Upload
others
View
12
Download
0
Embed Size (px)
Citation preview
HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH
HÀ QUANG TIẾN
TÁC ĐỘNG CỦA ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚCNGOÀI ĐẾN PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI
TỈNH VĨNH PHÚC
Chuyên ngành : Kinh tế chính trị
Mã số : 62.31.01.01
LUẬN ÁN TIẾN SĨ KINH TẾ
Người hướng dẫn khoa học: 1. PGS.TS Đoàn Xuân Thủy2. TS Vũ Thị Thoa
HÀ NỘI - 2014
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu riêngcủa tôi. Các số liệu là trung thực, có nguồn gốc, xuất xứ rõràng, những kết luận nêu trong luận án chưa từng được aicông bố trong bất kỳ công trình nào.
Tác giả luận án
Hà Quang Tiến
MỤC LỤC TrangMỞ ĐẦU 1
Chương 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUANĐẾN TÁC ĐỘNG CỦA ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚCNGOÀI TỚI PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI TRÊNĐỊA BÀN TỈNH
7
1.1. Khái quát về các công trình nghiên cứu liên quan đếnđề tài luận án
7
1.2. Khái quát về kết quả các nghiên cứu liên quan đến đềtài luận án
28
Chương 2: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ TÁC ĐỘNGCỦA ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI TỚIPHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI TRÊN ĐỊA BÀNTỈNH
32
2.1. Bản chất và đặc điểm của đầu tư trực tiếp nước ngoài 32
2.2. Tác động của đầu tư trực tiếp nước ngoài đến pháttriển kinh tế - xã hội trên địa bàn một tỉnh và các nhântố ảnh hưởng
37
2.3. Kinh nghiệm phát huy tác động tích cực, hạn chế tácđộng tiêu cực của đầu tư trực tiếp nước ngoài đối vớiphát triển kinh tế - xã hội ở một số tỉnh trong nước vàquốc gia trên thế giới
53
Chương 3: THỰC TRẠNG TÁC ĐỘNG CỦA ĐẦU TƯ TRỰCTIẾP NƯỚC NGOÀI ĐẾN PHÁT TRIỂN KINH TẾ -XÃ HỘI TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH VĨNH PHÚC
75
3.1. Những điều kiện tự nhiên và kinh tế - xã hội ảnh hưởngtới tác động của đầu tư trực tiếp nước ngoài đến pháttriển kinh tế - xã hội trên địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc
75
3.2. Thực trạng tác động của đầu tư trực tiếp nước ngoàitới phát triển kinh tế - xã hội trên địa bàn tỉnh VĩnhPhúc từ năm 1997 đến nay
80
3.3. Đánh giá chung về tác động của đầu tư trực tiếp nướcngoài tới phát triển kinh tế - xã hội tỉnh Vĩnh Phúc vànhững vấn đề đặt ra
113
Chương 4: QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP PHÁT HUY CÁC TÁCĐỘNG TÍCH CỰC VÀ HẠN CHẾ CÁC TÁC ĐỘNGTIÊU CỰC CỦA ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚCNGOÀI ĐỐI VỚI PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘITỈNH VĨNH PHÚC
121
4.1. Dự báo về bối cảnh và nhu cầu thu hút vốn đầu tư trựctiếp nước ngoài cho phát triển kinh tế - xã hội tỉnhVĩnh Phúc trong giai đoạn 2015 - 2020 và tầm nhìn đếnnăm 2030
121
4.2. Quan điểm và phương hướng cơ bản về nâng cao tácđộng tích cực và hạn chế tác động tiêu cực của đầu tưtrực tiếp nước ngoài ở tỉnh Vĩnh Phúc
127
4.3. Các giải pháp nâng cao hiệu quả tác động của đầu tưtrực tiếp nước ngoài tới phát triển kinh tế - xã hội ởVĩnh Phúc
130
KẾT LUẬN 150
CÁC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC ĐÃ CÔNG BỐ 152
TÀI LIỆU THAM KHẢO 153
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT TRONG LUẬN ÁN
ASEAN - Tổ chức Hợp tác các quốc gia Đông Nam ÁBTGPMB - Bồi thường giải phóng mặt bằng
BHXH, BHYT - Bảo hiểm xã hội; Bảo hiểm y tế.
CCN - Cụm công nghiệpCNH, HĐH - Công nghiệp hóa, hiện đại hóaCNĐT - Chứng nhận đầu tưCTNH - Chất thải nguy hạiDN - Doanh nghiệpDN FDI - Doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài
DDI - Đầu tư trực tiếp trong nướcFDI - Đầu tư trực tiếp nước ngoài
GDP - Tổng sản phẩm quốc nộiGNP - Tổng sản phẩm quốc giaGTSXCN - Giá trị sản xuất công nghiệpGTKNNK - Giá trị kim ngạch nhập khẩuGTKNXK - Giá trị kim ngạch xuất khẩuGTSX - Giá trị sản xuấtKCN - Khu công nghiệp
KCX - Khu chế xuấtLATS - Luận án tiến sĩNxb - Nhà xuất bản
ODA - vốn “Hỗ trợ phát triển chính thức"OECD - Tổ chức Hợp tác và Phát triển kinh tếTNCs - Công ty xuyên quốc giaTNHH - Trách nhiệm hữu hạnR&D - Nghiên cứu và phát triểnUBND - Ủy ban nhân dânUNCTAD - Diễn đàn Thương mại và Phát triển Liên Hiệp quốcWTO - Tổ chức Thương mại thế giớiSXKD - Sản xuất kinh doanh
DANH MỤC CÁC BẢNG
Trang
Bảng 3.1. Giá trị vốn đầu tư thực hiện trên địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc 85
Bảng 3.2. Tăng trưởng của tổng sản phẩm trên địa bàn tỉnh Vĩnh
Phúc theo giá so sánh
86
Bảng 3.3. Đóng góp của FDI vào GDP của tỉnh Vĩnh Phúc theo giá
thực tế
87
Bảng 3.4. Tăng trưởng giá trị sản xuất công nghiệp của các doanh
nghiệp FDI trong công nghiệp Vĩnh Phúc giai đoạn 1998-
2012 (giá cố định 1994)
88
Bảng 3.5. Đóng góp của FDI vào giá trị sản xuất công nghiệp của
tỉnh Vĩnh Phúc giai đoạn 1998 -2012
89
Bảng 3.6. Đóng góp của các doanh nghiệp FDI vào ngân sách tỉnh
Vĩnh Phúc theo giá thực tế
95
Bảng 3.7. Tình hình đình công trong các doanh nghiệp FDI trên
địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc giai đoạn 2008-2014
105
Bảng 3.8. Tình hình nợ bảo hiểm xã hội của các DN FDI trên địa
bàn tỉnh Vĩnh Phúc giai đoạn 1997-2014
107
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) là một nội dung hoạt động
trong kinh tế đối ngoại của một quốc gia, góp phần quan trọng vào phát triển
kinh tế của mỗi quốc gia nói chung và từng địa phương nói riêng. Nghị quyết
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX đã khẳng định kinh tế có vốn đầu tư nước
ngoài là một bộ phận cấu thành của nền kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, được khuyến khích phát triển,
bình đẳng với các thành phần kinh tế khác. Đại hội X tiếp tục khẳng định thu
hút mạnh nguồn lực của các nhà đầu tư nước ngoài, cải thiện môi trường pháp
lý và kinh tế, đa dạng hoá các hình thức và cơ chế để thu hút mạnh nguồn lực
của các nhà đầu tư nước ngoài vào những ngành nghề, lĩnh vực kinh doanh
quan trọng.
Trong điều kiện hiện nay, đất nước ta đang đẩy mạnh thực hiện công
nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, rất cần thiết phải tập trung huy động và sử
dụng có hiệu quả các nguồn lực, trong đó FDI là nguồn lực quan trọng để đẩy
nhanh quá trình công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước, thực hiện mục tiêu
đến năm 2020 Việt Nam trở thành một nước công nghiệp. Đại hội XI nhấn
mạnh thu hút đầu tư nước ngoài có công nghệ hiện đại, thân thiện môi trường
nhằm phát triển mạnh công nghiệp theo hướng hiện đại, tiếp tục tạo nền tảng
cho một nước công nghiệp và nâng cao khả năng độc lập, tự chủ của nền kinh
tế; ưu tiên phát triển các sản phẩm có lợi thế cạnh tranh thuộc các ngành công
nghiệp công nghệ cao, công nghiệp cơ khí, chế biến, công nghiệp năng lượng,
luyện kim, hoá chất, công nghiệp công nghệ thông tin và truyền thông; phát
triển mạnh công nghiệp hỗ trợ, công nghiệp phục vụ nông nghiệp, nông thôn;
gắn sản xuất với chế biến và tiêu thụ, mở rộng xuất khẩu.
Thực hiện Nghị quyết kỳ họp thứ IX, Quốc hội khoá X, tỉnh Vĩnh Phúc
được tái lập từ ngày 01-01-1997. Với khởi điểm là một tỉnh nghèo, thuần nông
(nông nghiệp chiếm 56% GDP), Vĩnh Phúc có nhu cầu rất lớn về nguồn vốn để
2
thực hiện CNH, HĐH trên địa bàn. Trên cơ sở chính sách đầu tư cởi mở thông
thoáng của Việt Nam và sự vận dụng linh hoạt, sáng tạo chính sách đó của Vĩnh
Phúc, sau 17 năm tái lập, bằng sự nỗ lực phấn đấu của toàn Đảng bộ và nhân dân
trong tỉnh, bằng các cơ chế, chính sách ưu tiên phát triển công nghiệp, Vĩnh
Phúc đã đạt được nhiều kết quả, trở thành một tỉnh thu hút đầu tư trực tiếp của
nước ngoài với lượng lớn và đã mang lại hiệu quả tích cực. Đến hết năm 2013 cơ
cấu kinh tế đã chuyển dịch theo hướng tích cực (tỷ trọng công nghiệp chiếm
60,39% trong GDP), kinh tế xã hội có bước phát triển vượt bậc, kinh tế duy trì
tốc độ tăng trưởng cao, bình quân đạt 17,4%/năm giai đoạn 2006 - 2010, năm
2011 - 14,62%; năm 2012 - 2,52%; năm 2013 - 7,89%. GDP bình quân đầu
người năm 2013 đạt trên 54 triệu đồng, tương đương khoảng 2500 USD, đời
sống nhân dân không ngừng được cải thiện. Tuy nhiên, bên cạnh những tác động
tích cực đến phát triển kinh tế - xã hội, FDI ở Vĩnh Phúc cũng có những tác động
không mong muốn, hoạt động của các doanh nghiệp FDI ở Vĩnh Phúc đã và
đang đặt ra nhiều vấn đề thực tiễn cần được kiến giải về lý luận, tạo cơ sở khoa
học cho việc hoạch định những giải pháp chính sách, cơ chế cụ thể, thích hợp
từng thời kỳ để FDI có tác dụng mạnh hơn đến phát triển kinh tế - xã hội theo
hướng bền vững cả về kinh tế, xã hội và môi trường trong thời gian tới.
Với lý do trên, việc nghiên cứu để tìm ra các giải pháp nhằm nâng cao
tác động tích cực, đồng thời hạn chế những tác động tiêu cực của FDI đến
phát triển kinh tế - xã hội ở Vĩnh Phúc, vừa có ý nghĩa lý luận, vừa có ý nghĩa
thực tiễn. Vì vậy, vấn đề “Tác động của đầu tư trực tiếp nước ngoài đến phát
triển kinh tế - xã hội tỉnh Vĩnh Phúc” được tác giả lựa chọn làm đề tài luận án
tiến sĩ kinh tế chuyên ngành kinh tế chính trị, nhằm góp phần giải quyết
những vấn đề bức xúc đang diễn ra trong thu hút, sử dụng FDI để phát triển
kinh tế - xã hội trên địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc thời gian tới.
2. Mục đích và nhiệm vụ của luận án
2.1. Mục đích
Trên cơ sở làm rõ những vấn đề lý luận cơ bản về tác động của đầu tư
trực tiếp nước ngoài tới phát triển kinh tế - xã hội trên địa bàn tỉnh, thực hiện
3
phân tích những tác động cụ thể của đầu tư trực tiếp nước ngoài tới phát triển
kinh tế, giải quyết các vấn đề xã hội, bảo vệ môi trường, vạch ra những mặt
được, chưa được, đề xuất những định hướng, giải pháp nâng cao hiệu quả của
FDI để đẩy nhanh sự phát triển kinh tế - xã hội tỉnh Vĩnh Phúc theo hướng
bền vững trong thời gian tới.
2.2. Nhiệm vụ
Để đạt được mục đích trên, nhiệm vụ đặt ra của luận án là:
- Luận giải rõ cơ sở lý luận và thực tiễn về tác động của FDI tới phát
triển kinh tế - xã hội trên địa bàn tỉnh trên các phương diện tác động tích cực
và tác động tiêu cực.
- Phân tích thực trạng tác động của FDI tới phát triển kinh tế - xã hội
của tỉnh Vĩnh Phúc thời gian qua, trong đó đặc biệt đi sâu làm rõ những tác
động tích cực và những tác động tiêu cực, những vấn đề cấp bách đặt ra cần
giải quyết để phát huy những tác động tích cực và hạn chế những tác động
tiêu cực của FDI tới phát triển kinh tế - xã hội trên địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc.
- Đề xuất phương hướng, giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả FDI cho
phát triển kinh tế - xã hội ở Vĩnh Phúc đến 2020 và tầm nhìn 2030.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Luận án có đối tượng nghiên cứu là những tác động của đầu tư trực tiếp
nước ngoài đến phát triển kinh tế - xã hội thể hiện thông qua những thay đổi
của các mặt đời sống kinh tế - xã hội như tăng trưởng kinh tế, chuyển dịch cơ
cấu kinh tế, việc làm, môi trường… dưới ảnh hưởng của đầu tư trực tiếp nước
ngoài. Để làm rõ đối tượng nghiên cứu, trong luận án sẽ tiến hành luận giải
những vấn đề có liên quan chặt chẽ tới tác động của FDI tới phát triển kinh tế
- xã hội như bản chất, đặc điểm, vai trò của FDI, mối quan hệ giữa FDI với
phát triển kinh tế - xã hội trên địa bàn tỉnh và những quan hệ kinh tế - xã hội
có liên quan.
4
3.2. Phạm vi nghiên cứu
- Về không gian: Luận án tập trung nghiên cứu đánh giá thực trạng tác
động của FDI đến phát triển kinh tế - xã hội trên địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc,
trong đó có tính tới việc điều chỉnh địa giới hành chính của tỉnh theo Nghị
quyết của Quốc hội khóa XII, kỳ họp thứ 3, số 15/2008/NQ-QH12 ngày 29
tháng 5 năm 2008 “Về việc điều chỉnh địa giới hành chính thành phố Hà Nội
và một số tỉnh có liên quan”.
- Thời gian nghiên cứu: Luận án phân tích, đánh giá thực trạng tác động
của FDI tới phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh Vĩnh Phúc từ 1997 đến năm
2014 theo các phương diện kinh tế, xã hội, môi trường, nhằm đề xuất phương
hướng và giải pháp phát huy hiệu quả tác động của FDI tới phát triển kinh tế -
xã hội ở tỉnh Vĩnh Phúc đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
4.1. Cơ sở lý luận của luận án là quan điểm Chủ nghĩa Mác - Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng cộng sản Việt Nam về mở cửa và
hội nhập kinh tế quốc tế, các văn kiện của Đại hội Đảng VII, VIII, IX, X, XI
và các hội nghị Trung ương; Luật Đầu tư, Luật Đầu tư nước ngoài; đồng thời
tham khảo, kề thừa những kết quả nghiên cứu của các tổ chức, học giả trong
nước và quốc tế về đầu tư trực tiếp nước ngoài và tác động của FDI tới phát
triển kinh tế - xã hội trên địa bàn tỉnh.
4.2. Phương pháp nghiên cứu
Cơ sở phương pháp luận của luận án là chủ nghĩa duy vật biện chứng
và chủ nghĩa duy vật lịch sử. Luận án sử dụng chủ yếu các phương pháp
nghiên cứu: trừu tượng hóa khoa học; đi từ trừu tượng tới cụ thể; phương
pháp nghiên cứu hệ thống; tổng hợp, phân tích, thống kê, so sánh, đồng thời
kết hợp sử dụng các phương pháp tổng kết, phân tích và thực tiễn để tìm ra
những đặc trưng của vấn đề nghiên cứu và tính quy luật của đối tượng nghiên
cứu. Đồng thời cụ thể qua các chương:
Chương 1: Sử dụng phương pháp nghiên cứu phân tích để đánh giá về
quan điểm của các học giả và trường phái lý luận về vấn đề nghiên cứu, từ đó
5
rút ra những vấn đề đã được nghiên cứu đầy đủ và các vấn đề cần nghiên cứu
bổ sung và nghiên cứu mới.
Chương 2: Sử dụng phương pháp trừu tượng hóa khoa học để rút ra
những khái niệm cơ bản và luận giải những vấn đề lý luận cơ bản về tác động
của FDI đến phát triển kinh tế - xã hội trên địa bàn tỉnh ở Việt Nam. Đồng
thời sử dụng phương pháp nghiên cứu đánh giá thực tiễn thu hút, sử dụng,
phát huy tác động tích cực của FDI tại một số quốc gia và địa phương trong
nước để rút ra bài học cho tỉnh Vĩnh Phúc.
Chương 3: Sử dụng các phương pháp phân tích, thống kê, tổng hợp,
nhằm làm rõ thực trạng tác động cụ thể của FDI đến phát triển kinh tế - xã hội
trên địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc, rút ra những kết quả tích cực, tác động tiêu cực
và nguyên nhân.
Chương 4: Sử dụng phương pháp khái quát hóa những vấn đề đã
nghiên cứu ở chương hai và chương ba cùng với đánh giá dự báo về bối cảnh
và nhu cầu về vốn FDI cho phát triển kinh tế - xã hội tỉnh Vĩnh Phúc để rút ra
những quan điểm định hướng và giải pháp nâng cao hiệu quả tác động của
FDI tới phát triển kinh tế - xã hội ở Vĩnh Phúc.
5. Những đóng góp mới của luận án
- Luận giải khái niệm tác động của FDI đến phát triển kinh tế - xã hội;
bổ sung làm rõ thêm về tác động hai mặt của FDI đến phát triển kinh tế - xã
hội trên địa bàn tỉnh theo các phương diện kinh tế, xã hội và môi trường.
- Phân tích, đánh giá và luận giải rõ thêm những tác động cụ thể của
FDI tới phát triển kinh tế - xã hội tỉnh Vĩnh Phúc giai đoạn 1997 - 2014, bao
gồm các tác động tích cực của FDI tới tăng trưởng kinh tế, chuyển dịch cơ
cấu kinh tế, công nghệ sản xuất, kết cấu hạ tầng, mở rộng kinh tế đối ngoại,
nguồn thu ngân sách, việc làm, môi trường cùng một số tác động tiêu cực về
kinh tế, xã hội, môi trường các nguyên nhân của những tác động đó.
- Đưa ra những phương hướng và giải pháp chủ yếu để phát huy có
hiệu quả tác động của FDI tới phát triển kinh tế - xã hội trên địa bàn tỉnh Vĩnh
Phúc đến năm 2020 và tầm nhìn 2030. Những giải pháp đã đề xuất bao gồm:
6
Định kỳ đánh giá hiệu quả của từng dự án và hiệu quả của FDI đối với phát
triển kinh tế - xã hội ở Vĩnh Phúc để có chương trình điều chỉnh kịp thời; Tiếp
tục hoàn thiện công tác quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội, quy hoạch phát
triển các ngành kinh tế, quy hoạch các khu, cụm công nghiệp đến năm 2020
với tầm nhìn 2030; Phối hợp giữa địa phương với nhà đầu tư trong việc xây
dựng kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội; Nâng cao hiệu quả hoạt động xúc tiến
đầu tư, lựa chọn dự án đầu tư với mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội; Phát
triển nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu thu hút và sử dụng hiệu quả FDI để
phát triển kinh tế - xã hội bền vững; Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, quản
lý của Nhà nước trong việc tăng cường thu hút và nâng cao hiệu quả của FDI
trong phát triển kinh tế - xã hội.
6. Ý nghĩa thực tiễn của luận án
Luận án góp phần vào việc nâng cao nhận thức về vai trò to lớn, lâu dài
của FDI đối với phát triển kinh tế - xã hội của cả nước nói chung, Vĩnh Phúc
nói riêng. Đề xuất triển khai các giải pháp để đẩy mạnh thu hút và sử dụng có
hiệu quả nguồn FDI phục vụ phát triển kinh tế - xã hội ở Vĩnh Phúc trong thời
gian tới. Kết quả nghiên cứu của luận án có thể là tài liệu tham khảo hữu ích
cho các đơn vị cơ quan nghiên cứu và hoạch định chính sách về FDI, có thể
sử dụng tham khảo để giảng dạy các chuyên đề kinh tế về FDI trong các cơ sở
đào tạo đại học và sau đại học.
7. Kết cấu của luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục,
luận án gồm 4 chương, 11 tiết.
7
CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN TÁCĐỘNG CỦA ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI TỚI PHÁT
TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH
1.1. KHÁI QUÁT VỀ CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN
QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN
1.1.1. Các công trình nghiên cứu của nước ngoài
Cho đến nay đã có nhiều công trình nghiên cứu của các học giả và tổ chức
nước ngoài về vấn đề FDI và tác động của FDI tới phát triển kinh tế - xã hội
của các quốc gia, địa phương nhập khẩu FDI. Những công trình tiêu biểu trong
thời gian gần đây bao gồm:
Tác phẩm của David O.Dapice, “Nền kinh tế Việt Nam: Câu chuyện thành
công hay tình trạng lưỡng thể bất thường? Một phân tích các điểm mạnh, điểm
yếu, cơ hội và nguy cơ” [24], bên cạnh trình bày về những tác động tích cực, đã
đề cập tới một số những ảnh hưởng khác của FDI đối với phát triển kinh tế - xã
hội Việt Nam, biểu hiện thông qua xu thế tập trung đầu tư vào các ngành tạo ít
việc làm, được bảo hộ cao.
Trong bài phân tích của Institute of International economics “FDI in
Developing Countries and Economies in Transition: Opportunities, Dangers,
and New Changes”, (Đầu tư nước ngoài tại các quốc gia đang phát triển và
các nền kinh tế đang chuyển đổi: Cơ hội, thách thức và những đổi mới) [103],
khi phân tích về FDI đối với các nước đang phát triển đã chỉ ra những tác
động trái chiều của FDI đối với phát triển kinh tế - xã hội của nước tiếp nhận.
Từ phân tích một số điểm nổi bật của đầu tư nước ngoài tại các nước đang
phát triển và các nền kinh tế đang chuyển đổi như FDI có được sự tăng trưởng
vượt bậc từ những năm 1990, vốn đầu tư nước ngoài FDI chiếm tỉ lệ lớn nhất
và là nguồn vốn ổn định nhất trong các dòng vốn tư nhân như dòng nợ, dòng
vốn vay ngân hàng thương mại, trái phiếu và các dòng vốn khác, sự phân phối
của vốn đầu tư nước ngoài tới các quốc gia đang phát triển và các nền kinh tế
8
đang chuyển đổi là không đồng đều, đã đề cập đến vấn đề tác động của FDI
tới phát triển, bao gồm:
Thứ nhất, tạo ra dòng tài chính phụ thêm của các nhà đầu tư nước ngoài
từ đó tạo ra áp lực cạnh tranh mạnh mẽ tại nước nhập khẩu FDI.
Thứ hai, có ảnh hưởng không tốt tới thị trường của nước nhập khẩu FDI
do các nhà đầu tư nước ngoài đến từ các thị trường quốc tế, nơi đang diễn ra
cạnh tranh không hoàn hảo, từ đó gây ra những khó khăn, thách đố đối với
doanh nghiệp (DN) của nước nhập khẩu FDI.
Thứ ba, vốn đầu tư nước ngoài FDI góp phần thúc đẩy tiết kiệm nội địa
và cung cấp thêm hiệu quả trong quản lý, marketing, và công nghệ để nâng
cao năng suất lao động.
Thứ tư, sử dụng hiệu quả FDI thúc đẩy tăng trưởng kinh tế nhanh hơn đối
với nước nhập khẩu. Mối liên hệ giữa FDI và tăng trưởng kinh tế (Mô hình
Maign của FDI và phát triển) được thể hiện thông qua sự gia tăng đầu tư sản
xuất kinh doanh (SXKD) của các DN nước ngoài. Mặc dù FDI có thể có một
tác động rõ ràng, tích cực tới sự phát triển của nước tiếp nhận, song cũng có thể
tạo ra một số tác động tiêu cực như trở thành nhân tố thúc đẩy sự hình thành
tình trạng độc quyền nhóm thông qua thiết lập và mở rộng DN kiểu gia đình, từ
đó thu hẹp khả năng gia nhập thị trường của một số DN của nước tiếp nhận.
Từ đó để phát huy vai trò tích cực của FDI, nước nhập khẩu FDI không
những cần có chính sách tăng cường thu hút FDI, mà còn phải có chính sách
chủ động định hướng FDI theo hướng hiệu quả. Lợi ích và cơ hội của các
doanh nghiệp nước ngoài là kiểm soát công nghệ, quyền sở hữu thương hiệu,
đạt được qui mô kinh tế nhờ hoạt động hợp tác trong đầu tư và một số tài sản
vô hình khác nhận được từ các DN nước ngoài chuyên nghiệp trong quản lý
và tổ chức. Tuy nhiên các DN nước ngoài cũng phải đối mặt với những rủi ro,
bất lợi trong sử dụng lao động nội địa, chịu ảnh hưởng không nhỏ từ phía các
mối quan hệ cộng đồng tại địa phương, thị hiếu và văn hóa truyền thống tại
nước tiếp nhận.
9
Bài phân tích của ROBERT E. LIPSEY and FREDRIK SJOHOLM, The
Impact of Inward FDI on Host Countries: Why Such Different Answers? (Tác
động của FDI lên nước chủ nhà: Tại sao có những tác động khác biệt?) [117],
đã đề cập tới nhiều tác động của FDI tới nước chủ nhà. Theo tác giả, nhìn
chung thì các DN có vốn đầu tư nước ngoài có thể được tiếp cận với công
nghệ cao hơn, từ đó nâng cao được chất lượng sản phẩm và dịch vụ mà có giá
thành thấp hơn, với năng suất cao hơn và kết quả là phúc lợi tiêu dùng cao
hơn. Một khả năng khác có thể là đầu tư nước ngoài góp phần làm tăng vốn
cổ phần của nước chủ nhà, đồng thời thúc đẩy mức sản lượng đầu ra.
Với những tác động nhất định tất yếu tới sự tăng trưởng kinh tế của nước
chủ nhà, Carkovic và Levine [116] đã chỉ ra rằng không một tác động cụ thể
nào của FDI được thể hiện rõ trong thời gian dài, ví dụ như khảo sát trong giai
đoạn 1960 - 1995 và chỉ có một số tác động nổi bật nhưng mang tính nhất thời
trong khoảng thời gian 5 năm liên tiếp. Không có một tài liệu cụ thể nào chỉ
ra được những biến số phù hợp hàm chứa tác động của FDI lên tăng trưởng
kinh tế.
Nghiên cứu của Todo và Miyamoto khác biệt so với các nghiên cứu khác
ở chỗ miêu tả được các biến số của FDI như một con số tuyệt đối của FDI
trong một lĩnh vực. Họ đã chứng minh được rằng phương pháp này liên quan
chặt chẽ tới thị trường chứng khoán nước ngoài và như vậy nó được ưu tiên
hơn cổ phần của họ trong ngành. Kết quả đã chỉ ra một tác động tích cực của
FDI lên năng suất lao động tại các DN nội địa sau khi thực hiện quản lý
nghiên cứu thị trường và đào tạo lực lượng lao động.
Báo cáo tại hội thảo của OECD: OECD-ILO Conference On Corporate
Social Responsibility, Report: The Impact of Foreign Direct Investment On
Wages And Working Conditions (Tác động của đầu tư nước ngoài lên tiền
lương và điều kiện làm việc) [107], đã khẳng định rằng đầu tư trực tiếp nước
ngoài đã trở thành một lĩnh vực năng động nhất của nền kinh tế thế giới trong
nhiều thập kỷ gần đây. Cổ phiếu toàn cầu của đầu tư trực tiếp nước ngoài đã
tăng từ 8% trong năm 1990 lên tới 24% trong năm 2006. Sự tăng trưởng mạnh
10
mẽ này đã được cấu thành bởi nhiều thay đổi về chất. Mặc dù một số lượng lớn
đầu tư trực tiếp nước ngoài tiếp tục đổ vào các nước khối OECD, nhưng tầm
quan trọng của mối liên hệ giữa các quốc gia ngoài OECD với đầu tư trực tiếp
nước ngoài vẫn gia tăng không ngừng. Báo cáo đã chỉ ra tác động tích cực của
FDI đến phát triển kinh tế - xã hội các nước đang phát triển, bao gồm:
Thứ nhất, FDI đã trở thành nguồn tài chính chủ yếu từ bên ngoài cho các
quốc gia đang phát triển. Nhiều nước ngoài khối OECD cũng trở thành các
nhà đầu tư trực tiếp nước ngoài hiệu quả và điều này được chứng minh bởi
con số tăng lên gần gấp đôi của cố phiếu của họ tại thị trường chứng khoán
toàn cầu từ năm 1990 tới năm 2005.
Thứ hai, vai trò ngày càng quan trọng của FDI tại các quốc gia đang phát
triển đã mở ra những kỳ vọng mới về tiềm năng nhằm xây dựng một quy trình
phát triển tại các quốc gia này, ví dụ như, các nền kinh tế nội địa có thể hưởng
lợi từ FDI thông qua việc tạo ra những công việc chất lượng cao, từ đó trả
lương cao hơn và điều kiện làm việc cũng tốt hơn các DN trong nước. Tuy
nhiên, có một điều không chắc chắn rất đáng lưu tâm và hiện đang tranh cãi là
trong thực tế có nên coi các DN nước ngoài có là một nhân tố có tác động
điều tiết sự gia tăng của tiền lương và cải thiện điều kiện làm việc hay không.
Báo cáo này tổng kết một số vấn đề liên quan tới vấn đề trên, đó là
nghiên cứu khảo sát đầu tiên về những tác động của thị trường lao động của
đầu tư trực tiếp nước ngoài và đưa ra những kết quả từ nghiên cứu này của
OECD. Nhìn chung, nghiên cứu này chỉ ra rằng các công ty đa quốc gia
(MNEs) có xu hướng tăng tiền lương tại các quốc gia mà họ hợp tác đầu tư.
Tác động tích cực của tiền lương có xu hướng tập trung vào các lao động
được tuyển trực tiếp bởi các DN nước ngoài. Bên cạnh đó cũng có một ảnh
hưởng tích cực nhỏ tới tiền lương của lao động nội địa tham gia vào chuỗi
cung ứng của các DN này. Những tác động tới gia tăng tiền lương được thể
mạnh mẽ hơn ở các quốc gia đang phát triển so với các quốc gia phát triển, có
thể do nguyên nhân khoảng cách về công nghệ giữa DN nước ngoài và DN
trong nước là lớn hơn so với trong cùng một nước.
11
Mặc dù các điều kiện làm việc tại các DN nước ngoài có xu hướng khác
biệt so với các DN nội địa, tuy nhiên các DN nội địa không nhất thiết phải
theo đuổi dập khuân cách tiếp cận của các DN nước ngoài.
Báo cáo khẳng định rằng, có nhiều nghiên cứu về những ảnh hưởng lên
thị trường lao động của các MNEs, có bằng chứng để xác định rằng FDI là
một kênh tiềm năng để nâng cao mức sống cơ bản cho người lao động. Từ đó
nêu ra gợi ý cho các Chính phủ nên nỗ lực tạo ra một sân chơi cho các nhà
đầu tư nước ngoài để trợ giúp về mặt kinh tế cũng như xã hội cho các hình
thức đầu tư tiềm năng. Một thực tế cho thấy tác động của các MNEs lên tiền
lương và điều kiện làm việc là không giống nhau theo những cách không giản
đơn trong các loại hình đầu tư, giữa các nhóm lao động và môi trường làm
việc nội địa cũng chỉ ra rằng các Chính phủ và nhà đầu tư có thể đánh giá
nhằm nâng cao hiệu quả của FDI tới sự phát triển kinh tế và xã hội. Có nhiều
sáng kiến hữu ích về những phương pháp đánh giá của Chính phủ nhằm
chuẩn hóa lực lượng lao động và những sáng kiến của tư nhân cũng như cộng
đồng nhằm nâng cao trách nhiệm hành vi trong kinh doanh.
Tác giả Tulus Tambunan trong tác phẩm The Impact Of Foreign Direct
Investment On Poverty Reduction. A Survey Of Literature And A Temporary
Finding From Indonesia, (Tác động của FDI lên xóa đói giảm nghèo ở
Indonesia) khi phân tích kinh nghiệm lâu đời tại Indonesia trong suốt giai
đoạn Chính phủ thể chế mới ( the New Order government) đã khẳng định
rằng, đầu tư trực tiếp nước ngoài có thể tạo ra những đóng góp nhất định cho
sự phát triển kinh tế - xã hội. Trong đó, tác động của FDI là tích cực hay tiêu
cực tới đói nghèo tại nước chủ nhà tùy thuộc rất lớn vào bối cảnh mà hoạt
động đầu tư đó nhằm vào và kết quả của các hoạt động kinh tế. Điều này đặc
biệt đúng với các chính sách mà mang lại hiệu quả cho người nghèo từ FDI,
dù trực tiếp hay gián tiếp. Trong quá trình thực hiện các chính sách mở cửa
của Indonesia đối với FDI, Chính phủ nước này đã đưa ra những ưu đãi đáng
kể. Tuy nhiên, ở cũng thời điểm đó, Chính phủ Indonesia cũng thiết lập các
chính sách và điều lệ nhằm tối ưu hóa lợi ích từ FDI cho người nghèo, hoặc ít
12
nhất có thể bảo vệ họ khỏi những tác động tiêu cực từ các DN nước ngoài.
Các chính sách đó bao gồm cả sự đóng cửa một số lĩnh vực nhất định, một số
ngành công nghiệp, và một số hoạt động của FDI, cũng như những rào cản gia
nhập thị trường. Chính phủ nước này ưu tiên các chính sách nhằm đảm bảo
thu nhập cho lao động địa phương cũng như phát triển tại cộng đồng mà có sự
hợp tác với các DN nước ngoài.
Cho đến nay vẫn chưa đủ bằng chứng chứng về tính hiệu quả của chính
sách và quy định mở cửa của Chính phủ Indonesia về nhận vốn đầu tư trực
tiếp nước ngoài như thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, xóa đói giảm nghèo, cũng
như tác động tiêu cực của FDI đối với các hoạt động kinh tế trong nước. Một
trong số các tác động tiêu cực của FDI thường biểu hiện ra thông qua sự thay
thế các DN trong nước bởi các DN nước ngoài và hậu quả của những ưu đãi
dành cho FDI thường tạo ra những méo mó, bất ổn trong thị trường nội địa
đầu ra và vào. Từ đó, cần phải nghiên cứu bao quát bổ sung, đặc biệt ở tầm vi
mô, để trả lời các câu hỏi về chiến lược phát triển lâu dài nhằm thu hút đầu tư
nước ngoài, những tác động tích cực cũng như tiêu cực của FDI lên sự phát
triển kinh tế bền vững của nước chủ nhà, hay vai trò của FDI trong xóa đói
giảm nghèo tại nước nhận đầu tư [109].
Luận án tiến sĩ của Faramarz AKARAM, Foreign Direct Investment in
Developing Countries: Impact on Distribution and Employment (Đầu tư trực
tiếp nước ngoài tại các nước đang phát triển: Tác động vào phân phối và việc
làm) [105], được thực hiện tại Khoa kinh tế và khoa học xã hội tại Đại học
Fribourg, Switzerland. Trong luận án đã chứng minh rằng, lý thuyết tân cổ
điển truyền thống không cho phép hiểu được những tác động của đầu tư nước
ngoài tới nước chủ nhà trong bối cảnh toàn cầu hiện đại đã và đang định hình
kể từ khi hệ thống xã hội chủ nghĩa sụp đổ. Nguyên nhân chính là thị trường,
dù là thị trường cạnh tranh, cũng không thể tự điều chỉnh. Do đó, lý thuyết tân
cổ điển cho thấy sự thiếu sót để giải quyết các vấn đề kinh tế xã hội cơ bản.
Kinh tế học hiện đại về cơ bản là lý luận về kinh tế thị trường có sự điều tiết
của nhà nước.
13
Những tác động của FDI tới nền kinh tế của các quốc gia đang phát triển
được thực hiện dựa trên các chi phí và lợi ích của nó. FDI có xu hướng đẩy
mức lương tăng lên. FDI cũng đóng vai trò tháo gỡ những nút thắt do những
nguyên nhân về công nghệ tại nước chủ nhà. FDI cũng đóng góp hoàn toàn
vào nguồn đầu tư nội địa. FDI đồng thời chiếm một vai trò không nhỏ trong
nguồn tài chính nước ngoài.
Thị trường với các chính sách tự do và cởi mở là điều kiện để thu hút
đầu tư trực tiếp nước ngoài. FDI được xem như một nguồn thay thế nếu chủ
sở hữu của các phần vốn chủ sở hữu có quyền quản lý hoạt động của một
doanh nghiệp. Như vậy FDI có thể cung cấp những nguồn vốn phụ thêm và
góp phần giải quyết vấn đề thâm hụt vốn nội địa. Từ đó, FDI đóng vai trò bổ
sung cho nguồn vốn nội địa.
Một nguyên nhân cần thu hút FDI là mối liên hệ giữa nhu cầu về kết cấu
hạ tầng xã hội và sự phát triển của NNL. FDI gắn liền với tự do hóa thương
mại, tư nhân hóa, quốc tế hóa và toàn cầu hóa.
Một vấn đề trong quản lý tài chính nước ngoài và cụ thể là làm thế nào
FDI có thể được phối hợp với các chính sách phát triển tại nước chủ nhà.
Một nỗ lực đáng quan tâm được tạo ra nhằm chỉ ra những vấn đề cơ bản và
cụ thể liên quan tới đầu tư trực tiếp nước ngoài và để tìm ra những tác động
của FDI tạo lợi ích cho các nhà đầu tư cũng như sự phát triển bền vững của
nước chủ nhà.
Các nhà kinh tế học tân cổ điển nhấn mạnh rằng sự giàu có của nước chủ
nhà luôn luôn có thể được gia tăng nhờ FDI, khi mà sự giàu có của chủ sở
hữu có thể giảm đi trong nước, thì có thể tăng lên khi đầu tư ra nước ngoài.
Các xu hướng của đầu tư trực tiếp nước ngoài trong các hoạt động kinh
tế quốc tế, đó là: các nước với một nền kinh tế phát triển cũng như các nền
kinh tế đang phát triển tại Châu Á, Bắc Mĩ, Châu Mĩ Latin, Châu Phi và Châu
Âu đã và đang khuyến khích tự do hóa các dòng chảy của FDI. FDI có thể
chảy vào các lĩnh vực lao động chuyên sâu hoặc vốn chuyên sâu. Tính chất
14
địa lý của FDI là một vấn đề khác nữa. Mức độ FDI cao hơn được thu hút bởi
các thế lực chính trị và kinh tế phát triển.
Xu hướng FDI trên toàn cầu đó là, theo lý thuyết kinh tế thực sự làm
chủ, thì FDI trở thành công cụ chính của tăng trưởng và phát triển kinh tế.
Theo Phonesay Vilaysack [26] trong luận án tiến sỹ, Thu hút đầu tư trực
tiếp nước ngoài vào nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào, FDI có tác động
tích cực tới kinh tế - xã hội nước nhập khẩu như bổ sung nguồn vốn, cân bằng
cán cân thanh toán, kích thích chuyển giao công nghệ, đào tạo phát triển nhân
lực, tạo việc làm, thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế, mở rộng thị trường
xuất khẩu. Tác động tiêu cực như gây thiệt hại cho nước nhận đầu tư với
nhiều yêu sách ưu đãi, gây ra tình trạng chảy máu chất xám từ các DN trong
nước đến các DN FDI, chuyển giao công nghệ cũ năng suất thấp, gây ra sự
phát triển không đồng đều giữa các vùng và có thể tác động xấu tới môi
trường sinh thái.
Bài viết Policy Brief: The Social Impact of Foreign Direct Investment,
(Chính sách tóm lược: Tác động xã hội của đầu tư nước ngoài) [108], đã nhấn
mạnh vai trò to lớn của FDI tại các nền kinh tế đang phát triển và mới nổi, từ
đó đã không ngừng gợi mở những kỳ vọng về đóng góp tiềm năng tới sự phát
triển đó. FDI có thể mang tới những lợi ích đáng kể bằng việc tạo ra những
công việc có chất lượng cao và bằng việc giới thiệu dây chuyền sản xuất cùng
với các phương thức quản lý hiện đại. Nhiều Chính phủ đã và đang hoàn thiện
hệ thống chính sách nhằm thu hút đầu tư nước ngoài.
Mặc dù một số lượng lớn các hợp đồng đầu tư nước ngoài tập trung tại
các nước thuộc khối OECD, nhưng vốn đầu tư nước ngoài cũng gia tăng tại
các quốc gia đang phát triển, lan ra rộng rãi tại các nền kinh tế mới nổi như
nhóm các nước BRICs (Brazil, Nga, Ấn Độ, Trung Quốc và Nam Phi).
Sự gia tăng của vốn đầu tư ra nước ngoài tại các nền kinh tế mới nổi
phản ánh mức tăng trưởng mạnh mẽ của dòng vốn này trong khối các nước
OECD. Vốn đầu tư ra nước ngoài từ các nền kinh tế mới nổi vào khối OECD
duy trì ở mức tương đối thấp, mặc dù có nhiều phản hồi không mới trên các
15
phương tiện truyền thông rằng các nước đang phát triển đang mua lại những
tài sản chiến lược trong khối các nước OECD.
Đầu tư nước ngoài cũng có thể ảnh hưởng tới chất lượng các công việc
đang được tuyển dụng tại các DN nội địa khi mà có những sự lan tỏa về kiến
thức, kỹ năng từ DN nước ngoài sang DN trong nước. Ví dụ như, DN nội địa
có thể học hỏi từ DN nước ngoài bằng việc hợp tác trong chuỗi cung ứng sản
phẩm. Kiến thức chuyển giao có thể lấy từ nhân viên lao động có kinh nghiệm
tại các DN nước ngoài. Tuy nhiên, vốn đầu tư nước ngoài có những tác động
tiêu cực không cần thiết lên hoạt động của DN trong nước. Trong một số
trường hợp nhất định, nó có thể nhắm tới việc lấn át DN nội địa, làm giảm
khả năng vận hành tại một quy mô kinh tế hiệu quả của họ.
Một dấu hiệu mới cho thấy rằng đầu tư nước ngoài có thể có một tác
động tích cực đáng kể tới tiền lương tại DN chủ sở hữu nước ngoài ở nước
chủ nhà. Và theo quan điểm truyền thống, những tác động tích cực của tiền
lương được quyết định nhiều hơn tại các nền kinh tế mới nổi. Hơn nữa, dấu
hiệu tích cực của đầu tư nước ngoài trước tiên là ở cơ hội trao cho một công
việc tốt hơn cho người lao động mới, hơn là việc trả nhiều hơn cho người lao
động cũ tại DN bị mua lại hoặc sáp nhập, tức là đổi chủ sở hữu. Tuy nhiên, về
lâu dài những khác biệt lớn về tiền lương giữa người mới và cũ trong cùng
một DN là không mang lại sự hoạt động bền vững cho DN đó trên mọi
phương diện [108].
Báo cáo của UNCTAD, Technology and Innovation Report 2012:
Innovation, Technology and South-South Collaboration [113] (Báo cáo công
nghệ và đổi mới năm 2012: Đổi mới, Công nghệ và Hợp tác Nam-Nam), đã
tập trung bàn về tác động tích cực của hợp tác Nam-Nam đối với các quốc gia
đang phát triển. Hợp tác Nam-Nam không chỉ bị hạn chế trong các nhân tố
kinh tế. Một số các nước đang phát triển, cùng với thế mạnh truyền thống về
kinh tế, đang xây dựng những định hướng nhằm định hình thương mại toàn
cầu, viện trợ và các quan hệ kinh tế.
16
Một đóng góp đáng kể cho tiếp cận công nghệ và xây dựng tiềm lực là
nhập khẩu vốn hàng hóa. Tham gia vào mạng lưới sản xuất toàn cầu (GPNs) -
và mối quan hệ giữa người tiêu dùng - nhà cung cấp - người bán lẻ - gắn liền
với FDI là những nhân tố có thể nâng cao việc học hỏi và xây dựng những
nguồn lực thông qua những sự lan tỏa mang tính công nghệ giữa các DN nội
địa, dù là chuyển giao công nghệ và bằng sáng chế trực tiếp hay gián tiếp
thông qua sự tích lũy bí quyết của DN nội địa. FDI và bằng sáng chế có thể có
những ý nghĩa quan trọng đối với việc mua lại công nghệ và thích nghi sử
dụng công nghệ đó, trong một số bối cảnh.
Đầu tư trực tiếp nước ngoài Nam-Nam đang không ngừng gia tăng:
những tài khoản ở Đông Á chủ yếu dành cho FDI xuất từ Nam Á, theo đó là
Đông Nam Á, và Châu Mĩ Latinh. Tổng nguồn vốn FDI xuất từ phía Nam đã
và đang tăng mạnh, tập trung vào các ngành dịch vụ và sản xuất.
Xu hướng FDI là giống với xu hướng chuyển giao quyền lực công nghệ
của phía Nam, hướng tới một số quốc gia chủ yếu là Đông Á và Brazil, Trung
Quốc hay Ấn Độ. Phần vốn lớn nhất của FDI xuất từ các quốc gia đang phát
triển, bao gồm các hoạt động mua lại và sáp nhập (M&As) ở phía Nam. Một
số ít các nước đang phát triển đang tham gia chuyển giao công nghệ. Sự phát
triển công nghệ mang một ý nghĩa nhiều hơn là thúc đẩy nhập khẩu công nghệ
thông qua FDI hay thương mại hàng hóa.
FDI cần phải có định hướng công nghệ nhằm củng cố cho việc xây dựng
các nguồn lực công nghệ: FDI có thể kết hợp với các chính sách khác. Tuy
nhiên, trên một quy mô tổng thể, luôn có một sự chia rẽ giữa các chính sách
đổi mới và các chính sách FDI tại các quốc gia. Sự chia rẽ này cần được khắc
phục thông qua một khung chính sách đổi mới mà cho phép các nước chủ nhà
nhận được lợi ích từ FDI trong quá trình chuyển giao công nghệ. Sự kết nối
giữa FDI tại các quốc gia đang phát triển và các bí quyết chuyển giao công
nghệ là cần thiết.
Theo Báo cáo đầu tư thế giới năm 2005 Transnational Corporations and
the Internationalization of R&D (Hợp tác xuyên quốc gia và quốc tế hóa
17
R&D) [110], giá cả của nhiều loại hàng hóa cao hơn đã thúc đẩy nhiều hơn
FDI tới các quốc gia giầu tài nguyên thiên nhiên như dầu và khoáng sản.
Sự phát triển của FDI toàn cầu đã được đánh dấu bởi những khác biệt
đáng kể giữa các quốc gia và vùng lãnh thổ. Châu Á và Châu Đại Dương đã
một lần nữa trở thành điểm đến hàng đầu của dòng chảy FDI từ khắp nơi.
Sự tăng trưởng của cả FDI nhận và xuất tại Châu Á và Châu Đại Dương
đang được tạo điều kiện bởi những thay đổi về chính sách ở tầm quốc gia và
khu vực. Ví dụ như, tổ chức Hợp tác các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) và
Trung Quốc đã ký một thỏa thuận thành lập khu vực tự do thương mại tới
năm 2010 và một vài các quốc gia Châu Á đã ký hiệp định thương mại tự do
với Hoa Kỳ.
Những số liệu thống kê chính thức kể từ thời gian khủng hoảng, có thể
không cập nhật đầy đủ tốc độ quốc tế hóa của R&D. Số liệu hiện hành của các
dự án FDI chỉ ra rằng sự mở rộng của R&D tới các khu vực đang đạt được đà
tăng trưởng.
Các chính sách phát triển quan trọng liên quan tới bảo vệ các quyền sở
hữu trí tuệ (IPR), cải cách các hoạt động nghiên cứu công, phát triển cơ sở hạ
tầng, và phát triển đầu tư tập trung mạnh mẽ vào R&D liên quan tới FDI và
các lợi ích của R&D.
FDI nhận và xuất trong nghiên cứu và phát triển là hai phương pháp thực
hành. Quốc tế hóa R&D mở ra nhiều cơ hội mới cho các nước đang phát triển
để tiếp cận công nghệ, xây dựng những sản phẩm và dịch vụ chất lượng cao,
phát triển các kỹ năng mới và nuôi dưỡng một nền văn hóa hiện đại thông qua
sức lan tỏa của các doanh nghiệp và tập đoàn nội địa. FDI với R&D có thể
giúp các quốc gia đẩy mạnh hệ thống đổi mới và nâng cao công nghiệp hóa và
công nghệ hóa, kết nối để thực hiện các chức năng của cầu, nâng cao hiệu quả
của trang thiết bị và tạo ra nhiều hơn các sản phẩm phức tạp.
Một số chính sách và các Khu công nghiệp (KCN) cần được thiết lập để
thu hút đầu tư nước ngoài thông qua R&D, để đảm bảo rằng lợi ích có thể
mang lại hiệu quả cho chi phí các loại. Điểm mấu chốt để xây dựng một mô
18
hình thể chế mà không ngừng đổi mới. Chính sách đặc biệt lưu ý tập trung
vào bốn khu vực: NNL, khả năng nghiên cứu cộng đồng, bảo vệ quyền sáng
chế và chính sách cạnh tranh.
Báo cáo đầu tư thế giới năm 2010 Investing In A Low-Carbon Economy,
[111] (Đầu tư vào lĩnh vực hàm lượng Carbon thấp) đánh giá trong năm 2009
về dòng chảy FDI trong lĩnh vực Low-Carbon chủ yếu gồm ba khu vực trọng
điểm (tái tạo, tái chế và công nghệ chế tạo low-carbon) là đạt tới 90 tỷ đô la
Mỹ. Tổng lượng vốn đầu tư trong lĩnh vực này là nhiều hơn, nếu tính toán các
hoạt động đầu tư liên quan tới low-carbon trong các ngành công nghiệp khác.
Tiềm năng đầu tư vào low-carbon là khổng lồ cho thấy sự chuyển đổi của
kinh tế toàn cầu trở thành kinh tế low-carbon.
Có một số thay đổi trong hình thái FDI toàn cầu đó là được đón đầu cuộc
khủng hoảng toàn cầu và sẽ đạt được sự tăng trưởng vượt bậc trong ngắn và
trung hạn. Trước hết, mức độ liên hệ giữa các nền kinh tế đang phát triển và
chuyển đổi giống như những điểm đến và là nguồn của đầu tư trực tiếp nước
ngoài, mà được kỳ vọng ngày càng tăng mạnh. Các nền kinh tế này, trong đó
đã thu hút một nửa lượng FDI vào trong năm 2009, đang dẫn đầu trong việc
phục hồi FDI. Thêm nữa, sự sụt giảm trong sản xuất của đầu tư trực tiếp nước
ngoài, liên hệ với lĩnh vực dịch vụ và các lĩnh vực trọng điểm, không giống
như là được lộn ngược dòng. Cuối cùng, mặc cho những tác động nghiêm
trọng lên FDI, cuộc khủng hoảng này không ngăn được tốc độ tăng trưởng
toàn cầu hóa trong sản xuất.
Sự tăng trưởng đột biến của FDI trong thập kỷ vừa qua là kết quả của
việc gia tăng cổ phần hóa tại các quốc gia phát triển. Và như thế, FDI có thể
duy trì và mở rộng việc làm trong nước nếu nó tác động tới hoạt động xuất
khẩu của nước chủ nhà hoặc làm tăng mức độ cạnh tranh giữa các DN đầu tư.
Báo cáo đã tìm ra được bằng chứng về tác động của FDI ra lên sự tụt
giảm công ăn việc làm tại nước nhận đầu tư. Quả thực, tác động này phụ
thuộc vào loại hình đầu tư, khu vực liên kết và các chiến dịch tuyển dụng của
hợp tác xuyên quốc gia (TNC).
19
Các đánh giá nhằm phát huy và tạo điều kiện cho các hoạt động đầu tư
được tập trung vào các ích lợi tài chính để thúc đẩy FDI trong các ngành và
khu vực, bao gồm các khu vực kinh tế đặc biệt; dễ dàng bảo vệ các yêu cầu;
tạo thuận lợi cho các quy trình được phê chuẩn và đẩy nhanh tiến độ dự án
bằng sáng chế.
Đầu tư nước ngoài vào Low-carbon cũng bao gồm FDI phục vụ cho việc
tiếp cận công nghệ low-carbon, các quy trình và sản phẩm. Loại hình đầu tư
nước ngoài Low-carbon có thể kể đến, đó là: giới thiệu quy trình low-carbon
làm giảm lượng phát thải trong quá trình sản xuất hàng hóa. Điều này bao
gồm việc nâng cấp các hoạt động hợp tác xuyên quốc gia và các DN liên quan
cùng chuỗi giá trị toàn cầu của họ.
Các sản phẩm và dịch vụ low-carbon giảm thiểu lượng phát thải CO2
trong khi sử dụng. Các sản phẩm low-carbon bao gồm ô tô điện, các sản phẩm
tiết kiệm điện năng và các hệ thống giao thông tích hợp. Các dịch vụ low-
carbon có thể kể đến là các giải pháp công nghệ tái cấu trúc các quy trình hạn
chế lượng phát thải tại các DN địa phương.
Nhìn rộng ra khỏi các hoạt động đầu tư nước ngoài, thì đầu tư nước
ngoài low-carbon đang và sẽ trở nên cần thiết. Hoạt động này đưa ra những
lợi thế và lợi ích trong từng gói đầu tư FDI, đó là tiếp cận công nghệ tiên tiến,
đặc biệt trong hiệu quả sử dụng năng lượng và các yếu tố đầu vào khác nữa,
đồng thời là các cơ hội xuất khẩu trong những ngành mũi nhọn.
Báo cáo đầu tư thế giới năm 2011 Non-equity Modes Of International
Production And Development, [112] (Các chế độ không công bằng của sản
phẩm quốc tế và trong phát triển dự đoán rằng, bất chấp cú sốc nào về kinh tế,
dòng chảy FDI sẽ phục hồi trước khủng hoảng trong hơn hai năm tới. Thách
thức này dành cho những nỗ lực để đạt được mục tiêu phát triển thiên niên kỷ.
Dòng chảy FDI toàn cầu đã tăng lên tới 1,24 nghìn tỷ USD trong năm
2010, nhưng vẫn thấp hơn 15% so với mức trung bình trước khủng hoảng.
Diễn đàn Thương mại và Phát triển Liên Hiệp quốc đánh giá rằng FDI toàn
cầu sẽ phục hồi lại mức trước khủng hoảng trong năm 2011, tăng từ 1,4 lên
20
1,6 nghìn tỷ đô la Mỹ, và đạt tới mức trong năm 2007 vào 2013. Tín hiệu tích
cực này, ngăn chặn những cú sốc không kỳ vọng vào nền kinh tế toàn cầu, có
thể tăng lượng con số các nhân tố rủi ro đang tồn tại.
Các chính sách FDI tương tác liên tục với các chính sách ngành, quốc gia
và xuyên quốc gia. Thách thức đặt ra là quản lý tương tác này để hai chính sách
có thể cùng hoạt động cho sự phát triển chung. Xóa bỏ cân bằng giữa việc xây
dựng khả năng tăng năng suất lao động nội địa và việc tránh chủ nghĩa bảo vệ
thương mại và đầu tư, là chìa khóa cho tăng cường hợp tác quốc tế.
