356
TÂM LÝ HỌC GIỚI TÍNH VÀ GIÁO DỤC GIỚI TÍNH TÂM LÝ HỌC GIỚI TÍNH VÀ GIÁO DỤC GIỚI TÍNH Tác giả: PGS. TS. Bùi Ngọc Oánh LỜI NÓI ĐẦU Tâm lí học giới tính và Giáo dục giới tính là những ngành khoa học mới, đang được tập trung nghiên cứu ở nước ta trong khoảng vài chục năm gần đây. Mắc dù là một lĩnh vực mới nhưng do tầm quan trọng của nó, Tâm lí học giới tính và Giáo dục giới tính đã thu hút được sự quan tâm của xã hội. Hiện nay, các vấn đề giới tính đã được nghiên cứu và giảng dạy ở nhiều trường học, nhiều địa phương. Tuy nhiên, quan niệm về vấn đề này còn nhiều khác biệt giữa các nhà khoa học, các nhà giáo dục. Đặc biệt, một số khái niệm như giới, giới tính, tính dục, tình dục, giáo dục giới tính, giáo dục sức khoẻ sinh sản… cũng chưa phải đã có sự thống nhất giữa các nhà nghiên cứu. Tập sách này bước đầu mạnh dạn xác định cụ thể hơn một số khái niệm, một số vấn đề trong lĩnh vực giới tính. Những vấn đề lí luận, thực tiễn được trình bày theo hướng hệ thống hoá lí luận cơ bản của khoa học giới tính, và mối tương quan giữa chúng với những chuyên ngành khoa học có liên quan.

TÂM LÝ HỌC GIỚI TÍNH VÀ GIÁO DỤC GIỚI TÍNHsaomaidata.org/library/90...  · Web viewtÂm lÝ hỌc giỚi tÍnh vÀ giÁo dỤc giỚi tÍnh. tÂm lÝ hỌc giỚi tÍnh

Embed Size (px)

Citation preview

Page 1: TÂM LÝ HỌC GIỚI TÍNH VÀ GIÁO DỤC GIỚI TÍNHsaomaidata.org/library/90...  · Web viewtÂm lÝ hỌc giỚi tÍnh vÀ giÁo dỤc giỚi tÍnh. tÂm lÝ hỌc giỚi tÍnh

TÂM LÝ HỌC GIỚI TÍNH VÀ GIÁO DỤC GIỚI TÍNHTÂM LÝ HỌC GIỚI TÍNH VÀ GIÁO DỤC GIỚI TÍNH

Tác giả: PGS. TS. Bùi Ngọc Oánh

LỜI NÓI ĐẦU

Tâm lí học giới tính và Giáo dục giới tính là những ngành khoa học mới,

đang được tập trung nghiên cứu ở nước ta trong khoảng vài chục năm gần

đây. Mắc dù là một lĩnh vực mới nhưng do tầm quan trọng của nó, Tâm lí học

giới tính và Giáo dục giới tính đã thu hút được sự quan tâm của xã hội. Hiện

nay, các vấn đề giới tính đã được nghiên cứu và giảng dạy ở nhiều trường

học, nhiều địa phương. Tuy nhiên, quan niệm về vấn đề này còn nhiều khác

biệt giữa các nhà khoa học, các nhà giáo dục. Đặc biệt, một số khái niệm như

giới, giới tính, tính dục, tình dục, giáo dục giới tính, giáo dục sức khoẻ sinh

sản… cũng chưa phải đã có sự thống nhất giữa các nhà nghiên cứu.

Tập sách này bước đầu mạnh dạn xác định cụ thể hơn một số khái

niệm, một số vấn đề trong lĩnh vực giới tính. Những vấn đề lí luận, thực tiễn

được trình bày theo hướng hệ thống hoá lí luận cơ bản của khoa học giới

tính, và mối tương quan giữa chúng với những chuyên ngành khoa học có

liên quan.

Do đặc điểm xã hội, các vấn đề giới tính ở Việt Nam chịu sự chi phối

bởi phong tục tập quán, đạo đức truyền thống của dân tộc. Có một số vấn đề

(tình yêu, tình dục, hôn nhân…) được hiểu, đánh giá không thống nhất với

quan điểm ở một số nước khác. Những vấn đề đó được chúng tôi trình bày

chủ yếu dựa trên những quan điểm đạo đức truyền thống của Việt Nam. Tuy

nhiên, về cơ bản, các khái niệm và lí luận vẫn đảm bảo tính khoa học, tuân

theo những quy định của Liên Hợp quốc và những hội nghị quốc tế liên quan

đã xác định.

Page 2: TÂM LÝ HỌC GIỚI TÍNH VÀ GIÁO DỤC GIỚI TÍNHsaomaidata.org/library/90...  · Web viewtÂm lÝ hỌc giỚi tÍnh vÀ giÁo dỤc giỚi tÍnh. tÂm lÝ hỌc giỚi tÍnh

Do tính phức tạp của các vấn đề, chắc chắn rằng, tập sách này còn

nhiều hạn chế. Chúng tôi rất mong được sự quan tâm, góp ý của bạn đọc và

các nhà chuyên môn để sách được hoàn thiện hơn.

Xin trân trọng cảm ơn!

TÁC GIẢ

Phần 1: TÂM LÍ HỌC GIỚI TÍNH VÀ GIÁO DỤC GIỚI TÍNH

Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ GIỚI TÍNH VÀ TÂM LÍ HỌC GIỚI TÍNH

I. ĐỜI SỐNG GIỚI TÍNH Ở CON NGƯỜI1. Một số hiện tượng của đời sống giới tính

Trong đời sống tâm sinh lí của con người, ngoài những hiện tượng

thuộc về nhận thức, tình cảm, ý chí… còn có nhiều hiện tượng khác như sự

hình thành và phát triển sinh lí cơ thể, hiện tượng thụ thai, kinh nguyệt, sự

dậy thì và những biểu hiện đặc trưng của chúng, tình yêu, hôn nhân, đời sống

gia đình… Những hiện tượng này vừa liên quan mật thiết với tâm lí, lại vừa

mang những sắc thái riêng của người nam và của người nữ. Nhiều hiện

tượng chỉ có ở nam hoặc ở nữ, nhưng lại tạo nên sự liên hệ giữa nữ nam và

người nữ.

– Chúng ta có thể thấy một số hiện tướng điển hình như:

+ Sự sinh trưởng và phát triển về sinh lí cơ thể ở người nam và người

nữ.

+ Sự dậy thì và những biểu hiện đặc trưng của nó ở nam và ở nữ (sự

phát triển khác nhau về hình thể, kinh nguyệt, sự mộng tinh và hiện tượng thủ

dâm…).

+ Đời sống tình dục.

Page 3: TÂM LÝ HỌC GIỚI TÍNH VÀ GIÁO DỤC GIỚI TÍNHsaomaidata.org/library/90...  · Web viewtÂm lÝ hỌc giỚi tÍnh vÀ giÁo dỤc giỚi tÍnh. tÂm lÝ hỌc giỚi tÍnh

+ Những hiện tượng bệnh lí liên quan đến đời sống tình dục, trong đổ

có những bệnh như: bạo dâm, thị dâm, loạn trang, ái nhi…

+ Một số hiện tượng đặc biệt: ái nam ái nữ, pê đê hay đồng tính luyến

ái…

+ Các phẩm chất tâm lí giới tính, đạo đức giới tính, thấm mĩ giới tính.

+ Sự giao tiếp, cư xử giữa nam và nữ.

+ Những hiện tượng trong tình bạn khác giới; tình yêu nam nữ.

+ Những hiện tượng trong đời sống hôn nhân và gia đình.

– Những hiện tượng trên được gọi là những hiện tượng của đời sống

giới tính của con người.

2. Bản chất tâm lí của các hiện tượng giới tính

Các hiện tượng của đời sống giới tính có mối quan hệ với đời sống tâm

lí con người ở những mức độ khác nhau:

– Có mối quan hệ mật thiết hoặc ảnh hưởng mạnh mẽ tới tâm lí con

người, hay ngược lại, chịu sự chi phối, tác động của tâm lí con người.

– Có sự tham gia của tâm lí con người như là một thành phần, một bộ

phận.

Biểu hiện đời sống tâm lí con người.

Như vậy các hiện tượng của đời sống giới tính gắn bó mật thiết với đời

sống tâm lí con người. Nhiều khi chúng là một bộ phận, hoặc chính là các

hiện tượng tâm lí con người. Khi nghiên cứu về các hiện tượng của đời sống

giới tính cần phải nghiên cứu dưới góc độ của tâm lí con người. Việc tách

chúng với tâm lí con người sẽ là sự phiến diện, không đầy đủ, hoặc là đơn

giản hoá... sẽ không phản ánh được đúng bản chất của hiện tượng đổ.

Những hiện tượng của đời sống giới tính có bản chất là tâm lí con người hoặc

quan hệ mật thiết với tâm lí con người và đo đó chúng mang tính xã hội, lịch

sử như tâm lí con người.

Page 4: TÂM LÝ HỌC GIỚI TÍNH VÀ GIÁO DỤC GIỚI TÍNHsaomaidata.org/library/90...  · Web viewtÂm lÝ hỌc giỚi tÍnh vÀ giÁo dỤc giỚi tÍnh. tÂm lÝ hỌc giỚi tÍnh

3. Giới tính và nhân cách con người

Các hiện tượng của.đời sống giới tính có quan hệ mật thiết với nhân

cách con người.

– Các hiện tượng của đời sống giới tính có thể ảnh hưởng mạnh mẽ

đến những đặc điểm nhân cách, ảnh hưởng đến sự hình thành và phát triển

nhân cách.

– Nhiều hiện tượng của đời sống giới tính, đồng thời cũng là những đặc

điểm nhân cách, đặc điểm cá tính, đặc điểm khí chất.

– Nhiều đặc điểm giới tính hoà nhập vào nhân cách con người, làm cho

nhân cách con người mang những sắc thái riêng.

– Khi nghiên cứu về giới tính cần phải xem xét chúng trong mối quan

hệ với nhân cách con người, ngược lại khi tiến hiểu và đánh giá nhân cách,

luôn luôn phải chú ý tới những hiện tượng về đời sống giới tính.

– Nhiều hiện tượng của đời sống giới tính ảnh hưởng mạnh mẽ đến sự

hình thành, phát triển, suy đồi, sa ngã… của nhân cách.

Như vậy giới tính có mối quan hệ mật thiết với nhân cách, là một thành

phân của nhân cách, hoặc ảnh hưởng mạnh mẽ đến sự hình thành và phát

triển của nhân cách.

II. SƠ LƯỢC LỊCH SỬ NGHIÊN CỨU VẤN ĐỀ GIỚI TÍNHNgay từ thời Cổ đại, giới tính đã được quan tâm tìm hiểu, tuy rằng rất

thô sơ và mang màu sắc cảm tính, mê tín. Từ thời kì xa xưa của văn minh

loài người, giới tính đã được đề cập đến bằng một hệ thống thần thoại cổ đại

và các khảo luận về tình yêu nhu kinh “Kama Sutra” của Ấn Độ, “Nghệ thuật

yêu” của Ovidius, “Chuỗi ngọc của người yêu” của Hazma, “Phaedr” và “Bữa

tiệc” của Platon… Trong đó các tác giả “không những đặt cơ sở các chuẩn

mực về đạo đức và tôn giáo cho tình yêu, mà còn cố gắng cung cấp những

kiến thức về sinh học và tâm lý học tình dục”.

Page 5: TÂM LÝ HỌC GIỚI TÍNH VÀ GIÁO DỤC GIỚI TÍNHsaomaidata.org/library/90...  · Web viewtÂm lÝ hỌc giỚi tÍnh vÀ giÁo dỤc giỚi tÍnh. tÂm lÝ hỌc giỚi tÍnh

Các thầy thuốc thời cổ đại như Hipocrates cũng hết sức chú ý tới

những vấn đề có liên quan đến chức năng tái tạo giống nòi và những rối loạn

của chức năng đó, đặc biệt là đời sống tình dục của con người.

Khi nhân loại bước vào thời kì “đêm trường trung cổ”, tôn giáo và nhà

nước phong kiến đã lợi dụng sự ngu tối thất học của nhân dân, khẳng định sự

không bình đẳng giữa nam và nữ trong xã hội và trong gia đình, cũng như

trong lĩnh vực quan hệ tình dục. Họ đã gieo rắc những quan niệm cho rằng

quan hệ nam nữ có tính chất tội lỗi nhằm tuyên truyền chủ nghĩa cấm dục, và

khép sự ham muốn tính dục vào loại đê tiện, tượng trưng cho một diều xấu xa

mà quỷ xa-tăng đã áp đặt cho loài người. Nhưng thực ra, việc tìm hiểu các

vấn đề về tính dục vẫn được quan tâm, được tiến hành, chỉ để phục vụ cho

sự ăn chơi sa đoạ của các tầng lớp vua quan phong kiến.

Công tác nghiên cứu khách quan các vấn đề về giới tính, tính dục chỉ

thật sự được tiến hành ở thời kì Phục hưng, khi bộ môn Giải phẫu và Sinh

học bắt đầu phát triển. Trong thời kì này, những khía cạnh của tính dục, nhất

là xét về phương diện đạo đức và giáo dục, được người ta nghiên cứu tới.

Vào cuối thế kỉ XVIII, đầu thế kỉ XIX, các đề tài nghiên cứu về giới tính

được mở rộng hơn… Cho đến cuối thế kỉ XIX, đầu thế kỉ XX, các nhà khoa

học J. Bachocen (Thuy sĩ), J. Mặc Len nan (Anh), E. Westennach (Phần Lan),

Ch. Letoumeau và A. Espinas (Pháp), Lewis Herưy Morgan (M), X.M.

Kovalevxki (Nga)… không những đã gắn sự phát triển quan hệ tính đục với

các dạng hôn nhân và gia đình, mà còn gắn cả với yếu tố khác của chế độ xã

hội và văn hoá.

Đặc biệt, F. Enggels đã đưa ra một quan điểm mới về phương pháp

phân tích các dạng liên kết những mối quan hệ tính dục với quan hệ kinh tế

và quan hệ xã hội. Trong cuốn “Nguồn gốc của gia đình, của quyền tư hữu là

của Nhà nước”, F. Enggels đã phân tích một cách có phê phán “các công

trình nghiên cứu về giới tính và đời sống gia đình theo những nguồn thư tịch

về thời cổ đại, qua những huyền thoại lịch sử và tôn giáo, qua những hiểu biết

về tập tục và truyền thống của các bộ lạc, dân tộc. Ông đã bổ sung thêm

Page 6: TÂM LÝ HỌC GIỚI TÍNH VÀ GIÁO DỤC GIỚI TÍNHsaomaidata.org/library/90...  · Web viewtÂm lÝ hỌc giỚi tÍnh vÀ giÁo dỤc giỚi tÍnh. tÂm lÝ hỌc giỚi tÍnh

nhiều dẫn liệu mới và đã ra những kiến thức rất xác thực và khác quát hoá

thành một hệ thống nhất quán”.

Cuối thế kỉ XIX, nhiều nhà khoa học: R. Kraft Ebing (Ao), M. Hirschfeld

và A.. Môn (Đức), H. Ellis (Anh), A. Forel (Thuy Sĩ… đã bắt đầu tiến hành

công tác nghiên cứu khách quan về tính đục của con người. Họ đã miêu tả

hàng loạt dạng bất thường trong tâm lí tính dục và tán thành việc xúc tiến

công tác giáo dục tính dục một cách khoa học.

Đầu thế kỉ XX, xuất hiện một số quan điểm sinh học về vấn đề giới tính,

và trong chừng mực nào đó, lại có sự tham gia thêm của các quan điểm tâm lí

học. Giai đoạn này chịu ảnh hưởng sâu sắc của thuyết Sigmund Freud. S.

Freud đã tập trung chú ý vào mối quan hệ giữa các vấn đề tâm lí nhân cách

với các dạng tình dục khác nhau. Ông cho rằng, bất kì dạng tình dục bất

thuờng nào cũng đều là sự định hình những giai đoạn phát triển nhất định của

tâm lí tính dục của con người. Tuy nhiên ông quá đề cao yếu tố sinh học; yếu

tố tính dục trong đời sống con người.

Trong những năm 20 – 30 của thế kỉ XX, việc nghiên cứu tính dục phát

triển mạnh và gắn với phong trào gọi là “Phấn đấu vì những cải cách tính

dục”, đòi hỏi bình đẳng nam nữ, giải phóng hôn nhân khỏi quyền lực nhà thờ,

tự do li hôn và sử dụng các biện pháp phòng tránh thai, giáo dục tính dục trên

cơ sở khoa học… Tuy nhiên, những lí luận trong thời kì này còn nặng tính tư

biện, tách rời khỏi cơ sở xã hội và thực tiễn.

Năm 1926, T.Van de Velde (Hà Lan), đã cho ra đời cuốn “Hôn nhân

hiện đại”, cuốn sách khoa học hiện đại đầu tiên về sinh lí học và kĩ thuật trong

hôn nhân, trong đó người phụ nữ được coi là người bạn đời có vai trò và

chức năng tính đục tương đương với người chồng.

Các công trình nghiên cứu tiến hành tại những nước khác nhau đế

chứng minh rằng, việc định hướng tâm lí tính dục và hành vi của con người

phụ thuộc vào những đặc điểm về văn hoá và vai trò, địa vị xã hội của họ.

Page 7: TÂM LÝ HỌC GIỚI TÍNH VÀ GIÁO DỤC GIỚI TÍNHsaomaidata.org/library/90...  · Web viewtÂm lÝ hỌc giỚi tÍnh vÀ giÁo dỤc giỚi tÍnh. tÂm lÝ hỌc giỚi tÍnh

Năm 1921, tại Mĩ một Ủy ban liên ngành được thành lập để nghiên cứu

các vấn đề tình dục. Uỷ ban này đã hỗ trợ cho H. Kingsey cùng các cộng sự

của ông nghiên cứu một cách khá toàn diện và khoa học trên quy mông về

các định hướng tâm lí tính dục và hành vi của con người. “Bản phúc trình của

Kingsey” đã được biên soạn dựa trên những liệu phong phú của trên 10 ngàn

cuộc điều tra khoa học khoá nhau, đã được nhiều người biết đến.

Nối tiếp công trình của H. Kingsey là công tính của W. Masters và V

Johnson, vào năm 1954. Các tác giả này đã tập trung vào việc phát hiện các

chuẩn mực trong tính dục. Công trình này đã được công bố năm 1966 (sau

11 năm nghiên cứu), đã cung cấp những tham số sinh lí dáng tin cậy về đời

sống tính dục của con người.

Ở Nga, những công trình nghiên cứu từ năm 1903 đến 1904 của D.N.

Zabanov và V.I. Iakovenko mang tên “Cuộc điều tra tính dục” đã được tiến

hành trong sự cấm đoán của Nga Hoàng. Trên 6000 bản điều tra được phát

ra, nhưng đa số bị cảnh sát tịch thu, chỉ còn 324 bản và công trình nghiên cứu

được công bố năm 1922.

Nhiều nhà bác học lớn đã nghiên cứu các khía cạnh của đời sống tính

dục, góp phần xây dựng tính dục học thành một bộ phận khoa học độc lập

theo một quan điểm chủ đạo có hệ thống, trong đó liên kết nhiều phương

pháp và thủ pháp sinh lí, lâm sàng và tâm lí xã hội. Các vấn đề về giới tính đã

thu hút sự nghiên cứu của nhiều chuyên gia thuộc nhiều lĩnh vực khác nhau

như: sinh học, y học, xã hội học, tâm lí học…

Nhiều nhà lãnh đạo hoạt động xã hội, hoạt động chính trị nổi tiếng của

Liên Xô (V.I. Lê nin, Marxim Gorki, Maiacovxki, Secnưsevxki; đặc biệt là A.X.

Makarenko và V.A. Sukhomlinxki) đưa ra nhiều quan điểm khoa học về đời

sống giới tính, tình yêu hôn nhân gia đình… đã quan tâm đến việc giáo dục

giới tính cho con người và coi đó là một nội dung quan trọng cần phải giáo

dục cho học sinh.

Page 8: TÂM LÝ HỌC GIỚI TÍNH VÀ GIÁO DỤC GIỚI TÍNHsaomaidata.org/library/90...  · Web viewtÂm lÝ hỌc giỚi tÍnh vÀ giÁo dỤc giỚi tÍnh. tÂm lÝ hỌc giỚi tÍnh

Ngay từ những năm 20 của thế là XX, V.I. Lê nin đã nói: “Cùng với việc

xây dựng chủ nghĩa xã hội vấn đề quan hệ giới tính, vấn đề hôn nhân gia đình

cũng được coi là cấp bách”.

Các nhà khoa học, đặc biệt là các nhà khoa học về y học giáo dục học,

tâm lí học, sinh lí học đã cố gắng xây dựng nền móng vững chắc cho nền

khoa học giới tính và giáo dục giới tính theo quan điểm Mác–xít. Họ đã đưa ra

nhiều phương hướng quan trọng trong việc giáo dục giới tính của Liên Xô.

A.X. Makarenko viết: “Đạo đức xã hội đặt ra những vấn đề về giáo dục giới

tính cho thanh thiếu niên. Sinh hoạt giới tính của con người liên quan mật

thiết với việc giáo dục về tình yêu, về đời sống gia đình tức là mối quan hệ gia

nam và nữ, mối quan hệ dẫn tới mục đích hạnh phúc của con người và việc

giáo dục con cái. Khi giáo dục một con người không thể quên giáo dục loại

tình cảm đặc biệt đó về giới tính”. Ông đã đưa ra nhiều ý kiến rất cụ thể về nội

dung phương pháp giáo dục giới tính. Ông nói: “Các nhà giáo dục học Xô viết

coi giáo dục giới tính và giáo dục về đời sống gia đình là một nội dung của

giáo dục đạo đức chuẩn bị cho con người bước vào đời sống gia đình”.

I.X. Kon khẳng định: “Chuẩn bị cho nam nữ thanh niên bước vào cuộc

sống gia đình đòi hỏi phải hoàn thiện hệ thống giáo dục đạo đức và giáo dục

giới tính” và “dù xác định mối tương quan giữa giáo dục giới tính là giáo

dưỡng giới tính như thế nào đi chăng nữa, thì cả hai thứ đều phải tuân theo

các mục đích chung của giáo dục”.

A.X. Makarenko cho rằng, thanh niên cần “phải học tập cách yêu

đương, phải học tập để hiểu biết tình yêu, phải học tập cách sống hạnh phúc,

và như thế có nghĩa là học tập để biết tự trọng, học tập để biết các vinh hạnh

được làm người”. Trong các bài giảng về giới tính, ông cho rằng: “Chúng ta

phải giáo dục con em chúng ta làm sao để các em có thái độ đối với tình yêu

như đối với một tình cảm nghiêm túc và sâu nặng, để các em sẽ được hưởng

khoái cảm của mình, tình yêu của mình, hạnh phúc của mình trong khuôn khổ

gia đình”.

Page 9: TÂM LÝ HỌC GIỚI TÍNH VÀ GIÁO DỤC GIỚI TÍNHsaomaidata.org/library/90...  · Web viewtÂm lÝ hỌc giỚi tÍnh vÀ giÁo dỤc giỚi tÍnh. tÂm lÝ hỌc giỚi tÍnh

Sukhomlinxki đã khuyên nhủ thanh niên: “Hãy sáng suốt và yêu cầu

cao trong tình yêu. Tình yêu là một loại tình cảm mãnh liệt, nhưng lí trí phải

điều khiển trái tim”. “Nữ tính chân chính là sự kết hợp tính dịu dàng và tính

nghiêm khắc, sự âu yếm với tính cứng rắn. Tình yêu và sự nhẹ dạ không đi

cùng nhau. Tình yêu có thể chính đáng về mặt đạo đức, khi những người yêu

nhau được kết hôn trong tình bạn vững bền”.

Ông cũng nhấn mạnh rằng: '“Yêu là thời kì khởi đầu của việc làm cha

làm mẹ. Yêu có nghĩa là cảm thấy một trách nhiệm lớn lao đối với người

khác, với người mình yêu và với người mình sẽ tạo ra”. “Trong cuộc đời có

một hạnh phúc lớn và một công việc lớn, đó là tình yêu. Tình yêu trai gái, vợ

chồng là một lĩnh vực thuộc chủ quyền đặc biệt về đạo đức”.

Từ năm 1968, hầu hết các địa phương của Liên Xô bắt đầu chú ý tổ

chức việc hướng dẫn và tổ chức giáo dục điều trị, hướng dẫn các vấn đề về

giới tính, nhất là đời sống tình dục và quan hệ hôn nhân. Việc nghiên cứu và

điều trị những bệnh về tính dục đã được tiến hành. Tầm quan trọng của việc

“cần phải phát triển và hoàn thiện nội dung phương pháp giáo dục giới tính

phù hợp với đạo lý” đã được thừa nhận tại kì họp liên tịch giữa Viện hàn lâm

khoa học y học và Viện hàn lâm khoa học giáo dục Liên Xô 1971, và tại cuộc

“Hội thảo quốc tế của các nước xã hội chủ nghĩa về kế hoạch hoá gia đình,

giáo dục giới tính, về vợ chồng và gia định tại Varsava” năm 1977.

Gần đây nhiều công trình lớn có tính khoa học về giới tính đã được

nghiên cứu hoặc đưa từ nước ngoài vết góp phần quan trọng vào việc giáo

dục giới tính thọ thanh niên, như các công lênh nghiên cứu của A.V.

Petrovxki, I.X. Kim, G.I. Gheraximovic, D.V. Kolexev, ru.I. Kusnứuk, V.A.

Serbakov… với nhiều tác phẩm rất có giá trị: Bách khoa toàn thư Y học phổ

thông; Trò chuyện về giáo dục giới tính của Tiến sĩ y học D.V. Kolexev; Vệ

sinh tinh thần trong sinh hoạt tình dục của Tiến sĩ y học. I. Mielinxki… Ngay từ

những năm 70, việc giáo dục giới tính cho học sinh đã được đề xuất, giảng

dạy ở một số nơi. Năm 1981, Hội đồng Bộ trưởng Liên Xô đã ra chỉ thị cho tất

cả các trường học trong cả nước thực hiện chương trình giáo dục vệ sinh và

Page 10: TÂM LÝ HỌC GIỚI TÍNH VÀ GIÁO DỤC GIỚI TÍNHsaomaidata.org/library/90...  · Web viewtÂm lÝ hỌc giỚi tÍnh vÀ giÁo dỤc giỚi tÍnh. tÂm lÝ hỌc giỚi tÍnh

giáo dục giới tính cho học sinh các trường phổ thông. Một chương trình giáo

dục giới tính được biên soạn rất tỉ mỉ và cụ thể cho học sinh từ cấp 1 đến cấp

3 (trung học phổ thông). Đặc biệt, trong chương trình giáo dục từ năm học

1983 – 1984 có thêm một môn học cho học sinh lớp 9 và lớp 10 (tương

đương lớp 11, 12 của nước ta) gọi tên là “Đạo đức học và tâm lí học đời sống

gia đình” với 34 tiết chính khoá.

Ở Đức hiện nay, có rất nhiều các nhà khoa học nổi tiếng với những

công trình nghiên cứu về giới tính và giáo dục giới tính như: R. Neubert,

Aresin, Smolka, Hopman và Klemm, Linser, Polte, Dierl, Grassel… Một cuốn

bách khoa toàn thư về giới tính được biên soạn để giảng dạy và giáo dục giới

tính cho học sinh.

Ngay từ năm 1959 nhiều tài liệu về giáo dục giới tính đã được biên

soạn công phu, như công trình của R. Neubert: Sách nói về quan hệ vợ

chồng, của Z. Snabl: Điều khó nói trong tình yêu… Vấn đề giáo dục giới tính

được tiến hành rộng rãi từ những năm 60, đặc biệt từ những năm 70 của thế

kỉ XX trở đi. Các nhà khoa học Đức quan niệm rằng: “Những hiểu biết khoa

học về vấn đề giáo dục giới tính cần được trang bị ngay cho cả các cô mẫu

giáo, vườn trẻ ở đó cũng cần phải nói dền sự giáo dục về môn quan hệ đúng

đắn gì những người khác giới”. Từ năm 1974, một chương trình giáo dục giới

tính đã được xây dựng rất tỉ mỉ cụ thể, dạy cho học sinh phổ thông từ lớp 8,

với 15 chủ đề khác nhau và trên 20 sinh tham khảo được quy định.

Nhiều nước như: Tiệp Khắc, Hungary. Ba Lan… đều đã tiến hành giáo

dục giới tính cho học sinh phổ thông bằng những thương trình bắt buộc. Các

nước phương Tây như: Anh. Đan Mạch, Thuỷ Điển, Mi… đã tiến hành giáo

dục cho học sinh khá sớm (1966). Ở Pháp, thương tình giáo dục nội dung này

được thực hiện từ năm 1973. Đặc biệt là một số nước châu Á, châu Phi, Mĩ

Latin cũng đưa giáo dục giới tính vào trường phổ thông và đã đạt kết quả tốt.

Trung Quốc đã tiến hành giáo dục giới tính cho học sinh từ năm 1974 và hiện

nay là một trong những nước có nhiều công trình nghiên cứu, có sự phát triển

cao trong nghiên cứu khoa học về giới tính.

Page 11: TÂM LÝ HỌC GIỚI TÍNH VÀ GIÁO DỤC GIỚI TÍNHsaomaidata.org/library/90...  · Web viewtÂm lÝ hỌc giỚi tÍnh vÀ giÁo dỤc giỚi tÍnh. tÂm lÝ hỌc giỚi tÍnh

Ngay các nước Đông Nam Á như: Thailand, Malaysia, Indonesia,

Singapore, Phihppines… cũng đã thực hiện nội dung giáo dục này. Ở

Philippines, giáo dục giới tính đã được đưa vào chương trình nội khoá của

trường phổ thông cơ sở và trường trung học phổ thông, và là một bộ phận

của giáo dục dân số và kế hoạch hoá gia đình. Nội dung giáo dục giới tính đã

được lồng ghép một cách hợp lí vào nhiều bộ môn văn hoá khác, chủ yếu là

môn kế hoạch hoá gia đình qua các giờ chính khoá và qua các hoạt động

ngoại khoá, theo mức độ khác nhau ở các lứa tuổi khác nhau. Ở nước này,

việc nghiên cứu các tỉnh thức tổ chức dạy học, những phương pháp và

những phương tiện dạy học về giới tính rất được quan tâm và cuốn hút học

sinh, làm cho quá trình giáo dục đạt hiệu quả cao. Việc giáo dục nội dung này

cũng đã được mở rộng ra ngoài nhà trường, đến các tầng lớp nhân dân khác

nhau qua rất nhiều hình thức giáo dục phong phú, qua các trung tâm tư vấn

và đã được xã hội ủng hộ.

Ở Việt Nam ta, trong thời gian gần đây, cùng với giáo dục dân số giáo

dục giới tính đã bắt dầu được quan tâm rộng rãi.

Trong Chỉ thị số 176A ngày 24/12/1974 do Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng

Phạm Văn Đồng kí đã nêu rõ: “Bộ giáo dục, Bộ Đại học và Trung học chuyên

nghiệp, Tổng cục dạy nghề phối hợp với các tổ chức có liên giùm xây dựng

chương trình chính khoá và ngoại khoá nhằm bồi dương cho học sinh những

kiến thúc về khoa học giới tính, về hôn nhân gia đình và nuôi dạy con cái”. Bộ

Giáo dục đã đưa ra Chỉ thị về việc giáo dục dân số và giáo dục giới tính trong

toàn bộ hệ thống trường học các cấp và các ngành học của cả nước.

Từ năm 1985, những công trình nghiên cứu của các tác giả về giới tính,

về tình yêu, hôn nhân gia đình đã bắt đầu được công bố. Các tác giả Đặng

Xuân Hoài, Tràn Trọng Thuỷ, Phạm Hoàng Gia, Nguyễn Thị Đoan, Nguyễn

Thị Tho, Bùi Ngọc Oánh, Lê Nguyên, Phạm Ngọc, Minh Đức… đã nghiên cứu

nhiều vấn đề, nhiều khía cạnh chi tiết của giới tính và giáo dục giới tính.

Nhiều công trình nghiên cứu về giới tính, tình yêu, hôn nhân gia đình, nhiều

cuộc điều tra về tình yêu và đời sống hôn nhân gia đình đã được tiến hành từ

Page 12: TÂM LÝ HỌC GIỚI TÍNH VÀ GIÁO DỤC GIỚI TÍNHsaomaidata.org/library/90...  · Web viewtÂm lÝ hỌc giỚi tÍnh vÀ giÁo dỤc giỚi tÍnh. tÂm lÝ hỌc giỚi tÍnh

năm 1985 đến nay, bước dầu làm cơ sở cho việc giáo dục giới tính cho thanh

niên và học sinh. Những công trình này đã nêu lên nhiều vấn đề rất phong

phú đa dạng về vấn đề giới tính và giáo dục giới tính ở Việt Nam.

Đặc biệt từ năm 1988, một đề án với quy mô lớn nghiên cứu về giáo

dục đời sống gia đình và giới tính cho học sinh (gọi tắt là Giáo dục đời sống

gia đình) có kí hiệu VIE/88/P09 (gọi tắt là đề án P09) đã được Hội đồng Chính

phủ, Bộ Giáo dục và Đào tạo, Viện Khoa học Giáo dục Việt Nam thông qua và

cho phép thực hiện với sự tài trợ của UNFPA và UNESCO khu vực.

Dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Giáo sư Trần Trọng Thuỷ và Giáo sư

Đặng Xuân Hoài, đề án đã được tiến hành rất thận trọng và khoa học, nghiên

cứu khá sâu rộng nhiều vấn đề như: quan niêm về tình bạn, tình yêu, hôn

nhân; nhận thức về giới tính và giáo dục giới tính của giáo viên, học sinh, phụ

huynh… ở nhiều nơi trong cả nước, để chuẩn bị tiến hành giáo dục giới tính

cho học sinh phổ thông từ lớp 9 đến lớp 12.

Từ khoảng năm 1990 đến nay, ở Việt Nam dã có nhiều dự án Quốc gia,

nhiều đề tài liên kết với các nước, các tổ chức quốc tế nghiên cứu về giới tính

và những vấn đề có liên quan như: Giáo dục sức khoẻ sinh sản; Giáo dục về

tình yêu trong thanh niên, học sinh; Giáo dục đời sống gia đình; Giáo dục giới

tính cho học sinh… Việc nghiên cứu giới tính và giáo dục giới tính đã được

sự quan tâm nhiều của Nhà nước, Bộ Giáo dục và Đào tạo, Bộ Y tế, các nhà

khoa học và các bậc phụ huynh.

III. TÂM LÍ HỌC GIỚI TÍNH VÀ GIÁO DỤC HỌC GIỚI TÍNH1. Khái niệm về Tâm lí học giới tính và Giáo dục học giới tính

Tâm lí học giới tính là một chuyên ngành của Tâm lí học, nghiên cứu về

đời sống giới tính, mối liên hệ giữa giới tính với các hoạt động xã hội của con

người và cuộc sống của con người trong xã hội.

Giáo dục học giới tính là chuyên ngành của Giáo dục học, nghiên cứu

về vấn đề giáo dục giới tính cho con người, chủ yếu là giáo dục cho thế hệ

trẻ.

Page 13: TÂM LÝ HỌC GIỚI TÍNH VÀ GIÁO DỤC GIỚI TÍNHsaomaidata.org/library/90...  · Web viewtÂm lÝ hỌc giỚi tÍnh vÀ giÁo dỤc giỚi tÍnh. tÂm lÝ hỌc giỚi tÍnh

Tâm lí học giới tính và Giáo dục học giới tính là hai ngành khoa học tuy

khác nhau nhưng quan hệ rất mật thiết với nhau.

Trong thực tế nghiên cứu về giới tính hiện nay, người ta thường kết

hợp tâm lí học giới tính với giáo dục học giới tính như một lĩnh vực khoa học

thống nhất. Khi tìm hiểu về tâm lí học giới tính, người ta phải kết hợp với vấn

đề giáo dục giới tính cho học sinh. Việc nghiên cứu những vấn đế của tâm lí

giới tính phải phục vụ cho giáo dục giới tính, phải đi tới nội dung, phương

hướng giáo dục những vấn đề giới tính đó… cho con người. Ngược lại, khi

nghiên cứu về giáo dục học giới tính, các nhà giáo dục phải dựa trên cơ sở tri

thức của Tâm lí học giới tính để xác định chương rình, nội dung, phương

pháp, hình thức, kế hoạch… giáo dục giới tính phù hợp.

Vì vậy trong nhiều công trình nghiên cứu về khoa học giới tính hiện nay

ở nước ta, thường có sự kết hợp chặt chẽ của cả hai ngành khoa học trên.

2. Đối tượng và nhiệm vụ của Tâm lí học giới tính và Giáo dục học giới tính

– Đối tượng nghiên cứu:

+ Các hiện tượng của đời sống giới tính.

+ Mối liên hệ giữa các hiện tượng của đời sống giới tính.

+ Mối liên hệ giữa nam và nữ dưới ảnh hưởng của đời sống giới tính.

+ Lịch sử nghiên cứu các vấn đề giới tính và sự hình thành phát triển

của các khoa học về giới tính.

+ Những vấn đề tâm lí trong giáo dục giới tính.

+ Nội dung, hình thức, phương pháp giáo dục giới tính.

– Nhiệm vụ nghiên cứu

+ Mô tả và giải thích các hiện tương của đời sống giới tính.

+ Phát hiện các quy luật của các hiện tượng giới tính.

Page 14: TÂM LÝ HỌC GIỚI TÍNH VÀ GIÁO DỤC GIỚI TÍNHsaomaidata.org/library/90...  · Web viewtÂm lÝ hỌc giỚi tÍnh vÀ giÁo dỤc giỚi tÍnh. tÂm lÝ hỌc giỚi tÍnh

+ Nghiên cứu các hiện tượng tâm lí, các quy luật tâm lí về việc giáo dục

giới tính cho thanh niên, học sinh.

+ Đề xuất những phương hướng giáo dục, vững nội dung, cách thức,

biện pháp thích hợp để giáo dục con người về mặt giới tính, tạo điều kiện để

phát triển toàn diện dân cách cho thanh thiếu niên học sinh và cho mọi người.

3. Mối quan hệ giữa Tâm lí học giới tính, Giáo dục học giới tính với các ngành khoa học khác

Tâm lí học giới tính và Giáo dục học giới tính có mối quan hệ mật thiết

với nhiều ngành khoa học, phải dựa trên cơ sở của Sinh lí học, Giải phẫu sinh

lí, Tâm lí học, Tâm lí học xã hội, Tâm lí học giao tiếp, Xã hội học…

Khi nghiên cứu Tâm lí học giới tính và Giáo dục học giới tính, chúng ta

còn phải dựa trên cơ sở của Giới tính học, Xã hội học giới tính, Sinh lí học

giới tính… Đây là những ngành khoa học còn non trẻ ở nước ta.

Ngoài ra, việc nghiên cứu tâm lí giới tính còn phải gắn với nhiều ngành

khoa học khác như: Y học, Sinh học, Xã hội học, Giáo dục học, Dân số học

và Giáo dục dân số…

Ở nước ta hiện nay, việc nghiên cứu các vấn đề giới tính đang được sự

quan tâm đặc biệt của Y học, Xã hội học, Giáo dục học và Tâm lí học.

4. Tình hình nghiên cứu các khoa học về giới tính ở Việt Nam hiện nay

Việc nghiên cứu về giới tính, đặc biệt là tâm lí học giới tính và giáo

dục học giới tính ở nước ta hiện nay đang được quan tâm và phát triển mạnh

mẽ.

– Có nhiều quan điểm khác nhau về đời sống giới tính, về những thuật

ngữ cơ bản được sử dụng trong các ngành khoa học về giới tính (giới, giới

tính, tính dục, tình dục, tình yêu…).

– Có nhiều biểu hiện phức tạp trong việc nghiên cứu về giới tính:

+ Sự lẫn lộn giữa các khái niệm, các thuật ngữ về giới và giới tính.

Page 15: TÂM LÝ HỌC GIỚI TÍNH VÀ GIÁO DỤC GIỚI TÍNHsaomaidata.org/library/90...  · Web viewtÂm lÝ hỌc giỚi tÍnh vÀ giÁo dỤc giỚi tÍnh. tÂm lÝ hỌc giỚi tÍnh

Có người cho rằng, giới chỉ là những đặc điểm xã hội, do xã hội tạo ra.

Ngược lại, giới tính lại chỉ được hiểu là những đặc điểm về sinh lí và không

biến đổi. Nhiều thuật ngữ như: tính dục và tình dục, giới và giới tính, tình dục

và giới tính… thường bị sứ dụng lẫn lộn hoặc phiến diện, lệch lạc.

+ Nội hàm của một số khái niệm chưa được thống nhất như giới tính,

tính dục, sức khoẻ sinh sản.

+ Sự pha trộn các quan điểm phương Tây với những quan điểm truyền

thống Việt Nam. Trong xã hội, nhiều người cho rằng không cần thiết phải giáo

dục giới tính trong nhà trường, trong thanh niên, nhiều người có quan niệm

tình dục tự do, tình yêu tự do, tình yêu không cần hôn nhân…

+ Những tồn tại của các quan điểm phong kiến lạc hậu về các hiện

tượng của đời sống giới tính.

+ Sự xuất hiện nhiều tài liệu, sách báo thiếu khoa học về vấn đề giới

tính, nhằm mục đích chạy theo thị hiếu, thay theo kinh doanh; thậm chí có sự

nhầm lẫn giữa các sách báo, tài liệu khoa học về giới tính với các sách báo

mê tín dị đoan hoặc mang tính kích dục, tính khiêu dâm, dồi trụy… Những

sách này thiếu tính giáo dục, tính khoa học, nhiều khi chỉ kích thần tính tò mò,

gây tác hại cho thanh thiếu niên.

+ Các văn hoá phẩm đồi trụy hoặc văn hoá phẩm theo những quan

điểm nước ngoài nhiều khi gây tác dụng tiêu cực trong giáo dục thanh thiếu

niên, không phù hợp với phong tục truyền thống Việt Nam. Ngược lại, những

tư tưởng, quan điểm phong kiến khắt khe, lạc hậu vẫn song song tồn tại trong

đời sống xã hội, trong nghiên cứu và đánh giá các vấn đề của đời sống giới

tính.

+ Nhận thức của nhiều tầng lớp xã hội như: phụ nữ, thanh thiếu niên,

người lớn, thậm chí, có cả một bộ phận không nhỏ của nhà giáo, giới trí thức

về nhiều vấn đề của đời sống giới tính còn thấp hoặc phiến diện, hoặc sai

lầm.

Page 16: TÂM LÝ HỌC GIỚI TÍNH VÀ GIÁO DỤC GIỚI TÍNHsaomaidata.org/library/90...  · Web viewtÂm lÝ hỌc giỚi tÍnh vÀ giÁo dỤc giỚi tÍnh. tÂm lÝ hỌc giỚi tÍnh

+ Những phương tiện thiết bị nghiên cứu về vấn đế giới tính còn rất hạn

thế. Do điều kiện xã hội phong kiến, những phương pháp nghiên cứu chưa

thật sự đa dạng và toàn diện, kể cả phương pháp điều tra xã hội học cũng

khó có thể phát huy hết tác dụng, không thể hỏi nhiều vấn đề tế nhị.

+ Việc nghiên cứu về giới tính đang được quan tâm nhưng kết quả

thưa thật sự cao, thậm chì còn có lệch lạc trong một số công trình nghiên

cứu.

Tình hình trên do nhiều nguyên nhân:

+ Đời sống giới tính rất phức tạp nhưng chưa được quan tâm nghiên

cứu một cách đầy đủ và hệ thống bởi các nhà khoa học. Nhiều người còn e

ngại hoặc thành kiến, có quan niệm không đúng về vấn đề nghiên cứu và giáo

dục giới tính.

+ Những vấn đề của đời sống giới tính thường kích thích tính tò mò của

con người, nhất là đối với thanh niên. Họ thường rất quan tâm đến những vấn

đề của giới tính, thường xuyên trải nghiệm, thể nghiệm những biểu hiện của

giới tính trong đời sống hàng ngày nhưng không tự giải thích được. Chính vì

vậy, nhu cầu tìm hiểu về giới tính rất cao. Họ thường tự tìm hiểu chúng trong

mọi điều kiện có thể có trong mọi tài liệu sách báo có đề cập đến những vấn

đề giới tính mà không có khả năng phân biệt những tài liệu khoa học hay

phản khoa học.

+ Những tri thức về đời sống giới tính có thể được tích luỹ qua kinh

nghiệm sống của con người. Nhiều trường hợp có những người không học

tập trong nhà trường nhưng vẫn có những hiểu biết nhất định thông qua sự

từng trải trong cuộc sống của họ. Những kinh nghiệm và sự hiểu biết này có

thể không có tính hệ thống khoa học nhưng cũng có thể giúp cho họ vận dụng

ở mức độ nhất định trong cuộc sống. Có khi còn làm cho họ nghĩ rằng hình đã

biết rất nhiều.

+ Có những vấn đề của đời sống giới tính là những vấn đề tế nhị ít khi

được trình bày một cách công khai và chính thức trong xã hội. Nhiều người

Page 17: TÂM LÝ HỌC GIỚI TÍNH VÀ GIÁO DỤC GIỚI TÍNHsaomaidata.org/library/90...  · Web viewtÂm lÝ hỌc giỚi tÍnh vÀ giÁo dỤc giỚi tÍnh. tÂm lÝ hỌc giỚi tÍnh

còn cho rằng đó là những vấn đế thiếu đứng đắn, thiếu lịch sự, do đó tuy rất

quan tâm nhưng họ không dám nói ra. Việc nghiên cứu và tìm hiểu chúng

thường chỉ là vụng trộm, truyền miệng, rỉ tai nhau hoặc bàn tán trong nhóm

bạn bè… Vì vậy những hiểu biết thường chỉ là vụn vặt, phiến diện và đôi khi

không chính xác.

+ Còn nhiều những quan điểm khác nhau về các khái niệm, các thuật

ngữ, thậm chí về cả nội dung và phương pháp nghiên cứu các vấn đề giới

tính ở Việt Nam. Các tài liệu sách báo lưu hành trên thị trường rất phong phú

đa dạng, có nhiều tài liệu khoa học nhưng cũng có những tài liệu chỉ tập trung

khai thác những vấn đề giới tính thu hút sự quan tâm chú ý của người đọc,

phục vụ cho việc kinh doanh, vì vậy có nhiều tài liệu rất phiến diện, lệch lạc,

thậm chí có những tài liệu mang tính mê tín dị đoan, hoặc phản khoa học.

+ Việc dịch thuật các tài liệu nước ngoài sang tiếng Việt cũng chưa

được chuẩn hoá, hiệu đính một cách nhất quán bởi các nhà chuyên môn.

Chẳng hạn, từ “sex” trong tiếng Anh có thể dịch thành nhiều nghĩa như: giới

tính”, “tình dục, tính dục, “khoả thân”… Vì thế nhiều tài liệu dịch từ tiếng nước

ngoài, dù là của các tác giả có uy tín khoa học, cũng không được chính xác

và toàn diện.

Trong khi đó, ở nước ta, thưa có những công trình nghiên cứu cần thiết

để thống nhất các khái niệm, các thuật ngữ, cách sử dụng từ trong nghiên

cứu các vấn đề giới tính, chưa có những hội nghị khoa học cần thiết để thống

nhất và phát triển các khoa học về giới tính.

+ Nhiều tệ nạn xã hội liên quan đến đời sống giới tính có chiều hướng

phát triển mạnh mẽ, đặc biệt là ăn chơi trác táng, nhậu nhẹt bia ôm, biến

tướng của vũ trường, hoạt động của các “động lắc”, mại dâm…

+ Vấn đề giáo dục giới tính còn nhiều quan niệm phức tạp, mâu thuẫn.

Nhiều ý kiến không thống nhất về nội dung, chương trình, về phương thức

giáo dục giới tính trong nhà trường. Thậm chí, có ý kiến cho rằng, không nên

tiến hành giáo dục giới tính trong chương trình nội khoá, hoặc ngay cả trong

ngoại khoá vì cần phải dành thời gian cho các môn khoa học cơ bản hoặc các

Page 18: TÂM LÝ HỌC GIỚI TÍNH VÀ GIÁO DỤC GIỚI TÍNHsaomaidata.org/library/90...  · Web viewtÂm lÝ hỌc giỚi tÍnh vÀ giÁo dỤc giỚi tÍnh. tÂm lÝ hỌc giỚi tÍnh

môn học quan trọng hơn. Ngay cả khi đã có quyết định đưa một số nội dung

của đời sống giới tính vào chương trình giáo dục trong nhà trường của Bộ

Giáo dục và Đào tạo, nhiều địa phương, nhiều trường học vẫn không nghiêm

tức thực hiện, hoặc chỉ thực hiện một cách cầm chừng, một cách hình thức

để đối phó với những đợt kiểm tra của Bộ.

+ Lực lượng các nhà nghiên cấm các giáo viên làm công tác giáo dục

giới tính, giảng dạy kiến thức giới tính cho học sinh còn rất thiếu. Trong nhiều

trường phổ thông không có giáo viên được đào tạo chuyên môn để giảng dạy

những kiến thức này. Trong trường sư phạm, việc trang bị những kiến thức

giới tính cho sinh viên, giáo sinh cũng chưa được quan tâm.

+ Việc đào tạo cán bộ chuyên khoa về ngành này chưa được thực hiện

một cách tập trung, hoàn chỉnh, thưa có chương trình đào tạo chuyên ngành,

nội dung giảng dạy còn đơn giản, sơ lược.

5. Những phương hướng nghiên cứu và phát triển của Tâm lí học giới tính

Hiện nay, việc nghiên cứu các khoa học về giới tính đang được quan

tâm ở nhiều ngành, nhiều cơ quan khoa học. Đây là một lĩnh vực khoa học

còn khá mới mẻ ở nước ta. Còn nhiều vấn đề cần phải tập trung nghiên cứu

như:

– Nghiên cứu chuyên sâu để phát triển các ngành khoa học về các lĩnh

vực của đời sống giới tính như: Giới tính học, Xã hội học giới tính, Sinh lí học

giới tính, những vấn đề y học về đời sống giới tính, Giáo dục học và Tâm lí

học giới tính…

– Nghiên cứu sâu hơn bản chất của các hiện tượng trong đời sống giới

tính như: sự phát triển sinh lí cơ thể ở nam và ở nữ trong các giai đoạn lứa

tuổi, đặc biệt là các lứa tuổi ở người lớn như: giai đoạn từ khoảng 48 – 50

đến 54 55; từ 56 đến 65; từ trên 65 đến 70 – 75 ở nữ; từ trên 75 đến 85 ở

nam, hiện tượng kinh nguyệt và sinh nở; các hiện tượng bệnh lí giới tính, đời

Page 19: TÂM LÝ HỌC GIỚI TÍNH VÀ GIÁO DỤC GIỚI TÍNHsaomaidata.org/library/90...  · Web viewtÂm lÝ hỌc giỚi tÍnh vÀ giÁo dỤc giỚi tÍnh. tÂm lÝ hỌc giỚi tÍnh

sống tình dục, sự già lão của cơ thể, vấn đề sức khoẻ sinh sản, đời sống tình

yêu và hôn nhân…

– Vấn đề giáo dục giới tính, giáo dục tính dục cho học sinh, sinh viên và

các lứa tuổi lớn hơn…

– Các vấn đề tâm lí, diễn biến tâm lí về việc giáo dục giới tính trong nhà

trường và xã hội.

– Tăng cường việc nghiên cứu, giảng dạy các kiến thức giới tính cho

học sinh, sinh viên, đặc biệt là sinh viên các trường sư phạm, để khi ra

trường, họ sẽ là các giáo viên có khả năng, trình độ làm công tác giảng dạy

và giáo dục giới tính.

Thống nhất và chính xác hoá các khái niệm quan trọng (như giới, giới

tính, tính dục, tình dục, sức khoẻ sinh sản…) các nội dung trình bày của

những ngành khoa học có liên quan đến đời sống giới tính mới được quan

tâm nghiên cứu (như giáo dục dân số và sức khoẻ sinh sản, giáo dục gia

đình, tâm lí và giáo dục giới tính…).

– Xây dựng, bổ sung thêm những khái niệm, thuật ngữ mới trong khoa

học giới tính như “độ trẻ trung”, “sự già lão”, “chỉ số sinh sản” ở nam, ở nữ,

“vẻ đẹp cơ thể”, “động cơ yêu đương”, “hôn nhân hạnh phúc”…

Chương 2: GIỚI VÀ GIỚI TÍNH

I. KHÁI NIỆM GIỚI VÀ GIỚI TÍNH1. Khái niệm giới

a) Tìm hiểu khái niệm giới

Giới là một khái niệm rất phức tạp, được nghiên cứu theo nhiều góc độ

khác nhau, và theo nhiều quan điểm khác nhau.

– Giới có thể được hiểu theo mặt sinh học, là một tập hợp những đặc

điểm sinh lí cơ thể đặc trưng ở con người (ở động vật, giới ở đây có nghĩa là

giống. Trong động vật có giống đực và giông cái). Những đặc điểm sinh lí cơ

Page 20: TÂM LÝ HỌC GIỚI TÍNH VÀ GIÁO DỤC GIỚI TÍNHsaomaidata.org/library/90...  · Web viewtÂm lÝ hỌc giỚi tÍnh vÀ giÁo dỤc giỚi tÍnh. tÂm lÝ hỌc giỚi tÍnh

thể thường bao gồm những đặc điểm di truyền, những hệ cơ quan sinh lí cơ

thể, điển hình và quan trọng nhất là hệ cơ quan sinh dục. Ở con người có hai

loại hệ cơ quan sinh dục chính là hệ cơ quan sinh dục nam và hệ cơ quan

sinh dục nữ, vì vậy loài người có hai giới là giới nam và giới nữ. Giới theo

nghĩa này được hiểu là giới sinh học, giới di truyền.

– Giới còn được hiểu theo góc độ xã hội, là những đặc điểm mà xã hội

đã tạo nên ở người nam và người nữ, là quy định của xã hội về người nam và

người nữ, là những đặc trưng xã hội ở nam và nữ. Đó là giới xã hội. Giới xã

hội thường bao gồm nhiều vấn đề như: vai trò, vị trí của mỗi giới, đặc điểm và

nhiệm vụ của mỗi giới trong xã hội… Những vấn đế này thường do xã hội quy

định và biến đổi theo từng giai đoạn lịch sử, từng quốc gia, tuỳ theo truyền

thống, phong tục tập quán của mỗi dân tộc…

– Tổng quát hơn có thể định nghĩa giới như sau:

Giới là một tập hợp người trong xã hội có những đặc điểm sinh học cơ bản giống nhau.

Định nghĩa này cho thấy:

+ Giới là một tập hợp người mang những đặc điểm sinh học cơ bản

giống nhau. Những đặc điểm sinh học cơ bản này bao gồm nhiều đặc điểm

sinh lí cơ thể, như hình dáng, cấu tạo các hệ cơ quan sinh lí, nhưng điển hình

là hệ cơ quan sinh dục. Ở loài người chủ yếu có hai loại hệ cơ quan sinh dục:

hệ cơ quan sinh đục nam và hệ cơ quan sinh dục nữ. Do đó, loài người có hai

giới (hai tập hợp người) cơ bản: giới nam và giới nữ… Khi một em bé lọt lòng

mẹ sinh ra, người ta dựa vào hệ cơ quan sinh dục để xác định em bé thuộc

về giới nam hay nữ. Như vậy, giới được hình thành bởi những đặc điểm sinh

lí cơ thể. Cũng có thể nói một cách khác, những đặc điểm sinh lí cơ thể là căn

cứ để xác định giới, là cơ sở hình thành giới.

Tuy ở loài người chủ yếu có hai giới là giới nam và giới nữ, nhưng

trong thực tế vẫn có một số ít người không thuộc về hai giới trên, người ta

thường gọi là giới thứ ba. Giới này xuất hiện do nguyên nhân chủ yếu là hệ

Page 21: TÂM LÝ HỌC GIỚI TÍNH VÀ GIÁO DỤC GIỚI TÍNHsaomaidata.org/library/90...  · Web viewtÂm lÝ hỌc giỚi tÍnh vÀ giÁo dỤc giỚi tÍnh. tÂm lÝ hỌc giỚi tÍnh

cơ quan sinh dục không được bình thường về mặt cấu tạo hoặc chức năng,

dẫn tới việc phát triển tâm lí sinh lí cơ thể không bình thường. Nhiều người

cho rằng đây là những người có sự lệch lạc trong sự hình thành và phát triển

của hệ cơ quan sinh dục.

Định nghĩa giới như trên dựa trên cơ sở những đặc điểm sinh hệ cơ

thể, chủ yếu là hệ cơ quan sinh dục. Trong trường hợp này, giới được quy

định bởi những đặc điểm sinh lí cơ thể.

Đó là giới sinh thể.

+ Giới là một tập hợp người trong xã hội, vì vậy, giới mang những đặc

điểm về nhóm người, về xã hội loài người. Với ý nghĩa này, khái niệm giới có

thể được dùng để chỉ các tập hợp người như giới trí thức, giới sinh viên, giới

bình dân…

Tuy nhiên, theo góc độ của Tâm lí học giới tính, Giới được hiểu như là

một tập hợp người có chung những đặc điểm sinh lí điển hình. Mỗi một tập

hợp người đó bị thi phối và bị ảnh hưởng bởi các yếu tố xã hội một cách khác

nhau, tạo nên những giá trị xã hội khác nhau. Từ đó hình thành những đặc

tính riêng của từng giới và dần dần hình thành những đặc điểm xã hội đặc

trưng cho mỗi giới (về chức năng, vai trò xã hội, nghĩa vụ, quyền hạn…).

Trong trường hợp này, giới được quy định bởi những đặc điểm xã hội. Nói

một cách khác giới mang tính xã hội.

Đó là giới xã hội.

Như vậy giới bao gồm hai loại thuộc tính, thuộc tính sinh lí cơ thể và

thuộc tính xã hội.

Xét về mặt sinh lí cơ thể, giới là những đặc điểm bẩm sinh, có tính di

truyền. Yếu tố quan trọng và điển hình của giới ở đây là hệ cơ quan sinh dục.

Và dưới ảnh hưởng chủ yếu của hoạt động của hệ cơ quan sinh dục, cơ thể

con người còn có nhiều những biến đổi khác tạo nên những đặc trưng của

giới về hệ xương và hệ cơ, chiều cao và cân nặng, tỉ lệ giữa cơ và mỡ, hình

dáng đặc trưng của cơ thể nam và cơ thể nữ, sức lực của từng giới (trương

Page 22: TÂM LÝ HỌC GIỚI TÍNH VÀ GIÁO DỤC GIỚI TÍNHsaomaidata.org/library/90...  · Web viewtÂm lÝ hỌc giỚi tÍnh vÀ giÁo dỤc giỚi tÍnh. tÂm lÝ hỌc giỚi tÍnh

lực của cơ bắp, của gân, khớp…) và về nhiều đặc điểm sinh lí cơ thể khác.

Do cấu tạo sinh lí cơ thể khác nhau, ở mỗi giới có những chức năng sinh lí

khác nhau, như giới nữ có khả năng thụ thai, sinh nở, có hiện tượng kinh

nguyệt… giới nam không có những chức năng trên, nhưng thường cao lớn

khoẻ mạnh hơn, có khả năng sản xuất ra tinh trùng…

Xét về mặt xã hội, giới là những đặc điểm do xã hội tạo ra, do những

quy định, luật lệ, đòi hỏi… của xã hội đối với con người là nam hay nữ. Ban

đầu, dưới ảnh hưởng của những đặc tính về sinh lí cơ thể như chiều cao, tầm

vóc to lớn của cơ thể, sức mạnh… người nam và người nữ được phân công

những công việc, những vai trò khác nhau trong đời sống xã hội. Dần dần mỗi

người, mỗi giới tạo nên những đặc tính về mặt xã hội như vai trò trong gia

đình, địa vị trong xã hội hoặc những yếu tố về mặt tâm lí như nhu cầu về sự

thành dạt, nhu cầu về đời sống tình cảm… Những yếu tố trên chịu sự tác

động của xã hội, của lịch sử, tạo nên những đặc điểm, chức năng, vai trò xã

hội khác nhau. Giới được thể hiện ở vai trò, chức năng, nghĩa vụ xã hội. Giới

là tập hợp người có những vai trò chức năng xã hội nhất định.

Như vậy giới có thể được hiểu là giới sinh học hay giới xã hội.

Khi nói đến giới sinh học, người ta thường chú ý nhiều đến hệ cơ quan

sinh dục của con người. Khi em bé lọt lòng mẹ sinh ra, người ta chỉ dựa vào

hệ cơ quan sinh dục để xếp em bé đó thuộc về giới nam hay giới nữ (em tra

hay em gái). Khi em bé lớn lên, đặc biệt là khi bước vào thời kì dậy thì, người

ta có thể xếp một người vào giới thứ ba nếu hoạt động của hệ cơ quan sinh

dục của người đó là không bình thường.

Khi nói đến giới xã hội, có nhiều vấn đề được quan tâm như:

– Vai trò của người nam, người nữ trong xã hội.

– Sự phân công lao động trong xã hội cho người nam và người nữ.

– Sự bình đẳng giữa giới nam và giới nữ (vấn đề bình đẳng giới).

Những quan điểm đánh giá về vai trò của người nam và của người nữ

trong xã hội.

Page 23: TÂM LÝ HỌC GIỚI TÍNH VÀ GIÁO DỤC GIỚI TÍNHsaomaidata.org/library/90...  · Web viewtÂm lÝ hỌc giỚi tÍnh vÀ giÁo dỤc giỚi tÍnh. tÂm lÝ hỌc giỚi tÍnh

– Sự phát triển, sự tiến bộ của con người ở mỗi giới trong xã hội.

– Mối quan hệ xã hội và sự cư xử giữa hai giới.

b) Một số vấn đề tâm lí xã hội và giới

Ngày nay, trong xã hội ta, còn tồn tại nhiều vấn đề phức tạp về giới xã

hội như: vấn đề bình đẳng giới, vấn đế quan hệ giữa hai giới, vấn đề giới tính

ở mỗi giới…

– Do ảnh hưởng của nhiều yếu tố tâm lí xã hội, do những đặc điểm về

mặt sinh lí cơ thể, giới nữ (còn gọi là nữ giới thường có nhiều khó khăn và

thiệt thòi hơn giới nam (gọi là nam giới) trong đời sống xã hội như:

+ So với nam giới, nữ giới có tầm vóc bé nhỏ hơn, sức lực yếu đuối

hơn nhưng lại mang nhiều thiên chức nặng nề hơn: có hiện tượng kinh

nguyệt, có sự thụ thai và sinh nở… Việc sinh nở là một thiên chức cao cả của

người phụ nữ đồng thời cũng là một gánh nặng đối với họ. Để cho ra đời một

con người, người phụ nữ phải mang nặng đẻ đau, hao tổn rất nhiều về mặt

sức lực, về mặt cơ thể và thường phải mất từ 3 đến 5 năm lo lắng cho việc

chăm sóc và nuôi dạy một đứa con, khiến cho họ gặp nhiều khó khăn hơn

nam giới trong việc vươn lên, học tập, rèn luyện để phát triển nhân cách. Đó

là chưa kể việc sinh nở một đứa con có thể làm cho người phụ nữ xấu đi, già

đi, ốm yếu đi nhanh hơn bình thường (trong thực tế sự “xấu đi”, “già đi”, “ốm

yếu đi” dễ xảy ra trong những trường hợp sinh đẻ không đúng khoa học, sinh

đẻ quá sớm, quá mau, quá nhiều…).

+ So với nam giới, ở Việt Nam, nữ giới thường chịu nhiều sự đánh giá

khắt khe, nặng nề hơn, chịu nhiều những quy định bất công trong xã hội như:

nữ giới bị coi như phải gánh chịu toàn bộ việc lao động nội trợ trong gia đình,

phải “đảm đang”, “chịu khó” lo lắng mọi công việc nhà, chăm sóc con cái, cơm

nước… phải lo việc nhà cho nam giới đi giao tiếp ngoài xã hội, nữ giới phải

thụ động trong tình yêu, bị đánh giá nặng nề, bị kiểm soát chặt chẽ trong đời

sống tình cảm yêu đương, trong sự chung thuỷ và thậm chí ngay cả trong

trách nhiệm đối với con cái.

Page 24: TÂM LÝ HỌC GIỚI TÍNH VÀ GIÁO DỤC GIỚI TÍNHsaomaidata.org/library/90...  · Web viewtÂm lÝ hỌc giỚi tÍnh vÀ giÁo dỤc giỚi tÍnh. tÂm lÝ hỌc giỚi tÍnh

+ So với nam giới, nữ giới ít được tạo điều kiện để hoạt động xã hội, để

học tập vươn lên. Ngày nay vẫn còn nhiều người có quan niệm lạc hậu, bất

công về phụ nữ, như “trọng nam khinh nữ', “thuyền theo lái, gái theo chồng”,

“tại gia tòng phụ, xuất giá tòng phu”… Thực tế người phụ nữ vẫn chưa thực

sự bình đẳng với nam giới trong xã hội. Những quan niệm này thậm chí còn

tồn tại ngay trong bản thân người phụ nữ khiến cho họ thường thiếu tự tin,

thiếu bản lĩnh và thiếu điều kiện thuận lợi để vươn lên ngang tầm với nam giới

trong xã hội.

+ Người phụ nữ còn chịu nhiều thiệt thòi khác trong đời sống sinh lí,

tâm lí, xã hội, trong tình yêu, hôn nhân, gia đình, trong việc tham gia quản lí

và hoạt động xã hội… Thậm chí ở nhiều vùng, người phụ nữ còn bị đánh đập,

hành hạ và bị sử dụng như một công cụ lao động biết nói.

Vì vậy vấn đề đấu tranh cho quyền bình đẳng giới, vấn đề xây dựng

bình đẳng giới thực sự là một vấn đề rất cần thiết, rất quan trọng, nhưng cũng

là một vấn đề rất phức tạp, khó khăn và còn nhiều quan điểm chưa thống

nhất.

– Quan niệm về sự bình đẳng giới:

+ Trong việc đấu tranh cho bình đẳng giới, còn nhiều quan niệm chưa

đầy đủ và đúng đắn như: Có người cho rằng bình đẳng giới chỉ là việc người

nữ có thể làm mọi việc giống như người nam, có quyền ăn mặc và sinh hoạt

giống như nam giới. Có người cho rằng, đấu tranh cho sự bình đẳng giới là

chỉ cần thực hiện sự đãi ngộ ngang bằng giữa hai giới. Có người còn hiểu sai

lệch về khái niệm “đảm đang” ở người phụ nữ…

+ Sự bình đẳng giới cần phải được hiểu một cách đúng đắn toàn diện

theo nhiều khía cạnh sau đây:

Người nữ cần phải được tôn trọng như người nam giới, cần phải tin

tưởng ở người phụ nữ trong việc đảm nhiệm những chức năng,

những vai trò xã hội của họ.

Page 25: TÂM LÝ HỌC GIỚI TÍNH VÀ GIÁO DỤC GIỚI TÍNHsaomaidata.org/library/90...  · Web viewtÂm lÝ hỌc giỚi tÍnh vÀ giÁo dỤc giỚi tÍnh. tÂm lÝ hỌc giỚi tÍnh

Người nữ phải được hưởng mọi tiêu chuẩn và quyền lợi giống như

nam giới trong lao động, trong hoạt động xã hội, trong học tập, và

hưởng thụ các giá trị xã hội.

Người nữ phải được phân công lao động và làm việc phù hợp với

đặc điểm sinh lí cơ thể của mình để bảo vệ sức khoẻ và có điều kiện

tiến bộ, phát triển. Sự bình đẳng giới trong trường hợp này là sự

bình đắng xuất phát từ những đặc điểm sinh lí cơ thể.

Người nữ phải được chăm sóc và quan tâm về mọi mặt, đặc biệt là

được học tập để nâng cao trình độ, được tham gia quản lí xã hội,

được hưởng đầy đủ mọi cơ hội để vươn lên trong xã hội như nam

giới.

Do chịu nhiều thiên chức nặng nề, người nữ phải được ưu đãi hơn,

phải được tạo điều kiện và được tham lo nhiều hơn, giúp cho họ

được học tập, có điều kiện thuận lợi tham gia các hoạt động của xã

hội, có điều kiện để phát triển nhân cách toàn diện.

+ Cần cụ thể hoá hơn việc đấu tranh cho quyền bình đẳng giới, tạo điều

kiện cho người phụ nữ vươn lên trong cuộc sống xã hội, phát triển tài năng và

nhân cách toàn diện bằng nhiều biện pháp:

Tăng cường các thiết bị hiện đại trong gia đình (máy giặt, tủ lạnh,

máy hút bụi bếp gas…) để người phụ nữ khỏi vất vả với công việc

nội trợ.

Dành thời gian cho người phụ nữ được giao tiếp xã hội, tham gia

các hoạt động xã hội.

Dành thời gian cho người phụ nữ được học tập theo nhu cầu vươn

lên của mỗi người.

Giúp cho người phụ nữ có điều kiện được tham gia các hoạt động

văn hoá văn nghệ, nghỉ ngơi và vui chơi giải trí, làm đẹp và trang

điểm, đọc sách báo và tập luyện thể dục thể thao…

Page 26: TÂM LÝ HỌC GIỚI TÍNH VÀ GIÁO DỤC GIỚI TÍNHsaomaidata.org/library/90...  · Web viewtÂm lÝ hỌc giỚi tÍnh vÀ giÁo dỤc giỚi tÍnh. tÂm lÝ hỌc giỚi tÍnh

2. Khái niệm giới tính

a) Tìm hiểu khái niệm giới tính

– Giới tính có thể được hiểu theo nhiều nghĩa khác nhau và thường bị

sử dụng lẫn lộn với nhiều thuật ngữ khác như: giới, tình dục, tình dục, sinh

dục… Nhiều người thường quan niệm giới tính đồng nghĩa với tình dục hoặc

với tính dục. Đó là quan niệm chưa thực sự đầy đủ chỉ hiểu một cách đơn

giản hoặc hiểu về một mặt nào đó của giới tính.

– Giới tính cần được hiểu một cách toàn diện hơn:

+ Trước hết, theo từ ngữ, giới tính có thể được hiểu là những đặc điểm

của giới. Những đặc điểm này có thể rất phong phú và đa dạng. Vì giới vừa

bao gồm những thuộc tính về sinh học và những thuộc tính về tâm lí xã hội,

nên giới tính cũng bao gồm những đặc điểm về sinh lí cơ thể và tâm lí xã hội.

+ Giới tính cũng có thể được hiểu là những đặc điểm tạo nên những

đặc trưng của giới, giúp cho chúng ta phân biệt giới này với giới kia.

Những đặc điểm giới tính cổ thể là những đặc điểm sinh lí cơ thể

như: cấu trúc và chức năng của các bộ phận cơ thể đặc biệt là hệ

cơ quan sinh dục con người, sự phát triển (biến đổi về kích thước,

hoàn thiện dần về chức năng…) của chúng, những chức năng đặc

biệt của hệ cơ quan sinh dục như: kinh nguyệt, sinh nở, sự vỡ

giọng, mọc râu… những trạng thái bệnh lí của các bồ phận sinh lí cơ

thể ở nam và ở nữ và do mối quan hệ nam nữ tạo ra…

Những đặc điểm giới tính cũng có thể là những đặc điểm về tâm lí,

tính cách như sự dịu dàng, hiền hậu, sự kín đáo, tính cương trực

thẳng thắn, tính dũng mãnh…

Những đặc điểm trên thường mang đặc trưng của từng giới và tạo nên

sự khác biệt giữa hai giới. Giới tính là những yếu tố xác định sự khác biệt

giữa giới này và giới kia.

Page 27: TÂM LÝ HỌC GIỚI TÍNH VÀ GIÁO DỤC GIỚI TÍNHsaomaidata.org/library/90...  · Web viewtÂm lÝ hỌc giỚi tÍnh vÀ giÁo dỤc giỚi tÍnh. tÂm lÝ hỌc giỚi tÍnh

Có thể định nghĩa, giới tính là toàn bộ những đặc điểm ở con người, tạo

nên sự khác biệt giữa nam và nữ.

– Trong đời sống con người, hai giới không thể tồn tại độc lập mà luôn

luôn tác động đến nhau, có mối quan hệ qua lại mật thiết vôi nhau. Sự quan

hệ qua lại này bị thi phối bởi nhiều đặc điểm về sinh lí, về tâm lí ở mỗi người,

bởi những đặc điểm về văn hoá, chính trị, phong tục tập quán của xã hội,

trong đó có các đặc điểm đặc trưng của mỗi giới. Từ đó lại hình thành nên

nhiều yếu tố mới, hiện tượng mới trong đời sống giới tính như: Sự giao tiếp

giữa hai giới, quan hệ bạn khác giới, quan hệ tình yêu, hôn nhân…

Đời sống giới tính của con người rất phong phú và đa dạng. Đó là

những hiện tượng tâm lí và sinh lí nảy sinh trong đời sống của mỗi người,

trong mối quan hệ giữa người này với người kia, trong cuộc sống chung của

mỗi người, trong sự tồn tại của xã hội. Đời sống giới tính là một tổng hợp

phức tạp các hiện tượng tâm lí và sinh lí có liên quan đến mỗi giới, là mọi yếu

tố, mọi mặt hoạt động, mọi mối quan hệ… trong đời sống của con người,

trong đời sống xã hội loài người:

Đời sống giới tính là toàn bộ những hiện tưởng về mặt sinh lí cơ thể

xuất hiện trong con người có liên quan đến hệ cơ quan sinh dục (đời sống

tính dục), những hiện tượng tâm lí đặc trưng ở mỗi giới, những hiện tượng

tâm lí người trong mối quan hệ với người khác giới (tình bạn khác giới, tình

yêu…), những hiện tượng trong đời sống xã hội như hôn nhân, gia đình…

Gần đây, còn xuất hiện những biểu hiện phức tạp hơn của đời sống giới tính

như: các quan điểm yêu đương ngoài hôn nhân, tình dục ngoài hôn nhân, tình

bạn và sự giao tiếp giữa những người khác giới…

Như vậy khái niệm về giới tính cần được hiểu một cách đầy đủ toàn

diện về nhiều mặt sinh lí và tâm lí, cá nhân và xã hội, hôn nhân và gia đình,

tình yêu và tình bạn, sự giao tiếp nam nữ…

b) Ngồn gốc của giới tính

Những đặc điểm giới tính do hai nguồn gốc chủ yếu tạo ra:

Page 28: TÂM LÝ HỌC GIỚI TÍNH VÀ GIÁO DỤC GIỚI TÍNHsaomaidata.org/library/90...  · Web viewtÂm lÝ hỌc giỚi tÍnh vÀ giÁo dỤc giỚi tÍnh. tÂm lÝ hỌc giỚi tÍnh

Nguồn gốc sinh học

Theo Giáo sư Nguyễn Quang Vinh, giới tính cua con người do các tế

bào sinh sản quyết định. Tế bào sinh sản nam (tinh trùng) có 2 loại: loại chứa

nhiễm sắc thể X quy định giới tính nữ; loại chứa nhiệm sắc thể Y quy định

giới tính nam. Tế bào sinh sản nữ (trứng) chỉ chứa một loại nhiễm sắc thể X.

Nếu tinh trùng mang nhiễm sắc thể X thụ tinh với trứng, em bé sinh ra sẽ là

nữ (X+X). Nếu tinh trùng mang nhiễm sắc thể Y thụ tinh với trứng, em bé sinh

ra sẽ là nam (X+Y). “Giới tính của động vật (trong đó có con người được

quyết định ngay từ lúc thụ tinh, tuỳ theo trứng X được kết hợp với tinh trùng X

hay tinh trùng Y”. Theo Iu.I. Kusniruk và A.P. Serbakov đó là giới tính di

truyền. Có thể nói, giới tính di truyền là giới tính được xác định bởi sự thụ tinh

giữa trứng và tinh trùng. Sự thụ tinh như vậy (X+Y hay X+X) trong những điều

kiện thông thường, sẽ làm cho thai nhi có cấu tạo đặc trưng của cơ thể nam

hoặc nữ trong quá trình phát triển của nó. Do cấu tạo khác nhau nên hoạt

động sinh lí mỗi giới có những đặc điểm khác nhau. Các tuyến sinh dục và

các hoóc môn (nội tiết tố) tiết ra từ các tuyến này sẽ quy định những đặc điểm

sinh lí cơ thể riêng biệt và các thành phần tạo nên những nét tính cách đặc

trưng cho mỗi giới.

Trong quá trình phát triển cơ thể, sự trưởng thành về sinh lí cơ thể

cũng góp phần quan trọng tạo nên những đặc điểm giới tính nhất định. Đến

một độ tuổi nhất định, tuyến sinh dục sẽ hoạt động, và ngày càng hoạt động

mạnh hơn, sự hoạt động của tuyến sinh dục, nhất là khi tuyến này bước vào

thời kỳ trưởng thành (thời kỳ chín muồi tình dục), sẽ tạo nên những chức

năng sinh lí đặc biệt của cơ thể người: sự dậy thì, hoạt động tình dục, sinh

sản… Tuyến sinh dục ở người hình thành từ tuần thứ 8 trong đời sống ờ tử

cung, nhưng mãi đến tuổi dậy thì mới hoạt động. Đây là “tuổi thành thục về

sinh dục”, hay “tuổi chín muồi sinh dục”, nó đánh dấu thời kì bắt đầu có khả

năng sinh sản, ở nữ từ 13, 14 tuổi; ở nam từ 15 đến 16 tuổi. Vai trò của tuyến

sinh dục rất lớn đối với việc tạo nên giới tính. Các tác giả Iu.I. Kusniruk và

A.P. Serbakov cho rằng chính các tuyến sinh dục (buồng trứng hoặc tinh

Page 29: TÂM LÝ HỌC GIỚI TÍNH VÀ GIÁO DỤC GIỚI TÍNHsaomaidata.org/library/90...  · Web viewtÂm lÝ hỌc giỚi tÍnh vÀ giÁo dỤc giỚi tÍnh. tÂm lÝ hỌc giỚi tÍnh

hoàn) tạo nên “giới tính đích thực” của con người. “Gọi là giới tính đích thực

và nó phản ánh đặc trưng khả năng của tuyến sinh dục sản sinh ra tinh trùng

hay trứng, đồng thời cũng tạo ra những hoóc môn giới tính nam hoặc nữ đặc

thù. Các hoóc môn này ảnh hưởng quyết định đến cấu trúc và sự phát triển

của các cơ quan sinh dục bên trong và bên ngoài cùng những đặc điểm giới

tính phụ khác. Qua đó, nó giúp cho con người có đầy đủ những chức năng

thực sự của người nam hay người nữ. Như vậy giới tính đích thực là giới tính

được xác định do sự hoạt động thực tế của hệ cơ quan sinh dục. Ở những

người có hệ cơ quan sinh dục nam, những hoạt động của hệ cơ quan này

không bình thường, chẳng hạn, không tiết ra được nội tiết tố nam đủ tỉ lệ cần

thiết sẽ không thể trở thành một người nam giới bình thường. Họ sẽ không có

giới tính bình thường.

Giới tính đích thực có thể được tình thành trong quá trình phát triển của

con người theo lứa tuổi, và có thể được thể hiện rõ từ khoảng 13, 14 tuổi trở

đi, đặc biệt là từ độ tuổi 18 – 20, khi đến độ chín muồi giới tính.

Nguồn gốc xã hội:

Những đặc điểm sinh học chưa đủ để xác định giới tính. Theo Giáo sư

Trần Trọng Thuỷ “Tình cảm và ý thức về giới tính của một người chỉ được

hình thành qua sự giao tiếp với những ngời khác qua sự ảnh hưởng của giáo

dục và các điều kiện xã hội. Những đặc điểm về giải phẫu và sinh lí của cơ

thể mới chỉ là tiền đề, là cơ sở vật chất tạo nên sự khác biệt giới tính mà thôi”.

Do đó có thể nói, giới tính của con người còn do các mối quan hệ xã hội chi

phối.

Xã hội ảnh hưởng đến giới tính con người ở nhiều mặt:

+ Xã hội quy định, đánh giá con người theo những phẩm chất, đặc

điểm, tư thế, tác phong riêng, phù hợp giới tính. Điều này thể hiện ở phong

tục, tập quán, đạo đức xã hội. Như phong tục tập quán Việt Nam thường đòi

hỏi người con gái phải dịu dàng, hiền hậu ý tứ, người con trai phải cao

thượng, dũng cảm, cương quyết… Xã hội cũng đòi hỏi mối quan hệ và cư xử

nam nữ phải tuân theo những chuẩn mực nhất định: phải có “khoảng cách”

Page 30: TÂM LÝ HỌC GIỚI TÍNH VÀ GIÁO DỤC GIỚI TÍNHsaomaidata.org/library/90...  · Web viewtÂm lÝ hỌc giỚi tÍnh vÀ giÁo dỤc giỚi tÍnh. tÂm lÝ hỌc giỚi tÍnh

(giới hạn) nhất định, phải có tư thế, tác phong lịch sự, phải tuân theo những

quy định nào đó trong giao tiếp…

+ Xã hội quy định sự phân công lao động giữa nam và nữ khác nhau:

người nam thường được đòi hỏi nhiều hơn ở những công việc khó khăn,

nguy hiểm, nặng nhọc… ở người nữ lại là những công việc cần sự khéo léo,

nhẹ nhàng hơn…

+ Xã hội ảnh hưởng đến yếu tố có nguồn gốc sinh học: người nam

thường được đòi hỏi phải cao lớn, khoẻ mạnh, người nữ cơ thể nhỏ bé, “xinh

xắn” hơn: Ngay cả bản năng tình dục cũng được xã hội nhìn nhận, đánh giá

theo những tiêu chuẩn, đạo đức văn hoá nhất định: “Tình dục ở con người

chịu sự chi phối của các quy luật tâm lí, quy luật tình cảm, của ý thức đạo

đức, văn hoá, xã hội. Ở Việt Nam ta, vấn đề tình dục thường được coi là một

vấn đề gắn với đạo đức xã hội”.

