Upload
lethuy
View
238
Download
1
Embed Size (px)
Citation preview
TÁC GIA VĂN XUÔI VIỆT NAM HIỆN ĐẠI TỪ SAU 1945TÁC GIA VĂN XUÔI VIỆT NAM HIỆN ĐẠI
TỪ SAU 1945
LỜI NÓI ĐẦU
Sự xuất hiện ngày càng mạnh mẽ, qua các giai đoạn cách mạng, một
đội ngũ tác giả văn xuôi (cũng như các thể loại khác) là đặc điểm, và cũng là
thành tựu nổi bật của văn học cách mạng trong chế độ mới dưới sự lãnh đạo
của Đảng. Chính vì vậy, sau cuốn Mấy vấn đề văn xuôi Việt Nam 1945 -
1970, Nhóm văn học Việt Nam hiện đại, Ban văn học Việt Nam, tiếp tục
nghiên cứu trong chuyên đề này một số tác giả văn xuôi Việt Nam hiện đại.
Khó khăn lớn đặt ra cho chúng tôi, như trên đã nói, là sự phát triển rất
mạnh mẽ của phong trào sáng tác, thể hiện trong sự ra đời thường xuyên,
ngày càng đông đảo các lực lượng viết, không phải với con số hàng chục, mà
phải tính đến hàng trăm. Chúng tôi cảm thấy, với khả năng hạn chế của mình,
khó mà bao quát cho hết được mọi hiện tượng, mọi tên tuổi đã xuất hiện
trong phong trào. Do vậy, trong phạm vi mấy trăm trang của chuyên đề, chỉ
xin phép được trình bày, trong khuôn khổ có hạn, một số cây bút tương đối
quen biết, mà chúng tôi, qua nhiều lần thảo luận, và trong tình hình nghiên
cứu hiện nay, đã tương đối có đủ điều kiện để giới thiệu với bạn đọc.
Cố nhiên chúng tôi biết rõ là vớii bấy nhiêu tên tuổi được trình bày,
cuốn sách chỉ mới có thể phản ảnh một phần nhỏ quá trình phát triển, thành
tựu và những vấn đề đặt ra trong sự nghiệp sáng tác của chúng ta. Những tác
giả đáng chú ý còn nhiều. Vả chăng cuốn sách không hoàn toàn là mội cuốn
“sử”, mà chỉ là một số chuyên đề nhỏ, cho nên chúng tôi hy vọng không lâu
sau này sẽ có dịp được trình bày tiếp các tác giả khác, hoặc về nhiều vấn đề
đã được đặt ra ở đây sẽ được bàn lại một cách thấu đáo hơn. Mặt khác, ở
những tác giả được trình bày, chúng tôi cũng chưa có ý định đề cập toàn diện
những đóng góp và đặc điểm của họ mà chỉ mới đi sâu vào một vài khía cạnh
này khác, mà theo chúng tôi là có tính chất nổi bật.
Yêu cầu của bạn đọc thì cao, việc nghiên cứu, phê bình, đánh giá các
nhà văn hiện đại lại có nhiều cái khó, trình độ người viết cũng có hạn, bài viết
khó tránh khỏi các sơ suất, khiến chúng tôi lắm lú rất đắn đo. Nhưng trên tinh
thần trách nhiệm chung của tập thể, với cố gắng cao nhất của mỗi cá nhân,
chúng tôi vẫn xin mạnh dạn cho ra mắt chuyên đề này, với lòng mong mỏi
được sự góp ý kiến trên tinh thần đồng chí, đoàn kết và học tập lẫn nhau của
các nhà phê bình, nghiên cứu, nhà văn, của các đồng chí làm công tác giảng
dạy văn học, và đông đảo bạn dọc, nhằm cùng nhau chung sức thúc đẩy nền
văn nghệ cách mạng của chúng ta tiến lên mạnh mẽ hơn nữa trong giai đoạn
mới.
Cuốn sách do tập thể các anh chị em trong Nhóm nghiên cứu văn học
Việt Nam hiện đại, Ban văn học Việt Nam biên soạn với sự cổ vũ và giúp đỡ
của nhiều đồng chí nghiên cứu hoặc có quan tâm đến văn học Việt Xam.
Đồng chí Phong Lê, trưởng nhóm, phụ trách chung việc biên soạn và chữa lại
lần cuối bản thảo.
Cuốn sách đã được sự góp ý chu đáo của đồng chí Như Phong, Giám
đốc Nhà xuất bản Văn học, Phan Cự Đệ, cán bộ giảng dạy Khoa Văn Trường
đại học Tổng hợp Hà Nội và đồng chí Vũ Đức Phúc, Phó Viện trưởng Viện
Văn học, Trưởng ban Ban văn học Việt Nam. Ban biên tập Nhà xuất bản
Khoa học xã hội cũng góp phần tích cực giúp chúng tôi trong việc hoàn chỉnh
bản thảo. Nhân cuốn sách ra đời, chúng tôi xin được gửi lời cảm ơn chân
thành tới các đồng chí trong Ban duyệt và Ban biên tập Nhà xuất bản.
Hà Nội, ngày 20 tháng 12 năm 1975
Phần một. MỘT SỐ NHÀ VĂN CÓ SÁNG TÁC TỪ TRƯỚC CÁCH MẠNG
Phần này trình bày một số cây bút tiêu biểu thuộc thế hệ các nhà văn
mà tên tuổi đã trở nên quen thuộc với độc giả, hoặc đã sáng tác ngay từ
trước Cách mạng.
Nhìn chung, đây là những nhà văn đã đến với văn học cách mạng từ
nhiều trào lưu khác nhau. Nhưng trong số đó, chiếm số lớn và có vị trí quan
trọng vẫn là trào lưu hiện thực phê phán với hầu hết các cây bút tiêu biểu như
Nguyễn Công Hoan, Ngô Tất Tố, Nguyên Hồng, Nam Cao, Tô Hoài, Bùi Hiển,
Kim Lân, Mạnh Phú Tư, Nguyễn Đình Lạp… Ngoài ra cũng có những nhà văn
thuộc các trào lưu khác như Nguyễn Tuân, Nguyễn Huy Tưởng, Thanh
Tịnh…
Trong các nhà văn trên đây, một số đã tham gia Hội văn hóa Cứu quốc
từ trước Cách mạng như Nguyên Hồng, Tô Hoài, Nguyễn Huy Tưởng, Nam
Cao, Kim Lân. Tuy vậy, sự nghiệp sáng tác, trình độ giác ngộ chính trị của
các nhà văn trước 1945, không phải là những đảm bảo thật chắc cho giá trị
sáng tác của mỗi người sau này. Nếu không kể những người vì bận các công
tác khác mà ít viết, thì sự đóng góp của các nhà văn thuộc thế hệ trước Cách
mạng cho nền văn học mới, nói chung khác nhau, có khi khác nhau rất xa,
phụ thuộc vào mức độ chuyển biến và tiến bộ tronq tư tưởng và thế giới
quan, về trình độ hiểu biết cuộc sống mới, về nhiệt tình cách mạng, về sự cố
gắng nhiều hay ít trong việc trau dồi ngòi bút của mình.
Cho nên bạn đọc sẽ dễ dàng nhận thấy trong đội ngũ này, có nhà văn
trước đây đã từng có địa vị quan trọng trên văn đàn, nhưng sau Cách mạng,
về mặt này hay mặt khác, đã không còn giữ được vị trí cũ của mình. Có nhà
văn phải trải qua một thời kỳ lung túng khá dài rồi mới viết, hoặc viết tốt được.
Lại cũng có nhà văn viết được đều đặn, luôn luôn giữ một vị trí xứng đáng
trong phong trào. Có những người tài năng trước kia chưa phát triển lắm, nay
tiến lên vị trí những hàng đầu.
Dưới đây chúng ta sẽ tìm hiểu cụ thể hơn một số cây bút tiêu biểu.
NGUYỄN CÔNG HOAN sau Cách mạngNguyễn Công Hoan là nhà văn từng sống và từng viết nhiều tác phẩm
có giá trị dưới chế độ cũ. Nhưng khoảng vài năm trước ngày Tổng khởi
nghĩa, sáng tác của nhà văn có phần lạc hướng: Danh tiết và Thanh đạm bị
dư luận tiến bộ phê phán. Giữa lúc nhà văn cảm thấy đời viết văn của mình
“tàn tạ, sắp chết” thì Cách mạng tháng Tám thành công. Như đang từ bóng,
tối bước ra ánh sáng, cảm thấy “choáng mắt” vì thời đại lớn lao quá, nhà văn
còn lúng túng chưa viết được gì đáng kể thì Kháng chiến toàn quốc bùng nổ.
Nguyễn Công Hoan vào quân đội, làm công tác dạy học. Từ 1946 đến 1954,
phần lớn thời gian Nguyễn Công Hoan dành cho việc tổ chức giảng dạy, đồng
thời vừa làm chủ nhiệm, vừa biên tập tờ Quân nhân học báo. Khoảng thời
gian này, nhà văn có viết được mấy truyện ngắn về kháng chiến. Từ 1952–
1953, Nguyễn Công Hoan trở về công tác văn nghệ, học tập chính trị, tham
gia phát động giảm tô, cải cách ruộng đất, chuẩn bị cho sáng tác.
Hòa bình lập lại, Nguyễn Công Hoan mới viết tương đối đều. Năm
1935, nhà văn cho xuất bản tập truyện ngắn Nông dân với địa chủ và mấy
truyện ngắn khác.
Nguyễn Công Hoan còn viết ký. Năm 1960, nhà văn viết Những ngày
tháng Tám ở Côn Đảo và Người cặp rằng hầm xay lúa ở ngục Côn Lôn năm
1930, nói về các chiến sĩ cách mạng. Năm 1962, nhân sang thăm Ba Lan
Nguyễn Công Hoan viết Thăm nhà người anh em chiến đấu anh dũng.
Song phần sáng tác chủ yếu của nhà văn vẫn là mấy truyện dài viết về
xã hội cũ như: Tranh tối tranh sáng (1956), Hỗn canh hỗn cư (1961), Đống
rác cũ (1963). Ngoài ra, Nguyễn Công Hoan còn một số đóng góp về kinh
nghiệm viết văn, về nghiên cứu văn học, chủ yếu là văn học cổ cận đại Việt
Nam.
***
Quá trình sáng tác của Nguyễn Công Hoan cho thấy trước Cách mạng,
nhà văn viết nhiều truyện ngắn và truyện dài, nhưng phần chính là truyện
ngắn, và có nhiều truyện ngắn hay. Sau Cách mạng, phần sáng tác chính lại
là mấy truyện dài và rất ít truyện ngắn, đến mức mấy năm gần đây, hầu như
nhà văn bỏ hẳn thể loại này. Tuy nhiên, trước khi tìm hiểu truyện dài, chúng ta
cũng cần điểm sơ qua đến truyện ngắn (và truyện vừa), bút ký.
Mấy truyện của Nguyễn Công Hoan trong thời kỳ kháng chiến: xổng cũi
(truyện vừa, 1947, ký tên Nguyễn Văn Lung), Bà lái đò Việt Nam (truyện
ngắn, 1948).
Những truyện ngắn sau ngày hòa bình được lập lại gồm tập Nông dân
với địa chủ (1955, gồm 13 truyện) và một số truyện đăng rải rác trên báo hoặc
in chung trong các tập với người khác như Nắm cơm, Anh Dụ, Xây dựng…
Trong số những truyện này, khá nhất là Cây mít, kể lại một cách chua
chát nỗi đắng cay, tủi cực của một gia đình nông dân ta trước đây: người
trồng cây đã không được hưởng quả mà còn bị đánh đập, hành hạ dã man.
Một số truyện khác cũng đáng chú ý: Quanh cái xác chết, Chị Liền,… Nhưng
số lượng truyện dở vẫn nhiều hơn. Có thể kể: Anh Dụ, Xây dựng,…và nhiều
truyện trong tập Nông dân với địa chủ.
Trong Anh Dụ, Xây dựng, sự diễn biến nội tâm của nhân vật chưa hợp
lý, gây cho người đọc cảm giác không chân thực. Phần lớn truyện trong tập
Nông dân với địa chủ có phần sơ lược, đơn điệu, mang dáng dấp của những
báo cáo hoặc ghi chép, thu hoạch qua mấy đợt Cải cách ruộng đất.
Sau Cách mạng, Nguyễn Công Hoan viết tuy ít, nhưng vẫn có một số
truyện khá. Thêm vào đó, ngay trong những truyện dở vẫn có ít nhiều đoạn
sắc sảo, dí dỏm. Có điều, trước đây nhà văn nỗi tiếng chủ yếu do nhiều
truyện ngắn trào phúng, đả kích, còn sau Cách mạng, mấy truyện ngắn hay
lại là truyện đi vào tâm tình.
Trứớc Cách mạng, Nguyễn Công Hoan đã viết Cô làm công (theo thể
nhật ký), toàn tập tuy chưa hay nhưng có nhiều trang xúc động. Năm 1960,
nhờ nghe những người thân kể lại, Nguyễn Công Hoan đã viết được hai bài
bút ký hay: Những ngày tháng Tám ở Côn Đảo và Người cặp rằng hầm xay
lúa ở ngục Côn Lôn năm 1930. Cũng có thể coi hai bài bút ký này là hai
truyện ngắn hoàn chỉnh và xuất sắc. Với lối viết sinh động, gọn gàng, súc tích,
giàu tình cảm, Nguyễn Công Hoan đã làm sống lại những sự việc xảy ra cách
đây hàng mấy chục năm, khiến người đọc ngày nay giở lại những trang sách
đó vẫn cảm thấy rạo rực một tình cảm cách mạng nóng hổi. Nhưng tập Thăm
nhà người anh em chiến đấu anh dũng thì lại hơi nặng và nhạt.
Tuy nhiên, ta vẫn thấy Nguyễn Công Hoan có khả năng viết ký hay.
Điều này càng rõ khi nhà văn cho xuất bản Đời viết văn của tôi, được đông
đảo bạn đọc hoan nghênh, cũng với lối viết nêu lên nhiều sự việc mà vẫn giản
dị, tự nhiên, hấp dẫn. Tiếc rằng Nguyễn Công Hoan viết ký còn ít.
Về truyện dài, năm 1936, Nguyễn Công Hoan cho xuất bản Tranh tối
tranh sáng (trên 300 trang) miêu tả cuộc sống buổi giao thời giữa hai giai
đoạn lịch sử, thời kỳ tiền khởi nghĩa. Năm 1961, nhà văn lại viết Hỗn canh
hỗn cư cũng khai thác đề tài trong thời kỳ này. Hai cuốn đi sâu vào hai khía
cạnh. Tranh tối tranh sáng chủ yếu lên án sự áp bức, bóc lột của bọn địa chủ
câu kết với thực dân, đế quốc. Hỗn canh hỗn cư nói nhiều đến truyền thống
bất khuất và cuộc đấu tranh của một làng trước Cách mạng tháng Tám. Năm
1963, nhà văn lại cho xuất bản Đống rác cũ (tập I) (trên 500 trang): nói về
những mánh khóe lừa đảo để làm giàu của vợ chồng tên An-be Thừa, qua đó
tập trung tố cáo khá nhiều hiện tượng thối nát trong xã hội thực dân phong
kiến những năm chiến tranh thế giới lần thứ nhất (1914– 1918) và sau đó ít
lâu.
Qua mấy truyện dài trên, Nguyễn Công Hoan đã bộc lộ một số ưu điểm
và nhược điểm chung. Chúng tôi không đi sâu phân tích từng tác phẩm mà
chỉ muốn nói một vài điểm bao quát, rồi từ đây thử nêu lên mấy nguvên nhân
chưa thành công trong sáng tác của nhà văn sau Cách mạng.
Trước kia, Nguvễn Công Hoan viết khỏe, đã lên án nhiều mặt thối nát
của xã hội thực dân phong kiến. Đến nay, với Tranh tối tranh sánq, nhất là
Hỗn canh hỗn cư, do có nhận thức mới, Nguyễn Công Hoan đã khẳng định
sức mạnh của quần chúng lao động làm nên lịch sử. Nhà văn thể hiện quá
trình giác ngộ của nhân dân từ tự phát đến tự giác, cuối cùng đấu tranh thắng
lợi dưới sự lãnh đạo của Đảng. Ở đây, những người nông dân, những người
trí thức tiểu tư sản yêu nước,… đã được giác ngộ, cho nên dù phải hoạt động
gian khổ vẫn hết sức tin tưởng ở sự tất thắng của cách mạng ngay trong lòng
xã hội cũ. Nhà văn nhìn thấy phẩm chất tốt đẹp của những cán bộ Đảng.
Nguyễn Công Hoan cũng cho thấy rõ: chính sách bóc lột, đàn áp tàn bạo của
thực dân Pháp, phát xít Nhật, với sự câu kết giữa bè lũ quan lại, địa chủ
cường hào chính là nguyên nhân đã dẫn tới nạn đói khủng khiếp năm 1945.
Những thủ đoạn bóc lột địa tô, những mánh khóe chỉ điểm để phá hoại cách
mạng… của bọn địa chủ cường hào cũng bị tác giả vạch rõ. Nhà văn đã chú ý
xây dựng cả một hệ thống hình tượng từ những tên thực dân cáo già đến
những tên tay sai đủ loại. Nhờ đưa ra nhiều loại người, nhiều sự việc với thái
độ rõ ràng, nên mấy truyện của Nguyễn Công Hoan, ở mức độ nào đó, đã có
giá trị phê phán, vạch được nhiều mặt xấu xa, thối nát, đáng ghê tởm trong
chính sách cai trị của thực dân Pháp.
Do có cách nhìn mới soi sáng, lại do nhà văn hiểu biết nhiều mảng
sống của xã hội cũ nên ở truyện của Nguyễn Công Hoan chúng ta bắt gặp
những trang viết lý thú, hấp dẫn như cảnh đón tiếp tên công sứ Va-mê (Tranh
tối tranh sáng), cảnh mấy tên lính gác ở đầu làng Văn Chương (Hỗn canh hỗn
cư), cảnh mật thám khám nhà, phiên tòa xử kiện, những việc làm ám muội,
bẩn thỉu của bọn cha cố trong nhà chung… Có những bức tranh gợi lên nhiều
nét xúc động như cuộc sống ẩn dật kín đáo của gia đình Phúc Lâm, cái chết
oan uổng của cô Lễ, rồi sự lụn bại tan nát của gia đình này (Đống rác cũ, tập
I)… Trong những trang viết về xã hội cũ, có những đoạn, những trang viết hay
mà tới nay vẫn chưa thấy nhà văn nào vượt được. Nếu Đống rác cũ được
sửa chữa lại công phu, nghiêm túc thì có thể trở thành tác phẩm có giá trị, vì
nó phản ánh tương đối phong phú xã hội thực dân phong kiến một thời kỳ.
Một đóng góp nữa khá đặc sắc của Nguyễn Công Hoan là yếu tố trào
phúng đậm nét trong các truyện dài. Chúng ta đều biết trong xã hội cũ có
nhiều cái xấu xa, thối nát mà trước đây các nhà văn chưa có điều kiện nói
hết, hoặc có nói cũng chưa được sâu, do nếp nhìn còn bị hạn chế. Sau Cách
mạng, chúng ta đã có một số truyện vạch rõ bản chẩt thối nát của cái xã hội
thực dân, phong kiến đáng nguyền rủa ấy, vì nó đã có lúc sống lại một cách
khủng khiếp hơn, quá quắt hơn ở miền Nam nước ta, dưới nanh vuốt nguy
hiểm của đế quốc Mỹ. Mặt khác, trong xã hội mới, do những tàn dư của tư
tưởng cũ, không phải không còn những mặt chưa tốt, thậm chí xấu nữa, mà
nhà văn cần phê phán để nêu bật những cái mới đang nảy nở. Như vậy,
truyện dài trào phúng, hoặc truyện mang nhiều yếu tố trào phúng vẫn cần
phải có. Nhưng trong thực tế sáng tác, loại này còn hiếm. Nói đến chất trào
phúng trong truyện, người ta nghĩ ngay đến Nguyễn Công Hoan với Tranh tối
tranh sáng, đống rác cũ (tập I) và nhiều đoạn trong Hỗn canh hỗn cư, đến Bùi
Huy Phồn với Phất. Ở Nguyễn Công Hoan, trước Cách mạng có nhiều truyện
ngắn trào phúng hay, truyện vừa Bà chủ cũng tương đối thành công. Đến
những truyện dài viết sau Cách mạng tuy có thiếu sót mặt này, mặt kia,
nhưng về căn bản, lối trào phúng của nhà văn nhiều khi mạnh, sắc và dí dỏm,
có duyên (đoạn tả vợ chồng Va-mê, Hàn Thưởng, vợ chồng Thừa, cả những
tên Đuy-ru-roa, cha đạo…). Có thể nói, một phần nhờ đó mà truyện của
Nguyễn Công Hoan tuy có những mặt chưa đạt, nhưng vẫn dễ đọc, không
nặng nề. Với vốn sống và tài nghệ trào phúng đó, nếu nhà văn phấn đấu để
nâng cao thêm chất tư tưởng của tác phẩm, thì chắc hẳn nhà văn sẽ có nhiều
đóng góp tốt hơn.
Đúng là sau Cách mạng, nhận thức tư tưởng của Nguyễn Công Hoan
đã có mặt đổi mới, do đó nhà văn có điều kiện để nhìn đối tượng châm biếm,
đả kích được rõ hơn, để nói thẳng không cần úp mở. Vốn sống của Nguyễn
Công Hoan về xã hội cũ lại tương đối phong phú hơn so với nhiều nhà văn
hiện nay. Thực tế, Nguyễn Công Hoan có vận dụng phần nào sở trường riêng
của mình với những thuận lợi đó nên đã đạt được một số kết quả.
Nhưng nhà văn chưa khai thác triệt để những mặt mạnh của mình nên
truyện còn bộc lộ nhiều hạn chế. Có những nhược điểm lẽ ra ngày nay có thể
khắc phục được thì tác giả vẫn mắc phải, đôi khi lại ở mức độ trầm trọng hơn.
Nguyễn Công Hoan tuy hiểu biết nhiều người, nhiều việc, nhưng lắm
khi sử dụng cái vốn đó chưa thận trọng, đưa vào tác phẩm một cách hơi dễ
dãi, cho nên không tránh khỏi những trường hợp bối cảnh của tác phẩm chưa
rõ nét hoặc chưa có được đầy đủ tính chân thực, lịch sử. Nguyễn Công Hoan
còn có những chỗ yếu nhất định trong việc xây dựng nhân vật. Trước kia, nhà
văn thành công chủ yếu ở thể truyện ngắn, trong đó chỉ cần đề cập tới một vài
nhân vật với một mảng đời, một tình huống, và vì thế, ngòi bút của nhà văn
nhiều khi tỏ ra sắc sảo, hóm hỉnh. Với truyện dài, nhà văn phải đưa ra nhiều
nhân vật với cuộc sống phức tạp của họ. Đánh giá cho nghiêm khắc, nhiều
nhân vật trong truyện vừa và dài của Nguyễn Công Hoan, kể cả những truvện
trước Cách mạng, chưa thật sinh động. Bước đường cùng là một thành công
đặc biệt, nhưng chưa phải đã mô tả hay các loại nhân vật. Yêu cầu của truyện
dài là phải trình bày nhiều nhân vật, nhiều sự việc vừa phức tạp vừa đa dạng,
nên những điểm yếu của nhà văn càng bộc lộ rõ hơn. Trong các tác phẩm
Tranh tối tranh sáng, Hỗn canh hỗn cư, Đống rác cũ (tập I), phần đông nhân
vật còn mờ nhạt, có nhiều nét gượng ép, ít nhân vật có tính cách sắc sảo với
quá trình phát triển chặt chẽ, hợp lý. Ở nhiều đoạn, Nguyễn Công Hoan còn
đưa ra nhiều chi tiết tuy có thực ở ngoài đời, nhưng vì thiếu chọn lựa, sắp xếp
nên người đọc vẫn thấy chưa hợp với sự phát triển của tính cách nhân vật và
lôgích cuộc sống. Nhân vật chính diện tuy tác giả chú ý mô tả nhiều nhưng
vẫn không nổi lên được (anh Na trong Hỗn canh hỗn cư, hoặc anh Xi, anh
Nghĩa trong Đống rác cũ). Ngay đến việc thể hiện các nhân vật phản diện,
vốn là sở trường, mà Nguyễn Công Hoan vẫn để lộ những nhược điểm đáng
tiếc. Sở dĩ những nhân vật đó chưa trở thành những điển hình sắc nét là do
nhà văn chưa đi sâu thể hiện cụ thể và sinh động những mặt chủ yếu trong
bản chất của đối tượng mô tả. Đôi khi, nhà văn đánh mạnh vào những khía
cạnh thứ yếu của hạng người phản diện như các mặt sinh hoạt đồi bại, hoặc
rởm đời. Việc chọn nhân vật trung tâm của truvện có khi chưa đại diện cho
một lực lượng xã hội cần tập trung phê phán (Thừa trong Đống rác cũ). Nhiều
lúc tác giả lại nói thẳng ý đồ chủ quan của mình. Vì thế, truyện dài của
Nguyễn Công Hoan thường chỉ hấp dẫn ở từng mảng.
Nhiều nhân vật của Nguyễn Công Hoan chưa thực sự là những tính
cách điển hình với cá tính rõ nét, nhân vật ở tác phẩm này nhiều khi lại hao
hao giống nhân vật ở tác phẩm kia. Chẳng hạn tâm trạng và hoàn cảnh của
chị vú em trong Nông dân với địa chủ không khác mấy chị vú em trong ông
chủ (1944). Một số nhân vật hoạt động cách mạng ở Tranh tối tranh sáng,
Hỗn canh hỗn cư cũng na ná giống nhau. Hai nhân vật me Tây Mi-mi (Tranh
tối tranh sáng) và Ma-ri (Đống rác cũ) không khác nhau mấy. Hoặc có những
sự việc trước kia Nguyễn Công Hoan đã viết rồi, nhưng do nghĩ ràng ngày
nay nhiều người chưa có điều kiện đọc được nên nhà văn viết lại, như đoạn
tả cảnh khao trong truyện Địa chủ (Nông dân nới địa chủ) gần giống đoạn tả
cảnh khao trong Cái thủ lợn; mẩu chuyện chị Mão kể cho cụ Điều nghe khi ra
thăm chồng về việc làng lập ấu trĩ viên (Đống rác cũ) cũng là sự lặp lại sơ
lược một đoạn trong Chương trình năm năm… Song sáng tác đã in ra, thế tất
có một số người đọc được, nên khi đọc lại sẽ kém hứng thú, cho nên yêu cầu
của sáng tác vẫn phải là luôn luôn phát hiện và sáng tạo cái mới.
Một nhược điểm đáng kể nữa trong tiểu thuyết của Nguyễn Công Hoan
là ảnh hưởng của chủ nghĩa tự nhiên. Một số truyện ngắn trươc Cách mạng
như Ái tình tiểu thuyến, Ai khôn, Đàn bà là giống yếu, Một tấm gương sáng…
đã có màu sắc tự nhiên chủ nghĩa khá rõ. Đáng tiếc là đến Tranh tối tranh
sáng, nghĩa là sau Cách mạng hàng chục năm, khi viết về nạn đói, tảc giả vẫn
chưa khắc phục được nhược điểm ban đầu. Đáng lẽ Nguyễn Công Hoan
không nên khai thác những chi tiết như mẹ ăn thịt con (dầu có thực trong
cuộc sống) bởi chưa chắc nó đã làm cho người đọc đau xót, căm thù lũ thực
dân chính là tội phạm gây ra nạn đói khủng khiếp, mà chỉ làm cho người đọc
thấy ghê sợ. Trong Hỗn canh, hỗn cư có nhiều đoạn viết lan man, dài dòng,
không giúp ích gì mấy cho sự phát triển của truyện. Đến Đống rác cũ (tập I)
thì khuyết điểm này càng bộc lộ rõ. Nhiều đoạn, tác giả tả tỉ mĩ những chi tiết
vụn vặt, không giúp ích gì cho việc thể hiện chủ đề truyện, nhưng lại đầy
những yếu tố thô tục, không có tác dụng tốt về mặt tư tưởng và cũng chẳng
có giá trị nghệ thuật gì. Nhiều bài phê bình đã phê phán đúng mức những
đoạn văn như vậy, coi đó là độc tố. Cũng do đó mà nhiều nhà phê bình đánh
giá: Đống rác cũ (tập I) là một cuốn truyện tự nhiên chủ nghĩa. Thực tế, phải
thấy rằng Nguyễn Công Hoan không giải phẫu nhân vật của mình bằng học
thuyết Phơ-rớt như có lúc thấy ở Vũ Trọng Phụng, Trọng Lang. Chủ nghĩa tự
nhiên ở Nguvễn Công Hoan thể hiện chủ yếu ở chỗ nhà văn chưa nêu bật
được những vấn đề lớn, mà đã sa vào những chi tiết vụn vặt, tầm thường,
gây tò mò vô ích. Đáng tiếc là gần chục năm sau, khi cho in Đời viết văn của
tôi, nhà văn cũng chưa tự phê bình thiếu sót của Đống rác cũ, và ngay trong
cuốn hồi ký này cũng còn đôi chỗ tự nhiên chủ nghĩa.
Ai cũng phải công nhận trình độ viết truyện ngắn vừa cô đọng, sắc bén,
vừa dí dỏm, hấp dẫn với một ngôn ngữ trong sáng, nhiều hình ảnh của
Nguyễn Công Hoan. Nhưng trong truvện vừa và truyện dài, nhà văn còn vấp
phải những nhược điểm về nghệ thuật. Bố cục truyện của nhà văn thường
chưa chặt chẽ. Không kể Tay trắng trắng tay, Cô giáo Minh, những tác phẩm
mà trong đó người đọc dễ thấy hàng nửa chương, có khi cả chương, chưa
khớp lắm với quá trình phát triển của truyện, mà ngay đến Bước đường cùng,
tác giả cũng tự nhận là có thể bỏ đi cả hai chương đầu. Mấy truyện dài viết
sau Cách mạng, bố cục cũng chưa chặt chẽ. Trong Tranh tối tranh sáng,
chúng ta gặp một số chương có thể chỉ cần viết gọn vào mấy trang. Hỗn canh
hỗn cư, Đống rác cũ (tập I) cũng có nhiều đoạn quá dài dòng, đôi lúc câu
chuyện bị ngập vào nhiều chi tiết bề bộn, rối rắm.
***
Với một cây bút có uy tín từ trước Cách mạng như Nguyễn Công Hoan,
độc giả chờ đợi nhiều trong những sáng tác sau đó, nhưng tác giả chưa đáp
ứng được đầy đủ lòng mong mỏi ấy.
Chúng ta rất hiểu những điều chủ yếu Nguyễn Công Hoan muốn nói
qua mấy tác phẩm của mình sau Cách mạng, song trong văn nghệ không
phải người viết bao giờ cũng đạt được ý muốn chủ quan của mình. Nguyễn
Công Hoan muốn phê phán thậm tệ cái cũ, cái xấu để làm nỗi bật cái mới, ca
ngợi cái mới nhưng sự phê phán ấy chưa sâu sắc, chưa thành những nhát
búa lớn bổ vào đầu địch, và những tội ác tầy trời của chúng cũng chưa bị
vạch trần tận bản chất. Những cái được tác giả, ca ngợi, những nhân vật tích
cực của phong trào hãy còn bàng bạc, chưa mang được sức sống và khí thế
tất thắng của nó. Tâm tư tưởng của tác phẩm nói chung chưa cao.
Trước kia do hoàn cảnh xuất thân và môi trường sống, Nguyễn Công
Hoan có một nếp cảm nghĩ tiến bộ, cái nhìn của nhà văn nhiều lúc gần gũi với
đông đảo nhân dân. Trong đường lối của Đảng, có phần, nhà văn tiếp nhận
được, có phần nhà văn hiểu chưa thấu đáo. Nguyễn Công Hoan cũng chưa
thật hiểu cách mạng, chưa rõ những khó khăn gian khổ của phong trào từ khi
mới là những “đốm lửa ban đầu”. Do đó, sau Cách mạng tuy nhà văn đi ngay
vào con đường đúng, nhưng như thế chưa phải đã có một cái nền vững chắc,
khả dĩ làm cơ sở cho việc nhận thức sâu sắc về xã hội mới. Phải chăng,
những hạn chế về cách nhìn ấy đã khiến cho sáng tác của nhà văn thường
vướng phải những nhược điểm khi phản ánh hiện thực mới; và cũng từ đấy,
sau Cách mạng, Nguyễn Công Hoan khó thành công ở truyện ngắn trào
phúng, một thể loại trước kia nhà văn rất sở trường. Bản chất xã hội cũ là thối
nát, đầy ung nhọt, khó có thể che giấu nên chỉ cần bắt chộp một hiện tượng,
một sự việc là nhà văn có thể viết ngay được một truyện nhiều khi mang ý
nghĩa đả kích khá mạnh và sâu. Nnưng bản chất của chế độ ta khác hẳn.
Nhất là trong giai đoạn quá độ hiện nay, nếu chỉ nhìn vào hiện tượng mà đả
kích thì có khi mắc sai lầm. Bởi hiện tượng xấu nhiều khi chỉ là cá biệt, nhất
thời, hoặc bề ngoài dường như chưa tốt nhưng thực chất đó là nhược điểm
trong quá trình của một cái gì tốt đẹp đang trưởng thành. Thực tế đó đòi hỏi
nhà văn phải có cái nhìn biện chứng, phải suy nghĩ sâu mới có thể sáng tác
thành công.
Quả thực sau Cách mạng tháng Tám, xã hội mới có trang bị cho
Nguyễn Công Hoan những nhận thức mới, lư tưởng mói. Nhưng về căn bản,
nhà văn vẫn dừng lại ở cái nhìn của một tiểu tư sản trí thức, có tinh thần dân
tộc, giác ngộ cách mạng, với một thế giới quan còn nhiều hạn chế.
Phương pháp sáng tác của Nguyễn Công Hoan chưa hẳn là phương
pháp hiện thực xã hội chủ nghĩa, thậm chí với Đống rác cũ (tập I), nhà văn
vẫn căn bản dừng lại ở phương pháp hiện thực phê phản, còn chứa nhiều
yếu tố tự nhiên chủ nghĩa. Rõ ràng, sở trường của Nguyễn Công Hoan gắn
liền với chủ nghĩa hiện thực phê phán. Đây là phương pháp sáng tác được sử
dụng khá tốt trong nền văn học công khai nước ta trước Cách mạng tháng
Tám. Nhưng phương pháp đó chỉ có hiệu lực trong yêu cầu miêu tả mặt đen
tối của xã hội, nên sau Cách mạng nó không còn thích hợp nữa, mà phải
nhường chỗ cho một phương pháp sáng tác mới, thích hợp hơn, đó là
phương pháp hiện thực xã hội chủ nghĩa. Phương pháp này có kế thừa một
số thành tựu của phương pháp trước, nhưng về bản chất thì khác hẳn. Nó
yêu cầu phải biểu hiện hiện thực một cách cụ thể, chân thực trong sự phát
triển cách mạng, cũng có nghĩa là phải phát hiện được cái mới đang nảy nở
và cái cũ đang bị tiêu diệt, từ đấy đòi hỏi người viết phải đứng hẳn về phía cái
mới, đấu tranh cho cái mới thắng lợi. Từ yêu cầu ấy, phương pháp sáng tác
mới đòi hỏi người viết lấy việc miêu tả nhân vật tích cực làm trung tâm. Chính
vì vậy mà ở Nguyễn Công Hoan, một vấn đề nữa cũng cần bàn tới, đó là vấn
đề vốn sống mới.
Trước Cách mạng, Nguyễn Công Hoan có hiểu biết về người nông dân
và một số tầng lớp lao động khác, như viên chức, nhà văn, nhà báo, kép hát,
người làm công, đi ở, kéo xe,… Nhà văn đã có nhiều đóng góp về đề tài nông
thôn, song chưa phải đã hiểu sâu về người nông dân như hiểu bọn địa chủ
cường hào. Nhà văn càng chưa hiểu công nhân bao nhiêu. Tuy nói chung
Nguyễn Công Hoan có vốn sống phong phú về xã hội cũ, nhưng tiếc rằng vốn
sống đó chưa cân xứng về các mặt. Tác giả hiểu mặt trái sâu hơn, và vì thế
chính cái mảng nhà văn còn yếu này với những con người nhà văn hiểu chưa
sâu, thì sau Cách mạng lại trở thành những nhân tố quyết định sự phát triển
của xã hội mới. Vả lại, ngay trong mặt trái cũng có bộ phận Nguyễn Công
Hoan hiểu chưa sâu, chẳng hạn bọn đế quốc. Nếu tác giả nắm vững bản chất
và căm ghét bọn thực dân Pháp như đối với bọn quan lại tay sai thì dù trước
Cách mạng nhà văn không tả được lũ chúng, sau Cách mạng, trong sáng tác
của mình nhà văn cũng có thể có nhiều thành công hơn. Phải chăng, ngày
xưa Nguyễn Công Hoan ghét Tây chủ yếu về tính chất dâm bạo và sinh hoạt
lố lăng hơn là căm thù bản chất thâm hiểm độc ác của chúng, cho nên nhà
văn không quan sát kỹ được chúng, ngày nay mô tả chúng tất nhiên khó sắc
sảo. Thêm nữa, trong cái vốn sống phong phú về xã hội những điều tác giả
cảm thụ sâu sắc, về cơ bản đã viết rồi, nay có viết lại cũng khó hay hoặc có
chỗ trở thành lặp lại, như việc tả bọn quan lại,v.v…
Trước Cách mạng, Nguyễn Công Hoan là nhà giáo chưa trực tiếp tham
gia cách mạng. Sau ngày khởi nghĩa, Nguyễn Công Hoan đã hòa nhịp dần
với cuộc sống mới. Nhưng do vị trí công tác, do thiếu điều kiện để đi sâu lâu
dài vào những mũi nhọn của cuộc đấu tranh cách mạng, nên Nguyễn Công
Hoan vẫn chưa bù đắp được đầy đủ những thiếu thốn của mình. Nhà văn đã
có lần thú nhận điều này với các bạn viết trẻ. Tất nhiên cũng nên thông cảm
là từ những năm sau hòa bình, nhà văn đã có tuổi, sức khỏe kém đi, nên sự
lăn lộn của mình ở những nơi mũi nhọn của sản xuất, chiến đấu có bị hạn
chế. Trong khi đó con người mới đã tiến những bước kỳ diệu, nhu cầu thẩm
mỹ và trình độ nhận thức của quần chúng bạn đọc cũng không ngừng được
nâng cao, làm cho nhà văn càng khó có điều kiện theo kịp. Thực tế, Nguyễn
Công Hoan đã phần nào nhận ra chỗ mạnh, chỗ yếu của ngòi bút mình.
***
Nghiên cứu để góp thêm một tiếng nói nhỏ đánh giá Nguyễn Công
Hoan sau Cách mạng, chúng tôi chợt nghĩ đến một nhận xét chí lý của tác
giả: “Không ai có thể nâng giá trị cho một người viết văn đến mức chưa xứng
đáng, cũng như không ai có thể dìm giá trị của một nhân tài”.
Nguvễn công Hoan là nhà văn lão thành, có tài, có nhiều đóng góp xuất
sắc trước Cách mạng; sau Cách mạng, nhà văn cũng viết được một số truyện
ngắn, bút ký khá hay, một số đoạn truyện dài có giá trị, chưa kể nhiều kinh
nghiệm viết văn và một số bài nghiên cứu có công phu. Những nhược điểm
của tác giả đều là do không tự giác, chứ không cố ý viết những điều sai trái.
Điều đáng quý nhất của nhà văn sau Cách mạng là sức làm việt dẻo dai và
nhất là sự chân thực, nhiệt tình đối với sự nghiệp cách mạng. Những nhược
điểm của mình do nhà văn thành thật nói ra, cũng để lại nhiều kinh nghiệm
quý cho lớp người viết trẻ trên đường kế tục sự nghiệp của những bậc đàn
anh. Tìm hiểu sự nghiệp sáng tác của Nguyễn Công Hoan, chúng ta còn có
thể rút ra nhiều kinh nghiệm bổ ích cho sáng tác, nghiên cứu và lý luận.
NGUYÊN HỒNG và quá trình sáng tác của anhNếu có những người chỉ qua “trường đời” mà trở thành nhà văn thì phải
kể Nguyôn Hồng vào số ấy. Sinh ra và lớn lên trong một gia đình đang thời kỳ
sa sút, anh không có đủ điều kiện theo học lên những bậc cao. Nhưng để bù
lại sự thãt học đó, anh đã sớm bắt rễ được vào cuộc đời của những người
nghèo khổ. Đấy là nét nổi bật ở Nguyên Hồng, nó để lại dấu ấn khá đậm trên
mỗi bước đi trong quá trình sáng tác của nhà văn.
Thời thơ ấu cực khổ đã dạy cho anh biết xót thương những con người
cùng cảnh ngộ và lòng thương xót đó đã khiến anh viết nên những trang ca
ngợi và bênh vực họ. Có lẽ chính vì họ mà Nguyên Hồng đã sớm cầm bút, và
cũng chính nhờ viết về họ mà anh đã sớm thành công. Không giống với nhiều
cây bút cùng thời, đi vào làng văn một cách lặng lẽ, dần dà, Nguyên Hồng
xuất hiện trong làng văn ấy khá đột ngột, với một số truyện ngắn rối tiếp luôn
đến tác phẩm nổi tiếng Bỉ vỏ (trích đăng báo –1937; xuất bản – 1938). Sau Bỉ
vỏ là Những ngày thơ ấu (đăng báo – 1938; xuất bản –1941), rồi đến Bảy
Hựu (1941). Tâm hồn non trẻ, trắng trong của nhà văn lúc này, một tâm hồn
dạt dào tình thương và lòng nhân đạo, đã đem lại cho văn chương đương
thời cái nhìn với nhiều đổi mới về cuộc sống và con người. Dưới ngòi bút của
anh, cả đến một cô gái điếm và một kẻ lưu manh “chạy vỏ” cũng hiện lên như
những con người có tình yêu chân thành và có lòng nhân đạo.
Tuy nhiên, vì tuổi đời còn ít và vốn sống tích lũy được chưa phải đã
nhiều, cho nên nhà văn không tránh khỏi một cái nhìn còn ít nhiều lý tưởng
đối với cuộc sống nay đây mai đó của mọi hạng lưu manh. Anh chưa phân
biệt được trong số ấy, đâu là những con người lương thiện, bị cuộc sống xô
đẩy đến cùng cực rồi trở thành lưu manh, mà trong thâm tâm vẫn luôn luôn
dằn vặt, đau khổ, chỉ mong có ngày được trở lại sống cuộc đời lương thiện;
và đâu là những kẻ tự nguyện chọn nghề “Chạy vỏ” để sống. Anh chỉ thấy họ
đều nghèo khổ và đều đáng thương như nhau, vì vậy anh đã gắn cho họ
những phẩm chất cao quý như nhau: tính hào phóng và tâm hồn rộng mở,
lòng thương yêu và sự đùm bọc nhau khi xảy ra tai nạn hay lúc gặp khó khăn
và tinh thần sẵn sàng hy sinh vì bạn.
Rất có thể, sau Bỉ vỏ, Những ngày thơ ấu và Bảy Hựu, Nguyên Hồng
sẽ còn bị hạn chế lâu nữa trong cái nhìn thương người một cách chung chung
ấy, nếu như anh không bắt được vào huyết mạch của ngọn lửa cách mạng
đang âm ỉ cháy trong lòng giai cấp công nhân lúc ấy. Nhưng nhờ từ nhỏ
Nguyên Hồng vẫn sống giữa những người lao động nghèo khổ và nhờ chịu
ảnh hưởng mạnh mẽ của Đảng trong thời kỳ Mặt trận dân chủ, cho nên đến
lúc này anh đã phần nào hiểu được và gắn bó với phong trào đấu tranh của
giai cấp công nhân. Do đó, từ cái nhìn nhân đạo chung chung, anh dần dần
chuyển sang một cái nhìn ít nhiều có mang tính chất giai cấp, nghĩa là anh đã
hướng cảm tình của mình về phía những người lao động, viết tác phẩm ca
ngợi cuộc đấu tranh kiên trì và tất thắng của họ – Người đàn bà Tầu (1939).
Ở đây, bằng một bút pháp rất gần với bút pháp của các nhà văn hiện thực xã
hội chủ nghĩa, Nguyên Hồng miêu tả cuộc bãi công, trong một quy mô rộng
lớn chưa từng thấy, của anh chị em công nhân thành phố Hải Phòng vào
tháng 6 năm 1939, giữa cao trào cách mạng trong cả nước. Qua hình ảnh
một bà mẹ Trung Quốc chạy loạn sang Việt Nam, tự nguyện tham gia vào
cuộc đấu tranh này, nhà văn đã nói lên được mối tình đoàn kết của nhân dân
Việt Nam với giai cấp công nhân quốc tế. Tác giả đặc biệt nhấn mạnh vào ý
thức giai cấp và tinh thần đồng chí ở những người công nhân đã được cách
mạng giác ngộ và đã biết đoàn kết thành một đội ngũ có tổ chức, có kỷ luật để
tiến hành đấu tranh chống bọn tư bản chủ xưởng. Nhà văn khẳng định rằng,
nhờ có sự giác ngộ giai cấp ấy, có ý thức tổ chức và kỷ luật ấy, có tinh thần
đoàn kết nội bộ và quốc tế ấy mà cuộc đấu tranh đã kết thúc hoàn toàn thắng
lợi. Có thể nói, Người đàn bà Tầu là đỉnh cao của tư tưởng Nguyên Hồng
trước Cách mạng. Bởi vì từ sau tác phẩm này, nhà văn không còn tiếp tục đi
vào đề tài công nhân nữa, mà anh đi theo hướng của Những ngày thơ ấu,
nghĩa là hầu như chỉ thu hẹp sáng tác mình trong phạm vi miêu tả cuộc sống
của một thanh niên tri thức tiểu tư sản nghèo. Anh viết một loạt tác phẩm:
Cuộc sống (1942), Miếng bánh (viết vào khoảng 1943, xuất bản – 1945), Hơi
thở tàn (1943), Ngọn lửa (1944). Nhân vật chính ở đây thường là một thanh
niên tương đối có học và có lý tưởng nhưng vì cùng túng mà phải lận đận,
thậm chí cuối cùng chết trong nghèo đói. Nhưng điểm đáng quý ở họ là tinh
thần lạc quan, họ luôn tin tưởng ở một ngày mai xán lạn sẽ đến trong cuộc
đời họ. Và chính tinh thần lạc quan ấy đã giúp họ có đủ nghị lực để sống, và
cao hơn, để làm cách mạng (như Giang trong Ngọn lửa). Cũng chỉ từ Ngọn
lửa ta mới lại thấy thấp thoáng trong tác phẩm của Nguyên Hồng bóng dáng
người cộng sản, và mới lại thấy anh có nhắc tới phong trào công nhân. Cũng
cần phải nói thêm là, ở giai đoạn này, Nguyên Hồng có một tác phẩm hơi lạc
lõng so với toàn bộ sáng tác của anh – đó là truyện Lưới sắt, miêu tả tâm
trạng có phần hoảng hốt của một người đã từng tham gia cách mạng và bị
bắt, vừa được tha từ Côn Đảo về. Tác phẩm này đáng ra không nên có trong
sáng tác của nhà văn. Tuy nhiên, nhìn chung trước Cách mạng tháng Tám,
Nguyên Hồng vẫn là một trong những nhà văn giác ngộ cách mạng sớm. Vì
vậy chúng ta không ngạc nhiên khi, sau hàng loạt tác phẩm nhàn nhạt như
Cuộc sống, Miếng bánh, Hơi thở tàn, v,v… anh lại viết được tác phẩm giá trị
như tập Địa ngục và Lò lửa (xuất bản 1946). Ở đây tác giả đề cập tới hai vấn
đề lớn của giai đoạn lịch sử ấy: nạn đói khủng khiếp đang lan tràn như một
bệnh dịch trong cả nước và phong trào cách mạng đang dâng lên như nước
vỡ bờ. Nói là hai vấn đề, nhưng thực chất chúng chỉ là một, hay đúng hơn,
chúng gắn bó với nhau, khăng khít trong một quá trình biện chứng. Chính cái
“địa ngục” của sự đói nghèo cùng cực đã là nguyên nhân thúc đẩy con người
đi vào một cuộc thử thách lớn lao, vào “lò lửa” cách mạng. Đau lòng biết bao
khi ta đọc những trang trong Người học trò, Vũng máu, Đi, Tiếng nói và Tàu
đêm. Nhưng cũng qua những trang đó, chúng ta mới có thề khẳng định được
cách mạng là tất yếu, con người sống khổ hơn cả kiếp ngựa trâu thì làm sao
còn chịu mãi một bề. Họ sẽ phải đứng lên. Và quả là như vậy, Nguyên Hồng
đã cho ta thấy rõ cái quá trình tức nước phải vỡ bờ ấy. Qua tác phẩm của
anh, chúng ta thấy những người chiến sĩ cách mạng thật dũng cảm, kiên
cường (Nam trong Lò lửa và bà cụ Việt trong truyện ngắn cùng tên).
Tuy nhiên phải nhận rằng, tác giả viết về những cảnh “địa ngục” đạt
hơn về “lò lửa”. Trước mắt chúng ta như hiện lên những làng quê đang “lịm
dần, lịm dần” trong cơn vật lộn với cái đói đến kiệt sức và những phố xá với
cái cảnh ăn mày “lũ lượt… tràn hết mọi ngả. Họ đi như thế rồi mà lả đi…”
(Lửa thiêng); và mặc dầu có một vài trang ngòi bút nhà văn hơi tự nhiên chủ
nghĩa, khi anh đưa vào tác phẩm mình cả những chi tiết ghê sợ, rợn người,
song lại có những trang anh cho ta thấy con người, ngay cả trong khi đói,
cũng vẫn giữ được nhân cách của mình. Chẳng hạn như các nhân vật trong
Tiếng nói và Tàu đêm. Tiếng nói kể lại câu chuyện một người đàn ông thà
chịu chết đói chứ nhất định không chịu đi ăn mày, không chịu sống bám vào
lòng thương của người khác, nhất đấy lại là lòng thương hại của những kẻ
giàu sang; anh ta chỉ có một nguyện vọng duy nhất là được đi làm để nuôi
thân. Nhưng cuộc sống đã cùng quẫn đến mức cả cái nguyện vọng nhỏ nhoi
ấy cũng không sao tìm được nơi thực hiện. Truyện Tàu đêm kể, có hai mẹ
con đã đến bước đường cùng, người mẹ phải thắt ruột lại mà ném con xuống
sông, rồi mình cũng nhảy xuống chết theo. Những tác phẩm như thế có một
giá trị tố cáo lớn. Nó vạch cho thấy hết sự tăm lối và bế tắc của cái địa ngục
trần gian là xã hội Việt Nam những năm trước Cách mạng. Nhưng ngược lại,
những tác phẩm của anh viết về đề tài cách mạng thì lại có phần hơi yếu. Hai
nhân vật Nam và bà cụ Việt được miêu tả còn sơ sài, và điều cơ bản là, các
nhân vật ấy vẫn mắc cái nhược điểm cố hữu của nhiều nhân vật Nguyên
Hồng là thuyết lý nhiều, nhất là bà cụ Việt. Suốt từ đầu đến cuối truyện, ta
toàn thấy bà cụ lúc thì giảng giải cho mọi người: “Cả ông Nhật cũng là giống
đi ăn cướp”, lúc thì kêu gọi: “Chúng ta phải thoát đời trâu ngựa,., phải sống
cho ra người”, v.v… và v.v… mà không thấy tác giả miêu tả hành động nào
của nhân vật cả. Người đọc có cảm giác như đây chỉ là một con người tượng
trưng chứ không phải con người thực, thay tác giả đứng ra để nói lên những
nhận thức của nhà văn về cách mạng. Ngoài hai đề tài về đói và cách mạng,
truyện Buổi Chiều, xám (trong Địa ngục và Lò lửa) còn đề cập tới đề tài chiến
tranh. Nhà văn đã thành công trong việc lên án một cuộc chiến tranh đế quốc,
gây đau thương tang tóc cho con người; anh đã nói lên được tâm trạng chán
chường của những người lính đánh thuê: họ thà chọn cái chết còn hơn đi làm
bia đỡ đạn để làm giàu cho một lũ “lái súng khát vàng và máu”.
Có thể nói, Địa ngục và Lò lửa là một mốc mới trong quá trình sáng tác
của Nguyên Hồng, nó đánh dấu bước chuyển biến không những trong tư
tưởng của nhà văn mà cả trong đời sống xã hội. Hay đúng hơn, phải nói
ngược lại, sự chuyển biến trong đời sống xã hội, cuộc Cách mạng tháng Tám
thành công đã dội vào tư tưởng của nhà văn và cuốn người cầm bút vào
dòng thác cuồn cuộn của mình, buộc anh phải quan tâm tới nó, phải phản ánh
những vấn đề của nó. Và Nguyên Hồng, tuy chưa dám tự mình lao thẳng vào
dòng thác ấy, nhưng cũng đã phần nào để cho nó cuốn mình theo. Và anh đã
viết tác phẩm ca ngợi cách mạng với tất cả tấm lòng khâm phục và ngưỡng
mộ.
Nhưng sự thắng lợi của cách mạng không phải lúc nào cũng hiện ra
rầm rộ, ồ ạt và vui như một ngày hội lớn, mà thắng lợi đó còn đòi hỏi phải
được bảo vệ bằng những quá trình đấu tranh gay go quyết liệt. Cuộc kháng
chiến chống Pháp là một giai đoạn trong quá trình đấu tranh như thế. Và như
chúng ta đã biết, đấy là thời kỳ thử thách không phải chỉ riêng với Nguyên
Hồng mà còn là chung cho hầu hết các nhà văn có quá trình sáng tác từ
trước Cách mạng. Nhưng không ít người trong số họ đã vượt qua được thử
thách ấy một cách không đến nỗi quá chật vật, bởi vì họ có một quyết tâm cao
đi vào cuộc sống lao động, chiến đấu của quần chúng để tự cải tạo mình. Các
nhà văn này ngay trong kháng chiến đã viết được những tác phẩm có giá trị,
đánh dấu một thời kỳ lịch sử. Còn một số nhỏ các nhà văn khác, thì do
nguyên nhân này hay nguyên nhân khác đã không làm được như thế. Có lẽ
Nguyên Hồng thuộc loại này. Trong suốt chín năm kháng chiến, anh không
viết được bao nhiêu: Vài tập ký: Đất nước yêu dấu (1949), Đêm giải phóng
(1951); mấy tập truyện ngắn: Dưới chân cầu Mây (1951), Giữ thóc (1955)
mỏng cả về số trang cũng như số phận.
Thế nhưng, khi kháng chiến thành công, đất nước mang vòng hoa chói
lọi và ngày hội chiến thắng lại đến, thì nhà văn hình như cũng sống lại cùng
với cái không khí hòa bình. Tất nhiên, lúc này cũng còn biết bao nhiêu khó
khăn to lớn mà chúng ta sẽ phải vượt qua; nhưng dù sao, đối với nhà văn,
tiếng bom đạn cũng đã im và con người đã có thể sống một cách tương đối
yên ổn. Và Nguyên Hồng lại xông xáo đi vào thực tế. Anh về lại Hải Phòng,
nơi trước kia anh đã từng nhiều năm lăn lộn, và lại bắt ngay được vào mạch
sống của thành phố, đối với anh đã trở thành gần như quê hương. Và không
lâu sau đó, anh đã có tác phẩm ra đời. Đầu tiên là tập thơ Trời xanh (1961)–
tràn đầy tình yêu thiên nhiên hùng vĩ và đất nước giàu đẹp đang thay da đổi
thịt. Rồi tiếp theo là phác thảo của một bộ tiểu thuyết cỡ lớn Cửa biển (lúc
đầu nhà văn định viết thành ba tập, nay dần dần đã thành bốn) mà anh đã
hoàn thành ba tập đầu, với một số trang có thể nói nhiều vào loại hiếm có ở ta
– gần một nghìn rưỡi trang. Tập I – Sóng gầm – ra đời năm 1961; tập II – Cơn
bão đã đến – hoàn thành năm 1968; và gần đây nhất, năm 1973, Nguyên
Hồng đã cho in tập III – Thời kỳ đen tối. Song song với bộ tiểu thuyết lớn này,
nhà văn còn viết một tập hồi ký – Bước đường viết văn (in năm 1970) – ôn lại
những kỷ niệm cũ trong cuộc đời sáng tác, nhưng trang sách đầu tay và cái
không khí văn chương những năm xã hội Việt Nam đang trong cơn chìm nổi.
Ngoài ra, anh còn viết một số truyện ngắn đăng trên báo Văn nghệ. Trong số
này nổi bật nhất là truyện Cháu gái người mãi võ họ Hoa kể về sự đổi thay
trong cuộc đời một gia đình Hoa kiều trước và sau Cách mạng.
Tuy nhiên, không phải Nguyên Hồng đã hoàn toàn khắc phục được
những nhược điểm cũ của mình: cái chủ nghĩa nhân đạo chung chung ban
đầu ở anh có lúc đã trở lại (trong Chnyện cái xóm tha hương ở cửa rừng suối
Cát và con hùm bồ côi); và cũng do thiếu cảnh giác mà trong thời kỳ Nhân
văn–Giai phẩm, Nguyên Hồng có lúc đã không nhận ra được tư tưởng phản
động của bọn này.
Nhưng những ưu điểm và nhược điểm của sáng tác Nguyên Hồng sau
Cách mạng biểu hiện rõ nét nhất và tập trung nhất trong bộ tiểu thuyết lớn
Cửa biển của anh, mà chúng ta đã được đọc ba tập (Sóng gầm, Cơn bão đã
đến và Thời kỳ đen tối), viết về xã hội Việt Nam những năm tiền Cách mạng.
Ở đây, cũng như trước kia, anh tỏ ra rất thông thuộc về cuộc sống của
lớp dân nghèo xóm thợ. Chính nhờ vậy mà anh đã thành công trong việc xây
dựng một số nhân vật, thậm chí, một số gia đình tiêu biểu cho lớp dân nghèo
xóm thợ ấy. Đấy là nhà mẹ La, cực khổ và cùng quẫn. Một mình mẹ đi làm
nuôi ba con nhỏ, lại thêm bị người chồng nghiện rượu luôn luôn hành hạ. Cứ
lúc nào “bòn không ra sờ không thấy” thì lão lại mò về, để ăn hại, để bòn rút
và… để làm cho mẹ La lại phải đẻ thêm một đứa con; rồi lão lại bỏ đi. Cũng
vào một lần lão La mò về như vậy, mà trong nhà mẹ La đã xảy ra tấn bi kịch
đến nỗi gia đình tan nát: lão La đói rượu quá đã liều mạng đem cầm chiếc nồi
đồng của nhà mẹ Xim, hôm trước thằng La mượn luộc khoai. Mẹ La giận lão
đến bầm gan tím ruột, mẹ ngồi sẵn ở cửa chờ lao về, và lão La chỉ vừa loạng
choạng bước vào nhà, mẹ đã phang ngay cho lão một thanh gỗ vào chân. Cái
chân lành còn lại của lão thế là què nốt! Đêm ấy, đau đớn quá, lão La đã tự tử
chết ở bờ ao. Mẹ La thì bị bắt đi tù vì tội ”giết chồng”. Ba đứa con nhỏ ở lại bơ
vơ.
Cái cảnh sẩy đàn tan nghé ấy đã diễn tả không phải chỉ với gia đình mẹ
La. Nhà ông Dâng Cũng vậy. Bỗng dưng vô cớ thì một tai vạ ập đến: ông
Dâng bị cảnh sát bắt vì khám thấy trong nhà ông có mấy mảnh vải; Con chim
mà Gái đen vừa mua lại đượcc cho ông, chắc là của bọn ăn cắp. Ông bị đánh
đập tàn nhẫn; ức quá ông Dâng đã cắn lưỡi tự tử chết trong nhà giam. Dâng
phải vào làm con ở cho nhà Thy San, còn chị em Ngọt chẳng biết tha phương
cầu thực nơi nào.
Gia đình cụ Cam tuy không đến nỗi như thế, nhưng cũng đã trải qua
một tấn bi kịch đau lòng. Gái đen lúc đầu thảo lảo, xởi lởi và đáng yêu là thế
mà rồi về sau hóa ra sa ngã; và kết quả cuối cùng cũng lại là cái chết. Cái
chết vừa là hình phạt đối với Gái vì sự phản bội, mà cũng lại vừa là sự giải
thoát cho Gái khỏi mọi nỗi day dứt, đau khổ vì sự ruồng rẫy của những người
thân yêu (một bên là ông nội Gái, cụ Cam; và bên kia là Kiều, người Gái bấy
lâu dan díu). Cái chết của Gái càng bi thảm hơn bên cạnh cái chết của cha
Gái ngoài Côn Đảo. Người cha đã hy sinh vì hết lòng đấu tranh cho lý tưởng
cách mạng, còn người con gái lại chết vì đã xa rời cái lý tưởng đó.
Nói chung trong cuộc sống tối tăm khổ cực trước Cách mạng, những
cảnh bi thảm như thế là rất thường gặp, nó như không thể nào tránh khỏi đối
với bất cứ ai, với bất cứ một gia đình cùng túng nào. Vì nghèo mà họ phải
chịu mọi nỗi oan khiên, cũng vì nghèo mà họ trở nên tàn nhẫn, cắn rứt nhau,
có khi đánh đập nhau. Chỉ đến lúc tấn bi kịch đã xảy ra rồi, họ mới ân hận,
dằn vặt thì đã quá muộn. Chính cái tâm trạng thương chồng da diết, thương
con đến điên dại, liều lĩnh của mẹ La là biểu hiện nỗi niềm ân hận ấy. Nhưng
cũng lại chính những con người lúc thường có thể đánh nhau, chửi nhau mất
mặn mất nhạt như thể, lại hết sức thương yêu đùm bọc nhau khi tối lửa tắt
đèn. Nhà Thanh hết gạo, mẹ con Thanh lặng lẽ nhịn ăn. Nhưng Gái đen đã dò
biết được, và Gái đã tự tay chia sẻ bớt số gạo mà cô lấy cắp được và quét
được ở ngoài kho, mang sang cho cái Ngơ, nói dối là mẹ nó nhờ Gái mua hộ.
Hơn thế nữa, bà con trong xóm lại còn bàn nhau tìm cho Thanh một công việc
để kiếm ăn. Thế là Thanh nghiễm nhiên trở thành cậu giáo dạy đám trẻ con
của những người hàng xóm nghèo khổ ấy. Nhờ đó, gia đình Thanh thoát khỏi
được cảnh sống bữa đói bữa no.
Nhưng mặt khác, qua gần một nghìn rưỡi trang sách của ba tập Sóng
gầm, Cơn bão đã đến và Thời kỳ đen tối, chúng ta chưa hình dung nổi, rồi
đây những con người lao động nghèo khổ như mẹ La, như Dâng, như Ngọt
v.v… kia làm thế nào mà đến được với cách mạng, bởi vì đối với họ, cách
mạng còn xa vời quá. Chỉ có Gái đen là người có triển vọng nhất trong số ấy,
thì cuộc đời Gái lại rẽ vào một con đường hoàn toàn lạc: Gái đi buôn lậu, rồi
Gái mê Kiều (một tên chỉ cách mạng mồm và cuối cùng quay ra phản bội) mà
bỏ cả gia đình, cả bè bạn; và kết quả là Gái chết một cách thảm thương, để
lại đứa con vừa lọt lòng mẹ. Thực ra, gia đình Gái là một gia đình có truyền
thống cách mạng lâu đời: cụ Cam (ông nội Gái) đã từng là nghĩa quân của Đề
Thám, cha Gái (bác Quất) hoạt động cách mạng bi bắt đày ra Côn Đảo rồi
chết ở ngoài ấy; còn Cam em trai Gái) nay cũng đã bắt đầu đi vào con đường
của ông và cha nó; rồi cả bản thân Gái nữa, từ trước đến giờ Gái vẫn tự hào
vì cha mình, vẫn sống rất tốt. Vậy mà bỗng nhiên Gái biến chất. Làm sao có
thể giải thích được hiện tượng này?
Còn những nhân vật được nhà văn miêu tả như những chiến sĩ cách
mạng ngay từ đầu, như Chấn, Lương, Tò Gầy, Xim, bác Vy và cả Sấm nữa,
nói chung đều còn mờ nhạt, họ hầu như chưa có tính cách, chưa diện mạo rõ
ràng. Tất nhiên, ở một số cảnh, một số trang, tác giả đã có những thành công.
Chẳng hạn, những trang anh tả sinh hoạt của các chiến sĩ cách mạng trong
nhà tù, đặc biệt là Tô Gầy, một con người đã sinh tất cả vì sự nghiệp của
Đảng; và đối lập với anh, là Kiều, một kẻ đầu hàng, phản bội, sợ chết; những
trang tả cuộc gặp gỡ của hai vợ chồng Sấm trong căn phòng hỏi cung thật
xúc động. Phải được sống qua, hay ít nhất cũng phải được chứng kiến những
cảnh và những người ấy, nhà văn mới viết nổi những trang như thế.
Riêng đối với nhân vật tiểu tư sản, mà ngay từ đầu quá trình sáng tác,
Nguyên Hồng đã chú ý tới một cách ít nhiều đặc biệt, thì ở đây cũng thế. Anh
đã dành cho Thanh một số trang đáng kể, và về mặt nào đó, phải nhận rằng
anh đã thành công, hay ít ra thì cũng đã trung thực trong việc miêu tả con
người và cuộc sống của Thanh. Có lẽ, Thanh là loại nhân vật mà tác giả hiểu
kỹ hơn bất kỳ một loại người nào khác; có thể nói, anh hiểu họ như hiểu chính
bản thân mình. Vì vậy mà anh đã chộp được rất đúng, như người bắt quả
tang những suy nghĩ thầm kín không lấy gì làm đẹp đẽ, cũng như những biểu
hiện yếu đuối và những giờ phút dao động thoáng qua trong Thanh. Chỉ tiếc
là anh vẫn chưa có được một cái nhìn thật đổi mới đối với bản chất tiểu tư
sản của nhân vật này. Anh chưa phê phán được một cách triệt để những mặt
hạn chế trong tư tưởng cũng như trong hành động của Thanh. Chẳng hạn,
thái độ dao động của anh ta khi phong trào cách mạng xuống hay thái độ
thèm khát đến ghen tị của Thanh đối với cuộc sống tư sản giàu sang và hành
động mê muội của anh ta với Giáng Hương. Điều này chứng tỏ tư tưởng của
chính bản thân nhà văn còn có chỗ bị hạn chế, anh cũng chưa có được một
cái nhìn sáng suốt đối với bản chất của bọn này.
Có lẽ cũng vì vậy mà dưới ngòi bút của tác giả, các nhân vật thuộc giai
cấp tư sản như Giáng Hương, Huệ Chi và cả Thy San nữa, đã hiện lên với
nhiều nét đẹp. Thực ra mà nói, có lẽ anh mới chỉ thấy cái bề ngoài đẹp đẽ giả
tạo của chúng chứ chưa thấy hết cái xấu xa bên trong, cái bản chất bóc lột,
ăn bám và thối nát của chúng. Nhìn vào Giáng Hương, anh thấy (hay nếu
không thì anh cũng đã cho chúng ta thấy), đấy là một người đàn bà có tâm
hồn phóng khoáng, rất nghệ sĩ mà lại cũng hết sức mực thước, vừa học rộng
có tài, rất thông minh, thanh lịch và xinh đẹp vào loại hiếm có; lại vừa tỏ ra
giản dị, khiêm nhường và có vẻ rất bình dân trong sinh hoạt hằng ngày. Cũng
như Giáng Hương, Huệ Chi lại là tấm gưong về lòng trong trắng và trinh bạch
của người con gái, được biểu hiện một cách tượng trưng và kín đáo qua hình
ảnh những bông huệ và những bông hồng trắng, hai thứ hoa mà Huệ Chi vẫn
ưa dùng. Còn Thy San thì đẹp trai, lịch lãm và khi cần, lại có thể tỏ ra là một
con người có tinh thần chống đối nữa. Chẳng hạn, khi Đờ Vanh-xi rủ y họp
tác với hắn trong việc chuyển cảng Hải Phòng ra Hồng Gai. Thy San thấy đây
chưa phải là cơ hội tốt nhất để cho mình kiếm lời, nên đã từ chối. Nhưng y lại
làm ra vẻ như mình là một người cao thượng, khinh ghét bọn cướp nước:
“Được! Con cáo già và chó đói này (chỉ Đờ Vanh-xi) sẽ phải thấy một người
Việt Nam như thế nào!”, rồi lại chửi thầm Đờ Vanh-xi: “Hừm, họ Đờ quý tộc
Pháp đấy! Một bằng kỹ sư quèn. Lại là quan ba nữa! Vừa bao thầu làm các
đường tàu, kho, bến, doanh trại, cầu cống, chợ búa… lại còn ngoạm vào cả
cứt nữa…”. Những câu chửi kể cũng khá cay độc, vạch ra được bản chẩt bẩn
thỉu của bọn thực dân; nhưng giá nó là lời của một nhân vật trí thức tiến bộ
nào đó thì hợp hơn, chứ còn về Thy San nói những câu ấy thì có vẻ không
thật, vì nó thốt ra từ một cái miệng vốn cũng không lấy gì làm sạch sẽ.
Như vậy chúng ta thấy, Nguyên Hồng sau Cách mạng chỉ là sự kế tiếp
một cách lô-gích Nguyên Hồng những năm trước Cách mạng, nhưng hình
như trong anh chưa có bước phát triển nhảy vọt.
Cho nên, khi đánh giá Nguyên Hồng, trước tiên cần khẳng định ở anh
những đóng góp đáng kể với tư cách là một nhà văn hiện thực phê phán tiến
bộ nhất, tiếp cận gần nhất với cách mạng, anh không chỉ hiểu cách mạng mà
còn viết về cách mạng, cũng không phải chỉ viết một cách cảm tính, mà ít
nhiều có quan điểm, có lý luận. Quan điểm nghệ thuật có bản nhất mà anh
nhiều lần khẳng định qua các tác phẩm của mình là: sự đòi hỏi nghệ thuật
phải nhất thiết gắn liền với cuộc sống, phải phục vụ cuộc sống một cách thiết
thực. Lần lại các tác phẩm của anh, ta sẽ thấy rõ điều ấy. Trong Cuộc sống,
anh viết: đối với người cầm bút “không có gì cô độc và nhỏ nhen bằng phải xa
Người” (chỉ cuộc sống)… “hay bị lìa Người bởi sự nghèo nàn và ích kỷ của
tâm hồn ta” và cũng như vậy, đối với “bất cứ một tác phẩm nghệ thuật nào
thiếu những cái đó (chỉ cuộc sống) là không có tất cả, là chết!”. Trong Hơi thở
tàn, anh khẳng định: những nhà văn nào chỉ say theo “những cái mộng phiêu
lưu với rừng, biển, trăng và những tình yêu thi vị” thì không mang lại gì cho
cuộc đời. “Trăng sáng, trời cao và không khí trong xanh gợi ra trên kia Sinh
vẫn trông ngắm đấy, mà Sinh có thấy vui sướng đâu?” Và đến Ngọn lửa thì
nhà văn tự kiểm điểm lại mình: “Trước kia sự viết đối với An chỉ là để cởi mở
những xúc động”, để “tự lừa dối và lừa dối bao người bằng những danh từ
văn hoa, đẹp đẽ, làm sai lệch, lầm lẫn cả sự nhìn nhận cuộc đời, gây cho
mình và chung quanh một cái u mê giữa những khốn nạn không được tìm
hiểu, giải thoát mà lại thấy thi vị nữa”. Và anh tự đặt cho mình nhiệm vụ phải
hoàn toàn cải tạo mình: “Cuộc sống phải được nhìn nhận khác hẳn từ đây(…)
với một tinh thần mới của An, cuộc sống không còn là những cớ để An rên
xiết ủ rũ nữa. Cuộc sống phải là những kích thích không ngừng của những
tha thiết yêu thương mới, của những chứa chan tin tưởng mới, của sự nỗ lực
mới làm việc trên cái mặt đất mà không còn ai dám thấy mình tàn héo và chắc
chắn phải thay đổi, xóa bỏ hết những đói khổ, đau xót”. Quan điểm này rất
gần với tư tưởng của các nhà văn hiện thực xã hội chủ nghĩa.
Cho nên, tiếng nói mới, riêng biệt của Nguyên Hồng góp vào dòng văn
học hiện thực phê phán, về căn bản vẫn là một tiếng nói yêu thương, nhân
đạo, có phê phán, nhưng không mỉa mai, trào lộng như Nguyễn Công Hoan,
không chì chiết và đau đớn như Nam Cao, hay sâu sắc nặng nề như Ngô Tất
Tố, mà sôi nổi, lạc quan, tràn đầy một lòng tin ở ngày mai tươi sáng vì nhìn
thấy được những phẩm chất đẹp đẽ ở những con người nghèo khổ hôm nay.
Từ sau Cách mạng, Nguyên Hồng vẫn tiếp tục viết về các đề tài cũ và
cũng đã có những đóng góp đáng kể vào nền văn xuôi sau Cách mạng với
các tác phẩm Địa ngục và Lò lửa và bộ bốn tiểu thuyết Cửa biển. Nhưng nhìn
chung, sự đổi mới về mặt phương pháp sáng tác ở anh chưa phải đã thật sâu
sắc, trọn vẹn.
Chúng ta không đòi hỏi các nhà văn lớp trước Cách mạng phải rời bỏ
những đề tài về xã hội cũ. Nhà văn vẫn có thể dùng vốn cũ của mình để phục
vụ tốt cuộc sống hiện tại, nhưng phải với điều kiện luôn luôn gắn mình với
những yêu cầu mới, với tình hình và nhiệm vụ chính trị mới của cuộc cách
mạng hiện nay. Bởi vì, dù viết về quá khứ đi nữa, nhà văn vẫn phải đặt nhiệm
vụ của mình là đóng góp phần giải quyết những vấn đề nóng hổi của thời đại,
chứ không phải cứ viết một cách tự nhiên, cứ trình bày tất cả mọi kiến thức
của mình về xã hội cũ một cách xô bồ là được. Chúng ta muốn đọc những tác
phẩm viết về xã hội cũ với một cái nhìn và một phương pháp sáng tác hoàn
toàn mới – cái nhìn của một con người thời đại và phương pháp hiện thực xã
hội chủ nghĩa.
NGUYỄN TUÂN trong tùy bútTên tuổi Nguyễn Tuân gắn với trào lưu lãng mạn trong văn học Việt
Nam những năm đại chiến thế giới thứ hai. Đó là một thứ lãng mạn tiêu cực,
thoát ly cuộc sống, với sự đề cao tuyệt đối chủ nghĩa cá nhân hưởng lạc, có
mặt nào đó muốn như là một sự phản ứng với thực tại, nhưng lại gây ra nhiều
ảnh hưởng tiêu cực đối với cuộc sống lúc này. Đúng như nhận xét của Như
Phong trong bài Về mấy khuynh hướng phức tạp trong văn học gần đây (Bình
luận văn học, Nxb. Văn học, 1964): “Nguyễn Tuân ngày xưa đã viết những
Vang bóng một thời, Một chuyến đi, Chiếc lư đồng mắt cua, Thiếu quê
hương, và đưa vào văn học nước ta một kiểu người dáng phóng túng mà
bụng ích kỷ, trối kệ cuộc đời, chỉ thích hưởng lạc, chắp tay nâng sự hưởng
lạc lên thành một triết lý, một đạo sống, cho rằng hưởng lạc là khát vọng thoát
ly của những tâm hồn “thanh cao”, phản ứng với đám người “dung tục” quanh
mình, càng biết hưởng thụ cuộc sống một cách cầu kỳ, tinh vi bao nhiêu thì
càng là người đạt bấy nhiêu… Hồi đó, thứ nhân sinh quan này cũng chẳng
còn gì mới lạ. Nhà văn tư sản Pháp Ăng-đơ-rê Gi-đơ từ lâu đã đề xướng cái
chủ nghĩa cá nhân đồi trụy và vị kỷ đến cực điểm này, nó nấp dưới những
khẩu hiệu rất hào nhoáng: “sống một cách nhiệt thành”, “sống triệt để”, “phải
dám là mình”. Khuynh hướng tư tưởng ấy sang ta, có ngay một bọn người
chuốc lấy, đưa nó vào đời sống tư tưởng của thanh niên ta hồi bấy giờ.
Những người ấy là cả một lô văn nghệ sĩ: Phạm Văn Hạnh, Nguyễn Tuân, Vũ
Hoàng Chương… Nhiều thanh niên ta hồi bấy giờ đi hát cô đầu, hút thuốc
phiện, săn tìm các thú chơi, nhờ có các nhà văn ấy, đã không thấy mình là hư
hỏng mà còn là người biết sống cho ra sống”.
Thứ chủ nghĩa cá nhân hưởng lạc ấy có thể nói đã được kết tinh cô đặc
trên những trang Nguyễn Tuân. Nó đã được mọi chàng Nguyễn trong các
sáng tác khác nhau của Nguyễn Tuân tuyên bố, và những lời sau đây là của
một trong số đó: “… phải làm cho trọn cái bổn phận tối thiểu của thằng người
đời. Nghĩa là phải sống. Sống với thị dục. Sống với giác quan. Sống bằng xác
thịt. Chỉ có thế là họp với ý muốn của đấng Sáng tạo tối cao và tối linh đã sinh
ra hết thảy muôn vật trên thế gian này” (Phong vị tỉnh xép; Tiểu thuyết thứ
bảy, số 273, 1939). Khoan hãy phê phán cái nội dung chủ trương ấy, nó vốn
là triết lý sống của bọn thống trị, có trong tay mọi quyền lực. Cứ xem đây là ý
nghĩ sai lệch của một người lương thiện. Thì mọi ham muốn đó của những
anh chàng Nguyễn đâu phải là không có giới hạn. Anh hàm muốn xê dịch,
nhưng trên vị trí một anh tiểu tư sản trong xã hội thuộc địa, sự ham muốn xê
dịch của anh chỉ có thể thực hiện trên mấy cung đường ngắn ngủi, quanh
quẩn. Anh ham phát triển giác quan, muốn nếm cho đủ mọi lạc thú: trà, rượu,
hút xách… thì, mặc dù thực dân khuyến khích đấy, anh cũng phải có tiền và
có quyền!
Thất vọng trước hiện tại, nhà văn quay về quá khứ, nhấm nháp những
“vang bóng một thời”, những thú chơi được xem là thanh lịch như ướp hương
cuội, thả thơ… thậm chí với cả những ham muốn dã man, ma quái như buổi
“tiệc đầu lâu”, và cách “chém treo ngành”…
Đào bới mãi trong cái tôi cô đơn, ích kỷ, mặc kệ cuộc đời, đi mãi vào
chủ nghĩa cá nhân hưởng lạc, thế giới Nguyễn Tuân hoàn toàn cách biệt với
cuộc sống nhân dân. Rồi, không tránh khỏi có lúc, nhà văn đi lạc sang một thế
giới khác, cái thế giới kinh dị, ma quái như trong Trên đỉnh non Tản, Báo oán,
Loạn ám… và sau này, Chùa Đàn.
Rốt cuộc thì dù có muốn buông thả cho chủ nghĩa cá nhân tung hoành
ngang dọc, muốn xê dịch trong không gian, hoặc muốn tiến lui theo thời gian,
muốn đi lên “non Tản”, hoặc xuống cõi âm, thế giới Nguyễn Tuân vẫn chỉ là
một thế giới tù túng, chật hẹp, ngột ngạt, thiếu khí trời, và thiếu hơi người.
Có thể nói đó là cả một sự bế tắc nằm trong sự bế tắc chung của nền
văn học công khai, dưới ách thống trị của thực dân trong xã hội cũ. Nếu văn
học hiện thực trong khi hướng về đời sống, cảm thấy không thể nào nói
được, hoặc không đủ sức để nói về các vấn đề lớn lao bức thiết của xã hội,
thì văn học lãng mạn lại cảm thấy không biết nói gì hơn được nữa về những
chuyện đã mòn nhàm, vô vị trong những tưởng tượng bệnh hoạn và trong đời
sống quẩn quanh của một lớp người bị buộc phải, hoặc cố tự tạo ra cho mình
một hàng rào cách biệt với đời sống quần chúng.
Cách mạng tháng Tám thành công, Nguyễn Tuân là một trong số các
nhà văn lãng mạn hiếm hoi ngay từ đầu đã có cái may mắn tiếp nhận được
ánh sáng mới, để tìm ra con đường giải thoát cho cuộc sống và nghệ thuật
của mình. Nhà văn hồ hởi đi theo cách mạng, và có lúc chan hòa đi vào dòng
người, vui cái vui xuống đường: “Mê say với ánh sáng trắng vừa được giải
phóng, tôi đã là một dạ lữ khách không mỏi quên ngủ của một đêm phong hội
mới”. cảm xúc bồng bột trước những đổi thay của đất trời, nhà văn dứt khoát
khẳng định: “Chưa có thu nào mà mây mùa khói mùa đẹp được như mây khói
mùa này. Sớm cũng như hôm, bốn chiều tám hướng, chân giời Việt Nam nổi
bồng lên những hình mây khỏe mạnh và những sắc mây lộng lẫy” (Ngày đầy
tuổi tôi cách mạng; Văn hóa và cách mạng, 8-1946). Và cũng chính trong
những tiếp xúc với đời sống thực, lớn lao, cuồn cuộn ấy, nhà văn đã có dịp
đối chiếu, soi lại con người cũ của mình, và nhận ra những mặt hư hỏng trong
triết lý sống, quan niệm sống của mình, để hứa hẹn một cuộc “đào thải tất cả
cố nhân trong lòng mình”, hứa hẹn cương quyết lấy mình “ra làm lửa mà đốt
cháy hết những phong cảnh cũ của tâm tưởng” (Vô đề; Văn mới, 2-11-1945).
Nhưng những hứa hẹn đó thực ra chưa lấy gì làm chắc. Nhà văn đi vào
cách mạng vẫn còn với tâm lý chuộng lạ của một người đã chán ngấy với
cuộc sống cũ, đang khao khát một sự đổi thay không khí. Mọi trật tự cũ, giá trị
cũ đang bị đổ nhào. Nhưng giá trị mới ra sao? Đi vào dòng người mà anh vẫn
còn lắm lúc ngơ ngác. Tính chất triệt để và giá trị nhân đạo lớn lao của cách
mạng anh chưa thể nhận ra. Trong một vở kịch viết cho thiếu nhi: Cỏ độc lập,
đăng trên báo Thiếu sinh (Xuân Độc lập, 1946) nhà văn đã có khía cạnh nhận
thức sai về cách mạng khi cho xuất hiện nhân vật Thần cách mạng với màu
đỏ “ác dữ”, với lời xưng danh rất oai vệ và với cảnh Thần quát vào mặt Sông,
Núi, cho rằng “lịch sử bây giờ là của Lý trí chứ không khi nào là của Tình cảm
nữa”!
Sự phản ứng đối với trật tự cũ với ít nhiều tinh thần dân tộc, trên lập
trường của người tiểu tư sản bất đắc chí, là nguyên nhân đưa Nguyễn Tuân
đến với cách mạng. Nhưng cũng chính chủ nghĩa cá nhân hưởng lạc cùng tư
tưởng tự do, thích đập phá vô trách nhiệm, và quan điểm nghệ thuật cũ đã
khiến cho Nguyễn Tuân vẫn còn đứng ở một vị trí cách xa với quần chúng
nhân dàn. Sự giằng co giữa hai mặt đó trong anh hầu như quán xuyến trên
mọi trang viết lúc này. Và khi chưa có sự chiến thắng căn bản của quan điểm
mới, giá trị mọi sáng tác của anh vẫn còn mỏng manh, bấp bênh. Sự dung
hòa hai quan điểm, hai nhận thức trái ngược nhau ấy chỉ có thể khiến cho
Nguyễn Tuân đẻ ra một loại sáng tác theo kiểu Chùa Đàn (1946) kể một câu
chuyện ma quái gắn theo một cái đuôi cách mạng.
Phải đến cuộc kháng chiến chống Pháp, trong đời sống của nhân dân,
trong ngọn lửa của chiến đấu, con người và nghệ thuật của Nguyễn Tuân mới
có điều kiện gột rửa dần những mặt tiêu cực để hướng vào quỹ đạo của văn
nghệ cách mạng.
***
Kháng chiến đưa Nguyễn Tuân vào cuộc sống lớn lao của quần chúng.
Ba lô (không phải va li) trên vai, gậy cầm tay, nhà văn hăm hở lên đường.
Cuộc hành trình đưa Nguyễn Tuân tới những vùng xa: từ Khu Bốn ra Việt
Bắc, lại vào Khu Bốn, ra Khu Ba, qua Sơn Tây, đi Tây Bắc, theo bộ đội vào
Bắc Cạn…
Trong Đại hội văn nghệ lần thứ nhất năm 1948, Nguyễn Tuân được bầu
làm Tổng thư ký Hội. Anh vui vẻ hứa: “Tôi quả quyết nhận lấy bổn phận mà
hội nghị giao cho, vì tôi muốn tập cho tôi nhận lấy những trách nhiệm” (Biên
bản Đại hội; tạp chí Văn nghệ, số 10, tháng 3-1949).
Ý thức trách nhiệm trong công tác và kết quả những chuyến đi nối tiếp
nhau đó đã bước đầu đem lại cho tùy bút Nguyễn Tuân những cảnh sắc mới,
những cảm xúc lạ. Cuộc sống ùa vào. Nhưng nếu như trong mấy năm đầu,
sự chăm chú nhìn ngắm, tìm hiểu, ghi chép đã làm cho tùy bút Nguyễn Tuân
sinh sắc hẳn lên trên hình ảnh những mảng đời thực, tươi rói; thì mặt khác,
qua lăng kính của những quan niệm, cảm xúc và thị hiếu của con người nghệ
sĩ cũ, bức tranh cuộc sống có lúc bị méo mó đi. “Sau đêm 19 tháng Chạp”,
nhà văn cùng dòng người tản cư. Cái giờ phút nghiêm trang đó của lịch sử
hẳn không thể diễn ra trong cái vẻ tếu, nhộn như đêm hội của “những tửu đồ”
thế này: “Hàng nước nào cũng thành ra “quán Biên thùy”, mặt hàng ngổn
ngang dồi, chả, tiết canh chó. Kính trọng sự đi về của du kích cần phải được
kín tiếng khi lưu động, nhân dân đã vui vẻ hóa kiếp cho gia súc…”
Thì ra nhà văn vẫn còn là người đi đường với cái ham thích được săn
tìm những cảnh lạ. Qua Cống Thần, hoặc ghé phố Văn Trai, trước khi vào đất
tề, nhà văn có cái thú của một người thăm dò: “Giặc mà thọc một mũi dùi vào
đây thì phải biết, cháy nhà ra mặt chuột, còn khối sự lạ. Tôi phải lượn phố
Văn Trai này ba lượt…” (Một đêm vào tề). Sau này, đi theo bộ đội công đồn,
có lúc anh không kìm được cái vui ồn ào của con trẻ: – “Tôi quăng tôi xuống
chân núi, cọc, gai, nửa nhọn, phớt hết. Mau lên không có thì nhạt hết khói
dưới ấy rồi!” (…) “Từ bé đến giờ mình vẫn là một đứa trẻ đói thanh đói sắc
nay được một chầu thỏa thuê cho tai cho mắt. Bắn nữa đi! Hàng rào cháy rồi
anh em ơi! Chúng tôi đang mơ chung một cơn hỏa mộng!” (Tình chiến dịch).
Thăm phòng triển lãm của Trung đoàn Thủ đô giữa rừng, nhà văn nhắc nhỏm
“phở Hàng Trống”, “chả Đồng Xuân”, “bánh đa Hàng Bè” (Đường vui)...
Nhưng rồi cũng có khi nhà văn thấy chán. Cuộc sống vất vả, gian khổ,
và cái lạc quan có phần dễ dàng giữa hai xuân 1946–1947, mơ “những khải
hoàn môn kết bằng bích đào” (Giữa hai xuân) không còn là cái viễn cảnh thu
hút bước chân của người bộ hành. Quanh quẩn trong rừng già Việt Bắc, nhà
văn lắm lúc bực bội vì thấy mình như một “tù nhân của thung lũng”, vì thiếu
“chân giời”, vì cái màu xanh vĩnh viễn, xanh tất cả ở Nhà văn than thở: “vẫn
bé nhỏ trong thiên nhiên, bọn tôi chỉ là ba cái chấm nâu ngày ngày ngoằn
ngoèo trong các lòng chảo thượng du xanh lam” (Chân giời). Những lúc ấy,
Nguyễn Tuân đành phải tìm chỗ dựa cho mình ở một chân trời “trong tâm
tưởng”, với cái yên trí là “cái nhỡn giới của tư tưởng thì không còn núi rừng
của bất cứ thượng du nào bưng bít nữa”.
Rõ ràng cuộc kháng chiến đã đưa nhà văn vào một cuộc đấu tranh mới:
cuộc đấu tranh giữa những mặt tiêu cực cố hữu trong ý thức, quan niệm của
một lớp người từ lâu xa cách với đời sống quần chúng, và những mặt mới,
tích cực, tiến bộ đang từng bước nhen nhóm trong ý thức và tình cảm họ.
Từng bước nhích về phía nhân dân, từng bước vươn lên nhận thức cho được
yêu cầu chung của cách mạng là từng bước thanh toán trong mình những vết
cũ. Sự đấu tranh đó lắm lúc thật gay gắt, và đúng là có kinh qua nó thì mới
thật thấm thía cái ý nghĩa của một cuộc “xé vỏ trổ mầm”; một cuộc “xé vỏ”, có
thể nói chính là bắt đầu từ những dòng này trong tùy bút Đường vui: “Sống
với hiện đại giờ là gắng gỏi, phải lắng hết trí tuệ ra để kiềm chế thiên tính, thú
tính… nhiều lúc cứ bị lặng ngất đi như có ai bỏ mình vào một cái hũ lớn mà
lắc mạnh đủ trăm chiều. Thấy ngòi bút mình chạy trên giấy không kịp được
cái bước đi của nhân vật đời thật tại đã nhiều lần tôi muốn quẳng ngay cái
thằng Tôi đi…”
Vấn đề đặt ra ở đây đúng là “cái thẳng Tôi”. Trước Cách mạng, cái tôi
đó – hợm hĩnh, kênh kiệu, khinh bạc, hiện ra có mặt nào đó như là sự đối lập
với một xã hội “phàm tục” giữa đám người có của và hợm của, thì sau Cách
mạng, trước quần chúng nhân dân, hẳn lại không thể cứ bộ dạng thế mà đi
giữa cuộc đời. Thật vất vả là cái quá trình khổ luyện để biến cái tôi đó thành
một con người bình thường chân chính, một công dân - nghệ sĩ của chế độ
dân chủ cộng hòa.
Đối với một nghệ sĩ như Nguyễn Tuân thì việc đổi dạng đó là vô cùng
quan trọng. Phải làm sao qua cái tôi mà nói được tâm tình, cảm xúc của quần
chúng cách mạng. Và những bước tiến của Nguyễn Tuân sẽ được ghi nhận
trên phương hướng này. “Cách mạng hóa tư tưởng” và “quần chúng hóa sinh
hoạt” sé đưa Nguyễn Tuân về với quần chúng, giúp nhà văn biết đặt cá nhân
vào tập thể, và do đó đánh giá cá nhân được đúng hơn. Trong ngọn lửa vĩ đại
của cuộc kháng chiến nhà văn sẽ thấy phải khiêm tốn kiểm tra lại mình, và
bớt dần đi những chủ quan, hoài nghi, khinh bạc cố hữu.
Trên đà chuyển biến tư tưởng đó, những trang Nguyễn Tuân rồi đây
ấm dần tình người. Bớt dần đi những trang lạnh lẽo, chỉ có phô bày những
cảnh sắc lạ, những nhận xét thông minh, hoặc cái lắt léo trong cách chọn lời,
chơi chữ. Thay vào đó là những lời giản dị. Trên đường lên Việt Bắc đầu năm
1949 nhà văn ghi: “Trông Dakota và Junker tiếp tế của nó hỗn hển trong mù
sương của ngày mưa ẩm, mình thấy khoái trong lòng, mặc dầu thời tiết có
dằn vặt mình trên những con đường lầy trơn như tráng mỡ nước”. Gặp một
đơn vị bộ đội: “Những cái bóng đen này trong đêm làm cho mình ấm lòng
ngang với những chấm lửa của lớp Bình dân học vụ buổi tối trong rừng sâu”.
Rồi tiếng chào của anh du kích đêm ấy qua sông, nhà văn cảm thấy như “còn
vang hưởng đến tận mãi tương lai” đời mình (Lại ngược).
Tình chiến dịch còn cho ta thấy hình ảnh một Nguyễn Tuân thật gần
gũi: “Lúc tôi mở mắt dậy thì còn tối lắm, đũa bát lách cách trên bếp sàn. Ăn
sớm, hành quân sớm. Tôi tung bạt, sà xuống ăn ngay. Tôi cũng đã quen với
kiểu ăn cơm ba bốn giờ sáng không cần súc miệng”… “Tôi thành ra cán bộ
dân vận (…) Ngoài giờ công tác ở đơn vị, tôi xách cái túi gai chạy đi các nhà,
ngồi góp chuyện bên bếp lửa, tập nói tiếng địa phương. Tôi thấy tôi trở nên
thân mật với người ở xóm bản như là đã quen biết từ lâu lắm. Rồi nó thành
hẳn một nếp tình cảm…”
Quý những “nếp tình cảm” mới ấy ở một người như Nguyễn Tuân, ta
càng quý sức cảm hóa của cách mạng, càng quý những mối quan hệ mới và
cái ý nghĩa cao đẹp của đời sống tinh thần mà cách mạng đã đem lại cho mỗi
người. Làm sao mà tìm được trong các trang viết trước đây của Nguyễn Tuân
những mối “tình đơn vị”, “tình chiến dịch”, hoặc cái “nỗi nhớ miên man” nó
gắn bó con người bền chặt đến thế: “Nhớ miên man. Tôi không nhớ một
người hai người. Tôi nhớ hàng trăm người một lúc, nhớ người mà không nhớ
ra tên. Nhớ từng bộ phận, nhớ từng binh chủng, nhớ cái không khí sinh hoạt
luôn luôn chuyển chỗ như là nước chảy, không bao giờ tụ lâu” (Tình chiến
dịch).
Những tình cảm mới ấy, những mối quan hệ mới ấy càng được khơi
đậm và cụ thể trong Nguyễn Tuân những ngày nhà văn được tham gia cuộc
Giảm tô và Cải cách ruộng đất ở nông thôn. Lần đầu tiên, ánh sáng của đấu
tranh giai cấp soi rõ cho anh thấy những vấn đề lớn lao của cuộc đời thực, và
bước chuyển tình cảm của anh do đó mới thật là có gốc rễ. Nhà văn đã viết
Bóng nó còn bám lên xóm làng với cái nhận thức mới là: “Ở nông thôn, cái
sàn, cái giếng, cái đình, bóng cây đa, bờ ao, lối đi, lũy tre, chỗ nào cũng tìm
được chuyện khổ, toàn chuyện kẻ giàu, người nghèo. Khi đã đi sâu vào được
cái khổ của giai cấp, thì chỗ nào quanh xóm, ngõ, đồng, ruộng đều có cạnh,
có góc chứ không chung chung như trước kia tôi vẫn tưởng”. Nhà văn ngồi
nghe nông dân kể khổ, “vừa kể vừa nhớ thêm, vừa nói vừa khóc. Nước mắt
tôi cũng hòa theo”. Xong một đợt đấu tranh, cán bộ đội rút đi, “ba lô mỗi người
đeo trên lưng rồi, nhưng thấy trong xã mới vẫn còn nhiều vấn đề dở dang. Đi
rồi, nhưng trong lòng tôi chưa thể nào yên được”.
Chính những giọt “nước mắt hòa theo” đó, và cái tâm trạng không “thể
nào yên” khi thấy “bóng nó – bọn địa chủ – còn bám lên xóm làng” đã đánh
dấu một biến chuyển cơ bản trong đời sống tình cảm, ý thức của Nguyễn
Tuân.
Nhưng không phải chỉ có sự đổi thay trong cái tối. Tùy bút kháng chiến
còn cho thấy, dần dần, những cố gắng của anh trong yêu cầu ‘khách quan
hóa’, nhằm mô tả đời sống khách quan. Anh đã từng có lúc bứt rứt vì sự bất
lực của ngòi bút mình, bất lực trước thể tùy bút, mà theo anh, so với tiểu
thuyết, vốn bị hạn chế nhiều. Trong Hội nghị tranh luận văn nghệ năm 1949
anh phát biểu: “Bây giờ là thời kỳ viết tiểu thuyết, đừng viết tùy theo bút
nữa… Viết tiểu thuyết cho con người nói lên được”… “Tùy bút dễ làm cho
người ta chủ quan. Muốn chữa cái chủ quan chỉ có cách lá không viết tùy bút,
mà viết tiểu thuyết”.
Ý kiến đó về chức năng của thể loại không tránh khỏi có phần cực
đoan, nhưng rõ ràng sự mong muốn thôi không viết “tùy theo bút” nữa quả là
nằm trong sự phát triển của ý thức tư tưởng Nguyễn Tuân, muốn hạn chế bớt
cái phần chủ quan, để tăng cường chất sống khách quan, có nhớ lại Nguyễn
Tuân trước Cách mạng, mới thấy đây là một nổ lực vượt mình. Đưa cái tôi
làm nhân vật trung tâm, sáng tác Nguyễn Tuân trước đây chỉ là sự phô bày
những ấn bản khác nhau của cùng một mẫu người. Cái tôi trong tùy bút – cố
nhiên. Cái tôi đó còn ám vào tất cả mọi “nhân vật” khác trong các trang Vang
bóng một thời. Nói cho phải cũng có thể nhắc đến một thế giới nhân vật trong
sáng tác của Nguyễn Tuân trước Cách mạng, ngoài chàng Nguyễn quen
thuộc, đó là các cậu ấm, cô chiêu, quan án ông, quan án bà, cụ kép, ông phủ,
các bậc tài hoa trong các gánh hát, hoặc náu ở một ngôi chùa: ưa đàn ngọt,
hát hay, sành thơ, rượu, trà, hoặc có một năng khiếu gì đó khác đời…
Nhưng tất cả đó, dù có mang theo tên riêng, vẫn chỉ là những dạng
khác nhau của một chàng Nguyễn mà thôi. Nhân vật chỉ là điểm tựa cho nhà
văn lồng vào đó mà phô bày các lạc thú vật chất vốn đã được nâng lên như
một biểu tượng của thẩm mỹ, của cái đẹp.
Sau Cách mạng, căn bản đã hết rồi cái say sưa tự nhấm nháp mình,
Nguyễn Tuân còn phấn đấu đi xa hơn thế. Trong sáng tác của anh đã dần
dần xuất hiện những con ngưòi kháng chiến mà anh yêu mến khâm phục: anh
giao thông “Đầu Gáo”, anh biệt động, anh tự vệ Thủ đô, anh du kích Liên xã…
Trong cái cố gắng “không viết tùy theo bút nữa”, có lúc anh đã thử bước sang
địa hạt truyện ngắn để dựng hẳn một chân dung quần chúng cách mạng như
trong Những con đò danh dự (Độc lập, số 23, tháng 6-1950), hoặc một khung
cảnh chiến thắng với nhiều tâm trạng, nhiều khuôn mặt khác nhau của quân
dân vùng địch hậu như trong Thắng càn (1954).
***
Hòa bình lập lại trên miền Bắc mở ra một giai đoạn mới trong sáng tác
Nguyễn Tuân. Rời chiến khu về xuôi, trong cái tết hòa bình đầu tiên sau bốn
tháng chỉnh huấn, nhà văn lòng dặn lòng không quên những lời ân cần của
Đảng: “Ánh sáng của lớp học do Đảng mở cửa đã giúp cho năm trăm anh chị
em cả đảng viên và chưa đảng viên thấy rõ đoạn đời ngày trước, quãng đời
hiện tại và cái tương lai của mình. Việc lớn việc nhỏ, nội tâm ngoại cảnh đều
hiện lên có góc có cạnh, chứ không “lờ mờ nhân ảnh như người đi đêm” như
trước nữa.
Từ cái buổi chiều mùng một tết ấy Xuân đã trở về với nhiều tâm hồn.
Thêm một tuổi đời, thêm một tuổi đảng (…) Lá rừng Việt Bắc rụng sau ngày
tựu trường nói lên phần nào cái rơi rụng lả tả của những cái cũ trong mỗi anh
chị em (…) cả một mùa xuân tư tưởng này, nhựa sống trong mỗi anh chị em
trào dâng lên không ngừng. Trên cái hư nát của đống lá thối mục của bao
nhiêu mùa đông tàn đã tích lũy lại, vụt thấy chồi lộc nhú lên, trổ lên dần dần.
Nhiều anh chị em đã trải qua những cái đau khổ của cuộc xé vỏ trổ mầm. Qua
một cái tết chỉnh huấn dài bốn tháng trong lòng rừng chiến khu, tôi có thấy tôi
nhìn tạo vật, nhìn chung quanh và nhìn mình đúng hơn trước. Tôi thấy yêu
đời hơn lên nhiều lắm… Sự trưởng thành tư tưởng của tôi đi vào hệ thống từ
khóa học mở trong rừng” (Xuân ở rừng).
Những xúc động cũ còn chưa nguôi thì những xúc động mới đã dồn tới.
Đáp chuyến tàu hòa bình từ Hà Nội lên Mục Nam Quan, cả một dĩ vãng tủi
buồn hiện lên trước mắt nhà văn: «Tôi rơm rớm nước mắt nghĩ lại, chuyện cũ
mười lăm năm, mỗi lúc ấy bước chân lên tàu là lúc xoay lưng ngoảnh mặt đi
với cuộc đời! Lúc ấy, tôi chỉ là một người hành khách lậu vé trên xe lửa đế
quốc lủi thủi muốn đi tìm một cái quê hương ngoài trần gian…”. Rồi nhà văn
nhẩm tính mà thấy rằng mới từ hôm tiếp quản thủ đô đến lúc ấy, “nước mắt
tôi trào hai lần. Lần đầu, hôm biểu dương lực lượng đầu năm, lúc thấy đơn vị
nữ du kích Tả ngạn đi qua lễ đài. Và lần này”.
Nhưng miền Bắc, sau 1954, bước vào thời kỳ quá độ tiến lên chủ nghĩa
xã hội với cuộc đấu tranh giữa hai con đường nổi bật lên như một thử thách
mới đối với mọi nhà văn. Trên lĩnh vực tư tưởng, đó là một cuộc đấu tranh
giữa tư tưởng vô sản với tư tưởng tư sản, tiểu tư sản và các tư tưởng phi vô
sản khác… Trong kháng chiến chống Pháp, yêu cầu xác định lập trường vô
sản tuy đã được đặt ra, nhưng mới chỉ là bước đầu; tư tưởng tư sản và tiểu
tư sản chưa bị phê phán mạnh. Cho nên, sau hòa bình, tư tưởng tiểu tư sản
bấp bênh dao động sẽ còn là miếng đất tốt cho tư tưởng tư sản thâm nhập
vào, phản công lại cách mạng. Cuộc đấu tranh chống Nhân văn – Giai phẩm,
một cuộc đấu tranh giai cấp trên lĩnh vực văn nghệ, có phần gay go, kéo dài
chính là vì bọn phản động đã tìm được chỗ dựa trong sự sơ hở, mất cảnh
giác, mơ hồ về lập trường, của nhiều Văn nghệ sĩ trong giai đoạn mới, trong
đó có Nguyễn Tuân.
Nếu trước đây, trong những ngày gian khổ của kháng chiến, ở Đại hội
văn nghệ lần thứ nhất, Nguyễn Tuân đã thành tâm “từ bỏ ba đứa con tinh
thần” của mình là Vang bóng một thời, Nguyễn, Thiếu quê hương, thì giờ đây,
trong những ngày hòa bình, Nguyễn Tuân đã cho in lại Vang bóng một thời,
và ủng hộ lại việc tái bản không cần chọn lọc các tác phẩm cũ.
Trên những tùy bút mới viết vào lúc này như Phở, Cây Hà Nội, hoặc bài
tiểu luận về Sê-khốp, và trả lời tạp chí Học tập, Nguyễn Tuân đã có lúc gần
như trở lại những thị hiếu cũ của mình, và cùng với sự phản ứng trước ý kiến
của công chúng, Nguyễn Tuân đã bộc lộ một số quan niệm không đúng về sứ
mệnh của nền văn nghệ mới và trách nhiệm của nhà văn cách mạng
Nhưng có điều may mắn là những lệch lạc của Nguyễn Tuân chưa kịp
đi xa. Ánh sáng của Đảng đã giúp Nguyễn Tuân “nhìn rõ sai lầm”. Nhân bài
học mới, bài học đấu tranh giai cấp và cải tạo tư tưởng trong giai đoạn mới
lúc này, Nguyễn Tuân lại có dịp ôn và khẳng định lại bài học cũ, bài học có lúc
mình đã quên đi hoặc phủ định: «… Trong những năm kháng chiến, công tác
và sáng tác của tôi tuy chưa có là bao nhiêu, nhưng đều chứng minh cái kết
quả bước đầu của cuộc cải tạo đó. Và tôi thấy cần phải nói thêm rằng có
được cái kết quả ấy, cũng lá nhờ ở phần khách quan nhiều hơn là phần chủ
quan, và nhất là nhờ có cái phần Đảng dìu dắt cho…” (Nhìn rõ sai lầm; Văn
nghệ, số 12–1958).
Bài học kiên định lập trường giai cấp và kiên trì cải tạo tư tưởng đó,
một năm sau, trong chuyến đi Tây Bắc, viết Sông Đà, anh còn tiếp tục tự nhắc
nhủ thêm một lần nữa: “Chợt nhớ lại ngày này tháng này cách đây đúng một
năm, tôi đã thấy một con đê vỡ ở sát nách Hà Nội; nhật ký tôi ghi hồi ấy đã
mang những dòng nặng trĩu: “Trong lòng mình cũng đang thẩm lậu một con
đê. Con đê ngoại, hàn khẩu được rồi. Nhưng còn cái đê nội này? Đê ngoại
cần giữ, nhưng đê nội càng cần giữ vững hơn bao giờ… Con đê trong lòng tôi
và những con đê trong lòng một số người quen”.”
Chính là trên sự nhận thức mới về nguy cơ “thẩm lậu” và cái quyết tâm
“hàn khẩu con đê nội” kia, mà Sông Đà sẽ tiếp tục ghi tiếp một bước chuyển
mới trên cái đồ thị đi lên, nhưng từ trước tới lúc bấy giờ quả là còn chưa ổn
định lắm trong đời sống tư tưởng và nghệ thuật Nguyễn Tuân.
Sông Đà, kết quả của cuộc đấu tranh tư tưởng và những đợt đi thực tế
Tây Bắc từ 1938 đến 1960, tập hợp mười bốn tùy bút và một bài thơ “phác
thảo” nói về những đổi thay ở Tây Bắc; Vốn nằm trong sở trưòng miêu tả của
Nguyễn Tuân, cái đẹp của thiên nhiên ở đây rất lắm sắc màu, rất tạo hình.
“Con sông Đà tuôn dài tuôn dài như một áng tóc trữ tình, đầu tóc, chân tóc ẩn
hiện trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban hoa gạo tháng hai và cuồn
cuộn mù khói nùi Mèo đốt nương xuân”. Nhưng say sưa với thiên nhiên,
Nguyễn Tuân không quên con người. Nguyễn Tuân đã dành nhiều trang nói
về con người, và có lúc đã tự nhận mình là người đi tìm vàng, tìm “cái thứ
vàng mười mang sẵn trong tâm trí tất cả những con người ngày nay đang
nhiệt tình gắn bó với công cuộc xây dựng cho Tây Bắc thêm sáng sủa, tươi
vui và vững bền”. Ghé qua Tây Trang thăm một đồn biên phòng giáp Lào;
dừng lại ở Điện Biên – nơi chiến trường xưa; thăm đất cũ Sơn La, nơi có “cây
đào Cộng sản”; tạt vào Lai Châu tìm hiểu “một tí về lịch sử và một bản lý lịch”
của tên vua Đèo Văn Long và đội xòe của hắn, hoặc trò chuyện với những
người “đi mở đường” hoặc những ông lái đò với những con thuyền hình thoi
đuôi én ngược xuôi trên sóng thác… nơi đâu nhà văn cũng có dịp dừng lại,
suy ngẫm để thấy cái đổi mới, lớn lên của đất nước, con người. Rồi có hẳn cả
một mối quan hệ gắn bó, thân mật, và đôi khi đến vồn vã, cởi mở giữa cảnh
ấy, người ấy và nhà văn. Cũng như những trang Tùy bút kháng chiến trước
đây, đã vắng dần đi trong Sông Đà con người cao đạo, đứng lẻ ra ngoài mà
quan sát, ngắm nhìn. Đây là một Nguyễn Tuân mới, xuề xòa, giản dị, không ai
ngỡ là “trí thức” mà cứ tưởng nhầm là một nhân viên trong các tổ khảo sát địa
chất, một ông chủ máy kem, một anh chủ xe vận tải tư doanh, một ông quản
lý của một Đoàn văn công nào đó. Nguyễn Tuân cho ta chiêm nghiệm sâu sắc
những đổi mới của Tây Bắc qua sự so sánh với cuộc sống thê thảm trong chế
độ cũ, mà anh đã gắng công tìm hiểu với một sự quan tâm hết sức tỉ mỉ.
Trong cuộc sống của Tây Bắc đó, anh xúc động nhiều về thân phận người
phụ nữ, nhất là những kiếp nô tì, những cô gái xòe. Và đây, một cảnh anh
dựng lên, không phải bằng quan sát mà bằng biết bao tâm huyết: “Ngoài sàn
múa xòe kia, tiếng thác sông Đà vẫn xô đá ào ào. Và trong đêm tiệc, máu
đồng trinh cứ rỏ theo bước đi của đôi chân khiêu vũ, cô gái xòe cứ dẫm lên
máu mình mà múa, rồi máu tươi ấy khô dần một đống trên một cuộc đời đã
biến thành một cái đệm, lớp máu đêm sau đóng vảy lên lớp máu đêm đầu, và
cứ thế cứ thế” (Xòe).
Cuộc hành trình cũng đã gợi cho Nguyễn Tuân bao suy nghĩ mới mẻ.
Anh “bận tâm” về “một số khỏ khăn nội tâm” của anh em chiến sĩ làm đường.
Anh thấy “con người, cái vốn người đưa lên Tây Bắc ngày nay còn quý hơn
tất cả những của chìm của nổi ở Tây Bắc”. Anh so sánh giá trị đóng góp của
câu hát, điệu múa, trang sách với những cung đường, và cho thấy con đường
đang làm và những cuốn sách đang viết đều bình đẳng về giá trị phục vụ”.
