34
Thtrường ngoi hi 

Thi Truong Ngoai Hoi 0916

Embed Size (px)

Citation preview

Page 1: Thi Truong Ngoai Hoi 0916

7/27/2019 Thi Truong Ngoai Hoi 0916

http://slidepdf.com/reader/full/thi-truong-ngoai-hoi-0916 1/34

 

Thị trường ngoại hối 

Page 2: Thi Truong Ngoai Hoi 0916

7/27/2019 Thi Truong Ngoai Hoi 0916

http://slidepdf.com/reader/full/thi-truong-ngoai-hoi-0916 2/34

 . Thị trường ngoại hối 

1. Định nghĩa

Một cách tổng quát, thị trường ngoại hối( FOREX) là nơi diễn ra việc

mua bán các đồng tiền khác nhau.Theo nghĩa hẹp, thị trường ngoại hối là nơi mua bán ngoại tệ giữa các

ngân hàng, tức thị trường Interbank do hoạt động mua bán ngoại tệ chủ yếu xảy

ra giữa các ngân hàng, chiếm khoảng 85% tổng số giao dịch.

2. Các thành viên tham gia vào thị trường ngoại hối 

Bao gồm:

 Nhóm khách hàng mua bán lẻ: bao gồm các công ty nội địa và đa quốcgia, các nhà đầu tư quốc tế và tất cả những ai có nhu cầu mua bán ngoại hối.

Tham gia vào thị trường ngoại hối nhằm chuyển đổi tiền tệ và phòng ngừa rủi ro

tỉ giá.

• Các ngân hàng thương mại: tham gia vào thị trường ngoại hối nhằm cung

cấp dịch vụ cho khách hàng và kinh doanh cho chính mình.

Các nhà môi giới ngoại hối: chỉ cung cấp dịch vụ môi giới chứ khôngđược mua bán cho chính mình

• Các ngân hàng trung ương: tham gia thị trường ngoại hối nhằm 3 mục

đích: can thiệp lên tỉ giá; mua bán, chuyển đổi tiền tệ nhằm bảo toàn và gia tăng

giá trị dự trữ ngoại hối quốc gia; là đại lí mua bán hộ ngoại tệ cho chính phủ.

3. Thị trường ngoại tệ liên ngân hàng 

Được thành lập và chính thức đi vào hoạt động từ tháng 10 năm 1994 tạiViệt Nam. Thành viên tham gia thị trường ngoại tệ liên ngân hàng bao gồm các

ngân hàng thương mại và ngân hàng đầu tư phát triển trong nước, ngân hàng

liên doanh với nước ngoài và chi nhánh của ngân hàng nước ngoài hoạt động tại

Việt Nam. Ngân hàng nhà nước tham gia vào thị trường như các thành viên

khác, đồng thời can thiệp nhằm mục tiêu quản lí khi cần thiết.

Điều kiện để ngân hàng thương mại trở thành thành viên của thị trườngngoại tệ liên ngân hàng là:

Page 3: Thi Truong Ngoai Hoi 0916

7/27/2019 Thi Truong Ngoai Hoi 0916

http://slidepdf.com/reader/full/thi-truong-ngoai-hoi-0916 3/34

• Phải được phép kinh doanh ngoại tệ

• Có tài khoản ngoại tệ và tiền đồng gửi tại ngân hàng nhà nước

• Có hệ thống thông tin nội bộ nối mạng với ngân hàng nhà nước

Trong thị trường ngoại tệ liên ngân hàng, Ngân hàng nhà nước vừa làngười điều hành thị trường vừa là người mua bán cuối cùng với khối lượng lớn

để can thiệp vào thị trường khi cần thiết. Thông qua hoạt động của thị trường,

 Ngân hàng nhà nước tiếp tục đổi mới và hoàn thiện cơ chế xác định tỉ giá theo

hướng thị trường. Ngân hàng nhà nước sử dụng quỹ bình ổn hối đoái để can

thiệp thị trường một cách có hiệu quả nhằm thực hiện mục tiêu chính sách hối

đoái của Ngân hàng nhà nước và ổn định tỉ giá hối đoái.Thị trường ngoại tệ liên ngân hàng hoạt động tất cả các ngày làm việc

trong tuần dưới hình thức phi tập trung. Bước đầu chỉ thực hiện các giao dịch

giao ngay và giao dịch kì hạn thông thường với kì hạn do các thành việc giao

dịch tự thỏa thuận. Tỉ giá giao dịch dựa trên cơ sở tỉ giá chính thức do Ngân

hàng nhà nước công bố đầu ngày, theo đó, ngân hàng thương mại được giao

dịch với nhau trong một biện độ nhất định quanh tỉ giá chính thức.

4. Thị trường vàng 

Thị trường vàng chính là 1 phần trong thị trường tiền tệ, trên thị trường

vàng, hàng hóa giao dịch là vàng tiêu chuẩn quốc tế.

Các nhà đầu tư mua vàng giống như 1 cách tự bảo hiểm giá trị tài sản hiện

có của họ khỏi các rủi ro về kinh tế , chính trị - xã hội. Những cuộc khủng

hoảng thị trường bao gồm: giảm đầu tư, nợ quốc gia có chiều hướng gia tăng,

lạm phát, chiến tranh, bất ổn chính trị xã hội….Các nhà đầu tư cũng mua vàng

như 1 công cụ đầu tư nhằm kiếm lợi trong tương lai khi mua vàng tại thời điểm

này với giá thấp và hi vọng bán được giá cao trong tương lai

Đối tượng tham gia thị trường vàng gồm:

- Các Ngân Hàng thương mại

- Ngân hàng Trung Ương

- Các tổ chức phi tài chính

- Các tổ chức phi Ngân Hàng

Page 4: Thi Truong Ngoai Hoi 0916

7/27/2019 Thi Truong Ngoai Hoi 0916

http://slidepdf.com/reader/full/thi-truong-ngoai-hoi-0916 4/34

- Các cá nhân

- Nhà môi giới

Tại Viêt Nam: tham gia vào thị trường vàng thì tư nhân chiếm số lượng chủ

yếu khoảng 90%

 B. Mua bán giao ngay trên thị trường ngoại hối liên

ngân hàng 

1.Các khái niệm liên quan

Nghiệp vụ giao ngay (Spot transactions):

 Nghiệp vụ giao ngay là nghiệp vụ cơ sở bởi vì tỷ giá áp dụng cho các hợp

đồng giao ngay được hình thành trực tiếp từ quan hệ cung cầu và luôn có sẵn

trên thị trường; trong khi đó, các nghiệp vụ khác là phái sinh, bởi vì tỷ giá áp

dụng cho các hợp đồng này không được hình thành trược tiếp theo quan hệ cung

cầu trên thị trường, mà được hình thành từ các thông số có sẵn trên thị trường

như tỷ giá giao ngay và mức lãi suất các đồng tiền.

Spot là giao dịch 2 bên thực hiện mua bán một lượng ngoại tệ theo tỷ giá

giao ngay tại thời điểm giao dịch và kết thúc thanh toán trong vòng hai (2) ngàylàm việc tiếp theo.

 Ngày có giá trị hiệu lực của hộp đồng là hai ngày làm việc tiếp theo kể từ ngày

ký hợp đồng.

• Tuy nhiên, để có thể trở thành ngày có giá trị hiệu lực thì phải là

ngày làm việc thông thường của quốc gia có đồng tiền tham gia vào

giao dịch.VD: Nếu bạn giao dich bằng VND trên thị trường ngoại hối của Việt

 Nam, và ngày ký hợp đồng là thứ 6 thì ngày có giá trị là thứ 3 (tức là hai ngày

làm việc tiếp theo của Việt Nam). Còn nếu giao dịch trên được ký vào thứ 2 thì

ngày có giá trị sẽ là thứ 4.

 Nhưng nếu bạn dùng HKD (Hong Kong dolar) trên thị trường ngoại hối của

Hồng Kông để mua bất cứ loại ngoại tệ nào (trừ USD ), và giao dịch của bạn

Page 5: Thi Truong Ngoai Hoi 0916

7/27/2019 Thi Truong Ngoai Hoi 0916

http://slidepdf.com/reader/full/thi-truong-ngoai-hoi-0916 5/34

được ký kết vào thứ 2 thì ngày có giá trị hiệu lực là ngày thứ 5 (vì ngày thứ 4 là

ngày nghỉ của Hồng Kông).

- Địa điểm thực hiện thanh toán chính là quốc gia mà việc chuyển tiền thực

tế được tiến hành.

VD: Một giao dịch giữa GBP – USD được thực hiện thì:

+ GBP sẽ được thanh toán ở Anh.

+ USD sẽ được thanh toán ở Mỹ.

- Nơi thực hiện hợp đồng là bất cứ thị trường ngoại hối nào trên thế giới.

VD: Bạn có thể mua USD , EURhay là JPY bằng VND trên thị trường

ngoại hối của của Việt Nam. Hoặc trên thi trường Tokyo bạn cũng có thể

mua USD hay EUR bằng JPY…

- Kỹ thuật giao dịch (các hình thức giao dịch): các thị trường giao dịch với

nhau qua nhiều cách, trong đố co 4 cách chủ yếu là:

• Giao dịch thông qua điện thoại: tức là nơi đặt mua và nơi bán sẽ giao

dịch qua điện thoại, nếu chấp nhận ngay thì coi như giao dịch đã thành.

Họ sẽ thanh toán chô nhau qua các ngân hàng đại diện. Nhưng giao

dịch này có một nhược điểm là các bên gọi điện cho nhau rất dễ nghe

nhầm, dẫn đến sự nhầm lẫn trong giao dịch gây thiệt hai cho một bên

hoặc là cả hai bên tham gia giao dịch.

• Giao dịch thông qua màn hình điện tử: thực chất là hệ thống thông tin

điện tử; tức là ở hai nơi giao dịch (thường là các ngân hàng thương

mại) sẽ có màn hình điện tử, tại đó các bên sẽ đặt lệnh mua và bán của

mình; và giá mà minh có thể sẵn sàng chấp nhận. Kỹ thuật này cho

 phép tránh được các nhầm lẫn, sai sót của kỹ thuật trên, giảm thiệt hại

và rủi ro cho các bên tham gia giao dịch. Hiện nay, có khoảng 50% các

hợp đồng giao dịch được thực hiện bằng hệ thống này

• Giao dịch thông qua điện báo.