Báo cáo đầu tư thế giới năm 2012 Towards A New Generation Of
Investment Policies, [114] (Định hướng một mô hình các chính sách mới
trong đầu tư) chỉ ra những đóng góp tích cực trong sự hợp tác giữa các DN
nước ngoài và các nền kinh tế nước chủ nhà, đáng chú ý là Châu Phi, trong
điều kiện các giá trị gia tăng thêm như việc làm và thu nhập, thuế thu nhập,
xuất khẩu và vốn. Các con số này cũng chỉ ra được các quốc gia nhận được ít
hơn những đóng góp của FDI, xác nhận rằng vấn đề nằm trong tối ưu hóa tác
động tích cực và giảm thiểu các tác động tiêu cực của FDI.
Nhiều quốc gia đã không ngừng tự do hóa và thúc đẩy đầu tư trực tiếp
nước ngoài vào nhiều ngành công nghiệp để đạt được tăng trưởng mạnh mẽ
trong năm 2011. Cùng năm này, những chính sách thắt chặt mới cũng được
đưa ra. Chúng phát huy tác dụng ngăn cản các nhà đầu tư nước ngoài trong
lĩnh vực nông nghiệp, dược phẩm, công nghiệp khai khoáng.
Những tác động tích cực của FDI tới sự phát triển là không cụ thể. Và
tác động của FDI cũng có cả tiêu cực. Như vậy rất cần thiết những chính sách
nhằm giảm thiểu rủi ro trong hợp tác đầu tư. Mặc dù các luật và quy định là
chỉ rõ trách nhiệm của nhà đầu tư, thì đồng thời cũng có ảnh hưởng không
nhỏ tới các hoạt động hợp tác, các quyết định và hành vi trong kinh doanh.
Chính phủ có thể xây dựng một khung pháp lý tổng thể và tối ưu hóa lợi ích
từ các hoạt động đầu tư này. Tính hiệu quả của các chính sách thể hiện thông
qua các bên, bên nhận và bên xuất FDI, đều được tối ưu hóa lợi ích và giảm
thiểu rủi ro.
21
Theo Báo cáo đầu tư thế giới năm 2013 Global Value Chains:
Investment And Trade For Development, [115] (Chuỗi giá trị toàn cầu: Phát
triển đầu tư và thương mại), gần một phần ba thu nhập từ FDI toàn cầu đã
được tái đầu tư tại các nước chủ nhà, hai phần ba còn lại được mang về nước
đầu tư. Phần tái đầu tư này cao nhất tại các quốc gia đang phát triển, là một
nguồn tài chính quan trọng.
Dòng chảy FDI tới các vùng lãnh thổ đang phát triển đã chứng kiến một
sự sụt giảm nhẹ trong năm 2012, tuy nhiên cũng đã có một vài tín hiệu tích
cực. Châu Phi đóng góp vào xu hướng này với sự tăng 5% của đầu tư nước
ngoài lên tới 50 tỷ USD. Sự tăng trưởng của dòng vốn đầu tư trực tiếp nước
ngoài tập trung mở rộng vào ngành công nghiệp khai khoáng, sản xuất hàng
tiêu dùng và các ngành dịch vụ. Xu hướng dòng chảy FDI tiếp tục đổ vào các
quốc gia có thu nhập thấp như Campuchia, Myanma và Việt Nam.
Các nhà hoạch định chính sách đầu tư quốc gia đang tăng cường thiết lập
các chiến lược phát triển mới. Hầu hết các Chính phủ đều muốn thu hút các nhà
đầu tư nước ngoài như một công cụ để xây dựng năng lực hiệu suất và phát
triển bền vững. Tại cùng thời điểm, rất nhiều các quốc gia đang củng cố môi
trường pháp lý cho các nhà đầu tư nước ngoài, tao thêm nhiều các chính sách
công nghiệp trong những ngành mũi nhọn, thắt chặt quản lý và giảm thiểu các
hoạt động mua lại và sáp nhập. Tuy nhiên, bảo hộ luôn đi kèm rủi ro.
Nền kinh tế toàn cầu hiện nay được định hình bởi các chuỗi giá trị
(GVCs), mà các loại hàng hóa, dịch vụ cơ bản được buôn bán theo quy trình
sản xuất phân tán trên toàn cầu. Các chuỗi giá trị này được phối hợp bởi các
công ty đa quốc gia (TNCs). Tuy nhiên, hoạt động của các chuỗi giá trị cũng
không tránh khỏi những rủi ro. Những rủi ro này có thể được hạn chế bằng
việc tạo ra nhiều hơn các giá trị. Thêm nữa, những tác động từ môi trường và
xã hội bao gồm điều kiện làm việc, an toàn lao động có thể là tiêu cực.
Như vậy, các nhà hoạch định chính sách cần tạo được một khung pháp lý
vừa có thể bảo vệ được nhà đầu tư, người lao động, và các bên liên quan, vừa
giảm thiểu được những rủi ro thông qua việc không ngừng đổi mới và cải tiến
22
khoa học kỹ thuật, chất lượng lao động và một thị trường cởi mở. Trên hết,
định hướng phát triển bền vững luôn đi kèm với các mục tiêu trong các hoạt
động đầu tư trực tiếp nước ngoài.
1.1.2. Các công trình nghiên cứu trong nước
Xuất phát từ vai trò quan trọng của FDI đối với phát triển kinh tế - xã hội,
ở Việt Nam kể từ năm 1987, khi Luật Đầu tư nước ngoài đầu tiên có hiệu lực,
đã có nhiều công trình nghiên cứu có giá trị về học thuật và tổng kết thực tiễn
đầu tư nước ngoài tại Việt Nam về thu hút đầu tư trực tiếp của nước ngoài.
Những cuốn sách tiêu biểu về đầu tư trực tiếp nước ngoài bao gồm:
Tác giả Nguyễn Trọng Tuân trong cuốn Đầu tư trực tiếp nước ngoài với
công cuộc công nghiệp hoá hiện đại hoá ở Việt Nam [14] đã làm sáng tỏ một
số quan hệ bản chất của đầu tư trực tiếp nước ngoài và một số tác động của nó
đối với sự phát triển kinh tế, xã hội Việt Nam nói chung đặc biệt đối với sự
nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa (CNH, HĐH) (nói riêng). Trên cơ sở đó
nêu ra một số kiến nghị mới về quan điểm, chính sách và giải pháp chủ yếu
nhằm thu hút và sử dụng có hiệu quả cao đầu tư trực tiếp nước ngoài phục vụ
công cuộc CNH, HĐH trong thời gian tới.
Trần Xuân Tùng trong Đầu tư trực tiếp nước ngoài ở Việt Nam - Thực
trạng và giải pháp [15] đã phân tích vai trò, vị trí khách quan của FDI đối với
sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội của Việt Nam, nêu bật những thành công
cũng như những hạn chế chủ yếu trong việc thu hút và sử dụng nguồn vốn
FDI trong tình hình hiện nay; trên cơ sở đó đề xuất một số giải pháp cơ bản
nhằm thúc đẩy thu hút mạnh hơn và sử dụng có hiệu quả hơn nguồn ngoại lực
quan trọng này. Ngoài ra, phần phụ lục cung cấp cho bạn những quan điểm,
chủ trương của Đảng và Nhà nước về thu hút và sử dụng vốn FDI qua các kỳ
đại hội.
Các tác giả Trần Quang Lâm và An Như Hải trong cuốn Kinh tế có vốn
đầu tư nước ngoài ở Việt Nam hiện nay [81], đã hệ thống hóa những vấn đề cơ
bản về kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài trong nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa, làm rõ vai trò quan trọng của thành phần kinh tế này
23
trong nền kinh tế nước ta và đề xuất các giải pháp tiếp tục phát triển kinh tế có
vốn FDI ở nước ta thời gian tới.
Tác giả Lê Xuân Bá trong Tác động của đầu tư trực tiếp nước ngoài tới
tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam [1], đã trình bày và phân tích về đầu tư trực
tiếp nước ngoài tại Việt Nam, vai trò của khu vực có vốn đầu tư nước ngoài
đối với nền kinh tế, cơ sở lý thuyết về tác động của FDI tới tăng trưởng, tác
động của FDI tới tăng trưởng qua kênh đầu tư, tác động tràn của đầu tư trực
tiếp nước ngoài.
Các tác giả Võ Thanh Thu, Ngô Thị Ngọc Huyền và Nguyễn Cương
trong cuốn Kỹ thuật đầu tư từ trực tiếp nước ngoài [82] đã cung cấp những
chỉ dẫn khoa học và có hệ thống về kỹ thuật đầu tư trực tiếp nước ngoài như
vai trò của đầu tư quốc tế, các định chế quốc tế ảnh hưởng đến môi trường
đầu tư của Việt Nam, hỗ trợ phát triển chính thức - hình thức đầu tư quốc tế
đặc biệt, đấu thầu quốc tế, chuyển giao công nghệ quốc tế, chuyển giao trong
hoạt động đầu tư quốc tế, thẩm định dự án đầu tư, cơ chế quản lý hoạt động
đầu tư trực tiếp nước ngoài của Việt Nam, các hình thức đầu tư trực tiếp nước
ngoài, quy trình thực hiện đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam…
Tác giả Đỗ Đức Bình trong chuyên khảo Đầu tư của các công ty xuyên
quốc gia (TNCs) tại Việt Nam [2], đã trình bày từ quan niệm về đầu tư quốc tế
đến khái niệm FDI, các TNCs, vai trò của TNCs trong nền kinh tế thế giới,
kinh nghiệm thu hút đầu tư của TNCs tại một số nước. Qua nghiên cứu phân
tích thực trạng thu hút FDI nói chung và từ TNCs nói riêng tại Việt Nam giai
đoạn 1988 - 2004, trong cuốn sách đã khái quát một số đóng góp của FDI đến
các mặt kinh tế - xã hội ở Việt Nam như tham gia tích cực vào tăng trưởng
kinh tế, tạo việc làm, sản xuất và xuất khẩu, đa dạng hóa và nâng cấp thiết bị,
công nghệ. Bên cạnh đó, cuốn sách cũng chỉ ra một số tác động tiêu cực như
mâu thuận với mục tiêu chiến lược chung và phát triển kinh tế - xã hội của
Việt Nam; lợi dụng ưu thế về vốn, công nghệ để thao túng trong các liên
doanh, gây sức ép với cơ quan quản lý nhà nước. Từ đó, cuốn sách cũng đề
24
xuất các quan điểm, giải pháp tăng cường thu hút và sử dụng hiệu quả FDI
của các TNCs cho Việt Nam.
Tác giả Hoàng Thị Bích Loan và các cộng sự trong cuốn Thu hút đầu tư
trực tiếp của các công ty xuyên quốc gia vào Việt Nam [6], đã đề cập tới một
số tác động tích cực của TNCs tới tiến trình CNH, HĐH của Việt Nam như bổ
sung vốn, chuyển dịch cơ cấu kinh tế, tăng sức cạnh tranh của nền kinh tế và
DN trong hội nhập kinh tế quốc tế, tác động đến xây dựng nền kinh tế thị
trường định hướng XHCN, tạo việc làm, phát triển NNL, hội nhập kinh tế
quốc tế, nâng cao trình độ công nghệ… Bên cạnh đó, cuốn sách cũng đề cập
tới những tác động tiêu cực của FDI của các công ty xuyên quốc gia tới Việt
Nam và nguyên nhân, đồng thời đề xuất một số giải pháp tăng cường thu hút
và sử dụng hiệu quả FDI của TNCs như cải thiện môi trường đầu tư, tăng
cường hiệu lực, hiệu quả quản lý của Nhà nước, tạo lập đối tác đầu tư trong
nước, phát triển NNL.
Tác giả Đặng Hoàng Thanh Nga trong Đầu tư trực tiếp nước ngoài của
các công ty xuyên quốc gia của Hoa Kỳ ở Việt Nam [8], đã đề cập tới vấn đề
thu hút FDI của các TNCs Hoa Kỳ vào Việt Nam giai đoạn 1995 - 2011, chỉ
ra một số tác động tới nguồn vốn, tăng trưởng và chuyển dịch cơ cấu kinh tế,
xuất nhập khẩu, chuyển giao công nghệ, giải quyết việc làm, tính lan tỏa toàn
cầu, ảnh hưởng tới chính trị, môi trường. Từ đó đã nêu ra một số gợi ý chính
sách về hoàn thiện môi trường đầu tư, công tác quảng bá, xúc tiến đầu tư, tạo
lập các đối tác liên kết, nâng cao chất lượng nhân lực nhằm tăng cường thu
hút FDI của các TNCs của Hòa Kỳ vào Việt Nam.
Tác giả Nguyễn Tấn Vinh trong Đầu tư trực tiếp nước ngoài đối với quá
trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh [23], từ trình bày
khái quát một số vấn đề lý luận về FDI như khái niệm, đặc trưng, loại hình
cùng khái niệm cơ cấu kinh tế và chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cuốn sách đã
trình bày và phân tích các kênh ảnh hưởng của FDI đến chuyển dịch cơ cấu
kinh tế ngành như tác động tới tăng trưởng kinh tế ngành; chuyển giao công
nghệ góp phần vào tăng trưởng kinh tế ngành; vai trò của FDI đối với nguồn
25
nhân lực, lao động; sự tương tác với vốn đầu tư trong nước; hiệu quả ngoại ứng
từ năng suất; hiệu ứng xuất khẩu. Cuốn sách cũng phân tích thực trạng ảnh
hưởng của FDI đến quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế và chuyển dịch cơ cấu
kinh tế nội bộ ngành công nghiệp của Thành phố Hồ Chí Minh giai đoạn 2001-
2010 và rút ra đánh giá về ảnh hưởng không đều của FDI tới tăng trưởng của
các ngành trong cơ cấu kinh tế ngành nói chung và cơ cấu kinh tế của ngành
công nghiệp trên địa bàn Thành phố nói riêng. Từ đó, cuốn sách đã đề cập tới
một số vấn đề đặt ra đối với FDI trong chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành của
Thành phố Hồ Chí Minh như lao động trình độ cao, kết cấu hạ tầng, công
nghiệp hỗ trợ, nguồn nguyên liệu, chiến lược thu hút FDI của Thành phố,… và
đề xuất một số giải pháp thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành thông qua
FDI tại Thành phố Hồ Chí Minh như nâng cao hiệu lực quản lý nhà nước về
FDI, cải thiện môi trường đầu tư, hoàn thiện quy hoạch, thực hiện đa dạng hóa
và nâng cao hiệu quả hoạt động xúc tiến đầu tư đối với FDI tìm kiếm thị
trường, liên kết vùng để thu hút FDI tìm kiếm nguồn tài nguyên; phát triển
công nghiệp hỗ trợ, nhân lực… để thu hút FDI tìm kiếm hiệu quả.
Tác giả Phùng Xuân Nhạ trong chuyên khảo Đầu tư trực tiếp nước ngoài
tại Việt Nam: Lý luận và thực tiễn [9], đã đề cập tới khái niệm, hình thức đầu
tư trực tiếp nước ngoài, nhiều lý thuyết luận giải về nguyên nhân hình thành
đầu tư trực tiếp nước ngoài, bao gồm các lý thuyết truyền thống và các lý
thuyết mới về quốc tế hóa sản xuất, phân tích các yếu tố ảnh hưởng tới FDI,
các chính sách, biện pháp thu hút FDI tại Việt Nam. Qua phân tích thực trạng
thu hút FDI của Việt Nam giai đoạn 1988 - 2011, trong cuốn sách đã trình bày
những tác động của FDI tới sự phát triển của Việt Nam, biểu hiện thông qua
những tác động tích cực tới tăng trưởng kinh tế, bổ sung vốn đầu tư và cán
cân thanh toán quốc tế, chuyển giao và phát triển công nghệ, phát triển NNL
và tạo việc làm, thúc đẩy xuất khẩu, liên kết các ngành công nghiệp, các tác
động khác, các tác động đặc biệt và tác động tới chủ quyền quốc gia. Trong
phân tích về tác động của FDI, cuốn sách cũng đồng thời cũng chỉ ra một số
ảnh hưởng không mong muốn như gia tăng tính phụ thuộc của nền kinh tế vào
26
FDI, ảnh hưởng xấu tới môi trường sinh thái do sử dụng công nghệ lạc hậu,
dẫn tới hình thành độc quyền, ngăn cản cạnh tranh, làm tăng khoảng cách
giàu nghèo…Cuốn sách cũng cho rằng, mức độ tác động tích cực hoặc tiêu
cực của FDI phụ thuộc vào chính sách và điều kiện phát triển của nước tiếp
nhận FDI, từ đó đã đưa ra một số gợi ý về chính sách như tăng cường thu hút
FDI khi khả năng tích lũy nội địa thấp, phát triển kết cấu hạ tầng, dịch vụ, đào
tạo, quy định chặt chẽ cụ thể đối với FDI trong các lĩnh vực dinh dưỡng, y tế,
dược phẩm, quảng cáo, có chính sách phù hợp về khắc phục chảy máu chất
xám, bóc lột lao động quá mức, bảo hộ thị trường…
Bên cạnh đó, đã có nhiều LATS kinh tế tập trung nghiên cứu về đầu tư trực
tiếp nước ngoài và tác động của nó tới phát triển kinh tế xã hội, như:
Trần Anh Phương trong luận án Một số giải pháp tăng cường thu hút
vốn đầu tư trực tiếp của các nước trong nhóm G7 vào Việt Nam, đã phân tích
đánh giá kết quả thu hút FDI từ các nước G7 vào Việt Nam giai đoạn 1988-
2002, chỉ ra những thành tựu, hạn chế, nguyên nhân và các biện pháp giải
quyết [11].
Ngô Thu Hà trong luận án Chính sách thu hút vốn đầu tư nước ngoài
vào Trung Quốc và khả năng vận dụng tại Việt Nam, đã đánh giá tác động hai
mặt của FDI. Bên cạnh những tác động tích cực như bổ sung nguồn vốn, thúc
đẩy ứng dụng công nghệ, phát triển nhân lực, kinh nghiệm quản lý, thúc đẩy
ngoại thương, chuyển dịch cơ cấu kinh tế, FDI còn có những tác động tiêu
cực như làm giảm tỷ lệ tích lũy và đầu tư nội địa, gây sức ép phá sản DN
trong nước, tạo ra sự phụ thuộc về công nghệ, chuyển tới nước nhập khẩu FDI
những công nghệ gây ô nhiễm môi trường, gây chảy máu chất xám từ các DN
khác tới DN FDI [ 3].
Bùi Thuý Vân trong luận án Đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) với việc
chuyển dịch cơ cấu hàng xuất khẩu ở vùng đồng bằng Bắc bộ, đánh giá tác
động của FDI tới tăng trưởng ngoại thương của nước nhập khẩu FDI. Tuy
nhiên, tác động của FDI tới tăng trưởng xuất khẩu có tính hai mặt, nếu như
FDI thay thể có mục tiêu mở rộng tiêu thụ ở nước ngoài có tác động không
27
đáng kể tới tăng trưởng xuất khẩu, thì FDI bổ sung với mục tiêu sản xuất
hàng hóa phục vụ nhu cầu của nước xuất khẩu FDI sẽ có có tác động tích cực
tới xuất khẩu của nước nhận FDI sang nước xuất khẩu FDI. FDI có tác động
đến chuyển dịch cơ cấu hàng xuất khẩu theo hướng gia tăng tỷ trọng của hàng
xuất khẩu đã qua chế biến. Tuy nhiên tác động của FDI tới nâng cao chất
lượng hàng xuất khẩu là không rõ ràng, để phát huy được tác động này cần có
những chính sách phù hợp như thực hiện cơ chế phối hợp quản lý các cấp về
FDI, hoàn thiện công tác quy hoạch thu hút và sử dụng FDI, đẩy mạnh thu hút
FDI vào các ngành công nghệ cao, phát triển NNL, hệ thống kết cấu hạ tầng,
công nghiệp hỗ trợ…[22]
Nguyễn Tiến Long trong luận án Đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) với
việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế của tỉnh Thái Nguyên, cho rằng FDI có những
tác động tích cực như bổ sung nguồn vốn, thúc đẩy ứng dụng công nghệ, phát
triển nhân lực, kinh nghiệm quản lý, thúc đẩy ngoại thương, khai thác tốt hơn
nguồn lực của nước nhập khẩu FDI để chuyển dịch cơ cấu kinh tế, tạo việc
làm, khuyến khích năng lực trong nước. tác động tiêu cực của FDI bao gồm
tạo ra sự mất cân đối trong phát triển theo vùng, ảnh hưởng đến tiêu cực đến
truyền thống văn hóa dân tộc, gia tăng nhập khẩu công nghệ gây ô nhiễm môi
trường, chuyển giá [7].
Đào Văn Thanh trong luận án Tác động tràn của đầu tư trực tiếp nước
ngoài tới các doanh nghiệp thuộc ngành dệt may Việt Nam, khẳng định FDI
ngoài tác động trực tiếp tới phát triển kinh tế - xã hội của nước tiếp nhận đầu
tư, còn có tác động gián tiếp nhiều mặt tới các chủ thể kinh doanh của nước
nhập khẩu FDI như các tác động trong nội bộ ngành và giữa các ngành thông
qua các kênh truyền dẫn như:
Thứ nhất, tạo sức ép cạnh tranh buộc các DN trong nước phải vươn lên
không ngừng nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả kinh doanh, nhưng từ
đó có thể làm giảm hiệu quả kinh doanh của các DN trong nước.
Thứ hai, tạo cơ hội mới cho các DN trong nước tiếp thu tiến bộ khoa học
- công nghệ, kinh nghiệm quản lý thông qua hiệu ứng bắt chước, học tập.
28
Thứ ba, thúc đẩy chuyển giao công nghệ và hoạt động nghiên cứu và
triển khai trong nội bộ từng ngành.
Thứ tư, thúc đẩy phát triển nhân lực theo chiều sâu, vừa tạo ra xu hướng
thu hút NNL chất lượng cao vào làm việc trong các DN FDI, vừa tạo điều
kiện cho các DN khác có thể thu hút được bộ phân người lao động đã làm
việc tại các DN FDI.
Thứ năm, thúc đẩy quan hệ liên kết hợp tác giữa các DN FDI và các DN
khác trong cùng ngành trên cơ sở phân công lao động để sản xuất sản phẩm.
Thứ sáu, cải thiện công nghệ của các nhà cung cấp địa phương hoặc các
nhà cung cấp tiềm năng thông qua hỗ trợ công nghệ.
Thứ bảy, tạo thuận lợi cho các doanh nghiệp trong nước tiếp thu công
nghệ mới…[17]
1.2. KHÁI QUÁT VỀ KẾT QUẢ CÁC NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN
ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN
1.2.1. Những kết quả đã được khẳng định về mặt khoa học và thực tiễn
Về mặt lý luận đã đưa ra quan niệm chung về đầu tư trực tiếp nước ngoài
với tư cách là loại hình đầu tư đặc thù do chủ thể nước ngoài trực tiếp thực
hiện; đã luận giải khá rõ về sự cần thiết khách quan của việc thu hút, sử dụng
FDI cho phát triển kinh tế - xã hội, đặc biệt đối với các nước đang phát triển
như Việt Nam; đã khái quát những hình thức chủ yếu và một số đặc điểm
quan trọng của FDI nói chung và đối với các nước đang phát triển, trong đó
có Việt Nam nói riêng.
Vai trò của FDI đối với phát triển kinh tế - xã hội các nước đang phát
triển đã được tiếp cận theo nhiều phương diện, đặc biệt là tác động tích cực
tới tăng trưởng và chuyển dịch cơ cấu kinh tế, chuyển giao khoa học - công
nghệ, kinh nghiệm quản lý, mở rộng thị trường, nâng cao chất lượng NNL
góp phần giải quyết việc làm, nâng cao thu nhập cho người lao động….Một
số tác động không mong muốn của FDI tới chuyển giao công nghệ, việc làm,
thu nhập của người lao động, môi trường sinh thái cũng đã được đề cập.
29
Để thu hút và sử dụng FDI có hiệu quả cần có cơ chế chính sách phù hợp
nhằm tạo lập môi trường, thông thoáng, hấp dẫn, đảm bảo kết hợp lợi ích giữa
nhà đầu tư nước ngoài và lợi ích của quốc gia, địa phương tiếp nhận FDI,
đồng thời định hướng việc thu hút, sử dụng FDI, kiểm soát, giảm thiểu tác
động tiêu cực.
1.2.2. Một số vấn đề đặt ra
Qua nghiên cứu vấn đề FDI và tác động của FDI tới phát triển kinh tế,
một số tổ chức và học giả đã bước đầu chú ý đến tác động hai mặt của FDI tới
phát triển kinh tế, bao gồm những tác động tích cực và tác động tiêu cực. Đã
có không ít luận giải về nguyên nhân của những tác động tiêu cực của FDI
đến phát triển kinh tế - xã hội của nước nhập khẩu FDI từ sự không đồng
nhất, chưa thuận chiều về lợi ích của FDI và lợi ích của nước, địa phương
nhập khẩu FDI, tuy nhiên nghiên cứu về mối quan hệ giữa bản chất và tác
động của FDI chưa được đề cập nhiều. Vì vậy, một trong những vấn đề đặt ra
cần nghiên cứu tiếp là phải nghiên cứu thêm về cơ sở hình thành tác động của
FDI xuất phát từ bản chất của FDI. Mặc dù cho đến nay đã có không ít ý kiến
về bản chất của FDI, song vẫn chưa có sự thống nhất, vì vậy cần tiếp tục
nghiên cứu chuyên sâu, làm rõ thêm mối quan hệ giữa bản chất của FDI với
những thay đổi của FDI trong điều kiện cụ thể của các nước đang phát triển
trong bối cảnh mới của thế giới ngày nay.
Mặc dù mục tiêu chủ yếu trong thu hút, sử dụng FDI đối với từng quốc
gia, vùng lãnh thổ, địa phương là nhằm đẩy nhanh sự phát triển kinh tế - xã
hội. Tuy nhiên, thực tiễn cho thấy, thành tựu trong thu hút FDI có thể không
đồng nhất với hiệu quả của FDI. Bên cạnh các yếu tố gây ra ảnh hưởng tiêu
cực của FDI đến phát triển kinh tế - xã hội, còn có rất nhiều nguyên nhân gây
khó khăn cho việc phát huy vai trò tích cực của FDI đối với phát triển kinh tế
- xã hội. Vậy nguyên nhân nào đang là chủ yếu? Vấn đề này cho đến nay vẫn
còn nhiều ý kiến khác nhau và chưa thực sự được nghiên cứu làm rõ.
Bên cạnh việc nghiên cứu về FDI và tác động của FDI trên bình diện
quốc gia, đã có không ít công trình đề cập tới FDI ở phạm vi địa phương cấp
30
tỉnh, thành phố ở Việt Nam. Tuy nhiên, hầu hết các nghiên cứu đều cố gắng
tập trung làm rõ tác động của FDI đến từng mặt riêng biệt của quá trình phát
triển kinh tế - xã hội, vấn đề làm thế nào để từng địa phương của Việt Nam có
thể vừa thu hút được nhiều vốn FDI, vừa đẩy nhanh phát triển kinh tế - xã hội
tổng thể theo hướng bền vững vẫn đang là khoảng trống về khoa học, cần
được tiếp tục nghiên cứu và giải quyết.
1.2.3. Những vấn đề mới cần nghiên cứu tiếp
Trong các công trình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận án có rất ít
công trình nghiên cứu sâu về tác động của đầu tư trực tiếp nước ngoài đến
phát triển kinh tế - xã hội theo hướng bền vững. Đặc biệt cho đến nay chưa có
công trình nghiên cứu nào nghiên cứu đánh giá sâu sắc và toàn diện về tác
động hai mặt của FDI tới phát triển kinh tế - xã hội trên địa bàn tỉnh Vĩnh
Phúc theo phương diện kinh tế chính trị. Do đó vấn đề luận án lựa chọn làm
đề tài nghiên cứu vẫn là khoảng trống lớn trong khoa học cần được lấp đầy.
Những vấn đề cơ bản cần tập trung nghiên cứu trong luận án bao gồm:
Thứ nhất, hệ thống hóa nhằm làm sáng tỏ một cách đầy đủ, toàn diện cơ
sở lý luận và thực tiễn về tác động của FDI tới phát triển kinh tế - xã hội trên
địa bàn tỉnh. Trong xây dựng khung lý thuyết để nghiên cứu, luận án xác định
phải xuất phát từ bản chất của FDI với tư cách là hình thức quan hệ sản xuất
đặc thù được hình thành trong lịch sử và có quá trình phát triển lâu dài, có
biểu hiện khác nhau trong các điều kiện kinh tế - xã hội khác nhau. Từ đó,
luận án xác định phải làm rõ cơ sở hình thành tác động của FDI tới phát triển
kinh tế - xã hội của các quốc gia đang phát triển nói chung và trên địa bàn của
từng địa phương cấp tỉnh với tư cách là bộ phận hữu cơ có tính đặc thù của
nền kinh tế nói riêng. Trong phân tích về tác động hai mặt của FDI đến phát
triển kinh tế - xã hội, luận án tập trung làm rõ các tác động cụ thể theo hai
hướng chủ yếu là những tác động tích cực và những tác động tiêu cực. Đồng
thời, để tạo cơ sở sở việc luận giải những nguyên nhân của tác động của FDI
đến phát triển kinh tế - xã hội, luận án phải trình bày và phân tích về những
yếu tố cơ bản ảnh hưởng tới tác động của FDI. Bên cạnh đó, nhằm cung cấp
31
thêm căn cứ cho việc hoạch định cơ chế phát huy hiệu quả tác động tích cực
và giảm thiểu tác động tiêu cực của FDI trên địa bàn tỉnh, luận án sẽ thực hiện
nghiên cứu kinh nghiệm về thu hút, sử dụng FDI của một số địa phương trong
nước và kinh nghiệm nước ngoài và cố gắng đúc rút những bài học mà tỉnh
Vĩnh Phúc có thể tham khảo, vận dụng.
Thứ hai, trên cơ sở phân tích về thực trạng thu hút và sử dụng FDI trên
địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc trong giai đoạn từ khi tái lập tỉnh năm 1997 đến năm
2013, luận án phải tập trung đánh giá một cách khoa học về thực trạng tác
động của FDI tới sự phát triển kinh tế - xã hội ở Vĩnh Phúc theo hai phương
diện bao gồm cả những tác động tích cực, tiêu cực. Những tác động tích cực
cần phân tích đánh giá bao gồm tác động của FDI tới tăng trưởng kinh tế,
chuyển dịch cơ cấu kinh tế, chuyển giao công nghệ, sự hình thành và phát
triển của hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế - kỹ thuật, tác động tới kinh tế đối
ngoại, nguồn thu ngân sách, tạo việc làm, thu nhập cho người lao động, tác
động tích cực tới môi trường. Những tác động tiêu cực của FDI cần được
đánh giá cả về kinh tế, xã hội và môi trường. Trên cơ sở phân tích thực trạng
tác động hai mặt của FDI đến phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh Vĩnh Phúc,
luận án phải tập trung làm rõ nguyên nhân của những tác động đó.
Thứ ba, Trên cơ sở khung lý thuyết đã xây dựng, kết quả phân tích thực
trạng tác động hai mặt của FDI đến phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh Vĩnh
Phúc và dự báo về bối cảnh thế giới, trong nước, dự báo nhu cầu của Tỉnh về
FDI, luận án phải đề xuất quan điểm, phương hướng, giải pháp phát huy hiệu
quả tác động của FDI tới phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh trong thời gian
tới, nhằm đẩy nhanh Vĩnh Phúc trở thành tỉnh công nghiệp hiện đại, phát triển
bền vững.
32
CHƯƠNG 2
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ TÁC ĐỘNG CỦA FDI TỚI
PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH
2.1. BẢN CHẤT VÀ ĐẶC ĐIỂM CỦA ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP
NƯỚC NGOÀI
2.1.1. Khái niệm đầu tư trực tiếp nước ngoài.
Đầu tư trực tiếp nước ngoài đã xuất hiện vào thời kỳ đầu của chủ nghĩa
tư bản, sau những cuộc xâm chiếm thuộc địa và trở thành hiện tượng phổ biến
khi chủ nghĩa tư bản chuyển từ giai đoạn tự do cạnh tranh sang giai đoạn độc
quyền.
Theo V.I.Lênin, quá trình tích tụ và tập trung tư bản trong điều kiện chủ
nghĩa tư bản tự do cạnh tranh đã dẫn tới sự hình thành, phát triển và trở thành
thống trị của các tổ chức độc quyền trong nền kinh tế. Sự thống trị của độc
quyền tư bản dưới hình thái tư bản tài chính là cơ sở vững chắc cho việc thu
lợi nhuận độc quyền cao, trở thành điều kiện quan trọng cho sự lớn lên của tư
bản, và sự xuất hiện tình trạng “tư bản thừa” như là một tất yếu. Từ đó FDI
với tư cách là xuất khẩu tư bản trực tiếp cũng trở thành tất yếu phổ biến.
Chừng nào chủ nghĩa tư bản vẫn còn là chủ nghĩa tư bản, số tư bản
thừa vẫn còn được dùng không phải là để nâng cao mức sống của quần
chúng trong nước đó, vì như thế thì sẽ đi đến kết quả làm giảm bớt lợi
nhuận của bọn tư bản, mà là để tăng thêm lợi nhuận đó bằng cách xuất
khẩu tư bản ra nước ngoài, vào những nước lạc hậu. Trong các nước lạc
hậu này, lợi nhuận thường cao, vì tư bản hãy còn ít, giá đất đai tương đối
thấp, tiền công hạ, nguyên liệu rẻ. [25, tr.456]
Ban đầu, đối với từng nhà tư bản, FDI hướng tới sử dụng nguồn lao động
tại chỗ để khai thác khoáng sản, đồn điền nhằm tạo ra nguồn nguyên liệu cung
cấp cho các ngành sản xuất ở chính quốc. Đối với chủ nghĩa tư bản, FDI
chính là một trong những phương thức tìm kiếm, khai thác các yếu tố cần
thiết, đảm bảo cho sự tồn tại và phát triển của nền sản xuất tư bản chủ nghĩa.
33
Nếu như trong giai đoạn trước chiến tranh thế giới thứ hai, FDI chủ yếu
chảy từ các nước tư bản phát triển đầu tư vào các nước kém phát triển và
thuộc địa, thì sau chiến tranh thế giới thứ hai, luồng đầu tư đã có sự thay đổi.
Đã xuất hiện sự đầu tư lẫn nhau giữa các nước tư bản phát triển, xuất hiện
những nước vừa là nơi cung cấp nguồn vốn đầu tư ra nước ngoài vừa là địa
điểm tiếp nhận đầu tư trực tiếp nước ngoài. Sự vận động và phát triển của FDI
đã thu hút sự quan tâm nghiên cứu của nhiều nhà học giả và tổ chức quốc tế.
Cho đến nay đã có rất nhiều quan niệm về FDI.
Theo Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF), FDI là “một khoản đầu tư với những
quan hệ lâu dài, theo đó, một tổ chức trong một nền kinh tế (nhà đầu tư trực
tiếp) thu được lợi ích lâu dài từ một DN đặt tại một nền kinh tế khác. Mục
đích của nhà đầu tư trực tiếp là muốn có nhiều ảnh hưởng trong việc quản lý
DN đặt tại nền kinh tế khác đó” [104, tr 31].
Theo OECD, “Đầu tư trực tiếp nước ngoài là một loại đầu tư phản ánh
mục tiêu của việc thiết lập mối quan tâm lâu dài của một DN thường trú tại
một nền kinh tế (đầu tư trực tiếp) trong một DN (DN đầu tư trực tiếp) là cư
dân trong một nền kinh tế khác hơn so với đầu tư trực tiếp. Sự quan tâm lâu
dài ngụ ý sự tồn tại của một mối quan hệ lâu dài giữa các nhà đầu tư trực tiếp
và các DN đầu tư trực tiếp và một mức độ đáng kể ảnh hưởng đến việc quản
lý của DN. Quyền sở hữu trực tiếp hoặc gián tiếp của 10% quyền biểu quyết
của một cư dân DN trong một nền kinh tế bởi một cư dân nhà đầu tư trong
nền kinh tế khác là bằng chứng của một mối quan hệ như vậy”. [106]
Theo Diễn đàn Thương mại và Phát triển Liên Hiệp quốc, FDI là “một
sự đầu tư thực hiện để có được lợi ích lâu dài trong DN hoạt động bên ngoài
của nền kinh tế của nhà đầu tư ... mục đích của chủ đầu tư là để đạt được một
tiếng nói hiệu quả trong việc quản lý của DN [97].
Theo Điều 3, Luật Đầu tư năm 2005, “Đầu tư trực tiếp là hình thức đầu
tư do nhà đầu tư bỏ vốn đầu tư và tham gia quản lý hoạt động đầu tư”, “Đầu
tư nước ngoài là việc nhà đầu tư nước ngoài đưa vào Việt Nam vốn bằng tiền
và các tài sản hợp pháp khác để tiến hành hoạt động đầu tư” [50].
34
Theo tác giả Bùi Thúy Vân, “FDI là hoạt động đầu tư do các tổ chức
kinh tế, cá nhân ở quốc gia nào đó tự mình hoặc kết hợp với các tổ chức kinh
tế, cá nhân của một nước khác tiến hành bỏ vốn bằng tiền hoặc tài sản vào
nước này dưới một hình thức đầu tư nhất định” [22, tr.10].
Theo tác giả Đào Văn Thanh, “FDI là hình thức đầu tư quốc tế mà chủ
đầu tư nước ngoài (tổ chức hoặc cá nhân) đưa vào nước tiếp nhận một số vốn
đủ lớn để thực hiện các hoạt động SXKD, dịch vụ nhằm tìm kiếm lợi nhuận
và đạt được những hiệu quả kinh tế - xã hội… Đây là loại hình di chuyển vốn
quốc tế mà người chủ sở hữu vốn đồng thời là người trực tiếp quản lý và điều
hành việc sử dụng vốn đầu tư” [17,tr. 20].
Từ những khái niệm nêu trên có thể hiểu đầu tư trực tiếp nước ngoài là
hoạt động đầu tư trực tiếp nhằm mục tiêu lợi nhuận của chủ thể đầu tư nước
ngoài tại một quốc gia nhất định, bao hàm cả việc đầu tư vốn và trực tiếp
quản lý kinh doanh số vốn đó.
2.1.2. Bản chất của đầu tư trực tiếp nước ngoài
Nghiên cứu nguồn gốc lịch sử của FDI với tư cách là hình thức xuất
khẩu tư bản trực tiếp, Lênin đã chỉ ra rằng mặc dù, xuất khẩu tư bản nếu xét
về mặt lượng một cách giản đơn thì nó đồng nghĩa với việc làm giảm đi một
phần năng lực phát triển, giảm bớt điều kiện tạo việc làm, làm giảm khả năng
cải thiện mức sống của nước sở hữu tư bản, nhưng đây chính lại là điều kiện,
là cơ hội giúp các nhà tư bản thu được lợi nhuận từ việc đầu tư vào nước khác
với mức cao hơn. FDI với tư cách là hình thức của xuất khẩu tư bản có bản
chất ăn bám với mức độ cao mà V.I.Lênin gọi là ăn bám “bình phương”, bởi
lẽ tư bản được xuất khẩu trực tiếp vốn là kết quả mà các tổ chức độc quyền đã
bóc lột được ở trong nước, nhưng lại được sử dụng để làm công cụ đi bóc lột
nước ngoài với mức lợi nhuận ngang bằng hoặc cao hơn lợi nhuận độc quyền
cao trong nước. Hơn thế nữa, kết quả bóc lột được từ xuất khẩu tư bản không
chỉ là nguồn làm giàu trước mắt cho các tổ chức độc quyền, mà còn là nguồn
để củng cố địa vị thống trị và điều kiện ổn định cho việc thu lợi nhuận cao của
các tổ chức độc quyền trong tương lai, bởi lẽ một phần của lợi nhuận đó còn
35
được dùng để mua chuộc các tầng lớp lãnh đạo của phong trào công nhân
trong nước và tại thuộc địa, tạo ra tầng lớp công nhân quý tộc và thậm chí cả
dân tộc thực lợi để phá vỡ phong trào công nhân trên bình diện quốc gia cũng
như quốc tế.
Đối với nước nhập khẩu tư bản, mặc dù FDI có tác động tích cực nhất
định đối với thúc đẩy kinh tế, phát triển kỹ thuật, song về hậu quả, trong
không ít trường hợp, do năng lực tổng thể của các nước này kém, nên nhân
dân ở các nước nhập khẩu tư bản bị bóc lột nhiều hơn, các nước này sẽ bị lệ
thuộc nhiều hơn về kinh tế, kỹ thuật nước ngoài và dễ dẫn đến bị lệ thuộc về
chính trị. “Các nước xuất khẩu tư bản hầu như bao giờ cũng có khả năng thu
được một số “khoản lợi” nào đó” [25, tr.459]. Chính đặc điểm này là nhân tố
kích thích các nhà tư bản có tiềm lực tích cực hơn trong việc thực hiện đầu tư
ra nước ngoài. Xuất khẩu tư bản trực tiếp ở thời kỳ cuối thế kỷ 19 đầu 20 tập
trung chủ yếu được tập trung vào đầu tư để khai thác, bóc lột thuộc địa. Nói
tóm lại, đầu tư trực tiếp nước ngoài theo quan điểm của Lênin về thực chất
công cụ bóc lột của tư bản tài chính nhằm củng cố địa vị thống trị của mình
không những trong các nước đế quốc mà cả tại các nước thuộc địa nhằm đạt
được lợi nhuận cao hơn.
Kể từ sau chiến tranh thế giới thứ hai, sự phát triển của hệ thống quan hệ
kinh tế quốc tế dưới tác động của toàn cầu hoá kinh tế và cách mạng khoa học
công nghệ đã làm cho FDI dần trở thành phương thức của các nước phát triển
chống lại chủ nghĩa bảo hộ mậu dịch thông qua các hàng rào thuế quan và phi
thuế quan. Ngược lại, nguồn vốn FDI cũng được xác định là có vai trò đặc
biệt quan trọng đối với phát triển kinh tế của các nước đang phát triển, vì vậy
cạnh tranh để thu hút vốn FDI giữa các nước đang phát triển với nhau có xu
hướng gia tăng. Bên cạnh đó, sự phát triển của hệ thống phân công lao động
quốc tế mới không những thúc đẩy hoạt động đầu tư của các chủ thể kinh
doanh lớn, các TNCs của các nước phát triển ra nước ngoài, mà còn tạo cơ
hội cho các chủ thể kinh doanh nhỏ và vừa ở cả các nước đang phát triển thực
hiện hoạt động đầu tư trực tiếp ra nước ngoài. Trong bối cảnh đó, bản chất
36
thực sự của FDI với tư cách là hình thức xuất khẩu tư bản trực tiếp hầu như ít
được đề cập đến, song thực tiễn cho thấy không vì thế mà bản chất đó thay
đổi, bởi lẽ chủ thể chủ yếu có vị trí chi phối, quyết định của FDI ngày nay vẫn
là các DN lớn tư bản chủ nghĩa với mục tiêu cuối cùng vẫn là lợi nhuận cao.
Và nếu như các nhà đầu tư có thể nhận được tỷ suất lợi nhuận khi đầu tư trong
nước cao hơn so với đầu tư ra nước ngoài, thì chắc chắn nước ngoài sẽ không
bao giờ là địa điểm để nhà đầu tư lựa chọn. Bản chất của FDI với tư cách là
xuất khẩu tư bản trực tiếp là nguyên nhân sâu xa nhất của các tác động tiêu
cực của FDI bên cạnh những tác động tích cực đối với nước tiếp nhận FDI.
2.1.3. Các đặc điểm của đầu tư trực tiếp nước ngoài
Đầu tư trực tiếp nước ngoài với tư cách là xuất khẩu tư bản trực tiếp có
những đặc điểm chung của hoạt động đầu tư là mục tiêu lợi nhuận cao, song
cũng có nét đặc thù:
Thứ nhất, so với hình thức xuất khẩu tư bản gián tiếp, FDI có đặc điểm
sau:
Một là, FDI gắn với hoạt động sản xuất kinh doanh trực tiếp. Nguồn vốn
và công nghệ của nước ngoài được đem đến để xây dựng nhà máy, xí nghiệp,
do đó nguồn vốn bị chôn chặt và không dễ dàng dịch chuyển từ ngành này
sang ngành khác, từ vùng, quốc gia này sang vùng, quốc gia khác. Nếu như
đầu tư gián tiếp, đặc biệt là đầu tư tài chính, có thể cho phép các nhà đầu tư
nhanh chóng thâm nhập cũng như rút vốn khỏi thị trường của nước tiếp nhận
đầu tư, từ đó có thể gây bất ổn về kinh tế - tài chính của nước tiếp nhận đầu
tư, thì các chủ thể FDI khó có khả năng làm được việc đó. Từ đây, FDI
thường được đánh giá là nguồn vốn tương đối ổn định, ít gây ảnh hưởng xấu
đối với tình hình kinh tế vĩ mô của các nước tiếp nhận, do đó thường được các
nước đang phát triển chú trọng quan tâm thu hút và sử dụng.
Hai là, chủ thể của FDI là các chủ thể tư nhân, mục tiêu đầu tư là lợi
nhuận cao, do đó FDI thường xuất hiện tại các nước tiếp nhận sau hình thức
đầu tư gián tiếp của chính phủ nước xuất khẩu, khi các điều kiện SXKD đã
được xác lập tương đối đồng bộ, thuận lợi. Đồng thời, FDI luôn tập trung vào
37
những ngành, lĩnh vực, địa bàn có môi trường kinh doanh thuận lợi. Do đó để
thu hút và sử dụng hiệu quả FDI, các nước tiếp nhận cần khai thông, củng cố,
phát triển quan hệ đối ngoại với các quốc gia xuất khẩu FDI, đồng thời phải
tạo lập môi trường đầu tư thông thoáng, hấp dẫn đối với FDI. Đặc điểm này
cũng đòi hỏi việc cải thiện môi trường đầu tư để thu hút và sử dụng hiệu quả
FDI không phải chỉ cần quan tâm ở phạm vi toàn quốc, mà phải được chú
trọng tại từng địa phương.
Thứ hai, nếu so với đầu tư trực tiếp trong nước, FDI có những đặc điểm
bao gồm:
Một là, FDI thường sử dụng công nghệ khác biệt nhằm tận dụng lợi thế
trong phân công lao động quốc tế để giảm chi phí, giảm sức ép cạnh tranh từ
phía các DN của nước tiếp nhận FDI. Đối với các nước đang phát triển, FDI
thường sử dụng công nghệ với trình độ cao hơn so với các DN cùng ngành
của nước tiếp nhận, do đó để thu hút và sử dụng hiệu quả FDI các nước, cũng
như từng địa phương tiếp nhận phải chuẩn bị được NNL phù hợp, đặc biệt là
NNL chất lượng cao nếu muốn thu hút được các dự án FDI các ngành công
nghệ cao.
Hai là, trong hệ thống phân công lao động, FDI thường tập trung vào
những khâu then chốt, công nghệ nguồn để chế tạo sản phẩm, do đó để thu
hút sử dụng hiệu quả FDI, gia tăng thu nhập trong chuỗi giá trị gia tăng toàn
cầu đối với từng sản phẩm có sự tham gia của FDI, các nước đang phát triển
2.2. TÁC ĐỘNG CỦA ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI ĐẾN
PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI TRÊN ĐỊA BÀN MỘT TỈNH VÀ
CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG
FDI với tư cách là hoạt động đầu tư tạo ra những biến đổi nhất định
trong quá trình tái sản xuất xã hội nói riêng và đời sống xã hội nói chung
không những ở phạm vi quốc gia mà trên từng địa bàn địa phương, trong đó
có cấp tỉnh của quốc giá đó. Những thay đổi đó thể hiện tác động của FDI tới
quá trình phát triển kinh tế - xã hội của quốc gia, địa phương tiếp nhận FDI.
Từ đó có thể hiểu tác động của FDI đến phát triển kinh tế - xã hội là
38
những ảnh hưởng tất yếu của sự hình thành, vận động và phát triển của FDI
đối với các mặt của sự phát triển kinh tế - xã hội. Tác động này có thể thể
hiện ra theo hai cấp độ là tác động trực tiếp và tác động gián tiếp.
Tác động trực tiếp của FDI thể hiện những thay đổi trực tiếp trong sự
phát triển kinh tế - xã hội với sự hiện diện của FDI với tư cách là bộ phận
của hoạt động đầu tư SXKD trên địa bàn một lãnh thổ nhất định. Tác động
gián tiếp thể hiện những thay đổi có liên quan do FDI gây ra, như thay đổi của
các hoạt động đầu tư của các chủ thể khác có liên quan đến sự hình thành, vận
động của FDI. Căn cứ vào mục đích thu hút và sử dụng FDI, có thể xem xét
tác động của FDI đến phát triển kinh tế - xã hội theo hai phương diện tích cực
và tiêu cực.
2.2.1 Tác động tích cực của đầu tư trực tiếp nước ngoài tới phát triển
kinh tế - xã hội trên địa bàn tỉnh
Việc thu hút và sử dụng hợp lý FDI có vai trò vô cùng to lớn thúc đẩy
phát triển kinh tế - xã hội của quốc gia cũng như từng địa phương tiếp nhận.
Những tác động tích cực chủ yếu của FDI đối với phát triển kinh tế - xã hội
trên địa bàn tỉnh được thể hiện trên ba mặt bao gồm:
Thứ nhất, về kinh tế FDI có tác động tích cực theo các phương diện:
Một là, FDI có tác động thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Tăng trưởng kinh
tế với tư cách là sự gia tăng kết quả hoạt động kinh tế có thể đạt được trước
hết dựa vào sự gia tăng về lượng của các yếu tố đầu vào như vốn, sức lao
động. Tại các địa phương cấp tỉnh cũng như trên bình diện quốc gia ở các
nước đang phát triển, tăng trưởng kinh tế thường phải đối mặt với vấn đề về
vốn đầu tư. Trong giai đoạn đầu của quá trình phát triển kinh tế, nhiều địa
phương cấp tỉnh của các nước đang phát triển thường chủ yếu dựa vào sản
xuất nông nghiệp với công nghệ lạc hậu, năng suất thấp, thu nhập thấp và tích
luỹ thấp. Muốn khắc phục được tình trạng đó cần phải có nguồn vốn bổ sung
cho tích lũy. Để có vốn mở rộng hoạt động đầu tư thúc đẩy tăng trưởng kinh
tế có thể dựa vào tích luỹ nội bộ, nhưng trong xu hướng phát triển như hiện
nay nếu chỉ trông chờ vào quá trình tích luỹ nội bộ thì khó tránh khỏi tụt hậu.
39
Như vậy, tranh thủ nguồn lực từ bên ngoài là bước đi được coi là hiệu
quả nhất cho các nước đang phát triển nói chung và từng địa phương nói
riêng, trong đó nguồn vốn FDI đóng vai trò quan trọng đối với tăng trưởng và
phát triển kinh tế. Thực chất của việc làm này là tranh thủ ngoại lực để phát
huy nội lực đẩy nhanh tăng trưởng kinh tế và thu hẹp dần khoảng cách tụt hậu
so với các nước phát triển.
Sự bổ sung về vốn đầu tư từ phía FDI cùng hoạt động của FDI trên thực
tế sẽ thúc đẩy các ngành, địa bàn thu hút FDI phát triển nhanh hơn, từ đó địa
phương nào thu hút được nhiều và sử dụng có hiệu quả FDI sẽ có điều kiện
gia tăng thêm tăng trưởng kinh tế nhiều và nhanh so với các địa phương khác.
Từ đó, có nhiều tiêu chí để đánh giá tác động của FDI đến tăng trưởng kinh tế
trên địa bàn tỉnh thông qua các chỉ tiêu như khối lượng vốn đầu tư của FDI và
khối lượng giá trị gia tăng do FDI tạo ra hàng năm, tỷ trọng của FDI trong
tổng vốn đầu tư và tổng giá trị gia tăng được tạo ra trên địa bàn.
Hai là, FDI có tác động đẩy nhanh quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế
của địa phương cấp tỉnh theo hướng công nghiệp hóa. Nhìn chung xu thế của
FDI từ sau chiến tranh thế giới thứ hai tại các địa phương cấp tỉnh của các
nước đang phát triển là tập trung vào công nghiệp chế biến. Dưới tác động
của quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế tại các nước phát triển, một số ngành
công nghiệp chế biến dần trở nên không có lợi nếu tiếp tục đầu tư trong nước,
do đó trở thành cơ hội cho các nước đang phát triển nói chung và từng địa
phương tiếp nhận nói riêng. Sự tập trung của FDI vào công nghiệp làm cho
công nghiệp tại địa phương tiếp nhận có khả năng phát triển nhanh chóng
vượt trội so với các ngành nông nghiệp và dịch vụ, từ đó nhanh chóng nâng
cao tỷ trọng của công nghiệp trong GDP. Sự phát triển của công nghiệp tất
yếu kéo theo sự phát triển của các ngành dịch vụ, do đó nếu như ban đầu cơ
cấu kinh tế của địa phương tiếp nhận FDI chuyển dịch theo hướng tăng nhanh
tỷ trọng công nghiệp, thì tới trình độ nhất định sẽ kích thích tăng trưởng mạnh
mẽ hơn của các ngành dịch vụ, đặc biệt là các dịch vụ gắn với hoạt động sản
xuất kinh doanh. Từ đó, tiêu chí để đánh giá tác động của FDI đến chuyển
40
dịch cơ cấu kinh tế trên địa bàn tỉnh là đóng góp của FDI vào tăng trưởng của
từng ngành kinh tế và sự chuyển dịch của cơ cấu kinh tế trong điều kiện có sự
tham gia của FDI.
Song song với tác động tới cơ cấu kinh tế giữa các ngành, FDI còn là
yếu tố có tác động mạnh mẽ tới chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong nội bộ từng
ngành. Trong công nghiệp, FDI tạo liên kết các tiểu ngành công nghiệp trên
cơ sở phân công hiệp tác lao động, trong đó các công ty trong nước thường
nắm giữ nguồn nguyên liệu, hàng hoá và dịch vụ cung cấp cho các công ty
nước ngoài trong lĩnh vực công nghiệp; có thể trở thành các DN công nghiệp
hỗ trợ. Ngoài ra, FDI thường tập trung vào các KCN, tạo ra xu hướng các
công ty trong KCN liên kết với nhau nhằm giảm chi phí đầu vào.
Liên kết giữa các ngành công nghiệp được biểu hiện chủ yếu thông qua
quá trình trao đổi trực tiếp giữa các công ty nội địa với các công ty nước
ngoài những hàng hoá và dịch vụ phục vụ cho hoạt động sản xuất, kinh
doanh. Tiêu chí đo lường cơ bản của mối liên kết này là tỷ trọng giá trị trao
đổi hàng hoá và dịch vụ của các công ty nội địa với các công ty nước ngoài
trong tổng giá trị hàng hoá được trao đổi. Tốc độ tăng của tỷ trọng này là cơ
sở để đánh giá mức độ liên kết giữa các công ty trong ngành công nghiệp với
nhau. Khi các TNCs quyết định đầu tư vào một lĩnh vực nào đó ở nước ngoài
thì sự dồi dào về nguyên vật liệu đầu vào ở nước sở tại là một mục tiêu ưu
tiên để lựa chọn ngành đầu tư. Trong khi đó, các công ty nội địa thường nắm
giữ nguồn nguyên liệu này, tất nhiên họ phải hợp tác với nhau, mối liên kết
được thiết lập. Sự liên kết này thông qua các hợp đồng cung cấp nguyên vật
liệu, dịch vụ giữa các công ty trong nước và công ty nước ngoài. Mối liên kết
này sẽ tạo ra năng lực sản xuất mới cho các ngành công nghiệp nội địa và các
công ty trong nước. Sự liên kết trong ngành công nghiệp cao hay thấp hoàn
toàn phụ thuộc vào điều kiện phát triển của nền kinh tế hoặc tính khả thi của
những chính sách thu hút FDI của nước chủ nhà. Chẳng hạn, ở các nước
không có chính sách khuyến khích tỷ lệ nội địa hoá thì năng lực cung cấp
41
hàng hoá và dịch vụ cho các công ty nước ngoài của các công ty trong nước là
rất khó khăn.