Anh bình giảng về nghĩa mới của hai chữ “Quê hương” để mà nhắn nhủ với
một chị áo-xanh-công-nhân vừa rời miền xuôi lên miền núi còn lắm lúc nhớ
nhà. Đứng dưới gốc đào Sơn La, vào một chiều tất niên năm 1959, anh tin
tưởng đất nước “sẽ còn nảy nở không biết bao nhiêu là con người dũng cảm,
và từ lòng quần chúng nhân dân rồi sẽ còn xuất hiện rất nhiều những con
người lãng mạn dám nghĩ dám làm.
Nguyễn Tuân, qua Sông Đà, từ Sông Đà, đang có một đà say về cuộc
sống mới.
Nhưng rồi mấy năm sau, từ tháng 8-1964, cách mạng chuyển giai
đoạn. Miền Bắc bước vào cuộc kháng chiến lần thứ hai, chống Mỹ.
***
Nếu trong cuộc kháng chiến trước, Nguyễn Tuân viết nhiều về sinh
hoạt chiến sĩ và nhân dân qua những chuyến đi, thì ở cuộc kháng chiến lần
thứ hai này, đề tài chính và đóng góp chính của Nguyễn Tuân lại tập trung
vào giặc lái Mỹ. Đứng trên chỗ đứng của dân tộc và gội trong không khí chiến
thắng của nhân dân mà phê phán kẻ thù, ngòi bút Nguyễn Tuân trên những
tùy bút chống Mỹ, sau này tập hợp in trong Hà Nội ta đánh Mỹ giỏi (Hội văn
nghệ Hà Nội xuất bản, 1972) quả có một phong vị sảng khoái, hiên ngang
hiếm có. Nhà văn tập trung sức bút để vẽ lên những hình thù Mỹ, với cái ý
thức rõ rệt như đã được nói lên trong thư Gửi một nhà văn Mỹ thật sự yêu tự
do và hòa bình (Văn nghệ, số 194) là: “Biến cố của lịch sử đã đặt chúng tôi
phải đụng độ đương đầu sống mái với bọn hiếu chiến Hoa Kỳ thì dĩ nhiên
chúng tôi càng phải tìm hiểu Hoa Kỳ về mọi mặt, bằng mọi cách, và bằng mọi
điều kiện có thể của mình. Lực lượng võ trang cả nước tôi tìm hiểu về cách
đánh của quân đội Mỹ. Và những người như chúng tôi tìm hiểu về cách nghĩ
Hoa Kỳ để mà cũng đánh Mỹ, đánh cho chết tiệt đi cái cách nghĩ phản khoa
học và trịch thượng đó của bọn phát xít Hoa Kỳ hợm hĩnh về súng đạn và tính
du côn lộng hiểm”.
Trên cái hướng chung ấy, nhà văn đã chủ tâm tìm hiểu săn đón mọi chi
tiết, tài liệu để đánh địch không phải chỉ ở tầm gần, mà cả tầm xa. Chẳng hạn
đánh vào dinh lũy bọn chúng ở Sài Gòn khi giáo hoàng Xpen- man đến làm lễ
Giáng sinh cho bọn viễn chinh, hoặc sang mãi tận bên kia Tây bán cầu đánh
vào sào huyệt Mỹ ngay giữa những tiệm rượu trên đường phố Ca-ra-cát. Còn
với bọn ở “tầm gần” – bọn phi công Mỹ bị bắt sống, thì dưới mắt anh, qua bút
anh, đã hiện nguyên hình là những tên hợm hĩnh mà hèn nhát, sạch sẽ mà
ngu xuẩn, sang trọng mà trâng tráo, kệch cỡm, vô liêm sỉ; một lũ người máy
được kỹ nghệ chiến tranh Hoa Kỳ sản xuất ra hàng loạt. Theo đoàn tù Mỹ giải
qua các phố Hà Nội, anh “chụp” lại cho ta rất nhiều “pô” những chân dung
“yêng hùng” và “sĩ diện Hoa Kỳ” bây giờ chỉ còn trơ ra những nét “ngu Mỹ và
ác Mỹ”…
So với cuộc kháng chiến lần trước, thì kỳ này, khi cuộc chiến đấu đi vào
giai đoạn quyết liệt, nhà văn ít có điều kiện tiếp xúc với đời sống rộng rãi, nhất
là ở những nơi tuyến đầu. Nhưng không khí thời đại kết hợp với một vài
chuyến đi vào Khu Bốn, cùng với tài liệu, sách báo, các phương tiện thông tin
lại có thể trợ lực cho nhà văn một phần để bù vào các chỗ thiếu của thực tế
nóng hổi. Nhà văn vẫn tiếp tục suy nghĩ trên những vấn đề mới đặt ra.
Cuối 1973, trên Cứu quốc, số 3673, ra ngày 29 tháng 12, Nguyễn Tuân
viết Hà Nội ta vậy mà đã một năm chiến thắng B.52. Nhà văn không muốn
mình và mọi người có những suy nghĩ và lòng tin dễ dãi. Không khí hồ hởi,
ấm áp, nhưng vẫn còn có cái gì phấp phỏng “xì xào” ở một vùng nông thôn,
nơi làng Em (M) một năm sau hòa bình, cùng với niềm lo âu khắc khoải đến
không ngủ được, khiến cho tác giả “cứ ngồi đối mãi bình rượu quê mà thức
tới gần sáng, nghĩ về đủ mọi thứ chuyện lành chuyện gở…” quả là điều đáng
chú ý. Anh muốn mọi người đừng có vô tâm mà quên cảnh giác. Nhưng qua
hình ảnh một căn bếp nửa mái lợp dở của người chủ nhà nơi nhà văn sơ tán,
khác nào một kẻ đang húi đầu “bị còi báo động cắt quãng vào”, đành bỏ cả
dao kéo, tong-đơ đó mà chạy, “bưng cái đầu nham nhở da báo vọt xuống
hầm mà chờ lệnh báo yên” để so sánh cuộc sống cả nước trong hoàn cảnh
nửa chiến tranh nửa hòa bình, và nửa nước miền Nam sau Hiệp nghị Pa-ri thì
thực là không khỏi khiến cho ngưòi đọc băn khoăn. Quả có một cái gì chưa
được đúng lắm trong cách so sánh ấy, nó khiến cho người đọc không khỏi ít
nhiều nghĩ về chiến thắng của dân tộc, về thành quả của cách mạng với một
cảm giác bẽ bàng, thậm chí có cái gì đó pha chút hài hước nực cười. Thành
ra, sau bài bút ký, người đọc lại thấy loãng đi không ít cái niềm vui lớn lao và
lòng tự hào chính đáng của nhân dân ta sau một chiến thắng vĩ đại.
Trong một tùy bút khác Nguyễn Tuân viết tiếp sau đó không lâu, trên
Cứu quốc, số 3687, ra ngày 29 tháng 3- 1974. Đêm xuân nằm hồ này, nằm
ngẫm thêm về bầy hổ Mỹ, nhà văn đã theo dõi kỹ các tin tức và những số liệu
về sự can thiệp của bọn Mỹ ở miền Nam, về con số quỹ chiến tranh, về con
số giờ bay và các phi vụ của Mỹ –Thiệu để cho người đọc nhận thức rõ ở
miền Nam một năm sau Hiệp định Pa-ri, chúng ta vẫn chưa có hòa bình, ở
miền Bắc chúng ta vẫn chưa thể ngủ yên cho đầy giấc được, “trong kia vẫn
còn mất máu, ngoài này vẫn vã mồ hôi trộm”. Bài tùy bút có đóng góp trong
việc vạch bộ mặt những ác thú hổ nấp sau lốt cố vấn dân sự Mỹ, bên cạnh cái
hào khí sôi nổi khi nói về những lò cao hổ khổng lồ rừng rực 12 ngày đêm hạ
B.52 ở Hà Nội, như một liều thuốc trợ sức truyền thống đối với nhân dân ta,
khiến cho “Thủ đô ta hồi sức ngay, và cả nước ta từ Bắc chí Nam khỏe hẳn
ra, mà anh em ta khắp bốn bề năm châu đều hể hả ra mặt ra lời”. Nhưng bên
cạnh những nhận xét đúng và những cảm xúc mạnh, bài tùy bút vẫn còn
những điểm không sáng lắm trong nhận thức, và cũng chưa vững lắm trong
lòng tin. Chẳng hạn khi Nguyễn Tuân tỏ ra hối hận và tự nghiêm trách mình là
“khờ” trong cái tiêu đề: Đất cùng trời toàn cõi ta từ nay sạch hẳn bóng Nó, cho
một ký sự về sự kiện lịch sử Mỹ cuốn gói trên cả hai miền mà nhà văn cho là
quá bốc. Nhà văn thấy phải vội vàng thêm ngay vào một chữ “coi như”:… coi
như sạch hẳn bóng Nó, để mà đính chính ngay cái sai lầm “chủ quan” có tính
chất cả tin và nhẹ dạ kia! Chút hoài nghi ấy còn đậm hơn qua những suy nghĩ
của nhà văn trong đoạn kết bài tùy bút về cái “tính nhị nguyên của cuộc sống
nhãn tiền”, và về cái việc chúng ta “tìm cái thắng bằng chiến, tìm cái thắng
bằng hòa, hòa cho được”.
Dù sao trong phạm vi đề tài cách mạng dân tộc dân chủ suốt mấy chục
năm qua, và cho đến lúc này, phải thấy rằng, Nguyễn Tuân đã có một tiếng
nói đóng góp. Một tiếng nói, có đôi khi chưa được trong trẻo, nhưng vẫn là sốt
dẻo, kịp thời. Tình cảm dân tộc vẫn là đường mạch ngầm khá dồi dào ở trong
anh.
Tuy nhiên có điều đáng tiếc là Nguyễn Tuân đôi lúc chưa được sâu sắc
lắm trước những vấn đề đặt ra trong cuộc sống mới đang xây dựng chủ nghĩa
xã hội. Cái say trong Sông Đà mấy năm trước lúc này quả có nhạt đi, và do
vậy dường như nhà văn chưa tạo ra được đà đi tiếp. Ngót hai mươi năâm
trước đây, Nguyễn Tuân viết Phở và giờ đây nhà văn lại viết Giò lụa (Văn hóa
nghệ thuật; số 31, tháng 7-1973).
Nhân bàn về giò, phở và về nhiều thứ khác nữa trong đời sống, người
đọc không ai không công nhận Nguyễn Tuân là người có vốn đọc, vốn hiểu
phong phú. Nhà văn biết nhiều chuyện, chẳng hạn lý lịch một nhân vật, lịch sử
một địa danh, chẳng hạn tên các loại gỗ ở rừng, hoặc số cây trồng ở Hà Nội
ở tận con số lẻ. Nhưng dù sao cũng phải nhận rằng bấy nhiêu hiểu biết theo
kiểễu như trên, cũng chỉ mới là những kinh nghiệm về một vài mảng sống
chưa phải là rộng lắm. Tùy bút Nguyễn Tuân do vậy có gợi tò mò, đôi khi
hứng thú, nhưng nhìn chung còn rườm rà những chi tiết phụ, còn bề bộn
những câu chuyện ngoài lề, chứ chưa phải là nơi chứa đựng những vấn đề
mới, dồn tụ những âm vang lởn của đời sống, nhất là đời sống trong xây
dựng chủ nghĩa xã hội.
Cũng cần phải nói thêm là, trong giai đoạn cách mạng mới này, qua tùy
bút Nguyễn Tuân, dù viết về chiến tranh hay về xây dựng hòa bình, nhà văn
thường hay cài vào những ý lấp lửng, khiến cho thông qua chủ quan mình,
nhiều trang viết của anh, có một vẻ gì đó không bình thường. Thực tế cho
thấy, đối với Nguyễn Tuân, một thiếu sót nào đó của cuộc đời đôi khi có thể
làm cho nhà văn có ý nghĩ lệch về toàn bộ. Trong Tờ hoa (Văn nghệ; số 143,
1966) không phải chỉ có chuyện ong, chuyện bướm, chuyện hoa… Sau cái vẻ
bâng quơ của câu chuyện người đọc không khỏi cảm thấy có một cái gì
vướng bận. Trong Tình rừng (Văn nghệ, số 267, 1968) giữa chuyện rừng thật,
nhà văn cho chen vào chuyện “rừng văn”; giữa chuyện những tên giặc Mỹ ưa
“sạch sẽ”, lại có chuyện về người đốt rừng “dốt nát”; giữa chuyện cháy rừng
lại có chuyện “đốt bản thảo” với “cơ man là sách in”. Trong Hà Nội ta đánh Mỹ
giỏi, giữa chuyện những con thú vườn Bách Thảo hôi hám mùi thịt sống, nhai
xương gau gáu, lại có chuyện chúng “vừa ăn vừa nói, giọng vặn vẹo mà nuốt
chửng cả con chữ, mà nhai biến cả vần”… Cứ thế, lâu lâu trước mắt ta lại
thấy xuất hiện một đối tượng để cho Nguyễn Tuân trút vào đấy mọi nỗi bực
giận. Người đọc tự hỏi không hiểu vì sao nhà văn cứ phải chọn một cách nói
như thế, mà không nêu rõ ý kiến của mình. Cách làm đó hẳn không thể xem
là thích hợp với hoàn cảnh bấy giờ, khi nhân dân đã làm chủ, và khi nhà văn
đã trở thành người phát ngôn cho tâm tình và nguyện vọng của lớp công
chúng mới, vốn là những người luôn mong muốn có một nhận thức thật là
sáng sủa, một thái độ thật là đường hoàng trước mọi vấn đề, mọi sự kiện.
***
Ký Nguyễn Tuân cho ta một hình ảnh khá rõ nét về bản thân nhà văn
trên bước đường phát triển của cách mạng hơn ba chục năm qua. Một
Nguyễn Tuân trước đây không phủ nhận là có một tinh thần dân tộc nhất
định. Nhưng, như nhà văn đã nói: “về những vấn đề lớn thuộc về vận mệnh
dân tộc, tôi nghĩ rằng cái biểu hiện yêu nước của tôi, ở tôi, tôi chỉ xin khung
nó gọn vào vấn đề xây dựng tiếng nói” (Văn nghệ; số 12, 1958), thì tinh thần
dân tộc đó quả là còn ít ỏi. Trong sáng tác của nhà văn trước Cách mạng, ta
chưa hề thấy có sự đả động gì đến bộ mặt thực dân, đến chế độ phong kiến,
thuộc địa. Đối tượng để cho nhà văn phê phán, khinh bỉ, nếu có đôi chút bóng
dáng thì cũng chỉ lá mấy khuôn mặt hợm của của vài tên trọc phú, không biết
gì là tài năng, dốt nát về văn chương nghệ thuật. Sau Cách mạng, khía cạnh
ý thức dân tộc hiếm hoi đó ở Nguyễn Tuân được phát huy và có đóng góp
thiết thực hơn. Nhà văn đã có lúc phấn đấu vươn lên được hàng đầu, và nói
được trong một chừng mực nào đó những vấn đề lớn của nhân dân, đất
nước. Không còn bơ vơ “thiếu quê hương”, lao vào cuộc sống và tìm được
chỗ đứng cho mình, nhận lấy những trách nhiệm và vinh dự mà nhân dân trao
cho, nhà văn đã cố gắng để từng bước thay đổi mình, để cải tạo cái tôi cũ
thành cái tôi mới, cái tôi công dân nghệ sĩ.
Ở Nguyễn Tuân, con đường đấu tranh cải tạo cái tôi cá nhân chủ nghĩa
cũng đồng thời là con đường nhà văn đi tới, gắn bó với quần chúng cách
mạng. Ở đây cần có một lòng thương yêu thật sự đối với quần chúng. Và điều
này không phải là không có ý nghĩa đối với Nguyễn Tuân, vì cái hoài nghi,
khinh bạc vốn đã từng có lúc làm giảm đi không ít lòng tin yêu của anh đối với
con người. Trước Cách mạng, chọn cái tôi làm trung tâm, nhà văn chỉ biết và
chỉ yêu có một chàng Nguyễn. Nói cho đúng, anh cũng có le lói một lòng yêu,
nhưng lòng yêu đó chỉ dành cho những kẻ có một cái tài gì đó, phù hợp với
quan điểm duy mỹ của anh. Người được anh yêu trên hết, trước hết phải có
tài. Cũng chính vì sùng chuộng cái tài trên quan điểm duy mỹ ấy, nên lòng
yêu của anh đôi khi đi đến mất lập trường một cách nghiêm trọng như trong
Một đám bất đắc chí nói về cái tài “ném bút chì” giết người của một tổ cướp,
hoặc Chém treo ngành ca ngợi lối hành nghề rất tài hoa của một tên đao phủ.
Cách mạng đã đem lại cho Nguyễn Tuân một quan điểm mới trong
cách nhìn nhận người và việc. Cuộc kháng chiến chống Pháp và Cải cách
ruộng đất đã làm thay đổi phần lớn tình cảm anh. Những trang Tùy bút kháng
chiến và Sông Đà đã dần dần cho thấy một Nguyễn Tuân mới, khác, biết gắn
bó và yêu thương người lao động.
Con đường đi của Nguyễn Tuân trong ba mươi năm qua là con đường
có nhiều bước thăng trầm. Đi vào đời sống, xuất phát từữ đời sống (chứ
không phải từ cá nhân mình), gắn bó, chan hòa với quần chúng (chứ kkông
phải đứng tách ra ngoài), tin ở cách mạng, và rèn luyện mình theo lập trường
và quan điểm của Đảng… đó là nguyên nhân đem đến thành công cho ký của
anh. Lãng quên những bài học đó, để cho cái tôi phồng lên, lấn át, là anh
chuệnh choạng, và có khi vấp ngã. Kinh nghiệm ấy chính nhà văn cũng đã có
lần thấm thía: Tôi mới hiểu rằng thấm nhuần chính sách của Đảng không phải
là một việc hoàn toàn thuộc về lý trí. Đây quả là một vấn đề đòi hỏi rất nhiều
tình cảm, nó hàng ngày đặt cho ta những câu hỏi dứt khoát: “Yêu thương ai?”
và “Căm thù ai?”. Trình độ chính sách của tôi thêm được đến hạn độ nào thì
tim tôi nhịp cùng với anh chị em đến mức ấy. Và chỉ có đứng hẳn vào giữa
cuộc đấu tranh nóng hổi của dân cày thì tôi mới lắng nghe được rõ ràng cái
tiếng đập của trái tim vĩ đại ấy của quần chúng nhân dân (Bóng nó còn bám
lên xóm làng).
Con đường đi của Nguyễn Tuân rất có ý nghĩa đối với mọi thế hệ nhà
văn chúng ta, nhất là những người đã sống và viết trải qua hai chế độ.
Cách mạng tháng Tám và NAM CAOTrước Cách mạng tháng Tám, sáng tác của Nam Cao cho ta thấy sự
bế tắc về tinh thần của cả một lớp người trí thức tiểu tư sản, sự bần cùng
hóa, có bộ phận đi tới lưu manh hóa, của đại bộ phận nhân dân lao động
thành thị và nông thôn. Bức tranh cuộc sống anh dựng lên in rõ dấu ấn đặc
biệt của thời kỳ tiền khởi nghĩa với những nỗi đau khổ ghê gớm và sự oi ngột
đến kinh người mà nhân dân ta phải chịu đựng dưới hai tầng áp bức Pháp –
Nhật. Như tên của một tác phẩm Nam Cao: Nửa đêm, đây là thời kỳ cuộc
sống đang chuyển đến phút cuối cùng của một đêm sâu, đến “nửa đêm” thăm
thẳm, mịt mùng; và cố nhiên, theo xu thế của nó, sau nửa đêm sẽ là một ngày
mới bắt đầu. Nam Cao chưa biết được cái sắp xảy tới sẽ là cách mạng; anh
chỉ mới dự cảm một tai ương sẽ xảy ra – nạn đói năm 1945. Rồi sau cơn
khủng hoảng tột cùng đó là cái gì? Nhà văn chỉ biết ước ao “một cuộc đổi
thay” mơ hồ như lời Thứ trong Sống mòn.
Trong cảnh sống cùng quẫn đó, nhân vật của Nam Cao ra sức cựa
quậy, nhưng nào có ích gì. Mẫu người tưởng mà Nam Cao xây dựng trong
tầm nhìn còn nhiều hạn chế của nhà văn lúc ấy là những trí thức, nhà giáo,
nhà văn lương thiện, khao khát một cuộc sống trong sạch, hữu ích, muốn
phát huy mọi khả năng, tài năng của mình để đóng góp cho xã hội. Nhưng đối
với họ, nói gì đến chuyện thực hiện lý tưởng, dù lý tưởng đó chưa có gì là cao
lắm; nói gì đến chuyện thi thố được một chút tài mọn nào, nếu thực họ có tài.
Cuộc sống nặng đè lên đầu họ, và tất cả sức lực của họ lúc này chỉ được
dùng vào chuyện kiếm cho được ngày hai bữa, để khỏi chết đói. Rồi còn vợ,
còn con, còn mẹ, anh em, ông bà nội ngoại, cả một gánh gia đình đang như
một chuyến xe thồ nặng, leo dốc, mà bản thân họ đúng là một con ngựa còm
đang gò lưng kéo.
Cuộc đời những anh trí thức nghèo rồi đây rút lại chỉ còn có việc kiếm
sống và băn khoăn vì mục đích sống; Bứt rứt và đau xót bao nhiêu khi họ
không nhìn thấy trước mặt một kẻ thù cụ thể nào (do đứng ở vị trí của tầng
lớp trung gian), mà cuộc sống thì lại luôn luôn bị đe dọa khủng khiếp, càng
cựa quậy càng bị thắt lại, càng bị lún xuống sâu hơn. Muốn sống cho “thanh
cao”, họ phải chịu cảnh tầm thường; muốn gỡ ra khỏi các vòng vây trói buộc
mà cứ bị xiết vào; thấy rõ nguy cơ mà không tránh được. Rốt cuộc, họ đành
phải nhẫn nhục chịu đựng một cảnh “sống mòn”, mội cuộc “đời thừa”; rồi than
thân trách phận và cắn rứt lẫn nhau. Rối triết lý về sự đau khổ của mình và
của… kiếp người!
Triết lý chẳng đi đến đâu; chỉ càng quẫn, càng mụ người đi. Chỉ có một
lối thoát duy nhất, là con đường cách mạng. Lối thoát đó, nhân vật Nam Cao
không nhận ra, đó là một phần sự thực bế tắc trong đời. Nhưng bản thân
Nam Cao cũng chưa sớm nhận ra, đó mới là chuyện bế tắc thực sự. Ta hiểu
vì sao nhân vật Nam Cao có lúc bị giày vò dữ dội đến thế. Họ làm khổ nhau,
và tự mình làm khổ mình đến điều. Ở đây, nguyên nhân chính là do sự han gỉ
của tâm hồn họ. Trong sáng tác của mình, Nam Cao tuy có phê phán con
người tiểu tư sản nhưng chưa sâu, chưa triệt để, chính là do anh chưa có tầm
nhìn cao hơn nhân vật để chỉ rõ lối thoát cho họ và vạch rõ chủ nghĩa cá nhân
đã gây cản trở cho bước chân và tầm mắt của họ như thế nào. Cố nhiên
không phải nhà văn cứ gò họ đi theo cách mạng một cách gượng ép. Trong
thực tế, không phải ai cũng đi theo cách mạng cả. Nhưng nếu có được tầm
nhìn mới, nhất định anh sẽ miêu tả họ khác đi.
Nhà văn bế tắc thì nhân vật cũng bế tắc.
Nhưng bế tắc không phải là hết, là chết, dù có “sống mòn” – hay là chết
mòn thì cũng vậy. Là vì nhân vật của Nam Cao tuy vẫn chưa vượt ra khỏi
vòng vây của ý thức hệ tư sản, nhưng căn bản họ không phải là người mang
chủ nghĩa cá nhân cực đoan, ích kỷ, chỉ lăm le đi tìm những lạc thú cho mình.
Họ biết nhìn rộng ra cảnh ngộ chung của nhân dân. Những điều trông thấy
làm cho họ lo âu. Mỗi thảm cảnh họ nêu lên đều phản ánh một thực trạng của
đời sôang quần chúng đông đảo. Thông qua sự bế tắc của một lớp người, họ
vạch rõ sự cùng đường của cả xã hội. Tất cả những hiện tượng đó đã khách
quan nói rõ sự gắn bó giữa nhà văn với quần chúng nhân dân; cho nên sự
thật đặt ra trong tác phẩm lại cho ta thấy rõ, nếu như quần chúng phải tự giải
phóng cho mình bằng cách mạng, thì người trí thức cũng không thể có con
đường giải thoát nào khác ngoài con đường cách mạng.
***
Nhưng đến với Cách mạng tháng Tám, từ những hoàn cảnh khác nhau
mới chỉ là một chặng đường. Con đường đi theo Cách mạng, từ sau tháng
Tám 1945, cũng là một cuộc trường chinh. Mỗi người viết lại phải trở lại từ
đầu một cuộc chuẩn bị. Để tránh sự lạc hướng, hoặc chậm trễ.
Tùy bút Đường vô Nam có thể xem là tâm trạng bối rối của nhà văn khi
thấy sáng tác của mình còn chậm trễ. “Cây bút của tôi bất lực. Nó không khạc
ra lửa và ra đạn như cây súng. Nó ỳ ạch chạy Iheo phong trào mãi mà không
kịp. Các bạn tôi cũng đều thấy na ná như tôi. Họ đều thấy rằng bàn tay họ
nếu chưa cầm súng một phen thì cầm bút cũng vụng về”. Nhưng chính những
bối rối và sự nhận thức ra tình hình chậm trễ đó lại đánh dấu một bước
trưởng thành cơ bản trong đời sống tư tưởng và nghệ thuật của Nam Cao.
Trước đây, anh sống chết với nghệ thuật; bây giờ, chưa lúc nào như lúc này,
những lời thiết tha thành kính nhất của anh lại được dành cho đoàn thể:
“Đoàn thể, đó là một cái gì rất thiêng liêng”. Trước đây, anh chỉ mong đưọc
viết, viết để mà sống – và cũng không có cách gì khác hơn để sống – thì giờ
đây, trong tâm trạng người công dân được giải phóng, điều khao khát hơn đối
với anh là được sống, “sống đã rồi hãy viết”, để đóng góp phần mình cho
cách mạng. Con người Nam Cao hiện ra khác hẳn. Anh đem hết sức mình
làm mọi công tác, không nề hà bất cứ việc gì. Từ một nhà văn, nhà giáo ủ dột,
xo ro, Nam Cao đã trở thành một cán bộ tích cực tham gia cướp chính quyền
ở địa phương; sung vào đoàn quân Nam tiến; trở về làm công tác văn hóa,
tuyên truyền; được vinh dự tham gia nhập Đảng; sống những ngày “ở rừng”
gian khổ; dẻo dai trên những nẻo đường kháng chiến; đi công tác thuế nông
nghiệp và hy sinh ở vùng hậu địch Khu Ba.
Đời sống và sáng tác của Nam Cao cho ta thấy anh luôn luôn mong
muốn rèn luyện mình trở thành một công dân tốt, một chiến sĩ cách mạng
trước khi là nhà văn. Anh không tách con người nghệ sĩ ra làm hai. Đối với
anh, con người “Công dân” không mâu thuẫn với con người nghệ sĩ, và người
nghệ sĩ trước hết phải là một người “công dân”. Những trang Ở rừng cho ta rõ
Nam Cao đã tận tụy như thế nào trong mọi công việc của đoàn thể. Anh viết
sách địa lý phổ thông, phụ trách huấn luyện cho cán bộ cơ quan… Anh rất
ham chuộng cái công việc mà giá trước đây có ai bắt anh làm anh có thể
“điên người lên được”. Mỗi ngày cặm cụi viết bài. Từ bài “phông” đến một cái
tin vặt đều phải cố viết sao cho thật ngắn, thật dễ hiểu. Viết xong, đưa cho
mộtf chú giao thông người Thổ đọc trước và hỏi xem có hiểu cả không, chỗ
nào chú không hiểu, viết lại. Chữ nào chú chưa quen, thay bằng chữ khác…
Thỉnh thoảng anh cũng có lo lắng: lâu không thấy viết lách gì khiến cho bạn
bè phải nhắc nhở; hoặc sợ lối viết báo có làm hỏng đi ít nhiều lối viết tiểu
thuyết của anh đã được nhiều người ưa thích không. Nhưng chỉ một lúc thôi.
Đối với anh, điều đáng quan tâm lúc này không phải là chuyện lo cho mình có
tên tuổi, mà là chuyện làm sao sống cho đúng, sống cho đầy đủ cuộc chiến
đấu của dân tộc “Sống đã rồi hãy viết!”
Nhưng “sống đã rồi hãy viết”, đối với Nam Cao không có nghĩa là một
sự hy sinh nghệ thuật cho cách mạng. Càng gắn bó với cách mạng, anh càng
thiết tha ao ước một tác phẩm được viết ra do yêu cầu của đời sống lúc này:
một tác phẩm về sự đổi mới của những người trí thức như anh, hoặc về sự
đổi mới của làng quê anh. Nhưng anh biết rõ phải chuẩn bị cho mình những
gì. Quá trình công tác, đối với anh, không có nghĩa chỉ là làm tốt trách nhiệm
của một công dân, mà còn có ý nghĩa một sự chuẩn bị cơ bản cho nghệ thuật;
chuẩn bị về vốn sống, và trước hết là “đôi mắt”, là cách nhìn. Và muốn có “đôi
mắt” ấy thì không thể cứ khoanh tay ngồi chờ, nhất là ngồi chờ trong một ngôi
nhà ấm, với một cô vợ trẻ, và một bộ tiểu thuyết trứ danh như anh chàng
Hoàng trong Đôi mắt, để mỗi tối hưởng cái thú nghe vợ đọc truyện, rồi vỗ đùi
đen đét phục sát đất một nhân vật tưởng tượng, còn tất cả các anh hùng
trong cuộc đời thì coi khinh.
Tầm quan trọng của “đôi mắt”, của cách nhìn, không phải chỉ được
Nam Cao nói đến một lần. Tham gia vào cuộc tranh luận về nghệ thuật và
tuyên truyền khá sôi nổi vào hồi đầu kháng chiến, anh viết: “Ta không còn
phải là ta khi trước nửa, những người quanh ta không còn phải là những
người quanh ta khi trước nữa. Cuộc sống hiện nay không còn phải là cuộc
sống khi trước nữa thì sao ta lại có thể cứ viết, cứ vẽ như trước được”…
“Chính lòng người nghệ sĩ có cảm xúc, rung động thì tác phẩm nghệ thuật
mới xúc cảm, rung động được lòng người. Nhưng nếu người nghệ sĩ "vẫn
còn cảm xúc rung động theo những nếp tình cảm cũ thì những cảm xúc rung
động của anh tìm sao được tiếng vang trong những tâm hồn mới hiện nay?
Có ích gì cho những tâm hồn cũ đang tìm thay đổi. Bởi vậy vấn đề cốt yếu đối
với người “nghệ sĩ của thời đại mới là phải làm thế nào đổi hẳn lại những giác
quan lệch lạc cũ của mình, nắn hẳn lại những nếp tình cảm cũ không được
lành mạnh lắm”. Anh rất sợ người viết gán cho nhân vật những thói tật của
mình, làm sai lạc hiện thực khách quan. Anh ca ngợi những sáng tác mới của
quần chúng, và xem đó như là mẫu mực, về một phương diện nào đó, để
mình noi theo: “Những người viết cũng như những nhân vật họ tả đều là
những con người hành động. Họ hy sinh và đoàn kết, chiến đấu và kỷ luật.
Tâm lý họ không phiền phức, rắc rối. Họ giản dị và thiết thực, không viễn
vông, vơ vẩn...”
Mặt khác, “sống đã rồi hãy viết”, đối với Nam Cao cũng không phải là
một sự chờ đợi tiêu cực, bị động. Cách mạng lớn hơn nghệ thuật, và ý nghĩa
cao quý của nghệ thuật là phục vụ cách mạng. Làm gì có ích để đóng góp cho
cách mạng đều đáng quý. Chẳng nên quá băn khoăn đến các điều kiện,
phương tiện, thì giờ; chưa câu nệ quá lắm về hình thức, nghệ thuật, kỹ xảo.
Quý hơn hết là nhiệt tình, là ý thức phục vụ. “Nói được một điều thiết thực,
đăng được một cái tin, làm người ta phải kể lại với nhau, làm được những
câu ca dao mộc mạc nhưng không đến nỗi thành vè, viết được một bài thật ít
lời, nhưng đủ ý, đọc lên đàn bà trẻ con nghe cũng hiểu, tôi cũng thấy sung
sướng như viết được một truyện ngắn chính tôi ưng ý” (Ở rừng). Anh yêu cầu
sáng tác phải có tính chiến đấu và giá trị kịp thời: “Giết nghệ thuật không phải
là cái quan niệm nghệ thuật phải tuyên truyền. Chính là cái quan niệm ngược
lại cho nghệ thuật không thể tuyên truyền, nghệ thuật mà tuyên truyền thì
không còn phải là nghệ thuật. Anh vạch kế hoạch thi đua trong thư gửi cho
Nguyễn Huy Tưởng: “Viết được nhiều, bất cứ bài báo, truyện dài, truyện ngắn
gì cũng kể. Bởi vì lúc này mà cứ viết những tác phẩm đồ sộ là không thiết
thực, khó in, khó bán, khó đọc”.
Trong khung cảnh những ngày đầu Cách mạng, những quan niệm và
việc làm như của Nam Cao trên đây quả có ý nghĩa tiến bộ rõ rệt. Chính trên
cơ sở cái nền mới về tư tưởng đó, so với một số nhà văn khác, Nam Cao
không vất vả lắm trong những bước “nhận đường”. Từ vị trí một nhà văn hiện
thực anh chuyển nhanh sang vị trí một nhà văn cách mạng. Quá trình lao
nhanh vào cuộc sống, đồng cam cộng khổ với nhân dân, gắn bó với cách
mạng, đã giúp anh khơi nhanh được nguồn sáng tác cho mình; đã giúp anh,
mặc dù hoàn cảnh bận rộn, vẫn luôn luôn có sáng tác đáp ứng kịp yêu cầu
của phong trào. Cố nhiên, không phải sáng tác nào của anh cũng thành công,
có những sáng tác còn sơ lược, còn gượng, còn sượng do người viết nghĩ
chưa chín, chưa đủ vốn; hay nói như Nguyễn Đình Thi, người viết muốn “nắm
cổ nghệ thuật” lôi đi. Tuy nhiên, những trang hay lại nhiều hơn, những trang
nhà văn nêu lên và tìm được lời giải cho nhiều vấn đề mà trước đây, do hạn
chế của tầm nhìn, anh chưa thể nào thấy được.
***
Trước Cách mạng, sáng tác của Nam Cao là một câu hỏi lớn về
nguyên nhân mọi nỗi khổ trên đời. Anh thấy những người lao động chung
quanh mình ai cũng khổ. Nỗi khổ mênh mông. Thắp thoáng đâu đó có một vài
bóng dáng cường hào. Nhưng chuyện chúng “bóp hầu bóp cổ” nông dân
cũng chỉ là chuyện xảy ra sau lũy tre xanh. Vậy thì do đâu? Có lúc anh đã cho
đó là do con người “cấu xé lẫn nhau”… “Hạnh phúc trên đời chỉ là một chiếc
chăn quá hẹp, người này co thì người kia bị hở” (Mua nhà). Anh không tin
cuộc sống sẽ thay đổi, vì “nhân loại là một đám hỗn độn vô nghĩa lý”, vì “chất
độc ở ngay trong sự sống!” (Sống mòn).
Đi tìm nguyên nhân mọi thất bại của cuộc đời mình, sự bế tắc tinh thần
của cả một lớp người tiểu trí thức nghèo, có lúc anh cho đó là do những khó
khăn của áo cơm. “Áo cơm ghì sát đất”. “Áo cơm giết giết mọi ước mơ, mộng
đẹp”. Những anh nhà văn nghèo như Điền, Hộ, lắm lúc đã mơ ước cảnh sống
phú quý giàu sang để có thể rảnh rang tâm trí mà viết văn, làm thơ. Cùng
quẫn vì sinh kế, họ tự an ủi: có tiền rồi hãy viết! (Nhưng biết bao giờ họ có
tiền). Họ chưa lúc nào nghĩ cho đến cùng: khó khăn về cơm áo là do đâu? Họ
càng không thể thấy sự bần cùng về vật chất và bế tắc về tinh thần của con
người là hai mặt của một thảm trạng đối với mọi tầng lớp nhân dân lao động
trong xã hội cũ.
Giờ đây mọi vấn đề đều được cách mạng làm cho sáng tỏ. Nỗi khổ
mênh mông của quần chúng đều do sự đè nén bất công của cả một chế độ.
Nguyên nhân sâu xa đâu phải do mấy anh tiểu tư sản “cấu xé lẫn nhau”, làm
khổ nhau, hoặc do một thứ “chất độc” siêu hình nào. Cũng không phải chủ
yếu do vài tên cường hào. “Người ta thấy họ đè trên mình thì cứ họ mà lay.
Nhưng sức nặng ở họ chỉ có một phần nhỏ mà thôi. Sức nặng chính là ở trái
núi kê trên họ. Muốn làm được trò gì, điều trước hết phải bạt cả trái núi, phải
phá cả cái chế độ bóc lột và áp bức đi” (Cách mạng).
Ánh sáng cách mạng cũng đồng thời rọi cho Nam Cao thấy rõ hơn bản
thân mình, tầng lớp mình. Mọi chuyện tầm thường, han gỉ chủ yếu là do chủ
nghĩa cá nhân trong con người họ. Đâu phải do những khó khăn về cơm áo?
Bằng chứng là có chán kẻ sống no đủ, phè phỡn mà vẫn “mòn” như San,
Đích, Oanh trong Sống món trước kia; hoặc như anh chàng Hoàng trong Đôi
mắt sau này. Bằng chứng là quần chúng lao động, trước hết là công nhân, tuy
phải chịu đựng tình cảnh cơ cực hơn nhiều, nhưng họ vẫn sống khỏe, lành
hơn hẳn mấy anh tiểu trí thức nọ. Tất cả những điều đó khi chưa có ánh sáng
cách mạng rọi vào sao khó thấy đến thế, mặc dù người ta đã cố giương to
mắt ra để nhìn. Giờ đây, trong ánh sáng cách mạng chan hòa, sự thực lại
hiện ra rất giản dị. Con người được giải phóng trở nên phơi phới như bông
hoa ngoài khí trời. Không còn chuyện xo ro trong tư thế, trong cách sống;
không còn vị buồn tủi, chua chát, ngán ngẫm, xấu hổ của những bữa ăn,
những tính toán chi li hằng ngày, những lần về thăm vợ con, những cuộc chia
tay não nuột nhìn bóng nắng nhích chậm chạp trên thềm… Một cái gì lớn lao
vụt đến làm đổi hẳn những eo sèo, nhí nhách hằng ngày. Cuộc sống trở nên
đầy ý nghĩa. Những trang Ở rừng, Đôi mắt cho thấy người ta sống tuy thiếu
thốn, vất vả nhưng vẫn vui tươi, lạc quan; bận rộn, căng thẳng mà không mệt
mỏi, ủ dột; xa gia đình, vợ con mà tình cảm càng gắn sâu. Chả bù với ngày
xưa! Tất cả đó là nhờ cách mạng.
Trong bước chuyển về nhận thức và tư tưởng của Nam Cao sau Cách
mạng, vị trí người tiểu tư sản trong cuộc sống cũng được Nam Cao lật lại,
khúc trước, không còn là nhân vật trung tâm, không còn có lúc nào đó đứng ở
thế bề trên. Điều đó, trước đây do những hạn chể chủ quan và khách quan,
sáng tác Nam Cao chưa đặt ra được. Một mặt chưa đứng trên lập trường của
người lao động để phê phán người tiểu tư sản, nhất định Nam Cao không thể
có cái nhìn triệt để. Bản thân anh cũng mơ hồ về mình, cái nhìn tốt xấu đôii
khi cũng lẫn lộn. Mặt khác, trong xã hội cũ, “sự đối lập giai cấp đẻ ra sự đối
lập cá nhân và xã hội làm cho chủ nghĩa cá nhân là điều khó tránh khỏi”. Giờ
đây, quan hệ xã hội thay đổi, người ta có điều kiện nhìn nhận và phê phán
chủ nghĩa cá nhân một cách triệt để hơn. Riêng đối với Nam Cao, sự phê
phán đó đã được nâng lên thành một sự phê phán có ý thức, thành một chủ
đề nổi bật. Sáng tác nào của anh cũng đều có những trang cảm động; đó là
những trang nhà văn dũng cảm soi nhìn lại con người cũ của mình, chống
chọi với những mặt buồn yếu để từng bước vươn lên.
Sức chống chọi đó ghi được bàn thắng quvết định trong Đôi mắt. Chiến
thắng dứt khoát mà không ồn ào. Nhưng Đôi mắt không chỉ chứng tỏ tầm mới
về tư tưởng của Nam Cao, mà còn chứng tỏ sự chín về tư tưởng của Nam
Cao trong nghệ thuật. Bởi vì từ những chuyển biến về tư tưởng đến thành tựu
trong nghệ thuật, đối với nhà văn còn là cả một khoảng cách không phải ai
cũng dễ dàng vượt qua được. Chính khoảng cách đó làm cho không ít người,
trong những ngày đầu đi vào kháng chiến đâm ra hoài nghi: phải chăng phục
vụ cách mạng, người nghệ sĩ phải hy sinh nghệ thuật? Thành công của Nam
Cao trong một số truyện chứng tỏ Cách mạng không gây cản trở gì, trái lại,
càng tạo những cơ sở chắc chắn cho nghệ thuật phát triển. Đôi mắt được
Nam Cao viết trong mấy ngày nghỉ Tết (1948), “cho đỡ nhớ”, được viết thoải
mái một thôi, khỏe khoắn, tự nhiên, không có chút gì vướng gợn, vì chủ đề,
nhân vật đã thực sự chín muồi trong anh. Qua hình ảnh Hoàng, Nam Cao
nhìn với cái nhìn thương hại và xin đủ tẩt cả những mẫu người cũ, những
kiểu sống cũ, lạc lõng, xa lạ với đời sống kháng chiến. Đồng thời Hoàng cũng
là cái vết đen bẩn, cái mảng bóng tối trong con người mình mà Nam Cao đã
rứt ra được.
Trong bước đường vươn lên của người trí thức, bên cạnh việc xác định
lý tưởng cách mạng, sức viện trợ của quần chúng cơ bản cũng là một nhân tố
rất quan trọng. Trên sáng tác của Nam Cao sau Cách mạng, luôn luôn ta thấy
có sự xuất hiện cùng một lúc hình ảnh hai loại người, một bên là những anh
tiểu tri thức, đang trong quá trình “lột vỏ”, và bên kia là quần chúng nhân dân;
và nếu như ở người trí thức thỉnh thoảng vẫn còn những lúc ủ dột, sầu muộn,
thì hình ảnh quần chúng lại hiện ra với một bộ mặt mạnh khỏe, sáng sủa.
Cố nhiên, không phải trước Cách mạng, Nam Cao không có những
trang tốt về quần chúng lao động. Chí Phèo không phải là hình ảnh duy nhất
của Nam Cao về nông dân. Còn bao nhiêu hình ảnh khác về tầng lớp dân
nghèo nông thôn và thành thị đã được Nam Cao vẽ ra với bao xót xa, thương
cảm. Bởi vì anh với họ đều cùng chung cảnh ngộ. Cái ngõ heo hút và căn
buồng tối ẩm, những bữa cơm rau và nước lã đun sôi, năm xu húi đầu, chiếc
vé tàu điện, bát phở họa hoằn mới dám ăn, trong cảnh sống của Thứ, Điền,
Hộ nào có gì cách biệt lắm với nhân dân. Đó chính là cơ sở cho anh hiểu, và
cảm thông với người lao động. Tuy nhiên, điều hạn chế là mọi kinh nghiệm
sống về phương diện này chưa được anh nâng lên thành một nhận thức quán
xuyến, vững vàng; mặt khác, đôi khi ngưòi viết vẫn chưa tránh khỏi cái nhìn
bề trên. Con người tiểu tư sản vẫn kín đáo tìm cho mình một chỗ đứng riêng.
Giờ đây, sống với quần chúng, nhà văn luôn giữ được trong mình tấm
lòng ưu ái chân thành. Tình thương yêu quần chúng trước kia đã được nâng
lên thành một tình cảm giai cấp. Những ngày ở rừng, anh “băn khoăn rất
nhiều đến thằng con đồng chí Chấn, nó gầy như một con nhái bén, mềm như
một lá rau úa, suốt ngày vắt vẻo trên lưng bà cụ”. Điều khổ tâm của Nam Gao
giờ đây không phải là chuyện mình không có gì khác với quần chúng, mà trái
lại, vì anh thấy mình xa cách họ, không cóỏ được vẻ đẹp tâm hồn trong trẻo,
giản dị như họ. Điều khó khăn của anh giờ đây không phải là tạo được cho
mình một thế đứng cao hơn họ, mà là làm sao gạt bỏ mọi “gai góc” của bản
thân để đến thẳng cùng chỗ đứng với quần chúng mà không có chút vướng
gợn gì. Nhật ký anh ghi: “Lời phê bình của Lành và Tưởng: “Mình lãnh đạm, ơ
hờ với quần chúng, không gắn sát mình với quần chúng”. Tự xét không phải
thế. Mình chỉ e dè (timide) đó thôi. Ở lâu với mình người ta mến. Mình luôn
luôn biết xót thương, biết hy sinh. Nhưng thầm lặng quá, kín đáo quá, ghét
biểu lộ tình cảm, mặt lạnh lùng và khinh khỉnh. Tại sao như vậy? Khổ tâm lắm
lắm!”. Trước Cách mạng, Nam Cao đã có lần tự giễu mình mà thật ra là nói
đúng một phần con người mình trong một truyện ngắn: Cái mặt không chơi
được, kể lại nỗi khổồ tâm của một con người có một khuôn mặt lầm lì, khinh
khỉnh. Đó có thể là cá tính. Nhưng cho dù là cá tính cũng có phần thể hiện
một lối sống, một quan niệm. Người tiểu tư sản trong xã hội cũ thường cố tạo
cho mình một khoảng cách với quần chúng, để khẳng định ”cái tôi”, để chứng
tỏ mình “thanh cao” hơn, có “cưu thế” hơn quần chúng, mà thực ra trái lại chỉ
làm cho anh ta trở nên yếu đuối cô đơn, gầy mòn. Con đường trở lại cùng vị
trí và chan hòa với quần chúng chính là con đường cải tạo toàn bộ cách sống
cũ của anh, trong đó cóỏ cá tính, làm cho họ sống khỏe, vui, hết cô đơn, hết
kênh kiệu, nói chung là hết các bi kịch trong đời. Con đường đó Nam Cao rất
thấm thía: “«Tôi đã nghĩ đến tôi nhiều quá. Sau cuộc Cách mạng tháng Tám
càng ngày tôi càng thấy cái “tôi”» của mình thật ra chẳng có nghĩa lý gì. Nó có
một giá trị nào là khi nó biết hòa hợp nó vào với những người chung quanh”
(Ở rừng).
Trên cơ sở nhận thức đó, nhật ký, sổ táy, sáng tác của Nam Cao luôn
luôn là sự đối chiếu bản thân mình với quần chúng để ghi lại từng bước vươn
lên trên con đường chan hòa vào tạp thể. Dù sao, thỉnh thoảng vẫn còn
những thoáng tiêu cực, những lúc “thằng nghệ sĩ” trong anh vùng dậy. Nam
Cao biết rõ đó là do con người mình chưa hoàn toàn thay đổi. Buồn trong
những lần chia tay với vợ con: “Kháng chiến thành công nếu còn sống về làng
này tìm nhau nhé!” (Đợi chờ). Buồn trong những ngày mưa: “Đời mình như
toàn mưa cả” (Ở rừng). Nhưng anh không triền miên và nhấm nháp trong đó.
Anh luôn luôn dựa vào quần chúng để kiểm tra mình. Sau cái buồn chia tay
với vợ con là sự nhận thức về nhiệm vụ của người công dân: “Chưa đuổi cổ
được thẳng Tây ra khỏi đất này thì hãy khoan nói đến hạnh phúc”. Chống với
cái buồn đêm mưa, anh tìm đến người Vệ quốc: “Ôi! những anh Vệ quốc
quân (…) Các anh hãy dạy tôi biết hy sinh, biết chiến đấu, chiến đấu lặng lẽ
không nghĩ gì cả đến thân mình nữa. Các anh hãy rọi vào lòỏng tôi ánh nắng
rực rỡ trong đôi mắt và cõi lòng của các anh. Lòng tôi vẫn còn u ám lắm.
Những đám mây đen xưa cũ vẫn còn lởn vởn. Các anh hãy quét sạch nó hộ
tôi. Quét sạch hẳn. Để cho tâm hồn quang quẻ và mới hẳn…
Quá trình chống chọi với cái buồn yếu, bi quan, đối với Nam Cao cũng
có nghĩa là sự chống chọi với chủ nghĩa cá nhân trong con người tiểu tư sản
để vươn tới tầm cao của lý tưởng cách mạng. Quyết tâm đổi mới con người
cũ ở Nam Cao cũng có nghĩa là quyết tâm phấn đấu đi tới sự nhất trí giữa
con người cán bộ quần chúng và con người nghệ sĩ ở trong anh. Rồi đây, một
cái nhìn, một cử chỉ của quần chũng cũng đủ làm cho anh bồi hồi xúc động.
Chiến dịch Biên giới, Thu đông 50. Buổi chiều vượt đèo gặp rất nhiều dân
công vận tải. Chuyện trò vui. “Một chị Thổ mặc dầu gánh nặng, khi qua trước
mặt chũng tôi cũng đi chậm lại, một tay khép nép kéo áo, mắt nhìn xuống thỏ
thẻ chào rất khẽ: “Các đồng chí về công tác”. Tiếng chị thanh nhẹ, đầm ấm rất
xứng với khuôn mặt thùy mị, dịu hiền. Nghe thấm thía đến tận lòng. “Các
đồng chí về công tác!”. Sao mà gần gũi thương mến thế! Người nghe thấy
rưng rưng nước mắt!” (Chuyện Biên giới).
***
Đi sâu vào cái tôi cá nhân, càng sâu càng cô đơn, càng lạnh. Hòa vào
quần chúng, càng thấm nguồn vui, sức lực được nhân lên. Đó là cơ sở cho
nhân tố lạc quan chan chứa trong sáng tác của Nam Cao, dù hoàn cảnh còn
nhiều gian khổ, có khi còn gian khổ hơn nhiều hoàn cảnh những anh Thứ,
Điền, Hộ ngày xưa. Khi anh say sưa ca ngợi con người mới của dân tộc: “Hỡi
người Việt mới, con đẻ của Cách mạng tháng Tám. Nhân loại văn minh và
tiến bộ đang nhìn theo từng bước tiến của anh(…) Anh đã mang ở trong
người mầm non của một con người mới nói chung, con người của ngày mai
nhân loại”; khi anh phác họa hình ảnh đất nước tương lai: “Trước mắt chúng
ta cả một vùng rừng núi mênh mông không còn phải là chỗ ma thiêng nước
độc bất khả xâm phạm như xưa, mà là một miền rộng rãi có nhiều khả năng
khai thác. Những nhà máy sau này sẽ mọc lên rất nhiều ở trên này, bên cạnh
những thác nước dùng làm động lực. Những đồn điền chăn nuôi lớn sẽ lập
nên cùng với các nông trường. Đèn điện sẽ sáng trưng. Bệnh sốt rét hết chỗ
nương thân. Hà Nội lên đây nghỉ hè. Những thanh niên nam nữ Thổ, Mán,
Mèo về học trường Đại học ở Thủ đô. Không còn phân biệt miền ngược và
miền xuôi, cũng như đã hết sự ngăn cách giữa thôn quê và thành thị. Những
ngày kiến thiết sau này vui biết mấy“; khi anh dứt khoát khẳng định: “Sức
sống của dân tộc chúng ta đang độ lớn lên rất dồi dào. Nay mai những xiềng
xích tháo tung rồi chúng ta sẽ lớn rất mau và rất mạnh” (Đường vô Nam)…
“Lao động nước mình trong thời kháng chiến này có gì mà họ không làm
được”…, chúng ta hiểu đó là tất cả lòng tin vững chắc của anh đối với cách
mạng.
Từ lòng tin đó, con người tiểu tư sản cũng xây dựng được lòng tin đối
với bản thân mình. Trước đây, trong Sống mòn, một anh bạn của Thứ đã có
lần chua chát mà nói đúng thực trạng của mình: “Chúng mình hóa dở dang.
Chạy chọt để vào làm sở nọ sở kia thì chúng mình lấy tiền đâu. Làm thợ thì
không có nghề. Đi buôn không có vốn. Về nhà quê làm ruộng thì chúng nó
cười cho thối đầu lâu. Vả lại cuốc không hay, cày không biết, với cũng không
có sức. Ngay lưng quen rồi”. Giờ đây những con người ấy đã trở nên cứng
rắn, dày dạn. Không còn nữa những lời chua chát, ngán ngẩm về mình, mà là
những lời hân hoan tự tin: “Lúc này mình mới biết được sức mình. Thì ra
mình khỏe chẳng kém gì ai (…). Tôi thấy rằng sau kháng chiến, nếu tôi thích
đi cày, đi cuốc hơn cầm bút, tôi cũng có thể đi cày, đi cuốc được. Cực nhọc
không đáng sợ (…) Cuộc kháng chiến rồi đây có thể đẩy chúng tôi vào những
hoàn cảnh khó khăn hơn hiện nay gấp nghìn lần. Nhưng chúng tôi không nản
sợ một chút nào. Chúng tôi tin ở sức chịu đựng của chúng tôi và sự giúp che
chở của đồng bào. Khi mà ở tận chốn thâm sơn cùng cốc này vẫn còn những
người Mán sống nghèo khổ và lẻ tẻ, tha thiết với cách mạng và độc lập tự do
thì chúng tôi có quyền vững lòng và tin tưởng…” (Ở rừng).
Với Nam Cao, rõ ràng con đường đi theo cách mạng, đến với quần
chúng không những giải phóng cho người trí thức tiểu tư sản ra khỏi các bi
kịch kiểu “sống mòn” mà còn phát huy được mọi khả năng, tài năng của họ,
đem lại cho họ một cuộc sống đầy ý nghĩa.
Mang cái nhìn lạc quan đó mà đi vào cuộc sống mớĩ, sáng tác của Nam
Cao thường có nhiều trang vui. Đó là điều khó tìm được trong các sáng tác
trước của anh. Có một chút lạc quan nào trong Hai đứa trẻ thì cũng rất mong
manh; có chăng là trong tưởng tượng; có một cái “cười”, nhưng là cười ra
“nước mắt”. Giờ đây, cuộc sống mới trong sáng tác Nam Cao, tuy vẫn còn
nhiều khó khăn, gian khổ mà anh không che giấu vẫn luôn luôn hiện ra với
màu sắc tươi sáng. Cố nhiên, trừ một số trang anh viết về mình. Nhưng cái
buồn không bao giờ anh để lây ra chung quanh. Nam Cao ít khi gắn cái bi
quan của bản thân mình cho nhân vật như đôi lúc vẫn có ở Trần Đăng, mặc
dù cả Trần Đăng và Nam Cao đều là những nhà văn quyết tâm bám chắc vào
cuộc sống mới. Ngay sau Cách mạng đã nghe vang giọng điệu hồ hởi, reo vui
của Nam Cao: “Chúng ta đã biết nhìn hẳn vào sự thật rồi. Những kẻ đi lầm
đường thấy ngay rằng mình phải trở về con đường đúng mà đi. Cả dân tộc đã
dồn cả vào một con đường: ấy là con đường ra mặt trận, con đường cứu
nước, con đường vô Nam” (Đường vô Nam). Anh nói đến cách mạng với tất
cả niềm say sưa bồng bột, nó vừa là nhận thức nhưng lại vừa là tâm sự, nên
có một chiều sâu thấm thía và một vẻ cảm động, chân thành. Cách mạng đối
với anh có cái ơn cứu sống, nên trong sáng tác của anh, mốc lịch sử tháng
Tám 1945 trở thành cái bản lề ngăn đôi bóng tối và ánh sáng, tủi cực và niềm
vui. Cuộc sống mới có một sức hấp dẫn đặc biệt đối với anh: “Biết bao nhiêu
là đau đớn, cay đắng, xót xa trong những cuộc đời như vậy; và cũng biết bao
nhiêu là đẹp đẽ, can đảm, anh hùng trong đó mà chúng ta chưa nói được. Có
thể nói trong thời kháng chiến này, mỗi người là một truyện, mỗi cử chỉ là một
đề tài nghệ thuật”. “Người anh hùng đã thành thường thấy trong thời kháng
chiến này, chính người bạc nhược mới là người hiếm thấy”. Nhưng tiếc là anh
chưa viết được nhiều. Anh chỉ mới đi được một chặng đầu, mới làm được
“một cuộc chuẩn bị” cho sáng tác, rất say mê cuộc sống chung quanh, nhưng
đồng thời còn phải soi nhìn lại mình. Sáng tác của anh hồi đầu chủ yếu là
những tâm sự (Đường vô Nam); nói cuộc sống mới cũng là để đối chiếu với
mình (Ở rừng) để nhìn lại những mẫu người cũ (Đôi mắt). Trong Bốn cây số
cách một căn cứ địch đã hiện ra bóng dáng những thanh niên quyết tâm bám
đất giữ làng, với tiếng cười trẻ trung sôi nổi của họ, nhưng hình ảnh họ vẫn
mới chỉ là cái cớ cho nhà văn bộc lộ những nỗi niềm riêng. Càng về sau, bức
tranh cuộc sống mới càng đậm màu. Vài nét ghi qua vùng vừa giải phóng,
Chuyện Biên giới là những trang ghi nhanh trên một chặng đường ra trận.
Hình ảnh tấp nập đông vui của dân công bộ đội hiện lên trên màu ngô vàng
óng, trong sắc chàm xanh của áo, của núi rừng,…hiện lên trong tiếng hát,
tiếng nói cười, những câu chuyện trò tâm sự.
Cuộc sống mới đang ùa vào tác phẩm của Nam Cao với những đường
nét đúng thực, khỏe và đậm.
***
Bài học Nam Cao là bài học về một nhà văn quyết tâm phấn đấu theo
phương hướng người nghệ sĩ mới của Đảng.
Toàn bộ sáng tác của Nam Cao sau Cách mạng được đặt ra trên cái
nền mới đó về tư tưởng. Nhưng vẫn còn một cái gì dở dang, chưa xong, và
có thể nói tất cả đang còn ở trước mặt Nam Cao. Hình ảnh người tiểu tư sản
đi theo cách mạng mà anh theo đuổi, nhằm chứng tỏ sự cải tạo và cảm hóa
kỳ diệu của Đảng, mới chỉ thấp thoáng chỗ này chỗ kia, tản mạn trong các
tâm sự trữ tình, chưa có điều kiện đúc lại thành đường nét, thành điển hình.
Những đổi thay của nông thôn sau Cách mạng đang được nung nấu trong dự
định của anh, như anh nói “chỉ về làng một tua, bắt tay nhìn mặt chúng nó một
cái thì phần cuối cùng cuốn truyện mình nhất định viết xong” cũng còn chờ
dịp... Sự chuẩn bị, tích lũy bước đầu về kinh nghiệm sống và tình cảm của
một nhà văn thành tâm đi theo cách mạng, gắn bó thiết tha với quần chúng,
với sự nghiệp của Đảng, quyết tâm làm người nghệ sĩ kiều mới, lao sâu vào
các dòng chính của đời sống, nắm bắt nhạy bén các yêu cầu của cách
mạng… bảo đảm cho Nam Cao tiến tới có những thành tựu lớn; nhưng thời
gian chưa cho phép anh thực hiện được: kẻ thù đã cướp mất Nam Cao của
chúng ta.
Tuy nhiên những gì đã được Nam Cao viết ra đều là những trang đáng
quý. Cũng đáng quý là những kinh nghiệm sống, viết và hoạt động của anh…
Đọc Nam Cao, chúng ta thấm thía hơn vẻ đẹp của cuộc sống mới, đồng thời
cũng có dịp thấy rõ con đường đúng nhất, cũng có nghĩa là con đường ngắn
nhất đối với một nghệ sĩ chân chính trên quá trình sáng tác phục vụ nhân dân,
phục vụ cách mạng.
Sáng tác của TÔ HOÀITô Hoài viết văn khá sớm. Từ tuổi thiếu niên anh đã làm thơ. Những
bài thơ đầu tiên đăng báo của anh gợi lên một thứ tình cảm lãng mạn nhẹ
nhàng, không khác gì loại thơ lãng mạn phổ biến đương thời. Ở một vài bài,
tứ thơ có khi cũng hay hay, nhưng vần điệu kém, câu thơ vụng về. Dễ hiểu là
Tô Hoài không đi vào con đường thơ. Viết văn xuôi mới đúng là con đường
của anh. Truyện ngắn Nước lên (đăng trên Hà Nội tản văn) ghi lại khung cảnh
khổ đau và bi thảm của nhân dân ngoại ô một năm nước lên ở sông Hồng là
truyện ngắn đầu tay anh viết sau khi đi hộ đê ở Tứ Tổng về. Tiếp đó anh viết
những truyện ngắn Bụi ô tô, Một đêm sáng trăng suông, Bệnh già, Trê Cóc,
ông Trạng Chuối, Con gà mái ri…
Năm 1941, Tô Hoài viết Dế mèn phiêu lưu ký, một thiên đồng thoại xuất
sắc nói lên được những khát vọng chính đáng của người lao động mơ ước
một cuộc sống hòa bình yên vui. Những tiểu thuyết và tập truyện ngắn: O
Chuột (1941), Giăng thề (1941), Quê người (1942), Nhà nghèo (194:5), Cỏ
dại, Xóm Giếng ngày xưa (1944), được Tô Hoài xây dựng trên cơ sở tự
truyện, hoặc chuyện của gia đình, bà con, làng xóm của mình. “Những sáng
tác của tôi đều miêu tả tâm trạng tôi, gia đình tôi, làng tôi, mọi cái của mình
quanh mình. Những nghèo đói, cùng túng, đau đớn phần nào nhẹ nhàng, hay
xót xa, hay nghịch ngợm và đá chút khinh bạc là phần nào con người và tư
tưởng tiểu tư sản của tôi”.
Phần tích cực trong tư tưởng Tô Hoài trước Cách mạng được bộc lộ rõ
hơn cả trong đoạn đầu của một tiểu thuyết có tên là Xóm Giếng, không được
bọn kiểm duyệt của đế quốc cho xuất bản.Trong phần đầu đó (được anh đặt
tên là Xóm Giếng ngày xưa, 1941), Tô Hoài đà gửi gắm nhiều tâm sự, thể
hiện niềm băn khoăn của một lớp thanh niên trong cảnh sống khó khăn bế
tắc: “Hỡi Phượng, tuổi trẻ chúng ta bây giờ đi đâu? Đi đâu?”. Tác giả thấy
phải thoát khỏi cái không khí ngột ngạt lúc ấy, nhưng cũng không tán thành
cái bệnh xê dịch, cái thú giang hồ đi để mà đi, không có mục đích: “Tôi cho
rằng lúc này mà cứ ca ngợi xê dịch, tán tụng vẩn vơ cái thú đi lông bông là
thất sách lắm”. Nhân vật trong Xóm Giếng ngày xưa là một gã con trai, có
nhiều khả năng, nhưng chỉ vì nghèo khổ mà “không có sự nghiệp nào đứng
đợi gã ở ngã ba đường phố và trong mọi ngưỡng cửa”. Gã cũng chỉ vì nghèo
mà không tài nào lấy được người mình yêu, phải đau xót nói với người yêu:
“Em ơi! còn lúc nào là lúc anh không mong chúng mình lấy được nhau. Bấy
nay anh chỉ có một tấm lòng. Nhà anh thanh bạch quá. Sự nghiệp anh không
có, cơm áo còn thiếu, chuyện chi đến trăm năm lúc này, Ly ơi!”. Gã không
chán nản, gã vẫn tin gã sẽ về với Ly như một ông hoàng cưỡi ngựa trắng,
đeo lưng túi vàng. Nhưng gã đã đi mòn gót chân mà vẫn đói rách như cũ, còn
người gã yêu thì phải lấy người khác và chết.
Hình ảnh của gã con trai đó cũng là bóng dáng của bản thân tác giả.
Trước một xã hội đầy dẫy những bất công và những cảnh bi thảm, Tô Hoài
thấy rằng nếu cứ yên lòng sống trong khuôn khổ đó thì sẽ chịu đựng một cuộc
sống hết sức bi đát, anh phải tìm một con đường sáng, tin vào một tương lai
có thể giải phóng cho mình và cho mọi người. Niềm tin có lúc kín đáo ngụ vào
một “trận mưa sung sướng”: “Phượng nhỉ, người ta ao ước lắm một trận mưa
rào, mưa rào xuống cho lòng người hả hê và cho trời quang đãng.” Những cái
gì oi bức được gạt bỏ. Trong khoảng mênh mông xanh nhởn nhơ kia sẽ nhả
một không khí tốt lành và tự do hơn. Trời đất chín nẫu này quẫy cựa dưới một
cái mặt trời thui người đương chờ một trận mưa sung sướng”. Niềm tin có lúc
rõ nét hơn ở một “phương trời tự do”: “Hình như tôi có ao ước một cái gì, một
quãng trời xa lạ, để thở và thảnh thơi hơn”… “Tôi hướng về những đốm nhà
tranh nắng đẹp đẽ, trong núi, nghĩ đến một trời nào rộng rãi, tự do. Tự do như
núi cao, tự do như sông dài”. Trong những dòng trên quả có một cái gì oi bức
và cả một nỗi trông mong, chờ đợi. Chờ đợi gì? Trong tác phẩm trên, nhà văn
chưa nói hoặc chưa dám nói cho thật rõ. Khát vọng còn mơ hồ. Nhưng có lẽ
đó là nhân tố làm cho Tô Hoài căn bản không đi lạc đường và đã giúp anh tìm
được một con đường đúng. Anh đã tham gia Hội văn hóa Cứu quốc. Chân
trời đã sáng rõ. Cách mạng thành công. Trận mưa thực trong đời đã đến. Tô
Hoài bước sang một chặng đường sáng tác mới.
***
Đối với Tô Hoài, Cách mạng tháng Tám đánh dấu một bước chuyển
biến trong tư tưởng và sáng tác. So với nhiều nhà văn hiện thực khác, Tô
Hoài không dừng lại quá lâu ở tâm trạng phân vân. Nếu Nguyễn Gông Hoan,
Ngô Tất Tố, Nguyên Hồng và nhiều người khác nữa, chuyển sang Cách
mạng, bước vào Kháng chiến toàn quốc, còn tỏ ra lúng túng, chưa viết được
hoặc viết không hay lắm về cuộc sống mới, thì Tô Hoài có thể bám được kịp
thời các vấn đề mới của đời sống và viết được tương đối thành công một số
truyện, ký ngắn góp phần vào bước chuyển chung của văn xuôi sau Cách
mạng.
Những năm kháng, chiến chống Pháp, cùng với Nam Cao, Tô Hoài đi
vào đời sống các dân tộc ở Việt Bắc tìm hiểu và miêu tả cuộc sống của họ.
Và sự đổi mới trong sáng tác của anh trước hết là đổi mới cả về chủ đề và đề
tài. Từ cuộc sống quẩn quanh, chật hẹp của một vùng dân nghèo thợ thủ
công, anh đã chuyển sang cảnh sống rộng lớn tưng bừng của nhiều lớp
người ở nhiều địa phương, hào hứng đi theo cách mạng và tham gia kháng
chiến, trong đó nổi bật là cuộc sống với những đổi thay cách mạng của đồng
bào các dân tộc thiểu số. Tập truyện Núi Cứu quốc (1948) bước đầu chứng tỏ
những kết quả của Tô Hoài.
Một sáng tác khác cũng đáng chú ý của Tô Hoài vào thời kỳ đầu này là
Ngược sông Thao (1949) viết về chiến dịch mùa hè của quân dân Tây Bắc.
Tác giả ghi nhanh khung cảnh chiến đấu trong các trận Phố Ràng, Đồn Dóm,
Đại Bục, Đại Phác, đồng thời cũng phác họa vài nét về tinh thần quân dân
trong chiến đấu. Tô Hoài còn cho ta thấy hình ảnh một cuộc chiến đấu quyết
liệt và bền bỉ của bộ đội ta trên ngọn Tây Côn Lĩnh rét thấu xương (Vượt Tây
Côn Lĩnh, 1949). Năm 1950, tác giả viết phóng sự Đại đội Thăng Bình ca ngợi
tinh thần vượt khó khăn và dũng cảm chiến đấu của một đại đội độc lập hoạt
động ở vùng địch hậu với nhiệm vụ gây phong trào du kích, quấy rối địch,
giam chân địch lại một chỗ. Năm 1951, sau chiến dịch giải phóng biên giới,
tập truyện Xuống làng được xuất bản. Cũng trong năm 1951, để phục vụ kịp
thời chính sách thuế nông nghiệp, Tô Hoài viết truyện ngắn Chính phủ tạm
vay.
Cuối 1953, Truyện Tây Bắc ra đời đánh dấu bước phát triển mới của Tô
Hoài về cả hai mặt tư tưởng và nghệ thuật. Đấy là một tập truyện xuất sắc
trong văn xuôi kháng chiến, được giải nhất về tiểu thuyết năm 1954 – 1955
của Hội văn nghệ Việt Nam.
Miêu tả cuộc sống của nhân dân với cái nhìn sâu hơn, trên quan điểm
giai cấp, tập truyện Khác trước, ra đời năm 1957, đã vạch rõ tội ác của phong
kiến địa chủ, ca ngợi những đổi thay trong nếp suy nghĩ của người nông dân
tham gia kháng chiến và gắn bó với Đảng, với chế độ.
Quá trình viết văn của Tô Hoài, trong Cách mạng tháng Tám và trong
kháng chiến chống Pháp thể hiện khá rõ sự phấn đấu của nhà văn theo yêu
cầu của cách mạng. Tuy vậy, con đường viết văn của anh không tránh khỏi
có những vấp váp, những khúc khuỷu, quanh co. Những chuyển biến mới của
đời sống sau ngày hòa bình lập lại, nhất là khi miền Bắc bước vào thời kỳ cải
tạo xã hội chủ nghĩa, có làm cho nhà văn bỡ ngỡ. Tô Hoài đã có phần mơ hồ
trước tình hình cách mạng trong giai đoạn mới. Coi nhẹ đấu tranh tư tưởng,
anh đã chủ trương “không nên dán thuốc cao khi chưa có nhọt đầu đanh”.
Trong bài Tổ chức phát triển lực lượng sáng tác trước nhất và Góp phần vào
ý kiến về con người thời đại, Tô Hoài nhấn mạnh một chiều việc thúc đẩy
sáng tác, có phần coi nhẹ nhiệm vụ đấu tranh tư tưởng gay go trong văn nghệ
lúc ấy. Trong sáng tác, anh lại có khuynh hướng miêu tả con người tùy theo
khả năng nhà văn, trái với đường lối của nền văn học chúng ta là phấn đấu
để xây dựng điển hình con người mới trong công nông binh. Sau khi Đảng
phát động phong trào chống Nhân văn – Giai phẩm, Tô Hoài đã nhận ra
khuyết điểm của mình. Anh đã viết bài tự phê bình: Nhìn lại một số sai lầm
trong bài báo và trong công tác.
Tiểu thuyết Mười năm (1958) viết trong giai đoạn này bộc lộ khá rõ
những sai lầm trên của tác giả. Trong Mười năm, Tô Hoài muốn vẽ lên cuộc
sống của nhân dân ta từ phong trào Mặt trận dân chủ đến Cách mạng tháng
Tám. Tác giả miêu tả quá trình phá sản của một làng thủ công và cảnh sống
bấp bênh của những người làm nghề thủ công trước Cách mạng, cảnh chết
đói thê thảm năm 1915. Anh có dụng ý muốn phản ánh những thay đổi lớn lao
trong cuộc sống và con người mà cách mạng đã đem đến trong mười năm
lịch sử đó. Nhưng tác giả đã không thực hiện được ý muốn của mình. Người
đọc chưa thấy được những nét chủ yếu của hiện thực như những mâu thuẫn
cơ bản của thời đại, âm mưu và tội ác của phong kiến, thực dân, phong trào
quần chúng, sự lãnh đạo của Đảng, mặc dù tác giả có đề cập đến. Người đọc
chỉ thấy ở đây sinh hoạt của một nhóm thanh niên nhiệt tình đi vào “cách
mạng” với tâm lý chuộng lạ”, và hoạt động cách mạng của họ chưa có một
mục đích nào thật rõ ràng. Không nói đến quần chúng, ngay những nhân vật
được xem là tích cực như Lê và Lạp cũng nhiều khi có một phẩm chất tầm
thường. Các nhân vật phụ nữ cũng ít gây cho ta một sự kính mến, tôn trọng.
Mười năm có nhiều đoạn miêu tả sự việc một cách tự nhiên chủ nghĩa.
Cảnh nạn đói năm 1945 hiện ra rất thê thảm nhưng cũng có gì ghê rợn.
Người ta chưa thấy tác giả qua việc miêu tả nạn đói mà gây được căm thù đối
với phong kiến, thực dân.
Từ sau thời kỳ chống Nhân văn –Giai phẩm, Tô Hoài đã có sự phấn
đấu để chuyển mạnh về tư tưởng. Một số bút ký anh viết lúc này như Xuôi
sông Hồng (1958), Sầm Sơn (1961), Mặt trời xuân đến sớm (1931), nhằm ca
ngợi vẻ đẹp của chế độ và làm nổi bật sự tương phản giữa hai cuộc đời mới,
cũ. Trong bút ký Xuôi sông Hồng, tác giả ghi lại những cảm xúc và suy nghĩ
của mình trước những điều tai nghe mắt thấy trên một chuyến tàu xuôi Thái
Bình. Hình ảnh của nhiều con người trở về quê hương trên con tàu mới, thật
khác xa những chuyến tàu xuôi xưa kia, chỉ đem lại những cảnh tang tóc,
những sự mất mát, chia ly. Tuy vậy, bước vào đầu những năm sáu mươi, khi
miền Bắc chuyển sang cao trào xây dựng chủ nghĩa xã hội cho đến mấy năm
đầu của công cuộc chống Mỹ, cứu nước, dường như cũng đã có lúc nhận
thức về cái mới ở Tô Hoài có sút đi ít nhiều so với thời kỳ đầu Cách mạng và
Kháng chiến trước đây. Ngoài Thành phố Lê-nin (1961), Tôi thăm Căm-pu-
chia (1964) là hai tập bút ký dài viết về các cuộc đi thăm hữu nghị ở nước
ngoài, anh chưa viết được những bút ký sôi nổi gắn sát với thời sự những
năm đầu kháng chiến. Chỉ có một số bút ký viết trước kia được tập họp lại
trong tập Vỡ tỉnh (1962) và một số bài về lý luận và kinh nghiệm sáng tác
trong Một số kinh nghiệm viết văn của tôi (1959), Người bạn đọc ấy (1964).
Đến 1967, chúng ta mới lại được đọc một tiểu thuyết mới về miền núi
của Tô Hoài: Miền Tây. Tiếp theo đó, anh viết truyện ngắn Người ven thành
ca ngợi truyền thống yêu nước của nhân dân ta, và một vài truyện, ký ngắn
như Phố thể hiện những đổi mới trong sinh hoạt của các khu phố Hà Nội, và
vẽ lên hình ảnh người cán bộ khu phố tích cực đóng góp cho cách mạng
bằng những công việc bình thường, vô danh.
Có lẽ phần viết tương đối liên tục và lúc nào cũng trong sáng của Tô
Hoài là phần sáng tác cho thiếu nhi. Trước sau anh đã viết trên ba mươi tác
phẩm thuộc nhiều thể loại cho nhiều lứa tuổi khác nhau. Tuyển tập Con mèo
lười (1964), Vừ A Dính (1970) gồm những sáng tác chọn lọc của anh viết cho
thiếu nhi từ sau Cách mạng tháng Tám đến nay. Tuyển tập gồm đủ các thể
truyện, kịch, kịch phim, hoạt họa, đồng thoại, nhưng nổi bật vẫn là truyện. Tô
Hoài thành công khi viết về truyền thống yêu nước của thiếu nhi hoặc về đồng
thoại. Còn truyện về sinh hoạt của thiếu nhi của anh thì chưa thành công lắm.
***
Cho đến nay, phần đóng góp nổi bật nhất trong sự nghiệp sáng tác của
Tô Hoài vẫn là những tác phẩm viết về miền núi. Có thể nói, đề tài miền núi
có “duyên nợ” với anh từ lâu. Hồi còn hoạt động bí mật trong Hội văn hóa
Cứu quốc, khi được nghe kể về tinh thần dũng cảm của đội nữ du kích Ba Bể,
anh đã sôi nổi có ý định viết một sáng tác về đề tài mới mẻ và hấp dẫn này.
Nhưng chỉ bằng tưởng tượng không thôi, thiên truyện không thành công. Tuy
vậy đối với anh, đấy là một kỷ niệm khó quên trong đời viết văn: “Đội du kích
Ba Bể tưởng tượng của tôi đã thành một kỷ niệm trong đời viết. Biết đâu nó
không phải là ngọn nguồn cho tư tưởng và tình cảm của tôi sau này, khi tôi đi
vào cuộc sống miền núi – quê hương thứ hai cho sáng tác của tôi”.
Cuộc kháng chiến chống Pháp bùng nổ đã đưa Tô Hoài đi vào một thực
tế lớn, từ đó tạo nên một chuyển biến mới trong sáng tác của nhà văn. Anh
đã đi sâu vào nhiều vùng thuộc căn cứ địa Việt Bắc, vừa làm công tác báo chí
tuyên truyền, vừa viết văn. Mùa thu 1952, anh lại theo bộ đội chủ lực tiến
quân vào miền Tây, tham gia chiến dịch giải phóng Tây Bắc. Sống với đồng
bào các dân tộc, hoặc đi theo bộ đội, Tô Hoài luôn luôn có ý thức chan hòa
với quần chúng để hiểu họ. Anh học tiếng địa phương. Anh “ba cùng” với
nhân dân. Qua những năm tháng chung sống với đồng bào các dân tộc dũng
cảm, chất phác, chung thủy và giàu lòng tin đối với cách mạng, anh đã có một
tình cảm sâu sắc đối với họ: “Đất nước và người miền Tây đã để thương để
nhớ cho tôi nhiều quá”. “Hình ảnh Tây Bắc đau thương và dũng cảm lúc nào
cũng thành nét, thành người, thành việc trong tâm trí tôi. Đó là một ám ảnh
mạnh mẽ thúc đẩy tôi sáng tác”. Do kết quả của việc tích lũy vốn sống và do
có tình cảm gắn bó tha thiết đó, qua những năm đi sâu vào Việt Bắc, Tây Bắc,
Tô Hoài đã viết thành công nhiều sáng tác về miền núi, góp phần đáng kể vào
những thành tựu chung của văn xuôi cách mạng.
Sáng tác miền núi đầu tiên của anh là tập Núi Cứu quốc viết năm 1948
gồm bốn truyện ngắn: Đồng chí Hùng Vương, Nà Lôộc, Tào Lường, Công tác
xa, và hai bút ký Đường bí mật xuống làng và Qua Ba Bể. Tất cả đều hướng
về một đề tài chung là cuộc sống của đồng bào các dân tộc ít người ở những
triền núi Cứu quốc, căn cứ địa của cách mạng. Núi Cứu quốc tuy nghệ thuật
còn đơn giản nhưng đã có thể đem lại cho ta một hình ảnh tương đối đúng về
đồng bào miền núi, khác hẳn loại truyện đường rừng tưởng tượng của một số
nhà văn lãng mạn hồi xưa. Ở đây, căn bản không còn những cảnh nên thơ
một cách giả tạo với những cô gái Thổ đẹp, bí ẩn, chỉ hợp với thị hiếu và sự
tưởng tượng của những anh tiểu tư sản thành thị sống quanh quẩn, mơ màng
những chuyện xa xôi. Cũng không còn nữa những cảnh ma thiêng nước độc
với những con người bịa đặt, sống theo bản năng, những phong tục, tập quán
kỳ quái man rợ, những cuộc báo thù rùng rợn được dựng đứng lên. Tác
phẩm cho ta hiểu con người miền núi đúng với bản chất của họ là những con
người thật thà, chất phác, chung thủy, có một lòng tin mãnh liệt cách mạng.
Tác giả đặc biệt nhấn mạnh lòng trung nành với cách mạng của những con
người miền núi khi họ đã giác ngộ. Đồng bào ở đây sốt rét quanh năm, mỗi
năm thường thiếu ăn đến ba bốn tháng, nhưng họ không tiếc sức tiếc công để
ủng hộ cách mạng, ủng hộ cán bộ và bộ đội Cụ Hồ.
Nhưng đáng tiếc, Núi Cứu quốc vẫn còn những biểu hiện tự nhiên chủ
nghĩa trong phương pháp nghệ thuật, “quá chuộng lạ, thích lạ và khoe chữ”.
Có thể nói những khuyết điểm này vẫn còn dai dẳng, tồn tại trong sáng tác Tô
Hoài trong một thời gian khá dài.
Sau Núi Cứu quốc, năm 1951, Tô Hoài cho xuất bản tập truyện ngắn
Xuống làng trên cơ sở khắc phục dần dần những biểu hiện lệch lạc của chủ
nghĩa tự nhiên.
Nhưng phải đến Truyện Tây Bắc, năm 1953, gồm ba truyện ngắn: Cứu
đất cứu mường, Mường Giơn, Vợ chồng A Phủ, thì bước chuyển của Tô Hoài
mới thật sự được khẳng định. Tập truyện nhằm phản ánh chung cuộc đấu
tranh giai cấp của nhân dân các dân tộc miền núi chống chế độ áp bức của
phong kiến, thực dân, đồng thời ca ngợi cách mạng đã giải phóng cho nhân
dân Tây Bắc thoát khỏi cuộc đời tối tăm, ca ngợi những con người miền núi,
nhất là lớp thanh niên đã vùng dậy làm chủ cuộc sống của mình, ca ngợi tinh
thần đoàn kết giữa các dân tộc.
Bà Ảng, nhân vật chính của Cứu đất cứu mường được tác giả miêu tả
trong sự khác hẳn nhau của hai cuộc đời mới cũ. Người con gái đẹp nức
tiếng Mường Cơi, mười bảy tuổi phải lấy ông lão sáu mươi. Lão già chết, cô
gái trẻ ấy phải trải qua hết tay quan này đến quan khác. Cô rất khiếp sự cảnh
sống ấy, nhưng không sao thoát được. Đâu cũng là đất nước quan lang, quan
châu. Điều cực lòng nữa là cô có con, nhưng quan không nhận, chúng trở
thành con hoang. Theo lệ làng thì mỗi người chửa hoang phải đem nộp làng
mười hai đồng bạc xòe và người đàn bà không chồng theo phép quan là
không được chia ruộng. Ảng phải bán con. “Con ơi, vì mẹ khổ mà hai con,
đứa thì hóa ra trâu, đứa thì hóa ra bò”.
Nhưng ánh sáng cách mạng đã đến với bà Ảng từ khu du kích Phiềng
Sa. Hồi còn trẻ, khi đôi mắt bà còn đẹp thì đôi mắt đó chẳng “còn lúc nào
ngước trông ra cho thấy được mùa nào có con chim nào đã về qua dưới cửa
sổ”. Bây giờ bà đã già rồi nhưng tầm mắt bà lại được mở rộng. Bà đã được tự
do làm chủ cuộc đời mình.
Nếu trang hình ảnh những người già, Tô Hoài muốn nhấn mạnh sự đổi
thay giữa hai cuộc đời mới, cũ, thì trong hình ảnh lớp thanh niên mới, Tô Hoài
cũng cho thấy vẻ đẹp, sức vươn lên của con người mới trong ánh sáng của
cách mạng. Nếu những đau khổ tối tăm dưới chế độ cũ đã kết lại thành điển
hình qua hình ảnh bà Ảng, ông Mờng, Tạo On thì vẻ đẹp của chế độ mới
cũng được thể hiện tập trung trong hình ảnh của lớp trẻ như Sạ, A Phủ, Ính,
Mỵ. Ính trong Mường Giơn được tác giả miêu tả như là một người phụ nữ tiên
tiến, dám đi đầu trong công cuộc giải phóng Mường Giơn, dám đấu tranh với
những phong tục cổ hủ.
Hình ảnh người cán bộ miền núi trong Truyện Tây Bắc cũng đưọc tác
giả chú ý miêu tả nhằm khẳng định rõ hơn quá trình cách mạng hóa của nhân
dân vùng cao. Nếu trước đây trong Núi Cứu quốc, những Hùng Vương, Pảo,
Sin tuy đã có những nét mới, nhưng nhìn chung vẫn còn sơ lược, thậm chí có
những nét sai lạc, thì đến Vợ chồng A Phủ, nhân vật chính đã được Tô Hoài
miêu tả sâu hơn trong các mối quan hệ xã hội và nhất là trong lịch sử đau
thương của đời mình.
Thành công của Truyện Tây Bắc còn là ở sự miêu tả những khung
cảnh mang đậm màu sắc riêng của miền núi. Tô Hoài am hiểu sâu và kể lại
khá thành công những chuyện sinh hoạt như tục lệ đi ở cuông, đi ở rể, chơi
hang, tắm suối nước nóng, cưới vợ, hoặc những cảnh sinh hoạt vui chơi như
chơi xuân, đánh pao, thổi sáo, thổi khèn. Tất cả những khung cảnh sinh hoạt
đó có tác dụng làm nền cho tính cách nhân vật và đem lại cho người đọc một
cảm giác chân thật, tin cậy.
Có thể nói Truyện Tây Bắc khá thành công trong chủ đề phản phong.
Tuy vậy chủ đề phản đế thì chưa thật đậm.
Sau Truyện Tây Bắc, viết về cách mạng dân tộc dân chủ, năm 1967, Tô
Hoài cho ra đời Miền Tây, một tiểu thuyết miêu tả những thay đổi lớn lao về
mọi mặt của người dân Tây Bắc trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Ở đây, ta được thấy cả một nguồn sống mới chan hòa trên khắp bản mường,
thứ ánh sáng trước đây mới chỉ le lói trong Mường Giơn, Vợ chồng A Phủ.
Nhưng cuộc sống vẫn còn nhiều khó khăn và cuộc đấu tranh giai cấp vẫn còn
tiếp diễn. Cũng như Truyện Tây Bắc, trong Miền Tây, Tô Hoài vẫn sắc sảo
trong những trang miêu tả cảnh tối tăm của người dân miền núi trước Cách
mạng.
Bà Giàng Súa khổ vì chồng chết trong khi đi phu cho quan. Bà còn khổ
vì dân làng mê muội, tin lời quan cho là chồng bà phải ma chài nên xa lánh bà
đến nỗi mẹ con bà phải sống cô độc chui rúc trong rừng sâu. Bà còn khổ vì
đứa con đầu lòng là Thào Nhìa bị bắt đi phu. Cách mạng thành công, bà sung
sướng được trở về sống trong tình thương và sự đùm bọc của bà con. Bà tự
hào vì sự trưởng thành của hai con bà là Thào Khay, Thào My. Nhưng vẫn
còn một nỗi buồn canh cánh vì một đứa con là Thào Nhìa đi nhầm đường.
Cuốn sách cho thấy ánh sáng cách mạng chan hòa trên khắp mọi nẻo
của vùng cao. Nhưng trong bước đầu xây dựng một cuộc sống mới vẫn còn
tồn tại nhiều khó khăn do đời sống kinh tế thấp kém và do sự phá phách của
bọn phản động.
Mặt khác, nạn mê tín dị đoan vẫn còn đè nặng lên đời sống tinh thần
người dân miền núi. Đấu tranh với tư tưởng lạc hậu này không phải là câàu
chuyện một lúc mà giải quyết được ngay. Trong Miền Tây, việc Thào Khay
chữa khỏi bệnh cho con thôn trưởng Pàng và ngay cho cả ông thầy cúng
người Xá, đã gây được lòng tin của người dân vào khoa học. Họ bắt đầu
không tin vào sự cúng bái. Nhưng đó mới chỉ là bước đầu.
Chính qua những cuộc đấu tranh với kẻ thù giai cấp và đấu tranh trong
nội bộ nhân dân, người cán bộ miền núi trưởng thành.
Trong Truyện Tây Bắc, người cán bộ miền núi chưa được miêu tả với
nguồn sáng rưc rỡ tỏa ra từ trong con người họ. Bởi vì từ trong bóng tối cuộc
đời cũ bước ra, con đường đi lên của họ mới chỉ là những bước đầu, những
chân trời mà họ vươn tới còn đang ở trước mặt, có khi họ cũng chưa hình
dung cho thật cụ thể. Phải đến Miền Tây, tất cả những ánh sáng, những khát
vọng đó mới được thể hiện rõ, làm thành một vẻ đẹp riêng, vẻ đẹp của con
người đã thật sự được giải phóng. Trong hình ảnh chủ tịch Sóa Tỏa, ta tìm
được khá dễ dàng những nét điển hình của lớp cán bộ cơ sở trung niên miền
núi: cộng tác hăng, lao động giỏi, cởi mở, bộc trực, nhưng đôi khi cũng nóng
nảy.
Trong hình ảnh Thào Khay, ta thấy khuôn mặt của một lớp cán bộ trẻ
mới trưởng thành, được quần chúng yêu mến, tin cậy và trở thành niềm tự
hào của dân Phiềng Sa; “Cả vùng này xưa kia tăm tối, cả vùng này ngày nay
giải phóng. Có giải phóng mới sinh ra được một lớp người bộ đội đẹp như
thế, cưỡi ngựa về, đứng một chỗ mà thơm khắp nhà”.
Bên cạnh hình ảnh người cán bộ miền núi, Tô Hoài cũng chú ý khắc
họa người cán bộ miền xuôi lên miền núi hoạt động. Truyện Tây Bắc cho ta
tiếp xúc với A Châu. Đến Miền Tây ta lại đưọc tiếp xúc với cán bộ Nghĩa.
Nghĩa nghe lời Đảng gọi đã lên miền Tây để cùng đồng bào làm cách mạng,
đánh đổ đế quốc phong kiến, sau đó đã tự nguyện ở lại cùng đồng bào miền
Tây xây dựng chủ nghĩa xã hội. Tô Hoài không miêu tả Nghĩa như một người
cán bộ hoàn toàn tốt về mọi phương diện. Tuy vậy việc vạch một số hạn chế
trong tính cách của Nghĩa vẫn không làm giảm tình yêu mến của ta đối với
anh. Trước khó khăn, Nghĩa cũng đã từng có lúc dao động muốn về xuôi.
Trước tình yêu của Thào Mỵ, anh cũng do dự, với ý nghĩ tự dối mình là sợ
phải sống suốt đời ở miền núi. Trong người anh vẫn còn rơi rớt tư tưởng cũ,
coi thường người dân miền núi. Nhưng chính thực tế đã giáo dục anh. Sự
kiện địch phá hoại ở Nà Đắng đã giúp anh hiểu thêm về cuộc đấu tranh còn
tiếp diễn trong những ngày hòa bình, và người cán bộ không thể mỏi gối chồn
chân. Mặt khác, chinh quá trình tiếp xúc với những con người mới miền núi
như Sóa Tỏa, Thào Khay, Thào Mỵ, Huổi Ca, cũng đã làm nảy nở trong anh
những tình cảm mới, và giúp anh gắn bó với miền Tây, miếng đất từ nay sẽ
trở thành quê hương thứ hai của anh.
Nhưng trong hình ảnh Thào Nhìa, người đọc lại thấy có mặt chưa thỏa
mãn. Thào Nhìa là anh ruột Thào Khay, nhưng lại đi theo con đường trái
nguợc. Quá trình lưu manh hóa của Thào Nhìa tuy có phù hợp với tính cách
thèm khát sự giàu sang, lười lao động, đam mẻ rượu chè, trai gái của hắn,
nhưng tác giả vẫn chưa có được một sự giải thích rõ ràng vì sao Thào Nhìa
xuất thân từ một gia đình nghèo khổ, đã từng phải chịu bao sự đè nén, áp
bức, bên cạnh đó luôn có tình thương bao la của bà mẹ và cô em gái, mà hắn
vẫn cứ lao đầu vào con đường phản cách mạng đến cùng.
Nhin chung, Miền Tây cho ta thấy bức tranh rộng lớn - miền núi trong
buổi đầu xây dựng chủ nghĩa xã hội. Tô Hoài đã thành công khi miêu tả vẻ
đẹp của cách mạng và những đổi thay giữa hai chế độ. Anh cũng đã nêu lên
được những mặt khó khăn phức tạp trong bước đầu xây dựng chủ nghĩa xã
hội ở miền núi. Qua hình ảnh những bà Giàng Súa, sóa Tỏa, Pàng, Thào
Khay, Thào Mỵ, Huổi Ca, ông già ngừời Xá, ta sẽ có dịp hiểu thêm, yêu mến
thêm con người miền núi dũng cảm chất phác, giàu tình yêu thương và thủy
chung với cách mạng, với Đảng, với Bác Hồ. Tuy vậy, phần miêu tả khí thế
tưng bừng trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền núi và hình ảnh
con người mới xã hội chủ nghĩa vẫn chưa thật rõ nét hẳn trong bức tranh
chung của miền Tây.
Tuổi trẻ Hoàng Văn Thụ (1971) tiếp tục phương hướng cố gắng của Tô
Hoài trong yêu cầu xây dựng những hình ảnh con người cách mạng miền núi
với vẻ đẹp toàn diện. Có thể nói, nếu như trong Kim Đồng, Vừ A Dính, Tô
Hoài đã khắc họa thành công hình ảnh lớp thiếu nhi miền núi bất khuất trước
kẻ địch thì trong tuổi trẻ Hoàng Văn Thụ, anh đã cố gắng dựng lên hình ảnh
người chiến sĩ cách mạng tiêu biểu cho lứa tuổi trẻ miền núi quyết tâm gác bỏ
hạnh phúc gia đình, quyết vượt mọi khó khăn, gian khổ để theo lý tưởng. Nếu
như trong Núi Cứu quốc, Truyện Tây Bắc, Miền Tây đã có hình ảnh những
cán bộ miền núi từ bóng tối thoát ra, và trưởng thành dưới sự lãnh đạo của
Đảng thì trong Tuổi trẻ Hoàng Văn Thụ, tác giả đã hướng về lớp người tiên
phong, đi trước vạch đường chỉ lối cho dân. Với họ, cách mạng đã được gieo
mầm, và với họ, miền núi đã trở thành cái nôi của cách mạng.
Tuy vậy, Tuổi trẻ Hoàng Văn Thụ vẫn chưa phải đã gây được một ấn
tượng sâu sắc trong bạn đọc. Nhân vật chính ở đây chưa được thể hiện đậm
nét do chưa được soi chiếu trên nhiều góc độ. Không khí cách mạng, bối
cảnh cách mạng của Lạng Sơn – Cao Bằng, căn cứ địa nói riêng, của miền
núi nói chung, nơi địa đầu đất nước, nơi in dấu chân bao chiến sĩ cộng sản,
cũng chưa thật nổi rõ, làm thành một cái nền cho nhân vật chính hoạt động.
Những mảng sáng trong đời sống dân tộc Vùng cao, trong ý thức của con
người vùng cao chưa được khơi sâu khiến cho chủ đề cách mạng chưa trở
thành một nét quán xuyến làm tôn nhân vật chính lên. Người đọc, qua Tuổi
trẻ Hoàng Văn Thụ, chưa phải đã có thể dễ dàng cắt nghĩa được chân dung,
tính cách Hoàng Văn Thụ, một cán bộ ưu tú của Đảng trên lĩnh vực tinh thần,
tình cảm, và cả về phương diện trí tuệ cách mạng nữa.
***
Tác phẩm Tô Hoài có những trang rất hay khi miêu tả sinh hoạt. Anh có
tài dựng những khung cảnh gắn bó với con người. Cảnh vật luôn luôn gợi cho
ta hình dung được những sắc thái riêng của miền núi, nhất là miền núi trong
sự đổi thay của hai chế độ, hai cuộc đời mới, cũ. Cảnh chợ ngày trước và
cảnh chợ ngày nay. Cảnh người, ngựa chở thuốc phiện đi trong sương núi.
Cảnh tết trước và nay, cảnh người dân sống trong trại tập trung. Cảnh tấp
nập tưng bừng của người dân miền núi nô nứửc đi lao động xây dựng xã hội
chủ nghĩa.
Thiên nhièn đóng một vai trò quan trọng trong tác phẩm Tô Hoài. Thiên
nhiên đầy hương sắc, mùi vị. Mùa xuân, “hoa thuốc phiện vừa nở trắng lại đổi
ra màu đỏ hau, đỏ thẫm rồi sang màu tím man mát”. Những con chim đủ loại
của miền Tây, “con chim kỳ xanh biếc chân đỏ, tiếng nó thánh thót cao thấp
như tiếng kèn đi săn”; từng đoàn “chào mào rừng đỏ chóe, đội mũ nhung cao,
mỗi con như một đám đuốc lỗ đỗ bay ra trải dài cả đàn trên vòm trời sương
tan”. Những rừng hồi “ngào ngạt xanh thẫm trên các quả đồi quanh làng” mà
“một mảnh lá gãy cũng dậy mùi thơm”.
Bút pháp Tô Hoài linh hoạt. Anh có tài dẫn chuyện và chuyển cảnh. Đọc
tác phẩm của anh, ta có cái thú của một người xem phim, được thấy những
chuyện bất ngờ.
Ngôn ngữ Tô Hoài thường ngắn gọn và rất gần với khẩu ngữ của nhân
dân lao động, với những ưu điểm và nhược điểm của khẩu ngữ: phong phú,
giàu hình tượng, nhưng cũng nhiều lúc không được trong sáng lắm.
***
Sáng tác của Tô Hoài từ sau Cách mạng chứng minh khá rõ cái chân
lý: nhà văn trước hết phải là một người cách mạng, gắn bó với cơ sở, mới
sáng tác tốt được. Tuy những rơi rớt của cách nhìn và quan điểm tiểu tư sản
nhiều khi đã gây nên một số thiếu sót đáng tiếc trong sáng tác của Tô Hoài,
nhưng nhìn chung anh là nhà văn có sức phấn đấu dẻo dai, bền bỉ để bám
chắc vào cuộc sống, và tự nâng mình lên không ngừng.
Nổi bật ở Tô Hoài là sự gắn bó sâu xa với đề tài miền núi. Nếu nói mỗi
nhà văn cần có một “vùng quê” thì “vùng quê” của Tô Hoài cho đến nay chính
là miền núi. Một vùng quê anh yêu mến, hiểu biết thông thuộc, môt vùng quê
đã “để thương để nhớ” nhiều cho anh. Vùng quê ấy hẳn còn là nguồn viết,
nguồn cảm hứng phong phú của anh. Một tác phẩm lớn, xứng đáng với hiện
thực lớn lao của miền núi đang có sức hấp dẫn, kêu gọi không ít các cây bút
văn xuôi, trọng đó chúng ta hy vọng nhiều từ Tô Hoài.
NGUYỄN HUY TƯỞNG qua hai chế độNguyễn Huy Tưởng thuộc trong số nhà văn đã sống và viết trải qua hai
chế độ. Anh có một sức viết dồi dào; trong khoảng hai mươi năm cầm bút,
anh đã cho ra đời liên tục, đều đặn một khối lượng không nhỏ các sáng tác
ngắn dài thuộc nhiều thể loại, trong đó có thể kể những cái mốc chính như
sau: Vũ Như Tô (kịch lịch sử, đăng báo, 1943), Bắc Sơn (kịch, 1946), Những
người ở lại (kịch, 1948), Ký sự Cao Lạng (1951), Truyện anh Lục (tiểu thuyết,
1955), Bốn năm sau (truyện, 1959), Sống mãi với Thủ đô (tiểu thuyết, 1960).
Cố nhiên, nói đến Nguyễn Huy Tưởng, còn phải nắm đầy đủ các sáng tác
khác của anh – những ghi chép, bút ký, tùy bút khác, có khá nhiều, xen kẽ, bỗ
sung cho các mốc chính trên, không thể thiếu được, và đôi lúc còn có ý nghĩa
quan trọng để giúp ta hiểu được một cách cặn kẽ những diễn biến và quá
trình phát triển của tư tưởng, tài năng Nguyễn Huy Tưởng, và qua đó, cũng
đồng thời giúp ta hiểu thêm bối cảnh chung của phong trào sáng tác văn học
mấy chục năm qua.
Là vì từng bước phát triển của Nguyễn Huy Tưởng gắn sát với từng
bước tiến lên của văn học cách mạng. Và những nhược điểm của anh cũng
lại phản ánh một khía cạnh nào đó trong các khó khăn, vướng mắc chung của
phong trào. Có lẽ có phần rõ nét và dễ thấy hơn nhiều người khác, anh là nhà
văn mà sáng tác tương đối có ý nghĩa tiêu biểu cho con đường đi của một lớp
nghệ sĩ, tuy không quá nặng nợ quá khứ, nhưng cũng chưa hoàn toàn dứt bỏ
được quá khứ một cách thanh thản trong từng bước đi lên của mình.
***
Trước Cách mạng tháng Tám, Nguyễn Huy Tưởng là nhà văn chuyên
về đề tài lịch sử. Điều đó có lý do khách quan. Thời kỳ 1940 –1945 là thời kỳ
bọn phản động thuộc địa đang đi vào con đường phát xít hóa. Chế độ kiểm
duyệt rất khắt khe. Mọi yếu tố tích cực hoặc tiến bộ trên văn đàn đều bị cấm
đoán, chỉ có thể biểu hiện một cách kín đáo, quanh co. Mặt khác, về chủ
quan, hồi này Nguyễn Huy Tưởng là nhà văn có chịu ảnh hưởng của khuynh
hướng lãng mạn, với ít nhiều mặt tích cực, muốn trở lại tìm hình ảnh cha ông
trong lịch sử.
Anh viết truvện và kịch, và trong số đó, tác phẩm hoàn chỉnh và có
chiều sâu nhất định là Vũ Như Tô, Đêm hội Long Trì. Trong cái bề bộn, hỗn
tạp đủ dạng loại của văn học công khai lúc này, sáng tác của Nguyễn Huy
Tưởng có một vẻ riêng trong sáng, nghiêm túc, lành mạnh. Người đọc đọc
anh là được tiếp xúc với một không khí mới. Anh đem lại cho họ hình ảnh một
quá khứ đen tối dưới sức nặng của cường quyền như trong Vũ Như Tô, và
chừng mực nào đó, cảnh ngộ bi thảm của nhân dân như trong Đêm hội Long
Trì. Anh cũng đã ít nhiều gợi nghĩ một tinh thần dân tộc xa xôi như trong An
Tư, Cột đồng Mã Viện, về nghệ thuật, các cốt truyện và cốt cách nhân vật
trong sáng tác của anh tuy có mang màu sắc lãng mạn, nhưng ít nhiều vẫn
dựa trên sự thực lịch sử, ít khi tô vẽ, xuyên tạc, như số lớn sáng tác lúc này.
Tuy vậy, trong khuôn khổ của văn học công khai, và do khuynh hướng
lãng mạn, sáng tác Nguyễn Huy Tưởng lúc này vẫn còn nhiều nhược điểm. Đi
vào lịch sử, Nguyễn Huy Tưởng là người, nổi bật hơn các nhà văn đương
thời, muốn nêu những vấn đề lớn, muốn rút ra những bài học lịch sử. Nhưng
do hạn chế của thế giới quan tiểu tư sản và quan điểm nghệ thuật cũ, anh
thường không giải quyết được, hoặc giải quyết một cách không đúng lắm, các
vấn đề đặt ra. Nhà văn thường đi vào lúng túng, mâu thuẫn, và nhiều khi sáng
tác của anh thường có xen những khía cạnh lệch lạc.
Trong Vũ Như Tô, dường như vấn đề tác giả muốn làm cho nổi bật là
vấn đề quan hệ giữa nghệ thuật và cường quyền, nói cho rõ hơn, quan hệ
giữa nghệ thuật và giai cấp thống trị. Nguyễn Huy Tưởng muốn chứng tỏ:
dưới một chế độ đồi bại, nghệ thuật không được tự do nảy nở mà phải trở
thành vật hy sinh cho những mục đích tầm thường, xấu xa của giai cấp thống
trị. Nhà văn đã để cho Vũ Như Tô nói những lời sảng khoái kiên quyết chống
lại cường quyền. Gốc rễ lao động, sự gắn bó với quần chúng của Vũ, qua
những đoạn đối thoại với vợ, và cả hình ảnh người vợ lam lũ, hiền lành, đôi
lúc đã làm cho hình lượng Vũ có một vẻ hiên ngang, rất đẹp. Nhưng hết màn
một vở kịch thì tình thế lại xoay chuyển, nghệ thuật của Vũ lại phục vụ cho
cường quyền.
Cố nhiên nhà văn vẫn có thể đặt vấn đề nghệ thuật phục vụ cường
quyền. Nhưng vậy thì phải phê phán thứ nghệ thuật đó. Đáng tiếc là thái độ
của Nguyễn Huy Tưởng ở đây lại không như vậy, hoặc có cái gì chưa rõ
ràng. Người ta cảm thấy việc Vũ Như Tô phục vụ cho cường quyền, đem tài
năng mình xây dựng Cửu Trùng đài không có tội lỗi gì lớn lắm, trái lại, còn có
một vẻ gì sáng suốt, vì, với chủ trương đó, Vũ Như Tô đã có thể làm cho
nghệ thuật được nảy nở, và thoát khỏi được những lợi ích thiển cận, tầm
thường. Như thế có nghĩa là trong xã hội cũ, nghệ thuật vẫn có một lối ngoi ra
tốt hơn cả là xu hướng nghệ thuật vị nghệ thuật. Nhà nghệ sĩ có thể bàng
quan vô tâm trước tất cả mọi ý đồ của giai cấp thống trị, chỉ cần tự mình mình
biết, tự mình mình hay về một mục đích tự thân của nghệ thuật tách rời chính
trị, xây dựng một cái đẹp thuần túy, lưu danh thiên cổ; cái đẹp ấy sống vĩnh
viễn, vận mệnh của nó lâu dài hơn giai cấp thống trị. Chúng ta hiểu ý này qua
lời Đan Thiềm khuyên Vũ Như Tô: – “Ông cứ xây lấy một tòa đài cao cả, vua
Hồng Thuận và lu cung nữ kia rồi mất đi, nhưng sự nghiệp của ông còn lại về
muôn đời”.
Nhưng việc xây cửu Trùng đài không thành công. Và trong khi cố gắng
làm sáng rõ nguyên nhân thất bại của việc xây dựng cửu Trùng đài, Nguyễn
Huy Tưởng lại không hoàn toàn có ý chứng minh sự thất bại của nghệ thuật
khi nó phục vụ cho giai cấp thống trị. Qua cách nhìn của Nguyễn Huy Tưởng,
ta thấy sự thất bại của Vũ Như Tô dường như là do bị kẹt giữa hai thế lực đối
chọi nhau là nhân dân và vua chúa bạo ngược. Bằng vào số phận Vũ Như
Tô, ta lại thấy nghệ thuật đi theo quần chúng chưa chắc đã là con đường tốt,
trái lại, có khi còn phải chịu đựng nhiều nỗi thiệt thòi. Qua lời Đan Thiêm, hình
ảnh quần chúng lại hiện lên như là một lực lượng “nông nổi”, “tàn ác”, “không
phân biệt được phải trái”, “không hiểu được nghệ thuật”. Rõ ràng ở đây
Nguyễn Huy Tưởng có một sự lúng túng trong nhận thức và tình cảm, nó
khiến cho tác phẩm mang một tính cách giằng co khá rõ: một mặt nhà văn
ghét vua chúa bạo ngược, nhưng vẫn tán thành việc chúng xây cung điện đồ
sộ; mặt khác đồng tình với quần chúng chống áp bức, nhưng lại cho quần
chúng mâu thuẫn với nghệ thuật.
Cũng trên những sáng tác vào giai đoạn đầu này của anh, người đọc
cũng không dễ đồng tình với sự đánh giá quá cao của Nguyễn Huy Tưởng đối
với người trí thức tiểu tư sản. Hiện tượng này có một vẻ gì không thực, nhất
là trong hoàn cảnh xã hội ta lúc này, một nước thuộc địa nửa phong kiến mà
sự phân hóa giai cấp trong xã hội chưa đi đến giai đoạn hình thành một đội
ngũ trí thức đông đảo có vai trò lớn trong sinh hoạt xã hội. Vấn đề đánh giá
vai trò người trí thức có liên quan đến vấn đề văn hóa dân tộc. Và trên vấn đề
này, quan niệm của Nguyễn Huy Tưởng cũng còn hẹp hòi và có chỗ sai khi
anh có xu hướng làm cho người đọc nghĩ rằng chỉ có giai tầng trí thức mới có
khả năng xây dựng một nền văn hóa dân tộc thực sự mà thôi. Và cái gọi là
văn hóa dân tộc ở đây vị tất đã được quan niệm một cách đúng đắn; theo nhà
văn, chắc cũng không ngoài một số công trình nghệ thuật hoặc khoa học của
một vài cá nhân có tài năng. Ở đây chưa có vai trò nhân dân. Có khi nhân
dân lại hiện lên như một lực lượng phá hoại.
Những hạn chế của Nguyễn Huy Tưởng trên đây xuất phát từ lập
trường một người tiểu trí thức có mặt đồng cảm với đời sống nhân dân,
nhưng mặt khác, vẫn còn loay hoay trong những quan điểm nghệ thuật cũ.
***
Cách mạng tháng Tám thành công đã mở ra cho Nguyễn Huy Tưởng
một con đường sáng tác hoàn toàn mới mẻ. Từ nay anh sẽ có đầy đủ mọi
điều kiện để trực tiếp đi thẳng vào các đề tài thời sự, hiện đại. Trên nhiều
trang ký ngắn:Ở chiến khu, Hai cha con, Ngày mùa… ta thấy nhà văn đã đón
chào cách mạng với một tình cảm chân thành, tuy đôi khi còn có gì hơi vụng
về, bỡ ngỡ. Nếu trước kia anh là người say sưa với quá khứ bao nhiêu thì
bây giờ anh lại là người nồng nhiệt với hiện tại bấy nhiêu.
Đi vào thời sự, Nguyễn Huy Tưởng vẫn là người luôn luôn có ý muốn
đặt ra những vấn đề lớn của lịch sử. Nhưng bây giờ lịch sử là lịch sử của
nhân dân, lịch sử cách mạng. Bắc Sơn là một thành công rực rỡ, bất ngờ và
cũng tự nhiên trên chiều hướng đó.
Chủ đề của Bắc Sơn không phải là hoàn toàn mới lạ. Trên sân khấu cổ
điển Việt Nam, nhiều vở tuồng đã nêu lên hiện tượng một gia đình bị phân
hóa, vợ chồng, anh em, cha con xung đột với nhau khi một triều đình chia làm
hai phe đấu tranh với nhau kịch liệt. Nhiều vở kịch cách mạng trên thế giới và
trong nước từ trước tới nay cũng thường nêu lên vấn đề xung đột giữa lý
tưởng chính trị và tình cảm gia đình.
