276

Sa Môn DI TÙNG - chuaphatquocttt.orgchuaphatquocttt.org/doc/KinhThuLangNghiemRev3.pdf · học, tụng inh Đại 3hật Đảnh thủ /ăng 1ghiêm, đồng thi tham khảo các

  • Upload
    others

  • View
    15

  • Download
    0

Embed Size (px)

Citation preview

Page 1: Sa Môn DI TÙNG - chuaphatquocttt.orgchuaphatquocttt.org/doc/KinhThuLangNghiemRev3.pdf · học, tụng inh Đại 3hật Đảnh thủ /ăng 1ghiêm, đồng thi tham khảo các
Page 2: Sa Môn DI TÙNG - chuaphatquocttt.orgchuaphatquocttt.org/doc/KinhThuLangNghiemRev3.pdf · học, tụng inh Đại 3hật Đảnh thủ /ăng 1ghiêm, đồng thi tham khảo các

Sa Môn DI TÙNG

TTHHỦỦ LLĂĂNNGG NNGGHHIIÊÊMM

KKIINNHH ĐĐẠẠII PPHH TT ĐĐẢẢNNHH

)

(Tái bản lần thứ ba)

PH T QUỐC THANH TỊNH TÂM

MAITREYA BUDDHA MEDITATION CENTER

310 E. Red Bird Lane

Duncanville, Texas 75116 - U.S.A.

Tel. 972-709-5685

------------***-----------

PL. 2561 - DL. 2017

Page 3: Sa Môn DI TÙNG - chuaphatquocttt.orgchuaphatquocttt.org/doc/KinhThuLangNghiemRev3.pdf · học, tụng inh Đại 3hật Đảnh thủ /ăng 1ghiêm, đồng thi tham khảo các

1

LỜI NÓI ĐẦU

Kính gởi quý đạo hữu,

Sở dĩ Thầy quyết định làm tóm tắt Kinh Đại Phật Đảnh Thủ Lăng

Nghiêm vì các lý do sau đây:

1. Chúng ta, nếu cần, có thể qua hệ thống Internet, tìm nguyên

bản kinh này rất dễ dàng và còn có thể chọn bản dịch của

người dịch chúng ta ưa thích, không sợ làm mất toàn bản kinh.

2. Chúng ta chỉ mong học phần cốt tủy, ngắn gọn của phần Hiển

Giáo. Chúng ta hoàn toàn tin tưởng nơi những lời Đức Phật

dạy, cho nên không đặt nặng phải học những lý luận ngài dùng

để bác bỏ những sự hiểu lầm của ngài Anan và thánh chúng.

3. Để thực hành Thiền Định, chúng ta làm theo lời dạy của Đức

Phật dặn ngài Anan dạy cho chúng sanh để áp dụng trong thời

Mạt Pháp:

Xây dựng đàn tràng để lễ lạy, phát nguyện và tụng

Chú.

“Nếu có tập khí cũ không thể diệt trừ, ông dạy người

đó nhất tâm trì tụng Thần Chú Vô Thượng Phật Đảnh

Quang Minh “Ma Ha Tát Đát Đa Bát Đát Ra” của

Ta.”

Thực hành Thiền Định một trăm ngày.

Vì vậy, chúng ta đặt nặng “Phần khai thị về Mật Giáo,” và

“Ngũ Ấm Ma.”

Mong rằng việc tóm tắt Kinh này sẽ giúp quý đạo hữu tiết kiệm

bớt thời gian trong phần lý thuyết (Lý) mà nhiều chỗ không thể

hiểu. Chúng ta chỉ chú tâm hoàn toàn vào việc thực hành (Sự.)

Mô Phật

Sa Môn Di Tùng

Page 4: Sa Môn DI TÙNG - chuaphatquocttt.orgchuaphatquocttt.org/doc/KinhThuLangNghiemRev3.pdf · học, tụng inh Đại 3hật Đảnh thủ /ăng 1ghiêm, đồng thi tham khảo các

2

KINH ĐẠI PHẬT ĐẢNH THỦ LĂNG NGHIÊM (T M T T NG N)

Lưu ý: Tài liệu này chỉ dành cho Phật tử trong hệ thống

“Thanh Tịnh Tâm” xử dụng, không phổ biến rộng rãi cho

đại chúng.

Page 5: Sa Môn DI TÙNG - chuaphatquocttt.orgchuaphatquocttt.org/doc/KinhThuLangNghiemRev3.pdf · học, tụng inh Đại 3hật Đảnh thủ /ăng 1ghiêm, đồng thi tham khảo các

3

TIẾN TRÌNH XÂY DỰNG

ĐÀN TRÀNG LĂNG NGHIÊM TẠI HOA KỲ

----------------

Chúng tôi có duyên với Phật giáo Đại Thừa, nên trong thời

công phu khuya thường tụng Chân Ngôn Ma Ha Tát Đát Đa

Bát Đát Ra (Thần Chú Lăng Nghiêm.) Chúng tôi cũng được

học, tụng Kinh Đại Phật Đảnh thủ Lăng Nghiêm, đồng thời

tham khảo các bài viết với tựa đề “Lăng Nghiêm Đại Định.”

Tuy nhiên, chúng tôi vẫn thắc mắc rằng nếu không xây dựng

đàn tràng Lăng Nghiêm, không thực hành ba tuần bảy ngày

lễ lạy, phát nguyện và tụng chú, đồng thời không được chính

Đức Phật Thích Ca rờ đầu an ủi khiến nên giác ngộ, và an cư

thực hành Thiền định một trăm ngày như trong kinh Đức

Phật đã dạy thì làm sao có thể luận bàn đến Lăng Nghiêm

Đại Định?

Ông Tăng Phụng Nghi nghiên cứu sâu rộng và sớ giải (tông

thông) Kinh Đại Phật Đảnh Thủ Lăng Nghiêm (ĐPĐTLN)

không nói đến từ trước tới nay nơi nào đã xây dựng Đàn

tràng Lăng Nghiêm để tu tập mà chỉ nhắc đến một Giới

đàn được thành tựu. Ngoài ra, trong bộ Phật ọc Phổ

Thông, òa Thượng Thích Thiện oa đã không dịch phần

xây dựng Đàn tràng Lăng Nghiêm1 khiến nhiều Phật tử

không biết có phần xây dựng Đàn tràng nếu không đọc

những bản dịch khác.2 HT Tuyên óa trong sách chú giải

Thần Chú Lăng Nghiêm chỉ nhắc đến “tán trì” (đi, đứng,

nằm, ngồi) đều trì tụng Thần Chú nhưng không thấy nói đến

xây dựng Đàn tràng Lăng Nghiêm để tu tâp như trong Kinh

ĐPĐTLN chỉ dẫn. ai vị Geshe3 Tây Tạng, một từ

1 Lý do thiếu phần xây dựng Đàn Tràng Lăng Nghiêm có lẽ vì bộ sách

này mang tên “Phật Học Phổ Thông.” 2 Kinh ĐPĐTLN đã được dịch ra tiếng Việt bởi nhiều vị như Thiền Sư

Nhẫn Tế, HT Tuyên Hóa, HT Thích Duy Lực, Cư sĩ Tâm Minh Lê

Đình Thám, Cư sĩ ạnh Cơ … 3 Geshe là học vị Tiến sĩ của Phật giáo Tây Tạng.

Traly
Typewritten Text
Traly
Typewritten Text
Traly
Typewritten Text
Traly
Typewritten Text
Traly
Typewritten Text
Page 6: Sa Môn DI TÙNG - chuaphatquocttt.orgchuaphatquocttt.org/doc/KinhThuLangNghiemRev3.pdf · học, tụng inh Đại 3hật Đảnh thủ /ăng 1ghiêm, đồng thi tham khảo các

4

Dhalamsala và một từ một tu viện giòng truyền thừa Gelupa

ở Nam Ấn Độ khi ghé thăm Cốc (mobile home) của chúng tôi vào năm 2008 đã xin vào Đàn tràng Lăng Nghiêm để trì

tụng Chơn Ngôn Lăng Nghiêm vì quý vị cho biết chưa bao

giờ thấy nơi nào có Đàn tràng này.

Có thể, vì chúng tôi ít giao lưu với thế giới bên ngoài và

thiếu nghiên cứu rộng rãi trên hệ thống internets, nên không

biết nơi nào có xây dựng Đàn tràng Lăng Nghiêm để tu tập.

Xin quý vị khi có duyên đọc những dòng chữ này và nếu biết được nơi nào có xây dựng Đàn tràng Lăng Nghiêm để tu tập, vui lòng liên lạc với chúng tôi để chúng tôi tìm đến học hỏi.

1. Khởi quyết tâm xây dựng Đàn tràng Lăng Nghiêm

Chúng tôi tự hỏi: (1) Nếu lịch sử ghi Kinh ĐPĐTLN là quốc

bảo của nước Ấn Độ thời xưa và Kinh này bị ngăn cấm

không được mang ra nước ngoài, tại sao tại Ấn Độ không

Chùa Đại Thừa nào xây dựng Đàn tràng Lăng Nghiêm để

cho tứ chúng tu tập? (2) Một trăm năm sau khi Trí Giả Đại

sư viên tịch, Kinh ĐPĐTLN qua Trung Quốc và cho đến

ngày nay tại sao vẫn chưa thấy Đàn tràng Lăng Nghiêm được

xây dựng để tứ chúng tu tập theo Kinh này? (3) Trong hồi

ký, Thiền sư Nhẫn Tế đã được Lama Quốc ương Tây Tạng

ấn chứng là đã qua kỳ khảo hạch vượt tất cả Lama Tây Tạng,

khi về nước chỉ đặt tên Chùa tại Bình ương là Chùa Tây

Tạng (năm 1936) nhưng không dạy pháp tu của Tây Tạng lại

bỏ thì giờ dịch Kinh ĐPĐTLN Tông Thông từ năm 1944 đến

năm 1950 thì hoàn tất? Nhiều câu hỏi như trên chưa có giải

đáp, nên chúng tôi đọc tới đọc lui Kinh ĐPĐTLN để mong

tìm lời giải đáp. Trong tâm lúc nào cũng nghĩ rằng nếu

không thể thiết lập Đàn tràng Lăng Nghiêm theo lời dạy của

Đức Phật trong Kinh, như vậy Đức Phật thuyết kinh

ĐPĐTLN ra để làm gì?

Page 7: Sa Môn DI TÙNG - chuaphatquocttt.orgchuaphatquocttt.org/doc/KinhThuLangNghiemRev3.pdf · học, tụng inh Đại 3hật Đảnh thủ /ăng 1ghiêm, đồng thi tham khảo các

5

Lời Đức Phật dạy trong kinh: “Anan, những hàng Tỳ Kheo,

Tỳ Kheo Ni hay hàng cư sĩ, thí chủ trong sạch như thế, vào

đời mạt pháp, tâm dứt tham dâm, giữ tịnh giới Phật, ở trong

đàn tràng4, phát nguyện Bồ Đề, ra vào tắm rửa, sáu thời

hành đạo, không lo ngủ nghỉ, như thế trải qua ba lần bảy ngày, Ta tự hiện thân đến trước người ấy, xoa đỉnh an ủi,

khiến nên Giác Ngộ”.

Một hôm, với đức tin mãnh liệt vào lời dạy của Đức Phật về

sự tu tập trong Đàn tràng vào thời mạt pháp khiến có thể

Giác ngộ, chúng tôi bổng nhiên phát quyết tâm tìm lời giải

đáp cho những câu hỏi đã từ lâu ghi sâu trong tâm trí của

chúng tôi để tiến đến việc xây dựng Đàn tràng Lăng Nghiêm.

Thật vậy, chúng ta đang ở vào thời kỳ mạt pháp, tại sao

chúng ta không thực hành những gì Đức Phật dạy để áp dụng tu tập vào thời mạt pháp để được hữu hiệu hơn?

Trước khi xây dựng Đàn tràng, Đức Phật dạy: “Nếu ở đời

mạt pháp, có người muốn ngồi đàn tràng tu hành, trước hãy

giữ Cấm Giới Tỳ Kheo trong sạch… Sau khi Giới được

thành tựu, mặc áo mới, sạch, đốt hương, ở chỗ vắng mà trì

tụng Chơn Ngôn (Thần Chú) nói ra từ Tâm Phật này, một

trăm lẻ tám biến. Sau đó kiết giới, dựng lập đàn tràng, cầu

xin Chư Vô Thượng Như Lai mười phương hiện trụ các

quốc độ phóng quang Đại Bi đến rọi đỉnh đầu.”

Đây là điều kiện đầu tiên để tiến đến việc xây dựng Đàn

tràng.

4 Quý vi dịch kinh Đại Phật Đảnh Thủ Lăng Nghiêm dùng chữ “đạo

tràng” để chỉ nơi tu tập nói chung. Với đạo tràng Lăng Nghiêm, chúng

tôi dùng chữ “đàn tràng Lăng Nghiêm” để phân biệt tính cách xử dụng

đặc biệt của đàn tràng để được sự gia hộ ngay trực tiếp (vua Việt Nam

lập đàn tràng để cầu Thượng Đế, Trí Giả Đại sư lập đàn tràng để cầu xin

Kinh Lăng Nghiêm vào Trung Quốc, Khổng Minh thời Tam Quốc bên

Tàu đã nhiều lần lập đàn tràng để cầu gió Đông, cầu sống lâu ...)

Page 8: Sa Môn DI TÙNG - chuaphatquocttt.orgchuaphatquocttt.org/doc/KinhThuLangNghiemRev3.pdf · học, tụng inh Đại 3hật Đảnh thủ /ăng 1ghiêm, đồng thi tham khảo các

6

2. Giai đoạn giải quyết các điều kiện xây dựng Đàn

tràng Lăng Nghiêm

2.1 Xây nền: Giải mã đầu tiên

Để xây đàn tràng Đức Phật dạy: “Người đời mạt pháp,

nguyện lập đàn tràng, trước hết kiếm con trâu trắng sức

mạnh ở núi Tuyết Sơn, sống bằng cỏ thơm non mướt, loài

trâu trắng này chỉ uống nước trong của núi Tuyết Sơn, phân

rất nhuyễn mịn. Nên lấy phân đó hòa trộn với bột hương

Chiên Đàn để tráng nền đất. Nếu không phải là loài trâu

trắng ở Tuyết Sơn thì phân hôi bẩn, không thể tráng nền.

Riêng ở đồng bằng, có thể đào bỏ lớp đất trên mặt, lấy đất

sét vàng từ năm thước trở xuống rồi hòa trộn với hương

Chiên Đàn, trầm thủy, tô hợp, huân lục, uất kim, bạch giao,

thanh mộc, linh lăng, can tùng và kê thiệt. Mười thứ ấy rây

nghiền thành bột, trộn với đất sét để làm nền đàn tràng, mỗi

bề một trượng sáu, thành cái đàn bát giác.”

Để xây Đàn tràng, việc đầu tiên là xây nền. Nếu xây dựng

Đàn tràng đòi hỏi vị Tỳ kheo phải giữ Giới hạnh trong sạch,

thì vật liệu cũng phải tinh khiết. Thời kỳ Đức Phật tại thế,

người Ấn Độ xây nền bằng phân trâu/bò trộn với đất. Muốn

có loại phân tinh khiết, chúng ta phải lên y mã lạp sơn tìm phân của con trâu Yak để làm nền. Ngày nay, chúng ta làm

nền bằng xi-măng (cement,) sắt (rebar,) lót gỗ, nệm…Những

vật liệu này đều tinh khiết. o đó, chúng tôi thấy không có

trở ngại gì trong tiêu chuẩn làm nền của đàn tràng. Chúng

tôi gọi việc này là “giải mã” (giải ý nghĩa mật) vì chúng ta

thường nghĩ rằng làm thế nào có thể có được phân trâu trắng trên y mã lạp sơn đủ để làm nền Đàn tràng.

2.2 Tụng Chơn Ngôn: Giải mã thứ hai

Kinh ghi “Trong bảy ngày đầu, chí thành đảnh lễ danh hiệu

mười phương Như Lai, Chư Đại Bồ Tát, Chư A La án.

Page 9: Sa Môn DI TÙNG - chuaphatquocttt.orgchuaphatquocttt.org/doc/KinhThuLangNghiemRev3.pdf · học, tụng inh Đại 3hật Đảnh thủ /ăng 1ghiêm, đồng thi tham khảo các

7

Thường trong sáu thời đi quanh đàn tụng Chơn Ngôn, hết

lòng hành Đạo, mỗi thời trì một trăm lẻ tám biến.

Chơn Ngôn Tát Đát Đa Bát Đát Ra (Chú Lăng Nghiêm)

đầy đủ gồm năm phần (ngũ đệ.) Thời gian trung bình

(không quá nhanh hay chậm) để tụng một biến (ngũ đệ)

Chơn Ngôn Lăng Nghiêm khoảng mười phút. ầu chúng ta

định nghĩa một thời là hai giờ hay bốn giờ, chúng ta cũng

không thể nào tụng đủ một trăm lẻ tám biến trong một thời.

ậy chúng ta làm sao đây?

Chúng ta hãy đọc đoạn: “Đức Thế Tôn từ đảnh phóng ra hào

quang trăm báu, trong hào quang phóng ra hoa sen báu ngàn

cánh, có Hóa Thân Như Lai ngồi trong hoa sen, đảnh phóng

mười đạo hào quang trăm báu, mỗi mỗi hào quang đều thị

hiện khắp mười hằng hà sa Kim Cang Mật Tích đỡ núi,

cầm chữ khắp cõi hư không. Tứ chúng ngước trông, sợ mừng

hòa lẫn, xin Phật thương che, nhất tâm lắng nghe Như Lai

ô Kiến Đảnh Tướng phóng quang Phật tuyên thuyết Thần

Chú.”…

Kinh : “Anan, đây là Phật Đảnh Quang Tụ Tát Đát Đa Bát

Đát Ra (SITATAPATRA), bí mật Già Đà, vi diệu chương

cú, xuất sanh tất cả mười phương Chư Phật. Mười phương

Như Lai nhân Chú Tâm này đắc thành ô thượng Chánh

Biến Tri Giác.

Từ đầu của Chơn Ngôn cho đến trước chữ “Úm!” (hay

“Án!”) là phần đãnh lễ Chư Bồ Tát Kim Cang Mật Tích.

Quý vị này từ óa Thân Như Lai phóng ra. ậy chúng ta có

thể đãnh lễ ngay nơi gốc là oá Thân Như Lai bằng câu:

“Nam Mô Phật Đảnh Quang Tụ Bạt Già Phạm.” Sau đó,

từ chữ Úm! đến hết thực sự là Chơn Ngôn thay thế bằng “Tát

Đát Đa Bát Đát Ra.” o đó, chúng ta thay thế tụng toàn bộ Chơn Ngôn bằng cách tụng: “Nam Mô Phật Đảnh Quang

Tụ Bạt Già Phạm Tát Đát Đa Bát Đát Ra. Úm! A na lệ,

Page 10: Sa Môn DI TÙNG - chuaphatquocttt.orgchuaphatquocttt.org/doc/KinhThuLangNghiemRev3.pdf · học, tụng inh Đại 3hật Đảnh thủ /ăng 1ghiêm, đồng thi tham khảo các

8

tỳ xá đề bệ ra bạt xà ra đà rị bàn đà nễ bạt xà ra bàn ni

phấn hỗ hồng đô lô ung phấn ta bà ha!”

ới cách tụng này chúng ta có thể giải quyết được việc tụng

một trăm lẽ tám biến Chơn Ngôn trong vòng một canh giờ

không có gì khó khăn.

2.3 Sương tháng Tám: Giải mã thứ ba

Kinh ghi: “Trung tâm đàn đặt một cái bát, trong bát đựng

nước sương móc tháng Tám.” Nếu chúng ta đã đi thăm

viếng nước Ấn Độ, chúng ta thấy có rất nhiều hoa sen. ào

tháng Tám, sương đọng trên các lá sen rất nhiều, và chúng ta

có thể lấy sương từ đó. Sương đó tinh khiết không như nước

ở ao hồ, nước mưa hứng qua mái nhà. Ngày nay, cách lọc

hay cất nước (đun nước bốc hơi, cho ngưng tụ bằng cách làm

lạnh) thật là tinh khiết, mua đâu cũng có.

Tuy nhiên, thay vào để bát nước ở trung tâm đàn tràng,

chúng tôi khởi niệm đặt tượng của Đức Phật Thích Ca thay

thế vào với lý do là Đàn tràng này do Ngài chỉ dạy, tại sao

chúng ta không đặt tượng của Ngài ở chính giữa đàn tràng.

Nhân duyên đưa đến sự thay thế này về sau được kiểm

chứng là “được” vì khi nhập Đàn tràng tu tập, Phật tử nhiễu

chung quanh tượng, một số Phật tử hữu duyên thấy tia sáng

phát ra từ tượng Ngài chiếu vào Phật tử.

Giải mã được ba phần này là quan trọng. Các phần khác

chúng ta cứ theo sự chỉ dạy trong kinh mà trang trí hình

tượng Chư Phật, Chư Bồ Tát … tùy theo khả năng có được.

3. Xây dựng Đàn tràng đầu tiên

Sau khi giải mã những phần khó thực hiện, chúng tôi xây

dựng một Đàn tràng nhỏ để chính mình thực hành kiểm

chứng. ĩ nhiên, chúng tôi phải tham khảo các kinh, luật, để

soạn hai phần đãnh lễ và phát nguyện như trong Kinh

Page 11: Sa Môn DI TÙNG - chuaphatquocttt.orgchuaphatquocttt.org/doc/KinhThuLangNghiemRev3.pdf · học, tụng inh Đại 3hật Đảnh thủ /ăng 1ghiêm, đồng thi tham khảo các

9

ĐPĐTLN nêu ra. Chúng tôi không dám trình bày nơi đây

những sự trải nghiệm trong khi nhập Đàn tràng, chỉ xin ghi

rằng những gì Đức Phật nói trong kinh đều có xảy ra. Chúng

tôi đã chấm dứt nhập Đàn tràng vào ngày chót bằng những

giọt nước mắt sung sướng và biết ơn sâu xa đến Đức Bổn Sư

Thích Ca Mâu Ni Phật đã dạy dỗ cho chúng sanh con đường

ra khỏi sanh tử luân hồi trong thời mạt pháp qua pháp tu

nhập Đàn tràng Lăng Nghiêm.

Lời Đức Phật dạy là dành cho tứ chúng chứ đâu phải cho

Tăng/Ni mà thôi. ì vậy chúng tôi quyết định tạo điều kiện

xây dựng đàn tràng dành cho tứ chúng.

4. Đàn tràng cho tứ chúng

Chúng tôi rất thận trọng trong sự phát triển xây dựng Đàn

tràng cho tứ chúng tu tập với lý do rất đơn giản: căn cơ của

tứ chúng khác nhau, trải nghiệm về tu tập Đàn tràng Lăng Nghiêm của chúng tôi quá ít ỏi, nếu có những Phật tử căn cơ cao và trong lúc đó trải nghiệm của chúng tôi quá hẹp hòi,

nếu trường hợp này xảy ra thì sao? Tuy nhiên, tin tưởng vào

sự gia hộ của Chư Phật, Chư Bồ Tát, Chư Long Thần ộ

Pháp Bồ Tát Ma a Tát, chúng tôi dự trù mở Đàn tràng Lăng

Nghiêm tại Tiểu Bang Kentucky, nơi một ngôi Chùa nằm

trên đồi núi nhìn xuống dòng sông Ohio.

Chúng tôi đến ngôi Chùa này để giảng Phật Pháp. ị trụ trì

Chùa đã di chuyển đi nơi khác. Chùa có một trụ cement

đường kính khoảng bốn feet, cao sáu feet, do vị trụ trì trước

xây dựng nhằm làm Chùa một cột. Chúng tôi muốn xây Đàn

tràng Lăng Nghiêm khung bằng sắt lên trên trụ cement này.

ật liệu rẻ, Phật tử có nghề hàn tình nguyện xây dựng. Tuy

nhiên, duyên chưa đủ nên vị chủ Chùa cứ lần lượt kéo dài

không tiến hành.

Lần thứ hai, chúng tôi được một vị trụ trì giới thiệu một Phật

tử ở Tennessee sẵn sàng cho xây cất Đàn tràng tại khu đất

Page 12: Sa Môn DI TÙNG - chuaphatquocttt.orgchuaphatquocttt.org/doc/KinhThuLangNghiemRev3.pdf · học, tụng inh Đại 3hật Đảnh thủ /ăng 1ghiêm, đồng thi tham khảo các

10

Phật tử này mua để khi về già về đó tu tập. Khu này là đồi

núi trông rất đẹp lại yên tịnh rộng hơn mười mẫu đất. Chúng

tôi cùng vị trụ trì này và một ít Phật tử lên nơi đó cắm cọc

chuẩn bị xây cất với kinh phí Phật tử này đài thọ luôn.

Nhưng duyên lại chưa đủ nên việc xây cất lại bị đình chỉ.

Phải đợi đến năm 2004, Phật tử Texas thấy tuổi chúng tôi đã

già mới mời chúng tôi về một chỗ có chiếc mobile home

(chúng tôi gọi là Cốc thay vì Chùa) để chúng tôi khỏi phải đi

đây đi đó nữa, đồng thời giúp Phật tử tu tập. Nơi đây, cũng

có vài trở ngại nơi thợ xây cất, nhưng chúng tôi đã xây dựng

được một Đàn tràng Lăng Nghiêm đầu tiên, khoảng cách

giữa hai cạnh đối diện là mười sáu feet cho tứ chúng tu tập

vào năm 2008.

ì số lượng Phật tử xin gia nhập Đàn tràng tu tập gia tăng,

năm 2011 Phật tử tại đây lại xây dựng một ngôi Chùa (Chùa

Phật Quốc Thanh Tịnh Tâm) cách cái Cốc này một giờ lái

xe, nơi đó, chúng tôi xây dựng một Đàn tràng Lăng Nghiêm

thứ hai lớn hơn, khoảng cách giữa hai cạnh đối diện là hai

mươi bốn feet. Ngoài Phật tử tại oa kỳ, còn có một số Phật

tử Úc và Gia Nã Đại (Canada) đến tham gia.

Chúng tôi cùng Phật tử có duyên với Đàn tràng Lăng

Nghiêm đã giúp xây dựng một Đàn tràng Lăng Nghiêm thứ

ba cho một gia đình Phật tử tại California, trong khuôn viên nhà của gia đình Phật tử này. Khoảng cách từ cạnh này qua

cạnh kia chỉ có mười hai feet. ù vậy khóa tu đầu tiên vào

năm 2015 cũng có được mười một Phật tử tham dự trong hai

tuần. Sở dĩ chỉ mở khoá hai tuần (mỗi ngày thêm một thời)

vì đa số Phật tử không có ngày nghỉ phép đủ ba tuần. Kết

quả vẫn khả quan.

à cũng trong năm 2015, chúng tôi cùng Phật tử đã xây

dựng được một Chùa nhỏ tại Florida (Chùa ô Trụ Thanh

Tịnh Tâm.) Đàn tràng Lăng Nghiêm thứ tư này dành cho

Page 13: Sa Môn DI TÙNG - chuaphatquocttt.orgchuaphatquocttt.org/doc/KinhThuLangNghiemRev3.pdf · học, tụng inh Đại 3hật Đảnh thủ /ăng 1ghiêm, đồng thi tham khảo các

11

Tăng/Ni thuộc hệ thống Thanh Tịnh Tâm của chúng tôi là

chính, nếu còn chỗ, Cư sĩ cũng có thể vào tu tập không phân

biệt.

Chúng tôi chỉ có vài lời ngắn gọn ghi trên, mong rằng sẽ gây

cảm ứng tốt cho những Phật tử tại gia hoặc xuất gia muốn tu

tập trong Đàn Tràng Lăng Nghiêm để chúng ta giữ gìn Kinh

Lăng Nghiêm nói riêng và Phật Pháp nói chung trường tồn.

Ngoài ra, nếu có Chùa, hay nhóm Phật tử nào muốn xây

dựng Đàn Tràng riêng, xin vui lòng liên lạc với chúng tôi,

chúng tôi sẵn sàng cố vấn cho việc xây dựng và chia xẻ kinh

nghiệm xây dựng và tu tập trong Đàn Tràng.

Page 14: Sa Môn DI TÙNG - chuaphatquocttt.orgchuaphatquocttt.org/doc/KinhThuLangNghiemRev3.pdf · học, tụng inh Đại 3hật Đảnh thủ /ăng 1ghiêm, đồng thi tham khảo các

12

Ghi Chú:

Kinh ghi tóm tắt ba tuần lễ tu tập trong Đàn tràng như sau:

“Trong bảy ngày đầu, chí thành đảnh lễ danh hiệu mười

phương Như Lai, Chư Đại Bồ Tát, Chư A La án. Thường

trong sáu thời đi quanh đàn tụng Chú, hết lòng hành Đạo,

mỗi thời trì một trăm lẻ tám biến.

“Trong bảy ngày thứ hai, một mặt chuyên tâm phát nguyện

Bồ Tát, tâm không gián đoạn. Trong Luật Tạng của Ta đã có

chỉ dạy về nguyện.

“Trong bảy ngày thứ ba, trong cả mười hai thời5, một bề trì

Chú Tát Đát Đa Bát Đát Ra của Phật. Cho đến ngày thứ bảy,

mười phương Như Lai nhất thời xuất hiện chỗ ánh sáng của

gương giao nhau, được Phật xoa đảnh; bèn ở nơi đạo tràng tu

Tam Ma Địa, có thể khiến cho hạng tu học đời mạt pháp thân

tâm sáng sạch như ngọc lưu ly6.

“Sau hai mươi mốt ngày, ngồi nghiêm chỉnh an cư [Thiền

định.] Trải qua một trăm ngày, những người có lợi căn

không rời khỏi chỗ ngồi mà đắc quả Tu Đà oàn. ầu cho

thân tâm thánh quả chưa thành, vẫn quyết định tự biết thành

Phật không sai lầm.

Mô Phật

Sa Môn Di Tùng

5 Ở phần trên Đức Phật dạy trong suốt ba lần hai mươi mốt ngày, mỗi

ngày sáu thời, nay ghi bảy ngày sau cùng mỗi ngày mười hai thời, phải

chăng có sự sai biệt? Đối với chúng tôi việc này không quan trọng bởi vì

chúng tôi đã trải nghiệm phương thức hai tuần và mỗi ngày trong hai

tuần đó thực hành bảy thời có hiệu quả. 6 Câu này có nghĩa là: Tập khí ô nhiễm lâu đời được tẩy sạch.

Page 15: Sa Môn DI TÙNG - chuaphatquocttt.orgchuaphatquocttt.org/doc/KinhThuLangNghiemRev3.pdf · học, tụng inh Đại 3hật Đảnh thủ /ăng 1ghiêm, đồng thi tham khảo các

13

KINH ĐẠI PHẬT ĐẢNH THỦ LĂNG NGHIÊM (T M T T NG N)

Tên đầy đủ của Kinh: Đại Phật Đảnh, Như Lai Mật Nhân,

Tu Chứng Liễu Nghĩa, Chư Bồ Tát Vạn Hạnh, Thủ Lăng

Nghiêm.

Giải nghĩa:

Đại Phật Đảnh: Kinh này Đức Phật dạy thẳng vào Chơn

Tâm, ý nghĩa rất thâm sâu chỉ có chư Phật mới thâm nhập

được, ngay cả quý ngài Bồ tát cũng không ngộ nhập được,

nên dùng chữ “ ô kiến đảnh tướng” của Phật và thêm chữ

Đại để nói lên Chơn Tâm bao trùm tất cả mười phương Pháp

giới.

Như Lai Mật Nhân: Nếu chúng ta y theo Chơn Tâm này

làm nhân địa tu hành, sẽ được thành Phật.

Tu Chứng Liễu Nghĩa: Nếu chúng ta y theo Chơn Tâm mà

tu sẽ chứng chỗ rốt ráo, nên gọi là “tu chứng liễu nghĩa.”

Chư Bồ Tát Vạn Hạnh: Nếu chúng ta y theo Chơn Tâm này

mà thực hành lục độ7 muôn hạnh của Bồ tát, thì chính là đã

thực hành “chư Bồ tát vạn hạnh.”

Thủ Lăng Nghiêm: “Thủ Lăng Nghiêm,” Tàu dịch là “Đại

định kiên cố.” Chữ Đại để chỉ cho cái Bản thể Chơn Tâm

sẵn có của tất cả chúng sanh và chư Phật, nó bao trùm khắp

cả mười phương Pháp giới. Thể tánh ấy thường tịch tịnh

không vọng động nên gọi rằng “Định.” Không bị thời gian

thay đổi, hay không gian chuyển dời, không tăng không

giảm, nên gọi rằng “Kiên cố.”

7 Lục độ: Nói đầy đủ là “lục độ ba la mật” sáu pháp tu đưa đến bờ giải

thoát: Bố thí, Trì giới, Nhẫn nhục, Tinh tấn, Thiền định, Trí huệ.

Page 16: Sa Môn DI TÙNG - chuaphatquocttt.orgchuaphatquocttt.org/doc/KinhThuLangNghiemRev3.pdf · học, tụng inh Đại 3hật Đảnh thủ /ăng 1ghiêm, đồng thi tham khảo các

14

KINH ĐẠI PHẬT ĐẢNH THỦ LĂNG NGHIÊM (T M T T NG N)

Page 17: Sa Môn DI TÙNG - chuaphatquocttt.orgchuaphatquocttt.org/doc/KinhThuLangNghiemRev3.pdf · học, tụng inh Đại 3hật Đảnh thủ /ăng 1ghiêm, đồng thi tham khảo các

15

Quyển I

Phần 1

Kinh này bắt đầu bằng câu “tôi nghe như vầy.”8 Kinh do

Đức Phật dạy tại Tịnh Xá Kỳ oàn, thành Thất La Phiệt.

Pháp hội gồm Đức Phật, các vị Tỳ Kheo, các vị Bồ Tát từ

mười phương đến, và Phật tử tham dự.9

Duyên khởi của kinh:

ua Ba Tư Nặc mở tiệc chay cúng dường Đức Phật. Trong

thành, các trưởng giả, cư sĩ cúng dường trai tăng. uy chỉ có

ngài Anan trước đã nhận lời mời riêng, nên đi khất thực một

mình trong thành. Lúc ấy, khi đi ngang qua nhà người dâm

nữ Ma Đăng Già, ngài bị phép huyễn thuật của cô ta mê

hoặc, bắt vào phòng riêng khiến ngài gần phạm giới. Đức

Phật biết được, ngài phóng quang nói Thần Chú Lăng

Nghiêm rồi bảo ngài ăn Thù Sư Lợi đem Thần Chú đó đến

giúp tiêu diệt tà chú của Ma Đăng Già và đưa ngài Anan

cùng Ma Đăng Già về chỗ của Phật.

ề đến Tịnh Xá, ngài Anan buồn khóc lạy Phật tha thiết xin

Phật chỉ dạy những pháp Xa Ma Tha (Chỉ,) Tam Ma10

(Quán,) và Thiền Na (gồm Chỉ và Quán.)

(Lưu ý: Phần duyên khởi này rất quan trọng. Vì sao? Chính

duyên khởi này đưa đến việc Đức Phật khai thị phần Mật

8 Đức Phật dặn ngài Anan phải dùng câu “tôi nghe như vầy” trước khi kể

lại lời dạy của Đức Phật trong Pháp hội, để tránh tứ chúng hiểu lầm lời

dạy này là của ngài Anan. 9 Kinh Phật thường ghi rõ Pháp hội xảy ra tại nơi nào, và có những ai

tham dự … 10

Tam Ma: Để nói Pháp Quán tưởng, tiếng Phạn thường dùng chữ

Vipassana phiên âm là Tỳ Bà Xá Na! Một vài chỗ trong kinh dùng danh

từ này.

Page 18: Sa Môn DI TÙNG - chuaphatquocttt.orgchuaphatquocttt.org/doc/KinhThuLangNghiemRev3.pdf · học, tụng inh Đại 3hật Đảnh thủ /ăng 1ghiêm, đồng thi tham khảo các

16

giáo, phóng quang đọc Thần Chú “Ma Ha Tát Đát Đa Bát

Đát Ra” thường được gọi là Thần Chú Thủ Lăng Nghiêm để

chỉ dẫn Phật tử, vào thời Mạt Pháp, xây dựng đàn tràng tu

tập như ngài đã dạy rõ trong Kinh Thủ Lăng Nghiêm.)

Phần 2

(Lưu ý: Nên đọc qua tất cả nội dung của kinh để hiểu, nhưng

phải ghi nhớ những nội dung được in đậm để thực hành)

Chỉ bày Chơn Tâm

Đức Phật bảo ngài Anan:”Ông với Ta đồng phái, tình như

anh em ruột. ậy, khi ông mới phát tâm xuất gia, ở trong

Phật Pháp, thấy11

tướng tốt gì của ta mà bỏ được những ân ái

sâu nặng của thế gian?”

Ngài Anan bạch Phật:” Con thấy ba mươi hai tướng tốt của

Như Lai12

nên con khao khát ngưỡng mộ mà xuất gia.”

Đức Phật dạy:”Lành thay Anan! Ông phải biết: “Tất cả

chúng sanh từ vô thủy đến nay, sống chết nối nhau đều do

không biết cái Chơn Tâm Thường Trụ, Thể Tánh vốn

trong sạch, sáng suốt mà lại dùng các Vọng Tưởng chẳng

11

Phật chọn căn mắt (một trong sáu căn: mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý) để

giảng dạy về Tâm. 12

Như Lai là một trong mười danh hiệu của Đức Phật gồm: Như Lai

(thường trụ, không từ đâu đến, cũng không đi về đâu,) Ứng Cúng (người

đáng được cúng dường,) Chánh Biến Tri (người hiểu biết đúng tất cả

Pháp,) Minh Hạnh Túc (người có đủ Trí Huệ và đức hạnh,) Thiện Thệ

(người đã đi một cách tốt đẹp,) Thế Gian Giải (người đã thấu hiểu thế

giới,) ô Thượng Sĩ (đấng tối cao không ai vượt qua,) Điều Ngự Trượng

Phu (người đã chế ngự được bản ngã và nhân loại,) Thiên Nhơn Sư (bậc

thầy của cõi trời và cõi người,) Phật Thế Tôn (bậc giác ngộ được các cõi

tôn kính.)

Page 19: Sa Môn DI TÙNG - chuaphatquocttt.orgchuaphatquocttt.org/doc/KinhThuLangNghiemRev3.pdf · học, tụng inh Đại 3hật Đảnh thủ /ăng 1ghiêm, đồng thi tham khảo các

17

chân thật nên mới có sự chuyển động trôi lăn.13

Nay ông

muốn học đạo Bồ Đề ô Thượng thì phải lấy Tâm Ngay

Thẳng mà trả lời chỗ Ta hỏi không có quanh co.”

“Anan! Nay Ta hỏi ông:”Khi ông do ba mươi hai tướng tốt

của Như Lai mà phát tâm thì ông lấy cái gì mà thấy và lấy

cái gì mà ưa thích?”

Ngài Anan bạch Phật: “Bạch Thế Tôn: con do mắt thấy

tướng tốt của Như Lai tâm sanh ra ưa thích, nên con phát

nguyện lìa bỏ sanh tử.”

Đức Phật bảy lần phá cái chấp của ngài Anan về nơi trú

của Tâm

(Lưu ý: Bảy lần chấp Tâm của ngài Anan, đọc nhưng không

cần phải nhớ.)

Đức Phật bảo: “Nay Ta hỏi ông Tâm và mắt ấy hiện nay ở

chỗ nào?”

1. Chấp Tâm ở trong thân

Ngài Anan bạch Phật: “Con mắt của con ở trên mặt con, còn

cái Tâm Thức hay biết ở trong thân con.”

Đức Phật bảo: “Nếu cái Tâm hiểu biết ở trong thân thì sao nó

không thấy được tim, gan, phổi, bao tử … Đã không biết bên

trong làm sao biết được bên ngoài.”

2. Chấp Tâm ở ngoài thân

Ngài Anan bạch Phật: “Như vậy Tâm con thật ở ngoài thân,

ví như ngọn đèn đặt ở ngoài phòng không thấy vật trong

phòng nhưng thấy vật ở ngoài phòng.”

13

Trôi lăn trong vòng sanh tử luân hồi. Căn bản tu Phật nằm ngay chỗ

này có nghĩa là muốn không còn đau khổ, chúng ta phải “thoát vòng

sanh tử luân hồi.”

Page 20: Sa Môn DI TÙNG - chuaphatquocttt.orgchuaphatquocttt.org/doc/KinhThuLangNghiemRev3.pdf · học, tụng inh Đại 3hật Đảnh thủ /ăng 1ghiêm, đồng thi tham khảo các

18

Đức Phật bảo: “Nếu Tâm ở ngoài thân thì Tâm và thân khác

nhau, chẳng dính líu gì với nhau. ậy thì cái gì Tâm biết thì

thân không thể biết, còn cái gì thân biết thì Tâm không thể

biết. Còn nếu Tâm và thân cùng hay biết thì làm sao Tâm lại

ở ngoài thân?”

3. Chấp Tâm núp sau con mắt

Ngài Anan bạch Phật: “Như vậy, cái Tâm con núp sau con

mắt. í dụ như có người lấy chén lưu ly trong suốt úp vào

đôi mắt, Tâm ở nơi mắt nên không thấy ở trong, nhưng vẫn

thấy bên ngoài qua cái chén, nên con nói Tâm núp sau con

mắt.”

Đức Phật bảo: “Nếu Tâm núp sau con mắt, sao Tâm không

thấy con mắt?”

4. Chấp nhắm mắt thấy tối là thấy bên trong thân

Ngài Anan bạch Phật: “Mở mắt thấy sáng gọi là thấy bên

ngoài; nhắm mắt thấy tối là thấy bên trong. Nghĩa ấy như

thế nào?”

Đức Phật bảo: “Nếu mắt thấy tối thì cái tối ở trước mắt sao

lại ở trong thân? Còn nếu cái tối đó ở trong thân thì khi ở

trong phòng tối không có ánh sáng thì cái gì ở trong nhà tối

đó là tạng phủ của ông sao? ậy ông nói thấy tối gọi là thấy

bên trong thân, thật không có lẽ đó.”

5. Chấp Tâm hợp chỗ nào thì liền có ở chỗ đó

Ngài Anan bạch Phật: “Con thường nghe Phật dạy rằng: “ o

Tâm sanh nên các Pháp sanh. Nay con nghĩ rằng cái Thể

biết suy nghĩ đó mới thật là Tâm của con, hễ hợp với chỗ nào

thì Tâm liền hiện chỗ đó, chứ không phải ở trong, ở ngoài

hay ở chặng giữa.”

Đức Phật bảo ngài Anan: “Cái Tâm ấy nếu không có tự Thể

thì không thể hợp được, còn nếu không có tự Thể mà hợp

Page 21: Sa Môn DI TÙNG - chuaphatquocttt.orgchuaphatquocttt.org/doc/KinhThuLangNghiemRev3.pdf · học, tụng inh Đại 3hật Đảnh thủ /ăng 1ghiêm, đồng thi tham khảo các

19

được thì giới thứ mười chín14

cùng trần thứ bảy hợp lại được

hay sao? Nghĩa ấy không đúng. Còn nếu Tâm ông có tự

Thể thì khi ông lấy tay gải một chi lẽ ra tứ chi15

đều biết, mà

nếu điều biết thì lại không biết gãi chỗ nào, như vậy nói rằng

hợp chỗ nào Tâm liền ở chỗ đó, thật không có lẽ ấy.”

6. Chấp Tâm ở chặng giữa

Ngài Anan bạch Phật: Khi nói về nghĩa Thật Tướng, Thế

Tôn cũng nói rằng: “Tâm không ở trong cũng không ở

ngoài” như vậy Tâm chắc phải ở chặng giữa?”

Đức Phật bảo ngài Anan: Theo ông cái giữa ấy ở chỗ nào, ở

nơi cảnh hay ở nơi thân? Nếu nói ở giữa căn và trần sinh ra

Nhãn Thức thì Tâm ấy gồm cả hai bên hay không gồm cả hai

bên? Nếu gồm cả hai bên thì vật (vô tri) và Tâm Thể (hay

biết) xen lộn lẫn nhau lấy cái gì làm cái giữa? ậy ông nói

cái Tâm ở chặng giữa thật không có lẽ đó.”

7. Chấp Tâm chẳng dinh dán vào đâu cả

Ngài Anan bạch Phật: “Trước đây Phật dạy Tâm không ở

trong, không ở ngoài, không ở chính giữa, tất cả không dính

bám tạm gọi là Tâm, nay con nói không dính bám thì gọi là

Tâm.”

Đức Phật bảo ngài Anan: “Các vật tượng trong thế gian như

hư không và chúng sanh ông cho là có hay không có, nếu

không có tướng tức là không, chẳng lẽ không lại có tướng.

Có tướng thì có chỗ ở, làm sao lại cho là không dính bám

được? ậy, nên biết rằng cái không dính bám vào đâu cả

chính là Tâm hiểu biết thật không có lẽ đó.”

14

Sáu căn, sáu trần, sáu thức cọng lại gọi là mười tám giới. Nay nói giới

thứ mười chín nghĩa là không có. Trần chỉ có sáu, nay nói trần thứ bảy

cũng nghĩa là không có. Cho nên, Đức Phật hỏi hai cái không có hợp lạI

được hay sao? 15

Tứ chi là hai tay và hai chân. Khi nói “một chi” có nghĩa là nói một

tay hay một chân nào đó.

Page 22: Sa Môn DI TÙNG - chuaphatquocttt.orgchuaphatquocttt.org/doc/KinhThuLangNghiemRev3.pdf · học, tụng inh Đại 3hật Đảnh thủ /ăng 1ghiêm, đồng thi tham khảo các

20

Phần 3

Đức Phật chỉ rõ Tánh Thấy

Lúc bấy giờ, từ gương mặt, Đức Phật phóng ra các hào

quang báu, ánh sáng rực rỡ như mặt trời chiếu sáng khắp thế

giới của Chư Phật, sáu thứ chấn động16, các cõi nước nhiều

như vi trần trong mười phương hiện ra cùng một lúc. Trong

các thế giới này, tất cả các vị Bồ Tát hiện có mặt đều an trụ ở

nước mình cung kính chấp tay nghe lời Phật dạy.

Hai thứ căn bản

(Lưu ý: Hai thứ căn bản này phải ghi nhớ)

Đức Phật bảo ngài Anan: “ ết thảy chúng sanh từ vô thủy

đến nay, do không biết hai loại căn bản lầm lẫn tu tập, cũng

như nấu cát mà muốn thành món ngon, dầu trải qua số kiếp

nhiều như bụi, rốt cũng chẳng được. Thế nào là hai loại căn

bản? Anan! Một là: Cội gốc của Sanh Tử từ vô thủy17

.

Tức là ông hiện giờ và các chúng sanh dùng cái Tâm bám

níu theo duyên18

mà làm Tự Tánh19.” ai là: Cái Thể Bổn

16 Sáu cách rúng động trên mặt đất bao gồm:

1. Động: Động tức là động cựa

2. Khởi: Khởi tức là vùng dậy.

3. Dõng: õng tức là phun ra

4. Chấn: Chấn tức là vang dội

5. ống: ống tức là gào lên

6. Kích: Kích tức là đánh ra

Ba thứ chấn động trước gọi là biến hóa của hình thể, ba thứ chấn

động sau gọi là sự biến hóa của âm thanh. Ấy là sáu thứ chấn động nơi

địa cầu, chứng minh cho một đại sự, như khi Phật thành đạo. 17

Cội gốc của Sanh Tử từ vô thủy là “Căn bản vô minh” 18

Cái Tâm bám níu theo duyên là “Vọng Tâm.”

Page 23: Sa Môn DI TÙNG - chuaphatquocttt.orgchuaphatquocttt.org/doc/KinhThuLangNghiemRev3.pdf · học, tụng inh Đại 3hật Đảnh thủ /ăng 1ghiêm, đồng thi tham khảo các

21

Lai Thanh Tịnh Bồ Đề Niết Bàn Vô Thủy, tức là cái Chơn

Tâm vốn sáng soi của ông bây giờ, hay sanh các duyên. Ông lại duyên theo các tướng duyên này mà bỏ quên Chơn

Tâm. Cho nên tuy trọn ngày sử dụng Nó [Chơn Tâm] mà

chẳng tự biết, oan uổng lạc vào sáu nẽo20.”

Nương cái Thấy21

gạn hỏi cái Tâm (Lưu ý: Đoạn này đọc cho biết, không cần phải nhớ)

Đức Phật đưa tay và co năm ngón tay lại, hỏi ngài Anan:

Ông có thấy không?

Ngài Anan bạch Phật: ạ có thấy.

Đức Phật bảo: Ông thấy cái gì?

Ngài Anan trả lời: Con thấy Như Lai đưa tay lên rồi co ngón

thành nắm tay sáng ngời chói Tâm và Mắt của con.”

Đức Phật hỏi: Ông lấy cái gì mà thấy?”

Ngài Anan trả lời: Con và đại chúng đều lấy con mắt mà

thấy.

Đức Phật bảo ngài Anan: Con mắt ông thì thấy, còn ông lấy

cái gì làm Tâm đối với nắm tay chói sáng của Ta?

Ngài Anan bạch Phật: Thưa con lấy cái năng biết suy nghĩ

làm Tâm22

.

Đức Phật bảo: Cái đó chẳng phải là Tâm của ông đâu.

Ngài Anan bạch Phật: Nếu cái ấy không phải là Tâm của con

thì gọi là cái gì?

19

Tự Tánh cũng gọi là Chơn Tâm, Phật Tánh … 20

Sáu nẽo còn gọi là sáu đường: Theo quan niệm về vũ trụ (vũ trụ quan)

của Phật giáo, chúng sanh chết và tái sanh vào sáu đường tùy theo nghiệp

(hành động) của mình trong kiếp sống trước, còn gọi là “vòng sanh tử

luân hồi.” Sáu đường gồm: Địa ngục, Ngạ quỹ, Súc sanh, A tu la, Người,

Trời (Thiên) 21

Đức Phật dùng cái Thấy (mắt, một trong sáu Căn: mắt, tai, mũi, lưỡi,

thân, ý) để giảng dạy. 22

Cái năng biết suy nghĩ là ọng Tâm, trong lúc đó Đức Phật muốn ngài

Anan chỉ bày cái Chơn Tâm.

Page 24: Sa Môn DI TÙNG - chuaphatquocttt.orgchuaphatquocttt.org/doc/KinhThuLangNghiemRev3.pdf · học, tụng inh Đại 3hật Đảnh thủ /ăng 1ghiêm, đồng thi tham khảo các

22

Đức Phật bảo: Đó là cái Tưởng tạo nên các tướng hư vọng

của tiền trần23, nó làm mê lầm Chơn Tánh của ông. Do

từ vô thủy đến nay, ông nhận tên giặc đó làm con, bèn mất đi

cái ốn Thường ằng24

của ông nên phải chịu luân hồi.

Ngài Anan bạch Phật: Từ lâu nay con dùng cái Tâm này, nay

Như Lai nói đó không phải là Tâm, như vậy con không có

Tâm sao? Kính xin Phật rũ lòng từ bi chỉ bày.

Khi ấy Đức Thế Tôn liền khai thị cho ngài Anan và đại

chúng muốn được ô Sanh Pháp Nhẫn25. Ngài nói: Như

Lai thường nói các Pháp26

sanh ra đều do Tâm hiện. Hãy

phân biệt, nếu rời cái tiền trần mà có cái phân biệt (cái

biết nói chung) thì đó mới là Chơn Tâm của ông; còn nếu

rời tiền trần mà không có cái phân biệt (cái biết) thì đó chỉ là

sự phân biệt bóng dáng tiền trần ( ọng Tâm) mà thôi không

thể chứng ô Sanh Pháp Nhẫn.

Tánh Thấy không phải là con mắt

Phật bảo ngài Anan: ết thảy những người tu học trong thế

gian hiện tuy thành được chín bậc định27

thứ lớp mà chẳng

được hết lậu để thành A la hán, đều do chấp lấy cái vọng

tưởng sanh tử này mà lầm cho là chân thật. Thế nên, ông

nay tuy được đa văn mà không thành Quả Thánh.

Ngài Anan khóc than và biết rằng nếu có đa văn mà chẳng

tu hành thì chẳng khác gì chưa từng được nghe đạo, như

người chỉ nói chuyện ăn rốt cuộc chẳng được no.

Liền khi ấy, Như Lai từ chữ ạn ở ngực phóng ra ánh sáng

báu, chiếu khắp tất cả thế giới của Chư Phật mười phương

như số vi trần. ào quang rưới khắp Đảnh các Đức Như Lai

23

Tất cả những gì là đối tượng của sáu căn thì được gọi là “tiền trần.” 24

Cái “ ốn Thường Hằng” chỉ cho Chơn Tâm. 25

Vô Sanh Pháp Nhẫn là quả vị không còn tái sanh nữa. 26

Các Pháp ở đây có nghĩa là tất cả núi sông, đất đai, chúng sanh... 27

Chín bậc định gồm: Sơ Thiền, Nhị Thiền, Tam Thiền, Tứ Thiền,

Không Vô Biên Xứ, Thức Vô Biên Xứ. Vô Sở Hữu Xứ, Phi Tưởng Phi

Phi Tưởng Xứ, Diệt Thọ Tưởng Định (cũng còn gọi là Diệt Tận Định.)

Page 25: Sa Môn DI TÙNG - chuaphatquocttt.orgchuaphatquocttt.org/doc/KinhThuLangNghiemRev3.pdf · học, tụng inh Đại 3hật Đảnh thủ /ăng 1ghiêm, đồng thi tham khảo các

23

của mười phương cõi báu, rồi xoay về chiếu sáng đến ngài

Anan và đại chúng.

Phật hỏi ngài Anan: Nếu không có bàn tay Ta thì không có

nắm tay của Ta và nếu không có con mắt của ông thì không

thành cái thấy của ông. ậy thì lấy nhãn căn (con mắt) của

ông mà so với nắm tay của Ta, cái nghĩa có tương xứng

không?

Ngài Anan bạch Phật: Bạch Phật có nghĩa giống nhau.

Đức Phật bảo: Ông nói giống nhau nghĩa không đúng.

Người không có bàn tay thì không có nắm tay, nhưng người

mù vẫn thấy tối đen, tiền trần tối đen chứ cái thấy nào có hao

kém gì?

Ngài Anan thưa: Trước mắt người mù thấy đen sao gọi là

thấy được?

Đức Phật bảo ngài Anan: Người mù không có con mắt chỉ

thấy tối đen, so với người có mắt trong nhà tối thì hai cái tối

đen ấy không giống nhau. ì nếu người mù mắt được sáng

lại thì người ta bảo mắt người ấy thấy mọi sự vật. Trong lúc

đó, nếu người ở trong phòng tối bổng có đèn đốt sáng lên

liền thấy mọi vật, lẽ ra phải nói cái đèn tự nó thấy, nhưng cái

đèn đâu có tự thấy được. Đèn chỉ làm sáng các hình sắc và

mắt thấy chứ không phải đèn. Mắt làm sáng tỏ các sắc

nhưng Tánh Thấy là Tâm chứ chẳng phải mắt.

Ý nghĩa chủ và khách

(Lưu ý: Phần này đọc để hiểu, không có gì khó khăn)

Ngài Kiều Trần Như bạch Phật: Con nghĩ như vầy: Không ở

yên mãi thì gọi là Khách, còn ở mãi là Chủ, giống như người

khách đi đường vào nghỉ nơi quán trọ, sau đó lại đi, còn

người chủ quán trọ thì chẳng đi đâu cả. Lại nữa, ánh sáng

mặt trời qua khe hở chiếu rõ bụi trần dao động trong hư

không lặng yên. Như vậy, lay động gọi là trần, đứng lặng là

hư không.

Đức Phật bảo: Đúng vậy!

Page 26: Sa Môn DI TÙNG - chuaphatquocttt.orgchuaphatquocttt.org/doc/KinhThuLangNghiemRev3.pdf · học, tụng inh Đại 3hật Đảnh thủ /ăng 1ghiêm, đồng thi tham khảo các

24

Khi ấy Đức Như Lai co năm ngón tay lại, rồi mở ra, và hỏi

ngài Anan rằng ông thấy gì?

Ngài Anan đáp: Con thấy bàn tay của Như Lai lúc nắm, lúc

mở.

Đức Phật bảo ngài Anan: Ông thấy tay Ta khi nắm, khi mở,

đó là tay Ta có mở có nắm hay là cái Thấy của ông có mở có

nắm?

Ngài Anan thưa: Bàn tay của Phật có nắm có mở, chẳng phải

cái Tánh Thấy của con có mở có nắm.

Đức Phật hỏi: Cái gì Động, cái gì Tĩnh?

Ngài Anan thưa: Bàn tay của Phật không ở yên (Động) còn

Tánh Thấy của con còn không có Tĩnh, lấy gì gọi là không ở

yên được.

Phật dạy: Đúng thế!

Khi ấy, từ trong bàn tay Phật phát ra một đạo hào quang

chiếu qua bên phải ngài Anan, ngài Anan liền quay đầu trông

qua bên phải; Phật lại phóng quang qua bên tay trái ngài

Anan, ngài Anan lại quay đầu trông qua bên trái.

Đức Phật bảo: ôm nay vì sao đầu ông dao động?

Ngài Anan bạch Phật: Con thấy hào quang của Phật chiếu

qua bên phải rồi lại qua bên trái, nên đầu con tự dao động.

Đức Phật hỏi: Như vậy, đầu ông động hay cái Thấy của ông

động?

Ngài Anan bạch Phật: Thưa Thế Tôn, đầu con động chứ

Tánh Thấy của con thì dừng đứng còn chẳng có, lấy gì mà

dao động.

Đức Phật dạy: Đúng thế!

Lúc bấy giờ Như Lai bảo cùng tất cả đại chúng: Các chúng

sanh lấy cái dao động mà gọi là Trần, lấy cái không ở yên

gọi là Khách, các ông hãy xem ông Anan đầu tự dao động

mà cái Thấy không có chỗ động. Bàn tay của Ta có khi nắm

khi mở mà cái Thấy không duỗi không co. Cớ sao các ông

hiện nay lại lấy cái động làm Thân, làm Cảnh, từ đầu đến

cuối niệm niệm sanh diệt. bỏ mất Chân Tánh, làm việc

điên đảo, mất chỗ Chân Thật, nhận vật làm mình, luân hồi

trong ấy, tự mình chọn lấy sự trôi nổi đổi thay?

Page 27: Sa Môn DI TÙNG - chuaphatquocttt.orgchuaphatquocttt.org/doc/KinhThuLangNghiemRev3.pdf · học, tụng inh Đại 3hật Đảnh thủ /ăng 1ghiêm, đồng thi tham khảo các

25

Quyển II

Phần 4

Chỉ Tánh Thấy không sanh diệt

(Lưu ý: Phần này đọc để hiểu, không có gì khó khăn)

Khi ấy, vua Ba Tư Nặc đứng lên bạch Phật: Kính xin Phật

chỉ rõ làm thế nào chứng biết chỗ Chẳng Sanh iệt của Tâm

này.

Phật hỏi: Đại ương! Thân ông hiện nay có giống được như

kim cang còn hoài chẳng hoại, hay lại biến đổi và tan rã?

“Bạch Thế Tôn! Cái thân đây của con rốt cuộc rồi cũng thay

đổi và tiêu diệt.”

Đức Phật bảo: Đại ương! Ông chưa từng diệt làm sao lại

biết là phải bị diệt?

“Bạch Thế Tôn! ồi còn bé nhỏ, da con mịn màng, đến lúc

này tóc bạc da nhăn, sống chẳng còn bao lâu.”

Đức Phật bảo: Đại ương! Ông thấy thân ông biến đổi

không ngừng, rõ là phải diệt. ậy, ông có biết trong thân

ông có cái gì không diệt không?

ua Ba Tư Nặc chấp tay bạch Phật: Con thật không biết.

Đức Phật dạy: Nay Ta sẽ chỉ cho ông rõ cái Tánh Không

Sanh iệt. Đại ương! Ông năm mấy tuổi thì thấy sông

ằng?

ua bạch: Khi con lên ba, mẹ con dẫn con đi qua sông ằng.

Đức Phật bảo: Đại ương! Như lời ông nói khi ba tuổi ông

thấy nước sông ằng, nay ông đã già thì nước ấy có gì thay

đổi không?

ua bạch: Thưa, cũng như khi lên ba, chẳng khác gì.

Đức Phật bảo: Này Đại ương! Mặt ông tuy nhăn, nhưng

Tánh của cái Thấy chưa hề bị nhăn. Cái nhăn thì thay đổi,

còn cái không bị nhăn thì chẳng thay đổi. Cái thay đổi thì

phải diệt, còn cái không thay đổi thì vốn không sanh, không

diệt.

Page 28: Sa Môn DI TÙNG - chuaphatquocttt.orgchuaphatquocttt.org/doc/KinhThuLangNghiemRev3.pdf · học, tụng inh Đại 3hật Đảnh thủ /ăng 1ghiêm, đồng thi tham khảo các

26

Chỉ chỗ điên đảo

Ngài Anan liền bạch Phật rằng: Thưa Thế Tôn! Nếu cái

Thấy, Nghe này thật không sanh diệt thì tại sao Đức Thế Tôn

lại bảo rằng chúng con đều bỏ mất Chân Tánh, làm việc điên

đảo, lộn ngược. Cúi xin Phật mở lòng từ bi rửa sạch trần cấu

cho chúng con.

Khi ấy, Đức Như Lai liền duỗi cánh tay, ngón tay chỉ xuống,

hỏi ngài Anan: Như nay ông thấy tay của Ta là chánh hay

đảo?

Ngài Anan bạch Phật: Chúng sanh thế gian cho là đảo

ngược, còn con thì chẳng biết cái nào là chánh, cái nào là

đảo.

Đức Phật bảo: Nếu người thế gian cho như thế là đảo ngược,

như vậy thế nào là chánh?

Ngài Anan bạch Phật: Đức Như Lai đưa tay chỉ lên là chánh.

Đức Phật bảo: Cánh tay đảo ngược như thế chỉ là đầu đuôi

thay đổi lẫn nhau mà thôi. Nay lấy cái thân ông và Pháp

Thân Thanh Tịnh của Như Lai mà so sánh thì thân của Như

Lai gọi là Chánh Biến Tri, còn thân của ông gọi là Tánh

Điên Đảo. Tùy ông xét kỹ: Thân ông, thân Phật, cái gọi là

điên đảo lộn ngược đó, do ở chỗ nào mà gọi là điên đảo?

Khi ấy, ngài Anan và đại chúng sửng sốt nhìn Phật chẳng

biết Thân Tâm chỗ nào điên đảo? Đức Phật khởi lòng từ bi,

thương xót, phát tiếng hải triều bảo khắp trong hội: Ta

thường dạy rằng: Sắc Tâm, các duyên và các Tâm Sở, các

Pháp sở duyên đều duy Tâm mà hiện. Thân ông và Tâm

( ọng Tâm) ông đều là những vật hiện ra ở trong cái Diệu

Tâm Mầu Sáng Thuần Chân (Chơn Tâm.) Tại sao ông bỏ

mất cái Tâm mà Tánh nó vốn nhiệm mầu, tròn sáng, quý báu

để nhận lấy sự mê lầm trong cái vốn đã Giác ngộ?

Mê muội (vô minh) thành có Hư Không. Trong hư không

mê muội ấy, kết cái tối ám thành Sắc, Sắc xen lẫn với vọng

tưởng ra hình tướng làm Thân. Nhóm các duyên dao động

bên trong, giong ruổi theo bên ngoài, rồi lấy cái tướng mù

mịt lăng xăng đó làm Tâm. Một phen mê lầm cái tướng ấy

Page 29: Sa Môn DI TÙNG - chuaphatquocttt.orgchuaphatquocttt.org/doc/KinhThuLangNghiemRev3.pdf · học, tụng inh Đại 3hật Đảnh thủ /ăng 1ghiêm, đồng thi tham khảo các

27

làm Tâm thì đưa tới cái lầm là Tâm ở trong sắc thân, mà

chẳng biết rằng từ sắc thân cho đến núi sông, hư không,

đất đai bên ngoài, hết thảy đều là vật hiện ra trong cái

Diệu Minh Chơn Tâm này. [Phần này nói vì vô minh mà

sanh ra núi sông, đất đai và chúng sanh …, khó có thể suy

nghĩ được, chúng ta chỉ tin lời Phật dạy rồi tu tập, đến khi

thành Phật sẽ biết.]

Lựa bỏ Tâm phan duyên để chỉ tánh Thấy không trả về

đâu

Phật bảo ngài Anan: Nếu các ông còn lấy cái Tâm phan

duyên để nghe Pháp thì Pháp đó cũng chỉ là cái sở duyên

(được duyên) chứ chẳng phải là Pháp Tánh28. í như có

người lấy ngón tay chỉ mặt trăng cho người kia, mà người

kia chỉ nhìn vào ngón tay thì làm sao thấy được cái sáng của

mặt trăng? Lại nữa, nếu các ông lấy cái phân biệt pháp âm

của Ta mà làm Tâm của ông, thì cái Tâm [phân biệt] ấy

phải rời tiếng nói mà vẫn tự nó có tánh phân biệt. í như

người khách ngủ trọ nơi quán rồi lại đi, trong lúc đó người

chủ quán thì chẳng đi đâu cả. Ở đây cũng thế, nếu thật là

Tâm của ông thì chẳng đi đâu cả.

Ngài Anan thưa: Nếu Tâm Tánh của con đều mỗi mỗi đều có

chỗ trả về, thì cái Diệu Minh Nguyên Tâm mà Như Lai nói

đó sao lại không trả về?

Phật bảo ngài Anan: Nay Ta trả cái sáng về cho mặt trời, cái

tối trả về cho đêm không trăng, thông suốt trả về cho các

cửa, ngăn bít trả về cho tường vách, sắc duyên trả về cho

phân biệt, trống rỗng trả về cho hư không, mù mịt trả về cho

bụi bặm, trong sáng trả về cho trời tạnh. Tất cả mọi vật gì

trong thế gian đều không ra ngoài những loại ấy. Còn cái

Thấy của ông thấy tám thứ kia thì ông định trả về đâu? Tám

thứ kia có sai biệt, còn Cái Thấy không có sai biệt. Các thứ

có thể trả về tất nhiên không phải là ông, còn cái không trả

28

Pháp Tánh thì không có năng (chủ thể) và sở (đối tượng.)

Page 30: Sa Môn DI TÙNG - chuaphatquocttt.orgchuaphatquocttt.org/doc/KinhThuLangNghiemRev3.pdf · học, tụng inh Đại 3hật Đảnh thủ /ăng 1ghiêm, đồng thi tham khảo các

28

về được, không phải chính ông thì là ai? Thế mới biết rằng

Tâm ông vốn nhiệm mầu, sáng sạch, ông tự mê muội bỏ

mất Bổn Tánh mà chịu luân hồi sanh tử, thường bị chìm

đắm, thế nên Như Lai nói rất đáng thương xót vậy!

Lựa riêng trần cảnh để nêu ra Tánh Thấy

Ngài Anan bạch Phật: Tuy con biết Tánh Thấy không thể trả

về đâu, nhưng làm sao biết đó là Chân Tánh của con?

Phật bảo ngài Anan: Anan! Cùng tột sức Thấy của ông, núi

sông, người vật, … đều là vật chứ không phải là ông. Các

vật ấy xa gần tuy sai khác nhau nhưng đồng do cái Thấy

trong sạch (Kiến Tinh) của ông trông thấy, thì các vật đó tuy

có sai khác mà Tánh Thấy không sai khác. Cái Tinh Diệu

Minh (trong sáng, mầu nhiệm, sáng suốt) này là Tánh Thấy

của ông. Tất cả chúng sanh từ vô thủy đến nay, mê mình

làm vật, bỏ mất Bản Tâm, bị vật xoay chuyển, cho nên ở

trong đó mà thấy lớn, thấy nhỏ. Nếu có thể chuyển được

vật thì đồng với Như Lai, Thân Tâm tròn sáng. Đó là

Đạo Tràng Bất Động, trên đầu một mảy lông, trùm chứa

mười phương quốc độ29

.

Phần 5

Đức Phật nêu ra Tánh Thấy ngoài các nghĩa “Phải” và

“Chẳng Phải”

Ngài Anan bạch Phật: Thưa Thế Tôn! Nếu cái Thấy đó thật

là iệu Tánh của con, thì cái Chân Tánh hiện đang trước mặt

con.

Phật bảo ngài Anan: Nếu cái Thấy đang ở trước mặt ông thì

ông hãy lấy tay chỉ rõ đích xác cái gì là cái Thấy?

29

Chơn Tâm bao trùm tất cả, sợi lông rất nhỏ nằm trong Chơn Tâm như

vậy là một với Chơn Tâm.

Page 31: Sa Môn DI TÙNG - chuaphatquocttt.orgchuaphatquocttt.org/doc/KinhThuLangNghiemRev3.pdf · học, tụng inh Đại 3hật Đảnh thủ /ăng 1ghiêm, đồng thi tham khảo các

29

Ngài Anan bạch Phật: Thưa Thế Tôn! Chẳng những hàng

hữu lậu sơ học Thanh ăn như chúng con mà cho đên các vị

Bồ Tát cũng không thể ở nơi hiện tượng muôn vật mà có thể

chỉ ra cái Thấy lìa ngoài tất cả vật lại có riêng Tự Tánh.

Đức Phật bảo: Đúng thế! Đúng Thế! Mười phương Như Lai

và các Đại Bồ Tát ở trong Tự Trụ Tam Ma Địa30

, ở trong

ấy, cái Thấy và cái được thấy cùng các chỗ Tưởng Tướng

đều như hoa đốm giữa hư không, vốn không chỗ có cái

Thấy cho đến những cái được Thấy, tất cả vốn là Thể Bồ

Đề31

sáng sạch nhiệm mầu. Làm sao ở trong đó lại có Phải

hay Chẳng Phải32

?

Phần 6

Chỉ thẳng Tánh Thấy

Đức Phật bảo: Anan ông nên biết rằng: Khi thấy sáng, cái

Thấy chẳng phải là sáng; khi thấy tối, cái Thấy chẳng phải là

tối; khi thấy không, cái thấy chẳng phải là cái không; khi

thấy ngăn bít, cái Thấy chẳng phải là ngăn bít. Đây là bốn

nghĩa đã thành rồi vậy!

Ông lại nên biết: Khi thấy mà có Tướng Thấy, cái thấy đó

chẳng phải là Tánh Thấy. Cái Thấy mà do lìa Tướng Thấy

vẫn có, đó mới là Tánh Thấy siêu việt. [Câu này phải ghi

nhớ trong tim.]

30

Tam Ma Địa là âm chữ Phạn Samadhi có nghĩa là Chánh Định. 31

Tất cả vốn Thể Bồ Đề có nghĩa là tất cả đưa về Như Lai Tạng (Chơn

Tâm.) 32

Không còn sự đối đãi, bất nhị (không hai).

Page 32: Sa Môn DI TÙNG - chuaphatquocttt.orgchuaphatquocttt.org/doc/KinhThuLangNghiemRev3.pdf · học, tụng inh Đại 3hật Đảnh thủ /ăng 1ghiêm, đồng thi tham khảo các

30

Phần 7

Chỉ ra cái Vọng Thấy (Lưu ý: Phần này cần đọc để hiểu)

Đức Phật dạy: Này Anan! Tất cả chúng sanh luân hồi trong

thế gian đều do hai thứ vọng thấy điên đảo phân biệt ngay

nơi Tâm Tánh mà phát sanh, ngay theo nghiệp mà xoay vần.

Thế nào là hai thứ vọng thấy? Một là ọng Thấy Biệt

Nghiệp của chúng sanh, hai là ọng Thấy Đồng Phận của

chúng sanh.

Thế nào là Vọng Thấy Biệt Nghiệp33? Anan! Như người bị

nhặm mắt ban đêm nhìn ngọn đèn thấy có năm màu bao phủ.

Tuy nhiên, người không bị nhặm mắt, nhìn ngọn đèn lại

không thấy có năm màu bao phủ. Cho nên cái thấy có năm

màu bao phủ là do bệnh nhặm mắt mà ra. Còn cái thấy được

bệnh nhặm mắt thì vốn chẳng phải là bệnh vậy. Cho nên

người trí không nên đi tìm căn nguyên của năm màu do

mắt nhặm sanh ra là có hình tướng hay chẳng có hình

tướng. [Vì sao vậy? Năm màu là do mắt bị nhặm vọng sanh

ra, không thực có hình tướng, cho nên không thể hỏi về căn

nguyên của hình tướng của năm màu?]

Thế nào là Vọng Thấy Đồng Phận34

? Anan! Cõi Diêm

Phù Đề này, ngoài nước biển ra, trong đó có ba ngàn Châu

(lục địa.) Nếu ở trong đó có một Châu nhỏ chỉ có hai nước

mà riêng người trong một nước đồng cảm ác duyên, thì

chúng sanh trong nước đó thấy tất cả những cảnh giới không

tốt, còn chúng sanh trong nước gần bên thì không thấy.

33

Biệt nghiệp là nghiệp riêng của mỗi chúng sanh. 34

Đồng Phận cũng gọi là Cộng nghiệp, nghiệp chung của một số chúng

sanh.

Page 33: Sa Môn DI TÙNG - chuaphatquocttt.orgchuaphatquocttt.org/doc/KinhThuLangNghiemRev3.pdf · học, tụng inh Đại 3hật Đảnh thủ /ăng 1ghiêm, đồng thi tham khảo các

31

Phần 8

Tánh Thấy không phải là Cái Thấy

Đức Phật dạy: Này Anan! iện giờ, ông dùng con mắt xem

thấy núi sông, cõi nước và chúng sanh đều là do cái Bệnh

Thấy từ vô thủy35

tạo thành. Cái thấy và vật được thấy

hình như hiện ra nơi tiền cảnh, nhưng thật ra đó vốn chỉ là

cái bệnh nhặm mắt thành lòa, cho nên thấy có Năng Kiến

(cái thấy) và Sở Kiến (vật được thấy) hiện ở trong cái Giác

Minh (Bổn Giác Minh Tâm36

) mà thôi.

Tóm lại, hai cái thấy Vọng Thấy Biệt Nghiệp và Vọng

Thấy Đồng Phận đều do cái Thấy Hư Vọng từ vô thủy

sanh ra. Chính cái bệnh duyên hư vọng tạo thành thấy

nghe hay biết, hòa hợp mà giả dối sanh ra, hòa hợp giả dối

mà diệt mất. Cho nên, nếu xa lìa các bệnh duyên hòa hợp

và chẳng hòa hợp này, tức thời diệt được các nguyên

nhân sanh tử, trọn đủ Thể Bồ Đề Không Sanh, Không

Diệt. [Câu này là cốt tủy của sự tu tập.] Đó là cái Bản Tâm

xưa nay trong sạch (Chơn Tâm,) cái vốn Giác Ngộ Thường

Trụ xưa nay. Thêm vào đó, phải hiểu rằng Bản Giác không

phải hòa hợp mà sanh, cũng không phải không hòa hợp.

Phần 9

(Lưu ý: Phần này đọc để hiểu, và nhớ rằng năm Ấm đều giả

dối)

Tóm thu về Như Lai Tạng

Đức Phật dạy: Anan! Ông còn chưa rõ tất cả các tướng

huyễn hóa nơi tiền trần, chính nơi tâm mà sinh ra, rồi

theo nơi tâm mà diệt mất. Cái huyễn hóa giả dối gọi là

35

Bệnh Thấy từ vô thủy còn gọi là Căn Bản Vô Minh. 36

Bổn Giác Minh Tâm còn gọi là Chơn Tâm, Phật Tánh …

Page 34: Sa Môn DI TÙNG - chuaphatquocttt.orgchuaphatquocttt.org/doc/KinhThuLangNghiemRev3.pdf · học, tụng inh Đại 3hật Đảnh thủ /ăng 1ghiêm, đồng thi tham khảo các

32

Tướng, mà cái Tánh chính là tâm tánh nhiệm mầu sáng

suốt; như vậy, cho đến năm ấm, sáu nhập, mười hai xứ và

mười tám giới, nhân duyên hòa hợp giả dối có sinh ra, nhân

duyên chia lìa giả dối gọi rằng diệt; mà không biết rằng sinh,

diệt, đi, lại đều vốn là tánh chân như cùng khắp, không

lay động, nhiệm mầu, sáng suốt, thường trụ của Như Lai

Tạng. Trong tâm tánh chân thường đó, cầu cho ra những cái

đi, lại, mê, ngộ, sống, chết, hẳn không thể được. [Phần tiếp

theo, đức Phật giảng chi tiết về Năm Ấm (Ngũ Ấm, cũng gọi

là Ngũ Uẩn) năm thành phần duyên hợp nên con người.

Phần này chỉ đọc để biết rằng Năm Ấm là không thực, không

cần phải thuộc vì ngoài phạm vi hiểu biết của chúng ta và

ngoài sự cần thiết trong pháp tu nhập đàn tràng Lăng

Nghiêm của chúng ta.]

Thu Sắc Ấm

"Anan! Làm sao năm Ấm37

vốn là tánh chân như nhiệm mầu

của Như Lai Tạng? Anan! í như có người đem con mắt

trong sạch, xem hư không trong sáng, chỉ thấy một hư không

trong sáng, hẳn không thấy gì khác. Người kia, không lý do

gì, lại bắt con mắt không lay động; ngó chăm mãi, phát ra

mỏi mệt thì ở giữa hư không, riêng thấy có hoa đốm lăng

xăng và có tất cả những tướng giả dối lộn xộn; nên biết Sắc

Ấm cũng lại như vậy. [Nơi đây, đức Phật dùng ví dụ con

mắt ngó lâu mệt mỏi nên thấy có hoa đớm để gợi ý cho

chúng ta tự hiểu được sự thành hình của Sắc Ấm.]

Anan! Các hoa đốm lăng xăng ấy, không phải từ hư không

mà đến, không phải từ con mắt mà ra. Thật vậy, Anan! Nếu

từ hư không mà đến, thì phải trở về hư không; mà đã có ra có

vào, thì không phải là hư không nữa. ư không, nếu lại

không phải là hư không, thì tự nhiên không thể dung nạp hoa

37

Năm Ấm: Sắc, Thọ, Tưởng, Hành, Thức.