• Giao dịch thông qua các sở giao dịch chứng khoán

Về mặt tổ chức thị trường

Page 6: Thi Truong Ngoai Hoi 0916

7/27/2019 Thi Truong Ngoai Hoi 0916

http://slidepdf.com/reader/full/thi-truong-ngoai-hoi-0916 6/34

Theo nghĩa rộng, thị trường giao ngay bao gồn thị trường bán

 buôn(Interbank) và thị trường bán lẻ; nhưng do doanh số giao dịch trên

Interbank là chủ yếu, do do, theo nghĩa hẹp người ta coi thị trường giao ngay

chính là thị trường liên ngân hàng.

Thị trường liên ngân hàng giao ngay là thị trường tài chính lớn nhất toàn

cầu. Chỉ tính số mua bán một chiều, thì trung bình mỗi ngày doanh số giao dịch

lên tới 1500 tỷ USD. Kể từ năm 1970 cho đến nay thì cứ hai năm doanh số giao

dịch lại được nhân lên gần gấp đôi.

Thị trường ngoại hối giao ngay là thị trường phi tập trung( không giao dịch

trên sở giao dịch), bao gồm các NHTM, các công ty tài chính lớn, những nhà

môi giới ngoại hối và cả NHTW, trong đó, các NHTM đóng vai trò chủ chốt.

Do tốc độ thông tin ngày nay rất nhanh, cho nên mọi sự kiện quan trọng

diễn ra trên thế giới có ảnh hưởng trực tiếp và ngay lập tức đến thị trường ngoại

hối toàn cầu cho dù các nhà kinh doanh ở rất xa nhau. Điều này đã làm cho hoạt

động của thị trường ngoại hối trở nên hiệu quả, giống như toàn bộ các nhà kinh

doanh đang hoạt đọng dưới một mái nhà chung.

Tính hiệu quả của thị trường giao ngay được thể hiện ở chỗ:

- Thứ nhất, chênh lệch tỷ giá mua, bán rất hẹp, thông thường là nhỏ hơn

0.1%

- Thứ hai, do tốc độ truyền tin nhanh chóng cho nên những thay đổi của thị

trường đã ảnh hưởng tức thời lên tỷ giá, hay nói cachskhacs, tỷ giá hối

đoái trên thị trường luôn biến động để phản ánh những thay đổi của thị

trường.- Thứ ba, đây là thị trường có tính thanh khoản cao vì:

1. Luôn sẵn có số tiền cần thiết

2. Tại địa điểm cần có

3. Tại thời điểm có nhu cầu

4. Bằng đồng tiền cần có

5. Với giá cả hợp lý

Page 7: Thi Truong Ngoai Hoi 0916

7/27/2019 Thi Truong Ngoai Hoi 0916

http://slidepdf.com/reader/full/thi-truong-ngoai-hoi-0916 7/34

 Những nhà kinh doanh không thể bỏ qua những thay đổi có tính đột biến trên

một thị trường sôi động và có tính toàn cầu như thị trường ngoại hối. Thị trường

ngoại hối giao ngay có hai cấp, đó là : Thị trường liên ngân hàng trực tiếp giữa

các ngân hàng, và thị trường liên ngân hàng gián tiếp thông qua môi giới.

Đối tượng tham gia :

Tất cả khách hàng cá nhân, TCKT có nhu cầu hợp pháp liên quan đến

mua/bán ngoại tệ

 Những lợi ích chính:

Đáp ứng nhu cầu mua bán ngoại tệ để phục vụ cho thanh toán xuất nhập

khẩu hàng hóa, dịch vụ, cước vận tải, bảo hiểm.

Góp vốn liên doanh với nước ngoài.

Đóng hội phí cho các tổ chức quốc tế.

Đi công tác, học tập, chữa bệnh, du lịch... ở nước ngoài.

Có thể thanh toán ngay trong ngày (today), thanh toán vào ngày hôm sau

(tom) hoặc thanh toán trong vòng 02 ngày làm việc kể từ ngày giao dịch (spot).

Khách hàng quản lý tình hình kinh doanh được hiệu quả hơn

Cân đối được nguồn ngoại tệ tức thời và trong tương lai gần nhằm phục vụ

kinh doanh

  Những đặc điểm cơ bản:

Tỷ giá mua/bán là tỷ giá giao ngay trên thị trường tại thời điểm giao dịch.

Thời gian thực hiện thanh toán tối đa không quá 02 ngày làm việc tiếp

theo sau ngày giao dịch.

Đáp ứng được đa dạng nhu cầu ngoại tệ của khách hàng.Cách xác định tỷ giá( theo quyết định số: 2635/QĐ-NHNN(2008))

Tổng Giám đốc (Giám đốc) các tổ chức tín dụng được phép hoạt động

ngoại hối ấn định tỷ giá mua, tỷ giá bán giao ngay (SPOT) của Đồng Việt Nam

với các ngoại tệ theo nguyên tắc sau:

1. Đối với Đô la Mỹ: Không được vượt quá biên độ ±3% (ba phần trăm) so

với tỷ giá bình quân trên thị trường ngoại tệ liên Ngân hàng áp dụng cho ngàygiao dịch do Ngân hàng Nhà nước thông báo.

Page 8: Thi Truong Ngoai Hoi 0916

7/27/2019 Thi Truong Ngoai Hoi 0916

http://slidepdf.com/reader/full/thi-truong-ngoai-hoi-0916 8/34

2. Đối với các ngoại tệ khác: Do Tổng Giám đốc (Giám đốc) các tổ chức tín

dụng được phép hoạt động ngoại hối ấn định.

3. Chênh lệch giữa tỷ giá mua và tỷ giá bán: Do Tổng Giám đốc (Giám

đốc) các tổ chức tín dụng

2. Tình hình mua bán giao ngay trên TT ngoại hối liên ngân hàng

7 đồng tiền được giao dịch thường xuyên nhất trên thị trường: Dollar, Yên

 Nhật, Dollar HồngKông, Bảng Anh, Franc Pháp, Franc Thụy Sỹ, Euro. Hoạt

động hầu hết tại tất cả các múi giờ:

Biểu đồ hoạt động giao dịch ngoai hối toàn cầu:

Page 9: Thi Truong Ngoai Hoi 0916

7/27/2019 Thi Truong Ngoai Hoi 0916

http://slidepdf.com/reader/full/thi-truong-ngoai-hoi-0916 9/34

TCTD không được mua bán USD giao ngay với tỷ giá cao hơn trần

biên độ

 Ngày 18/3/2009, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước (NHNN) Việt Nam có

Công văn số 1819/NHNN-QLNH về việc chấn chỉnh hoạt động mua bán ngoại

tệ. Theo đó, Thống đốc yêu cầu các tổ chức tín dụng (TCTD) được phép hoạt

động ngoại hối không được sử dụng kết hợp các công cụ phái sinh nhằm mục

đích mua bán USD giao ngay với tỷ giá cao hơn trần biên độ do NHNN quyđịnh. Đồng thời, thanh tra NHNN cũng sẽ tăng cường kiểm tra, thanh tra việc

tuân thủ các quy định về hoạt động mua bán ngoại tệ kể từ ngày 18/3/2009 và xử

lý nghiêm các hành vi vi phạm. Trên website của NHNN công bố, tỷ giá giao

dịch bình quân trên thị trường ngoại tệ liên ngân hàng áp dụng cho ngày

18/03/2009 là 16.976 đồng/USD, giảm 1 đồng so với ngày hôm qua. Tại Ngân

hàng Ngoại thương Việt Nam (Vietcombank), giá USD mua vào niêm yết là17.484 đồng/USD và bán ra ở mức 17.485 đồng/USD, giảm 1 đồng/USD so với

Page 10: Thi Truong Ngoai Hoi 0916

7/27/2019 Thi Truong Ngoai Hoi 0916

http://slidepdf.com/reader/full/thi-truong-ngoai-hoi-0916 10/34

hôm qua.Tuy nhiên, các mức giá này hiện đang chênh lệch gần 300 đồng/USD

so với tỷ giá trên thị trường tự do hiện nay.

C. Th ực trạng thị trường tiền tệ liên ngân hàng Việt Nam

1.Năm 2008 Năm 2007, thị trường ngoại tệ liên ngân hàng tiếp tục phát triển mạnh về

quy mô thị trường và doanh số giao dịch thị trường tăng cao. Doanh số giao dịch

giữa các ngân hàng tăng khoảng 113% so với năm 2006, trong đó doanh số giao

dịch giao ngay tăng 125%, doanh số giao dịch kỳ hạn và giao dịch hoán đổi tăng

30%, các NHTM đã sử dụng nhiều các nghiệp vụ giao dịch để phòng ngừa rủi ro

trong kinh doanh ngoại hối. Thị trường ngoại tệ liên ngân hàng có 65 ngân hàng

thành viên tham gia. Nhiều ngân hàng tích cực tham gia đã tạo thêm sự sôi động

của thị trường. Trong năm 2007, với vai trò can thiệp cuối cùng để ổn định thị

trường, NHNN đã thực hiện mua, bán ngoại tệ với các NHTM để hỗ trợ nhu cầu

về VND cũng như nhu cầu về ngoại tệ một cách kịp thời để nhập khẩu các mặt

hàng thiết yếu và nhu cầu chuyển đổi ngoại tệ của các nhà đầu tư nước ngoài.

Khi cung cầu trên thị trường biến động ảnh hưởng đến trạng thái ngoại tệ của

các NHTM, NHNN can thiệp bán ngoại tệ để cân bằng trạng thái, hạn chế rủi ro

hoạt động kinh doanh của các NHTM. Nhờ nguồn cung ngoại tệ trên thị trường

trong năm 2007 tăng mạnh, NHNN đã mua được một khối lượng lớn ngoại tệ,

tăng dự trữ ngoại hối, tạo tiềm lực và thế chủ động cho NHNN trong việc can

thiệp thị trường và thực hiện mục tiêu điều hành CSTT.

