vùng nông thôn chiếm tỷ lệ 23,1%, bởi vì đây là nghiên cứu thử nghiệm đầu
tiên nên chọn đối tượng ở địa bàn gần, tạo điều kiện cho việc theo dõi sau cấy
được dễ dàng cũng là điều nên làm. Theo nghiên cứu của tác giả Trần Đức
Chiến [5] (2005) tại tỉnh Bắc Giang với thời gian theo dõi là một năm, đối
tượng ở thành thị chiếm 32,3% còn nông thôn là 78,7%. Nghiên cứu của
chúng tôi cũng tương tự như của các tác giả trên. Qua nghiên cứu của chúng
tôi và các tác giả Phương Mai, khách hàng đều ở thành thị, tác giả Trần Đức
Chiến phần lớn khách hàng đều ở nông thôn sẽ xa hạn chế tới tái khám. Tuy
nhiên, nếu khách hàng tin tưởng vào biện pháp tránh thai mà họ đã chọn thì sẽ
đi tái khám duy trì được tính bền vững. Thiết nghĩ, đây là biện pháp tránh thai
mới, hiện đại có nhiều ưu điểm, hiệu quả tránh thai cao nên mọi người cần
được sử dụng, kể cả nông thôn thành thị, vùng sâu vùng xa. Sơ bộ theo dõi và
đánh giá trong một năm, chúng tôi mà thấy trong cộng đồng, họ rất hài lòng
với biện pháp tránh thai này. Nghiên cứu của chúng tôi hai đối tượng nông
thôn và thành thị gần ngang nhau, đối tượng trong nghiên cứu của tác giả
Trần Đức Chiến chủ yếu ở nông thôn, còn với tác giả Phương Mai thì chủ
yếu là thành thị.
4.1.4. Trình độ văn hoá
Qua kết quả nghiên cứu, chúng tôi nhận thấy đa số khách hàng cấy que
tránh thai là ở trình độ trung học cơ sở 54,5% và phổ thông trung học, đại học
là 30,6%, không có người mù chữ. Tác giả Trần Thị Phương Mai phần lớn là
học lớp 9/12 (đang học trung học cơ sở) và Trần Đức Chiến 95,7% là tiểu
học; 3% là cao đẳng [5], [9].
64
Trình độ học vấn của khách hàng là một yếu tố thuận lợi giúp họ hiểu và
dễ dàng có suy nghĩ nhận biết được ưu điểm, nhược điểm và tác dụng phụ của
thuốc cấy tránh thai. Vì vậy, khi được tư vấn, họ sẽ yên tâm, không băn khoăn
hoặc lo lắng về tác dụng phụ của thuốc cấy nữa. Họ tự theo dõi để duy trì
tính bền vững của biện pháp tránh thai nên không đi tháo sớm. Vì thế, tỷ lệ
tháo que không cao: 22 que trong 288 trường hợp cấy, chiếm tỷ lệ 7,6%. Tác
giả Trần Đức Chiến tỷ lệ tháo là 6,9% (6/300) [6] và Trần Thị Phương Mai là
20% (24/120) [9]. Tất cả những khách hàng tháo que cấy đều có lý do y tế.
Trình độ văn hoá tác động không chỉ đến ý nguyện thực hiện KHHGĐ
mà còn tác động cụ thể tới việc lựa chọn một biện pháp phù hợp nhất cho bản
thân. Biện pháp tính vòng kinh được sử dụng nhiều ở những cặp vợ chồng có
trình độ văn hoá cao hơn. Những phụ nữ có trình độ học vấn, tuy họ mong
muốn KHHGĐ một cách hiệu quả xong họ lại không muốn chấp nhận những
rủi ro do tác dụng phụ gây ra [15]. Như vậy, địa vị của người phụ nữ trong xã
hội sẽ quyết định nhiều trong việc tìm hiểu chọn lựa biện pháp tránh thai thích
hợp cho mình. Trong nghiên cứu chúng tôi trình độ đại học và trung học là
30,6%, trong khi nghiên cứu của Trần Thị Phương Mai thì đối tượng có trình
độ văn hoá trung học cơ sở là chủ yếu và nghề nghiệp là buôn bán, còn tác giả
Trần Đức Chiến: chủ yếu là trình độ tiểu học và nghề nghiệp là làm ruộng.
4.1.5. Phân bố theo số con
Kết quả nghiên cứu ở bảng 3.6 cho thấy nhóm đối tượng dùng que cấy
đã có 2 con chiếm tỷ lệ cao là 51,75%, tỷ lệ này của tác giả Trần Đức Chiến
là 78,4% [5], của tác giả Trần Thị Phương Mai là 57,3% [9]. Qua đây, ta thấy
nhóm phụ nữ có 2 con sống chiếm tỷ lệ cao trong dùng thuốc cấy hơn các
nhóm khác. Ta nhận thấy khi đủ số con mong muốn chị em phụ nữ muốn
chọn cho mình một biện pháp tránh thai lâu dài và hiệu quả để hạn chế có thai
ngoài ý muốn.
65
Theo nghiên cứu Zheng tại Trung Quốc năm 1999 với 200 đối tượng
thì 2 con chiếm tỷ lệ 75,2%, 3 con chiếm tỷ lệ 19,7% còn lại là một con chiếm
15,1% [91]. Còn theo Weisberg E, (2005) tại Australian thì 2 con chiếm tỷ lệ
47,2%, 3 con là 25,5%, 1 con là 10,3% [87].
Qua đây ta thấy phần lớn các đối tượng tham gia nghiêm cứu đều có đủ
số con mong muốn và nhiều nhất là 2 con nên họ muốn một biện pháp tránh
thai hiệu quả và kéo dài.
Số con và ý định sinh sản của một cặp vợ chồng cũng ảnh hưởng tới
việc lựa chọn biện pháp tránh thai.
Những cặp vợ chồng không muốn có thêm con, có thể thấy những biện
pháp nào có hiệu quả tránh thai cao hơn, có tác dụng lâu dài là những biện
pháp phù hợp với nhu cầu của họ. Còn những người trẻ tuổi muốn sinh thêm
con thì thoả mãn với những biện pháp nếu ít hiệu quả hơn, vì biết rằng sự thất
bại của biện pháp sẽ ảnh hưởng tới lịch sinh sản, chứ không ảnh hưởng tới
tổng số con mong muốn. Tuy nhiên, mọi người khi đã sử dụng biện pháp
tránh thai đã chọn đều mong muốn hiệu quả tránh thai cao, hạn chế sự thất bại
của biện pháp vì họ cũng không muốn có thai ngoài ý muốn, nếu không có
điều kiện sinh, lại phải đi chấm dứt thai kỳ. Khi chấm dứt thai kỳ thường có
những rủi ro. Một nghiên cứu về sự lựa chọn biện pháp tránh thai ở 4 nước
đang phát triển đã phát hiện ra rằng thời gian trước khi muốn có thai đứa con
tiếp theo là nhân tố chính trong việc quyết định lựa chọn biện pháp tránh thái
[14]. Người sử dụng cũng rất quan tâm, cân nhắc xem liệu biện pháp mình đã
chọn có hạn chế khả năng sinh sản sau này không [24], [44].