Page 35: Sa Môn DI TÙNG - chuaphatquocttt.orgchuaphatquocttt.org/doc/KinhThuLangNghiemRev3.pdf · học, tụng inh Đại 3hật Đảnh thủ /ăng 1ghiêm, đồng thi tham khảo các

33

đóm sinh diệt trong ấy, như thân thể ông Anan không dung

nạp được một ông Anan nữa.

Nếu, hoa đốm từ con mắt mà ra, thì nếu đã từ con mắt mà ra,

tất rồi phải trở vào con mắt; lại cái tánh hoa đốm ấy đã từ

con mắt mà ra, thì lẽ ra phải có thấy. Nếu như có thấy thì khi

đi ra, đã làm hoa đốm giữa hư không, đến khi xoay về, phải

thấy được con mắt. Nếu không có thấy, thì khi đi ra đã làm

mờ hư không, đến khi trở về phải làm mờ con mắt. Lại như

thế, khi thấy hoa đốm, lẽ ra con mắt không mờ, làm sao, chỉ

khi thấy hư không trong suốt, thì mới gọi là con mắt trong

sáng? ậy nên biết rằng Sắc Ấm là giả dối, vốn không phải

tánh nhân duyên, không phải tánh tự nhiên.

Thu Thọ Ấm

Anan! í như có người tay chân yên ổn, trăm vóc điều hòa,

bỗng như quên mình, không có gì là trái là thuận; người ấy

không lý do gì, lấy hai bàn tay xoa nhau giữa hư không, thì

nơi hai bàn tay giả dối sinh ra những cảm xúc trơn, rít, lạnh,

nóng. Nên biết Thọ Ấm cũng lại như vậy.

Anan! Các cảm xúc giả dối kia, không phải từ hư không mà

đến, không phải từ bàn tay mà ra. Thật vậy, Anan! Nếu từ hư

không mà đến, thì đã sinh cảm xúc nơi bàn tay, sao lại không

sinh cảm xúc nơi thân thể, không lẽ hư không lại biết lựa chỗ

sinh ra cảm xúc. Nếu như từ bàn tay mà ra, thì lẽ ra không

cần hai bàn tay phải hợp lại. Lại nữa, đã từ bàn tay mà ra, thì

khi bàn tay hợp lại, biết có cảm xúc, đến khi bàn tay rời ra,

thì cảm xúc phải chạy vào và xương tủy cánh tay, lẽ ra phải

biết đường vào của cảm xúc; rồi lại phải có tâm hay biết, biết

ra, biết vào, và phải có một vật đi lại trong thân, sao lại phải

chờ đến hai tay hợp lại mới gọi là cảm xúc. ậy nên biết rằng

Page 36: Sa Môn DI TÙNG - chuaphatquocttt.orgchuaphatquocttt.org/doc/KinhThuLangNghiemRev3.pdf · học, tụng inh Đại 3hật Đảnh thủ /ăng 1ghiêm, đồng thi tham khảo các

34

Thọ Ấm là giả dối, vốn không phải tánh nhân duyên, không

phải tánh tự nhiên.

Thu Tưởng Ấm

Anan! í như có người, khi nghe nói đến quả mơ chua thì

trong miệng có nước bọt chảy ra; khi nghĩ đến đứng trên dốc

cao thì lòng bàn chân ghê rợn. Nên biết Tưởng Ấm cũng lại

như vậy.

Anan! Câu chuyện mơ chua như thế, không phải do quả mơ

sinh ra, không phải do cái miệng mà vào. Thật vậy, Anan!

Nếu do quả mơ sinh ra, thì quả mơ tự nói lấy, sao phải đợi

người ta nói; nếu do cái miệng mà vào, thì lẽ ra cái miệng tự

nghe lấy, cần gì đến lỗ tai; nếu riêng mình lỗ tai nghe, thì

nước bọt kia, sao không từ lỗ tai chảy ra. Câu chuyện nghĩ

đến đứng trên dốc cao cũng giống như vậy. ậy nên biết

rằng Tưởng Ấm là giả dối, vốn không phải tánh nhân

duyên, không phải tánh tự nhiên.

Thu Hành Ấm

Anan! í như dòng nước dốc, sóng mòi nối nhau, lớp trước

lớp sau, không vượt khỏi nhau. Nên biết ành Ấm cũng lại

như vậy.

Anan! òng nước như vậy không nhân hư không mà sinh,

không nhân nước mà có, không phải tánh nước, cũng không

ra ngoài hư không và nước. Thật vậy, Anan! Nếu nhân hư

không mà sinh, thì cả thập phương hư không vô cùng tận,

phải thành dòng nước vô cùng tận và tự nhiên thế giới đều bị

chìm đắm cả. Nếu nhân nước mà có, thì dòng nước dốc ấy

bản tánh lẽ ra không phải là nước nữa và hiện nay, đã có thể

chỉ ra hai tướng của nước và của dòng nước khác nhau. Nếu

dòng nước dốc tức là tánh nước thì khi nước đứng lại, lẽ ra

Page 37: Sa Môn DI TÙNG - chuaphatquocttt.orgchuaphatquocttt.org/doc/KinhThuLangNghiemRev3.pdf · học, tụng inh Đại 3hật Đảnh thủ /ăng 1ghiêm, đồng thi tham khảo các

35

không phải là nước nữa; nếu ra ngoài hư không và nước thì

không có cái gì ở ngoài hư không và, ngoài nước ra, không

thể có dòng nước. ậy nên biết rằng Hành Ấm là giả dối,

vốn không phải tánh nhân duyên, không phải tánh tự nhiên.

Thu Thức Ấm

Anan! í như có người lấy bình tần già, bít cả hai lỗ, rồi vác

đầy bình hư không, đi xa nghìn dặm, đem cho nước khác.

Nên biết Thức Ấm cũng lại như vậy.

Anan! Cái hư không đó, không phải đến từ phương kia,

cũng không phải đưa vào phương nầy. Thật vậy, Anan! Nếu

đến từ phương kia, thì trong cái bình đã đựng hư không đem

đi, ở chỗ cũ cái bình phải thiếu hư không; nếu đưa vào

phương nầy, thì khi mở miệng bình trút ra, phải thấy hư

không ra. ậy nên biết rằng Thức Ấm là giả dối, vốn không

phải tánh nhân duyên, không phải tánh tự nhiên.

Page 38: Sa Môn DI TÙNG - chuaphatquocttt.orgchuaphatquocttt.org/doc/KinhThuLangNghiemRev3.pdf · học, tụng inh Đại 3hật Đảnh thủ /ăng 1ghiêm, đồng thi tham khảo các

36

KINH ĐẠI PHẬT ĐẢNH THỦ LĂNG NGHIÊM (T M T T NG N)

Page 39: Sa Môn DI TÙNG - chuaphatquocttt.orgchuaphatquocttt.org/doc/KinhThuLangNghiemRev3.pdf · học, tụng inh Đại 3hật Đảnh thủ /ăng 1ghiêm, đồng thi tham khảo các

37

Quyển III

Thu Sáu Nhập38

(Lưu ý: Phần này đọc để hiểu, và nhớ rằng sáu nhập cũng là

giả dối)

Thu nhãn nhập

"Lại nữa, Anan! vì sao bản tánh của sáu nhập, vốn là tánh

chân như nhiệm mầu của Như Lai Tạng? Anan! tức nơi

tròng con mắt kia, ngó chăm phát ra mỏi mệt, thì cả cái thấy

và cái mỏi mệt đó đều là thể tánh Bồ Đề, chăm chú phát ra

tướng mỏi mệt.

Nhân nơi hai thứ vọng trần sáng và tối, phát ra cái thấy bên

trong, thu nạp các trần tướng ấy gọi là tánh thấy; cái thấy đó

rời hai trần sáng và tối kia, rốt ráo không có tự thể. Thật vậy,

Anan! Ông nên biết cái thấy đó không phải từ nơi sáng, nơi

tối mà đến, không phải từ nơi con mắt mà ra, cũng không

phải do cái hư không mà sinh. Vì cớ sao? Nếu từ cái sáng mà

đến, thì khi tối đã theo cái sáng mà diệt, lẽ ra không thấy

được tối. Nếu từ cái tối mà đến, thì khi sáng phải theo cái tối

mà diệt, lẽ ra không thấy được sáng. Nếu do con mắt mà

sinh, hẳn không có sáng, có tối, thì cái thấy như vậy vốn

không tự tánh. Nếu do hư không mà ra, thì ngó trước thấy

các trần tượng, xoay về phải thấy con mắt; lại hư không tự

thấy, nào có dính gì chỗ thu nạp của ông. ậy nên biết rằng

nhãn nhập là giả dối (hư vọng,) vốn không phải tánh nhân

duyên, không phải tánh tự nhiên.

Thu nhĩ nhập

"Anan! Ví như người lấy hai ngón tay bít chặt hai lỗ tai, do

lỗ tai mỏi mệt, trong đầu hóa ra có tiếng; cả cái nghe cùng

38

Sáu Nhập: Nhãn (Mắt,) Nhĩ (Tai,) Tỷ (Mũi,) Thiệt (lưỡi,) Thân, Ý.

Page 40: Sa Môn DI TÙNG - chuaphatquocttt.orgchuaphatquocttt.org/doc/KinhThuLangNghiemRev3.pdf · học, tụng inh Đại 3hật Đảnh thủ /ăng 1ghiêm, đồng thi tham khảo các

38

cái mỏi mệt đồng là thể tánh Bồ Đề, chăm chú phát ra tướng

mỏi mệt.

Nhân nơi hai thứ vọng trần động và tĩnh, phát ra cái nghe ở

trong, thu nạp cái trần tượng đó, gọi là tánh nghe. Tánh nghe

ấy rời hai trần động, tĩnh kia, rốt ráo không có tự thể. Thật

vậy, Anan! Ông nên biết, cái nghe đó không phải từ nơi

động, nơi tĩnh mà đến, không phải từ nơi lỗ tai mà ra, không

phải do hư không mà sinh. ì cớ sao? Nếu cái nghe kia từ

nơi tĩnh mà đến, thì khi động phải theo cái tĩnh mà diệt, lẽ ra

không nghe được động. Nếu từ nơi động mà đến, thì khi tĩnh

sẽ theo cái động mà diệt, lẽ ra không biết được tĩnh. Nếu do

lỗ tai mà sinh, hẳn không có động, có tĩnh, thì cái nghe như

vậy vốn không tự tánh. Nếu do hư không mà ra, thì đã có

tánh nghe, chắc không phải là hư không nữa; lại hư không tự

nghe, nào có dính gì chỗ thu nạp của ông. ậy nên biết rằng

nhĩ nhập là giả dối, vốn không phải tánh nhân duyên, không

phải tánh tự nhiên.

Thu tỷ nhập

"Anan! í như có người bít gấp hai lỗ mũi, bít lâu thành ra

mỏi mệt thì ở, trong lỗ mũi, nghe có cảm xúc lạnh; nhân

những cảm xúc như thế, mà phân biệt được là thông, là ngăn

bít, là rỗng, là đặc, cho đến các mùi thơm, thối; cả cái ngửi

cùng cái mỏi mệt đồng là thể tánh Bồ Đề, chăm chú phát ra

tướng mỏi mệt.

Nhân nơi hai thứ vọng trần thông và bít, phát ra cái ngửi ở

trong, thu nạp các trần tượng đó gọi là tánh biết ngửi. Cái

ngửi đó rời hai trần thông và bít kia, rốt ráo không có tự thể.

Nên biết cái ngửi đó, không phải từ cái thông, cái bít mà đến,

không phải từ nơi lỗ mũi mà ra, cũng không phải do hư

không mà sinh. ì cớ sao? Nếu từ cái thông mà đến, thì khi

Page 41: Sa Môn DI TÙNG - chuaphatquocttt.orgchuaphatquocttt.org/doc/KinhThuLangNghiemRev3.pdf · học, tụng inh Đại 3hật Đảnh thủ /ăng 1ghiêm, đồng thi tham khảo các

39

bít, cái ngửi đã mất rồi, làm sao mà biết được bít; nếu nhân

cái bít mà có, thì khi thông, không còn cái ngửi, làm sao biết

được các mùi thơm, thối. Nếu từ lổ mũi sinh ra, hẳn không

có cái thông, cái bít, thì cái ngửi như vậy vốn không tự tánh.

Nếu do hư không mà ra, thì cái ngửi đó, phải xoay lại ngửi lỗ

mũi của ông; lại hư không tự ngửi, nào có dính gì chỗ thu

nạp của ông. ậy nên biết rằng tỷ nhập là giả dối, vốn

không phải tánh nhân duyên, không phải tánh tự nhiên.

Thu thiệt nhập

"Anan! í như có người dùng lưỡi liếm mép, liếm mãi sinh

ra mỏi mệt. Nếu người đó có bệnh thì có vị đắng. Còn người

không có bệnh thì có chút vị ngọt. o những cảm xúc ngọt,

đắng, mà bày tỏ cái tánh nếm; còn khi không động thì

thường có tánh nhạt. Cả cái nếm và cái mỏi mệt đồng là thể

tánh Bồ Đề, chăm chú phát ra tướng mỏi mệt.

Nhân nơi hai thứ vọng trần nhạt và ngọt, đắng, phát cái nếm

ở trong, thu nạp các trần tượng đó, gọi là tánh biết nếm. Tánh

biết nếm ấy rời hai trần nhạt và ngọt, đắng kia, rốt ráo không

có tự thể. Thật vậy, Anan! Ông nên biết rằng cái biết đắng,

biết nhạt như vậy, không phải từ vị ngọt, đắng mà đến,

không phải nhân tánh nhạt mà có, không phải từ nơi lưỡi mà

ra, cũng không phải do hư không mà sinh. ì cớ sao? Nếu từ

các vị ngọt đắng mà đến, thì khi nhạt, cái biết nếm đã diệt

rồi, làm sao biết được nhạt; nếu từ cái nhạt mà ra thì khi

ngọt, cái nếm đã mất rồi, làm sao biết được vị ngọt, đắng.

Nếu do cái lưởi sinh ra, hẳn không có những vị ngọt, đắng và

nhạt, thì cái biết nếm ấy vốn không tự tánh. Nếu do hư

không mà ra, thì hư không tự nếm, chứ không phải lưỡi ông

nếm; lại hư không tự biết, nào có dính gì đến chỗ thu nạp của

ông. ậy nên biết rằng thiệt nhập là giả dối, vốn không

phải tánh nhân duyên, không phải tánh tự nhiên.

Page 42: Sa Môn DI TÙNG - chuaphatquocttt.orgchuaphatquocttt.org/doc/KinhThuLangNghiemRev3.pdf · học, tụng inh Đại 3hật Đảnh thủ /ăng 1ghiêm, đồng thi tham khảo các

40

Thu thân nhập

"Anan! í dụ như có người dùng bàn tay lạnh chạm bàn tay

nóng, nếu thế bên lạnh nhiều hơn, thì bên nóng cũng thành

lạnh theo, nếu thế bên nóng nhiều hơn, thì bên lạnh cũng

thành ra nóng; rồi như vậy, do cái cảm xúc nhận biết trong

lúc hợp lại mà rõ sự nhận biết lúc rời ra. Nếu cái thế chênh

lệch hiện thành giữa nóng và lạnh, thì nhân đó phát ra mỏi

mệt mà có cảm xúc. Cả cái biết cảm xúc cùng cái mỏi mệt

đồng là thể tánh Bồ Đề, chăm chú phát ra tướng mỏi mệt.

Nhân nơi hai vọng trần ly và hợp, phát ra cái hay biết ở

trong, thu nạp các trần tượng đó, gọi là cái biết cảm xúc. Cái

biết như thế, rời hai trần ly và hợp, trái và thuận kia, rốt ráo

không có tự thể; thật vậy, Anan! Ông nên biết cái cảm xúc

đó, không phải từ cái ly, cái hợp mà tới, không phải từ cái

trái, cái thuận mà có, không phải do nơi thân thể mà ra, cũng

không phải do nơi hư không mà sinh. ì cớ sao? Nếu từ cái

hợp mà đến thì khi ly, cái biết đã mất rồi, làm sao biết được

cái ly; đối với hai tướng trái và thuận thì cũng như vậy. Nếu

từ thân thể mà ra, hẳn không có những tướng ly, hợp, trái,

thuận, thì cái biết cảm xúc của ông vốn không tự tánh. Nếu

từ nơi hư không mà ra, thì hư không tự hay biết, nào có dính

gì chỗ thu nạp của ông. ậy nên biết rằng thân nhập là giả

dối, vốn không phải tánh nhân duyên, không phải tánh tự

nhiên.

Thu ý nhập

"Anan! í như có người nhọc mỏi thì ngủ, ngủ chán thì thức

dậy, khi nhận biết trần cảnh thì nhớ, khi hết nhớ thì gọi là

quên. Các món sinh, trụ, dị, diệt, trái ngược đó, thói quen thu

nạp đưa vào trong, không lẫn lộn nhau, gọi là ý căn. Cả cái ý

Page 43: Sa Môn DI TÙNG - chuaphatquocttt.orgchuaphatquocttt.org/doc/KinhThuLangNghiemRev3.pdf · học, tụng inh Đại 3hật Đảnh thủ /ăng 1ghiêm, đồng thi tham khảo các

41

căn cùng cái mỏi mệt, đồng là thể tánh Bồ Đề, chăm chú

phát ra tướng mỏi mệt.

Nhân nơi hai thứ vọng trần sinh và diệt, nhóm cái biết ở

trong, thu nạp pháp trần bên trong, dòng thấy nghe đi ngược

lại vào bên trong mà không đến đâu, gọi là cái ý hay biết.

Cái ý hay biết đó rời hai trần thức và ngủ, sinh và diệt kia,

rốt ráo không có tự thể. Thật vậy, Anan! Nên biết cái ý căn

hay biết như thế, không phải từ nơi thức, nơi ngủ mà đến,

không phải do cái sinh, cái diệt mà có, không phải từ nơi ý

căn mà phát ra, cũng không phải do nơi hư không mà sinh.

Vì cớ sao? Nếu từ nơi thức mà đến, thì khi ngủ đã theo cái

thức mà diệt rồi, còn lấy cái gì làm cái ngủ; nếu chắc lúc sinh

mới có, thì khi diệt, đã hóa như không có rồi, thì lấy cái gì

mà biết là diệt. Nếu do cái diệt mà có, thì khi sinh, không có

diệt nữa, lấy gì mà biết là sinh. Nếu do ý căn mà ra, thì hai

tướng thức, ngủ thay đổi lẫn nhau nơi thân thể, nếu rời hai

tướng ấy ra, thì cái ý hay biết đó, cũng như hoa đốm hư

không, rốt ráo không có tự tánh. Nếu do hư không mà sinh,

thì hư không tự biết, nào có dính gì chỗ thu nạp của ông. ậy

nên biết rằng ý nhập là giả dối, vốn không phải tánh nhân

duyên, không phải tánh tự nhiên.

Thu Mười Hai Xứ39

(Lưu ý: Phần này đọc để hiểu, và nhớ rằng mười hai Xứ

cũng là giả dối)

Thu hai xứ sắc trần và nhãn căn

"Lại nữa, Anan! Vì sao bản tánh của mười hai xứ, vốn là

tánh chân như nhiệm mầu của Như Lai Tạng?

39

Mười Hai Xứ gồm Sáu căn và Sáu trần.

Page 44: Sa Môn DI TÙNG - chuaphatquocttt.orgchuaphatquocttt.org/doc/KinhThuLangNghiemRev3.pdf · học, tụng inh Đại 3hật Đảnh thủ /ăng 1ghiêm, đồng thi tham khảo các

42

Anan! Ông hãy xem rừng cây Kỳ đà và các suối ao đó; ý

ông nghĩ thế nào? Như thế là sắc trần sinh ra cái thấy, hay

cái thấy sinh ra sắc tướng?

Anan! Nếu cái thấy sinh ra sắc tướng, thì khi thấy hư không,

không có sắc tướng, lẽ ra tánh thấy sinh ra sắc tướng đã tiêu

mất rồi. Mà đã tiêu mất, thì tỏ ra hết thảy đều không; sắc

tướng đã không, thì lấy gì rõ được tướng hư không? Đối với

hư không thì cũng như vậy.

Lại nếu sắc trần sinh ra cái thấy, thì khi thấy hư không,

không có sắc, cái thấy liền tiêu mất đi, tiêu mất thì tất cả đều

không, lấy gì rõ được hư không và sắc tướng?

ậy nên biết rằng cái thấy cùng sắc, không, đều không có xứ

sở; tức sắc trần và cái thấy, hai xứ đó đều giả dối, vốn

không phải tánh nhân duyên, không phải tánh tự nhiên.

Thu hai xứ thanh trần và nhĩ căn

Anan! Ông lại nghe trong vườn Kỳ đà nầy, khi đồ ăn dọn rồi

thì đánh trống, khi chúng nhóm lại thì đánh chuông, tiếng

chuông, tiếng trống trước sau nối nhau. Ý ông nghĩ thế nào?

Như thế là, cái tiếng đến bên cái nghe hay cái nghe đến chỗ

cái tiếng? Anan! Nếu như cái tiếng đó đến bên cái nghe, thì

cũng như Ta khất thực trong thành Thất la phiệt, tại rừng Kỳ

đà không có Ta nữa. Cái tiếng đó đã đến bên cái nghe của

ông Anan thì lẽ ra ông Mục Kiền Liên, ông Ca iếp không

cùng nghe một lần, huống chi, trong nầy có một ngàn hai

trăm năm mươi vị sa môn, một khi nghe tiếng chuông, đồng

đến chỗ ăn cơm cả.

Lại như cái nghe của ông đến bên cái tiếng, thì cũng như Ta

đã về rừng Kỳ đà rồi, trong thành Thất la phiệt, không còn

Ta nữa; vậy khi ông nghe tiếng trống, cái nghe của ông đã

Page 45: Sa Môn DI TÙNG - chuaphatquocttt.orgchuaphatquocttt.org/doc/KinhThuLangNghiemRev3.pdf · học, tụng inh Đại 3hật Đảnh thủ /ăng 1ghiêm, đồng thi tham khảo các

43

đến nơi tiếng trống rồi, thì khi tiếng chuông cũng phát ra, lẽ

ra ông không thể nghe cả hai bên, huống nữa, ông còn nghe

được cả tiếng voi, ngựa, trâu, dê và nhiều tiếng khác. Còn

nếu không đi đến với nhau, thì lại không nghe.

ậy nên biết rằng cái nghe và cái tiếng đều không có xứ sở;

tức cái nghe và thanh trần, hai xứ đều giả dối, vốn không

phải tánh nhân duyên, không phải tánh tự nhiên.

Thu hai xứ hương trần và tỷ căn

Anan! Ông hãy ngửi hương chiên đàn trong lư nầy, hương

ấy, nếu đốt đến một thù, thì cả thành Thất la phiệt, trong bốn

mươi dặm, đồng thời đều ngửi mùi thơm. Ý ông nghĩ thế

nào? Mùi thơm ấy sinh ra, do cây chiên đàn, do nơi lỗ mũi

của ông hay do nơi hư không? Nếu như mùi thơm ấy sinh ra

do lỗ mũi của ông, thì đã gọi là do lỗ mũi sinh ra, tất phải từ

lỗ mũi mà ra, lỗ mũi không phải chiên đàn, làm sao trong lỗ

mũi, lại có được mùi thơm chiên đàn? Lại đã gọi rằng ông

ngửi mùi thơm, thì mùi thơm phải vào trong lỗ mũi, còn

trong lỗ mũi phát ra mùi thơm, mà nói rằng ngửi được, thì

không đúng nghĩa.

Nếu sinh ra do nơi hư không, thì tánh hư không thường còn,

mùi thơm cũng phải thường có, cần gì phải đốt cây khô chiên

đàn trong lư rồi mới có. Nếu mùi thơm sinh ra do cây chiên

đàn, thì cái chất thơm ấy nhân đốt mà thành khói; nếu lỗ mũi

ngữi được, thì lẽ ra khói phải xông đến lỗ mũi, làm sao, khói

đó lên trên không, chưa được bao xa, mà trong 40 dặm đều

ngửi thơm cả.

ậy, nên biết rằng hương trần và cái ngửi đều không có xứ

sở, tức cái ngửi và hương trần hai xứ đều giả dối, vốn

không phải tánh nhân duyên, không phải tánh tự nhiên.

Page 46: Sa Môn DI TÙNG - chuaphatquocttt.orgchuaphatquocttt.org/doc/KinhThuLangNghiemRev3.pdf · học, tụng inh Đại 3hật Đảnh thủ /ăng 1ghiêm, đồng thi tham khảo các

44

Thu hai xứ vị trần và thiệt căn

Anan! Ông thường hai thời, ở trong chúng cầm bình bát khất

thực. Trong đó, hoặc gặp những món tô, lạc, đề hồ, gọi là vị

quý.

Ý ông nghĩ thế nào? ị đó sinh ra, do nơi hư không, do nơi

cái lưỡi hay do nơi đồ ăn?

Anan! Nếu vị ấy sinh ra do nơi cái lưỡi của ông, thì ở trong

miệng ông chỉ có một cái lưỡi; cái lưỡi lúc bấy giờ đã thành

vị tô rồi, nếu gặp đường phèn, lẽ ra cái vị không dời đổi, mà

nếu không dời đổi, thì không gọi được là biết vị, còn nếu dời

đổi, thì cái lưỡi không phải có nhiều tự thể, làm sao, một cái

lưỡi lại biết được nhiều vị? Nếu sinh ra do đồ ăn, thì đồ ăn

không có tri Giác, làm sao tự biết được vị? Lại đồ ăn tự biết,

thì cũng đồng như người khác ăn, nào có dính gì đến ông, mà

gọi rằng ông biết vị? Nếu sinh ra do hư không, thì ông hãy

nếm cái hư không xem là vị gì. Nếu cái hư không đó vị mặn,

thì đã làm mặn cái lưỡi của ông, cũng phải làm mặn cái mặt

của ông và mọi người trong cõi nầy, cũng giống như cá bể,

đã thường chịu cái mặn, không còn biết thế nào là nhạt nữa.

Nhưng nếu không biết nhạt, thì lại cũng không biết mặn. Mà

đã không biết cái gì, thì làm sao còn gọi là biết vị?

ậy nên biết rằng các vị và cái lưỡi biết nếm đều không có

xứ sở; tức cái biết nếm cùng với các vị, hai xứ đều giả dối,

vốn không phải tánh nhân duyên, không phải tánh tự nhiên.

Thu hai xứ xúc trần và thân căn

Anan! Ông thường sớm mai lấy tay xoa đầu, ý ông nghĩ thế

nào? Trong việc biết xoa đó, lấy cái gì làm cái biết cảm xúc?

Cái biết ở nơi tay hay ở nơi đầu? Nếu nó ở nơi tay, mà cái

đầu không biết, thì làm sao thành cái cảm xúc ấy? Còn nếu

Page 47: Sa Môn DI TÙNG - chuaphatquocttt.orgchuaphatquocttt.org/doc/KinhThuLangNghiemRev3.pdf · học, tụng inh Đại 3hật Đảnh thủ /ăng 1ghiêm, đồng thi tham khảo các

45

nó ở nơi đầu, mà cái tay vô dụng, thì làm sao gọi là cảm xúc

được. Nếu cả cái đầu và cái tay, mỗi cái đều có biết, thì một

mình ông Anan phải có hai cái biết cảm xúc.

Nếu cả đầu và tay đều do một cảm xúc sinh ra, thì tay và đầu

lẽ ra chỉ có một tự thể; mà nếu chỉ có một tự thể, thì không

năng, không sở, cảm xúc không thành lập được. Còn nếu là

hai thể, thì cảm xúc ở phía nào, ở bên năng, thì không ở bên

sở, ở bên sở, thì không ở bên năng; không lẽ hư không tạo

thành cảm xúc cho ông?

ậy nên biết rằng cảm xúc và thân căn đều không có xứ sở;

tức cái thân biết cảm xúc cùng cái cảm xúc, hai thứ đều

giả dối, vốn không phải tánh nhân duyên, không phải tánh tự

nhiên.

Thu hai xứ pháp trần và ý căn

Anan! Ông thường trong ý duyên với ba tánh: thiện, ác và

vô ký, sinh ra có các pháp trần40. Những pháp trần đó tức

nơi tâm mà sinh ra hay là rời cái tâm, riêng có chỗ khác?

Anan! Nếu tức nơi tâm, thì pháp trần không phải là trần

cảnh nữa, và như thế, thì nó không phải là cái sở duyên của

tự tâm, làm sao thành một xứ được?

Nếu rời cái tâm, riêng có chỗ khác, thì bản tánh của pháp

trần là có biết hay không có biết?

Nếu có biết, thì gọi là tâm, nhưng nếu nó khác với ông và

không phải trần cảnh, thì cũng như cái tâm của người khác;

còn nếu nó tức là ông và cũng tức là tâm, thì làm sao cái tâm

nơi ông lại thành hai được?

40

Ở đây kinh nói rõ rằng Ý căn duyên với ba tánh thiện, ác, vô ký sinh ra

Pháp trần (không thuộc vật chất.)

Page 48: Sa Môn DI TÙNG - chuaphatquocttt.orgchuaphatquocttt.org/doc/KinhThuLangNghiemRev3.pdf · học, tụng inh Đại 3hật Đảnh thủ /ăng 1ghiêm, đồng thi tham khảo các

46

Lại nếu như không có biết, cái pháp trần đó đã không phải

sắc, thanh, hương, vị, ly, hợp, lạnh, nóng và tướng hư không,

thì nó sẽ ở chỗ nào? iện nay nơi sắc, không, không thể chỉ

nó ra được; không lẽ trong nhân gian lại có cái ngoài hư

không?

Không có cảnh sở duyên, thì ý căn do đâu mà lập thành một

xứ được?

ậy nên biết rằng pháp trần cùng ý căn đều không có xứ sở;

tức ý căn cùng pháp trần, hai xứ đều giả dối, vốn không

phải tánh nhân duyên, không phải tánh tự nhiên.

Thu mười tám giới41

(Lưu ý: Phần “thu mười tám giới” này có thể tóm tắt như

sau: Nếu đã biết căn và trần đều là giả dối (theo luận giải ở

phần trên), vậy thức do căn và trần duyên nhau mà sanh ra,

thức này cũng là giả dối)

Thu nhãn, sắc và nhãn thức giới

Lại nữa Anan! Làm sao mười tám giới vốn là tánh chân như

nhiệm mầu của Như Lai Tạng?

Anan! Như ông bày tỏ: Nhãn căn và sắc trần làm duyên,

sinh ra nhãn thức. Thức đó lại là nhân nhãn căn sinh ra, lấy

nhãn căn làm giới, hay nhân sắc trần sinh ra, lấy sắc trần làm

giới?

Anan! Nếu nhân nhãn căn sinh ra, mà không có sắc có

không, thì không thể phân biệt, dầu cho có cái thức của ông

thì đem ra dùng về việc gì? Cái thấy của ông, ngoài những

sắc xanh, vàng, trắng, đỏ, thì không thể biểu hiện được; vậy

do đâu mà lập thành ra giới?

41

Mười tám giới: Sáu căn, sáu trần và sáu thức

Page 49: Sa Môn DI TÙNG - chuaphatquocttt.orgchuaphatquocttt.org/doc/KinhThuLangNghiemRev3.pdf · học, tụng inh Đại 3hật Đảnh thủ /ăng 1ghiêm, đồng thi tham khảo các

47

Nếu nhân sắc trần sinh ra, thì khi chỉ có hư không, không có

sắc, lẽ ra cái thức của ông phải diệt, làm sao còn biết được là

hư không? Nếu khi sắc tướng biến đổi thành hư không, ông

cũng biết rằng sắc tướng biến đổi, mà cái thức của ông thì

không biến đổi; thế thì, do đâu mà lập sắc trần làm giới? Nếu

theo sắc trần mà biến đổi, thì tự nhiên sắc trần không thành

giới được. Nếu không biến đổi, thì là thường hằng, cái thức

đã do sắc trần sinh ra, lẽ ra không thể biết hư không ở đâu?

Nếu gồm hai thứ nhãn căn và sắc trần chúng cùng sinh ra;

vậy, như hợp lại, thì ở giữa phải ly, còn như ly ra, thì hai bên

lại hợp, thể tánh xen lộn, làm sao thành được giới?

ậy nên biết rằng nhãn căn sắc trần làm duyên, sinh ra

giới nhãn thức, cả ba chỗ đều không, và ba giới nhãn căn,

sắc trần và nhãn thức, vốn không phải tánh nhân duyên,

không phải tánh tự nhiên.

Thu nhĩ, thanh và nhĩ thức giới

Anan! Lại như ông bày tỏ: Nhĩ căn và thanh trần làm duyên,

sinh ra nhĩ thức. Thức đó nhân nhĩ căn sinh ra, lấy nhĩ căn

làm giới, hay nhân thanh trần sinh ra, lấy thanh trần làm

giới?

Anan! Nếu nhân nhĩ căn sinh ra, mà không có hai tướng

động, tĩnh hiện tiền, thì cái biết của nhĩ căn cũng không

thành; mà đã không biết gì, thì cái biết còn không thành,

huống nữa cái thức phân biệt còn có hình trạng gì.

Nếu nhân lỗ tai nghe thì đã không động, tĩnh, cái nghe cũng

không thành; làm sao lấy hình sắc lỗ tai đối với xúc trần, mà

gọi được là giới nhĩ thức ; và cái giới nhĩ thức như thế, do

đâu mà lập ra.

Page 50: Sa Môn DI TÙNG - chuaphatquocttt.orgchuaphatquocttt.org/doc/KinhThuLangNghiemRev3.pdf · học, tụng inh Đại 3hật Đảnh thủ /ăng 1ghiêm, đồng thi tham khảo các

48

Nếu nhân thanh trần mà sinh, thì cái nhĩ thức nhân thanh trần

mà có, không có dính líu gì đến cái nghe; mà đã không nghe,

thì cũng không biết các tướng thanh trần ở đâu. Lại nói nhĩ

thức do thanh trần sinh ra, dầu cho rằng thanh trần, nhân cái

nghe mà có tướng, thì cái nghe, lẽ phải nghe được nhĩ thức.

Nếu không nghe được nhĩ thức, thì thanh trần không phải là

giới của nhĩ thức. Nếu nghe được, thì nhĩ thức cũng đồng

như thanh trần, và nhĩ thức đã bị nghe, thì lấy cái gì biết

được rằng đã nghe cái thức? Còn nếu cái thức không biết, thì

cũng như cỏ như cây.

Lại không lẽ thanh trần và cái nghe xen lộn, thành ra giới ở

giữa? Giới ở giữa đã không có, thì các tướng nội căn, ngoại

trần, do đâu mà thành lập được.

ậy, nên biết rằng nhĩ căn, thanh trần làm duyên, sinh ra

giới nhĩ thức, cả ba chỗ đều không và ba giới nhĩ căn,

thanh trần và nhĩ thức, vốn không phải tánh nhân duyên,

không phải tánh tự nhiên.

Thu tỷ, hương và tỷ thức giới

Anan! Lại như ông bày tỏ: Tỷ căn và hương trần làm duyên,

sinh ra tỷ thức. Thức đó lại nhân tỷ căn sinh ra, lấy tỷ căn

làm giới, hay nhân hương trần sinh ra, lấy hương trần làm

giới?

Anan! Nếu nhân tỷ căn sinh ra, thì trong tâm ông lấy cái gì

làm tỷ căn? Ông lấy cái hình tướng mũi thịt như hai móng

tay, hay lấy cái tánh ngửi biết lay động làm tỷ căn?

Nếu lấy cái hình tướng mũi thịt, thì chất thịt là thân căn và

cái biết của thân căn là cái biết cảm xúc. Đã gọi là thân căn

thì không phải là tỷ căn, đã gọi rằng cảm xúc, thì đó là xúc

Page 51: Sa Môn DI TÙNG - chuaphatquocttt.orgchuaphatquocttt.org/doc/KinhThuLangNghiemRev3.pdf · học, tụng inh Đại 3hật Đảnh thủ /ăng 1ghiêm, đồng thi tham khảo các

49

trần đối với thân căn. ậy, còn không có gì đáng gọi là tỷ

căn, do đâu mà lập thành giới?

Nếu lấy cái ngửi biết làm tỷ căn, thì trong tâm ông lấy cái gì

làm cái có ngửi biết? Nếu lấy lỗ mũi thịt, thì cái biết của chất

thịt là xúc trần, chứ không phải như tỷ căn; nếu lấy cái hư

không làm cái có ngửi biết, thì hư không tự biết, còn xác thịt

lẽ ra không biết, như thế, thì lẽ ra hư không là ông; thân của

ông mà không có biết, thì ông Anan hiện nay lẽ cũng không

còn đâu nữa.

Nếu lấy cái hương làm cái có ngửi biết, thì cái biết thuộc về

hương trần, nào dính gì đến ông?

Nếu các mùi thơm, thối sinh ra do tỷ căn của ông, thì hai mùi

thơm, thối kia không sinh ra do cây y lan và cây chiên đàn;

hai vật đó không tới, ông tự ngửi lỗ mũi là thơm hay là thối;

thối thì không phải thơm, thơm thì không phải thối; nếu cả

hai mùi thơm, thối đều ngửi được cả, thì một người ông phải

có hai tỷ căn và đứng trước tôi hỏi đạo phải có hai ông Anan

thì ông nào mới là tự thể của ông. Còn nếu tỷ căn là một, thì

thơm, thối không hai, thối đã thành thơm, thơm đã thành

thối, hai tánh đó đã không có, thì lấy gì lập được thành giới?

Lại nếu nhân hương trần mà có, thì tỷ thức đã nhân hương

trần mà có, cũng như nhân con mắt có thấy, không thể thấy

được con mắt; tỷ thức nhân hương trần mà có, lẽ ra không

biết được hương trần. Nếu biết được hương trần, thì không

phải do hương trần sinh ra, nếu không biết được hương trần,

thì không phải là tỷ thức.

ương trần mà không ngửi biết là có, thì cái giới hương trần

không thành; tỷ thức mà không biết hương trần, thì cái giới

của nó, không phải do hương trần mà lập. Đã không có cái

Page 52: Sa Môn DI TÙNG - chuaphatquocttt.orgchuaphatquocttt.org/doc/KinhThuLangNghiemRev3.pdf · học, tụng inh Đại 3hật Đảnh thủ /ăng 1ghiêm, đồng thi tham khảo các

50

thức trung gian, thì nội căn, ngoại trần cũng không thành và

tất cả những điều ngửi biết kia rốt ráo đều luống dối.

ậy, nên biết rằng tỷ căn, hương trần làm duyên, sinh ra

tỷ thức, cả ba chỗ đều không và ba giới tỷ căn, hương trần

và tỷ thức, vốn không phải tánh nhân duyên, không phải tánh

tự nhiên.

Thu thiệt, vị và thiệt thức giới

Anan! Lại như ông bày tỏ: Thiệt căn và vị trần làm duyên,

sinh ra thiệt thức. Thức đó lại nhân thiệt căn sinh ra, lấy thiệt

căn làm giới, hay nhân vị trần sinh ra, lấy vị trần làm giới?

Anan! Nếu nhân thiệt căn sinh ra, thì như trong thế gian,

những loại mía ngọt, mơ chua, hoàng liên đắng, muối mặn,

tế tân, gừng, quế cay, đều không có vị, ông tự nếm cái lưỡi là

ngọt hay là đắng. Nếu cái lưỡi là đắng, thì lấy cái gì mà nếm

cái lưỡi; cái lưỡi đã không thể tự nếm được, thì lấy gì mà có

hay biết; còn nếu cái lưỡi không đắng, thì tự nhiên vị trần

không sinh ra, làm sao mà lập được thành giới?

Nếu nhân vị trần sinh ra; vậy thiệt thức đã là vị rồi, thì cũng

đồng như thiệt căn, không thể tự nếm được, làm sao còn biết

được là có vị hay không có vị? Lại tất cả các vị không phải

do một vật sinh ra. Các vị đã do nhiều vật sinh ra, thì cái

thiệt thức do vị trần sinh ra, cũng phải có nhiều tự thể. Nếu

tự thể của thiệt thức là một và tự thể đó thật do vị trần sinh

ra, thì các vị mặn, nhạt, chua, cay và nhiều vị khác nhau, do

các thứ đó hòa hợp cùng sinh ra, đều chỉ là một vị, lẽ ra

không có phân biệt; mà đã không có phân biệt, thì không thể

gọi là thức, làm sao còn gọi là giới thiệt thức? Không lẽ hư

không lại sinh được cái thức của ông?

Page 53: Sa Môn DI TÙNG - chuaphatquocttt.orgchuaphatquocttt.org/doc/KinhThuLangNghiemRev3.pdf · học, tụng inh Đại 3hật Đảnh thủ /ăng 1ghiêm, đồng thi tham khảo các

51

Nếu thiệt căn, vị trần, hòa hợp mà sinh ra cái thức ở giữa,

vốn không tự tánh, làm sao mà lập được thành giới?

ậy, nên biết rằng thiệt căn, vị trần làm duyên, sinh ra

thiệt thức, cả ba chỗ đều không, và ba giới thiệt căn, vị trần

và thiệt thức, vốn không phải tánh nhân duyên, không phải

tánh tự nhiên.

Thu thân, xúc và thân thức giới

Anan! Lại như ông bày tỏ: Thân căn và xúc trần làm duyên,

sinh ra thân thức. Thức đó lại là nhân thân căn sinh ra, lấy

thân căn làm giới, hay nhân xúc trần sinh ra, lấy xúc trần làm

giới?

Anan! Nếu nhân thân căn sinh ra, không có cái duyên của

hai cảm xúc hợp và ly, thì thân căn còn biết gì. Nếu nhân xúc

trần sinh ra mà không có thân căn của ông, thì có ai không có

thân căn mà biết hợp, biết ly được.

Anan! ật thì không biết cảm xúc, thân căn có biết, mới có

cảm xúc; tức nơi cảm xúc, mà biết có thân căn, tức nơi thân

căn mà biết có cảm xúc; nhưng đã tức là cảm xúc, thì không

phải thân căn, mà đã tức là thân căn, thì không phải cảm xúc;

cả hai tướng thân căn và xúc trần, vốn không có xứ sở. Nếu

xúc trần hợp một với thân căn, thì tức là tự thể của thân căn

rồi; còn nếu rời hẳn với thân căn, thì thành không có gì, như

các tướng hư không.

Nội căn, ngoại trần đã không thành, thì làm sao lập được cái

thức ở giữa; cái thức ở giữa đã không lập được, thì nội căn,

ngoại trần, bản tánh cũng rỗng không và cái thức của ông do

đâu mà lập được thành giới.

ậy, nên biết rằng thân căn, xúc trần làm duyên, sinh ra

thân thức, cả ba chỗ đều không, và ba giới thân căn, xúc

Page 54: Sa Môn DI TÙNG - chuaphatquocttt.orgchuaphatquocttt.org/doc/KinhThuLangNghiemRev3.pdf · học, tụng inh Đại 3hật Đảnh thủ /ăng 1ghiêm, đồng thi tham khảo các

52

trần và thân thức, vốn không phải tánh nhân duyên, không

phải tánh tự nhiên.

Thu ý, pháp và ý thức giới

Anan! Lại như ông bày tỏ: Ý căn và pháp trần làm duyên,

sinh ra ý thức. Thức đó lại là nhân ý căn sinh ra, lấy ý căn

làm giới, hay nhân pháp trần sinh ra, lấy pháp trần làm giới?

Anan! Nếu nhân ý căn sinh ra, thì trong ý ông, chắc phải có

chỗ nghĩ ngợi mới phát minh được cái ý của ông; nếu không

có các pháp trần, thì ý căn không thể sinh ra được. Rời các

pháp trần, ý căn còn không có hình tướng, thì đem ý thức ra

mà dùng vào việc gì?

Lại cái thức tâm của ông với các thứ nghĩ ngợi, các sự rõ biết

là đồng nhau hay khác nhau. Nếu đồng với ý căn, thì tức là ý

căn rồi, làm sao lại do ý căn sinh ra? Nếu khác, mà không

đồng với ý căn, thì lẽ ra không còn biết gì. Nếu không biết

gì, thì làm sao lại do ý căn sinh ra; còng nếu có biết, thì làm

sao lại chia ra ý thứ và ý căn? Chỉ hai tánh đồng nhau, khác

nhau còn không thành, làm sao lập được thành giới?

Nếu nhân pháp trần sinh ra, thì các pháp trong thế gian,

không ngoài năm trần. Ông hãy xét các pháp sắc, thanh,

hương, vị, xúc, có tướng rõ ràng đối với năm căn, đều không

thuộc về phần thu nạp của ý căn. Nếu ý thức của ông quyết

định nương nơi pháp trần mà sinh ra, thì ông hãy xét từng

pháp, từng pháp hình trạng thế nào. Nếu rời hẳn các tướng

sắc, không, động, tĩnh, thông, bít, hợp, ly, sinh, diệt, thì rốt

ráo không thành một pháp nào cả. Lại, sinh cũng là các pháp

như sắc, như không sinh ra, diệt cũng như các pháp như sắc,

như không diệt mất. Các nguyên nhân đã không thành, thì

cái thức do nó sinh ra, còn có hình tướng gì; hình tướng còn

không có, làm sao mà lập được thành giới. ậy, nên biết

Page 55: Sa Môn DI TÙNG - chuaphatquocttt.orgchuaphatquocttt.org/doc/KinhThuLangNghiemRev3.pdf · học, tụng inh Đại 3hật Đảnh thủ /ăng 1ghiêm, đồng thi tham khảo các

53

rằng ý căn, pháp trần làm duyên, sinh ra ý thức, cả ba

chỗ đều không, và ba giới ý căn, pháp trần và ý thức, vốn

không phải tánh nhân duyên, không phải tánh tự nhiên.”

Thu bảy Đại42

Xin khai thị về tứ đại hòa hợp

Ông Anan bạch Phật: "Thưa Thế Tôn! Đức Như Lai thường

nói về nhân duyên hòa hợp rằng: Tất cả các thứ biến hóa

trong thế gian đều nhân bốn món "Đại" hòa hợp mà phát ra.

Làm sao đức Như Lai lại bác bỏ cả hai nghĩa nhân duyên và

tự nhiên. Nay con không biết nghĩa đó thế nào, xin Phật rủ

lòng thương xót chỉ bày cho chúng sanh nghĩa rốt ráo của

trung đạo, không còn các đều hý luận."

Chỉ rõ thể tánh tứ đại không phải hòa hợp

Khi bấy giờ, đức Thế Tôn bảo ngài Anan rằng: "Trước đây

ông nhàm chán các pháp Tiểu Thừa Thanh ăn, uyên Giác,

phát tâm tha thiết cầu đạo vô thượng Bồ Đề, nên Ta lúc nầy

chỉ bày cho ông Đệ Nhất Nghĩa Đế, làm sao ông lại còn đem

những nhân duyên vọng tưởng hý luận thế gian mà tự ràng

buộc mình? Ông tuy nghe được nhiều pháp, nhưng cũng như

người nói tên vị thuốc, mà đến khi thuốc thật ở trước mắt, thì

lại không phân biệt được. Như Lai gọi là rất đáng thương

xót. Nay ông hãy nghe cho kỹ, Ta sẽ vì ông phân tách chỉ

bày và cũng để cho những người tu đại thừa sau nầy thông

suốt được thật tướng."

Ngài Anan yên lặng kính vâng thánh chỉ của Phật.

42

Bảy Đại: Địa (Đất,) Thủy (Nước,) Hỏa (Lửa,) Phong (Gió,) Không,

Kiến (Thấy,) Thức (Biết.)

Page 56: Sa Môn DI TÙNG - chuaphatquocttt.orgchuaphatquocttt.org/doc/KinhThuLangNghiemRev3.pdf · học, tụng inh Đại 3hật Đảnh thủ /ăng 1ghiêm, đồng thi tham khảo các

54

Phật dạy: "Anan! Như ông đã nói: Bốn món "Đại" hòa hợp

phát ra các thứ biến hóa trong thế gian. Anan! Nếu tánh các

món đại kia không phải hòa hợp, thì không thể lẫn lộn với

các đại khác, cũng như hư không không thể hòa hợp được

với các sắc tướng. Nếu tánh của các đại là hòa hợp, thì cũng

đồng như các thứ biến hóa, thủy chung thành nhau, sinh diệt

nối nhau, sinh rồi diệt, diệt rồi sinh, sinh sinh diệt diệt, như

vòng lửa quay tròn chưa hề dừng nghỉ. Anan! Như nước

thành giá, giá lại thành nước.

Thu địa đại

Ông hãy xét cái tánh của địa đại, to thì làm đất liền, nhỏ thì

làm vi trần, cho đến lân hư trần, do chẻ chất cực vi, là sắc

tướng nhỏ tột, ra bảy phần mà thành. Nếu chẻ lân hư trần

nữa, thì thật là tánh hư không.

Anan! Nếu cái lân hư trần đó, chẻ ra thành được hư không,

thì biết hư không cũng sinh ra được sắc tướng. Nay ông hỏi

rằng do hòa hợp mà sinh ra các tướng biến hóa trong thế

gian, thì ông hãy xét một cái lân hư trần, phải dùng bao

nhiêu hư không hợp lại mới có, không thể lân hư trần hợp lại

thành lân hư trần. Lại lân hư trần đã chẻ được thành hư

không, thì phải dùng bao nhiêu sắc tướng hợp lại, mới thành

cả hư không. Nhưng nếu sắc tướng hợp lại, thì hợp sắc tướng

lại, không thể thành được hư không; còn nếu hư không hợp

lại, thì hợp hư không lại, không thể thành được sắc tướng;

sắc tướng còn có thể chẻ được, chứ hư không thì làm sao mà

hợp được?

Ông vốn không biết trong Như Lai Tạng, tánh sắc là chân

không, tánh không là chân sắc, bản nhiên thanh tịnh,

cùng khắp pháp giới, theo tâm chúng sanh, đáp ứng với

lượng hay biết, theo nghiệp mà phát hiện; thế gian không

Page 57: Sa Môn DI TÙNG - chuaphatquocttt.orgchuaphatquocttt.org/doc/KinhThuLangNghiemRev3.pdf · học, tụng inh Đại 3hật Đảnh thủ /ăng 1ghiêm, đồng thi tham khảo các

55

biết, lầm là nhân duyên và tánh tự nhiên, đều là những so đo

phân biệt của ý thức, chỉ có lời nói, toàn không có nghĩa

chân thật.

Thu hỏa đại

"Anan! ỏa đại không có tự thể, gửi nơi các duyên mà phát

hiện. Ông hãy xem các nhà, chưa ăn ở trong thành, khi muốn

nhóm bếp, thì tay cầm kính hiển vi, đưa trước ánh sáng mặt

trời mà lấy lửa.

Anan! Phàm gọi là hòa hợp, thì như tôi cùng ông và một

ngàn hai trăm năm mươi vị tỷ kheo, hiện nay, hợp thành một

chúng; tuy chúng chỉ có một, song gạn xét về căn bản, thì

mỗi người đều có thân, đều có danh tự họ hàng của mình,

như ông Xá Lợi Phất, thì thuộc dòng Bà la môn, ông u lâu

tần loa, thì thuộc dòng Ca diếp ba, cho đến ông Anan thì

thuộc dòng họ Cù đàm.

Anan! Nếu lửa đó nhân hòa hợp mà có, thì khi người kia cầm

kính lấy lửa nơi ánh sáng mặt trời, lửa đó từ trong kính mà

ra, do bùi nhùi mà có hay từ mặt trời mà đến?

Anan! Nếu từ mặt trời mà đến, thì lửa ấy đã đốt được bùi

nhùi trong tay của ông, những rừng cây mà ánh sáng mặt trời

đi qua, lẽ ra đều bị đốt cả. Nếu từ trong kính mà ra, thì lửa ấy

đã có thể từ trong kính ra đốt cháy bùi nhùi, làm sao cái kính

lại không chảy; cho đến cả cái tay ông cầm kính còn không

thấy nóng, thì làm sao kính lại chảy được. Nếu do bùi nhùi

sinh ra, thì cần gì ánh sáng mặt trời và kính tiếp đối với

nhau, rồi sau lửa mới sinh ra. Ông hãy xét cho kỹ, kính do

tay cầm, mặt trời thì ở trên trời, còn bùi nhùi thì từ đất sinh

ra, vậy lửa từ phương nào đi đến chỗ đó. Mặt trời và kính xa

nhau, không phải hòa, không phải hợp, không lẽ lửa kia,

không do đâu mà tự có.

Page 58: Sa Môn DI TÙNG - chuaphatquocttt.orgchuaphatquocttt.org/doc/KinhThuLangNghiemRev3.pdf · học, tụng inh Đại 3hật Đảnh thủ /ăng 1ghiêm, đồng thi tham khảo các

56

Ông còn không biết trong Như Lai Tạng, tánh hỏa là chân

không, tánh không là chân hỏa, bản nhiên thanh tịnh

cùng khắp pháp giới, theo tâm chúng sanh, đáp ứng với

lượng hay biết.

Anan! Ông nên biết rằng người đời cầm kính một chỗ, thì

một chỗ có lửa sinh ra, khắp pháp giới đều cầm kính, thì

khắp pháp giới bốc lửa. Lửa bốc khắp thế gian, đâu có chỗ ở,

theo nghiệp mà phát hiện. Thế gian không biết, lầm là nhân

duyên và tánh tự nhiên, đều là những so đo phân biệt của ý

thức, chỉ có lời nói, toàn không có nghĩa chân thật.

Thu thủy đại

"Anan! Tánh nước không nhất định, khi chảy, khi đứng

không chừng. Như trong thành Thất la phiệt, các ông tiên Ca

tỳ la, Chước ca la và các nhà đại huyễn thuật Bát đầu ma, a

tát đa, vân vân... muốn cầu tinh Thái âm để hòa với các

thuốc huyễn thuật, thì các ông ấy, trong lúc sáng trăng trong,

tay cầm hạt châu Phương chư, hứng nước trong ánh mặt

trăng. ậy, nước ấy từ trong hạt châu mà ra, do hư không mà

có hay từ mặt trăng mà đến?

Anan! Nếu từ mặt trăng mà đến, thì ở phương xa còn có thể

làm cho hạt châu chảy ra nước, những rừng cây ánh sáng mặt

trăng đi qua, lẽ ra đều phải phun nước; mà nếu phun nước,

thì sao lại phải đợi có hạt châu Phương như mới chảy nước

được? Còn nếu không phun nước, thì rõ ràng nước đó, không

phải từ mặt trăng mà xuống. Nếu từ hạt châu mà ra, thì trong

hạt châu ấy, thường phải chảy nước, sao còn phải đợi ánh

sáng mặt trăng trong lúc nửa đêm? Nếu do hư không mà

sinh, thì hư không không bờ bến, nước cũng không giới hạn;

vậy từ cõi người đến cõi trời, lẽ ra đều phải chìm ngập cả,

làm sao lại còn có thủy, lục, không, hành? Ông hãy xét cho

Page 59: Sa Môn DI TÙNG - chuaphatquocttt.orgchuaphatquocttt.org/doc/KinhThuLangNghiemRev3.pdf · học, tụng inh Đại 3hật Đảnh thủ /ăng 1ghiêm, đồng thi tham khảo các

57

kỹ, mặt trăng từ trên trời đi qua, hạt châu do tay cầm, còn cái

mâm hứng nước thì do người sắp đặt; vậy nước kia từ

phương nào mà chảy đến đó. Mặt trăng và hạt châu xa nhau,

không phải hòa, không phải hợp, không lẽ nưóc kia, không

do đâu mà tự có.

Ông còn biết trong Như Lai Tạng, tánh thủy là chân

không, tánh không là chân thủy, bản nhiên thanh tịnh,

cùng khắp pháp giới, theo tâm chúng sanh, đáp ứng với

lượng hay biết. Một chỗ cầm hạt châu, thì một chỗ nước

chảy ra, khắp pháp giới cầm hạt châu, thì đầy pháp giới nước

sinh ra. Thủy đại sinh khắp thế gian, đâu có chỗ ở, theo

nghiệp mà phát hiện; thế gian không biết, lầm là nhân duyên

và tánh tự nhiên, đều là những so đo phân biệt của ý thức,

chỉ có lời nói, toàn không có nghĩa chân thật.

Thu phong đại

"Anan! Phong đại không có tự thể, khi động, khi tĩnh không

chừng. Ông thường sửa áo, vào trong đại chúng, gấu áo Tăng

già lê động đến người bên cạnh, thì có chút gió phảy qua mặt

người kia. Gió đó lại là, do gấu áo cà sa mà ra, do hư không

mà phát khởi hay do mặt người kia mà sinh?

Anan! Nếu gió đó phát ra, do gấu áo cà sa, thì ông đã mặc cả

gió, lẽ ra cái áo phải bay tung ra, rời khỏi thân thể của ông.

Nay Ta thuyết pháp, rũ áo ở trong ội nầy, ông hãy xem cái

áo của Ta, gió ở chỗ nào? Không lẽ trong áo lại có chỗ chứa

gió.

Nếu gió đó do hư không sinh ra, thì khi cái áo ông không

động, vì sao lại không phải gió? à tánh hư không thường

còn, thì gió lại phải thường sinh ra; khi không có gió, thì hư

không phải diệt mất. Gió diệt, thì có thể thấy được, còn hư

không diệt, thì hình trạng thế nào? Lại nếu có sinh diệt, thì

Page 60: Sa Môn DI TÙNG - chuaphatquocttt.orgchuaphatquocttt.org/doc/KinhThuLangNghiemRev3.pdf · học, tụng inh Đại 3hật Đảnh thủ /ăng 1ghiêm, đồng thi tham khảo các

58

không gọi là hư không và đã gọi là hư không, thì làm sao lại

phát ra gió được?

Nếu gió đó sinh ra do cái mặt người bị phảy, thì đã do mặt

người đó sinh ra, lẽ ra phải phảy lại ông, sao tự ông sửa áo

mà lại phảy ngược lại người kia?

Ông hãy xét cho kỹ: Sửa áo là do nơi ông, cái mặt thì thuộc

về người kia, hư không thì vắng lặng, không thể lay động,

vậy gió từ phương nào giong ruổi đến đó. Tánh gió và tánh

hư không cách xa nhau, không phải hòa, không phải hợp,

không lẽ gió kia, không do đâu mà tự có.

Ông thật không biết trong Như Lai Tạng, tánh phong [gió]

là tánh chân không, tánh không là chân phong [gió], bản

nhiên thanh tịnh cùng khắp pháp giới, theo tâm chúng

sanh, đáp ứng với lượng hay biết.

Anan! Như một mình ông hơi động cái áo, thì có chút gió

phát ra; khắp pháp giới đều phảy, thì khắp cõi nước sinh ra

phong đại. Phong đại đầy dẩy thế gian, đâu có chỗ ở, theo

nghiệp mà phát hiện. Thế gian không biết, lầm là nhân duyên

và tánh tự nhiên, đều là những so đo phân biệt của ý thức,

chỉ có lời nói, toàn không có nghĩa chân thật.

Thu không đại

"Anan! ư không không có hình, nhân sắc tướng mà tỏ bày

ra. Như trong thành Thất la phiệt, chỗ cách xa sông, những

người dòng Sát lỵ, dòng Bà la môn, dòng Tỳ xá, dòng Thủ

đà hay dòng Phả la đọa, dòng Chiên đà la, vân vân... khi

dựng nhà mới, thì đào giếng mà lấy nước, đào đất ra một

thước, thì trong đó có một thước hư không, như vậy cho đến

đào đất ra một trượng, thì trong đó lại được một trượng hư

không, hư không nông [cạn] hay sâu, tùy đào đất ra nhiều

Page 61: Sa Môn DI TÙNG - chuaphatquocttt.orgchuaphatquocttt.org/doc/KinhThuLangNghiemRev3.pdf · học, tụng inh Đại 3hật Đảnh thủ /ăng 1ghiêm, đồng thi tham khảo các

59

hay ít. ư không đó là nhân đất mà ra, nhân đào mà có hay

không nhân gì mà tự sinh?

Anan! Nếu hư không đó không nhân gì mà tự sinh, thì khi

trước khi chưa đào đất, sao nơi đó lại không trống rỗng, mà

chỉ thấy đất liền, hẳn không thông suốt. Nếu nhân đất mà ra,

thì khi đất ra, phải thấy hư không vào; nếu đất ra trước, mà

không thấy hư không vào, thì làm sao hư không lại nhân đất

mà ra. Còn nếu không ra, không vào, thì hư không với đất

vốn không khác nhau; không khác tức là đồng, thì khi đất ra,

sao hư không lại không ra. Nếu nhân đào mà ra, thì phải đào

ra hư không, chứ không đào ra đất; nếu không nhân đào mà

ra, thì tự đào ra đất, làm sao lại thấy hư không?

Ông hãy xét cho kỹ, nhận rõ xét chín: Đào, thì do tay người,

theo phương hướng mà vận chuyển, đất, thì từ nơi đất liền

mà dời đi, còn hư không, như vậy, thì nhân đâu mà ra. Đào

là thật sự, hư không là rỗng trống, không có tác dụng gì với

nhau, không phải hòa, không phải hợp, không lẽ hư không

không do đâu mà tự ra. Nếu cái hư không đó, bản tánh viên

mãn cùng khắp, không có lay động, thì nên biết hiện tiền hư

không và bốn thứ địa, thủy, hỏa, phong, đều gọi là năm đại,

tánh thật viên dung, vốn là tánh Như Lai Tạng, không sinh,

không diệt.

Anan! Tâm ông mê muội, không ngộ được bốn đại vốn là

tánh Như Lai Tạng, ông hãy xét cái hư không là ra, là vào

hay không ra, không vào. Ông toàn không biết trong Như

Lai Tạng, tánh Giác là chân không, tánh không là chân

Giác, bản nhiên thanh tịnh, cùng khắp pháp giới, theo

tâm chúng sanh, đáp ứng với lượng hay biết.

Anan! Như một giếng trống không, thì hư không sinh trong

một giếng; hư không thập phương, thì cũng như vậy. Không

Page 62: Sa Môn DI TÙNG - chuaphatquocttt.orgchuaphatquocttt.org/doc/KinhThuLangNghiemRev3.pdf · học, tụng inh Đại 3hật Đảnh thủ /ăng 1ghiêm, đồng thi tham khảo các

60

đại cùng khắp mười phương, đâu có chỗ ở, theo nghiệp mà

phát hiện; thế gian không biết, lầm là nhân duyên và tánh tự

nhiên, đều là những so đo phân biệt của ý thức, chỉ có lời

nói, toàn không có nghĩa chân thật.

Thu kiến đại

"Anan! Cái biết của kiến đại, nhân các thứ sắc, không mà có.

Như hiện nay ông ở trong rừng Kỳ đà, sớm mai thì sáng, ban

đêm thì tối, đến lúc nửa đêm, trăng tròn thì sáng, vắng trăng

thì tối; những tướng sáng, tối ấy do cái thấy phân tách. Cái

thấy đó, lại là đồng một thể với các tướng sáng, tối và cả hư

không, hay không đồng một thể. oặc cũng đồng, cũng

không phải đồng, hoặc cũng khác, cũng không phải khác?

Anan! Nếu cái thấy đó, cùng với sáng, tối và hư không vốn

là một thể, thì cái sáng, cái tối tiêu diệt lẫn nhau, khi tối, thì

không sáng, khi sáng thì không tối; nếu như cái thấy cùng

một thể với cái tối, thì khi sáng, cái thấy phải tiêu mất; nếu

cùng một thể với cái sáng, thì khi tối, cái thấy phải diệt rồi,

mà đã diệt, thì làm sao còn thấy được sáng, thấy được tối.

Còn như sáng và tối khác nhau, còn cái thấy thì không sinh

không diệt, thì làm sao lại thành đồng một thể được?

Nếu cái thấy đó không phải đồng một thể với cái tối và cái

sáng, thì ngoài cái sáng, cái tối và hư không ra, ông hãy phân

tách cái thấy thành hình tướng gì; rời cái sáng, cái tối và hư

không, cái thấy đó cũng đồng như lông rùa sừng thỏ43; nếu

tách hẳn ba thứ sáng, tối và hư không, thì do đâu mà thành

lập được cái thấy?

43

Lông rùa sừng thỏ có nghĩa là không có vì rùa không có lông và thỏ

không có sừng.

Page 63: Sa Môn DI TÙNG - chuaphatquocttt.orgchuaphatquocttt.org/doc/KinhThuLangNghiemRev3.pdf · học, tụng inh Đại 3hật Đảnh thủ /ăng 1ghiêm, đồng thi tham khảo các

61

Sáng và tối trái ngược lẫn nhau, làm sao hoặc cũng là đồng;

rời ba thứ sáng, tối và hư không, cái thấy vốn không còn gì,

làm sao hoặc cũng là khác. Bên hư không, bên cái thấy, vốn

không có bờ cõi, làm sao lại không phải đồng; thấy cái tối,

thấy cái sáng, tánh không dời đổi, làm sao lại không phải

khác?

Ông hãy xét cho kỹ, suy xét chín chắn, nhận cho cùng, xét

cho rõ, sáng là do mặt trời, tối là do đêm không trăng, thông

suốt thuộc về hư không, ngăn bít thuộc về đất liền còn cái

thấy, như vậy nhân đâu mà ra. Cái thấy có Giác quan, hư

không thì không hay biết, không phải hòa, không phải hợp;

không lẽ cái thấy, không do đâu mà tự phát ra. Còn như tất

cả các sự thấy, nghe, hay, biết, bản tánh viên mãn cùng khắp,

vốn không lay động, thì nên biết kiến đại cùng với hư không

không bờ bến, không lay động và bốn món đại: địa, thủy,

hỏa, phong, có lay động, đều gọi là sáu đại, tánh thật là viên

dung, vốn là tánh Như Lai Tạng, không sinh, không diệt.

Anan! Tánh ông chìm đắm, không ngộ được những sự thấy,

nghe, hay, biết của ông vốn là tánh Như Lai Tạng; ông hãy

xét những thấy, nghe, hay, biết, đó là sinh hay diệt, là đồng

hay là khác, là không phải sinh, không phải diệt, hay không

phải đồng, không phải khác. Ông chưa từng biết trong Như

Lai Tạng, cái thấy nơi tâm tánh là cái tánh minh của bản

Giác; cái tánh minh của bản Giác biểu lộ ra nơi cái thấy,

bản nhiên thanh tịnh cùng khắp pháp giới, theo tâm

chúng sanh đáp ứng với lượng hay biết.

Như nơi nhãn căn, cái thấy cùng khắp pháp giới, thì cái biết

nghe, biết ngửi, biết nếm, biết xúc, biết các pháp, công đức

nhiệm mầu sáng suốt cũng cùng khắp pháp giới, đầy đủ thập

phương hư không, đâu có chỗ ở, theo nghiệp mà phát hiện.

Thế gian không biết, lầm là nhân duyên và tánh tự nhiên, đều

Page 64: Sa Môn DI TÙNG - chuaphatquocttt.orgchuaphatquocttt.org/doc/KinhThuLangNghiemRev3.pdf · học, tụng inh Đại 3hật Đảnh thủ /ăng 1ghiêm, đồng thi tham khảo các

62

là những phân biệt so đo của ý thức, chỉ có lời nói, toàn

không có nghĩa chân thật.

Thu thức đại

"Anan! Thức đại không có nguồn gốc, nhân nơi sáu thứ căn,

trần giả dối phát ra. Nay ông hãy xem khắp thánh chúng

trong ội này; ông dùng con mắt lướt qua, mắt ông trông

khắp, chỉ như bóng trong gương, không phân tách riêng biệt.

Cái thức ông, trong ấy theo thứ lớp chỉ ra đây là ông ăn

Thù, đây là ông Phú lâu na, đây là ông Mục kiền liên, đây là

ông Tu Bồ Đề, đây là ông Xá Lợi Phất. Cái thức nhận biết

như thế sinh ra do cái thấy, do các tướng, do hư không, hay

không nhân gì bỗng nhiên sinh ra?

Anan! Nếu cái thức của ông sinh ra do cái thấy; mà như

không có các tướng sáng, tối và sắc, không, thì không còn

cái thấy của ông; cái thấy còn không có, do đâu mà phát ra

được cái thức? Nếu cái thức của ông sinh ra do các tướng,

chứ không do cái thấy, thì đã không thấy sáng, cũng không

thấy tối; sáng và tối đã không thấy, thì cũng không có sắc,

không; các tướng kia còn không có, thì cái thức do đâu mà

phát ra? Nếu cái thức sinh ra do hư không, ngoài các tướng

và ngoài cái thấy, thì ngoài cái thấy không có cảm Giác, tự

nhiên không thể biết được cái sáng, cái tối, các sắc tướng và

hư không; ngoài các tướng, thì không có các duyên của tiền

trần, sự thấy, nghe, hay, biết, không do đâu mà thành lập

được. Ngoài hai thứ căn trần ra, nếu là không, thì cũng đồng

như không có, còn nếu là có, thì cũng không đồng như các

vật, dầu cho phát ra cái thức của ông, thì đem ra mà phân

biệt cái gì?

Page 65: Sa Môn DI TÙNG - chuaphatquocttt.orgchuaphatquocttt.org/doc/KinhThuLangNghiemRev3.pdf · học, tụng inh Đại 3hật Đảnh thủ /ăng 1ghiêm, đồng thi tham khảo các

63

Nếu cái thức không nhân gì bỗng nhiên mà phát ra, làm sao

lại không phân biệt mặt trăng sáng, trong lúc mặt trời đứng

bóng?

Ông hãy xét kỹ, nhận xét chín chắn, cái thấy gá vào mắt của

ông, các tướng thì trả về cho tiền cảnh, cái gì có thể hình

trạng được, thì mới thành có, cái gì không có tướng, thì

thành ra không; còn cái thức như vậy, nhân đâu mà ra?

Cái thức thì lay động, cái thấy thì đứng lặng, không phải hòa,

không phải hợp, cho đến các sự nghe, ngửi, hay, biết, cũng

đều như vậy. Không lẽ cái thức nhận biết không do đâu mà

phát ra.

Nếu cái thức đó không do đâu, thì nên biết cái thức đại nhận

biết và cái căn đại thấy, nghe, hay, biết, vẳng lặng cùng

khắp, bản tánh không nương vào đâu mà có; hai món đại ấy

cùng với hư không, địa, thủy, hỏa, phong, đều gọi là bảy đại,

tánh thật là viên dung, vốn là tánh Như Lai Tạng, không

sinh, không diệt.

Anan! Tâm ông nông nổi, không ngộ được cái nhận biết các

điều thấy nghe, vốn là tánh Như Lai Tạng. Ông hãy xét sáu

cái thức là đồng hay là khác, là không hay là có, là không

phải đồng, không phải khác, hay không phải không, không

phải có. Ông vốn không biết trong Như Lai Tạng, cái thức

là cái Tánh Giác Minh, Tánh Giác Minh là Chân Thức,

là cái biết nhiệm mầu yên lặng cùng khắp pháp giới, ẩn

hiện thập phương hư không, đâu có chỗ ở, chỉ theo

nghiệp mà phát hiện. Thế gian không biết, lầm là nhân

duyên, và tánh tự nhiên, đều là những so đo phân biệt của ý

thức, chỉ có lời nói, toàn không có nghĩa chân thật.”

Page 66: Sa Môn DI TÙNG - chuaphatquocttt.orgchuaphatquocttt.org/doc/KinhThuLangNghiemRev3.pdf · học, tụng inh Đại 3hật Đảnh thủ /ăng 1ghiêm, đồng thi tham khảo các

64

Giác Ngộ và Phát Nguyện

Khi bấy giờ, ông Anan và cả đại chúng nhờ Phật nhiệm mầu

chỉ bày, thân tâm vắng lặng, không điều ngăn ngại. Cả trong

đại chúng đó, mỗi người tự biết tâm tánh cùng khắp mười

phương, trông mười phương hư không như xem cái vật, cái

lá nắm trong bàn tay; tất cả những vật có ra trong thế gian,

đều tức là tâm tánh Bồ Đề nhiệm mầu sáng suốt. Tâm

tánh viên mãn cùng khắp, trùm chứa mười phương, trở lại

xem cái thân cha mẹ sinh ra cũng như trong mười phương hư

không kia, thổi một vi trần, dầu còn, dầu mất, chẳng khác

biển lớn yên lặng, nổi lên một bọt nước, dầu sinh hay diệt,

cũng không dính dáng gì. Rõ như vậy, tự biết nhận được tâm

tánh bản lai thường trụ không diệt, lễ Phật chấp tay, được cái

chưa từng có, ở trước đức Như Lai, nói bài kệ tán thán

Phật44

:

"Đức Thế Tôn bất động,

Tổng trì tánh diệu trạm,

Nói pháp Thủ lăng nghiêm,

Thật hy hữu trong đời,

Khiến chúng con tiêu diệt

ọng tưởng trong ức kiếp,

Không trải qua tăng kỳ

Mà chứng được pháp thân.

Nguyện nay đã chứng quả

Thành được vị Bảo vương

Lại hóa độ như thế

Cho cả hằng sa chúng.

Đem thâm tâm phụng sự

Cõi nước như vi trần,

44

Tại Chùa Bắc Tông thường tụng bài kệ này bằng chữ Hán Việt.

Page 67: Sa Môn DI TÙNG - chuaphatquocttt.orgchuaphatquocttt.org/doc/KinhThuLangNghiemRev3.pdf · học, tụng inh Đại 3hật Đảnh thủ /ăng 1ghiêm, đồng thi tham khảo các

65

Làm được như vậy mới

Gọi là báo ơn Phật.

Cúi xin đức Thế Tôn

Chứng minh cho chúng con,

Thệ nguyện quyết vào trước

Trong ngũ trược ác thế;

Nếu còn một chúng sanh

Chưa thành được Phật đạo,

Quyết không ở nơi đó

Chịu chứng quả Niết Bàn.

Kính thưa đức Đại ùng,

Đại lực, Đại Từ Bi,

Trông mong lại xét trừ

Những điều lầm nhỏ nhiệm,

Cho chúng con sớm lên

Đến bậc ô Thượng Giác,

Nơi thập phương thế giới

Ngồi đạo tràng thuyết pháp.

Tánh hư không bất diệt

ầu có thể tiêu mất,

Tâm nguyện chắc chắn nầy,

Quyết không hề lay động."

Page 68: Sa Môn DI TÙNG - chuaphatquocttt.orgchuaphatquocttt.org/doc/KinhThuLangNghiemRev3.pdf · học, tụng inh Đại 3hật Đảnh thủ /ăng 1ghiêm, đồng thi tham khảo các

66

KINH ĐẠI PHẬT ĐẢNH THỦ LĂNG NGHIÊM (T M T T NG N)

Page 69: Sa Môn DI TÙNG - chuaphatquocttt.orgchuaphatquocttt.org/doc/KinhThuLangNghiemRev3.pdf · học, tụng inh Đại 3hật Đảnh thủ /ăng 1ghiêm, đồng thi tham khảo các

67

Quyển IV

Phần 10

(Lưu ý: Đọc phần này hiểu hay không hiểu cũng không sao.

Chỉ khi đạt được Chơn Tâm mới rõ Vọng Tâm sinh ra như

thế nào, cũng như khi tỉnh mộng mới biết trước đó đang

trong mộng mà thôi.)

Căn nguyên và Tánh Giác vẹn toàn

Ông Mãn Từ bạch Phật: "Bạch Thế Tôn, nếu như hết thảy

các thứ căn, trần, ấm, xứ, giới, vân vân... trong thế gian, đều

là tánh thanh tịnh bản nhiên Như Lai Tạng, thì làm sao bỗng

nhiên lại sinh ra các tướng hữu vi như núi, sông, đất liền, thứ

lớp dời đổi, hết rồi lại có?

Lại đức Như Lai nói bốn món đại địa, thủy, hỏa, phong, bản

tánh viên mãn dung hòa, cùng khắp pháp giới, vẳng lặng

thường trụ. Bạch Thế Tôn, nếu tánh địa đại cùng khắp, sao

lại dung được thủy đại; nếu tánh thủy đại cùng khắp thì hỏa

đại không thể phát sinh; làm sao lại phát minh hai tánh thủy

đại và hỏa đại đều cùng khắp hư không, không diệt lẫn nhau?

Bạch Thế Tôn, tánh địa đại là ngăn ngại, tánh hư không là

rỗng suốt, làm sao hai đại ấy lại đều cùng khắp pháp giới.

Con nay không biết nghĩa ấy do đâu, xin Phật phát lòng đại

từ, vén mây mê lầm cho con và trong đại chúng." Ông Mãn

Từ nói lời ấy rồi, năm vóc gieo xuống đất, kính mong lời dạy

từ bi vô thượng của đức Như Lai.

Page 70: Sa Môn DI TÙNG - chuaphatquocttt.orgchuaphatquocttt.org/doc/KinhThuLangNghiemRev3.pdf · học, tụng inh Đại 3hật Đảnh thủ /ăng 1ghiêm, đồng thi tham khảo các

68

Vô Minh Đầu tiên

(Lưu ý: Phần này chỉ đọc qua để có một khái niệm mà thôi

vì chỉ có Phật mới biết được việc này)

Khi bấy giờ, đức Thế Tôn bảo ngài Phú lâu na và các vị A la

hán lậu tận vô học trong ội rằng: "Ngày nay Như Lai khắp

vì trong ội nầy chỉ bày tánh chân thắng nghĩa trong thắng

nghĩa, khiến cho ở trong ội nầy, những hàng định tánh

Thanh ăn và hết thảy các bậc A la hán, chưa được hai phép

ngã không pháp không, phát tâm hướng về thượng thừa, đều

được chỗ tu hành chân chính, thiết thực không xao động của

cảnh giới tịch diệt nhất thừa. Ông hãy nghe kỹ, tôi sẽ vì ông

mà nói.”

Phật dạy: "Ông Phú lâu na! Như ông vừa nói: Đã là bản

nhiên thanh tịnh, làm sao bỗng nhiên lại sinh ra có núi sông,

đất liền. ậy ông không thường nghe Như Lai chỉ dạy: Tánh

Giác là Diệu Minh, Bản Giác là Minh Diệu, hay sao?"

Ông Phú lâu na bạch: "Thưa Thế Tôn, vâng, con thường

nghe Phật chỉ dạy nghĩa ấy."