Trong bối cảnh cung cầu ngoại tệ trên thị trường diễn biến phức tạp, hoạt

động thị trường ngoại tệ liên ngân hàng năm 2008 tiếp tục sôi động với quy mô

và doanh số giao dịch tăng cao. Doanh số giao dịch giữa các ngân hàng tăng

khoảng 25% so với năm 2007. Trong đó, doanh số giao dịch giao ngay tăng

26%, các giao dịch kỳ hạn, hoán đổi tăng 13%. Các ngân hàng đã tiếp cận và sử

dụng nhiều hơn các nghiệp vụ giao dịch để phòng ngừa rủi ro trong kinh doanh

ngoại hối. Cả năm 2008, thị trường ngoại tệ liên ngân hàng có 79 ngân hàng

thành viên tham gia, tăng 14 thành viên so với năm 2007. NHNN đã thực hiện

mua, bán ngoại tệ một cách kịp thời như một người mua, bán cuối cùng trên thị

Page 11: Thi Truong Ngoai Hoi 0916

7/27/2019 Thi Truong Ngoai Hoi 0916

http://slidepdf.com/reader/full/thi-truong-ngoai-hoi-0916 11/34

trường để ổn định tỷ giá, đáp ứng nhu cầu ngoại tệ để nhập khẩu các mặt hàng

thiết yếu và nhu cầu chuyển đổi ngoại tệ của các nhà đầu tư nước ngoài. Bên

cạnh giao dịch mua, bán ngoại tệ giao ngay, NHNN cũng đã thực hiện các giao

dịch mua và bán lại ngoại tệ với một số ngân hàng để hỗ trợ cân đối nguồn tiền

đồng Việt Nam cho các NHTM

• Một số thành tựu:

Thực hiện cơ chế cho vay theo trần lãi suất nhằm hạn chế sự tăng lãi suất

quá cao tại các ngân hàng thương mại cổ phần (22% - 25%)

Lần đầu tiên kể từ 1/12/2005, lãi suất cơ bản được điều chỉnh tăng, từ

8,25% lên 8,75% vào 1/2/2008. Đặc biệt, trong lần điều chỉnh ngày 19/5 (lên

12%), lãi suất cơ bản được trả lại đúng chức năng của nó, trở thành một cơ sở để

xác định hành lang pháp lý cho lãi suất cho vay của các ngân hàng thương mại,

thay vì xơ cứng và mờ nhạt trước đó.

Cụ thể, ngoài sự điều chỉnh trên, Ngân hàng Nhà nước chính thức áp cơ 

chế lãi suất trần trong hoạt động cho vay của các tổ chức tín dụng (không quá

150% lãi suất cơ bản theo quy định của Bộ luật Dân sự).

Từ thời điểm đó, hoạt động cho vay của các các ngân hàng có sự thay đổi

căn bản; khái niệm “lãi suất cho vay tối đa” xuất hiện trên thị trường, đồng

nghĩa với những mức lãi suất cho vay từ 22% - 25% trước đó được loại bỏ cùng

với các loại phí thu thêm; trần lãi suất huy động thỏa thuận giữa các thành viên

Hiệp hội Ngân hàng Việt Nam có từ những năm trước cũng bị xóa bỏ..

Trong tháng 8/2008 tại thị trường liên ngân hàng, nhu cầu vay mượn của

các ngân hàng trên thị trường nội tệ liên ngân hàng đã giảm nhiều. Vì vậy, lãi

suất cho vay cũng giảm khá mạnh. Các khoản vay từ 1 đến 3 ngày ở mức từ

15,8%/năm-17%/năm. Tuy nhiên, lãi suất của những khoản vay tháng vẫn ở 

mức từ 18%-19,5%/năm. Lãi suất cùng một kỳ hạn có thể chênh lệch ở mức

tương đối tùy uy tín của ngân hàng đi vay. Thông thường các ngân hàng thương

mại Nhà nước vay được từ các ngân hàng khác với mức lãi suất thấp hơn

trên/dưới 1%/năm so với các ngân hàng thương mại cổ phần nhỏ.

Page 12: Thi Truong Ngoai Hoi 0916

7/27/2019 Thi Truong Ngoai Hoi 0916

http://slidepdf.com/reader/full/thi-truong-ngoai-hoi-0916 12/34

Điểm đáng chú ý là đã xuất hiện nhiều khoản cho vay kỳ hạn dài hơn (40-

60 ngày) trên thị trường liên ngân hàng. Điều này cho thấy các ngân hàng đã dự

đoán tích cực hơn về diễn biến thị trường tiền tệ trong thời gian cuối năm. Mặt

khác, một số ngân hàng dự đoán mặt bằng lãi suất kinh doanh của của hệ thống

sẽ có xu hướng giảm dần nên cho vay kỳ hạn dài lúc này lấy lãi suất cao cũng là

một hướng tăng lợi nhuận. Đối với các ngân hàng cần vốn bằng VND vay được

với kỳ hạn dài giúp ngân hàng ổn định hơn trong hoạt động.

Cũng vào thời điểm này, đa số đại biểu dự tọa đàm do Hiệp hội ngân hàng

tổ chức thống nhất cho rằng lãi suất liên ngân hàng không nên điều chỉnh bởi

Quyết định số 16/2008/QĐ-NHNN ngày 16/5 (về cơ chế điều hành lãi suất cơ 

 bản) mà nên để hình thành trên quan hệ cung - cầu về vốn trên thị trường tiền tệ,

tạo ra một thước đo thị trường làm căn cứ cho cơ quan quản lý nhà nước đề ra

chính sách và các giải pháp để xử lý kịp thời nhằm giữ ổn định lãi suất thị

trường liên ngân hàng và hỗ trợ để ổn định lãi suất huy động từ khách hàng. Tuy

nhiên, Ngân hàng nhà nước đã thông báo kể từ ngày 19/8, việc ấn định lãi suất

huy động và lãi suất cho vay bằng VND giữa các tổ chức tín dụng trên thị

trường liên ngân hàng không vượt quá 150% lãi suất cơ bản do Ngân hàng nhà

nước Việt Nam công bố để áp dụng trong từng thời kỳ. Quy định này của Ngân

hàng nhà nước là đúng đắn vì ngoài việc hỗ trợ thanh khoản, thị trường liên

ngân hàng còn là nơi các ngân hàng hoạt động kinh doanh kiếm lời, nên lãi suất

liên ngân hàng cũng phải chịu sự điều chỉnh của quyết định số 16 như các lãi

suât kinh doanh khác.

Page 13: Thi Truong Ngoai Hoi 0916

7/27/2019 Thi Truong Ngoai Hoi 0916

http://slidepdf.com/reader/full/thi-truong-ngoai-hoi-0916 13/34

Chính thức cấp phép cho các ngân hàng mới

Sau cả thập kỷ, năm 2008 ghi nhận những giấy phép lập ngân hàng mới

đầu tiên được cấp. Thị trường đón nhận 2 thành viên mới chính thức đi vào hoạt

động là Ngân hàng Liên Việt và Ngân hàng Tiên Phong. Tháng 12, Ngân hàng

 Nhà nước cấp thêm giấy phép mới cho Ngân hàng Bảo Việt, dự kiến đi vào hoạt

động đầu năm 2009.

Đi cùng với những giấy phép trên, quyết định tạm ngừng cấp phép để sửa

đổi quy chế thành lập và hoạt động của ngân hàng mới cũng là một sự kiện nổi

 bật trong năm 2008; phía sau đó là dư âm của cuộc đua thành lập ngân hàng

trong năm 2007 với sự đổ vỡ của một số đề án và câu chuyện mua bán quyền

mua cổ phiếu ngân hàng chưa thành lập…

Cũng trong năm 2008, Ngân hàng Nhà nước chính thức cấp những giấy phép

lập ngân hàng con 100% vốn ngoại đầu tiên cho HSBC, ANZ và Standard

Chartered, mở đầu một thời kỳ mới cho hoạt động của các ngân hàng nước

ngoài tại Việt Nam: được đối xử bình đẳng hơn, cạnh tranh toàn diện hơn.

• Hạn chế:

Chóng mặt với thay đổi của các công cụ điều hành

Chính sách tiền tệ từ định hướng thắt chặt và linh hoạt nửa đầu năm 2008

chuyển dần sang nới lỏng một cách thận trọng những tháng cuối năm. Đi cùng

Page 14: Thi Truong Ngoai Hoi 0916

7/27/2019 Thi Truong Ngoai Hoi 0916

http://slidepdf.com/reader/full/thi-truong-ngoai-hoi-0916 14/34

với quá trình này là tần suất điều chỉnh các công cụ điều hành nhiều chưa từng

có của Ngân hàng Nhà nước, tập trung ở các lãi suất chủ chốt, tỷ lệ dự trữ bắt

 buộc và biên độ tỷ giá.

Tính chung cả năm, Ngân hàng Nhà nước đã 3 lần tăng và 5 lần giảm lãi suất

cơ bản. Lãi suất tái cấp vốn, lãi suất tái chiết khấu cũng có tần suất điều chỉnh

tương ứng. Tỷ lệ dự trữ bắt buộc có 1 lần tăng trong tháng 2, 4 lần giảm trong 3

tháng cuối năm (2 lần giảm đối với dự trữ bằng ngoại tệ). Lãi suất tiền gửi dự

trữ bắt buộc có 5 lần điều chỉnh (3 lần tăng, 2 lần giảm).

Cơ chế điều hành tỷ giá cũng ghi nhận những điều chỉnh chưa từng có trong

lịch sử. Biên độ có 3 lần nới rộng, từ +/-0,75% lên +/-3%; tỷ giá bình quân liên

ngân hàng có 2 lần điều chỉnh mạnh, vào tháng 6 và cuối tháng 12.

Một công cụ được Ngân hàng Nhà nước sử dụng đến, cũng là một sự kiện

nổi bật trong năm 2008, là đợt phát hành 20.300 tỷ đồng tín phiếu bắt buộc

(17/3). Đi cùng với kế hoạch này, nhà điều hành đã 2 lần điều chỉnh lãi suất cho

tín phiếu, 1 lần tăng từ 7,8% lên 13%, tháng 12 giảm xuống còn 4,5%.

Lãi suất huy động và cho vay biến động chưa từng có

Chính sách thắt chặt tiền tệ đầu năm của Ngân hàng Nhà nước gắn liền

với sự căng thẳng về thanh khoản của các ngân hàng thương mại. Lãi suất huy

động VND có kỳ biến động mạnh nhất từ trước tới nay. Cuộc chạy đua bùng

 phát trong tháng 5 và tạo những đỉnh điểm nóng sốt trong tháng 6. Trên thị

trường liên ngân hàng, lãi suất ghi nhận kỷ lục lên tới 43%/năm; nhiều thành

viên đồng loạt đẩy mức huy động trong dân cư lên tới trên 19%/năm, cá biệt có

trường hợp áp tới 20%/năm.