Qua đây, ta thấy phần lớn, các đối tượng tham gia nghiên cứu đều có đủ
số con mong muốn và nhiều nhất là hai con nên họ muốn có một biện pháp
tránh thai hiệu quả và lâu dài.
66
4.1.6. Các biện pháp tránh thai đã sử dụng
Bảng 3.6 cho thấy phần lớn các đối tượng này trước khi dùng biện pháp
này đều đã sử dụng một vài biện pháp có tính hiện đại hoặc không hiện đại.
Bao cao su chiếm tỷ lệ là 40,6%, xuất tinh ra ngoài là: 30,9%, tính vòng kinh
có tỷ lệ là 16% và cuối cùng là không dùng biện pháp có tỷ lệ là 12,5%. Rất
tiếc là còn có những đối tượng chưa sử dụng biện pháp nào. Với nghiên cứu
của tác giả Trần Thị Phương Mai, đặt dụng cụ tử cung: 41%, uống thuốc tránh
thai: 14%, dùng bao cao su: 14,2%, các biện pháp khác: 33,3%, không dùng
biện pháp nào: 7,5%. Còn tác giả Trần Đức Chiến đặt dụng cụ tử cung: 25%
dùng bao cao su: 31,3%, các biện pháp khác: 40%, không dùng biện pháp nào:
4,7%. Nghiên cứu 288 trường hợp cấy thuốc tránh thai kết quả ở bảng 3.6 cho
thấy tỷ lệ không dùng biện pháp tránh thai trước khi cấy que là 12,5%. Nghiên
cứu của tác giả Phương Mai tại 3 trung tâm Hà Nội, Thanh Hoá, Hoà Bình năm
2003, tổng kết 3 năm đánh giá thuốc cấy tránh thai có 7% khách hàng không
dùng biện pháp nào trước đó [9]. Kết quả nghiên cứu của Trần Đức Chiến năm
2005 tại Bắc Giang với 300 đối tượng thì tỷ lệ không dùng biện pháp trách thai
nào trước đó là 4,7%. Qua đây, ta thấy để hạn chế có thai ngoài ý muốn và
phòng ngừa các biện chứng trong lúc mang thai và sinh đẻ, hạn chế sự gia tăng
dân số thì đòi hỏi tất cả các cặp vợ chồng nên áp dụng các biện pháp tránh thai
để hạn chế sự gia tăng dân số. Dân số nước ta dự tính đến năm 2020 sẽ tăng lên
là 100 triệu, vì vậy, việc chọn lựa và áp dụng các biện pháp tránh thai là điều
nên làm đối với tất cả các cặp vợ chồng [1], [2].
Theo nghiên cứu của Rai K., tỷ lệ không dùng biện pháp tránh thai nào
trước đó là 5,2% [68]. Có rất nhiều yếu tố ảnh hưởng đến việc quyết định lựa
chọn biện pháp tránh thai của một người: độ tuổi, số lần sinh, tuổi con nhỏ
nhất, các ý định sinh sản (giảm khoảng cách sinh hay là chấm dứt sinh) số lần
giao hợp, quan hệ với bạn tình, ảnh hưởng của những người xung quanh đối
67
với quá trình đi tới quyết định chọn lựa biện pháp tránh thai. Sự thuận tiện
của biện pháp, sự quen thuộc của người sử dụng và mức độ thích nghi với cơ
thể và hệ sinh sản với người sử dụng.
4.2. THEO DÕI SAU CẤY THUỐC TRÁNH THAI
4.2.1. Sự hiện diện của que cấy tại chỗ cấy
Qua 288 đối tượng cấy thuốc tránh thai Implanon đã được theo dõi
trong 12 tháng năm với 5 đợt tái khám có kết quả như sau:
Lần khám thứ nhất sau 1 tháng có 288 đối tượng đi tái khám thì tại chỗ
đều có sự hiện diện của que cấy.
Lần thứ hai sau 3 tháng có 268 khách hàng đi tái khám có 19 trường
hợp ra máu trên 6 đợt trong một chu kỳ đối chiếu 90 ngày, khách hàng không
hài lòng và đã tháo que tránh thai.
Lần thứ ba tổng số khách hàng đi khám là 251 và có một khách hàng
tháo que cấy vì rong kinh.
Lần thứ tư có 247 khách hàng tái khám và có 2 người không hài lòng
tháo que vì có nổi mụn ở sau vùng gáy cổ.
Lần thứ năm sau 12 tháng có 266 khách hàng đi tái khám. Có 2 đợt, đợt
đầu sau 1 tháng và đợt thứ 2 sau 12 tháng có 100% khách hàng đi tái khám.
Hiện tại còn 260 khách hàng đang tiếp tục duy trì que cấy tránh thai.
Theo bảng 3.12, ta thấy số khách hàng đi tái khám chiếm tỷ lệ > 90%
và tháng thứ 12 là 100%, kiểm tra tại vị trí cấy có sự hiện diện của que và
khách hàng rất hài lòng. Có 23 trường hợp bị bầm tím chỗ cấy và sau 1 tuần
tự khỏi không cần điều trị. Nếu đi tái khám không thấy sự hiện diện của que
cấy tại vị trí cấy thì phải siêu âm để tìm vị trí que cấy [45]. Với 5 lần kiểm tra
trong thời gian 1 năm, chúng tôi thấy không có trường hợp nào que cấy bị di
chuyển khỏi vị trí cấy, với hai tác giả Phương Mai và Trần Đức Chiến cũng
vậy. Một nghiên cứu của tác giả Maria Harisson [63] tại Autrailia năm 2001
68
có đề cập tới vấn đề kỹ thuật cấy que đã gặp 21 trường hợp cấy không đúng
kỹ thuật nên que cấy không có ở dưới da kẹt lại trong ống cấy, trước khi cấy
phải kiểm tra xem có que trong nòng ống cấy không, sau khi thực hiện kỹ
thuật cấy, băng lại, phải kiểm tra lại bằng cách sờ nhẹ lên chỗ cấy xem có
thấy que không. Trong nghiên cứu của chúng tôi không có tình huống nào
như vậy. Kể cả gãy que cấy cũng không gặp [65], nếu tháo que không sờ thấy
nang thuốc phải siêu âm tại chỗ cấy để tìm vị trí của nang thuốc rồi tiến hành
thủ thuật tháo [45], [49], [54], [81].