Ba là, FDI đối với chuyển giao công nghệ. Công nghệ là yếu tố không thể
thiếu trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội của một quốc gia, cũng như địa
phương. Đối với các nước đang phát triển thì vai trò của công nghệ lại càng
được khẳng định rõ. FDI được coi là kênh quan trọng để phát triển công nghệ
của nước chủ nhà, trong dài hạn đây chính là lợi ích căn bản nhất đối với nước
tiếp nhận đầu tư. Trong chuyển giao công nghệ, hai yếu tố cấu thành chủ yếu là
công nghệ cứng (công nghệ kỹ thuật được nhập vào cùng với thiết bị máy móc)
và công nghệ mềm (chuyên gia kỹ thuật, tri thức, bí quyết quản lý, năng lực
tiếp thị...). Trong hai yếu tố trên thì công nghệ mềm thường khó chuyển giao
hơn vì nhà đầu tư nước ngoài ít muốn chuyển giao. Chuyển giao công nghệ
thông qua con đường FDI thường được thực hiện bởi các TNCs. Tuy nhiên,
việc chuyển giao những công nghệ mới, có tính cạnh tranh cao thường khó
thực hiện được, vì các công ty này sợ lộ bí mật hoặc mất bản quyền công nghệ
do việc bắt chước, cải biến và nhái lại công nghệ của các công ty nước chủ nhà.
Mặc dù vậy, với sự hiện diện của FDI, việc chuyển giao công nghệ thông qua
FDI vẫn được thực hiện cả theo phương diện trực tiếp cũng như gián tiếp. Các
DN nội địa thông qua các quan hệ liên kết hợp tác, thông qua các chính sách
phù hợp về thu hút, sử dụng nhân lực chất lượng cao, có thể tiếp nhận được
không những công nghệ phân cứng, mà cả công nghệ phần mềm từ FDI.
Bên cạnh chuyển giao các công nghệ sẵn có, các dự án FDI còn tham gia
nghiên cứu và phát triển công nghệ của nước chủ nhà, nhờ đó mà năng lực
công nghệ của nước tiếp nhận FDI ngày càng được phát triển và nâng cao
hơn. Mặt khác, trong quá trình sử dụng các công nghệ hiện đại của nước
ngoài đội ngũ chuyên gia cũng như công nhân trong nước học được rất nhiều
kinh nghiệm. Muốn học được công nghệ hiện đại như vậy đòi hỏi lực lượng
lao động trong nước (chuyên gia và công nhân) phải nỗ lực rất nhiều mới có
thể nhanh chóng tiếp thu được công nghệ hiện đại, sau đó cải biến cho phù
hợp với điều kiện của nước mình và biến chúng thành công nghệ của mình.
42
Công nghệ của nước tiếp nhận FDI được cải thiện làm cho năng suất lao động
ngày càng được tăng lên, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế theo hướng bền vững.
Trong tất cả các lĩnh vực sản xuất, thì công nghệ hiện đại có vai trò
quyết định đến năng suất lao động, đặc biệt là trong công nghiệp thì vai trò
của công nghệ cực kỳ quan trọng, nó tác động trực tiếp đến năng lực cạnh
tranh của ngành công nghiệp. Đối với nền kinh tế Việt Nam có xuất phát điểm
thấp, trình độ công nghệ lạc hậu, việc nâng cao trình độ công nghệ thông qua
FDI là bước đi đúng đắn. Tuy nhiên, trong chừng mực nào đó, công nghệ hiện
đại không là giải pháp duy nhất cho tất cả các trường hợp tiếp nhận công
nghệ, vì còn phụ thuộc vào năng lực tiếp nhận của người sử dụng.
Bốn là, tác động của FDI tới phát triển hệ kết cấu hạ tầng kinh tế - kỹ
thuật. Tìm kiếm lĩnh vực và địa bàn đầu tư có khả năng thu lợi nhuận cao là
bản chất của nhà đầu tư nước ngoài, do đó để thu hút và sử dụng hiệu quả
FDI, các nước đang phát triển nói chung và từng địa phương nói riêng buộc
phải dành một số vốn đầu tư từ ngân sách Nhà nước cùng với thu hút thêm
các nguồn vốn khác để tập trung vào xây dựng phát triển hệ thống kết cấu hạ
tầng kinh tế - kỹ thuật, đặc biệt là hệ thống hạ tầng giao thông, mạng lưới
cung cấp, phân phối điện, nước, hệ thống các khu, cụm công nghiệp….
Thực tiễn cho thấy, các địa phương có hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế -
kỹ thuật nói chung và trong từng KCN nói riêng, hoàn thiện hơn luôn có ưu
thế trong thu hút FDI phục vụ phát triển kinh tế - xã hội.
Năm là, FDI đối với xuất nhập khẩu. Xuất nhập khẩu có mối quan hệ mật
thiết với tăng trưởng và phát triển kinh tế. Xuất nhập khẩu tăng hay giảm sẽ tác
động trực tiếp đến tốc độ tăng trưởng kinh tế, khi nền kinh tế tăng trưởng ổn
định là điều kiện tốt nhất thúc đẩy lĩnh vực ngoại thương phát triển. Xuất khẩu
cho phép khai thác tối đa lợi thế so sánh, hiệu quả kinh tế nhờ quy mô, năng
suất cao nhờ chuyên môn hoá sản xuất... Nhập khẩu bổ sung được hàng hoá,
dịch vụ khan hiếm đặc biệt là thiết bị máy móc phục vụ cho sản xuất và tiêu
dùng. Mặt khác, xuất nhập khẩu còn thúc đẩy trao đổi thông tin, dịch vụ, tìm
kiếm thị trường cho các doanh nghiệp nội địa. Vốn FDI vào các nước đang
43
phát triển chủ yếu tập trung đầu tư vào lĩnh vực công nghiệp, nhờ xuất khẩu mà
nước chủ nhà khai thác có hiệu quả hơn các nguồn lực trong nước. Do đó,
khuyến khích đầu tư nước ngoài hướng vào xuất khẩu thường là ưu tiên hàng
đầu trong chính sách thu hút FDI của nước chủ nhà nói chung và từng địa
phương cấp tỉnh nói riêng. Dòng vốn FDI thường đi kèm là máy móc, thiết bị
và công nghệ do vậy mà thúc đẩy nhập khẩu. Ngoài ra, nhập khẩu còn bổ sung
nguồn nguyên liệu thiếu hụt phục vụ cho sản xuất trong nước. Tiêu chí để đánh
giá tác động của FDI đến xuất, nhập khẩu của địa phương cấp tỉnh là đóng góp
của FDI vào giá trị kim ngạch xuất, nhập khẩu của Tỉnh.
Sáu là, tác động của FDI tới nguồn thu ngân sách. Rõ ràng việc thu hút
và sử dụng FDI trước hết có vai trò thúc đẩy hoạt động kinh doanh, tạo thu
nhập. Bản thân sự hiện diện của các DN FDI với tư cách là chủ thể kinh
doanh lớn về hàng hóa, dịch vụ cũng đã tạo nguồn thu ngân sách lớn trực tiếp
từ các khoản đóng góp ngân sách của FDI. Đồng thời, với tác động lan tỏa
thúc đẩy sản xuất kinh doanh của các chủ thể khác, nguồn thu ngân sách của
từng địa phương nói riêng và cả quốc gia nói chung ngày càng được mở rộng.
Do đó, tiêu chí để đánh giá tác động của FDI đến nguồn thu ngân sách của
Tỉnh là đóng góp của FDI cho ngân sách cùng sự gia tăng của nguồn thu ngân
sách địa phương với sự hiện diện của FDI.
Thứ hai, FDI có tác động tích cực tới giải quyết các vấn đề xã hội, đặc
biệt đối với phát triển NNL và tạo việc làm. Việc thu hút FDI của các nước
nói chung và từng địa phương nói riêng có tác động tích cực tới giải quyết
việc làm và phát triển NNL của nước tiếp nhận đầu tư. Để các dự án của mình
hoạt động ngày càng hiệu quả hơn, các nhà đầu tư FDI buộc phải đào tạo đội
ngũ công nhân, cán bộ quản lý làm việc cho mình đã tiết kiệm cho nước chủ
nhà một phần ngân sách nhà nước để đào tạo trong nước như trợ giúp về tài
chính mở các lớp đào tạo dạy nghề trung và dài hạn, mở các lớp huấn luyện
nâng cao nghiệp vụ quản lý,... Ngoài ra, để đáp ứng được yêu cầu về NNL
trong các dự án, DN FDI thường đưa người lao động đi đào tạo ở nước ngoài
để họ tiếp cận được với công nghệ và kinh nghiệm quản lý hiện đại. Trong
44
khi làm việc ở các DN FDI, các chuyên gia kỹ thuật, quản lý trong nước có cơ
hội tiếp cận với các chuyên gia nước ngoài, học được các kinh nghiệm thực
hành từ các chuyên gia này. Mặt khác, do sức ép cạnh tranh nên thị trường lao
động, người lao động trong nước không ngừng nâng cao trình độ chuyên môn
của mình qua học tập và qua công việc, từ đó chất lượng NNL trong nước
được nâng lên. Tiêu chí để đánh giá tác động của FDI đối với phát triển NNL
của địa phương cấp tỉnh là sự thay đổi cơ cấu NNL với xu gia tăng nhân lực
trình độ cao.
FDI là kênh quan trọng tạo việc làm cho người lao động của địa phương
cấp tỉnh. Tiêu chí để đánh giá tác động của FDI đối với tạo việc làm cho
người lao động của địa phương cấp tỉnh là số lượng việc làm do FDI trực tiếp
và gián tiếp tạo ra trên địa bàn tỉnh. Hiện nay, ở các địa phương của Việt Nam
lực lượng lao động làm việc trong khu vực FDI hầu hết là lao động giản đơn
tập trung chủ yếu trong các ngành công nghiệp chế biến, may mặc. Số lao
động trực tiếp trong các dự án FDI ngày càng tăng, nhờ các hoạt động cung
ứng dịch vụ và gia công cho các đối tác nước ngoài. Trong giai đoạn 2000 -
2012, số người lao động trong khu vực FDI ở các địa phương cấp tỉnh của
Việt Nam tăng từ 226,8 nghìn người năm 2000 lên tới 1.714,6 nghìn người
năm 2012 và chiếm 3,3% tổng số người lao động đang làm việc trong nền
kinh tế [98].
Bên cạnh tác động trực tiếp tới tạo việc làm thông qua mở rộng đầu tư
SXKD, sự phát triển mối quan hệ liên kết hợp tác kinh doanh của FDI với các
chủ thể kinh doanh khác cũng góp phần thúc đẩy mở rộng hoạt động của các
chủ thể này, từ đó có tác động to lớn gián tiếp, tạo thêm nhiều việc làm và thu
nhập cho người lao động trong nền kinh tế nước tiếp nhận cũng như cho các
địa phương tiếp nhận FDI.
Qua việc tạo ra ngày các nhiều chỗ làm đã nâng cao thu nhập cho người
lao động. Mức tiền lương tương đối cao có phân biệt trong khu vực FDI đã
gây ra hiện tượng lao động giỏi chạy từ khu vực doanh nghiệp nhà nước ra
DN FDI, đã tạo ra sức ép cạnh tranh trên thị trường lao động, nâng cao chất
45
lượng NNL trong nước. Lao động làm trong khu vực FDI có chất lượng cao
hơn hẳn so với các khu vực khác, thể hiện qua những tiêu chí như: ý thức kỷ
luật lao động, trình độ lao động, khả năng đào tạo và phát triển NNL,... Điều
kiện làm việc tốt hơn do áp dụng tiến bộ khoa học công nghệ, hệ thống quản
lý khoa học,.. đây là những nguyên nhân làm cho năng suất lao động ở khu
vực FDI cao hơn so với các khu vực khác trong nước.
Thứ ba, FDI góp phần bảo vệ môi trường sinh thái. Những DN FDI đến
từ các quốc gia phát triển, đặc biệt là chi nhánh của các NTCs thường có định
hướng xuất khẩu sản phẩm sang các thị trường phát triển là các thị trường khó
tính với yêu cầu về an toàn sản phẩm rất cao, buộc phải lựa chọn sử dụng
công nghệ hiện đại, đảm bảo an toàn vệ sinh môi trường. Do đó, FDI không
những trực tiếp góp phần vào công tác bảo vệ môi trường, mà còn có thể trở
thành hình mẫu, tấm gương về bảo vệ môi trường cho các DN khác noi theo.
2.2.2. Tác động tiêu cực của đầu tư trực tiếp nước ngoài tới phát
triển kinh tế - xã hội trên địa bàn tỉnh
Bên cạnh những tác động tích cực, việc thu hút và sử dụng FDI có thể gây
ra những tác động tiêu cực nhất định đối với phát triển kinh tế - xã hội từng địa
phương, quốc gia tiếp nhận FDI. Những tác động đó thể hiện trên các mặt:
Thứ nhất, về kinh tế, mục tiêu của FDI là tối đa hóa lợi nhuận, do đó nếu
không gặp các rào cản chặt chẽ về kỹ thuật công nghệ, môi trường thì FDI có
thể sử dụng những công nghệ cũ thải loại từ các quốc gia phát triển hơn, từ đó
sẽ hạn chế tác động tích cực của FDI về chuyển giao công nghệ, ngược lại có
thể biến địa phương, quốc gia tiếp nhận FDI trở thành bãi thải của nền công
nghiệp thế giới. Việc nhập khẩu và sử dụng công nghệ lạc hậu của FDI đặc biệt
trở thành nguy cơ rất đáng lo ngại đối với các quốc gia đang phát triển cũng
như từng địa phương trong quốc gia đó, khi nhiều nền kinh tế trên thế giới đã
kết thúc thời kỳ công nghiệp hóa và cần thành lý, thải loại các công nghệ cũ,
lạc hậu đã qua sử dụng.
Bên cạnh đó, vì FDI chỉ tập trung vào những khâu chính yếu trong chuỗi
giá trị gia tăng của sản phẩm, cho nên FDI thường không chú trọng tới phát
46
triển nền sản xuất hỗ trợ. Trong điều kiện nới lỏng dần các quy định bảo hộ
mậu dịch trong xu thế hội nhập ngày càng sâu hơn, việc thực hiện các cam kết
quốc tế về mở cửa thị trường lại tạo thêm thuận lợi cho FDI có thể gia tăng
nhập khẩu các sản phẩm hỗ trợ, từ đó có thể làm giảm tác động tích cực của
FDI đối với phát triển kinh tế - xã hội của địa phương, quốc gia tiếp nhận FDI.
Ngoài ra, với những ưu thế làm chủ công nghệ FDI có thể tạo ra sự lệ
thuộc về kỹ thuật và thị trường đối với nhiều hoạt động sản xuất của địa phương.
Thứ hai, về xã hội, FDI có thể tăng cường bóc lột đối với lao động tại địa
phương như kéo dài thời gian lao động, tiền công thấp, trốn bảo hiểm, thậm
chí vi phạm thân thể và nhân quyền đối với lao động; di chuyển những tiêu
cực như hối lộ và những tệ nạn xã hội khác…tạo ra những bức xúc xã hội gay
gắt, biểu hiện thông qua các cuộc đình công của công nhân trong các DN FDI.
Thực tế cho thấy nguyên nhân trực tiếp của các cuộc đình công trong các DN
FDI thường xuất phát từ lý do chậm điều chỉnh mức lương tối thiểu đã bị
trượt giá.
Đã có không ít công nhân trong các KCN, KCX phàn nàn về việc chủ
DN thường yêu cầu họ đến sớm trước ca làm việc 10 - 15 phút để chuẩn bị và
định mức sản phẩm thường cao đến mức hầu hết công nhân đều phải kéo dài
ca làm việc thêm 30 phút mới hoàn thành. Cứ mỗi năm phút kéo dài của một
ngày làm việc, sau một năm sẽ đem lại cho chủ DN 3,5 ngày lao động không
công của một công nhân. Vẫn còn những quy định bất công mà chủ DN buộc
công nhân phải tuân theo: trả phép chậm một ngày, bị phạt nửa tháng lương.
Tại Công ty Sao Vàng (Hải Phòng), cũng có những quy định tương tự: nếu
công nhân nghỉ không phép một ngày, thì không chỉ bị cắt tiền lương cơ bản
của ngày đó, mà tất cả các khoản phụ cấp trong tháng đều bị cắt; riêng tiền kỹ
năng bị trừ dồn ba tháng liền. Tính ra, mỗi công nhân bị cắt 150 - 200 nghìn
đồng, nếu nghỉ không phép một ngày. Một nghịch lý là tốc độ tăng tiền lương
không tương xứng với tốc độ tăng năng suất và lợi nhuận [99].
Bên cạnh đó, không ít DN FDI đã dùng mức lương tối thiểu mà Nhà
nước đã quy định để trả cho người lao động đã qua đào tạo. Một số DN khác
47
lại xây dựng mức lương bậc 1 chỉ cao hơn lương tối thiểu 1- 2%. Hiện tượng
này chủ yếu xảy ra ở các DN FDI thuộc ngành dệt may và da giày [101].
Thứ ba, vì mục tiêu lợi nhuận FDI có thể sử dụng những biện pháp tinh vi
gây ô nhiễm môi trường. Để đạt được mục tiêu hiệu quả kinh tế FDI luôn tìm
cách giảm chi phí sản xuất, tận dụng khai thác tối đa những công nghệ hiện có.
Tại các nước phát triển những yêu cầu cao về xã hội môi trường đã làm cho các
chi phí về môi trường đối với một số những ngành sản xuất ngày càng tăng
cao, gây bất lợi cho hoạt động đầu tư. Vì vậy, một trong những nguyên nhân
của hoạt động đầu tư trực tiếp ra nước ngoài là sự chuyển đổi cơ cấu kinh tế tại
các nước phát triển với yêu cầu thu hẹp một số ngành truyền thống, trong đó có
những ngành sử dụng các công nghệ gây nhiều ảnh hưởng không tốt tới môi
trường sinh thái. Đối với các nước đang phát triển, do những bức bách về vốn
đầu tư phát triển nên nhiều khi phải chấp nhận sự hiện diện của những công
nghệ cũ tương đối, từ đó có ảnh hưởng xấu đến môi trường.
Trong những năm qua, với sự phát triển của nền kinh tế thị trường mục
tiêu lợi nhuận đã ảnh hưởng đáng kể tới môi trường sinh thái nước ta. Chi phí
xây dựng hệ thống xử lý chất thải cùng với cơ chế hỗ trợ chưa thoả đáng từ
phía Nhà nước cũng là nguyên nhân khiến các nhà đầu tư chậm triển khai các
hệ thống này. Bên cạnh đó, hệ thống pháp luật về bảo vệ môi trường ở nước
ta còn chưa hoàn chỉnh, chưa hình thành hệ thống các quy định thống nhất về
công tác quản lý môi trường theo các loại hình ô nhiễm rắn, lỏng, khí và chưa
thích hợp với đặc điểm của các KCN...
Tóm lại, FDI đóng vai trò rất quan trọng đối với các nước đang phát
triển nói chung và từng địa phương nói riêng. Đối với Việt Nam nói chung và
từng địa phương nói riêng, đây là nguồn lực từ nước ngoài quan trọng cho
phát triển kinh tế - xã hội, việc nhận thức đúng đắn vai trò của nó và có chiến
lược thu hút khả thi trong thời gian tới, sẽ cho phép cả nước cũng như từng
địa phương khai thác hiệu quả hơn nguồn lực này thúc đẩy công nghiệp phát
triển và từng bước hội nhập kinh tế của khu vực và thế giới. Tuy nhiên, không
nên quan niệm FDI là điều kiện duy nhất để các nước nghèo đi lên, là “chìa
48
khoá vạn năng” của sự phát triển. Song song với việc phát huy những tác
dụng tích cực của FDI cần nhận thức rõ những ảnh hưởng không tích cực để
có giải pháp phù hợp với từng điều kiện cụ thể.
2.2.3. Các nhân tố ảnh hưởng tới tác động của đầu tư trực tiếp nước
ngoài đến phát triển kinh tế - xã hội trên địa bàn tỉnh
2.2.3.1. Điều kiện tự nhiên
Điều kiện tự nhiên bao gồm các yếu tố về vị trí địa lý, khí hậu, tài nguyên
thiên nhiên, quy mô dân số...Đây là những yếu tố tác động quan trọng có ảnh
hưởng đến tỷ suất lợi nhuận của các dự án đầu tư. Các yếu tố này thuận lợi sẽ
cung cấp được các yếu tố đầu vào phong phú và giá rẻ cho các hoạt động đầu
tư. Quy mô về dân số sẽ ảnh hưởng đến thị trường tiêu thụ và chất lượng NNL,
đây được coi là lợi thế của các nước đang phát triển thường có dân số đông và
tiền công lao động thấp. Thuận lợi về giao thông là nhân tố hấp dẫn các nhà
đầu tư, không một nhà đầu tư nước ngoài nào quyết định đầu tư vào nơi mà
không thuận lợi về khoảng cách vận chuyển và cách xa nguồn nguyên liệu, vị
trí này thuận lợi sẽ giảm được chi phí đầu vào, thu được lợi nhuận cao. Khí hậu
cũng là nhân tố ảnh hưởng đáng kể tới thu hút FDI, chẳng hạn, khi công nghệ
hiện đại được nhập từ các nước phương Tây, khí hậu ở nước tiếp nhận công
nghệ mà xấu sẽ có tác động đến độ bền của thiết bị và điều kiện sống của các
chuyên gia nước ngoài. Quốc gia nào có vị trí thông thương thuận lợi ở nội địa
cũng như các nước khác, nguồn khoáng sản dồi dào với trữ lượng lớn, nhiều
danh lam thắng cảnh đẹp và dân số đông là một trong những thế mạnh để thu
hút các nhà đầu tư nước ngoài. Trong lĩnh vực công nghiệp, thứ tự ưu tiên của
nhà đầu tư là nguồn nguyên liệu, số lượng và chất lượng NNL, bởi vì thực chất
của dòng vốn FDI chủ yếu tập trung vào lĩnh vực công nghiệp nhờ có ưu thế về
công nghệ hiện đại được chuyển giao từ công ty mẹ cho nên các dự án FDI
thường chảy vào các quốc gia có nhiều tài nguyên phục vụ cho các ngành công
nghiệp chế biến chưa được khai thác nhiều, thêm vào đó là giá công nhân rẻ và
có thuận lợi về vị trí cũng như thị trường.
49
Như vậy, các điều kiện tự nhiên thuận lợi sẽ tạo ra lợi thế tuyệt đối cho
các địa phương cấp tỉnh thu hút và sử dụng FDI, từ đó tạo cơ sở cho tác động
của FDI đến phát triển kinh tế - xã hội trên địa bàn tỉnh. Tuy nhiên, đối với
từng địa phương cấp tỉnh cũng cần chú ý rằng, trong số các điều kiện tự
nhiên, có những lợi thế giảm dần trong quá trình khai thác sử dụng do không
thể tái tạo. Vì vậy, sử dụng điều kiện tự nhiên mà đặc biệt là các nguồn tài
nguyên thiên nhiên để thu hút FDI phải được tính toán kỹ càng, tránh tình
trạng làm cho chúng nhanh chóng cạn kiệt và cùng với điều đó là sự mất cân
bằng sinh thái, sự xuống cấp của môi trường.
2.2.3.2. Trình độ phát triển kinh tế
Hoạt động kinh tế dựa trên cơ sở sử dụng các yếu tố kinh tế bao gồm tư
liệu sản xuất và sức lao động để tạo ra sản phẩm thoả mãn các nhu cầu xã hội.
Hoạt động kinh tế trong từng giai đoạn lịch sử cụ thể thể hiện trình độ chinh
phục thiên nhiên của con người với những quan hệ xã hội giữa con người với
nhau, vì vậy tình độ phát triển kinh tế thể hiện trình độ phát triển của lực
lượng sản xuất và quan hệ sản xuất xã hội thông qua sự phát triển của các yếu
tố cấu thành chúng cùng với những kết quả mà nền sản xuất xã hội đạt được.
Sự phát triển của lực lượng sản xuất thể hiện thông qua trình độ phát
triển của tư liệu sản xuất (kỹ thuật công nghệ thủ công, cơ khí hoá, tự động
hoá), trình độ phân công lao động xã hội; kết cấu hạ tầng kỹ thuật của sản
xuất; số lượng, chất lượng NNL. Sự phát triển của quan hệ sản xuất thể hiện ở
những hình thức sở hữu, thành phần kinh tế, hình thức tổ chức SXKD.
Theo giác độ kết quả của hoạt động kinh tế, trình độ phát triển kinh tế
biểu hiện thông qua tăng trưởng và phát triển kinh tế. Tăng trưởng kinh tế
được hiểu là sự tăng lên về quy mô, sản lượng sản phẩm hàng hoá và dịch vụ
trong một thời kỳ nhất định (thường là một năm) thể hiện thông qua sự gia
tăng của GDP, GNP hoặc GDP/người, GNP/người.
Phát triển kinh tế là một quá trình tăng tiến về mọi mặt của nền kinh tế -
xã hội trong một thời kỳ nhất định. Nó bao gồm cả sự tăng thêm về quy mô
sản lượng (tăng trưởng kinh tế) và sự tiến bộ về cơ cấu kinh tế - xã hội ở từng
50
quốc gia, được biểu hiện là sự tiến bộ, thịnh vượng và cuộc sống tốt đẹp hơn
ở quốc gia đó.
Việc thu hút, sử dụng và phát huy vai trò của FDI trên địa bàn tỉnh
không những phụ thuộc vào trình độ phát triển của nền kinh tế quốc gia nói
chung thể hiện ở mức độ phát triển về quản lý kinh tế vĩ mô, cơ sở hạ tầng,
chất lượng cung cấp dịch vụ và tính cạnh tranh của thị trường, mà còn đặc
biệt là chịu ảnh hưởng lớn từ trình độ phát triển kinh tế của địa phương nói
riêng. Trình độ quản lý vĩ mô kém có thể dẫn tới mất ổn định kinh tế vĩ mô
như lạm phát cao, nợ nước ngoài lớn, tốc độ tăng trưởng kinh tế thấp, nạn
tham nhũng trở thành phổ biến... đây là những nguyên nhân tiềm ẩn cho các
cuộc khủng hoảng kinh tế - xã hội và làm tăng mức độ rủi ro cho hoạt động
đầu tư, do đó có tác dụng làm giảm tính hấp dẫn của môi trường đầu tư.
Mặc dù cùng nằm trong môi trường vĩ mô chung của quốc gia, song trên
địa bàn của từng địa phương cấp tỉnh lại có những khả năng khác nhau về thu
hút, sử dụng và phát huy vai trò của FDI. Sự phát triển của cơ sở hạ tầng và
dịch vụ sẽ tạo ra những điều kiện thuận lợi và giảm những chi phí phát sinh
trong hoạt động đầu tư. Trong những năm gần đây, nhiều địa phương của Việt
Nam đã chú trọng đến đầu tư phát triển cả về cơ sở hạ tầng cứng (giao thông
vận tải, sân bay, cảng, viễn thông...) và cơ sở hạ tầng mềm (chất lượng các
dịch vụ về lao động, tài chính, công nghệ...) thông qua các dự án ODA và vay
nợ nước ngoài. Tuy nhiên, do những hạn chế về nguồn tài chính và trình độ
xuất phát thấp, hệ thống kết cấu hạ tầng nước ta mặc dù đã có bước phát triển
quan trọng nhưng chưa thể phát triển đồng đều mà vẫn thường tập trung ở
một số vùng, những trung tâm kinh tế lớn của cả nước. Do vậy, các địa
phương, tỉnh thành xa các trung tâm lớn, nơi hệ thống kết cấu hạ tầng chưa
phát triển đồng bộ, thuận tiện, vẫn đang phải đối mặt với tình trạng khó thu
hút vốn FDI, từ đó khó có thể hy vọng sử dụng tác động của FDI để đẩy
nhanh phát triển kinh tế - xã hội trên địa bàn tỉnh.
Thị trường của nước chủ nhà có tính cạnh tranh cao thì sẽ giảm được các
rào cản cho nhà đầu tư nước ngoài, vì các nhà đầu tư nước ngoài tự do lựa
51
chọn các lĩnh vực đầu tư mà không bị chi phối bởi tính độc quyền của thị
trường. Các nghiên cứu cho thấy có mối liên hệ mạnh giữa FDI và quy mô
cũng như tốc độ phát triển thị trường…
Hiện nay, chúng ta vẫn thừa nhận rằng nền kinh tế nước ta đang ở trình
độ phát triển thấp, nhân tố hấp dẫn trong thu hút đầu tư là nguồn tài nguyên
thiên nhiên dồi dào và tiền lương trả cho lao động Việt Nam rẻ, lợi thế này sẽ
mất dần trong tương lai khi nguồn tài nguyên ngày càng khan hiếm dần và khi
trình độ lực lượng sản xuất phát triển. FDI vào nước ta trong thời gian qua
mới tập trung chủ yếu vào các ngành sản xuất thu hút nhiều lao động có tay
nghề thấp với công nghệ chủ yếu ở mức trung bình và lạc hậu. Để thực hiện
thành công sự nghiệp CNH, HĐH đất nước trong thời gian tới chúng ta cần
không ngừng cải thiện hệ thống kết cấu hạ tầng, đổi mới đào tạo nhân lực, cải
cách thể chế nhằm từng bước tạo thuận lợi thu hút các dự án FDI vào các
ngành công nghệ cao.
2.2.3.3. Đặc điểm văn hóa - xã hội
Đặc điểm văn hoá - xã hội bao gồm ngôn ngữ, tôn giáo, phong tục tập
quán, trình độ dân trí, tinh thần dân tộc, thị hiếu,... các nhân tố này ảnh hưởng
trực tiếp đến các hoạt động đầu tư nước ngoài. Ngôn ngữ là một trong những
khó khăn cho các nhà đầu tư nước ngoài, sự khác nhau về ngôn ngữ làm khó
khăn trong công tác kinh doanh, dễ gây ra sự hiểu nhầm dẫn đến kinh doanh
kém hiệu quả. Tín ngưỡng tác động mạnh đến quan niệm sống của người dân
về các giá trị cá nhân và xã hội, từ đó ảnh hưởng đến thái độ của nhà đầu tư
như thói quen tiêu dùng và thuần phong mỹ tục có ảnh hưởng đến quy mô thị
trường. Mỗi tôn giáo có cái nhìn rất khác nhau về chuẩn mực xã hội, những
người theo đạo Hồi thường không thích nhìn thấy hình ảnh của người phụ nữ
với trang phục quyến rũ, trong khi đó ở các nước phương Tây thì hoàn toàn
ngược lại họ dùng vẻ đẹp tự nhiên của người phụ nữ để quảng cáo cho sản
phẩm của mình. Phong tục tập quán của từng địa phương cấp tỉnh của nước
tiếp nhận đầu tư có tác động mạnh mẽ đến các hoạt động kinh doanh của các
nhà đầu nước ngoài trên địa bàn tỉnh. Bởi lẽ, phong tục tập quán là nhân tố
52
tinh thần đối với các nhà đầu tư nước ngoài, họ dễ dàng hoà nhập vào cuộc
sống cộng đồng nước sở tại hay không là phụ thuộc vào phong tục tập quán
của nước chủ nhà. Mặt khác, sản phẩm của họ cũng phải tính đến vấn đề có
được thị trường chấp nhận hay không từ đó sẽ có những thay đổi trong chiến
lược kinh doanh của mình.
Trình độ dân trí là một trong những nhân tố quan trọng ảnh hưởng đến
hoạt động SXKD của các nhà đầu tư nước ngoài. Trình độ dân trí cao hay
thấp sẽ tác động trực tiếp đến NNL mà đặc biệt là đội ngũ công nhân kỹ thuật
có tay nghề cao, điều này có ảnh hưởng trực tiếp đến chi phí đầu vào. Nhà
đầu tư nước ngoài bao giờ cũng tính đến NNL của nước tiếp nhận đầu tư có
đáp ứng được yêu cầu SXKD của họ hay không. Nhóm nhân tố này tạo ra sức
hấp dẫn nhất định đối với các nhà đầu tư nước ngoài. Trình độ dân trí thấp đã
trở thành lực cản cho sự phát triển của xã hội, hạn chế khả năng mở rộng kinh
doanh của DN. Những tập quán sản xuất manh mún nhỏ lẻ với tâm lý tiểu
nông đã và đang cản trở sự hình thành tác phong công nghiệp cho nguồn lao
động nước ta, gây khó khăn không nhỏ cho hoạt động quản lý vi mô ở các DN
nói chung và các DN FDI nói riêng. Vì vậy, để thu hút ngày càng nhiều nguồn
vốn nước ngoài trong đó đặc biệt là nguồn vốn FDI và phát huy tác động tích
cực của FDI đến phát triển kinh tế - xã hội của địa phương, các địa phương
cấp tỉnh cần phải không ngừng nâng cao dân trí, xoá bỏ những tập quán sản
xuất lạc hậu, thúc đẩy sự hình thành đội ngũ người lao động có chuyên môn
và có kỷ luật lao động cao.
2.2.3.4. Cơ chế chính sách của tỉnh về thu hút, sử dụng đầu tư trực
tiếp nước ngoài
Các hoạt động FDI không những chịu ảnh hưởng trực tiếp bởi các chính
sách của nước chủ nhà quy định về lĩnh vực đầu tư, bảo hộ quyền sở hữu trí
tuệ, chính sách ưu đãi đầu tư, chính sách tiền tệ, thương mại... mà còn phụ
thuộc rất lớn vào việc triển khai thực hiện những cơ chế chính sách đó tại địa
phương, trong đó có cấp tỉnh. Tính hợp lý của các chính sách này, đặc biệt
thông qua triển khai thực hiện gắn với sự năng động sáng tạo của địa phương
53
cấp tỉnh sẽ là yếu tố vô cùng quan trọng đảm bảo lợi ích của các nhà đầu tư
nước ngoài, do đó sẽ có tác dụng trực tiếp đến các DN FDI. Tính minh bạch
và bình đẳng của những chính sách và hệ thống pháp luật là nhân tố hấp dẫn
đối với nhà đầu tư nước ngoài. Trong đó chính sách ưu đãi đầu tư là công cụ
nhằm thu hút FDI hoặc định hướng đầu tư theo những mục tiêu phát triển
nhất định. Chính sách ưu đãi đầu tư tác động trực tiếp đến việc khai thác, phát
huy các nguồn lực bên trong và thu hút các nguồn lực bên ngoài. Mặt khác,
chính sách ưu đãi đầu tư còn tác động đến sự phân bổ các nguồn lực một cách
đúng hướng và đạt hiệu quả cao.
Việc xây dựng chính sách ưu đãi đầu tư chủ yếu là công việc của Chính
phủ. Tuy nhiên, vai trò của chính quyền địa phương là hết sức quan trọng
trong việc thực thi và vận dụng sáng tạo, bằng cơ chế chính sách riêng trong
khuôn khổ cho phép. Vấn đề là ưu đãi phải cụ thể, thiết thực, có tính khả thi,
đặc biệt là phải nhất quán và có xu hướng mở rộng theo hướng đồng bộ cho
hoạt động FDI nói riêng cũng như cho sự vận hành của nền kinh tế nói chung.
2.3. KINH NGHIỆM PHÁT HUY TÁC ĐỘNG TÍCH CỰC, HẠN
CHẾ TÁC ĐỘNG TIÊU CỰC CỦA ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC
NGOÀI ĐỐI VỚI PHÁT TRIỂN KINH TẾ -XÃ HỘI Ở MỘT SỐ TỈNH
TRONG NƯỚC VÀ QUỐC GIA TRÊN THẾ GIỚI
2.3.1. Kinh nghiệm một số tỉnh trong nước
2.3.1.1. Kinh nghiệm của Bắc Ninh
Tỉnh Bắc Ninh với lợi thế về vị trí địa lý có khả năng liên kết vùng và
khu vực thuận lợi, có nguồn nhân lực chất lượng. Để tăng cường tác động tích
cực của FDI trước hết lãnh đạo tỉnh đã chú trọng tạo nên một môi trường hấp
dẫn để thu hút FDI, đặc biệt là các nhà đầu tư nước ngoài có uy tín, công nghệ
cao như FDI từ Nhật Bản, Hàn Quốc...Tính đến hết năm 2011, đã có 339 đơn
vị FDI trong đó 322 dự án FDI và 17 chi nhánh, văn phòng đại diện với tổng
vốn đầu tư đăng ký là 3,9 tỷ USD. Năm 2013, toàn tỉnh cấp mới giấy chứng
nhận đầu tư cho 95 DN, chi nhánh, văn phòng đại diện có vốn đầu tư nước
ngoài; cấp điều chỉnh tăng vốn 32 lượt dự án, nâng tổng vốn đầu tư đăng ký
54
sau điều chỉnh 1.592,73 triệu USD; Cấp giấy chứng nhận nhà đầu tư mới 31
dự án và thực hiện xác nhận đầu tư 27 dự án đầu tư trong nước, tổng vốn đầu
tư đăng ký 4.2525 tỷ đồng; Cấp giấy chứng nhận đăng ký 604 DN, 36 chi
nhánh và văn phòng đại diện, tổng vốn đăng ký 2.538,5 tỷ đồng. Luỹ kế đến
nay, trên địa bàn có 459 đơn vị đầu tư trực tiếp nước ngoài còn hiệu lực, tổng
vốn đầu tư đăng ký sau điều chỉnh 5.958 triệu USD;
Cho đến nay, đã có nhiều tập đoàn đa quốc gia danh tiếng thế giới đầu tư
vào tỉnh Bắc Ninh như: Tập đoàn Samsung với Dự án “Khu tổ hợp công nghệ
Samsung” tại KCN Yên Phong với tổng vốn đầu tư 670 triệu USD, Tập đoàn
Nokia với Dự án Nhà máy sản xuất điện thoại di động tại KCN VISIP với tổng
vốn đầu tư 302 triệu USD, Tập đoàn Canon với 2 dự án đầu tư sản xuất máy in,
linh kiện điện tử tại KCN Tiên Sơn và KCN Quế Võ với tổng vốn đầu tư 130
triệu USD… Đặc biệt với riêng mặt hàng điện thoại di động, Bắc Ninh hiện
được biết đến như “Thánh địa sản xuất điện thoại di động của khu vực và thế
giới”. Đầu tư trực tiếp nước ngoài đã góp phần quan trọng đem lại một diện
mạo mới cho nên kinh tế của tỉnh, góp phần hình thành một số ngành công
nghiệp mũi nhọn như: công nghiệp điện tử, công nghiệp công nghệ cao, phát
triển cơ sở hạ tầng…, góp phần tăng thu ngân sách, tạo công ăn việc làm và
chuyển dịch cơ cấu nền kinh tế của tỉnh với mục tiêu đưa Bắc Ninh liên kết với
Hà Nội trở thành một trung tâm lớn của cả nước về công nghiệp điện tử, công
nghiệp phụ trợ và công nghiệp công nghệ cao.
Khu vực kinh tế có vốn FDI cũng góp phần vào chuyển dịch cơ cấu giá
trị sản xuất của tỉnh. Giá trị sản xuất công nghiệp (GTSXCN) khu vực FDI:
Giai đoạn 2001-2005: đạt 5.184 tỷ đồng (giá cố định), chiếm 23,6 % tổng
GTSXCN toàn tỉnh; Giai đoạn 2006-2010: đạt 43.681 tỷ đồng, chiếm 46,2 %
tổng GTSXCN toàn tỉnh. Giá trị sản xuất khu vực FDI tăng với tốc độ nhanh
qua các năm: Năm 2001 đạt 842 tỷ đồng (giá cố định), năm 2005 đạt 1.462 tỷ
đồng và năm 2010 đạt 22.859 tỷ đồng (chiếm 62% GTSXCN toàn tỉnh năm
2010); 9 tháng đầu năm 2011, GTSXCN FDI đạt 32.004 tỷ đồng (chiếm
72,9%). Xuất khẩu của khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài tăng nhanh
55
và đóng vai trò quan trọng thúc đẩy gia tăng tổng kim ngạch xuất khẩu của
Bắc Ninh. Giai đoạn 2001-2005, kim ngạch xuất khẩu khu vực FDI đạt 54,85
triệu USD, chiếm 18,9% kim ngạch xuất khẩu của cả tỉnh; Giai đoạn 2006 -
2010, kim ngạch xuất khẩu khu vực FDI đạt 2.281 triệu USD, chiếm 51,67%
kim ngạch xuất khẩu của cả tỉnh; 9 tháng đầu năm 2011, kim ngạch xuất khẩu
đạt 2.761 triệu USD, chiếm 97,7% tổng kim ngạch xuất khẩu. Năm 2013 kim
ngạch xuất khẩu của DN có vốn đầu tư nước ngoài ước 22.882 triệu USD.
Tỷ lệ kim ngạch xuất khẩu của khu vực FDI trong kim ngạch xuất khẩu
của cả tỉnh đã tăng với tốc độ cao, từ 0,2% vào năm 2001 lên 38,4% vào năm
2005, năm 2010 đạt 66,8%, năm 2013 - 99,3%.
Đầu tư nước ngoài của Bắc Ninh đã đóng góp ngày càng lớn vào nguồn
thu ngân sách của tỉnh. Nộp ngân sách của khu vực đầu tư nước ngoài đạt 259
tỷ đồng thời kỳ 2001-2005, chiếm 8% tổng thu ngân sách toàn tỉnh; Giai đoạn
2006-2010, nộp ngân sách khu vực FDI đạt 1.565 tỷ đồng, chiếm 10,7% tổng
thu ngân sách toàn tỉnh. Số nộp ngân sách khu vực FDI tăng nhanh qua từng
năm: Năm 2001, khu vực FDI nộp ngân sách 47.03 tỷ đồng, năm 2006 tăng
lên 150 tỷ đồng và năm 2010 đạt 521 tỷ đồng.
Khu vực đầu tư nước ngoài góp phần giải quyết việc làm, tăng thu nhập
cho người lao động. Năm 2006, DN FDI đã tạo việc làm cho 7.699 người lao
động, chiếm 12% tổng số lao động trong các DN toàn tỉnh. Đến năm 2010, số
lượng người lao động làm việc cho các DN FDI đã tăng lên 36.800 người,
chiếm 30,9% tổng số lao động trong các DN toàn tỉnh [94].
Bên cạnh đó, Chính quyền Tỉnh cũng chủ động thực hiện các biện pháp
hạn chế tác động tiêu cực của FDI. Những dự án FDI không đạt hiệu quả
mong muốn như các dự án dừng hoạt động hoặc không triển khai thực hiện đã
bị thu hồi giấy phép đầu tư. Nếu xét tương quan một số chỉ số như: hiệu quả
đầu tư của vốn FDI trên phương diện đóng góp vào tốc độ tăng trưởng GDP
của tỉnh, hay số thu nộp ngân sách hàng năm trên tổng vốn đăng ký đầu tư thì
chỉ số của Bắc Ninh vẫn còn chưa cao. Ngoài ra, một số DN FDI còn bộc lộ
một số hạn chế khác như: tranh chấp về quyền lợi giữa công nhân với chủ sử
56
dụng lao động, an toàn lao động, gây ô nhiễm môi trường, vay nợ và không
có khả năng thanh toán…Thực trạng đó đã ảnh hưởng nhất định đến môi
trường đầu tư của tỉnh, hạn chế việc mở rộng đầu tư của các dự án đầu tư đã
thực hiện, đồng thời làm suy giảm hiệu quả thu hút đầu tư đối với các nhà đầu
tư nước ngoài chưa vào tỉnh.
Để phát huy tác động tích cực và giảm thiểu tác động tiêu cực của FDI
Bắc Ninh đã không ngừng nỗ lực hoàn thiện quy hoạch, cải thiện môi trường
đầu tư. Trong những năm qua, tỉnh đã thực hiện đầy đủ những chính sách ưu
đãi đầu tư vào các KCN tập trung và ngoài KCN theo quy định hiện hành,
thường xuyên tổ chức gặp mặt đối thoại cùng tháo gỡ khó khăn với các DN
FDI. Ngoài ra, việc quy hoạch các KCN tập trung, khu, CCN vừa và nhỏ được
thực hiện tốt tạo điều kiện về cơ sở hạ tầng thuận lợi cho nhà đầu tư.
Trong quá trình thụ lý hồ sơ dự án đề nghị cấp Giấy CNĐT, các ngành
chức năng như: Sở Kế hoạch-Đầu tư, Ban Quản lý các KCN tỉnh luôn tuân
thủ, quy trình thủ tục cấp giấy CNĐT theo quy định nhằm rút ngắn thời gian
thụ lý hồ sơ so với quy định của Nhà nước. Thực hiện chức năng kiểm tra,
giám sát tình hình triển khai thực hiện của các dự án, Sở Kế hoạch - Đầu tư,
Ban quản lý các KCN tỉnh đã tổ chức rà soát, phân loại các dự án có vốn FDI
trên địa bàn tỉnh chậm triển khai và không có khả năng thực hiện báo cáo Bộ
Kế hoạch - Đầu tư và UBND tỉnh Bắc Ninh. Chủ động phát hiện và giải quyết
các khó khăn, vướng mắc cho nhà đầu tư trong các lĩnh vực lao động, môi
trường, đất đai…
Để tăng cường thu hút FDI và quản lý tốt những dự án FDI đã và đang
hoạt động, Bắc Ninh đã có nhiều cố gắng trong việc chuẩn bị sẵn sàng mặt
bằng sản xuất thông qua việc hoàn thiện quy hoạch và triển khai đầu tư hạ
tầng KCN tập trung, các CCN nhỏ. Ưu tiên các dự án công nghiệp sạch, công
nghệ cao, thân thiện với môi trường và đầu tư theo hình thức Hợp đồng xây
dựng-kinh doanh-chuyển giao(BOT), hợp đồng xây dựng-chuyển giao-kinh
doanh (BTO), hợp đồng xây dựng-chuyển giao (BT)… đối với các lĩnh vực
giao thông, y tế, bảo vệ môi trường. Triển khai chính sách hỗ trợ đầu tư, chính
57
sách khuyến khích đầu tư theo quy định của Chính phủ và quy định của tỉnh.
Thực hiện cải cách thủ tục hành chính đối với nhà đầu tư theo hướng ngày
càng thông thoáng, minh bạch. Đặc biệt, hạn chế các dự án đầu tư vào khu
vực phi sản xuất, khai thác không gắn với chế biến. Không cấp giấy CNĐT
đối với các dự án sử dụng lãng phí năng lượng, tài nguyên, sử dụng công
nghệ lạc hậu, gây ô nhiễm môi trường. Hoàn thiện cơ sở hạ tầng phục vụ triển
khai dự án như: Giao thông, cấp điện, cấp thoát nước, nhà ở cho người lao
động…Thực hiện đề án NNL chất lượng cao để đáp ứng nhu cầu tuyển dụng
của các DN FDI. Phối hợp với các Bộ, ngành chức năng nghiên cứu đổi mới
phương thức xúc tiến đầu tư theo hướng có trọng tâm, trọng điểm vào các đối
tác tiềm năng, bảo đảm tính thống nhất, liên vùng, liên ngành và mang tính
chuyên đề…
Trong thời gian qua, tỉnh Bắc Ninh đã thực hiện triển khai các hoạt động
về công tác xúc tiến thu hút đầu tư nước ngoài như: Môi trường đầu tư - kinh
doanh luôn được cải thiện theo hướng thông thoáng, minh bạch và hấp dẫn
các nhà đầu tư, được thể hiện qua chỉ số năng lực môi trường cạnh tranh cấp
tỉnh (PCI) của tỉnh xếp thứ 6/63 tỉnh năm 2010; Thực hiện tốt cơ chế “một
cửa” trong cấp giấy CNĐT tại Sở Kế hoạch-Đầu tư, Ban quản lý các KCN
tỉnh. Hỗ trợ nhà đầu tư một cách hiệu quả trong việc cung cấp thông tin liên
quan đến dự án đầu tư, hướng dẫn thủ tục đầu tư, xây dựng và triển khai dự
án; thực hiện biên soạn tài liệu giới thiệu môi trường đầu tư, thường xuyên
điều chỉnh, bổ sung danh mục dự án gọi vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài.
Bên cạnh đó, công tác quản lý, giám sát được thực hiện có kế hoạch,
thường xuyên, chặt chẽ và đồng bộ sẽ đảm bảo dự án đầu tư được thực hiện
đúng theo các quy định của pháp luật, đúng tiến độ, hạn chế được các tác hại
về môi trường, chống các hoạt động chuyển giá trốn thuế…
2.3.1.2. Kinh nghiệm của tỉnh Hải Dương
Hải Dương là một tỉnh thuộc đồng bằng sông Hồng với điện tích 1.662
km2, là một trong bảy tỉnh nằm trong vùng kinh tế trọng điểm phía Bắc, tiếp
giáp với sáu tỉnh: Bắc Ninh, Bắc Giang, Quảng Ninh, Thái Bình, Hải Phòng,
58
Hưng Yên. Trong 7 năm trở lại đây, kinh tế Hải Dương đạt tốc độ tăng trưởng
khá cao, bốn năm liền tăng trưởng liên tục (hơn 10%), cao nhất 2007 tăng
11,5%, năm 2009 giảm xuống còn 6,0% do chịu tác động của cuộc khủng
hoảng kinh tế thế giới bắt đầu từ cuối năm 2008, song nhờ có giải pháp và
chính sách hỗ trợ kịp thời của Chính phủ trong việc kích cầu đầu tư và các
DN…vì vậy cùng với kinh tế cả nước, kinh tế Hải Dương đã khôi phục nhanh
chóng, năm 2010 tăng 10,1%. Năm 2011 tăng 9,3%, tuy không đạt mục tiêu
so với kế hoạch nhưng vẫn giữ được mức tăng trưởng khá. Quy mô tổng sản
phẩm trên địa bàn tỉnh năm 2011đạt 39.028 tỷ đồng, tăng 2,92 lần so với năm
2005 (13.334 tỷ đồng). Trong đó khu vực nông, lâm, thủy sản đạt 8.986 tỷ
đồng; khu vực công nghiệp, xây dựng đạt 17.811 tỷ đồng; khu vực dịch vụ đạt
12.231 tỷ đồng. Tốc độ trung bình của khu vực công nghiệp và xây dựng giai
đoạn 2006-2010 tăng 11,6%/năm. Cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng tiến
bộ, tuy không nhanh nhưng bền vững, phù hợp với sự nghiệp CNH, HĐH
trong tỉnh. Năm 2005 cơ cấu ngành nông, lâm, ngư nghiệp là 27,1%; công
nghiệp, xây dựng là 43,6%; dịch vụ là 29,3%, đến năm 2011 cơ cấu ngành
tương ứng là 23.0%; 45,6%; 31,4%. Những thành tựu phát triển kinh tế của
Hải Dương có sự đóng góp không nhỏ của việc thu hút, sử dụng FDI.
Theo số liệu của Sở Kế hoạch-Đầu tư tỉnh Hải Dương, tính đến hết ngày
31/3/2013, trên địa bàn tỉnh Hải Dương có 247 dự án đầu tư nước ngoài đến
từ 23 quốc gia và vùng lãnh thổ, với tổng vốn đầu tư đăng ký là 5.693,7 triệu
USD; tổng vốn đầu tư thực hiện của các DN FDI đạt 2.505,9 triệu USD.
Điểm nổi bật của khu vực đầu tư trực tiếp nước ngoài ở Hải Dương, đó
là mặc dù sản xuất, kinh doanh của các DN nói chung vẫn gặp nhiều khó
khăn, nhưng trong số 247 dự án FDI được cấp giấy CNĐT còn hiệu lực trên
địa bàn, có tới 192 DN đã đi vào hoạt động. Doanh thu trong quý I/2013 của
các DN FDI ước đạt 700 triệu USD, tăng 19,6 % so với cùng kỳ năm 2012;
trong đó doanh thu xuất khẩu ước đạt 600 triệu USD, tăng 22,2% so với cùng
kỳ 2012. Đây là một kết quả tích cực. Cũng nhờ hoạt động SXKD tiếp tục
tăng trưởng, nên trong quý I, khu vực kinh tế này đã thực hiện nghĩa vụ thuế
59
và các khoản phải nộp ngân sách nhà nước đạt 20 triệu USD; đảm bảo việc
làm cho 110.300 người lao động. Với kết quả này, dự kiến cả năm 2013 Hải
Dương sẽ thu hút thêm được 250 triệu USD vốn đầu tư; vốn đầu tư thực hiện
ước đạt 250 triệu USD; doanh thu ước đạt 2.900 triệu USD và nộp ngân sách
đạt khoảng 100 triệu USD.
Trong cơ cấu đầu tư, các nhà đầu tư trên địa bàn tỉnh tập trung chủ yếu
vào lĩnh vực công nghiệp và xây dựng, với 200 dự án, với các ngành nghề
tiêu biểu như sản xuất các sản phẩm điện và điện tử, lắp ráp ô tô, sản xuất xi
măng, sắt thép, gia công hàng dệt may, cơ khí chế tạo, thiết bị cơ khí chính
xác... Khu vực dịch vụ có 21 dự án tập trung vào giao thông vận tải, kinh
doanh khách sạn, siêu thị... Khu vực nông nghiệp có số dự án thấp nhất do
nhiều nguyên nhân, trong đó có nguyên nhân về nguy cơ rủi ro, ảnh hưởng
của thời tiết, khó khăn khi thu mua nguyên liệu đầu vào [95].
Nhìn chung, thời gian qua, khu vực FDI đã góp phần tạo ra năng lực sản
xuất mới, hình thành các ngành nghề mới, công nghệ sản xuất, quản lý mới và
các sản phẩm mới có tính cạnh tranh cao trên thị trường. Đồng thời, góp phần
thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế của Hải Dương theo hướng CNH, HĐH,
tạo điều kiện khai thác các nguồn lực của địa phương mà trước đây còn ở
dạng tiềm năng như đất đai, nhà xưởng, NNL.
Để phát huy tác động tích cực và giảm thiểu tác động tiêu cực của FDI,
tỉnh Hải Dương đã cố gắng xây dựng và phát triển đồng bộ kết cấu hạ tầng như
giao thông, điện, nước, bưu chính viễn thông; các ngành công nghiệp phụ trợ
và hạ tầng xã hội, dịch vụ nhằm đáp ứng nhu cầu của các DN. Bố trí, sắp xếp
dự án theo quy hoạch về đất đai cũng như quy hoạch ngành; trong quá trình lập
quy hoạch các KCN, CCN đã từng bước chú ý các vấn đề về môi trường, cấp
thoát nước..., cải thiện môi trường đầu tư tại các khu vực thị trấn, huyện thị và
nông thôn. Tỉnh đã tập trung thu hút đầu tư để sớm lấp đầy các KCN, CCN đã
được quy hoạch chi tiết. Ngoài các KCN, CCN đã nằm trong quy hoạch, thì
chưa quy hoạch phát triển thêm các KCN, CCN mới. Khi tỷ lệ lấp đầy chung
60
đạt từ 70% trở lên mới nghiên cứu để bổ sung thêm. Khuyến khích các DN xây
dựng nhà xưởng 2-3 tầng để nâng cao hiệu quả sử dụng đất.
Trong thời gian qua, tỉnh đã tập trung thu hút và phát triển các ngành
công nghiệp có thị trường, có lợi thế cạnh tranh nhằm tiếp nhận chuyển giao
công nghệ, từng bước vươn lên sản xuất linh kiện, phụ tùng để tiến tới sản
xuất hoàn chỉnh một số thiết bị, sản phẩm công nghiệp với công nghệ cao tại
địa phương, tăng cường thu hút đầu tư vào lĩnh vực phát triển cơ sở hạ tầng
kinh tế, xã hội.