Phật bảo: "Ông gọi là Giác Minh, vì bản tánh nó là Minh,

nên gọi nó là Giác, hay là vì Giác được cái không Minh, mà

gọi là Minh Giác?"

Ông Phú lâu na bạch: "Nếu cái không minh đó mà gọi là

Giác, thì nó không minh được cái gì."

Nguyên nhân vọng thấy có thế giới

Phật dạy: "Nếu không có sở minh thì không có Minh Giác,

nếu có sở45

thì không phải là Giác, mà không sở, lại không

45

Sở để chỉ đối tượng, Năng để chỉ chủ thể, Năng và Sở khế hợp với

nhau.

Page 71: Sa Môn DI TÙNG - chuaphatquocttt.orgchuaphatquocttt.org/doc/KinhThuLangNghiemRev3.pdf · học, tụng inh Đại 3hật Đảnh thủ /ăng 1ghiêm, đồng thi tham khảo các

69

phải là Minh; và không minh, thì lại không phải là cái Tánh

Giác trong lặng sáng suốt. ậy tánh Giác vốn là minh, do

vọng tưởng mà cho là Minh Giác. Giác không có gì là sở

minh, nhân có minh mà lập ra thành sở; đã giả dối lập ra có

sở, mới sinh ra cái năng hư vọng của các ông. "Trong tánh

không đồng, không khác, nổi dậy thành ra có khác; khác với

cái khác kia, thì nhân cái khác đó, mà lập thành cái đồng.

Phát minh cái đồng, cái khác rồi, thì nhân đó, mà lập ra cái

không đồng, không khác. Rối loạn như vậy, đối dãi với nhau

sinh ra lao lự; lao lự mãi phát ra trần tướng, tự vẩn đục lẫn

nhau; do đó, đưa đến những trần lao phiền não. Nổi lên thì

thành thế giới, lặng xuống thì thành hư không; hư không là

đồng, thế giới là khác; cái không đồng, không khác kia, thật

là pháp hữu vi.

"Cái Giác là sáng suốt, cái hư không thì không hay biết, hai

cái đối đãi với nhau, thành có lay động, cho nên có Phong

Luân nắm giữ thế giới. Nhân cái hư không, mà sinh ra có lay

động, phát minh tánh cứng, thì thành có ngăn ngại; các loại

kim bảo đều do Minh Giác lập ra tánh cứng, cho nên có Kim

Luân nắm giữ cõi nước. Biết cái cứng, thì thành có kim bảo,

rõ cái lay động, thì phong đại phát ra; phong đại và kim bảo

cọ xát nhau, cho nên có ỏa đại làm tánh biến hóa. Ngọn lửa

xông lên, kim bảo sinh ra tánh ướt, cho nên có Thủy Luân

trùm khắp các cõi mười phương. Lửa bốc lên, nước sa

xuống, giao nhau phát hiện, mà lập thành tánh cứng; chỗ ướt

là bể lớn, chỗ khô là gò nổi; do cái nghĩa ấy, trong bể lớn

kia, hơi nóng thường bốc lên; trong gò nổi kia, sông ngòi

thường chảy xuống. Thế nước kém thế lửa, thì kết thành núi

cao, vậy nên đá núi, đập thì có tia lửa, nấu thì chảy ra nước.

Thế đất kém thế nước, rút ra thành cỏ cây, vậy nên rừng rú bị

đốt thì thành đất, vắt ra thì có nước.

Page 72: Sa Môn DI TÙNG - chuaphatquocttt.orgchuaphatquocttt.org/doc/KinhThuLangNghiemRev3.pdf · học, tụng inh Đại 3hật Đảnh thủ /ăng 1ghiêm, đồng thi tham khảo các

70

ọng tưởng giao xen phát sinh, xoay vần làm chủng tử cho

nhau; do nhân duyên ấy mà thế giới tiếp tục.

Lại nữa, Phú lâu na! Vọng tưởng chẳng phải gì khác, do

Tánh Giác Minh hóa ra lầm lỗi; cái sở minh hư vọng đã

lập, thì phạm vi của cái năng minh không vượt khỏi được.

o nhân duyên ấy, nghe không ra ngoài tiếng, thấy không

vượt khỏi sắc, sáu cái vọng: Sắc, hương, vị, xúc vân vân...,

đã thành lập, thì do đó, chia ra có thấy, nghe, hay, biết.

Đồng nghiệp ràng buộc lẫn nhau mà hợp, mà ly, mà thành,

mà hoại. Cái thấy phát minh, thì các sắc phát ra; nhận rõ nơi

sự thấy, thì thành có tư tưởng; rồi ý kiến khác nhau, thì thành

ra ghét, tưởng niệm đồng nhau, thì thành ra yêu. Lan [tràn]

cái yêu ra, thành hạt giống, thu nạp tưởng niệm, thành ra cái

thai, giao cấu phát sinh, hấp dẫn nhóm đồng nghiệp, nên có

nhân duyên sinh ra yết la lam, át bồ đàm, vân vân... Thai

sinh, noãn sinh, thấp sinh hay hóa sinh là tùy tùy theo chỗ

mà ứng: Noãn chỉ do tưởng niệm mà sinh, thai thì nhân ái

tình mà có, thấp sinh thì do cảm mà hợp lại, còn hóa sinh thì

phân ly mà ứng hiện. Khi tình, khi tưởng, khi hợp, khi ly,

thay đổi lẫn nhau, nên các loài chịu nghiệp báo cũng theo đó

mà lên xuống; do nhân duyên ấy, chúng sanh nối tiếp nhau

không dứt.

Phú lâu na! Tư tưởng thương yêu ràng buộc lẫn nhau, yêu

mãi không rời, thì những cha mẹ con cháu trong thế gian

sinh nhau không ngớt, nhóm nầy thì lấy dục tham làm gốc.

Lòng tham, lòng yêu giúp nhau tăng trưởng, tham mãi không

thôi, thì các loài thai sinh, noãn sinh, thấp sinh, hóa sinh

trong thế gian, tùy sức mạnh yếu, ăn nuốt lẫn nhau; nhóm

nầy thì lấy sát tham làm gốc. Lấy thân người ăn con dê, dê

chết làm người, người chết làm dê, như vậy cho đến mười

loài chúng sanh chết sống, sống chết, ăn nuốt lẫn nhau,

Page 73: Sa Môn DI TÙNG - chuaphatquocttt.orgchuaphatquocttt.org/doc/KinhThuLangNghiemRev3.pdf · học, tụng inh Đại 3hật Đảnh thủ /ăng 1ghiêm, đồng thi tham khảo các

71

nghiệp dữ cùng sinh ra tột đời vị lai, nhóm nầy thì lấy đạo

tham làm gốc.

Người nầy mắc nợ thân mệnh người kia, người kia trả nợ cũ

cho người nầy; do nhân duyên ấy, trải qua trăm nghìn kiếp,

thường ở trong đường sống chết. Người nầy yêu cái tâm

người kia, người kia ưa cái sắc người nầy, do nhân duyên ấy,

trải qua trăm nghìn kiếp, thường ở trong vòng ràng buộc.

uy ba món sát, đạo, dâm làm gốc và vì nhân duyên đó,

nghiệp quả tiếp tục.

Phú lâu na! Ba thứ tiếp tục điên đảo ấy, đều do tánh sáng

suốt rõ biết của Giác Minh, nhân rõ biết phát ra có tướng,

theo vọng tưởng mà kiến chấp sinh ra, các tướng hữu vi

núi sông, đất liền thứ lớp dời đổi, đều nhân cái hư vọng đó,

mà xoay vần sau trước.”

Giác chẳng sanh mê

Ông Phú lâu na bạch: "Nếu cái iệu Giác đó, bản tánh là

iệu Minh, cùng với tâm Như Lai, không thêm không bớt,

mà không cớ gì bỗng nhiên lại sinh ra các tướng hữu vi núi

sông, đất liền; vậy Như Lai hiện nay đã chứng được Bản

Giác iệu Minh, không có phân biệt, thì đến lúc nào lại sinh

ra núi sông, đất liền và các tập lậu hữu vi?"

Phật bảo ngài Phú lâu na: " í như người mê, nơi một xóm

làng, lầm phương Nam làm phương Bắc, thì cái mê ấy, lại

là nhân mê mà có hay nhân ngộ mà ra?"

Ông Phú lâu na bạch: "Người mê như vậy, cũng không nhân

mê, cũng không nhân ngộ. ì sao? Mê, vốn không có gốc,

làm sao lại nhân mê? Còn ngộ, không phải cái sinh ra mê,

làm sao lại nhân ngộ?"

Page 74: Sa Môn DI TÙNG - chuaphatquocttt.orgchuaphatquocttt.org/doc/KinhThuLangNghiemRev3.pdf · học, tụng inh Đại 3hật Đảnh thủ /ăng 1ghiêm, đồng thi tham khảo các

72

Phật dạy: "Người mê kia, chính trong lúc mê, bỗng có người

ngộ chỉ bày cho được ngộ. Phú lâu na! Ý ông nghĩ thế nào?

Người ấy giải trừ được cái mê đi, thì đối với xóm làng đó,

còn có sanh mê nữa không?

Thưa Thế Tôn, không.

Phú lâu na! Như Lai mười phương thì cũng như vậy. Cái mê

đó không có gốc, tánh nó rốt ráo là rỗng không; xưa vốn

không mê, chỉ hình như có mê, có Giác; Giác được cái

mê, thì cái mê diệt và Giác không sinh ra mê.

Cũng như người lòa thấy hoa đốm giữa hư không, nếu trừ

được bệnh lòa, thì hoa đốm nơi hư không diệt mất. Bỗng có

người ngu, ở chỗ hư không mà hoa đốm kia đã diệt rồi, lại

mong đợi hoa đốm sinh lại. Ông xét người ấy, là ngu hay là

trí tuệ?"

Ông Phú lâu na bạch: " ư không vốn không có hoa đốm, vì

hư vọng mà thấy có sinh diệt; thấy hoa đốm diệt mất nơi hư

không đã là điên đảo rồi; lại còn muốn bảo nó sinh lại, thì

thật là điên dại; làm sao còn gọi người điên như vậy, là ngu

hay là trí tuệ."

Phật dạy: "Ông hiểu như vậy, làm sao còn hỏi Tánh Giác

iệu Minh, không có phân biệt của chư Phật Như Lai, lúc

nào lại sinh ra núi sông, đất liền.

Lại như quặng vàng lộn với vàng ròng, khi vàng đã luyện

thành ròng rồi, thì không xen lộn được nữa; cũng như cây đã

đốt ra tro, thì không thành cây được nữa; Bồ Đề Niết Bàn

chư Phật Như Lai thì cũng như vậy.

Page 75: Sa Môn DI TÙNG - chuaphatquocttt.orgchuaphatquocttt.org/doc/KinhThuLangNghiemRev3.pdf · học, tụng inh Đại 3hật Đảnh thủ /ăng 1ghiêm, đồng thi tham khảo các

73

Các Đại có thể tương dung

"Phú lâu na! Ông lại hỏi về địa, thủy, hỏa, phong, bản tánh

viên mãn dung hòa, cùng khắp pháp giới, nghi sao tánh

nước, tánh lửa lại không lấn nhau, diệt nhau và nêu ra hư

không và địa đại đều cùng khắp pháp giới, lẽ ra không dung

được nhau.

Phú lâu na! í như hư không, bản thể không phải các tướng,

mà không ngăn cản các tướng phát huy. ì sao? Phú lâu na!

Nơi hư không kia, mặt trời soi thì sáng, mây kéo thì tối, gió

lay động, trời tạnh thì trong, hơi đọng, thì đục, bụi nổi thì

mù, nước đứng thì ánh. Ý ông nghĩ thế nào? Các tướng hữu

vi khác nhau như vậy, nhân các cái kia mà sinh, hay nhân hư

không mà có. Phú lâu na! Nếu như do các cái kia sinh ra, thì

khi mặt trời soi, đã là mặt trời sáng, mười phương thế giới

đều thành sắc của mặt trời, làm sao giữa hư không, lại còn

thấy mặt trời tròn. Nếu là hư không sáng, thì hư không phải

tự soi lấy, làm sao lúc giữa đêm mây mù, lại không sinh ra

sáng chói. ậy nên biết rằng cái sáng đó, không phải mặt

trời, không phải hư không và cũng không ra ngoài hư không

và mặt trời. Xét kỹ các tướng vốn là vọng, không thể chỉ

bày, cũng như muốn hoa đốm hư không kết thành quả hư

không, làm sao còn gạn hỏi cái nghĩa lấn diệt lẫn nhau? Xét

cái tánh, vốn là chân, chỉ là Tánh Giác iệu Minh. Tánh

Giác iệu Minh, vốn không phải là nước hay là lửa, làm sao

còn hỏi về nghĩa không dung được nhau?

Bản Tánh iệu Minh chân thật thì cũng như vậy. Ông phát

minh cái hư không, thì có hư không hiện ra; địa, thủy, hỏa,

phong, mỗi mỗi phát minh, thì mỗi mỗi hiện ra; nếu cùng

phát minh, thì cùng hiện ra.

Page 76: Sa Môn DI TÙNG - chuaphatquocttt.orgchuaphatquocttt.org/doc/KinhThuLangNghiemRev3.pdf · học, tụng inh Đại 3hật Đảnh thủ /ăng 1ghiêm, đồng thi tham khảo các

74

Thế nào là cùng hiện ra? Phú lâu na! Như trong một chỗ có

nước, hiện ra bóng mặt trời, hai người đồng xem mặt trời

trong nước; rồi một người đi phương Đông, một người đi

phương Tây, thì hai bên đều có mặt trời theo mình cùng đi,

một cái về phương Đông, một cái về phương Tây, không có

chuẩn đích nhất định. Không nên gạn hỏi rằng, mặt trời đó là

một, sao lại mỗi cái đi theo mỗi người? Các mặt trời đã thành

hai, làm sao trước kia chỉ hiện ra có một? ư vọng quanh lộn

như thế, không thể lấy gì làm bằng cứ.

Chỉ rõ Tánh Diệu Minh là Như Lai Tạng rời cả hai nghĩa

“Phi” và “Tức”

"Phú lâu na! Ông đem cái sắc, cái không, mà lấn đoạt lẫn

nhau nơi Như Lai Tạng, thì Như Lai Tạng theo ông làm sắc,

làm không, cùng khắp pháp giới; vậy nên trong ấy, gió thổi

thì động, hư không thì lặng, mặt trời thì sáng, mây mù thì tối:

Chúng sanh mê lầm, lìa xa Giác tánh, hợp với trần tướng,

cho nên phát ra trần lao mà có các tướng thế gian.”

"Ta thì lấy tánh iệu Minh, không diệt không sinh, hợp với

Như Lai Tạng, thì Như Lai Tạng chỉ là tánh Giác iệu

Minh, soi khắp pháp giới; vậy nên trong ấy, một là vô lượng,

vô lượng là một, trong nhỏ hiện ra lớn, trong lớn hiện ra nhỏ,

đạo trường [tràng] bất động cùng khắp thế giới mười

phương, thân trùm cả hư không vô tận mười phương, nơi đầu

một mãy lông, hiện ra cõi Bảo vương, ngồi trong vi trần,

chuyển bánh xe pháp lớn; lìa trần tướng, hợp Giác tánh, nên

tánh Giác chân như nhiệm mầu sáng suốt hiển bày.

"Nhưng Như Lai Tạng bản tánh diệu viên, không phải là

tâm, là không, là địa, là thủy, là phong, là hỏa; không phải là

nhãn, là nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý; không phải là sắc, là thanh,

hương, vị, xúc, pháp; không phải là nhãn thức giới, cho đến

Page 77: Sa Môn DI TÙNG - chuaphatquocttt.orgchuaphatquocttt.org/doc/KinhThuLangNghiemRev3.pdf · học, tụng inh Đại 3hật Đảnh thủ /ăng 1ghiêm, đồng thi tham khảo các

75

không phải là ý thức giới; không phải là minh, là vô minh, là

hết minh, là hết vô minh, cho đến không phải là lão, là tử, là

hết lão tử; không phải là khổ, là tập, là diệt, là đạo; không

phải là trí, là đắc; không phải là bố thí, là trì giới, là tinh tiến,

là nhẫn nhục, là thiền định, là trí tuệ, là Ba la mật đa, cho đến

cũng không phải là Như Lai, là Ứng cúng, là Chính biến tri;

không phải là Đại Niết Bàn, là đức Thường, đức Lạc, đức

Ngã, đức Tịnh, vì cái đó, đều không là các pháp thế gian và

xuất thế gian vậy46.”

"Tức cái bản tánh minh diệu Như Lai Tạng, cũng tức là

tâm, là không, là địa, là thủy, là phong, là hỏa; tức là nhãn, là

nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý; tức là sắc, là thanh, hương, vị, xúc,

pháp; tức là nhãn thức giới, cho đến là ý thức giới; tức là

minh, là vô minh, là hết minh, là hết vô minh, cho đến tức là

lão, là tử, là hết lão tử; tức là khổ, là tập, là diệt, là đạo; tức

là trí, là đắc; tức là bố thí, là trì giới, là tinh tiến, là nhẫn

nhục, là thiền định, là trí tuệ, là Ba la mật đa, cho đến tức là

Như Lai, là Ứng cung, là Chính biến tri; tức là Đại Niết Bàn,

là đức Thường, đức Lạc, đức Ngã, đức Tịnh; do cái đó, tức là

các pháp thế gian và xuất thế gian vậy.”

"Tức cái tánh Giác iệu Minh Như Lai Tạng, rời cả các

nghĩa "tức", "phi" và cũng là "tức", là "phi"; làm sao

chúng sanh ba cõi thế gian và các hàng Thanh Văn,

Duyên Giác xuất thế gian, lấy cái tâm hay biết sự vật, mà

đo lường được vô thượng Bồ Đề của Như Lai, dùng tiếng

nói thế gian, mà vào được tri kiến của Phật47. í như,

những cây đàn cầm, sắt, không hầu, tỳ bà, tuy có tiếng hay,

nhưng nếu không có ngón tay hay, thì rốt cuộc cũng không

46

Nơi Như Lai Tạng không còn phân biệt, không còn danh tự. 47

Phần này cho biết chúng sanh không thể hiểu nổi, lời Đức Phật dạy

bằng ví dụ chàng Diễn Nhã Đạt Đa chỉ là để gợi ý mà thôi.

Page 78: Sa Môn DI TÙNG - chuaphatquocttt.orgchuaphatquocttt.org/doc/KinhThuLangNghiemRev3.pdf · học, tụng inh Đại 3hật Đảnh thủ /ăng 1ghiêm, đồng thi tham khảo các

76

phát ra được. Ông cùng chúng sanh thì cũng như vậy. Tâm

tánh chân thật, mỗi người đều đầy đủ, nhưng khi Ta ấn ngón

tay, thì hải ấn phát ra hào quang, còn các ông tạm móng tâm

lên, thì trần lao đã nổi, do vì không siêng năng cầu đạo vô

thượng Giác, ưa nhớ Tiểu Thừa, được một ít đã cho là đủ.”

Mê vọng không có nhân, hết mê là Bồ Đề

Ông Phú lâu na bạch: "Chơn Tâm iên Giác iệu Minh của

con và của Như Lai, đều viên mãn không hai, mà con, trước

kia mắc vọng tưởng vô thủy, ở lâu trong luân hồi, nay được

thánh thừa, còn chưa rốt ráo; Thế Tôn, thì khắp tất cả các

vọng đều diệt trọn, chỉ có diệu dụng tánh chân thường. Xin

hỏi đức Như Lai, hết thảy chúng sanh, vì nhân gì mà có

vọng, tự che Tánh iệu Minh, mà chịu chìm đắm như vậy?"

Phật bảo ngài Phú lâu na: "Ông tuy trừ được lòng nghi,

nhưng còn những điều lầm chưa dứt hết. Nay Ta lại đem

những việc hiện tiền thế gian mà hỏi ông. á ông không

nghe trong thành Thất la phiệt, có anh iễn nhã đạt đa, buổi

mai lấy gương soi mặt, bỗng nhiên ưa cái đầu trong gương,

lông mày, con mắt có thể thấy được, rồi giận trách cái đầu

mình, sao lại không thấy mặt mày, cho là giống yêu quái, rồi

không cớ gì [bổng nhiên] phát điên bỏ chạy. Ý ông nghĩ thế

nào, người đó vì nguyên nhân gì, vô cớ phát điên bỏ chạy?"

Ông Phú lâu na bạch: "Tâm người ấy điên, chứ không có cớ

gì khác."

Phật dạy: "Tánh iệu Giác viên mãn sáng suốt, bản lai là

iệu Minh cùng khắp; đã gọi là vọng, thì làm sao có nhân,

nếu có nguyên nhân, thì sao gọi là vọng? Chỉ tự các vọng

tưởng xoay vần làm nguyên nhân cho nhau, theo cái mê,

chứa cái mê, trải qua kiếp số như vi trần; tuy Phật phát minh,

còn không biết trở về. Nguyên nhân cái mê như vậy, là nhân

Page 79: Sa Môn DI TÙNG - chuaphatquocttt.orgchuaphatquocttt.org/doc/KinhThuLangNghiemRev3.pdf · học, tụng inh Đại 3hật Đảnh thủ /ăng 1ghiêm, đồng thi tham khảo các

77

mê tự có, biết cái mê không có nhân, thì cái vọng không

chỗ nương tựa, còn không có sinh, thì muốn đem cái gì

mà làm cái diệt. Người được đạo Bồ Đề như người tỉnh giấc

kể chuyện trong chiêm bao; tâm dầu rõ ràng, nhưng không

thể có nhân duyên gì lấy được những vật trong chiêm bao;

huống nữa, cái mê lại không có nhân, vốn không có gì cả.

Như anh iễn nhã đạt đa trong thành kia, đâu có nhân duyên,

mà tự sợ đầu mình bỏ chạy, khi hết điên, thì cái đầu đâu phải

từ ngoài đưa tới; dầu chưa hết điên, cái đầu cũng không hề

mất.

Phú lâu na! Tánh của cái vọng là như vậy, làm sao còn có

nguyên nhân được. Ông chỉ không theo sự phân biệt ba

thứ “các Pháp nơi thế gian, nghiệp quả, chúng sanh", khi

ba duyên đã đoạn rồi, ba nhân không sinh ra nữa, và

tánh điên của anh Diễn nhã đạt đa trong tâm ông tự hết.

Hết, tức là tâm tánh Bồ Đề trong sạch sáng suốt, bản lai

cùng khắp pháp giới hiện ra, không do ai đưa lại, nào cần

gì phải tu chứng nhọc nhằn vất vả.

í như có người, ở nơi áo mình, buộc một hạt châu như ý48

,

mà không hay biết, nên phải xin ăn rong ruổi phương xa,

nghèo nàn rách rưới; tuy người ấy thật nghèo nàn, nhưng hạt

châu không hề bị mất; bỗng nhiên có người khôn, chỉ hạt

châu ra cho, thì người ấy muốn gì được nấy, thành giàu có

lớn, rồi mới ngộ được hạt châu quý hóa ấy, không phải do ở

ngoài đưa tới.”

Phá xích nhân duyên, tự nhiên xưa nay không vọng

Lúc bấy giờ ngài Anan ở trong đại chúng, đãnh lễ chân Phật,

đứng dậy bạch Phật: "Đức Thế Tôn hiện nói về các nghiệp

48

Hột châu trong chéo áo là chuyện người cùng tử trong kinh Diệu Pháp

Liên Hoa.

Page 80: Sa Môn DI TÙNG - chuaphatquocttt.orgchuaphatquocttt.org/doc/KinhThuLangNghiemRev3.pdf · học, tụng inh Đại 3hật Đảnh thủ /ăng 1ghiêm, đồng thi tham khảo các

78

sát, đạo, dâm. ề ba duyên đoạn rồi, thì ba nhân không sinh

và tánh điên anh iễn nhã đạt đa trong tâm tự hết; hết, tức là

Bồ Đề, không do người khác đưa tới; như thế, rõ ràng là

nhân duyên rồi, làm sao đức Như Lai lại bỏ nghĩa nhân

duyên? Chính con, do nhân duyên, mà tâm được khai ngộ.

Bạch Thế Tôn, nghĩa ấy đâu chỉ đối với hàng Thanh ăn hữu

học, ít tuổi như chúng con, mà hiện nay, trong ội nầy, ông

Đại mục kiền liên, ông Xá Lợi Phất, ông Tu Bồ Đề, vân vân

... cũng từ ông lão Phạm Chí nghe lý nhân duyên của Phật,

mà phát tâm khai ngộ, được thành quả vô lậu. Nay Phật dạy

rằng Bồ Đề không do nhân duyên, thì các thuyết tự nhiên của

nhóm Câu xá ly, thành ương xá, lại thành đệ nhất nghĩa.

Xin Phật rủ lòng đại bi, khai phá chỗ mê lầm cho chúng

con.”

Đức Phật bảo: "Anan! Như cái đầu anh iễn nhã đạt đa vốn

là tự nhiên, nó đã tự nhiên như thế, thì có lúc nào lại không

tự nhiên, vậy vì nhân duyên gì, mà sợ cái đầu, phát điên bỏ

chạy? Nếu cái đầu tự nhiên, vì nhân duyên mà điên, thì sao

không tự nhiên, vì nhân duyên mà mất đi? Cái đầu vốn

không mất, điên sợ giả dối phát ra, chứ nào có thay đổi gì,

mà phải nhờ đến nhân duyên. Nếu tánh điên vốn là tự nhiên

và vốn có sẵn tánh điên sợ, thì khi chưa điên, cái điên núp

vào chỗ nào? Nếu tánh không điên là tự nhiên, thì cái đầu

vẫn không việc gì, sao lại phát điên bỏ chạy? Nếu ngộ được

cái đầu sẵn có, biết mình vì phát điên mà bỏ chạy, thì nhân

duyên và tự nhiên đều là hý luận."

Đưa vào Bồ Đề

" ậy nên Ta nói: Ba duyên đoạn trừ rồi, tức là tâm Bồ Đề.

Tâm Bồ Đề sinh, tâm sinh diệt diệt, đó chỉ là sinh diệt. iệt

Page 81: Sa Môn DI TÙNG - chuaphatquocttt.orgchuaphatquocttt.org/doc/KinhThuLangNghiemRev3.pdf · học, tụng inh Đại 3hật Đảnh thủ /ăng 1ghiêm, đồng thi tham khảo các

79

và sinh đều hết, thì gọi là vô công dụng đạo49. Nếu có tự

nhiên, như vậy là phát minh tâm tự nhiên sinh, tâm sinh diệt

diệt, thế cũng là sinh diệt và lấy cái không sinh diệt, gọi là tự

nhiên. Cũng như, trong thế gian các tướng hòa lẫn thành ra

một thể, gọi là tánh hòa hợp; cái không phải hòa hợp, thì gọi

là tánh bản nhiên. Bản nhiên không phải bản nhiên, hòa hợp

không phải hòa hợp, hòa hợp và bản nhiên đều rời bỏ, rời bỏ

và không rời bỏ đều "phi", câu nói nầy, mới gọi là pháp

không hý luận."

"Bồ Đề Niết Bàn còn ở xa xôi, nếu ông không trải qua nhiều

kiếp siêng năng tu chứng, thì tuy ghi nhớ diệu lý thanh tịnh

mười hai bộ kinh của thập phương Như Lai, như cát sông

ằng, cũng chỉ càng thêm hý luận. Ông tuy nói lý nhân

duyên, tự nhiên, chắc chắn rõ ràng, người đời gọi ông là đa

văn bậc nhất. ới cái huân tập đa văn nhiều kiếp đó, ông

không thoát khỏi được nạn Ma đăng già, phải đợi thần chú

Phật đảnh của Ta, làm cho lửa dâm trong tâm nàng Ma đăng

già hết đi và nàng được quả A na hàm, ở trong Phật pháp

thành rừng tinh tiến, sông ái khô cạn, mới khiến cho ông

được giải thoát. ậy nên ông Anan, tuy ông nhiều kiếp ghi

nhớ những pháp bí mật diệu nghiêm của Như Lai, cũng

không bằng một ngày tu nghiệp vô lậu, xa rời hai khổ ưa

ghét thế gian. Như nàng Ma đăng già, trước kia là dâm nữ,

do sức thần chú, tiêu diệt lòng ưa muốn, nay ở trong Phật

pháp, gọi tên là Tánh Tỷ kheo ni, cùng với mẹ La hầu la là

a du đà la, đồng ngộ nhân trước, biết đã trải qua nhiều đời,

nhân vì tham ái mà khổ, một niệm huân tu pháp vô lậu thiện,

thì người đã ra khỏi ràng buộc, người thì được Phật thọ ký,

làm sao, ông còn tự dối mình, mắc míu mãi trong vòng nghe

thấy.”

49

Vô công dụng đạo: ùng đạo không tốn công sức.

Page 82: Sa Môn DI TÙNG - chuaphatquocttt.orgchuaphatquocttt.org/doc/KinhThuLangNghiemRev3.pdf · học, tụng inh Đại 3hật Đảnh thủ /ăng 1ghiêm, đồng thi tham khảo các

80

Phần 11

Chỉ nghĩa quyết định

Các pháp tu hành sau khi đốn ngộ, phát Bồ Đề Tâm

Ngài Anan và cả đại chúng nghe lời Phật dạy, tiêu hết nghi

hoặc, ngộ được thật tướng, thân và ý đều yên lành, được

pháp chưa từng có, nên thỉnh cầu đức Phật dạy pháp tu hành,

phát Bồ Đề Tâm.

Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn thương xót các hàng Thanh ăn,

Duyên Giác trong ội, chưa được tự tại nơi tâm Bồ Đề, và

những chúng sanh phát Bồ Đề tâm trong đời Mạt Pháp về

sau, khi Phật đã diệt độ rồi, khai thị cho đường tu hành

nhiệm mầu pháp vô thượng thừa, và chỉ dạy ông Anan với

cả đại chúng rằng: "Các ông quyết định phát tâm Bồ Đề, đối

với pháp Tam ma đề chư Phật Như Lai, không sinh mệt mỏi,

thì trước hết, nên rõ hai nghĩa quyết định, trong lúc bắt đầu

phát tâm tự Giác50

."

Phát Tâm trong lúc tu nhân

(Lưu ý: Đọc kỹ đoạn này và nhớ lấy để khi tu không lạc vào tà

đạo)

"Thế nào là hai nghĩa quyết định trong lúc mới phát tâm.

Anan! nghĩa thứ nhất là: Nếu các ông muốn rời bỏ phép

Thanh ăn, tu thừa Bồ Tát, vào tri kiến của Phật, thì nên xét

kỹ cái nhân địa phát tâm với quả địa của Giác ngộ là

đồng hay là khác nhau. Anan! Nếu nơi nhân địa mà đem

cái tâm sinh diệt làm cái nhân tu hành, đề cầu cho được

cái quả bất sinh bất diệt của Phật thừa, thì thật không

thể được. o cái nghĩa đó, ông nên xét các pháp, có thể làm

50

Phát Tâm tự Giác còn gọi là Sơ Tâm Giác Ngộ.

Page 83: Sa Môn DI TÙNG - chuaphatquocttt.orgchuaphatquocttt.org/doc/KinhThuLangNghiemRev3.pdf · học, tụng inh Đại 3hật Đảnh thủ /ăng 1ghiêm, đồng thi tham khảo các

81

ra trong khí thế gian, đều phải thay đổi diệt mất. Anan! Ông

xét các pháp, có thể làm ra trong thế gian, có cái gì là không

hư nát, nhưng không bao giờ nghe hư không tan rã, vì sao?

ì hư không không phải là cái bị làm ra, do đó, trước sau

không hề tan mất. Thì trong thân ông, tướng cứng là địa đại,

thấm ướt là thủy đại, hơi ấm là hỏa đại, lay động là phong

đại; do bốn cái ấy ràng buộc, mà chia cái Tâm Tánh Diệu

Minh vắng lặng, cùng khắp của ông, làm ra cái thấy, cái

nghe, cái biết, cái xét nghĩ, từ đầu đến cuối, tạo thành

năm lớp ô trược.

"Thế nào là trược? Anan! Ví như nước trong, bản nhiên là

trong sạch, lại như những thứ bụi, đất, tro, cát, bản chất là

ngăn ngại; hai bên bản nhiên thể chất khác nhau, không hợp

nhau được. Có người thế gian lấy đất bụi kia, ném vào nước

sạch, thì đất mất ngăn ngại, nước mất trong sạch, hình trạng

đục vẩn, gọi đó là trược; năm lớp ô trược của ông cũng giống

như vậy.

Anan! Ông thấy hư không khắp mười phương thế giới. Bên

không, bên thấy, không tách rời nhau; có cái không mà

không thật thể, có cái thấy mà không hay biết, hai bên xen

lộn giả dối thành ra lớp thứ nhất, gọi là kiếp trược.

Thân ông hiện ôm bốn món đại làm tự thể, che bít những sự

thấy, nghe, hay, biết, thành bị ngăn ngại và trở lại làm cho

các thứ địa, thủy, hỏa, phong, thành có hay biết; các điều đó

xen lộn giả dối thành ra lớp thứ hai, gọi là kiến trược.

Lại trong tâm ông, những sự nhớ biết học tập, phát ra tri

kiến, hiện ra tướng sáu trần, thì những sự đó, rời tiền trần

không có tướng, rời tri Giác không có tánh, xen lộn giả dối

thành ra lớp thứ ba, gọi là phiền não trược.

Page 84: Sa Môn DI TÙNG - chuaphatquocttt.orgchuaphatquocttt.org/doc/KinhThuLangNghiemRev3.pdf · học, tụng inh Đại 3hật Đảnh thủ /ăng 1ghiêm, đồng thi tham khảo các

82

Lại tâm ông ngày đêm sinh diệt không ngừng, tri kiến thì

muốn lưu mãi ở thế gian, nhưng nghiệp báo xoay vần thì lại

thường dời đổi cõi nầy cõi khác, những điều đó xen lộn giả

dối thành ra lớp thứ tư, gọi là chúng sanh trược.

Cái thấy, cái nghe của ông, bản tánh vốn không khác nhau,

do các trần cách trở, mà không duyên cớ gì, lại sinh ra khác

nhau; trong tánh thì vẫn biết nhau, nhưng trong dụng thì trái

ngược nhau, cái đồng và cái khác đã mất hẳn chuẩn đích, xen

lộn giả dối thành ra lớp thứ năm, gọi là mệnh trược.

Anan! Nay ông muốn cho cái sự thấy, nghe, hay, biết, vĩnh

viễn khế hợp với bốn đức thường, lạc, ngã, tịnh của Như

Lai, thì trước hết, phải lựa bỏ cỗi gốc sống chết, nương theo

cái không sinh diệt mà thành tựu tánh trong lặng cùng

khắp. Dùng cái trong lặng mà xoay các thứ sinh diệt hư

vọng trở về nơi bản Giác, được tánh không sinh diệt của

bản Giác làm cái tâm nhân địa, thì về sau mới viên thành

Quả Địa tu chứng51. Như lắng nước đục đựng trong một cái

đồ để yên, để yên mãi không lay động, thì đất cát tự chìm

xuống và nước trong hiện ra, thế gọi là bắt đầu uốn dẹp các

khách trần phiền não; gạn bùn hết sạch, chỉ còn nước trong,

thì gọi là dứt hẳn căn bản vô minh; tướng sáng suốt đã tinh

thuần, thì tất cả các điều biến hiện đều không gây ra phiền

não và hợp với đức mầu thanh tịnh của Niết Bàn.

Xét rõ gốc rễ phiền não

Nghĩa thứ hai là các ông quyết muốn phát tâm Bồ Đề, nơi

thừa Bồ Tát, sinh lòng đại dũng mãnh, quyết định rời bỏ các

tướng hữu vi, thì nên xét rõ cỗi gốc phiền não, những thứ

51

Câu này phải nhớ kỹ vì đó là pháp tu để áp dụng vào thực hành chứ

không phải nói suông.

Page 85: Sa Môn DI TÙNG - chuaphatquocttt.orgchuaphatquocttt.org/doc/KinhThuLangNghiemRev3.pdf · học, tụng inh Đại 3hật Đảnh thủ /ăng 1ghiêm, đồng thi tham khảo các

83

ấy từ vô thủy đến nay phát sinh nghiệp và nẩy nở ra, là ai

làm, ai chịu?

Anan! Ông tu đạo Bồ Đề, nếu không suy xét cỗi gốc phiền

não, thì không thể biết những căn trần hư vọng, nó điên đảo

ở chỗ nào; chỗ điên đảo còn không biết, thì làm sao uốn dẹp

được nó và chứng được quả vị Như Lai.

Anan! Ông hãy xem người thế gian cởi nút, hễ không thấy

chỗ thắt nút, thì không biết cởi, chứ không hề nghe hư không

bị phá tan; vì sao? ì hư không không có hình tướng, không

thắt, không cởi vậy. Thì như ông hiện nay, sáu thứ nhãn, nhĩ,

tỷ, thiệt, thân, ý làm mai mối cho giặc, tự cướp của báu trong

nhà; do đó, từ vô thủy, thế giới chúng sanh sinh ra ràng buộc,

không thể vượt khỏi thế gian sự vật.52

Anan! Thế nào gọi là thế giới chúng sanh? Thế là thời gian

dời đổi, giới là không gian phương hướng. Nay ông nên biết

những phương Đông, Tây, Nam, Bắc, Đông Nam, Tây Nam,

Đông Bắc, Tây Bắc, phương trên, phương dưới là giới. Còn

quá khứ, vị lai, hiện tại là thế. Phương hướng có mười, số

lưu chuyển của thời gian có ba, hết thảy chúng sanh dệt cái

vọng mà thành như vậy; nơi sự dời đổi trong thân, thế và

giới gắn bó với nhau. Nhưng cái tánh của giới đó, tuy là

mười phương, song có chỗ nhất định có thể chỉ rõ, thì thế

gian chỉ nhận phương Đông, phương Tây, phương Nam,

phương Bắc; phía trên, phía dưới, thì không có vị trí rõ ràng;

ở giữa cũng không có chỗ nhất định. Số bốn đã rõ rồi, nhân

với số thế, thì ba lần bốn, bốn lần ba, xoay vần là số mười

hai, nhân luôn ba lớp, một chục thành trăm, thành nghìn, thì

52

Ý nghĩa đoạn này là qua sáu căn, chúng sanh dính mắc (ràng buộc) vào

thế gian.

Page 86: Sa Môn DI TÙNG - chuaphatquocttt.orgchuaphatquocttt.org/doc/KinhThuLangNghiemRev3.pdf · học, tụng inh Đại 3hật Đảnh thủ /ăng 1ghiêm, đồng thi tham khảo các

84

tổng quát trước sau, ở trong sáu căn, mỗi mỗi có thể có đến

một nghìn hai trăm công đức.

Anan! Trong sáu căn đó, ông lại xét định chỗ hơn, chỗ kém.

Như nhãn căn xem thấy, phía sau thì tối, phía trước thì sáng,

phương trước toàn sáng, phương sau toàn tối, kể cả ngó qua

bên phải bên trái, thì ba phần chỉ thấy được hai; tóm lại công

đức của nhãn căn không toàn vẹn, trong ba phần công đức

thì một phần không có; vậy nên biết nhãn căn chỉ có tám

trăm công đức.

Như nhĩ căn nghe khắp, mười phương không sót, động thì

giống như có xa có gần, tĩnh thì không có bờ bến; vậy nên

biết nhĩ căn đầy đủ một nghìn hai trăm công đức.

Như tỷ căn ngửi biết cả lúc thở ra, thở vào; chỉ có trong lúc

thở ra, thở vào mà còn thiếu trong lúc hơi thở giao tiếp; xét

nơi tỷ căn, ba phần còn thiếu một; vậy nên biết tỷ căn chỉ có

tám trăm công đức.

Như thiệt căn phô bày cùng tột trí thế gian và xuất thế gian;

lời nói có chừng hạn, nhưng lý thì vô cùng vô tận; vậy nên

biết thiệt căn đầy đủ một nghìn hai trăm công đức.

Như thân căn biết xúc trần, biết các cảm xúc trái và thuận;

khi hợp lại thì biết, khi rời ra thì không biết, rời chỉ có một,

hợp thì có hai; xét nơi thân căn, ba phần còn thiếu một; vậy

nên biết thân căn chỉ có tám trăm công đức.

Như ý căn thầm lặng dung nạp tất cả các pháp thế gian, xuất

thế gian trong mười phương ba đời; dù thánh hay phàm,

không pháp nào không bao dung cùng tột bờ bến; vậy nên

biết ý căn đầy đủ một nghìn hai trăm công đức.

Anan! Nay ông muốn ngược dòng sinh tử, xoay về tột gốc

lưu chuyển, đến chỗ không sinh diệt, thì nên xét trong sáu

Page 87: Sa Môn DI TÙNG - chuaphatquocttt.orgchuaphatquocttt.org/doc/KinhThuLangNghiemRev3.pdf · học, tụng inh Đại 3hật Đảnh thủ /ăng 1ghiêm, đồng thi tham khảo các

85

căn hiện đương thọ dụng, cái gì là hợp, cái gì là ly, cái gì là

sâu, cái gì là cạn, cái gì là viên thông, cái gì là không viên

mãn. Nếu ngộ được căn tánh viên thông nơi đó, ngược lại

dòng nghiệp dệt vọng vô thủy kia và theo được tánh viên

thông, thì đối với sự tu hành nơi cái căn không viên thông,

hiệu quả xấp bội, một ngày bằng một kiếp. Ta nay đã chỉ rõ

sáu căn viên minh, vốn có những số lượng công đức như thế;

tùy ông lựa chọn nơi căn nào, có thể nhập đạo được, thì Ta

sẽ phát minh, để cho ông được tăng tiến trên đường tu hành.

Thập phương Như Lai, nơi mười tám giới, mỗi giới đều tu

hành được viên mãn vô thượng Bồ Đề; trong các giới đó,

cũng không có gì là hơn, là kém. Chỉ vì ông căn cơ thấp

kém53, chưa thể viên mãn trí tuệ, tự tại trong ấy được, nên Ta

bảo ông chỉ đi sâu vào một căn, đi sâu đến chỗ không còn

vọng tưởng, thì cả sáu căn kia một thời đều thanh tịnh.”

Ngài Anan bạch Phật rằng: "Thưa Thế Tôn, làm sao ngược

dòng hư vọng, đi sâu vào một căn, lại có thể khiến cho sáu

căn một thời đều thanh tịnh?"

Phật bảo ngài Anan: "Ông nay đã được quả Tu đà hoàn, đã

diệt được kiến hoặc của ba cõi thế gian chúng sanh, song còn

chưa biết những tập khí hư vọng chứa nhóm trong căn từ vô

thủy; các tập khí kia, phải nhân tu đạo rồi mới đoạn được,

huống chi, trong đó còn có rất nhiều phân loại, số mục sinh

trụ dị diệt.

Nay ông hãy xét sáu căn hiện tiền là một, hay là sáu. Anan!

Nếu nói là một, thì lỗ tai sao không thấy, con mắt sao không

nghe, đầu sao không đi, chân sao không nói; còn nếu sáu căn

đó quyết định là sáu, thì như trong ội nầy, tôi chỉ dạy pháp

53

Đức Phật nói rõ sự lựa chọn căn viên thông để phù hợp với căn cơ của

mình, chứ không nhất định phải chọn một trong sáu căn.

Page 88: Sa Môn DI TÙNG - chuaphatquocttt.orgchuaphatquocttt.org/doc/KinhThuLangNghiemRev3.pdf · học, tụng inh Đại 3hật Đảnh thủ /ăng 1ghiêm, đồng thi tham khảo các

86

môn nhiệm mầu cho ông, trong sáu căn của ông, cái gì lĩnh

thọ?"

Ông Anan bạch: "Tôi dùng lỗ tai nghe.”

Phật dạy: "Lỗ tai ông tự nghe, nào dính gì đến thân với

miệng, mà miệng ông thì hỏi nghĩa, thân ông thì đứng dậy

kính vâng. ậy nên biết rằng chẳng phải một, mà cuối cùng

thành sáu, chẳng phải sáu, mà cuối cùng thành một, rốt cuộc

cái căn của ông, vốn không phải là một, hay là sáu. Anan!

Ông nên biết cái căn ấy không phải một, không phải sáu; do

từ vô thủy đắm chấp trái ngược, nên nơi tánh viên trạm

(trong lặng,) sinh ra có cái một, cái sáu. Nay ông được quả

Tu đà hoàn, tuy đã tiêu được cái sáu, nhưng còn chưa quên

cái một.

Như cái hư không, tham hợp với các vật dụng; do hình trạng

vật dụng khác nhau, mà gọi là hư không khác nhau, đến khi

trừ bỏ vật dụng mà xem cái hư không, thì nói hư không là

một; chứ cái hư không kia, làm sao lại vì ông mà thành đồng

hay không đồng, huống nữa, lại gọi là một hay không phải

một.

Sáu căn hay biết của ông thì cũng như vậy.

Do hai thứ sáng và tối, tỏ bày lẫn nhau, nơi tánh diệu viên,

làm dính che tánh yên lặng, phát ra cái thấy; cái thấy dọi ra

thành sắc, kết cái sắc lại thành căn, gốc căn, thì gọi là tứ đại

thanh tịnh, nhân gọi hình thể con mắt như quả bồ đào; bốn

trần của phù căn rong ruổi chạy theo sắc.

Do hai thứ động và tĩnh, đối chọi lẫn nhau, nơi tánh diệu

viên, làm dính che tánh yên lặng, phát ra cái nghe; cái nghe

ánh ra thành tiếng, cuốn cái tiếng lại thành căn, gốc căn, thì

Page 89: Sa Môn DI TÙNG - chuaphatquocttt.orgchuaphatquocttt.org/doc/KinhThuLangNghiemRev3.pdf · học, tụng inh Đại 3hật Đảnh thủ /ăng 1ghiêm, đồng thi tham khảo các

87

gọi là tứ đại thanh tịnh, nhân gọi hình thể cái tai như lá mới

cuốn; bốn trần của phù căn rong ruổi chạy theo tiếng.

Do hai thứ thông và bít, phát hiện lẫn nhau, nơi tánh diệu

viên, làm dính che tánh yên lặng, phát ra cái ngữi; cái ngửi

ánh ra thành hương, thu nạp cái hương thành căn, gốc căn,

thì gọi đó là tứ đại thanh tịnh, nhân gọi hình thể cái mủi như

hai móng tay rủ xuống; bốn trần của phù căn rong ruổi chạy

theo hương.

Do hai thứ nhạt và có vị, tham chước lẫn nhau, nơi tánh

diệu viên, làm dính che tánh yên lặng, phát ra cái nếm; cái

nếm ánh ra thành vị, thắt cái vị thành căn, gốc căn, thì gọi là

tứ đại thanh tịnh, nhân gọi hình thể cái lưỡi như mặt trăng

mới khuyết; bốn trần của phù căn rong ruổi chạy theo vị.

Do hai thứ ly và hợp, so sánh lẫn nhau, nơi tánh diệu viên,

làm dính che tánh yên lặng, phát ra cái biết xúc; cái biết

xúc ánh ra thành xúc, ôm nắm cái xúc thành căn, gốc căn, thì

gọi là tứ đại thanh tịnh, nhân gọi hình thể cái thân như dáng

trống cơm, bốn trần của phù căn rong ruổi chạy theo xúc.

Do hai thứ sinh và diệt, tiếp tục lẩn nhau, nơi tánh diệu

viên, làm dính che tánh yên lặng, phát ra cái biết; cái biết

ánh ra thành các pháp, tóm thu các pháp thành căn, gốc căn,

thì gọi là tứ đại thanh tịnh, nhân gọi cái ý như cái thấy trong

phòng tối; bốn trần của phù căn rong ruổi chạy theo pháp.”

"Anan! Sáu căn như vậy do tánh Giác Minh kia chuyển

thành Minh Giác, mất tánh sáng suốt, dính với cái vọng mà

phát ra hay biết. ậy nên ông nay rời sáng rời tối, thì không

có cái thấy, rời động rời tĩnh, thì không có cái nghe, không

thông không bít, thì cái ngửi không sinh, không vị không

nhạt, thì cái nếm không phát ra, không ly không hợp, thì cái

Page 90: Sa Môn DI TÙNG - chuaphatquocttt.orgchuaphatquocttt.org/doc/KinhThuLangNghiemRev3.pdf · học, tụng inh Đại 3hật Đảnh thủ /ăng 1ghiêm, đồng thi tham khảo các

88

biết xúc vốn không, không diệt không sinh, thì cái rõ biết

không gá vào đâu.

Ông chỉ không đi theo những động tĩnh, hợp ly, không vị có

vị, thông bít, sáng tối, sinh diệt, cả mười hai tướng hữu vi đó,

đi đến rút được một căn ra khỏi cái dính, phục vào bên

trong, phục trở về tánh bản chân, phát ra tánh sáng suốt

bản lai; tánh sáng suốt đó đã phát minh, thì năm chỗ

dính khác cũng liền đó được giải thoát. Từ đó cái hay

biết có mà chẳng do tiền trần, vốn sáng suốt mà không đi

theo căn, chỉ gửi nơi căn mà phát ra; bởi thế sáu căn có

thể dùng thay lẫn nhau.

Anan! á ông không biết ở trong ội nầy, ông A na luật đà

không có mắt mà thấy, rồng Bạt nan đà không có tai mà

nghe, thần nữ Căng già không có mũi mà nghe hương, ông

Kiều phạm bát đề lưỡi khác mà biết vị, thần Thuấn nhã đa

không có thân mà biết xúc, do hào quang Như Lai ánh ra,

làm cho ông ấy tạm thời hiện ra có thân, chứ bản chất của

ông là gió, thì thân thể vốn không có; các vị Thanh ăn được

tịch diệt trong diệt tận định, như ông Ma ha ca diếp trong

ội nầy, đã diệt ý căn lâu rồi mà vẫn rõ biết cùng khắp,

không do ở tâm niệm.

Anan! Nếu các căn của ông đều được giải thoát trọn đủ,

thì cái sáng suốt trong tâm tánh phát ra; như thế, thì các

phù trần và các tướng biến hoá trong thế gian sự vật đều tiêu

mất, như giá gặp nước sôi, ngay đó, liền hóa thành ô

Thượng Tri Giác.

Anan! Như người thế gian kia, nhóm cái thấy nơi con mắt;

nếu bảo nhắm kín, thì tướng tối hiện ra, cả sáu căn đều tối,

đầu và chân giống nhau. Người kia lấy tay rờ quanh ngoài

Page 91: Sa Môn DI TÙNG - chuaphatquocttt.orgchuaphatquocttt.org/doc/KinhThuLangNghiemRev3.pdf · học, tụng inh Đại 3hật Đảnh thủ /ăng 1ghiêm, đồng thi tham khảo các

89

thân thể, thì tuy không thấy, nhưng một phen nhận được đầu

và chân rồi, thì cái hay biết vẫn đồng như trước kia.

uyên vì cái thấy nhân nơi sáng, nên khi tối thành ra không

thấy, chứ không có sáng mà tự phát ra cái thấy, thì các thứ

tối hẳn không thể làm mờ được. Căn và trần đã tiêu rồi, làm

sao tánh Giác Minh lại không thành nhiệm mầu cùng khắp.”

Nghi căn tánh không có tự thể

Ngài Anan bạch Phật rằng: “Bạch Thế Tôn, như lời Phật dạy,

chỗ phát tâm cầu được thường trụ thì phải từ Nhân Địa là

Giác Tâm, và những danh mục tu chứng cốt yếu cần phải

tương ứng với quả vị. Bạch Thế Tôn, như trong quả vị, nào

là Bồ Đề, Niết Bàn, Chân như, Phật tánh, Am ma la thức,

Không Như Lai Tạng, Đại viên kính trí; bảy thứ danh hiệu

tuy có khác nhau, nhưng thể tánh đều thanh tịnh viên mãn,

vững chắc như Kim cương vương, thường trụ, không hư nát.

Nếu cái thấy nghe, ngoài những tướng sáng tối, động tĩnh,

thông bít, rốt ráo không có tự thể cũng như cái tâm niệm, rời

tiền trần ra, vốn không có gì, thì làm sao lại đem cái rốt ráo

đoạn diệt ấy làm cái nhân tu hành, để được bảy quả thường

trụ của Như Lai? Bạch Thế Tôn, nếu rời sáng tối, thì cái

thấy rốt ráo là không; nếu không có tiền trần, thì tự tánh của

tâm niệm diệt mất, lui tới vần xoay, suy xét chín chắn, vốn

không có tâm con và tâm sở của con; vậy đem cái gì làm

nhân, để cầu được vô thượng Giác. Xin Phật rủ lòng đại từ,

mở chỗ mê chấp cho con.”

Thỉnh chuông để thể hiện tánh nghe là thường trụ

Đức Phật bảo ngài La hãu la đánh một tiếng chuông, rồi hỏi

ông Anan rằng: "Nay ông có nghe chăng?"

Ngài Anan và đại chúng đều nói: "Có nghe.”

Page 92: Sa Môn DI TÙNG - chuaphatquocttt.orgchuaphatquocttt.org/doc/KinhThuLangNghiemRev3.pdf · học, tụng inh Đại 3hật Đảnh thủ /ăng 1ghiêm, đồng thi tham khảo các

90

Chuông hết kêu, không tiếng, Phật lại hỏi rằng: "Nay ông có

nghe chăng?"

Ngài Anan và đại chúng đều đáp: "Không nghe.”

Khi đó, ông La hầu la lại đánh một tiếng, Phật lại hỏi rằng:

"Nay ông có nghe chăng?"

Ngài Anan và đại chúng đều đáp: "Có nghe.”

Phật hỏi ông Anan: "Thế nào, thì ông có nghe, còn thế nào,

thì ông không nghe?"

Ngài Anan và đại chúng đều bạch Phật rằng: "Tiếng chuông

nếu đánh lên, thì chúng con được nghe; để lâu tiếng hết, âm

vang đều không còn, thì gọi là không nghe."

Như Lai lại bảo ngài La hầu la đánh chuông, rồi hỏi ông

Anan rằng: "Theo ông, nay có tiếng không?"

Ngài Anan và đại chúng đều nói: "Có tiếng.”

Ít lâu tiếng dứt, Phật lại hỏi rằng: "Theo ông, nay có tiếng

không?"

Ngài Anan và đại chúng đều đáp: "Không tiếng."

Lát sau, ông La hầu la lại đánh chuông, Phật lại hỏi rằng:

"Theo ông, nay có tiếng không?"

Ngài Anan và đại chúng đều nói: "Có tiếng.”

Phật hỏi ông Anan: "Thế nào, ông gọi là có tiếng, còn thế

nào, thì gọi là không tiếng?"

Ngài Anan và đại chúng đều bạch Phật rằng: "Tiếng chuông,

nếu đánh lên, thì gọi là có tiếng, để lâu tiếng hết, âm vang

đều không còn, thì gọi là không tiếng.”

Page 93: Sa Môn DI TÙNG - chuaphatquocttt.orgchuaphatquocttt.org/doc/KinhThuLangNghiemRev3.pdf · học, tụng inh Đại 3hật Đảnh thủ /ăng 1ghiêm, đồng thi tham khảo các

91

Phật bảo ngài Anan và đại chúng rằng: " ôm nay các ông

sao nói trái ngược, lộn xộn như thế?"

Đại chúng và Ngài Anan đồng thời bạch Phật: "Làm sao Phật

bảo chúng tôi trái ngược lộn xộn?"

Phật dạy: "Tôi hỏi ông về sự nghe, thì ông nói là nghe, tôi

hỏi về cái tiếng, thì ông nói là tiếng, chỉ cái nghe và cái tiếng

mà trả lời không nhất định như thế, sao lại không gọi là trái

ngược lộn xộn? Anan! Tiếng tiêu mất, không âm vang, thì

ông gọi là không nghe; nếu thật không nghe, thì tánh nghe đã

diệt rồi đồng như cây khô, khi tiếng chuông lại đánh lên, làm

sao ông còn biết được. Biết có, biết không là tự cái tiếng

hoặc không, hoặc có, đâu phải tánh nghe kia vì đó mà có, mà

không; nếu tánh nghe thật là không, thì còn cái gì biết là

không nữa.

ậy nên Anan! Cái tiếng ở trong cái nghe tự có sinh, có diệt,

không phải vì ông nghe cái tiếng sinh diệt, mà làm cho tánh

nghe của ông thành có, thành không. Ông còn lộn lạo, lầm

cái tiếng làm cái nghe, lạ gì chẳng mê mờ, lấy cái thường

làm cái đoạn. Tóm lại, ông không nên nói rằng rời các thứ

động tĩnh, đóng mở, thông bịt, thì cái nghe không có tự tánh.

Như người ngủ mê, nằm trên giường gối; trong nhà có

người, trong lúc người kia ngủ, giã một cối gạo; người ấy

trong chiêm bao nghe tiếng giã gạo, lầm thành vật khác, hoặc

cho là đánh trống, hoặc cho là đánh chuông. Tức trong chiêm

bao người ấy cũng lấy làm lạ rằng sao tiếng chuông lại vang

lên như cây, như đá. Khi chợt tỉnh dậy, liền nghe tiếng chày,

thì người ấy tự bảo người nhà rằng chính trong lúc chiêm

bao, tôi đã lầm tiếng chày nầy là tiếng trống. Anan! người

đó, trong chiêm bao, đâu nhớ những chuyện động tĩnh, đóng

mở, thông bít; thân thể người kia tuy ngủ nhưng tánh nghe

Page 94: Sa Môn DI TÙNG - chuaphatquocttt.orgchuaphatquocttt.org/doc/KinhThuLangNghiemRev3.pdf · học, tụng inh Đại 3hật Đảnh thủ /ăng 1ghiêm, đồng thi tham khảo các

92

không mờ, dầu cho thân ông tiêu tan, thân mạng dời đổi diệt

mất, làm sao tánh nghe ấy lại vì ông mà tiêu diệt được.

o các chúng sanh, từ vô thủy đến nay, đi theo hình theo

tiếng, theo niệm mà lưu chuyển, không hề khai ngộ bản tánh

thanh tịnh diệu thường; không theo cái thường, chỉ theo các

thứ sinh diệt, do đó, đời đời bị tạp nhiễm mà phải lưu

chuyển.

Nếu bỏ cái sinh diệt, giữ tánh chân thường thì cái sáng suốt

chân thường hiện ra, và các tâm niệm căn, trần, thức, ngay

đó đều tiêu mất. Tướng vọng tưởng là trần, Thức tình (tánh

phân biệt) là cấu, hai cái đó đã xa rời, thì pháp nhãn của ông

liền được trong suốt, làm sao lại không thành bậc vô thượng

tri Giác?"

Page 95: Sa Môn DI TÙNG - chuaphatquocttt.orgchuaphatquocttt.org/doc/KinhThuLangNghiemRev3.pdf · học, tụng inh Đại 3hật Đảnh thủ /ăng 1ghiêm, đồng thi tham khảo các

93

Quyển V

Phần 12

Nương chỗ ngộ mà tu

Nêu ra cái căn để chỉ chỗ mê

Ngài Anan bạch Phật rằng: "Thưa Thế Tôn, tuy Như Lai đã

dạy nghĩa quyết định thứ hai, song con xem trong thế gian,

những người cởi nút, nếu không biết đầu nút ở đâu, thì chắc

không thể cởi được. Bạch Thế Tôn! Xin ngài khai thị cho nơi

Thân Tâm thế nào là nút, do đâu mà mở.

Phật bảo: Ông Anan! Ông muốn biết cái câu sinh vô minh54

là cái đầu nút, khiến ông phải luân hồi sinh tử, thì nó

chính là sáu căn của ông, chứ không phải vật gì khác; ông

lại muốn biết Tánh Vô Thượng Bồ Đề, khiến ông chóng

chứng đạo quả an vui, giải thoát, vẳng lặng, diệu thường,

thì cũng chính là sáu căn của ông, chứ không phải vật gì

khác.”

Phật bảo ngài Anan: "Căn và trần, đồng một nguồn, cột và

cởi không phải hai, cái Thức phân biệt là hư vọng như hoa

đốm giữa hư không. Anan! Nhân cái trần, mà phát ra cái biết

của căn, nhân cái căn, mà có ra cái tướng của trần, tướng

phần sở kiến và kiến phần năng kiến đều không có tự tánh,

như những hình cây lau gác vào nhau.

Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn muốn lặp lại nghĩa nầy mà nói bài

kệ rằng:

"Nơi chân tánh hữu vi là không,

ì duyên sinh, nên giống như huyễn;

54

Câu sinh vô minh cũng còn được gọi là Căn bản vô minh, vô minh từ

vô thủy.

Page 96: Sa Môn DI TÙNG - chuaphatquocttt.orgchuaphatquocttt.org/doc/KinhThuLangNghiemRev3.pdf · học, tụng inh Đại 3hật Đảnh thủ /ăng 1ghiêm, đồng thi tham khảo các

94

ô vi, thì không sinh, không diệt,

Chẳng thật như hoa đốm hư không.

Nói cái vọng để tỏ cái chân,

ọng, chân ấy, cả hai đều vọng;

Còn không phải chân và phi chân,

Làm sao có năng kiến, sở kiến,

Thức ở giữa, không có thật tánh,

ậy nên, như hình lau gác nhau.

Cột và cởi đồng một sở nhân,

Thánh và phàm không có hai đường.

Hãy xét tánh hình lau gác nhau,

Đâu phải là không hay là có.

Mê mờ nghĩa đó, là vô minh,

Phát minh nghĩa đó, thì giải thoát.

Cởi nút, tuy phải theo thứ lớp,

Sáu đã cởi, một cũng không còn.

Nơi các căn, chọn tánh viên thông,

Nhập lưu được, thì thành chánh Giác.

Thức A đà na55

rất nhỏ nhiệm,

Tập khí lưu hành như nước dốc;

E lầm là chơn hay phi chơn,

Nên Ta thường không diễn giảng đến,

Tự tâm trở chấp lấy tự tâm,

Không phải huyễn, thành ra pháp huyễn.

Không chấp trước, không gì phi huyễn

Cả cái phi huyễn còn không sinh,

Pháp huyễn, làm sao thành lập được.

Ấy gọi như huyễn Tam ma đề56

,

Bảo Giác chắc như Kim cương vương,

55

Thức A đà na cũng còn gọi là Thức A lại da. 56

Nếu để chỉ Chánh Định thì dùng chữ Ta ma địa (Samadhi) thay vì Ta

ma đề.

Page 97: Sa Môn DI TÙNG - chuaphatquocttt.orgchuaphatquocttt.org/doc/KinhThuLangNghiemRev3.pdf · học, tụng inh Đại 3hật Đảnh thủ /ăng 1ghiêm, đồng thi tham khảo các

95

Không nhiễm, tịnh như diệu liên hoa57

;

Gẩy ngón tay, vượt hàng vô học;

Pháp ấy, không gì so sánh được,

Là một đường thẳng vào Niết Bàn,

Của các đức Thế Tôn mười phương.”

Phần 13

Cầu Phật khai thị cởi nút

Ngài Anan chấp tay đảnh lễ bạch Phật: "Nay con nghe Phật

mở lòng đại từ dạy cho những câu pháp chân thật thanh tịnh

diệu thường, nhưng tâm còn chưa rõ thứ lớp cởi nút, đi đến

cởi cả sáu, thì một cũng không còn.

Liền khi ấy đức Như Lai, nơi sư tử tọa, sửa áo Niết Bàn tăng,

vén áo tăng già lê, dựa ghế thất bảo, đưa tay nơi ghế, lấy cái

khăn hoa của cõi trời Kiếp ba la đã cúng dường cho ngài, rồi

ở trước đại chúng, cột thành một nút, đưa cho ông Anan xem

và bảo rằng: "Cái nầy gọi là gì?" Ngài Anan và đại chúng

đều bạch Phật rằng: "Cái nầy gọi là nút.” Lúc ấy đức Như

Lai lại cột khăn hoa thành một nút nữa và hỏi ông Anan:

"Cái nầy gọi là gì?" Ngài Anan và đại chúng lại bạch Phật

rằng: "Cái ấy cũng gọi là nút.”

Phật tuần tự cột khăn hoa như vậy, tổng cộng thành sáu nút,

mỗi khi cột xong một nút, đều lấy cái nút vừa cột xong trong

tay, đưa hỏi ông Anan: "Cái nầy gọi là gì?" Ngài Anan và đại

chúng cũng tuần tự đáp lại Phật: "Cái ấy gọi là nút.” Phật

bảo ngài Anan: "Khi tôi mới cột khăn thì ông gọi là nút, cái

khăn hoa này, trước kia chỉ có một cái, cớ sao lần thứ hai,

lần thứ ba, các ông cũng gọi là nút?"

57 oa sen trong bùn nhưng không nhuốm mùi bùn.

Page 98: Sa Môn DI TÙNG - chuaphatquocttt.orgchuaphatquocttt.org/doc/KinhThuLangNghiemRev3.pdf · học, tụng inh Đại 3hật Đảnh thủ /ăng 1ghiêm, đồng thi tham khảo các

96

Ngài Anan bạch Phật rằng: "Thưa Thế Tôn! Cái khăn hoa

thêu dệt quý báu nầy vốn chỉ một thể, song theo ý con suy

nghĩ, Như Lai cột một lần, thì được gọi là một nút, nếu cột

một trăm lần, thì rốt cuộc phải gọi là trăm nút, huống chi,

khăn nầy chỉ có sáu nút, không lên đến bảy, cũng không

đứng ở số năm, sao đức Như Lai chỉ cho cái đầu là nút, còn

cái thứ hai, thứ ba, thì không gọi là nút?"

Phật bảo ngài Anan: "Cái khăn hoa báu nầy, ông biết nó vốn

chỉ có một cái, đến khi Ta cột sáu lần, thì ông gọi là sáu nút;

ông hãy xem xét bản thể cái khăn nầy là đồng, nhân vì các

nút mà hóa ra khác. Ý ông nghĩ sao, khi mới cột nút ban đầu,

thì gọi là nút thứ nhất, như thế, cho đến cột lần thứ sáu, thì

gọi là nút thứ sáu. Nay, Ta muốn gọi nút thứ sáu là nút thứ

nhất, có được không?"

Bạch Thế Tôn! Không; nếu còn sáu nút, thì cái gọi là thứ

sáu, rốt cuộc không phải là cái thứ nhất; dầu cho con cố gắng

biện bạch suốt đời, cũng không thể làm cho sáu nút đổi tên

được.”

Phật dạy: "Đúng thế, sáu nút không đồng nhau; tuy xét về

bản thân [của sáu nút] vẫn do một cái khăn tạo ra, nhưng rốt

cuộc không thể làm cho sáu nút xáo lộn lẫn nhau. Sáu căn

của ông thì cũng như vậy; trong thể rốt ráo đồng nhau58

, sinh

ra rốt ráo khác nhau.” Phật bảo ngài Anan: "Chắc hẳn ông

không muốn thành ra sáu nút và trông mong chỉ thành một

thể, thì ông phải làm thế nào?"

Ngài Anan bạch: "Nếu còn những nút đó, thì sự phải trái nổi

lên, trong đó, tự sinh ra nút nầy không phải nút kia, nút kia

58 Tánh biết của sáu căn giống nhau, nhưng cái biết của mắt là thấy,

của tai là nghe, của mũi là ngửi, của lưỡi là nếm, của thân là cảm giác,

của ý là suy nghĩ.

Page 99: Sa Môn DI TÙNG - chuaphatquocttt.orgchuaphatquocttt.org/doc/KinhThuLangNghiemRev3.pdf · học, tụng inh Đại 3hật Đảnh thủ /ăng 1ghiêm, đồng thi tham khảo các

97

không phải nút nầy. Nếu ngày nay, đức Như Lai cởi bỏ tất

cả, thì không còn nút nữa thì không có đây kia (bỉ thử,)

không còn gọi là một, làm sao mà thành sáu được.”

Phật dạy: "Cái nghĩa cởi cả sáu, một cũng không còn, thì

cũng như thế. o từ vô thủy, tâm ông điên loạn, tri kiến

(thấy biết) vọng phát ra, vọng phát mãi không thôi, làm cho

tri kiến sinh bệnh, phát ra trần tướng; như khi con mắt mỏi

mệt, thì có hoa đốm lăng xăng; tất cả những tướng thế gian,

núi sông, đất liền, sống chết, Niết Bàn …, đều là những

tướng hoa đốm điên đảo do bệnh mê lầm phát ra.”

Phật dạy cách mở nút

Ngài Anan bạch: "Cái bệnh mê lầm giống như cái nút kia,

làm sao cởi bỏ cho được?"

Đức Như Lai, lấy tay cầm cái khăn có nút, kéo riêng mối bên

trái, rồi hỏi ông Anan rằng: "Thế nầy có cởi được chăng?"

Thưa Thế Tôn không thể được.

Phật liền lấy tay kéo riêng mối bên phải, rồi lại hỏi ông

Anan: "Thế nầy có cởi được chăng?"

Thưa Thế Tôn không thể được.

Phật bảo ngài Anan: "Nay Ta lấy tay kéo mối bên phải, bên

trái mà rốt cuộc không cởi được, vậy ông dùng phương tiện

thế nào mà cởi cho được.”

Ngài Anan thưa: Phải ở ngay nơi trung tâm của nút thì mở ra

ngay.

Phật bảo ngài Anan: "Đúng thế, đúng thế, muốn trừ cái nút

thì phải cởi nơi trung tâm.

Page 100: Sa Môn DI TÙNG - chuaphatquocttt.orgchuaphatquocttt.org/doc/KinhThuLangNghiemRev3.pdf · học, tụng inh Đại 3hật Đảnh thủ /ăng 1ghiêm, đồng thi tham khảo các

98

Anan! Ta nói Phật pháp do nhân duyên sinh, không phải lấy

những tướng hòa hợp thô phù của thế gian. Như Lai phát

minh các pháp thế gian và xuất thế gian, đều biết rõ bản nhân

của nó theo những duyên gì mà phát ra, cho đến một giọt

mưa ở ngoài hằng sa thế giới cũng biết số mục, hiện tiền các

thứ cây tùng thẳng, cây gai cong, chim hộc trắng, chim quạ

đen, đều rõ nguyên do. ậy nên Anan! Tùy tâm ông lựa chọn

nơi sáu căn; nếu trừ được cái nút nơi căn ấy rồi, thì trần

tướng tự tiêu diệt; các vọng đã tiêu mất, thì chẳng phải cái

chân hiện ra hay sao?

"Anan! Nay Ta lại hỏi ông: "Cái khăn hoa nầy hiện có sáu

nút, nếu đồng một thời cởi ra, thì có thể đồng một thời trừ

hết được chăng?"

Thưa Thế Tôn không. Những cái nút nầy, khi cột lại, vốn có

thứ lớp, thì ngày nay cũng theo thứ lớp mà cởi; sáu cái nút

tuy đồng một thể, nhưng cột lại không đồng một thời, thì khi

cởi nút, làm sao đồng một thời, mà trừ hết được?

Phật dạy: " iệc cởi trừ cái nút nơi sáu căn cũng giống như

vậy. Căn ấy khi bắt đầu cởi ra, thì trước hết được nhân

không, đến khi tánh không viên mãn sáng suốt, thì giải thoát

pháp chấp. Pháp chấp được giải thoát rồi, cả cái nhân không

và pháp không cũng không còn; thế thì gọi là Bồ Tát do Tam

ma địa mà chứng được ô Sinh Nhẫn.”

Phần 14

Đức Phật hỏi đại chúng về pháp tu viên thông

(Lưu ý: Cốt tủy của sự chứng đắc là quý vị đại đệ tử của đức

Phật quán sâu vào tự tánh. Đọc đoạn này cho biết, chúng

ta không áp dụng một trong những pháp tu viên thông này.)

Page 101: Sa Môn DI TÙNG - chuaphatquocttt.orgchuaphatquocttt.org/doc/KinhThuLangNghiemRev3.pdf · học, tụng inh Đại 3hật Đảnh thủ /ăng 1ghiêm, đồng thi tham khảo các

99

Ngài Anan xin Phật rủ lòng đại bi ban cho chúng con những

pháp bí mật trang nghiêm; thành tựu lời chỉ dạy cuối cùng

của Như Lai.

Khi bấy giờ, đức Thế Tôn bảo khắp các vị Đại Bồ Tát và các

vị lậu tận Đại A la hán trong chúng rằng: "Các ông là những

vị Bồ Tát và A la hán sinh trưởng trong Phật Pháp, đã chứng

quả vô học, nay tôi hỏi các ông: Trong lúc ban đầu mới phát

tâm, trong thập bát giới59, ngộ được viên thông ở giới nào và

do phương tiện gì vào được Tam ma địa60

?"

Viên thông về thanh trần

Nhóm ông Kiều trần na, năm vị Tỷ kheo, liền từ chỗ ngồi

đứng dậy, đảnh lễ nơi chân Phật mà bạch Phật rằng: "Ở Lộc

uyển và ở Kê viên, chúng con được xem thấy đức Như Lai

khi mới thành đạo. Chúng con do tiếng nói của Phật, tỏ ngộ

được Tứ đế. Phật hỏi trong hàng Tỷ kheo, thì trước tiên con

thưa đã hiểu. Như Lai ấn chứng cho con cái tên là A nhã đa

(hiểu.) Đi sâu vào bản tánh nhiệm mầu, thì âm thanh thật là

viên dung; con do âm thanh mà được quả A la hán. Cho nên,

khi Phật hỏi về viên thông, như chỗ chứng của con, thì do

âm thanh là hơn cả."

Viên thông về Sắc trần

Ông u ba ni sa đà liền từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ nơi

chân Phật mà bạch Phật rằng: "Con cũng được thấy Phật

trong lúc mới thành đạo; con quán tưởng bất tịnh, sinh lòng

nhàm chán rời bỏ tột bậc, ngộ cái tánh của các sắc, từ tướng

bất tịnh đến tướng xương trắng, tướng vi trần, rồi tan về hư

không; cả hai cái không và cái sắc đều không, thành đạo vô

59 Thập bát giới (mười tám giới): gồm sáu căn, sáu trần và sáu thức.

60 Tam ma địa dịch âm của tiếng Phạn là Samadhi (chánh Định.)

Page 102: Sa Môn DI TÙNG - chuaphatquocttt.orgchuaphatquocttt.org/doc/KinhThuLangNghiemRev3.pdf · học, tụng inh Đại 3hật Đảnh thủ /ăng 1ghiêm, đồng thi tham khảo các

100

học. Đức Như Lai ấn chứng cho con cái tên là Ni sa đà (Trần

Tánh Không;) sắc của trần cảnh đã hết, sắc của tánh diệu

được mật viên. Con do sắc tướng mà chứng quả A la hán.

Phật hỏi về viên thông, như chỗ chứng của con, thì do sắc

trần là hơn cả.”

Viên thông về hương trần

Ông ương nghiêm đồng tử liền từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh

lễ nơi chân Phật mà bạch Phật rằng: "Con nghe đức Như Lai

dạy con quan sát chín chắn các tướng hữu vi. Khi ấy con từ

giả Phật, đầu hôm về tĩnh tọa trong nhà thanh trai, thấy các

Tỷ kheo đốt hương trầm thủy, hơi hương vẳng lặng bay vào

trong mũi con. Con quán cái hơi ấy, không phải là cây,

không phải là không, không phải là khói, không phải là lửa,

đi ra không dính vào đâu, đến nơi cũng không do đâu; do đó,

ý niệm phân biệt tiêu diệt, phát minh tánh vô lậu. Đức Như

Lai ấn chứng cho con cái hiệu là ương nghiêm. Tướng

hương tiền trần bổng diệt, thì diệu tánh của hương là mật

viên. Con do hương nghiêm mà chứng quả A la hán. Phật hỏi

về viên thông, như chỗ chứng của con, thì do hương trần là

hơn cả.”

Viên thông về vị trần

ai vị Pháp vương tử ược vương, ược thượng, cùng với

năm trăm Phạm thiên trong ội, liền từ chỗ ngồi đứng dậy,

đảnh lễ nơi chân Phật mà bạch Phật rằng: "Từ kiếp vô thủy,

chúng con làm lương y thế gian, trong miệng thường nếm

những cỏ cây, kim thạch trong thế giới Ta bà nầy, số mục lên

đến mười vạn tám nghìn, biết hết các vị đắng, chua, mặn,

nhạt, ngọt, cay vân vân..., cùng với các vị biến đổi, do các vị

kia hòa hợp cùng sinh ra; thứ nào là lạnh, thứ nào là nóng,

thứ nào có độc, thứ nào không độc, con đều biết cả. Được

Page 103: Sa Môn DI TÙNG - chuaphatquocttt.orgchuaphatquocttt.org/doc/KinhThuLangNghiemRev3.pdf · học, tụng inh Đại 3hật Đảnh thủ /ăng 1ghiêm, đồng thi tham khảo các

101

thừa sự các đức Như Lai, rõ biết bản tánh của vị trần, không

phải không, không phải có, không phải tức là thân tâm,

không phải thoát ly thân tâm; do phân biệt đúng bản tánh vị

trần mà được khai ngộ. Nhờ Phật ấn chứng cho anh em

chúng con cái danh hiệu là ược vương và ược thượng Bồ

Tát; nay ở trong ội nầy làm vị Pháp vương tử. Chúng con

nhân vi trần mà Giác ngộ, lên bậc Bồ Tát. Phật hỏi về viên

thông, như chỗ chứng của chúng con, thì do vị trần là hơn

cả.”

Viên thông về xúc trần

Ông Bạt đà bà la, với mười sáu vị Khai sĩ đồng bạn, liền từ

chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ nơi chân Phật mà bạch Phật rằng:

"Chúng con, trước kia nơi đức Phật Uy âm vương, nghe

Pháp xuất gia. Trong lúc chư tăng tắm, con theo thứ lớp vào

phòng tắm; bỗng nhiên ngộ được chân tánh của nước, đã

không rửa bụi, cũng không rửa mình, chặng giửa yên lặng,

được chỗ không có gì [Đắc ô Sở ữu.] Chỗ học xưa không

quên, nên đến ngày nay theo Phật xuất gia, được thành quả

vô học. Đức Phật kia, gọi con tên là Bạt đà bà la. o phát

minh diệu tánh của xúc trần, thành được bậc Phật tử trụ. Phật

hỏi về viên thông, như chỗ chứng của con, thì do xúc trần là

hơn cả."