Hơn nữa, nội dung của vở kịch cũng chưa thật xứng với tên gọi. Là vì
nói tới Bắc Sơn, người ta nghĩ luôn tới một phong trào đấu tranh vũ trang kiên
cường, bền bỉ của nhân dân miền núi dưới sự lãnh đạo của Đảng, làm cho đế
quốc và tay sai phải lúng túng, lo ngại. Nghĩ tới Bắc Sơn, người ta nghĩ đến
hoạt động của những chiến sĩ du kích như Chu Văn Tấn, con “hùm xám Bắc
Sơn”. Xét về mặt chiến lược quân sự cách mạng, thì khởi nghĩa Bắc Sơn đã
thắng lợi ở chỗ phát động và duy trì được phong trào đấu tranh võ trang. Mà
đó là điều bọn đế quốc thấy rõ và rất khiếp sợ. Không thể cho rằng khởi nghĩa
Bắc Sơn đã thất bại ở chỗ không giữ được chính quyền cách mạng, chiếm
được đất. Thế mà vở kịch Bắc Sơn lại chỉ tập trung vào một tấn bi kịch gia
đình, chưa phản ánh được cuộc khởi nghĩa với những mặt tiêu biểu của nó,
chưa nêu lên được cái ý nghĩa vô cùng lớn lao của phong trào Bắc Sơn. Mặt
khác, tác giả lại quá chú trọng đến sự khủng bố của bọn đế quốc, cho nên vở
kịch còn nhiều chất bi lụy, thiếu hơi thở lạc quan.
Nhưng Bắc Sơn có nhiều đặc sắc về mọi phương diện. Viết về một
cuộc khởi nghĩa lịch sử vang dội là một điều khó, vì người viết cần phải mất
nhiều công phu điều tra nghiên cứu. Viết về miền núi cũng là một điều khó
nữa. Xưa kia các nhà văn lãng mạn thường hay bịa đặt, tô vẽ, hoặc xuyên tạc
khi mô tả đồng bào các dân tộc thiểu số. Nguyễn Huy Tưởng chưa viết được
về Bắc Sơn như ta mong muốn, nhưng nhà văn đã cố gắng phản ánh chân
thực cuộc sống của đồng bào Bắc Sơn, vạch rõ mâu thuẫn giữa nhân dân và
bọn đế quốc, quan lại, mô tả được tinh thần đấu tranh kiên cường của đồng
bào. Tính cách của các nhân vật, nhất là nhân vật chính diện, trong Bắc Sơn,
được xây dựng một cách chững chạc. Hình ảnh những con người mới của
Bắc Sơn hùng vĩ như cụ Phương, Sáng, Thơm… gây được nhiều xúc động
cho người xem. Không khí căng thẳng trong những màn đầu của vở kịch
càng thu hút được sự chú ý của mọi người. Đối thoại của vở kịch sôi nổi
nghiêm trang, thích hợp với một vở kịch có tính chất anh hùng ca. Trong lịch
sử kịch nói Việt Nam, Bắc Sơn thực sự đã đánh dấu một chặng đường phát
triển mới. Nói chung vở kịch đã chứng minh đường lối văn nghệ dân tộc, khoa
học, đại chúng của Đảng là đúng đắn, chủ nghĩa hiện thực cách mạng là rất
lành mạnh, yêu cầu phải mô tả những nhân vật anh hùng trong quần chúng
lao động là rất cần thiết.
Rõ ràng từ Bắc Sơn, Nguyễn Huy Tưởng đã có một bước chuyển căn
bản từ chủ nghĩa lãng mạn tiến bộ sang hiện thực cách mạng. Cố nhiên, con
đường đi của anh còn nhiều thăng trầm. Nhưng cái chính là hướng đi lên. Từ
đây, anh luôn luôn có mặt trong mỗi bước tiến của phong trào. Đi vào kháng
chiến, anh mong muốn tìm hiểu những vang động lớn của nó đã làm xáo trộn,
thay đổi số phận con người như thế nào. Kịch vẫn là thể loại được anh quan
tâm nhất, và sau Bắc Sơn, anh lại có Những người ở lại. Tiếc là, lần này, do
chưa nhận thức kỹ bối cảnh cách mạng, và vẫn còn cái thích thú riêng đối với
các bi kịch gia đình, mặt khác có chịu ảnh hưởng phần nào Lôi vũ, nèn
Những người ở lại không thành công. Tuy vậy, mấy năm sau anh lại có đóng
góp đáng quý trong Ký sự Cao Lạng, thiên ký sự dài đầu tiên của văn học
kháng chiến dựng lên được một cách khá rõ nét khí thế chiến thắng của dân
tộc, qua hình ảnh những người Vệ quốc, những anh chị em dân công miền
ngược, miền xuôi, mà anh đã có dịp thâm nhập, tìm hiểu, để mô tả với một
tình cảm yêu mến, chân thành. Đi vào đời sống nông dân, nhân một đợt Cải
cách ruộng đất, anh đã có thể cho ra đời một tiểu thuyết dài như Truyện anh
Lục. Cuốn tiểu thuyết tuy chưa thoát ra khỏi được những hạn chế của bệnh
công thức, sơ lược vốn là tình trạng chung của phong trào sáng tác lúc này,
nhưng vẫn có những chương, những trang xúc động vạch tội ác của địa chủ
và mô tả nỗi khổ của người nông dân trong tay giai cấp địa chủ. Những năm
xây dựng hòa bình, Nguyễn Huy Tưởng là ngưòi chăm chỉ thâm nhập thực tế,
và Bốn năm sau đã có cái vinh dự là sáng tác dài đầu tiên thông qua đề tài
hàn gắn vết thương chiến tranh, xây dựng cuộc sống mới ở Điện Biên Phủ,
mà nói về công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội trên miền Bắc nước ta.
***
Nhưng đồng thời đi vào thời sự, quan tâm đến nhiều mặt khác nhau
của đời sống cách mạng, Nguyễn Huy Tưởng vẫn không nguôi ấp ủ một đề
tài, nó theo đuổi anh khá lâu, về cố đô Thăng Long, về Thủ đô Hà Nội. Anh đã
nhiều lần viết ký, kịch, làm phim về Hà Nội. Nhưng điều ao ước của anh là thể
hiện đề tài đó bằng truyện. Một thiên truyện dài sẽ giúp anh có điều kiện tung
hoành thoải mái, nói hết được mọi điều muốn nói, đi từ ngóc này sang ngách
khác của Thủ đô, dựng lên nhiều lớp người, miêu tả cái bộn bề của cuộc
sống bên ngoài, đi sâu vào những diễn biến phức tạp của tâm lý bên trong.
Lần này trong Sống mãi với Thủ đô, không giống với các sáng tác trước
đây, Nguyễn Huy Tưởng đã đi thẳng vào cuộc kháng chiến của Hà Nội. Một
Hà Nội phong phú, phức tạp, muôn màu vẻ, Hà Nội phù hoa, Hà Nội thượng
lưu, Hà Nội lao động. Hà Nội lầm than, Hà Nội của mọi tầng lớp người… Ngòi
bút Nguyễn Huy Tưởng vẫn sở trường trong việc đi sâu vào những diễn biến
của tâm trạng và thái độ của mọi tầng lớp trung gian Hà Nội; và nhờ ở một
năng khiếu quan sát có tài, Nguyễn Huy Tưởng đã nắm được những đặc
điểm riêng của cuộc kháng chiến ỏ Hà Nội, để gợi lên một thứ không khí
riêng, không khí Hà Nội, cho thiên truyện của mình.
Miêu tả Hà Nội trong vẻ toàn vẹn và phức tạp của nó, Nguyễn Huy
Tưởng đã có những cố gắng lớn để mở rộng thế giới nhân vật của mình. Anh
miêu tả nhiều tầng lớp nhân dân lao động Hà thành như cô gái bán hoa Ngọc
Hà, mẹ Thắng bán xôi chè, Dân – thợ nguội, Sờn – thợ xẻ, Quý – tài xế, Hai –
chữa xe đạp… nhiều con người thuộc nhiều thành phần xã hội khác nhau đó
đã tham gia vào cuộc kháng chiến của Hà Nội một cách khỏe khoắn, tự nhiên,
vì cuộc đời của họ nói chung đã phải trải nhiều cực khổ. Trong lớp quần
chúng cơ bản, Nguyễn Huy Tưởng chú ý những công nhân ưu tú, những cán
bộ lãnh dạo phong trào như Dân, Quốc Vinh, Nguyễn Gia Định là lực lượng
nòng cốt, tiêu biểu cho tinh thần sống chết với Thủ đô, chèo chống cho cuộc
kháng chiến ở Thủ đô.
Tất cả khối người đông đúc đó đã được nhà văn đặt chung trên một bối
cảnh lịch sử, với những vấn đề có quan hệ đến vận mệnh chung của dân tộc.
Giáp mặt với quân thù, người Hà Nội thay đổi hẳn tầm thước. Nhiều trang
Sống mãi với Thủ đô rạo rực một không khí hùng tráng của sử thi. Đọc thiên
truyện, ta khó theo dõi được thời gian, ta bị cuốn đi trong những diễn biến lớn
lao, căng thẳng của cuộc đời, tưởng như đã xảy ra hàng năm hàng tháng,
nhưng thật ra chỉ có mấy ngày đêm. Không khí loãng tan xao xác dưới những
mái trường. Quang cảnh rạo rực chuẩn bị kháng chiến trên từng khu phố, góc
nhà, đến buổi chiều ở vườn hoa cửa Nam, người Hà Nội vẫn vây quanh một
anh thợ nặn, sống nốt quang cảnh yên bình cuối cùng khi chung quanh đã
ngột lên mùi tanh giá của chiến tranh. Từng chuyến tàu vội vã. Đêm tản cư.
Những buồi chia tay. Vụ thảm sát Yên Ninh. Những trận đánh giằng co. căng
thẳng ở Bắc Bộ phủ, ở nhà Bưu điện Bờ Hồ… Biết bao nhiêu là sự kiện, là
đổi thay, là diễn biến, là xáo trộn! Nhưng thiên truyện cũng thật dồi dào chất
thơ. Âm hưởng chung của thiên truyện là âm hưởng lạc quan. Tiếng cười nói,
tiếng súng đạn, tiếng trẻ bán báo, rao hàng, tiếng đàn ấm áp, tiếng sinh hoạt
của cuộc đời… bản hòa tấu của nhiều âm thanh khác nhau đó trong thiên
truyện, nghe khác hẳn tiếng gõ quan tài bi thảm trong Những người ở lại.
Tuy nhiên, thiên truyện vẫn còn những mặt non yếu nhất định. Do sức
khái quát chưa cao, nên nhiều chương vẫn còn ngập trong sự kiện. Nhiều
người cho rằng những trang thành công trong Sống mãi với Thủ đô vẫn là
những trang có tính chất ký sự. Và cũng là nhược điểm cố hữu của anh, ngòi
bút anh miêu tả các nhân vật tiểu tư sản vẫn đúng và sâu hơn tầng lớp cán
bộ, công nhân. Mặt khác, Sống mãi với Thủ đô cũng có những trang phảng
phất gợi ta nhớ Chiến tranh và hòa bình của Tôn-xtôi trong các cảnh chè
rượu say sưa hoặc các cuộc thảo luận quân sự.
Dù sao, thiếu sót của Nguyễn Huy Tưởng trong Sống mãi với Thủ Đô
cũng chỉ là những thiếu sót trên một quá trình thể nghiệm, tìm tòi, lúc mà trình
độ tư tưởng, nhận thức và tài năng của nhà văn đang trong độ chín. Có lẽ đó
cũng là điều chứng minh cho tâm trạng chưa thỏa mãn với Sống mãi với Thủ
đô mà Nguyễn Huy Tưởng thường nói khi anh còn sống.
***
Nhìn lại toàn bộ quá trình sáng tác của Nguyễn Huy Tưởng, chúng ta
thấy rõ bước tiến lên của anh không phải là một con đường bằng phẳng. Sau
Cách mạng, anh có ngay thành công Bắc Sơn. Nhưng cũng viết về đề tài
cách mạng, khi anh có ý định biểu dương một số mặt “tích cực” có phần giả
tạo trong sinh hoạt của tầng lớp tư sản, địa chủ sống sa đọa và có nhiều nợ
máu với nhân dân như trong Vết cũ (Tiên phong, số đặc biệt kỷ niệm 19-8-
1946) thì lại có thể gây cho người đọc nhiều phân vân. Hoặc trong truyện
ngắn Một phút yếu đuối (Tiên phong, số 1, ngày 10-11-1945), khi anh mô tả
với sự cảm phục một “chiến sĩ cách mạng”, như An, vợ một công chức cao,
dâu một bà huyện, vì tự ái, và vì không muốn để liên lụy cho gia đình nhà
chồng mà chịu cho địch bắt, rồi vì đấu tranh tư tưởng căng thẳng quá mà
chết, thì lại có thể làm cho người đọc hiểu sai về người cách mạng.
Đi vào kháng chiến, sau Những người ở lại, nhà văn viết được Ký sự
Cao Lạng, một sáng tác rất đậm đà hơi thở thời đại và chan chứa nhiệt tình
ca ngợi. Nhưng Anh Sơ đầu quân (1948) lại là một tập kịch dở. Bước vào
công cuộc cải cách ruộng đất, Nguyễn Huy Tưởng cho ra đời rất kịp thời cuốn
tiểu thuyết dài Truyện anh Lục, miêu tả đời sống nông thôn với tình cảm giai
cấp khá sâu, mặc dù vốn hiểu biết của anh còn chưa thật dồi dào, khiến cho
cuốn truyện còn nhiều đoạn nhạt. Nhưng không lâu sau đó, những năm miền
Bắc bước vào công cuộc xây dựng hòa bình, anh lại viết Một ngày chủ nhật
(1957) với tâm trạng bi quan và một cái nhìn có chiều bối rối.
Cố nhiên trong khi tìm hiểu những mặt phức tạp, những bước thăng
trầm của Nguyễn Huy Tưởng, chúng ta cần phân biệt việc nhà văn đấu tranh
với những khuyết điểm với việc anh khắc phục những nhược điểm của mình
để có sự đánh giá khác nhau. Có nhược điểm dẫn tới khuyết điểm. Nhưng
cũng có nhược điểm vổn chỉ là nhược điểm, và chúng ta không thể sốt ruột
đòi hỏi nhà văn khắc phục ngay. Chúng ta đều biết Nguyễn Huy Tưởng là nhà
văn không muốn có một sự dễ dãi hoặc đơn giản trong cách nhận thức và
đánh giá cuộc đời. Những sự kiệu lớn của đời sống từ sau Cách mạng, anh
đều theo dõi sát, để qua đó kịp thời viết được tác phẩm tiêu biểu, đánh dấu
cho từng chặng. Trong mỗi tác phẩm, anh đều biết khai thác những âm vang
của các sự kiện trong tâm tư, tình cảm con người. Anh muốn nêu lên đồng
thời, cùng trên một bình diện, những biến cố lớn lao của cách mạng và những
số phận riêng của từng cá nhân con người. Nhưng không phải lúc nào nhà
văn cũng làm tốt được điều mình mong mỏi. Tác phẩm của Nguyễn Huy
Tưởng cho ta thấy một bên là những khao khát lớn và bên kia là khả năng
còn có hạn của nhà văn. Một bên là những vấn đề lớn, có khi rất lớn của cuộc
sống chỉ vừa kịp le lói, đủ cho ta thoáng nhận ra, và bên kia, nhà văn chưa đủ
sức, đủ vốn để theo đuôi nó kỳ cùng, nên đành bỏ dở. Nhà văn đành phải
“khoanh vùng” lại. Những bi kịch riêng của tình yêu, của gia đình nhiều khi
được đặt vào một hoàn cảnh trong thực tế quá vĩ đại làm cho người đọc
muốn biết nhiều cái lớn hơn là điều nhà văn mô tả. Đó là lý do vÌ sao khi đọc
Bốn năm sau, người ta lại phân vân không rõ nhà văn có ý định mô tả không
khí lao động xây dựng cuộc sống mới ở Điện Biên hay là mối tình duyên éo le
giữa Doan và Ngàn. Nhớ lại hồi kháng chiến chống Pháp, khi viết Những
người ở lại, Nguyễn Huy Tưởng có nói: “Kịch nói không phải là chuyện phân
tích tâm lý một vài con người, bởi vì trong xã hội mới của ta, những cá nhân
đều hòa mình vào cái bể quần chúng. Muốn tả một cơn bão bể, vấn đề không
phải là vẽ từng ngọn sóng, mà là vẽ cả “cái bể đang trào lên”. Đúng là nhà
văn có thể miêu tả cả “cái bể đang trào lên”, nhưng cũng có thể chỉ miêu tả
“từng ngọn sóng” mà cho thấy cả “cái bể đang trào lên”. Tiếc là, cả hai yêu
cầu này, trong Những người ở lại, anh đều chưa đạt được.
Việc khắc phục những thị hiếu tiểu tư sản trong quá trình sáng tác của
mình cũng là một khó khăn đáng kể trong quá trình tiến lên của Nguyễn Huy
Tưởng. Trong Đêm hội Long Trì, mà phần tích cực chúng ta còn có thể ghi
nhận là sự phê phán hiện thực xã hội phong kiến thối nát thời Lê mạt, nhân
vật chính là Trịnh Sâm cùng một số nho sĩ văn nhân, hoặc vương tôn công tử
lại có một vẻ đáng yêu riêng. Còn hình ảnh nhân dân thì lại mờ nhạt. Nỗi khổ
của nhân dân thật ra không đậm bằng nỗi khổ của tầng lớp quý tộc bị bọn du
côn như Đặng Mậu Lân quấy rầy. Cảm hứng chủ đạo của tác giả khi viết
truyện này là sự nuối tiếc một cuộc sống, và hẹp hơn, một mối tình, mối tình
Bảo Kim – Quỳnh Hoa, lẽ ra có thể thơ mộng nếu không có bàn tay phá quấy
của bọn du côn.
An Tư là thiên truyện lịch sử viết về cuộc kháng chiến của quân dân
nhà Trần. Nhưng xen vào trong câu chuyện, thậm chí có thể xem như là
đường dây chính của truyện lại là mối tình ngang trái giữa An Tư công chúa
và Chiêu Thành vương Trần Thông. Tình cảm hào hùng, phấn chấn về chiến
thắng của dân tộc có khi bị lẫn đi trong những thoáng ngậm ngùi về một mối
tình dang dở.
Sau Cách mạng, Nguyễn Huy Tưởng có bước chuyển rõ ràng về nhiều
mặt. Nhưng việc đổi mới hẳn các quan niệm, thị hiếu nghệ thuật cũ cũng đã
phải diễn ra trên cả một quá trình. Người đọc dễ dàng nhận rõ dấu vết của nó,
mà biểu hiện tập trung là Những người ở lại. Ở vở kịch này, như tâm sự của
tác giả, “cuộc kháng chiến Thủ đô chỉ là đường viền cho một tấn kịch nhỏ gia
đình”. Kể ra việc đi sâu vào những bi kịch gia đình và tình yêu như vậy cũng
có ý nghĩa, nếu nhà văn vạch ra được mối liên hệ giữa những sinh hoạt ấy
với dòng thác lớn của thời đại. Hơn nữa, như Mác nói: “Những cuộc cách
mạng là đề tài chân chính của bi kịch”. Tấn kịch gia đình bác sĩ Thành mà tác
giả có ý định dựng lên ở đây: đi hay không đi kháng chiến, theo vợ là gián
điệp hay theo con là Quyết tử quân Hà Nội, có ý nghĩa xã hội lắm chứ! Nhưng
đáng tiếc là trong Những người ở lại, những vấn đề lớn của xã hội mới chỉ
hiện ra thấp thoáng mà thôi. Những chuyện rắc rối của gia đình bác sĩ Thành
có vẻ đặt vào hoàn cảnh nào khác cũng được. Người ta không thấy rõ “cơn
thử thách vĩ đại mà dân tộc đang trải qua, tức là cuộc chiến tranh cách mạng
giải phóng đã cải tạo con người như thế nào”.
Quá trình Nguyễn Huy Tưởng tham gia cách mạng, đi sâu vào đời sống
công nông binh cũng đồng thời là quá trình anh khắc phục dần những thị hiếu
tiểu tư sản trong cách nhìn nhận và đánh giá cuộc đời. Sự vươn lên của nhà
văn về mặt này sẽ hạn chế dần những ảnh hưởng tiêu cực của mặt kia. Vị trí
của con người tiểu tư sản trí thức trong tác phẩm sẽ dần dần được đặt đúng
chỗ. Anh sẽ dần dần không còn xem họ là nhân vật trung tâm của cuộc đời.
Anh đặt họ trong mối tương quan với quần chúng nhân dân và do vậy, những
ưu điểm và nhược điểm của họ sẽ được nhìn nhận rõ và đánh giá xác đáng
hơn. Trong Sống mãi với Thủ đô, một vài chỗ còn chút ít thi vị hóa con người
tiểu tư sản sẽ không đến nỗi làm mờ đi những mặt tiêu cực ở họ, mà anh đã
cố vươn tới một sự đánh giá đúng đắn, nghiêm khắc, toàn diện.
***
Nguyễn Huy Tưởng giàu nhiệt tình cách mạng và có cảm giác nhạy bén
trước cuộc sống, nên khi đi vào thực tế thì anh tích lũy, ghi chép được ngay.
Anh cũng dũng cảm đi vào những đề tài lớn, và là người lúc nào trong đầu óc
cùng ôm ấp những dự kiến, những hoài bão lớn lao. Có lẽ, nổi bật hơn một số
nhà văn, Nguyễn Huy Tưởng là người thao thức nhiều hơn cả cái ý muốn
miêu tả cuộc sống trong dạng anh hùng ca vốn có của nó. Anh muốn đưa ra
những bức tranh huy hoàng của lịch sử. Khả năng, tài năng của anh được bồi
đắp rất nhiều trong quá trình đi theo cách mạng, nhưng dù sao, vẫn chưa đủ
cho anh thực hiện những hoài bão lớn lao và chính đáng của mình. Quả có
một cái gì còn so le, chưa cân đối, giữa ước vọng của nhà văn giàu tinh thần
lãng mạn cách mạng một bên và bên kia là trình độ tư tưởng, suy nghĩ, vốn
hiểu biết, và khả năng khái quát, khiến cho ta chưa được xem một tác phẩm
nào thật là hay trọn vẹn, kề cả Sống mãi với Thủ đô là tác phẩm cuối cùng
được anh viết bằng tất cả vốn liếng và tâm huyết của mình. Nhưng trong mọi
lĩnh vực của văn xuôi, kịch nói, Nguyễn Huy Tưởng đều đã viết được khá
nhiều trang có phong cách trang nghiêm, dạt dào khí thế cách mạng, thấm
nhuần chất anh hùng ca của thời đại. Sự nghiệp sáng tác của Nguyễn Huy
Tưởng thấp thoáng một cái gì thật là lớn lao mà anh đang quyết tâm theo
đuổi nhưng đành nửa chừng bỏ dở.
Những chặng đường sáng tác của BÙI HIỂNBùi Hiển là nhà văn viết truyện ngắn và bút ký. Nằm vạ, tập truyện ngắn
đầu tay của anh, ra đời năm 1941. Từ đó tới nay đã hơn ba chục năm. Ba
chục năm đối với một quá trình sáng tác kể ra cũng là một chặng đường dài.
Song nhìn lại, ta thấy tác phẩm của Bùi Hiển không nhiều lắm. Bởi vì ở những
thời kỳ đầu anh viết có hơi thưa: hai mươi năm, sau khi Nằm vạ xuất bản, anh
mới lại có thêm cuốn sách thứ hai – Ánh mắt (tập truyện ngắn về kháng chiến
chống Pháp, 1961). Tất nhiên chúng ta không nhìn vào thời gian mà đánh giá
nhà văn, chúng ta chỉ nhìn vào tác phẩm. Phải nhận rằng ở thời kỳ này, tuy
viết ít, nhưng Bùi Hiển đã chứng tỏ mình là một cây bút thận trọng, có trách
nhiệm sâu sắc. Mỗi truyện ngắn trong tập Ánh mắt của anh đều có một giá trị
nhất định, cho nên ngay lúc ra đời đã được dư luận bạn đọc chú ý. Cũng
trong năm 1961, anh còn viết cuốn sách nhỏ – Bước đầu viết truyện – nhằm
phổ biến một số kinh nghiệm của bản thân cho các cây bút trẻ.
Từ 1962, anh bắt đầu sáng tác đều hơn. Những tập truyện ngắn và bút
ký của anh liên tiếp ra đời: 1962– Đường vui xứ bạn (bút ký thăm Ru-ma-ni và
Liên-Xô), Bên đồn địch (truyện thiếu nhi kháng chiến); 1965 – Trong gió cát
(tập bút ký và truyện ngắn về xây dựng; chủ nghĩa xã hội), Quỳnh xóm cháy
(truyện viết cho thiếu nhi); 1966 – Đường lớn (tập bút ký về kháng chiến
chống Mỹ); 1967 – Cao Bá Tuyết và đồng đội (truyện anh hùng lái xe Bá
Tuyết), Người mẹ trẻ (truyện chiến sĩ thi đua mẫu giáo Nguyễn Thị Thảo);
1970– Những tiếng hát hậu phương (tập truyện ngắn về kháng chiến chống
Mỹ)…
Nhìn lướt qua các tác phẩm của Bùi Hiển, ta thấy nổi bật lên điều này:
từ kháng chiến chống Mỹ và về kháng chiến chống Mỹ, anh viết nhiều hơn cả;
mà có lẽ cũng chỉ bắt đầu trong kháng chiến chống Mỹ anh mới được bạn đọc
chú ý nhiều. Nhưng sự chú ý đó chắc chắn không phải chỉ vì anh viết nhiều,
mà căn bản vì ngòi bút chính luận đanh thép và sắc sảo của anh đã thu hút
được người đọc.
Song nếu như ta nhìn lại Bùi Hiển những năm trước Cách mạng, ta sẽ
thấy anh không phải đứng vào hàng các nhà văn tiên tiến. Ngược lại, ngòi bút
của anh còn mang nhiều yếu tố tự nhiên chủ nghĩa. Trong khi Nguyễn Công
Hoan đã có Bước đường cùng (1938), Ngô Tất Tố đã viết cuốn Tắt đèn nổi
tiếng (1939); trong khi Nam Cao đã xây dựng được hình tượng Chí Phèo bất
hủ (1341) và Nguyên Hồng đã viết cuốn Bỉ vỏ (1938) rồi Người đàn bà Tầu
(1939); nghĩa là trong khi văn học Việt Nam đã có những cây bút hiện thực
phê phán chững chạc, hay nói một cách khác, trong khi dòng văn học “tả
chân” ở ta đã phát triển và lôi cuốn đông đảo những người sáng tác, trong khi
văn học đã trở thành một thứ vũ khí sắc bén để vạch trần bộ mặt xấu xa của
cái xã hội cũ thối nát, thì Bùi Hiển mới chỉ nhìn cái xã hội ấy bằng con mắt
khách quan của một người ngoài cuộc, hay đúng hơn, anh mới chỉ nhìn nó
qua những hiện tượng rời rạc, mà chưa thấy sau những hiện tượng đó cái
nguyên nhân sâu xa của sự thối nát ấy. Anh có xu hướng biến tất cả mọi
chuyện thành hài hước. Anh cười một chị phụ nữ nằm vạ, một cô gái chê
chồng, cười hai anh học trò lớn tuổi, cười sự ngờ nghệch của một anh viên
chức nghèo nơi tỉnh lẻ, cười một chàng thanh niên lười biếng, cười cái vẻ
vụng về của mội kẻ mới học làm cha…; anh cười tất cả.
Chỉ sau Cách mạng và trong Kháng chiến, cái nét khách quan tự nhiên
chủ nghĩa ở nhà văn mới được dần dần khắc phục. Sự gian khổ của kháng
chiến và tinh thần hy sinh quên mình của nhân dân không cho phép anh cười
cợt hài hước nữa, nó đã bắt anh phải suy nghĩ nhiều hơn, phải nhìn cuộc
sống thực hơn. Sống giữa cơn xoáy lớn của kháng chiến là mặt trận Bình Trị
Thiên, anh càng có điều kiện thấy được rõ hơn sự khốc liệt của chiến tranh
cũng như tinh thần quả cảm của những người dân trong đó, anh càng thán
phục họ và do đó đã viết nên được những trang rất đẹp ca ngợi họ và phản
ánh cuộc sống gian khổ nhưng anh dũng của họ ở vùng sau lưng địch. Song
sự tàn phá có tính chất hủy diệt của kẻ thù không phải không để lại dấu ấn
nào trên những trang anh viết. Nó chẳng những làm anh suy nghĩ nhiều, mà
có khi nó còn làm anh đau buồn, và có lúc anh đã để cho ngòi bút mình đi
theo những cảm nghĩ nặng nề ấy của bản thân– những lúc như thế, anh miêu
tả cuộc kháng chiến với màu sắc không được thật lạc quan như chính nó vốn:
Anh có phần tô đậm thêm những khó khăn gian khổ, những hy sinh mất mát,
làm cho người đọc cảm thấy cảnh sắc của kháng chiến trong những tác phẩm
ấy hơi đen tối.
Từ năm 1960, Bùi Hiển bắt đầu viết về đề tài xây dựng chủ nghĩa xã
hội; và khi giặc Mỹ gây ra chiến tranh phá hoại trên miền Bắc anh lại viết về
chiến tranh. Nét đặc điểm của giai đoạn này là Bùi Hiển đã bỏ cái nhìn bi
quan, phảng phất trong một vài tác phẩm của anh mấy năm trước, anh đã
nhìn cuộc sống bằng con mắt lành mạnh, khỏe khoắn hơn nhiều. Điều này
không phải ngẫu nhiên mà có được. Cơ sở của nó là sự quyết tâm cao độ
của nhà văn muốn đi vào cuộc sống để thấy được những yếu tố mới, những
nhân tố tích cực của cuộc sống ngày nay, và anh đã tìm ra một phương pháp
rất đúng để thực hiện cái quyết tâm đó của mình – đến với những nơi tiên tiến
và sống với những con người tiên tiến, nơi cuộc sống mới hiện lên rõ nét nhất
và con người mới cũng bộc lộ bản chất mình một cách đầy đủ nhất. Chính
nhờ vậy mà anh đã nói lên được những thay đổi cơ bản của cuộc sống hôm
nay. Suốt mấy năm kháng chiến chống Mỹ, Bùi Hiển vẫn luôn luôn sống ở nơi
mũi nhọn của chiến tranh: Khu Bốn. Chính nhờ thế mà anh đã thấy được
những điển hình đẹp nhất của tinh thần chiến đấu dũng cảm cũng như đã
chứng kiến những tội ác ghê tởm nhất của kẻ thù. Vì thế những tác phẩm của
anh viết vào thời kỳ này có một sức nặng thật sự và cảm động được người
đọc.
***
Bùi Hiển sinh ở Nghệ An, cho nên những truyện ngắn đầu tay của anh
thường gắn liền với những nét đặc điểm của phong tục tập quán người dân
xứ Nghệ. Điển hình là hai truyện Nằm vạ và Ma đậu. Những truyện ngắn này
mang phong cách hài hước nhẹ nhàng, gây được những nụ cười tinh nghịch,
di dỏm, biểu hiện một khả năng miêu tả tâm lý nhân vật khá sắc sảo và một
nghệ thuật vận dụng ngôn ngữ địa phương tương đối sinh động và nhuần
nhuyễn. Song ở đây tác giả thường không đặt được các vấn đề xã hội, mặc
dầu những hiện tượng anh đưa ra như sự nằm vạ hay chê chồng của phụ nữ
đều có nguyên nhân sâu xa nằm trong bản chất xã hội. Những câu chuyện
như thế làm sao có thể kết thúc được một cách dễ dàng và ổn thỏa như nhà
văn miêu tả. Có thể nào tin được, chị Đỏ sau bảy ngày nằm vạ lại chịu làm
hòa với chồng chỉ nhờ mấy câu pha trò nhạt, thếch và quá đỗi vô duyên của
ông Lý, và một người con gái chê chồng quyết liệt như chị Đỏ Câu lại chỉ vì
một lúc sợ ma thôi mà hết chê chồng?
Ngoài hai truyện Nằm vụ và Ma đậu viết về nông thôn, trước Cách
mạng Bùi Hiển còn viết về những người tiểu tư sản lớp dưới. Đó là mấy
truyện Cái đồng hồ, Ốm, Hai anh học trò có vợ, Ác cảm, Làm cha. Ở đây nói
chung anh vẫn giữ phong cách hài bước. Tất nhiên cũng có lúc cái cười của
anh đúng chỗ, chẳng hạn anh chế giễu nhân vật Bình (trong Ốm), một thanh
niên khỏe mạnh mà lười biếng đến mức cam chịu sống nhờ vào ngôi hàng
tạp hóa nghèo nàn và bắt đầu ế ẩm của người mẹ già tháng ngày tần tảo.
Và phải nhận rằng, đây đó trong những truyện ngắn của tập Nằm vạ, ta
cũng đã bắt gặp những nét phê phán khá sắc sảo. Chẳng hạn đoạn tác giả tả
những xác chết vô thừa nhận trong truyện Nhà xác. Qua đó ta thấy được
phần nào bộ mặt bần cùng của cái xã hội ngày trước và sự tàn nhẫn ghê gớm
trong quan hệ giữa con người đối với con người trong cái xã hội đen tối ấy.
Trong truyện Ác cảm, Bùi Hiển miêu tả mặt đen tối khác của xã hội cũ – sự
lừa đảo lẫn nhau. Qua nhân vật Bạc Hói, và sau đó qua Tạo, anh đã cho ta
thấy một mẫu người sống bằng sự giả dối. Trong Nằm vạ, đoạn tả ông Lý
cũng có nét bút châm biếm. Trong Hai anh học trò có vợ, tác giả biểu hiện
khá rõ thái độ phê phán, đả kích đối với loại người học làm sang ở nông thôn.
Tóm lại, trước Cách mạng, Bùi Hiển căn bản là một cây bút “khách
quan, mang màu sắc tự nhiên chủ nghĩa. Song nhờ chịu ảnh hưởng của
những loại sách như Kép Tư Bền và dòng văn học “tả chân” (theo như lời tác
giả đã tự nhận trong bài trao đổi với Nguyễn Công Hoan; tạp chí Tác phẩm
mới; số 6, tháng 3 và 4-1970), mà trong sáng tác của anh đã bắt đầu xuất
hiện đôi nét phê phán, báo hiệu một ngòi bút hiện thực tương lai.
***
Ngòi bút hiện thực đó đã được biểu hiện qua một số tác phẩm của anh
in trong tập Ánh mắt (1961).
Truyện thành công và điển hình nhất của anh giai đoạn này là Đánh
trận giặc lúa. Đây là câu chuyện mưu lược, câu chuyện về sự đọ trí, đọ tài
giữa địch và ta; và trong cuộc đọ trí, đọ tài ấy, ta đã hoàn toàn thắng lợi. Một
không khí lạc quan phấn khởi bao trùm lên câu chuyện. Với ngòi bút của một
nhà văn hiện thực, Bùi Hiển đã miêu tả rất đúng cuộc chiến tranh nhân dân
của ta như là một sự kết hợp chặt chẽ giữa hai mặt: quân sự và kinh tế. Anh
đã cho ta thấy rằng: công việc sản xuất của nhân dân trong vùng tạm chiếm
làm được tốt không phải chỉ riêng nhờ vào tinh thần dũng cảm, óc mưu trí và
sự đoàn kết giúp đỡ lẫn nhau của đồng bào, mà bên cạnh đó, còn phải có sự
hỗ trợ đắc lực của bộ đội địa phương và dân quân du kích. Đến mùa gặt, các
anh về gặt giúp dân và cũng vừa làm nhiệm vụ đánh đòn quấy rối giặc, không
cho chúng có thì giờ và tâm trí để cản trở việc thu hoạch mùa màng của ta.
Tác giả khẳng định, nhân dân ta không những chỉ đánh giặc giỏi, chiến đấu
dũng cảm, mà trong lửa đạn chúng ta vẫn sản xuất rất giỏi, bảo đảm cho
nhân dân và bộ đội có đủ lúa gạo ăn, bảo đảm cơ sở vật chất cho cuộc kháng
chiến lâu dài Đánh trận giặc lúa đến nay vẫn có giá trị thời sự. Vấn đề kết hợp
giữa sản xuất và chiến đấu là vấn đề mà trong giai đoạn kháng chiến chống
Mỹ vừa qua nhiều nhà văn đã đề cập tới. Đọc Đánh trận giặc lúa (viết cách,
đây hơn hai chục năm – 1951), ta vẫn thấy tác phẩm có cái nét sinh động và
hấp dẫn riêng.
Ngoài Đánh trận giặc lúa, các truyện ngắn còn lại trong tập Ánh mắt, ở
khía cạnh này hay khía cạnh khác đều góp phần phản ánh cuộc sống rất gian
khổ nhưng đầy tinh thần lạc quan cách mạng của nhân dân Bình Trị Thiên
trong kháng chiến. Gặp gỡ là một truyện có nhiều nét đặc sắc, miêu tả một
cách rất thực cuộc sống của những cặp vợ chồng cán bộ trong kháng chiến,
họ rất ít có dịp gặp nhau, vì thế những cuộc gặp gỡ hiếm hoi của họ thật là
cảm động. Nó thường rất vội vàng mà lại không mấy khi được yên lành,
nhưng đối với họ, nó vẫn là một niềm hạnh phúc lớn, vì mỗi lần gặp nhau, họ
lại thấy nhau tiến bộ hơn, họ càng yêu nhau thêm, quý trọng nhau thêm.
Truyện Người vợ nói về quá trình tiến bộ của Luyến, một phụ nữ có chồng là
cán bộ. Trước kia chị rất nhút nhát, chỉ nghĩ đến chuyện phải sống xa chồng
là chị đã lo sợ lắm rồi, thế mà nay khi anh đã thoát ly công tác, chị lại tiến bộ
vượt lên, không những tự lực quán xuyến được mọi công việc gia đình, mà
còn bắt đầu nhận công tác liên lạc do tổ chức bí mật của ta giao cho.
Mặt thành công trong các tác phẩm viết về kháng chiến của Bùi Hiển là
mặt miêu tả cuộc sống và tấm lòng của nhân dân và cán bộ vùng địch hậu.
Mặt anh chưa thành công lắm là mặt xây dựng hình ảnh người bộ đội. Nhược
điểm này biểu hiện khá rõ trong truyện ngắn Ánh mắt. Ở đây, qua ba nhân vật
Đăng, Thành, Các, tác giả có ý định phê phán tính chất tiểu tư sản trong một
số anh em bộ đội hồi đầu kháng chiến. Lúc ra đi họ thật là lạc quan yêu đời.
Nhưng chẳng bao lâu, những khó khăn gian khổ và bệnh tật ốm đau đã hoàn
toàn đánh quỵ họ, giết chết đi trong họ cái nhiệt tình rơm rạ lúc ban đầu, và
thế là, họ tan tác mỗi người mỗi ngả. Các đã chết thảm thương vì bệnh tật;
Đăng theo đơn vị về đồng bằng để tìm đường chạy trốn, và anh ta đã đào ngũ
một cách “an toàn”; chỉ một mình Thành là người cuối cùng của bộ ba ấy còn
lại trong đơn vị. Nhưng hiện tình của Thành cũng thật là bi đát: một mình anh
bị rớt lại ở chiến trường, vừa đói lại vừa buồn, vì đi đến đâu cũng bị nhân dân
xua đuổi, hắt hủi, họ sợ vì anh mà liên lụy đến bản thân. Và thế là Thành lại
đành lê bước trên đường cái. Một sự phân vân ập đến: không biết nên về
Huế để tìm lại sự an ủi ở mẹ và em gái, hay trở lại chiến khu? Giữa lúc ấy thì
một cô bé đến với anh. Bằng lòng tin yêu hồn nhiên của mình đối với các anh
bộ đội trên chiến khu, cô gái đã làm cho Thành phải nghĩ lại và anh quyết định
trở về chiến khu.
Tác giả khẳng định với chúng ta, cuối cùng lẽ phải trong Thành đã
thắng. Song dù sao ta vẫn cảm thấy sự thắng thế ấy quá mong manh vì cơ sở
của nó không có gì chắc chắn cả, nó huyền ảo mơ hồ, như cái hình ảnh mơ
hồ huyền ảo của cô bé, mà Thành cũng đã phải nhận rằng, đó chỉ là “một cái
bóng thoáng qua thôi”. Và chúng ta càng cảm thấy khó tin, khi sự thắng thế
đó lại có được ở một con người như Thành, một con người mà lòng tin vào
nhân dân đã hoàn toàn không còn nữa. Mới chỉ bị hai gia đình từ chối mà anh
đã có thể rút ra một kết luận hết sức hồ đồ và cạn tàu ráo máng về tình quân
dân: “Xà! Anh em cứ hay nói quân với dân như cá với nước. Nắng hạn lâu
quá rồi, nước bây giờ sắp khô rồi. Khuấy lên chỉ còn bùn loãng nữa thôi. Cá
không lo mà nhảy thì cá cũng xẹp bụng mà chết mất thôi”. Rồi anh lại phát
biểu những lời rất tầm thường và bạc bẽo về vinh dự của người chiến sĩ:
“Thằng Đăng thế mà khôn, thằng Các chết là dại, khi nào độc lập hắn không
còn đâu nữa mà hưởng. Mà rồi ai còn nhớ tới hắn đã có lần đi chiến đấu cứu
nước”.
Tất nhiên những trường hợp như Đăng, Thành, Các không phải không
tìm thấy trong số anh em bộ đội tiểu tư sản những năm đầu Kháng chiến.
Song chúng tôi tin rằng, trong một thực tế điển hình và phổ biến, người chiến
sĩ Việt Nam lúc này không phải là như thế. Chứng cứ là ngay từ những năm
1950–1951, Nguyễn Huy Tưởng và Nguyễn Đình Thi (trong ký sự Cao Lạng
và Xung kích) đã xây dựng được những hình ảnh khá đẹp về người bộ đội
Việt Nam, với tinh thần luôn luôn lạc quan và dũng cảm, mà nhiều người
trong số họ cũng từ thành phần tiểu tư sản mà ra, có người cũng vừa rời khỏi
ghế nhà trường, bước vào Kháng chiến. Có lẽ, vấn đề quyết định ở đây là cái
nhìn của người cầm bút.
***
Khoảng từ 1958, Hùi Hiển bắt đầu viết về đề tài xây dựng chủ nghĩa xã
hội. Đặc điểm của giai đoạn này là anh viết nhiều về cuộc sống mới và con
người mới. Có thể nói, đây là thời kỳ trưởng thành của ngòi bút nhà văn.
Cùng viết về những năm hòa bình xây dựng, nhưng những tác phẩm của anh
có một sức nặng tư tưởng hơn hẳn một số cây bút viết truyện và ký khác, bởi
vì anh không đi vào những đề tài vụn vặt mà nhiều nhà văn lúc ấy rất thích,
họ gọi đó là viết về “con người bình thường, cuộc sống bình thường”. Bùi
Hiển cũng không viết những câu chuyện nhẹ nhàng, dí dỏm, nhưng thường
lại ít đặt được những vấn đề xã hội sâu sắc, nói chung anh không thích một
cái gì bằng phẳng, dễ dãi; anh thích đi vào những mũi nhọn của cuộc sống để
viết về những nơi tiên tiến và những con người tiên tiến. Đó là hợp tác xã Đại
Phong với hình ảnh mẹ Cặn là tiêu biểu (Sức mạnh Đại Phong); đó cũng là
nông trường Rạng Đông với anh hùng chăn vịt Nguyễn Hữu Quyền (Trên một
nông trường miền bể); đó là nông trường trồng cây chống cát với cả cái tập
thể những con người lao động quên mình (Trong gió cát); đó là một tổ đánh
cá với người thuyền trưởng gan góc dạn dày, luôn luôn kiên trì bám biển – Lễ
(Bám biển).
Và đặc điểm của ngòi bút anh ở đây là: khi viết về cái mới bao giờ anh
cũng ôn lại cái cũ, đặt cái mới ngay bên cạnh cái cũ ấy, làm cho cái mới nổi
bật hẳn lên.
Những năm kháng chiến chống Mỹ, nhà văn vẫn không ngừng theo
đuổi chủ trương sống ở những nơi đầu sóng ngọn gió. Vì vậy suốt mấy năm
chiến tranh, anh vẫn ở Khu Bốn. Nhờ thế mà anh đã nói lên được một cách
khá sinh động tinh thần bất khuất của nhân dân ta; kẻ địch muốn tiêu diệt ta,
nhưng ta vẫn tồn tại, và tồn tại một cách đường hoàng hơn bao giờ hết. Bộ
mặt của đất nước vẫn hầu như không có gì xáo trộn; cuộc sống vẫn bình
thản, mọi người ai vẫn việc nấy. Người bám biển vẫn ra khơi, có điều bây giờ
không phải chỉ đàn ông đi đánh cá, mà cả phụ nữ cũng đã bắt đầu tập nghề
khơi lộng để khi cần, có thể thay thế chồng con mình đã đi đánh giặc cứu
nước (Lớp sóng). Lúa khoai trên đồng vẫn luôn luôn xanh tốt, bà con nông
dân chỉ bận thêm một chút vì phải bỏ công ra lấp những hố bom rơi trúng
ruộng, để cho lúa lại lên đều (Dọc đường tỉnh Nghệ), cả nước ta trong những
ngày chống Mỹ không phải chỉ giữ mức làm việc bình thường, mà mỗi người
còn cố gắng “làm việc bằng hai”, làm việc với sự cố gắng cao nhất của mình
(Chuyện một bệnh xá nhỏ). Chiến tranh tuy có gây cho ta một số khó khăn
thật, song chiến tranh cũng thúc đẩy chúng ta thêm cố gắng làm việc. Và
chiến tranh càng ác liệt, chúng ta càng cố gắng nhiều hơn – đó là tinh thần
của Phan Thị Tuyết Lan trong việc cần làm và có lẽ cũng là tinh thần chung
của lớp thanh niên trong chống Mỹ, cứu nước.
Nhưng đây là về phía chúng ta. Còn kẻ địch thì sao? Bên cạnh sự vĩ
đại và tư thế đường hoàng của dân tộc, chúng ta, bộ mặt kẻ địch hiện lên thật
đê hèn và cuồng dại. Đúng như Bùi Hiển đã nói: “Chúng nó là một lũ đê hèn”.
Chúng “đê hèn” đến mức ném bom vào cả các trường học và bệnh viện.
Chúng nó cố tình phá những gì mà ta muốn xây dựng. Nhưng sự điên cuồng
của chúng chỉ là những hành động giãy chết. Lại mội lần nữa, Bùi Hiển khẳng
định, chúng ta là những người hiếu thắng vì chúng ta có chính nghĩa, dưới
chân chúng ta có đất Mẹ nâng đỡ, và đặc biệt, vì chúng ta có tinh thần chiến
đấu đến cùng.
Tuy nhiên, khi đọc các tác phẩm của Bùi Hiển viết về những năm xây
dựng hòa bình và cả những năm chống chiến tranh phá hoại củạ giặc Mỹ, đôi
lúc chúng ta vẫn bắt gặp những nét có vẻ lạc lõng. Bên cạnh số truyện, ký có
thể xếp vào loại xuất sắc của anh viết về con người mới và cuộc sống mới
cũng như về tinh thần chiến đấu dũng cảm và lạc quan của nhân dân ta,
chúng ta thấy trong một vài tác phẩm, nhân vật của anh hiện lên có phần
không được lành mạnh lắm. Chẳng hạn như, Đợi (trong truyện ngắn cùng
tên), như Lựu (trong Chiếc lá) và Nguyện (trong Hạt vàng)
Truyện Đợi giá như chỉ hạn chế trong việc miêu tả sự vươn lên của
người con gái tàn tật (Đợi) nhờ được sống trong chế độ mới, thì có thể nói đó
là một truyện tốt. Song tác giả hình như lại thích thú đi vào miêu tả tâm lý
không bình thường của nhân vật. Anh đã: để cho Đợi có tình cảm yêu đương
với Bình (một cán bộ kỹ thuật về hợp tác xã của Đợi công tác). Nhưng những
tình cảm chân thành của cô gái tàn tật ấy chỉ gợi trong người đọc lòng thương
hại. Với tính tình hiền dịu và thái độ làm việc đầy nhiệt tình, Đợi đáng để cho
chúng ta yêu quý lắm chứ; và tình cảm yêu quý đó đối với cô không đủ hay
sao mà tác giả còn phải miêu tả tình yêu? Nhất là anh lại dùng những từ như
“ngoi”, “cái ngoi yếu ớt, chơi vơi, loạng choạng”, “âm thầm”, “tăm tối” để chỉ rõ
cái tình cảm đó thì nó càng trở nên đáng thương hơn. Kết quả là, nhà văn
muốn đề cao nhân vật Đợi, song kỳ thực, anh đã làm cho con người vốn nhỏ
bé về thể xác ấy, nay lại nhỏ bé cả về tâm hồn nữa.
Về truyện Chiếc lá thì vấn đề có hơi khác, ở đây tác giả muốn thông
qua cái chết của nhân vật (Lựu – một cô gái mù) để tố cáo tội ác dã man, tàn
bạo của kẻ địch. Nhìn chung, câu chuyện cảm động và gây được lòng căm
thù. Song, nếu nhìn riêng về nhân vật Lựu, thì chúng ta cảm thấy chưa thỏa
mãn với cách miêu tả của nhà văn. Cũng như trường hợp Đợi, anh có nêu lên
được đôi nét tích cực trong con người Lựu. Chẳng hạn, việc Lựu đêm tối một
mình lần ra chỗ máy guồng nước muốn được cùng mọi người tham gia lao
động, hoặc việc Lựu cùng cha nhận chăn bò cho hợp tác xã, “được nhất đội”
và “được thưởng hai cái bát hoa”. Nhưng đó có lẽ là những hành động tích
cực rất hiếm ở cô gái mù ấy, ngoài ra, qua lời nói và cử chỉ của cô, ta chỉ thấy
toát lên một sự bi quan chán chường. Vũ Thị Thường trong Mội buổi sáng
đẹp trời cũng miêu tả một cô gái mù – Bích. Nhưng cuộc sống của Bích, qua
ngòi bút của nhà văn, hiện lên cũng bình thường và cũng phong phú như bất
cứ cuộc sống của một cô gái náo khác. Tất nhiên, để đi đến một cuộc sống
như vậy, Bích phải trải qua bao nhiêu khó khăn, phải dày công luyện tập và
học hỏi. Còn ở Lựu, sự cố gắng vươn lên yếu ớt, bên cạnh đó, thái độ bi
quan chán nản lại rất trầm trọng.
Bên truyện Hạt vàng thì tâm lý các nhân vật (Nguyện và mẹ cô), lại phát
triển theo hướng có phần giả tạo. Họ vốn là những người nông dân hồn nhiên
chất phác, nhưng nhà văn để họ suy nghĩ một cách cầu kỳ rối rắm, như
những con người tiểu tư sản. Tình cảm của họ cũng yếu đuối, những băn
khoăn dằn vặt của bọ cũng nặng nề, mang đầy chất tiểu tư sản như thế.
***
Bùi Hiển là một nhà văn viết truyện ngắn có nhiều kinh nghiệm. Anh rất
thận trọng và có tinh thần trách nhiệm, ít khi anh viết nhanh, viết vội, lấy tay
nghề thay cho chất sống. Anh không có gan viết về một vấn đề gì mà anh
chưa “thuộc” lắm, hay như anh nói: “Tôi không dám hạ bút viết mội cái gì, nếu
tôi chưa biết và hiểu kỹ lưỡng”.
Bùi Hiển là một nhà văn xông xáo, anh thường xuyên có mặt ở nơi mũi
nhọn của cuộc sống, vì vậy vốn sống của anh khá phong phú. Song anh
không sử dụng nó một cách sống sượng, mà chịu khó chọn lọc lấy những gì
tinh túy nhặt trong đó, rồi nhào nặn cho cái vốn sống ấy được thật nhuần
nhuyễn, lúc bấy giờ anh mới bất đầu viết. Cho nên đọc truyện ngắn của anh,
ta ít gặp những nét chung chung dễ dãi, mỗi chi tiết anh đưa vào tác phẩm
đều có một ý nghĩa cần thiết riêng.
Nhiều khi chỉ bằng một vài chi tiết mà anh có thế vẽ lên được một hình
ảnh khá rõ nét. Chẳng hạn, khi miêu tả vẻ đẹp của người con gái Thừa Thiên,
anh chỉ cần nhắc đến một nét đặc sắc nhất trong cách trang điểm của họ –
chải tóc bằng dầu dừa – là người đọc sẽ nhớ mãi. Hay khi miêu tả đức tính
chịu thương chịu khó, dịu dàng hiền hậu của người phụ nữ xứ Huế, anh chỉ
cần cho ta thấy một cử chỉ chăm sóc chồng của người vợ – mỗi buổi sáng
trước khi gánh hàng đi bán, chị đều nhớ bưng lên cho chồng chén đậu hũ và
mời: “Mình ăn đi”, “Em đi bán hàng, mình nờ”…và chúng ta không thể nào
quên được.
Khả năng miêu tả tâm lý nhân vật cũng là một nét nổi bật trong sáng tác
của Bùi Hiển. Trong Nằm vạ, anh miêu tả tâm trạng của một người đói rất tài.
Một mẩu khoai khô “nhỏ bằng hạt đỗ” của một chú chuột nhắt đánh rơi, cũng
không lọt qua mẳt chị ta, chị ta nhặt ngay lấy, “bỏ tót” vào miệng nhai ngon
lành. Rồi đến khi khám phá ra hũ khoai khô để trong buồng thì chị chén một
bữa no cật, đến nỗi sau đó chị “nằm thiếp di trong cơn bội thực”. Trong Đánh
trận giặc lúa, anh tả tình cảm mâu thuẫn của bà Mảng, mộl bà mẹ chiến sĩ,
cũng rất đúng. Bà yêu các anh bộ đội như con ruột của mình. Khi các anh đột
ngột kéo về thì bà mẹ mừng lộ ra nét mặt, bà chăm sóc các anh từng ly từng
tý, nắn lại từng cái đầu nằm ngủ bị ngật ra đất. Nhưng khi các anh, vì nhiệm
vụ, phải bí mật đột ngột ra đi không cho bà biết, thì bà bực, bà giận lắm, rồi
nghĩ lại, bà lại thấy thương các anh phải vất vả vì nước vì dân.
Miêu tả thành công tâm lý của người lớn, Bùi Hiển cũng hiểu cả tâm lý
các em nhỏ. Hình như anh có một sự cảm thông gần như bằng trực giác. Cho
nên nhiều lúc ta tưởng như nhà văn cũng bỗng dưng trở thành đứa trẻ, để nô
đùa, nghịch ngợm, thậm chí đã đánh nhau, rồi bực tức nhau, với các em.
Song tất nhiên anh cũng lại chính là người phân giải mọi chuyện công bàng
nhất và chính xác nhất, làm cho các em nhỏ đọc anh không cãi vào đâu
được.
Tuy nhiên, đề cao khả năng miêu tả tâm lý của Bùi Hiển, chúng tôi lại
muốn rằng anh sẽ bớt đi sâu khai thác những khía cạnh quá đặc biệt, đôi khi
không được thật lành mạnh, rối rắm khó hiểu trong tâm lý các nhân vật (như
các trường hợp Đợi, Lựu, Nguyện và mẹ cô, và cả Đăng, Thành, Các mà
chúng tôi đã nhắc tới ở trên).
Nhìn chung Bùi Hiển là một cây bút truyện ngắn vững vàng, và bước
tiến của anh từ những tác phẩm đầu tay đến những sáng tác gần đây là một
bước tiến dài cả về mặt tư tưởng lẫn nghệ thuật. Song có một điều đáng chú
ý: ở mỗi chặng đường anh đi, chúng ta vẫn thấy còn có những vết gợn, mà
những vết gợn ấy đôi khi không phải là không đậm nét, làm cho người đọc dễ
dàng nhận thấy.
Với tài năng và kinh nghiệm lâu năm của mình, với sự xông xáo và ý
muốn luôn luôn đi sát cuộc sống, lên những nơi đầu sóng ngọn gió của nhà
văn, chúng ta tin chắc Bùi Hiển sẽ khắc phục được những nhược điểm ấy và
sẽ cống hiến cho bạn đọc nhiều tác phẩm có giá trị lâu dài hơn nữa.
Phần hai. NHỮNG CÂY BÚT TRƯỞNG THÀNH TỪ KHÁNG CHIẾN CHỐNG PHÁP
Từ sau Cách mạng, lần lượt xuất hiện nhiều nhà văn mới. Bước vào
giai đoạn kháng chiến chống đế quốc Pháp, không ít người trong số đó đã
nhanh chóng đóng vai trò chủ lực trong đội quân văn nghệ mới, và đã sớm
viết được những tác phầm thành công.
Nói về giai đoạn mới này, bạn đọc nghĩ trước hết đến Nguyễn Đình Thi,
không hẳn vì Nguyễn Đình Thi viết trội hơn cả mà là vì vai trò quan trọng của
anh trong mọi mặt đời sống văn học lúc này. Cùng với với Nguyễn Đình Thi,
còn có Trần Đăng, Thép Mới, Nguyễn Văn Bổng, Võ Huy Tâm… Đó là chỉ kể
mấy nhà văn đã có sáng tác nổi bật. Từ bấy đến nay nhiều người trong số họ
đã có những bước tiến xa, bên cạnh một số người khác sáng tác không đều
hoặc có khi tụt lại. Nhưng nhìn chung, họ đã có một vị tri quan trọng trong
phong trào, vì họ đã mang lại cho văn xuôi lúc này nhiều cái mới thực sự.
Xung kích của Nguyễn Đình Thi là sáng tác tương đối có qiá trị về các chiến
dịch lớn và bộ đội chính quy. Vùng mỏ của Võ Huy Tâm là cuốn truyện thành
công đầu tiên về nền truyện ký mới viết về giai cấp công nhân. Con trâu của
Nguyễn Văn Bông mô tả khá rõ cuộc chiến đấu của nông dân trong vùng địch
hậu. Sáng tác của Trần Đăng không nhiều lắm nhưng chứng tỏ một tài năng
thực sự của một nhà văn (quyết tâm lao mình vào cuộc sống, và luôn luôn
không tự bằng lòng vời ngòi bút của mình. Thép Mới chuyên về bút ký, phóng
sự với một lối văn sôi nổi, hùng hồn.
Thực ra đội ngũ các nhà văn mới xuất hiện trong thời kỳ kháng chiến
trở đi đã có khá nhiều. Nhưng ngoài một số cây bút chính kể trên, thì, những
cây bút khác như Nguyên Ngọc, Nguyễn Khải, Hồ Phương… phải từ sau
1954, tài năng của họ mới thực sự được khẳng định. Chúng ta sẽ nghiên cứu
các nhà văn lớp mới này trong phần sau.
Truyện và ký của NGUYỄN ĐÌNH THIViết về Nguyễn Đình Thi là viết về một nhà văn ít nhiều có phần đặc
biệt, bởi vì, khác với đa số các tác giả văn xuôi, anh không chỉ chuyên tâm
trong lĩnh vực truyện và ký mà ngoài ra anh còn làm thơ, viêt lý luận phê bình,
soạn kịch, sáng tác nhạc và thậm chí nghiên cứu cả triết học nữa. Do đó, văn
xuôi chỉ là một lĩnh vực trong toàn bộ sáng tác của anh, tất nhiên là lĩnh vực
nổi bật nhất.
Không nói thì chúng ta cũng rõ, Nguyễn Đình Thi là một con người có
nhiều tài năng và những tài năng ấy lại kết hợp với nhau một cách uyển
chuyển trong mỗi tác phẩm của anh. Thơ và văn anh rất giàu nhạc tính, các
tác phẩm lý luận phê bình của anh thì lại đượm chất thơ; và cũng có thể nói,
anh là nhà thơ khi sáng tác nhạc, là nhạc sĩ, nhà lý luận khi làm thơ, là nhà
thơ và nhạc sĩ khi viết văn, là nhà văn và nhà thơ khi đi vào lý luận phê bình.
Sự kết hợp uyển chuyển ấy không phải ở bất cứ nhà văn nhà thơ nào
cũng có, vì vậy nó rất quý; nó tô điểm cho sáng tác của Nguyễn Đình Thi.
Song sự tản mạn của tài năng anh ở giai đoạn đầu đến mức làm cho người
đọc khó lòng xác định nổi ngòi bút anh hướng vào lĩnh vực nào của văn học
nghệ thuật: nhạc, thơ, văn hay lý luận phê bình – thì lại không phải là điều có
lợi cho anh. Bởi vì, một con người, cho dù tài năng đến mấy, mà cứ dàn trải
ngòi bút của mình ra quá nhiều lĩnh vực thì chắc chắn ngòi bút ấy sẽ không
thể đi sâu được vào một lĩnh vực nào. Điều này chúng ta thấy khá rõ qua các
sáng tác của Nguyễn Đình Thi ở giai đoạn từ 1945 đến 1950. Anh có một số
bản nhạc hay và được nhiều người chú ý, song anh vẫn không phải là nhạc
sĩ; anh có một số bài thơ được đăng, nhưng ý kiến chê các bài thơ ấy lại khá
nhiều; anh có viết được một số truyện ngắn, nhưng rất ít truyện được duyệt
và in; chỉ có các bài lý luận, phê bình của anh là tương đối nổi. Cho nên kết
quả là: nhẽ ra, cứ với cái đà như ban đầu, thì thành công quyết định bước
đường đến với văn học nghệ thuật của anh phải gắn liền với nhạc hoặc lý
luận phê bình, là hai lĩnh vực mà ở giai đoạn đầu anh đã phần nào có đóng
góp, thì lại hoàn toàn trái ngược. Thành công quyết định của anh lại gắn với
một lĩnh vực mà trước đó anh hầu như không có chút ít sở trường nào cả –
đó là văn xuôi, với tác phẩm Xung kích (1951) nổi tiếng. Và từ khi đạt được
thành công đầu tiên ấy trong lĩnh vực văn xuôi, Nguyễn Đình Thi đã xác định
được hướng đi lâu dài cho ngòi bút mình: sau mấy bài hát Diệt phát xít
(1945), Thanh niên cứu quốc (1945) và Người Hà Nội (1947). Anh hầu như
không sáng tác nhạc nữa; sau hai tập thơ Người chiến sĩ (1956) và Bài ca
Hắc Hải (1958) anh cũng ít làm thơ; lý luận đôi khi anh còn viết, nhưng phê
bình thì hầu như sao nhãng. Ngược lại, chỉ trong vòng mười năm (từ 1962
đến 1970) anh đã cho ra đời ba tác phẩm văn xuôi đáng chú ý: Vỡ bờ (2 tập:
tập I – 1962, tập II – 1970), Vào lửa (1966) và Mặt trận trên cao (1967).
Cho nên không phải không có lý do mà chúng tôi lại đặc biệt chú ý đến
lĩnh vực này trong sáng tác của anh.
***
Đóng góp của Nguyễn Đình Thi về mặt văn xuôi gồm ba mảng: truyện
ngắn, ký và tiểu thuyết. Truyện ngắn và ký nằm ở giai đoạn đầu và không
chiếm một địa vị lớn trong sáng tác của nhà văn, tiểu thuyết mới là phần đóng
góp cơ bản của anh.
Truyện ngắn của Nguyễn Đình Thi – viết rải rác –những năm từ 1948
đẽn 1954, in chung trong tập Bên bờ song Lô (1957) – chủ yếu phản ánh
những nét sinh hoạt kháng chiến, bắt gặp ở chỗ này chỗ kia, rất giản dị và rất
đẹp: một đêm phục kích tàu chiến địch (Bên bờ sông Lô), một trận đánh đồn
(Anh hùng cứ điểm), tấm lòng nhân dân đùm bọc và thương yêu bộ đội (Cái
áo trắng), cảnh một cơ quan ở rừng già Việt Bắc vào mùa mưa (Mùa mưa),
sự trưởng thành của những cán bộ nữ nhờ được rèn luyện qua nhiều năm
kháng chiến (Cánh chim), tinh thần dũng cảm gan dạ của các cán bộ giao
thông khi bị rơi vào tay địch (Mấn), số phận hèn kém đáng thương của những
người lính da đen trong quân đội Pháp (Người tù binh da đen) và cuối cùng là
không khí yên tĩnh, thanh bình, thiêng liêng và quý báu của những ngày đầu
tiên khi tiếng súng ngừng nổ trên một nửa đất nước thân yêu, cảnh những
người cán bộ chia tay với Việt Bắc trở về xuôi (Đường về).
Cũng có khi ta lại bắt gặp trong truyện ngắn Nguyễn Đình Thi những
tình huống éo le đau khổ, xảy ra với người này, người khác, do cuộc chiến
tranh tàn khốc gây nên: nỗi băn khoăn của một anh bộ đội sau khi bị thương
tật, tàn phế và tấm lòng yêu thương quý mến của những người xung quanh
đối với anh (Anh thương binh Hiền), những hậu quả thương tâm mà cán bộ
và nhân dân ta ở vùng địch chiếm phải chịu đựng (Tiếng hét), tâm trạng bi
thảm của một ông già có con đi lính ngụy bị chết thiêu trong một trận quân ta
vào đánh đồn mà người đưa đường lại à ông cụ (Ông cụ đưa đường), nỗi cô
quạnh lẻ loi của người bộ đội, trên đường hành quân tạt qua nơi công tác cũ
tìm thăm mộ người yêu mà không tìm thấy(Hoa mua). Trong những truyện
ngắn này của anh phảng phất một nỗi buồn man mác, khó tả, làm cho người
đọc không thể không suy nghĩ đến những hậu quả đau thương của chiến
tranh. Tất nhiên điều đó cũng là sự thực thôi, song có nên nhấn mạnh vào cái
khía cạnh đó?
Khác hẳn với truyện ngắn, ký của Nguyễn Đình Thi viết rải rác từ 1948
đến 1954, in chung trong tập Thu đông năm nay (1954)–không đi vào miêu tả
những cảnh - những người riêng lẽ mà thường phản ánh từng chặng đường,
từng bước chuyển biến ngày một lên dần của cuộc kháng chiến thần thánh
chống Pháp. Thu đông năm nay (1948) nói lên những thắng lợi đầu tiên của
ta trên núi rừng Việt Bắc vào thu–đông năm 1947, và từ đấy ta có một mùa-
mới-kháng-chiến – mùa “thu đông” - mùa đánh giặc, mùa mở màn cho các
chiến dịch; Tất cả để chiến thắng (1949) nói về chiến thắng của ta ở Bắc và
Đông Bắc và sự hoảng hốt luống cuống của địch, về ý chí quyết giành thắng
lợi cuối cùng của nhân dân ta; Mùa xuân báo hiệu (1950) miêu tả không khí
trong những ngày cả nước chuẩn bị chuyển sang giai đoạn tổng phản công;
Chúng ta và chúng nó (1930) so sánh, đối lập giữa một bên là bộ mặt tàn bạo,
nhơ bẩn và hèn mạt của kẻ thù với một bên là bộ đội và nhân dân ta, những
con người nhân hậu, dũng cảm và, vì có chính nghĩa, nên tất thắng; Trên biên
giới, chúng ta chiến thắng cho hòa bình (1950) nói về ý nghĩa của chiến thắng
Biên giới và lòng nhân đạo của bộ đội ta đối với bọn tù binh Pháp; Những
người con của nhân dân (1952) ca ngợi phẩm chất rất mực anh hùng mà giản
dị và đạo đức liêm khiết của các cán bộ và chiến sĩ ta và sự trưởng thành của
họ trong kháng chiến; Bên kia sông Mã (1953) phản ánh tinh thần đoàn kết
giữa nhân dân hai nước Việt–Lào trong chiến dịch Thượng Lào; Mùa xuân
của các chiến sĩ Điện Biên Phủ (1954) ca ngợi tinh thần dũng cảm vượt mọi
khó khăn gian khổ và mưu trí của bộ đội ta trong quá trình chuẩn bị để đánh
và thắng địch một trận quyết định là trận Điện Biên. Một không khí lạc quan,
sôi nổi thắm đượm những trang bút ký. Hiện thực thắng lợi hùng hồn của
cuộc kháng chiến chống Pháp đã được nhà văn phản ánh khá đầy đủ trong
bút ký của anh.
Mặc dầu vậy, truyện ngắn và ký của Nguyễn Đình Thi vẫn chỉ là những
tác phẩm mở đầu, tên tuổi nhà văn chỉ đi vào đọc giả từ sau Xung kích. Cùng
với mấy tác phẩm khác được giải trong Giải thưởng văn nghệ 1951 – 1952,
Xung kích đã góp phần tạo nên một bước tiến mới cho văn xuôi kháng chiến.
Khác với các truyện ngắn và ký của anh trước đó, mới chỉ cho ta những cảnh
và những người rời rạc hoặc những nhận thức có tính chất chung chung về
từng giai đoạn của kháng chiến, Xung kích đã xây dựng được bức tranh
kháng chiến với một quy mô khá rộng và với một tập thể nhân vật khá đông
đảo. Có những hình tượng, tuy chưa phải là hoàn chỉnh, nhưng đã có phần rõ
nét và sinh động. Những con người ấy là Sản, Kha, chú liên lạc Lũy và cả bộ
ba Thông, Cốc, Mẫn. Họ đã để lại trong người đọc ấn tượng đậm nét và rất
đẹp. Cảnh dân công đi phục vụ chiến trường, cảnh bộ đội hành quân và đánh
đồn cũng như cảnh chiến thắng nói lên được cái không khi phấn khởi, nhộn
nhịp của những ngày chuẩn bị vào chiến dịch và khi chiến dịch đã kết thúc
thành công.
Trong Vỡ bờ, Nguyễn Đình Thi lại mêu tả một hiện thực khác, hiện thực
của những ngày đất nước còn đang trên bước đường đi đến giành độc lập tự
do, một hiện thực vinh quang trong lịch sử, nhưng cũng gian khổ và khốc liệt
vô cùng, vì vậy ngòi bút của nhà văn ở đây có cái nét trầm tĩnh, sâu lắng chứ
không sôi nổi ồn ào như trong Xung kích. Vỡ bờ miêu tả toàn bộ xã hội Việt
Nam vào những năm ngay trước Cách mạng, với đầy đủ các tầng lớp, các
loại người trong một bức tranh rộng lớn bao trùm cả thành thị lẫn thôn quê và
các vùng công nghiệp. Ở đây vốn sống và vốn kiến thức văn hóa của nhà văn
đã kết hợp với nhau một cách nhuần nhuyễn, cho phép anh có thể nhìn nhận
cuộc sống một cách vừa chi tiết lại cũng vừa khái quát. Tất nhiên để xây dựng
được một tác phẩm như Vỡ bờ, Nguyễn Đình Thi đã phải bắt đầu sự chuẩn bị
từ nhiều năm trước (từ 1918), và vì thế, để có một tác phẩm lớn thứ hai
ngang tầm với Vỡ bờ, nhà văn cũng cần một thời gian chuẩn bị không kém;
trong thời gian ấy anh đã viết những tác phẩm ngắn, có tính chất phản ánh và
đáp ứng kịp thời đòi hỏi của cuộc sống, có thể coi Vào lửa (1966) và Mặt trận
trên cao (1967) của anh là loại tác phẩm kịp thời như vậy. Và, vì viết kịp thời,
nên chúng tránh khỏi những nhược điểm nhất định. Vào lửa là một trong các
cuốn sách đầu tiên viết về kháng chiến chống Mỹ ở miền Bắc, vì vậy nó còn
mang nhiều dấu vết của ký và lại còn phảng phất đôi nét của Xung kích trước
kia. vẫn cái nét bình dị và trầm tĩnh của chính trị viên Sản trong chính ủy
Xuân, vẫn cái vẻ khắc khổ và lặng lẽ của chị Lý trong nhân vật Lích, và lại vẫn
cái tình yêu kín đáo, đầy sự cảm thông nảy nở giữa người chỉ huy quân đội
dạn dày nắng gió và chị cán bộ cũng trải nhiều gian truân ấy. Mặc dầu vậy,
bằng những nhân vật mới như Mai (con gái Xuân) dám rời bỏ cái tình yêu mà
cô cho là cá nhân, nhỏ bé để đi vào cuộc kháng chiến vĩ đại của toàn dân tộc;
như Đương, người chiến sĩ vô cùng kiên cường trong chiến đấu, nhưng lại rất
dịu dàng trong cuộc sống riêng tư, Vào lửa vẫn cho ta những hình ảnh thực
và sinh động về tinh thần của bộ đội và nhân dân ta trong những ngày đầu
chiến đấu chống lại cuộc chiến tranh phá hoại của giặc Mỹ.
Ở Mặt trận trên cao, không khí của cuộc kháng chiến chống Mỹ càng rõ
nét hơn. Và điều cần bàn là cái không khi ấy ùa vào tác phẩm một cách rất tự
nhiên, rất thực. Nhưng đóng góp đặc biệt của Mặt trận trên cao là ở chỗ nhà
văn đã mạnh dạn viết về một binh chủng mới của bộ đội ta – binh chủng
không quân, và anh đã phần nào thành công trong việc miêu tả những người
phi công Việt Nam, những con người có một tinh thần chiến đấu hết sức dũng
cảm và đồng thời cũng có một trình độ kỹ thuật cao.
***
Về mặt đề tài, văn xuôi Nguyễn Đình Thi tập trung vào hai đề tài lớn:
chiến đấu và cách mạng.
Hầu như tất cả các tác phẩm của anh – các truyện ngắn, các bài ký, và
ba tập truyện (Xung kích, Vào lửa và Mặt trận trên cao) – đều viết về đề tài
chiến đấu, nói rõ hơn là về hai cuộc kháng chiến: chống Pháp và chống Mỹ.
Trong các tác phẩm này, nhà văn lại đặc biệt chú ý đến hình ảnh anh bộ đội:
Còm (trong Anh hùng cứ điểm), Sản, Kha, Lũy (trong Xung kích), Xuân (trong
Vào lửa) và Lương (trong Mặt trận trên cao). Và gộp chung lại, các tác phẩm
về đề tài chiến đấu của anh đã cho chúng ta một ấn tượng phần nào hoàn
chỉnh về quá trình trưởng thành của người bộ đội Việt Nam, từ những ngày
anh mới bước vào cuộc kháng chiến chống Pháp còn gặp bao nhiêu khó
khăn gian khổ, những ngày của “đói, lở, rét, ốm, mưa phùn liên miên núi rừng
trùng điệp” và những ngày xung kích còn phải “cầm mác lao lên dốc, chân
giẫm đất vượt qua chông mìn dây thép gai”, đến những ngày thắng lợi đầu
tiên, khi bộ đội ta đã được trang bị khá đầy đủ, “anh nào cũng cồm cộm súng
đạn, vai lưng to lù lù”, những trận đánh phục kích, những trận tấn công: đòn lẻ
tẻ đến những trận đánh có quy mô rộng lớn, đánh từng chiến dịch và cuối
cùng chiến thắng với chiến dịch Điện Biên lịch sử.
Nhưng hình ảnh anh bộ đội trong sáng tác Nguyễn Đình Thi không
dừng lại ở cuộc kháng chiến chống Pháp, Vào lửa và Mặt trận trên cao tiếp
tục xây dựng những hình ảnh ấy ở một giai đoạn mới, giai đoạn chống Mỹ.
Anh bộ đội Việt Nam lúc này đã lớn mạnh lên nhiều về mọi mặt, anh đã tiến
lên sử dụng được những vũ khí tối tân, hiện đại, anh là chiến sĩ pháo binh, ra-
đa, tên lửa và không quân. Một quân đội đã sẵn có một tinh thần dũng cảm, ý
chí kiên cường bất khuất, lại biết sử dụng những thứ vũ khí tối tân hiện đại
như vậy, nhất định quân đội ấy sẽ chiến thắng bất cứ kẻ địch nào.
Về đề tài cách mạng, Nguyễn Đình Thi chỉ có Vỡ bờ. So với một số tác
phẩm khác cùng viết về đề tài này như Hỗn canh hỗn cư của Nguyễn Công
Hoan, Sóng gầm, Cơn bão đã đến và Thời kỳ đen tối của Nguyên hồng, thì
tác phẩm Nguyễn Đình Thi có phần hơi khác – phạm vi cuộc sống mà anh
miêu tả rộng hơn. Anh đã cho ta thấy được bộ mặt tương đối toàn diện của
xã nội Việt Nam những năm sắp đổi đời. Và lĩnh vực anh thành công hơn cả
là miêu tả các nhân vật thuộc thành phần trí thức tiểu tư sản nghèo và dân
nghèo thành thị. Trong số ấy, nổi bật nhất là Khắc-một chiến sĩ cách mạng
xuất thân từ một gia đình nhà nho nghèo. Có thể nói, với Khắc, Nguyễn Đình
Thi đã xây dựng được một hình tượng mang những nét khá mẫu mực về
người cộng sản, một con người rất bình dị nhưng lại cũng phi thường, một
tấm lòng rất giàu tình cảm yêu thương với gia đình, bạn bè, đồng chí, song
cũng lại mang nặng mối căm thù với những kẻ cướp nước và bán nước, một
tấm gương về lòng trung thành với Đảng, với nhân dân, thà chết chứ không
bao giờ chịu khuất phục kẻ thù, phản bội đồng bào và đồng chí. Bên cạnh
Khắc là An (người yêu và người vợ lý tưởng của anh), con người có một tâm
hồn trong trắng và một trái tim rất thông minh. Bằng trái tim ấy, cô đã tìm ra
được con đường đi đúng đắn cho cuộc đời mình – đến với cách mạng. An
yêu Khắc. Lúc đầu, vì Khắc mà cô đã đi theo cách mạng, nhưng về sau, đến
khi Khắc không còn nữa, thì cô lại vì cách mạng mà nén xuống mọi nỗi
thương đau để khỏi qụy ngã giữa đường, để tiếp tục và hoàn thành sự nghiệp
mà Khắc trước đây đã từng theo đuổi.
Nhiều nhân vật khác cũng có những mặt đạt, như Quyên (trong tập I),
như Tư (cũng trong tập I). Đặc biệt ở tập I này phải nhắc đến Xoan. Hình như
tất cả những trang viết về Xoan đều để lại trong người đọc ấn tượng sâu sắc.
Trước mắt chúng ta như hiện lên rõ ràng hình ảnh cô gái nông thôn ấy với
cuộc đời đi ở đày đọa, khổ cực và tủi nhục, nhưng lại với một tâm hồn trong
sáng tràn đầy sức sống, hy vọng và ước mơ. Tuy cho đến lúc tác phẩm kết
thúc, Xoan mới chỉ là một con người được giải phóng, nhưng chúng ta vẫn
thấy ở cô tiềm tàng một sức mạnh lớn; chắc chắn những cuộc đời như Xoan
sẽ hoàn toàn thuộc về cách mạng và sẽ đi theo cách mạng đến cùng. Chúng
ta hơi ngạc nhiên, tại sao Nguyễn Đình Thi lại có thể xây dựng được hình ảnh
một cô gái nông thôn đạt đến thế. Có lẽ đây là nhân vật được anh dành cho
nhiều sự chú ý và nhiều công phu nhất. Tuy nhiên, cũng phải nhận rằng xây
dựng một tính cách tương đối “thuần”, như Xoan, có phần ít khó khăn hơn là
xây dựng những tính cách khá “phức tạp”, như Quế, Thơm chẳng hạn. Và
cũng phải nói thêm, ngay cả ở Xoan, những nét lý tưởng đôi khi vẫn đậm hơn
những nét hiện thực.
***
Nhìn về hình thức, văn xuôi Nguyễn Đình Thi có cái nét trong sáng của
thơ và nét êm dịu nhẹ nhàng của nhạc. Những đoạn tả nỗi vui của Xoan
(trong Vỡ bờ) khi được ra khỏi nhà Nghị Khanh về thăm mẹ: “Xoan như bay”
và “mặt nó tươi dần lên, mắt sáng long lanh, đôi má hồng lên, và cái sức hy
vọng của tuổi trẻ lại làm cho trong lòng nó dần dần có cái gì ca hát, nhảy
nhót”; đoạn tả giấc mơ của Xoan: Xoan mơ thấy mình biết bay, rồi lại mơ thấy
mình được gặp người yêu, hai bàn tay tự nắm vào nhau mà tưởng rằng đang
được người yêu cầm tay dắt đi chơi trên cánh đồng quen thuộc; đoạn tả An
(cũng trong Vỡ bờ) về thăm quê Khắc, rồi hai đứa con anh gặp nhau; những
trang tả Lương (trong Mặt trận trên cao) về thăm em gái là Đào, và qua hình
ảnh em, Lương lại nhớ lại người mẹ mình với cuộc đời vui ít buồn nhiều;
đoạn tả cuộc gặp gỡ giữa chị Lý và Kha (trong Xung kích) và Lý tặng Kha
chiếc huy hiệu làm kỷ niệm; đoạn tả tâm trạng của những người bộ đội trước
khi bước vào trận đánh (cũng trong Xung kích)… là những đoạn mang đậm
màu sắc trữ tình và rất thơ. Ngoài ra, mỗi truyện ngắn và mỗi bài ký của
Nguyễn Đình Thi đều có thể gọi là một bài thơ – thơ bằng văn xuôi.
Tuy nhiên, cũng phải thấy một khía cạnh nữa là, vì văn xuôi Nguyễn
Đình Thi “thơ” quá cho nên nhiều khi nó không nói hết được những khía cạnh
“không thơ” của cuộc đời: cảnh sống cùng cực của những ngưòi nông dân
chân lấm tay bùn và những người công nhân bán sức nuôi thân dưới chế độ
cũ, những tâm tư tình cảm của họ. Ngòi bút nhà văn ở đây nhiều khi còn có
phần thi vị hóa (chẳng hạn những đoạn tả cảnh gặt hái và những đêm trăng
đập lúa; người nông dân ở đây có vẻ vô tư quá, họ chỉ biết có lao động và
đùa vui mà hầu như không nghĩ ngợi gì nhiều lắm về thân phân xã hội thấp
hèn, về những nỗi uất ức của mình).
Đặc điểm thứ hai của văn xuôi Nguyễn Đình Thi là rất đằm thẳm, nhân
hậu: những đoạn tả Xoan, tả Quvên, những đoạn tả tình yêu giữa Xoan và
Mầm, An và Khắc, những đoạn tả đói, tả gia đình nhà Bích (trong Vỡ bờ),
những đoạn miêu tả tình cảnh quyến luyến của một cô gái Thái đối với bộ đội
(trong truyện ngắn Cái áo trắng), những trang miêu tả Mai (trong Cánh chim)
… là những đoạn thật là cảm động, vì nó mang nặng tình người vô sản, rất
nhân đạo nhưng cũng rất có tính giai cấp.
Tuy nhiên, vì nhân đạo mà có lúc ngòi bút nhà văn trở nên hiền quá.
Anh không thể tàn nhẫn được ngay cả với kẻ thù, điều này biểu hiện trong
việc anh miêu tả bọn địa chủ, tư sản – như gia đình Nghị Khanh và bè bạn
của chúng, như Phượng và gia đình Phượng.
Cho đến nay, Nguyễn Đình Thi vẫn chưa phải là một nhà văn xuất sắc
trong số những người cùng thế hệ với anh. Đấy là mội điều đáng tiếc. Bởi vì,
thực ra với tài năng như anh thì anh có thể trở thành một nhà văn có đóng
góp lớn. Phải chăng vẫn là sự tản mạn đã gây tác hại chỗ này. Tuy nhiên
chúng ta vẫn thiết tha mong anh sẽ tập trung tài năng của mình để xây dựng
những cuốn tiểu thuyết xứng đáng với tầm cỡ của hai cuộc kháng chiến
chống Pháp và chống Mỹ, như anh đã từng dự kiến.
TRẦN ĐĂNG và buổi đầu của nền văn học mớiTên tuổi Trần Đăng từ lâu đã trở nên quen thuộc với chúng ta mặc dầu
sáng tác của anh để lại còn ít ỏi: một tuyẻn tập nhỏ gồm mấy tùy bút, truyện
ngắn, ký sự. Ra mắt bạn đọc tháng Giêng năm 1946, trong tùy bút Một lần tới
Thủ đô; hy sinh trên biên giới Đông Bắc cuối năm 1949, với thiên bút ký Một
trận vui lớn trên đường số 4 còn dở dang: bốn năm vào nghề của Trần Đăng
là bốn năm thâm nhập cuộc sống, suy nghĩ, thể nghiệm; bốn năm găn với thời
kỳ mở đầu của nền văn học mới chúng ta cũng đang trong thời kỳ mò mẫm,
phấn đấu theo những phương hướng mới do cách mạng đề ra.
***
Nét nổi bật trong sáng tác của Trần Đăng là nhiệt tình đối với cách
mạng. Một thứ nhiệt tình kín đáo, lắng sâu. Sáng tác của anh bộc lộ rõ con
người anh. Mỗi đường đi, mỗi suy nghĩ, tìm tòi, mỗi khát vọng của anh đều có
in dấu trên từng trang viết. Nam Cao nhân xét: Trần Đăng lạnh như đá.
Chúng ta hiểu nhận xét ấy của Nam Cao nhằm chỉ một phong cách sang tác
của Trần Đăng chứ không nhằm chỉ cá tính con người. Trần Đăng muốn ôm
sát hiện thực, để cho hiện thực tự nó nói lên, không muốn tô điểm vào sang
tác, dù chỉ là một ý nnghĩ, một niềm mong muốn chủ quan. Điều này quả
không có gì mâu thuẫn với tâm hồn yêu mến cuộc sống mới của Trần Đăng.
Sự yêu mến ấy cũng đi đôi với sự phủ định nghiêm khắc con người cũ. Anh
có ý thức lấy ánh sáng của cách mạng kiểm tra và đặt phương hướng phấn
đấu cho mình. Trong tùy bút Một lần tới Thủ đô, Trần Đăng ghi lại một chuyển
biến khá rõ trong tình cảm. Bấy giờ là tháng Giêng 1946, cách mạng vừa mới
thành công, nhưng cuộc đấu tranh chống thù trong giặc ngoài của dân tộc vẫn
diễn ra gay gắt. Hà Nội vẫn đầy dẫy một bọn sĩ quan ngoại quốc nghênh
ngang, và ngập trong một thứ ánh sáng lòe loẹt, phù hoa của đời sống tư sản
trụy lạc đang cố sức trỗi dậy. Trần Đăng miêu tả những rác rưởi đó của Hà
Nội qua cách nhìn dửng dưng khinh bỉ của bốn chiến sĩ từ chiến khu về. Họ đi
hàng một, người đi sau giẫm lên vết chân người đi trước, hướng về một
trường quân chinh ở ngoại ô. Bấy nhiêu hình ảnh về con người mới đã được
ghi lại qua đôi mắt nhìn âu yếm của nhà văn… Mặt khác, thiên tùy bút cũng
có giá trị như những dòng tâm sự. Người thanh niên Trần Đăng vẫn còn giữ
nguyên trong lòng mình niềm vui sôi nổi của những ngày tháng Tám; anh dứt
khoát từ chối Hà Nội cũ, cũng có nghĩa là từ chối quãng đời quá khứ trong
chế độ cũ của mình. Đọc thiên tùy bút, chúng ta thấy quý thái độ phủ nhận
chân thành của Trần Đăng đối với chế độ cũ, và thái độ yêu mến, tin tưởng
của Trần Đăng đối với cách mạng, đối với cuộc sống mới. Hai mặt phủ định
và khẳng định trong anh thật rõ ràng, cụ thể. Nhớ lại hoàn cảnh những ngày
đầu Cách mạng, mới thấy quý một thái độ chuyển biến đúng hướng như vậy
của Trần Đăng. Bởi vì, vào lúc ấy không phải nhà văn nào cũng có được một
thái độ dứt khoát như anh. Bên cạnh những tình cảm mới do cách mạng đem
lại, một số người vẫn còn mang trong mình sự thích thú với lối sống cũ, và
những quan điểm nghệ thuật cũ. Có những cái “tôi” vẫn nghênh ngang giữa
cuộc đời. Có người viết tự nhủ: “Hãy đào thải tất cả cố nhân trong lòng mình”,
nhưng trong thực tế, nhiều mối dây vô hình của chế độ cũ vẫn còn ràng buộc
họ.
Trần Đăng cũng biết rõ việc đổi mới con người của mình không thể chỉ
dừng lại ở một ý muốn tốt đẹp, mà phải được thử thách trong đấu tranh.
Kháng chiến toàn quốc bùng nổ, con đường cải tạo, rèn luyện tư tưởng Trần
Đăng chính là con đường đi sâu vào quần chúng, cụ thể là đi sâu vào đời
sống bộ đội. Thu đông 1947 ở Yên Thế Thượng, La Hiên; xuân 1948 ở chung
quanh Hà Nội; xuân 1949 ở đường số 4 men theo Lũng Phầy; hè 1949 trên
sông Thao; thu đông 1949 lại lên Đông Bắc, vượt qua đường 13, tiến sâu vào
những vùng núi đá và đồi trọc hoang vu vùng địch hậu. Nói như Tô Hoài:
“Đăng đã đi nhiều, Đăng đi cực kỳ khỏe!”. Chan hòa trong cuộc sống chiến
đấu của nhân dân, niềm mong mỏi lớn của Trần Đăng là làm sao thông thuộc
được tâm hồn người chiến sĩ, đứng được cùng chỗ đứng với họ để tiến tới
xây dựng được hình ảnh họ trên những trang viết của mình. Bởi vì Trần Đăng
biết rõ nền văn nghệ mới đang đòi hỏi sự xuất hiện những nhân vật mới –
những chủ nhân ông mới của đời sống–, trước hết là người chiến sĩ nhân dân
đang đứng ở vị trí hàng đầu của cuộc đấu tranh. Quá trình đi vào cuộc sống ở
Trần Đẳng, do vậy, không phải là quá trình nhìn ngắm khách quan, tìm cảm
giác lạ, hoặc quan sát hời hợt như một số người, mà là quá trình sống – hóa
thân vào con người mới, để rèn luyện bản thân mình và để xây dựng những
điển hình mới của văn học cách mạng.
***
Mỗi trang viết của Trần Đăng thể hiện rõ phương hướng phấn đấu của
anh: phương hướng đi sâu vào cuộc sống mới, quyết tâm lấy con người mới
làm nhân vật trung tâm của tác phẩm. Trong tùy bút Lúa mới, Trần Đăng ghi
cảm xúc của mình trước cảnh lúa tốt bời bời sau bao nhiêu thiên tai địch họa.
Lòng anh thiết tha với lúa, bởi vì đằng sau sức lúa là sức người, bởi vì qua
lúa, anh nhìn thấy rõ sức sống dẻo dai, bền bỉ trong chiến đấu và sản xuất
của nhân dân. Từ những ngày rời bản đi công tác xa, buồn nản bao nhiêu
trước cảnh lúa xơ xác, khô cằn vì lụt, hạn, vì địch quần phá, bây giờ trở về lúa
đã xanh tốt, có nơi đã đỏ hoe, lòng Trần Đăng rất vui. Nhưng “hồi hộp vẫn rồn
rập đưa lên hơi thở”, bên cạnh niềm vui còn xen lẫn một nỗi lo: “Lúa đẹp non
nường làm gì, ngào ngạt cả đất nước để báo tin ngon ngọt đến tận mũi quân
thù bên kia rặng núi hay sao”. Nhà văn tự nhắc nhủ mình: “Phải hành động
ngay, làm ngay những việc gì để đảm bảo ngày mai cho lúa”. Sau này, lắm
khi Trần Đăng cảm thấy bực bội và hổ thẹn về sự trực tiếp bộc lộ tình cảm
này. Anh gọi đó là cái “xác chủ quan”. Nhưng đối với chúng ta, chuyện đó
chẳng có gì đáng lo ngại, vì tình cảm của nhà văn ở đây là một tình cảm đẹp
đẽ, chân thành. Vả chăng, bên cạnh tâm trạng “chủ quan” của anh, cũng đã
thấy thấp thoáng đôi nét về hình dáng con người mới, với tình cảm của họ. Ấy
là Nhình Quan, giữa những ngày mưa lũ, nước dềnh lên tận những thửa
ruộng cao, đứng trên bờ suối, nẫu ruột nhìn thửa ruộng bị nước ngập bên kia
bờ. Là Pả Túc xót xa trước những đàn vịt háu đói cứ rúc mãi vào gốc lúa mà
rỉa. Pả bảo cứt chúng ỉa xót cho ruột lúa lắm! Là những anh bộ đội mặt cũng
xanh như lúa, phục cả ngày dưới bờ ruộng này, đón địch lên, “lúa cũng đã
thấy nắm cơm chua loét của các anh”. Mấy hình ảnh thấp thoáng đó trong
Lúa mới đã hiện lên bên cạnh nhà văn, không còn có sự lẫn lộn.
Rồi đây trên những trang viết mới, con người nhà văn sẽ còn lùi xa hơn
nữa, rồi lùi xa hẳn, để nhường chỗ cho một tập thể đông đảo nhân dân và
chiến sĩ. Ký sự Trong rừng Yên Thế ghi hình ảnh một đơn vị bộ đội sau
những ngày quần nhau với địch, đã cùng với nhân dân bí mật thoát ra khỏi
gọng kìm của chúng, bảo toàn lực lượng. Giữa khung cảnh chiến đấu căng
thẳng, thấy hiện lên hình ảnh những chiến sĩ nét mặt đanh lại vì căm thù và
hình ảnh của nhân dân gồng gánh tản cư. Trần Đăng không chen vào tâm
tình của mình. Anh cố hết sức khách quan. Giữa khung cảnh bộn bề người và
hình ảnh tác giả chỉ thoáng hiện ra một lần rồi mất hút đi…
Ngòi bút của Trần Đăng đang đi tới chỗ khách quan, tự chủ. Hình ảnh
đám đông nhân dân, bộ đội xuất hiện đã đem lại một đổi thay căn bản cho
không khí những trang viết của anh. Dĩ nhiên, trong những bước mò mẫm
ban đầu của Trần Đăng, hình ảnh đám đông đó vẫn còn chưa thật rõ, thậm
chí, đôi khi Trần Đăng còn gán cho họ những suy nghĩ, tình cảm không đúng,
không thực, không phải của họ. Nhưng phương hướng cố gắng của anh thật
đáng quý. Phương hướng đó sẽ đem lại cho anh những thành công mới trong
các ký sự Trận Phố Ràng, Một cuộc chuẩn bị, là những ký sự vào loại thành
công trong buổi đầu văn xuôi kháng chiến của chúng ta. Ở đây, Trần Đăng
không còn đóng vai người đi quan sát với tâm trạng không tin lắm ở mình
(không biết ghi như vậy đã đúng chưa?). Anh cũng không còn để lẫn lộn
những tâm sự riêng (dù là những tâm sự cảm động). Ngòi bút Trần Đăng trên
những ký sự mới này nhiều khi đã len sâu được vào một số suy nghĩ, tâm tư
của người chiến sĩ. Nói cách khác, nhà văn đã có thể soi qua mình mà thấy
tâm hồn của người chiến sĩ. Những trang viết ấm áp hẳn lên. Chủ quan nhà
văn đã dần dần hòa hợp với khách quan. Trong khung cảnh đã thấy con
người. Sức sống từ trong bản thân họ toát ra, chứ không phải do nhà văn gán
vào. Chẳng hạn tâm trạng bồi hồi của người chiến sĩ trước giờ ra trận: “Thực
ra, ngày chuẩn bị cuối cùng giờ giấc không có cỡ nào cả. Lắm lúc thấy mưa
sốt ruột lạ. Lắm lúc lại giật hoảng mình, không biết còn quên, còn thiếu gì
không? Nhẩm qua lại nhiệm vụ thuộc lòng như cháo rồi, nhắm mắt còn vẽ
được sơ đồ. Rồi vớ lấy súng lau thêm mấy cái. Lại dở đến dép, dở kim chỉ
khâu vài mũi vậy” (Một cuộc chuẩn bị). Hoặc nỗi sốt ruột của người chiến sĩ
nằm chờ địch trên một quãng đồi men đường số 4, giữa trời mưa: “Cột điện,
những hàng dây thép có con chim bay tới đậu, gợi những ý xa xôi, những
điều gì vui lạ cho người đội viên ngược cũng như người đội viên xuôi. Mắt đo
lại cái tầm thả lựu đạn. Tay buộc chặt quả mìn (…). Trời lại mưa (…) vẫn mưa
to. Rồi chiều. Đời bộ đội lắm cái vất vả đều phớt đi. Nhưng thật không có cái
khổ nào bằng trời mưa phục kích suốt ngày không gặp địch (…). Mảng đường
nhựa thêm rỏ rãi, tụt xuống có mười lăm thước rồi chạy nhảy múa hò hét một
tua thì mới hả được” (Một trận vui lớn trên đường số 4).
Không khí truyện và ký sự của Trần Đăng dần dần thay đổi theo từng
bước thâm nhập đời sống bộ đội của anh: từ chỗ phô bày cảm xúc chủ quan
tiến đến khả năng khắc họa hiện thực khách quan, từ chỗ lúng túng bị động
hồi đầu đến thoải mái chủ động trong hình ảnh những tập thể chiến sĩ. Quá
trình ấy diễn ra rất nhanh trong khoảng vài năm. Nhớ lại khoảng thời gian đó,
từ 1947 đến 1949, trong văn xuôi chúng ta, hình ảnh những con người đứng
ở vị trí trung tâm của cuộc chiến đấu, hình ảnh những chiến sĩ nhân dân vẫn
còn hiếm, chỉ mới thấp thoáng trong mấy ghi chép, mẩu truyện còn sơ lược
của anh em chiến sĩ trên các sổ tay hoặc trên báo tường. Ký sự của Trần
Đăng do vậy đã góp phần đem lại một khí sắc mới cho văn xuôi. Có thành
tích đó chính là do Trần Đăng đã có nhận thức rõ và có sự nỗ lực bản thân để
phấn đấu theo yêu cầu của văn nghệ cách mạng. Sự nhạy bén về phương
hướng mới ở Trần Đăng thật đáng quý nhất là trong hoàn cảnh những ngày
đầu sau Cách mạng, khi phần đông các nhà văn chúng ta vừa thoát ra khỏi
chế độ cũ, đang còn nhiều bỡ ngỡ.
***
Cố nhiên, đối với Trần Đăng, bước tiến ấy không phải diễn ra một cách
đơn giản, nhẹ nhàng. Khó khăn không chỉ ở chỗ dám lao vào một đề tài mới
mẻ trong khi những đề tài quen thuộc với mình (chẳng hạn đề tài về con
người tiểu tư sản) vẫn còn có sức cám dỗ. Khó khăn còn là ở chỗ trong khi
hướng về đề tài mới còn phải thanh toán dần những nếp nhìn, cách nghĩ và
những thích thú riêng không lành mạnh của con người tiểu tư sản vẫn có khả
năng làm sai lạc bức tranh của đời sống khách quan. Cho nên quyết tâm của
Trần Đăng đi vào đời sống cũng là quyết tâm cải tạo và rèn luyện tư tưởng,
tình cảm của mình. Công việc tìm hiểu, thâm nhập cuộc sống mới không đơn
giản, và công việc cải tạo rèn luyện mình lại càng không đơn giản, do vậy trên
sáng tác của anh, hình ảnh con người mới không phải lúc nào cũng hiện lên
với vẻ đẹp trọn vẹn. Tâm trạng “đêm hành quân như một giấc mơ nặng nhọc”
với hình dáng mệt mỏi chập chờn của người chiến sĩ trong ký sự Trong rừng
Yên Thế rõ ràng có nhiều nét giả tạo, mang khá rõ cái “xác chủ quan” của tác
giả. Ngay trong ký sự Trận Phố Ràng, hình ảnh người chỉ huy lầm lì tay nắm
chuôi kiếm luôn tay nhìn đồng hồ cũng có ít nhiều màu sắc “yêng hùng”, chưa
thật sự là hình ảnh tiêu biểu cho những cán bộ, chiến sĩ cách mạng. Rõ ràng
nhược điểm khá nặng còn tồn tại trong một vài sáng tác hồi đầu của Trần
Đăng là một nhược điểm về tư tưởng. Đó là cách nhìn có phần nào còn bi
quan, một thái độ có ít nhiều màu sắc hư vô trên lập trường tiểu tư sản, khi
nhìn vào cuộc sống chiến đấu của nhân dân. Những người chiến sĩ trước lúc
công đồn qua cách miêu tả của Trần Đăng thường hay nghĩ đến cái chết:
‘Ngày mai, một cuộc đời mới nữa, sống hay chết trong đạn lửa?’. Một câu hỏi
bâng quơ, nhà văn không tỏ thái độ dứt khoát, thậm chí như có ý buông xuôi,
làm cho người đọc không thể nào yên tâm được. Chuyện sống chết ở đây
thật mong manh và con người ở đây dường như chịu tùy thuộc ở số phận, có
khi những chiến sĩ Trần Đăng miêu tả cũng hay đùa vui, nhưng bên trong vẫn
cứ phảng phất một vẻ bi quan, một chút ngậm ngùi. Đây là quang cảnh buổi
tối của một đơn vị đang chuẩn bị chỗ ngủ: “Sàn dưới ồn ào chia nhau mấy
tấm gỗ không biết vác ở đâu về làm cho một anh liên lạc đại đội bộ ở trên
ngày trước làm nghề đóng áo ở Phòng ngứa mồm chõ xuống gọi: -Này! Một
người thì phải sáu tấm, bốn dài hai ngắn nhớ, ngủ đi nhớ!”. Cái chết, những
chuyện mất mát trong chiến đấu vẫn thường còn ám ảnh Trần Đăng. Anh
chưa có một chỗ đứng cao, trên lập trường vô sản, để nhìn đúng sự hy sinh
trong đấu tranh cách mạng. Chính quá trình giáo dục của Đảng đã giúp Trần
Đăng chỉnh lại hướng nhìn, và do vậy, cũng làm cho tình cảm anh vững lên.
Những quan niệm và những thị hiếu tiểu tư sản không lành mạnh về kiểu mẫu
anh hùng cá nhân, về những khia cạnh bi quan trong cuộc sống ở Trần Đăng
dần dần được uốn nắn lại. Anh sẽ hướng về chủ nghĩa anh hùng tập thể
trong hình ảnh quần chúng đông đúc, khỏe mạnh. Niềm say mê những
chuyện lạ, say mê vẻ hào nhoáng bên ngoài sẽ được thay thế bằng niềm say
mê vẻ đẹp bên trong, bình thường, cao quý của người chiến sĩ nhân dân.
Phẩm chất đẹp đẽ của người chiến sĩ, trên cơ sở quá trình tu dưỡng về tư
tưởng và tình cảm của anh, dần dần được thể hiện đúng hơn và khai thác
sâu hơn. Có những chi tiết nhỏ mà làm ta nhớ mãi. Như chi tiết giữa hai trận
đánh, bộ đội nằm trên cỏ, chuyện trò với nhau, “chuyện trước còn sôi nổi
đánh nhau, ta, Tây, khố đỏ. Rồi chuyện chuyển sang bộ răng đen của đồng
chí Hội, cái bụng hắc lào của đồng chí Minh. Một bọn bàn cãi gay go về cái
vấn đề chưa được giải quyết trong đại đội: châu chấu, cào cào thì con nào
bằng đầu, con nào nhọn đầu”. Nét phấn khởi, lạc quan cũng dần dần đậm đà
hơn trên những trang viết mới của anh, nó làm cho khung cảnh sống kháng
chiến anh dựng lên tuy vất vả gian khổ nhưng vẫn có một vẻ nhộn nhịp, trẻ
trung. Như quang cảnh lán trại của các chàng Vệ, luộm thuộm mà vẫn vui:
“Trước lán treo bi đông, mắc súng, đạn, mũ áo, xà cột như hai dãy lều chợ
giời: phố “Vệ quốc”. Anh nào cũng thú vị, đi lại tung tăng”. Hoặc quang cảnh
một đơn vị trước lúc ra trận, mọi công việc chuẩn bị đã xong, “các trung đội
đã bắt đầu vui hát. Chèo Ét-ti-pô tẩu mã cười nôn ruột. Thơ. Tình quân dân, ý
nghĩa: anh là bộ đội giết giặc, tôi là dân ở nhà tăng gia sản xuất. Những lời
hai người đối đáp văn hoa rất dài…”.
Trần Đăng cũng khai thác được ở các chiến sĩ những khía cạnh tình
cảm cơ bản: lòng căm thù địch, tình thương yêu đồng đội, tình cảm gắn bó
với nhân dân… Có thể nói đó cũng là tình cảm nổi bật của nhân dân lao động,
của những người nông dân mặc áo lính trong cuộc kháng chiến giữ nước giữ
nhà. Qua hình ảnh những chiến sĩ bề ngoài trông vất vả và có gì như khắc
khổ, Trần Đăng còn nhìn thấy ấp ủ bên trong họ những tâm sự, những
chuyện vui buồn rất gần gũi, rất yêu thương. Anh ghi được thật sâu cái nhìn
âu yếm, khao khát của những chiến sĩ ngày đêm len lỏi trong rừng bỗng nhiên
bắt gặp được một khung cảnh quen thuộc của làng quê: “Dưới ao xanh rờn
mấy con vịt chúi đầu xuống nước giồng cây chuối, hai chân vẫy lên giời.
Tiếng vịt kêu vang động mặt ao, đằm thắm như tiếng cuộc đời đã lâu mới gặp
lại”. Ai bảo tình cảm Trần Đăng lạnh nhạt? Phải có một tấm lòng tha thiết mới
ghi được cái tha thiết trong tình cảm những con người. Có phương hướng
phấn đấu đúng và có nhiệt tình cách mạng, Trần Đăng tiến rất nhanh. Những
trang viết của anh đang mở ra nhiều triển vọng. Trên số lượng sáng tác còn ít
ỏi của mình, anh đã xây dựng được hình ảnh đẹp đẽ về tập thể các chiến sĩ
nhân dân của chúng ta, những anh Vệ quốc quân rất anh hùng nhưng rất hiền
lành. Hình ảnh họ ở đây không hiện lên trong nhịp điệu ồn ào hoặc trong tiếng
gươm súng va nhau loảng xoảng, mà hiện lên trong vẻ đẹp chân thật, hồn
nhiên. Họ căn bản không mang tư thế “những chàng trai chưa trắng nợ anh
hùng”, với “giày vạn dặm”, với “bụi trường chinh”, với lời thề “ra đi không trở
về” như trên một số văn thơ. Bởi vì con người đó không phải là sản phẩm của
nhiệt tình chủ quan, của sự tưởng tượng. Trần Đăng đã tìm hiểu họ trong đời
thực, trong chiến đấu và sinh hoạt hằng ngày.
Bên cạnh hình ảnh anh Vệ quốc với vẻ đẹp chân thật, tự nhiên của nó,
Trần Đăng cũng đã có lúc, có dịp mở rộng diện quan sát của mình. Truyện
ngắn Những ngày cuối năm viết về một vùng nông thôn không xa Ha Nội
mấy, những ngày đầu kháng chiến, cũng đã góp phần gợi cho ta sống lại một
số cảnh ngộ, tâm trang thực của một số tầng lớp người lúc này – lớp người
trung gian đi vào kháng chiến với bao lo tính, boăn khoăn, nhưng quyết tâm,
tin tưởng.
***
Trần Đăng mất ngày 26 tháng 12 năm 1949 trên biên giới Đông Bắc,
trong một trận bộ đội biên phòng của ta đánh cản bọn tàn quân Tưởng khi
chúng đang cố sống chết lọt vào câu kết với một đồn binh Pháp. Cái chết đến
với anh bất ngờ giữa bốn tuổi nghề đang chứa chan sức lực, giữa lúc những
dự định đang được anh gấp rút thực hiện. Trong những câu chuyện thường
ngày với bạn bè, Trần Đăng luôn say sưa trước bối cảnh Đông Bắc chiến
thắng; anh có ý định viết một truyện dài, và sẽ đưa vào truyện, có thể là ngay
từ chương đầu, hình ảnh tấp nập của những binh đoàn, với những chuyến
cần vụ hàng nghìn người, với từng đoàn phụ nữ dân tộc áo chàm màu nhiễu
mới, đi tiếp tế, đi tải thương. Bấy giờ là cuối 1949, một năm trước chiến thắng
Biên giới – năm chuẩn bị cho sự ra đời của nhiều sáng tác tương đối dài hơi
trong văn xuôi chúng ta. Nhưng rồi anh lại bình tĩnh kiểm tra vốn liếng của
mình, lại khiêm tốn tự nhủ: hãy sống đã, trước hết hãy tự rèn luyện mình
thành một chiến sĩ… Không nôn nóng, tự lượng được sức mình, Trằn Đăng
vẫn tiếp tục “một cuộc chuẩn bị”. Và cuộc chuẩn bị đã gần xong. Thiên tiểu
thuyết anh chưa kịp viết nhưng trên những trang anh đã ghi, chúng ta cũng ít
nhiều thấy được những khung cảnh, những sự việc, những mẫu người cho
một tiểu thuyết tương lai.
Bài học chúng ta rút ra được qua cuộc đời sáng tác của Trần Đăng là
bài học về nhiệt tình cách mạng, về sự nhạy bén trước những yêu cầu của
văn nghệ cách mạng, về ý chí nghiêm khắc rèn luyện bản thân trong thực tiễn
chiến đấu của quần chúng.
THÉP MỚI từ những bút ký đầu tay đến Điện Biên Phủ, một danh từ Việt Nam
Thép Mới bước vào nghề làm báo từ sau Cách mạng tháng Tám. Ban
đầu, anh viết mấy bài nhỏ ở mục Từ lời nói… đến việc làm của báo Sự thật
dưới bút danh Hồn Nhiên, và mấy phóng sự điều tra phục vụ nhiệm vụ công
tác trước mắt. Kháng chiến nổ ra, anh viết tiếp một số bút ký, phóng sự được
nhiều người chú ý như Sức mạnh từ đất dấy lên; Kháng chiến sau lũy tre, trên
đồng lúa; Trại của ta, nhà máy của ta; Trong thế giới công binh xưởng; 19
tháng 12;… Từ 1950, nhân có dịp ra công tác ở nước ngoài, Thép Mới viết
nhiều về các nước anh em: Thư về nước (1950), Trách nhiệm (1951). Chủ đề
này sau ngày hòa bình lập lại vẫn được anh tiếp tục trong Hữu nghị (1955),
Như anh em một nhà (1958), Hiên ngang Cu-ba (1963). Đến 1964, anh
chuyển đề tài, viết một số bút ký, phản ánh tình hình sản xuất và chiến đấu
của nhân dân ta trong công cuộc chống Mỹ cứu nước: Gặt chiêm ở Quỳnh
Côi, Bờ biển phía Nam- chiến công tháng Tám, một số bài sau này in thành
tập Điện Biên Phủ, một danh từ Việt Nam (1960). Ngoài ra, Thép Mới còn ghi
mấy hồi ký, trong đó có một số bài in trong tập Nhân dân ta rất anh hùng
(1960), kể lại hoạt động cách mạng của một số đồng chí lãnh đạo Đảng hoặc
của các anh hùng.