+ Sự giáo dục của xã hội, của người lớn ảnh hưởng nhiều đến đặc

điểm giới tính của con người. Nếu một em gái được nuôi dưỡng, giáo dục

theo những điều kiện và môi trường của con trai, em đó dễ có hành vi cư xử

của con trai, dễ có nhiều nam tính hơn và ngược lại đối với một em trai cũng

vậy.

Giới tính còn được xác định bởi tâm lí, ý thức của chính bản thân mỗi

người. Đến một độ tuổi nhất định, đến một sự phát triển nhất định về mặt ý

thức, mỗi một người có thể ý thức được giới của mình, mình thuộc về giới

nào và cần phải có những phẩm chất nào để thể hiện giới… Sự ý thức về giới

này bị chi phối bởi nhiều yếu tố như:

+ Sự nhận thức về những quy định của xã hội về giới của mỗi người.

Chẳng hạn, nếu là con trai, cần phải có những phẩm chất nào cần phải ăn

mặc như thế nào, cần phải hành động, làm việc như thế nào. Nếu là con gái,

cần phải rèn luyện những khả năng gì, cần phải trang điểm, ăn mặc, làm việc,

có tác phong tư thế dáng điệu như thế nào…

Page 31: TÂM LÝ HỌC GIỚI TÍNH VÀ GIÁO DỤC GIỚI TÍNHsaomaidata.org/library/90...  · Web viewtÂm lÝ hỌc giỚi tÍnh vÀ giÁo dỤc giỚi tÍnh. tÂm lÝ hỌc giỚi tÍnh

+ Sự nhận thức những đánh giá của mọi người về giới của bản thân

hình làm cho mỗi người chú ý rèn luyện về những phẩm chất đặc điểm mà

mình cần có theo ý thức về giới của họ.

+ Sự nhận thức bản thân hoặc tự cảm nhận mình thuộc về giới nào và

có những nhu cầu đặc trưng cho giới đó. Có những người tuy cơ thể là nam

giới nhưng luôn luôn nghĩ mình cần phải là nữ và hướng hoạt động, sinh hoạt

của mình theo nữ giới (hiện tượng “xu hướng giới”, “bản sắc giới”).

+ Sự tác động của những người xung quanh, chủ yếu là sự giáo dục

của gia đình và nhà trường.

3. Mối quan hệ giữa giới và giới tính

Giới và giới tính có mối quan hệ rất chặt chẽ và phức tạp. Giới là cơ sở

để tạo nên giới tính. Những đặc điểm sinh học của giớí xác định giới tính về

mặt sinh học đồng thời cũng là những biểu hiện của giới tính về mặt sinh học.

Ở góc độ này, giới là một bộ phận của giới tính, đồng thời giới chi phối và

quyết định giới tính. Những đặc điểm xã hội của giới cũng góp phần hình

thành những đặc điểm xã hội của giới tính. Chúng cũng chi phối và quyết định

sự hình thành giới tính.

Ngược lại, giới tính lại phải phù hợp với giới và bị xã hội đánh giá theo

giới, giới tính cũng góp phần khắc hoạ rõ nét thêm về giới. Ở một mức độ nào

đó giới tính cũng chính là giới hoặc giới tính lại là một thành phần của giới

Khi nói đến giới người ta hiểu giới tính là những đặc điểm của giới, giới

tính là một bộ phận của giới, là những yếu tố tạo nên khái niệm giới, là cơ sở

để phân định rõ hơn vai trò, chức năng, vị trí của giới.

Khi nói đến giới tính, giới lại được hiểu như là những đặc điểm của giới

tính. Chẳng hạn, giới là những đặc điểm giới tính về mặt cấu trúc sinh lí cơ

thể.

Trong thực tế đời sống xã hội, khái niệm giới và giới tính thường bị

dùng lẫn lộn nhưng mọi người vẫn có thể chấp nhận.

Page 32: TÂM LÝ HỌC GIỚI TÍNH VÀ GIÁO DỤC GIỚI TÍNHsaomaidata.org/library/90...  · Web viewtÂm lÝ hỌc giỚi tÍnh vÀ giÁo dỤc giỚi tÍnh. tÂm lÝ hỌc giỚi tÍnh

II. NHỮNG VẤN ĐỀ CỦA GIỚI TÍNH1. Sự phức tạp của đời sống giới tính

Do giới tính có nguồn gốc sinh vật và nguồn gốc xã hội, nên đặc điểm

của giới rất đa dạng.

Theo nhà xã hội học nổi tiếng Eveline Sullezot, chuyên gia của Liên

Hợp Quốc, việc nghiên cứu những đặc điểm giới tính con người phải xem xét

trên ba bình diện: cơ thể (sinh học), cá nhân (tâm lí học) và xã hội (xã hội

học).

Khi phân tích sự khác biệt giũa nam và nữ, Giáo sư Trần Trọng Thuỷ

đã nhấn mạnh những đặc trưng sinh lí và những đặc trưng tâm lí xã hội.

Xét riêng về mặt sinh lí, E. Sullezot cũng đưa ra 7 dấu hiệu có sự khác

biệt rõ ràng giữa nam và nữ như sau: Những ngóc môn tính dục, sự hình

thành những tế bào sinh sản, cơ quan sinh sản và chức năng của nó, hình

thái cơ thể, sự già lão của cơ thể, bệnh lí cơ thể tuổi thọ. Về mặt tâm lí và xã

hội, E. Sullezot cũng tán thành với quan niệm của E. Maccoby: “Sự khác biệt

giới tính biểu hiện từ khi trẻ em còn rất nhỏ (2, 3 tuổi) và biểu hiện ở nhiều

mặt hoạt động khác nhau: vui chơi, chơi đồ chơi, quan hệ với người lớn, hoạt

động trí tuệ…” và quan niệm của Streven Golđberg: “Mỗi giới có một số đặc

trưng về tính khí, dù môi trường xã hội là như thế nào và những khác biệt ấy

quy định vai trò xã hội của đàn ông và đàn bà một cách khác nhau. Vì đàn

ông có tính gây hấn hơn và có xu hướng thiết lập những quan hệ đẳng cấp

thống trị hơn đàn bà, nên họ nhất định vượt qua mọi các để đi tới vị trí lãnh

đạo và quyền lực mà một xã hội có thể xem lại”.

Quan niệm của Rene Zazzo đề cập đến hai xu hướng khác nhau: ở con

gái có ưu thế trong ngôn ngữ (nói năng), ở con trai lại có ưu thế về hoạt động

trí tuệ, trong lĩnh vực logic và nhìn nhận không gian.

Sự khác biệt giới tính còn thể hiện ở nhiều mặt khác. Kể cả quá trình

trưởng thành của cơ thể. “Nhiều khác biệt về các thuộc tính sinh học của đàn

ông và đàn bà cũng còn bí ẩn, đặc biệt là những đặc điểm không có liên quan

Page 33: TÂM LÝ HỌC GIỚI TÍNH VÀ GIÁO DỤC GIỚI TÍNHsaomaidata.org/library/90...  · Web viewtÂm lÝ hỌc giỚi tÍnh vÀ giÁo dỤc giỚi tÍnh. tÂm lÝ hỌc giỚi tÍnh

trực tiếp với con người mới đẻ ra. Chẳng hạn, đồng hồ sinh học của mỗi giới

hoạt động một cách khác nhau. Theo mức độ trưởng thành (trạng thái của

xương trong các giai đoạn phát triển khác nhau của cơ thể) khi đẻ ra, con gái

phát triển trước con trai một tháng. Con gái biết đi, biết nói sớm hơn. Dần

dần, khoảng cách ấy càng tăng lên cho đến lúc bước vào lứa tuổi quá độ (dậy

thì) thì cách nhau tới 2 năm, và đến khi kết thúc sự tăng trưởng thể chất thì

cách nhau tới 3 năm”.

Nhiều tác giả khác đều đã khẳng định các đặc điểm giới tính về sinh lí,

tâm lí, xã hội trong các công trình nghiên cứu của mình.

Trong đời sống xã hội, con người luôn có quan hệ mật thiết với nhau,

do đó, trong quan hệ giữa những người khác giới, có nhiều vấn đề phức tạp

về giới tính nảy sinh, như: tình bạn khác giới, khoảng cách giữa người nam

và người nữ, những rung cảm xuất hiện trước người khác giới, tình yêu, hôn

nhân…

– Có thể kết luận về những đặc điểm giới tính như sau:

+ Những đặc điểm giới tính ở con người rất phức tạp. Nó bao gồm

những đặc điểm về sinh lí, về tâm lí, về xã hội.

+ Giới tính biểu hiện trong mọi lĩnh vực hoạt động của con người trong

đời sống.

+ Giới tính biểu hiện trong quá trình trưởng thành của cơ thể, ngay từ

lúc thụ tinh, trong quá trình phát triển cơ thể từ khi mới sinh ra đến lúc trưởng

thành và trong suốt cuộc dời. Sự biểu hiện ấy bị chi phối bởi nhiều yếu tố,

sinh lí, tâm lí, điều kiện xã hội, hoạt động cá nhân, những thuộc tính di truyền,

những tác động xã hội.

+ Giới tính biểu hiện trong các hoạt động tâm lí con người, trong toàn

bộ các phẩm chất nhân cách. Nó gắn liền với đời sống tâm lí và toàn bộ nhân

cách con người.

+ Giới tính của con người có thể bị biến đổi do những tác nhân về tâm

lí, sinh lí, xã hội. Những ảnh hưởng của sự hoạt động của sự rèn luyện,

Page 34: TÂM LÝ HỌC GIỚI TÍNH VÀ GIÁO DỤC GIỚI TÍNHsaomaidata.org/library/90...  · Web viewtÂm lÝ hỌc giỚi tÍnh vÀ giÁo dỤc giỚi tÍnh. tÂm lÝ hỌc giỚi tÍnh

những can thiệp của con người về mặt xã hội, về mặt y tế đều có thể làm cho

giới tính thay đổi. Những chức năng của các bộ phận sinh lí cơ thể, đặc biệt

là chức năng của hệ cơ quan sinh dục tạo nên nhiều đặc điểm về giới tính,

nhiều vấn đề của giới tính như tình dục, các bệnh lây lan qua đường tình

dục…

+ Sự quan hệ giữa hai giới trong đời sống xã hội lại làm nảy sinh nhiều

đặc điểm giới tính mới và làm phức tạp thêm những đặc điểm giới tính đã có

ở con người.

+ Các phong tục tập quán, các quy định của xã hội, cũng chi phối nhiều

đặc điểm giới tính, làm cho đặc điểm giới tính ở từng vùng, từng miền, từng

giai đoạn lịch sử có những đặc trưng riêng làm phong phú và phức tạp thêm

đời sống giới tính của con người.

2. Mối quan hệ giữa hai giới

Những đặc điểm tạo nên sự khác biệt về giới (giới tính) không làm cho

hai giới đối lập nhau, mà ngược lại, làm cho hai giới có quan hệ mật thiết với

nhau hơn, tạo nên những mối quan hệ đặc biệt giữa hai giới.

Những mối quan hệ này rất phức tạp, đa dạng, chủ yếu bao gồm: sự

cư xử giao tiếp trong xã hội, tình bạn khác giới, tình yêu nam nữ, hôn nhân

gia đình…

a) Mối quan hệ cư xử, giao tiếp giữa hai giới

Khác với mối quan hệ giữa hai người đồng giới, quan hệ giữa hai

người khác giới thường đặc biệt hơn: Khi giao tiếp cư xử với người khác giới,

ở con người thường xuất hiện những rung cảm, những ý nghĩ “không bình

thường”, không tự nhiên. Những cảm xúc này được tạo bởi những đặc điểm

sinh học (nhất là do chức năng của hệ cơ quan sính dục tạo ra) hoặc những

đặc điểm tâm lí xã hội (tính e thẹn, mắc cỡ, mọi người gán ghép, nhận xét

đánh giá…): Đặc biệt từ tuổi dậy thì trở đi, khi con người bước vào thời kì

chín muồi sinh dục.

Page 35: TÂM LÝ HỌC GIỚI TÍNH VÀ GIÁO DỤC GIỚI TÍNHsaomaidata.org/library/90...  · Web viewtÂm lÝ hỌc giỚi tÍnh vÀ giÁo dỤc giỚi tÍnh. tÂm lÝ hỌc giỚi tÍnh

Ở thời kì này, do sự trưởng thành về sinh dục, do sự quan tâm đánh

giá một cách chặt chẽ của xã hội, do sự phát triển tâm lí… mỗi khi giao tiếp

cư xử với người khác giới, con người thường có những cảm xúc giới tính rõ

rệt, mạnh mẽ. Họ có thể thận trọng, ý tứ tế nhị, e ngại, mắc cỡ hoặc cũng có

thể xuất hiện những rung động, ham muốn, đòi hỏi về tình cảm hoặc tình dục.

Những cảm xúc này bị chi phối bởi những quy định của xã hội bởi những

chuẩn mực đạo đức, phong tục, tập quán. Nó cũng có quan hệ mật thiết với

đạo đức phong tục, tập quán. Chẳng hạn, xã hội quy định giữa nam và nữ khi

giao tiếp với nhau phải có giới hạn nhất định, không được quá thân mật,

suồng sã, người nam, người nữ phải có những tư thế tác phong phù hợp, lời

ăn tiếng nói, và hành vi cử chỉ ý nhị, lịch sự… Có những dân tộc, địa phương,

người nam không được bước vào buồng riêng của người nữ, không được

cầm tay người nữ…

Do những đặc điểm giới tính, con người phải tuân theo những chuẩn

mực đạo đức nhất định khi cử xử giao tiếp với nhau. Nói cách khác, giới tính

tạo nên những mối quan hệ đặc biệt giữa nam và nữ, chi phối những hành vi

giao tiếp, cư xử giữa người nam và người nữ. Trong mỗi mối quan hệ, có

những hành vi cư xử tương ứng: Nếu hai người xa lạ, hành vi cư xử phải tế

nhị, lịch sự, phải giữ khoảng cách… Nếu đó là hai vợ chồng, họ có thể rất

thân mật, có thể có hành vi âu yếm, yêu thương…

Như vậy, vấn đề giới tính gắn liền với đạo đức, phong tục tập quán.

Chính vì thế khi nghiên cứu, tác động vào giới tính con người, ta phải chú ý

đến những yếu tố đạo đức, phong tục, tập quán và những yếu tố xã hội khác.

b) Mối quan hệ bạn khác giới

Do những đặc điểm giới tính, mối quan hệ bạn khác giới có những đặc

điểm khác hẳn mối quan hệ bạn đồng giới và trở thành nhu cầu trong đời

sống tình cảm con người. Nhưng cũng do đó, tình bạn khác giới có nhiều

điểm khác với tình bạn đồng giới như: trong cư xử giữa hai người bạn, không

thể có những hành động quá thân mật, không thể suốt ngày bên nhau, đi đâu

Page 36: TÂM LÝ HỌC GIỚI TÍNH VÀ GIÁO DỤC GIỚI TÍNHsaomaidata.org/library/90...  · Web viewtÂm lÝ hỌc giỚi tÍnh vÀ giÁo dỤc giỚi tÍnh. tÂm lÝ hỌc giỚi tÍnh

cũng có nhau… Tình bạn khác giới có thể rất đẹp, rất tốt, tồn tay lâu dài,

nhưng nó cũng có thể chuyển hoá dần thành tình yêu.

Ở tuổi thanh niên, tình bạn khác giới rất khác với tình bạn đồng giới, và

nhiều khi “tình bạn khác giới chứa đựng một tình yêu đang nảy sinh được

chất chứa ở bên trong”.

Tình bạn khác giới ở các em nữ biểu hiện khác biệt so với các em nam.

Nhu cầu về tình cảm này ở các em nữ thường cao hơn, sớm hơn và sâu sắc

hơn ở các em nam. Theo Giáo sư I.X. Kon, các em gái thường chọn bạn trai

làm người bạn lí tưởng, trong nhóm giao lưu của các em có đông bạn trai

hơn, mà phần nhiều là bạn trai cao tuổi hơn. Về nhu cầu tình bạn thân khác

giới, ở các em gái thường sớm hơn các em trai từ 1,5 năm đến 2 năm. Tình

bạn khác giới của các em gái cũng phức tạp, mang màu sắc cảm xúc nhiều

hơn. “Tình bạn khác giới của các em nữ có tiêu chuẩn tinh tế hơn, mang

nhiều động cơ tâm lí hơn ở các em nam”.

Ở cùng một lứa tuổi, nhu cầu bạn khác giới ở các em nữ thường cao

hơn. Trong công trình nghiên cứu của mình, I.X. Kon đã kết luận, từ lớp 5 đến

lớp 10 (tương đương từ lớp 9 đến lớp 12 ở Việt Nam) trong tất cả các lứa

tuổi, số lượng các em gái kết bạn khác giới bao giờ cũng nhiều hơn các em

trai, và tuổi càng lớn thì sự khác biệt càng rõ hơn. Các công trình nghiên cứu

của V.G. Cacpion và B. Zazzo ở Pháp cũng cho kết quả tương tự. Những kết

quá điều tra của nhóm cán bộ nghiên cứu của Khoa Tâm lí Trường Đại học

Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh năm 1988 cũng hoàn toàn thống nhất với

nhận định trên.

Như thế, mối quan hệ khác giới nảy sinh ở tuổi thanh thiếu niên từ tuổi

dậy thì trở đi có tính tất yếu và tình bạn khác giới ở các em nam cũng khác

biệt so với các em nữ. Theo I.X. Kon, đó là sự khác biệt rất cơ bản, nhưng

“không phải đơn thuần chỉ là do khác biệt giới tính, mà là những khác biệt lứa

tuổi giới tính. Vấn đề không chỉ là ở chỗ phụ nữ nói chung giàu cảm xúc hơn

nam giới, mà là ở chỗ các em gái chín muồi sinh dục sớm hơn, sớm có hình

thức tự ý thức hơn các em nam”. Tình bạn khác giới của các em nảy sinh do

Page 37: TÂM LÝ HỌC GIỚI TÍNH VÀ GIÁO DỤC GIỚI TÍNHsaomaidata.org/library/90...  · Web viewtÂm lÝ hỌc giỚi tÍnh vÀ giÁo dỤc giỚi tÍnh. tÂm lÝ hỌc giỚi tÍnh

sự khác biệt giới tính, và bị chi phối bởi sự phát triển giới tính, trước hết là

những đặc điểm phát triển tính dục và đời sống tình cảm của các em.

c) Mối quan hệ tình yêu và quan hệ tình dục

Những đặc điểm giới tính, kể cả những đặc điểm tính dục, tình dục và

đặc điểm tâm lí thường thúc đẩy hai người bạn khác giới đi đến tình yêu trong

những điều kiện phù hợp. Sự khác biệt giới tính thường có tác dụng hỗ trợ

tình yêu thêm hấp dẫn, đằm thắm và sâu sắc. Trong những trường hợp này,

sự khác biệt giới tính có tác dụng làm cho hai người bổ sung cho nhau, phối

hợp với nhau, đan xen nhau, có khi đến mức hoà nhập vào nhau, “Hai người

trở thành một”… Nói cách khác sự khác biệt giới tính có thể dẫn tới quan hệ

tình yêu và quan hệ tình dục.

Quan hệ tình yêu là một dạng quan hệ tình cảm đặc biệt giữa hai người

khác giới. Đó là một tình cảm cao cấp được nảy sinh trên cơ sở sự gắn bó

mật thiết, sự cảm thông sâu sắc, sự yêu thương đằm thắm và sự rung cảm

mạnh mẽ giữa hai người. Quan hệ tình yêu thường nảy sinh khi hai người

khác giới có sự nhận thức dầy đủ và tốt đẹp về nhau, thông cảm với nhau,

hoà hợp với nhau cả về đời sống tâm hồn và thể xác. Chính vì vậy, quan hệ

tình yêu là một trong những dạng quan hệ mật thiết nhất giữa hai người khác

giới.

Quan hệ tình dục là quan hệ đặc biệt về mặt sinh lí cơ thể, là sự rung

cảm giới tính mãnh liệt, là những nhu cầu hoà nhập đặc biệt về mặt sinh lí cơ

thể (thường được gọi là nhu cầu về thể xác) giữa hai con người. Quan hệ tình

dục thường được nảy sinh ở con người trong một số điều kiện như: sự phát

triển bình thường và trưởng thành của đời sống tính dục bắt đầu từ giai đoạn

dậy thì của cơ thể, sự phát triển những cảm xúc giới tính, sự ham muốn được

thoả mãn những cảm xúc giới tính mãnh hệt, tình yêu nồng thắm… của con

người. Quan hệ tình dục thường được biểu hiện ở những hành vi cử chỉ vuốt

ve, âu yếm, ôm ấp, bởi những nụ hôn… Quan hệ tình dục có thể xuất phát từ

những bản năng đơn thuần nhưng cũng có thể xuất phát từ tình yêu và bị chi

Page 38: TÂM LÝ HỌC GIỚI TÍNH VÀ GIÁO DỤC GIỚI TÍNHsaomaidata.org/library/90...  · Web viewtÂm lÝ hỌc giỚi tÍnh vÀ giÁo dỤc giỚi tÍnh. tÂm lÝ hỌc giỚi tÍnh

phối mạnh mẽ bởi tình yêu. Ngược lại, tình yêu cũng có thể nảy sinh và phát

triển từ sự hoà hợp về quan hệ tình dục.

Một vài quan niệm sai lầm cho rằng tình yêu chỉ là vấn đề tình dục,

hoặc trong tình yêu chủ yếu là tình dục. Trong thực tế, khi yêu nhau, ngoài

tình dục còn nhiều yếu tố tâm lí có tác dụng rất mạnh mẽ đến tình yêu như sự

thương mến, sự gần gũi, sự đồng cảm, sự giúp đỡ và quan tâm đến nhau

thậm chí có thể hi sinh vì nhau. Tuy nhiên, trong tình yêu, yếu tố tình dục

cũng có vai trò rất quan trọng. Tình dục có thể làm nảy sinh tình yêu, là thành

phần và cũng là sự biểu hiện của tình yêu, có thể làm cho tình yêu thêm say

đắm, mãnh liệt hơn, làm cho tình yêu phát triển mạnh thêm, sâu nặng thêm.

Ngược lại, tình dục không phù hợp có thể làm cho tình yêu phai nhạt hoặc tan

vỡ.

S. Freud cho rằng: “Hạt nhân của cái mà ta gọi là tình yêu, đó là tình

yêu tình dục”, “là sự đam mê tình dục, “có mục đích là hai giới được gần

nhau”.

Như vậy giữa hai người khác giới có thể nảy sinh mối quan hệ tình yêu

và mối quan hệ về tình dục. Những mối quan hệ này có ý nghĩa rất lớn đến

cuộc sống, sự phát triển, sự tồn tại của con người.

d) Mối quan hệ hôn nhân

Hôn nhân trước hết là một hiện tượng xã hội, trong đó, xã hội thừa

nhận hai người khác giới được chung sống với nhau, bị ràng buộc với lulđu

bởi luật pháp. Xã hội quy định hai người phải có trách nhiệm đối với nhau và

cùng có trách nhiệm trước xã hội. Bình thường, xã hội quy định chỉ hai người

khác giới mới được kết hôn với nhau.

Chính do giới tính tác động, hai người khác giới mới có nhu cầu kết hôn

với nhau. Chính giới tính có vai trò đặc biệt quan trọng tạo nên hôn nhân.

Nhờ những đặc điểm tính dục và tâm lí tính dục, mới có những quan hệ yêu

đương, quan hệ vợ chồng, có sự sinh con, có quan hệ cha con, mẹ con, có

đời sống gia đình…

Page 39: TÂM LÝ HỌC GIỚI TÍNH VÀ GIÁO DỤC GIỚI TÍNHsaomaidata.org/library/90...  · Web viewtÂm lÝ hỌc giỚi tÍnh vÀ giÁo dỤc giỚi tÍnh. tÂm lÝ hỌc giỚi tÍnh

Hôn nhân và đời sống gia đình còn bị chi phối bởi những quy luật tâm

lí, xã hội. Nó cũng là những hiện tượng tâm lí xã hội phức tạp gắn liền với đời

sống sinh lí, tâm lí, đời sống tính dục của con người. Trong hôn nhân, quan

hệ tình dục giữa hai vợ chồng được coi như là trách nhiệm, nghĩa vụ, quyền

lợi. Trong hôn nhân, những vấn đề giới tính khác, nhất là tâm lí tính dục có

vai trò rất quan trọng. Có thể nói, quan hệ hôn nhân là hệ quả, là sản phẩm

của đời sống giới tính.

e) Một vài kết luận về quan hệ giữa hai giới

– Giữa hai giới có mối quan hệ rất mật thiết và phức tạp.

Những mối quan hệ đó được tạo nên bởi giới tính, bởi sự khác biệt

giữa nam và nữ, đồng thời bị chi phối bởi chính sự khác biệt đó. Chúng gắn

bó mật thiết với giới tính và trở thành những vấn đề điển tình, quan trọng của

giới tính.

Như thế, nghiên cứu về giới tính, hoặc nói đến giới tính không thể chỉ

đơn thuần chú ý đến những đặc điểm giới tính (đã nêu ở mục c), mà còn phải

nghiên cứu đến những mối quan hệ giữa hai giới. Những mối quan hệ đó,

cùng với những đặc điểm giới tính, đều là những vấn đề của giới tính, đều có

ý nghĩa quan trọng đối với cuộc sống của con người. Giới tính là một lĩnh vực

rất phức tạp, đa dạng, phong phú trong đời sống con người. Cần phải hiểu

giới tính một cách toàn diện và sinh động. Cũng cần phải tránh một số quan

điểm sai lầm trong nhiều người hiện nay cho giới tính chỉ là tình yêu, tình dục.

– Những vấn đề cần chú ý của giới tính.

Giới tính và mối quan hệ giữa hai giới có nội dung rất phong phú và đa

dạng, bao gồm các đặc điểm, các vấn đề sinh lí, tâm lí xã hội. Trong đó, có

những đặc điểm, những vấn đề điển hình hoặc có ý nghĩa quan trọng nổi bật

trong đời sống con người.

Khi xét đến giới tính hoặc tiến hành giáo dục giới tính cho con người,

cần chú ý đến những vấn đề quan trọng, điển hình sau đây: Những vấn đề

sinh lí cơ thể, cấu tạo và chức năng của nhiều bộ phận, sức khoẻ, vẻ đẹp cơ

Page 40: TÂM LÝ HỌC GIỚI TÍNH VÀ GIÁO DỤC GIỚI TÍNHsaomaidata.org/library/90...  · Web viewtÂm lÝ hỌc giỚi tÍnh vÀ giÁo dỤc giỚi tÍnh. tÂm lÝ hỌc giỚi tÍnh

thể… Đặc biệt là đời sống tính dục của con người. Trong đó có những chức

năng đặc biệt như sự dậy thì, sự sinh sản, hiện tượng kinh nguyệt, đời sống

tình dục…

– Những vấn đề tâm lí xã hội như mối quan hệ và sự cư xử giữa nam

và nữ, tình bạn khác giới, tình yêu nam nữ, đời sống vợ chồng, cuộc sống gia

đình. Đây là những vấn đề liên quan rất mật thiết với giới tính.

– Những vấn đề giới tính liên quan mật thiết với đạo đức, phong tục tập

quán như đạo đức giới tính, thẩm mĩ giới tính, phong tục tập quán về giới

tính, vấn đề đời sống, sinh hoạt dưới góc độ của giới tính như: ăn mặc, sửa

soạn trang điểm, hành vi cử chỉ, tư thế tác phong…

Sau đây chúng ta sẽ xem xét cụ thể hơn về những vấn đề quan trọng

và điển tính của giới tính.

3. Những vấn đề quan trọng và điển hình của giới tính

Các đặc điểm giới tính rất đa dạng, phức tạp. Tuy nhiên, khi nghiên cứu

các đặc điểm giới tính, cần chú ý đến các loại đặc điểm giới tính điển hình

chủ yếu sau đây:

a) Những đặc điểm giới tính về mặt sinh lí

+ Cấu tạo và chức năng của hệ cơ quan sinh dục. Đây là sự khác biệt

dễ thấy và quan trọng nhất về mặt sinh học.

+ Hình thái, cấu tạo và chức năng của các hệ cơ quan khác trong cơ

thể (hệ xương, cơ, tỷ lệ mỡ, da…).

+ Tốc độ sinh trưởng và phát triển sinh lí cơ thể. Độ lớn của cơ thể

(chiều cao, cân nặng…).

+ Sự già lão và độ trẻ trung.

+ Hiện tượng dậy thì, kinh nguyệt.

+ Sự sinh nở và nuôi con.

+ Thể lực, hình dáng và sự phát triển cơ thể.

Page 41: TÂM LÝ HỌC GIỚI TÍNH VÀ GIÁO DỤC GIỚI TÍNHsaomaidata.org/library/90...  · Web viewtÂm lÝ hỌc giỚi tÍnh vÀ giÁo dỤc giỚi tÍnh. tÂm lÝ hỌc giỚi tÍnh

+ Tỉ lệ mắc bệnh và các bệnh thường mắc.

+ Tuổi thọ.

+ Hoạt động tình dục, và các bệnh thuộc về lĩnh vực này.

b) Những đặc điểm giới tính về mặt tâm lí, xã hội

Đó là những đặc điểm khác biệt của người nam so với người nữ về mặt

tâm lí xã hội như:

+ Nhu cầu, thái độ, hoạt động của người nam, người nữ trong đời sống

xã hội.

+ Hoạt động nhận thức, tình cảm, ý chí, tính cách, năng lực, tính khí, xu

hướng…

+ Vai trò, chức năng xã hội.

+ Các mối quan hệ xã hội và hoạt động xã hội.

+ Hành vi, cử chỉ, tư thế, tác phong, cách ăn mặc, trang điểm…

+ Các vấn đề thẩm mỹ giới tính và đạo đức giới tính.

Như vậy giữa nam và nữ có nhiều đặc điểm rất khác biệt. Sự khác biệt

đó thể hiện trong toàn bộ đời sống tâm lí, sinh lí, hoạt động cuộc sống của

con người. Sự khác biệt này dần dần được xã hội thừa nhận, và cũng dần

dần trở thành những điểm đặc trưng cho mỗi giới, tạo nên sự khác biệt giữa

hai giới. Đó là những đặc điểm giới tính của con người. Xã hội căn cứ vào

những đặc điểm này để sử dụng, đánh giá con người theo giới của họ. Một

người không có những đặc điểm phù hợp với những đặc điểm mà xã hội quy

định giới của họ phải có họ có thể sẽ bị coi là không bình thường, hoặc bị

đánh giá thấp hơn về mặt phẩm chất nhân cách. Nói một cách khác, nếu con

người không có những đặc điểm giới tính phù hợp với giới của họ, sẽ bị coi là

người không bình thường”.

c) Những vấn đề giới tính nảy sinh do mối quan hệ giữa hai giới

Page 42: TÂM LÝ HỌC GIỚI TÍNH VÀ GIÁO DỤC GIỚI TÍNHsaomaidata.org/library/90...  · Web viewtÂm lÝ hỌc giỚi tÍnh vÀ giÁo dỤc giỚi tÍnh. tÂm lÝ hỌc giỚi tÍnh

Sự khác biệt nam nữ không làm cho nam và nữ xa cách mà ngược lại

làm cho hai giới có mối quan hệ mật thiết hơn, gắn bó với nhau hơn, đặc biệt

từ tuổi dậy thì trở đi. Từ độ tuổi này, hai giới thường hướng đến nhau, quan

tâm đến nhau, ảnh hưởng tác động đến nhau, thậm chí họ tìm đến nhau để

xây dựng những mối quan hệ đặc biệt trong xã hội, thủ yếu là các mối quan

hệ sau:

Quan hệ giao tiếp và cư xử giữa hai giới.

– Vấn đề tình bạn khác giới.

– Vấn đề tình yêu nam nữ.

Quan hệ hôn nhân – gia đình.

Việc nghiên cứu về giới tính phải gắn với việc nghiên cứu về các mối

quan hệ trên. Các mối quan hệ đó vừa là hệ quả của những đặc điểm giới

tính, vừa là biểu hiện của đời sống giới tính. Các mối quan hệ đó chính là

những vấn đề, những nội dung sinh động của đời sống giới tính.

III. SỰ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN GIỚI TÍNH1. Sự xuất hiện và quá trình hình thành của giới tính ở con người

Trong nhiều công trình nghiên cứu, người ta đều thấy rằng từ tuần lễ

thứ 8 đến tuần lễ thứ 10, giới tính tuyến sinh dục mới phân li, và khi ấy, thai

nhi bắt đầu phát triển theo giới tính một cách rõ ràng.

Khi ra đời, đứa trẻ chỉ có một dấu hiệu giới tính bề ngoài, đó là cấu

tạo cơ quan sinh dục bên ngoài. Đây là yếu tố chủ yếu và quan trọng, để xã

hội xác nhận giới tính của em là trai hay gái, và từ đó đánh giá em theo

những phẩm chất giới tính tương ứng. Đặc điểm này cũng là cơ sở cho sự

giáo dục và hình thành ý thức về giới tính của đứa trẻ cho đến khi em bé

bước vào tuổi dậy thì.

– Theo nhiều tác giả từ tuổi lên 3 lên 4, trẻ em đã bước đầu ý thức

được giới tính của mình, biết được mình thuộc giới nào và phân biệt được

giới tính của những người xưng quanh mặc dù mới chỉ dựa vào những thuộc

Page 43: TÂM LÝ HỌC GIỚI TÍNH VÀ GIÁO DỤC GIỚI TÍNHsaomaidata.org/library/90...  · Web viewtÂm lÝ hỌc giỚi tÍnh vÀ giÁo dỤc giỚi tÍnh. tÂm lÝ hỌc giỚi tÍnh

tính bên ngoài. Từ khoảng 6, 7 tuổi, giới tính bắt đầu rõ rệt, biểu hiện ở sự

phân hoá các hoạt động và định hướng giá trị. Các em trai và các em gái chơi

trò chơi khác nhau theo góc độ giới tính… Sự khác biệt giới tính này càng

ngày càng rõ rệt hơn. “Đứa trẻ bắt đầu biết xử sự theo những dấu hiệu mà nó

nhận thấy là nó thuộc về giới nào, đồng thời ngược lại nó thấy thẹn thùng

trước các dấu hiệu mà theo nó thuộc về giới kia”. Đứa trẻ sẽ lựa chọn những

dạng nào đó trong số các khuôn mẫu hành vi được chấp nhận ở môi trường

xung quanh nó.

Từ tuổi dậy thì trở đi, ở trẻ em có sự biến đổi rất quan trọng và rõ rệt về

giới tính, với những sự thay đổi lớn về cơ thể và bắt đầu có sự định hướng

giới tính. Nhiều người cho rằng từ tuổi này, cơ thể người bước sang giai đoạn

thứ hai của quá trình hình thành giới tính… Thời kì này ở nữ bắt đầu từ 12

đến 14 tuổi, ở nam từ 13 đến 15 tuổi. Trong thời kì này, các tuyến sinh dục

bắt đầu hoạt động tích cực làm con người phát triển rõ rệt theo giới: họ đần

đần thực sự trở thành nam hay nữ (hoặc giới thứ ba). Đồng thời các dấu hiệu

tương ứng với giới tính theo hoóc môn sinh dục cũng được phát triển và chức

năng sinh dục hình thành… Nhiều tác giả gọi thời kì này là thời kì trưởng

thành sinh dục hay thời kì chín muồi về tính dục, chín muồi giới tính.

Ở thời kì này, cơ thể đạt đến sự trưởng thành về sinh dục, tức là bắt

đầu có khả năng sinh sản. Toàn bộ cơ thể thay đổi một cách sâu sắc nhưng

sự thay đổi này ở nam và nữ, và ở từng cá thể có khác nhau. Dần dần, nó

làm cho những đặc điểm về bề ngoài của con người được xác định, chẳng

hạn, người nam có hình thể khác hẳn với người nữ.

Mặt khác, những dấu hiệu lệnh thành chức năng tính dục xuất hiện ở

nam có những đợt mộng tinh đầu tiên, và ở nữ là hiện tượng kinh nguyệt.

Cùng với các hiện tượng đó, sự biến đổi về hình dáng cơ thể biến đổi về tâm

sinh lí ngày càng nhiều và rõ nét, tác động mạnh mẽ đến ý thức của trẻ em về

bản thân mình.

Page 44: TÂM LÝ HỌC GIỚI TÍNH VÀ GIÁO DỤC GIỚI TÍNHsaomaidata.org/library/90...  · Web viewtÂm lÝ hỌc giỚi tÍnh vÀ giÁo dỤc giỚi tÍnh. tÂm lÝ hỌc giỚi tÍnh

Những chức năng tính dục ngày càng xuất hiện rõ rệt và phát triển với

nhiều biểu hiện khác nhau như khả năng tình dục, sinh sản… tuy rằng ở nam

và nữ khác nhau.

Ở nam, vào khoảng từ 14 đến 19 tuổi đã xuất hiện sự quan tâm đến

giới nữ. Điều này liên quan đến việc tuyến sinh dục hoạt động mạnh, sản sinh

ra các hoóc môn sinh dục nam (Testosteron). Dần dần, sự quan tâm đến giới

nữ được thể hiện một cách cụ thể, và xuất hiện lòng ham muốn gần gũi về

thể xác.

Ở nữ, chức năng tính dục hình thành sớm hơn nam (khoảng từ 12 đến

16 tuổi) nhưng sự phát triển tính tích cực tính dục do cơ quan phát dục tạo ra

chậm hơn, và từ từ đạt tới đỉnh cao sau nhiều năm. Đồng thời sự phát triển

tính tích cực này lại phức tạp hơn nhiều so với nam, nó gắn liền với nhiều đặc

điểm tâm lí, xã hội khác một cách mật thiết hơn so với nam. Tính tích cực tính

dục ở nữ được quy định bởi số lượng hoóc môn sinh dục nữ (Prosestoron) do

các tuyến sinh dục tiết ra. Đó là những biểu hiện cụ thể cho thấy các em đã

bước vào thời kì chín muồi tính dục, chín muồi giới tính. A.V. Petrovxki cho

rằng, ở những trường hợp bình thường, thời kì chín muồi tính dục bắt đầu ở

nữ từ 12 đến 14 tuổi và kết thúc khoảng từ 16 đến 18 tuổi: còn ở nam bắt đầu

từ khoảng 13 đến 15 tuổi và kết thúc ở tuổi 18 – 20.

Tuy nhiên, thời hạn và cường độ của sự chín muồi tính dục phụ thuộc

vào nhiều yếu tố: có những đặc điểm sinh lí có tính di truyền lẫn yếu tố điều

kiện sinh hoạt, kinh tế, xã hội, tình trạng sức khoẻ, dinh dưỡng, khí hậu, đời

sống tâm lí… Các yếu tố bất lợi (như điều kiện sinh hoạt thấp kém, ăn uống

thiếu chất, bệnh tật…) thường gây ra sự thay đổi chậm trễ, mất cân bằng…

trong sự phát triển cơ thể, tính dục, tâm lí.

Sự chín muồi tính dục bị chi phối bởi nhiều yếu tố phức tạp khác dẫn

tới sự biến đổi to lớn về đời sống vật chất và tinh thần của con người. Đồng

thời, được tác động của nhiều yếu tố, ý thức về giới tính dần dần được hình

thành. Đó là khả năng nhận biết mình mang giới tính nào, khả năng điều

Page 45: TÂM LÝ HỌC GIỚI TÍNH VÀ GIÁO DỤC GIỚI TÍNHsaomaidata.org/library/90...  · Web viewtÂm lÝ hỌc giỚi tÍnh vÀ giÁo dỤc giỚi tÍnh. tÂm lÝ hỌc giỚi tÍnh

chỉnh hành vi cho phù hợp với những đòi hỏi, những định hướng về tinh thần,

đạo đức đã được thừa nhận trong xã hội về giới tính.

Trong thời kì này, các em cũng “thức tỉnh môn quan tâm với người khác

giới”. Sự quan tâm này chưa có ngay sắc thái tình dục dặc thù vốn tiêu biểu

cho thời kì tình dục trưởng thành. Theo I.X. Kon, A.V. Petrovxki, ở các em

thiếu niên hình thành mối quan hệ đặc biệt, có thể xác định đó như là sự yêu

thương mang màu sắc tình cảm thanh cao. Chỉ về sau, cùng với lúc kết thúc

thời kỳ chín muồi giới tính, con người mới thức tỉnh những cảm xúc tình dục

đặc thù, bộc lộ tính hoạt động sinh dục và hình thành ý thức giới tính trưởng

thành.

Cùng với sự biến đổi rõ rệt về đời sống tâm lí của các em trong thời kì

chín muồi giới tính, tâm lí của thiếu niên phong phú hơn lên rất nhiều nhờ

những ấn tượng mới, cảm xúc mới, nhưng lại không ổn định. Các em thường

nhạy cảm quá mức, dẫn đến sự mất cân bằng về tâm lí: lúc hiếu động, lúc

lầm lì, khi lạnh lùng, khi nhiệt tình quá mức, lúc rụt rè, lúc quá trớn cố ý kèm

theo những hành vi có tính thách thức… Có trường hợp các em thiếu cân

bằng trong hoạt động thần kinh, khả năng làm việc giảm sút, hay bực bội, cáu

có gắt gỏng hay khóc lóc… Tình trạng này dễ xảy ra ở em gái, nhất là những

ngày hành kinh.

Những đặc điểm nêu trên của thời kì chín muồi giới tính đặt ra những

yêu cầu đối với các bậc phụ huynh và các nhà sư phạm trong việc giáo dục

các em. Việc tác động giáo dục các em một cách phù hợp tế nhị là hết sức

quan trọng trong thời kì này. Trong đó, việc trang bị cho các em những kiến

thức cần thiết, đúng đắn về giới tính, việc đối xử có tính sư phạm, sự quan

tâm đến các em, tạo cho các em một môi trường hoạt động tốt đẹp… có ý

nghĩa rất to lớn đến sự phát triển nhân cách, đến cuộc đời của các em sau

này.

– Sự hình thành những nét tâm lí giới tính, kể cả tâm lí tính dục còn

phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác: sự phát triển xã hội và điều kiện sống, các

mối quan hệ giao tiếp của cá thể, nền giáo dục mà trẻ em được hấp thụ,

Page 46: TÂM LÝ HỌC GIỚI TÍNH VÀ GIÁO DỤC GIỚI TÍNHsaomaidata.org/library/90...  · Web viewtÂm lÝ hỌc giỚi tÍnh vÀ giÁo dỤc giỚi tÍnh. tÂm lÝ hỌc giỚi tÍnh

phong tục tập quán xã hội, toàn bộ đặc điểm nhân cách… Đặc biệt, sự hình

thành đặc điểm giới tính gắn liền với sự hình thành phát triển nhân cách.

Nhân cách chi phối những đặc điểm và đời sống giới tính. Nhiều đặc điểm

của đời sống giới tính cũng chính là đặc điểm nhân cách. Thậm chí những

đặc điểm đơn thuần về sinh lí, về tính dục được “xã hội hoá”, “tâm lí hoá”, có

khi cũng trở thành những đặc điểm nhân cách.

Sự hình thành phát triển giới tính gắn bó hữu cơ với sự hình thành phát

triển nhân cách. Không thể tách rời hai quá trình này. Tác động vào giới tính

cũng chính là tác động vào nhân cách và ngược lại. Những phẩm chất đạo

đức, năng lực, xu hướng, khí chất… đều có thể mang màu sắc của giới tính,

gắn bó với giới tính, phát triển theo giới tính. Những đặc điểm giới tính lại ảnh

hưởng trở lại đến nhân cảm và toàn bộ đời sống tâm lí con người.

2. Các giai đoạn phát triển của giới tính

Có nhiều cách phân chia các giai đoạn phát triển giới tính dựa trên

những cơ sở khác nhau như: lứa tuổi, quan hệ xã hội, sự giao tiếp xã hội, đời

sống hôn nhân, sinh nở… Sau đây là cách phân chia các giai đoạn phát triển

giới tính phổ biến nhất:

a) Dựa trên sự phát triển sinh lí cơ thể theo lứa tuổi

Có thể phân chia sự phát triển giới tính của con người theo các giai

đoạn sau đây:

Giai đoạn 1: từ khi lọt lòng mẹ đến 6, 7 tuổi

Giới tính chưa hình thành một cách rõ rệt mặc dù có những biểu hiện

khác nhau giữa các em trai và em gái trong hoạt động vui chơi (chơi trò chơi

hay các đồ chơi). Chưa có sự khác biệt rõ ràng về đặc điểm cơ thể do hoạt

động của tuyến sinh dục nam và nữ chưa phát triển mạnh về chức năng sinh

lí giới tính (các chức năng tính dục chưa rõ rệt). Ở giai đoạn này, các em trai

và gái quan hệ với nhau rất tự nhiên, chưa bị chi phối bởi các cảm xúc giới

tính.

Giai đoạn 2: từ 7, 8 tuổi đến 10, 12 tuổi

Page 47: TÂM LÝ HỌC GIỚI TÍNH VÀ GIÁO DỤC GIỚI TÍNHsaomaidata.org/library/90...  · Web viewtÂm lÝ hỌc giỚi tÍnh vÀ giÁo dỤc giỚi tÍnh. tÂm lÝ hỌc giỚi tÍnh

Giới tính đã bắt đầu hình thành rõ rệt và sự phát triển của các em nam

và nữ có sự khác nhau cả về sinh lí và tâm lí. Tốc độ sinh trưởng của các em

nữ nhanh hơn các em nam nên ở thời kì này các em nữ thường cao hơn các

em nam. Đã có sự “xác định khoảng cách” giữa nam và nữ. Các em nam ít

thân mật hoặc là chơi chung với các em nữ. Sự giao tiếp giữa hai giới đã có

sự giữ kẽ hơn do các rung cảm giới tính đã bắt đầu xuất hiện dù các em chưa

ý thức được.

Giai đoạn 3: từ 10, 12 tuổi đến 14, 15 tuổi ở nữ; từ 11, 12 tuổi đến 16, 17 tuổi ở nam.

Bắt đầu bước vào thời kì dậy thì. Tốc độ sinh trưởng của nữ tiếp tục

tăng nhanh hơn nam nên cơ thể các em nữ to lớn và khoẻ mạnh hơn nam.

Các chức năng tính dục bắt đầu hoạt động, đặc biệt là từ độ tuổi 13, 14 trở đi

(kinh nguyệt, trứng cá, vỡ tiếng, mộng tinh…). Đã có sự cư xử khác biệt rõ rệt

giữa nam và nữ. Các em có ý thức rõ rệt về giới của mình và có sự quan tâm

đến người khác giới. Các em đã bắt đầu chú ý đến vẻ đẹp cơ thể và có nhiều

băn khoăn về các vấn đề tính dục, tình yêu ở người lớn…

Giai đoạn 4: từ 15, 16 tuổi đến 18, 20 tuổi ở nữ; từ 17, 18 tuổi đến 22, 25 tuổi ở nam.

Các em bước vào thời kì chín muồi giới tính. Ở giai đoạn cuối của lứa

tuổi này, con người phát triển tương đối hoàn chỉnh về các chức năng tính

dục (có khả năng sinh sản), xuất hiện những rung cảm yêu đương chân thực

và chân chính, có ý thức đầy đủ về giới và giới tính. Có ý thức trách nhiệm

trong tình yêu và hôn nhân.

Giai đoạn 5: từ 20, 21 tuổi đến 30, 35 tuổi ở nữ; từ 25, 27 tuổi đến 35, 40 tuổi ở nam.

Giai đoạn phát triển cao của đời sống giới tính, các chức năng tính dục

và sinh sản phát triển mạnh. Cơ thể phát triển hoàn thỉnh và đẹp nhất trong

cuộc đời. Có ý thức cao về thầm mĩ, đạo đức và xã hội giới tính. Có sự phát

Page 48: TÂM LÝ HỌC GIỚI TÍNH VÀ GIÁO DỤC GIỚI TÍNHsaomaidata.org/library/90...  · Web viewtÂm lÝ hỌc giỚi tÍnh vÀ giÁo dỤc giỚi tÍnh. tÂm lÝ hỌc giỚi tÍnh

triển mạnh trong đời sống tình yêu và hôn nhân, là lứa tuổi mà con người nên

kết hôn và sinh nở.

Giai đoạn 6: từ 35, 37 tuổi đến 48, 50 tuổi ở nữ; từ 40, 45 tuổi đến 55, 60 tuổi ở nam.

Thời kì phát triển cao của đời sống giới tính cả về sinh lí cơ thể và tâm

lí xã hội giới tính.

Giai đoạn 7: từ 50, 52 tuổi đến 55, 60 tuổi ở nữ; từ 60, 62 tuổi đến khoảng 70, 75 tuổi ở nam.

Đây là giai đoạn có nhiều biến đổi mạnh (khủng hoảng) của đời sống

giới tính. Là thời kì hồi xoan và mãn kinh ở nữ. Ở nam cũng có nhiều biến đổi

mạnh theo chiều hướng các chức năng tính dục yếu dần đi, đặc biệt là đời

sống tình dục.

Giai đoạn 8: từ trên 55, 60 tuổi ở nữ và trên 70, 75 ở nam.

Đây là giai đoạn bước sang tuổi già, các chức năng cơ bản của đời

sống tính dục tắt dần.

Sự phân chia theo lứa tuổi như trên có tính tương đối vì đời sống giới

tính và các chức năng tính dục còn tuỳ thuộc rất nhiều vào tình trạng sức

khoẻ, tình trạng yêu đương và hôn nhân… chẳng hạn đối với những người

phụ nữ bệnh tật, không có tình yêu, không kết hôn, không có khả năng sinh

nở… việc mãn kinh có thể diễn ca rất sớm, khoảng 40 – 45 tuổi và không có

hiện tượng hồi xuân. Ở nam, nếu khoẻ mạnh, các chức năng sinh lí tính dục

có thể kéo dài tới tuổi 75, 80 hoặc hơn nữa. Các giai đoạn lứa tuổi có thể

chênh lệch từ 2 đến 3 tuổi.

b) Sự phân chia giai đoạn phát triển giới tính theo sự hình thành và phát triển các mối quan hệ giới tính

Giai đoạn 1: thời kì giao tiếp nam nữ không bị chi phối bởi giới tính,

thường từ khi mới sinh ra đến 6, 7 tuổi.

Page 49: TÂM LÝ HỌC GIỚI TÍNH VÀ GIÁO DỤC GIỚI TÍNHsaomaidata.org/library/90...  · Web viewtÂm lÝ hỌc giỚi tÍnh vÀ giÁo dỤc giỚi tÍnh. tÂm lÝ hỌc giỚi tÍnh

Đây là thời kì các đặc điểm giới tính không bộc lộ rõ rệt, các em nam

nữ quan hệ thân mật, hồn nhiên trong sáng, không bị chi phối bởi các rung

cảm tính dục.

Giai đoạn 2: thời kì giao tiếp nam nữ bắt đầu bị chi phối bởi giới tính.

Đây là thời kì mà con người có những giao tiếp cư xử với bạn khác

giới, thường khoảng 7, 8 tuổi trở đi. Quan hệ của các em chịu sự chi phối bởi

những rung cảm giới tính, rung cảm tình đúc nên các em thường giữ kẽ, e

ngại khi tiếp xúc với nhau. Những rung cảm giới tính, rung cảm tình dục tạo

nên sự quan tâm đến những người khác giới, đặc biệt từ 16 đến 18 tuổi trở

đi. Những rung cảm này thường là cơ sở giúp cho con người hướng tới việc

xây dựng tình yêu đôi lứa hoặc tìm hiểu về đời sống hôn nhân gia đình. Nếu

thời kì này kẻo quá dài, trên 30 tuổi ở nữ hoặc 40 tuổi ở nam mà chưa đi tới

tình yêu hoặc hôn nhân, con người dễ bị mất cân bằng trong đời sống tâm

sinh lí.

Giai đoạn 3: thời kì yêu đương.

Thời kì này bắt đầu từ khi con người xuất hiện những rung cảm yêu

đương, đặc biệt là có tình yêu thực sự (thường khoảng 17, 18 tuổi trở đi ở nữ

và khoảng 20, 25 tuổi trở đi ở nam). Những rung cảm yêu đương và những

cảm xúc trong tình yêu, tình dục làm cho con người có sự phát triển đầy đủ và

hoàn chỉnh hơn về mặt nhân cách và cá tính. Những rung cảm này giúp cho

con người hướng tới việc chinh phục và xây dựng tình yêu đôi lứa. Tình yêu

làm cho con người có sự phát triển đặc biệt về mặt tâm hồn, tâm lí, giúp phát

triển cao hơn về mặt tài năng và nhân cách, giúp cho con người có cuộc sống

và hoạt động ổn định hơn, cân bằng hơn. Tình yêu giúp cho con người quan

tâm hơn về đời sống hôn nhân và hướng tới hôn nhân. Tuy nhiên, sự hiểu sai

lệch và những cư xử không đúng trong tình yêu, sự tan vỡ trong tình yêu và

những hậu quả của các cuộc tình không đứng đắn, có thể dẫn tới sự khủng

hoảng trong sự phát triển nhân cách và tài năng.

Giai đoạn 4: thời kì hôn nhân và gia đình.

Page 50: TÂM LÝ HỌC GIỚI TÍNH VÀ GIÁO DỤC GIỚI TÍNHsaomaidata.org/library/90...  · Web viewtÂm lÝ hỌc giỚi tÍnh vÀ giÁo dỤc giỚi tÍnh. tÂm lÝ hỌc giỚi tÍnh

Thời kì này có thể bắt đầu từ 20, 22 tuổi ở nữ và 25, 27 tuổi ở nam, khi

con người bước vào đời sống hôn nhân. Nhiều chức năng giới tính phát triển

mạnh, các đặc trưng giới tính thể hiện rõ ràng, đậm nét, ảnh hưởng tới sự

hình thành, phát triển của nhân cách. Sự kết hôn giúp cho con người trưởng

thành hơn, chín chắn hơn trong cuộc sống, dễ tạo lập được sự phát triển

mạnh mẽ trong sự nghiệp và công danh. Con người trưởng thành hơn trong

hoạt động, trong giao tiếp. Có ý thức trách nhiệm hơn đối với xã hội và gia

đình. Việc kết hoạt chung sống vợ chồng thường dễ giúp cho con người biết

lo toan hơn trong cuộc sống, biết. tu chí làm ăn, có sự cẩn trọng và chu đáo

trong hoạt động, giao tiếp. Con người trưởng thành hơn, hiểu biết đầy đủ và

chín chắn hơn, ổn định hun về tính cách. Nếu hôn nhân bất hạnh, con người

sẽ sớm biến động về nhân cách, bất ổn trong sự phát triển, có thể dẫn tới

những cực đoan trong xu hướng, thế giới quan, nhân sinh quan.

Giai đoạn 5: thời kì gia đình đa thế hệ.

Thường bắt đầu từ độ tuổi 48 đến 50, khi gia đình đã nảy sinh thế hệ

thứ ba trở đi. Các đặc điểm của đời sống giới tính đã ổn định và gắn liền với

sự phát triển của nhân cách, của gia đình. Các đặc điểm này được điều chỉnh

và biến đổi dần theo hướng giảm dần về tính chất, chức năng hoặc cường độ

hoạt động.

IV. MỘT SỐ VẤN ĐỀ GIỚI TÍNH CẦN CHÚ Ý Ở TUỔI THANH NIÊN, HỌC SINH

Tuổi thanh niên, học sinh là lứa tuổi từ khoảng 14, 15 đến 17, 18 tuổi.

Đây là lứa tuổi học sinh ở cuối cấp phổ thông cơ sở và trung học phổ thông,

đó là lứa tuổi bước vào thời kì chín muồi tính dục, từ khi bắt đầu cho đến khi

kết thúc thời kì này. Bởi vậy đời sống giới tính của lứa tuổi này rất phức tạp,

bao gồm cả sự khủng hoảng mất cân bằng của giai đoạn phát dục, và cả

những nét đặc trưng của hoạt động giới tính, tính dục của giai đoạn trưởng

thành sinh dục. Bởi vậy ở lứa tuổi này, những đặc trưng cơ bản của đời sống

giới tính đều được biểu hiện khá rõ nét.

Page 51: TÂM LÝ HỌC GIỚI TÍNH VÀ GIÁO DỤC GIỚI TÍNHsaomaidata.org/library/90...  · Web viewtÂm lÝ hỌc giỚi tÍnh vÀ giÁo dỤc giỚi tÍnh. tÂm lÝ hỌc giỚi tÍnh

Thực ra, sự phát dục bắt đầu diễn ra ở lứa tuổi sớm hơn (12 – 13 tuổi).

Chính sự phát triển này đã đưa các em vào đời sống tính dục và thúc đẩy

hoạt động tâm lí tính dục. Ngay từ tuổi thiếu niên đã xuất hiện những “vấn đề

giới tính” trong đời sống tâm lí, sinh lí của các em. Giáo sư A.V. Petrovxki đã

khẳng định sự phát dục kích thích, phát triển sự quan tâm đến người khác

giới, làm xuất hiện những cảm xúc, tình cảm mới. Ông cũng cho rằng, “Mức

độ bận tâm và tập trung vào nội tâm, vào những cảm giác và rung động mới

vào vị trí của chúng trong đời sống của thanh thiếu niên được quyết định bởi

những điều kiện xã hội rộng rãi, cũng như bởi những hoàn cảnh cụ thể riêng

biệt trong đời sống và sự giáo dục thiếu niên, bởi đặc điểm của sự giao tiếp

của thiên niên”. Nhiều công trình nghiên cứu cho thấy ngay ở tuổi thiếu niên

các em đã có thể quan tâm tới những quan hệ bạn khác giới, tình yêu, đến

việc đọc sách báo, tranh ảnh khiêu dâm, thậm chí, đã có thể quan tâm đến

vấn đề sinh dục, tình dục. Ngay từ khi có kinh lần đầu, hoặc có tinh trùng, tức

là từ lúc bắt đầu dậy thì, các em đã có thể quan tâm đến những vấn đề về

giới tính, kể cả chuyện người lớn”. “Ảnh hưởng xấu có thể do việc đọc những

sách báo không phù hợp lứa tuổi, do xem những phim ảnh dành cho người

lớn”. Tất cả những điều đó cũng như những câu chuyện với bạn bè về những

vấn đề khác nhau của tình yêu và giới tính sẽ kích thích sự phát triển rất

mạnh hứng thú đối với khía cạnh tâm lí của những quan hệ con người theo

xu hướng khiêu dâm và tình dục quá sớm. Các nhà tâm lí học Việt Nam:

Phạm Minh Hạc, Trần Trọng Thuỷ, Lê Khanh… cũng khẳng định, “ở tuổi thiếu

niên đã xử hiện sự quan tâm đến bạn khác giới”.

Đến tuổi thanh niên, học sinh, đời sống tính dục và quan hệ yêu đương

còn thể hiện rõ ràng, phong phú và phát triển ở mức cao hơn. Nhiều em đã có

những biểu hiện khá sâu sắc của đời sống tính dục, thậm chí, bước vào hoạt

động tình dục. “Đa số nam nữ thanh niên lứa tuổi này đã ở vào thời kỳ trưởng

thành tính dục”. Vì thế những mối quan hệ yêu đương và quan hệ tính dục rất

có thể xảy ra ở các em. Mặt khác, do hiện tượng “gia tốc” phát triển, ngày

nay, hiện tượng yêu đương hoặc quan tâm đến người bạn khác giới có thể

xuất hiện rất sớm ở thanh thiếu niên.

Page 52: TÂM LÝ HỌC GIỚI TÍNH VÀ GIÁO DỤC GIỚI TÍNHsaomaidata.org/library/90...  · Web viewtÂm lÝ hỌc giỚi tÍnh vÀ giÁo dỤc giỚi tÍnh. tÂm lÝ hỌc giỚi tÍnh

Ở tuổi thanh niên, học sinh, ngoài những biểu hiện vệ sinh lí tính dục

như biến đổi hình dáng cơ thể, xuất hiện những “rung động thầm kín”, mộng

tinh, thủ dâm… nhu cầu về tình bạn khác giới ngày càng tăng. Đặc biệt là

quan hệ yêu đương. Bên cạnh sự âu yếm thơ ngây của trẻ em (những cái

nhìn, những lá thư ngắn…) đã xuất hiện những say mê thực sự dầu tiên,

những nhu cầu thực sự về tình yêu và sự kích thích tò mò trước những rung

động thầm kín. Hiện tượng này thậm chí, có thể có ngay cá ở các em học

sinh từ lớp 7 trở đi. A.V. Petrovxki cũng nhận định rằng có khi, “tình yêu say

đắm ở các học sinh thường có tính chất “bệnh dịch” – trong lớp này không có

ai yêu, còn trong lớp kia tất cả, không trừ một ai”.

Tình yêu ở tuổi thanh niên, học sinh cũng đã rất phức tạp và ở mức độ

phát triển mạnh mẽ. Nhiều nhà tâm lí học trên thế giới trong những công trình

nghiên cứu của mình đều thừa nhận rằng trong các em có tình yêu thực sự,

mạnh mẽ, sâu sắc. Tình yêu nam nữ của các em không phải chỉ xuất phát từ

những nhu cầu tính dục, nhu cầu sinh lí, mà là sự thống nhất hài hoà của sự

say mê những “cảm giác tính dục” với nhu cầu giao tiếp về nhân cách, nhu

cầu về tình cảm sâu sắc và sự hoà hợp với người yêu. Nhiều trường hợp,

“tình yêu bằng tâm hồn, bằng rung động của tình cảm, tình yêu thanh cao,

thuần khiết, trong sáng đến trước, và là chủ yếu trong quan hệ yêu đương

của các em”. Trong khi ấy tình yêu do sự “đòi hỏi về sinh lí” thường đến sau

và có khi rất mờ nhạt. Có nhiều trường hợp tình yêu của các em còn lẫn lộn

với quan hệ bạn bè. Tình trạng “nửa yêu nửa bạn” ấy có khi kéo dài cho đến

hết tuổi học sinh trung học phổ thông.

Nhiều nhà khoa học cũng khẳng định rằng, biểu hiện về tình yêu của

nam và nữ ở lứa tuổi thanh niên, học sinh cũng khác nhau. Ở các em nữ,

mặc dù xuất hiện những chức năng tính dục sớm hơn nhưng do sự phát triển

chậm hơn và từ từ, và do đặc điểm tâm lí tính dục, tâm lí giới tính, nhu cầu về

“tình yêu thanh cao” thường lớn hơn và lấn át sự yêu đương “chung đụng thể

xác”. Trong khi đó ở các em nam “những hứng thú và say mê tình dục lại đến

Page 53: TÂM LÝ HỌC GIỚI TÍNH VÀ GIÁO DỤC GIỚI TÍNHsaomaidata.org/library/90...  · Web viewtÂm lÝ hỌc giỚi tÍnh vÀ giÁo dỤc giỚi tÍnh. tÂm lÝ hỌc giỚi tÍnh

sớm hơn và chỉ sau đó mới xuất hiện khả năng kết hợp chung với sự giao

cảm sâu sắc”.

Tình yêu ở lứa tuổi thanh niên, học sinh về cơ bản là một tình cảm dẹp

đẽ, lành mạnh, trong sáng, là bình thường và tất yếu trong sự phát triển của

con người. Tuy nhiên, nếu các em sống trong một môi trường không được

lành mạnh”, bị ảnh hưởng nhiều bởi văn hoá phẩm đồi trụy, hoặc bởi những

nếp sống ăn chơi đua đòi… tình yêu của các em dễ bị “tầm thường hoá”, “vật

chất hoá”, dễ chỉ trở thành sự thoả mãn những cảm giác thấp hèn và có thể

đưa các em đến sự sa ngã, tan vỡ, đau khổ.

Quan hệ bạn khác giới, quan hệ tình yêu và đời sống tính dục của

thanh niên, học sinh quan hệ mật thiết với đời sống sinh lí, tâm lí của các em.

Đó là những quan hệ phức tạp, đa dạng và mang tính quy luật. Những quan

hệ đó “đưa họ đến gần với vấn đề đạo đức, từ thủ tục săn đón, tỏ tình cho

đến các vấn đề tinh thần trách nhiệm là tinh thần kỉ luật, đạo đức, tự giác”.

Các em thường rất dễ bị lúng túng, bối rối, đôi khi là sự bế tắc, sự sai lầm

trong cách giải quyết vấn đề, trong việc xử lí các “tình huống gay cấn”.

Do đó, “các em rất cần sự giúp đỡ của người lớn trước hết là của cha

mẹ và thầy cô giáo”. Người lớn còn biết cầm giúp đỡ, hướng dẫn các em.

Người lớn không nên can thiệp thô bạo, cấm đoán, phá hoại những tình cảm

thiêng liêng này của các em. “Bất luận trong trường hợp nào đều không được

phỉ báng, chế nhạo, bất bình với sự xuất hiện của nó”. V.A. Sukhomlinxki

cũng yêu cầu. “Loại trừ khỏi nhà trường câu chuyện ồn ào và không cần thiết

về tình yêu của các em học sinh”. Việc can thiệp vào chuyện tâm tình là “đôi

bàn tay sắt”. Nhưng chúng ta không thể buông rơi nó, để mặc cho các em

chập chững, bỡ ngỡ bước vào tình yêu với những hoang mang, lúng túng,

không biết giải quyết, xử sự như thế nào. Cần phải có thái độ trân trọng và tế

nhị, đồng thời cũng không được thờ ơ, lãnh đạm.

Đời sống giới tính của thanh niên, học sinh rất phức tạp, đa dạng. Ở

lứa tuổi này diễn ra toàn bộ quá trình chín muồi tính dục, từ thời kì phát dục

đến khi hoàn thiện những chức năng sinh dục. Do đặc điểm của đời sống,

Page 54: TÂM LÝ HỌC GIỚI TÍNH VÀ GIÁO DỤC GIỚI TÍNHsaomaidata.org/library/90...  · Web viewtÂm lÝ hỌc giỚi tÍnh vÀ giÁo dỤc giỚi tÍnh. tÂm lÝ hỌc giỚi tÍnh

hoạt động và nhiều nguyên nhân tâm lí xã hội phức tạp khác, các em đã thể

hiện rõ rệt những đặc điểm giới tính, đã thể hiện đầy đủ những vấn đề giới

tính điển hình nhất ở con người.

Có thể nói, đời sống giới tính ở lứa tuổi thanh niên, học sinh chủ yếu là

những đặc điểm về tính dục, đời sống tâm lí giới tính và những quan hệ giới

tính đặc trưng, trong đó có quan hệ tình bạn khác giới và tình yêu nam nữ.

Đây là những vấn đề, những mối quan hệ phổ biến, điển hình, quan trọng đặc

trưng cho đời sống giới tính ở các em. Chúng có ý nghĩa lớn đến đời sống,

sinh hoạt, có vai trò quan trọng trong sự phát triển nhân cách, tài năng, đạo

đức của các em, nhất là trong điều kiện tình hình kinh tế, xã hội, giáo dục ở

nước ta hiện nay.

Chương 3: MỘT SỐ VẤN ĐỀ ĐIỂN HÌNH CỦA ĐỜI SỐNG GIỚI TÍNH

I. ĐỜI SỐNG TÍNH DỤC1. Khái niệm tính dục

a) Một số quan niệm về khái niệm tính dục

Khái niệm tính dục là một khái niệm rất phức tạp và được sử dụng theo

nhiều quan niệm khác nhau.

Một số tác giả thường quan niệm tính dục đồng nghĩa với tình dục. Họ

cho rằng, tính dục tức là tình dục. Dùng từ “tính dục” thay thế cho “tình dục”

để trong cách nói được tế nhị, thanh cao hơn mà thôi.

Một số tác giả khác lại quan niệm tính dục theo nghĩa tương đương với

giới tính, để chỉ mọi hiện tượng của đời sống giới tính.

Sự khác biệt của cách dùng từ “tính dục” như trên là tuỳ thuộc vào

quan điểm của từng tác giả.

Tuy nhiên, hiện nay khái niệm tính dục ngày càng được xác định rõ

ràng và cụ thể hơn.

b) Khái niệm tính dục

Page 55: TÂM LÝ HỌC GIỚI TÍNH VÀ GIÁO DỤC GIỚI TÍNHsaomaidata.org/library/90...  · Web viewtÂm lÝ hỌc giỚi tÍnh vÀ giÁo dỤc giỚi tÍnh. tÂm lÝ hỌc giỚi tÍnh

– Trong nhiều công trình nghiên cứu về giới tính hiện đại, khái niệm

“tính dục” thường được dùng để chỉ những hiện tượng, những đặc điểm sinh

lí cơ thể nảy sinh do hoạt động của hệ cơ quan sinh dục.

– Tính dục là một khái niệm rộng, bao gồm nhiều hiện tượng như:

+ Sự phát triển và hình thành các chức năng hoạt động chung của hệ

cơ quan sinh dục nam nữ như: cấu tạo hệ cơ quan sinh dục, sự sản sinh ra

các hoóc môn giới tính sự thụ thai và sinh nở, những biến đổi sinh lí cơ thể ở

nam và ở nữ…

+ Những hiện tượng sinh lí đặc biệt của cơ thể như: dậy thì, kinh

nguyệt, mộng tinh, thủ dâm, tình dục…

+ Những thời kì phát triển đặc biệt của sinh lí cơ thể như: thời kì dậy

thì, sự hồi xuân, những giai đoạn biến đổi, khủng hoảng sinh lí cơ thể khác…

Sự hoạt động của cơ thể thực hiện các chức năng tính dục, tạo ra các

hiện tượng tính dục được gọi là đời sống tính dục của con người.

– Đời sống tính dục luôn gắn bó với các hoạt động tâm lí của con

người, gắn bó với các hiện tượng tâm lí xã hội. Nhiều hiện tượng của đời

sống tính dục chịu sự chi phối mạnh của tâm lí xã hội. Hiện tượng dậy thì ở

thanh thiếu niên làm biến đổi mạnh đời sống tâm lí của các em, đặt ra cho xã

hội và người lớn phải có sự quan tâm và cảm đối xử với các em, cũng như

xây dựng những nhiệm vụ, nội dung, phương pháp giáo dục thích hợp. Hiện

tượng kinh nguyệt, sinh nở, hồi xuân… là những vấn đề lớn đối với cuộc đời

của người phụ nữ, là cơ sở của việc quan tâm và đấu tranh cho sự bình đẳng

nam nữ, xây dựng hạnh phúc gia đình… Vấn đề tình dục luôn luôn là vấn đề

của đạo đức, xã hội, ảnh hưởng mạnh mẽ đến sự phát triển nhân cách con

người…

Như vậy tính dục của con người là một hiện tượng sinh vật – xã hội

phức tạp, là sản phẩm của quá trình tác động giữa các yếu tố sinh vật và yếu

tố xã hội. Đời sống tính dục của con người rất phức tạp, do hoạt động của hệ

cơ quan sinh dục tạo ra, bao gồm nhiều biểu hiện như: sự dậy thì, hiện tượng

Page 56: TÂM LÝ HỌC GIỚI TÍNH VÀ GIÁO DỤC GIỚI TÍNHsaomaidata.org/library/90...  · Web viewtÂm lÝ hỌc giỚi tÍnh vÀ giÁo dỤc giỚi tÍnh. tÂm lÝ hỌc giỚi tÍnh

kinh nguyệt, sự sinh nở, rung cảm tình dục… Trong đó, tình dục chỉ là một

hiện tượng của đời sống tính dục nhưng là hiện tượng rất điển hình, có ý

nghĩa lớn đối với nhân cách con người và được nhiều người quan tâm. Tình

dục có ý nghĩa quan trọng đến mối quan hệ giữa những người khác giới, đến

sự phát triển nhân cách, đến tình yêu đôi lứa…

– Có thể định nghĩa tính dục như sau: Tính dục là toàn bộ những đặc

điểm sinh lí cơ thể về giới tính, được hình thành và phát triển bởi hoạt động

của hệ cơ quan sinh dục.

Những hoạt động được tạo ra bởi những đặc điểm sinh lí cơ thể này

được gọi là đời sống tính dục của con người.

2. Những vấn đề điển hình của đời sống tính dục được quan tâm hiện nay

Hiện nay, trong đời sống tính dục của con người, có một số hiện tượng

được sự quan tâm đặc biệt của các nhà khoa học và giáo dục như:

– Sự sản xuất ra trứng, tinh trùng và những hoóc môn giới tính.

– Các hiện tượng dậy thì, kinh nguyệt, mộng tinh, thủ dâm…

– Đời sống tình dục.

– Các vấn đề của sức khoẻ sinh sản, đặc biệt là: sự thụ thai, sự phát

triển của thai nhi và việc sinh nở, cách thức sinh ra một em bé khoẻ mạnh

thông minh, cao lớn…

Việc xác định và chuyển đổi giới tính.

II. HIỆN TƯỢNG KINH NGUYỆT DƯỚI GÓC ĐỘ TÂM SINH LÍKinh nguyệt là một hiện tượng đặc biệt của đời sống tính dục ở người

nữ. Bản chất vấn đề kinh nguyệt đã được nghiên cứu sâu dưới góc độ của y

học, sinh lí học.

Ở đây chúng ta xem xét vấn đề kinh nguyệt dưới góc độ tâm lí học giới

tính.

Page 57: TÂM LÝ HỌC GIỚI TÍNH VÀ GIÁO DỤC GIỚI TÍNHsaomaidata.org/library/90...  · Web viewtÂm lÝ hỌc giỚi tÍnh vÀ giÁo dỤc giỚi tÍnh. tÂm lÝ hỌc giỚi tÍnh

1. Ý nghĩa của hiện tượng kinh nguyệt

Hiện tượng kinh nguyệt có ý nghĩa rất quan trọng đối với người phụ nữ:

– Nó xác định giới tính ở người nữ một cách rõ rệt vì chỉ người phụ nữ

mới có kinh nguyệt. Chỉ những người phụ nữ nào có chu kì kinh nguyệt đều

đặn mới là người phụ nữ thực sự, có đầy đủ các chức năng của người phụ

nữ bình thường và khoẻ mạnh.

Là cơ sở để xác định, chẩn đoán sức khoẻ của người phụ nữ, những

chức năng nữ tính của người phụ nữ (khả năng sinh nở, tình dục, nữ tính…).

– Là cơ sở để xác định một số biện pháp phòng tránh thai (đặc biệt là

dựa vào ngày trứng rụng).

– Là cơ sở để xác định một số biện pháp sinh con theo ý muốn.

Kinh nguyệt ảnh hưởng đến nhịp sống sinh học của người phụ nữ.

2. Vấn đề vệ sinh kinh nguyệt

Khái niệm vệ sinh kinh nguyệt cần phải hiểu theo nghĩa rộng, bao gồm

những nội dung cơ bản sau đây:

– Xác định những công việc và hoạt động phù hợp với người phụ nữ

trong thời kì hành kinh. Ở thời kì này (khoảng từ 3 đến 4 ngày đầu của chu

kì), người phụ nữ có nhiều biến đổi trực tiếp về mặt sinh lí cơ thể như: mất

máu nhiều, cơ thể yếu hơn bình thường, khả năng đề kháng thấp đi, tâm lí

biến động và dễ mất cân bằng… do đó phải có sự nghỉ ngơi và làm việc hợp

lí, Không nên làm việc ở những môi trường biến động mạnh về nhiệt độ, ô

nhiễm. Không nên lao động, hoạt động quá nặng nhọc…

– Tạo cho người phụ nữ một môi trường tâm lí ổn định, một trạng thái

tâm lí thoải mái, dễ chịu, tránh xúc động mạnh, tránh sự căng thẳng tâm lí

(stress).

– Đảm bảo chế độ dinh dưỡng hợp lí, đầy đủ hơn những ngày bình

thường.

– Đảm bảo việc vệ sinh sạch sẽ.

Page 58: TÂM LÝ HỌC GIỚI TÍNH VÀ GIÁO DỤC GIỚI TÍNHsaomaidata.org/library/90...  · Web viewtÂm lÝ hỌc giỚi tÍnh vÀ giÁo dỤc giỚi tÍnh. tÂm lÝ hỌc giỚi tÍnh

Như vậy, đảm bảo giữ vệ sinh sạch sẽ mới chỉ là công việc tối thiểu của

khái niệm vệ sinh kinh nguyệt. Việc giữ “vệ sinh kinh nguyệt” đúng đắn và

toàn diện sẽ đảm bảo cho người phụ nữ khoẻ mạnh, duy trì được sắc đẹp và

độ trẻ trung bền lâu.

3. Chu kì tâm sinh tí học trong chu kì kinh nguyệt

Nhiều công trình nghiên cứu hiện nay cho thấy chu kì kinh nguyệt của

người phụ nữ thường diễn ra theo những giai đoạn nhất định. Mỗi giai đoạn

của chu kì có những đặc điểm riêng. Những giai đoạn này hình thành tương

đối ổn định, lặp lại ở mỗi chu kì kinh nguyệt. Người ta thấy ở mỗi chu kì

thường diễn ra theo 4 giai đoạn chính sau đây:

– Giai đoạn 1: thời kì “hành kinh”

Giai đoạn này thường bắt đầu từ ngày thứ nhất đến ngày thứ ba hoặc

thứ tư của chu kì. Giai đoạn này là giai đoạn “hành kinh”, máu từ trong tử

cung chảy ra ngoài. Người phụ nữ thường mệt mỏi, khó chịu, kém khả năng

để kháng hơn, do đó dễ bị nhiễm bệnh, dễ bị xúc động, kém khả năng kiềm

chế, hay gắt gỏng, bực bội… Nhìn chung, ở người phụ nữ có sự mất cân

bằng về tâm sinh lí rõ rệt, vẻ đẹp sinh lí cơ thể bị ảnh hưởng (nước da xanh,

đường nét cơ thể dễ bị biến đổi…)

– Giai đoạn 2: thời kì “khô khan” thường bắt đầu từ ngày thứ 5 đến

ngày thứ 11/ 12 của chu kì.

Ở thời kì này, người phụ nữ chưa thực sự có sự cân bằng về tâm sinh

lí, nữ tính chưa biểu hiện ở mức độ cao, động tác, cử chỉ chưa thật khéo léo

và chính xác, khó xuất hiện những rung cảm tình dục (khô khan) và năng lực

tự kiềm thế thấp.

– Giai đoạn 3: thời kì “ướt át”, thường bắt dầu từ ngày thứ 13/ 14 đến

ngày 22/24 của chu kì.

Đây là thời kì đẹp nhất của người phụ nữ trong một chu kì kinh nguyệt.

Có sự cân bằng hài hoà về tâm sinh lí, giàu nữ tính, tính tính thường nhu mì,

hiền hậu hơn, nước da mịn màng, hồng hào, dễ xuất hiện những rung cảm

Page 59: TÂM LÝ HỌC GIỚI TÍNH VÀ GIÁO DỤC GIỚI TÍNHsaomaidata.org/library/90...  · Web viewtÂm lÝ hỌc giỚi tÍnh vÀ giÁo dỤc giỚi tÍnh. tÂm lÝ hỌc giỚi tÍnh

yêu thương và rung động tình dục (ướt át) Trong thời kì này, người phụ nữ có

những ngày rất dễ thụ thai, thường trước và sau ngày rụng trứng từ hai đến

ba ngày.

– Giai đoạn 4: thời kì “khô khan biến động”, thường bắt đầu từ ngày thứ

22, 24 đến hết chu kì (trước ngày hành kinh của chu kì sau).

Thời kì này có đặc điểm gần giống như giai đoạn 2, tuy nhiên phức tạp

hơn về mặt sinh lí cơ thể. Nhiều người phụ nữ thường bị đau bụng, nhức đầu

hoặc cơ thể có những biến động mạnh hơn về mặt sức khoẻ một vài ngày

trước khi hành kinh chu kì sau.

Mỗi một chu kì kinh nguyệt của người phụ nữ bình thường đều có thể

diễn ra theo 4 giai đoạn trên, tạo thành một chu kì tâm sinh lí học trong chu kì

kinh nguyệt của người phụ nữ. Tuy nhiên, do nhiều yếu tố về mặt sức khoẻ

hoặc về mặt tâm lí, xã hội, đặc biệt là chu kì kinh nguyệt cũng có thể không

đều (biến động từ khoảng 26 ngày đến trên 30 ngày) ở mỗi người phụ nữ

khác nhau, sự biểu hiện các đặc điểm tâm sinh lí ở 4 giai đoạn trên có thể

khác nhau, có thể rõ rệt hoặc không rõ rệt. Thậm thí, nhiều người không ý

thức rõ được.

III. TÌNH DỤC1. Khái niệm chung về tình dục

a) Bản chất của tình dục

Tình dục là một biểu hiện điển hình của đời sống tính dục.

Tình dục thường được hiểu theo nhiều góc độ khác nhau dưới ảnh

hưởng tác động của các yếu tố xã hội, các quan điểm sống, các tôn giáo, các

giai đoạn lịch sử…

Ở các nước phương Đông, việc nhìn nhận vấn đề tình dục khác với

phương Tây, họ thường coi tình dục là một vấn đề rất tế nhị, chuyện “phòng

the”, chuyện “sâu kín”… và thường gắn với sự đánh giá một cách khắt khe,

thành kiến.