Thực hiện cải cách hành chính, nhất là thủ tục hành chính, trách nhiệm
công vụ của cán bộ công chức trong việc giải quyết các thủ tục đầu tư, đất đai,
xây dựng, xuất nhập khẩu, lao động, môi trường…, nhằm loại bỏ phiền hà,
tạo điều kiện thời gian nhanh nhất cho các nhà đầu tư khi thực hiện dự án.
Quan tâm và tạo điều kiện thuận lợi cho các nhà đầu tư trong hoạt động sản
xuất, kinh doanh, tạo mối liên hệ chặt chẽ giữa cơ quan quản lý nhà nước và
DN, tạo dựng và củng cố lòng tin để các nhà đầu tư nước ngoài yên tâm sản
xuất kinh doanh tại Hải Dương.
Tỉnh đã quan tâm đẩy mạnh đào tạo NNL, đặc biệt NNL chất lượng cao
đáp ứng nhu cầu của DN và xã hội. Phát triển các cơ sở, trang thiết bị và dịch
vụ y tế tiên tiến hiện đại, đáo ứng nhu cầu đa dạng của người dân và DN FDI.
Chuẩn bị tốt các điều kiện xã hội như dịch vụ khách sạn, nhà hàng; vui chơi
giải trí v.v..., để phục vụ nhu cầu của các nhà đầu tư và người lao động làm
việc trong các KCN, CCN. Đồng thời, quan tâm giải quyết tốt vấn đề đời
sống nhân dân vùng giao đất để làm KCN, CCN.
Bên cạnh đó đã từng bước tạo môi trường thuận lợi cho các loại hình
dịch vụ như tài chính, thị trường vốn, kinh doanh tài sản và dịch vụ tư vấn,
kiểm toán, xúc tiến thương mại. Hình thành và từng bước mở rộng thị trường
vốn trên địa bàn; đẩy mạnh các hoạt động tài chính, ngân hàng và các tổ chức
tín dụng phi ngân hàng. Tạo môi trường, điều kiện thành lập công ty đầu tư tài
chính, tham gia thị trường chứng khoán; khuyến khích, hỗ trợ các doanh
61
nghiệp phát hành trái phiếu công ty; phát triển các loại hình tín dụng phù hợp
với từng ngành, từng lĩnh vực.
2.3.1.3. Kinh nghiệm của tỉnh Hưng Yên
Trong giai đoạn 2001- 2005 Hưng Yên đã đạt được những thành tựu
đáng kể về phát triển kinh tế. Tăng trưởng kinh tế GDP bình quân
12,28%/năm. Cơ cấu kinh tế năm 2005: Nông nghiệp 30,5%; Công nghiệp,
xây dựng 38%; Dịch vụ 31,5%. Thu nhập bình quân đầu người đạt 550 USD.
Công nghiệp phát triển nhanh. Giá trị sản xuất tăng bình quân 26,7%/năm.
Năm 2005, sản xuất công nghiệp vẫn duy trì tốc độ tăng cao. Giá trị sản xuất
công nghiệp ước 7.700 tỷ đồng, đạt 100,9% kế hoạch, tăng 30% so cùng kỳ.
Xuất khẩu tiếp tục tăng, kim ngạch xuất khẩu đạt 210,4 triệu USD vượt kế
hoạch 0,2%, tăng 15,4% so với cùng kỳ. Đóng góp vào kết quả trên có phần
đáng kể của các DN FDI.
Cho đến nay, Hưng Yên đã tiếp nhận 410 dự án đầu tư với tổng số vốn
đăng ký 1.223 triệu USD, trong đó có 160 dự án (chiếm 39% tổng số dự án)
đã đi vào hoạt động. Các dự án đầu tư nước ngoài có số lượng là 56 (chiếm
13,66% tổng số dự án) với tổng số vốn đăng ký 225,8 triệu USD (18,46%
tổng vốn đầu tư) trong năm 2005 đã đóng góp vào GTSXCN của tỉnh 2.846 tỷ
đồng (36,96% tổng GTSXCN), kim ngạch xuất khẩu đạt 98,6 triệu USD
(46,86% kim ngạch xuất khẩu của tỉnh)[32]. Những kết quả tích cực của các
DN FDI kể trên xuất phát từ những nguyên nhân: có trình độ công nghệ và
kinh nghiệm quản lý tiên tiến, có những chiến lược tiêu thụ sản phẩm phù hợp
với thị hiếu người tiêu dùng, tăng cường năng lực cạnh tranh, cải tiến mẫu
mã, nâng cao chất lượng sản phẩm, thị trường tiêu thụ được mở rộng; nhiều
sản phẩm có khả năng cạnh tranh tốt trên thị trường trong và ngoài nước như:
xe máy, quần áo may sẵn, thép xây dựng, thức ăn gia súc ...
Để phát huy hiệu quả nguồn vốn FDI, Hưng Yên đã chủ trương đặc biệt
khuyến khích đối với các dự án đầu tư vào các lĩnh vực công nghệ hiện đại, có
khả năng thúc đẩy các ngành khác cùng phát triển; các dự án sớm có hiệu quả
và đóng góp nhiều cho ngân sách; các dự án nuôi trồng, chế biến nông sản thực
62
phẩm sử dụng nguyên liệu địa phương; các dự án giải quyết nhiều lao động tại
chỗ. Tập trung khuyến khích các dự án sử dụng nhiều lao động vào khu vực
các huyện phía Nam như các dự án sản xuất, chế biến hàng xuất khẩu. Cho
phép các dự án FDI được hưởng các chính sách ưu đãi đầu tư ở mức tối đa theo
các quy định của Chính phủ. Thủ tục cấp ưu đãi đầu tư đơn giản, nhanh chóng.
Đối với các dự án đặc biệt khuyến khích đầu tư theo phương hướng phát triển
kinh tế của tỉnh, có thể được tỉnh cho phép hưởng thêm các ưu đãi như: hỗ trợ
một phần kinh phí đào tạo nghề; hỗ trợ một phần kinh phí đền bù, làm hạ
tầng,...; tăng thời gian được miễn, giảm tiền thuê đất [96].
Các chính sách thúc đẩy thu hút FDI vào phát triển công nghiệp đã và
đang được thực hiện bao gồm:
Một là, về chính sách đất đai, tạo mặt bằng SXKD. Tỉnh đã giành các vị
trí thuận lợi nhất để quy hoạch các KCN, tạo điều kiện thuận lợi cho các
doanh nghiệp có nhu cầu thuê đất làm mặt bằng SXKD. Các thủ tục thuê đất
được rút gọn, đơn giản hóa nhưng vẫn đảm bảo đúng quy định của pháp luật.
Hiện nay, Ban quản lý các KCN của tỉnh là cơ quan đầu mối tiếp nhận và
quản lý các dự án đầu tư vào các KCN hoạt động theo quy chế KCN tập
trung, Sở Kế hoạch-Đầu tư có chức năng là cơ quan đầu mối giúp UBND tỉnh
thực hiện tiếp nhận các dự án đầu tư vào các khu vực nằm ngoài KCN, phối
hợp với các sở, ngành chức năng khác như Sở Xây dựng và các sở quản lý
các ngành kinh tế kỹ thuật trong việc thẩm định các dự án đầu tư xin thuê đất
của DN; phối hợp cùng Sở Tài nguyên môi trường trong việc thực hiện các
thủ tục cho DN thuê đất tạo mặt bằng SXKD một cách thuận lợi nhất.
Hai là, về chính sách hỗ trợ về đào tạo, khoa học công nghệ. Để hỗ trợ
doanh nghiệp về đào tạo lao động, tỉnh đã khuyến khích các thành phần kinh
tế tham gia đầu tư cho các dự án dạy nghề. Các dự án dạy nghề đã được đặc
biệt khuyến khích và tạo điều kiện thuận lợi về mọi mặt như: mặt bằng, tín
dụng, thủ tục…Các trường, các trung tâm dạy nghề công lập của tỉnh cũng
được đầu tư xây dựng mới và mở rộng, năng cao chất lượng đào tạo.
63
Ba là, về chính sách hỗ trợ thông tin, xúc tiến thương mại. Các thông tin
về quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh, các thông tin về chính sách,
pháp luật của Nhà nước đều được công khai hóa, doanh nghiệp và công dân
có thể dễ dàng tiếp cận. Trung tâm xúc tiến thương mại thuộc Sở Thương mại
đã được thành lập và đang triển khai hoạt động, hệ thống thông tin về doanh
nghiệp trong tỉnh đang từng bước hoàn thiện và sẵn sàng cung cấp theo yêu
cầu của các tổ chức, cá nhân.
Bốn là, thực hiện cải cách thủ tục hành chính. Trong tiếp nhận dự án đầu
tư, khi biết được các nhà đầu tư muốn đầu tư vào những địa phương có môi
trường đầu tư thuận lợi, tỉnh đã chỉ đạo các sở ban ngành liên quan phải tinh
giản các thủ tục hành chính khi tiếp nhận các dự án đầu tư ngay từ những ngày
đầu tái lập tỉnh. Giao cho Sở Kế hoạch-Đầu tư là đầu mối duy nhất tiếp nhận
dự án đầu tư ngoài nước, phối hợp với các cơ quan chức năng giải quyết các
vướng mắc, kiến nghị của chủ đầu tư trong quá trình thực hiện dự án, theo dõi
xử lý các tranh chấp phát sinh trong hoạt động của DN, kịp thời đề xuất với
UBND tỉnh quyết định những vấn đề vượt thẩm quyền. Rút ngắn thời gian
thẩm định cấp phép hoặc chấp thuận dự án đầu tư, chỉ đạo các địa phương làm
tốt công tác giải phóng mặt bằng, nghiêm cấm các đơn vị, cá nhân lợi dụng
việc thanh tra, kiểm tra để sách nhiễu, gây phiền hà cho hoạt động của DN.
Hàng năm tỉnh đều tổ chức các buổi tiếp xúc giữa các DN và các đồng
chí lãnh đạo chủ chốt của tỉnh để động viên cổ vũ các DN làm ăn có hiệu quả,
thực hiện tốt chính sách, pháp luật của nhà nước, kịp thời khen thưởng, tuyên
dương các gương tốt đồng thời lắng nghe phản ánh, đề xuất của DN. Về phía
DN qua các buổi tiếp xúc, các DN có cơ hội trao đổi thông tin, tạo quan hệ
hợp tác và học tập kinh nghiệm của nhau. Các kiến nghị của DN đều được các
cơ quan chức năng xem xét, có biện pháp tháo gỡ kịp thời. Công tác kiểm tra
hoạt động của các DN sau đăng ký kinh doanh thực hiện thường xuyên, chấn
chỉnh kịp thời những DN chấp hành chưa nghiêm các quy định của Luật
Doanh nghiệp.
64
2.3.2. Kinh nghiệm nước ngoài
2.3.2.1. Kinh nghiệm Trung Quốc
Trong gần 30 năm thực hiện đường lối cải cách và mở cửa, đến nay
nền kinh tế Trung Quốc đã đạt được những thành tựu to lớn, trở thành nền
kinh tế lớn thứ hai thế giới, một phần nhờ vào thu hút và sử dụng FDI.
Năm 2013 GDP của Trung Quốc tính theo tỷ giá hối đoại chính thức đạt
mức kỷ lục là 8.939 tỷ USD. Kinh tế FDI ngày càng có nhiều đóng góp
vào tăng trưởng kinh tế của Trung Quốc, góp phần nâng cao vị thế quốc tế
của ngành chế tạo Trung Quốc, thúc đẩy tiến bộ về kỹ thuật, công nghệ
cũng như cải thiện việc quản lý kinh doanh của các DN Trung Quốc, mở
rộng phạm vi việc làm cho người lao động, thúc đẩy mở cửa đối ngoại,
đẩy nhanh nhịp độ thị trường hoá, phát huy vai trò tích cực trong việc
thiết lập và hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường XHCN.
Trong những năm qua, quy mô đầu tư của nước ngoài vào Trung Quốc đã
không ngừng tăng lên, kết cấu thu hút vốn ngoại không ngừng được cải thiện,
trình độ đầu tư không ngừng được nâng cao. Từ ngày 1 tháng 7 năm 1979, Bộ
luật Đầu tư hợp tác quốc tế của Trung Quốc được ban hành tạo cơ sở pháp lý
cho thu hút, sử dụng và phát huy hiệu quả tác động của FDI ban đầu cho một
số địa phương như Thâm Quyến, Chu Hải, Hạ Môn, Sáu Đầu và mở rộng dần
ra đối với các địa phương khác theo những trọng tâm, trọng điểm trong từng
giai đoạn phát triển.
Để khuyến khích kinh tế FDI ở miền Trung và miền Tây, Trung Quốc đã
quyết định cho phép các tỉnh vùng sâu, vùng xa, các khu tự trị được phê
chuẩn các dự án nước ngoài với tổng đầu tư lên tới 30 triệu USD (mức cũ là
10 triệu USD); cho phép giảm thuế thu nhập từ mức 33% xuống còn 15% -
ngang bằng mức thuế dành cho các doanh nghiệp ở các đặc khu kinh tế.
Nhờ quy định khuyến khích đầu tư được ban hành và thủ tục thẩm định
liên doanh được đơn giản hoá dần dần,... nên tổng số vốn FDI (vốn thực hiện)
vào Trung Quốc không ngừng tăng nhanh. Vốn FDI đăng ký giữa thập kỷ 80
đến năm 1990 tăng bình quân 46%/ năm, đặc biệt trong 3 năm 1991 - 1993 đạt
65
tốc độ tăng trưởng cao nhất, với tổng số là 182.593 triệu USD. Từ năm 1993
đến nay, khối lượng thu hút vốn FDI của Trung Quốc không ngừng tăng lên.
Nếu như vào năm 1998, số vốn FDI luỹ kế thực sự đầu tư vào Trung Quốc xấp
xỉ 225 tỷ USD, thì đến cuối năm 2012 đã đạt mức 1.344 tỷ USD [81, 102].
Để thu hút và sử dụng hiệu quả FDI, chính phủ Trung Quốc đưa ra một
loạt các chính sách và cơ chế nhằm cải thiện môi trường đầu tư như thực hiện
miễn thuế nhập khẩu và thuế giá trị gia tăng cho các thiết bị sản xuất nhập
khẩu và đưa ra một loạt danh mục các ngành dành cho FDI, giảm thuế thu
nhập cho các công ty nước ngoài đầu tư ở những khu vực nội địa kém phát
triển, mở cửa dần cho FDI vào các lĩnh vực viễn thông, bảo hiểm, cấm hoàn
toàn các hoạt động thanh tra trái phép, thu lệ phí không hợp pháp, áp đặt thuế
và xử phạt vô cớ...
Sau khi gia nhập WTO, cùng với những cải cách phù hợp, nhanh nhạy
của Chính phủ, Trung Quốc đã được hầu hết các nhà FDI lựa chọn làm địa
điểm đầu tư lý tưởng, một thị trường đầy triển vọng với những lợi thế như kết
cấu hạ tầng tương đối toàn diện mà chi phí lại rẻ, trình độ văn hoá của đội ngũ
nhân công cao, chi phí lao động thấp, cơ chế chính sách thông thoáng, cởi mở,
có các ngành công nghiệp hỗ trợ....
Trong những năm qua Trung Quốc đã áp dụng chính sách mở rộng các
lĩnh vực đầu tư của vốn nước ngoài, đa lĩnh vực hoá loại hình DN FDI ở
Trung Quốc, coi đây là một nội dung quan trọng trong chiến lược nâng cao
chất lượng sử dụng vốn FDI, cải thiện kết cấu sử dụng nguồn vốn này.
Trung Quốc thúc đẩy từng bước việc mở cửa đối ngoại trong lĩnh vực
thương mại và các dịch vụ như ngân hàng, bảo hiểm, thông tin, điện tử, mậu
dịch đối ngoại, mậu dịch đối nội, du lịch v.v..., hoàn thiện kết cấu của các
ngành nghề do thương gia nước ngoài và khu vực đầu tư, khuyến khích vốn
ngoại đầu tư vào nông nghiệp, các ngành kỹ thuật công nghệ cao và mới, các
ngành công nghiệp cơ sở, kết cấu hạ tầng, ngành bảo vệ môi trường, ngành
xuất khẩu thu ngoại tệ; cải thiện dần bố cục các khu vực đầu tư của thương
gia nước ngoài và khu vực, hướng dẫn thương gia nước ngoài và khu vực đầu
66
tư vào khu vực miền Trung và miền Tây, đặc biệt là đầu tư vào các dự án
được nhà nước khuyến khích như dự án kết cấu hạ tầng, dự án bảo vệ môi
trường như nông nghiệp sinh thái, sử dụng tổng hợp nguồn nước, v.v... và dự
án kỹ thuật cao và mới ở miền Trung và miền Tây.
Nếu việc mở rộng các lĩnh vực đầu tư của DN FDI của Trung Quốc
trong những năm 80 chủ yếu tập trung vào các dự án công nghiệp gia công
hoặc kết cấu hạ tầng, thì đến cuối những năm 90, Trung Quốc đã nới lỏng
những hạn chế về các lĩnh vực được nhận FDI. Trong nửa đầu thập kỷ 90, vốn
FDI vào các ngành công nghiệp chiếm tỷ trọng lớn (khoảng trên 50%), nhưng
đến những năm cuối thập kỷ 90, vốn FDI vào các ngành dịch vụ như bất động
sản, bảo hiểm, tư vấn tài chính, thông tin đã tăng lên đáng kể. Sau khi thoả
thuận hợp tác thương mại Trung - Mỹ được ký kết, Trung Quốc cam kết cho
phép các nhà đầu tư nước ngoài được đầu tư vào lĩnh vực ngân hàng, tài
chính, tiền tệ, bưu chính viễn thông v.v... , đây là những lĩnh vực mà nhiều
nước thường xuyên áp đặt những ràng buộc lớn hơn so với các lĩnh vực khác
nhằm hạn chế FDI. Ngoài ra, Trung Quốc cũng đã nới lỏng hạn chế về thị
trường thông qua việc loại bỏ dần từng bước hàng rào phi thuế quan dành cho
xuất khẩu, đồng thời đưa ra các chính sách ưu đãi về thuế thu nhập đối với
những ngành nghề then chốt cần khuyến khích phát triển.
Để nâng cao chất lượng hoạt động của các DN FDI trong các lĩnh vực,
Trung Quốc đã đề ra mục tiêu thu hút các TNCs lớn đầu tư vào các dự án sử
dụng kỹ thuật cao. Từ năm 1992, Chính phủ Trung Quốc đã nới lỏng kiểm
soát việc thành lập các DN 100% vốn nước ngoài và các DN do người nước
ngoài quản lý. Hiện có tới hơn 400 trong số 500 tập đoàn xuyên quốc gia
hàng đầu thế giới đã đầu tư trực tiếp vào Trung Quốc, trong đó có 17 trong số
20 công ty lớn nhất của Nhật Bản, 9 trong số 10 công ty lớn nhất của Đức
cùng các công ty nổi tiếng của Mỹ. Số các công ty lớn còn lại đều trong quá
trình phân tích, đánh giá việc đầu tư vào quốc gia này. Sự gia tăng đầu tư của
các TNCs vào Trung Quốc đã giúp nước này duy trì khu vực FDI có quy mô
lớn và chất lượng cao hơn hẳn so với thập kỷ 80.
67
Trong thời gian gần đây, việc hướng dẫn phát triển các lĩnh vực đầu tư
của FDI của Chính phủ Trung Quốc cũng vấp phải những thách thức về vấn
đề tăng cường nội địa hoá một số lĩnh vực kinh tế như chế tạo ô tô, máy ảnh
Kodak..., khi các nhà đầu tư FDI thờ ơ với việc áp dụng quy trình công nghệ
mới, mang tính cập nhật.
Để phát triển và sử dụng có hiệu quả FDI, Trung Quốc còn rất chú trọng
đến việc tạo ra cơ hội và động lực cho DN FDI thông qua các chính sách về
ưu tiên đầu tư, tạo lập kết cấu hạ tầng, hoàn thiện luật pháp và cải cách chính
sách tài chính, giá cả.
Trung Quốc đã chú ý hướng nguồn FDI vào từng vùng lãnh thổ thông qua
chính sách ưu tiên phát triển riêng biệt. Trong những năm 80, hướng ưu tiên phát
triển FDI của Trung Quốc tập trung vào các thành phố duyên hải. Từ thập kỷ 90
đến nay, lại hướng ưu tiên vào các thành phố ven sông, ven biên giới và trong
nội địa, nhất là vào miền Tây Trung Quốc. Biện pháp và chính sách chủ yếu mà
Chính phủ Trung Quốc áp dụng là xây dựng kết cấu hạ tầng và mở rộng quyền
quyết định việc nới lỏng đầu tư cho chính quyền địa phương.
Tuy nhiên, đầu tư trực tiếp nước ngoài không chỉ mang lại những tác
động tích cực mà nó còn có rất nhiều mặt trái ảnh hưởng tiêu cực đến nền
kinh tế Trung Quốc, đòi hỏi phải được nghiên cứu và có chính sách khắc
phục. Sự tăng trưởng kinh tế nhanh chóng trong hơn ba thập kỷ qua biến
Trung Quốc thành một trong những quốc gia có mức độ ô nhiễm cao nhất thế
giới. Ở nhiều tỉnh, thành tại Trung Quốc, các vấn đề môi trường và sức khỏe
không được ưu tiên bằng phát triển công nghiệp. Bầu không khí ở nhiều
thành phố bị nhuốm đen bởi khói từ các nhà máy. Hàng trăm triệu người dân
Trung Quốc không thể tiếp cận với nước sạch. Hai vụ nhiễm độc chì gần đây
mà ít nhất 2.000 trẻ em Trung Quốc là nạn nhân chỉ là những trường hợp mới
nhất trong hàng loạt vụ nhiễm độc dường như xảy ra liên tục, chỉ là một
trong nhiều biểu hiện mặt trái của sự bùng nổ kinh tế ở quốc gia này.
68
2.3.2.2. Kinh nghiệm Hàn Quốc
Hàn Quốc là một trong những quốc gia phát triển nhanh chóng tại Đông
Á. FDI là một trong những nhân tố thúc đẩy sự phát triển kinh tế của Hàn
Quốc. Cho tới cuối những năm 50, Hàn Quốc vẫn là một quốc gia bị tàn phá
nặng nề bởi chiến tranh và là mảnh đất không có sức hấp dẫn đối với các nhà
đầu tư nước ngoài. Nền kinh tế Hàn Quốc phụ thuộc lớn vào viện trợ của
nước ngoài, đặc biệt là của Mỹ. Tiết kiệm trong nước không đáng kể. Năm
1959, tỷ lệ đầu tư trên GDP là dưới 1% và chủ yếu là viện trợ của Mỹ. Tài
nguyên thiên nhiên của Hàn Quốc rất nghèo nàn.
Tháng 1 năm 1960, Chính phủ Hàn Quốc bắt đầu ban hành Luật đầu tư
nước ngoài và các các chính sách khác nhằm thu hút FDI. Từ năm 1962, Hàn
Quốc cho phép FDI vào trong nước tự do miễn là chúng đáp ứng được mục
tiêu của kế hoạch 5 năm. Mọi nguồn FDI vào Hàn Quốc đều được nhà nước
bảo vệ và ủng hộ. Sự tham gia của các DN trong nước dưới dạng liên doanh là
không bắt buộc. Việc thu hút công nghệ nước ngoài cũng được khuyến khích.
Năm 1967, Chính phủ tiến hành sửa đổi luật khuyến khích đầu tư. Năm 1970,
thiết lập khu xuất khẩu tự do đầu tiên ở Masan. Nhờ những nỗ lực trên, FDI
vào Hàn Quốc đã tăng lên đáng kể. Tuy nhiên, do lo ngại những tác động
ngược của FDI đối với nền kinh tế, nên Chính phủ khuyến khích các DN liên
doanh hơn là các DN 100% vốn nước ngoài và không chấp nhận các dự án có
đặc trưng sau: gây hỗn loạn cung, cầu trong nước về nguyên liệu thô và sản
phẩm trung gian; có các sản phẩm đang cạnh tranh với các công ty trong nước
trên thị trường nước ngoài; tìm kiếm sự ủng hộ tài chính của các công ty trong
nước; tìm kiếm lợi nhuận chỉ dựa vào việc sử dụng đất.
Năm 1980, Chính phủ sửa lại luật đầu tư theo hướng mở rộng hơn đối
với FDI, cho phép nhà FDI được tham gia vào nhiều lĩnh vực hơn và tỷ lệ vốn
tham gia lớn hơn, cho phép xí nghiệp 100% vốn nước ngoài hoạt động ở
nhiều lĩnh vực trước đây không cho phép. Tổng vốn đầu tư trực tiếp nước
ngoài vào Hàn Quốc từ năm 1962 -1966 là 47,6 triệu USD; 1967 - 1976:
1.120,9 triệu USD; 1977 - 1986 là 4.323 triệu USD; 1987 - 1991 là 7.967,1
69
triệu USD và năm 2002 là 1.972 USD chỉ chiếm 0,03% GDP và bằng 1,12%
tổng mức tạo vốn đầu tư của Hàn Quốc trong năm. Tổng vốn đầu tư trực tiếp
nước ngoài vào Hàn Quốc tính đến hết năm 2013 là 152,3 tỷ USD bằng
12,7% GDP [81, 102].
Thu hút và sử dụng FDI ở Hàn Quốc dựa trên quan điểm tranh thủ ngoại
lực để duy trì mức đầu tư cao cho phát triển kinh tế, từ đó thực hiện định
hướng thu hút FDI từ các nước phát triển vào công nghiệp, nhất là công
nghiệp chế tạo, thúc đẩy việc khai thác và phát triển kỹ thuật, sử dụng và tiếp
thu các kỹ thuật nhập ngoại, tăng sức cạnh tranh quốc tế cho doanh nghiệp.
Họ đã ban hành “Luật xúc tiến khai thác kỹ thuật” nhằm nâng cao năng lực
thu nhận và tiêu hoá kỹ thuật mới, tiên tiến của nước ngoài. Lĩnh vực dịch vụ
cũng thu hút không nhiều FDI vì Chính phủ Hàn Quốc chỉ cho phép các nhà
đầu tư nước ngoài tham gia vào một số hoạt động dịch vụ như: du lịch, tham
gia liên doanh trong hoạt động ngân hàng, thương mại, một số công ty xử lý
số liệu và máy tính, còn các dịch vụ khác không được phép tham gia. Trong
giai đoạn đầu công nghiệp hoá, FDI được phát triển chủ yếu vào các lĩnh vực
thay thế nhập khẩu, sau chuyển sang định hướng xuất khẩu. Từ cuối những
năm 70, FDI chủ yếu được phát triển ở các lĩnh vực điện, điện tử; còn ở
ngành dệt và tơ sợi loại DN này bắt đầu giảm dần.
Hàn Quốc là một trong những quốc gia yêu cầu mức độ tham gia sở hữu
vốn của nước chủ nhà khá nghiêm ngặt. Mức sở hữu của các công ty nước
ngoài ở Hàn Quốc theo nước đầu tư, được chia thành 4 nhóm: 1) Nhóm sở
hữu thiếu số (ít hơn 50%); 2) Nhóm cùng mức sở hữu (50%); 3) Nhóm sở hữu
đa số (hơn 50%) và 4) Nhóm sở hữu toàn bộ (100%). Tính đến cuối năm
1981, các DN nước ngoài thuộc diện sở hữu 100% chiếm tỷ lệ không lớn
(14,6%). Trong khi đó, đa số các DN nước ngoài là thuộc diện đồng mức sở
hữu hoặc sở hữu thiểu số (73%).
Có thể nói, cho tới tận đầu những năm 80, các chính sách của Chính phủ
Hàn Quốc đối với các xí nghiệp nước ngoài là tương đối khắt khe, đặc biệt là
rất ít cho phép các dự án cạnh tranh với các công ty trong nước. Chính sách
70
này đã tạo ra một sự bảo hộ cần thiết cho các công ty trong nước trong giai
đoạn đầu của quá trình CNH. Trong những năm gần đây, chính sách thu hút
FDI của Hàn Quốc đã có những thay đổi căn bản theo hướng tự do hoá hoàn
toàn đối với hoạt động của loại DN này. Việc thu hút đầu tư trực tiếp nước
ngoài được chuyển từ quan điểm điều tiết và kiểm soát sang thúc đẩy và hỗ
trợ đầu tư trực tiếp nước ngoài.
Ngoài ra, Hàn Quốc còn thực hiện chính sách tự do hoá thị trường chứng
khoán. Bãi bỏ hoàn toàn các hạn chế đối với các nhà đầu tư nước ngoài trong
hoạt động sáp nhập và mua lại các công ty trong nước. Áp dụng chế độ giao
dịch ngoại hối tự do kể từ 1/4/1999. Từng bước thực hiện mở cửa đối với thị
trường đất đai và bất động sản.
Các chính sách FDI của Hàn Quốc những năm gần đây tập trung ưu đãi
theo lĩnh vực, khả năng tạo việc làm, địa bàn đầu tư … Các chính sách FDI tại
Hàn Quốc tương đối khác biệt trên các lĩnh vực, chẳng hạn như ưu đãi về
thuế, trợ cấp, chính sách tài chính, hỗ trợ hành chính và chính sách lao động.
Các dự án FDI có định hướng thị trường khác nhau và do đó mong muốn các
loại ưu đãi khác nhau: dự án nhằm vào thị trường trong nước thì cần ưu đãi
đối với từng mặt hàng như bảo vệ thuế quan; dự án theo định hướng xuất
khẩu cần ưu đãi về miễn thuế. Thực tế thấy rằng các DN theo hướng xuất
khẩu nước ngoài, chi phí hợp lý, đáp ứng tốt hơn các ưu đãi thuế trong khi
những DN nhắm đến thị trường thì lại quan tâm nhiều hơn với các điều kiện
thị trường địa phương. Các công ty đa quốc gia chọn để phân bổ mức vốn cao
hơn cho các nước có mức thuế suất thấp hơn, có thể chứng tỏ rằng tỷ lệ thuế
thấp có hiệu quả cao trong việc thu hút FDI.
Một số nghiên cứu đã chỉ ra rằng trợ cấp, chính sách tài chính và/hoặc hỗ
trợ hành chính cũng có thể là yếu tố quan trọng trong việc thu hút các nhà đầu
tư nước ngoài. Khu vực ưu đãi hỗ trợ cho các DN nước ngoài, bao gồm cả trợ
cấp cho vốn cố định và việc làm, có tác động tích cực đáng kể trên các lựa
chọn vị trí của các công ty đa quốc gia (MNEs).
71
Các DN nước ngoài chịu sự điều chỉnh của các chính sách FDI ở Hàn
Quốc tùy theo khả năng tạo việc làm địa phương. Tùy theo số lượng lao động
địa phương được DN nước ngoài sử dụng mà họ sẽ được ưu đãi và chính sách
khuyến khích của Chính phủ. Chính phủ Hàn Quốc đã cố gắng để cung cấp
các ưu đãi rộng hơn cho các DN nước ngoài có quy mô lớn, có liên quan đến
tác động của chúng đối với nền kinh tế Hàn Quốc. Do đó, nếu DN nước ngoài
tạo việc làm nhiều hơn sẽ được đánh giá cao hơn.
Các chính sách FDI ở Hàn Quốc cũng được phân biệt tùy thuộc vào vị
trí, địa điểm thực hiện dự án và đặt nhà máy sản xuất. Các DN nước ngoài tại
các khu vực kém phát triển (thường là các khu vực Chính phủ hỗ trợ) có hài
lòng với chính sách FDI hơn so với những người trong các lĩnh vực phát triển
hơn. Các khu kinh tế đặc biệt được chỉ định của Chính phủ đã thu hút các
công ty sản xuất nước ngoài nhiều hơn. Các DN nước ngoài trong các khu
vực ngoại vi (thường là Chính phủ hỗ trợ) có thể nhận được ưu đãi đáng kể
trong khu vực và có một nhận thức tích cực hơn đối với Chính phủ sở tại.
Các chính sách FDI ở Hàn Quốc là khác nhau đáng kể về định hướng để
xuất khẩu hay tiêu dùng nội địa của các DN FDI. Doanh nghiệp nước ngoài
theo định hướng xuất khẩu phải đối mặt với cạnh tranh trực tiếp về giá trên thị
trường quốc tế và do đó rất nhạy cảm với các ưu đãi về tài chính và giảm chi
phí sản xuất. Các công ty định hướng xuất khẩu được Chính phủ cấp ưu đãi
cao hơn cho các biện pháp khuyến khích tiết kiệm chi phí, chẳng hạn như
giảm thuế nhập khẩu, miễn thuế, trợ cấp tiền mặt và trợ cấp đào tạo nghề.
Các chính sách về FDI ở Hàn Quốc khác có tính đến trình độ công nghệ.
Các DN nước ngoài trong ngành công nghệ cao được hỗ trợ cao hơn so với
những DN trong những ngành công nghệ thấp. Theo chương trình ưu đãi hiện
hành, các DN nước ngoài mang công nghệ tiên tiến có thể miễn hoàn toàn
thuế thu nhập DN trong bảy năm đầu và giảm 50% trong ba năm tới. Những
công ty này cũng đủ điều kiện để xác định vị trí các cơ sở của họ trong các
cụm công nghiệp dành riêng cho các DN nước ngoài. Nếu chính sách này
72
cũng có hiệu quả như dự kiến, môi trường đầu tư tại Hàn Quốc sẽ được thuận
lợi hơn cho vốn đầu tư nước ngoài với công nghệ cao.
2.3.3. Những bài học rút ra từ kinh nghiệm thu hút đầu tư trực tiếp
nước ngoài trong và ngoài nước
Trên cơ sở nghiên cứu kinh nghiệm quốc tế và trong nước về thu hút và
sử dụng FDI có thể thấy rõ, muốn phát huy tác động tích cực của FDI trước
hết cần phải có giải pháp tạo điều kiện hấp dẫn để thu hút được FDI, đặc biệt
là FDI từ các nước phát triển, các TNCs có công nghệ cao, công nghệ hiện
đại. Tuy nhiên, mục tiêu của FDI nhiều khi không đồng nhất với mục tiêu của
quốc gia hay địa phương tiếp nhận FDI. Vì mục tiêu lợi nhuận, các chủ thể
FDI luôn tìm mọi cách giảm chi phí, do đó nếu không có tầm nhìn trong
hoạch định chính sách thu hút, sử dụng FDI cùng với quản lý nhà nước hiệu
quả về FDI thì rất khó tránh khỏi những tác động tiêu cực của FDI. Từ đó, đối
với tỉnh Vĩnh Phúc về thu hút, sử dụng FDI có thể tham khảo các bài học kinh
nghiệm bao gồm:
Một là, tập trung làm tốt công tác quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội
nói chung đi đôi với tăng cường quản lý thực hiện tốt quy hoạch. Công tác
quy hoạch phải đi trước một bước để làm cơ sở xác định kế hoạch đầu tư phát
triển cho từng thời kỳ. Quy hoạch là định hướng dài hạn về thu hút và sử
dụng FDI, trong đó phải thể hiện rõ những định hướng về mục tiêu, phân bổ
và các biện pháp phát huy tác động tích cực và hạn chế tác động tiêu cực của
FDI đối với phát triển kinh tế - xã hội trên địa bàn tỉnh. Việc lập quy hoạch
phải dựa trên cơ sở nghiên cứu đánh giá những tiềm năng lợi thế trong phát
triển kinh tế - xã hội, dự báo về xu thế của FDI và lộ trình thực hiện việc thu
hút và sử dụng FDI theo hướng hiệu quả.
Hai là, làm tốt công tác bồi thường, giải phóng mặt bằng, coi đây là yếu
tố quyết định đến môi trường thu hút đầu tư của tỉnh. Trong thực hiện chế độ
sở hữu toàn dân về đất đai ở nước ta nói chung và tại từng địa phương nói
riêng vấn đề lợi ích của các chủ thể có quyền sử dụng đất chưa được quan tâm
nghiên cứu và thực hiện hợp lý, dẫn tới nảy sinh rất nhiều vướng mắc trong
73
giải phóng mặt bằng cho các nhà đầu tư, trong đó có các nhà đầu tư FDI.
Những vướng mắc đó nếu không được giải quyết kịp thời sẽ làm cho thời gian
thực hiện các dự án FDI kéo dài, gia tăng chi phí, làm nản lòng các nhà đầu
tư. Do đó, từng địa phương trên cơ sở chủ trương, chính sách của Trung ương,
cần có sự sáng tạo và quyết liệt trong giải quyết vấn đề này. Thành công về
thu hút các nhà đầu tư FDI hiệu quả phụ thuộc rất lớn vào kết quả thực hiện
công tác giải phóng mặt bằng.
Ba là, quan tâm đào tạo nâng cao chất lượng NNL phù hợp với yêu cầu thu
hút FDI. NNL yếu, đặc biệt là NNL trong những ngành có liên quan đến hoạt
động đầu tư nước ngoài, nếu không đủ trình độ và hiểu biết sẽ trở thành điểm
yếu của địa phương trong xúc tiến kêu gọi đầu tư cũng như đánh giá và phân tích
tính khả thi và hiệu quả của dự án. Bởi vẫn có không ít các nhà đầu tư lợi dụng
sự quản lý yếu kém của cơ quan chức năng để tranh thủ đầu tư bằng các công
nghệ lạc hậu, gây ô nhiễm môi trường.
Bốn là, về cải thiện môi trường đầu tư. Cần xây dựng và hoàn thiện cơ
chế, chính sách thu hút đầu tư phù hợp với điều kiện cụ thể của tỉnh nhằm tạo
điều kiện cho các thành phần kinh tế phát triển, khắc phục tình trạng đầu tư
tập trung vào những vùng có điều kiện thuận lợi dẫn đến quá tải về hạ tầng xã
hội. Đẩy mạnh cải cách hành chính, trước hết là thủ tục hành chính. Thực hiện
có hiệu quả cơ chế một cửa, một đầu mối cùng với đẩy mạnh chống quan liêu
tham nhũng, nhất là trong việc thực hiện các thủ tục xin thuê đất, giao đất, cấp
quyền sử dụng đất, cấp phép đầu tư, chống phiền hà, sách nhiễu trong triển
khai thực hiện chính sách thuế, tín dụng, các dịch vụ. Phân định rõ trách nhiệm,
quyền hạn của các cấp, các ngành, khắc phục tình trạng chồng chéo trong quản
lý hoặc bỏ trống không được quản lý. Tăng cường trách nhiệm của cán bộ,
công chức gắn với việc thực hiện công việc cụ thể được giao. Đầu tư xây dựng,
phát triển và nâng cấp hệ thống kết cấu hạ tầng, tranh thủ các nguồn vốn, tập
trung đầu tư từng bước, có trọng điểm đảm bảo cho các công trình có chất
lượng cao.
74
Năm là, đẩy mạnh và nâng cao chất lượng công tác xúc tiến đầu tư theo
hướng trọng tâm, trọng điểm. Tỉnh cần tổ chức tốt các hoạt động kêu gọi đầu tư
như hội chợ thương mại, triển lãm… để tiếp thị hình ảnh và tiềm năng của địa
phương trên trường quốc tế. Tìm kiếm nhà đầu tư tốt, đặc biệt chú trọng đến
năng lực thực chất của các nhà đầu tư, không tham những dự án phi thực tế,
những chủ đầu tư thiếu năng lực tài chính. Tỉnh cần chủ động trong việc cử cán
bộ ngoại giao đi kêu gọi đầu tư ở các nước và nên kết hợp với các cơ quan chức
năng của nước đó để có được những thông tin cụ thể về các nhà đầu tư ở lĩnh
vực mà tỉnh cần. Không thu hút đầu tư nước ngoài bằng mọi giá, đối với những
dự án có thể gây tác hại đối với môi trường cần xem xét kỹ khi cấp phép và nếu
nhận thấy dự án không tốt địa phương nên từ chối tiếp nhận đầu tư.
Sáu là, cần tăng cường quản lý nhà nước trên địa bàn tỉnh về FDI. Cho
đến nay ở nước ta đã hình thành về cơ bản những quy định pháp lý về FDI,
trong đó có các quy định nghiêm ngặt về giảm thiểu tác động tiêu cực của
FDI như tác động tới quan hệ chủ thợ trong các doanh nghiệp FDI, các quy
định về môi trường, chế độ tài chính … Tuy nhiên, thực tiễn cho thấy các tác
động tiêu cực của FDI, đặc biệt về vấn đề gây ô nhiễm môi trường vẫn đang
có xu hướng ngày càng bức xúc. Do đó, để giảm thiểu tác động tiêu cực của
FDI không những cần tới các quy định thể chế, mà quan trọng hơn là việc
thực thi các quy định đó, trong đó vai trò quản lý nhà nước về FDI trên địa
bàn tỉnh là đặc biệt quan trọng. Năng lực thực thi thể chế của tỉnh về thu hút,
sử dụng FDI là yếu tố quyết định đối với hạn chế tác động tiêu cực của FDI
đối với phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh.
75
CHƯƠNG 3
THỰC TRẠNG TÁC ĐỘNG CỦA ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC
NGOÀI ĐẾN PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI TRÊN ĐỊA BÀN
TỈNH VĨNH PHÚC
3.1. NHỮNG ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN VÀ KINH TẾ - XÃ HỘI
ẢNH HƯỞNG TỚI TÁC ĐỘNG CỦA ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC
NGOÀI ĐẾN PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI TRÊN ĐỊA BÀN
TỈNH VĨNH PHÚC
3.1.1. Điều kiện tự nhiên
Vĩnh Phúc được tái lập ngày 01-01-1997, là tỉnh thuộc đồng bằng châu
thổ sông Hồng, cửa ngõ Tây Bắc của thủ đô Hà Nội và là một trong 8 tỉnh
thuộc vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ với tổng diện tích tự nhiên 123650,5
ha, dân số 1.014.598 người. Về hành chính Vĩnh Phúc có 9 huyện, thành ,thị,
137 xã, phường, thị trấn [35, tr.13,14,24].
Về vị trí địa lý, Vĩnh Phúc tiếp giáp với 4 tỉnh: phía Bắc giáp Thái Nguyên
và Tuyên Quang, phía Tây giáp Phú Thọ và phía Đông, Nam giáp Hà Nội.
Vĩnh Phúc là tỉnh có địa hình đa dạng thấp dần từ Đông Bắc xuống Tây
Nam với ba vùng sinh thái rõ rệt là đồng bằng (chiếm 36,56% diện tích tự
nhiên), trung du (19,45%), miền núi (43,98%).
Về khí hậu, Vĩnh Phúc nằm trong vành đai nhiệt đới gió mùa, nóng ẩm
với 4 mùa rõ rệt, lượng mưa trung bình hàng năm khoảng 1500-1700ml, nhiệt
độ trung bình 23,2oC, độ ẩm trung bình 84-85%.
Về thủy văn, Vĩnh Phúc có hệ thống sông suối, hồ ao khá phong phú. Tài
nguyên nước được cung cấp chủ yếu bởi hai sông chính là sông Hồng và sông
Lô cùng các sông nhỏ như sông Phó Đáy, sông Phan - Cà Lồ và các hồ dự trữ
lớn như hồ Đại Lải, hồ Xạ Hương, hồ Vân Trục, hồ Liễn Sơn, hồ Đầm Vạc.
Ngoài ra Vĩnh Phúc còn có nguồn nước ngầm tuy không lớn nhưng cũng đủ
cung cấp cho sinh hoạt và sản xuất hiện tại. Tuy nhiên, nguồn nước của Vĩnh
Phúc phân bố không đồng đều, chủ yếu tập trung ở đồng bằng, do vậy gây không
76
ít khó khăn cho phát triển công nghiệp ở các vùng trung du và miền núi.
Tài nguyên đất Vĩnh Phúc bao gồm đất nông nghiệp 86.382,26 ha (chiếm
69,86% tổng diện tích tự nhiên), trong đó đất sản xuất nông nghiệp
50.140,5ha (40,55%); đất phi nông nghiệp 35.108,59 ha (28,39%); đất chưa
sử dụng 2.159,2 ha (1,75%) [35, tr.14,15].
Tài nguyên rừng của Vĩnh Phúc có diện tích là 28.312,7 ha, độ che phủ
rừng đạt 22,4%. Diện tích rừng tự nhiên của tỉnh là 9.358,8 ha, chiếm 32,81%
[66].
Tài nguyên khoáng sản của Vĩnh Phúc nhìn chung nghèo nàn, chủ yếu có
thể phục vụ cho sản xuất vật liệu xây dựng như sét làm gạch ngói có 10 mỏ
với trữ lượng 51,8 triệu m3; cao lanh có 3 mỏ với trữ lượng khoảng 4 triệu
tấn, ngoài ra là các mỏ Fenspat, Puzolan, cát cuội sỏi xây dựng, đá xây dựng
và đá ốp lát.
Về tài nguyên du lịch, Vĩnh Phúc có nhiều cảnh quan thiên nhiên và danh
thắng kỳ thú như Tam Đảo, Tây Thiên, Đại Lải, di tích lịch sử Hai Bà Trưng...
Nhìn chung, điều kiện tự nhiên thuận lợi cho sự phát triển công nghiệp ở
Vĩnh Phúc chủ yếu là vị trí địa lý, tài nguyên đất và tài nguyên nước. Đó cũng
là những thuận lợi để thu hút và phát huy tác động tích cực của FDI đến phát
triển công nghiệp, từ đó góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh.
3.1.2. Điều kiện kinh tế - xã hội
Kể từ khi tái lập tỉnh, với sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng, sự quản lý có
hiệu quả của chính quyền và nỗ lực to lớn của mọi lớp nhân dân, Vĩnh Phúc đã
đạt được những thành tựu to lớn về phát triển kinh tế -xã hội, tạo nền tảng vững
chắc cho sự phát triển của công nghiệp trong hiện tại cũng như tương lai.
Những kết quả tích cực trong phát triển kinh tế là tốc độ tăng trưởng kinh
tế đạt mức cao so với trung bình của cả nước. Trong giai đoạn 1997 - 2010,
tổng sản phẩm trên địa bàn tỉnh tăng 12,8 lần [32,tr.56;10,tr.54]. Trong giai
đoạn 2011 - 2013, trong bối cảnh khó khăn chung của đất nước tăng trưởng
kinh tế của tỉnh giảm sút nhưng đang có xu hướng hồi phục dần: năm 2012 -
2,52%; năm 2013 - 7,89% [75,76]
77
Nhờ đó cơ cấu kinh tế đã có sự chuyển dịch mạnh mẽ: Tỷ trọng nông
nghiệp trong GDP giảm từ 44,35% năm 1997 xuống còn 21,20% năm 2005 và
10,69% năm 2013; công nghiệp tăng nhanh từ 20,71% năm 1997 lên 52,26%
năm 2005 và 60,39% năm 2013; dịch vụ - 34,94%; 26,55% và 28,92%.
Kim ngạch xuất nhập khẩu của tỉnh tăng nhanh. Tổng giá trị xuất khẩu
tăng từ 27.808,4 nghìn USD năm 2000 lên 189.012 nghìn USD năm 2005 và
526.600 nghìn USD năm 2010; tổng giá trị nhập khẩu từ 227.714,3 lên
484.091 nghìn USD năm 2005, 1.606.500 nghìn USD năm 2010 [32, tr.74;
35,tr. 202]. Năm 2013 ước đạt 2.746.000 nghìn USD [76].
Thu chi ngân sách của tỉnh chuyển biến theo chiều hướng rất tích cực,
thu luôn vượt chi. Năm 2005 tổng thu ngân sách trên địa bàn tỉnh đạt là
3440,518 tỷ đồng trong khi tổng chi ngân sách là 2449,35 tỷ đồng [32, tr.58;
35, tr.54]. Năm 2013 tổng thu ngân sách ước đạt 18.596 tỷ đồng, tổng chi
ngân sách - 13.154 tỷ đồng [76].
Kết cấu hạ tầng kinh tế kỹ thuật đã tương đối phát triển. Vĩnh Phúc có cả
đường bộ, đường sắt, đường sông. Về đường bộ, ngoài quốc lộ 2, 2b, 2c, 23,
nhiều tuyến đường nội bộ của tỉnh cũng đã được trải nhựa hoặc bê tông hoá,
tính đến nay đã có 16 tuyến đường tỉnh lộ dài 251km với 56,45% đã được rải
nhựa hoặc bê tông hoá; đường nội thị được bê tông hoặc nhựa hoá 87,07%;
đường huyện - 38,4%; đường liên xã - 3,42%; đường nông thôn- 26,25%.
Đường ô tô đã đến trung tâm tất cả các xã trong tỉnh. Trong tổng số 152 xã,
đã có 102 xã có đường nhựa hoặc bê tông hoá. Sự phát triển của hệ thống
đường giao thông đã tạo nhiều thuận lợi cho phát triển kinh tế-xã hội nói
chung và công nghiệp nói riêng ở Vĩnh Phúc.
Về cung cấp điện, Vĩnh Phúc là tỉnh có lưới điện phát triển trong hệ
thống điện miền Bắc, 100% xã, phường đã có lưới điện quốc gia. Các trạm
biến áp từ 110KV trở xuống cùng hệ thống đường dây dẫn điện đã và đang
phục vụ tốt cho sản xuất và sinh hoạt.
Mạng lưới thông tin liên lạc đã phủ kín toàn bộ các xã trong tỉnh, đủ điều
kiện liên lạc trong và ngoài nước. Mật độ điện thoại cố định đến cuối năm 2005
78
đạt mức 6,7 máy trên 100 dân, năm 2010 đạt 10,8 máy trên 100 dân.
Hệ thống cung cấp nước sạch đã có bước phát triển song vẫn chưa đáp
ứng đủ nhu cầu sinh hoạt của nhân dân và cho sản xuất công nghiệp.
Về nguồn lao động, đến năm 2005 Vĩnh Phúc có 765,42 nghìn người
(chiếm 65,72% dân số), trong đó số người trong độ tuổi lao động có khả năng
lao động là 729,19 nghìn người (chiếm 95,27% nguồn lao động), lao động
trong nông nghiệp là 391,1 nghìn người (chiếm 51,1% nguồn lao động), công
nghiệp - 113,75 nghìn người (14,86%), dịch vụ - 147,74 nghìn người (19,3%).
Đến năm 2013 Vĩnh Phúc có lực lượng lao động là 675 nghìn người (chiếm
68,92% dân số), trong lao động đang làm việc là 620,4 nghìn người (chiếm
91,91% nguồn lao động), lao động trong nông nghiệp chiếm 50,13% nguồn
lao động, công nghiệp - 25,23%, dịch vụ - 24,64% [76].
Năm 2010 với hệ thống các trường chuyên nghiệp, trường và trung tâm
dạy nghề, mỗi năm Vĩnh Phúc có khoảng 69.440 người lao động được đào tạo
với các trình độ khác nhau, trong đó đào tạo trình độ đại học, cao đẳng, trung
cấp đạt mức 37.515 người. Đến hết năm 2010, tỷ lệ lao động qua đào tạo của
tỉnh đạt 50,5% (tăng 2,7% so với năm 2009), trong đó tỷ lệ lao động qua đào
tạo nghề là 38,2% (tăng 1,9% so với năm 2009) [51]. Số lượng lao động qua
đào tạo tăng không ngừng, cùng với sự bổ sung nguồn lao động trẻ đã và đang
là những điều kiện thuận lợi cho phát triển kinh tế - xã hội của Vĩnh Phúc nói
chung và đối với phát triển công nghiệp nói riêng.
Từ ngày tái lập tỉnh, Vĩnh Phúc luôn quan tâm cải thiện môi trường đầu
tư và kinh doanh nhằm tạo điều kiện thuận lợi hơn cho DN đang hoạt động và
thu hút DN ở nơi khác đến đầu tư tại tỉnh. Trong giai đoạn 2005 - 2009, tỉnh
Vĩnh Phúc luôn đứng vị trí cao so với cả nước về chỉ số năng lực cạnh tranh
cấp tỉnh.
Tóm lại, Vĩnh Phúc có nhiều thuận lợi về điều kiện tự nhiên và kinh tế xã
hội cho thu hút và chủ động khai thác, sử dụng, phát huy tác động tích cực
của FDI đến phát triển kinh tế - xã hội. Những thuận lợi đó là lợi thế về vị trí
địa lý nằm trong vùng phát triển của đồng bằng sông Hồng sát trục tam giác
79
kinh tế Hà Nội - Hải Phòng - Quảng Ninh; có các đầu mối giao thông quan
trọng, hệ thống hạ tầng kinh tế kỹ thuật khá phát triển gồm hệ thống đường
bộ, đường sắt, đường sông; có quỹ đất phù hợp với phát triển các khu, cụm
công nghiệp; có nguồn lao động trẻ dồi dào có văn hoá có thể đào tạo nâng
cao chuyên môn vốn khả năng tiếp thu khoa học công nghệ. Những doanh
nghiệp FDI đã đầu tư vào ngành công nghiệp của tỉnh như Công ty Toyota
Việt Nam, Công ty Honda Việt Nam đã thể hiện có hiệu quả làm tăng khả
năng thu hút vốn đầu tư từ các nhà đầu tư khác trong và ngoài nước. Bên cạnh
đó là sự quan tâm của Chính phủ đối với quá trình phát triển toàn diện của
tỉnh Vĩnh Phúc (Chính phủ đã quyết định đưa tỉnh Vĩnh Phúc nằm trong vùng
trọng điểm phát triển công nghiệp của các tỉnh phía Bắc và là địa bàn phát
triển du lịch quốc gia). Sự quyết tâm cao độ thể hiện ở các giải pháp, chính
sách phù hợp của Đảng bộ và Chính quyền tỉnh đối với sự phát triển kinh tế -
xã hội trên địa bàn tỉnh.
Mặc dù vậy vẫn còn không ít khó khăn đối với phát huy tác động tích
cực và hạn chế tác động tiêu cực của FDI ở Vĩnh Phúc như đa số dân cư sống
ở nông thôn (chiếm 77,05% năm 2010), làm nông nghiệp, có thu nhập thấp
nên tích luỹ thấp; đội ngũ cán bộ còn yếu và thiếu; nguồn lao động chưa qua
đào tạo nên chất lượng thấp, chưa có tác phong công nghiệp; tài nguyên
khoáng sản nghèo, các sản phẩm nông, lâm nghiệp, thuỷ sản chưa được sản
xuất tập trung với chất lượng cao nên chưa tạo thuận lợi cho công nghiệp chế
biến phát triển; kết cấu hạ tầng đã phát triển song chưa đồng bộ vẫn cần tiếp
tục hoàn thiện nâng cấp, áp lực giải quyết việc làm có xu hướng gia tăng cùng
những bức xúc về xã hội đối với bộ phận dân cư trong diện bị thu hồi đất sản
xuất nông nghiệp để phát triển các khu, CCN và kết cấu hạ tầng giao thông.
Những thuận lợi và khó khăn đó đã và đang ảnh hưởng tới sự phát huy
tác động tích cực và hạn chế tác động tiêu cực của FDI ở Vĩnh Phúc, đòi hỏi
Đảng bộ, các cấp chính quyền và toàn thể nhân dân Vĩnh Phúc phải tiếp tục
nỗ lực phát huy lợi thế, khắc phục trở ngại để sử dụng hiệu quả FDI thúc đẩy
phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh.
