Upload
others
View
15
Download
0
Embed Size (px)
Citation preview
Sa Môn DI TÙNG
TTHHỦỦ LLĂĂNNGG NNGGHHIIÊÊMM
KKIINNHH ĐĐẠẠII PPHH TT ĐĐẢẢNNHH
)
(Tái bản lần thứ ba)
PH T QUỐC THANH TỊNH TÂM
MAITREYA BUDDHA MEDITATION CENTER
310 E. Red Bird Lane
Duncanville, Texas 75116 - U.S.A.
Tel. 972-709-5685
------------***-----------
PL. 2561 - DL. 2017
1
LỜI NÓI ĐẦU
Kính gởi quý đạo hữu,
Sở dĩ Thầy quyết định làm tóm tắt Kinh Đại Phật Đảnh Thủ Lăng
Nghiêm vì các lý do sau đây:
1. Chúng ta, nếu cần, có thể qua hệ thống Internet, tìm nguyên
bản kinh này rất dễ dàng và còn có thể chọn bản dịch của
người dịch chúng ta ưa thích, không sợ làm mất toàn bản kinh.
2. Chúng ta chỉ mong học phần cốt tủy, ngắn gọn của phần Hiển
Giáo. Chúng ta hoàn toàn tin tưởng nơi những lời Đức Phật
dạy, cho nên không đặt nặng phải học những lý luận ngài dùng
để bác bỏ những sự hiểu lầm của ngài Anan và thánh chúng.
3. Để thực hành Thiền Định, chúng ta làm theo lời dạy của Đức
Phật dặn ngài Anan dạy cho chúng sanh để áp dụng trong thời
Mạt Pháp:
Xây dựng đàn tràng để lễ lạy, phát nguyện và tụng
Chú.
“Nếu có tập khí cũ không thể diệt trừ, ông dạy người
đó nhất tâm trì tụng Thần Chú Vô Thượng Phật Đảnh
Quang Minh “Ma Ha Tát Đát Đa Bát Đát Ra” của
Ta.”
Thực hành Thiền Định một trăm ngày.
Vì vậy, chúng ta đặt nặng “Phần khai thị về Mật Giáo,” và
“Ngũ Ấm Ma.”
Mong rằng việc tóm tắt Kinh này sẽ giúp quý đạo hữu tiết kiệm
bớt thời gian trong phần lý thuyết (Lý) mà nhiều chỗ không thể
hiểu. Chúng ta chỉ chú tâm hoàn toàn vào việc thực hành (Sự.)
Mô Phật
Sa Môn Di Tùng
2
KINH ĐẠI PHẬT ĐẢNH THỦ LĂNG NGHIÊM (T M T T NG N)
Lưu ý: Tài liệu này chỉ dành cho Phật tử trong hệ thống
“Thanh Tịnh Tâm” xử dụng, không phổ biến rộng rãi cho
đại chúng.
3
TIẾN TRÌNH XÂY DỰNG
ĐÀN TRÀNG LĂNG NGHIÊM TẠI HOA KỲ
----------------
Chúng tôi có duyên với Phật giáo Đại Thừa, nên trong thời
công phu khuya thường tụng Chân Ngôn Ma Ha Tát Đát Đa
Bát Đát Ra (Thần Chú Lăng Nghiêm.) Chúng tôi cũng được
học, tụng Kinh Đại Phật Đảnh thủ Lăng Nghiêm, đồng thời
tham khảo các bài viết với tựa đề “Lăng Nghiêm Đại Định.”
Tuy nhiên, chúng tôi vẫn thắc mắc rằng nếu không xây dựng
đàn tràng Lăng Nghiêm, không thực hành ba tuần bảy ngày
lễ lạy, phát nguyện và tụng chú, đồng thời không được chính
Đức Phật Thích Ca rờ đầu an ủi khiến nên giác ngộ, và an cư
thực hành Thiền định một trăm ngày như trong kinh Đức
Phật đã dạy thì làm sao có thể luận bàn đến Lăng Nghiêm
Đại Định?