Page 60: TÂM LÝ HỌC GIỚI TÍNH VÀ GIÁO DỤC GIỚI TÍNHsaomaidata.org/library/90...  · Web viewtÂm lÝ hỌc giỚi tÍnh vÀ giÁo dỤc giỚi tÍnh. tÂm lÝ hỌc giỚi tÍnh

Tình dục thường được hiểu như là những rung cảm đặc biệt nảy sinh ở

con người. Những rung cảm này thường xuất hiện ở con người trước người

khác giới. Tuy nhiên, cũng có những trường hợp xuất hiện trước người đồng

giới (hiện tượng đồng tình luyến ái).

Xét về bản chất, tình dục là một bản năng của con người được nảy sinh

từ hoạt động bình thường của hệ cơ quan sinh dục. Dưới ảnh hưởng hoạt

động của hệ cơ quan sinh dục, những rung cảm tình dục nảy sinh và phát

triển, trở thành những rung động, những cảm xúc ham muốn cần phải được

thoả mãn ở một con người.

Những cảm xúc ham muốn (rung cảm tình dục) này thường có thể nảy

sinh ở con người khi họ bắt đầu bước vào tuổi dậy thì, sau đó dần dần trong

đời sống ở mỗi người. Chúng thường được biểu hiện ở những hành vi như:

âu yếm, vuốt ve, ôm ấp, hôn…

Xét về mặt sinh lí cơ thể, những rung cảm tình dục có thể xuất hiện rất

sớm ở con người, tạo nên những khoái cảm khi vô tình hoặc hữu ý va chạm

vào bộ phận sinh dục hoặc một số bộ phận đặc biệt ở con người. Tuy nhiên,

chúng chủ yếu bắt đầu nảy sinh ở con người khi hệ cơ quan sinh dục có khả

năng sản xuất ra tinh trùng hoặc trứng: Chúng đặc biệt phát triển nhanh và

mạnh khi con người trưởng thành. Như vậy, trước hết, tình dục (những rung

cảm tình dục hay hành vi tình dục) xuất hiện do hoạt động của hệ cơ quan

sinh dục tạo ra, là một chức năng đặc biệt của hệ cơ quan sinh dục, là một

bản năng tất yếu ở con người bình thường và khoẻ mạnh.

b) Vai trò của tình dục

Bản năng tình dục ở con người có ý nghĩa đặc biệt quan trọng:

– Nó đảm bảo cho sự sinh tồn của giống loài, tạo nên sự sinh sản, tạo

nên các thế hệ kế tiếp của loài người.

Từ độ tuổi trưởng thành, bản năng tình dục dẫn tới những hoạt động

tình dục, nhờ đó tạo nên sự cân bằng hài hoà cho sự phát triển tâm sinh lí cơ

thể. Đến một độ tuổi nhất định (thường thường, nam từ 35 trên 40 tuổi; nữ từ

Page 61: TÂM LÝ HỌC GIỚI TÍNH VÀ GIÁO DỤC GIỚI TÍNHsaomaidata.org/library/90...  · Web viewtÂm lÝ hỌc giỚi tÍnh vÀ giÁo dỤc giỚi tÍnh. tÂm lÝ hỌc giỚi tÍnh

30 đến 35 tuổi trở đi), nếu con người không có những sinh hoạt tình dục thích

hợp sẽ có thể dẫn tới tình trạng mất cân bằng tâm sinh lí, dẫn tới sự phát triển

không bình thường về mặt tính cách hoặc sinh lí cơ thể.

Từ độ tuổi trưởng thành trở đi, đặc biệt là sau khi kết hôn, tình dục trở

thành một nhu cầu có tính quy luật trong đời sống con người, tạo nên sự hài

hoà về đời sống tâm lí, sự cân bằng và khoẻ mạnh về sinh lí cơ thể…

Nhu cầu tình dục nhiều khi là nhu cầu rất mạnh, nó có thể ức chế các

nhu cầu khác và chi phối đạo đức, nhân cách con người. Nó có thể là nguyên

nhân dẫn tới sự suy thoái nhân cách, tạo ra các tệ nạn xã hội, đưa con người

tới những hành vi tội lỗi.

c) Đặc điểm của đời sống tình dục ở con người

– Tình dục thường nảy sinh trong mối quan hệ giữa hai người khác

giới, tuy nhiên có khá nhiều trường hợp con người bị rối loạn định hướng tình

dục, dẫn tới trường hợp họ rung động về mặt tình dục đối với người đồng

giới.

– Tình dục là một hiện tượng tâm sinh lí rất phức tạp và đa dạng.

+ Trước hết, nó là một bản năng, tạo thành một nhu cầu, một yếu tố

thúc đẩy từ bên trong của cơ thể con người dẫn tới những hành vi thoả mãn

nhu cầu đó, “nó như không khí để thở, như cơm ăn, nước uống hàng ngày

của con người”. Ở người trưởng thành, nhu cầu này thường xuất hiện có tính

chu kì tuỳ theo sức khoẻ, tâm lí, cá tính của từng người. Nó trở thành động

lực thúc đẩy con người thực hiện những hành vi tình dục. Sự xuất hiện nhu

cầu và những hành vi tình dục thể hiện đời sống tình dục của con người.

+ Biểu hiện của đời sống tình dục thường rất phức tạp, theo nhiều hình

thức, nhiều mức độ. Chủ yếu là những mức độ sau đây:

Mức độ “rung cảm bên trong”, thường xuất hiện dưới dạng những

rung động, những cảm xúc mà con người có thể ý thức hoặc không

ý thức được. Đây là mức độ “cơ bản” nhất của đời sống tình dục,

thường được gọi là “rung cảm tình dục”.

Page 62: TÂM LÝ HỌC GIỚI TÍNH VÀ GIÁO DỤC GIỚI TÍNHsaomaidata.org/library/90...  · Web viewtÂm lÝ hỌc giỚi tÍnh vÀ giÁo dỤc giỚi tÍnh. tÂm lÝ hỌc giỚi tÍnh

Mức độ “hành vi bên ngoài”, xuất hiện khi những rưng cảm bên

trong mạnh mẽ hơn, hoặc trở thành một yếu tố thúc đẩy việc thực

hiện những hành vi trong những điều kiện nhất định (như hai người

yêu nhau). Con người có khả năng kiềm chế những hành vi tình dục

của mình.

Mức độ “hành vi bên trong”, xuất hiện khi những rung cảm trở nên

quá mạnh mẽ, con người khó có thể kiềm chế được những hành vi

“yêu đương”.

Mức độ “hành vi sâu sắc”, những hành vi tình dục bị chi phối bởi

những ham muốn tột đỉnh, con người có nhu cầu muốn “hoà nhập”

với đối tượng, dẫn đến “hành vi giao hợp” của con người.

Sự phân chia các mức độ trên đây chỉ mang tính tương đối, chỉ có ý

nghĩa trong các biểu hiện gắn bó với tình cảm. Trong thực tế, những mức độ

trên cũng có thể được hiểu là những hình thức của đời sống tình dục của con

người. Trong đó, mức độ “hành vi sâu sắc”, được coi là mức độ cao nhất của

các hình thức tình dục trong đời sống tình dục. Trong quan hệ tình dục của

con người, những hình thức đó có thể không tuân theo một thứ tự nhất định

như trên. Ngày nay trong xã hội, nhiều người thường sử dụng khái niệm “tình

dục” theo nghĩa ở mức độ “hành vi sâu sắc”.

Trong đời sống giới tính, biểu hiện về mặt tình dục giữa nam và nữ có

nhiều điểm khác nhau, chủ yếu ở những khía cạnh sau:

+ Rung cảm tình dục ở người nam thường dễ xuất hiện, dễ bộc lộ

nhanh chóng đạt tới đỉnh cao và chóng tắt, nó mang tính trực tiếp và ít chịu

chi phối bởi các yếu tố ngoại cảnh…

+ Rung cảm tình dục của người nữ thường gắn bó mật thiết với yếu tố

tình cảm, tình yêu. Sự xuất hiện rung cảm tình dục của người phụ nữ thường

khó và chậm, nhưng lại kéo dài thời gian hơn, chịu chi phối nhiều bởi các yếu

tố ngoại cảnh…

Page 63: TÂM LÝ HỌC GIỚI TÍNH VÀ GIÁO DỤC GIỚI TÍNHsaomaidata.org/library/90...  · Web viewtÂm lÝ hỌc giỚi tÍnh vÀ giÁo dỤc giỚi tÍnh. tÂm lÝ hỌc giỚi tÍnh

Đời sống tình dục ở con người thường có quan hệ mật thiết với đời

sống tâm lí, xã hội, chịu sự chi phối của tâm lí, xã hội, đặc biệt là tình yêu và

hôn nhân. Đó là tính xã hội, tính tâm lí của tình dục.

d) Tính xã hội và tính tâm lí của tình dục

Tình dục là hiện tượng sinh lí mang tính xã hội, tính tâm lí rất cao:

+ Tình dục thường gắn với đạo đức, đặc biệt là ở các nước phương

Đông. Đời sống tình dục của con người bị ảnh hưởng nhiều bởi quan niệm về

đạo đức, lối sống. Hành vi tình dục của con người thường bị chi phối bởi

những quy định của đạo đức, của luật pháp xã hội, dễ tạo nên những mặc

cảm về đạo đức, ảnh hưởng mạnh đến những giá trị xã hội, những phẩm chất

nhân cách của con người.

+ Những quan điểm về tình dục thường mang tính dân tộc, tính địa

phương và bị chi phối bởi những chuẩn mực đạo đức. Mỗi dân tộc mỗi quốc

gia, mỗi nền văn hoá, mỗi địa phương… đều có những quan điểm, những

chuẩn mực đạo đức, những cách đánh giá riêng về vấn đề tình dục và đời

sống tình dục của con người. Tuy nhiên, hầu như mọi người đều thống nhất

rằng, đây là một lĩnh vực tế nhị riêng tư của mỗi người, nhưng gắn bó mật

thiết với đạo đức và văn hoá xã hội.

+ Tình dục thường góp phần tạo nên những quan điểm sống, lối sống

trong xã hội như: quan điểm tình yêu trong sáng, tình yêu hoà nhập, tình dục

tự do, tình dục không hôn nhân, tình dục không tình yêu, lối sống buông thả…

Sự hình thành những quan điểm trên thường thể hiện và phụ thuộc vào tính

độ văn hoá, đạo đức, cá tính của mỗi người

+ Tình dục cũng là một nguyên nhân quan trọng dẫn tới lối sống ăn

chơi, trác táng, đồi trụy, các tệ nạn xã hội hoặc các hành vi tội lỗi (hiếp dâm,

quấy rối tình dục…). Trong những trường hợp này, tình dục chỉ thể hiện ở

những hành vi mang tính bản năng thô thiển, làm thấp hèn nhân phẩm và dễ

dẫn đến sự suy thoái nhân cách của con người.

Page 64: TÂM LÝ HỌC GIỚI TÍNH VÀ GIÁO DỤC GIỚI TÍNHsaomaidata.org/library/90...  · Web viewtÂm lÝ hỌc giỚi tÍnh vÀ giÁo dỤc giỚi tÍnh. tÂm lÝ hỌc giỚi tÍnh

+ Tình dục ở con người thường ảnh hưởng mạnh mẽ và gắn bó mật

thiết với tình yêu và đời sống hôn nhân của họ. Tình dục chỉ thực sự đem lái

hạnh phúc cho con người khi sự thoả mãn các cảm xúc tình dục gắn liền với

thái độ trân trọng và quan tâm đối với nhau, gắn liền với ý thức trách nhiệm

về các hành vi yêu đương và tình cảm yêu thương nồng thắm của hai người.

+ Tình dục còn chịu sự chi phối của nhiều yếu tố tâm lí khác như nhận

thức, quan điểm, cá tính, sự tự tin, mức độ yêu đương, trạng thái tâm lí trong

lúc “gặp gỡ”… Sự hiểu biết về tình dục giúp cho con người thoả mãn rung

cảm và đạt tới tột đỉnh hạnh phúc, chủ động trong việc thụ thai, chống được

bệnh tật hiểm nghèo. Tình cảm yêu thương sâu nặng làm cho hành vi tình

dục trở nên thiêng liêng, tuyệt diệu, tạo nên sức hút mãnh hệt và sự hoà hợp

sâu sắc giữa hai người…

e) Tình dục trong tình yêu

– Đời sống tình dục và các hành vi tình dục thường gắn bó mật thiết với

tâm lí con người, quan điểm sống, cá tính, sở thích… đặc biệt là tình yêu.

Tình dục nhiều khi là một nguyên nhân, một yếu tố dẫn tới tình yêu và

là một thành phần không thể thiếu được trong tình yêu đôi lứa, trong cuộc

sống vợ chồng. Tình dục là một yếu tố tạo nên hạnh phúc tuyệt vời của cuộc

sống yêu dương và hôn nhân của con người.

– Tình yêu càng sâu nặng bao nhiêu thì tình dục sẽ càng mãnh liệt bấy

nhiêu. Tình dục trong nhiều trường hợp là biểu hiện của tình yêu. Mức độ của

tình dục trong mối quan hệ giữa hai người thể hiện mức độ yêu đương của

họ.

Tình dục cũng có ảnh hưởng tới đặc điểm của các quan hệ yêu

đương nhưng tình dục không phải là cơ sở duy nhất của quan hệ ấy. Thậm

chí ngay chính bản thân tình dục lại còn phụ thuộc vào các điều kiện xã hội,

đời sống tâm lí, đời sống tình cảm trong tình yêu. Theo A.X. Makarenko, tình

yêu của con người không thể hình thành một cách đơn giản từ sự đam mê

tình dục bản năng đơn thuần. Theo ông, nếu một thanh niên đã không yêu

Page 65: TÂM LÝ HỌC GIỚI TÍNH VÀ GIÁO DỤC GIỚI TÍNHsaomaidata.org/library/90...  · Web viewtÂm lÝ hỌc giỚi tÍnh vÀ giÁo dỤc giỚi tÍnh. tÂm lÝ hỌc giỚi tÍnh

cha mẹ, đồng chí, bạn bè, thì người thanh niên ấy khó có thể thực sự yêu

người vợ chưa cưới và người vợ đã cưới của mình. Tình yêu càng ít mang

tính chất tình dục đơn thuần bao nhiêu sẽ càng tốt đẹp bấy nhiêu.

– Tình dục hoà hợp giữa hai người làm cho tình yêu ngày càng sâu

nặng, đằm thắm. Trong tình yêu chân thực và chân chính, tình dục lại càng

mãnh liệt hơn, đẹp hơn, trở thành một hành vi cao thượng, một sự hiến dâng,

tạo nên hạnh phúc tuyệt vời của con người. Có thể nói rằng, tình yêu làm cho

tình dục được thăng hoa và ngược lại, tình dục làm cho tình yêu thêm phát

triển, sâu nặng và đằm thắm.

– Tình yêu là dạng tình cảm đặc biệt, có sự tham gia của những đặc

điểm tâm lí của con người, đồng thời có sự tham gia của tình dục, và nhiều

chức năng tính dục khác. Do đó, khi nói đến tình yêu cần phải nói đến các

vấn đề về tình dục, trong đó có “quan hệ tình dục”. Cần phải nghiên cứu tìm

hiểu một cách nghiêm tức về tình dục, các khái niệm về tình dục như: sự phát

dục, rung cảm tình dục, những biểu hiện về tình dục, các mức độ của đời

sống tình dục, “nghệ thuật yêu đương”…

– Những cảm xúc tình dục ở con người thường có thể xuất hiện ngay

từ những giây phút đầu gặp gỡ. Chúng có thể là những dấu hiệu đầu tiên tạo

nên sự thiện cảm, yêu thích hoặc là “sản phẩm” của sự thiện cảm, sự yêu

thích đối với người khác giới và từ đó có thể tạo nên tình yêu đối với đối

tượng. Trong thực tế, nhiều “mối tình” thường bắt đầu từ những rung cảm

mạnh mẽ, yêu mến hoặc ưa thích của con người đối với người khác giới, có

khi ngay từ lần gặp gỡ đầu tiên.

Tình dục có thể là bắt nguồn của tình yêu và thường là biểu hiện của

tình yêu. Khi có những rung cảm mãnh liệt với người khác giới, có thể tạo nên

cảm xúc yêu đương.

– Khi tình yêu phát triển thì rung cảm về tình dục cũng thường mạnh

mẽ hơn, xuất hiện nhiều hơn và là một yếu tố tạo nên sự nhớ nhung trong

tình yêu. Khi tình yêu càng sâu nặng thì người ta càng mong muốn gặp nhau

nhiều hơn và càng xuất hiện những “hành vi yêu thương” nhiều hơn. Ngược

Page 66: TÂM LÝ HỌC GIỚI TÍNH VÀ GIÁO DỤC GIỚI TÍNHsaomaidata.org/library/90...  · Web viewtÂm lÝ hỌc giỚi tÍnh vÀ giÁo dỤc giỚi tÍnh. tÂm lÝ hỌc giỚi tÍnh

lại những hành vi yêu thương càng xuất hiện nhiều thì tình yêu lại càng mãnh

hệt hơn, sâu nặng hơn. Rất nhiều trường hợp cho thấy, những “hành vi tình

dục được phép” (được sự thoả thuận và hưởng ứng của cả hai bên) thể hiện

mức độ tương ứng của tình yêu.

Tình dục và tình yêu thường tác động, phối hợp và ảnh hưởng tương

hỗ đối với nhau. Trong nhiều trường hợp, khi không yêu nhau nữa người ta

thường bị ức chế những rung cảm về tình dục, ức chế những đòi hỏi, những

ham muốn về tình dục. Ngược lại, khi tình dục bị nhàm chán (người ta không

còn “thích” nhau nữa), tình yêu giữa hai bên sẽ ngày càng giám sút. Đặc biệt,

những hành vi tình dục không phù hợp, “quá mức”, thường gây cho người kia

những cảm xúc khó chịu, bực bội, cảm giác “bị xúc phạm”, có thể dẫn tới sự

rạn nứt tình yêu.

Như vậy, tình yêu và tình dục luôn luôn gắn bó mật thiết với nhau. Tình

dục có thể là yếu tố thúc đẩy cho tình yêu phát triển, nhưng cũng có thể làm

xấu đi mối quan hệ yêu đương giữa hai người. Có thể nói, tình dục là “con

dao hai lưỡi” trong tình yêu.

– Thường thường, tình dục có thể là yếu tố thúc đẩy cho tình yêu phát

triển khi mối “quan hệ” giữa hai người đảm bảo được những điều kiện sau

đây:

+ Mức độ của tình dục phải phù hợp với mức độ tương ứng của tình yêu

Tình yêu của con người thường có những mức độ cơ bản sau đây:

mức độ “nhớ thương”, mức độ “yêu đơn phương”, mức độ “yêu cảm xúc”,

mức độ “yêu sâu sắc”. Ở mỗi mức độ đó có những biểu hiện tương ứng của

rung cảm tính đục như: “rung cảm bên trong”, rung cảm trong “hành vi bên

ngoài”, “hành vi bên trong”, “hành vi yêu thương sâu sắc”. Sự tương ứng giữa

mức độ của tình yêu với mức độ của tình dục thường tạo nên những cảm xúc

dễ chịu và hạnh phúc của hai bên và làm cho tình yêu phát triển. Nếu mức độ

của hành vi tình dục đi trước mức độ của tình yêu dễ dẫn tới hiện những

“phản ứng tự bảo vệ” những suy nghĩ thiếu thiện thí về nhau… dẫn tới những

Page 67: TÂM LÝ HỌC GIỚI TÍNH VÀ GIÁO DỤC GIỚI TÍNHsaomaidata.org/library/90...  · Web viewtÂm lÝ hỌc giỚi tÍnh vÀ giÁo dỤc giỚi tÍnh. tÂm lÝ hỌc giỚi tÍnh

xúc cảm âm tính (khó chịu, bực bội, sợ hãi, xấu hổ…) và làm cho tình yêu

giảm sút thậm chí có thể gây hiểu lầm dẫn tới sự tan vỡ tình yêu.

+ Biểu hiện của tình dục phải phù hợp với quan điểm, cá tính của người yêu

Ở nhiều người, đặc biệt là ở người nữ, thường có những ấn tượng,

những nhận thức không “đẹp đẽ” về tình dục. Họ thường có quan niệm về

một tình yêu “trong sáng”, phải yêu nhau bằng tâm hồn, yêu nhau bằng sự

rung động chân thành, bằng sự quan tâm giúp đỡ lẫn nhau… Những người

này cho rằng, khi gặp nhau, nếu có những biểu hiện hành vi tình dục “quá

mức” tức là thiếu đứng đắn, là sự lợi dụng, là không phải yêu đương thực

sự… Một quan điểm ngược lại là trong tình yêu hai người phải hoà nhập với

nhau, phải hết lòng, hết mình với nhau, phải có những rung động thật mãnh

liệt, sâu sắc…

Những quan niệm như vậy thường chi phối các hành vi cư xử, hành vi

tình dục, chi phối sự đánh giá lẫn nhau giữa hai người, và do đó, ảnh hưởng

đến sự tồn tại và phát triển tình yêu của họ. Vì vậy trong tình yêu, mỗi người,

nhất là con trai, phải căn cứ vào quan điểm của người kia để có những cư xử

thích hợp với quan điểm yêu đương của người đó. Nhưng dù trong trường

hợp nào, người con trai cũng cần phải có trách nhiệm giữ gìn, bảo vệ cho bạn

gái, đặc biệt là không được để xảy ra những “hậu quả nghiêm trọng” cho bạn

gái phải gánh chịu một mình.

+ Hành vi tình dục phải phù hợp với đạo đức và đạo lí xã hội

Dù trong bất kì trường hợp nào, dù “được phép của đối tượng”, mỗi

người phải biết kiềm chế những “hành vi yêu đương” trong khuôn khổ của

đạo đức xã hội, phải biết giữ gìn những hành vi yêu đương cho phù hợp với

phong tục tập quán của từng dân tộc, từng vùng, từng địa phương. Điều đó

có nghĩa là, dù được bạn gái “cho phép” hoặc “hưởng ứng”, người con trai

vẫn phải biết kiềm chế những hành vi của mình, phải biết “giữ gìn” cho bạn

gái, đặc biệt không được để cho bạn gái phải chịu những “hậu quả nghiêm

trọng”.

Page 68: TÂM LÝ HỌC GIỚI TÍNH VÀ GIÁO DỤC GIỚI TÍNHsaomaidata.org/library/90...  · Web viewtÂm lÝ hỌc giỚi tÍnh vÀ giÁo dỤc giỚi tÍnh. tÂm lÝ hỌc giỚi tÍnh

+ Hành vi tình dục phải được giữ gìn, kiềm chế cho phù hợp lại hoàn cảnh xung quanh

“Hành vi yêu đương” giữa hai người thường bị chi phối mạnh mẽ bởi

phong tục tập quán, bởi những quy định chung của xã hội. Thường thường,

những hành vi đó chỉ được diễn ra ở những nơi kín đáo vắng vẻ “chỉ có hai

người”. Vì vậy, mặc dù cá hai đều có rung động yêu thương mãnh liệt và

chấp nhận “tất cả”, nhưng biểu hiện về hành vi tình dục của họ ở những nơi

đông người, ở những nơi tôn nghiêm mang tính văn hoá xã hội, những nơi

công cộng… vẫn bị xã hội phê phán. Những hành vi đó không phù hợp với

văn hoá và thuần phong mĩ tục Việt Nam. Sự phê phán này có thể dẫn tới

những hậu quả bất lợi cho tình yêu của đôi lứa. Nói một cách khác, muốn tình

yêu phát triển thuận lợi và tốt đẹp, hành vi tình dục phải được giữ gìn và kiềm

chế cho phù hợp với hoàn cảnh xung quanh.

– Từ mối quan hệ giữa tình dục và tình yêu, có thể phân chia tình dục

thành hai loại:

+ Tình dục không tình yêu: đó là tình dục mang tính bản năng đơn

thuần. Dạng tình dục này dễ làm cho con người trở nên thấp hèn, suy thoái

đạo đức. Ở những người yếu kém về nghị lực, ý chí, về văn hoá, đạo đức,

tình dục dễ dẫn con người tới nếp sống ăn chơi đồi trụy, bị tha hoá về nhân

cách (hiện tượng mua bán dâm, ăn chơi trụy lạc…).

+ Tình dục trong tình yêu: là dạng tình dục gắn bó với tình cảm yêu

thương sâu nặng, nó là biểu hiện của tình yêu, phát triển cùng với sự phát

triển của tình yêu. Tình dục trong tình yêu chân thực, chân chính trở nên đẹp

đẽ, cao thượng, phát triển mạnh mẽ và mang tính văn hoá cao. Nó là một

trong những yếu tố quyết định tạo nên hạnh phúc của tình yêu và hôn nhân.

2. Mối quan hệ giữa tình dục và tình yêu ở lứa tuổi thanh thiếu niên

Ngày nay, mọi người đều thừa nhận rằng, vấn đề tình dục và tình yêu

ở thanh thiếu niên là những vấn dễ có ý nghĩa quan trọng trong cuộc sống

của các em. Mối quan hệ giữa tình dục và tình yêu trong các em thường rất

Page 69: TÂM LÝ HỌC GIỚI TÍNH VÀ GIÁO DỤC GIỚI TÍNHsaomaidata.org/library/90...  · Web viewtÂm lÝ hỌc giỚi tÍnh vÀ giÁo dỤc giỚi tÍnh. tÂm lÝ hỌc giỚi tÍnh

phức tạp. Ở độ tuổi dậy thì, trong các em đã xuất hiện những nhu cầu tình

dục nhất định, đồng thời, cũng xuất hiện những rung cảm yêu đương.

Tình yêu và tình dục ở tuổi thanh thiếu niên thường có mối quan hệ

đặc biệt. Những rung cảm tình dục có thể xuất hiện do sự dậy thì, sự phát

triển sinh lí cơ thể nhưng cũng có thể xuất hiện do cảm xúc yêu đương. Tình

yêu và tình dục ở các em thường có mối quan hệ rất mật thiết.

Tình yêu trong thanh thiếu niên thường là những tình cảm rất mạnh

mẽ và cũng chi phối sự xuất hiện những rung cảm tình dục. Nó là một tổ hợp

các yếu tố tâm lí trong đời sống tình cảm, trong đó các đặc điểm nhân cách

giữ một vai trỏ rất quan trọng. I.X. Kon khẳng định: “Mỗi cá thể có một số tiềm

năng tính dục tự nhiên nào đó, những kịch bản hành vi tính dục của nó, tức là

người đó yêu ai, và yêu như thế nào, thể bị quy định bởi toàn bộ tổ hợp các

điều kiện hình thành nên nhân cách người đó”.

Sự phát dục là một hiện tượng, một giai đoạn đặc biệt của tuổi dậy thì.

Đó là quá trình biến đổi sinh học ở cơ thể, qua đó những chức năng tính dục

dần dần xuất hiện, hình thành, phát triển, trong đó có những rung cảm của

tình dục.

– Ngày nay, sự phát triển tình dục, trong đó có rung cảm tình dục ở con

người bắt đầu sớm hơn trước đây. Người ta nhận thấy có hiện tượng “gia

tốc” phát triển thể chất và phát dục. Theo A.V. Petrovxki, ngay khi mới 9, 10

tuổi (hoặc sớm hơn) ở các em gái tuyển sinh dục có thể bắt đầu hoạt động,

tuyến vú bắt đầu hình thành còn ở tuổi 10 – 11, một số em đã bước vào giai

đoạn đầu của sự trưởng thành về tính dục. Các em trai, hiện tượng trên có

thể xuất hiện khi bước vào tuổi 12, 13. Thời kì mạnh mẽ nhất trong quá trình

này diễn ra vào khoảng từ 11 đến 13 tuổi đối với các em gái và từ 13 đến 15

tuổi đối với các em trai.

– Ở nhiều công trình nghiên cứu, các nhà khoa học đều thống nhất

rằng, ngày nay, trong trẻ em có hiện tượng dậy thì sớm. Trong 50 năm vừa

qua, cứ 10 năm, tuổi dậy thì của các em gái lại sớm lên 4 tháng. Ở nhiều

nước, còn có hiện tương quan hệ tình dục sớm. Có các nước như Lyberia số

Page 70: TÂM LÝ HỌC GIỚI TÍNH VÀ GIÁO DỤC GIỚI TÍNHsaomaidata.org/library/90...  · Web viewtÂm lÝ hỌc giỚi tÍnh vÀ giÁo dỤc giỚi tÍnh. tÂm lÝ hỌc giỚi tÍnh

thanh niên có quan hệ tình dục ở tuổi từ 14 đến 17 chiếm đến 46% ở nữ và

62% ở nam (trong 1488 em được nghiên cứu năm 1984). Ở Nhật Bản, Mĩ,

Đức, số các em có quan hệ tình dục sớm cũng rất cao. Ngay tại Việt Nam,

nhiều công trình nghiên cứu cũng cho thấy, lứa tuổi mà thanh thiếu niên có

quan hệ tình dục lần đầu tiên cũng ngày càng sớm hơn. Có những em quan

hệ tình dục lần đầu tiên ở lứa tuổi 14, 15 tuổi. Thậm chí, có em 13 tuổi đã có

thai.

Hiện tượng đó do nhiều nguyên nhân về tâm lí xã hội, do quá trình đô

thị hoá, do tính tự lập của thanh niên lớn hơn trước đây, do các nguồn thông

tin đại chúng thiếu chọn lọc về các vấn đề giới tính, ảnh hưởng của các tệ

nạn xã hội, phim ảnh và các văn hoá phẩm đồi trụy, do ảnh hưởng tiêu cực

của các trang web đồi trụy trên Intemet, nếp sống sinh hoạt ăn chơi trác táng,

xì ke, ma tuý, thuốc lắc… Chính những nguyên nhân đó dễ làm cho cuộc

sống tình dục bắt đầu sớm hơn, đạo đức tính dục thoải mái hơn.

– Vì thế, mặc dù ở nhiều thanh thiếu niên vẫn hướng tới một tình yêu

trong sáng đẹp đẽ, nhưng vẫn xuất hiện những biểu hiện không tốt trong lĩnh

vực này ở nhiều em. Đây là một thực trạng đáng ngại có thể dẫn tới những

hậu quả nghiêm trọng. Do quan hệ tình dục sớm có thể dẫn tới việc yêu

đương sớm, kết hôn sớm, mắc bệnh tình dục, nạo thai, tự tử vì tình… nhất là

hình thành lối sống ăn chơi hưởng thụ trụy lạc của một bộ phận không nhỏ

trong các em lứa tuổi vị thành niên… Ngược lại, tất cả những cái đó lại ảnh

hưởng tới sự tăng nhanh độ chín muồi tình dục ở các em.

Trong khi ấy, sự trưởng thành về xã hội của các em để có khả năng

độc lập về kinh tế, để có những nhận thức đúng đắn, ý thức trách nhiệm đối

với xã hơn đối với bạn bè, để có thể kết hôn, lại chậm hơn nhiều (từ 20 đến

23 tuổi). Khoảng thời gian dài ấy (từ 7 đến 10 năm) “đã gây rất nhiều khó

khăn cho các em trong quan hệ với các bạn khác giới và cũng đặt ra cho xã

hội, cho các nhà giáo dục một số vấn đề cần quan tâm giải quyết”. Điều đó

cũng “đặt ra một loạt các vấn đề đạo đức và thực tiễn mà nhà trường không

thể bỏ qua được”.

Page 71: TÂM LÝ HỌC GIỚI TÍNH VÀ GIÁO DỤC GIỚI TÍNHsaomaidata.org/library/90...  · Web viewtÂm lÝ hỌc giỚi tÍnh vÀ giÁo dỤc giỚi tÍnh. tÂm lÝ hỌc giỚi tÍnh

– Hơn nữa, trẻ em rất sớm quan tâm đến các vấn đề giới tính, đặc biệt

quan tâm đến những vấn đề về tính dục, về tình gục. Sự quan tâm này có thể

xuất hiện ngay từ trước khi các em bước vào tuổi chín muồi về tình dục (5, 6

tuổi). Lúc đầu sự quan tâm này không gắn với các thể nghiệm tình dục, mà

biểu hiện tính tò mò thường tình: trẻ băn khoăn về những đặc điểm riêng của

cơ thể, về những đặc điểm của bạn khác giới có mà mình không có, về việc

sinh ra con người hoặc bản thân mình như thế nào… và nhiều điều khác về

con người mà người lớn giấu kín. Nhưng đến tuổi dậy thì, tình hình phức tạp

hơn. Sự quan tâm của các em ở độ tuổi này trở nên nhiều hơn, và mang tính

chất bức xúc hơn: Các em quan tâm do sự thôi thúc bên trong, do chính sự

thúc đẩy bởi những cảm xúc khác lạ nảy sinh do sự phát triển tính dục của cơ

thể. Sự quan tâm đó càng trở nên mạnh mẽ, nếu hàng ngày các em lại “bị”

tiếp cận với “những hình ảnh và sinh hoạt có tính chất giới tính”, vẫn tràn

ngập trong đời sống của người lớn, trong phim ảnh, sách báo, Intemet…

Chính vì thế, các em rất cần phải được hướng dẫn và giáo dục chu đáo.

– Chính sự che giấu, hoặc trả lời kiểu úp mở của người lớn lại càng

kích thích các em quan tâm đến những vấn đề đó và tìm hiểu nó. Nếu không

được hướng dẫn, sẽ có thể có nhiều tác hại to lớn cho các em: các em dễ

hiểu lầm về quan hệ nam nữ, tình yêu, tình dục, và sẽ dẫn tới hậu quả tai hại.

Một số người cố né tránh vấn đề này khi giáo dục các em. Họ cho rằng,

nếu dạy cho các em những vấn đề đó sẽ làm các em “hư người” đi, “vẩn đục”

tâm hồn trong sáng của các em, là “vẽ đương cho hươu chạy”.

Đó là quan niệm sai lầm.

Sự xuất hiện và phát triển đời sống tính dục ở con người là hiện tượng

có tính quy luật. Hiện tượng này ngày càng rõ rệt theo lứa tuổi. Từ tuổi dậy thì

trở đi, hiện tượng này trở thành một vấn đề quan trọng của đời sống con

người. “Đến thời kỳ phát dục dù muốn hay không trẻ đều bắt đầu phải quan

tâm đến lĩnh vực đó của các sống”. Nhiều công trình nghiên cứu đã cho thấy

rằng ngay ở các em thiếu niên, đã có nhiều sự quan tâm đến những vấn đề

tình dục. I.X Kon cũng cho rằng, “nhiều thiếu niên rất thích các cuộc trò

Page 72: TÂM LÝ HỌC GIỚI TÍNH VÀ GIÁO DỤC GIỚI TÍNHsaomaidata.org/library/90...  · Web viewtÂm lÝ hỌc giỚi tÍnh vÀ giÁo dỤc giỚi tÍnh. tÂm lÝ hỌc giỚi tÍnh

chuyện bẩn thỉu, các câu chuyện khôi hài dơ dáy, các bức tranh khoả thân…”

và “những thứ này làm thấp hèn các thử nghiệm tình dục trong các em, làm

các em bị xúc động những rung cảm thầm kín”. Trong khi đó, các em lại chưa

được chuẩn bị về mặt tâm lí và văn hoá khi có những xúc động đó.

– Tính dục ở tuổi thiếu niên và thanh niên có một đặc điểm quan trọng

là nó mang tính chất thử nghiệm. Phát hiện thấy mình có năng lực tính dục,

hoặc khi có những rung cảm anh dục, các em tìm hiểu những vấn đề ấy từ

mọi phía. Các em quan tâm tìm hiểu chúng từ rất sớm, thậm chí, từ tuổi 12

đến tuổi 15, các em còn hay tìm mọi cách quan sát các hành vi tình dục, đọc

sách báo đồi trụy, nhìn trộm, nhất là “những trường hợp hành vi tình dục sai

lệch, gần với bệnh lí”. Ở các em, những biểu hiện của đời sống tính dục rất

đa dạng và phức tạp, như hiện tượng kinh nguyệt, cơ thể nảy nở, vỡ tiếng,

mọc râu, mụn trứng cá, mộng tinh, thủ dâm… Những biểu hiện trên nhiều khi

lại là nguyên nhân dẫn tới những kích thích, những nhu cầu muốn thử

nghiệm, muốn được trực tiếp quan sát, tìm hiểu.

– Hiện tượng thủ dâm là biểu hiện khá phổ biến ở tuổi thiếu niên và

thanh niên. “Thanh thiếu nên dùng thủ dâm làm phương tiện giảm bớt căng

thẳng tình dục do các nguyên nhân sinh lí gây ra. Đồng thời cũng có các yếu

tố tâm lí tham gia vào kích thích thủ dâm”. Hiện tượng thủ dâm ở thanh thiếu

niên là một biểu hiện đặc biệt của sự phát triển tính dục ở các em. Theo giáo

sư A.M. Sviados, “thủ dâm vừa phải ở tuổi thanh niên thường mang tính chất

tự điều chỉnh chức năng tình dục”. Nó làm giảm tính hưng phấn tình dục cao

và không nguy hiểm. Tuy nhiên, thủ dâm lại có ảnh hưởng rất mạnh đến đời

sống tình cảm, đến tính tò mò muốn tìm hiểu những “sinh hoạt kín đáo” của

người lớn, thậm chí tự kích thích những rung cảm, những ham muốn “chuyện

yêu đương” ở bản thân các em.

Như vậy rung cảm yêu đương và rung cảm tình dục là những hiện

tượng có tính phổ biến và tính quy luật ở thanh thiếu niên từ tuổi dậy thì trở

đi. Bàn về tình yêu ở lứa tuổi này, các Giáo sư Phạm Minh Hạc, Trần Trọng

Thuỷ, Lê Khanh đều khẳng định rằng, sự xuất hiện tình yêu của các em là

Page 73: TÂM LÝ HỌC GIỚI TÍNH VÀ GIÁO DỤC GIỚI TÍNHsaomaidata.org/library/90...  · Web viewtÂm lÝ hỌc giỚi tÍnh vÀ giÁo dỤc giỚi tÍnh. tÂm lÝ hỌc giỚi tÍnh

“bắt đầu một giai đoạn bình thường và tất yếu trong sự phát triển của con

người”. Điều đó có nghĩa là sự xuất hiện rung cảm tình yêu và rung cảm tình

dục của các em lứa tuổi này không phải là do “ai nhắc đến”, không phải là do

sự giáo dục của người lớn cho các em (nếu người lớn giáo dục các em

những vấn đề này), mà là đo chính đặc điểm của sự phát triển sinh lí cơ thể,

đặc điểm của đời sống tâm lí và cuộc sống, hoạt động xã hội của các em tạo

nên. Nói cách khác, dù không ai “vẽ đường”, những con hươu vẫn cứ chạy,

chỉ có điều chúng “chạy lung tung” trong trường đời, để rồi có những con bị

“sa xuống bùn, xuống hố” mà thôi.

– Tất nhiên, mức độ và sự biểu hiện của các hiện tượng ấy, đặc biệt là

tình dục, khác nhau theo lứa tuổi, theo từng cá nhân, từng điều kiện và hoàn

cảnh nhất định. Đó là những mối quan hệ rất đặc trưng của đời sống giới tính,

của sự khác biệt giới tính. Đó cũng là những mối quan hệ đặc biệt, điển hình

ở con người do ảnh hưởng của giới tính. Nó điển hình đến mức, nhiều người

lầm tường giới tính chỉ là tình yêu hay dù là quan hệ tình dục.

– Như vậy, ở thanh thiếu niên, tình dục cũng đã là một biểu hiện tất yếu

của đời sống tính dục, một yếu tố liên quan mật thiết đến tình yêu:

+ Trước hết, tình dục như là một bản năng mang tính tất yếu của con

người. Nó được hình thành rõ nét ở con người thường vào lứa tuổi trưởng

thành. Tuy nhiên, ngay từ thời kì dậy thì, những dấu hiệu của đời sống tình

dục đã xuất hiện ở con người (thường vào lứa tuổi 13, 14 tuổi). Ban đầu các

em chưa xác định rõ được những dấu hiệu đó, mà chỉ thấy có những rung

cảm khác lạ của bản thân trước những người khác giới, hoặc những hình ảnh

liên quan tới đời sống tình dục của người lớn. Dần dần những rung cảm này

được củng cố, phát triển và tạo nên những rung động thực sự trong bản thân

các em.

+ Những rung cảm tình dục thường bị xã hội đánh giá như là những

cảm xúc, những hành vi tội lỗi, xấu xa ở con người. Tuy nhiên, trong thực tế

không hoàn toàn như vậy, ở các em trong thời kì dậy thì những rung cảm này

nhiều khi lại tạo nên sự tế nhị, sự kín đáo, duyên dáng hoặc những cảm xúc

Page 74: TÂM LÝ HỌC GIỚI TÍNH VÀ GIÁO DỤC GIỚI TÍNHsaomaidata.org/library/90...  · Web viewtÂm lÝ hỌc giỚi tÍnh vÀ giÁo dỤc giỚi tÍnh. tÂm lÝ hỌc giỚi tÍnh

đặc biệt làm tho các em trở nên duyên dáng hơn, dịu dàng hơn, đàng hoàng

chững chạc hơn, hoặc có những hành vi “kín đáo”, “giữ gìn” hơn trước người

khác phái.

+ Những rung cảm tình dục thường thúc đẩy các em tự khám phá

mình, quan tâm đến người khác giới… Những rung cảm này làm cho các em

trở nên tò mò, thích đọc những sách báo “người lớn”, có những cảm giác

“mới lạ “ trong khi tiếp cận với người khác giới… Từ đó, ở các em xuất hiện

cảm xúc yêu đương, quan tâm đến chuyện yêu dương và xây dựng tình yêu.

Có thể khẳng định rằng, tình dục và tình yêu ờ lứa tuổi thanh thiếu niên

cũng có mối quan hệ rất gắn bó, rất phức tạp, mang tính tâm lí, xã hội cao.

3. Vấn đề giáo dục tình dục và tình yêu cho thanh thiếu niên

Quan hệ tình dục và quan hệ tình yêu ảnh hưởng to lớn đến sự phát

triển nhân cách của con người, của thanh thiếu niên. Nếu không được hướng

dẫn chu đáo, tức là nếu không được giáo dục những mối quan hệ này, các

em sẽ dễ mắc sai lầm trong cuộc sống và do đó, sự phát triển nhân cách của

các em sẽ bị hạn chế rất nhiều.

Tuy nhiên, cần tránh quan niệm cho rằng, cứ mạnh dạn hướng dẫn và

truyền đạt những tri thức về tình yêu và tình dục cho thanh thiếu niên một

cách “tự nhiên và đầy đủ”, không cần phải e ngại, vì đằng nào rồi các em

cũng sẽ biết. Đó là việc giáo dục những kiến thức này cho các em theo kiểu

“bóc trần” sự thật một cách thô thiển. Việc giáo dục như vậy có thể gây nhiều

tác dụng phản diện.

Giáo dục tình yêu và tình dục cho thanh thiếu niên phải hết sức thận

trọng và tế nhị. Cần phải lựa chọn những nội dung, mức độ, những hình thức

giáo dục phù hợp với lứa tuổi, với tôn giáo, với phong tục tập quán từng địa

phương…

Việc giáo dục những tri thức này phải tuân theo những yêu cầu cơ bản

sau đây:

Page 75: TÂM LÝ HỌC GIỚI TÍNH VÀ GIÁO DỤC GIỚI TÍNHsaomaidata.org/library/90...  · Web viewtÂm lÝ hỌc giỚi tÍnh vÀ giÁo dỤc giỚi tÍnh. tÂm lÝ hỌc giỚi tÍnh

Việc giảng dạy những tri thức này phải phối hợp với những nội dung

khác của giáo dục giới tính. Phải giáo dục giới tính một cách toàn diện.

– Cần có thái độ nghiêm túc, tự nhiên, đảm bảo tính khoa học khi lên

lớp.

– Không nên chỉ tập trung vào những “yếu tố kĩ thuật” đơn thuần,

những tri thức sống sượng, hoặc mô tả những khái niệm, những sự kiện,

những hiện tượng một cách thiếu tế nhị.

– Phải kết hợp việc truyền thụ tri thức với việc giáo dục những thái độ

đúng đắn cần thiết. Đặc biệt là:

+ Phải giáo dục cho các em thái độ trân trọng đối với tình yêu chân

thực và chân chính, thấy được những giá trị cao cả của ình cảm yêu thương

nồng thắm, sâu nặng. Phải giáo dục các em có lòng chung thuỷ, biết tôn trọng

người yêu, tôn trọng tình yêu. Phải có thái độ nghiêm túc và thận trọng khi

nhận lời yêu thương của người khác, biết “bảo vệ”, “giữ gìn” trong mối liên hệ

với người yêu…

+ Khi truyền đạt những tri thức về tình yêu và tình dục, cần nhấn mạnh

đến những hậu quả tai hại của việc yêu đương và “quan hệ” dễ dàng, bừa

bãi, hậu quá của việc quan hệ tình dục sớm, hậu quả của việc nạo phá thai,

hậu quả của nếp sống sinh hoạt đồi trụy hoặc ăn chơi trác táng, những thiệt

thòi, khó khăn của các em gái trong các “quan hệ” này…

IV. TÌNH YÊU VÀ TÌNH YÊU CHÂN CHÍNH1. Khái niệm chung về tình yêu

a) Một số quan niệm về tình yêu

Có rất nhiều quan niệm phức tạp về tình yêu. Có người cho tình yêu là

vấn đế lãng mạn, ủy mỵ, không đứng đắn. Có người cho rằng, tình yêu chỉ là

chuyện riêng của tuổi trẻ, của thanh niên. Khi con người đã có gia đình hoặc

khi lớn tuổi, không còn tình yêu nữa…

Page 76: TÂM LÝ HỌC GIỚI TÍNH VÀ GIÁO DỤC GIỚI TÍNHsaomaidata.org/library/90...  · Web viewtÂm lÝ hỌc giỚi tÍnh vÀ giÁo dỤc giỚi tÍnh. tÂm lÝ hỌc giỚi tÍnh

Nhiều thanh niên thường lầm lẫn giữa tình yêu và tình dục, hoặc cho

rằng tình yêu tức là tình dục, tình yêu là không thể hiểu được hoặc là tình yêu

là duyên số trời định…

Những quan niệm trên đây là những quan niệm chưa đầy đủ, chưa

đúng đắn về tình yêu.

b) Khái niệm chung về tình yêu

– Tình yêu là dạng tình cảm cao cấp và rất phức tạp trong đời sống con

người. Tình yêu chịu sự thi phối của đời sống tâm lí và có sự tham gia của

nhiều loại tình cảm (tình thương, tình bạn, lòng nhân ái, danh dự, lương

tâm…), của nhiều hiện tượng tâm lí khác như: nhu cầu nguyện vọng, lí tưởng,

ước mơ, tài năng, đạo đức, cá tính… của các hiện tượng sinh lí (tình dục, sức

khoẻ...). tình yêu liên quan gắn bó mật thiết với đời sống tâm sinh lí con

người, liên quan đến đời sống xã hội, kinh tế, văn hoá… Chính vì thế, tình

yêu có khi rất phức tạp, nhiều khi tưởng chừng như không tuân theo quy luật

nào.

Tình yêu phụ thuộc rất nhiều vào phong tục tập quán và trình độ văn

hoá xã hội, phụ thuộc vào cá tính của mỗi người (nhất là đạo đức phong cách

sống, lối sống, lẽ sống, tính khí và trình độ nhận thức…).

– Tình yêu là dạng tình cảm tất yếu nảy sinh ở con người. Hầu như ở

con người ai cũng có những thời kì yêu đương nhất định. Tuỳ từng người,

đến một tuổi nào đó, gặp một điều kiện hoàn cảnh nào đó người ta bắt đầu

yêu. Tình yêu xuất phát từ bản chất xã hội, từ sự phát triển tâm sinh lí của

con người. Những người phát triển bình thường đều có thể có tình yêu của

mình (chỉ trừ một số ít người đặc biệt trong xã hội: có lí tưởng đặc liệt, muốn

tu hành, sinh lí đặc biệt, hoặc mắc bệnh… mới không yêu). Tình yêu là, dạng

tình cảm tự nhiên tất yếu và rất cần thiết đối với con người (con người trưởng

thành) như cơm ăn, nước uống, không khí trong lành…

– Tình yêu có vai trò rất quan trọng đối với con người. Nó có sức mạnh

to lớn, ảnh hưởng đến toàn bộ nhân cách của con người.

Page 77: TÂM LÝ HỌC GIỚI TÍNH VÀ GIÁO DỤC GIỚI TÍNHsaomaidata.org/library/90...  · Web viewtÂm lÝ hỌc giỚi tÍnh vÀ giÁo dỤc giỚi tÍnh. tÂm lÝ hỌc giỚi tÍnh

+ Tình yêu về bản chất, là một tình cảm lành mạnh, trong sáng, tốt đẹp

là một nhu cầu tất yếu của con người trong cuộc sống xã hội, nó tạo nên

những rung cảm hạnh phúc, làm cho cuộc dời của con người có ý nghĩa,

hoàn thỉnh và đầy đủ hơn. Nhờ đó, con người ngày càng phát triển nhân cách

theo thiên hướng tốt đẹp hơn.

+ Tình yêu chân thực và chân chính ảnh hưởng mạnh mẽ đến con

người, tạo nên sức mạnh, làm cho con người tự biến đổi, đi tới hoàn thiện,

nâng cao ý thức trách nhiệm của bản thân đối với mọi người, đối với xã hội,

đối với người mình yêu.

+ Tình yêu giúp cho con người thoả mãn những nhu cầu đặc biệt về đời

sống tình cảm, đời sống giới tính. Tình yêu giúp cho con người tạo nên sự

cân bằng về đời sống tình cảm, cũng như về đời sống tính dục. Nó được coi

như là một dấu hiệu quan trọng thể hiện sự trưởng thành thực sự về mặt xã

hội, và trải nghiệm cuộc đời. Ở tuổi trưởng thành, nếu con người chưa có tình

yêu hoặc không có tình yêu, thường dễ có những cảm xúc “đơn điệu”, “thiếu

thốn”, “cô đơn” hoặc “trống vắng” trong đời sống tình cảm.

+ Tình yêu là một trong những loại tình cảm ảnh hưởng mạnh nhất đến

sức mạnh tinh thần và sức mạnh vật chất của con người. Nó có thể làm cho

con người trẻ đẹp hơn, khoẻ ảnh hơn, làm cho cuộc đời của con người trở

nên vui tươi, hạnh phúc, tích cực hoạt động, sáng tạo… Nhưng nó cũng có

thể làm cho con người đau khổ, rũ rượi, chán nản và tuyệt vọng, mất hết sức

sống, thậm chí muốn tìm đến cái chết để trốn tránh. Nó có thể làm cho con

người thay đổi hoàn toàn về lối sống, nếp sống, và cách nhìn nhận về cuộc

đời.

+ Tình yêu là một yếu tố đặc biệt thúc đẩy con người tiến tới hôn nhân,

là cơ sở, là yếu tố quyết định hạnh phúc trong hôn nhân.

Con người chỉ thực sự hạnh phúc trong tình yêu khi tình yêu của họ là

tình yêu chân thực và chân chính. Việc xây dựng cuộc sống hạnh phúc của

con người phải gắn liền với việc xây dựng và nuôi dưỡng tình yêu chân thực,

chân chính đó. Tình yêu là cơ sở, là nền tảng, là yếu tố quyết định hạnh phúc

Page 78: TÂM LÝ HỌC GIỚI TÍNH VÀ GIÁO DỤC GIỚI TÍNHsaomaidata.org/library/90...  · Web viewtÂm lÝ hỌc giỚi tÍnh vÀ giÁo dỤc giỚi tÍnh. tÂm lÝ hỌc giỚi tÍnh

gia đình. Việc xây dựng và giáo dục cho thanh niên về tình yêu chân thực và

chân chính là việc rất quan trọng và cần thiết, nhất là trong tình hình hiện nay.

2. Những thành phần cơ bản trong tình yêu

Tình yêu rất phức tạp, bao gồm nhiều thành phần tâm lí, sinh lí và

những thành phần đó quan hệ chặt chẽ, tác động qua lại lẫn nhau.

Tuỳ theo từng loại tình yêu, tuỳ theo đặc điểm đạo đức cá tính mỗi

người có thể có tình yêu khác nhau. Tuy nhiên xét về bản chất, những tình

yêu thực sự, đặc biệt là tình yêu chân thực, chân chính đều có chung những

thành phần điển hình. Qua những thành phần này, chúng ta có thể nhận biết

rằng, người đó đã yêu chưa? Có yêu thực sự hay không? Yêu như thế nào?

Chân chính hay không, mức độ sâu sắc mãnh liệt đến đâu…

Những thành phần đó là dấu hiệu cơ bản và quan trọng nhất của tình

yêu

Chúng ta xét ba thành phần cơ bản sau:

a) Tình thương trong tình yêu

– Tình thương là thành phần cơ bản và quyết định trong tình yêu, khi

yêu nhau, bao giờ hai người cũng “thương nhau”. Sự thương nhau này

thường biểu hiện vô cùng phong phú và đa dạng.

Tình thương trong tình yêu chân thực làm cho người ta luôn lo lắng,

chăm sóc cho nhau. Đó là sự quan tâm chăm sóc đặc biệt, sâu sắc toàn diện,

về sức khoẻ, tâm hồn và toàn bộ cuộc sống của nhau.

– Tình thương trong tình yêu làm cho người ta có ý thức trách nhiệm

với nhau, quan tâm giúp đỡ lẫn nhau một cách tự nguyện. Người ta lo lắng

cho nhau, bảo vệ nhau, thậm chí có thể hi sinh tất cả vì nhau. Tình thương

đôi khi làm cho con người thiếu sự sáng suốt để thiên lệch khi đánh giá về

nhau.

Page 79: TÂM LÝ HỌC GIỚI TÍNH VÀ GIÁO DỤC GIỚI TÍNHsaomaidata.org/library/90...  · Web viewtÂm lÝ hỌc giỚi tÍnh vÀ giÁo dỤc giỚi tÍnh. tÂm lÝ hỌc giỚi tÍnh

Những nhược điểm của người yêu đều được che đậy, đều được bao

phủ bằng một sắc màu rực rỡ, hoặc được bảo vệ bằng một tình cảm nồng

nàn. Những khuyết điểm của người yêu đều được dễ dàng tha thứ.

Vì đặc điểm này nên khi yêu nhau thắm thiết, người ta dễ thiếu tình táo

dẫn đến chỗ mù quáng, sai lầm.

Tình thương trong tình yêu làm cho người ta có nguyện vọng dâng

tặng cho nhau tất cá mà không hề nuối tiếc. Đặc điểm này cùng với tâm lí cả

nể trong những phút giây mãnh liệt ở nhiều bạn gái dễ bị lợi dụng, dẫn đến

những hậu quả đáng tiếc.

Cần chú ý rằng trong tình yêu thân thực, chân chính, tình thương mãnh

liệt và sâu nặng thường giúp cho con người biết lo cho nhau, bảo vệ cho

nhau và giữ gìn cho nhau những gì thiêng liêng nhất.

Tình thương làm cho con người ta hoà hợp, thân thiết với nhau hơn.

– Chính do những đặc điểm trên, tình thương trong tình yêu mang dáng

dấp của tình thương trong tình mẫu tử (nói một cách khách tình thương đó

gần giống với tình mẫu tử). Vì vậy, trong tình yêu thắm thiết đặc biệt trong

một gia đình hạnh phúc, hai người thường có những rung cảm sâu sắc, đằm

thắm, có cảm xúc muốn bao bọc cho nhau hoặc “bé nhỏ lại” trước nhau.

– Mặc dù có những biểu hiện giống tình mẫu tử, nhưng tình thương

trong tình yêu có nhiều điểm khác với tình cảm đó. Đặc biệt tình thương trong

tình yêu phải diễn ra hai chiều, người ta thương nhau, hoặc chăm sóc nhau,

chiều chuộng nhau… phải cân bằng hoặc đi tới cân bằng. Có nghĩa là cả hai

bên đều phải có sự dâng tặng và đón nhận. Có như thế tình yêu mới đẹp, mới

phát triển để hai người chung sống hạnh phúc. Nếu không có đặc điểm này,

tình yêu sẽ mất cân bằng, sẽ chỉ còn là sự chạy đuổi, sự giả tạo, hoặc sự si

mê ngu dại, dễ đi đến đổ vỡ.

– Tình thương trong tình yêu không phải là một sự thương hại, một sự

ban ơn, hoặc một sự chịu đựng, hi sinh một chiều. Đó là một tình thương xuất

phát từ đáy lòng, từ trái tim. Người ta thương nhau một cách tự nguyện

Page 80: TÂM LÝ HỌC GIỚI TÍNH VÀ GIÁO DỤC GIỚI TÍNHsaomaidata.org/library/90...  · Web viewtÂm lÝ hỌc giỚi tÍnh vÀ giÁo dỤc giỚi tÍnh. tÂm lÝ hỌc giỚi tÍnh

(ngấm ngầm hoặc công khai). Do những mãnh lực thiêng liêng thôi thúc.

Được hi sinh cho nhau, được chăm sóc nhau… đó là niềm hạnh phúc. Có khi

người ta tự giác lo lắng cho người yêu, dù đối tượng không muốn thậm chí

bực bội vì chính sự chăm sóc đó.

– Tình thương trong tình yêu biểu hiện rất đa dạng và tinh tế, từ mức

độ lắng sâu “trong trái tim”, “đáy lòng” đến những hành vi dáng điệu, nụ

cười…

Có thể nói rằng, tình thương không thể thiếu trong tình yêu.

Nếu không có tình thương, sẽ không thể có tình yêu chân chính và

chân thực.

Tình thương là yếu tố cơ bản tạo nên tình nghĩa vợ chồng. Tình thương

gắn bó hai tâm hồn của hai người: Tình thương đem lại cho con người ý chí

và nghị lực, sức mạnh và sự chịu đựng, sự hi sinh cao cả và sự chăm sóc

quan tâm không hề tính toán…

Tình thương là yếu tố chủ yếu làm cho tình yêu trở nên thiêng liêng,

cao đẹp, làm cho tình yêu có sức mạnh vô tận.

Nếu thiếu tình thương, tình yêu chỉ còn là sự tận dụng những cảm giác,

sẽ chỉ còn lại những hành động vật chất thấp hèn. Nếu thiếu tình thương, tình

yêu sẽ nhạt nhẽo, đơn điệu và tàn lụi, cuộc sống vợ chồng sẽ chỉ là sự tận

dụng con người theo kiểu “mất tiền mua mâm phải đâm cho thủng”. Cuộc

sống vợ chồng luôn luôn va chạm, xô xát hoặc chỉ còn là sự chịu đựng nhau

cả đời.

Tình yêu cháy bỏng thường gắn với tình thương vô bờ bến. Tình

thương bao la sâu sắc sẽ làm cho tình yêu mãnh liệt, thuỷ chung. Nếu thiếu

tình thương, tình yêu thực sự không tồn tại. Tình thương là thành phần quan

trọng bao trùm nhất trong tình yêu, làm tình yêu phát triển, bền vững.

Tuy nhiên, tình thương chưa phải là tình yêu. Khi yêu nhất định phải

thương nhưng thương chưa có nghĩa là yêu. Nhiều trường hợp người ta

Page 81: TÂM LÝ HỌC GIỚI TÍNH VÀ GIÁO DỤC GIỚI TÍNHsaomaidata.org/library/90...  · Web viewtÂm lÝ hỌc giỚi tÍnh vÀ giÁo dỤc giỚi tÍnh. tÂm lÝ hỌc giỚi tÍnh

thương nhau nhưng không yêu nhau, hoặc không thể yêu nhau được. Vì

ngoài tình thương, tình yêu còn bao gồm nhiều thành phần khác.

b) Tình bạn trong tình yêu

Sự hình thành tình yêu thường rất phức tạp. Tuy nhiên, một trong

những con đường cơ bản dẫn đến tình yêu là từ tình bạn khác giới.

– Tình yêu bắt đầu từ tình bạn khác giới thường trong sáng, vững bền.

Tình bạn khác giới là cơ sở, nền móng của tình yêu. Tình bạn khác giới dễ đi

đến tình yêu.

– Quan hệ yêu đương là quan hệ giữa hai con người, họ gặp gỡ tiếp

xúc với nhau, họ trao đổi, tủn hiểu nhau. Quá trình yêu đương là quá trình

giao tiếp giữa hai con người, làm hai người ngày càng gắn bó, thân thiết với

nhau hơn. Bởi vậy, có thể nói quá trình yêu đương mang tính chất của quá

trình bạn bè (quá trình quan hệ thân thiết giữa người với người). Đó là tính

chất bạn trong tình yêu: Nói cách khác, trong tình yêu luôn có tình bạn. Hai

người yêu đồng thời cũng chính là hai người bạn của nhau. Hai vợ chồng

chung sống với nhau, đó là hai người bạn đời. Người ta thường nói, hai vợ

chồng là đôi bạn trăm năm.

– Tính chất bạn trong tình yêu được biểu hiện trước hết ở sự thân thiết

gắn bó giữa hai người. Hai người yêu nhau rất mong được ở bên nhau, được

tâm sự, trao đổi với nhau. Họ có thể nói với nhau những điều sâu kín nhất mà

có khi đến cha mẹ, anh em ruột cũng không được biết.

Sự thân thiết gắn bó tạo ra nhu cầu gặp gỡ, tạo nên sự thương nhớ

mỗi khi xa nhau (có khi tới mức tương tư). Sự thương nhớ là một trong những

đặc trưng cơ bản của tình yêu.

– Một biểu hiện khác của “tính chất bạn” trong tình yêu là sự hoà hợp

giữa hai con người. Đó là sự cảm thông giữa hai tâm hồn, là sự “tri âm, tri kỷ”,

sự thống nhất về quan niệm sống, về cuộc đời trên cơ sở hiểu biết lẫn nhau.

Sự hoà hợp càng cao, tình yêu càng có điều kiện phát triển. Cần lưu ý

rằng, để có sự hoà hợp, cả hai người đều cần phải có sự biến đổi mình và sự

Page 82: TÂM LÝ HỌC GIỚI TÍNH VÀ GIÁO DỤC GIỚI TÍNHsaomaidata.org/library/90...  · Web viewtÂm lÝ hỌc giỚi tÍnh vÀ giÁo dỤc giỚi tÍnh. tÂm lÝ hỌc giỚi tÍnh

cảm hoá lẫn nhau. Thực tế mối quan hệ giữa hai người là sự đi tới hoà hợp

(vì hầu như không có sự hoà hợp tuyệt đối giữa hai con người). Bởi vậy, quá

trình yêu nhau cũng chính là quá trình cảm hoá lẫn nhau, chấp nhận lẫn nhau

và tự cải tạo mình để tạo nên sự hoà hợp.

Tính chất bạn trong tình yêu còn có biểu hiện rất quan trọng nữa, đó

là sự tôn trọng lẫn nhau giữa hai người. Mối quan hệ giữa hai người là sự tôn

trọng, quý mến lẫn nhau ở nhiều mặt: danh dự, nhân phẩm, những kỉ niệm, kỉ

vật… Nhiều khi những tặng vật bình thường trong đời sống xã hội lại trở

thành vô giá trong tình yêu đôi lứa. Sự tôn trọng trong tình yêu mang một sắc

thái đặc biệt: thân thiết gắn bó trong sự bình đẳng, thân thiết, gắn bó mà vẫn

có cái độc lập cái riêng của từng người, mỗi người đều không dám và không

nên xâm phạm cái riêng của người kia, kể cả hai người đó đã ăn ở với nhau

đến đầu bạc răng long.

Như vậy trong tình yêu cũng như trong cuộc sống vợ chồng, hai người

vẫn cần giữ “lịch sự” với nhau, vẫn cần tuân theo nếp sống văn hoá, văn minh

khi đối xử với nhau.

Những biểu hiện của tính chất bạn như trên ảnh hưởng mạnh mẽ đến

tình yêu, góp phần tạo nên sự chân thật, chân chính của tình yêu, làm cho

tình yêu cao đẹp và vững bền.

Khi nào người ta kiếm cớ lẩn tránh nhau, không thật tình mong muốn

gặp nhau, khi người ta luôn sai hẹn, hoặc đối xử với nhau thô lỗ hoặc muốn

cải tạo người yêu theo ý muốn cá nhân của mình… khi ấy “tính chất bạn” đã

suy giảm, tình yêu sẽ không còn đẹp đẽ và có nguy cơ tan vỡ. Thiếu tình bạn,

tình yêu sẽ đơn điệu, tẻ nhạt, chỉ còn lại sự chịu đựng, dễ trở thành sự si mê

thù quáng, dễ trở thành những cơn mê đắm phá hoại nhân phẩm và sự

nghiệp của con người.

Cùng với tình thương, tình bạn làm cho tình yêu trở thành gắn bố, hấp

dẫn, thi vị, trở thành thiêng liêng và thắm thiết, làm cho tình yêu bèn vững và

phát triển. Tình bạn làm cho tình yêu trở thành một yếu tố thúc đẩy sự tiến bộ,

Page 83: TÂM LÝ HỌC GIỚI TÍNH VÀ GIÁO DỤC GIỚI TÍNHsaomaidata.org/library/90...  · Web viewtÂm lÝ hỌc giỚi tÍnh vÀ giÁo dỤc giỚi tÍnh. tÂm lÝ hỌc giỚi tÍnh

sự phát triển nhân cảm của hai người, chắp cánh cho con người vươn tới

những đỉnh cao trong cuộc sống.

Tình bạn là một thành phần không thể thiếu được trong tình yêu Tuy

nhiên, tình bạn, và cả tình thương như đã nêu ở trên, chưa đủ để hình thành

tình yêu. Nhiều trường hợp hai người có thân thiết gắn bó với nhau, thương

nhau thật sự, nhưng tình yêu của họ không hình thành, hoặc nếu đã có cũng

không bền vững, không phát triển vì ngoài tình thương và tình bạn, còn có

một thành phần cơ bản khác không thể thiếu được. Đó là những rung động về

tình dục.

c) Tình dục trong tình yêu

– Tình dục là bản năng đặc biệt của con người (có người gọi hiện

tượng này là quan hệ sinh lí trong tình yêu). Tuy nhiên từ “tình dục” được

dùng phổ biến hơn. Ở mỗi người bình thường, đến một độ tuổi nhất định sẽ

xuất hiện bản năng tình dục.

Tình dục là hiện tượng sinh lí đặc biệt, nó gắn liền với đạo đức xã hội,

với phong tục tập quán, với tâm lí cá nhân… Ở mỗi địa phương, mỗi thời đại

và cá nhân có quan niệm khác nhau về tình dục.

Mặc dù tình dục có thể độc lập tương đối với tình yêu (đơn thuần là

một nhu cầu sinh lí của con người nhưng thường thường tình dục gắn liền với

tình yêu, quan hệ mật thiết với tình yêu. Nhu cầu tình dục có thể xuất hiện khi

người ta không yêu (nhất là ở nam giới. Nhưng khi đã yêu, tình dục thường

nảy sinh và phát triển mạnh. Tình dục là dấu hiệu cơ bản để phân biệt tình

bạn với tình yêu.

– Ở trạng thái độc lập với tình yêu tình dục tuân theo những quy luật

riêng biệt. Trong tình yêu, tình dục lại bị những quy luật của tình yêu chi phối.

Đặc điểm tình dục ở mỗi người có thể rất khác nhau, có người yếu, có

người mạnh, mỗi người có sở thích, thói quen, cá tính về tình dục khác nhau.

Đặc điểm tình dục của nam có khác biệt nhiều so với người nữ.

Page 84: TÂM LÝ HỌC GIỚI TÍNH VÀ GIÁO DỤC GIỚI TÍNHsaomaidata.org/library/90...  · Web viewtÂm lÝ hỌc giỚi tÍnh vÀ giÁo dỤc giỚi tÍnh. tÂm lÝ hỌc giỚi tÍnh

– Ở Việt Nam, do tâm lí dân tộc và phong tục tập quán chi phối, biểu

hiện về tình dục trong tình yêu thường có những mức độ khác nhu: từ mức độ

chỉ là những cảm xúc sâu kín bên trong (nên người ngoài, có khi chính người

yêu, khó có thể biết được) đến những hành vi tình dục “bên trong”, hành vi

tình dục “bên ngoài”, và cao hơn cả là mức độ “sâu sắc nhất”. Những mức độ

của tình dục thường tương ứng với những mức độ nhất định của tình yêu và

bị đạo đức xã hội chi phối.

– Trong tình yêu, tình dục có vai trò rất đặc biệt: Người ta chỉ có thể yêu

nhau thực sự khi trong mỗi người có thể xuất hiện những rung cảm tình dục

trước người kia. Tình dục có thể làm nảy sinh tình yêu và đặc biệt là tình dục

thường hình thành và phát triển cùng với sự hình thành và phát triển của tình

yêu. Càng yêu tha thiết, tình dục càng phát triển và đòi hỏi mạnh mẽ. Vì thế,

tình dục có thể được coi là dấu hiệu và sự biểu hiện của tình yêu. Thậm chí,

người ta có thể căn cứ vào những hành vi tình dục được biểu hiện để đánh

giá xem mình còn được yêu hay không và được yêu nhiều hay ít.

– Tính hai mặt của tình dục trong tình yêu: Tình dục như là con dao hai

lưỡi trong tình yêu, nó có thể làm tình yêu phát triển mãnh liệt và cũng có thể

bóp chết tình yêu. Đó là tác dụng tích cực và tiêu cực của tình dục đối với tình

yêu.

Tình dục thường có tác dụng tiêu cực đối với tình yêu khi mức độ của

tình dục không phù hợp với mức độ của tình yêu, không phù hợp với người

yêu, với quan niệm, đạo đức xã hội.

Chẳng hạn: mức độ tình yêu cao (sâu sắc, mãnh liệt) nhưng mức độ

của tình dục quá thấp: hai người yêu nhau đã lâu mà không có hoặc ít có

những rung cảm tình dục khi ở bên nhau. Trường hợp này thường làm cho

tình yêu trở nên cứng nhắc, nhạt nhẽo, đơn diệu và thường đi đến tan vỡ.

Tuy nhiên, tác dụng tiêu cực xảy ra phổ biến trong trường hợp, mức độ yêu

đương còn thấp nhưng đòi hỏi tình dục của một bên (thường là ở người nam

giới) lại quá cao, quá nhiều hoặc thô bạo. Việc quan hệ tình dục ở mức “sâu

sắc nhất” trong lứa tuổi vị thành niên, đặc biệt là trước hôn nhân, thường tạo

Page 85: TÂM LÝ HỌC GIỚI TÍNH VÀ GIÁO DỤC GIỚI TÍNHsaomaidata.org/library/90...  · Web viewtÂm lÝ hỌc giỚi tÍnh vÀ giÁo dỤc giỚi tÍnh. tÂm lÝ hỌc giỚi tÍnh

ra những mặc cảm tội lỗi, dễ nhàm chán nhau, dễ coi thường lẫn nhau, dễ

dẫn tại “hậu quả nghiêm trọng”… dẫn đến sự tan vỡ trong tình yêu.

Tình dục lại có thể tạo nên những ảnh hưởng tích cực đối với tình yêu:

làm cho tình yêu phát triển mạnh hơn, nồng nàn hơn, sâu sắc hơn, đẹp đẽ

hơn… Ảnh hưởng tích cực này thường xuất hiện trong trường hợp những

rung cảm tình dục phù hợp với mức độ yêu thương, với quan niệm, cá tính

của người yêu, với đạo đức, phong tục tập quán của xã hội.

– Những điều kiện để tình dục làm cho tình yêu phát triển: Để tình dục

góp phần tạo ra những ảnh hưởng tích cực đối với tình yêu, sự cư xử và biểu

hiện tình dục trong tình yêu phải tuân theo những điều kiện sau đây:

+ Có sự phù hợp với đạo đức xã hội, với phong tục tập quán.

+ Có sự phù hợp với tâm lí và cá tính.

+ Có sự phù hợp với hoàn cảnh và tình huống.

+ Có sự phù hợp với mức độ của tình yêu..

+ Có sự phù hợp với quan niệm, đặc điểm tình dục của “đối phương”.

+ Có sự phù hợp với quy luật diễn biến của “đời sống tình dục” con

người.

Ngoài ra, một điều kiện quan trọng nữa là những biểu hiện của tình dục

thường phải gắn với những thái độ trân trọng, với tình cảm yêu thương, với ý

thức “bảo vệ” và “dâng tặng” cho nhau, với những rung động mãnh liệt tương

ứng của cả hai bên…

3. Sự hình thành và phát triển của tình yêu

a) Những mức độ phát triển của tình yêu

Tình yêu là một quá trình diễn tiến lâu dài và phức tạp, nó có thể phát

triển qua những mức độ sau đây:

– Mức độ cảm mến:

Page 86: TÂM LÝ HỌC GIỚI TÍNH VÀ GIÁO DỤC GIỚI TÍNHsaomaidata.org/library/90...  · Web viewtÂm lÝ hỌc giỚi tÍnh vÀ giÁo dỤc giỚi tÍnh. tÂm lÝ hỌc giỚi tÍnh

Hai người gặp nhau, biết nhau, ở họ nảy sinh những xúc cảm ban đầu:

dễ chịu, cảm tình, thiện cảm, khâm phục, mến mộ, tin tưởng, từng động, thích

thú… mức độ phát triển cao nhất ở giai đoạn này là họ “thích nhau” mong

được gặp để trò chuyện, trao đổi.

– Mức độ nhớ thương:

Sau nhiều lần gặp gỡ người ta thường xuyên nghĩ đến “đối tượng”,

mong muốn được gặp đối tượng. Nếu không được gặp nhau thường xuất

hiện cảm giác nhớ thương hoặc thấy “thiếu một các gì đó”. Bản thân họ bắt

đầu có biến đổi về tâm lí, nhất là hay “làm dáng” khi được gặp đối tượng.

Những khi gặp thường có cảm xúc dễ chịu, thích thú.

– Mức độ yêu đơn phương:

Sự nhớ thương dã ở mức cao, thôi thúc người ta phải tìm cách để gặp

gỡ hoặc trao đổi với đối tượng. Dần dần họ cảm thấy rất thân thiết gắn bó với

đối tượng, không thể thiếu đối tượng. Họ nhận thức được là mình đã yêu. Khi

gặp nhau thường e ấp, lúng túng do các cảm xúc xuất hiện mạnh mẽ.

“Tiếng sét ái tình” nổ ra có thể tiến ngay vào mức độ này. Đỉnh cao của

mức độ này là sự ngỏ lời.

– Mức độ yêu thương cảm xúc:

Tình yêu đã được hình thành ở cả hai bên, tuy nhiên vẫn còn chịu sự

thi phối mạnh của các cảm xúc, ít nhất một trong hai người (hoặc cả hai) vẫn

còn sự e ngại, giữ kẽ, “giữ gìn” mỗi khi gặp nhau, hoặc che giấu không cho

người ngoài biết tình yêu của mình. Họ thường lúng túng mỗi khi gặp nhau

hoặc nói chuyện với nhau, mặc dù khi xa nhau họ lại nhớ thương và mong

muốn được gặp.

– Mức độ yêu thương nồng thắm:

Hai người đã gắn bó thân thiết, có sự cảm thông sâu sắc, đã có những

“rung cảm yêu thương”, hành vi yêu thương sâu nặng, mãnh liệt và hoà hợp.

Các yếu tố cơ bản của tình yêu đều xuất hiện đầy đủ rõ ràng và hài hoà. Hai

Page 87: TÂM LÝ HỌC GIỚI TÍNH VÀ GIÁO DỤC GIỚI TÍNHsaomaidata.org/library/90...  · Web viewtÂm lÝ hỌc giỚi tÍnh vÀ giÁo dỤc giỚi tÍnh. tÂm lÝ hỌc giỚi tÍnh

người đều cảm thấy rất hạnh phúc, mong thuốn được chung sống bên nhau

lâu dài.

Trong quá trình phát triển của tình yêu, mỗi mức độ nói trên đều có

những đặc điểm, vai trò nhất định, mỗi mức độ đều có những biểu hiện tương

ứng của tình thương, sự thân thiết, gắn bó của tình bạn, sự rung động tình

dục. Muốn tình yêu phát triển con người phải có cách cư xử thích hợp với đối

tượng, tuỳ theo những mức độ này. Đặc biệt những biểu hiện của mức độ

tình dục phù hợp với mức độ phát triển của tình yêu có ý nghĩa hết sức quan

trọng, thường có tác dụng thúc đẩy tình yêu phát triển tốt đẹp.

b) Những căn cứ để nhận biết sự phát triển của tình yêu

Muốn nhận biết tình yêu đã phát triển đến mức độ nào, ngoài việc nắm

được những đặc điểm của mỗi mức độ, chúng ta cần dựa vào một số căn cứ

(biểu hiện) nhất định. Có nhiều căn cứ để đánh giá, sau đây là một số căn cứ,

một số dấu hiệu quan trọng nhất:

Sự cảm thông: Hai người hiểu nhau đến mức độ nào, thương nhau

nhiều hay ít, có sự rung cảm hoà hợp đến đâu (sự tương đồng tâm lí? Sự

đồng cảm? Lối sống có hợp nhau?…).

– Sự thân thiết gắn bó: Hai người đã thân nhau đến mức nào (nói

chuyện sâu kín với nhau chưa, hành vi thân thiết đến độ nào trong cư xử

hàng ngày…).

– Sự xuất hiện của những cảm xúc yêu thương: Sự quý mến nhau, sự

thương nhớ, ý thức tôn trọng đối với nhau…

– Rung cảm tình dục: mức độ sâu sắc, hấp dẫn như thế nào, sự mạnh

dạn trong hành vi cư xử với nhau, độ mãnh liệt, sự ham muốn, cảm xúc hạnh

phúc…

– Sự quan tâm, cảm sóc, giúp đỡ lẫn nhau: Hai người quan tâm lo lắng,

chăm sóc, giúp đỡ nhau nhiều hay ít, mức độ của sự tự giác, sự chân thành

trong khi thực hiện những hành vi trên…

Page 88: TÂM LÝ HỌC GIỚI TÍNH VÀ GIÁO DỤC GIỚI TÍNHsaomaidata.org/library/90...  · Web viewtÂm lÝ hỌc giỚi tÍnh vÀ giÁo dỤc giỚi tÍnh. tÂm lÝ hỌc giỚi tÍnh

c) Những yếu tố ảnh hưởng đến sự hình thành và phát triển của tình yêu

Tình yêu chịu ảnh hường của rất nhiều yếu tố về xã hội, tâm lí, sinh lí,

hoàn cảnh sống của con người.

Sau đây là những yếu tố ảnh hưởng nhiều nhất đến sự hình thành và

phát triển của tình yêu.

– Sự hiểu biết lẫn nhau:

Sự hiểu biết lẫn nhau ảnh hưởng rất quan trọng đến tình yêu. Chính sự

hiểu biết lẫn nhau sâu sắc làm tình yêu hình thành và phát triển hoặc tan vỡ.

Nói cách khác, sự hiểu biết lẫn nhau quyết định tình yêu giữa hai người. Càng

hiểu biết nhiều về nhau bao nhiêu, tình yêu càng có điều kiện bền chặt bấy

nhiêu.

Quan trọng nhất là sự hiểu biết lẫn nhau về các mặt:

+ Hoàn cảnh gia đình.

+ Nghề nghiệp, đời sống.

+ Cá tính, quan điểm sống, đạo đức, tài năng…

+ Sức khoẻ

Bởi vậy trong tình yêu, việc tìm hiểu nhau rất quan trọng, cần tìm hiểu

trước khi quyết định yêu và ngay cả khi đang yêu…

– Sự hoà hợp giữa hai người:

Trên cơ sở hiểu biết lẫn nhau, sự hoà hợp sẽ làm tình yêu hình thành

và phát triển. Đó là sự tương đồng về nhân cách, quan điểm sống, lối sống,

thẩm mĩ, sở thích, tình cảm… đồng thời là sự hoà hợp về sinh lí như: sức

khoẻ, cảm xúc tình dục (biểu hiện ở sự thích nhau, gợi lên ở nhau sự đồng

cảm…).

Sự hoà hợp tạo nên sự yêu thương, nhớ nhung, rung động, mến mộ,

hài lòng… đối với nhau. Sự hoà hợp thường biểu hiện ở nhiều dấu hiệu: Hai

Page 89: TÂM LÝ HỌC GIỚI TÍNH VÀ GIÁO DỤC GIỚI TÍNHsaomaidata.org/library/90...  · Web viewtÂm lÝ hỌc giỚi tÍnh vÀ giÁo dỤc giỚi tÍnh. tÂm lÝ hỌc giỚi tÍnh

bên rất thích gặp nhau, ở bên nhau, nói chuyện với nhau, luôn đánh giá tốt

dẹp về nhau, dễ dàng chấp nhận, bao che cho cái xấu của nhau, luôn tán

thành, hưởng ứng những ý kiến, quan điểm của nhau…

Quan trọng nhất là sự hoà hợp về lối sống, đạo đức và cảm xúc tình

dục.

Muốn tình yêu phát triển, hai người phải luôn chú ý tạo ra sự hoà hợp.

Trong thực tế, không có hai người hoà hợp tuyệt đối. Quá trình yêu nhau hay

quá trình chung sống vợ chồng phải là quá trình tiến tới sự hoà hợp (cảm hoá

lẫn nhau để tạo nên sự hoà hợp, hoặc tự biến đổi mình để để đến sự hoà

hợp…).