80
3.2. THỰC TRẠNG TÁC ĐỘNG CỦA ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP
NƯỚC NGOÀI TỚI PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI TRÊN ĐỊA
BÀN TỈNH VĨNH PHÚC TỪ NĂM 1997 ĐẾN NAY
3.2.1. Thực trạng đầu tư trực tiếp nước ngoài trên địa bàn tỉnh Vĩnh
Phúc
3.2.1.1. Khái quát chung về đầu tư trực tiếp nước ngoài ở tỉnh Vĩnh Phúc
Trong giai đoạn 1997-2000, trên cơ sở Nghị quyết Đại hội tỉnh Đảng bộ
tỉnh lần thứ XII tháng 11/1997 và Quyết định số 233/1998/QĐ-TTg ngày
01/12/1998 quy định về phân cấp, ủy quyền cấp GPĐT đối với các dự án đầu
tư nước ngoài, mặc dù tỉnh mới tái lập, điều kiện kinh tế-xã hội còn khó khăn,
kinh nghiệm về xúc tiến đầu tư còn hạn chế, nhưng trên địa bàn tỉnh thu hút
được 11 dự án FDI, với tổng vốn đầu tư 270,8 triệu USD, trong đó vốn đầu tư
cấp mới là 261,6 triệu USD, vốn tăng là 9,2 triệu USD. Vốn thực hiện: đạt
224,0 triệu USD, chiếm 82,7% vốn đăng ký. Trong giai đoạn này, việc thu hút
FDI chủ yếu dựa vào khai thác lợi thế vị trí địa lý, chính sách thu hút đầu tư
cởi mở, thông thoáng. Một số dự án lớn được cấp phép đầu tư như: Công ty
Honda, Toyota, Nissin, Japfa Comfeed, Cao su Inoue, Toyota Boshoku...đã
nhanh chóng triển khai xây dựng và đi vào hoạt động SXKD, do vậy vốn thực
hiện đạt cao.
Trong giai đoạn 2001-2005, thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh
lần thứ XIII và Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2001 2005, vào
tháng 12 năm 2003 Ban quản lý các KCN Vĩnh Phúc được thành lập, trở thành
cơ quan đầu mối giúp UBND tỉnh quản lý các hoạt động đầu tư trực tiếp trong
nước và nước ngoài trên địa bàn tỉnh, nhờ đó đã tạo ra bước đột phát trong
công tác cải cách thủ tục hành chính trong lĩnh vực thu hút FDI, tạo sự tin
tưởng và hài lòng của các nhà đầu tư đối với môi trường đầu tư của tỉnh. Năm
2005, Vĩnh Phúc được xếp thứ 5 về năng lực cạnh năng lực cạnh tranh cấp tỉnh
trong tổng số 42 tỉnh thành, xếp thứ 8 về kết quả thu hút đầu tư trong cả nước.
Nhờ đó, thu hút FDI có bước tiến mới. Trong giai đoạn này, trên địa bàn tỉnh
thu hút được 63 dự án FDI, với tổng vốn đầu tư 713,6 triệu USD (trong đó vốn
81
đầu tư cấp mới là 253,4 triệu USD, vốn tăng là 460,2 triệu USD). Vốn thực
hiện của các dự án FDI đạt 260,4 triệu USD, chiếm 36,5% vốn đăng ký.
Trong giai đoạn 2006 - 2010, việc thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ
tỉnh lần thứ XIV cùng với Luật Đầu tư và Luật Doanh nghiệp năm 2005 đã
tạo ra sự phân cấp mạnh mẽ cho UBND tỉnh và Ban quản lý KCN trong cấp
giấy CNĐT và quản lý hoạt động đầu tư. Cùng với đó, hệ thống kết cấu hạ
tầng và những cải thiện về môi trường đầu tư như cải cách hành chính theo
hướng đơn giản hoá các thủ tục hành chính trong cấp giấy CNĐT, đăng ký mã
số thuế, khắc dấu…chính sách hỗ trợ đầu tư hạ tầng thiết yếu và hỗ trợ thu
nhập cho nhân dân các địa phương mất đất làm công nghiệp; chính sách đất
dịch vụ đã tạo ra những thuận lợi mới cho thu hút, sử dụng FDI. Trong bình
quân mỗi năm thu hút khoảng hơn 20 dự án đầu tư. Tổng số dự án FDI thu
hút trong toàn giai đoạn là 106 dự án, tổng vốn đầu tư 2.055,8 triệu USD. Các
dự án thu hút trong gian đoạn này chủ yếu tập trung ở các nước Nhật Bản,
Hàn Quốc và Đài Loan, đã thu hút được các dự án lớn như dự án sản xuất
điện thoại di động và xây dựng hạ tầng KCN Bình Xuyên II (300 triệu USD)
của Tập đoàn Foxconn, dự án sản xuất máy tính xách tay và xây dựng hạ tầng
KCN Bá Thiện (576,5 triệu USD) của Tập đoàn Compal, dự án sản xuất xe
máy PIAGIO (45 triệu USD),.. Vốn thực hiện của các dự án FDI đạt 647,3
triệu USD, chiếm 31,5% vốn đăng ký.
Trong giai đoạn từ năm 2011 đến nay, với mục tiêu của Đại hội Đảng bộ
tỉnh lần thứ XV là phấn đấu đến năm 2015, có đủ các yếu tố cơ bản của một
tỉnh công nghiệp; đến năm 2020 là tỉnh công nghiệp, trở thành một trong
những trung tâm dịch vụ, du lịch của Vùng và cả nước; có những khu nghỉ
dưỡng đạt tiêu chuẩn quốc tế và trở thành thành phố Vĩnh Phúc vào những
năm 20 của thế kỷ này, mặc dù tình hình kinh tế thế giới và trong nước có
nhiều biến động phức tạp, nhưng với sự nỗ lực của các ngành các cấp, tỉnh đã
thu hút được 10 dự án FDI, với tổng vốn đầu tư 151,44 triệu USD (trong đó
cấp mới 48,48 triệu USD và tăng vốn 102,96 triệu USD). Vốn thực hiện giai
đoạn này đạt 215,47 triệu USD, chủ yếu là do các dự án đầu tư từ các giai
82
đoạn trước mở rộng sản xuất: Honda, HJC, Piaggio, Jahwa, Micro Shine,
Japfa Comfeed...
Về kết quả thu hút đầu tư, trong Năm 2013, đã thu hút được 21 dự án
FDI, với tổng vốn đăng ký 314,8 triệu USD (gồm 181,8 triệu USD cấp mới và
133 triệu USD tăng vốn), tăng 3,5 lần về số dự án và 206% về số vốn đăng ký
so với năm 2012, đạt 157% kế hoạch.
Luỹ kế đến hết năm 2013, trên địa bàn tỉnh có 137 dự án FDI còn hiệu lực
với tổng vốn đầu tư là 2.767,6 triệu USD. Năm 2013, có 14 dự án FDI đi vào
hoạt động SXKD, nâng tổng số dự án đi vào hoạt động SXKD là 112 dự án FDI.
Vốn thực hiện luỹ kế hết năm 2013 của dự án FDI ước đạt 46% vốn đăng ký.
Trong năm 2013 đã thực hiện chấm dứt hoạt động 03 dự án FDI; làm thủ tục
chuyển đổi 01 dự án DDI sang dự án FDI.
Tính đến ngày 15/5/2014 trên địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc có 158 dự án FDI
đăng ký hoạt động trong đó 111 dự án nằm trong KCN (KCN Kim Hoa 02 dự
án; KCN Khai Quang 47 dự án; KCN Bình Xuyên I 28 dự án; KCN Bình
Xuyên II 03 dự án; KCN Bá thiện I 09 dự án; KCN Bá Thiện II 03 dự án) và
47 dự án ngoài KCN (Thành phố Vĩnh Yên 15 dự án; các huyện: Bình Xuyên
15 dự án, Vĩnh Tường 04 dự án, Tam Dương 02 dự án, Tam Đảo 02 dự án).
Hiện nay hầu hết các DN đã đi vào hoạt động ổn định chỉ còn một số ít các
đơn vị đang trong quá trình giải phóng mặt bằng và xây dựng cơ sở hạ tầng.
3.2.1.2. Thực trạng đầu tư trực tiếp nước ngoài phân theo ngành, lĩnh
vực; hình thức, địa bàn đầu tư
Theo ngành và lĩnh vực, tính đến tháng 9 năm 2012 các dự án đầu tư FDI
trên địa bàn tỉnh tập trung chủ yếu vào lĩnh vực công nghiệp, dịch vụ với 116
dự án, tổng vốn đầu tư đăng ký: 2.333,85 triệu USD, chiếm 97,5% về số dự án
và 96,7% về số vốn đầu tư, với các ngành sản xuất, lắp ráp ôtô, xe máy; cơ khí
chế tạo; phanh ô tô, xe máy; may mặc; đồ nhựa; điện tử và xây dựng hạ tầng
KCN. Trong khi đó, lĩnh vực nông nghiệp, lâm nghiệp, thuỷ sản chỉ có 3 dự án
với tổng vốn đầu tư 79,0 triệu USD (chiếm 3,3% tổng vốn đầu tư đăng ký).
83
Xét theo hình thức đầu tư thì phần lớn các dự án FDI trên địa bàn tỉnh
đầu tư theo hình thức 100% vốn nước ngoài. Tính đến tháng 9 năm 2012,
trong tổng số 119 dự án, có 104 dự án đầu tư theo hình thức 100% vốn nước
ngoài, với tổng vốn đầu tư: 1.668,83 triệu USD; đầu tư theo hình thức Công
ty liên doanh: 12 dự án, với tổng vốn đầu tư: 558,12 triệu USD; theo hình
thức Công ty cổ phần: 03 dự án, với tổng vốn đầu tư: 185,9 triệu USD.
Về phân bố theo địa bàn, các dự án FDI chủ yếu tập trung nhiều nhất ở
thành phố Vĩnh Yên với 60 dự án, tổng vốn đầu tư đăng ký: 399,7 triệu USD,
thứ hai là huyện Bình Xuyên với 46 dự án, tổng vốn đầu tư đăng ký: 1.378,0
triệu USD. Hai địa bàn này thu hút được nhiều dự án đầu tư do đã xây dựng
được các KCN tập trung như KCN Khai Quang, KCN Bình Xuyên, KCN Bá
Thiện, KCN Bình Xuyên II, KCN Bá Thiện II. Bên cạnh đó, đây cũng là các
địa bàn thuận lợi về môi trường đầu tư so với các địa bàn khác như: khả năng
tập trung và cung ứng lao động, khả năng cung ứng các dịch vụ phục vụ cho
hoạt động SXKD và sinh hoạt: bưu chính viễn thông, tài chính ngân
hàng,...cơ sở hạ tầng đường, điện, cấp thoát nước...Tiếp theo là thị xã Phúc
Yên: 05 dự án, trong đó có hai dự án lớn của Công ty Honda và Toyota Việt
Nam; huyện Tam Dương thu hút được 03 dự án, huyện Vĩnh Tường 03 dự án,
huyện Tam Đảo 02 dự án và huyện Yên Lạc có 01 dự án đầu tư.
Nếu xét theo đối tác đầu tư, các dự án FDI ở Vĩnh Phúc đến từ 12 quốc gia
và vùng lãnh thổ của Châu Á, Châu Âu, Châu Mỹ và Châu Phi, trong đó chủ
yếu là từ các quốc gia châu Á: Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan, Trung Quốc,
Singapore, Malaysia...Kết quả rà soát, thống kê của Ban quản lý các KCN cho
thấy, trong số 158 dự án đăng ký có 21 dự án của Nhận Bản, 66 dự án của Hàn
Quốc, 49 dự án của Trung Quốc, Đài Loan, còn lại là các nước khác như
Indonexia, Thái Lan, Italia....với 22 dự án. Thống kê cũng cho thấy từ năm
2007 đến nay, các DN của Trung Quốc, Đài Loan chủ yếu tập trung vào lĩnh
vực chế tạo, lắp ráp cơ khí, may mặc, trong khi đó các DN của Nhật Bản cũng
chủ yếu tập trung vào lĩnh vực chế tạo, lắp ráp cơ khí, công nghiệp phụ trợ sản
xuất ô tô, xe gắn máy, các DN Hàn Quốc chủ yếu đầu tư vào lĩnh vực may mặc
84
gia công, sản xuất linh kiện điện tử, các dự án của các nước khác chủ yếu đầu
tư vào lĩnh vực sản xuất nông nghiệp, chăn nuôi, phát triển du lịch,...Về vốn
đầu tư, Đài Loan có số vốn đầu tư đăng ký lớn nhất: 1.211,0 triệu USD, sau đó
là Nhật Bản: 660,7 triệu USD và Hàn Quốc: 241,18 triệu USD. Các quốc gia:
Trung Quốc: 8 dự án với vốn đầu tư 36,29 triệu USD, Ấn Độ và Singapore mỗi
quốc gia có 2 dự án với số vốn đầu tư đăng ký tương ứng: 6,2 triệu USD và
185,0 triệu USD, Malaysia: 1 dự án với vốn đầu tư 2,5 triệu USD.
Trong khi đó, kết quả thu hút các dự án đến từ các châu lục khác còn khá
khiêm tốn, nhất là việc thu hút các dự án đến từ các quốc gia có nền công
nghiệp phát triển. Hiện mới thu hút được 01 dự án của Italia: 45,0 triệu USD;
01 dự án Pháp: 14,0 triệu USD. Cho đến nay, tỉnh chưa thu hút được dự án
nào đến từ Australia, châu Mỹ Latinh và Bắc Âu. Số lượng dự án thuộc ngành
công nghiệp trọng điểm, công nghệ cao, mang tính bền vững và có giá trị gia
tăng lớn, có thể tham gia vào chuỗi cung ứng toàn cầu chưa nhiều.
3.2.1.3. Tình hình triển khai, vốn thực hiện của các dự án đầu tư trực
tiếp nước ngoài
Trong tổng số 119 dự án còn hiệu lực hiện nay đã có 94 dự án đi vào
hoạt động SXKD; 09 dự án đang xây dựng; 02 dự án BTGPMB và 13 dự án
chưa triển khai (trong đó: 05 dự án xin giãn tiến độ, 08 dự án thuộc diện thu
hồi Giấy CNĐT, giải thể DN trước thời hạn). Lũy kế từ trước đến nay, tỉnh đã
thực hiện thu hồi giấy phép đầu tư/giấy CNĐT của 17 dự án, với tổng vốn đầu
tư đăng ký là: 62 triệu USD, do không có khả năng triển khai.
Vốn thực hiện của các dự án FDI lũy kế đến nay đạt: 1.107,44 triệu
USD, chiếm 46,0%/tổng vốn đầu tư. Các dự án Nhật Bản, Hàn Quốc có tỷ lệ
vốn thực hiện cao (Nhật Bản: vốn thực hiện đạt 86%/vốn đầu tư đăng ký, Hàn
Quốc: 80%/vốn đầu tư đăng ký). Trong khi đó, các dự án Đài Loan vốn thực
hiện chỉ đạt 16%/vốn đầu tư đăng ký, nguyên nhân chính là do: một số dự án
có quy mô vốn đầu tư đăng ký lớn được cấp giấy CNĐT vào thời điểm cuối
năm 2008, đầu năm 2009 do ảnh hưởng của khủng hoảng kinh tế thế giới, nên
tiến độ giải ngân đạt thấp. Hơn nữa, các dự án có vốn đăng ký đầu tư lớn (như
85
Dự án sản xuất máy tính xách tay và Dự án kinh doanh hạ tầng KCN Bá
Thiện của Tập đoàn Compal, Dự án sản xuất điện thoại di động và Dự án kinh
doanh hạ tầng KCN Bá Thiện II của Tập đoàn Hồng Hải) đầu tư theo các giai
đoạn được phân kỳ, đang trong thời gian thực hiện giai đoạn I (với số vốn đầu
tư chiếm 20%/ tổng vốn đầu tư của cả dự án), kéo theo vốn thực hiện cho toàn
bộ dự án đạt thấp.
3.2.2. Thực trạng tác động tích cực của đầu tư trực tiếp nước ngoài tới
phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh Vĩnh Phúc
3.2.2.1. Tác động tích cực của đầu tư trực tiếp nước ngoài tới phát triển
kinh tế
Thứ nhất, Trong những năm qua FDI đã góp phần thúc đẩy tăng trưởng
kinh tế trên địa bàn tỉnh. FDI đã trở thành nguồn vốn quan trọng cho đẩy
nhanh tăng trưởng kinh tế trên địa bàn tỉnh. Tình hình đóng góp vốn của FDI
được phản ánh qua bảng số liệu 3.1. dưới đây:
Bảng 3.1. Giá trị vốn đầu tư thực hiện trên địa bàn tỉnh Vĩnh PhúcĐvt: Triệu đồng
Tổng số FDI Tỷ trọng của FDI (%)1998 392.555 79.340 20,211999 527.388 78.248 14,842000 634.837 123.455 19,452001 839.135 325.459 38,792002 1.955.959 828.555 42,362003 4.061.092 779.806 19,202004 4.032.629 744.734 18,472005 3.695.476 640.263 17,332006 3.528.679 563.021 15,962007 5.498.641 782.948 14,242008 8.398.500 1.985.977 23,652009 12.331.877 2.080.273 16,872010 14.482.867 2.353.255 16,252011 17.202.907 2.056.789 11,96
SB 2012 14.880.980 2.666.250 17,92Ư 2013 14.211.000 3.492.788 24,58
Nguồn: [31], [32], [35], [76].
86
Như vậy, trong những năm qua, nguồn vốn FDI chiếm tỷ trọng đáng kể
trong tổng vốn đầu tư toàn xã hội. Năm 2013 FDI chiếm tới 24,58% tổng vốn
đầu tư xã hội của tỉnh, nhờ đó tạo thêm thuận lợi cho tăng trưởng kinh tế.
Tình hình đóng góp trực tiếp của FDI vào tăng trưởng kinh tế hàng năm của
tỉnh Vĩnh Phúc được phản ánh qua các số liệu của bảng 3.2. dưới đây.
Bảng 3.2. Tăng trưởng của tổng sản phẩm trên địa bàn tỉnh VĩnhPhúc theo giá so sánh
Đơn vị tính: triệu đồng
Năm GDPTốc độ tăng
trưởng liên hoàn(%)
GDP FDITốc độ tăngtrưởng liênhoàn (%)
1998 2.162.656 - 458.134 -1999 2.331.343 107,80 461.160 100,662000 2.911.308 124,88 823.217 178,512001 3.258.578 111,93 897.470 109,022002 3.834.502 117,67 1.039.759 115,852003 4.581.717 119,49 1.288.415 123,912004 5.293.984 115,55 1.529.445 118,712005 6.220.982 117,51 2.022.551 132,242006 7.277.305 116,98 2.523.666 124,782007 8.255.087 113,44 3.497.918 138,602008 28.934.668 117,35 13.622.793 119,862009 31.326.397 108,27 15.383.070 112,922010 37.669.905 120,25 18.285.528 118,872011 43.177.295 114,62 21.525.830 117,72
SB 2012 44.265.362 102,52 21.635.436 100,51Ư 2013 107,89
Nguồn: [31], [32], [34], [76]. (các số liệu từ năm 1998 đến 2007 tính theo giá
cố định năm 1994, từ năm 2008 đến 2013 tính theo giá cố định năm 2010).
Các số liệu trên cho thấy trong giai đoạn 1998 - 2013 tốc độ tăng trưởng
kinh tế của tỉnh Vĩnh Phúc đạt mức khá cao. Ngoại trừ một số năm như năm
1999, 2001, 2002, 2010, 2012 tốc độ tăng trưởng của bộ phận GDP do FDI
tạo ra thấp hơn so với mức tăng trưởng GDP chung của tỉnh, song nếu xét cả
giai đoạn 1998 - 2012 tốc độ tăng trưởng GDP của FDI vẫn cao hơn mức tăng
trưởng GDP chung của cả tỉnh. Trong giai đoạn 1998 - 2007 GDP của tỉnh
tăng 3,82 lần, GDP FDI tăng 7,64 lần. Trong giai đoạn 2008 - 2013 GDP của
tỉnh tăng 1,53 lần, GDP FDI tăng 1,59 lần. Nhờ đó tỷ trọng đóng góp của FDI
87
vào GDP của tỉnh Vĩnh Phúc cũng không ngừng tăng lên, cụ thể phản ánh
trong bảng 3.3. dưới đây.
Bảng 3.3. Đóng góp của FDI vào GDP của tỉnh Vĩnh Phúc theo giáthực tế
Đơn vị tính: triệu đồng
Năm GDP GDP FDI Tỷ trọng của GDP FDItrong tổng GDP (%)
1998 2.867.898 614.194 21,421999 3.194.544 620.353 19,422000 3.828.588 1.105.317 28,872001 4.431.138 1.224.130 27,632002 5.244.927 1.472.909 28,082003 6.498.132 1.893.279 29,142004 6.883.954 2.100.994 30,522005 8.871.917 3.160.313 35,622006 12.014.590 4.915.567 40,912007 15.832.879 6.965.408 43,992008 23.768.243 9.948.564 41,862009 25.922.472 11.158.572 43,052010 36.401.299 15.624.080 42,922011 49.447.244 22.161.662 44,82
SB 2012 52.536.142 23.277.589 44,31
Nguồn: [31],[32],[34],[35]
Trong suốt giai đoạn 1998 - 2012, tỷ trọng đóng góp của khu vực FDI vào
GDP toàn tỉnh có xu thế tăng lên đáng kể từ 21,42% năm 1998 lên 44,31%
năm 2012 và tiếp tục đóng góp phần quan trọng trong tăng trưởng kinh tế. Tốc
độ tăng trưởng GDP bình quân giai đoạn 1997 - 2012 đạt 17,2%/năm, trong đó:
giai đoạn 2001-2005, nhịp độ tăng bình quân đạt 15,02%/năm (cả nước tăng
7,51%/năm); giai đoạn 2006 - 2010 nhịp độ tăng bình quân đạt 18,0%/năm (cả
nước tăng 7,0%/năm). Nếu so sánh tỷ trọng của FDI trong tổng vốn đầu tư
(Bảng 3.1.) và tỷ trọng của FDI trong GDP toàn tỉnh (Bảng 3.3.) có thể thấy rõ,
FDI không những đóng góp cho tăng trưởng kinh tế trên địa bàn tỉnh về số
lượng, mà đồng thời cũng là nhân tố sử dụng hiệu quả vốn đầu tư, góp phần
không ngừng nâng cao chất lượng tăng trưởng kinh tế của tỉnh.
Thứ hai, FDI là nhân tố chủ yếu thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế trên
địa bàn tỉnh theo hướng CNH, HĐH. Phần lớn nguồn vốn FDI trên địa bàn
88
tỉnh Vĩnh Phúc trong những năm qua được tập trung vào phát triển công
nghiệp. Nhờ thu hút được nguồn vốn FDI khá lớn, công nghiệp Vĩnh Phúc đã
có bước phát triển nhanh, cụ thể thể hiện qua các số liệu ở bảng 3.4. dưới đây.
Bảng 3.4. Tăng trưởng giá trị sản xuất công nghiệp của các doanh nghiệp
FDI trong công nghiệp Vĩnh Phúc giai đoạn 1998-2012 (giá cố định 1994)
Tổng GTSXCN của VĩnhPhúc GTSXCN của FDI
NămTriệu đồng Tốc độ tăng trưởng
liên hoàn (%)Triệu đồng Tốc độ tăng trưởng
liên hoàn (%)1998 2.548.648 - 2.152.815 -1999 3.075.517 120,67 2.650.496 123,122000 5.337.709 173,55 4.801.691 181,162001 6.126.150 114,77 5.233.487 108,992002 7.722.154 126,05 6.475.120 123,722003 10.140.685 131,32 8.323.315 128,542004 12.025.860 118,59 9.421.317 113,192005 14.523.588 120,77 11.943.608 126,772006 18.665.369 128,52 16.004.687 134,002007 26.655.116 142,81 22.961.625 143,472008 72.729.317 272,85 60.260.504 262,442009 81.270.191 111,74 68.095.314 113,002010 96.645.873 118,92 80.929.152 118,852011 109.822.273 113,63 94.859.821 117,21SB
2012 110.695.126 100,79 95.332.547 100,50
Nguồn: [31],[32],[33],[35] (các số liệu từ năm 1998 đến 2007 tính theo giá
cố định năm 1994, từ năm 2008 đến 2013 tính theo giá cố định năm 2010).
Trong giai đoạn từ năm 1998 đến năm 2012, GTSXCN của tỉnh Vĩnh Phúc
nói chung và của FDI trên địa bàn tỉnh nói riêng không ngừng tăng lên. Mặc dù
trong một số năm như năm 2001, 2002, 2003, 2004, 2008, 2010, 2011 tốc độ
tăng trưởng GTSXCN của FDI chậm hơn so với mức tăng chung của toàn ngành
công nghiệp, nhưng nếu tính cả giai đoạn 1998 - 2012 thì tốc độ tăng trưởng
GTSXCN của FDI vẫn cao hơn mức chung của toàn ngành công nghiệp của
tỉnh. Trong giai đoạn 1998 - 2007 GTSXCN của toàn tỉnh tăng 10,46 lần;
GTSXCN của FDI tăng 10,67 lần. Trong giai đoạn 1998 - 2007 GTSXCN của
toàn tỉnh tăng 1,52 lần, GTSXCN của FDI tăng 1,58 lần.
89
Tình hình đóng góp cụ thể của FDI vào GTSXCN của tỉnh Vĩnh Phúc được
phản ánh qua các số liệu của bảng 3.5. dưới đây.
Bảng 3.5. Đóng góp của FDI vào giá trị sản xuất công nghiệp của tỉnhVĩnh Phúc giai đoạn 1998 -2012
Đơn vị tính: triệu đồngNăm Tổng số FDI Tỷ trọng của FDI (%)1998 3.254.187 2.819.556 86,641999 3.891.475 3.446.308 88,562000 6.802.215 6.210.087 91,302001 7.177.273 6.221.642 86,692002 9.885.357 8.435.401 85,332003 13.566.038 11.386.419 83,932004 17.000.961 13.596.334 79,972005 21.319.125 17.818.980 83,582006 28.093.219 24.030.730 85,542007 39.825.228 34.439.150 86,482008 53.107.428 44.020.590 82,892009 59.104.607 49.383.877 83,552010 81.155.884 69.164.382 85,222011 115.435.268 97.688.599 84,63
SB 2012 121.169.382 102.474.799 84,57Nguồn: [31],[32],[33],[35]
Những số liệu trên cho thấy, FDI có vai trò đặc biệt quan trọng trong sản xuất
công nghiệp của tỉnh Vĩnh Phúc. Tỷ trọng của FDI trong GTSXCN toàn tỉnh đạt
mức thấp nhất là 79,97% vào năm 2004 và cao nhất là 91,3% vào năm 2000. Mặc
dù có những biến động nhất định qua các năm nhưng cho đến hết năm 2012 tỷ
trọng của FDI trong GTSXCN trên địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc vẫn ở mức rất cao
(84,57%). Rõ ràng, sự phát triển của ngành công nghiệp tỉnh Vĩnh Phúc trong
những năm qua phụ thuộc rất lớn vào hoạt động của FDI.
Nhờ sự tăng trưởng nhanh chóng của FDI trong công nghiệp, cơ cấu kinh tế
của tỉnh đã có sự chuyển dịch rất mạnh mẽ theo hướng tăng không ngừng tỷ
trọng của ngành công nghiệp và xây dựng trong GDP: từ 20,71% năm 1997 lên
31,13 % năm 1998; 30,13 % năm 1999; 38,97% năm 2000; 40% năm 2001;
42,65% năm 2002; 46,41% năm 2003; 49,53% năm 2004; 52,69% năm 2005;
56,41% năm 2006; 59,92% năm 2007; 56,56% năm 2008; 57,74% năm 2009;
55,44% năm 2010; 58,07% năm 2011; 57,65% năm 2012; 60,10% năm 2013.
90
Tỷ trọng của ngành nông, lâm nghiệp thủy sản giảm mạnh từ 44,35% năm 1997
xuống còn 10,72% vào năm 2013.
Tác động tích cực của FDI tới chuyển dịch cơ cấu kinh tế trên địa bàn tỉnh
còn biểu hiện thông qua thúc đẩy sự hình thành và phát triển các ngành công
nghiệp mũi nhọn của tỉnh Vĩnh Phúc. Sự bổ sung về vốn đầu tư FDI đối với
công nghiệp Vĩnh Phúc thời gian qua đã tạo ra những điều kiện mới cho sự khai
thác những tiềm năng của tỉnh, từng bước hình thành những lợi thế mới trong hệ
thống phân công lao động quốc tế. Việc phát huy nội lực và tranh thủ ngoại lực
đã giúp tỉnh xác định rõ hơn các ngành hàng chủ lực. Trong những năm qua FDI
đã từng bước tạo lập và phát triển các ngành kinh tế mũi nhọn của tỉnh, bao gồm:
Một là, ngành ô tô, xe máy. Với sự tham gia của các DN FDI, đặc biệt là
Toyota Việt Nam và Honda Việt Nam, số lượng ô tô, xe máy xuất xưởng tăng
rất nhanh. Nếu như năm 1998 số lượng ô tô xuất xưởng mới chỉ khiêm tốn ở
mức gần 2.000 chiếc, thì đến năm 2012 đã đạt mức 24.513 chiếc. Số lượng xe
máy xuất xưởng tăng từ 80.000 chiếc năm 1998 lên đến 2.299.735 chiếc vào
năm 2012. Số lượng xe máy các loại sản xuất tăng nhanh từ 1.388.953 chiếc
năm 2008 lên đến 2.429.492 chiếc vào năm 2013, với nhiều dòng xe phù hợp
với thị hiếu và tài chính của người Việt, được khách hàng đánh giá cao về
chất lượng và thương hiệu.
Sự phát triển mạnh mẽ của ngành ô tô, xe máy đã kéo theo sự hình thành
và phát triển nhanh các DN cơ khí sản xuất phụ tùng, linh kiện chất lượng cao
cho công nghiệp lắp ráp ô tô, xe máy. Tính đến ngày 24 tháng 7 năm 2014
trên địa bàn Tỉnh đã thu hút được 27 dự án FDI vào ngành công nghiệp hỗ trợ
sản xuất ô tô, xe máy với tổng vốn đăng ký trên 265 triệu USD, vốn thực hiện
đạt gần 260 triệu USD ( đạt mức 97,26%). Những dự án tiêu biểu bao gồm
Công ty Sản xuất phanh Nissin Việt Nam (với vốn đăng ký 49 triệu USD); Dự
án Nhà máy sản xuất động cơ của Cty Piaggio Việt Nam (với vốn đăng ký 45
triệu USD); Công ty TNHH Kohsei Multipack Việt Nam (vốn đăng ký 30
triệu USD), Công ty TNHH Maruichi Sun Steel (vốn đăng ký 21,4 triệu
USD); Công ty TNHH Exedy Việt Nam (vốn đăng ký 12 triệu USD… Bên
91
cạnh đó, ngành công nghiệp hỗ trợ sản xuất xe máy đã từng bước có sự tham
gia của các DN DDI. Tính đến năm 2014 đã có 3 dự án DDI trong ngành này
là Công ty TNHH Công nghệ COSMOS; Công ty TNHH Hùng Huy; Công ty
TNHH Công nghiệp Thiện Mỹ với tổng số vốn đăng ký là 92,25 tỷ đồng.
Hoạt động của các DN FDI và DDI trong ngành công nghiệp hỗ trợ đã góp
phần đưa tỷ lệ nội địa hóa trong sản xuất ô tô lên mức 9%, xe máy trên 70%.
Hai là, ngành cơ khí chế tạo. Nhờ có sự tham gia của các DN FDI công
nghiệp cơ khí chế tạo của Vĩnh Phúc có bước phát triển nhanh, tăng trưởng
trong giai đoạn 2001-2005 đạt mức 18%/năm ; giai đoạn 2006 - 2010 đạt mức
25,73%.
Ba là, ngành sản xuất sản phẩm điện tử, máy vi tính và sản phẩm quang
học. Mặc dù là nhóm ngành có tỷ trọng chưa lớn trong GTSXCN toàn tỉnh,
song có có nhiều triển vọng, có tốc độ tăng trưởng rất nhanh. Trong giai đoạn
2008 - 2012 giá trị sản xuất của ngành tăng từ 15.823 triệu đồng lên đến
1.282.881 triệu đồng (tăng trên 81 lần). Đóng góp cho sự phát triển nhanh
chóng của ngành này có phần đáng kể của các DN FDI thuộc ngành công
nghiệp hỗ trợ. Tính đến tháng 7 năm 2014 trên địa bàn Tỉnh đã có 23 dự án
FDI hoạt động trong ngành công nghiệp hỗ trợ diện, điện tử với số vốn đăng ký
trên 414 triệu USD, vốn thực hiện gần 189 triệu USD. Những dự án tiêu biểu
bao gồm Công ty TNHH Partron Vina (vốn đăng ký 115,5 triệu USD); Công ty
TNHH JAHWA VINA (vốn đăng ký 40 triệu USD); Công ty TNHH Heasung
Vina (vốn đăng ký 36 triệu USD); Công ty TNHH Bang Joo Electronics VN
(vốn đăng ký 30 triệu USD); Công ty TNHH Cammsys VN (vốn đăng ký 30
triệu USD); Công ty TNHH IN Điện tử Minh Đức (vốn đăng ký 21 triệu USD);
Công ty TNHH UJU Vina (vốn đăng ký 20 triệu USD); Công ty TNHH Power
Logics Vina (vốn đăng ký 16 triệu USD); Công ty TNHH Vina Union (vốn
đăng ký 15 triệu USD); Công ty TNHH Daeduck VN (vốn đăng ký 14 triệu
USD); Công ty TNHH Công nghiệp điện tử Sanha Việt Nam (vốn đăng ký 14
triệu USD); Công ty TNHH Dongyang Electronics VN (vốn đăng ký 10 triệu
92
USD); Công ty TNHH BH Vina (vốn đăng ký 10 triệu USD); Công ty TNHH
U-One Comtech VN (vốn đăng ký 10 triệu USD)…
Bên cạnh đó, FDI đã có tác động bước đầu đến sự hình thành và phát
triển của ngành công nghiệp chế biến nông lâm, thủy sản. Mặc dù khối lượng
giá trị sản xuất chưa lớn song trong những năm qua các DN FDI trong ngành
này cũng từng bước lớn dần. Giá trị sản xuất năm 2008 đạt mức 941.280 triệu
đồng; năm 2012 đạt 1.686.472 triệu đồng (tăng 1,79 lần).
Thứ ba, tác động của FDI tới công nghệ sản xuất FDI góp phần thúc đẩy
chuyển giao công nghệ tiên tiến vào tỉnh, phát triển một số ngành kinh tế chủ
lực của địa phương như sản xuất, chế tạo ô tô, xe máy, linh kiện phụ tùng ô
tô, xe máy, điện tử...Nhất là sau khi Công ty Toyota, Honda đầu tư vào tỉnh
đã kéo theo các dự án vệ tinh, các nhà cung cấp sản phẩm công nghiệp hỗ trợ
cho ô tô, xe máy. Hầu hết các DN FDI áp dụng phương thức quản lý tiên tiến,
được kết nối và chịu ảnh hưởng của hệ thống quản lý hiện đại của công ty mẹ.
Công nghệ tiên tiến đã được chuyển giao thông qua các hợp đồng chuyển giao
công nghệ vào Việt Nam.
Bên cạnh đó, FDI có tác động lan tỏa đến các thành phần kinh tế khác
trong tỉnh thúc đẩy lĩnh vực dịch vụ của tỉnh nâng cao chất lượng và phát triển
nhanh hơn, nhất là các ngành du lịch, dịch vụ, vui chơi giải trí, kinh doanh bất
động sản...Một số các dự án đô thị dịch vụ, du lịch vui chơi giải trí và du lịch
sinh thái lớn đã cơ bản hoàn thành và đi vào hoạt động kinh doanh như khu
nghỉ mát Tam Đảo Belvedere, khu danh thắng Tây Thiên, khu du lịch sinh thái
Flamingo Đại Lải Resort; khu đô thị, khách sạn và nhà hàng cao cấp Sông
Hồng Thủ đô; khu đô thị mới chùa Hà Tiên, khu đô thị sân Golf Nam Đầm
Vạc, sân Golf Đại Lải…Trong thời gian tới, các dự án trọng điểm sẽ hoàn
thành như Quảng trường, Nhà hát, Khu liên hợp thể thao, Khu du lịch sinh thái
vui chơi, giải trí Đầm Vạc, quần thể du lịch vui chơi giải trí Future Land …
Ngoài ra FDI còn góp phần hình thành và phát triển hệ thống các KCN,
CCN tương đối đồng bộ. KCN Kim Hoa với diện tích 70 ha là KCN đầu tiên
của tỉnh được hình thành trên cơ sở của việc xây dựng và đi vào hoạt động
93
của công ty Hon Da Việt Nam; KCN Bình Xuyên với tổng số 53 dự án đầu
tư, có 33 DN FDI. FDI đã góp phần nâng cao hiệu quả sử dụng đất trong các
KCN, tỷ lệ lấp đầy theo quy hoạch khoảng 37%, theo diện tích đã giải phóng
mặt bằng đạt trên 70%.
Thứ tư, tác động của FDI tới sự hình thành và phát triển của hệ thống kết
cấu hạ tầng kinh tế - kỹ thuật. Sự phát triển của các DN FDI trong công
nghiệp Vĩnh Phúc thời gian qua đã đặt ra những yêu cầu mới đối với sự phát
triển kết cấu hạ tầng. Để tạo thuận lợi cho hoạt động của các DN FDI trên địa
bàn và phục vụ công tác đẩy mạnh thu hút nguồn vốn FDI cho phát triển công
nghiệp trong thời gian tới vấn đề đặt ra tỉnh Vĩnh Phúc phải tập trung phát
triển hệ thống kết cấu hạ tầng, đặc biệt là hệ thống đường giao thông, cung
cấp điện, nước, dịch vụ bưu chính viễn thông …
Đảng bộ và nhân dân tỉnh Vĩnh Phúc đã xác định một trong những nhiệm
vụ trọng tâm cần thực hiện để thu hút và sử dụng hiệu quả FDI là đầu tư phát
triển kết cấu hạ tầng. UBND tỉnh đã chỉ đạo thực hiện thông qua việc lập
quy hoạch, chuẩn bị đầu tư, huy động, thu hút nguồn lực và triển khai thực
hiện đầu tư xây dựng các công trình kết cấu hạ tầng. Việc thực hiện đầu tư
các công trình kết cấu hạ tầng cho việc phát triển sản xuất và phục vụ cộng
đồng được triển khai tích cực. Nhằm tạo ra sự hấp dẫn mới đối với công tác
thu hút vốn đầu tư, UBND tỉnh đã ưu tiên cho phát triển hạ tầng giao thông,
hạ tầng trong và ngoài các KCN chủ yếu là các đường trục chính giữa các
KCN: Bình Xuyên, Quang Minh, Kim Hoa, mở rộng Quốc lộ 2 (theo hình
thức Hợp đồng xây dựng-kinh doanh-chuyển giao BOT), đường trục chính
khu đô thị Mê Linh 100m nâng cấp đường tỉnh lộ 23, Quốc lộ 2B, Quốc lộ
2C..; trạm điện 110KV Phúc Yên, Vĩnh Tường, Yên Lạc; trạm điện 220KV
Bình Xuyên; dự án JIBIC nâng cấp hệ thống điện nước Vĩnh Yên, Phúc
Yên; hạ tầng cho khu vực nông nghiệp, nông thôn, giáo dục đào tạo, y tế và
các công trình hạ tầng đô thị…
Thứ năm, FDI góp phần mở rộng quan hệ đối ngoại, chủ động hội nhập
kinh tế với khu vực và thế giới. Hoạt động của các dự án đầu tư trực tiếp giúp
94
tỉnh tiếp cận và mở rộng thị trường quốc tế, nâng cao năng lực xuất khẩu hàng
hóa. Với sự đóng góp của FDI, Giá trị kim ngạch xuất khẩu của các dự án
FDI trên địa bàn tỉnh cũng gia tăng nhanh chóng. Trong giai đoạn 2001-2005,
GTKNXK đạt trên 293,00 triệu USD, mức tăng bình quân đạt 134,2%/năm;
giai đoạn 2006-2010, GTKNXK đạt trên 1.573,787 triệu USD, gấp 5,4 lần so
với 5 năm trước, mức tăng bình quân đạt 31,43%/năm; năm 2011, đạt 510
triệu USD (chiếm 92,77% GTKNXK của tỉnh), năm 2012 đạt 595,6 triệu
USD (chiếm 93,52% GTKNXK của tỉnh).
Đồng thời FDI cũng góp phần mở rộng quan hệ đối ngoại của tỉnh, chủ
động hội nhập kinh tế quốc tế theo hướng đa phương hóa, đa dạng hóa. Đến
nay, tỉnh đã đặt quan hệ hợp tác về kinh tế, văn hóa, đầu tư, thương mại với
một số tỉnh của Hàn Quốc và Nhật Bản.
Thứ sáu, tác động của FDI tới nguồn thu ngân sách. Sự phát triển của các
DN FDI ở Vĩnh Phúc đã góp phần cải thiện tình hình thu ngân sách của tỉnh,
giúp cho tỉnh từ chỗ không cân đối được thu chi ngân sách chỉ tiêu chủ yếu
nhờ trợ cấp từ ngân sách Trung ương, đến nay ngoài việc đã tự cân đối được
thu - chi ngân sách còn đóng góp cho ngân sách Trung ương ngày càng tăng,
góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế xã hội của cả nước. Tình hình đóng góp
cho ngân sách của các DN FDI ở Vĩnh Phúc thời gian qua được thể hiện qua
những số liệu của bảng 3.6. dưới đây:
95
Bảng 3.6. Đóng góp của các doanh nghiệp FDI vào ngân sách tỉnhVĩnh Phúc theo giá thực tế
Đơn vị tính: Triệu đồng
Thu NS từ FDI Tốc độ tăngtrưởng liên hoàn
Tỷ trọng trongtổng thu NSNăm
Triệu đồng % %
1997 24.315 - 21,31
1998 54.592 224,52 28,25
1999 109.164 199,96 25,82
2000 163.336 149,62 23,77
2001 154.403 94,53 18,34
2002 205.416 133,04 12,44
2003 348.918 169,86 19,24
2004 862.907 247,31 33,67
2005 1.854.134 214,87 58,25
2006 2.629.107 141,80 58,60
2007 3.640.747 138,48 63,82
2008 5.947.694 163,36 63,27
2009 7.036.592 118,31 68,53
2010 9.252.585 131,49 60,26
2011 9.257.400 100,05 55,38
Nguồn: Cục Thống kê tỉnh Vĩnh Phúc
Trong giai đoạn 1997 - 2000, tổng thu từ các DN FDI đạt mức còn
khiêm tốn là 351 tỷ đồng, chiếm 34% tổng thu nội địa và 25% tổng thu ngân
sách trên địa bàn tỉnh. Tuy nhiên, theo báo cáo của Sở Tài chính, thu từ DN
FDI có xu hướng tăng nhanh, tỷ trọng trong thu nội địa tăng từ 23% năm
1997 lên 51% năm 2000.
Trong giai đoạn 2001 - 2005 tổng thu ngân sách từ các DN FDI đạt mức
3.445 tỷ đồng, chiếm 35% tổng thu ngân sách và 70% thu nội địa trên địa bàn.
Thu từ các DN FDI tiếp tục có xu hướng tăng nhanh. Tỷ trọng trong thu nội
địa tăng từ 55% năm 2001 lên 80% năm 2005. Đóng góp của FDI vào ngân
sách trong giai đoạn này đã đưa Vĩnh Phúc vào nhóm tỉnh có ngân sách đạt
trên 1.000 tỷ từ năm 2002.
96
Trong giai đoạn 2006 - 2011, tổng thu ngân sách từ các DN FDI đạt mức
37.765 tỷ đồng, chiếm 61% tổng thu ngân sách và 83% thu nội địa trên địa bàn.
Thu từ các DN FDI tiếp tục có xu hướng tăng nhanh. Tỷ trọng trong thu nội địa
tăng từ 79% năm 2005 lên 86% năm 2009; năm 2010 - 85%; năm 2011 - 81%.
Giai đoạn 1997 - 2011 đóng góp của các DN FDI vào ngân sách tỉnh hầu như
tăng lên liên tục ngoại trừ năm 2001 do chính sách vĩ mô của Chính phủ (hạn
chế nhập khẩu linh kiện lắp hàng xe máy). Tỷ trọng thu ngân sách từ các DN
FDI trong tổng thu ngân sách của Vĩnh Phúc từ năm 2005 đến nay luôn ở mức
rất cao (nếu tính toàn giai đoạn 1997-2011 thì 56,6% Tổng thu ngân sách và
81% thu nội địa của Vĩnh Phúc là đóng góp của các DN FDI [53].
Những số liệu trên là minh chứng rõ ràng khẳng định vai trò của các DN
FDI trong thu ngân sách của Vĩnh Phúc là rất lớn, có ý nghĩa quyết định tới
tổng thu ngân sách hàng năm của Vĩnh Phúc. Với sự đóng góp rất lớn vào thu
ngân sách của tỉnh hàng năm, các DN FDI đã tạo cơ sở cho tỉnh Vĩnh Phúc
không ngừng tăng vốn đầu tư từ ngân sách cho đầu tư phát triển
3.2.2.2. Thực trạng tác động tích cực của đầu tư trực tiếp nước ngoài tới
giải quyết vấn đề xã hội và môi trường
Thứ nhất, Trong những năm qua FDI đã có nhiều tác động tích cực tới
giải quyết việc làm, nâng cao thu nhập và mức sống cho người lao động. Tác
động của FDI tới vấn đề việc làm có thể xem xét trên hai phương diện: trực
tiếp và gián tiếp:
Một là, về tác động trực tiếp, FDI được thực hiện thông qua các hoạt động
kinh doanh của các DN FDI, từ đó thu hút lao động vào các DN đó. Trong
những năm qua các DN FDI ở tỉnh Vĩnh Phúc đã góp phần giải quyết việc làm
với mức độ nhất định, số lượng việc làm trực tiếp trong các DN FDI liên tục
tăng lên, góp phần tích cực vào giải quyết việc làm cho dân cư tỉnh Vĩnh Phúc.
Trong giai đoạn 1997-2000 các DN FDI đã tạo ra 4720 việc làm mới, giai
đoạn 2001 - 2003 là 10334 việc làm mới, trong đó lao động của Vĩnh Phúc là
7616 người. Năm 2004 các dự án FDI đã tạo việc làm mới cho 1.702 lao động,
nâng tổng số lao động đang làm việc trực tiếp tại các dự án FDI lên 11.544
97
người. Năm 2005 tạo ra 6.056 việc làm mới, nâng tổng số lao động đang làm
việc trực tiếp tại các dự án FDI lên 17.600 người. Năm 2006 - 7.803 việc làm
mới, tổng số lao động làm việc trực tiếp 25.403 người. Năm 2007 là 6.597 việc
làm mới, số lao động làm việc trực tiếp tại các dự án FDI là 32.243 người.
Năm 2008 các dự án FDI tạo ra 5.026 việc làm mới, số lao động được
giải quyết việc làm mới tập trung chủ yếu ở các dự án bắt đầu đi vào hoạt
động SXKD. Do ảnh hưởng của khủng hoảng kinh tế, nhiều DN đã hoạt động
sản xuất từ những năm trước phải điều chỉnh kế hoạch kinh doanh, cơ cấu lại
tổ chức, cắt giảm bớt lao động. Tính đến hết năm 2008 các dự án FDI đã giải
quyết việc làm cho 28.181 lao động FDI. Trong năm 2009, số lượng lao động
tuyển dụng mới đạt thấp, đã giải quyết việc làm cho 3.010 lao động FDI. Tính
đến hết năm 2009 các dự án FDI đã giải quyết việc làm cho 31.047 lao động.
Trong năm 2010, các dự án FDI đã giải quyết việc làm cho 1.949 lao
động FDI. Tính đến hết năm 2010 các dự án FDI đã giải quyết việc làm cho
33.080 lao động.
Trong năm 2011, các dự án FDI đã giải quyết việc làm cho 8.100 lao
động. Số lao động làm việc tại các DN FDI trên địa bàn tỉnh đến hết năm
2011 là 41.100. Trong năm 2012, các dự án FDI đã giải quyết việc làm cho
2.800 lao động. Số lao động đang làm việc tại các DN FDI trên địa bàn tỉnh
đến hết năm 2012 là gồm 43.900 lao động, trong đó lao động người Vĩnh
Phúc là 26.946 người [93]. Tính đến thời điểm tháng 6 năm 2014 tổng số lao
động làm việc trong các DN FDI trên địa bàn Tỉnh là 50.874 người [28].
Hai là, về tác động gián tiếp, sự hiện diện của các DN FDI đã kéo theo sự
phát triển của các ngành khác như kết cấu hạ tầng và dịch vụ phục vụ sản xuất
và đời sống, từ đó tạo nhiều việc làm mới cho lao động trên địa bàn tỉnh. Có
thể nói, vốn đầu tư FDI đã tạo cơ hội cho người dân có thêm khả năng tìm
kiếm và tự tạo việc làm, mở mang ngành nghề, nâng cao thu nhập, cải thiện
đời sống của người dân, đồng thời đã tạo cơ hội và điều kiện cho sự hình
thành và phát triển thị trường lao động trên địa bàn tỉnh. Sự gia tăng nguồn
vốn đầu tư FDI kéo theo sự gia tăng nhu cầu về các dịch vụ sản xuất và đời
98
sống với những yêu cầu ngày càng cao về chất lượng, vì vậy đã tạo cơ hội và
điều kiện cho người dân, nơi các DN FDI hoạt động phát triển sản xuất hàng
hoá theo hướng ứng dụng tiến bộ khoa học công nghệ hiện đại. Đây là bước
chuyển biến lớn cung cách làm ăn của người dân từ chỗ nhỏ lẻ, sản xuất tự
cung, tự cấp lên sản xuất tập trung theo hướng sản xuất hàng hoá, với năng
suất, chất lượng cao theo phương pháp công nghiệp, đáp ứng yêu cầu của
CNH, HĐH và hội nhập kinh tế quốc tế.
Sự có mặt của các DN lớn từ các nguồn vốn FDI không những góp phần
giải quyết việc làm cho một lực lượng lao động ngày càng lớn, mà còn góp
phần làm gia tăng chất lượng NNL, kể cả lao động quản lý và kỹ năng của
người lao động trực tiếp theo phương pháp công nghiệp thông qua việc đào
tạo và đào tạo lại đội ngũ cán bộ quản lý và công nhân ở các DN có vốn đầu
tư nước ngoài. FDI đã tác động tích cực tới sự hình thành đội ngũ cán bộ quản
lý, công nhân kỹ thuật có trình độ cao, có tay nghề, từng bước tiếp cận được
với khoa học, kỹ thuật, công nghệ cao và có tác phong công nghiệp hiện đại,
có kỷ luật lao động tốt, học hỏi được các phương thức, kinh nghiệm quản lý
tiên tiến. Theo Báo cáo của Sở Lao động - Thương binh và Xã hội tỉnh Vĩnh
Phúc, năm 2011 trong số 31.802 lao động trong các DN FDI, lao động có
trình độ đại học là 2.716 người, chiếm 8,54%; trung cấp 2.123 người và
6,68%; công nhân kỹ thuật 13977 người và 43,95% [57].
Các DN FDI đã ký kết hợp đồng lao động cho 31.159/31802 người,
trong đó hợp đồng lao động không thời hạn là 11.571 người, có thời hạn từ 12
đến 36 tháng - 18.840 người, từ 3 tháng đến dưới 12 tháng - 748 người. Đã có
52/74 DN FDI xây dựng và đăng ký nội quy lao động với cơ quan quản lý nhà
nước về lao động, 58/74 DN xây dựng và đăng ký thang bảng lương, 20/74
DN xây dựng Thỏa ước lao động tập thể.
Tính đến năm 2011, thu nhập cao nhất của người lao động từ lương trong
các DN FDI đạt mức 11.753.000 đồng/ tháng; thu nhập bình quân - 3.028.000
đồng/ tháng; thu nhập thấp nhất - 1.450.000 đồng/ tháng. Bên cạnh đó đã có
sự phối hợp giữa các DN FDI với Sở Lao động - Thương binh và Xã hội và
99
các cơ sở đào tạo nghề trên địa bàn tỉnh về công tác tuyển dụng lao động.
Trong các DN FDI đã thực hiện khá tốt công tác bảo hộ lao động thông qua
thành lập bộ phận bảo hộ lao động, bộ phận y tế, mạng lưới an toàn vệ sinh
trong DN. Nhiều DN đã xây dựng kế hoạch bảo hộ lao động hàng năm, thực
hiện chế độ bồi dưỡng độc hại kịp thời. Một số DN đã tổ chức huấn luyện và
cấp thẻ an toàn lao động cho người lao động, thực hiện kiểm định kỹ thuật an
toàn lao động các loại máy móc, vật tư, thiết bị [57].
Theo báo cáo của Bảo hiểm xã hội tỉnh Vĩnh Phúc, FDI ở Vĩnh Phúc đã
tạo điều kiện thuận lợi cho ngành BHXH trong việc thực hiện mục tiêu khai
thác các nguồn thu BHXH, BHYT, không ngừng tăng nhanh mở rộng đối
tượng là điều kiện thuận lợi hoàn thành mục tiêu BHYT toàn dân và BHXH
cho mọi người lao động vào năm 2020; đồng thời là mục tiêu để ngành BHXH
kiện toàn và hoàn thiện thể chế chính sách để đáp ứng yêu cầu của tiến trình
hội nhập, CNH, HĐH đất nước. Trong đó, các DN FDI đã luôn chú trọng, quan
tâm và thực hiện đầy đủ trách nhiệm nghĩa vụ của DN đối với chính sách pháp
luật BHXH, BHYT, Bảo hiểm thất nghiệp. Tính từ năm 1997 đến năm 2014, số
lượng DN FDI tham gia BHXH, BHYT đăng ký tại cơ quan BHXH liên tục
tăng qua các năm, nếu như năm 1997 chỉ có 5 DN đăng ký tham gia BHXH,
BHYT với tổng số lao động là 1.146 người thì đến năm 2007 là 68 doanh
nghiệp (tăng gấp 13,6 lần) với tổng số lao động là 26.668 người (tăng gấp 23,3
lần) và đến thời điểm tháng 6/2014 là 107 DN (tăng gấp 21,4 lần) với tổng số
lao động là 50.874 người (tăng gấp 44,4 lần). Hàng năm, tổng số tiền thu
BHXH, BHYT, Bảo hiểm thất nghiệp do DN FDI tham gia đóng góp chiếm
trên 30% trên tổng số thu BHXH, BHYT, Bảo hiểm thất nghiệp toàn tỉnh.
Những tấm gương điển hình về thực hiện nghĩa vụ đóng bảo hiểm cho
người lao động trong các DN FDI ở tỉnh Vĩnh Phúc là Công ty Toyota và
Công ty Honda. Việc thực hiện BHXH, BHYT của 2 DN này khá nghiêm túc
và uy tín. Mặc dù suy thoái kinh tế đã ảnh hưởng lớn đến hoạt động sản xuất,
kinh doanh của các DN nhưng với chiến lược kinh doanh lấy niềm tin, sự tín
nhiệm của khách hàng là mục tiêu hoạt động đã đưa 2 DN tiếp tục duy trì hoạt
100
động của mình và đảm bảo được mọi chế độ cho người lao động trong đó có
chế độ BHXH, BHYT. Với lực lượng lao động rất nhiều, quỹ lương lớn
nhưng 2 DN này trích tiền BHXH, BHYT cho người lao động theo tháng nên
đã không bị tồn đọng tiền BHXH, BHYT. Theo số liệu thống kê thì tháng
6/2014, tổng số lao động có tham gia BHXH, BHYT của 2 đơn vị này là gần
10 nghìn người, bằng 1/5 số lao động tham gia BHXH, BHYT trong khối DN
FDI và bằng 1/11 số lao động tham gia BHXH, BHYT của toàn tỉnh và tổng
số thu là trên 73 tỷ đồng, gần bằng 8% tổng số thu của toàn tỉnh nhưng DN
đã nộp hết số tiền trích nộp BHXH, BHYT cho người lao động, vì vậy mọi
quyền lợi được hưởng về chế độ BHXH, BHYT của người lao động được
đảm bảo và giúp người lao động yên tâm lao động, sản xuất.