4.2.2. Sự chấp nhận của cộng đồng
Bảng 3.13 cho thấy mức độ hài lòng rất cao là 94,4%, cảm thấy tạm
được 3,5% và 2,1% không hài lòng, theo nghiên cứu của tác giả Trần Thị
Phương Mai 80% số khách hàng hài lòng và 18% cho là chấp nhận được và
2% số đối tượng không hài lòng với biện pháp [9]. Với tác giả Trần Đức
Chiến, chấp nhận và hài lòng là 99,2% và 0,7% không hài lòng vì tác dụng
phụ ra máu không theo chu kỳ [5]. Còn với các tác giả khác Affandi B lúc đầu
cấy là 200 que sau 2 năm còn 193 người tiếp tục sau 3 năm còn 150 người
tiếp tục, bỏ cuộc ở đây có nhiều lý do, có sự thay đổi ra máu trong kỳ hành
kinh là 15 đối tượng, không thích do người ngoài tác động là 17 đối tượng
[16]. Theo nghiên cứu của Meirik tỷ lệ chấp nhận và 95% [61]. Theo Darney
tỷ lệ chấp nhận của cộng đồng > 95% [36]. Theo nghiên cứu của
Chaovisitsare có 190 người cấy que thì 84 - 88% tiếp tục sau 6 tháng và 67 -
78% tiếp tục duy trì trong 12 tháng và không trường hợp nào có thai [32]. Với
nghiên cứu của Cherry, yêu cầu của cuộc sống nếu cảm thấy đủ số con mong
muốn rồi thì phải dừng, với Implanon kỹ thuật cấy và tháo đơn giản.
Progestagen trong que cấy là thế hệ 3 (Etonogestrel) tốt và nó cũng có những
tác dụng phụ của progestogen như trong thuốc uống tránh thai đơn thuần.
Khách hàng có thể chọn phương pháp cấy này sau khi được tư vấn [35]. Theo
69
Affandi có một so sánh giữa các biện pháp tránh thai chỉ cso progestin với
nhau đã đưa ra kết luận vấn đề chính của biện pháp là xáo trộn chu kỳ kinh.
Theo Lakha nghiên cứu tại Scotland có 324 phụ nữ chọn Implanon là biện
pháp tránh thai cho bản thân, 236 được phỏng vấn có 85% trả lời hài lòng,
tiếp tục sử dụng trong 6 tháng là 89%, sau một năm chiếm tỷ lệ 79%, hai năm
là 60%, sau ba năm là 47%, ngưng sử dụng biện pháp lý do xáo trộn chu kỳ
kinh nguyệt [55]. Khách hàng hài lòng được phỏng vấn theo Rein là do biện
pháp mảnh cấy tránh thai Implanon không ảnh hưởng tới chất lượng cũng
như số lượng của và sự phát triển của trẻ [69]. Còn Sinvi so sánh giữa hai
loại mảnh cấy tránh thai (Norplantt và Implanon), Implanon ưu điểm hơn có 1
nang cấy tháo đơn giản nạp sẵn trong cần cấy, hiệu quả tránh thai cao,được
cộng đồng chấp nhận nhiều hơn. Norplantt có loại 6 nang có loại 2 nang
không nạp sẵn, có dụng cụ cấy đặc chủng, thời gian cấy và tháo que dài, đau
nhiều. Cả hai loại mảnh cấy tránh thai này đều an toàn và hiệu quả tránh thai
cao [60], [71], [78]. Theo nghiên cứu của tác giả Sergen tại Pháp 74% phụ nữ
chọn phương pháp cấy tránh thai và 64% duy trì tính bền vững, đủ năm tháo
và áp dụng tiếp tục [71].
Thuốc tránh thai tiêm loại 1 tháng, 3 tháng, hàng tháng khách hàng phải
tới cơ sở y tế để tiêm, còn Norplant, Implanon và dụng cụ tử cung có chứa
progestin (Mirena ) tránh thai được thời gian dài hơn (5 năm, 3 năm, 5
năm), hết hạn sử dụng tới tháo ra (thay thế que khác nếu muốn tiếp tục tránh
thai). Mặc dù các phương pháp này đều có nhiều ưu điểm nhưng hết thời hạn
sử dụng vẫn phải tới cơ sở y tế để tháo ra. Thời gian đi lại nhiều lần của biện
pháp tiêm có thể hạn chế số người dùng phương pháp này, đây là lý do để
khách hàng chọn biện pháp cấy tránh thai [17]. Theo nghiên cứu của Jirawat
ngoài tác dụng tránh thai của 3-keto dessogesbel còn dùng để điều trị lại nội
mạc tử cung có kết quả tốt 86% sau 3 tháng điều trị và rất an toàn [50], [83],
70
[51]. Theo Le. J, đây là phương pháp tránh thái kéo dài với tác dụng phụ bất
lợi giảm dần theo thời gian sử dụng được sự chấp nhận của cộng đồng [56],
nghiên cứu của Lakha F tại Scoland U.K các phụ nữ đủ số con mong muốn họ
luôn chọn cho mình biện pháp tránh thai lâu dài và hiệu quả cao, có 324 phụ
nữ chọn phương pháp cấy que Implanon theo dõi trong 3 năm có 85% đi tái
khám và 89% tiếp tục trong 6 tháng, 75% tiếp tục sau một năm [55]. Qua đây
ta thấy sự chấp nhận của cộng đồng rất cao giữa các nghiên cứu, an toàn, tác
dụng không mong muốn chiếm tỷ lệ thấp theo nghiên cứu tại Nigeria [53].
Đây là một biện pháp tránh thai thật hấp dẫn cho mỗi phụ nữ chúng ta.
4.2.3. Hiệu quả tránh thai
Qua bảng 3.12, ta thấy > 90% khách hàng đi tái khám đều có sự hiện
diện của que cấy tại vị trí cấy, và 266 đối tượng này trong 12 tháng theo dõi
đều không có thai, ta thấy hiệu quả tránh thai trong năm đầu là 100%, chỉ số
pearl = 0. Trong nghiên cứu của tác giả Trần Thị Phương Mai (2003) tại 3
trung tâm thì hiệu quả tránh thai chiếm tỷ lệ 100%, chỉ số pearl cũng bằng 0.