– Sự giao tiếp hàng ngày:

Sự giao tiếp hàng ngày có ý nghĩa rất lớn. Nhờ giao tiếp mới có sự hiểu

biết, qua giao tiếp mới có thể nảy sinh sự hoà hợp, mới cảm hoá lẫn nhau…

đặc biệt qua giao tiếp hàng ngày, cảm xúc mới xuất hiện dần dần, làm tình

yêu phát triển. Chính vì vậy, người ta thường nói: “Lửa gần rơm lâu ngày

cũng bén”.

Sự giao tiếp còn tạo nên những điều kiện thuận lợi để chinh phục tình

yêu (tác động cảm hoá dần dần, để hình thành tình yêu). Vì thế nhiều người

cho đó là một trong những yếu tố quan trọng nhất: “Thứ nhất cự ly, thứ nhì

tốc độ”. Nhờ giao tiếp, người ta mới dần đần hiểu rõ về nhau, mới kiểm tra,

đánh giá được tình yêu. Nếu không giao tiếp, tình yêu sẽ nhạt dần… có thể

nói, giao tiếp quyết định sự hình thành, sự phát triển của tình yêu.

Sắc đẹp:

Là yếu tố ban đầu, kích thích cho tình yêu phát triển. Sắc đẹp thường

có vị trí quan trọng trong giai đoạn đầu của tình yêu. Nó có thể là yếu tố ban

đầu làm nảy sinh và phát triển tình yêu hoặc làm cho tình yêu thêm mãnh liệt

và sâu sắc hơn. Đặc biệt, sắc đẹp ở nữ giới có vai trò rất quan trọng trong

việc tạo nên rung cảm và tình yêu ở nam giới.

Sắc đẹp thể hiện ở những vẻ đẹp, những nét đẹp của con người.

Page 90: TÂM LÝ HỌC GIỚI TÍNH VÀ GIÁO DỤC GIỚI TÍNHsaomaidata.org/library/90...  · Web viewtÂm lÝ hỌc giỚi tÍnh vÀ giÁo dỤc giỚi tÍnh. tÂm lÝ hỌc giỚi tÍnh

Tuy nhiên, sắc đẹp chỉ thực sự ảnh hưởng mạnh đến tình yêu trong

một số điều kiện sau:

+ Những đặc điểm của sắc đẹp phải mang màu sắc đạo đức, phải gắn

với những phẩm chất đạo đức, để tạo thành những vẻ đẹp hiền dịu, vẻ đẹp

nhân hậu, vẻ đẹp đằm thắm và chân thành, vẻ đẹp hiên ngang và dũng mãnh,

vẻ đẹp của những hành vi có ý nghĩa văn hoá, xã hội cao… Những vẻ đẹp

trên làm cho tình yêu trở nên hấp dẫn, phát triển và bền vững.

+ Những yếu tố của sắc đẹp phải phu hợp với trình độ nhận thức văn

hoá, cá tính của từng người; phong tục, truyền thống của xã hội.

+ Những yếu tố của sắc đẹp phải mang tính toàn diện, phải là sự kết

hợp của vẻ đẹp tâm hồn và vẻ đẹp hình thức bên ngoài; của vẻ đẹp giới tính,

vẻ đẹp trong hành vi, cử chỉ, lời ăn tiếng nói; của sự hài hoà và phù hợp.

Trong đó, vẻ đẹp tâm hồn, vẻ đẹp tạo nên từ những phẩm chất đạo đức cao

cả thường bền vững hơn, thường mang giá trị xã hội cao hơn những vẻ đẹp

ình thức bề ngoài (đường nét, cách ăn mặc, trang điểm…).

Tác động của xã hội:

Tác động của xã hội ở đây bao gồm nhiều đối tượng: phong tục tập

quán, gia đình, xã hội, bạn bè, những người xung quanh.

Sự tác động của mọi người, sự “vun vào”, sự giúp đỡ, tạo điều kiện,

hoặc sự ngăn cản, phá hoại, chia rẽ “nội bộ”… ảnh hưởng rất lớn đến sự hình

thành và phát triển của tình yêu. Đặc biệt là sự xuất hiện của “người thứ ba”.

Sự phân công xã hội, nghề nghiệp, hoàn cảnh xã hội có thể giúp cho

tình yêu hình thành, phát triển hoặc tan vỡ. Sự xa cách làm tình yêu khó phát

triển.

– Đạo đức và đặc điểm cá tính khác:

Những người có đạo đức tốt thường có ý thức xây dựng vun đắp tình

yêu, chung thuỷ bền chặt, có sự chịu đựng, vượt khó…

Page 91: TÂM LÝ HỌC GIỚI TÍNH VÀ GIÁO DỤC GIỚI TÍNHsaomaidata.org/library/90...  · Web viewtÂm lÝ hỌc giỚi tÍnh vÀ giÁo dỤc giỚi tÍnh. tÂm lÝ hỌc giỚi tÍnh

Những đặc điểm về xu hướng (thế giới quan, lôi sống, nhu cầu, hứng

thú…) chi phối rất mạnh đến tình yêu và hạnh phúc gia đình.

Trình độ văn hoá, xã hội, tri thức khoa học cũng ảnh hưởng đến sự

biểu hiện độ bền chặt của tình yêu.

– Kinh tế:

Tình yêu bị ảnh hưởng nhiều bởi yếu tố kinh tế. Nhiều trường hợp tiền

tài địa vị thi phối sự hình thành hoặc sự tan vỡ tình yêu. Tuy nhiên, nếu xét

“về lâu về dài”, vai trò của kinh tế chỉ có hiệu lực trong một chừng mực nhất

định. Có những trường hợp cả hai người đều rất giàu có những tình yêu lại

thiếu hạnh phúc. Có trường hợp, khi hai người còn khó khăn thiếu thốn, tình

yêu của họ rất đẹp và hạnh phúc, nhưng đến lúc có nhiều tiền, kinh tế đầy đủ,

tình yêu lại bị “rạn nứt” và cuối cùng là sự tan vỡ. Nói một cách khác, không

phải giàu sang là yếu tố quyết định hạnh phúc trong tình yêu. Tuy nhiên, nếu

không có cơ sở vật chất tối thiểu để đảm bảo cuộc sống, tình yêu của con

người khó có hạnh phúc, vững bền.

Tuỳ theo đối tượng, lứa tuổi, hoàn cảnh, điều kiện… yếu tố kinh tế có vị

trí vai trò khác nhau trong tình yêu của họ. Ở tuổi chưa trưởng thành, tình yêu

thường mang tính lí tưởng, mơ mộng, họ sẵn sàng chấp nhận cảnh “một túp

lều tranh, hai trái tim vàng”. Nhưng từ tuổi trưởng thành trở đi, hai người yêu

nhau có “tính thực tế” hơn và dần dần yếu tố kinh tế ngày càng có ý nghĩa

hơn trong tình yêu.

Vai trò quan trọng và chủ yếu của yếu tố kinh tế đối với tình yêu là ở

tính chất ổn định và chân chính của nó. Nếu tấn đề kinh tế của hai người

càng được ổn định, càng thân chính bao nhiêu, tình yêu của họ càng có điều

kiện thuận lợi để phát triển bấy nhiêu. Nói một cách khác, ở người có nghề

nghiệp ổn định và hợp pháp, tình yêu của họ có điều kiện phát triển thuận lợi

hơn tình yêu của những người không có nghề nghiệp, chỉ sống bằng “mánh

mung” hoặc “dựa dẫm vào đồng tiền phi nghĩa”, “ngồi không ăn bám”…

– Vấn đề tuổi tác:

Page 92: TÂM LÝ HỌC GIỚI TÍNH VÀ GIÁO DỤC GIỚI TÍNHsaomaidata.org/library/90...  · Web viewtÂm lÝ hỌc giỚi tÍnh vÀ giÁo dỤc giỚi tÍnh. tÂm lÝ hỌc giỚi tÍnh

Tuổi tác có thể ảnh hưởng đến tình yêu ở nhiều mặt.

Ở những lứa tuổi khác nhau, con người có quan niệm, có thái độ sự

biểu hiện đối với tình yêu khác nhau, do đó, độ bền vững của tình yêu khác

nhau.

Ở người còn son trẻ (nữ dưới 18, 20, nam dưới 24, 25 tuổi) tình yêu có

thể thiếu ổn định, hoặc không bền vững. Những bạn trẻ ở độ tuổi này có thể

chưa biết “yêu thực sự”, có khi thiếu trách nhiệm đối với tình yêu của mình.

Sự chênh lệch tuổi quá nhiều, hoặc không phù hợp (nữ bằng hoặc

nhiều tuổi hơn nam) cũng ảnh hưởng bất lợi tới tình yêu giữa hai người.

Các yếu tố khác:

Tình yêu còn bị ảnh hưởng bởi những yếu tố khác nữa như trình độ

học vấn, đặc điểm dân tộc, hoàn cảnh gia đình… Mỗi yếu tố đó có vai trò nhất

định đối với sự hình thành và phát triển của tình yêu

d) Một số vấn đề cần lưu ý trong việc “chinh phục” và nuôi dưỡng tình yêu

– Sự hình thành và phát triển của tình yêu tuân theo những quy luật

chung của đời sống tình cảm con người.

– Tình yêu dễ hình thành từ tình bạn khác giới.

– Sự hình thành tình yêu có thể có tính chất đột biến (đột ngột, tương

phản, đối cực…).

– Tình yêu có thể hình thành từ những dấu hiệu bất kì, tinh tế (ánh mắt,

nụ cười, cử chỉ, thái độ, các răng khểnh, cặp mắt đẹp…).

– Tình yêu thường chỉ phát triển thuận lợi khi có sự phù hợp với hoàn

cảnh, điều kiện, có sự phù hợp nhân cách giữa hai người.

– Quá trình yêu nhau là quá trình tìm hiểu, cảm hoá nhau, đồng thời

cũng là quá trình “chinh phục đối tượng” dần dần. Sự phát triển của tình yêu

phụ thuộc rất nhiều vào việc “nuôi dưỡng tình yêu” của cả hai người.

Page 93: TÂM LÝ HỌC GIỚI TÍNH VÀ GIÁO DỤC GIỚI TÍNHsaomaidata.org/library/90...  · Web viewtÂm lÝ hỌc giỚi tÍnh vÀ giÁo dỤc giỚi tÍnh. tÂm lÝ hỌc giỚi tÍnh

– Sự giao tiếp, nhất là sự gặp gỡ, là điều kiện tất yếu và tối thiểu để

tình yêu hình thành và phát triển.

– Tình yêu của những người ở trước tuổi trưởng thành (nữ dưới 18

tuổi, nam dưới 25 tuổi) thường để bị tan vỡ, do ở tuổi này con người thường

chưa biết yêu thực sự, nhất là ở nam. Ở họ, thường chỉ mới xuất hiện những

cảm xúc yêu đương, những ham muốn nông nổi mà chưa có tình yêu chân

thực và chân c tính.

– Tình yêu luôn gắn bó với đạo đức, phụ thuộc vào đạo đức của mỗi

người. Yếu tố đạo đức có ý nghĩa to lớn đến hạnh phúc và sự bền vững của

tình yêu. Yếu tố đạo đức ở đây vừa là những phẩm chất tốt đẹp vừa là những

lối sống, nếp sống sinh hoạt, những nhận thức, quan điểm, quan niệm đúng

đắn về cuộc sống…

e) Một số vấn đề đặc biệt trong sự hình thành và phát triển tình yêu

Trong quá trình hình thành và phát triển của từ yêu, thường có nhiều

vấn đề phức tạp có thể xuất hiện, như:

– Hiện tượng “mẫu người yêu lí tưởng”.

– Hiện tượng “tiếng sét trong tình yêu”.

– Hiện tượng “chạy được trong tình yêu”.

– Sự thất bại trong tình yêu.

Hiện tương ngộ nhận trong tình yêu.

– Vấn đề chinh phục tình yêu.

Sự nhàm chán trong tình yêu.

Hình thành các dạng tình yêu mới.

Nghệ thuật cư xử trong tình yêu.

Những biểu hiện chưa tốt trong tình yêu của thanh niên hiện nay.

4. Động cơ yêu đương và tình yêu chân chính

Page 94: TÂM LÝ HỌC GIỚI TÍNH VÀ GIÁO DỤC GIỚI TÍNHsaomaidata.org/library/90...  · Web viewtÂm lÝ hỌc giỚi tÍnh vÀ giÁo dỤc giỚi tÍnh. tÂm lÝ hỌc giỚi tÍnh

a) Động cơ yêu đương

+ Trong đời sống tình cảm của mình, con người thường yêu nhau vì

những yếu tố nào đó. Những yếu tố ấy được gọi là động cơ yêu đương.

Chẳng hạn người ta yêu nhau vì tiền tài, địa vị, sắc đẹp hay vì cảm phục, yêu

mến, vì tài năng, đạo đức…

+ Tùy theo đặc điểm của động cơ yêu đương mà tình yêu bền vững

hay dễ tan vỡ, đẹp đẽ, thắm thiết hay nhạt nhẽo, cứng nhắc.

+ Động cơ yêu đương thường có những đặc điểm quan trọng sau:

– Tính toàn diện hay tính đơn điệu:

+ Tính toàn diện thể hiện ở chỗ động cơ yêu đương bao gồm nhiều yếu

tố, nhiều mặt, nhiều phẩm chất của con người.

Ví dụ: người ta yêu nhau vì đẹp, vì quý trọng cảm phục, vì dịu dàng,

lịch sự, vì cảm thông sâu sắc, vì tài năng…

Các yếu tố này thường tác động lẫn nhau, có mối quan hệ chặt chẽ với

nhau, tạo nên một tổng hợp hài hoà, nhiều khi chính bản thân con người

không phân tích nổi.

Nếu các yếu tố của động cơ yêu đương ít, và cũng ít gắn bó với nhau,

tính toàn diện sẽ thấp. Khi ấy, ta có thể nói động cơ yêu đương có tính đơn

điệu (như vậy tính đơn điệu là mặt trái của tính toàn diện). Nếu động cơ yêu

đương có tính đơn điệu (người ta yêu nhau chỉ vì một vài yếu tố nào đó, sắc

đẹp hay tiền tài…). Tình yêu dễ trở thành sự si mê, và nhanh chóng nhàm

chán.

– Tính “đạo đức” hay “tính phí đạo đức”:

Khi các yếu tố của động cơ yêu đương phù hợp với các chuẩn mực

đạo đức, động cơ yêu đương ấy có “tính đạo đức”. Đó là những động cơ yêu

đương mang tính cao thượng, trong sáng, được xã hội tán thành… Thường

thường, đó là những động cơ yêu đương mang đậm nét văn hoá, nhân bản,

Page 95: TÂM LÝ HỌC GIỚI TÍNH VÀ GIÁO DỤC GIỚI TÍNHsaomaidata.org/library/90...  · Web viewtÂm lÝ hỌc giỚi tÍnh vÀ giÁo dỤc giỚi tÍnh. tÂm lÝ hỌc giỚi tÍnh

chứa dựng những yếu tố đẹp đẽ về mặt tâm lí, tâm hồn, phù hợp với chuẩn

mực đạo đức của xã hội…

Ngược lại, có những động cơ yêu đương mà các yếu tố của nó mang

tính vị kỉ, thấp hèn, lợi dụng, bị xã hội lên án… đó là những động cơ yêu

đương có tính phi đạo đức, không phù hợp với đạo đức xã hội.

Những động cơ yêu đương “mang tính đạo đức” (phù hợp với đạo đức

xã hội) thường tạo nên tình yêu bền vững, cao đẹp.

– Tính “tinh thần” hoặc tính “vật chất”:

Một động cơ yêu đương có thể mang tính “tinh thần” hoặc “vật chất” tuỳ

theo tính chất của các yếu tố đó.

Chẳng hạn người ta yêu nhau vì tiền tài, địa vị, sắc đẹp… những yếu tố

này mang tính “vật chất” (vì nó chủ yếu thoả mãn những nhu cầu vật chất của

con người). Đó là động cơ yêu đương mang tính “vật chất”.

Có những tình yêu mà người ta yêu nhau vì cảm phục, vì hoà hợp, vì

đạo đức tâm hồn, vì sự dịu dàng, lịch sự… những yếu tố này mang tính “tinh

thần”.

Khái niệm “vật chất” hay “tinh thần” ở đây được hiểu theo nghĩa hẹp và

mang tính tương đối. Chẳng hạn “sắc đẹp” được coi là những yếu tố vật chất

khi nó chỉ được hiểu là vẻ đẹp hình thức con người và nhằm thoả mãn dục

vọng. “Địa vị” được coi là yếu tố vật chất khi nó được hiểu như là cơ hội để có

nhiều tiền, để có cơ sở vật chất đầy đủ trong cuộc sống.

Những động cơ yêu đương mang tính toàn diện, tính đạo đức, tính tinh

thần (những động cơ bao gồm nhiều yếu tố) dễ tạo nên những tình yêu trong

sáng, thiêng liêng, bền vững. Ngược lại, những động cơ mang tính đơn điệu,

tính vật chất thấp hèn, tính vị kỉ cá nhân là những động cơ không tốt, khó có

thể tạo nên một tình yêu đẹp đẽ, vững bến.

Page 96: TÂM LÝ HỌC GIỚI TÍNH VÀ GIÁO DỤC GIỚI TÍNHsaomaidata.org/library/90...  · Web viewtÂm lÝ hỌc giỚi tÍnh vÀ giÁo dỤc giỚi tÍnh. tÂm lÝ hỌc giỚi tÍnh

Động cơ yêu đương không cố định mà có thể biến đổi và phát triển dần

dần, cả khi tình yêu giữa hai người đã xuất hiện. Nó tồn tại và phát triển cùng

với sự tồn tại và phát triển của tình yêu.

Chẳng hạn, ban đầu người ta yêu nhau vì sắc đẹp, tài năng, nhưng sau

đó trong quá trình yêu nhau các yếu tố của động cơ yêu đương có thể tăng

dần lên, vì hoà hợp, vì đạo đức tư cách tốt, vì sự duyên dáng, tế nhị…

Muốn đánh giá một tình yêu có đẹp đẽ hay không, thiêng liêng hay

không, muốn dự đoán một tình yêu có bền vững hay không, người ta phải

dựa vào động cơ yêu đương.

Chỉ khi động cơ yêu đương có tính toàn diện, tính “đạo đức”, tính “tinh

thần” mới có thể tạo nên tình yêu chân thực và chân chính.

b) Tình yêu chân thực

Là tình yêu “thực sự” ở con người, thường mang những đặc điểm sau:

– Có tính tự giác, trong đó mỗi người yêu một cách tự nguyện, “tình yêu

xuất phát tự đáy lòng”, tự “con tim”, nhiều khi bản thân “không cưỡng nổi”.

– Có sự say mê, cuốn hút ở mỗi người đối với nhau, thúc đẩy họ tích

cực chủ động xây dựng và bảo vệ tình yêu của mình.

– Mang tính chung thủy, trung thực và bền vững.

– Thể hiện rõ ràng, đầy đủ những thành phần cơ bản của tình yêu: có

sự yêu thương sâu sắc, gắn bó thân thiết, sự hoà hợp, sự tôn trọng lẫn nhau,

có rung cảm tình dục mạnh mẽ.

– Tình yêu chân thực thường xuất phát từ động cơ yêu đương đúng

đắn (có tính toàn diện, đạo đức, tinh thần) và có tính bền vững.

Tình yêu chân thực có khi không được xã hội thừa nhận, tán thành có

thể trở thành tình yêu si mê, mù quáng có thể đưa đến hậu quả không tốt cho

con người. Đó là trường hợp tình yêu thân thực nhưng không chân chính,

tình yêu không phù hợp với đạo đức xã hội, hoặc quá mê đắm yêu đương mà

quên mất vai trò, vị trí, chức năng, trách nhiệm, nhiệm vụ của mình trong xã

Page 97: TÂM LÝ HỌC GIỚI TÍNH VÀ GIÁO DỤC GIỚI TÍNHsaomaidata.org/library/90...  · Web viewtÂm lÝ hỌc giỚi tÍnh vÀ giÁo dỤc giỚi tÍnh. tÂm lÝ hỌc giỚi tÍnh

hội. Trong thanh niên, học sinh, có những trường hợp, dù là tình yêu chân

thực, nhưng làm cả hai người quên mất nhiệm vụ học tập, sa sút trong việc

rèn luyện tư dưỡng, bị mọi người phê phán.

Cần chú ý, tình yêu thân thực khác với tình yêu si mê. Ở tình yêu si mê,

động cơ yêu đương có thể mang tính đơn điệu, tính vật chất: người ta si mê

đến điên cuồng chỉ vì sắc đẹp hoặc chỉ vì hoà hợp tình dục. Tình yêu si mê

thường làm con người mất tỉnh táo, có khi mù quáng.

Trong tình yêu chân thực, cần phân biệt hiện tượng “yêu chân thực” và

“yêu nhau chân thực”. Có những trường hợp, chỉ một bên “yêu chân thực”.

Khi đó, tình yêu không thể hạnh phúc. Chỉ khi cả hai bên “yêu nhau chân

thực”, tình yêu mới vững bền và hạnh phúc.

c) Tình yêu chân chính

Tình yêu chân chính là tình yêu có những đặc điểm cơ bản sau đây:

– Có đầy đủ những đặc điểm của một tình yêu chân thực.

Phải có động cơ yêu đương đúng đắn trên cơ sở hiểu biết lẫn nhau.

– Phải phù hợp với đạo đức xã hội, được dư luận xã hội tán đồng.

– Phải có tính duy nhất: trong một thời điểm nhất định, tình yêu đó là

duy nhất của mỗi người.

– Phải có tính tiến bộ: tình yêu này có tác dụng thúc đẩy cả hai người

cùng tiến bộ, cùng vươn lên, tích cực học tập, tu dưỡng, rèn luyện… vượt

mọi khó khăn trở ngại vươn tới những đỉnh cao của cuộc sống.

– Phải có tính bền vững, có mục đích tiến tới hôn nhân.

Tình yêu chân chính là tình yêu đẹp đẽ nhất, bền chặt nhất, là tình yêu

cao thượng và thiêng liêng. Nó có sức mạnh to lớn đối với con người: nó có

thể cải tạo, cảm hoá con người. Chỉ có tình yêu chân chính mới vững bền và

đem lại hạnh phúc thực sự cho con người.

d) Việc giáo dục và xây dựng tình yêu chân chính

Page 98: TÂM LÝ HỌC GIỚI TÍNH VÀ GIÁO DỤC GIỚI TÍNHsaomaidata.org/library/90...  · Web viewtÂm lÝ hỌc giỚi tÍnh vÀ giÁo dỤc giỚi tÍnh. tÂm lÝ hỌc giỚi tÍnh

– Những điều cần chú ý trong tiếc xây dựng tình yêu chân chính:

+ Nên xây dựng tình yêu trên cơ sở của tình bạn.

+ Luôn luôn tìm hiểu nhau kể cả khi đã yêu. Nếu có dấu hiệu đáng ngờ,

tình yêu có dấu hiệu “bị đe doạ”, hoặc một trong hai bên có nghi ngại điều gì,

cần tích cực giải quyết kịp thời trên cơ sở của sự thiện chí.

+ Cần tăng cường hoạt động giao tiếp với nhau.

+ Luôn luôn chú ý chăm sóc giúp đỡ lẫn nhau, vì nhau.

+ Yêu chân thực và mãnh liệt.

+ Chú ý cảm hoá, giáo dục nhau.

+ Trân trọng người yêu và tình yêu của mình.

+ Luôn luôn có ý thức bảo vệ tình yêu (cảnh giác trước mọi yếu tố có

thể làm rạn nứt tình yêu), “giữ gìn”, bảo vệ danh dự cho người yêu.

+ Minh bạch và tế nhị trong cư xử.

+ Chú ý một số phẩm chất cần thiết: chung thủy, trung thực, đức hi

sinh, sự cao thượng, sự thiện chí, ý thức xây dựng và bảo vệ tình yêu… Một

số đặc điểm không tốt về đạo đức luật: tính vị kỉ cá nhân, tính tự ái, nhỏ

nhen… là “kẻ thù”, kẻ “phá hoại” của tình yêu hạnh phúc.

Vấn đề giáo dục tình yêu cho thanh niên:

Việc giáo dục tình yêu cho thanh niên là hết sức cần thiết và quan

trọng.

+ Cần chống những quan niệm sai lệch về tình yêu như: thành kiến với

chuyện yêu đương của thanh niên, hoặc ngược lại là không quan tâm đến

việc yêu đương của họ, để cho thanh niên bị thi phối bởi những quan niệm

không đúng đắn như: yêu đương tự do, tình dục tự do, tình yêu không hôn

nhân…

+ Việc giáo dục tình yêu chân chính cần gắn liền với việc giáo dục đạo

đức và rèn luyện những phẩm chất tốt đẹp của nhân cách.

Page 99: TÂM LÝ HỌC GIỚI TÍNH VÀ GIÁO DỤC GIỚI TÍNHsaomaidata.org/library/90...  · Web viewtÂm lÝ hỌc giỚi tÍnh vÀ giÁo dỤc giỚi tÍnh. tÂm lÝ hỌc giỚi tÍnh

+ Giáo dục cho thanh niên có nhận thức đầy đủ về tình yêu (tình yêu là

gì, bản chất của tình yêu chân thực và chân chính, phân biệt được tình yêu và

tình bạn).

+ Giáo dục cho họ quan điểm yêu đương đúng đắn (động cơ yêu

đương toàn diện, có thái độ trân trọng và cư xử đúng mực trong tình yêu, ý

thức trách nhiệm đối với người yêu…).

+ Trang bị cho họ tri thức và kĩ năng xây dựng tình yêu chân thực và

tình yêu chân chính.

+ Ngăn ngừa và hạn chế những biểu hiện không tốt trong tình yêu của

thanh niên hiện nay.

5. Mối quan hệ giữa tình yêu và hôn nhân

a) Tình yêu chân chính là bước đầu của hôn nhân

– Trước đây ở Việt Nam, vấn đề hôn nhân của thanh niên phần lớn do

cha mẹ định đoạt, khi con cái đến tuổi trưởng thành, cha mẹ thường chủ động

tìm vợ (tìm chồng) và con cái phải tuân theo ý của cha mẹ thì mới gọi là con

có hiếu. Việc “tìm kiếm” này thường dựa trên những tiêu chuẩn như “môn

đăng hộ đối”, hợp ý cha mẹ, có danh vọng, tiền tài… Đặc biệt người con gái

ngoan ngoãn, hiền đức phải tuyệt đối tuân theo ý kiến xếp đặt của cha mẹ:

“Cha mẹ đặt đâu con ngồi đấy”. Khi lấy chồng, người con gái hoàn toàn chấp

nhận theo số phận may rủi “như giọt mưa sa”. Đó là những tư tưởng chịu ảnh

hưởng của quan điểm phong kiến, lạc hậu, dễ đem lại cuộc sống đau khổ cho

người con gái.

– Ngày nay, do sự biến đổi và phát triển của chế độ xã hội, sự phát

triển của khoa học, kĩ thuật, nền kinh tế xã hối… cũng như sự biến đổi của tư

tưởng, của tâm lí, đời sống tình cảm của con người đã biến đổi một cách cơ

bản. Quan niệm về hôn nhân, về việc “kết hôn không tình yêu” kiểu như trước

đây khó có thể tạo nên hạnh phúc gia đình. Nhiều thanh niên nam nữ đã chủ

động và giữ vai trò quyết định chủ yếu vấn đề hôn nhân của mình (cha mẹ

thường chỉ làm cố vấn, tạo điều kiện thuận lợi hoặc giữ vai trò xét duyệt cuối

Page 100: TÂM LÝ HỌC GIỚI TÍNH VÀ GIÁO DỤC GIỚI TÍNHsaomaidata.org/library/90...  · Web viewtÂm lÝ hỌc giỚi tÍnh vÀ giÁo dỤc giỚi tÍnh. tÂm lÝ hỌc giỚi tÍnh

cùng). Việc hôn nhân này chủ yếu xây dựng trên cơ sở tự nguyện giữa hai

người, trong đó, tình yêu là yếu tố thúc đẩy và giữ vai trò quan trọng quyết

định nhất.

– Khi hai người thanh niên yêu nhau thực sự (có tình yêu chân thực và

chân chính), việc kết hôn dần dần trở thành nhu cầu chung của cả hai bên.

Ngày nay, từ lí luận đến thực tế, người ta đều thống nhất rằng, chỉ trên

cơ sở tình yêu chân thực và chân chính mới có thể có hôn nhân hạnh phúc

và bến vững. Ngược lại những cuộc hôn nhân không có tình yêu hoặc không

xuất phát từ tình yêu chân thực và chân chính, thường không thể đem lại

hạnh phúc cho con người.

Khi bắt đầu yêu nhau, nhất là khi tình yêu phát triển thuận lợi người ta

thường tưởng tượng và thầm mong đến lúc nào đó, người yêu sẽ thành vợ

thành chồng của mình. Nếu cảm thấy việc kết hôn không thể xảy ta, tình yêu

của họ thường trở nên mất phương hướng, không còn thi vị, dẫn đến bế tắc,

tan vỡ.

Khi tình yêu phát triển đến mức cao, việc kết hôn thường trở thành một

nhu cầu ở cả hai người và thúc đẩy họ làm lễ cưới. Như thế sự phát triển của

tình yêu sẽ dẫn đến hôn nhân. Nếu tình yêu càng sâu sắc, mãnh hệt, hôn

nhân càng có điều kiện bền vững, càng hạnh phúc hơn.

b) Tình yêu là cơ sở và là điều kiện cho hạnh phúc vợ chồng

– Một số người quan niệm chưa đầy đủ, thường cho rằng tình yêu chỉ

tồn tại trước khi kết hôn. Còn trong cuộc sống vợ chồng, tình yêu không còn

nữa và cũng chẳng cần thiết nữa, thậm chí, nhiều người phụ nữ khi đã có một

vài con, thường nghĩ “mình đã già rồi, còn yêu đương gì nữa”. Đó là quan

niệm sai lầm.

Xét về bản chất, quan hệ vợ chồng vẫn là quan hệ tình yêu, vẫn có

đầy đủ những yếu tố cơ bản của tình yêu. Nói cách khác, giữa vợ chồng vẫn

có tình yêu, nhưng là tình yêu đặc biệt. Đó là tình yêu vợ chồng. Tình yêu này

vẫn mang đầy đủ những thành phần cơ bản của ình yêu chân thực, nhưng có

Page 101: TÂM LÝ HỌC GIỚI TÍNH VÀ GIÁO DỤC GIỚI TÍNHsaomaidata.org/library/90...  · Web viewtÂm lÝ hỌc giỚi tÍnh vÀ giÁo dỤc giỚi tÍnh. tÂm lÝ hỌc giỚi tÍnh

những sắc thái riêng do bị chi phối bởi những đặc điểm của cuộc sống vợ

chồng.

– Hạnh phúc vợ chồng tồn tại trên cơ sở của tình yêu giữa hai người.

Nếu hai người còn yêu nhau, cuộc sống vợ chồng còn hạnh phúc. Càng yêu

nhau thắm thiết, tình nghĩa vợ chồng càng đậm đà, thi vị. Hạnh phúc sẽ càng

giảm đi nếu tình yêu giữa hai người càng phai nhạt. Nếu tình yêu mất hẳn,

hạnh phúc sẽ không còn nữa, cuộc sống vợ chồng chỉ còn là sự chung đụng

khó chịu, lạnh nhạt và vô vị sẽ chỉ còn là những chuỗi ngày chịu đựng nhau

triền miên.

Bởi vậy, xây dựng hạnh phúc vợ chồng cũng đồng nghĩa với việc xây

dựng, bảo vệ, nuôi dưỡng tình yêu giữa hai người, làm cho tình yêu đó ngày

càng phát triển.

Nếu hai vợ chồng luôn luôn cư xử với nhau như hai người yêu nhau,

hạnh phúc vợ chồng luôn đằm thắm và phát triển. Ngược lại, những cặp vợ

chồng không quan tâm nuôi dưỡng tình yêu giữa hai người, hạnh phúc

thường dễ phai nhạt và cuộc sống chung cũng dễ trở thành nhàm chán, vô vị,

tình yêu giữa hai người tồn tại một trong cuộc sống vợ chồng và giữ vai trò

chủ yếu quyết định hạnh phúc vợ chồng. Chỉ khi cả hai vợ chồng còn yêu

nhau thì cuộc sống vợ chồng mới còn hạnh phúc thực sự. Tình yêu vợ chồng

là một trong những điều kiện cơ bản cho hạnh phúc vợ chồng.

Ở một số trường hợp mà việc kết hôn không bắt nguồn từ tình yêu giữa

hai người (có thể do cưỡng ép hoặc và một lý do nào khác) thì hạnh phúc của

cặp vợ chồng ấy cũng tuỳ thuộc vào tình yêu của họ sau này có nảy sinh hay

không. Nếu trong quá trình chung sống, tình yêu dần dần xuất hiện ở hai

người, cặp vợ chồng đó mới có thể hạnh phúc. Còn nếu không, sự chung

sống vợ chồng của họ sẽ có nhiều khó khăn, có khi chỉ là sự thấp nhận, chịu

đựng.

Ngay cả ở những cặp vợ chồng đứng tuổi, hoặc đã về già, hạnh phúc

gia đình bị thi phối bởi nhiều yếu tố phức tạp hơn, nhưng tình yêu giữa họ vẫn

Page 102: TÂM LÝ HỌC GIỚI TÍNH VÀ GIÁO DỤC GIỚI TÍNHsaomaidata.org/library/90...  · Web viewtÂm lÝ hỌc giỚi tÍnh vÀ giÁo dỤc giỚi tÍnh. tÂm lÝ hỌc giỚi tÍnh

còn giữ vai trò quan trọng. Tuy nhiên, tình yêu lúc này cũng mang những đặc

điểm khác với thời tuổi trẻ, và thường chuyển hoá thành tính nghĩa vợ chồng.

c) Những thời kì yêu đương của con người

Từ mối quan hệ thân thiết giữa tình yêu và hôn nhân, có thể phân chia

đời sống yêu đương của con người thành ba thời kì:

– Thời kì yêu đương tuổi trẻ: đây là thời kì yêu đương của lứa tuổi

thanh thiếu niên, tuổi chưa trưởng thành (thường là trước 18, 20 tuổi ở nữ,

trước 22, 25 tuổi ở nam). Thời kì yêu đương này có một số đặc điểm sau:

+ Tình yêu thường mơ mộng, lí tưởng, đẹp đẽ. Hai người yêu nhau

xuất phát từ tình cảm chân thực, trong sáng, thân thiết, ít mang tính vụ lợi, vật

chất, ích kỉ… Họ dễ chấp nhận cảnh “một túp lều tranh hai trái tim vàng”.

+ Vấn đề hôn nhân chưa phải là mục tiêu chủ yếu, thậm chí chưa được

đặt ra. Hai người cũng có khi nghĩ đến nhưng thường cho đó là “chuyện lâu

dài”, chuyện “sau này sẽ tính”.

+ Tình yêu còn chưa rõ nét, đôi khi còn lẫn lộn với tình bạn, có khi

đương sự cũng không xác định rõ ràng hẳn là tình yêu hay mới chỉ là tình

bạn, tình yêu thời kì này thường mang tính lãng mạn nhiều hơn và thường

chưa được ý thức rõ rệt.

+ Những dấu hiệu cơ bản của tình yêu chưa được biểu hiện rõ rệt, đầy

đủ. Những rung cảm tình dục có khi chỉ ở dạng cảm xúc mờ nhạt kín đáo mà

chính đương sự cũng khó xác định.

+ Tình yêu thường dễ tan vỡ và khi tan vỡ gây nên những “cú sốc”

mạnh mẽ trong cả hai người, nhất là ở nữ. Có khi mạnh đến mức có em tự tử

vì tình yêu của nính.

Nói chung, thời kì này, tình yêu thường rất phức tạp, có khi đem lại bất

lợi cho thanh niên nhiều hơn là hạnh phúc, có khi còn hạn chế sự vươn lên,

ảnh hưởng không tốt đến việc học tập, công tác ý chí phấn đấu của các em.

Page 103: TÂM LÝ HỌC GIỚI TÍNH VÀ GIÁO DỤC GIỚI TÍNHsaomaidata.org/library/90...  · Web viewtÂm lÝ hỌc giỚi tÍnh vÀ giÁo dỤc giỚi tÍnh. tÂm lÝ hỌc giỚi tÍnh

Do đó, vấn đề giáo dục thanh niên trong lĩnh vực này có ý nghĩa rất quan

trọng.

Cần đặc biệt chú ý, ngày nay, những thanh niên không được giáo dục

đầy đủ; kém về đạo đức (trong lứa tuổi này), thường yêu theo một “dạng”

hoàn toàn khác. Tính đẹp đẽ, lí tưởng, thơ mộng của tình yêu không có. Thay

vào đấy là những kiểu yêu đương bậy bạ, bừa bãi, vô trách nhiệm… Ở họ,

thay vì những cảm xúc tình dục mới lạ mang tính thiêng liêng, thơ mộng, bí

ẩn, lại là những đòi hỏi trắng trợn, để thoả mãn trí tò mò, để “thử cảm giác

mạnh” và sau đó thường là sự ruồng rẫy, tàn nhẫn, sự nhàm chán nhanh

chóng… Nhiều khi ở họ chỉ là những tình yêu đùa giỡn, lợi dụng, tạm bợ, ích

kỉ, chỉ là sự ăn chơi đua đòi, trụy lạc…

– Thời kì yêu đương trưởng thành: Là thời kì yêu đương thực sự của

con người, thường từ tuổi trưởng thành trở đi (nữ từ 18 đến 20, nam từ 24

đến 25 tuổi). Tình yêu của con người thời kì này thường có một số đặc điểm

sau:

+ Những dấu hiệu cơ bản của tình yêu thường biểu hiện rất rõ rệt (tình

thương, tình bạn, nhất là tình dục).

+ Tình yêu được xây dựng trên cơ sở nhận thức, có cân nhắc suy xét

có tính đến chuyện lâu dài. Hôn nhân là mục đích thường được nhắc tới với ý

thức rõ rệt.

+ Tình yêu ổn định và bền vững hơn, nhưng cũng khó hình thành hơn.

Trước khi quyết định yêu nhau, hai người thường có sự suy xét phân tích khá

kĩ lưỡng và nghiêm túc. Nhìn chung, tình yêu thời kì này mang tính thực tiễn

rõ rệt.

+ Ở mỗi lứa tuổi khác nhau, hoàn cảnh khác nhau… tình yêu ở từng

người có những đặc điểm khác nhau. Có thể có 3 loại chính sau đây:

Tình yêu ở những người còn ít kinh nghiệm yêu đương. Tình yêu

thường đẹp, sâu sắc, bền vững: nó mang tính trong sáng, lí tưởng

của tình yêu trong trắng trong thời kì đầu và cũng mang tính ổn định,

Page 104: TÂM LÝ HỌC GIỚI TÍNH VÀ GIÁO DỤC GIỚI TÍNHsaomaidata.org/library/90...  · Web viewtÂm lÝ hỌc giỚi tÍnh vÀ giÁo dỤc giỚi tÍnh. tÂm lÝ hỌc giỚi tÍnh

bền vững, thận trọng ở thời kì trưởng thành. Tình yêu loại này để đi

đến hôn nhân.

Tình yêu ở những người đã có kinh nghiệm yêu đương, nhưng chưa

có gia đình (đã yêu nhiều lần nhưng rồi lạc bị tan vỡ vì sự không

may nào đó, hoặc đã có vợ, có chồng nhưng đã li dị hay goá bụa).

Tình yêu thường mang những màu sắc thực tiễn, có khi trở thành

thực dụng, thường nhanh chóng phát triển, những dấu hiệu cơ bản

của tình yêu rất rõ rệt. Tình yêu này cũng có thể dễ dàng và nhanh

chóng tiến tới hôn nhân.

Tình yêu ở những người đang có gia đình (đã có nợ hoặc có

chồng…), người ta thường gọi là '“tình yêu đối với người thứ ba”

hay sự ngoại tình. Tình yêu này rất phức tạp, đa dạng, mang nhiều

mâu thuẫn, đôi khi rất mãnh liệt, trở thành sự si mê, mù quáng.

Nhiều khi con người không lường trước được diễn biến và hậu quả.

Nhiều người còn lẫn lộn giữa tình yêu này với những đam mê, dục

vọng tầm thường khác.

Ở những người kém về đạo đức, nhân cách suy đồi, tồi tệ, tình yêu của

họ thường biến dạng, thay đổi một cách phức tạp, tuỳ theo quan điểm, lối

sống, phẩm chất, tính cách… của họ. Thường thì tình yêu của họ dễ mang

tính chất lường gạt, lợi dụng, vị kỉ, giả dối, độc ác… hay có khi chỉ là những

hành động nhằm thoả mãn dục vọng tầm thường. Thực chất đó không phải là

tình yêu, mà chỉ là sự lường gạt tình cảm hoặc sự ăn chơi sa đoạ, trụy lạc.

– Thời kì tình yêu vợ chồng: Khi hai người đã kết hôn (đã là vợ chồng)

tình yêu giữa họ không phải là chấm dứt mà chuyển sang một thời kì mới:

tình yêu vợ chồng.

Đó là tình yêu sau hôn nhân. Tình yêu này thường có những đặc điểm

chính sau:

+ Là tình yêu giữa vợ đối với chồng và chồng đối với vợ.

Page 105: TÂM LÝ HỌC GIỚI TÍNH VÀ GIÁO DỤC GIỚI TÍNHsaomaidata.org/library/90...  · Web viewtÂm lÝ hỌc giỚi tÍnh vÀ giÁo dỤc giỚi tÍnh. tÂm lÝ hỌc giỚi tÍnh

+ Có đầy đủ những dấu hiệu cơ bản của tình yêu, nhưng sự thể hiện

của các dấu hiệu này mang một sắc thái mới do cuộc sống vợ chồng tạo nên.

Tình yêu vợ chồng vẫn là tình yêu thực sự, và bị chi phối bởi các quy luật của

tình yêu.

+ Chịu ảnh hưởng nhiều bởi đặc điểm của cuộc sống vợ chồng:

Có những thuận lợi hơn tình yêu trưởng thành hoặc tình yêu trong

trắng (do được lát pháp bảo trợ, được gặp gỡ nhau thường xuyên,

được tự do yêu thương…), nhưng cũng có nhiều khó khăn hơn

trong quá rình phát triển. Loại tình yêu này thường khó phát triển vì

nhiều lí do (như tình thơ mộng trong tình yêu bị mỉm bớt, các sống

chung dễ nảy sinh nhiều va chạm, những đặc điểm xấu của nhân

cách mỗi người dễ bị bộc lộ, đời sống vợ chồng bị chi phối bởi nhiều

yếu tố phức tạp của cuộc sống hơn…).

Cũng như một tình yêu khác, tình yêu vợ chồng cũng rất phức tạp.

Ở một chừng mực nhất định, nó cũng bị chi phối bởi các quy luật

chung của tình yêu, nó cũng diễn biến phức tạp như tình yêu. Mặt

khác, nó còn bị chi phối bởi rất nhiều yếu tố của xã hội, của đời sống

vợ chồng. Trong quá trình chung sống, tình yêu vợ chồng có thể

ngày càng phát triển hoặc ngày càng giảm sút. Cũng có thể tình yêu

biến động thất thường. Ở những cặp vợ chồng lớn tuổi hoặc đã về

già, các thành phần và tính chất của tình yêu dần dần thay đổi, tính

trách nhiệm ngày càng gia tăng, yếu tố tình dục giảm dần…

Tình yêu vợ chồng có ý nghĩa rất lớn đến cuộc sống vợ chồng. Nó

quyết định hạnh phúc của vợ chồng.

V. HÔN NHÂN1. Khái niệm hôn nhân

– Hôn nhân là một hiện tượng xã hội, trong đó, hai người khác giới

được xã hội thừa nhận sống chung với nhau, gắn bó với nhau, có trách nhiệm

với nhau và cùng có trình nhiệm trước xã hội.

Page 106: TÂM LÝ HỌC GIỚI TÍNH VÀ GIÁO DỤC GIỚI TÍNHsaomaidata.org/library/90...  · Web viewtÂm lÝ hỌc giỚi tÍnh vÀ giÁo dỤc giỚi tÍnh. tÂm lÝ hỌc giỚi tÍnh

– Hôn nhân thường là kết quả của tình yêu. Khi tình yêu phát triển cao,

nó trở thành một trong những yếu tố mạnh mẽ thúc đẩy hai người kết hôn.

Tuy nhiên, cũng có nhiều cuộc hôn nhân được hình thành từ những động cơ

tâm lí hoặc động cơ xã hội khác.

Hôn nhân thường được biểu hiện ở các hình thức:

+ Hình thức về mặt pháp lí: Đăng kí kết hôn.

+ Hình thức về phong tục tập quán: Lễ cưới.

Hình thức đăng kí kết hôn ở cơ quan chính quyền là cơ bản. Nhưng do

phong tục tập quán dân tộc, nhiều khi lễ cưới lại có ý nghĩa quan trọng hơn.

Có địa phương, lễ cưới có vai trò chủ yếu quyết định nhất. Lễ cưới phụ thuộc

rất nhiều vào phong tục tập quán, nếp sống xã hội hoặc nghi lễ tôn giáo.

– Hôn nhân tạo nên một gia đình mới trong xã hội, tạo nên cuộc sống

vợ chồng. Cuộc sống gia đình và hạnh phúc vợ chồng phụ thuộc nhiều vào

động cơ hôn nhân.

2. Động cơ hôn nhân

– Động cơ hôn nhân là tổng hợp những yếu tố thúc đẩy hai người đi tới

hôn nhân. Những yếu tố này thường rất phức tạp, đa dạng có thể bao gồm

như sau:

+ Yếu tố thuộc về tâm lí xã hội: Sự thành đạt, ổn định về danh phận, sự

nghiệp, nhu cầu về cuộc sống gia đình, sự thúc đẩy của họ hàng, bạn bè, sự

hoà hợp cá tính…

+ Yếu tố lứa tuổi: Đến một độ tuổi nào đó, đến độ trưởng thành về mặt

cơ thể, người ta có nhu cầu kết hôn.

+ Yếu tố vật chất: Khi điều kiện sống phát triển đến một mức nhất định,

hoặc khi nhu cầu cơ thể phát triển đến một mức nhất định nó trở thành yếu tố

thúc đẩy con người đi tới hôn nhân.

+ Yếu tố tình yêu: Tình yêu phát triển đến một mức nào đó, hai người

có nhu cầu kết hôn.

Page 107: TÂM LÝ HỌC GIỚI TÍNH VÀ GIÁO DỤC GIỚI TÍNHsaomaidata.org/library/90...  · Web viewtÂm lÝ hỌc giỚi tÍnh vÀ giÁo dỤc giỚi tÍnh. tÂm lÝ hỌc giỚi tÍnh

+ Yếu tố tâm lí cá nhân: Đặc điểm tâm lí cá tính mỗi người.

Động cơ hôn nhân không nhất thiết phải gồm toàn bộ các yếu tố đã kể

trên, mà có thể chỉ bao gồm một số yếu tố nào đó, tuỳ từng trường hợp cụ

thể, từng người cụ thể (do đặc điểm đao đức, quan điểm sống, cá tính…).

– Động cơ hôn nhân có vai trò quan trọng đến hạnh phúc gia đình. Chỉ

những động cơ đúng đắn, lành mạnh mới có thể có gia đình hạnh phúc, cuộc

sống vợ chồng êm ấm, thuận hoà, bến vững.

Động cơ hôn nhân đúng đắn, lành mạnh thường bao gồm các yếu tố sau:

+ Tình yêu thân thực, chân chính phát triển ở mức cao.

+ Hai người tự nguyện và cùng mong được chung sống.

+ Có sự suy nghĩ, cân nhắc thận trọng về nhiều mặt ở cả hai người (sự

trưởng thành về tâm lý xã hội, về điều kiện hoàn cảnh, cơ sở vật chất, tuổi

tác, hoà hợp trên cơ sở hiểu biết lẫn nhau).

+ Sự kết hợp của nhiều yếu tố trên.

Nếu động cơ hôn nhân càng bao gồm nhiều yếu tố như trên, cuộc sống

gia đình càng có nhiều điều kiện để hạnh phúc và phát triển hơn.

– Động cơ hôn nhân không đúng đắn thường có những biểu hiện như:

+ Có mục đích lợi dụng (tiền tài địa vị, xác thịt) hoặc có sự vị kỉ, tính

toán cá nhân.

+ Có sự cả nể, thương hại.

+ Có sự bị động (thúc đẩy của gia đình, sự gả bán, cưỡng ép…).

+ Có những dấu hiệu chưa tốt về tình yêu: chưa yêu thật sự (tình yêu

ngộ nhận) hoặc mức độ yêu chưa đến độ phát triển cao (chưa yêu nồng

thắm, chưa sâu sắc…).

+ Chưa tìm hiểu đầy đủ về nhau, chưa hiểu rõ nhau (cưới vội vàng).

Page 108: TÂM LÝ HỌC GIỚI TÍNH VÀ GIÁO DỤC GIỚI TÍNHsaomaidata.org/library/90...  · Web viewtÂm lÝ hỌc giỚi tÍnh vÀ giÁo dỤc giỚi tÍnh. tÂm lÝ hỌc giỚi tÍnh

+ Chưa có sự chuẩn bị cho cuộc sống chung.

3. Một số vấn đề cần lưu ý trong việc xây dựng cuộc sống hôn nhân

a) Cần chuẩn bị chu đáo cho hôn nhân theo nhiều hướng

– Xây dựng tình yêu thân thực và chân chính, và làm cho tình yêu ngày

càng phát triển.

– Phải tiếp tục tìm hiểu lẫn nhau khi đã yêu, khi sắp kết hôn và trong

toàn bộ cuộc sống vợ chồng sau này.

– Phải tìm hiểu về cuộc sống vợ chồng, về nội dung của cuộc sống gia

đình, những phương hướng, biện pháp xây dựng gia đình hạnh phúc, luật

hôn nhân gia đình…

Phải chuẩn bị cho cuộc sống chung: xây dựng cơ sở vật chất cho sự

chung sống vợ chồng, tìm hiểu những tri thức về cuộc sống vợ chồng, về

cuộc sống gia đình.

– Chuẩn bị cho lễ cưới.

b) Những điều kiện dẫn tới hôn nhân hạnh phúc

Có nhiều yếu tố điều kiện, ảnh hưởng đến việc kết hôn. Tuy nhiên, để

tiến tới hôn nhân hạnh phúc, người ta chỉ nên kết hôn khi đã đạt được một số

điều kiện chính sau đây:

Mức độ phát triển của tình yêu giữa hai người đến mức độ cao.

– Hai người có sự hiểu biết tương đối đầy đủ về cá tính, trình độ đạo

đức thế giới quan… (đặc điểm tâm lí), nhất là hoàn cảnh gia đình của nhau.

– Ít nhất một trong hai người phải có nghề nghiệp ổn định.

– Sự hiểu biết nhất định về cuộc sống vợ chồng, cuộc sống gia đình.

– Có sự chuẩn bị tương đối đầy đủ về cuộc sống chung sau này.

c) Đăng kí kết hôn và lễ cưới

Page 109: TÂM LÝ HỌC GIỚI TÍNH VÀ GIÁO DỤC GIỚI TÍNHsaomaidata.org/library/90...  · Web viewtÂm lÝ hỌc giỚi tÍnh vÀ giÁo dỤc giỚi tÍnh. tÂm lÝ hỌc giỚi tÍnh

Việc đăng kí kết hôn ở cơ quan chính quyền là việc cơ bản của hôn

nhân, nhưng ở nước ta, lễ cưới lại có ý nghĩa quan trọng (do phong tục, tập

quán).

Nghi lễ đám cưới ở mỗi địa phương, mỗi tôn giáo, mỗi gia đình có thể

khác nhau, nhưng việc chuẩn bị cho lễ cưới là điều rất quan trọng.

Cần chú ý, vấn đề “lễ cưới” trong thanh niên còn nhiều biểu hiện không

tốt như: cầu kì, xa hoa, lãng phí… Nhiều khi sau đám cưới, hai vợ tượng trẻ

phải “kéo cày” nhiều năm để trả nợ. Điều đó lại là một nguyên nhân ảnh

hưởng không tốt đến hạnh phúc sau này. Vì thế, việc xây dựng một quan

điểm đúng đắn và một nghi thức phù hợp về lễ cưới trang trọng, có ý nghĩa

giáo dục, giản dị, tiết tiệm nhưng có tác động mạnh mẽ cho cô dâu, chú rể và

“hai họ”… là điều rất cần thiết hiện nay.

Để có hôn nhân hạnh phúc cần chú ý đến các vấn đề sau:

– Phải có đăng kí kết hôn.

– Tổ chức lễ cưới phù hợp, trang trọng theo tục lệ.

Phải giáo dục mọi người hiểu biết ý nghĩa, tầm quan trọng của vấn đề

trên.

d) Vấn đề đêm tân hôn và tuần trăng mật

Đêm tân hôn và tuần trăng mật là những vấn đề phức tạp cần quan

tâm, hướng dẫn cho thanh niên khi kết hôn. Thường hai vợ chồng trẻ còn

nhiều bỡ ngỡ, mới lạ, lúng túng trong những hoàn cảnh này. Thậm thí, tâm lí

của họ có nhiều xáo động, bối rối, có thể dẫn tới những hậu quả bất lợi cho

cuộc sống chung. Vì vậy, việc hướng dẫn chu đáo cho thanh niên về những

vấn đề này rất cần thiết sẽ góp phần tạo nên hạnh phúc gia đình nồng thắm,

bền vững sau này.

e) Những vấn đề cụ thể của thời kì đầu trong cuộc sống vợ chồng

Trong thời kì đầu của cuộc sống chung, cả hai vợ chồng cần quan tâm

và hiểu biết về nhiều vấn đề sau đây:

Page 110: TÂM LÝ HỌC GIỚI TÍNH VÀ GIÁO DỤC GIỚI TÍNHsaomaidata.org/library/90...  · Web viewtÂm lÝ hỌc giỚi tÍnh vÀ giÁo dỤc giỚi tÍnh. tÂm lÝ hỌc giỚi tÍnh

– Đêm tân hôn và tuần trăng mật.

Làm quen với cuộc sống chung.

– Tiếp tục tìm hiểu lẫn nhau.

“Giáo dục”, “cảm hoá” lẫn nhau từ đầu (ngay từ đêm tân hôn).

– Xây dựng nề nếp cuộc sống gia đình.

– Cách cư xử với nhau giữa hai vợ chồng và với họ hàng hai bên.

– Xây dựng cuộc sống vợ chồng hạnh phúc.

– Xây dựng cơ sở vật chất cho cuộc sống gia đình…

Những kiến thức và kỹ năng về những vấn đề trên sẽ giúp cho hai vợ

chồng trẻ có điều kiện thuận lợi để xây dựng cuộc sống gia đình hạnh phúc.

4. Cuộc sống vợ chồng

Kết quả của hôn nhân là sự hình thành một gia đình mới. Mỗi gia đình

là một tế bào của xã hội. Những mối quan hệ trong gia đình là những quan hệ

xã hội phức tạp, trong đó mối quan hệ cơ bản nhất, quan trọng nhất là quan

hệ vợ chồng. Quan hệ vợ chồng là một tổng hợp những mối quan hệ đa

dạng, phức tạp, chịu tác động của nhiều yếu tố: xã hội, kinh tế, tâm lí, đạo

đức… Do đó, cuộc sống vợ chồng là một quá trình phát triển lâu dài và nhiều

biến động.

a) Đặc điểm của cuộc sống vợ chồng

– Là sự chung sống giữa hai người được xã hội công nhận

+ Từ hai người “xa lạ” gắn bó với nhau, cùng chung số phận, cùng chia

ngọt sẻ bùi, cùng chung những điều kiện và hoàn cảnh sống.

+ Sự chung đụng hàng ngày trong sinh hoạt, cuộc sống của hai người

có những cá tính khác biệt.

+ Hai người lệ thuộc vào nhau, mất đi một phần tự do của mình, phải

chịu trách nhiệm về nhau.

Page 111: TÂM LÝ HỌC GIỚI TÍNH VÀ GIÁO DỤC GIỚI TÍNHsaomaidata.org/library/90...  · Web viewtÂm lÝ hỌc giỚi tÍnh vÀ giÁo dỤc giỚi tÍnh. tÂm lÝ hỌc giỚi tÍnh

+ Sự giao tiếp hàng ngày có thể làm nảy sinh những tình cảm tốt đẹp

hoặc những va chạm, mâu thuẫn:

+ Quan hệ tình dục tự do có thể dẫn đến sự nhàm chán.

+ Rất nhiều vấn đề mới nảy sinh: xây dựng cuộc sống gia đình, mua

sắm đồ đạc, những biểu hiện của mối quan hệ họ hàng và gia đình hai bên,

vấn đề sinh nở và nuôi con, vấn đề đảm bảo đời sống vật chất hàng ngày,

những nhu cầu vật chất và tinh thần mới luôn luôn nảy sinh, vai trò của yếu tố

kinh tế ngày càng quan trọng hơn…

+ Sự ảnh hưởng của xã hội đến cuộc sống vợ chồng rất đa dạng và

phức tạp.

Quan hệ vợ chồng là một tổng hợp của nhiều mối quan hệ tâm lí xã

hội:

+ Mối quan hệ giữa hai con người bình đẳng trong xã hội, phản ánh các

mối quan hệ xã hội.

+ Mối quan hệ luật pháp (hai nguồn phải tuân theo luật hôn nhân, gia

đình).

+ Mối quan hệ liên nhân cách (tâm lý).

+ Mối quan hệ tình cảm (tình người, tình bạn, tình nghĩa).

+ Mối quan hệ sinh lí, tình dục.

+ Tình yêu vợ chồng là mối quan hệ trung tâm bao trùm nhất. Đó cũng

là tình yêu, nhưng có nhiều đặc điểm khác biệt với tình yêu nam nữ thông

thường.

– Do hai đặc điểm trên; đời sống vợ chồng là một quá trình phức tạp,

biến động, có thể phát triển theo những diễn biến rất khác biệt:

+ Theo hướng tốt đẹp: tình nghĩa phát triển ngày càng yêu nhau sâu

sắc, hai người sống ngày càng hạnh phúc bên nhau.

Page 112: TÂM LÝ HỌC GIỚI TÍNH VÀ GIÁO DỤC GIỚI TÍNHsaomaidata.org/library/90...  · Web viewtÂm lÝ hỌc giỚi tÍnh vÀ giÁo dỤc giỚi tÍnh. tÂm lÝ hỌc giỚi tÍnh

+ Theo hướng xấu: ngày càng mất hạnh phúc, càng nhàm chán, khó

chịu.

+ Theo hướng phức tạp: không ổn định, khi tốt, khi xấu

Sự biến động trên tuỳ thuộc thủ yếu vào tình yêu, cách sống, cách cư

xử phẩm chất đạo đức, trình độ của hai người… đồng thời cũng chịu ảnh

hưởng của nhiều nguyên nhân khác.

b) Những yếu tố ảnh hưởng đến cuộc sống vợ chồng

Cuộc sống vợ chồng chịu ảnh hưởng của nhiều yếu tố. Do tác động

của các yếu tố này, cuộc sống vợ chồng có thể hạnh phúc hoặc bị tan vỡ.

Sau đây là một số yếu tố có ảnh hưởng chủ yếu, rõ rệt nhất.

Mức độ của tình yêu vợ chồng:

+ Thường khi mới cưới, tình yêu vợ chồng ở mức cao nhất, sau đó

trong quá trình sống, tình yêu vợ chồng có thể bị biến đổi đi. Có những

trường hợp tình yêu vợ chồng ngày càng tăng dần lên, nhưng cũng có những

trường hợp tình yêu này ngày càng giảm sút. Sự giảm sút của tình yêu vợ

chồng có thể làm cho hạnh phúc của cuộc sống vợ chồng bị sút giảm theo.

Để tình yêu vợ chồng ngày càng phát triển, làm hậu thuẫn cho cuộc sống gia

đình hạnh phúc, cả hai vợ chồng phải cùng có đạo đức, trách nhiệm, có hiểu

biết về cuộc sống vợ thông và nhiều điều kiện khác.

+ Mức độ tình yêu vợ chồng càng cao, cuộc sống vợ chồng càng hạnh

phúc. Vì thế, việc xây dựng, gìn giữ tình yêu vợ chồng có ý nghĩa, vai trò

quan trọng.

– Mức độ và sự hiểu biết lẫn nhau:

+ Nếu hai vợ chồng càng hiểu biết về nhau, càng có nhiều điều kiện

chung sống hạnh phúc hơn. Sự hiểu biết lẫn nhau giúp cho hai người giải

quyết những biểu hiện rắc rối những nhược điểm của nhau, có kế hoạch và

cách cư xử thích hợp khi có “tình huống phức tạp”, nảy sinh, có kế hoạch

Page 113: TÂM LÝ HỌC GIỚI TÍNH VÀ GIÁO DỤC GIỚI TÍNHsaomaidata.org/library/90...  · Web viewtÂm lÝ hỌc giỚi tÍnh vÀ giÁo dỤc giỚi tÍnh. tÂm lÝ hỌc giỚi tÍnh

“giáo dục”, “cảm hoá” lẫn nhau, có điều kiện để biểu hiện sự yêu thương,

chăm sóc, giúp đỡ nhau…

+ Việc tích cực, chú ý tìm hiểu lẫn nhau có tác dụng lớn đến hạnh phúc

vợ chồng.

– Mức độ và sự hoà hợp giữa hai vợ chồng:

+ Sự hoà hợp có ý nghĩa rất quan trọng. Nó thúc đẩy cho tình yêu vợ

chồng phát triển, tạo điều kiện tốt cho vợ chồng hạnh phúc.

+ Sự hoà hợp ở đây chủ yếu là sự tương đồng tâm lí, cá tính, nhất là

sự tương đồng về quan điểm sống, lối sống. Sự hoà hợp còn biểu hiện ở các

hành vi yêu thương, quan tâm chăm sóc, giúp đỡ lẫn nhau, thấp nhận nhau,

ở cách hành xử đạo đức hàng ngày.

+ Sự hoà hợp nhiều khi không thể có ngay khi cưới, mà thường là một

quá trình, hình thành, phát triển phụ thuộc vào nhiều yếu tố: xã hội, đạo đức,

tình yêu, sự thiện chí… Hạnh phúc vợ chồng phụ thuộc vào việc xây dựng tạo

nên sự hoà hợp vợ chồng.

+ Sự hoà hợp có thể được tạo nên bởi sự cảm hoá lẫn nhau, sự hi sinh

cá nhân mình vì người kia. Quá trình chung sống vợ chồng luôn là quá tình

cảm hoá, giáo dục lẫn nhau, là quá trình giáo dục và tự giáo dục để đi tới sự

tương đồng, sự hoà hợp…

Đạo đức giữa hai người:

+ Những phẩm chất đạo đức tốt dẹp có tác động rất mạnh cho hạnh

phúc vợ chồng phát triển, bền vững.

+ Cần lưu ý đặc biệt các phẩm chất như sự trung thực và lòng chung

thuỷ, sự tôn trọng và tin tưởng, sự hi sinh và quan tâm chăm sóc sự cao

thượng và linh vị tha, sự hiền dịu và chăm chỉ, tính thời đựng và kiềm chế, sự

tế nhị và lòng nhân ái đối với nhau, tinh thần trách nhiệm và lo lắng quan tâm

cho nhau… Những phẩm chất này có tác dụng rất lớn tạo nên hạnh phúc vợ

chồng.

Page 114: TÂM LÝ HỌC GIỚI TÍNH VÀ GIÁO DỤC GIỚI TÍNHsaomaidata.org/library/90...  · Web viewtÂm lÝ hỌc giỚi tÍnh vÀ giÁo dỤc giỚi tÍnh. tÂm lÝ hỌc giỚi tÍnh

+ Ngược lại, có những nét tính cách tai hại như: tính tự ái, cố chấp, tính

lắm điều, tàn nhẫn, sự bần tiện, tham lam, sự nghi kị, tính vị kỉ… Những nét

tính cách trên là kẻ thù của hạnh phúc, thường là những nguyên nhân dẫn tới

sự rạn nứt trong mối quan hệ vợ chồng.

Có thể nói, những phẩm chất đạo đức ở mỗi người đều có ảnh hưởng

quan trọng đến hạnh phúc của cuộc sống vợ chồng.

Vấn đề tình dục giữa hai người:

Đây là vấn đề rất tế nhị nhưng cũng rất quan trọng trong cuộc sống vợ

chồng. Sự “trục trặc” trong “quan hệ tình dục” dễ làm quan hệ vợ chồng mất

hạnh phúc. Việc tạo ra tình hấp dẫn và sự hoà hợp tình dục vợ chồng có ý

nghĩa đặc biệt quan trọng. Ngược lại, sự thiếu hoà hợp, thiếu hiểu biết sâu

sắc về tình dục vợ chồng sẽ làm cuộc sống chung của hai người bị tẻ nhạt,

đơn điệu, dẫn đến mất hạnh phúc dần dần… Việc xây dựng “nghệ thuật quan

hệ tình dục vợ chồng” được coi là một trong những yếu tố quan trọng của

“nghệ thuật xây dựng hạnh phúc vợ chồng”.

Cách cư xử hàng ngày đối với nhau:

Cách cư xử hàng ngày giữa hai vợ chồng bao gồm toàn bộ hệ thống

thái độ, hành vi, cử chỉ, lời nói, nụ cười… Đó là sự giao tiếp vợ chồng. Cách

cư xử vợ chồng thường bao gồm hai phần:

+ Thái độ đối xử với nhóm chẳng hạn như: tôn trọng, bình đẳng, lo

lắng, quan tâm đến nhau, sự tươi cười, âu yếm, chăm sóc…

+ Những hành vi biểu hiện tương ứng với các thái độ trên: sự hỏi han,

sự vuốt ve, ôm ấp, ánh mắt, nụ cười, những hành động thân mật, sự giúp đỡ

các công việc hàng ngày…

Sự cư xử khéo léo trung thực, đằm thắm, thân mật… sẽ làm hạnh phúc

vợ chồng phát triển. Ngược lại, sự cư xử không tốt, tàn nhẫn, vô trách

nhiệm… sẽ ảnh hưởng xấu đến cuộc sống chung.

– Yếu tố đẹp trong cuộc sống vợ chồng:

Page 115: TÂM LÝ HỌC GIỚI TÍNH VÀ GIÁO DỤC GIỚI TÍNHsaomaidata.org/library/90...  · Web viewtÂm lÝ hỌc giỚi tÍnh vÀ giÁo dỤc giỚi tÍnh. tÂm lÝ hỌc giỚi tÍnh

Yếu tố đẹp có vai trò quan trọng trong việc xây dựng hạnh phúc vợ

chồng.

Đây là cái đẹp trong tâm hồn ở mỗi người, vẻ đẹp cơ thể, vẻ đẹp trong

cách ăn mặc, trong hành vi, cử chỉ, lời nói, trang trí gia đình… Cần chú ý rằng

cái đẹp là nhu cầu tinh thần tất yếu ở mỗi người. Nghệ thuật xây dựng hạnh

phúc gia đình bao gồm nhiều yếu tố trong đó có việc xây dựng cái đẹp của

cuộc sống chung.

Trình độ hiểu biết, năng lực:

Trình độ tri thức và năng lực của mỗi người cũng ảnh hưởng đến việc

xây dựng hạnh phúc vợ chồng. Sự hiểu biết và năng lực bao gồm hai mặt chủ

yếu: trình độ, kỹ năng, kiến thức khoa học (bằng cấp) và trình độ văn hoá đời

sống (văn hoá, xã hội, kinh nghiệm sống) Trình độ hiểu biết cao, những năng

lực về tổ chức, nghề nghiệp, hoạt động của mỗi người có thể giúp cho việc

nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của cuộc sống chung của gia đình.

Sự chênh lệch về trình độ hiểu biết cũng có ý nghĩa rất đặc biệt, nhiều

trường hợp, sự chênh lệch quá mức thường gây khó khăn cho sự phát triển

của hạnh phúc vợ chồng như: vợ hơn chồng, vợ khác chồng quá nhiều…

Ở Việt Nam, “sự chênh lệch thích hợp” về trình độ có tác dụng thuận lợi

trong việc xây dựng cuộc sống vợ chồng hạnh phúc nhưng sự chênh lệch

không quá xa.

– Con cái:

Những đứa con là niềm vui của hai vợ chồng, là niềm hạnh phúc tuyệt

vời của gia đình. Việc sinh con cái thuờng là nhu cầu mạnh mẽ của cả hai vợ

chồng nhất là khi vợ chồng đứng tuổi. Tuy nhiên, yếu tố con cái do thực sự là

nguồn hạnh phúc của vợ chồng khi thoả mãn những điều kiện sau đây:

+ Là những đứa con khoẻ mạnh, thông minh, ngoan ngoãn, học giỏi,

vâng lời cha mẹ.

Page 116: TÂM LÝ HỌC GIỚI TÍNH VÀ GIÁO DỤC GIỚI TÍNHsaomaidata.org/library/90...  · Web viewtÂm lÝ hỌc giỚi tÍnh vÀ giÁo dỤc giỚi tÍnh. tÂm lÝ hỌc giỚi tÍnh

+ Số lượng con vừa phải, thích hợp với điều kiện về vật chất, kinh tế

gia đình, thích hợp về giới tính (trai hay gái, “có nếp có tẻ”).

+ Cha mẹ phải biết sinh nở và nuôi con khoa học, phải thống nhất trong

việc nuôi dạy con.

+ Con cái được phát triển nhân cách toàn điện, phải được “nên người”.

Trong cuộc sống vợ chồng, cả hai người cần phải có những tri thức,

hiểu biết về việc sinh con, có khả năng sinh con, nuôi dạy con, chăm sóc cho

con trưởng thành, trở thành những người có ích cho xã hội. Đó là một trong

những tiêu chuẩn quan trọng của việc xây dựng gia đình hạnh phúc.

– Các yếu tố xã hội:

Hạnh phúc của cuộc sống vợ chồng còn bị chi phối bởi nhiều yếu tố xã

hội. Các yếu tố của cuộc sống xã hội luôn luôn tác động đến cuộc sống vợ

chồng. Có những yếu tố quan trọng và điển hình như:

+ Cuộc sống chung của xã hội, đời sống xã hội, các quan hệ xã hội.

+ Sự giao tiếp xã hội của hai vợ chồng, địa vị xã hội của vợ, của chồng.

+ Gia đình họ hàng hai bên, nhất là cha mẹ, anh chị em trong gia đình

bên chồng, bên vợ, mẹ chồng nàng dâu… Đặc biệt là trường hợp hai vợ

chồng ở chung với gia đình bố mẹ.

+ Sự tác động và mối quan hệ của bạn bè hai bên, bà con lối xóm…

+ Sự tác động “của người thứ ba” theo hai hướng “người thứ ba” tấn

công vào một trong hai vợ chồng, hoặc một trong hai người “chạy theo” người

thứ ba…

Để có hạnh phúc vợ chồng, cả hai người cần quan tâm đến các yếu tố

xã hội trên. Cần phải gắn cuộc sống gia đình riêng của hai vợ chồng với cuộc

sống chung của xã hội. Phải góp phần tham gia vào việc xây dựng xã hội phát

triển.

– Vấn đề kinh tế và nghề nghiệp của từng người:

Page 117: TÂM LÝ HỌC GIỚI TÍNH VÀ GIÁO DỤC GIỚI TÍNHsaomaidata.org/library/90...  · Web viewtÂm lÝ hỌc giỚi tÍnh vÀ giÁo dỤc giỚi tÍnh. tÂm lÝ hỌc giỚi tÍnh

+ Yếu tố kinh tế có ý nghĩa quan trọng trong cuộc sống chung của vợ

chồng và trong từng thời kì của đời sống vợ chồng. Nếu đời sống kinh tế quá

khó khăn, thiếu thốn, hạnh phúc vợ chồng sẽ khó có điều kiện phát triển

thuận lợi.

+ Tuy nhiên, vai trò của yếu tố kinh tế thường chỉ có tác dụng ở một

chừng mực nhất định. Không phải giàu có mới có hạnh phúc, hoặc nghèo nàn

là hạnh phúc tan vỡ… Trong thực tế, có những trường hợp khi vợ chồng còn

nghèo, thậm chí kinh tế khó khăn nhưng vợ chồng vẫn sống hạnh phúc. Đến

khi giàu sang thì hạnh phúc giữa hai người lại bị rạn nứt.

+ Yếu tố kinh tế thường chỉ thể hiện rõ vai trò, tác dụng mạnh mẽ trong

việc xây dựng và phát triển hạnh phúc vợ chồng khi nó đám bảo một số điều

kiện như: nghề nghiệp của vợ chồng được ổn định, đồng tiền kiếm được

bằng lao động chân chính, biết sử dụng đúng mức đồng tiến, biết chi tiêu có

kế hoạch, hợp lí…

Khả năng tổ chức cuộc sống gia đình của từng người:

Là sự hiểu biết và kĩ năng về cuộc sống vợ chồng, cách tổ thức gia

đình, kế hoạch hoá kinh tế gia đình, kế hoạch hoá sự phát triển của gia đình

và sự phát triển nhân cách của từng thành viên, sự đảm đang, khéo léo, cách

cư xử đúng mức và hợp lí, cách xây dựng nề nếp cuộc sống gia đình, nuôi

dạy con cái…

Cần chú ý đến việc tổ chức những hoạt động điển hình của cuộc sống

gia đình, bao gồm nhiều loại hình hoạt động như: sự giao tiếp, trao đổi giữa

các thành viên, cách nói năng, cư xử, chăm sóc lẫn nhau, việc tổ chức sinh

nhật và các ngày lễ Tết, việc tổ chức các hoạt động vui chơi, giải trí, nghỉ

ngơi, sự hưởng thụ những giá trị văn hoá, tinh thần (xem nghệ thuật, ti vi, đi

du lịch)…

Khả năng tổ chức cuộc sống gia đình của mỗi người sẽ góp Phần tạo

nên hạnh phúc của cuộc sống chung. Nếu cả hai vợ chồng cùng quan tâm

Page 118: TÂM LÝ HỌC GIỚI TÍNH VÀ GIÁO DỤC GIỚI TÍNHsaomaidata.org/library/90...  · Web viewtÂm lÝ hỌc giỚi tÍnh vÀ giÁo dỤc giỚi tÍnh. tÂm lÝ hỌc giỚi tÍnh

đến việc tổ chức cuộc sống gia đình, hạnh phúc vợ chồng sẽ có nhiều điều

kiện thuận lợi để phát triển cao.

– Một số vấn đề cần chú ý:

+ Mỗi yếu tố trên đều có ý nghĩa nhất định đến cuộc sống vợ chồng.

Trong từng thời kì, từng điều kiện, mỗi yếu tố đều có thể nổi lên thành yếu tố

quan trọng nhất và mỗi yếu tố đều có thể ảnh hưởng nghiêm trọng đến hạnh

phúc vợ chồng.

+ Sự tác động của các yếu tố vào cuộc sống vợ chồng rất phức tạp tinh

tế. Có khi nhiều yếu tố kết hợp với nhau, tác động một cách tổng hợp đến

hạnh phúc vợ chồng, có khi chỉ một yếu tố nào đó cũng đủ phá vỡ hạnh phúc.

c) Những nguyên nhân chủ yếu làm suy giảm hoặc làm tan vỡ hạnh phúc vợ chồng

Sự suy giảm hoặc tan vỡ hạnh phúc vợ chồng có thể do nhiều nguyên

nhân phức tạp. Nó có thể do các khía cạnh không tốt của các yếu tố chi phối

cuộc sống vợ chồng và cũng có thể do những nguyên nhân khác.

Sau đây là những nguyên nhân chủ yếu nhất:

– Động cơ hôn nhân không đúng đắn:

Ví dụ: không yêu nhau thực sự, chưa hiểu biết lẫn nhau, kết hôn vì ép

buộc, gả bán, kết hôn vì những mục đích vị kỉ, cá nhân, vì sự tính toán không

lành mạnh…

+ Việc xây dựng gia đình quá sớm, nhất là kết hôn trước tuổi trưởng

thành.

+ Sự thoái hoá của nhân cách.

Do không biết kiếm chế và rèn luyện, giáo dục nhau, những thói hư tật

xấu có thể dẫn đần phát triển hoặc xuất hiện ở mỗi người. Những thổi hư tật

xấu thường gây nhiều tác hại nhất là nghiện ngập, cờ bạc, rượu chè, ngoại

tình, tính độc ác, tàn nhẫn, vị kỉ, tham lam, sự thô lỗ thiếu tế nhị, tính nhỏ

nhen, bần tiện…

Page 119: TÂM LÝ HỌC GIỚI TÍNH VÀ GIÁO DỤC GIỚI TÍNHsaomaidata.org/library/90...  · Web viewtÂm lÝ hỌc giỚi tÍnh vÀ giÁo dỤc giỚi tÍnh. tÂm lÝ hỌc giỚi tÍnh

Một số thói hư tật xấu khác như: tính chấp nhặt, dai dẳng, tai quái sự

vụng về, lười biếng, thích ăn diện, đua đòi, tính thiếu khiêm tốn, bất lịch sự

trước nhau, ghen tương, tranh khôn, mê tín dị đoan, hay ăn hàng… cũng ảnh

hường mạnh đến hạnh phúc gia đình.

Những thói hư tật xấu thường có liên quan với nhau, ảnh hưởng lẫn

nhau, từ cái xấu này nảy sinh cái xấu khác và tất cả những cái xấu đó phá

hoại hạnh phúc gia đình.

Nhiều khi chỉ một vài thói xấu đã đủ để làm tan vỡ cuộc sống gia đình.

Những thói hư tật xấu thường xuất hiện do sự thoái hoá của nhân cách

và càng ngày càng làm cho nhân cách con người bị thoái hoá thêm.

– Sự thiếu hoà hợp, ảnh hưởng nghiêm trọng nhất là:

+ Sự thiếu hoà hợp về cá tính (như về đạo đức, lối sống, quan điểm

sống), sự chênh lệch quá nhiều về trình độ, về tri thức và văn hoá.

+ Sự thiếu hoà hợp về tình dục.

– Điều kiện kinh tế:

Điều kiện kinh tế thường ảnh hưởng không tốt đến cuộc sống vợ chồng

trong những trường hợp sau:

+ Đời sống kinh tế quá thiếu thốn, nghèo khó.

+ Nghề nghiệp không ổn định, không chính đáng (nhất là nghề nghiệp

làm ăn bất chính).

+ Nguồn kinh tế thiếu cơ bản, bền vững.

+ Sử dụng tiến bạc không đúng mức, thiếu kế hoạch.

+ Ăn chơi hoang toàng, xa xỉ, đua đòi, không hợp với xã hội.

Tác động không tốt của môi trường sống:

+ Do “người thứ ba” hoặc bạn bè không tốt.

+ Do quan hệ hoặc tác động không tốt của gia đình lớn” (cha mẹ chồng,

anh em họ hàng hai bên…).

Page 120: TÂM LÝ HỌC GIỚI TÍNH VÀ GIÁO DỤC GIỚI TÍNHsaomaidata.org/library/90...  · Web viewtÂm lÝ hỌc giỚi tÍnh vÀ giÁo dỤc giỚi tÍnh. tÂm lÝ hỌc giỚi tÍnh

+ Do các tệ nạn xã hội của môi trường sống: ăn chơi trụy lạc, cờ bạc,

nhậu nhẹt, ma tuý, mại dâm…

+ Do ít giao tiếp xã hội, gia đình cách biệt với xã hội.

+ Do hai vợ chồng sống xa cách nhau quá nhiều, quá lâu mà không chú

ý đến việc giao tiếp liên lạc…

– Do ảnh hưởng xấu của vấn đề con cái:

+ Con cái quá hư hỏng, dốt nát.

+ Không thống nhất trong cách nuôi dạy con.

+ Không có con hoặc quan niệm sai lầm về con trai con gái.

– Do không biết cách khắc phục những biểu hiện bất lợi, khó khăn dễ nảy sinh trong cuộc sống chung, như:

+ Sự nhàm chán tâm lí xuất hiện. Tính chất đẹp đẽ, hấp dẫn trong tình

yêu và trong quan hệ giữa hai người có thể giảm dần.

+ Sự nhận biết càng ngày càng rõ những nhược điểm của nhau.

+ Sự xung đột, mâu thuẫn có thể xuất hiện.

+ Quan hệ tình dục có thể giảm dần sự hấp dẫn…

5. Sự biến động của cuộc sống vợ chồng

– Quá trình chung sống vợ chồng là một quá trình biến động, có thể

diễn biến phức tạp. Sự biến động ấy có thể diễn ra theo mấy hướng sau đây:

– Biến động tốt: Vợ chồng, gia đình ngày càng hạnh phúc hơn, yêu

nhau hơn, gia đình hạnh phúc đến già.

Biến động không tốt: Cuộc sống vợ chồng, gia đình ngày càng mất

dần hạnh phúc và có thể đi đến tan vỡ. Ở các cặp vợ chồng này, khi mới cưới

là thời kì hạnh phúc nhất, yêu thương nhau mãnh liệt nhất sau đó hạnh phúc

giảm dần…

Biến động phức tạp: Cuộc sống vợ chồng biến động phức tạp thất

thường có tính chất đột biến, có thời kì hạnh phúc, có thời kì bất hạnh, sau đó

Page 121: TÂM LÝ HỌC GIỚI TÍNH VÀ GIÁO DỤC GIỚI TÍNHsaomaidata.org/library/90...  · Web viewtÂm lÝ hỌc giỚi tÍnh vÀ giÁo dỤc giỚi tÍnh. tÂm lÝ hỌc giỚi tÍnh

lại hạnh phúc… Tuy nhiên, hạnh phúc của các cặp vợ chồng thuộc dạng này

nhìn chung, cũng thường biến động theo chiều hướng không tốt.