Việc thực hiện các chế độ, chính sách về BHXH, BHYT cho người lao
động tại DN đã được cơ quan BHXH và DN quan tâm và chi trả kịp thời, đặc
biệt là việc chi trả chế độ ốm đau và chế độ thai sản. Từ năm 1997 đến năm
2013 đã chi trả chế độ ốm đau cho 56.460 lượt lao động (trong đó: Công ty
Honda là 40.566 lượt lao động; Công ty Toyota là 15.894 lượt lao động; chi
trả chế độ thai sản cho 2.125 lao động (trong đó: Công ty Honda là 1.753 lượt
lao động; Công ty Toyota là 372 lượt lao động); chi trả chế độ dưỡng sức cho
3.811 lao động (trong đó: Công ty Honda là 2.089 lượt lao động; Công ty
Toyota là 1772 lượt lao động). Đồng thời từ năm 2006, 2 DN đã ký hợp đồng
khám chữa bệnh, tương đương với phòng khám chữa bệnh của bệnh viện
hạng 3 đã chăm sóc kịp thời sức khỏe cho người lao động [28].
Trong những năm qua, FDI đã góp phần chuyển dịch cơ cấu lao động
theo hướng CNH, HĐH. Nếu vào năm 2000, lao động nông nghiệp chiếm
85,7%; công nghiệp-xây dựng chiếm 6,5%; dịch vụ chiếm 7,8%; thì đến năm
2010 tỷ trọng lao động nông nghiệp giảm xuống còn 46,4%; công nghiệp-xây
dựng tăng lên thành 25,5% và dịch vụ là 28,1%.
Thứ hai, FDI có tác động tích cực tới bảo vệ môi trường. Về thực hiện
các thủ tục về môi trường, 100% các dự án FDI đã thực hiện lập báo cáo đánh
giá tác động môi trường, bản cam kết bảo vệ môi trường, đề án bảo vệ môi
101
trường hoặc đăng ký đạt tiêu chuẩn môi trường theo quy định; 67% đơn vị có
xác nhận hoàn thành các công trình xử lý sau đánh giá tác động môi trường;
90% đơn vị thực hiện đăng ký chủ nguồn thải chất thải nguy hại (CTNH) và
quản lý CTNH theo các văn bản hướng dẫn. Với lợi thế về vốn, khoa học
công nghệ và kinh nghiệm quản lý, phần lớn các DN FDI đã chủ động áp
dụng các biện pháp xử lý chất thải tiên tiến đáp ứng được các yêu cầu về bảo
vệ môi trường.
Đi đầu về chấp hành các quy định pháp luật về bảo vệ môi trường là các
DN FDI của Nhật Bản. Do sản phẩm mang tính toàn cầu, truyền thống văn
hóa kinh doanh của từng DN và ý thức tôn trọng và tuân thủ luật pháp nước
sở tại, các DN này luôn tuân thủ và chấp hành tốt các quy định về bảo vệ môi
trường, điển hình như các Công ty Toyota Việt Nam, Honda Việt Nam, Công
ty sản xuất phanh Nissin, Toyota Boshoku Hà Nội,...Thống kê cho thấy, tuy
có số lượng các dự án đầu tư ít song hằng năm các DN Nhật Bản phát thải
khối lượng chất thải rất lớn, trung bình khoảng 530 nghìn m3 nước thải, 25,3
nghìn tấn chất thải công nghiệp thông thường và 27,7 nghìn tấn CTNH (chủ
yếu là 2 Công ty Toyota Việt Nam và Honda Việt Nam). Kết quả thanh kiểm
tra hằng năm cho thấy, các DN Nhật Bản không chỉ thực hiện đầy đủ hồ sơ,
thủ tục về môi trường, công tác quản lý chất thải cũng được thực hiện rất bài
bản, nghiêm túc, 100% DN đã đầu tư hệ thống xử lý nước thải, khí thải đảm
bảo đạt quy chuẩn về môi trường. Hầu hết các DN thực hiện thu gom, xử lý
chất thải công nghiệp thông thường và CTNH một cách khoa học, bố trí bộ
phận chuyên trách hoặc cán bộ quản lý môi trường để thống kê, theo dõi tình
hình phát sinh, chuyển giao chất thải cho các đơn vị có đầy đủ chức năng thu
gom, vận chuyển, xử lý đúng quy định.
Bên cạnh đó, một số DN FDI của Hàn Quốc có ý thức chấp hành khá tốt
như Công ty Deawoo Bus, Heusung Vina...[29]
Về việc chấp hành pháp luật bảo vệ môi trường, theo Báo cáo của Sở Tài
nguyên và Môi trường, trong năm 2011 đã có 50 DN thực hiện công tác giám
sát môi trường và lập báo cáo định kỳ về công tác bảo vệ môi trường, 68 DN
102
thực hiện báo cáo định kỳ về quản lý CTNH. Tính đến hết tháng 5 năm 2012
đã có 105 DN thực hiện lập các thủ tục về môi trường như báo cáo đánh giá
tác động môi trường, bản đăng ký đạt tiêu chuẩn môi trường, cam kết bảo vệ
môi trường, đề án bảo vệ môi trường [59].
Việc tuân thủ các quy định về bảo vệ môi trường của các DN FDI đã trở
thành những mô hình mẫu giới thiệu về kinh nghiệm áp dụng hệ thống quản
lý môi trường ISO 14000, tạo áp lực tác động đến các DN khác trong thực
hiện hoạt động bảo vệ môi trường.
3.2.3. Thực trạng tác động tiêu cực của đầu tư trực tiếp nước ngoài tới
phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh Vĩnh Phúc.
3.2.3.1. Về kinh tế
Thứ nhất, mặc dù DN FDI thường áp dụng công nghệ tiên tiến hơn so
với các DN trong nước, song cho đến nay trình độ công nghệ của các DN FDI
không phải hoàn toàn hiện đại như mong muốn của tỉnh, do đó tác động tới
nâng cao trình độ công nghệ trên địa bàn tỉnh của FDI là hạn chế. Các dự án
FDI trên địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc chủ yếu có quy mô nhỏ và vừa đến từ các
nhà đầu tư Châu Á. Một số Tập đoàn có danh tiếng hơn đầu tư vào Vĩnh Phúc
nhưng thường không xuất phát từ công ty mẹ mà từ các công ty con thuộc thế
hệ thứ hai hoặc thứ ba (chi nhánh) ở các nước khác đầu tư vào nước thứ ba là
Việt Nam nên quy mô không quá lớn và trình độ công nghệ không cao, hạn
chế tính lan tỏa. Các ngành công nghiệp do các dự án FDI tạo ra chủ yếu là
công nghiệp lắp ráp, ít có công nghiệp chế tạo, chưa tạo ra nhiều sản phẩm
công nghệ cao, chưa đầu tư nhiều cho việc đổi mới công nghệ, hoạt động
R&D chuyển giao công nghệ còn hạn chế.
Theo Báo cáo của Sở Khoa học và Công nghệ tỉnh Vĩnh Phúc, kết quả
điều tra thực trạng công nghệ của các dự án đầu tư trong đó có 43 DN FDI
năm 2010 -2011 trong một số lĩnh vực sản xuất theo các thành phần của công
nghệ gồm kỹ thuật, con người, thông tin và tổ chức, cho thấy trình độ công
nghệ trong lĩnh vực chế biến nông, lâm sản, thực phẩm ở mức lạc hậu, các
lĩnh vực khác trình độ công nghệ chỉ đạt mức trung bình của thế giới [55].
103
Thứ hai, mặc dù FDI đã góp phần thúc đẩy liên kết hợp tác với các DN
khác trong SXKD, nhưng nhìn chung các dự án FDI mới chỉ tập trung phát
triển bản thân nó, chưa góp phần đẩy mạnh công nghiệp phụ trợ. Cho đến nay,
ngồn vốn FDI mới chỉ hoạt động trong một số ngành công nghiệp của Vĩnh
Phúc như dệt may, cơ khí lắp ráp ô tô xe máy, công nghiệp điện tử tin học…
Các DN FDI chủ yếu vẫn tập trung vào hoạt động lắp ráp, nên mằc dù giá trị
sản xuất đạt khối lượng rất lớn nhưng giá trị gia tăng chiếm tỷ trọng thấp do giá
trị các nguyên liệu, vật liệu đầu vào lớn. Chẳng hạn, tỷ lệ nội địa hoá trong
ngành sản xuất ô tô vẫn đang ở mức rất thấp (9%) [51]. Khu vực FDI đóng góp
chủ yếu vào kim ngạch xuất khẩu của tỉnh nhưng cũng nhập khẩu nhiều, thậm
chí giá trị nhập khẩu gấp 2 lần giá trị xuất khẩu (năm 2011, giá trị xuất khẩu:
510,4 triệu USD, giá trị xuất khẩu: 1.245,76 triệu USD), chứng tỏ sự yếu kém
của ngành công nghiệp hỗ trợ và sức lan tỏa thúc đẩy sản xuất đến các DN
trong nước trên địa bàn tỉnh của khu vực đầu tư nước ngoài còn thấp. Một số
DN đầu tư nước ngoài có tỷ lệ nhập khẩu cao, nhưng không chú trọng sản xuất
mà chỉ tập trung vào gia công, lắp ráp và khai thác thị trường nội địa là chủ
yếu, làm ảnh hưởng đến cán cân thương mại.
Tình trạng trên thể hiện rằng, các DN FDI do mục tiêu lợi nhuận nên đã
lựa chọn những ngành sản xuất có lợi nhất. Các ngành phụ trợ trong nước
không nằm trong sự quan tâm của họ, do đó khi chưa có sự phát triển của các
ngành này trong tỉnh, trong nước thì các DN FDI thường hướng tới nhập khẩu
linh kiện từ nước ngoài. Do đó, để phát triển các ngành công nghiệp phụ trợ
trong tỉnh cần có sự quan tâm lớn hơn của tỉnh cũng như Chính phủ và trong
thời gian trước mắt, phải dựa vào khai thác, sử dụng có hiệu quả các nguồn
nội lực chứ chưa thể hy vọng nhiều vào các nguồn ngoại lực như FDI
Thứ ba, cho đến nay kinh tế của tỉnh đang phụ thuộc rất lớn vào FDI. FDI
đang chiếm tỷ trọng quá lớn trong GTSXCN cũng như GDP và đóng góp cho
ngân sách. Nếu tính cả thuế xuất nhập khẩu và thuế giá trị gia tăng hàng nhập
khẩu thì FDI trên địa bàn tỉnh đang chiếm 87% tổng thu ngân sách. Trong khi
đó, đóng góp vào tăng trưởng, phát triển kinh tế của các dự án FDI không đồng
104
đều và có sự chênh lệch lớn; số DN Nhật Bản đóng góp 85,9% GTSXCN và
78,1% nộp ngân sách trên địa bàn. Riêng 02 doanh nghiệp Toyota và Honda
chiếm 80% tổng GTSXCN và thu ngân sách của khu vực FDI [58]. Sự phụ
thuộc này dẫn đến tốc độ tăng trưởng của tỉnh cao nhưng chưa đảm bảo sự bền
vững, do FDI phụ thuộc nhiều vào chính sách vĩ mô.
Thứ tư, sự phân bố của FDI rất không đồng đều theo ngành và theo địa
bàn, gây hạn chế về hiệu ứng lan tỏa. Theo cơ cấu theo ngành, FDI đang tập
trung chủ yếu vào công nghiệp (chiếm 80% về vốn đầu tư), trong khi ngành
dịch vụ chỉ chiếm 16,7%, nông nghiệp chiếm 3,3% [54].
Mặc dù tập trung chủ yếu vào ngành công nghiệp chế biến nhưng cho
đến nay mới chỉ có một DN FDI hoạt động trong ngành chế biến nông sản.
Nguyên nhân tình trạng trên xuất phát từ mực tiêu lợi nhuận của các DN FDI.
Trong những năm qua, nông nghiệp Vĩnh Phúc có bước phát triển đáng kể
theo hướng sản xuất hàng hoá, tuy nhiên nông nghiệp Vĩnh Phúc chưa tạo ra
được những vùng sản xuất hàng hoá tập trung với quy mô lớn, vì thế chưa hấp
dẫn đầu tư FDI. Theo số liệu của Sở Kế hoạch và Đầu tư tỉnh Vĩnh Phúc, tính
đến hết tháng 6 năm 2006 đã có 5 dự án FDI đầu tư vào nông nghiệp với số
vốn đăng ký là 39,2 triệu USD, vốn thực hiện là 27,7 triệu USD chiếm 5,2%
tổng vốn FDI đã đăng ký và 5,7% tổng vốn FDI thực hiện trên địa bàn tỉnh
Vĩnh Phúc. Tính đến hết táng 4 năm 2012 chỉ còn 3 dự án FDI đầu tư vào
nông nghiệp với số vốn đang ký là 7,92 triệu USD.
Hầu hết các dự án FDI sản xuất công nghiệp ở Vĩnh Phúc chỉ nằm ở
khâu cuối cùng chuỗi giá trị toàn cầu, là lắp ráp nên hạn chế trong việc thúc
đẩy sản xuất trong nước, giá trị gia tăng theo sản phẩm còn thấp.
Hệ số sử dụng vốn (ICOR) của khối FDI trong giai đoạn 2006 - 2010
cũng không cao hơn trung bình của tỉnh (khoảng từ 3-4). Vốn thực hiện chưa
cao, trung bình đạt khoảng 45% tổng vốn đăng ký đầu tư, chứng tỏ khả năng
hấp thụ vốn chưa cao [54].
Thứ năm, một số DN FDI vẫn đang lợi dụng kẽ hở về chính sách, pháp
luật của Việt Nam để thực hiện hành vi gian lận thương mại, chuyển giá, kê
105
khai lỗ hoặc lợi nhuận thấp, nên đóng góp rất hạn chế đối với nguồn ngân
sách của Nhà nước và của tỉnh. Theo báo cáo của Công an tỉnh Vĩnh Phúc, từ
năm 1997 đến 2012 đã phát hiện nhiều DN FDI lợi dụng chính sách ưu đãi
đầu tư, buôn bán nguyên liệu, phụ liệu nhằm trốn thuế như lợi dụng vấn đề
gia công với nguyên vật liệu, phụ liệu, máy móc với thuế suất 0% để đưa định
mức tiêu hao lớn hơn mức tiêu hao thực tế và sau đó bán các sản phẩm đó ra
thị trường, gây bất ổn về an ninh kinh tế. Đã phát hiện 18 vụ và thực hiện xử
phạt hành chính trên 1,2 tỷ đồng. Một số chủ DN FDI vay ngân hàng song do
kinh doanh thua lỗ đã bỏ trốn, gây thiệt hại cho hệ thống ngân hàng hàng trăm
tỷ đồng [30].
3.2.3.2. Thực trạng tác động tiêu cực của đầu tư trực tiếp nước ngoài tới
các vấn đề xã hội và môi trường
Thứ nhất, Quan hệ chủ - thợ trong các DN FDI vẫn còn có những căng
thẳng nhất định. Trong nhiều DN FDI thường xuyên thực hiện chế độ làm
tăng ca, tăng giờ, trong khi đó thu nhập không tương xứng với thời gian và
cường độ lao động, quyền lợi về an sinh xã hội, mà trụ cột là BHXH, BHYT
của người lao động không được đảm bảo dẫn đến đình công lãn công, gây mất
ổn định chính trị và trật tự an toàn xã hội trên địa bàn.
Trong những năm qua, tranh chấp lao động vẫn diễn ra trong khu vực có
vốn FDI. Tình hình cụ thể được phản ánh qua các số liệu của bảng 3.7 dưới đây:
Bảng 3.7: Tình hình đình công trong các doanh nghiệp FDI trên địabàn tỉnh Vĩnh Phúc giai đoạn 2008-2014
Năm Số cuộc đình công Số DN sảy ra đìnhcông
2008 28 252009 16 122010 14 112011 17 172012 14 142013 9 8
6 tháng đầu năm 2014 4 4
Nguồn: [40]
106
Như vậy, Trong giai đoạn từ năm 2008 đến hết tháng 6 năm 2014 trên địa
bàn tỉnh đã diễn ra 102 cuộc đình công tại 91 DN, trong đó có 80 cuộc diễn ra
trong các DN FDI, bao gồm 43 cuộc trong các DN của Hàn Quốc, 20 cuộc tại
các DN của Đài Loan, 5 cuộc trong các DN Nhật Bản, 3 cuộc trong DN của
Malaisia, 4 cuộc tại các DN Trung Quốc, 1 cuộc trong DN Italia. Hầu hết các
cuộc đình công đều diễn ra tự phát do hoạt động của các tổ chức công đoàn trong
các DN FDI khó khăn, vai trò công đoàn không được phát huy, thậm chí có nơi
cán bộ công đoàn ngại va chạm với giới chủ vì sợ bị sa thải... [40]
Nguyên nhân của các cuộc đình công kể trên chủ yếu xuất phát từ lợi ích
của người lao động trong các DN FDI chưa thực sự được đảm bảo. Thu nhập
bình quân của người lao động làm việc tại các DN FDI chỉ tương đương với
các DN trong nước. Nhiều chủ DN trả lương cho người lao động với mức
lương tối thiểu, chưa thực hiện tốt chế độ đãi ngộ đối với người lao động. Hầu
hết các DN FDI áp dụng hình thức trả lương theo thời gian hoặc sản phẩm, trả
lương hàng tháng, không có hiện tượng nợ lương, cắt lương, trừ lương. Song
đáng lưu ý là việc vận dụng chính sách tiền lương của Chính phủ thực hiện
chưa nghiêm túc. Mặc dù đã có nhiều DN FDI thực hiện xây dựng thang
lương, bảng lương, định mức lao động và áp dụng mức lương tối thiểu theo
quy định chủ Chính phủ và được Sở Lao động - Thương binh và Xã hội ra
quyết định công nhận, song đa số các DN khi xây dựng bảng lương đều không
tham khảo ý kiến của Công đoàn hoặc Ban Chấp hành Công đoàn lâm thời,
không công bố công khai cho người lao động trong DN biết. Có DN không
xem xét tăng lương hàng năm, nhiều lao động làm việc từ 2 - 4 năm vẫn
hưởng mức lương khởi điểm. Kiểm tra của Công đoàn về ký hợp đồng lao
động, Thoả ước lao động tập thể cho thấy, một số DN FDI vẫn lách luật nhằm
né tránh chi trả chế độ, chính sách BHXH, BHYT cho người lao động.
Nguyên nhân khác của đình công là do thời gian làm việc của người lao
động trong các DN FDI ở tỉnh Vĩnh Phúc thường bị kéo dài từ 12 đến 14 giờ
trên ngày, thời gian làm thêm giờ đạt mức hơn 300 giờ trên năm, trong khi đó
107
chế độ phụ cấp ăn ca thấp (từ 10.000 đồng đến 25.000 đồng/suất), chất lượng
bữa ăn chưa thực sự được đảm bảo do không được giám sát thường xuyên.
Thứ hai, Mặc dù các FDI đã có cố gắng nhất định chấp hành các quy
định về BHXH, BHYT cho người lao động, song do mục tiêu tiết kiệm chi
phí đã làm cho một số DN FDI tìm cách cố tình trốn tránh đóng BHXH, hoặc
để chấm dứt hợp đồng lao động khi cần thiết. Tình hình nợ BHXH của các
DN FDI được phản ánh qua các số liệu của bảng 3.8 dưới đây:
Bảng 3.8: Tình hình nợ bảo hiểm xã hội của các DN FDI trên địa bàntỉnh Vĩnh Phúc giai đoạn 1997-2014
Nợ đọngSố lượngDN FDI tổng toàn tỉnh tỷ lệ /tổngNăm
DN VNĐ VNĐ %1997 5 132,297,523 1,125,467,325 11.75%1998 9 333,022,650 1,426,476,672 23.35%1999 10 47,490,381 1,825,656,474 2.60%2000 9 -133,217,826 2,514,557,457 -2001 8 5,320,459 2,546,701,445 0.21%2002 13 163,748,779 3,215,462,131 5.09%2003 19 1,456,366,909 4,289,454,444 33.95%2004 27 1,372,406,996 8,214,554,221 16.71%2005 40 3,563,053,558 10,210,422,144 34.90%2006 59 9,747,248,500 22,114,462,454 44.08%2007 68 14,660,157,830 24,031,456,472 61.00%2008 63 17,391,415,747 36,253,347,686 47.97%2009 70 15,304,299,229 26,253,347,686 58.29%2010 84 7,440,433,834 27,126,434,789 27.43%2011 93 4,070,644,294 28,065,646,026 14.50%2012 92 5,451,455,766 33,626,000,000 16.21%2013 100 1,002,922,582 50,328,659,202 1.99%2014 107 12,570,789,079 62,335,000,000 20.17%
Nguồn: [28]
Tính đến hết quý IV/2011, trên địa bàn tỉnh có 31 DN FDI (chiếm 34,8
số DN FDI đang hoạt động) nợ BHXH. Tổng số tiền nợ BHXH của các DN
khối FDI là 4.440 triệu đồng, trong đó có 5/14 DN Nhật Bản nợ 449 triệu
108
đồng; 18/42 DN Hàn Quốc nợ 2.545 triệu đồng; 5/24 DN Đài Loan nợ 381
triệu đồng; 2/6 DN Trung Quốc nợ 80 triệu đồng [27].
Nếu tính riêng 6 tháng đầu năm 2014, thì tổng số nợ của DN FDI là trên
12 tỷ đồng, bằng 20,17% số nợ của toàn tỉnh. Nợ đọng tập trung chủ yếu ở
các DN sản xuất, kinh doanh bao bì. Nổi cộm là có 3 DN: Công ty TNHH
TSARI; Công ty TNHH GREENNET VN; Công ty TNHH IK - HAN Việt
Nam. Công ty TNHH GREENNET VN nợ 7 tháng với số tiền là 417,8 triệu
đồng. Tại Công ty TNHH IK - HAN Việt Nam, do hoạt động sản xuất kinh
doanh thua lỗ nên chủ sử dụng lao động bỏ trốn từ năm 2009, số tiền nợ là 2,5
tỷ đồng [28].
Thứ ba, FDI chưa tạo nhiều việc làm cho khu vực nông thôn và tác động
đến nâng cao chất lượng NNL còn hạn chế.
Mặc dù số lượng việc làm được tạo ra trong các doanh nghiệp công
nghiệp có vốn FDI ở Vĩnh Phúc thời gian qua tăng lên không ngừng, nhưng tỷ
trọng thu hút sức lao động của các DN này trong tổng số NNL của tỉnh còn ở
mức rất thấp. Tỷ trọng lao động trong các DN công nghiệp có vốn FDI trong
tổng số người trong độ tuổi lao động có khả năng lao động của Vĩnh Phúc
năm 2000 là 0,33%; năm 2001 - 0,45%, 2002 - 0,99%; 2003 - 1,25%; 2004 -
1,63%; 2005 - 2,38%; 2009 - 4,88%; 2010 - 5,03%; 2011 - 6,12%
[30],[31],[32],[33],[34],[35],[57].
Thứ tư, tác động tiêu cực của FDI đến môi trường. Mặc dù các DN FDI
thường có trình độ công nghệ cao hơn so với khu vực kinh tế trong nước, tuy
nhiên do sự hình thành của các DN FDI chịu tác động đáng kể của xu hướng
chuyển dịch cơ cấu kinh tế tại các nước phát triển theo hướng loại bỏ dần
những ngành truyền thống với những công nghệ có ảnh hưởng không tốt tới
môi trường, cho nên hoạt động của các DN FDI trong công nghiệp ở Vĩnh
Phúc nói riêng và ở nước ta nói chung vẫn có tác động không nhỏ tới môi
trường sinh thái. Thực tế cho thấy, các DN FDI trong công nghiệp Vĩnh Phúc
thường không tập trung vào các dự án xử lý môi trường mà vấn đề đó được
chuyển thành trách nhiệm của Ban quản lý các KCN, trong khi đó việc thu hút
109
vốn đầu tư cho các dự án xử lý chất thải bảo vệ môi trường đang rất khó khăn.
Cho đến nay, hầu hết các KCN, CCN trên địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc đã có
quy hoạch xây dựng hệ thống xử lý nước thải tập trung và đã lập báo cáo
đánh giá tác động môi trường theo quy định của các KCN, tuy nhiên việc
thưc hiện chưa đầy đủ theo yêu cầu. Do chưa có bãi chôn lấp, xử lý chất thải
rắn công nghiệp công ty liên doanh lớn như Công ty ôtô Toyota thời gian dài
phải lưu giữ trong kho 250 tấn chất thải rắn công nghiệp và Công ty Honda
Việt Nam lưu giữ 1000 tấn chất thải rắn công nghiệp mới được xử lý. Mặt
khác, hiện nay, do thiếu bãi tập kết, chôn lấp và xử lý chất thải trong các KCN
nên có tình trạng các cơ sở sản xuất công nghiệp thuê các tổ chức, cá nhân
không có chức năng thu gom, vận chuyển chất thải, dẫn đến việc đổ chất thải
không đúng nơi quy định, gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng, ảnh hưởng
đến sức khoẻ nhân dân.
Bên cạnh các dự án do các tập đoàn kinh tế lớn của Nhật Bản chấp hành
tương đối nghiêm chỉnh các quy định của Nhà nước về bảo vệ môi trường
như Công ty Toyota Việt Nam, Công ty Honda Việt Nam, Công ty TNHH
Takanichi Việt Nam, Công ty TNHH Sản xuất phanh NISSIN Việt Nam... vẫn
còn nhiều các doanh nghiệp không chấp hành nghiêm chỉnh quy định của
Luật Bảo vệ môi trường như không tiến hành lập báo cáo đánh giá tác động
môi trường, không thực hiện đăng ký quản lý chất thải nguy hại, không thực
hiện giám sát môi trường định kỳ...
Trong số các DN FDI của Hàn Quốc, còn nhiều DN chưa thực hiện tốt
các quy định về bảo vệ môi trường. Nhiều DN bị xử phạt vi phạm hoặc buộc
phải di dời như Công ty TNHH Seul Print Vina, Công ty Kumnam Print,
Công ty TNHH Bangsun... Kết quả kiểm tra định kỳ hàng năm cho thấy các
DN lớn có bố trí tổ chuyên trách hoặc cán bộ quản lý môi trường, còn lại hầu
hết các đơn vị chỉ bố trí nhân viên kiêm nhiệm, không có chuyên môn nên hầu
hết vi phạm các quy định về quản lý CTNH như không kê khai đầy đủ thành
phần, lượng chất thải phát sinh, chậm chuyển giao CTNH, chậm nộp báo định
kỳ về tình hình phát sinh CTNH, không chuyển chứng từ CTNH cho cơ quan
110
quản lý nhà nước về môi trường, bố trí nơi lưu giữ tạm thời chưa đảm bảo
đúng quy định... Mặt khác, nhiều DN hoạt động trong lĩnh vực, sản xuất linh
kiện điện tử gia công may mặc sử dụng nhiều lao động nên việc quản lý rất
phức tạp, có những tác động tiêu cực đến môi trường xã hội khu vực xung
quanh như Công ty TNHH Vina Korea, Công ty TNHH Shinwon Ebenezer,
Công ty TNHH Daewoo Apparel Viet Nam, Công ty TNHH Daewoo STC….
Các DN FDI của Đài Loan, Trung Quốc chủ yếu đầu tư vào lĩnh vực sản
xuất cơ khí chế tạo, công nghiệp phụ trợ cho các ngành sản xuất ô tô, xe máy,
chế tạo máy móc, thiết bị công nghiệp, vật liệu xây dựng…với quy mô nhỏ và
vừa, có lượng chất thải hàng năm vào khoảng 6,4 nghìn tấn CTNH, 8,3 nghìn
tấn chất thải rắn công nghiệp thông thường và khoảng 350 nghìn m3 nước
thải. So với các DN của Nhật Bản và Hàn Quốc, các DN của Đài Loan, Trung
Quốc có công nghệ, thiết bị lạc hậu, sử dụng nhiều nguyên liệu, năng lượng
và định mức phát thải lớn. Trong khi đó trình độ quản lý còn hạn chế, đặc biệt
là ý thức chấp hành pháp luật bảo vệ môi trường còn yếu, thậm chí nhiều đơn
vị chây ỳ hoặc thực hiện mang tính chất đối phó, không thực hiện đầy đủ các
biện pháp giảm thiểu ô nhiễm, thải chất thải gây ô nhiễm môi trường… gây
bức xúc đối với người dân sống trong khu vực xung quanh, điển hình như
Công ty TNHH dệt Hiểu Huy (tiền thân là công ty dệt len Lantian Việt Nam
tại cụm công nghiệp Lai Sơn - Vĩnh Yên) đã bị buộc phải tạm dừng hoạt động
của xưởng nhuộm để đầu tư xây dựng hệ thống xử lý nước thải mới; Công ty
Hữu hạn công nghiệp Strongway để rò rỉ dầu thải gây ô nhiễm môi trường đất
trong KCN Khai Quang bị xử phạt 254 triệu đồng và buộc phải cải tạo lại nền
đất bị nhiễm dầu; công ty VPIC1 xả nước thải vượt quy chuẩn 13 lần; công ty
TNHH Lâm Viễn chuyển giao CTNH không đúng quy định…. Kết quả thống
kê cho thấy, từ năm 2011 đến hết 2013, các cơ quan quản lý môi trường đã
kiểm tra 51 đơn vị, trong đó xử phạt vi phạm 25 đơn vị với số tiền khoảng gần
2,3 tỷ đồng. Thống kê cũng cho thấy có đến 84% đơn vị được kiểm tra vi
phạm các quy định về thủ tục, hồ sơ môi trường, 67% vi phạm về quản lý
CTNH, 32% đơn vị xả nước thải vượt quy chuẩn và trốn nộp phí xả nước thải,
111
74% đơn vị không thực hiện đầy đủ các biện pháp phòng ngừa, ứng phó sự
cố, rủi ro về môi trường…[29]
Mặc dù chưa có số liệu thống kê số DN FDI trên địa bàn tỉnh áp dụng
các giải pháp sản xuất sạch hơn trong quá trình sản xuất. Tuy nhiên có thể
khẳng định hiện nay chưa có cơ sở pháp lý để bắt buộc hoặc khuyến khích các
DN này tham gia áp dụng sản xuất sạch hơn trong quá trình hoạt động. Bởi
vậy trên địa bàn tỉnh đã và đang diễn ra một thực tế là bên cạnh một số DN bỏ
ra hàng tỷ đồng để đầu tư cải tiến quy trình công nghệ, áp dụng các biện pháp
xử lý chất thải đạt quy chuẩn thì một số DN khác lại xả chất thải gây ô nhiễm
môi trường và chỉ bị phạt với số tiền phạt quá nhỏ. Ví dụ, chỉ tính riêng năm
2011, trong số 35 doanh nghiệp FDI được Sở Tài nguyên và Môi trường
thanh, kiểm tra đã có 16 đơn vị có hành vi vi phạm pháp luật về bảo vệ môi
trường và bị xử phạt với tổng số tiền là 528,75 triệu đồng [59].
Hầu hết các DN FDI khi đầu tư vào Vĩnh Phúc đều có xu hướng lựa chọn
các địa điểm có sẵn hạ tầng như các KCN, CCN hoặc những nơi thu hồi đất
thuận lợi... Theo số liệu thống kê, hiện nay tại các KCN, CCN có 92 dự án
FDI, ngoài KCN, CCN có 28 dự án. Tuy nhiên thực trạng phát triển hạ tầng
khu vực này trong những năm qua cho thấy hầu hết các KCN, CCN đều trong
tình trạng vừa kêu gọi đầu tư vừa hoàn thiện hệ thống cơ sở hạ tầng nên công
tác bảo vệ môi trường gặp rất nhiều khó khăn. Tình trạng nước thải từ các cơ
sở sản xuất mới chỉ xử lý sơ bộ hoặc không qua xử lý xả thải trực tiếp ra các
sông suối, ao, hồ... của khu vực vẫn còn khá phổ biến. Việc xử lý nước thải ở
các cơ sở sản xuất phụ thuộc vào năng lực tài chính cũng như ý thức trách
nhiệm của chủ đầu tư. Việc kiểm soát nước thải công nghiệp gặp rất nhiều
khó khăn, do mới chỉ có một số khu, CCN có hệ thống xử lý nước thải tập
trung và nguồn nhân lực lại mỏng... Điều này đã làm cho những thuỷ vực trực
tiếp tiếp nhận đang phải chịu tác động rất lớn của nước thải công nghiệp.
Theo kết quả quan trắc hàng năm cho thấy, chất lượng môi trường nước
mặt ở các lưu vực lớn như sông Phan, sông Cà Lồ, Đầm Vạc...đang bị suy
giảm, thậm chí có những nơi ô nhiễm cao (COD, BOD5, NH3, Coliform và một
112
số kim loại nặng...), đặc biệt là những đoạn hoặc những lưu vực là nơi tiếp
nhận nguồn nước thải công nghiệp. Điển hình như sông Bến Tre đoạn chảy qua
phường Đồng Tâm, thành phố Vĩnh Yên, ngoài việc phải tiếp nhận các nguồn
thải sinh hoạt, chăn nuôi trên địa bàn còn phải tiếp nhận một lượng lớn nước
thải của Công ty dệt Hiểu Huy. Với đặc tính nước thải có hàm lượng chất ô
nhiễm cao, độ màu lớn, trong những năm trước đây, cơ sở này liên tục có
những hành vi vi phạm trong việc xả nước thải không qua xử lý vào sông Bến
Tre. Mặc dù đã được các cơ quan chức năng như Sở Tài nguyên và Môi
trường, Phòng cảnh sát môi trường, Công an tỉnh...kiểm tra, yêu cầu khắc phục
và DN đã thực hiện các biện pháp xử lý ô nhiễm môi trường, song đã để lại tác
động không nhỏ đối với chất lượng môi trường nước sông và rất lâu mới có thể
khắc phục triệt để được. Kết quan trắc môi trường năm 2011 cho thấy, 100%
mẫu nước sông ở các vị trí khác nhau đều có chỉ tiêu tổng dầu mỡ vượt quy
chuẩn từ 1,3-1,8 lần; các mẫu lấy vào mùa mưa đều có chỉ tiêu NH4+ vượt quy
chuẩn từ 1,08-3,12 lần, trong đó điểm quan trắc tại phường Đồng Tâm, thành
phố Vĩnh Yên có mức độ ô nhiễm vượt quy chuẩn cho phép 3,12 lần.
Sự phát triển gia tăng thu hút và sử dụng FDI cũng đang gây sức ép đối
với công tác xử lý chất thải công nghiệp. Việc tập trung thu hút các DN FDI
vào đầu tư tại tỉnh nhưng chưa chú trọng đến hạ tầng xử lý chất thải đang là
vấn đề gây sức ép đối công tác quản lý môi trường hiện nay. Theo số liệu
thống kê của các cơ sở, tổng lượng CTNH của các DN FDI phát sinh trung
bình khoảng 11,4 nghìn tấn/năm. Trong đó mới chỉ có 1 số DN như Toyota
Việt Nam, Honda Việt Nam...tự đầu tư công trình xử lý CTNH, còn lại hầu
hết các cơ sở phải thuê các đơn vị khác trong và ngoài địa bàn tỉnh để vận
chuyển xử lý. Đến năm 2011 có 15 chủ hành nghề quản lý CTNH hoạt động
trên địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc, trong đó có 04 chủ hành nghề quản lý CTNH do
UBND tỉnh Vĩnh Phúc cấp phép và 11 chủ hành nghề quản lý CTNH do Tổng
cục Môi trường cấp phép. Nhìn chung, việc chuyển giao trách nhiệm xử lý
CTNH của chủ nguồn thải cho chủ hành nghề vận chuyển, xử lý đều được
thực hiện thông qua hợp đồng, khi bàn giao CTNH đều có chứng từ CTNH.
113
Thống kê năm 2011 cho thấy tổng khối lượng CTNH do các chủ hành
nghề vận chuyển, xử lý CTNH được UBND tỉnh Vĩnh Phúc cấp phép đã thực
hiện khoảng 3,73 nghìn tấn, chiếm khoảng 32,7%. Lượng CTNH còn lại do
các chủ hành nghề quản lý CTNH do Bộ Tài nguyên và Môi trường cấp phép
hành nghề thực hiện
Kết quả thanh kiểm tra các năm gần đây cho thấy có nhiều DN FDI chưa
thực sự quan tâm đến công tác quản lý CTNH, đặc biệt là việc thực hiện trách
nhiệm của chủ nguồn thải CTNH như không đăng ký điều chỉnh sổ chủ nguồn
thải CTNH, lưu giữ CTNH quá thời hạn cho phép nhưng không có báo cáo cơ
quan quản lý nhà nước, không bố trí nơi lưu giữ hoặc có bố trí nơi lưu giữ
nhưng chưa đảm bảo theo đúng quy định dẫn đến rò rỉ CTNH gây ô nhiễm
môi trường xung quanh. Ví dụ như Công ty Hữu hạn công nghiệp Strongway
Vĩnh Phúc để rò rỉ dầu thải ra môi trường; Công ty TNHH Kosei Multipack
Việt Nam không phân loại CTNH, để lẫn CTNH với chất thải khác; Công ty
GHS chuyển giao CTNH cho đơn vị không có chức năng... [60]
Những tồn tại nêu trên là do một số DN FDI chưa thực sự chú trọng tới
công tác bảo vệ môi trường, nhiều DN chưa có nhân viên phụ trách chuyên
trách về môi trường hoặc chưa tìm hiểu đầy đủ các quy định của pháp luật bảo
vệ môi trường Việt Nam. Bên cạnh đó cơ sở hạ tầng phục vụ cho hoạt động
xử lý chất thải công nghiệp nói riêng và CTNH chưa đáp ứng được nhu cầu
thực tiễn.
3.3. ĐÁNH GIÁ CHUNG VỀ TÁC ĐỘNG CỦA ĐẦU TƯ TRỰC
TIẾP NƯỚC NGOÀI TỚI PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI TỈNH
VĨNH PHÚC VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA
3.3.1. Những kết quả tích cực và nguyên nhân
3.3.1.1. Những kết quả tích cực
Từ những phân tích ở phân trên có thể khẳng định rằng, trong những năm
qua kể từ sau tái lập tỉnh năm 1997, Vĩnh Phúc đã thu hút được lượng FDI
ngày càng tăng. Hoạt động của FDI đã có nhiều tác động tích cực tới phát triển
kinh tế - xã hội trên địa bàn tỉnh. Những tác động tích cực chủ yếu bao gồm:
114
Thứ nhất, FDI trở thành nguồn vốn bổ sung vô cùng quan trọng cho phát
triển kinh tế - xã hội. Hoạt động của các dự án FDI đã và đang đóng vai trò là
yếu tố chủ yếu quyết định tốc độ tăng trưởng kinh tế cao và chuyển dịch cơ
cấu kinh tế nhanh theo hướng CNH, HĐH. Hoạt động của các DN FDI đã tác
động tích cực tới nâng cao trình độ công nghệ của sản xuất, chất lượng nguồn
lao động và năng suất lao động, đặc biệt là trong lĩnh vực sản xuất công
nghiệp, tạo điều kiện thuận lợi hơn cho các DN thuộc các thành phần kinh tế
khác nhận chuyển giao công nghệ hiện đại, học hỏi phương pháp quản lý tiên
tiến, không ngừng nâng cao sức cạnh tranh về kinh tế của tỉnh. FDI đã thúc
đẩy sự hình thành và phát triển của các khu, CCN, thúc đẩy sự phát triển
nhanh của hệ thống kế cấu hạ tầng kinh tế - xã hội trên địa bàn tỉnh.
Thứ hai, FDI đã trở thành yếu tố đảm bảo cho tăng trưởng nhanh của các
hoạt động xuất nhập khẩu, thúc đẩy giao lưu kinh tế quốc tế, đồng thời đóng
góp lớn cho nguồn thu ngân sách, tạo thuận lợi cho đầu tư phát triển kinh tế -
xã hội trên địa bàn tỉnh.
Thứ ba, FDI đã góp phần quan trọng vào giải quyết việc làm, nâng cao
thu nhập cho người lao động và bảo vệ môi trường trong quá trình phát triển
kinh tế - xã hội trên địa bàn tỉnh.
3.3.1.2. Nguyên nhân của những tác động tích cực của đầu tư trực tiếp
nước ngoài
Sự hiện diện của FDI tại Vĩnh Phúc đã có tác động rất tích cực tới sự
phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh. Nguyên nhân chủ yếu của những tác động
tích cực kể trên bao gồm:
Một là, hệ thống các văn bản pháp luật, cơ chế, chính sách về đầu tư
và đầu tư trực tiếp nước ngoài ngày càng được hoàn thiện. Việc ban hành
Luật Đầu tư, Luật Doanh nghiệp, Luật Hải quan…đã góp phần tạo ra
khuôn khổ pháp lý ngày càng ổn định rõ ràng hơn cho hoạt động đầu tư,
đảm bảo tính minh bạch, bình đẳng cho các nhà đầu tư, thúc đẩy thu hút và
nâng cao hiệu quả hoạt động của FDI trên phạm vi cả nước nói chung và ở
Vĩnh Phúc nói riêng.
115
Hai là, sự quan tâm chỉ đạo, hỗ trợ thường xuyên của Chính phủ, các bộ,
ngành Trung ương đã tạo ra những thuận lợi lớn cho thu hút và sử dụng FDI
có hiệu quả đối với phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh Vĩnh Phúc.
Ba là, nhận thức đúng đắn về tiềm năng lợi thế, cơ hội và thách thức thu
hút và sử dụng FDI để phát triển kinh tế - xã hội của các cấp ủy Đảng, chính
quyền của tỉnh đã chuyển hoá thành sự lãnh đạo, chỉ đạo sát sao của Tỉnh uỷ,
Hội đồng nhân dân, UBND tỉnh cùng sự chủ động phối hợp tích cực của các
ngành trong công tác thu hút FDI, từ đó tạo ra cơ sở vững chắc cho việc hoàn
thiện môi trường đầu tư thông qua nâng cao chất lượng công tác quy hoạch;
đẩy mạnh xây dựng kết cấu hạ tầng; đổi mới và đa dạng hoá công tác xúc tiến
đầu tư; phát triển nguồn nhân lực, thúc đẩy cải cách hành chính trong công tác
thu hút và quản lý FDI, đặc biệt đối với các thủ tục hành chính trong cấp phép
và thẩm định dự án.
Bốn là, sự ủng hộ của nhân dân và các nhà đầu tư trực tiếp nước ngoài
đối với chính sách phát triển kinh tế xã hội của tỉnh nói chung và thu hút FDI
để phát triển kinh tế - xã hội nói riêng…
Trong những nguyên nhân kể trên, nhận thức đúng đắn và nỗ lực của các
cấp ủy Đảng, Chính quyền và nhân dân tỉnh Vĩnh Phúc có vai trò quan trọng
nhất, đã đưa tỉnh Vĩnh Phúc trở thành địa phương năng động, sáng tạo về thu
hút FDI để phát triển kinh tế xã hội so với các tỉnh, thành phố khác trong cả
nước. Những nỗ lực đó đã chứng tỏ vai trò đặc biệt quan trọng của yếu tố chủ
quan trong hoạt động thực tiễn thu hút và sử dụng FDI để thúc đẩy phát triển
kinh tế xã hội ở các địa phương.
3.3.2. Những tác động tiêu cực chủ yếu của đầu tư trực tiếp nước ngoài
và nguyên nhân
3.3.2.1. Những tác động tiêu cực chủ yếu của đầu tư trực tiếp nước ngoài
Bên cạnh những tác động tích cực kể trên đối với kinh tế - xã hội
Vĩnh Phúc, hoạt động của các dự án FDI cũng đang thể hiện những bất
cập nhất định:
116
Thứ nhất, sự phát triển kinh tế của tỉnh đang phụ thuộc quá lớn vào FDI.
Cho đến nay tăng trưởng kinh tế của tỉnh phụ thuộc chủ yếu vào tăng trưởng
của công nghiệp, trong đó FDI đang chiếm tỷ trọng quá lớn trong giá trị sản
xuất, giá trị gia tăng, xuất nhập khẩu cũng như đóng góp cho ngân sách. Do
đó, những biến động không thuận lợi trong hoạt động của FDI dễ gây tác
động tới ổn định và phát triển kinh tế trên địa bàn tỉnh. Sự phụ thuộc này dẫn
đến tốc độ tăng trưởng của tỉnh cao nhưng chưa đảm bảo sự bền vững, do FDI
phụ thuộc nhiều vào chính sách vĩ mô như chính sách thuế, xuất khẩu, tiêu
dùng... và chịu sự tác động nhạy cảm của khủng hoảng kinh tế thế giới.
Thứ hai, phân bố của FDI đang rất mất cân đối theo ngành và địa bàn, do
đó gây mất cân đối cho phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh. Các dự án FDI mới
chỉ tập trung phát triển bản thân nó, chưa góp phần đẩy mạnh phát triển công
nghiệp phụ trợ đối với các DN trong nước trên địa bàn Tỉnh, do đó, để phát
triển các ngành công nghiệp phụ trợ trong tỉnh cần có sự quan tâm lớn hơn
của tỉnh cũng như Chính phủ và trong thời gian trước mắt, phải dựa vào khai
thác, sử dụng có hiệu quả các nguồn nội lực chứ chưa thể hy vọng nhiều vào
các nguồn ngoại lực như FDI. Bên cạnh đó, Sự hiện diện của FDI rõ ràng
chưa thực sự ra nhiều tạo thuận lợi cho việc nâng cao chất lượng tăng trưởng
trong các ngành dịch vụ và đặc biệt là nông nghiệp.
Thứ ba, tác động của FDI tới nâng cao trình độ công nghệ sản xuất của
tỉnh còn hạn chế. Bản thân các dự án FDI đang sử dụng công nghệ trình độ
trung bình so với thế giới, công tác nghiên cứu và triển khai chưa thực sự
được chú trọng, do đó những mong đợi từ chuyển giao công nghệ từ FDI để
đẩy nhanh tốc độ và nâng cao chất lượng tăng trưởng kinh tế trong những
năm qua về cơ bản chưa được đáp ứng trên địa bàn tỉnh.
Thứ tư, vẫn còn những DN FDI lợi dụng kẽ hở về chính sách, pháp luật
của Việt Nam để thực hiện hành vi gian lận thương mại, chuyển giá, kê khai
lỗ hoặc lợi nhuận thấp... tác động tiêu cực tới an ninh kinh tế trên địa bàn tỉnh.
Thứ năm, FDI chưa tạo nhiều việc làm cho nhân dân trong tỉnh, đặc biệt
là cho khu vực nông thôn, đóng góp vào nâng cao chất lượng NNL của FDI
117
còn hạn chế. Hoạt động của các tổ chức chính trị xã hội như Công đoàn rất
khó khăn. Một số DN còn chưa chú trọng tới công tác đóng BHXH và BHYT.
Trong các DN FDI vẫn còn hiện tượng tranh chấp lao động, đình công, thu
nhập bình quân của người lao động chưa cao, một số DN chưa thực hiện tốt
chế độ đãi ngộ đối với người lao động.
Thứ sáu, vẫn còn các DN FDI có tác động xấu đến môi trường làm ảnh
hưởng đến phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh theo hướng bền vững. Mặc dù
các DN FDI thường có trình độ công nghệ cao hơn so với khu vực kinh tế
trong nước, tuy nhiên do sự hình thành của các DN FDI chịu tác động đáng kể
của xu hướng chuyển dịch cơ cấu kinh tế tại các nước phát triển theo hướng
loại bỏ dần những ngành truyền thống với những công nghệ có ảnh hưởng
không tốt tới môi trường, cho nên hoạt động của các DN FDI trong công
nghiệp ở Vĩnh Phúc nói riêng và ở nước ta nói chung vẫn có tác động không
nhỏ tới môi trường sinh thái. Thực tế cho thấy, các DN FDI trong công
nghiệp Vĩnh Phúc thường không tập trung vào các dự án xử lý môi trường.
Tóm lại, bên cạnh những tác động tích cực, hoạt động của các DN FDI
trong ngành công nghiệp tỉnh Vĩnh Phúc cũng đã tạo ra những hệ quả không
mong muốn, thách thức đối với sự phát triển bền vững.
3.3.2.2. Nguyên nhân của những tác động tiêu cực của đầu tư trực tiếp
nước ngoài
Có nhiều nguyên nhân dẫn tới những tác động tiêu cực của FDI đến phát
triển kinh tế - xã hội tỉnh Vĩnh Phúc trong thời gian qua và gây cản trở đối với
việc hạn chế những tác động đó. Những nguyên nhân đó bao gồm:
Thứ nhất, từ phía bản thân các chủ thể FDI. Xuất phát từ bản chất và
động cơ lợi nhuận, các nhà đầu tư FDI luôn hướng vào lựa chọn các hoạt
động kinh doanh mang lại tỷ suất lợi nhuận cao kể cả khi hoạt động đó không
hoàn toàn phù hợp với những mục tiêu kinh tế - xã hội chủ yếu của tỉnh. Bên
cạnh đó, khi quản lý về FDI của chính quyền sở tại yếu kém, hệ thống pháp
luật lỏng lẻo, không nghiêm, các nhà đầu tư FDI thường xuyên tìm cách lách
118
luật, cố tình làm trái luật… từ đó gây tác động xấu đến phát triển kinh tế - xã
hội ở địa bàn đầu tư.
Thứ hai, có không ít nguyên nhân xuất phát từ tầm vĩ mô như những bất
cập trong cơ chế, chính sách của Nhà nước như sự thiếu hụt về chiến lược và
định hướng về thu hút, sử dụng và quản lý FDI mang tính nguyên tắc và ở
tầm dài hạn; Hệ thống pháp luật, chính sách về đầu tư, kinh doanh vẫn còn
một số điểm thiếu đồng bộ và không rõ ràng; chưa có các chế tài đủ mạnh để
xử lý các dự án chậm tiến độ, nhiều lần giãn tiến độ hoặc tự ý dừng, chấm dứt
dự án đầu tư...; Chính sách ưu đãi và định hướng ưu đãi DN FDI thiếu ổn
định, thiếu nhất quán giữa các giai đoạn phát triển; Danh mục lĩnh vực, địa
bàn ưu đãi đầu tư không thống nhất, nằm rải rác ở các văn bản khác nhau (ưu
đãi về thuế thu nhập doanh nghiệp, thuế xuất nhập khẩu, tiền thuê đất...) gây
khó khăn trong việc xác định ưu đãi cho các dự án; Cơ chế, chính sách về đất
đai có những thay đổi làm ảnh hưởng đến công tác bồi thường, giải phóng
mặt bằng, nhất là khi thực hiện Nghị định số 69/2009/NĐ-CP ngày 13/8/2009
của Chính phủ về Quy hoạch sử dụng đất, giá đất, thu hồi đất, bồi thường, hỗ
trợ tái định cư trên chưa thực tế và theo quy định tồn tại cơ chế hai giá trong
BT GPMB; Việc phân cấp, ủy quyền cho các địa phương, cụ thể là Ban quản
lý KCN trong một số lĩnh vực còn chưa được thực hiện đầy đủ, nhất quán do
có sự không thống nhất với các quy định của pháp luật chuyên ngành, chưa
được các bộ, ngành hướng dẫn cụ thể (như hoạt động thanh tra của Ban quản
lý KCN)... Những nguyên nhân này đã và đang ảnh hưởng xấu tới môi trường
đầu tư, gây cản trở cho việc thu hút, sử dụng và phát huy tác động tích cực,
giảm thiểu tác động tiêu cực của FDI đến phát triển kinh tế - xã hội trên địa
bàn cấp tỉnh ở nước ta nói chung và ở tỉnh Vĩnh Phúc nói riêng.
Thứ ba, phân tích thực tiễn hoạt động của FDI trên địa bàn tỉnh Vĩnh
Phúc cho thấy, việc phát huy tác động tích cực và giảm thiểu tác động tiêu
cực của FDI đến phát triển kinh tế xã hội những năm qua chưa được thực hiện
tốt như mong muốn, phần nhiều do các nguyên nhân xuất phát từ những điều
kiện cụ thể của Tỉnh. Những nguyên nhân đó bao gồm:
119
Một là, Vĩnh Phúc là tỉnh có điểm xuất phát thấp, để đẩy mạnh phát triển
kinh tế - xã hội cần tăng cường huy động các nguồn vốn đầu tư trong ngoài tỉnh
và đặc biệt là FDI. Do đó, trong thời kỳ đầu Tỉnh đã cố gắng tăng cường các
biện pháp thu hút FDI, vấn đề chọn lọc các dự án có chất lượng chưa được
quan tâm đúng mức. Mặc dù công tác quản lý FDI có nhiều đổi mới, song cho
đến nay, đối với hầu hết các dự án FDI đã thu hút và hoạt động trên địa bàn
tỉnh, công tác đánh giá hiệu quả chưa được thực hiện thường xuyên và định kỳ,
không ít vướng mắc từ phía các nhà đầu tư FDI chậm được nghiên cứu, giải
quyết, gây cản trở cho hoạt động đầu tư và phát huy tác động tích cực.
Hai là, mặc dù đã có nhiều cố gắng trong xây dựng quy hoạch phát triển
kinh tế - xã hội, song cho đến nay công tác quy hoạch phát triển kinh tế - xã
hội của Tỉnh vẫn còn không ít bất cập, đặc biệt là chưa có sự gắn kết chặt chẽ
giữa quy hoạch ngành và quy hoạch vùng, vừa gây lãng phí nguồn lực của địa
phương vừa chưa trở thành định hướng rõ ràng ổn định cho thu hút, sử dụng
hiệu quả FDI, làm giảm tác động tích cực của FDI.
Ba là, trong những năm qua Vĩnh Phúc đã có nhiều cố gắng trong nâng
cấp, xây dựng mới và hiện đại hóa hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế kỹ thuật
trên địa bàn tỉnh nhằm tạo thuận lợi cho các hoạt động sản xuất kinh doanh và
thu hút đầu tư, trong đó có FDI, tuy nhiên chất lượng đầu tư xây dựng kết cấu
hạ tầng tại các KCN đến nay vẫn chưa đồng bộ, dịch vụ logistcs chưa đáp ứng
kịp thời nhu cầu của các nhà đầu tư. Các KCN trên địa bàn tỉnh chậm hình
thành khu nhà ở công nhân cũng như hệ thống nhà xưởng có sẵn cho thuê, để
thu hút các DN nhỏ và vừa, các DN hỗ trợ vào đầu tư tại tỉnh.
Bốn là, công tác đào tạo nghề và hỗ trợ, giúp đỡ người lao động làm việc
trong các DN FDI còn hạn chế. Tỷ lệ lao động qua đào tạo khá cao nhưng
nhìn chung chất lượng NNL chưa đáp ứng yêu cầu của DN, vẫn còn thiếu hụt
về NNL trong lĩnh vực công nghệ cao. Người lao động còn thiếu tính chuyên
nghiệp, tác phong làm việc, tính kỷ luật, ý thức trách nhiệm phần nào chưa
đáp ứng được các hoạt động sản xuất công nghiệp và dịch vụ.
120
Năm là, những bất cập về đội ngũ cán bộ các cấp chính quyền và đoàn thể,
đặc biệt về năng lực nhận thức, bản lĩnh điều hành, trách nhiệm đối với công
việc đã và đang làm giảm hiệu lực và hiệu quả công tác quản lý nhà nước đối
với FDI. Trong giai đoạn đầu thu hút đầu tư, còn ôm đồm về mục tiêu thu hút
sử dụng FDI, chưa chú trọng nhiều đến chất lượng của các dự án đầu tư. Công
tác xúc tiến đầu tư tuy đã có đổi mới về nội dung và phương thức vận động, tuy
nhiên hiệu quả chưa cao. Nhiều điều kiện cần thiết có vai trò quan trọng trong
việc nâng cao hiệu quả và hiệu lực thu hút FDI chưa được triển khai đồng bộ,
công tác BTGPMB, tái định cư vẫn còn nhiều khó khăn vướng mắc. Tiến độ
thực hiện một số dự án hạ tầng kỹ thuật KCN chậm kéo theo sự chậm trễ và
mất cơ hội để thu hút DN vệ tinh. Chất lượng NNL chưa đáp ứng được yêu cầu
của các dự án đầu tư. Năng lực và hiệu lực thanh tra, giám sát chưa cao và
thiếu sự phối hợp đồng bộ giữa các sở, ban, ngành.