Ông Tăng Phụng Nghi nghiên cứu sâu rộng và sớ giải (tông
thông) Kinh Đại Phật Đảnh Thủ Lăng Nghiêm (ĐPĐTLN)
không nói đến từ trước tới nay nơi nào đã xây dựng Đàn
tràng Lăng Nghiêm để tu tập mà chỉ nhắc đến một Giới
đàn được thành tựu. Ngoài ra, trong bộ Phật ọc Phổ
Thông, òa Thượng Thích Thiện oa đã không dịch phần
xây dựng Đàn tràng Lăng Nghiêm1 khiến nhiều Phật tử
không biết có phần xây dựng Đàn tràng nếu không đọc
những bản dịch khác.2 HT Tuyên óa trong sách chú giải
Thần Chú Lăng Nghiêm chỉ nhắc đến “tán trì” (đi, đứng,
nằm, ngồi) đều trì tụng Thần Chú nhưng không thấy nói đến
xây dựng Đàn tràng Lăng Nghiêm để tu tâp như trong Kinh
ĐPĐTLN chỉ dẫn. ai vị Geshe3 Tây Tạng, một từ
1 Lý do thiếu phần xây dựng Đàn Tràng Lăng Nghiêm có lẽ vì bộ sách
này mang tên “Phật Học Phổ Thông.” 2 Kinh ĐPĐTLN đã được dịch ra tiếng Việt bởi nhiều vị như Thiền Sư
Nhẫn Tế, HT Tuyên Hóa, HT Thích Duy Lực, Cư sĩ Tâm Minh Lê
Đình Thám, Cư sĩ ạnh Cơ … 3 Geshe là học vị Tiến sĩ của Phật giáo Tây Tạng.
4
Dhalamsala và một từ một tu viện giòng truyền thừa Gelupa
ở Nam Ấn Độ khi ghé thăm Cốc (mobile home) của chúng tôi vào năm 2008 đã xin vào Đàn tràng Lăng Nghiêm để trì
tụng Chơn Ngôn Lăng Nghiêm vì quý vị cho biết chưa bao
giờ thấy nơi nào có Đàn tràng này.
Có thể, vì chúng tôi ít giao lưu với thế giới bên ngoài và
thiếu nghiên cứu rộng rãi trên hệ thống internets, nên không
biết nơi nào có xây dựng Đàn tràng Lăng Nghiêm để tu tập.
Xin quý vị khi có duyên đọc những dòng chữ này và nếu biết được nơi nào có xây dựng Đàn tràng Lăng Nghiêm để tu tập, vui lòng liên lạc với chúng tôi để chúng tôi tìm đến học hỏi.
1. Khởi quyết tâm xây dựng Đàn tràng Lăng Nghiêm
Chúng tôi tự hỏi: (1) Nếu lịch sử ghi Kinh ĐPĐTLN là quốc
bảo của nước Ấn Độ thời xưa và Kinh này bị ngăn cấm
không được mang ra nước ngoài, tại sao tại Ấn Độ không
Chùa Đại Thừa nào xây dựng Đàn tràng Lăng Nghiêm để
cho tứ chúng tu tập? (2) Một trăm năm sau khi Trí Giả Đại
sư viên tịch, Kinh ĐPĐTLN qua Trung Quốc và cho đến
ngày nay tại sao vẫn chưa thấy Đàn tràng Lăng Nghiêm được
xây dựng để tứ chúng tu tập theo Kinh này? (3) Trong hồi
ký, Thiền sư Nhẫn Tế đã được Lama Quốc ương Tây Tạng
ấn chứng là đã qua kỳ khảo hạch vượt tất cả Lama Tây Tạng,
khi về nước chỉ đặt tên Chùa tại Bình ương là Chùa Tây
Tạng (năm 1936) nhưng không dạy pháp tu của Tây Tạng lại
bỏ thì giờ dịch Kinh ĐPĐTLN Tông Thông từ năm 1944 đến
năm 1950 thì hoàn tất? Nhiều câu hỏi như trên chưa có giải
đáp, nên chúng tôi đọc tới đọc lui Kinh ĐPĐTLN để mong
tìm lời giải đáp. Trong tâm lúc nào cũng nghĩ rằng nếu
không thể thiết lập Đàn tràng Lăng Nghiêm theo lời dạy của
Đức Phật trong Kinh, như vậy Đức Phật thuyết kinh
ĐPĐTLN ra để làm gì?