Viên thông về Pháp trần

Ông Ma ha ca diếp và Tỳ kheo Ni Tử Kim Quang liền từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ nơi chân Phật mà bạch Phật rằng:

"Kiếp xưa, trong cõi nầy, có đức Phật ra đời, tên là Nhựt

nguyệt đăng diệt độ rồi, chúng con thắp đèn sáng mãi cúng

dường xá lợi, lại lấy vàng thắm thếp hình tượng Phật. Từ đó

đến nay, đời nào đời nào, thân thể thường viên mãn, sáng

ngời như vàng thắm. Nhóm Tỳ Kheo Ni Tử Kim Quang nầy,

Page 104: Sa Môn DI TÙNG - chuaphatquocttt.orgchuaphatquocttt.org/doc/KinhThuLangNghiemRev3.pdf · học, tụng inh Đại 3hật Đảnh thủ /ăng 1ghiêm, đồng thi tham khảo các

102

tức là quyến thuộc của con lúc đó, cũng đồng một thời phát

tâm như con. Con quán trong thế gian, sáu trần đều dời đổi

tan nát, chí dùng pháp không tịch, tu Định iệt Tận, thì thân

tâm mới có thể trải qua trăm nghìn kiếp như một thời gian

gẩy ngón tay. Con do quán được các pháp là rỗng không, mà

thành quả A la hán. Đức Thế Tôn bảo con tu hạnh đầu đà bậc

nhất. iệu tánh của các pháp được khai ngộ, thì tiêu diệt các

lậu. Phật hỏi về viên thông, như chỗ chứng của con, thì do

pháp trần là hơn cả."

Viên thông về nhãn căn

Ông A na luật đà liền từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ nơi chân

Phật mà bạch Phật rằng: "Lúc con mới xuất gia, thường

thích nằm ngủ, nên Như Lai quở con là loài súc sinh. Nghe

lời Phật quở, con khóc lóc tự trách, suốt bảy ngày không

ngủ, hư cả hai con mắt. Đức Thế Tôn dạy con tu pháp "Lạc

Kiến Chiếu Minh Kim Cang Tam Muội.” Con không do con

mắt mà xem thấy mười phương rỗng suốt tinh tường như

xem trái cây trong bàn tay, Như Lai ấn chứng cho con thành

quả A la hán. Phật hỏi về viên thông, như chỗ chứng của

con, thì xoay cái thấy trở về bản tánh, đó là thứ nhất.”

Viên thông về tỷ căn

Ông Châu lỵ bàn đặc ca liền từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ

nơi chân Phật mà bạch Phật rằng: "Con thiếu tu về phần tụng

trì, không có tuệ đa văn. Khi mới gặp Phật, nghe Pháp và

xuất gia, con cố nhớ một câu kệ của Như Lai, song trong một

trăm ngày, hễ nhớ trước thì quên sau, mà nhớ sau thì quên

trước. Phật thương con ngu muội, dạy con phép an cư, điều

hòa hơi thở ra vào. Con quán hơi thở, cùng tột các tướng

sinh, trụ, dị, diệt nhỏ nhiệm, đến từng sát na; tâm con rỗng

suốt, được đại vô ngại, cho đến hết các lậu, thành quả A la

Page 105: Sa Môn DI TÙNG - chuaphatquocttt.orgchuaphatquocttt.org/doc/KinhThuLangNghiemRev3.pdf · học, tụng inh Đại 3hật Đảnh thủ /ăng 1ghiêm, đồng thi tham khảo các

103

hán, trước pháp tọa của Phật, được ấn chứng thành quả vô

học. Phật hỏi về viên thông, như chỗ chứng của con, thì xoay

hơi thở về tánh rỗng không, đó là thứ nhất."

Viên thông về thiệt căn

Ông Kiều phạm bát đề liền từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ nơi

chân Phật mà bạch Phật rằng: "Con mắc khẩu nghiệp, khinh

rẻ, chế giễu vị Sa môn trong kiếp quá khứ, nên đời đời mắc

bệnh nhai lại như trâu. Đức Như Lai chỉ dạy cho con pháp

môn "Nhất ị Thanh Tịnh Tâm Địa.” Con nhờ vậy, mà diệt

được phân biệt vào Tam ma địa; con quán tánh biết vị, không

phải thân thể, không phải ngoại vật, liền đó vượt khỏi các lậu

thế gian, bên trong giải thoát thân tâm, bên ngoài rời bỏ thế

giới, xa rời ba cõi như chim sổ lồng, rời hết cấu nhiễm, tiêu

diệt trần tướng, nên pháp nhãn được thanh tịnh, thành quả A

la hán. Đức Như Lai ấn chứng cho con lên bậc vô học. Phật

hỏi về viên thông, như chỗ chứng của con, trả các vị về phân

biệt, xoay cái biết về tự tánh, đó là thứ nhất."

Viên thông về thân căn

Ông Tất lăng già bà ta liền từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ nơi

chân Phật mà bạch Phật rằng: "Con lúc mới phát tâm theo

Phật nhập đạo, thường nghe đức Như Lai dạy về những việc

không vui được trong thế gian. Lúc đi khất thực trong thành,

tâm con đang suy nghĩ pháp môn Phật dạy, giữa đường,

không ngờ bị gai độc đâm vào chân, cả mình đau đớn. Tâm

niệm con có biết cái đau đớn ấy; tuy biết đau đớn nhưng

đồng thời biết nơi tâm thanh tịnh, không có cái đau và cái

biết đau. Con lại suy nghĩ: Một thân thể này, lẽ đâu có hai

tánh biết; nhiếp niệm chưa bao lâu, thì thân tâm bỗng nhiên

rỗng không; trong ba lần bảy ngày, các lậu đều tiêu hết,

thành quả A la hán; được Phật ấn chứng lên bậc vô học. Phật

Page 106: Sa Môn DI TÙNG - chuaphatquocttt.orgchuaphatquocttt.org/doc/KinhThuLangNghiemRev3.pdf · học, tụng inh Đại 3hật Đảnh thủ /ăng 1ghiêm, đồng thi tham khảo các

104

hỏi về viên thông, như chỗ chứng của con, thì thuần một

Giác tánh, không còn thân thể, đó là thứ nhất."

Viên thông về ý căn

Ông Tu Bồ Đề liền từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ nơi chân

Phật mà bạch Phật rằng: "Từ nhiều kiếp đến nay, tâm con

được vô ngại, tự nhớ thọ sinh nhiều đời như số cát sông

ằng; lúc còn trong thai mẹ, cũng liền biết tánh không tịch,

như thế cho đến mười phương đều thành rỗng không và cũng

khiến cho chúng sanh chứng được tánh không; nhờ đức Như

lai phát minh tánh Giác là chân không, nên tánh không được

viên mãn sáng suốt, chứng quả A la hán, liền nhập vào biển

Không quý báu của Như Lai, tri kiến đồng như Phật, được ấn

chứng thành quả vô học; tánh giải thoát rỗng không, con là

hơn cả. Phật hỏi về viên thông, như chỗ chứng của con: Các

tướng đều xoay vào phi tướng, năng phi và sở phi đều hết,

xoay các pháp về chỗ không, đó là thứ nhất."

Viên thông về nhãn thức

Ngài Xá lợi phất liền từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ nơi chân

Phật mà bạch Phật rằng: "Từ nhiều kiếp đến nay, chỗ nhận

thấy của con được thanh tịnh; tuy con thọ sinh nhiều đời như

số cát sông ằng, như vậy, mà đối với các pháp biến hóa thế

gian và xuất thế gian, hễ thấy được đều thông suốt, không có

ngăn ngại. Con ở giữa đường, gặp anh em ông Ca diếp ba

theo rõi, nói pháp nhân duyên, thì ngộ được tâm không có bờ

bến. Con theo Phật xuất gia, chỗ nhận thấy sáng suốt viên

mãn, được pháp đại vô úy, thành quả A la hán, làm trưởng tử

của Phật, từ miệng Phật mà sinh ra, do Pháp Phật mà hóa

sinh. Phật hỏi về viên thông, như chỗ chứng của con, thì tánh

thấy của tâm thể phát ra sáng suốt, cùng tột các tri kiến (thấy

biết,) đó là thứ nhất."

Page 107: Sa Môn DI TÙNG - chuaphatquocttt.orgchuaphatquocttt.org/doc/KinhThuLangNghiemRev3.pdf · học, tụng inh Đại 3hật Đảnh thủ /ăng 1ghiêm, đồng thi tham khảo các

105

Viên thông về nhĩ thức

Ngài Phổ hiền Bồ Tát liền từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ nơi

chân Phật mà bạch Phật rằng: "Con đã từng làm Pháp vương

tử cho các đức Như Lai như số cát sông ằng; thập phương

Như Lai dạy các đệ tử có căn cơ Bồ Tát, tu hạnh Phổ hiền,

hạnh đó, do con mà đặt tên như vậy. Thưa đức Thế Tôn, con

dùng Tánh nghe của tâm thể phân biệt tất cả tri kiến của

chúng sanh. Nếu ở phương khác, cách ngoài hằng sa thế giới,

có một chúng sanh, trong tâm phát được hạnh nguyện Phổ

hiền, thì liền trong lúc ấy, con cưỡi voi sáu ngà, phân thân

thành trăm nghìn, đến chỗ người ấy. ầu cho người ấy

nghiệp chướng còn sâu, chưa thấy được con, con cũng thầm

kín xoa đảnh đầu người ấy, ủng hộ an ủi, khiến cho được

thành tựu. Phật hỏi về viên thông, con nói chỗ bản nhân của

con là phát minh tánh nghe của Tâm, tự tại mà phân biệt, đó

là thứ nhất."

Viên thông về tỷ thức

Ông Tôn đà la nan đà liền từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ nơi

chân Phật mà bạch Phật rằng: "Lúc con mới xuất gia theo

Phật nhập đạo, tuy giữ đủ giới luật, nhưng trong lúc tu

Tam ma địa, tâm thường tán loạn61, chưa được quả vô lậu.

Đức Thế Tôn dạy con và ông Câu si la quán đầu lỗ mũi

trắng. Lúc con bắt đầu tu quán ấy, trải qua ba lần bảy ngày,

thấy hơi thở trong mũi ra vào như khói, thân tâm bên trong

sáng soi thông suốt thế giới, khắp nơi thành trống không

thanh tịnh, như ngọc lưu ly; tướng khói lần lần tiêu mất, hơi

thở hóa thành trắng, đến khi tâm được khai ngộ, các lậu hết

sạch, thì những hơi thở ra vào hóa thành hào quang, soi khắp

61

Đây là một bằng chứng về giữ giới không sinh ra định. Giới là điều

kiện cần để tu định, nhưng không thể là điều kiện đủ để sinh định.

Page 108: Sa Môn DI TÙNG - chuaphatquocttt.orgchuaphatquocttt.org/doc/KinhThuLangNghiemRev3.pdf · học, tụng inh Đại 3hật Đảnh thủ /ăng 1ghiêm, đồng thi tham khảo các

106

mười phương thế giới, được quả A la hán. Đức Thế Tôn thọ

ký cho con sẽ được quả Bồ Đề. Phật hỏi về viên thông, con

dùng phép nhiếp thu ý niệm nơi hơi thở, yên lặng lâu ngày,

phát ra sáng suốt, sáng suốt viên mãn, diệt hết các lậu, đó là

thứ nhất."

Viên thông về thiệt thức

Ông Phú lâu na di đa la ni tử liền từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh

lễ nơi chân Phật mà bạch Phật rằng: "Con từ nhiều kiếp đến

nay, tài biện thuyết được vô ngại, tuyên dương các pháp

Khổ, Không, thấu suốt tướng chân thật, như thế cho đến các

pháp môn bí mật hằng sa Như Lai, con phương tiện chỉ bày

trong chúng, được sức vô úy. Đức Thế Tôn biết con có tài

biện thuyết lớn lao, nên dùng pháp luân âm thanh, dạy con

tuyên dương Chính pháp. Con ở trước Phật, giúp Phật

chuyển pháp luân, nhân nói Chính pháp, thành quả A la hán.

Đức Thế Tôn ấn chứng cho con thuyết pháp hơn cả. Phật hỏi

về viên thông, con dùng pháp âm hàng phục tà ma ngoại đạo,

tiêu diệt các lậu, đó là thứ nhất."

Viên thông về thân thức

Ông u ba ly liền từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ nơi chân

Phật mà bạch Phật rằng: "Chính con được theo Phật vượt

thành xuất gia, xem thấy đức Như Lai sáu năm siêng tu khổ

hạnh, thấy đức Như lai hàng phục bọn tà ma, đối trị các

ngoại đạo, giải thoát các lậu tham dục thế gian; con được

nhờ Phật dạy giữ giới, cho đến ba nghìn uy nghi, tám vạn

hạnh vi tế, các Tánh nghiệp62

và Giá nghiệp63

thảy đều thanh

tịnh; do đó, thân tâm được tịch diệt, thành quả A la hán, nay

làm vị cương kỷ trong chúng của Như Lai; Phật ấn chứng

62

Giữ các nghiệp về Thân cho đến tự tại gọi là Tánh nghiệp thanh tịnh. 63

Giữ gìn Tâm được thanh tịnh gọi là Giá nghiệp thanh tịnh.

Page 109: Sa Môn DI TÙNG - chuaphatquocttt.orgchuaphatquocttt.org/doc/KinhThuLangNghiemRev3.pdf · học, tụng inh Đại 3hật Đảnh thủ /ăng 1ghiêm, đồng thi tham khảo các

107

cho con giữ giới tu thân hơn cả trong chúng. Phật hỏi viên

thông, con do chấp trì cái thân mà thân được tự tại, lần đến

chấp trì cái tâm mà tâm được thông suốt, về sau cả thân và

tâm tất cả đều viên thông, tự tại, đó là thứ nhất."

Viên thông về ý thức

Ngài Đại Mục kiền liên liền từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ

nơi chân Phật mà bạch Phật rằng: "Lúc trước con còn khất

thực giữa đường, gặp ba anh em họ Ca diếp ba là ông u lâu

tần loa, ông Già da và ông Na đề, giảng nói nghĩa lý nhân

duyên sâu xa của Như Lai; con liền phát tâm, được rất thông

suốt; Như Lai ban cho áo ca sa đắp trên mình, râu tóc tự

rụng. Con đi khắp mười phương không ngăn ngại, phát

minh thần thông, được trong chúng suy tôn là vô thượng,

thành quả A la hán. Không những riêng đức Thế Tôn, mà

thập phương Như Lai đều khen sức thần thông của con thanh

tịnh tròn sáng, tự tại không e sợ, Phật hỏi về viên thông, con

do xoay ý niệm trở về bản tánh trong lặng nên tâm trí mở

bày, như lắng nước đục lâu thành trong sáng, đó là thứ nhất."

Viên thông về hỏa đại

Ông Ô xô sắt ma, ở trước đức Như lai, chấp tay đảnh lễ nơi

hai chân Phật mà bạch Phật rằng: "Con thường nhớ trước

kia, trong kiếp xa xôi, Tánh có nhiều tham dục; lúc ấy, có

đức Phật ra đời hiệu là Không vương, bảo người đa dâm như

đống lửa hồng và dạy con quán khắp những hơi nóng lạnh

nơi trăm vóc tứ chi; con nhờ quán như vậy, mà được Giác

tánh sáng suốt lặng đứng bên trong, hóa tâm đa dâm thành

lửa trí tuệ. Từ ấy, các đức Phật đều gọi tên con là ỏa đầu.

Con dùng sức hỏa quang tam muội mà thành quả A la hán;

trong tâm phát đại nguyện, khi các đức Phật thành đạo, thì

làm lực sĩ, thân ở bên Phật, uốn dẹp bọn tà ma quấy phá.

Page 110: Sa Môn DI TÙNG - chuaphatquocttt.orgchuaphatquocttt.org/doc/KinhThuLangNghiemRev3.pdf · học, tụng inh Đại 3hật Đảnh thủ /ăng 1ghiêm, đồng thi tham khảo các

108

Phật hỏi về viên thông, con dùng pháp quán các hơi ấm nơi

thân tâm đều lưu thông không ngăn ngại; các lậu đã tiêu,

sinh ra ngọn lửa đại trí quý báu, lên bậc ô thượng Giác, đó

là thứ nhất."

Viên thông về địa đại

Ngài Trì địa Bồ Tát liền từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ nơi

chân Phật mà bạch Phật rằng: "Con nhớ kiếp xưa, khi đức

Phật Phổ quang ra đời, con làm Tỷ kheo, thường ở nơi các

nẻo đường bến đò, đất đai hiểm trở eo hẹp, không đúng

nguyên tắc, có thể làm tổn hại đến xe ngựa, thì con đều đắp

bằng, hoặc làm cầu cống, hoặc gánh đất cát; siêng năng khó

nhọc như vậy trong suốt thời gian vô lượng Phật ra đời. oặc

có chúng sanh, ở nơi chợ búa, cần người mang đồ vật, trước

tiên con mang hộ đến nơi, đến chốn, để đồ vật xuống, liền đi

ngay, không lấy tiền thuê.

Khi đức Phật Tỳ xá phù ra đời, thế gian phần nhiều đói kém;

con cõng giúp người, không kể gần xa, chỉ lấy một đồng

tiền; hoặc có xe trâu sa xuống bùn lầy, con dùng sức mạnh

đẩy bánh xe lên cho khỏi khổ não. Ông vua trong nước thuở

đó thết trai mời Phật; lúc ấy, con liền sửa sang đường đất

bằng phẳng, đợi Phật đi qua. Đức Tỳ Xá Như Lai xoa đỉnh

đầu con mà bảo rằng: "Nên bình cái tâm địa, thì tất cả đất đai

trên thế giới đều bình.” Con liền khai ngộ, thấy vi trần

nơi thân thể cùng với tất cả vi trần tạo thành thế giới đều

bình đẳng không sai khác, tự tánh của vi trần không chạm

xát nhau, cho đến các thứ đao binh cũng không đụng chạm

gì; con do nơi pháp tánh ngộ được ô Sinh Nhẫn, thành quả

A la hán, xoay tâm về đại thừa, nên hiện nay, ở trong hàng

Bồ Tát; khi nghe các đức Như Lai dạy về chổ tri kiến của

Phật như iệu liên hoa, thì con chứng tỏ đầu tiên, làm vị

thượng thủ. Phật hỏi về viên thông, do con quán kỹ hai thứ

Page 111: Sa Môn DI TÙNG - chuaphatquocttt.orgchuaphatquocttt.org/doc/KinhThuLangNghiemRev3.pdf · học, tụng inh Đại 3hật Đảnh thủ /ăng 1ghiêm, đồng thi tham khảo các

109

trần nơi căn thân và thế giới đều bình đẳng không sai khác,

vốn là Như Lai Tạng giả dối phát ra trần tướng; trần tướng

đã tiêu diệt, thì trí tuệ được viên mãn, thành đạo vô thượng,

đó là thứ nhất."

Viên thông về thủy đại

Ngài Nguyệt quang đồng tử liền từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh

lễ nơi chân Phật mà bạch Phật rằng: "Con nhớ hằng sa kiếp

về trước, có đức Phật ra đời, hiệu là Thủy thiên, dạy hàng Bồ

Tát tu tập phép quán thủy để vào Tam ma địa; nghĩa là quán

ở trong thân, Tánh nước không gì ngăn ngại, quán từ nước

mũi, nước bọt cho đến tất cả các thứ tân, dịch tinh, huyết, đại

tiện, tiểu tiện; xoay vần trong thân đều đồng một Tánh nước,

quán thấy nước trong thân cùng nước các bể hương thủy của

Phù tràng vương sát ở ngoài thế giới, đều bình đẳng không

sai khác.

Con trong lúc ấy, mới thành tựu phép quán nầy, chỉ thấy

được nước, chưa được không có thân; lúc đang làm Tỷ kheo,

tọa thiền trong phòng, con có người đệ tử dòm cửa sổ trông

vào phòng chỉ thấy nước trong, đầy khắp trong phòng, chứ

không có gì; nó nhỏ dại không biết, liền lấy một miếng ngói

ném vào trong nước, đập vào nước phát ra tiếng, ngó quanh

rồi bỏ đi; về sau, con xuất định, liền thấy đau tim như ông Xá

lợi phất bị con quỷ i hại đập. Con tự suy nghĩ: Nay con đã

được đạo A la hán, đã lâu không còn nhân duyên mắc bệnh

được nữa, làm sao ngày nay lại sinh ra đau tim, không lẽ đã

bị thoái thất rồi chăng? Khi bấy giờ, đệ tử của con đi đến, kể

lại cho con những việc như trước, con mới bảo nó, sau nầy,

nếu lại thấy nước, thì nên mở cửa, vào lấy viên ngói trong

nước ấy đi. Đệ tử vâng lời con bảo; về sau, khi con nhập

định, nó lại thấy nước với viên ngói rõ ràng, nó liền mở cửa,

Page 112: Sa Môn DI TÙNG - chuaphatquocttt.orgchuaphatquocttt.org/doc/KinhThuLangNghiemRev3.pdf · học, tụng inh Đại 3hật Đảnh thủ /ăng 1ghiêm, đồng thi tham khảo các

110

lấy viên ngói ra. Sau đó, con xuất định, thì thân thể lại được

như cũ.

Con đã gặp được vô lượng Phật, đến đức Sơn hải tự tại thông

vương Như Lai, thì con mới được không còn thân riêng và

cùng với nước bể hương thủy mười phương thế giới, đồng

một tánh chân không, không hai không khác; hiện nay, ở nơi

đức Như Lai, được danh hiệu là Đồng chân, dự ội Bồ Tát.

Phật hỏi về viên thông, con do quán Tánh nước một mực lưu

thông, được phép ô Sinh Nhẫn, viên mãn đạo Bồ Đề, đó là

thứ nhất."

Viên thông về phong đại

Ngài Lưu ly quang Pháp vương tử liền từ chỗ ngồi đứng dậy,

đảnh lễ nơi chân Phật mà bạch Phật rằng: "Con nhớ hằng sa

kiếp về trước, có đức Phật ra đời, hiệu là ô lượng thanh;

ngài khai thị tánh Bản Giác iệu Minh cho các hàng Bồ Tát

và dạy quán thế giới và thân chúng sanh nầy đều do sức lay

động của vọng duyên chuyển biến ra. Con lúc bấy giờ, quán

cái không gian an lập, quán sự trôi chuyển của thời gian,

quán cái thân thể khi động, khi yên, quán cái thức tâm niệm

niệm sinh diệt, tất cả đều lay động như nhau, bình đẳng

không sai khác. Lúc bấy giờ, con Giác ngộ cái tánh của các

thứ động ấy, đến không do đâu, đi không tới đâu; tất cả

chúng sanh điên đảo, số như vi trần trong mười phương đều

đồng một hư vọng; như vậy, cho đến tất cả chúng sanh trong

một tam thiên đại thiên thế giới, cũng như hàng trăm loài

muỗi mòng đựng trong một đồ đựng, vo vo kêu ầm, ở trong

gang tấc, ồn ào rối rít. Con gặp Phật chưa bao lâu, thì được

pháp ô Sinh Nhẫn; lúc bấy giờ, tâm đã khai ngộ, mới thấy

cõi Phật Bất Động phương Đông, làm vị Pháp vương tử. Con

thừa sự mười phương Phật, thân tâm phát ra sáng suốt, rỗng

thấu không ngăn ngại. Phật hỏi về viên thông, con do quan

Page 113: Sa Môn DI TÙNG - chuaphatquocttt.orgchuaphatquocttt.org/doc/KinhThuLangNghiemRev3.pdf · học, tụng inh Đại 3hật Đảnh thủ /ăng 1ghiêm, đồng thi tham khảo các

111

sát sức lay động không nương vào đâu, ngộ được tâm Bồ Đề,

vào được Tam ma địa, hợp với Nhất iệu Tâm mà mười

phương Phật truyền dạy, đó là thứ nhất.”

Viên thông về không đại

Ngài ư Không Tạng Bồ Tát liền từ chỗ ngồi đứng dậy,

đảnh lễ nơi chân Phật mà bạch Phật rằng: "Con cùng đức

Như Lai chứng được thân vô biên nơi đức Phật Định Quang;

lúc ấy, tay con cầm bốn hạt châu báu lớn, soi tỏ cõi Phật

mười phương số như vi trần, đều hóa thành hư không; lại ở

nơi tự tâm hiện ra gương tròn lớn, trong ấy phóng ra mười

thứ hào quang, vi diệu quý báu, soi khắp mười phương, cùng

tột hư không, các cõi Phật đều vào trong gương “Đại iên

Cảnh” ấy, nhập với thân con và thân con đồng như hư

không, không có ngăn ngại lẫn nhau, thân con lại khéo vào

vi trần quốc độ, rộng làm việc Phật, được đại tùy thuận. Thần

lực lớn đó là do con quán kỹ tứ đại không nương vào đâu, do

vọng tưởng mà có sinh diệt, hư không không có hai và cõi

Phật vốn là đồng, do phát minh được tánh đồng mà chứng

ô Sinh Nhẫn. Phật hỏi về viên thông, con quán hư không

không bờ bến; vào Tam ma địa, diệu lực viên mãn sáng suốt,

đó là thứ nhất.”

Viên thông về thức đại

Ngài i Lặc Bồ Tát liền từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ nơi

chân Phật mà bạch Phật rằng: "Con nhớ vi trần kiếp về trước,

có đức Phật ra đời tên là Nhật Nguyệt Đăng Minh; con được

xuất gia theo đức Phật kia, nhưng tâm còn trọng hư danh thế

gian, ưa giao du với các vọng tộc. Lúc ấy đức Thế Tôn dạy

con tu tập định duy tâm thức, con được vào Tam ma địa; trải

qua nhiều kiếp đến nay, dùng pháp Tam muội ấy phụng sự

hằng sa Phật, tâm cầu hư danh thế gian diệt hết không còn.

Page 114: Sa Môn DI TÙNG - chuaphatquocttt.orgchuaphatquocttt.org/doc/KinhThuLangNghiemRev3.pdf · học, tụng inh Đại 3hật Đảnh thủ /ăng 1ghiêm, đồng thi tham khảo các

112

Đến khi đức Phật Nhiên Đăng ra đời, con mới được thành

tựu ô Thượng iệu iên Thức Tâm Tam Muội. Tất cả cõi

nước Như Lai tột bờ bến hư không, cho đến những điều tịnh,

uế, có, không, đều do tâm con biến hóa hiện ra. Bạch Thế

Tôn, do con rõ được duy tâm thức như vậy, nên nơi thức

tánh, xuất hiện vô lượng Như Lai và hiện nay, con được thọ

ký, liền sau đây, bổ xứ thành Phật nơi cõi này. Phật hỏi

về viên thông, con dùng phép quán mười phương đều duy

thức, thức tâm được tròn sáng, chứng nhập tánh iên Thành

Thật, xa rời tánh Y Tha Khởi và Tánh Biến Kế Chấp, được

pháp ô Sinh Nhẫn, đó là thứ nhất.”

Viên thông về kiến đại

Ngài Đại Thế Chí Pháp vương tử cùng với năm mươi hai vị

Bồ Tát đồng tu một pháp môn, liền từ chổ ngồi đứng dậy,

đảnh lễ nơi chân Phật mà bạch Phật rằng: "Con nhớ hằng sa

kiếp trước, có đức Phật ra đời, tên là ô Lượng Quang; lúc

ấy mười hai đức Như Lai kế nhau thành Phật trong một kiếp

đức Phật sau hết, hiệu là Siêu Nhật Nguyệt Quang, dạy cho

con phép Niệm Phật Tam Muội. í như có người, một đằng

chuyên nhớ, một đằng chuyên quên, thì hai người ấy, dầu

gặp cũng không là gặp, dầu thấy cũng là không thấy; nếu cả

hai người đều nhớ nhau, hai bên nhớ mãi, khắc sâu vào tâm

niệm, thì đồng như hình với bóng, cho đến từ đời nầy sang

đời khác, không bao giờ cách xa nhau. Mười phương Như

Lai thương tưởng chúng sanh như mẹ nhớ con, nếu con trốn

tránh, thì tuy nhớ, nào có ích gì; nếu con nhớ mẹ như mẹ nhớ

con, thì đời đời mẹ con không cách xa nhau. Nếu tâm chúng

sanh nhớ Phật, tưởng Phật, thì hiện nay hay về sau, nhất định

thấy Phật; cách Phật không xa thì không cần phương tiện,

tâm tự được khai ngộ như người ướp hương thì thân thể

có mùi thơm, ấy gọi là hương quang trang nghiêm. Nhân địa

Page 115: Sa Môn DI TÙNG - chuaphatquocttt.orgchuaphatquocttt.org/doc/KinhThuLangNghiemRev3.pdf · học, tụng inh Đại 3hật Đảnh thủ /ăng 1ghiêm, đồng thi tham khảo các

113

căn bản của con là dùng tâm niệm Phật mà vào pháp ô Sinh

Nhẫn, nay ở cõi nầy tiếp dẫn những người niệm Phật về cõi

Tịnh độ. Phật hỏi về viên thông, con thu nhiếp tất cả sáu căn,

không có lựa chọn, tịnh niệm kế tiếp, được vào Tam ma địa,

đó là thứ nhất."

Page 117: Sa Môn DI TÙNG - chuaphatquocttt.orgchuaphatquocttt.org/doc/KinhThuLangNghiemRev3.pdf · học, tụng inh Đại 3hật Đảnh thủ /ăng 1ghiêm, đồng thi tham khảo các

115

Quyển VI

Viên thông về nhĩ căn

Lúc bấy giờ, ngài Quán Thế Âm Bồ Tát liền từ chỗ ngồi

đứng dậy, đảnh lễ nơi chân Phật mà bạch Phật rằng: "Thưa

Thế Tôn, con nhớ vô số hằng sa kiếp về trước, có đức Phật ra

đời, hiệu là Quán Thế Âm; từ đức Phật kia, con phát tâm Bồ

Đề. Đức Phật kia dạy con, do nghe, nghĩ và tu, mà vào Tam

ma địa.

Ban đầu, ở trong Tánh nghe, vào được dòng viên thông,

không còn tướng sở văn nữa. Trần tướng đã vẳng lặng, hai

tướng động, tĩnh rõ thật không sinh. Như vậy thêm lần, các

tướng năng nghe, sở nghe đều hết. Không dừng lại nơi chỗ

dứt hết năng nghe, sở nghe mà tiến lên nữa, thì năng Giác, sở

Giác, đều không. Không Giác tột bậc viên mãn, các tướng

năng không, sở không đều diệt. Sinh diệt đã diệt, thì bản tánh

tịch diệt hiện tiền. Bỗng nhiên, vượt ngoài thế gian và xuất

thế gian, sáng suốt cùng khắp mười phương, được hai cái thù

thắng: Một là, trên hợp với Bản Giác iệu Tâm mười

phương chư Phật, cùng với chư Phật Như Lai đồng một sức

Từ; hai là, dưới hợp với tất cả chúng sanh trong sáu đường

trong mười phương, cùng với các chúng sanh đồng một bi

ngưỡng.

Phần 15

Bạch Thế Tôn! o con cúng dường đức Quán Âm Như Lai,

nhờ Ngài truyền thọ cho con Như uyễn ăn uân, ăn Tu

Kim Cương Tam Muội, được cùng chư Phật đồng một sức

Từ, nên làm cho thân con thành tựu ba mươi hai ứng thân

vào các cõi nước.

Page 118: Sa Môn DI TÙNG - chuaphatquocttt.orgchuaphatquocttt.org/doc/KinhThuLangNghiemRev3.pdf · học, tụng inh Đại 3hật Đảnh thủ /ăng 1ghiêm, đồng thi tham khảo các

116

1. Bạch Thế Tôn! Nếu các vị Bồ Tát vào Tam ma địa, tiến tu

pháp vô lậu, thắng giải hiện đã viên mãn, con hiện ra thân

Phật, vì họ mà thuyết pháp, khiến cho được giải thoát.

2. Nếu các hàng hữu học tu phép iệu Minh vẳng lặng, chỗ

thắng diệu đã viên mãn, con ở trước người kia, hiện ra thân

Độc Giác, vì họ mà thuyết pháp, khiến cho được giải thoát.

3. Nếu các hàng hữu học đoạn Mười ai Nhân uyên; do

các nhân duyên đã đoạn mà phát ra thắng tánh viên mãn, con

ở trước người kia, hiện ra thân uyên Giác, vì họ mà thuyết

pháp khiến cho được giải thoát.

4. Nếu các hàng hữu học được phép Không của Tứ Đế, tu

Đạo Đế vào iệt Đế, thắng tánh hiện ra viên mãn, con ở

trước người kia, hiện ra thân Thanh ăn, vì họ mà thuyết

pháp, khiến cho được giải thoát.

5. Nếu chúng sanh muốn tâm được tỏ ngộ, không phạm vào

cảnh ngũ dục và muốn cho thân được thanh tịnh, con ở trước

người kia, hiện ra thân Phạm ương, vì họ mà thuyết pháp,

khiến cho được giải thoát.

6. Nếu các chúng sanh muốn làm ua cõi trời, thống lĩnh

chư thiên, con ở trước người kia, hiện ra thân Đế Thích, vì

họ mà thuyết pháp, khiến cho được thành tựu.

7. Nếu các chúng sanh muốn thân được tự tại, đi khắp mười

phương, con ở trước người kia, hiện ra thân Tự Tại Thiên, vì

họ mà thuyết pháp, khiến cho được thành tựu.

8. Nếu các chúng sanh muốn thân được đại tự tại, bay đi trên

hư không, con ở trước người kia, hiện ra thân Đại Tự Tại

Thiên, vì họ mà thuyết pháp, khiến cho được thành tựu.

Page 119: Sa Môn DI TÙNG - chuaphatquocttt.orgchuaphatquocttt.org/doc/KinhThuLangNghiemRev3.pdf · học, tụng inh Đại 3hật Đảnh thủ /ăng 1ghiêm, đồng thi tham khảo các

117

9. Nếu các chúng sanh muốn thống lĩnh quỷ thần, cứu giúp

cõi nước, con ở trước người kia, hiện ra thân Thiên Đại

Tướng Quân, vì họ mà thuyết pháp, khiến cho được thành

tựu.

10. Nếu các chúng sanh muống sinh nơi thiên cung, sai khiến

quỷ thần, con ở trước người kia, hiện ra thân Thái Tử,

con của Tứ Thiên ương, vì họ mà thuyết pháp, khiến cho

được thành tựu.

11. Nếu các chúng sanh muốn làm vua cõi người, con ở

trước người kia, hiện ra thân ua, vì họ mà thuyết pháp,

khiến cho được thành tựu.

12. Nếu các chúng sanh muốn làm chủ gia đình danh tiếng,

thế gian kính nhường, con ở trước người kia, hiện ra thân

Trưởng giả vì họ mà thuyết pháp, khiến cho được thành tựu.

13. Nếu các chúng sanh thích đàm luận những lời hay, giữ

mình trong sạch, con ở trước người kia, hiện ra thân Cư sĩ, vì

họ mà thuyết pháp, khiến cho được thành tựu.

14. Nếu các chúng sanh muốn trị cõi nước, chia rõ các bang,

các ấp, con ở trước người kia, hiện ra thân Tể quan, vì họ mà

thuyết pháp, khiến cho được thành tựu.

15. Nếu các chúng sanh thích các số thuật, tự mình nhiếp tâm

giữ thân, con ở trước người kia, hiện ra thân Bà la môn, vì họ

mà thuyết pháp, khiến cho được thành tựu.

16. Nếu có người con trai muốn học phép xuất gia, giữ các

giới luật, con ở trước người kia, hiện ra thân Tỷ kheo, vì họ

mà thuyết pháp, khiến cho được thành tựu.

Page 120: Sa Môn DI TÙNG - chuaphatquocttt.orgchuaphatquocttt.org/doc/KinhThuLangNghiemRev3.pdf · học, tụng inh Đại 3hật Đảnh thủ /ăng 1ghiêm, đồng thi tham khảo các

118

17. Nếu có người con gái muốn học phép xuất gia, giữ các

cấm giới, con ở trước người kia, hiện ra thân Tỷ kheo ni, vì

họ mà thuyết pháp, khiến cho được thành tựu.

18. Nếu có người con trai thích giữ ngũ giới, con ở trước

người kia, hiện ra thân u bà tắc, vì họ mà thuyết pháp,

khiến cho được thành tựu.

19. Nếu có người con gái tự giữ ngũ giới, con ở trước người

kia, hiện ra thân u bà di, vì họ mà thuyết pháp, khiến cho

được thành tựu.

20. Nếu có người con gái lập thân trong nội chính, để tu sửa

nhà nước, con ở trước người kia, hiện ra thân Nữ chúa hay

thân Quốc phu nhân, mệnh phụ, đại gia, vì họ mà thuyết

pháp, khiến cho được thành tựu.

21. Nếu có chúng sanh không phá nam căn, con ở trước

người kia, hiện ra thân đồng nam, vì họ mà thuyết pháp,

khiến cho được thành tựu.

22. Nếu có người xử nữ, thích thân xử nữ, không cầu sự xâm

bạo, con ở trước người kia, hiện ra thân đồng nữ, vì họ mà

thuyết pháp, khiến cho được thành tựu.

23. Nếu có chư thiên muốn ra khỏi loài trời, con hiện ra thân

chư thiên, vì họ mà thuyết pháp, khiến cho được thành tựu.

24. Nếu có các con rồng muốn ra khỏi loài rồng, con hiện ra

thân rồng, vì họ mà thuyết pháp, khiến cho được thành tựu.

25. Nếu có ược xoa muốn thoát khỏi loài mình, con ở trước

họ, hiện ra thân ược xoa, vì họ mà thuyết pháp, khiến cho

được thành tựu.

Page 121: Sa Môn DI TÙNG - chuaphatquocttt.orgchuaphatquocttt.org/doc/KinhThuLangNghiemRev3.pdf · học, tụng inh Đại 3hật Đảnh thủ /ăng 1ghiêm, đồng thi tham khảo các

119

26. Nếu có Càn thát bà muốn thoát khỏi loài mình, con ở

trước họ, hiện ra thân Càn thát bà, vì họ mà thuyết pháp,

khiến cho được thành tựu.

27. Nếu có A tu la, muốn thoát khỏi loài mình, con ở trước

họ, hiện ra thân A tu la, vì họ mà thuyết pháp, khiến cho

được thành tựu.

28. Nếu có Ca lâu la muốn thoát khỏi loài mình, con ở trước

họ, hiện ra thân Ca câu la, vì họ mà thuyết pháp, khiến cho

được thành tựu.

29. Nếu có Khẩn na la muốn thoát khỏi loài mình, con ở

trước họ, hiện ra thân Khẩn na la, vì họ mà thuyết pháp,

khiến cho được thành tựu.

30. Nếu có Ma hô la già muốn thoát khỏi loài mình; con ở

trước họ, hiện ra thân Ma hô la già, vì họ mà thuyết pháp,

khiến cho được thành tựu.

31. Nếu có chúng sanh thích làm người, tu cho được thân

người, con hiện ra thân người, vì họ mà thuyết pháp, khiến

cho được thành tựu.

32. Nếu có loài phi nhân, hoặc có hình, hoặc không hình,

hoặc có tưởng, hoặc không tưởng, muốn thoát khỏi loài

mình, con ở trước họ, hiện ra thân như họ, vì họ mà thuyết

pháp, khiến cho được thành tựu.

Ấy gọi là ba mươi hai ứng thân diệu tịnh, vào các cõi nước.

Những thân ấy đều do vô tác diệu lực của ăn uân ăn Tu

Tam Muội, mà tự tại thành tựu.

Mười bốn công đức vô úy

"Bạch Thế Tôn! o con lại dùng ô Tác iệu Lực của ăn

uân ăn Tu Kim Cương Tam Muội ấy, cùng với tất cả sáu

Page 122: Sa Môn DI TÙNG - chuaphatquocttt.orgchuaphatquocttt.org/doc/KinhThuLangNghiemRev3.pdf · học, tụng inh Đại 3hật Đảnh thủ /ăng 1ghiêm, đồng thi tham khảo các

120

đường chúng sanh trong mười phương ba đời, đồng một lòng

bi ngưỡng, nên khiến các chúng sanh, nơi thân tâm con,

được mười bốn thứ công đức vô úy:

Một, là do con không tự quán cái âm thanh, mà quán cái tâm

năng quán, nên khiến cho chúng sanh khổ não mười phương

kia, quán cái âm thanh, thì liền được giải thoát.

Hai, là tri kiến (thấy biết) đã xoay trở lại, khiến cho các

chúng sanh, dầu vào đống lửa, lửa không thể đốt được.

Ba, là quán cái nghe đã xoay trở lại, khiến cho các chúng

sanh bị nước lớn cuốn đi, mà không chết đuối.

Bốn, là diệt hết vọng tưởng, tâm không sát hại, khiến các

chúng sanh vào những nước quỷ, quỷ không thể hại được.

Năm, là huân tập và thành tựu được Tánh nghe, cả sáu căn

đều tiêu về Bản Tánh, đồng như cái nghe, cái tiếng, có thể

khiến cho chúng sanh, lúc đương bị hại, dao gãy từng đoạn,

khiến cho các binh khí chạm vào thân người như cắt dòng

nước, như thổi ánh sáng, Bản Tánh không hề lay động.

Sáu, là huân tập Tánh nghe sáng suốt thấu khắp pháp giới,

thì các Tánh tối tăm không thể toàn được, có thể khiến cho

chúng sanh, tuy các loài ược xoa, La sát, Cưu bàn trà, Tỳ

xá già, Phú dan na! vân vân ... ở gần một bên, con mắt chúng

vẫn không thể thấy được.

Bảy, là các tiếng đều tiêu trọn, thấy nghe đã xoay vào tự

tánh, rời các trần cảnh hư vọng, có thể khiến cho các chúng

sanh, những thứ cùm, dây, gông, xiềng không thể dính vào

mình được.

Page 123: Sa Môn DI TÙNG - chuaphatquocttt.orgchuaphatquocttt.org/doc/KinhThuLangNghiemRev3.pdf · học, tụng inh Đại 3hật Đảnh thủ /ăng 1ghiêm, đồng thi tham khảo các

121

Tám, là diệt tướng âm thanh, viên thông Tánh Nghe, phát

sinh sức Từ cùng khắp, có thể khiến cho chúng sanh đi qua

đường hiểm, giặc không cướp được.

Chín, là huân tu theo Tánh Nghe, rời các trần tướng, sắc dục

không lôi kéo được, có thể khiến cho tất cả chúng sanh đa

dâm, xa rời lòng dục.

Mười, là thuần một thật tướng của âm thanh, không còn gì là

tiền trần, căn và cảnh đều viên dung, không có năng, sở đối

đãi, có thể khiến cho tất cả chúng sanh nóng giận, rời bỏ

lòng thù ghét.

Mười một, là tiêu diệt trần tướng, xoay về Tánh Bản Minh,

thì pháp giới, thân, tâm đều như ngọc lưu ly, sáng suốt không

ngăn ngại, có thể khiến cho những kẻ ngu ngốc u mê, xa rời

hẳn sự si mê tối tăm.

Mười hai, là viên dung các hình tướng, xoay Tánh Nghe trở

về đạo tràng bất động, hòa vào thế gian mà không hủy hoại

thế giới, cúng dường được chư Phật Như Lai như số vi trần,

cùng khắp mười phương, ở bên mỗi mỗi đức Phật, làm vị

Pháp vương tử, có thể khiến cho trong pháp giới, những

chúng sanh không con, cầu có con trai, sinh ra đứa con trai

có phúc đức trí tuệ.

Mười ba, là sáu căn viên thông, soi sáng không hai, trùm

khắp mười phương thế giới, thành lập Đại iên Cảnh Không

Như Lai Tạng, vâng lĩnh pháp môn bí mật của mười phương

vi trần Như Lai, không có thiếu sót, có thể khiến cho trong

pháp giới, những chúng sanh không con, cầu có con gái, sinh

ra người con gái có tướng tốt, đoan chính, phúc đức, dịu

dàng, được mọi người yêu kính.

Page 124: Sa Môn DI TÙNG - chuaphatquocttt.orgchuaphatquocttt.org/doc/KinhThuLangNghiemRev3.pdf · học, tụng inh Đại 3hật Đảnh thủ /ăng 1ghiêm, đồng thi tham khảo các

122

Mười bốn, là trong tam thiên đại thiên thế giới này, có trăm

ức mặt trời, mặt trăng, các Pháp vương tử hiện ở trong thế

gian, số lượng có đến sáu mươi hai số cát sông ằng, đều tu

Phật pháp, nêu gương mẫu, giáo hóa chúng sanh, tùy thuận

chúng sanh, phương tiện trí tuệ của mỗi mỗi vị không đồng

nhau. Do con được Tánh viên thông, phát ra diệu tánh của

nhĩ căn, cho đến thân tâm nhiệm mầu bao trùm khắp pháp

giới, nên có thể khiến cho chúng sanh chấp trì danh hiệu của

con, so với những người chấp trì danh hiệu của tất cả các vị

Pháp vương tử số lượng bằng sáu mươi hai số cát sông ằng

kia, phúc đức hai bên thật bằng bậc, không sai khác.

Bạch Thế Tôn! Một danh hiệu của con cùng với rất nhiều

danh hiệu kia không khác, là do con tu tập được tánh viên

thông chân thật. Ấy gọi là mười bốn sức thí vô úy, đem phúc

khắp cho chúng sanh.

"Bạch Thế Tôn! o con đã được Đạo tu chứng viên thông

vô thượng đó, nên lại khéo được bốn ô Tác iệu Đức

không nghĩ bàn:

Một, là do con chứng được tánh nghe chí diệu, nơi tâm tánh

không còn có tướng năng văn, các sự thấy, nghe, hay, biết

không còn cách biệt và đều thành một Bảo Giác iên ung

Thanh Tịnh, nên con có thể hiện ra rất nhiều hình dung

nhiệm mầu, nói ra vô số thần chú bí mật. Trong đó, hoặc

hiện ra một đầu, ba đầu, năm đầu, bảy đầu, chín đầu, mười

một đầu, như thế cho đến một trăm lẽ tám đầu, một ngàn

đầu, một vạn đầu, tám vạn bốn ngàn cái đầu, đầy đủ các

tướng; hoặc hiện ra hai tay, bốn tay, sáu tay, mười hai tay,

mười bốn, mười sáu, mười tám, hai mươi, hai mươi bốn, như

thế cho đến một trăm lẽ tám tay, một ngàn tay, một vạn tay,

tám vạn bốn ngàn cái tay bắt ấn; hoặc hiện ra hai mắt, ba

mắt, bốn mắt, chín mắt, như thế cho đến một trăm lẽ tám

Page 125: Sa Môn DI TÙNG - chuaphatquocttt.orgchuaphatquocttt.org/doc/KinhThuLangNghiemRev3.pdf · học, tụng inh Đại 3hật Đảnh thủ /ăng 1ghiêm, đồng thi tham khảo các

123

mắt, một ngàn mắt, một vạn mắt, tám vạn bốn ngàn con mắt

báu thanh tịnh; hoặc khi thì từ, hoặc khi thì oai, hoặc khi thì

định, hoặc khi thì tuệ, cứu giúp chúng sanh được rất tự tại.

Hai, là do cái nghe, cái nghĩ của con, thoát ra ngoài sáu trần

như cái tiếng qua bức tường, không thể bị ngăn ngại, cho nên

diệu dụng của con có thể hiện mỗi mỗi hình, tụng mỗi mỗi

chú, hình đó, chú đó đều có thể đem sức vô úy mà bố thí cho

các chúng sanh; vì thế, cõi nước mười phương như vi trần

đều gọi con là vị Thí ô Úy.

Ba, là con tu tập, phát ra căn tánh Bản iệu iên Thông

Thanh Tịnh, nên đi qua thế giới nào, đều khiến cho chúng

sanh xả thân, xả đồ trân bảo, cầu con thương xót.

Bốn, là do con được tâm Phật, chứng đến chỗ rốt ráo, nên có

thể đem các thứ quý báu cúng dường mười phương Như Lai,

cả đến chúng sanh sáu đường trong pháp giới, ai cầu vợ thì

được vợ, cầu con thì được con, cầu Tam Muội thì được Tam

Muội, cầu sống lâu thì được sống lâu, như thế, cho đến cầu

Đại Niết Bàn thì được Đại Niết Bàn. "Phật hỏi về viên

thông, con do văn chiếu Tam Muội nơi nhĩ căn mà duyên

tâm được tự tại; nhân tướng nhập lưu, được Tam ma địa,

thành tựu quả Bồ Đề, đó là thứ nhất.

Bạch Thế Tôn! Đức Phật Như Lai kia, khen con khéo được

pháp môn viên thông, ở trong Đại hội, thọ ký cho con cái

hiệu là Quán Thế Âm; do con thấy nghe thấu suốt mười

phương, nên danh tiếng Quán Âm cùng khắp thập phương

thế giới.”

Phần 16

Chỉ dạy Pháp Viên tu

Đức Phật phóng hào quang hiện điềm lành

Page 126: Sa Môn DI TÙNG - chuaphatquocttt.orgchuaphatquocttt.org/doc/KinhThuLangNghiemRev3.pdf · học, tụng inh Đại 3hật Đảnh thủ /ăng 1ghiêm, đồng thi tham khảo các

124

Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn nơi sư tử tọa, năm vóc đồng

phóng ra hào quang báu, rọi xa trên đảnh tướng mười

phương Như Lai số như vi trần và trên đảnh các vị Pháp

vương tử, các vị Bồ Tát. Các đức Như Lai kia, năm vóc cũng

đồng phóng ra hào quang báu, từ các thế giới số như vi trần

đến rọi trên đảnh Phật và trên đảnh các vị Đại Bồ Tát và A la

hán trong ội; rừng cây, ao hồ đều diễn ra pháp âm; hào

quang giao xen cùng nhau như lưới tơ báu. Cả trong đại

chúng được cái chưa từng có; tất cả đều được Kim cương

tam muội. Liền khi ấy, trời mưa hoa sen trăm bảu màu xanh,

màu vàng, màu đỏ, màu trắng xen lộn lẫn nhau, mười

phương hư không hóa thành sắc bảy bảu. Đất liền, núi sông

của cõi Ta bà nầy cùng một lúc không hiện ra, chỉ thấy vi

trần quốc độ mười phương hợp thành một cõi, Phạm Âm ca

ngợi tự nhiên nổi lên.

Đức Phật bảo ngài Văn Thù chọn căn viên thông

Lúc bấy giờ, đức Như Lai bảo Ngài ăn Thù Sư Lợi Pháp

vương tử rằng: "Ông hãy xét trong hai mươi lăm vị vô học

Đại Bồ Tát và A la hán, mỗi mỗi đều trình bày phương tiện

hành đạo lúc đầu, đều nói tu tập tánh viên thông chân thật;

chỗ tu hành của các vị kia, thật không có hơn, kém, trước,

sau gì khác nhau. Nay Ta muốn khiến cho ông Anan khai

ngộ, thì trong hai mươi lăm phép tu, phép nào hợp với căn cơ

của ông ấy; lại nữa, sau khi Ta diệt độ rồi, chúng sanh trong

cõi nầy vào thừa Bồ Tát, cầu đạo vô thượng, thì do pháp môn

phương tiện gì, được dễ thành tựu hơn?"

Lựa ra những căn viên thông

(Lưu ý: Đọc qua không cần phải nhớ, ngay cả căn viên

thông đã được chọn vì chúng ta dùng Lăng Nghiêm Đại

Đinh để vào Ta Ma Địa – Chánh Định)

Page 127: Sa Môn DI TÙNG - chuaphatquocttt.orgchuaphatquocttt.org/doc/KinhThuLangNghiemRev3.pdf · học, tụng inh Đại 3hật Đảnh thủ /ăng 1ghiêm, đồng thi tham khảo các

125

Ngài ăn Thù Sư Lợi Pháp vương tử, vâng ý chỉ của Phật,

liền từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ nơi chân Phật, dựa vào uy

thần của Phật, nói bài kệ đáp lại:

"Bản tánh biển Giác khắp đứng lặng,

Tánh khắp đứng lặng vốn nhiệm mầu,

Bản Minh chiếu ra hình như sở,

Lập tướng sở, bỏ mất Bản Minh.

o mê vọng, mà có hư không,

Nương hư không, lập thành thế giới;

Tư tưởng chăm chú thành cõi nước,

ay biết mọi việc, là chúng sinh.

ư không sinh ra trong Đại Giác,

Như một bọt nước sinh trong bể;

Các nước hữu lậu, như vi trần

Đều nương hư không, mà phát sinh;

Bọt nước diệt, vốn không hư không,

uống nữa là, hình tướng ba cõi.

"Bản tánh xoay về, vốn không hai,

Phương tiện tu chứng có nhiều cách,

Cách nào cũng thông vào bản tánh,

Nói thuận, nghịch, chỉ là phương tiện;

o hàng sơ tâm vào Tam muội,

Bên mau, bên chậm không đồng nhau.

" ọng tưởng kết lại thành sắc trần,

ay biết không thể thông suốt được;

Làm sao, chính chỗ không thông suốt,

Tu hành, lại được Tánh viên thông?

Âm thanh xen lộn với lời nói,

Chỉ nương theo ý vị danh từ;

Nếu một, không trùm được tất cả,

Thì làm sao, được Tánh viên thông?

Page 128: Sa Môn DI TÙNG - chuaphatquocttt.orgchuaphatquocttt.org/doc/KinhThuLangNghiemRev3.pdf · học, tụng inh Đại 3hật Đảnh thủ /ăng 1ghiêm, đồng thi tham khảo các

126

ương, chỉ lúc hợp, mới rõ biết,

Lúc rời cách, thì vốn không có;

Nếu sở Giác, không được thường xuyên,

Thì làm sao, được tánh viên thông?

ị, không phải bản nhiên tự có,

Cần phải nếm, mới biết có vị;

Nếu Giác quan, không thường duy nhất,

Thì làm sao, được tánh viên thông?

Xúc, do các vật chạm mà biết,

Không vật chạm, thì không thành xúc;

Khi hợp, khi ly, không nhất định,

Thì làm sao, được tánh viên thông?

Pháp, cũng có tên là nội trần64

,

Nương theo trần, tất phải có sở;

Năng sở, không viên dung nhập một,

Thì làm sao, được tánh viên thông?

"Cái thấy, tuy rỗng suốt rất xa,

Nhưng thấy trước, mà không thấy sau;

Bốn bề, còn thiếu mất một nửa,

Thì làm sao, được tánh viên thông!

Mũi, có thở ra và thở vào,

Chặng giữa, hiện không có hơi thở,

Nếu không viên dung sự cách bức,

Thì làm sao, được tánh viên thông?

Ngoài sở nhập, tánh nếm không thành,

Nhân các vị, mới có hay biết;

Không có vị, rốt ráo không có,

Thì làm sao, được tánh viên thông?

Thân biết xúc với cảnh sở xúc,

Đều có hạn, không phải cùng khắp;

64

Pháp này là trần đối với căn Ý

Page 129: Sa Môn DI TÙNG - chuaphatquocttt.orgchuaphatquocttt.org/doc/KinhThuLangNghiemRev3.pdf · học, tụng inh Đại 3hật Đảnh thủ /ăng 1ghiêm, đồng thi tham khảo các

127

Nếu không nhận tánh không bờ bến,

Thì làm sao, được tánh viên thông?

Ý căn xen với các loạn tưởng,

Đứng lặng, rốt cuộc không thấy gì;

Nếu không thoát được các tưởng niệm,

Thì làm sao, được tánh viên thông?"

"Nhãn thức, phát khởi nhờ căn trần,

Gạn cùng, vốn không có tự tướng;

Cả tự thể, còn không nhất định,

Thì làm sao, được tánh viên thông?

Tâm nghe rỗng thấu cả mười phương,

Là do sức hoằng thệ rộng lớn;

Sơ tâm, không thể đến chỗ ấy

Thì làm sao, được tánh viên thông?

Quán đầu mũi, vốn là duyên cơ,

Chỉ để nhiếp tâm được an trụ;

Nếu cảnh quán, lại thành sở trụ,

Thì làm sao, được tánh viên thông?

Thuyết pháp, diệu dụng các danh từ;

Cốt phải đã được khai ngộ trước;

Nếu lời nói, không phải vô lậu,

Thì làm sao, được tánh viên thông?

Giữ giới, chỉ câu thúc cái thân,

Ngoài cái thân, lấy gì câu thúc;

ốn không phải cùng khắp tất cả,

Thì làm sao, được tánh viên thông?

Thần thông, do túc tập từ trước,

Nào dính gì ý thức phân biệt;

Tưởng niệm, không thoát ly sự vật,

Thì làm sao, được tánh viên thông?

Page 130: Sa Môn DI TÙNG - chuaphatquocttt.orgchuaphatquocttt.org/doc/KinhThuLangNghiemRev3.pdf · học, tụng inh Đại 3hật Đảnh thủ /ăng 1ghiêm, đồng thi tham khảo các

128

"Nếu quán cái tánh của địa đại,

Thì nó ngăn ngại, không thông suốt;

Pháp hữu vi, không phải chân tánh,

Thì làm sao, được tánh viên thông?

Nếu quán cái tánh của thủy đại,

Quán tưởng, đâu phải là chân thật,

Nếu không đi đến iệu Chân Như,

Thì làm sao, được tánh viên thông?

Nếu quán hỏa đại, trừ dâm dục,

Chán cái có, không phải thật ly;

Phương tiện, không hợp với sơ tâm,

Thì làm sao, được tánh viên thông?

Nếu quán cái tánh của phong đại,

Động, tĩnh, đâu phải không đối đãi;

Đối đãi, trái với vô thượng Giác,

Thì làm sao, được tánh viên thông?

Nếu quán cái tánh của không đại,

ư không vô tri, không hay biết;

Không biết, khác hẳn với Bồ Đề,

Thì làm sao, được tánh viên thông?

Nếu quán cái tánh của thức đại,

Thức sinh diệt, đâu phải thường trụ,

Để tâm trong phân biệt hư vọng,

Thì làm sao, được tánh viên thông?

Tất cả các hành đều vô thường,

Tưởng niệm, vốn trong vòng sinh diệt,

Nhân và quả, khác nhau như thế,

Thì làm sao, được tánh viên thông?"

Nhĩ căn viên thông hơn hết

"Con nay xin bạch đức Thế Tôn,

Phật ra đời trong cõi Ta bà,

Page 131: Sa Môn DI TÙNG - chuaphatquocttt.orgchuaphatquocttt.org/doc/KinhThuLangNghiemRev3.pdf · học, tụng inh Đại 3hật Đảnh thủ /ăng 1ghiêm, đồng thi tham khảo các

129

Trong cõi nầy, lối dạy chân thật,

Thanh tịnh, do chỗ nói và nghe;

Nay muốn tu chứngTam ma địa,

Thật nên do cái nghe mà vào."

"Rời cái khổ và được giải thoát,

ay thay cho ngài Quán Thế Âm;

Trong kiếp số như cát sông ằng,

ào cõi Phật như số vi trần,

Được sức tự tại rất to lớn,

Bố thí vô úy cho chúng sinh.

Ngài Quán Thế Âm, tiếng nhiệm mầu,

Tiếng trong sạch và tiếng hải triều,

Cứu đời, mọi việc được yên lành,

Xuất thế gian, được quả thường trụ."

"Con nay kính bạch đức Như Lai,

Như lời ngài Quán Âm vừa nói:

í như, có người trong yên lặng,

Chung quanh mười phương đều đánh trống,

Thì đồng thời nghe khắp mười nơi,

Như thế, mới là viên chân thật.

Mắt bị ngăn che, không thấy được,

Thiệt căn, tỷ căn cũng như vậy,

Thân căn, lúc hợp mới biết xúc,

Ý căn, phân vân không manh mối;

Cách tường, nhĩ căn vẫn nghe tiếng,

ầu xa, dầu gần, đều nghe được;

Năm căn so sánh thật không bằng,

Như thế, mới là thông chân thật.

Tánh thanh trần, có động, có tĩnh,

Trong tánh nghe thành có, thành không;

Khi không tiếng, gọi là không nghe,

Page 132: Sa Môn DI TÙNG - chuaphatquocttt.orgchuaphatquocttt.org/doc/KinhThuLangNghiemRev3.pdf · học, tụng inh Đại 3hật Đảnh thủ /ăng 1ghiêm, đồng thi tham khảo các

130

Đâu phải thật không còn tánh nghe;

Không tiếng, tánh nghe đã không diệt,

Có tiếng, tánh nghe đâu phải sinh;

Trọn rời cả hai thứ sinh diệt,

Như thế, mới là thường chân thật.

ầu cho, trong lúc đương ngủ mê,

Không vì không nghĩ, mà không nghe;

Tánh nghe ra ngoài sự suy nghĩ,

Thân, ý không thể so bằng được.

“ iện nay, trong cõi Ta bà nầy,

Các thứ thanh luận được truyền bá,

o chúng sinh bỏ mất tánh nghe,

Theo thanh trần, nên bị lưu chuyển;

Anan tuy có Tánh nhớ dai,

ẫn không khỏi mắc các tà niệm;

á không phải tùy chỗ chìm đắm,

Xoay ngược dòng, thoát khỏi hư vọng.

Anan! ông hãy nghe cho chín,

Nay tôi nương uy lực của Phật,

Tuyên nói phép Tam Muội chân thật,

Chắc như Kim cương vương, như huyễn,

Không nghĩ bàn, xuất sinh chư Phật.

Ông nghe tất cả pháp bí mật

Của chư Phật, số như vi trần,

Nếu trước hết, không trừ dục lậu,

Nghe nhiều, chứa chấp thành lầm lỗi;

ùng cái nghe thọ trì Phật pháp,

Sao lại không tự nghe cái nghe?

Tánh nghe không phải tự nhiên sinh,

Nhân thanh trần mà có danh hiệu,

Xoay cái nghe, thoát ly thanh trần,

Cái thoát ly ấy, gọi là gì?

Page 133: Sa Môn DI TÙNG - chuaphatquocttt.orgchuaphatquocttt.org/doc/KinhThuLangNghiemRev3.pdf · học, tụng inh Đại 3hật Đảnh thủ /ăng 1ghiêm, đồng thi tham khảo các

131

Một căn, đã trở về Bản Tánh,

Thì cả sáu căn, được giải thoát,

Thấy, nghe như bệnh lòa huyễn hóa,

Ba cõi như hoa đốm hư không;

Xoay Tánh Nghe, gốc lòa tiêu trừ,

Trần tướng tiêu, Giác Tánh viên tịnh.

Tột thanh tịnh, trí quang thông suốt,

Thể tịch chiếu trùm khắp hư không,

Trở lại xem các việc thế gian

Thật giống như chiêm bao không khác.

Nàng Ma đăng già là chiêm bao

Thì còn ai bắt ông được nữa?

Như các huyễn sư khéo trong đời,

Làm trò, thành ra các trai, gái;

Tuy thấy các căn đều cử động,

Cốt yếu, do cái máy dật dây;

Nghỉ máy, tất cả đều yên lặng,

Các trò, trở thành không có tánh.

Cả sáu căn cũng giống như thế,

ốn đều nương một tánh tinh minh

Chia ra thành sáu thứ hòa hợp;

Một nơi, đã rời bỏ quay về,

Thì cả sáu, đều không thành lập;

Trong một niệm, trần cấu đều tiêu,

Chuyển thành Tánh iên Minh Tịnh iệu,

Còn sót trần cấu là học vị,

Sáng suốt cùng tột, tức Như Lai.

ỡi đại chúng và ông Anan!

ãy xoay lại cái nghe điên đảo,

Xoay cái nghe về, nghe tự tánh,

Nhận tự tánh, thành đạo vô thượng;

Thật tánh viên thông là như thế."

Page 134: Sa Môn DI TÙNG - chuaphatquocttt.orgchuaphatquocttt.org/doc/KinhThuLangNghiemRev3.pdf · học, tụng inh Đại 3hật Đảnh thủ /ăng 1ghiêm, đồng thi tham khảo các

132

"Đây thật là một đường thẳng tiến

ào Niết Bàn của vi trần Phật;

Các đức Như Lai trong quá khứ

Đều đã thành tựu pháp môn nầy;

Các vị Bồ Tát trong hiện tại

Điều viên minh vào pháp môn ấy;

Những người tu học đời vị lai

Đều nên nương theo pháp môn đó;

Tôi cũng do pháp ấy mà chứng,

Không phải chỉ ngài Quán Thế Âm.

Thật như lời đức Phật Thế Tôn

Đã hỏi tôi về các phương tiện

Để cứu giúp, trong đời Mạt Pháp,

Những người cầu pháp xuất thế gian

Thành tựu được tâm tánh Niết Bàn

Thì ngài Quán Âm là hơn cả.

Còn tất cả các phương tiện khác

Đều là nhờ uy thần của Phật,

Tức nơi sự, rời bỏ trần lao,

Không phải phép tu học thường xuyên,

Cạn hay sâu cũng đồng nghe được.

"Xin đảnh lễ Tánh Như Lai Tạng,

ô lậu, không còn sự nghĩ bàn,

Nguyện gia bị cho đời vị lai,

Nơi pháp môn nầy, không lầm lẫn.

Đây là phương tiện dễ thành tựu,

Nên đem dạy cho ông Anan

Cùng những kẻ trầm luân mạt kiếp,

Chỉ dùng nhĩ căn mà tu tập,

Thì viên thông chóng hơn pháp khác;

Tâm tánh chân thật là như thế."

Page 135: Sa Môn DI TÙNG - chuaphatquocttt.orgchuaphatquocttt.org/doc/KinhThuLangNghiemRev3.pdf · học, tụng inh Đại 3hật Đảnh thủ /ăng 1ghiêm, đồng thi tham khảo các

133

Lúc ấy, ông Anan cùng cả đại chúng, thân tâm tỏ rõ, nhận

được sự khai thị to lớn, xem quả Bồ Đề và Đại Niết Bàn của

Phật, cũng như có người thân có việc phải đi xa, chưa trở về

được, song đã biết rõ con đường về nhà. Trong Pháp hội, cả

đại chúng, thiên long bát bộ, hàng Nhị thừa hữu học và tất cả

các Bồ Tát mới phát tâm, số lượng bằng mười số cát sông

ằng, đều được bản tâm xa trần tướng, rời cấu nhiễm, được

pháp nhãn thanh tịnh. Bà Tánh Tỷ kheo ni nghe nói bài kệ

xong, thành quả A la hán; vô lượng chúng sinh đều phát tâm

ô Đẳng ô Thượng Chính Đẳng Chính Giác.

Lúc bấy giờ ngài Anan sửa áo chỉnh tề, ở trong đại chúng,

chấp tay đỉnh lễ; tâm tánh trọn sáng, vừa mừng vừa tủi; vì

muốn lợi ích cho các chúng sinh vị lai, cúi đầu bạch Phật:

"Thưa đức Thế Tôn đại bi, con nay đã ngộ được pháp môn

thành Phật, tu hành trong đó, được không nghi hoặc. Con

thường nghe đức Như lai dạy như thế nầy: Tự mình chưa

được độ, trước đã độ người, đó là chỗ phát tâm của các vị Bồ

Tát; tự mình Giác ngộ viên mãn, có thể Giác ngộ kẻ khác, đó

là sự ứng thế của các đức Như Lai. Con tuy chưa được độ,

song nguyện độ tất cả chúng sinh trong đời Mạt Pháp. Bạch

Thế Tôn, các chúng sinh đó cách Phật ngày càng xa, những

tà sư thuyết pháp; số như cát sông ằng; nếu muốn họ nhiếp

tâm vào Tam ma địa, thì nên khiến họ dựng lập đàn tràng thế

nào để rời các ma sự, được không thoái khuất nơi tâm Bồ

Đề."

Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn, ở trong đại chúng, khen ngợi ông

Anan: " ay lắm, hay lắm, như chỗ ông hỏi về dựng lập đàn

tràng, cứu giúp chúng sinh chìm đắm trong đời Mạt Pháp,

ông hãy nghe cho kỹ, tôi sẽ vì ông mà nói.” Ngài Anan và cả

đại chúng kính vâng lời dạy của Phật.

Page 136: Sa Môn DI TÙNG - chuaphatquocttt.orgchuaphatquocttt.org/doc/KinhThuLangNghiemRev3.pdf · học, tụng inh Đại 3hật Đảnh thủ /ăng 1ghiêm, đồng thi tham khảo các

134

Phật bảo ngài Anan: "Ông thường nghe Ta, trong Tỳ Nại

Gia65, tuyên nói ba nghĩa quyết định của sự tu hành, đó là thu

nhiếp cái tâm là giới, nhân giới mà sinh định, nhân định mà

phát tuệ66, thế gọi là ba pháp ô lậu học."

“Anan! Thế nào thu nhiếp cái tâm thì gọi là giới?

Nếu chúng sinh sáu đường trong các thế giới, cái tâm không

dâm, thì không đi theo dòng sinh tử tiếp tục. Ông tu phép

Tam Muội cốt để ra khỏi trần lao, nếu không trừ lòng dâm,

thì không thể ra khỏi trần lao được. ầu có nhiều trí thiền

định hiện tiền, nếu không đoạn lòng dâm, cũng chắc lạc vào

ma đạo, hạng trên thành ma vương, hạng giữa thành ma dân,

hạng dưới thành ma nữ; các bọn ma kia cũng có đồ chúng,

mỗi mỗi tự xưng là thành đạo vô thượng. Sau khi Ta diệt độ

rồi, trong đời Mạt Pháp, có nhiều bọn ma nầy sôi nổi trong

thế gian, gây nhiều việc tham dâm, lại giả làm người thiện tri

thức, khiến cho các chúng sanh sa vào hầm ái kiến; bỏ mất

con đường Bồ Đề. Ông dạy người đời tu pháp Tam ma đề

(quán), trước hết phải đoạn cái dâm trong tự tâm. Ấy gọi là

lời dạy bảo rõ ràng thanh tịnh, quyết định thứ nhất của các

đức Như Lai Tiên-Phật Thế Tôn. ậy nên ông Anan! Nếu

không đoạn lòng dâm mà tu thiền định, thì cũng như nấu cát,

nấu đá muốn cho thành cơm, dầu trải qua trăm nghìn kiếp

cũng chỉ gọi là cát nóng, đá nóng, vì cớ sao? ì đó là giống

cát, giống đá, không phải là bản nhân của cơm vậy. Ông đem

thân dâm cầu diệu quả của Phật, dầu được diệu ngộ, cũng chỉ

là gốc dâm, cỗi gốc đã thành dâm, thì phải trôi lăn trong tam

đồ, chắc không ra khỏi, còn đường nào tu chứng Niết Bàn

65

Tỳ Nại Gia nói về giới luật. 66

Phải hiểu như thế nào về chữ “sinh” trong Giới sinh Định, Định sinh

Tuệ? Cũng trong Kinh này, Ông Tôn Đà La Nan Đà (vị thứ mười bốn)

trình bày sự chứng ngộ của mình đã nói: Con đã giữ giới luật đầy đủ

nhưng không thể vào Tam ma địa (Samadhi: Chánh Định.)

Page 137: Sa Môn DI TÙNG - chuaphatquocttt.orgchuaphatquocttt.org/doc/KinhThuLangNghiemRev3.pdf · học, tụng inh Đại 3hật Đảnh thủ /ăng 1ghiêm, đồng thi tham khảo các

135

Như Lai. Chắc phải khiến cho thân tâm đều đoạn hết giống

dâm, cho đến tánh đoạn cũng không còn nữa, thì mới trông

mong chứng quả Bồ Đề của Phật. Như lời Ta nói đây, gọi là

lời nói của Phật; không như lời nói đó, tức là lời nói của ma

Ba tuần."

“Anan! Ai trong các chúng sanh sáu đường trong các thế

giới, nếu cái tâm không sát, thì không theo dòng sinh tử tiếp

tục. Ông tu phép Tam Muội, cốt ra khỏi trần lao, nếu không

trừ lòng sát, thì không thể ra khỏi trần lao được. ầu có

nhiều trí thiền định hiện tiền, nếu không đoạn lòng sát, thì

chắc phải lạc vào thần đạo; người bậc trên thì thành đại lực

quỷ, người bậc giữa thì thành phi hành dạ xoa và các loài

quỷ soái, người bậc dưới thì thành địa hành la sát, các loài

quỷ thần kia cũng có đồ chúng, mỗi mỗi tự xưng là thành

đạo vô thượng.

Sau khi Ta diệt độ rồi, trong đời Mạt Pháp, có nhiều quỷ

thần nầy sôi nổi trong thế gian, tự nói rằng ăn thịt, được đạo

Bồ Đề. Anan! Ta khiến hàng Tỷ kheo ăn năm thứ tịnh nhục,

thịt kia đều do thần lực Ta hóa sinh ra, vốn không có mạng

căn. Xứ Bà la môn các ông, đất đai phần nhiều nóng ướt, lại

thêm cát đá, rau cỏ không sinh được; Ta dùng sức đại bi gia

bị, nhân sức đại từ bi, giả gọi là thịt và các ông cũng nhận

được cái vị như thịt; làm sao, sau khi Như Lai diệt độ, người

ăn thịt chúng sinh, lại gọi là Phật tử! Các ông nên biết những

người ăn thịt đó, dầu cho tâm được khai ngộ, giống như Tam

ma địa, đều là loài La sát, quả báo hết rồi, phải chìm đắm

trong bể khổ, không phải đệ tử Phật. Những người như vậy,

giết nhau, nuốt nhau, ăn nhau chưa thôi, làm sao, lại được ra

khỏi ba cõi. Ông dạy người đời tu phép Tam ma đề, thứ nữa,

phải đoạn lòng sát. Ấy gọi là lời dạy rõ ràng thanh tịnh,

quyết định thứ hai của các đức Như Lai Tiên-Phật Thế Tôn.

Page 138: Sa Môn DI TÙNG - chuaphatquocttt.orgchuaphatquocttt.org/doc/KinhThuLangNghiemRev3.pdf · học, tụng inh Đại 3hật Đảnh thủ /ăng 1ghiêm, đồng thi tham khảo các

136

ậy nên Anan! Nếu không đoạn lòng sát mà tu thiền định,

thì cũng ví như có người tự bịt lỗ tai, cất tiếng kêu to mà

trông mong người khác không nghe; bọn này gọi là muốn

giấu thì càng lộ. àng Tỷ kheo thanh tịnh và các vị Bồ Tát đi

trong đường rẽ, không dẫm cỏ non, huống nữa là lấy tay nhổ

cỏ; làm sao đức Đại bi, lại lấy máu thịt của các chúng sinh,

mà làm đồ ăn?

Nếu các hàng Tỷ kheo không mặc những đồ tơ lụa, là lượt

phương Đông và không dùng những giày dép, áo cừu, áo

len hay các thứ sữa, phó mát, đề hồ, thì những Tỷ kheo

như thế, đối với thế gian, thật là giải thoát, trả hết nợ cũ

xong, thì không vào trong ba cõi nữa, vì cớ sao? ùng những

bộ phận thân thể chúng sinh, thì đều bị ảnh hưởng chúng

sinh, cũng như con người ăn giống bách cốc trong đất, thì

chân không rời khỏi đất. Quyết phải khiến cho thân tâm, đối

với thân thể hay bộ phận thân thể của chúng sinh, đều không

mặc, không ăn, thì những người như thế, Ta mới gọi thật là

giải thoát. Như lời Ta nói đây, gọi là lời nói của Phật; không

như lời nói đó, tức là lời nói của ma Ba tuần."

“Anan! Lại như chúng sanh sáu đường trong thế giới, tâm

không trộm cắp, thì không theo dòng sinh tử tiếp tục. Ông tu

phép Tam Muội, cốt ra khỏi trần lao, nếu lòng trộm cắp

không trừ, thì không thể ra khỏi trần lao được; dầu có nhiều

trí thiền định hiện tiền, nếu không đoạn được lòng trộm cắp,

thì chắc phải lạc vào tà đạo, hạng trên thì thành tinh linh,

hạng giữa thì thành yêu mị, hạng dưới thì thành người tà đạo

bị các loài quỷ mị nhập vào; các bọn tà đạo kia cũng có đồ

chúng, mỗi mỗi tự xưng là thành đạo vô thượng. Sau khi Ta

diệt độ rồi, trong đời Mạt Pháp, có nhiều những hạng yêu mị

tà đạo ấy sôi nổi trong thế gian, chúng lén núp gian dối, tự

xưng là thiện tri thức, mỗi người tự xưng đã được đạo pháp

Page 139: Sa Môn DI TÙNG - chuaphatquocttt.orgchuaphatquocttt.org/doc/KinhThuLangNghiemRev3.pdf · học, tụng inh Đại 3hật Đảnh thủ /ăng 1ghiêm, đồng thi tham khảo các

137

vô thượng, lừa gạt kẻ không biết, dọa dẫm khiến cho mất

lòng chánh tín; chúng đi qua đến đâu, cửa nhà người ta đều

bị hao tổn tan nát. Ta dạy hàng Tỷ kheo theo thứ lớp khất

thực để bỏ lòng tham, thành đạo Bồ Đề. Các hàng Tỷ kheo

không tự nấu ăn, gửi cái sống thừa tạm bợ trong ba cõi, thị

hiện chỉ đi về một phen, đi rồi không trở lại nữa. Làm sao,

bọn giặc mượn y phục đạo Phật, buôn bán Như Lai, gây các

thứ nghiệp mà đều gọi là Phật pháp, lại còn chê bai các vị Tỷ

kheo đầy đủ giới luật xuất gia là đạo Tiểu Thừa; do chúng

làm cho vô lượng chúng sinh mắc phải nghi lầm, nên sẽ bị

đọa vào ngục vô gián.

Sau khi Ta diệt độ rồi, nếu có Tỷ kheo phát tâm quyết định

tu phép Tam ma đề, biết ở trước hình tượng Như Lai, chính

mình thắp một cây đèn, đốt một đốt ngón tay hay ở trên thân,

đốt một điểm hương, Ta nói người ấy, nợ cũ từ vô thủy,

trong một thời trả hết, cáo từ thế gian, thoát hẳn các lậu.