Trong 120 đối tượng nghiên cứu, sau 3 năm theo dõi sau cấy và tháo que đều
không có thai. Kết quả này cũng phù hợp với kết quả nghiên cứu của Trần
Đức Chiến tại Bắc Giang với 300 đối tượng được theo dõi trong 12 tháng,
hiệu quả tránh thai đạt 100% và chỉ số pearl cũng bằng 0. Theo nghiên cứu
của Kiri Wat O. năm 1990 tại Thái Lan với 100 đối tượng nghiên cứu thì hiệu
quả tránh thai cũng đạt 100% và chỉ số pearl cũng bằng 0 [52]. Theo Affandi
B năm 1999, tại Indonesian, hiệu quả tránh thai đạt 100% [15], [16], còn
nghiên cứu của Croxatto HB tại Indonesia năm 2000, với 100 đối tượng cũng
có kết quả tương tự như chúng tôi [35], [41], [74].
Nếu không dùng biện pháp tránh thai nào thì sẽ có 85 phụ nữ mang thai
trong 100 cặp vợ chồng ở độ tuổi sinh đẻ, chỉ số pearl là 85 [11], [72].
71
Chỉ số pearl của các biện pháp tránh thai
Phương pháp Chỉ số Pearl
Không dùng 85 – 90
Các phương pháp tự nhiên tính vòng kinh
Đo thân nhiệt cơ sở
1 - 35
1
Phương pháp hoá học, thuốc diệt tinh trùng 3 – 35
Phương pháp hoá học bao cao su
IUD
7 - 14
- 0,5 - 0,7
Thuốc tránh thai .......
- Tránh thái phối hợp viên
- Thuốc viên tránh thai đơn thuần
- DMPA
0,2 - 0,4
0,8 - 1,5
0,5
Theo nghiên cứu của Coxatto, Progestin trong mảnh cấy ghép có hiệu
quả tránh thai cao, an toàn và là lựa chọn của nhiều phụ nữ [34]. Còn nghiên
cứu của Chersys, phương pháp này cũng là một sự lựa chọn của phụ nữ Úc
[31], với nghiên cứu của Erin thì hiệu quả tránh thai của phương pháp cấy này
rất cao và chỉ số pearl = 0, có thai lại sau khi tháo que 1-3 tháng và cũng
không ảnh hưởng đến sức khoẻ của trẻ [40]. Theo nghiên cứu của nhóm Funk
tại Mỹ, với 330 đối tượng, cấy que tránh thai Implanon được theo dõi trong 2
năm. Năm đầu có 68% đối tượng đi khám không có trường hợp nào có thai.
Điều đáng quan tâm là có sự thay đổi các hình thái ra máu âm đạo: vô kinh
chiếm tỷ lệ 14 - 20%, ra máu âm đạo không theo chu kỳ là 40 trường hợp
chiếm 13%, có 76 đối tượng không tiếp tục theo dõi (bỏ cuộc) chiếm tỷ
lệ23%, thời gian cấy và tháo khoảng 0,5-3,5 phút. Chu kỳ kinh nguyệt và khả
năng sinh sản quay lại ngay sau khi tháo que cấy [43]. Theo Lippincotte đây
là phương pháp có nhiều ưu điểm: hiệu quả tránh thai cao, giảm đáng kể nguy
72
cơ có thai ngoài tử cung, không ảnh hưởng đến chuyển hoá, điều trị lạc nội
mạc tử cung, cấy tháo đơn giản, có thai lại ngay sau khi tháo que. Có một vài
tác dụng phụ nhưng chấp nhận được [57]. Nghiên cứu của Varney chia 3
nhóm sử dụng phương pháp tránh thai chỉ có progestin [85].
Implanon DMPA IUD Mirena
277 10.47 60.835
Cả 3 phương pháp này có hiệu quả tránh thai cao > 90%, chỉ số prarl = 0.
Đây là phương pháp tránh thai an toàn, hiệu quả tránh thai cao. Theo nghiên
cứu BooranabuntayatS tại Thái Lan năm 2004, có 300 đối tượng nghiên cứu
cũng có hiệu quả tránh thai là 100% và chỉ số pearl = 0 [28]. Gần đây nhất là
nghiên cứu của hai tác giả Weisberg E tại Astrailia [87], Yao XY tại Trung
Quốc [89] cũng có hiệu quả tránh thai là 100% và chỉ số pearl bằng 0. So với
mảnh cấy ghép Norplantt của tác giả Dương Thị Cương năm 1993, với 37
trường hợp cấy Norplantt thì hiệu quả tránh thai cũng đạt 99,8%, tỷ lệ thất bại
là 0,2% [6]. Theo số liệu nghiên cứu về Norplant của Yao XY [89], Zheng SR
[91], [92] thì hiệu quả tránh thai của Norplant cũng cao. Qua các tác giả trên
và nghiên cứu của chúng tôi ta thấy so với Norplant thì thuốc tránh thai cấy
một que ưu việt hơn về mọi phương diện (1que, thời gian cấy và tháo nhanh
1-2 phút, được cộng đồng chấp nhận nhiều, còn Norplant gồm 6 que thời gian
cấy và tháo lâu (20 – 25 phút). Qua đây, ta thấy Implanon là que cấy tránh
thai rất ưu việt.
Kết quả này giúp chúng tôi có đầy đủ cơ sở khoa học để chứng minh
rằng có một biện pháp tránh thai hiệu quả là thuốc cấy tránh thai Implanon đã
và đang triển khai tại Thừa Thiên Huế. Nhưng điều quan trọng hơn là những
nhà chuyên môn thấy được tính thống nhất giữa cơ sở lí luận và thực tiễn.
Đây là điều cần thiết của một biện pháp tránh thai (hiệu quả tránh thai cao,
được sự chấp nhận của cộng đồng, không ảnh hưởng đến sức khoẻ).
73
Qua bảng 3.12 và 3.13, chúng ta thấy Implanon là một trong những
biện pháp tránh thai mới nhất và lý tưởng nhất cho người đang tìm kiếm biện
pháp tránh thai lâu dài, đơn giản và hiệu quả cao. Việc cấy và tháo que chỉ
mất vài phút và tác dụng tránh thai kéo dài trong 3 năm ở Chile có 1570 phụ
nữ đang sử dụng phương pháp mảnh cấy tránh thai Implanon một nang, có tác
dụng không mong muốn xáo trộn chu kỳ kinh nguyệt [64]. Tuy nhiên, kết quả
trên là chỉ qua một năm đầu theo dõi; hiệu quả tránh thai của 2 năm tiếp theo
như thế nào thì còn chờ đợi những kết quả nghiên cứu tiếp theo. Vấn đề này
vì hàm lượng của thuốc phóng thích trong máu giảm dần theo thời gian.