5
Lời Đức Phật dạy trong kinh: “Anan, những hàng Tỳ Kheo,
Tỳ Kheo Ni hay hàng cư sĩ, thí chủ trong sạch như thế, vào
đời mạt pháp, tâm dứt tham dâm, giữ tịnh giới Phật, ở trong
đàn tràng4, phát nguyện Bồ Đề, ra vào tắm rửa, sáu thời
hành đạo, không lo ngủ nghỉ, như thế trải qua ba lần bảy ngày, Ta tự hiện thân đến trước người ấy, xoa đỉnh an ủi,
khiến nên Giác Ngộ”.
Một hôm, với đức tin mãnh liệt vào lời dạy của Đức Phật về
sự tu tập trong Đàn tràng vào thời mạt pháp khiến có thể
Giác ngộ, chúng tôi bổng nhiên phát quyết tâm tìm lời giải
đáp cho những câu hỏi đã từ lâu ghi sâu trong tâm trí của
chúng tôi để tiến đến việc xây dựng Đàn tràng Lăng Nghiêm.
Thật vậy, chúng ta đang ở vào thời kỳ mạt pháp, tại sao
chúng ta không thực hành những gì Đức Phật dạy để áp dụng tu tập vào thời mạt pháp để được hữu hiệu hơn?
Trước khi xây dựng Đàn tràng, Đức Phật dạy: “Nếu ở đời
mạt pháp, có người muốn ngồi đàn tràng tu hành, trước hãy
giữ Cấm Giới Tỳ Kheo trong sạch… Sau khi Giới được
thành tựu, mặc áo mới, sạch, đốt hương, ở chỗ vắng mà trì
tụng Chơn Ngôn (Thần Chú) nói ra từ Tâm Phật này, một
trăm lẻ tám biến. Sau đó kiết giới, dựng lập đàn tràng, cầu
xin Chư Vô Thượng Như Lai mười phương hiện trụ các
quốc độ phóng quang Đại Bi đến rọi đỉnh đầu.”
Đây là điều kiện đầu tiên để tiến đến việc xây dựng Đàn
tràng.
4 Quý vi dịch kinh Đại Phật Đảnh Thủ Lăng Nghiêm dùng chữ “đạo
tràng” để chỉ nơi tu tập nói chung. Với đạo tràng Lăng Nghiêm, chúng
tôi dùng chữ “đàn tràng Lăng Nghiêm” để phân biệt tính cách xử dụng
đặc biệt của đàn tràng để được sự gia hộ ngay trực tiếp (vua Việt Nam
lập đàn tràng để cầu Thượng Đế, Trí Giả Đại sư lập đàn tràng để cầu xin
Kinh Lăng Nghiêm vào Trung Quốc, Khổng Minh thời Tam Quốc bên
Tàu đã nhiều lần lập đàn tràng để cầu gió Đông, cầu sống lâu ...)
6
2. Giai đoạn giải quyết các điều kiện xây dựng Đàn
tràng Lăng Nghiêm
2.1 Xây nền: Giải mã đầu tiên
Để xây đàn tràng Đức Phật dạy: “Người đời mạt pháp,
nguyện lập đàn tràng, trước hết kiếm con trâu trắng sức
mạnh ở núi Tuyết Sơn, sống bằng cỏ thơm non mướt, loài
trâu trắng này chỉ uống nước trong của núi Tuyết Sơn, phân
rất nhuyễn mịn. Nên lấy phân đó hòa trộn với bột hương
Chiên Đàn để tráng nền đất. Nếu không phải là loài trâu
trắng ở Tuyết Sơn thì phân hôi bẩn, không thể tráng nền.