Một điểm đáng chú ý trong bút ký của Thép Mới là mặc dù lấy đề tài
trong nước hay ngoài nước, những bài viết của anh đã kết hợp được khá
nhuần nhuyễn tính chiến đấu và chất trữ tình cách mạng.
Nhìn chung, đề tài và chủ đề Thép Mới chọn để miêu tả, thường nhằm
phục vự trực tiếp, nhiều khi khá kịp thời cho cuộc chiến đấu của dân tộc.
Bước vào kháng chiến, anh chú ý ngay đến hình ảnh những người
nông dân cần cù, dũng cảm, từ bao đời bị bóc lột, áp bức nay theo tiếng gọi
của Đảng, của Hồ Chủ tịch đứng lên vừa đánh giặc, vừa sản xuất. Anh khẳng
định họ là đội quân chủ lực của cách mạng và kháng chiến, là “sức sống bắt
nguồn từ bùn lầy nước đọng, ngùn ngụt, dạt dào một sức mạnh đương dấy
lên và chưa dấy lên hết”. Thép Mới có cái nhìn khá đúng đắn về vai trò nông
dân và chiến tranh du kích: Sức mạnh từ đất dấy lên (1947), Kháng chiến sau
lũy tre, trên đồng lúa (1947). Anh cũng ca ngợi tinh thần tự lực cánh sinh, khí
thế lao động quên mình của những công nhân sản xuất vũ khí trong điều kiện
vô cùng khó khăn gian khổ. Ở các công binh xưởng thì “đá và người cùng đổ
mồ hôi”; “hòa nhịp máy với những cánh tay người, ráng hết sức lực, đổ xuống
dốc thời gian vùn vụt của những ngày thi đua để chiến thắng” (Trong thế giới
công binh xưởng; Trại của ta, nhà máy của ta).
Ngòi bút Thép Mới như một pháo thủ cơ động, linh hoạt, cố gắng phát
huy sức chiến đấu từ nhiều phía. Anh ca ngợi tinh thần sản xuất hăng say,
chiến đấu quên mình của nông dân, công nhân, tố cáo tội ác tầy trời của giặc,
phê phán những ai còn hoài nghi vào sự chiến thắng của cuộc kháng chiến.
Anh tin rằng “chính nghĩa rồi sẽ thắng”.
Quả như niềm tin của Thép Mới và cũng là của toàn dân, chúng ta kỷ
niệm 10 năm chiến thắng Điện Biên Phủ trong không khí giặc Pháp đã cuốn
gói khỏi nửa nước ta từ lâu, nhưng nửa đất nước vẫn còn tạm thời nằm trong
tay bè lũ Mỹ – ngụy tàn bạo. Nhân dịp này, Thép Mới viết một loạt bài về
chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ (in thành tập Điện Biên Phủ, một danh từ
Việt Nam). Bằng những hình tượng khá cụ thể, sinh động, anh nói lên chiến
công “lừng lẫy Điện Biên, chấn động địa cầu” của dân tộc và khẳng định rằng
nhân dân cách mạng hoàn toàn có khả năng từ hai bàn tay trắng, tiến lên đủ
sức đập tan bạo lực phản cách mạng. Anh viết: “Ánh chớp lửa tiến công Điện
Biên Phủ soi sáng con đường chúng ta đi tới mãi”. Năm bài trong tập đó cũng
nhằm nói lên ý chí quyết tâm thắng giặc và khí thế hào hùng của quân dân ta
(Đâu có giặc là ta cứ đi), cảnh cáo bọn đế quốc đừng có nuôi ảo tưởng ỷ vào
vũ khí hiện đại (Nhân nghe nói về bọn “cọp đen và ó đỏ”), bảo cho Mỹ biết đô-
la và trí khôn của chúng không sao xoay chuyển được tình thế (Ha-kin ra mà
xem bảo tàng Điện Biên Phủ). Anh nói đến thực chất bọn lính đánh thuê lòng
dạ “rỗng tuếch” như chiếc ca rỗng, nhưng từ đáy ca một “làn sóng ngầm sẽ
đùng đùng nỗi dậy, sâu và mạnh” (Chiếc ca rỗng chứa sóng ngầm). Và cuối
cùng anh gợi lên phút hấp hối thảm hại của kẻ địch, và ý nghĩa to lớn của
Điện Biên Phủ, đồng thời cảnh cáo Mỹ rằng “còn đế quốc là còn nhiều quá
trình Điện Biên Phủ” (Điện Biên Phủ, một danh từ Việt Nam). Rồi khi giặc Mỹ
leo thang ra ném bom miền Bắc thì ngay sau chiến công đầu của ta (5-8-
1964), ngòi bút Thép Mới đã kịp thời biểu dương tinh thần cực kỳ anh dũng
của đồng bào, đồng chí ta, báo cho chúng biết “nhân dân này là cốt thép”…
Ngay khi viết về nước ngoài, Thép Mới vẫn nhằm thể hiện sức chiến
đấu của ta và sự giúp đỡ chí tình, vô tư của các nước anh em đối với sự
nghiệp cách mạng của ta. Viết về nước bạn, Thép Mới thường chú ý đến lịch
sử đấu tranh, đến tinh thần cách mạng của bạn. Trong Hiên ngang Cu-ba,
anh làm sáng rực lên hình ảnh những người dân Cu-ba anh hùng đang sống
trong không khí chiến đấu gay go, gian khổ, nhưng tràn đầy nhiệt tình và ý chí
lạc quan cách mạng. Người đọc thấy ở Cu-ba, cuộc đời mỗi người dân gắn
liền với “cây súng dân quân, quyển sách mác-xít và nhiệm vụ sản xuất”. Cu-
ba đã tạo nên trong một thời gian rất ngắn những sự kiện lớn lao “vượt quá
sức tưởng tượng của những người lạc quan nhất”, chiến thắng vẻ vang ở bãi
biển Hi-rông, thanh toán nạn mù chữ trong sáu tháng, v.v… Thép Mới hết sức
phẫn nộ tố cáo những thủ đoạn bóc lột dã man, những mánh khóe quỷ quyệt
bỉ ối “rất Mỹ” của bọn trùm đế quốc ở Cu-ba trước đây cũng như ở miền Nam
Việt Nam những năm vừa qua.
Dù nói về ta, ca ngợi bạn, hay phê phán địch, lập trường của tác giả lúc
nào cũng rõ ràng, dứt khoát. Cách chọn đề tài và thể hiện chủ đề ở Thép Mới
luôn luôn hướng về phía khẳng định tư thế chiến đấu và chiến thắng của
nhân dân, của cách mạng.
Bút ký của Thép Mới không phải là loại bút ký hấp dẫn người đọc ở
những câu chuvện nhỏ nhẹ, tâm tình, là loại bút ký lôi cuốn người đọc vào
những vấn đề đấu tranh cách mạng, vào dòng thời sự trong và ngoài. Nhiều
trang viết của anh chứa chan tình cảm yêu nhân dân, yêu đất nước. Anh say
sưa nói đến Hà Nội, thành phố giàu chất Việt Nam nhất nước, anh yêu Hà Nội
như “yêu đôi mắt của người thương”. Và ngày nay, mỗi mùa hoa ban lại gợi
anh nhớ tới “những đoàn quân rầm rập năm trước” tiến vào Điện Biên. Anh
ca ngợi đức tính hy sinh vô bờ bến của người chiến sĩ Việt Nam. Phải có một
con mắt và một tấm lòng như thế nào, anh mới nói lên được “cái nết chịu
thương chịu khó của anh lính nhà ta” và anh nghĩ đó là vì người chiến sĩ “hiểu
và thương đất nước còn nghèo”. Ngay khi đi ra nước ngoài, anh cũng luôn
luôn nghĩ về nước mình, “trăng Cu-ba thơm gió mía” gợi anh nhớ đến “trăng
thơm mùi cốm ở nhà”. Bút ký của Thép Mới không chỉ toát lên lòng yêu nước
nồng nàn mà còn gợi một niềm tự hào chính đáng về dân tộc Việt Nam, dân
tộc bao nhiêu năm bị kìm hãm dưới ách nô lệ nhưng khi đã vùng lên thì
“không gì làm chùn bước được đôi chân thần tốc của quân ta tiến”. Hoặc Điện
Biên Phủ đã “đá phốc” hạm đội bảy của Mỹ về tận “sào huyệt của chúng” và
“cái roi kháng chiến của ta đã quất vào mặt những con vật cầm vũ khí”…
Không những chỉ tự hào về dân tộc mình mà Thép Mới còn tự hào về sự lớn
mạnh của phe xã hội chủ nghĩa, vì thế, anh viết về nước bạn cũng rất tha thiết
mặn nồng. Anh nhìn con đường dẫn ra bán đảo (ở Cu-ba) cũng thấy như
“nắm tay đấm sang nước Mỹ”. Anh thấy “đêm trăng mía thở nồng nàn”. Anh
yêu những người dân Cu-ba “vốn nóng hổi nhiệt tình như nắng”, v.v… Cái
hay của bút ký Thép Mới khi viết về nước ngoài còn ở chỗ khiến cho người
đọc luôn luôn cảm thấy nước bạn gần gũi với ta, ta và bạn hòa làm một. Ca
ngợi bạn hết sức mà vẫn tự hào về mình một cách chính đáng. Anh thấy ở
Cu-ba có những “Phù Đổng thiên vương chống đế quốc Mỹ” và những “chiến
sĩ Điện Biên Phủ của Cu-ba”. Đó chính là biểu hiện của một tình cảm quốc tế
chân chính.
Thép Mới luôn truyền cho ta một niềm say sưa tin tưởng ở lực lượng
cách mạng. Cách nhìn, cách nghĩ của Thép Mới là cách nhìn cách nghĩ của
một người lạc quan cách mạng, một người có đôi mắt nhìn thấy “tương lai
tràn lên và dĩ vãng teo dần”, nhìn thấy “thần chiến thắng Điện Biên Phủ, với
đôi cánh rộng đã về ngự trên trời Hà Nội” và “ở đây mãi”.
Viết về đề tài đấu tranh cách mạng có khả năng khai thác được những
chủ đề có ý nghĩa lớn, nâng cao được tầm tư tưởng người đọc, nhưng không
khéo sẽ dễ trở thành khô khan, nhạt nhẽo, sa vào lối tuyên truyền sống
sượng. Ngòi bút Thép Mới, nhìn chung không vướng phải những chỗ yếu đó.
Rõ ràng nhiều bút ký của anh đã có sức lôi cuốn người đọc, làm cho người
đọc say sưa theo những vấn đề thời sự. Ở Thép Mới, tính chiến đấu được thể
hiện trong một sắc thái riêng, đó là sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa chất chính
trị cao và chất trữ tình đậm đà.
Trong các loại bút ký, Thép Mới sử dụng thuần thục nhất loại bút ký
chính luân. Thực vậy, ta thấy ngòi bút anh đã biết kết hợp tài tình giữa chính
trị, lịch sử và văn học dưới một hình thức khá sinh động, có hình tượng, có cá
tính, thỏa mãn phần nào nhu cầu thẩm mỹ của người đọc (thể hiện khá rõ ở
Hiên ngang Cu-ba, nhất là ở Điện Biên Phủ, một danh từ Việt Nam).
Một nét nổi rõ trong những bài viết của Thép Mới là lối châm biếm vừa
dí dỏm vừa sâu cay. Có khi anh dùng lối so sánh giữa các mặt đối lập, như
nói đến những đồ đạc giản dị, thô sơ của Đại tướng ta với những đồ đạc tối
tân của Na-va để làm rõ hơn sự thất bại đau đớn, nhục nhã của chúng. Hoặc
dùng “gậy ông đập lưng ông” như nói đến việc chính phủ Pháp vừa tặng
thưởng huân chương chiến công cho quân đội viễn chinh Pháp, vì tinh thần
dũng cảm nêu “gương sáng chói”, thì không đầy mười hai ngày sau, những
đơn vị cứng nhất của chúng đã “nhảy cẩng lên, vui như điên, vì được kết thúc
cuộc đề kháng bằng đầu hàng”. Cái cười của anh làm cho kẻ địch mất mặt,
mất mũi, khiến người đọc thỏa thuê, sảng khoái. Như khi tả khách sạn “Bên
bờ biển” ở Cu-ba trước kia, Thép Mới viết: “Ở đây không có bàn viết, triệu
phú Mỹ thì còn có gì trong đầu nữa mà ghi ra giấy”. Hoặc sắt thép tốt thì “các
người hùng” của thế giới tự do có “thừa thãi”, duy chỉ “thiếu mất có chút ít sắt
thép trong lòng”. Thép Mới kể những câu chuyện mỉa mai như “củ cà rốt
trước mũi Đờ Cát”, “chiếc ca rỗng chứa sóng ngầm”, “các cô đầm ấy ôm cầm
thuyền khác”, v.v…
Bút ký Thép Mới có kết cấu tương đối chặt chẽ, lối hành văn nhanh
gọn, nhiều suy nghĩ, ngôn ngữ giàu hình tượng. Nếu như trong các bút ký
trước kia, chúng ta đòi hỏi Thép Mới phải chú ý hơn trong việc khắc họa nhân
vật thì đến Điện Biên Phủ, một danh từ Việt Nam anh đã tiến dần đến những
ký có hình tượng khá rõ nét (Đờ Cát, Đa-lét). Những đoạn có tính chất tường
thuật hoặc triết lý khô khan cũng giảm dần đi.
Có thể nói, do nhạy bén về chính trị, do nhiệt tình cách mạng sôi nổi,
Thép Mới đã có những thành công trong thể bút ký.
Tuy vậy, có điều đáng tiếc là ngòi bút Thép Mới giàu sức xông xáo,
nhưng đôi khi còn tỏ ra thiếu trau chuốt và có phần hơi ồn ào. Sự tự lặp lại
mình trong một số bút ký sau này của anh quả có gây cho ta ít nhiều cảm giác
đơn điệu.
NGUYỄN VĂN BỔNG với Con trâuNguyễn Văn Bổng là cây bút trưởng thành sau Cách mạng, được người
đọc quen biết qua tác phẩm Con trâu (1953).
Anh là một nhà văn chịu khó lăn lộn vói thực tế và chịu khó thử thách
ngòi bút của mình. Trên đường công tác anh tranh thủ ngày đêm, viết bất cứ
ở đâu, “kê giấy lên đá, đứng trong nước suối mà viết, ghé nhờ ánh đèn hội
nghị mà viết”. Truyện của anh đề cập đến nhiẽu loại người, nhưng có lẽ tầng
lớp nhân vật được anh yêu mến, hiểu kỹ hơn và nói đến nhiều hơn vẫn là
người nông dân với những vấn đề thiết thân của họ. Có thể kể mấy cuốn:
Con trâu (1953), Cắm thẻ Đồng Câu (1954) và Bếp đỏ lửa (2 tập) (1955 –
1956), trong đó Con trâu là tác phẩm thành công nhất, gây được ấn tượng
khá sâu trong người đọc. Vì thế, với Nguyễn Văn Bổng nói về đề tài nông dân
phải chăng chủ yếu là nói về tác phẩm Con trâu.
Trong những sáng tác hồi khống chiến chống Pháp, chúng ta đã có
những tác phẩm hay về công nhân (Vùng mỏ của Võ Huy Tâm), về bộ đội
(Xung kích của Nguyễn Đình Thi), về dân tộc ít người (Truyện Tây Bắc của
Tô Hoài), về người nông dân tham gia kháng chiến và đánh giặc giữ làng,
chúng ta cũng đã có một số truyện có giá trị như Làng (của Kim Lân), Con
đường sống (của Minh Lộc), Đánh trận giặc lúa (của Bùi Hiển), Trận Thanh
Hương (của Nguyễn Khắc Thứ). Nhưng so với những tác phẩm này thì Con
trâu nói lên được một cách phong phú hơn đời sổng người nông dân vùng
địch hậu, vừa sản xuất vừa chiến đấu. Ở đây, ta gặp nhiều hình ảnh nông
dân chân thật và đẹp. Đọc Con trâu, ta lại liên tưởng đến tác phẩm cùng tên
của Trần Tiêu viết trước Cách mạng. Nhưng rõ ràng hai tác phẩm là hai thế
giới khác nhau. Người nông dân trong Con trâu của Nguyễn Văn Bổng là
người nông dân đã có một sự đổi đời từ sau Cách mạng tháng Tám và
trưởng thành với cuộc kháng chiến giữ nước giữ nhà.
Đối với nông dân, con trâu không phải chỉ là công cụ sản xuất mà còn
là người bạn cùng chia sẻ với họ mọi nỗi nhọc nhằn vất vả. “Con trâu là đầu
cơ nghiệp”, nó gắn bó mật thiết với sản xuất, với đời sống và tình cảm người
nông dân, nên họ gần gũi, âu yếm coi trâu như người thân trong nhà. Ông
Đẫu, sau trận giặc càn, khi tìm thấy con trâu đã “chạy ùa đến ôm choàng lấy
cổ nó”. Khi nghe Hương Trà gửi trâu sang Thái Học, ông nghĩ mà “ứa nước
mắt”. Đến khi trâu về, ông mừng vui quên cả hỏi xem chân con mình đã khỏi
chưa, ông vuốt ve, xuýt xoa thương con trâu gầy. Đến các em bé cũng biết
bảo vệ trâu. Em Sơn, 13 tuổi, bị đạn giặc, máu chảy ròng ròng nhưng em
không lo cho mình mà chỉ sốt ruột hỏi xem con trâu có làm sao không. Thật
mà quên được cái cảnh không có trâu, một ông già phải cuốc đất, mình “đỏ
hừng hực” và “mồ hôi chảy ròng ròng”, nạy bật được tảng đất lên thì người
“vặn ẹo đi”, các thớ thịt “săn cứng lại”. Chính vì thấy rõ trâu là vấn đề sống
còn của người nông dân nên trong một cuộc họp huyện, có tỉnh về dự, đồng
chí bí thư cứ nhắc đi nhắc lại: “Vấn đề bây giờ là con trâu”. Giặc Pháp vô
cùng nham hiểm, tìm mọi cách bắt trâu, giết trâu của nông dân, nhằm phá
hoại sản xuất cũng tức là phá hoại kháng chiến. Chúng ra lệnh cho bọn đi càn
là cứ giết một con trâu bằng giết ba nông dân. Có trận chúng vừa bắn vừa
giết hơn bảy chục con. Chúng còn dụ dỗ dân ta gửi trâu vào đồn để chúng dễ
bề chiếm đoạt, đồng thời lùng sục, bắn giết, khủng bố, hòng uy hiếp tinh thần
nhân dân ta. Nhưng với quyết tâm thà chết chứ không chịu làm nô lệ, nhân
dân ta đã bám đất, bám làng, đánh cho chúng nhiều đòn trí mạng. Nhiều du
kích và đồng bào xã Hồng Phong đã đứng lên chống chọi dũng cảm với
chúng. Tinh thần quả cảm của đội du kích xã này đã được tác giả trân trọng
ghi lại, từ cái chết hiên ngang của chị Tần đến những người vọt ra khỏi hầm
bắn nhau với giặc để cứu thoát những "đồng chí còn nằm lại ở tầng dưới. Chị
Bai, một nữ du kích mới xin vào vùng đội, trước khi quyết định vượt hầm, vẫn
giữ thói quen thường ngày “rút mấy cái kẹp tóc xuống, ngậm giữa hai hàm
răng, rủ rủ mớ tóc, mấy ngón tay xóc xóc lên cho tóc xõa đều xuống hai vai”
đủ nói lên tư thế bình tĩnh, thanh thản của chị trước khi nhận lấy cái chết cho
đồng đội sống. Hoặc như anh Phận, giặc bắt dẫn đi chỉ hầm đã thừa cơ quật
ngã thằng quan hai xuống, ôm ghì lấy nó, lăn tràn trên đất, đến khi kiệt sức, bị
chúng chĩa súng, đạp chân lên ngực, còn cố ngoi dậy, bứt tung áo, chỉ vào
ngực, hét lớn: “Hầm đây, hầm bí mật đây”, v.v… Không chỉ du kích mà cả
đồng bào cũng có những cử chỉ và việc làm rất anh hùng. Hình ảnh ông Học
lặng lẽ, thận trọng cởi chiếc áo cụt ra gói đầu con gái vừa bị giặc chặt? Làm
người đọc vừa kính phục vừa đau xót đến sững sờ. Hay như chị Mai, tay
bồng con nhỏ, xông vào ngăn không cho thằng Sát Sanh bắt Hiếu đi, cuối
cùng mẹ con chị bị nó bắn chết. Đó chính là những biểu hiện về phẩm chất
anh hùng của người phụ nữ Việt Nam nói riêng và cả của dân tộc ta nói
chung.
Bát chấp mọi hy sinh mất mát, tinh thần của du kích và đồng bào xã
Hồng Phong vẫn ngày càng được củng cổ. Một vài phần tử lừng chừng nhút
nhát, được bà con giáo dục, thuyết phục cũng đã chuyển biến dần. Giặc đánh
phá ác liệt nhưng du kích vẫn thường xuyên canh giữ xóm làng. Vợ anh
Chức, một nách hai con nhỏ, một con ốm, vẫn đi gác đêm. Những ông Đẩu,
ông Học, các em bé Liêu, Sơn đều tích cực tham gia giúp đỡ đu kích. Phong
trào địa phương cứ mỗi ngày một phát triển. Từ chỗ họ lo gửi trâu sang xã đã
lập tề, sau thấy không thể gửi vào họng thằng Tây, đã đánh tháo trâu về, đào
hầm giữ trâu, tích cực bố phòng, chờ đánh địch. Từ chỗ bảo vệ trâu, chịu
đựng gian khổ khó khăn để sản xuất đến chỗ kiên quyết chống giặc, giữ trâu,
giữ làng…
Tác phẩm mở đầu bằng một trận càn, ta phải tạm rút lui vì sức yếu, tổ
chức chưa tốt, anh Phận – chỉ huy dân quân – và chị Bai bị giết, và kết thúc
cũng bằng một trận càn, nhưng tình hình đã đổi khác hẳn: tinh thần nhân dân
vững vàng, du kích đánh tốt, trâu được bảo vệ chu đáo. Một quá trình trưởng
thành của nhân dân vùng địch hậu. Một bước tiến lên của cuộc kháng chiến.
Xu thế phát triển của hiện thực đó làm cho thiên truyện thấm đượm một ý vị
lạc quan.
Có người đã xem Con trâu như một màn tiêu biểu trong cuốn phim dài
của Liên Khu Năm anh dũng. Qua Con trâu, chúng ta càng hiểu thêm Khu
Năm lúc ấy bị hạn hán mấy năm liền, tình hình sản xuất và chiến đấu vốn đã
khó nay càng khó khăn thêm. Thế nhưng đồng bào và cán bộ, chiến sĩ ở đây
vẫn kiên trì, anh dũng giữ cho Vùng đất này suốt tám, chín năm kháng chiến
vẫn là vùng đất tự do của Tổ quốc.
Chủ đề của thiên truyện đặt ra là mới, có tính chất thời sự và ý nghĩa
giáo dục. Đây là vấn đề bảo vệ trâu, bảo vệ sản xuất, kiên quyết đánh bại âm
mưu địch, không thối chí bỏ trâu, bỏ làng tản cư, mà bám làng, tổ chức chiến
đấu, tổ chức đời sống, tăng gia sản xuất để bảo đảm kháng chiến lâu dài.
Cách nêu vấn đề phương hướng giải quyết đó là hoàn toàn đúng đắn, gây
được cho người đọc lòng tin tưởng ở sức mạnh vô tận và sự chiến thắng tất
yếu của kháng chiến trường kỳ.
Những tình cảm lớn của nhân dân lao động cũng thông qua đó mà
được thể hiện khá rõ. Đó là tình yêu yêu nước; là mối quan hệ tốt đẹp giữa
người lao động với nhau, giúp đỡ, động viên nhau trong khó khăn, hoạn nạn;
là ý thức căm thù đối với kẻ địch.
Vấn đề xây dựng nhân vật trong Con Trâu cũng thể hiện một cố gắng
khá rõ của tác giả, trong tình hình chung của phong trào sáng tác lúc này.
Nhìn chung nhân vật đã được người viết cố gắng khắc họa trong những nét
riêng, và ít nhiều có được soi qua tính giai cấp: Chấn, con Chánh Huệ, xuất
thân con nhà giàu, nên bản chất lừng chừng, nghiêng ngả, sợ gian khổ; Liêu
đi ở, và Trợ, xuất thân nhà nghèo, cày ruộng rẽ, nên có bản chất tích cực,
gắn bó với kháng chiến; Hiếu, một nữ sinh, con nhà trung lưu, với một ít rắc
rối, không dứt khoát trong tình yêu…
Rõ ràng tác giả có ý định xây dựng mỗi nhân vật với một ít nét riêng,
tuy vậy tính cách đó vẫn chưa thật rõ lắm. Nhiều nhân vật như ông Đẩu,
Hoạch, Hương Trà… mới chỉ có tên. Ông Hoạch có chút ít nhộn, vui; Trợ có
vẻ lầm lỳ, cục cằn; Hòe nhút nhát… nhưng những nét ấy lại có một vẻ ngẫu
nhiên, khó hiểu, chưa cắt nghĩa được. Nhìn chung tính cách nhân vật đều
chưa được thể hiện rõ, tuy đây đó, có lúc dường như người viết có thoáng
thấy và có ý định thể hiện một cái gì đó vừa như là tính giai cấp vừa như là cá
tính. Cũng như thế, các mối quan hệ xã hội ở nông thôn cũng chưa thật sự
được soi rõ trong quan hệ giai cấp, cho nên, nhìn chung người xem vẫn chưa
thể nào phân biệt được rõ sự khác nhau của các tầng lớp nông dân ở nông
thôn.
Một nhược điểm khác của tác phẩm là sự lãnh đạo của Đảng cũng
chưa được thể hiện rõ, do các nhân vật tích cực, giữ địa vị lãnh đạo trong
truyện như Chức, Phận còn mờ nhạt. Như trên đã nói, vấn đề đặt ra của tác
phẩm là đúng và hay. Vấn đề đó đôi khi người đọc được tiếp nhận một cách
trực tiếp thông qua nhân vật. Chẳng hạn, qua ý kiến ông Học: “Cái thế là phải
về chứ không tản cư được. Nhưng không phải để rứa là đồng bào tự nhiên
về. Cho nên bây giờ bà con mình ai đã về thì một mặt lo làm ăn, lo đào hầm
trâu, giữ trâu, giữ xe nước, lại phải lo canh gác, giúp đỡ anh em du kích. Một
mặt nữa còn ai bên đó, mình nhắn về. Mỗi người mỗi tiếng nhắn hết về bên
ni. Thấy bên ni có tổ chức canh gác, làm ăn được thì bên kia rồi cũng về”. Rõ
ràng đó là hướng giải quyết tốt nhất trong tình hình đấu tranh gay go của
nhân dân vùng địch hậu.Nhưng đáng tiếc là nó mới chỉ được nói ra ở miệng
một quần chúng bình thường. Sự lãnh đạo của Đảng và phong trào chung
(ngoài xã Hồng Phong) còn chưa rõ. Người ta cảm thấy phong trào ít nhiều có
tính chất tự phát.
Tuy vậy, Con trâu vẫn là một đóng góp có giá trị vào nền văn học kháng
chiến chống Pháp của chúng ta. Một điều nên nói thêm là Con trâu đã được
tác giả kiên trì sửa đi sửa lại nhiều lần; và mỗi lần sửa là một lần giá trị tác
phẩm được nâng lên rõ rệt.
Về chủ đề nông dân, Nguyễn Văn Bổng còn có Cắm thẻ Đồng Câu,
Bếp đỏ lửa (tập I, II). Ở Cắm thẻ Đồng câu, tác giả miêu tả đời sống cực khổ
của người nông dân dưới ách địa chủ phong kiến và sự đấu tranh thắng lợi
của nông dân trong phát động quần chúng giảm tô Cải cách ruộng đất. Nhưng
tác giả quá ôm đồm nhiều sự việc và mặt khác lại quá lo nói cho đủ diễn biến
của cả cuộc đời hai nhân vật, nên truyện thiếu hẳn chiều sâu.
Đến Bếp đỏ lửa, Nguyễn Văn Bổng đã có điều kiện mô tả cuộc sống
sâu hơn. Bưởi, nhân vật chính của truyện là một cô gái bị địa chủ cưỡng hiếp,
đày đọa đến trở thành ngu đần. Qua cuộc phát động giảm tô, Bưởi vẫn sống
âm thầm đau khổ. Đến cải cách ruộng đất, Bưởỉ được phát động, người Bưởi
dần dần được hồi sức lại, rồi phấn khởi, rạng rỡ hẳn lên. Bưởi tích cực tham
gia đấu tranh và được đứng trong hàng ngũ Đảng, rồi được bầu làm bí thư
chi bộ. Nhân vật này có để lại ấn tượng trong người đọc. Một số nhân vật
khác cũng tương đối đạt (Chữ, Ninh, Đại…). Nhìn chung, trong số khá nhiều
tác phẩm viết về cải cách ruộng đất hồi này, Bếp đỏ lửa là tác phẩm miêu tả
được khá đạt, khá tự nhiên khía cạnh đổi đời trong cuộc sống của người phụ
nữ nông thôn, nên, theo chúng tôi, cho đến nay, vẫn còn có khả năng gây
được xúc động.
Sau ngày hòa bình lập lại, Nguyễn Văn Bổng viết truyện ngắn Về thành
phố, phản ánh diễn biến tư tưởng và tâm trạng có nhiều lệch lạc của một cán
bộ kháng chiến khi trở về Hà Nội. Vấn đề đặt ra có ý nghĩa thời sự, nhưng sự
phê phán của tác giả chưa đúng mức nên tính tư tưởng của truyện còn yếu.
Bên cạnh chủ đề nông thôn, Nguyễn Văn Bổng, từ sau 1954, dành
phần lớn tâm sức cho chủ đề đấu tranh giành thống nhất nước nhà. Năm
1960, anh cho xuất bản tập Người chị, gồm bốn truyện ngắn, viết trong
khoảng thời gian trước sau hòa bình. Đáng tiếc là nhiều truyện trong tập có
mang những nét yếu đuối, tiêu cực. Người chị mô tả cuộc đời chị Cầm, ba
chìm bảy nổi mà vẫn nhẫn nại, chịu đựng và yêu cuộc sống, tưởng như sẽ có
lúc vùng lên đấu tranh cho chính nghĩa, nhưng sao người đọc vẫn thấy heo
hút, âm thầm, gây cảm giác xót xa, thương hại hơn là đồng tình, mến trọng.
Trong Người kháng chiến, thái độ của tác giả tỏ ra còn nương nhẹ đối với một
cán bộ đã sa sút về tư tưởng trong hoàn cảnh sau hòa bình, còn vai trò của
chị Luyến, tức “người kháng chiến”, thì gần như một cái bóng mờ nhạt. Chỉ có
Kỷ niệm là truyện khá hay, trong đó tác giả nêu bật lên phẩm chất anh hùng
của một phụ nữ bình thường. Chị băn khoăn, xót xa vì có con nhỏ nên không
đi công tác được, đã cương quyết cai sữa sớm cho đứa con đầu lòng rồi gửi
mẹ đẻ, để đi thoát ly và cuối cùng đã hy sinh. Người đọc, nhất là những người
không thể không xúc động và suy nghĩ.
Năm 1961, Nguyễn Văn Bổng viết tập bút ký Đón một xuân mới từ miền
Nam, gồm tám bài, mô tả hình ảnh đồng bào miền Nam trong đấu tranh có
đau thương tổn thất nhưng anh dũng tuyệt vời và tin tưởng vô hạn vào sự tất
thắng của cách mạng. Năm 1962, anh cho xuất bản kịch bản Dân cụ Hồ,
phản ánh phần nào phong trào đấu tranh anh dũng của nhân dân miền Nam,
nhưng nhân vật còn mờ nhạt, kết cấu chưa chặt, ngôn ngữ kịch chưa súc
tích.
Năm 1963, Nguyễn Văn Bổng còn viết truyện phim Đường về Nam, ca
ngợi tinh thần phục vụ của một số cán bộ miền Nam tập kết và mối tình ruột
thịt Bắc Nam, với nhiều cảnh gây được xúc động cho người đọc, nhưng toàn
truyện thì chưa thật xuất sắc.
***
Nguyễn Văn Bổng chịu khó lăn lộn, xông xáo vào thực tế, nhất là thực
tế chiến đấu gay go và ác liệt, nên chủ đề các sáng tác của anh thường có tác
dụng phục vụ kịp thời. Các tác phẩm của anh ít nhiều đều có góp phần vào
sự nghiệp đấu tranh chống đế quốc, phong kiến, đấu tranh cho thống nhất
nước nhà. Anh là nhà văn có ý thức rõ ràng về ngòi bút của mình nên những
gì anh viết ra đều chứa đựng một tinh thần chiến đấu, đều mang một tình cảm
chân thành. Nguyễn Văn Bổng là cây bút nghiêm túc, khiêm tốn, biết tranh thủ
ý kiến tập thể. Anh say sưa quan sát, chăm chú ghi chép những điều mắt thấy
tai nghe trên những chuyến đi công tác, cho nên trong tác phẩm của anh
thường có những chi tiết sống làm người đọc hứng thú. Nhưng chính ở đây
tác giả lại bộc lộ nhiều nhược điểm. Truyện của anh thường rườm rà, nhiều
trang, nhiều đoạn còn ở mức ghi chép. Đôi khi, do chưa thâu tóm được
những nét điển hình của các mẫu người trong cuộc sống nên nhân vật của
anh thường dễ sơ lược, mờ nhạt, thiếu chiều sâu. Lại có trường hợp do tác
giả thai nghén vấn đề chưa chín nên chủ đề của một vài truyện chưa rõ, kết
cấu chưa chặt.
Tất cả những chỗ yếu trên quả có gây cho đọc giả cảm tưởng hơi nặng
nề khi đọc tác phẩm của Nguyễn Văn Bổng. Nhưng nhìn chung, anh vẫn là
một nhà văn có những đóng góp đáng quý cho nền văn học mới. Từ bấy đến
nay, phong trào sáng tác đã tiến xa, nhiều người viết đã vượt lên, tự bản thân
anh cũng đã không dừng lại ở mức cũ. Nhưng nhắc đến Nguyễn Văn Bổng,
nghĩ đến Con trâu, người đọc vẫn giữ được một niềm yêu mến, tôn trọng,
xem đó như là một trong những viên gạch đầu tiên, một viên gạch quý, đóng
góp cho sự nghiệp văn học mới, trong những bước đầu còn rất khó khăn của
phong trào. Có hiểu rõ yêu cầu của lịch sử mới thấy hết những đóng góp của
Nguvễn Văn Bổng, của Con trâu. Cho đến bây giờ và cả sau này nữa, giá trị
lịch sử, ý nghĩa hiện thực và giáo dục của tác phẩm vẫn là điều không ai có
thể phủ nhận.
VÕ HUY TÂM và Vùng mỏBước vào cuộc kháng chiến chống Pháp, nền văn học mới yêu cầu nhà
văn miêu tả cho được hình ảnh từng con người mới trong hàng ngũ công
nông binh. Song, trong mấy năm đầu, thành công của những tác phẩm văn
học thời kỳ này, hầu như chỉ mới có hình ảnh anh bộ đội và người nông dân.
Sự xuất hiện Vùng mỏ (1951) của Võ Huy Tâm không chỉ góp phần làm
hoàn chỉnh bộ mặt văn học kháng chiến mà còn làm nảy ra nhiều hướng mới
cho sáng tác văn nghệ.
Từ một người thợ, Võ Huy Tâm bước vào văn học với tất cả vốn hiểu
biết và lòng say mê đất mỏ của mình. Bước đầu sáng tác của anh là làm các
bài ca dao, vè, diễn ca các tài liệu vận động công nhân mỏ đấu tranh chống
ách bóc lột của bọn thực dân chủ mỏ. Có những bài như Bữa ăn nước mắt,
nói lên cảnh sống cực nhục lầm than của người thợ rất được anh em công
nhân ưa thích. Sau đó Võ Huy Tâm có ý định tổng kết những kinh nghiệm
công tác vận động của anh trong một cuốn truyện để đọc. Nhân được đọc bộ
Tam quốc chí, anh nảy ra ý nghĩ viết một quyển Đình công, về hình thức
giống như Tam quốc, nghĩa là cũng chia thành từng chương, hồi, mở đầu và
kết thúc mỗi hồi đều có ít câu thơ. Anh em góp ý kiến và Võ Huy Tâm đã sửa
chữa và viết thành cuốn tiểu thuyết Đình công, sau đổi tên là Vùng mỏ. Với
Vùng mỏ, Võ Huy Tâm đã đem lại cho văn xuôi hình ảnh một nhân vật mới:
người công nhân.
Nhưng thực ra không phải đến Vùng mỏ, người công nhân mới xuất
hiện trong văn học.
Trước đó, hình ảnh họ đã hiện ra thấp thoáng trong một số sáng tác
như của Lan Khai (Lầm than), Nguyễn Công Hoan (Sáng – chị phu mỏ),
Nguyên Hồng (Người đàn bà Tầu)… Nhưng đáng tiếc là những hình ảnh đó
vẫn còn ít ỏi, mờ nhạt, có khi sai lạc.
Phải đến Vùng mỏ, người thợ mỏ mới được mô tả trong bản sắc của
giai cấp tiên phong, trong bối cảnh chung của cuộc đấu tranh giai cấp và đấu
tranh dân tộc.
Cảnh sống của người công nhân mỏ dưới ách thực dân Pháp đã được
Võ Huy Tâm mô tả với những đường nét khá sinh động, cảnh “đi xe, về xe,
uống nước chanh” mà bọn thực dân Pháp lừa mị công nhân ở đây thực chất
là cảnh đi đẩy xe, về đẩy xe tranh nhau uống nước. Có những người công
nhân đã bị hộc máu mồm máu mũi vì đi “trục”, vì goòng bị “cặm”. Trong
những ngôi nhà ẩm thấp của họ đầy ruồi muỗi và rệp, chỉ cần đập nhẹ một cái
xuống giường là hàng trăm con rệp bò ra lổm ngổm. Ngoài mỏ, “gió heo may
thổi mạnh, đưa cát bụi từ những tầng trên xuống”. Toàn tác phẩm toát lên một
bầu không khí lao động nặng nề. Đó là hiện thân của cuộc sống lam lũ, đầu
tắt mặt tối của người phu mỏ. “Ăn cơm với cá mòi he, lấy chồng Cẩm Phả
đun xe suốt đời”. Võ Huy Tâm còn miêu tả tỉ mỉ khung cảnh làm việc ở các
tầng lò, các trục, ở máy, ở goòng, của người lái xe, đội than, nhặt đá, ni-vê…
Người đi làm và cả người ở nhà đều nơm nớp lo sợ. Cảnh sập lò, sập tầng vì
lối khai thác hàm ếch bừa bãi của Pháp xảy ra như cơm bữa. Ở tầng lò nào
cũng có cảnh “những hạt than, cám nổi lên một lớp đen đen trên vũng máu”.
Trẻ con ốm quặt quẹo, gầy nhom, mới bảy, tám tuổi đã đi làm “nhau” đội than,
nhặt đá lấy ngày vài xu, được ít phút nghỉ ngơi giữa hơi nóng hầm hập và bụi
bay mù trời, người phu “ăn bữa trưa bằng những vấu cháo và cá mặn”, uống
nước lã không lọc, lấy “từ bể tắm, bọt xà phòng và bông băng đầy ở miệng
bể”. Bệnh ỉa chảy, sốt xuất huyết, thương hàn vào hùa với bọn chủ Tây,
hoành hành người thợ. Bệnh tật, ốm đau, đánh đập, thất nghiệp, sập lò, đổ
xe... là những tai nạn triền miên đối với đời sống người thợ mỏ những ngày
dưới ách thực dân.
Bộ mặt kẻ thù hiện ra khá rõ nét trong tác phẩrn. Chính bọn này tạo ra
không khí căng thẳng của vùng mỏ. Đó là thằng Si-mô-nét cáo già, vừa nhận
lương lính, vừa nhận lương của bọn chủ Tây, để đốc thúc phu, hắn tìm mọi
cách hành hạ, ăn bớt của thợ, hễ ai trái ý là đánh hộc máu mồm máu mũi. Bất
kể mưa, gió, nắng, bão, bất kể già trẻ, ốm đau, phụ nữ mang thai, đều phải
làm cật lực, nghỉ tay chút ít là nó đánh liền. Biết bao công nhàn đã là nạn
nhân của nó. Đó là vợ chồng, chủ thầu Quang nham hiểm và ti tiện, tìm mọi
cách để đục đẽo và nặn bóp người thợ; từ cái ống đong gạo hai đáy, cái hàm
ếch trong cối giã gạo đến việc cho vay gạo, mua sổ lương trước kỳ đều để
làm căng thêm túi tiền của vợ chồng hắn. Đó là xếp Cẩm mật thám. Đó là
thằng Chố chỉ điểm. Và xung quanh chúng là cả một bọn Tây cai, Tây lính,
hùng hổ, câu kết với nhau, nhằm bóc lột đánh phá giai cấp công nhân.
Trong tác phẩm, Vó Huy Tâm cũng đã cho ta thấy sự can thiệp của đế
quốc Mỹ vào Việt Nam. Hàng hóa, quần áo, máy móc Mỹ nhan nhản. Từ bọn
chủ đến thằng lính đều nhận tiền của Mỹ và bắt đầu mặc quần áo Mỹ.
Ở Vùng mỏ, không khí lao động bị cưỡng bức và không khí đấu tranh
quyện vào nhau. Nó âm ỉ và sẵn sàng bùng nổ. Nói lần đầu tiên chúng ta có
một tác phẩm văn học đi vào đời sống cơ bản của giai cấp công nhân là nói
đến đời sống tinh thần, nói đến ý thức giác ngộ giai cấp, khí thế đấu tranh từ
tự phát đến tự giác của người thợ. Không giống với hình ảnh thấp thoáng
trong một số tác phẩm trước Cách mạng, người công nhân ở đây là một đội
ngũ. Họ vốn là những người nông dân, hoặc những người thuộc các tầng lớp
dân nghèo bị bần cùng hóa, hoặc phải chạy ra mỏ, hoặc bị đầy ra mỏ để kiếm
sống, gia sản chỉ còn hai bàn tay lao động. Họ đã biết đoàn kết, đấu tranh để
đòi quyền sống. Mỗi một người thợ đều mang trong mình tình cảm của người
lao động, họ biết thương yêu, đùm bọc lẫn nhau. Ngay cả những người còn
do dự, chần chừ, dễ nghiêng ngả, dần dần cũng được giác ngộ, nhận rõ
được kẻ thù như nhân vật Tư – để đứng vào hàng ngũ giai cấp mình. Từ
trong cuộc sống cay cực, từ trong đấu tranh, tình yêu giai cấp giữa những
người thợ được nảy nở.
Tinh thần tiên phong, xả thân nói lên rất rõ ở những Đảng viên như
Thiết, Tài Bá, Tuấn; ở những quần chúng tích cực như cụ Thứ, Hàn, Le, Min,
Bảo, Khiết… Tất cả là đòn bẩy, xeo phong trào lên, giữ vững phong trào.
Trong cuộc sống lao động ngột ngạt, bị áp bức bóc lột tàn nhẫn, người thợ
nung nấu ý chí căm thù, sẵn sàng bột phát đấu tranh. Đảng đã giáo dục họ,
chuẩn bị chọ đi vào đấu tranh có tổ chức, có mục đích và kiên quyết đấu tranh
đến cùng. Từ những cuộc phá hoại bạo động, lẻ tẻ, vô tổ chức, Đảng đã tập
hợp những người thợ lại thành một đội ngũ, biết sẵn sàng hy sinh cho quyền
lợi của giai cấp, cho thắng lợi của cách mạng.
Như vậy, bên cạnh hiện thực tối tăm quằn quại của vùng mỏ ngày thực
dân Pháp tạm chiếm, Võ Huy Tâm đã chú ý miêu tả hiện thực của vùng mỏ
trong đấu tranh.
Hình thức đấu tranh của công nhân khá phong phú. Từ những đợt đấu
tranh lẻ tẻ (như phu trục đòi được đi trục, các tầng lò đòi có nước sạch để
uống, đòi phát lương, phát gạo đúng kỳ, đòi tiền thưởng…), tổ chức Đảng đã
khéo léo tập hợp quần chúng, vận động một cách linh hoạt các hoàn cảnh để
tổ chức một cuộc đình công lớn. Dù là lãn công một vài giờ đòi tiền thưởng
hay một vài ngày đòi phát gạo, đều có sự chỉ đạo và chuẩn bị kỹ càng của
Đảng. Cuộc biểu tình của những người phu mới có hậu thuẫn mạnh mẽ của
sức mạnh tập thể.
Người mỗi lúc một đông dần, dần dần biến thành một cuộc đình công
để ủng hộ cuộc bãi công lớn… Chủ nhất đứng dậy nhìn ra đám thợ và phu
cũ. Họ không sợ, họ vẫn đứng yên nhìn lại… Những cánh tay nắm chặt giơ
lên, cả anh chị em cũ đứng phía ngoài cũng gào thét lẫn trong ấy»…
Cuộc đấu tranh lớn, kéo dài, gặp nhiều khó khăn và có đổ máu, nhưng
dưới sự lãnh đạo của Đảng, với tình thương yêu giai cấp nồng thắm, với ý chí
cách mạng kiên định, đã thu được thắng lợi. Thắng lợi đó cũng đồng thời là
kết quả của cả một quá trình vận động và giác ngộ quần chúng của Đảng.
Vùng mỏ, một địa phương thời kỳ bị địch tạm chiếm với những năm quằn
quại, những năm sôi sục không khí chuẩn bị tổng phản công đã được nhà văn
phản ánh lại trong những hình ảnh đáng nhớ.
***
Võ Huy Tâm viết về người thợ là đối tượng mà anh rất am hiểu, quen
thuộc nên trong tác phẩm, anh đã khắc họa được nhiều khuôn mặt có sức
sống. Những nhân vật chính như Tuấn, Thiết, Tài Bá, Min, Le, Thịnh, sử…
đến những nhân vật chỉ thoáng qua như Lê, Bảo, Khiết, Chất, thậm chí có
nhân vật không có tên, hoặc chỉ được nhắc đến một đôi lần như cụ Tài Kha,
cụ Huyến, bà hàng cá, bà xôi chè, ông lái thuyền, bác Tài Cụt, anh em phu
“động”… đều được đặt trong bối cảnh chung của phong trào.
Người công nhân mỏ dưới ngòi bút của Võ Huy Tâm không còn là
những công nhân chỉ biết nhẫn nhục cam chịu hoặc quằn quại trong đau khổ.
Bằng nhiều con đường, từ tự phát đến tự giác họ đã tìm đến với cách mạng.
Min, từ một cô gái ngoan đạo, dần dần được ngộ, lao vào công tác với tất cả
nhiệt tình của tuổi trẻ. Cô như con thoi truyền dòng tin nóng giữa Đảng và
quần chúng. Tình yêu giúp cô vượt mọi gian khổ, hy sinh. Tình yêu của Min
đối với Tuấn – người thay mặt Đảng lãnh đạo phong trào ở mỏ không chỉ là
tình cảm lứa đôi đơn thuần, mà nó được xuất phát từ tình cảm giai cấp cao
đẹp. Chị Le, người đàn bà lam lũ, chỉ biết cúi đầu làm việc, bị đánh đập, đày
ải, đã được Đảng giúp cho nhận ra con đường đi của mình. Ngay từ khi chưa
được vào đoàn thể, Le đã chủ động lập một cái “họ” trong anh em để giúp đỡ
nhau lúc ốm đau hoạn nạn. Và khi đã được giác ngộ, Le đã hướng cái “họ”
của mình vào những việc làm có ý nghĩa: giúp cho đấu tranh thắng lợi. Le
như trẻ ra, tươi vui khi bước vào sinh hoạt đoàn thể, đấu tranh cho quyền lợi
của giai cấp… Những nhân vật phụ nữ khác trong tác phẩm như Min, Le,
Den, Tuyến, bà Gái, cụ Tài Kha… cũng đều có sức truyền cảm, đem lại được
cho người đọc những ấn tượng đẹp.
Với Vùng mỏ, lần đầu tiên những đại biểu ưu tú của cấp tiên phong đã
được khắc họa trong tác phẩm. Tài Bá nóng nảy, ăn to nói lớn nhưng rất tận
tụy, kiên quyết. Thiết chín chắn, sâu sắc, linh hoạt. Thịnh xông xáo, bồng bột.
Sử say mê, trung thành đến liều lĩnh. Tuấn, con chim đầu đàn ở đấy, lúc nào
cũng nghĩ đến công việc. Tuấn biết lo lắng, quan tâm tỉ mĩ đến mọi mặt của
phong trào. Vì phong trào, Tuấn biết hy sinh cả tình cảm máu mủ ruột thịt (chị
Le là chị gái của Tuấn, chị em xa nhau hơn chục năm trời, gặp lại, Tuấn
không nhận vì sợ lộ, ảnh hưởng đến công việc). Mỗi đảng viên ở trong tác
phẩm, đều được tác giả để khá nhiều công sức xây dựng. Võ Huy Tâm đã
mạnh dạn phê phán những người dao động, phiêu lưu tiểu tư sản (Thịnh, sử),
dành cho những con người tận tụy trung thành với Đảng, với giai cấp những
tình cảm yêu thương. Tài Bá và Thiết là hai nhân vật khá sống trong tác
phẩm. Người đọc mến cái tính xông xáo, thẳng thắn, lúc nào cũng ở hàng
đầu của Tài Bá, yêu cái mưu trí thông minh, linh hoạt mà quả cảm của Thiết;
hai con người này, cùng với Tuấn, bổ sung cho nhau, tạo nên một thế đứng
vững chắc của một chi bộ hoạt động trong vùng địch.
Nếu tách riêng từng nhân vật mà xét thì trong tác phẩm Vùng mỏ chưa
có một nhân vật nào thật điển hình, chưa có một tính cách nào thật đậm nét,
nhưng tất cả các nhân vật, từ những người có tên đến những người không có
tên, từ những người có quá khứ lâu dài đến những người mới trưởng thành,
mỗi người một cảnh ngộ khác nhau, một cá tính khác nhau, tất cả hòa quyện
được vào nhau, mỗi người một nét bổ sung cho nhau, tạo thành một đội ngũ
kiên cường, có sức sống trong tác phẩm.
Võ Huy Tâm trân trọng và yêu mến thực sự những người thợ mà anh
miêu tả. Chính vì lòng yêu mến nhân vật, nên mỗi nhân vật của Vùng mỏ đều
ít nhiều có sức thuyết phục người đọc. Đất mỏ chính là quê hương sinh sống
và quê hương tâm hồn của nhà văn, nên mỗi dáng vẻ của người thợ anh
miêu tả đều mang những nét hồn nhiên, rắn rỏi. Hiện thực cuộc sống, con
người vùng mỏ hiện ra tự nhiên, chân thực, không ồn ào, lên gân. Võ Huy
Tâm đã phát hiện đúng, tuy chưa sâu, bản chất giai cấp công nhân qua
những nhân vật tích cực của mình. Anh đã khơi sâu được vào những tình
cảm mới mẻ trong người công nhân mới. Đó là tình thương yêu giai cấp, sự
gắn bó với tập thể, tinh thần triệt để đấu tranh và tinh thần hy sinh cho sự
nghiệp của giai cấp. Ánh sáng của Đảng đã soi rọi vào tâm hồn những con
người mới; lòng yêu nước, chí căm thù giặc được bộc lộ khá rõ rệt trong con
người họ.
Với Vùng mỏ, hình tượng người công nhân đã bước vào văn học như
một đối tượng cảm xúc. Vùng mỏ là thành công của việc phản ánh một đề tài
mới, là thành công của đường lối phát động phong trào quần chúng sáng tác
và đào tạo văn nghệ sĩ mới của cách mạng. Nó đáp ứng được nhu cầu cấp
bách của văn học kháng chiến, đi vào phản ánh con người mới của thời đại.
Tuy nhiên, bên cạnh những ưu điểm trên, Vùng mỏ cũng còn một số
nhược điểm. Vai trò lãnh đạo có Đảng tuy có được nhắc đến nhưng chưa thật
nổi. Những cán bộ cốt cán của phong trào như Tuấn, Thịnh, Sử còn mang ít
nhiều dáng nét tiểu tư sản. Tuấn, nhân vật trung tâm, chưa phải là một cán bộ
lãnh đạo có bản lĩnh. Ở Sử thiếu một thái độ chủ động, tích cực đối với với
âm mưu mua chuộc, ly gián của địch. Nói chung, nhiều nhân vật còn chưa
được khắc họa sâu.
***
Từ sau năm 1954, Võ Huy Tâm vẫn tiếp tục đề tài cuộc sống vùng mỏ
với hàng loạt tác phẩm: từ những truyện ngắn Chiếc cán búa (1959), Ngõ
ngang xóm thợ (1960) đến tiểu thuyết Những người thợ mỏ (1961), Đi lên đi
(1971).
Nếu Vùng mỏ phản ánh những con người công nhân mỏ thuộc thế hệ
đầu của giai đoạn kháng chiến chống Pháp thì Những người thợ mỏ là hình
ảnh những người kế tục thế hệ đó trong sự nghiệp xây dựng cuộc sống trong
hòa bình. Qua gần mười năm xây dựng chủ nghĩa xã hội, thế hệ trẻ thanh
niên đã trưởng thành lại tiếp tục đi vào tiểu thuyết Đi lên đi. Qua sự phát triển
của các thế hệ công nhân mỏ, Võ Huy Tâm muốn nói lên sự phát triển của
cuộc sống vùng mỏ.
Tiểu thuyết Những người thợ mỏ viết trong những năm 1956–1958 nêu
lên mối mâu thuẫn giữa một số quần chúng tích cực muốn xây dựng hầm mỏ
tiên tiến với mội số cán bộ lãnh đạo quan liêu, bảo thủ, kém năng lực. Họ đòi
hỏi dân chủ hóa sản xuất, đề cao vai trò làm chủ của người công nhân. Đọc
tác phẩm, trong khối tư liệu, sự việc phong phú, Võ Huy Tâm muốn đưa ta
đến một vùng mỏ mới cũng còn rất bề bộn ở những ngày đầu mới hòa bình.
Phải nói rằng với Những người thợ mỏ, Võ Huy Tâm đã tỏ ra có vốn
sống, có sự hiểu biết nhiều chi tiết cụ thể trong đời sống ở mỏ. Một số nhân
vật hiện lên khá sinh động. Tuy vậy, có điều đáng tiếc là ở đây Võ Huy Tâm
đã nhìn nhận sai mối mâu thuẫn cơ bản của cuộc sống vùng mỏ lúc này. Anh
đã quá cường điệu mối mâu thuẫn giữa công nhân và cán bộ mà không chú ý
đúng mức đến những mâu thuẫn khác, những khó khăn khác, đó là những di
sản nghèo nàn, những hậu quả nặng nề của quá khứ để lại, là sự phá hoại
của kẻ địch còn lẩn khuất trong đời sống.
Bản chất tích cực của giai cấp công nhân trong tác phẩm còn chưa
được giải thích một cách đúng đắn bằng quá trình giáo dục của Đảng, mà
như một hiện tượng tự phát, còn những mặt tiêu cực của cán bộ thì lại được
thể hiện như là nguyên nhân chính kìm hãm sự phát triển của sản xuất. Điều
đó không đúng. Cái nhìn thiên lệch ấy khiến cho cuộc sống được miêu tả
trong truyện lại rơi vào một sự “sơ lược” khác: ở cán bộ thì cái gì cũng dở,
còn công nhân thì cái gì cũng tốt. Do chỗ tác giả không nhấn mạnh vào tính
thống nhất trong tổ chức sản xuất của ta, lại cường điệu quá mức mối mâu
thuẫn giữa cán bộ và công nhân, nên việc thể hiện chủ đề chống quan liêu
trong Những người thợ mỏ trở nên thiếu tính hiện thực, và có ý nghĩa không
tốt.
Tiểu thuyết Đi lên đi viết về đất mỏ những năm đầu vừa sản xuất, vừa
đánh Mỹ. Tác phẩm muốn nêu lên và giải quyết mối quan hệ giữa sản xuất
lớn và sản xuất nhỏ, đề cao lối sản xuất công nghiệp, phê phán lối làm tự do,
tản mạn. Qua cuộc đấu tranh cho cung cách làm ăn mới, thế hệ trẻ với những
mẫu người như Đạt, Đan đã khẳng định vai trò tích cực của mình, và tiến
bước “đi lên”.
Rõ ràng với Đi lên đi, Võ Huy Tâm muốn mở rộng phạm vi mô tả của
mình, muốn phản ánh một xu thế đầy triển vọng của thế hệ trẻ. Nhưng đồng
thời qua Đi lên đi, người đọc dễ dàng nhận ra một khoảng cách khá xa giữa
nhà văn với thế hệ trẻ. Võ Huy Tâm đã tỏ ra lúng túng trong việc đi sâu vào
tâm tư, suy nghĩ, ước vọng của thế hệ trẻ, lúng túng trước những vấn đề mới
của cách mạng khoa học kỹ thuật. Tác phẩm do vậy trở thành một lược đồ
khô khan, một sự minh họa cho các ý có sẵn.
***
Với Vùng mỏ và một số sáng tác khác viết về người công nhân mỏ, Võ
Huy Tâm đã có những đóng góp đáng quý vào sự trưởng thành của văn học
ta. Nhà văn có một phong cách viết dí dỏm, khai thác được nhiều chi tiết đặc
sắc, có ý nghĩa; có một vốn từ ngữ phong phú, có tính chất đại chúng rõ rệt.
Nhược điểm quan trọng của Võ Huy Tâm là thường chú trọng nhiều về
chi tiết, về bộ phận hơn là toàn thể, thấy cây hơn thấy rừng, đó là một trong
những nguyên nhân đem đến những thiếu sót đáng tiếc trong Những người
thợ mỏ. Sự phát triển nhanh chóng của đời sống trong công cuộc xây dựng
chủ nghĩa xã hội dưới tác động của ba cuộc cách mạng dường như cũng gây
cho Võ Huy Tâm nhiều lúng túng. Vốn sống của anh dường như không kịp
được bổ sung, đổi mới để vươn theo cho kịp và bao quát hiện thực mới.
Võ Huy Tâm cũng chưa đủ khả năng xây dựng những tác phẩm lớn, có
nhiều nhân vật, điều này chứng tỏ trình độ khái quát của nhà văn chưa cao.
Ngôn ngữ của anh tuy phong phú, nhưng lại thường hay lạm dụng nhiều tiếng
lóng, tiếng nhà nghề, khẩu ngữ, làm cho câu văn có lúc thiếu trong sáng.
Đời sống công nghiệp, hình ảnh người công nhân mỗi xã hội chủ nghĩa
đang còn là cả một đề tài lớn đặt ra cho sáng tác văn học. Trên hướng đi của
Võ Huy Tâm “từ trong lòng cuộc sống mà ra”, chúng ta mong đợi sự xuất
hiện, ngày càng nhiều, một đội ngũ người viết, từ hầm mỏ, xí nghiệp, công
trường… có đủ mọi khả năng và điều kiện, để tự mình viết lấy lịch sử của
mình.
Phần ba. LỰC LƯỢNG SÁNG TÁC MỚI TRONG XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI VÀ ĐẤU TRANH THỐNG NHẤT NƯỚC NHÀ
Từ sau năm 1954, nhất là từ khi bọn Nhân văn– Giai phẩm bị đánh bại,
do đường lối văn học của Đảng là khuyến khích, nâng đỡ những tài năng
chân chính, do sự nghiệp cách mạng không ngừng phát triển, đội ngũ những
người viết văn xuôi càng lớn mạnh, với số lượng rất đông đảo.
Một số người viết như Nguyễn Khải, Nguyên Ngọc, Hồ Phương,… đã
có ít nhiều thành tích sáng tác trong thời kỳ kháng chiến, nhưng phải từ sau
1954, các anh mới thực sự được nhiều người chú ý đến. Số đông hơn là
những cây bút xuất hiện sau ngày hòa bình lập lại. Từ đó đến nay, kết quả
lớn nhất của mỗi một cuộc thi truyện, ký là sự khám phá ra một số tài năng
mới, nhiều hứa hẹn.
Những người viết văn trưởng thành trong thời kỳ xây dựng chủ nghĩa
xã hội là một bộ phận quan trọng trong đội quân chủ lực về văn xuôi mấy
chục năm nay. Họ sáng tác khỏe và đã đóng góp cho phong trào rất nhiều tác
phẩm ưu tú, với đề tài phong phú, giá trị tư tưởng cao và có nhiều thành tựu
về nghệ thuật. Nguyên Ngọc viết thành công về đề tài miền núi và nhất là Tây
Nguyên. Nguyễn Khải chú ý đến nhiều mặt cuộc sống, luôn xông xáo vào
những lĩnh vực mới, nhằm nêu những vấn đề có ý nghĩa thời sự. Nguyễn
Địch Dũng, Nguyễn Kiên, Chu Văn, Nguyễn Thế Phương, Vũ Thị Thường,
Đào Vũ, Vũ Tú Nam Nguyễn Thị Cẩm Thạnh… viết khá nhiều truyện đặc sắc
về cuộc sống nông thôn. Huy Phương, Xuân Cang, Lê Minh, Lê Phương… cố
gắng đi vào đời sống công nhân và đề tài công nghiệp vốn là một lĩnh vực
mới và khó. Bùi Đức Ái, Nguyễn Quang Sáng, Đoàn Giỏi… trở lại đề tài miền
Nam hồi kháng chiến chống Pháp, trong khi Nguyễn Ngọc Tấn, Hoàng Văn
Bổn lại chú ý đến các hoạt động của cán bộ và chiến sĩ miền Nam tập kết ra
Bắc từ sau Hiệp nghị Giơ-ne-vơ. Lê Khâm, Hữu Mai, Hồ Phươnq, Hải Hồ…
có nhiều thành công khi viết về người lính – người lính trong chiến đấu, và
nhất là người lính trong hòa bình tiến lên chính quy hiện đại.
Sự xuất hiện một số cây bút viết văn các dân tộc ít người như Nông
Minh Châu, Hoàng Hạc… và những cây bút nữ có bản sắc riêng khá rõ như
Vũ Thị Thường, hoặc xông xáo như Nguyễn Thị Ngọc Tú… là hiện tượng rất
đáng chú ý trong giai đoạn này.
Từ sau năm 1965, trong cao trào chống Mỹ, cứu nước, trên cả hai
miền, lực lượng viết văn xuôi càng có thêm điều kiện để mở rộng đề tài, chủ
đề sáng tác và trên cơ sở đó phát huy mạnh mẽ hơn những đặc sắc của
mình. Hồ Phương, Nguyễn Khải, Hữu Mai, Hải Hồ, Xuân Thiều, Mai Ngữ…
vẫn tiếp tục đi sâu vào các vùng tuyến lửa, các lực lượng vũ trang, để khám
phá những biểu hiện mới của chủ nghĩa anh hùng cách mạng. Nguyễn Minh
Châu là cây bút mới, vừa gia nhập đội ngũ này, bỗng trội hẳn lên với một sổ
tiểu thuyết vừa và dài. Chu Văn có quá trình viết từ lâu, nhưng cũng phải đến
lúc này, mới thật sự làm cho người đọc chú ý với thành công nổi bật trong
Bão biển, một tiểu thuyết về đề tài nông thôn công giáo. Trong khi đó, Vũ Thị
Thường, Nguyễn Kiên, Nguyễn Địch Dũng... vẫn kiên trì hướng khám phá vào
những mảnh nhỏ có ý nghĩa của đời sống nông thôn, nhằm thể hiện sự gắn
bó giữa sản xuất và chiến đấu; và chừng mực nào đó, những tác động của ba
cuộc cách mạng trên hậu phương lớn của miền Bắc xã hội chủ nghĩa. Ngoài
ra còn phải kể đến sự xuất hiện liên tục của nhiều cây bút trẻ trên các báo chí
hoặc qua các cuộc thi như Đỗ Chu, Lê Lựu, Triệu Bôn, Lê Khánh, Ma Văn
Kháng, Trần Kim Thành, Nguyễn Thị Như Trang…
Đánh giá chung sự nghiệp sáng tác của đội ngũ đông đảo những nhà
văn trên, quả là một việc khó, nếu không nói là quá sớm, vì nhiều lý do: nói
chung họ đang ở độ sung sức, năng lực sáng tác còn dồi dào, nhiều người
trong họ còn trẻ cả tuổi nghề và tuổi đời, họ còn có thể tiến xa hơn nữa (và cố
nhiên cũng có thể dừng lại nửa chừng, vào một lúc nào đó). Nhìn chung, lớp
nhà văn xuất hiện từ sau 1954 đến nay luôn luôn được bổ sung, họ tiếp sức
cho nhau. Đó là một đội ngũ gồm nhiều thế hệ đang trên đà tiến lên, người
nhanh, kẻ chậm, có khác nhau, nhưng tất cả họp lại chính là lực lượng cơ
bản làm nên bộ mặt của đời sống văn học, như ta thấy hiện nay.
Chọn ai để đưa vào phần này, xin thú thật đó là một điều khó. Họ xấp xỉ
nhau. Để người này tiếc người kia. Nhưng cuối cùng cũng phải chọn một
cách làm. Còn yêu cầu hoàn chỉnh xin hẹn một dịp khác. Giới hạn ở mốc năm
1975 xin được bước đầu trình bày ở đây một số tác giả.
Bước đường NGUYÊN NGỌCNguyên Ngọc quen thuộc với chúng ta từ Đất nước đứng lên (1950).
Cuốn truyện được viết và ra mắt bạn đọc sau ngày hòa bình lập lại,
trong không khí sôi nổi, hào hứng của chiến thắng Điện Biên Phủ. Nhưng có
thể nói toàn bộ sự chuẩn bị của Nguyên Ngọc cho tác phẩm thành công là
thuộc về những năm cuối của giai đoạn trước, giai đoạn kháng chiến chống
Pháp, lúc nền văn học ta sau khi trải qua những khó khăn vướng mắc của
những năm đầu đã chuyển sang giai đoạn gặt mùa. Nhiều nhà văn như Tô
Hoài, Nguyễn Văn Bổng, Bùi Hiển… đã tạo được cho mình những môi trường
sống quen thuộc. Nếu Võ Huy Tâm là nhà văn công nhân rất hiểu vùng mỏ,
thì Nguyên Ngọc cũng đã từng là người chiến sĩ quân đội có dịp sống và
chiến đấu nhiều năm ở Tây Nguyên. Anh kể: “Tôi đã sống trong các làng của
đồng bào Ê-đê, được cùng đồng bào đi làm rẫy, làm nương, đi săn, đi bắt cá,
cùng ăn, cùng ở, cùng bàn bạc công tác, cùng đi đánh du kích, cùng dự các
cuộc vui và được nghe đồng bào kể những sự tích về núi, rừng, sông, suối,
về truyền thống bất khuất lâu đời của dân tộc”.
Từ 1953, Nguyên Ngọc được gặp anh hùng Núp ở Đại hội chiến sĩ thi
đua Liên khu Năm. Cuộc gặp gỡ đó đã tác động lớn đến tình cảm của
Nguyên Ngọc và kích thích mạnh trí sáng tạo của anh. Tất cả vốn sống của
Nguyên Ngọc về Tây Nguyên trước đây còn tản mạn, sau khi được gặp Núp,
hình như đều được quy về một điểm. Nhân vật chính đã được xác định. Mọi
ấn tượng, mọi kỷ niệm trong anh sẽ trở về xoay quanh hình tượng trung tâm
và tìm được vị trí thích hợp cho nó. Ánh sáng không loãng tan ra mà tụ lại
quanh một con người. Và chính vì vậy mà toàn cảnh bức tranh càng sáng rõ:
“Ở đồng chí Núp tôi thấy tiêu biểu cho tất cả những điều tôi được biết trước
nay về Tây Nguyên, tiêu biểu cho Tây Nguyên bất khuất và hết sức anh
dũng”.
Những hiểu biết về cuộc sống và con người, về hoàn cảnh và nhân vật,
đã đem lại cho Nguyên Ngọc khả năng mạnh dạn sáng tạo trong thể truyện
mà anh chọn. Trong tác phẩm, bên cạnh nhân vật chính là Núp, có khá nhiều
nhân vật phụ. Nhân vật được miêu tả trong công tác và đời riêng, thông qua
nhiều mối quan hệ xã hội: Tình yêu, tình vợ chồng, gia đình, tình đồng chí,
đồng đội của các nhân vật đều được khơi sâu. Tính cách và vẻ đẹp của
người anh hùng được thể hiện trên nhiều khía cạnh và có quá trình phát triển.
Khung cảnh thiên nhiên, điều kiện sinh hoạt của đồng bào các dân tộc Tây
Nguyên cũng góp phần làm nổi con người. Những non yếu, thiếu sót của
người anh hùng cũng có một vẻ chân thực, hợp lý, không gợi cho ta cái cảm
giác là người viết muốn tầm thường hóa người anh hùng, tả nhân vật tích cực
phải có tốt, có xấu, có mặt nọ mặt kia cho có vẻ là con người “bình thường”,
đê chứng tỏ họ có “chất người”!.
Tuy nhiên, nói đến những ưu điểm trong việc xây dựng nhân vật của
Nguyên Ngọc không phải là nói đến một cái gì rời rạc, tách ra khỏi chủ đề tư
tưởng của tác phẩm. Giờ đây, đọc lại Đất nước đứng lên, chúng ta vẫn còn
giữ nguyên được những xúc động hồi đầu khi tác phẩm mới ra đời. Thiên
truyện tỏ ra có khả năng vượt được những thử thách của thời gian bởi vì
những vấn đề Nguyên Ngọc đặt ra trong tác phẩm vẫn luôn luôn là vấn đề
nóng hổi. Qua hoạt động của người anh hùng, qua những tình huống gay go
mà họ đã vượt qua, ngay cả trong những ý nghĩ hoặc lời nói của họ ta đều
thấy rõ sự thể hiện những chân lý lớn trong đời sống cách mạng của chúng
ta, những chân lý bao giờ cũng giản dị: “Muốn đánh Pháp lâu năm thì phải
thương yêu, không ghét nhau. Phải làm rẫy nhiều, lúa tốt, ăn no. Phải tổ chức
lũ làng lại”. “Ăn tro tranh khổ lắm. Nhưng ăn tro tranh khổ một đời mình thôi,
còn ăn muối Pháp khổ hết đời mình, đời con mình khổ nữa, đời cháu mình
khổ nữa”. Rõ ràng phải có một nhận thức đúng và sâu về kẻ thù như thế nào,
và có lòng tin ở mình như thế nào, chúng ta mới có thể có quyết tâm: “Đánh
đến khi hơn Pháp, hết Pháp ở đất nước mình mới thôi. Đánh đời mình chưa
xong, đánh đến đời con, đời cháu mình nữa”. Tất cả những chân lý trên đã
thực sự hòa thấm vào tác phẩm, toát ra trong tính cách nhân vật, và được
Nguyên Ngọc xem như là nét chủ yếu làm nên phẩm chất anh hùng ở họ.
Thiên truyện nêu lên được ý chí quyết tâm chiến đấu đến cùng cho độc
lập và tự do của nhân dân ta, đồng thời cũng cho ta hiểu cái gì đã tạo nên
sức mạnh cho nhân dân ta chiến thắng bất cứ loại kẻ thù nào. Câu trả lời đó
cũng đồng thời giúp cho bạn bè trên thế giới hiểu ta. Sức mạnh đó toát ra tập
trung ở nhân vật Núp, nhưng cũng đồng thời toát ra từ toàn bộ bức tranh
cuộc sống Nguyên Ngọc dựng lên. Như tên tác phẩm, ở đây đúng là hình ảnh
của “đất nước đứng lên”. Con người gắn với đất nước quê hương, gắn với
truyền thống cha ông, và truyền cho đất nước sức sống của mình. Rừng cây,
sông suối, đất trời hình như đều sôi lên trong một cơn giận vĩ đại, “mỗi hòn
đá, gốc cây cũng đều biết giận Pháp, đánh Pháp” để bảo vệ cuộc sống yên
vui, tươi đẹp của nhân dân.
Như vậy, nét đặc sắc của tác phẩm chính là ở chỗ Nguyên Ngọc đã từ
đời sống cách mạng của dân tộc mà tìm hiểu người anh hùng, và từ người
anh hùng mà giúp ta hiểu dân tộc, thời đại.
Bên cạnh đó, hay nói đúng hơn, gắn chặt với những thành công trên,
vẻ đẹp của Đất nước đứng lên còn là ở những tình cảm luôn luôn dạt dào
trong từng trang buộc ta phải tỏ thái độ, cho ta cái cảm giác được sống trong
những cảnh ngộ của người trong truyện. Có lẽ là cái làm nên chất thơ riêng
trong bút pháp Nguyên Ngọc, cái làm nên vẻ đẹp riêng của Đất nước đứng
lên ít truyện theo kịp. Nhiều cảnh đời người viết dựng lên đậm màu sắc địa
phương, nhưng lại khó tìm thấy ở đây nét hoang dại của con người, vẻ bí
hiểm của núi –rừng theo kiểu những truyện đường rừng tưởng tượng hồi
xưa; cũng hiếm cái ngồ ngộ trong khung cảnh, một chút ngẩn ngơ nào đó
trong tâm lý, cử chỉ con người theo kiểu một vài sáng tác hồi đầu Cách mạng.
Ở đây trang nào cũng đẹp, vẻ đẹp của con người đã truyền đến cho thiên
nhiên và thiên nhiên góp phần tô điểm con người. Những tình cảm lớn của
nhân dân, càng trong gian khổ càng bền chặt, thủy chung đã được phối hợp
với nhau, như nhiều con suối đổ về một dòng sông, thống nhất trong tình yêu
đất nước quê hương; và đó chính là cơ sở cho cảm hứng trữ tình cất lên rất
đậm đà trong tác phẩm. Lòng khao khát tự do, tình cảm gắn bó với Đảng, với
lãnh tụ chính là nguồn sức mạnh giúp cho con người vượt qua mọi gian khổ;
đó chính là cơ sở cho cảm hứng anh hùng ca luôn gắn chặt với cảm hứng trữ
tình – có sức thôi thúc làm phấn chấn con người. Bản thân người viết nhiều
khi cũng không nén nổi cảm xúc riêng của mình, anh truyền đến cho ta những
phút lắng sâu của nội tâm, rất quý, gây được một thứ không khí riêng cho tác
phẩm. Và thực ra Nguyên Ngọc nói cũng là nói hộ ta đấy thôi. Tình yêu
thương, trân trọng của Nguyên Ngọc đối với nhân vật đã thấm vào ta; hay nói
đúng hơn, anh đã nói hộ cho ta những tình cảm đó một cách trọn vẹn.
Thiên truyện cũng cho ta thấy quả có một cái gì đó rất say người trong
những trang Nguyên Ngọc viết về miền núi, về Tây Nguyên. Có lẽ đó là sở
trường của anh chăng? Điều chắc chắn là vẻ đẹp hùng tráng và nên thơ, nên
họa–kể cả một chút gì đó hơi huyền bí nữa–trong khung cảnh thiên nhiên và
tâm hồn con người miền núi, quả có sức hấp dẫn đặc biệt đối với Nguyên
Ngọc, là nhà văn, như chúng ta biết, vốn có tâm hồn thơ, dễ rung động và đôi
mắt của người họa sĩ.
***
Một giai đoạn mới trong sáng tác của Nguyên Ngọc mở ra từ sau 1954.
Như tất cả những nhà văn là con em của miền Nam, trong thời kỳ mới
này, Nguyên Ngọc quan tâm trước hết đến chủ đề đấu tranh thống nhất nước
nhà. Chúng ta đã biết, công cuộc đấu tranh thống nhất nước nhà, vào lúc ấy,
do sự phá hoại của Mỹ – Diệm, gặp nhiều khó khăn, phải kéo dài, đồng bào
miền Nam còn phải chịu đựng nhiều gian khổ, đồng bào miền Bắc – trong đó
có những người con miền Nam tập kết – sống trong tâm trạng khắc khoải
từng ngày. Dựng lại hình ảnh cuộc sống của đồng bào miền Nam trong kháng
chiến (Kỷ niệm Tây Nguyên, 1957), hoặc miêu tả những tâm trạng khác nhau
của con người trước nhiệm vụ cách mạng đó (Đứa con, 1957; Em gái tôi,
1961), Nguyên Ngọc muốn nêu một số băn khoăn riêng của mình. Không
riêng Nguyên Ngọc, đây còn là tình hình chung của một số nhà văn vào lúc
ấy. Trong thơ: nhiều giọng bi thương; trong văn xuôi: nhiều bi kịch. Nhân vật
chính diện trong sáng tác của một số nhà văn hầu như chỉ còn một việc là
căng sức ra để chịu đựng những đau khổ riêng tư trong khi bóng đen của kẻ
thù trùm lên lớn quá. Trong Kỷ niệm Tây Nguyên, Nguyên Ngọc dựng một
chuyện tình. Hai thanh niên cùng yêu một người con gái, nhưng vì là bạn với
nhau, nên không ai dám ngỏ lời. Họ tham gia cách mạng. Giặc giết mất cô gái
trong một trận càn. Bây giờ họ ngồi bên nhau, một người im lặng, “khó hiểu
như một con thú rừng”, một người hát to lên mối tình đau khổ nọ, chung
quanh là cái im vắng mênh mông của rừng núi. Trong Đứa con, Nguyên Ngọc
miêu tả sự gặp gỡ giữa hai con người bất hạnh: một em bé không còn cha
mẹ, một người đàn ông không còn vợ con; anh muốn sự gặp nhau của họ sẽ
làm dịu được phần nào những đau khổ riêng của mỗi người, giúp họ có sức
đi tiếp con đường đời đã dành cho họ quá nhiều thiệt thòi, mất mát. Nhưng
người đọc không thấy kẻ thù đâu cả; đau khổ không làm thức tỉnh sự căm thù
trong ta, càng không làm sứt mẻ kẻ thù, mà chỉ gợi cho ta một sự ngậm ngùi
trước những tai họa mà con người còn phải cắn răng gắng chịu. Người đọc
cũng khó lòng tin ở cái hạnh phúc mong manh mà nhân vật trong truyện vừa
níu được. Bởi vì, trong cách miêu tả của Nguyên Ngọc, đau khổ đã thành nếp
rồi, đã thành thói quen của họ rồi; trong tư thế của em bé: “Đầu em hơi cúi
xuống. Một cái gì quá sức đè lên cấi cổ nhỏ, trắng, hơi gầy làm cho em không
ngẩng đầu lên được”; trong vẻ sầu muộn, chán nản, tưởng không còn chút
sinh thú gì ở người đàn ông nọ. Thực ra, trong cuộc sống của chúng ta có khi
có những đau khổ còn lớn hơn, nhưng chắc chắn con người chúng ta không
chịu đựng với tinh thần và tư thế như vậy. Ta tin đây chỉ là một chút yếu đuối,
đa cảm của nhà văn. Anh muốn dựng một bi kịch để nhân đó triết lý về những
đau khổ; những đau khổ theo anh là quá sức chịu đựng của con người,
nhưng đối với chúng ta, có vẻ lớn chăng là do người trong cuộc luôn luôn
xuýt xoa kêu đau.
Có người sẽ nói: những chỗ yếu trên là điều khó tránh khỏi, vì sự thực
là tình hình cách mạng ở miền Nam những năm đầu rất khó khăn. Tin tức
hằng ngày đưa đến cho chúng ta đều là những tin đau xót, không vui, trong
khi chúng ta không có điều kiện sống như một người trong cuộc để cảm cho
hết những đau thương và tinh thần gan góc, quật cường của nhân dân miền
Nam đang ráo riết chuẩn bị cho một ngày đồng khởi. Nhưng nói như vậy là
chưa thấy hết trách nhiệm của nhà văn, chưa thấy hết những thiếu sót chủ
quan của nhà văn, nếu chúng ta nghĩ đến văn học như một thứ vũ khí tinh
thần để cổ vũ nhân dân xông lên trong đấu tranh cách mạng. Một mặt khác,
nói như vậy cũng là chưa hiểu được tâm trạng của những người cách mạng
chân chính, dũng cảm, không bi quan trong bất cứ hoàn cảnh khó khăn nào.
Cũng với chủ đề đấu tranh thống nhất nước nhà, Nguyên Ngọc cố gắng
nêu lên một số vấn đề đang đặt ra trong cuộc sống của miền Bắc sau ngày
hòa bình lập lại. Đáng chú ý là kịch bản phim Hòa bình (1960) dựng lại khung
cảnh những ngày tiếng súng vừa ngừng, một đơn vị bộ đội đang trên đường
về xuôi, bỗng được giao nhiệm vụ trở lại biên giới tiểu phỉ; đấu tranh tư tưởng
xảy ra trong mỗi người, giữa cái sống và cái chết, giữa hạnh phúc hòa bình
đang chờ đợi họ và trước mặt là nhiệm vụ cách mạng gian khổ còn đòi hỏi họ
hy sinh… Người chiến sĩ mà Nguyên Ngọc ca ngợi là Hồi, trong một phút
quyết định, đã tìm cách thu hút hỏa lực của địch về mình cho đồng đội thoát
khỏi vòng vây; anh chỉ kịp nhờ bạn gửi lại một quyển sổ tay cho người yêu, là
Gội. Giờ đây anh bạn của Hồi đang len lỏi giữa dòng sông hoa đào của Hà
Nội vào xuân để tìm Gội, chuyển cuốn sổ tay kia. Năm năm sau, lại một lần
nữa, anh bạn nọ đi tìm Gội. Nhưng anh vẫn không tìm thấy. Không hiểu Gội đi
đâu, ở đâu?
Viết Hòa bình, Nguyên Ngọc muốn đặt vấn đề thái độ con người trước
những hy sinh mà cách mạng đòi hỏi trong hoàn cảnh hạnh phúc đã tới trước
mặt mà họ có quyền được hưởng. Nói gọn hơn, đó là vấn đề quan hệ giữa lợi
ích cá nhân và lợi ích cách mạng. Vấn đề đặt có ý nghĩa thời sự, khi trên miền
Bắc, cuộc sống đang bước vào thời kỳ cải tạo xã hội chủ nghĩa và xây dựng
chủ nghĩa xã hội. Anh đã bắt trúng mạch. Truyện phim không còn cái vẻ hững
hờ, hơi lạc lõng như một số sáng tác của anh hồi đầu. Anh ca ngợi vẻ đẹp
của từng chiến sĩ không tên, biết hy sinh lặng lẽ, biết vui vẻ chịu nhận những
khó khăn về mình cho người khác được hưởng hạnh phúc hòa bình. Anh
nhắc nhủ chúng ta đừng quên những hy sinh đó, đừng nghĩ hạnh phúc mình
đang hưởng tự nhiên có được một cách dễ dàng. Kịch phim có nhiều câu triết
lý, lắm đoạn tâm tình, nên có vẻ là một bài thơ bằng văn xuôi. Người viết rất
say sưa. Từng cử động, lời nói của nhân vật, và nhất là tiếng thuyết minh, lời
dẫn kịch như rung cùng nhịp cảm xúc của nhà văn. Nhưng mặc dù vấn đề đặt
ra là đúng, tình cảm của người viết khá sôi nổi, mặc dù tất cả những điều đó,
kết thúc truyện phim vẫn toát ra một vẻ ngậm ngùi. Nguyện vọng cuối cùng
của người chiến sĩ trước lúc hy sinh vẫn không thực hiện được. Cuốn sổ tay
của anh vẫn không giao được cho người yêu. Cô gái nọ đi đâu? Sao tìm cô
khó khăn thế? (Thực ra anh bạn nọ chỉ mới ghé qua Hà Nội hai lần). Hay là
cô đã quên người cũ? Còn cuộc sống thì có vẻ nhộn nhịp vui vẻ một cách vô
tâm. Tết đến, đường Hà Nội náo nức và rực đỏ như một dòng sông hoa đào,
chẳng ai còn chú ý đến một anh lính biên phòng ngơ ngác đi tìm người quen!
Trong lời dẫn kịch, tác giả đã tỏ ra quá đa cảm, và cách giải quyết anh nêu
lên trong đoạn kết có phần không đúng, vì tính chất tiêu cực của nó: “Có lẽ
anh nên giữ lấy quyển vở quý báu ấy, anh không nên đi tìm Gội làm gì nữa!
Có khi nhắc lại với cô gái ấy một người anh hùng đã mất lại là một việc không
nên làm. Hãy để cho hạnh phúc mới của cô được hoàn toàn trong sáng,
không mang chút dấu vết mất mát nào của chiến tranh (?). Còn người lính thì
họ im lặng, và hơn ai hết họ hiểu rõ giá trị của hạnh phúc và hòa bình hôm
nay”. Sao lại không nên đi tìm Gội? Sao lại không nên nhắc cho Gội biết
người yêu của cô là một anh hùng đã mất? Sao lại đồng ý cho Gội vô tình với
người yêu cũ, đi tìm “hạnh phúc mới”? Có lẽ không riêng ngườii lính, nhiều
người trong chúng ta, nhất là phụ nữ Việt Nam đều hiểu rõ những giá trị của
hạnh phúc; họ cần biết những gian khổ, hy sinh của người trước để Sống thế
nào cho đúng, cho phải. Lẽ nào nhà văn (vì vô tâm hay vì tự ái) lại khuyên
người ta quay mặt đi.
Kịch phim Hòa bình ghi lại hình ảnh một cuộc sống đã qua. “Chuyện cũ
viết lại” đối với Nguyên Ngọc dù sao cũng có những hạn chế trong việc thể
hiện những vấn đề thời sự. Anh là nhà văn luôn luôn nói đến việc nâng cao
tính hiện thực, tính chiến đấu của tác phẩm; chúng ta hiểu sự lúng túng của
anh trong cả một thời gian dài im lặng trước những câu hỏi của đời sống miền
Bắc đã trải qua các thời kỳ khôi phục, cải tạo kinh tế và bây giờ đang đứng
trước nhiệm vụ xây dựng chủ nghĩa xã hội, mở đầu bằng kế hoạch năm năm
lần thứ nhất, 1961 – 1965. Cuộc sống đang vươn tới những chân trời mới.
Nếu “sáng tác là một hành động nhận thức” đúng như cách nói của anh, thì
nhà văn không thể đành tâm im lặng, đi sau, mà phải vươn lên phía trước,
hoặc ra là đuổi kịp nó để mà ghi nhận cho đúng, cho sâu hình thù, vóc dáng
của nó, nhằm gây cho con người niềm tin để vươn mạnh lên.
Đó là lý do Nguyên Ngọc viết Mạch nước ngầm (1960), một truyện vừa,
khá công phu, kể từ sau Đất nước đứng lên.
Khung cảnh Nguyên Ngọc dựng lên trong Mạch nước ngầm là hoạt
động của một công trường xây dựng trạm bơm đang bị lưu sa và mạch nước
ngầm uy hiếp nghiêm trọng. Khó khăn rất lớn đòi hỏi cán bộ và chiến sĩ phải
quyết tâm cao, thậm chí, lúc cần, phải có những hành động mạo hiểm. Tinh
hình khó khăn làm nảy sinh các vấn đề tư tưởng. Đội ngũ cán bộ, chiến sĩ
nhiều người đã trải qua những thử thách lớn của kháng chiến, hy sinh không
tiếc thân mình, nhưng đến lúc này một số đã tỏ ra hoang mang, chùng lại.
Tình đồng chí đồng đội nảy nở trong hoàn cảnh kháng chiến gian khổ, vào
sinh ra tử có nhau, lúc này có nguy cơ sứt mẻ, phai nhạt. Tất cả những biểu
hiện tư tưởng đó được Nguyên Ngọc trình bày thông qua một loạt các tình
huống khó khăn của công trường, thông qua tính cách và các mối quan hệ xã
hội của một số nhân vật chính của truyện, để đi đến một kết luận về sự Cần
thiết đối với chúng ta, phải tìm hiểu cho kỹ những mạch nước ngầm trong
lòng đất và trong lòng người”.
Nêu lên sự cần thiết phải nhìn cho ra và hàn gắn cho kịp những mạch
nước ngầm như trên là đúng. Nhưng vấn đề quan trọng là ở chỗ nhà văn thể
hiện những mạch nước ngầm đó như thế nào cho phù hợp với thực tế, và
nhất là thể hiện cho đúng thái độ của chúng ta trước những mạch nước
ngầm, bất kỳ nó ở chỗ nào. Có điều khó hiểu trong Mạch nước ngầm là sự
bất lực của nhân vật tích cực trước những mạch nước ngầm đó. Không riêng
Thuyết, mà tác giả miêu tả như một nhân vật tiêu cực, ngay Quả, nhân vật
được xem là chính diện của tác phẩm cũng luôn luôn sống trong tâm trạng
bực bội, bất lực, đối phó với công tác chung đã nặng, lại còn những khó khăn
của đời riêng: “Trong cuộc chiến đấu lớn hiện nay mỗi người ngoài cái gánh
nặng công tác, trách nhiệm thường là quá sức mình, còn phải căng đôi vai lên
mà gánh những đau khổ riêng tư cũng nặng biết bao”. Cho đến cả cái đám
quần chúng chung quanh Quả, tuy có lúc cũng ồn ào nói cười, nhưng cái vui
của họ thường gượng gạo; trước khó khăn họ đâm ra lủng củng, cáu kỉnh,
lắm lúc cục cằn, tục tĩu.
Nguyên Ngọc muốn nói một thứ mạch nước ngầm trong lòng người.
Nhưng như vậy thì chẳng riêng nhân vật Thuyết mới có. Không khí truyện trở
nên nặng nề vì cái ám ảnh của những mạch nước ngầm đó, vốn có sức phá
phách khá mạnh. Vậv có thực đó là một hình ảnh đúng và phổ biến của miền
Bắc chúng ta trong xây dựng chủ nghĩa xã hội?
Vả lại, cũng cần xét thêm điều này: qua một mạch nước ngầm trong
lòng đất, theo nghĩa đen, gây ra bao nhiêu khó khăn, rắc rối cho công trường,
anh đặt vấn đề phê phán sự dốt nát: “Càng ngày càng thấy sự dốt nát dẫn
đến biết bao nhiêu là tai vạ. Tốn bao nhiêu công sức, của cải, mồ hôi, nước
mắt, có khi cả máu nữa… “. Nhưng như vậy thì nhân vật Thuyết vốn là nhân
vật tiêu cực, lại có chỗ đúng, vì anh ta phản đối một việc làm không có căn cứ
khoa học và nhân vật chính diện là Quả lại có vẻ phiêu lưu. Nguyên Ngọc
muốn phê phán sự dốt nát, nhưng lại vô hình trung ủng hộ một sự làm liều.
Rõ ràng trong Mạch nước ngầm, Nguyên Ngọc tỏ ra bối rối, bi quan.
Anh chưa cho ta quan niệm được một cách sáng sủa cái đúng cái sai. Anh
càng chưa nói được một cách đúng đắn, phù hợp với thực tế, thái độ của
chúng ta trước những khó khăn của cách mạng. Cuộc sống chúng ta không
ngừng vươn lên chính vì trong mỗi người chúng ta cái mới luôn luôn chiến
thắng cái cũ. Nhưng qua cách nhìn của Nguyên Ngọc, những khó khăn đặt ra
lại quá sức chịu đựng của con người: Những khó khăn không biết đến bao
giờ mới giải quyết hết được”. Một mạch nước ngầm đã được hàn lại, nhưng
“dưới lớp đất màu mỡ kia còn có bao nhiêu mạch nước ngầm?”. Và nhất là
những mạch nước ngầm trong lòng người thì lại càng khó lòng dò tìm, càng
khó biết làm cách nào, và lúc nào hàn gắn cho xong. Thiên truyện kết thúc rồi
mà một câu hỏi như vậy cứ xoáy sâu vào chúng ta. Nó gây nên một sự hoài
nghi không đúng, không phù hợp với tinh thần của người cách mạng, và nhất
là không phù hợp với thực tế “gương mặt người ai cũng sáng long lanh…”
(Tố Hữu). Trong xã hội ta, những “mạch nước ngầm” trong lòng một số kẻ
nào đó, nhất định cuối cùng cũng bị khám phá.
Một câu hỏi như vậy chúng ta không thấy có trong Đất nước đứng lên
dù những khó khăn đặt ra cho con người lúc ấy lớn hơn gấp nhiều lần. Là vì
con người trong đó đứng cao hơn tất cả mọi khó khăn, mọi kẻ thù, và miêu tả
được như vậy chính do nhà văn đã vươn tới tầm của họ.
***
Trong sáng tác cũng như trong nhiều lần tâm sự, Nguyên Ngọc luôn
luôn tỏ ra quan tâm đến việc tìm chọn cho mình những chủ đề mới mẻ.
Những tìm tòi thường đem lại kết quả tốt đẹp khi anh biết bám chặt vào hiện
thực, hướng mạnh về phía cái mới của đời sống. Bám vào đời thực, chủ đề
của tác phẩm sẽ như những nhánh rễ khỏe, càng ăn sâu vào đất; hình thức
của tác phẩm sẽ đạt tới vẻ đẹp cao nhất là cái đẹp giản dị, chân chất như đời
sống thực, không sa vào vẽ vời, xa lạ. Những trang Đất nước đứng lên chan
chứa một thứ chất thơ khá say người. Ở đây, bút pháp trữ tình và anh hùng
ca luôn luôn cất lên ở những cung bậc cao, phù hợp với khung cảnh cuộc
sống và con người miền núi: gần gũi với thiên nhiên bao la, rộng rãi, tươi
thắm các sắc màu; phù hợp với tính cách con người yêu chuộng cuộc sống
phóng khoáng, tự do. Tình cảm trân trọng của anh đối với nhân vật chính diện
luôn luôn tràn đầy, đôi khi không nén nổi trong một cảm hứng trữ tình bồng
bột, nhưng được đặt đúng chỗ, không làm mất tính chất cân đối, trang trọng,
có tính sử thi của tác phẩm, cũng không gây ra một lớp sương mù mờ ảo, che
mất khuôn mặt thực của họ.
Trái lại, khi nhà văn xa cách đời sống, và trong lòng mình lòng tin đối
với sự nghiệp cách mạng có sút đi thì những tìm tòi về nội dung và hình thức
sẽ trở nên xa lạ. Để bù đắp cho những chỗ yếu của mình, đôi khi anh phải lấy
suy tưởng chủ quan thay vào. Trong truyện ngắn Pồn viết về một con người
mới có thực là Phạm Trung Pồn, Nguyên Ngọc muốn gợi ta đi sâu tìm hiểu
động cơ nào đã kích thích Pồn có những việc làm tốt đẹp. Nhân một lần tâm
sự, Nguyên Ngọc đã nói rõ ý định của mình: “Không viết sáng chế phát minh
mà là viết… tình yêu”. Kể ra trong đời sống lắm khi tình yêu cũng là một nhân
tố thúc đẩy con người vươn lên. Nhưng Nguyên Ngọc muốn cho ta thấy tất cả
những việc làm tốt đẹp của con người mới đều chỉ xuất phát từ tình yêu, thì
vấn đề lại trở nên đơn giản, và không khỏi gây cho chúng ta cái cảm tưởng
làm con người mới cũng dễ. Chính Nguyên Ngọc cũng không tin lắm ở mình
và không tin cả ở anh Pồn (hoặc là tác giả “hư cấu” về anh Pồn); trong đoạn
kết cuốn truyện tác giả cho biết: “Đó là câu chuyện có lẽ có thật (?) về anh
Pồn mà tôi được nghe anh Pồn kể (…) Biết đâu câu chuyện trên đây cũng chỉ
là một ước mơ của anh”… Trong Em gái tôi Nguyên Ngọc cũng sa vào một
thứ tìm tòi cầu kỳ; nội dung câu chuyện có một vẻ phức tạp giả tạo nên mất
hẳn sức truyền cảm đáng lẽ có được, mặc dù người viết ngay từ trang đầu đã
tỏ ra không muốn có những “niềm vui dễ dãi” (!). Điều dễ thấy là do chưa nắm
kịp những vấn đề đúng thực của đời sống, một số truyện của Nguyên Ngọc
thường lộ rõ vẻ sắp đặt, bố trí, thậm chí nhiều lúc lộ rõ sự bắt chước một vài
sáng tác nước ngoài. Những tìm tòi của anh lúc đó không tránh khỏi chuyện
đi tìm của lạ, hoặc quanh quẩn trong một vài hình ảnh, suy tưởng sáo mòn.
Bám sát cuộc sống, giữ được cho mình nhiệt tình cách mạng, đó là con
đường đúng nhất cho nhà văn tìm đến một phong cách thật sự là của mình;
cũng chính là con đường tốt nhất cho Nguyên Ngọc trở lại được tâm trạng
bình tĩnh như những ngày đầu, như niềm mong muốn của chúng ta. Một số
truyện ngắn về miền núi trong tập Rẻo cao (1961) cho ta thấy lại một Nguyên
Ngọc rất quen thuộc mà chúng ta ai đã gặp lần đầu tiên, qua Đất nước đứng
lên, đều khó lòng quên được. Đọc Rẻo cao ta lại được gặp Nguyên Ngọc
trong giọng điệu đằm thắm, sôi nổi, những cảm xúc tinh tế, ngọt ngào, cái
nhìn lành khỏe, trong trẻo. Ở đây, sau Đất nước đứng lên, lại một lần nữa, ta
thấy thiên nhiên và con người miền núi quả có một vẻ hấp dẫn, một sức tác
động trở lại đối với Nguyên Ngọc, làm cho ngòi bút của anh trở nên phơi phới,
tha thiết, lắng sâu. Giữa cái bát ngát, đậm đà sắc màu của đất trời quê hương
là hình ảnh những con người, với những khoảng tâm hồn hiện ra rất đẹp, rất
say người: cô gái miền xuôi “dũng cảm” một cách hồn nhiên, yên tâm ở lại
miền núi với những em học trò đối với cô đã như người ruột thịt (Dũng cảm);
anh giao thông miền núi gắn bó với công việc phát hành báo Đảng không chỉ
với tinh thần “trách nhiệm” mà còn với tất cả tình yêu, say như với người yêu,
vì anh thấy tất cả ý nghĩa lớn lao trong công việc mình làm (Rẻo cao); chị chủ
tịch xã Vàng Thị Mỹ như một bông hoa bừng nở giữa thiên nhiên vùng Mèo,
ngày xưa đất trời tối tăm mù mịt (Mùa hoa thuốc phiện cuối cùng).
Từ 1960, Nguyên Ngọc đã suy nghĩ nhiều về “hàng ngũ chúng ta” – ghi
nhanh chung quanh Đại hội Đảng – nói cái sôi nổi của đất nước vào xuân,
đón mừng kế hoạch năm năm, với nhiều lạc quan, tin tưởng. Năm 1961, anh
suy nghĩ về con người mới, qua báo cáo của một xã đội trưởng, Dương Đình
cởn, nhân Đại hội thi đua toàn quân: “Con người mới của chúng ta ngày nay
là như vậy đấy. Ở họ, cuộc đấu tranh để làm cho cuộc sống chung quanh
mình tốt hơn lên”. Trước đây, trong Mạch nước ngầm, anh cho rằng những
thử thách đối với con người trong hòa bình còn gay go gấp mấy lần trước cái
chết, và do vậy nhiều người khó lòng vượt qua nổi; bây giờ, qua gương
Dương Đình Cởn trong Đại hội, anh lại thấy con người mới “đã giải quyết
được” những khó khăn “một cách thắng lợi”. Những suy nghĩ của anh về con
người mới, về trách nhiệm của nhà văn, cũng đáng chú ý: “Văn học bao giờ
cũng tìm đến biểu hiện những đỉnh cao của cuộc sống. Ngày nay những đỉnh
cao đó nó lẩn khuất trong những điều rất nhỏ hàng ngày. Chính trong những
việc rất nhỏ hàng ngày đó đang rèn luyện, đang hình thành những con người
mới chắc chắn, toàn diện, đối tượng cao quý của mỗi người viết chúng ta”…
“Tôi nghĩ rằng: rõ ràng là càng ngày việc trở nên những con người tiên tiến
của xã hội, của cuộc sống càng khó khăn thêm lên rất nhiều. Càng ngày cuộc
sống tiến lên càng đòi hỏi những người muốn đi lên hàng đầu của nó những
sự nổ lực sâu sắc và toàn diện hơn nhiều. Và viết về những con người đang
đi lên hàng đầu một cách anh dũng như vậy thật là một nhiệm vụ khó khăn và
cũng hấp dẫn đẹp đẽ biết bao đối với mỗi người cầm bút chúng ta”.
Thực ra, mỗi giai đoạn cách mạng đều có những yêu cầu mới và cuộc
sống càng ngày càng vươn lên phía trước, nhưng không phải do vậy mà việc
làm người anh hùng càng ngày càng khó khăn thêm ra, càng trở nên hiếm đi.
Rõ ràng là việc phấn đấu trở thành người anh hùng của nhân dân, trong bất
cứ hoàn cảnh nào, lúc nào, cũng đòi hỏi con người phải có những phấn đấu
cao nhất, và trên đất nước ta, càng ngày chủ nghĩa anh hùng cách mạng
càng được mở rộng, khơi sâu, nói cụ thể là càng ngày số người tốt việc tốt
càng thêm nhiều. Tuy nhiên, khi nêu yêu cầu cho văn nghệ, Nguyên Ngọc đã
có những suy nghĩ lạc quan và đầy tinh thần trách nhiệm. Đó chính là cơ sở
cho những chuyển biến mạnh mẽ của Nguyên Ngọc để anh khắc phục những
chỗ yếu cũ và phấn đấu vươn lên vị trí những hàng đầu.
***
Con đường sáng tác mà Nguyên Ngọc đã đi qua với những thành công
và chưa thành công như đã nói trên thật ra chưa dài lắm so với toàn bộ quá
trình sáng tác của anh. Nguyên Ngọc còn trẻ và con đường đi của anh sau
này còn dài. Nhưng nó vẫn là một chặng đường nhiều ý nghĩa. Bởi vì tuy
ngắn, nó vẫn ghi lại cho ta khá rõ những chỗ mạnh và chỗ yếu tiêu biểu của
Nguyên Ngọc, đồng thời, qua đó cũng phần nào phản ánh được bước đi, chỗ
mạnh, chỗ yếu chung của một lực lượng trẻ xuất hiện và trưởng thành trước
sau cái mốc 1954. Chỗ mạnh của anh không ai phủ nhận được, đó là chỗ
mạnh của một cây bút trẻ sống trong lòng thực tế, từ thực tế mà ra; cho nên
không phải ngẫu nhiên anh đã viết được Đất nước đứng lên mà kinh nghiệm
thành công của nó đã gây cho ta niềm tin ở khả năng văn nghệ trong việc xây
dựng điển hình con người mới và thể hiện chủ nghĩa anh hùng cách mạng.
Tuy nhiên nếu như ở nhà văn, điều quan trọng là cần phải biết chuẩn bị
cho mình những gì để đạt được kết quả ngay từ sáng tác đầu tay, thì điều
quan trọng nơn, là làm cách nào để giữ gìn và phát huy cho được những kết
quả đó trong các bước sau, trên cơ sở có được một bản lĩnh thật vững vàng
trước những chuyển biến của đời sống cách mạng. Những mặt chưa thành
công của Nguyên Ngọc có thể giúp ta hiểu thêm điều này. Dù sao nếu có nói
đến những chỗ yếu, những mặt chưa thành công của anh thì cũng là nói đến
một cái gì tạm thời, trong một lúc; đó không phải là mặt chủ yếu trên con
đường anh đã đi qua, càng không đáng kể đối với cả sự nghiệp tương lai của
anh. Con người anh luôn luôn gắn bó với cách mạng, cho nên con đường anh
đi sẽ là con đường dẫn anh đến hàng đầu cuộc sống, dẫn anh đến hòa làm
một, sống như một người trong cuộc với nhân dân, để từ trong đó nghe rõ
được tất cả mọi tiếng động của cuộc đời – từ những rung chuyển lớn lao của
thời cuộc đến những nhịp đập khẽ của mỗi con tim. Trong nguồn sống đó,
tiếng nói của anh cất lên hẳn sẽ không phải là tiếng nói xa lạ, đơn lẻ, mà là
tiếng nói lớn của nhân dân, tiếng nói lạc quan, đằm thắm, hùng tráng, có sức
giục giã con người vươn lên.
Con đường đó, Nguyên Ngọc đang đi, chắc chắn cũng là con đường
ngắn nhất cho người viết vươn tới những đỉnh cao.
Đặc điểm sáng tác NGUYỄN KHẢIHiện nay Nguyễn Khải là một trong những cây bút viết khỏe, và càng
viết anh càng tỏ ra sung sức. Có lẽ đấy là chỗ mạnh của anh so với nhiều nhà
văn cùng thế hệ mà quá trình sáng tác càng về sau hình như càng gặp nhiều
khó khăn hơn. Nguyễn Khải không chỉ viết nhiều, anh còn tỏ ra sắc sảo.
Tuy nhiên, nếu nhìn lại từ những bước đi đầu tiên, thì trong cuộc đời
sáng tác, anh lại không phải là người chỉ gặp toàn những điều thuận lợi. Khác
với mội số cây bút trẻ gần đây, bước vào làng văn một cách khá ồn ào, với
những thành công nổi bật, làm xôn xao dư luận ngay từ tác phẩm đầu tay,
nhưng rồi sau đó lại chìm dần và mờ đi, có khi mất hút hẳn, trước con mắt dõi
theo và trông chờ của bạn đọc, Nguyễn Khải bắt đầu con đường sáng tác của
mình một cách tương đối lặng lẽ, hầu như chẳng có gì đặc sắc, nhưng rồi
những bước đi của anh càng về sau lại càng tỏ ra vững vàng hơn.
Anh bắt đầu viết vào những năm cuối kháng chiến chống Pháp, với khá
nhiều truyện ngắn về cuộc chiến đấu của du kích Liên khu Ba và năm 1951,
với truyện Xây dựng, anh đã được giải khuyến khích về văn xuôi trong cuộc
thi văn nghệ 1951–1952. Mặc dầu vậy, lúc này anh vẫn chưa được bạn đọc
để ý. Thậm chí cả cho đến khi anh viết một cuốn sách khá dày dặn về đời
hoạt động của nữ anh hùng liệt sĩ Mạc Thị Bưởi (Người con gái quang vinh,
1956) và một loạt truyện ngắn nữa: Nằm vạ (19315), Đôi mắt (1957), Ngày tết
vê thăm quê (1957), Chỉ lại một ngày trâu (1958), v.v…, Nguyễn Khải vẫn
không thu hút được người đọc, bởi vì nhược điểm rõ ràng của ngòi bút anh
lúc ấy là thường kể lể nhiều hơn miêu tả, những câu chuyện của anh do đó
có phần tản mạn, nhạt nhẽo, dài dòng.
Chỉ đến năm 1959, với Xung đột (phần I), Nguyễn Khải mới được dư
luận bạn đọc đánh giá tương đối cao. Và từ đấy, trước con mắt ngạc nhiên
của mọi người, tác giả Xung đột liên tiếp cho ra đời những cuốn sách ngày
càng khẳng định thêm chỗ đứng của mình trong nền văn học đương đại: Mùa
lạc (1960), Xung đột (phần II; 1962), Một chặng đường (1962), Hãy đi xa hơn
nữa (1963), Người trở về (1964), Họ sống và chiến đấu (1966), Hòa Vang
(1967), Đường trong mây (1970), Ra đảo (1970), Chủ tịch huyện (1972) và
Chiến sĩ (1973).
Thực ra kết quả này đâu phải là một sự ngẫu nhiên, nó chỉ có được
nhờ một vốn sống phong phú và một tài năng đã đến độ chín muồi, nó là một
bước tiến nhảy vọt, một sự biến đổi về chất, mà quá trình tích lũy, mò mẫm
trong bao nhiêu năm lần tìm mạch nguồn cuộc sống và chiếc chìa khóa nghệ
thuật đã làm nên.
Vì vậy, đọc Nguyễn Khải, chúng ta không thể không trọng một ngòi bút
thông minh, sắc sảo và giàu tính chiến đấu, một ngòi bút đầy tinh thần trách
nhiệm, luôn luôn có sự đòi hỏi cao đối với bản thân và đối với mọi người.
Muốn làm được như vậy, điều kiện tất yếu trước tiên là người cầm bút
không thể chỉ đến với văn học bằng thứ tình cảm bồng bột nhất thời của tuổi
trẻ hay bằng những kỷ niệm đẹp đẽ về thời ấu thơ có thể trút ra tràn trề một
lúc, nhưng rồi sau đó trong lòng sẽ rỗng không, hầu như chẳng còn gì để viết,
mà phải đến với nó bằng tất cả cuộc đời mình, bằng kinh nghiệm và vốn
sống, mà trải qua bao nhiêu năm khổ công tích lũy mới có được. Ở Nguyễn
Khải thì khả năng về mặt -này lại khá dồi dào. Anh là một người tương đối
chịu đi thực tế và lại thường đi về những nơi khó khăn gian khổ. Anh đã có
mặt ở một vùng công giáo toàn tòng vào khoảng thời gian sau Cải cách ruộng
đất, khi mà cuộc đấu tranh giai cấp ở đây đang diễn ra một cách căng thẳng
nhất; anh đã lên Điện Biên ngay từ lúc nông trường mới ở những bước đầu
xây dựng còn nhiều khó khăn; anh đã ra Cồn cỏ hầu như cũng vào những
ngày đầu gay go của cuộc chiến tranh phá hoại. Cho đến nay, sau hơn hai
chục năm trong nghề, anh vẫn cố gắng đi vào vùng chiến đấu để có thể viết
nên những trang nóng hổi thời sự chiến trường.
Có thể nói, nhờ đi nhiều, biết nhiều mà Nguyễn Khải hầu như không
bao giờ cảm thấy mình bị rơi vào tình trạng bế tắc trong việc tìm kiếm và phát
hiện đề tài cho tác phẩm, như một số nhà văn cùng thế hệ với anh hiện đang
vấp phải. Trái lại, anh lúc nào cũng như đang sống giữa dòng thác của cuộc
đời, và những vấn đề của nó cứ tự nhiên đến với anh. Anh viết liên tục, mà
hầu như trong tác phẩm nào anh cũng vẫn đặt ra được, những vấn đề có ý
nghĩa thiết thực đối với giai đoạn nó ra đời. Chẳng hạn, cuộc đấu tranh quyết
liệt giữa địch và ta sau Cải cách ruộng đất tại một vùng công giáo (Xung đột),
chủ nghĩa nhân đạo cộng sản chủ nghĩa trong xã hội ta ngày nay (Mùa lạc),
quan hệ giữa sở hữu cá thể, tập thể và nhà nước ở giai đoạn hợp tác xã tiến
lên cấp cao (Tầm nhìn xa), cách đánh giá đúng đắn đối với những đổi mới
trong cuộc sống ở nông thôn hiện nay (Người trở về), phẩm chất của người
cán bộ địa phương trong thời kỳ nông thôn tiến lên sản xuất lớn (Chủ tịch
huyện), hay cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân (Hãy đi xa hơn nữa,
Anh đội phó và người thợ mộc, Một cặp vợ chồng), và chủ nghĩa anh hùng
cách mạng (Họ sống và chiến đấu, Đường trong mây, Ra đảo, Chiến sĩ).