Ngoài ra, trình độ phát triển kinh tế và trình độ dân trí chưa cao gây ra
nhiều bức xúc từ phía bộ phận dân cư trong diện bị thu hồi đất và đội ngũ
người lao động trong các DN FDI.
Do các nguyên nhân kể trên, một số chỉ số thành phần của chỉ số năng
lực cạnh tranh (PCI) của tỉnh Vĩnh Phúc đã có xu hướng giảm sút, do đó chỉ
số năng lực cạnh tranh của tỉnh trong bảng xếp hạng các địa phương đã tụt
hạng: từ xếp thứ 3 năm 2008, thứ 6 năm 2009, xuống xếp thứ 15 năm 2010,
thứ 17 năm 2011, gây ảnh hưởng tới môi trường đầu tư của tỉnh. Vì vậy, để
khắc phục những tác động tiêu cực của FDI tới phát triển kinh tế - xã hội của
tỉnh cần phải thực hiện đồng bộ các giải pháp, trong đó phải phân biệt những
giải pháp trước mắt có thể nhanh chóng phát huy hiệu quả của FDI và các giải
pháp lâu dài tạo cơ sở cho FDI đóng góp ngày càng lớn vào sự phát triển kinh
tế - xã hội tỉnh Vĩnh Phúc theo hướng ổn định, vững chắc trong tương lai.
121
CHƯƠNG 4
QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP PHÁT HUY CÁC TÁC ĐỘNG
TÍCH CỰC VÀ HẠN CHẾ CÁC TÁC ĐỘNG TIÊU CỰC CỦA
ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI ĐỐI VỚI PHÁT TRIỂN
KINH TẾ - XÃ HỘI TỈNH VĨNH PHÚC
4.1. DỰ BÁO VỀ BỐI CẢNH VÀ NHU CẦU THU HÚT VỐN ĐẦU
TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI CHO PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ
HỘI TỈNH VĨNH PHÚC TRONG GIAI ĐOẠN 2015-2020 VÀ TẦM
NHÌN ĐẾN NĂM 2030
4.1.1. Bối cảnh quốc tế, trong nước, trong tỉnh tác động tới thu hút và sử
dụng đầu tư trực tiếp nước ngoài cho phát triển kinh tế - xã hội tỉnh Vĩnh
Phúc trong giai đoạn đến năm 2020
4.1.1.1. Tác động của bối cảnh quốc tế
Trong những thập kỷ đầu tiên của Thế kỷ XXI, bối cảnh quốc tế với các
xu thế kinh tế lớn như toàn cầu hóa, khu vực hóa, cách mạng khoa học - công
nghệ và kinh tế tri thức đang tạo ra nhiều thuận lợi, nhiều cơ hội đầu tư phát
triển, song cũng tạo ra sự biến đổi nhanh chóng và rủi ro hơn trong phát triển
kinh tế - xã hội trên phạm vi toàn cầu cũng như của mỗi quốc gia, địa phương.
Sự kiện Việt Nam đã trở thành thành viên chính thức của WTO, thực
hiện và tiếp tục đàm phán nhiều cam kết quốc tế khác đã và đang tạo điều
kiện cho Việt Nam và các địa phương, trong đó có tỉnh Vĩnh Phúc tiếp cận
nhanh hơn, dễ dàng hơn với thị trường thế giới và khu vực, đồng thời cũng
chịu sự tác động mạnh mẽ hơn từ những bất ổn của thị trường thế giới như
khủng hoảng kinh tế thế giới.
Rõ ràng, toàn cầu hoá và hội nhập quốc tế tiếp tục tạo điều kiện cho các
dòng vốn FDI đến với các nền kinh tế đang phát triển. Mặc dù chịu tác động
không nhỏ của khủng hoảng kinh tế bắt đầu từ Mỹ năm 2008, nhưng trong
giai đoạn 2009 -2012 khối lượng FDI toàn cầu vẫn tăng 21,28% từ 1.114 tỷ
122
USD lên 1.351 tỷ USD, trong đó lượng FDI tới các nước đang phát triển tăng
khá nhanh từ 478 tỷ USD lên 703 tỷ USD (tỷ trọng trong tổng khối lượng FDI
toàn cầu tăng từ 42,9% lên 52%), đặc biệt là tại các nền kinh tế năng động
nhất thế giới - khu vực Đông và Đông Nam Á tăng từ 233 tỷ USD lên 326 tỷ
USD (tỷ trọng trong tổng khối lượng FDI toàn cầu tăng từ 20,9% lên
24,1%)[109, tr.31; 104, tr13].
Như vậy, trong những năm gần đây, lượng vốn FDI trên thế giới đầu tư
vào các nước đang phát triển, đặc biệt là vùng Đông và Đông Nam Á có xu
hướng tăng nhanh. Tình hình đó không những tạo cơ hội cho Việt Nam nói
chung và Vĩnh Phúc nói riêng tăng cường thu hút FDI cho phát triển kinh tế -
xã hội, mà còn tạo ra sức ép cạnh tranh và thách thức to lớn đối với cải thiện
môi trường đầu tư Việt Nam hiện nay so với các nước xung quanh.
Sau khi Việt Nam chính thức trở thành thành viên WTO, các quan hệ
kinh tế ngày càng rộng mở, làn sóng đầu tư nước ngoài vào Việt Nam trở lên
mạnh mẽ. Nếu như trong năm 2006, lượng vốn FDI đăng ký là 221 triệu
USD, thì sang năm 2007 đã đạt mức 977,9 triệu USD, kỷ lục là năm 2010 -
3.503 triệu USD [114].
Bên cạnh đó, những bất ổn trong phát triển kinh tế thế giới đã và đang
tạo ra những thách thức cho thu hút và sử dụng FDI của Việt Nam nói chung
và tỉnh Vĩnh Phúc nói riêng. Sự suy thoái, sự phá sản của các tập đoàn kinh tế
lớn trên thế giới đang ảnh hưởng sâu rộng đến tất cả các quốc gia. Các tập
đoàn, các DN, do phá sản hoặc suy thoái đã buộc phải cơ cấu lại, cắt giảm đầu
tư, cắt giảm nhân lực… làm thu hẹp thị trường, các cơ hội đầu tư phát triển
cũng như làm tăng lực lượng lao động thất nghiệp…
Những bất ổn kinh tế thế giới làm chậm tiến độ giải ngân của các dự án
FDI cũng như làm giảm nhịp độ thu hút vốn đầu tư nước ngoài…Trong
những năm 2011, 2012 lượng FDI thu hút được của Việt Nam có xu hướng
giảm. Năm 2012 Việt Nam thu hút được 2.532 triệu USD FDI và năm 2012 là
1.546,7 triệu USD[114].
123
4.1.1.2. Tác động của bối cảnh trong nước
Kết quả phát triển kinh tế - xã hội trong nước những năm qua đã tạo ra
những thuận lợi nhất định cho thu hút và sử dụng FDI trên phạm vi toàn quốc
nói chung và từng địa phương, trong đó có tỉnh Vĩnh Phúc nói riêng.
Trong bối cảnh những diễn biến khó lường của kinh tế thế giới, những
hạn chế yếu kém vốn có của nền kinh tế Việt Nam cùng với mặt trái của chính
sách hỗ trợ tăng trưởng đã làm cho lạm phát tăng cao, ảnh hưởng nghiêm
trọng đến ổn định kinh tế vĩ mô, làm cho kinh tế có xu hướng tăng trưởng
chậm lại, sản xuất kinh doanh gặp nhiều khó khăn. Tuy nhiên, với sự nỗ lực
của cả nước, đến hết năm 2013 kinh tế vĩ mô cơ bản ổn định, lạm phát được
kiểm soát, quan hệ thương mại và đầu tư tiếp tục được mở rộng với hầu hết
các quốc gia và nền kinh tế, thị trường trong nước tiếp tục phát triển.
Môi trường kinh doanh tiếp tục được cải thiện. Vốn FDI đăng ký mới và
thực hiện năm sau cao hơn năm trước, chiếm khoảng 25% tổng vốn đầu tư
toàn xã hội và đã tập trung hơn vào công nghiệp chế biến, chế tạo, công nghệ
cao. Chín tháng năm 2013, vốn FDI đăng ký tăng 36,1%, vốn thực hiện tăng
6,4%; Vốn ODA ký kết tăng 8,83%, giải ngân tăng 8,68%. Cùng với các
nguồn vốn khác đang được huy động, tổng vốn đầu tư toàn xã hội năm 2013
ước đạt 29,1% GDP[114].
Những chính sách ổn định kinh tế vĩ mô, kiềm chế và kiểm soát lạm phát
đã tạo điều kiện cho nền kinh tế từng bước phục hồi. Năm 2011 tăng trưởng
GDP đạt 6,24%, năm 2012 chỉ đạt 5,25%; năm 2013 tăng trưởng quý sau cao
hơn quý trước (quý I tăng 4,76%, quý II tăng 5%, quý III tăng 5,54%), cả năm
tăng 5,4%. Bình quân 3 năm, GDP tăng khoảng 5,6%/năm. Sản xuất công
nghiệp, xây dựng từng bước được phục hồi; khu vực nông nghiệp tiếp tục
tăng trưởng ổn định; các ngành dịch vụ tăng trưởng khá. Đến hết tháng 9 năm
2014, số DN đăng ký thành lập mới tăng 10,8% và có trên 11,2 nghìn doanh
nghiệp đã hoạt động trở lại[114].
Chất lượng tăng trưởng có bước được nâng lên. Vốn đầu tư được sử
dụng hiệu quả hơn. Hệ số sử dụng vốn giảm từ 6,7 giai đoạn 2008 - 2010
124
xuống còn 5,53 giai đoạn 2011 - 2013. Năng suất lao động năm 2013 tăng
10,1% so với năm 2010. Tiêu hao điện năng trên một đơn vị GDP giảm[114].
Song song với những cải thiện tình hình phát triển kinh tế trong nước, sự
hình thành và phát triển công nghiệp, KCN của vùng kinh tế trọng điểm phía
Bắc có ảnh hưởng lớn đến phát triển kinh tế - xã hội và thu hút, sử dụng FDI
của Vĩnh Phúc do tập trung được nhiều nguồn lực cho phát triển kinh tế xã
hội, kết cấu hạ tầng. Hà Nội với vị thế là một trong hai trung tâm kinh tế lớn
nhất cả nước, trung tâm đầu não về tiềm lực khoa học và NNL chất lượng cao
sẽ có tác động rất lớn, tạo điệu kiện rất thuận lợi cho sự thu hút, sử dụng hiệu
quả FDI để phát triển kinh tế - xã hội của Vĩnh Phúc
4.1.1.3. Tác động của bối cảnh trong tỉnh
Kể từ khi tái lập tỉnh năm 1997, Vĩnh Phúc đã đạt được nhiều thành tựu
quan trọng trong phát triển kinh tế - xã hội, tạo thuận lợi cho thu hút và sử
dụng hiệu quả FDI. Tính chung cả giai đoạn 2001-2010, GDP Vĩnh Phúc tăng
trưởng bình quân 16,5% /năm, trong đó: nông, lâm nghiệp, thuỷ sản tăng
6,0%/năm; công nghiệp, xây dựng tăng 20,7%/năm; dịch vụ tăng 17,1%/năm.
Nhìn chung, tốc độ tăng trưởng luôn đạt mức cao trong số các tỉnh Đồng bằng
sông Hồng và Vùng Kinh tế trọng điểm phía Bắc, tăng gấp 2 lần so với tốc độ
trung bình của cả nước[54].
Quá trình tăng trưởng kinh tế của Vĩnh Phúc trong những năm qua có thể
nói gắn liền với sự gia tăng mạnh mẽ của khu vực công nghiệp mà đặc biệt là
khu vực có vốn đầu tư nước ngoài. Đồng thời có sự đột biến trong một số
năm do một số dự án công nghiệp có quy mô khá lớn đi vào hoạt động. Đây là
những thời điểm mà các dự án công nghiệp đầu tư nước ngoài và các KCN đi
vào hoạt động làm gia tăng sản lượng công nghiệp.
Cùng với tốc độ tăng trưởng nhanh của nền kinh tế, GDP bình quân đầu
người trong tỉnh cũng tăng khá nhanh. Năm 2000 GDP/người của tỉnh (giá
thực tế) mới chỉ đạt 3,83 triệu đồng, bằng 78,2% GDP vùng Đồng bằng sông
Hồng và 67,2% so với cả nước. Năm 2010, chỉ tiêu này đạt 33,6 triệu đồng,
cao hơn nhiều so với dự kiến bình quân cả nước là 22,5 triệu đồng và mức
125
bình quân các tỉnh đồng bằng sông Hồng là 25,5 triệu đồng[54]. Cơ cấu kinh
tế chuyển dịch mạnh theo hướng CNH, HĐH. Năm 2013 trong cơ cấu kinh tế
của tỉnh Vĩnh Phúc nông nghiệp chiếm tỷ trọng rất nhỏ - 10,69%; công
nghiệp chiếm tỷ trọng lớn - 60,39%; dịch vụ - 28,92%[76].
Những thành tựu về phát triển kinh tế đã tạo thuận lợi cho hình thành hệ
thống kết cấu hạ tầng ngày càng đồng bộ. Đến nay, Vĩnh Phúc có mạng lưới
giao thông khá phát triển với 3 loại: giao thông đường bộ, đường sắt, đường
sông. Hệ thống giao thông trên địa bàn tỉnh phân bố khá hợp lý, mật độ đường
giao thông cao. Vĩnh Phúc là một trong những tỉnh nằm trong vùng thuận lợi
về cung cấp điện từ lưới điện quốc gia, với việc hệ thống truyền tải và phân
phối được quy hoạch và đầu tư đồng bộ đảm bảo thuận lợi, cung cấp đủ nhu
cầu cho phát triển các KCN của tỉnh. Vĩnh Phúc có tiềm năng lớn về nguồn
nước. Nguồn nước mặt, nước ngầm tự nhiên dồi dào đủ để cung cấp cho hoạt
động sản xuất công nghiệp, nông nghiệp, thuỷ lợi trên địa bàn. Mạng phục vụ
Bưu chính hiện nay đã được phát triển rộng khắp trong toàn tỉnh đáp ứng các
dịch vụ bưu chính cơ bản. Mạng viễn thông phát triển mạnh với các công
nghệ hiện đại tương đương với mức trung bình cuả khu vực. Mạng lưới các
cơ sở giáo dục và đào tạo của Vĩnh Phúc đã và đang phát triển ngày càng rộng
và phân bố đều khắp các xã, thị trấn, đến tận thôn trên địa bàn tất cả các
huyện, thị trong tỉnh với hệ thống cơ sở trường, lớp và cơ sở vật chất kỹ thuật
từng bước được cải thiện. Hệ thống các cơ sở giáo dục, đào tạo của Vĩnh
Phúc đã góp phần nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực và bồi dưỡng nhân tài
phục vụ thu hút, sử dụng hiệu quả FDI cho phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh.
Một trong những thuận lợi rất lớn cho thu hút , sử dụng hiệu quả FDI là
trên địa bàn tỉnh đã hình thành và phân bố tương đối hợp lý hệ thống các
KCN. Các KCN được phát triển trên những vùng đất trồng cây hàng năm và
đất đồi bạc màu, ít có dân cư sinh sống do vậy đã hạn chế được tối đa việc di
dân, tái định cư và được nhân dân ủng hộ. Hầu hết các KCN được bố trí ở
những khu vực thuận tiện về kết cấu hạ tầng như phân bố gần với trục quốc lộ
số 2, trục đường huyết mạch quan trọng chạy ngang qua địa bàn tỉnh Vĩnh
126
Phúc, kết nối tỉnh Vĩnh Phúc với các địa phương khác trong Vùng Kinh tế
trọng điểm phía Bắc, qua hệ thống giao thông trong vùng vươn tới các cụm
cảng biển, cảng hàng không…tạo điều thuận lợi trong việc thu hút đầu tư phát
triển các KCN. Các KCN được phân bố tạo thành các trục công nghiệp Đông
- Tây gắn với quốc lộ số 2 và trục Bắc - Nam ở phía Đông tỉnh gắn với trục
đường 302. Khoảng cách giữa các KCN với các trung tâm đô thị lớn như
Thành phố Vĩnh Yên, thị xã Phúc Yên, tạo điều kiện đảm bảo cung cấp các
dịch vụ hạ tầng xã hội cơ bản, cung cấp nhân lực cũng như các đầu vào cần
thiết khác cho phát triển các KCN. Nhìn chung, các KCN hiện tại được bố trí
với tầm nhìn dài hạn gắn với việc hình thành và phát triển hệ thống kết cấu hạ
tầng trong tỉnh.
4.1.2. Dự báo nhu cầu về thu hút đầu tư trực tiếp nước trên địa bàn tỉnh
Căn cứ vào kết quả phân tích tình hình thu hút FDI và phát triển kinh tế -
xã hội của tỉnh Vĩnh Phúc thời gian qua, cùng với đánh giá những tác động
của bối cảnh thế giới, trong nước, trong tỉnh tới thu hút FDI trên địa bàn Tỉnh,
có thể khẳng định rằng trong những năm tới FDI tiếp tục là nguồn vốn quan
trọng cho phát triển kinh tế - xã hội của Tỉnh.
Trong những năm tới, để thực hiện mục tiêu đến năm 2020 đưa Vĩnh
Phúc trở thành một tỉnh công nghiệp, trở thành một trong những trung tâm
công nghiệp, dịch vụ, du lịch của khu vực và của cả nước; nâng cao rõ rệt
mức sống nhân dân; môi trường được bảo vệ bền vững; dự báo tốc độ tăng
trưởng của Tỉnh phải đạt mức 14,0-14,5% trong giai đoạn 2016 - 2020[53].
Theo đó với chỉ số ICOR ở mức khoảng 5, tỉnh Vĩnh Phúc cần tới từ 280.000
tỷ đồng đến 300.000 tỷ đồng vốn đầu tư phát triển.
Nếu tính theo phương án tỷ trọng FDI trong tổng vốn đầu tư phát triển đạt
khoảng 20%, thì nhu cầu về nguồn vốn FDI cho phát triển kinh tế - xã hội của
tỉnh Vĩnh Phúc sẽ ở mức vào khoảng từ 56.000 tỷ đồng đến 60.000 tỷ đồng.
Việc thu hút được lượng vốn FDI như trên cho phát triển kinh tế - xã hội
của tỉnh rõ ràng là nhiệm vụ không dễ dàng, đòi hỏi Tỉnh phải có những giải
pháp quyết liệt. Đồng thời, do việc thu hút được FDI không đồng nghĩa với
127
việc phát huy tác động tích cực và loại bỏ tác động tiêu cực của FDI như đã
phân tích ở chương 3, nên Tỉnh cần có quan điểm, định hướng và giải pháp
phù hợp nhằm tăng cường tác động tích cực và hạn chế tác động tiêu cực của
FDI trên địa bàn tỉnh những năm tới.
4.2. QUAN ĐIỂM VÀ PHƯƠNG HƯỚNG CƠ BẢN VỀ NÂNG
CAO TÁC ĐỘNG TÍCH CỰC VÀ HẠN CHẾ TÁC ĐỘNG TIÊU CỰC
CỦA ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI Ở TỈNH VĨNH PHÚC
4.2.1. Quan điểm
Với mục tiêu đưa Vĩnh Phúc trở thành tỉnh có yếu tố của một tỉnh công
nghiệp vào năm 2015 và thành tỉnh công nghiệp theo hướng hiện đại vào năm
2020, trở thành Thành phố Vĩnh Phúc vào những năm 20 của thế kỷ XXI;
trong bối cảnh đất nước đang hội nhập sâu rộng với các quốc gia có nền kinh
tế và công nghiệp phát triển, việc thu hút, sử dụng và quản lý FDI trên địa bàn
tỉnh Vĩnh Phúc trong thời gian tới cần quán triệt các quan điểm:
Một là, Chiến lược thu hút, sử dụng và quản lý FDI của tỉnh phải được
thiết kế trong khuôn khổ chiến lược chung của cả nước, đồng bộ với chiến lược
phát triển kinh tế-xã hội của tỉnh giai đoạn 2011 - 2020, tầm nhìn đến năm
2030. Chiến lược này có vai trò tương hỗ với các chiến lược liên quan, trong đó
có việc định hướng các mục tiêu như: phát triển kết cấu hạ tầng, phát triển
đồng bộ thị trường, phát triển nguồn nhân lực, cải cách thủ tục hành
chính...Mặc dù với tư cách là một tỉnh của Việt Nam, Vĩnh Phúc có tính độc
lập tương đối trong thu hút, sử dụng FDI và phát triển kinh tế - xã hội, song sự
phát triển của Tỉnh nhìn chung không thể tách rời khỏi sự phát triển chung của
cả nước. Cũng như mọi địa phương khác, sự phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh
Vĩnh Phúc được thực hiện trong môi trường vĩ mô chung, trên cơ sở phân công
lao động xã hội dưới sự điều tiết chung của Chính phủ, do đó, chỉ khi Chiến
lược thu hút, sử dụng và quản lý FDI của tỉnh gắn với Chiến lược chung của cả
nước và Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh, thì mới tận dụng hiệu
quả cơ hội sử dụng các lợi thế của Tỉnh để phát huy tác động tích cực, giảm
thiểu tác động tiêu cực của FDI đến phát triển kinh tế - xã hội của Tỉnh.
128
Hai là, gắn việc thu hút, sử dụng với phát huy tác động tích cực của FDI
để đẩy nhanh CNH, HĐH, phát triển kinh tế-xã hội bền vững, giải quyết việc
làm, đóng góp cho ngân sách, chuyển giao công nghệ, bảo vệ môi trường, cải
thiện mối quan hệ đối ngoại...Đồng thời giảm thiểu tác động tiêu cực của FDI.
FDI phải hoạt động theo khuôn khổ pháp luật và tín hiệu thị trường, do đó cần
thận trọng cân nhắc trong việc ưu đãi đối với FDI, tránh những tác động tiêu
cực của FDI tới giải quyết các vấn đề kinh tế - xã hội, môi trường trên địa bàn
tỉnh. Thực tiễn thu hút, sử dụng FDI và những tác động của FDI đến phát
triển kinh tế - xã hội trên địa bàn Tỉnh những năm qua đã chứng tỏ không thể
thu hút và sử dụng FDI bằng mọi giá, mà thay vào đó phải căn cứ khả năng
đóng góp tích cực của FDI vào mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội của Tỉnh
theo hướng bền vững để lựa chọn, quản lý điều tiết các dự án FDI trên địa bàn
Tỉnh trong thời gian tới.
Ba là, cùng với việc thu hút nguồn vốn FDI cần phải quan tâm quản lý
hoạt động FDI sau cấp giấy CNĐT, sử dụng có hiệu quả nguồn FDI, hạn chế
tối đa các hệ quả của nguồn vốn này. Nâng cao năng lực, hiệu quả công tác
quản lý nhà nước đối với FDI; tăng cường sự phối hợp với các bộ, ngành
Trung ương và các sở, ban, ngành trên địa bàn tỉnh trong thu hút, sử dụng và
quản lý FDI. Việc thu hút được FDI mới chỉ tạo ra khả năng tác động tích cực
của FDI đến phát triển kinh tế - xã hội. Tác động thật sự của FDI đến phát
triển kinh tế - xã hội chỉ thể hiện rõ nét khi dự án FDI đi vào hoạt động, do đó
công tác quản lý điều tiết các dự án FDI sau khi được cấp phép có ý nghĩa
quan trọng, thậm chí là sống còn đối với phát huy tác động tích cực, giảm
thiểu tác động tiêu cực của FDI đến phát triển kinh tế - xã hội của Tỉnh.
4.2.2. Phương hướng
Trong bối cảnh nền kinh tế thế giới có nhiều biến động, mức độ cạnh
tranh ngày càng gay gắt trên thị trường vốn quốc tế là thách thức đối với Việt
Nam nói chung và tỉnh Vĩnh Phúc nói riêng. Năm 2014, Việt Nam sẽ thực
hiện đầy đủ cam kết WTO, năm 2015 cùng các nước trong khu vực bắt đầu
xây dựng Cộng đồng ASEAN, trong đó có cộng đồng kinh tế. Kế hoạch phát
129
triển kinh tế-xã hội của tỉnh Vĩnh Phúc đến năm 2020 được xây dựng trong
bối cảnh trong nước, quốc tế và trong tỉnh còn nhiều khó khăn, thách thức,
đặc biệt là hậu quả của khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu.
Nền kinh tế tuy phát triển nhanh, nhưng không bền vững, do phụ thuộc chủ
yếu vào khu vực FDI. Trên cơ sở phân tích thực trạng FDI trong thời gian
qua, bối cảnh trong nước và quốc tế, trong thời gian tới, FDI cần định hướng
chuyển sang coi trọng cơ cấu và chất lượng FDI, thu hút FDI công nghệ hiện
đại, thu hút FDI nhằm phát triển NNL chất lượng cao - lao động có kỹ năng.
Những phương hướng chủ yếu bao gồm:
Thứ nhất, về định hướng lĩnh vực đầu tư. Tỉnh cần chú trọng hướng vào
thu hút các dự án FDI có hàm lượng khoa học công nghệ cao, thân thiện với
môi trường, có khả năng đóng góp lớn cho phát triển kinh tế-xã hội; các dự án
có khả năng tham gia chuỗi giá trị toàn cầu; các dự án trong các lĩnh vực công
nghiệp điện tử, viễn thông; công nghiệp cơ khí như sản xuất, lắp ráp ô tô, xe
máy,...vật liệu xây dựng, vật liệu mới và công nghiệp hỗ trợ của ngành sản
xuất, lắp ráp ô tô, xe máy, điện tử; xây dựng phát triển hạ tầng KCN, dự án du
lịch dịch vụ, trường đại học tầm cỡ quốc tế; kêu gọi đầu tư vào các ngành
dịch vụ như: tài chính, ngân hàng, bảo hiểm, y tế, giáo dục - đào tạo.
Thứ hai, định hướng về địa bàn đầu tư. Trong thời gian tới, Tỉnh cần tập
trung thu hút các dự án đầu tư vào các KCN, nâng cao tỷ lệ lấp đầy ở các
KCN. Gắn phát triển công nghiệp với bảo vệ môi trường; xử lý triệt để tình
trạng ô nhiễm môi trường tại các khu, CCN. Từng bước hình thành các trung
tâm công nghiệp theo vùng khuyến khích thu hút các dự án công nghiệp phụ
trợ của ngành sản xuất lắp ráp ô tô và phụ tùng ô tô xe máy.
Thứ ba, định hướng về đối tác. Tỉnh cần chú trọng thu hút FDI từ các
Tập đoàn đa quốc gia, các DN sản xuất sản phẩm công nghiệp hỗ trợ, các DN
nhỏ và vừa từ các nền kinh tế phát triển như Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan,
các đối tác từ Châu Âu và Hoa Kỳ.
130
4.3. CÁC GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ TÁC ĐỘNG CỦA
ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI TỚI PHÁT TRIỂN KINH TẾ -
XÃ HỘI Ở VĨNH PHÚC
Để phát huy tác động tích cực và hạn chế tác động tiêu của FDI trên địa
bàn tỉnh Vĩnh Phúc trong thời gian tới, một mặt phải tăng cường thu hút FDI,
mặt khác phải chọn lọc được những dự án FDI có hiệu quả về kinh tế, xã hội,
môi trường, kiên quyết ngăn chặn những tác động xấu tới kinh tế, xã hội, môi
trường. Để đạt được mục tiêu trên cần có hệ thống các giải pháp đồng bộ,
hiệu quả.
4.3.1. Định kỳ đánh giá hiệu quả của từng dự án và hiệu quả của đầu tư
trực tiếp nước đối với phát triển kinh tế - xã hội ở tỉnh Vĩnh Phúc để có
chương trình điều chỉnh kịp thời.
Để phát huy vai trò tích cực của FDI đối với phát triển kinh tế - xã hội
của Tỉnh, các cơ quan ban ngành có chức năng quản lý các dự án đầu tư cần
thường xuyên rà soát đánh giá thực trạng triển khai và hiệu quả của các dự án.
Công tác này phải được tiến hành định kỳ hàng quý trong năm nhằm tìm ra
những vướng mắc của các nhà đầu tư để giải quyết.
Trong quá trình triển khai thực hiện các dự án, các nhà đầu tư có thể sẽ
gặp phải những vướng mắc về thủ tục hành chính, về giải phóng mặt bằng, về
vốn, về nhân lực…làm chậm tiến độ đầu tư. Những vướng mắc đó có thể xuất
phát từ môi trường đầu tư, từ việc thực hiện chức năng nhiệm vụ của các cấp
chính quyền và các cơ quan có liên quan, từ phía nhân dân địa phương và
thậm chí từ phía bản thân các nhà đầu tư. Do vậy, nếu không đánh giá đúng
đắn các nguyên nhân dẫn tới những vướng mắc đó thì sẽ không thể thực hiện
đúng tiến độ các dự án FDI nói riêng và các dự án đầu tư nói chung, từ đó sẽ
làm giảm tác động của FDI đối với phát triển kinh tế - xã hội. Bên cạnh đó,
cần kiên quyết thu hồi các dự án FDI kém hiệu quả.
Thực tế cho thấy, trên địa bàn Vĩnh Phúc hiện nay vướng mắc lớn nhất
gây ra sự chậm trễ trong thực hiện một số dự án FDI là vấn đề giải phóng mặt
bằng. Cơ chế, chính sách về đất đai có những thay đổi làm ảnh hưởng đến
131
công tác BTGPMB, nhất là khi thực hiện Nghị định số 69/2009/NĐ-CP ngày
13/8/2009 của Chính phủ về Quy hoạch sử dụng đất. Một số chính sách mới
về đất đai như: Nghị định số 42/2012/NĐ-CP ngày 11/5/2012 của Chính phủ
quy định về quản lý, sử dụng đất trồng lúa, công tác quy hoạch kế hoạch sử
dụng đất thời kỳ 2011- 2015 đang được triển khai để trình Chính phủ, sửa đổi
Luật đất đai… cũng tạo ra tâm lý chờ đợi của người dân về quyền lợi của
người sử dụng đất, đã tác động không thuận lợi đến công tác BTGPMB. Giá
bồi thường theo quy định chưa sát với giá thị trường gây khó khăn cho công
tác BTGPMB. Vì vậy, trong thời gian tới cần đẩy mạnh sự phối hợp giữa các
cấp, các ngành chức năng trong công tác BTGPMB, nâng cao hơn nữa hiệu
quả công tác tuyên truyền vận động thuyết phục nhân dân; tập trung sự phối
kết hợp các cấp, các ngành từ tỉnh đến xã để giải quyết dứt điểm tình trạng tái
lấn chiếm tại các khu vực trọng điểm, khẩn trương xúc tiến quy hoạch xây
dựng các khu tái định cư cho các hộ dân trong diện phải di dời. Coi trọng việc
tạo việc làm, đào tạo nghề cho người nông dân không còn đất để sản xuất
bằng các đề án đào tạo nghề cụ thể...
Cần tổ chức và thực hiện chủ trương cấp đất dịch vụ cho những người
dân bị thu hồi đất theo nguyên tắc bình đẳng, tạo thuận lợi cho những người
dân bị thu hồi đất có cơ hội chuyển đổi ngành nghề đảm bảo cuộc sống.
Ngoài ra, đối với các dự án không có khả năng triển khai do năng lực tài
chính yếu kém của các nhà đầu tư, cần kiên quyết thu hồi đất để chuyển giao
cho các dự án khác.
4.3.2. Tiếp tục hoàn thiện công tác quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội,
quy hoạch phát triển các ngành kinh tế, quy hoạch các khu, cụm công nghiệp
đến 2020 với tầm nhìn 2030.
Quy hoạch phát triển kinh tế xã hội có vai trò quan trọng định hướng thu
hút vốn đầu tư đối với từng địa phương, tỉnh thành phố và cả nước. Trong
những năm đổi mới, công tác xây dựng quy hoạch nhìn chung đã được thực
hiện thường xuyên với chất lượng ngày càng phù hợp hơn với quá trình phát
triển kinh tế xã hội. Tuy nhiên, sự chuyển đổi nền kinh tế sang hoạt động theo
132
cơ chế thị trường và hội nhập đã đặt ra nhiều yêu cầu mới đối với công tác
quy hoạch, vì vậy công tác quy hoạch cần tiếp tục được quan tâm đổi mới.
Trong công tác quy hoạch, thu hồi đất, cấp đất, một số cán bộ các cấp vẫn
còn biểu hiện tham nhũng, tiêu cực; coi thường ý kiến của nhân dân, giải tỏa
đất đai không công khai, minh bạch nhưng chưa được phát hiện kịp thời và xử
lý nghiêm minh. Nhiều địa phương trong tỉnh chưa thực hiện nghiêm, đồng bộ
vấn đề lập quy hoạch sử dụng đất, thực hiện, kiểm tra xử lý vi phạm; các chính
sách liên quan đến nông nghiệp, thu hồi đất và đền bù giải phóng mặt bằng tuy
được sửa đổi, bổ sung nhưng còn chậm và chưa đồng bộ, chưa đáp ứng quyền
lợi chính đáng của người dân. Thậm chí, có nơi chính quyền địa phương nắm
không chắc quy định của chính sách, pháp luật đất đai nên hiểu sai, vận dụng
tùy tiện; tự đặt thêm những quy định không phù hợp, trái với chính sách pháp
luật, gây thiệt thòi cho người dân. Một số cơ quan, DN móc ngoặc với cán bộ
tiêu cực để được giao đất, sau đó tìm cách chuyển đổi mục đích để kiếm lời
hoặc lợi dụng chủ trương công nghiệp hóa làm dự án và ép dân giao đất, thuê
đất dài hạn, rồi tự chuyển đổi mục đích sử dụng, chia lô, xây nhà thô đem
bán…Công tác đào tạo nghề, chuyển đổi và bố trí việc làm cho người dân bị
thu hồi đất chưa được chú trọng, làm gia tăng tỷ lệ người thất nghiệp. Việc
tuyên truyền phổ biến chủ trương, chính sách pháp luật còn yếu nên có khi
người dân chưa nắm được quy định của pháp luật và lợi ích lâu dài của các dự
án đầu tư. Mặc dù Chính phủ và UBND tỉnh đã chỉ đạo rất kiên quyết, cụ thể
một số vụ việc, nhưng đáng tiếc, lãnh đạo một số cấp, ngành trong tỉnh thực
hiện chưa nghiêm, vô hình chung đẩy tình hình thêm phức tạp.
Tình trạng qui hoạch “treo” vẫn còn; nhân dân tại một số khu vực quy
hoạch rất bức xúc về tình trạng đã quy hoạch và thu hồi đất nhưng dự án vẫn
không triển khai thực hiện, việc phân bổ sử dụng đất, phân khu chức năng
trong các đô thị mới còn nhiều bất cập, nhiều nơi mật độ xây dựng quá dày,
không chú ý dành qũy đất cho phát triển các công trình công cộng và bảo vệ
môi trường. Vẫn còn tình trạng sử dụng nhiều đất chuyên trồng lúa, đất có
khả năng nông nghiệp cao, đất đang có khu dân cư tại những vị trí có hạ tầng
133
kỹ thuật tốt để xây dựng các KCN. Trong lúc, nông dân tại một số địa phương
đang thiếu đất hoặc không có đất để sản xuất thì một diện tích không nhỏ đất
nông nghiệp bị thu hồi.
Khu công nghiệp được quy hoạch phát triển với mục tiêu tập trung thu
hút vốn đầu tư tạo nguồn lực thúc đẩy phát triển kinh tế xã hội từng địa
phương, nhưng chất lượng quy hoạch KCN còn thấp, tổ chức thực hiện quy
hoạch chưa triệt để. Việc xây dựng quy hoạch phát triển KCN, CCN trong
thời gian qua chủ yếu được xem xét trên cơ sở đề nghị của địa phương, chưa
thực sự gắn với quy hoạch ngành.
Trong những năm gần đây, tỉnh cũng đã dành quỹ đất đáp ứng nhu cầu
xây dựng kết cấu hạ tầng, phát triển công nghiệp, dịch vụ, chỉnh trang và xây
dựng mới các khu dân cư đô thị, nông thôn, quản lý chặt việc chuyển đất sản
xuất nông nghiệp sang các mục đích phi nông nghiệp.
Theo Quy hoạch phát triển công nghiệp của tỉnh đến năm 2020, ngoài 09
KCN được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt chủ trương đầu tư vào năm 2008
với tổng diện tích 2.284 ha, bao gồm 5 KCN đã có Quyết định thành lập và
đang hoạt động là Kim Hoa (50 ha), Khai Quang (262 ha), Bình Xuyên (271
ha), Bá Thiện (327 ha), Bình Xuyên II (485 ha); 4 KCN đã được Thủ tướng
Chính phủ phê duyệt chủ trương đầu tư là KCN Chấn Hưng (131,31 ha), Bá
Thiện II (308 ha), Sơn Lôi (300 ha) và Hội Hợp (150 ha), đến năm 2020 trên
địa bàn tỉnh sẽ phát triển thêm 11 KCN với diện tích là 3.754 ha, nâng tổng
số diện tích đất quy hoạch dự kiến phát triển KCN đến năm 2020 của tỉnh
Vĩnh Phúc lên 6.038 ha.
Xuất phát từ những yêu cầu phát triển kinh tế xã hội và thu hút, sử dụng
hiệu quả FDI, trong giai đoạn từ nay tới 2020 và tầm nhìn 2030 công tác quy
hoạch ở Vĩnh Phúc cần tiếp tục hoàn thiện theo hướng:
Thứ nhất, phù hợp với các quy hoạch kinh tế - xã hội, quy hoạch tổng thể
ngành, vùng, sản phẩm của Trung ương. Quy hoạch phải đảm bảo cụ thể hoá
đường lối, chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước nhằm đáp ứng yêu
cầu đổi mới toàn diện công tác kế hoạch hoá và thực hiện thành công chiến
134
lược phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Quy hoạch phải được luận chứng
đầy đủ; vừa có tính mềm dẻo, linh hoạt vừa có tính bắt buộc và phải có tầm
nhìn dài hạn; được công khai hoá. Đổi mới phương pháp xây dựng quy hoạch,
quy hoạch phải gắn với thị trường, quy hoạch phải có tính khả thi và được cộng
đồng biết cùng tổ chức thực hiện, từ đó làm cho sản phẩm của quy hoạch phát
huy được lợi thế của địa phương, là định hướng huy động mọi nguồn lực của
xã hội cho phát triển, phục vụ chuyển dịch cơ cấu kinh tế, khai thác mọi tiềm
năng đẩy nhanh tốc độ phát triển của khu vực công nghiệp và dịch vụ.
Nguyên tắc chung trong việc lập quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế -
xã hội phải bảo đảm tính đồng bộ, thống nhất giữa chiến lược, quy hoạch và
kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội, giữa quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế
- xã hội với quy hoạch xây dựng, quy hoạch sử dụng đất đai; bảo đảm tính
đồng bộ, thống nhất giữa quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế cả nước với
quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội vùng, lãnh thổ, phù hợp giữa
quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội với quy hoạch phát triển ngành,
lĩnh vực...
Quy hoạch phát triển các ngành, lĩnh vực then chốt, quy hoạch phát triển
một số sản phẩm quan trọng đến năm 2020 và tầm nhìn đến năm 2030 của
Vĩnh Phúc phải bao gồm: quy hoạch mạng lưới giao thông đường bộ; quy
hoạch mạng lưới giao thông đường thuỷ; quy hoạch sản xuất các mặt hàng
chủ lực như cơ khí, điện tử, dệt may; quy hoạch phát triển nông nghiệp, nuôi
trồng, khai thác thủy sản và quy hoạch công nghiệp chế biến nông, lâm, thủy
sản; quy hoạch phát triển hệ thống các KCN và đô thị gắn với các KCN; quy
hoạch hệ thống các trường Đại học, các trung tâm đào tạo chất lượng cao, các
trung tâm dạy nghề; các trung tâm y tế chuyên sâu, các KCN chuyên nghiên
cứu cải tiến công nghệ cho các xí nghiệp công nghiệp hiện có; Quy hoạch
phát triển ngành du lịch, đặc biệt là du lịch văn hoá và sinh thái
Thứ hai, công tác quy hoạch phải phù hợp với kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa, có sự tham gia của tất cả các thành phần kinh tế;
tránh tình trạng thông qua quy hoạch để thực hiện độc quyền. Mở cửa cho các
135
thành phần kinh tế tham gia đầu tư trong các quy hoạch ngành, sản phẩm là
cách tháo gỡ tốt cho nền kinh tế có thêm cơ hội để phát triển. Chỉ những lĩnh
vực then chốt, những dự án thiết yếu mà FDI, đầu tư tư nhân không tham gia
thì mới nên quy hoạch theo hướng Ngân sách nhà nước bỏ vốn đầu tư.
Để nâng cao chất lượng quy hoạch, đối với những dự án quy hoạch quan
trọng tầm ảnh hưởng rộng phải được tổ chức nghiên cứu chu đáo huy động
các tư vấn giỏi tham gia. Quy hoạch phải được triển khai đầy đủ từ quy hoạch
tổng thể đến quy hoạch chi tiết cụ thể và phải được tiến hành lập cũng như
điều chỉnh kịp thời. Điều chỉnh quy hoạch ngành, lĩnh vực theo hướng mở
rộng sự tham gia của các thành phần kinh tế. Quy hoạch ngành và sản phẩm
chỉ mang tính định hướng cho các DN thuộc các thành phần kinh tế xây dựng
phương án kinh doanh, chứ không hạn chế hay loại trừ đầu tư của các thành
phần kinh tế. Tất cả các khâu của công tác quy hoạch từ lập, thẩm định, phê
duyệt quy hoạch, công bố quy hoạch, thực hiện quy hoạch đều phải kiểm tra,
giám sát theo các quy định của pháp luật hiện hành. Các cơ quan nhà nước
trong phạm vi, nhiệm vụ của mình có chức năng quản lý nhà nước về quy
hoạch có trách nhiệm thanh tra, kiểm tra về công tác quy hoạch. Muốn vậy
phải thực hiện công khai, minh bạch trong công tác quy hoạch và tăng cường
công tác kiểm tra, thu hút rộng rãi ý kiến đóng góp, tranh thủ sự giám sát thực
hiện của cộng đồng.
Thứ ba, tiếp tục điều chỉnh lại Quy hoạch phát triển KCN đến năm 2020
cho phù hợp với tình hình thực tế tạo điều kiện thuận lợi cho công tác chủ
động xây dựng mới hoặc mở rộng các khu, CCN trong trường hợp đã lấp đầy
trên 60% diện tích đất công nghiệp hiện có. Tổ chức thực hiện công bố công
khai quy hoạch phát triển các KCN ở Vĩnh Phúc đến năm 2020 sau khi đã
được phê duyệt.
Các KCN phải được hình thành trên những địa bàn có điều kiện thuận lợi
hoặc có khả năng xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng kỹ thuật và hạ tầng xã
hội. Quy hoạch phát triển KCN, KCX phải được triển khai đồng bộ và kết
hợp chặt chẽ với quy hoạch phát triển đô thị, phân bố dân cư, nhà ở và các
136
công trình xã hội phục vụ công nhân trong KCN, KCX. Đồng thời, phải có
quỹ đất dự trữ để phát triển và có điều kiện liên kết thành cụm các KCN, có
khả năng thu hút vốn đầu tư của các nhà đầu tư trong nước và nhà đầu tư
nước ngoài.
Phát triển KCN là việc tổ chức không gian kinh tế gắn kết chặt chẽ với
kết cấu hạ tầng xã hội và kỹ thuật để tạo được những tiền đề hấp dẫn cho các
nhà đầu tư. Như vậy, quản lý KCN cần được gắn với quản lý chặt chẽ quy
hoạch đầu tư phát triển và quy hoạch phát triển kết cấu hạ tầng.
Về nguyên tắc, phát triển các CCN, KCN vừa và nhỏ phải gắn với
chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở nông thôn để áp dụng các cơ chế chính sách ưu
đãi phù hợp theo quy định của pháp luật. Định hướng phát triển cho các đô thị
lớn là xây dựng các KCN với quy mô lớn, hạ tầng hoàn chỉnh để thu hút được
các dự án đầu tư lớn có trình độ công nghệ hiện đại. Mục tiêu phát triển các
khu, CCN ở Vĩnh Phúc trong thời gian tới là tiếp tục nâng cao tỷ lệ lấp đầy
các khu, CCN tập trung đã được thành lập và đang tiến hành đầu tư xây dựng
hạ tầng; phấn đấu đến năm 2020 về cơ bản lấp đầy các khu, CCN đã được
thành lập; xem xét thành lập mới và mở rộng một cách có chọn lọc các KCN
tập trung tạo đà phát triển theo hướng gia tăng hàm lượng kỹ thuật - công
nghệ trong sản phẩm để nâng cao sức cạnh tranh khu vực và quốc tế, chuyển
dần từ phát triển theo chiều rộng sang phát triển theo chiều sâu, lựa chọn
những ngành công nghệ cao, công nghệ cơ khí, công nghệ phụ trợ trong giai
đoạn 2015 - 2020 và các giai đoạn tiếp theo.
Cần có sự gắn kết chặt chẽ giữa kết cấu hạ tầng trong và ngoài KCN để
đảm bảo cho các hoạt động kinh tế phát triển lâu dài. Kết cấu hạ tầng ngoài
hàng rào bao gồm hạ tầng kỹ thuật và hạ tầng xã hội cần phải được phát triển
đồng bộ với kết cấu hạ tầng trong khu. Phát triển hạ tầng xã hội đối với khu
vực quy hoạch KCN bao gồm những vấn đề như xây dựng khu dân cư, nhà ở
phục vụ người lao động, bệnh viện, trường học, cơ sở đào tạo nghề... hiện
đang trở thành vấn đề bức xúc không chỉ đối với Vĩnh Phúc, mà nhiều địa
phương tỉnh thành phố khác cũng đang phải đối mặt.
137
Thứ tư, tiếp tục hoàn thiện quy hoạch sử dụng đất theo hướng tiết kiệm,
hiệu quả. Chuyển sang giai đoạn 2015 - 2020, trước yêu cầu về công cuộc đẩy
mạnh CNH, HĐH đất nước nói chung và của Vĩnh Phúc nói riêng, việc khai
thác, sử dụng có hiệu quả tài nguyên đất đai ngày càng có vai trò quan trọng.
Để thực hiện có hiệu quả việc huy động nguồn lực đất đai cho yêu cầu phát
triển bền vững của tỉnh, công tác quy hoạch và kế hoạch sử dụng đất giai đoạn
2015 - 2020 và đến 2030 phải được tăng cường chỉ đạo chặt chẽ trên phạm vi
toàn tỉnh và từng cấp địa phương. Kế hoạch sử dụng đất 5 năm 2015 - 2020
và đến 2030 phải quán triệt quan điểm tiết kiệm và hiệu quả; có chính sách
hạn chế việc sử dụng diện tích đất trồng lúa nước đã hoàn chỉnh hệ thống thuỷ
lợi cho việc xây dựng KCN, khu đô thị; dành quỹ đất phù hợp cho nhu cầu
xây dựng cơ sở hạ tầng xã hội như trường học, bệnh viện, công trình văn hoá,
thể thao; khuyến khích và hỗ trợ việc đưa diện tích đất trống, đất ngập nước,
đất hoang hoá vào sử dụng cho các mục đích phát triển kinh tế - xã hội của
từng cấp địa phương trong tỉnh và của cả tỉnh; tăng cường công tác tuyên
truyền, phổ biến quy hoạch sử dụng đất, gắn với công tác giáo dục pháp luật
về đất đai; tiếp tục đổi mới chính sách đền bù, giải phóng mặt bằng, tái định
cư để bảo đảm tiến độ thu hồi đất phục vụ quốc phòng, an ninh và phát triển
kinh tế; có chính sách bảo vệ lợi ích chính đáng, ổn định đời sống, việc làm
của người bị thu hồi đất.
Riêng về quy hoạch phát triển các khu, CCN trong thời gian trước mắt,
để tạo ra nhiều cơ hội đón các nhà đầu tư FDI mới, cần tập trung đôn đốc các
chủ đầu tư hoàn chỉnh quy hoạch chi tiết và trình duyệt dự án đầu tư xây
dựng, cho phép thành lập đối với các KCN đã được Thủ tướng Chính phủ cho
chủ trương đầu tư; khẩn trương xây dựng hệ thống hạ tầng kỹ thuật KCN đáp
ứng được yêu cầu của các nhà đầu tư và bảo vệ môi trường; đôn đốc các đơn
vị liên quan hoàn thiện quy hoạch chi tiết các KCN: Sơn Lôi, Phúc Yên và
Tam Dương; Chọn Chủ đầu tư xây dựng và kinh doanh hạ tầng kỹ thuật các
KCN: Sơn Lôi, Phúc Yên, Hợp Thịnh và Tam Dương.
138
Ngoài các khu công nghiệp tập trung, Vĩnh Phúc đã quy hoạch chi tiết 03
CCN (Lai Sơn, Hương Canh, Hợp Thịnh) với tổng diện tích khoảng 200 ha,
cần sớm kêu gọi các nhà đầu tư để lấp đầy diện tích hiện có.
Để công nhân lao động trong các KCN, CCN yên tâm làm việc, tái tạo
sức lao động , cần có quy hoạch khu đất riêng để xây dựng các khu chung cư,
nhà ở , công trình phúc lợi cho công nhân phục vụ KCN.
4.3.3. Phối hợp giữa địa phương với nhà đầu tư trong việc xây dựng kết
cấu hạ tầng kinh tế - xã hội.
Đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng thiết yếu là một trong những nhân tố
mang tính chất quyết định để cải thiện môi trường đầu tư, môi trường sản xuất
kinh doanh nhằm giải phóng sức sản xuất của mọi thành phần kinh tế, thu hút
mạnh các nguồn lực bên trong và bên ngoài đầu tư cho phát triển.
Đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng là nhiệm vụ vừa mang tính cấp thiết,
vừa mang tính lâu dài; nhu cầu nguồn vốn đầu tư rất lớn, vì vậy cần phải huy
động nguồn lực của mọi thành phần kinh tế và đòi hỏi phải có sự tham gia
tích cực của các cấp uỷ Đảng, chính quyền, đoàn thể, tổ chức chính trị - xã
hội và mọi tầng lớp nhân dân. Đồng thời phải tăng cường quản lý đầu tư xây
dựng, chống thất thoát, nâng cao hiệu quả sử dụng vốn đầu tư xây dựng.
Huy động tối đa các nguồn lực đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng đáp ứng
mục tiêu tăng trưởng từ nay đến năm 2020, để tỉnh có đủ các yếu tố cơ bản
của một tỉnh công nghiệp và trở thành thành phố Vĩnh Phúc vào những năm
20 của thế kỷ XXI.
Trước mắt, tiếp tục tập trung đầu tư xây dựng một số tuyến đường có ý
nghĩa quyết định đối với thu hút FDI phục vụ phát triển kinh tế - xã hội của
tỉnh. Để đáp ứng nhu cầu liên kết kinh tế Vĩnh Phúc với Hà Nội và với các
tỉnh trong vùng, cải thiện bộ mặt văn minh của đô thị đặc biệt là Thành phố
Vĩnh Yên; cần tiếp tục triển khai xây dựng mới cũng như cải tạo các tuyến
đường kết nối với đường xuyên Á Hà Nội -Lào Cai, đoạn qua Vĩnh Phúc
(41km); tuyến tránh QL2A đoạn qua Vĩnh Yên về phía Nam từ Quất Lưu -
Đồng Văn; cầu Vĩnh Thịnh trên tuyến quốc lộ 2C qua Sông Hồng kết nối với
139
Hà Nội; xây dựng mới đường Hợp Thịnh - Đạo tú; xây dựng đường hầm
xuyên núi Tam Đảo trên tuyến quốc lộ 2B nối với Thái Nguyên; cải tạo và
nâng cấp QL2 đạt tiêu chuẩn cấp III đồng bằng đoạn từ km 38+600 - km 51
giáp Phú Thọ, đoạn từ km 13 - km 31 đạt cấp đường đô thị, trong đó, giai
đoạn đến năm 2015 mở rộng 57m; QL2B nối từ QL2 đi khu nghỉ mát Tam
Đảo đoạn từ km0-km13 đạt tiêu chuẩn đường phố chính, có mặt cắt 36,5m;
đoạn từ km13-km25 đạt tiêu chuẩn đường cấp VI; cải tạo, nâng cấp QL2C
đoạn qua địa phận tỉnh Vĩnh Phúc với chiều dài 47,75 km, trong đó: từ
km21+450 đến km23 và km28 đến km31 nền rộng 16,5m, các đoạn còn lại là
đường cấp III đồng bằng; cải tạo và nâng cấp các tuyến đường tỉnh 301, 302,
302B, 302C, 303, 304, 305, 305B, 305C, 306, 307, 307B, 307C, 308, 309,
310, 310B; mở các tuyến nối từ Tỉnh lộ vào KCN.
Đối với hệ thống đường chính các KCN, khu du lịch và đường vành đai
Thành phố Vĩnh Yên cần mở rộng đường Nguyễn Tất Thành (vành đai 1 của
thành phố Vĩnh Yên) gồm 3 đoạn với mặt cắt từ 24-45m; đường vành đai các
KCN huyện Tam Dương (Hợp Thịnh - Đạo Tú) dài 8,2 km mặt cắt nền là
36,5m; đường Hợp Châu - Đồng Tĩnh (QL 2B-QL2C) dài 10,9km mặt cắt nến
36,5m; đường chạy ven chân núi Tam Đảo dài 33,4km mặt cắt nền từ 26-
26,5m; đường Vĩnh Yên - Vân Hội. Xây dựng mới đường Nam Bình Xuyên -
Yên Lạc - Vĩnh Tường dài 14,9km mặt cắt 50m. Nâng cấp. hoàn chỉnh tất cả
các tuyến đường nội thị Vĩnh Yên, Phúc Yên, Tam Đảo, Xuân Hòa đạt tiêu
chuẩn đường đô thị có lớp mặt bê tông áp phan và hệ thống đèn tín hiệu điều
khiển giao thông trong đô thị Vĩnh Yên, Phúc Yên và các nút quan trọng ở
các đô thị khác.
Việc xây dựng mới, cải tạo, mở rộng và nâng cấp các tuyến đường giao
thông trên địa bàn tỉnh đảm bảo sự kết nối liên thông không gian kinh tế các
vùng trong tỉnh, các KCN, CCN tạo sức hấp dẫn trong việc thu hút đầu tư.
Đảm bảo cấp điện đủ, an toàn, liên tục cho các phụ tải công nghiệp, mở
rộng mạng lưới điện và nâng cao chất lượng điện cung cấp cho nhu cầu sinh
hoạt của nhân dân, đến năm 2015 cần nâng công suất 09 trạm 110kV, bao
140
gồm Trạm Phúc Yên 110/35/22kV - 2x63MVA; Trạm Thiện Kế Compal II
110/22kV - 2x63MVA; Trạm Yên Lạc 110/110/35/22kV - 2x40MVA; Trạm
Tam Dương 110/35/22kV - 2x63MVA; Trạm Vĩnh Tường 110/35/22kV -
2x63MVA; Xây dựng mới 08 trạm 110 kV, bao gồm Trạm Vĩnh Yên II
110/22kV - 63MVA; Trạm KCN Yên Bình 110/22kV - 63 MVA; Trạm
Compal III 110/22kV - 50MVA; Trạm Sơn Lôi 110/22kV - 63 MVA; Trạm
Tam Đảo 110/22kV - 40 MVA; Trạm KCN Vĩnh Tường 110/22kV - 63
MVA; nâng cấp các trạm 220kV: Trạm Vĩnh Yên (125+250)MVA lên
2x250MVA; Trạm Bá Thiện 250MVA lên 2x250MVA; xây dựng mới trạm
Vĩnh Tường 250MVA. Trong giai đoạn đến năm 2020 cần tiếp tục đầu tư,
chuẩn bị công suất và mạng truyền tải tới các khu vực phát triển mới, các khu
đô thị mới và khu vực nông thôn hiện đại vào giai đoạn tiếp theo.