Người ấy, tuy chưa hiểu rõ đạo ô Thượng Giác, nhưng đối

với Phật pháp, tâm đã quyết định; nếu không làm được cái

nhân nhỏ mọn xả thân ấy, thì dầu thành đạo vô vi, cùng phải

lại sinh làm người, trả các nợ cũ, như quả báo ăn lúa ngựa

của Ta, thật không sai khác. Ông dạy người đời tu phép Tam

ma đề, sau nữa, phải đoạn lòng trộm cắp. Ấy gọi là lời dạy rõ

ràng thanh tịnh, quyết định thứ ba của các đức Như Lai Tiên

Phật Thế Tôn.

ậy nên ông Anan! Nếu không đoạn lòng trộm cắp mà tu

thiền định, thì cũng như người lấy nước rót vào chén thủng,

mong cho đầy chén, dầu trải qua kiếp số như vi trần, rốt cuộc

không thể đầy được. Nếu các hàng Tỷ kheo, ngoài y bát ra,

mảy may không tích trữ, xin ăn có dư, thì bố thí cho chúng

sanh đói, nơi nhóm ội lớn, chấp tay vái chào đại chúng, có

người đánh mắng cũng đồng như khen ngợi, quyết định rời

Page 140: Sa Môn DI TÙNG - chuaphatquocttt.orgchuaphatquocttt.org/doc/KinhThuLangNghiemRev3.pdf · học, tụng inh Đại 3hật Đảnh thủ /ăng 1ghiêm, đồng thi tham khảo các

138

bỏ cả thân và tâm, thân thịt xương máu thành sở hữu chúng

của chúng sanh, không đem những lời dạy bất liễu nghĩa của

Như Lai làm chỗ hiểu của mình, khiến cho kẻ sơ học phải

lầm lạc, thì Phật ấn chứng người ấy, thật được Tam muội.

Như lời Ta nói đây, gọi là lời nói của Phật; không như lời nói

đó, tức là lời nói của ma Ba tuần."

“Anan! Chúng sinh sáu đường trong thế giới như thế, tuy nơi

thân tâm không còn sát, đạo, dâm, cả ba hạnh đã được viên

mãn, nếu mắc phải đại vọng ngữ, thì Tam ma địa không

được thanh tịnh, thành giống ma ái kiến và mất giống Như

Lai; tức như chưa được gọi rằng được, chưa chứng gọi rằng

chứng, hoặc để cầu thế gian tôn trọng tột bậc, bảo người

khác rằng: Nay tôi đã được quả Tu đà hoàn, quả Tư đà hàm,

quả A na hàm, đạo A la hán, thừa Bích chi Phật hay các quả

vị Bồ Tát trong thập địa hay trước thập địa, trông mong

người kia lễ sám, tham sự cúng dường. Những tên nhất điên

ca ấy, tự tiêu diệt giống Phật, như người lấy dao chặt cây đa

la; Phật ấn ký người ấy, mất hẳn thiện căn, không còn chánh

tri kiến, chìm đắm trong ba bể khổ, không thành tựu pháp

Tam Muội. Ta bảo các hàng Bồ Tát và A la hán, sau khi Ta

diệt độ rồi, hiện ra ứng thân, sinh trong đời Mạt Pháp kia,

hiện ra nhiều hình tướng khác nhau, để độ những người còn

trong vòng luân hồi, hoặc làm sa môn, bạch y cư sĩ, vua

chúa, quan lại, đồng nam, đồng nữ, như thế cho đến người

dâm nữ, người quả phụ, người gian dối, trộm cắp, người

hàng thịt, buôn bán, để khen ngợi Phật thừa với những người

đồng sự, khiến cho thân tâm của họ vào được Tam ma địa;

nhưng rốt ráo không tự bảo rằng tôi thật là Bồ Tát, thật là A

la hán, khinh xuất nói với những người chưa học, làm tiết lậu

mật nhân của Phật, chỉ trừ đến lâm chung, hoặc chăng, thầm

có những lời di chúc; làm sao, lại còn có lừa gạt chúng sanh,

thành tội đại vọng ngữ. Ông dạy người đời tu phép Tam ma

Page 141: Sa Môn DI TÙNG - chuaphatquocttt.orgchuaphatquocttt.org/doc/KinhThuLangNghiemRev3.pdf · học, tụng inh Đại 3hật Đảnh thủ /ăng 1ghiêm, đồng thi tham khảo các

139

đề, sau rốt phải đoạn trừ các đại vọng ngữ. Ấy gọi là lời dạy

rõ ràng thanh tịnh, quyết định thứ tư của các đức Như Lai

Tiên Phật Thế Tôn.

ậy nên ông Anan! Nếu không đoạn trừ lòng đại vọng ngữ,

thì cũng như khắc phân người làm thành hình cây chiên đàn,

mà muốn được hương thơm, thật không có lẽ nào như vậy.

Ta dạy hàng Tỷ kheo lấy trực tâm làm đạo tràng, trong hết

thảy hành động, nơi bốn uy nghi, còn không có giả dối, làm

sao, lại có kẻ tự xưng đã được đạo pháp thượng nhân! í như

người dân cùng xưng càn là đế vương để tự chuốc lấy sự tru

diệt, huống nữa, là vị Pháp vương, làm sao, lại dám xưng

càn! Nhân đã không thật, quả ắt quanh co, như thế, mà cầu

đạo Bồ Đề của Phật, thì cũng như người muốn cắn rốn, làm

sao, mà thành tựu được. Nếu như các hàng Tỷ kheo, tâm như

dây đàn thẳng, tất cả đều chân thật mà vào Tam ma địa, thì

hẳn không có các ma sự, Ta ấn chứng người đó, thành tựu

được ô Thượng Tri Giác của các hàng Bồ Tát. Như lời Ta

nói đây, gọi là lời nói của Phật; không như lời nói đó, tức là

lời nói của ma Ba tuần."

Page 142: Sa Môn DI TÙNG - chuaphatquocttt.orgchuaphatquocttt.org/doc/KinhThuLangNghiemRev3.pdf · học, tụng inh Đại 3hật Đảnh thủ /ăng 1ghiêm, đồng thi tham khảo các

140

KINH ĐẠI PHẬT ĐẢNH THỦ LĂNG NGHIÊM (T M T T NG N)

Page 143: Sa Môn DI TÙNG - chuaphatquocttt.orgchuaphatquocttt.org/doc/KinhThuLangNghiemRev3.pdf · học, tụng inh Đại 3hật Đảnh thủ /ăng 1ghiêm, đồng thi tham khảo các

141

Quyển VII

Phần 17

Đức Phật khai thị về Mật Giáo

(Lưu ý: Phần này chúng ta đọc kỹ để tăng niềm tin xây dựng

Đàn Tràng Lăng Nghiêm mà tu tập.)

“Anan ! Ông hỏi về nhiếp tâm, Ta nay đã nói: “Để vào Tam

Ma Địa tu học pháp môn nhiệm mầu, cầu Đạo Bồ Đề, trước

hết phải giữ bốn thứ Luật Nghi67

này trong trắng như sương

tuyết, tự không còn sanh mảy mún cành lá. Ba cái của

Tâm68, bốn cái của Miệng

69 không có nhân để sanh ra.

“Anan! Nếu chẳng sai mất bốn Luật Nghi đó thì tâm còn

chẳng duyên theo Sắc, ương, ị, Xúc, cả thảy ma sự làm

sao phát sanh? Nếu có tập khí cũ không thể diệt trừ, ông

dạy người đó nhất tâm trì tụng Thần Chú Vô Thượng

Phật Đảnh Quang Minh “Ma Ha Tát Đát Đa Bát Đát Ra”

của Ta. Đây là Tâm Chú Như Lai ô Kiến Đảnh Tướng,

Phật Tâm ô i, từ đảnh phát huy, ngồi đài sen báu mà

tuyên thuyết ra.

“Như ông đời trước cùng Cô Ma Đăng Già nhân duyên nhiều

kiếp, tập khí ân ái chẳng phải một đời hay một kiếp, song Ta

một phen tuyên dương Thần Chú thì vĩnh viễn thoát khỏi

lòng yêu, thành A La Hán. Nàng kia là dâm nữ, không tâm tu

hành, chỉ nhờ thần lực của Chú ngầm giúp mà thành liền quả

ô ọc, huống gì các ông, những hàng Thanh ăn trong hội,

cầu Tối Thượng Thừa, quyết định thành Phật, ví như tung

bụi vào gió thuận, nào khó khăn gì.

67

Bốn luật nghi căn bản: Sát (giết hại,) Đạo (trộm cắp,) Dâm (tà dâm,)

Vọng (nói dối.) 68

Ba cái tâm: Tham, Sân, Si. 69

Bốn cái của miệng: nói dối, nói thêu dệt, nói hai lưỡi, nói hung ác.

Page 144: Sa Môn DI TÙNG - chuaphatquocttt.orgchuaphatquocttt.org/doc/KinhThuLangNghiemRev3.pdf · học, tụng inh Đại 3hật Đảnh thủ /ăng 1ghiêm, đồng thi tham khảo các

142

“Nếu ở đời mạt thế, có người muốn ngồi đàn tràng tu hành,

trước hãy giữ Cấm Giới Tỳ kheo trong sạch. Cần phải chọn

lựa vị Sa Môn Giới ạnh trong sạch bậc nhất làm thầy. Nếu

chẳng gặp được vị tăng chân thật thanh tịnh thì Giới Luật

Nghi của người tu tất không thành tựu.

“Sau khi Giới được thành tựu, mặc áo mới, sạch, đốt hương,

ở chỗ vắng mà trì tụng Thần Chú nói ra từ Tâm Phật này,

một trăm lẻ tám biến70. Sau đó kiết giới, dựng lập đàn tràng,

cầu xin Chư ô Thượng Như Lai mười phương hiện trụ các

quốc độ phóng quang Đại Bi đến rọi đỉnh đầu. “Anan!

Những hàng Tỳ Kheo, Tỳ Kheo Ni hay hàng Cư sĩ, thí chủ

trong sạch như thế, vào đời mạt thế, tâm dứt tham dâm, giữ

tịnh giới Phật, ở trong đàn tràng, phát nguyện Bồ Đề, ra vào

tắm rửa, sáu thời hành đạo, không lo ngủ nghỉ, như thế

trải qua ba lần bảy ngày, Ta tự hiện thân đến trước

người ấy, xoa đỉnh an ủi, khiến nên Giác Ngộ.”

Khai thị đàn tràng tu chứng

Ngài Anan bạch Phật: “Thưa Thế Tôn, con nhớ lời dạy bảo

Từ Bi ô Thượng của Như Lai, tâm tự khai ngộ, tự biết tu

chứng, thành Đạo ô ọc. Còn người tu hành đời Mạt Pháp

muốn lập đàn tràng, thế nào mà kiết giới cho hợp với pháp

tắc trong sạch của Chư Phật Thế Tôn ?”

Phật dạy ngài Anan: “Người đời Mạt Pháp, nguyện lập đàn

tràng, trước hết kiếm con trâu trắng sức mạnh ở núi Tuyết

Sơn, sống bằng cỏ thơm non mướt, loài trâu trắng này chỉ

uống nước trong của núi Tuyết Sơn, phân rất nhuyễn mịn.

Nên lấy phân đó hòa trộn với bột hương Chiên Đàn để tráng

nền đất. Nếu không phải là loài trâu trắng ở Tuyết Sơn thì

70

Phải tụng toàn bộ Tâm Chú gồm ngũ đệ (năm phần) một trămm lẽ tám

(108) lần trước khi xây dựng đàn tràng.

Page 145: Sa Môn DI TÙNG - chuaphatquocttt.orgchuaphatquocttt.org/doc/KinhThuLangNghiemRev3.pdf · học, tụng inh Đại 3hật Đảnh thủ /ăng 1ghiêm, đồng thi tham khảo các

143

phân hôi bẩn71, không thể tráng nền. Riêng ở đồng bằng, có

thể đào bỏ lớp đất trên mặt, lấy đất sét vàng từ năm thước trở

xuống rồi hòa trộn với hương Chiên Đàn, trầm thủy, tô hợp,

hồng lục, uất kim, bạch giao, thanh mộc, linh lăng, can tùng

và kê thiệt. Mười thứ ấy rây nghiền thành bột, trộn với đất

sét để làm nền đàn tràng, mỗi bề một trượng sáu, thành cái

đàn bát Giác.

“Trung tâm đàn đặt một cái bát, trong bát đựng nước sương

móc tháng Tám. Trong nước tùy ý để các hoa lá hiện có. Lấy

tám cái gương tròn, mỗi cái để theo mỗi hướng, chung quanh

cái bát hoa. Bên ngoài gương, dựng lập mười sáu hoa sen,

mười sáu lư hương, giữa chưng bày hoa. Các lư hương đều

trang nghiêm, đốt thuần bằng trầm thủy, không cho thấy lửa.

Lấy sữa trâu trắng để trong mười sáu đồ chứa. Lấy sữa làm

bánh với đường cát, bánh rán, váng sữa, tô hợp, mật gừng,

thuần kem, thuần mật, mỗi thứ mười sáu cái đặt quanh ngoài

hoa sen để cùng dâng Chư Phật và các Đại Bồ Tát. Mỗi giờ

ăn cơm và lúc nửa đêm dùng nửa thăng mật hòa với thăng

rưỡi váng sữa (bơ). Trước đàn để riêng một lò lửa nhỏ, lấy

hương Đâu Lâu Bà nấu lấy nước thơm mà rửa than, đốt cho

cháy hừng, rót mật bỏ vào, đốt cho hết khói, cúng dường

Phật và Bồ Tát.

Ở bốn phía ngoài, treo khắp phan, hoa; ở trong nhà đàn, bốn

vách chưng bày các hình tượng của mười phương Như Lai

và các vị Bồ Tát. Chính giữa để tượng Phật Lô Xá Na! Phật

Thích Ca, Phật i Lặc, Phật A Súc, Phật A i Đà; hai bên

71

Ngày xưa làm nền bằng đất. Ý chính đức Phật dạy là làm đàn tràng

phải dùng vật liệu tinh khiết. Áp dụng ý chính này, các Chùa thuộc hệ

thống Thanh Tịnh Tâm đã xây dựng được cho đến nay (năm 2015) năm

đàn tràng để tu tập và được thành tựu, có nghĩa là “thực chứng” được

những gì đức Phật dạy trong Kinh là có.

Page 146: Sa Môn DI TÙNG - chuaphatquocttt.orgchuaphatquocttt.org/doc/KinhThuLangNghiemRev3.pdf · học, tụng inh Đại 3hật Đảnh thủ /ăng 1ghiêm, đồng thi tham khảo các

144

đặt tượng Đức Quan Âm Đại Biến óa và Kim Cang Tạng

Bồ Tát. ai bên cửa để hình tượng Đế Thích, Phạm ương,

Ô Sô Sắt Ma, Lam Địa Ca, Quân Trà Lợi, Tỳ Câu Chi, bốn

vị Thiên ương, Tần Na ạ Ca... Lại dùng tám cái gương

treo úp giữa hư không, đối chiếu với tám gương trước trong

đàn tràng, khiến cho hình ảnh lồng nhập vào nhau nhiều lớp.

Trong bảy ngày đầu, chí thành đảnh lễ danh hiệu mười

phương Như Lai, Chư Đại Bồ Tát, Chư A La án. Thường

trong sáu thời đi quanh đàn tụng Chú, hết lòng hành Đạo,

mỗi thời trì một trăm lẻ tám biến. Trong bảy ngày thứ hai,

một mặt chuyên tâm phát nguyện Bồ Tát, tâm không gián

đoạn. Trong Luật Tạng của Ta đã có chỉ dạy về nguyện.

Trong bảy ngày thứ ba, trong cả mười hai thời (?), một bề

trì Chú Bát Đát Ra của Phật. Cho đến ngày thứ bảy, mười

phương Như Lai nhất thời xuất hiện chỗ ánh sáng của

gương giao nhau, được Phật xoa đảnh; bèn ở nơi đạo

tràng tu Tam Ma Địa, có thể khiến cho hạng tu học đời

mạt thế thân tâm sáng sạch như ngọc lưu ly.

“Anan! Nếu vị Giới Sư mà vị Tỳ Kheo thọ giới hay một

trong mười vị Giới Sư chứng minh không được thanh tịnh thì

những đạo tràng đó phần nhiều chẳng được thành tựu. Sau

hai mươi mốt ngày, ngồi nghiêm chỉnh an cư. Trải qua

một trăm ngày, những người có lợi căn không rời khỏi

chỗ ngồi mà đắc quả Tu Đà Hoàn. Dầu cho thân tâm

thánh quả chưa thành, vẫn quyết định tự biết thành Phật

không sai lầm. “Ông hỏi về Đàn Tràng, kiến lập như thế.”

Tuyên thuyết Thần Chú

Ngài Anan đảnh lễ chân Phật, bạch rằng: “Từ khi xuất gia,

con ỷ lại sự thương yêu của Phật, vì cầu sự đa văn nên chưa

chứng vô vi. Gặp sự trói buộc của tà thuật Phạm Thiên, tâm

Page 147: Sa Môn DI TÙNG - chuaphatquocttt.orgchuaphatquocttt.org/doc/KinhThuLangNghiemRev3.pdf · học, tụng inh Đại 3hật Đảnh thủ /ăng 1ghiêm, đồng thi tham khảo các

145

tuy sáng suốt mà sức chẳng tự do. Nhờ gặp Ngài ăn Thù

khiến con được giải thoát. Tuy nhờ Phật Đảnh Thần Chú

Như Lai âm thầm giúp sức, nhưng chính mình chưa được

nghe. Mong Bậc Đại Từ tuyên thuyết trở lại, thương xót cứu

giúp cho những người tu hành trong hội này cho đến những

người còn trong luân hồi ở đời sau nhờ mật âm Phật mà thân

ý giải thoát.” Khi ấy, hết thảy đại chúng trong hội đều làm lễ,

chờ nghe chương cú bí mật của Như Lai.

Bấy giờ, Thế Tôn từ đảnh phóng ra hào quang trăm báu,

trong hào quang phóng ra hoa sen báu ngàn cánh, có Hóa

Thân Như Lai ngồi trong hoa sen, trên đảnh phóng mười

đạo hào quang trăm báu, mỗi mỗi hào quang đều thị hiện

khắp mười hằng hà sa Kim Cang Mật Tích đỡ núi, cầm chữ

khắp cõi hư không. Đại chúng ngước trông, sợ mừng hòa

lẫn, xin Phật thương che, nhất tâm lắng nghe Như Lai ô

Kiến Đảnh Tướng phóng quang Phật tuyên thuyết Thần Chú:

Đệ Nhất

1.- Nam mô tát đát tha, tô già đa da, a la ha đế, tam miệu tam

bồ đà tỏa.

2.- Nam mô tát đát tha, Phật đà câu tri sắc ni sam.

3.- Nam mô tát bà, bột đà bột địa, tát đa bệ tệ.

4.- Nam mô tát đa nẫm, tam miệu tam bồ đà cu tri nẫm.

5.- Ta xá ra bà ca, tăng già nẫm.

6.- Nam mô lô kê A la hán đa nẫm.

7.- Nam mô tô lô đa ba na nẫm.

8.- Nam mô ta yết rị đà già di nẫm.

9.- Nam mô lô kê tam miệu già đa nẫm.

10.- Tam miệu già ba ra, để ba đa na nẩm.

11.- Nam mô đề bà ly sắc nỏa.

12.- Nam mô tất đà da, tỳ địa da, đà ra ly sắt nỏa.

13.- Xá ba noa, yết ra ha, ta ha ta ra ma tha nẩm.

Page 148: Sa Môn DI TÙNG - chuaphatquocttt.orgchuaphatquocttt.org/doc/KinhThuLangNghiemRev3.pdf · học, tụng inh Đại 3hật Đảnh thủ /ăng 1ghiêm, đồng thi tham khảo các

146

14.- Nam mô bạt ra ha ma ni.

15.- Nam mô nhơn đà ra da.

16.- Nam mô bà già bà đế.

17.- Lô đà ra da.

18.- Ô ma bát đế.

19.- Ta hê dạ da.

20.- Nam mô bà già bà đế.

21.- Na ra dã noa da.

22.- Bàn giá ma ha tam mộ đà ra.

23.- Nam mô tất yết rị đa da.

24.- Nam mô bà già bà đế.

25.- Ma ha ca ra da.

26.- Địa rị bát lặc na già ra.

27.- Tỳ đà ra ba noa ca ra da.

28.- A địa mục đế.

29.- Thi ma xá na nê bà tất nê.

30.- Ma đát rị già noa.

31.- Nam mô tất yết rị đa da.

32.- Nam mô bà già bà đế.

33.- Đa tha già đa cu ra da.

34.- Nam mô bát đầu ma cu ra da.

35.- Nam mô bạc xà la cu ra da.

36.- Nam mô ma ni cu ra da.

37.- Nam mô già xà cu ra da.

38.- Nam mô bà già bà đế.

39.- Đế rị trà du ra tây na.

40.- Ba ra ha ra noa ra xà da.

41.- Đa tha già đa da.

42.- Nam mô bà già bà đế.

43.- Nam mô a di đa bà da.

44.- Đá tha dà đa da.

45.- A ra ha đế.

Page 149: Sa Môn DI TÙNG - chuaphatquocttt.orgchuaphatquocttt.org/doc/KinhThuLangNghiemRev3.pdf · học, tụng inh Đại 3hật Đảnh thủ /ăng 1ghiêm, đồng thi tham khảo các

147

46.- Tam miệu tam bồ đà da.

47.- Nam mô bà già bà đế.

48.- A sô bệ da.

49.- Đá tha già đa da.

50.- A ra ha đế.

51.- Tam miệu tam bồ đà da.

52.- Nam mô bà già bà đế.

53.- Bệ sa xà da, cu lô phệ trụ rị da.

54.- Bát ra bà ra xà da.

55.- Đá tha già đa da.

56.- Nam mô bà già bà đế.

57.- Tam bổ sư bí đa.

58.- Bát lân nại ra lặc xà da.

59.- Đá tha già đa da.

60.- A ra ha đế.

61.- Tam miệu tam bồ đà da.

62.- Nam mô bà già bà đế.

63.- Xá kê dã mẫu na duệ.

64.- Đá tha già đa da.

65.- A ra ha đế.

66.- Tam miệu tam bồ đà da.

67.- Nam mô bà già bà đế.

68.- Lặc đác na kê đô ra xà da.

69.- Đá tha già đa da.

70.- A ra ha đế.

71.- Tam miệu tam bồ đà da.

72.- Đế biều, Nam mô tát yết rị đa.

73.- Ế đàm bà già bà đa.

74.- Tát đát tha già đô sắt ni sam.

75.- Tát đát đa bác đát lam.

76.- Nam mô a bà ra thị đam.

77.- Bát ra đế, dương kỳ ra.

Page 150: Sa Môn DI TÙNG - chuaphatquocttt.orgchuaphatquocttt.org/doc/KinhThuLangNghiemRev3.pdf · học, tụng inh Đại 3hật Đảnh thủ /ăng 1ghiêm, đồng thi tham khảo các

148

78.- Tát ra bà bộ đa yết ra ha.

79.- Ni yết ra ha, yết ca ra ha ni.

80.- Bạc ra bí địa da, sách đà nể.

81.- A ca ra, mật rị trụ.

82.- Bát rị đát ra da, nảnh yết rị.

83.- Tát ra bà, bàn đà na, mục xoa ni.

84.- Tát ra bà, đột sắt tra.

85.- Đột tất phạp, bát na nể, phạt ra ni.

86.- Giả đô ra, thất đế nẩm.

87.- Yết ra ha, ta ha tát ra nhã xà.

88.- Tỳ đa băng ta na yết rị.

89.- A sắc tra băng xá đế nẩm.

90.- Na xoa sát đát ra nhã xà.

91.- Ba ra tát đà na yết rị.

92.- A sắt tra nẩm.

93.- Ma ha yết ra ha nhã xà.

94.- Tỳ đa băng tát na yết rị.

95.- Tát bà xá đô lô, nể bà ra nhã xà.

96.- ô lam đột tất phạp, nan giá na xá ni.

97.- Bí Ta xá, tát đác ra.

98.- A kiết ni, ô đà ca ra nhã xà.

99.- A bát ra thị đa cu ra.

100.- Ma ha bát ra chiến trì.

101.- Ma ha điệp đa.

102.- Ma ha đế xà.

103.- Ma ha thuế đa xà bà ra.

104.- Ma ha bạt ra bàn đà ra, bà tất nể.

105.- A rị da đa ra.

106.- Tỳ rị cu tri.

107.- Thệ bà tỳ xà da.

108.- Bạt xà ra ma lễ để.

109.- Tỳ xá lô đa.

Page 151: Sa Môn DI TÙNG - chuaphatquocttt.orgchuaphatquocttt.org/doc/KinhThuLangNghiemRev3.pdf · học, tụng inh Đại 3hật Đảnh thủ /ăng 1ghiêm, đồng thi tham khảo các

149

110.- Bột đằng võng ca.

111.- Bạt xà ra chế hắt na a giá.

112.- Ma ra chế bà, bát ra chất đa.

113.- Bạt xà ra thiện trì.

114.- Tỳ xá ra giá.

115.- Phiến đa xá, bệ đề bà, bổ thị đa.

116.- Tô ma lô ba.

117.- Ma ha thuế đa.

118.- A rị da đa ra.

119.- Ma ha bà ra a bác ra.

120.- Bạt xà ra thương yết ra chế bà.

121.- Bạt xà ra cu ma rị.

122.- Cu lam đà rị.

123.- Bạt xà ra hắc tát đa giá.

124.- Tỳ địa da, kiền giá na, ma rị ca.

125.- Khuất tô mẫu, bà yết ra đá na.

126.- Bệ lô giá na, cu rị da.

127.- Dạ ra thố, sắc ni sam.

128.- Tỳ chiết lam bà ma ni giá.

129.- Bạt xà ra, ca na, ca ba ra bà.

130.- Lô xà na, bạt xà ra, đốn trĩ giá.

131.- Thuế đa giá, ca ma ra.

132.- Sát xa thi, ba ra bà.

133.- Ế đế di đế.

134.- Mẫu đà ra, yết noa.

135.- Ta bệ ra sám.

136.- Quật phạm đô.

137.- Ấn thố na mạ mạ tả.

Đệ Nhị

138.- Ô hồng.

139.- Rị sắt yết noa.

Page 152: Sa Môn DI TÙNG - chuaphatquocttt.orgchuaphatquocttt.org/doc/KinhThuLangNghiemRev3.pdf · học, tụng inh Đại 3hật Đảnh thủ /ăng 1ghiêm, đồng thi tham khảo các

150

140.- Bát lặc xá tất đa.

141.- Tát đát tha, già đô sắt ni sam.

142.- Hổ hồng.

143.- Đô lô ung.

144.- Chiêm bà na.

145.- Hổ hồng.

146.- Đô lô ung.

147.- Tất đam bà na.

148.- Hổ hồng.

149.- Đô lô ung.

150.- Ba ra sắc địa da, tam bác xá, noa yết ra.

151.- Hổ hồng.

152.- Đô lô ung.

153.- Tát bà dược xoa, hắc ra sát ta.

154.- Yết ra ha nhã xà

155.- Tỳ đằng băng tát na yết ra.

156.- Hổ hồng.

157.- Đô lô ung.

158.- Giả đô ra, thi để nẩm.

159.- Yết ra ha, ta ha tát ra nẩm.

160.- Tỳ đằng băng tát na ra.

161.- Hổ hồng.

162.- Đô lô ung.

163.- Ra xoa.

164.- Bà già phạm.

165.- Tát đát tha, già đô sắt ni sam.

166.- Ba ra điểm, xà kiết rị.

167.- Ma ha ta ha tát ra

168.- Bột thọ ta ha tát ra, thất rị sa.

169.- Cu tri ta ha tát nê đế lệ.

170.- A tệ đề thị, ba rị đa.

171.- Tra tra anh ca.

Page 153: Sa Môn DI TÙNG - chuaphatquocttt.orgchuaphatquocttt.org/doc/KinhThuLangNghiemRev3.pdf · học, tụng inh Đại 3hật Đảnh thủ /ăng 1ghiêm, đồng thi tham khảo các

151

172.- Ma ha bạt xà lô đà ra.

173.- Đế rị, bồ bà na.

174.- Mạn trà ra.

175.- Ô hồng.

176.- Ta tất đế, bạc bà đô.

177.- Mạ mạ.

178.- Ấn thố na mạ mạ tỏa.

Đệ Tam

179.- Ra xà bà dạ.

180.- Chủ ra bạt dạ.

181.- A kỳ ni bà dạ.

182.- Ô đà ca bà dạ.

183.- Tỳ xa bà dạ.

184.- Xá tát đa ra bà dạ.

185.- Bà ra chước yết ra bà dạ.

186.- Đột sắt xoa bà dạ.

187.- A xá nể bà dạ.

188.- A ca ra, mật rị trụ bà dạ.

189.- Đà ra ni, bộ di kiếm, ba già ba đà bà dạ

190.- Ô ca ra, bà đa bà dạ.

191.- Lặc xà đàn trà bà dạ.

192.- Na già bà dạ.

193.- Tỳ điều đát bà dạ.

194.- Tô ba ra noa bà dạ.

195.- ược xoa yết ra ha.

196.- Ra xoa tư yết ra ha.

197.- Tất rị đa yết ra ha

198.- Tỳ xá giá yết ra ha.

199.- Bộ đa yết ra ha.

200.- Cưu bàn trà yết ra ha.

201.- Bổ đơn na yết ra ha.

Page 154: Sa Môn DI TÙNG - chuaphatquocttt.orgchuaphatquocttt.org/doc/KinhThuLangNghiemRev3.pdf · học, tụng inh Đại 3hật Đảnh thủ /ăng 1ghiêm, đồng thi tham khảo các

152

202.- Ca tra bổ đơn na yết ra ha.

203.- Tất kiền độ yết ra ha.

204.- A bá tất ma ra yết ra ha.

205.- Ô đàn ma đà yết ra ha.

206.- Xa dạ yết ra ha.

207.- Hê rị bà đế yết ra ha.

208.- Xả đa ha rị nẩm.

209.- Yết bà ha rị nẩm.

210.- Lô địa ra ha rị nẩm.

211.- Mang ta ha rị nẩm.

212.- Mê đà ha rị nẩm.

213.- Ma xà ha rị nẩm.

214.- Xà đa ha rị nữ.

215.- Thị tỷ đa ha rị nẩm.

216.- Tỳ đa ha rị nẩm.

217.- Bà đa ha rị nẩm.

218.- A du giá ha rị nữ.

219.- Chất đa ha rị nữ.

220.- Đế sam tát bệ sam.

221.- Tát bà yết ra ha nẩm.

222.- Tỳ đà dạ xà, sân đà dạ di.

223.- Kê ra dạ di.

224.- Ba rị bạt ra giả ca, hất rị đởm.

225.- Tỳ đà dạ xà, sân đà dạ di.

226.- Kê ra dạ di.

227.- Trà diễn ni, hất rị đởm.

228.- Tỳ đà dạ xà, sân đà dạ di.

229.- Kê ra dạ di.

230.- Ma ha bát du bát đát dạ.

231.- Lô đà ra, hất rị đởm.

232.- Tỳ đà dạ xà, sân đà dạ di.

233.- Kê ra dạ di.

Page 155: Sa Môn DI TÙNG - chuaphatquocttt.orgchuaphatquocttt.org/doc/KinhThuLangNghiemRev3.pdf · học, tụng inh Đại 3hật Đảnh thủ /ăng 1ghiêm, đồng thi tham khảo các

153

234.- Na ra dạ noa, hất rị đởm.

235.- Tỳ đà dạ xà, sân đà dạ di.

236.- Kê ra dạ di.

237.- Đát đỏa già lô trà tây, hất rị đởm.

238.- Tỳ đà dạ xà, sân đà dạ di.

239.- Kê ra dạ di.

240.- Ma ha ca ra, ma đát rị già noa, hất rị đởm.

241.- Tỳ đà dạ xà, sân đà dạ di.

242.- Kê ra dạ di.

243.- Ca ba rị ca, hất rị đảm.

244.- Tỳ đà dạ xà, sân đà dạ di.

245.- Kê ra dạ di.

246.- Xà dạ yết ra, ma độ yết ra.

247.- Tát bà ra tha ta đạt na, hất rị đởm.

248.- Tỳ đà dạ xà, sân đà dạ di.

249.- Kê ra dạ di.

250.- Giả đốt ra bà kỳ nể, hất rị đởm.

251.- Tỳ đà dạ xà, sân đà dạ di.

252.- Kê ra dạ di.

253.- Tỳ rị dương hất rị tri.

254.- Nan đà kê sa ra, dà noa bác đế.

255.- Sách hê dạ, hất rị đởm.

256.- Tỳ đà dạ xà, sân đà dạ di.

257.- Kê ra dạ di.

258.- Na yết na xá ra bà noa, hất rị đởm.

259.- Tỳ đà dạ xà, sân đà dạ di.

260.- Kê ra dạ di.

261.- A la hán, hất rị đởm, tỳ đà dạ xà, sân đà dạ di.

262.- Kê ra dạ di.

263.- Tỳ đa ra già, hất rị đởm.

264.- Tỳ đà dạ xà, sân đà dạ di.

265.- Kê ra dạ di, bạt xà ra ba nể.

Page 156: Sa Môn DI TÙNG - chuaphatquocttt.orgchuaphatquocttt.org/doc/KinhThuLangNghiemRev3.pdf · học, tụng inh Đại 3hật Đảnh thủ /ăng 1ghiêm, đồng thi tham khảo các

154

266.- Cụ hê dạ, cụ hê dạ.

267.- Ca địa bát đế, hất rị đởm.

268.- Tỳ đà dạ xà, sân đà dạ di.

269.- Kê ra dạ di.

270.- Ra xoa võng.

271.- Bà già phạm.

272.- Ấn thố na mạ mạ tỏa.

Đệ Tứ

273.- Bà già phạm.

274.- Tát đát đa bát đát ra.

275.- Nam mô tý đô đế.

276.- A tất đa na ra lặc ca.

277.- Ba ra bà, tất phổ tra.

278.- Tỳ ca tát đát đa bát đế rị.

279.- Thập Phật ra, thập Phật ra.

280.- Đà ra đà ra.

281.- Tần đà ra tần đà ra, sân đà sân đà.

282.- Hổ hồng.

283.- Hổ hồng.

284.- Phấn tra.

285.- Phấn tra, phấn tra, phấn tra, phấn tra.

286.- Ta ha.

287.- Hê hê phấn.

288.- A mâu ca da phấn.

289.- A ba ra đề ha đa phấn.

290.- Bà ra bà ra đà phấn.

291.- A tố ra, tỳ đà ra, ba ca phấn.

292.- Tát bà đề bệ tệ phấn.

293.- Tát bà na già tệ phấn.

294.- Tát bà dược xoa tệ phấn.

295.- Tát bà kiền thát bà tệ phấn.

Page 157: Sa Môn DI TÙNG - chuaphatquocttt.orgchuaphatquocttt.org/doc/KinhThuLangNghiemRev3.pdf · học, tụng inh Đại 3hật Đảnh thủ /ăng 1ghiêm, đồng thi tham khảo các

155

296.- Tát bà bổ đan na tệ phấn.

297.- Ca tra bổ đan na tệ phấn.

298.- Tát bà đột lang chỉ đế tệ phấn.

299.- Tát bà đột sáp tỷ lê, hất sắc đế tệ phấn.

300.- Tát bà thập bà lê tệ phấn.

301.- Tát bà a bá tất ma lê tệ phấn.

302.- Tát bà xá ra bà noa tệ phấn.

303.- Tát bà địa đế kê tệ phấn.

304.- Tát bà đát ma đà kê tệ phấn.

305.- Tát bà tỳ đà da, ra thệ giá lê tệ phấn.

306.- Xà dạ yết ra, ma độ yết ra.

307.- Tát bà ra tha ta đà kê tệ phấn.

308.- Tỳ địa dạ, giá lê tệ phấn.

309.- Giả đô ra, phược kỳ nể tệ phấn.

310.- Bạt xà ra, cu ma rị.

311.- Tỳ đà dạ, ra thệ tệ phấn.

312.- Ma ha ba ra đinh dương, xoa kỳ rị tệ phấn.

313.- Bạt xà ra thương yết ra dạ.

314.- Ba ra trượng kỳ ra xà da phấn.

315.- Ma ha ca ra dạ.

316.- Ma ha mạt đát rị ca noa.

317.- Nam mô ta yết rị đa dạ phấn.

318.- Tỷ sắc noa tỳ duệ phấn.

319.- Bột ra ha mâu ni duệ phấn.

320.- A kỳ ni duệ phấn.

321.- Ma ha yết rị duệ phấn.

322.- Yết ra đàn trì duệ phấn.

323.- Miệc đát rị duệ phấn.

324.- Lao đát rị duệ phấn.

325.- Giá văn trà duệ phấn.

326.- Yết la ra đát rị duệ phấn.

327.- Ca bát rị duệ phấn.

Page 158: Sa Môn DI TÙNG - chuaphatquocttt.orgchuaphatquocttt.org/doc/KinhThuLangNghiemRev3.pdf · học, tụng inh Đại 3hật Đảnh thủ /ăng 1ghiêm, đồng thi tham khảo các

156

328.- A địa mục chất đa, ca thi ma xá na.

329.- Bà tư nể duệ phấn.

330.- Diễn kiết chất.

331.- Tát đỏa bà tỏa.

332.- Mạ mạ, ấn thố na mạ mạ tỏa.

Đệ Ngũ

333.- Đột sắc tra chất đa.

334.- A mạt đát rị chất đa.

335.- Ô xà ha ra.

336.- Già bà ha ra.

337.- Lô địa ra ha ra.

338.- Ta bà ha ra.

339.- Ma xà ha ra.

340.- Xà đa ha ra.

341.- Thị tỷ đa ha ra.

342.- Bạt lược dạ ha ra.

343.- Kiền đà ha ra.

344.- Bố sử ba ha ra.

345.- Phả ra ha ra.

346.- Bà tỏa ha ra.

347.- Bát ba chất đa.

348.- Đột sắc tra chất đa.

349.- Lao đà ra chất đa.

350.- ược xoa yết ra ha.

351.- Ra sát ta yết ra ha.

352.- Bế lệ đa yết ra ha.

353.- Tỳ xá giá yết ra ha.

354.- Bộ đa yết ra ha.

355.- Cưu bàn trà yết ra ha.

356.- Tất kiền đà yết ra ha.

357.- Ô đát ma đà yết ra ha.

Page 159: Sa Môn DI TÙNG - chuaphatquocttt.orgchuaphatquocttt.org/doc/KinhThuLangNghiemRev3.pdf · học, tụng inh Đại 3hật Đảnh thủ /ăng 1ghiêm, đồng thi tham khảo các

157

358.- Xà dạ yết ra ha.

359.- A bá tất ma ra yết ra ha.

360.- Trạch khê cách, trà kỳ ni yết ra ha.

361.- Rị Phật đế yết ra ha.

362.- Xà di ca yết ra ha.

363.- Xá cu ni yết ra ha.

364.- Lao đà ra, nan địa ca yết ra ha.

365.- A lam bà yết ra ha.

366.- Kiền độ ba ni yết ra ha.

367.- Thập phạt ra, yên ca hê ca.

368.- Trị đế dược ca.

369.- Đát lệ đế dược ca.

370.- Giả đột thác ca.

371.- Ni đề thập phạt ra, tỷ sam ma thập phạt ra.

372.- Bạc để ca.

373.- Tỷ để ca.

374.- Thất lệ sắt mật ca.

375.- Ta nể bát để ca.

376.- Tát bà thập phạt ra.

377.- Thất lô kiết đế.

378.- Mạt đề bệ đạt lô chế kiếm.

379.- A ỷ lô kiềm.

380.- Mục khê lô kiềm.

381.- Yết rị đột lô kiềm.

382.- Yết ra ha yết lam.

383.- Yết noa du lam.

384.- Đàn đa du lam.

385.- Hất rị dạ du lam.

386.- Mạt mạ du lam.

387.- Bạt rị thất bà du lam.

388.- Tỷ lật sắc tra du lam.

389.- Ô đà ra du lam.

Page 160: Sa Môn DI TÙNG - chuaphatquocttt.orgchuaphatquocttt.org/doc/KinhThuLangNghiemRev3.pdf · học, tụng inh Đại 3hật Đảnh thủ /ăng 1ghiêm, đồng thi tham khảo các

158

390.- Yết tri du lam.

391.- Bạt tất đế du lam.

392.- Ô lô du lam.

393.- Thường già du lam.

394.- Hắc tất đa du lam.

395.- Bạt đà du lam.

396.- Ta phòng án già, bát ra trượng già du lam.

397.- Bộ đa tỷ đa trà.

398.- Trà kỳ ni thập bà ra.

399.- Đà đột lô ca, kiến đốt lô kiết tri, bà lộ đa tỳ.

400.- Tát bát lô, ha lăng già.

401.- u sa đát ra, ta na yết ra.

402.- Tỳ sa dụ ca.

403.- A kỳ ni, ô đà ca.

404.- Mạt ra bệ ra, kiến đá ra.

405.- A ca ra, mật rị đốt, đát liểm bộ ca.

406.- Địa lật lặc tra.

407.- Tỷ rị sắt chất ca.

408.- Tát bà na cu ra.

409.- Tứ dẫn già bệ, yết ra rị dược xoa, đác ra sô.

410.- Mạt ra thị, phệ đế sam, ta bệ sam.

411.- Tất đát đa bác đát ra.

412.- Ma ha bạt xà lô, sắc ni sam.

413.- Ma ha bác lặc trượng kỳ lam.

414.- Dạ ba đột đà, xá dụ xà na.

415.- Biện đát lệ noa.

416.- Tỳ đà da, bàn đàm ca lô di.

417.- Đế thù, bàn đàm ca lô di.

418.- Bát ra tỳ đà, bàn đàm ca lô di.

419.- Đát điệt tha.

420.- Úm.

421.- A na lệ.

Page 161: Sa Môn DI TÙNG - chuaphatquocttt.orgchuaphatquocttt.org/doc/KinhThuLangNghiemRev3.pdf · học, tụng inh Đại 3hật Đảnh thủ /ăng 1ghiêm, đồng thi tham khảo các

159

422.- Tỳ xá đề.

423.- Bệ ra, bạt xà ra, đà rị.

424.- Bàn đà bàn đà nể.

425.- Bà xà ra, bàn ni phấn.

426.- Hổ hồng, đô lô ung phấn.

427.- Ta bà ha.

“Anan! đây là Phật Đảnh Quang Tụ Tất Đát Đa Bát Đát

Ra (SITATAPATRA), bí mật Già Đà, vi diệu chương cú,

xuất sanh tất cả mười phương Chư Phật. Mười phương Như

Lai nhân Tâm Chú này đắc thành ô thượng Chánh Biến Tri

Giác. Mười phương Như Lai nắm Tâm Chú này hàng phục

các ma, chế dẹp ngoại đạo. Mười phương Như Lai cỡi Tâm

Chú này ngồi hoa sen báu mà ứng hiện vi trần quốc độ.

Mười phương Như Lai ngậm Tâm Chú này chuyển Đại Pháp

Luân trong vi trần quốc độ. Mười phương Như Lai trì Tâm

Chú này, ở khắp mười phương xoa đảnh thọ ký, tự quả của

mình chưa thành cũng ở nơi mười phương nhờ Phật thọ ký.

Mười phương Như Lai y Tâm Chú này, thường khắp mười

phương nhổ cứu các khổ như là địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh,

đui điếc, câm ngọng, oán ghét ở chúng khổ, thương phải xa

cách khổ, cầu chẳng được khổ, khổ vì năm ấm lẫy lừng, trái

ngang lớn nhỏ đồng thời giải thoát. Nạn cướp, nạn binh, nạn

vua, nạn ngục, nạn nước, gió, lửa, đói khát bần cùng ứng

niệm tiêu tan. Mười phương Như Lai tùy Tâm Chú này ở

khắp mười phương phụng sự thiện tri thức, trong bốn oai

nghi, cúng dường như ý, trong pháp hội hằng sa Như Lai

được suy tôn là Đại Pháp ương Tử. Mười phương Như Lai

được Tâm Chú này ở khắp mười phương nhiếp thọ thân

nhân, khiến cho hàng Tiểu Thừa nghe tạng bí mật chẳng

sanh kinh sợ. Mười phương Như Lai tụng Tâm Chú này

thành ô Thượng Giác, ngồi cội Bồ Đề, nhập Đại Niết Bàn.

Mười phương Như Lai truyền Tâm Chú này, sau khi diệt độ,

Page 162: Sa Môn DI TÙNG - chuaphatquocttt.orgchuaphatquocttt.org/doc/KinhThuLangNghiemRev3.pdf · học, tụng inh Đại 3hật Đảnh thủ /ăng 1ghiêm, đồng thi tham khảo các

160

phó chúc Phật pháp sự, trụ trì rốt ráo, nghiêm tịnh Giới Luật,

tất hẳn đắc thanh tịnh.

“Nếu Ta nói về Chú Phật Đảnh Quang Tụ Bát Đát Ra này

thì dù âm thanh liên tục, câu chữ không lập lại, từ sáng đến

tối, trải qua hằng sa kiếp cũng không thể cùng tận. Chú này

cũng gọi tên là Như Lai Đảnh. àng ữu ọc các ông chưa

hết luân hồi, phát tâm chí thành cầu quả A La án mà không

trì Chú này thì không thể nào ngồi đạo tràng khiến cho thân

tâm xa lìa các ma sự được.

“Này Anan! Như các thế giới, theo chỗ cõi nước có chúng

sanh tùy theo sản vật nước mình có: vỏ cây hoa, lá bối, giấy

trắng, lụa bạch mà viết chép Chú này, đựng trong túi hương.

Người này tâm u tối chưa thể tụng nhớ thì mang trong người

hoặc viết trong nhà, phải biết rằng người đó suốt đời không

bị tất cả các thứ độc làm hại. “Anan! Nay Ta vì ông nói lại

Chú này để cứu hộ thế gian được Đại ô Úy và thành tựu Trí

Xuất Thế Gian của chúng sanh.

“Như sau khi Ta diệt độ, chúng sanh đời mạt thế có người tự

tụng hay dạy người khác tụng, phải biết những chúng sanh

trì tụng như thế: lửa không thể thiêu; nước chẳng thể chìm;

độc yếu, độc mạnh không thể hại được. Cho đến các Chú ác

dữ của Thiên, Long, Quỷ, Thần, Tinh kỳ, Ma mị đều không

làm gì nổi, tâm được Chánh Thọ. Tất cả bùa chú, trùng độc,

thuốc độc, kim khí độc địa, cỏ cây, trùng rắn, khí độc muôn

thứ vào trong miệng người ấy đều thành vị cam lồ. ết thảy

ác tinh cùng các quỷ thần lòng dữ hại người, đối với người

ấy không thể khởi ra niệm ác. Tần Na ạ Ca, các quỷ vương

ác độc cùng với quyến thuộc đều chịu ơn sâu, thường ủng hộ

che chở.

Page 163: Sa Môn DI TÙNG - chuaphatquocttt.orgchuaphatquocttt.org/doc/KinhThuLangNghiemRev3.pdf · học, tụng inh Đại 3hật Đảnh thủ /ăng 1ghiêm, đồng thi tham khảo các

161

“Anan! Phải biết Chú này thường có tám vạn bốn ngàn na do

tha72

hằng hà sa câu chi73

chủng tộc Kim Cang Tạng Bồ Tát

mỗi mỗi đều có các chúng Kim Cang làm quyến thuộc, ngày

đêm theo hầu. Giả sử có chúng sanh tâm còn tán loạn, chưa

vào Tam Ma Địa mà lòng nhớ, miệng trì Chú này thì các

Kim Cang ương thường theo bên mình. uống là người

phát tâm Bồ Đề quyết định thì các vị Kim Cang Tạng ương

Bồ Tát ấy sẽ tinh thành âm thầm phù trợ mà phát khởi thần

thức người đó, khiến cho người ấy đúng lúc nhớ lại được tám

mươi bốn ngàn hằng hà sa74

kiếp, rõ biết khắp cả, không còn

nghi hoặc. Từ kiếp thứ nhất cho đến thân sau cùng, đời đời

không sanh vào các loài ược xoa, La sát, Phú đơn na, Ca

tra phú đơn na, Cưu bàn trà, Tỳ xá giá... và các ngạ quỷ hữu

hình hay vô hình, có tưởng hay không tưởng, và những chốn

dữ như thế. Người thiện nam này, hoặc đọc hoặc tụng, hoặc

viết hoặc chép, hoặc đeo hoặc cất, hoặc cúng dường nhiều

cách Thần Chú này thì kiếp kiếp chẳng sanh vào chỗ không

vui, bần cùng hạ tiện.

“Các chúng sanh ấy, dù tự mình chẳng làm nghiệp phước mà

công đức của mười phương Như Lai hẳn thông cho người

này. o vậy mà trải qua a tăng kỳ75

bất khả thuyết bất khả

thuyết kiếp thường được cùng Chư Phật sanh ở một nơi, vô

lượng công đức nhóm lại như chùm cây ác-xoa thành đồng

một chỗ hồng tu, vĩnh viễn không phân tán. Thế nên có thể

khiến người đã phá Giới được Giới Căn thanh tịnh; người

chưa đắc Giới khiến người cho đắc Giới; người chưa Tinh

Tấn khiến đắc Tinh Tấn; người không Trí uệ khiến đắc Trí

72

Na do tha bằng 10 vạn. 73

Câu chi bằng 10.000.000. 74

Hằng hà sa là cát sông Hằng. 75

A tăng kỳ dùng để chỉ con số rất lớn: 10 lũy thừa 140.

Page 164: Sa Môn DI TÙNG - chuaphatquocttt.orgchuaphatquocttt.org/doc/KinhThuLangNghiemRev3.pdf · học, tụng inh Đại 3hật Đảnh thủ /ăng 1ghiêm, đồng thi tham khảo các

162

uệ; người không Thanh Tịnh chóng đắc Thanh Tịnh; người

chẳng giữ Trai Giới tự thành Trai Giới.

Anan! Người thiện nam đó khi trì Chú này, giả sử có

phạm Cấm Giới khi chưa thọ trì thì sau khi trì Chú hết

thảy tội Phá Giới, không kể nặng nhẹ, nhất thời tiêu diệt.

ù đã từng uống rượu, ăn năm thứ rau cay, các thứ bất tịnh

thì tất cả Chư Phật, Bồ Tát, Kim Cang, Tiên Thiên, Quỷ

Thần không cho là lỗi. Giả sử mặc y phục không sạch rách

nát thì mỗi cử chỉ đi đứng thảy đồng thanh tịnh. ù không

lập đàn, chẳng vào Đạo Tràng cũng không hành đạo mà trì

tụng Chú này thì công đức76

so vào Đàn, hành đạo giống

nhau không khác. Nếu tạo trọng tội Ngũ Nghịch, ô Gián và

tội Tứ Khí, Bát Khí của Tỳ Kheo, Tỳ Kheo Ni mà tụng Chú

này rồi thì các nghiệp nặng như vậy hẳn đều diệt hết như gió

mạnh thổi tan đống cát không còn chút gì.

Anan! Nếu có chúng sanh chưa hề sám hối hết thảy tội

chướng nặng nhẹ từ vô lượng vô số kiếp đến giờ mà nay có

thể đọc tụng Chú này, đeo giữ trên người hay để nơi chỗ ở

như trại, nhà vườn, quán... thì những nghiệp chứa nhóm

trước kia đều tiêu tan như nuớc sôi trên tuyết, chẳng bao lâu

đều được ngộ ô Sanh Nhẫn.

“Lại nữa, Anan! Nếu có người nữ chưa có con mong cầu có

thai mà có thể chí tâm nhớ niệm Chú này, hoặc đeo trên

người Chú Tát Đát Đa Bát Đát Ra này, bèn sanh con trai con

gái trí huệ phước đức. Người cầu sống lâu tức được sống lâu.

Muốn cầu quả báo mau được viên mãn thì mau được viên

mãn. ề thân mạng, dung mạo, sức khoẻ cũng lại như vậy.

Sau khi mạng chung, tùy nguyện mà sanh qua mười phương

76

Đức Phật so sánh “công đức” có được chứ không phải “thành tựu tu

chứng.”

Page 165: Sa Môn DI TÙNG - chuaphatquocttt.orgchuaphatquocttt.org/doc/KinhThuLangNghiemRev3.pdf · học, tụng inh Đại 3hật Đảnh thủ /ăng 1ghiêm, đồng thi tham khảo các

163

quốc độ, nhất định không sanh nơi biên địa hạ tiện huống là

các loài dị hình.

“Anan! Nếu các cõi nước, châu huyện, làng xóm bị đói kém,

dịch lệ hay giặc nạn mà viết Thần Chú này treo ở bốn cửa

thành, các chỗ thờ tự hoặc trên các lá phướn, rồi khiến chúng

sanh nơi ấy vâng đón, cung kính lễ bái, hết lòng cúng dường

Chú này, khiến nhân dân mỗi người đeo trong mình hay cất

trong mỗi nhà thì tất cả tai ách thảy đều tiêu diệt.

“Này, Anan! Bất kỳ chỗ nào mà có Chú này thì Thiên Long

hoan hỷ, mưa thuận gió hòa, mùa màng sung túc, dân chúng

an vui. Chú này lại có thể trấn phục tất cả ác tinh, tùy

phương hiện các điềm quái, đều khiến cho tai chướng không

khởi, con người không bị chết dữ, chết yểu, thân thể không

vướng xiềng xích gông cùm, ngày đêm ngủ ngon, thường

không ác mộng.

“Này, Anan! Cõi Ta Bà này có tám vạn bốn ngàn tai biến ác

tinh, hai mươi tám đại ác tinh đứng làm đầu, lại có tám đại

ác tinh làm chủ biến hiện nhiều thứ trên đời, gây ra nhiều

loại tai họa dị thường cho chúng sanh. Chỗ nào có Chú này

thì các thứ đó đều tiêu diệt hết, trong mười hai do-tuần làm

vòng kết giới thì các điềm tai biến hung dữ vĩnh viễn không

vào được.

“Thế nên, Như Lai tuyên dạy Chú này để bảo hộ các

người tu hành sơ học trong đời vị lai vào được Tam Ma

Địa, thân tâm rỗng không, được đại an ổn, không bị hết thảy

ma quỷ thần và những oan khiên, nợ nghiệp từ vô thủy tới

nay đến khuấy hại. Ông với những người ữu ọc trong

chúng này cùng những người tu hành đời vị lai y theo đàn

tràng Ta dạy, như pháp mà trì Giới, gặp được bậc Giới Chủ

là vị Tăng thanh tịnh, đối với Tâm Chú này chẳng sanh nghi

Page 166: Sa Môn DI TÙNG - chuaphatquocttt.orgchuaphatquocttt.org/doc/KinhThuLangNghiemRev3.pdf · học, tụng inh Đại 3hật Đảnh thủ /ăng 1ghiêm, đồng thi tham khảo các

164

hối; người thiện nam tử như thế ngay nơi thân cha mẹ sanh

ra này mà không được Tâm Thông thì mười phương Như Lai

hóa ra là vọng ngữ!”

Phật dạy lời ấy rồi, vô lượng trăm ngàn Kim Cang trong hội

đều đồng thời ở trước Phật chấp tay đảnh lễ, thưa rằng: “Như

lời Phật dạy, chúng con sẽ thành tâm bảo hộ những người tu

Bồ Đề như vậy.” Khi ấy, Phạm ương cùng trời Đế Thích,

bốn Đại Thiên ương cùng ở trước Phật đồng thời đảnh lễ,

thưa rằng: “Quả có người lành tu học như vậy chúng tôi sẽ

tận tâm chí thành bảo hộ, khiến cho họ suốt đời tu hành được

như nguyện.”

Lại có vô lượng Đại Tướng ược Xoa, các vua La Sát, vua

Phú Đơn Na! vua Cưu Bàn Trà, vua Tỳ Xá Giá, các Đại Quỷ

ương Tần Na ạ Ca cùng các Quỷ Soái cũng ở trước Phật

chấp tay đảnh lễ, thưa rằng: “Chúng tôi cũng thệ nguyện hộ

trì người này khiến tâm Bồ Đề sớm được viên mãn.”

Lại có vô lượng Thiên Tử Nhật Nguyệt, Thần Gió, Thần

Mưa, Thần Mây, Thần Sấm và các hàng Thần Điển, các quan

tuần trong năm, quyến thuộc chủ tinh... cũng ở trong hội

đảnh lễ chân Phật, thưa rằng: “Chúng tôi cũng bảo hộ người

tu hành này để an lập Đàn Tràng, được ô Sở Úy.”

Lại có vô lượng Thần Núi, Thần Biển, hết thảy các loài tinh

kỳ muôn vật ở đất đai, trên không, dưới nuớc và ua Thần

Gió, Trời ô Sắc Giới ở trước Như Lai đồng thời cúi đầu,

thưa rằng: “Chúng tôi cũng bảo hộ người tu hành ấy đắc

thành Bồ Đề, vĩnh viễn không có ma sự.”

Lúc bấy giờ, tám vạn bốn ngàn na do tha hằng hà sa câu chi

Kim Cương Tạng ương Bồ Tát ở trong Đại ội liền từ chỗ

ngồi đứng dậy, đảnh lễ chân Phật, thưa rằng: “Bạch Thế Tôn,

như bọn chúng con, công nghiệp tu hành đã thành Bồ Đề từ

Page 167: Sa Môn DI TÙNG - chuaphatquocttt.orgchuaphatquocttt.org/doc/KinhThuLangNghiemRev3.pdf · học, tụng inh Đại 3hật Đảnh thủ /ăng 1ghiêm, đồng thi tham khảo các

165

lâu mà chẳng giữ Niết Bàn, thường theo Chú này để cứu

người chánh tu hành tu Tam Ma Địa trong đời mạt thế. Thưa

Thế Tôn, người tu tâm cầu chánh định như vậy, dầu ở đạo

tràng hay lúc kinh hành, cho đến tán tâm dạo chơi xóm làng

thì đồ chúng của chúng tôi vẫn thường đi theo hầu hạ bảo vệ

người ấy. Giả sử Ma ương, Đại Tự Tại Thiên muốn có cơ

hội để khuấy phá, rốt cuộc cũng không thể được. Các quỷ

thần nhỏ cách xa người này ngoài mười do-tuần77, trừ phi

hạng đó phát tâm muốn tu thiền. Bạch Thế Tôn, những ác ma

hay quyến thuộc của ma như vậy muốn đến quấy phá người

lành này, chúng tôi sẽ dùng bảo chử đánh nát đầu như tro

bụi, thường khiến cho người này tu hành được như nguyện.

Phần 18

Khai thị hai cái nhân điên đảo

(Lưu ý: Đọc đoạn này chậm rãi để hiểu rõ, làm căn bản để

tu Mật Giáo. Luôn luôn ghi nhớ: Vì Vô Minh mà sanh ra núi

sông, đất đai và chúng sanh.)

Đức Phật nói: “Anan! ãy biết, cái Diệu Tánh tròn sáng lìa

mọi danh tướng, bổn lai không có thế giới, chúng sanh.

Nhân vọng mà có sanh, nhân sanh mà có diệt. Sanh diệt

thì gọi là vọng, diệt vọng thì gọi là Chân. Đó gọi là hai

danh hiệu chuyển y Bồ Đề Vô Thượng và Đại Niết Bàn

của Như Lai vậy.

“Anan! Nay ông muốn tu pháp Chân Tam Ma Địa, thẳng đến

Đại Niết Bàn của Như Lai thì trước hết phải biết hai cái nhân

điên đảo này của chúng sanh cùng thế giới. Điên đảo chẳng

sanh, đó là Chân Tam Ma Địa của Như Lai.

77

Do tuần bằng 7,3 km, có chỗ nói là 14,6 km…

Page 168: Sa Môn DI TÙNG - chuaphatquocttt.orgchuaphatquocttt.org/doc/KinhThuLangNghiemRev3.pdf · học, tụng inh Đại 3hật Đảnh thủ /ăng 1ghiêm, đồng thi tham khảo các

166

“Anan! Thế nào gọi là Điên Đảo tạo thành Chúng sanh?

“Anan! o Tâm Tánh vốn Minh, tánh Minh ấy tròn đầy toàn

khắp, nên nhân cái Minh vọng phát hình như có Tánh, cái

Tánh ấy do vọng kiến mà sanh. ậy là từ chỗ “rốt ráo

Không” lại hóa thành “rốt ráo Có.” Cái Có này có được là

do cái vốn chẳng có nhân làm nhân. Tướng Năng Trụ và

Sở Trụ từ căn bản không có cội gốc. Rồi nương nơi cái cội

gốc không có chỗ trụ này mà kiến lập ra thế giới cùng

chúng sanh.

[Đọc sơ qua các đoạn sau nói về sự tạo thành chúng sanh,

không cần thiết phải nhớ.]

“ ì mê [mờ] Bổn Tánh iên Minh mà sanh hư vọng, nhưng

tánh của vọng không có tự thể, chẳng có chỗ nương trụ.

Vừa muốn trở lại Chân Tánh thì cái muốn Chân đó đã

chẳng phải là Tánh Chân Như chân thật. Trong cái chẳng

phải Chân mà cầu trở lại Chân thì rõ ràng là hiện thành

những Phi Tướng: Phi Sanh, Phi Trụ, Phi Tâm, Phi Pháp.

Xoay vần phát sanh. Sanh lực phát minh, huân tập thành

Nghiệp. Đồng nghiệp thì cảm nhau, nhân có cảm nghiệp bèn

có sự sanh nhau, diệt nhau. o vậy mà có cái Điên Đảo tạo

thành Chúng Sanh.

“Anan! Thế nào là Điên Đảo tạo thành Thế Giới? “Cái Có

đó có được là do từng phần từng đoạn vọng sanh. o đó mà

Giới (Không Gian) kiến lập, chẳng phải nhân mà làm nhân,

không có trụ mà làm trụ. Trôi dời chẳng trụ, do đó mà Thế

(Thời Gian) thành. Bốn phương ba đời hòa hợp giao thiệp

lẫn nhau biến hóa thành chúng sanh mười hai loài. Thế

nên, thế giới thì nhân động có Tiếng, nhân Tiếng có Sắc,

nhân Sắc có ương, nhân ương có Xúc, nhân Xúc có ị,

nhân ị biết Pháp. Sáu vọng tưởng lộn loạn thành nghiệp

Tánh, bởi thế mà có mười hai Phần ạn (Loài) xoay chuyển.

Page 169: Sa Môn DI TÙNG - chuaphatquocttt.orgchuaphatquocttt.org/doc/KinhThuLangNghiemRev3.pdf · học, tụng inh Đại 3hật Đảnh thủ /ăng 1ghiêm, đồng thi tham khảo các

167

ậy nên trong thế gian, các thứ Thanh, ương, ị, Xúc...

biến đổi cùng tột đến mười hai lần là quay trở lại.

“ ựa theo Tướng Điên Đảo luân chuyển đó mà có ra Thế

Giới, thành những loài: noãn sanh, thai sanh, thấp sanh, hóa

sanh, hữu sắc, vô sắc, hữu tưởng, phi hữu sắc, phi vô sắc, phi

hữu tưởng, phi vô tưởng.

“Anan! o nhân thế giới hư vọng luân hồi, điên đảo về

Động, nên hòa hợp với Khí thành ra tám mươi bốn ngàn loạn

tưởng bay lặn. o đó mà có mầm trứng trôi lăn trong cõi

nước: cá, chim, rùa, rắn... các loài đầy dẫy.

“ o nhân thế giới tạp nhiễm luân hồi, điên đảo về ục nên

hòa hợp với Tư (Phong Nhuận, Bổ Báo) thành ra tám mươi

bốn ngàn loạn tưởng ngang dọc. o đó mà có bọc thai trôi

lăn trong cõi nước: người, súc vật, rồng, tiên... các loài đầy

dẫy.

“ o nhân thế giới chấp trước luân hồi, điên đảo về Thú (Thú

ướng) nên hòa hợp với Noãn ( ơi Nóng) thành ra tám

mươi bốn ngàn loạn tưởng nghiêng ngửa. o đó mà có Thịt

Mềm thấp sanh trôi lăn trong cõi nước: nhung nhúc, ngọ

nguậy… các loài đầy dẫy.

“ o nhân thế giới biến dịch luân hồi về Giả nên hòa hợp với

Xúc thành ra tám mươi bốn ngàn loạn tưởng mới, cũ. o đó

có Thịt Cứng hóa sanh trong cõi nước: lột võ, bay đi... các

loài đầy dẫy.

“ o nhân thế giới lưu ngại luân hồi, điên đảo về Chướng nên

hòa hợp với Trước (Bám Níu) thành ra tám mươi bốn ngàn

loạn tưởng tinh diệu. o đó mà có yết nam sắc tướng, trôi

lăn trong cõi nước: lưu cữu, tinh minh... các loài đầy dẫy.

Page 170: Sa Môn DI TÙNG - chuaphatquocttt.orgchuaphatquocttt.org/doc/KinhThuLangNghiemRev3.pdf · học, tụng inh Đại 3hật Đảnh thủ /ăng 1ghiêm, đồng thi tham khảo các

168

“ o nhân thế giới tiêu tán luân hồi, điên đảo về Cảm, nên

hòa hợp với Ám thành ra tám mươi bốn loạn tưởng âm ẩn.

o đó mà có yết nam vô sắc, trôi lăn trong cõi nước: không,

tán, tiêu, trầm... các loài đầy dẫy.

“ o nhân thế giới ảo tưởng luân hồi, điên đảo về Ảnh, nên

hòa hợp với Ức (Nhớ) thành ra tám mươi bốn ngàn loạn

tưởng tìm kết. o đó mà có yết nam hữu tưởng, trôi lăn trong

cõi nước: thần quỷ, tinh linh... các loài đầy dẫy.

“ o nhân thế giới ngu độn luân hồi, điên đảo về Si nên hòa

hợp với Ngoan (Ngu Độn, Ngoan Cố) thành ra tám mươi bốn

ngàn loạn tưởng khô cằn. o đó mà có yết nam vô tưởng,

trôi lăn trong cõi nước: tinh thần hóa làm đất, cây, sắt, đá...

các loài đầy dẫy.

“ o nhân thế giới tương đãi luân hồi, điên đảo về Ngụy nên

hòa hợp với Nhiễm thành ra tám mươi bốn ngàn loạn tưởng

nhân y. o đó mà có yết nam “Không phải có Sắc mà có

Sắc” trôi lăn trong cõi nước: những loài sứa lấy tôm làm

mắt... các loài đầy dẫy.

“ o nhân thế giới tương đãi luân hồi, điên đảo về Tánh nên

hòa hợp với Chú thành ra tám mươi bốn ngàn loạn tưởng hô

triệu. o đó mà có yết nam “Chẳng phải ô Sắc mà ô Sắc”

trôi lăn trong cõi nước: Chú trớ, yếm sanh... các loài đầy dẫy.

“ o nhân thế giới hợp vọng luân hồi, điên đảo về õng nên

hòa hợp với ị thành ra tám mươi bốn ngàn loạn tưởng hồi

hỗ. o đó mà có yết nam “Không phải Có Tưởng mà Có

Tưởng” trôi lăn trong cõi nước: các loài tò vò, lấy chất khác

thành thân mình... các loài đầy dẫy.

“ o nhân thế giới oán hại luân hồi, điên đảo về Sát nên hòa

hợp với Quái thành ra tám mươi bốn ngàn loạn tưởng ăn thịt

Page 171: Sa Môn DI TÙNG - chuaphatquocttt.orgchuaphatquocttt.org/doc/KinhThuLangNghiemRev3.pdf · học, tụng inh Đại 3hật Đảnh thủ /ăng 1ghiêm, đồng thi tham khảo các

169

cha mẹ. o đó có yết nam “Không phải ô Tưởng mà Vô

Tưởng” trôi lăn trong cõi nước: như con thổ kiêu ấp đất cục

làm con, hay chim phá kính ấp quả cây độc làm con, con lớn

lên thì trở lại ăn thịt cha mẹ... các loài đầy dẫy. “Đó là mười

hai chủng loại chúng sanh.

Page 172: Sa Môn DI TÙNG - chuaphatquocttt.orgchuaphatquocttt.org/doc/KinhThuLangNghiemRev3.pdf · học, tụng inh Đại 3hật Đảnh thủ /ăng 1ghiêm, đồng thi tham khảo các

170

KINH ĐẠI PHẬT ĐẢNH THỦ LĂNG NGHIÊM (T M T T NG N)

Page 173: Sa Môn DI TÙNG - chuaphatquocttt.orgchuaphatquocttt.org/doc/KinhThuLangNghiemRev3.pdf · học, tụng inh Đại 3hật Đảnh thủ /ăng 1ghiêm, đồng thi tham khảo các

171

Quyển VIII

Phần 19

Khai thị ba tiệm thứ tu tập

(Lưu ý: Người tu Thiền Định bị trở ngại vì loạn động. Đọc

phần sau đây xem có thể áp dụng gì cho cá nhân mình hay

không)

“Anan! Như thế chúng sanh trong mỗi mỗi loài cũng đều đầy

đủ hết mười hai thứ Điên Đảo. Cũng như dụi mắt thì hoa

đốm cuồng loạn phát sanh, Chơn Tâm tròn sáng trong sạch

nhiệm mầu mà Điên Đảo thì đầy đủ loạn tưởng hư vọng như

thế. Nay ông tu chứng Tam Ma Địa của Phật thì đối với các

loạn tưởng làm nguyên nhân cội gốc của các Điên Đảo, phải

lập ra ba tiệm thứ mới trừ diệt được. Cũng như trong đồ

đựng sạch sẽ trừ bỏ mật độc, dùng nước nóng và chất tro,

chất thơm rửa sạch đồ đựng, rồi sau mới chứa nước cam lồ.

“Thế nào là ba món tiệm thứ? Một là, tu tập trừ các Trợ

Nhân. ai là, chân tu, nạo sạch Chính Tánh. Ba là, tăng tiến

trái lại iện Nghiệp.

“Thế nào là Trợ Nhân? “Anan! mười hai loài chúng sanh

đó trong thế giới không thể tự toàn, phải nương theo bốn

cách ăn mà sống, đó là Đoạn Thực, Xúc Thực, Tư Thực,

Thức Thực. ậy nên Phật bảo tất cả chúng sanh đều nương

cái ăn mà sống còn.

“Anan! Tất cả chúng sanh ăn thức lành thì sống, ăn thức độc

thì chết. ậy những chúng sanh cầu Tam Ma Địa phải dứt bỏ

năm thứ rau cay trong thế gian. Năm thứ rau cay này, ăn chín

phát lòng dâm, ăn sống thêm lòng giận. Trong thế gian,

những người ăn rau cay đó dầu có thể tuyên thuyết mười hai

bộ kinh, thì Tiên Thiên mười phương không thích hôi nhớp

Page 174: Sa Môn DI TÙNG - chuaphatquocttt.orgchuaphatquocttt.org/doc/KinhThuLangNghiemRev3.pdf · học, tụng inh Đại 3hật Đảnh thủ /ăng 1ghiêm, đồng thi tham khảo các

172

đều lánh xa cả. Các loài quỷ đói v.v... nhân lúc người ấy

đang ăn bèn liếm môi mép. Thường ở với quỷ, nên phước

đức ngày càng tiêu mòn, lâu dài không được lợi ích. Người

ăn rau cay ấy, tu Tam Ma Địa, Bồ Tát, Thiên Tiên, Thiện

Thần mười phương không đến thủ hộ. Đại Lực Quỷ ương

thừa cơ hội đó hiện làm thân Phật đến thuyết pháp cho, chê

phá Cấm Giới, khen âm, Nộ, Si. Khi chết tự làm quyến

thuộc Ma ương, hưởng phước Ma hết, đọa vào ngục ô

Gián. Anan! Người tu Đạo Bồ Đề vĩnh viễn dứt bỏ năm

thứ rau cay. “Đó là tiệm thứ tu hành tăng tiến thứ nhất.

“Thế nào là Chánh Tánh? “Anan! Chúng sanh như thế vào

Tam Ma Địa trước hết cốt phải nghiêm trì Giới Luật thanh

tịnh, vĩnh viễn đoạn trừ lòng âm, chẳng dùng rượu thịt, chỉ

ăn đồ ăn trong sạch nấu chín, không ăn đồ sống. Anan!

Người tu hành đó, nếu chẳng đoạn âm ục và Sát Sanh mà

ra khỏi ba cõi, thì không thể có. Phải quan sát sự âm ục

như rắn độc, như thấy giặc thù. “Trước hết, hãy giữ gìn Tứ

Khí, Bát Khí của Giới Luật Thanh ăn, nắm giữ thân chẳng

động. Sau đó, hành trì Luật Nghi thanh tịnh của hàng Bồ Tát,

nắm giữ tâm chẳng khởi. Giới Cấm thành tựu thì trong thế

gian đời đời không còn nghiệp sanh sát nhau. Trộm cướp

chẳng làm, thì không còn mắc nợ nhau, và khỏi trả nợ đời

trước trong thế gian. Người trong sạch đó tu Tam Ma Địa,

ngay nơi thân xác thịt cha mẹ sanh, không cần thiên nhãn tự

nhiên xem thấy mười phương thế giới, thấy Phật nghe Pháp,

chính mình vâng lĩnh Thánh Chỉ của Phật, đắc đại thần

thông, dạo khắp mười phương thế giới, túc mạng được thanh

tịnh, được không khó khăn nguy hiểm. “Đó gọi là tiệm thứ tu

hành tăng tiến thứ hai.

“Thế nào là Hiện Nghiệp? “Anan! Người giữ gìn Cấm Giới

thanh tịnh như vậy, Tâm không tham dâm, đối với sáu Trần

Page 175: Sa Môn DI TÙNG - chuaphatquocttt.orgchuaphatquocttt.org/doc/KinhThuLangNghiemRev3.pdf · học, tụng inh Đại 3hật Đảnh thủ /ăng 1ghiêm, đồng thi tham khảo các

173

ở ngoài không hay giong ruổi theo. o không giong ruổi nên

tự quay về Tánh gốc. Trần đã chẳng duyên, Căn không chỗ

hợp, ngược dòng toàn nhất, sáu ụng78

chẳng hành. Mười

phương cõi nước sáng suốt thanh tịnh, như ngọc lưu ly bên

trong treo mặt trăng sáng. Thân Tâm rỗng khoái, bình đẳng

diệu viên, được đại an ổn. Mật iên Tịnh iệu của tất cả

Như Lai đều hiện trong đó. Người ấy liền được ô Sanh

Pháp Nhẫn. Từ đó lần lượt tu hành, tùy chỗ phát ạnh mà an

lập các Thánh vị. “Đó gọi là tiệm thứ tu hành tăng tiến thứ

ba.

An lập các thánh vị

(Lưu ý: Phần này đọc qua không cần nhớ. Có thể căn cứ

vào đoạn kinh này để tự biết chúng ta tu tập tiến bộ đến

đâu.)

Càn Huệ Địa

“Anan! người thiện nam ấy, ục Ái cạn khô, Căn Cảnh

chẳng phối hợp, cái Thân Tâm hiện tại không còn sanh tiếp

nữa. Nắm lấy Tâm rỗng sáng, thuần là Trí uệ. Tánh uệ

toàn sáng tỏ sáng mười phương thế giới. Mới có cái uệ khô

khan, gọi là Càn Huệ Địa.”

Thập Tín

1.“Cái tập khí của ngũ dục mới khô cạn chưa tiếp thông

được với dòng nước pháp của Như Lai. Tức nhân tâm này,

ngay giữa lần vào iên iệu mở bày, theo iệu Giác iên

chân thật, càng phát ra chân diệu. iệu Tín thường trụ, tất cả

vọng tưởng hết sạch chẳng còn. Trung Đạo thuần Chân, gọi

là Tín Tâm Trụ.”

78

Sáu dụng là muốn nói đến sáu thức qua sáu căn.

Page 176: Sa Môn DI TÙNG - chuaphatquocttt.orgchuaphatquocttt.org/doc/KinhThuLangNghiemRev3.pdf · học, tụng inh Đại 3hật Đảnh thủ /ăng 1ghiêm, đồng thi tham khảo các

174

2.“Chân Tín sáng rõ, hết thảy viên thông. Ba thứ Ấm, Xứ,

Giới không thể ngăn ngại. Như vậy cho đến trong vô số kiếp

quá khứ, vị lai tất cả tập khí bỏ thân, thọ thân đều hiện ra

trước mắt, người thiện nam này đều có thể nhớ tưởng không

quên mất, gọi là Niệm Tâm Trụ.”

3.“ iệu iên thuần Chân, Chân Tinh phát hóa ra, các tập khí

vô thủy thông thành một Tinh Minh. Chỉ nhân Tinh Minh ấy

tiến đến chỗ Chân Tịnh, gọi là Tinh Tiến Tâm.”

4.“Tâm Tinh hiện tiền, thuần dùng Trí uệ, gọi là Huệ Tâm

Trụ.”

5.“Nắm giữ Trí sáng, lặng trong cùng khắp, lặng lẽ nhiệm

mầu thường lắng đọng, gọi là Định Tâm Trụ.”

6. “Ánh sáng của Định phát ra vào sâu tánh sáng, chỉ có tiến

chớ không lui, gọi là Bất Thối Tâm.”

7. “Tâm an nhiên tiến tới, giữ gìn chẳng mất, giao tiếp với

khí phần của mười phương Như Lai, gọi là Hộ Pháp Tâm.”

8. “Giữ gìn tâm Giác sáng có thể dùng diệu lực xoay Từ

Quang của Phật lại nơi mình và hướng về Phật mà an trụ,

như hai tấm gương ánh sáng đối nhau, trong ấy các bóng

nhiệm mầu trùng trùng tương nhập, gọi là Hồi Hướng

Tâm.”

9. “Tâm quang thầm xoay lại, được chỗ thường lắng đọng

ô Thượng iệu Tịnh của Chư Phật, an trụ vô vi, được

không bỏ mất gọi là Giới Tâm Trụ.”

10. “Trụ giới tự tại có thể dạo khắp mười phương, đến đâu

tùy nguyện, gọi là Nguyện Tâm Trụ.”

Page 177: Sa Môn DI TÙNG - chuaphatquocttt.orgchuaphatquocttt.org/doc/KinhThuLangNghiemRev3.pdf · học, tụng inh Đại 3hật Đảnh thủ /ăng 1ghiêm, đồng thi tham khảo các

175

Thập trụ

1.”Anan! Người thiện nam đó dùng phương tiện chân thật

phát được mười cái tâm ấy. Tâm tinh phát huy mười cái

ụng xen lẫn vào nhau, viên thành một tâm, gọi là Phát

Tâm Trụ.”