Chúng tôi tiếp tục nghiên cứu và theo dõi thêm 2 năm chờ tháo que sẽ đánh
giá thêm hiệu quả tránh thai của những năm sau, tỷ lệ tác dụng phụ, nhất là
các hình thái ra máu âm đạo, sự hồi phục sinh sản sau tháo que là bao lâu.
4.2.4. Cân nặng và huyết áp so với trước khi cấy
Bảng 3.15 cho thấy không có sự thay đổi nào có ý nghĩa về huyết áp và
cân nặng sau khi cấy.
Trước cấy huyết áp trung bình tối đa: 111,42 7,11 mmHg, huyết áp
trung bình tối thiểu: 71,815,98 mmHg.
Sau cấy huyết áp trung bình tối đa là : (114,27 5,98 mmHg), huyết
áp trung bình tối thiểu 73,82 5,42 mmHg.
Cân nặng trung bình trước cấy 47,69 2,05 kg
Cân nặng trung bình sau cấy 47,55 1,5 kg
So sánh tỷ lệ huyết áp và cân nặng trước, sau cấy không có gì thay đổi.
Theo nghiên cứu của tác giả Trần Thị Phương Mai năm 2003 thì cân
nặng và huyết áp của phụ nữ tham gia cấy que không có gì thay đổi trong suốt
thời gian 3 năm nghiên cứu. Trọng lượng trung bình trước cấy là 48 kg, sau
cấy là 48,5 kg. Huyết áp trung bình trước cấy là 113/68 mmHg, huyết áp
trung bình sau cấy là 112/70 mmHg [9]. Theo nghiên cứu của tác giả Trần
74
Đức Chiến năm 2005 cũng tương tự như kết quả của chúng tôi. Huyết áp tối
đa trung bình trước cấy là 112/72 mmHg; huyết áp trung bình sau cấy là
111/73 mmHg, cân nặng trung bình trước cấy là 46,9 kg và cân nặng trung
bình sau cấy là 47,2 kg [5]. Theo nghiên cứu của UrbancsekJ, các chỉ số về
huyết áp và cân nặng không dao động, huyết áp trung bình trước cấy là
115/80 mmHg, huyết áp trung bình sau cấy là 118/81 mmHg, cân nặng trung
bình trước cấy là 48,2 kg và cân nặng trung bình sau cấy là 49 kg [82]. Theo
nghiên cứu của Dorflinger, có làm thí nghiệm trên động vật thì không có sự
thay đổi về chuyển hoá có ý nghĩa, trừ khi tăng cao đậm độ sẽ ảnh hưởng đến
mạch máu, tim, đái đường. Nên phải rất thận trọng với nhóm phụ nữ có nguy
cơ này. Nếu họ dùng sẽ có những tác dụng phụ đặc biệt tắc mạch, huyết khối
(đau bắp chân, ho tức ngực), còn nếu sức khỏe tốt không có bệnh, không ảnh
hưởng tới sức khoẻ của người phụ nữ. Nên phải khám, chọn theo bảng kiểm
trước khi cấy thuốc Implanon [39]. Kết quả nghiên cứu của Diaz S cũng
giống như thuốc uống tránh thai đơn thuần (POP) dùng các mảnh cấy ghép
tránh thai (Implanon, Norplant) không ảnh hưởng đến sữa mẹ và sự phát triển
của bé. Booranabunyat nghiên cứu tại Băng Cốc Thái lan [28] với 51 phụ nữ
cấy Implanon và theo dõi 6 tháng không có đối tượng nào có thai chỉ số pearl
bằng 0, không có sự thay đổi có ý nghĩa về cân nặng (chỉ số thân khối),
không ảnh hưởng huyết áp [26], có một vài thay đổi về chu kỳ kinh nguyệt:
vô kinh, ra máu âm đạo không có chu kỳ và cho đây là biện pháp tránh thai an
toàn và hiệu quả được phụ nữ chọn [28], [58]. Theo nghiên cứu của Erin How
tỷ lệ vô kinh là 17,9% - 24,8%; 35% có xáo trộn chu kỳ kinh; 2,5% có thay
đổi cân nặng chút ít không đáng kể và 1,3% nổi mụn, không ảnh hưởng đến
chuyển hoá lipip và không có sự thay đổi HA [42], [58], [80], [90]. Các tác
giả đều tâm đắc với phương pháp tránh thai cấy do kết hợp tránh thai với
điều trị lạc nội mạc tử cung [58], [80]. Ngoài tác dụng bầm tím tại chỗ cũng
75
có một vài tác dụng phụ khác do người làm kỹ thuật cấy gây ra. Theo Maria
đã gặp các trường hợp sau thất bại do sản phẩm, khi cấy mà không có que cấy
dưới da, thất bại của biện pháp, que cấy bị trồi ra, thiếu thông tin, khám
không chuẩn đã có thai trước mà không phát hiện ra [59], [63]. Nghiên cứu
của chúng tôi không gặp trường hợp nào như vậy, để khắc phục, người làm kỹ
thuật phải được huấn luyện, có kỹ năng thực hành tốt, phải kiểm tra sau khi
cấy thuốc (xem có que ở vị trí cấy không và theo dõi định kỳ qua lịch ). Qua
các nghiên cứu trên ta thấy thuốc cấy tránh thai không ảnh hưởng tới cân
nặng và huyết áp và là ưu điểm lớn để duy trì tính bền vững của biện pháp
tránh thai này [80].