Đó cũng là thời điểm mà hoạt động cho vay của nhiều ngân hàng thương

mại cầm chừng, doanh nghiệp vay vốn khó khăn cả về lãi suất cao lẫn khả năng

tiếp cận vốn, tín dụng tiêu dùng gần như bị cắt bỏ, tốc độ tăng trưởng tín dụng

 bước vào vùng thấp nhất trong năm (liên tục tăng dưới 1%/tháng; cả năm ước

chỉ tăng khoảng 21% thay vì mức dự kiến khống chế 30%).

 Ngược lại, từ cuối tháng 7, cùng với cơ chế cho vay mới, sự hỗ trợ của Ngân hàng Nhà nước với nguồn vốn khả dụng của hệ thống tăng mạnh lên, lãi

Page 15: Thi Truong Ngoai Hoi 0916

7/27/2019 Thi Truong Ngoai Hoi 0916

http://slidepdf.com/reader/full/thi-truong-ngoai-hoi-0916 15/34

suất trên thị trường bắt đầu có đợt thoái trào. Đặc biệt từ tháng 9 đến cuối năm,

gắn với những điều chỉnh các lãi suất chủ chốt của Ngân hàng Nhà nước, cả lãi

suất huy động và cho vay dồn dập giảm; ít nhất có 8 đợt điều chỉnh trên diện

rộng. Từ đỉnh điểm trên 19%/năm, lãi suất huy động VND rút về quanh mốc

8%/năm; lãi suất cho vay tối đa từ 21%/năm về còn 12,75%/năm.

Tỷ giá USD/VND tăng đột biến

 Năm 2008 là năm đặc biệt của cơ chế điều hành tỷ giá cũng như những biến

động trên thực tế. So với cuối năm 2007, tỷ giá USD/VND mua vào – bán ra của

các ngân hàng thương mại đã tăng khoảng 9%, một mức tăng đột biến so với

thay đổi quen thuộc quanh 1% những năm trước.

 Năm 2008 cũng là năm biên độ tỷ giá liên tiếp 3 lần nới rộng, 2 lần được

tăng mạnh trực tiếp ở tỷ giá bình quân liên ngân hàng, những điều chỉnh chưa

từng có trong lịch sử.

Tính chất đặc biệt của tỷ giá năm 2008 cũng thể hiện ở những biến động trái

chiều. Trong những tháng đầu năm, thị trường có hiện tượng ứ đọng ngoại tệ, tỷ

giá có lúc xuống đáy là 15.300 VND; nhiều doanh nghiệp, ngành hàng xuất

khẩu phải thông qua các hiệp hội yêu cầu ngân hàng đẩy mạnh mua vào USD,

tháo gỡ khó khăn. Nhưng từ tháng 5, sự khan hiếm ngoại tệ lại diễn ra căng

thẳng trên cả thị trường chính thức lẫn thị trường tự do. Nhiều doanh nghiệp

 phải mua với giá trên 18.000 VND, chi phí tài chính bị đẩy cao, ảnh hưởng đến

lợi nhuận.

Với sự can thiệp của Ngân hàng Nhà nước, cũng như năng lực dự trữ ngoại

hối lần đầu tiên được công khai một cách chính thức, tỷ giá ổn định dần về cuối

năm.

 D. TT ngoại hối liên ngân hàng kể từ năm 2008 đến

nay.

Kể từ 25/12/2008, tỷ giá bình quân liên ngân hàng được điều chỉnh tăng

thêm 3%, từ mức 16.494 đồng ăn một đôla lên 16.989 đồng, tạo điều kiện chocác ngân hàng thương mại có thể kinh doanh với giá trần 17.500 đồng.

Page 16: Thi Truong Ngoai Hoi 0916

7/27/2019 Thi Truong Ngoai Hoi 0916

http://slidepdf.com/reader/full/thi-truong-ngoai-hoi-0916 16/34

Thông tin tăng tỷ giá liên ngân hàng thêm 3% được Thống đốc Ngân

hàng Nhà nước VN Nguyễn Văn Giàu công bố tại buổi họp báo thường kỳ

tháng 12 của Chính phủ diễn ra ở TP HCM chiều 24/12. Riêng biên độ tỷ giá

(mức dao động giữa giá kinh doanh của các ngân hàng với tỷ giá liên ngân hàng

do Ngân hàng Nhà nước công bố) vẫn giữ ở +/- 3%.

Theo người đứng đầu Ngân hàng Nhà nước, lần điều chỉnh tỷ giá này là

vì mục tiêu linh hoạt, theo tín hiệu cung cầu thị trường, hỗ trợ xuất khẩu, kiểm

soát nhập khẩu, vì mục tiêu quản lý dài hạn, tạo lòng tin cho nhà đầu tư và

người dân vào chính sách của Chính phủ, Ngân hàng Nhà nứơc đã nhiều lần lần

điều chỉnh tỷ giá ngoại tệ này, diễn biến thị trường sẽ rất thuận lợi, tốt hẳn lên

so với trước. Tỷ giá USD trên thị trường tự do chiều 24/12 là 17.270 đồng, chỉ

hơn 1% so với tỷ giá khi điều chỉnh. "Ngân hàng Nhà nước đủ sức để kiểm soát

thị trường".

Tuy nhiên, lần điều chỉnh tỷ giá ngoại tệ này không phải VN phá giá tiền

đồng.

Trong năm 2008,chính sách tiền tệ của VN được thực hiện linh hoạt, thận

trọng và theo diễn biến của nền kinh tế. Trong tháng 12, Ngân hàng nhà nước

tiếp tục điều chỉnh giảm lãi suất cơ bản xuống còn 8,5% một năm, lãi suất tái

cấp vốn xuống 9,5% một năm, lãi suất tái chiết khấu còn 7,5% mỗi năm. Biên

độ tỷ giá USD/VND cũng được nới rộng +,-3% so tỷ giá ngân hàng. Nhờ đó,

các tổ chức tín dụng đã hạ được lãi suất đầu ra, giúp doanh nghiệp có điều kiện

tiếp cận vốn với chi phí thấp hơn để phục vụ sản xuất kinh doanh, tạo thuận lợi

xuất khẩu.

Đối với năm 2009

Page 17: Thi Truong Ngoai Hoi 0916

7/27/2019 Thi Truong Ngoai Hoi 0916

http://slidepdf.com/reader/full/thi-truong-ngoai-hoi-0916 17/34

Không bùng nổ như thị trường vàng, chứng khoán, nhưng tỷ giá liên ngân

hàng cũng “âm thầm” đi lên từ cuôi tháng 9 năm 2009. lúc này, tỷ giá bình quân

liên ngân hàng đã lên tới mức 17.004 VND/USD, mức cao nhất từ trước tới đó.

Tỉ giá gần hơn với thị trường tự do:

Tháng 9/2009, xu thế tăng tỷ giá liên ngân hàng do Ngân hàng Nhà nước

công bố bắt đầu từ mức 16.976 đồng/USD, tới ngày 10/10, tỷ giá này đã vượt

mốc 17.000 VND/USD. Đến 15/10, tỷ giá do Ngân hàng Nhà nước công bố đã

lên 17.004 VND/USD.

Tỷ giá liên ngân hàng tăng lên đã tạo cơ hội cho giá mua - bán USD tại

ngân hàng thương mại tiến gần hơn với giá USD ngoài thị trường tự do. Mặc dù

tỷ giá liên ngân hàng tăng liên tiếp trong thời gian qua, nhưng tại nhiều ngân

hàng thương mại, tỷ giá mua - bán vẫn niêm yết ở mức kịch trần.

Với biên độ +/- 5% so với tỷ giá liên ngân hàng, tại Vietcombank,Eximbank, ACB, tỷ giá mua vào - bán ra USD vẫn niêm yết ở mức trần 17.954

VND/USD.

Trái ngược với thị trường ngân hàng, giá mua - bán USD trên thị trường

tự do lại có xu hướng giảm trong thời gian gần đây, chỉ dao động quanh mức

mua vào 18.290 - bán ra 18.300 VND/USD.

Trong khi vài tháng trước, nhiều doanh nghiệp xuất khẩu không chịu bánlại USD cho ngân hàng, trong khi các doanh nghiệp nhập khẩu lại có nhu cầu

Page 18: Thi Truong Ngoai Hoi 0916

7/27/2019 Thi Truong Ngoai Hoi 0916

http://slidepdf.com/reader/full/thi-truong-ngoai-hoi-0916 18/34

mua rất mạnh, cung cầu mất cân đối đã khiến thị trường ngoại hối nhiều lúc rơi

vào cảnh “đóng băng”.

Các ngân hàng thương mại không có nguồn USD nên không thể bán cho

doanh nghiệp. Để có USD thanh toán, doanh nghiệp phải mua ngoài thị trường

tự do với tỷ giá cao hơn nhiều so với giá các ngân hàng công bố.

Hơn nữa, trong thời điểm đó, tâm lý găm giữ USD tăng mạnh khiến nhiều

người dân đổ xô đi mua dự trữ chờ giá lên. Các yếu tố này đã khiến thị trường

ngoại hối căng thẳng.

Tình hình hiện nay đã khác. Một doanh nghiệp nhập khẩu máy tính cho

 biết, việc Ngân hàng Nhà nước điều chỉnh tăng tỉ giá liên ngân hàng không ảnh

hưởng nhiều tới tỷ giá mua bán USD trên thị trường tự do. Thậm chí, tỷ giá

ngoài thị trường tự do còn giảm so với cách đây hơn một tháng. Hiện tỷ giá bên

ngoài chỉ còn 18.300 đồng/USD, mua số lượng nhiều cũng có.

Giảm tình trạng găm giữ 

Theo một số ngân hàng thương mại, việc tỷ giá chính thức tăng lên là một

 biện pháp tích cực, giúp thị trường ngoại tệ bớt căng thẳng nguồn cung. “Tỷ giá

tại các ngân hàng đã tiến sát hơn với tỷ giá ngoài thị trường tự do làm giảm sức

ép cho các ngân hàng thương mại.

 Nhiều doanh nghiệp đã cảm thấy hài lòng hơn với tỷ giá hiện tại và chấp

nhận bán USD cho ngân hàng”, ông Nguyễn Thanh Toại - Phó Tổng giám đốc

 Ngân hàng Á Châu (ACB) cho biết. và việc tỷ giá liên ngân hàng tăng trong

thời gian gần đây giúp thị trường ngoại hối bớt căng thẳng hơn, trạng thái ngoại

tệ tại các ngân hàng thương mại đỡ bị “âm”.Tuy nhiên, nhu cầu mua vẫn nhiều hơn bán, thể hiện qua việc nhiều ngân

hàng vẫn để mức giá mua - bán ngoại tệ bằng nhau ở mức kịch trần. trong ngày

10/9 tại TT liên ngân hang tỉ giá là 17833 ở mức cao nhất, tỉ giá yết tại các NH

lên mức kịch trần giá mua bằng giá bán để cạnh tranh với TT chợ đen. “Nguồn

ngoại tệ của Vietcombank chủ yếu phục vụ cho những trường hợp cấp bách.