Riêng ở đồng bằng, có thể đào bỏ lớp đất trên mặt, lấy đất
sét vàng từ năm thước trở xuống rồi hòa trộn với hương
Chiên Đàn, trầm thủy, tô hợp, huân lục, uất kim, bạch giao,
thanh mộc, linh lăng, can tùng và kê thiệt. Mười thứ ấy rây
nghiền thành bột, trộn với đất sét để làm nền đàn tràng, mỗi
bề một trượng sáu, thành cái đàn bát giác.”
Để xây Đàn tràng, việc đầu tiên là xây nền. Nếu xây dựng
Đàn tràng đòi hỏi vị Tỳ kheo phải giữ Giới hạnh trong sạch,
thì vật liệu cũng phải tinh khiết. Thời kỳ Đức Phật tại thế,
người Ấn Độ xây nền bằng phân trâu/bò trộn với đất. Muốn
có loại phân tinh khiết, chúng ta phải lên y mã lạp sơn tìm phân của con trâu Yak để làm nền. Ngày nay, chúng ta làm
nền bằng xi-măng (cement,) sắt (rebar,) lót gỗ, nệm…Những
vật liệu này đều tinh khiết. o đó, chúng tôi thấy không có
trở ngại gì trong tiêu chuẩn làm nền của đàn tràng. Chúng
tôi gọi việc này là “giải mã” (giải ý nghĩa mật) vì chúng ta
thường nghĩ rằng làm thế nào có thể có được phân trâu trắng trên y mã lạp sơn đủ để làm nền Đàn tràng.
2.2 Tụng Chơn Ngôn: Giải mã thứ hai
Kinh ghi “Trong bảy ngày đầu, chí thành đảnh lễ danh hiệu
mười phương Như Lai, Chư Đại Bồ Tát, Chư A La án.
7
Thường trong sáu thời đi quanh đàn tụng Chơn Ngôn, hết
lòng hành Đạo, mỗi thời trì một trăm lẻ tám biến.
Chơn Ngôn Tát Đát Đa Bát Đát Ra (Chú Lăng Nghiêm)
đầy đủ gồm năm phần (ngũ đệ.) Thời gian trung bình
(không quá nhanh hay chậm) để tụng một biến (ngũ đệ)
Chơn Ngôn Lăng Nghiêm khoảng mười phút. ầu chúng ta
định nghĩa một thời là hai giờ hay bốn giờ, chúng ta cũng
không thể nào tụng đủ một trăm lẻ tám biến trong một thời.
ậy chúng ta làm sao đây?
Chúng ta hãy đọc đoạn: “Đức Thế Tôn từ đảnh phóng ra hào
quang trăm báu, trong hào quang phóng ra hoa sen báu ngàn
cánh, có Hóa Thân Như Lai ngồi trong hoa sen, đảnh phóng
mười đạo hào quang trăm báu, mỗi mỗi hào quang đều thị
hiện khắp mười hằng hà sa Kim Cang Mật Tích đỡ núi,
cầm chữ khắp cõi hư không. Tứ chúng ngước trông, sợ mừng
hòa lẫn, xin Phật thương che, nhất tâm lắng nghe Như Lai
ô Kiến Đảnh Tướng phóng quang Phật tuyên thuyết Thần
Chú.”…
Kinh : “Anan, đây là Phật Đảnh Quang Tụ Tát Đát Đa Bát
Đát Ra (SITATAPATRA), bí mật Già Đà, vi diệu chương
cú, xuất sanh tất cả mười phương Chư Phật. Mười phương
Như Lai nhân Chú Tâm này đắc thành ô thượng Chánh
Biến Tri Giác.