Tập trung đầu tư hệ thống xử lý nước thải và chất thải rắn, rác thải; đảm
bảo nước thải sinh hoạt và công nghiệp được xử lý 100% trước khi thải ra môi
trường tự nhiên, 100% chất thải rắn, rác thải sinh hoạt và công nghiệp được
xử lý đảm bảo không ô nhiễm môi trường.
Để đáp ứng nhu cầu nước sạch cho sản xuất, dịch vụ và sinh hoạt của
nhân dân, trong giai đoạn tới cần tiếp tục xây dựng, mở rộng các nhà máy cấp
nước hiện hữu; đồng thời xây dựng mới một số công trình cấp nước để đến
2020 lên 1.000.000m3/ngày-đêm.
Huy động các nguồn lực thuộc các thành phần kinh tế đầu tư hạ tầng viễn
thông - công nghệ thông tin phục vụ phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội, an
ninh, quốc phòng. Đa dạng hoá, hiện đại hoá các hoạt động thông tin, viễn
thông. Tiếp tục đầu tư phát triển công nghệ thông tin, từng bước sử dụng rộng
rãi máy vi tính, tin học trong các hoạt động của các cơ quan, đơn vị. Nâng
cấp, mở rộng và hiện đại hoá các Bưu điện trung tâm, các tổng đài, hệ thống
truyền dẫn…đáp ứng nhu cầu của người tiêu dùng.
Các cấp, các ngành, các chủ đầu tư chủ động lập đầy đủ các thủ tục về
đầu tư xây dựng, huy động các nguồn vốn từ bên trong và ngoài tỉnh để đầu tư
141
xây dựng kết cấu hạ tầng. Tranh thủ nguồn vốn ODA tập trung đầu tư xây
dựng các công trình cấp thoát nước, xử lý chất thải và làm hạ tầng giao thông.
Khuyến khích các nhà đầu tư theo hình thức Hợp đồng xây dựng-kinh
doanh-chuyển giao(BOT) và hợp đồng xây dựng-chuyển giao (BT) đầu tư
làm hạ tầng giao thông. Có chính sách huy động các nguồn vốn cả trong và
ngoài tỉnh, vốn từ DN, vốn tín dụng, vốn trong dân…. đầu tư vào hạ tầng sản
xuất, kinh doanh. Ngân sách nhà nước tập trung đầu tư vào những công trình
trọng điểm, bức xúc, mang lại hiệu qủa kinh tế - xã hội cao, trước mắt ưu tiên
cho một số tuyến đường trọng điểm.
Để tạo thêm vốn cho phát triển kết cấu hạ tầng cần tiếp tục xây dựng
chính sách thu từ đất và đấu giá đất để tạo vốn. Các cấp uỷ, chính quyền, các
đoàn thể phải tập trung lãnh đạo, chỉ đạo công tác BTGPMB để triển khai các
dự án đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng kỹ thuật thiết yếu. Tăng cường trách
nhiệm của cán bộ lãnh đạo các cấp, các ngành, đồng thời gắn với việc giao
nhiệm vụ cụ thể cho từng người trong việc thực hiện chương trình đầu tư xây
dựng kết cấu hạ tầng kỹ thuật thiết yếu. Trước mắt, xác định một số dự án
quan trọng để tập trung lãnh đạo, chỉ đạo và đầu tư nhằm tạo ra sự đột phá
trong chương trình đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng, đồng thời phân kỳ đầu tư
cho các công trình theo thời gian và khả năng về vốn, tránh đầu tư kéo dài,
gây nợ đọng trong xây dựng cơ bản.
Thực hiện tốt việc kiểm tra, giám sát, quản lý chặt chẽ thủ tục xây dựng
cơ bản, chất lượng dự án, thiết kế và chất lượng thi công. Chỉ đạo thực hiện
đúng Luật Đấu thầu, Luật Xây dựng, không để xảy ra tình trạng lãng phí, tiêu
cực, tham nhũng khi triển khai đầu tư xây dựng các công trình kết cấu hạ tầng
thiết yếu.
4.3.4. Nâng cao hiệu quả hoạt động xúc tiến đầu tư, lựa chọn dự án đầu
tư với mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội.
Tiếp tục tăng cường và đổi mới công tác vận động xúc tiến đầu tư, chú
trọng các đối tác chiến lược. Cùng với việc tổ chức các cuộc hội thảo giới
thiệu về môi trường đầu tư chung tại các địa bàn và đối tác đã được nghiên
142
cứu, xác định qua kinh nghiệm vấn đề đầu tư tại Nhật Bản vừa qua, cần tăng
cường vận động trực tiếp các tập đoàn lớn đầu tư vào các dự án cụ thể. Bên
cạnh đó, tổ chức các cuộc hội thảo chuyên ngành, hoặc lĩnh vực tại các địa
bàn có thế mạnh với sự tham gia của các cơ quan chuyên ngành.
Kết hợp với các chuyến đi thăm, làm việc nước ngoài của các nhà lãnh
đạo Đảng, Chính phủ để tổ chức các cuộc hội thảo giới thiệu môi trường đầu
tư, mời các nhà lãnh đạo Đảng, Nhà nước phát biểu tại các cuộc hội thảo
nhằm xây dựng hình ảnh tốt về sự quan tâm của Chính phủ đối với đầu tư
nước ngoài, qua đó tìm hiểu thị trường và tìm kiếm đối tác đầu tư, thương
mại, vận động đầu tư vào các lĩnh vực ưu tiên của tỉnh.
Nâng cấp trang thông tin website về FDI. Biên soạn lại các tài liệu giới
thiệu về FDI (guidebook, in tờ gấp giới thiệu về cơ quan quản lý đầu tư, cập
nhật các thông tin về chính sách, pháp luật liên quan đến đầu tư nước ngoài).
Đẩy mạnh chương trình quảng bá hình ảnh địa phương và các chính sách
khuyến khích, ưu đãi đầu tư của tỉnh, giới thiệu môi trường đầu tư, các dự án
kêu gọi đầu tư của tỉnh, giới thiệu môi trường đầu tư, các dự án kêu gọi bằng
hình thức giới thiệu qua các Brochure, Internet, đĩa VCD, trên các Báo và tạp
chí trong nước để phục vụ cho việc thu hút vốn đầu tư nước ngoài.
Đổi mới nội dung và phương thức vận động, xúc tiến đầu tư, in các ấn
phẩm quảng bá về môi trường đầu tư của tỉnh bằng các thứ tiếng: Anh, Nhật,
Hàn Quốc, Việt Nam. Tranh thủ sự đồng tình, ủng hộ của các DN nước ngoài
để vận động các nhà đầu tư mới vào tỉnh. Vận động kêu gọi thu hút các dự án
đầu tư xây dựng và kinh doanh hạ tầng kỹ thuật KCN (đặc biệt là đầu tư nước
ngoài). Thẩm định, chọn lọc những dự án có vốn đầu tư lớn, công nghệ tiên
tiến, tính khả thi cao.
Kết hợp hoạt động xúc tiến Thương mại- Du lịch với xúc tiến đầu tư với
các tỉnh khác thông qua tổ chức các hội nghị, hội thảo xúc tiến đầu tư thương
mại với quy mô lớn, tham gia vào các hội chợ triển lãm trong, ngoài nước để
tiếp cận các nhà đầu tư, tìm kiếm các cơ hội giao thương, đầu tư; kêu gọi đầu tư
143
chủ yếu vào các lĩnh vực công nghiệp ưu tiên, đầu tư cơ sở hạ tầng, khu thương
mại, vận động mở rộng đầu tư đối với nhà đầu tư đã và đang hoạt động.
Xây dựng chiến lược thu hút đầu tư theo từng nhóm dự án để có kế
hoạch kêu gọi đầu tư theo địa chỉ (theo địa bàn, theo lĩnh vực ưu tiên...). Đẩy
mạnh công tác tư vấn đầu tư, thông qua hoạt động kết hợp giữa Sở Kế hoạch
và Đầu tư với các sở, ban, ngành chức năng tổ chức hội nghị triển khai Luật
Doanh nghiệp và Luật Đầu tư chung cho các nhà đầu tư, DN đang hoạt động
trên địa bàn tỉnh, đồng thời xem xét các khó khăn vướng mắc của nhà đầu tư
để có các biện pháp hỗ trợ, tháo gỡ. Tổ chức Hội thảo cấp tỉnh về tăng cường
thu hút đầu tư với các vấn đề về cải thiện môi trường đầu tư, đơn giản hoá thủ
tục đầu tư, rút ngắn quy trình cấp phép đầu tư.
Đào tạo kiến thức về xúc tiến đầu tư nhằm nâng cao năng lực chuyên
môn cho đội ngũ cán bộ công chức Trung tâm. Phối hợp tiếp tục tổ chức các
khoá tập huấn cho các cán bộ ban ngành của tỉnh về các kỹ năng marketing
địa phương, xúc tiến đầu tư, tư vấn...
Thành lập quỹ xúc tiến đầu tư hoặc bố trí kinh phí thoả đáng, có hiệu quả
cho công tác xúc tiến đầu tư.
4.3.5. Phát triển nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu thu hút và sử dụng
hiệu quả đầu tư trực tiếp nước để phát triển kinh tế - xã hội bền vững
Để phát huy tác dụng tích cực, giảm thiểu tác động tiêu cực của FDI tới
phát triển kinh tế-xã hội trên địa bàn tỉnh trong những thời gian tới, tỉnh Vĩnh
Phúc cần chú trọng thu thu hút các dự án FDI công nghệ hiện đại, công nghệ
cao, do đó cần có NNL phù hợp. Phân tích tực trạng nhân lực cho phát triển
kinh tế - xã hội nói chung và cho thu hút, sử dụng FDI nói riêng trên địa bàn
tỉnh cho thấy, tỷ lệ lao động qua đào tạo đạt mức khá cao, năm 2013 ước thực
hiện 59%, tăng 2% so với năm 2012, trong đó, tỷ lệ lao động qua đào tạo
nghề là 43,6% [76]. Tuy nhiên, cho đến nay chất lượng của nhân lực đã qua
đào tạo chưa cao, do việc dạy nghề trên địa bàn tỉnh chủ yếu thực hiện theo
hình thức ngắn hạn. Việc đào tạo công nhân kỹ thuật lành nghề chủ yếu do
các trường dạy nghề của Trung ương đóng trên địa bàn tỉnh thực hiện, song
144
việc liên thông đào tạo giữa các cơ sở dạy nghề với nhau và với cơ sở tuyển
dụng lao động, trong đó có các DN FDI trên địa bàn còn hạn chế, từ đó việc
nâng cao tay nghề cho người lao động còn gặp nhiều khó khăn, cơ cấu nghề
đào tạo chưa khớp với nhu cầu sử dụng, hoạt động dạy nghề chưa thực sự đáp
ứng nhu cầu về lao động kỹ thuật thực hành có trình độ bậc cao của các DN
FDI. Các cơ sở dạy nghề tại các DN còn ít. Bên cạnh đó, cơ sở vật chất kỹ
thuật cho đào tạo lao động còn thiếu thốn, máy móc thiết bị dạy nghề thiếu và
lạc hậu so với DN FDI; đội ngũ giáo viên dạy nghề còn thiếu về số lượng, yếu
về chất lượng, tỷ lệ giáo viên/học sinh là 1/27 (thấp hơn nhiều so với tỷ lệ
chuẩn là 1/15), tỷ lệ học sinh đạt loại trung bình còn khá cao, trong những năm
gần đây tỷ lệ học sinh xếp hạnh kiểm yếu kém có xu hướng gia tăng.
Để có nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu phát huy tác động tích cực, hạn
chế tác động tiêu cực của FDI trên địa bàn tỉnh thời gian tới rất cần đẩy mạnh
công tác đào tạo NNL cả về quy mô, chất lượng và cơ cấu.
Về quy mô đào tạo cần tiếp tục cố gắng nâng cao tỷ lệ lao động qua đào
tạo đến năm 2020 đạt mức 75% tổng số lao động làm việc, trong tổng số lao
động qua đào tạo, tỷ lệ công nhân kỹ thuật các loại phải đạt mức 60% đến
năm 2020. Cần tiếp tục đẩy mạnh đào tạo nhân lực trình độ cao đẳng, đại học
và phát triển đào tạo đội ngũ nhân lực chất lượng cao, đặc biệt là đội ngũ kỹ
sư giỏi trong các ngành sản xuất công nghiệp đang có xu thế thu hút FDI công
nghệ cao như cơ khí chế tạo, điện tử, công nghệ thông tin, vật liệu mới, công
nghệ sinh học, may mặc, giầy da, chế biến nông sản, thực phẩm....Phấn đấu
đào tạo công nhân kỹ thuật trình độ cao đạt mức khoảng 35-40%.
Về mạng lưới cơ sở đào tạo trên địa bàn tỉnh đến năm 2020 cần chú trọng
đào tạo cả bậc đại học, cao đẳng và trung cấp chuyên nghiệp, dạy nghề. Đối
với các cơ sở đào tạo đại học, cao đẳng và trung cấp chuyên nghiệp trên địa
bàn cần tiếp tục nâng cấp, hiện đại hoá cơ sở vật chất, trang thiết bị để nâng
cao chất lượng đào tạo; củng cố, kiện toàn về tổ chức, nâng cao trình độ đội
ngũ giáo viên, đổi mới nội dung, phương pháp dạy, học phù hợp với yêu cầu
của DN nói chung và DN FDI nói riêng.
145
Về dạy nghề, cần tập trung đào tạo công nhân kỹ thuật đáp ứng nhu cầu
phát triển nhanh theo hướng hiện đại của các DN FDI trên các địa bàn KCN
Phúc Yên, Bá Thiện, Bá Thiện II, Bình Xuyên, Bình Xuyên II, Khai Quang,
Kim Hoa, Chấn Hưng, Tam Dương; ưu tiên xây dựng các cơ sở dạy nghề trực
thuộc DN trong các KCN để đào tạo công nhân kỹ thuật các cấp trình độ.
Những cơ sở dạy nghề này có nhiệm vụ đào tạo và cung cấp kỹ thuật viên và
công nhân lành nghề trình độ cao cho các DN FDI và các DN khác trong khu
KCN trong tỉnh và các tỉnh trong vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ, vùng
Trung du-Miền núi Bắc Bộ.
Cần nâng cấp, đồng bộ hoá và hiện đại hoá các trường cao đẳng kỹ thuật
và công nghệ hiện có, gồm cả các trường thuộc cơ quan Trung ương và thuộc
tỉnh quản lý, đảm bảo đào tạo lao động kỹ thuật trình độ cao và đào tạo nghề
trình độ cao đẳng nghề. Tập trung nâng cấp các trường trọng điểm của tỉnh,
gồm: Trường Cao đẳng Kinh tế-Kỹ thuật, Trường Cao đẳng Vĩnh Phúc (theo
hướng đa nghề đa ngành) và Trường Cao đẳng nghề Việt Đức để đào tạo công
nhân kỹ thuật chất lượng cao đáp ứng nhu cầu nhân lực trình độ cao cho phát
triển kinh tế-xã hội tỉnh Vĩnh Phúc và các tỉnh lân cận. Xây dựng Trung tâm
đào tạo quốc tế Mê Kông (là cơ sở đào tạo đa ngành kỹ thuật cao đẳng cấp
quốc tế được xây dựng với sự hỗ trợ tài chính, kỹ thuật của Nhật Bản để đào
tạo và cung cấp lao động kỹ thuật trình độ cao cho tỉnh Vĩnh Phúc, các tỉnh
vùng Bắc Bộ và các nước tiểu vùng Sông Mê Kông).
Về cơ cấu theo ngành, cần ưu tiên đào tạo cho các ngành then chốt như:
cơ khí, điện tử, công nghệ thông tin, sản xuất vật liệu mới; khuyến khích các
DN công nghiệp tổ chức đào tạo nhân lực bằng hình thức nhà nước hỗ trợ chi
phí đào tạo theo địa chỉ; tiếp tục hoàn thiện luật pháp, chính sách về lao động,
tiền lương phù hợp trong tình hình mới; tăng cường công tác kiểm tra, giám
sát việc chấp hành pháp luật về lao động đối với người sử dụng lao động
nhằm đảm bảo điều kiện làm việc và đời sống cho người lao động; tập trung
giải quyết các khó khăn về NNL phục vụ các dự án FDI có quy mô lớn, đặc
biệt là tình trạng thiếu hụt NNL đã qua đào tạo.
146
Để phát triển NNL tạo thuận lợi cho phát huy tác động tích cực, giảm
thiểu tác động tiêu cực của FDI đến phát triển kinh tế - xã hội của Tỉnh, bên
cạnh việc tiếp tục tăng nguồn vốn ngân sách cần đẩy mạnh xã hội hoá để tăng
cường huy động các nguồn vốn cho đầu tư xây dựng và hiện đại hóa cơ sở vật
chất - kỹ thuật của các cơ sở đào tạo phục vụ phát triển nhân lực, thực hiện cơ
chế, chính sách trích từ nguồn vốn huy động từ đấu giá quyền sử dụng đất cho
xây dựng cơ sở đào tạo, có cơ chế để ràng buộc trách nhiệm các DN, cơ sở sử
dụng lao động trong việc đóng góp kinh phí cho đào tạo lao động mà DN
đang sử dụng, khuyến khích các DN trong nước và DN có vốn đầu tư nước
ngoài hoạt động trên địa bàn tỉnh đóng góp kinh phí hoặc trực tiếp xây dựng
cơ sở đào tạo, mở rộng tổ chức các quỹ khuyến học, bảo trợ giáo dục, khuyến
khích các cá nhân và tổ chức đóng góp vào sự phát triển đào tạo trên địa bàn
tỉnh bằng mọi hình thức.
4.3.6. Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước trong
việc tăng cường thu hút và nâng cao hiệu quả đầu tư trực tiếp nước trong
phát triển kinh tế -xã hội
Hiệu quả sử dụng FDI thể hiện thông qua tác động tích cực và tiêu cực
của FDI tới phát triển kinh tế - xã hội ở tỉnh Vĩnh Phúc phụ thuộc rất lớn vào
công tác quản lý nhà nước của Tỉnh về FDI. Để tăng cường hiệu lực, hiệu quả
quản lý nhà nước về FDI trên địa bàn tỉnh, cần giảm dần sự tham gia trực tiếp
của cơ quan quản lý Trung ương vào xử lý các vấn đề cụ thể, trong đó nhiệm
vụ giám định đầu tư và hậu kiểm được tăng cường; đào tạo và bồi dưỡng cán
bộ quản lý từ Trung ương đến địa phương thông qua tổ chức tập huấn, đào tạo
ngắn hạn; phải tiếp tục đẩy mạnh việc triển khai phân cấp quản lý nhà nước
giữa cấp tỉnh và các cấp chính quyền địa phương; chú trọng vào công tác
hướng dẫn, kiểm tra, giám sát việc thực hiện chính sách pháp luật của các địa
phương tránh tình trạng ban hành chính sách ưu đãi vượt khung.
Để phát huy tác động tích cực của FDI về chuyển giao công nghệ, Tỉnh
cần thực hiện hướng dẫn các nhà đầu tư lập dự án đảm bảo đầy đủ các nội
dung, thuận lợi cho việc thẩm tra trình độ công nghệ. Trong quá trình thẩm tra
147
công nghệ các dự án FDI trước đầu tư, Sở Kế hoạch và Đầu tư, Ban Quản lý
các KCN của tỉnh cần xem xét, không những cần nghiên cứu những nội dung
cơ bản của dự án FDI như căn cứ pháp lý, mục tiêu, nội dung, quy mô, tổng
mức đầu tư, nguồn vốn, hiệu quả kinh tế, hiệu quả xã hội, phân tích tài chính,
v.v... mà còn phải thẩm tra về xuất xứ công nghệ, quy trình công nghệ, danh
mục thiết bị thông qua các thông tin về tính năng, tác dụng, thông số kỹ thuật,
hãng, nước sản xuất, năm sản xuất... như quy định tại Thông tư số
10/2009/TT-BKHCN ngày 24/4/2009 của Bộ Khoa học và Công nghệ hướng
dẫn thẩm tra công nghệ các dự án đầu tư.
Song song với đó, cần tăng cường công tác kiểm tra, giám sát việc triển
khai dự án của nhà đầu tư. Dự án sau khi được cơ quan có thẩm quyền đồng ý
đăng ký đầu tư hoặc cấp giấy CNĐT nhà đầu tư mới có điều kiện để triển
khai, thực hiện dự án. Tuy nhiên, việc đảm bảo thời gian thực hiện dự án theo
tiến độ như đã nêu trong dự án phụ thuộc vào nhiều yếu tố chủ quan và khách
quan. Song cho dù vì lý do nào đi chăng nữa việc kiểm tra, giám sát thực hiện
dự án là rất cần thiết. Sở Khoa học và Công nghệ phải phối hợp với Sở Kế
hoạch và Đầu tư, Ban Quản lý các KCN tỉnh, Sở Công thương, Sở Tài nguyên
và Môi trường...tiến hành kiểm tra, giám sát những nội dung về công nghệ,
môi trường, các cam kết của chủ đầu tư được thực hiện như thế nào, trên cơ
sở đó đề xuất giải pháp thực thi có hiệu quả.
Bên cạnh đó, cần thực hiện tốt cơ chế tài chính khuyến khích các DN
FDI đầu tư vào hoạt động khoa học và công nghệ; hỗ trợ các DN đổi mới
công nghệ, áp dụng hệ thống quản lý tiên tiến, sản xuất các sản phẩm thuộc
các ngành công nghiệp ưu tiên, công nghiệp mũi nhọn; tăng cường kiểm tra,
giám sát chất lượng sản phẩm tại nơi sản xuất và lưu thông trên thị trường.
Thành lập các tổ chức tư vấn dịch vụ công, dịch vụ giám định công nghệ gắn
với cải cách hành chính. Tăng cường đầu tư để nâng cao năng lực tư vấn, ứng
dụng và chuyển giao tiến bộ khoa học và công nghệ, dần chuyển đổi các tổ
chức khoa học và công nghệ công lập sang cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm
theo Nghị định số 115/2005/NĐ-CP ngày 05/9/2005 của Chính phủ. Thực
148
hiện cơ chế liên kết giữa các cơ quan quản lý nhà nước, tổ chức khoa học và
công nghệ với DN từ xác định nhiệm vụ, triển khai thực hiện, đánh giá và đưa
kết quả nghiên cứu ứng dụng công nghệ vào thực tiễn. Đầu tư, xây dựng cơ sở
dữ liệu đáp ứng nhu cầu thông tin của DN thời kỳ hội nhập về công nghệ, sở
hữu trí tuệ, tiêu chuẩn, chất lượng, luật pháp quốc tế và thị trường mua, bán
công nghệ, máy móc, thiết bị. Khuyến khích các DN hoạt động tư vấn, dịch
vụ ứng dụng và chuyển giao công nghệ mới, tham gia các chương trình liên
kết ngành, liên kết vùng, phát triển công nghiệp phụ trợ và gắn sản xuất kinh
doanh với nghiên cứu, chuyển giao
Ngoài ra cần tiếp tục duy trì, nâng cao chất lượng các cuộc đối thoại với
cộng đồng các nhà đầu tư, kịp thời giải quyết các khó khăn vướng mắc trong
hoạt động kinh doanh của nhà đầu tư.
Thực hiện có hiệu quả cơ chế một cửa liên thông và đặc biệt giải quyết
kịp thời các vấn đề vướng mắc phát sinh giúp các DN triển khai dự án thuận
lợi; khuyến khích họ đầu tư chiều sâu, mở rộng sản xuất để đạt hiệu quả kinh
tế - xã hội cao hơn.
Tiếp tục đẩy mạnh việc ứng dụng công nghệ tin học vào công tác quản lý
nhằm nâng cao hiệu quả điều hành hoạt động của FDI ở cả Trung ương lẫn
địa phương.
Sở Kế hoạch và Đầu tư là cơ quan đầu mối giúp UBND tỉnh phải thường
xuyên rà soát, phân loại các dự án đầu tư đã được cấp phép theo tiến độ triển
khai để có những biện pháp thích hợp, kịp thời tháo gỡ khó khăn cho các chủ
đầu tư. Đối với các dự án đã đi vào khai thác cần thực hiện tốt chế độ khen
thưởng để động viên kịp thời các chủ đầu tư thực hiện tốt, đồng thời có biện
pháp thích hợp để tháo gỡ khó khăn cho các dự án.
Đối với các dự án đang triển khai thực hiện, các sở, ngành liên quan của
tỉnh và đặc biệt là chính quyền địa phương cần tích cực hỗ trợ chủ đầu tư tháo
gỡ khó khăn, nhất là trong khâu đền bù giải phóng mặt bằng để nhanh chóng
hoàn thành xây dựng cơ bản và đi vào khai thác.
149
Đối với các dự án chưa triển khai và không có triển vọng thực hiện, UBND
tỉnh cần thu hồi giấy phép đầu tư, dành địa điểm cho các nhà đầu tư khác.
Hàng năm tổ chức cuộc gặp mặt các chủ dự án đầu tư để đánh giá hiệu
quả hoạt động của các dự án đầu tư, tiếp thu kiến nghị của chủ đầu tư về các
vấn đề phát sinh cần giải quyết, đặc biệt về hoạt động của các cấp chính
quyền làm cơ sở cho cải cách hành chính trong thu hút và quản lý vốn đầu tư.
Tích cực rèn luyện phẩm chất, bản lĩnh, nâng cao trình độ chuyên môn
của đội ngũ cán bộ chính quyền các cấp; triển khai đồng bộ chủ trương và có
giải pháp thực hiện hữu hiệu về chống tham nhũng, sách nhiễu, phiền hà,
nâng cao tính minh bạch, công khai và hiệu quả trong công việc của các cấp
chính quyền.
Về công tác quản lý, giám sát, thanh tra, kiểm tra đối với FDI, các cơ
quan cần phối hợp thực hiện rà soát các văn bản quy phạm pháp luật để sửa
bất cập trong các pháp luật về đầu tư, DN, xây dựng, bất động sản, môi
trường, đất đai, thuế, thương mại...theo hướng rõ ràng, đầy đủ, dễ hiểu, đảm
bảo tính khả thi của cả hệ thống, từ Trung ương đến địa phương. Công tác
quản lý nhà nước cần phối hợp giữa các cơ quan Trung ương, giữa Trung
ương và địa phương cần được tăng cường, gắn liền với chức năng, nhiệm vụ
và trách nhiệm của từng cơ quan. Xây dựng cơ chế báo cáo để tổng hợp thông
tin kịp thời, đánh giá tình hình nhằm đề xuất các giải pháp điều hành của
Chính phủ có hiệu quả. Ban hành Quy chế phối hợp trong quản lý hoạt động
FDI giữa các bộ, ngành Trung ương và địa phương. Tăng cường hiệu lực và
hiệu quả của công tác cưỡng chế thi hành luật, trong đó đặc biệt quan trọng là
chế độ báo cáo, kiểm tra giám sát và kỷ luật vi phạm.
150
KẾT LUẬN
Đầu tư trực tiếp nước ngoài với tư cách là hình thái xuất khẩu tư bản đã
xuất hiện và trở thành phổ biến kể từ khi chủ nghĩa tư bản chuyển từ giai đoạn
tự do cạnh tranh sang giai đoạn độc quyền. Kể từ sau chiến tranh thế giới thứ
hai, dưới tác động của những thay đổi lớn trong tình hình kinh tế, chính trị thế
giới, FDI đã có xu hướng mới, từ đó đã đặt ra vấn đề đối với các nước đang
phát triển, trong đó có Việt Nam và tỉnh Vĩnh Phúc là làm thế nào để không
những thu hút được FDI, mà còn phải phát huy được những tác động tích cực,
giảm thiểu tác động tiêu cực của FDI đến phát triển kinh tế - xã hội.
Nghiên cứu về bản chất của FDI cho thấy, việc phát huy tác động tích
cực, giảm thiểu tác động tiêu cực của FDI tới phát triển kinh tế - xã hội trên
địa bàn tỉnh là vấn đề vô cùng phức tạp. Để đạt được mục tiêu trên cần nghiên
cứu làm rõ những tác động tích cực cùng với tác động tiêu cực của FDI, tìm
ra và chỉ rõ được các nhân tố ảnh hưởng tới tác động của FDI đến phát triển
kinh tế - xã hội địa phương cấp tỉnh. Đồng thời, việc tham khảo kinh nghiệm
thực tiễn trong thu hút, sử dụng FDI của nước ngoài và các địa phương trong
nước có hoàn cảnh tương đồng sẽ giúp ích cho việc tìm kiếm các giải pháp
phát huy được những tác động tích cực, giảm thiểu tác động tiêu cực của FDI
đến phát triển kinh tế - xã hội tỉnh Vĩnh Phúc.
Kể từ sau khi tái lập tỉnh, Vĩnh Phúc đã có nhiều cố gắng thu hút FDI và
đã đạt được nhiều thành tựu lớn trong thu hút và sử dụng FDI. Sự hiện diện
của FDI trên địa bàn tỉnh đã thể hiện nhiều tác động tích cực tới phát triển
kinh tế - xã hội, đặc biệt là đối với phát triển công nghiệp, tăng trưởng và
chuyển dịch cơ cấu kinh tế, tăng trưởng xuất khẩu, đóng góp cho ngân sách,
tạo việc làm, thu nhập cho người lao động, nâng cao đời sống nhân dân, bảo
vệ môi trường… Tuy nhiên, phân tích thực tiễn cũng cho thấy, việc thu hút và
sử dụng FDI ở tỉnh Vĩnh Phúc chưa hoàn toàn đạt được mục tiêu hạn chế
những tác động tiêu cực của FDI đối với phát triển kinh tế - xã hội.
151
Để tiếp tục phát huy tác động tích cực, hạn chế tác động tiêu cực của FDI
đối với phát triển kinh tế - xã hội trên địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc trong những
năm tới, cần thực hiện những định hướng và giải pháp đồng bộ, từ định kỳ
đánh giá các dự án FDI, đến hoàn thiện công tác quy hoạch, đầu tư phát triển
kết cấu hạ tầng, chuẩn bị nhân lực, tăng cường xúc tiến đầu tư và quản lý nhà
nước về FDI. Trong khuôn khổ luận án, mặc dù đã có nhiều cố gắng, song do
những khó khăn nhất định về thời gian và thu thập số liệu, một số vấn đề về
tác động của FDI đến phát triển kinh tế - xã hội trên địa bàn tỉnh chưa thật sự
được phân tích sâu sắc. Nghiên cứu sinh kính mong được nhận những góp ý
quý báu của các nhà khoa học, đặc biệt là các nhà khoa học trọng Hội đồng để
có thể tiếp tục hoàn thiện bản luận án có chất lượng cao hơn.
152
CÁC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC ĐÃ CÔNG BỐ
1. Hà Quang Tiến, “Chuyển dịch cơ cấu lao động nông thôn tỉnh Vĩnh
Phúc - Thực trạng và giải pháp”, đề tài NCKH cấp tỉnh năm 2005.
2. Hà Quang Tiến, “Vấn đề giá đất đối với công tác bồi thường giải
phóng mặt bằng để thực hiện các dự án đầu tư”, Tạp chí Ngoại thương, Bộ
Công Thương (3+4), tr 61-62.
3. Hà Quang Tiến, “Một số vấn đề về chính sách đất đai trong thu hút
đầu tư trực tiếp nước ngoài”, Tạp chí Nghiên cứu phát triển bền vững, Viện hàn
lâm KHXH Việt Nam (1), tr 35 - 40.
4. Hà Quang Tiến, “Tác động của đầu tư trực tiếp nước ngoài đối với
môi trường tỉnh Vĩnh Phúc”, Tạp chí Kinh tế và quản lý, Viện Kinh tế, Học
viện Chính trị - Hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh (06), tr 69-72.
5. Hà Quang Tiến, “FDI ở Vĩnh Phúc và những vấn đề đặt ra”, Tạp chí
Kinh tế và quản lý, Viện Kinh tế, Học viện Chính trị - Hành chính Quốc gia Hồ
Chí Minh (09), tr 67 - 72.
153
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tài liệu Tiếng việt
1. Lê Xuân Bá (2006), Tác động của đầu tư trực tiếp nước ngoài tới tăngtrưởng kinh tế ở Việt Nam, Nxb KHKT, Hà Nội.
2. PGS, TS Đỗ Đức Bình (2005), Đầu tư của các công ty xuyên quốc gia
(TNCs) tại Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
3. Ngô Thu Hà (2009), Chính sách thu hút vốn đầu tư nước ngoài vàoTrung Quốc và khả năng vận dụng tại Việt Nam, LATS Kinh tế, Đạihọc Kinh tế quốc dân.
4. Phạm Thị An Hoà (2000), Đầu tư trực tiếp nước ngoài của tỉnh Hải
Dương, Luận văn Thạc sỹ Kinh tế, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí
Minh, Hà Nội.
5. Hồng Khánh (2006), Lương quản lý ở doanh nghiệp FDI đạt 12 triệu
đồng /tháng, tại trang:
http://www.vnexpress.net/Vietnam/Xa-hoi/2006/07/3B9EB755/,
[truy cập ngày 01/7/2006, 10:55 GMT+7]
6. PGS, TS Hoàng Thị Bích Loan (chủ biên), (2008), Thu hút đầu tư trựctiếp của các công ty xuyên quốc gia vào Việt Nam, Nxb Chính trị quốcgia, Hà Nội.
7. Nguyễn Tiến Long (2011), Đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) với việcchuyển dịch cơ cấu kinh tế của tỉnh Thái Nguyên, LATS Kinh tế, Đạihọc Kinh tế quốc dân.
8. Th.S Đặng Hoàng Thanh Nga (2011), Đầu tư trực tiếp nước ngoài của
các công ty xuyên quốc gia của Hoa Kỳ ở Việt Nam, Nxb Chính trị quốc
gia, Hà Nội.
9. Phùng Xuân Nhạ (2000), Đầu tư trực tiếp nước ngoài phục vụ công
nghiệp hoá ở Malaisia, Nxb Thế giới, Hà Nội.
10.Phùng Xuân Nhạ (2013), Đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam: Lý
luận và thực tiễn, Nxb Đại học Quốc gia, Hà Nội.
11.Trần Anh Phương (2004), Một số giải pháp tăng cường thu hút vốn đầutư trực tiếp của các nước trong nhóm G7 vào Việt Nam, Luận án tiến sĩkinh tế, Học viện Tài chính.
154
12.Bùi Tiến Quý (2005), Quản lý Nhà nước về kinh tế đối ngoại, Nxb Lao
động, Hà Nội
13.Đỗ Văn Sử (2011), Kinh nghiệm của Hàn Quốc trong lĩnh vực đánh giáhiệu quả FDI, Cục Đầu tư nước ngoài, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Hà Nội.
14.Nguyễn Trọng Tuân (2002), Đầu tư trực tiếp nước ngoài với công cuộccông nghiệp hoá hiện đại hoá ở Việt Nam, Nxb Khoa học xã hội, HàNội.
15.Trần Xuân Tùng (2005), Đầu tư trực tiếp nước ngoài ở Việt Nam -Thực trạng và giải pháp, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
16.Nguyễn Huy Thám (1998), Kinh nghiệm thu hút vốn đầu tư nước ngoài
ở các nước ASEAN và vận dụng vào Việt Nam, LATS kinh tế, Học viện
Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội;
17.Đào Văn Thanh (2013), Tác động tràn của đầu tư trực tiếp nước ngoài
tới các doanh nghiệp thuộc ngành dệt may Việt Nam. LATS Kinh tế.
Đại học Kinh tế quốc dân
18.Thanh Thảo (2003), “Bài học kinh nghiệm từ chính sách thu hút FDI
của Trung Quốc giai đoạn 1990 -2002”, Tạp chí Tài chính, Tháng
5/2003.
19.Đinh Trọng Thịnh (2006), Thúc đẩy doanh nghiệp tại Việt Nam đầu tư
trực tiếp ra nước ngoài. Nxb Tài chính, Hà Nội.
20.Đỗ Thị Thuỷ (2001), Đầu tư trực tiếp nước ngoài với sự nghiệp công
nghiệp hoá - hiện đại hoá ở Việt Nam giai đoạn 1998-2005, LATS
Kinh tế, Đại học Kinh tế quốc dân Hà Nội.
21.Trần Thị Cẩm Trang (2004), “So sánh môi trường đầu tư trực tiếp nướcngoài (FDI) của Việt Nam với các nước ASEAN-5 và Trung Quốc:Giải pháp cải thiện môi trường FDI của Việt Nam”, Tạp chí Những vấnđề kinh thế giới, số 11 (103)/ 2004.
22.Bùi Thúy Vân (2011), Đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) với việc
chuyển dịch cơ cấu hàng xuất khẩu ở vùng đồng bằng Bắc bộ, LATS
Kinh tế, Đại học Kinh tế quốc dân
155
23.TS Nguyễn Tấn Vinh (2012), Đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) đối
với quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh. Nxb
Chính trị - Hành chính, Hà Nội.
24.David O. Dapice (2003), Nền kinh tế Việt Nam: Câu chuyện thành công
hay tình trạng lưỡng thể bất thường? Một phân tích các điểm mạnh,
điểm yếu, cơ hội và nguy cơ, Đại học Harvard.
25.V.I.Lênin (1980), Toàn tập, tập 27, Nxb Tiến Bộ, Mát-xcơ-va.
26.Phonesay Vilaysack (2010), Thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài vàonước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào , LATS Kinh tế, Đại học Kinhtế quốc dân.
27.Bảo hiểm xã hội tỉnh Vĩnh Phúc (2012), Báo cáo đánh giá tình hìnhchấp hành pháp luật về BHXH, BHYT của các doanh nghiệp FDI trênđịa bàn tỉnh Vĩnh Phúc, Vĩnh Phúc.
28.Bảo hiểm xã hội tỉnh Vĩnh Phúc (2014), Báo cáo đánh giá tình hìnhchấp hành pháp luật về BHXH, BHYT của các doanh nghiệp FDI trênđịa bàn tỉnh Vĩnh Phúc, Vĩnh Phúc
29.Bộ Tài nguyên và Môi trường (2014), Kết luận thanh tra về bảo vệ môi
trường trên địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc, Hà Nội.
30.Công an tỉnh Vĩnh Phúc (2012), Báo cáo đánh giá tình hình an ninh
trật tự trong các doanh nghiệp FDI và các KCN trên địa bàn tỉnh Vĩnh
Phúc, Vĩnh Phúc.
31.Cục Thống kê tỉnh Vĩnh Phúc (2003), Niên giám thống kê tỉnh Vĩnh
Phúc 2002. Nxb Thống kê, Hà Nội.
32.Cục Thống kê tỉnh Vĩnh Phúc (2006), Niên giám thống kê tỉnh Vĩnh
Phúc 2005. Nxb Thống kê, Hà Nội.
33.Cục Thống kê tỉnh Vĩnh Phúc (2009), Niên giám thống kê tỉnh Vĩnh
Phúc 2008. Nxb Thống kê, Hà Nội.
34.Cục Thống kê tỉnh Vĩnh Phúc (2011), Niên giám thống kê tỉnh Vĩnh
Phúc 2010. Nxb Thống kê, Hà Nội.
35.Cục Thống kê tỉnh Vĩnh Phúc (2012), Niên giám thống kê tỉnh Vĩnh
Phúc 2011. Nxb Thống kê, Hà Nội.
36.Đảng cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ IX. Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội
156
37.Đảng cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ X. Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
38.Đảng cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ XI. Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
39.Hội đồng nhân dân tỉnh Vĩnh Phúc (2012), Nghị quyết về việc ban hành
cơ chế hỗ trợ cho các dự án thuộc ngành công nghiệp hỗ trợ đầu tư vào
các khu, cụm công nghiệp trên địa bàn tỉnh, Vĩnh Phúc.
40.Liên đoàn Lao động tỉnh Vĩnh Phúc (2014), Báo cáo tình hình đình
công, ngừng việc tập thể trong các doanh nghiệp từ năm 2008 đến nay
và một số giải pháp nhằm ngăn ngừa hạn chế đình công bất hợp pháp,
Vĩnh Phúc.
41.Liên hiệp quốc (2007), Báo cáo đánh giá chính sách đầu tư của Việt
Nam. New York và Geneve.
42.Nâng lương tối thiểu trong doanh nghiệp FDI, tại trang
http://www.mof.gov.vn/Default.aspx?tabid=612&ItemID=27854
43.Ngân hàng Thế giới (2002), Suy ngẫm lại sự thần kỳ của Đông Á, Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội.44.Ngân hàng Thế giới (2004), Báo cáo phát triển thế giới 2005, Nxb VH-
TT, Hà Nội.45.Phòng Thương mại Châu Âu tại Việt Nam (2012), Các vấn đề thương
mại/đầu tư và kiến nghị. Hà Nội.
46.Quốc hội nước Cộng hoà XHCN Việt Nam (1987), Luật Đầu tư nước
ngoài tại Việt Nam ngày 29 tháng 12 năm 1987.
47.Quốc hội nước Cộng hoà XHCN Việt Nam (1990), Luật sửa đổi, bổ
sung một số điều của Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam ngày 30
tháng 6 năm 1990. http://vanban.chinhphu.vn
48.Quốc hội nước Cộng hoà XHCN Việt Nam (1992), Luật sửa đổi, bổ
sung một số điều của Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam ngày 23
tháng 2 năm 1992. http://vanban.chinhphu.vn
49.Quốc hội nước Cộng hoà XHCN Việt Nam (1996), Luật đầu tư nước
ngoài ở Việt Nam ngày 12/11/ 1996. http://vanban.chinhphu.vn
157
50.Quốc hội nước Cộng hoà XHCN Việt Nam (2005), Luật đầu tư, số
59/2005/QH11, ngày 29/11/2005. http://www.chinhphu.vn
51.Sở Công thương tỉnh Vĩnh Phúc (2012), Báo cáo đánh giá tình hình
xuất nhập khẩu và kết quả thực hiện mục tiêu nội địa hóa công nghiệp
sản xuất ô tô, xe máy trên địa bàn tỉnh, Vĩnh Phúc.
52.Sở Công Thương tỉnh Vĩnh Phúc (2013), Quy hoạch phát triển công
nghiệp hỗ trợ tỉnh Vĩnh Phúc đến năm 2020, định hướng đến năm
2030, Vĩnh Phúc.
53.Sở Kế hoạch và Đầu tư tỉnh Vĩnh Phúc (2011), Quy hoạch tổng thể phát
triển kinh tế - xã hội tỉnh Vĩnh Phúc đến năm 2020 và tầm nhìn đến năm
2030, Vĩnh Phúc.
54.Sở Kế hoạch và Đầu tư tỉnh Vĩnh Phúc (2012), Báo cáo đánh giá tổng
quan về tình hình kinh tế - xã hội và tác động của FDI vào phát triển
KT-XH của tỉnh sau 15 năm tái lập, Vĩnh Phúc.
55.Sở Khoa học và Công nghệ tỉnh Vĩnh Phúc (2012), Báo cáo trình độ
công nghệ và năng suất lao động của các doanh nghiệp FDI trên địa
bàn tỉnh Vĩnh Phúc, Vĩnh Phúc.
56.Sở Lao động - Thương binh và Xã hội tỉnh Vĩnh Phúc (2010), Báo cáo
kết quả công tác Lao động - TB&XH năm 2010. Phương hướng, nhiệm
vụ năm 2011, Vĩnh Phúc.
57.Sở Lao động - Thương binh và Xã hội tỉnh Vĩnh Phúc (2012), Báo cáo
đánh giá thực trạng tác động ảnh hưởng của đầu tư trực tiếp nước
ngoài tại Vĩnh Phúc từ khi tái lập tỉnh đến nay, Vĩnh Phúc.
58.Sở Tài chính tỉnh Vĩnh Phúc (2012), Báo cáo đánh giá về đóng góp của
các doanh nghiệp FDI vào ngân sách tỉnh, Vĩnh Phúc.
59.Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Vĩnh Phúc (2010), Báo cáo hiện
trạng môi trường Vĩnh Phúc năm 2010, Vĩnh Phúc
60.Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Vĩnh Phúc (2010), Báo cáo quan
trắc hiện trạng môi trường Vĩnh Phúc năm 2010, Vĩnh Phúc.
158
61.Tỉnh uỷ tỉnh Vĩnh Phúc (2004), Báo cáo của Tỉnh uỷ tỉnh Vĩnh Phúc
ngày 01 tháng 7 năm 2004 về tình hình và kết quả thu hút đầu tư nước
ngoài của tỉnh từ 1986 đến hết năm 2003, Vĩnh Phúc
62.Tỉnh uỷ tỉnh Vĩnh Phúc (2005), Văn kiện đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh
Vĩnh Phúc lần thứ XIV, Vĩnh Phúc.
63.Tỉnh uỷ tỉnh Vĩnh Phúc (2010), Nghị quyết Đại hội đại biểu Đảng bộ
tỉnh lần thứ XV, nhiệm kỳ 2010- 2015, Vĩnh Phúc
64.Tổng cục Thống kê (2005), Niên giám thống kê 2005, Nxb Thống kê,
Hà Nội.
65.Tổng cục Thống kê (2010), Niên giám thống kê 2009, Nxb Thống kê,
Hà Nội.
66.Tổng quan về điều kiện tự nhiên của Vĩnh Phúc, tại trang:
http://www.vinhphuc.gov.vn/ct/cms/thongtingioithieu/Lists/DanSo/Vie
w_Detail.aspx?ItemID=9
67.Trường Đại học Thương mại Hà Nội và Trường Đại học Thương mạiParis (2005), Bối cảnh kinh tế mới, các dòng đầu tư nước ngoài vớiphát triển thương mại và thị trường châu Á và Việt Nam, Kỷ yếu hộithảo khoa học quốc tế Pháp - Việt, Hà Nôi.
68.UBND tỉnh Vĩnh Phúc (2006), Báo cáo tình hình thực hiện nhiệm vụ
phát triển kinh tế xã hội năm 2006, phương hướng nhiệm vụ năm 2007,
Vĩnh Phúc.
69.UBND tỉnh Vĩnh Phúc (2006), Quy hoạch phát triển công nghiệp trên
địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc đến 2010 và định hướng đến năm 2020, Vĩnh
Phúc.
70.UBND tỉnh Vĩnh Phúc (2007), Báo cáo tình hình thực hiện nhiệm vụ
phát triển kinh tế xã hội năm 2007, phương hướng nhiệm vụ năm 2008,
Vĩnh Phúc.
71.UBND tỉnh Vĩnh Phúc (2008), Báo cáo tình hình thực hiện nhiệm vụ
phát triển kinh tế xã hội năm 2008, phương hướng nhiệm vụ năm 2009,
Vĩnh Phúc.
159
72.UBND tỉnh Vĩnh Phúc (2009), Báo cáo tình hình thực hiện nhiệm vụ
phát triển kinh tế xã hội năm 2009, phương hướng nhiệm vụ năm 2010,
Vĩnh Phúc.
73.UBND tỉnh Vĩnh Phúc (2010), Báo cáo tình hình thực hiện nhiệm vụ
phát triển kinh tế xã hội năm 2010, phương hướng nhiệm vụ năm 2011,
Vĩnh Phúc.
74.UBND tỉnh Vĩnh Phúc (2011), Báo cáo tình hình thực hiện nhiệm vụ
phát triển kinh tế xã hội năm 2011, phương hướng nhiệm vụ năm 2012,
Vĩnh Phúc.
75.UBND tỉnh Vĩnh Phúc (2012), Báo cáo tình hình thực hiện nhiệm vụ
phát triển kinh tế xã hội năm 2012, phương hướng nhiệm vụ năm 2013,
Vĩnh Phúc.
76.UBND tỉnh Vĩnh Phúc (2013), Báo cáo tình hình thực hiện nhiệm vụ
phát triển kinh tế xã hội năm 2013, phương hướng nhiệm vụ năm 2014,
Vĩnh Phúc.
77.UNCTAD (2003), Báo cáo đầu tư thế giới, Newyork and Geneva;
78.TS Đinh Văn Ân, TS Võ Trí Thành (Đồng chủ biên) (2002), “Thể chế -
cải cách thể chế và phát triển”, Lý luận và thực tiễn ở nước ngoài và
Việt Nam, Nxb Thống kê, Hà Nội.79.T.Hương, Đ.Tiến (2006), Tại 4 Doanh nghiệp FDI ở Vĩnh Phúc:
1.500 lao động có nguy cơ mất việc, tại trang:
http://www.laodong.com.vn/Home/congdoan/2006/9/3302.laodong
80.Ngụy Kiệt, Hạ Diệu (1993), Bí quyết cất cánh của bốn con rồng nhỏ,
Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội
81.PGS. TS. Trần Quang Lâm, TS An Như Hải (Đồng chủ biên) (2006),
Kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài ở Việt Nam hiện nay. Nxb Chính trị
quốc gia, Hà Nội.
82.Võ Thanh Thu, Ngô Thị Ngọc Huyền và Nguyễn Cương (2004), Kỹ
thuật đầu tư từ trực tiếp nước ngoài. Nxb Thống kê, Hà Nội.
83.UBND tỉnh Vĩnh Phúc, BQL các KCN và THĐT (2004), Báo cáo kết
quả thực hiện nhiệm vụ về thu hút đầu tư, phát triển các khu, cụm công
160
nghiệp trên địa bàn tỉnh năm 2004 và nhiệm vụ, mục tiêu năm 2005 của
UBND tỉnh Vĩnh Phúc, Vĩnh Phúc.
84.UBND tỉnh Vĩnh Phúc, BQL các KCN và THĐT (2005), Báo cáo kết
quả thực hiện nhiệm vụ về thu hút đầu tư, phát triển các khu, cụm công
nghiệp trên địa bàn tỉnh năm 2005 và nhiệm vụ, mục tiêu năm 2006 của
UBND tỉnh Vĩnh Phúc, Vĩnh Phúc.
85.UBND tỉnh Vĩnh Phúc, BQL các KCN (2006), Báo cáo của UBND tỉnh
Vĩnh Phúc số 65/BC-UBND ngày 30 tháng 6 năm 2006 về tình hình
cấp, thực hiện ưu đãi đầu tư và thực hiện đầu tư các dự án trong và
ngoài nước trên địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc thời kỳ 2002-2005, Vĩnh Phúc.
86.UBND tỉnh Vĩnh Phúc, BQL các KCN (2007), Báo cáo Tình hình thực
hiện nhiệm vụ năm 2006 và kế hoạch năm 2007, Vĩnh Phúc.
87.UBND tỉnh Vĩnh Phúc, BQL các KCN (2008), Báo cáo Tình hình thực
hiện nhiệm vụ năm 2007 và kế hoạch năm 2008, Vĩnh Phúc.
88.UBND tỉnh Vĩnh Phúc, BQL các KCN (2009), Báo cáo Tình hình thực
hiện nhiệm vụ năm 2008 và phương hướng năm 2009, Vĩnh Phúc.
89.UBND tỉnh Vĩnh Phúc, BQL các KCN (2010), Báo cáo Tình hình thực
hiện nhiệm vụ năm 2009 và phương hướng năm 2010, Vĩnh Phúc.
90.UBND tỉnh Vĩnh Phúc, BQL các KCN (2011), Báo cáo Tình hình thực
hiện nhiệm vụ năm 2010 và phương hướng năm 2011, Vĩnh Phúc.
91.UBND tỉnh Vĩnh Phúc, BQL các KCN (2012), Báo cáo Tình hình thực
hiện nhiệm vụ năm 2011 và phương hướng năm 2012, Vĩnh Phúc.
92.UBND tỉnh Vĩnh Phúc, BQL các KCN (2013), Báo cáo Tình hình thực
hiện nhiệm vụ năm 2012 và phương hướng năm 2013, Vĩnh Phúc.
93.UBND tỉnh Vĩnh Phúc, BQL các KCN (2014), Báo cáo Tình hình thực
hiện nhiệm vụ năm 2013 và phương hướng năm 2014, Vĩnh Phúc.
94.http://www.bacninh.gov.vn
95.http://www.haiduong.gov.vn
96.http://www.hungyen.gov.vn
161
97.http://unctad.org/en/Pages/DIAE/Foreign-Direct-Investment-
(FDI).aspx
98.http://www.gso.gov.vn/default.aspx?tabid=387&idmid=3&ItemID=142
31
99.http://www.neu.edu.vn:32/thongtin_tt/index.html
100. http://www.vnexpress.net/Vietnam/Xa-hoi/2006/07/3B9EB755/ Thứ
bảy, 1/7/2006, 10:55 GMT+7
101. http://www.mof.gov.vn/Default.aspx?tabid=612&ItemID=27854
* Tài liệu tiếng anh102. Bornali Bhandari (2007), Effect of Inward Foreign Direct Investment
on Income Inequality in Transition Countries. http://www.e-jei.org/upload/T1T3U9K778W1RN2L.pdf
103. Institute of International economics, FDI in Developing Countriesand Economies in Transition: Opportunities, Dangers, and NewChanges.http://www.piie.com/publications/chapters_preview/53/1iie258x.pdf
104. IMF (1993), Balance of payment manual, Fith Edition, Washington
DC.
105. Faramarz AKARAM, Foreign Direct Investment in DevelopingCountries: Impact on Distribution and Employment, Presented to theFaculty of Economics and Social Sciences at the University ofFribourg, Switzerland in fulfilment of the requirements for the degreeof Doctor of Economics and Social Sciences, tại trang:
http://ethesis.unifr.ch/theses/downloads.php?file=AkramiF.pdf
106. OECD, GLOSSARY OF FOREIGN DIRECT INVESTMENT TERMS
AND DEFINITIONS, tại trang:
http://www.oecd.org/daf/inv/investmentstatisticsandanalysis/fdistatistic
sanddata-frequentlyaskedquestions.htm
107. OECD-ILO Conference On Corporate Social Responsibility, Report:The Impact of Foreign Direct Investment On Wages And WorkingConditions, 23-24 June 2008, OECD Conference Centre, Paris, France,tại trang www.oecd.org/corporate/mne/40848277.pdf
162
108. Policy Brief: The Social Impact of Foreign Direct Investment,Organisation For Economic Co-operation And Development, July,2008. www.oecd.org/els/40940418.pdf
109. Tulus Tambunan, The Impact Of Foreign Direct Investment OnPoverty Reduction. A Survey Of Literature And A Temporary FindingFrom Indonesia, Center for Industrial Economic Studies, Faculty OfEconomics, University of Trisakti, Jakarta-Indonesia, tại trang:http://citeseerx.ist.psu.edu/viewdoc/download?doi=10.1.1.195.484&rep
=rep1&type=pdf110. UNCTAD (2005), World Investment Report 2005: Transnational
Corporations and the Internationalization of R&D, United NationsNew York and Geneva
111. UNCTAD (2010), World Investment Report 2010: Investing In ALow-Carbon Economy, United Nations New York and Geneva
112. UNCTAD (2011), World Investment Report 2011: Non-equity ModesOf International Production And Development, United Nations NewYork and Geneva
113. UNCTAD (2012), Technology and Innovation Report 2012:Innovation, Technology and South-South Collaboration, UnitedNations Conference on Trade Develop
114. UNCTAD (2012) World Investment Report 2012: Towards A NewGeneration Of Investment Policies, United Nations New York andGeneva
115. UNCTAD (2013), World Investment Report 2013: Global ValueChains: Investment And Trade For Development, United Nations NewYork and Geneva
116. Carkovic, M&R.Levine (2002), Does Foreign Direct InvestmentAccelerate Economic Growth? in Does Foreign Direct InvestmentPromote Development?, Washington DC: Institute for InternationalEconomic, pp.195-220
117. ROBERT E. LIPSEY and FREDRIK SJOHOLM, The Impact ofInward FDI on Host Countries: Why Such Different Answers?http://www.iie.com/publications/chapters_preview/3810/02iie3810.pdf]