2.“Trong tâm phát sáng, như ngọc lưu ly trong sạch, ở trong

hiện chói sắc vàng ròng. ùng cái diệu tâm trước kia bước đi

thành địa vị, gọi là Trị Địa Trụ.”

3. “Tâm địa biết khắp, đều được tỏ rõ, dạo đi mười phương,

được không ngăn ngại, gọi là Tu Hành Trụ.”

4. “ ạnh đồng với Phật, lãnh nhận khí phần của Phật, như

thân trung ấm tự tìm cha mẹ. Cái âm tín thầm thông vào

dòng giống Như Lai, gọi là Sanh Quý Trụ.”

5. “Đã vào Đạo Thai, chính mình nhờ được sự nuôi sống của

Tánh Giác, như Thai đã thành, tướng người không thiếu gọi

là Phương Tiện Cụ Túc Trụ.”

6. “ ung mạo như Phật, tâm tướng cũng đồng, gọi là Chánh

Tâm Trụ.”

7. “Thân tâm hợp thành, ngày càng tăng trưởng, gọi là Bất

Thối Trụ.”

8. “Linh tướng của mười thân, cùng lúc đầy đủ, gọi là Đồng

Chân Trụ.”

9. “Thành đủ hình hài, ra khỏi thai, chính mình là Phật Tử,

gọi là Pháp Vương Tử Trụ.”

10. “Cốt cách đã thành người lớn, như vị Quốc ương phân

công ủy nhiệm các việc nước cho vị Thái Tử, khi vị Thế Tử

Page 178: Sa Môn DI TÙNG - chuaphatquocttt.orgchuaphatquocttt.org/doc/KinhThuLangNghiemRev3.pdf · học, tụng inh Đại 3hật Đảnh thủ /ăng 1ghiêm, đồng thi tham khảo các

176

trưởng thành, Sát Lợi ương kia bày ra lễ Quán Đảnh, gọi là

Quán Đảnh Trụ.”

Thập Hạnh

1.”Anan! Người thiện nam đó đã thành Phật Tử, đầy đủ iệu

Đức của vô lượng Như Lai, tùy thuận mười phương, gọi là

Hoan Hỷ Hạnh.”

2. “Khéo hay lợi ích cho hết thảy chúng sanh, gọi là Nhiêu

Ích Hạnh.”

3. “Tự Giác, Giác tha, được không chống-trái, gọi là Vô Sân

Hận Hạnh.”

4. “Theo loài mà sanh ra, cùng tột vị lai, ba đời đều bình

đẳng, mười phương đều thông suốt gọi là Vô Tận Hạnh.”

5. “Tất cả hợp thành đồng nhất, thảy thảy pháp môn đều

không sai lầm, gọi là Ly Si Loạn Hạnh.”

6. “Ở ngay trong cái Đồng mà hiện ra các cái Khác. Mỗi mỗi

Tướng Khác đều mỗi mỗi thấy Đồng, gọi là Thiện Hiện

Hạnh.”

7. “Như thế cho đến mười phương hư không đầy khắp vi

trần, trong mỗi mỗi vi trần hiện mười phương thế giới. iện

vi trần, hiện thế giới, không ngăn ngại nhau, gọi là Vô

Trước Hạnh.”

8. “Mọi thứ trước mắt đều là Đệ Nhất Ba La Mật Đa, gọi là

Tôn Trọng Hạnh.”

9. “Như thế viên dung, thành tựu Quy Tắc của mười phương

Chư Phật, gọi là Thiện Pháp Hạnh.”

10. “Mỗi mỗi đều là Nhất Chân vô vi thanh tịnh vô lậu, vì

Tánh Bổn Nhiên là như thế, gọi là Chân Thật Hạnh.”

Page 179: Sa Môn DI TÙNG - chuaphatquocttt.orgchuaphatquocttt.org/doc/KinhThuLangNghiemRev3.pdf · học, tụng inh Đại 3hật Đảnh thủ /ăng 1ghiêm, đồng thi tham khảo các

177

Thập Hồi Hướng

1.”Anan! người thiện nam ấy đầy đủ thần thông, thành tựu

Phật sự rồi, thuần khiết tinh chân, xa các lỗi nạn. iện độ

chúng sanh mà diệt dứt các tướng hóa độ. Quày tâm vô vi

hướng lối Niết Bàn, gọi là Cứu Hộ Nhất Thiết Chúng

sanh, Ly Chúng sanh Tướng Hồi Hướng.”

2. “ oại diệt cái có thể hoại diệt, xa lìa các sự lìa, gọi là Bất

Hoại Hồi Hướng.”

3. “Bản Giác lặng trong như nhiên, Giác ấy bằng cái Giác

của Phật, gọi là Đẳng Nhất Thiết Phật Hồi Hướng.”

4. “Tinh Chân phát sáng, địa như Phật Địa, gọi là Chí Nhất

Thiết Xứ Hồi Hướng.”

5. “Thế giới, Như Lai hỗ tương, dung nhập, được không

chướng ngại, gọi là Vô Tận Công Đức Tạng Hồi Hướng.”

6. “Ở nơi đồng với Phật Địa, trong ấy mỗi mỗi sanh nhân

thanh tịnh. Nương nhân ấy mà phát huy, giữ lấy đạo Niết

Bàn, gọi là Tùy Thuận Bình Đẳng Thiện Căn Hồi

Hướng.”

7. “Chân Căn đã thành, mười phương chúng sanh đều là Bản

Tánh của mình. Tánh tròn vẹn tựu thành, không bỏ sót một

chúng sanh, gọi là Tùy Thuận Đẳng Quán Nhứt Thiết

Chúng sanh Hồi Hướng.”

8. “Tức cả thảy pháp, lìa cả thảy tướng. Cả Tức và Lìa đều

không chỗ dính mắc, gọi là Chân Như Tướng Hồi Hướng.”

9. “Thật đắc Như Như, mười phương không ngại, gọi là Vô

Phược Giải Thoát Hồi Hướng.”

Page 180: Sa Môn DI TÙNG - chuaphatquocttt.orgchuaphatquocttt.org/doc/KinhThuLangNghiemRev3.pdf · học, tụng inh Đại 3hật Đảnh thủ /ăng 1ghiêm, đồng thi tham khảo các

178

10. “Tánh Đức viên thành, hạn lượng về Pháp Giới diệt mất,

gọi là Pháp Giới Vô Lượng Hồi Hướng.”

Tứ Gia Hạnh

1.”Anan! Người thiện nam đó tu hết bốn mươi mốt tâm

thanh tịnh ấy rồi, tiếp đến thành tựu bốn thứ a ạnh iệu

Viên: tức lấy Phật Giác dùng làm tâm mình, như ra mà chưa

ra, cũng như dùi cây cho ra lửa để đốt cái cây, gọi là Noãn

Địa.”

2. “Lại lấy tâm mình thành chỗ hành vi của Phật. ình như

nương mà chẳng phải nương, như lên núi cao, thân đã vào hư

không mà bên dưới còn chút ngăn ngại, gọi là Đảnh Địa.”

3. “Tâm, Phật cả hai đồng, khéo được Trung Đạo, giống như

người biết nhẫn nhịn, chẳng phải ôm ấp, chẳng phải phát ra,

gọi là Nhẫn Địa.”

4. “Số lượng tiêu diệt, sự Mê, Giác và Trung Đạo cả hai đều

không danh mục, ấy là Thế Đệ Nhất Địa.”

Thập Địa

1.”Anan! người thiện nam đó trong Đại Bồ Đề, khéo được

thấu suốt. Giác thông với Như Lai, suốt hết cảnh giới Phật,

gọi là Hoan Hỉ Địa.”

2. “Tánh Khác nhập vào Đồng, tánh Đồng cũng diệt, gọi là

Ly Cấu Địa.”

3. “Thanh tịnh cùng tột, sáng suốt sanh ra, gọi là Phát

Quang Địa.”

4. “Sáng suốt cùng tột, Giác đầy khắp, gọi là Diệm Huệ

Địa.”

Page 181: Sa Môn DI TÙNG - chuaphatquocttt.orgchuaphatquocttt.org/doc/KinhThuLangNghiemRev3.pdf · học, tụng inh Đại 3hật Đảnh thủ /ăng 1ghiêm, đồng thi tham khảo các

179

5. “ ết thảy có Đồng, có Khác không thể đến được, gọi là

Nan Thắng Địa.”

6. “Tánh Chân Như vô vi thanh tịnh bày lộ rõ ràng, gọi là

Hiện Tiền Địa.”

7. “Cùng tột bờ cõi Chân Như, gọi là Viễn Hành Địa.”

8. “Một Tâm Chân Như gọi là Bất Động Địa.”

9. “Phát cái ụng Chân Như, gọi là Thiện Tuệ Địa.”

10. “Bóng Từ mây iệu trùm biển Niết Bàn, gọi là Pháp

Vân Địa.”

Đẳng Giác và Diệu Giác

“Như Lai ngược dòng, còn vị Bồ Tát như thế thuận dòng mà

đến. Ranh giới của Giác thể nhập vào nhau, gọi là Đẳng

Giác. Anan! Từ Tâm Càn uệ đến Đẳng Giác rồi, cái Giác

này mới được Sơ Càn uệ Địa trong Tâm Kim Cương. Lớp

lớp như vậy, đơn hay kép mười hai địa vị, mới cùng tột iệu

Giác, thành ô Thượng Đạo.”

“Các thứ Địa này đều dùng Trí Kim Cương quán sát Như

uyễn mười thứ ví dụ sâu xa. Trong Xa Ma tha (Chỉ) dùng

Tỳ Bà Xá Na (Quán) của Chư Phật mà thanh tịnh tu chứng,

lần lượt tu nhập. “Anan! Như thế đều dùng ba tiệm thứ tăng

tiến, khéo có thể thành tựu năm mươi lăm ị của con đường

Bồ Đề Chân Thật.

“Làm cái Quán như vậy, gọi là Chánh Quán. Nếu Quán khác

đi gọi là Tà Quán.”

Page 182: Sa Môn DI TÙNG - chuaphatquocttt.orgchuaphatquocttt.org/doc/KinhThuLangNghiemRev3.pdf · học, tụng inh Đại 3hật Đảnh thủ /ăng 1ghiêm, đồng thi tham khảo các

180

Chỉ Dạy Tên Kinh

Bấy giờ Ngài Pháp ương Tử ăn Thù Sư Lợi ở trong đại

chúng, liền từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ chân Phật mà bạch

Phật rằng: “Phải gọi tên kinh này là gì? Con cùng chúng

sanh phụng trì như thế nào?”

Phật bảo Ngài ăn Thù Sư Lợi: “Kinh này tên là Đại Phật

Đảnh Tát Đát Đa Bát Đát Ra, Vô Thượng Bảo Ấn, Thập

Phương Như Lai Thanh Tịnh Hải Nhãn.”

“Cũng gọi tên là Cứu Hộ Thân Nhân, độ thoát Anan cùng

Tánh Tỳ Kheo Ni trong hội này, đắc Bồ Đề Tâm, nhập

Biến Tri Hải.””

“Cũng tên là Như Lai Mật Nhân, Tu Chứng Liễu Nghĩa.

“Cũng gọi là “Đại Phương Quảng Diệu Liên Hoa Vương,

Thập Phương Phật Mẫu Đà La Ni Chú.”

“Cũng tên là “Quán Đảnh Chương Cú, Chư Bồ Tát Vạn

Hạnh, Thủ Lăng Nghiêm.” Ông hãy phụng trì.”

Phần 20

Phân biệt các nghiệp quả tạo thành tam giới

(Lưu ý: Phần này chỉ đọc qua cho có một khái niệm, không

cần nhớ)

1. Hỏi về sự sanh khởi và nhân quả của sáu đường

Phật nói lời ấy xong, liền khi đó, Ông Anan và cả đại chúng

nhờ được Như Lai khai thị ý nghĩa mật ấn Bát Đát Ra, lại

nghe được những tên gọi Liễu Nghĩa của kinh này, đốn ngộ

được diệu lý tăng thượng để tu, tiến vào các Thánh ị trong

Thiền Na. Tâm tư rỗng lặng, đoạn trừ sáu phẩm phiền não vi

tế tư-hoặc về tam giới.

Page 183: Sa Môn DI TÙNG - chuaphatquocttt.orgchuaphatquocttt.org/doc/KinhThuLangNghiemRev3.pdf · học, tụng inh Đại 3hật Đảnh thủ /ăng 1ghiêm, đồng thi tham khảo các

181

Ông liền từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ dưới chân Phật, chắp

tay cung kính, bạch Phật rằng: “Đại oai đức Thế Tôn, Từ Âm

không che ngại, khéo khai ngộ những lỗi lầm sâu kín nhỏ

nhiệm của chúng sanh, khiến chúng con ngày nay thân tâm

khoan khoái rỗng nhiên, được lợi ích lớn.

“Thưa Thế Tôn, cái Chơn Tâm iệu Minh trong sạch nhiệm

mầu này bổn lai toàn khắp viên mãn, như thế cho đến đất

đai, cỏ cây, các loài máy động vốn nguyên là Chân Như, đó

là Chân Thể thành Phật của Như Lai. Nếu Phật Thể vốn chân

thật như thế thì cớ sao lại có các nẻo địa ngục, ngạ quỷ, súc

sanh, tu la, người, Trời. Bạch Thế Tôn, những nẻo ấy là bổn

lai tự có hay do tập khí hư vọng của chúng sanh khởi ra?

Bạch Thế Tôn, như Tỳ Kheo Ni Bảo Liên ương giữ Bồ Tát

Giới, lén làm việc dâm dục, rồi nói càn rằng hành dâm chẳng

phải sát sanh, chẳng phải trộm cắp, không có nghiệp báo!

Phát lời ấy rồi, trước hết nơi nữ căn sanh ra ngọn lửa hừng

lớn, sau nơi mỗi mỗi đốt xương lửa cháy phừng phừng, đọa

địa ngục ô Gián. Như Đại ương Lưu Ly và Tỳ Kheo

Thiện Tinh: Lưu Ly vì giết hại họ hàng Cù Đàm; Thiện Tinh

vì thuyết bậy rằng tất cả pháp đều rỗng không mà thân đang

sống đọa vào địa ngục A Tỳ. Các địa ngục này là có chỗ

nhất định, hay là tự nhiên mà khi mỗi người kia phát

nghiệp thì mỗi mỗi riêng chịu? “Xin Phật rủ lòng Đại Từ,

khai thị cho kẻ non dại mê muội, khiến cho tất cả các chúng

sanh trì giới nghe nghĩa quyết định, hoan hỉ đội đầu, cẩn thận

giữ gìn không phạm.”

2. Khai thị về phận trong, phận ngoài của chúng sanh

Phật bảo ngài Anan: “ ay thay lời hỏi đó, khiến cho chúng

sanh chẳng rơi vào tà kiến. Nay ông hãy nghe kỹ, ta sẽ vì

ông mà nói.

Page 184: Sa Môn DI TÙNG - chuaphatquocttt.orgchuaphatquocttt.org/doc/KinhThuLangNghiemRev3.pdf · học, tụng inh Đại 3hật Đảnh thủ /ăng 1ghiêm, đồng thi tham khảo các

182

“Anan! Tất cả chúng sanh thật ra vốn Chân Tịnh, nhân tự có

vọng kiến mà có các tập khí hư vọng sanh ra. o đó mà có

phân ra phận trong và phận ngoài.

“Anan! Phận Trong tức là trong phần của chúng sanh. o

các ái nhiễm phát khởi vọng tình, tình tích chứa mãi không

ngừng thì hay sanh ái thủy. Bởi thế chúng sanh hễ tâm nhớ

món ăn ngon thì trong miệng nước chảy ra; hễ tâm nhớ

người trước, hoặc thương hay ghét thì trong mắt lệ tràn.

Tham cầu của báu thì tâm phát ái diên (nước dãi), cả mình

đều trơn nóng. Tâm dính vào chuyện hành dâm thì hai căn

nam, nữ tự nhiên chảy nước dịch. “Anan! Các ái tuy có khác

nhau, nhưng kết quả chảy nước là đồng, thấm ướt không

lên được, tự nhiên theo đó mà sa xuống, ấy gọi là phận

trong.

“Anan! Phận Ngoài tức là ngoài phần của chúng sanh. Nhân

các lòng khao khát, trông mong, phát sanh ra các hư tưởng.

Cái Tưởng chứa chất mãi không thôi thì hay sanh ra sự trội

hơn về khí. Bởi thế chúng sanh tâm giữ Giới Cấm thì cả thân

mình nhẹ nhàng trong suốt. Tâm giữ Chú Ấn thì mắt nhìn

hùng dũng, nghiêm nghị. Tâm muốn sanh cõi Trời thì chiêm

bao thấy bay lên. Tâm để nơi cõi Phật thì Thánh cảnh thầm

hiện. Phụng sự bậc thiện trí thức thì tự coi nhẹ thân mệnh

mình. “Anan! Các Tưởng tuy khác nhau, nhưng sự nhẹ

nhàng cất lên thì đồng. Cất bay lên không chìm xuống, tự

nhiên vượt lên, ấy gọi là Phận Ngoài.

“Anan! ết thảy thế gian sống chết nối nhau: Sanh thì theo

tập khí quen thuộc; tử thì theo sự đổi dòng. Lúc mệnh chung,

chưa hết hơi ấm thì thiện ác một đời cùng lúc liền hiện ra.

Sống thuận, chết nghịch, hai tập khí giao nhau.

Page 185: Sa Môn DI TÙNG - chuaphatquocttt.orgchuaphatquocttt.org/doc/KinhThuLangNghiemRev3.pdf · học, tụng inh Đại 3hật Đảnh thủ /ăng 1ghiêm, đồng thi tham khảo các

183

“Thuần là Tưởng thì bay lên, hẳn là sanh trên cõi Trời. Nếu

trong tâm bay lên đó gồm cả Phước Đức và Trí uệ cùng với

tịnh nguyện thì tự nhiên tâm mở tỏ, thấy tất cả Tịnh Độ của

mười phương Chư Phật, rồi tùy nguyện mà vãng sanh.

“Tình ít, Tưởng nhiều thì cất lên chẳng xa mà làm các loài

Phi Tiên, Đại Lực Quỷ ương, Phi ành ạ Xoa, Địa ành

La Sát dạo trong bốn cõi trời không bị ngăn ngại. Nếu có

thiện nguyện, thiện tâm hộ trì Phật Pháp hoặc hộ trì Cấm

Giới thì theo người trì Giới, hoặc hộ trì Thần Chú thì theo

người trì Chú, hoặc hộ trì Thiền Định thì giữ an pháp nhãn,

hết thảy đều được gần gũi dưới pháp tòa của Như Lai.

“Tình và Tưởng ngang nhau thì không bay lên, không đọa

xuống, sanh nơi cõi người. Tưởng sáng thì thông minh, Tình

tối thì ngu độn.

“Tình nhiều Tưởng ít thì trôi dạt vào cầm thú: Nặng thì làm

giống mang lông, nhẹ thì làm loài có cánh.

“Bảy phần Tình, ba phần Tưởng thì chìm xuống Thủy Luân,

sanh nơi mé ỏa Luân, chịu ngọn lửa mạnh, thân làm ngạ

quỉ, thường bị thiêu đốt. ì nước có thể hại mình nên trải

trăm ngàn kiếp không ăn không uống.

“Chín phần Tình, một phần Tưởng thì xuống thấu ỏa Luân,

thân đi vào ranh giới giao nhau của Phong Luân và ỏa

Luân, nhẹ thì sanh vào ữu Gián, nặng thì sanh vào ô

Gián, hai thứ địa ngục.

“Thuần là Tình thì chìm sâu vào ngục A Tỳ. Nếu trong tâm

chìm đắm đó mà có sự hủy báng Đại Thừa, phá Cấm Giới

của Phật, nói pháp láo dối, tham bậy của tín chủ, lạm nhận sự

cung kính hoặc Ngũ Nghịch, Thập Trọng thì lại sanh vào địa

ngục A Tỳ mười phương.

Page 186: Sa Môn DI TÙNG - chuaphatquocttt.orgchuaphatquocttt.org/doc/KinhThuLangNghiemRev3.pdf · học, tụng inh Đại 3hật Đảnh thủ /ăng 1ghiêm, đồng thi tham khảo các

184

“Theo sự tạo ác nghiệp, tuy tự chuốc lấy nhưng trong nghiệp

đồng phận chúng đó vẫn có chỗ sẵn.

3. Mười tập nhân và sáu giao báo

“Anan! Những điều như thế đều do nghiệp báo của các

chúng sanh tự chiêu cảm lấy: Tạo mười Tập Nhân thì chịu

sáu Giao Báo.

“Anan! thế nào là mười Tập Nhân ?

Một là thói quen dâm dục giao tiếp, phát sanh nơi sự cọ xát

lẫn nhau. Cọ xát không thôi, như vậy cho nên trong ấy có

ngọn lửa lớn phát động ra, như người lấy hai tay xoa xát lẫn

nhau thì cảm Giác nóng hiện ra. ai cái tập khí thiêu đốt

nhau, nên mới có các thứ giường sắt, cột đồng. Thế nên tất

cả mười phương Như Lai xem việc ành âm đồng gọi là

lửa dục. Bồ Tát xem thấy âm ục như tránh hầm lửa.

“Hai là, thói quen tham lam, so đo tính toán, phát sanh nơi

sự thu hút lẫn nhau. ấp thu ôm ấp chẳng ngừng, như vậy

cho nên trong ấy có chứa hơi lạnh thành giá cứng đông đặc,

như người hút hơi gió vào thì cảm Giác lạnh sanh ra. ai cái

tập khí lấn nhau, nên có những sự tra tra, ba ba, la la, sen

sanh, đỏ, trắng, giá lạnh v.v... Bởi thế tất cả mười phương

Như Lai xem việc Tham nhiều đồng gọi là nước tham. Bồ

Tát xem thấy Tham như tránh biển độc.

“Ba là, thói quen kiêu mạn lấn lướt lẫn nhau phát sanh nơi

chỗ ỷ thế với nhau, giong ruổi không thôi, như vậy cho nên

có sự phóng túng, bôn ba, chứa sóng thành nước, như người

miệng lưỡi tự chép làm cho nước bọt sanh ra. ai cái tập khí

chọi nhau nên có các việc sông máu, sông tro, cát nóng, biển

độc, nước đồng bắt uống... Thế nên, tất cả mười phương Như

Page 187: Sa Môn DI TÙNG - chuaphatquocttt.orgchuaphatquocttt.org/doc/KinhThuLangNghiemRev3.pdf · học, tụng inh Đại 3hật Đảnh thủ /ăng 1ghiêm, đồng thi tham khảo các

185

Lai xem lòng Ngã Mạn, đồng gọi là uống nước si mê. Bồ Tát

xem thấy Kiêu Mạn như tránh vực thẳm lớn.

“Bốn là, thói quen nóng giận xung đột lẫn nhau, phát sanh

nơi sự chống đối lẫn nhau. Chống đối hoài không thôi, tâm

nổi nóng phát ra lửa, nấu cái khí thành kim loại, như vậy cho

nên có núi dao, đòn sắt, cội cây gươm, bánh xe gươm, búa

rìu, thương, cưa, như người bị hàm oan thì sát khí nổi lên.

ai tập khí đánh nhau, nên có các sự thiến, cắt, chém, chặt,

dùi, đâm, đập, đánh. Thế nên tất cả mười phương Như Lai

xem sự Nóng Giận đồng gọi là kiếm, dao bén. Bồ Tát xem

thấy Nóng Giận như tránh chém, giết.

“Năm là, thói quen giả dối, dụ gạt lẫn nhau, phát sanh nơi sự

lôi kéo lẫn nhau. ẫn dụ chẳng ngừng, như vậy cho nên có

dây, cây thòng lọng, căng nọc, như nước thấm xuống ruộng

thì cỏ cây sanh trưởng. ai tập khí kéo nhau nên có các sự

gông, cùm, xiềng xích, roi, gậy, qua, bổng. Thế nên tất cả

mười phương Như Lai xem sự Giả ối đồng gọi là Sàm Tặc.

Bồ Tát xem thấy Gian ối như sợ sói, beo.

“Sáu là, thói quen lừa gạt, phỉnh dối lẫn nhau, phát sanh nơi

sự phỉnh gạt lẫn nhau. Phỉnh gạt chẳng thôi, phát tâm gây

điều gian dối, như vậy cho nên có bụi, đất, đại tiện, tiểu tiện,

dơ nhớp chẳng sạch; như bụi theo gió không thấy lẫn nhau.

ai cái tập khí dìm nhau nên có các sự chìm đắm, nhảy,

ném, bay, rơi, trôi lăn. Thế nên tất cả mười phương Như Lai

xem sự Lừa Gạt đồng gọi là cướp giết. Bồ Tát xem thấy việc

Lường Gạt như dẫm rắn độc.

“Bảy là, thói quen thù oán, hiềm khích lẫn nhau, phát sanh

nơi chỗ ôm ấp lòng giận. Như vậy cho nên có quăng đá, ném

gạch, cũi nhốt, xe tù, bình đựng, đảy bọc, như người hiểm

độc ôm ấp điều dữ. ai cái tập khí nuốt nhau, nên có các

Page 188: Sa Môn DI TÙNG - chuaphatquocttt.orgchuaphatquocttt.org/doc/KinhThuLangNghiemRev3.pdf · học, tụng inh Đại 3hật Đảnh thủ /ăng 1ghiêm, đồng thi tham khảo các

186

việc ném, quăng, nắm, bắt, đánh, bắn, vất, ôm. Thế nên tất cả

mười phương Như Lai xem sự Thù Oán đồng gọi là quỉ i

ại. Bồ Tát xem thấy Thù Oán như uống rượu độc.

“Tám là, thói quen tà kiến, tranh cãi với nhau. Như thân

kiến, giới cấm thủ và các nghiệp hiểu biết sai lầm, phát sanh

nơi chỗ chống trái lẫn nhau. Như vậy cho nên có quan lại

chứng thực, nắm giữ giấy tờ, nhiều như người đi đường qua

lại gặp nhau. ai cái tập khí giao nhau nên có các sự khám

hỏi, mưu chước, vặn hỏi, đòi hỏi, gạn xét, cứu tra cho rõ ràng

và những đồng tử thiện ác tay cầm sổ sách, biện bạch, hạch

sách. Thế nên tất cả mười phương Như Lai xem Ác Kiến

đồng gọi là hố kiến chấp. Bồ Tát xem thấy các Thiên Chấp

hư vọng như nhìn xuống hố độc.

“Chín là, thói quen vu vạ làm hại cho nhau, phát sanh nơi

chỗ phao vu, bài báng. Như vậy cho nên có núi khép, đá

khép, cối nghiền, cối xay, như kẻ sàm tặc, áp bức vu oan

người lương thiện. ai cái tập khí bài xích lẫn nhau, nên có

các việc áp giải, đè đập, ép máu, tuốt mình. Thế nên tất cả

mười phương Như Lai xem sự u ạ đồng gọi là cọp sàm

báng. Bồ Tát xem thấy sự u ạ như bị sấm sét.

“Mười là, thói quen thưa kiện, cãi vã lẫn nhau, phát sanh ở

chỗ che đậy. Như vậy cho nên có gương soi, đuốc chiếu, như

giữa ban ngày chẳng thể giấu bóng. ai cái tập khí phơi bày

lẫn nhau, nên có các việc bạn ác, kiếng soi nghiệp, hỏa châu

phơi bày nghiệp xưa mà đối nghiệm. Thế nên tất cả mươi

phương Như Lai xem sự Che Đậy đồng gọi là giặc ngầm. Bồ

Tát xem thấy sự Che Đậy như đội núi cao lội trong biển lớn.

Page 189: Sa Môn DI TÙNG - chuaphatquocttt.orgchuaphatquocttt.org/doc/KinhThuLangNghiemRev3.pdf · học, tụng inh Đại 3hật Đảnh thủ /ăng 1ghiêm, đồng thi tham khảo các

187

“Thế nào là sáu Giao Báo79? “Anan! ết thảy chúng sanh

sáu Thức tạo nghiệp nên chiêu lấy ác báo từ sáu căn ra.

“Thế nào là Ác Báo từ sáu Căn ra?

“Một là, Ác Báo về Thấy chiêu dẫn ác quả. Nghiệp Giao

Báo về thấy này là khi lâm chung, trước hết thấy lửa hừng

đầy cả mười phương, thần thức người chết bay đọa theo khói

vào ngục ô Gián, phát sanh hai tướng: Một là, thấy sáng thì

thấy khắp các thứ vật dữ, sanh sợ hãi ghê gớm. ai là, thấy

tối thì lặng soi chẳng thấy gì sanh hoảng sợ vô cùng. Lửa-

thấy như vậy đốt cái nghe thì có thể làm thành vạc sôi, đồng

chảy; đốt hơi thở thì có thể làm thành lửa đỏ, khói đen; đốt

cái nếm thì có thể làm thành hòn lửa, cơm sắt; đốt cảm xúc

thì có thể làm tro nóng, lò than; đốt tâm thức thì có thể sanh

sao lửa rưới khắp, làm rung động cõi hư không.

“Hai là, Ác Báo về Nghe chiêu dẫn ác quả. Nghiệp Giao Báo

về Nghe này là khi lâm chung, trước hết thấy sóng cuộn ngập

chìm trời đất, thần thức người chết sa xuống theo dòng nước

vào ngục ô Gián, phát sanh hai tướng: Một là, nghe rõ thì

nghe đủ thứ ồn ào, tinh thần bấn loạn. ai là, điếc hẳn, lặng

ngất không nghe thấy gì, thần phách chìm đắm. Sóng nghe

như vậy rót vào cái nghe thì có thể làm thành trách móc, cật

vấn; rót vào cái Thấy thì có thể làm thành sấm, thành tiếng

rống, làm hơi độc dữ; rót vào hơi thở thì có thể làm thành

mưa thành mù, rưới các sâu độc đầy khắp thân thể; rót vào

cái nếm thì có thể làm thành mủ, máu, các thứ dơ bẩn; rót

vào cảm xúc thì có thể làm súc vật, làm quỉ, làm phân, làm

nước tiểu; rót vào tâm ý có thể làm thành chớp, mưa đá, đập

nát tâm phách.

79

Giao Báo cũng có thể gọi là Quả Báo

Page 190: Sa Môn DI TÙNG - chuaphatquocttt.orgchuaphatquocttt.org/doc/KinhThuLangNghiemRev3.pdf · học, tụng inh Đại 3hật Đảnh thủ /ăng 1ghiêm, đồng thi tham khảo các

188

“Ba là, Ác Báo về Ngửi chiêu dẫn ác quả. Nghiệp Giao báo

về ngửi này là khi lâm chung, trước hết thấy hơi độc đầy dẫy

xa gần, thần thức người chết từ đất trỗi lên vào ngục ô

Gián, phát sanh hai tướng: Một là, ngửi thông thì bị các hơi

độc xông tột bực làm cho tâm rối loạn. ai là, nghẹt mũi, hơi

ngạt không thông, nằm chết giấc trên đất. ơi ngửi như vậy

xông vào hơi thở thì có thể làm thông, làm ngạt; xông vào

cái thấy thì có thể làm thành lửa, thành đuốc; xông vào cái

nghe thì có thể làm chìm ngập, làm chết đuối, làm nước lớn,

làm nước sôi; xông vào cái nếm thì có thể làm sình, làm thối;

xông vào cái cảm xúc thì có thể làm xấu, làm nát, làm ra núi

thịt lớn có trăm ngàn con mắt, hút ăn không cùng; xông vào

ý nghĩ thì có thể làm ra tro, ra khí độc, làm gạch đá bay lên

đánh nát cơ thể.

“Bốn là, Ác Báo về Nếm chiêu dẫn ác quả. Nghiệp Giao Báo

về nếm này là khi lâm chung, trước hết thấy lưới sắt nung đỏ

che khắp thế giới, thần thức người chết từ dưới tung lên, mắc

lưới treo ngược đầu xuống vào ngục ô Gián, phát sanh hai

tướng: Một là, nuốt vào thì kết thành giá lạnh làm nứt nẻ

thân thể. ai là, mửa ra thì bay lên thành lửa hừng, thiêu rụi

xương tủy. Nếm biết như vậy, qua cái nếm thì có thể làm ra

nhận ra chịu; qua cái Thấy thì có thể làm ra các thứ kim

thạch đốt cháy; qua cái Nghe thì có thể làm binh khí sắc bén;

qua hơi thở thì có thể làm lồng sắt rộng che hết cõi nước; qua

cảm xúc thì có thể làm thành cung, thành tên, làm nỏ, làm

bắn; qua ý nghĩ thì có thể làm sắt nóng bay, từ trên không

rưới xuống.

“Năm là, Ác Báo về Xúc chiêu dẫn ác quả. Nghiệp Giao Báo

về Xúc này là khi lâm chung, trước hết thấy núi lớn bốn mặt

áp lại không còn lối ra, thần thức người chết thấy thành sắt

lớn, rắn lửa, chó lửa, cọp sói, sư tử, lính ngục đầu trâu, la sát

Page 191: Sa Môn DI TÙNG - chuaphatquocttt.orgchuaphatquocttt.org/doc/KinhThuLangNghiemRev3.pdf · học, tụng inh Đại 3hật Đảnh thủ /ăng 1ghiêm, đồng thi tham khảo các

189

đầu ngựa tay cầm giáo chĩa lùa vào cửa thành hướng về ngục

ô Gián, phát sanh hai tướng: Một là, hợp xúc thì núi ép kẹp

mình, xương thịt nát ra máu. ai là, lìa xúc thì đao kiếm

chạm đụng mình, tim gan cắt xẻ. Xúc hợp như vậy qua cái

xúc thì có thể làm ra đường, ra quán, làm nha sảnh, làm tòa

án; qua cái thấy thì có thể làm đốt, làm nung; qua cái nghe

thì có thể làm thành đập, đánh, đâm, bắn; qua hơi thở thì có

thể làm thành trùm, đẩy, tra, trói; qua cái nếm thì có thể làm

cày, làm kềm, chém, chặt; qua ý nghĩ thì có thể làm rớt, làm

bay, làm nấu, làm nướng.

“Sáu là, ác báo về Ý chiêu dẫn ác quả. Nghiệp Giao Báo về

Ý này là khi lâm chung, trước hết thấy gió dữ thổi nát cõi

nước, thần thức người chết bị thổi lên trên không, xoay rơi

theo gió, sa vào ngục ô Gián, phát sanh hai tướng: Một là,

không biết, tột mê thì hoang mang, rông chạy không ngừng.

ai là, chẳng mê, hay biết thì khổ, bị nung đốt không cùng,

đau buốt không chịu nổi. Ý lầm lạc như vậy kết vào ý nghĩ

thì có thể làm thành nơi, làm chốn; kết vào cái thấy thì có thể

làm gương soi, làm chứng cớ; kết vào cái nghe thì có thể làm

ra núi lớn xáp vào nhau, làm ra giá, ra sương, ra đất, ra mù;

kết vào hơi thở thì có thể làm ra xe lửa lớn, làm thuyền lửa,

làm rọ lửa; kết vào cái nếm thì có thể làm kêu la to, làm ăn

năn, làm khóc lóc; kết vào cái xúc thì có thể làm ra lớn, làm

ra nhỏ, làm cho trong một ngày vạn lần sống, vạn lần chết,

làm té sấp, té ngửa.

“Anan! Đó là mười Tập Nhân và sáu Quả Báo của địa ngục.

Nhân quả ấy đều do cái mê vọng của chúng sanh tạo ra. Nếu

các chúng sanh tạo hết các nghiệp dữ thì vào địa ngục A Tỳ,

chịu ô lượng khổ, trải qua vô lượng kiếp. Các căn trong sáu

căn tạo riêng và nghiệp tạo ra gồm cả căn lẫn cảnh thì người

ấy vào tám địa ngục ô Gián. Ba thứ thân, khẩu, ý làm ra

Page 192: Sa Môn DI TÙNG - chuaphatquocttt.orgchuaphatquocttt.org/doc/KinhThuLangNghiemRev3.pdf · học, tụng inh Đại 3hật Đảnh thủ /ăng 1ghiêm, đồng thi tham khảo các

190

Sát, Đạo, âm thì người đó vào Thập Bát Địa Ngục. Không

đủ cả ba nghiệp, trong đó chỉ có một cái hoặc Sát hay Đạo

thì người ấy vào trong Tam Thập Lục Địa Ngục. Chỉ có một

Căn riêng phạm một nghiệp, người ấy vào Nhất Bách Bát

Địa Ngục. “Đó là do chúng sanh riêng làm, riêng tạo, nên ở

trong thế giới vào chỗ đồng phận, duyên từ ọng Tưởng

phát sanh, chẳng phải vốn là tự có.

“Lại nữa, Anan! nếu các chúng sanh đó chẳng phá Luật

Nghi, phạm Bồ Tát Giới, hủy báng Niết Bàn của Phật mà chỉ

phạm những tạp nghiệp khác thì sau nhiều kiếp bị thiêu đốt,

đền hết tội rồi thì chịu những hình quỉ.

“Nếu nơi bản nhân do tham vật mà gây nên tội thì khi đền tội

xong, gặp vật thành hình gọi là Quái Quỉ. o tham sắc mà

gây nên tội thì khi đền tội xong, gặp gió thành hình gọi là

Bạt Quỉ. o tham dối trá mà gây nên tội thì khi đền tội xong,

gặp súc vật thành hình gọi là Mỵ Quỉ. o tham hận mà gây

nên tội thì khi đền tội xong, gặp sân thành hình, gọi là Cổ

Độc Quỉ. o tham ghi nhớ mà gây nên tội thì khi đền tội

xong, gặp sự suy tàn thành hình, gọi là Lệ Quỉ. o tham

ngạo mạn mà gây nên tội thì khi đền tội xong, gặp khí thành

hình, gọi là Ngạ Quỉ. o tham lừa gạt mà gây nên tội thì khi

đền tội xong, gặp u uẩn thành hình gọi là Áp Quỉ. o tham

vạch bày mà làm nên tội thì khi đền tội xong, gặp tinh hoa

thành hình, gọi là ọng Lượng Quỉ. o tham thành tựu mà

gây nên tội thì khi đền tội xong, gặp bóng sáng thành hình,

gọi là ịch Sử Quỉ. o tham bè đảng mà gây nên tội thì khi

đền tội xong, gặp con người thành hình, gọi là Truyền Tống

Quỉ.

“Anan! Những người ấy đều do thuần Tình mà đọa lạc, khi

lửa nghiệp đốt khô rồi thì lên làm Quỉ. Các thứ ấy đều do cái

Page 193: Sa Môn DI TÙNG - chuaphatquocttt.orgchuaphatquocttt.org/doc/KinhThuLangNghiemRev3.pdf · học, tụng inh Đại 3hật Đảnh thủ /ăng 1ghiêm, đồng thi tham khảo các

191

nghiệp tự vọng tưởng chiêu dẫn tới; nếu ngộ được Bồ Đề thì

trong tánh iệu iên Minh, vốn nào đâu có.

“Lại nữa, Anan! Nghiệp Quỉ đã hết thì hai thứ Tình và

Tưởng đều không, mới ở thế gian cùng người nợ cũ oán đối

gặp nhau, thân làm súc sanh, để trả nợ xưa.

“Loài Quái Quỉ thì khi vật tiêu tan, quả báo hết, sanh nơi thế

gian, phần nhiều làm chim Cưu. Loài Bạt Quỉ thì khi gió tiêu

tan, quả báo hết, sanh nơi thế gian, phần nhiều làm loài báo

điềm kỳ dị. Loài Mỵ Quỉ thì khi súc chết, quả báo hết, sanh

nơi thế gian, phần nhiều làm loài chồn, cáo. Loài Cổ Quỉ thì

khi sâu bọ diệt, quả báo hết, sanh nơi thế gian, phần nhiều

làm loài có độc. Loài Lệ Quỉ thì khi sự suy dứt, quả báo hết,

sanh nơi thế gian, phần nhiều làm loài giun. Loài Ngạ Quỉ thì

khi khí tiêu, quả báo hết, sanh nơi thế gian, phần nhiều làm

loài bị ăn thịt. Loài Áp Quỉ thì khi u uẩn tiêu, quả báo hết,

sanh nơi thế gian, phần nhiều làm loài cung cấp đồ mặc. Loài

ọng Lượng Quỉ thì khi tinh hoa tiêu, quả báo hết, sanh nơi

thế gian, phần nhiều làm chim mùa. Loài ịch Sử Quỉ thì khi

bóng sáng diệt, quả báo hết, sanh nơi thế gian, phần nhiều

làm loài báo điềm lành. Loài Truyền Tống Quỉ thì khi người

chết, quả báo hết, sanh nơi thế gian, phần nhiều làm loài

thuần hóa.

“Anan! Các loài ấy đều do lửa nghiệp đốt xong, sanh làm súc

vật để trả nợ cũ. ết thảy cũng đều tự hư vọng chiêu dẫn lấy

nghiệp mà ra. Nhưng ngộ Bồ Đề thì các vọng duyên ấy vốn

không chỗ có!

“Như lời ông nói, nhóm Bảo Liên ương, Lưu Ly ương và

Tỳ Kheo Thiện Tinh đều vốn tự mình bày đặt ra nghiệp dữ.

Nghiệp ấy chẳng từ trời rơi xuống, cũng chẳng từ đất chui

lên, mà cũng chẳng phải do ai trao tặng. Chính là tự hư vọng

Page 194: Sa Môn DI TÙNG - chuaphatquocttt.orgchuaphatquocttt.org/doc/KinhThuLangNghiemRev3.pdf · học, tụng inh Đại 3hật Đảnh thủ /ăng 1ghiêm, đồng thi tham khảo các

192

rước lấy rồi tự lãnh nhận. Trong Tâm Bồ Đề chúng đều là hư

huyễn vọng tưởng ngưng kết.

“Lại nữa, Anan! Các súc sanh ấy đều trả nợ trước mà nếu

trong lúc trả nợ, trả quá nợ cũ thì những chúng sanh ấy trở lại

làm người đòi lại chỗ dư. Nếu bên kia có sức lại có cả phúc

đức thì ở trong loài người không rời bỏ thân người mà hoàn

lại chỗ thừa đó, còn nếu không có phúc đức thì phải làm súc

sanh để đền lại chỗ thừa.

“Anan! Ông nên biết, nếu dùng tiền của hoặc sức người ta thì

đền đủ là xong, còn như trong ấy có giết thân mạng, hoặc ăn

thịt, như vậy trải qua nhiều kiếp ăn nhau, giết nhau, giống

như bánh xe quay hoài, chỗ cao thấp thay đổi nhau liên hồi

không nghỉ. Trừ pháp Xa Ma Tha hoặc gặp Phật ra đời chứ

chẳng thể nào thôi nghỉ được.

“Nay ông nên biết, loài chim Cưu kia, trả nợ đủ thì trở lại

hình người, sanh trong nhân đạo, tham hợp hạng ngoan cố.

Giống Cửu Trưng kia, trả nợ đủ thì trở lại hình người, sanh

trong nhân đạo, tham hợp hạng quái dị. Loài chồn kia trả nợ

đủ thì trở lại hình người, sanh trong nhân đạo, tham hợp

hạng ngu dại. Những loài có độc kia, trả nợ đủ thì trở lại hình

người, sanh trong nhân đạo, tham hợp hạng nham hiểm.

Những loài giun kia, trả nợ đủ, trở lại hình người, sanh trong

nhân đạo, tham hợp hạng hèn nhát. Những loại bị ăn thịt kia,

trả nợ đủ, trở lại hình người, sanh trong nhân đạo, tham hợp

hạng nhu nhược. Những loài cung cấp đồ mặc kia, trả nợ đủ,

trở lại hình người, sanh trong nhân đạo, tham hợp hạng lao

nhọc. Những loài chim mùa kia, trả nợ đủ, trở lại hình người,

sanh trong nhân đạo, tham hợp hạng văn hoa. Những loài

đem điềm lành kia, trả nợ đủ, trở lại hình người, sanh trong

nhân đạo, tham hợp hạng thông minh. Những loài thuần hóa

Page 195: Sa Môn DI TÙNG - chuaphatquocttt.orgchuaphatquocttt.org/doc/KinhThuLangNghiemRev3.pdf · học, tụng inh Đại 3hật Đảnh thủ /ăng 1ghiêm, đồng thi tham khảo các

193

phải trả nợ đủ, trở lại hình người, sanh trong nhân đạo, tham

hợp hạng thông đạt.

“Anan! Các chúng sanh đó đều do trả hết nợ cũ, trở lại hình

của cõi người đều do từ vô thủy đến nay Điên Đảo mà gây

nghiệp, sanh sát lẫn nhau, chẳng gặp Như Lai, chẳng nghe

Chánh Pháp, ở trong trần lao cứ vậy mà xoay vần. Chúng ấy

gọi là đáng thương xót vậy.

4. Không tu thành Chánh Giác thành các thứ Tiên

“Anan! Lại có chúng sanh từ loài người, không nương theo

Chánh Giác tu pháp Tam Ma Địa, mà riêng tu vọng niệm tồn

giữ tư tưởng, củng cố hình hài, đi vào rừng núi, người chẳng

đến được, thành mười loại Tiên.

“Anan! Các chúng sanh kia bền gắng dùng đồ bổ không

ngừng nghỉ, khi đạo ăn được thành tựu, gọi là Địa Hành

Tiên.

“Bền gắng dùng cỏ cây không ngừng nghỉ, khi đạo thuốc

được thành tựu, gọi là Phi Hành Tiên.

“Bền gắng dùng kim thạch không ngừng nghỉ, khi đạo hóa

chất được thành tựu, gọi là Du Hành Tiên.

“Bền gắng làm những động tác không ngừng nghỉ, khi đạo

khí tinh được thành tựu, gọi là Không Hành Tiên.

“Bền gắng luyện nuớc bọt không ngừng nghỉ, khi nhuận đức

đã thành tựu, gọi là Thiên Hành Tiên.

“Bền gắng hấp thụ tinh hoa không ngừng nghỉ, khi hấp thụ

tinh túy thành tựu, gọi là Thông Hành Tiên.

“Bền gắng làm chú thuật không ngừng nghỉ, khi thuật pháp

được thành tựu, gọi là Đạo Hành Tiên.

Page 196: Sa Môn DI TÙNG - chuaphatquocttt.orgchuaphatquocttt.org/doc/KinhThuLangNghiemRev3.pdf · học, tụng inh Đại 3hật Đảnh thủ /ăng 1ghiêm, đồng thi tham khảo các

194

“Bền gắng chuyên chú tâm niệm không ngừng nghỉ, khi

chuyên niệm được thành tựu, gọi là Chiếu Hành Tiên.

“Bền gắng về thủy hỏa giao cấu không ngừng nghỉ, khi cảm

ứng được thành tựu, gọi là Tinh Hành Tiên.

“Bền gắng tập luyện biến hóa không ngừng nghỉ, khi tỉnh

Giác được thành tựu, gọi là Tuyệt Hành Tiên.

“Anan! Những người này đều ở trong loài người mà luyện

tâm, chẳng tu theo Chánh Giác, chỉ riêng được sanh lý, thọ

ngàn vạn năm, nhàn nghỉ trong núi sâu hay trên hoang đảo

giữa đại dương, dứt tuyệt với cảnh người. Đó cũng là ở trong

vọng tưởng trôi lăn của sự luân hồi. Chẳng tu pháp Tam

Muội nên khi quả báo hết thì trở lại tản vào trong sáu nẻo.

Page 197: Sa Môn DI TÙNG - chuaphatquocttt.orgchuaphatquocttt.org/doc/KinhThuLangNghiemRev3.pdf · học, tụng inh Đại 3hật Đảnh thủ /ăng 1ghiêm, đồng thi tham khảo các

195

Quyển IX

Phần 21

Các cõi Trời

(Lưu ý: Đoạn này đọc cho biết mà thôi, không cần phải

nhớ.)

Cõi Trời Dục Giới

“Anan! Các người thế gian chẳng cầu cái thường trụ, chưa

thể lìa bỏ được thê thiếp, ân ái, nhưng tâm không buông lung

trong tà dâm. o lắng trong sanh ra sáng suốt, sau khi mạng

chung, gần với mặt trời, mặt trăng. ạng như vậy gọi là Tứ

Thiên Vương Thiên.

“Đối với vợ nhà, dâm ái ít ỏi, trong khi tịnh cư chưa được

toàn vẹn mùi vị. Sau khi mạng chung, vượt sức sáng của mặt

trời, mặt trăng, ở trên đỉnh của nhân gian. Một hạng như vậy,

gọi là Đạo Lợi Thiên (Tam Thập Tam Thiên).

“Gặp cảnh dục tạm theo, qua rồi không nghĩ nhớ, ở trong cõi

nhân gian động ít tĩnh nhiều. Sau khi mạng chung, an trụ

sáng rỡ ở trong hư không. Ánh sáng mặt trời, mặt trăng soi

chiếu chẳng bằng. Các người ấy tự có ánh sáng. Một hạng

như vậy, gọi là Tu Diệm Ma Thiên (Thời Phân).

“Luôn luôn yên tĩnh, nhưng khi có cảm xúc đến, chưa thể

nghịch hẳn. Sau khi mạng chung, bay lên cõi tinh vi, không

giao tiếp với các cảnh nhân-thiên cõi dưới cho đến thời kiếp

hoại, tam tai cũng không đến được. Một hạng như vậy gọi là

Đâu Suất Đà Thiên (Tri Túc).

“Chính mình không có lòng dâm, đáp ứng với người mà

hành sự, trong lúc phô diễn vô vị như sáp. Sau khi mạng

Page 198: Sa Môn DI TÙNG - chuaphatquocttt.orgchuaphatquocttt.org/doc/KinhThuLangNghiemRev3.pdf · học, tụng inh Đại 3hật Đảnh thủ /ăng 1ghiêm, đồng thi tham khảo các

196

chung, sanh vượt vào cõi biến hóa. Một hạng như vậy, gọi là

Lạc Biến Hóa Thiên.

“Không có tâm thế gian, chỉ đồng theo thế gian mà hành sự,

trong khi làm việc ấy, suốt thông siêu việt. Sau khi mạng

chung, vượt trên tất cả cảnh biến hóa và không biến hóa. Một

hạng như vậy, gọi là Tha Hóa Tự Tại Thiên.

“Anan! Sáu cõi trời như vậy thì hình thức tuy ra khỏi Động,

nhưng tâm Tánh còn dính mắc. Từ các cõi ấy trở xuống gọi

là ục Giới.

Cõi Trời Sắc Giới

“Anan! Tất cả những người tu tâm trong thế gian mà

không nhờ Thiền Na thì không có Trí Huệ. Người có thể

giữ cái thân không làm chuyện dâm dục, khi đi khi ngồi đều

không tưởng nhớ, ái nhiễm chẳng sanh thì không còn ở trong

ục Giới. Người ấy liền được bản thân làm Phạm Lữ. Một

hạng như vậy gọi là Phạm Chúng Thiên.

“Thói quen dâm dục đã trừ, tâm ly dục hiện ra, đối với các

Luật Nghi thì yêu thích tùy thuận. Người ấy liền có thể thực

hành Phạm đức. Một hạng như vậy gọi Phạm Phụ Thiên.

“Thân tâm diệu viên, uy nghi chẳng thiếu, Cấm Giới trong

sạch, lại thêm minh ngộ, người ấy liền có thể thống lãnh

Phạm Chúng, làm Đại Phạm ương. Một hạng như vậy gọi

là Đại Phạm Thiên.

“Anan! Ba hạng trổi vượt này, tất cả khổ não không thể bức

bách được. Tuy chẳng phải chân chánh tu hành Tam Ma Địa

mà trong tâm thanh tịnh các lậu chẳng động, gọi là Sơ

Thiền.

Page 199: Sa Môn DI TÙNG - chuaphatquocttt.orgchuaphatquocttt.org/doc/KinhThuLangNghiemRev3.pdf · học, tụng inh Đại 3hật Đảnh thủ /ăng 1ghiêm, đồng thi tham khảo các

197

“Anan! Kế đó hàng Phạm Thiên thống nhiếp Phạm Chúng

tròn đầy Phạm ạnh, lóng tâm chẳng động, trong lặng sanh

ra ánh sáng. Một hạng như vậy, gọi là Thiểu Quang Thiên.

“Ánh sáng soi nhau, chiếu sáng vô tận, dọi mười phương cõi,

khắp hết thành lưu ly. Một hạng như vậy, gọi là Vô Lượng

Quang Thiên.

“ ẹn giữ ánh sáng tròn đủ, thành tựu giáo thể, phát ra sự

giáo hóa thanh tịnh, ứng dụng không cùng. Một hạng như

vậy, gọi là Quang Âm Thiên.

“Anan! Ba hạng trổi vượt này, tất cả lo buồn không thể bức

bách được. Tuy không phải chân chánh tu hành Tam Ma Địa,

mà trong tâm thanh tịnh các lậu thô đã dẹp xuống, gọi là Nhị

Thiền.

“Anan! ạng Người Trời như vậy, ánh sáng toàn vẹn thì

thành âm thanh, mở âm thanh bày lộ sự mầu diệu, phát nên

hạnh tinh thuần, tiếp thông với cái vui tịch diệt. Một hạng

như vậy, gọi là Thiển Tịnh Thiên.

“Trống rỗng, thanh tịnh hiện tiền, rộng phát không bờ bến,

thân tâm khinh an, thành cái vui tịch diệt. Một hạng như vậy,

gọi là Vô Lượng Tịnh Thiên.

“Thân tâm, thế giới tất cả đều vẹn toàn sáng sạch, cái tánh

đức trong sạch đã thành tựu, cảnh giới thù thắng hiện tiền,

quy về cái vui tịch diệt. Một hạng như vậy, gọi là Biến Tịnh

Thiên.

“Anan! Ba hạng trổi vượt này, đầy đủ chỗ tùy thuận bao la,

thân tâm an ổn, được cái vui vô lượng. Tuy chẳng phải chân

chánh được Tam Ma Địa mà trong tâm an ổn, đầy đủ hoan

hỉ, gọi là Tam Thiền.

Page 200: Sa Môn DI TÙNG - chuaphatquocttt.orgchuaphatquocttt.org/doc/KinhThuLangNghiemRev3.pdf · học, tụng inh Đại 3hật Đảnh thủ /ăng 1ghiêm, đồng thi tham khảo các

198

“Anan! Kế đó, những hạng Người Trời thân tâm không còn

bị bức bách, cái nhân khổ đã hết, nhưng cái vui chẳng

thường trụ, lâu rồi cũng tiêu hoại. Bởi thế, đồng thời bỏ ngay

hai cái tâm khổ, vui. Những tướng thô nặng diệt mất, tánh

phúc thanh tịnh sanh ra. Một hạng như vậy, gọi là Phúc

Sanh Thiên.

“Tâm xả bỏ viên dung, sự hiểu biết thù thắng càng trong

sạch, trong cái Phúc không gì che đậy đó, được sự tùy thuận

mầu nhiệm cùng tột vị lai. Một hạng như vậy, gọi là Phúc Ái

Thiên.

“Nếu nơi tâm trước kia, nhàm chán cả khổ lẫn vui, lại nghiền

ngẫm cái tâm xả bỏ tiếp tục không ngừng, đến cùng tột sự

buông bỏ, thân tâm đều diệt, tâm ý dứt ngưng, trải qua năm

trăm kiếp. Người đó đã lấy cái sanh diệt làm nhân thì chẳng

có thể phát minh cái Tánh không sanh diệt. Nên nửa kiếp đầu

diệt, nửa kiếp sau lại sanh. Một hạng như vậy, gọi là Vô

Tưởng Thiên.

“Anan! Ba hạng trổi vượt này, tất cả cảnh khổ vui của thế

gian chẳng thể làm lay động. Tuy chẳng phải địa bất động

chân thật của ô i, mà cái tâm có chỗ đắc thì công dụng

thuần thục, gọi là Tứ Thiền.

“Anan! Trong đó lại có năm Bất Hoàn Thiên. Đã diệt hết

tập khí chín phẩm Tư oặc ở cõi dưới, Khổ ui đều mất,

bên dưới không còn chỗ ở, nên an lập chỗ ở nơi chúng đồng

phận của tâm xả.

“Anan! Khổ ui cả hai đều diệt, tâm tranh đấu chẳng còn

liên lụy, một hạng như vậy, gọi là Vô Phiền Thiên.

“Thênh thang độc hành, không còn chỗ so đo, một hạng như

vậy, gọi là Vô Nhiệt Thiên.

Page 201: Sa Môn DI TÙNG - chuaphatquocttt.orgchuaphatquocttt.org/doc/KinhThuLangNghiemRev3.pdf · học, tụng inh Đại 3hật Đảnh thủ /ăng 1ghiêm, đồng thi tham khảo các

199

“Khéo thấy mười phương thế giới, tròn vẹn lặng trong,

không còn tất cả dơ nhiễm nặng nề của trần cảnh, một hạng

như vậy, gọi là Thiện Kiến Thiên.

“Cái thấy trong suốt hiện tiền, trui rèn không ngăn ngại, một

hạng như vậy, gọi là Thiện Hiện Thiên.

“Rốt ráo các cơ vi, cùng tột tánh của sắc pháp, thể nhập cõi

không bờ bến, một hạng như vậy, gọi Sắc Cứu Cánh Thiên.

“Anan! Những bậc Bất oàn Thiên đó, chỉ riêng bốn vị

Thiên Vương Tứ Thiền được sự kính nghe, nhưng không

thể thấy biết. Như hiện giờ có các Thánh, đạo tràng nơi rừng

sâu, đồng rộng thế gian đều là chỗ trụ trì của các vị A La

án, mà người thô thiển của thế gian chẳng thể thấy biết.

“Anan! Mười tám hạng Trời đó, độc hành không giao thiệp,

nhưng chưa hết cái lụy của ình Sắc. Từ đây trở lại, gọi là

Sắc Giới.

Cõi Trời Vô Sắc Giới

“Lại nữa, Anan! Từ chỗ cao tột của Sắc Giới này lại có hai

đường rẽ.

“Nếu nơi tâm xả bỏ, phát minh được Trí uệ, ánh sáng Trí

uệ viên thông, thì ra khỏi cõi trần, thành vị A La án, vào

Bồ Tát Thừa. Một hạng như vậy, gọi là Hồi Tâm Đại A La

Hán.

“Nếu nơi tâm xả bỏ, thành tựu sự chán bỏ, biết thân là ngăn

ngại, trên cái ngăn ngại ấy vào cái Không. Một hạng như

vậy, gọi là Không Xứ.

“Các ngăn ngại đã tiêu, nhưng cái ô Ngại không diệt, trong

đó còn lưu lại thức A Lại a nguyên vẹn và nửa phần vi tế

của thức Mạt Na. Một hạng như vậy, gọi là Thức Xứ.

Page 202: Sa Môn DI TÙNG - chuaphatquocttt.orgchuaphatquocttt.org/doc/KinhThuLangNghiemRev3.pdf · học, tụng inh Đại 3hật Đảnh thủ /ăng 1ghiêm, đồng thi tham khảo các

200

“Sắc, Không đã hết, cái Thức Tâm diệt xong, mười phương

vắng lặng, tuyệt không qua lại. Một hạng như vậy, gọi là Vô

Sở Hữu Xứ.

“Thức tánh bất động, do nghiên cùng cái iệt, trong nơi vô

tận, bày ra cái tánh dứt hết, như còn mà chẳng còn, như hết

mà chẳng hết. Một hạng như vậy, gọi là Phi Tưởng, Phi Phi

Tưởng Xứ.

“Những hạng đó nghiên cùng cái Không, mà chẳng tột hết

Lý Không. Từ Bất oàn Thiên, thì cái Thánh Đạo đã đến

giới hạn tột cùng. Một hạng như vậy, gọi là Bất Hồi Tâm

Độn A La Hán.

“Nếu từ cõi trời ô Tưởng của các ngoại đạo, nghiên cùng

cái Không mà chẳng quay lại, mê lầm không nghe Chánh

Pháp thì sẽ rơi vào luân hồi.

“Anan! Trên các cõi trời đó, mỗi người trời là những phàm

phu theo sự báo đáp của nghiệp quả. Quả hết thì rơi luân hồi.

Thiên ương của các cõi ấy tức là Bồ Tát, dạo qua Tam Ma

Địa mà lần lượt tăng tiến trên đường hướng về Phật Đạo.

“Anan! Các cõi trời Tứ Không đó, thân tâm diệt hết, cái tánh

Định hiện tiền, không có sắc pháp của nghiệp quả. Từ đó đến

cuối cùng, gọi là Vô Sắc Giới.

“Những hạng đó chẳng rõ tánh iệu Giác Minh Tâm, chứa

nhóm vọng tưởng mà phát sanh, vọng có ra ba cõi. Ở trong

đó, hư vọng theo bảy nẻo chìm đắm, mỗi một chúng sanh

theo loại của mình.

Bốn Loại A Tu La

“Lại nữa, Anan! Trong ba cõi ấy, lại có bốn thứ A Tu La:

Page 203: Sa Môn DI TÙNG - chuaphatquocttt.orgchuaphatquocttt.org/doc/KinhThuLangNghiemRev3.pdf · học, tụng inh Đại 3hật Đảnh thủ /ăng 1ghiêm, đồng thi tham khảo các

201

“Nếu từ loài Quỉ, do sức hộ pháp, nương thần thông nhập

vào Không. ạng A Tu La này từ trứng mà sanh, thuộc về

loài Quỉ.

“Nếu từ cõi trời, đức kém phải sa đọa thì chỗ ở gần với mặt

trời, mặt trăng. ạng A Tu La này từ Thai mà sanh, thuộc về

loài Người.

“Có Tu La ương nắm giữ thế giới, sức mạnh thấu triệt

không phải sợ ai, có thể tranh quyền với Phạm ương, Đế

Thích và Tứ Thiên ương. ạng A Tu La này do biến hóa

mà có, thuộc về loài Trời.

“Anan! Lại có một số Tu La thấp kém, sanh trong lòng biển

cả, lặn trong đáy vực, ngày dạo chơi trên không, tối về ngủ

dưới nước. ạng A Tu La này do thấp khí mà có, thuộc về

loài Súc sanh.

Khai thị sự hư vọng của bảy loài để khuyên tu chân

chánh

“Anan! xét kỹ ra thì bảy loài Địa Ngục, Ngạ Quỉ, Súc Sanh,

Người và Thần Tiên, Trời và A Tu La như thế đều là các

tướng hữu vi tối tăm chìm đắm, do vọng tưởng mà thọ sanh,

do vọng tưởng mà theo Nghiệp, trong Bản Tâm iệu iên

Minh ô Tác thì đều như hoa đốm giữa hư không, vốn

không dính bám, chỉ thuần là hư vọng, tuyệt không gốc rễ,

mối manh.

“Anan! Những chúng sanh đó chẳng nhận biết Bản Tâm,

chịu sự luân hồi như kia trong vô lượng kiếp, chẳng được cái

Thanh Tịnh Chân Thật đều là do thuận theo Sát, Đạo, âm

vậy. Còn ngược lại ba thứ đó thì lại sanh ra không Sát, không

Đạo, không âm. Có Sát, Đạo, âm thì gọi là loài Quỉ;

Page 204: Sa Môn DI TÙNG - chuaphatquocttt.orgchuaphatquocttt.org/doc/KinhThuLangNghiemRev3.pdf · học, tụng inh Đại 3hật Đảnh thủ /ăng 1ghiêm, đồng thi tham khảo các

202

không có gọi là loài Trời. Có, Không đắp đổi nhau, khởi ra

tánh luân hồi.

“Nếu nhiệm mầu phát huy được pháp Tam Ma Đề ắt là

thường hằng tịch lặng nhiệm mầu, trong đó hai cái Có và

Không đều không, mà cái Không, Có cả hai cũng diệt. Cái

không Sát, không Đạo, không âm còn không có, lấy đâu

mà lại thuận theo việc Sát, Đạo, âm?

“Anan! Chẳng đoạn ba nghiệp thì mỗi mỗi chúng sanh đều

có phận riêng. Nhân mỗi mỗi phận riêng đó mà có đồng phận

chung của các cái riêng, không phải là không có chỗ nhất

định. Ấy là do tự hư vọng phát sanh ra, cái hư vọng phát

sanh ra đó vốn không có nhân, không có nguồn gốc ở đâu cả.

“Ông khuyên người tu hành muốn đắc Bồ Đề, cốt yếu phải

đoạn trừ ba cái oặc80. Ba oặc chẳng hết thì dầu có được

thần thông cũng đều là công dụng hữu vi của thế gian. Tập

khí mà chẳng diệt thì lạc vào đường ma, tuy muốn trừ vọng,

lại càng thêm hư dối, sai lầm. Như Lai nói là rất đáng thương

xót. Đó là tự mình tạo ra hư vọng, đâu phải là lỗi nơi Bồ Đề.

“Nói như thế gọi là lời chân chánh. Nếu nói khác thế, tức là

lời Ma ương.

Phân biệt các Ấm Ma

(Lưu ý: Đọc cho biết, không cần phải nhớ. Muốn khỏi bị

ngũ Ấm Ma, chỉ cần xem các hiện tượng gọi là “thần thông”

hiện ra trong Thiền Định chỉ là tu tập có tiến bộ mà thôi,

không thành Thánh, Phật gì cả)

80

Ba Hoặc là Kiến Tư oặc, T n c ô nh c.

Page 205: Sa Môn DI TÙNG - chuaphatquocttt.orgchuaphatquocttt.org/doc/KinhThuLangNghiemRev3.pdf · học, tụng inh Đại 3hật Đảnh thủ /ăng 1ghiêm, đồng thi tham khảo các

203

Lúc bấy giờ, Đức Như Lai sắp chấm dứt thời thuyết pháp, ở

nơi Sư Tử tòa, vịn ghế thất bảo, xoay về Tử Kim sơn, trở lại

dựa nơi ghế, bảo khắp đại chúng cùng Ông Anan rằng:

“Các ông là hàng uyên Giác Thanh ăn hữu học, ngày nay

hồi tâm, hướng về ô Thượng iệu Giác Đại Bồ Đề. Nay ta

đã nói pháp tu hành chân chánh, nhưng các ông còn chưa

biết những Ma Sự vi tế khi tu hành Xa Ma Tha, và Tỳ Bà Xá

Na81

.

“Cảnh Ma nếu hiện mà ông không thể nhận biết thì việc làm

trong sạch tâm không được đúng, lạc vào tà kiến. oặc bị

Ma Ngũ Ấm của ông, hoặc bị Thiên Ma, hoặc mắc Quỉ

Thần, hoặc gặp Ly Mỵ mà trong tâm không rõ thì nhận giặc

làm con. Lại nữa, ở trong đó được ít mà cho là đủ, như Tỳ

kheo Vô Văn được Đệ Tứ Thiền, vọng nói là chứng Thánh,

khi quả báo chư Thiên hết, tướng suy hiện ra, bài báng quả vị

A La án là còn phải thọ sanh, nên đọa vào địa ngục A Tỳ.

Các ông nên nghe kỹ, nay Ta vì các ông mà phân biệt rành

rẽ.”

Ngài Anan đứng dậy cùng các hàng hữu học trong hội, hoan

hỉ đảnh lễ, kính nghe lời dạy bảo từ bi. Phật bảo ngài Anan

cùng cả đại chúng:

“Các ông nên biết cái tâm thể tỏ biết vẹn toàn, Bản Giác

Diệu Minh của mười hai loại chúng sanh trong thế giới

hữu lậu cùng mười phương Chư Phật không hai, không

khác. o vọng tưởng của các ông, mê Chân Lý thành ra lỗi

lầm. Si, Ái phát sanh, sanh mê cùng khắp nên có hư không.

Biến hóa ra cái mê không ngớt nên có thế giới sanh ra. ậy

thì mười phương cõi nước nhiều như vi trần này chẳng phải

là vô lậu, đều do vọng tưởng mê lầm kiến lập.

81

Tỳ Bà Xá Na: Sanskrit là Vipassana (Quán)

Page 206: Sa Môn DI TÙNG - chuaphatquocttt.orgchuaphatquocttt.org/doc/KinhThuLangNghiemRev3.pdf · học, tụng inh Đại 3hật Đảnh thủ /ăng 1ghiêm, đồng thi tham khảo các

204

“Phải biết, hư không sanh trong tâm ông cũng như điểm mây

trong bầu trời, huống chi các thế giới ở trong hư không ấy!

Một người trong các ông phát khởi sự về nguồn chân thật

thì mười phương hư không ấy thảy đều tiêu mất. Làm sao

các cõi nước trong hư không ấy lại không rung đổ? Các ông

tu thiền, trau dồi pháp Tam Ma Địa thì cùng với mười

phương Bồ Tát và các vị Đại A La án vô lậu tâm tinh thông

hợp thầm nhiệm, đương xứ trong lặng như nhiên. Còn tất cả

Ma ương, Quỉ Thần, loài Trời phàm phu thì thấy cung điện

mình không cớ gì đổ vỡ, đất đai rung động, các loài thủy lục

bay nhảy thảy đều kinh sợ.

“ ạng phàm phu hôn muội không rõ, nên nghĩ lầm, còn hạng

kia đều được năm thứ thần thông, trừ Lậu Tận Thông, luyến

tiếc cảnh trần lao này đâu để ông phá hoại chỗ ở. Bởi thế,

Quỉ Thần, Thiên Ma, ọng Lượng, Yêu Tinh trong khi ông

tu Tam Muội đều đến quấy phá.

“Nhưng các Ma kia, tuy rất giận dữ mà họ ở trong trần lao,

còn các ông ở trong iệu Giác, thì cũng như gió thổi ánh

sáng, như dao chặt nước, chẳng hề hấn gì. Ông như nước sôi,

họ như giá cứng, vừa gần hơi ấm thì chẳng bao lâu mà tiêu

tan. Chúng ỷ lại suông thần lực, nhưng chỉ là Khách. Nếu

chúng có thể phá rối được, là do người Chủ ngũ ấm trong

tâm ông. Chủ nhân mà mê lầm, Khách mới được dịp quấy

phá.

“Đương xứ thiền định, Giác ngộ không lầm thì các Ma sự kia

không làm gì ông nổi. Khi Ấm tiêu tan vào trong tánh sáng;

sáng phá được tối, tối đến gần sáng thì tự tiêu mất, mà chúng

tà ma kia đều tối tăm làm sao còn dám ở lại quấy phá sự

thiền định? Nếu không tỏ ngộ sáng suốt, bị Ngũ Ấm ngăn

che, mê lầm thì chính Ông Anan là con của Ma và thành

người Ma. Như Cô Ma Đăng Già, sức còn yếu kém, chỉ dùng

Page 207: Sa Môn DI TÙNG - chuaphatquocttt.orgchuaphatquocttt.org/doc/KinhThuLangNghiemRev3.pdf · học, tụng inh Đại 3hật Đảnh thủ /ăng 1ghiêm, đồng thi tham khảo các

205

chú thuật bắt ông phá Luật Nghi của Phật, trong tám muôn

hạnh chỉ phá một Giới, nhưng vì tâm ông thanh tịnh nên

chưa bị chìm đắm. Còn chúng Ma này thì phá hoại toàn thân

Bảo Giác của ông, giống như nhà quan Tể Tướng bỗng bị

tịch biên, long đong xiêu lạc, không thể thương cứu !

Phạm vi của Sắc Ấm

[Lưu ý: Phần nói về Ngũ Ấm Ma, đọc kỹ phần nói về “phạm

vi của các Ấm” và khi các Ấm tiêu diệt các “thành quả của

Thiền Định” hiện ra như thế nào để biết. Nếu những hiện

tượng xảy ra cho mình giống như đức Phật dạy trong kinh,

nhớ đừng cho rằng mình đã chứng Thánh quả, chỉ coi

như có tiến bộ.]

“Anan! Nên biết, ông ngồi đạo tràng, tiêu diệt các niệm,

niệm ấy mà hết thì tâm-lìa-niệm thuần túy sáng suốt thảy

cả, động tĩnh chẳng dời, nhớ quên như một. Đang khi an

trụ nơi đó mà vào Tam Ma Địa thì như người sáng mắt mà ở

chỗ rất tối. Cái tinh thuần của Tánh thì trong sạch nhiệm

mầu, nhưng tâm chưa phát sáng82. Thế gọi là phạm vi của

Sắc Ấm.

Nếu mắt sáng tỏ, mười phương mở suốt, không còn tối

tăm, gọi là Sắc Ấm hết. Người ấy có thể siêu vượt khỏi

Kiếp Trược83. Xét lại nguyên do Kiếp Trược thì gốc rễ là

ọng tưởng kiên cố84

.

[Đức Phật đưa ra mười ví dụ điển hình có thể xảy ra khi ở

trong trạng thái của tâm-lìa-niệm chứ không giới hạn trong

số mười, vì mỗi hành giả có căn cơ khác nhau. Phần mười

82

Tâm chưa phát sáng là vì sáu Căn che lấp. 83

Kiếp Trược là do Sắc Pháp đan nhau với cái Thấy mà thành. Muốn

hiểu rõ năm Trược (ngũ Trược) xem đoạn “Tâm Nhân Địa” trang 81-82. 84

Vọng tưởng kiên cố gồm ba thứ: của cha, của mẹ, và của mình.

Page 208: Sa Môn DI TÙNG - chuaphatquocttt.orgchuaphatquocttt.org/doc/KinhThuLangNghiemRev3.pdf · học, tụng inh Đại 3hật Đảnh thủ /ăng 1ghiêm, đồng thi tham khảo các

206

ví dụ điển hình này giúp chúng ta nếu chúng ta có trải

nghiệm.]

1.”Anan! Ngay tại trong đó, nghiên cứu tinh tường85

Tánh

iệu Minh, bốn Đại chẳng kết hợp thì trong khoảng chốc lát,

tâm thức có thể ra khỏi sự ngăn ngại, đây gọi là tinh minh

tuôn tràn ra tiền cảnh, đó chỉ do dụng công mà tạm được như

vậy, chẳng phải là Thánh chứng. Nếu chẳng cho là chứng

ngộ thì cũng gọi là cảnh giới lành, còn cho là chứng ngộ việc

Thánh, tức lọt vào tà.

2.”Anan! Lại dùng cái tâm này nghiên cứu tinh tường Tánh

iệu Minh, trong thân thành rỗng suốt, người ấy bỗng nhiên

ở trong thân mình nhặt ra các thứ giun sán mà thân thể vẫn y

nguyên, không bị thương tổn, đây gọi là tinh minh tuôn tràn

nơi hình thể, đó chỉ do tu hành tinh tiến mà tạm được như

vậy, chẳng phải là Thánh chứng. Nếu chẳng cho là chứng

ngộ thì cũng gọi là cảnh giới lành, còn cho là chứng ngộ việc

Thánh tức lọt vào tà.

3.“Lại dùng cái tâm ấy nghiên cứu tinh tường trong ngoài,

khi ấy hồn phách86, ý chí, tinh thần, ngoài cái thân chấp thọ

ra, đều ăn nhập vào nhau, đắp đổi làm khách, làm chủ. Bỗng

nhiên, ở trong hư không nghe tiếng thuyết pháp, hoặc nghe

mười phương đồng diễn bày mật nghĩa. Đây gọi là sự thành

tựu thiện chủng của tinh phách thay nhau lìa hợp, tạm được

như vậy, chẳng phải Thánh chứng. Nếu chẳng cho là chứng

ngộ thì cũng gọi là cảnh giới lành, còn cho là chứng ngộ việc

Thánh tức lọt vào tà.

85

Nghiên cứu tinh tường có nghĩa là dùng pháp Quán trong khi đang

trong trạng thái tâm-lìa-niệm của pháp “Chỉ.” 86

Người dịch là người Trung Hoa (ảnh hưởng Lão giáo) nên dùng chữ

“hồn phách” thuộc Lão giáo thay vì chữ “thần thức” của Phật giáo.

Page 209: Sa Môn DI TÙNG - chuaphatquocttt.orgchuaphatquocttt.org/doc/KinhThuLangNghiemRev3.pdf · học, tụng inh Đại 3hật Đảnh thủ /ăng 1ghiêm, đồng thi tham khảo các

207

4.“Lại dùng cái tâm ấy lắng trong, hiện ra sáng suốt, ánh

sáng bên trong phát ra, mười phương biến thành sắc iêm

Phù Đàn, hết thảy mọi loài hóa là Như Lai. Bấy giờ bỗng

thấy Phật Tỳ Lô Giá Na ngồi trên đài Thiên Quang, có ngàn

Đức Phật vây quanh. Trăm ức cõi nước cùng với hoa sen

cùng một lúc hiện ra. Đây gọi là sự tiêm nhiễm của tâm thức

linh ngộ. o ánh sáng của tâm phát ra soi sáng các thế giới

mà tạm được như vậy, chẳng phải Thánh chứng. Nếu chẳng

cho là chứng ngộ thì cũng gọi là cảnh giới lành, còn cho là

chứng ngộ việc Thánh, tức lọt vào tà.

5.“Lại dùng cái tâm ấy nghiên cứu tinh tường Tánh iệu

Minh, quan sát chẳng ngừng, đè nén hàng phục, ngăn dứt

thái quá, khi ấy bỗng nhiên mười phương hư không thành

sắc bảy báu hay sắc trăm báu, đồng thời cùng khắp, không

ngăn ngại nhau: xanh, vàng, đỏ, trắng mỗi mỗi hiện ra rõ

ràng. Đây gọi là công sức đè nén quá phần, tạm được như

vậy, chẳng phải là Thánh chứng. Nếu chẳng cho là chứng

ngộ thì cũng gọi cảnh giới lành, còn cho là chứng ngộ việc

Thánh, tức lọt vào tà.

6.“Lại dùng cái tâm ấy nghiên cứu, lặng suốt sáng trong

chẳng loạn, bỗng nhiên giữa đêm, ở trong nhà tối thấy thảy

thảy vật không khác gì ban ngày, mà những vật trong nhà tối

đó cũng không diệt mất. Đây gọi là tâm tế nhiệm lặng đứng

mà thấy, nên thấy suốt chỗ tối tăm, tạm được như vậy, chẳng

phải là Thánh chứng. Nếu chẳng cho là chứng ngộ thì cũng

gọi là cảnh giới lành, còn cho là chứng ngộ việc thánh, tức

lọt vào tà.