– Trong tình hình hiện nay, sự biến động của gia đình diễn tiến theo

hướng hạnh phúc giảm dần là khá phổ biến (tức là sự bên động không tốt).

Sự biến động đó do nhiều nguyên nhân phức tạp: về tâm lí xã hội, về

kinh tế… Sự biến động do thường dẫn tới việc hạnh phúc vợ chồng có thể bị

suy giảm, cuộc sống vợ chồng có thể dần dần trở nên tẻ nhạt đơn điệu và đi

đến tan vỡ.

Sự biến động không tốt có thể làm cho cuộc sống vợ chồng diễn biến

theo những thời kì nhất định sau đây:

a) Thời kì nồng thắm

+ Là thời kì hạnh phúc nhất, đẹp đẽ nhất của cuộc sống vợ chồng.

+ Hai người yêu nhau thắm thiết, mãnh hệt, quan hệ vợ chồng mang

tính hấp dẫn, háo hức, mới lạ. Sự yêu thương thân thiết rất sâu sắc. Hai

người luôn luôn muốn âu yếm, cưng chiều nhau. Họ mang tâm trạng mong

chờ, nhớ thương nhau tha thiết…

+ Trong cuộc sống chung vẫn có xung đột giữa hai người. Nhưng đó là

sự xung đột “dễ thương”: thường là sự hờn giận, sự bực dọc trong thốc lát, ít

khi kéo dài. Người ta giận nhau và chờ đối phương năn nỉ để làm lành.

+ Quan hệ tình dục vợ thông thường “vô tổ chức”, đầy hấp dẫn và

mãnh liệt.

+ Thời kì này thường bắt đầu từ ngay sau khi cưới, có thể kéo dài tới 5,

7 năm, tuỳ theo từng cặp vợ chồng. Đỉnh cao của hạnh phúc thường từ đêm

tân hôn, qua tuần trăng mật một thời gian.

+ Nếu thời kì này càng kéo dài, càng ảnh hưởng tốt đến toàn bộ cuộc

sống gia đình sau này.

b) Thời kì tình nghĩa

Page 122: TÂM LÝ HỌC GIỚI TÍNH VÀ GIÁO DỤC GIỚI TÍNHsaomaidata.org/library/90...  · Web viewtÂm lÝ hỌc giỚi tÍnh vÀ giÁo dỤc giỚi tÍnh. tÂm lÝ hỌc giỚi tÍnh

Là thời kì tình yêu giữa vợ chồng đã trở nên sâu sắc, thắm thiết, tuy

nhiên tính háo hức, hấp dẫn, thú vị giảm dần. Tình cảm yêu thương đã lắng

đọng, đi vào chiều sâu của tâm hồn, tạo nên tình nghĩa vợ chồng sâu nặng.

Hai vợ chồng yêu quý, tôn trọng lẫn nhau, chăm sóc, lo lắng cho nhau, cùng

đồng tâm, nhất trí trong việc xây dựng gia đình, nuôi dạy con cái. Thời kì này

thường có một số đặc điểm dáng chú ý:

– Đã có xung đột thực sự giữa hai người: cãi vã, giận nhau vài ba ngày

hoặc lâu hơn. Tuy nhiên, đây là “xung đột nội bộ”, cả hai người cùng không

muốn để người ngoài biết, dù là người trong gia đình. Sự xung đột thường dù

ở dạng cãi nhau hoặc “chiến tranh lạnh”, không ai chịu nói với ai trước.

– Con cái có vai trò quan trọng trong gia đình, đứa con là niềm hạnh

phúc, là cầu nối giữa hai vợ chồng.

– Yếu tố kinh tế ngày càng trở nên có vai trò quan trọng trong gia đình.

Tuy nhiên, tính ổn định, tính chính đáng, tính kế hoạch hoá tinh tế gia đình là

yếu tố cơ bản, có vai trò chú yếu trong kinh tế.

– Vấn đề “sinh hoạt vợ chồng” đã đi vào ổn định, mang tính chu kì, tuỳ

theo sức khoẻ, đặc điểm cá tính, lứa tuổi của mọi người. Trong sinh hoạt vợ

chồng yếu tố kĩ thuật trở nên cần thiết và có ý nghĩa lớn đối với hạnh phúc vợ

chồng.

Đây vẫn là thời kì hạnh phúc và ổn định của cuộc sống vợ chồng là

thời kì xây dựng và vun đắp cho gia đình phát triển.

– Thời kì này có thể kéo dài tới 10, 15 hoặc 20 năm (sau thời kí nồng

thắm). Ở những gia đình hạnh phúc, có thể kéo dài đến lúc hai vợ chồng “đầu

bạc răng long”, “trăm năm hạnh phúc”.

c) Thời kì tình yêu – trách nhiệm

– Là thời kì hạnh phúc gia đình đã suy giảm, mức độ yêu thương giữa

hai vợ chồng đã nhạt dần đi do nhiều nguyên nhân:

Page 123: TÂM LÝ HỌC GIỚI TÍNH VÀ GIÁO DỤC GIỚI TÍNHsaomaidata.org/library/90...  · Web viewtÂm lÝ hỌc giỚi tÍnh vÀ giÁo dỤc giỚi tÍnh. tÂm lÝ hỌc giỚi tÍnh

+ Thói hư tật xấu đã bộc lộ rõ rệt, hoặc ngày càng trầm trọng, gây nên

những khó chịu, bực dọc cho người bạn đời. Đôi khi còn gây nên những nỗi

thất vọng, buồn chán, nảy sinh hiện tượng “thần tượng bị đổ vỡ”.

+ Sự nhàm chán tâm lí đã xuất hiện.

+ Những khó khăn phức tạp của đời sống kinh tế, xã hội…

– Tình yêu không còn mặn nồng để tạo nên hạnh phúc và duy trì cuộc

sống gia đình, không còn đủ sức để ngăn chặn các thói hư tật xấu

Gia đình muốn còn tồn tại và ổn định phải nhờ vào những ràng buộc

khác: trách nhiệm của mỗi người, luật pháp, con cái, ý thức đạo đức của mỗi

người. Lúc này đứa con là cầu nối của hạnh phúc gia đình. Nhiều trường

hợp, chỉ vì lo cho tương lai của con cái, nghĩ đến danh dự của gia đình, hoặc

vì tinh thần trách nhiệm, lòng nhân ái… mà người ta cố gắng hàn gắn những

rạn nứt gia đình.

– Tư tưởng ngoại tình có điều kiện nảy sinh, có thể có ngoại tình thực

sự Nhưng người ta không muốn gia đình đổ vỡ: vì tương lai con cái, vì công

danh sự nghiệp, vì đạo đức, lương tâm… có khi vì tình nghĩa sâu nặng, hay vì

mặc cảm tâm lí… người ta hay cảm hoá lẫn nhau, hi sinh tình cảm riêng để

duy trì hạnh phúc vợ chồng.

– Sự xung đột vợ chồng đã khá lớn, không còn tính nội bộ nữa. Có thể

xuất hiện những trận cãi vã, đánh nhau thực sự và bà con lối xóm “chứng

kiến”, có thể giận nhau hàng tuần, hàng tháng. Những mâu thuẫn vợ chồng

có thể âm ỉ kéo dài.

– Đây là “thời kì thất thường” của cuộc sống vợ chồng. Nếu hai vợ

chồng có ý thức cảm hoá, giáo dục lẫn nhau kịp thời, có những phẩm chất

đạo đức tốt… hạnh phúc vợ chồng vẫn có thể hàn gắn, duy trì. Nếu hai vợ

chồng kém sự chịu đựng, không biết giúp đỡ hoặc không biết tha thứ, thiếu

tính cao thượng, độ lượng… đặc biệt là không biết và không quan tâm đến

việc xây dựng hạnh phúc, cuộc sống vợ chồng có thể chuyển sang thời kì

đáng ngại hơn. Đó là thời kì trách nhiệm chịu đựng.

Page 124: TÂM LÝ HỌC GIỚI TÍNH VÀ GIÁO DỤC GIỚI TÍNHsaomaidata.org/library/90...  · Web viewtÂm lÝ hỌc giỚi tÍnh vÀ giÁo dỤc giỚi tÍnh. tÂm lÝ hỌc giỚi tÍnh

d) Thời kì trách nhiệm chịu đựng

– Tình yêu thương giữa hai vợ chồng hầu như không còn nữa. Sự

chung sống giữa hai bên thường chỉ còn là sự chấp nhận. Những biểu hiện

“quá quắt” của một bên làm bên kia rất bực tức, khó chịu. Những thói hư tật

xấu đã đến mức độ tệ hại, gay gắt: cờ bạc, rượu chè suốt ngày, ích kỉ nhỏ

nhen, bần tiện, tàn nhẫn, độc ác, tham lam… Cuộc sống vợ chồng chỉ còn là

sự chịu đựng…

– Xung đột vợ chồng luôn ở mức căng thẳng, nặng nề, “trận chiến” luôn

đe doạ “bùng nổ”, con cái ngơ ngác, sợ sệt… những cuộc cãi vã xô xát đã trở

nên phổ biến và mang tính quyết liệt, không khí gia đình căng thẳng, lạnh

lùng, xa lạ…

Ý muốn li dị thường xuất hiện nhưng có khi chưa thành sự thật vì một

lí do nào đó: con cái, gia tài, danh dự cá nhân, vợ chồng chấp nhận hi sinh vì

tương lai của con cái và gia đình… Ngoại tình có khi công khai, trắng trợn.

– Cuộc sống vợ chồng chỉ là những ngày tháng chịu đựng căng thẳng,

sự giáo dục, cảm hoá có thể vẫn còn hiệu quả nhưng rất thấp rất khó xây

dựng lại hạnh phúc như xưa.

e) Thời kì đau khổ – tan vỡ

Là thời kì tồi tệ nhất của cuộc sống vợ chồng: quan hệ vợ chồng rất

căng thẳng hai người giận nhau đến mức thù hận. Họ rất khó chịu khi ở bên

nhau, thường nhìn nhau bằng cặp mắt soi mói và ác ý Những kỉ niệm đẹp

xưa kia trở thành mỉa mai. Những yếu tố ràng buộc (danh dự, con cái bây giờ

không đủ hiệu lực, sự li dị là điều không thể tránh khỏi và là sự giải thoát cho

hai người. Cũng có thể hai người không li dị, nếu họ tính toán rằng việc li dị

có lợi cho “đối phương”.

“Xung đột gia đình” lúc này mang tính chất quyết liệt “cạn tình”, “cạn

nghĩa”, có thể rất căng thẳng, không còn một chút xót thương hoặc cũng có

thể theo dạng đặc biệt: lạnh lùng, thù hận, tuy không có trận chiến bùng nổ

nhưng “không khí nặng nề”, xa lạ.

Page 125: TÂM LÝ HỌC GIỚI TÍNH VÀ GIÁO DỤC GIỚI TÍNHsaomaidata.org/library/90...  · Web viewtÂm lÝ hỌc giỚi tÍnh vÀ giÁo dỤc giỚi tÍnh. tÂm lÝ hỌc giỚi tÍnh

f) Một vài lưu ý:

Trên đây là 5 thời kì có thể diễn ra trong sự biến đổi của cuộc sống vợ

chồng. Sự xác định các thời kì như trên chỉ là tương đối, vì thực chất không

có giới hạn phân định rõ rệt. Đây chỉ là một trình tự có thể có đối với một cặp

vợ chồng, nếu cặp vợ chồng này không quan tâm gì đến nhau, không chú ý

tìm hiểu nhau để cùng xây dựng hạnh phúc gia đình…

Như vậy không phải mọi gia đình đều phải trải qua cả 5 thời kì. Những

gia đình hạnh phúc, hai vợ chồng yêu thương nhau đến trọn đời gia đình vẫn

ở thời kì 2. Trái lại, có những gia đình dù 5, 7 tháng sau khi cưới đã chuyển

sang thời kì “chịu đựng” hoặc “thời kì đau khổ tan vỡ”.

Sự li dị cũng không phải chỉ xảy ra ở thời kì 4 hay 5. Có những trường

hợp li dị đáng tiếc xảy ra ở thời kì 2 hoặc 3, do một hoặc hai bên có sự sốc

nổi, sự đam mê quá sức, hay do một thủ đoạn đáng sợ nào đó của người

ngoài. Vì thế, sau khi li dị, tình nghĩa vẫn còn, để đôi lúc trong mỗi người vẫn

trào dâng niềm hối hận, tiếc nuối…

– Sự ngoại tình cũng không nhất thiết sẽ xảy ra ở thời kì 3, 4 hay 5. Có

khả tuy không ngoại tình, gia đình vẫn không có hạnh phúc.

– Ở những cặp vợ chồng biến động phức tạp, sự biến đổi từ thời kì này

có thể không tuân theo một tự nhất định. Có thể từ thời kì 3 (có khi từ thời kì

4), quay trở lại thời kì 2 (hoặc 1), rồi lại biến động chập chờn như cũ. Tuy

nhiên, khi đã sang tới thời kì 4, nhất là thời kì 5, khó có thể quay lại thời kì 2.

Nguyên nhân của sự biến động phức tạp này, có thể có nhiều nhưng có

một nguyên nhân đáng chú ý: “sự đột biến” trong tình yêu vợ chồng. Có khi

sống chung với nhau lâu, quan hệ giữa hai vợ chồng đang “bình thường”,

nhạt nhẽo bỗng nhiên họ phát hiện được ở nhau “một cái gì đó” rất hấp dẫn,

đặc biệt, hoặc họ hiểu sâu sắc, tìm thấy cái tốt đẹp của nhau… do đó họ yêu

nhau thắm thiết hơn (có khi từ thời kì 3 quay trở lại thời kì 1, hoặc 2).

Page 126: TÂM LÝ HỌC GIỚI TÍNH VÀ GIÁO DỤC GIỚI TÍNHsaomaidata.org/library/90...  · Web viewtÂm lÝ hỌc giỚi tÍnh vÀ giÁo dỤc giỚi tÍnh. tÂm lÝ hỌc giỚi tÍnh

Vì thế, nếu hai vợ chồng quan tâm đến nhau, có ý chung sống, có đạo

đức tốt, nhất là biết cảm hoá giáo dục nhau, hi sinh vì nhau… có thể xây dựng

lại cuộc sống vợ chồng hạnh phúc.

Muốn gia đình hạnh phúc lâu dài (chú ở thời kì 2 cho đến già), cả hai

vợ chồng đều phải quan tâm lo lắng đến việc xây dựng hạnh phúc. Cuộc sống

vợ chồng cần đạt những điều kiện nhất định.

6. Điều kiện chủ yếu để tạo nên cuộc sống vợ chồng hạnh phúc lâu dài

a) Phải có động cơ hôn nhân đúng đắn: Hai người kết hôn phải tự

nguyện yêu nhau thắm thiết, có sự hiểu biết nhau cần thiết (cá tính, hoàn

cảnh gia định…) có sự cân nhắc, suy nghĩ chín chắn.

b) Hai người cần có những phẩm chất đạo đức nhất định, có trách

nhiệm, có văn hoá.

c) Nên kết hôn đúng độ tuổi đó là nam từ 25, 26 trở lên, nữ từ 21, 22

trở lên,

Có nghề nghiệp ổn định, chân chính,

Có sự chuẩn bị chu đáo cho hôn nhân tìm hiểu nhau kỹ chuẩn bị tốt cho

lễ cưới, cho cuộc sống chung lâu dài… Có ý muốn sống chung với nhau.

d) Kết hôn đúng lúc khi thời điểm đã “chín muồi”

e) Có ý thức ngăn chặn những nguyên nhân làm tan vỡ hạnh phúc gia

đình, luôn cảnh giác, cảm hoá, giáo dục nhau kịp thời. Cần chú ý rằng, cuộc

sống vợ chồng là quá trình tìm hiểu liên tục, cảm hoá giáo dục nhau liên tục.

Đó cũng là quá trình chấp nhận, hi sinh vì nhau và tự giáo dục, tự cải tạo

mình cho phù hợp.

f) Hai người cùng nắm được những tri thức cần thiết về cuộc sống, hôn

nhân gia đình, nhất là phương hướng, biện pháp cụ thể để xây dựng cuộc

sống vợ chồng tươi trẻ, hạnh phúc.

7. Vấn đề giáo dục cuộc sống gia đình cho thanh niên ngày nay

Page 127: TÂM LÝ HỌC GIỚI TÍNH VÀ GIÁO DỤC GIỚI TÍNHsaomaidata.org/library/90...  · Web viewtÂm lÝ hỌc giỚi tÍnh vÀ giÁo dỤc giỚi tÍnh. tÂm lÝ hỌc giỚi tÍnh

Hiện nay, vấn đề giáo dục về cuộc sống gia đình cho thanh niên, cho

mọi người đang trở thành một vấn đề cần thiết. Việc giáo dục cuộc sống gia

đình chủ yếu bao gồm những nội dung sau đây:

a) Làm cho thanh niên hiểu được bản chất của cuộc sống gia đình

Khái niệm về gia đình và cấu trúc của gia đình, khái niệm về gia đình

hạt nhân và gia đình đa thế hệ, quy mô hợp lí trong sự phát triển gia đình,

những đặc điểm của đời sống gia đình, sự biến động của gia đình, các yếu tố

ảnh hưởng đến cuộc sống gia đình, nguyên nhân làm tan vỡ gia đình… để khi

đó họ có ý thức và phương hướng đúng đắn trong việc xây dựng gia đình

hạnh phúc.

b) Làm cho thanh niên hiểu được nội dung của cuộc sống gia đình và

một loạt những vấn đề phức tạp, đa dạng như:

– Các mối quan hệ trong gia đình, quan hệ vợ chồng, quan hệ cha mẹ

và con cái…

– Trách nhiệm, vai trò của mỗi thành viên trong gia đình đối với nhau và

đối với xã hội.

– Việc tìm hiểu lẫn nhau, cảm hoá, giáo dục lẫn nhau, tự cải biến mình

để tạo nên sự hoà hợp trong cuộc sống chung.

Cư xử với nhau, với mọi người, từ đó xây dựng những mối quan hệ

tốt đẹp trong gia đình và với xã hội.

– Vấn đề sinh hoạt vợ chồng.

– Vấn đề tổ chức gia đình, xây dựng nề nếp cuộc sống gia đình.

– Đảm bảo đời sống kinh tế gia đình.

– Sinh con, nuôi con, dạy con.

– Vấn đề phát triển nhân cảm của mỗi thành viên (đạo đức, tài năng, sự

nghiệp…).

Chức năng xã hội của gia đình.

Page 128: TÂM LÝ HỌC GIỚI TÍNH VÀ GIÁO DỤC GIỚI TÍNHsaomaidata.org/library/90...  · Web viewtÂm lÝ hỌc giỚi tÍnh vÀ giÁo dỤc giỚi tÍnh. tÂm lÝ hỌc giỚi tÍnh

– Xây dựng và phát triển gia đình theo hướng nâng cao chất lượng

cuộc sống và gia đình văn hoá mới.

– Bảo vệ và xây dựng hạnh phúc gia đình.

c) Giáo dục cho thanh niên có ý thức trách nhiệm đối với gia đình, đối

với vợ (hoặc chồng), đối với con cái, đối với xã hội. Đặc biệt cần hiểu được

luật hôn nhân gia đình.

d) Giáo dục những tri thức và kĩ năng xây dựng gia đình hạnh phúc,

đặc biệt là cách thức xây dựng gia đình hạnh phúc.

VI. VẤN ĐỀ XÂY DỰNG GIA ĐÌNH HẠNH PHÚCViệc xây dựng gia đình hạnh phúc có ý nghĩa rất lớn đối với xã hội. Gia

đình là một đơn vị xã hội. Gia đình hạnh phúc và phát triển sẽ làm xã hội giàu

mạnh và phát triển. Việc xây dựng gia đình hạnh phúc và phát triển còn là

ước mơ và nguyện vọng của tất cả mọi người. Tuy nhiên, xây dựng gia đình

hạnh phúc và phát triển lại là một việc rất khó khăn. Trong thực tế đã có nhiều

gia đình chưa hạnh phúc.

Để có thể xây dựng gia đình hạnh phúc và phát triển, cần hiểu rõ về

bản chất của gia đình, quy luật của đời sống gia đình để từ đó xác định được

những phương hướng đúng đắn xây dựng gia đình hạnh phúc và phát triển.

1. Gia đình là một đơn vị xã hội chứa đựng nhiều yếu tố tâm lí xã hội phức tạp

a) Gia đình là kết quả và là sự phát triển của hôn nhân:

Mỗi gia đình đều có nhiều mối quan hệ tâm lí, xã hội như: vợ chồng,

cha mẹ con cái, họ hàng, bà con lối xóm, luật pháp, xã hội, đời sống, sinh

hoạt… Những mối quan hệ này chịu sự chi phối bởi nhiều yếu tố: đặc điểm

tâm lí của mỗi thành viên, tình yêu, sự hoà hợp, thời gian chung sống, tuổi

tác, kinh tế, xã hội, đạo đức, năng lực, sức khoẻ của mỗi thành viên.

Page 129: TÂM LÝ HỌC GIỚI TÍNH VÀ GIÁO DỤC GIỚI TÍNHsaomaidata.org/library/90...  · Web viewtÂm lÝ hỌc giỚi tÍnh vÀ giÁo dỤc giỚi tÍnh. tÂm lÝ hỌc giỚi tÍnh

Trong các mối quan hệ của gia đình, quan hệ vợ chồng là quan hệ cơ

bản, có vai trò quan trọng ảnh hưởng đến sự tồn tại và phát triển của gia

đình.

Mối quan hệ vợ chồng có một số đặc điểm chính sau đây:

Hai người chung sống với nhau: cùng ăn chung, ở chung, sinh hoạt

chung, cùng gặp gỡ nhau hàng ngày, cùng xây dựng cuộc sống chung… Sự

chung sống này chịu ảnh hưởng rất nhiều bởi tình yêu sự hoà hợp, bởi cách

cư xử, ý thức trách nhiệm, sự quan tâm đến nhau của mỗi người…

Hai người cùng bị ràng buộc với nhau, có trách nhiệm đối với nhau, và

cùng có trách nhiệm trước xã hội và cùng phải tuân theo luật pháp của xã hội.

Hai người cùng mất đi một phần tự do của mình.

Hai người cùng có nghĩa vụ xây dựng và phát triển gia đình, sinh con,

nuôi dạy con khôn lớn, phát triển gia đình về mọi mặt: kinh tế, văn hoá, xã

hội… nhất là về sự phát triển nhân cách của mỗi thành viên trong gia đình.

Mối quan hệ vợ chồng là niềm vui, là hạnh phúc của cả hai người,

nhưng cũng từ đó có thể nảy sinh ra nhiều vấn đề phức tạp như:

Sự chung đụng lâu dài có thể dẫn đến sự va chạm, sự xung đột (do

khác biệt cá tính, do phát hiện những nhược điểm của nhau), có thể làm nảy

sinh những mâu thuẫn mới trong quá trình sống chung…

– Sự gia tăng dần về tuổi tác làm cho sức khoẻ, độ trẻ trung, sắc đẹp bị

suy giảm dần.

– Do đặc điểm của cuộc sống chung, những rung cảm yêu đương,

thương nhớ cũng dễ giảm sút, có khi nảy sinh những va chạm và xung đột, có

thể dẫn đến hiện tượng “nhàm chán tâm lý, “nhàm chán sinh lí”, “thần tượng

đổ vỡ”…

– Nhiều vấn đề mới xuất hiện trong sự chung sống vợ chồng: việc sinh

nở và những vất vả trong việc nuôi dạy cơn, việc đảm bảo nhu cầu cuộc sống

về mặt vật chất, tinh thần hàng ngày, những mối quan hệ xã hội, họ hàng, bạn

Page 130: TÂM LÝ HỌC GIỚI TÍNH VÀ GIÁO DỤC GIỚI TÍNHsaomaidata.org/library/90...  · Web viewtÂm lÝ hỌc giỚi tÍnh vÀ giÁo dỤc giỚi tÍnh. tÂm lÝ hỌc giỚi tÍnh

bè… Những vấn đề đó có thể làm tăng áp lực về nhiều mặt đối với cuộc sống

của hai vợ chồng, có thể dẫn tới những xung đột, làm nảy sinh những khó

khăn, phức tạp cho cuộc sống chung.

Ngoài ra còn rất nhiều yếu tố tâm lí xã hội phức tạp khác tác động đến

cuộc sống gia đình, ảnh hưởng đến hạnh phúc gia đình.

b) Nhiều yếu tố của xã hội như: pháp luật, đạo đức, khoa học, kĩ

thuật, kinh tế, chính trị… ảnh hưởng mạnh đến gia đình, đòi hỏi mỗi gia đình

phải đáp ứng được những yêu cầu ngày càng cao để phù hợp với sự phát

triển chung của xã hội. Mỗi gia đình phải gắn bó mật thiết với xã hội, chịu sự

chi phối, tác động của xã hội về nhiều mặt và phải thực hiện các nghĩa vụ đối

với xã hội. Vì vậy, mỗi gia đình đều phụ thuộc vào xã hội, phát triển theo sự

phát triển của xã hội. Các mối quan hệ xã hội phức tạp cũng thể hiện ở các

mối quan hệ trong gia đình và làm cho các mối quan hệ trong gia đình cũng

phức tạp theo.

c) Ngày nay trong nền kinh tế thị trường, các yếu tố của xã hội như: luật pháp, phong tục tập quán, khoa học kỹ thuật, đạo đức xã hội, nếp

sống sinh hoạt, đặc biệt là yếu tố kinh tế và sự cạnh tranh làm cho các giá trị

xã hội có nhiều biến đổi, do đó, các giá trị trong gia đình cũng biến đổi theo

như: vai trò của đồng tiền, các giá trị đạo đức trong gia đình, tính chất của mối

quan hệ cha mẹ và con cái sự cư xử giữa các thành viên… Khoảng cách giữa

cha mẹ và con cái dự bị gia tăng. Vấn đề giáo dục trẻ em trong gia đình ngày

càng phức tạp hơn và khó khăn hơn do ảnh hưởng của yếu tố kinh tế, của

khoa học kĩ thuật và nhiều mối quan hệ xã hội phức tạp khác.

d) Các tệ nạn xã hội như: cờ bạc, rượu chè, ăn chơi sa đoạ, xì ke ma

tuý… cũng ảnh hưởng mạnh đến gia đình, luôn cám dỗ, quyến rũ các thành

viên trong gia đình, nhất là người chồng và người con trai, làm cho họ dễ sa

ngã, dễ bị tha hoá nhân cách, có khi trở thành kẻ phá hoại hạnh phúc gia

đình, làm cho gia đình khó có thể phát triển tốt đẹp và thuận lợi.

e) Trong thực tế, có nhiều gia đình sống chưa hạnh phúc, tỉ lệ ly

hôn ngày càng cao. Nhiều mâu thuẫn nảy sinh trong gia đình, đặc biệt nạn

Page 131: TÂM LÝ HỌC GIỚI TÍNH VÀ GIÁO DỤC GIỚI TÍNHsaomaidata.org/library/90...  · Web viewtÂm lÝ hỌc giỚi tÍnh vÀ giÁo dỤc giỚi tÍnh. tÂm lÝ hỌc giỚi tÍnh

bạo hành trong gia đình có chiều hướng gia tăng. Hiện tượng cho hạnh phúc

trong gia đình thường có nhiều biểu hiện, nhiều mức độ khác nhằm tạo nên

nhiều loại gia đình chưa có hạnh phúc như:

Những gia đình đau khổ tan vỡ: Đó là những gia đình mà trong đó

quan hệ vợ chồng căng thẳng, thường xuyên xảy ra xung đột nặng nề, người

này đổ trách nhiệm cho người kia, hành hạ, đánh đập tàn nhẫn người kia…

– Những gia đình hạnh phúc giả tạo: Đó là những gia đình nhìn bề

ngoài có vẻ hạnh phúc: nhà cửa đầy đủ tiện nghi, vợ chồng có địa vị xã hội,

con cái được học hành, đời sống kinh tế đầy đủ… Mọi người tưởng lầm rằng

đó là một gia đình hạnh phúc. Nhưng thực sự bên trong là mối quan hệ căng

thẳng giữa hai vợ chồng, họ chịu đựng lẫn nhau, cố gắng che giấu những bất

hạnh, những bực bội không để người khác biết vì nhiều lí do: bảo vệ danh dự

gia đình, danh dự bản thân, hoặc để không bị ảnh hưởng đến công danh sự

nghiệp, công việc làm ăn hay vì nhiều lí do cá nhân khác. Thực tế cuộc sống

gia đình là cuộc sống căng thẳng, bực bội, là sự chịu đựng lẫn nhau.

– Những gia đình thiếu hạnh phúc: Đó là những gia đình mà vợ chồng

có thể vẫn thương yêu nhau nhưng lại thiếu hạnh phúc vì nhiều lí do như con

cái hư hỏng, học hành dốt nát, bỏ nhà đi bụi đời nhiễm xì ke ma tuý, bệnh

hoạn, ốm đau, vợ chồng không hoà hợp, thường xuyên cãi vã, hoặc kinh tế

gia đình quá khó khăn thiếu thốn…

Một vấn đề cần chú ý là trong những gia đình chưa hạnh phúc trên, nỗi

bất hạnh chủ yếu thường người phụ nữ phải gánh chịu. Nói cách khác, người

gây ra những nỗi bất hạnh đau khổ cho gia đình đa số là người đàn ông,

người chồng, người con trai. Đây là một thực tế cần quan tâm nghiên cứu

một cách đầy đủ hơn.

2. Những đặc điểm của một gia đình hạnh phúc và phát triển

Một gia đình được gọi là hạnh phúc và phát triển thường có những đặc

điểm sau:

Page 132: TÂM LÝ HỌC GIỚI TÍNH VÀ GIÁO DỤC GIỚI TÍNHsaomaidata.org/library/90...  · Web viewtÂm lÝ hỌc giỚi tÍnh vÀ giÁo dỤc giỚi tÍnh. tÂm lÝ hỌc giỚi tÍnh

– Cuộc sống vợ chồng hoà hợp, tràn đầy yêu thương, các thành viên

trong gia đình quan tâm chăm sóc, giúp đỡ lẫn nhau, biết tôn trọng nhau, cư

xử lễ độ đối với nhau…

– Kinh tế gia đình đầy đủ, đảm bảo cuộc sống thuận lợi cho mỗi thành

viên, đáp ứng được những nhu cầu phù hợp và chính đáng của mỗi thành

viên, làm cho các thành viên có điều kiện phát triển tốt đẹp về nhân cách, tài

năng, công danh, sự nghiệp…

Mỗi một thành viên đều có điều kiện phát triển hài hoà nhân cách của

mình, phát triển về trình độ văn hoá, đạo đức, tài năng… góp phần xứng đáng

xây dựng đất nước, rạng danh cho gia đình. Đặc biệt, con cái được học hành,

được phát triển một cách toàn diện, trở thành những người công dân tốt của

xã hội.

– Gia đình luôn luôn gắn bó với xã hội, hoà nhập với xã hội, thực hiện

tốt luật pháp và nghĩa vụ đối với xã hội, đóng góp tích cực vào việc xây dựng

xã hội phát triển.

Gia đình luôn luôn quan tâm đến việc nâng cao chất lượng cuộc sống

vật chất, văn hoá, tinh thần và ngày càng phát triển hơn và đóng góp vào sự

phát triển chung của xã hội.

Những gia đình hạnh phúc và phát triển thường là kết quả của hôn

nhân tự nguyện, được xây dựng trên cơ sở của tình yêu sâu nặng, đằm thắm.

Ngược lại, những cuộc hôn nhân vì tiền tài, địa vị hoặc vì những mưu đồ tính

toán vị kỉ nào đó đều khó có thể trở thành một gia đình hạnh phúc.

Nếu vợ, chồng hoặc các thành viên khác trong gia đình là những người

có đạo đức tốt, có văn hoá, có hiểu biết, có thiện chí đối với nhau, thì việc xây

dựng gia đình hạnh phúc và phát triển càng có nhiều thuận lợi và càng đạt tới

mức độ phát triển cao.

Việc xây dựng gia đình hạnh phúc và phát triển là một vấn đề khó khăn,

phức tạp, không phải tự nhiên mà có. Mỗi người phải có kiến thức, có sự hiểu

biết, có trình độ và có ý thức trách nhiệm, có đạo đức tốt, nhất là kiến thức và

Page 133: TÂM LÝ HỌC GIỚI TÍNH VÀ GIÁO DỤC GIỚI TÍNHsaomaidata.org/library/90...  · Web viewtÂm lÝ hỌc giỚi tÍnh vÀ giÁo dỤc giỚi tÍnh. tÂm lÝ hỌc giỚi tÍnh

hiểu biết cuộc sống gia đình, tập trung và quyết tâm xây dựng cuộc sống gia

đình, mới có thể tạo nên một gia đình hạnh phúc và phát triển.

3. Những phương hướng xây dựng gia đình hạnh phúc và phát triển

Ngày nay việc xây dựng gia đình hạnh phúc và phát triển càng có nhiều

khó khăn, phức tạp. Cần phải quan tâm tới nhiều vấn đề:

a) Cần phải thay đổi những quan niệm xưa cũ, lạc hậu về gia đình như:

– Quan niệm “chồng chúa vợ tôi” và những quan niệm bất bình đẳng,

quan niệm lạc hậu về cuộc sống gia đình.

– Quan niệm về người phụ nữ như là người lệ thuộc vào chồng, coi

công việc nội trợ gia đình là việc của người đàn bà.

Quan niệm về cuộc sống gia đình tách biệt với cuộc sống xã hội.

– Quan niệm về cuộc sống gia đình là đơn giản, ai cũng biết, coi số

phận của gia đình hoàn toàn phụ thuộc vào ý muốn của người đàn ông, chủ

gia đình…

b) Để có một gia đình hạnh phúc, cần phải có kiến thức dầy đủ, đúng

đắn về bản chất cuộc sống gia đình, cuộc sống vợ chồng, từ đó biết cách xây

dựng gia đình.

c) Ngăn chặn một cách nghiêm khắc và kịp thời những biểu hiện

xấu trong gia đình như: bạo lực, cư xử tàn nhẫn hoặc vô trách nhiệm đối với

người vợ, hành hạ đánh đập con cái…

d) Nâng cao nhận thức và trang bị cho mọi thành viên của gia đình

những tri thức khoa học về cuộc sống gia đình (khái niệm về gia đình hạt

nhân, về quy mô vừa phải và kế hoạch hoá gia đình, về nghệ thuật xây dựng

gia đình hạnh phúc…). Tăng cường những biện pháp nâng cao chất lượng

cuộc sống gia đình cả về vật chất lẫn tinh thần (nâng cao dần những tiện nghi

phục vụ cho cuộc sống, nâng cao trình độ hưởng thụ các giá trị văn hoá nghệ

Page 134: TÂM LÝ HỌC GIỚI TÍNH VÀ GIÁO DỤC GIỚI TÍNHsaomaidata.org/library/90...  · Web viewtÂm lÝ hỌc giỚi tÍnh vÀ giÁo dỤc giỚi tÍnh. tÂm lÝ hỌc giỚi tÍnh

thuật, đổi mới về tổ chức cuộc sống gia đình…), phấn đấu xây dựng “Gia đình

văn hoá mới”…

e) Chuẩn bị tốt cho thanh niên nam nữ khi bước vào cuộc sống hôn nhân gia đình

– Làm cho họ có nhận thức đầy đủ và đúng đắn về quan hệ vợ chồng

và cuộc sống gia đình.

Có sự trân trọng và suy nghĩ chín chắn khi quyết định các vấn đề tình

yêu hôn nhân.

– Phải đảm báo được những điều kiện nhất định và cần thiết khi kết

hôn như: đúng độ tuổi, nghề nghiệp ổn định, sự trưởng thành nhân cách, yêu

thương nồng thắm…

Những tiêu chuẩn cần thiết khi lựa chọn bạn đời.

– Biết chủ động chuẩn bị những yếu tố cần thiết cho cuộc sống hôn

nhân…

f) Tăng cường việc giáo dục gia đình cho thanh niên và cho mọi

người, với những nội dung phong phú, đa dạng về đời sống gia đình như:

– Những kiến thức về bản chất cuộc sống gia đình và quan hệ vợ

chồng, chức năng của gia đình, quy mô thích hợp của gia đình hiện nay (số

lượng con và phải), vai trò trách nhiệm người chồng, người vợ, của con cái,

nội dung của đời sống vợ chồng, các yếu tố ảnh hưởng đến hạnh phúc gia

đình, các kiến thức về dân số, giáo dục dân số, kế hoạch hoá gia đình…

– Những kiến thức về văn hoá gia đình, về chất lượng cuộc sống gia

đình, về xây dựng cơ sở vật chất cho gia đình, trang trí nhà cửa.

Những kiến thức khoa học về sinh lí cơ thể người, về đời sống tình

dục vợ chồng, về chăm sóc sức khoẻ ban đầu, về cách giữ gìn vẻ đẹp độ trẻ

trung và các kiến thức cơ bản khác về y tế.

– Những kiến thức khoa học về sinh nở, nuôi dạy con…

Page 135: TÂM LÝ HỌC GIỚI TÍNH VÀ GIÁO DỤC GIỚI TÍNHsaomaidata.org/library/90...  · Web viewtÂm lÝ hỌc giỚi tÍnh vÀ giÁo dỤc giỚi tÍnh. tÂm lÝ hỌc giỚi tÍnh

– Những kiến thức về nghệ thuật xây dựng cuộc sống hạnh phúc gia

đình, đặc biệt là:

+ Nghệ thuật cư xử và chung sống vợ chồng.

+ Nghệ thuật tổ chức cuộc sống gia đình.

+ Nghệ thuật sinh nở, nuôi con.

+ Nghệ thuật quan hệ với xã hội và bà con lối xóm.

+ Nghệ thuật bảo vệ hạnh phúc gia đình.

VII. VẤN ĐỀ SỨC KHỎE SINH SẢN1. Khái niệm sức khoẻ sinh sản

a) Quan niệm về sức khoẻ sinh sản

Trên thế giới, vấn đề sức khoẻ sinh sản (SKSS) được quan tâm nhiều

từ khoảng thập niên 90 của thế kỉ XX, do yêu cầu của việc giáo dục dân số,

sự phát triển của các khoa học nghiên cứu về giới tính, đặc biệt là do tình

hình phức tạp của đời sống xã hội về các tệ nạn xã hội, về sự bùng nổ dân

số, về sự phát triển của những lối sống không lành mạnh trong thanh thiếu

niên.

Việc nghiên cứu SKSS thường được tiến hành theo các hướng: Nghiên

cứu theo góc độ Dân số học và Giáo dục dân số: Các công trình nghiên cứu

thường đi vào những phương thức điều chỉnh sự phát triển dân số, hoạt động

kế hoạch hoá gia đình, căn cứ để xây dựng các chính sách dân số và Giáo

dục dân số, xây dựng chương trình, nội dung giáo dục dân số, giáo dục giới

tính và đời sống gia đình… Ở nhiều nước, việc nghiên cứu SKSS được gắn

với vấn đề Giáo dục dân số, được coi như là một bộ phận của Giáo dục giới

tính, của chính sách dân số.

+ Nghiên cứu theo góc độ Y học: Nghiên cứu những tri thức khoa học

về các vấn đề của SKSS, những vấn đề kĩ thuật của “kế hoạch hoá gia

đình”…

Page 136: TÂM LÝ HỌC GIỚI TÍNH VÀ GIÁO DỤC GIỚI TÍNHsaomaidata.org/library/90...  · Web viewtÂm lÝ hỌc giỚi tÍnh vÀ giÁo dỤc giỚi tÍnh. tÂm lÝ hỌc giỚi tÍnh

+ Nghiên cứu việc giáo dục SKSS cho thanh thiếu niên, cho người lớn,

đặc biệt cho trẻ vị thành niên, trẻ ngoài nhà trường.

Việc nghiên cứu trên ngày càng được phát triển hơn sau Hội nghị Quốc

tế về Dân số và Phát triển tại Công, Ai Cập tháng 9/1994 ở Việt Nam, vấn đề

giáo dục sức khoẻ sinh sản được đặc biệt quan tâm trong tình hình hiện nay,

đặc biệt là ở đối tượng thanh thiếu niên. Nhiều công trình nghiên cứu về

SKSS đã được thực hiện và công bố, trong đó, có những cõng anh đã kết

hợp giáo dục dân số, giáo dục giới tính với giáo dục SKSS, kết hợp Dân số

học, Y học, Xã hội học, Tâm lí học, Giáo dục học về các nội dung trên. Năm

2004, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã chỉ đạo đưa các nội dung giáo dục Dân số –

SKSS vào chương đào tạo trong các trường sư phạm.

Trước đây, người ta cho rằng, “sức khoẻ sinh sản” chỉ là những vấn đề

về tình trạng sức khoẻ và khả năng sinh sản của người phụ nữ, về kế hoạch

hoá gia định với việc thực hiện các biện pháp tránh thai và một số vấn đề liên

quan tới việc thụ thai và sinh nở.

Tuy nhiên, ngày nay mọi người đều nhận thấy, nội dung của khái niệm

“sức khoẻ sinh sản” rộng hơn nhiều. Nó còn liên quan đến hoạt động tình dục,

những quan niệm về lối sống, về thái độ và cảm xúc yêu đương trong đời

sống tình dục của cả nam lẫn nữ, những vấn đề bệnh lí về mặt tình dục, hoạt

động của các cơ quan sinh dục, về quá trình thụ thai và mang thai, về tri thức

và nghệ thuật sinh nở, nuôi con để các cặp vợ chồng có những đứa trẻ khoẻ

mạnh và thông minh…

Tổ chức Y tế thế giới (WHO) định nghĩa: “Sức khoẻ sinh sản là tình

trạng khoẻ mạnh về thể chất, tinh thần và xã hội, của tất cả những gì liên

quan đến hoạt động và chức năng của bộ máy sinh sản chứ không phải chỉ là

không có bệnh tật hoặc là ốm yếu”.

Như vậy khi nói đến “sức khoẻ sinh sản”, cần phải chú ý đến toàn bộ

những vấn đề về cấu tạo, về chức năng, về tình trạng hoạt động của hệ cơ

quan sinh dục, về nhiều vấn đề tâm sinh lí nảy sinh trong đời sống sinh lí giới

tính và cả một số vấn đề về tâm lí xã hội giới tính, trong đó có đời sống tình

Page 137: TÂM LÝ HỌC GIỚI TÍNH VÀ GIÁO DỤC GIỚI TÍNHsaomaidata.org/library/90...  · Web viewtÂm lÝ hỌc giỚi tÍnh vÀ giÁo dỤc giỚi tÍnh. tÂm lÝ hỌc giỚi tÍnh

dục và nếp sống sinh hoạt liên quan đến vấn đề tình dục, thái độ và trách

nhiệm của người nam và người nữ trong đời sống giới tính, trong việc thụ

thai, khả năng sinh nở, kế hoạch hoá sinh nở và nuôi con, về mối quan hệ

giới tính giữa hai giới…

b) Những nội dung cơ bản của vấn đề sức khoẻ sinh sản

Từ những quan niệm trên, vấn đề sức khoẻ sinh sản bao gồm nhiều nội

dung phong phú và phức tạp, chủ yếu là:

– Tình trạng sức khoẻ của hệ cơ quan sinh dục nam và nữ, trong đó có

cấu trúc, chức năng hoạt động, khả năng hoạt động của các bộ phận của hệ

cơ quan sinh dục nam nữ, đặc biệt là hoạt động sản sinh các nội tiết tố giới

tính (các hoóc môn sinh dục), hoạt động sản sinh tinh trùng và sự xuất tinh,

hoạt động sinh lí dẫn tới hiện tượng kinh nguyệt, thụ thai, hệ thống sinh sữa…

Sự dậy thì và sự chín muồi giới tính, sự nảy sinh và xuất hiện những

nhu cầu của đời sống tình dục.

Những biểu hiện của đời sống tính dục và những chức năng khác

trong hoạt động của các cơ quan sinh dục như: hiện tượng kinh nguyệt, hiện

tượng mộng tinh, hiện tượng thủ dâm, xuất hiện trứng cá, sự biến đổi hình

thể ở nam và nữ, mọc râu… và những biểu hiện bất thường về các hiện

tượng trên.

– Đời sống tình dục trong đó có sức khoẻ tình dục, niềm hạnh phúc

trong đời sống yêu đương và cuộc sống vợ chồng, hoạt động tư vấn và chăm

sóc SKSS, phòng tránh các bệnh lây lan quan đường tình dục, xây dựng lối

sống lành mạnh, đề phòng và chống lại lối sống ăn chơi, trụy lạc, trác táng,

mại dâm, quan hệ tình dục bừa bãi và không an toàn.

– Sự thụ thai và vấn đề phòng tránh, chữa trị hiện tướng vô sinh, sự

phát triển của thai nhi, việc thăm sóc người mẹ khi mang thai, sự sinh con,

cho con bú, việc nuôi con và những kiến thức về nghệ thuật sinh nở, nuôi con

khoẻ mạnh thông minh, cao lớn…

Page 138: TÂM LÝ HỌC GIỚI TÍNH VÀ GIÁO DỤC GIỚI TÍNHsaomaidata.org/library/90...  · Web viewtÂm lÝ hỌc giỚi tÍnh vÀ giÁo dỤc giỚi tÍnh. tÂm lÝ hỌc giỚi tÍnh

– Vấn đề kế hoạch hoá gia đình, các biện pháp tránh thai, nạo phá thai

và hậu quả nguy hiểm của việc nạo phá thai, nhất là nạo phá thai ở lứa tuổi vị

thành niên.

Những kiến thức về bệnh lí liên quan đến đường tình dục như: sự

hiểu biết và phòng tránh các bệnh lây lan qua đường tình dục, các bệnh viêm

nhiễm đường tình dục, các bệnh tâm thần tình dục…

– Ý thức trình nhiệm trong quan hệ yêu đương, quan hệ tình dục.

– Ý thức tôn trọng phụ nữ, tôn trọng quyền bình đẳng nam nữ, nhận

thức được sự khó khăn của người phụ nữ trong đời sống sức khoẻ sinh sản,

trong đời sống xã hội; biết cách lo lắng, thăm sóc và bảo vệ cho sức khoẻ

sinh sản của người phụ nữ, thăm sóc sức khoẻ bà mẹ và trẻ em, chống bạo

lực tình dục, chống bạo hành trong gia đình.

Như vậy, nội dung của SKSS bao gồm nhiều khía cạnh, nhiều lĩnh vực:

sức khoẻ của cơ thể và hệ cơ quan sinh đục, quan hệ tình dục an toàn và

hạnh phúc, các biện pháp tránh thai và kế hoạch hoá gia đình, kiến thức và

cảm phòng chống các bệnh lây lan qua đường tình dục, vấn đề nạo phá thai

và hậu quả, vấn đề tình yêu và hôn nhân gia đình…

Sức khoẻ sinh sản là bộ phận ăn trọng và điển hình của đời sống giới

tính, gắn bó ít thiết với những yếu tố khác của đời sống giới tính.

c) Tầm quan trọng của vấn đề sức khoẻ sinh sản

Sức khoẻ sinh sản là một bộ phận quan trọng của đời sống giới tính, có

ý nghĩa lớn đối với toàn bộ các biểu hiện khác của đời sống giới tính của con

người. Nó thể hiện rõ khả năng hoạt động của hệ cơ quan sinh dục và qua đó

khắc hoạ rõ nét, đặc trưng của đời sống giới tính.

Sức khoẻ sinh sản liên quan đến bản năng tình dục và những chức

năng quan trọng nhất của đời sống sinh lí cơ thể.

Page 139: TÂM LÝ HỌC GIỚI TÍNH VÀ GIÁO DỤC GIỚI TÍNHsaomaidata.org/library/90...  · Web viewtÂm lÝ hỌc giỚi tÍnh vÀ giÁo dỤc giỚi tÍnh. tÂm lÝ hỌc giỚi tÍnh

Sức khoẻ sinh sản ảnh hường mạnh đến sức khoẻ, đến sự phát triển

sinh lí cơ thể, đến đời sống tâm lí, và qua đó ảnh hưởng mạnh đến sự phát

triển toàn bộ của nhân cách con người.

d) Giáo dục sức khoẻ sinh sản

Giáo dục sức khoẻ sinh sản là hoạt động giáo dục trang bị cho con

người tri thức và những kĩ năng giữ gìn, bảo đảm cho sức khoẻ sinh sản ở

tình trạng tốt, giúp cho con người có sức khoẻ, có đời sống tình dục an toàn,

yêu đương lành mạnh, gia đình hạnh phúc, có tri thức đầy đủ về sức khoẻ

sinh sản, bảo đảm được sự sinh nở bình thường, nuôi con khoẻ mạnh, thông

minh và phát triển.

Giáo dục SKSS phải gắn liền với giáo dục dân số. Đó là hai vấn đề có

mối quan hệ rất đặc biệt, rất mật thiết. Giáo dục SKSS là một bộ phận của

giáo dục giới tính, có ý nghĩa quan trọng trong giáo dục giới tính.

Việc giáo dục sức khoẻ sinh sản phải được tiến hành toàn diện và rộng

rãi trong toàn xã hội cho mọi đối tượng, đặc biệt là đối với trẻ vị thành niên.

Giáo dục sức khoẻ sinh sản phải được tiến hành ở nhiều hình thức

giáo dục phong phú và đa dạng, có thể thực hiện ở mọi lúc, mọi nơi, bằng các

phương tiện thông tin đại chúng (phát thanh, quyền hình, quảng cáo tuyên

truyền, các hình thúc hoạt động văn hoá nghệ thật…), đặc biệt là giáo dục

trực tiếp cho thanh niên, học sinh, trẻ vị thành niên trong nhà trường qua các

giờ chính khoá, ngoại khoá và các hoạt động vui chơi, giải trí.

Có thể xác định nội dung chương trình giáo dục SKSS bao gồm những

vấn đề cơ bản sau:

1. Cấu tạo và chức năng của hệ cơ quan sinh dục nam nữ.

2. Một số hiện tượng đặc biệt điển hình trong đời sống sinh lí tính dục.

3. Bản chất của hoạt động tình dục và biểu hiện của đời sống tình dục

ở thanh thiếu niên.

4. Các bệnh lây lan qua đường tình dục và cách phòng tránh.

Page 140: TÂM LÝ HỌC GIỚI TÍNH VÀ GIÁO DỤC GIỚI TÍNHsaomaidata.org/library/90...  · Web viewtÂm lÝ hỌc giỚi tÍnh vÀ giÁo dỤc giỚi tÍnh. tÂm lÝ hỌc giỚi tÍnh

5. Sự thụ thai và sự phát triển của thai nhi.

6. Các biện pháp tránh thai.

7. Kế hoạch hoá gia đình.

8. Vấn đề nạo phá thai ở tuổi vị thành niên và hậu quả.

9. Giới tính và vấn đề SKSS.

10. Tình yêu nam nữ.

11. Hôn nhân và đời sống gia đình.

12. Quan hệ vợ chồng và sự bình đẳng nam nữ.

13. Vấn đề chống bạo hành trong gia đình và sự xâm phạm tình dục trẻ

em.

14. Việc chăm sóc sức khoẻ bà mẹ và trẻ em.

15. Việc xây dựng gia đình hạnh phúc và phát triển.

Trên đây là những nội dung cơ bản của chương trình nội dung giáo dục

SKSS. Tuỳ theo đặc điểm đối tượng (địa phương, trình độ, lứa tuổi, cấp học,

thanh thiếu niên ngoài nhà trường, trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt…), sẽ xây

dựng chương trình giáo dục thích hợp riêng.

Để giáo dục sức khoẻ sinh sản có hiệu quả, cần phải có chương trình,

nội dung cụ thể, phù hợp cho từng đối tượng.

2. Giáo dục sức khoẻ sinh sản vị thành niên

a) Ý nghĩa của việc giáo dục sức khoẻ sinh sản vị thành niên

Tuổi vị thành niên là một giai đoạn đặc biệt của đời sống con người.

Đây là giai đoạn dậy thì, chín muồi giới tính, những chức năng sinh sản của

hệ cơ quan sinh dục bắt đầu hoạt động và ảnh hưởng mạnh đến sự phát triển

cơ thể và nhân cách. Đây cũng là lứa tuổi có nhiều biến động mạnh về tâm

sinh lí, bắt đầu có những biểu hiện quan trọng và điển hình của đời sống tính

dục, đã xuất hiện những rung cảm yêu đương, bắt đầu hình thành tình yêu…

đồng thời có những biến đổi đặc biệt về mặt tâm lí, nhất là những biểu hiện

Page 141: TÂM LÝ HỌC GIỚI TÍNH VÀ GIÁO DỤC GIỚI TÍNHsaomaidata.org/library/90...  · Web viewtÂm lÝ hỌc giỚi tÍnh vÀ giÁo dỤc giỚi tÍnh. tÂm lÝ hỌc giỚi tÍnh

tâm lí giới tính, tính xúc động mạnh của thời kì dậy thì, sự biến động mạnh và

thất thường trong đời sống tâm lí, thậm chí cớ sự khủng hoảng tâm lí trong

mối quan hệ với người lớn, với bạn bè khác giới…

Ở lứa tuổi này, các em quan tâm nhiều đến những vấn đề về tình dục,

vệ sinh nở, về kinh nguyệt, về tình yêu… nhưng lại rất ít hiểu biết về những

vấn đề này.

Các em dễ bị kích thích bởi những rung cảm về tình dục và những biểu

hiện sớm của đời sống tính dục (bắt đầu có kinh nguyệt, bắt đầu có hiện

tượng mộng tinh, có nhu cầu thủ dâm…), ngoài ra còn có nhiều những biến

đổi khác về tâm sinh lí. Những yếu tố trên ảnh hưởng mạnh đến lối sống, nếp

sinh hoạt, quan hệ xã hội và sự phát triển nhân cách. Đặc biệt, các em dự bị

lôi cuốn và bị sa ngã bởi văn hoá phẩm đồi trụy, bởi những nếp sinh hoạt

không lành mạnh, ăn chơi nghiện hút, ma tuý và thuốc lắc, dễ bị xâm hại tình

dục… Do đó, vấn đề giáo dục sức khoẻ sinh sản cho lứa tuổi vị thành niên có

ý nghĩa quan trọng đặc biệt.

b) Một số vấn đề cần chú ý trong việc giáo dục sức khoẻ sinh sản vị thành niên

Giáo dục sức khoẻ sinh sản vị thành niên cần chú ý đến những vấn đề

sau đây:

– Giáo dục những tri thức về sự dậy thì, về việc giữ gìn vệ sinh cho hệ

cơ quan sinh sản, đặc biệt là tri thức về cấu trúc và chức năng hoạt động của

hệ cơ quan sinh dục, hiện tượng kinh nguyệt, hiện tượng mộng tinh và di tinh,

hiện tượng thủ dâm, sự phát triển bất bình thường của hệ cơ quan sinh dục

(nam hoặc nữ), các bệnh lí liên quan đến cơ quan sinh dục…

– Giáo dục về hoạt động tình dục, tác hại của hoạt động tình dục sớm,

những bệnh lí tình dục, bệnh tâm thần tình dục, hiện tượng đồng tính luyến ái,

những dấu hiệu của hiện tượng lạm dụng tình dục và của các hành vi cưỡng

dâm.

Page 142: TÂM LÝ HỌC GIỚI TÍNH VÀ GIÁO DỤC GIỚI TÍNHsaomaidata.org/library/90...  · Web viewtÂm lÝ hỌc giỚi tÍnh vÀ giÁo dỤc giỚi tÍnh. tÂm lÝ hỌc giỚi tÍnh

Giáo dục kế hoạch hoá gia đình, trang bị các tri thức khoa học về các

biện pháp tránh thai, giúp cho các em nhận thức được hậu quả nguy hiểm

của việc có thai sớm, việc nạo phá thai…

– Giáo dục về nếp sống lành mạnh, văn hoá, văn minh. Giáo dục cho

các em thấy sự nguy hiểm của việc ăn chơi đua đòi, đọc các sách báo văn

hoá phẩm đồi trụy, tác hại của ma tuý, thuốc lắc, bia rượu… và những lối

sống ăn chơi sa đoạ khác.

– Giáo dục về tình bạn khác giới, về tình yêu trong sáng, về sự tôn

trọng đối với người khác giới, đặc biệt là tôn trọng phụ nữ. Giáo dục thái độ

tôn trọng và bảo vệ các bạn nữ, sự trân trọng đối với tình bạn khác giới, tình

yêu nam nữ… Giáo dục về đời sống gia đình, về quan hệ giữa con cái với

cha mẹ và ý thức trách nhiệm đối với việc xây dựng gia đình hạnh phúc và

phát triển.

Chương 4: GIÁO DỤC GIỚI TÍNH

I. VỀ KHÁI NIỆM GIÁO DỤC GIỚI TÍNH1. Giáo dục giới tính

Giáo dục giới tính là một lĩnh vực phức tạp. Có nhiều quan niệm, nhiều

ý kiến khác nhau về vấn đề này.

Có những ý kiến cho rằng chỉ nên tiến hành giáo dục giới tính khi các

em vào thời kì chín muồi giới tính. Nhưng A.V. Petrovxki đã khẳng định “Quan

niệm đó không động bởi vì một loạt vấn đề liên quan đến giáo dục giới tính

phải được giải quyết ngay từ thời kì thơ ấu”.

Một số ý kiến nhầm lẫn giáo dục giới tính với giáo dục tính dục, hoặc

giáo dục tình dục, giáo dục tình yêu. Thực ra tính dục chỉ là một bộ phận của

giới tính. Sự thu hẹp phạm vi của giáo dục giới tính như vậy sẽ có thể đưa

đến tác dụng phản diện hoặc hạn chế hiệu quả của giáo dục giới tính.

Page 143: TÂM LÝ HỌC GIỚI TÍNH VÀ GIÁO DỤC GIỚI TÍNHsaomaidata.org/library/90...  · Web viewtÂm lÝ hỌc giỚi tÍnh vÀ giÁo dỤc giỚi tÍnh. tÂm lÝ hỌc giỚi tÍnh

Có một số người cho rằng, không nên giáo dục giới tính, vì như thế là

làm hoen ố tâm hồn thanh cao của các em, là thiếu tế nhị, không phù hợp với

môi trường sư phạm, là “vẽ đường cho hươu chạy”.

IU. I. Kusniruk và A.P. Serbakov đã nhận xét về quan niệm đó: “Trước

đây trong một thời gian dài có một số ý kiến cực kỳ sai lầm, cho rằng con

người có khả năng tự định hướng một cách tự nhiên và hầu như tự động

trước những van đề thuộc quan hệ thầm kín giữa nam và nữ; rằng việc thảo

luận rộng rãi và toàn diện đề tài này, việc tuyên truyền những kiến thức, dù

trên cơ sở khoa học chăng nữa, cũng đều là thiếu đạo đức, dung tục và có

khả năng đưa đến những quan tâm không lành mạnh về vấn đề quan hệ nam

nữ và đưa đến tình trạng suy đồi đạo đức”.

Trong khi đó “chính việc thiếu kiến thức về những vấn đề này, cũng

giống như mọi tình trạng dốt nát khác, lại là điều nguy hiểm và có phương hại

đến tâm lí và đạo đức con người”.

Gần đây, việc nghiên cứu về giáo dục giới tính đã được xã hội quan

tâm nhiều, và được tiến hành một cách hệ thống, khoa học. Dần dần, vấn đề

này đã ngày càng được đánh giá đầy đủ, đứng đắn hơn. Quan niệm về giáo

dục giới tính ngày càng hoàn thiện, cụ thể, rõ ràng.

Theo A.G. Khrivcova, D.V. Kolexev, “Giáo dục giới tính là một quá trình

hướng nào việc vạch ra những nét, những phẩm chất, những đặc trưng cũng

như khuynh hướng phát triển của nhân cách, xác định thái độ xã hội cần thiết

của con người đối với người khác”.

Theo A.V. Petrovxki, giáo dục giới tính là hệ thống các biện pháp y

khoa và sư phạm nhằm giáo dục cho thiếu nhi, thiếu niên và thanh niên có

thái độ đúng đắn đối với các vấn đề giới tính.

Giáo sư Trần Trọng Thuỷ, Giáo sư Đặng Xuân Hoài cho rằng, giáo dục

giới tính có phạm vi rất rộng lớn, tác động toàn diện đến tâm lí, đạo đức con

người, “là hình thành tiêu chuẩn đạo đức của hành vi có liên quan đến lĩnh

vực thầm kín của đời sống con người, hình thành những quan niệm đạo đức

Page 144: TÂM LÝ HỌC GIỚI TÍNH VÀ GIÁO DỤC GIỚI TÍNHsaomaidata.org/library/90...  · Web viewtÂm lÝ hỌc giỚi tÍnh vÀ giÁo dỤc giỚi tÍnh. tÂm lÝ hỌc giỚi tÍnh

lành mạnh giữa em trai và em gái, thanh nam và thanh nữ, giáo dục những

sự “kiềm chế có đạo đức”, sự thuần khiết và tươi mát về đạo đức trong tình

cảm của các em”.

Giáo dục giới tính là một bộ phận hữu cơ của phức hợp các vấn đề

giáo dục nhân cách, giáo dục con người mới, con người phát triển toàn diện,

kết hợp một cách hữu cơ hài hoà sự phong phú về tinh thần, sự thuần khiết

về đạo đức và sự hoàn thiện về thể xác. Theo A.X. Makarenko, “khi giáo dục

cho đứa trẻ tính ngay thẳng, khả năng làm việc, tính chân thật, tôn trọng

người khác, tôn trọng những cảm xúc và hứng thú của họ là chúng ta đã đồng

thời giáo dục nó về quan hệ giới tính”.

Trong đời sống giới tính, tính dục có một vị trí rất quan trọng. Việc giáo

dục tính dục là một bộ phận không thể thiếu của giáo dục giới tính. Nó không

những đặt cơ sở các chuẩn mực về đạo đức cho tình yêu mà còn cung cấp

những kiến thức nhất định về sinh học và tâm lí học tính dục. Trong giáo dục

về tính dục, việc giáo dục sức khoẻ sinh sản là một vấn đề đang được quan

tâm đặc biệt hiện nay. Nó là một bộ phận quan trọng và có ý nghĩa rất lớn

trong giáo dục giới tính.

Đời sống giới tính liên quan mật thiết với mối quan hệ giữa hai giới, với

hôn nhân và đời sống gia đình. Giáo dục giới tính cũng là quá trình trang bị

cho các em biết bách quan hệ, xử sự đúng mực với người khác giới, biết

cách thể hiện mình cho phù hợp với giới tính, có những tư thế tác phong

đúng đắn.

Giáo dục giới tính còn cung cấp cho thanh thiếu niên những kiến thức

về mối quan hệ với những người khác giới, về tình bạn khác giới và tình yêu

nam nữ, đời sống hôn nhân và gia đình.

Giáo dục giới tính liên hệ mật thiết với giáo dục đời sống gia đình, giúp

cho các em những tri thức của đời sống vợ chồng, mối quan hệ với các thành

viên trong gia đình, biết cách xây dựng cuộc sống gia đình hạnh phúc. Bản

thân cuộc sống gia đình, cuộc sống vợ chồng cũng liên quan mật thiết với đời

Page 145: TÂM LÝ HỌC GIỚI TÍNH VÀ GIÁO DỤC GIỚI TÍNHsaomaidata.org/library/90...  · Web viewtÂm lÝ hỌc giỚi tÍnh vÀ giÁo dỤc giỚi tÍnh. tÂm lÝ hỌc giỚi tÍnh

sống giới tính, tình dục, bởi vậy không nên và không thể tách rời giáo dục giới

tính với giáo dục đời sống gia đình.

Giới tính cũng gắn liền với nhân cách con người. Giáo dục giới tính

quan hệ mật thiết với giáo dục nói chung, với việc phát triển nhân cách toàn

diện. Nhiều nhà khoa học còn cho giáo dục giới tính gắn liền với giáo dục

nhân cách, đạo đức, là một bộ phận của giáo dục đạo đức, chuẩn bị cho con

người bước vào đời sống xã hội. Giáo dục giới tính làm cho con người sống

có văn hoá, biết làm chủ những hành vi và khát vọng của mình trong quan hệ

với người khác giới. Làm cho con người biết tôn trọng người khác, tôn trọng

bạn khác giới, tôn trọng phụ nữ và từ đó biết tôn trọng chính bản thân mình.

Giáo dục giới tính làm cho con người biết xử sự đúng mực với mọi người, có

hành vi, cử chỉ, tư thế tác phong phù hợp với giới tính của mình theo các

chuẩn mực đạo đức, văn hoá, xã hội.

Giáo dục giới tính là một bộ phận quan trọng của giáo dục nhân cách,

góp phần giúp cho con người phát triển cân đối và toàn diện. Giáo dục giới

tính nhằm hình thành cho thế hệ trẻ những phẩm chất của giới tính, giúp cho

các em biết cách cư xử đúng đắn, có thái độ có thói quen giao tiếp lịch sự

trong quan hệ với người khác giới, chuẩn bị kiến thức và kĩ năng cho các em

bước vào cuộc sống xã hội, cuộc sống vợ chồng và biết tổ thức cuộc sống gia

đình hạnh phúc trong tương lai.

Theo Giáo sư Phạm Hoàng Gia, giáo dục giới tính phải được xem xét

như là một bộ phận hợp thành của nền giáo dục xã hội. Nó có mối liên hệ mật

thiết với giáo dục dân số, kế hoạch hoá gia đình, hôn nhân – gia đình và với

các mặt giáo dục khác trong nhà trường phổ thông. Do vậy cần phải tiến hành

công tác giáo dục giới tính một cách đồng thời, đồng bộ trong mối quan hệ có

tính chất hệ thống với các mặt giáo dục khác.

Có thể nói rằng, giáo dục giới tính phải gắn liền với giáo dục đạo đức tư

tưởng và phải tiến hành trên cơ sở của giáo dục đạo đức tư tưởng. Giáo dục

giới tính cũng phải gắn bó mật thiết với các mặt giáo dục khác trong nền giáo

dục toàn diện.

Page 146: TÂM LÝ HỌC GIỚI TÍNH VÀ GIÁO DỤC GIỚI TÍNHsaomaidata.org/library/90...  · Web viewtÂm lÝ hỌc giỚi tÍnh vÀ giÁo dỤc giỚi tÍnh. tÂm lÝ hỌc giỚi tÍnh

Từ những quan niệm trán có thể đi tới kết luận: “Giáo dục giới tính là

quá trình giáo dục con người (thanh thiếu niên), nhằm làm cho họ có nhận

thức đầy đủ, có thái độ đúng đắn về giới tính và quan hệ giới tính, có nếp

sống văn hoá giới tính, hướng hoạt đồng của họ vào việc rèn luyện để phát

triển nhân cách toàn diện, phù hợp với giới tính, giúp cho họ biết tổ chức tốt

nhất cuộc sống riêng cũng như xây dựng gia đình hạnh phúc, xã hội phát

triển”.

2. Thời điểm giáo dục giới tính cho con người

Một vấn đề quan trọng đặt ra là nên giáo dục giới tính cho con người

vào thời điểm nào? Một số quan niệm cho rằng, chỉ nên giáo dục giới tính khi

các em đã trưởng thành. Một số khác lại đòi hỏi phải giáo dục giới tính cho

con người khi bước vào lứa tuổi dậy thì. Tuy nhiên, ngày nay, nhiều nhà khoa

học đều thống nhất rằng, nên giáo dục giới tính cho con người càng sớm

càng tốt.

– Giới tính xuất hiện từ rất sớm ở con người, bởi vậy để con người

phát triển toàn diện và tốt đẹp, cũng cần giáo dục giới tính từ rất sớm. “Giáo

dục giới tính thì có thể và cần phải bắt đầu càng sớm càng tốt từ khi trẻ mới

rời nhà hộ sinh”. Giáo sư Trần Trọng Thuỷ cũng có quan điểm tương tự:

Cũng như mọi vực giáo dục khác, giáo dục giới tính phải được tiến hành ngay

từ những năm đầu tiên của cuộc đời con người (tất nhiên, ở mỗi lứa tuổi phải

có nội dung và hình thức thích hợp).

– Tuy nhiên, đối với tuổi dậy thì, giáo dục giới tính có ý nghĩa đặc biệt

quan trọng. Đây là lứa tuổi có nhiều biến động to lớn trong đời sống tâm lí cơ

thể, lứa tuổi diễn ra quá trình chín muồi tính dục. Giáo dục giới tính trong thời

kì này có tác dụng rất to lớn trong cuộc sống. Nó tác động đến sự hình thành

và phát triển nhân cách của trẻ em. Giáo dục giới tính cho tuổi thiếu niên và

tuổi thanh niên là rất quan trọng vì các em đã bước sang thời kì phát dục và ở

thời kì này, gia đình và nhà trường giúp đỡ các em được nhiều nhất.

Do hiện tượng “gia tốc” phát triển về lứa tuổi, do đời sống kinh tế ngày

càng được nâng cao và ổn định, sự phát triển về giới tính ở con người ngày

Page 147: TÂM LÝ HỌC GIỚI TÍNH VÀ GIÁO DỤC GIỚI TÍNHsaomaidata.org/library/90...  · Web viewtÂm lÝ hỌc giỚi tÍnh vÀ giÁo dỤc giỚi tÍnh. tÂm lÝ hỌc giỚi tÍnh

càng nhanh và càng sớm hơn. Ngày nay, thậm chí ngay từ 10, 12 tuổi, có khi

còn sớm hơn, nhiều em đã bắt đầu quan tâm đến một số vấn đề của đời sống

tinh dục, của quan hệ yêu đương thầm kín như người lớn. Đôi khi các em còn

bắt chước hoặc thể nghiệm những cảm xúc của chính mình. Vì thế, việc giáo

dục giới tính đối với các em là rất cần thiết.

Như vậy giáo dục giới tính phải được tiến hành càng sớm càng tốt ở

mỗi lứa tuổi nhất định, cần có những nội dung, chương rình, phương pháp

giáo dục thích hợp. Tuy nhiên, tuỳ theo diễu kiện của từng quốc gia, từng

vùng, từng thời kì… việc giáo dục giới tính có thể bắt đầu ở những lứa tuổi

khác nhau.

Trong tình hình và điều kiện hiện nay ở nước ta, giáo dục giới tính đặc

biệt có ý nghĩa quan trọng từ độ tuổi 13, 14 đến 18, 20 tuổi.

II. NHIỆM VỤ CỦA GIÁO DỤC GIỚI TÍNHGiáo sư I.X. Kon cho rằng “Chuẩn bị cho nam nữ thanh niên bước vào

cuộc sống gia đình đòi hỏi phải hoàn thiện hệ thống giáo dục đạo đức và giáo

dục giới tính”. Nhưng giáo dục giới tính không phải là cấm đoán thanh niên

bước vào chuyện yêu đương, chuyện tình dục. Theo I X Kon, “Nhiệm vụ

không phải là giữ cho thanh niên nam nữ tránh chuyện tình dục – không thể

và không nên làm như vậy”, mà là làm thế nào để dạy cho các em biết được

một cách đúng đắn vấn đề quan trọng ấy trong cuộc sống của xã hội và cá

nhân. Điều đó có nghĩa là học sinh trung học phổ thông không những phải

biết sinh lí học giới tính, mà còn phải có hiểu biết rõ ràng về các mặt xã hội và

tâm lí của vấn đề. Giáo dục giới tính phải dẫn các em tới tính cảm trách

nhiệm về đạo đức và về xã hội của người lớn, kêu gọi các em cân nhắc thận

trọng, nghiêm túc trong tình cảm của mình (“yêu” hay “thích”), giúp các em

trưởng thành về mặt xã hội của bản thân, thấy được những khó khăn do có

con sớm, các phức tạp vật chất và các phức tạp khác do kết hôn sớm gây

ra”…

Theo G.I. Gheraximovic và D.V. Kolexev, giáo dục giới tính phải giúp

cho thế hệ trẻ em làm chủ được văn hoá đạo đức trong lĩnh vực các quan hệ

Page 148: TÂM LÝ HỌC GIỚI TÍNH VÀ GIÁO DỤC GIỚI TÍNHsaomaidata.org/library/90...  · Web viewtÂm lÝ hỌc giỚi tÍnh vÀ giÁo dỤc giỚi tÍnh. tÂm lÝ hỌc giỚi tÍnh

qua lại giữa hai giới, và làm cho họ có được nhu cầu và nguyện vọng tuân

theo những tiêu chuẩn đạo đức trong các mối quan hệ ấy. Việc tuân theo

những tiêu chuẩn đạo đức trong lĩnh vực các quan hệ giữa hai giới sẽ góp

phần quan trọng đối với xã hội, thể hiện ở:

Mức độ cao của sức khoẻ thể chất và tinh thần của mỗi công dân.

– Nếp sống văn hoá, văn minh lành mạnh, bình đẳng nam nữ, cư xử

lịch sự với người khác giới, và với mọi người trong xã hội.

– Con người có tình yêu hạnh phúc, gia đình bền vững và phát triển,

làm tròn nhiệm vụ sinh con và giáo dục chúng trở nên những thành viên xứng

đáng của xã hội.

Bầu không khí xã hội thuận lợi nhờ mọi công dân đều biết các đặc

điểm giới tính đặc thù của những người khác giới (đặc điểm về thể lực, tinh

thần, xúc cảm, cá tính…) và tôn trọng những đặc điểm đó trong quá trình hoạt

động chung.

Như vậy việc giáo dục giới tính vừa có lợi cho từng người, vừa có lợi

chung cho mọi người, cho xã hội.

Theo đó, giáo dục giới tính góp phần giáo dục sứ khoẻ, chống lại các

bệnh tật, nhất là dường tình dục, giáo dục về tính dục, giáo dục về tình yêu,

hôn nhân và gia đình, về sự sinh sản, giáo dục thái độ tôn trọng đối với những

người khác giới. “Các em thiếu nhi và thiếu niên, các chàng trai và các cô gái

ở mức độ phù hợp với những đặc điểm lứa tuổi của mình, cần phải biết và

tôn trọng những đặc điểm giới tính đặc thù của các bạn cùng tuổi khác giới

coi những đặc điểm ấy là hoàn toàn tự nhiên và thực tế có lợi cho xã hội đồng

thời phải hiểu đúng đắn bản có của nguyên tắc nam nữ bình quyền”.

Theo G.I. Gheraximovic và D.V. Kolexev, nhiệm vụ của giáo dục giới

tính là:

+ Giáo dục niềm tin trong lĩnh vực các quan hệ thân thiết với người

khác giới, con người không phải độc lập với xã hội, không thể hoàn toàn tách

biệt các quan hệ giữa hai giới thành các quan hệ xã hội. Đồng thời còn phải

Page 149: TÂM LÝ HỌC GIỚI TÍNH VÀ GIÁO DỤC GIỚI TÍNHsaomaidata.org/library/90...  · Web viewtÂm lÝ hỌc giỚi tÍnh vÀ giÁo dỤc giỚi tÍnh. tÂm lÝ hỌc giỚi tÍnh

giáo dục ý thức trách nhiệm xã hội của con người (thiếu nhi, thiếu niên, thanh

niên) đối với từng hành động của mình.

+ Giáo dục niềm mong muốn có một gia đình bền vững, khoẻ mạnh

thân ái, nhu cầu có con hợp lí, có ý thức và khả năng giáo dục con cái.

+ Giáo dục ý thức tôn trọng đối với những người khác, với những

người nam giới và nữ giới, giáo dục khả năng chú ý và tôn trọng những đặc

thù và những mối quan tâm của cả hai giới.

+ Giáo dục khả năng và ý muốn đánh giá các hành động của mình đối

với những người khác, không phải chỉ với mọi người nói chung, mà còn đối

với những người thuộc giới nhất định. Có được khái niệm đâu là hành động

tốt, đâu là hành động xấu trong lĩnh vực các quan hệ ấy.

+ Giáo dục thái độ trách nhiệm đối với sức khỏe của mình và đối với

người khác, hình thành quan niệm về tác hại của các mối quan hệ tình dục

quá sớm và quan niệm không chấp nhận thái độ vô trách nhiệm và nhẹ dạ

trong lĩnh vực các quan hệ với những người khác giới.

+ Tạo thái độ phê phán đối với những nếp ăn chơi đàng điếm, những

sinh hoạt thiếu lành mạnh trong các quan hệ qua lại giữa nam và nữ, đối với

những định hướng sai lầm trong quan hệ với người khác giới, thói hưởng thụ,

thói tư hữu, tính ích kỉ…

+ Giáo dục quan niệm đúng đắn về sự trưởng thành cùng với nội dung

và các dấu hiệu đích thực của nó (nhất là quan niệm về sự cư xử ra đời sống

tính dục).

Theo tác giả Nguyễn Thị Đoan, nhiệm vụ của giáo dục giới tính bao

gồm:

a) Giáo dục ý thức trách nhiệm xã hội trong quan hệ giới tính con

người.

Page 150: TÂM LÝ HỌC GIỚI TÍNH VÀ GIÁO DỤC GIỚI TÍNHsaomaidata.org/library/90...  · Web viewtÂm lÝ hỌc giỚi tÍnh vÀ giÁo dỤc giỚi tÍnh. tÂm lÝ hỌc giỚi tÍnh

b) Giáo dục khả năng hiểu biết những đặc điểm giới tính trong quá trình

cùng hoạt động chung với các bạn khác giới. Biết tôn trọng và giúp đỡ lẫn

nhau.

c) Bồi dưỡng những hiểu biết về hành vi tốt xấu, cái cho phép và cái

không thể vượt qua trong quan hệ với người khác giới. Biết tự đánh giá hành

vi của ninh trong quan hệ với người khác giới.

d) Bồi dưỡng những hiểu biết đúng đắn về sự trưởng thành sinh lí của

con người (bao gồm nội dung, những dấu hiệu thực sự thể hiện của nó).

e) Bồi dưỡng ý thức trách nhiệm đối với sức toẻ của bản thân và của

người khác, ý thức được tác hại của việc kết hôn sớm.

f) Bồi dưỡng tinh thần phê phán và thái độ không khoan nhượng đối với

những tàn tích và quan điểm đạo đức phong kiến tư sản trong phạm trù quan

hệ giới tính.

Như vậy nhiệm vụ của giáo dục giới tính bao gồm cả việc truyền thụ tri

thức về giới tính, về mối quan hệ nam nữ và các mối quan hệ khác (với người

lớn, với gia đình, xã hội bản thân…) và cả việc giáo dục những phẩm chất

đạo đức, những hành vi cư xử với mọi người, nhất là làm cho các em biết

được những hành vi tốt và xấu, đúng và sai trong quan hệ với người khác

giới, những tri thức và quan niệm đúng đắn về đời sống giới tính con người.

Về vấn đề này, tác giả Nguyễn Bích Ngọc đã đi sâu vào hai nhiệm vụ cơ bản.

Thứ nhất, giáo dục giới tính cần phải giúp con người biết phê phán, bác

bỏ những quan niệm, nhận thức sai về giới tính và giáo dục giới tính như:

– Phê phán, bác bỏ, những nhận thức đúng đắn về bản năng sinh dục,

về quan hệ tình dục, về khuynh hướng “giải phóng tình dục”, “cách mạng tình

dục” hoặc xu hướng tiêu cực, phó mặc mọi chuyện “cho nó đến đâu thì đến”,

dẫn đến sự tan vỡ của nhiều cuộc hôn nhân.

Phân tích, phê phán những tư tưởng và những hành vi không lành

mạnh: quan hệ tình gục bừa bãi, yêu nhau, lấy nhau, bỏ nhau quá dễ dàng,

Page 151: TÂM LÝ HỌC GIỚI TÍNH VÀ GIÁO DỤC GIỚI TÍNHsaomaidata.org/library/90...  · Web viewtÂm lÝ hỌc giỚi tÍnh vÀ giÁo dỤc giỚi tÍnh. tÂm lÝ hỌc giỚi tÍnh

thiếu ý thức trách nhiệm đối với việc xây dựng gia đình, xã hội giống nòi, chỉ

chạy theo khoái cảm…

– Giải quyết được những băn khoăn e ngại, cho rằng giáo dục giới tính

sẽ chỉ làm cho thanh thiếu niên bị kích thích không lành mạnh, chỉ làm cho

các em hư hỏng. Cần phải làm cho mọi người thấy rằng, bản năng tính dục

có sức thúc đấy mãnh liệt đến độ, nếu ta không giáo dục cho con người, thì

bản thân họ, đến một lúc nào đó, sẽ tự tôn hiểu, tự đi tới những vấn đề đó

qua nhiều nguồn thông tin không chính thức, và như vậy, sẽ có thể dẫn tới

những hậu quả không tốt.

Thứ hai, giáo dục giới tính phải giúp cho con người hình thành được

những tri thức, những quan niệm đúng đắn, khoa học, phù hợp, có tác dụng

tốt cho họ và xã hội. Bao gồm:

– Tri thức đúng đắn khoa học về sinh lí cơ thể, đời sống tính dục, cả về

cấu tạo chức năng, cả về các giai đoạn phát triển của nó… để họ có thể vận

dụng những tri thức này vào cuộc sống, vào việc bảo vệ sức khoẻ sắc đẹp và

đời sống hạnh phúc.

– Những tri thức đúng đắn khoa học về đời sống tâm lí, tâm lí tình dục,

tâm lí giới tính…

Những tri thức đúng đắn khoa học về tình yêu, hôn nhân, đời sống gia

đình, về đạo lí, tâm lí xã hội, về cách cư xử và xây dựng mối quan hệ tốt đẹp

với mọi người, với người khác giới, với người yêu, người vợ người chồng,

cha mẹ, con cái, việc sinh đẻ và nuôi dạy con cái.