4.3. CÁC TÁC DỤNG PHỤ, TỶ LỆ BỎ CUỘC CỦA PHỤ NỮ CẤY
IMPLANON
4.3.1. Các tác dụng phụ thường gặp kinh nguyệt
Bảng 3.16 cho thấy có 23 trường hợp trong số 288 có biến chứng tại
chổ, bầm tím chỗ cấy, không phải điều trị, theo dõi trong một tuần tự khỏi
chiếm tỷ lệ 7,9%. Để hạn chế bầm tím chỗ cấy thì sau khi cấy que ta phải ấn
hết máu trong rãnh cấy (chú ý nếu ấn mạnh que có thể trồi ra). Theo các tác
giả khác tỷ lệ biến chứng tại chỗ cũng tương tự như chúng tôi. Theo tác giả
Phương Mai là 8,3% [9], tác giả Trần Đức chiến là 7,9% [5]. Theo Brache V
là 9,5% [29], theo Bitzez là 8,2% bầm tím tại chỗ không cần xử trí [27]. Bảng
3.17 cho thấy trong thời gian sử dụng que cấy thường gặp các tác dụng phụ
sau: vô kinh chiếm tỷ lệ 29,5%. Rong kinh có 24 đối tượng chiếm tỷ lệ 8,3%
(có 10 trường hợp rong kinh kéo dài chiếm tỷ lệ 3,2%). Rong huyết 6,6%. Ra
máu âm đạo dày là 19%. Nghiên cứu của tác giả Trần Thị Phương Mai vô
kinh chiếm 14% [9], tác giả Affandi B là 17,9 - 24,8% [16] và theo Bitzed có
33% vô kinh [27] theo Funk có 14% [43], vô kinh này là do tác dụng của
thuốc nên không cần điều trị cứ để như vậy sau 3 năm hết tác dụng của que
76
thuốc tháo que sẽ có kinh lại. Còn rong huyết là 6,6% theo các tác giả khác
Bitzer J. là 15%, [27] tác giả Phương Mai là 10 - 13% [9] và tác giả Trần Đức
Chiến là 3,7% và những khách hàng rong huyết này họ đều bỏ cuộc phải lấy
que cấy tránh thai ra. Trong 24 que bỏ cuộc theo nghiên cứu của giáo sư
Phương Mai thì có 12 là rong huyết, chỉ những người vô kinh, ra máu thưa,
rong kinh là họ tiếp tục duy trì que cấy hoặc điều trị tác dụng phụ.
Tỷ lệ bỏ cuộc chung của chúng tôi là 7,6% chủ yếu là rong huyết có 19
đối tượng chiếm tỷ lệ 6,5%, rong kinh có một trường hợp chiếm tỷ lệ 0,34%;
nổi mụn có 2 trường hợp chiếm tỷ lệ 0,69%. Có 24 đối tượng rong kinh trong
đó có 10 trường hợp điều trị có 1 thất bại phải bỏ cuộc tháo que. Có 19 trường
hợp rong huyết bỏ cuộc tháo que. Theo nghiên cứu của tác giả Phương Mai có
24 bỏ cuộc chung chiếm tỷ lệ 20%, bỏ cuộc do rong huyết là 15 đối tượng
chiếm tỷ lệ 12%. Theo Chaovisitsaree tỷ lệ vô kinh là 40% [32]. Với Erin vô
kinh 30 - 40% [40]. Theo nghiên cứu Simon tại Bỉ vô kinh chiếm tỷ lệ 40%
[75], [76]. Còn nghiên cứu của Kiriwat tỷ lệ vô kinh là 24 - 39% [52]. Ra máu
âm đạo thưa (rong kinh) ra máu thấm giọt tư vấn không phải điều trị. Chỉ điều
trị rong kinh kéo dài và rong huyết. Rong kinh liên quan đến sự gia tăng tác
dụng của progestagen khi dùng dài ngày dẫn đến thiếu dưỡng nội mạc. Máu
chảy ra thường là máu thoát mạch từ các mạch máu nhỏ. Trong trường hợp ra
máu kéo dài, rong kinh kéo dài) phải khảo sát nội mạc tử cung bằng siêu âm để
phát hiện và kiểm tra nội mạc tử cung. Nếu có quá sản, nang Polyp buồng tử
cung nen phối hợp với cắt Polyp hoặc đốt nội mạc bằng vòng điện [11]. Rong
kinh theo Weisberg [86] và nhóm nghiên cứu điều trị rong kinh theo bốn phác
đồ sau:
1. Mifepristone 25mg: 2lần /1 ngày, trong 4 ngày hoặc 2 ngày.
2. EE 20 microgam sáng +1 viên Plascebo tối.
3. Doxycyclin 100mg : 2 lần /1 ngày trong 5 ngày.
77
4. Plascebo: 2 lần /1 ngày mỗi lần 1 viên.
Thực hiện trên 179 đối tượng. Không có sự thay đổi ngừng ra máu, so
sánh 4 cách điều trị không có gì khác biệt về kết quả điều trị. Nghiên cứu của
chúng tôi xử dụng hai phác đồ sau:
1. một ngày uống 2 viên tránh thai phối hợp tên biệt dược là Idial, kéo
dài 3-5ngày và duy trì 1 ngày 1viên tiếp theo trong 1 tuần.
2. một ngày 1 viên kéo dài 21ngày dùng 2 chu kỳ liên tục
Trong 10 khách hàng xuất hiện tác dụng phụ không mong muốn rong
kinh áp dụng phác đồ 1 đạt tỷ lệ 90% (9) khách hàng đáp ứng tốt sau 2 đợt
điều trị, còn 1 khách hàng sau 2 đợt điều trị không đáp ứng tháo que cấy. Phác
đồ 2 chưa dùng, có thăm dò trong cộng đồng bằng phỏng vấn và nhận được
phấn lớn câu trả lời không thích vì cùng một lúc dùng 2 biện pháp tránh thai.
sử dụng phương pháp điều trị bằng Ibuprofen 400mg uống 3 lần trong 1ngày
dùng 3-5 ngày chúng tôi chưa áp dụng. Còn rong huyết (ra máu dày) trong
nghiên cứu của chúng tôi khách hàng không điều trị, hoàn toàn muốn ngưng
xử dụng, yêu cầu tháo que và được tháo que đáp ứng nguyện vọng cá nhân
người xử dụng. Điều trị tác dụng rong kinh: dùng thuốc tránh thai phối hợp
đường uống đa số trường hợp rong kinh, rong huyết đáp ứng tốt với điều trị
[11], [72]. Với cách điều trị của các tác giả khác dùng Mifepristone,
tranxamin chúng tôi chưa áp dụng do giá thành cao của 2 loại thuốc này [86].
4.3.2. Các tác dụng phụ khác
4.3.2.1. Tác dụng phụ thuộc kinh nguyệt
Bảng 3.20 cho thấy tác dụng phụ vô kinh chiếm tỷ lệ 29,5%, ra máu âm
đạo thưa, ra máu âm đạo thấm giọt không điều trị mà chỉ tư vấn để khách
hàng yên tâm. Theo nghiên cứu của các tác giả khác, tác dụng phụ này là bình
thường không đặt vấn đề điều trị. Theo tác giả Phương Mai [9], và Trần Đức
Chiến [5], cả ba tác dụng phụ này cũng như của chúng tôi không cần điều trị.