Từ đầu của Chơn Ngôn cho đến trước chữ “Úm!” (hay
“Án!”) là phần đãnh lễ Chư Bồ Tát Kim Cang Mật Tích.
Quý vị này từ óa Thân Như Lai phóng ra. ậy chúng ta có
thể đãnh lễ ngay nơi gốc là oá Thân Như Lai bằng câu:
“Nam Mô Phật Đảnh Quang Tụ Bạt Già Phạm.” Sau đó,
từ chữ Úm! đến hết thực sự là Chơn Ngôn thay thế bằng “Tát
Đát Đa Bát Đát Ra.” o đó, chúng ta thay thế tụng toàn bộ Chơn Ngôn bằng cách tụng: “Nam Mô Phật Đảnh Quang
Tụ Bạt Già Phạm Tát Đát Đa Bát Đát Ra. Úm! A na lệ,
8
tỳ xá đề bệ ra bạt xà ra đà rị bàn đà nễ bạt xà ra bàn ni
phấn hỗ hồng đô lô ung phấn ta bà ha!”
ới cách tụng này chúng ta có thể giải quyết được việc tụng
một trăm lẽ tám biến Chơn Ngôn trong vòng một canh giờ
không có gì khó khăn.
2.3 Sương tháng Tám: Giải mã thứ ba
Kinh ghi: “Trung tâm đàn đặt một cái bát, trong bát đựng
nước sương móc tháng Tám.” Nếu chúng ta đã đi thăm
viếng nước Ấn Độ, chúng ta thấy có rất nhiều hoa sen. ào
tháng Tám, sương đọng trên các lá sen rất nhiều, và chúng ta
có thể lấy sương từ đó. Sương đó tinh khiết không như nước
ở ao hồ, nước mưa hứng qua mái nhà. Ngày nay, cách lọc
hay cất nước (đun nước bốc hơi, cho ngưng tụ bằng cách làm
lạnh) thật là tinh khiết, mua đâu cũng có.
Tuy nhiên, thay vào để bát nước ở trung tâm đàn tràng,
chúng tôi khởi niệm đặt tượng của Đức Phật Thích Ca thay
thế vào với lý do là Đàn tràng này do Ngài chỉ dạy, tại sao
chúng ta không đặt tượng của Ngài ở chính giữa đàn tràng.
Nhân duyên đưa đến sự thay thế này về sau được kiểm
chứng là “được” vì khi nhập Đàn tràng tu tập, Phật tử nhiễu
chung quanh tượng, một số Phật tử hữu duyên thấy tia sáng
phát ra từ tượng Ngài chiếu vào Phật tử.
Giải mã được ba phần này là quan trọng. Các phần khác
chúng ta cứ theo sự chỉ dạy trong kinh mà trang trí hình
tượng Chư Phật, Chư Bồ Tát … tùy theo khả năng có được.
3. Xây dựng Đàn tràng đầu tiên
Sau khi giải mã những phần khó thực hiện, chúng tôi xây
dựng một Đàn tràng nhỏ để chính mình thực hành kiểm
chứng. ĩ nhiên, chúng tôi phải tham khảo các kinh, luật, để
soạn hai phần đãnh lễ và phát nguyện như trong Kinh
9
ĐPĐTLN nêu ra. Chúng tôi không dám trình bày nơi đây
những sự trải nghiệm trong khi nhập Đàn tràng, chỉ xin ghi
rằng những gì Đức Phật nói trong kinh đều có xảy ra. Chúng
tôi đã chấm dứt nhập Đàn tràng vào ngày chót bằng những
giọt nước mắt sung sướng và biết ơn sâu xa đến Đức Bổn Sư
Thích Ca Mâu Ni Phật đã dạy dỗ cho chúng sanh con đường
ra khỏi sanh tử luân hồi trong thời mạt pháp qua pháp tu
nhập Đàn tràng Lăng Nghiêm.