– Chính sách dân số của Nhà nước.

Có thể đi đến kết luận, nhiệm vụ của giáo dục giới tính bao gồm:

– Hình thành và trang bị cho thế hệ trẻ những tri thức khoa học, thái độ

và quan niệm đúng đắn về những hiện tượng của đời sống giới tính sinh lí

tính dục, về cấu trúc và chức năng của các hệ cơ quan của cơ thể, nhất là hệ

cơ quan sinh dục; về sự cư xử đúng đắn phù hợp trong các mối quan hệ với

Page 152: TÂM LÝ HỌC GIỚI TÍNH VÀ GIÁO DỤC GIỚI TÍNHsaomaidata.org/library/90...  · Web viewtÂm lÝ hỌc giỚi tÍnh vÀ giÁo dỤc giỚi tÍnh. tÂm lÝ hỌc giỚi tÍnh

mọi người, với người khác giới, về những vấn đề đạo đức giới tính, thẩm mĩ

giới tính, tinh yêu, hôn nhân và đời sống gia đình…

– Giúp cho các em có bản lĩnh vững vàng bước vào đời sống xã hội,

biết bảo vệ, giữ gìn sức khoẻ cho người bạn và cho chính mình, có khả năng

chống chọi lại những cạm bẫy, quyến rũ của lối sống ăn chơi đồi trụy, biết phê

phán, bác bỏ những quan niệm không đúng về tình yêu, tình dục, quan hệ

tình dục quá sớm hoặc buông xuôi cả nể, dẫn tới quan hệ tình dục bừa bãi,

yêu nhau, bỏ nhau quá dễ dàng.

– Giúp cho các em biết trân trọng và bảo vệ những giá trị cao cả và

thiêng liêng của tình bạn thân thiết và gắn bó, của tình yêu sâu nặng và chung

thủy, biết được cái hay cái đẹp của nếp sống văn hoá văn minh.

– Chuẩn bị về tinh thần và khá năng thực tiễn cho thế hệ trẻ, giúp cho

họ phát triển nhân cách toàn diện, biết cách tổ chức và xây dựng cuộc sống

gia đình hạnh phúc, nâng cao chất lượng cuộc sống, góp phần xây dựng và

thúc đẩy xã hội phát triển, giàu mạnh.

III. NỘI DUNG CỦA GIÁO DỤC GIỚI TÍNH1. Khái niệm về nội dung giáo dục giới tính

Nội dung của giáo dục giới tính trước hết là phải giúp cho việc thực

hiện những nhiệm vụ của giáo dục giới tính. Nó “được quy định bởi các mục

đích và nhiệm vụ của giáo dục giới tính”. Nó cũng bị chi phối bởi những

nguyên tắc chung của hoạt động giáo dục của các hoạt động sư phạm. Theo

Giáo sư A.V. Petrovxki, Những nguyên tắc chung của công tác giáo dục đều

được áp dụng trong giáo dục giới tính. Ciáo dục giới tính phải là bộ phận hợp

thành ủa toàn bộ các biện pháp giáo dục được thực hiện ở gia đình, ở nhà

trường…”.

Nội dung của giáo dục giới tính và ngay cả việc xác định những nội

dung trong hệ thống giáo dục chung đều rất phức tạp. Nhiều tác giả đều đã

đưa ra những yêu cầu, những nguyên tắc nhất định khi lựa chọn những nội

dung giáo dục giới tính. Trong đó, đặc biệt phải chú ý đến mối quan hệ của

Page 153: TÂM LÝ HỌC GIỚI TÍNH VÀ GIÁO DỤC GIỚI TÍNHsaomaidata.org/library/90...  · Web viewtÂm lÝ hỌc giỚi tÍnh vÀ giÁo dỤc giỚi tÍnh. tÂm lÝ hỌc giỚi tÍnh

giáo dục giới tính với các mặt giáo dục khác nhất là giáo dục đạo đức, phải

chú ý đến mục đích giáo dục, đến đặc điểm của đối tượng, của phong tục tập

quán địa phương và nhiều yếu tố tâm lí xã hội, sinh lí khác.

Đặc biệt giáo dục giới tính phải gắn liền với giáo dục đạo đức, phải phù

hợp với đối tượng. “Các vấn đề thực về giáo dục giới tính phải gắn chặt với

hệ thống chung của công tác giáo dục đạo đức”. “Cần phải phân loại một

cách chặt chẽ việc giáo dục giới tính tuỳ theo giới lứa tuổi, mức hiểu biệt của

trẻ, cũng như cần phải đảm bảo tính kế tục của giáo dục giới tính”.

Việc lựa chọn nội dung giáo dục giới tính phải phục vụ cho mục đích

giáo dục chung, phải có tác dụng thúc đẩy sự phát triển toàn diện của nhân

cách. Giáo sư I.X. Kon khẳng định rằng: “dù xác định mối tương quan giữa

giáo dục giới tính và giáo dưỡng giới tính như thế nào đó chăng nữa thì cả

hai thứ đều phải tuân theo mục đích chung của giáo dục”.

Do giới tính gắn bó mật thiết với đạo đức xã hội, với phong tục tập quán

địa phương, nội dung giáo dục giới tính còn phải phù hợp với những điều kiện

xã hội, đời sống đạo đức và phong tục tập quán xã hội. “Mỗi một thời đại lich

sử của sự phát triển loài người đều đề ra một kiểu quan hệ giới tính giữa nam

và nữ, bởi và những quan hệ này mang tính chất xã hội, được gắn liền với hệ

tư tưởng, đạo đức thẩm mĩ, tôn giáo…”. Có những nội dung có thể cần tiến

hành giáo dục ở nước này, vùng này, nhưng lại không nên hoặc không thể áp

dụng ở nước khác, vùng khác. Đây là một sự khác biệt quan trọng giữa giáo

dục giới tính với giáo dục các lĩnh vực khoa học khác. Do đó, việc xác định

những nội dung giáo dục giới tính phù hợp với từng thời kì, từng địa phương,

phong tục tập quán, hoặc làm cho những nội dung đó được chấp nhận ở địa

phương là rất quan trọng. Có nhiều vùng, nhiều nước trên thế giới (trong đó

có nước ta), việc giáo dục giới tính rộng rãi công khai là một việc khó khăn,

do thành kiến của xã hội, của nhiều người đối với vấn đề này. Nguyên nhân

chính là do họ có quan niệm sai lầm về giới tính và giáo dục giới tính trong xã

hội. Họ cho rằng, “việc bàn luận rộng rãi và toàn diện về vấn đề đó, cũng như

việc tuyên truyền các trí thức – ngay cả các trí thức khoa học về nó cũng đều

Page 154: TÂM LÝ HỌC GIỚI TÍNH VÀ GIÁO DỤC GIỚI TÍNHsaomaidata.org/library/90...  · Web viewtÂm lÝ hỌc giỚi tÍnh vÀ giÁo dỤc giỚi tÍnh. tÂm lÝ hỌc giỚi tÍnh

là vô đạo đức, là tục tĩu, và chỉ làm nảy sinh sự quan tâm không lành mạnh

đến vấn đề quan hệ qua lại giữa nam và nữ, làm cho đạo đức suy đồi mà

thôi”. Như vậy, đối với họ, việc giáo dục giới tính chỉ làm kích thích dục tính ở

trẻ em, sẽ làm “hoen ố tâm hồn trong trắng”, làm “các em trở thành hư hỏng”.

Tác giả Nguyên Bích Ngọc cũng khẳng định: “Ở những nước còn chịu nhiều

ảnh hưởng nặng nề của tôn giáo hoặc hệ tư tưởng phong kiến, trong một thời

gian dài vẫn còn một số quan niệm cực kì sai lầm cho rằng, việc giáo dục giới

tính là thiếu đạo đức, dung tục, có khả năng đưa đến những quan niệm không

lành mạnh trong quan hệ nam nữ và đưa đến tình trạng suy đồi về đạo đức.

Thậm chí, tất cả những gì dính líu tới quan hệ tình dục giữa nam và nữ đều bị

cấm kị, khinh miệt, tránh né, và che đậy”.

Tác giả Nguyễn Thị Đoan đã đưa ra một số nguyên tắc quan trọng của

giáo dục giới tính: phải được tiến hành trên nền tảng giáo dục đạo đức, giáo

dục thẩm mĩ, phải dựa trên “quy luật” của hoạt động tính dục, nhằm chủ động

hướng dẫn sự phát triển giới tính của thế hệ trẻ theo mục tiêu đào tạo con

người mới, phải phù hợp với đặc điểm đối tượng, với lứa tuổi nghề nghiệp,

địa phương, phong tục tập quán…

Vì thế việc lựa chọn nội dung giáo dục giới tính phải rất thận trọng, phù

hợp. Nó phải tuân theo những yêu cầu, những nguyên tắc chung được quy

định bởi mục đích, nhiệm vụ của giáo dục giới tính và giáo dục toàn diện, lại

phải phù hợp với đặc điểm riêng của đối tượng, phong tục tập quán, điều kiện

sống, kinh tế, xã hội…

Ở đây chúng tôi tập tung trình bày nội dung chung của giáo dục giới

tính và một số vấn đề về nội dung giáo dục giới tính theo lứa tuổi.

2. Nội dung chung của giáo dục giới tính

Theo Giáo sư G.I. Gheraximovic, nội dung giáo dục giới tính có thể bao

gồm các vấn đề:

Các vấn đề liên quan đến thuộc tính về giới của trẻ, đến ý nghĩa của

thuộc tính này đối với cá nhân và đối với xã hội.

Page 155: TÂM LÝ HỌC GIỚI TÍNH VÀ GIÁO DỤC GIỚI TÍNHsaomaidata.org/library/90...  · Web viewtÂm lÝ hỌc giỚi tÍnh vÀ giÁo dỤc giỚi tÍnh. tÂm lÝ hỌc giỚi tÍnh

– Các vấn đề của gia đình và của các quan hệ trong gia đình, ý nghĩa

của các vấn đề đối với trẻ, cũng như đối với toàn xã hội.

Các vấn đề của việc trẻ ra đời và tính kế tục của các thế hệ.

– Các vấn đề thuộc đạo đức giới tính.

– Các vấn đề vệ sinh giới tính.

– Quan điểm trên của G.I. Gheraximovic cho thấy giáo dục giới tính gắn

liền với giáo dục đời sống gia đình. Thực tế cho thấy khó có thể và không nên

tỉnh binh hai quá trình giáo dục này, vì đời sống giới tính và đời sống gia đình

gắn bó mật thiết, hữu cơ với nhau. Nhiều vấn đề của đời sống gia đình là

những vấn đề của đời sống giới tính và ngược lại. Các nhà khoa học thường

kết hợp hai quá trình này với nhau, và ngày nay (cả ở nước ta) chúng thường

gọi thành một cái tên thống nhất: Giáo dục giới tính và Đời sống gia đình.

Giáo sư Trần Trọng Thuỷ cũng xác định nội dung của giáo dục giới tính

bao gồm những vấn đề về tính dục, trong đó bao gồm cả sự biến đổi về đặc

điểm tính dục trong các giai đoạn phát triển cơ thể kể cá những hiện tượng

kinh nguyệt, mộng tinh, chế độ vệ sinh kinh nguyệt, những rối loạn của đời

sống tính dục, vấn đề tình dục… những vấn đề về tình yêu, hôn nhân, đời

sống gia đình, những mối quan hệ giữa nam và nữ, sự cư xử đối với nhau

trong đời sống và trong gia đình, những tri thức khoa học cũng như thái độ

chung của con người về các vấn đề đó, nhất là cách thức xây dựng gia đình

hạnh phúc, quan hệ của đời sống tính dục nói chung, quan hệ vợ chồng nói

riêng, với đời sống tâm lí, xã hội, với tình cảm và nhân cách… “Chiều sâu vẻ

đẹp tâm hồn của tình cảm không chỉ phụ thuộc vào các đặc điểm giới tính của

người mình yêu mà còn phụ thuộc cả vào những đặc điểm nhân cách của họ,

vào những phẩm chất con người, và mức độ phát triển thế giới tinh thần của

họ. Một người mà không phát triển về tâm hồn, thì sự phát triển về tính dục

không tốt đẹp. Họ không thể có hạnh phúc trong cuộc sống riêng”.

Theo Giáo sư Phạm Hoàng Gia và tác giả Minh Đức, nội dung giáo dục

giới tính cho con người phải “tùy theo các đặc điểm lứa tuổi trình độ cấp

Page 156: TÂM LÝ HỌC GIỚI TÍNH VÀ GIÁO DỤC GIỚI TÍNHsaomaidata.org/library/90...  · Web viewtÂm lÝ hỌc giỚi tÍnh vÀ giÁo dỤc giỚi tÍnh. tÂm lÝ hỌc giỚi tÍnh

học… cũng như sự trưởng thành về cuộc sống gia đình”, nhưng cũng phải

bảo đảm những vấn đề chủ yếu như: vấn đề tình bạn khác giới và tình yêu,

quan hệ cư xử, tình dục trong tình yêu, những biểu hiện về tâm sinh lí giới

tính, những đặc điểm về tình dục, về vệ sinh giới tính, bệnh lí giới tính, những

vấn đề tính dục, hôn nhân, sinh đẻ, hạnh phúc gia đình, kế hoạch hoá gia

đình, giáo dục con cái, dân số học…

Theo Lê Năng An “Nội dung giáo dục giới tính khá rộng, đề cập tới các

vấn đề: Những đặc điểm của tuổi thơ, tuổi thanh niên, giới nam và giới nữ, để

chuẩn bị cho cuộc sống gia đình, mối quan hệ giữa trẻ em và người lớn, giữa

trẻ em với nhau, đặc điểm tâm lý của giới nam và giới nữ”.

Tóm lại, nội dung của giáo dục giới tính có thể bao gồm những vấn đề sau:

1. Đặc điểm tâm sinh tí con người có những đặc điểm về sinh lí tính

dục, với những hiện tượng điển hình như: sự phát triển sinh lí cơ thể chiều

cao, cân nặng, cấu trúc và chức năng của hệ cơ quan sinh dục, đời sống tình

dục, kinh nguyệt, sinh nở, cho con bú, những kiến thức về sức khoẻ, sinh đẻ

có kế hoạch, các bệnh thông thường và bệnh liên quan đến đường tình dục

(sức khoẻ sinh sản)…

2. Đặc điểm giới tính về đạo đức, xã hội, thẩm mỹ như: cách cư xử với

mọi người, với bạn khác giới, tác phong tư thế, phẩm chất đạo đức theo giới

tính, quan niệm về cái đẹp, sự rèn luyện để tạo nên cái đẹp chân tình và vững

bền, vấn đề chọn nghề, những vấn đề quan hệ xã hội, pháp luật liên quan đến

cuộc sống gia đình như luật hôn nhân gia đình, trách nhiệm của con người

trong gia đình và xã hội, phương hướng rèn luyện của con người về mặt giới

tính, những đặc điểm về đời sống tâm lí con người, tâm lí giới tính theo lứa

tuổi…

3. Những vấn đề về quan hệ bạn khác giới và tình yêu nam nữ như:

Bản chất của tình yêu, sự cư xử trong tình yêu, quy luật của tình yêu, xây

dựng tình bạn, tình yêu chân chính…

Page 157: TÂM LÝ HỌC GIỚI TÍNH VÀ GIÁO DỤC GIỚI TÍNHsaomaidata.org/library/90...  · Web viewtÂm lÝ hỌc giỚi tÍnh vÀ giÁo dỤc giỚi tÍnh. tÂm lÝ hỌc giỚi tÍnh

4. Những vấn đề về hôn nhân và đời sống gia đình như bản chất của

hôn nhân, điều kiện để có hôn nhân hạnh phúc, cuộc sống gia đình, sự chuẩn

bị cho cuộc sống gia đình, cách xây dựng một gia đình hạnh phúc…

Hiện nay, nhiều nhà giáo dục thường quan tâm nhấn mạnh đến việc

giáo dục sức khoẻ sinh sản, giáo dục tình dục, giáo dục tình yêu và hôn

nhân… Đó là những biểu hiện cơ bản của đời sống giới tính được kết hợp

hoặc tích hợp theo một định hướng, một trọng tâm cơ bản, một mục tiêu giáo

dục nào đó. Và đó cũng là những nội dung nhất định, điển hình của đời sống

giới tính.

Những nội dung trên cần được thực hiện theo hình thức tổ chức giáo dục thích hợp, cho những đối tượng thích hợp và theo từng điều kiện hoàn cảnh thích hợp.

3. Nội dung giáo dục giới tính cho từng đối tượng

Theo A.V. Petrovxki, I.X. Kon, G.I. Gheraximovic, Trần Trọng Thuỷ,

Phạm Hoàng Gia… khi tiến hành giáo dục giới tính, cần phải dựa vào đối

tượng giáo dục để lựa chọn nội dung thích hợp. Giáo sư Phạm Hoàng Gia và

tác giả Minh Đức cho rằng có thể “tạm xác định 3 loại đối tượng chính mà sự

khác nhau về nội dung giáo dục giới tính khá rõ rệt là: Học sinh phổ thông (từ

13 đến 18 tuổi); thanh niên ở độ tuổi đang yêu (sinh viên, học sinh các trường

cao đẳng, trung học chuyên nghiệp, công nhân kỹ thuật…) và những người

đã xây dựng gia đình (từ 22, 23 đến 30, 35 tuổi)”. Tác giả Bùi Ngọc Oánh nêu

lên 4 loại đối tượng chính của giáo dục giới tính trong tình hình hiện nay ở

nước ta như sau:

Loại thứ nhất: lứa tuổi mới lớn, bao gồm thanh niên, học sinh từ trung

học cơ sở trở lên, nhất là học sinh trưng học phổ thông, sinh viên năm đầu

của đại học (từ khoảng 13, 14 tuổi đến 20, 22 tuổi); Loại thứ hai: tuổi trưởng

thành chuẩn bị lập gia đình, từ khoảng 18, 20 tuổi trở lên (đối với người

chuẩn bị lập gia đình) hoặc 20 – 22 trở lên (nếu là sinh viên, học sinh các

trường cao đẳng, trung học thuyên nghiệp); Loại thứ ba: thanh niên đã có gia

Page 158: TÂM LÝ HỌC GIỚI TÍNH VÀ GIÁO DỤC GIỚI TÍNHsaomaidata.org/library/90...  · Web viewtÂm lÝ hỌc giỚi tÍnh vÀ giÁo dỤc giỚi tÍnh. tÂm lÝ hỌc giỚi tÍnh

đình bao gồm tất cả những thanh niên đã kết hôn; Loạt thứ tư: giáo viên và

những người làm công tác giáo dục giới tính.

Đối với mỗi đối tượng như vậy, có những nội dung thích hợp riêng.

Riêng đối với đối tượng học sinh, sinh viên đang đi học, nội dung giáo

dục giới tính có khác so với thanh niên đã vào đời. Giáo sư Phạm Hoàng Gia

và tác giá Minh Đức đã xác định khá cụ thể những nội dung thích hợp cho các

đối tượng này.

Tác giả Bùi Ngọc Oánh cũng đã xây dựng một chương trình giáo dục

giới tính cụ thể cho học sinh phổ thông, bao gồm các vấn đề sau đây:

Đặc điểm sinh lí giới tính.

Đời sống tâm lí giới tính con người.

Thanh niên và đời sống đạo đức xã hội theo giới tính.

Vẻ đẹp và cách làm đẹp ở thanh niên.

Giao tiếp trong tình bạn và tình bạn khác giới.

Tình yêu và việc xây dựng tình yêu chân chính.

Hôn nhân và đời sống gia đình.

Sự bùng nổ dân số và kế hoạch hoá dân số.

Những tri thức quan trọng trong việc thực hiện “kế hoạch hoá gia

đình” (kiến thức về cấu tạo cơ quan sinh dục nam nữ, sự thụ thai,

các biện pháp tránh thai, hậu quả của việc có thai sớm…).

Những bệnh lây qua đường tình dục và cách phòng tránh.

Tuy nhiên, những vấn đề trên không phải được giảng dạy một cách

giống nhau cho tất cả mọi lứa tuổi, mọi cấp học. Đối với mỗi khối lớp khác

nhau, cũng cần có những nội dung khác nhau, căn cứ vào rình độ học sinh

(khối lớp nào), nội dung học tập, tình hình nhà trường, phong tục tập quán,

đời sống văn hoá địa phương… Trong việc giáo dục cho học sinh phổ thông,

việc lựa chọn nội dung cho từng khối lớp luôn luôn phải đáp ứng từng câu

Page 159: TÂM LÝ HỌC GIỚI TÍNH VÀ GIÁO DỤC GIỚI TÍNHsaomaidata.org/library/90...  · Web viewtÂm lÝ hỌc giỚi tÍnh vÀ giÁo dỤc giỚi tÍnh. tÂm lÝ hỌc giỚi tÍnh

hỏi: Dạy cho khối nào (lứa tuổi nào), dạy những nội dung nào? Dạy như thế

nào? (thành môn riêng hay lồng ghép vào các môn khác, dạy ngoại khoá hay

chính khóa…). Trong đó, cần phải đặc biệt thận trọng khi xác định chương

trình và nội dung giảng dạy những chủ đề có tính “nhạy cảm” như tình dục,

tình yêu… Ngoài ra còn phải tính đến dư luận phụ huynh, xã hội ở từng vùng,

từng địa phương, nông thôn, thành thị.

Các tác giả: Giáo sư G.I. Gheraximovic và Tiến sĩ D.V. Kolexev còn xây

dựng một thương tình rất cụ thể cho các đối tượng đang đi học ở và trường

phổ thông bao gồm: trẻ chưa đến tuổi đi học, học sinh tiểu học, học sinh trung

học cơ sở, học sinh trung học phổ thông… Ở nhiều nước, việc xây dựng

chương trình giới tính cho từng loại độ tượng, khối lớp cũng được tiến hành

rất tỉ mỉ, cụ thể luật ở Đức, ở Phillppines và nhiều nước khác.

Ngày nay việc giáo dục giới tính cho học sinh phổ thông càng trở nên

cần thiết và quan trọng. Các bậc phụ huynh khó có điều kiện giáo dục tốt vấn

đề này cho con em của họ “Không thể hi vọng vào chỗ gia đình đảm nhiệm tốt

chức năng giáo dục giới tính… Nhiều bậc cha mẹ than phiền không biết kể

cho con nghe chuyện bí mật của giới tính như thế nào. Và thường người lớn

cũng không biết kể cái gì và khi nào. Kinh nghiệm bản thân thì không đủ, sách

vở khoa học về vấn đề này thì ít – Thậm chí dù có đủ tài liệu, các bậc cha mẹ

cũng phải khước từ đàm đạo (với con cái) về chuyện này”. Theo ông, phải có

người được đào tạo chuyên biệt, thầy cô giáo hay bác sĩ làm việc giáo dục

giới tính này mới có hiệu quả cao.

Có thể kết luận rằng, việc xác định thương trình nội dung giáo dục giới

tính phù hợp với phong tục tập quán, dư luận xã hội và nhất là phù hợp với

đối tượng học sinh phổ thông có ý nghĩa to lớn. Nó góp phần thực hiện tốt

hoạt động giáo dục này, cũng như thực hiện tốt mục đích giáo dục, đào tạo

con người phát triển toàn diện. Việc giáo dục giới tính cần phải được thực

hiện một cách khoa học, hợp lí, có phương pháp và hình thức giảng dạy trình

hợp. Hoạt động giáo dục này cũng phải được tiến hành bởi những người có

Page 160: TÂM LÝ HỌC GIỚI TÍNH VÀ GIÁO DỤC GIỚI TÍNHsaomaidata.org/library/90...  · Web viewtÂm lÝ hỌc giỚi tÍnh vÀ giÁo dỤc giỚi tÍnh. tÂm lÝ hỌc giỚi tÍnh

chuyên môn, có trình độ, được đào tạo một cách chu đáo và hệ thống, giống

như việc giáo dục, giảng dạy những bộ môn khoa học khác trong nhà trường.

4. Nội dung giáo dục giới tính theo chương trình giáo dục phổ thông

Việc xây dựng nội dung giáo dục giới tính theo chương trình giáo dục

phổ thông đã được sự quan tâm nhiều của các nhà khoa học. Nhiều công

trình nghiên cứu đều thống nhất rằng, cần có chương trình giáo dục giới tính

theo từng lứa tuổi, từng cấp học. Cụ thể, có thể theo các lứa tuổi sau:

– Nội dung Giáo dục giới tính cho trẻ em trước tuổi đi học.

– Nội dung Giáo dục giới tính cho lứa tuổi học sinh tiểu học.

Nội dung Giáo dục giới tính cho lứa tuổi học sinh trung học cơ sở.

– Nội dung Giáo dục giới tính cho lứa tuổi học sinh trung học phổ

thông.

Nội dung Giáo dục giới tính cho lứa tuổi thanh niên trưởng thành.

Nội dung Giáo dục giới tính cho lứa tuổi người lớn.

Việc xây dựng những nội dung cụ thể chương trình giáo dục giới tính

cho từng lứa tuổi như trên đang được quan tâm và triển khai.

Năm 1990, Chương trình Quốc gia nghiên cứu về Giáo dục giới tính và

Đời sống gia đình đã xây dựng chương trình giáo dục giới tính cho học sinh

trung học cơ sở và trung học phổ thông, trước hết, tập trung vào lứa tuổi từ

lớp 9 đến lớp 12, theo nội dung cụ thể sau đây:

Chương trình lớp 9 bao gồm các chủ điểm:

Giới tính và sự khác biệt nam nữ.

Những biến đổi cơ thể ở tuổi dậy thì.

Những biến đổi tâm lí ở tuổi dậy thì.

Cấu tạo và chức năng của cơ quan sinh dục nam.

Cấu tạo và chức năng của cơ quan sinh dục nữ.

Page 161: TÂM LÝ HỌC GIỚI TÍNH VÀ GIÁO DỤC GIỚI TÍNHsaomaidata.org/library/90...  · Web viewtÂm lÝ hỌc giỚi tÍnh vÀ giÁo dỤc giỚi tÍnh. tÂm lÝ hỌc giỚi tÍnh

Hiện tượng kinh nguyệt.

Sự thụ thai và phát triển thai.

Gia đình.

Các mối quan hệ gia đình.

Chương trình lớp 10 bao gồm các chủ điểm sau:

Gia đình (khái niệm và chức năng).

Các giai đoạn phát triển của gia đình.

Các mối quan hệ gia đình.

Cách cư xử trong các mối quan hệ gia đình.

Bổn phận làm con.

Tình người.

Tình bạn.

Chương trình lớp 11 gồm các chủ điểm:

Tình yêu.

Hôn nhân.

Một số vấn đề trong luật Hôn nhân và Gia đình.

Quản lí gia đình.

Quản lí sử dụng của cải trong gia đình.

Trách nhiệm làm cha mẹ.

Chương trình lớp 12 gồm các chủ điểm:

Cấu tạo và chức năng của cơ quan sinh dục nam, nữ.

Sự thụ thai và phát triển của thai.

Dấu hiệu thai nghén và sự sinh con.

Cơ sở khoa học của các biện pháp tránh thai.

Page 162: TÂM LÝ HỌC GIỚI TÍNH VÀ GIÁO DỤC GIỚI TÍNHsaomaidata.org/library/90...  · Web viewtÂm lÝ hỌc giỚi tÍnh vÀ giÁo dỤc giỚi tÍnh. tÂm lÝ hỌc giỚi tÍnh

Các bệnh lây lan qua đường tình dục.

Có thai ở tuổi vị thành niên và các hậu quả.

Vấn đề của vợ chồng trẻ.

Chăm sóc bà mẹ và trẻ sơ sinh

Việc xây dựng những chương trình trên đã được triển khai, giảng dạy

thí điểm tại các trường ở 17 tỉnh, thành phố trong cả nước. Sau đó đã biên

soạn thành sách giáo khoa cho học sinh từ các lớp 9 đến lớp 12 và sách

hướng dẫn giảng dạy các chủ điểm trên cho giáo viên.

Việc thực hiện giảng dạy các nội dung trên trong trường phổ thông

được tiến hành theo các hướng:

– Tích hợp (hoặc kết hợp, lồng ghép) với các bộ môn khoa học có liên

quan (Sinh học, Giáo dục công dân…).

Giảng dạy theo những tiết học riêng.

– Đưa vào nội dung giáo dục ngoài giờ lên lập.

– Kết hợp với các hình thức sinh hoạt ngoại khoá, đặc biệt kết hợp với

việc giáo dục bằng phim ảnh, dẫn kịch, và các loại hình hoạt động nghệ thuật.

– Tổ chức các hoạt động tư vấn học đường.

Vấn đề giáo dục giới tính cho học sinh phổ thông dã bắt đầu được sự

quan tâm của các nhà khoa học giáo dục. Tuy nhiên, còn một số tồn tại như:

+ Vẫn còn có những băn khoăn e ngại của một số giáo viên, học sinh

và phụ huynh khi tiếp cận với những bài thuộc về lĩnh vực nhạy cảm (tình

dục, tình yêu, cấu trúc hệ cơ quan sinh dục, kinh nguyệt…), đặc biệt là việc

dạy những gì, dạy như thế nào.

+ Hiện nay, vẫn còn nhiều người, nhiều sách báo, tài liệu để cập đến

những vấn đề này một cách lệch lạc, phiến diện, theo chiều hướng đi sâu vào

những khía cạnh, kiến thức có tính hấp dẫn, kích thích trí tò mò của học sinh

nhiều hơn là giáo dục ý thức và thái độ đúng đắn ở các em. Vì vậy, nếu

Page 163: TÂM LÝ HỌC GIỚI TÍNH VÀ GIÁO DỤC GIỚI TÍNHsaomaidata.org/library/90...  · Web viewtÂm lÝ hỌc giỚi tÍnh vÀ giÁo dỤc giỚi tÍnh. tÂm lÝ hỌc giỚi tÍnh

không thận trọng, việc giáo dục những tri thức này lại có thể gây ra tác dụng

phản diện nhiều hơn.

+ Các nội dung khác tuy không khó khăn, phức tạp như những kiến

thức trên nhưng vẫn chưa được thực hiện đầy đủ và nghiêm túc trong một số

trường phổ thông. Thậm chí, một số trường, một số nhà quản lí giáo dục còn

bỏ qua hoặc không thực hiện đầy đủ các nội dung và thời lượng giảng dạy

các vấn đề giới tính theo quy định chung (nhất là những tri thức có tính nhạy

cảm) vì nhiều lí do như: dồn thời gian vào dạy những môn mà họ cho là trọng

tâm, quan trọng, nằm trong nội dung thi tốt nghiệp, coi nhẹ những nội dung tri

thức này, hoặc có quan niệm cho rằng những kiến thức này không cần thiết

không nên dạy trong trường phổ thông…

+ Chưa có sách giáo khoa chính thức về giáo dục giới tính, việc tích

hợp các kiến thức giới tính trong các môn có liên quan như Sinh học, Giáo

dục công dân… chưa được thực hiện một cách đầy đủ, toàn diện, chưa được

thể hiện rõ ràng trong các sách giáo khoa. Vì vậy giáo viên không có đủ tài

liệu giảng dạy cần thiết.

5. Vấn đề giáo dục giới tính cho thanh niên ngoài nhà trường và người lớn

Vấn đề giáo dục giới tính không những cần thiết phải tiến hành cho học

sinh, sinh viên trong nhà trường mà còn phải thực hiện cho những đối tượng

ở ngoài nhà trường như: thanh niên, cán bộ, công nhân, người đã trưởng

thành, các bậc phụ huynh… Trong thực tế, rất nhiều thanh niên, người lớn có

nhu cầu được tìm hiểu, được trang bị những tri thức về lĩnh vực này. Thậm

thí, nhiều bậc phụ huynh cũng rất muốn được tìm hiểu các tri thức này để

giáo dục con cái của mình.

Vì vậy việc xây dựng và xác định những nội dung giáo dục giới tính

trình hợp cho những loại đối tượng trên là rất cần thiết.

Có thể có nhiều hướng biên soạn và thực hiện những chương trình

giảng dạy cho các đối tượng khác ngoài nhà trường phổ thông như:

Page 164: TÂM LÝ HỌC GIỚI TÍNH VÀ GIÁO DỤC GIỚI TÍNHsaomaidata.org/library/90...  · Web viewtÂm lÝ hỌc giỚi tÍnh vÀ giÁo dỤc giỚi tÍnh. tÂm lÝ hỌc giỚi tÍnh

– Nội dung chương trình giáo dục giới tính cho thanh niên mới lớn và

thanh niên trưởng thành đã có gia đình.

– Nội dung chương trình giáo dục giới tính giảng dạy trong các câu lạc

bộ, nhà văn hoá, các cơ quan, xí nghiệp, các đơn vị của Hội Liên hiệp Phụ nữ

các tổ chức Công đoàn. Chương trình này được biên soạn và giảng dạy theo

2 hình thức:

+ Các chuyên đề đặc biệt thích hợp với các chủ đề giáo dục ở từng thời

kì, ở từng loại đối tượng.

+ Chương trình giáo dục giới tính theo một hệ thống phù hợp với từng

loại đối tượng.

IV. NGUYÊN TẮC CỦA GIÁO DỤC GIỚI TÍNHViệc giáo dục giới tính cho thanh niên học sinh là vấn đề quan trọng,

cần thiết, tuy nhiên cũng là một lĩnh vực phức tạp và tế nhị. Vì vậy ngoài việc

phải đảm bảo những nguyên tắc chung như: tính khoa học, tính giáo dục, tính

thực tiễn… như các môn học khác, cần phải chú ý thêm những vấn đề sau

đây:

– Giáo dục giới tính phải gắn liền với giáo dục đạo đức, giáo dục nhân

cách, hình thành thế giới quan khoa học. Giáo dục giới tính phải gắn liền với

việc giáo dục và tính thành nếp sống sinh hoạt lành mạnh, lối sống văn hoá

văn minh. Cần phải xác định rằng, đó là một trong những mục tiêu cơ bản của

giáo dục giới tính.

– Giáo dục giới tính phải được thực hiện một cách toàn diện cả về sinh

lí giới tính, tâm lí giới tính, thẩm mĩ giới tính, xã hội giới tính Không nên chỉ

tập trung vào những vấn đề sinh lí tính dục mà coi nhẹ các vấn đề tâm lí xã

hội giới tính.

Phải kết hợp việc giảng dạy tri thức khoa học với việc hình thành thái

độ đúng đắn. Khi giảng dạy những “vấn đề nhạy cảm”, không nên chi tập

trung mô tả các sự kiện, hiện tượng một cách “trần trụi”, “sống sượng”, mà

Page 165: TÂM LÝ HỌC GIỚI TÍNH VÀ GIÁO DỤC GIỚI TÍNHsaomaidata.org/library/90...  · Web viewtÂm lÝ hỌc giỚi tÍnh vÀ giÁo dỤc giỚi tÍnh. tÂm lÝ hỌc giỚi tÍnh

cần chú ý kết hợp với việc tính thành ý thức đạo đức phê phán những biểu

hiện sai trái.

Phải kết hợp việc truyền thụ những tri thức lí luận với những kiến thức

thực tiễn nhất là những vấn đề thực tiễn trong đời sống sinh hoạt của thanh

niên, học sinh.

Giáo dục giới tính phải được thực hiện một cách phù hợp với đặc

điểm tâm sinh lí của lứa tuổi, của lớp học, của yêu cầu giáo dục đặc trưng

thích hợp với đối tượng, phải phù hợp với phong tục tập quán của từng vùng,

từng địa phương.

V. Ý NGHĨA CỦA GIÁO DỤC GIỚI TÍNH.1. Giáo dục giới tính có ý nghĩa to lớn đến việc phát triển toàn diện nhân cách

Mục đích giáo dục của chúng ta hiện nay là đào tạo con người mới phát

triển toàn diện. Đó chính là con người có nhân cách phát triển về mọi mặt:

đạo đức, tài năng, trí tuệ, có khả năng góp phần xây dựng xã hội tốt đẹp, phát

triển. Nhưng chính những phẩm chất tốt đẹp của nhân cách, và sự đóng góp

hiệu quả của con người đối với xã hội lại phụ thuộc vào đời sống giới tính của

họ. Nhiều phẩm chất nhân cách quan hệ mật thiết với giới tính, hoặc cũng

chính là những đặc điểm của giới tính và ngược lại.

Chính việc thiếu hiểu biết kiến thức về giới tính, về đời sống tính dục,

về hôn nhân, gia đình, làm cho con người dễ mắc vào vòng tội lỗi, làm cuộc

sống gia đình của họ không hạnh phúc, và do đó hạn chế khả năng đóng góp

của họ vào việc xây dựng và phát triển xã hội.

Theo IU.I.Kusniruk và A.P.Serbakov “Chính việc thiếu kiến thức về

những vấn đề này (giới tính và đời sống gia đình) cũng giống như mọi tình

trạng dốt nát khác, lại là điều nguy hiểm và có phương hại đến tâm lí đạo đức

con người”. Nhiều nguyên nhân và hoàn cảnh trở thành tội lỗi của con người

chỉ vì họ không hiểu biết gì về tính dục, về đời sống giới tính và đời sống vợ

chồng. Có khi sự không hiểu biết ấy “làm tăng thêm các dạng rối loạn tính dục

Page 166: TÂM LÝ HỌC GIỚI TÍNH VÀ GIÁO DỤC GIỚI TÍNHsaomaidata.org/library/90...  · Web viewtÂm lÝ hỌc giỚi tÍnh vÀ giÁo dỤc giỚi tÍnh. tÂm lÝ hỌc giỚi tÍnh

khác nhau, là hệ quả tiếp theo dẫn đến sự phá hoại về tâm lí, gây bệnh hoạn

cho hệ thần kinh. Đồng thời không phải chỉ có sức khoẻ con người bị tổn

thương, mà tư cách con người trong gia đình và xã hội cũng bị tổn thương”.

A.V.Petrovxki cũng cho rằng: “Bầu không khí thiếu lành mạnh trong gia

đình tạo nên tính bê tha và thói vô liêm sỉ”. Nhiều vấn đề của giới tính ảnh

hưởng trực tiếp đến sự phát triển nhân cách. “Tình yêu thực sự là điều kiện

quan trọng nhất của sự nảy nở và phát triển nhân cách con người”. “Khi

không có những nguyên tắc đạo đức vững chắc về quan hệ nam nữ, thì trong

khối óc và con tim của thiếu niên sẽ xuất hiện những thái độ tiêu cực đối với

tình yêu, những hứng thú không lành mạnh, thái độ coi thường phụ nữ…”.

Giáo dục giới tính góp phần quan trọng làm nhân cách phát triển toàn

diện, làm con người có điều kiện xây dựng xã hội tốt đẹp, lành mạnh. Vì thế,

giáo dục giới tính có ý nghĩa to lớn đến việc thực hiện mục đích giáo dục.

2. Giáo dục giới tính đáp ứng những quy luật phát triển về tâm lí, sinh lí cơ thể của thanh thiếu niên

Giáo dục giới tính đáp ứng những quy luật phát triển về tâm lí, sinh lí

cơ thể, đặc biệt là sự phát triển về đời sống tính dục và sự trưởng thành nhân

cách của thanh thiếu niên trong xã hội.

Một số người cho rằng giáo dục giới tính cho học sinh làm cho các em

bị “kích thích dục vọng”, “làm hoen ố tâm hồn trong trắng”, hoặc “vẽ đường

cho hươu chạy”.

Đó là những quan niệm rất sai lầm.

Trong quy luật phát triển cơ thể con người, từ khoảng 12, 13 tuổi trở đi

sự dậy thì sẽ làm các em quan tâm đến các vấn đề giới tính và tính dục, nhất

là khi các em bước vào giai đoạn chín muồi giới tính (từ độ tuổi 14, 15 tuổi đối

với nữ và 16, 17 tuổi ở nam). Thực ra “trẻ em đã sớm quan tâm đến các vấn

đề giới tính, trước khi tính dục chín muồi. Lúc đầu sự quan tâm này không

gắn với các thể nghiệm tính dục, mà biểu hiện tính tò mò thường tình… Đến

Page 167: TÂM LÝ HỌC GIỚI TÍNH VÀ GIÁO DỤC GIỚI TÍNHsaomaidata.org/library/90...  · Web viewtÂm lÝ hỌc giỚi tÍnh vÀ giÁo dỤc giỚi tÍnh. tÂm lÝ hỌc giỚi tÍnh

tuổi quá độ (tuổi dậy thì) thì tình hình phức tạp hơn, mối quan tâm của thiếu

niên đến các vấn đề giới tính trở nên căng thẳng và riêng tư”.

Do đặc điểm phát triển sinh lí cơ thể, tự các em sẽ tìm đến những vấn

đề về giới tính. A.V.Petrovxki khẳng định rằng, “sự phát dục kích thích phát

triển sự quan tâm đến giới khác, làm xét hiện những cảm giác, tình cảm và

rung cảm mới”. Các nhà sinh lí học, y học, tâm lí học đều thừa nhận rằng

“hoạt động sinh lý tính dục là một hoạt động bình thường của một cơ thể khoẻ

mạnh. Nó phát triển theo quy luật tự nhiên”, đó là một nhu cầu cơ bản của

con người.

Mặt khác, chính bản thân những tác động của đời sống xã hội cũng ảnh

hưởng đến việc quan tâm đến các vấn đề tính dục, tình yêu hôn nhân của các

em. Trong cuộc sống xã hội, con người luôn phải giao tiếp xã hội, luôn tiếp

xúc với mọi người và tiếp xúc với các vấn đề xã hội. Chính sự tiếp xúc này

tạo nên những nhận thức nhất định, đầu tiên của con người về các vấn đề

của đời sống giới tính: giao tiếp với bạn khác giới, nhận thức về tình yêu và

những cử chỉ yêu đương…

Đến một độ tuổi nhất định, không phải do bản thân trẻ em, mà chính là

mọi người trong xã hội: bạn bè, người lớn, đặc biệt là những người thân trong

gia đình, cũng luôn nhắc nhở, gợi ý, thậm chí yêu cầu các em hướng đến

những vấn đề trong quan hệ giới tính như: xây dựng tình yêu, kết hôn…

Những hiểu biết, những ảnh hưởng mạnh mẽ của các sinh hoạt yêu

đương, của đời sống giới tính trong xã hội, lại kết hợp với những rung cảm

giới tính, những biến đổi giới tính trong cơ thể, trong tình cảm, dần dần hình

thành ở trẻ em một dạng kiến thức mới dù chưa được học tập trong nhà

trường hoặc gia đình. Đồng thời cũng dần dần hình thành ở các em một nhu

cầu mới: những quan hệ về giới tính, rung cảm giới tính… “Không phải bản

thân việc yêu đương chăm sóc, thư từ, gặp gỡ, cái hôn đầu tiên là quan

trọng, mà quan trọng vì đó là sự đáp ứng nhu cầu nội tại của bản thân học

sinh lớn, vì đó là những tượng trưng xã hội nhất định, những dấu hiệu trở

thành người lớn”.

Page 168: TÂM LÝ HỌC GIỚI TÍNH VÀ GIÁO DỤC GIỚI TÍNHsaomaidata.org/library/90...  · Web viewtÂm lÝ hỌc giỚi tÍnh vÀ giÁo dỤc giỚi tÍnh. tÂm lÝ hỌc giỚi tÍnh

Như vậy sự quan tâm đến các vấn đề giới tính, thậm chí việc nảy sinh

những hành vi giới tính, yêu đương là tất yếu, có tính quy luật. Nó nảy sinh do

chính đời sống sinh lí cơ thể và đời sống xã hội của các em.

Nếu không được hướng dẫn về những vấn đề này, các em sẽ gặp phải

những khó khăn, và chính xã hội và người lớn cũng thật ảnh hưởng bởi

những khó khăn đó. A.V. Petrovxki đã nêu rõ: “Các em thiếu niên không hiểu

biết gì về các lần đề giới tính thường tỏ ra sợ hãi trước những biến đổi sinh lí

diễn ra trong cơ thể mình và lấy làm xấu hổ về những biến đổi đó. Không

được các bậc cha mẹ ra các nhà sư phạm giải đáp đến nơi đến chốn những

vấn đề các em muốn biết, các em thường tìm đến các nguồn tình cờ, đôi khi

nhảm nhí và nhận được một khái niệm sai lệch về những vấn đề các em quan

tâm”. Ông cũng cho rằng, “Việc các em thiếu niên, thiếu hiểu biết về các vấn

đề giới tính thường dẫn đến những bi kịch đau lòng trong đời sống”. Ngược

lại, sự hiểu biết các kiến thức về giới tính sẽ giúp cho các em tự tin và vững

vàng hơn khi bước vào đời đặc biệt là khi gặp những tình huống “gay cấn”,

điều rất dễ xảy ra khi các em tiếp cận với cuộc sống xã hội.

Theo các tác giả, chính do những đặc điểm về sự phát triển sinh lí và

tâm lí, ở các em cũng nảy sinh những nhu cầu nhất định về đời sống giới tính

như: nhu cầu tìm hiểu về tính dục, tình dục, tình yêu, đời sống gia đình… Nhu

cầu này xuất hiện ngay từ khi còn nhỏ, càng lớn lên nó càng trở nên mạnh

mẽ, thúc đẩy các em tìm hiểu những vấn đề đó. Con người bình thường nào

cũng có những nhu cầu nhất định về đời sống giới tính, khi tới một độ tuổi

nào đó. Tuy nhiên, khác với con vật, ở con người những nhu cầu này thể hiện

ra qua các thái độ, hành vi vừa mang tính sinh học, vừa mang tính tâm lí xã

hội to lớn.

Ngay từ lúc còn rất nhỏ, trẻ đã bắt đầu quan tâm đến các vấn đề giới

tính, đó là kết quả của quá trình tự nhiên nhằm nhận thức thế giới xung

quanh. Sự quan tâm ấy thể hiện trong vô số các câu hỏi mà trẻ dặt ra cho bố

mẹ và thường làm cho bố mẹ phải bối rối khó xử đại loại như: “Con sinh ra

như thế nào?”, “Tại sao con lại ở trong bụng mẹ?”… Khi trẻ chưa đến tuổi đi

Page 169: TÂM LÝ HỌC GIỚI TÍNH VÀ GIÁO DỤC GIỚI TÍNHsaomaidata.org/library/90...  · Web viewtÂm lÝ hỌc giỚi tÍnh vÀ giÁo dỤc giỚi tÍnh. tÂm lÝ hỌc giỚi tÍnh

học, chúng đã muốn biết bí mật của sự ra đời các em bé. Đến tuổi dậy thì,

các em gái chú ý nhiều đến bề ngoài của mình, tăng cường quan tâm đến

những “bí mật tình yêu”, “còn các chàng trai bắt đầu để ý đến các cô gái…

Trong giai đoạn dậy thì, “thời kì mà người đàn ông hoặc đàn bà thức

dậy trong con người” việc quan tâm đến những vấn đề giới tính ấy lại càng

trở nên bức xúc và không thể tránh khỏi. Sự quan tâm đó ngày càng cao.

“Giai đoạn phát triển phức tạp tế nhị này nếu thiếu sự hướng dẫn, giúp đỡ

của những người có trách nhiệm và kinh nghiệm thì thật là một sai lầm đáng

tiếc”. Engebeta Ixakovic đã viết: “Bí mật của quan hệ sinh lí liên quan đến

những cảm xúc mạnh nhất của con người. Bản thân cảm xúc thầm kín ấy

không tốt cũng không xấu. Đơn giản là nó tồn tại. Con người lại hay mắc sai

lầm trong chuyện này. Đôi khi phải trả giá sai lầm ấy bằng cả cuộc đời”.

Chính sự dậy thì cùng với sự giao tiếp, gặp gỡ trong đời sống xã hội,

sự phát triển về tình cảm và trong đời sống tâm lí đã hình thành nên ở các em

những nhu cầu về các vấn đề giới tính. Những nhu cầu ấy ngày càng tăng và

ngày càng cấp thiết đối với con người. Giáo dục giới tính đáp ứng được

những nhu cầu này của các em, giúp cho các em có định hướng đúng đắn và

phù hợp đối với đời sống giới tính và đời sống xã hội.

Việc trang bị cho các em những tri thức này một cách phù hợp, khoa

học sẽ giúp các em phát triển nhân cách, thích ứng hơn với đời sống, chuẩn

bị cho các em vào đời một cách vững chắc và tự tin. Các em sẽ có bản lĩnh

vững vàng chống lại mọi cám dỗ, sa ngã và những trở ngại khác của cuộc

đời, mà nhiều khi những cám dỗ, sa ngã đó lại do chính sự phát dục ở bản

thân các em và do những phức tạp của xã hội gây nên.

V. G. Belinxki nhận xét rằng: “Sự trong sạch về đạo đức hoàn toàn

không phải là ở chỗ chẳng biết gì mà là ở chỗ giữ gìn được đức hạnh khi có

sự am hiểu đầy đủ”. Chính việc trang bị cho các em những tri thức về đời

sống giới tính sẽ góp phần giúp các em giải quyết tốt đẹp những vấn đề khúc

mắc trong cuộc sống, mà đối với các em “nhiều khi là bí ẩn, khó có thể tránh

khỏi”.

Page 170: TÂM LÝ HỌC GIỚI TÍNH VÀ GIÁO DỤC GIỚI TÍNHsaomaidata.org/library/90...  · Web viewtÂm lÝ hỌc giỚi tÍnh vÀ giÁo dỤc giỚi tÍnh. tÂm lÝ hỌc giỚi tÍnh

Trong khi ấy việc che giấu, né tránh của người lớn đối với những vấn

đề giới tính trước các em, nhiều khi chỉ gây nên tính tò mò, sự kích trình tìm

hiểu, và có thể gây nên những hậu quả bất lợi. Đặc biệt là các em lại dễ bị

ảnh hưởng bởi những tác động tiêu cực xã hội, của người lớn, nhất là những

người thiếu suy nghĩ và thiếu tri thức văn hoá về những vấn đề của đời sống

giới tính.

Hơn nữa, đời sống giới tính, yêu đương, quan hệ vợ chồng, gia đình

cũng là vấn đề tất yếu của con người. “Cuộc sống và tình yêu – đó là hai mặt

thống nhất trong một con người bình thường”, “tình yêu đòi hỏi phải xây dựng

gia đình, và chỉ có trong gia đình thì đôi lứa mới có cuộc sống hạnh phúc”.

Đời sống yêu đương và cuộc sống vợ chồng lại là những vấn đề rất phức tạp,

không phải ai cũng biết. Sự thiếu kiến thức gia đình và đời sống vợ chồng đã

làm cho rất nhiều gia đình đau khổ, tan vỡ, và nhiều hậu quả tai hại không thể

lường trước Việc giáo dục giới tính cho các em sẽ giúp các em biết cách xử

thế, biết cách giải quyết tốt đẹp khi “đối mặt” với những “vấn đề muôn thuở”

và tất yếu ấy của con người. Nó sẽ giúp các em có cuộc sống gia đình hạnh

phúc, nó sẽ góp phần nâng cao chất lượng cuộc sống cho bản thân các em

và cho toàn xã hội.

3. Giáo dục giới tính có ý nghĩa lớn đối với giáo dục dân số và sự phát triển xã hội

Ngày nay tình trạng gia tăng dân số quá mức đang là mối quan tâm ẹ

ngại của nhiều nước. Nạn bùng nổ dân số này nhiều khi lại là do sự thiếu hiểu

biết nhiều vấn đề của giới tính (sự sinh sản, việc kết hôn sớm…) hoặc do

những quan niệm sai lầm về đời sống giới tính, đời sống gia đình (đẻ nhiều

con vì muốn có cả con trai con gái vì cho rằng đẻ càng nhiều càng tốt, lây vớ

sớm để có cháu cho bà bế

Việc trang bị những tri thức về giới tính sẽ giúp cho con người làm chủ

được “vấn đề sinh đẻ” biết cách hạn chế sinh đẻ, nhất là những nhận thức và

quan niệm chung về vấn đề dân số. Nhờ đó họ sẽ tự giác tham gia vào công

cuộc “chiến đấu, chống lại nạn bùng nổ dân số, họ sẽ tự giác góp phần vào

Page 171: TÂM LÝ HỌC GIỚI TÍNH VÀ GIÁO DỤC GIỚI TÍNHsaomaidata.org/library/90...  · Web viewtÂm lÝ hỌc giỚi tÍnh vÀ giÁo dỤc giỚi tÍnh. tÂm lÝ hỌc giỚi tÍnh

việc giảm bớt “sự phát triển đáng sợ” của dân số. Nhờ giáo dục giới tính,

công tác giáo dục dân số mới có thể đạt hiệu quả cao. Vì thế, giáo dục giới

tính gắn liền với giáo dục dân số, trở thành một bộ phận hữu cơ của giáo dục

dân số.

Giáo dục giới tính còn góp phần nâng cao chất lượng đời sống gia

đình, làm cho các gia đình hạnh phúc hơn, êm ấm hơn. Do đó, giáo dục giới

tính làm nâng cao đời sống văn hoá xã hội. Nó còn có tác động đến nhiều mặt

khác: đời sống kinh tế, trật tự an ninh, đạo đức xã hội, thuần phong mĩ tục…

Những lĩnh vực xã hội đó chịu ảnh hưởng nhiều của cuộc sống con người về

mặt giới tính. Chỉ khi có đời sống hạnh phúc, mỗi người và mỗi gia đình mới

có thể đóng góp tốt nhất cho xã hội.

Có thể nói, giáo dục giới tính góp phần quan trọng đối với việc xây

dựng một xã hội lành mạnh tốt đẹp.

4. Giáo dục giới tính có ý nghĩa to lớn đến sự phát triển tâm sinh lí trong tình hình hiện nay

Ngày nay, do nhiều nguyên nhân tâm lí và xã hội phức tạp, như sự đô

thị hoá, gia tốc sự phát triển của trẻ em, cuộc cách mạng khoa học kĩ thuật,

phức tạp hoá của quá trình giáo dục, tự do nhiều hơn so với trước đây của

thanh thiếu niên đối với cha mẹ, quyền bình đẳng của phụ nữ, và sự xuất hiện

của những phương tiện tránh thai hiệu quả… càng ngày càng có nhiều biểu

hiện phức tạp trong xã hội về giới tính:

– Theo các nhà khoa học, trong 50 năm vừa qua, cứ 10 năm, tuổi dậy

thì của các em gái lại sớm hơn 4 tháng. Hiện tượng này diễn ra ở hầu hết các

nước, trong đó có nước ta, theo số liệu Hằng số sinh lí Việt Nam: tuổi dậy thì

của các em gái năm 1967, ở thành phố là 15,8 +/- 1,4, ở nông thôn là 16,22

+/- 1,7; năm 1972 ở thành phố là 14,3 +/- 1,2, ở nông thôn là 15 +/- 3,4, và

theo số liệu của Phòng sinh lí lứa tuổi (Viện Tâm sinh học lứa tuổi tuổi dậy thì

của các em gái năm 1980 ở thành phố là 13,10 +/- 1,2, ở nông thôn là 14,5

+/- 1,3. Hiện nay, tuổi dậy thì của các em lại sớm hơn. Sự dậy thì sớm đã tạo

ra một khoảng cách khá lớn giữa sự chín muồi sinh dục và sự trưởng thành

Page 172: TÂM LÝ HỌC GIỚI TÍNH VÀ GIÁO DỤC GIỚI TÍNHsaomaidata.org/library/90...  · Web viewtÂm lÝ hỌc giỚi tÍnh vÀ giÁo dỤc giỚi tÍnh. tÂm lÝ hỌc giỚi tÍnh

về xã hội, từ lúc dậy thì (13, 14 tuổi) đến độ tuổi có khả năng độc lập về kinh

tế để có thể kết hôn (22, 23 tuổi) là từ 8 đến 10 năm. Khoảng thời gian dài ấy

đã gây ra rất nhiều khó khăn cho các em trong quan hệ với người khác giới

và cũng đặt ra cho xã hội, cho các nhà giáo dục nhiều vấn đề phải quan tâm

giải quyết.

– Sự dậy thì sớm có thể dẫn tới quan hệ tình dục sớm, quan hệ yêu

đương sớm. Các công trình nghiên cứu hiện nay cho thấy, lứa tuổi các em có

quan hệ tình dục là khá sớm: nhiều em 16, 15, thậm chỉ 14, 13 tuổi đã có

quan hệ tình dục.

Đặc biệt, trẻ em có “quan hệ tình dục” lần đầu tiên ở lứa tuổi càng ngày

càng sớm hơn, với tỉ lệ cao hơn.

– Quan hệ tình dục sớm dẫn đến tình trạng có thai ngoài ý muốn, và

những hậu quả tai hại của nó là không tránh khỏi. Những hiện tượng nạo phá

thai, có thai tuổi vị thành niên; việc sinh con của các bà mẹ quá trẻ 13, 14,

15… tuổi, việc kết hôn sớm… xảy ta rất nhiều kéo theo rất nhiều tác hại lớn

khác cho bản thân các em và cho gia đình, cho xã hội như: tình trạng bệnh

tật, đẻ con dị dạng, sức khoẻ của người mẹ và đứa con yếu kém nghiêm

trọng, nhất là tốc độ lây lan các bệnh đường tình dục như bệnh lậu, bệnh

giang mai, nhiễm HIV… và gây nên những tác hại lớn về kinh tế xã hộp tâm

lí…

– Tình trạng tình yêu tan vỡ, nhiều gia đình thiếu hạnh phúc, đi đến li

hôn và nhiều hậu quả tai hại khác: con cái hư hỏng, trật tự an ninh xã hội bị

rối loạn bởi sự gây gổ, đánh lộn thậm chí có thể chém giết lẫn nhau, đạo đức,

phong tục lành mạnh bị huỷ hoại…

– Trong khi đó, ở Việt Nam ta còn có tình trạng yếu kém nhận thức về

văn hoá xã hội, về đời sống giới tính. Những kiểu ăn chơi đàng điếm, nếp

sống sinh hoạt thiếu lành mạnh, những biến tướng không tốt của các loại hình

sinh hoạt văn hoá như: karaoke, vũ trường, nhậu nhẹt… là tình trạng khá phổ

biến, gây nên nhiều hậu quả không tốt trong đời sống của thanh thiếu niên và

xã hội.

Page 173: TÂM LÝ HỌC GIỚI TÍNH VÀ GIÁO DỤC GIỚI TÍNHsaomaidata.org/library/90...  · Web viewtÂm lÝ hỌc giỚi tÍnh vÀ giÁo dỤc giỚi tÍnh. tÂm lÝ hỌc giỚi tÍnh

Trước tình hình đó, giáo dục giới tính trở thành vô cùng quan trọng và

cần thiết. Nó trở thành một vấn đề cấp bách mà xã hội và các nhà giáo dục

cần phải giải quyết. Đó là nhu cầu của các em và cũng chính là nhu cầu của

xã hội hiện đại.

5. Giáo dục giới tính có ý nghĩa đặc biệt trong tình hình phức tạp và gia tăng của các tệ nạn xã hội hiện nay

Ngày nay, các tệ nạn xã hội đang có chiều hướng phát triển rất phức

tạp. Các tệ nạn mại dâm, ma tuý, sự biến tướng trong hoạt động của các vũ

trường, việc sử dụng thuốc lắc, nếp sống ăn chơi, trác táng, đồi trụy… của

một bộ phận thanh thiếu niên và cả ở người lớn đang là nỗi lo chung cho

nhiều người, cho xã hội. Các tệ nạn đó gây ảnh hưởng xấu về nhiều mặt cho

con người, đặc biệt cho thanh thiếu niên, làm cho các em dễ bị suy thoái về

đạo đức, bệnh hoạn trong lối sống, suy sụp vẻ sức khoẻ, sa sút về học tập…

có em bị nhiễm HIV, nghiện xì ke ma tuý, có em bị dụ dỗ vào con đường ăn

chơi trụy lạc, mại dâm…

Việc giáo dục giới tính sẽ trang bị cho các em những kiến thức, tạo ra

cho các em một bản lĩnh để chống lại các tệ nạn trên. Những hiểu biết cần

thiết về đời sống giới tính sẽ giúp cho các em tĩnh táo hơn, mạnh mẽ hơn, tự

mình biết cách tránh xa những tệ nạn xã hội. Mặt khác, những kiến thức đó

sẽ giúp các em tự tin hơn khi bước vào đời

Phần 2: NHỮNG VẤN ĐỀ THỰC TIỄN TRONG GIÁO DỤC GIỚI TÍNH

Vấn đề 1TÌNH TRẠNG TRẺ EM HƯ VÀ VẤN ĐỀ GIÁO DỤC GIỚI TÍNH

Kỉ yếu Hội nghị Khoa học Đề án VIE/ 88/ P09 TPHCM

Vấn đề trẻ em hư không phải là một vấn đề mới lạ, riêng biệt ở một

nước nào đó, mà là một vấn đề đã được nhiều nước quan tâm nghiên cứu và

giải quyết. Có thể nói, hiện tượng trẻ em hư và trẻ em phạm pháp là một hiện

tượng khá phổ biến ở các nước trên thế giới.

Page 174: TÂM LÝ HỌC GIỚI TÍNH VÀ GIÁO DỤC GIỚI TÍNHsaomaidata.org/library/90...  · Web viewtÂm lÝ hỌc giỚi tÍnh vÀ giÁo dỤc giỚi tÍnh. tÂm lÝ hỌc giỚi tÍnh

Ở nước ta, trong những năm gần đây, tình trạng trẻ em hư đã làm cho

nhiều nhà nghiên cứu xã hội, nhiều thầy cô giáo và những người có trách

nhiệm phải lo ngại.

Trong công trình nghiên cứu về trẻ em hư và trẻ em phạm pháp do

Viện Khoa học Giáo dục (các tỉnh phá Nam) và Uỷ ban Khoa học kĩ thuật

Thành phố Hồ Chí Minh hợp tác nghiên cứu, chúng ta thấy chỉ riêng ở Thành

phố Hồ Chí Minh từ 1977 đến 1978, con số trẻ em phạm pháp khá lớn. Năm

1977 là 1.511 em, năm 1987 là 2.326 em, năm 1979 là 3.442 em, năm 1980

là 2.807 em, năm 1981 là 2.265 em. Tính trung bình hàng năm có 2.550 em

phạm pháp bị phát hiện, bị bắt giữ và xử lí. Trong số các em phạm pháp, số

học sinh phổ thông chiếm 9.54% (1.217 em), riêng 6 tháng đầu năm 1982,

Thành phố có 2.673 trẻ em phạm pháp trong đó số học sinh phổ thông lên tới

301 em, chiếm 11,2%.

Tình hình trẻ em phạm pháp trong mấy năm trở lại đây, còn có chiều

hướng gia tăng. Chỉ tính những em mà Công an Thành phố thống kê được,

trong 6 tháng đầu năm 1987: có 8127 em hư và 2.978 em phạm pháp. Trong

đó có 270 em trai và 285 em gái dưới 14 tuổi, học sinh cấp I có 1583 em, học

sinh cấp II có 854 em, học sinh cấp III có 64 em. Trong số những học sinh

phạm pháp có 960 em còn đang đi học.

Tính riêng những trường hợp phạm pháp nghiêm trọng, chỉ trong 2 năm

1986 và 1987, số lượng các em phạm tội tăng 12%: Năm 1986 có 992 em

phạm pháp, chiếm tới 14,5% số tội phạm. Năm 1987 có 1.183 em phạm pháp

chiếm 62,5% số tội phạm. Điển hình là một số tội phạm:

Giết người:

+ Năm 1986 có 55 vụ, bắt 61 tên trong đó có 7 em (tỉ lệ 11,5%).

+ Năm 1987 có tới 63 vụ, bắt 84 tên trong đó có 12 em (tỉ lệ 14,3%).

Đánh người thành thương tật, năm 1986 có 58 em phạm tội và năm

1987 là 164 em.

– Trộm cắp tài sản riêng của công dân:

Page 175: TÂM LÝ HỌC GIỚI TÍNH VÀ GIÁO DỤC GIỚI TÍNHsaomaidata.org/library/90...  · Web viewtÂm lÝ hỌc giỚi tÍnh vÀ giÁo dỤc giỚi tÍnh. tÂm lÝ hỌc giỚi tÍnh

+ Năm 1986 có 616 em

+ Năm 1987 có tới 747 em.

Nếu chỉ trong những vụ án được toà án xét xử, năm 1988 có 61 em

dưới 18 tuổi phạm tội đánh người, giết người (trong tổng số 573 tội phạm,

chiến tỷ lệ 10,7%/ có 277 em phạm tội xâm phạm tài sản riêng của công dân,

12 em phạm tội hiếp dâm, 287 em phạm tội gây rối trị an…). Chúng ta cần

chú ý, đối vôi trẻ em chỉ khi phạm tội nghiêm trọng mới phải đưa ra toà xét xử.

Trên đây chỉ là trẻ em phạm pháp, tức là những trẻ em hư nghiêm

trọng. Còn các loại trẻ em hư khác đã được công an hoặc những cơ quan

khác có trách nhiệm theo dõi (những em này là thiếu niên hư hỏng nhưng chỉ

có hành vi tội phạm nghiêm trọng) thì số lượng lớn hơn rất nhiều. Theo cách

tính của nhóm cán bộ khoa học nghiên cứu trong dự án ngăn chặn trẻ em hư,

trung bình hàng năm Thành phố Hồ Chí Minh có khoảng 12.500 em thuộc

diện hư hỏng có hồ sơ theo dõi. Đây chỉ là con số tối thiểu, tổng hợp ở 148

phường của các quận nội thành và ven đô gồm: 1, 3, 4, 5, 6, 8, 10, 11, và 4

quận ven đô là Phú Nhuận, Tân Bình, Gò Vấp và Bình Thạnh.

Các nhà nghiên cứu cho biết, con số thực tế là có thể lớn hơn nhiều.

Riêng thống kê của ngành Công an cho thấy, trong 6 tháng đầu năm 1987 có

8.127 trẻ em hư. Ngoài ra, còn nhiều loại trẻ em hư khác không thể thống kê

được như: các em gây rối trật tự trị an ở địa phương, các em ăn cắp vặt, bỏ

nhà đi tụ tập chơi bời lêu lổng, thành lập băng đảng đánh nhau, nhậu nhẹt,

đánh bạc, tham gia những tệ nạn xã hội, hoặc các em hư hỗn với người lớn,

ngang tàng, thiếu tế nhị ý tứ vô tổ chức, vô kỉ luật, lười học…

Xét về những biểu hiện hư hỏng, phạm pháp, các nhà nghiên cứu và

ngành Công an, Tư pháp đều có nhận xét rằng, ngày nay trẻ em của chúng ta

đã phạm phải hầu hết những tội mà người lớn có thể phạm phải như: cướp

của, giết người, đâm, chém, đánh người thành thương tật, ăn cắp, cướp giật,

bắt cóc trẻ em… đặc biệt có tội mãi dâm và hiếp dâm. Một nhận xét khác:

trong tất cả các tội mà các em phạm phải, tội nào cũng có học sinh phổ thông

tham gia. Có trường hợp các em bỏ học rồi mới tham gia hành vi tội phạm,

Page 176: TÂM LÝ HỌC GIỚI TÍNH VÀ GIÁO DỤC GIỚI TÍNHsaomaidata.org/library/90...  · Web viewtÂm lÝ hỌc giỚi tÍnh vÀ giÁo dỤc giỚi tÍnh. tÂm lÝ hỌc giỚi tÍnh

hoặc khi tham gia rồi các em bỏ học luôn. Cũng có những trường hợp các em

phạm tội khi vẫn còn đang đi học.

Có một loại hiện tượng nữa cũng rất đáng ngại ở trẻ em đó chính là

tình trạng các em tự tử. Hiện nay các nhà nghiên cứu chưa hoàn toàn thống

nhất kết luận, có nên gọi đó là hiện tượng trẻ em hư hay không. Vì rất nhiều

nguyên nhân phức tạp gây ra hiện tượng này. Ở đây chúng tôi chỉ nêu về mặt

số lượng để cùng tham khảo. Theo một công rình nghiền cứu đã thống kê

được, số lượng người tự tử trong những năm gần đây như sau:

1983: 4.295 người;

1984: 4.291 người;

1985: 3.761 người;

1986: 3.070 người;

1987: 3.205 người.

Trong số đó, số lượng trẻ em tự tử rất cao, số trẻ em tự tử dưới 15 tuổi

chiếm 44,9% (nữ 22%, tổng số người tự tử. Số các em từ 16 đến 25 tuổi

chiếm 22,47%, trong đó nữ chiếm 1215% tổng số người tự tử. Như thế, số trẻ

em tự tử chiếm tới hơn một nữ số ngời tụ tử; trong đói có những em đang học

trong các trường phổ thông).

Có thể kết luận chung rằng, những biểu hiện hư hỏng của trẻ em có thể

có rất nhiều, rất đa dạng. Các em có thể phạm hầu hết những thứ tội lỗi của

người lớn có thể phạm phải. Ở đây, chúng tôi xin nhấn mạnh đến một số

hành động tội phạm và một số hiện tượng xấu có liên quan đến đời sống giới

tính của các em.

– Trong những công trình nghiên cứu, hoặc báo cáo của các nhà khoa

học xã hội, hay ngành Công an, chúng ta đấu thấy có đề cập đến hiện tượng

trẻ em phạm tội mãi dâm và hiếp dâm. Có năm, toà án đã xử 10 trẻ em dưới

18 tuổi đã phạm tội hiếp dâm, trong đó có 5 vụ mà thủ phạm là những em

dưới 16 tuổi; thậm chí có em 15 tuổi đã hiếp dâm 11 lần (theo chính em khai).

Page 177: TÂM LÝ HỌC GIỚI TÍNH VÀ GIÁO DỤC GIỚI TÍNHsaomaidata.org/library/90...  · Web viewtÂm lÝ hỌc giỚi tÍnh vÀ giÁo dỤc giỚi tÍnh. tÂm lÝ hỌc giỚi tÍnh

Theo báo cáo của một cơ quan Công an tỉnh, có 4,7% tội phạm trẻ em dưới

17 tuổi phạm tội hiếp dâm, 18,2% phạm tội mãi dâm. Trong một đêm Noel có

3 vụ loạn dâm có nhiều em dưới 18 tuổi tham gia, trong đó có một vụ do một

em dưới 16 tuổi cầm đầu.

– Trong số những trẻ em tự tử có nhiều trường hợp các em tự tự vì tình

yêu tan vỡ. Có em gái 14 tuổi, đã có thai 5 tháng uống thuốc độc tự tử. Đặc

biệt có những em học sinh lớp 10, 11 đang đi học cũng tự tư do bị người yêu

phản bội. Có em nữ sinh lớp 10 tự tử chỉ vì cha mẹ la mắng, xấu hổ với bạn

bè.

Trong những vụ án giết người năm 1989 có 2 vụ các em giết nhau vì

ghen tương. Thậm chí, có trường hợp, một em cưỡng hiếp chị dâu không

được đã dùng dao giết chết chị dâu mình.

– Tình hình nạo phá thai và yêu đương ở các em tuổi vị thành niên

đang là một vấn đề đáng ngại. Theo số liệu của Trung tâm Dân số và Kế

hoạch hoá gia đình Thành phố Hồ Chí Minh, năm 1986 có 6.191 ca nạo phá

thai cho các em dưới 20 tuổi, năm 1987 có 9.874 ca, năm 1988 có 11.801 ca.

Trong số đó có những em 16, 15, 14 tuổi, thậm chí có em dưới 14 tuổi. Trong

số những em nạo thai, có những em đang là học sinh trung học phổ thông,

hoặc trung học cơ sở. Tại Trường Trung học cơ sở Lý Nhân tỉnh Hà Nam,

trong một năm có tới 4 em học sinh có thai phải nghỉ học. Tại một trường

trung học phổ thông khác cũng có 4 em có thai (1 em tự tử còn 3 em bỏ học).

Trong báo cáo của phòng giáo dục của một huyện có nêu: trong hai năm học

(1988 – 1989) và (1989 – 1990) có 8 trường hợp học sinh lớp 8, 9 nghỉ học đi

lấy chồng và một trường hợp hai em học sinh lớp 9 lấy nhau, một trường hợp

nữ sinh lớp 9 lấy thông học lớp 12, một trường hợp nữ sinh lớp 10 lấy chồng

là giáo viên dạy mình ở trường trưng học cơ sở trước đây, một nữ sinh tự tử

do người yêu đi lấy vợ… trong năm 1989 ở huyện có 10 ca nạo thai cho các

em dưới 18 tuổi, trong đó có 2 nữ sinh. Những hiện tượngg phức tạp trên

không phải là hiếm.

Page 178: TÂM LÝ HỌC GIỚI TÍNH VÀ GIÁO DỤC GIỚI TÍNHsaomaidata.org/library/90...  · Web viewtÂm lÝ hỌc giỚi tÍnh vÀ giÁo dỤc giỚi tÍnh. tÂm lÝ hỌc giỚi tÍnh

Nhiều giáo viên đều có chung nhận xét rằng, tình trạng học sinh yêu

nhau ở trường trung học phổ thông (thậm chí có ở học sinh trung học cơ sở)

là tình trạng khá phổ biến. Trong một công trình nghiên cứu ở hai lớp 11 và

bốn lớp 12 ờ trường trung học phổ thông, có 9% học sinh nam và 8% học

sinh nữ ở lớp 11, 15% học sinh nam và 13% học sinh nữ ở lớp 12 đã có

người yêu. Nhưng trong một công tính khác nghiên cứu ở cả ba khối 10, 11

và 12, tỉ lệ học sinh có biểu hiện yêu đương còn cao hơn thế. Báo cáo của cơ

quan của Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam cũng có nhận định: ở các em gái có

hiện tượng yêu đương sớm, ngay cả khi các em còn đang học trường phổ

thông. Hiện tượng khá phổ biến, nhất là đối tượng học sinh trung học phổ

thông. Khi tiến hành điều tra ở một trường trung học phổ thông, có tới 43/97

em có quan điểm “nên yêu sớm” chiếm tỉ lệ 49,4%. Hiện tượng yêu đương

sớm trong học sinh cũng đã dẫn tới những hậu quả khá nghiêm trọng: ghen

tuông, đánh nhau, bỏ học đi lấy chồng, nạo phá thai, tự tử vì tình…

Qua nhiều công trình nghiên cứu và thực nghiệm, chúng tôi cũng thấy

rằng, ở trẻ em, và ngay ở học sinh trung học phổ thông đã có những biểu

hiện yêu đương sớm và cũng đã gặp phải những hậu quả tai hại do yêu

đương sớm gây ra. Hơn nữa, những hành vi yêu đương sớm và những nếp

sinh hoạt không lành mạnh đó không phải chỉ đơn giản do các em bị lường

gạt, dụ dỗ, không phải chỉ là những hành vi thụ động, mà còn là những hành

động xuất phát từ một nhận thức, một quan điểm sai lầm hoặc bệnh hoạn về

lối sống, lẽ sống, quan niệm sống.

Một biểu hiện hư hỏng rất cần phải chú ý nữa đó là tình hình đọc sách

báo và văn hoá phẩm có nội dung bạo lực, yêu đương lãng mạn, đồi trụy…

của trẻ em. Trong bài viết một đối tượng của văn học cần được báo động: trẻ

em” đăng trong Tạp chí Văn nghệ số 36, năm 1989, tác giả đã viết: “Trong

nhà trường thì đạo đức học sinh đang làm toàn xã hội phải e ngại. Kiểm tra

đột xuất một trường phổ thông cơ sở ở Thành phố Hồ Chí Minh thấy trong

cấp các em có dao găm lớn nhỏ đủ loại, cả súng lục, tiểu thuyết không lành

mạnh in và chép tay rất nhiều, tranh ảnh khoả thân thì không thiếu”.

Page 179: TÂM LÝ HỌC GIỚI TÍNH VÀ GIÁO DỤC GIỚI TÍNHsaomaidata.org/library/90...  · Web viewtÂm lÝ hỌc giỚi tÍnh vÀ giÁo dỤc giỚi tÍnh. tÂm lÝ hỌc giỚi tÍnh

Trong một công trình nghiên cứu của chúng tôi ở các trường trung học

phổ thông, có tới 84,6% em học sinh lưu giữ sách báo về tình yêu lãng mạn,

sách đồi trụy khiêu dâm. Trong đó, 28,3% cho rằng số học sinh trung học phổ

thông đọc ở mức “khá nhiều” và “nhiều”; 97,5% số học sinh thừa nhận rằng

có xem “video đen”, 25,9% cho rằng học sinh xem “video đen” ở mức độ khá

nhiều. Bằng nhiều thực nghiệm và các phương pháp điều tra, chúng tôi có thể

kết luận rằng, các em xem đủ loại văn hoá phẩm, sách báo đồi trụy chép tay

(như những cuốn “Cô giáo Thảo”, “Chú Kim”…), sách về tình yêu, sách,

truyện tranh ma quái, khiêu dâm… chuyện yêu đương lãng mạn cũ (các tiểu

thuyết của Quỳnh Dao và tiểu thuyết in trước 1975), các tiểu thuyết lãng mạn

mới, các sinh vụ án viết lại với những tình tiết khiêu dâm hoặc mô tả cảnh làm

tình sống sượng…), các phim ảnh đồi trụy, các bài hát nhạc vàng ướt át, rên

rỉ về tình yêu tự do và thơ mộng. Đặc biệt trong học sinh trung học phổ thông

còn lưu hành những bản chép tay dạy cách bói toán, nhất là nói về tình yêu.

Chúng tôi đã sưu tầm được nhiều kiểu bói toán trong các em: bói theo nhảy

mũi, bói theo ngày kinh, bói theo sao… chủ yếu là tìm kiếm, mong đợi một

tình yêu lí tưởng, hoặc mong tìm cách phát hiện, tránh né những đau khổ,

trục trặc trong tình yêu.

Một biểu hiện hư khác có trong trẻ em, trong học sinh mới lớn là hiện

tượng gán ghép nhau thành từng cặp, hiện tượng quan hệ với bạn khác giới

thiếu lành mạnh, xô bồ, lợi dụng nhau, cặp kè với nhau từng đôi quá mức

thân thiết của tình bạn nhưng lại chưa phải là tình yêu. Đặc biệt là hiện tượng

nói năng thô tục, cử chỉ thiếu tế nhị hoặc không phù hợp với giới tính. Có một

số em còn học đòi ăn nhậu uống cà phê, hút thuốc lá theo kiểu chơi bời điệu

nghệ, hay đến nhà hàng, vũ trường, khiêu vũ, ăn chơi…

Như vậy đứng trên góc độ về đời sống giới tính và đời sống gia đình,

trẻ em của chúng ta cũng đã có thể có đủ những biểu hiện yêu đương và ăn

chơi” như người lớn. Nguyên nhân của tình trạng trên rất phức tạp. Các nhà

nghiên cứa đến thống nhất rằng, cần phải xét đến những nguyên nhân về cả

3 mặt: xã hội, gia đình và nhà trường. Trong một dịp khác, chúng tôi sẽ mãi

Page 180: TÂM LÝ HỌC GIỚI TÍNH VÀ GIÁO DỤC GIỚI TÍNHsaomaidata.org/library/90...  · Web viewtÂm lÝ hỌc giỚi tÍnh vÀ giÁo dỤc giỚi tÍnh. tÂm lÝ hỌc giỚi tÍnh

bày đầy đủ 3 loại nguyên nhân này. Ở đây, chúng tôi xin thì nêu một nguyên

nhân quan trọng trong nhà trường. Đó là việc thiếu quan tâm giáo dục những

tri thức về giới tính và đời sống gia đình cho học sinh.

Từ nhiều năm nay, chúng ta không quan tâm đến những tri thức này,

nhất là kiến thức về tình bạn khác giới, tình yêu, quan hệ cư xử với người

khác giới, tác phong, tư thế của người con trai, con gái, vẻ đẹp và việc làm

đẹp… mà đó lại là những vấn đề được các em quan tâm, trở thành nhu cầu

trong giao tiếp, trong cuộc sống đời thường của các em. Đó là những vấn đề

nảy sinh trong các em có tính quy luật bởi đặc điểm tâm sinh lí lứa tuổi, bởi

sự phát triển tâm lí, bởi những điều kiện phức tạp của đời sống xã hội hiện

đại. Thế nhưng các em lại không ý thức được những điều đó, không hiểu biết

về thông và không có đủ khả năng làm chủ được bản thân. Vì thế, các em dễ

bị sa ngã, bị lôi kéo vào tội lỗi và rất dễ sai lầm trong hành vi.

Để khắc phục tình trạng trẻ em hư hiện nay, ngoài việc khắc phục, giải

quyết những nguyên nhân phức tạp về mặt xã hội, gia đình và nhà trường, có

một việc không thể thiếu: đó là trang bị cho các em những tri thức khoa học

về giới tính, và đời sống gia đình. Chỉ như thế, chúng ta mới giúp cho các em

có một bản lĩnh vững vàng bước vào đời sống xã hội, vừa chống lại những

cám dỗ xấu xa có thể có do cuộc sống xã hội phức tạp tạo ra, vừa chống lại

những đòi hỏi, những dục vọng có tính bản năng có thể xuất hiện trong các

em do đặc điểm tâm sinh lí của chính lứa tuổi các em tạo nên.