7.“Lại dùng cái tâm ấy vẹn nhập vào chỗ hư dung, bốn vóc

bỗng đồng như cây cỏ, lửa đốt, dao cắt hoàn toàn không cảm

giác, lửa ngọn không thể đốt cháy, dầu cho cắt thịt cũng như

chẻ cây. Đây là gọi là cùng như trần, do bài trừ bốn Đại một

Page 210: Sa Môn DI TÙNG - chuaphatquocttt.orgchuaphatquocttt.org/doc/KinhThuLangNghiemRev3.pdf · học, tụng inh Đại 3hật Đảnh thủ /ăng 1ghiêm, đồng thi tham khảo các

208

mực, nhập vào sự thuần nhất, tạm được như vậy, chẳng phải

là Thánh chứng. Nếu chẳng cho là chứng ngộ thì cũng gọi là

cảnh giới lành, còn cho là chứng ngộ việc Thánh, tức lọt vào

tà.

8.“Lại dùng cái tâm ấy thành tựu sự trong sạch, dụng công

trong sạch tâm tột bực, bỗng thấy mười phương đất đai, sông

núi đều thành cõi Phật, đầy đủ bảy báu chói sáng cùng khắp.

Lại thấy hằng sa Chư Phật Như Lai đầy khắp hư không, lầu

điện rực rỡ. ưới thấy địa ngục, trên thấy thiên cung, được

không chướng ngại. Đây gọi là ưa thích đè nén ngưng tưởng

lâu ngày mà tưởng hóa thành, chẳng phải là Thánh chứng.

Nếu chẳng cho là chứng ngộ thì cũng gọi là cảnh giới lành,

còn cho là chứng ngộ việc Thánh, tức lọt vào tà.

9.“Lại dùng cái tâm ấy nghiên cứu sâu xa, bỗng nhiên ở giữa

đêm thấy rõ chợ búa, làng xóm bà con họ hàng ở phương xa,

hoặc nghe lời nói của họ. Đây gọi là bức bách cái tâm tột bực

nên nó bay ra, chẳng phải là Thánh chứng. Nếu chẳng cho là

chứng ngộ thì cũng gọi là cảnh giới lành, còn cho là chứng

ngộ việc Thánh, tức lọt vào tà.

10.“Lại dùng cái tâm ấy, nghiên cứu tinh tế cùng tột, thấy

được thiện tri thức, thân thể biến hóa, trong giây lát không

duyên cớ gì mà biến đổi đủ thứ. Đây gọi là tà tâm bị loài Ly

Mị hoặc Thiên Ma vào trong thân thể, không duyên cớ gì mà

thuyết pháp, thông suốt diệu nghĩa, chẳng phải là Thánh

chứng. Nếu chẳng cho là chứng ngộ thì Ma sự tự tiêu mất,

còn cho là chứng ngộ việc Thánh, tức lọt vào tà.

“Anan! mười thứ cảnh giới hiện ra trong thiền định như vậy

đều thuộc về Sắc Ấm, do dụng tâm giao xen lẫn nhau nên

hiện ra cái việc đó. Chúng sanh mê dại, chẳng biết tự xét,

gặp nhân duyên ấy, mê chẳng tự biết, cho là lên bậc Thánh,

Page 211: Sa Môn DI TÙNG - chuaphatquocttt.orgchuaphatquocttt.org/doc/KinhThuLangNghiemRev3.pdf · học, tụng inh Đại 3hật Đảnh thủ /ăng 1ghiêm, đồng thi tham khảo các

209

thành Đại ọng Ngữ, đọa địa ngục ô Gián. Sau khi Như

Lai diệt độ rồi, các ông nên tuyên bày nghĩa này trong đời

Mạt Pháp, chớ để Thiên Ma được dịp quấy phá, giữ gìn che

chở cho người tu hành thành đạo ô Thượng.

Phạm vi của Thọ Ấm

“Anan! Thiện nam tử ấy tu Tam Ma Đề, trong Xa Ma Tha

khi Sắc Ấm hết, thấy Tâm chư Phật như trong gương

sáng hiển hiện hình tượng. ình như có được nhưng chưa

thể dùng, như người bị Mộc đè: Tay chân y nguyên, thấy

nghe không lầm, nhưng tâm gặp khách tà mà không cử động

được. Đó gọi là phạm vi của Thọ Ấm. “Nếu Mộc hết đè thì

cái tâm lìa thân, trở lại xem mặt mũi, đi ở tự do, không

còn ngăn ngại, gọi là Thọ Ấm hết. Người ấy có thể siêu

vượt Kiến Trược87, xét lại nguyên do thì gốc rễ là vọng

tưởng hư minh.

1.”Anan! thiện nam tử ấy, ngay ở trong đó, được biết sáng

tỏ, cái tâm phát minh, bên trong đè nén quá độ, bỗng ở nơi

đó phát lòng Bi vô cùng, như vậy cho đến xem thấy muỗi

mòng như con đỏ, tâm sanh thương xót, bất giác chảy nước

mắt. Đây gọi là công dụng đè nén quá mức. Biết thì không

có lỗi, chẳng phải là Thánh chứng. iểu biết chẳng mê, lâu

tự tiêu mất. Nếu cho là hiểu biết việc Thánh thì có ma Bi vào

trong lòng dạ, thấy người thì thương xót, khóc thương vô

hạn; sai mất Chánh Định, sẽ bị chìm đắm.

2.“Anan! Lại các thiện nam tử ấy, ở trong Định, thấy Sắc

Ấm tiêu rồi, Thọ Ấm tỏ rõ, thắng tướng hiện tiền nên cảm

kích quá độ, bỗng ở trong đó sanh lòng dũng mãnh vô hạn.

Cái tâm mạnh bén, chí bằng Chư Phật, nói rằng một niệm có

87

Muốn hiểu rõ năm Trược (ngũ Trược) xem đoạn “Tâm Nhân Địa”

trang 81-82.

Page 212: Sa Môn DI TÙNG - chuaphatquocttt.orgchuaphatquocttt.org/doc/KinhThuLangNghiemRev3.pdf · học, tụng inh Đại 3hật Đảnh thủ /ăng 1ghiêm, đồng thi tham khảo các

210

thể vượt khỏi ba tăng kỳ. Đây gọi là công dụng lấn lướt quá

mức. Biết thì không lỗi, chẳng phải là Thánh chứng. Nếu cho

là hiểu biết việc Thánh thì có ma Cuồng vào trong lòng dạ,

thấy người thì khoe, ngã mạn không ai bằng, đến nỗi tâm

người ấy trên không thấy Phật, dưới chẳng thấy người; sai

mất Chánh Định, sẽ bị chìm đắm.

3.“Anan! Lại các thiện nam tử ấy ở trong Định, thấy Sắc Ấm

tiêu rồi, Thọ Ấm tỏ rõ. Tới trước thì chưa có chỗ chứng mới,

lui lại thì mất chỗ cũ, trí lực suy kém, vào địa vị Trung ủy

(Trung Ấm,) hoàn toàn không thấy gì. Trong tâm bỗng nhiên

sanh ra rất khô khát. Trong cả mọi thời thầm nhớ không thôi,

cho như vậy là tướng chuyên cần tinh tấn. Đây gọi là tu tâm

không Trí uệ, tự sanh lầm lạc. Biết thì không lỗi, chẳng

phải là Thánh chứng. Nếu cho là hiểu biết việc Thánh thì có

ma Nhớ vào trong lòng dạ, ngày đêm nắm cái tâm treo vào

một chỗ; sai mất Chánh Định, sẽ bị chìm đắm.

4.“Lại các thiện nam tử ấy ở trong Định, thấy Sắc Ấm tiêu

rồi, Thọ Ấm tỏ rõ, cái sức uệ quá Định, sai lầm nơi chỗ

mạnh mẽ, sắc bén, ôm giữ các thắng tánh trong tâm, tự ngờ

mình là Phật Lô Xá Na! được ít cho là đủ. Đây gọi là dụng

tâm quên mất suy xét, đắm vào Tri Kiến. Biết thì không lỗi,

chẳng phải là Thánh chứng. Nếu cho là hiểu biết việc Thánh

thì có ma ễ Biết Đủ Nên èn Kém vào trong lòng dạ; thấy

người thì tự nói “Ta đắc Đệ Nhất Nghĩa Đế ô Thượng”; sai

mất Chánh Định, sẽ bị chìm đắm.

5.“Lại các thiện nam tử ấy ở trong Định, thấy Sắc Ấm tiêu

rồi, Thọ Ấm tỏ rõ, chỗ chứng mới thì chưa được mà tâm cũ

thì đã mất, xem cả hai bên, tự cho là khó hiểu, trong tâm

bỗng sanh lo lắng không cùng, như ngồi giường sắt, như

uống thuốc độc. Tâm không muốn sống, thường cầu người

khác sát hại mạng mình để sớm giải thoát. Đây gọi là tu hành

Page 213: Sa Môn DI TÙNG - chuaphatquocttt.orgchuaphatquocttt.org/doc/KinhThuLangNghiemRev3.pdf · học, tụng inh Đại 3hật Đảnh thủ /ăng 1ghiêm, đồng thi tham khảo các

211

sai mất phương tiện. Biết thì không lỗi, chẳng phải Thánh

chứng. Nếu cho là hiểu biết việc Thánh thì có một phần thứ

ma Thường Lo Buồn vào trong lòng dạ, tay cầm đao, kiếm

tự cắt thịt mình, thích được bỏ mạng, hoặc thường lo buồn,

chạy vào rừng núi, không muốn thấy người; sai mất chánh

niệm, sẽ bị chìm đắm.

6.“Lại nữa, các thiện nam tử ấy ở trong Định, thấy Sắc Ấm

tiêu rồi, Thọ Ấm tỏ rõ, ở trong thanh tịnh, tâm an ổn rồi,

bỗng nhiên tự sanh ra mừng vui vô hạn. Trong tâm mừng rỡ

không thể tự dừng. Đây gọi là sự khinh an mà không có uệ

tự ngăn lại. Biết thì không lỗi, chẳng phải là Thánh chứng.

Nếu cho là hiểu biết việc Thánh thì có một phần thứ ma

Thích ui Mừng vào trong lòng dạ, thấy người thì cười, ở

bên đường cái tự ca, tự múa, tự bảo rằng đã đắc vô ngại giải

thoát; sai mất Chánh Định, sẽ bị chìm đắm.

7.“Lại nữa, các thiện nam tử ấy ở trong Định, thấy Sắc Ấm

tiêu, Thọ Ấm tỏ rõ, tự bảo đã đủ, bỗng nhiên vô cớ sanh đại

ngã mạn, như vậy cho đến lòng mạn, quá mạn, và mạn quá

mạn, hoặc lòng tăng thượng mạn, hoặc ty liệt mạn đồng thời

phát ra. Trong tâm còn khinh cả mười phương Như Lai,

huống gì các địa vị dưới như Thanh ăn, uyên Giác. Đây

gọi là thắng giải quá mức, không có uệ để tự cứu. Biết thì

không lỗi, chẳng phải Thánh chứng. Nếu cho là hiểu biết

việc Thánh thì có một phần ma Đại Ngã Mạn vào trong lòng

dạ, chẳng lạy tháp, miếu, phá hủy kinh tượng, bảo với người

đàn việt rằng “Đó là vàng, đồng, hoặc gỗ, đất. Kinh là lá cây,

hay là giấy lụa. Xác thịt chân thường không tự cung kính, lại

sùng bái gỗ, đất, thật là điên đảo.” Những kẻ quá tin theo đó

mà đập nát, chôn bỏ trong đất; do gây nghi ngờ lầm lạc cho

chúng sanh, đọa vào ngục ô Gián; sai mất Chánh Định, sẽ

bị chìm đắm.

Page 214: Sa Môn DI TÙNG - chuaphatquocttt.orgchuaphatquocttt.org/doc/KinhThuLangNghiemRev3.pdf · học, tụng inh Đại 3hật Đảnh thủ /ăng 1ghiêm, đồng thi tham khảo các

212

8.“Lại nữa, những thiện nam tử ấy ở trong Định, thấy Sắc

Ấm tiêu rồi, Thọ Ấm tỏ rõ, trong chỗ tinh minh, viên ngộ

tinh lý, được đại tùy thuận, tâm ấy bỗng sanh vô lượng khinh

an, tự nói đã thành Thánh, đắc đại tự tại. Đây gọi là nhân cái

uệ mà được các sự nhẹ trong. Biết thì không lỗi, chẳng

phải Thánh chứng. Nếu cho là hiểu biết việc Thánh thì có

một phần loại ma Thích Sự Trong Nhẹ vào trong lòng dạ, tự

cho là đủ, chẳng thèm cầu tiến. ạng này phần nhiều làm

như Tỳ Kheo ô ăn, gây nghi lầm cho chúng sanh, đọa vào

ngục A Tỳ; sai mất Chánh Định, sẽ bị chìm đắm.

9.“Lại nữa, các thiện nam tử ấy ở trong Định, thấy Sắc Ấm

tiêu rồi, Thọ Ấm tỏ rõ, trong chỗ minh ngộ, được tánh hư

minh, trong ấy bỗng xoay hướng về sự vĩnh viễn đoạn diệt,

bác bỏ không có nhân quả, một mực nhắm vào Không. Tâm

Không hiện tiền đến nỗi tâm sanh chấp chặt là đoạn diệt mãi

mãi. Biết thì không lỗi, chẳng phải Thánh chứng. Nếu cho là

hiểu biết việc Thánh thì có ma Không vào trong lòng dạ, bèn

bài báng sự giữ Giới cho là Tiểu Thừa, còn Bồ Tát ngộ

Không có gì mà giữ hay phạm! Người này thường ở chỗ thí

chủ tín tâm, ăn thịt uống rượu, làm nhiều điều dâm uế. Nhờ

có sức Ma mà nhiếp phục người ta, khiến chẳng sanh nghi

báng. Quỉ vào tâm lâu ngày: ăn uống cứt đái cũng không

khác gì rượu thịt, cứ cho là mọi thứ đều Không. Phá Luật

Nghi của Phật, làm người khác lầm lạc mắc tội; sai mất

Chánh Định, sẽ bị chìm đắm.

10.“Lại nữa, các thiện nam tử ấy ở trong Định, thấy Sắc Ấm

tiêu rồi, Thọ Ấm tỏ rõ, tham nếm cái hư vinh, ăn sâu vào tim

cốt, trong tâm bỗng có lòng yêu vô hạn sanh ra. Yêu thương

quá phát cuồng, bèn làm chuyện tham dục. Đây gọi là cảnh

Định an thuận vào tâm, không có uệ tự giữ, lầm vào Ngũ

ục. Biết thì không lỗi, chẳng phải Thánh chứng. Nếu cho là

Page 215: Sa Môn DI TÙNG - chuaphatquocttt.orgchuaphatquocttt.org/doc/KinhThuLangNghiemRev3.pdf · học, tụng inh Đại 3hật Đảnh thủ /ăng 1ghiêm, đồng thi tham khảo các

213

hiểu biết việc Thánh thì có ma ục vào trong lòng dạ, một

bề nói ục tức đạo Bồ Đề, dạy hàng cư sĩ bình đẳng mà

hành ục, những người hành âm gọi là đệ tử giữ Pháp. o

sức Thần Quỉ nhiếp phục người phàm phu trong đời Mạt

Pháp nhiều đến cả một trăm, hai trăm, năm trăm, sáu trăm,

nhiều đến ngàn vạn. Khi tâm ma sanh chán, lìa khỏi thân thể,

oai đức đã không còn thì sa vào lưới pháp luật. Gây nghi lầm

cho chúng sanh, vào ngục ô Gián; sai mất Chánh Định, sẽ

bị chìm đắm.

“Anan! mười thứ cảnh hiện của Thiền Na như vậy đều thuộc

về Thọ Ấm, do dụng tâm giao xen lẫn nhau mà hiện các việc

đó. Chúng sanh mê dại, chẳng biết tự xét, gặp nhân duyên

ấy, mê chẳng tự biết cho là lên bậc Thánh, thành Đại ọng

Ngữ, đọa ngục ô Gián. Sau khi Ta diệt độ, các ông hãy

đem lời nói này của Như Lai truyền dạy cho đời Mạt Pháp,

khiến khắp chúng sanh đều tỏ ngộ nghĩa đó, không để cho

Thiên Ma được dịp quấy phá, giữ gìn che chở cho người tu

hành thành đạo ô Thượng.

Phạm vi của Tưởng Ấm

“Anan! Thiện nam tử kia tu Tam Ma Đề, khi Thọ Ấm hết

rồi, tuy chưa hết các Lậu, nhưng tâm rời khỏi hình hài

như chim ra khỏi lồng. Từ phàm thân này tiến lên, trải qua

sáu mươi Thánh ị Bồ Tát88, được Ý Sanh Thân, tùy ý đi lại

không ngăn ngại, đã có thể thành tựu như vậy. í như có

người ngủ say nói mớ, người ấy tuy không hay biết gì, nhưng

lời nói đã thành âm vận, thứ tự khiến những người không

ngủ đều hiểu được lời nói ấy. Đây là phạm vi của Tưởng

Ấm.

88

Muốn biết chi tiết các Thánh vị, xem phần “An lập các Thánh vị” từ

trang 173-179.

Page 216: Sa Môn DI TÙNG - chuaphatquocttt.orgchuaphatquocttt.org/doc/KinhThuLangNghiemRev3.pdf · học, tụng inh Đại 3hật Đảnh thủ /ăng 1ghiêm, đồng thi tham khảo các

214

“Nếu động niệm hết, vọng tưởng vật vờ tiêu trừ, thì nơi

Tâm Giác Minh như bỏ hết bụi dơ, một dòng sanh tử đầu

đuôi soi sáng khắp, gọi là hết Tưởng Ấm. Người ấy mới có

thể vượt khỏi Phiền Não Trược89, xét lại nguyên do thì gốc

rễ là vọng tưởng dung thông.

1.“Anan! thiện nam tử kia, Thọ Ấm đã hư diệu, không còn

mắc các tà lự, Định tròn đầy phát sáng, trong Tam Ma Địa

tâm lại ưa thích sự tròn đầy sáng suốt, thúc đẩy tư tưởng

thêm tinh nhạy, tham cầu thiện xảo. Bấy giờ Thiên Ma chờ

được dịp ấy, cho tinh thần gá vào người khác, miệng nói

kinh pháp. Người đó không biết bị Ma gá vào, tự nói đã đắc

ô Thượng Niết Bàn, đến chỗ thiện nam tử cầu thiện xảo

kia, trải tòa thuyết pháp. Thân hình người đó giây lát, hoặc

làm Tỳ Kheo cho người kia thấy, hoặc làm Đế Thích, hoặc

làm phụ nữ, hoặc làm Tỳ Kheo Ni, hoặc nằm trong nhà tối

mà thân có hào quang chói sáng. Người tu hành kia mê dại

lầm cho là Bồ Tát, tin theo lời dạy, chao đảo cái tâm, phá

Luật Nghi Phật, lén làm việc tham dục. Miệng Ma ưa nói sự

rủi may, biến đổi, hoặc nói Như Lai ra đời chỗ này chỗ nọ,

hoặc nói về Kiếp ỏa, hoặc nói có đao binh làm người ta sợ

hãi, khiến cho nhà cửa, sự nghiệp vô cớ hao tán. Đây gọi là

Quái Quỉ, lâu năm thành Ma, khuấy rối người tu hành.

Khuấy rối chán rồi, bỏ thân người không gá nữa thì đệ tử

cùng thầy đều sa vào lưới pháp luật. Ông nên tỏ biết trước thì

khỏi lọt luân hồi, còn mê lầm không biết thì đọa ngục ô

Gián.

2.“Anan! lại nữa, thiện nam tử kia, Thọ Ấm đã hư diệu,

không còn mắc các tà lự, Định tròn đầy phát sáng, trong Tam

Ma Địa tâm lại ưa thích đi chơi, cho tư tưởng bay đi, tham

89

Muốn hiểu rõ năm Trược (ngũ Trược) xem đoạn “Tâm Nhân Địa”

trang 81-82.

Page 217: Sa Môn DI TÙNG - chuaphatquocttt.orgchuaphatquocttt.org/doc/KinhThuLangNghiemRev3.pdf · học, tụng inh Đại 3hật Đảnh thủ /ăng 1ghiêm, đồng thi tham khảo các

215

cầu trải qua nhiều chốn. Bấy giờ Thiên Ma chờ được dịp ấy,

cho tinh thần gá vào người khác, miệng nói kinh pháp.

Người ấy không biết bị Ma gá vào, rồi tự nói đã đắc ô

Thượng Niết Bàn, đến chỗ thiện nam tử muốn ngao du kia,

trải tòa thuyết pháp. ình người đó không thay đổi, nhưng

những người nghe pháp bỗng tự thấy mình ngồi trên hoa sen

báu, toàn thân hóa thành sắc vàng sáng chói. Cả thảy thính

chúng, mỗi mỗi đều như vậy, được sự chưa từng có. Người

tu hành kia mê dại lầm cho là Bồ Tát, tâm trở nên dâm dật,

phá Luật Nghi Phật, lén làm việc tham dục. Miệng Ma ưa nói

các Đức Phật ứng hóa ra đời, người ấy, chỗ ấy là Đức Phật

ấy. Người kia hóa thân đến đây tức là vị Bồ Tát kia, đến giáo

hóa nhân gian. Người tu hành thấy thế, tâm sanh ngưỡng mộ,

tà kiến âm thầm nổi lên, Chủng Trí tiêu diệt. Đây gọi là Bạt

Quỉ lâu năm thành Ma, khuấy rối người tu hành. Khuấy rối

chán rồi bỏ thân người không gá nữa thì đệ tử cùng thầy đều

sa vào lưới pháp luật. Ông nên tỏ biết trước thì khỏi lọt luân

hồi, còn mê lầm không biết thì đọa địa ngục ô Gián.

3.”Anan! Lại nữa, thiện nam tử kia, Thọ Ấm đã hư diệu,

không còn mắc các tà lự, Định tròn đầy phát sáng, trong Tam

Ma Địa tâm lại ưa thầm hợp, lặng đứng cái tư tưởng, tham

cầu sự khế hợp. Bấy giờ Thiên Ma chờ được dịp ấy, cho tinh

thần gá vào người khác, miệng nói kinh pháp. Người đó thật

không biết bị ma gá vào, rồi tự nói đã đắc ô Thượng Niết

Bàn, đến chỗ thiện nam tử muốn cầu khế hợp kia, trải tòa

thuyết pháp. ình người đó và những người nghe pháp bề

ngoài không có gì thay đổi, nhưng lại khiến cho các thính

giả, trước khi nghe pháp, tâm đã tự khai ngộ, niệm niệm dời

đổi. oặc được Túc Mạng Thông, hoặc được Tha Tâm

Thông, hoặc thấy địa ngục, hoặc biết các việc lành dữ trong

thế gian, hoặc miệng nói kệ, hoặc tự tụng kinh, mỗi mỗi đều

vui vẻ, được sự chưa từng có. Người tu hành mê dại, lầm cho

Page 218: Sa Môn DI TÙNG - chuaphatquocttt.orgchuaphatquocttt.org/doc/KinhThuLangNghiemRev3.pdf · học, tụng inh Đại 3hật Đảnh thủ /ăng 1ghiêm, đồng thi tham khảo các

216

là Bồ Tát, tâm sanh ra mê luyến, phá Luật Nghi Phật, lén làm

chuyện tham dục. Miệng Ma thích nói rằng Phật có lớn, nhỏ,

Phật X là Phật trước, Phật Y là Phật sau, trong đó cũng có

Phật thật Phật giả, Phật trai, Phật gái. Các Bồ Tát cũng thế.

Người tu hành thấy vậy, bỏ mất bản tâm, dễ vào tà ngộ. Đây

gọi là Mỵ Quỉ lâu năm thành Ma, khuấy rối người tu hành.

Khuấy rối chán rồi, bỏ thân người không gá nữa, thì đệ tử

cùng thầy đều sa vào lưới pháp luật. Ông nên tỏ biết trước

thì khỏi lọt luân hồi, còn mê lầm không biết thì đọa ngục ô

Gián.

4.“Anan! Lại nữa, thiện nam tử kia, Thọ Ấm đã hư diệu,

không còn mắc các tà lự, Định tròn đầy phát sáng, trong Tam

Ma Địa, tâm lại ưa biết cái cội gốc, nơi sự vật biến hóa,

muốn xét rõ cùng tột chung thủy. Thúc cái tâm sáng suốt

thêm, tham cầu phân biệt, chia chẻ. Bấy giờ Thiên Ma chờ

được dịp ấy, cho tinh thần gá vào người khác, miệng nói

kinh pháp. Người đó thật không biết bị Ma gá vào, rồi tự bảo

đã đắc ô Thượng Niết Bàn, đến chỗ thiện nam tử cầu biết

cái cội gốc kia, trải tòa thuyết pháp. Người đó có uy thần làm

cho những người cầu pháp đều kính phục, khiến cho thính

chúng dưới pháp tòa tuy chưa nghe pháp, tự nhiên tâm đã

phục rồi. Cả bọn họ đều cho rằng Niết Bàn, Bồ Đề, Pháp

Thân của Phật chính là cái xác thịt hiện tiền của ta đây; cha

con sanh nhau, đời này sang đời khác, tức là Pháp Thân

thường trụ chẳng dứt; đều chỉ hiện tại tức là cõi Phật, không

có Tịnh Độ và Tướng Sắc àng nào khác. Người tu hành tin

nhận, quên mất Tự Tâm, đem thân mạng mà quy y, được sự

chưa từng có. Người ấy mê dại, lầm cho là Bồ Tát, tu hành

theo tâm ấy, phá Luật Nghi Phật, lén làm chuyện tham dục.

Miệng Ma ưa nói rằng mắt, tai, mũi, lưỡi đều là Tịnh Độ; hai

căn nam, nữ là chỗ đích thực của Bồ Đề, Niết Bàn! ạng

không biết kia đều tin lời dơ uế đó. Đây gọi là Cổ Độc Quỉ

Page 219: Sa Môn DI TÙNG - chuaphatquocttt.orgchuaphatquocttt.org/doc/KinhThuLangNghiemRev3.pdf · học, tụng inh Đại 3hật Đảnh thủ /ăng 1ghiêm, đồng thi tham khảo các

217

và Áp Thắng Quỉ, lâu năm thành Ma, khuấy rối người tu

hành. Khuấy rối chán rồi, bỏ thân người không gá nữa thì đệ

tử cùng thầy đều sa vào lưới pháp luật. Ông nên tỏ biết trước

thì khỏi lọt luân hồi, còn mê lầm không biết thì đọa ngục ô

Gián.

5.“Anan! Lại nữa, thiện nam tử kia, Thọ Ấm đã hư diệu,

không còn mắc các tà lự, Định tròn đầy phát sáng, trong Tam

Ma Địa lại ưa biết các việc trước sau, cứu xét cùng khắp,

tham cầu được thầm cảm. Bấy giờ, Thiên Ma chờ được dịp

ấy, cho tinh thần gá vào người khác, miệng nói kinh pháp.

Người đó không biết bị Ma gá vào, rồi cũng tự bảo đã đắc

ô Thượng Niết Bàn, đến chỗ thiện nam tử cầu cảm ứng kia,

trải tòa thuyết pháp. Có thể khiến cho thính chúng tạm thấy

cái thân như đã trăm ngàn tuổi, tâm sanh ái nhiễm, không thể

rời bỏ; đem thân làm nô bộc, cúng dường tứ sự chẳng biết

mệt mõi. Lại khiến cho mỗi ai nghe pháp dưới tòa tâm biết

đó là vị tiên sư, là vị thiện trí thức của mình, riêng sanh lòng

yêu pháp, khắn khít như keo sơn, được sự chưa từng có.

Người tu hành mê dại, lầm cho là Bồ Tát, gần gũi tâm Ma,

phá Luật Nghi Phật, lén làm chuyện tham dục. Miệng Ma ưa

nói ta ở kiếp trước, trong đời X độ người Y, lúc đó là thê

thiếp, anh em của ta, nên nay lại đến độ cho nhau, ta sẽ cùng

các người theo nhau về thế giới X cúng dường Đức Phật Y.

oặc nói có cõi trời Đại Quang Minh riêng biệt, Phật trụ nơi

ấy, là chỗ nghỉ ngơi của tất cả Chư Phật. ạng không biết kia

tin những lời lừa gạt đó, bỏ mất tự tâm. Đây gọi là giống Lệ

Quỉ, lâu năm thành Ma, khuấy phá người tu. Khuấy rối chán

rồi, bỏ thân người không gá nữa thì đệ tử cùng thầy đều sa

vào lưới pháp luật. Ông nên tỏ biết trước thì khỏi lọt luân

hồi, còn mê lầm không biết thì đọa ngục ô Gián.

Page 220: Sa Môn DI TÙNG - chuaphatquocttt.orgchuaphatquocttt.org/doc/KinhThuLangNghiemRev3.pdf · học, tụng inh Đại 3hật Đảnh thủ /ăng 1ghiêm, đồng thi tham khảo các

218

6.“Anan! Lại nữa, thiện nam tử kia, Thọ Ấm đã hư diệu,

không còn mắc các tà lự, Định tròn đầy phát sáng, trong Tam

Ma Địa tâm lại ưa đi sâu vào, cần khổ ép mình, thích chỗ

vắng vẻ, tham cầu sự yên lặng. Bấy giờ, Thiên Ma chờ được

dịp ấy, cho tinh thần gá vào người khác, miệng nói kinh

pháp. Người đó không biết bị Ma gá vào, rồi tự bảo đã đắc

ô Thượng Niết Bàn, đến chỗ thiện nam tử cầu thầm lặng

kia, trải tòa thuyết pháp, khiến cho thính chúng mỗi người

đều biết nghiệp cũ của mình. oặc ở nơi đó, bảo với một

người: “Ngươi nay chưa chết đã làm súc sanh”, rồi bảo một

người khác đạp cái đuôi đằng sau, thì khiến người đó đứng

dậy không được. Cả thảy chúng ấy đều hết lòng khâm phục.

Có người móng tâm thì liền biết ý. Ngoài Luật Nghi của Phật

ra, nó lại còn gia thêm khắc khổ, chê bai Tỳ Kheo, mắng

nhiếc đồ chúng, phơi lộ việc người ta chẳng tránh sự cơ

hiềm. Miệng Ma ưa nói những việc họa phúc chưa đến và

khi đến thì không sai mảy may. Đây gọi là Đại Lực Quỉ, lâu

năm thành Ma, khuấy rối người tu hành. Khuấy rối chán rồi,

bỏ thân người không gá nữa, thì đệ tử cùng thầy đều sa vào

lưới pháp luật. Ông nên tỏ biết trước thì khỏi lọt luân hồi,

còn mê lầm không biết thì đọa ngục ô Gián.

7.“Anan! Lại nữa, thiện nam tử kia, Thọ Ấm đã hư diệu,

không còn mắc các tà lự, Định tròn đầy phát sáng, trong Tam

Ma Địa tâm lại ưa thấy biết, cần khổ xét tìm, tham cầu biết

túc mạng. Bấy giờ, Thiên Ma chờ được dịp ấy, cho tinh thần

gá vào người khác, miệng nói kinh pháp. Người đó không

biết bị Ma gá vào, rồi tự bảo đã đắc ô Thượng Niết Bàn,

đến chỗ thiện nam tử cầu hiểu biết kia, trải tòa thuyết pháp.

Người tu hành bỗng nhiên ở chỗ thuyết pháp được hạt châu

báu lớn. oặc có khi Ma hóa làm súc sanh, miệng ngậm hạt

châu cùng những vật kỳ lạ như đồ trân bảo, giản sách, phù

độc, đến trao trước cho người tu hành, rồi sau đeo vào mình.

Page 221: Sa Môn DI TÙNG - chuaphatquocttt.orgchuaphatquocttt.org/doc/KinhThuLangNghiemRev3.pdf · học, tụng inh Đại 3hật Đảnh thủ /ăng 1ghiêm, đồng thi tham khảo các

219

oặc có khi Ma bảo người nghe pháp có hạt châu minh

nguyệt chôn dưới đất chói sáng chỗ đó, làm cho các thính giả

được sự chưa từng có. Ma thường ăn cây thuốc chứ không ăn

cơm. oặc có khi mỗi ngày chỉ ăn một hạt mè, hoặc hạt

mạch, do sức Ma giữ gìn, thân hình vẫn béo tốt. Ma lại chê

bai Tỳ Kheo, nhiếc mắng đồ chúng, chẳng tránh sự cơ hiềm.

Miệng Ma ưa nói kho báu ở phương khác và chỗ ẩn cư của

Thánh iền thập phương. Những người đi theo sau Ma

thường thấy có những người kỳ lạ. Đây gọi là giống Quỉ

Thần Rừng Núi, Thổ Địa, Thành oàng, Sông Núi lâu năm

thành Ma. oặc có khi kêu gọi làm điều dâm dục, phá Giới

Luật Phật, cùng với kẻ thừa sự lén làm việc Ngũ ục. oặc

có khi tinh tấn, ăn toàn cỏ cây. iệc làm không nhất định,

cốt để khuấy phá người tu hành. Khuấy rối chán rồi, bỏ thân

người không gá nữa thì đệ tử và thầy phần nhiều sa vào lưới

pháp luật. Ông nên tỏ biết trước thì khỏi lọt luân hồi, còn mê

lầm không biết thì đọa ngục ô Gián.

8.“Anan! Lại nữa, thiện nam tử kia, Thọ Ấm đã hư diệu,

không còn mắc các tà lự, Định tròn đầy phát sáng, trong Tam

Ma Địa tâm lại ưa các thứ thần thông biến hóa, nghiên cứu

nguồn gốc biến hóa, tham cầu có thần lực. Bấy giờ, Thiên

Ma chờ được dịp ấy, cho tinh thần gá vào người khác, miệng

nói kinh pháp. Người đó không biết bị Ma gá vào, rồi tự bảo

đã đắc ô Thượng Niết Bàn, đến chỗ thiện nam tử cầu thần

thông kia, trải tòa thuyết pháp. Người đó hoặc tay cầm ngọn

lửa, nắm chia ngọn lửa trên đầu bốn chúng nghe pháp, ngọn

lửa trên đỉnh đầu những người nghe pháp đều dài vài thước

mà không nóng, cũng không đốt cháy. oặc đi trên nước như

đi trên đất bằng, hoặc giữa hư không ngồi yên không động,

hoặc vào trong bình, hoặc ở trong đãy, hoặc vượt cửa sổ,

hoặc xuyên qua tường không chút ngăn ngại. Chỉ đối với đao

binh thì không được tự tại. Người đó tự bảo là Phật, thân

Page 222: Sa Môn DI TÙNG - chuaphatquocttt.orgchuaphatquocttt.org/doc/KinhThuLangNghiemRev3.pdf · học, tụng inh Đại 3hật Đảnh thủ /ăng 1ghiêm, đồng thi tham khảo các

220

mặc bạch y, chịu Tỳ Kheo lễ bái, chê bai luật Thiền, mắng

nhiếc đồ chúng, phơi lộ việc người không tránh sự cơ hiềm.

Trong miệng thường nói thần thông tự tại, hoặc cho người

thấy cõi Phật cạnh bên. Đó là do sức quỉ mê hoặc, không có

gì chân thật. Người đó khen ngợi việc hành dâm, không từ

bỏ những việc làm thô tục, đem những việc bậy bàn với nhau

cho là truyền pháp. Đây gọi là những giống Sơn Tinh, ải

Tinh, Phong Tinh, à Tinh, Thổ Tinh và những loài Tinh

Mỵ của tất cả cỏ cây đã sống nhiều kiếp có sức lớn trong trời

đất. oặc là Long Mỵ, hoặc là tiêu hết kiếp sống lại làm Mỵ.

oặc tiêu đến hồi hết quả báo, kể năm thì phải chết, nhưng

hình hài không tiêu mất, nên loài quái khác bám vào. Bọn ấy

lâu năm thành Ma, khuấy rối người tu hành. Khuấy rối chán

rồi, bỏ thân người không gá nữa, thì đệ tử và thầy phần nhiều

sa vào lưới pháp luật. Ông nên tỏ biết trước thì khỏi lọt luân

hồi, còn mê lầm không biết thì đọa ngục ô Gián.

9.“Anan! Lại nữa, thiện nam tử kia, Thọ Ấm đã hư diệu,

không còn mắc các tà lự, Định tròn đầy phát sáng, trong Tam

Ma Địa tâm lại ưa các thứ thần thông biến hóa, nghiên cứu

nguồn gốc biến hóa, tham cầu cái rỗng không sâu nhiệm.

Bấy giờ, Thiên Ma chờ được dịp ấy, cho tinh thần gá vào

người khác, miệng nói kinh pháp. Người đó không biết bị

Ma gá vào, rồi tự bảo đã đắc ô Thượng Niết Bàn, đến chỗ

thiện nam tử cầu rỗng không kia, trải tòa thuyết pháp. Ở

trong đại chúng, hình người ấy bỗng hóa thành không, cả

chúng không thấy gì, rồi lại từ hư không bỗng hiện ra, khi

còn khi mất rất tự tại. oặc hiện cái thân rỗng suốt như ngọc

lưu ly. oặc duỗi tay chân xuống phát mùi hương chiên đàn.

oặc đại, tiểu tiện như đường phèn cứng ngắc. Người đó chê

phá Giới Luật, khinh rẻ bậc xuất gia, trong miệng thường nói

không nhân không quả, một lần chết là xong hết vĩnh viễn,

không còn có thân sau. Lại nói phàm, Thánh tuy đắc không

Page 223: Sa Môn DI TÙNG - chuaphatquocttt.orgchuaphatquocttt.org/doc/KinhThuLangNghiemRev3.pdf · học, tụng inh Đại 3hật Đảnh thủ /ăng 1ghiêm, đồng thi tham khảo các

221

tịch, vẫn lén làm chuyện tham dục, thọ ục ấy mà vẫn đắc

tâm không, bác không Nhân Quả. Đây gọi là những giống

Tinh Khí của Nhật, Nguyệt giao che; vàng, ngọc, chi thảo,

lân, phụng, quy, hạc trải ngàn vạn năm không chết trở thành

tinh linh, sanh ra trong cõi nước, lâu năm thành Ma, khuấy

rối người tu hành. Khuấy chán rồi, bỏ thân người không gá

nữa, thì đệ tử và thầy phần nhiều sa vào lưới pháp luật. Ông

nên tỏ biết trước thì khỏi lọt luân hồi, còn mê lầm không biết

thì đọa ngục ô Gián.

10.“Anan! Lại nữa, thiện nam tử kia, Thọ Ấm đã hư diệu,

không còn mắc các tà lự, Định tròn đầy phát sáng, trong Tam

Ma Địa tâm lại ưa sống lâu, cần khổ nghiên cứu tinh vi, tham

cầu sống mãi, bỏ cái sống phần đoạn mà trông mong cái

tướng vi tế của biến dịch được thường trụ. Bấy giờ, Thiên

Ma chờ được dịp ấy, cho tinh thần gá vào người khác, miệng

nói kinh pháp. Người đó không biết bị Ma gá vào, rồi tự bảo

đã đắc ô Thượng Niết Bàn, đến chỗ thiện nam tử cầu sống

lâu kia, trải tòa thuyết pháp. Người đó ưa nói đi qua phương

khác rồi trở về không trở ngại, hoặc trải qua muôn dặm, giây

lát trở lại mà đều lấy được đồ vật ở phương kia. oặc ở một

chỗ hay trong nhà, cách chỉ vài bước bảo người ta đi từ vách

phía Đông qua vách phía Tây, nhưng người ta đi mau cả năm

không đến. Nhân đó người tu hành tin tưởng, cho là Phật

hiện tiền. Miệng Ma thường nói mười phương chúng sanh

đều là con ta, ta sanh Chư Phật, ta sanh thế giới. Ta là Phật

nguyên thủy, tự nhiên ra đời, chẳng nhờ tu mà đắc. Đây gọi

là Thiên Ma trụ thế tự tại, nó khiến bọn quyến thuộc chưa

phát tâm như bọn Giá ăn Trà hay đồng tử Tỳ Xá cõi Tứ

Thiên ương thích cái hư minh đến ăn tinh khí người tu

hành. oặc không nhân ông thầy, người tu hành chính tự

mình xem thấy bọn đó đến xưng là thần Chấp Kim Cang ban

cho trường thọ. Bọn đó hiện thân gái đẹp, thịnh hành việc

Page 224: Sa Môn DI TÙNG - chuaphatquocttt.orgchuaphatquocttt.org/doc/KinhThuLangNghiemRev3.pdf · học, tụng inh Đại 3hật Đảnh thủ /ăng 1ghiêm, đồng thi tham khảo các

222

dâm dục, làm cho chưa đến một năm, gan óc người tu khô

kiệt, miệng lẩm bẩm một mình nghe như yêu mỵ. Người

ngoài chưa rõ biết, nên phần nhiều mắc phải lưới pháp luật,

và chưa kịp xử hình đã chết khô trước. Thế là bọn Ma khuấy

phá người tu hành đến phải ốm chết. Ông nên tỏ biết trước

thì chẳng lọt luân hồi, còn mê lầm không biết thì đọa ngục

vô gián.

“Anan! phải biết rằng mười thứ Ma đó, trong thời Mạt Pháp,

hoặc xuất gia tu hành trong giáo pháp của Ta, hoặc gá thân

người, hoặc tự hiện hình, đều nói là đã thành Chánh Biến Tri

Giác, khen ngợi dâm dục, phá Luật Nghi Phật. Trước là thầy

Ác Ma cùng đệ tử Ma dâm dục truyền nhau, tà ma như vậy

mê hoặc lòng dạ, ít thì chín đời, nhiều thì trăm đời, khiến cho

người tu hành chân chánh đều làm quyến thuộc của Ma. Sau

khi chết đi hẳn làm dân Ma, bỏ mất Chánh Biến Tri, đọa

ngục ô Gián.

“Các ông nay chưa nên vội nhận lấy Niết Bàn tịch diệt trước.

ầu đắc quả ô ọc, cũng phát nguyện vào trong đời Mạt

Pháp kia, khởi Tâm Đại Từ Bi mà cứu độ cho chúng sanh

tâm địa ngay chánh, lòng tin tha thiết, khiến họ không mắc

vào tà ma, được tri kiến chân chánh. Nay Ta đã độ các ông ra

khỏi Sống Chết; các ông tuân theo lời Phật, đó gọi là báo

Phật Ân.

“Anan! Mười thứ cảnh hiện của Thiền Na như vậy đều thuộc

về Tưởng Ấm, do dụng tâm giao xen lẫn nhau mà hiện các

việc đó. Chúng sanh mê dại, chẳng biết tự xét, gặp nhân

duyên ấy, mê chẳng tự biết, cho là lên bực Thánh, thành Đại

ọng Ngữ, đọa ngục ô Gián. Sau khi Ta diệt độ, các ông

hãy đem lời nói này của Như Lai truyền dạy cho đời Mạt

Pháp, khiến khắp chúng sanh đều tỏ ngộ nghĩa đó, không để

Page 225: Sa Môn DI TÙNG - chuaphatquocttt.orgchuaphatquocttt.org/doc/KinhThuLangNghiemRev3.pdf · học, tụng inh Đại 3hật Đảnh thủ /ăng 1ghiêm, đồng thi tham khảo các

223

cho Thiên Ma được dịp khuấy phá; giữ gìn che chở cho

người tu hành thành Đạo ô Thượng.

Page 226: Sa Môn DI TÙNG - chuaphatquocttt.orgchuaphatquocttt.org/doc/KinhThuLangNghiemRev3.pdf · học, tụng inh Đại 3hật Đảnh thủ /ăng 1ghiêm, đồng thi tham khảo các

224

KINH ĐẠI PHẬT ĐẢNH THỦ LĂNG NGHIÊM (T M T T NG N)

Page 227: Sa Môn DI TÙNG - chuaphatquocttt.orgchuaphatquocttt.org/doc/KinhThuLangNghiemRev3.pdf · học, tụng inh Đại 3hật Đảnh thủ /ăng 1ghiêm, đồng thi tham khảo các

225

Quyển X

Phạm vi của Hành Ấm

“Anan! Thiện nam tử kia, tu Tam Ma Đề, khi Tưởng Ấm

hết rồi thì những mộng tưởng bình thường của người ấy

tiêu diệt. Thức, ngủ là một, tánh Giác Minh rỗng lặng

như hư không trong trẻo, không còn những sự tướng tiền

trần thô trọng. Xem những núi sông, đất liền của thế gian

như gương soi sáng, đến không chỗ dính, đi không dấu vết,

rỗng thọ chiếu ứng, rõ ràng không còn các tập khí, chỉ thuần

một Tánh Tinh Chân. “Căn nguyên của Sanh iệt từ đó phơi

lộ ra, thấy được mười hai loài chúng sanh mười phương, rõ

hết các loài. Tuy chưa thông suốt manh mối của mỗi chúng

sanh nhưng đã thấy cái cơ sở sanh diệt chúng, giống như

bóng dã mã, vùn vụt lăng xăng sơ tượng hiện ra, làm cái then

chốt phát sanh của Phù căn trần. Đây gọi là phạm vi của

ành Ấm.

“Nếu cái nguồn gốc của những chớp nhoáng lăng xăng đó

nhập vào tánh lặng trong bản lai, những tập khí nguồn

gốc lặng trong thành một phiến, như sóng mòi diệt hóa

thành nước đứng, thì gọi là Hành Ấm hết. Người đó liền

vượt khỏi Chúng Sanh Trược90. Xét lại nguyên do, cội gốc

là ọng Tưởng u ẩn.

1.”Anan! Ông nên biết rằng các thiện nam tử được sự Chánh

Tri trong Tam Ma Địa thì Chánh Tâm đứng lặng sáng suốt,

mười loài Thiên Ma không còn được dịp khuấy phá, mới

được cứu xét cùng tột cái cội gốc sanh loại. Nơi cái cội gốc

sanh loại, nguồn gốc sự sống bày lộ ra. Xét cái cội nguồn

máy động lăng xăng tròn khắp giản phác u ẩn kia ở trong

90

Muốn hiểu rõ năm Trược (ngũ Trược) xem đoạn “Tâm Nhân Địa”

trang 81-82.

Page 228: Sa Môn DI TÙNG - chuaphatquocttt.orgchuaphatquocttt.org/doc/KinhThuLangNghiemRev3.pdf · học, tụng inh Đại 3hật Đảnh thủ /ăng 1ghiêm, đồng thi tham khảo các

226

Tánh vốn toàn vẹn lại mống tâm so đo suy diễn, thì người đó

rơi lọt vào hai thứ luận ô Nhân.

“Một là, người đó thấy cái gốc vốn không có Nhân. ì sao

thế? Người đó đã phát lộ hoàn toàn được cơ quan của Sanh

iệt, nương theo tám trăm công đức của Nhãn Căn, thấy

được trong tám muôn kiếp tất cả chúng sanh đều do dòng

nghiệp lực mà xoay vần, chết đây sanh kia. Chỉ thấy chúng

sanh luân hồi trong đó, ngoài tám muôn kiếp thì mờ mịt

không thấy gì, bèn khởi tâm suy diễn rằng những loài chúng

sanh mười phương trong thế gian này trước tám vạn kiếp

không có Nhân, mà tự có. o sự suy diễn này, bỏ mất Chánh

Biến Tri, rơi lạc vào ngoại đạo, mê lầm Tánh Bồ Đề.

“ ai là, người đó thấy cái ngọn không có Nhân. ì sao thế?

Người đó nơi sự Sanh iệt đã thấy cội gốc, biết rằng người

sanh người, rõ chim sanh chim, quạ xưa nay đen, hạc xưa

nay trắng, người, trời thì thân đứng, súc sanh thì thân ngang,

màu trắng không phải do tẩy mà thành, màu đen chẳng phải

do nhuộm mà ra. Suốt tám muôn kiếp không hề dời đổi, sống

hết đời này cũng lại vẫn vậy, mà mình xưa nay chẳng thấy

Bồ Đề, làm sao có chuyện thành tựu Bồ Đề, rồi cho rằng tất

cả sự vật ngày nay đều vốn không có Nhân. o so đo suy

diễn như vậy, bỏ mất Chánh Biến Tri, rơi lạc vào ngoại đạo,

mê lầm Tánh Bồ Đề. Đây gọi là ngoại đạo Thứ Nhất, lập ra

luận ô Nhân.

2.”Anan! Trong Tam Ma Địa đó, các thiện nam tử chánh tâm

lặng trong, Ma không còn cơ hội. Người ấy cứu xét cùng tột

cội gốc sanh loại, xem thấy cái cội nguồn giản phác u ẩn

thường máy động kia, trong Tánh iên Thường lại khởi lên

so tính thì người ấy sa vào bốn cái Luận Biến Thường.

Page 229: Sa Môn DI TÙNG - chuaphatquocttt.orgchuaphatquocttt.org/doc/KinhThuLangNghiemRev3.pdf · học, tụng inh Đại 3hật Đảnh thủ /ăng 1ghiêm, đồng thi tham khảo các

227

“Một là, người ấy xét cùng tánh của Tâm Cảnh, cả hai đều

không có Nhân. Tu tập biết được trong hai vạn kiếp mười

phương chúng sanh, chỗ có sanh diệt đều là xoay vần, chưa

hề tan mất, nên chấp đó là Thường.

“ ai là, người ấy xét cùng nguồn gốc tứ Đại, thấy bốn Đại

thường trụ. Tu tập biết được trong bốn vạn kiếp, mười

phương chúng sanh, chỗ có sanh diệt đều nằm trong bản thể

thường hằng, chưa hề tan mất, nên chấp đó là Thường.

“Ba là, người ấy xét cùng sáu Căn, trong Tâm, Ý và Thức

của Mạt Na Thức chấp thọ thì thấy cái gốc gác nguyên do

tánh vẫn thường hằng. Tu tập biết được trong tám vạn kiếp,

tất cả chúng sanh xoay vần chẳng mất, bản lai thường trụ.

Xét cùng cái tánh chẳng mất đó, chấp ấy là Thường.

“Bốn là, người ấy đã hết Tưởng Ấm, cái lẽ sanh diệt không

còn, sự trôi chuyển dừng lặng, tâm tưởng sanh diệt nay đã

vĩnh viễn diệt dứt. Trong lý tự nhiên thành ra cái chẳng sanh

diệt. o tâm so tính mà chấp đó là Thường. o những sự

Chấp Thường ấy, bỏ mất Chánh Biến Tri, sa vào ngoại đạo,

mê lầm tánh Bồ Đề. Đây gọi là ngoại đạo Thứ ai, lập ra

những luận iên Thường.

3. “Lại nữa, trong Tam Ma Địa, các thiện nam tử đó chánh

tâm đứng lặng kiên cố, Ma không còn cơ hội. Người ấy cứu

xét cùng tột gốc sanh loại, xem thấy cái cội nguồn giản phác

u ẩn thường máy động kia, lại khởi tâm so tính ra cái Ta và

cái khác Ta, thì người ấy sa vào bốn Kiến Chấp điên đảo, là

những luận Một phần ô Thường, một phần Thường.

“Một là, người ấy xét thấy cái tâm diệu minh lặng nhiên

khắp mười phương cõi, cho là Thần Ngã rốt ráo. Từ đó suy

diễn rằng Ta khắp cả mười phương, lặng sáng chẳng động,

còn tất cả chúng sanh, ở trong tâm Ta tự sanh tự chết. ậy

Page 230: Sa Môn DI TÙNG - chuaphatquocttt.orgchuaphatquocttt.org/doc/KinhThuLangNghiemRev3.pdf · học, tụng inh Đại 3hật Đảnh thủ /ăng 1ghiêm, đồng thi tham khảo các

228

thì tâm tánh của Ta gọi là Thường, còn các thứ sanh diệt kia

là tánh ô Thường.

“ ai là, người ấy không xét xem cái tâm, lại xét xem khắp

mười phương hằng sa cõi nước, thấy chỗ kiếp hoại thì cho là

chủng tánh rốt ráo ô Thường, còn chỗ kiếp chẳng hoại thì

gọi là rốt ráo Thường.

“Ba là, người ấy xét xem riêng cái Tâm mình, thấy nó tinh tế

nhỏ nhiệm giống như vi trần, lưu chuyển mười phương,

Tánh không dời đổi. Có thể khiến thân này liền sanh liền

diệt. Cho cái tánh chẳng hoại đó là Tánh Thường của mình,

còn tất cả sự sanh tử từ tánh ấy sanh ra thì gọi là tánh ô

Thường.

“Bốn là, người ấy biết Tưởng Ấm hết, thấy dòng ành Ấm,

chấp rằng sự trôi chuyển không ngừng của ành Ấm là tánh

Thường, còn Sắc, Thọ, Tưởng nay đã diệt hết thì cho là Vô

Thường. o sự so tính một phần ô Thường, một phần

Thường đó mà sa lạc vào ngoại đạo, mê lầm tánh Bồ Đề.

Đây gọi là ngoại đạo Thứ Ba, lập ra những luận Một Phần

Thường.

4. “Lại nữa, trong Tam Ma Địa các thiện nam tử đó chánh

tâm đứng lặng kiên cố, Ma không còn cơ hội. Người ấy cứu

xét cùng tột cội gốc sanh loại, xem thấy cái cội nguồn giản

phác u ẩn thường máy động kia, lại sanh so tính về phận vị,

thì người ấy sa vào bốn cái luận ữu Biên.

“Một là, người ấy so tính cái cội nguồn Sanh iệt lưu

chuyển không ngừng, chấp quá khứ, vị lai là ữu Biên, còn

cái tâm tương tục là ô Biên.

“ ai là, người ấy xét xem trong tám vạn kiếp thì thấy chúng

sanh, còn trước tám vạn kiếp thì bặt không thấy nghe gì, rồi

Page 231: Sa Môn DI TÙNG - chuaphatquocttt.orgchuaphatquocttt.org/doc/KinhThuLangNghiemRev3.pdf · học, tụng inh Đại 3hật Đảnh thủ /ăng 1ghiêm, đồng thi tham khảo các

229

gọi chỗ không thấy nghe gì là ô Biên, còn chỗ có chúng

sanh là ữu Biên.

“Ba là, người ấy cho rằng mình biết cùng khắp là được cái

tánh ô Biên, còn tất cả các người kia hiện ra trong cái biết

của mình mà mình không hề biết cái tánh biết của họ, vậy thì

họ không được cái tâm ô Biên, chỉ có tánh ữu Biên.

“Bốn là, người ấy xét cùng ành Ấm là Không, dùng chỗ

thấy biết của mình mà so lường, trù tính rằng trong một thân

của tất cả chúng sanh đều là nửa phần sanh, nửa phần diệt,

và chấp rằng tất cả sự vật có ra trong thế giới đều một nửa là

ữu Biên, một nửa là ô Biên. o sự suy tính ữu Biên,

ô Biên này mà sa lạc vào ngoại đạo, mê lầm tánh Bồ Đề.

Đây gọi là ngoại đạo Thứ Tư, lập ra những luận ữu Biên.

5. “Lại nữa, trong Tam Ma Địa các thiện nam tử đó chánh

tâm đứng lặng kiên cố, Ma không còn cơ hội. Người ấy cứu

xét cùng tột gốc sanh loại, xem thấy cái cội nguồn giản phác

u ẩn thường máy động kia, trong chỗ tri kiến lại khởi sanh so

tính thì người đó sa lạc vào bốn thứ luận hư vọng Biến Kế

Điên Đảo, Bất Tử Càn Loạn.

“Một là, người ấy quan sát cái cội nguồn biến hóa, thấy chỗ

dời đổi thì gọi là Biến, thấy chỗ tương tục thì gọi là Thường.

Thấy chỗ thấy được thì gọi là Sanh, chỗ không thấy được thì

gọi là iệt. Chỗ các nhân tương tục, không có gián đoạn thì

gọi là Tăng, chính trong tương tục, chỗ rời nhau ở giữa thì

gọi là Giảm. Chỗ sanh ra của mỗi cái thì gọi là Có, chỗ mất

đi của mỗi cái thì gọi là Không. ùng lý quán sát tất cả,

dụng tâm thấy riêng biệt nhau. Có người cầu pháp đến hỏi

nghĩa lý thì đáp rằng “Ta nay cũng sanh, cũng diệt, cũng có,

cũng không, cũng tăng, cũng giảm.” Trong mọi thời đều nói

năng lộn xộn, khiến cho người nghe lầm loạn chữ nghĩa.

Page 232: Sa Môn DI TÙNG - chuaphatquocttt.orgchuaphatquocttt.org/doc/KinhThuLangNghiemRev3.pdf · học, tụng inh Đại 3hật Đảnh thủ /ăng 1ghiêm, đồng thi tham khảo các

230

“ ai là, người ấy quán kỹ cái tâm đắp đổi không nơi chốn,

nhân cái Không mà cho là chứng, có người đến hỏi, chỉ đáp

một chữ, chỉ nói là Không. Ngoài chữ Không ra không nói gì

cả.

“Ba là, người ấy quán kỹ cái tâm mỗi mỗi đều có chỗ, nhân

cái Có mà cho là chứng, có người đến hỏi, chỉ đáp một chữ,

chỉ nói là Phải. Trừ chữ Phải ra, không nói gì cả.

“Bốn là, người ấy chấp cả Có và Không. Cái cảnh đã phân

chia như vậy thì cái tâm cũng lộn xộn. Có người đến hỏi thì

đáp rằng: Cũng Có tức là cũng Không, trong cái Cũng

Không chẳng phải là Cũng Có. Tất cả đều càn loạn, không

thể nói hết được. o những so tính, càn loạn trống rỗng như

vậy mà sa lạc vào ngoại đạo, mê lầm tánh Bồ Đề. Đây gọi là

ngoại đạo Thứ Năm, lập ra bốn thứ luận hư vọng Biến Kế

Điên Đảo, Bất Tử Càn Loạn.

6. “Lại nữa, trong Tam Ma Địa các thiện nam tử đó chánh

tâm đứng lặng kiên cố, Ma không còn cơ hội. Người ấy cứu

xét cùng tột cội gốc sanh loại, xem thấy cái cội nguồn giản

phác u ẩn thường máy động kia, ở nơi dòng sanh diệt vô tận

khởi sanh so đo thì người ấy sa vào cái chấp điên đảo là sau

khi chết có tướng.

“ oặc tự củng cố sắc thân, bảo Sắc là Ta. oặc thấy cái Ta

tròn đầy, bao trùm khắp các cõi nước, bảo ta có sắc. oặc

thấy các tiền trần kia theo ta mà xoay trở lại, bảo sắc thuộc

về Ta. oặc thấy cái Ta nương trong ành Ấm mà tương

tục, bảo Ta ở nơi sắc. ọ đều so Tính mà cho rằng sau khi

chết có tướng, tuần hoàn như vậy có đến mười sáu tướng.

“Từ đó mà suy tính rằng rốt ráo phiền não và rốt ráo Bồ Đề,

hai tánh đó đi song song, không tiếp xúc nhau.

Page 233: Sa Môn DI TÙNG - chuaphatquocttt.orgchuaphatquocttt.org/doc/KinhThuLangNghiemRev3.pdf · học, tụng inh Đại 3hật Đảnh thủ /ăng 1ghiêm, đồng thi tham khảo các

231

“ o sự so tính chấp rằng sau khi chết có tướng như vậy mà

sa lạc vào ngoại đạo, mê lầm tánh Bồ Đề. Đây gọi là ngoại

đạo Thứ Sáu, lập ra những Luận điên đảo Trong năm Ấm,

sau khi chết có tướng.

7. “Lại nữa, trong Tam Ma Địa các thiện nam tử đó chánh

tâm đứng lặng kiên cố, Ma không còn cơ hội. Người ấy cứu

xét cùng tột gốc sanh loại, xem thấy cái cội nguồn giản phác

u ẩn thường máy động kia, ở trong các Ấm: Sắc, Thọ, Tưởng

đã diệt ở trước khởi sanh so tính, người ấy sa vào những tư

tưởng điên đảo là sau khi chết không có Tướng.

“Người ấy thấy Sắc Ấm diệt, hình hài không nhân vào đâu.

Xét Tưởng Ấm diệt, tâm không ràng buộc vào đâu. Biết Thọ

Ấm diệt, không còn dính dáng. Tánh các Ấm được tiêu tan,

dù có sanh lý mà không có Thọ, Tưởng: đồng như cỏ cây.

Cái hình chất hiện tiền còn không thể nắm được, vậy sau khi

chết làm sao còn có các Tướng? o vậy mà cho rằng sau khi

chết không có Tướng. Xoay vần như vậy mà có tám thứ ô

Tướng.

“Từ đó mà suy tính rằng: Niết Bàn, Nhân Quả, tất cả đều

Không, chỉ có danh tự suông, chứ rốt ráo là Đoạn iệt. o

sự suy tính, chấp sau khi chết không có Tướng này mà sa lạc

vào ngoại đạo, mê lầm tánh Bồ Đề. Đây gọi là ngoại đạo

Thứ Bảy, lập ra những luận điên đảo Trong ngũ Ấm, sau khi

chết không có Tướng.

8. “Lại nữa, trong Tam Ma Địa các thiện nam tử đó chánh

tâm đứng lặng kiên cố, Ma không còn cơ hội. Người ấy cứu

xét cùng tột cội gốc sanh loại, xem thấy cái cội nguồn giản

phác u ẩn thường máy động kia, trong chỗ ành Ấm còn tồn

tại và Thọ, Tưởng Ấm đã diệt, lại so tính cả cái Có và

Page 234: Sa Môn DI TÙNG - chuaphatquocttt.orgchuaphatquocttt.org/doc/KinhThuLangNghiemRev3.pdf · học, tụng inh Đại 3hật Đảnh thủ /ăng 1ghiêm, đồng thi tham khảo các

232

Không, tự thể phá nhau, thì người ấy lọt vào những luận điên

đảo Sau khi chết, Có và Không đều chẳng phải.

“Người ấy trong Sắc, Thọ, Tưởng thấy Có mà chẳng phải

Có, trong ành Ấm chuyển biến thấy Không mà chẳng phải

Không. Xoay vần như vậy cùng tột các Ấm thành ra tám

Tướng đều chẳng phải. Tùy gặp duyên gì đều nói sau khi

chết có Tướng, không Tướng.

“Lại suy tính ành Ấm tánh nó dời đổi nên tâm phát ra

thông tỏ, cho rằng Có, Không đều chẳng phải, hư thật lộn

lạo. o sự so tính, chấp “Sau khi chết, Có và Không đều

chẳng phải” mà việc về sau tối tăm mù mịt, không còn lối đi,

sa lạc vào ngoại đạo, mê lầm tánh Bồ Đề. Đây gọi là ngoại

đạo Thứ Tám, lập luận điên đảo: Trong ngũ Ấm, sau khi

chết, Có và Không đều chẳng phải.

9. “Lại nữa, trong Tam Ma Địa các thiện nam tử đó chánh

tâm đứng lặng kiên cố, Ma không còn cơ hội. Người ấy cứu

xét cùng tột cội gốc sanh loại, xem thấy cái cội nguồn giản

phác u ẩn thường máy động kia, sanh ra so tính rằng về sau

này là Không, thì người ấy lọt vào bảy thứ luận Đoạn iệt.

“ oặc chấp Thân này là diệt, hoặc chấp hết ục là diệt, hoặc

hết Khổ là diệt, hoặc Cực Lạc là diệt, hoặc Tột Xả là diệt.

Xoay vần như vậy cùng tột bảy cách, cho rằng hiện tiền là

tiêu diệt, diệt rồi không trở lại nữa.

o sự so tính “Sau khi chết là đoạn diệt” như vậy, sa lạc vào

ngoại đạo, mê lầm tánh Bồ Đề. Đây gọi là ngoại đạo Thứ

Chín lập ra luận điên đảo “Sau khi chết là Đoạn iệt.”

10. “Lại nữa, trong Tam Ma Địa các thiện nam tử đó chánh

tâm đứng lặng vững chắc, Ma không còn cơ hội. Người ấy

cứu xét cùng tột cội gốc sanh loại, xem thấy cái cội nguồn

Page 235: Sa Môn DI TÙNG - chuaphatquocttt.orgchuaphatquocttt.org/doc/KinhThuLangNghiemRev3.pdf · học, tụng inh Đại 3hật Đảnh thủ /ăng 1ghiêm, đồng thi tham khảo các

233

giản phác u ẩn thường máy động kia, lại sanh ra so tính rằng

sau này là Có, thì người ấy sa vào năm luận Niết Bàn.

“ oặc lấy ục Giới làm cái chuyển y chánh thật, do xem

thấy sáng suốt vẹn khắp mà sanh yêu mến vậy. oặc lấy Sơ

Thiền làm cái chuyển y chánh thật, vì thấy tánh cõi này

không có Lo Âu. oặc lấy Nhị Thiền, vì tánh nó không có

Khổ. oặc lấy Tam Thiền, vì rất ui Đẹp. oặc lấy Tứ

Thiền, vì Khổ ui đều hết, chẳng chịu luân hồi sanh diệt.

ậy là mê lầm cõi trời ữu Lậu là tánh ô i, cho rằng năm

chỗ yên ẩn trên là nơi quả báo thù thẳng thanh tịnh. Xoay

vần như vậy cùng tột có năm chỗ.

“ o suy tính chấp trước năm thứ Niết Bàn hiện có như vậy

mà sa lạc vào ngoại đạo, mê lầm tánh Bồ Đề. Đây gọi là

ngoại đạo Thứ Mười, lập ra những luận điên đảo: Trong năm

Ấm có năm thứ Niết Bàn hiện có.

“Anan! Mười thứ cuồng giải Thiền Na như vậy đều do ành

Ấm và tâm dụng công xen nhau, nên hiện ra những nhận

thức đó. Chúng sanh mê dại, không biết tự lượng xét, gặp

các cái đó hiện ra, lấy mê làm ngộ, tự cho là chứng Thánh,

thành tội Đại ọng Ngữ mà đọa ngục ô Gián.

“Các ông quyết phải đem lời của Như Lai, sau khi Ta diệt độ

rồi, truyền dạy cho đời Mạt Pháp, khắp giúp chúng sanh hiểu

rõ nghĩa này, không để cho Tâm Ma tự gây nên những tội lỗi

sâu nặng, giữ gìn che chở cho chúng sanh tiêu diệt các tà

kiến, dạy cho thân tâm họ khai mở Giác ngộ Chân Nghĩa,

không mắc vào các đường rẽ trong Đạo ô Thượng. Chớ để

họ được một ít đã cho là đủ, và nêu ra lời chỉ dạy thanh tịnh

của vị Đại Giác.

Page 236: Sa Môn DI TÙNG - chuaphatquocttt.orgchuaphatquocttt.org/doc/KinhThuLangNghiemRev3.pdf · học, tụng inh Đại 3hật Đảnh thủ /ăng 1ghiêm, đồng thi tham khảo các

234

Phạm vi của Thức Ấm

“Anan! Thiện nam tử ấy tu Tam Ma Đề, Hành Ấm hết rồi

thì cái then chốt chung U Ẩn giản phác máy động sanh ra các

loài thế gian bỗng chốc nát tan. Giềng mối vi tế, mạch ngầm

gây nghiệp chịu quả báo của ngã thể chúng sanh, cảm ứng

đều dứt bặt. Người ấy hầu như sắp đại minh ngộ trong

bầu trời Niết Bàn, ví như gà gáy lần chót, ngắm về phương

Đông đã có sắc tinh sáng. Sáu Căn rỗng sạch, không còn

rong ruổi, trong ngoài trong lặng sáng suốt, nhập vào cái

Không Chỗ ào. Thấu suốt nguyên do nắm lấy cội nguồn,

các loài không còn hấp dẫn được. Nơi mười phương thế giới

đã được Tánh Đồng. Cái sắc tinh sáng chẳng chìm, phát hiện

u ẩn bí mật. Đây gọi là phạm vi của Thức Ấm.

“Nếu trong Tánh Đồng đã chứng được của các loài mà tiêu

tan sáu căn, khi hợp, khi chia được thành tựu, thấy nghe

thông nhau, dùng thay lẫn nhau một cách thanh tịnh, mười

phương thế giới cùng với thân tâm như ngọc lưu ly, trong

ngoài sáng suốt thì gọi là Thức Ấm hết. Người ấy có thể siêu

vượt Mạng Trược91. Xét lại nguyên do, cội gốc là vọng

tưởng điên đảo, ảo tượng rỗng không.

“Anan! Phải biết thiện nam tử ấy đã cùng tột tánh Không của

các ành, về đến nguồn Thức, đã diệt sanh diệt nhưng chưa

viên mãn trong chỗ tinh diệu của Tịch iệt. Người ấy có thể

khiến nơi thân mình, các Căn khác nhau khi hợp, khi chia và

cùng với các loài mười phương thông chung Tánh Giác. Cái

Giác Tri thông suốt một màu vắng lặng, có thể nhập vào

nguồn viên mãn.

91

Muốn hiểu rõ năm Trược (ngũ Trược) xem đoạn “Tâm Nhân Địa”

trang 81-82.

Page 237: Sa Môn DI TÙNG - chuaphatquocttt.orgchuaphatquocttt.org/doc/KinhThuLangNghiemRev3.pdf · học, tụng inh Đại 3hật Đảnh thủ /ăng 1ghiêm, đồng thi tham khảo các

235

[Sau khi đã phá được Hành Ấm rồi và đang trong trạng thái

của Thức Ấm, hành giả có thể khởi sanh những tư tưởng cho

là “thắng giải” như mười quan niệm của các nhóm ngoại

đạo thời bấy giờ như Đức Phật nêu ra sau đây.]

1.“Anan! Nếu ở chỗ quay về, lập ra cái nhân Chân Thường

mà sanh thắng giải, thì người ấy sa vào cái chấp Nhân Sở

Nhân, thành bạn bè với đám Sa Tỳ Ca La, quy về Minh Đế,

mê lầm Bồ Đề của Phật, bỏ mất Chánh Tri Kiến. “Đó gọi là

hạng Thứ Nhất, lập ra cái tâm có chỗ đắc, thành cái quả có

chỗ quy về, trái xa tánh iên Thông, ngược với đạo Niết

Bàn, sanh vào giống ngoại đạo.

2. “Anan! Lại nữa, thiện nam tử ấy đã cùng tột Tánh Không

của ành Ấm, đã diệt sanh diệt, nhưng chưa viên mãn trong

chỗ tinh diệu của Tịch iệt. Nếu ở chỗ quay về mà ôm làm

tự thể của mình, tất cả chúng sanh trong mười hai loài khắp

cả hư không đều ở trong thân mình tuôn khởi ra, rồi sanh

thắng giải thì người ấy sa vào kiến chấp Năng, Phi Năng,

thành bạn bè với Trời Ma ê Thủ La, hiện thân ô Biên, mê

lầm Bồ Đề của Phật, bỏ mất Chánh Tri Kiến. “Đó gọi là

hạng Thứ ai, lập ra cái tâm Năng i, thành cái quả Năng

Sự, trái xa tánh iên Thông, ngược với đạo Niết Bàn, sanh

vào giống Đại Mạn Thiên, cho cái Ta là cùng khắp viên mãn.

3.“Anan! Lại nữa, thiện nam tử ấy đã cùng tột Tánh Không

của ành Ấm, đã diệt sanh diệt, nhưng chưa viên mãn trong

chỗ tinh diệu của tịch diệt. Nếu ở chỗ quay về mà có chỗ

nương tựa, tự nghi rằng thân tâm mình từ chỗ kia phát sanh

ra, và cả mười phương hư không cũng đều do chỗ kia sanh

ra, rồi ngay nơi cái chỗ sanh ra tất cả đó cho là thể chân

thường không sanh diệt. ậy là ở trong sanh diệt sớm chấp là

thường trụ. Đã lầm là chẳng sanh, mà còn mê sự sanh diệt.

An trụ trong mê lầm trầm trọng mà sanh thắng giải thì người

Page 238: Sa Môn DI TÙNG - chuaphatquocttt.orgchuaphatquocttt.org/doc/KinhThuLangNghiemRev3.pdf · học, tụng inh Đại 3hật Đảnh thủ /ăng 1ghiêm, đồng thi tham khảo các

236

ấy sa vào cái chấp Thường, Phi Thường, thành bạn bè của

những kẻ chấp Tự Tại Thiên, mê lầm Bồ Đề của Phật, bỏ

mất Chánh Tri Kiến. “Đó gọi là hạng Thứ Ba, lập ra cái tâm

Nhân Y, thành cái quả ọng Kế, trái xa iên Thông, đi

ngược đạo Niết Bàn, sanh ra dòng giống Đảo iên.

4.“Anan! Lại nữa, thiện nam tử ấy đã cùng tột Tánh Không

của ành Ấm, đã diệt sanh diệt, nhưng chưa viên mãn trong

chỗ tinh diệu của Tịch iệt. Nếu nơi chỗ hay biết, nhân sự

hay biết cùng khắp mà lập ra cái nhận thức rằng cỏ cây mười

phương đều gọi là hữu tình, không khác với người. Cây cỏ

làm người, người chết rồi trở lại thành cỏ cây mười phương.

Ở nơi cái hay biết cùng khắp, không có chọn lựa và cho là

thắng giải. Người ấy sa vào kiến chấp Tri, ô Tri, thành bạn

bè của bọn Bà Tra, Tiển Ni chấp tất cả đều có hay biết, mê

lầm Bồ Đề của Phật, bỏ mất Chánh Tri Kiến. “Đó gọi là

hạng Thứ Tư suy Tánh cái tâm iên Tri thành cái quả sai

lầm, trái xa Tánh iên Thông, đi ngược đạo Niết Bàn, sanh

ra giống Đảo Tri.

5.“Anan! Lại nữa, thiện nam tử ấy đã cùng tột Tánh Không

của ành Ấm, đã diệt sanh diệt, nhưng chưa viên mãn trong

chỗ tinh diệu của Tịch iệt. Nếu ở trong chỗ viên dung của

các Căn dùng thay lẫn nhau đã được tùy thuận, bèn ở nơi

tánh viên dung biến hóa phát sanh các thứ mà cầu cái ánh

sáng của ỏa Đại, ưa cái trong sạch của Thủy Đại, thích cái

tràn khắp của Phong Đại, ngắm cái thành tựu của Địa Đại.

Mỗi mỗi đều sùng phụng cho các Đại kia là bản nhân, lập

thành cái nhận thức thường trụ thì người ấy sa vào cái kiến

chấp sanh vô sanh, thành bè bạn của nhóm Ca iếp Ba và Bà

La Môn, đem hết thân tâm thờ nước, thờ lửa để cầu ra khỏi

sanh tử, mê lầm Bồ Đề của Phật, bỏ mất Chánh Tri Kiến.

Page 239: Sa Môn DI TÙNG - chuaphatquocttt.orgchuaphatquocttt.org/doc/KinhThuLangNghiemRev3.pdf · học, tụng inh Đại 3hật Đảnh thủ /ăng 1ghiêm, đồng thi tham khảo các

237

“Đó gọi là hạng Thứ Năm, chấp trước sùng phụng, mê tâm

theo vật, lập ra cái nhân mong cầu hư vọng mà đợi cái quả

giả dối, trái xa tánh viên thông, đi ngược đạo Niết Bàn, sanh

ra giống Điên óa.

6. “Anan! Lại nữa, thiện nam tử ấy đã cùng tột Tánh Không

của ành Ấm, đã diệt sanh diệt, nhưng chưa viên mãn trong

chỗ tinh diệu của Tịch iệt. Nếu ở nơi chỗ viên minh, chấp

sự trống không trong viên minh, bác bỏ tiêu diệt các sự vật

biến hóa. Lấy sự vĩnh viễn diệt mất làm chỗ quy y, rồi sanh

thắng giải thì người ấy sa vào kiến chấp Quy ô Quy thành

bè bạn của nhóm chấp Không trong ô Tưởng Thiên, mê

lầm Bồ Đề của Phật, bỏ mất Chánh Tri Kiến.

“Đó gọi là hạng Thứ Sáu, vẹn thành tâm hư vô, kết nên cái

quả Không ong, trái xa tánh iên Thông, đi ngược đạo

Niết Bàn, sanh ra giống Đoạn iệt.

7.“Anan! Lại nữa, thiện nam tử ấy đã cùng tột Tánh Không

của ành Ấm, đã diệt sanh diệt, nhưng chưa viên mãn trong

chỗ tinh diệu của Tịch iệt. Nếu nơi tánh iên Thường củng

cố cái thân cho thường trụ như tánh ấy, mãi không suy mất

mà sanh thắng giải, thì người ấy sa vào cái chấp Tham Phi

Tham, thành bè bạn của nhóm A Tư Đà, cầu được mạng

sống lâu dài, mê muội Bồ Đề của Phật, bỏ mất Chánh Tri

Kiến.

“Đó gọi là hạng Thứ Bảy, bám níu cái Mệnh Căn, lập cái

Nhân củng cố vọng thân hướng theo cái Quả Khổ nhọc lâu

dài, trái xa tánh iên Thông, đi ngược đạo Niết Bàn, sanh ra

giống ọng iên.

8. “Lại nữa, thiện nam tử ấy cùng tột Tánh Không của ành

Ấm, đã diệt sanh diệt, nhưng chưa viên mãn trong chỗ tinh

diệu của Tịch iệt. Xét Mệnh Căn thông lẫn với nhau, lại

Page 240: Sa Môn DI TÙNG - chuaphatquocttt.orgchuaphatquocttt.org/doc/KinhThuLangNghiemRev3.pdf · học, tụng inh Đại 3hật Đảnh thủ /ăng 1ghiêm, đồng thi tham khảo các

238

muốn giữ lại nơi trần lao, sợ nó tiêu hết. Bèn ở giới hạn này,

ngồi cung liên hoa, hóa ra nhiều thứ bảy báu cùng nhiều mỹ

nữ, buông lung tâm mình mà sanh thắng giải. Người ấy sa

vào cái chấp Chân ô Chân thành bè bạn của nhóm Tra Chỉ

Ca La, mê lầm Bồ Đề của Phật, bỏ mất Chánh Tri Kiến.

“Đó gọi là hạng Thứ Tám, lập cái nhân Tà Tư thành cái quả

Xí Trần, trái xa tánh iên Thông, đi ngược đạo Niết Bàn,

sanh ra giống Thiên Ma.