78
Các tác giả Phương Mai [9], Trần Đức Chiến [5], Affandi B. [15], [16],
Boorana bunyat [28] cũng dùng phác đồ này để điều trị cho những đối tượng
rong kinh và rong huyết đều đạt kết quả tốt. Trong nghiên cứu của chúng tôi điều
trị 10 trường hợp thì chỉ có 1 trường hợp thất bại phải tháo que cấy, còn 9
trường hợp đáp ứng tốt với điều trị.
Ra máu dày (rong huyết) trong chu kỳ theo dõi 90 ngày theo WHO [15].
Có > 6 lần ra máu [9], [15] phần lớn khách hàng đều không hài lòng dẫn đến bỏ
cuộc tháo que cấy. Trong nghiên cứu của chúng tôi có 19 trường hợp rong huyết
chiếm tỷ lệ 6,5% thì đều bỏ cuộc (tháo que) không điều trị. Theo tác giả Phương
Mai có 15% bỏ cuộc do rong huyết tỷ lệ này cao hơn của chúng tôi. Theo
AffandiB [16] tỷ lệ rong huyết phải bỏ cuộc là 10% cao hơn của chúng tôi.
4.3.2.2. Xử trí các tác dụng phụ khác
Qua bảng 3.18, chúng ta thấy buồn nôn, đau đầu, căng ngực, chóng mặt
chỉ xuất hiện trong mấy tháng đầu sau khi cấy thuốc và sau đó thì qua nhanh
chiếm tỷ lệ như sau: buồn nôn 7,6%, đau đầu 5,2%, căng vú 9,7%. Theo
nghiên cứu của tác giả Phương mai, buồn nôn 18%, đau đầu 5,6%, căng ngực
4%, nổi mụn là 3% [9]. Theo Urbancsek, căng ngực 4,2%, chóng mặt 6,1%
buồn nôn là 9% [82]. Nói chung các tác dụng phụ này ít, và xuất hiện trong
thời gian đầu cấy thuốc, sau đó hết.
Trong nghiên cứu của chúng tôi qua bảng 3.18. Buồn nôn 7.6%, đau
đầu 5.2%, căng ngực 9.7%, tăng cân 2.1%, nổi mụn 2.4% . Tất cả các tác
dụng phụ này trong nghiên cứu của chúng tôi chỉ thoáng qua, không phải điều
trị trường hợp nào, chỉ tư vấn và giải thích khách hàng hài lòng. Theo nghiên
cứu của tác giả Phương Mai [9] và của tác giả Trần Đức Chiến [5] cũng vậy.
Các tác dụng phụ này xuất hiện sau khi cấy thuốc, giảm dần và hết sau vài
tháng. Theo nghiên cứu của các tác giả nước ngoài thì tỉ lệ các tác dụng phụ
như buồn nôn, nhức đầu, căng vú như sau: theo Cherry [31], Haracio [47],
79
Kiriwat [52], Ladipo [53], Lippincott Williams [57], Raik [68] cũng có tỉ lệ
tác dụng phụ tương tự, không cần điều trị, còn nếu phải điều trị thì điều trị
như sau.
Nhức đầu: thoáng qua không ảnh hưởng đến sinh hoạt hàng ngày thì tư
vấn để khách hàng yên tâm. Nếu ảnh hưởng đến sinh hoạt hàng ngày thì phải
điều trị. Phương thức điều trị như sau: cho Paracetamol 0,5g uống 2 lần trong 1
ngày và uống khoảng 3 ngày, nếu không hết phải tìm nguyên nhân và điều trị
theo nguyên nhân. Còn về que cấy tránh thai nếu khách hàng tiếp tục duy trì để
que lại, nếu không tiếp tục sẽ ngưng và tháo que, chuyển biện pháp khác. Đo
huyết áp kiểm tra xem có bị cao huyết áp không. Nếu huyết áp cao 140/90
mmHg thì tư vấn cho khách hàng yên tâm và theo dõi huyết áp hàng ngày
trong 1 tuần. Nếu huyết áp trở về bình thường tiếp tục xử dụng mảnh cấy tránh
thai, có chiều hướng không giảm mà gia tăng, tháo que chuyển biện pháp khác
và điều trị cao huyết áp. Với nghiên cứu của chúng tôi và của giáo sư Phương
Mai cũng như của tác giả Trần Đức Chiến đều không có tình trạng thay đổi
huyết áp, nên vấn đề điều trị cao huyết áp không gặp. Buồn nôn, chóng mặt
thoáng qua không ảnh hưởng đến sinh hoạt hàng, còn ảnh hưởng đến sinh
hoạt hàng ngày thì phải điều trị theo nguyên nhân tìm ra. Khám chuyên khoa
sản và làm xét nghiệm thử thai, vì khách hàng vô kinh và buồn nôn để loại
trừ có thai trước khi tìm các nguyên nhân khác để điều trị. Nổi mụn trong
nghiên cứu của chúng tôi có 2 trường hợp nổi mụn ở lưng vùng sau gáy hơi
nhiều nên khách hàng đã yêu cầu tháo que cấy để chuyển biện pháp khác.
Trong nghiên cứu của giáo sư Phương Mai cũng có 2 trường hợp nổi mụn ở
mặt vẫn tiếp tục duy trì mảnh cấy tránh thai, không tháo que. Nổi mụn không
ảnh hưởng tới thẩm mỹ, còn ảnh hưởng tới thẩm mỹ thì khuyên khách hàng
nên tháo que. Có thể nổi mụn này là do thuốc cấy tránh thai hoặc ngẫu nhiên
trùng hợp, vấn đề nổi mụn không cần điều trị chỉ vệ sinh bằng nước sạch,
80
trường hợp nổi mụn có nhiễm trùng thì uống kháng sinh và rửa mặt bằng
dung dịch sát khuẩn, không đáp ứng điều trị như trên tới khoa da liễu điều trị.
Nghiên cứu của chúng tôi không có nổi mụn ở mặt và nổi mụn sau gáy chiếm
tỷ lệ 2.4%.
VD minh họa:
1. Hồ sơ số 19.
Nguyễn thị Anh V: 36 tuổi. Địa chỉ: 68 Ngô Đức Kế - TP Huế
Tiền sử sản khoa: para 3003
Tiền sử phụ khoa: có kinh năm 14 tuổi, kinh nguyệt đều, kéo dài 3
ngày, lượng vừa.
KCC: 5/5/06, cấy ngày 10/5/06.
Tái khám sau 1 tháng: có kinh đúng ngày, thời gian có kinh 2 ngày
lượng ít.