Vấn đề 2MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ NỘI DUNG, TỔ CHỨC THỰC HIỆN CHƯƠNG TRÌNH

GIÁO DỤC ĐỜI SỐNG GIA ĐÌNH CHO HỌC SINH PHỔ THÔNG

Kỷ yếu Hội nghị Khoa học về Giáo dục dân số Gia đình và giới tính

1991

Page 181: TÂM LÝ HỌC GIỚI TÍNH VÀ GIÁO DỤC GIỚI TÍNHsaomaidata.org/library/90...  · Web viewtÂm lÝ hỌc giỚi tÍnh vÀ giÁo dỤc giỚi tÍnh. tÂm lÝ hỌc giỚi tÍnh

Vấn đề giáo dục đời sống gia đình và giới tính cho học sinh là một vấn

đề mới ở nước ta. Trong quá trình tiến hành thực nghiệm cũng như trong quá

trình nghiên cứu và xây dựng chương trình giáo dục này, có nhiều vấn đề

đang được các nhà nghiên cứu quan tâm: Nên dạy những gì cho học sinh và

sẽ dạy chương trình này cho học sinh như thế nào. Từ đó có một loạt vấn đề

được đặt ra:

– Trong nhiều vấn đề phong phú của nội dung giáo dục đời sống gia

đình và giới tính mà các nước đang áp dụng, chúng tạ lựa chọn những vấn

đề nào để dạy cho học sinh phổ thông Việt Nam? Nên dạy cho học sinh từ

lớp nào?

Nên dạy lồng vào trong các môn học có liên quan hay dạy thành môn

riêng.

Ban chỉ đạo đề án VIE/88/P09 Cụm các tỉnh phía Nam và Thành phố

Hồ Chí Minh đã tiến hành một cuộc điều tra thăm dò ý kiến của giáo viên và

học sinh về những vấn đề trên, để thực hiện có hiệu quả hơn những nhiệm vụ

của đề án do Ban Chủ nhiệm đề án Trung ương trao cho Ban Chỉ đạo đề án

Cụm các tỉnh phía Nam.

Cuộc điều tra này tiến hành trong cán bộ ngành giáo dục và giáo viên ở

các tỉnh phía Nam theo 3 đợt: Đợt 1 (192 giáo viên) và đợt 2 (169 giáo viên)

điều tra trong giáo viên chưa được huấn luyện, đợt 3 điều tra trong 137 cán

bộ quản lí giáo dục và giáo viên đã được dự các lớp huấn luyện về chương

trình Giáo dục đời sống gia đình và Giới tính do Ban Chỉ đạo cụm và Ban Chỉ

đạo các tỉnh tổ chức. Đây là các giáo viên sẽ trực tiếp tham gia chỉ đạo và dạy

chương trình này ở trường phổ thông.

Các tài liệu thu được chúng tôi xử lí bằng toán thống kê, chủ yếu là

dùng Test T–Student đối với các nhóm độc lập để so sánh sự khác biệt.

Sau đây là một số kết quả điều tra.

I. NÊN DẠY CHO HỌC SINH NHỮNG NỘI DUNG NÀO TRONG VIỆC GIÁO DỤC ĐỜI SỐNG GIA ĐÌNH VÀ GIỚI TÍNH

Page 182: TÂM LÝ HỌC GIỚI TÍNH VÀ GIÁO DỤC GIỚI TÍNHsaomaidata.org/library/90...  · Web viewtÂm lÝ hỌc giỚi tÍnh vÀ giÁo dỤc giỚi tÍnh. tÂm lÝ hỌc giỚi tÍnh

Đây là một trong những vấn đề được nhiều người quan tâm. Để giải

quyết vấn đề này, chúng tôi đưa ra một hệ thống bài dự kiến sẽ dạy trong

chương rình Giáo dục đời sống gia đình để mọi người lựa chọn bài nào nên

dạy cho học sinh trong trường phổ thông.

1. Từ các phiếu của giáo viên, chúng tôi thu được kết quả như sau:

– Có những bài được đa số ý kiến của giáo viên và cán bộ giáo dục tán

thành (lựa chọn) trong cả 2 đợt điều tra 1989 và 1990 (trên 65%) đó là:

+ Gia đình và đời sống gia đình.

+ Trách nhiệm làm cha mẹ.

+ Trình nhiệm làm con.

+ Quản lí gia đình.

+ Luật hôn nhân và gia đình.

+ Giới tính và sự khác biệt nam nữ.

+ Tình người.

+ Tình bạn.

+ Hôn nhân.

+ Biến đổi tâm lí và sinh lí ở tuổi dậy thì.

+ Hiện tượng kinh nguyệt.

+ Tác hại của việc có thai ở tuổi vị thành niên.

Có những bài số ý kiến lựa chọn còn ít. Chúng tôi chỉ xin phân tích về

những bài này. Số liệu cụ thể được tính trong Bảng 1:

Bảng 1

Nội dung vấn đề Đợt 1 Đợt 2 Ý nghĩa

của sự Số

người % Số

người %

Page 183: TÂM LÝ HỌC GIỚI TÍNH VÀ GIÁO DỤC GIỚI TÍNHsaomaidata.org/library/90...  · Web viewtÂm lÝ hỌc giỚi tÍnh vÀ giÁo dỤc giỚi tÍnh. tÂm lÝ hỌc giỚi tÍnh

đồng ý đồng ýkhác biệt

Những vấn đề của vợ chồng

trẻ.28

14,5

817 10,06

Chăm sóc bà mẹ và trẻ sơ sinh.27

14,0

611 6,5 +

Tình yêu. 48 25 28 16,57

Cơ quan sinh dục nam nữ.45

23,4

438 22,49

Sự thụ thai và phát triển của

thai.58

30,2

143 24,44

Những biện pháp phòng tránh

thai.62

32,2

956 33,14

Các bệnh lây lan qua đường

tình dục.38

19,7

927 15,98

Nhận xét:

– Kết quả nghiên cứu ở 2 đợt không có sự khác biệt có ý nghĩa ở hầu

hết các bài, tức là quan điểm của mọi người ở cả 2 đợt nghiên cứu giống

nhau. Chỉ riêng bài “Chăm sóc bà mẹ và trẻ sơ sinh” ở đợt 2 thấp hơn đợt 1.

Điều này cho thấy dư luận của các giáo viên ở đây cho rằng bài này chưa cần

lắm đối với học sinh.

– Những bài “Các bệnh lây lan qua đường tình dục”, “Những vấn đề

của vợ chồng trẻ”, có tỉ lệ tán thành thấp hơn cả (từ 10,06 đến 19,79%). Còn

tất cả các bài khác có tỉ lệ cao hơn, nhưng tối đa chỉ từ 32,29% đến 33,14%,

điều này cho thấy:

+ Giáo viên còn e ngại khi dạy những bài này cho học sinh

+ Khi dạy các bài này, chúng ta phải thận trọng hơn.

Page 184: TÂM LÝ HỌC GIỚI TÍNH VÀ GIÁO DỤC GIỚI TÍNHsaomaidata.org/library/90...  · Web viewtÂm lÝ hỌc giỚi tÍnh vÀ giÁo dỤc giỚi tÍnh. tÂm lÝ hỌc giỚi tÍnh

Tuy nhiên, chúng tôi cho rằng có thể do giáo viên chưa nắm hết nội

dung cụ thể của vấn đề nên có nhiều e ngại.

2. Để tìm hiểu kĩ hơn chúng tôi tiến hành điều tra trong học sinh:

a) Chúng tôi cũng để ta một loạt bài cho học sinh lựa chọn (chỉ đưa

những bài có nhiều ý kiến không thống nhất). Sau đây là kết quả thu được:

Bảng 2: Sự lựa chọn của học sinh về các bài

TT Tên bài

Đợt 1 Đợt 2 Ý nghĩa

của sự khác biệt

Số người đồng ý

%Số

người đồng ý

%

1 Cấu tạo cơ quan sinh dục

nam nữ32 15,38 71 19,20

2 Giới tính 78 37,5 132 35,77

3 Tình dục 11 5,2 18 4,8

4 Tâm sinh lí tuổi dậy thì 57 27,4 98 26,6

5 Hiện tượng kinh nguyệt 38 18,26 51 13,8

6 Sự thụ thai 16 7,6 35 9,4

7 Các biện pháp tránh thai 18 8,65 38 10,29

8 Tình bạn khác giới 99 47,59 213 57,72 +

9 Tình yêu 71 34,13 183 49,6 +

10 Hôn nhân và đời sống gia

đình90 43,26 132 35,77

11 Vần đề vợ chồng trẻ 22 10,57 42 11,38

12 Các bệnh lây lan qua đường

tình dục34 16,3 64 17,34

Page 185: TÂM LÝ HỌC GIỚI TÍNH VÀ GIÁO DỤC GIỚI TÍNHsaomaidata.org/library/90...  · Web viewtÂm lÝ hỌc giỚi tÍnh vÀ giÁo dỤc giỚi tÍnh. tÂm lÝ hỌc giỚi tÍnh

13 Vẻ đẹp và cách làm đẹp 98 47,11 151 51,8

14 Sự cư xử trong mối quan hệ

nam nữ118 56,73 194 52,57

15 Tình yêu trong tuổi học trò 91 43,75 173 46,88

Nhận xét:

– Nhìn chung kết quả trong hai đợt điều tra, đa số cho thấy sự lựa chọn

không có sự khác biệt cố ý nghĩa, tức là kết quá tương đương. Chỉ có 2 bài:

“Tình bạn khác giới” và “Tình yêu” ở đợt điều tra 1990 có sự khác biệt rõ rệt

so với đợt I, nhưng đó là tỉ lệ lựa chọn cao hơn.

– Một số bài có tỉ lệ lựa chọn khá cao (từ 26,6% trở lên) như bài: “Giới

tính”, “Tâm sinh lí tuổi dậy thì, “Tình bạn khác giới”, “Tình yêu”, “Hôn nhân và

đời sống gia đình”, “Vẻ đẹp và cách làm đẹp”, “Cách cư xử trong mối quan hệ

nam nữ, “Tình yêu trong tuổi học trò”. Đó là những bài được các em quan tâm

và chấp nhận.

Tuy nhiên, có một số bài, tỉ lệ lựa chọn thấp như: “Cấu tạo cơ quan sinh

dục nam nữ” (15,38 – 19,2%), “Hiện tượng kinh nguyệt” (13,8 – 18,26%),

“Vấn đề vợ chồng trẻ” (10,57 – 11,38%), “Các bệnh đường tình dục” (16,3 –

17,3%), “Sự thụ thai” (7,6 – 9,4%), “Các biện pháp tránh thai” (8,7 – 10,3%).

Đặc biệt bài “Tình dục” chỉ có 4,8 – 5,2%.

Từ tỉ lệ thấp như vậy có thể kết luận rằng đó là những bài các em có

nhiều e ngại nhất khi học chúng.

b) Nếu kết hợp chung những bài có tỉ lệ lựa chọn thấp ở giáo viên

và học sinh, chúng tôi có bảng 3 như sau:

Bảng 3

Tên bàiTỉ lệ lựa chọn

ở giáo viên (%)

Tỉ lệ lựa chọn ở học sinh

(%)

Ý nghĩa khác biệt

Cấu tạo cơ quan sinh dục nam 22,49 – 23,44 15,38 – 19,2

Page 186: TÂM LÝ HỌC GIỚI TÍNH VÀ GIÁO DỤC GIỚI TÍNHsaomaidata.org/library/90...  · Web viewtÂm lÝ hỌc giỚi tÍnh vÀ giÁo dỤc giỚi tÍnh. tÂm lÝ hỌc giỚi tÍnh

nữ.

Hiện tượng kinh nguyệt. 67,8 – 71,3 13,8 – 18,26 +

Các bệnh lây lan qua đường tình

dục.

15,98 – 19,7916,3 – 17,3

Sự thụ thai và phát triển của thai. 24,44 – 30,21 7,6 – 9,4 +

Tình dục. Không hỏi 4,8 – 5,2

Biện pháp tránh thai. 32,29 – 33,14 8,7 – 10,3 +

Chăm sóc bà mẹ và trẻ sơ sinh. 6,5 – 14,06 Không hỏi

vấn đề vợ chồng trẻ. 10,06 – 14,58 10,57 – 11,38

Nhận xét:

Có những bài, tỉ lệ lựa chọn giữa giáo viên và học sinh không có sự

khác biệt có ý nghĩa, đó là các bài:

1. Cấu tạo cơ quan sinh dục.

2. Các bệnh lây lan qua đường tình dục.

3. Vấn đề vợ chồng trẻ.

Ở những bài này, tỉ lệ lựa chọn là thấp (vì chỉ từ khoảng 10,57% –

23,44%). Đây là những bài mà cả người dạy lẫn người học còn nhiều e ngại.

– Có những bài, tỉ lệ lựa chọn giữa giáo viên và học sinh có sự khác

biệt ý nghĩa, thậm chí khác biệt rất lớn:

1. Bài hiện tượng kinh nguyện, tỉ lệ giáo viên chọn từ 67,8% – 71,3%,

còn ở học sinh chỉ 13,8% 18,2%.

2. Bài sự thụ thai”, ở giáo viên là 24,44% – 30,22%, ở học sinh chỉ có

từ 7,6 – 9,4%.

3. Bài “Biện pháp tránh thai”, ở giáo viên: 32,29% – 33,14% còn ở học

sinh chỉ từ 8,7 – 10,3%.

Page 187: TÂM LÝ HỌC GIỚI TÍNH VÀ GIÁO DỤC GIỚI TÍNHsaomaidata.org/library/90...  · Web viewtÂm lÝ hỌc giỚi tÍnh vÀ giÁo dỤc giỚi tÍnh. tÂm lÝ hỌc giỚi tÍnh

Chúng tôi cho rằng có hiện tượng trên vì các thầy cô giáo đã nhận thấy

rõ hơn tầm quan trọng của những bài này, còn các em thì chưa nhận thấy.

Mặt khác, có thể các em nghe nói đến những hiện tượng đó thường xấu hổ

(mắc cỡ), e ngại.

– Bài “Chăm sóc bà mẹ và trẻ sơ sinh”, chúng tôi chỉ hỏi trong giáo viên

và tỉ lệ lựa chọn cũng thấp: 6,5% – 14,06%.

Riêng bài về “Tình dục”, tỉ lệ lựa chọn của các em học sinh rất thấp:

4,8 – 5,2%, chứng tỏ các em rất e ngại bài này. Đây cũng là vấn đề rất phức

tạp, còn rất nhiều e ngại khi nói đến nó.

c) Để rõ hơn chúng tôi tìm hiểu về sự e ngại của học sinh đối với

những nội dung của việc Giáo dục đời sống gia đình và giới tính.

Sau khi giới thiệu cho học sinh các bài của chương trình Giáo dục đời

sống gia đình, chúng tôi đặt câu hỏi: nếu được học những kiến thức trên, bạn

có e ngại gì không?

Chúng tôi thu được kết quả như sau:

Bảng 4: Sự e ngại của học sinh đối với chương trinh Giáo dục đời sống

gia đình và giới tính.

Sự e ngại

Đợt 1 (208 học sinh) Đợt 2 (369 học sinh)

Số học sinh trả lời

%Số học sinh

trả lời%

Có e ngại 163 78,36 265 71,81

Không 45 21,64 104 28,19

Như vậy, ở cả 2 đợt điều tra, tỷ lệ học sinh e ngại là khá cao từ 71,81

đến 78,36%.

Tìm hiểu về sự e ngại của các em đối với từng bài, chúng tôi thấy như

sau:

Bảng 5. Sự e ngại của học sinh đối với từng bài:

Page 188: TÂM LÝ HỌC GIỚI TÍNH VÀ GIÁO DỤC GIỚI TÍNHsaomaidata.org/library/90...  · Web viewtÂm lÝ hỌc giỚi tÍnh vÀ giÁo dỤc giỚi tÍnh. tÂm lÝ hỌc giỚi tÍnh

TT Tên bài

Đợt 1 (208) Đợt 2 (369)

Số học

sinh trả lời%

Số học

sinh trả

lời

%

1Cấu tạo cơ quan sinh dục nam

nữ.165 79,32 265 71,8

2Giới tính và sự khác biệt nam

nữ.83 39,9 118

31,9

7

3Tình dục.

188 90,38 30883,4

6

4 Tâm sinh lí tuổi dậy thì. 28 13,5 55 14,9

5 Hiện tượng kinh nguyệt. 158 75,96 265 71,8

6Sự thụ thai.

148 71,15 22861,7

9

7Biện pháp tránh thai.

171 82,2 28176,1

5

8 Tình bạn khác giới. 31 14,9 72 19,5

9Tình yêu.

85 40,86 11932,2

4

10Hôn nhân.

74 35,57 11230,3

5

11Vấn đề vợ chồng trẻ.

105 50,48 19853,6

5

12 Các bệnh đường tình dục. 162 77,88 258 69,9

13Vẻ đẹp và cách làm đẹp.

28 13,5 5214,0

9

Page 189: TÂM LÝ HỌC GIỚI TÍNH VÀ GIÁO DỤC GIỚI TÍNHsaomaidata.org/library/90...  · Web viewtÂm lÝ hỌc giỚi tÍnh vÀ giÁo dỤc giỚi tÍnh. tÂm lÝ hỌc giỚi tÍnh

14Sự cư xử trong mối quan hệ nam

nữ30 14,42 45

12,1

9

15Tình yêu trong tuổi học trò.

76 36,5 12132,7

9

Từ bảng trên, căn cứ vào kết quá của 2 đợt điều tra chúng tôi có thể rút

ra những bài học học sinh có nhiều e ngại nhất như sau:

1. Tình dục: từ 93,46 – 90,38% (số lượng học sinh e ngại).

2. Biện pháp tránh thai: 76,15 – 82,2%.

3. Cấu tạo cơ quan sinh dục nam nữ: 71,8 – 79,32%.

4. Hiện tượng kinh nguyệt: 71,8 – 75,96%.

5. Các bệnh lây lan đường tình dục: 69,9 – 77,88%.

6. Sự thụ thai: 61,79 – 71,15%.

7. Vấn đề vợ chồng trẻ: 50,48 – 53,65%.

8. Tình yêu: 32,24 – 40,86%.

Trong những bài trên, chúng tôi thấy có thể gồm 2 loại:

– Loại bài đề cập đến những vấn đề “có nhiều vấn đề phức tạp” do

quan niệm, phong tục tập quán của xã hội ta, nhiều người e ngại khi nói đến

nó:

– Loại bài có nhiều tri thức phức tạp mà học sinh chưa hiểu hết, hoặc

sự đánh giá của xã hội, của mọi người về chúng còn chưa được thống nhất

(Bài “Vấn đề vợ chồng trẻ”, “Sự thụ thai”).

3. Từ những kết quả trên có thể rút ra một sẽ kết luận về những nội dung dạy học trong chương trình Giáo dục đời sống gia đình và Giới tính

như sau:

a) Có nhiều bài, chúng ta có thể dạy cho học sinh phổ thông một cách bình thường. Đó là các bài:

Page 190: TÂM LÝ HỌC GIỚI TÍNH VÀ GIÁO DỤC GIỚI TÍNHsaomaidata.org/library/90...  · Web viewtÂm lÝ hỌc giỚi tÍnh vÀ giÁo dỤc giỚi tÍnh. tÂm lÝ hỌc giỚi tÍnh

– Gia đình, quản lí gia đình, hôn nhân…

– Trách nhiệm làm con.

– Các bài về tâm lí xã hội như giới tính, tình người tình bạn, tâm sinh lí

tuổi dậy thì…

Tác hại của việc có thai ở tuổi vị thành niên.

b) Có những bài khi dạy phải thận trọng, sao cho phù hợp với học

sinh (về phương pháp trình bày, thái độ của giáo viên, tổ chức lớp học…).

Đó là các bài:

1. Cấu tạo cơ quan sinh dục nam nữ.

2. Các bệnh lây lan đường tình dục.

3. Vấn đề vợ chồng trẻ

4. Hiện tượng kinh nguyệt.

5. Sự thụ thai.

6. Biện pháp tránh thai.

7. Chăm sóc bà mẹ và trẻ sơ sinh.

8. Tình yêu.

c) Riêng bài “Tình dục”, tỉ lệ chọn quá ít. Đây hình là vấn đề còn rất

nhiều phức tạp do nhận thức, quan niệm, phong tục… Theo chúng tôi hiện

nay cần chú ý lựa chọn kĩ những nội dung tri thức và phương pháp giảng dạy

phù hợp.

d) Trên đây là kết quả nghiên cứu khi các giáo viên chưa được huấn luyện, tức là họ chưa nắm vững được nội dung tri thức các bài. Để có

thể kết luận chắc chắn, chúng tôi thấy cần phải điều tra ý bến của giáo viên

sau khi họ được huấn luyện về chương trình Giáo dục đời sống gia đình và

giới tính.

Page 191: TÂM LÝ HỌC GIỚI TÍNH VÀ GIÁO DỤC GIỚI TÍNHsaomaidata.org/library/90...  · Web viewtÂm lÝ hỌc giỚi tÍnh vÀ giÁo dỤc giỚi tÍnh. tÂm lÝ hỌc giỚi tÍnh

4. So sánh kết quả điều tra ở giáo viên (về sự lựa chọn nội dung

giảng dạy chương trình Giáo dục đời sống gia đình và giới tính) trước và sau khi được huấn luyện:

Sau khi các thầy cô giáo được huấn luyện về thương trình Giáo dục đời

sống gia đình, chúng tôi đã dùng ngay các phiếu đã điều tra trước đây để

thăm dò ý kiến của họ.

Kết quả về sự lựa chọn các bài dạy trong chương trình như sau (chúng

tôi chỉ nghiên cứu những bài “có nhiều vấn đề phức tạp” hoặc chỉ có sự thống

nhất cao):

Bảng 6: So sánh sự lựa chọn của giáo viên.

Tên bài

Tỉ lệ lựa chọn trước huấn

luyện (đợt 2 – 169)

Tỉ lệ lựa chọn sau huấn

luyện (137)

Ý nghĩa của sự khác biệt

Những vấn đề vợ chồng trẻ. 10,06 44,54 +

Chăm sóc bà mẹ và trẻ sợ

sinh.

6,5 27,74 +

Tình yêu. 16,57 71,53 +

Cơ quan sinh dục nam nữ. 22,49 44,53 +

Sự thụ thai 25,44 46,72

Những biện pháp phòng tránh

thai (cơ sở khoa học).

33,14 42,34

Các bệnh lây lan đường tình

dục.

15,98 27,01

Nhận xét:

– Tỉ lệ lựa chọn các bài dạy trong chương trình Giáo dục đời sống gia

đình và Giới tính của giáo viên sau khi được huấn luyện đều cao hơn trước.

Page 192: TÂM LÝ HỌC GIỚI TÍNH VÀ GIÁO DỤC GIỚI TÍNHsaomaidata.org/library/90...  · Web viewtÂm lÝ hỌc giỚi tÍnh vÀ giÁo dỤc giỚi tÍnh. tÂm lÝ hỌc giỚi tÍnh

Ở hầu hết các bài đều có sự khác biệt có ý nghĩa, chứng tỏ quan điểm của

giáo viên đã có biến đổi rõ rệt sau khi huấn luyện. Kể cả hai bài “Những biện

pháp tránh thai” và “Các bệnh lây lan đường tình dục” dù sự khác biệt không

nhiều, nhưng tỷ lệ lựa chọn vẫn cao hơn trước.

Có thể giải thích hiện tượng này là: các giáo viên đã hiểu rõ hơn về

các bài và thấy tầm quan trọng của nó. Điều đó cho thấy nội dung giáo dục

đời sống gia đình và giới tính rất bổ ích và cần thiết nên được các giáo viên

và các nhà giáo dục tán thành dạy trong các trường phổ thông.

– Cũng có thể khẳng định rằng việc giáo dục đời sống gia đình và giới

tính cho học sinh trong thời kì đầu có thể gặp nhiều khó khăn do nhiều người

thưa hiểu hết tầm quan trọng của nó. Nhưng nếu họ được học tập hoặc có

điều kiện tìm hiểu kĩ, họ sẽ thấy việc giáo dục những tri thức này cho học sinh

là cần thiết. Từ kết quả nghiên cứu trên chúng ta có thể kết luận rằng: nếu

mọi người càng hiểu rõ và nắm vững được về Giáo dục đời sống gia đình và

Giới tính họ sẽ càng tán thành và giúp đỡ việc thực hiện nội dung giáo dục

này cho học sinh. Điều đó cho ta một phương hướng quan trọng: cần tuyên

truyền sâu rộng và đầy đủ trong quần chúng nhân dân, giáo viên, học sinh về

ý nghĩa và nội dung của nội dung giáo dục mới này.

II. NHỮNG PHƯƠNG HƯỚNG VỀ MẶT TỔ CHỨC GIÁO DỤC ĐỜI SỐNG GIA ĐÌNH VÀ GIỚI TÍNH

Qua việc gặp gỡ trao đổi với nhiều cán bộ, giáo viên ngành giáo dục về

giáo dục đời sống gia đình và giới tính, chúng tôi thấy về mặt tổ chức thực

hiện giáo dục chương trình này có nhiều vấn đề làm mọi người băn khoăn:

Nên dạy lồng vào các môn học khác có liên quan hay dạy tính ra

thành từng môn?

Dạy từ lớp nào.

1. Sau đây là kết quả thu được từ các phiếu thăm đò qua 2 đợt điều tra giáo viên

Bảng 7: Số ý kiến lựa chọn qua 2 đợt

Page 193: TÂM LÝ HỌC GIỚI TÍNH VÀ GIÁO DỤC GIỚI TÍNHsaomaidata.org/library/90...  · Web viewtÂm lÝ hỌc giỚi tÍnh vÀ giÁo dỤc giỚi tÍnh. tÂm lÝ hỌc giỚi tÍnh

Cách tổ chức thực hiện giáo dục đời sống gia đình và giới tính

Đợt 1 (192) Đợt 2 (169) Ý nghĩa

của sự khác biệt

Số

người

đồng

ý

%

Số

người

đồng

ý

%

Dạy lồng vào các môn có liên quan. 143 74,48 118 69,82

Dạy thành môn học riêng (gọi là

Giáo dục đời sống gia đình).38 19,79 27 15,98

Dạy từ lớp 9. 93 48,4 80 58,4 +

Nên dạy ở cấp 3. 105 54,68 91 66,42 +

Theo bảng trên chúng tôi thấy:

– Đa số ý kiến của giáo viên cho rằng nội dung của giáo dục đời sống

gia đình và giáo dục giới tính nên dạy lồng vào các môn học có liên quan như:

Sinh lí học, Giáo dục công dân… (từ 69,82 đến 74,48%). Trong khi số ý kiến

tán thành dạy theo một môn riêng chì chiếm tỷ lệ thấp (15,98 – 19,79%).

Những ý kiến trên ở đợt 2 không cố gì khác biệt ở đợt 1 vì sự khác biệt

ý nghĩa giữa 2 đợt không có ý nghĩa.

Số ý kiến cho rằng nên dạy ở cấp 3 chiếm tỉ lệ từ 54,68 đến 66,42%,

trong đó ở đợt 2 cao hơn (khác biệt có ý nghĩa) so với đợt 1. Điều này có thể

cho thấy đa số giáo viên tán thành dạy chương trình Giáo dục đời sống gia

đình và giới tính ở học sinh trung học phổ thông.

Số ý kiến cho rằng nên dạy ở lớp 9 chiếm từ 48,4 đến 58,4%. Trong

đó, ý kiến ở đợt 2 cũng khác biệt có ý nghĩa với số lượng ý kiến ở đợt 1 và

chiếm tỉ lệ 58,4%. Điều này cho thấy việc dạy chương tình Giáo dục đời sống

gia đình ở lớp 9 chưa được đa số tuyệt đối giáo viên tán thành, nhưng vẫn có

thể thực hiện. Tuy nhiên, về nội dung và mức độ kiến thức cần phải nghiên

cứu kĩ hơn cho phù hợp.

2. Tham khảo ý kiến học sinh, chúng tôi thấy

Page 194: TÂM LÝ HỌC GIỚI TÍNH VÀ GIÁO DỤC GIỚI TÍNHsaomaidata.org/library/90...  · Web viewtÂm lÝ hỌc giỚi tÍnh vÀ giÁo dỤc giỚi tÍnh. tÂm lÝ hỌc giỚi tÍnh

Khi được hỏi nên dạy kiến thức về đời sống gia đình và giới tính cho

học sinh từ lớp nào, chúng tôi thu được kết quả như sau:

Trong số 369 phiếu của học sinh cấp 3 có 273 ý kiến (chiếm 73,98%)

cho rằng nên dạy cho học sinh cấp 3, có 241 ý kiến chiếm 65,3% số ý kiến

cho rằng nên dạy từ lớp 9 trở lên.

Như thế đa số học sinh trung học phổ thông cũng chấp nhận việc học

tập chương trình Giáo dục đời sống gia đình và Giới tính.

Số ý kiến cho rằng nên dạy trong nội khoá chiếm 76,15% (281 em).

Ngoài ra, số ý kiến cho rằng nên dạy nam riêng, nữ riêng chiếm 73,17% (270

em).

3. So sánh ý kiến của giáo viên trước khi huấn luyện và sau khi được huấn luyện trong các lớp tập huấn chúng ta thấy như sau:

Bảng 8: So sánh ý kiến của giáo viên trước và sau khi huấn luyện.

Cách tổ chức thực hiện Giáo dục đời sống gia đình và Giới

tính

Trước khi huấn luyện

(169)

Sau khi huấn luyện (137)

Ý nghĩa

của sự khác biệt

Số

người

đồng ý

%

Số

người

đồng ý

%

Dạy lồng vào các môn có liên

quan.118

69,8

292

69,1

5

Dạy thành môn học riêng.27

15,9

863

45,9

9+

Dạy từ lớp 9.80 58,4 85

62,0

4

Nên dạy ở cấp 3.91

66,4

2108

78,8

3+

Nhận xét bảng trên ta thấy:

Page 195: TÂM LÝ HỌC GIỚI TÍNH VÀ GIÁO DỤC GIỚI TÍNHsaomaidata.org/library/90...  · Web viewtÂm lÝ hỌc giỚi tÍnh vÀ giÁo dỤc giỚi tÍnh. tÂm lÝ hỌc giỚi tÍnh

– Số ý kiến của giáo viên cho rằng “nên dạy lồng vào các môn học có

liên quan” tuy không có gì khác biệt lớn với trước khi huấn luyện (sự khác biệt

không có ý nghĩa) nhưng có chiều hướng giảm đi. Trong khi đó số ý kiến cho

rằng nên dạy tách thành môn riêng tăng lên rõ rệt (khác biệt có ý nghĩa so với

trước khi huấn luyện) từ 15,98 lên đến 45,99%. Điều này cho thấy một lượng

khá lớn giáo viên đã nhận thức rằng việc dạy thành một môn riêng là cần

thiết.

– Số ý kiến “nên dạy từ cấp 3” tăng lên có ý nghĩa: 66,42 lên đến 78 –

83%. Điều này cho thấy da số giáo viên đều tán thành việc dạy chương tinh

Giáo dục đời sống gia đình và Giới tính cho học sinh. Ở đây, sự tán thành này

được khẳng định thêm.

Số ý kiến “nên dạy cho học sinh lớp 9” cũng tăng lên. Tuy chưa rõ rệt.

Nhưng, điều này cũng chứng tỏ chương trình Giáo dục đời sống gia đình

cũng có thể dạy cho học sinh lớp 9.

– Qua phỏng vấn, nhiều cán bộ và giáo viên còn cho rằng, nên giáo

dục, giảng dạy những kiến thức này sớm hơn nữa, từ lớp 7, lớp 8 trở lên, vì

nhiều em ở các lớp này đã yêu, thậm chí yêu nhiều rồi.

4. Từ những kết quả nghiên cứu trên, chúng tôi thấy có thể rút ra được kết luận như sau

– Việc giảng dạy chương trình Giáo dục đời sống gia đình và Giới tính

là cần thiết và có thể tiến hành sớm trong tình hình hiện nay.

– Trước mắt, đối với một số bài, có thể dạy lồng vào các môn có liên

quan như.: Sinh lí học, Giáo dục công dân… Tuy nhiên, có thể nghiên cứu để

dạy thành một môn riêng biệt. Thực tế, một số bài, rất khó ghép vào một môn

nào như các bài: Tình yêu, Hôn nhân, Vấn đề vợ chồng trẻ…

– Có thể dạy nội dung chương trình Giáo dục đời sống gia đình và Giới

tính trong chính khoá và trong hoạt động ngoại khoá. Đây là những kiến thức

quan trọng, cần thiết cho học sinh.

Page 196: TÂM LÝ HỌC GIỚI TÍNH VÀ GIÁO DỤC GIỚI TÍNHsaomaidata.org/library/90...  · Web viewtÂm lÝ hỌc giỚi tÍnh vÀ giÁo dỤc giỚi tÍnh. tÂm lÝ hỌc giỚi tÍnh

– Có thể dạy cho học sinh phổ thông từ trung học cơ sở trở lên. Việc

giảng dạy này vừa xuất phát từ đặc điểm tâm sinh lí của các em, vừa xuất

phát từ thực tế giáo dục và thực tế đời sống học sinh mà các thầy cô giáo đã

phát hiện được.

Trên đây chỉ là những kết luận ban đầu xuất phát từ kết quả điều tra

của chúng tôi trong các thầy cô giáo và học sinh ở các tỉnh phía Nam và

Thành phố Hồ Chí Minh.

Chúng tôi nghĩ rằng, kết quả nghiên cứu trên mới chỉ sơ lược và còn

những hạn chế nhất định. Chúng ta còn phải tiếp tục tìm hiểu thêm trong quá

trình mở rộng việc giảng dạy chương trình Giáo dục đời sống gia đình và Giới

tính trong nhà trường.

Vấn đề 3MỘT SỐ VẤN ĐỀ TÂM LÍ – XÃ HỘI CẦN CHÚ Ý KHI TIẾN HÀNH GIÁO DỤC ĐỜI SỐNG GIA ĐÌNH VÀ GIỚI TÍNH CHO HỌC SINH PHỔ THÔNG

Kỷ yếu Hội nghị Khoa học về

Giáo dục Giới tính cho học sinh Phổ thông – 1991

Việc triển khai chương trình dạy thực nghiệm và chương trình thí điểm

về giáo dục đời sống gia đình và giới tính cho học sinh các tỉnh phía Nam và

Thành phố Hồ Chí Minh đã được tiến hành từ năm 1989 liên tục cho đến nay

(1991). Hiện nay, đa số các tỉnh trong cụm phía Nam của đề án VIE/88/P09

(gọi tắt là đề án P09, gồm 7 tỉnh) đã thực hiện xong giai đoạn dạy thí điểm

của năm học 1990 – 1991. Nhìn chung, việc triển khai đã đạt kết quả tốt. Tuy

nhiên, trong quá trình thực hiện chúng tôi đã phát hiện được một số vấn đề

tâm lí xã hội có thể ảnh hướng trực tiếp đến hiệu quả của đề án nói riêng, đến

việc Giáo dục đời sống gia đình và Giới tính cho học sinh nói chung. Chúng

tôi đã tiến hành nghiên cứu bước đầu những vấn đề tâm lí xã hội đó.

Việc nghiên cứu này nằm trong chương trình Nghiên cứu điều tra dư

luận xã hội do Ban Chỉ đạo đề án P09 của Cụm các tỉnh phía Nam và Thành

Page 197: TÂM LÝ HỌC GIỚI TÍNH VÀ GIÁO DỤC GIỚI TÍNHsaomaidata.org/library/90...  · Web viewtÂm lÝ hỌc giỚi tÍnh vÀ giÁo dỤc giỚi tÍnh. tÂm lÝ hỌc giỚi tÍnh

phố Hồ Chí Minh thực hiện, nhằm mục đích nâng cao hiệu quả và chất lượng

việc thực hiện những nhiệm vụ mà Ban Chủ nhiệm đề án P09 Trung ương

giao cho Cụm các tỉnh phía Nam và Thành phố Hồ Chí Minh.

Chúng tôi đã thực hiện nhiều phương pháp nghiên cứu: trao đổi, mạn

đàm, hội thảo, phỏng vấn và điều tra dư luận bằng phiếu thăm dò. Chúng tôi

đã gửi phiếu điều tra đến các trường học ở Thành phố Hồ Chí Minh và các

tỉnh phía Nam và đã thu được 169 phiếu trả lời của các thầy cô giáo. Những

kết quả nghiên cứu này được so sánh với kết quả nghiên cứu năm 1989 để

có cơ sở kết luận chính xác hơn.

Các phiếu điều tra thu được xử lí bằng toán thống kê chủ yếu gồm:

– Tính giá trị trung bình X để tìm hiểu mức độ của các ý kiến.

Tính độ lệch S để tìm hiểu độ dao động của các ý kiến.

– Việc so sánh ý kiến khác biệt của các nhóm độc lập được tiến hành

theo Test T–student so sánh tỉ lệ của các nhóm.

Kết quả nghiên cứu bao gồm nhiều vấn đề: hiện trạng về đời sống giới

tính của học sinh trung học phổ thông, những dư luận xã hội và dư luận học

sinh đối với việc Giáo dục đời sống gia đình và Giới tính trong nhà trường…

Trong phần này, chúng tôi chỉ tập trung nêu lên một số vấn đề tâm lí xã

hội cần chú ý khi tiến hành Giáo dục đời sống gia đình cho học sinh.

1. Một số quan niệm của giáo viên đối với việc Giáo dục đời sống gia đình và Giới tính

Trước hết, chúng tôi tìm hiểu ý kiến của giáo viên về sự cần thiết của

Giáo dục đời sống gia đình và Giới tính đối với học sinh trong tình hình hiện

nay.

a) Kết quả nghiên cứu đợt năm 1990 (đợt 2) cho thấy ở Bảng 1 như sau:

Bảng 1

Ý kiến đánh giá của giáo viên Số lượng (169) Tỉ lệ %

Page 198: TÂM LÝ HỌC GIỚI TÍNH VÀ GIÁO DỤC GIỚI TÍNHsaomaidata.org/library/90...  · Web viewtÂm lÝ hỌc giỚi tÍnh vÀ giÁo dỤc giỚi tÍnh. tÂm lÝ hỌc giỚi tÍnh

Rất cần thiết 38 22,49

Tương đối cần thiết 41 24,26

Có cũng được, không cũng được 62 36,69

Không cần thiết 28 16,57

Theo Bảng 1 ta thấy:

– Có 79 ý kiến cho rằng giáo dục đời sống gia đình và giới tính cho học

sinh là cần thiết, chiếm tỉ lệ 46,75%, trong đó có 38 ý kiến (22,49%) cho là “rất

cần thiết”. Tỉ lệ này nhiều hơn hẳn ý kiến cho rằng giáo dục đời sống gia đình

và giới tính là không cần thiết: chỉ có 28 ý kiến chiếm tỉ lệ 16,57%.

Số lượng ý kiến trả lời “có cũng được, không cũng được” chiếm tỉ lệ

khá lớn 36,69% (62 ý kiến). Đây là những ý kiến của các giáo viên còn phân

vân đối với việc giáo dục đời sống gia đình cho học sinh.

b) Nếu cho đếm xếp hạng theo thứ bậc:

Rất cần thiết: 3 điểm.

Tương đối cần thiết: 2 điểm.

Có cũng được, không cũng được: 1 điểm.

– Không cần thiết: 0 điểm.

Chúng tôi có kết quả về trị số trung bình X = 1,527 và độ lệch chuẩn S

= 1,018.

– Giá trị X = 1,527 cho thấy dư luận chung giáo viên đối với việc giáo

dục đời sống gia đình cho học sinh nằm trong khoảng giữa hai mức độ

“tương đối cần thiết” và “có cũng được, không cũng được”. Điều đó cho thấy

các giáo viên chấp nhận việc đưa giáo dục đời sống gia đình vào nhà trường

nhưng mức độ chưa cao.

Page 199: TÂM LÝ HỌC GIỚI TÍNH VÀ GIÁO DỤC GIỚI TÍNHsaomaidata.org/library/90...  · Web viewtÂm lÝ hỌc giỚi tÍnh vÀ giÁo dỤc giỚi tÍnh. tÂm lÝ hỌc giỚi tÍnh

Độ lệch chuẩn S = 1,018 cho thấy sự phân tán của các ý kiến ở mức

độ khá nhiều. Nói một cách khác, trong giáo viên, quan niệm về việc giáo dục

đời sống gia đình cho học sinh có nhiều khác biệt.

c) So sánh với kết quả nghiên cứu năm 1989 (đợt 1) chúng tôi có 2 như sau:

Bảng 2: So sánh kết quả nghiệm thu năm 1990 với 1989

Ý kiến đánh giá

Đợt 1989 (192 Đợt 1990 (169) Ý nghĩa

của sự khác biệt

Số

người

đồng ý

%

Số

người

đồng ý

%

Rất cần thiết53 27.6 38

22.4

9

Tương đối cần thiết72 37,5 41

24,2

6+

Có cũng được, không cũng được31

16,1

562

36,6

9+

Không cần thiết36

18,5

728

16,5

7-

Nhận xét Bảng 2 ta thấy:

– Số ý kiến cho rằng giáo dục đời sống gia đình rất “cần thiết” ở đợt

điều tra 1989 là 27,6% không có sự khác biệt có ý nghĩa với kết quả nghiên

cứu năm 1990.

Số ý kiến cho rằng “không cần thiết” ở 2 đợt cũng không có sự khác

biệt ý nghĩa (18,75% so với 16,57%).

– Số ý kiến cho rằng “tương đối cần thiết” ở đợt nghiên cứu 1989 có sự

khác biệt có ý nghĩa so với kết quả nghiên cứu năm 1990 (37,5% so với

24,26%), nhưng tổng số ý kiến cho rằng giáo dục đời sống gia đình là cần

Page 200: TÂM LÝ HỌC GIỚI TÍNH VÀ GIÁO DỤC GIỚI TÍNHsaomaidata.org/library/90...  · Web viewtÂm lÝ hỌc giỚi tÍnh vÀ giÁo dỤc giỚi tÍnh. tÂm lÝ hỌc giỚi tÍnh

thiết ở đợt nghiên cứu 1989 cũng hơn hẳn số ý kiến cho là “không cần thiết”

(65,1% so với 18,75%).

d) Để có cơ sở chắc chắn hơn khi rút ra kết luận, chúng tôi đưa ra

một số nhận định về việc đưa giáo dục đời sống gia đình và giới tính vào

giảng dạy cho học sinh phổ thông, để thăm dò ý kiến trong giáo viên. Kết quả

thu được như sau:

Bảng 3

STT Nội dung nhận định

Đợt 1989 Đợt 1990 Ý nghĩa

của sự khác biệt

Số ý

kiến

đồng

ý

%

Số ý

kiến

đồng

ý

%

1Chỉ làm cho học sinh dễ bị

kích thích không lành mạnh.21 10,94 16 9,47

2Không phù hợp với đạo đức

phong tục Việt Nam.62 32,29 43 25,44 -

3Không có điều kiện thực hiện

trong tình hình hiện nay.81 42,19 72 42,60

4Chỉ cần giới thiệu sách cho

học sinh đọc.34 17,71 31 18,34

5

Nên thực hiện một cách đúng

mức, phù hợp trong trường

phổ thông.

192 53,13 93 55,03

Từ bảng trên, ta thấy:

Sự khác biệt ý kiến ở tất cả các nhận định đều không có ý nghĩa, tức

là những quan niệm của giáo viên ở 2 đợt điều tra không có gì khác nhau

đáng kể.

Page 201: TÂM LÝ HỌC GIỚI TÍNH VÀ GIÁO DỤC GIỚI TÍNHsaomaidata.org/library/90...  · Web viewtÂm lÝ hỌc giỚi tÍnh vÀ giÁo dỤc giỚi tÍnh. tÂm lÝ hỌc giỚi tÍnh

Nhận định 1, 2, 4: có tỉ lệ tán thành thấp (từ 9,47% đến 52,29%). Đây

là những nhận định có tính chất phê phán hoặc không đồng ý với việc đưa

giáo dục đời sống gia đình vào nhà trường.

– Nhận định 3: “Không có điều kiện thực hiện trong tình hình hơn nay”

có “tính phản đối” ít hơn, có tỉ lệ tán thành cao hơn (42,19% – 42,60%) nhưng

cũng chỉ có dưới một nửa số ý kiến tán thành.

– Nhận định 5: “Nên thực hiện một cách đúng mức, phù hợp trong nhà

trường phổ thông” chiếm tỉ lệ cao nhất (tù 53,13 đến 55,03%) số ý kiến tán

thành.

Từ những kết quả trên, chúng tôi có kết luận ban đầu như sau:

Số lượng giáo viên quan niệm giáo dục đời sống gia đình cho học

sinh là cần thiết (từ 46,75% đến 65,1%) chiếm tỉ lệ cao hơn hẳn so với số

giáo viên cho là không cần thiết (16,57 % đến 18,75%). Tỉ lệ tán thành việc

giáo dục đời sống gia đình và giới tính cho học sinh chiếm trên 53,13%

(53,13% – 55,03%). Như vậy có thể nói rằng xét về phía dư luận giáo viên,

việc tiến hành giáo dục đời sống gia đình cho học sinh có thể được chấp

nhận trong tình hình hiện nay. Việc giáo dục đó là cần thiết và cần thực hiện

một cách đúng mức, phù hợp với nhà trường, với trình độ học sinh.

– Tuy nhiên số ý kiến giáo viên cho rằng việc giáo dục đời sống gia

đình cho học sinh hiện nay là “không cần thiết” cũng chiếm một tỉ lệ không

nhỏ (từ 16,57% đen 18,75%). Mặt khác, nếu tính đến số ý kiến phân vân “có

cũng được, không cũng được” chiếm từ 16,15% đến 36,69%; giá trị X =

1,527, S = 1,018 và những kết quả thu được qua Bảng 3, chúng tôi thấy rằng:

+ Mức độ và số lượng giáo viên tán thành việc giáo dục đời sống gia

đình và giới tính cho học sinh chưa cao.

+ Còn khá nhiều ý kiến chưa thống nhất.

+ Độ phân tán ý kiến khá lớn.

Page 202: TÂM LÝ HỌC GIỚI TÍNH VÀ GIÁO DỤC GIỚI TÍNHsaomaidata.org/library/90...  · Web viewtÂm lÝ hỌc giỚi tÍnh vÀ giÁo dỤc giỚi tÍnh. tÂm lÝ hỌc giỚi tÍnh

Như vậy việc tiến hành giáo dục đời sống gia đình và giới tính cho học

sinh phổ thông là một việc phức tạp. Chúng ta cần thận trọng chú ý đến nhiều

vấn đề. Nói cách khác, việc giáo dục đời sống gia đình và giới tính cho học

sinh có thể có nhiều khó khăn. Chúng tôi thử tìm hiểu một số khổ khăn điển

hình nhất.

2. Một số khó khăn điển hình có thể gặp phải khi tiến hành giáo dục đời sống gia đình và giới tính cho học sinh phổ thông.

Tập hợp kết quả trả lời ở những câu hỏi mở trong phiếu điều tra, cùng

với việc tổ chức những buổi hội thảo và phông vấn trực tiếp từng người,

chúng tôi thấy các thầy cô giáo đã nêu lên nhiều khó khăn khi thực hiện nội

dung giáo dục này trong nhà trường. Điển hình là những khó khăn sau đây:

a) Phong tục tập quán Việt Nam.

b) Nhiều người chưa thống nhất về vấn đề này.

c) Nhiều người chưa hiểu biết về vấn đề này.

d) Các thầy cô giáo chưa được huấn luyện.

e) Tài liệu về vấn đề này quá ít.

g) Tình hình xã hội phức tạp.

h) Không có thời gian trong năm học vì thương trình học tập của học

sinh đã nặng nề.

i) Học sinh e ngại hoặc dám học.

Để xác định cụ thể hơn những khó khăn có thể có, chúng tôi đưa ra câu

hỏi lựa chọn, tìm hiểu kỹ hơn về sự khẳng định của các thầy cô đối với khó

khăn này, kết quả điều tra thu được ở Bảng số 4 sau đây:

Bảng 4: Sự khẳng định của giáo viên về các khó khăn

S T T

Khó khăn có thể có Đợt 1989 Đợt 1990 Ý nghĩa

của sự Ý kiến

khẳng

% Ý kiến

khẳng

%

Page 203: TÂM LÝ HỌC GIỚI TÍNH VÀ GIÁO DỤC GIỚI TÍNHsaomaidata.org/library/90...  · Web viewtÂm lÝ hỌc giỚi tÍnh vÀ giÁo dỤc giỚi tÍnh. tÂm lÝ hỌc giỚi tÍnh

định địnhkhác biệt

a Phong tục tập quán Việt Nam. 172 89,5

8

151 89,3

5

-

b Nhiều người chưa thống nhất

về vấn đề này.

158 82,2

9

134 72,2

9

-

c Nhiều người chưa hiểu biết về

vấn đề này.

163 84,9

0

147 86,9

8

-

d Các thầy cô giáo chưa được

huấn luyện.

181 94,2

7

145 85,8

0

+

e Tài liệu về vấn đề này quá ít. 148 77,0

8

124 73,3

7

-

g Tình hình xã hội phức tạp. 121 63,0

2

134 72,2

9

+

h Không có thời gian trong năm

học vì thương trình học tập của

học sinh đã nặng nề.

143 74,4

8

147 86,9

8

+

i Học sinh e ngại hoặc dám học. 87 45,3

1

61 36,0

9

-

Qua Bảng 4 ta thấy:

Nếu nhận xét riêng kết quả điều tra năm 1990

Khó khăn được khẳng định nhiều nhất là khó khăn do phong tục tập

quán nước ta gây nên: 89,35%, số ý kiến khẳng định. Do đặc điểm tâm lí dân

tộc, nếp sống xã hội, người dân Việt Nam thường rất e ngại khi nói đến

những vấn đề như tình yêu, sinh lí nam nữ, chuyện vợ chồng… Vì thế, việc

dạy nội dung này cho học sinh dễ bị dư luận xã hội hiểu lầm, thành kiến… Do

Page 204: TÂM LÝ HỌC GIỚI TÍNH VÀ GIÁO DỤC GIỚI TÍNHsaomaidata.org/library/90...  · Web viewtÂm lÝ hỌc giỚi tÍnh vÀ giÁo dỤc giỚi tÍnh. tÂm lÝ hỌc giỚi tÍnh

đó, khi thực hiện những nội dung này còn có những biện pháp cần thiết để

hướng dẫn và chuẩn bị dư luận xã hội.

– Tiếp theo, khó khăn do “Nhiều người chưa hiểu biết về vấn đề này”

và “Không có thời gian để dạy nội dung này trong năm học…” đều được

86,98% ý kiến khẳng định.

– Những nội dung kiến thức về Giáo dục đời sống gia đình và Giới tính

từ trước đến nay chưa được dưa vào giảng dạy tính thức, hệ thống ở nước

ta. Những người quan tâm đến vấn đề này chỉ có thể tự nghiên cứu, tìm tòi,

đọc sách, trao đổi riêng với nhau. Nhưng sách báo, tài liệu có tính giáo dục,

hệ thống, khoa học về vấn đề này lại không có nhiều, chính xác là khá phổ

biến với nhiều người. Sự “chưa hiểu biết” thường biểu hiện ở nhiều mức độ,

nhiều khía cạnh.

+ Chỉ nắm được một số kiến thức có tính kinh nghiệm cá nhân, thiếu

tính lí luận, hệ thống, khái quát; chẳng hạn như kiến thức về quản lí gia đình,

về sự cư xử giới tính…

+ Nắm kiến thức chưa đầy đủ: sự hạn hẹp về khái niệm; ví dụ như các

khái niệm giới tính, đời sống gia đình, quan hệ vợ chồng…

+ Nhiều quan niệm khác nhau về một khái niệm như quan niệm về chữ

trinh, về tình yêu, về tình dục…

+ Thậm thí, có nhiều người hiểu sai, hoặc không biết gì về nhiều vấn đề

của đời sống gia đình và giới tính như kiến thức về cơ thể nam nữ, về đời

sống tình dục, tình yêu và bệnh tình dục…

Sự thiếu hiểu biết như trên, sẽ dẫn đến những thành kiến, những mặc

cảm khó chịu, những ý kiến chống đối lại việc đưa giáo dục đời sống gia đình

và giới tính vào nhà trường.

Trong những cuộc trao đổi trực tiếp với chúng tôi, nhiều thầy cô giáo đã

nói thẳng rằng, chính họ cũng không biết thắc chắn các khái niệm như: giới

tính, hôn nhân, tình yêu… để giải thích cho các em. Vì từ trước đến nay họ

cũng chưa bao giờ được học về tri thức đó. Thậm chí, một cán bộ quản lí cấp

Page 205: TÂM LÝ HỌC GIỚI TÍNH VÀ GIÁO DỤC GIỚI TÍNHsaomaidata.org/library/90...  · Web viewtÂm lÝ hỌc giỚi tÍnh vÀ giÁo dỤc giỚi tÍnh. tÂm lÝ hỌc giỚi tÍnh

thành phố phụ trách tuyên huấn đã phát biểu: “Giới tính là chuyện thiếu tế nhi,

hiện nay cho nên nghiên cứu về vấn đề này”.

Ngay trong hội nghị định hướng của đề án P09 ở Thành phố Hồ Chí

Minh, có một số phụ huynh, giáo viên vẫn lên tiếng phản đối giáo dục giới tính

cho học sinh, vì “đó là chuyện bậy bạ”, “chuyện không nên nói đến trong nhà

trường”, “chuyện sẽ kích thích cho học sinh thêm hư hỏng”… Cả đến một

đồng chí hiệu trưởng trường trung học phổ thông lớn của Thành phố cũng đã

phát biểu: “Chưa nên giáo dục đời sống gia đình và giới tính cho học sinh vì

đây là chuyện thiếu tế nhị, thiếu tính mô phạm, không phù hợp với không khí

thanh cao ở nhà trường”.

Như vậy việc nhận thức chưa đầy đủ (hoặc sự chưa hiểu biết) về giáo

dục đời sống gia đình và giới tính chính là một khó khăn lớn. Đây là một yếu

tố quan trọng chung ta phải tính đến khi triển khai đại trà nội dung giáo dục

này trong nhà trường.

Khó khăn về thời gian giảng dạy trong năm học cũng là một vấn đế.

Hiện nay hoạt động học tập đã quá căng thẳng về thời gian. Số lượng môn

học có chiều hướng tăng lên, nhưng số buổi học và số giáo viên dạy lại giảm

đi.

Như thế việc xếp thời gian để học thêm một môn học nữa là rất khó.

Khi phỏng vấn cá nhân các giáo viên về vấn đề này, nhiều thầy cô giáo đã

nói: các em học sinh đã học quá nhiều, nội dung chương trình đã quá nặng

nề, chỉ nên bớt giờ đi, sao lại tăng thêm giờ? Đây là một khó khăn cần phải

tính đến, phải giải quyết bằng được mới có thể thực hiện tốt việc đưa chương

trình Giáo dục đời sống gia đình và giới tính vào nhà trường.

– Một khó khăn nữa là “giáo viên cho được huấn luyện”, số ý kiến

khẳng định là 145 chiếm 85,80%, đây là một thực tế ở nước ta trong mấy

chục năm trở lại đây. Trong chương trình đào tạo ở các trường sư phạm từ

trung cấp, cao đắng đến đại học sư phạm, trong các lớp huấn luyện bồi

dưỡng đều không có nội dung này. Bởi thế, khi tổ chức dạy thực nghiệm, dạy

thí điểm chương trình Giáo dục đời sống gia đình và Giới tính, chúng ta phải

Page 206: TÂM LÝ HỌC GIỚI TÍNH VÀ GIÁO DỤC GIỚI TÍNHsaomaidata.org/library/90...  · Web viewtÂm lÝ hỌc giỚi tÍnh vÀ giÁo dỤc giỚi tÍnh. tÂm lÝ hỌc giỚi tÍnh

lo giải quyết tình trạng: các giáo viên được mời tham gia giảng dạy chưa

được học chương trình này, làm sao có thể dạy cho học sinh?

– Mặt khác, hiện tượng “nhiều người chưa thống nhất ý kiến về nội

dung giáo dục này” cũng là một khó khăn lớn: có tới 134 ý kiến khẳng định,

chiếm 79,29%.

Sự chưa thống nhất ý kiến có thể ờ nhiều khoá cạnh

+ Chưa thống nhất trong việc nhận thức tầm quan trọng hay sự cần

thiết của việc đưa giáo dục đời sống gia đình vào nhà trường (xem mục 1 đã

trình bày ở trên).

+ Chưa thống nhất về nội dung giảng dạy cho học sinh: dạy cho các em

những kiến thức gì, mức độ đến đâu?

+ Chưa thống nhất quan niệm về một số kiến thức của đời sống gia

đình và giới tính.

+ Chưa thống nhất về thái độ đối với một số vấn đề của nội dung giáo

dục đời sống gia đình.

– Chính những khó khăn này thể hiện rõ nét khi xây dựng chương trình,

biên soạn tài liệu. Nó đặt ra nhiều vấn đề lớn như:

+ Nên dạy cho học sinh những kiến thức gì?

+ Cần lựa chọn những phương pháp dạy nào? Những hình thức giáo

dục nào? Dạy thành môn riêng hay ghép với môn khác?

“Tình hình xã hội phức tạp hiện nay” cũng là một khó khăn cản trở

việc dưa Giáo dục đời sống gia đình và Giới tính vào nhà trường: có 134 ý

kiến khẳng định, chiếm 79,29%.

Hiện trạng trật tự trị an xã hội phức tạp, văn hoá phẩm đồi trụy tràn lan,

nhiều tệ nạn xã hội như xì ke ma tuý, nhậu nhẹt, mãi dâm, trộm cắp… ảnh

hưởng không tốt tới hiệu quả giáo dục. Hiện trạng đó có thể làm tăng thêm

nỗi e ngại của mọi người nếu dạy cho học sinh những vấn đề như tình yêu,

tình dục, sinh lí cơ thể người…

Page 207: TÂM LÝ HỌC GIỚI TÍNH VÀ GIÁO DỤC GIỚI TÍNHsaomaidata.org/library/90...  · Web viewtÂm lÝ hỌc giỚi tÍnh vÀ giÁo dỤc giỚi tÍnh. tÂm lÝ hỌc giỚi tÍnh

Một khó khăn nữa đó là tài liệu, sách báo đúng đắn, khoa học về lĩnh

vực này quá ít. Trước đây, mọi người thường băn khoăn vì chưa có sách giáo

khoa về môn học này. Hiện nay tuy dã có sách về giáo dục giới tính, nhưng

sách tham khảo có tính khoa học chỉ có rất ít. Ngược lại, có rất nhiều các loại

tài liệu phiến diện hoặc thiếu tính khoa học hoặc theo những quan điểm,

những cách hiểu khác nhau về giới tính khiến cho người đọc và các em học

sinh hoang mang không biết nên theo tài liệu nào. Thậm chí, có những sách

biên soạn lệch lạc, chạy theo thị hiếu, thị trường nhằm mục đích kinh doanh,

nên nhiều khi lại có tác dụng phản diện.

Hiện tượng “học sinh e ngại không dám học một số bài” cũng là một

khó khăn cần chú ý (có 61 ý kiến, chiếm 36,09%). Theo ý bến của một số thầy

cô giáo, có nhiều bài học sinh có thể e ngại khi nghe giảng như Kinh nguyệt,

Cấu tạo cơ quan sinh dục nam nữ, Cơ sở khoa học của các biện pháp tránh

thai…

Hiện tượng “học sinh e ngại học một số bài” sẽ được trình bày kĩ trong

một bài viết khác. Ở đây, qua điều tra ý kiến của các thầy cô giáo, chúng tôi

chỉ xin nhấn mạnh rằng đó là một trong những khó khăn mà chúng ta phải

tính đến khi triển khai chương trình giáo dục này.

3. So sánh với kết quả nghiên cứu năm 1989

– Theo Bảng 4, ta thấy những khó khăn như “Phong tục tập quán Việt

Nam”, “Nhiều người chưa thống nhất về vấn đề này”, “Nhiều người chưa biết

về vấn này”, Tài liệu ít: “Học sinh e ngại khi học”, được khẳng định như nhau

ở 2 đợt nghiên cứu, vì sự khác biệt ở 2 đợt nghiên cứu là không có ý nghĩa.

Khó khăn do “Các thầy cô giáo chưa được huấn luyện” trong đợt 2 ít

người khẳng định hơn so với đợt 1, có thể do thời gian này, việc triển khai đề

án P09 đã rộng rãi hơn, vấn đề này đã được nhiều giáo viên quan tâm nghiên

cứu hơn. Điều này cho thấy nếu các thầy cô giáo quan tâm nghiên cứu lĩnh

vực này, khó khăn trên có thể được giải quyết.

Page 208: TÂM LÝ HỌC GIỚI TÍNH VÀ GIÁO DỤC GIỚI TÍNHsaomaidata.org/library/90...  · Web viewtÂm lÝ hỌc giỚi tÍnh vÀ giÁo dỤc giỚi tÍnh. tÂm lÝ hỌc giỚi tÍnh

Tuy nhiên, hiện tại, số ý kiến khẳng định khó khăn này còn chiếm tỉ lệ

rất lớn (85,80%). Cho thấy đây vẫn là một khó khăn cần quan tâm giải quyết

trước mắt.

Các khó khăn “Tình hình xã hội phức tạp”, và “Không có thời gian” ở

đợt nghiên cứu 1990 tăng hơn khá nhiều so với đợt 1989 cho thấy, đây chính

là những vấn đề quan trọng phải rất chú ý giải quyết thích hợp.

4. Kết luận chung

Qua cả 2 đợt nghiên cứu, có thể thấy những khó khăn được nêu trên là

những vấn đề chủ yếu cần tập trung giải quyết, để có thể tiến hành tốt việc

giáo dục đời sống gia đình và giới tính cho học sinh. Từ những khó khăn đó,

chúng tôi thấy cần chú ý một số vấn đề sau:

a) Cần làm tốt công tác tuyên truyền trong nhà trường, xã hội và học sinh về ý nghĩa và nội dung của giáo dục đời sống gia đình và giới tính,

nhất là giới thiệu chương trình giáo dục. Khi giới thiệu ý nghĩa và chương

trình chung của giáo dục đời sống gia đình và giới tính, chúng ta sẽ có thể

tránh được sự phản đối do nhận thức sai lầm hoặc do sự hiểu biết không đầy

đủ về nội dung của những vấn đề khoa học mới này. Thực tế cho thấy nhiều

người phản đối việc giáo dục này chính là vì họ hiểu sai về những nội dung

Giáo dục đời sống gia đình và Giới tính. Qua kết quả nghiên cứu, chúng tôi

cho rằng, khi được giới thiệu, và nhất là khi được nghiên cứu kỹ họ sẽ có thể

thay đổi quan niệm, họ sẽ thấy rõ hơn sự cần thiết của nội dung giáo dục này.

b) Do phong tục tập quán nước ta, khi giảng dạy một số bài như

“Tình dục”, “Tình yêu”, “Đặc điểm cơ quan sinh dục nam nữ”… cần phải chú ý

tiến hành bài giảng thật “tế nhị” và thận trọng.

Ví dụ:

– Xếp thứ tự sau các bài khác, để “từ từ dưa những bài đó vào cho học

sinh quen dần.

– Thái độ giảng bài của giáo viên thật tự nhiên, nghiêm túc.

Page 209: TÂM LÝ HỌC GIỚI TÍNH VÀ GIÁO DỤC GIỚI TÍNHsaomaidata.org/library/90...  · Web viewtÂm lÝ hỌc giỚi tÍnh vÀ giÁo dỤc giỚi tÍnh. tÂm lÝ hỌc giỚi tÍnh

– Ở một số vùng, cần xét đến việc tổ chức dạy nam riêng, nữ riêng ở

một số bài “đặc biệt”.

– Không nên giảng kiến thức một cách sống sượng, thô thiển, dùng từ

ngữ dung tục, hoặc mô tả hiện tượng một cách trần trụi, đơn thuần.

Cần kết hợp việc dạy tri thức với việc giáo dục, hình thành thái độ

đúng đắn, văn hoá đối với các vấn đề trên. Kết hợp việc giảng dạy với việc

phê phán những biểu hiện không tốt trong nếp sống, sinh hoạt có liên quan

tới tri thức của những bài trên.

c) Việc lựa chọn và xây dựng chương trình, nội dung giảng dạy cần

rất khoa học, hợp lí. Có thể mạnh dạn bỏ hoặc thu hẹp thời gian dạy ở một số

bài trong các môn học khác để có thời gian dạy chương trình này.

d) Cần phối hợp với các nhà khoa học nghiên cứu lĩnh vực này, đặt

họ viết sách, viết bài để có nhiều tài liệu xây dựng tủ sách tham khảo cho việc

Giáo dục đời sống gia đình và Giới tính. Cần giúp cho học sinh phân biệt

những sách báo, tài liệu không khoa học, không phù hợp với việc giáo dục

giới tính.

Vấn đề 4VẺ ĐẸP VÀ VẤN ĐỀ LÀM ĐẸP Ở THANH NIÊM

Bài giảng về giới tính cho Thanh niên

Lớp Giáo dục giới tính Nhà Văn hoá

Thành phố Hồ Chí Minh.

I. Ý NGHĨA CỦA VẺ ĐẸP CON NGƯỜI TRONG ĐỜI SỐNG

Vẻ đẹp là yếu tố không thể thiếu được trong đời sống tinh thần của mỗi

con người. Ở đâu, làm việc gì, hầu như con người đều chú ý đến cái đẹp và

cách làm đẹp. Chọn một cái áo, cái nón, một thứ đồ dùng nào đó, chúng ta

Page 210: TÂM LÝ HỌC GIỚI TÍNH VÀ GIÁO DỤC GIỚI TÍNHsaomaidata.org/library/90...  · Web viewtÂm lÝ hỌc giỚi tÍnh vÀ giÁo dỤc giỚi tÍnh. tÂm lÝ hỌc giỚi tÍnh

đều để ý xem nó có đẹp không, nó có làm cho mình đẹp lên không. Đi ra

ngoài nhiều người thường quan tâm đến vẻ đẹp bản thân hay nhận xét vẻ

đẹp của người khác.

Hầu như ở mọi lĩnh vực của cuộc sống, từ tâm tư tình cảm, nguyện

vọng, mơ ước đến lao động, học tập… con người đều hướng tới cái đẹp. Hầu

như ở mọi người, mọi lứa tuổi, nam cũng như nữ ai cũng có nhu cầu về cái

đẹp, cảm thụ cái đẹp, vươn tới cái đẹp… Có thể nói, cái đẹp, là một trong

những yếu tố cơ bản của cuộc sống con người, của đời sống tinh thần của

“tính người” của con người.

Đánh giá con người, chúng ta chú ý đến nhiều cái đẹp của họ: cái đẹp

trong tâm hồn, trong cư xử, hành vi, cái đẹp trong ăn mặc, trang điểm, cái đẹp

bởi sự khoẻ mạnh, trẻ trung, cái đẹp trong nếp sống, trong lao động làm

việc… nhất là đối với bạn gái, người con gái phải biết làm đẹp.

Vẻ đẹp con người, vẻ đẹp cơ thể là yếu tố quan trọng làm nảy sinh nền

văn hoá xã hội, nảy sinh những sáng tạo, những cảm hứng âm nhạc, nghệ

thuật… làm nảy sinh những tình cảm cao đẹp, tình cảm đạo đức xã hội.

Vẻ đẹp con người có khi trở thành yếu tố đầu tiên làm nảy sinh tình yêu

nam nữ hoặc ảnh hưởng lớn đến hạnh phúc vợ chồng. Nhiều trường hợp, chỉ

vì sắc đẹp, thậm chí chỉ một cặp mắt huyền, một mái tóc mây óng ả, một má

lúm đồng tiền… tình yêu đã nảy sinh, say đắm.

Trong lao động, vẻ đẹp làm con người bớt mệt mỏi, làm tăng hứng thú,

tăng năng suất, tăng hiệu quả của lao động.

Đối với thanh niên, vẻ đẹp con người lại càng có ý nghĩa lớn lao, ở tuổi

trẻ, nhu cầu về cái đẹp, sự vươn tới cái đẹp được biểu hiện rõ rệt trực tiếp và

mãnh liệt. Vẻ dẹp con người thường được nhiều bạn trẻ coi là yếu tố đầu tiên

và quan trọng để xem xét người khác và chính bản thân mình. Họ thường

dành nhiều thời gian để tìm hiểu vẻ đẹp của mình; họ rất chú ý làm đẹp, sáng

tạo cái đẹp, nhận thức cái đẹp, cảm thụ cái đẹp… cái đẹp như là một yếu tố

hình thành, phát triển nhân cách của thanh niên.

Page 211: TÂM LÝ HỌC GIỚI TÍNH VÀ GIÁO DỤC GIỚI TÍNHsaomaidata.org/library/90...  · Web viewtÂm lÝ hỌc giỚi tÍnh vÀ giÁo dỤc giỚi tÍnh. tÂm lÝ hỌc giỚi tÍnh

Có thể nói, tuổi trẻ là tuổi khát khao cái đẹp, gắn liền với cái đẹp không

thể thiếu được cái đẹp. Giáo dục thanh niên phải gắn liền với giáo dục về cái

đẹp.

Điều quan trọng là hiểu cho đúng về vẻ đẹp con người và cách làm đẹp

ở con người.

II. THẾ NÀO LÀ VẺ ĐẸP CON NGƯỜI

1. Nói đến vẻ đẹp con người, ta cần chú ý đến hai loại yếu tố chính

a) Vẻ đẹp bên trong

Vẻ đẹp bên trong là vẻ đẹp về đạo đức, tâm hồn con người. Đó là

những phẩm chất đạo đức cao thượng, đúng đắn, phù hợp với đạo đức xã

hội như: sự trung thực, thẳng thắn, đức tính cần cù trong lao động, chăm chỉ

trong công việc, sự lễ độ, lòng nhân ái, lòng chung thuỷ, lòng yêu nước, lòng

dũng cảm, tinh thần trách nhiệm, hăng say trong lao động, lao động sáng

tạo… Những phẩm chất này thể hiện ra ở mọi hành vi, cử chỉ. Chúng là động

cơ cao cả của những cử chỉ, hành vi.

Vẻ đẹp bên trong là những phẩm chất đẹp đẽ của trí tuệ, của nhận thức

như: sự thông minh, linh hoạt, sự nhạy bén, sự hiểu biết rộng, tài năng, tính

văn hoá khoa học… Nó còn là những phẩm chất tốt đẹp khác như: tình cảm

sâu sắc, cảm xúc tinh tế, nhạy bén… Sự kết hợp hài hoà của những phẩm

chất trên, thường tạo ra những vẻ đẹp đặc biệt mà ta thường nói “một tâm

hồn phong phú”, “một con người thông minh, nhạy cảm”.

Vẻ đẹp bên trong còn thể hiện qua tình bạn cao cả, tình yêu thắm thiết,

chung thuỷ, sự đối xử cao thượng… Nó còn là sự biểu hiện một cách phù

hợp, rõ nét, sâu sắc những đặc điểm giới tính con người: “Một cô gái dịu

dàng đôn hậu”, “Một chàng trai dũng cảm, hiên ngang”…

b) Vẻ đẹp bên ngoài:

Là vẻ đẹp biểu hiện ở nhiều khía cạnh, đặc điềm ở con người mà

người khác có thể thấy trực tiếp, bao gồm:

Page 212: TÂM LÝ HỌC GIỚI TÍNH VÀ GIÁO DỤC GIỚI TÍNHsaomaidata.org/library/90...  · Web viewtÂm lÝ hỌc giỚi tÍnh vÀ giÁo dỤc giỚi tÍnh. tÂm lÝ hỌc giỚi tÍnh

– Những vẻ đẹp của hành vi, cử chỉ, nếp sống, dáng điệu, điệu bộ.

Đó là vẻ đẹp của tư thế tác phong, từ cách nghiêng đầu, nghẹo cổ cúi

mình, vuốt tóc… đến cách đi lại, đứng ngồi, các động tác cầm tay… đó là nét

mặt, ánh mắt, nụ cười… Những biểu hiện trên thường được gọi là dáng điệu

con người.

Đó là lời nói với những nội dung, từ ngữ, âm điệu kèm theo: Những lời

nói dịu êm, dứt khoát, ngọt ngào, tế nhị lịch sự… (trái lại, những lời nói sỗ

sàng, trắng trợn, tục tĩu… là sự xấu xa, kém văn hoá). Đánh giá vẻ đẹp người

con gái, dân tộc ta có câu: “Nhất thanh, nhì sắc”. Như thế ngay từ ngày xưa,

người Việt Nam ta đã coi lời nói là một yếu tố quan trọng của vẻ đẹp con

người.

Đó là vẻ đẹp trong lao động hăng say, lao động sáng tạo.

Đó là nếp sống sinh hoạt lành mạnh, văn minh, là sự tổ chức cuộc sống

gọn gàng, ngăn nắp, khoa học dù trong bất kì điều kiện nào. Đó là những hoạt

động vui chơi, thể thao, ca hát sau giờ làm việc là sự sạch sẽ nơi ăn, ở, là

những bông hòa tươi mát trang điểm nơi sinh hoạt, học hành, là cách ăn mặc

lịch sự, phù hợp với điều kiện, vóc dáng con người…

Vẻ đẹp hành vi còn là những hành động, việc làm của con người trong

những điều kiện, tình huống nhất định: sự giúp đỡ người khác, cách xử thế

văn hoá, văn minh, những cử chỉ âu yếm, chăm sóc…

– Vẻ đẹp hình thể: Đó là sự khoẻ mạnh, cường tráng đầy sức sống của

con người, là chiều cao và kích thước hợp lí của các bộ phận cơ thể, là sự

cân đối giữa cái mũi và cái miệng, cặp mắt với hàng mi, khuôn mặt và mái

tóc… Người ta thường nói: “Đôi mắt bồ câu cái mũi dọc dừa”… để chỉ vẻ đẹp

con người. Tuy nhiên, mọi người thường chú ý trước hết vào các yếu tố sau:

+ Thân hình nảy nở, cân đối.

+ Dáng điệu khoẻ mạnh, đầy sức sống và duyên dáng.

+ Nét mặt xinh xắn hài hoà.

Page 213: TÂM LÝ HỌC GIỚI TÍNH VÀ GIÁO DỤC GIỚI TÍNHsaomaidata.org/library/90...  · Web viewtÂm lÝ hỌc giỚi tÍnh vÀ giÁo dỤc giỚi tÍnh. tÂm lÝ hỌc giỚi tÍnh

+ Làn da hồng hào, mịn màng…

c) Mối quan hệ giữa các yếu tố

Vẻ đẹp bên trong và bên ngoài có quan hệ mật thiết với nhau, vẻ đẹp

bên trong thể hiện ra và chi phối vẻ đẹp bên ngoài. Nó có thể làm tăng lên,

giảm đi hoặc thay đổi ý nghĩa của vẻ đẹp bên ngoài. Một bộ quần áo, kiểu tóc,

một hành vi cử chỉ có thể làm đẹp, duyên dáng, nhưng lại có thể trở thành lố

bịch, kệch cỡm. Nguyên nhân chủ yếu do vẻ đẹp bên trong quyết định. Qua

vẻ đẹp bên ngoài, ta lại biết được vẻ đẹp bên trong.

Sự kết hợp hài hoà giữa vẻ đẹp bên trong và bên ngoài sẽ tạo nên vẻ

đẹp toàn diện bền vững và hấp dẫn ở con người, tạo nên cái duyên của con

người.

Nhiều trường hợp, vẻ đẹp bên trong và bên ngoài có mối quan hệ mật

thiết đến nỗi, khó có thể tách bạch được, đâu là yếu tố của vẻ đẹp bên trong,

đâu là của bên ngoài. Thực chất, sự phân chia này chỉ có ý nghĩa tương đối.

Đứng trên một góc độ nhất định, một phẩm chất, một yếu tố nào đó được coi

là vẻ đẹp bên ngoài (mái tóc đẹp, đôi mắt đẹp…) nhưng đứng trên một góc độ

khác nó có thể là vẻ đẹp bên trong. Bởi thế, hiểu được cái đẹp, đánh giá đúng

đắn về cái đẹp là vấn đế rất khó khăn, phức tạp. Muốn hiểu đầy đủ hơn về về

đẹp con người, chúng ta cần chú ý đến tính tâm lí xã hội của nó.

2. Tính tâm lí xã hội của vẻ đẹp con người

Do trình độ khác nhau, con người có nhận thức về cái đẹp khác nhau.

Cùng một kiểu ăn mặc, người này cho là đẹp, là mốt, người khác đánh giá là

vô duyên, trơ trẽn, bất lịch sự. Cùng một hành vi cư xử có bạn trẻ tưởng là

ngang tàng, độc đáo, anh hùng mà không biết rằng mọi người đánh giá là

thiếu văn hoá và vô đạo đức, việc đánh giá về cái đẹp của con người phụ

thuộc vào trình do nhận thức của họ. Muốn làm đẹp phải biết cách làm đẹp,

phải có văn hoá và kiến thức.

Do tình cảm hoặc cảm xúc chi phối, con người cũng đánh giá cái đẹp

không thống nhất: Nếu bạn thích ai, bạn sẽ thấy người đó cái gì cũng đẹp,

Page 214: TÂM LÝ HỌC GIỚI TÍNH VÀ GIÁO DỤC GIỚI TÍNHsaomaidata.org/library/90...  · Web viewtÂm lÝ hỌc giỚi tÍnh vÀ giÁo dỤc giỚi tÍnh. tÂm lÝ hỌc giỚi tÍnh

hoặc bạn chỉ nhìn thấy những cái đẹp ở người đó. Khi đang yêu say đắm, bạn

sẽ thấy “người ta” thật là đẹp: mái tóc đẹp, cặp mắt đẹp, nụ cười tươi trẻ…

thậm chí tiếng… ho của người yêu cũng dễ thương. Có trường hợp, những

đặc điểm xấu được “đẹp hoá” chiếc răng khểnh trở thành có duyên, người

gầy ốm là mảnh mai, người mập là bụ bẫm, nảy nở…

Nhưng nếu bạn ghét người đó, cách đánh giá sẽ hoàn toàn ngược lại.

Bởi vậy, người ta thường nói: “Người đẹp nhất là người mình yêu”.

Những yếu tố đẹp của thái độ, hành vi, những vẻ đẹp của các bộ phận

cơ thể: cặp mắt, đôi môi… chỉ là do thói quen của xã hội, chỉ là do quy ước

của con người.

Mỗi hành vi cử chỉ phù hợp với đạo đức xã hội, những cách ăn mặc,

trang điểm, kiểu đầu tóc, quần áo nếu phù hợp với mọi người, với hoàn cảnh

đều trở thành đẹp đẽ và ngược lại. Nói một cách khác cái đẹp phụ thuộc chủ

yếu vào con người và xã hội. Người Việt Nam chúng ta cho rằng: đôi môi

hồng hào hình trái tim, cặp mắt bồ câu là đẹp, nhưng một số vùng châu Phi lại

cho rằng cặp môi dày, hoặc đôi mắt lác mới là đẹp. Vì thế, nhiều cô gái châu

Phi phải kẹp vào môi những vật nặng, kéo dài môi ra, hoặc từ bé phải tập

nhìn vào một điểm giữa mũi để mắt lác cho đẹp.

Nếu bạn mặc bộ trang phục thật đẹp, thật mốt, sang trọng đắt tiễn để đi

dự hội hay đám cưới, bạn có thể được đánh giá là đẹp. Nhưng nếu bạn ăn

mặc trang điểm như thế để đến thăm một bạn khác nhà nghèo, phải mặc áo

vá, bạn sẽ trở thành kệch cỡm, thiếu văn hoá, thậm chí là tàn nhẫn. Trong

trường hợp đó, chẳng ai khen bạn là đẹp cả.

Có những kiểu quần áo ngoại quốc mà nếu cô gái Việt Nam mặc đi

ngoài đường sẽ có thể bị mọi người đánh giá là trơ trẽn, thiếu đứng đắn.

Nhiều cách làm đẹp, trang điểm vào một thời kì nhất định nào đó, được

nhiều người cho là đẹp và bắt chước, nhưng ở một thời kì khác lại là lạc hậu,

không phù hợp. Có những kiểu giầy dép, đầu tóc đồ dùng từ thế kỉ thứ XIV,

XV bây giờ lại đang là hiện tượng “mốt”.

Page 215: TÂM LÝ HỌC GIỚI TÍNH VÀ GIÁO DỤC GIỚI TÍNHsaomaidata.org/library/90...  · Web viewtÂm lÝ hỌc giỚi tÍnh vÀ giÁo dỤc giỚi tÍnh. tÂm lÝ hỌc giỚi tÍnh

Một chàng trai ăn mặc trang điểm giống hệt một bạn gái, có khi trở

thành một trò cười cho mọi người: người ta sẽ gọi anh chàng là “pêđê” hay ái

nam ái nữ. Trong trường hợp này, vẻ đẹp phụ thuộc vào giới tính: con người

chỉ đẹp thực sự khi ăn mặc, trang điểm phù hợp với giới của mình. Nói một

cách khác, việc làm đẹp phải phù hợp với giới tính.

Còn nhiều yếu tố tâm lí xã hội khác chi phối cái đẹp và việc làm đẹp ở

con người. Do tác động của những yếu tố này, cái đẹp mang tính tương đối.

Khi làm dẹp, chúng ta phải chú ý đến mọi người, đến tính dân tộc, đến hoàn

cảnh, điều kiện, đến giới tính và lứa tuổi… cùng với nhiều yếu tố khác.

Tuy nhiên, vẫn có những tiêu chuẩn nhất định do xã hội đặt ra để đánh

giá vẻ đẹp con người.

Ở nhiều nơi khi chấm thi và lựa chọn hoa hậu người ta thường dựa vào

những tiểu chuẩn như:

– Chiều cao và kích thước của một số bộ phận cơ thể.