Lời Đức Phật dạy là dành cho tứ chúng chứ đâu phải cho
Tăng/Ni mà thôi. ì vậy chúng tôi quyết định tạo điều kiện
xây dựng đàn tràng dành cho tứ chúng.
4. Đàn tràng cho tứ chúng
Chúng tôi rất thận trọng trong sự phát triển xây dựng Đàn
tràng cho tứ chúng tu tập với lý do rất đơn giản: căn cơ của
tứ chúng khác nhau, trải nghiệm về tu tập Đàn tràng Lăng Nghiêm của chúng tôi quá ít ỏi, nếu có những Phật tử căn cơ cao và trong lúc đó trải nghiệm của chúng tôi quá hẹp hòi,
nếu trường hợp này xảy ra thì sao? Tuy nhiên, tin tưởng vào
sự gia hộ của Chư Phật, Chư Bồ Tát, Chư Long Thần ộ
Pháp Bồ Tát Ma a Tát, chúng tôi dự trù mở Đàn tràng Lăng
Nghiêm tại Tiểu Bang Kentucky, nơi một ngôi Chùa nằm
trên đồi núi nhìn xuống dòng sông Ohio.
Chúng tôi đến ngôi Chùa này để giảng Phật Pháp. ị trụ trì
Chùa đã di chuyển đi nơi khác. Chùa có một trụ cement
đường kính khoảng bốn feet, cao sáu feet, do vị trụ trì trước
xây dựng nhằm làm Chùa một cột. Chúng tôi muốn xây Đàn
tràng Lăng Nghiêm khung bằng sắt lên trên trụ cement này.
ật liệu rẻ, Phật tử có nghề hàn tình nguyện xây dựng. Tuy
nhiên, duyên chưa đủ nên vị chủ Chùa cứ lần lượt kéo dài
không tiến hành.
Lần thứ hai, chúng tôi được một vị trụ trì giới thiệu một Phật
tử ở Tennessee sẵn sàng cho xây cất Đàn tràng tại khu đất
10
Phật tử này mua để khi về già về đó tu tập. Khu này là đồi
núi trông rất đẹp lại yên tịnh rộng hơn mười mẫu đất. Chúng
tôi cùng vị trụ trì này và một ít Phật tử lên nơi đó cắm cọc
chuẩn bị xây cất với kinh phí Phật tử này đài thọ luôn.
Nhưng duyên lại chưa đủ nên việc xây cất lại bị đình chỉ.
Phải đợi đến năm 2004, Phật tử Texas thấy tuổi chúng tôi đã
già mới mời chúng tôi về một chỗ có chiếc mobile home
(chúng tôi gọi là Cốc thay vì Chùa) để chúng tôi khỏi phải đi
đây đi đó nữa, đồng thời giúp Phật tử tu tập. Nơi đây, cũng
có vài trở ngại nơi thợ xây cất, nhưng chúng tôi đã xây dựng
được một Đàn tràng Lăng Nghiêm đầu tiên, khoảng cách
giữa hai cạnh đối diện là mười sáu feet cho tứ chúng tu tập
vào năm 2008.
ì số lượng Phật tử xin gia nhập Đàn tràng tu tập gia tăng,
năm 2011 Phật tử tại đây lại xây dựng một ngôi Chùa (Chùa
Phật Quốc Thanh Tịnh Tâm) cách cái Cốc này một giờ lái
xe, nơi đó, chúng tôi xây dựng một Đàn tràng Lăng Nghiêm
thứ hai lớn hơn, khoảng cách giữa hai cạnh đối diện là hai
mươi bốn feet. Ngoài Phật tử tại oa kỳ, còn có một số Phật
tử Úc và Gia Nã Đại (Canada) đến tham gia.