Tái khám sau 6 tháng có kinh đều hàng tháng, lượng ít (1-2 ngày)
Tái khám sau 9 tháng có kinh đều hàng tháng, lượng ít (1-2 ngày)
Tái khám sau 12 tháng có kinh đều hàng tháng, lượng ít (1-2 ngày)
=> Hài lòng
2. Hồ sơ số 3.
Trương Thị Th: 34 tuổi, địa chỉ 11/1 Hai Bà Trưng
Tiền sử sản khoa: para 2002.
Tiền sử phụ khoa: có kinh năm 16 tuổi, kinh nguyệt đều, kéo dài 3
ngày, lượng vừa.
KCC: 3/5/06 ngày cấy 8/5/06
TD sau 1 tháng: không có kinh
TD sau 3 tháng: Không có kinh, lo lắng, sợ hãi, tư vấn và hài lòng tiếp
tục sử dụng
TD sau 6 tháng không có kinh
81
TD sau 9 tháng không có kinh
TD sau 12 tháng không có kinh
=> hài lòng
3. Hồ sơ số 145.
Nguyễn Thị T: 29 tuổi.
Địa chỉ: Vinh Hưng - Phú Vang - Huế
Tiền sử sản khoa: para 2002
Tiền sử phụ khoa: có kinh năm 15 tuổi, kinh đều có 4 ngày lượng vừa
KCC: 10/6/06, cấy ngày 16/6/2006.
TD sau 1 tháng có kinh 10 ngày ra máu thấm giọt.
TD sau 3 tháng: có kinh 2 lần, 1 lần kéo dài 10 ngày lượng ít, băn
khoăn lo lắng, sợ. Điều trị bằng thuốc uống tránh thai phối hợp Idial 1 vỷ mỗi
ngày uống 1 viên trong 3 tuần, không thích, những vẫn theo dõi tiếp.
TD 6 tháng: có kinh 2 lần, lượng ít kéo dài 10 ngày lượng ít, hài lòng,
tiếp tục theo dõi.
TD 9 tháng: có kinh 1 lần, lượng ít, hài lòng.
4.3.3. Tình hình bỏ cuộc
Tổng số bỏ cuộc của chúng tôi là 22/288, chiếm tỉ lệ 7.6%. 19 do rong
huyết, 1 do rong kinh, 2 do nổi mụn. Các trường hợp này đều tháo que và
chuyển biện pháp khác. Theo nghiên cứu của tác giả Phương Mai, tỉ lệ bỏ
cuộc là 20%, theo Kiriwat tại Thái Lan là 13.4% [52], theo Reuters [70] là
8.5%, theo Smith tỉ lệ bỏ cuộc là 11.3 % [77], theo Weisberg [87] và Zheng
[92] tỉ lệ bỏ cuộc là 7.9 % cũng đều là do nguyên nhân rối loạn các hình thái
ra máu âm đạo và chủ yếu vẫn do rong huyết ( ra máu dày ). Qua đây, ta thấy
tỉ lệ bỏ cuộc trong nghiên cứu của chúng tôi và các tác giả trong và ngoài
nước tương đương nhau, với một vài tác giả khác thì thấp hơn. Điều này càng
khẳng định rằng thuốc cấy tránh thai Implanon ít tác dụng phụ, hiệu quả
tránh thai cao phù hợp với phụ nữ Thừa Thiên Huế chúng tôi.Tuy nhiên, để
82
khẳng định chắc chắn kết quả trên chúng tôi muốn nghiên cứu thêm 2 năm
nữa để tháo que do hết hạn sử dụng lúc đó có nhiều thời gian hơn để đánh giá.
Hi vọng sẽ có những số liệu khác nữa có sức thuyết phục. Một lần nữa, qua
nghiên cứu, chúng ta thấy rõ hơn thuốc cấy tránh thai implanon là một biện
pháp tránh thai mới, hiện đại, kín đáo, tự theo dõi được và điều mong muốn
nhất là hiệu quả tránh thai cao, đạt tỉ lệ 100% trong năm đầu, chỉ số Pearal
Index = 0.0, được cộng đồng chấp nhận rộng rãi.
83
KẾT LUẬN
Qua kết quả nghiên cứu, chúng tôi rút ra một số kết luận sau:
1. Hiệu quả tránh thai
- Hiệu quả tránh thai của thuốc cấy Implanon cao
Tỉ lệ tránh thai đạt 100% trong năm đầu nghiên cứu, chỉ số thất bại
(pearl Index) bằng 0.
- Được sự chấp nhận của cộng đồng cao
Chiếm tỷ lệ 94,4% sự hài lòng trong cộng động
2. Các tác dụng phụ không mong muốn của thuốc cấy tránh thai Implanon
+ Các tác dụng phụ trên kinh nguyệt
- Vô kinh chiếm tỷ lệ 29,2%
- Rong kinh chiếm tỉ lệ 3,5 %
- Rong huyết chiếm tỉ lệ 6,6 %
+ Tác dụng phụ không mong muốn khác :
- Buồn nôn 7,6 %
- Đau đầu 5,2 %
- Căng vú 9,7%
- Nổi mụn 2,4%
- Bầm tím tại chỗ cấy 7,9 %
84
Không phải điều trị , tư
vấn
Điều trị theo phác đồ 1 kết quả 9/10 đáp ứng với
điều trị
+ Điều trị một số tác dụng phụ
- Kinh nguyệt
Vô kinh
Kinh thưa
Rong kinh
Rong huyết không điều trị ngưng xử dụng, chuyển biện pháp khác
(bỏ cuộc) chiếm tỷ lệ 6,6%.
- Các tác dụng phụ khác chỉ thoáng qua, không phải điều trị.
85
KIẾN NGHỊ
Từ ưu, nhược điểm của thuốc cấy tránh thai đề nghị:
o Có thể sử dụng rộng rãi Implanon cho phụ nữ có nhu cầu tránh thai,
mà không có chống chỉ định.
Để thực hiện điều này, Bộ Y tế và các ngành hữu quan cần tăng cường
nhập que cấy với số lượng không hạn chế, cung cấp thường xuyên, liên tục,
đảm bảo nhu cầu của người xử dụng. Ngoài ra, cần đào tạo cán bộ cơ sở để
tiếp cận với khách hàng gần hơn, tạo điều kiện thuận tiện cho khách hàng tại
tất cả các vùng dân cư ( nhất là vùng sâu vùng xa) sử dụng biện pháp cấy này.
o Tăng cường thông tin về các biện pháp tránh thai để cho phụ nữ chọn
lựa và tiếp cận với các dịch vụ tránh thai.
Làm được điều này cần có các phương tiện truyền thông, nâng cao trình
độ tư vấn cho cán bộ cơ sở.
86