9.“Anan! Lại nữa, thiện nam tử ấy đã cùng tột Tánh Không

của ành Ấm, đã diệt sanh diệt, nhưng chưa viên mãn trong

chỗ tinh diệu của Tịch iệt. Ở trong chỗ cội gốc rỗng sáng

của Mạng Căn, phân biệt cái tinh, cái thô để quyết rõ Chân,

Ngụy. Nơi nhân quả đền đáp, chỉ cầu cảm ứng, trái ngược

với đạo thanh tịnh là thấy Khổ, đoạn Tập, chứng iệt, tu Đạo

mà ở nơi chỗ iệt cho là xong, không chịu tiến tới rồi sanh

thắng giải. Người ấy sa vào hàng Định Tánh Thanh ăn,

thành bạn bè của nhóm tăng ô ăn là những người tăng

thượng mạn, mê lầm Bồ Đề của Phật, bỏ mất Chánh Tri

Kiến.

“Đó gọi là hạng Thứ Chín, cố viên thành cái tâm Tinh Ứng,

thành cái quả Thú Tịnh, trái xa tánh iên Thông, đi ngược

đạo Niết Bàn, sanh ra giống Triền Không.

10.“Anan! Lại nữa, thiện nam tử ấy đã cùng tột Tánh Không

của ành Ấm, đã diệt sanh diệt, nhưng chưa viên mãn trong

chỗ tinh diệu của Tịch iệt. Nếu ở trong tánh Giác Minh

thanh tịnh viên dung phát minh chỗ thâm diệu bèn lập đó là

Niết Bàn mà không tiến tới, sanh làm thắng giải, thì người ấy

sa vào hàng định tánh Bích Chi, thành bạn bè của các vị

uyên Giác, Độc Giác chẳng hồi tâm hướng Đại Thừa, mê

lầm Bồ Đề của Phật, bỏ mất Chánh Tri Kiến.

Page 241: Sa Môn DI TÙNG - chuaphatquocttt.orgchuaphatquocttt.org/doc/KinhThuLangNghiemRev3.pdf · học, tụng inh Đại 3hật Đảnh thủ /ăng 1ghiêm, đồng thi tham khảo các

239

“Đó gọi là hạng Thứ Mười, viên thành Giác Tâm vắng lặng,

thành cái quả Trạm Minh, trái xa tánh iên Thông, đi ngược

đạo Niết Bàn, sanh ra hạng Giác iên Minh, mà không dung

hóa được tánh iên.

“Anan! Mười loại Thiền Na như vậy, giữa đường hóa điên,

do nương mê lầm trong chỗ chưa đủ lại cho đã chứng đủ, đều

do Thức Ấm và tâm dụng công xen nhau mà sanh các thứ vị

như thế. Chúng sanh mê dại, không biết tự xét, gặp cái đó

hiện tiền, mỗi mỗi dùng cái tâm mê lầm còn ưa thích những

tập quán cũ mà tự dừng nghỉ, cho đó là chỗ quay về rốt ráo,

tự bảo đã đầy đủ ô Thượng Bồ Đề, thành đại vọng ngữ.

Các tà ma ngoại đạo khi nghiệp báo chiêu cảm hết rồi thì sa

vào ngục ô Gián. àng Thanh ăn, uyên Giác thì không

thể tiến tới thêm.

“Các ông để tâm giữ gìn Đạo Như Lai, sau khi Ta diệt độ rồi,

đem pháp môn này truyền bày trong đời Mạt Pháp, khiến

khắp chúng sanh hiểu rõ nghĩa này, không để cho những ma

tà kiến tự gây ra nạn lớn cho mình. Giữ gìn thương cứu, tiêu

dứt các tà duyên, khiến cho thân tâm vào Tri Kiến Phật, từ

bắt đầu đến thành tựu, không mắc các lối rẽ.

“Pháp môn như thế, các Đức Như Lai như số vi trần trong

hằng sa kiếp quá khứ đều nương cái Tâm mở tỏ này mà đắc

đạo ô Thượng. Khi Thức Ấm hết sạch rồi thì ngay hiện

tiền, các Căn của ông đều có thể dùng thay lẫn nhau. Từ

chỗ các Căn dùng thay lẫn nhau, bèn vào Kim Cương

Càn Huệ Địa Bồ Tát, cái Tâm tinh diệu viên minh ở

trong đó phát hóa ra như ngọc lưu ly thanh tịnh bên

trong ngậm mặt trăng báu. Như thế mà vượt lên Thập Tín,

Thập Trụ, Thập ạnh, Thập ồi ướng, Tứ Gia ạnh Tâm

và Thập Địa Kim Cương là chỗ ành của Bồ Tát, cho đến

địa vị Đẳng Giác iên Minh mà thể nhập vào Biển iệu

Page 242: Sa Môn DI TÙNG - chuaphatquocttt.orgchuaphatquocttt.org/doc/KinhThuLangNghiemRev3.pdf · học, tụng inh Đại 3hật Đảnh thủ /ăng 1ghiêm, đồng thi tham khảo các

240

Trang Nghiêm Như Lai, viên mãn Bồ Đề, về trong ô Sở

Đắc.

“Đó là những ma sự vi tế mà các đức Phật Thế Tôn đời quá

khứ trước đã Giác ngộ, nghiệm rõ và phân tích trong pháp

Chỉ Quán. Nếu cảnh ma hiện ra mà ông rõ biết thì sự dơ

nhiễm của tâm được rửa trừ, không lạc vào tà kiến, Ấm Ma

tiêu diệt, Thiên Ma tan tác, Đại Lực Quỉ Thần hết hồn chạy

trốn, Ly Mỵ, ọng Lượng chẳng còn sanh ra, thẳng đến Bồ

Đề, không có những thiếu sót. àng hạ liệt cũng được tăng

tiến, đối trong Đại Niết Bàn Tâm không mê buồn. Nếu các

chúng sanh mê dại trong đời Mạt Pháp chưa hiểu Thiền Na,

chẳng rõ lời thuyết pháp mà ưa tu Tam Muội, ông e rằng họ

lạc vào đường tà thì phải một lòng khuyên bảo họ trì chú

Phật Đảnh Đà La Ni của Ta. Nếu chưa có thể tụng niệm, hãy

viết nơi thiền đường hoặc đeo trong thân thì tất cả các ma

không thể động đến. Ông nên kính vâng sự dạy bảo cuối

cùng về đường tiến tu rốt ráo của mười phương Như Lai.

Sanh tử là vọng tưởng của năm Ấm mà có, Lý tuy đốn

ngộ, Sự phải tiệm trừ

Ngài Anan liền từ chỗ ngồi đứng dậy, nghe Phật dạy bảo,

đảnh lễ kính vâng, ghi nhớ không sót, ở trong đại chúng lại

bạch Phật rằng:

“Như lời Phật dạy, trong Tướng Ngũ Ấm có năm thứ hư

vọng làm cái tâm tưởng cội gốc. Chúng con bình thường

chưa được nhờ Đức Như Lai khai thị tỉ mỉ. Lại năm Ấm ấy

là tiêu trừ một lượt hay theo thứ lớp mà hết? Năm lớp như

vậy đến đâu là giới hạn? Xin nguyện Đức Như Lai phát rộng

đại từ làm cho con mắt Tâm của đại chúng này được trong

sáng để làm đạo nhãn tương lai cho tất cả chúng sanh trong

đời Mạt Pháp.”

Page 243: Sa Môn DI TÙNG - chuaphatquocttt.orgchuaphatquocttt.org/doc/KinhThuLangNghiemRev3.pdf · học, tụng inh Đại 3hật Đảnh thủ /ăng 1ghiêm, đồng thi tham khảo các

241

Phật bảo ngài Anan: “Tánh Tinh Chân thì iệu Minh, tánh

Bản Giác là iên Tịnh, chẳng có vết tích của sanh tử và các

trần cấu, cho đến hư không cũng đều nhân vọng tưởng mà có

ra. Tất cả cái ấy nguyên là Bản Giác Diệu Minh Chân

Tinh vọng phát sanh ra các khí thế gian, như chàng iễn

Nhã Đa mê cái đầu mà nhận bóng trong gương. ọng vốn

không có nhân, mà ở trong vọng tưởng lập ra tánh Nhân

uyên. Mê lầm Nhân uyên thì gọi đó là Tự Nhiên. Cái

tánh của hư không kia còn thật là huyễn hóa sanh ra huống là

Nhân uyên hay Tự Nhiên, tất cả đều là sự so tính của vọng

tâm chúng sanh mà ra cả.

“Anan! Biết là hư vọng khởi ra mà nói nhân duyên hư

vọng. Nhưng hư vọng gốc vốn không có thì cái nhân duyên

hư vọng đó không chỗ có, huống gì là không biết mà suy

rằng Tự Nhiên.

“Thế nên Như Lai phát minh cho các ông rằng bản nhân của

năm Ấm đồng là Vọng Tưởng. Thân thể của ông trước hết

nhân cái Tưởng của cha mẹ mà sanh. Tâm của ông nếu

chẳng phải là Tưởng thì đâu có đến trong Tưởng mà gá

mạng. Như Ta đã nói ở trước, Tâm tưởng đến vị chua thì

trong miệng chảy nước bọt. Tâm tưởng việc lên cao, trong

lòng bàn chân thấy ghê ghê. ốc cao không có, vật chua

chưa tới, thân thể của ông nếu chẳng cùng loài hư vọng thì

cớ sao nghe nói tới chua thì nước miếng chảy ra? “Thế nên,

phải biết Sắc Thân hiện giờ của ông chính là Vọng Tưởng

kiên cố Thứ Nhất.

“Ngay nơi cái tâm tưởng tượng lên cao vừa nói đó mà có thể

khiến thân ông thật thọ sự ghê rợn. o các Thọ sanh ra mà

có thể giao động Sắc Thân.

Page 244: Sa Môn DI TÙNG - chuaphatquocttt.orgchuaphatquocttt.org/doc/KinhThuLangNghiemRev3.pdf · học, tụng inh Đại 3hật Đảnh thủ /ăng 1ghiêm, đồng thi tham khảo các

242

“Vậy hiện nay hai thứ Thuận Ích và Trái Tổn92

đang

giong ruổi nơi ông chính là Vọng Tưởng hư minh Thứ

Hai.

“ o những niệm lự sai khiến Sắc Thân của ông, nếu Sắc

Thân chẳng phải cùng loại với Niệm thì cớ sao thân ông lại

theo Niệm mà bị sai sử, mỗi mỗi nhận lấy hình tượng, tâm

khởi nắm giữ hình tượng tương ứng với Niệm? Thức là

tưởng Tâm, ngủ làm chiêm bao.

“Vậy Vọng Tình, Tưởng Niệm giao động của ông chính là

Vọng Tưởng dung thông Thứ Ba.

“Sự chuyển hóa không dừng, xoay vần âm thầm dời đổi,

móng tay dài, tóc mọc lên, khí lực tiêu, dung mạo nhăn, ngày

đêm thay thế, không hề hay biết. Anan! Nếu cái đó không

phải là ông thì cớ sao thân ông lại thay đổi? Còn nếu nó thật

là ông, thì cớ sao ông không hay biết?

“Vậy các Hành Ấm của ông niệm niệm chẳng dừng chính

là Vọng Tưởng u ẩn Thứ Tư.

“Lại chỗ tinh minh đứng lặng không giao động của ông mà

gọi là thường hằng thì nơi thân ông chẳng ra ngoài những sự

Thấy, Nghe, ay, Biết. Nếu nó thật là Tánh Tinh Chân thì

chẳng chứa nhóm hư vọng, vì sao các ông trong năm xưa đã

từng thấy một vật lạ, trải qua nhiều năm không hề nghĩ đến,

về sau bỗng nhiên thấy vật lạ đó thì nhớ lại rõ ràng, không hề

sót mất. ậy trong cái tinh minh đứng lặng không lay động

này, niệm niệm chịu sự huân tập không thể tính toán hết

được.

“Anan! Nên biết cái trong lặng này chẳng phải chân thật,

như dòng nước chảy xiết, trông như đứng yên, vì chảy nhanh

92

Thuận thì lợi Ích, Trái thì Tổn hại.

Page 245: Sa Môn DI TÙNG - chuaphatquocttt.orgchuaphatquocttt.org/doc/KinhThuLangNghiemRev3.pdf · học, tụng inh Đại 3hật Đảnh thủ /ăng 1ghiêm, đồng thi tham khảo các

243

nên không thấy chứ chẳng phải không chảy. Nếu chẳng phải

là nguồn Tưởng thì đâu chịu tập khí hư vọng. Nếu sáu Căn

của ông chưa được chia hợp, dùng thay lẫn nhau thì cái

ọng Tưởng đó không khi nào diệt được.

Vậy nên hiện nay cái tập khí tập hợp quán xuyến những

sự Thấy, Nghe, Hay, Biết của ông là cái Tưởng tinh vi tế

nhiệm, điên đảo, ảo tượng rỗng không Thứ Năm trong

tánh trong lặng thấu suốt của ông.

“Anan! Năm cái Thọ Ấm đó do năm ọng Tưởng tạo thành.

“Ông nay muốn biết nguyên do và giới hạn sâu cạn, thì Sắc

và Không là biên giới của Sắc Ấm; Xúc và Lìa là biên giới

của Thọ Ấm; Nhớ và Quên là biên giới của Tưởng Ấm;

Diệt và Sanh là biên giới của Hành Ấm; Lặng trong nhập

hợp với Lặng trong là biên giới của Thức Ấm.

“Năm Ấm ấy vốn trùng điệp sanh khởi. Sanh thì nhân Thức

mà có, diệt thì từ Sắc mà trừ. Lý ắt đốn ngộ, nương Ngộ tiêu

sạch. Sự chẳng phải đốn trừ, theo thứ lớp dứt hết.

“Ta đã chỉ cho ông về cái nút khăn Kiếp Ba La, có chỗ nào

chẳng suốt tỏ, mà phải hỏi lại như vậy. Ông nên dùng cái

tâm được khai thông về căn nguyên ọng Tưởng này, truyền

dạy cho tương lai những người tu hành trong đời Mạt Pháp,

khiến cho họ rõ hư vọng, tự sanh nhàm chán sâu xa, biết có

Niết Bàn, chẳng luyến mê ba cõi.

Được Phước tiêu Tội hơn cả

“Anan! í như có người đem các thứ thất bảo đầy dẫy hư

không cùng khắp mười phương, dâng lên Chư Phật như số vi

trần, vâng thờ cúng dường, Tâm không lúc nào xao lãng. Ý

ông thế nào? Người ấy do nhân duyên cúng dường Phật như

vậy được phước nhiều chăng?”

Page 246: Sa Môn DI TÙNG - chuaphatquocttt.orgchuaphatquocttt.org/doc/KinhThuLangNghiemRev3.pdf · học, tụng inh Đại 3hật Đảnh thủ /ăng 1ghiêm, đồng thi tham khảo các

244

Ngài Anan đáp rằng: “ ư không vô tận, trân bảo vô biên.

Ngày xưa có chúng sanh cúng Phật bảy đồng tiền, đến lúc bỏ

thân rồi còn được địa vị Chuyển Luân ương, huống gì hiện

tiền hư không cùng tột, cõi Phật đầy khắp, đều là trân bảo,

thì dù suy nghĩ cùng kiếp còn chẳng thể thấy, phước ấy làm

sao có bờ bến.”

Phật bảo ngài Anan: “Chư Phật Như Lai lời không hư vọng.

Nếu lại có người thân đủ các tội Tứ Trọng, thập Ba La i,

giây lát phải trải qua địa ngục A Tỳ phương này phương

khác, cho đến cùng hết các địa ngục ô Gián mười phương,

không đâu chẳng trải mà có thể trong một niệm đem pháp

môn này khai thị cho người chưa học đời Mạt Pháp, thì tội

chướng người ấy trong niệm đó liền được tiêu diệt, biến cái

nhân phải chịu khổ địa ngục thành An Lạc Quốc, được

phước siêu vượt trăm lần, ngàn lần, vạn lần, ức lần hơn

người thí cúng trước, như thế cho đến toán số thí dụ không

thể nói hết được.

“Anan! Nếu có chúng sanh tụng được kinh này, trì được chú

này như Ta nói rộng ra thì cùng kiếp chẳng hết. Y theo lời

dạy của Ta, như lời dạy mà hành đạo, thẳng vào Bồ Đề,

không còn ma nghiệp.

Phật nói kinh này xong, hàng Tỳ Kheo, Tỳ Kheo Ni, cư sĩ

nam, cư sĩ nữ, tất cả thế gian Trời, Người, A Tu La cùng các

vị Bồ Tát, Nhị Thừa, Thánh Tiên, Đồng Tử ở phương khác và

các Đại Lực Quỉ Thần mới phát tâm thảy đều hoan hỷ, làm

lễ mà lui.

Kinh Chấm Dứt

Page 247: Sa Môn DI TÙNG - chuaphatquocttt.orgchuaphatquocttt.org/doc/KinhThuLangNghiemRev3.pdf · học, tụng inh Đại 3hật Đảnh thủ /ăng 1ghiêm, đồng thi tham khảo các

245

Những đoạn cần lưu ý, trích từ

Kinh Đại Phật Đảnh Thủ Lăng Nghiêm

(1) Tất cả chúng sanh từ vô thủy đến nay, sống

chết nối nhau đều do không biết cái Chơn Tâm

Thường Trụ, Thể Tánh vốn trong sạch, sáng suốt

mà lại dùng các Vọng Tưởng chẳng chân thật nên

mới có sự chuyển động trôi lăn.

(2) Hết thảy chúng sanh từ vô thủy đến nay, do

không biết hai loại căn bản lầm lẫn tu tập, cũng như

nấu cát mà muốn thành món ngon, dầu trải qua số

kiếp nhiều như bụi, rốt cũng chẳng được. Thế nào là

hai loại căn bản? Anan! Một là: Cội gốc của Sanh

Tử từ vô thủy93

. Tức là ông hiện giờ và các chúng

sanh dùng cái Tâm bám níu theo duyên94

mà làm

Tự Tánh95.” ai là: Cái Thể Bổn Lai Thanh Tịnh

Bồ Đề Niết Bàn Vô Thủy, tức là cái Chơn Tâm vốn

sáng soi của ông bây giờ, hay sanh các duyên. Ông

lại duyên theo các tướng duyên này mà bỏ quên Chơn

Tâm. Cho nên tuy trọn ngày sử dụng Nó (Chơn

Tâm) mà chẳng tự biết, oan uổng lạc vào sáu nẽo.

(3) Cái năng biết suy nghĩ hiện nay của Ông (ngài

Anan) đó là cái Tưởng tạo nên các tướng hư vọng

của tiền trần96

, nó làm mê lầm Chơn Tánh của

ông. Do từ vô thủy đến nay, ông nhận tên giặc đó

làm con, bèn mất đi cái ốn Thường Hằng (Chơn

Tâm.)

(4) Khi ấy Đức Thế Tôn liền khai thị cho ngài

Anan và đại chúng muốn được Vô Sanh Pháp

93

Cội gốc của Sanh Tử từ vô thủy là “Căn bản vô minh” 94

Cái Tâm bám níu theo duyên là “ ọng Tâm.” 95

Tự Tánh cũng gọi là Chơn Tâm, Phật Tánh … 96

Tất cả những gì là đối tượng của sáu căn thì được gọi là “tiền trần.”

Page 248: Sa Môn DI TÙNG - chuaphatquocttt.orgchuaphatquocttt.org/doc/KinhThuLangNghiemRev3.pdf · học, tụng inh Đại 3hật Đảnh thủ /ăng 1ghiêm, đồng thi tham khảo các

246

Nhẫn97. Ngài nói: Như Lai thường nói các Pháp

98

sanh ra đều do Tâm hiện. Hãy phân biệt, nếu rời

cái tiền trần mà có cái phân biệt (cái biết nói

chung) thì đó mới là Chơn Tâm của ông; còn nếu

rời tiền trần mà không có cái phân biệt (cái biết) thì

đó chỉ là sự phân biệt bóng dáng tiền trần (Vọng

Tâm) mà thôi không thể chứng Vô Sanh Pháp Nhẫn.

(5) Từ sắc thân cho đến núi sông, hư không, đất

đai bên ngoài, hết thảy đều là vật hiện trong cái

Diệu Minh Chơn Tâm.

(6) Tất cả chúng sanh từ vô thủy đến nay, mê

[lầm] mình làm vật, bỏ mất Bản Tâm, bị vật xoay

chuyển, cho nên ở trong đó mà thấy lớn thấy nhỏ.

Nếu có thể chuyển được vật thì đồng với Như Lai,

Thân Tâm tròn sáng. Đó là Đạo Tràng Bất Động,

trên đầu một mảy lông, trùm chứa mười phương quốc

độ.

(7) Đức Phật bảo: Mười phương Như Lai và các

Đại Bồ Tát ở trong Tự Trụ Ta Ma Địa99

, ở trong ấy,

cái Thấy và cái được thấy cùng các chỗ Tưởng

Tướng đều như hoa đốm giữa hư không, vốn không

chỗ có cái Thấy cho đến những cái được Thấy, tất cả

vốn là Thể Bồ Đề100

sáng sạch nhiệm mầu. Làm sao

ở trong đó lại có Phải hay Chẳng Phải101

?

(8) Khi thấy mà có Tướng Thấy, cái thấy đó chẳng

phải là Tánh Thấy. Cái Thấy mà do lìa Tướng

Thấy vẫn có, đó mới là Tánh Thấy siêu việt.

97

Vô Sanh Pháp Nhẫn là quả vị không còn tái sanh nữa. 98

Các Pháp ở đây có nghĩa là tất cả núi sông, đất đai, chúng sanh... 99

Tam Ma Địa là âm chữ Phạn Samadhi có nghĩa là Chánh Định. 100

Tất cả vốn Thể Bồ Đề có nghĩa là tất cả đưa về Như Lai Tạng. 101

Không còn sự đối đãi, bất nhị (không hai).

Page 249: Sa Môn DI TÙNG - chuaphatquocttt.orgchuaphatquocttt.org/doc/KinhThuLangNghiemRev3.pdf · học, tụng inh Đại 3hật Đảnh thủ /ăng 1ghiêm, đồng thi tham khảo các

247

(9) Đức Phật dạy: Này Anan! Tất cả chúng sanh

luân hồi trong thế gian đều do hai thứ vọng thấy điên

đảo phân biệt ngay nơi Tâm Tánh mà phát sanh, ngay

theo nghiệp mà xoay vần. Thế nào là hai thứ vọng

thấy? Một là Vọng Thấy Biệt Nghiệp của chúng

sanh, hai là Vọng Thấy Đồng Phận của chúng sanh.

Thế nào là Vọng Thấy Biệt Nghiệp? Anan! Như

người bị nhặm mắt ban đêm nhìn ngọn đèn thấy có

năm màu bao phủ. Tuy nhiên, người không bị nhặm

mắt, nhìn ngọn đèn lại không thấy có năm màu bao

phủ. Cho nên cái thấy có năm màu bao phủ là do

bệnh nhặm mắt mà ra. Còn cái thấy được bệnh nhặm

mắt thì vốn chẳng phải là bệnh vậy. Cho nên người

trí không nên đi tìm căn nguyên của năm màu do

mắt nhặm sanh ra là có hình tướng hay chẳng có

hình tướng.

Thế nào là Vọng Thấy Đồng Phận? Anan! Cõi

iêm Phù Đề này, ngoài nước biển ra, trong đó có ba

ngàn Châu (lục địa.) Nếu ở trong đó có một Châu

nhỏ chỉ có hai nước mà riêng người trong một nước

đồng cảm ác duyên, thì chúng sanh trong nước đó

thấy tất cả những cảnh giới không tốt. còn chúng

sanh trong nước gần bên thì không thấy.

(10) Đức Phật dạy: Này Anan! Hiện giờ, ông dùng

con mắt xem thấy núi sông, cõi nước và chúng sanh

đều là do cái Bệnh Thấy từ vô thủy102

tạo thành.

Cái thấy và vật được thấy hình như hiện ra nơi tiền

cảnh, nhưng thật ra đó vốn chỉ là cái bệnh nhặm mắt

thành lòa, cho nên thấy có Năng Kiến (cái thấy) và

102

Bệnh Thấy từ vô thủy còn gọi là Căn Bản Vô Minh.

Page 250: Sa Môn DI TÙNG - chuaphatquocttt.orgchuaphatquocttt.org/doc/KinhThuLangNghiemRev3.pdf · học, tụng inh Đại 3hật Đảnh thủ /ăng 1ghiêm, đồng thi tham khảo các

248

Sở Kiến (vật được thấy) hiện ở trong cái Giác Minh

(Bổn Giác Minh Tâm103

) mà thôi.

(11) Tóm lại, hai cái thấy Vọng Thấy Biệt

Nghiệp và Vọng Thấy Đồng Phận đều do cái Thấy

Hư Vọng từ vô thủy sanh ra. Chính cái bệnh

duyên hư vọng tạo thành thấy nghe hay biết hòa hợp

mà giả dối sanh ra, hòa hợp giả dối mà diệt mất. Cho

nên, nếu xa lìa các bệnh duyên hòa hợp và chẳng

hòa hợp này, tức thời diệt được các nguyên nhân

sanh tử, trọn đủ Thể Bồ Đề Không Sanh, Không

Diệt. Đó là cái Bản Tâm xưa nay trong sạch (Chơn

Tâm,) cái vốn Giác Ngộ Thường Trụ xưa nay. Thêm

vào đó, phải hiểu rằng Bản Giác không phải hòa hợp

mà sanh, cũng không phải không hòa hợp.

(12) Trong Như Lai Tạng104

: Tánh Sắc là Chân

Không, Tánh Không là Chân Sắc, bản nhiên thanh

tịnh, tròn khắp pháp giới, tùy tâm chúng sanh ứng ra

chỗ hay biết, theo nghiệp mà hiện bày.

(13) Tánh của Thức không có nguồn gốc, nhân nơi

sáu thứ Căn và Trần mà hư vọng hiện ra.

(14) Trong Như Lai Tạng, cái Thức là Tánh Giác

Minh. Tánh Giác Minh là Chân Thức, là cái Biết

nhiệm mầu vắng lặng toàn khắp pháp giới, ngậm

chứa và nhả ra mười phương hư không, nào có nơi

chốn. Chỉ tùy theo nghiệp mà hiện bày ra.

(15) Nơi Tánh Giác thì nói Diệu Minh, vì cái Thể

ấy vốn tự nhiệm mầu (Diệu) mà hằng sáng (Minh),

chẳng do cái nào khác mà sáng. Nơi Bản Giác thì nói

là Minh Diệu, vì do lực huân tu bất tư nghì mà rõ biết

103

Bổn Giác Minh Tâm còn gọi là Chơn Tâm, Phật Tánh … 104

Bảy Đại gồm thu về Như Lai Tạng: Địa, Thủy, Hỏa, Phong, Không,

Kiến, Thức.

Page 251: Sa Môn DI TÙNG - chuaphatquocttt.orgchuaphatquocttt.org/doc/KinhThuLangNghiemRev3.pdf · học, tụng inh Đại 3hật Đảnh thủ /ăng 1ghiêm, đồng thi tham khảo các

249

Tánh Giác nhiệm mầu. [Học kỹ hai định nghĩa này

sẽ không còn bối rối nữa.]

(16) Cái Giác không có gì là Sở Minh, thế mà

nhân Minh lập nên cái sở. Cái Sở đã vọng lập nên, thì

sanh khởi ra cái Vọng Năng của ông. Trong cái vốn

không đồng, không khác bỗng khởi dậy thành có cái

khác. Khác với cái khác đã có, nhân cái khác ấy mà

lập nên cái đồng. Cái Đồng, cái Khác đã phát minh

ra, thì nhân đó mới lập ra lại cái không đồng không

khác! Như thế mà rối loạn, đối đãi với nhau mà sanh

lao nhọc. Lao lự kéo dài sanh ra trần tướng mà làm

vẩn đục nhau, do đó mà dẫn khởi ra những trần lao,

phiền não. Khởi lên thì có ra thế giới, yên lặng thì

thành hư không. ư không là Đồng, thế giới là Khác.

(17) Anan! Ông tuy nhiều kiếp ghi nhớ những bí

mật mầu nhiệm trang nghiêm của Như Lai, không

bằng chỉ một ngày tu Nghiệp vô lậu, lìa xa thế gian

hai thứ khổ ghét-thương.

(18) Muốn nhiếp phục Tâm Phan Duyên bám níu,

phải xét rõ gốc rễ phiền não, biết sáu Căn làm môi

giới cho giặc, tự làm tự chịu. Chỉ cần chọn lựa một

Căn viên thông, một cửa mà thâm nhập, thì sáu Căn

hay biết kia, đồng thời trong sạch, đây là nghĩa thứ

hai của Sơ Tâm. Muốn đắc Vô Sanh, phải diệt sạch

phiền não. Hết sạch phiền não, thì chứng Vô Sanh.

ai cái này chưa từng rời nhau được.

(19) Anan ! Nếu ở nơi nhân địa mà lấy cái Tâm

Sanh Diệt105

làm gốc, nhân đó mà tu để cầu quả Bất

Sanh Bất Diệt106

của Phật Thừa, thì không thể có

chuyện ấy được.

105

Tâm Sanh Diệt là Vọng Tâm. 106

Bất Sanh Bất Diệt là Chơn Tâm.

Page 252: Sa Môn DI TÙNG - chuaphatquocttt.orgchuaphatquocttt.org/doc/KinhThuLangNghiemRev3.pdf · học, tụng inh Đại 3hật Đảnh thủ /ăng 1ghiêm, đồng thi tham khảo các

250

(20) Thế nào là Trược? Anan, ví như nước trong,

thanh khiết bản nhiên, còn bụi đất, tro cát kia bản

chất là ngăn ngại. Hai bên tự thể như vậy thì không

hợp nhau được. Có người thế gian, lấy bụi đất kia,

ném vào nước sạch, thì đất mất đi ngăn ngại, nước

mất đi trong sạch, hình trạng đục vẩn, gọi đó là

Trược.

(21) ư không và cái thấy chẳng phân rời nhau.

Có cái không mà không có hình thể, có cái thấy mà

không hay biết, đan nhau giả dối mà thành. Đó là lớp

thứ nhất, gọi là Kiếp Trược.

(22) Thân ông hiện nắm giữ bốn Đại làm cái thể,

Thấy, Nghe, Hay, Biết bị che bít thành ra ngăn ngại.

Còn các thứ Địa, Thủy, Hỏa, Phong lại thành ra hay

biết. Đan nhau hư vọng mà thành. Đây là lớp thứ hai,

gọi là Kiến Trược.

(23) Trong tâm ông, những sự Nhớ, Biết, Học Tập,

phát ra tri kiến, dung chứa hiện ra sáu trần. Rời trần

thì không có tướng; rời hay-biết thì không có tánh.

Đan nhau hư vọng mà thành. Đây là lớp thứ ba, gọi là

Phiền Não Trược.

(24) Tâm ông ngày đêm sanh diệt không ngừng,

cái tri kiến thường muốn ở lại thế gian, nhưng nghiệp

xoay chuyển thì lại thường dời đi các cõi. Đan nhau

hư vọng mà thành. Đây là lớp thứ tư, gọi là Chúng

Sanh Trược.

(25) Cái thấy, cái nghe của ông vốn tánh không

khác nhau, mà do các trần cách trở, không do đâu lại

sanh ra khác nhau. Trong tánh thì biết nhau, mà trong

chỗ dùng lại trái ngược nhau. Cái đồng và cái khác

mất chuẩn đích. Xen nhau hư vọng mà thành lập. Đây

là lớp thứ năm, gọi là Mệnh Trược.

Page 253: Sa Môn DI TÙNG - chuaphatquocttt.orgchuaphatquocttt.org/doc/KinhThuLangNghiemRev3.pdf · học, tụng inh Đại 3hật Đảnh thủ /ăng 1ghiêm, đồng thi tham khảo các

251

(26) Anan, giờ đây các Căn của ông mà nhổ sạch

ra được, thì cái sáng chói bên trong phát ra. Như thế,

các phù trần và các tướng biến hóa của thế gian vật

chất đều tiêu mất như băng gặp nước sôi, lập tức hóa

thành Tri Giác Vô Thượng.

(27) Không Như Lai Tạng là Quả Thường Trụ.

Đại Viên Cảnh Trí thấy rõ tất cả mà không phân

biệt. Am Ma La Thức phân biệt tất cả mà không

nhiễm trước. Vì rõ ràng thấu suốt nên gọi là Phật

Tánh. Rõ ràng thấu suốt là Cứu Cánh Giác, nên gọi

là Bồ Đề. Cứu Cánh Giác, Thể vốn Tịch Diệt, nên gọi

là Niết Bàn. Tịch Diệt nên hết thảy vọng tâm không

chạm tới được, nên gọi là Chân Như. Bảy quả đức

vốn là một Thể vậy (Kinh Bảo Tích.)

(28) Tướng vọng tưởng là trần, thức tình là cấu.

Hai thứ ấy một lúc xa lìa, thì con mắt Pháp của ông

ngay liền trong sáng. Thế thì sao không thành Tri

Giác ô Thượng?

(29) Anan! Ông muốn biết cái câu sanh vô

minh107

, khiến ông lưu chuyển, cái căn mối nút sanh

tử. Đó chính là sáu Căn của ông, chứ chẳng phải vật

gì khác! Ông lại muốn biết Bồ Đề Vô Thượng, khiến

chóng chứng Tánh Diệu Thường an lạc, giải thoát,

tịch tịnh thì cũng chính là sáu Căn của ông, chứ

chẳng phải vật gì khác.”

(30) Căn, Trần cùng nguồn. Trói mở không hai.

Tánh của Thức là hư vọng, cũng như hoa đốm giữa

hư không. Anan, do cái Trần mà phát ra cái biết, nhân

cái Căn mà có cái Tướng. Cả Tướng Phần và Kiến

Phần đều không có tự tánh, giống như các nhánh lau

gác lên nhau.

107

Câu sanh vô minh cũng còn gọi là Căn bản vô minh, vô minh từ vô

thủy.

Page 254: Sa Môn DI TÙNG - chuaphatquocttt.orgchuaphatquocttt.org/doc/KinhThuLangNghiemRev3.pdf · học, tụng inh Đại 3hật Đảnh thủ /ăng 1ghiêm, đồng thi tham khảo các

252

(31) Chính nơi Thấy Biết mà lập ra Tướng có

Thấy Biết, đó là cội gốc ô Minh. Chính nơi Thấy

Biết mà chẳng có Tướng Thấy Biết, đó là Niết Bàn

chân tịnh, vô lậu.

(32) Kệ của Đức Phật: (Trong) Chân Tánh, hữu

vi (là) không/ uyên sanh nên Như uyễn/ Vô vi,

không khởi diệt/ Chẳng thật, như Không-hoa/ Nói

Vọng để hiển Chơn/ ọng, Chơn đều là vọng/ Còn

không (phải) Chơn, Phi Chơn/ Lấy đâu Kiến, Sở

Kiến?/ Mở nút theo thứ lớp/ Sáu mở, một cũng mất/

Nơi Căn, chọn Viên Thông/ Vào dòng, thành Chánh

Giác!/ Thức Đà Na vi tế/ Tập khí thành dòng xiết/ Sợ

lầm Chân, Phi Chân/ Ta thường chẳng khai diễn./ Tự

tâm nắm tự tâm/ Chẳng huyễn, thành pháp huyễn/

Không giữ: không “chẳng huyễn”/ “Chẳng huyễn”

còn không sanh/ Pháp huyễn làm sao lập?/ Đó là

Diệu Liên Hoa /Bảo Giác Kim Cương ương/ Như

huyễn Tam Ma Đề/ Gẩy móng (tay) vượt Vô Học/

Đây là pháp ô Thượng/ Một đường đến Niết Bàn/

Của mười phương Chư Phật.

(33) Anan, tùy nơi tâm ông mà chọn lựa một trong

sáu Căn. Nếu trừ được cái nút của Căn, thì Trần

Tướng tự diệt, các Vọng tiêu mất, còn đợi cái Chân

nào nữa?

(34) Cởi trừ sáu Căn cũng như vậy. Căn ấy khi

mới mở, thì trước hết được Nhân Không, đến khi

Tánh Không tròn sáng thì giải thoát được Pháp Chấp.

Giải thoát khỏi Pháp Chấp rồi, thì cả hai Nhân Không

và Pháp Không đều chẳng sanh. Đó gọi là Bồ Tát do

Tam Ma Địa mà đắc Vô Sanh Pháp Nhẫn.

(35) Tăng Phụng Nghi bình giảng: Năng và Sở

đều tịch diệt, đó tức là cái Định Thủ Lăng Nghiêm,

Page 255: Sa Môn DI TÙNG - chuaphatquocttt.orgchuaphatquocttt.org/doc/KinhThuLangNghiemRev3.pdf · học, tụng inh Đại 3hật Đảnh thủ /ăng 1ghiêm, đồng thi tham khảo các

253

“ iệu Trạm Tổng Trì Bất Động Tôn” vậy. Thế nên

nói là đắc Vô Sanh Nhẫn.

(36) Nếu có tập khí cũ không thể diệt trừ, ông dạy

người đó nhất tâm trì tụng Thần Chú ô Thượng

Phật Đảnh Quang Minh “Ma a Tát Đát Đa Bát Đát

Ra” của Ta.

(37) Anan, hãy biết, cái Diệu Tánh tròn sáng lìa

mọi danh tướng, bổn lai không có thế giới, chúng

sanh. Nhân vọng mà có sanh, nhân sanh mà có diệt.

Sanh diệt thì gọi là vọng, diệt vọng thì gọi là Chân.

Đó gọi là hai danh hiệu chuyển y Bồ Đề ô Thượng

và Đại Niết Bàn của Như Lai vậy.

(38) Anan, nay ông muốn tu pháp Chân Tam Ma

Địa, thẳng đến Đại Niết Bàn của Như Lai thì trước

hết phải biết hai cái nhân điên đảo này của chúng

sanh cùng thế giới. Điên đảo chẳng sanh, đó là Chân

Tam Ma Địa của Như Lai. Anan, do Tâm Tánh vốn

Minh, tánh Minh ấy tròn đầy toàn khắp, nên nhân cái

Minh vọng phát hình như có tánh, cái tánh ấy do

vọng kiến mà sanh. Vậy là từ chỗ “Rốt ráo không” lại

hóa thành “Rốt ráo có.” Cái Có này có được là do cái

vốn chẳng có nhân làm nhân. Tướng Năng Trụ và Sở

Trụ từ căn bản không có cội gốc. Rồi nương nơi cái

cội gốc không có chỗ trụ này mà kiến lập ra thế giới

cùng chúng sanh. “ ì mê Bổn Tánh Viên Minh mà

sanh hư vọng, nhưng tánh của vọng không có tự thể,

chẳng có chỗ nương trụ. Vừa muốn trở lại Chân Tánh

thì cái muốn Chân đó đã chẳng phải là Tánh Chân

Như chân thật. Trong cái chẳng phải Chân mà cầu trở

lại Chân thì rõ ràng là hiện thành những Phi Tướng:

Phi Sanh, Phi Trụ, Phi Tâm, Phi Pháp. Xoay vần phát

sanh. Sanh lực phát minh, huân tập thành Nghiệp.

Đồng nghiệp thì cảm nhau, nhân có cảm nghiệp bèn

Page 256: Sa Môn DI TÙNG - chuaphatquocttt.orgchuaphatquocttt.org/doc/KinhThuLangNghiemRev3.pdf · học, tụng inh Đại 3hật Đảnh thủ /ăng 1ghiêm, đồng thi tham khảo các

254

có sự sanh nhau, diệt nhau. Do vậy mà có cái Điên

Đảo tạo thành Chúng Sanh. Anan, thế nào là Điên

Đảo tạo thành Thế Giới? “Cái Có đó có được là do

từng phần từng đoạn vọng sanh. o đó mà Giới

(Không Gian) kiến lập, chẳng phải nhân mà làm

nhân, không có trụ mà làm trụ. Trôi dời chẳng trụ, do

đó mà Thế (Thời Gian) thành. Bốn phương ba đời

hòa hợp giao thiệp lẫn nhau biến hóa thành chúng

sanh mười hai loài. Thế nên, thế giới thì nhân động

có Tiếng, nhân Tiếng có Sắc, nhân Sắc có ương,

nhân có ương có Xúc, nhân Xúc có ị, nhân Vị biết

Pháp. Sáu vọng tưởng lộn loạn thành nghiệp tính, bởi

thế mà có mười hai Phần Hạn (Loài) xoay chuyển.

Vậy nên trong thế gian, các thứ Thanh, ương, ị,

Xúc... biến đổi cùng tột đến mười hai lần là quay trở

lại. “ ựa theo Tướng Điên Đảo luân chuyển đó mà

có ra Thế Giới, thành những loài: noãn sanh, thai

sanh, thấp sanh, hóa sanh, hữu sắc, vô sắc, hữu

tưởng, phi hữu sắc, phi vô sắc, phi hữu tưởng, phi vô

tưởng.

(39) Thế nào là ba món tiệm thứ? Một là, tu tập trừ

các Trợ Nhân108

. Hai là, chân tu, nạo sạch Chánh

Tánh109

. Ba là, tăng tiến trái lại Hiện Nghiệp110

.

[Chúng ta không thực hành ba món tiệm tu này.]

(40) Ba Hoặc, các kinh thường chỉ Kiến Tư

Hoặc111

, Trần Sa Hoặc112

và Vô Minh Hoặc113

. Kiến

108

Trợ Nhân: Không ăn ngũ vị tân 109

Chánh Tánh: Sát, Đạo, Dâm 110

Hiện Nghiệp: Nghiệp tạo ra do vô minh hiện tại. 111

Kiến Tư oặc: Kiến hoặc là những thứ mê lầm thuộc về Lý. Chúng

gồm có 5 thứ: thân kiến, biên kiến, tà kiến, kiến thủ và giới cấm thủ.

Còn tư hoặc là những thứ mê lầm thuộc về Sự. Chúng cũng gồm có 5

thứ: tham, sân, si, mạn, nghi.

Page 257: Sa Môn DI TÙNG - chuaphatquocttt.orgchuaphatquocttt.org/doc/KinhThuLangNghiemRev3.pdf · học, tụng inh Đại 3hật Đảnh thủ /ăng 1ghiêm, đồng thi tham khảo các

255

Tư oặc cũng gọi là Thông Hoặc vì chung cho cả ba

thừa cùng đoạn trừ. Trần Sa Hoặc còn gọi là Biệt

Hoặc, vì chỉ hàng Bồ Tát mới đoạn trừ nổi. Vô Minh

Hoặc là chủng tử của nghiệp thức, chỉ có hàng Bồ Tát

Đại Thừa mới đoạn trừ nổi.

(41) Các ông nên biết cái tâm thể tỏ biết vẹn toàn,

Bản Giác Diệu Minh của mười hai loại chúng sanh

trong thế giới hữu lậu cùng mười phương Chư Phật

không hai, không khác. Do vọng tưởng của các ông,

mê [mờ] Chân Lý thành ra lỗi lầm. Si, Ái phát sanh,

sanh mê cùng khắp nên có hư không. Biến hóa ra cái

mê không ngớt nên có thế giới sanh ra. Vậy thì mười

phương cõi nước nhiều như vi trần này chẳng phải là

vô lậu, đều do vọng tưởng mê lầm kiến lập.

(42) Khi Ấm tiêu tan vào trong tánh sáng; sáng

phá được tối, tối đến gần sáng thì tự tiêu mất, mà

chúng tà ma kia đều tối tăm làm sao còn dám ở lại

quấy phá sự thiền định?

(43) Anan, nên biết, ông ngồi đạo tràng, tiêu diệt

các niệm114

, niệm ấy mà hết thì tâm lìa niệm thuần

túy sáng suốt thảy cả, động tĩnh chẳng dời, nhớ quên

như một. Đang khi an trụ nơi đó mà vào Tam Ma Địa

thì như người sáng mắt mà ở chỗ rất tối. Cái tinh

thuần của Tánh thì trong sạch nhiệm mầu, nhưng tâm

chưa phát sáng. Thế gọi là phạm vi của Sắc Ấm. Nếu

mắt sáng tỏ, mười phương mở suốt, không còn tối

112

Trần Sa Hoặc: Trần sa hoặc không phải là thứ phiền não của các vị A

la hán. Vì những vị A la hán đã đoạn hết kiến, tư hoặc, như các ngài bị

chướng ngại ở nơi hoặc lậu (phiền não) của chúng sanh. Nghĩa là các

ngài thấy phiền não của chứng sanh nhiều như cát bụi (trần sa.) Do đó,

các ngài không dám ra độ sanh như các vị Bồ tát. 113

Vô minh Hoặc: Mê lầm không rõ bản chất của Chơn Tâm. 114

Thiền Định tiêu diệt các niệm là pháp Xa Ma Tha.

Page 258: Sa Môn DI TÙNG - chuaphatquocttt.orgchuaphatquocttt.org/doc/KinhThuLangNghiemRev3.pdf · học, tụng inh Đại 3hật Đảnh thủ /ăng 1ghiêm, đồng thi tham khảo các

256

tăm, gọi là Sắc Ấm hết. Người ấy có thể siêu vượt

khỏi Kiếp Trược.

(44) Anan, thiện nam tử ấy tu Tam Ma Đề115

,

trong Xa Ma Tha khi Sắc Ấm hết, thấy Tâm chư Phật

như trong gương sáng hiển hiện hình tượng. Hình

như có được nhưng chưa thể dùng, như người bị Mộc

đè: tay chân y nguyên, thấy nghe không lầm, nhưng

tâm gặp khách tà mà không cử động được. Đó gọi là

phạm vi của Thọ Ấm. Nếu Mộc hết đè thì cái tâm lìa

thân, trở lại xem mặt mũi, đi ở tự do, không còn ngăn

ngại, gọi là Thọ Ấm hết. Người ấy có thể siêu vượt

Kiến Trược.

(45) Anan, thiện nam tử kia tu Tam Ma Đề116

, khi

Thọ Ấm hết rồi, tuy chưa hết các Lậu, nhưng tâm rời

khỏi hình hài như chim ra khỏi lồng. Từ phàm thân

này tiến lên, trải qua sáu mươi Thánh ị Bồ Tát,

được Ý Sanh Thân, tùy ý đi lại không ngăn ngại, đã

có thể thành tựu như vậy. í như có người ngủ say

nói mớ, người ấy tuy không hay biết gì, nhưng lời nói

đã thành âm vận, thứ tự khiến những người không

ngủ đều hiểu được lời nói ấy. Đây là phạm vi của

Tưởng Ấm. Nếu động niệm hết, vọng tưởng vật vờ

tiêu trừ, thì nơi Tâm Giác Minh như bỏ hết bụi dơ,

một dòng sanh tử đầu đuôi soi sáng khắp, gọi là hết

Tưởng Ấm. Người ấy mới có thể vượt khỏi Phiền

Não Trược.

(46) Anan, thiện nam tử kia, tu Tam Ma Đề, khi

Tưởng Ấm hết rồi thì những mộng tưởng bình

thường của người ấy tiêu diệt. Thức, ngủ là một, tánh

Giác Minh rỗng lặng như hư không trong trẻo, không

115

Phải chăng đây là thiền Quán Tỳ Bà Xá Na do in sai chăng?) 116

Ở đây, nếu không còn tu pháp Xa Ma Tha mà vào pháp quán thì gọi là

Tỳ Bà Xá Na! sao gọi là tu Tam Ma Đề, có in sai chăng?

Page 259: Sa Môn DI TÙNG - chuaphatquocttt.orgchuaphatquocttt.org/doc/KinhThuLangNghiemRev3.pdf · học, tụng inh Đại 3hật Đảnh thủ /ăng 1ghiêm, đồng thi tham khảo các

257

còn những sự tướng tiền trần thô trọng. Xem những

núi sông, đất liền của thế gian như gương soi sáng,

đến không chỗ dính, đi không dấu vết, rỗng thọ chiếu

ứng, rõ ràng không còn các tập khí, chỉ thuần một

tính Tinh Chân. “Căn nguyên của Sanh Diệt từ đó

phơi lộ ra, thấy được mười hai loài chúng sanh mười

phương, rõ hết các loài. Tuy chưa thông suốt manh

mối của mỗi chúng sanh nhưng đã thấy cái cơ sở

sanh diệt chung, giống như bóng dã mã117

, vùn vụt

lăng xăng sơ tượng118

hiện ra, làm cái then chốt phát

sanh của Phù căn trần. Đây gọi là phạm vi của Hành

Ấm. “Nếu cái nguồn gốc của những chớp nhoáng

lăng xăng đó nhập vào tánh lặng trong bản lai, những

tập khí nguồn gốc lặng trong thành một phiến, như

sóng mòi diệt hóa thành nước đứng, thì gọi là Hành

Ấm hết. Người đó liền vượt khỏi Chúng Sanh Trược.

(47) Anan, thiện nam tử ấy tu Tam Ma Đề, Hành

Ấm hết rồi thì cái then chốt chung u ẩn giản phác

máy động sanh ra các loài thế gian bỗng chốc nát tan.

Giềng mối vi tế, mạch ngầm gây nghiệp chịu quả báo

của ngã thể chúng sanh, cảm ứng đều dứt bặt. Người

ấy hầu như sắp đại minh ngộ trong bầu trời Niết Bàn,

ví như gà gáy lần chót, ngắm về phương Đông đã có

sắc tinh sáng. Sáu Căn rỗng sạch, không còn rong

ruổi, trong ngoài trong lặng sáng suốt, nhập vào cái

Không Chỗ Vào. Thấu suốt nguyên do nắm lấy cội

nguồn, các loài không còn hấp dẫn được. Nơi mười

phương thế giới đã được tính Đồng. Cái sắc tinh sáng

chẳng chìm, phát hiện u ẩn bí mật. Đây gọi là phạm

vi của Thức Ấm. “Nếu trong tính Đồng đã chứng

117

Dã mã là hạt bụi nhỏ bay lăng xăng. 118

Lăng xăng sơ tượng có nghĩa là nhiễu loạn một cách nhỏ nhiệm (thanh

nhiễu)

Page 260: Sa Môn DI TÙNG - chuaphatquocttt.orgchuaphatquocttt.org/doc/KinhThuLangNghiemRev3.pdf · học, tụng inh Đại 3hật Đảnh thủ /ăng 1ghiêm, đồng thi tham khảo các

258

được của các loài mà tiêu tan sáu căn, khi hợp, khi

chia được thành tựu, thấy nghe thông nhau, dùng thay

lẫn nhau một cách thanh tịnh, mười phương thế giới

cùng với thân tâm như ngọc lưu ly, trong ngoài sáng

suốt thì gọi là Thức Ấm hết. Người ấy có thể siêu

vượt Mệnh Trược. [Các đoạn sau đây (48-57) là

dành cho những ai đã qua được Hành Ấm, phải coi

chừng, nếu không sẽ bỏ mất Chánh Tri Kiến]

(48) Anan, phải biết thiện nam tử ấy đã cùng tột

tánh Không của các Hành, về đến nguồn Thức, đã

diệt sanh diệt nhưng chưa viên mãn trong chỗ tinh

diệu của Tịch Diệt. Người ấy có thể khiến nơi thân

mình, các Căn khác nhau khi hợp, khi chia và cùng

với các loài mười phương thông chung Tánh Giác.

Cái Giác Tri thông suốt một màu vắng lặng, có thể

nhập vào nguồn viên mãn. Nếu ở chỗ quay về, lập

ra cái nhân chân thường mà sanh thắng giải, thì

người ấy sa vào cái chấp Nhân Sở Nhân, thành bạn

bè với đám Sa Tỳ Ca La, quy về Minh Đế, mê lầm

Bồ Đề của Phật, bỏ mất Chánh Tri Kiến.

(49) Anan, lại nữa, thiện nam tử ấy đã cùng tột

tánh không của Hành Ấm, đã diệt sanh diệt, nhưng

chưa viên mãn trong chỗ tinh diệu của Tịch Diệt. Nếu

ở chỗ quay về mà ôm làm tự thể của mình, tất cả

chúng sanh trong mười hai loài khắp cả hư không đều

ở trong thân mình tuôn khởi ra, rồi sanh thắng giải thì

người ấy sa vào kiến chấp Năng, Phi Năng, thành bạn

bè với Trời Ma Hê Thủ La, hiện thân Vô Biên, mê

lầm Bồ Đề của Phật, bỏ mất Chánh Tri Kiến.

(50) Lại nữa, thiện nam tử ấy đã cùng tột tánh

không của Hành Ấm, đã diệt sanh diệt, nhưng chưa

viên mãn trong chỗ tinh diệu của tịch diệt. Nếu ở chỗ

quay về mà có chỗ nương tựa, tự nghi rằng thân tâm

Page 261: Sa Môn DI TÙNG - chuaphatquocttt.orgchuaphatquocttt.org/doc/KinhThuLangNghiemRev3.pdf · học, tụng inh Đại 3hật Đảnh thủ /ăng 1ghiêm, đồng thi tham khảo các

259

mình từ chỗ kia phát sanh ra, và cả mười phương hư

không cũng đều do chỗ kia sanh ra, rồi ngay nơi cái

chỗ sanh ra tất cả đó cho là thể chân thường không

sanh diệt. Vậy là ở trong sanh diệt sớm chấp là

thường trụ. Đã lầm là chẳng sanh, mà còn mê sự sanh

diệt. An trụ trong mê lầm trầm trọng mà sanh thắng

giải thì người ấy sa vào cái chấp Thường, Phi

Thường, thành bạn bè của những kẻ chấp Tự Tại

Thiên, mê lầm Bồ Đề của Phật, bỏ mất Chánh Tri

Kiến.

(51) Lại nữa, thiện nam tử ấy đã cùng tột tánh

không của Hành Ấm, đã diệt sanh diệt, nhưng chưa

viên mãn trong chỗ tinh diệu của Tịch Diệt. Nếu nơi

chỗ hay biết, nhân sự hay biết cùng khắp mà lập ra

cái nhận thức rằng cỏ cây mười phương đều gọi là

hữu tình, không khác với người. Cây cỏ làm người,

người chết rồi trở lại thành cỏ cây mười phương. Ở

nơi cái hay biết cùng khắp, không có chọn lựa và cho

là thắng giải. Người ấy sa vào kiến chấp Tri, Vô Tri,

thành bạn bè của bọn Bà Tra, Tiển Ni chấp tất cả đều

có hay biết, mê lầm Bồ Đề của Phật, bỏ mất Chánh

Tri Kiến.

(52) Lại nữa, thiện nam tử ấy đã cùng tột tánh

không của Hành Ấm, đã diệt sanh diệt, nhưng chưa

viên mãn trong chỗ tinh diệu của Tịch Diệt. Nếu ở

trong chỗ viên dung của các Căn dùng thay lẫn nhau

đã được tùy thuận, bèn ở nơi tánh viên dung biến hóa

phát sanh các thứ mà cầu cái ánh sáng của Hỏa Đại,

ưa cái trong sạch của Thủy Đại, thích cái tràn khắp

của Phong Đại, ngắm cái thành tựu của Địa Đại. Mỗi

mỗi đều sùng phụng cho các Đại kia là bản nhân, lập

thành cái nhận thức thường trụ thì người ấy sa vào cái

kiến chấp sanh vô sanh, thành bè bạn của nhóm Ca

Page 262: Sa Môn DI TÙNG - chuaphatquocttt.orgchuaphatquocttt.org/doc/KinhThuLangNghiemRev3.pdf · học, tụng inh Đại 3hật Đảnh thủ /ăng 1ghiêm, đồng thi tham khảo các

260

Diếp Ba và Bà La Môn, đem hết thân tâm thờ nước,

thờ lửa để cầu ra khỏi sanh tử, mê lầm Bồ Đề của

Phật, bỏ mất Chánh Tri Kiến.

(53) Lại nữa, thiện nam tử ấy đã cùng tột tánh

không của Hành Ấm, đã diệt sanh diệt, nhưng chưa

viên mãn trong chỗ tinh diệu của Tịch Diệt. Nếu ở

nơi chỗ viên minh, chấp sự trống không trong viên

minh, bác bỏ tiêu diệt các sự vật biến hóa. Lấy sự

vĩnh viễn diệt mất làm chỗ quy y, rồi sanh thắng giải

thì người ấy sa vào kiến chấp Quy Vô Quy thành bè

bạn của nhóm chấp Không trong ô Tưởng Thiên,

mê lầm Bồ Đề của Phật, bỏ mất Chánh Tri Kiến.

(54) Lại nữa, thiện nam tử ấy đã cùng tột tánh

không của Hành Ấm, đã diệt sanh diệt, nhưng chưa

viên mãn trong chỗ tinh diệu của Tịch Diệt. Nếu nơi

tánh iên Thường củng cố cái thân cho thường trụ

như tánh ấy, mãi không suy mất mà sanh thắng giải,

thì người ấy sa vào cái chấp Tham Phi Tham, thành

bè bạn của nhóm A Tư Đà, cầu được mạng sống lâu

dài, mê muội Bồ Đề của Phật, bỏ mất Chánh Tri

Kiến.

(55) Lại nữa, thiện nam tử ấy cùng tột tánh không

của Hành Ấm, đã diệt sanh diệt, nhưng chưa viên

mãn trong chỗ tinh diệu của Tịch Diệt. Xét Mệnh

Căn thông lẫn với nhau, lại muốn giữ lại nơi trần lao,

sợ nó tiêu hết. Bèn ở giới hạn này, ngồi cung liên

hoa, hóa ra nhiều thứ bảy báu cùng nhiều mỹ nữ,

buông lung tâm mình mà sanh thắng giải. Người ấy

sa vào cái chấp Chân Vô Chân thành bè bạn của

nhóm Tra Chỉ Ca La, mê lầm Bồ Đề của Phật, bỏ mất

Chánh Tri Kiến.

(56) Lại nữa, thiện nam tử ấy đã cùng tột tánh

không của Hành Ấm, đã diệt sanh diệt, nhưng chưa

Page 263: Sa Môn DI TÙNG - chuaphatquocttt.orgchuaphatquocttt.org/doc/KinhThuLangNghiemRev3.pdf · học, tụng inh Đại 3hật Đảnh thủ /ăng 1ghiêm, đồng thi tham khảo các

261

viên mãn trong chỗ tinh diệu của Tịch Diệt. Ở trong

chỗ cội gốc rỗng sáng của Mạng Căn, phân biệt cái

tinh, cái thô để quyết rõ Chân, Ngụy. Nơi nhân quả

đền đáp, chỉ cầu cảm ứng, trái ngược với đạo thanh

tịnh là thấy Khổ, đoạn Tập, chứng Diệt, tu Đạo mà ở

nơi chỗ Diệt cho là xong, không chịu tiến tới rồi sanh

thắng giải. Người ấy sa vào hàng Định Tánh Thanh

ăn, thành bạn bè của nhóm tăng ô ăn là những

người tăng thượng mạn, mê lầm Bồ Đề của Phật, bỏ

mất Chánh Tri Kiến.

(57) Lại nữa, thiện nam tử ấy đã cùng tột tánh

không của Hành Ấm, đã diệt sanh diệt, nhưng chưa

viên mãn trong chỗ tinh diệu của Tịch Diệt. Nếu ở

trong tánh Giác Minh thanh tịnh viên dung phát minh

chỗ thâm diệu bèn lập đó là Niết Bàn mà không tiến

tới, sanh làm thắng giải, thì người ấy sa vào hàng

định tánh Bích Chi, thành bạn bè của các vị Duyên

Giác, Độc Giác chẳng hồi tâm hướng Đại Thừa, mê

lầm Bồ Đề của Phật, bỏ mất Chánh Tri Kiến.

(58) Anan, mười loại Thiền Na như vậy, giữa

đường hóa điên, do nương mê lầm trong chỗ chưa đủ

lại cho đã chứng đủ, đều do Thức Ấm và tâm dụng

công xen nhau mà sanh các thứ vị như thế. Chúng

sanh mê dại, không biết tự xét, gặp cái đó hiện tiền,

mỗi mỗi dùng cái tâm mê lầm còn ưa thích những tập

quán cũ mà tự dừng nghỉ, cho đó là chỗ quay về rốt

ráo, tự bảo đã đầy đủ ô Thượng Bồ Đề, thành đại

vọng ngữ. Các tà ma ngoại đạo khi nghiệp báo chiêu

cảm hết rồi thì sa vào ngục Vô Gián. Hàng Thanh

ăn, uyên Giác thì không thể tiến tới thêm. Các

ông để tâm giữ gìn Đạo Như Lai, sau khi Ta diệt độ

rồi, đem pháp môn này truyền bày trong đời Mạt

Pháp, khiến khắp chúng sanh hiểu rõ nghĩa này,

Page 264: Sa Môn DI TÙNG - chuaphatquocttt.orgchuaphatquocttt.org/doc/KinhThuLangNghiemRev3.pdf · học, tụng inh Đại 3hật Đảnh thủ /ăng 1ghiêm, đồng thi tham khảo các

262

không để cho những ma tà kiến tự gây ra nạn lớn cho

mình. Giữ gìn thương cứu, tiêu dứt các tà duyên,

khiến cho thân tâm vào Tri Kiến Phật, từ bắt đầu đến

thành tựu, không mắc các lối rẽ.

(59) Pháp môn như thế, các Đức Như Lai như số

vi trần trong hằng sa kiếp quá khứ đều nương cái

Tâm mở tỏ này mà đắc đạo ô Thượng. Khi Thức

Ấm hết sạch rồi thì ngay hiện tiền, các Căn của

ông đều có thể dùng thay lẫn nhau. Từ chỗ các Căn

dùng thay lẫn nhau, bèn vào Kim Cương Càn Huệ

Địa Bồ Tát, cái Tâm Tinh Diệu Viên Minh ở trong đó

phát hóa ra như ngọc lưu ly thanh tịnh bên trong

ngậm mặt trăng báu. Như thế mà vượt lên Thập Tín,

Thập Trụ, Thập Hạnh, Thập Hồi ướng, Tứ Gia

Hạnh Tâm và Thập Địa Kim Cương là chỗ Hành của

Bồ Tát, cho đến địa vị Đẳng Giác Viên Minh mà thể

nhập vào Biển Diệu Trang Nghiêm Như Lai, viên

mãn Bồ Đề, về trong Vô Sở Đắc.

(60) Đó là những ma sự vi tế mà các đức Phật Thế

Tôn đời quá khứ trước đã giác ngộ, nghiệm rõ và

phân tích trong pháp Chỉ Quán. Nếu cảnh ma hiện

ra mà ông rõ biết thì sự dơ nhiễm của tâm được

rửa trừ, không lạc vào tà kiến, Ấm Ma tiêu diệt,

Thiên Ma tan tác, Đại Lực Quỉ Thần hết hồn chạy

trốn, Ly Mỵ, Vọng Lượng chẳng còn sanh ra, thẳng

đến Bồ Đề, không có những thiếu sót. Hàng hạ liệt

cũng được tăng tiến, đối trong Đại Niết Bàn Tâm

không mê buồn. Nếu các chúng sanh mê dại trong

đời Mạt Pháp chưa hiểu Thiền Na! chẳng rõ lời

thuyết pháp mà ưa tu Tam Muội, ông e rằng họ

lạc vào đường tà thì phải một lòng khuyên bảo họ

trì chú Phật Đảnh Đà La Ni của Ta. Nếu chưa có

thể tụng niệm, hãy viết nơi thiền đường hoặc đeo

Page 265: Sa Môn DI TÙNG - chuaphatquocttt.orgchuaphatquocttt.org/doc/KinhThuLangNghiemRev3.pdf · học, tụng inh Đại 3hật Đảnh thủ /ăng 1ghiêm, đồng thi tham khảo các

263

trong thân thì tất cả các ma không thể động đến. Ông

nên kính vâng sự dạy bảo cuối cùng về đường tiến tu

rốt ráo của mười phương Như Lai.

(61) Tánh Tinh Chân thì Diệu Minh, tánh Bản

Giác là Viên Tịnh, chẳng có vết tích của sanh tử và

các trần cấu, cho đến hư không cũng đều nhân vọng

tưởng mà có ra. Tất cả cái ấy nguyên là Bản Giác

Diệu Minh Chân Tinh vọng phát sanh ra các khí thế

gian, như chàng iễn Nhã Đa mê cái đầu mà nhận

bóng trong gương. ọng vốn không có nhân, mà ở

trong vọng tưởng lập ra tánh Nhân Duyên. Mê lầm

Nhân Duyên thì gọi đó là Tự Nhiên. Cái tánh của hư

không kia còn thật là huyễn hóa sanh ra huống là

Nhân Duyên hay Tự Nhiên đều là sự so tính của

vọng tâm chúng sanh. Anan, biết là hư vọng khởi ra

mà nói nhân duyên hư vọng, nhưng hư vọng gốc vốn

không có thì cái nhân duyên hư vọng đó không chỗ

có, huống gì là không biết mà suy rằng Tự Nhiên.

Thế nên Như Lai phát minh cho các ông rằng bản

nhân của năm Ấm đồng là Vọng Tưởng.119

Anan!

Ông nên dùng cái tâm được khai thông về căn

nguyên Vọng Tưởng này, truyền dạy cho tương lai

những người tu hành trong đời Mạt Pháp, khiến

cho họ rõ hư vọng, tự sanh nhàm chán sâu xa, biết

có Niết Bàn, chẳng luyến mê ba cõi.

Hết Mô Phật

Sa Môn Di Tùng

119

Nếu nhận biết được năm Ấm vốn là vọng tưởng thì đ thẳng vào gốc này mà quán tưởng đó là pháp “Đốn.”

Page 267: Sa Môn DI TÙNG - chuaphatquocttt.orgchuaphatquocttt.org/doc/KinhThuLangNghiemRev3.pdf · học, tụng inh Đại 3hật Đảnh thủ /ăng 1ghiêm, đồng thi tham khảo các

265

M C L C

KINH ĐẠI PHẬT ĐẢNH THỦ LĂNG NGHIÊM (T M T T NG N)

LỜI NÓI ĐẦU ................................................................................. 1

TIẾN TRÌNH XÂY DỰNG ĐÀN TRÀNG LĂNG

NGHIÊM TẠI HOA KỲ .................................................................. 3

1. Khởi quyết tâm xây dựng

Đàn tràng Lăng Nghiêm .................................................... 4

2. Giai đoạn giải quyết các điều kiện xây dựng

Đàn tràng Lăng Nghiêm .................................................... 6

3. Xây dựng Đàn tràng đầu tiên ........................................... 8

4. Đàn tràng cho tứ chúng .................................................... 9

Quyển I

Phần 1

Duyên khởi của kinh:...................................................................... 15

Phần 2

Chỉ bày Chơn Tâm ......................................................................... 16

Đức Phật bảy lần phá cái chấp của ngài Anan về nơi trú của Tâm

1. Chấp Tâm ở trong thân .................................................. 17

2. Chấp Tâm ở ngoài thân .................................................. 17

3. Chấp Tâm núp sau con mắt ........................................... 18

4. Chấp nhắm mắt thấy tối là thấy bên trong thân........... 18

5. Chấp Tâm hợp chỗ nào thì liền có ở chỗ đó................... 18

6. Chấp Tâm ở chặng giữa .................................................. 19

7. Chấp Tâm chẳng dinh dán vào đâu cả .......................... 19

Phần 3

Đức Phật chỉ rõ Tánh Thấy .......................................................... 20

Hai thứ căn bản ............................................................................. 20

Nương cái Thấy gạn hỏi cái Tâm ................................................ 21

Tánh Thấy không phải là con mắt .............................................. 22

Ý nghĩa chủ và khách ................................................................... 23

Quyển II

Phần 4

Chỉ Tánh Thấy không sanh diệt ................................................. 25

Chỉ chỗ điên đảo .......................................................................... 26

Page 268: Sa Môn DI TÙNG - chuaphatquocttt.orgchuaphatquocttt.org/doc/KinhThuLangNghiemRev3.pdf · học, tụng inh Đại 3hật Đảnh thủ /ăng 1ghiêm, đồng thi tham khảo các

266

Lựa bỏ Tâm phan duyên để chỉ tánh

Thấy không trả về đâu ...................................................................... 27

Lựa riêng trần cảnh để nêu ra Tánh Thấy ..................................... 28

Phần 5

Đức Phật nêu ra Tánh Thấy ngoài các nghĩa “Phải”

và “Chẳng Phải” ............................................................................... 28

Phần 6

Chỉ thẳng Tánh Thấy ....................................................................... 29

Phần 7

Chỉ ra cái Vọng Thấy ...................................................................... 30

Phần 8

Tánh Thấy không phải là Cái Thấy .............................................. 31

Phần 9

Tóm thu về Như Lai Tạng ............................................................. 31

Thu Sắc Ấm .................................................................................... 32

Thu Thọ Ấm ................................................................................... 33

Thu Tưởng Ấm .............................................................................. 34

Thu Hành Ấm ................................................................................ 34

Thu Thức Ấm ................................................................................ 35

Quyển III

Thu Sáu Nhập ............................................................................... 37

Thu nhãn nhập ............................................................................. 37

Thu nhĩ nhập ................................................................................ 37

Thu tỷ nhập .................................................................................. 38

Thu thiệt nhập ............................................................................. 39

Thu thân nhập ............................................................................. 40

Thu ý nhập .................................................................................. 40

Thu Mười Hai Xứ ....................................................................... 41

Thu hai xứ sắc trần và nhãn căn ............................................... 41

Thu hai xứ thanh trần và nhĩ căn ............................................. 42

Thu hai xứ hương trần và tỷ căn .............................................. 43

Thu hai xứ vị trần và thiệt căn .................................................. 44

Thu hai xứ xúc trần và thân căn ............................................... 44

Thu hai xứ pháp trần và ý căn ................................................. 45

Thu mười tám giới ...................................................................... 46

Thu nhãn, sắc và nhãn thức giới ................................................. 46

Thu nhĩ, thanh và nhĩ thức giới ................................................... 47

Thu tỷ, hương và tỷ thức giới ...................................................... 48

Thu thiệt, vị và thiệt thức giới ..................................................... 50

Thu thân, xúc và thân thức giới .................................................. 51

Thu ý, pháp và ý thức giới ........................................................... 52

Page 269: Sa Môn DI TÙNG - chuaphatquocttt.orgchuaphatquocttt.org/doc/KinhThuLangNghiemRev3.pdf · học, tụng inh Đại 3hật Đảnh thủ /ăng 1ghiêm, đồng thi tham khảo các

267

Thu bảy Đại ............................................................................53

Xin khai thị về tứ đại hòa hợp ............................................53

Chỉ rõ thể tánh tứ đại không phải hòa hợp ......................53

Thu địa đại .............................................................................54

Thu hỏa đại ............................................................................55

Thu thủy đại ..........................................................................56

Thu phong đại ........................................................................57

Thu không đại ........................................................................58

Thu kiến đại ...........................................................................60

Thu thức đại ...........................................................................62

Giác Ngộ và Phát Nguyện ....................................................64

Quyển IV

Phần 10

Căn nguyên và Tánh Giác vẹn toàn ...................................67

Vô Minh Đầu tiên .................................................................68

Nguyên nhân vọng thấy có thế giới ...................................68

Giác chẳng sanh mê .............................................................71

Các Đại có thể tương dung .................................................73

Chỉ rõ Tánh Diệu Minh là Như Lai Tạng rời

cả hai nghĩa “Phi” và “Tức” .............................................74

Mê vọng không có nhân, hết mê là Bồ Đề .......................76

Phá xích nhân duyên, tự nhiên xưa nay không vọng .....77

Đưa vào Bồ Đề ......................................................................78

Phần 11

Chỉ nghĩa quyết định ............................................................80

Các pháp tu hành sau khi đốn ngộ, phát Bồ Đề Tâm .....80

Phát Tâm trong lúc tu nhân .................................................80

Xét rõ gốc rễ phiền não ........................................................82

Nghi căn tánh không có tự thể ............................................89

Thỉnh chuông để thể hiện tánh nghe là thường trụ .........89

Page 270: Sa Môn DI TÙNG - chuaphatquocttt.orgchuaphatquocttt.org/doc/KinhThuLangNghiemRev3.pdf · học, tụng inh Đại 3hật Đảnh thủ /ăng 1ghiêm, đồng thi tham khảo các

268

Quyển V

Phần 12

Nương chỗ ngộ mà tu

Nêu ra cái căn để chỉ chỗ mê ............................................93

Phần 13

Cầu Phật khai thị cởi nút ..................................................95

Phật dạy cách mở nút ........................................................97

Phần 14

Đức Phật hỏi đại chúng về pháp tu viên thông ...............98

Viên thông về thanh trần ..................................................99

Viên thông về Sắc trần ......................................................99

Viên thông về hương trần ...............................................100

Viên thông về vị trần .......................................................100

Viên thông về xúc trần ....................................................101

Viên thông về Pháp trần .................................................101

Viên thông về nhãn căn ...................................................102

Viên thông về tỷ căn ........................................................102

Viên thông về thiệt căn ...................................................103

Viên thông về thân căn ...................................................103

Viên thông về ý căn .........................................................104

Viên thông về nhãn thức ................................................104

Viên thông về nhĩ thúc ....................................................105

Viên thông về tỷ thức ......................................................105

Viên thông về thiệt thức .................................................106

Viên thông về thân thức .................................................106

Viên thông về ý thức .......................................................107

Viên thông về hỏa đại .....................................................107

Viên thông về địa đại ......................................................108

Viên thông về thủy đại ....................................................109

Viên thông về phong đại .................................................110

Viên thông về không đại .................................................111

Page 271: Sa Môn DI TÙNG - chuaphatquocttt.orgchuaphatquocttt.org/doc/KinhThuLangNghiemRev3.pdf · học, tụng inh Đại 3hật Đảnh thủ /ăng 1ghiêm, đồng thi tham khảo các

269

Viên thông về thức đại ....................................................111

Viên thông về kiến đại ....................................................112

Quyển VI

Viên thông về nhĩ căn .....................................................115

Phần 15

Mười bốn công đức vô úy ..............................................119

Phần 16

Chỉ dạy Pháp Viên tu

Đức Phật phóng hào quang hiện điềm lành ................123

Đức Phật bảo ngài Văn Thù chọn căn viên thông .....124

Lựa ra những căn viên thông ........................................124

Nhĩ căn viên thông hơn hết .............................................128

Quyển VII

Phần 17

Đức Phật khai thị về Mật giáo .......................................141

Khai thị đàn tràng tu chứng ..........................................142

Tuyên thuyết Thần Chú .................................................144

Phần 18

Khai thị hai cái nhân điên đảo ......................................165

Quyển VIII

Phần 19

Khai thị ba tiệm thứ tu tập ............................................171

An lập các thánh vị ..........................................................173

Càn Huệ Địa .....................................................................173

Thập Tín ...........................................................................173

Thập trụ ............................................................................175

Thập Hạnh ........................................................................176

Thập Hồi Hướng ...............................................................177

Tứ Gia Hạnh .....................................................................178

Thập Địa ............................................................................178

Đẳng Giác và Diệu Giác ..................................................179

Page 272: Sa Môn DI TÙNG - chuaphatquocttt.orgchuaphatquocttt.org/doc/KinhThuLangNghiemRev3.pdf · học, tụng inh Đại 3hật Đảnh thủ /ăng 1ghiêm, đồng thi tham khảo các

270

Chỉ dạy tên kinh ................................................................180

Phần 20

Phân biệt các nghiệp quả tạo thành tam giới .............................180

1. Hỏi về sự sanh khởi và nhân quả của sáu đường ........180

2. Khai thị về phận trong, phận ngoài của chúng sanh ..181

3. Mười tập nhân và sáu giao báo ......................................184

4. Không tu thành Chánh Giác thành các thứ Tiên ........193

Quyển IX

Phần 21

Các cõi Trời

Cõi Trời Dục Giới ............................................................................195

Cõi Trời Sắc Giới .............................................................................196

Cõi Trời Vô Sắc Giới .......................................................................199

Bốn Loại A Tu La ...........................................................................200

Khai thị sự hư vọng của bảy loài để khuyên tu chân chánh ....201

Phân biệt các Ấm Ma ......................................................................202

Phạm vi của Sắc Ấm ........................................................................205

Phạm vi của Thọ Ấm .......................................................................209

Phạm vi của Tưởng Ấm ..................................................................213

Quyển X

Phạm vi của Hành Ấm ....................................................................225

Phạm vi của Thức Ấm .....................................................................234

Được Phước tiêu Tội hơn cả ...........................................................243

Những đoạn cần lưu ý, trích từ Kinh Đại Phật Đảnh Thủ Lăng

Nghiêm .............................................................................................245

Page 273: Sa Môn DI TÙNG - chuaphatquocttt.orgchuaphatquocttt.org/doc/KinhThuLangNghiemRev3.pdf · học, tụng inh Đại 3hật Đảnh thủ /ăng 1ghiêm, đồng thi tham khảo các

KINH ĐẠI PHẬT ĐẢNH THỦ LĂNG NGHIÊM T M T T H NG N)

(Tái bản lần thứ ba)

N TH Đ N T NG LĂNG NGHIÊM

Page 274: Sa Môn DI TÙNG - chuaphatquocttt.orgchuaphatquocttt.org/doc/KinhThuLangNghiemRev3.pdf · học, tụng inh Đại 3hật Đảnh thủ /ăng 1ghiêm, đồng thi tham khảo các

TÂM NG N

1. Giữ Bồ đề tâm kiên cố

2. Chí tu học vững bền

3. Mau đắc quả giải thoát sinh tử luân hồi

4. Để cứu độ chúng sanh

5. Giữ n hật háp trườn tồn.

Sa Môn I T NG

PHẬT QUỐC THANH TỊNH TÂM

MAITREYA BUDDHA MEDITATION CENTER

310 E. Red Bird Lane

Duncanville, Texas 75116 - U.S.A.

Tel. 972-709-5685

------------***----------- PL. 2561 - DL. 2017

Page 275: Sa Môn DI TÙNG - chuaphatquocttt.orgchuaphatquocttt.org/doc/KinhThuLangNghiemRev3.pdf · học, tụng inh Đại 3hật Đảnh thủ /ăng 1ghiêm, đồng thi tham khảo các
Page 276: Sa Môn DI TÙNG - chuaphatquocttt.orgchuaphatquocttt.org/doc/KinhThuLangNghiemRev3.pdf · học, tụng inh Đại 3hật Đảnh thủ /ăng 1ghiêm, đồng thi tham khảo các