– Sự hài hoà cân đối cua một số đường nét trên mặt và cơ thể.

– Dáng điệu, cách cư xử, cách đi lại, đứng ngồi.

– Cách ăn mặc, trang điểm.

– Cách ứng xử, nói năng.

– Sự hiểu biết về đời sống xã hội…

Muốn tìm hiểu về cái đẹp hình thể và làm đẹp một cách có hiệu quả,

bạn trẻ cần biết được đầy đủ và có hệ thống những tiêu chuẩn đó để rèn

luyện.

III. VẤN ĐỀ LÀM ĐẸP Ở THANH NIÊN

1. Những nguyên tắc làm đẹp

Do bản chất của vẻ đẹp con người, đặc biệt do những yếu tố tâm lí, xã

hội của cái đẹp, việc làm đẹp phải tuân theo nhưng nguyên tắc cơ bản sau:

Page 216: TÂM LÝ HỌC GIỚI TÍNH VÀ GIÁO DỤC GIỚI TÍNHsaomaidata.org/library/90...  · Web viewtÂm lÝ hỌc giỚi tÍnh vÀ giÁo dỤc giỚi tÍnh. tÂm lÝ hỌc giỚi tÍnh

– Phải có ý thức làm đẹp đúng đắn ở mọi lúc, mọi nơi trong đời sống

hằng ngày.

– Làm đẹp phải mang tính đạo đức, tức là phải phù hợp với đạo đức xã

hội, phải gắn liền với những phẩm chất đạo đức, đạo lí Việt Nam như: tính

trung thực, lòng nhân ái… Những hành vi đẹp, những vẻ đẹp thực sự ở con

người bao giờ cũng phải xuất phát từ nền tảng đạo đức, động cơ đạo đức tốt

đẹp. Những vẻ đẹp kiêu kì, tàn nhẫn thường làm mọi người xa lánh. Sự cư

xử giả tạo, “màu mè” thường làm người ta khó chịu; thái độ âu yếm, chiều

chuộng của kẻ phản bội, giảo hoạt cũng làm cho người ta ghê sợ…

– Làm đẹp phải đảm bảo giới tính và cá tính. Vẻ đẹp của người nam và

người nữ có đặc điểm khác nhau. Việc làm đẹp phải tuân theo những đặc

điểm đó, nhất là những đặc điểm riêng của mỗi người. Việc làm đẹp theo kiểu

a dua, bắt chước, chạy theo mốt mù quáng, nhiều khi không làm cho bạn đẹp

hơn, mà ngược lại, làm bạn mất đi cái đẹp tự nhiên, vốn có của bạn. Nghệ

thuật làm đẹp chính là ở chỗ, bạn biết tạo ra cái đẹp, phù hợp với đặc điểm

riêng của mình.

– Làm đẹp phải chú ý đến tính hiện đại và tính truyền thống. Là người

Việt Nam, bạn hãy làm đẹp theo kiểu Việt Nam, theo tâm lí Việt Nam. Việc giữ

gìn bản sắc dân tộc nhiều khi giúp cho ta tạo nên những nét đẹp độc đáo: mái

tóc dài Việt Nam, tà áo dài Việt Nam. Tuy nhiên, tính thời đại và mốt cũng rất

cần thiết.

Làm đẹp phải bảo đảm tính cân đối, hài hoà. Đó là sự hài hoà cân đối

giữa các bộ phận cơ thể, giữa các đường nét, màu sắc, hình khối… muốn để

kiểu tóc nào, bạn phải chú ý giữa sự cân đối giữa kiểu tóc ấy với khuôn mặt,

chiều cao… của bạn. Mặc kiểu quần áo nào, phải chú ý đến tầm vóc cơ thể

(mập, ốm…) màu sắc quần áo phải hài hoà với màu da. Đặc biệt phải đảm

bảo sự cân đối giữa vẻ đẹp bên trong với vẻ đẹp bên ngoài.

Làm đẹp phải phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh, phải tuỳ từng lúc,

từng nơi. Bộ quần áo mặc ở nhà đẹp nhưng ra ngoài đường lại không hợp.

Page 217: TÂM LÝ HỌC GIỚI TÍNH VÀ GIÁO DỤC GIỚI TÍNHsaomaidata.org/library/90...  · Web viewtÂm lÝ hỌc giỚi tÍnh vÀ giÁo dỤc giỚi tÍnh. tÂm lÝ hỌc giỚi tÍnh

Nếu đi lao động mà trang điểm chải chuốt, có khi bị chê là ăn diện. Đi dự vũ

hội, dám cưới mà ăn mặc giản dài quá có thể bị gọi là… mắc bệnh tâm thần.

Tóm lại, việc làm đẹp trong ăn mặc luôn phải gắn liền với nguyên tắc

phù hợp và hài hoà.

– Làm đẹp, phải biết cách giữ gìn vẻ đẹp tự nhiên, kết hợp với sự sửa

soạn trang điểm. Nếu bạn sử dụng quá nhiều mĩ phẩm, vẻ đẹp tự nhiên của

bạn sẽ bị ảnh hưởng tai hại. Con người vẫn thích vẻ đẹp tự nhiên sẵn có. Đó

là vẻ đẹp quý giá nhất.

2. Một số vấn đề làm đẹp cụ thể

a) Muốn làm đẹp, việc đầu tiên là bạn phải biết thế nào là đẹp và cách làm đẹp

Đó là một khoa học, một nghệ thuật với nhiều tri thức phức tạp và

phong phú. Trên cơ sở nắm vững tri thức ấy bạn hãy làm đẹp toàn diện, cả

vẻ đẹp bên trong lẫn bên ngoài.

b) Làm đẹp những vẻ đẹp bên trong gắn liền với việc rèn luyện đạo đức và trau dồi kiến thức văn hoá

Bạn hãy rèn luyện để sống đẹp theo tiêu chuẩn của đạo đức xã hội.

Bạn hãy quan tâm đến mọi người, sống nhân hậu, có trách nhiệm, trung thực

và tôn trọng mọi người… đó là những yếu tố cốt lõi của vẻ đẹp bên trong. Bạn

hãy cố gắng học tập nâng cao kiến thức hãy tăng cường giao tiếp, để học hỏi

bạn bè, mở rộng hiểu biết. Có những kiến thức kĩ năng, tưởng chừng bình

thường nhưng lại rất có ý nghĩa đối với vẻ đẹp tâm hồn con người. Bạn đừng

coi thường những tài lẻ, như cách sửa chữa đồ điện, nghệ thuật nấu ăn, cách

làm bánh, cắm bông…

c) Làm đẹp những vẻ đẹp bên ngoài cũng rất phức tạp, đa dạng

Trước hết là làm đẹp trong hành vi cử chỉ, tư thế tác phong. Mỗi

người đều phải giữ gìn ý tứ, tế nhị trong cư xử, lời nói, nụ cười… Để có được

nghệ thuật giao tiếp, các bạn cần luôn luôn chú ý “học ăn, học nó học gói, học

Page 218: TÂM LÝ HỌC GIỚI TÍNH VÀ GIÁO DỤC GIỚI TÍNHsaomaidata.org/library/90...  · Web viewtÂm lÝ hỌc giỚi tÍnh vÀ giÁo dỤc giỚi tÍnh. tÂm lÝ hỌc giỚi tÍnh

mở”. Một số bạn trẻ do hiểu lầm về cách cư xử, nói năng, dễ bị đánh giá là

điệu bộ, kiểu cách, hống hách bêu kì, lập dị… Đó là những cái xấu trong hành

vi, cử chỉ mà mỗi bạn cần tránh.

Việc làm đẹp cơ thể cũng rất quan trọng, để có một thân hình khoẻ

mạnh, cân đối, nảy nở, một làn da đẹp mịn màng, điều trước tiên là phải tập

luyện cơ thể, đặc biệt là tập thể dục thẩm mỹ dưỡng sinh, bơi lội, xoa bóp…

Tập thể dục nhịp điệu cũng rất tốt nhưng cần hỏi ý kiến các thầy thuốc để tập

những bài phù hợp với cơ thể của mỗi người. Chế độ ăn uống cũng ảnh

hưởng quan trọng đến vẻ đẹp hình thể mà mỗi người chúng ta cần lưu ý. Cơ

thể của bạn đẹp hay không chủ yếu phụ thuộc vào sự tập luyện của mình.

Bên cạnh đó, con người còn biết giữ gìn, bảo vệ sức khoẻ và vẻ đẹp của cơ

thể.

Lao động, làm việc trong trời nắng cần mặc áo vải dày, che mặt để bảo

vệ da. Tắm rửa vệ sinh sạch sẽ để không bị nhiễm bệnh…

Việc làm đẹp trong cách ăn mặc, sửa soạn trang điểm không phải là

điều đơn giản, dễ dàng. Nghệ thuật ăn mặc, nghệ thuật trang điểm đòi hỏi

bạn phải có nhiều tri thức khoa học và giao tiếp xã hội rộng rãi. Trong lĩnh vực

này, “mốt” có ý nghĩa rất quan trọng, mỗi bạn trẻ cần biết và vận dụng nó.

– “Mốt” là một hiện tượng tâm lí xã hội đặc biệt, có tác dụng lôi cuốn rất

nhiều người, nhiều khi, nó như một trào lưu xã hội, ít người thoát khỏi ảnh

hưởng của nó.

Trước đây có một số người hiểu lầm về “mốt”, thành kiến với “mốt” cho

rằng cứ ai theo “mốt” là ăn chơi, ăn diện, không đứng đắn… Quan niệm như

thế là chưa đầy đủ, chưa đúng. Thực tế, có những “mốt” hầu như ai cũng bị

ảnh hưởng bởi nó. Trong một mức độ nhất định một là văn hoá xã hội, là kiến

thức mới. Xã hội càng phát triển, càng xuất hiện nhiều “mốt” theo từng địa

phương, từng thời kì lịch sử.

Bởi vậy, không nên chống “mốt”, lên án “mốt” một cách máy móc. Và

cũng không thể chống mốt. He ghen, một nhà triết học nổi tiếng đã nói:

Page 219: TÂM LÝ HỌC GIỚI TÍNH VÀ GIÁO DỤC GIỚI TÍNHsaomaidata.org/library/90...  · Web viewtÂm lÝ hỌc giỚi tÍnh vÀ giÁo dỤc giỚi tÍnh. tÂm lÝ hỌc giỚi tÍnh

“Người nào chống mốt, đó là thằng khùng”. Điều quan trọng là phải hiểu được

mốt và biết vận dụng mốt một cách thích hợp với điều kiện và bản thân.

Sai lầm chính của nhiều bạn trẻ là chạy theo mốt một cách mù quáng.

Thấy mọi người mặc áo thụng, mình cũng phải cố tìm mua áo thụng để mặc,

thấy một người để tóc “xù lông nhím”, mình cũng lập tức “xù lông nhím”. Chạy

theo mốt như thế, bạn khó có thể trở thành đẹp. Nhiều khi nó trở nên kì quái,

khó coi, vì mốt đó không phù hợp với bạn.

Việc chạy theo “mốt” mù quáng có những tác hại cơ bản sau đây:

+ Nếu mốt không hợp sẽ làm bạn xấu đi nhiều.

+ Có những mốt nảy sinh không lành mạnh, không phù hợp với đạo

đức truyền thống văn hoá Việt Nam lan tràn, bị xã hội lên án. Bạn chạy theo

mốt đó sẽ bị giảm giá trị nhân phẩm, hoặc sẽ bị mọi người chê cười. Chẳng

hạn những mốt đầu tóc dị dạng, kiểu “mô đen quằn quại”… Nhiều khi, do

không hiểu biết có những bạn mặc những chiếc áo Pull (áo phông) có in dòng

chữ có hại cho người mặc như “Tôi là một con chó “ (I am a dog), “Hãy hôn

em đi” (Kiss me)…

+ Trong điều kiện hiện nay, việc đua đòi theo mốt của một số bạn trẻ sẽ

là gánh nặng cho gia đình, làm ảnh hưởng cuộc sống của cha mẹ… Bạn ấy là

người vị kỉ, dễ bị mọi người chê cười.

Bởi thế, việc theo mốt, cần chú ý mấy điểm sau đây:

* Bạn phải hiểu về mốt và ý nghĩa của nó.

* Xem mốt có phù hợp với đặc điểm riêng của mình không? Mốt có phù

hợp với điều kiện, hoàn cảnh, nghề nghiệp của bản thân không?

* Tốt nhất, bạn hãy tìm hiểu dư luận xã hội đối với mốt ấy như thế nào,

trước khi vận dụng nó.

3. Việc làm đẹp của thanh niên hiện nay thường có một số nhược điểm sau

Page 220: TÂM LÝ HỌC GIỚI TÍNH VÀ GIÁO DỤC GIỚI TÍNHsaomaidata.org/library/90...  · Web viewtÂm lÝ hỌc giỚi tÍnh vÀ giÁo dỤc giỚi tÍnh. tÂm lÝ hỌc giỚi tÍnh

– Nhiều bạn chỉ chú ý làm đẹp hình thức bên ngoài mà ít quan tâm đến

vẻ đẹp bên trong.

Khi làm đẹp hình thức bên ngoài, nhiều bạn chỉ chú ý làm đẹp trong

việc sửa soạn, trang điểm, ăn mặc, mốt… mà không chú ý tới làm đẹp trong

hành vi, lời nói, nụ cười, cử chỉ…

– Có nhiều bạn chạy theo mốt một cách mù quáng mà không biết vận

dụng mốt cho phù hợp với bản thân. Nhiều bạn nghĩ rằng, việc làm đẹp đồng

nghĩa với việc ăn chơi thời thượng, tiêu xài hoang phí, đồ đạc quần áo phải là

hàng hiệu, phải là vật dụng thật đắt tiền, độc đáo, ít người có được.

– Nhiều bạn không nắm được kĩ thuật làm đẹp trong cách sửa soạn,

trang điểm, ăn mặc… Tình trạng lạm dựng mỹ phẩm, trang điểm thiếu thẩm

mĩ, ăn mặc lố lăng, không phù hợp… còn khá phổ biến.

– Việc cảm thụ cái đẹp trong âm nhạc, nghệ thuật, thể dục thể thao còn

nhiều hạn chế, lệch lạc, phiến diện. Nhiều khi việc tập thể dục nhịp điệu, thấm

mĩ, bơi lội… chỉ có tính phô trương, hình thức, hoặc nhằm mục đích thiếu

lành mạnh.

4. Các bạn trẻ, hãy biết làm đẹp

Vẻ đẹp và làm đẹp là một trong những mục tiêu cơ bản của cuộc sống

con người. Nó là biểu hiện tập trung nhất của lí tưởng thẩm mỹ trong nhận

thức, trong thế giới quan của mỗi người. Cái đẹp lại càng có ý nghĩa quan

trọng đối với lứa tuổi thanh thiếu niên, vì bản thân lứa tuổi thanh thiếu niên là

lứa tuổi đẹp nhất của đời người.

Vẻ đẹp và làm đẹp chính là tri thức, là nếp sống văn hoá, là ước vọng

nhu cầu của mỗi người, của xã hội.

Bởi vậy các bạn trẻ hãy vươn lên tới cái đẹp, hãy tăng cường làm đẹp

và sống đẹp.

Tuy nhiên, bạn hãy chú ý rằng vẻ đẹp không phải ở những kiểu tóc kì

quái, những đồ dùng hàng hiệu đắt tiền… Bạn đừng biến mình thành con

Page 221: TÂM LÝ HỌC GIỚI TÍNH VÀ GIÁO DỤC GIỚI TÍNHsaomaidata.org/library/90...  · Web viewtÂm lÝ hỌc giỚi tÍnh vÀ giÁo dỤc giỚi tÍnh. tÂm lÝ hỌc giỚi tÍnh

công sặc sỡ với cách trang điểm loè loẹt. Bạn đừng trở thành nạn nhân tội

nghiệp của thời trang nước ngoài của lối sống kiểu cách, trưng diện…

Làm đẹp trước hết là nhận thức đúng về cái đẹp và có những cử chỉ,

hành vi đẹp. Làm đẹp là tạo nên nếp sống, lối sống phù hợp với đạo đức xã

hội, là học tập để có tri thức phong phú và đúng đắn, là lao động chân chính

sáng tạo, là sự cống hiến cho con người và xã hội.

Làm đẹp là tạo nên sự hài hoà trong ăn mặc, trang điểm, trong việc sử

dụng đồ dùng theo mốt và thời trang một cách phù hợp.

Làm đẹp là vươn tới mọi yếu tố thẩm mĩ của tự nhiên, xã hội, của con

người.

Có những yếu tố làm đẹp luôn luôn là chân lí, trường tồn với thời gian

và không gian. Đó là cái đẹp trong một tâm hồn cao cả, trong những hành vi

dũng cảm, hi sinh cho tổ quốc, cho dân tộc. Đó là cái đẹp trong lòng nhân ái

yêu thương đối với con người, trong lao động hăng say và sáng tạo, trong

những hành động giúp đỡ người yếu đuối đang gặp khô khăn. Bạn sẽ luôn

luôn nhận thấy sự tôn vinh của xã hội về những hành động đẹp như việc giúp

đỡ một người nghèo bệnh tật, một em bé mồ côi, một cụ già ốm yếu… Bạn sẽ

thấy chân giá trị của con người, những rung cảm, hạnh phúc trong những

hành động đẹp đó.

Có những cái đẹp luôn tạo ra những cảm xúc nhẹ nhàng, thoải mái, thu

hút lòng người. Đó là một vẻ đẹp tâm hồn, vẻ đẹp của cô gái dịu dàng, thuỳ

mị đằm thắm, là vẻ đẹp của tháng trai dũng cảm, mạnh mẽ, tài năng. Mọi

người sẽ phải chú ý, ngạc nhiên trước vẻ thông minh, dáng điệu đàng hoàng,

chững chạc, trước một nụ cười tươi trẻ duyên dáng, một cử chỉ lịch sự văn

minh.

Nhiều yếu tố đẹp luôn luôn làm mọi người thán phục và chiêm ngưỡng.

Đó là sự hài hoà giữa mái tóc với khuôn mặt, giữa màu sắc son với làn da,

giữa vóc dáng cơ thể với kiểu quần áo… Đó là sự phù hợp của mốt và thời

Page 222: TÂM LÝ HỌC GIỚI TÍNH VÀ GIÁO DỤC GIỚI TÍNHsaomaidata.org/library/90...  · Web viewtÂm lÝ hỌc giỚi tÍnh vÀ giÁo dỤc giỚi tÍnh. tÂm lÝ hỌc giỚi tÍnh

trang, giữa tính hiện đại với tình truyền thống, giữa cách làm đẹp ở một người

trong mối quan hệ với những người khác…

Làm đẹp là tri thức và đạo đức, là khoa học và nghệ thuật.

Các bạn trẻ, hãy biết làm đẹp và sống đẹp.

Vấn đề 5NGƯỜI PHỤ NỮ VỚI VIỆC XÂY DỰNG CUỘC SỐNG GIA ĐÌNH

Vấn đề ra đình có ý nghĩa rất lớn đối với người phụ nữ và người phụ

nữ lại có vai trò đặc biệt quan trọng trong gia đình. Trong đời sống tinh cảm,

trong ước vọng cũng như trong nếp sống hằng ngày, người phụ nữ luôn gắn

bó với gia đình, dành trọn vẹn cho gia đình. Tuy nhiên, việc xây dựng cuộc

sống gia đình đối với người phụ nữ lại thường gặp nhiều khó khăn, trắc trở

hơn nam giới.

I. NHỮNG KHÓ KHĂN CỦA NGƯỜI PHỤ NỮ TRONG VIỆC XÂY DỰNG HẠNH PHÚC GIA ĐÌNH

So với nam giới, việc xây dựng cuộc sống gia đình của người Phụ nữ

thường gặp nhiều khó khăn hơn và thiệt thòi hơn. Sự khó khăn, thiệt thòi đó

do những nguyên nhân như:

1. Do đặc điểm tâm sinh lí ở người phụ nữ

Người phụ nữ có tầm vóc nhỏ hơn nam giới, sức mạnh thể lực thường

chỉ bằng 4/5 so với nam giới. Tuy nhiên, ở người phụ nữ lại có những thiên

chức nặng nề hơn nam giới. Việc thực hiện những thiên chức này nếu không

đám bảo tính khoa học, hợp lí sẽ là những yếu tố ảnh hưởng mạnh mẽ đến

sức khoẻ, sắc đẹp và độ trẻ trung của người phụ nữ.

Trong đời sống sinh lí cơ thể, người phụ nữ trường thành sớm hơn

nam giới nhưng cũng già đi nhanh hơn nam giới. Ở độ tuổi 45 – 55, sau thời

kì hồi xuân, người phụ nữ thường bước sang tuổi già. Trong khi đó đối với

nam giới, thường vẫn còn rất khoẻ mạnh và nhiều “xuân sắc”.

Page 223: TÂM LÝ HỌC GIỚI TÍNH VÀ GIÁO DỤC GIỚI TÍNHsaomaidata.org/library/90...  · Web viewtÂm lÝ hỌc giỚi tÍnh vÀ giÁo dỤc giỚi tÍnh. tÂm lÝ hỌc giỚi tÍnh

Hiện tượng kinh nguyệt hằng tháng có ý nghĩa đặc biệt, thể hiện tình

trạng sức khoẻ và khả năng sinh nở của người phụ nữ. Nếu không đảm bảo

đúng những điều kiện vệ sinh kinh nguyệt cần thiết người phụ nữ dễ bị ảnh

hưởng nghiêm trọng đến sức khoẻ, vẻ đẹp và độ trẻ trung.

Vấn đề sinh nở đảm bảo tính khoa học, vừa là một thiên chức cao cả

vừa có tác dụng nâng cao nữ tính, vẻ đẹp của người phụ nữ. Tuy nhiên, nếu

sinh nở không đúng khoa học (quá nhiều, quá mau hoặc không biết cách cho

con bú, nuôi con khi còn nhỏ…), người phụ nữ sẽ già nhanh, xấu nhanh, ốm

yếu đi nhanh chóng. Dù là một thiên chức cao cả, thiêng liêng, việc sinh nở

vẫn là một gánh nặng đối với người phụ nữ trong cuộc sống gia đình

Những vấn đề sinh lí trên ảnh hưởng rất nhiều đến người phụ nữ trong

việc xây dựng hạnh phúc gia đình. Khi xấu đi, già đi, hoặc ốm yếu đi, người

phụ nữ sẽ mất đi một thứ “vũ khí mạnh mẽ” để bảo vệ hạnh phúc gia đình của

mình.

2. Do những quan niệm sai trái lạc hậu về vai trò của người phụ nữ trong cuộc sống gia đình

Những quan niệm xưa cũ và lạc hậu cho rằng người phụ nữ không có

quyền chủ động xây dựng cuộc sống gia đình. Họ phải tuân theo sự sắp đặt

và yêu cầu của cha mẹ (cha mẹ đặt đâu con ngồi đây). Thậm chí, hôn nhân

đối với người phụ nữ có khi giống như là một cuộc mua bán, trong đó họ trở

thành một món hàng phục vụ cho những mưa đồ riêng tư của người khác.

Ngày nay, vẫn còn có người quan niệm rằng người phụ nữ đàng hoàng, đứng

đắn không nên chủ động “tấn công” hoặc chủ động biểu lộ tình yêu đối với

nam giới.

Trong gia đình, nhiều người chồng vẫn còn muốn theo quan niệm “tam

tòng”, hoặc mang nặng tư tưởng “chồng chúa vợ tôi”, coi thường vai trò của

người vợ. Họ muốn người phụ nữ phải hầu hạ chồng, tuyệt đối tuân theo

mệnh lệnh của chồng. Một số người chồng kém đạo đức, kém hiểu biết còn

thiếu tôn trọng vợ, thậm chí đánh đập tàn nhẫn dã man vợ mình. Họ cho rằng

Page 224: TÂM LÝ HỌC GIỚI TÍNH VÀ GIÁO DỤC GIỚI TÍNHsaomaidata.org/library/90...  · Web viewtÂm lÝ hỌc giỚi tÍnh vÀ giÁo dỤc giỚi tÍnh. tÂm lÝ hỌc giỚi tÍnh

họ có quyền dạy vợ đánh đập vợ nếu làm trái ý của họ. Nạn bạo hành trong

gia đình chủ yếu do người chồng gây ra.

Những công việc nội trợ gia đình, nuôi dạy và chăm sóc con cái thường

được coi là trách nhiệm của người vợ. Nhiều ông chồng cho rằng đó chỉ là

những việc vặt không đáng kể, không phải là việc của đàn ông.

Trong thực tế, nhiều công trình nghiên cứu khoa học đã xác nhận rằng

các công việc nội trợ gia đình: thu dọn, vệ sinh nhà cửa, cơm nước, chăm sóc

con cái… đã tiêu hao năng lượng, sức lực rất lớn của người phụ nữ. Toàn bộ

năng lượng tiêu hao để phục vụ cho công việc nội trợ gia đình trong một ngày

có thể tương đương với một ngày công lao động.

Nếu người phụ nữ ngoài việc đảm trách công việc do xã hội giao phó

“là công nhân viên chức hoặc phải làm ăn sinh sống…), lại phải chịu toàn bộ

gánh nặng của công việc nội trợ gia đình, sẽ bị ảnh hưởng nặng nề về mặt

sức khoẻ, và không còn thời gian để có điều kiện rèn luyện và phát triển nhân

cách, tài năng: Chính những công việc nội trợ gia đình quá vất vả nặng nề ở

người phụ nữ trong khi họ còn phải làm việc ở cơ quan Nhà nước hoặc lo

bươn chải kiếm sống là một trong những nguyên nhân chủ yếu làm cho họ

già đi, xấu đi và ốm yếu nhanh hơn.

Trong xã hội, vẫn còn có nhiều người đánh giá quá khắt khe, quá nặng

nề về người phụ nữ trong tình yêu và xây dựng cuộc sống gia đình. Họ đòi

hỏi rất cao ở người phụ nữ về tính “đứng đắn”, tính “nghiêm túc”, tính “chung

thuỷ”, tính “nề nếp” trong sinh hoạt… Nếu mắc một chút thiếu sót nào, người

phụ nữ sẽ bị lên án nghiêm khắc hơn rất nhiều so với nam giới.

Do quan niệm không được chủ động trong tình yêu và hôn nhân, người

phụ nữ phải “giữ giá”, phải chờ đợi người đàn ông nào đó đến với mình,

nhiều chị thường gặp khó khăn trong việc xây dựng gia đình, có chị đến tuổi

già vẫn chưa tìm được một người chồng, một người yêu mong đợi.

3. Do sự phức tạp trong đời sống xã hội hiện nay

Page 225: TÂM LÝ HỌC GIỚI TÍNH VÀ GIÁO DỤC GIỚI TÍNHsaomaidata.org/library/90...  · Web viewtÂm lÝ hỌc giỚi tÍnh vÀ giÁo dỤc giỚi tÍnh. tÂm lÝ hỌc giỚi tÍnh

Trong nền kinh tế thị trường vai trò của đồng tiền ngày một gia tăng,

nhiều người phụ nữ phải hi sinh bản thân mình để giải quyết vấn đề sinh kế

cho gia đình. Họ phải làm việc ngày đêm để kiếm sống, phải chăm lo công

việc gia đình mà không có điều kiện hưởng thụ hay rèn luyện học tập để phát

triển nhân cách. Đời sống kinh tế xã hội hiện nay đang nâng cao và phát triển

mạnh, nhưng những tiêu cực những tệ nạn xã hội cũng có chiều hướng gia

tăng và ảnh hưởng mạnh đến cuộc sống của mỗi gia đình.

Do đặc điểm tâm sinh lí, người đàn ông thường dễ mắc những thiếu sót

trong đời sống hôn nhân. Họ dễ bị sa ngã cám dỗ bởi sinh hoạt vật chất, sắc

đẹp. Những tệ nạn xã hội: cờ bạc, rượu chè, xì ke, ma tuý, chơi bời trác táng

thường lôi kéo quyến rũ người chồng, người con, gây ảnh hưởng nặng nề

căng thẳng cho gia đình, là một trong những nguyên nhân chủ yếu phá hoại

hạnh phúc, làm cho gia đình đổ vỡ. Trong những trường hợp ấy người phụ

nữ chính là người phải gánh chịu những bất hạnh.

4. Do tính phức tạp của cuộc sống gia đình

Bản thân gia đình có nhiều mối quan hệ phức tạp và đa dạng. Trong

cuộc sống chung của vợ chồng có rất nhiều vấn đề khó khăn nảy sinh: sự

xung đột vợ chồng, quy luật biến động của đời sống gia đình, sự nhàm chán

tâm lí, sinh lí, sự vất vả trong việc sinh nở và nuôi dạy con cái, những tác

động phức tạp của xã hội, bạn bè… có thể dẫn đến sự suy giảm hạnh phúc.

Nếu không biết cách giải quyết phù hợp, không biết cách xây dựng hạnh phúc

gia đình, người phụ nữ dễ bị trở thành người gánh chịu những đau khổ,

những bất hạnh.

5. Do một số nhược điểm, hạn chế của chính bản thân người phụ nữ

Trong đời sống xã hội, nhiều người phụ nữ còn bị hạn chế về trình độ

văn hoá xã hội. Với tính khiêm tốn nhiều khi đến mức tự ti, tính nhút nhát tính

an phận, một số chị không mạnh dạn, không dám đấu tranh với những sai trái

của chồng con.

Page 226: TÂM LÝ HỌC GIỚI TÍNH VÀ GIÁO DỤC GIỚI TÍNHsaomaidata.org/library/90...  · Web viewtÂm lÝ hỌc giỚi tÍnh vÀ giÁo dỤc giỚi tÍnh. tÂm lÝ hỌc giỚi tÍnh

Một số chị thiếu tự tin, chưa quan tâm nhiều đến việc học tập, nghiên

cứu… do đó, trình độ hiểu biết những kiến thức về văn hoá, xã hội, đặc biệt là

những kiến thức về đời sống gia đình, về thời sự chính trị còn thấp. Việc tham

gia những hoạt động xã hội, kể cả hoạt động của Hội Phụ nữ, một tổ chức

thực sự bảo vệ quyền lợi cho người phụ nữ, còn ít. Chính sự hạn chế này làm

cho người phụ nữ khó hiểu biết và hoà hợp với người chồng, khó có điều kiện

chủ động giữ gìn hạnh phúc gia đình.

Ngoài ra còn khá nhiều những lí do khám quan và chủ quan khác làm

cho người phụ nữ gặp nhiều khó khăn trong việc xây dựng cuộc sống gia

đình.

II. NGƯỜI PHỤ NỮ PHẢI LÀM GÌ ĐỂ XÂY DỰNG HẠNH PHÚC GIA ĐÌNH

Hạnh phúc gia đình là ước mơ là nguyện vọng của mọi người. Nhưng

hạnh phúc gia đình không tự nhiên mà có, và xây dựng cuộc sống hạnh phúc

gia đình không phải là việc dễ dàng. Mỗi người chúng ta cần phải chủ động

và biết cách xây dựng, giữ gìn, bảo vệ hạnh phúc gia đình. Trong tình hình xã

hội hiện nay, người phụ nữ cần đặc biệt quan tâm đến những vấn đề sau đây:

Cần phải có những quan niệm mới hơn và đúng hơn về cuộc sống gia

đình. Người phụ nữ cần phải xem cuộc sống gia đình là một bộ phận của đời

sống xã hội, phải chủ động hoà nhập cuộc sống gia đình của mình với đời

sống xã hội. Phải tăng cường việc tham gia hoạt động xã hội thông qua việc

tham gia những hoạt động của Hội Phụ nữ, của tổ chức Công đoàn (hoạt

động nữ công), hoặc của Đoàn Thanh niên Cộng sản… Đó là những tổ chức

chăm lo trực tiếp và thực sự cho quyền lợi của người phụ nữ.

Người phụ nữ phải quan tâm tiếp cận với những thông tin mới qua việc

đọc báo chí, xem truyền hình hay nghe đài phát thanh, nhất là những chủ

trương, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước, những vấn đề về tình

hình thời sự, chính trị nổi bật ở trong nước và trên thế giới.

Page 227: TÂM LÝ HỌC GIỚI TÍNH VÀ GIÁO DỤC GIỚI TÍNHsaomaidata.org/library/90...  · Web viewtÂm lÝ hỌc giỚi tÍnh vÀ giÁo dỤc giỚi tÍnh. tÂm lÝ hỌc giỚi tÍnh

+ Cần phải mạnh dạn và tự tin, tăng cường việc học tập nâng cao trình

độ tri thức và trí tuệ. Phải tăng cường việc giao tiếp xã hội, tạo sự hoà hợp

với chồng con trong đời sống văn hoá xã hội.

+ Cần chủ động trong việc giải quyết các công việc của gia đình, mạnh

dạn dấu tranh một cách hợp lí với những sai trái của chồng con, hay của các

thành viên khác trong gia đình.

Cần thay đổi cách tiết kiệm trong chi tiêu mua sắm, mạnh dạn tăng

cường trang bị những thiết bị tiện nghi cần thiết và tối thiểu trong gia đình (ti

vi, tủ lạnh, bếp gas, máy giặt…) để giảm bớt gánh nặng vất vả của công việc

nội trợ, phục vụ cho cuộc sống chung.

– Chú ý nhiều hơn đến việc giữ gìn bảo vệ sức khoẻ, độ trẻ trung sắc

đẹp như: tập luyện thể dục thể thao, trang điểm, sử dụng mỹ phẩm và ăn mặc

hợp lí… Việc làm đẹp ở đây là vẻ đẹp toàn diện, từ vẻ đẹp tâm hồn đến vẻ

đẹp hình thức. Đối với chồng con, cần quan tâm tạo vẻ đẹp từ nét mặt tươi

tắn đến dáng vẻ dịu dàng, từ cách ăn mặc trang điểm đến cách nói năng cư

xử…

Cần chú ý nhiều đến việc cải tiến tổ chức cuộc sống gia đình, sắp xếp

thời gian hợp lí cho các công việc, có lúc nghỉ ngơi, vui chơi giải trí, có lúc

xem phim ảnh, truyền hình, có những hoạt động tổ chức kĩ niệm giỗ, tết, du

lịch, có những giờ phút tâm tình với chồng con có sự phân công hợp lí công

việc và trách nhiệm cho mỗi thành viên trong gia đình…

Cần có những hiểu biết đầy đủ và khoa học về cuộc sống gia đình đặc

biệt là nghệ thuật cư xử trong quan hệ vợ chồng, nghệ thuật tổ thức cuộc

sống gia đình, nghệ thuật sinh nở và nuôi con, nghệ thuật quan hệ giữa gia

đình với xã hội, nghệ thuật bảo vệ hạnh phúc gia đình. Cần lưu ý rằng người

đàn ông dù to lớn khoẻ mạnh đến đâu vẫn muốn trở thành bé nhỏ trong vòng

tay âu yếm của vợ mình. Không một người chồng nào lại muốn có một người

vợ lúc nào cũng “sẵn sàng tranh luận”, “nói năng gay gắt” và “chiến đấu dũng

cảm” với mình.

Page 228: TÂM LÝ HỌC GIỚI TÍNH VÀ GIÁO DỤC GIỚI TÍNHsaomaidata.org/library/90...  · Web viewtÂm lÝ hỌc giỚi tÍnh vÀ giÁo dỤc giỚi tÍnh. tÂm lÝ hỌc giỚi tÍnh

Nghệ thuật cư xử trong gia đình bao gồm rất nhiều yếu tố, từ cách nói

năng đến nét mặt nụ cười, từ cách khen, chê đến những hành vi đối xử, từ sự

quan tâm chăm sóc đến những cử chỉ đằm thắm yêu thương…

Vấn đề 6SỰ PHÁT TRIỂN CON NGƯỜI VỚI VẤN ĐỀ GIÁO DỤC GIỚI TÍNH

Tạp chí Nghiên cứu Con người số 3, 2003

Ngày nay, ở nước ta, cùng với các yếu tố kinh tế, văn hoá, yếu tố con

người được coi là những yếu tố hàng đầu để phát triển xã hội, phát triển đất

nước. Nhiều nhà nghiên cứu đều thống nhất rằng, muốn phát triển xã hội,

phát triển đất nước, cần phải phát triển kinh tế, phát triển văn hoá. Điếu đó có

nghĩa là phải phát triển con người, vì các vấn đế kinh tế, văn hoá luôn gắn bó

mật thiết với các vấn đề con người. Văn hoá là sản phẩm của con người.

Giáo sư Viện sĩ Nguyên Duy Quý khẳng định: “Trong sự phát triển xã

hội, với bất cứ giải pháp nào, chúng ta cũng phải lấy con người, các quan hệ

của con người trình độ phát triển con người làm nền tảng”. “Muốn đất nước

và xã hội phát triển được, con người phải có sức khoẻ, có học vấn, có cấu

trúc thể chất và tinh thần hài hoà”. “Con người phải được sống hạnh phúc

trong gia đình và tổ quốc của mình”. Con người phải được chăm sóc tốt, phải

được giáo dục tốt, nhờ đó tiềm năng của con người mới được phát triển để

“thực sự trở thành động lực của sự phát triển xã hội”.

Như vậy muốn đất nước phát triển, con người phải được phát triển. Để

giúp cho con người được phát triển mạnh mẽ, có khả năng đóng góp tích cực

cho sự phát triển xã hội, chúng ta cần phải hiểu sâu sắc và đúng đắn về con

người.

Theo Giáo sư Viện sĩ Phạm Minh Hạc, “Khái niệm người, con người hết

sức phức tạp… có khi người ta gọi con người là một hệ thống tích hợp mang

cả đặc điểm của vũ trụ, giới sinh học, xã hội tâm lý chứa đựng tất cả các hình

thức phản ánh: cơ, sinh, xã hội, tâm lý còn cấu trúc người nói chung, cấu trúc

Page 229: TÂM LÝ HỌC GIỚI TÍNH VÀ GIÁO DỤC GIỚI TÍNHsaomaidata.org/library/90...  · Web viewtÂm lÝ hỌc giỚi tÍnh vÀ giÁo dỤc giỚi tÍnh. tÂm lÝ hỌc giỚi tÍnh

nhân cách, cấu trúc tâm lý nói riêng bao gồm nhiều yếu tố đan xen: tinh thần

và vật chất, tâm linh và thể xác, nhân cách và sinh thể, lí tưởng và hiện thực,

động cơ và hành vi…”. Vì vậy hiểu đầy đủ toàn diện về con người là một vấn

đề rất khó khăn, cần có những quá trình nghiên cứu công phu và đúng

hướng.

Ở nước ta hiện nay, vấn đề quan trọng là phải tập trung “Nghiên cứu

con người và nguồn nhân lực để vào công nghiệp hoá, hiện đại hoá”. Phải

làm cho con người có đủ khả năng đáp ứng được những yêu cầu mới của sự

nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, tham gia tích cực và hiệu quả

vào việc xây dựng đất nước. Để làm được điều đó, phải tăng cường giáo dục

và phát triển con người về mọi mặt: đạo đức, tư tưởng, trình độ văn hoá và

khoa học kĩ thuật, năng lực chuyên môn, đặc điểm thể chất… trong đó, có

một mặt trước đây chưa được quan tâm nhiều, đó là đời sống giới tính.

Trong sự tồn tại và phát triển của con người, đời sống giới tính có vai

trò đặc biệt quan trọng.

Trước hết, mọi người đều thấy rằng, một người có giới tính rõ rệt và

bình thường sẽ có điều kiện phát triển thuận lợi. Những đặc điểm sinh lí, tâm

lí giới tính đó giúp con người có sự phát triển cơ thể hài hoà, khoẻ mạnh, có

sự cân đối giữa thể chất và tinh thần, có sự tự tin trong cuộc sống… Nhờ đó,

con người mới có điều kiện phát triển toàn diện, có khả năng lao động sáng

tạo, có cuộc sống gia đình hạnh phúc, sinh con khoẻ mạnh, góp phần xây

dựng và phát triển xã hội. Ngược lại, những người có giới tính không bình

thường dễ gặp khó khăn trong sinh hoạt, trong cuộc sống. Xã hội ta chưa

chấp nhận những người con trai mà đi lại uốn éo, phấn son loè loẹt cũng như

người con gái hưng tợn ngổ ngáo, nói cười oang oang… Những người bệnh

hoạn về giới tính khó có thể phát triển toàn diện hay có cuộc sống gia đình

hạnh phúc.

– Nhiều đặc điểm giới tính ảnh hưởng mạnh mẽ và trực tiếp đến sự

hình thành và phát triển nhân cách, có khi cũng chính là đặc điểm nhân cách.

Page 230: TÂM LÝ HỌC GIỚI TÍNH VÀ GIÁO DỤC GIỚI TÍNHsaomaidata.org/library/90...  · Web viewtÂm lÝ hỌc giỚi tÍnh vÀ giÁo dỤc giỚi tÍnh. tÂm lÝ hỌc giỚi tÍnh

Theo cách đánh giá chung của nhiều người, một con người toàn diện,

có văn hoá, có đạo đức, phải là người có những đặc điểm mang bản sắc

riêng của giới: người con trai phải đàng hoàng, mạnh mẽ, lịch sự, cường

tráng… Những người con gái phải dịu dàng, thuỳ mị, uyển chuyển, khéo léo…

Các bậc cha mẹ luôn luôn đòi hỏi người con gái phải đi lại nhẹ nhàng, đứng

ngồi kín đáo… người con trai cần nói năng rõ ràng, tính cách cao thượng,

dũng cảm, sẵn sàng hi sinh cho Tổ quốc. Đó là những phẩm chất giới tính tốt

đẹp của con người, của truyền thống văn hoá dân tộc Việt Nam.

Ngày nay, trong điều kiện đất nước phát triển, tiến tới công nghiệp hoá,

hiện đại hoá chúng ta không đòi hỏi người nam, người nữ quá khắt khe như

xưa, nhưng nhiều phẩm chất tốt đẹp của giới tính theo truyền thống Việt Nam,

vẫn là những đòi hỏi của xã hội đối với con người, trở thành những phẩm

chất, những yếu tố đẹp đẽ trong văn hoá dân tộc. Đó là những yếu tố của đạo

đức giới tính. Những phẩm chất giới tính tốt đẹp trên, đồng thời cũng là

những phẩm chất của nhân cách, góp phần tạo nên nền tảng đạo đức của

nhân cách con người Việt Nam.

Như vậy, sự hình thành, phát triển những phẩm chất giới tính tốt đẹp

góp phần cho nhân cách phát triển, cho con người phát triển. Ngược lại,

những đặc điểm tiêu cực của giới tính lại có thể làm suy thoái đạo đức làm

tha hoá nhân cách.

Khi con người không được giáo dục đầy đủ, kém hiểu biết về giới tính,

những đặc điểm đó, nhất là một số bản năng, dễ đưa họ vào các tệ nạn xã

hội, ăn chơi sa đoạ, cờ bạc, mại dâm… từ đó sa vào vòng tội lỗi, trở thành

những phần tử phá hoại xã hội.

Sự kém hiểu biết trong quan hệ giới tính cũng dễ dẫn tới những hành vi

cử chỉ thiếu văn hoá, vi phạm đạo đức xã hội. Một số thanh niên do nhận thức

về giao tiếp nam nữ yếu kém hoặc sai lầm, dễ có hành vi cư xử với bạn khác

giới một cách suồng sã, sàm sỡ, thô bạo. Họ thường nói năng thô tục, ăn mặc

lố lăng, bất lịch sự nơi công cộng, phá rối trật tự kỉ cương xã hội.

Page 231: TÂM LÝ HỌC GIỚI TÍNH VÀ GIÁO DỤC GIỚI TÍNHsaomaidata.org/library/90...  · Web viewtÂm lÝ hỌc giỚi tÍnh vÀ giÁo dỤc giỚi tÍnh. tÂm lÝ hỌc giỚi tÍnh

Có trường hợp, do nhận thức về giới tính yếu kém, một số ít cán bộ,

mặc dù có động cơ tốt nhưng lại mắc sai lầm trong giáo dục con người: tổ

chức những sinh hoạt, những trò chơi xô bồ, lộn xộn, cho từng cặp nam nữ

cõng nhau chạy thi, ngồi lên vai nhau để đập vỡ chiếc niêu đất treo trên cao;

cô mẫu giáo trang điểm phấn son cho các em trai giống như các em gái; trong

lớp học các em nữ sinh trung học phổ thông lớp 10 – 12 (khoảng 16 – 18 tuổi)

trong tà áo dài trắng mỏng manh, ngồi ngay trước mặt hoặc sát bên cạnh các

bạn trai đồng lứa tuổi… Đó là những sai lầm vô tình, nhưng cũng có thể dẫn

đến những hậu quả tai hại khó lường, ảnh hưởng đến sự phát triển con

người, phát triển xã hội.

Ngày nay, nhiều nhà giáo dục, nhiều bậc phụ huynh đang rất lo ngại

tình trạng một bộ phận thanh niên có những biểu hiện xấu trong sinh hoạt,

trong tình yêu như: yêu đương quá sớm, yêu đương mù quáng, nếp sống

sinh hoạt nam nữ trụy lạc… Một số em yêu theo kiểu tình yêu tự do, tình yêu

không cần hôn nhân, sống gấp, sống thử… Những biểu hiện trên đây là kết

quả của sự nhận thức sai lầm về tình yêu, một lĩnh vực tình cảm rất phức tạp,

nhưng cũng hết sức quan trọng của đời sống giới tính con người, trong tuổi

trẻ. Có em bó cả học hành, ăn chơi trác táng, ôm nhau trong những điệu nhảy

điên cuồng, thâu đêm suốt sáng do tác dụng của các loại thuốc kích thích.

Những kiểu ăn chơi này làm cho các em dần dần đi đến bại hoại thanh danh,

tha hoá nhân cách và bước vào vòng tội lỗi…

Một số khá đông các em hiện nay theo quan niệm tình dục tự do, tình

dục không cần hôn nhân, yêu đương quá sớm… dẫn tới tình trạng quan hệ

lang chạ, có thai ngoài ý muốn, mắc nhiễm các bệnh lây lan qua đường tình

dục, nạo phá thai bị biến chứng… Tình trạng nạo phá thai ngày nay càng gia

tăng trong lớp trẻ và gây nhiều hậu quả tai hại.

Còn nhiều những biểu hiện phức tạp khác trong đời sống gia đình như:

cuộc sống vợ chồng thiếu hạnh phúc, tỉ lệ li hôn ngày một gia tăng, bạo hành

trong gia đình… Đó cũng là những vấn đề của đời sống giới tính, nếu con

Page 232: TÂM LÝ HỌC GIỚI TÍNH VÀ GIÁO DỤC GIỚI TÍNHsaomaidata.org/library/90...  · Web viewtÂm lÝ hỌc giỚi tÍnh vÀ giÁo dỤc giỚi tÍnh. tÂm lÝ hỌc giỚi tÍnh

người không được hướng dẫn, tìm hiểu, họ sẽ mắc những sai lầm đáng tiếc,

khó có thể cứu vãn trong đời sống hôn nhân.

Những biểu hiện phức tạp trên gây nhiều khó khăn cho cuộc sống con

người, làm cho họ khó có thể có cuộc sống hạnh phúc và phát triển toàn diện,

mà nguyên nhân chủ yếu chính là sự thiếu hiểu biết về đời sống giới tính.

Vì vậy, để có sự phát triển con người mạnh mẽ, bên cạnh các nội dung

giáo dục đạo đức, tư tưởng, năng lực… cần chú ý tăng cường giáo dục giới

tính. Cần thực hiện nội dung giáo dục giới tính một cách toàn diện đầy đủ và

hợp lí.

Trong điều tra nghiên cứu của chúng tôi và của nhiều tác giả khác giáo

dục giới tính vẫn chưa được quan tâm đầy đủ và thực hiện nghiêm tức ở

trường học. Nhiều nơi nội dung này vẫn bị cắt xén một cách tuỳ tiện. Những

kiến thức về giới tính trong thanh niên học sinh, sinh viên chủ yếu được họ

nhận thức bằng con đường tự đọc sách, rút kinh nghiệm, thông qua bạn bè

và nếp sống sinh hoạt hằng ngày. Điều đó có phần đáng ngại vì những kinh

nghiệm thường khó có thể đúng đắn, khoa học. Mặt khác, trong thị trường

sách báo hiện nay, những sách báo về giới tính rất phức tạp. Những sách

khoa học và phản khoa học đang “thực giả lẫn lộn”. Có những cuốn sách núp

dưới chiêu bài giáo dục giới tính, nhưng thực chất là kích thích thị hiếu sai

lệch, tính tò mò của thanh niên, chạy theo mục đích kinh doanh.

Một thực tế trong hoạt động giáo dục và tuyên truyền hiện nay về lĩnh

vực giới tính là, đang có hiện tượng quá tập trung, quá nặng về sinh lí giới

tính (giáo dục sức khoẻ sinh sản, bệnh lí giới tính, giáo dục tình dục…), mà ít

chú ý đến giáo dục toàn diện về giới tính, giáo dục những thái độ, phẩm chất

đạo đức giới tính, thẩm mĩ giới tính, quan hệ giới tính, sự cư xử giữa nam và

nữ… Hiện tượng đó có thể gây ra những hậu quả như:

Dẫn đến sự nhận thức phiến diện trong mọi người về đời sống giới

tính. Có thể mọi người cho rằng giới tính thì là những đặc điểm sinh lí cơ thể,

quan hệ tình dục, sự sinh nở…

Page 233: TÂM LÝ HỌC GIỚI TÍNH VÀ GIÁO DỤC GIỚI TÍNHsaomaidata.org/library/90...  · Web viewtÂm lÝ hỌc giỚi tÍnh vÀ giÁo dỤc giỚi tÍnh. tÂm lÝ hỌc giỚi tÍnh

– Dẫn đến những tác dụng phản diện trong giáo dục giới tính, thậm chí

có thể có những người lạm dụng giáo dục giới tính để chạy theo mục đích

kinh doanh không lành mạnh (xuất bản những sách báo kích thích những thị

hiếu thấp hèn của con người).

– Việc nghiên cứu về giới tính và giáo dục giới tính bị hạn thế, nhất là

trong tình hình xã hội ta hiện nay, những quan niệm về giới tính và giáo dục

giới tính rất phức tạp chưa có sự thống nhất, có những quan niệm còn trái

ngược nhau.

Để khắc phục những hậu quả trên, cần tập trung nghiên cứu đầy đủ

hơn, sâu sắc hơn về giới tính, đặc biệt là các ngành Giới tính học, Tâm lí học

giới tính, Xã hội học giới tính. Cần tổ chức những hội nghị khoa học để tạo

nên sự thống nhất giữa các nhà nghiên cứu về các khái niệm cơ bản của đời

sống giới tính, giáo dục giới tính cần thực hiện nghiêm túc chương trình, nội

dung giáo dục giới tính trong nhà trường, trong xã hội.

Tổng quát hơn, cần nhận thức rõ tầm quan trọng của giới tính và giáo

dục giới tính trong đời sống con người. Phải coi việc nghiên cứu giới tính và

giáo dục giới tính là một nội dung quan trọng trong nghiên cứu con người,

trong việc phát triển con người.

Có thể nói rằng, vấn đề phát triển con người gắn bó mật thiết với vấn

đề giới tính và giáo dục giới tính cho con người. Nói cách khác nghiên cứu về

giới tính và thực hiện giáo dục giới tính là điều kiện quan trọng để phát triển

con người toàn diện, tạo nên nguồn nhân lực đi vào công nghiệp hoá, hiện

đại hoá đất nước.

Vấn đề 7MỘT SỐ BIỂU HIỆN SAI LỆCH TRONG TÌNH YÊU

CỦA THANH NIÊN, HỌC SINH HIỆN NAY

Tình yêu là một vấn đề quan trọng của cuộc đời con người. Thường

thường, một tình cảm đẹp đẽ, tất yếu xuất hiện ở con người, ảnh hường

Page 234: TÂM LÝ HỌC GIỚI TÍNH VÀ GIÁO DỤC GIỚI TÍNHsaomaidata.org/library/90...  · Web viewtÂm lÝ hỌc giỚi tÍnh vÀ giÁo dỤc giỚi tÍnh. tÂm lÝ hỌc giỚi tÍnh

mạnh mẽ đến cuộc sống của họ. Đã từ ngàn xưa, tình yêu được coi là một

tình cảm thiêng liêng, cao đẹp mang lại ý nghĩa lớn lao cho cuộc sống của

con người.

Tuy nhiên, trong giai đoạn lịch sử hiện nay, đặc biệt là trong nền kinh tế

thị trường, vấn đề tình yêu trở nên phức tạp trong xã hội. Đã xuất hiện nhiều

biểu hiện lệch lạc trong yêu đương không những làm mất đi sự trong sáng,

thiêng liêng, cao đẹp, vốn có của tình yêu mà còn gây nhiều hậu quá tai hại

cho con người, cho xã hội, và nhất là cho những bạn trẻ đang yêu.

Nhiều biểu hiện lệch lạc ảnh hưởng nghiêm trọng đến việc học tập sinh

hoạt và cuộc sống của thanh thiếu niên mới lớn, nhất là trong thanh niên, học

sinh. Sau đây là một số kết quả nghiên cứu của chúng tôi về những biểu hiện

sai lệch trong tình yêu của thanh niên hiện nay.

I. MỘT SỐ BIỂU HIỆN SAI LỆCH TRONG TÌNH YÊU CỦA THANH NIÊN, HỌC SINH HIỆN NAY

1. Quan hệ nam nữ quá thân mật, suồng sã

Những bạn trẻ này luôn cặp kè bên nhau, lợi dụng những buổi sinh

hoạt đi chơi có những hành vi cư xử thiếu nghiêm túc, mang tính lợi dụng, vui

đùa quá trớn, sinh hoạt quá tự nhiệm bạn không ra bạn, yêu chẳng ra yêu. Họ

lợi dụng lẫn nhau, cặp với nhau một thời gian rồi chán. Quan hệ của họ

thường nhanh chóng chấm dứt.

2. Yêu đương quá sớm

Những công trình nghiên cứu của chúng tôi đều rút ra kết luận là các

bạn trẻ quan tâm đến tình yêu và bước vào yêu đương quá sớm, từ 15, 16

tuổi thậm chí ngay từ khi mới 13, 14 tuổi. Tuy còn ít tuổi nhưng ở họ đã có

đầy đủ những biểu hiện, những hành vi yêu đương “như của người lớn”, gây

ra những hậu quả nghiêm trọng, thậm chí có những em gái 13, 14 tuổi đã

phải đi nạo phá thai.

3. Yêu theo phong trào

Page 235: TÂM LÝ HỌC GIỚI TÍNH VÀ GIÁO DỤC GIỚI TÍNHsaomaidata.org/library/90...  · Web viewtÂm lÝ hỌc giỚi tÍnh vÀ giÁo dỤc giỚi tÍnh. tÂm lÝ hỌc giỚi tÍnh

Các bạn trẻ yêu nhau nhưng không xuất phát từ những rung cảm yêu

thương thực sự, không xuất phát từ sự rung động chân thành của con tim. Họ

thấy bạn có người yêu thì cũng phải nhanh chóng tìm kiếm một người yêu

cho khỏi thua kém bạn bè, để có cặp có đôi cùng đi chơi với các cặp khác cho

vui. Kết quả là có lớp học, hầu hết học sinh đều có người yêu.

4. Yêu vô trách nhiệm

Những bạn trẻ này chỉ háo hức ban đầu trong những ngày mới yêu

nhau. Chỉ một thời gian ngắn, khi đã nếm đủ “mùi”, thậm chí khi “con ong đã

tỏ đường đi lối về” họ bắt đầu chán nhau, bỏ rơi nhau. Dẫn đến tình trạng một

bên còn say đắm, nặng tình, bên kia đã thờ ơ, vô trách nhiệm, bỏ mặc người

yêu đang chờ đợi, đau khổ để chạy theo những thú vui mới khác. Đặc biệt,

người con trai thường “cao chạy xa bay” khi biết người yêu có bầu.

5. Yêu chung chung, chỉ biết hiện tại mà không nghĩ đến tương lai

Nhiều cặp yêu dương chỉ nghĩ đến quan hệ hiện tại: đi chơi, âu yếm và

vui sống bên nhau theo những thời điểm. Họ yêu để mà “yêu” không hề nghĩ

đến tương lai sẽ như thế náo, hậu quả ra sao và càng không hề nghĩ đến hôn

nhân.

6. Yêu ngộ nhận, yêu chỉ để thoả mãn tình dục

Những cặp này yêu đương rất nhanh, mới gặp đã rủ đi chơi, và có

những biểu hiện yêu đương. Họ lầm tưởng rằng họ đã yêu nhau. Nhưng chỉ

mới đi chơi với nhau một số lần là đã chán.

Sự ngộ nhận này có nhiều biểu hiện:

Họ tưởng rằng mình đã yêu đối tượng, nhưng thực tế chỉ là cảm giác

“thích” ban đầu, chỉ là cảm xúc chợt đến, nhất thời.

– Họ tưởng người yêu có những đặc điểm đáng yêu, nhưng khi đi chơi

tiếp xúc nhau vài lần, họ phát hiện đối tượng không có những đặc điểm ấy và

hết yêu.

Page 236: TÂM LÝ HỌC GIỚI TÍNH VÀ GIÁO DỤC GIỚI TÍNHsaomaidata.org/library/90...  · Web viewtÂm lÝ hỌc giỚi tÍnh vÀ giÁo dỤc giỚi tÍnh. tÂm lÝ hỌc giỚi tÍnh

– Họ tưởng đối tượng đã yêu mình qua một vài lần gặp gỡ, dấu hiệu

quan tâm của đối phương.

– Họ lầm tưởng yêu chỉ là quan hệ tình dục và những hành vi âu yếm.

Họ đòi hỏi lẫn nhau, nếu không được, hoặc nếu “được” quá dễ dãi, họ chán

nhau nhanh chóng.

7. Quan hệ yêu đương trong sáng dần dần được thay thế bằng tình yêu “hoà nhập”, tình yêu lợi dụng, tình yêu vật chất

Trong quan niệm truyền thống, tình yêu trong sáng là một tình cảm đẹp

đẽ, trong đó hai người yêu nhau chân thành, giúp đỡ lẫn nhau, quan tâm đến

nhau, tôn trọng nhau. Tình cảm mãnh hệt nhưng luôn luôn giữ đúng khoảng

cách, không có những hành vi quá mức cho phép. Đặc biệt họ cố gắng giữ

gìn sự trong trắng, sự thiêng liêng cho đến ngày cưới.

Nhưng ngày nay, quan niệm yêu đương đó dễ bị coi là lạc hậu là lẩm

cẩm, là tâm thần. Thay thế vào quan niệm đó là tình yêu vật chất, là sự lợi

dụng nhau: người bỏ tiền của, người phục vụ, hoặc yêu là liên hệ trực tiếp tới

tình dục, yêu cho biết những cảm xúc mới lạ… Hiện tượng “sống thử” đang là

một lối sống, một “mốt” mới đáng ngại trong sinh viên và thanh niên.

Ngày nay, quan niệm quan hệ tình dục trước hôn nhân trở thành khá

phổ biến trong nhiều bạn trẻ.

8. Yêu nhanh và tan vỡ nhanh

Đây là đặc điểm khá phổ biến trong thanh niên mới lớn. Họ yêu nhau

khá dễ dàng, có khi chỉ cần gặp nhau trong một buổi tiệc sinh nhật, một lần đi

chơi, một buổi sinh hoạt hay một buổi tối tại vũ trường là họ có thể hò hẹn đi

chơi và “yêu” nhau, hoặc có những cử chỉ hành vi yêu đương. Những hành vi

chớp nhoáng như thế cũng tan vỡ rất nhanh. Có khi chỉ một vài tháng hoặc

vài tuần là “tình yêu” tan vỡ. Trong nhiều công trình nghiên cứu, các nhà khoa

học đều thấy tình yêu trong thanh niên học sinh rất kém bền vững. Hầu hết

các cuộc tình đều tan vỡ khi tốt nghiệp trung học phổ thông hoặc thậm chí hết

Page 237: TÂM LÝ HỌC GIỚI TÍNH VÀ GIÁO DỤC GIỚI TÍNHsaomaidata.org/library/90...  · Web viewtÂm lÝ hỌc giỚi tÍnh vÀ giÁo dỤc giỚi tÍnh. tÂm lÝ hỌc giỚi tÍnh

năm học. Vì vậy, có nhiều bạn trẻ mới 16, 17 tuổi nhưng đã trải qua hàng

chục cuộc tình.

9. Xuất hiện nhiều kiểu yêu đương không lành mạnh

Kết quả nghiên cứu của chúng tôi cho thấy trong thanh niên học sinh

hiện nay có nhiều kiểu tình yêu không đích thực như:

Yêu vụ lợi, yêu lừa dối, yêu chơi bời, yêu tạm bợ, yêu ngộ nhận, yêu si

mê, yêu tuyệt vọng, yêu theo mốt, yêu buông thả, yêu mơ mộng, yêu cho đỡ

buồn, yêu thử cho biết… Rất ít thấy tình yêu chân thực và tình yêu thân

chính.

10. Yêu nhưng thiếu hiểu biết về tình yêu

Đa số các bạn trẻ thiếu hiểu biết về tình yêu, về đời sống tâm sinh lí

người… Họ không hiểu được biểu hiện, quy luật, tính chất của một tình yêu

chân thực, chân chính. Tuy nhiên, họ vẫn mạo hiểm yêu với vốn liếng ít ỏi về

kinh nghiệm yêu đương do bạn bè cung cấp, với những quan niệm yêu

đương sai lầm mà họ được biết qua sinh hoạt thường ngày, qua sách báo,

phim ảnh, đặc biệt có khi từ các tệ nạn xã hội.

Cư xử không đúng trong quan hệ yêu đương: Một số người cho người

yêu là sở hữu của riêng mình, dẫn tới cấm đoán, cư xử thô bạo, ghen tương

vô lí…

II. NHỮNG HẬU QUẢ, TÁC HẠI DO SỰ SAI LỆCH TRONG TÌNH YÊU

Có thể rút ra những tác hại chủ yếu do việc yêu đương sai lệch sau

đây:

– Tạo nên nếp sống thiếu lành mạnh, thiếu văn hoá trong thanh niên

với nhiều biểu hiện như: những cử chỉ suồng sã, đôi khi là sàm sỡ trong quan

hệ cư xử, những cuộc gặp gỡ trong các quán cà phê đèn mờ, những cuộc đi

chơi hay sinh hoạt thiếu lành mạnh, ăn chơi sa đoạ, dẫn tới các tệ nạn xã hội:

xì ke, ma tuý…

Page 238: TÂM LÝ HỌC GIỚI TÍNH VÀ GIÁO DỤC GIỚI TÍNHsaomaidata.org/library/90...  · Web viewtÂm lÝ hỌc giỚi tÍnh vÀ giÁo dỤc giỚi tÍnh. tÂm lÝ hỌc giỚi tÍnh

– Khi tình yêu tan vỡ, họ phải chịu đựng những đau khổ mất mát lớn

lao trong cuộc đời: tình cảm bị tổn thương, danh dự bị xúc phạm, tinh thần bị

khủng hoảng… và nhiều hậu quả tai hại khác.

– Trong tình yêu của tuổi trẻ trong tình yêu tuổi học trò (nhất là ở học

sinh trung học phổ thông), tình yêu thường phức tạp, hạnh phúc chen lẫn đau

khổ. Đa số trường hợp, những phút giây hạnh phúc thì ít mà những lúc đau

khổ thì nhiều, thậm chí có những mất mát lớn lao không thể bù đắp hay hàn

gắn. Đa số tình yêu trong tuổi này tan vỡ trước khi kết thúc việc học tập.

– Ảnh hưởng nhiều đến việc rèn luyện phát triển nhân cách, đến việc tu

dưỡng vươn lên của tuổi trẻ, ảnh hưởng xấu đến học tập, rèn luyện, công tác.

Kết quả nghiên cứu cho thấy, khi vướng vào vòng yêu đương, đa số học sinh

học hành kém đi rõ rệt, rất ít trường hợp khi yêu nhau thì chất lượng học tập

nâng cao. Có khá nhiều em phải bỏ học.

– Hậu quả nghiêm trọng nhất là:

+ Nhiều em phải nạo phá thai sớm, có khi gây tử vong hoặc thương tật

suốt đời.

+ Tình yêu tan vỡ gây những cú sốc về tâm lí, khiến nhiều em đau khổ

vì tình, đi đến chán đời, bỏ học… Có em xấu hổ bỏ nhà đi bụi đời, mại dâm, đi

trả thù đời để rồi bước vào con đường sa ngã, hư hỏng, đồi trụy… Có em quá

đau khổ và xấu hổ, phải tự tử.

+ Nhiễm bệnh hiểm nghèo, nhất là HIV.

III. NHỮNG NGUYÊN NHÂN VÀ GIẢI PHÁP

Có rất nhiều nguyên nhân dẫn đến tình trạng trên. Chủ yếu là các nguyên nhân sau:

1. Sự thiếu hiểu biết về tình yêu và hôn nhân. Các bạn trẻ không được

trang bị những kiến thức về đời sống yêu đương, về quy luật phát triển tâm

sinh lí của con người, bản chất của tình yêu, hôn nhân và cách xử lí trong tình

yêu. Do đó, các em thiếu bản lĩnh khi bước vào đời sống yêu đương.

Page 239: TÂM LÝ HỌC GIỚI TÍNH VÀ GIÁO DỤC GIỚI TÍNHsaomaidata.org/library/90...  · Web viewtÂm lÝ hỌc giỚi tÍnh vÀ giÁo dỤc giỚi tÍnh. tÂm lÝ hỌc giỚi tÍnh

2. Các sách báo về tình yêu lan tràn, nhưng nhiều sách lại chạy theo thị

hiếu tằm thường, chạy theo kinh doanh nên trong thực tế, vẫn thiếu những tài

liệu, thông tin khoa học, hệ thống. Nhiều sách tuy có tựa đề là “giáo dục giới

tính”, “giáo dục tình yêu”, nhưng nội dung lại không phù hợp, nhiều trường

hợp nội dung lệch lạc, không có tính khoa học, thậm chí gây phản tác dụng.

3. Các tệ nạn xã hội phức tạp ngày càng gia tăng, các quán cà phê đèn

mờ, bia ôm, mại dâm trá hình, vũ trường biến tướng, tệ nạn sử dụng ma tuý,

thuốc lắc xuất hiện ở khắp mọi nơi, kích thích, thu hút giới trẻ.

4. Ảnh hưởng của nhiều quan điểm sống mới du nhập từ nước ngoài:

tình yêu tự do, tình dục tự do, tình dục trước hôn nhân, sống chung, sống thử

(hôn nhân thử nghiệm)… Những quan điểm trên ảnh hưởng mạnh đến giới

trẻ, làm cho các em thêm tò mò, bị kích thích, muốn áp dụng thử nghiệm.

Trong khi đó, các em lại không được hướng dẫn đầy đủ, không được trang bị

tri thức để có đủ bản lĩnh đấu tranh chống lại những quan điểm sai lầm trên.

5. Xã hội và các bậc cha mẹ chưa quan tâm nhiều đến việc giáo dục

thanh niên học sinh về lĩnh vực này. Thậm chí, còn nhiều người né tránh hoặc

có quan niệm sai lầm cho rằng không nên giáo dục vấn dế này cho học sinh,

vì thế là “vẽ đường cho hươu chạy”, hoặc làm “ô uế” học đường. Nhiều bậc

cha mẹ chạy theo công việc làm ăn, không lo đến việc giáo dục con cái.

6. Nhận thức sai trong nhiều người về giáo dục giới tính, giáo dục tình

yêu. Có người còn cho rằng giáo dục giới tính, giáo dục tình yêu là giáo dục

tình dục. Chưa có một chương trình hoặc chưa thực hiện nghiêm tức nội

dung giáo dục này một cách khoa học, hệ thống với một lượng thời gian thích

hợp. Khi có hướng dẫn của Bộ Giáo dục và đào tạo về giáo dục giới tính

trong nhà trường, nhiều nơi, nhiều trường học vẫn cho đó là phần không

quan trọng, không cần thiết lắm, họ tuỳ ý dạy hay không, hoặc thiếu tổ chức

chặt chẽ, nghiêm tức thực hiện nội dung này.

7. Chúng ta chưa quan tâm đến việc đào tạo đội ngũ cán bộ, giáo viên

có trình độ tri thức khoa học về lĩnh vực này để làm công tác giáo dục cho

thanh niên, học sinh. Đa số cán bộ, giáo viên giảng dạy hoặc làm công tác

Page 240: TÂM LÝ HỌC GIỚI TÍNH VÀ GIÁO DỤC GIỚI TÍNHsaomaidata.org/library/90...  · Web viewtÂm lÝ hỌc giỚi tÍnh vÀ giÁo dỤc giỚi tÍnh. tÂm lÝ hỌc giỚi tÍnh

này chỉ dựa vào kinh nghiệm, vốn liếng trí thức ít ỏi do tự nghiên cứu. Mặt

khác, nhiều người lại chủ quan, cho rằng mình đã biết hết về vấn đế này.

8. Chưa có những tư liệu khoa học, giáo trinh, sách, tài liệu một cách

hệ thống, khoa học, sâu sắc về lĩnh vực này. Đặc biệt, những công trình

nghiên cứu khoa học một cách toàn diện, sâu rộng về tình yêu hôn nhân còn

rất ít, hoặc chưa được phổ biến rộng rãi. Do quan niệm xã hội hạn chế, nhiều

người còn thành kiến hoặc e ngại khi nghiên cứu, giảng dạy, hoặc nói đến

chuyện tình yêu, hôn nhân.

Từ tình hình và nguyên nhân trên, chúng tôi xin đề nghị một số giải pháp sau:

a) Những giải pháp chung

– Cần phải có sự phối hợp, kết hợp chặt chẽ, đồng bộ của xã hội, của

nhiều ngành, nhiều lực lượng: giáo dục, văn hoá xã hội, an ninh… tạo nên

một môi trường xã hội lành mạnh mang tính giáo dục cao. Bài trừ văn hoá

phẩm đồi trụy, tệ nạn xã hội (mại dâm, bia ôm, cà phê đèn mờ, vũ trường

biến tướng…).

Phải tăng cường công tác giáo dục giới tính, giáo dục tình yêu hôn

nhân gia đình. Phải cổ sự kết hợp đồng bộ của nhà trường, gia đình và xã

hội.

Phát triển những hoạt động của các cơ quan chức năng của xã hội,

cũng như các trung tâm văn hoá, các câu lạc bộ, đặc biệt là các trung tâm tư

vấn Tình yêu, hôn nhân và gia đình.

b) Những biện pháp giáo dục cụ thể

– Tăng cường việc Giáo dục giới tính trong nhà trường, gia đình và xã

hội.

Xây dựng những tài liệu hướng dẫn cần thiết, những tri thức khoa học

hệ thống về vấn đế này, để giáo viên, phụ huynh có thể hướng dẫn cho các

em, hoặc các em tự học để biết.

Page 241: TÂM LÝ HỌC GIỚI TÍNH VÀ GIÁO DỤC GIỚI TÍNHsaomaidata.org/library/90...  · Web viewtÂm lÝ hỌc giỚi tÍnh vÀ giÁo dỤc giỚi tÍnh. tÂm lÝ hỌc giỚi tÍnh

– Xây dựng chương trình và nội dung giáo dục giới tính cụ thể để giảng

dạy trong nhà trường (trước mắt, có thể từ lớp 9 trở lên), dành một lượng thời

gian thích đáng để giảng dạy cho học sinh.

– Tổ chức huấn luyện, bồi dưỡng, và đào tạo cán bộ chuyên môn về

giới tính và giáo dục giới tính. Trang bị kiến thức khoa học tình yêu hôn nhân,

gia đình cho giáo viên, cán bộ các trung tâm tư vấn, cán bộ phụ nữ, đoàn

thanh niên làm công tác quần chúng.

MỤC LỤCPHẦN MỘT

TÂM LÍ HỌC GIỚI TÍNH VÀ GIÁO DỤC GIỚI TÍNH

Chương 1NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ GIỚI TÍNH VÀ TÂM LÍ HỌC GIỚI TÍNH

I. ĐỜI SỐNG GIỚI TÍNH Ở CON NGƯỜI

1. Một số hiện tượng của đời sống giới tính

2. Bản chất tâm lí của các hiện tượng giới tính

3. Giới tính và nhân cách con người

II. SƠ LƯỢC LỊCH SỬ NGHIÊN CỨU VẤN ĐỀ GIỚI TÍNH

III. TÂM LÍ HỌC GIỚI TÍNH VÀ GIÁO DỤC HỌC GIỚI TÍNH

1. Khái niệm về Tâm lí học giới tính và Giáo dục học giới tính

2. Đối tượng và nhiệm vụ của Tâm lí học giới tính và Giáo dục học giới

tính

3. Mối quan hệ giữa Tâm lí học giới tính, Giáo dục học giới tính với các

ngành khoa học khác

4. Tình hình nghiên cứu các khoa học về giới tính ở Việt Nam hiện nay

5. Những phương hướng nghiên cứu và phát triển của Tâm lí học giới

tính

Page 242: TÂM LÝ HỌC GIỚI TÍNH VÀ GIÁO DỤC GIỚI TÍNHsaomaidata.org/library/90...  · Web viewtÂm lÝ hỌc giỚi tÍnh vÀ giÁo dỤc giỚi tÍnh. tÂm lÝ hỌc giỚi tÍnh

Chương 2GIỚI VÀ GIỚI TÍNH

I. KHÁI NIỆM GIỚI VÀ GIỚI TÍNH

1. Khái niệm giới

2. Khái niệm giới tính

3. Mối quan hệ giữa giới và giới tính

II. NHỮNG VẤN ĐỀ CỦA GIỚI TÍNH

1. Sự phức tạp của đời sống giới tính

2. Mối quan hệ giữa hai giới

3. Những vấn đề quan trọng và điển hình của giới tính

III. SỰ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN GIỚI TÍNH

1. Sự xuất hiện và quá trình hình thành của giới tính ở con người

2. Các giai đoạn phát triển của giới tính

IV. MỘT SỐ VẤN ĐỀ GIỚI TÍNH CẦN CHÚ Ý Ở TUỔI THANH NIÊN, HỌC SINH

Chương 3MỘT SỐ VẤN ĐỀ ĐIỂN HÌNH CỦA ĐỜI SỐNG GIỚI TÍNH

I. ĐỜI SỐNG TÍNH DỤC

1. Khái niệm Tính dục

2. Những vấn đề điển hình của đời sống tính dục được quan tâm hiện

nay

II. HIỆN TƯỢNG KINH NGUYỆT DƯỚI GÓC ĐỘ TÂM SINH LÍ

1. Ý nghĩa của hiện tượng kinh nguyệt

2. Vấn đề vệ sinh kinh nguyệt

3. Chu kì tâm sinh lí học trong chu kì kinh nguyệt

Page 243: TÂM LÝ HỌC GIỚI TÍNH VÀ GIÁO DỤC GIỚI TÍNHsaomaidata.org/library/90...  · Web viewtÂm lÝ hỌc giỚi tÍnh vÀ giÁo dỤc giỚi tÍnh. tÂm lÝ hỌc giỚi tÍnh

III. TÌNH DỤC

1. Khái niệm chung về tình dục

2. Mối quan hệ giữa tình dục và tình yêu ở lứa tuổi thanh thiếu niên

3. Vấn đề giáo dục tình dục và tình yêu cho thanh thiếu niên

IV. TÌNH YÊU VÀ TÌNH YÊU CHÂN CHÍNH

1. Khái niệm chung về tình yêu

2. Những thành phần cơ bản trong tình yêu

3. Sự hình thành và phát triển của tình yêu

4. Động cơ yêu đương và tình yêu chân chính

5. Mối quan hệ giữa tình yêu và hôn nhân

V. HÔN NHÂN

1. Khái niệm hôn nhân

2. Động cơ hôn nhân

3. Một số vấn đề cần lưu ý trong việc xây dựng cuộc sống hôn nhân

4. Cuộc sống vợ chồng

5. Sự biến động của cuộc sống vợ chồng

6. Điều kiện chủ yếu để tạo nến cuộc sống vợ chồng hạnh phúc lâu dài

7. Vấn đề giáo dục cuộc sống gia đình cho thanh niên ngày nay.

VI. VẤN ĐỀ XÂY DỰNG GIA ĐÌNH HẠNH PHÚC

1. Gia đình là một đơn vị xã hội chứa đựng nhiều yếu tố tâm lí xã hội

phức tạp

2. Những đặc điểm của một gia đình hạnh phúc và phát triển

3. Những phương hướng xây dựng gia đình hạnh phúc và phát triển

VII. VẤN ĐỀ SỨC KHỎE SINH SẢN

1. Khái niệm sức khoẻ sinh sản

Page 244: TÂM LÝ HỌC GIỚI TÍNH VÀ GIÁO DỤC GIỚI TÍNHsaomaidata.org/library/90...  · Web viewtÂm lÝ hỌc giỚi tÍnh vÀ giÁo dỤc giỚi tÍnh. tÂm lÝ hỌc giỚi tÍnh

2. Giáo dục sức khoẻ sinh sản vị thành niên

Chương 4GIÁO DỤC GIỚI TÍNH

I. VỀ KHÁI NIỆM GIÁO DỤC GIỚI TÍNH

1. Giáo dục giới tính

2. Thời điểm giáo dục giới tính cho con người

II. NHIỆM VỤ CỦA GIÁO DỤC GIỚI TÍNH

III. NỘI DUNG CỦA GIÁO DỤC GIỚI TÍNH

1. Khái niệm về nội dung giáo dục giới tính

2. Nội dung chung của giáo dục giới tính

3. Nội dung giáo dục giới tính cho từng đối tượng

4. Nội dung giáo dục giới tính theo chương trình giáo dục phổ thông

5. Vấn đề giáo dục giới tính cho thanh niên ngoài nhà trường và người

lớn

IV. NGUYÊN TẮC CỦA GIÁO DỤC GIỚI TÍNH

V. Ý NGHĨA CỦA GIÁO DỤC GIỚI TÍNH

1. Giáo dục giới tính có ý nghĩa to lớn đến việc phát triển toàn diện

nhân cách

2. Giáo dục giới tính đáp ứng những quy luật phát triển về tâm lí, sinh lí

cơ thể của thanh thiếu niên

3. Giáo dục giới tính có ý nghĩa lớn đối với giáo dục dân số và sự phát

triển xã hội

4. Giáo dục giới tính có ý nghĩa to lớn đến sự phát triển tâm sinh lí trong

tình hình hiện nay

5. Giáo dục giới tính có ý nghĩa đặc biệt trong tình hình phức tạp và gia

tăng của các tệ nạn xã hội hiện nay

Page 245: TÂM LÝ HỌC GIỚI TÍNH VÀ GIÁO DỤC GIỚI TÍNHsaomaidata.org/library/90...  · Web viewtÂm lÝ hỌc giỚi tÍnh vÀ giÁo dỤc giỚi tÍnh. tÂm lÝ hỌc giỚi tÍnh

PHẦN HAINHỮNG VẤN ĐỀ THỰC TIỄN TRONG GIÁO DỤC GIỚI TÍNH

Vấn đề 1: Tình trạng trẻ em hư và vấn đề giáo dục giới tính

Vấn đề 2: Một số vấn đề về nội dung, tổ chức thực hiện chương trình giáo

dục đời sống gia đình cho học sinh phổ thông

Vấn đề 3: Một số vấn đề tâm lí – xã hội cần chú ý khi tiến hành giáo dục đời

sống gia đình và giới tính cho học sinh phổ thông

Vấn đề 4: Vẻ đẹp và vấn đề làm đẹp ở thanh niên

Vấn đề 5: Người phụ nữ với việc xây dựng cuộc sống gia đình

Vấn đề 6: Sự phát triển con người với vấn đề giáo dục giới tính

Vấn đề 7: Một số biểu hiện sai lệch trong tình yêu của thanh niên, học sinh

hiện nay

---//---

TÂM LÍ HỌC GIỚI TÍNH VÀ GIÁO DỤC GIỚI TÍNH

Tác giả:

PGS. TS. Bùi Ngọc Oánh

Nhà xuất bản Giáo Dục

Chịu trách nhiệm xuất bản:

Chủ tịch HĐQT kiêm Tổng Giám đốc NGÔ TRẦN ÁI

Phó Tổng Giám đốc kiêm Tổng biên tập NGUYỄN QÚY THAO

Tổ chức bản thảo và chịu trách nhiệm hội dung:

Phó Tổng Giám đốc kiêm Giám đốc NXBGD tại TP. Hồ Chí Minh

VŨ BÁ HÒA

Biên tập nội dung và tái bản:

NGUYÊN VĂN HÂN

Biên tập kĩ – mĩ thuật:

Page 246: TÂM LÝ HỌC GIỚI TÍNH VÀ GIÁO DỤC GIỚI TÍNHsaomaidata.org/library/90...  · Web viewtÂm lÝ hỌc giỚi tÍnh vÀ giÁo dỤc giỚi tÍnh. tÂm lÝ hỌc giỚi tÍnh

BÙI XUÂN DƯƠNG

Trình bày bìa:

TÔN THẤT HIỀN

Sửa bản in:

PHÒNG SỬA BẢN IN (NXBGD TẠI TP.HCM)

Chế bản:

PHÒNG SCĐT – NXB GIÁO DỤC TẠI TP. HCM

Mã số: 8G804m8 – TTS

In 3.000 bản, (04TK) khổ 16 x 24 cm; tại Công ty cổ phần In và Vật tư Hải

Dương. Số in: 01; Số xuất bản: 11–2008/CXB/212 – 2097/GD. In xong và nộp

lưu chiểu tháng 01 năm 2008.