***
Qua những tác phẩm mà chúng tôi vừa kể trên, ta có thể thấy, trong
sáng tác của Nguyễn Khải, hai đề tài lớn được dần dần hình thành và ngày
càng rõ nét, đó là đề tài nông thôn (Mùa lạc, Xung đột (2 phần), Hãy đi xa hơn
nữa, Người trở về, Chủ tịch huyện) và đề tài chiến đấu (Họ sống và chiến
đấu, Đường trong mây, Ra đảo, Chiến sĩ).
Và gắn liền với hai đề tài này là hai cách nhìn con người và cuộc sống,
hai sự thể nghiệm nghệ thuật của ngòi bút miêu tả và phương pháp xây dựng
nhân vật khác nhau.
Khi viết về nông thôn, Nguyễn Khải thường để mắt nhiều hơn đến
những khía cạnh còn chưa hoàn chỉnh con người và cuộc sống, để phê phán,
góp phần xây dựng một nông thôn hoàn toàn đổi mới. Ở đây, anh thường tỏ
ra sắc sảo và nhạy bén, luôn luôn phát hiện ra được những vấn đề mới nhất
và thường viết theo cách đặt vấn đề, do đó mà toàn bộ các yếu tố khác cấu
thành tác phẩm, như cốt truyện, tình tiết, chi tiết và nhất là nhân vật, đều buộc
phải chuyển động xung quanh một vấn đề mấu chốt, nói đúng hơn, đều xuất
hiện và phát triển hoặc kết thúc vai trò của mình theo yêu cầu của việc giải
quyết vấn đề mà tác giả đặt ra cho tác phẩm mình.
Trái lại, khi viết về những con người đang chiến đấu, nhà văn thường
cố gắng tìm ra những nét đẹp trong chiến sĩ ta để ca ngợi, biểu dương, ở đây
anh lại thường tỏ ra hiền lành, có phần như ít chú ý đến những vấn đề gay
cấn về mặt tư tưởng có thể xảy ra với người lính ngoài tiền tuyến; những con
người anh miêu tả ở đây thường hiện lên đơn giản, dễ hiểu. Đa số các tác
phẩm của anh về đề tài chiến đấu thường không có cốt truyện, hay đúng hơn,
cái cốt của những tác phẩm ấy thường là một chuyến đi, và xoay quanh
những con người và sự việc mà anh gặp trong chuyến đi ấy, Nguyễn Khải xây
dựng nên tác phẩm mình. Bởi vậy truyện thường ít tính chất hư cấu, điển
hình hóa, có đôi khi còn mang khá rõ dấu ấn của sự kiện thực. Và do đấy,
mặc dầu có lúc tác giả tự coi tác phẩm mình là tiểu thuyết, chúng ta vẫn thấy
đó có vẻ là một phác thảo ghi nhanh nhiều hơn. Và ở đây, nói chung ta cũng
không thấy tác giả nêu lên một vấn đề gì cụ thể, có chăng là một vấn đề lớn,
chung cho tất cả những tác phẩm cùng viết về đề tài này – đấy là chủ nghĩa
anh hùng cách mạng.
Thực ra thì việc nhà văn làm như vậy cũng là điều hợp lý. Bởi chưng,
mỗi con người chúng ta, khi phải sống trong những hoàn cảnh gay go ác liệt
của cuộc chiến đấu, thường biểu hiện mình ra với những phẩm chất đẹp đẽ
nhất; lúc ấy chúng ta thường ít nghĩ đến những cái tầm thường, hay đúng
hơn những cái tầm thường bị một cái gì vô cùng lớn lao đẩy lùi về phía sau
một khoảng cách khá xa – đó là sự sống còn – và sự sống còn này không
phải chỉ của một cá nhân hay thậm chí một tập thể, mà là sự sống còn của cả
một dân tộc, sự sống còn của một nòi giống, một đất nước. Và vì sự sống còn
đó, người chiến sĩ sẵn sàng hy sinh cuộc đời mình, hy sinh tất cả. Vậy nên
việc ca ngợi ở đây là rất đúng, là cần thiết, là không thể nào thiếu được, và
người viết cũng không việc gì phải tốn công vô ích để hư cấu những tình tiết
phức tạp, những cuộc đấu tranh tư tưởng gay go, những sự dằn vặt nặng nề
trong việc lựa chọn giữa sự sống và cái chết để gán cho người lính: các chiến
sĩ ta quan niệm về sự sống và cái chết giản dị hơn nhiều – sống là để chiến
đấu và chết cũng chỉ vì sự thắng lợi của cuộc chiến đấu mà thôi.
Còn ngược lại, khi con người sinh hoạt trong hoàn cảnh hòa bình thì
khác. Lúc đó người ta không phải dễ gì mà nhận ra ngay được, như trong
chiến đấu, cái mục đích và cái lý tưởng, mà vì nó mình có thể hy sinh cả, có
thể quên hết bản thân. Cho nên ở đây, nếu con người không tự vạch cho
mình một lý tưởng sống rõ ràng, một kỷ luật sống nghiêm khắc thì rất dễ trở
thành cá nhân, ích kỷ, tham ô, địa vị. Cuộc sống đã cho chúng ta những ví dụ
cụ thể và sinh động biết chừng nào! Cho nên ở đây, việc Nguyễn Khải thường
nhìn thấy mặt nhược điểm nhiều hơn, âu cũng là một điều dễ hiểu.
Chỉ có điều làm ta suy nghĩ là, tại sao khi viết về nông thôn, nói rõ hơn,
khi miêu tả những mặt còn tồn tại trong đời sống, thì ngòi bút nhà văn lại sinh
động, sắc sảo và thuyết phục hơn khi anh viết những tác phẩm ca ngợi con
người mới, xã hội chủ nghĩa? Phải nói thêm ngay ở đây là, kể cả những tác
phẩm khẳng định trong lĩnh vực nông thôn, như các truyện vừa Gia đình lớn
và Những người vui vẻ cũng vậy. Ở đây ngòi bút tác giả tự nhiên trở thành
nhạt nhẽo, mòn và có khi còn giả tạo nữa? Tất nhiên, chắc không phải là nhà
văn chưa yêu hết lòng mình cuộc sống mới và con người mới; có chăng chỉ là
vì anh chưa hiểu hết những gì tốt đẹp ở những con người và cuộc sống ấy
mà thôi.
***
Cho đến nay, trong việc phê phán những mặt còn tồn tại ở nông thôn,
Nguyễn Khải vẫn được coi là một cây bút xuất sắc, dám mạnh dạn đi vào cái
cốt lõi của cuộc sống là vấn đề đấu tranh giai cấp, đấu tranh giữa hai con
đường qua từng giai đoạn: từ sau Cải cách ruộng đất đến bước xây dựng nếp
làm ăn tập thể và cao hơn nữa, đến việc quản lý và lãnh đạo cái nếp làm ăn
tập thể ấy.
Để nắm cho được và tìm cho ra cái gì là cơ bản, là mạch máu chính
chảy xuyên suốt cuộc sống muôn hình nghìn vẻ của nông thôn qua những
thời kỳ chuyển biến, không phải là một việc làm đơn giản, và nó càng không
đơn giản hơn, khi nhà văn phải theo sát từng bước đi của đời sống mà phát
hiện dần ra cái mạch máu chính ấy, chứ không phải đã có điều kiện dừng lại
lâu để suy nghĩ, đứng từ xa mà nhìn lại chặng đường vừa qua như một quá
khứ, để có thể có một tầm khái quát mà rút ra cái quy luật cơ bản chi phối
cuộc sống trong thời gian ấy.
Phải là người có công phu nghiên cứu về nông thôn như Nguyễn Khải,
mới thấy được hết sự uyển chuyển của cuộc đấu tranh giai cấp ở đây. Chẳng
hạn, vẫn là cái đầu óc tư hữu và tính hẹp hòi của người nông dân ở một nước
nông nghiệp lạc hậu, nhưng vào thời kỳ Cải cách ruộng đất thì nó chưa biểu
hiện ra như một nét phản diện: ở đây người nông dân được chia ruộng đất,
quyền lợi chính đáng của họ được thỏa mãn và họ thanh thản đi vào cuộc
đấu tranh với bọn địa chủ và bọn phản động đội lốt tôn giáo. Nhưng, khi đi
vào cuộc sống làm ăn tập thể, thì cái đầu óc tư hữu của họ bị va chạm mạnh,
họ phải đấu tranh rất gay go mới theo được nếp sống mới, thậm chí trong khi
hợp tác xã tiến lên cấp cao, cái đầu óc tư hữu ấy vẫn còn cố phát huy tác
dụng của mình bằng cách chăm lo vun quén cho cái tập thể nhỏ bé của mình
là hợp tác xã, đối lập sở hữu tập thể này với sở hữu nhà nước, có lúc vì lợi
ích của cái tập thể nhỏ bé ấy mà hy sinh cái lợi ích có tính chất chung hơn,
tưởng như là ít liên quan trực tiếp đến mình hơn – là lợi ích của nhà nước. Và
lại vẫn cái đầu óc tư hữu của người nông dân ở một nước nông nghiệp lạc
hậu ấy đã hạn chế không ít tầm nhìn của một số người lãnh đạo, biểu hiện
trong lối làm ăn cò con, sợ những cái mới, cái lớn, sợ thiệt đến bản thân, lo
cho sự ở ăn đầy đủ của cá nhân mình hơn là của bà con trong hợp tác.
Có thể nói, qua các tác phẩm của Nguyễn Khải, chúng ta thấy được
một cách khá rõ ràng và sinh động những tình hình đó. Về mặt này, ngòi bút
Nguyễn Khải tỏ ra sắc sảo.
Chúng ta thấy có không ít các nhà văn cũng viết về đề tài nông thôn,
nhưng không mấy người dám mạnh dạn đi vào cái vấn đề cốt tử ấy. Nói
chung nhiều người còn ngại, nên thường hướng về những đề tài sinh hoạt,
những cái có thể đem lại cho bạn đọc một niềm vui thanh thản hơn là một sự
dằn vặt, nghĩ ngợi.
***
Thế nhưng, phải nói ở một khía cạnh khác, chúng ta thấy trong phong
cách Nguyễn Khải có một nét làm cho phải suy nghĩ: có phải nhà văn đã giữ
một thái độ hơi quá khách quan, lạnh lùng đối với những gì anh miêu tả? Anh
có vẻ ít chú ý đến con người, hạt nhân của hình tượng nghệ thuật. Nếu ai đã
từng đọc anh chắc đều nhận thấy cái điều rõ ràng này: Nguyễn Khải thường
xây dựng tác phẩm mình không phải trên cơ sở của những hình tượng mà
trên cơ sở của vấn đề, một vấn đề được định ra từ trước khi tác phẩm hình
thành. Hình như, với đầu óc thông minh và cách nhìn sắc sảo của mình, nhà
văn đến với con người và cuộc sống trước tiên bằng lý trí, bằng sự phân tích
mổ xẻ để tìm ra cội nguồn và những lý do tồn tại của nó, chứ không phải bằng
tình cảm yêu-ghét, bằng trái tim. Nói một cách khác, anh luôn luôn bắt mình
phải tìm cho ra những vấn đề có tác dụng chi phối đối với con người và cuộc
sống, rồi anh lo giải quyết cho được những vấn đề đã tìm ra đó, chứ anh ít
quan tâm đến việc làm sao bằng những hình tượng sống, bằng những con
người có thịt có da, có cuộc đời riêng gắn bó chặt chẽ với cuộc đời chung của
toàn xã hội, dựng lại bức tranh nghệ thuật sinh động, và từ bức tranh đó tự nó
toát ra cái điều anh muốn nói, cái vấn đề anh muốn đặt ra và giải quyết. Vì
thế, ta có cảm giác như nhiều khi các nhân vật trong sáng tác của Nguyễn
Khải mới chỉ là những con-người-chịu-sự-điều-khiển, chứ chưa phải là những
con-người-tự-mình-làm-chủ-mình. Có thể nói, ở đây chúng ta ít tìm thấy
những hình tượng nghệ thuật hoàn chỉnh; sự phát triển của tính cách các
nhân vật thường được quyết định bởi sự cần thiết phải kết thúc vai trò của họ
ở đoạn này hoặc đoạn kia trong tác phẩm để phục vụ cho việc giải quyết vấn
đề mà nhà văn đặt ra. Đấy chính là cơ sở cho cái mà chúng tôi gọi là thái độ
có phần nào lạnh lùng của Nguyễn Khải đối với những con người mà anh
miêu tả. Giữa anh và họ bao giờ cũng có một khoảng cách, khoảng cách khá
xa, và một quan hệ hoàn toàn lý trí. Hình như chúng ta ít thấy anh cùng vui
buồn, sướng khổ với nhân vật mình, như các nhà văn lớn xưa nay thường
trải. Qua nhiều trường hợp mà chúng ta gặp trong sáng tác của anh (như với
các nhân vật Môn, Thụy, Nhàn trong Xung đột, Khôi trong một số truyện ngắn
về nông trường Điện Biên, Như trong Chủ tịch huyện, v.v…) mà chúng tôi đã
có dịp phân tích, ở đây xin miễn nhắc lại”, thì ta thấy Nguyễn Khải có nhiều
khả năng lạnh lùng để cho một nhân vật có thể trở thành rớt trượt xuống
những vực thẳm đáng sợ của lỗi lầm, hơn là có đủ nhiệt tình và lòng thương
để đưa tay dìu họ vượt lên trên những thói hư tật xấu, nâng bước họ đi, giúp
cho họ đạt tới cái đỉnh cao của vẻ đẹp lý tưởng mà trong họ vốn có, nhưng họ
không đủ khả năng để tự nhận ra và nhà văn có nhiệm vụ phải phát hiện cho
bằng được.
Có người cho rằng, vì Nguyễn Khải hay viết về những mặt phản diện
còn tồn tại trong cuộc sống, nên không hề vừa lòng những ai chỉ thích một sự
nhẹ nhàng, bay bổng. Nhưng theo chúng tôi nghĩ thì điều quan trọng trong
nghệ thuật không chỉ là ở chỗ người cầm bút phản ánh cái gì, mà là phản ánh
như thế nào, nghĩa là người cầm bút có thái độ như thế nào đối với những gì
anh miêu tả. Chắc mọi người chúng ta ai cũng nghĩ rằng, dù phản ánh mặt
tốt, mặt tích cực, hay mặt xấu, mặt tiêu cực, thì mục đích cuối cùng của nhà
văn vẫn chỉ là để làm cho cuộc sống và những con người chúng ta ngày càng
đẹp hơn lên, chứ không phải phản ánh để mà phản ánh, phản ánh một cách
khách quan chủ nghĩa, trong đó người viết không cần tỏ rõ thái độ của mình:
ca ngợi hay phê phán, xây dựng hay phá bỏ. Nguyễn Khải không phải là
người hoàn toàn như thế. Chỉ có điều, tuy anh có phê phán, nhưng đôi khi
còn chưa triệt để (trường hợp nhân vật Tuy Kiền trong Tầm nhìn xa và Khôi
trong một số truvện ngắn về nông trường Điện Biên), tuy anh ngợi ca, nhưng
có lúc còn thiếu nhiệt tình, thậm chí còn có phần hời hợt và giả tạo (như nhân
vật Ngà trong Gia đình lớn, và các nhân vật Dĩnh, Khỏa, Ngọt trong Những
người vui vẻ). Bởi thế các nhân vật tích cực của anh thường ít thành công.
Có cái cần xây dựng và vun đắp vào thì anh lại lạnh lùng gạt bỏ đi (như
những nét tích cực trong tính cách các nhân vật Môn, Thụy, Nhàn trong Xung
đột, hay Khôi trong một số truyện ngắn về nông trường Điện Biên); ngược lại,
có những cái giá bỏ đi có lẽ tốt hơn, thì anh lại như cố tình giữ lại, thậm chí
còn tôn lên, tô đậm thêm mãi vào (như những nét tiêu cực cũng ở các nhân
vật trên) –tất cả chắc cũng chỉ vì anh muốn cho vấn đề anh nêu ra được hấp
dẫn hơn, sắc sảo và mạnh mẽ hơn mà thôi. Tất nhiên, việc sử dụng các thủ
pháp nghệ thuật, như cường điệu hóa hay đơn giản hóa, là thuộc quyền tự do
của nhà văn. Mặc dầu vậy, nhà văn phải sử dụng những thủ pháp thế nào
cho đúng và cho hợp lý. Chúng tôi không có ý cho rằng, khi miêu tả những
mặt tiêu cực, nhà văn không có quyền cường điệu hóa. Ngược lại, khi cần
thiết, chúng tôi còn đề nghị nhà văn phải sử dụng thủ pháp này để gây được
tác dụng phê phán mạnh mẽ hơn trong người đọc đối với hiện tượng tiêu cực
mà anh miêu tả. Song có điều này thì chúng ta phải khách quan mà công
nhận: nếu một nhà văn trong quá trình sáng tác của mình mà thường chỉ miêu
tả được sinh động những nhân vật tiêu cực, còn khi viết về những nhân vật
tích cực, những con người mới, những anh hùng thì lại chưa hay – thì như
vậy có lẽ nhà văn ấy cũng nên suy nghĩ.
Một bạn làm công tác phê bình đã viết về Nguyễn Khải: “Có thể rằng
trong lĩnh vực văn xuôi sự tỉnh táo thường mang lại nhiều thành công hơn”.
Nhưng vấn đề là ở chỗ, có phải ở nhà văn Nguyễn Khải chỉ là một sự tỉnh táo
thường tình mà người cầm bút nào cũng cần có hay không? Và có phải chỉ
người viết văn mới cần sự tỉnh táo? Theo chúng tôi quan niệm thì hơi khác,
chúng tôi nghĩ rằng, đối với tất cả những người cầm bút, dù là nhà thơ hay
nhà văn, đều đòi hỏi sự say mê và tỉnh táo như nhau, nhưng tỉnh táo đến mức
độ nào và say mê đến mức độ nào, vấn đề là ở đấy. Đừng vì quá say mê mà
mất cả khách quan, và cũng đừng tỉnh táo quá đến mức lạnh lùng, khách
quan chủ nghĩa, trở thành người ngoài cuộc. Dù là nhà văn hay nhà thơ thì
sự mù quáng hay lạnh lùng đều đáng kỵ. Không phải cứ là nhà văn thì có thế
tỉnh hơn, còn là nhà thơ thì phải say hơn đâu. Nếu quan niệm như vậy, chúng
ta sẽ chẳng bao giờ có được những tác phẩm văn xuôi đốt cháy lòng người,
mà sẽ chỉ có những trang sách dạy đời khô khốc.
Trở lại Nguyễn Khải, rất có thể, trong lòng anh tràn đầy tình cảm yêu
thương đối với những con người anh miêu tả, nhưng phải chăng anh đã cố
tình kìm giữ lại để có được một thái độ thật khách quan, hay như anh nói, “sự
say mê, sự đắm đuối” ở anh “bao giờ cũng có chừng mực, lại được giấu dưới
cái vỏ ngoài bình thản lạnh lẽo” (chúng tôi nhấn mạnh – C.N.). Rất có thể là
như thế, và chúng tôi cũng chỉ mong rằng điều đó thực sự là như thế. Song
giữa nhiều trường hợp mà chúng tôi gặp trong sáng tác của anh, thì Nguyễn
Khải không hẳn là người chỉ có cái vẻ lạnh lùng, bình thản bề ngoài. Có lúc ta
bắt gặp anh biểu hiện mình rõ ràng có phần tàn nhẫn.
Chẳng hạn như thái độ của anh ở đoạn anh miêu tả đứa con trai Tuy
Kiền: vừa giễu cợt lại vừa châm biếm. Mà theo chúng tôi nghĩ thì một thái độ
phê phán như thế chắc chắn sẽ chẳng đạt được kết quả tốt đẹp nào, có
chăng là chỉ đẩy nhân vật ngày càng xa chúng ta hơn và càng gần lại với cái
vực thẳm tội lỗi. Theo tôi nghĩ, khi phê phán, hơn lúc nào hết, nhà văn phải tỏ
rõ sự chân thành, tình thương và lòng nhân đạo đối với con người. Bởi vì chỉ
có bằng cách ấy người cầm bút mới mong thuyết phục được họ đi theo con
đường mà anh vạch ra.
Cho nên rút lại vẫn là: trong sáng tác, yêu cầu phản ánh cái gì phải
được kết hợp với yêu cầu phản ánh như thế nào, và bạn đọc chúng ta cũng
không khi nào vô lý đến mức đi đòi hỏi nhà văn phải viết về những đề tài này
mà không được viết về những đề tài khác; hay phê phán họ, tại sao lại chỉ
phản ánh những mặt tiêu cực mặt xấu, mà không phản ánh mặt tốt, mặt tích
cực của cuộc sống và con người. Chúng ta chỉ mong người cầm bút làm sao
có được sự chân thành và sáng suốt khi ca ngợi, cũng như khi phê phán. Cao
hơn một mức, chúng ta muốn rằng, người cầm bút trong chế độ ta, hơn ai
hết, sẽ là những con người biết yêu và biết tin ở con người, tin vào tương lai
và những ước mơ cao đẹp rất thực và có cơ sở hiện thực ở họ. Nhưng muốn
vậy, người cầm bút lại phải hết sức say mê. Bởi vì, thực ra, nếu chỉ dùng con
mắt tỉnh táo, sắc lạnh mà nhìn mọi thứ, thì vô tình nhà văn đã bỏ qua mất bao
nhiêu vẻ đẹp mà chỉ khi say mê ngưòi ta mới thấy. Và như vậy cũng có nghĩa
là: người cầm bút đã tự mình tước bỏ mất của ngòi bút mình cái quyền tưởng
tượng, cái yếu tố lãng mạn cách mạng, mà nhờ nó tác phẩm mới có được đôi
cánh, nâng tâm hồn ta lên những đỉnh cao của cuộc đời.
***
Tuy nhiên, không phải bao giờ chúng ta cũng chỉ gặp có một Nguyễn
Khải lạnh lùng, tỉnh táo và sắc sảo như vậy. Chúng ta cũng đã từng gặp anh,
nhân hậu, say mê mà vẫn không kém phần sắc sảo trong tập Mùa lạc nổi
tiếng và trong một số truyện ngắn khác của anh, viết về nông trường Điện
Biên như: Hãy đi xa hơn nữa, Nguồn vui (in ở tập Hãy đi xa hơn nữa) và Một
cặp vợ chồng (in ở tập truyện cùng tên), trong truyện vừa Người trở về và
phần nào trong cả tập bút ký Họ sống và chiến đấu. Nhưng không phải vì ở
đây nhà văn đã không nói đến những mặt xấu, những nét tiêu cực còn khá
phổ biến trong xã hội hiện nay, mà ngược lại ở đây chúng ta vẫn gặp những
con người mà tàn dư của xã hội cũ đã hủy hoại tâm hồn làm cho họ trở nên
xấu xí cằn cỗi (như Đào trong truyện ngắn Mùa lạc và em Tấm trong Đứa con
nuôi), hay đẩy họ đến những lầm lạc của chủ nghĩa cá nhân đủ loại (như Nam
trong Hãy đi xa hơn nữa, Giao trong Một cặp vợ chồng, v.v…). Nhưng ở đây
tấm lòng nhân đạo của nhà văn đã không cho phép anh bỏ mặc họ trôi nổi
trong dòng đời rồi phiêu bạt đến đâu thì đến, mà anh đã cố gắng vạch ra cái
bản chất đẹp đẽ vốn có trong họ, nhưng lâu nay bị bụi đời và thời gian phủ
kín, để đưa họ trở lại với chính bản thân mình. Cũng có thể vì nhà văn ở đây
như một người lao công kiên trì và nhẫn nại, cẩn thận lau từng hạt bụi bám
trên những tấm gương mờ cũ để cuối cùng những tấm gương ấy lại sáng lên,
lại phản chiếu được những sắc màu tươi mới. Và điều quan trọng nhất ở đây
là, tác phẩm Nguyễn Khải đã gây được cho ta lòng yêu cuộc sống một cuộc
sống mới với những con người mới đầy tính nhân đạo cộng sản và niềm lạc
quan trong sáng, đang nảy nở và bám rễ trên một mảnh đất vừa giàu đẹp,
vừa anh hùng của Tổ quốc là Điện Biên Phủ.
Ngay ở một những nhân vật tiên tiến như Khang (trong Người trở về)
chúng ta cũng vẫn gặp những nét lạc hậu. Nhưng tác giả không tô đậm
những nét ấy lên, biến nó thành nét chủ yếu trong tính cách của nhân vật
mình, mà ngược lại anh đã tạo mọi điều kiện để nhân vật tự vụt lên trên bản
thân mình, trở thành một con người mới thật sự.
Chúng ta mong muốn lúc nào cũng được thấy nhà văn Nguyễn Khải
say mê và yêu người như thế, để với con mắt tinh đời và sắc sảo của anh,
anh sẽ đóng góp cho văn xuôi đương đại những tác phẩm vừa rất hiện thực
mà cũng vừa rất nhân đạo.
HỒ PHƯƠNG và cuộc sống mớiHồ Phương là nhà văn thuộc thế hệ trẻ của giai đoạn văn học kháng
chiến chống Pháp, là chiến sĩ Trung đoàn Thủ đô, sung vào đội quân “văn
nghệ bộ đội”, được đón chào nồng nhiệt với các sáng tác đầu tay như Lưỡi
mác xung kích và nhất là Thư nhà (1948). Thế hệ người viết chuyên nghiệp,
đàn anh của văn nghệ kháng chiến lúc này như Nam Cao, Nguyễn Huy
Tưởng, Tô Hoài, Trần Đăng đã đón mừng hình ảnh những “anh lính mới” của
Hồ Phương, Siêu Hải với biết bao yêu mến, tin tưởng!. Cố nhiên, trong đôi lời
bình của một vài người viết văn lúc này cũng còn có chút ít “bốc”, chưa thấy
hết hoặc bỏ qua những nhược điểm khá rõ trong các sáng tác của lớp trẻ.
Thời gian và công chúng rồi đây sẽ còn tiếp tục làm một cuộc sàng lọc
chặt chẽ, và lúc ấy mới là chắc chắn. Thư nhà của Hồ Phương sẽ là một
trong số sáng tác hiếm hoi của lực lượng trẻ, được trân trọng giữ lại.
Kể cũng xứng đáng. Hiếm có một truyện ngắn đầu tay của một cây bút
trẻ không chuyên, vào một buổi đầu còn rất lắm bỡ ngỡ của văn học cách
mạng, lại có được cái vẻ chín, nhuyễn cả về nội dung và nghệ thuật như Thư
nhà. Thiên truyện, đứng bên cạnh những Đôi mắt của Nam Cao, Làng của
Kim Lân, quả không lép chút nào. Chỉ thiếu một sáng tác về công nhân nữa là
đủ cho ta có một bộ “tứ bình” hoàn chỉnh về công- nông - binh - trí thức đi vào
cách mạng. Với Thư nhà anh bộ đội đã có thể chững chạc đi vào văn học
sớm hơn nhiều lớp người khác, với tất cả dáng vẻ riêng của nó, và qua anh,
thấy in rõ cả dấu ấn của một thời kỳ đầu vẻ vang, gian khổ của cuộc kháng
chiến toàn dân, toàn diện, trường kỳ… Anh ta đang làm cái công việc chuẩn
bị cho những đội quân “xung kích”, bước vào các chiến thắng lớn, mấy năm
sau.
Thiên truvện chặt chẽ, xúc động. Anh bộ đội ở đây không được miêu tả
trên nền cảnh chiến đấu, hoặc chuẩn bị chiến đấu, vốn là nền cảnh quen
thuộc mà nhiều người viết lúc này đều tập trung miêu tả, như trong Voi đi,
Trận Phố Ràng, Một cuộc chuẩn bị, Hành quân chiến đấu, Hành quân trú
quân… Hồ Phương đặt anh trong những thử thách khác, đó là những khó
khăn, những mất mát riêng của bản thân trong buổi đầu gian khổ của phong
trào: làng quê bị tàn phá, gia đình tan nát, người yêu bị hiếp, bố mẹ không
còn… để quan sát những “phản ứng” của tâm hồn anh. Và kết quả thật đáng
ngạc nhiên, khi chúng ta có dịp đặt mình trở lại vị của số đông người viết,
người đọc lúc bấy giờ: hoàn cảnh rất đáng bi quan, nhưng nhân vật lại không
tỏ ra có một vẻ phức tạp, giả tạo nào, một sự “phức tạp” rất có thể diễn ra nếu
người viết “đa cảm” một chút. Trái lại, bằng một bút pháp chân thật, tự nhiên
mà không sơ lược, Hồ Phương cho thấy tất cả vẻ đẹp tâm hồn, cái khả năng
con người có thể vượt qua mọi đau khổ riêng tư, để vươn lên, làm tròn nhiệm
vụ. Lâu sau, người đọc vẫn không sao quên cái đoạn Hồ Phương kết thúc
câu chuyện bi thương trong đời riêng và gia đình anh chiến sĩ đó, với cái
khung cảnh, trên đầu “ngôi sao mai vàng óng đã hiện lên trên nền trời sang
như bạc phía đông”, khi anh chia tay người yêu ra đi và bây giờ, lúc trở về
đơn vị, đôi bạn gác chân lên nhau, chuyện nhà vừa kể xong, đã lại “chuyển
sang chuyện Bắc Cạn giải phóng lúc nào không biết”… rất “ý tại ngôn ngoại”.
Rõ ràng là bằng vào sự sống và vào tình cảm trong sáng, lạc quan, mà Hồ
Phương co thể nắm được cái thần cơ bản của nhân vật, nó khiến cho Thư
nhà dễ dàng tránh được một sự phức tạp giả tạo, hoặc một sự sơ lược dễ
dãi, là hai phía thường dễ rơi vào, đối với không ít sáng tác lúc này.
Thư nhà ghi một cái mốc của văn học kháng chiến, và có khả nặng đưa
Hồ Phương vào cùng vị trí những người mở đầu của văn học kháng chiến.
Thế nhưng sau Thư nhà, bẵng đi khá lâu, có dễ hàng chục năm sau,
Hồ Phương mới lại gây được sự chú ý cho người đọc. Quãng cách khá dài đó
làm cho người đọc nghĩ về anh như là nhà văn của những năm hòa bình. Và,
cũng khác với Thư nhà, các sáng tác sau này của Hồ Phương it gây được
một ấn tượng đột ngột như lúc đầu. Anh đến với người đọc dần dà, trong một
nhịp đi cần mẫn, đều đặn, có phần chậm chạp…
***
Những năm sáu mươi mới thực là những năm sôi nổi trong sáng tác Hồ
Phương. Anh viết dễ dàng và nhanh về mọi loại đề tài. Dường như mọi giai
đoạn lớn của đời sống cách mạng đều có bóng dáng trên sáng tác của anh.
Cuộc kháng chiến chống Pháp, trên những nẻo đường đất nước, người chiến
sĩ, người dân tản cư miền xuôi, miền ngược, và đặc biệt là cảnh và người Hà
Nội những ngày đầu kháng chiến toàn quốc bùng nổ. Hòa bình lập lại với
những xáo trộn trong đời sống những “trông tìm” và mất mát những, “câu
chuyện gia đình” ít nhiều rắc rối, những gặp gỡ vui sướng hoặc bẽ bàng của
người ra đi kẻ ở lại… Cuộc sống mở đầu thời kỳ xây dựng chủ nghĩa xã hội
trên miền Bắc nơi một “xóm mới”, hoặc một nông trường, và nhất là con
đường phấn đấu đi lên chính quy hiện đại của người lính thuộc mọi binh
chủng. Bước vào kháng chiến chống Mỹ, cùng với Nguyễn Khải, Hồ Phương
có ngay cho bạn đọc những trang nóng hổi về Cồn cỏ, đúng vào khi họ đang
nao nức chờ đợi; và từ đấy, với quãng cách đều đặn, anh tiếp tục cho ra đời
các chân dung về Nguyễn Viết Xuân, Kan Lịch, Lê Mã Lương… Hướng về
hậu phương, anh không quên tiền tuyến, và sau một đợt đi chiến trường, anh
đã có thể tranh thủ cho ta sống cái không khí Huế trở lại mùa xuân (1971), và
nói cho ta biết về Số phận Lữ dù 3 Sài Gòn (1971)…
Có khả năng đáp ứng nhanh những yêu cầu của thời sự, của người
đương thời, sự chuyển biến không tỏ ra có gì nhọc mệt với sự thay đổi của đề
tài, về những “đơn đặt hang” của xã hội, sự có mặt đều đặn trên diễn dàn
sáng tác… bấy nhiêu điều đó khiến cho Hồ Phương luôn gây được sự chú ý,
yêu mến của bạn đọc.
Vả chăng không phải chỉ có đề tài. Nói Hồ Phương, người ta có thể
nghĩ đến không ít đề tài anh tỏ ra quen thuộc và có khả năng đem lại cho
người đọc những hiểu biết và cảm xúc nhất định. Anh có nhiều kỷ niệm sâu
về Hà Nội: một “tiếng hát” sau một dãy nhà đổ, tượng trưng cho sức sống bất
diệt của Thủ đô; “một gian nhà cũ” luôn gợi cho người sau những kỷ niệm về
những người thân yêu đã khuất cho cuộc sống tươi đẹp bây giờ; một “viên
đạn cuối cùng” gợi nghĩ về một sự thay bậc đổi ngôi khi tiếng súng nổ ran trên
đường phố… Viết về chiến tranh, anh có những trang sôi nổi mà đầy chất
thơ. Cuộc sống người dân tản cư, một vùng xa Hà nội, với tất cả vất vả, lo
toan mà lạc quan của nó, ngày nọ dệt vào ngày kia, cho thấy sức chịu đựng
bền bỉ của nhân dân ta trong kháng chiến trường kỳ,.. Người chiến sĩ quân
đội nhân dân cũng là hình ảnh đậm đà trên nhiều trang viết của anh, có điều
họ không hiện lên trên màu đỏ, sắc lửa của chiến đấu như Nguvễn Huy
Tưởng, Trần Đăng, Hữu Mai… mà trên nền xanh của xây dựng hòa bình–đó
là nền xanh “trên biển lớn”, và nhất là nền xanh “cỏ non” bát ngát của nông
trường,
Nói đến Hồ Phương, căn bản là nói đến một ngòi bút dồi dào nhiệt tình
ca ngợi. Đặc sắc này bộc lộ rõ và khá tập trung trên một số truyện trong các
tập cỏ non (1960), Xóm mới (1963), Trên biển lớn (1964), ra đời trong không
khí sôi nổi của mùa gặt văn xuôi bước vào những năm sáu mươi. Nhạy bén
với cái mới, anh thiên về khẳng định những mặt tốt đẹp của cuộc đời.
Có lẽ đó là một chủ trương của anh chăng? Một chủ trương dựa trên
cơ sỏ nhìn rõ vào khả năng, sở trường của bản thân mình. Là vì người đọc
thấy anh không thành công lắm khi đi vào những mặt rắc rối, phức tạp của
cuộc sống. Trong Câu chuyện một gia đình, nói về một cuộc đoàn viên sau
chín năm kháng chiến của một gia đình Hà Nội “cũ”, Hồ Phương muốn cho ta
thấy tất cả sự rắc rối, lủng củng khi người ta không cùng chung một tư tưởng,
không đi cùng một con đường. Nhưng cái rắc rối có thực đó của đời sống lại
hiện ra trong tác phẩm một cách không tự nhiên chút nào; nó có một vẻ bố trí,
gượng gạo. Người đọc thấy tác giả đã viẽt quá sơ lược về một vấn đề phức
tạp. Trong Trông tìm, tác giả chừng như cũng muốn hứa hẹn với ta một câu
chuyện xúc động, nhưng toàn thiên truyện lại dựa trên một tình huống ngẫu
nhiên, nên không tránh khỏi một sự sắp xếp, nó gây cho ta một ấn tượng giả
tạo, mất đi khá nhiều sự xúc động đáng lẽ có được.
Rõ ràng khi đi vào các tình huống phức tạp, hoặc đi vào các uẩn khúc
rắc rối của tâm lý con người, ngòi bút Hồ Phương thường tỏ ra sơ lược, hoặc
muốn tránh sơ lược thì lại đi vào “phức tạp hóa” nó một cách vụng về. Có lúc
do “Không nắm vững đối tượng mô tả, sáng tác của anh còn đi xa hơn. Trong
Những đứa con và những người cha khi so sánh cái chết của hai người cha,
– một tên sĩ quan viễn chinh Đơ-vô-rét tàn bạo và một chiến sĩ du kích của ta
– để nói về sự mất mát của con người trên hai phương trời khác nhau… Hồ
Phương đã nhân dịp đó mà để cho nhân vật nghĩ rộng ra về những điều “khó
hiểu”: sao một thằng giặc như vậy “cũng biết yêu vợ con”; không hiểu trên các
hành tinh xa xôi có loài người không, còn trên đời này thì các người cha lại
bắn giết nhau và những đứa con thì đều đau khổ (!). Rõ ràng ở đây sự “đa
cảm” của nhà văn thật là không cần thiết và không đúng chỗ, còn suy nghĩ
của anh thì cũng quá ư mơ hồ, nếu không nói là có ít nhiều lệch lạc.
Tuy vậy, có điều may mắn là những truyện như thế chỉ như ngẫu nhiên
lạc vào sáng tác của anh; nó cộm lên một vẻ xa lạ với phong cách quen thuộc
của anh. Phần chính thì vẫn là những truyện anh đi vào những mặt bình
thường, tươi sáng của cuộc đời, những tình cảm hồn hậu, lành mạnh của con
người, những khung cảnh tươi sáng, giàu chất thơ…
Nhưng không chủ trương – hoặc không có sở trường – đi vào những gì
rắc rối, phức tạp, không có nghĩa là sơ lược. Trên hai tập Cỏ non, Xóm mới,
khi mô tả tấm lòng người chiến sĩ nông trường yêu công việc, gắn bó với đàn
bò mình chăn dắt (Cỏ non), hay tấm lòng cô gái ngoại kiều xa Tổ quốc trở về,
tìm được tình yêu quê hương trong tình yêu đồng chí (Xóm mới), ngòi bút Hồ
Phương cũng đã tỏ ra có khả năng mô tả những diễn biến tinh tế của tâm hồn
con người.
Đọc anh, còn có nhiều trang hóm hĩnh tươi vui. Ghi lại cuộc chiến đấu
“trên đồi cháy”, anh phác mấy nét mà làm ta nhớ mãi hình ảnh một chiến sĩ có
tên là anh Nuôi. “– Rõ! – Bao giờ Nuôi cũng chỉ đáp lại tất cả lời dặn dò hoặc
mệnh lệnh của cấp trên bằng một tiếng ngắn ngủi, giản dị ấy (…) – Báo cáo,
được, tôi làm được! Báo cáo, đã làm người chiến sĩ thì dẫu có khó khăn…
(…) – Báo cáo, thật ra thì có lúc nó “tấn” mạnh quá cũng hãi, nhưng thiết
nghĩ, mình đã làm người chiến sĩ thì nhiệm vụ dù khó khăn đến đâu… Anh
vẫn chỉ có bằng ấy lời, bằng ấy ý…”. Ở đây, đằng sau cái cười tinh nghịch là
một tấm lòng đôn hậu. Đặc biệt, ngòi bút đó cũng đã có lần đi vào mô tả trực
diện một cuộc đấu tranh giữa mới và cũ, trong các lực lượng võ trang, trên
con đường phấn đấu đi lên chính quy, hiện đại. Đó là truyện ngắn Trường
hợp đồng chí Hạp, một truyện ngắn hay, trong tập Trên biển lớn, và có thể
cũng nên kể ra đây tỉ mĩ hơn một chút là vì nó phát hiện cho ta thấy một nét
mới cũng nên phát triển trong phong cách Hồ Phương. Tiểu đoàn trưởng Hạp
là nhân vật đại diện cho cái mới đầy nhiệt tình, khí thế, nhưng cũng còn một
số nhược điểm như hay nóng gắt, chưa mềm dẻo khiến cho các phần tử tiêu
cực có thể lợi dụng bám vào, khuếch to ra làm cho anh có lúc bị động bó tay,
không phát huy được tác dụng. Chính trị viên Mịch là người có tinh thần ủng
hộ cái mới, nhưng cũng có lúc bối rối, vì bị bao vây trong hỏa mù. Thiên
truyện diễn biến trên cái nền của một cuộc đấu tranh của tập thể làm cho
sáng rõ mới cũ, đúng sai. Nhìn mặt tiêu cực, Hồ Phương cũng có con mắt
tinh; các khía cạnh tinh vi của chủ nghĩa cá nhân, những lẫn lộn giữa thực và
giả lắm khi cũng khó lọt qua mắt anh. Dẫn ra đây một đoạn vui vui:
Hạp đề nghị Bàn phản ánh cho biết khuyết điểm mình. Hạp gặng.
–Không! Quả thật không có vấn đề gì đâu! Chúng tôi vẫn nói với nhau:
Từ khi đồng chí Hạp về đây, chính chúng tôi cũng tiến lên nhiều lắm.
Khuôn mặt Hạp lại ửng đỏ. Tuy vậy, anh vẫn cố gặng:
–Nhưng xem ra có người cũng không thông cảm với tôi lắm, ví dụ như
đồng chí Lanh.
–À! Báo cáo đồng chí, Lanh thì… tính cậu ấy vẫn thế. Tôi cũng đã
nhiều lần lấy chỗ anh em giúp đỡ cậu ấy, tôi bảo: chúng mình phải biết phục
thiện, tiếp thu cái mới…
Hạp gật gù. Suy nghĩ mấy giây, anh đột ngột hỏi thêm:
–Theo ý đồng chí, tôi có nôn nóng, có… thiếu dân chủ không?
–Tuyệt đối không! Chúng tôi rất thích lối làm việc nghiêm chỉnh, dứt
khoát của đồng chí là đằng khác. Nếu gọi là khuyết điểm thì xin thành thật nói:
đồng chí rất ít chú ý giữ gìn sức khỏe. Nom đồng chí thế này nhưng chưa
chắc đã dai sức bằng tôi đâu”.
Nhưng loại truyện như Trường hợp đồng chí Hạp rất hiếm hoi trong
sáng tác của Hồ Phương. Chỉ xuất hiện một lần, thế thôi. Càng về sau này,
khi đi vào cuộc kháng chiến chống Mỹ, Hồ Phương càng chuyển mạnh sang
hướng viết về các anh hùng. Và rồi dần dần hình thành hẳn ở anh một dòng
viết: dòng viết về người thực, để khẳng định, ca ngợi chủ nghĩa anh hùng
cách mạng trong cuộc chiến đấu của chúng ta.
***
Như vậy là bạn đọc đã có thể nói đến một hướng viết, nó như là sự
phát triển tự nhiên, một khuynh hướng đã có sẵn và đậm nét trong sáng tác
Hồ Phương: sự khẳng định, ca ngợi những cái mới, cái đẹp ở cuộc đời. Trong
điều kiện mới của cuộc chiến đấu chống Mỹ, sự ca ngợi cái mới, cái đẹp đã
tìm được miếng đất phát triển thuận lợi nhất trong hoạt động của những tập
thể hoặc cá nhân anh hùng có thực mà quần chúng đang nồng nhiệt đón
chào, ca ngợi. Chẳng phải là sự kiện Cồn cỏ, sự kiện Nguyễn Viết Xuân đã
từng làm nức lòng chúng ta khi miền Bắc bước vào chống Mỹ? Chẳng phải là
những tấm gương Kan Lịch, Lê Mã Lương đã được cả một thế hệ trẻ soi
chung khi đất nước đang đi vào cao trào của chủ nghĩa anh hùng cách mạng?
Hướng về cái mới của đời sống mà biết tìm đến các anh hùng, sự lựa chọn
đó quả đã có khả năng giúp cho Hồ Phương rút ngắn được không ít chặng
đường đi của mình.
Sau vấn đề chọn đề tài, có một khâu lựa chọn khác, tuy đơn giản,
nhưng đáng tiếc là đôi khi vẫn gây ra không ít “phức tạp”, đó là vấn đề chọn
thể loại: viết về người thực, việc thực, nhưng dưới hình thức nào?
Riêng đối với Hồ Phương, khâu chọn lựa này khá ổn, và do đó đã tránh
được cho anh không ít rắc rối. Ngoài Chúng tôi ở Cồn cỏ (1966), có tính chất
một hồi ký, ghi theo lời kể của nhân vật, các sáng tác khác viết về các anh
hùng của anh đều được xây dựng dưới hình thức truyện. Đó là một sự lựa
chọn dứt khoát. Anh dựng truvện, nghĩa là anh dành cho mình cái quyền cấu
tạo lại những sự thực ngoài đời. Nhưng trong hình thức truyện, anh vẫn giữ
nguyên tên thật của nhân vật, của địa phương, và nhìn chung, toàn bộ các sự
kiện có liên quan đến người thật đều được anh tôn trọng.
Chính ý thức tôn trọng sự thật đó là điều cơ bản làm nên sự thông cảm
giữa anh và người đọc. Người đọc tin đây là sự thật, vì họ tin anh. Nhưng sự
tôn trọng người thật ở Hồ Phương không có vẻ nô lệ, ỷ lại. Dưới hình thức
truyện, anh có quyền, và bạn đọc cũng đòi hỏi anh phải sáng tạo. Có nghĩa là
các nhân vật, các sự kiện không chỉ được đánh giá trên tiêu chuẩn có chính
xác không, có đúng sự thật không; mà chủ yếu còn phải được xét theo quan
điểm có sống không, có sinh động không. Và như vậy thì việc xây dựng các
điển hình không chỉ đơn giản là việc kể lại cặn kẽ một số quãng đời nói cho
đủ các chiến công hoặc minh họa cho khéo một số bản chất anh dũng, hy
sinh đã được người viết (hoặc các báo cáo thi đua) khái quát sẵn. Trái lại, đó
là một công việc đòi hỏi người viết phải làm sáng tỏ sự thống nhất giữa hành
động và tư tưởng tình cảm của nhân vật, phải thích sâu sắc các chiến công
của họ; đồng thời thông qua hoạt động và các mối quan hệ của anh hùng mà
làm rõ bộ mặt cuộc sống với những dấu ấn mới mẻ của thời đại.
Những yêu cầu đó nhìn chung Hồ Phương đều nắm vững, và do vậy,
tác phẩm của anh thường không rơi vào kể việc một cách sơ lược, khô khan.
Cố nhiên, mức thành công ở mỗi tác phẩm có khác nhau. Chúng tôi ở Cồn cỏ
trong dạng khiêm tốn của một lời kể – lời kể của Trần Đăng Khoa, người
chiến sĩ Cồn cỏ, cả người kể và người ghi đều muốn làm nổi rõ hẳn lên hình
ảnh một tập thể anh hùng, một tập thể với những quan hệ gắn bó khăng khít
giữa các cá nhân với nhau, giữa đảo và đất liền, giữa chiến sĩ và nhân dân,
và Tổ quốc đây không có một cá nhân nào làm trung tâm, ở đây là chúng tôi.
Người kể, với tư cách là chủ, tự náu mình đi, chỉ muốn làm một người chứng;
còn người ghi thì đứng về phía khách quan, phía chúng ta, để mà biểu lộ tình
yêu thương, niềm khâm phục, tự hào.
Trong hình thức truyện, với Nhằm thẳng quân thù mà bắn (1967), Kan
Lịch (1968), Khi có một mặt trời (1972), Hồ Phương phải đáp ứng những yêu
cầu mới của thể loại. Người đọc thấy rõ những cố gắng của anh để nắm đối
tượng, mở rộng các mối quan hệ, đặt nhân vật vào các tình huống, các môi
trường. Viết Kan Lịch trong yêu cầu thu gọn mà tên truyện gợi ra, dựng một
chân dung, kể chuyện một con người, Hồ Phương đã gắng tìm hiểu bối cảnh
chiến trường Trị – Thiên, tìm hiểu đời sống đồng bào dân tộc Pa-cô, hoàn
cảnh gia đình và quá khứ Kan Lịch… Viết Nhằm thẳng quân thù mà bắn, chọn
cái giây phút sáng ngời tiêu biểu nhất của người anh hùng đã khuất để miêu
tả, Hồ Phương đã phải lần lại từ đầu nhiều chặng đời có ý nghĩa, để làm sống
lại những kỷ niệm về tình bạn bè, tình vợ chồng, tình đồng chí của nhân vật
chính.
Rõ ràng đó là một sự chuẩn bị cần thiết, một cách làm việc cẩn thận.
Dù sao không phải tác phẩm nào của Hồ Phương cũng đạt được những
thành công như nhau. Bởi lẽ không phải đề tài nào, nhân vật nào cũng được
anh tìm hiểu một cách thuận lợi và chu đáo như nhau. Dựng lại cuộc đời
Nguyễn Viết Xuân, Hồ Phương đã phải vượt qua nhiều trở ngại. Người ta có
thể làm thơ, với những ý thơ xúc động, hoặc kể lại với nhiều chi tiết, nhiều
mẩu chuyện sinh động, trong một bút ký hoặc ghi chép về một người anh
hùng đã khuất. Nhưng với truyện, thì bấy nhiêu xúc động, bấy nhiêu chi tiết
chưa hẳn đã đủ bảo đảm cho tác phẩm thành công. Bởi vì ở truyện, phương
thức cơ bản là dựng, chứ không phải kể; phải để cho cuộc sống tự nó biểu
hiện, như cách người ta thường nói. Không phải là Hồ Phương không thấy
điều đó, nhưng sự cố gắng của anh trong Nhằm thẳng quân thù mà bắn quả
không tránh khỏi bị hạn chế khá nhiều vì những tài liệu gián tiếp, vì cái đối
tượng cảm xúc, thẩm mỹ là người anh hùng không còn trước mặt anh, vì anh
phải làm việc bằng trí tưởng tượng nhiều hơn. Rút lại thì, cũng như trong đời,
qua câu chuyện, người đọc chỉ có thể nhớ lại một hành động, một tình huống:
ấy là lời hô bất hủ của anh vang lên trên trận địa, và những giây phút cuối
cùng dũng cảm của đời anh.
Nhược điểm đó Hồ Phương đã khắc phục được trong Kan Lịch do anh
không gặp phải những khó khăn như khi viết về Nguyễn Viết Xuân. Ở đây Hồ
Phương đã tạo được sự gặp gỡ giữa lòng yêu mến và sự hiểu biết, giữa nhiệt
tình và khả năng, giữa điều anh muốn và điều anh có thể làm được. Người
đọc cảm thấy ít có vướng gợn, vì cùng với sự tiếp xúc trực tiếp, sự hiểu biết
đối tượng của người viết, dường như còn có thêm một sự phù hợp; một sự
ăn ý, tự nguyện giữa người viết và đề tài. Và có lẽ đó cũng là một trong
những nguyên nhân tạo ra tiền đề thành công cho tác phẩm.
Cho nên, đọc Kan Lịch ta có cảm giác như được tiếp xúc với con người
và cuộc sống trong dạng ít nhiều trọn vẹn. Ở đây mọi chiến công đã trở thành
một bộ phận – cố nhiên là bộ phận quan trọng – trong cuộc đời người anh
hùng. Nhưng ấn tượng bao trùm trong chúng ta vẫn là con người. Có con
người ấy mới có chiến công ấy. Con người trong tính cách riêng. Con người
trong quá trình phát triển. Nhưng bức chân dung sẽ không sáng rõ nếu không
có một nền cảnh. Đó là thôn Lê-a-lốc, là núi rừng miền Tây với thiên nhiên
tươi thắm sắc màu. Đó là cuộc sống chiến đấu và làm ăn, quá khứ và hiện tại,
gia đình và xã hội, đất nước và quê hương trong cái vẻ hùng tráng và nên thơ
chỉ riêng nó có… Ở đây nhân vật trung tâm hoạt động, thoải mái trong một bối
cảnh, giữa nhiều nhân vật phụ. Các nhân vật phụ không phải chỉ có nhiệm vụ
làm nổi nhân vật chính, mà bản thân họ, mỗi người cũng có một vị trí riêng.
Tác phẩm không chỉ xây dựng thành công một tính cách anh hùng mà còn
làm rõ được cả sự phát triển chung của cuộc sống, thể hiện được quá trình
cách mạng hóa đang diễn ra trong đời sống của nhân dân các dân tộc ít
người ở miền Tây. Và đó cũng là một khía cạnh độc đáo trong chủ đề của tác
phẩm.
Rõ ràng là ở Kan Lịch, Hồ Phương đã có được những thuận lợi không
dễ có để thu được những kết quả tốt hơn khi viết về Nguyễn Viết Xuân.
Những thuận lợi đó vẫn được tiếp tục khi anh viết về Lê Mã Lương, với
khoảng cách bốn năm về sau, trong Khi có một mặt trời. Nhưng sáng tác này
lại ít gây được sự chú ý. Có phải do anh cũng có phần chủ quan đối với một
đề tài mà anh tự cảm thấy là quen thuộc? Có phải do anh quá “thành thạo”
trong nghề nghiệp, do một sự quen tay? Một số trang quá trôi chảy khi anh tả
cảnh, tả người, khi anh đi vào các tâm sự, tâm trạng của nhân vật trong
truyện quả đã gây cho người đọc cảm tưởng đó.
Nhưng lý do cơ bản khiến cho sáng tác mới này của anh trở nên bằng
phẳng, theo tôi, là ở chỗ Hồ Phương chưa kịp suy nghĩ cho thật sâu về đối
tượng để nêu lên một vấn đề gì mới mẻ ở nhân vật, và do vậy chủ đề của
thiên truyện không có gì độc đáo. Tác phẩm dường như mới chỉ là sự điểm lại
một vài đoạn đời của nhân vật, nhưng nét gì thật sự nói lên trong đó khiến
cho Lê Mã Lương có một bản sắc riêng, khác với nhiều người, thì chưa được
Hồ Phương bồi đắp cho thật rõ. Nói cho đúng thì không phải, ở chỗ này hay ở
chỗ khác, Hồ Phương không có sự nhận xét hoặc khơi gợi cho ta chú ý
những nét mới nào đó của nhân vật. Nhưng cũng chỉ mới là nhận xét; hơn
nữa, nó cũng chưa thật sự thấm vào tác phẩm, hướng vào làm sáng tỏ một
chủ đề mà người viết đã dụng công suy nghĩ kỹ.
Rõ ràng mỗi anh hùng đều tự khẳng định bản lĩnh của mình trên cơ sở
đáp ứng những yêu cầu mới của cuộc sống. Nhưng đời sống vô cùng đa
dạng và luôn phát triển. Cho nên các anh hùng tuy đều có một phẩm chất
chung, nhưng họ rất khác nhau. Sự khác nhau đó có mặt là do những bản
sắc cá nhân, nhưng cũng có mặt là do dấu ấn của cuộc sống, của thời đại.
Chính vì vậy mà bạn đọc chờ đợi ở hình tượng Lê Mã Lương, như họ từng
suy nghĩ, một con người mới, tiêu biểu cho thế hệ trẻ, sinh ra và lớn lên trong
nôi của cách mạng trong mình tính ưu việt của một quan hệ sản xuất mới,
vừa là sản phẩm của hoàn cảnh lại vừa có sức mạnh cải tạo lại hoàn cảnh.
Những nét đó quả chưa được thể hiện cho thật đậm trong sáng tác mới này
của Hồ Phương.
***
Hướng về cái mới của đời sống, chọn những con người mới làm nhân
vật trung tâm của tác phẩm, Hồ Phương quả đã đi đúng vào quỹ đạo của khả
năng, sở trường của mình. Thành công của anh là điều đã được khẳng định.
Còn thiếu sót, non yếu là điều mà người đọc muốn nhắc đến để cho anh có
dịp soi kỹ hơn vào các kinh nghiệm của mình, dụng công hơn nữa trong nghệ
thuật mô tả, và nhất là nhìn kỹ hơn nữa vào những đặc điểm mới của đời
sống, những dấu ấn mới của thời đại, để có thể đem lại cho mỗi sáng tác mới
của mình những khám phá độc đáo trong chủ đề và phương thức biểu hiện,
tránh bằng phẳng, lặp lại mình.
Người bộ đội trong tác phẩm HỮU MAIHữu Mai sớm bước vào đời sống bộ đội. Anh lại có cái may mắn được,
tham gia nhiều chiến dịch lịch sử như chiến dịch Biên giới, Hòa Bình, Điện
Biên… Nhưng quyển sách đầu tay của anh được người đọc chú ý lại không
phải viết về đề tài bộ đội mà viết về Cải cách ruộng đất: Những ngày bão táp
(1957). Như tên tác phẩm gợi ra, tác giả hình như muốn nói với ta Cải cách
ruộng đất và Sửa sai là “những ngày bão táp” trong đời sống nông thôn.
Hữu Mai đã mạnh dạn đi vào đề tài lớn này. Anh cố gắng nói lên lòng
trung thành với cách mạng của một số cán bộ bị quy oan. Anh cũng đã cố
gắng biểu hiện lòng dân gắn bó với Đảng qua cuộc thử thách lớn lao này.
Nhưng đáng tiếc là, ở đây tác giả đã có cái nhìn lệch lạc về những người cán
bộ Đội, và có một cách đánh giá không đúng về thành quả của Cải cách
ruộng đất. Không khí phấn khởi sau ngày sửa sai không hề được nhắc đến
trong tác phẩm; trái lại, một thứ màu sắc buồn nản, chua xót lại dường như
tràn ngập toàn truyện. Đó là điều không đúng. Có thể tác giả muốn có một sự
phản ánh chân thực, nhưng do nhận thức chưa đầy đủ và nhất là cách nhìn
còn có mặt lệch lạc nên tác phẩm không đạt được giá trị hiện thực và ý nghĩa
giáo dục đáng lẽ phải có.
Nhưng thất bại của cuốn sách không làm Hữu Mai chán nản. Đấy cũng
là một dịp để anh nhìn rõ hơn những điểm yếu của bản thân mình. Một năm
sau, năm 1958, anh viết Lứa tuổi tòng quân ghi lại những nét trẻ trung sôi nổi
của lứa tuổi thanh niên trong những ngày đầu hòa bình. Truyện có tác dụng
giáo đục nhất định trong phong trào tòng quân. Cùng với Lứa tuổi tòng quân,
Hữu Mai viết Mất hết (đăng trên Văn nghệ quân đội, 1957) nói về những “viên
đạn bọc đường” của đời sống tư sản trong hoàn cảnh hòa bình có khả năng
làm hư hỏng một số người không vững vàng.
Bước vào những năm sáu mươi, trong cao trào xây dựng chủ nghĩa xã
hội, Hữu Mai chủ yếu viết về người bộ đội như trong Cao điểm cuối cùng
(1961), Đồng đội (1962). Đặc biệt từ sau 1965, khi miền Bắc chuyển sang
chiến tranh, đề tài chiến đấu càng được anh tiếp tục triển khai qua Phía trước
là mặt trận (1966), Dải đất hẹp (1968, ký tên Trần Mai Nam), Vùng trời tập I
(1971), và tập II (1974).
Ngoài truyện ngắn, truyện dài, Hữu Mai còn viết nhiều bút ký trong tập Chiến
thắng Điện Biên Phủ, và được giao nhiệm vụ quan trọng là ghi lại mấy hồi ký
có giá trị của Đại tướng Võ Nguyên Giáp về những ngày thành lập Quân đội
nhân dân: Từ nhân dân mà ra (1964), về chiến thắng Điện Biên Phủ: Một vài
hồi ức về Điện Biên Phủ (1954), và về Bác Hồ: Nhưng năm tháng không thể
nào quên (1970).
***
Qua tác phẩm của mình, Hữu Mai muốn chứng minh trong bất cứ lĩnh
vực nào, hoặc hoàn cảnh nào, người chiến sĩ nhân dân cũng đều phát huy
được truyền thống tốt đẹp của mình.
Khác hẳn người lính thú đời xưa “bước chân xuống thuyền nước mắt
như mưa”, khác hẳn bọn lính đánh thuê vác súng ra chiến trường với tâm
trạng chán nản sợ chết, các chiến sĩ ta ra đi chiến đấu với tư thế đàng hoàng
và lòng tin vào chiến thắng: “Người ta còn nghe tiếng sột soạt của những bộ
quần áo chưa giặt hết hồ. Hầu hết các chiến sĩ đều mặc quần áo mới. Họ có
thói quen dành những bộ quần áo đẹp nhất, mới nhất cho những ngày đặc
biệt này” (Cao điểm cuối cùng).
Đoạn văn trên gợi ta nhớ đến Trần Đăng. Người chiến sĩ trong Trận
Phố Ràng, Một cuộc chuẩn bị giờ đây đang đi tới đỉnh cao chiến thắng Điện
Biên Phủ trong Cao điểm cuối cùng. Và Hữu Mai cũng như nhiều đồng chí
của anh đang đi tiếp con đường Trần Đăng để dựng lại chân dung những
“người lính”.
Chân dung người lính trong những phẩm chất ưu tú của họ –đó là điều
Hữu Mai hết sức quan tâm. Nhưng anh vẽ họ không phải chỉ trên nền cảnh
khói lửa của chiến trường. Trong Người chữa đồng hồ tại đường hầm A1,
Hữu Mai kể chuyện một chiến sĩ lái xe trẻ tuổi, đôn hậu, và có nhiều tài vặt.
Niềm vui của anh là sau khi làm tròn nhiệm vụ, anh thường suốt ngày cặm cụi
tìm mọi phụ tùng để chữa đồng hồ cho anh em. Và anh đã hy sinh trong một
tình huống thật xúc động: sau khi làm tròn nhiệm vụ của mình còn ra giúp
bạn, kéo pháo về trận địa.
Trong chiến đấu, có mất mát là điều tất nhiên. Nhưng sao ta vẫn nghẹn
ngào khi đọc đến đoạn người kể chuyện sau khi đi công tác về, xin được một
ít thuốc lào, định háo hức đem đến tặng bạn. Nhưng khi đến trận địa, tác giả
chẳng còn được gặp lại người chiến sĩ ấy nữa, chỉ còn lại lời dặn dò của anh,
qua một người bạn: “Hôm nọ tôi nghe Phong nói cái dây cót đồng chí ấy kiếm
thay cho anh hơi ngắn. Mỗi lần lên dây anh nhớ vặn từ từ… nhưng nó vẫn
chạy thừa sức 24 tiếng đồng hồ đấy anh ạ”.
Trong Sức sống, người đọc lại được tiếp xúc với hình ảnh người chiến
sĩ không phải lao vào cái chết mà lại chịu đựng một cái chết đến dần dần. Tác
giả đặt nhân vật trong tình thế chịu đựng thầm lặng. Quý biết mình sẽ chết
nhưng anh cố nén tình cảm, không lộ cho bạn biết. Anh vẫn pha trò, gieo lòng
tin vào bạn bè rằng mình sẽ khỏi. Chỉ trước khi chết anh mới thổ lộ với bạn:
“Cuộc sống của chúng ta rất đẹp. Tôi muốn sống để làm việc thật nhiều
nhưng bây giờ cái chết cứ dần đến… thì tôi đón nó với thái độ của một người
chiến sĩ”. Đúng như lời tác giả nói, “cho đến phút cuối cùng cuộc sống trong
anh vẫn thắng”.
Chiến sĩ của ta là thế đấy! Ở môi trường nào họ cũng giữ được phẩm
chất của người chiến sĩ cách mạng.
Kể chuyện chiến sĩ ta, Hữu Mai rất say sưa. Dường như luôn luôn có ở
anh cả một “kho” chuyện. Cũng không hiếm những chuyện ly kỳ. Trong Phía
trước là mặt trận viết về cuộc kháng chiến chống Pháp, tác giả kể lại cho ta
nghe câu chuyện về Ba, một trung đội trưởng lái xe, để cứu bạn, đã lao thẳng
xe xuống vực sâu. Thế nhưng, lạ lùng thay, lúc anh mở mắt ra thì xe anh vẫn
còn. Chính một gốc cây đã làm cho xe anh lao đi một vòng. Nhưng chính cái
vòng lao ấy lại đã làm cho bốn bánh xe của anh đứng thẳng trên mặt đất, y
như người làm xiếc.
Trong Vùng trời, Tú, đại đội trưởng không quân sau khi truy kích địch,
máy bay hết dầu, anh được chỉ huy cho phép nhảy dù. Nhưng anh không thể
bỏ chiếc máy bay, anh quyết cứu lấy nó. Nhờ có sự tính toán chính xác và sự
bình tĩnh lạ kỳ, anh đã hạ chiếc máy bay an toàn trên một khoảng trống cách
bờ nhánh một con sông năm thước.
Người đọc kinh ngạc, thán phục trước sự bình tĩnh của Ba, Tú và xúc
động trước tinh thần bảo vệ máy bay, đạn dược của các chiến sĩ ta, dù họ có
phải hy sinh. Chính sự gan góc, dũng cảm đã cứu sống họ. Ở đây các chiến
sĩ không những chỉ tỏ ra gan dạ, bình tĩnh mà còn tỏ ra là mưu trí, linh hoạt.
Họ không hành động một cách mù quáng. Họ không dựa vào những ngẫu
nhiên, may mắn. Đấy cũng là những nét mới của các chiến sĩ trong chống Mỹ.
So với thời kỳ chống Pháp, các chiến sĩ còn có những người chưa biết chữ,
rất hiếm người có trình độ phổ thông, nhưng, ngày nay, các chiến sĩ trẻ tuổi
của chúng ta đã nắm được những tri thức khoa học tiên tiến nhất.
Không phải chỉ trong chiến đấu người chiến sĩ mới bộc lộ những đức
tính tốt đẹp của mình. Ngay cả trong cuộc sống bình thường, ở họ cũng toát
lên phẩm chất cao quý.
Đông trong Vùng trời khi hạ máy bay xuống một vùng miền núi, bị nhân
dân hiểu lầm, tưởng là giặc lái, có người đã cầm cán dao đập vào trán anh
đến sưng vù lên. Nhưng khi cô y tá hỏi, anh điềm nhiên trả lời: “A, tôi va phải
một cành cây”. Đến khi vợ anh hỏi, anh cũng vui vẻ trả lởi: “Anh đụng đầu
phải cái cột nhà. Đồng bào ở nhà sàn tối quá”. Anh không hề muốn cho mọi
người nghĩ nhầm về đồng bào.
Mô tả người chiến sĩ trong chiến đấu, Hữu Mai không ngại đề cập đến
cái chết. Trong Cao điểm cuối cùng, Hữu Mai cho thấy không phải chỉ một vài
chiến sĩ hy sinh mà có khi cả một trung đội đi xây dựng trận địa đều hy sinh
cả. Đoạn kể bác cấp dưỡng hì hà hì hục nấu những bát chè chờ đợi anh em
ra về, càng gây cho người đọc một sự thương tiếc vô hạn. Chính cái chết của
đồng đội sẽ tiếp sức cho người sống, giục giã họ phải chiến đấu hăng hơn để
trả thù cho bạn, để xứng đáng với máu người đã đổ xuống, để tiếp tực sự
nghiệp của những người đi trước.
Nhưng Hữu Mai không phải chỉ kể những hy sinh tiếp nối nhau, mà
bằng cách xen kẽ, bên cạnh sự mất mát, anh đã dành nhiều trang rất sôi nổi,
để ca ngợi những chiến thắng oanh liệt làm nức lòng người đọc. Và, điều tự
nhiên là, càng tiếp xúc với những chiến công rực rỡ của quân dân ta, người
đọc lại càng biết ơn những người đã mất.
Rõ ràng sự chân thực là điều mà Hữu Mai luôn luôn phấn đấu để nắm
cho được. Xuất phát từ một vốn sống phong phú, một sự hiểu biết sâu, và
một tấm lòng yêu mến chân thành người chiến sĩ, anh đã truyền đến cho
người đọc sự xúc động thật sự trước vẻ đẹp dưới nhiều dạng khác nhau của
họ.
***
Gần như hầu hết các truyện của Hữu Mai đều ca ngợi tinh thần tập thể,
tình đồng đội trong chiến đấu của người chiến sĩ.
Thể hiện tập trung và nổi bật nhất chủ đề này là Vùng trời. Đây là một
tiểu thuyết dài đầu tiên viết về -. t binh chủng trẻ tuỗi nhất của quân đội ta:
binh chủng không quân, gồm những chiến sĩ không những phẩm chất cách
mạng cao quý, mà còn có trình độ khoa học kỹ thuật nhất định. Một binh
chủng đòi hỏi một sự phối hợp chặt chẽ giữa dưới đất và trên không, giữa
đồng đội với nhau, giữa chiến sĩ và thợ máy.
Cho nên không có gì lạ khi các chiến sĩ lái lập được nhiều chiến công,
họ đều khiêm tốn nói rằng: đấy không phải là thành tích của cá nhân họ, mà
là chiến công của toàn đơn vị, còn họ chỉ là “người bấm cò”.
Mỗi một chiến thắng dù nhỏ hay lớn của các chiến sĩ lái đều đem lại
niềm vui chung cho toàn đơn vị, nhất là ngày không quân ta bắn rơi chiếc
máy bay phản lực Mỹ đầu tiên trên đất nước ta. Cha ông ta đã nhiều lần đánh
thắng rất oanh liệt kẻ thù trên đất, trên biển, trên song. Nhưng ở mặt trận trên
không, đấy mới chính là trận đầu tiên. Hữu Mai đã ghi lại trong tác phẩm
không khí ngày chiến thắng lịch sử ấy.
Trong Vùng trời, tác giả không phải chỉ miêu tả tình đồng đội của các
chiến sĩ trong chiến đấu mà ngay cả trong cuộc đời riêng, họ cũng rất quan
tâm, chăm sóc đến nhau, chia sẻ với nhau những niềm vui và những nỗi
buồn, đấy chính là sức mạnh, là nguồn động viên giúp họ vượt qua khó khăn,
thúc đẩy họ hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ.
Trong nhiều tác phẩm của Hữu Mai, hình ảnh những con người ở hậu
phương luôn luôn được miêu tả song song với hình ảnh các chiến sĩ.
Hảo, Nguyệt, Thùy trong Vùng trời đã để lại trong lòng người đọc một
tình cảm yêu mến, và những dáng nét khó quên. Mỗi người mỗi vẻ, hình ảnh
họ nói lên sự đôn hậu, đằm thắm, chung thủy, đảm đang của người phụ nữ
Việt Nam.
Hảo có những nét đáng chú ý. Trong tác phẩm của chúng ta còn rất ít
hình ảnh nữ sinh viên. Có thể nói Hữu Mai đã có nhiều cố gắng trong việc xây
dựng nhân vật này. Đấy là một cô sinh viên mới rời khỏi nhà trường với nhiều
ước mơ và hoài bão. Khác hẳn với những cô gái chỉ thích giam mình trong
bốn bức tường hay không dám rời thành phố, Hảo tung mình vào những nơi
khó khăn, đòi hỏi nhiều thử thách. Cô đi từng bước vững chắc vào đời. Trong
tình yêu, cô cũng có chút kiêu kỳ, nhưng đã yêu thì chủ động, tha thiết.
Có điều cần yêu cầu thêm ở Hữu Mai là truyện của anh còn ít đề cập
đến tình yêu. Tình vợ chồng, anh viết khá đạt. Nhưng viết về tình yêu nam
nữ, anh có phần “ngoại đạo”. Đoạn viết dưới đây miêu tả về tình yêu quá
vụng về. “Họ cứ tiếp tục im lặng đi mãi bên nhau như thế. Lời nói đã trở thành
không cần thiết Nhưng họ lại thấy mình không thể cứ im lặng. Họ sẽ khó mà
chịu đựng mãi cái trạng thái sinh lý trái tim cứ đập gấp những tiếng đập thình
thịch và đôi chân thì cứ mỗi lúc chơi vơi như mất dần trọng lượng”.
Tác phẩm của Hữu Mai cũng còn ít những trang tả cảnh. Anh nghiêng
về miêu tả nhân vật. Truyện của anh, dù ngắn hay dài đều có một cốt truyện
với những chi tiết khá sinh động, nên ít nhiều đều có sức thu hút. Nhưng cảnh
thiếu thì truyện quả có hiếm phần tươi tắn.
***
Có ý kiến cho rằng Vùng trời chưa nói được những mặt khó khăn, phức
tạp của một cuộc sống vốn đa dạng. Ở đây cái gì cũng đẹp, con người ai
cũng tốt, cuộc sống đầy thuận lợi. Ý kiến đó có đúng không?
Hữu Mai đã từng phát biểu: “Trước sự xuất hiện của kẻ thù, mọi người
tự nâng mình lên, xích lại gần nhau hơn, cái tốt trong mỗi người được phát
huy. Thời gian câu chuyện trong Vùng trời tập I xảy ra đầu năm 1966. Nhớ lại
tình hình lúc ấy, nhiều cái khác bây giờ: không khí khác, suy nghĩ của con
người cũng khác, trận chiến đấu cũng khác”… Ý kiến này cũng đã có lần
được tác giả gửi gắm qua suy nghĩ của Hảo: “Bây giờ một hiệu lệnh của đất
nước đã phát ra, nó đã thống nhất suy nghĩ của mọi người”. Nhận xét như
trên là đúng. Không riêng gì Hữu Mai, nhiều nhà văn của chúng ta khi mô tả
cuộc sống miền Bắc những ngày từ hòa bình chuyển sang chiến tranh đều cố
gắng dựng cho được không khí đó. Không kể rất nhiều truyện ngắn, riêng tiểu
thuyết chúng ta cũng đã có những cuốn gây được sự chú ý như Cửa sông
của Nguyễn Minh Châu.
Nhưng vấn đề không phải ở chỗ Hữu Mai chỉ chuyên miêu tả những
con người tốt, hoặc một cuộc sống tươi đẹp. Đòi hỏi Hữu Mai tránh con
đường đó, đòi hỏi Hữu Mai phải điểm thêm đây đó những nét xấu, những cái
vết đen, những mặt “phức tạp”… để cho cuộc sống được “chân thực” theo
một cách hiểu nào đó, quả là một đòi hỏi không đúng, không tránh khỏi sa vào
một thứ công thức nào khác, chắc chắn là còn đáng ngại hơn. Vấn đề là ở
chỗ người đọc yêu cầu Hữu Mai mô tả được sâu hơn nữa, thuyết phục hơn
nữa những hình tượng, những cảm nghĩ, những quan hệ của nhân vật trong
truyện. Nguyễn Thi viết Người mẹ cầm súng, Nguyên Ngọc viết Đất nước
đứng lên không cần phải gán cho nhân vật một vết xấu nào; Núp hay chị út
đều là những con người hoàn toàn, nhưng chẳng khiến cho ai cảm thấy là tác
phẩm không chân thực.
Trở lại Vùng trời. Các nhân vật ở đây quả là đẹp. Người đọc hoàn toàn
không nghi ngờ cái sự thực là: trong cuộc sống chúng ta ngày nay có biết bao
nhiêu là sự việc, con người đẹp, rất đáng ca ngợi. Nhưng điều chủ yếu là ca
ngợi như thế nào để có sức thuyết phục người đọc. Chúng ta yêu mến cái
dũng cảm điềm đạm của Quỳnh, cái gan góc sôi nổi của Đông, cái trầm tĩnh
chín chắn của Tú, cũng như cái dịu hiền của Thùy, cái đôn hậu của Nguyệt,
cái xông xáo phóng khoáng của Hảo. Mỗi một nhân vật đều có những nét
riêng biệt. Có điều đáng tiếc là những nét đẹp đó ở mỗi nhân vật lại chưa có
một chiều sâu đáng kể. Truyện của Hữu Mai một mặt có những khám phá tinh
tế, gợi cảm, thì mặt khác đang còn thiếu một sức nặng cần thiết để tác động
trực tiếp và mạnh mẽ vào suy nghĩ người đọc.
Có điều cần thông cảm: Vùng trời là tác phẩm viết về một binh chủng
còn rất trẻ, rất mới. Có thể do hoàn cảnh chưa cho phép, nên có nhiều điều
anh chưa tiện nói chăng?
***
Không phải Hữu Mai chỉ chuyên ca ngợi. Miêu tả người lính anh cũng
chú ý nêu lên để phê phán tư tưởng cá nhân chủ nghĩa được biểu hiện dưới
nhiều dạng khác nhau. Cao điểm cuối cùng, một trong những tác phẩm xuất
sắc viết về cuộc kháng chiến chống Pháp, trình bày trước mắt chúng ta hình
ảnh những trận đánh ác liệt vào cao điểm A1, nơi quân địch đặt tên là “cái
chìa khóa sống của Điện Biên Phủ”. Qua tác phẩm, Hữu Mai đã nêu lên tinh
thần dũng cảm, lạc quan và niềm tin vào chiến thắng cuối cùng của các chiến
sĩ. Có biết bao người đã ngã xuống, đã dành lấy phần chiến thắng cho dân
tộc, nhưng cũng không phải không có kẻ dao động, hoang mang trước khó
khăn, thậm chí, có kẻ đã hèn nhát bỏ chạy.
Vì sao cuộc tấn công lần đầu vào cao điểm A1 lại thất bại? Đây là ý
kiến của một tiểu đoàn phó trả lời cấp trên: “Tôi thấy trận này không thành
công là do chỉ huy của cán bộ”.
Hữu Mai đã dành trọn một chương riêng (chương 14) để miêu tả cuộc
họp của cấp lãnh đạo nhằm kiểm điểm những thất bại đáng tiếc xảy ra. Lời
của đồng chí Tư lệnh trưởng đã cho ta đi thẳng vào nguyên nhân chính của
sự thất bại: “Các chiến sĩ đã chiến đấu rất anh dũng kiên cường vào đồn địch,
mất liên lạc với cán bộ, còn một tổ ba người, một người cũng tiếp tục chiến
đấu không rời trận địa; anh em rất ít khuyết điểm nhưng cán bộ thì trái lại,
khuyết điểm rất nhiều”.
Một số nhân vật cũng đã được Hữu Mai mô tả, với dụng ý phê phán rõ
rệt, để rút ra những bài học về nhân sinh quan cách mạng. Đó là Quỳ, một
cán bộ tiểu đoàn, xuất hiện lúc đầu trong tác phẩm với thái độ lặng lẽ, tự kiêu,
sau đó, trước sự hy sinh khá nhiều của đồng đội, anh ta dao động, luôn xin ý
kiến bàn lùi, và cuối cùng, khi giáp lá cà với địch, anh ta đã hoảng sợ rồi hèn
nhát bỏ chạy. Tính chất nghiêm trọng trong khuyết điểm của Quỳ đã được
Hữu Mai vạch thẳng.
Nhân vật Quế Vinh cũng được Hữu Mai tập trung công sức xây dựng.
Đấy là một trong những tiểu đoàn trưởng lãnh đạo một mũi tấn công vào A1.
Sinh trưởng trong một gia đình khá giả, lại ít được tiếp xúc với những khó
khăn của cuộc sống, Quế Vinh dễ dao động, hoang mang. Hữu Mai đã đặt
anh trước trách nhiệm được giao, và trong quan hệ với tập thể và đồng đội để
dần dần cho anh nhận rõ bản chất con người mình. Chính những gương hy
sinh cao cả của các chiến sĩ “lính trơn”, và chính tình thương yêu đồng chí đã
giúp anh thoát khỏi đi vào con đường hèn nhát, đầu hàng trước cái chết.
Quá trình đi lên của Quế Vinh khá chật vật, nhưng anh đã vượt qua
được chăng đường khó khăn nhất. Qua Quế Vinh, Hữu Mai muốn dựng lên
một điển hình về lớp người tiểu tư sản theo cách mạng.
Không phải Hữu Mai chỉ viết những truyện phê phán tư tưởng cá nhân
chủ nghĩa thể hiện trong chiến đấu. Mất hết (sau này được chữa lại, và có tên
mới là Câu chuyện một ngày đầu) là một thiên truyện có chiều sâu nhận thức
và một ý nghĩa giáo dục nhất định. Thông qua tâm trạng dằn vặt phức tạp của
một chiến sĩ những năm đầu sau hòa bình lập lại đang lung lay trước sức
cám dỗ của đời sống tư sản, tác giả muốn nêu một hình ảnh về cuộc đấu
tranh giai cấp đang diễn ra khi miền Bắc bước vào thời kỳ cải tạo xã hội chủ
nghĩa. “Kháng chiến lấy đi của chúng ta quá nhiều rồi, tuổi thanh niên của
chúng ta quả đã mất rồi!”. Đấy là lời “sám hối” của một nhân vật trước kia đã
từng là một chiến sĩ gương mẫu. Thật là mỉa mai khi anh ta tự phủ định con
người anh ta trước kia. Trước sự cám dỗ của đời sống tư sản, giờ đây, theo
quan niệm “mới” của anh ta, nếu cứ khư khư giữ bản chất cũ của mình trước
đây thì rồi sẽ “mất hết, mất hết”! Y như một lời kêu cứu!
Nhưng mất gì? Mất lạc thú của đời sống tư sản mà anh bước đầu được
nếm qua, hay mất phẩm chất cách mạng của mình? Hữu Mai đã cố gắng trình
bày cho ta thấy sự “biến chất” đó trong con người anh. Trước kia anh “dũng
cảm sửa đường mặc bom đạn, bóng anh vươn lên trên đoàn người anh dũng
đang bám chặt lấy nó để chiến đấu”. Thế mà giờ đây: “Bạn tôi mái tóc chải
uốn một cách vụng về. Chiếc áo sơ mi kẻ ô ôm cứng lấy người anh, mặt anh
nhợt nhạt, cái nhìn lo âu, chung quanh anh đang lởn vởn rất nhiều bóng tối…”
Tiếc rằng phần cuối của truyện quá đuối. Ở Mất hết, tác giả chưa đứng
một chỗ đứng cao để nhìn rõ sự xuống dốc của nhân vật, giúp cho nhân vật
(và cả người đọc nữa) thấy rõ sự được, mất thật sự trong đời trên quan điểm
cách mạng. Đời sống tư sản chưa hoàn toàn phơi bày bộ mặt thối tha của nó,
nó vẫn còn có khía cạnh cám dỗ, và do vậy cái “mất” ở đây còn làm nhân vật
băn khoăn, tiếc nuối. Chuyện “mất” cái gì ở đây vẫn còn là một lởn vởn, nhất
là khi sự phê phán chưa cao. Vấn đề không phải là cần một kết luận có hậu
mà là một thái độ dứt khoát, một quan điểm đánh giá rõ ràng. Chuyển từ Mất
hết sang Câu chuyện một ngày đầu, mấy năm sau, tác giả đã có ý thức chữa
lại chỗ yếu đó, nhưng phải chăng do vội muốn đưa ra một hướng giải quyết
nên thiên truyện đâm ra sơ lược.
Sự phê phán còn yếu, chưa trên một chỗ đứng cao về những mặt tiêu
cực trong đời sống con người, cũng một lần nữa, xuất hiện trong Đôi mắt, khi
anh để cho nhân vật nói những lời chua chát bi quan về chiến tranh.
***
Nhìn chung, môi trường bộ đội là “vùng quê” quen thuộc của Hữu Mai.
Từ Cao điểm cuối cùng đến Vùng trời, chúng ta ghi nhận ở Hữu Mai hai cái
mốc có ý nghĩa trên con đường sáng tác của anh.
Những chỗ yếu hoặc thiếu sót ở Hữu Mai không phải là điều khó thấy.
Nhưng đó là thiếu sót của một cây bút chân thành muốn có những đóng góp
mới, muốn có những tìm tòi. Người đọc không ngạc nhiên khi thấy Hữu Mai
vẫn vững bước đi lên. Cái hướng lớn mà anh theo đuổi và những thành công
thu được chính là điều khiến cho anh chiếm được cảm tình của người đọc.
Người đọc nghĩ về anh: một nhà văn bền bỉ, khiêm tốn, trung thực, nồng nhiệt
với cuộc sống, tin tưởng vào tương lai, quan tâm đến những vấn đề lớn của
đời sống, trước hết là đời sống người bộ đội trên suốt cả một cuộc hành trình
qua hai cuộc kháng chiến của dân tộc.
CHU VĂN, một vùng nông thônĐọc Chu Văn viết về nông thôn ta có cái cảm giác của một người lao
thác những khúc thượng nguồn, hơn là người buông chèo những bến hạ lưu,
mặc dù thác ghềnh hay bến lặng đều là hiện thực của một dòng sông.
Không phải Chu Văn cố đi tìm những mâu thuẫn của đời sống để làm
nên cái xung đột đầy kịch tính trong sáng tác của mình. Mà bản thân cuộc
sống với sự va chạm nảy lửa của những mặt đối lập đã được tái hiện trên
những trang viết của anh. Từ Cô lái đò sông Ninh (1960) qua Ánh sáng bên
hàng xóm (1964), đến Bão biển (hai tập, 1969) đều là sự đụng độ gay gắt
giữa ta và địch, cũ và mới, lạc hậu và tiến bộ, bóng tối và ánh sáng, phản
động và cách mạng, xuyên thấm qua những sự việc, những cảnh đời, những
con người. Ở tập Cô lái đò sông Ninh, nhất là ở truyện ngắn cùng tên, tác giả
đã miêu tả những con người hiền lành nhất, những cảnh vật êm ả nhất trong
cuộc chiến đấu nổi giận, vật lộn tử sinh với kẻ thù của dân tộc là bọn xâm
lược Pháp và bè lũ Việt gian. Cái chết của cô lái đò sông Ninh là một sự bi
thảm chưa được tẩy rửa. Nhưng dẫu sao, cô cũng đã trải qua một cuộc chiến
đấu thầm lặng, quyết liệt. Nông thôn mà Chu Văn miêu tả là luôn luôn trong
cuộc đấu tranh phức tạp. Tiểu thuyết Bão biển và một vài truyện ngắn khác,
Con trâu bạc chẳng hạn, thể hiện tính chất phức tạp ở nông thôn ấy. Với số
trang ít ỏi, trong Con trâu bạc tác giả đã phản ánh được tình trạng rắc rối ở
nông thôn những ngày bước vào con đường tập thể. Cái thói hư tật xấu, đục
khoét hợp tác ở đấy được miêu tả như một trở ngại cho bước tiến lên của
nông thôn đã đành, nó còn được trình bày như một tội ác làm tổn thương đến
tình cảm của những người nhân hậu. Đó là cái hay của truyện ngắn Con trâu
bạc. Một vùng nông thôn công giáo tiến lên chủ nghĩa xã hội với tất cả những
nặng nề phức tạp, khó khăn gay gắt đã được tái hiện trong Bão biển. Những
nét khác biệt, trước hết là của đề tài, của cái hiện thực mà tác giả tái hiện đã
làm cho cuốn tiểu thuyết trở nên độc đáo. Giá trị của Bão biển trước hết là giá
trị nhận thức. Bạn đọc, với cuốn tiểu thuyết này, sẽ được sống giữa một vùng
“đất thánh”, với tất cả những cái hay, cái lạ của nó: lịch sử xây dựng một nhà
thờ tiền bạc đổ vào như nước chảy, đám rước nườm nượp trong ngày lễ đầu
dòng; những cha cố, con chiên đủ loại; những bọn phản động khoác áo thầy
tu, những con người vì cuồng tín mà mất hết nhẽ trái phải trên đời; đám cưới
em gái mà chị dẫn bọn côn đồ đến hành hung, con ốm sắp chết mà bố mẹ
không lo chạy chữa, chỉ lo “rửa tội”… Chu Văn đã dựng lên trước mắt người
đọc cả một vùng công giáo hầm hập những thế lực phản động, những tàn tích
hủ lậu, những tệ nạn khủng khiếp, nó làm đen tối cả làng xóm, nó đè nặng lên
cuộc sống dân lành. Và như vậy, cuộc đấu tranh củo chủ nghĩa xã hội ở đây
đã được trình bày không đơn giản, không nhẹ nhàng chút nào, ý nghĩa của nó
cũng cụ thể, sâu sắc hơn: nó vẫn còn là sự nghiệp giải phóng nông thôn, giải
phóng những con người, những số phận. Về mặt khác mà nói thì một hoàn
cảnh khó khăn, một tình huống phức tạp nhường ấy cũng chính là nơi những
nhân vật tích cực, những anh hùng mới ở nông thôn, hoạt động. Những con
người của chung ta, có thể nói, đã được Chu Văn nhìn nhận trong một cuộc
chiến đấu không khoan nhượng, nơi họ phải đương đầu với sức chống đối lợi
hại. Đọc Chu Văn, do đó, ta không có cảm giác khó chịu về sự miêu tả cái
thắng lợi quá dễ dãi của những anh hùng thời đại chúng ta.
Bão biển đánh dấu một bước ngoặt trên con đường viết văn của Chu
Văn. Anh xuất hiện trước đông đảo bạn đọc bằng Cô lái đò sông Ninh, với
truyện ngắn xuất sắc cùng tên, và trở nên quen thuộc với bạn đọc bằng Ánh
sáng bên hàng xóm với truyện ngắn xuất sắc Con trâu bạc. Đến khi tiểu
thuyết Bão biển ra đời với tiếng vang nhanh chóng và sức cuốn mạnh mẽ của
nó thì người ta cũng không lấy gì làm lạ: sự hiểu biết của Chu Văn về nông
thôn, nhất là nông thôn một vùng công giáo, tài năng của Chu Văn trong đề tài
nông thôn, nhất là nông thôn một vùng công giáo, đã thể hiện hứa hẹn… ở
những tập truyện ngắn trước Bão biển. Thế nhưng, đọc xong Bão biển, người
ta không khỏi sửng sốt. Chu Văn đã làm một bước nhảy vọt mà không phải
nhà văn nào cũng làm được. Bây giờ trước người đọc, Chu Văn không còn là
một nhà văn có những truyện ngắn về nông thôn đọc được có, hay có, thậm
chi xuất sắc cũng có, đại loại như những truyện ngắn của nhiều người viết
cùng thời. Bây giờ Chu Văn đã nghiễm nhiên là tác giả của cuốn tiểu thuyết
viết về nông thôn vào loại xuất sắc của văn xuôi Việt Nam hiện đại từ sau
Cách mạng tháng Tám. Và đó cũng là một trong những điều phân biệt Chu
Văn với những nhà văn đương thời thạo về đề tài nông thôn. Song điều mà
chúng tôi muốn đề cập ở đây là quy luật nhảy vọt trong quá trình sáng tác của
nhà văn. Bắt đầu là những bước chuẩn bị “lấy đà” rồi mới bột phát bằng một
sức mạnh sáng tạo để từ một bến bờ, vọt sang một bến bờ… Thế rồi lại
chuẩn bị, lấy đà để vượt xa hơn nữa. Rõ ràng, mỗi nhà văn đều có thể có
những bước chuẩn bị, lấy đà, nhưng không phải nhà văn nào cũng có thể
nhảy vọt, vì muốn nhảy vọt cần phải có sức bật nữa, và đó mới là cái quyết
định. Sức bật sáng tạo ấy tuy là hiếm, nhưng vẫn có thể chuẩn bị để tạo ra
được. Bằng nhiều bước nhảy vọt như vậy, nhà văn đã bỏ xa những bạn viết
suốt đời chỉ có những bước tiệm tiến đều đều… Sau Bão biển, Chu Văn viết
Hương cau – Hoa lim. Tập truyện ngắn về hậu phương và tiền tuyến chống
Mỹ này lại bắt đầu trước chuẩn bị đà cho lấy một chặng đường với bước
nhảy vọt mới đấy chăng?…
***
Hầu như ta không thấy trong sáng tác của Chu Văn con người buông
mình cho tình thế cuốn đi đến đâu thì đến, thậm chí đến chết – kiểu như cô
Chăm đẹp mà lẳng, đáng giận mà cũng đáng thương của Nguyễn Thế
Phương (Nắng). Ở Chu Văn, cả đến những con người suốt một đời nhẫn
nhục, chìm trong bóng tối, thì cuối cùng do một sự biến nào đấy, cũng bật dậy
cố tìm ra chỗ sáng. Bà cụ bao nhiêu năm sống trong gian lều tối tăm, cái gì
cũng cho là ở Chúa cả, thì rồi cũng phải phân vân khi thấy cái ánh sáng hạnh
phúc do con người tạo ra cứ đêm đêm hắt sang nhà mình (Ánh sáng bên
hàng xóm). Lão bõ nửa say, nửa tỉnh, cả đời sống cái kiếp con chó trong nhà
thờ, thì cuối cùng cũng phải phát khùng lên chửi cha tên cha đểu cáng, rồi
chết một cách khốn khổ trên cái ổ rệp ở góc vườn nhà chúa, sau một đêm
cấm khẩu chót già… (Bão biển). Những con người hành động đến cùng,
chống lại đến cùng những gì cản đường mình, ta gặp không ít trong tiểu
thuyết Bão biển và đó cũng chính là một trong những nét độc đáo của cuốn
truyện. Nếu ta hình dung Bão biển như một cuộc đấu, thì những đấu thủ của
nó quả là những tay lì lợm, lợi hại. Lão chánh già chỉ nghĩ đến ngày tận số
của một vị chúa ăn trên ngồi trốc, giàu sang tột cùng… cũng đủ để uất lên,
hộc cả máu mồm, ốm liệt giường, cái xác gần luỗng ra mà vẫn còn nát óc bày
mưa tính kế làm cho “hợp tác tan, chính quyền nát”. Tên cha bây giờ không
được mặc áo nhà binh, bắn giết giáo dân giữa đường giữa chợ như trước kia
nữa, thì lồng lộn như con chó điên trong bốn bức tường nhà chúa; mới nghe
có hai tiếng “công an” đã bật lên phát cuồng, không làm gì được ai thì chửi
con khỉ: “tiên sư giống thủy tổ cộng sản!”, rồi vung roi quật nó lia lịa, làm nó
kêu lên những tiếng man rợ: khẹc khẹc! Mụ đàn bà trước kia trong những vụ
bọn phản động nổi loạn từng trần như nhộng, tay này cầm tro trộn ớt, tay kia
cầm gạch củ đậu xông vào đánh bộ đội, thì nay luôn có mặt trong các vụ
chống phá, đến khi bị bắt còn hung hăng dùng vỏ chai chống cự, đánh bị
thương một chị dân quân… Cô gái đã vượt qua được sự ngăn cản ghê gớm
của người chị cuồng tín, hơn nữa đã dám xem thường các lề thói cũ, chống
lại và chiến thắng các thế lực hắc ám đè nặng lên số phận mình, tâm hồn
mình để làm lại cuộc đời và cho thiên hạ hay rằng, con người phải tự tìm lấy
hạnh phúc, và có thể làm lấy hạnh phúc ngay cả ở cõi đời này, chứ chẳng có
chúa nào dính dáng vào đấy, có chăng chỉ là một bọn giả danh chúa. Anh
thanh niên mới lớn lên đã không chịu thua tên côn đồ vũ phu, dù chỉ là trong
một keo vật, đã dám yêu và cưới, theo một cung cách mới, và nhất là đã dám
xuống đồng gặt lúa trong ngày “kiêng việc” mà không sợ một hình phạt nặng
nề nhất của nhà thờ: rút phép thông công. Mơ hồ, thỏa hiệp, yếu đuối đến
như ông chủ tịch có bà vợ bị mua chuộc bởi vài cái lợi trước mắt, có cô con
gái đú đởn vào hội Pha-ti-ma rồi sinh đổ đốn…kia, thì cuổi cùng, sau một cơn
mê man suýt nữa sa ngã, cũng phải tìm đến với đồng chí, với Đảng… Rõ
ràng Chu Văn đã xây dựng được những nhân vật có sức sống mạnh mẽ. Chu
Văn đã miêu tả thoải mái ”đến cùng” nhiều nhân vật của mình, chính diện
cũng như phản diện. Anh không run tay, không sa đà khi viết về những con
người xấu, những bọn phản động với tất cả suy nghĩ, hành động trong bóng
tối của chúng. Với con mắt sắc sảo tinh đời, với cái nhìn vững vàng về chính
trị. Chu Văn đã đưa ra nhiều nhân vật phản diện với cả lối sống, âm mưu,
hành động để theo đuổi đến cùng mục đích của chúng mà vẫn không gây cho
người dọc phản cảm về sự hiểu sai lệch bản chất của hiện "thực xã hội chúng
ta – thế giới của những con người mới, thế lực mới, tiến bộ, tích cực, đầy sức
mạnh. Thế nhưng, không rõ vì sao tác giả lại để người anh hùng số một trong
cuộc đấu tranh mà anh miêu tả, cái linh hồn của toàn bộ cuộc sống mà anh tái
hiện, dừng lại giữa đường. Mối tình của Tiệp với Nhân (bạn đọc nên nhớ
rằng, dù sao chăng nữa, Nhân là vợ một tên phản động hiện hành, và… câu
chuyện mà chúng ta đang bàn đây lại diễn ra trong tình hình của một cuộc
đấu tranh - giai cấp rất gay gắt) đã là điều ngờ ngợ, nhưng cũng có thể hiểu
được. Song cái tình yêu mà tác giả muốn có ấy cũng chẳng đem lại gì cho
anh và cho cả cô, người đàn bà nửa phần đáng giận và nửa phần đáng
thương ấy. Giá như từ tình yêu với Tiệp, Nhân bắt đầu một cuộc lột xác, tái
sinh thì đã đi một nhẽ! Đằng này cô lại vẫn cứ chìm ngập, bế tắc. Nếu như ở
Bão biển có điều gì làm người đọc phân vân nhất, thì đó là những lần tiếp xúc
cuối cùng với Tiệp, bởi vì những lần gặp cuối cùng; với một người bạn
thường để lại trong ta nhiều ấn tượng và suy nghĩ. Một người như Tiệp
mà:”đã biết, thì có dừng lại ngại ngùng và thối chí trong tình yêu và nhất là
trong công việc không? Thật ngạc nhiên hết sức, khi thấy tác giả để anh rời
bỏ vị trí của mình ở Sa Ngoại là mảnh đất gắn bó cả cuộc đời anh, là môi
trường tạo ra anh, cần anh và chứng tỏ sự tồn tại của anh… Một khi bị gạt ra
khỏi cái môi trường sống và hoàn cảnh hành động, người anh hùng coi như
thất thế, nhân vật coi như đã chết. Tôi ngờ rằng trong khi viết Bão biển, Chu
Văn có bị ám ảnh bởi cách xây dựng nhân vật anh hùng ở một vài cuốn tiểu
thuyết nước ngoài nào đó? (Tuy nhiên nhận xét này mới chỉ là “ngờ”, vị tất đã
đúng!)
***
Chỉ tính từ Cô lái đò sông Ninh, qua Ánh sáng bên hàng xóm, đến Bão
biển, không kể Hương cau – Hoa lim (1971) ta thấy Chu Văn không dừng lại
trong những vấn đề mòn lối, cũng không quanh quẩn trong những chuyện vụn
vặt.
Sự mở rộng đề tài, cả về đối tượng miêu tả lẫn quy mô miêu tả, đã làm
cho sáng tác của Chu Văn thêm tính chất phong phú, chứa nổi những vấn đề
lớn, bắt kịp sự quan tâm của người đồng thời. Ấy là điều làm nên cái sức
nặng trong những trang viết của anh. Tuy nhiên đọc anh, người đọc không chỉ
thấy khô khốc những vấn đề là vấn đề, những vấn đề mà anh đặt ra đã chìm
đi, lẫn đi trong sự phong phú, rộng lớn của cái hiện thực mà anh miêu tả, và
rồi đột nhiên trong một lúc nào đó, chúng nổi rõ lên, ám ảnh sự suy nghĩ của
người đọc. Ở sảng tác của Chu Văn, không có sự khập khiễng giữa đề tài
miêu tả và chủ đề hàm ý, giữa hiện thực tái hiện và vấn đề đặt ra. Có những
cuốn sách, sự miêu tả, kể lể tràn lan đã hàng mấy trăm trang người đọc vẫn
không thấy tác giả định nói gì; ngược lại, có những tác phẩm, vấn đề đặt ra
sắc sảo, thu hút người đọc ngay từ đầu, nhưng “tính vấn đề” ấy lại nổi lên
như một sự cố ý, nó làm nghèo nàn, méo mó và trơ trụi cả cuộc sống tái hiện,
cả hai khuynh hướng này, Chu Văn đều không rơi vào. Đó là cái may cho anh
trên con đường phấn đấu trở thành nhà tư tưởng-nghệ sĩ.
Nhà văn có thể chọn những đề tài quen thuộc hay chưa quen thuộc,
nghĩa là có thể chọn những vùng (bao gồm người và việc) quen thuộc hay
chưa quen thuộc, làm đối tượng sáng tác. Nhưng có một điều quan trọng
trước tiên là sự hiểu biết sâu rộng về đề tài ấy, đối tượng ấy. Sự nắm chắc đề
tài sẽ giúp nhà văn chân thật và có sức bay bổng trong lao động sáng tạo, sẽ
giúp nhà văn đỡ phải đánh vật với mình, đối phó với chính mình, tránh được
những mánh khóe nghệ thuật dù khôn khéo đến mấy cũng không qua nỗi con
mắt tinh tường của người đọc hiện đại. Hiểu thấu đáo cái hiện thực mà mình
định bụng miêu tả, Chu Văn đã dựng được những cảnh thật sống, mang đến
cho người đọc những tri thức mới về nhiều phương diện của cuộc sống, và
do đó thu hút người đọc. Có những chương, những cảnh, nếu vào tay một
nhà văn ít am hiểu về một vùng nông thôn công giáo, thi sẽ bị lách đi, lướt đi,
hoặc lược kể qua loa, khiến người đọc mất hứng. Ấy là chương Chu Văn dám
dựng cả cảnh hũ nút trong nhà thờ với đủ loại cha đi đứng, nói năng, suy
nghĩ, lừa miếng, đe dọa, chửi rủa, âm mưu, ăn uống… và cả những sinh hoạt
khác. Ấy là chương dựng cả một ngày lễ đầu dòng với đám rước kéo dài
hàng cây số nườm nượp đủ loại người: những đội trống, dàn nhạc các xứ
đua nhau trổ tài làm đinh tai nhức óc người qua; những đoàn nghĩa binh toàn
các em nhỏ, đọc kinh yếu ớt, có các bà quản đi kèm để cốc vào đầu mấy cô
bé tội nghiệp đi lệch hàng; những hội viên Pha-ti-ma ô đen, áo dài trắng, guốc
cao gót; những đoàn nữ tu sĩ toàn những cô gái mắt bồ câu, mặt trẻ măng lại
cố làm ra vẻ nghiêm lúc toán thanh niên ngoại đạo vây lấy xem; những đoàn
người trên bộ, dưới thuyền lũ lượt kéo từ các ngả, các sông đổ về đất
thánh… cả một ngày hội với đủ các loại nghi lễ, tục lệ, và cả đoạn kết thúc
vào buổi tối trên những quãng đưòng vắng, thằng già mất dạy suýt nữa làm
hại một cô gái… Bạn đọc đã thấy và hiểu thế nào là ngày lễ đầu dòng ở cái
xứ từ xa nhìn về chỉ thấy tua tủa lên những nóc chuông nhà thờ ấy. Một
chương sách tràn đầy không khí tiểu thuyết. Có thể nói, văn xuôi của ta còn
hiếm những chương như vậy.
Sự hiểu biết kỹ lưỡng về một vùng nông thôn với những cảnh vật,
những con người, những vấn đề của nó đã dẫn đến thành công, hay ít nhất
cũng là một nguyên nhân đáng kể dẫn đến thành công của Chu Văn trong
một số truyện ngắn, và đặc biệt là trong tiểu thuyết Bão biển. Nhưng rõ ràng,
nông thôn của Chu Văn mới chỉ là nông thôn bước vào ngưỡng cửa của chủ
nghĩa xã hội với tất cả những nặng nề, gay gắt của cuộc đấu tranh chống bọn
phản động đội lốt thầy tu, chống những thói hư tật xấu, tàn tích hủ lậu – chứ
chưa phải là nông thôn xây dựng chủ nghĩa xã hội với những vấn đề của ba
cuộc cách mạng mà cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật là then chốt, chưa
phải là nông thôn của một cuộc lột xác từ sản xuất nhỏ, lạc hậu tiến lên sản
xuẩt lớn xã hội chủ nghĩa. Chẳng phải Chu Văn, ở Bão biển, đã quy tất cả vấn
đề của một vùng nông thôn tiến lên chủ nghĩa xã hội mà anh miêu tả vào cuộc
đấu tranh với bọn phản động và những cái lạc hậu. Nhưng rõ ràng sau thắng
lợi của cuộc đấu tranh đó thì tác giả đã lúng túng. Phải chăng đó là một trong
những nguyên nhân chủ yếu gây ra những bước hẫng trên đường dài của
toàn bộ Bão biển, thể hiện ở tập II cuốn tiểu thuyết.. Sự nhận thức sâu sắc và
nhạy bén những vấn đề của chủ nghĩa xã hội đặt ra ở nông thôn hiện nay là
đòi hỏi chung đối với tất cả những nhà văn viết về nông thôn, trong đó có Chu
Văn.
Nhà văn luôn luôn phải đứng trước những lĩnh vực mới, những vấn đề
mới mà thời đại vừa làm nảy sinh, "là trước đây, không bao giờ có. Và đó
chính là cái môi trường sống, hoạt động, chiến đấu của con người đồng thời,
đó chính là cái hiện thực mang chất thời đại mà nhà văn có tinh thần phụ
trách không thể không phản ánh. Đương nhiên, đây là một cuộc thử lửa mới,
nó đặt ra trước nhà văn không ít khó khăn, mà trước hết là khó khăn về sự
hiểu biết, bởi lẽ có hiểu biết thì mới khám phá, sáng tạo được. Để hiểu biết,
có khi phải đi xa, đến những nơi gian khổ, nguy hiểm; có khi phải dày công
nghiên cứu học tập từ những điều cơ bản đến những kiến thức tiên tiến.
Hương cau – Hoa lim, nhất là phần Hoa lim, đánh dấu sự cố gắng của Chu
Văn trong việc mở rộng ngòi bút ra những vùng xa mới mẻ. Nhưng cũng ở
Hoa lim, đã chứng minh rất rõ ý nghĩa của sự hiểu biết trong việc khám phá,
sáng tạo của nhà văn. Rời xa đề tài nông thôn, đứng trước những con người
và sự việc mà mình làm quen chua lâu, hiểu biết chưa thấu, ngòi bút Chu Văn
đã có lúc tỏ ra gượng ép vô lý (Câu chuyện trong túi nước), sắp đặt giả tạo
(Hoa lim). Trong Hương can – Hoa lim, riêng truyện ngắn Hò lìa trâu là hay
hơn cả. Điều này có thể giải thích được: con trâu từng gắn bó máu thịt với đời
sống vật chất và tình cảm ở nông thòn, nó đã một lần vào sáng tác của Chu
Văn trong một truyện ngắn xuất sắc: Con trâu bạc.
Truyện ngắn VŨ THỊ THƯỜNGHầu hết sáng tác của Vũ Thị Thường đều lấy đề tài ở nông thôn, trừ
mấy truyện viết về các đề tài khác như Một đêm khó ngủ, Bé Minh, Một buổi
sáng đẹp trời, Câu chuyện bắt đầu từ những đứa trẻ… Những sáng tác đã
xuất bản của chị gồm có Cái hom giỏ (1959), các tập Gánh vác (1963), Hai
chị em (1965), Bông hoa súng (1067), và gần đây là Vợ chồng ông lão chăn
vịt (1973). Ngoài ra, còn một số ít sáng tác đang rải rác trên báo.
Qua phần lớn sáng tác của mình, Vũ Thị Thường một mặt ca ngợi,
khẳng định những người nông dân mới ở những khía cạnh khác nhau, mặt
khác nêu lên những vướng mắc còn tồn tại trong đời sống hoặc phê phán một
số hiện tượng lạc hậu còn cản trở bước tiến của nông thôn.
Vũ Thị Thường, với cái nhìn vừa tinh tế vừa ưu ái, đã thể hiện khá đạt
một số mặt của đời sống nông thôn. Chẳng hạn, chị nêu lên sự đổi thay cuộc
đời của người nông dân trong chế độ mới, và qua đó, khẳng định vẻ đẹp, tính
ưu việt của chế độ ta. Qua truyện ngắn Hai chị em, tác giả đã gợi lên một
cách tự nhiên sự khác nhau giữa hai cuộc đời ở hai chế độ. Hoặc trong Nỗi
vui bỡ ngỡ, ta thấy một người con gái đã 29, 30 tuổi đầu, không có lấy một bộ
quần áo lành lặn, làm như “con trâu lăn” mà vẫn bị anh trai, chị dâu đối xử
nghiệt ngã. vẫn bị dè bĩu là “con ngẩn ngơ”, “con dở hơi” đến nỗi chính người
con gái ấy cũng tưởng mình ngẩn ngơ thật, thậm chí không biết là mình khổ,
bởi bản thân có được sướng bao giờ đâu. Nhưng chế độ mới đã cải tử hoàn
sinh, đưa chị trở về cuộc sống, trở thành người con gái làm ăn “chăm chỉ, gọn
gàng, đâu ra đấy”. Bà con hợp tác đều lo lắng vun thu cho chị. Từ một con
người ăn gửi nằm nhờ, sống tối tăm, khốn khổ, nay có công ăn việc làm, có
gian buồng và đủ cả giường màn, hòm xiểng, cả mấy tờ tranh dán trên
tường… thì đúng là tâm trạng Nền phải ngỡ ngàng, không hiểu là thực hay
mơ. Trong truyện, những chi tiết bình thường như “mấy cái gốc tre cháy gần
hết, đang reo lên trong bếp lửa”, hay như trời sáng trăng, “một con chó con
tròn như nắm bông đang chờn vờn đùa với đôi guốc mới” v.v… đều như
muốn nói lên ở Nền đang rạo rực “một niềm vui vừa mênh mang vừa sâu xa
bỡ ngỡ”. Câu chuvện gợi người đọc nghĩ đến một cái gì thật cao đẹp. Phải
chăng đó là tính chất nhân đạo, tính chất ưu việt của chế độ ta? Với một cái
nhìn hồ hởi, tin yêu con người và cuộc sống, Vũ Thị Thường đã phác họa
sinh động hàng loạt hình ảnh những người nông dân đang tích cực xây dựng
chủ nghĩa xã hội ở nông thôn. Tác giả muốn qua những tâm tư, suy nghĩ,
những việc làm cụ thể của một số nhân vật để nêu bật lên phẩm chất của con
người mới như trong Cái đĩ con, Một ngày, Ông chủ tịch xã, Chúng tôi…, Vợ
chồng ông lão chăn vịt, v.v…
Chúng ta đã sống hàng bao nhiêu năm dưới chế độ thực dân phong
kiến nên nếp sống, thói quen, sự suy nghĩ của mỗi người không thể bỗng
chốc mà đổi thay ngay được. Tác giả chú ý đến quá trình nhận thức, vật lộn
để vượt lên từ người phụ nữ cũ sang người phụ nữ mới (Gánh vác, Theo
chồng). Đúng như câu chuyện tác giả đã kể trong Từ mỗi căn nhà như thế,
thường ngày có biết bao nhiêu người có thể sống cuộc sống tưởng như
“không có ý vị gì”, với biết bao nhiêu chi tiết “tầm thường vụn vặt”, nhưng khi
đất nước có nạn ngoại xâm thì họ đã sống hoàn toàn khác. Thật là một chân
lý giản đơn mà kỳ diệu: “Thì ra anh, vợ anh và biết bao nhiêu người khác nữa
đều phải được đánh giá lại cho đúng vào những giai đoạn thử thách này”.