Khi nào có sự chênh lệch giữa giá mua và bán ở các ngân hàng thì lúc đó tỷ giásẽ hết căng thẳng”

Page 19: Thi Truong Ngoai Hoi 0916

7/27/2019 Thi Truong Ngoai Hoi 0916

http://slidepdf.com/reader/full/thi-truong-ngoai-hoi-0916 19/34

Trong thời gian qua, Ngân hàng Nhà nước đã kiên trì với chính sách điều

hành tỷ giá, không tăng thêm biên độ khiến cho kỳ vọng tăng giá của USD giảm

xuống, tình trạng găm giữ ngoại tệ giảm hẳn, nhiều doanh nghiệp và người dân

đã quyết định bán USD cho ngân hàng.

Theo các chuyên gia kinh tế, chính sách điều hành linh hoạt theo sát thị

trường, tăng tỷ giá có kiểm soát sẽ làm cho tình trạng găm giữ ngoại tệ giảm

xuống, đồng thời kích thích xuất khẩu. Theo Ngân hàng Nhà nước, việc điều

hành tỷ giá linh hoạt theo tín hiệu thị trường nằm trong chủ trương chung của

Chính phủ. Do đó, tính thanh khoản của thị trường ngoại hối đã được cải thiện.

 Nhiều ngân hàng thương mại đã mua được ngoại tệ từ khách hàng, đặc biệt là

các doanh nghiệp xuất khẩu, giúp cho trạng thái ngoại tệ của hệ thống ngân

hàng thương mại được cải thiện.

Theo đó, Một loạt quyết định mới được Thống đốc Nguyễn Văn Giàu

công bố tháng 12/2009 tại trụ sở Ngân hàng Nhà nước. Theo đó, tỷ giá bình

quân liên ngân hàng sẽ được điều chỉnh lên mốc kỷ lục mới 17.961 đồng ăn một

đôla, tăng thêm 5,44% so với trước đó . Đồng thời, biên độ tỷ giá giảm từ 5%

hiện nay xuống còn 3% (khống chế tỷ giá kinh doanh tại các ngân hàng không

được cao quá hoặc thấp hơn 3% so với tỷ giá liên ngân hàng do Ngân hàng Nhà

nước công bố hằng ngay). Tính chung cả việc tăng tỷ giá liên ngân hàng và

giảm biên độ, tỷ giá chính thức sẽ tăng thêm 3,44%, qua đó cho đưa trần tỷ giá

kinh doanh tại các ngân hàng thương mại lên 18.500 đồng vào ngày mai, thay vì

mức 17.885 đồng ăn một đôla ngày hôm nay.

Thống đốc Nguyễn Văn Giàu coi đây là biện pháp can thiệp nhanh vàmạnh nhằm bình ổn thị trường ngoại hối đang hết sức căng thẳng.

 Ngày 2/12, trong tuần qua từ 27/12 đến 2/12, doanh số giao dịch ngoại tệ

trên thị trường liên ngân hàng đã tăng khá mạnh. Cụ thể, doanh số giao dịch trên

thị trường liên ngân hàng bình quân đạt khoảng 557 triệu USD/ngày.

 Ngày 10/2/2010, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN)

 ban hành Thông tư số 03/2010/TT-NHNN quy định mức lãi suất tiền gửi tối đa

Page 20: Thi Truong Ngoai Hoi 0916

7/27/2019 Thi Truong Ngoai Hoi 0916

http://slidepdf.com/reader/full/thi-truong-ngoai-hoi-0916 20/34

 bằng USD của tổ chức kinh tế tại tổ chức tín dụng và Quyết định điều chỉnh tỷ

giá bình quân liên ngân hàng.

Theo đó, kể từ ngày 11/2/2010, mức lãi suất tiền gửi tối đa bằng đô la Mỹ

của tổ chức kinh tế (trừ tổ chức tín dụng) tại tổ chức tín dụng tối đa là 1%/năm.

Đối với lãi suất tiền gửi có kỳ hạn bằng đô la Mỹ phát sinh trước thời điểm

thông tư có hiệu lực thi hành, thì được tiếp tục thực hiện cho đến hết thời hạn đã

thoả thuận.

Về tỷ giá, NHNN quy định, tỷ giá bình quân liên ngân hàng giữa USD và

VND áp dụng cho ngày 11/2/2010 là 18.544 VND/USD. Như vậy, so với tỷ giá

 bình quân liên ngân hàng ngày 10/2 tăng thêm 603 đồng/USD (tương ứng tăng

3,36%).

 NHNN cho biết, mục đích của các quyết định trên là nhằm cân đối hài

hoà cung - cầu ngoại tệ, tăng cường sự lưu thông trên thị trường ngoại tệ, góp

 phần kiểm soát nhập siêu và ổn định kinh tế vĩ mô.

Tỷ giá liên ngân hàng là mức tham chiếu để các ngân hàng thương mại ấn

định giá kinh doanh của mình bằng cách cộng hoặc trừ thêm biên độ. Như vậy

với biên độ biến động tỷ giá là +/-3%, ngân hàng có thể mua/bán USD với giá

trần là 19.100 đồng/USD.

Trước đó, thời gian qua do chênh lệch giá USD niêm yết và giá USD giao

dịch ngoài thị trường tự do quá cao, thường trên 1.000 đồng/USD nên các

doanh nghiệp xuất khẩu không muốn bán USD cho ngân hàng dẫn đến tình

trạng khan hiếm USD.

Vì thế, theo các chuyên gia tài chính- ngân hàng, việc ban hành các quyếtđịnh này của NHNN ở thời điểm này là cần thiết và phù hợp, giải tỏa được tình

trạng khan nguồn cung ngoại tệ, tăng sự lưu thông, giải quyết khó khăn cho

doanh nghiệp…

Vào lúc 8h30 sáng (11/2), Ngân hàng TMCP Ngoại thương Việt Nam vẫn

niêm yết giá mua vào - bán ra lần lượt ở mức 18.495 - 18.880 đồng/USD.

Các đại lý thu đổi ngoại tệ trên địa bàn Hà Nội cho biết không còn USDđể bán vì sức mua bất ngờ tăng mạnh cuối chiều qua.

Page 21: Thi Truong Ngoai Hoi 0916

7/27/2019 Thi Truong Ngoai Hoi 0916

http://slidepdf.com/reader/full/thi-truong-ngoai-hoi-0916 21/34

 Như vậy, đây là lần thứ hai trong vòng gần 3 tháng qua, NHNN tăng tỷ

giá liên ngân hàng, tổng cộng hai lần tăng gần 9%.

16000

16500

17000

17500

18000

18500

19000

20/12/2008 3/9/2009 10/10/2009 15/12/09 11/2/2010

tỉ giá ngoại tệ trên TT liên NH

So với tuần trước, doanh số giao dịch tuần này có sự tăng lên với khốilượng khá nhiều đối với cả VND và USD trong đó doanh số giao dịch bằng

VND tăng 14.105 tỷ đồng, bằng USD tăng 756 triệu USD.

Đây được cho là kết quả tích cực sau các biện pháp can thiệp, thị trường

ngoại hối khiến cho tính thanh khoản của thị trường ngoại tệ được cải thiện

đáng kể.

Báo cáo của Ngân hàng Nhà nước cho biết, tuần từ 22/2 đến 1/3/2010,tổng doanh số giao dịch ngoại tệ trên thị trường liên ngân hàng đạt xấp xỉ 2.261

triệu USD, bình quân đạt khoảng 452 triệu USD/ngày. So với tuần liền trước,

doanh số giao dịch trên thị trường liên ngân hàng tuần này giảm tới 496 triệu

USD.

 III. Những tồn tại và giải pháp.

Trong thời gian vừa qua thì tình trạng khan hiếm ngoại tệ trên thị trườngdiễn ra rất phổ biến, các doanh nghiệp nhập khẩu rất cần ngoại tệ để giao dịch

nhưng tỷ giá trên thị trường chợ đen luôn cao hơn tỷ giá Ngân hàng niêm yết.

Trong khi tổng thể cung cầu ngoại tệ thì không thiếu mà trên thị trường luôn

xảy ra tình trạng thiếu ngoại tệ.

Trong giai đoạn nửa đầu năm 2009:

- Doanh nghiệp và người dân đều biết nền kinh tế Việt Nam vẫn tiếp tục

đương đầu với những khó khăn do khủng hoảng kinh tế toàn cầu. Các nguồn

Page 22: Thi Truong Ngoai Hoi 0916

7/27/2019 Thi Truong Ngoai Hoi 0916

http://slidepdf.com/reader/full/thi-truong-ngoai-hoi-0916 22/34

cung ngoại tệ cho nền kinh tế đều giảm sút, thậm chí một số lĩnh vực còn giảm

sút rất mạnh. Từ suy nghĩ đó đã tạo ra tâm lý lo ngoại sự mất giá mạnh của

VND dẫn đến găm giữ ngoại tệ.

Hàng năm, số dư tiền gửi của tổ chức kinh tế lên xuống khá mạnh theo

chu kỳ xuất, nhập khẩu, tạo ra sự lưu thông của nguồn ngoại tệ nhằm tự điều tiết

cung, cầu ngoại tệ trên thị trường. Bốn tháng đầu năm 2009 số ngoại tệ này hầu

như đóng băng. Bên cạnh đó, hoạt động đầu cơ trên thị trường chợ đen cũng

thừa cơ trỗi dậy.

- Từ cuối năm 2008, Chính phủ đã đưa ra các gói gồm nhiều giải pháp

đồng bộ chống khủng hoảng, trong đó có nhóm giải pháp hỗ trợ 4% lãi suất vay

vốn ngân hàng bằng VND cho cả ba kỳ hạn: ngắn hạn, trung hạn và dài hạn.

Thực tế chứng minh các giải pháp trên là đúng đắn và kịp thời. Nhưng

cũng có một thực tế là khi tiến hành hỗ trợ lãi suất vay VND 4% đã đưa mặt

 bằng lãi suất vay VND thực tế của doanh nghiệp và dân cư xuống 5 - 6% (một

số trường hợp còn thấp hơn). Mặt bằng lãi suất này cũng bằng mặt bằng lãi suất

cho vay ngoại tệ hiện hành của hệ thống ngân hàng thương mại.