Chúng tôi cùng Phật tử có duyên với Đàn tràng Lăng
Nghiêm đã giúp xây dựng một Đàn tràng Lăng Nghiêm thứ
ba cho một gia đình Phật tử tại California, trong khuôn viên nhà của gia đình Phật tử này. Khoảng cách từ cạnh này qua
cạnh kia chỉ có mười hai feet. ù vậy khóa tu đầu tiên vào
năm 2015 cũng có được mười một Phật tử tham dự trong hai
tuần. Sở dĩ chỉ mở khoá hai tuần (mỗi ngày thêm một thời)
vì đa số Phật tử không có ngày nghỉ phép đủ ba tuần. Kết
quả vẫn khả quan.
à cũng trong năm 2015, chúng tôi cùng Phật tử đã xây
dựng được một Chùa nhỏ tại Florida (Chùa ô Trụ Thanh
Tịnh Tâm.) Đàn tràng Lăng Nghiêm thứ tư này dành cho
11
Tăng/Ni thuộc hệ thống Thanh Tịnh Tâm của chúng tôi là
chính, nếu còn chỗ, Cư sĩ cũng có thể vào tu tập không phân
biệt.
Chúng tôi chỉ có vài lời ngắn gọn ghi trên, mong rằng sẽ gây
cảm ứng tốt cho những Phật tử tại gia hoặc xuất gia muốn tu
tập trong Đàn Tràng Lăng Nghiêm để chúng ta giữ gìn Kinh
Lăng Nghiêm nói riêng và Phật Pháp nói chung trường tồn.
Ngoài ra, nếu có Chùa, hay nhóm Phật tử nào muốn xây
dựng Đàn Tràng riêng, xin vui lòng liên lạc với chúng tôi,
chúng tôi sẵn sàng cố vấn cho việc xây dựng và chia xẻ kinh
nghiệm xây dựng và tu tập trong Đàn Tràng.
12
Ghi Chú:
Kinh ghi tóm tắt ba tuần lễ tu tập trong Đàn tràng như sau:
“Trong bảy ngày đầu, chí thành đảnh lễ danh hiệu mười
phương Như Lai, Chư Đại Bồ Tát, Chư A La án. Thường
trong sáu thời đi quanh đàn tụng Chú, hết lòng hành Đạo,
mỗi thời trì một trăm lẻ tám biến.
“Trong bảy ngày thứ hai, một mặt chuyên tâm phát nguyện
Bồ Tát, tâm không gián đoạn. Trong Luật Tạng của Ta đã có
chỉ dạy về nguyện.
“Trong bảy ngày thứ ba, trong cả mười hai thời5, một bề trì
Chú Tát Đát Đa Bát Đát Ra của Phật. Cho đến ngày thứ bảy,
mười phương Như Lai nhất thời xuất hiện chỗ ánh sáng của
gương giao nhau, được Phật xoa đảnh; bèn ở nơi đạo tràng tu
Tam Ma Địa, có thể khiến cho hạng tu học đời mạt pháp thân
tâm sáng sạch như ngọc lưu ly6.
“Sau hai mươi mốt ngày, ngồi nghiêm chỉnh an cư [Thiền
định.] Trải qua một trăm ngày, những người có lợi căn
không rời khỏi chỗ ngồi mà đắc quả Tu Đà oàn. ầu cho
thân tâm thánh quả chưa thành, vẫn quyết định tự biết thành
Phật không sai lầm.
Mô Phật
Sa Môn Di Tùng
5 Ở phần trên Đức Phật dạy trong suốt ba lần hai mươi mốt ngày, mỗi
ngày sáu thời, nay ghi bảy ngày sau cùng mỗi ngày mười hai thời, phải
chăng có sự sai biệt? Đối với chúng tôi việc này không quan trọng bởi vì
chúng tôi đã trải nghiệm phương thức hai tuần và mỗi ngày trong hai
tuần đó thực hành bảy thời có hiệu quả. 6 Câu này có nghĩa là: Tập khí ô nhiễm lâu đời được tẩy sạch.