Cuộc sống mới cũng đòi hỏi một cách nhìn, cách nghĩ, một phương
pháp tư tưởng mới. Trong Xung khắc, Vũ Thị Thường nói về tính cách và
phẩm chất của một anh thanh niên tên là Hược. Tác giả gợi lên hình ảnh
Hược từ thuở còn là thằng bé nghịch ngợm, xấc láo, hay trêu chó, phá cày
nhà ông Điềm, chủ nhiệm hợp tác xã; đến khi làm bí thư chi đoàn thì lại mấy
phen xô xát với ông trong công tác, và giờ đây thực ra cũng “còn có chỗ ông
không ưa”. Nhưng ông Điềm đã không bị những ấn tượng, những định kiến
hay cảm tình cá nhân chi phối, mà vẫn thấy được cái đúng, cái mạnh dạn,
xông xáo, (được việc của Hược nên đã giới thiệu anh vào Đảng; bởi ông nghĩ
“Đảng rất cần những người như Hược”.
Qua một số truyện, người đọc thấy Vũ Thị Thường đã đạt được thành
công khi ca ngợi những phẩm chất tốt đẹp của người nông dân mới, lộ ra
trong công việc chung hay qua một khía cạnh riêng tư của tình cảm. Nhà văn
còn chú ý đến bước chuyển biến, quá trình vươn lên của một số nhân vật
hoặc gợi lên cách nhìn, cách nghĩ, cách đánh giá một con người như thế nào
cho phù hợp với sự phát triển của xã hội.
Nhiều truyện của Vũ Thị Thường, cốt truyện không có gì ly kỳ, không
phản ánh những xung đột gay gắt, có thể không nhằm đặt ra và giải quyết
một vấn đề gì thật lớn. Nói cách khác, những truyện ấy không gây nhiều hiệu
quả bề ngoài, nhưng vẫn tạo được một sức hấp dẫn bên trong đối với người
đọc. Bởi nhà văn biết tìm ra những nét mới mẻ, nhiều khi không lớn lắm
nhưng có ý vị trong cuộc sống. Lại nữa, hầu hết nhân vật hiện ra trong tác
phẩm của Vũ Thị Thường đều có xương, có thịt, có tâm hồn và cốt cách
riêng. Phải chăng đó là một đặc sắc của ngòi bút chị? Tất nhiên điều ấy không
phải chỉ do nghệ thuật viết mà chính là do ở “con mắt” và “tấm lòng” của
người cầm bút.
***
Một số truyện của Vũ Thị Thường như đã nêu trên chủ yếu mang
khuynh hướng ca ngợi, tuy có ghi lại được một số nét của con người mới
trong từng hoàn cảnh nhất định, và mặt khác, tác giả có cố gắng đổi mới
trong cách viết, mở rộng và làm phong phú thêm tư tưởng chủ đề, nhưng đây
vẫn chưa phải là những truyện hay nhất, đạt nhất của tác giả. Sự quan tâm
của Vũ Thị Thường sau này lại hướng vào một số truyện có khuynh hướng
phê phán trực tiếp một số mặt tiêu cực trong nội bộ nhân dân (mặc dầu loại
này chưa nhiều). Thực ra, đây là nói khuynh hướng chính của truyện, chứ khi
phê phán cái xấu, cũng tức là để khẳng định, ca ngợi cái tốt, và ngay những
nhân vật tiêu cực vẫn có mặt tích cực; hơn nữa, bên cạnh những nhân vật
tiêu cực vẫn có những nhân vật tích cực.
Vũ Thị Thường là một cây bút trưởng thành sau Cách mạng. Chị chịu
khó thâm nhập cuộc sống nông thôn, và với sự nhạy bén riêng, chị đã cố
gắng đặt ra một số vấn đề đáng chú ý, làm nhiều người đọc phải quan tâm,
suy nghĩ. Chị nêu lên những vấn đề như lý tưởng sống (Một đêm khó ngủ,
1961), (Hạnh phúc, 1964), quan hệ giữa hạnh phúc cá nhân và công tác xã
hội (Cái riêng bé nhỏ, 1964), chỗ đứng của người phụ nữ (Vợ chồng chị đội
trưởng, 1966), tinh thần trách nhiệm trong công tác (Bông hoa súng, 1967),
sự mắc míu trong quan hệ vợ chồng cán bộ (Câu chuyện xảy ra không tránh
khỏi, 1966), sự tha hóa của một cán bộ chủ chốt (Cái lạt, 1970), cách suy
nghĩ chủ quan, tự mãn của một cán bộ lãnh đạo hợp tác xã (Cái bi kịch của
một ông chủ nhiệm, 1972), v.v…
Trong loại truyện này, cách đặt vấn đề của Vũ Thị Thường ngày càng
có những ưu điểm đáng chú ý. Tất nhiên, không phải bỗng chốc chị viết ngay
được những Câu chuyện xảy ra không tránh khỏi, Cái lạt v.v… mà bản thân
phải trải qua nhiều vật lộn, thử thách. Như ở thời kỳ đầu, ngòi bút của Vũ Thị
Thường đã có những lúng túng và hạn chế khi trình bày và giải quyết vấn đề
(Một đêm khó ngủ. Hạnh phúc, Cái riêng bé nhỏ).
Chỗ mạnh của Vũ Thị Thường trước hết ở sự tinh tế và mạnh dạn phát
hiện một số vấn đề còn mắc míu trong quan hệ gia đình, trong quan hệ xã hội
hoặc trong phương pháp làm việc, trong cách nhìn, kiểu nghĩ của một số cán
bộ cơ sở.
Đọc Câu chuyện xảy ra không tránh khỏi, không ít người thích thú, bởi
vấn đề được nêu ra tinh tế và mới mẻ. Trong một số gia đình, sự tích cực và
tiến bộ nhanh chóng của người vợ đôi khi làm cho người chồng khó chịu và
từ đó quay ra gây trở ngại cho công việc của vợ. Thêm nữa, trong tình hình
nền sản xuất xã hội và tổ chức đời sống chưa cao, thì người phụ nữ còn gặp
không ít khó khăn trong khi tham gia công tác chung. Đó là những chủ đề đã
trở nên quen thuộc ở nhiều truyện. Còn ở đây, Vũ Thị Thường lại đặt vấn đề
ở một khía cạnh khác. Nhân vật Mùi trong truyện được chồng hết sức giúp
đỡ, công việc gia đình lại khá rảnh rang; vấn đề của câu chuyện không phải
xảy ra ở sự giúp đỡ mà lại xoáy vào cách giúp đỡ của người chồng, xã hội
ngày nay đã tạo điều kiện cho người phụ nữ mở rộng tầm nhìn, tầm nghĩ nên
dầu có kém chồng, có phải chịu ơn chồng, họ vẫn cảm thấy khó chịu với sự
giúp đỡ theo kiểu bề trên, với cái nhìn thương hại của chồng: “Giời ơi, em non
quá!”. Cách nhìn, cách giúp đỡ này tất nhiên sẽ dẫn người chồng đến chỗ
không hiểu và không chịu nổi, khi thấy vợ có ý kiến riêng, không đúng với
mình, và tới một lúc nào đó câu chuyện “xảy ra không tránh khỏi”.
Hoặc như trong Bông hoa súng, tác giả không xây dựng hình ảnh một
cán bộ hoàn toàn vô trách nhiệm hay có sai lầm lớn về lập trường tư tưởng.
Nhân vật Tấn ở đây một mặt thì tích cực xông xáo, muốn hoàn thành tốt công
việc được giao, nhưng mặt khác, do tinh thần trách nhiệm chưa đầy đủ, lại
chuộng hình thức nên đã để xảy ra tình trạng bỏ quên một nữ tiểu đội trưởng,
người tuy xấu, nhưng “củ mỉ củ mỉ, lặng lẽ cùng chị em lập hết thành tích này
đến thành tích khác”, đề cao một nữ dân quân khác, về hình thức thì có đẹp,
tuy cũng có đóng góp cho phong trào, nhưng chưa phải là người tiêu biểu.
Mãi đến lúc cán bộ tỉnh đội về, chuyện mới được giải quyết. Người báo cáo
điển hình lần này đã được chọn đúng; do bản thân cùng chị em lập thành tích
nên cô đã nói rất hay, rất tự nhiên, thoải mái, ai nghe cũng thích thú. Câu
chuyện giản dị nhưng có ý nghĩa, bởi trong cuộc sống, chúng ta cần thực sự
cầu thị, không thể để cho những “bông hoa súng” bị bỏ quên.
Vũ Thị Thường cũng mạnh dạn đi vào những mâu thuẫn phức tạp,
những vấn đề có thể gọi là hóc búa mà nếu người cầm bút không vững tay,
truyện viết sẽ hạn chế về tầm tư tưởng. Trong nền văn học mới, nói về một số
mặt tiêu cực còn tồn tại trong xã hội. chưa phải đã có nhiều nhà văn viết hay,
bởi viết thế nào cho vừa có tình, vừa có lý, phê phán nghiêm khắc được mặt
xấu, nhưng đồng thời khẳng định được mặt tốt, mặt bản chất của chế độ ta là
rất khó.
Thông thường trong nhiều truyện, người viết mới chỉ dừng lại ở chỗ để
cho những thanh niên tiến bộ thẳng thắn đấu tranh với những nhân vật bảo
thủ, lạc hậu, hoặc những người giữ các nhiệm vụ bình thường trong hợp tác
xã. Còn Vũ Thị Thường, trong Cái lạt, thì đã để một thanh niên dám phê bình
thẳng một đảng ủy viên, kiêm chủ nhiệm hợp tác xã. Người đọc rất sảng
khoái khi nghe một thanh niên mới lớn lên, dám nói hết những điều mình nghĩ
về một đồng chí già, một đồng chí mà anh từng chịu ơn, dắt dẫn anh vào
Đảng, giúp anh trở thành đảng ủy viên… Làm việc này, anh đã phải suy nghĩ
rất nhiều, bởi anh phải nói hết ra mọi sự thật, như thế thì ơn của đồng chí đối
với mình mới thật sự là tốt, nếu không, đó chỉ là những sự mua chuộc, vả
mình trở thành “tay chân” của đồng chí mình, hay đúng ra là “một tên thỏa
hiệp”. Ông chủ nhiệm này mặc dầu có những đóng góp tích cực, nhưng đã
tham ô của hợp tác xã. Việc tham ô của ông Luận tuy không lớn lắm, nhưng
lâu dần, gộp lại mỗi thứ một ít, nên đã tới lúc không thể bỏ qua. Những việc
này hầu như cả hợp tác xã ai cũng biết, nhưng “ai cũng né tránh, cũng lấn
cấn lẽ này lẽ nọ”, không nỡ nói ra, phải đến Ứng mới làm được. Thành công
chính của truyện là ở chỗ tác giả phê phán sự tha hóa, đồng thời vẫn nói lên
được người cán bộ Đảng ta, dù có mặt sai lầm nhưng vẫn có những đóng
góp tích cực đối với nhân dân, mặt khác khuyến khích được thanh niên đấu
tranh thẳng thắn với những sai trái, Ứng vạch rõ cái thực chất nguy hại của
những thủ đoạn “mua chuộc” tinh vi, kiểu “lạt mềm buộc chặt” của ông Luận.
Cái cách mua chuộc của ông Luận đã khiến Duyện, mội đảng ủy viên, thường
có nhiều suy nghĩ khá đúng đắn, nhưng vì ơn huệ “nề nả” (ông Luận đã quan
tâm giúp đỡ, có khi cứu giúp gia đình anh, nhiều lúc còn góp ý tận tình cho
Duyện ngay cả trong công tác) mà cứ ngần ngại, e dè không nỡ nói ra, thậm
chí có lúc còn lờ mờ không nhìn rõ khuyết điểm của ông ta nữa. Mãi đến khi
Ứng nói ra tất cả sự thật thì Duyện mới bừng tỉnh mà nhìn lại quan hệ giữa
mình và ông Luận. Tất nhiên, sau đó anh sẽ xác định lại thái độ của anh. Ở
đây, tác giả còn nói đến trách nhiệm của tập thể trong sự sai lầm của cá
nhân, khi chị nêu rõ sự né tránh, lấn cấn của nhiều người, cả đồng chí bí thư
Đảng ủy cũng “dĩ hòa vi quý”. Trong chế độ ta, mỗi cá nhân phải có trách
nhiệm đối với tập thể, nhưng ngược lại, tập thể cũng phải có trách nhiệm đối
với mỗi cá nhân. Vũ Thị Thường còn nhấn mạnh điều này cả trong Cái bi kịch
của một ông chủ nhiệm. Ông này làm việc khá tốt, chỉ phải cái chủ quan, kiêu
căng không chịu hỏi các hợp tác xã bạn, làm cho hợp tác xã đang là đầu tầu
bị tụt xuống. Chị Nhẫn, bí thư chi bộ đã nói với Hệ, phó chủ nhiệm hợp tác xã:
“Tôi nói chi bộ kiểm điểm là kiểm điểm chung, phong trào hợp tác xã mình
xẹp, anh tưởng không có lỗi của tôi, của anh vào đấy à?”
Phần lớn truyện của Vũ Thị Thường, trong đó có những truyện hay,
thường đi vào khai thác những khía cạnh tâm tư, tình cảm của những con
người bình thường, không giữ những nhiệm vụ quan trọng. Nhưng trong một
số truyện thuộc khuynh hướng phê phán, Vũ Thị Thường chủ yếu đi vào mặt
chính của những con người đứng ở mũi nhọn của cuộc sống trên mặt trận
sản xuất với những công việc, cách làm, nếp nghĩ của họ, có động chạm tới
nhiều người, nhiều việc, ảnh hưởng đến tổ chức, quản lý sản xuất… tức là
những vấn đề có ảnh hưởng tới năng suất, có tầm quan trọng trong một
phạm vi xã hội nhất định. Do đó, ở đây sức đặt vấn đề của tác giả đã được
nâng lên rõ ràng. Mặt khác, cái đáng quý ỏ Vũ Thị Thường là chị biết lượng
sức ngòi bút của mình, như chị đã từng tâm sự trong khi trao đổi riêng: “Tôi
không muốn kiễng chân”. Thành ra trong một số truyện của chị, các vấn đề
nêu ra tuy không lớn lắm, nhưng với cách giải quyết thỏa đáng, cách phân
tích tâm lý nhân vật khá tinh tế, sâu sắc, không để người đọc thấy có sự khiên
cưỡng giả tạo, không để lộ rõ bàn tay bố trí, sắp xếp của tác giả, nên được
bạn đọc đồng tình.
Chính do ưu điểm đó mà một số truyện ngắn của Vũ Thị Thường quả
đã gây được sự chú ý của người đọc và có một tác dụng giáo dục nhất định.
Quả thật, trong phạm vi đời sống gia đình, có không ít người, nhất là phụ nữ,
có lúc nào đó quá lo lắng chăm chút cho hạnh phúc riêng của mình, đến nỗi
ảnh hưởng đến công tác chung, thì đọc Cái riêng bé nhỏ không thể không liên
hệ và suy nghĩ. Hoặc trong phạm vi quan hệ bạn bè, đồng chí với nhau ở một
tập thể lớn hoặc nhỏ có lẽ cũng cần xem lại xem có vấn đề “cái lạt” không?
Mỗi cá nhân cũng nên nghiêm khắc, tỉnh táo tự nhìn lại xem mình có sử dụng
những “cái lạt” không, hoặc có bị những “cái lạt” nào đó ràng buộc không?
Trong gia đình, sự giúp đỡ nhau giữa vợ chồng trong phạm vi công tác nếu
có điều kiện là rất tốt, nhưng cũng nên đề phòng tình trạng như “câu chuyên
xảy ra không tránh khỏi”. Nói rộng ra, ngoài xã hội, một thái độ giúp đỡ khiến
cho người chịu sự giúp đỡ phải ở dưới tầm tay của mình cũng là điều cần suy
nghĩ đối với một số bậc đàn anh.
Cái nhìn của Vũ Thị Thường vốn ưu ái. Ngay cả khi chị phê phán, lên
án những mặt tiêu cực, người ta vẫn thấy cái nét ưu ái đó. Như ông Luận
trong Cái lạt, tuy là nhân vật có sai lầm, nhưng cũng chẳng vì thế mà chị bỏ
quên những đóng góp tích cực của ông đối với nhân dân. Cái sai của ông ta
là do chủ nghĩa cá nhân, tư tưởng quá lo lắng, vun quén cho mình của những
người quen làm ăn riêng lẻ lừ bao lâu nay. Mặt khác ông cũng là người có
công với hợp tác xã. Không có ông ta, chưa chắc cái Vạn Thắng này đã được
xếp vào loại tiếng tăm trong huyện, mà có phải một năm, hàng bảy tám năm
nay nó vẫn vững vàng như thế”. Ông Luận không phải là một người xấu, khó
cải tạo. Với những người xấu hẳn thì vấn đề thật đơn giản, dễ thấy. Đằng
này, ông Luận có tội, lại cũng có công. Do đó, ở đây đòi hỏi tác giả vừa phải
phê phán nghiêm khắc, rạch ròi, lại vừa phải có cái nhìn độ lượng, đúng mức.
Vũ Thị Thường đã làm được điều đó. Chính đây là ưu điểm nổi bật của chị
khác với cái nhìn sắc lạnh của một số nhà văn khác khi viết về mặt tiêu cực
trong nội bộ nhân dân.
***
Tuy sức đặt vấn đề của Vũ Thị Thường ngày càng được nâng cao,
nhưng đọc giả vẫn muốn đòi hỏi hơn ở chị. Một truyện muốn có sức khuấy
động đông đảo bạn đọc thì vấn đề nêu lên phải có tầm lớn về tư tưởng,
những người, những việc nêu lên phải tiêu biểu cho mặt này, mặt khác của
thời đại. Loại truyện này của Vũ Thị Thường chưa có nhiều. Bên cạnh đó,
những thanh niên vốn là lực lượng đầu tầu trong sản xuất và chiến đấu, như
Hược (Xung khắc), Ứng (Cái lạt), Ngọ (Chúng tôi…) chưa nhiều đã đành, lại
còn chưa được thể hiện thật sinh động. Mặt khác, những nhân vật sâu sắc, rõ
nét lại thuộc lớp người sống dưới hai chế độ như chị Bộc (Gánh vác), chị
Phức (Theo chồng)… với những đức tính truyền thống đáng ca ngợi, nhưng
dù sao ta vẫn thấy ở họ những nét về người phụ nữ cũ đậm hơn, việc làm
của họ vẫn mang ít nhiều tính chất thụ động, chịu đựng, thiếu sự xông xáo, tự
tin như thường thấy trong lớp phụ nữ mới. Thực tế kháng chiến chống Mỹ ở
miền Bắc đã xuất hiện vô vàn những người mẹ, người vợ, có chồng con đi
chiến đấu xa, đã dũng cảm tay cày, tay súng, đảm đang việc nhà, tham gia
công tác xã hội một cách xuất sắc. Cho nên hình ảnh bà lão trong Vợ chồng
ông lão chăn vịt so với biết bao bà mẹ chiến sĩ khác thì thấy có vẻ cũ kỹ.
Ngay những chị Bộc, chị Phức, trong thời kỳ tổ chức đổi công hoặc mới xây
dựng hợp tác xã (cấp thấp) thì còn có tác dụng tốt đối với nhiều bà con nông
dân, chứ tới giai đoạn này, thì đã trở thành bình thường, ít tác dụng thúc đẩy.
Tất nhiên, có những truyện phản ánh những con người trong một giai đoạn
nhất định vẫn giữ được giá trị lớn của nó khi xã hội đã chuyển sang giai đoạn
cao hơn, nhưng đấy không phải là trường hợp của những truyện Gánh vác,
Theo chồng… Người đọc muốn Vũ Thị Thường thể hiện thật tốt những phụ
nữ, nhất là lớp trung niên với tư thế của con người mới, tiên tiến, tiêu biểu
cho giai đoạn chống Mỹ, cứu nước và xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nông thôn
ta. Tất nhiên, đi vào đề tài nào, loại nhân vật nào là tùy ở sở trường riêng của
người cầm bút, nhưng dẫu sao tác phẩm có giá trị cao và lâu dài vẫn phải là
tác phẩm ghi lại được những người, những việc tiêu biểu cho thời đại, nhất là
thời đại anh hùng của chúng ta ngày nay.
Để khắc phục chỗ yếu đó, người viết cần luôn luôn bám chắc vào đời
sống. Sự bám chắc đó, người đọc cảm thấy ở Vũ Thị Thường mấy năm gần
đây dường như có sút đi.
Nhiẽu người còn thấy một số truyện của Vũ Thị Thường đơn điệu, bằng
phẳng, thậm chí có người cho đấy chỉ là những “ấn bản khác nhau của cùng
một mẫu người”. Theo chúng tôi, đúng là một số truyện của chị, để riêng thì
vẫn đọc được, nhưng nếu đem đọc cùng một lúc thì thấy hơi nhàm, bởi chủ
đề cơ bản của chúng không khác nhau bao nhiêu. Đó là trường hợp những
truyện như Một ngày, Neo đơn, Ông chủ tịch xã, Ông Nguyện, Bức thư của
một ông bố, v.v… Những truyện này tuy đề tài cụ thể có khác nhau, nhưng
chủ yếu đều nhằm ca ngợi sự tích cực và tinh thần trách nhiệm của hững cán
bộ cơ sở ở nông thôn. Có truyện đã rơi vào tình trạng lặp lại, như Cái
Khuyên, viết về một em bé chịu khó giúp đỡ mẹ trong khi bố đi tái ngũ. Thực
ra, chỉ cần một đoạn viết về em Thắng trong Từ mỗi căn nhà như thế cũng đủ
để nói lên sự chuyển biến của một em bé vừa dễ thương, dễ yêu, mặc dầu
em chỉ như một chấm sáng tô đậm thêm cho chủ đề của truyện. Ở truyện Cái
Khuyên, em này đã chín tuổi, làm một số việc như thổi cơm, trông em,… mà
ngay con cán bộ ở thành phố cũng nhiều em làm được hơn thế. Em Khuyên
lại có vẻ thương thương, tội tội, và mẹ em cứ bùi ngùi không yên tâm để em
làm những việc cần thiết giúp mình để có thì giờ công tác. Vũ Thị Thường còn
viết một số truyện khác, chủ yếu cho các em, trong đó có truyện hay, giúp cho
trí tưởng tượng của các em thêm phong phú như Những chuyện tưởng tượng
của bé Hồng, nhưng lại có truyện chưa hay, và đứng ở góc độ giáo dục thiếu
nhi mà nói thì cũng có khía cạnh khiến cho một số người đọc chưa thật tán
thành, như Chuyện về một con mèo.
Ưu điểm của Vũ Thị Thường là sự hiểu biết, yêu mến và gần gũi người
nông dân. Nhưng có lẽ cũng cần nói thêm là do nhiều khi không giữ được
mức độ trong tình cảm, nên có những lúc dường như chị ca ngợi một chiều
cả những cái chưa tốt, chưa phù hợp với nền sản xuất mới. Người đọc có
cảm giác chị đồng tình, ca ngợi có phần khâm phục cả cái cách sống tất bật,
luộm thuộm thiếu khoa học, thiếu trách nhiệm đối với gia đình của một số cán
bộ. Đúng là trong hoàn cảnh nước ta, người cán bộ cơ sở còn phải chịu đựng
nhiều khó khăn, vất vả, và ở họ có mặt đáng biểu dương là nhiều người hầu
như không nghĩ đến hạnh phúc cá nhân, đến lợi ích riêng cho gia đình mà lúc
nào cũng lo lắng cho tập thể. Nhưng nền sản xuất phát triển đòi hỏi một nếp
sống ngày càng văn minh, khoa học, có tổ chức cao; nó không dung nạp
được những tập quán, nếp sống của lối làm ăn theo kiểu sản xuất nhỏ. Văn
học nghệ thuật không phải chỉ có chức năng phản ánh hiện thực mà còn có
chức năng giáo dục. Vì thế, khi nhà văn phản ánh những nếp sống, cách làm
việc chưa tốt thì cần có thái độ phê phán, để góp phần cải tiến công tác và
nếp sống cho những cán bộ cơ sở. Đọc Vũ Thị Thường, người đọc có cảm
giác người cán bộ nông thôn tuy về tinh thần có phấn khởi, tự hào, nhưng sao
nó bề bộn, căng thẳng, và về cách sống thì quá luộm thuộm, đôi khi lạc hậu.
Họ họp hành liên miên “ngày nào cũng bận rối tinh lên” thường là đêm khuya
mới “lọ mọ về”. Họ lo lắng việc chung thì thấu đáo, thuộc vanh vách từng hộ
trong hợp tác xã, nhưng việc nhà cửa thì khoán trắng cho vợ con. Có người
cả năm có một lần hứa giúp vợ đánh đống rơm, thì cũng lại bỏ đấy. Người
khác thì hoàn cảnh túng thiếu, con đã hàng đàn mà vợ vẫn cứ tiếp tục đẻ,
v.v…
Quả thật, đất nước ta sau mấy chục năm dưới chế độ mới đã có những
bước tiến lớn lao, nhưng đời sông nông thôn vẫn còn những mặt nghèo nàn
và lạc hậu; mỗi nhà văn cần có ý thức đóng góp phần mình vào công cuộc cải
tạo và xây dựng cho nông thôn ngày càng tươi đẹp, rạng rỡ hơn lên.
NGUYỄN ĐỊCH DŨNG và bức tranh ấm áp của nông thôn trong quan hệ sản xuất mới
Qua hai tập truyện của Nguyễn Địch Dũng: Hai vợ (1959), Trai làng
Quyền (1965) chúng ta cảm thấy đâu đây gần lắm và quen thuộc lắm khung
cảnh làng quê của chúng ta với những đêm sương, những gốc đa, bến nước,
bờ ao…
Tuy nhiên, khung cảnh đó không phải chỉ có riêng trong truyện ngắn
của Nguyễn Địch Dũng. Sáng tác của Nguyễn Địch Dũng lôi cuốn chúng ta
chủ yếu là ở chỗ anh đã nêu lên được một cách khá tinh vi những biến đổi
lớn lao trong đời sống nông thôn sau Cách mạng. Cuộc cách mạng về quan
hệ sản xuất đã làm cho toàn bộ lĩnh vực ý thức, tinh thần của con người sớm
muộn cũng phải thay đổi theo. Cuộc cách mạng không những đem lại ruộng
đất, cơm áo cho nông dân lao động mà còn giáng một đòn mạnh mẽ vào tất
cả mọi thành trì của tư tưởng cũ, làm cho đời sống con người trở nên thoải
mái, vui tươi, làm cho mọi quan hệ xã nội, mọi tình cảm của con người: cha
con, anh em, vợ chồng, bè bạn, láng giềng… cũng đều khác trước, mang
theo một màu sắc riêng, đậm đà và trong trẻo hơn.
***
Một nhà nêu vấn đề đấu tranh giữa hai luồng tư tưởng cũ và mới của
một người trung nông khi đi vào hợp tác xã. Vấn đề người nông dân tham gia
hợp tác xã hoặc tổ đổi công là một thực tế lớn ở nông thôn đã có nhiều tác
phẩm mô tả. Cái khó là làm sao tránh được những vết mòn của người đi
trước, chẳng hạn cái công thức “vào–ra–vào” vì những lý do gì đó rất giống
nhau. Nhìn chung, nhiều người viết thường hay lạm dụng việc mô tả những
khó khăn hoặc tai họa ngẫu nhiên để bó buộc nhân vật phải vào hợp tác xã,
trong khi tính ưu việt của hợp tác xã lại chỉ được miêu tả một cách đơn giản.
Cố nhiên cũng nên tránh cái nhìn phức tạp một cách giả tạo: cường điệu
những mặt tiêu cực của đời sống, khoác cho con người một bộ mặt lúc nào
cũng sầu thảm, hoặc làm cho những đấu tranh nội tâm của họ lúc nào cũng
có vẻ gay go, éo le, không thích hợp với hoàn cảnh của họ.
Trong Một nhà, tác giả nhấn mạnh đầu óc thiết thực của người trung
nông. Anh không tạo ra một tình huống đặc biệt để buộc người ta vào hợp tác
xã một cách bất đắc dĩ. Sản xuất của nhà ông Rĩ vẫn có vẻ phát đạt do ông
cố đua tranh với hợp tác xã. Nhưng dù có phát đạt bao nhiêu, ông vẫn cảm
thấy mong manh, không tin tưởng ở mình. Ông nhìn cơ đồ hợp tác xã với tâm
lý lo ngại và biết chắc thế nào mình cũng thua trong cuộc chạy đua với tập
thể. Tác giả không chú ý dựng trực tiếp bộ mặt hợp tác xã, nhưng cũng hé
cho ta thấy cơ đồ tập thể ngày một lớn lên, trong cảnh làm ăn đông vui, trong
phương hướng trang bị máy móc, cải tiến kỹ thuật, và trong sinh hoạt tinh
thần phấn khởi của con người. Chính đầu óc thiết thực làm cho ông Rĩ trước
đây “chân trong chân ngoài”, thì bây giờ, cũng chính với đầu óc ấy, ông sẽ xin
vào hợp tác xã.
Tác giả đồng thời cho ta thấy khi quan hệ sản xuất trong đời sống nông
thôn thay đổi thì tâm lý gia trưởng của người nông dân cũng rạn vỡ dần. Ông
Rĩ rất buồn phiền vì thấy mình không tài nào điều khiển được vợ chồng đứa
con trai cũng như đàn em của ông theo ý muốn. Ông không thể lấy quyền làm
cha, làm anh, làm người trưởng họ để sai khiến, bảo ban họ như hồi còn làm
ăn riêng lẻ. Họ đã có một cuộc đời mới, khác với cách sắp đặt của ông, chẳng
những có thể tự bảo đảm đời mình, mà còn luôn luôn giở lý sự, thuyết phục
ông cùng đi theo con đường của họ. Ông càng bực bội vì đứa con trai cùng
sống chung “một nhà”. Trong suy nghĩ của ông, anh con trai vốn chỉ là một
đứa trẻ khờ dại và xốc nổi. Còn bà mẹ thì căm tức con dâu vì lẽ “thoát khỏi
bàn tay của bà mà vẫn phởn phơ, vẫn tươi hơn hoa, đời sống lại cứ ngày một
dễ chịu ra… “. Thế nhưng, khi trong lòng ông sự đố kỵ với tập thể bớt dần; thì
cách nhìn của ông đối với vợ chồng đứa con và mấy đứa em cũng không còn
khe khắt lắm nữa. Ông hiểu con ông không phải là cứng cổ. Nó có cái lý đúng
của nó. Ông biết nó cũng rất thương bố mẹ, nhưng là thương theo cách của
nó: muốn đưa ông thoát khỏi con đường làm ăn luẩn quẩn cò con. Và khi ông
nhận ra điều đó thì mâu thuẫn trong gia đình được gỡ ra dần, nỗi phiền muộn
của ông cũng tiêu tan. Cha con cùng đi chung đường, nên cảnh sống “một
nhà” không còn gây khó chịu, trái lại càng thêm hòa thuận.
Một nhà trực tiếp phản ánh cuộc đấu tranh giữa hai con đường trong
đời sống nông thôn, đồng thời chứng minh tính ưu việt của quan hệ sản xuất
mới. Một số truyện khác của Nguyễn Địch Dũng như Trai làng Quyền, Nhà chị
Nhỡ, Quê hương, tuy không miêu tả trực tiếp cuộc đấu tranh đó nhưng cũng
nêu lên được một vài nét đổi mới trong sinh hoạt tinh thần của người nông
dân. Thiên truyện xuất sắc về chủ đề này là Quê hương, miêu tả một chuyến
về thăm nhà của một người con xa quê từ nạn đói năm Ất Dậu, nay trở về
thấy quê hương rất khác xưa.
Đúng là tình yêu quê hương vốn có những nét riêng và bao giờ cũng
dạt dào trong chúng ta. Ai trong chúng ta, trong tâm hồn không dành một
khoảng cho quê hương. Hình ảnh ông Bổng ngổn ngang trăm mối tâm sự trên
con đường về quê gợi cho ta nhiều nỗi đồng tình. Chúng ta chờ đợi những
chuyện bất ngờ. Nhưng sự thực lại rất giản dị. Những lời chào hỏi, bát nước,
miếng trầu, bữa cơm, câu chuyện… tất cả đều nhanh chóng kéo ta về gội
trong không khí quen thuộc của quê hương dù xa cách bao nhiêu năm tháng
vẫn giữ nguyên vẻ mộc mạc, hiền hòa.
Nhưng thiên truyện không chỉ nói riêng tình yêu quê hương. Đúng hơn,
thông qua tình yêu quê hương người viết muốn nói một tình cảm chung, lớn
hơn: tình yêu chế độ, yêu cách mạng. Nhà văn đem đối chiếu cho ta thấy sự
khác nhau giữa cảnh ấm no, đoàn tụ trong các gia đình, bộ mặt vui tươi của
con người bây giờ với cảnh chết chóc, ly tán năm xưa. vẻ đẹp của chế độ
mới, của quan hệ sản xuất mới càng thấm thía hơn thông qua nỗi mừng tủi
nghẹn ngào của một người con đã trải qua nhiều cay đắng trong cuộc đời cũ.
Tình yêu quê hương ở đây, do vậy, gắn bó chặt chẽ với tình yêu cách mạng,
càng yêu quê hương lại càng thêm yêu cách mạng.
Mặt khác, chính tình cảm gắn bó với cách mạng đã làm cho tình yêu
quê hương không còn bị hạn chế trong khuôn khổ bình thường. Khi quan hệ
sản xuất đã đổi mới, và trong đời sống không còn giai cấp bóc lột, khi quan hệ
giữa người với người được xây dựng trên tình giai cấp, tình đồng chí rất sâu,
thì quan niệm về quê hương sẽ được mở rộng. Quê hương không còn là
miếng đất nhỏ hẹp quây quần một số người thân cùng chung huyết thống, gia
tộc, gia đình. Nơi nào trên đất nước chúng ta bây giờ cũng đều có thể là quê
hương vì nơi nào cũng đều có sự săn sóc của Đảng và Chính phủ, cũng đều
có tình cảm tốt đẹp của nhân dân lao động đối với nhau. Lòng yêu nơi chôn
rau cắt rốn vẫn thiết tha như cũ, nhưng dù có xa quê hương, xa người thân,
người ta vẫn tìm được những tình cảm ấm áp, che chở của đồng chí, đồng
bào. Cuộc sống bây giờ dù ở đâu cũng không còn là “đất khách quê người”,
nhất là trên đất nước mình. Chính tình cảm giai cấp là tình cảm cách mạng
nhất Đảng đem lại cho chúng ta đã làm đổi mới mọi tình cảm khác trong đời
sống xã hội. Thiên truyện của Nguyễn Địch Dũng thể hiện được khá sâu khía
cạnh tinh cảm mới mẻ này. Ở đây ta cảm động trước nỗi mừng tủi nghẹn
ngào của ông Bổng khi về quê cũ, nhưng ta càng cảm động hơn khi nỗi nhớ
quê mới lại làm ông bồn chồn. Và cái điều ông quyết định: sẽ trở về quê mới,
lại làm chúng ta đồng tình. Ông sẽ lại từ giã Thái Bình để về Phú Thọ, nơi đó
cũng có gia đình, có bà con hợp tác tuy không cùng máu mủ, nhưng đối với
ông cũng rất thân yêu. Tuy nhiên, rời quê hương cũ, lòng ông không khỏi bịn
rịn. Ông đã quyết định gửi đứa con gái về ở với người anh ruột để giữ đường
đi lối lại sau này, và để cho lòng ông đỡ áy náy…
Bấy nhiêu khía cạnh tình cảm đó của nhân vật làm cho Quê hương có
sức lôi cuốn của một bài thơ trữ tình. Tác giả đi sâu vào nhiều khía cạnh tâm
tình tinh vi và xúc động để thể hiện sự gắn bó sâu sắc giữa người nông dân
với chế độ mới. Cũng cần lưu ý thêm thứ màu sắc bình dị, thứ không khí ấm
áp, quen thuộc rất đặc biệt của thiên truyện, toát lên từ cảnh và người, – đúng
là cảnh và người nông thôn chúng ta.
***
Trên phương hướng khám phá những biến đổi mới trong đời sống
nông thôn, sáng tác của Nguyễn Địch Dũng còn có những đóng góp đáng kể
trong việc xây dựng hình ảnh con người mới. Cố nhiên về phương diện này,
hiếm có nhà văn nào dám quả quyết là mình đã làm cho bạn đọc hoàn toàn
thỏa mãn. Nguyễn Địch Dũng cũng vậy. Anh chưa có khả năng miêu tả được
nhiều loại người. Đối với lớp thanh niên trẻ, anh chỉ mới ghi được một vài
khía cạnh trong tình vêu, trong sinh hoạt vui tươi, trẻ trung của họ mà thôi
(Ngày xuân). Nhưng ngòi bút của anh lại tỏ ra sắc sảo khi khắc họa hình ảnh
người phụ nữ mới. Thiên truyện hay hơn cả trong hai tập sáng tác của anh là
Người vợ.
Người vợ miêu tả sinh hoạt gia đình của vợ chồng Túc và Đoan, cả hai
đều là cán bộ xã. Đoan trong công tác rất tiến bộ nên được nhân dân tín
nhiệm. Chồng Đoan là Túc, dần dần thấy mình thua kém vợ nên chạnh lòng.
Anh sinh ra lo nghĩ, cáu bẳn, hễ có cớ là gây sự với Đoan. Những lúc Đoan
bận việc chung hoặc đi họp về muộn, không kịp chăm lo con cái, bếp núc, lợn
gà! Túc lại có cớ ể chì chiết Đoan. Đoan biết vậy nên cố làm tốt việc nhà, và
nhất là cố cảm hóa chồng, mong chồng cũng vươn lên như mình. Mâu thuẫn
đến độ cao khi Túc nhận được bài báo viết về Đoan, trong đó có đoạn nói đến
chuyện “người phụ nữ mới” ấy phải đấu tranh với một anh chồng “lạc hậu” để
vươn lên như thế nào. Giận quá mất khôn, Túc tát vợ. Nhưng rồi người chồng
biết lỗi ngay. Đoan tuy rất giận chồng, nhưng hiểu tâm trạng chồng, chị không
“làm to” việc này…
Truyện nêu được những khó khăn thực tế trong quá trình vươn lên của
người phụ nữ. Họ phải vượt qua rất nhiều trở ngại mới có thể tham gia được
công tác chung. Đây là vấn đề lớn mà nhiều người viết chúng ta nói chung từ
trước đến nay còn chưa miêu tả được sâu. Một số bạn viết xem việc người
phụ nữ tham gia công tác xã hội như một việc dễ dàng, chưa thấy hết những
khó khăn của người phụ nữ lớn hơn rất nhiều so với khó khăn của nam giới
khi tham gia công tác xã hội; cho nên hình ảnh người phụ nữ mới trong một
số truyện của họ còn đơn giản và thấp hơn đời sống rất nhiều. Người viết
cũng chưa làm cho thấy rõ phương hướng giải quyết triệt để những khó khăn
lớn của người phụ nữ, chẳng hạn trong khi tham gia công tác chung, họ còn
phải đảm đang việc nhà, việc nuôi con. Sự thật là việc trông nhà, nuôi con, nói
chung là gánh nặng gia đình, trong hoàn cảnh nền sản xuất xã hội và tổ chức
đời sống của chúng ta chưa phát triển, còn gây cản trở không ít cho người
phụ nữ tham gia công tác xã hội. Người phụ nữ còn phải đấu tranh với những
tư tưởng lạc hậu còn tồn tại ở nhiều người, và ngay cả trong những người
thân của mình, thậm chí cả với những người thân cũng là cán bộ như kiểu
anh chồng của Đoan. Vợ tham gia công tác tốt, đó là điều làm cho nhiều
người chồng vui mừng; nhưng nếu có phải vì vậy mà anh bận bịu hơn, hoặc
nếu quyền làm chồng của anh có bị lung lay theo một cách nghĩ còn nặng đầu
óc gia trưởng nào đấy, thì có khi chưa biết chừng, có anh chồng lại đề ra yêu
cầu phải “xét lại” việc “tiến bộ” của người vợ. Đó là không kể người phụ nữ,
còn phải tự mình giải phóng mình ra khỏi tâm lý tự ti giới tính và hệ ý thức
phong kiến còn dai dẳng trong đầu óc họ. Có thấy được rất nhiều khó khăn đè
nặng trên vai người phụ nữ thì mới có thể nêu lên được những khía cạnh
thiết thực, mới mẻ trong vấn đề giải phóng phụ nữ và làm cho hình ảnh nhân
vật có chiều sâu.
Nhìn chung, trong Người vợ, Nguyễn Địch Dũng đã nêu lên được khá
nhiều mặt và một cách khá sinh động những gì còn “níu áo” người phụ nữ,
còn kìm hãm bước tiến lên của họ. Đồng thời qua những cuộc đấu tranh khá
gay go đó, vẻ đẹp của người phụ nữ mới cũng hiện lên rất rõ.
Tác giả không tô đậm mặt tiêu cực của người chồng, không dồn cho
người chồng nhiều nét xấu để mong làm nổi hình ảnh người vợ lên, như một
số người viết chúng ta hay làm. (Có lẽ có tình hình ngược lại là tác giả còn coi
nhẹ chuyện Túc tát vợ. Tác giả chưa làm cho bạn đọc thấy chuyện Túc tát vợ,
và nói chung, chuyện người chồng hành hạ vợ theo lối phong kiến đó là tàn
nhẫn, man rợ, không thể tha thứ được!). Ở đây, nhà văn trực tiếp đi sâu vào
vẻ đẹp tâm hồn và lý tưởng của Đoan, thông qua cách chị xử lý đúng đắn mối
quan hệ vợ chồng, mối quan hệ giữa việc nhà và việc xã hội.
Giải quyết mâu thuẫn gia đình, Đoan không có thái độ cứng cỏi một
cách giả tạo: bỏ bê tất cả việc nhà, sát phạt thật dữ với chồng, bỏ mặc ngoài
tai những chuyện eo sèo… để lao vào công tác chung. Nhưng chị cũng không
tiêu cực trước thái độ của chồng, lùi về công tác gia đình, theo kiểu những
người vợ, người mẹ ngày xưa luôn chịu phận thiệt thòi, luôn cam chịu hy
sinh. Lâu nay, trên một số sáng tác của chúng ta, người viết thường có xu
hướng biểu dương người phụ nữ ở khía cạnh này: làm tốt mọi việc nhà, hy
sinh tất cả cho chồng con… Người viết có ưu điểm là miêu tả với lòng trân
trọng và thương cảm những người phụ nữ có một vẻ đẹp gì đó rất xưa.
Nhưng nếu chỉ vậy thôi thì không đủ. Hơn nữa, còn có một vẻ gì hơi tội
nghiệp. Người phụ nữ mới trong cuộc sống lớn hơn nhiều. Nếu xem vẻ đẹp
của người phụ nữ mới chỉ có bấy nhiêu nét: dịu dàng, kín đáo, hy sinh cho
chồng con như trong ca dao xưa thì không tương xứng với thực tế bây giờ,
và rõ ràng là quan niệm của người viết cũng chưa được cách mạng lắm. Cần
phải thấy người phụ nữ mới bây giờ đang thực sự có những đóng góp lớn lao
cho xã hội, để có sự biểu dương xứng đáng vai trò của họ. Mặt khác, cũng là
để yêu cầu họ ngày càng vươn cao hơn. Giải phóng phụ nữ có nghĩa là
khuyến khích, động viên, tạo điều kiện cho chị em tham gia vào công tác
chung. Có bình đẳng trong những đóng góp cho xã hội thì mới thực sự có
bình đẳng trong đời sống gia đình.
Hình ảnh Đoan trong Người vợ đã được tác giả xây dựng theo một lý
tưởng thẩm mỹ đúng đắn. Chị là hình ảnh người phụ nữ mới, hoàn toàn mới
trong tình cảm, suy nghĩ và việc làm; mới cả trong những nét dịu dàng, kín
đáo, rất xưa, rất Việt Nam.
Đi sâu vào mâu thuẫn gia đình Túc và Đoan, người viết cũng gợi ra cho
ta phương hướng đúng đắn để xây dựng hạnh phúc gia đình. Mâu thuẫn
trong gia đình Túc và Đoan được giải quyết không phải một cách đột ngột do
một duyên có ngẫu nhiên nào đó bên ngoài. Mâu thuẫn gia đình đưọc giải
quyết trên cơ sở tình yêu của họ đối với nhau. Và đó là cách tốt nhất. Do yêu
nhau, hiểu nhau, họ nhìn thấy thiện chí và mặt tốt của nhau. Người vợ ở đây
rất thấu lý và đạt tình. Chị đấu tranh không nhân nhượng với những mặt tiêu
cực của chồng một cách khéo léo, rất “tâm lý”, vì hiểu được những uẩn khúc
trong tâm trạng chồng. Người chồng trước thái độ đúng mực của vợ cũng dần
dần thấy rõ mình sai. Họ xích lại gần nhau một cách dễ dàng nhưng không
đơn giản. Hạnh phúc của gia đình họ được nối lại tuy trước hết là do vẻ đẹp
và sức cảm hóa của người vợ, nhưng cũng rất quan trọng là cái khâu giác
ngộ này của anh chồng: “Trước sau Đoan vẫn chỉ là người vợ dịu dàng, đáng
yêu và biết kính trọng chồng (…) Túc càng cảm thấy bấy nay anh chỉ là một
người chồng hẹp hòi, ích kỷ. Anh yêu vợ thiết tha nhưng tình yêu đó như thể
của một người trên đối vời kẻ dưới. Anh thích vợ phải phục tùng mình hơn là
tôn trọng ý kiến của vợ…” Mới hay, ý thức gia trưởng trong đầu óc nhiều ông
chồng, kể cả những ông chồng “đồng chí”, không phải là cái gì quá nhẹ nhàng
trong đời sống chúng ta. Bài học rút ra ở đây là: hạnh phúc gia đình phải
được xây dựng trên cơ sở bình đẳng, vự chồng cùng giúp nhau tiến bộ, chứ
không thể là chuyện cầu tiến bộ riêng cho người nào, càng không phải chỉ có
chuyện cầu tiến bộ riêng cho người chồng. Và tình yêu, sự tôn trọng lẫn nhau
chính là cơ sở tốt nhất để giải quyết mọi rắc rối thường khi vẫn xảy ra trong
đời sống gia đình của chúng ta.
***
Bẵng đi một thời gian khá dài, phải đến mười năm sau, Nguyễn Địch
Dũng mới lại xuất hiện, và lần này với một truyện vừa Người ở nhà (1974).
Tuy xa cách lâu, nhưng ngưỡi đọc vẫn nhận ra những dáng nét quen thuộc ở
Nguyễn Địch Dũng: vẫn những cảnh ấy, người ấy, vẫn những âm điệu quen
thuộc ấy, vẫn một cách nói, cách kể ấm áp, nhuần nhị ấy…
Nông thôn vẫn là đối tượng quan sát của anh, nông thôn vẫn là môi
trường quen thuộc của anh.
Nhưng gần mười năm qua rồi, sau Trai làng Quyền. Trong quãng thời
gian ấy, nhân dân ta đã tiến hành một cuộc kháng chiến lần thứ hai, đưa đến
chiến thắng vĩ đại cuối 1972; và mặc dầu chiến tranh, nhân dân ta vẫn tiến
hành xây dựng chủ nghĩa xã hội. Bởi cảnh đó nhất định sẽ đem lại cho sáng
tác những nét mới; và Nguyễn Địch Dũng, trong cuốn tiểu thuyết mới của
mình cũng đã có những cố gắng để ghi lại.
“Người ở nhà” – chuyện hậu phương. Nói “người ở nhà” là để phân
biệt, để “đối thoại” với “người ra đi”. Trong chiến đấu, tất cả cho tiền tuyến.
Nhưng hậu phương, hậu phương xã hội chủ nghĩa vẫn đóng vai trò là chỗ
dựa quan trọng, là cái nôi vững chẳc cho tiền tuyến. Nhận thức ấy, chúng ta
đã được làm quen qua nhiều sáng tác ngắn và dài như của Vũ Thị Thường,
Nguyễn Kiên, Nguyễn Minh Châu, Mai Ngữ… Lần này có thêm Nguyễn Địch
Dũng.
Có lẽ sức hấp dẫn của cuốn truyện là ở một thứ không khí ấm áp, quen
thuộc, toát lên khá chân thật qua một cách dẫn dắt riêng của Nguyễn Địch
Dũng. Anh vẫn tiếp tục được sở trường của mình trong việc đi sâu vào phần
riêng, phân bên trong của con người: những mối quan hệ gia đình, chòm
xóm, tình vợ chồng, mẹ con… để rồi, từ khuôn khổ gia đình riêng tư mà mở
rộng ra những vấn đề chung, những mối quan hệ xã hội.
Tác giả tập trung nói tới cái mới, đẹp ở cuộc sống và con người một
cách thành tâm và không do dự chút nào. Có lẽ đó là cái làm nên đặc sắc của
Người ở nhà. Ở đây là những khuôn mặt thật là đẹp. Ở đây là một cuộc sống
thật là ấm áp, tin cậy. Nói cho phải, cũng có một chút tâm lý bảo thủ nào đó ở
một đôi người, ở một số người già, nhưng chỉ thoáng qua, và rồi họ cũng sửa
chửa được, để vươn lên theo phong trào chung. Phải trên cơ sở một nhận
thức quán xuyến về bản chất cách mạng của chế độ, và một lòng tin sâu sắc
ở quần chúng mới có thể khiến cho Nguyễn Địch Dũng vững tay trong một sự
khẳng định như thế. Hẳn có thể còn có ý kiến khác nhau trong việc đánh giá
Nguyễn Địch Dũng, hoặc Người ở nhà, nhưng riêng tôi, tôi cho rằng, trong
phần phản ánh cái mới, cái tốt đẹp của đời sống, Nguyễn Địch Dũng đã có
những thành công đáng kể, chính vì anh có được một sự quả quyết và tự tin
trong nhận thức và đánh giá của mình.
Trong Người ở nhà, cũng như trong nhiều truyện ngắn khác trước đây,
người phụ nữ vẫn là đối tượng quen thuộc của Nguyễn Địch Dũng. Nhưng lần
này không phải là một vài người. Có thể nói một loạt nhân vật đã được anh
xây dựng cùng với chuyện nhà, chuyện hậu phương, cùng với mọi quan hệ
phong phú của tình yêu, tình vợ chồng, mẹ con, mẹ chồng, nàng dâu… Đó là
những Tặng – Soan, Nguyệt – Đán, Côi – Mùi, những Thanh–Thắng–Quýt–
Tơ… Nhưng mặt khác, đáng tiếc là sự mở rộng ấy do chỗ không đi cùng,
không kết hợp với việc xác định một cái cốt thật vững chắc trong chủ đề, nên
hình ảnh cuộc sống trở nên dàn trải. Là vì, chủ đề quán xuyến của thiên
truyện, như người đọc cảm thấy, là sức vươn lên của người ở nhà, nó là một
biểu hiện của sự vững chắc của hậu phương, một sự hỗ trợ về tinh thần rất
lớn cho người ra đi, cho tiền tuyến. Nhưng người đọc vẫn cảm thấy ở đây chủ
đề đó chưa được thể hiện với tất cả sức nặng và chiều sâu cần thiết của nó.
Cái đẹp của con người ở đây vẫn chỉ mới thu hẹp trong phạm vi các mối quan
hệ về tinh thần, và đạo đức nhiều hơn. Hơn nữa, nó lại còn có một vẻ gì đó
hơi thuần phác, đơn sơ, trong khi người đọc lại muốn có một cái gì hơn thế.
Chưa làm được điều đó, có thể là do Nguyễn Địch Dũng chưa đặt được nhân
vật vào những nền tảng lớn, vào những mối quan hệ cơ bản, đó là cuộc đấu
tranh xây dựng cuộc sống mới xây dựng chủ nghĩa xã hội với tất cả thực chất
của nó, tức là một cuộc đấu tranh gay gắt giữa mới và cũ, một cuộc đấu tranh
quyết liệt giữa hai con đường với mọi dạng vẻ phức tạp.
***
Trình bày mấy nét về bức tranh nông thôn trong nội dung sáng tác của
Nguyễn Địch Dũng trên đây, chúng tôi đồng thời có nhắc đến chỗ này chỗ kia
những nét đặc sắc trong nghệ thuật của anh. Chúng tôi đã nói đến hình ảnh
những nhân vật được xây dựng thành công trong một số truyện của anh, nói
đến sự am hiểu ngôn ngữ quần chúng và khả năng dựng lên những cảnh rất
thực của nông thôn. Có thể cần lưu ý thêm điều này: Nguyễn Địch Dũng có
khả năng khám phá những khía cạnh mới mẻ trong các chủ đề quen thuộc.
Những vấn đề anh nêu ra trong tác phẩm đều phù hợp với thực tế, người viết
không cố ý xếp đặt, không “lên gân”, và người xem vẫn nhận thức được các
vấn đề một cách tự nhiên. Cách giải quyết vấn đề của anh cũng thường gọn
gàng, “có hậu”, không để lửng lơ, phù hợp với lối cảm nghĩ của người Việt
Nam. Anh lại có cái nhìn trân trọng đối với nhân vật của mình. Nếu có lúc anh
giễu cợt một vài nét xấu của một lớp người nào đó, chẳng hạn một anh chồng
nhu nhược như trong Hai vợ, một truyện ngắn khá đặc sắc về hậu quả của tệ
đa thê, thì cũng là cái giễu cợt trên tinh thần độ lượng, không có ác ý.
Truyện ngắn của NGUYỄN NGỌC TẤNCác nhà phê bình trước đây ít nói tới Nguyễn Ngọc Tấn không phải là
không có một phần lý do chính đáng. Trong tập Bóng dừa xanh (Nhà xuất bản
Văn nghệ 1957) tôi đã được đọc bài thơ Tặng một con người của Nguyễn
Ngọc Tấn đúng vào thời kỳ một số nhà văn viết những Một ngày chủ nhật,
Ông lão hàng xóm, Thao thức. Bài thơ chải chuốt, êm êm như khá nhiều bài
thơ khác, người ta đọc rồi quên đi, có một điều là khó thấy nó có lợi gì cho
tâm hồn chúng ta trong lúc hăng say xây dựng chủ nghĩa xã hội và đấu tranh
giành thống nhất. Truyện ngắn Im lặng (Văn nghệ quân đội, số 12– 1957) còn
làm chúng ta hơi thất vọng. Khá nhiều chất bi kịch dồn ép, nhồi nhét trong câu
chuyện ly kỳ một cách giả tạo: Hải, một anh bộ đội miền Nam, thời Kháng
chiến chống đế quốc Pháp, có người vợ yêu bị một bạn đồng ngũ sau phản
bội làm Việt gian, cưỡng hiếp. Khi anh tập kết ra Bắc, thì vợ anh ở nhà bị tên
kia giết chết vì chị không chịu lấy nó. Anh phát điên, được một chị hộ lý tận
tình săn sóc. Nhưng cuộc đời chị hộ lý này cũng là một chuỗi bi kịch: thời
Kháng chiến, chị là một nữ du kích dũng cảm, bị quân giặc bắt và hãm hiếp.
Chị mắc bệnh, trở nên xấu xí. Người yêu chị là bộ đội ruồng bỏ chị. Vì chị
nhảy xuống nước cứu Hải đang lên cơn điên, nên chị bị chết đuối!… Tác giả
tuyệt tối không gây được lòng căm thù địch mà lại trình bày quân dân ta như
những người chịu thua, chịu thất bại một cách thảm thiết trước những thủ
đoạn độc ác, dã man của địch. Nhân dân ta rất anh hùng. Những nỗi đau
đớn, những thử thách chỉ làm cho tâm hồn chúng lớn lên. Lòng căm thù địch
sâu sắc biến thành những hành động long trời lở đất của chúng ta. Đâu có
phải một tội ác của địch gây ra liên hoàn hàng chuỗi bi kịch trong cuộc sống
của chúng ta như thế! Khi chúng ta là cán bộ, bộ đội, là du kích, thì chúng ta
lại càng hiểu rõ ý nghĩa cao cả của sự hy sinh. Ít nhất, chúng ta cũng không
bao giờ được sờn lòng, nản chí trước những khó khăn, gian khổ. Dù ở trong
hoàn cảnh như thế nào, chúng ta cũng không chịu là nạn nhân khổ sở của kẻ
địch mà chúng ta căm hờn, khinh ghét. Nguyễn Ngọc Tấn, anh lầm rồi!
Nhưng may thay, anh đã thấy mình lầm… Tâm hồn Nguyễn Ngọc Tấn như
một dòng suối trong, hơi bị vẩn đục một thời gian ngắn, nhưng lại trong trẻo
ngay. Từ năm 1959, anh nhìn đời với cặp mắt sáng suốt, mới mẻ; tâm trạng
anh không còn bi quan, quằn quại như trước nữa khi anh nghĩ về miền Nam.
Chắc chắn cuộc đấu tranh chống bọn Nhân văn– Giai phẩm năm 1958 đã có
ảnh hưởng tốt tới thế giới quan của Nguyễn Ngọc Tấn. Ngòi bút của anh
hoàn toàn đổi mới. Vì thế chúng ta có hai tập truyện ngắn đặc sắc (Trăng
sáng, 1960; Đôi bạn, 1962).
***
Đề tài của Trăng sáng và Đôi bạn khá rộng rãi: hoạt động của công
nhân và cán bộ cách mạng trước Cách mạng; ký ức về cuộc kháng chiến
chống đế quốc Pháp; việc tập luyện quân sự, đời sống của bộ đội trong hòa
bình; những cảnh đau thương ở miền Nam vùng giới tuyến; sinh hoạt trong
nhiều hợp tác xã nông nghiệp, ngư nghiệp, nông trường quốc doanh, trên một
công trường làm đường sắt… Phần lớn các truyện (nhất là trong Trăng sáng)
mô tả hoạt động của cán bộ, bộ đội miền Nam ra tập kết ở miền Bắc. Hướng
chính của chủ đề là tấm lòng của con người Việt Nam ở cả hai miền đối với
quê hương miền Nam.
Đọc hai tập sách, tôi có cảm giác thoải mải nhẹ nhõm như người không
bị một nỗi phiền muộn riêng tư gì giày vò cả; tôi yêu thêm những con người
trong xã hội chúng ta, và nhìn đời một cách tươi trẻ hơn trước, dễ dàng tha
thứ mọi cử chỉ hành động thường làm nét mặt chúng ta không vui vẻ. Tôi
càng thấm thía mấy câu thơ Tố Hữu:
Này các chị các anh đi trên đường, có thấy
Nước non mình, đâu cũng đẹp như tranh
Gương mặt người, ai cũng sáng long lanh
Những đôi mắt trong lành vui ấm lạ!
(Trên đường thiên lý)
Những cảnh và người Nguyễn Ngọc Tấn mô tả thường đẹp đẽ, đáng
yêu. Khá nhiều truyện không có bóng một nhân vật phản diện nào: Quê
hương, Làm việc, Lao động quang vinh, Món quà tết (Trăng sáng), Mặt trận,
Đôi bạn (Đôi bạn)… Tác giả không “tô hồng” cuộc đời, nhưng thích phản ánh
cuộc đời ở những nơi vốn nó đã hồng. Đừng vội kết tội nhà văn là theo cái
thuyết ”không mâu thuẫn”. Những làng xóm, hợp tác xã mà nhân dân xét đến
cùng ai cũng tốt về căn bản, những chi bộ bốn tốt, tổ lao động xã hội chủ
nghĩa, đơn vị bộ đội quyết thắng, v.v… ở nước ta nhiều lắm. Chẳng phải
những nơi, những tổ chức như thế thiếu mâu thuẫn, không còn vấn đề gì rắc
rối. Con người đáng yêu, con người mới, nhất là phụ nữ, cũng có một tâm
hồn phong phú, ta muốn tìm hiểu không phải dễ. Những bà mẹ, bà chị, những
người vợ, cô em, trong tác phẩm của Nguyễn Ngọc Tấn, sao mà Việt Nam
đến thế, mà cũng mỗi người một vẻ tươi đẹp khác nhau! Mỗi nhân vật có một
cõi lòng riêng của họ. Quê hương, một trong những truyện hay nhất của
Nguyễn Ngọc Tấn, dựng lên hình ảnh một người vợ rất thương yêu chồng tha
thiết muốn có một đứa con. “Ngồi xuống, mâm cơm, chị giật mình vì thiếu
tiếng khua đũa chén của trẻ. Chiều khi làm việc về mệt, bước từ dưới bến
tắm lên, chị lại giật mình vì thấy lưng mình lạnh lẽo, trống trải, thiếu một bàn
chân trẻ nhỏ vùng vẫy sau lưng”. Chồng chị là bộ đội, sau tập kết ra Bắc làm
công nhân ở Hải Phòng, một năm mới có dịp về thăm vợ một lần. Khi theo
chồng đi tập kết, chị ỏ liền bên bờ Bắc, hằng ngày nhìn về quê hương ở ngay
bờ Nam. thấy bóng mẹ già bên đó. Rủi đứa con đầu lòng của chị chết. Chị
liền ra Hải Phòng báo tin cho chồng, đồng thời thăm anh và cũng muốn gần
anh để có một đứa con khác. Xí nghiệp giúp anh tìm cho chị một việc làm ở
Cảng. Chị có đầy đủ các điều kiện để hưởng thụ hạnh phúc và thỏa mãn ước
mơ của mình. Chị cũng rất thích được ở một thành phố đông đúc nhộn nhịp
như Hải Phòng, say mê được đi, được biết những miền giàu, đẹp, đang xây
dựng chủ nghĩa xã hội. Nhưng anh dỗ dành chị như thế nào, chị cũng quyết
tâm trở về vùng giới tuyến: nơi đây có biết bao nhiêu kỷ niệm hồi thơ ấu, có
bóng mẹ già đau khổ bên kia sông, có mộ đứa con đầu lòng trên ngọn đồi…
Nhất là do chị đã được bà con bầu làm đại biểu phụ nữ, cho nên, có trăm
nghìn mối tình cảm nó gắn bó chị với những người quen thuộc hai bên bờ
sông, họ cần chị công tác hằng ngày: “Tháng một, tháng chạp đi góp gạo giúp
đồng bào mình bên Nam… Tháng sáu nghỉ hè làm cách nào gửi giúp thư từ
của các em sang bên sông cho bạn… Xã cất trường học cấp hai, chị em ta
góp vào bao công trở lá… Và đêm qua, bọn cảnh sát chửi ai, đánh ai ở bên
tê…». Chị làm những công việc của một người trong ban chấp hành phụ nữ
xã với tất cả bầu nhiệt huyết của mình. Chị tha thiết với công tác vì tha thiết
với bà con, nhất là bà con bờ Nam. Chị không lý luận cao xa gì cả, nhưng cái
tình của chị là cái lý đúng nhất, nên chị không thể theo chồng. Người chồng
đã tìm đủ mọi cách giữ vợ lại, và ý nghĩ của anh cũng rất chính đáng… nhưng
cuối cùng anh cũng cảm thấy vợ suy nghĩ đúng nên anh vui lòng để vợ về
gần quê, vùng giới tuyến.
Tác giả đã nêu lên và giải quyết một vấn đề xảy ra đối với khá nhiều
người trong chúng ta là mâu thuẫn giữa tình vợ chồng một bên, và hoàn cảnh
công tác hoặc nhiều tình cảm chính đáng khác (lòng thương mẹ, nhớ quê,
yêu người quen kẻ thuộc đang cần sự giúp đỡ của mình, v.v…) một bên, làm
cho nhiều cặp vợ chồng không được lúc nào cũng sống bên nhau. Chỗ khó
giải quyết nhất trong vấn đề này không phải là hoàn cảnh bắt buộc phải xa
nhau, mà là khi ý nghĩ và tình cảm của hai vợ chồng khác nhau. Đó là nguyên
nhân gây ra sự lục đục trong quan hệ vợ chồng. Người chồng, trong truyện
ngắn của Nguyễn Ngọc Tấn rất thương vợ và chị cũng rất thương chồng. Đó
là tiền đề để giải quyết tốt tất cả mọi sự rắc rối. Nhưng cái kiểu yêu thương
của người phụ nữ nông dân Việt Nam cũng có nhiều nét rất tế nhị, có khi nhìn
vào hiện tượng thì thấy khó hiểu. Chị mong nhớ chồng từng ngày, luôn luôn
đếm từng ngày xa cách, nhưng chồng chị gửi cho bao nhiêu thư chị không
nhớ; mỗi bức thư chị đọc xong đều để con chơi xé đi mất. Chị không phải vô
tâm, mà chỉ do không muốn nói nhiều về tình cảm của mình. Chị gửi rất ít thư
cho chồng, nhưng khi thấy anh giữ gìn thư vợ trong hộp thì chị đem giấu đi.
“Còn định để cho ai coi? Tính anh ấy giống tính mạ tôi ở nhà”. Chị sợ anh
mang thư vợ đi khoe làm chị thẹn. Chị vẫn tin chồng: “Đàn ông, ai mà không
thương vợ…”. Khi chồng giận dỗi trách vợ là không thương mình nên cứ
muốn ở quê, thì chị khóc: “Tôi nói anh cứ cho tôi một đứa con đi, rồi một năm
anh mới về một lần tôi cũng vui. Còn nói tôi không thương anh thì răng tôi lại
thương con anh? Răng tôi lại cất công cất ngày ra tận đây với anh làm chi”.
Nhưng khi anh đã vui vẻ đồng ý cho vợ về quê thì chị lại vừa nhớ vừa hơi
giận: “Anh ấy càng pha trò bao nhiêu, ruột tôi càng thắt lại. Đàn ông họ to
xương nên gan góc, vợ về mà cứ vui như không”. Chị có quan điểm rất đúng
đắn về tình nghĩa vợ chồng, bất đắc dĩ mà chị đành phải xa chồng, nhưng chị
không tán thành tư tưởng của những cặp vợ chồng xa nhau vì một duyên cớ
không chính đáng, cho nên khi thấy chị bạn gái làm giáo học vì dỗi chồng nên
về quê trong dịp nghỉ hè, thì chị trách bạn là ác và khuyên nên về ngay với
chồng. Như vậy là tác giả đã giải quyết vấn đề theo nhiều khía cạnh khác
nhau và cũng nghiên cứu một cách khá tinh vi tâm lý con người. Không có thể
trách Nguyễn Ngọc Tấn là gán cho nông dân những tình cảm của tiểu tư sản
thành thị.
Chị Tình trong Lao động quang vinh lại là một kiểu phụ nữ khác. Tình
vui vẻ sốt sắng, thích gần bộ đội nhưng cũng rất kín đáo, dũng cảm; tài giỏi về
quân sự nhưng vẫn có cái nhũn nhặn, cái tính e lệ cổ truyền của những cô gái
Việt Nam. Chị hay sang giúp đỡ tiểu đội anh nuôi, nhân tiện học lỏm các anh
một chút về quân sự, vì chị chỉ huy một trung đội nữ dân quân. Chị thẹn
không dám nói cho bộ đội biết: “Ai lại đi nói chuyện tập tành với bộ đội, như
thế chẳng hóa ra là…” Trong một buổi các anh nuôi tập pháo, vì muốn giữ bí
mật quân sự (đồng thời một số anh nuôi cũng muốn giấu dốt vì bây giờ mới
bắt đầu tập pháo), nên các anh mời chị về. Sang, một anh nuôi tiễn chị ra
cổng, chị lần khần mãi chưa chịu về, sau nói nhỏ với anh: “Anh Sang, anh
đừng cười em nhé… Em chả muốn xem pháo đâu, anh bảo, cho em biết cái
này… Giả dụ như mình mà… Ví thế như là… là… là… Hay thôi… ngày kia
anh với bố Hàm cho mượn ba cái thắt lưng nhá…” Rồi chị quay ngoắt đi.
Sang đã tưởng chị “chiếu cố gì đến mình chăng”. Thực ra thì chị chỉ muốn hỏi
về một vấn đề đang làm chị băn khoăn là khi giặc đã phát hiện ra đại liên của
mình ở ngoài đồng trống thì mình phải nằm ngay xuống bắn lại hay cứ tiến
lên chiếm mô đất thuận lợi rồi hãy nằm bắn. Chị còn hỏi nhiều câu khác nữa
hóc búa hơn. Nhưng chỉ đến ngày Đại hội dân quân toàn huyện thì các anh
nuôi (và bạn đọc) mới khám phá ra là chị chỉ huy một trung đội nữ dân quân
rất giỏi, có tài bắn đại liên ít ra cũng khá hơn nhiều anh nuôi. Chị tập trận một
cách hết sức nghiêm túc, nhưng “vừa kịp hô giải tản, Tinh đã chạy vội vào, và
cô cười, giấu mặt sau chiếc khăn vuông, cười mãi, hai tai đỏ mọng như ớt
chín, giàn giụa nước mẳt”. Chị ham tập quân sự vì rất có ý thức là nhiệm vụ
của thanh niên nam nữ phải bảo vệ Tổ quốc. Hình ảnh Tình (cũng như bóng
dáng các nữ dân quân trong truyện Mật trận) làm chúng ta liên hệ tới những
chị như chị Hằng, chị Tuyển ở Nam Ngạn (Thanh Hóa). Thời gian đã làm cho
người ta thấy truyện ngắn của Nguyễn Ngọc Tấn phản ánh chân thực cuộc
sống.
Chị công nhân trẻ trong Đôi bạn cũng có những nét rất mới, đồng thời
có một vẻ gì rất Việt Nam. Chị đã góa chồng, và tuy nhớ thương người chồng
cũ, chị cũng không còn quan niệm về “thờ chồng” như các bà mẹ xưa. Chị
yêu thầm một anh công nhân trẻ người miền Nam và đã tinh nghịch mô tả
hình dáng người yêu cho mẹ ở quê hương biết. Nhưng cho đến phút cuối
cùng, khi ra ga tiễn người mình yêu đi nơi khác, chị vẫn không bộc lộ tình
cảm của mình và cũng không dám nhìn thẳng vào lòng mình nữa. Đôi bạn
thật thà nói với nhau đủ cả mọi chuyện, trừ câu chuvện họ muốn nói nhất và
hoàn toàn có quyền tự do nói. Như thế nghĩa là chưa nói được với nhau gì
cả. Thế nhưng khi tàu đến ga thì họ cũng đã hiểu lòng nhau sau khi loanh
quanh bên rìa cái vấn đề đang đốt cháy lòng họ, và anh bạn đã ở lại công
trường với người yêu.
Cái đức tính kín đáo, có ý tứ, nó quyện chặt một cách hữu cơ với nhiều
đức tính mới khác rất quý báu của người phụ nữ nông dân Việt Nam, giúp
người phụ nữ: chín chắn hơn trong khi suy nghĩ về những vấn đề quan trọng
của cuộc sống, trong khi cố gắng tìm hiểu tình cảm của người khác để hết
sức tránh làm điều gì mất lòng họ. Người phụ nữ Việt Nam (cố nhiên, tôi
muốn nói. người phụ nữ lao động, chủ yếu là nông dân, chứ không muốn nói
tới một kiểu phụ nữ siêu giai cấp- không thể có được), hết sức tôn trọng tình
cảm con người. Họ có thể lắm điều, chanh chua, hoặc sắc sảo, “nói nhỏ nhẻ,
nhưng nếu con ruồi mà bay qua cũng phải chết lăn quay” như chị Bình trong
Trăng sáng; nhưng nếu vô tình họ xúc phạm đến tình cảm trong sạch, ngay
thẳng, cao quý của người khác, dù là người đó họ ít có thiện cảm, thì họ coi
như mình đã phạm một lỗi lầm không thể tha thứ được. Vì thế, một mặt họ có
ý tứ, mặt khác họ rất tinh tế. Nhiều chị giỏi về khoa tâm lý hơn những “nhà
tâm lý học”. O Quế (Trăng sáng) bên bờ Nam vùng giới tuyến cứ trông thấy
anh Bình trên bờ Bắc là lấy nón quạt tóc, mục đích để vẫy chào. Anh cũng
tinh ý biết như vậy. Anh về hỏi vợ:
“ – Tôi đố ả biết răng o lại hay vẫy tôi?
Chị Bình cười bằng hàm răng trắng rất xinh của mình, rồi nhắm tít mắt,
ngủ.
Đúng như ý nghĩ của chị Bình. O Quế chẳng vẫy gì riêng anh Bình. O
gửi cử chỉ ấy tới tất cả những người nào đi bên này sông, khi thì bằng cách
quạt nón, khi thì bằng cách vỗ tay để đuổi một con se sẻ nào tận trên trời”.
Thế ra anh chàng Bình có tiếng là sắc sảo, chỉ là một anh hãy còn “phổi bò”
so với vợ anh. Anh đã nhiều lần “tự trách mình chỉ giỏi bông lơn xuề xòa mà
không nghĩ được tận ngọn ngành ngóc ngách như vợ “…
Đức tính kín đáo, có ý tứ, của người phụ nữ Việt Nam vừa là một vũ khí
để tự vệ, vừa là một vũ khí để tấn công nữa. Chị Cầm trong Tự do (Đôi bạn)
là người căm thù địch sâu sắc và một lòng tưởng nhớ tới người chồng đã tập
kết ra Bắc. Tên đồn trưởng tay sai Mỹ rất muốn hiếp chị. Chị hằng ngày phải
chống cự lại một cách mềm mỏng nhưng kiên quyết. Khi hiểu rõ nó đã bố trí
cẩn thận để quyết tâm giở trò đê tiện, chị căm thù sôi sục, nhưng vẫn bình
tĩnh xếp đặt mưu mẹo giết nó mà nó vẫn không biết gì, cho đến lúc chiếc lược
gỗ lim của chị vụt đâm vào mắt nó, chiếc đèn làm bằng vỏ đạn đại bác đập vỡ
sọ nó.
Chúng ta còn thấy rất nhiều hình ảnh phụ nữ khác trong truyện ngắn
của Nguyễn Ngọc Tấn: chị Sương âm thầm chịu đựng nhiều gian khổ về vật
chất cũng như tinh thần để công tác tốt trong một làng công giáo phức tạp
(Xuống núi, trong Trăng sáng); cô gái mồ côi, con nuôi một cán bộ quân đội,
sáng suốt làm chủ số phận của mình (Hai cha con người chính ủy, trong Đôi
bạn); bóng dáng những chị dân quân chăm luyện tập (Mặt trận, trong Đôi
bạn); cô gái, bà má miền Nam đêm ngày hướng về miền Bắc (Ngày về, trong
Đôi bạn). Hình như nhà văn có dụng ý mô tả nhiều điển hinh phụ nữ lao động
khác nhau, vừa có những đặc điểm rất mới trong tính cách lại vừa có những
nét thực sự của người Việt Nam.
Nếu như đối với các nhân vật phụ nữ, Nguyễn Ngọc Tấn không chú ý
mô tả nhược điễm của tâm hồn, những nét tiêu cực trong tính cách, thì đối
với nhiều nhân vật bộ đội đáng yêu, Nguyễn Ngọc Tấn thường có cái nhìn hơi
khác. Nhà văn một mặt biết phân tích tinh vi cá tính của từng nhân vật để thấy
rõ điểm tốt điểm xấu, mặt khác lại biết đánh giá chung mỗi nhân vật và
thường mô tả được quá trình phát triển của cá tính nhân vật.
Những anh bộ đội trong Làm việc, Lao động quang vinh thật đúng là
những anh bộ đội yêu quý của chúng ta, mặc dầu đôi khi các anh có những
nhược điểm lớn cần khẳc phục. Hàm (Lao động quang vinh) là một anh nuôi
đã 38 tuổi trong một đơn vị pháo. Anh có rất nhiều thành tích trên chiến
trường Nam Bộ hồi kháng chiến chống đế quốc Pháp. Hiện nay anh cũng là
một anh nuôi gương mẫu, lao động quên mình để chăm lo việc ăn uống cho
anh em. Nhưng anh lại không thích tập pháo, không tán thành lắm cái khẩu
hiệu “pháo thủ toàn năng”, cho rằng “xoong chảo mà tập pháo tì cũng vẫn
xoong chảo, có làm cóc gì mà tập”. Lý do ngại tập của anh không phải giản
đơn. Anh cho là mình đã nhiều tuổi, tập cũng không đánh chác gì được nữa.
“Anh không sợ mệt nhưng rất sợ nhức đầu. Binh khí học, phương thức bắn,
lắm thú quá anh không thể nào theo nổi. Tập pháo xong thì cũng vẫn là người
nấu ăn… Rồi thì, một cái gì đấy, hình như nó đang kêu gọi, lôi kéo, nhắn nhủ
anh phải trung thành với việc bếp núc, đừng đa mang pháo phiếc gì cho thêm
nặng… đi học pháo, anh sẽ bị mất đi bao nhiêu công việc đã nên da nên thịt
của mình”. Anh rất yêu công việc bếp núc nên không đành lòng bỏ đó cho
người khác để đi học pháo. Anh cũng không phải không chịu khó học tập,
chứng cớ là anh đã bỏ tiền ra mua bộ sách Kinh tế chính trị học và đọc mãi
nhưng chỉ hiểu lờ mờ một hai điều đơn giản. Nghĩa là động cơ không thích
học pháo của Hàm cũng khá phức tạp, và vấn đề khó lòng có thể giải quyết
bằng những cuộc tranh luận; anh cũng lắm lý thuyết, càng tranh luận, anh
càng tức. Bên cạnh Hàm là Sang, “rất hay đùa, việc nhẹ thì làm lơ phơ nhưng
việc nặng lại kham vào bậc nhất đại đội”. Anh chàng ấy lại rất thích tập pháo,
bỏ cả việc cho Hàm làm để tập pháo. Vì anh còn trẻ, chưa vợ, nên thường
ngày cũng để ý tìm hiểu người này người khác. Chỗ xấu, tốt trong con người
các anh phức tạp như thế đó. Nhìn chung, các anh là những người tốt, nhưng
có những bệnh không thể không chữa. Nếu cứ đè nghiến các anh ra là cắt cái
mặt xấu đi, thí dụ tổ chức một cuộc hội nghị đập cho các anh một trận tơi bời
thì cũng không ổn. Nhưng nhiều nhân tố trong cuộc sống mới dần dần lôi kéo
các anh lên, các anh cũng lôi kéo lẫn nhau lên. Đơn vị phát thanh phê bình
quan niệm của Hàm; Sang cho rằng lao động bảo thủ như Hàm cũng chưa
quang vinh; chị Tình ngồi trên cây ổi nghe tiểu đội anh nuôi bàn về tập pháo
cũng buông một câu lơ lửng: “Đi bộ đội mà lại không muốn học bắn súng!”.
Hàm lại càng tức già, nhưng sự bực tức ấy chứng tỏ tư tưởng đang lay
chuyển. Đến khi Sang vận động cấp trên mang được khẩu pháo về tận chỗ
anh nuôi để các anh tiện học tập, lại có người làm thay cho các anh để các
anh tập, Hàm đành phải học; tuy vậy anh cũng chưa thông lắm, còn miễn
cưỡng. Nhưng khi thấy chị Tình còn là con gái mới lớn lên mà đã hăng hái
học quân sự để bảo vệ Tổ quốc thì anh thông thực sự. Những tình cảm tốt
đẹp nhất trong con người anh trỗi lên: anh phấn khởi nhận ra chỗ kém của
mình. Và anh lại hăng hái giáo dục lại Sang. Trong cái đà phát triển của cuộc
sống tập thể, người nọ giúp đỡ người kia, họ càng ngày càng tiến bộ như thế.
Nhà văn đã chăm chú theo dõi sự phát triển của mỗi con người. Người ta
phải thấy được bản chất tốt đẹp của người lao động, phải biết yêu thương
những người chung quanh mình thì mới giúp họ tiến bộ được. Đó là cảm giác
của tôi khi đọc nhiều truyện ngắn của Nguyễn Ngọc Tấn.
Nhưng không phải nhà văn chỉ biết nhìn đời với cặp mắt hiền lành. Khi
cấn bắn kẻ thù thì những phát súng của anh cũng rất chính xác. Hình ảnh
những tên đồn trưởng ác ôn trong các truyện Tự do, Hai cha con người chính
ủy đủ chứng tỏ điều ấy.
***
Những điều tôi trình bày sơ lược và còn có rất nhiều thiếu sót trên đây
về chủ đề, tư tưởng, nhân vật trong truyện của Nguyễn Ngọc Tấn chỉ là tóm
tắt những nhận định cuối cùng khi đọc xong hai tập sách. Nhưng nếu tác giả
chỉ viết như người phê bình đã phân tích thì không thể hấp dẫn được người
đọc. Nguyễn Ngọc Tấn không tạo ra những cốt truyện ly kỳ để thu hút chúng
ta – như thời kỳ anh viết Im lặng. Nhưng anh lôi cuốn người đọc ở chỗ mô tả
dần dần tính cách của nhân vật. Mỗi một đoạn văn đều giúp người đọc, thấy
được thêm một khía cạnh mới của lòng người. Có khi câu chuyện bắt đầu ở
chỗ nó đang dở dang, sau mới quay trở lại quá khứ, và đã có lúc nhà văn kết
thúc một truyện ngắn bằng những dòng mô tả hình dáng diện mạo nhân vật
chính (Quê hương). Vì vậy khi đọc đến giữa truyện, chúng ta vẫn chưa hiểu
tính chất của nhân vật ra sao cả. Như hình ảnh chị Cầm trong Tự do, lúc đầu
được mô tả theo cách nhìn của tên sĩ quan ngụy, mãi đến cuối truyện, toàn
bộ con người của chị mới hiện lên đẹp đẽ vô cùng, khiến chúng ta phải đọc lại
truyện từ đầu để thưởng thức cái hay của từng chi tiết. Người ta chưa thể có
một nhận xét gì chắc chắn về chị vợ anh công nhân khi chưa đọc hết Quê
hương… Nhiều nhà văn xây dựng hình tượng theo lối trình bày của văn chính
luận, nghĩa là lúc đầu nói hết về gia đình, thành phần quá khứ, tính chất của
nhân vật, sau mới kể lể các sự kiện để minh họa cho tính chất ấy. Theo tôi,
đó là một cách viết vụng về, làm cho người đọc mất hứng thú theo dõi câu
chuyện. Không một truyện nào trong Trăng sáng và Đôi bạn viết theo khuôn
sảo đó.
Giác quan nhạy bén của Nguyễn Ngọc Tấn chứng tỏ anh là người có
tài viết truyện. Đây là cảnh bộ đội từ giã một nông trường, lên xe về đơn vị:
“Đoàn xe phóng nhanh hơn. Cánh đồng cà phê xanh thẫm. Con bê to vểnh tai
lên nhìn xe. Những bóng nón lá, thấp thoáng giơ lên vẫy vẫy. Thỉnh thoảng,
tiếng còi xe réo lên inh ỏi như để chào riêng những cô gái nào làm gần đâu
đó. Tiếng cười rộ lên. Vài câu đùa tục. Văng vẳng có một điệu hành khúc đâu
như ở chiếc xe đầu, không rõ lắm, mơ hồ như một kỷ niệm rất xa” (Ngày về,
trong Đôi bạn). Một sáng mùa thu bình thường và giản dị: “Trên không từng
đàn nhạn bay giơ cái yếm trắng nõn nà xuống mặt đất, trời vẩn vài gợn mây,
nắng chiếu trong mắt bò óng ánh” (Làm việc). Đối với anh nuôi thì “một buổi
sáng đẹp trời, nghĩa là trời chỉ vừa đủ rét để anh nuôi ngồi bếp cho ấm” (Lao
động quang vinh). Viết tiểu thuyết cần có giác quan nhạy bén để có thể phát
hiện được những nét mới lạ trong thiên nhiên và con người để xây dựng hình
tượng một cách cụ thể và độc đáo. Những người viết tiểu thuyết một cách
khó nhọc chính là người không có ấn tượng nhọn, sắc, mới mẻ về cảnh vật
và con người.
Truyện của Nguyễn Ngọc Tấn còn có nhiều chất thơ nữa: “Cô Lý hiện
ra ngoài cổng. Hiện ra như một cô tiên hiện đại dưới bóng trăng xanh: áo
trắng gài kín cổ, khăn đội hơi lệch một bên, mái tóc mai chải ngược có mùi
thơm hoa bưởi, cái thắt lưng màu mỡ gà óng ả bên hông. Chỉ nhìn cô, người
ta cũng biết ngoài cuộc đời đang có một ngày hội lớn” (Làm việc). “Người ta
bảo cô chẳng nói dối ai được cái gì. Tiếng cười của cô rung rinh, vô tư. Màu
áo trắng nhuộm ánh trăng làm cho thân người cô trong vắt” (Làm việc). Nhiều
đoạn văn trong Trăng sáng và Đôi bạn có những tứ thơ rất hay. Vả lại, không
khí thơ bao trùm nhiều truyện của Nguyễn Ngọc Tấn. Nói chung người viết
truyện ở nước ta thường có khuynh hướng viết những đoạn ”thơ mộng”.
Nhiều khi đó là một khuynh hướng dở, làm cho tác phẩm nhạt nhẽo đi. Cái
chất thơ hay thực sự trong văn xuôi, người ta chỉ thấy trong truyện của một
vài nhà văn như Nguyễn Ngọc Tấn.
Nguyễn Ngọc Tấn còn có những nhận xét rất tinh tế. Đi sâu vào những
ngóc ngách của tâm hồn con người để xây dựng nhân vát, việc ấy đòi hỏi nhà
văn phải tinh tế lắm. Nhưng trong truyện của Nguyễn Ngọc Tấn, chúng ta còn
thường thấy những nhận xét nhỏ có tính chất khám phá ra một ý nghĩa mới lạ
của những hiện tượng phổ biến trong cuộc sống: “Đối với các cô gái thì chỉ
khi nào nói đúng ý riêng của họ, họ mới bằng lòng” (Ngày về). “Càng nói, mặt
chị càng lồ lộ, đỏ hồng, nói xong, môi chị vẫn run run mấp máy như muốn nói
thêm nữa. Những người như thế thật có thể đảm đương được nhiều việc
xứng đáng trong một lần” (Quê hương)… Ngày cuối năm: “Hình như hôm nay
người ta dễ quen nhau hơn mọi ngày” (Về Nam). Một khuôn mặt hiền lành:
“Tôi nghĩ đến những người con trai hay có đôi mắt cười giống mẹ” (Món quà
Tết, trong Trăng sáng).
Như một người đáng yêu và biết yêu, Nguyễn Ngọc Tấn có nhiều phép
chiếm lấy trái tim người đọc. Óc trào lộng, lối văn tinh nghịch, dí dỏm là một
đặc điểm dân tộc của nhiều nhà viết truyện nước ta: Võ Huy Tâm, Nguyễn
Khải, Nguyễn Địch Dũng, Vũ Thị Thường trong Cái hom giỏ, Bùi Hiển trong
nhiều truyện vui vui v.v… Nguyễn Ngọc Tấn tinh nghịch như những cô gái trẻ
thông minh yêu đời, tinh nghịch với một phong cách đa dạng, tinh nghịch cả
trong những lúc giả bộ nghiêm trang (nhưng cái bản chất của con người thì
thực sự là nghiêm). Những nhân vật đáng yêu của anh hình như đều mỗi
người có một cái gì đó khiến anh bật cười, không phải nụ cười chế giễu mà là
nụ cười có rất nhiều thiện cảm. Nhiều khi anh “trêu” cả bạn đọc: Tiểu đội
trưởng Thi “nhận được thư của một cô gái dưới xuôi… Chẳng hiểu anh nghĩ
gì, hôm nay, trước khi xuống núi, anh mang ra đọc lại. Mắt anh mở to hơn, nụ
cười anh nở rộng hơn, khuôn mặt anh hồng lên vì nắng chiều, nghiêng qua,
nghiêng lại, bàn tay anh gãi gãi vào tai, rồi vặt cỏ, rồi giơ lên, giơ xuống, giống
như đang nói chuyện say sưa với ai” (Xuống núi, trong Trăng sáng). Nhưng
cuối cùng chúng ta thấy Thi chỉ là một người bạn, một đồng chí của cô gái đó.
***
Có lẽ điểm thiếu sót lớn nhất của Nguyễn Ngọc Tấn là: tuy anh chú ý
đến con người, nhưng anh vẫn chưa chú ý đầy đủ tới những vấn đề lớn về
công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội trong cái không khí phấn khởi hăng say
những năm 1958–1901 (thời kỳ anh viết Trăng sáng, Đôi bạn). Hợp tác xã,
công trường nhiều khi chỉ là khung cảnh, cái đường viền cho những câu
chuyện tâm tình có chủ đề tốt của nó, nhưng chưa phải là những vấn đề lớn
lắm. Anh cũng có khuynh hướng đi sâu hơi nhiều vào tình yêu. Đời sống của
bộ đội, dân quân trong hòa bình mà Nguyễn Ngọc Tấn chú ý tới có ý nghĩa rất
lớn, nhưng giá anh tiên đoán được cuộc đấu tranh của quân dân Nam Bắc
chống đế quốc Mỹ hiện nay gay go gian khổ nhưng anh dũng nhường nào, thì
có lẽ anh sẽ viết về sự tập luyện của bộ đội, dân quân, sâu sắc hơn. (Như thế
có phải là đòi hỏi quá cao ở một nhà văn không?), Dù sao niềm khắc khoải
của một con người căm thù giặc Mỹ và tha thiết đêm ngày với quê, hương
miền Nam vẫn thể hiện qua nhiều trang của hai tập sách.
Nguyễn Ngọc Tấn là một nhà văn tâm hồn rất đẹp, thực sự có tài năng
và có nhiều triển vọng. Tôi không tin rằng những truyện khá nhất của anh hiện
nay đã là những đỉnh cao nhất trong sự nghiệp sáng tác của anh.
Đóng góp của NGUYỄN MINH CHÂUNói đến Nguyễn Minh Châu, cây bút trẻ trong quân đội, bạn đọc nghĩ
đến cuốn truyện vừa Cửa sông (1967), ra đời vào những ngày miền Bắc
bước vào cuộc kháng chiến chống Mỹ. Kể ra, Cửa sông chưa phải là tác
phầm văn học sâu sắc, nhưng nếu đặt nó vào hoàn cảnh ra đời, vào quá trình
sáng tác của nhà văn thì rõ ràng Cửa sông có một vị trí nhất định.
Những truyện ngắn viết trước đó của Nguyễn Minh Châu, sau này
được tập hợp lại trong Những vùng trời khác nhau (1970), mới chỉ là những
bức tranh sinh hoạt nho nhỏ, ghi lại những mảng sống của bộ đội, nhân dân
ta trong hòa bình.
Cửa sông, với yêu cầu của một tiểu thuyết, có một ý nghĩa khái quát và
điển hình hơn. Thông qua sự đổi thay của một làng nhỏ vùng cửa sông Kiều
khi miền Bắc bước vào chiến tranh, thông qua quá trình hòa hợp của một gia
đình vì sự có mặt của hai người con ngoài chiến trường, tác giả đã nêu ra và
giải quyết tốt những vấn đề có ý nghĩa.
Sức mạnh của lòng yêu nước và mối quan hệ mới giữa con người
trong cách mạng xã hội chủ nghĩa là hai nhân tố cơ bản được Nguyễn Minh
Châu chú ý khai thác để chứng minh sự vững vàng của miền Bắc chúng ta
trước thử thách của chiến tranh. Trong hình ảnh của những người mẹ, anh
nói lên vẻ đẹp truyền thống. Trong lớp trẻ, anh cho thấy sức sống mới của
chế độ. Và hình ảnh cuộc sống, qua sự miêu tả của anh, luôn luôn là sự
chằng chịt các mối quan hệ: giữa lớp trẻ với lớp già, giữa lớp trước với lớp
sau, giữa quá khứ và hiện tại. Những thanh niên mới như Bân hoặc Lân, sớm
mang trong mình tinh thần cứu nước và hăng hái lên đường ra tiền tuyến là
bởi họ được nuôi dưỡng, lớn lên trong truyền thống của gia đình: ngày xưa,
cha họ đã từng đi kháng chiến, và những người mẹ của họ thì nuôi giấu, chở
che cán bộ. Và hôm nay đây, trước những yêu cầu mới của cách mạng, mỗi
người trong gia đình họ đều có ý thức, bằng những việc làm cụ thể đóng góp
chút sức lực nhỏ bé của mình vào cuộc kháng chiến. Nguyễn Minh Châu đã
nêu lên được sức mạnh của một dân tộc từng có một quá khứ đấu tranh giữ
nước bất khuất và đang trải qua một thời kỳ xây dựng một xã hội tốt đẹp. Tác
phẩm viết về không khí của làng xóm, rộng hơn, của đất nước chúng ta vào
thời kỳ bắt đầu công cuộc chống chiến tranh phá hoại của giặc Mỹ; nhưng
xen vào đó còn là bức tranh sinh hoạt của miền Bắc trong những năm xây
dựng chủ nghĩa xã hội với sự đổi thay lớn lao trong mỗi xóm làng, mỗi ngôi
nhà, mỗi con người cụ thể. Những sự lủng củng trong gia đình, nỗi đau khổ
của ông Lâm trong bao nhiêu năm, nay được giải quyết một cách tốt đẹp. Bởi
vì, ở vào thời điểm này, mọi người đều có ý thức nâng mình lên cho xứng với
tầm lớn lao của dân tộc và thời đại. Chính lòng yêu nước và lòng căm thù
giặc đã cho phép họ dẹp bớt những cái riêng nhỏ bé, vụn vặt trong cuộc sống
hằng ngày. Đó chính là nguyên nhân sâu xa để cho những người mẹ, người
vợ, có chồng con và những người thân yêu đang ở chiến trường, tìm thấy
trong cuộc sống của xóm làng, trong tình cảm của hậu phương những nguồn
động viên lớn làm dịu bớt những nhớ thương, lo lắng, trông chờ.
Cửa sông viết về một cuộc sống đang đi vào thời kỳ chiến tranh, nhưng
không khí ở nông thôn là không khí lạc quan. Ý thức làm chủ tập thể, làm chủ
cuộc đời là nét nổi bật trong phẩm chất của mỗi người. Thanh niên nô nức
tòng quân. Phụ nữ hậu phương đảm đang việc đồng áng, việc gia đình cũng
như tham gia chiến đấu ở cương vị và hoàn cảnh của mình. Bộ mặt nông
thôn, với mối quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa, đã tạo cho miền Bắc một thế
đứng vững vàng để chống lại cuộc chiến tranh phá hoại của giặc Mỹ.
Chúng ta có thể gặp lại trong cửa sông những nhân vật vốn quen thuộc
với Nguyễn Minh Châu. Trong cái làng nhỏ này, chúng ta gặp đủ loại: một cô
giáo trẻ mơ mộng, dịu dàng; một người mẹ nông thôn lam lũ tất bật mà tâm
hồn là một viên ngọc trai ngời sáng; một phóng viên nhà báo; những chiến sĩ
trẻ và những người lính từng cầm súng từ cuộc kháng chiến chống Pháp
trước đây… Mỗi người có một hoàn cảnh và một nỗi niềm riêng. Cô giáo
Thùy còn lắm băn khoăn với nghề nghiệp hiện tại. Ông Vàng từng khao khát
tái ngũ. Chị Quý từng yếu đuối trong tình cảm đối với đứa con đi xa. Ông cụ
Lâm đã ngoài tám mươi tuổi đầu, vẫn tiếc là không còn sức để được cầm
súng đánh giặc như con cháu cụ… Nhưng điều đáng chú ý ở đây là mỗi
người đều nhanh chóng thích ứng với hoàn cảnh mới và vươn lên cho kịp với
yêu cầu chung. Không phải chỉ ở những người ra đi mới biết lo lắng về trách
nhiệm của mình: “Hiện nay, thằng giặc Mỹ đang giày xéo lên nửa đất nước ta,
có mảnh đất nào mà người chiến sĩ không phải đặt chân tới?”. Còn người ở
lại? Những ngày gặt hái, phụ nữ nhanh chóng làm quen với những công việc
đồng áng nặng nhọc mà trước đây chỉ có nam giới làm. Cả làng tham gia việc
đào sông, chuyển máy. Những giờ lên lớp say sưa của cô giáo và tâm sự mới
của cô trên vị trí mới của nghề nghiệp: “Chẳng nhẽ những bài học ở nhà
trường không góp thêm một phần nào vào lớp người trẻ đang lớp lớp cằm
súng lên đường hôm nay?” Rõ ràng, mỗi người đã tìm được một vị trí chiến
đấu cho mình. Bằng vào tình cảm trong sáng, bằng vào những việc làm có ý
nghĩa, người hậu phương đã gửi tấm lòng yêu thương và tin cẩn cho tiền
tuyến. Niềm vui chân chính của Bân trước những thắng lợi của hạm tầu như
được nhân lên khi anh gặp đứa em trai giờ cũng là chiến sĩ, và nhất là khi
được nghe những tin tức đáng yên lòng về gia đình và quê hương. Thùy đã
xứng đáng đón nhận hạnh phúc đẹp đẽ ở một nơi mà trước đây mình không
hề nghĩ tới: “Hối ấy, chắc chắn không bao giờ mình có thể nghĩ rằng những
đồng chí dìu dắt mình lại là những người nông dân ở một làng bình thường
và mình cũng chỉ làm một công tác bình thường – một cô giáo dạy học”.
Với Cửa sông, Nguyễn Minh Châu bước đầu đi vào một tác phẩm dài
hơi, viết về một đề tài rất thời sự, nhưng vẫn làm chủ được ngòi bút mà
không bị choáng ngợp trước những sự kiện. Tác phẩm đã ghi lại được vẻ lạc
quan tin tưởng cũng như không khí bình thản trước tình hình khẩn trương của
miền Bắc từ hòa bình chuyển sang chiến tranh. Đó là nét không dễ có trong
những tiểu thuyết cùng thời. Nhiều vấn đề xã hội có ý nghĩa đã được anh nêu
ra thông qua hình tượng nghệ thuật khá nhuần nhuyễn. Đó là một thành công
đáng nhất là đối với một tác giả trẻ như Nguyễn Minh Châu. Tuy nhiên, Cửa
sông chưa phải là một tác phẩm gây cho người đọc một ấn tượng thật sâu.
Nó còn chưa có sự cân xứng trong khi thể hiện các mặt chiến đấu xây dựng;
nhiều mảng sống, nhiều nhân vật chưa được khơi sâu cho tương xứng với đề
tài. Ngay cuộc sống ở đây cũng có phần phẳng lặng. Người ta thấy khá rõ
mặt vươn lên, thuận lợi, nhưng còn ít thấy các khó khăn. Tuy vậy, đặt cửa
sông vào hoàn cảnh sáng tác lúc bấy giờ, lúc mà tiểu thuyết của chúng ta
phần nhiều còn ít tác phẩm khơi đúng vào mạch đập của cuộc sống, đương
dừng lại ở trình độ ghi chép… thì cửa sông với cách đặt vấn đề và sức khái
quát sâu của nó, rất đáng cho chúng ta trân trọng…
***
Năm năm sau cửa sông, Nguyễn Minh Châu cho ra đời tiểu thuyết Dấu
chân người lính. Ngay từ lúc được trích đăng trên tạp chí Văn nghệ quân đội
trước đó, tác phẩm đã hấp dẫn khá nhiều bạn đọc.
Không giống với Cửa sông, tác phẩm viết về hậu phương bình thản và
hiên ngang đi vào kháng chiến, lần này, Dấu chân người lính đã đi thẳng vào
cuộc chiến đấu ác liệt và ngoan cường nơi tiền tuyến: chiến dịch Khe Sanh.
Những cuộc hành quân gian khổ, những trận chiến đấu ác liệt, những chiến
công và những tấm gương dũng cảm của bộ đội, tội ác ghê tởm của kẻ thù…
tất cả, tất cả được tác giả chú ý thể hiện nhằm mong muốn đem lại cho bạn
đọc một bức tranh rộng rãi về chiến trường. Đi vào đề tài này, Nguyễn Minh
Châu như gội được vào không khí chung của đất nước những năm tháng sôi
động, ngòi bút của anh trở nên linh hoạt. Bằng vào sở trường của mình, anh
đã gợi được cho tác phẩm một không khí riêng, không khí của chiến trường
vào mùa xuân Tổng tiến công năm 1968.
Ngay từ đầu, tác phẩm đã có thể gợi cho ta cái khí phách hiên ngang,
dũng cảm của dân tộc Việt Nam: không sợ Mỹ và dám đánh Mỹ. Mở đầu tác
phẩm là cảnh hành quân của hàng sư đoàn bộ đội: “Trên chặng đường đầy
cây cối đổ ngả nghiêng, khói bom khét lẹt và đất đỏ lật lên lấp hết cây cối,
từng đơn vị cứ đi qua, hết đơn vị này lại đến đơn vị khác, hết binh chủng này
lại đến binh chủng khác. Con đường hành quân cứ mở dần theo những khu
vực tọa độ”. Không phải họ đi một cách lầm lũi âm thầm. Cứ nghe những câu
chuyện dọc đường, cứ xem vẻ mặt thanh thản, chất lạc quan toát ra từ mỗi
dáng đi, giọng nói, chúng ta cũng cảm nhận được ngay từ những trang đầu
tiên của cuốn sách một không khí hào hùng tươi trẻ. Không khí ấy làm cho ta
thấy rõ điều này: để chống lại một kẻ thù có vũ khí tối tân, chúng ta phải huy
động ra đây tất cả, từ sức người sức của của những năm xây dựng chủ nghĩa
xã hội đến truyền thống yêu nước của bốn nghìn năm. Chúng ta gặp ở đây
những người nông dân mặc áo lính mà cuộc đời đã nếm trải những cay đắng
ngọt bùi qua hai chế độ như Kinh, Cận; những học sinh vừa rời ghế nhà
trường để học tiếp những bài học trong thực tiễn của cuộc chiến tranh gian
khổ như Lữ, Hoại, Khôi; những trí thức, văn nghệ sĩ như Thái Văn, như Hiền;
những người bộ đội như Lượng, Khuê; những người dân miền núi một lòng đi
theo cách mạng như cụ Phang; những cô gái thanh niên xung phong dũng
cảm như Nết… Bằng vào thế giới nhân vật đó, Nguyễn Minh Châu muốn nói
với chúng ta: công cuộc chống Mỹ cứu nước là sự nghiệp vinh quang của tất
cả mọi người dân yêu nước, không phân biệt Nam Bắc, già trẻ, gái trai.
Với Dấu chân người, lính, Nguyễn Minh Châu đã cố gắng dựng lại cái
không khí dữ dội của chiến tranh. Ở đây, cả quá khứ, hiện tại cùng xen kẽ
vào nhau. Hình ảnh cuộc sống hiện rõ trước mắt ta luôn biến động và thay
đổi. Những ngày mưa lũ hành quân. Những trận chiến đấu ác liệt của bộ đội
ta chống những trận công kích của bọn Mỹ trên Đồi không tên. Một đêm trăng
đẹp của Lữ với những suy nghĩ về tình yêu, về lẽ sống. Cảnh sống lạc quan
của bộ đội ta giữa hai trận đánh. Cuộc sống giữa rừng của một đơn vị nữ
thanh niên xung phong. Sự hy sinh của một tiểu đội và ý nghĩ của một người
cha trước cái chết của đứa con mình… Biết bao nhiêu cảm xúc, bao nhiêu sự
kiện. Nó chợt đi, chợt đến bất ngờ. Nhưng tất cả lại dường như được gội
trong khung cảnh của mùa xuân, mùa xuân của thiên nhiên, mùa xuân của
chiến thắng. Cuốn truyện do vậy vừa có âm hưởng trữ tình, lại vừa dồi dào
chất anh hùng ca. So với Cửa sông, đó chính là nét mới.
Tham gia vào chiến dịch Khe Sanh lịch sử, ngoài sự đóng góp của hậu
phương, của nhân dân miền Nam, miền Bắc, nhân vật chủ yếu ở đây là
người lính – những người trực tiếp cầm súng. Ngòi bút Nguyễn Minh Châu
như muốn lột tả cho được vẻ đẹp từ trong tâm hồn, trong cuộc đời của mỗi
người chiến sĩ. Trải qua những trận chiến đấu căng thẳng, con người trở nên
rắn rỏi. Nhưng bước đi của mỗi con người đâu phải giống nhau. Mỗi thế hệ đi
vào lịch sử với mỗi hoàn cảnh riêng. “Có cái gì khác nhau trong vẻ đẹp của
mỗi thế hệ cầm súng hôm nay?”. Phải chăng, ở lớp cha anh như Kinh, Nhẫn
thì có cái dẻo dai, vững chãi của những người từng được thử thách, từng
hiểu thấu đáo ý nghĩa cuộc đời bằng những gian khổ mà họ đã nếm trải. Và ở
lớp người trẻ hơn, những thanh niên như Lữ, Hoạt, Khuê… thì vẻ đẹp ấy lại
chính là ở lòng khát khao lý tưởng, ở nhiệt tình cháy bỏng, và ở tình yêu –
yêu đất nước gia đình, yêu bạn bè đồng chí.
Lần theo “dấu chân người lính”, Nguyễn Minh Châu như càng ngạc
nhiên trước những thay đổi, những sự trưởng thành của nhân vật. Cuộc sống
không còn cái vẻ bình thản như trong Cửa sông. Nó đòi hỏi con người khẩn
trương hành động. Nhân vật tự khám phá mình và khám phá chung quanh.
Đặt bên một Kinh đậm đặc chất nông dân xứ Nghệ là một Nhẫn ít nói, nghiêm
khắc, xuất thân trong tầng lớp tiểu tư sản, “lên đường ra mặt trận bằng những
khúc hát”. Bên một Lữ mơ mộng, lãng mạn có một Khuê tháo vát, láu lỉnh,
một Cận hoặc Lượng gan góc lầm lì. Những tính cách này như hỗ trợ cho
nhau, bù đắp cho nhau, làm nên cái phong phú cho bộ mặt tinh thần của các
thế hệ. Tình người, tình đồng chí của họ, qua ngòi bút của tác giả càng đẹp
đẽ, cảm động bao nhiêu, càng tương phản với bộ mặt kẻ thù, như thằng Kiếm
(tuy chỉ mới được lướt qua nhưng cũng gợi được những nét đáng chú ý),
những công cụ cầm súng, những cái máy giết người trong tay đế quốc Mỹ.
Giữa những lớp người cầm súng khác nhau đó, thế hệ trẻ nổi lên tiêu
biểu cho sức thanh xuân của dân tộc ta trong cuộc kháng chiến này. Đó là lớp
người sinh ra trong nôi của cách mạng xã hội chủ nghĩa. Họ là những thanh
niên có văn hóa, có tâm hồn, say lý tưởng, dũng cảm trong chiến đấu và hết
lòng vì bạn bè, đồng chí. Những người lính nông dân ngày xưa đã cầm súng
để chiến đấu cho mảnh ruộng và mái nhà của mình. Còn thế hệ trẻ ngày nay,
họ đã “từ giã gia đình, trường học, từ giã một cuộc sống tương lai đẹp đẽ hết
sức bảo đảm đã bắt đầu xây dựng cho họ, từ bỏ trái hạnh phúc đang ửng
hồng trong vườn nhà” để lao vào cuộc chiến đấu. Giữa cuộc sống đầy gian
khổ và hy sinh ấy, chất lạc quan tươi trẻ đến hồn nhiên vẫn tồn tại trong mỗi
người như một bản năng, cảm động biết bao khi cả một tiểu đội bị nghễnh
ngãng vì bom Mỹ vẫn chăm chú đón nghe tiếng hát. Một chiến sĩ lầm lỳ từng
đạp lên cả tiểu đội lính Mỹ lại say sưa lắng nghe tiếng hót của một con chim
bông lau bị điếc! Giữa hai trận đánh họ vẫn làm thơ, thổi sáo, vẫn dành chút
thì giờ ngắn ngủi để kịp nghĩ lại mình và nhớ đến người thân.
Tuy vậy, nhân vật được tác giả dành nhiều công phu xây dựng hơn cả
trong tác phẩm, có ý nghĩa điển hình cho lớp người mới trong quân đội ngày
nay là Lữ. Đây là một nhân vật, đặt vào quá trình sáng tác của Nguyễn Minh
Châu thì rất mới mẻ và đặc biệt. Đó là một học sinh mơ mộng, lẵng mạn, từng
đốt hết sách vở, bỏ nhà ra đi, trải qua trường học chiến đấu mà trở nên chín
chắn, điềm đạm. Đó là một người từng như choáng ngợp trước mối tình của
mình, từng say sưa với ánh trăng huyền ảo giữa đêm Trường Sơn sau cơn
mưa, lại cũng đã biết chọn cho mình sự hy sinh dũng cảm để dành về cho
đồng đội phần thắng quyết định. Ý nghĩa điển hình của nhân vật này là ở chỗ
tác giả muốn thông qua đó để lý giải cho mình những câu hỏi về động cơ,
mục đích, nguồn sức mạnh trong chiến đấu của thế hệ trẻ, một thế hệ vốn là
sản phẩm của miền Bắc xã hội chủ nghĩa.
Nhìn chung, Nguyễn Minh Châu muốn đem lại cho ta một kiểu nhân vật
có đời sống nội tâm sâu sắc và tính lý tưởng rõ ràng. Cuộc sống đang chuyển
–nghĩa là sẽ còn nhiều thay đổi. Ngoài sự hy sinh dũng cảm của Lữ và cả tiểu
đội anh, chúng ta chưa biết những biến động gì sẽ còn đến với các nhân vật.
Nhưng có một điều khiến ta tin chắc: cuộc chiến đấu sẽ làm cho con người
lớn dậy, cứng cáp và khỏe khoắn thêm lên. Đó là điều Nguyễn Minh Châu
muốn chứng minh qua Lữ, cũng như qua những bạn bè đồng đội của anh. Đó
cũng là điều mà người viết đã từng chứng minh qua những con người ở làng
Kiều – một vùng của sông. Trên ý nghĩa ấy mà nói, Dấu chân người lính cũng
là một bước tiếp tục của Cửa sông. Nhưng ở tác phẩm mới này, dường như
tác giả bộc lộ rõ hơn niềm say sưa với vẻ đẹp của cuộc sống, với chất lý
tưởng ở con người, và do đó, chất lãng mạn cũng đậm đà hơn.
***
So với Cửa sông, Dấu chân người lính là một bước tiến của Nguyễn
Minh Châu. Bối cảnh chiến trường, những cơn mưa Trường Sơn, những buổi
sương mù Tà Cơn hay một bếp lửa trên đường giao liên, và nhất là những
con người – những con người thuộc nhiều thế hệ, trên bối cảnh của một cuộc
ra quân lớn… đã gây cho chúng ta những ấn tượng khó quên.