Điều này vô hình chung đã khuyến khích các doanh nghiệp có nhu cầu

ngoại tệ để nhập khẩu hàng hóa và dịch vụ tiến hành vay vốn bằng VND để

mua ngoại tệ của các ngân hàng thương mại thay vì vay vốn bằng ngoại tệ (hiệu

quả kinh tế như nhau lại không bị rủi ro về biến động tỷ giá). Thậm chí nhiều

doanh nghiệp đang có số dư vay vốn ngân hàng bằng ngoại tệ cũng tìm mọi

cách vay VND mua ngoại tệ để trả nợ trước hạn vốn vay ngoại tệ cho ngân

hàng. Thực tế này đã làm tăng đột biến nhu cầu mua ngoại tệ trong nền kinh tế.- Bên cạnh đó, còn có hiện tượng phổ biến là nhiều doanh nghiệp có nguồn

thu ngoại tệ, dùng ngoại tệ để thế chấp vay VND. Theo tính toán gửi ngoại tệ tại

ngân hàng để lấy lãi suất 2% đến 3%, vay VND sau hỗ trợ phải trả từ 5% đến

6%, như vậy thực tế phải trả lãi vốn vay ngân hàng ở mức 2% - 3%. Do vậy,

theo tính toán của họ đi vay ngân hàng không những không phải trả lãi mà còn

được hưởng lãi.Giai đoạn cuối năm 2009 và đầu năm 2010

Page 23: Thi Truong Ngoai Hoi 0916

7/27/2019 Thi Truong Ngoai Hoi 0916

http://slidepdf.com/reader/full/thi-truong-ngoai-hoi-0916 23/34

- Giai đoạn này tình trạng khan hiếm ngoại tệ tuy có phần giảm những vấn

rất căng thẳng. Các Doanh nghiệp xuất khẩu khi có USD vẫn găm giữ lại, không

chịu bán cho các ngân hàng. Đây là một lựa chọn có mục đích chính là để dự

 phòng rủi ro tỷ giá trong tương lai (vốn đã có nhiều trường hợp phải trả giá đắt

trong năm 2008), bởi chính các doanh nghiệp cũng cần ngoại tệ cho hoạt động

nhập khẩu hàng hóa phục vụ cho sản xuất để xuất khẩu; một mục đích khác là

sự găm giữ có kỳ vọng tỷ giá sẽ tiếp tục tăng, hay nói cách khác mức giá các

ngân hàng trả theo quy định hiện nay tỏ ra chưa hấp dẫn doanh nghiệp.

- Một nguyên nhân khác của việc doanh nghiệp không chịu bán lại ngoại tệ

là do “tác dụng phụ” của chính sách hỗ trợ lãi suất vay vốn VND. Lãi suất vay

VND sau hỗ trợ chỉ khoảng 5% - 6%/năm, trong khi vay USD cũng có lãi suất

gần tương ứng và còn phải chịu rủi ro tỷ giá khi mua ngoại tệ trả nợ trong tương

lai. Điều này khiến nhiều doanh nghiệp lựa chọn giải pháp tìm mua USD thay vì

vay USD.

- Một nguyên nhân sâu xa khác là do chính sách “neo” đồng Việt Nam vào

USD quá lâu.

 Nhiều năm qua, nhằm tạo ra chiếc “ô”, “che mưa, nắng” cho doanh

nghiệp, Chính phủ đã thực hiện chính sách “neo” tỷ giá VND vào USD. Mặc dù

hiện tại biên độ được nới lỏng lên +/- 5% nhưng chiếc “ô” này vẫn là công cụ

hữu hiệu đem lại niềm tin và an toàn để doanh nghiệp yên tâm hoạt động. Qua

đó, họ dự báo được tình hình và tính toán được lợi nhuận để lên kế hoạch sản

xuất kinh doanh.

Trong hoạt động kinh tế, động lực của doanh nghiệp là phải ước lượngtrong tương lai họ kiếm được bao nhiêu tiền. Bởi vậy, khi đưa ra một đề án, mọi

tính toán về lợi nhuận kỳ vọng của doanh nghiệp đều dựa trên dự báo tỷ giá vào

thời điểm nào đó trong tương lai là bao nhiêu. Nếu tỷ giá biến động thất

thường, một dự án từ chỗ đang hoạt động hiệu quả, có thể biến thành không

hiệu quả. Đổi lại, chính sách điều hành của Chính phủ phải chịu áp lực rất mạnh

mỗi khi dòng vốn ngoại vào - ra thất thường, đồng USD bị giảm giá trị so với

Page 24: Thi Truong Ngoai Hoi 0916

7/27/2019 Thi Truong Ngoai Hoi 0916

http://slidepdf.com/reader/full/thi-truong-ngoai-hoi-0916 24/34

ngoại tệ khác hay các vụ tấn công tiền tệ. Thậm chí, khi tỷ giá bất ổn, tổng giá

trị tài sản của cả quốc gia cũng biến động theo.

Giải pháp:

- Ngân hàng Nhà nước nên kịp thời cung cấp một cách công khai, minh

 bạch các thông tin cần thiết để doanh nghiệp và người dân hiểu tình hình nhắm

tránh gây bất ổn trong tâm lý của doanh nghiệp và người dân dẫn đến đổ xô

mua(bán) ngoại tệ vô căn cứ, gây hỗn loạn thị trường.

- Cần chấn chỉnh, xử lý nghiêm các hành vi vi phạm về quản lý ngoại hối,

đặc biệt là các hoạt động thu đổi ngoại tệ trái phép. Ngân hàng Nhà nước cũng

có nhiều biện pháp nghiệp vụ, thanh tra tại chỗ hoạt động mua bán ngoại tệ của

các ngân hàng thương mại, xử lý nghiêm khắc các hành vi cố tình mua bán

ngoại tệ vượt trần qui định.

- Cần đa dạng hoá rổ ngoại tệ của Việt Nam, Nên ấn định tỷ giá qua nhiều

ngoại tệ khác nhau thay vì một ngoại tệ là USD.Không phụ thuộc vào USD vào

chịu ảnh hưởng quá lớn vào sự biến động của giá USD.

 E. Thực trạng thị trường vàng từ đầu 2008-nay

1.Năm 2008

1.1. Trên thị trường quốc tế

Hai nỗi lo trái ngược thống trị trong năm 2008 là lạm phát và giảm phát

đã tạo những cơn sốt. Hai nỗi lo trái ngược thống trị trong năm 2008 là lạm phát

và giảm phát đã tạo những cơn sóng trồi sụt liên tục cho quý kim. Vàng nhập

cuộc khá tốt và liên tục gia tăng giá trị của nó cùng với sự leo dốc không mệt

mỏi của chỉ số lạm phát trong những tháng đầu năm, tuy nhiên nửa cuối năm

còn lại thật sự là quãng thời gian khó khăn cho giá vàng khi nó phải liên tục dò

tìm những đáy mới trong bối cảnh nỗi lo suy giảm kinh tế tòan cầu gia tăng.

Page 25: Thi Truong Ngoai Hoi 0916

7/27/2019 Thi Truong Ngoai Hoi 0916

http://slidepdf.com/reader/full/thi-truong-ngoai-hoi-0916 25/34

 Biểu đồ giá vàng quốc tế năm 2008

 Năm 2008 chứng kiến sự lan rộng của cuộc khủng hoảng tài chính toàn

cầu xuất phát từ sự sụp đổ thị trường địa ốc kéo theo một số lượng con nợ lớn

chưa từng thấy của thị trường cho vay dưới chuẩn tại Mỹ. Ảnh hưởng của nó đã

khiến nhiều nền kinh tế trên thế giới chao đảo và trong bối cảnh lạm phát tăngcao, các nhà đầu tư ồ ạt chuyển vốn sang thị trường vàng - loại hàng hóa an toàn

và hấp dẫn trong thời kỳ lạm phát và xu hướng này thực sự đã tạo ra một hậu

 phương hết sức vững chắc giúp quý kim thẳng tiến chinh phục những đỉnh cao

mới: vào ngày 17/03/2008, thị trường tiền tệ thế giới ghi nhận mức giá kỷ lục

trong lịch sử của giá vàng – mức 1.033,90 USD/Oz. Chỉ tính trong quý 1/2008,

vàng đã gia tăng được 14% giá trị của nó. Nỗi ám ảnh về lạm phát ngày càng đedọa toàn cầu, trong đó biểu hiện rõ ràng nhất là việc giá dầu cứ tiếp tục leo lên

từng mốc, mốc sau lại cao hơn mốc trước và việc FED liên tục hạ lãi suất để

chống đỡ với sự tàn phá của cuộc khủng hoảng tín dụng trong khi các NHTW

khác lại cố gắng giữ lãi suất ở mức cao nhằm kiềm chế lạm phát lại càng gây

sức ép nặng nề cho đồng USD.

Trong khi đó nguồn cung vàng có dấu hiệu giảm sút do việc khai thácvàng ở các nước khó khăn hơn khi phải tìm vàng ở độ sâu khá lớn và trả lương

Page 26: Thi Truong Ngoai Hoi 0916

7/27/2019 Thi Truong Ngoai Hoi 0916

http://slidepdf.com/reader/full/thi-truong-ngoai-hoi-0916 26/34

cao cho công nhân, cộng thêm những biến động về chính trị đã chắp cánh cho

giá vàng thăng hoa. Mặc dù việc giá vàng đang ở đỉnh cao ngất ngưỡng có khiến

một bộ phận các nhà đầu tư tỏ ra e ngại khiến nhu cầu mua vàng giảm 19%

trong quý 2 nhưng những diễn biến phức tạp về tình hình lạm phát của toàn cầu

cùng với sự hỗ trợ của người bạn đồng hành lâu năm của quý kim là vàng đen – 

dầu thô, vàng vẫn tiếp tục giữ vững được vị thế của mình. Khi giá dầu thô cán

mốc kỷ lục 147,27 USD/thùng vào ngày 11/07/2008 bởi lực hậu thuẫn xuất phát

từ nhiều nguyên nhân: đồng USD tiếp tục mất giá, xung đột về địa chính trị lên

cao, trữ lượng dầu có phần hạn chế, hoạt động đầu cơ trên thị trường, tình hình

thời tiết không mấy thuận lợi... Vàng đã tận dụng được lợi thế này và duy trì

được nó trong một khoảng thời gian khá dài.