Nhưng có lẽ do quá say sưa trước một hiện thực mới mẻ phong phú
mà Dấu chân người lính chưa có được sự cân đối cần thiết giữa hai mặt lãng
mạn và hiện thực, để giúp cho người đọc có được một cái nhìn trọn vẹn, toàn
diện. Hệ thống nhân vật trong Dấu chân người lính có vẻ dàn trải. Mỗi nhân
vật đều còn ít có sự đấu tranh trong nội tâm. Một số nhân vật trong tác phẩm
được xây dựng sơ sài. Cũng cần phải nói thêm là Nguyễn Minh Châu ít viết
về những gian khổ, khó khăn của chiến tranh. Ngay tội ác của kẻ thù cũng
chưa được anh chú ý thê hiện cho đúng mức cần thiết. Tất nhiên viết về
những điều này rất khó. Một số người cứ muốn tô đậm những khó khăn gian
khổ của chiến tranh do kẻ địch gây ra, với một dụng ý không tốt, hoặc với một
tâm lý dao động không lành mạnh. Nhưng điều mà chúng ta cần nhấn mạnh
là không nói về khó khăn, gian khổ thì không thể biểu hiện được sâu đậm
nhân vật tích cực và khí thế cách mạng, tinh thần lạc quan cách mạng của
dân tộc anh hùng. Tóm lại, mọi mặt, từ cuộc sống đến con người trong Dấu
chân người lính đều có vẻ hơi dễ dãi. Điều đó không tránh khỏi hạn chế ít
nhiều giá trị hiện thực và tư tưởng của Dấu chân người lính – tác phẩm muốn
vươn tới một bức tranh tổng hợp về một cuộc chiến tranh nhân dân rộng lớn
trong lịch sử dân tộc. Ngoài ra, nhiều đoạn viết chưa được cô đọng, tập trung
vào những điều đáng mô tả nhất, cho nên tác phẩm như một bó hoa mới hái,
cành lá còn rậm rạp, chưa được xén gọt sửa sang. Những đoạn quá dài ấy
đọc hơi nhạt.
Dù sao, thiếu sót của Nguyễn Minh Châu trong Dấu chân người lính là
thiếu sót trong quá trình thể nghiệm, tìm tòi. Bước tiến của anh, so với Cửa
sông, và những đổi thay trong bút pháp của anh, cho phép chúng ta hy vọng
ở anh nhiều hơn nữa.
Dư luận chung đánh giá Nguyễn Minh Châu là một cây bút văn xuôi có
nhiều triển vọng. Anh là người có quyết tâm đi vào những đề tài có tính chất
thời sự. Anh là người đi vào cuộc sống, biết tìm chọn và giữ lại được cho
mình những gì đáng giá nhất. Đó hẳn sẽ là cơ sở vững chắc cho anh, từ
những thành công bước đầu này, vươn tới những mục tiêu mới.
Phần bốn. ĐỘI NGŨ VĂN XUÔI GIẢI PHÓNG Lực lượng viết của văn xuôi Giải phóng hình thành và trưởng thành
trong cuộc chiến đấu thiêng liêng vì sự nghiệp giải phóng Tổ quốc, đấu tranh
thống nhất nước nhà. Tiếng súng đồng khởi và sự ra đời của Mặt trận dân tộc
giải phóng miền Nam năm 1960 đã mở đầu một giai đoạn mới của sự nghiệp
đấu tranh cách mạng của nhân dân ta ở miền Nam. Nó cũng đồnq thời làm
xuất hiện những sáng tác tiêu biểu của quần chúng, như các bức thư trong
Từ tuyến đầu Tổ quốc, các hồi ký trong Những ngày gian khổ. Từ phong trào
quần chúng sáng tác ngay trong nước sôi lửa bỏng của cuộc chiến đấu, lực
lượng văn xuôi Giải phóng đã dần được hình thành và tiến tới xây dựng được
một đội ngũ của mình, gồm những chiến sĩ vừa cầm súng vừa cầm bút, quyết
tâm bám trụ trên các chiến trường, trong vùng địch hậu, trên các vành đai, có
nhiều người đã ngã xuống trong tư thế chiến đấu.
Có thể nói đến một sự xuất hiện thật nhanh chóng – đôi khi dường như
bất ngờ nữa – của đội ngũ văn xuôi Giải phóng, với những người mở đường,
đến với cách mạng từ nhiều nguồn, như Giang Nam, Anh Đức, Trần Đình
Vân, Nguyễn Trung Thành, Nguyễn Thi, Trần Hiếu Minh, Phan Tứ, Lê Vĩnh
Hòa…, mà tác phẩm của họ đã có vinh dự góp phần vào Giải thưởng văn
nghệ Nguyễn Đình Chiểu năm 1965, đánh dấu chặng đường đi vẻ vang, hào
hùng đầu tiên của nền văn nghệ cách mạng miền Nam.
Lực lượng viết của văn xuôi Giải phóng ngày càng phát triển đông đảo
thêm qua từng bước tiến của phong trào. Từ sau cuộc Tổng tiến công mùa
xuân năm 1968, nhiều cây bút mới, gắn với giai đoạn cách mạng mới ra đời
như: Nguyễn Sáng, Lê Văn Thảo, Nguyễn Chí Trung, Nam Hà, Thu Bồn, Đinh
Quang Nhã, Dương Thị Minh Hương, Tô Nhuận Vỹ…
Đội ngũ văn xuôi Giải phóng trưởng thành nhanh chóng với những bản
sắc riêng khá rõ ràng. Nguyễn Thi trước đây trong bút danh Nguyễn Ngọc
Tấn đã có một mảng truyện ngắn đặc sắc, nay lại vượt lên, thành công trong
nhiều thể loại, đặc biệt là các truyện ký về anh hùng, với bút pháp rất biến
hóa, mà Người mẹ cầm súng là một sáng tạo hết sức độc đáo, rất dân gian
mà cũng rất hiện đại. Nguyễn Trung Thành vẫn tiếp tục cái băn khoăn tìm tòi
của Nguyên Ngọc giai đoạn trước, nay viết được những truyện ngắn đặc sắc
như Rừng xà nu, rồi lại tiếp tục bắt tay vào xây dựng một tiểu thuyết với niềm
mong muốn sao cho xứng với tầm vóc của cuộc sống như Đất Quảng. Trần
Hiếu Minh, Anh Đức, Phan Tứ, Nguyễn Sáng… nhìn chung đều là những
người viết có sáng tác tốt từ trước, với các bút danh khác nhau, như đã được
nghiên cứu hoặc nhắc đến trong các phần trên, nay trong sự nghiệp xây dựng
một nền văn xuôi Giải phóng trên tiền tuyến lớn, lại tiếp tục có đóng góp nổi
bật trong nhiều lĩnh vực, người thì hấp dẫn chúng ta bằng một chất trữ tình
nồng thắm của thơ, người thì gây hứng thú bằng những căng thẳng đầy tính
kịch, hoặc với cái bộn bề hùng tráng có dáng dấp sử thi.
Tóm lại, tuy quãng đường đi còn ngắn, nhưng với những thành công
của mình, văn xuôi Giải phóng đã có thể mang lại những đóng góp đặc sắc
vào bộ mặt văn xuôi Việt Nam hiện đại.
Đặc Sắc NGUYỄN THINguyễnThi cho đến bay giờ, và có lẽ còn lâu về sau, đối với chúng ta,
vẫn cứ mới mẻ mà quen thuộc như thế. Nhiều người đã nói đến cái phong vị
dân gian truyền thống trong Người mẹ cầm súng. Những câu chuyện của ông
bà Sáu Hò, những câu chuyện của bà con Tam Ngãi kể về vợ chồng, mẹ con
chị út… qua mô tả của Nguyễn Thi, quả nghe như vọng lại từ ca dao hoặc
truyện cổ.
Nhưng dân gian mà rất hiện đại. Cái sâu sắc của Nam Cao, cái châm
biếm của Nguyễn Công Hoan, cái mới lạ của Trần Đăng, cái tinh tế của Bùi
Hiển… ít nhiều đều có dấu ấn trong Nguyễn Thi. Đặc biệt, cái oi ngột quằn
quại của Tắt đèn lại không dễ trở lại với chúng ta một lần thứ hai, đậm đến
thế, nếu vì một sự rủi ro gì đó Ở xã Trung Nghĩa không kịp đến tay chúng ta.
Tóm lại, Nguyễn Thi gợi cho ta nhớ, dường như trong một ấn tượng toàn bộ,
dáng nét của nhiều người đi trước.
Nhưng không phải bóng người trước trùm lên anh. Nếu vậy chẳng còn
anh nữa cho ta bàn. Cũng không phải anh đi theo bắt chước. Sự bắt chước
trong nghệ thuật sẽ thủ tiêu ngay chính bản thân nó, sẽ chẳng là gì cả. Đây là
một sự tiếp tục, một cuộc gặp gỡ. Người đọc tiếp xúc với Nguyễn Thi, và thật
kỳ lạ, qua Nguyễn Thi, như trong một nguồn sáng mà gặp rất nhiều người.
Những người thân quen, đã nhiều lần sống cùng ta, trên trang sách; họ ở đâu
đây gần lắm, sẽ lại cùng ta tâm tình, trò chuyện.
Văn mạch dân tộc – nếu có thể mượn dùng chữ ấy để nói về truyền
thống – vốn là một con đường đã có sẵn. Nhưng đừng tưởng bất cứ ai cũng
có thể dễ dàng đặt chân lên trên con đường đó; hoặc nói cho đúng hơn, ai
cũng có thể đặt chân lên đó, nhưng chưa dễ đứng riêng ra, trên đôi chân của
mình, mà làm một cuộc chạy tiếp sức lên phía trước.
Hiện tại đi từ truyền thống. Truyền thống bao giờ cũng làm nền. Nhưng
nền truyền thống trong văn học bao giờ cũng là một cái gì ẩn ngầm, lặn sâu,
nó được đúc nên bằng những tinh hoa. Người viết lạnh nhạt hoặc chưa sâu
sắc đến độ cần thiết, khó bắt gặp được nó. Đây là chỗ hội tụ của vốn từng
trải, sự hiểu đời; hơn thế, đây là chỗ giao lưu của những tình cảm lớn. Mỗi
người viết gắn vào một giai đoạn lịch sử, đề cập những vấn đề của người
đương thời. Nhưng nếu cố gắng đi thật sâu vào đời, cảm xúc đến tận cùng
những buồn vui của nhân dân, nhất định anh sẽ bắt gặp được những vấn đề
chung của lịch sử, nó xuyên suốt không gian, thời gian và kết tinh thành
những mạch ngầm. Chính điều đó là cái làm cho sáng tác Nguyễn Thi luôn có
xu nướng vươn rộng ra, viết về miền Nam mà cho ta hiểu toàn đất nước, viết
về hiện tại mà gợi nghĩ cả quá khứ, tương lai.
***
Nguvễn Thi viết ít, vài tùy bút, mươi truyện ngắn, một truyện vừa hoàn
chỉnh, vài phác thảo ký, truyện dài còn dở dang. Thế nhưng, đọc anh ai mà
không cảm thấm một nỗi xôn xao, day dứt về “những điều trông thấy”, và
cũng xôn xao không kém là sức dội, tiếng vang của cuộc đời ấy trong chính
tâm hồn mình. Một nhận thức, và từ đó, một xúc động cùng đến và ở lại đấy,
nơi sâu thẳm của tâm hồn mình, không nhòa đi, không rời bỏ được, đó là cái
làm nên sức hấp dẫn đặc biệt của những trang Nguyễn Thi.
Nổi bật hơn nhiều nhà văn, Nguyễn Thi không e ngại đi vào những
xung đột dữ dội, không trốn tránh việc mô tả bộ mặt kẻ thù. Những mâu
thuẫn, những giao tranh, những trái ngược luôn được anh dồn đẩy đến một
cái thế tức bí nhất, khiến cho người đọc không sao yên được. Đó là cái không
khí Ở xã Trung Nghĩa. những tháng năm nhân dân còn phải sống trong sự
kìm kẹp của kẻ thù. Cảnh ngộ ông Tư Trầm, chị Hai Khê trong truyện có thể
xem là sự kết tinh số phận quần chúng bị dồn đẩy đến thế cùng; qua đấy cho
ta thấy cả một bóng đêm dày nặng của xã hội, mà tiêu điểm là hai khuôn mặt
cùng một bản chất sát sinh của đại diện Hiếm và cảnh sát Âu. Nguyễn Thi đã
thành công biết bao nhiêu trong hai nhân vật ấy, với bấy nhiêu trang ít ỏi của
một truyện dài viết dở, bằng một ngôn ngữ đặc biệt, nó là những chữ bằng
chì lỏng, nóng chảy và định hình ngay tức khắc khi đổ vào khuôn.
Với Nguyễn Thi, cuộc sống là bao nhiêu dường mối, đường mạch xô
đẩy, quấn quýt, xen cài chằng chịt vào nhau, bổ sung cho nhau, tương phản
lẫn nhau. Những người dân “bảng đen” như ông Tư Trầm, chị Hai Khê mà cả
một bộ máy khổng lồ với súng, gươm tách họ ra vẫn cứ xô giạt, nương tựa
được vào nhau. Còn những thế lực thống trị như đại diện Hiếm, cảnh sát Âu,
Ba Kỳ, Ba Sồi, Hai Mật… vừa nhâng nháo trở về trên bàn tiệc, ngồi bên nhau,
bàn tính cùng nhau cách làm ăn, từ việc “xây nhà tôn, mua ghe máy” đến việc
cướp từng quả đu đủ, lận từng đồng của người dân lương thiện, trong cái “hồi
buổi làm chơi ăn thiệt” này lại sẵn sàng lừa miếng nhau, thọc gậy vào lưng
nhau. Một cuộc sống mà “miếng ăn ngay thẳng thì phải làm trong cảnh tối
tăm, còn của cướp thì chúng mặc sức làm phơi phới giữa ban ngày như phơi
áo”, mà mỗi người đều phải có “một cái tai riêng để nghe chuyện”, “có thêm
một cặp mắt để nhìn cho thấu những sự việc con mắt thường không thấy và
thêm một cái miệng nữa để bàn những việc mà thông thường không nói
được… “. Một cuộc sống mà bên ngoài là một vẻ an bài, phẳng lặng, đâu vào
đấy, nhưng bên trong, có trời mà biết, nó sẽ nổ tung ra từng mảnh bất cứ lúc
nào. Một cuộc sống thực mà giả, giả mà thực, đang chờ đợi “một phép mầu”
đễ được hoàn nguyên là nó…
Và thế tất là cái sự nổ tung đó phải diễn ra. Nguyễn Thi nói với ta, hạnh
phúc đã đến với con người trong đấu tranh – hạnh phúc “cầm súng” – và đấu
tranh là con đường duy nhất đưa đến hạnh phúc cho họ. Anh nói với chúng ta
về những cuộc lên đường, những cuộc ra đi. Có cuộc ra đi vui như hội, mắt
phóng ra phía trước, đầy hào hứng như của ba cô gái trong Mùa xuân: Hà đi
với lý do là Tết này mình đã mười bảy, không cho mình đi thì mình già, còn
gì… Nga lớn kèo xin đi cũng có lý, là vì anh Ba Nghề, du kích, cứ hỏi ý kiến
hoài, mình ở nhà chắc phải tuyên bố mất. Còn Chỉnh thì chỉ khoái cầm súng
đi cùng trời cuối đất, như các anh bộ đội vậy”. Nhưng cũng có cuộc ra đi như
của hai chị em Việt trong Những đứa con trong gia đình mang hai cái tang
trên đầu, diễn ra trong âm thầm, lặng lẽ, phải lo tính việc nhà, nghĩ lại về phía
sau, ngày qua, người đã khuất. Nhưng dù thế nào, những cuộc ra đi đó, đối
với họ, đều là một nhu cầu khẩn thiết, và cái hạnh phúc trong chiến đấu đó
luôn luôn tạo nên những trang sôi nổi, xúc động ở Nguyễn Thi. Tuy vậy đối
với Nguyễn Thi, đó cũng là một cuộc chiến đấu mà thắng lợi không được
miêu tả một cách dễ dàng. Và cũng không phải chỉ là công việc của một thế
hệ. Nó vẫn còn tiếp diễn khi trang sách đã hết hoặc đang tạm dừng.
Thực ra, đóỏ là điều mà ai trong chúng ta cũng đều có thể thấy rõ.
Nhưng mặc dù vậy, Nguyễn Thi vẫn cứ có thể giúp ta nhìn kỹ thêm, thấm thía
hơn. Là vì chẳng bao giờ anh nói điều ấy một cách trừu tượng. Anh để cho
nhân vật “nói”. Và cái tiếng nói của hình ảnh mà anh gợi cho ta trên trang
sách ở đây, luôn luôn có sức gợi và làm cho ta xúc động. Anh náu mình sau
những câu chuyện của bà con Tam Ngãi kể về mẹ con chị Út: Mẹ con nó dạy
nhau cùng một khuôn, con Út kia đi đánh giặc thì lại có con út nọ ở nhà”. Anh
để cho con bé Gái đeo cạc-bin, mắt long lanh, môi chúm chím, quần vo quá
gối, đầu súng đưa qua đưa lại, khiến cho mấy bà mẹ phát kêu lên: “Nó giống
hệt mẹ nó hai mươi năm trước”. Anh để cho hai bà mẹ trao trầu cho nhau,
tâm sự: – “Nghĩ cho ông Cụ Hồ mình khéo nuôi con cháu, năm đình chiến,
đám con Chỉnh, ông Cụ còn gửi kẹo theo tàu vô cho ăn, giờ ông Cụ đã được
nhờ rồi”… Chỉ thế thôi, mà thực ra không cần nói gì thêm cũng đủ để cho ta
thấy cuộc chiến đấu đang tiếp tục, các thế hệ chúng ta đang nối bước nhau
cầm sủng, như thế nào, và sức trẻ đang lớn lên ra sao.
Thật là thích hợp với Nguyễn Thi, cây bút trữ tình rất mực, khi anh
hướng về đám trẻ, hướng về những khuôn mặt thân yêu của các bà mẹ, nó là
chất thơ không bao giờ vơi cạn trên các trang viết của anh. Nhưng với
Nguyễn Thi, chất thơ đó không bao giờ che khuất hoặc làm mờ đi cái vẻ dữ
dội, khốc liệt của cuộc chiến đấu. Bộ mặt kẻ thù, những mảng đen tối trong
đời sống luôn luôn được nhà văn đặt vào đúng vị trí của chúng, khiến cho ta
căm ghét và cảnh giác, chứ không phải để cho ta ớn ngợp hoặc kinh sợ;
nhưng chính sự có mặt đó đã góp phần cho ta hiểu tính chất cực kỳ gian khổ,
ác liệt của cách mạng miền Nam. Cũng như vậy, bằng sáng tác của mình,
Nguyễn Thi nói với chúng ta cái niềm vui cưa bao giờ vui đến thế của nhân
dân được giải phóng, nhưng sự nghiệp giải phóng nhân dân vẫn còn tiếp
diễn. Trong đấu tranh, hạnh phúc vô giá đã đến với con người, khi họ được tự
mình làm chủ đời mình, nhưng giờ đây vẫn chưa phải là lúc con người nghĩ
đến hưởng thụ. Tóm lại, đối với Nguyễn Thi, cuộc sống đầy màu sắc, luôn
chuyển động, và đang tiếp diễn.
***
Chính trên bối cảnh một cuộc sống như vậy, Nguyễn Thi dễ dàng giúp
ta đi tới những khám phá đúng đắn và sâu sắc về con người Việt Nam. Đây là
con người không cần đến và cũng chẳng bao giờ biết đến những bi kịch cá
nhân. Con người đó không phí công mất sức vào những đau khổ riêng tư và
những gì gọi bằng “thân phận”, “số phận”… Dựng chân dung các anh hùng Út
Tịch, Nguyễn Thị Hạnh, hay đi vào bất cứ con người quần chúng bình thường
nào, Nguyễn Thi không bao giờ mô tả họ trong tình trạng bối rối, mình tự đối
lập với mình. Anh đặt họ trong bối cảnh cách mạng, trước những yêu cầu của
cách mạng. Đối với những người không ưa sơ lược, thích những gì gọi bằng
“phức tạp”, thì ở đây vẫn là hai vế, vẫn có “mâu thuẫn”, có điều không phải
mâu thuẫn nội tâm, mà là mâu thuẫn trong sự đối chiếu giữa khả năng con
người và yêu cầu của cách mạng, con người không ngừng vươn lên và yêu
cầu cách mạng không ngừng phát triển. Bao nhiêu khó khăn đặt ra trước mắt
chị Út: việc nhà, con cái, bụng mang dạ chửa… cũng chính là bấy nhiêu hoàn
cảnh cho chị bộc lộ tất cả sự dồi dào vô hạn những khả năng và nghị lực của
mình. Cũng có thể nói như vậy về Nguyễn Thị Hạnh trong Ước mơ của đất.
Tóm lại, đó là hướng khám phá tính cách con người mới ở Nguyễn Thi, nhằm
làm sáng tỏ một cách tự nhiên, không chút cố ý, cái hiện tượng có thể xem là
đặc trưng cơ bản của cuộc sống dân tộc Việt Nam ngày nay: cái bình thường
đã được nâng lên tầm vóc anh hùng, và người anh hùng đã trở thành bình
thường, tự nhiên như đời sống vậy.
Nguyễn Thi không băn khoăn quá nhiều về việc đi tìm cho nhân vật của
mình một cá tính gì đó đặc biệt, để cho người đọc dễ nhận, mặc dù cái tài đó
anh không thiếu. Một Đực Cò, “mới mười bảy tuổi, lòng dạ và tác người đều
gà tồ, ai hỏi gì cũng cứ “hả” rồi mới trả lời”; một cô Hà, nữ du kích “không hề
sợ máy bay bỏ bom mà chỉ lo máy bay nó rớt trúng đầu mình”; một chị Tư,
người mẹ trẻ “hiền như chiếc lá”, đi biểu tình cõng con sau lưng để rủi có
trúng đạn thì mình chịu trước… chỉ thoáng một lần mà đâu phải dễ quên.
Nhưng dường như Nguyễn Thi không để tâm vào đó quá nhiều. Anh đi thẳng
vào những bề sâu, những thuộc tính cơ bản ở con ngưòi, và khi đã xác định
được nét cơ bản đó, anh đem toàn bộ bút lực của mình ra để thể hiện. Đối
với anh, những con người mới vốn có một bản chất chung, nhưng biểu hiện
của nó lại vô cùng phong phú, không lặp lại, không giống nhau. Trong tùy bút
Những câu nói ghi trong Đại hội, anh cho ta thấy cách nhìn ấy; đến với từng
anh hùng, anh cố tìm tòi để nắm lấy và thể hiện cho được ngay trong một câu
nói, một đặc trưng cơ bản của nhân vật. Chị út: “Còn cái lai quần cũng đánh!”.
Nguyễn Thị Hạnh: “Đừng lo tôi chết. Cứ để tôi ở đây sống với đồng bào”. Tạ
Quang Tỷ: “Chận đầu!”. Phạm Văn Cội: “Cứ đánh, trước khó sau quen”.
Trương Văn Hòa: “Tìm Mỹ mà diệt”. Kan Lịch: ”Đánh gần!”…
Nguyễn Thi cho thấy: đó là những lời tự nhiên. Nhưng là một cái tự
nhiên mà ngẫu nhiên đúc kết toàn bộ một tính cách, một lẽ sống, một phương
châm, mục tiêu hành động. Họ nói một cách không cố ý những điều dường
như đã trở thành chân lý của thời đại. Những chân lý giản dị mà có người
nghĩ cả hàng đời vẫn không ra. Nhưng chính vì giản dị mà nó là chân lý. Kan
Lịch ham đánh gần vì, “nổ như vậy chắc trúng, trúng thì nó sẽ chết, nó chết
thì nó không bắn lại được mình”, Chi Út cười, miếng trầu còn ở trong miệng:
“ở xã tôi, bót nhiều lắm, mình không giết nó, nó cũng giết mình, nó thu tô”. Rồi
chính cái phát hiện đó sẽ là điểm tựa giúp anh dựng lên chân dung của người
nữ anh hùng, hơn thế, chân dung của cả một thế hệ, mang rất rõ trong mình
khí phách của dân tộc, tinh thần của thời đại. Tưởng không nên kể lại – và
quả cũng khó mà kể lại – chân dung chị Út “sống” đến mức nào trên tính cách
cơ bản đó, cái con người lúc bé ốm nhách đã vung ớt bột vào mặt mụ Hàm
Giỏi, “đánh nó để nó không đánh được mình”, leo tuốt lên ngọn dừa đái “bi
cao” cho biết, kẻo ai đó cứ khinh thường đàn bà con gái đái không qua ngọn
cỏ, gan góc nổi tiếng khiến cho các bà mẹ Tam Ngãi phải kêu lên: “Không biết
nó uống cái toa thuốc gì mà gan trời vậy chớ!”. Tất cả những chi tiết đó lúc
này đều được xuyên suốt, xâu chuỗi nhau mà đắp nổi cho hình tượng.
Rõ ràng quả hiếm có người viết nào chỉ với số trang, số dòng ít ỏi như
vậy, lại dựng lên được những chân dung sống như Nguyễn Thi, nó là kết quả
của một sự trải đời, hiểu người thật là phong phú. Đây là thế giới nhân vật
Nguyễn Thi, thế giới của trẻ con, của những người mẹ, người chị, những ông
bà nội ngoại quen thuộc với chúng ta đến mức ngỡ như họ cũng là những
người thân yêu của chính mình. Nhưng mỗi loại nhân vật đó bao giờ cũng
được Nguyễn Thi mô tả nhằm một mục đích nghệ thuật nhất định. Không phải
ngẫu nhiên mà hình ảnh trung tâm, và cũng là hình ảnh thành công trong tác
phẩm Nguyễn Thi, lại là hình ảnh người mẹ, và là người mẹ cầm súng. Là vì,
đối với anh, người mẹ, – người mẹ Việt Nam –, luôn luôn, lúc nào cũng đều
đóng vai trò là chỗ dựa cả về vật chất và tinh thần cho tất cả những đứa con,
lớn hoặc nhỏ, gần hoặc xa, trong gia đình hoặc ra ngoài xã hội; là nhân vật có
khả năng quy tụ vào mình nhiều mối quan hệ có ý nghĩa, và cũng là gốc sinh
ra, là nguồn nuôi dưỡng những tình cảm lớn lao, đằm thắm ở con người. Và
cũng không phải ngẫu nhiên mà Nguyễn Thi nói nhiều về thế giới trẻ con, vì
chính là, bằng vào thế giới trẻ con, những Đực, Bỉnh trong Chuyện xóm tôi,
mấy chị em con Bé trong Mẹ vắng nhà, Nguyễn Thi đã có thề nói lên được
một cách thật là rung động một thứ chất thơ, để qua đó, đi tới khẳng định một
chủ nghĩa lạc quan vô cùng dồi dào trong cuộc sống chúng ta, đồng thời
chứng tỏ cuộc chiến đấu của dân tộc vẫn còn tiếp diễn…
***
Có thể nói đến một hiện thực được phản ánh theo phong cách Nguyễn
Thi, một phong cách luôn luôn gắng đến mức tối đa để có thể thâu tóm hiện
thực ở dạng đúc kết nhất.
Chuyện một gia đình. Hay nói cho đúng, và thu nhỏ hơn: Những người
con trong gia đinh. Chuyện một chiến sĩ trên chiến trường, giữa một thời điểm
căng thẳng nhất và cũng là yên tĩnh nhất của đời anh: lúc anh bị thương, lạc
đơn vị, nằm trên trận địa vắng lặng, sau một cuộc đọ lê, bây giò chỉ còn mùi
khét của khói và mùi tanh của xác Mỹ. Cái chết chờn vờn đến bên anh,
nhưng không phải là cái lúc này anh nghĩ đến. Suy nghĩ mông lung của Việt
hướng Việt nghĩ về mẹ, về những người trong gia đình, và theo triền dây suy
tưởng đó, dựng lại cả một quá khứ của tuổi thơ anh. Gia đình: đó là cái rõ nét
trong anh, với hình ảnh trung tâm quần tụ mọi kỷ niệm đẫm nước mắt về một
người mẹ đã khuất, người kết tinh cả một quá khứ vật lộn với sinh kế và kẻ
thù để nuôi chồng nuôi con. Gia đình: là kỷ niệm rỉ máu về một người cha đã
hy sinh cho đất nước. Gia đình: đó là một ông chú, người hiện đang còn giữ
một cuốn sổ ghi lại chuyện của những người trong nhà – những mối thù,
những chiến công, người làm nhiệm vụ kể lại sự tích gia đình, và cuối mỗi
câu chuyện thế nào cũng hò lên mấy câu. Gia đình: còn là một người chị
được tạc theo hình ảnh của mẹ, cũng đã lên đường đi chiến đấu ở một
phương nào đó.
Nguyễn Thi cho ta thấy bao nhiêu là tình sâu nghĩa nặng trong một chữ
“gia đình”, nó là nỗi niềm sâu thẳm của người chiến sĩ ra trận lần đầu. Nguyễn
Thi nói đến gia đình – cái đơn vị cơ bản, nền tảng đó của mỗi người con ra đi,
đồng thời đem lại cho nó một ý vị thiêng liêng khi mở rộng nó ra và gắn nó vói
quê hương đất nước. Trong một truyện ngắn của Nguyễn Ngọc Tấn hồi 1960
những người chiến sĩ trong tập luyện, có thói quen khắc tên quê hương trên
vành mũ, “khi xung phong, quê hương cùng đi theo”. Những người chiến sĩ
miền Nam, trong Nguyễn Thi, mấy năm sau, khi ra trận, khắc hẳn hình ảnh
quê hương trong trái tim mình. Thiên truyện vừa mở ra vừa đi sâu.
Chuyện một xóm: Chuyện xóm tôi, cái xóm nhỏ miền Nam, mươi chục
nóc nhà, con mương nhỏ, rặng dừa, chiếc cầu tre. Chuyện xóm nhỏ mà lại
bắt đầu bằng hai đứa trẻ: Đực và Bỉnh. Tình bạn của chúng kết giao bền chặt
tự nhiên, vì chúng có hai ông bố cùng bị ác ôn Tổng Phòng giết một ngày,
“hai người bị thằng Phòng bắn nằm gác chân lên nhau, tay bị trói chung và
cần cổ bị cột chung một sợi dây buộc lớn”. Gia đình chúng có chung một mối
thù nên chúng cũng có một trò chơi chung: “Hai cái dáng bé nhỏ ấy cùng chạy
dọc, chạy ngang, vừa bắn vừa hô, vừa cười hí hố, vừa nhai chùm ruột, say
sưa rượt đánh một thằng giặc vô hình nào đó đang chạy ở trước mặt và
ngoan cố chưa chịu khuất phục đầu hàng” – trong tưởng tượng của chúng, đó
chính là thằng Phòng. Câu chuyện mở ra khỏi cái giới hạn chật hẹp của nó
lúc nào không biết: chuyện trẻ con mà ra người lớn, chuyện nhà thành
chuyện làng, chuyện trò chơi mà mang một ý nghĩa nghiêm chỉnh. Cái xóm
nhỏ hiện ra trước mắt ta trải bao nhiêu biến cố, máu chảy, người chết, bao
nhiêu náo động: tiếng súng, tiếng mõ, tiếng reo hò… nhưng tất cả rồi cũng
qua đi cuộc sống trở thành bình thường, bởi vì “những việc như máy bay trực
thăng Mỹ mới bắn xối xả vào xóm sáng hôm qua đấy thì sáng nay nó đã trở
thành dĩ vãng, thù đó không quên, nhưng việc mới dồn dập tới, mọi người
tưởng như nó đã qua lâu lắm rồi…”. Người lớn ra đi, lớp này qua lớp khác.
Và tác giả lại dẫn chúng ta trở về cái bình lặng gan góc của xóm nhỏ đêm
hôm, trong giấc mơ trẻ thơ, trong câu chuyện giữa những ngưòi già, về quê
hương, về thời cuộc… Ở đày cũng là một sự mở rộng dần ra, để rồi thu nhỏ
lại.
Chuyện một xã: Ở xã Trung Nghĩa; nhưng là qua một xã để thấy sự kết
tinh tất cả cái oi ngột dữ dội nén lặng của miền Nam trong thế kìm kẹp của Mỹ
– ngụy. Lúc này, dường như kẻ thù còn đang trong cơn vênh vang đắc thắng:
tòa trụ sở hội đồng được sửa sang, khu trù mật đang được khởi công, chiếc
mô-tô của cảnh sát Âu và chiếc xe đạn của đại diện Hiếm đều đặn đi về…
Nhưng chính cái lúc tưởng lặng lẽ nhất ấy, cũng lại là lúc trời sắp nổi bão lên
rồi. Bão bên trong. Thiên truyện dừng lại ở cái phút im lặng ấy, vào cái điểm
“mắt bão” ấy.
Chính cái ý thức khái quát đó luôn luôn thường trực trong Nguyễn Thi
đã giúp anh vượt lên trên hiện thực bề bộn, làm chủ được tài liệu, trên cả bề
mặt và bề sâu. Bề mặt xã hội, bề sâu con người. Nó là một sự đúc kết. Cuộc
sống đọng lại ở đấy, ở phía sau, ở chiều sâu trang sách.
Nhưng với tất cả sức đúc kết đó, sáng tác của Nguyễn Thi không bao
giờ dừng lại ở mức chỉ làm thỏa mãn cho ta một nhu cầu nhận thức đơn
thuần. Cuộc sống trong sáng tác Nguyễn Thi không bao giờ là cuộc sống để
cho ta xem ngắm một cách thờ ơ, mà là một cuộc sống luôn luôn sục sôi, giục
giã, buộc ta bộc lộ một thái độ, đòi hỏi ta phải có ý kiến trả lời. Nguyễn Thi ít
khi nói to lên, một cách trực tiếp, những cảm xúc của chính mình. Nhưng sau
những trang viết “khách quan” để cho sự việc tự nó nói lên, thấy dồn nén bao
nhiêu nghĩ suy, tâm sự, khiến cho người đọc không thể nào bình yên, vô tâm
được. Bởi lẽ, nhà văn luôn luôn biết rọi vào đấy một thứ ánh sáng riêng,
không phải chỉ của đôi mắt, mà là của cả tấm lòng, khiến cho mọi màu sắc,
âm điệu, cung bậc của đời sống hiện lên thật rành rõ. Khi anh viết về một
thằng Phòng “mà cuộc đời làm tổng của nó đã tới nước nó có thể nghĩ rằng
đạn trúng thằng nào thằng đó là Việt cộng, cứ bắn”; về đàn con chị Út nằm
hầm: “Cả bốn đứa đều chống tay xuống đất, chổng mông lên trời như bốn tai
nấm (…) Con bé, một tay bồng em, một tay thò ra ngoài hầm quấy bột, nó bắc
xoong lên ba cục đất, chụm bằng lá dừa.. “; về người mẹ chỉ đêm đêm mới
khóc, mẹ khóc lặng lẽ khi đàn con đã ngủ cả, “chỉ còn tiếng chuột chạy trên
nóc nhà, tiếng chó sủa ở đầu xóm và tiếng mõ của dân canh trên đồn dân
vệ…”; về vợ chồng ông Tư Trầm nhận năm công đất cách mạng trao cho; về
hai chị em Việt khiêng bàn thờ mẹ sang nhờ nhà chú để ra đi, hẹn “đến
chừng nước nhà độc lập lại đưa má về…”…, ta tưởng như tất cả những lời,
những chữ ấy không phải chỉ được viết bằng thứ mực thông thường, mà là
bằng mực của chính tấm lòng anh, đôi khi nó còn là máu và nước mắt.
Thể hiện cuộc sống trong mọi màu sắc, âm điệu, cung bậc khác nhau
của nó, đó cũng là nét đặc sắc trong tài năng, trong phong cách Nguyễn Thi.
Cho nên nói về Nguyễn Thi là nói về một cuộc sống rất mực dữ dội bên cạnh
một chiều sâu êm dịu, lặng lẽ của tâm tình; nói về sự phong phú của một chất
thơ trong suốt bên cạnh cái bộn bề, hùng tráng của sử thi; nói về một bút
pháp rất trữ tình, đôn hậu bên cạnh không ít âm điệu trào phúng sâu cay.
Tóm lại, nói về Nguyễn Thi là nói về một phong cách đa dạng.
Quả là thế, và hoàn toàn dễ hiểu, khi người viết, đó là Nguyễn Thi, và
khi đối tượng miêu tả, đó là hiện thực miền Nam. Người đã dốc cả tâm hồn
lên những trang thơ về con trẻ, về ông bà, cô bác của chúng ta, hẳn không
thể không sôi trào sự khinh bỉ, căm giận lên đầu những kẻ hình người dạ thú.
Và cũng thật khó mà phân biệt âm điệu nào là chính khi cuộc sống vốn bộn
bề đến thế. Giữa những tình huống đang bị dồn ép đến mức bi đát nhất như
trong Ở xã Trung Nghĩa, vẫn không ít những cảnh ngộ khiến cho ta bật cười,
cái cười vừa như ngọn roi đập vào mặt kẻ thù, vừa làm cho con người trong
cuộc khoan khoái trở lại, có thêm sức để đi tiếp con đường đi còn rất lắm
chông gai. “Rầu thúi ruột mà vẫn còn tiếu lâm” là thế!
Nhưng đa dạng mà nhất quán. Đó là sự nhất quán của một vốn từng
trải, một tâm hồn, một tài năng, một trí tuệ.
***
Thế nhưng, với tất cả những gì thành công và đã làm ta xúc động đến
thế, sáng tác Nguyễn Thi vẫn chỉ mới ở vào giai đoạn đầu của một quá trình
tìm tòi. Cũng như Nam Cao, “sống đã rồi hãy viết”, Nguyễn Thi cũng đang
trong thời kỳ chuẩn bị, mà Người mẹ cầm súng là một sự hoàn chỉnh đầu tiên,
và Ở xã Trung Nghĩa là một thành công không lặp lại. Nhưng trong Ước mơ
của đất, Mẹ vắng nhà, cũng như trong nhiều tùy bút, bút ký khác của Nguyễn
Thi, cuộc sống của những “người mẹ cầm súng” vẫn đang được anh tiếp tục
theo dõi, ấp ủ, để mở mang nó ra trên cả hai chiều rộng và sâu, quá khứ và
tương lai.
Nguyễn Thi thuộc trong số ít nhà văn mà cuộc đời và tác phẩm có khả
năng gợi cho ta suy nghĩ nhiều điều. Nghĩ về anh là nghĩ về mối liên hệ giữa
nhà văn và cuộc sống, nhà văn và quần chúng; và những lời anh tâm sự sau
đây hoàn toàn có sức nặng của một chân lý đã được thể nghiệm: “Chúng ta
tự hào sung sướng được sống trong lòng biển, vì giọt nước có vinh quang
cách mấy cũng chỉ là giọt nước, nó sẽ khô ngay lập tức nếu không được nằm
chung với biển, còn vinh quang của biển thì đời đời không lay chuyển được”
(Đại hội anh hùng). Nghĩ về anh là nghĩ về văn mạch dân tộc, đi từ nguồn và
nằm trong dòng chảy của những Ngô Tất Tố, Nam Cao, Trần Đăng… Nghĩ về
anh là nghĩ về sự thống nhất giữa tâm hồn và tài năng, tâm hồn nuôi dưỡng
tài năng, và tài năng bồi đắp cho tâm hồn. Nghĩ về anh là nghĩ về sự kết hợp
thành công giữa nội dung vừa dân tộc vừa hiện đại, trong một hình thức vừa
quen thuộc vừa đổi mới.
Chắc chắn là bạn đọc nhiều nơi, từ nay về sau, sẽ còn đọc anh với
niềm cảm ơn và cả sự hứng thú về những gì mà đời sống và đời văn của anh
sẽ còn tiếp tục gợi ra cho họ.
NGUYỄN TRUNG THÀNH và những trang về miền Nam đất lửaNguyễn Trung Thành viết chưa nhiều. Các truyện, ký ngắn của anh
được tập hợp, in trong Trên quê hương những anh hùng Điện Ngọc (Nxb.
Giải phóng, 1969), trong đó, ngoài thiên truyện ngắn xuất sắc Rừng xà nu, thì
những sáng tác khác phần lớn đều là các tùy bút, bút ký, hoặc là các trích
truyện, ký sự. Tiểu thuyết Đất Quảng (Nxb. Giải phóng, 1971) mới thực là một
bức tranh rộng lớn về cuộc sống quyết liệt của miền Nam “đất lửa”. Nhưng
cuốn tiểu thuyết mới chỉ có phần Một.
Có tình hình đó phải chăng là do Nguyễn Trung Thành còn tự khe khắt
với mình. Người đọc cảm thấy, đối với anh, cuộc sống phải được miêu tả
trong cái dạng hết sức phong phú và phức tạp của nó, với các sự kiện bề
bộn, những con người có tầm vóc lớn, những vấn đề luôn luôn mới mẻ… Do
đó người viết không thể đơn giản và nóng vội được.
Nhưng mặc dù viết ít, mặc dù một số truyện, ký của anh mới chỉ là
những phác thảo, có một vẻ gì đó chưa thật trọn vẹn, nhìn chung, toàn bộ
sáng tác của Nguyễn Trung Thành vẫn thể hiện rõ xu thế đi tới bao quát một
bối cảnh rộng lớn của Tây Nguyên, hoặc “đất Quảng” Khu Năm suốt cả một
quá trình, từ những ngày oi ngột trong thế bị kìm kẹp đến cái hả hê của một
cuộc đồng khởi, và cái thế vươn lên rộn ràng của một “cuộc ra trận lớn lao”.
Có lẽ do người viết luôn luôn có ý thức muốn nhìn và thể hiện cuộc sống
trong dạng cô đúc nhất của nó.
Trong tùy bút, Nguyễn Trung Thành cũng thường nói với ta về một
cuộc sống trong dạng như vậy. Anh nói về một ngày nào đó như là sự đúc kết
của thời gian. Ngày ấy, theo anh đứng cao vòi vọi giữa năm tháng, cha ông
từng ngước mắt trông vào đó, và lớp lớp thế hệ về sau vẫn mãi mãi dõi theo
(Trận đánh bắt đầu hôm nay). Đó là những ngày kỳ diệu mà con người tha
thiết được chứng kiến: “Có thể hôm nay, điều ấy cũng thường tình, tôi sẽ ngã
xuống. Nếu như vậy, thì cũng có sao đâu. Bởi vì giá như sau đấy vì một sự kỳ
diệu, tôi được sống trở lại thì cũng xin cho tôi được sống trong ngày hôm nay
của dân tộc ta” (Đường chúng ta đi).
Anh nói về một con đường “đường chúng ta đi”. Đó là một con đường
cụ thể, con đường người lính đi ra trận. Nhưng với Nguyễn Trung Thành, con
đường cụ thể đó sẽ lại hòa vào con đường của dân tộc hơn mấy chục năm
qua, con đường đi từ trong máu và nước mắt, từ trong nước sôi lửa bỏng đến
cái ngày chúng ta được cầm súng trong tay.
Cuộc sống bề bộn từng phút từng giây. Những ngày ngổn ngang sự
việc. Những người chật căng tâm tư, suy nghĩ, hành động… Tuy vậy, nếu
như tất cả những điều đó mới chỉ được anh nói đến, như một nhận xét, trong
các tùy bút, thì đến Rừng xà nu và Đất Quảng nó đã được thể hiện trong
dạng của hình ảnh, thật phong phú và xúc động.
Rừng xà nu, một chuyến về thăm quê nhà của anh giải phóng quân
Tnú. Một câu chuyện kể về Tnú của cụ già Mết với dân làng. Chuyện đời Tnú
và cũng là chuyện của bà con làng Xô-man. Chuyện làng Xô-man và cũng là
chuyện của Tây Nguyên… Một nhân vật trung tâm là Tnú, mở ra một loạt
quan hệ: cụ già Mết, Mai, Dít, bé Heng… và đằng sau là dân làng Xô-man,
làng xô-man với bạt ngàn những rừng xà nu “nối tiếp tới chân trời”… Một thời
điểm ngắn, một ngày sống với làng quê của Tnú mở ra cả một quãng đường
dài của nhân dân, của cách mạng, từ quá khứ đến tương lai, từ những đau
thương lớn đến một cuộc đồng khởi vĩ đại, “cả làng Xô-man ào ào rung động,
và lửa cháy khắp rừng”…
Chính cái khả năng đúc kết đó đã làm cho Nguyễn Trung Thành, trong
phạm vi ngắn gọn của một truyện ngắn, có thể dựng lại cá một quá trình cuộc
sống trong những mảng đậm nhất, gây xúc động nhiều nhất.
Tiểu thuyết Đất Quảng vẫn tiếp tục cái hàm súc, cô đúc đó của Rừng
xà nu. Bao nhiêu ý nghĩa trong một chữ đất đã được gợi ra ngay từ trong câu
ca dao được chọn làm đề từ cho tác phẩm: “đất Quảng Nam chưa mưa đã
thấm. Rượu Hồng đào chưa nhấm đã say”. Đất, tượng trưng cho quê hương,
và đất, tượng trưng cho truyền thống tổ tiên ông bà. Đất mang nặng đau
thương oán thù, đất cháy lửa và sinh sôi. Con người gắn với đất, và tô điểm
cho đất bằng máu và nước mắt của chính mình.
Bổi cảnh của truyện là một vùng “đất Quảng” xơ xác vì địch quần phá:
một con sông từng có lúc ngầu máu, một làng quê im lìm, một cánh đồng trơ
trụi… Nhưng ở nơi giặc Mỹ và tay sai dã man định tiêu diệt mọi sự sống ấy,
thì chính ở đó sức sống lại sôi lên mãnh liệt nhất. Với Đất Quảng, Nguyễn
Trung Thành dẫn ta đi vào không khí một cuộc chiến đấu giữa địch và ta ngay
từ đầu đã căng thẳng, và có ý nghĩa điển hình.
Nhưng cuốn tiểu thuyết chưa được viết xong. Cuộc chiến đấu từ màn
đầu đã quyết liệt. Nhưng mới chỉ bắt đầu. Cuộc sống đang được người viết
triển khai. Tác phểm đang đưa ta đi từ quá khứ vào hiện tại. Sự đấu sức sẽ
bước vào thời kỳ căng thẳng nhất khi thằng địa chủ ác ôn Hứa Min bước vào
sân khấu, và đằng sau đó, cả một đám giặc Mỹ làm nền. Thử thách quyết liệt
đã mở ra với cái chết của bé Xuyến, và thêm một chút bí mật, ly kỳ, là sự xuất
hiện của một người đàn bà lạ mặt, mụ Tám; chính nhân vật này sẽ có khả
năng mở ra nhiều tình huống về sau cho sự đọ sức trực tiếp giữa ta và Mỹ.
Không khí Đất Quảng cũng tương tự như không khí Ở xã Trung Nghĩa của
Nguyễn Thi. Cuộc sống không thể dừng lại ở đấy, có một sự chuyển động
gấp rút bên trong đang đẩy nó đi tới một cao trào.
Cao trào đầy tính kịch.
***
Chính là thông qua những cao trào đầy tính kịch như vậy, Nguyễn
Trung Thành nhằm đưa tới cho ta một bức tranh rộng lớn về cuộc chiến đấu
ở miền Nam. Anh cố gắng tìm hiểu kỹ và đi sâu mô tả bộ mặt kẻ thù. Thể hiện
hình ảnh những thằng Dục (Rừng xà nu), hay thằng Xàng, thằng Min (Đất
Quảng), Nguyễn Trung Thành làm cho ta thấy rõ khát vọng của chúng là tàn
sát, giết chóc, đốt phá đến mức điên cuồng. Nhưng đó không phải là mục
đích cuối cùng của chúng. Tất cả những hành động đó thực ra rốt cùng là
nhằm đi tới “một trật tự”, một trật tự trong đó chúng có một chỗ đứng, trong đó
chúng là chỉ huy, chúng ra lệnh, tự ý sắp xếp mọi việc, mọi cuộc đời, mọi số
phận… Để đạt tới mục đích đó, cũng có khi chúng im lặng, và cái “im lặng” đó
không phải là không có ý nghĩa. Đó là cái im lặng của thằng Min, suốt năm
năm ròng, thôi không chơi gái, không rượu chè, sa đọa, bê tha. “Không phải
vì nó ghê sợ tất cả những cái đó, nhưng là vì sự thèm khát của nó, cái điều
nó ước ao, thèm nhớ còn lớn hơn, sâu độc hơn và dữ tợn hơn: nó thèm khát
một trật tự xã hội mà có được thì nó sẽ có tất cả”.
Đọc Nguyễn Trung Thành, ta giữ được những ấn tượng khá rõ nét về
bộ mặt kẻ thù. Bởi vì anh không muốn dừng lại ở những nét đơn giản, bề
ngoài. Anh muốn đi vào những động cơ bên trong, những âm mưu, những ý
đồ của chúng. Nhưng có điều, người đọc chưa thực sự được thấy rõ là đằng
sau mọi hành động tàn bạo và âm mưu sâu độc của chúng, thực chất chúng
chỉ là những tên ngụy, những tên đày tớ thảm hại của Mỹ. Chúng muốn làm
“ông chủ”, nhưng thực tế chỉ là những tên tay sai đê tiện; chúng muốn “một
chỗ đứng xứng đáng”, nhưng đó là chỗ đứng của một kẻ nô lệ; chúng muốn
một “trật tự”, nhưng là một trật tự do Mỹ cầm đầu; chúng muốn có “tất cả”,
nhưng “tất cả” thực ra chỉ là bơ thừa sữa cặn…
Những thằng Mỹ, những ông chủ thật sự của bọn Hứa Xâng, Hứa Min
cũng đã được Nguyễn Trung Thành cố gắng vẽ ra trong Đất Quảng. Lặng lẽ,
lì lợm, những thằng Mỹ làm cái việc giải trí bằng cách chọn những trẻ em Việt
Nam làm mục tiêu bắn; làm cái việc chôn từng quả mìn đánh trụi từng gốc tre
làng Việt Nam để bắt cán bộ. Cũng có thằng như thằng A-nê-lô, có trong mình
một cuốn nhật ký, một tấm ảnh vợ con, để cũng được như mọi người, tỏ ra
cũng có một cuộc sống bình thường, cũng quan tâm đến hạnh phúc gia đình,
nhưng chính vì thế mà càng phô ra tính chất dã man của một cuộc chiến
tranh do chúng gây ra, và cái chết thì sẵn sàng chờ chúng bất cứ lúc nào, chỗ
nào.
Thể hiện vẻ dữ dội của cuộc sống, Nguyễn Trung Thành cho ta đi sâu
vào bộ mặt và những tội ác của kẻ thù; và thể hiện bộ mặt kẻ thù lại chính là
để cho Nguyễn Trung Thành có dịp làm sáng rõ sự kiên trì, anh dũng chịu
đựng những gian khổ, những thử thách lớn lao của nhân dân miền Nam. Và
nhân vật nổi rõ hơn cả trong sáng tác của Nguyễn Trung Thành vẫn là những
nhân vật chính diện, trong đó mỗi người đều khẳng định vẻ đẹp của mình
bằng những chiến công. Bảy chiến sĩ Điện Ngọc trong cái thế bất lợi, bị dồn
vào một giếng cạn, vẫn đánh bật được cả một đơn vị địch, rồi rút lui (Trong
giếng cạn). Chị Chiện với một cuộc trả thù quyết liệt trong im lặng (Chiện). Lê
Văn Nghiêu một mình một súng, trên bãi cát trắng, phá mấy xe tăng khổng lồ
của địch (Trên quê hươnq những anh hùng Điện Ngọc). Chị Thuận, một lựu
đạn diệt một Mỹ vẫn còn băn khoăn, tiếc rẻ, như vậy có lãng phí quá không
(Chị Thuận)…
Nhưng với Nguyễn Trung Thanh, chiến công mới chỉ là kết quả. Anh
muốn từ chiến công mà đi ngược lên những động cơ, những nguyên nhân, và
chính cái ý thức đó đã làm cho hình ảnh cuộc sống, con người được thể hiện
trong sáng tác của anh bao giờ cũng có một chiều dày, một bề sâu nhất định.
Chiều dày của quá trình. Bề sâu của lịch sử. Quá trình từ đau thương, căm
thù đến quật khởi. Lịch sử của những cuộc ra đi. Chị Thanh ra đi từ vũng máu
của chồng bên dòng Bàu Đưng (Đất lửa). Chị Thắm ra đi với kỷ niệm xoáy
sâu “một đôi mắt tha thiết và trầm ngâm của chồng, một tiếng khóc u oa của
con trên nền xi măng nhà tù lạnh ngắt… “(Đất Quảng). Cô nữ trinh sát Hoa ra
đi từ những chang tóc phải cắt cụt nhiều lần để mua tre rào ấp chiến lược
(Trận đánh bắt đầu hôm nay). Tnú ra đi với cái chết thê thảm của vợ con và
mười ngón tay sém cụt vì lửa xà nu hun đốt (Rừng xà nu)…
Có thể là trong một vài tùy bút, khi nói đến cuộc chiến đấu quyết liệt ở
miền Nam, Nguyễn Trung Thành trong xúc cảm bồng bột của mình, có lúc
không tránh khỏi còn gây cho người đọc cái cảm tưởng hơi nặng nề vì những
đau thương. Chẳng hạn, anh nói đến lịch sử dân tộc như là những trang đầy
máu. “Máu thắm đượm rãnh cày ta gieo hạt giống, máu thắm đượm mảnh
sân con ta nô đùa ngày bé, máu thắm đượm những con đường nơi đó mẹ ta
lau nước mắt ngày tiễn ta ra đi, máu thắm đượm bờ ao em ta ngồi giặt áo
trên chiếc cầu nhỏ gập ghềnh…” (Đường chúng ta đi). Chẳng hạn anh muốn
nêu lên: “Chúng ta ra đi từ giữa bùn đen và đau thương. Chúng ta ra đi từ chỗ
chưa phải là con người” (Trận đánh bắt đầu hôm nay). Nếu nói ra đi “từ giữa
bùn đen”, từ chỗ “chưa phải là con người” để chứng minh một quá khứ gian
khổ, và để nhấn mạnh những tội ác của kẻ thù hòng vùi dập chúng ta trong
cảnh sống lầm than và nô lệ thì có khía cạnh đúng. Nhưng cũng cần cho thấy
hơn mấy chục năm qua, từ sau 1945, chúng ta không phải chỉ ra đi với tư thế
của một con người đầy đau thương hoặc chìm trong “bùn đen”, mà trái lại, với
tư thế của một người chủ, và từ sau 1954, đã có trong tay một phần giang
sơn gấm vóc của mình “dẫu chưa toàn vẹn đã bay cờ hồng” (Tố Hữu: Bài ca
mùa xuân 1961). Thành ra chân lý anh nên ra mới chỉ đúng một phần.
Cũng như vậy, ở một chỗ khác Nguyễn Trung Thành có nói đến “trận
đánh để làm người” của chúng ta (Trận đánh bắt đầu hôm nay). Anh nêu
nhận xét này để so sánh và làm cho thấy sự khác nhau, sự đối lập nhau giữa
chúng ta và kẻ thù. Nhưng về phía ta, nếu chỉ nói rằng chúng ta chiến đấu để
“làm người” thì có lẽ không đầy đủ. Chúng ta chiến đấu cho chúng ta, cho
muôn đời con cháu chúng ta, và còn chiến đấu cho “ba ngàn triệu trên đời”
nữa, như Tố Hữu nói… Suy nghĩ về chiến công của ta, có lúc Nguyễn Trung
Thành say sưa nói đến ưu thế đặc biệt của những tấm lòng, “tấm lòng chúng
ta”, “tấm lòng Việt Nam”. “Chiến công chủ yếu của chúng ta là ở trong tấm
lòng em đó, trong tấm lòng chúng ta. Chúng ta đã chiến đấu tử sinh mấy
mươi năm nay để lập nên chiến công đó, để tìm ra lối sống đó và tạo nên tấm
lòng Việt Nam ngày nay đó” (Trận đánh bắt đầu hôm nay). Nhưng có lẽ đúng
ra, vấn đề đâu phải chúng ta chiến đấu để làm một “tấm lòng” như một sự cố
ý, mà chính cuộc sống bão táp của dân tộc đã tự nhiên tạo ra tấm lòng đó ở
ta, và bằng nó, với nó, chúng ta chiến thắng mọi loại kẻ thù.
Nhưng những gì anh chưa nói được đầy đủ hoặc chưa cụ thể trong một
vài tùy bút thì ở các truyện ký khác anh lại đã có thể nói với ta một cách rõ
ràng hơn. Trong hình ảnh những Tnú, Mai, Heng… của Rừnq xà nu, trong
hình ảnh những chị Thắm, ông già sông Trúc, mẹ Lúa… của Đất Quảng, ta
nhận ra hình ảnh con người miền Nam của Việt Nam, với tất cả những đau
thương lớn lao, nhưng cũng với tất cả vẻ rạng rỡ trên gương mặt. Những
người vợ đã trở thành người chiến sĩ. Những người mẹ, đó là người mẹ Tổ
quốc. Họ sẽ ra đi không chỉ với tư thế của những người trả thù mà là ra đi với
tư thế người cách mạng, người chiến sĩ đấu tranh cho độc lập tự do. Bởi vì ở
họ, cùng lớn lên với nỗi đau chồng chất là sự lớn lên của sức chịu đựng, của
ý chí quyết tâm biến căm thù thành hành động, ở sự nhận thức đúng đắn về
con đường đi của mình trong con đường đi chung của nhân dân, của dân tộc.
***
Rõ ràng, với Nguyễn Trung Thành, cuộc chiến đấu trên đất lửa miền
Nam đã được thể hiện trong những đường nét vô cùng quyết liệt, và để góp
phần chứng tỏ sự quyết liệt đó, anh không ngần ngại đưa ta đi vào tội ác của
kẻ thù, cũng như đi vào những đau thương lớn mà nhân dân miền Nam đang
phải chịu đựng trong suốt mấy chục năm qua. Nhưng cuộc sống không phải
chỉ có mặt đau thương. Đúng ra đau thương chính là chỗ xuất phát cho anh đi
tới tìm hiểu sức mạnh của lòng căm thù, và từ căm thù anh đi tới giải thích
các chiến công của quần chúng cách mạng.
Những trang đặc sắc của Nguyễn Trung Thành là những trang anh đi
vào quá trình đó của cuộc sống, cũng chính là quá trình anh đi vào sức mạnh
và vẻ đẹp của con người miền Nam. Con người miền Nam, đối với Nguyễn
Trung Thành, hẳn là mội đối tượng đầy hấp dẫn mà với bấy nhiêu thời gian,
bấy nhiêu trang viết, anh mới chỉ có thể nêu được một vài nhận xét khiêm tốn.
Nhưng chúng ta thấy rõ, bằng vào những quan niệm, những suy nghĩ đúng
đắn và có phần độc dáo của anh, Nguyễn Trung Thành dường như đang đi
vào thời kỳ chín muồi của quá trình tích lũy để chuẩn bị cho sự ra đời của
những hình tượng có tầm khái quát lớn.
Là nhà văn luôn có ý thức muốn nhìn nhận cuộc sống trong cả quá
trình, muốn làm sáng rõ hành động con người từ những động cơ, những
nguyên nhân, anh đặc biệt lưu ý chúng ta một nét khá nổi bật này ở nhân vật:
đó là lòng căm thù và sự hiểu biết sâu sắc, cặn kẽ về kẻ thù. Bởi vì, theo anh
hai mặt này thường gắn với nhau: họ cần hiểu kẻ thù để làm cho chí căm thù
của mình luôn được mài sắc và luôn đúng hướng. Nói cách khác, họ cần biết
cách nâng nỗi căm thù riêng của mỗi cá nhân lên thành niềm căm thù chung
của giai cấp, của dân tộc. Thằng Xí, cháu bà Lúa (trong Đất Quảng), cha đi bộ
đội, mẹ bị một thằng Mỹ sún răng hiếp rồi mổ bụng. Từ đó gặp thằng Mỹ nào,
em cũng cố tìm xem thử nó có sún răng không…
Bé Xí đi tìm một thằng Mỹ sún răng. Nhưng cách mạng miền Nam thì
phải tìm và tiêu diệt hết thảy bọn đế quốc Mỹ xâm lược. Bà con làng Xô-man
đòi giết một thằng Dực, kẻ đã lấy que sắt đánh chết mẹ con Mai và đốt cụt
mười ngón tay Tnú. Nhưng Tnú ra đi “lực lượng” phải quyết giết cho hết tất cả
những thằng Dục, bởi lẽ “chúng nó đứa nào cũng là thằng Dục cả”. Chính là
trong thực tế của cuộc chiến đấu mà con người tự nhiên vươn lên nhận thức
đó. Đau thương đưa tới căm thù, nhưng là một căm thù tỉnh táo, trên cơ sở
một sự nhận thức sâu về kẻ thù và một quyết tâm hành động. Nguyễn Trung
Thành đã suy nghĩ đúng và cố gắng thể hiện cho được những điều đó.
Nhưng chỉ với lòng căm thù không thôi thì chưa đủ. Những trang dồi
dào cảm xúc của Nguyễn Trung Thành chính là những trang anh đi vào các
mối quan hệ ràng buộc nhiều mặt của con người trong chiến đấu, để từ đó
giúp ta nhìn nhận nguồn gốc thực sự của những chiến công của nhân dân ta.
Với Nguyễn Trung Thành, con người chiến đấu là con người có một tình yêu,
một sự gắn bó sâu sắc bền chặt với quê hương, và do vậy, họ mang được
trong mình sức mạnh tổng hợp của quê hương. Về thăm một vùng đất lửa,
Nguyễn Trung Thành nhận xét: “Ở đây, mấy mươi năm nay, cuộc sống của
một xóm, một làng, một xã và cuộc sống của những con người ở đó gắn bó
quyện chặt lấy nhau đến nỗi không sao tách gỡ ra được dầu chỉ là một ngày
một tháng” (Đất lửa). Kể chuyện về Kơ-pa Kơ-lơng, anh nhấn mạnh rằng mới
mười tám tuổi, em “đã đi gần suốt cuộc đời của dân tộc mình” (Người dũng sĩ
dưới chân núi Chư Pông). Chính đó là lý do giải thích sức mạnh không bao
giờ vơi cạn của nhân dân ta, và là cơ sở cho những ý thơ rất đậm trong
không ít trang viết của Nguyễn Trung Thành. Trong Đất lửa, có đoạn Nguyễn
Trung Thành kể chuyện giặc Mỹ đặt mìn đánh bật từng gốc tre để bắt cán bộ;
chị Thanh liều hy sinh xông vào khối thuốc nổ, để lấy cái chết của mình khơi
ngòi cho một cuộc đấu tranh chính trị, bảo vệ cán bộ. Nhưng điều kỳ diệu là
chị Thanh không chết… “một cái gốc tre nhăn nheo, sần sùi to khỏe như
khuôn ngực một cụ già nông dân suốt đời dang nắng trên sông Bàu Đưng đã
che cho chị… “.
Sức mạnh của quê hương và sức mạnh của truyền thống. “Trận đánh
bắt đầu hôm nay” nhưng đã có gốc rễ sâu xa trong lịch sử. Mỗi con người ra
trận hôm nay đều là sự tiếp tục và có sự tiếp sức của người đi trước. Kể
chuyện Lê Văn Nghiêu một mình trên bãi cát mênh mông chờ xe tăng địch,
Nguyễn Trung Thành để cho nhân vật tự tìm hiểu mình: “Mình là gì đây? Là
một con người với hai cánh tay còn vững nhưng đôi mắt đã hơi mờ, với một
viên cạc-bin thù trong má, với một trái tim khỏe đến thế mà vẫn chảy máu vì
cái tang quê hương và gia đình…”. Trận đánh đã diễn ra và kết thúc rất
nhanh. Hai xe tăng P.18 chở đầy một trung đội Mỹ và một trung đội ngụy to
bằng cả một ngôi nhà đã cháy rụi. Trận chiến thắng giòn giã ấy của người
chiến sĩ đã được Nguyễn Trung Thành giải thích như sau: “Quả đạn lớn ở
đầu súng, đó chính là quả tim anh. Nòng súng, đó chính là cánh tay anh đã
mọc thêm ra cho tới tầm hiệu quả nhất. Không còn có anh, Lê Văn Nghiêu,
cộng với một khẩu súng nữa. Chỉ có Lê Văn Nghiêu, em của anh Chua, con
của bà mẹ Hòa Vang, bạn chưa quen của Lê Độ, toàn thân Lê Văn Nghiêu đã
biến thành vũ khí ghê gớm, vũ – khí – con – người” (Trên quê hương những
anh hùng Điện Ngọc).
Nghĩ sâu về truyền thống, Nguyễn Trung Thành đã dành những trang
xúc động để nói về Trần Hưng Đạo, Nguyễn Trãi, Quang Trung. Nghĩ về sự
tiếp tục của truyền thống trong hiện tại, anh đã dựng lên rất thành công hình
ảnh nhiều thế hệ cùng đi đánh giặc. Lớp ông già trong sáng tác của anh quả
là giàu tính chất tượng trưng. Đó là cụ già Mết đã được anh miêu tả như là
hiện thân của đất nước để làm người chứng kiến, người viết sử cho lớp lớp
những thế hệ anh hùng (Rừng xà nu). Đó là “ông già sông Trúc” của “đất
Quảng”, ông già không có tên riêng mà cả cuộc đời như gắn làm một với lịch
sử quê hương, ông già với những đêm không ngủ để lắng nghe mọi tiếng
động dội lên từ đất và cũng là từ trong sâu thẳm cuộc đời mình, mỗi tiếng
động gợi cả một quãng đời “từ tiếng gàu đạp nước reo vui của cô con gái,
tiếng gió nam lào xào đồng lúa tháng ba thơm nức mà già hai phần ba đời
người, cách mạng mới giành lại được cho ông (…) tới tiếng kêu thất thanh
nghẹn tắc của những người bị giết hại ven bờ sông Trúc, tiếng chó sủa dân
vệ cồn cào đêm đen, tiếng còi tàu thét vang nghiền nát đầu thằng ác ôn Hứa
Xâng (…) tiếng súng du kích nổi dậy và tiếng mõ sôi náo nức những đêm
đồng khởi, tiếng giày đinh Mỹ lội đêm rào rạo nỗng cát Cồn Hến, tiếng chân
bộ đội khiêng pháo qua làng đi đánh sân bay…” (Đất Quảng).
Nếu những ông già sông Trúc, cụ già Mết trong cách miêu tả của
Nguyễn Trung Thành dường như đã được nâng lên thành biểu tượng của đất
nước, của lịch sử, thì lớp con trẻ lại được anh miêu tả trong những nét chấm
phá mà vẫn rất cụ thể, độc đáo, rất hiện thực. Đó là cái dáng tung tăng như
một con sẻ non của Heng, chấm một màu sắc tươi mát trong đời sống chiến
đấu gian khố của làng Xô-man (Rừng xà nu). Là cái thói quen của Sơn, rất
nhiều lần đi xem xét tội ác của bọn Mỹ, lẳng lặng, không chau mày, không nói,
rồi cầm cái búa to tướng đi lên núi Thạch Nham (Đất Quảng). Riêng con
Xuyến, nhân vật chính của Đất Quảng đã được Nguyễn Trung Thành chăm
chút xây dựng với rất nhiều chi tiết xúc động, nhằm giúp ta hiểu vì sao, ngay
từ bé, em đã biết sống như một người cách mạng và bước vào một cái chết
anh hùng.
Chính là thông qua việc mô tả hai thế hệ nhân vật, một già, một trẻ,
Nguyễn Trung Thành đã mở rộng hình ảnh cuộc chiến đấu hiện tại, và mặt
khác, thể hiện được một cách thành công ý chí quyết tâm chiến đấu đến cùng
cho những quyền lợi dân tộc cơ bản của nhân dân ta. Chừng nào chưa có
độc lập, tự do thực sự thì chừng đó nhân dân ta còn tiếp tục chiến dấu, một
cuộc chiến đấu “năm năm, mười năm, hai mươi năm hoặc lâu hơn nữa”, đời
cha chưa đánh xong, đời con đánh tiếp, như lời Bác Hồ dạy.
Thể hiện cuộc sống trong cả một quá trình và trong xu thế đi tới của nó,
Nguyễn Trung Thành cũng đã dựng lên rất thành công không khí một cuộc
đồng khởi vĩ đại, dồi dào chất anh hùng ca. Xúc động trong những trang đau
thương, sâu lắng trữ tình khi đi vào nguồn gốc sức mạnh và vẻ đẹp của con
người, ngòi bút Nguyễn Trung Thành trở nên hùng tráng khi đi vào những
trang quật khởi: “Kẻ thù đã bắt đầu mở tiệc trên mảnh đất chúng tưởng đã
san phẳng bằng máy chém và rào kín bằng dày thép gai Mỹ, bỗng nghe mảnh
đất dưới chân chúng rùng rùng chuyển động. Súng đã nổ bốn bề, người đã
ào ào xông tới, mõ đã dậy khắp làng quê… “. Rừng xà nu dẫn ta đi vào không
khí đó một cách tự nhiên, khi những đau thương và sức chịu đựng của dân
làng Xô-man đã đến mức tột cùng, khi ngọn lửa nhựa xà nu trên tay Tnú đang
cháy lên rần rật. Phút im lặng của chịu đựng và nén đợi đã chấm hết để cho
cơn giông nổi lên: “– Thế là bắt đầu rồi. Đốt lửa lên! (…). Đứng trên đồi xà nu
gần con nước lớn, suốt đêm nghe cả rừng Xô-man ào ào rung động. Và lửa
cháy khắp rừng”.
Nguyễn Trung Thành đã nhận xét đúng: nỗi đau càng thấm khi con
người bị bó tay. Nỗi đau sẽ được vơi nhẹ đi rất nhiều đối với con người hành
động. “Ngày trước mỗi người ngã xuống dường như là một sự mất mát
suông. Kẻ thù giết chúng ta rồi cứ nhởn nhơ đứng đó, không chút suy suyển.
Còn chúng ta thì chỉ có căm thù chất chứa thêm, càng u uất vì không có gì để
hành động cả, không được đứng dậy, không được báo thù. Bây giờ thì mỗi
người ngã xuống đều là ngã xuống trong một cuộc đi tới, một trận tấn công”
(Đất Quảng). Có điều, hành động đó, sức quật khởi đó không phải là một cái
gì đột ngột. Nó là cái thế tất nhiên phải đi tới, cho nên nó phải được chuẩn bị.
Không phải chuẩn bị bằng suy nghĩ đơn thuần. Cũng không có một khoảng
cách bất ngờ. Có bất ngờ chăng là đối với kẻ địch, chứ không phải đối với
chúng ta. Kẻ thù hung hãn điên cuồng, không phải là đối tượng cho ta trầm
tư, chiêm nghiệm, suy nghĩ, mà chính là đối tượng cho ta hành động.
Đặc điểm cơ bản của con người chúng ta là sự nhất trí giữa suy nghĩ
và hành động, và cơ bản là con người hành động. Nét đó, qua Rừng xà nu,
Đất Quảng, Nguyễn Trung Thành đã thể hiện được một cách đúng đắn, trọn
vẹn.
***
Nguyễn Trung Thành sâu lắng trong tùy bút, điêu luyện trong truyện
ngắn, hàm súc trong truyện dài, mặc dù những gì anh đã viết dường như còn
mang tính chất một sự chuẩn bị để đi tới một sáng tác lớn mà có lẽ anh chỉ
mới bắt tay vào… Nhưng chỉ bấy nhiêu cũng đã có thể cho ta một bức tranh
đặc sắc về đất lửa miền Nam trong cuộc đấu tranh căng thẳng, gay go giữa
nhân dân ta với mọi loại kẻ thù, và trong cái thế vươn lên, quật khởi của cách
mạng đang đi tới. Nhạy cảm, sôi nổi, giàu hình ảnh và suy nghĩ, những trang
Nguyễn Trung Thành nhìn chung hài hòa được chất cô đọng của kịch, chất
trữ tình của thơ và chất tráng lệ của anh hùng ca. Sáng tác Nguyễn Trung
Thành có xu hướng vừa muốn giữ được cái bộn bề gai góc, đa dạng, nhiều
màu sắc, cung bậc của sự thật, vừa muốn đạt tới cái cân đối hài hòa của một
sự tái tạo, khái quát, chắt lọc công phu. Tuy vậy có thể một đôi khi ý muốn đó
là quá sức đối với anh, hoặc anh chưa có đầy đủ điều kiện để thực hiện ý
muốn đó, nên không tránh khỏi gây cho ta một cảm giác nặng nhọc, vất vả,
thiếu ít nhiều cái thanh thoát, nhẹ nhõm, tự nhiên mà vẫn sâu sắc của Nguyễn
Thi, như trong Người mẹ cầm súng, Ở xã Trung Nghĩa.
Một vài hạn chế của Nguyễn Trung Thành bộc lộ trong tùy bút. Tùy bút
Nguyễn Trung Thành thiên về chứng minh một triết lý, một suy tưởng. Nhưng
suy tưởng có khi chưa thật chín, thật toàn diện, nên hình ảnh anh vận dụng
để minh họa cũng có khi trở thành cường điệu, hoặc phiến diện. Có khi triết lý
anh nêu ra chưa thật cụ thể.
Tuy vậy, đó chỉ là một vài thiếu sót. Nhìn chung, Nguyễn Trung Thành
là nhà văn có bản sắc rõ nét và có đóng góp nổi bật trong văn học cách mạng
miền Nam. Người đọc dễ dàng nhận thấy anh đã nói được bằng cảm xúc dồi
dào, hình ảnh mới mẻ, và suy nghĩ độc đáo của mình về nhiều vấn đề lớn của
hiện thực cách mạng miền Nam, khiến cho ta thật sự xúc động. Bởi vì những
gì anh cảm thụ, suy nghĩ đều xuất phát từ sự thể nghiệm sâu sắc của chính
bản thân anh. Bởi vì, ở Nguyễn Trung Thành, tình yêu, lòng tin, sự gắn bó với
nhân dân, với đất lửa quả là chân thành, thủy chung, nồng nhiệt.
Ngòi bút chân thật TRẦN HIẾU MINHNói đến văn học cách mạng những năm gần đây ở miền Nam, không
thể quên Trần Hiếu Minh. Bởi vì, với những tác phẩm của mình: Cửu Long
cuộn sóng (1985), Sài Gòn ta đó (1970), Rừng u Minh (1970), anh đã có
những đóng góp; hơn nữa, ở anh đã hình thành một số nét khác biệt so với
những nhà văn đương thời.
Hiện thực mà Trần Hiếu Minh tái hiện dường như còn đang ở cái vẻ
nguyên dạng của nó. Dù là ở thể ký hay truyện, anh vẫn lấy cái chân chất của
cuộc sống làm đầu. Và chính cái chân chất ấy kích thích rất mạnh cảm hứng
sáng tạo của anh. Trong cái thật thà, giản dị của Trần Hiếu Minh, ta đọc thấy
một sự say sưa. Không say sưa, không viết nổi cửu Long cuộn sóng với mười
bài ký kể chuyện nhân dân đồng khởi dày đặc những sự kiện, những việc,
những người và những suy nghĩ bật ra không kìm lại được. Viết những bài
bút ký tươi rói, Trần Hiếu Minh chưa phải đã sáng tác như một nhà văn chắt
lọc từ đời sống những tinh chất để tái tạo nên tác phẩm, mà mới chỉ như một
người đi xa đã kịp thời góp lượm, kể lại những điều mình nghe, mình thấy,
giải bày những điều mình nghĩ… với người ở nhà. Bởi vì bản thân những điều
anh nghe, anh thấy, ở những điểm “nóng” của thời gian và không gian, nơi
những con người chúng ta đang sống và chiến đấu, đang đương đầu với
những vấn đề sống còn của cả một dân tộc ấy, đã chứa trong mình sức cuốn
hút của nó. Không phải ngẫu nhiên mà nhiều ký giả tiến bộ ở nước ngoài đã
lăn lộn đến miền Nam để mong được nghe, được thấy, được chứng kiến tại
chỗ những sự việc, những con người mà nhân loại đang để mắt vào đấy, và
những ghi chép của họ đã cuốn hút hàng triệu độc giả tò mò cũng có, quan
tâm đến những nỗi lo của thời đại cũng có.
Luôn luôn bám chắc lấy những sự kiện lớn lao, làm rung chuyển đất
nước của cách mạng miền Nam, những trang viết của Trần Hiếu Minh, ở thể
ký đã đành, mà ở cả truyện và tiểu thuyết, đều nóng bỏng tính thời sự, chính
trị và do đó, sắc bén tính chiến đấu. Và đó cũng chính là cái hạt nhân của tính
chân thật, gắn với đời sống trong sáng tác của anh. Bến Tre những ngày
trước và sau đồng khởi; Ấp Bắc – thành đồng của thành đồng; một đơn vị anh
hùng mang tên Tiểu đoàn Gi-rông (Cửu Long cuộn sóng); Sài Gòn trong
những ngày quân ta kéo về làm cuộc Tổng tiến công và nổi dậy đầu xuân
1968 (Sài Gòn ta đó); một vùng ven và trong rừng U Minh trước và sau đồng
khởi (Rừng u Minh); quang cảnh, con người, sự việc, nhân dân ta sống, chiến
đấu ra sao. bọn địch nham hiểm điên cuồng thế nào…, tất cả là hiện thực, là
cuộc sống, hiện lên trong tác phẩm của Trần Hiếu Minh với cái vẻ dày cộm
của nó. Tính “không gọt giũa” ấy là nét riêng của Trần Hiếu Minh. Anh giữ
người đọc, đôi khi cũng vất vả, bằng chính bề dày của cuộc sống, chứ không
bằng một thứ văn hoa che đậy một vốn sống nghèo nàn, hay tệ hơn, một sự
miêu tả giả tạo. Trần Hiếu Minh không muốn “sắp đặt lại”, không muốn “gọt
giũa” cuộc sống. Anh cứ để mặc cho nó diễn ra theo cái chiều hướng của nó.
Ngay ở tiểu thuyết, nơi cần một sự sắp xếp, chắt lọc tinh vi những chất liệu
của cuộc sống, ta cũng vẫn thấy cái ngổn ngang, bề bộn vốn có ở anh. Bởi
vậy ta không ngạc nhiên khi thấy anh vào đầu tiểu thuyết Rừng u minh bằng
cảnh đám cưới trên nhà, dưới bếp, sòng đàn, cuộc ca lủng củng những người
là người… kéo đến năm chục trang sách, trong khi ở một nhà văn khác phần
này có thể thu gọn lại. Thế nhưng chính sự chân chất, tự nhiên ấy lại dường
như là một sự cố ý của tác giả, và độc giả thì chấp nhận được, và đối với một
số độc giả thì đó là sự hấp dẫn. Bởi vì tác giả đã dựng lên trước mắt người
đọc cảnh một đám cưới độc đáo có nhiều nét Nam Bộ, nhưng là Nam Bộ
những ngày vừa sau Hiệp nghị Giơ-ne-vơ, cuộc đấu tranh giữa đồng bào ta
với đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai chưa thực sự bắt đầu mà mới chỉ là những
“màn thăm dò” báo hiệu một trận đấu quyết liệt xảy ra đến nơi. Và qua những
nét sinh hoạt độc đáo mang nhiều nét Nam Bộ ấy, với những con người đi
đứng, nói năng, ăn uống, đàn hát ấy, độc giả đã dần dần làm quen và rồi dần
dần hiểu ra để không thể nào quên những con người như Tám Nhớ, Mười
Mến, chị Hai Ngoan, bà Tư Hù, cô Tám Liếc, ông già U Minh, Năm Thắm…,
thằng Gà Lôi, Ba Răng Vàng, tên Trung úy Đào…, một thế giới nhân vật khá
đông đảo của tiểu thuyết Rừng U Minh.
Trần Hiếu Minh miêu tả chân thật và giản dị những con người miền
Nam trong cuộc chiến đấu hằng ngày với kẻ thù. Không những ở ký, mà cả ở
truyện, điều mà tác giả quan tâm là miêu tả sao cho khoảng cách giữa cuộc
đời thật và cuộc đời tái hiện không có nữa, hoặc có thì cũng chẳng là bao.
Anh không miêu tả nhân vật với những nét trữ tình bay bổng, hay những tâm
lý miên man. Trước hết, anh chú ý đến việc làm, đến hành động của nhân vật.
Điều này ta dễ dàng nhận thấy trong Cửu Long cuộn sóng, Sài Gòn ta đó, là
những tập ký, hoặc truyện có nhiều chất ký. Một nông dân gọi tên ác ôn thèm
thịt rắn xuống ruộng xem con rắn, để khi nó cúi xuống thì vung cuốc bổ vào
gáy nó. Một cô gái tay không xông vào bốt, lao lên “chuồng chim” đoạt súng
máy, bị tên ngụy nắm chân này kéo xuống thì lấy chân kia đạp vào mặt nó mà
xông lên. Một chị phụ nữ thành, trong một tình huống bắt buộc, đã rút súng
lục lia mấy viên đạn vào mặt tên cảnh sát giữa đường phố ban ngày, rồi
phóng xe máy lao đi như gió… Trần Hiếu Minh đặc biệt quan tâm đến cung
cách hành động của những con người mà mình miêu tả. Và chính ở đấy,
chúng ta đã bắt gặp những dáng nét khó quên. Trong nhiều chuyện về những
em bé miền Nam, những “măng tầm vông” như tên một bài ký của anh, nhớ
nhất là chuyện em bé mới ngót năm tuồi đầu đã biết căm thù giặc. Thấy bọn
lính bắn súng đì đẹt, em nói: “Đấy, đó cái bọn bắn cha, bắn chú tao đó”; rồi
gọi anh: “Hồng ơi, lính nó vô có hai thằng, mày phục kích với tao, bắt sống
nó”… Chuyện đến tai thằng cảnh sát ác ôn, nó xuống làng đi thẳng vào nhà,
bảo: “Này nhỏ, hôm nay tao xuống một mình, mày muốn giết, tao cho giết, để
trả thù cho ba, cho chú mày”. Bà mẹ phải lựa lời nói mãi, tên ác ôn mới đi. Khi
nó đã cút rồi, chú bé mới bước ra khỏi chân mẹ, chửi: “Mẹ cha nó, ỷ lớn có
súng làm phách!”. Trong nhiều chuyện về những ông già Nam Bộ chống địch,
nhớ nhất là chuyện ông già thà sống chết với giặc chứ nhất định không cho
chúng đốn tre; không thèm van nài chúng, ông già cầm ngay lưỡi mác bước
ra bụi tre nói: “Tre này trồng từ thuở đời ông, đời cha tao, nay đầu tóc tao đã
bạc, đứa nào muốn đốn, cứ bước ra đây”, rồi ném cây mác cắm phập xuống
đất. Ta sẽ nhận ra ông già lầm lì nổi giận này trong tiểu thuyết Rừng u Minh.
***
Nhưng không phải chỉ một mình ông già được phác họa trong ký với cái
nét ném phập cây mác xuống đất, khiến ta không thể quên được ấy, đã vào
tiểu thuyết với tất cả đời sống của một nhân vật. Một số nhân vật khác của
Rừng u Minh hình như ta cũng đã gặp ở đâu đó, trong những bài ký, với cái
dáng dấp mang máng nhớ. Chị Hai Ngoan chẳng hạn, người đàn bà từng phá
tan cuộc họp “tố cộng” của chúng nó bằng một hành động nhanh trí: nhân
việc một phụ nữ yếu đuối tội nghiệp là Chín Thương bị ngất, đã hô hoán lên
đòi mở cửa đưa chị ra ngoài, để bà con phá ra theo, từng “như con hổ lồng
lên vẫy vùng, trì kéo, thoi đạp chúng nó, húc đầu, đập trán vào ngực chúng,
miệng thét lớn: không được bắt người vô cớ…” hình như ta đã có lần được
làm quen, hoặc gặp mặt đâu đó giữa đám chị em được miêu tả trong tập cửu
Long cuộn sóng, những chị em khi giặc Mỹ đến nhà thì cứ vậy xông ra đánh,
những chị em từng làm cho mấy tên cai ngục khát máu phải quỳ xuống mà
lạy: “Xin lạy các bà, mời các bà về mau cho rồi, để các con đỡ khổ”. Vậy là
không phải chỉ ở truyện, mà ngay ở ký, Trần Hiếu Minh đã chú ý rất nhiều đến
việc khắc họa những dáng nét của nhân vật. (Bởi thế, nếu như bạn đọc đã
thấy một số truyện của anh có nhiều chất ký, thì đến lượt mình, không ít ký
của anh lại có nhiều chất truyện). Có điều là ở truyện thì những dáng nét ấy
đã hằn nổi lên trong một chuỗi những việc làm, và cung cách làm việc quán
xuyến suốt một quãng đời đáng nhớ nhất của con người. Và như vậy, trước
mắt chúng ta sẽ không còn là những hình bóng thoáng qua, tuy là sự thoáng
qua hằn vết, của hết người này đến người khác – như kiểu phim thời sự – mà
là sự ở lại, qua đi, trở lại, sự tồn tại của những nhân vật có cả một cuộc đời,
hay ít nhất cũng là những đoạn đáng nhớ nhất của một đời người – như kiểu
phim truyện.
Lắm lúc, như một người lẩn thẩn, tôi cứ cố tìm xem cái gì là chính nhất,
chủ yếu nhất đã làm nên Trần Hiếu Minh – cây bút truyện. Ấy là sự quan tâm
đặc biệt đến nhân vật, với những nét độc đáo nhưng chân thật, chân thật mà
độc đáo về nhiều phương diện, cả về những tên gọi nữa. Điều này rõ nhất là
trong tiểu thuyết Rừng u Minh. Cái quan trọng đối với Trần Hiếu Minh là làm
sao xây dựng được những con người với những nét hằn nổi, nó đập vào mắt
người đọc và khắc vào trí nhớ người đọc, rồi từ đó người đọc đâm ra quen
biết nhân vật, và chú ý theo dõi những biến đổi trong cuộc đời nhân vật, theo
dõi cả cuộc đời và số phận nhân vật. Sức hấp dẫn của Rừng u Minh (và một
vài truyện ngắn khác) chính là ở chỗ đó, mặc dù cuốn tiểu thuyết thiếu những
trang lấp lánh tài năng làm sửng sốt bạn đọc. Thành công của Rừng u Minh là
thành công của nhiều nhân vật. Như ông già u Minh lầm lì, giận dữ, giận dữ
trong cả tình thương, sống chết với căn nhà hẻo lánh mé rừng làm nơi đi về
của cán bộ. Như Tám Nhớ, nghệ sĩ ca bài ca cách mạng cho đến khi bị bóp
cổ, tiếng hát nghẹn ứ lại. Như Chín Thương tội nghiệp, hờn tủi một đời. Như
út Hảo ngoan nết hồn nhiên, đầy ước mơ hy vọng và trong sáng. Như Tư
Khánh thủ phận rúc vào gầm giường vợ. Như Tám Cá Ngát, bà Tư Hù. Đó là
những con người miền Nam đau thương và anh dũng trong những năm kẻ
thù điên cuồng tàn bạo gây ra bao cảnh tàn khốc, trong những ngày vùng lên
chiến đấu, – đồng khởi lịch sử 1960. Nhưng không phải chỉ là những con
người miền Nam chung chung, họ còn có những nét độc đáo của những con
người Nam Bộ, những con người của rừng u Minh, thoải mái, sởi lởi, bộc
trực, nổi giận và bất khuất.
***
Khác với một vài nhà văn đồng thời, sáng tác bút ký, tùy bút, và cả
truyện nữa, với những nghiền ngẫm nát óc, những suy nghĩ da diết gạn chắt
từ máu thịt…, Trần Hiếu Minh viết bút ký, tùy bút, truyện man mác những sự
việc, những con người, và tự thân những sự việc, những con người ấy sẽ nói
lên hộ anh những suy nghĩ. Đôi khi không kìm nổi mình, anh cũng bật ra
những câu hỏi, những giãi bày về thời cuộc, về đường lối hành động của
chúng ta, về những vấn đề mà có khi cả một dân tộc, một thời đại phải trả lời.
Trình bày sự việc dày cộm, Trần Hiếu Minh không sợ cồng kềnh; liệt kê
những trường hợp tương tự nhau về chất lượng, anh không sợ trùng lặp. Anh
muốn từ chính những sự trình bày liệt kê ấy, một câu hỏi, một vấn đề gì đó
phải bật ra.
« Nguyễn Thị Ràng đang gánh nước…
Nguyễn Văn Tài đang ngồi ăn cơm…
Đặng Văn Huệ đang phát cỏ…
Trằn Văn Năng đang nhổ mạ…»
liền bị chúng bắn chết. Hai mươi mốt trường hợp được kể ra tự nhiên dẫn
đến câu hỏi: “Chúng ta phải làm gì đây? “. Và có thể nói gần nửa cuốn tiểu
thuyết Rừng u Minh cũng là sự dẫn đến câu hỏi đó. Cảnh đám cưới, nghĩa là
hạnh phúc của con người, diễn ra trong sự thăm dò, trong cái vẻ “bề ngoài
thơn thớt nói cười” của những tên trung úy ác ôn, những thằng côn đồ… tức
là sự mấp mé, nguy cơ, nơm nớp của cuộc sống. Người của ta chỉ ca mấy
câu” có ý nghĩa” mà ngay sau đó bị bắt, bị đánh đập rất dã man, rồi bị giết
chết, xác quẳng xuống sông. Nguy cơ đã ập xuống. Trần Hiếu Minh đã trình
bày tất cả sự hung hăng điên cuồng, trắng trợn ra mặt của kẻ thù bằng những
cuộc bắt bớ tra tấn, đấu tố, những cuộc vây làng, sục hầm, dồn dân. Người
của ta, có kẻ hèn nhát đã ra “đầu thú”, người thì chạy vào rừng u Minh, người
thì đi moi những khẩu súng giấu cất từ “hồi chín năm”; nhưng vẫn chưa biết
phải làm gì cho đúng đường lối. Phải làm gì đây? Trần Hiếu Minh không trả
lời, anh muốn để chính cuộc sống với cái quy luật khách quan của nó trả lời
cho câu hỏi mà chính nó đặt ra: “Cuối năm 1959 có tin đồng bào nổi dậy lấy
bót Lộ Thuận thu 11 súng” và “Ở Mỏ Cày đồng bào hẹn ngày đồng khởi: ngày
17 tháng giêng năm 1960…” (Cửu Long cuộn sóng), có thể nói, già nửa phần
sau cuốn tiểu thuyết Rừng u Minh là để trả lời cho câu hỏi về sự sống còn của
cả một dân tộc ấy. Cuốn tiểu thuyết miêu tả cuộc đấu tranh của đồng bào ta
chống bọn xâm lược Mỹ và bè lũ tay sai của chúng trong những ngày trước
và sau cuộc đồng khởi lịch sử. Nhưng về một mặt khác, nó cũng là nhằm nói
lên hộ tác giả những suy nghĩ về chân lý của thời đại chúng ta, cái chân lý
“ngọn lửa cháy từ trong lòng người” mà “không một ai, không một cái gì có
thể dập tắt được”… Còn đối với Trần Hiếu Minh thì cái miền đất Mỏ Cày, Bến
Tre, Sài Gòn, cửu Long, rừng U Minh với những cây đước cây tràm bạt ngàn,
với những con người không bao giờ chịu khuất phục… mà anh từng sống,
yêu mến, cảm phục và đã chọn làm đối tượng sáng tác ấy, chính là “hòn đá
thử vàng cho chân lý đó của thời đại”.
Trần Hiếu Minh có những suy nghĩ bình thường, giản dị; những điều
anh nghĩ thường cũng là những điều mọi người cùng nghĩ, cùng quan tâm.
Hơn nữa, anh nghĩ gì thì nói vậy, trình bày vậy, không dùng những ngôn từ
cầu kỳ làm tối tăm mặt mũi người đọc, không có những cách nói lắt léo nhiều
khi như đánh đố người đọc. Cho nên đọc anh, người đọc không có cái cảm
giác về sự cố làm ra vẻ căng trán suy nghĩ.
***
Cùng với những truyện, ký của Trần Đình Vân, Nguyễn Thi, Nguyễn
Sáng về những anh hùng tên tuổi như Nguyễn Văn Trỗi, Út Tịch, Nguyễn Văn
Bé, chúng ta có truyện, ký của Trần Hiếu Minh về những anh hùng vô danh
xuất thân từ các tầng lớp nhân dân miền Nam. Ấy là những truyện, ký in trong
hai tập Cửu Long cuộn sóng và Sài Gòn ta đó xuất bản cách nhau năm năm.
Đối với Trần Hiếu Minh, những ghi chép nóng bỏng ấy là sự tích lũy chuẩn bị
cho một sáng tác dài sâu, công phu hơn – tiểu thuyết Rừng u Minh – như ta
đã thấy. Với những đặc sắc của mình, Rừng u Minh làm phong phú đa dạng
thêm cho nền văn học cách mạng miền Nam những năm chống Mỹ nói riêng,
và là một đóng góp vào kho tàng văn xuôi Việt Nam hiện đại nói chung. Tuy
nhiên, Rừng u Minh chưa thể là tác phẩm đánh dấu một bước dài trong quá
trình viết văn của Trần Hiếu Minh… Anh đã đem đến cho nghệ thuật văn xuôi
hiện đại một cách viết chân thật, giản dị, với tất cả cái nóng bỏng phong phú,
bề bộn ngỗn ngang của cuộc sống. Nhưng đọc anh, đôi khi ta cũng khá vất vả
trước cái hiện thực dày cộm lên mà anh tái hiện. Có điều, đó lại là một lối viết
có ý thức của anh. Và như vậy thì chúng ta chỉ có thể nói thêm rằng, tính bề
bộn ngổn ngang của hiện thực được tái hiện không hề loại trừ tính gọt giũa
tinh lọc, vốn là một đặc điểm của sáng tác văn học.
ANH ĐỨC với bút ký, tiểu thuyết và truyện ngắn của anhMột điều làm chúng ta ngạc nhiên là ở hầu hết những cây bút văn xuôi
cách mạng miền Nam, phải sáng tác trong hoàn cảnh chiến tranh khốc liệt mà
màu sắc trữ tình lại nổi lên đậm nét. Tất nhiên, ở mỗi nhà văn, cái màu sắc ấy
được biểu hiện ra một cách khác nhau và ở những mức độ cũng rất khác
nhau. Ngòi bút Nguyễn Trung Thành trầm hùng sâu đọng; nhiều truyện ngắn
của Nguyễn Sáng để lại trong ta những hình ảnh trong trẻo mát tươi; các
nhân vật của Nguyễn Thi thông minh, hóm hỉnh; chất trữ tình ở Phan Tứ có
phần điềm đạm, mà lại đậm đà; con người Nam Bộ trong tác phẩm của Trần
Hiếu Minh rất “anh hùng hảo hớn”.
Điều đó nói với chúng ta rằng, những người cầm bút ở miền Nam thật
đã có một tấm lòng nhân đạo lớn, dù ở đâu, trong bất cứ hoàn cảnh nào, họ
vẫn giữ được cho mình một nguồn tình cảm sôi nổi, không bao giờ vơi cạn –
một tình yêu vô hạn với nhân dân, với quê hương đất nước và một lòng căm
thù tột độ với kẻ thù. Và cũng điều đó lại nói với chúng ta rằng, những con
người cầm bút ở miền Nam đã có một tinh thần lạc quan lớn: không biết sợ
hãi, tự ti, mà chỉ biết tin tưởng, tự hào.
Tuy nhiên, phải nhận rằng, người trữ tình nhất trong số ấy là Anh Đức,
một ngòi bút trữ tình đằm thắm ngọt ngào. Có thể nói, qua nhiều tác phẩm
của anh, mà trước tiên là những bài ký, ta có thể thấy một cách đầy đủ nỗi
lòng của người cầm bút.
Bút ký của anh thường được viết dưới dạng các bức thư, mà đa số anh
đề gửi Nguyễn Tuân. Anh gửi cho Nguyễn Tuân, cho anh em văn nghệ miền
Bắc, nhưng mà thực ra, đó là lòng anh, lòng của cả miền Nam thân thương,
ruột thịt hướng về miền Bắc tin yêu, hướng về trái tim và niềm hy vọng. Vì
thế, đọc các bút ký của anh, chúng ta luôn luôn có cảm giác như anh đang
trực tiếp nói chuyện với ta. Anh kể cho ta nghe về vùng quê anh – Cà Mau –
nơi “cuối đất” của Tổ quốc, về những gian nan, vất vả mà đồng bào ta trong
ấy đã phải trải qua trên hai mươi năm trời chiến đấu. Nhưng phần chính mà
anh kể trong thư có lẽ vẫn là những thắng lợi ngày càng lớn mà đồng bào
miền Nam đã giành được kể từ sau ngày đồng khởi.
Qua các bút ký của anh (đúng hơn, qua những bức thư anh đều đặn
gửi ra miền Bắc): từ Bức thư Cà Mau (11-1963) đến Lá thư cuối năm (12-
1965), rồi Thư tháng Bảy (7-1965), Dưới một vầng sáng đục (11-1965),
Những chuyện xung quanh một trận càn hình móng ngựa (4-1967) và bài bút
ký không dưới hình thức thư Vào mùa nắng (12-1966), chúng ta có thể theo
thời gian mà hình dung ra những bước đi cứ lên dần, cứ sáng sủa dần của
tình hình chiến sự miền Nam. Từ chiến thắng Đầm Dơi, Cái Nước, từ những
cuộc pháo kích vào sân bay Biên Hòa, Tân Sơn Nhất chúng ta đã tiến lên
đánh những trận rất quy mô như Ba Gia, Đồng Xoài, Sông Bé, Núi Thành,
Đắc Tô, Cần Thơ, Mỹ Tho, Long An, Đà Nẵng, Sóc Trăng, Bình Dương, rồi
Bàu Bàng, Tây Ninh… càng về sau chiến thắng càng lớn.
Những chiến thắng ấy đã đẩy kẻ thù đến một tình trạng khốn quẫn vô
cùng: “Lưng nó hở, mặt nó hở, vai nó hở, còn ta thì chỉ có việc dốc sức mà
đánh vào vô số chỗ hở ấy của kẻ thù”. Và cũng những chiến thắng ấy đã tạo
cho chúng ta thêm cơ sở để lạc quan. Trong Bức thư Cà Mau, Anh Đức kể
rằng: “Ở mũi đất xa xôi này”, ở “nơi bom đạn rất đậm đặc này, sự sống vẫn
bình thường”; và cuộc chiến đấu ở đây nó “trẻ trung tươi đầy”, chứ đâu phải
luôn luôn căng thẳng. Và chúng ta ngạc nhiên thấy tâm hồn người cầm bút
trong cuộc chiến đấu vô cùng quyết liệt ấy vẫn giữ được một sự thanh thản lạ
thường, anh vẫn thả tâm hồn mình theo vẻ đẹp của phong cảnh thiên nhiên,
vẫn thích thú “nghe tiếng thông reo, nhìn những quả thông rụng chạm xuống
mặt cỏ nhẹ nhàng”.
Rõ ràng cuộc chiến đấu gian khổ ở miền Nam không làm cho tâm hồn
chúng ta sắt lại, cằn đi, mà ngược hẳn, nó chỉ làm cho tâm hồn ta càng rộng
mở và đầy thêm sức sống. Càng căm thù kẻ địch bao nhiêu, chúng ta lại càng
thương yêu nhau và càng thấy yêu đời hơn bấy nhiêu. Yêu đời nhưng lại vẫn
sẵn sàng vì một cuộc đời tươi đẹp hơn cho tất cả mọi người mà hy sinh sự
sống của bản thân. Sự lạc quan tin tưởng và tinh thần chiến đấu hy sinh
không hề có gì mâu thuẫn, trái lại, chúng luôn luôn đi song song và hỗ trợ lẫn
cho nhau. Có lạc quan, tin tưởng thì mới có tinh thần tự tin mà chiến đấu, có
chiến đấu hy sinh thì mới có thắng lợi để củng cố tinh thần lạc quan. Đọc bút
ký của Anh Đức, có thể thấy một cách rõ ràng điều đó.
Và một điều nữa chúng ta cũng thấy rõ trong các bút ký của anh – đó là
mối tình Bắc Nam ruột thịt. Có thể nói, không trong một lá thư nào, Anh Đức
không nhắc tới miền Bắc, nhắc tới với tất cả tấm lòng yêu mến, nhớ thương
và ngưỡng mộ. Đã có lần nhà văn thổ lộ với Nguyễn Tuân: “Kể với anh đôi
chuyện Sài Gòn mà sao cứ luôn luôn hoài tưởng mơ màng tới Hà Nội. Mơ
thấy Hà Nội những trưa hè cháy đỏ một trời phượng. Mơ thấy Hà Nội những
sáng sang thu gợn gợn heo may. Mơ thấy Hà Nội với tất cả sự lành mạnh, sự
trí tuệ và văn hóa của nó… Sài Gòn rồi sẽ tiến tới một Hà Nội không xa”
(Dưới một vầng sáng đục). Cho nên ta thấy, trong ký của Anh Đức, cái hiện
thực Bắc Nam là một không gì chối cãi được.
***
Cây bút viết ký trữ tình đặc sắc ấy cũng lại là cây bút có thành công
sớm nhất trong lĩnh vực tiểu thuyết. Cuốn Hòn Đất của anh ra đời đánh dấu
một bước phát triển mới, tất yếu, có tính chất chung cho hầu hết các cây bút
văn xuôi cách mạng miền Nam.
Chúng ta còn nhớ cuộc gặp mặt đầu tiên của chúng ta với các nhà văn
Phan Tứ, Trần Hiếu Minh, Anh Đức, Nguyễn Trung Thành. Lúc đó, mỗi người
trong số các anh đều mới xuất hiện như những cây bút của các thể loại vừa
hoặc ngắn (mà đại đa số là truyện ngắn và bút ký). Đó là các tập về làng
(1964) của Phan Tứ, Cửu Long cuộn sóng (1965) của Trần Hiếu Minh, Bức
thư Cà Mau (1966) của Anh Đức, các bút ký và truyện vừa Rừng xà nu (1966)
của Nguyễn Trung Thành. Có nhiều bạn viết trẻ vẫn thường bắt đầu con
đường sáng tác của mình bằng những tác phẩm nhỏ (bao gồm cả sự khiêm
tốn về số trang) rồi tiến lên xây dựng những tác phẩm lớn (kể cả một độ dày
bề thế). Nhưng đấy không phải là trường hợp của những cây bút văn xuôi
cách mạng miền Nam. Bởi ngay từ khi bắt đầu tiếp xúc với thực tế miền Nam,
các anh đã ở tư thế của những người viết ít nhiều già dặn, mà đa số lại đã là
tác giả của những cuốn tiểu thuyết ít nhiều nổi tiếng. Song sở dĩ ở miền Nam
các anh chưa thể đi ngay vào xây dựng những tác phẩm có tầm cỡ lớn là bởi
vì thời gian và mức độ thâm nhập thực tế còn chưa cho phép. Nhưng đến một
lúc, khi mọi điều kiện đã đến độ chín muồi, thì hàng loạt tiểu thuyết được các
anh xây dựng lần lượt ra đời, như một mùa gặt, như một kết quả tất yếu của
quá trình phát triển: trước tiên là Hòn Đất (1966) của Anh Đức, rồi Gia đình
má Bảy (1968) của Phan Tứ, tiếp đến Rừng u Minh (1970) của Trần Hiếu
Minh, Đất Quảng (1971) của Nguyễn Trung Thành và gần đây hơn cả là cuốn
tiểu thuyết thứ hai của Phan Tứ – Mẫn và tôi (1973).
Nhưng trong số ấy, tác phẩm được đón tiếp rầm rộ hơn cả là Hòn Đất.
Sở dĩ Hòn Đất được đọc giả miền Bắc dành cho một nhiệt tình hoàn toàn đặc
biệt như vậy là có nhiều nguyên nhân. Trước tiên, vì nó là tác phẩm báo hiệu,
thậm chí mở màn cho một mùa tiểu thuyết của văn xuôi cách mạng miền
Nam. Và sau nữa, vì Hòn Đất cũng là tác phẩm đầu tiên phản ánh được một
cách sinh động tính chất nhân dân của cuộc chiến đấu mà đồng bào ta ở
miền Nam trên hai mươi năm nay vẫn kiên trì và dũng cảm tiến hành. Nhưng
như vậy không có nghĩa là Hòn Đất đã dẫn chúng ta đi dọc theo và xuyên
suốt cả thời gian lẫn không gian của cuộc chiến đấu ấy, như một cuốn sử thi.
Không phải Hòn đất chỉ kể cho chúng ta nghe về một sự kiện hết sức cụ thể
và có lẽ cũng hết sức bình thường và phổ biến, mà ở đâu trên đất miền Nam
chúng ta cũng có thể không tìm mà gặp. Nhưng chính đó mới là nguyên nhân
làm nên giá trị của tác phẩm nhà văn, chính nhờ đó mà Hòn Đất đã có được
tính điển hình ở mức độ nhất định. Một cuộc đọ sức hoàn toàn không cân
xứng (về số người và nhất là về sự trang bị) giữa một bên là quân ta (gồm
mười bảy anh chị em du kích và hai cháu nhỏ, được trang bị bằng mấy chục
quả lựu đạn và dăm khẩu súng trường cùng súng ngựa trời tự tạo), với một
bên là quân địch (gồm trên một nghìn quân chính quy, được trang bị đến tận
răng); thế mà cuối cùng ta vẫn thắng, địch vẫn thua, và lại thua đau nữa chứ
– những sự kiện như thế thì ở đâu trên đất miền Nam mà chẳng có. Nhưng
chỗ khác nhau của chúng là ở cách tiến hành và những biện pháp cụ thể
được ta sử dụng trong quá trình sự kiện diễn ra. Với cuộc chống càn tại Hòn
Đất thì đây là kế hoạch phục kích đón đánh địch ở vườn mãng cầu, rồi sau đó
là việc rút vào hang và sự phân công bố trí các lực lượng ở trong hang để
chống lại những trận tấn công của địch từ ngoài vào. Và một khâu quan trọng
nữa là việc tổ chức và lãnh đạo nhân dân bên ngoài giúp đỡ anh chị em du
kích trong hang về mọi mặt: tiếp tế gạo, nước, đấu tranh chính trị và binh vận.
Về mặt này, mỗi sự kiện sẽ hoàn toàn khác biệt. Nhưng dù khác biệt nhau
đến đâu, thì mục đích của chúng cũng chỉ là để dẫn đến cái kết quả cuối cùng
ta thắng, địch thua. Và cái sức mạnh khiến cho ta thắng được ấy chính là sự
kết hợp giữa hai lực lượng: nhân dân và quân đội (hoặc quân du kích) chứ
không phải chỉ riêng có lực lượng vũ trang thôi – đặc điểm của cuộc chiến
tranh nhân dân ở Việt Nam là như vậy.
Chân lý ấy trong Hòn Đất đã được chứng minh một cách rõ ràng.
Tất nhiên, Hòn đất chưa phải là một tuyệt tác mà chúng ta có thể đề
cao ghê gớm. Nhưng riêng về mặt nói lên cho được tính chất nhân dân của
cuộc chiến tranh, mà trên hai mươi năm nay chúng ta đã và đang tiến hành
và sẽ còn tiến hành mãi trong tương lai đối với bất cứ kẻ thù nào muốn đè
đầu cưỡi cổ chúng ta, thì phải nhận là tác phẩm của Anh Đức đã đạt được
một thành công đáng kể. Cho nên, không phải không có lý do mà một bạn làm
công tác phê bình đã đánh giá Hòn Đất như một miền Nam thu nhỏ: đọc Hòn
Đất ta có thể hình dung ra cuộc chiến đấu của cả miền Nam.
Đấy là chúng tôi chưa nói đến nhiều mặt thành công khác của cuốn tiểu
thuyết, chẳng hạn như việc tác giả đã xây dựng được cho văn xuôi miền Nam
một số hình tượng phụ nữ, điển hình cho những phẩm chất cao quý của các
mẹ và các chị em chúng ta ở miền Nam. Đó là mẹ Sáu, Quyên, Năm Nhớ, Cà
Mỵ, và nổi nhất là chị Sứ. Hình như trong con người chị đã kết tinh được mọi
nét tiêu biểu của những người phụ nữ xứ Hòn và cũng là của cả miền Nam.
Nói đến Hòn Đất, chúng ta cũng không thể quên được những trang
miêu tả thiên nhiên. Phong cảnh xứ Hòn, tuy ta chưa một lần được đặt chân
tới, mà ta vẫn có thể hình dung ra một cách rõ ràng. Trước mắt ta, Hòn Đất
chìm trong một màu xanh um tùm của các vườn cây ăn quả: những vườn
mãng cầu sai lúc lỉu, những vườn dừa xiêm trái lớn, nước ngọt và thơm,
những vườn mít đang chín đưa hương vào tận hang Hòn… Ta lại còn hình
dung ra cả độ vòng của con suối Lươn chảy quanh Hòn Đất và những cô gái
Khơ-me, với chiếc cà om trên đầu, đi đội nước, hai tay vung vẩy uyển chuyển
nhịp nhàng; và cả những “ngôi nhà sàn lâu năm có cái bậc thang, nơi bất cứ
lúc nào đứng đó” ta “cũng có thể nhìn thấy sóng biển, thấy xóm nhà xen lẫn
trong vườn cây, thấy ruộng đồng, thấy núi Ba Thê vòi või xanh lam mà mỗi
buổi hoàng hôn lại hiện trắng những cánh cò”. Một đoạn tả cảnh thật là đẹp!
Có lẽ không phải tả nữa mà là khắc họa, là vẽ lên thành một bức tranh với sự
phong phú về màu sắc và hình khối.
Trong Hòn đất không hiếm những đoạn tả cảnh (và cả tả người) đẹp
như thế. Chỉ tiếc rằng có đôi khi những đoạn ấy lại chưa được đặt đúng chỗ,
làm cho chúng trở thành gượng gạo, vô duyên. Chẳng hạn như, đáng nhẽ
nên để cho Sứ, bằng hành động của mình, tự nói lên tình cảm với quê
hương, với nơi chôn rau cắt rốn, thì tác giả lại dùng một đoạn ngoại đề trữ
tình để miêu tả cái tình cảm rất là khó miêu tả ấy: “Chị Sứ yêu biết bao cái
chốn này, nơi chị oa oa cất tiếng khóc đầu tiên, nơi quả ngọt trái sai đã thấm
hồng da dẻ chị. Chị Sứ yêu Hòn Đất bằng cái tình yêu hầu như là máu thịt,
Chị thương ngôi nhà sàn lâu năm…” (và tiếp theo là đoạn chúng tôi vừa trích
ở trên). Hay một đoạn khác, đoạn tác giả miêu tả đôi cánh tay trần của Sứ,
khi chị bị bọn giặc trói quặt ra sau rồi treo ngược lên cây dừa. Trông thấy một
cảnh thương tâm như thế, ai là người trong chúng ta còn có đủ bình tĩnh để
mà suy nghĩ miên man: “Đây là đôi tay đẹp đẽ và mát rượi. Đây là đôi tay làm
lụng và vén khéo. Đôi tay này đã có khi rụt rè, đã nhiều lần âu yếm, đã có lúc
run lên ôm lấy chồng, ôm lấy con, mẹ và em, cô bác và đồng chí”, rồi mới
thấy rằng: “Nên đôi tay đó bị trói quặt trông sao mà tàn nhẫn, trông mà uất,
mà thương” (C.N. nhấn mạnh). Người đọc rất có thể nghĩ, không biết khi nhà
văn nói ra một cách cầu kỳ như vậy cái cảm xúc của mình, thì cái cảm xúc ấy
có còn là thực nữa hay không?
Còn có thể tìm thấy những đoạn khác tương tự. Chẳng hạn, đoạn tác
giả tả đôi mắt tràn đầy nỗi sung sướng của Sứ, khi chị vừa nghe được tiếng
súng của anh chị em trong hang báo tin con Thúy còn sống, hay đoạn tả bộ
tóc của Sứ tung bay dưới ánh trăng trong cái đêm chị bị trói chặt vào cây cọc
bên bờ biển – những đoạn văn tả này tuy rất đẹp, nhưng chúng ta vẫn có cảm
giác như nó được đặt vào nơi không thật là hợp hoàn cảnh và đúng chỗ. Có
lẽ những đoạn tương tự, tùy theo từng lúc, có thể thay bằng những đoạn
nhân vật tự biểu hiện mình, hoặc là dành cho người đọc phát biểu thì hơn.
Bởi vì, hoặc là chỉ có nhân vật mới có thể tự nói lên những tình cảm của mình
một cách thuyết phục, hoặc nữa, chỉ có người đọc mới đủ tỉnh táo để mà bình
luận một cách văn hoa về những điều mình cảm thụ được từ tác phẩm của
nhà văn. Chúng ta rất hoan nghênh việc nhà văn cố gắng hòa mình vào nhân
vật. Nhưng có lẽ, anh chỉ nên làm việc ấy với mục đích để hiểu những con
người anh miêu tả được sâu hơn và đúng hơn, chứ có lẽ không nên, để rồi
anh sẽ nói thay nhân vật tất cả những tình cảm sâu xa thầm kín nhất của họ,
tự biến mình thành nhân vật. Và có lúc say mê quá với những cảm xúc trữ
tình, anh bỗng quên đi cả hiện thực. Những lúc ấy, cái hiện thực của cuộc
chiến đấu ác liệt, dưới ngòi bút của nhà văn, hiện ra có phần hơi nhẹ nhàng,
bóng bẩy, mang những sắc màu lãng mạn rõ ràng.
***
Có lẽ thể loại mà Anh Đức viết thành công hơn cả lại là truyện ngắn.
Sự sâu sắc, phong phú trong việc chọn tìm và thể hiện đề tài cũng như tính
chân thực trong việc miêu tả con người và cuộc sống là những yếu tố căn bản
làm nên giá trị của truyện ngắn nhà văn. Ở đây ta cũng ít thấy cái nhược điểm
có phần cố hữu của tác giả Hòn Đất – sự lạm dụng yếu tố trữ tình.
Truyện ngắn của Anh Đức đã đề cập đến rất nhiều loại đề tài: về ruộng
đất (Đất, Đứa con), về tính chất nhân dân của cuộc chiến tranh (Khói, Giấc
mơ của ông lão vườn chim), về trí thông minh và tinh thần dũng cảm của
những con người Việt Nam trong cuộc đọ sức với kẻ thù (Con chị Lộc, Xôn
xao đồng nước), về thái độ sống bình thản của chúng ta trong hoàn cảnh
chiến tranh khốc liệt (Mùa gió), và cuối cùng nhà văn đã vẽ lên bộ mặt của kẻ
thù qua một hình ảnh cụ thể – thằng Mỹ, một con-người-thú, rất hung hãn bạo
tàn, mà lại vô cùng hèn nhát (Thằng Mỹ).
Nhưng đọc truyện ngắn của Anh Đức, cái thu hút sự chú ý của chúng ta
nhiều hơn cả có lẽ lại chưa phải là đề tài của truyện. Bởi, nói cho đúng, thì có
ai trong số những cây bút viết văn ở miền Nam mà lại chẳng đề cập đến
những đề tài tương tự. Điều hấp dẫn chúng ta ở truyện ngắn Anh Đức có lẽ là
cách nhà văn thể hiện những đề tài trên. Phải nói, về mặt này, Anh Đức có ít
nhiều độc đáo.
Nếu chúng ta chú ý theo dõi thì sẽ thấy, trong hầu hết các truyện ngắn
của anh, nhân vật chính chỉ xuất hiện ở cao trào cùng với một sự kiện trung
tâm nổi bật, làm nên giá trị của tác phẩm nhà văn. Còn trước đó chúng ta hầu
như chỉ gặp những con người và những tình tiết tưởng như là bâng quơ,
không ăn nhập gì với chủ đề của truyện. Chẳng thế mà đã có bạn đọc phải
chê Anh Đức là ở đoạn mở đầu của Đất, anh có vẻ dài dòng, thậm chí còn
tản mạn. Nhưng theo tôi nghĩ, chính cái chỗ tưởng như là dài dòng, tản mạn
ấy mới là nét độc đáo của ngòi bút truyện ngắn nhà văn. Và bây giờ nghiệm
ra ta thấy, không chỉ với Đất, anh mới có vẻ “dài dòng”, mà cả với nhiều
truyện khác như Khói, Con chị Lộc, Xôn xao xao đồng nước, Trọng, Mùa gió,
anh cũng đều “dài dòng” như thế. Mà hình như lại chỉ nhờ vào sự “dài dòng”
ấy mà những truyện ngắn trên lại trở nên hấp dẫn. Vì sao vậy?
Bởi vì truyện ngắn của anh thường không phải là những câu chuyện
bằng phẳng, bình thường, những câu chuyện êm đềm dịu ngọt, mà thường là
rất dữ dội, gay go, với những tình tiết có khi ly kỳ và những xung đột chứa
đầy kịch tính; nhưng nhà văn lại không muốn trình bày những câu chuyện ấy
như một điều kỳ lạ, một sự kiện phi thường; anh không muốn gây cho đọc giả
cái cảm giác đột ngột có phần giả tạo, làm cho họ phải giật mình, choáng
váng. Trái lại, anh chỉ muốn kể về chúng như về những sự kiện bình thường,
đúng như chúng có trong thực tế hiện nay của miền Nam –những kỳ tích mà
có khi loài người chưa từng biết, thì ở Việt Nam hầu như mỗi con người, đến
lượt mình, đều có đủ sức để làm.
Mà muốn gây được một không khí bình thường như thế cho những sự
kiện mình miêu tả thì không có cách gì tốt hơn là bắt đầu viết về chúng một
cách thật bình thường, một cách tưởng như dông dài tản mạn, nhưng thực ra
là để dần dần dẫn bạn đọc đến cái sự kiện dữ dội, trung tâm kia bằng cách
cũng hết sức bình thường. Và Anh Đức đã làm như vậy. Trở lại truyện Đất ta
sẽ thấy, thực ra, những tình tiết mở đầu đâu có phải là bâng quơ, tản mạn,
mà nó gắn bó rất chặt chẽ với phần sau. Bởi vì nó làm nhiệm vụ gần như là
chuẩn bị, nó giới thiệu với chúng ta về nhân vật chính, về ông Tám. Qua đó ta
mới biết ông Tám là một cơ sở rất tốt của ta, là người luôn luôn chăm lo đến
đời sống của các cán bộ hoạt động trong vùng và ông sẵn lòng hy sinh mọi
thứ vì cách mạng. Chính vì thế mà khi ông Tám xuất hiện với sự kiện ông qua
Tết chết để bám lấy mảnh đất mà Đảng và cách mạng đã đem lại cho gia đình
ông, thì chúng ta không sửng sốt, không đột ngột như nghe một tiếng sét nổ
ngang trời. Ngược lại, chúng ta thấy đó chỉ là một sự kiện tất yếu, một hiện
tượng bình thường, và có lẽ, bất cứ một người Việt Nam nào, ở vào hoàn
cảnh như ông Tám, cũng sẽ làm như vậy.
Có thể nói, nét nổi bật trong nghệ thuật viết truyện ngắn của Anh Đức là
tài dẫn truyện, và đi đôi với nó, là tài dựng cốt cho truyện ngắn của mình. Mỗi
truyện ngắn của anh thường rất ngắn, nhưng bao giờ cũng có một cái cốt rõ
ràng, trong cái cốt đó chỉ có một sự kiện nổi bật và một con người trung tâm,
còn tất cả những sự kiện khác và những con người khác chỉ đóng vai trò rất
phụ, nhằm làm cho sự kiện nổi bật và con người trung tâm càng nổi bật lên và
càng trở thành trung tâm hơn nữa mà thôi.
Có lẽ, những truyện ngắn của Anh Đức không thuộc loại truyện không
có chuyện, mà ngược lại, nó khẳng định một loại truyện ngắn chứa đầy chất
sống, căng chật những nội dung, một loại truyện không phải trữ tình pha màu
lãng mạn, mà hiện thực hoàn toàn, hiện thực như bản thân cuộc sống.
***
Ngoài bút ký, tiểu thuyết và truyện ngắn, Anh Đức còn có một số tác
phẩm mà anh gọi là ghi chép. Đó là tập Chim đầu đàn (về Anh hùng Quân giải
phóng Bi Năng Tắc), và bài Chuyện của một người cùng quê (về chiến sĩ thi
đua Bùi Văn Nổi) in trong tập Giấc mơ của ông lão vườn chim. Nhưng dù viết
theo thể loại nào và về đề tài gì thì trong sáng tác của nhà văn ta vẫn thấy nổi
bật lên một- hình ảnh chính – hình ảnh của con người Nam Bộ. Vì vậy, nếu
đứng về mặt này, về mặt phản ánh con người và cuộc sống, thì ta có thể gọi
Anh Đức là cây bút Nam Bộ nhất trong số những cây bút miền Nam, hay cho
chính xác hơn, thì phải gọi anh là cây bút của đất Cà Mau, nơi tận cùng của
Tổ quốc Việt Nam. Bởi hầu hết các tác phẩm của anh (một số bút ký và toàn
bộ truyện ngắn in trong hai tập Bức thư Cà Mau (1966), Giấc mơ của ông lão
vườn chim (1969) cũng như truyện dài Hòn Đất (1966), anh đều dành viết về
nơi đó – Cà Mau – mảnh đất xa xôi mà gần gũi với mọi miền đất nước và là
vùng quê quen thuộc của nhà văn. Và bởi vậy, trong quá trình sáng tác của
mình, Anh Đức đã xây dựng được một số tính cách điển hình cho những con
người Nam Bộ nhất của miền Nam. Trong một bài tùy bút gửi Nguyễn Tuân,
nhân nói về cây đước, anh đã viết: “Chỗ đứng đầu sóng ngọn gió sản sinh ra
loại cây khả dĩ có thể chống chọi được sóng gió. Con người sinh ra ở đây
cũng vậy, theo tôi, họ là những người Việt Nam thống khổ nhứt, bị áp bức giai
cấp mà vẫn bám riết cái chỗ hết đất hết trời”. Phải chăng ở đây Anh Đức đã
nắm bắt được cái nét bản chất nhất trong những con người của đất Cà Mau –
đó là sức chịu đựng phi thường và sự kiên trì ghê gớm? Và phải chăng nhà
văn cũng đã cố gắng thể hiện cái nét đó vào trong tính cách của những nhân
vật nổi tiếng mà ngòi bút anh đã xây dựng được, như ông Tám Xẻo Đước
(trong Đất) và ông Tư vườn chim (trong Giấc mơ của ông lão vườn chim),
như má Sáu, bà Cà Sợi, chị Sứ (trong Hòn Đất) hay o Quế (trong Khói), v.v…
Những con người này quả thật không có một sức mạnh nào thắng nổi. Nhưng
lại phải nói thêm rằng, những nét phi thường và ghê gớm ấy dưới ngòi bút
của nhà văn lại hiện ra trong một dạng rất bình thường, bằng một ngòi bút trữ
tình đằm thắm. Và nhìn chung lại, chúng ta có thể khẳng định rằng, đặc điểm
ngòi bút miêu tả hiện thực của Anh Đức là ở chỗ nhà văn đã cho ta thấy một
cuộc sống rất bình thường mà vẫn đẹp trong cái không khí tưởng như là rất
căng thẳng, rất quyết liệt của cuộc chiến tranh chống Mỹ ở miền Nam. Và
bằng cách đó, anh đã truyền được sang cho người đọc sự bình tĩnh và lòng
tự tin, yêu đời. Chúng ta đánh giặc tuy rất gian khổ nhưng vẫn ung dung, và vì
thế, chúng ta có thể đánh rất lâu dài. Chúng ta đánh giặc với tất cả lòng căm
thù và sự quyết tâm, nhưng chúng ta không lên gân, tâm hồn ta không luôn
luôn căng thẳng như một dây đàn, mà chúng ta vẫn sống bằng một cuộc sống
tình cảm nhất, với tất cả lòng yêu đời và yêu người, có như thế chúng ta mới
có khả năng để trường kỳ kháng chiến. Đọc Anh Đức, ta dễ nhận ra chân lý
ấy.
PHAN TỨ, từ Về làng đến Mẫn và tôiTrong dòng văn học đầy sức sống và khí thế chiến đấu của lực lượng
văn xuôi Giải phóng, Phan Tứ là một trong những cây bút có đóng góp đáng
kể. Với sức viết luôn luôn vươn tới, và bằng chất trẻ khỏe của tâm hồn, tên
tuổi của anh ngày càng trở nên thân quen với đông đảo bạn đọc, từ Về làng
(1964) đến Gia đình má Bảy (1968) và rồi gần đây với Mẫn và tôi (1973).
Thực ra, về làng không phải là sáng tác đầu tay của anh. Anh đã đến với văn
học sớm hơn, rất tự nhiên và ngày càng nồng nhiệt, ở anh, viết văn vừa là
nhiệm vụ cách mạng, vừa là một hứng thú, một nhu cầu của cuộc sống bản
thân. Anh là cây bút thông minh, có nhiều suy nghĩ và chịu khó, xông xáo. Có
lần, anh nói lên cái yêu cầu của người viết văn là phải “tắm mình trong cuộc
sống”, “vừa chung tay xây dựng nó, vừa rèn giũa mình, chắt chiu gạn lọc mỗi
ngày đêm lấy vài nét độc đáo nhất của nó, không ngừng suy nghĩ và cảm xúc
về nó, nghiền ngẫm tìm cách tái hiện nó…”. Những “phương châm” mà Phan
Tứ nêu ra trên đây quả là do anh đã rút ra từ kinh nghiệm sống và viết của
bản thân. Anh đã lăn lộn trong thực tế chiến đấu, mặt giáp mặt với quân thù,
làm nhiều việc, ở nhiều nơi, đặc biệl là ở đồng bằng Trung Trung Bộ: khi nhận
công tác tuyên huấn phát động quần chúng đồng khởi, lúc tham gia các chiến
dịch, theo sát từng đơn vị cơ sở, nay lên núi, mai xuống đồng bằng, v.v…
Nhờ vậy mà khi xây dựng tác phẩm, anh luôn luôn tỏ ra thoải mái, sung sức,
đầu óc của anh dường như lúc nào cũng đầy ắp các mẩu chuyện, các sự
kiện.
Tới nay, qua một tập truyện ngắn và hai cuốn tiểu thuyết, Phan Tứ đã
có thể biểu hiện được phần nào cái thực tế chiến đấu vô cùng gay go, gian
khổ và phức tạp của đồng bằng Trung Trung Bộ trong một số thời điểm nhất
định, từ những năm đen tối, đến ngày đồng khởi, chuyển sang thời kỳ bản lề
giữa cuộc chiến tranh đặc biệt và chiến tranh cục bộ. Qua những con người,
với những sự việc đã chắt lọc và tái hiện, anh như muốn gửi gắm vào đấy tất
cả sự suy nghĩ và tâm huyết của mình. Anh không bao giờ chỉ làm người
quan sát, đứng ngoài cuộc. Ở sáng tác của anh, luôn luôn chúng ta bắt gặp
những nét chân thực, xúc động, bởi nó được lấy ngay từ trong lòng cuộc
sống đông đặc, sôi sục của miền Nam. Nổi bật trong tất cả các tác phẩm của
anh là hình ảnh một khối đông đảo quần chúng cách mạng. Nhưng anh không
mô tả quần chúng như một khối đồng nhất, bất luận hoàn cảnh nào cũng sẵn
sàng hy sinh không kể bom đạn, luôn luôn xông tới, dù trước kẻ thù tàn ác,
quỷ quyệt. Nhà văn đã phân tích quá trình chuyển biến của tâm lý quần chúng
qua những băn khoăn, vướng mắc, thậm chí có lúc chao đảo ngả nghiêng,
nhưng cuối cùng họ đã tìm ra con đường duy nhất đúng, đó là con đường đi
theo cách mạng.
Hãy lấy ông Sần, nhân vật chính trong Về làng làm ví dụ. Khi nghe tin
Quân giải phóng về, ông mừng vui mà ngỡ ngàng: bao nhiêu nỗi đắng cay
chịu đựng trong mấy năm trời đến nay đã thanh thỏa ư? Ông hồ hởi theo bà
con đi vạch tội ác ôn, phá rào ấp chiến lược… Ông lại bắt con dâu mổ gà ăn
mừng, nhấm nháp vài chén rượu vì “nhất sinh ông chưa bao giờ hả như lần
này”. Lúc thuận buồm xuôi gió thì ông băng băng theo cách mạng, nhưng khi
đại bác địch bắn về thôn thì ông sợ quá, tản cư vào ấp chiến lược của chúng
cho yên thân. Ở đây, không phải ông không có điều phải nghĩ ngợi: một đằng
được sống ngẩng mặt thẳng lưng cho ra con người, nhưng phải chịu bom đạn
dữ dội; một đằng tuy không sợ bom đạn nhưng phải sống cực nhục, bị Mỹ –
Diệm đè đầu cưỡi cổ. Nhưng đâu phải chỉ có thế, còn tiếng xấu bỏ cách
mạng, còn tình bà con, làng xóm,… Thật ngổn ngang trăm nỗi. Đến khi vì điều
này, lẽ nọ, ông Sần trở về làng mà lòng còn e ngại. Nhưng một cái gì mạnh
hơn, khiến ông dấn bước, và cuối cùng không những ông quyết tâm trở về
làng mà còn tự hào cùng bà con lên quận đấu tranh với địch. Phan Tứ nói
đến sức mạnh đã thôi thúc ông Sần trở “về làng”, đó là cái ơn sâu đối với
cách mạng; cách mạng đã đem lại ruộng đất cho ông. Chưa cần hiểu cách
mạng là những gì xa xôi, mà chỉ cần một câu “người cày có ruộng” là ông
hiểu “đúng, người nghèo nổi dậy rồi”, và nhận ngay cuộc cách mạng này là
của ông. Ở đây, bằng một ngòi bút khá chân thật, sắc sảo, Phan Tứ nêu lên
sự giác ngộ cách mạng gay go, chật vật của ông Sần, và cũng có thể của
không ít người nông dân bình thường ở miền Nam. Có thể nói, bằng ngòi bút
của mình, nhà văn đã góp phần làm sáng tỏ thêm quan hệ giữa cách mạng
dân tộc và vấn đề ruộng đất ở nông thôn.
Mỗi người có thể đi theo cách mạng bằng con đường của mình. Cúc,
nhân vật chính trong Con đĩ, là một nữ sinh trong trắng ngây thơ, con một nhà
giáo nghèo, đã bị chế độ Mỹ –Diệm tàn phá, hủy hoại cả cuộc đời tươi trẻ,
đẩy cô trở thành một con đĩ một trăm phần trăm. Cúc bị gia đình hắt hủi, xóm
làng khinh bỉ. Mãi khi con bị ốm chết, thằng chồng khốn nạn bị cách mạng
bắn vỡ sọ, Cúc mới thấm thìa tất cả nông nỗi của đời mình. Cô trở về làng
sống cho qua ngày. Nhưng ít lâu sau, làng bị càn, má và các em cô bị địch
bắt. Cúc căm uất đến điên loạn, nghẹn thở và hôm sau theo bà con lên quận
đấu tranh. Cúc xông lên trước đám biểu tình, kêu gọi binh lính, sẵn sàng chìa
ngực hứng lấy những viên đạn của tên ác ôn Tòng. Kết cục, cái chết của Cúc
đã như một cơn sấm sét trên cầu Gò Bàn, làm thằng Tòng tan xác và bọn
ngụy chạy tán loạn. Ở đây, một sự đau khổ cực kỳ đã lắng đọng, kết tinh lại,
làm bật sáng trong tâm hồn Cúc một tia lửa Cách mạng.
Bên cạnh những ông Sần, cô Cúc, còn không ít bà con khác như chị
Hai Phước (Một buổi chợ), cô Hợp (Chè đầu xuân), ông Bảy (Tấm ảnh), v.v…
mà mỗi người ở họ, ý thức cách mạng đã nhen nhóm một cách khác nhau để
cuối cùng tạo nên dòng thác cách mạng, nhấn chim bè lũ Mỹ – ngụy.
Song nói đến khí thế cách mạng miền Nam, nói đến lòng căm thù sôi
sục bọn cướp nước và bán nước, lòng yêu nước mãnh liệt của quảng đại
quần chúng thì chủ yếu phải là nói đến những con người tích cực như Hậu,
Hồ, Cam, Sửu… (Về làng), má Bảy, út Sâm, Tư Sỏi, Hai Ngọ, ông Nhâm (Gia
đình má Bảy) hoặc mẹ Sáu… và đông đảo bà con Tam Sa (Mẫn và tôi), vốn
là những người lúc nào cũng hướng về cách mạng, quyết tâm “thà chết vinh
còn hơn sống nhục”, những con người bao giờ cũng đứng ở vị trí hàng đầu
trong mọi cuộc đấu tranh. Nếu như ở Về làng, Phan Tứ tập trung sự chú ý
của mình vào việc phản ánh nhiều loại quần chúng đang còn rời rạc, phần lớn
mới bước đầu giác ngộ cách mạng thì đến Gia đình má Bảy, tác giả đã đi
thẳng vào khối quần chúng cách mạng, thông qua nhân vật trung tâm là một
bà mẹ, bà mẹ của một gia đình: gia đình má Bảy.
Ở cuốn tiểu thuyết mới này, Phan Tứ chọn thời điểm miền Nam trước
và sau đồng khởi, như là một cái nền, qua đó đi sâu xây dựng một số nhân
vật trung tâm và theo dõi từng bước con đường đi của họ. Anh mạnh dạn gợi
lên những nỗi lòng, những tâm tư giúp ta thấy sâu sắc hơn sự gian khổ, ác
liệt của cuộc đấu tranh này. Người đọc không thể không xúc động trước tâm
trạng một bà mẹ giàu cảm nghĩ, làm nhiều nói ít, mội lòng sắt son với cách
mạng như má Bảy, từng có lúc nghĩ đến “anh em mình vẫn hoạt động” thì chỉ
“chớp mắt”, và “những ý nghĩ ấy chỉ lóe thành chấm sáng yếu ớt chứ không
bốc cháy trong má nữa”. Một cái gì như đắng cay, tủi hổ, khiếu má không
dám nhìn thẳng con, chỉ lắc đầu ngập ngừng: “Để vắng vắng đã. Tụi nó làm
quá tay”. Đó là lúc má “ngấm mệt” sau những ngày bị địch bắt, bị tra tấn và
má tưởng mẹ con má có thể sống yên lành, nhẫn nhục ít lâu nếu tạm ngừng
làm cách mạng. Nhưng chế độ Mỹ – Diệm đâu có để yên cho má! Hay như
Tư Sỏi, con trai má, lầm lỳ ít nói, không sợ hy sinh, song chỉ e chống lại chúng
hoặc “nhảy núi” theo cách mạng thì mẹ và em sẽ bị tụi nó đánh đập, tra tấn,
bắt đi dinh điền,… nên anh phải dằn lòng mà lãnh súng, vào dân vệ. Sỏi lặng
lẽ chịu đựng sự lãnh đạm, nỗi đau lòng của mẹ và em gái, tuy biết mẹ có
phần nào thông cảm với anh. Song địch càng tàn bạo bao nhiêu, càng như
thúc đẩy người dân đứng lên chống lại chúng không ngừng, không mỏi. Còn
thử thách nào nhức nhối tận tim can bằng cảnh người mẹ phải nhìn con “máu
ứa đầy mình” và nghe tiếng con rú lên khi địch đóng con dấu đỏ rực cháy xèo
xèo trên da thịt con. Má Bảy đã không khóc, không van, chỉ có ánh mắt như
dỗ dành con gắng chịu. Cuối cùng, con đường sống, con đường thoát duy
nhất của gia đình má cũng như của đồng bào miền Nam là phải vùng lên
đánh địch, giải phóng cho mình, cho gia đình mình và cả cho đồng bào, làng
xóm. Qua đồng khởi, mỗi người trong gia đình má đều trưởng thành nhanh
chóng và vươn lên, hòa vào dòng thác cách mạng. Với niềm tin tuyệt đối ở
thắng lợi, có sự lãnh đạo của Đảng, thông qua những cán bộ từng sống chết
với phong trào, những gì là lo âu, mệt mỏi trong lòng mỗi người dân cũng dễ
dàng tan đi để cùng nhau tự nâng mình lên.
Quần chúng làm nên lịch sử, sự nghiệp cách mạng cũng là sự nghiệp
của quần chúng, cho nên khi mô tả cuộc chiến tranh cách mạng, nhà văn
không thể không đi sâu thể hiện các tầng lớp quần chúng với vai trò và vị tri
đúng đắn của họ. Qua tác phẩm của mình, Phan Tứ đã có thể góp phần làm
cho người đọc một lần nữa cảm nhận sâu sắc thêm điều ấy.
Bên cạnh việc thể hiện khá thành công các tầng lớp quần chúng, Phan
Tứ càng ngày càng chú ý đi vào mô tả tầng lớp cán bộ, nòng cốt của phong
trào. Nếu như trong Về làng, hình ảnh người cán bộ hãy còn lờ mờ, thấp
thoáng thì tới Gia đình má Bảy, ta đã gặp được một số hình ảnh sinh động
hơn về những cán bộ lãnh đạo có kinh nghiệm như Dõng, Chín Huyền, Bê,
chị Năm Tân, v.v… Chỉ việc Dõng và Bê xuất hiện ở nhà má bảy vào một đêm
mưa và cái cảm giác của má như thấy “hàng vạn đôi chân ùa lên theo hai anh
cán bộ” cũng có thể cho ta hình dung được phần nào lòng dân đối với cán bộ
Đảng, người đang dẫn dắt họ từng đường đi nước bước vượt qua mọi hiểm
trở chông gai.
Nhưng về điểm này, phải đến Mẫn và tôi, Phan Tứ mới thực có một
đóng góp nổi bật. Ở tác phẩm mới này giữa cái biển cả quần chúng đang
bừng bừng khí thế của “cuộc nỗi dậy của lòng yêu nước vì những mối thù
chưa trả”, khi mà dòng thác cách mạng đã nổi thành những cơn bão lớn,
nhận chìm từng mảng bọn cướp nước và bán nước thì Phan Tứ đã có thể có
những điều kiện hết sức thuận lợi để làm nổi bật lên hình ảnh những cán bộ
kiên cường như sắt thép, trong sáng như pha lê. Ở đây nhà văn chú ý đến sự
tiếp tục của các thế hệ: một lớp cán bộ “một thân hai cuộc trường kỳ” và
những lớp khác trẻ măng, vùn vụt trưởng thành lên từng ngày, từng giờ.
Tác phẩm tưởng như chỉ kể chuyện “Mẫn và tôi”, nhưng hình ảnh hiện
ra lại là cả một tập thể: những Điển, Năm Dõng, Bảy quai nón, Ba Tơ, Tư
Luân, các chị Bỉnh, chị Tám Giàu v.v… hiện ra khá rõ trong tác phẩm, khả dĩ
chiếm được nhiều tình cảm của người đọc. Đó là lớp cán bộ có tài, có đức,
vừa dìu dắt, khích lệ, vừa khiêm tốn học hỏi lớp trẻ, lớp đàn em để cùng
chung tay lo việc lớn. Thực ra, Phan Tứ chưa tập trung nhiều sự chú ý vào
các nhân vật loại này, nhưng bằng nhiều nét sắc gọn, gợi cảm, anh đã gây
cho người đọc những ấn tượng khó quên. Chẳng hạn, chúng ta nhớ từ cái
“nét đăm chiêu” trên khuôn mặt “giãn ra” khi nghe tin ta thắng trận, đến “tiếng
nấc dội từ đáy ngực nặng và sâu” khi biết tin về những tai hại khủng khiếp
của nạn lụt, ở anh Ba Tơ, một “con người những lửa là lửa, nhưng vẫn có
một góc kín của tâm hồn dành cho ánh trăng mát rượi của người yêu”. Từ
những lời nói chân thành đầy tình nghĩa đến những việc làm chín chắn của
anh Tư Luân, từng lúc cứ làm sáng lên cái đạo đức mà cô cán bộ trẻ mới lớn
lên với phong trào như Mẫn cảm thấy phải “học một đời chưa hết”. Chỉ những
con người “bụng như vàng ròng” mới có thể quên đi bao nhiêu năm vào sinh
ra tử để nói với cô cháu trẻ măng: “Chú dốt lắm cháu à!”… “Chịu khó nhắc
chú thật nhiều nghe!”. Hoặc những lời phân tích rạch ròi mà “đẫm thương
yêu” của anh Bảy, nhằm thuyết phục Tám Liệp, giúp anh ta thấy lỗi lầm mà
hối cải. Hình ảnh chị Tám Giàu lặng lẽ hy sinh hạnh phúc riêng của mình,
mười năm mới nhận được có hai lá thư và một tấm ảnh nhỏ của chồng, để
hết lòng vun thu cho hạnh phúc của lứa em, v.v…
Nhưng Phan Tứ đã tập trung sự chú ý và dành nhiều tâm huyết vào
việc thể hiện lớp thanh niên, đặc biệt là cán bộ trẻ. Dân tộc ta đã phải liên tục
trải qua nhiều năm chiến tranh chống ngoại xâm. Tất nhiên, sự nghiệp đó
không thể chỉ là công việc của một thế hệ. Bên cạnh lớp cha anh vốn tình sâu
nghĩa nặng với cách mạng, từng trải, đầy kinh nghiệm sống và chiến đấu, có
người không khỏi có những hạn chế do tuổi tác, sức lực, có thể phần nào ở
cả nếp nhìn, nếp nghĩ, cần phải được luôn luôn bổ sung thêm những đội ngũ
trẻ, đầy nhiệt tình, xông xáo, dám nghĩ dám làm, say mê học hỏi để tiếp thu
những cái mới nhằm đáp ứng những đòi hỏi ngày càng cao hơn của cách
mạng. Với cái nhìn nhạy bén, với tình cảm chân thành, Phan Tứ đã nhiệt tình
biểu dương, cổ vũ lớp trẻ. Ngay từ Về làng, chúng ta đã gặp Hậu, Cam,
Sửu…, nhưng những nhân vật này mới chỉ thoáng qua. Chúng ta cũng đã
gặp những Bê, Sâm, Ngọ… trong Gia đình má Bảy, song chưa phải đủ là
những nhân vật gây được ấn tượng sâu. Cho đến Mẫn và tôi thì hình ảnh lớp
con người mới này mới có một sức thu hút thật sự. Hai nhân vật chính này
tỏa sảng bao trùm lên toàn bộ diễn biến câu chuyện. Từ đấy, dưới ánh sáng
của tư tưởng tiên tiến, tác giả gắng thử giải đáp một số vấn đề nóng hổi đặt ra
trong cuộc sống cách mạng.
Trước hết, Phan Tứ muốn khẳng địnn một cái đẹp lý tưởng, một sự
trưởng thành không ngừng của thế hệ trẻ trong thời đại chống Mỹ, cứu nước.
Ở đây, những vấn đề lý tưởng sống, tình yêu, nghề nghiệp, tình bạn, tình
đồng chí cũng đồng thời là một loạt vấn đề chung và riêng đã phần nào được
nói lên một cách khá sinh động hấp dẫn, hợp lô-gích, thông qua hai nhân vật
Mẫn – Thiêm, và mối tình của họ.
Hình ảnh cô du kích Tam Sa cứ mỗi lúc một rõ dần, ngời lên trước mắt
người đọc. Mẫn vừa có cái hồn nhiên tươi trẻ của cô gái hai mươi, vừa có cái
sắc sảo, từng trải của một cán bộ lãnh đạo. Ở Mẫn sức cuốn hút, vẻ say
người không chỉ ở những nét đẹp kín đáo, mộc mạc mà Phan Tứ đã phác
họa, mà còn toát lên từ cái vẻ trong sáng trong tâm hồn, nhiệt tình trong trái
tim, và năng lực suy nghĩ. Trong công tác, Mẫn dám nghĩ, dám làm, với lập
trường dứt khoát, luôn luôn có ý thức phân tích cái đúng, cái sai. Trong tình
cảm, Mẫn đằm thắm, yêu thương, trọn nghĩa, trọn tình. Mẫn yêu Thiêm tha
thiết nhưng cô cũng sẵn sàng “cắt đứt” và thậm chí có thể hành động quyết
liệt hơn, nếu anh chạy sang phía thù. Mẫn yêu bé Hoàn, đứa con nuôi, bằng
cả tấm lòng người mẹ yêu thương con nhất. Cô lo lắng, đùm bọc cho các em,
thay mẹ đã mất. Từ một cô gái còn rất non trẻ tuổi đời, chỉ trong vòng trên
dưới vài năm trời đã vùn vụt từ một du kích lên xã đội trưởng, lên bí thư chi
bộ, rồi đảng ủy viên của cả khu vành đai mười hai xã đang hiên ngang chống
chọi với tên đế quốc đầu sỏ. Có thể nói, cho tới nay, Mẫn là một trong số ít
các nhân vật nữ thanh niên đẹp nhất, đáng yêu nhất của văn học cách mạng
miều Nam.
Sóng đôi với Mẫn là Thiêm, anh bộ đội giải phóng, từng bôn ba lưu lạc,
làm nhiều nghề, nhưng chung quy là để làm cách mạng. Anh có kiến thức, có
trình độ, “trải đời, trải đạn”. Nổi bật ở Thiêm là lòng say mê lý tưởng, là hoài
bão lớn, là lập trường dứt khoát, kiên định. Thiêm là con người của tư duy,
của hành động, trước mỗi người, mỗi việc anh đều phân tích, lý giải, đánh
giá, tốt xấu, đúng sai, và khi làm việc gì thì bao giờ cũng “tận bờ sát góc”.
Thiêm tự hào mà cũng rất tự tin; anh tin mình, bởi anh tin Đảng, tin đồng bào,
đồng chí. Thiêm không chủ quan khi nhìn ta, nhìn địch. Trong hoàn cảnh
chiến đấu ác liệt, lại gặp phải tình trạng hiểm nghèo, Thiêm đã bình tĩnh vượt
mọi thử thách và chiến thắng cái chết. Gặp mặt người yêu, ai cũng tưởng
Thiêm sẽ dặn dò. Nhưng không, anh chỉ gặp Mẫn để yêu thương một chút, để
hỏi han tình hình chiến sự. Khi Mẫn dặn anh đừng nhắc nhiều, thương để
bụng, anh vẫn giỡn: “Để bụng, bụng rách nó rớt ra thì làm sao?”
Rõ ràng, chỉ có “tắm mình” trong thực tế chiến đấu, lại đã từng yêu say
mê và hiểu biết về lớp trẻ, Phan Tứ mới có thể viết được những trang sinh
động chân thực, thoải mái như vậy. Thông qua mối tình giữa Mẫn và Thiêm,
tác giả gợi ra một số vấn đề có ý nghĩa, đặc biệt là vấn đề tình yêu và lý
tưởng, làm cho nhiều người đọc, nhất là tầng lớp thanh niên phải suy nghĩ.
Mẫn và Thiêm có những mặt khác nhau rất xa về tính nết, nghề nghiệp, về
trình độ văn hóa, về sự từng trải. Hồi đầu, Thiêm cho rằng “Mẫn không thuộc
kiểu người tôi thích”, xin chỉ “kính nhi viễn chi”. Nhưng qua một thời gian,
trong quan hệ công tác, họ đã phục nhau, mến nhau và ngày càng trở nên
gần gũi, bởi cả hai cùng có một số nét căn bản giống nhau: họ có cùng một lý
tưởng, cùng ham học hỏi, cùng dám nghĩ, dám làm. Thành ra với họ, những
mặt khác nhau lại có thể bổ sung cho nhau thêm hoàn hảo, và tình yêu đến
với họ một cách tự nhiên. Đó là một tình yêu đẹp, lấp lánh trong ánh sáng của
lý tưởng mới của thời đại.
Ngòi bút Phan Tứ còn tràn đầy ưu ái, khâm phục đối với phụ nữ. Qua
tác phẩm của anh, hình ảnh các má, các chị thường gây cho ta những xúc
động mạnh và sâu. Phan Tứ không chỉ ca ngợi lòng kiên trinh bất khuất, đức
tính hy sinh quên mình để lo việc nước của phụ nữ ta, mà qua một số nhân
vật như chị Năm Tân, Tám Giàu…, đặc biệt là Mẫn, tác giả đã khẳng định vai
trò, vị trí và năng lực của phụ nữ trong sự nghiệp cách mạng Việt Nam.
Những ý nghĩ đại loại như: coi phụ nữ là “bông hoa làm cảnh”, “cây lúa nuôi
người” chứ không thấy được gỗ lim, gỗ nghiến, hoặc phụ nữ chưa nên nhúng
tay vào việc lãnh đạo, chỉ huy, bởi địch sợ súng đạn chứ sự đâu “mắt sáng
môi hồng”, rằng đối với phụ nữ thì phải “khuyến khích riết đi”, bởi họ cần sự
động viên hơn nam giới v.v… từng được những “tảng lý sự rất vững” bênh
vực, thì nay vấp vào Mẫn đã bị “long lở”, “rã vụn”. Phan Tứ còn gợi đến một
số khía cạnh khác cũng có ý nghĩa, là trong thời đại ngày nay khi mà phụ nữ
đã thực sự không thua kém nam giới trong nghĩa vụ đối với Tổ quốc thì tại
sao có khi họ vẫn còn phải chịu sự bất bình đẳng giữa vợ và chồng? Anh
khéo phê phán cái cách Tư Luân xin với Thiêm khi cưới rồi hãy rộng lượng
cho Mẫn ở lại Tam Sa công tác mấy năm nữa. Ngay ở người yêu, Thiêm
cũng nhận thấy “ngày mới quen còn khá ngang tàng, từ khi yêu tôi bỗng đâm
ra sợ sệt, bởi chưa biết tôi sẽ thống trị Mẫn ra sao?”. Quả thật, chiến thắng kẻ
thù bằng xương, bằng thịt có khi còn dễ hơn đánh lùi những lề thói cũ kỹ, lạc
hậu trong đầu óc mỗi con người, ngay cả ở những người được coi là tiên tiến.
***
Đọc Phan Tứ, ta ít thấy cái sôi nổi, ồn ào của những cảm xúc bồng bột,
mà thấy một cái gì trầm tĩnh, lắng đọng. Những ai trong chúng ta chưa có
điều kiện được đi, được biết về miền Nam trong những ngày rực lửa thì qua
sáng tác của Phan Tứ, cũng có thể hình dung được phần nào cái bề bộn,
căng thẳng, khẩn trương, ác liệt của cuộc đọ sức giữa ta và địch, đồng thời
với cái không khí đầm ấm, yêu thương, đùm bọc của xóm làng, của đồng bào,
đồng chí, và bao trùm lan tỏa lên trên tất cả là một tinh thần lạc quan cách
mạng, khiến cho ngay giữa những ngày đen tối, ngột ngạt, bom đạn ác liệt,
cuộc sống mới vẫn cứ mở dần ra và thế tất những gì muốn đẩy lùi lịch sử sẽ
bị lịch sử đẩy lùi. Thực tế của cách mạng miền Nam nói chung và của đồng
bằng Trung Trung Bộ nói riêng đã diễn ra như vậy. Phan Tứ là nhà văn có
tâm hồn, có tài năng, lại chịu khó lăn lộn trong thực tế, chịu khó thu lượm tài
liệu và cố gắng suy nghĩ, vật lộn trong quá trình sáng tạo nghệ thuật, nên anh
đã đạt được một số thành công đáng kể.
Tuy nhiên, hiện thực được phản ánh trong sáng tác Phan Tứ cũng có
phần chưa thỏa mãn người đọc, mặc dầu anh cố gắng bám sát thực tế nóng
hổi của miền Nam. Hiện thực ở ngòi bút Phan Tứ, đôi khi có một vẻ hơi tròn
trĩnh, trong đó các thế đối lập chưa thật gay go, chưa nói lên được cái dữ dội
khốc liệt như Ở xã Trung Nghĩa của Nguyễn Thi, hoặc Đất Quảng của
Nguyễn Trung Thành.
Cùng với khả năng đề cập những vấn đề xã hội có ý nghĩa, qua các tác
phẩm của mình, Phan Tứ đã từng bước phát triển khả năng khái quát nghệ
thuật. Từ Về làng, đến Gia đình má Bảy rồi Mẫn và tôi, bước phát triển đó rất
rõ trong việc dựng lại những bức tranh lớn của đời sống, theo dõi số phận
của nhiều lớp người, đi sâu vào những mối quan hệ và những chân dung tiêu
biểu.
Đọc anh, càng về sau, tuy còn ít, nhưng chúng ta đã bắt gặp những
cảm thụ rất nghệ sĩ mà nếu nhà văn không thực sự rung động thì không sao
mô tả được. Có những đoạn xúc động như lúc Thiêm bị thương nặng gặp
Mẫn, lần Mẫn đến bệnh viện thăm Thiêm… Có những đoạn, những cảnh
thấm đượm chất thơ như đoạn tả hoa bông bạc, cảnh đạp chè giữa đêm
trăng… Anh biết thuật lại linh hoạt, dí dỏm, những cuộc đối thoại, làm cho
người đọc tưởng như chính mình cũng đang tham gia trao đổi, bàn bạc. Phan
Tứ biết cách dẫn dắt vấn đề một cách tự nhiên, sinh động, đi từ chuyện mình
đến chuyện người, chuyện đời, có khi cả chuyện xưa, chuyện nay. Có thể đây
là mặt mạnh của Phan Tứ, rõ nhất trong Mẫn và tôi, có điều chưa phải đã trở
thành phong cách ổn định. Ai cũng biết rằng muốn có những cuốn tiểu thuyết
lớn vừa lôi cuốn, hấp dẫn người đọc, vừa nâng được tầm tư tưởng của họ
lên, người viết phải được trang bị rất nhiều thứ. Đối với Phan Tứ, có thể là
yếu tố lãng mạn, là sức tưởng tượng, là những cảm xúc nóng bỏng, mãnh liệt
hoặc tươi mát cần được tăng cường nhiều hơn nữa. Phải chăng, chính vì cái
phần chưa nhiều ấy, mặt khác là hiện thực được phản ánh thường còn ít thấy
cái gồ ghề, góc cạnh, thêm vào đó là một số nhân vật của anh thường sinh
phân tích, lý giải, nghĩ nhiều hơn cảm…, nên một số nhà phê bình cho rằng
Phan Tứ hãy còn “tỉnh quá” trong khi tái hiện hiện thực chăng? Phan Tứ
thông minh, sắc sảo, có lý trí sáng suốt, cái đó rất cần cho một nhà tiểu
thuyết, nhưng nếu để cho phần lý trí lấn át phần cảm xúc, sự tỉnh táo che lấp
sự say mê thì lại trở thành một nhược điểm. Đọc anh, đôi khi ta thấy nặng nề
bởi sự bề bộn các sự kiện. Người đọc có cảm giác, cái hướng dẫn ngòi bút
nhà văn nhiều khi là vấn đề, là sự kiện, là phong trào, chứ chưa phải là cuộc
sống của bản thân nhân vật, thế mà vấn đề rất quan trọng của tiểu thuyết lại
là vấn đề nhân vật. Cũng vì vậy, nhiều chương, nhiều đoạn của anh còn ở
mức ghi chép, ít gắn bó với việc làm sáng tỏ số phận nhân vật. Một số suy
nghĩ hay vấn đề mà nhà văn muốn đem đến cho người đọc lắm lúc còn lộ liễu
do phải diễn tả bằng đối thoại, bằng những trang lý thuyết, chứ chưa toát ra
từ chính sự việc hay hình tượng nhân vật. Người đọc khó có thể tin rằng một
người có nhiều suy nghĩ, với một quan niệm sống riêng đã ăn sâu vào nếp
cảm, nếp nghĩ như Hảo (Mẫn và tôi) lại có thể dễ dàng chuyển biến sau một
hồi thuyết phục của Thiêm. Bởi những lẽ trên, truyện dài của Phan Tứ cũng
có nhiều trang phải kiên nhẫn mới đọc được.
Nhìn chung, sáng tác của Phan Tứ tuy còn có nhược điểm, nhưng càng
về sau, truyện của anh càng có sức hấp dẫn hơn, không những ở nội dung tư
tưởng mà cả ở giá trị nghệ thuật, từ cách xây dựng nhân vật, bố cục, lời văn,
ngôn ngữ… Nhất là lời văn ở Mẫn và tôi so với hai tác phẩm trước thì đã tiến
một bước dài. Văn anh viết sắc gọn, trau chuốt, gợi cảm, giàu hình ảnh, có
những so sánh, ví von khá thú vị, với một ngôn ngữ ngày càng phong phú,
súc tích, có chọn lọc.
Có thể nói, bằng sáng tác của mình, đặc biệt là Mẫn và tôi, Phan Tứ đã
có đóng góp đáng quý cho nền văn học cách mạng miền Nam. Với sức viết
luôn luôn tự vượt mình, người đọc còn hy vọng nhiều hơn ở anh.
Truyện ngắn NGUYỄN SÁNGKhông phải Nguyễn Sáng không có ý định viết truyện dài. Anh đã cho in
truyện vừa Chiếc áo thằng hình rơm (Nxb. Giải phóng, 1973), và đã cho đăng
dần trên tạp chí Tác phẩm mới (1974) một số chương của truyện dài Mùa gió
chướng. Nhưng trong hoàn cảnh miền Nam vào những ngày chống Mỹ ác
liệt, anh tập trung sức lực vào truyện ngắn. Anh đã từng nói: “Tôi rất thích viết
tiểu thuyết. Ngay lúc bắt đầu lên đường về chiến trường, tôi đã nghĩ đến tiểu
thuyết. Nhưng khi sống trong thực tế của bom đạn, tôi nghĩ biết sống biết chết
lúc nào mà để dành. Có cái gì viết cái ấy, phục vụ ngay. Phải đánh trả lại kẻ
thù từng miếng, từng nhát, thật sâu”.
Năm 1968, anh viết tập truyện ngắn Chiếc lược ngà; và tiếp ngay năm
sau, anh cho xuất bản tập truyện Bông cẩm thạch.
Hai tên truyện gợi cho người đọc nghĩ ngay đến những vật kỷ niệm nhỏ
nhắn, xinh xắn nào đó của một cuộc sống êm ả. Đúng, đấy là những kỷ niệm.
Nhưng có điều đó không phải là những kỷ niệm bình thường của một cuộc
đời phẳng lặng mà là những kỷ niệm có khi nhòa lẫn máu của những ngày
chống Mỹ ác liệt, những ngày nổi dậy của Cửu Long cuộn sóng. Cái ý ấy, có
lúc anh đã nói đến một cách bóng gió: “Sông Cửu Long lúc nào cũng có sóng.
Đừng thấy dòng sông lặng lẽ mà bảo dòng sông không có sóng; sóng đang
nổi lên từ dưới đáy, người ta gọi đó là sóng ngầm”.
Đầu xuân năm 1968, Sài Gòn với những đợt sóng ngầm đã đến lúc dậy
lên ồ ạt, dữ dội. Sài Gòn những ngày tổng công kích, ta có dịp hiểu rõ hơn về
con người Sài Gòn, đủ mọi tầng lớp, với lòng yêu nước tha thiết và lối đánh
giặc theo “kiểu Sài Gòn” của họ. Tiếng súng trên đường phố Sài Gòn, Sài
Gòn dưới những tầng khói là hai bút ký Nguyễn Sáng tranh thủ ghi nhanh trên
đường phố. Tuy đấy mới chỉ là vài nét phác họa nhưng người đọc vẫn không
sao quên hình ảnh mười ba cô gái đẩy lui cả một tiểu đoàn quân Mỹ. Cuối
cùng các cô đều bị thương nặng. Biết rằng mình không thể sống được nữa,
các cô bắn đến viên đạn cuối cùng rồi nằm bên nhau cất tiếng hát. Câu
chuyện đẹp và kỳ diệu như một truyền thuyết.
Truyện Nguyễn Sáng thường chứa đựng những yếu tố “kỳ diệu” như
thế. Nói kỳ diệu là nói những chuyện lạ. Nhưng với Nguyễn Sáng, đó là
những chuyện lạ đã trở thành bình thường, những chuyện lạ không phải do
“phép tiên” mà có, nó được làm nên bởi những con người bình thường.
Cái “kỳ diệu” đó không có chút gì xa lạ, vì đó chính là chất thơ, chất anh
hùng tràn đầy trong cuộc sống chiến đấu của chúng ta. Nguyễn Sáng là
người viết có ý thức khai thác đề tài và khơi nguồn cảm hứng của mình trong
những điều kỳ diệu đó của cuộc sống. Kể một câu chuyện bình thường nhất
về một người mẹ, một “người đàn bà Đồng Tháp” chỉ muốn sống hòa bình, lo
làm ăn, nuôi con, anh cho thấy rõ một cách hết sức tự nhiên bước chuyển
quan trọng trong ý thức tư tưởng của người phụ nữ Việt Nam: “Thời bây giờ
đánh với Mỹ, người mẹ muốn nuôi con cũng phải có súng”. Phải chăng, trên
đất lửa của chúng ta, cái ý thức đó chính là sự khởi đầu chủ nghĩa anh hùng
của biết bao nhiêu người vợ, bà mẹ?
Một truyện khác: Một chuyện vui, kể chuyện anh Bảy Ngàn trên đồng
nước bị trực thăng vây bố, sau hai lần hụt chết, ung dung đến ngồi bên một
cây tràm bị tên lửa bắn, còn nghi ngút khói, hút thuốc, thở khói phà phá. Câu
chuyện mấy lần hụt chết đó lại cứ như là “một chuyện vui”, chẳng mới mẽ gì,
thế nhưng cái điều kỳ diệu về tư thế ung dung, coi thường nguy hiểm, xem
thường kẻ địch lại gây một ấn tượng sâu trong người đọc. Qua anh Bảy Ngàn
ta thấy một nét tiêu biểu về tính cách anh hùng của con người miền Nam.
Nói được một cái gì thật kỳ diệu trong những điều tưởng chừng rất bình
thường của cuộc sống, đó là đóng góp đáng chú ý ở Nguyễn Sáng.
***
Nhưng làm quen với Nguyễn Sáng, người đọc được tiếp xúc nhiều hơn
với những câu chuyện được xây dựng trên những tình tiết ngẫu nhiên, bất
ngờ, lắm khi gay cấn, căng thẳng, đầy tính kịch. Thật ra thì hai hiện tượng
trên không có gì mâu thuẫn với nhau, vì nó cùng thống nhất trong mục đích
chung của tác giả là nói cho được những điều lớn lao kỳ diệu của cuộc sống.
Người đọc thấy được điều đó qua những mẩu đời bình thường như
trong Người đàn bà Đồng Tháp hay Một chuyện vui…
Nhưng người đọc sẽ càng thấy được điều đó trong những tình huống
khác như Quán rượu người câm, Chiếc lược ngà…
Quán rượu người câm là câu chuyện anh Ba Hoành bị địch bắt năm
1956, tra tấn đến hóa câm. Anh về nhà, ở với vợ, dọn một hàng rượu, ở quán
rượu ”người câm” được nghe đủ mọi thứ chuyện về tội ác của kẻ thù, về sức
căm thù quật khởi của nhân dân. Cho đến ngày đồng khởi, nhân dân chờ đợi
người lãnh đạo xuất hiện. Phút chờ đợi thật nghiêm trang. Nhưng không ngờ
người đó lại chính là anh: “Bốn năm rồi, tôi không nói, không phải tôi câm. Mà
tôi im lặng. Đã đến lúc chúng ta không im lặng được nữa!”
Bốn năm im lặng trong tư thế một người câm! Một tiếng nói cất lên
đúng vào hôm đồng khởi, cùng với tiếng hò reo, tiếng súng nổ dậy trời của
nhân dân phá thế kìm kẹp của kẻ thù! Cái thế giới mà người đọc được
Nguyễn Sáng đưa vào quả là kỳ lạ! Thêm vào đó là chi tiết về một em bé gái
mười sáu tuổi, em bé trước mặt một tên phản bội đến năn nỉ xin em đầu thú
bỗng hất tóc ra sau vai và nói như nghiến: – “Chú Hai! Chú sợ chết hả! Chú
hãy nhìn tôi đây này!”, rồi “thè lưỡi, mắt long lên, đưa quả đấm đánh vào cằm
mình”. Quả là những chuyện bất ngờ đến làm ta nín thở vì căng thẳng, hồi
hộp!
Cũng hồi hộp nhưng không đến nỗi căng thẳng như trên là những gặp
gỡ như trong Chiếc lược ngà. Một người cha về thăm nhà, con không nhận
mặt, vì anh có một vết sẹo, không giống như trong hình. Một cô con gái khi
nhận ra cha, chỉ ao ước có một chiếc lược ngà. Người cha chưa kịp gửi quà
cho con thì bị hy sinh. Một người bạn nhận lấy nhiệm vụ chuyển món quà kỷ
niệm đó cho cô con gái. Một cô giao liên trên đường công tác. Một câu
chuyện được kể lại… Tất cả khớp với nhau và trước mặt ta bây giờ, những
hình ảnh, những chi tiết tưởng như rời rạc đó bỗng nhiên gắn với nhau, tạo
nên một bức tranh xúc động về tình cha con, về tình đồng chí, về những mất
mát lớn lao mà chúng ta phải chịu đựng trong chiến đấu, và về những bù đắp
quý giá mà cách mạng đem lại cho mỗi người…
Trong Bông cẩm thạch, Nguyễn Sáng cũng đã dựng được một câu
chuyện gặp gỡ ngẫu nhiên mà xúc động như thế giữa hai mẹ con cùng đi làm
cách mạng, cho ta thấy tấm lòng thủy chung và thương yêu rất đẹp của con
người miền Nam. Thiên truyện cũng đồng thời cho thấy những hiểu nhầm,
những mất mát đau thương, những uẩn khúc chưa thể giải tỏa của con người
chỉ có thể giãi bày khi cuộc chiến đấu nổ ra, khi đã chấm hết cái thời khắc nén
lặng, chờ đợi trong bóng tối và kìm kẹp của kẻ thù, để cho tiếng súng cất lên.
***
Truyện Nguyễn Sáng giàu chi tiết sống. Nhưng chi tiết đối với anh
không phải là một thứ trang sức để phô bày. Chi tiết được anh dùng trước hết
là nhằm khắc họa nhân vật.
Tả người câm rất dễ có những nét chung chung, nhưng hình ảnh anh
Ba Hoành trong Quán rượu người câm thì thật khó quên. Qua cách nhận xét
của kẻ địch: “Thằng cha câm khi nó muốn ngủ với vợ, nó không ú ớ mà ư ư
như rên, khi nó bị vợ phủi tay thì nó kêu á á, khi vợ nó kéo tới thì nó à à, một
lần nữa chúng xác định tên tù ấy câm thật”. Qua cách hiểu của ta: “ông câm
nhưng ông thấy, ông nghe, ông biết”, “ông uống rượu như ông uống thuốc
độc”, “ông khóc nhưng không phải khóc bằng nước mắt mà khóc bằng nước
miếng. Đó là kiểu khóc của người câm”.
Cùng miêu tả lớp trẻ, nhưng với Nguyễn Sáng, mỗi người một nét khác
nhau. Thế hệ trẻ vốn là lớp người Nguyễn Sáng vốn rất nâng niu và quý
trọng. Ai chẳng biết tuổi trẻ là tuổi đẹp nhất trong đời người, nhưng nếu cần
hy sinh, họ không ngần ngại dâng cả cuộc đời của mình cho hạnh phúc chung
của mọi người. Trong chiến đấu, lớp trẻ miền Nam quả đã tỏa ra những ánh
sáng chói ngời, xứng đáng với cha anh. Chính họ đã tô điểm cho cuộc sống
thêm tươi vui. Ai mà chẳng yêu cô xã đội trưởng xinh đẹp, dũng cảm mà lại
chúa nghịch ngợm trong Chị xã đội trưởng. Cô “thử thách” người yêu bằng
cách nói rằng mình bị cháy đen thui thủi, làm anh đại đội phó, người yêu của
cô, cứ ngơ ngẩn cả người. Tác giả cũng nhân dịp đó mà “chen ngang” một
nhận xét dí dỏm của anh về lớp trẻ: “Tôi không dám bàn luận về tình yêu,
nhưng tôi nghĩ, điều mà chị xã đội trưởng bày ra cho thêm rắc rối đó là cái
chất trẻ đẹp của tình yêu mà bom đạn của giặc Mỹ không thể nào giết chết
được. Đứng trong cuộc sống chiến đấu đầy bom đạn, chẳng biết lúc nào mình
bị hy sinh, bị tàn tật, nhưng điều đó không ám ảnh được chị. Chị vẫn sống
một cách bình thường, vẫn yêu, yêu một cách rắc rối và hồn nhiên như vậy
đó. Và đó là sức mạnh của chị”.
Không giống với chị xã đội trưởng, cô gái Khơ-me Sa-rết lại rất dịu
dàng, kín đáo trong tình yêu, một tình yêu không bộc lộ ra ngoài nhưng thật
nồng cháy bên trong… Suốt bao nhiêu năm trời cô giữ gìn chiếc áo của người
yêu, khác nào người con gái trong ca dao: “Áo xông hương của chàng vắt
mắc. Đêm em nằm em đắp lấy hơi”. Rồi từ chiếc áo của Sa-rết gửi cho bộ
đội, đi theo bước chân của chồng, mà dệt nên cả một câu chuyện đẹp như cổ
tích…
Cùng miêu tả các cô giao liên, nhưng qua ngòi bút Nguyễn Sáng, mỗi
người vẫn có một vẻ riêng. Thu trong Chiếc lược ngà rất thông minh và bình
tĩnh. Người ta kháo rằng cô “có cái mũi rất thính, cô dùng mũi để nghe mùi
địch và có thể phân biệt được thằng nào là Mỹ, thằng nào là ngụy nữa”.
Nhung trong Chị Nhung, thì quả có cái bề ngoài của một phụ nữ Sài Gòn
đúng mốt: cưỡi xe Hon-đa, mang kiếng mắt đen, quần ống hẹp và áo bó sát
thân người. Trinh, Phương trong Người bạn mới quen có những nét mơ
mộng của những nữ sinh viên mới gia nhập hàng ngũ bộ đội; còn Mì trong
Bông cẩm thạch thì ít nói, gan góc, nén chịu rất giỏi những đau thương riêng
của bản thân mình. Ánh trong Chị xã đội trưởng lại hồn nhiên, nhí nhảnh…
Rõ ràng họ là những bông hoa tươi thắm trong cuộc chiến đấu chống
Mỹ. Không giống với những ngày kháng chiến chống Pháp, các giao liên
thường là thiếu nhi. Ngày nay trong cuộc chiến đấu với tên đầu sỏ đế quốc
Mỹ, các giao liên thường lại là nữ. Nguyễn Sáng có đóng góp trong việc xây
dựng hình ảnh loại nhân vật này.
Có điều cần chú ý là lâu nay trong các bài hát cũng như trong thơ,
truyện, cuộc sống người giao liên mới được miêu tả ở khía cạnh bay bổng,
nhẹ nhàng, hoặc ở sự mưu trí lanh lẹ trong mọi tình huống. Đúng, đấy là
những thực tế cần phải ca ngợi và miêu tả. Nhưng người viết đừng để người
đọc hiểu lệch về cuộc sống của người giao liên chỉ là những trang thơ đầy
màu xanh của cây rừng hoặc đầy hoa bướm. Cuộc đời của họ phải chịu bao
vất vả và gian khổ, phải đương đầu với bao nhiêu khó khăn: một mình đảm
nhiệm mọi công tác giữa thiên nhiên rộng lớn, bí hiểm và lắm khi khắc nghiệt;
một mình tác chiến đơn độc; một mình phụ trách biết bao sinh mệnh con
người.
Có thể nói nhân vật trong truyện ngắn Nguyễn Sáng là những con
người được vươn lên trong ánh sáng của cách mạng. Những nét u buồn
không đọng lâu trong con người họ. Khó khăn, mất mát, chết chóc là điều khó
tránh khỏi trong cuộc chiến đấu ác liệt này, nhưng điều đó không hề làm giảm
lòng tin của họ vào chiến thắng ngày mai. Niềm lạc quan và lòng tin đó toát
lên trong mọi truyện ngắn của Nguyễn Sáng, đó là dụng ý của tác giả. Anh
muốn gieo vào lòng người đọc niềm tin, lòng yêu đời để sống và chiến đấu.
Mỗi nhà văn có một sở trường. Nguyễn Thi, Nguyễn Trung Thành cho
ta hình dung một cuộc sống rất mực dữ dội, khốc liệt trong sự đối mặt giữa ta
và địch. Anh Đức, Phan Tứ đi sâu vào quá trình vùng dậy của nhân dân. Trần
Hiếu Minh hướng vào cả một quá trình cuộc sống bề bộn các sự kiện.
Nguyễn Sáng không thế, anh đi vào từng mảng nhỏ của đời sống, làm cho
thấy sự kết hợp giữa chất anh hùng cao cả và chất thơ trong trẻo, đơn giản.
Nhưng phải chăng có thể xem đây là một nhược điểm của tác giả: trong
truyện ngắn của anh, ta chưa hề thấy có một nhân vật phản diện nào. Chính
anh đã từng khẳng định là những nhân vật chính diện trong các tác phẩm
miền Nam “đã trở thành những điển hình sống, phong phú, đa dạng, có sức
chinh phục và thuyết phục lòng người, ngược lại, những nhân vật phản diện
vẫn còn mờ nhạt, nó tàn bạo đó, nó giết người đó, nó ăn thịt người nữa, nó lố
lăng, nó lưu manh, nhưng đọc rồi, ta vẫn cứ thấy nó mờ mờ. Bởi vì ta chỉ thấy
cái bên ngoài”. Qua ý kiến phát biểu trên của nhà văn, ta hiểu được sự băn
khoăn chính đáng của anh và càng thấy quý sự chân thật và tinh thần trách
nhiệm của anh đối với người đọc. Nếu như trong một hai tác phẩm không có
bóng dáng tên phản diện thì cũng chẳng sao, nhưng nếu là cả một chuỗi tác
phẩm viết về hiện thực miền Nam mà không hề đả động đến bọn chúng thì
điều đó không phải là không đáng tiếc.
Giàu chi tiết sống, lắm tình huống bất ngờ, truyện Nguyễn Sáng thường
mang nhiều chất kịch, có thể xem đó là phong cách của anh. Truyện của anh
bao giờ cũng có khía cạnh làm cho người đọc hồi hộp, chờ đợi. Kết thúc
truyện bao giờ cũng đột ngột, người đọc khó đoán trước được.
Nhưng có điều, chất ly kỳ đó hoàn toàn không phải là do anh bịa đặt
hoặc thêm thắt vào, mà chính do cuộc sống gợi ra.
Quán rượu người câm quả là chuyện lạ, nhưng trong cuộc sống miền
Nam, những chuyên lạ như thế đâu phải là hiếm.
Nguyễn Sáng vốn là cây bút khéo sử dụng các yếu tố ngẫu nhiên,
nhưng đó là cái ngẫu nhiên tự nhiên, có thể xảy ra, đóng vai trò là chất xúc
tác thực sự, đẩy các tình huống phát triển. Những cuộc gặp gỡ bất ngờ luôn
luôn là đường mối chính cho những truyện ngắn của anh. Nhưng sau cái vẻ
ngẫu nhiên bên ngoài, anh bao giờ cũng cho ta thấy cái cốt tất yếu, hợp lý
bên trong. Người đọc tự nghĩ: cuộc sống cách mạng là thế, đầy những điều
kỳ diệu!
Cuối cùng, có thể nói, truyện ngắn Nguyễn Sáng tuy đậm tính kịch
nhưng vẫn mang nhiều chất trữ tình. Không ít truyện của anh thường được
gội trong không khí của những kỷ niệm như Chiếc lược ngà, Bông cẩm thạch.
Và đằng sau những kỷ niệm là tất cả mối dây bền chặt của những mối quan
hệ giữa con người: tình cha con, mẹ con, tình đồng chí, tình bạn, tình yêu.
Nguyễn Sáng cố không tham gia bình phẩm, nhưng xúc động của người viết
thường vẫn không giấu được.
***
Đọc xong truyện ngắn của Nguyễn Sáng, người đọc càng thêm tự hào
về con người đồng bằng sông cửu Long. Chỉ với truyện ngắn, anh đã có thể
phác vẽ cho ta hình thù, dáng nét con người miền Nam bình thường mà kiên
trung, bất khuất, lạc quan qua những anh Ba Hoành, Bảy Ngàn, vợ chồng ông
già Sa Thét, chị Bảy, Thu, Nhung.., Có thể nói, thế giới nhân vật truyện ngắn
của anh đã góp phần tạo nên một hình ảnh nhuần nhị, nên thơ về chủ nghĩa
anh hùng cách mạng Việt Nam.
Phụ lục. BẢNG KÊ TÁC GIẢ VĂN XUÔI HIỆN ĐẠILỜI CHỈ DẪN
1.Bảng này chọn ghi tương đối rộng rãi những tác giả văn xuôi đã có
sáng tác được in thành sách và được dư luận chú ý qua các thời kỳ.
2.Tác giả xếp theo thứ tự a, b, c… của vần cuối bút danh. Tác phẩm
của mỗi tác giả ghi theo thứ tự năm xuất bản, cho đến năm 1975.
3.Nói chung, ở mỗi tác giả chỉ ghi những tác phẩm chính, được xuất
bản ở các nhà xuất bản Trung ương, không ghi những tác phẩm lẻ tẻ, chưa in
thành sách, hoặc in chung với nhiều người, trừ một số trường hợp đặc biệt;
cũng không ghi các tác phẩm thuộc các thể loại khác như thơ; những tác
phẩm viết cho thiếu nhi in ở Nhà xuất bản Kim Đồng cũng sẽ dành một dịp
khác.
Số
thứ
tự
Tác giả Tác phẩm Thể loạiNhà xuất bản/
Năm xuất bản
1 2 3 4 5
1 Bùi Đức Ái Lão anh hùng dưới
hầm bí mật
Truyện Văn nghệ, 1956
Con cá song Truyện ngắn Văn học, 1959
Một chuyện chép ở
bệnh viện
Truyện Văn học, 1959
Biển xa Tập truyện Văn học, 1961
2 Hoàng Thị Ái Một lòng với Đảng Hồi ký Phụ nữ, 1964
3 Hoài An Chuyện làng Tập truyện,
ký
Văn học, 1963
Trong vỉa than ngầm Tập truyện,
ký
Thanh niên,
1964
Chuyện chép trên
đường kháng chiến
Tập truyện,
ký
Văn học, 1971
4 Trịnh Xuân An Đường trở về Tập truyện Văn học, 1960
5 Vân An Nghĩa vụ Truyện ngắn Văn học, 1959
Lòng tin Tập truyện Văn học, 1961
Bám đất Tiểu thuyết Thanh niên,
1971
6 Hoàng Ngọc
Anh
Xóm thợ Trường Thi Tiểu thuyết Lao động, 1975
7 Hà Ân Quận He khởi nghĩa Tiểu thuyết Quân đội nhân
dân, 1963
Ánh đèn xanh Truyện Lao động, 1967
Tổ quốc kêu gọi Tiểu thuyết Quân đội nhân
dân, 1972
8 Trần Bảo Hạt máu Hồi ký Loa động, 1970
9 Vũ Bão Sắp cưới Tiểu thuyết Hội nhà văn,
1957
Phá đám Truyện Thanh niên,
1958
Khe Tre Ký sự Quân đội nhân
dân, 1971
Xe tăng ta Ký sự Quân đội nhân
dân, 1973
10 Lê Bầu Thông reo Tập truyện Văn học, 1962
11 Trần Tứ Bình Phú Riềng đỏ Hồi ký Lao động, 1965
12 Vi Thị Kim Bình Đêm giao thừa Truyện ngắn Văn học 1966
13 Ngô Ngọc Bội Chị Cả Phây Tập truyện Văn học, 1963
Ao làng Tiểu thuyết Văn học, 1975
14 Triệu Bôn Mầm sống Tập truyện,
ký
Quân đội nhân
dân, 1970
Cửa ngõ mặt trận Tập truyện,
ký
Giải phóng,
1975
15 Thu Bồn Chớp trắng Tiểu thuyết Giải phóng,
1973
Dưới đám mây màu Tiểu thuyết Thanh niên,
cánh vạc (2 tập) 1975
16 Hoàng Văn
Bồn
Bông hường bông
cúc
Truyện Lao động, 1957
Có những lớp người Truyện Lao động, 1958
Mùa mưa Tiểu thuyết Quân đội nhân
dân, 1960
Trên mảnh đất này Tiểu thuyết Quân đội nhân
dân, 1962
17 Nguyễn Văn
Bổng
Hàm Rồng ký Văn học, 1968
Sóng Hòn Mê ký Quân đội nhân
dân, 1971
Con trâu Tiểu thuyết Văn nghệ, 1953
Cắm thẻ Đồng Câu Truyện Văn nghệ, 1955
Bếp đỏ lửa (2 tập) Tiểu thuyết Văn nghệ, 1955
Người chị Tập truyện Văn học, 1960
Đón một mùa xuân
mới từ miền Nam
ký Văn học, 1961
Đường về Nam Truyện phim Văn học, 1963
Áo trắng Truyện Thanh niên,
1973
18 Xuân cang Suối gang Tiểu thuyết Quân đội nhân
dân, 1960
Lên cao Tập truyện Văn học, 1962
Đôi cánh Truyện Lao động, 1967
Những vẻ đẹp khác
nhau
Tập truyện Văn học, 1971
19 Nam Cao Chí Phèo Truyện Đời mới, 1941
Nửa đêm Tập truyện Cộng lực, 1943
Chuyện một người
hàng xóm
Truyện Trung Bắc chủ
nhật, 1944
Sống mòn Tiểu thuyết Viết năm 1944,
văn nghệ in
1956
Đôi mắt Truyện ngắn 1948
Ở rừng Nhật ký 1948
Bốn cây số cách một
căn cứ địch
Truyện ngắn 1949
Chuyện biên giới Ký Văn nghệ, 1951
20 Vũ Cao Đất nước một giải Ký Quân đội nhân
dân, 1955
Truyện một người bị
bắt
Truyện Quân đội nhân
dân, 1957
Những người cùng
làng
Tiểu thuyết Quân đội nhân
dân, 1961
Từ một trận địa Tập truyện Văn học, 1969
21 Lương Sĩ Cầm Ánh lửa Tập truyện Văn học, 1962
Giữ vững Thèn Chu Tập truyện Quân đội nhân
dân, 1962
22 Hồng Châu Trường Sơn hùng
tráng
Bút ký Văn học, 1967
23 Nguyễn Minh
Châu
Cửa sông Tiểu thuyết Văn học, 1967
Những vùng trời
khác nhau
Tập truyện Văn học, 1970
Dấu chân người lính Tiểu thuyết Thanh niên,
1972
24 Nông Minh
Châu
Ché Mèn được đi
họp
Truyện ngắn Văn học, 1959
Muối lên rừng Tiểu thuyết Văn học, 1964
25 Đỗ Chu Phù sa Tập truyện Văn học, 1967
Vòm trời quen thuộc Tập ký Thanh niên,
1969
Gió qua thung lũng Tập truyện
ký
Văn học, 1971
Đám cháy trước mặt Tiểu thuyết Thanh niên,
1973
26 Đình Chương Như cánh chim bay Tiểu thuyết Văn học, 1960
27 Hồng Chương Ngược đường số
chín
Truyện Quân đội nhân
dân, 1958
Một luồng gió mới Tiểu thuyết Văn học, 1959
28 Lê Chưởng Trời sắp sáng Tiểu thuyết Văn học, 1964
29 Văn Dân Nắng giữa đồng Tiểu thuyết Văn học, 1962
30 Châu Diên Con nhện vàng Tập truyện Thanh niên,
1962
31 Xuân Diệu Phấn thông vàng Tập truyện Đời nay, 1939
Miền Nam nước Việt
và người Việt miền
Nam
Ký Đoàn xuất bản
Bắc Bộ, 1946
Việt Nam nghìn dặm Ký 1946
Việt Nam trở dạ Ký Văn nghệ, 1948
Ký sự thăm nước
Hung
Văn nghệ, 1956
Đi trên đường lớn Tập ký Văn học, 1968
32 Nguyễn Địch
Dũng
Hai vợ Tập truyện Văn học, 1959
Trai làng Quyền Tập truyện Văn học, 1965
Người ở nhà Tiểu thuyết Văn học, 1974
33 Quang Dũng Đường lên Châu
Thuận
Ký Văn nghệ, 1955
Rừng về xuôi Ký Văn học, 1964
Nhà đồi Truyện ký Văn học, 1970
34 Trần Đăng Truyện và ký sự Tập truyện,
ký
Văn nghệ, 1954
35 Nguyễn Khoa
Điềm
Cửa Thép Ký Giải phóng,
1970
36 Xích Điểu Trắng đen Tập văn tiểu
phẩm
Phổ thông,
1960
Sau mặt nạ nhận vị Tiểu phẩm Phổ thông,
1961
Người hay vật Tiểu phẩm Phổ thông,
1962
Gạn đục khơi trong Tiểu phẩm Phổ thông,
1964
Cái đuôi con chó Tiểu phẩm Phổ thông,
1969
37 Nguyễn Thị
Định
Không còn con
đường nào khác
Hồi ký Phụ nữ, 1968
38 Trần Độ Kể chuyện Điện
Biên
Tập ký Văn học, 1964
Bên sông đón súng Hồi ký Thanh niên,
1964
39 Anh Đức Bức thư Cà Mau Tập truyện,
ký
Văn học, 1966
Chim đầu đàn Truyện ký Quân đội nhân
dân, 1966
Hòn Đất Tiểu thuyết Văn học, 1966
Giấc mơ ông lão
vườn chim
Tập truyện,
ký
Giải phóng,
1969
40 Lại Giang Trong vành đai diệt
Mỹ
Tập truyện,
ký
Văn học, 1969
41 Trần Thanh
Giao
Dòng sữa Tập truyện Văn học, 1962
42 Võ Nguyên
Giáp
Khu giải phóng Ký Hội văn hóa
cứu quốc, 1946
Một vài hồi ức về
Điện Biên Phủ
Quân đội nhân
dân, 1964
Từ nhân dân mà ra Hồi ký Quân đội nhân
dân, 1964
Những năm tháng
không thể nào quên
Hồi ký Quân đội nhân
dân, 1970
43 Đoàn giỏi Cá bống mú Truyện Văn nghệ, 1955
Ngọn tầm vông Ký Văn nghệ, 1956
Trần Văn Ơn Truyện ký Thanh niên,
1957
Hoa hướng dương Tiểu thuyết Văn học, 1960
44 Dũng Hà Gió bấc Tập truyện Quân đội nhân
dân, 1963
Sao Mai Tiểu thuyết Quân đội nhân
dân, 1974
45 Hồng Hà Lên công trường Ký Văn nghệ, 1956
46 Nam Hà Gió vịnh Cam Ranh Tập truyện,
ký
Giải phóng,
1969
47 Nguyễn Sơn
Hà
Gió tươi Tập truyện Lao động, 1974
48 Trúc Hà Chuyện một người
cha
Tập truyện Văn học, 1960
49 Hoàng Hạc Ké Nàm Tập truyện Văn học, 1964
50 Song Hào Dưới ngọn cờ vinh
quang của Đảng
Hồi ký Quân đội nhân
dân, 1965
51 Siêu Hải Đại đội sơn pháo 75 Tập truyện Quân đội nhân
dân, 1964
52 Phạm Tường
Hạnh
Vợ chồng Bảy Thẹo Tập truyện Văn học, 1962
53 Trần Mai Hạnh Nắng Thu Bồn Truyện ký Giải phóng,
1975
54 Bùi Hiển Nằm vạ Tập truyện Đời nay, 1941
Ánh mắt Tập truyện Văn học, 1961
Đường vui xứ bạn Ký Văn học, 1962
Trong gió cát Tập truyện,
ký
Văn học, 1965
Đường lớn Tập truyện,
ký
Văn học, 1966
Những tiếng hát hậu
phương
Tập truyện Thanh niên,
1970
Hoa và thép Tập truyện Văn học, 1972
55 Tô Ngọc Hiến Người kiểm tu Tập truyện Thanh niên,
1974
56 Nguyễn Văn
Hiếu
Bạn bè ta khắp năm
châu
Tập ký Văn học, 1963
57 Hải Hồ Mùa xuân Tập truyện Văn học, 1960
Bài ca từ chiến hào Tập truyện Văn học, 1962
Người chiến sĩ trẻ Truyện phim Văn học, 1965
Những người cùng
tuyến
Tiểu thuyết Quân đội nhân
dân, 1973
58 Phạm Hổ Chuyện Võ Lang Tập truyện Văn nghệ, 1955
Vườn xoan Tập truyện Văn học, 1962
59 Lê Vĩnh Hòa Người tị nạn Tập truyện Giải phóng,
1972
60 Tô Hoài Dế mèn phiêu lưu ký Truyện Á Châu, 1941
Giăng thề Tập truyện Á châu, 1941
O chuột Truyện Tân Dân, 1941
Quê người Truyện Á Châu, 1942
Nhà nghèo Tập truyện Tân Dân, 1943
Cỏ dại Truyện Tân Dân, 1944
Núi cứu quốc Tập truyện Văn nghệ, 1948
Ngược sông Thao Phóng sự Cứu quốc,
1949
Xuống làng Tập truyện Văn nghệ, 1951
Chính phủ tạm vay Tập truyện Văn nghệ 1951
Truyện Tây Bắc Tập truyện Văn nghệ, 1953
Cứu đất cứu mường Tập truyện Văn nghệ, 1954
Tào Lường Tập truyện Văn nghệ, 1955
Khác trước Tập truyện Thanh niên,
1957
Mười năm Tiểu thuyết Hội nhà văn,
1958
Thành phố Lê-nin Bút ký Văn học, 1961
Vỡ tỉnh Tập truyện,
ký
Văn học, 1962
Tôi thăm Cam-pu-
chia
Bút ký Văn học, 1964
Con mèo lười Tập truyện Văn học, 1964
Miền Tây Tiểu thuyết Văn học, 1967
Nhật ký vùng cao Tập ký Thanh niên,
1969
Tuổi trẻ Hoàng Văn
Thụ
Tiểu thuyết Thanh niên,
1971
Người ven thành Tập truyện,
ký
Văn học, 1972
61 Nguyễn Công
Hoan
Kiếp hồng nhan Tập truyện Tác giả xuất
bản, 1923
Tay trắng trắng tay Truyện dài Trịnh Văn Binh,
1932
Hai thằng khốn nạn Tập truyện Mai Lĩnh, 1934
Kép Tư Bền Tập truyện Tiểu thuyết thứ
7, 1935
Tắt lửa lòng Truyện Phổ thông bán
nguyệt san,
1936
Cô giáo Minh Truyện Phổ thông bán
nguyệt san,
1936
Tấm lòng vàng Truyện Đời mới, 1937
Tơ vương Truyện 1938
Đào kép mới Tập truyện Phổ thông bán
nguyệt san,
1938
Sóng vũ môn Tập truyện Phổ thông bán
nguyệt san,
1938
Bước đường cùng Truyện Phổ thông bán
nguyệt san,
1938
Người vợ lẽ bạn tôi Tập truyện Phổ thông bán
nguyệt san,
1939
Lá ngọc cành vàng Truyện Phổ thông bán
nguyệt san,
1939
Ông chủ báo Tập truyện Phổ thông bán
nguyệt san,
1940
Trên đường sự
nghiệp
truyện Phổ thông bán
nguyệt san,
1941
Lệ Dung truyện Đời mới, 1943
Thanh đạm Truyện Đời mới, 1943
Nghịch cảnh Truyện Đời mới, 1943
Bơ vơ Truyện Đời mới, 1944
Ông chủ, bà chủ Truyện Đời mới, 1944
Cô làm công Nhật ký Đời mới, 1944
Danh tiết Truyện Thụy ký, 1944
Người An Nam Truyện Đời mới, 1945
Cái thủ lợn Truyện Đời mới, 1945
Nông dân với địa
chủ
Tập truyện Văn nghệ, 1955
Tranh tối tranh sáng Tiểu thuyết Văn nghệ, 1956
Hỗn canh hỗn cư Tiểu thuyết Văn học, 1961
Tôi quyết sống Ký Văn học, 1962
Thăm nhà người
anh em chiến đấu
anh dũng
Bút ký Văn học, 1962
Đống rác cũ (I) Tiểu thuyết Văn học, 1963
Đời viết văn của tôi Hồi ký Văn học, 1971
62 Dân Hồng Quê mới Truyện Quân đội nhân
dân, 1961
Mở luồng Truyện Quân đội nhân
dân, 1968
63 Nguyên Hồng Bỉ vỏ Tiểu thuyết Đời nay, 1938
Bảy Hựu Tập truyện Tân Dân, 1941
Những ngày thơ ấu Tập truyện Đời nay, 1941
Qua những màn tối Truyện Phổ thông bán
nguyệt san,
1942
Cuộc sống Tiểu thuyết Tân Dân, 1942
Quán Nải Tiểu thuyết Tân Dân, 1943
Hơi thở tàn Tiểu thuyết Thời đại, 1943
Hai dòng sữa Tập truyện Hàn Mặc, 1943
Vực thẳm Truyện Hàn Mặc, 1944
Ngọn lửa Truyện Mới, 1944
Miếng bánh Tập truyện Đời nay, 1945
Địa ngục và lò lửa Tập truyện Minh Đức,
1946
Đất nước yêu dấu ký Văn nghệ, 1949
Đêm giải phóng Truyện Văn nghệ, 1951
Giữ thóc Truyện văn nghệ 1955
Sóng gầm Tiểu thuyết Văn học, 1961
Sức sống của ngòi
bút
ký Văn học, 1963
Cơn bão đã đến Tiểu thuyết Văn học, 1968
Bước đường viết
văn của tôi
Hồi ký Văn học, 1970
Thời kỳ đen tối Tiểu thuyết Văn học, 1973
64 Minh Huệ Ngọn cờ Bến Thủy Hồi ký Thanh niên,
1975
65 Trọng Hứa Gợi khổ Tập truyện Văn nghệ. 1954
Quê ta Tập truyện Văn nghệ, 1955
66 Thanh Hương Quán nhỏ Tập truyện Phụ nữ, 1958
Cô Tím Tập truyện Văn học, 1965
67 Nguyễn Khải Xây dựng Truyện Văn nghệ, 1951
Gặp mẹ Truyện Văn nghệ, 1952
Người con gái
quang vinh
Truyện Thanh niên,
1956
Mùa lạc Tập truyện Văn nghệ, 1960
Xung đột (tập I) Truyện Văn học, 1961
Xung đột (tập II) Truyện Văn học, 1962
Một chặng đường Truyện Văn học, 1962
Hãy đi xa hơn nữa Tập truyện Văn học, 1963
Người trở về Tập truyện Văn học, 1964
Họ sống và chiến
đấu
Ký Văn học, 1966
Hòa vang Ký Văn học, 1967
Đường trong mây Tiểu thuyết Văn học, 1970
Ra đảo Tiểu thuyết Quân đội nhân
dân, 1970
Chủ tịch huyện Truyện Văn học, 1972
Chiến sĩ Tiểu thuyết Quân đội nhân
dân, 1973
68 Ma Văn Kháng Xa Phủ Tập truyện Văn học, 1969
Mùa mận hậu Tập truyện Phụ nữ, 1972
Người con trai họ
Hạng
Tập truyện Thanh niên,
1972
Cái móng ngựa Tập truyện Lao động, 1973
Bài ca trăng sáng Tập truyện Văn học, 1974
69 Lê Khánh Những ngày vui Tập truyện Văn học, 1962
Một đêm đi Tập truyện Văn học, 1971
70 Xuân Khánh Rừng sâu Tập truyện Văn học, 1963
71 Lê Khâm Bên kia biên giới Truyện Quân đội nhân
dân, 1958
Trước giờ súng nổ Tiểu thuyết Văn học, 1960
72 Nguyễn Kiên Trong làng Tập truyện Văn học, 1960
Lá rụng Truyện Văn học, 1962
Đồng tháng năm Tập truyện Văn học, 1963
Vụ mùa chưa gặt Tập truyện Văn học, 1965
Chân sóng Truyện Văn học, 1967
Nơi xa Tập truyện Thanh niên,
1969
Ngày và đêm ở hậu
phương
Truyện Văn học, 1970
Chuyến xe ra Tập truyện Văn học, 1972
Vùng quê yên tĩnh Tiểu thuyết Thanh niên,
1974
73 Phạm Kiệt Từ núi rừng Ba Tơ Hồi ký Quân đội nhân
dân, 1964
74 Huyền Kiêu Thung lũng nàng
tiên
Tập truyện Văn học, 1962
75 Lưu Quý Kỷ Miền Nam yêu quý ký Sự thật, 1955
Một phút về Nam Ký Thanh niên,
1973
76 Lê Tri Kỳ Phố vắng Tập truyện Văn học, 1965
Một người không nổi
tiếng
Tập truyện Văn học, 1970
77 Kim Lân Làng Truyện ngắn 1948
Nên vợ nên chồng Truyện Văn nghệ, 1954
Cô gái công trường Truyện phim Thanh niên,
1960
Con chó xấu xí Tập truyện Văn học, 1962
78 Trần Huy Liệu Nghĩa Lộ vượt ngục
– Nghĩa Lộ khởi
nghĩa
Hồi ký Hội văn hóa
cứu quốc, 1946
Mặt trận dân chủ
Đông Dương
Hồi ký Sử học, 1960
Dưới hầm Sơn La Hồi ký Sử học, 1961
Đảng thanh niên Hồi ký Sử học, 1961
79 Hà Khánh Linh Thúy Tiểu thuyết Giải phóng,
1973
80 Văn Linh Mùa hoa dẻ Tiểu thuyết Thanh niên,
1957
Goòng Tiểu thuyết Văn học, 1960
Phim Pha Tập truyện Thanh niên,
1973
Pả Sua Tiểu thuyết Phụ nữ, 1975
81 Nguyễn Thành
Long
Bát cơm Cụ Hồ ký Văn nghệ, 1955
Hương Điền Ký Văn nghệ, 1955
Gió bấc, gió nồm ký Văn nghệ, 1958
Chuyện nhà, chuyện
xưởng
Tập truyện Văn học, 1962
Gang ra Tập truyện Văn học, 1964
Những tiếng vỗ cánh Tập truyện Văn học, 1967
Vuông cỏ Tập truyện Lao động, 1972
Giữa trong xanh Tập truyện Văn học, 1972
82 Minh Lộc Con đường sống Truyện Văn nghệ, 1953
Giữ đất Tập truyện Văn nghệ, 1955
83 Lưu Trọng Lư Huế một buổi chiều Truyện Phổ thông bán
nguyệt san,
1944
Chiến khu Thừa
Thiên
Ký Văn nghệ, 1952
Hòa bình đã trở lại ký Văn nghệ, 1954
Truyện cô Nhụy Truyện Văn học, 1962
84 Lê Lựu Người cầm súng Tập truyện Văn học, 1970
Phía mặt trời Tập truyện Văn học, 1972
85 Hữu Mai Những ngày bão táp Tiểu thuyết Văn nghệ, 1957
Lứa tuổi tòng quân Truyện Văn nghệ, 1958
Cao điểm cuối cùng Tiểu thuyết Văn học, 1961
Đồng đội Tập truyện Quân đội nhân
dân, 1962
Phía trước là mặt
trận
Tập truyện Văn học, 1966
Vùng trời (tập I) Tiểu thuyết Quân đội nhân
dân, 1971
Dưới cờ trung hiếu Tùy bút Thanh niên,
1972
Vùng trời (tập II) Tiểu thuyết Quân đội nhân
dân, 1974
86 Sao Mai Trại di cư Pa Gốt
Hải Phòng
ký Văn nghệ, 1954
Thôn Bầu thắc mắc Tiểu thuyết Văn nghệ, 1957
Tìm đất Ký Văn học, 1966
Ba Vì núi mới Truyện ngắn Văn học, 1968
87 Lê Vũ Mai Con đò Tập truyện Văn học, 1960
Tre xanh Tập truyện Văn học, 1970
88 Lê Minh Mẻ gang đầu Tập truyện,
ký
Văn học, 1965
Ngày mai sắp đến Tập truyện,
ký
Văn học, 1969
89 Trần Hiếu Minh Cửu Long cuộn
sóng
Tập ký Văn học, 1965
Sài Gòn ta đó Tập truyện,
ký
Giải phóng,
1970
Rừng U minh Tiểu thuyết Giải phóng,
1970
90 Thép Mới Trách nhiệm Bút ký Văn nghệ, 1951
Hữu nghị Bút ký Văn nghệ, 1955
Như anh em một
nhà
Bút ký Văn học, 1958
Hiên ngang Cu-Ba Bút ký Văn học, 1962
Điện Biên Phủ, một
danh từ Việt Nam
Bút ký Văn học, 1965
91 Giang Nam Vở kịch cô giáo Tập truyện,
ký
Văn học, 1962
Người giồng tre Tập truyện,
ký
Giải phóng,
1970
92 Trần Mai Nam Dải đất hẹp ký Văn học, 1968
93 Vũ Tú Nam Bên đường 12 Truyện Thép mới, 1950
Sau trận núi Đanh Truyện 1951
Nhân dân tiến lên Truyện 1951
Mất con mất cháu Tập truyện Quân đội nhân
dân, 1955
Mùa đông Tập truyện Quân đội nhân
dân, 1957
Nhật ký của đời
sống
Tập truyện,
ký
Hội nhà văn,
1957
Quê hương Tập truyện Văn học, 1960
Ngày xuân Tập truyện Văn học, 1963
Kể chuyện quê nhà Tập truyện Văn học, 1964
Thử thách thầm lặng Tập truyện Văn học, 1971
94 Lâm Quang
Ngọc
Vùng quê Tập truyện Văn học, 1975
95 Nguyên Ngọc Đất nước đứng lên Tiểu thuyết Văn nghệ, 1955
Mạch nước ngầm Truyện Văn học, 1960
Rẻo cao Tập truyện Văn học, 1961
96 Lữ Huy
Nguyên
Nhật ký đường trong Tập ký Văn học, 1970
97 Trần Nguyên Ngọn lửa Tập truyện Văn học, 1960
98 Bút Ngữ Bên đồng nước úng Tập truyện Văn học, 1960
Đêm về sang Tập truyện Thanh niên,
1974
99 Mai Ngữ Đất nước Tập truyện Văn học, 1963
Bầu trời và dòng
sông
Truyện Văn học, 1967
Hai người du kích cũ Truyện Thanh niên,
1969
Xốc tới Truyện Quân đội nhân
dân, 1971
Dòng sông phía
trước
Tiểu thuyết Quân đội nhân
dân, 1972
Điểm cao Tập truyện Văn học, 1972
100 Đinh Quang
Nhã
Mùa nấm tràm Tập truyện,
ký
Giải phóng,
1970
Đồng tro Tập truyện,
ký
Giải phóng,
1972
Đất trong làng Tiểu thuyết Giải phóng,
1974
101 Hoàng Trung
Nho
Đồng quê hoa nở Truyện Văn nghệ, 1955
102 Trần Đăng
Ninh
Hai lần vượt ngục Hồi ký Cứu quốc,
1949
103 Nguyễn Gia
Nùng
Sao băng Tiểu thuyết Lao động, 1968
104 Nguyễn Khắc
Phê
Vì sự sống con
đường
Tập ký Thanh niên,
1968
105 Mạc Phi Rừng động (tập I) Tiểu thuyết Văn học, 1975
106 Bùi Huy Phồn Khao Truyện Minh Đức,
1946
Phất Tiểu thuyết Văn học, 1961
107 Hồ Phương Thư nhà Truyện ngắn 1948
Cỏ non Tập truyện Văn học, 1960
Xóm mới Tập truyện Văn học, 1963
Trên biển lớn Tập truyện Quân đội nhân
dân, 1964
Chúng tôi ở Cồn Cỏ Ký Quân đội nhân
dân, 1966
Nhằm thẳng quân
thù mà bắn
Truyện, ký Quân đội nhân
dân, 1967
Kan Lịch Truyện Quân đội nhân
dân, 1967
Số phận Lữ dù 3 Sài
Gòn
Phóng sự Quân đội nhân
dân, 1971
Huế trở lại mùa xuân Truyện, ký Quân đội nhân
dân, 1971
Khi có một mặt trời Truyện Quân đội nhân
dân, 1972
Những tầm cao Tiểu thuyết Quân đội nhân
dân, 1974
108 Huy Phương Tầm sáng Tập truyện Văn học, 1963
Những ngôi sao đỏ ký Văn học, 1964
Xi măng Tiểu thuyết Văn học, 1968
Đường chân trời Truyện, ký Thanh niên,
1970
109 Lê phương Con chim đầu đàn Truyện, ký Lao động, 1962
Bất khuất (tập I) Tiểu thuyết Lao động, 1963
Bất khuất (tập II) Tiểu thuyết Lao động, 1964
Người sông Gianh Truyện Lao động, 1965
Pháo đài 4-4 Ghi chép Lao động, 1968
Bè xuôi sông Mã Tiểu thuyết Lao động, 1973
Thung lũng Cô tan Tiểu thuyết Lao động, 1973
Bạch đàn Tiểu thuyết Phụ nữ, 1975
110 Nguyễn Thế
Phương
Đi bước nữa Tiểu thuyết Văn học, 1960
Ở vùng lửa Tập truyện,
ký
Thanh niên,
1971
Nắng Tiểu thuyết Văn học, 1972
111 Viễn Phương Anh hùng mìn gạt Truyện ký Giải phóng,
1968
Tuổi trẻ Thành đồng Truyện Thanh niên,
1968
112 Hà Thị Quế Nữ tự vệ chiến đấu Hồi ký Phụ nữ, 1964
113 Dương Thị
Xuân Quý
Chỗ đứng Tập truyện Văn học, 1968
114 Xuân Sách Cô giáo làng Tập truyện Văn học, 1962
Đêm ra trận Tập truyện,
ký
Văn học, 1970
Ở một cung đường Tiểu thuyết Phụ nữ, 1972
115 Nguyễn Sáng Nguyễn Văn Bé Tập truyện Thanh niên,
1967
Chiếc lược ngà Tập truyện,
ký
Giải phóng,
1968
Bông cẩm thạch Tập truyện,
ký
Giải phóng,
1969
Cái áo thằng hình
rơm
Truyện Giải phóng,
1973
116 Nguyễn Quang
Sáng
Người quê hương Tập truyện Văn học, 1960
Nhật ký người ở lại Truyện Văn học, 1962
Đất lửa (Tập I) Tiểu thuyết Văn học, 1963
Câu chuyện trên
trận địa pháo
Truyện Phụ nữ, 1957
117 Mộng Sơn Giận nhau Truyện Lao động, 1959
Gỡ mối Truyện Văn học, 1962
Một khoảng trời
xanh
Tập truyện Lao động, 1957
118 Nguyễn Anh
Tài
Ngọn lửa gang (2
tập)
Truyện ký Văn học, 1959
119 Nguyễn Tạo Sống để hoạt động Hồi ký Văn học, 1959
Trong ngục tối Hỏa
Lò
Hồi ký Văn học, 1961
Một nhà đại thiện xạ Truyện Văn nghệ, 1951
120 Võ Huy Tâm Vùng mỏ Tiểu thuyết Văn nghệ, 1955
Mỏ thời Tây Truyện ngắn Văn học, 1959
Chiếc cán búa Truyện ngắn Văn học, 1959
Ngõ ngang xóm thợ Truyện Văn học, 1960
Những người thợ
mỏ
Tiểu thuyết Văn học, 1961
Đi lên nào Tiểu thuyết Văn học, 1971
Trăng bão Tập truyện Văn học, 1975
121 Bùi Ngọc Tấn Đêm Tháng Mười Tập truyện Văn học, 1962
122 Chu văn Tấn Một lòng theo Đảng Hồi ký Dân tộc, 1962
Một năm trên biên
giới Việt Trung
Hồi ký Quân đội nhân
dân, 1964
Kỷ niệm cứu quốc
quân
Hồi ký Quân đội nhân
dân, 1971
123 Nguyễn Ngọc
Tấn
Trăng sáng Tập truyện Văn học, 1960
Đôi bạn Tập truyện Văn học, 1962
124 Hoài Thanh Nam Bộ mến yêu Bút ký Văn nghệ, 1955
125 Nguyễn Trung
Thành
Trên quê hương
những anh hùng
Điện Ngọc
Tập truyện,
ký
Giải phóng,
1969
Đất Quảng Tiểu thuyết Giải phóng,
1971
Trận đánh bắt đầu
từ hôm nay
Tập truyện,
ký
Văn học, 1975
126 Trần Kim
Thành
Hạnh phúc Tập truyện Văn học, 1962
Phía trước Tập truyện Văn học, 1964
Đường phía trước Tập truyện Văn học, 1967
Trên mặt sóng Tập truyện Văn học, 1971
Cánh rừng phía Tây Tập truyện Văn học, 1974
127 Nguyễn Thị
Cẩm Thạnh
Những người bạn
gái
Tập truyện Văn học, 1964
Làng Cát Tập truyện Văn học, 1968
128 Lê Văn Thảo Ngoài mặt trận Tập truyện,
ký
Giải phóng,
1969
Từ thế cao Tập truyện,
ký
Giải phóng,
1970
Đêm Tháp Mười Tập truyện,
ký
Giải phóng,
1972
129 Phù Thăng Trận địa mới Tiểu thuyết Quân đội nhân
dân, 1961
Phá vây Tiểu thuyết Quân đội nhân
dân, 1963
130 Nguyễn Quang
Thân
Hương đất Tập truyện,
ký
Thanh niên,
1964
Cô gái Triều Dương Truyện Thanh niên,
1967
Nước về Tập truyện,
ký
Lao động, 1968
Ba người bạn Tập truyện,
ký
Thanh niên,
1971
131 Nguyễn Thi Người mẹ cầm súng Truyện, ký Quân đội nhân
dân, 1966
Truyện và ký Giải phóng,
1969
132 Nguyễn Đình
Thi
Vĩnh Linh tường
thuật
ký Tổng cục chính
trị, 1951
Xung kích Truyện Văn nghệ, 1951
Thu đông năm nay ký Văn nghệ, 1954
Bên bờ sông Lô Tập truyện Hội nhà văn,
1957
Con nai đen Kịch bản Văn học, 1962
Vỡ bờ (tập I) Tiểu thuyết Văn học, 1962
Vào lửa Tiểu thuyết Văn học, 1966
Mặt trận trên cao Tiểu thuyết Văn học, 1967
Vỡ bờ (tập II) Tiểu thuyết Văn học, 1970
133 Chu Thiên Nhà Nho Tiểu thuyết Á châu, 1941
Bút nghiên Tiểu thuyết Á châu, 1942
Bóng nước Hồ
Gươm (2 tập)
Tiểu thuyết Văn học, 1970
134 Xuân Thiều Đôi vai Tập truyện Văn học, 1961
Chiến đấu trên mặt
đường
Ký sự Thanh niên,
1968
Trời xanh Tập truyện Văn học, 1969
Mặt trận kêu gọi Truyện Quân đội nhân
dân, 1969
Đi xa Bút ký Thanh niên,
1973
Thôn ven đường Tiểu thuyết Thanh niên,
1974
135 Xuân thu Ông lão chăn bò
trên núi Thắm
Truyện Văn học, 1957
136 Thủy thủ Đất quê hương Truyện Văn học, 1965
Pháo đài trong vườn
dừa
Truyện ký Giải phóng,
1971
137 Bích Thuận Lòng mẹ Truyện Phụ nữ, 1955
Mùa dưa hấu Tập truyện Văn học, 1971
Từ một mái nhà Truyện Phụ nữ, 1973
138 Nguyễn Đức
Thuận
Bất khuất Hồi ký Thanh niên,
1967
139 Đỗ Đức Thuật Vẫn một con người Tập truyện Văn học, 1961
140 Trần Hữu
Thung
Vinh rực lửa Tập ký Văn học, 1969
141 Nguyễn Khắc Trận Thanh Hương Truyện Văn nghệ, 1951
Thứ
Phá kho bom Tân
Sơn Nhất
Truyện Thanh niên,
1954
Đất chuyển Tiểu thuyết Văn nghệ, 1955
Bản án tử hình Truyện Thanh niên,
1958
142 Vũ Thị Thường Cái hom giỏ Truyện ngắn Văn học, 1959
Gánh vác Tập truyện Văn học, 1963
Hai chị em Tập truyện Văn học, 1965
Bông hoa súng Tập truyện Văn học, 1967
Vợ chồng ông lão
chăn vịt
Tập truyện Văn học, 1973
143 Trần Dân Tiến Những mẩu chuyện
về đời hoạt động
của Hồ Chủ Tịch
Ký 1948
144 Đỗ Quang Tiến Biến đổi ở thôn Đèo
Hoa
Truyện Văn nghệ, 1955
Ngoại ô Tập truyện Thanh niên,
1960
Đêm pháo hoa Truyện Lao động, 1960
Làng Tề Tiểu thuyết Văn học, 1962
Phía sau quầy hàng Phóng sự Văn học, 1964
Ánh lửa Truyện Văn học, 1967
Vùng cao Truyện ký Văn học, 1970
145 Hoàng Tiến Sương tan Tập truyện Văn học, 1963
146 Thanh Tịnh Quê mẹ Tập truyện Đời nay, 1941
Chị và em Tập truyện Thời đại, 1942
Ngậm ngải tìm trầm Tập truyện Thời đại, 1943
Xuân và Sinh Tập truyện Thời đại, 1944
Những giọt nước
biển
Tập truyện Văn nghệ, 1958
147 Nguyễn Thị
Như Trang
Màu tím hoa mua Tập truyện Văn học, 1969
Ở thành phố bờ biển Tập truyện Văn học, 1972
148 Trần Kim Trắc Cái lu Truyện ngắn Văn nghệ, 1956
149 Xuân Trinh Từ một làng ở Vĩnh
Linh
Tập truyện Văn học, 1970
150 Nguyễn Chí
Trung
Bức thư làng Mực Tập truyện,
ký
Giải phóng,
1969
151 Nguyễn Thị
Ngọc Tú
Huệ Truyện Văn học, 1964
Người hậu phương Tập truyện Giải phóng,
1969
Đất làng Tiểu thuyết Văn học, 1974
152 Hà Minh Tuân Trong lòng Hà Nội Truyện Quân đội nhân
dân, 1957
Hai trận tuyến Tiểu thuyết Văn học, 1969
Vào đời Tiểu thuyết Văn học, 1963
153 Nguyễn Tuân Vang bóng một thời Tập truyện Tân Dân, 1940
Ngọn đèn dầu lạc Tiểu thuyết 1941
Chiếc lư đồng mắt
cua
Tùy bút 1941
Một chuyến đi Tùy bút Tân Dân, 1941
Tùy bút (I) Tùy bút Cộng lực, 1941
Tóc chị Hoài Tùy bút Cộng lực, 1943
Tùy bút (II) Tùy bút Lượm lúa vàng,
1943
Thiếu quê hương Tùy bút Anh Hoa, 1943
Nguyễn Tùy bút Thời đại, 1945
Chùa Đàn Truyện 1946
Đường vui Tùy bút Văn nghệ, 1949
Tình chiến dịch Tùy bút Văn nghệ, 1950
Thắng càn Truyện Văn nghệ, 1954
Tùy bút kháng chiến Tùy bút Văn nghệ, 1955
Tùy bút kháng chiến
và hòa bình
Tùy bút Văn nghệ, 1956
Bút ký thăm Trung
Hoa
Tùy bút Văn nghệ, 1955
Sông Đà Tùy bút Văn học, 1960
Hà Nội ta đánh Mỹ
giỏi
Tùy bút Hội văn nghệ
Hà Nội, 1972
154 Phạm Hữu
Tùng
Lòng dân Truyện Văn nghệ, 1951
Ngẩng lên Truyện Phổ thông,
1957
155 Phan Văn
Tùng
Lớn lên với Điện
Biên
Hồi ký Quân đội nhân
dân, 1964
156 Phan Tứ Về làng Tập truyện Văn học, 1964
Gia đình má Bảy Tiểu thuyết Giải phóng,
1968
Mẫn và tôi Tiểu thuyết Giải phóng,
1973
Trại ST-18 Truyện Giải phóng,
1974
157 Nguyễn Huy
Tưởng
Đêm hội Long Trì Truyện 1944
Vũ Như Tô Kịch Viết 1943, Hoa
Lư, 1946
Bắc Sơn Kịch 1946
Những người ở lại Kịch Văn nghệ, 1948
Anh Sơ đầu quân Tập kịch Văn nghệ, 1949
Ký sự Cao Lạng Ký Văn nghệ, 1951
Gốc đa Truyện Văn nghệ, 1954
Gặp Bác Ký Văn nghệ, 1955
Truyện anh Lục Tiểu thuyết Văn nghệ, 1955
Một ngày chủ nhật Ký Văn nghệ, 1957
Bốn năm sau Truyện Văn học, 1959
Sống mãi với thủ đô Tiểu thuyết Văn học, 1960
Lũy hoa Truyện phim Văn học, 1960
Truyện viết cho thiếu
nhi
Tập truyện Văn học, 1966
158 Chu Văn Con đường lầy Truyện ngắn Văn học, 1959
Cô lái đò sông Ninh Tập truyện Văn học, 1960
Tiếng hát trên sông Tập truyện Văn học, 1963
Ánh sáng bên hàng
xóm
Tập truyện Văn học, 1964
Bão biển (2 tập) Tiểu thuyết Văn học, 1969
Hương cau – Hoa
lim
Tập truyện Văn học, 1971
Đất mặn (2 tập) Tiểu thuyết Thanh niên,
1975
159 Trần Đình Vân Sống như Anh ký Văn học, 1965
160 Chế Lan Viên Thăm Trung Quốc Bút ký Văn học, 1963
Những ngày nổi giận Bút ký Văn học, 1966
161 Nguyễn Khắc
Viện
Pa-ri Hà Nội Ký Văn học, 1964
162 Đào Vũ Cái sân gạch Tiểu thuyết Văn học, 1959
Vụ lúa chiêm Tiểu thuyết Văn học, 1960
Người cửa sông Truyện Văn học, 1966
Con đường mòn ấy Tiểu thuyết Thanh niên,
1971
Lưu lạc Tiểu thuyết Phụ nữ, 1973
Dải lụa Tiểu thuyết Phụ nữ, 1973
Hoa lửa Tiểu thuyết Phụ nữ, 1973
163 Tô Nhuận Vỹ Người sông Hương Tập truyện Giải phóng,
1970
Làng thức Truyện Giải phóng
1973
Dòng sông phẳng
lặng
Tiểu thuyết Thanh niên,
1974
MỤC LỤCLời nói đầu
Phần Một. MỘT SỐ NHÀ VĂN CÓ SÁNG TÁC TỪ TRƯỚC CÁCH MẠNG
- Nguyễn Công Hoan sau Cách mạng (Lê Thị Đức Hạnh)
- Nguyên Hồng và quá trình sáng tác của anh (Chu Nga)
- Nguyễn Tuân trong tùy bút (Phong Lê)
- Cách mạng tháng Tám và Nam Cao (Phong Lê)
- Sáng tác của Tô Hoài (Vân Thanh)
- Nguyễn Huy Tưởng qua hai chế độ (Phong Lê)
- Những chặng đường sáng tác của Bùi Hiển (Chu Nga)
Phần Hai. NHỮNG CÂY BÚT TRƯỞNG THÀNH TỪ KHÁNG CHIẾN CHỐNC PHÁP
- Truyện và ký của Nguyễn Đình Thi (Chu Nga)
- Trần Đăng và buổi đầu của nền văn học mới (Phong Lê)
- Thép Mới từ những bút ký đầu tay đến “Điện Biên Phủ, một danh từ
Việt Nam” (Lê Thị Đức Hạnh)
- Nguyễn Văn Bổng với “Con trâu” (Lê Thị Đức Hạnh)
- Võ Huy Tâm và “Vùng mỏ” (Đặng Quốc Nhật)
Phần Ba. LỰC LƯỢNG SÁNG TÁC MỚI TRONG XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI VÀ ĐẤU TRANH THỐNG NHẤT NƯỚC NHÀ
- Bước đường Nguyên Ngọc (Phong Lê)
- Đặc điểm sáng tác Nguyễn Khải (Chu Nga)
– Hồ Phương và cuộc sống mới (Phong Lê)
- Người bộ đội trong tác phẩm Hữu Mai (Vân Thanh)
- Chu Văn, một vùng nông thôn (Tất Thắng)
- Truyện ngắn Vũ Thị Thường (Lê Thị Đức Hạnh)
- Nguyễn Địch Dũng và bức tranh ấm áp của nông thôn trong quan hệ
sản xuất mới (Phong Lê)
- Truyện ngắn của Nguyễn Ngọc Tấn (Vũ Đức Phúc)
- Đóng góp của Nguyễn Minh Châu (Tôn Phương Lan)
Phần Bốn. ĐỘI NGŨ VĂN XUÔI GIẢI PHÓNG
- Đặc sắc Nguyễn Thi (Phong Lê)
- Nguyễn Trung Thành và những trang về miền Nam đất lửa (Phong Lê)
- Ngòi bút chân thật Trần Hiếu Minh (Tất Thắng)
- Anh Đức với bút ký, tiểu thuyết và truyện ngắn của anh (Chu Nga)
- Phan Tứ, từ “về làng” đến “Mẫn và tôi” (Lê Thị Đức Hạnh)
- Truyện ngắn Nguyễn Sáng (Vân Thanh)
Phụ lục
BẢNG KÊ TÁC GIẢ VĂN XUÔI HIỆN ĐẠI
(Phong Lê - Đặng Quốc Nhật)
---//---
ỦY BAN KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
VIỆN VĂN HỌC
TÁC GIA VĂN XUÔI VIỆT NAM HIỆN ĐẠI
(TỪ SAU 1945)
NHÀ XUẤT BẢN KHOA HỌC XÃ HỘI
HÀ NỘI – 1977
Biên tập: TRẦN ĐÌNH VIỆT
Chữa bản in: HOÀNG NGUYỄN
Trình bày bìa: HOÀNG TRƯỜNG
In 15.300 cuốn, khổ 13 X 18,8 cm. Nhà máy in Tiến Bộ, Hà Nội. Số in 1475.
Số xuất bản: 01-KHXH-77. In xong 15-2-1977. Lưu chiểu tháng 2-1977.