Tuy nhiên, tính chất hầm tránh bão của vàng trong thời kỳ lạm phát đang

giảm dần bởi cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu bước sang thời điểm mới: các

nền kinh tế dẫn đầu thế giới bắt đầu bộc lộ những dấu hiệu giảm tốc và nỗi lo

suy giảm tăng trưởng kinh tế mà xa hơn là suy thoái kinh tế bắt đầu làm đau đầu

các nhà lãnh đạo khu vực Châu Âu, Mỹ , Nhật, Trung Quốc... Nguồn vốn trên

thị trường bắt đầu tập trung vào những tài sản có mức bảo toàn vốn cao như trái

 phiếu chính phủ, tiền mặt... Sự lao dốc đến chóng mặt của thị trường chứng

khóan trong thời buổi kinh tế khó khăn khiến các nhà đầu tư nhanh chóng thanh

lý hợp đồng vàng - loại hàng hóa có mức thanh khoản cao - để bù đắp những

khoản thua lỗ trên các thị trường khác. Đồng USD bất ngờ lại lấy lại được lợi

thế của mình khi các nhà đầu tư nhận ra rằng đây vẫn là đồng tiền an tòan nhất

và chiếm khối lượng giao dịch lớn nhất trên thị trường ngoại hối. Sự giằng cogiữa hai xu hướng: bán vàng bù lỗ, nắm giữ USD mặt và nhu cầu sụt giảm trong

 bối cảnh suy thoái kinh tế với việc mua vào lọai hàng hóa vốn từ lâu đời có tính

an tòan và bảo tòan giá trị khiến vàng có những phiên trồi sụt thất thường và

giao động trong biên độ rộng từ 750 – 980 USD/Oz.

 Nhu cầu đối với vàng với tư cách là mặt hàng an toàn không mất đi thậm chí

cả tình hình kinh tế không mấy sáng sủa, nhất là dư âm từ vụ sụp đổ LehmanBrother và các tổ chức tài chính khổng lồ khác đã đưa giá vàng lên đỉnh cao vào

Page 27: Thi Truong Ngoai Hoi 0916

7/27/2019 Thi Truong Ngoai Hoi 0916

http://slidepdf.com/reader/full/thi-truong-ngoai-hoi-0916 27/34

ngày 10/10/2008 ở mức 950USD/oz, đồng thời với những rắc rối vẫn chưa được

tháo gỡ triệt để của các nền kinh tế hàng đầu và việc FED quyết định đưa lãi

suất về mức thấp nhất trong lịch sử, cộng thêm những biện pháp bơm USD với

khối lượng khổng lồ vào nền kinh tế để chống khủng hoảng đang tạo áp lực mất

giá trở lại đối với USD và khiến người ta đặt câu hỏi về sự hình thành của một

chu kỳ lạm phát mới sẽ là lực hỗ trợ cho thị trường quý kim tiếp tục ghi điểm.

o Thị trường vàng trong nước

 Năm 2008, Việt Nam vươn lên trở thành một trong những nước đứng đầu

về nhập khẩu vàng của thế giới.

Điều này đã góp phần không nhỏ vào thâm hụt cán cân thương mại của

Việt Nam, khiến Chính phủ phải cấm nhập khẩu vàng.

Cho tới trước thời điểm dừng nhập khẩu vàng thì tổng giá trị nhập khẩu

vàng cho năm 2008 là 1,7 tỷ USD (45 tấn), so với tổng giá trị nhập khẩu vàng

của cả năm 2007 là 1,6 tỷ USD (70 tấn).

Diễn biến giá vàng trong nước đã trải qua 2 đợt sóng lớn vào tháng 3 và

tháng 7 khi vượt qua mức 19 triệu đồng/lượng, sau đó lại giảm mạnh về cuối

năm.

Theo số liệu từ Ngân hàng ACB, giá vàng SJC trong nước đạt mức cao kỷ

lục là 19,35 triệu đồng/lượng vào ngày 17/3/2008 và 15/7/2008, mức thấp nhất

là 16,10 triệu đồng/lượng vào ngày 24/10/2008.

Tính bình quân cả năm 2008, giá vàng xoay quanh mức 17,64 triệu

đồng/lượng.

Mặc dù những đợt sóng tăng giảm khá giống nhau, nhưng diễn biến tâm

lý nhà đầu tư cũng đã có sự khác biệt.

 Nếu như đợt tháng 3, giá vàng càng tăng mạnh, thậm chí cao hơn giá vàng

thế giới gần 2 triệu đồng/lượng thì nhà đầu tư trong nước lại đua nhau mua vào.

 Nhưng vào những đợt tăng giá sau đó, mặc dù giá vàng vẫn có su hướng

tăng, nhưng nhà đầu tư lại có tâm lý bán ra thay vì mua vào. Những thời điểm

gần cuối năm, giá vàng thế giới thậm chí có những lúc lại cao hơn giá vàngtrong nước cả triệu đồng, nhưng lực mua lại rất yếu.

Page 28: Thi Truong Ngoai Hoi 0916

7/27/2019 Thi Truong Ngoai Hoi 0916

http://slidepdf.com/reader/full/thi-truong-ngoai-hoi-0916 28/34

 Năm 2008 cũng là năm đánh dấu sự ra đời và phát triển mạnh mẽ của các

sàn giao dịch vàng, hiện đã hơn 10 sàn giao dịch vàng đã được đi vào hoạt động.

Việc ra đời các sàn vàng, cùng với cơn sốt giá đợt đầu năm đã khiến một

lượng tiền lớn chảy từ chứng khoán sang. Tuy nhiên, sự khốc liệt của loại hình

đầu tư này cũng đã khiến nhiều nhà đầu tư phải trắng tay.

Việc các sàn vàng ra đời ồ ạt nhưng thiếu các quy định pháp lý cụ thể để

quản lý sân chơi này đã khiến cho không ít nhà đầu tư chịu thiệt thòi do bị áp đặt

các quy định bất lợi.

Do giá vàng trên sàn gắn với giá vàng thế giới, nên có thời điểm giá vàng

trên sàn giao dịch lại thấp hơn giá vàng vật chất bên ngoài đã giúp cho nhiều nhà

đầu tư kiếm được chênh lệch lớn từ việc mua và rút vàng đem ra ngoài bán.

Điều này khiến các sàn giao dịch liên tục phải thay đổi hạn mức rút vàng,

gây nhiều tranh cãi. Chỉ đến khi áp dụng mức phí rút vàng tình trạng này mới

chấm dứt, lý do đưa ra nhằm hạn chế nhà đầu tư rút vàng là không đủ vàng dự

trữ.

Tuy nhiên, khi giá vàng thế giới tăng mạnh, giá vàng trên sàn vượt qua cả

giá vàng vật chất, các sàn giao dịch lại áp dụng một mức phí ngược đời hơn là

 phí nộp vàng. Mức phí này có thời điểm lên tới gần 600 nghìn đồng/lượng.

2.Năm 2009- nay

2.1 Vàng quốc tế

Tăng khá đều đặn trong các quý 1, 2 và 3 rồi bứt phá mạnh trong quý 4

là xu hướng chính của giá vàng thế giới năm nay.

Khởi động năm 2009 với mức giá khoảng 880 USD/oz, giá vàng giaongay thị trường thế giới đến ngày 23/12 đóng cửa ở mức gần 1.090 USD/oz,

tăng xấp xỉ 24%. Mức đỉnh cao lịch sử của giá vàng giao ngay đóng cửa tại thị

trường New York hiện là mức 1.215,8 USD/oz thiết lập vào ngày 2/12/2009.

Mức giá này đã bỏ xa kỷ lục đóng cửa 1.002,8 USD/oz của năm 2008.

Điều đáng nói là giá vàng thế giới năm nay lập kỷ lục giữa lúc khủng

hoảng tài chính không còn căng thẳng như năm 2008, đồng thời rủi ro lạm phátcũng không phải là một mối lo lớn của hầu hết các quốc gia.

Page 29: Thi Truong Ngoai Hoi 0916

7/27/2019 Thi Truong Ngoai Hoi 0916

http://slidepdf.com/reader/full/thi-truong-ngoai-hoi-0916 29/34

Tuy không phát huy được tối đa vai trò “hầm trú ẩn an toàn”, giá vàng

năm nay lại được hỗ trợ nhiều bởi chính sách tiền tệ và tài khóa nới lỏng của

nước Mỹ. Xu hướng suy yếu của tỷ giá USD do Cục Dự trữ Liên bang Mỹ

(FED) duy trì lãi suất cơ bản ở mức thấp kỷ lục là nhân tố nâng đỡ tích cực nhất

cho giá vàng trong năm.

Thay vì là vàng, kênh đầu tư được xem là “vịnh tránh bão” hàng đầu

năm nay trên thị trường thế giới chính là đồng USD. Trong hầu hết thời gian của

năm, đồng “bạc xanh” được nâng đỡ mỗi khi có thông tin kinh tế bất lợi xuất

hiện, và giảm giá khi có tin tốt.

Giảm dự trữ USD và tăng dự trữ vàng là cách đa dạng hóa dự trữ ngoại

hối mà ngân hàng trung ương nhiều quốc gia, đặc biệt là các nền kinh tế mới nổi

lớn như Trung Quốc, Nga, Ấn Độ, Brazil..., đang thực hiện.

Trong đợt Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF) bán 403,3 tấn vàng đang diễn ra,

Ấn Độ đã mua 200 tấn, Sri Lanka mua 10 tấn, Maritus mua 2 tấn. Ấn Độ, Trung

Quốc và Nga được giới quan sát xem là những khách hàng tiềm năng cho việc

mua nốt số vàng còn lại từ IMF trong đợt bán ra này.

Thị trường thế giới năm 2009, mà chủ yếu là quý 4,Trong quí này, có 1

số các sự kiện tác động đến thị trường vàng.

Đầu tháng 10,có tin đồn một số nước vùng Vịnh đang âm thầm bàn thảo

một kế hoạch nhằm loại đồng USD ra khỏi giao dịch dầu lửa. Thông tin này sau

đó đã bị các nước liên quan phủ nhận, nhưng cũng đủ đẩy tỷ giá USD thế giới

sụt sâu, giúp giá vàng có những bước tăng tốc mạnh.

Sau đó, đến cuối tháng 11, thị trường một lần nữa bất ngờ trước việc tậpđoàn Dubai World của Dubai có nguy cơ vỡ nợ. Rủi ro về một cuộc khủng

hoảng nợ ở thế giới Arab đã thúc đẩy giới đầu tư quay trở lại với trái phiếu kho

 bạc Mỹ và USD để tìm kiếm sự an toàn, kéo tỷ giá USD tăng và giá vàng quay

đầu đi xuống.

 Nỗi lo về khủng hoảng nợ công tại Hy Lạp gia tăng sau khi ba hãng định

mức tín nhiệm Fitch, S&P và Moody’s đánh tụt hạng mức tín nhiệm nợ củanước này, cũng gây bất lợi cho giá vàng trong tháng cuối năm.

Page 30: Thi Truong Ngoai Hoi 0916

7/27/2019 Thi Truong Ngoai Hoi 0916

http://slidepdf.com/reader/full/thi-truong-ngoai-hoi-0916 30/34

Biểu đồ giá vàng thế giới từ ngày 23/12/2008-23/12/2009 dựa trên giá vàng

giao ngay đóng cửa tại thị trường New York - Nguồn: Kitco. Nhận định: Thị trường vàng quốc tế trong năm 2009 có nhiều đợt sóng, và

đây là cơ hội tốt cho các nhà đầu tư nhiều kinh nghiệm.

Tính đến thời điểm này, năm 2010 đã đi qua được 2 tháng. Giá vàng thế giới

cũng trải qua những biến động

 Biểu đồ giá vàng trên thị trường quốc tế từ đầu năm nay đên 9/3/2010

Page 31: Thi Truong Ngoai Hoi 0916

7/27/2019 Thi Truong Ngoai Hoi 0916

http://slidepdf.com/reader/full/thi-truong-ngoai-hoi-0916 31/34

Đầu năm, giá vàng ở mức 1050USD/oz. Nhưng sau đó, giá vàng hạ dần

xuống dưới mốc đáy chỉ còn trên 1060USD/oz

Sau đó, giá vàng tăng dần, trong tuần đầu của tháng 3 này, giá vàng vẫn

giữ các mức cao trên 1120USD/oz

 Nói chung, trong 2 tháng đầu năm 2010, thị trường vàng có nhiều đợt

sóng, là cơ hội tốt cho các nhà đầu tư quốc tế.

 Nguyên nhân là do trong thời gian vừa qua, trên thế giới có nhiều sự kiện tác

động tới giá vàng: dự báo kinh tế thế giới lạc quan của WB, khủng hoảng nợ Hy

Lạp có nhiều tình tiết mới, giá dầu thô biến động …

2.2.Thị trường trong nước

Dưới tác động của giá vàng thế giới, giá vàng trong nước cũng liên tục

khiến thị trường đi từ bất ngờ này đến bất ngờ khác. Theo giới kinh doanh vàng,

2009 là một năm tăng giá nhanh và mạnh chưa từng có của vàng trong nước.

 Ngày lịch sử của thị trường vàng trong nước năm nay là 11/11, khi giá vàng lần

lượt chinh phục các mốc giá 27, 28, rồi 29 triệu đồng/lượng chỉ trong vòng có

vài giờ đồng hồ buổi sáng. Đỉnh cao mọi thời đại của giá vàng trong nước hiện

là mốc 29,3 triệu đồng/lượng.

Đầu năm nay, giá vàng trong nước đứng ở mức gần 18 triệu đồng/lượng.

Tính tới ngày 24/12, khi giá vàng ở mức 26,5 triệu đồng/lượng, thì giá vàng

trong nước đã tăng 8,5 triệu đồng/lượng, tương đương 47%.

 Nhìn chung, giá vàng trong nước năm nay biến động cùng chiều với giá vàng

thế giới. Tuy nhiên, do còn chịu tác động từ tình hình cung-cầu và biến động tỷ

giá USD/VND nên giá vàng trong nước năm nay có thời điểm thấp hoặc cao hơngiá vàng thế giới tới cả triệu đồng/lượng.

Ở thời điểm giữa quý 1, khi người dân ồ ạt bán vàng để chốt lời ở mức giá

19-20 triệu đồng/lượng, còn doanh nghiệp mạnh tay gom mua để xuất khẩu, giá

vàng trong nước có lúc thấp hơn giá vàng thế giới 1,5 triệu đồng/lượng.

Trong khi đó, vào giữa quý 4, khi các nhà đầu tư tranh mua vàng, giá

vàng trong nước lại thường xuyên cao hơn giá thế giới. Trong ngày sốt đỉnh

Page 32: Thi Truong Ngoai Hoi 0916

7/27/2019 Thi Truong Ngoai Hoi 0916

http://slidepdf.com/reader/full/thi-truong-ngoai-hoi-0916 32/34

điểm 11/11, giá vàng trong nước có lúc cao hơn giá vàng thế giới 3,6 triệu

đồng/lượng.

Thừa hoặc thiếu cung vàng là lý do chính mà các công ty kim hoàn đưa ra

để lý giải cho sự vênh giá trên. Tuy nhiên, nhiều ý kiến cho rằng, sự lệch giá này

là kết quả của hoạt động ghìm giá hoặc thổi giá của giới đầu cơ.

Sự lên xuống của tỷ giá USD/VND thị trường tự do ở nhiều thời điểm

cũng là một nguyên nhân quan trọng khiến giá vàng trong nước không tăng

giảm cùng biên độ với giá vàng thế giới, thậm chí biến động ngược chiều với giá

vàng thế giới.

 Năm 2009 tiếp tục chứng kiến tâm lý đám đông của các nhà đầu tư vàng nhỏ lẻ

ở trong nước.

Trong quý 1, người dân tỏ ra sáng suốt khi xếp hàng để bán vàng chốt lãi

ở các mức giá 19-20 triệu đồng/lượng. Trong quý 2 và quý 3, do sức hút từ sự

 phục hồi của thị trường chứng khoán và nhà đất, thị trường vàng trong nước khá

trầm lắng mặc dù giá vàng lần lượt chinh phục các mốc 21-22 triệu đồng/lượng.

Tuy nhiên, do cho rằng, giá vàng khó có thể tăng xa hơn, nhiều nhà đầu tư

khi đó đã vay vàng để bán, với hy vọng khi nào giá xuống sẽ mua vào để trả nợ.

Đến quý 4, khi giá vàng lên 24-25 triệu đồng/lượng, hoạt động đầu tư “đánh

xuống” vẫn diễn ra.

Đến đầu quý 4, khi giá vàng tiến về 26 triệu đồng/lượng, nhiều người bắt

đầu thực sự lo ngại về khoản nợ bằng vàng của mình. Tới lúc này, nhiều người

cuống cuồng mua vào để thanh toán số vàng đã vay nhằm cắt lỗ, khiến tình hình

nguồn cung vàng trong nước thêm phần căng thẳng giữa lúc hoạt động nhậpkhẩu vàng chưa được nối lại. Nhiều người không vay vàng cũng mất hết kiên

nhẫn khi thấy giá vàng liên tục leo thang nên cũng ồ ạt đi mua.

Trước những diễn biến bất thường của thị trường vàng trong nước, Ngân

hàng Nhà nước đã quyết định cho nối lại hoạt động nhập khẩu vàng nhằm hạ

nhiệt thị trường. Quyết định được công bố vào chiều ngày 11/11 này được xem

như một liều thuốc giải nhiệt hiệu quả và kịp thời đối với cơn sốt vàng đang ở đỉnh điểm. Trước đó, hoạt động nhập khẩu vàng đã bị tạm ngừng một năm rưỡi.

Page 33: Thi Truong Ngoai Hoi 0916

7/27/2019 Thi Truong Ngoai Hoi 0916

http://slidepdf.com/reader/full/thi-truong-ngoai-hoi-0916 33/34

Sau khi vấn đề nguồn cung được giải quyết, giá vàng tiếp tục có những

 biến động mạnh do xu hướng leo thang của tỷ giá USD thị trường tự do. Tuy

nhiên, vấn đề này đã được khắc phục sau khi Ngân hàng Nhà nước nâng mạnh

tỷ giá USD/VND liên ngân hàng và thu hẹp biên độ tỷ giá từ +/-5% về +/-3%

vào ngày 25/11.

Từ thời điểm đó tới nay, với sự ổn định của tỷ giá USD/VND trên thị

trường tự do và nguồn cung vàng không còn khan hiếm, giao dịch trên thị

trường vàng diễn ra khá ổn định.

Đặc biệt trong tháng cuối năm 2009, NHNN ra quyết định đóng cửa các

sàn vàng. Việc đóng cửa các sàn vàng giúp việc giao dịch vàng trong nước giải

quyết tình trạng lộn xộn trong giao dịch vàng, khiến giá vàng tuân theo qui luật

cung cầu của thị trường, thuận lợi cho việc dự báo.

Page 34: Thi Truong Ngoai Hoi 0916

7/27/2019 Thi Truong Ngoai Hoi 0916

http://slidepdf.com/reader/full/thi-truong-ngoai-hoi-0916 34/34

 Biểu đồ thị trường vàng trong nước 3 tháng đầu 2010

Vàng trong nước những tháng đầu năm cũng có những biến động như

vàng thế giới, luôn ở mức khá cao. Tuần đầu tháng 2, giá vàng xuống mức 25

triệu đồng/lượng. Sau đó, tăng lên và dao động quanh mức 26, 27 triệu

đồng/lượng.

II. Dự đoán

2.1Giá vàng quốc tế 

sẽ tiếp tục tăng trong năm 2010 và dự báo biên độ năm trong khoảng

850 - 1400 $/oz.

- Sự phục hồi từ hổn loạn của thị trường tài chính đã được nhìn thấy

nhưng nhiều vấn đề lớn chưa được giải quyết và sự phục hồi do đó không mang

tính bền vững.

- Thực tế giá vàng còn gợi ý răng đang có nhiều lo sợ trên thị trường tài

chính. Nếu suy thoái tạo đáy lần thứ hai như một số dự báo, thì khi đó giá vàng

sẽ còn biến động tăng đáng kể.

- Cuối cùng cho thấy vàng vẫn ở xu hướng tăng khi nó cung cấp một

công cụ phòng ngừa rủi ro siêu hạng chống lại các điểm yếu trong kinh doanh

tiền tệ và sự bất ổn trên thị trường tài chính. Nó cũng cung cấp một công cụ

chống lạm phát hiệu quả.Dự báo

2.2. Giá vàng trong nước

Trong cả năm 2010, dự đoán, giá vàng sẽ vẫn giữ ở mức cao 23-26

triệu/lượng và giá vàng sẽ bám sát vào giá vàng quốc tế.