13
KINH ĐẠI PHẬT ĐẢNH THỦ LĂNG NGHIÊM (T M T T NG N)
Tên đầy đủ của Kinh: Đại Phật Đảnh, Như Lai Mật Nhân,
Tu Chứng Liễu Nghĩa, Chư Bồ Tát Vạn Hạnh, Thủ Lăng
Nghiêm.
Giải nghĩa:
Đại Phật Đảnh: Kinh này Đức Phật dạy thẳng vào Chơn
Tâm, ý nghĩa rất thâm sâu chỉ có chư Phật mới thâm nhập
được, ngay cả quý ngài Bồ tát cũng không ngộ nhập được,
nên dùng chữ “ ô kiến đảnh tướng” của Phật và thêm chữ
Đại để nói lên Chơn Tâm bao trùm tất cả mười phương Pháp
giới.
Như Lai Mật Nhân: Nếu chúng ta y theo Chơn Tâm này
làm nhân địa tu hành, sẽ được thành Phật.
Tu Chứng Liễu Nghĩa: Nếu chúng ta y theo Chơn Tâm mà
tu sẽ chứng chỗ rốt ráo, nên gọi là “tu chứng liễu nghĩa.”
Chư Bồ Tát Vạn Hạnh: Nếu chúng ta y theo Chơn Tâm này
mà thực hành lục độ7 muôn hạnh của Bồ tát, thì chính là đã
thực hành “chư Bồ tát vạn hạnh.”
Thủ Lăng Nghiêm: “Thủ Lăng Nghiêm,” Tàu dịch là “Đại
định kiên cố.” Chữ Đại để chỉ cho cái Bản thể Chơn Tâm
sẵn có của tất cả chúng sanh và chư Phật, nó bao trùm khắp
cả mười phương Pháp giới. Thể tánh ấy thường tịch tịnh
không vọng động nên gọi rằng “Định.” Không bị thời gian
thay đổi, hay không gian chuyển dời, không tăng không
giảm, nên gọi rằng “Kiên cố.”
7 Lục độ: Nói đầy đủ là “lục độ ba la mật” sáu pháp tu đưa đến bờ giải
thoát: Bố thí, Trì giới, Nhẫn nhục, Tinh tấn, Thiền định, Trí huệ.
14
KINH ĐẠI PHẬT ĐẢNH THỦ LĂNG NGHIÊM (T M T T NG N)
15
Quyển I
Phần 1
Kinh này bắt đầu bằng câu “tôi nghe như vầy.”8 Kinh do
Đức Phật dạy tại Tịnh Xá Kỳ oàn, thành Thất La Phiệt.
Pháp hội gồm Đức Phật, các vị Tỳ Kheo, các vị Bồ Tát từ
mười phương đến, và Phật tử tham dự.9
Duyên khởi của kinh:
ua Ba Tư Nặc mở tiệc chay cúng dường Đức Phật. Trong
thành, các trưởng giả, cư sĩ cúng dường trai tăng. uy chỉ có
ngài Anan trước đã nhận lời mời riêng, nên đi khất thực một
mình trong thành. Lúc ấy, khi đi ngang qua nhà người dâm
nữ Ma Đăng Già, ngài bị phép huyễn thuật của cô ta mê
hoặc, bắt vào phòng riêng khiến ngài gần phạm giới. Đức
Phật biết được, ngài phóng quang nói Thần Chú Lăng
Nghiêm rồi bảo ngài ăn Thù Sư Lợi đem Thần Chú đó đến
giúp tiêu diệt tà chú của Ma Đăng Già và đưa ngài Anan
cùng Ma Đăng Già về chỗ của Phật.
ề đến Tịnh Xá, ngài Anan buồn khóc lạy Phật tha thiết xin
Phật chỉ dạy những pháp Xa Ma Tha (Chỉ,) Tam Ma10
(Quán,) và Thiền Na (gồm Chỉ và Quán.)
(Lưu ý: Phần duyên khởi này rất quan trọng. Vì sao? Chính
duyên khởi này đưa đến việc Đức Phật khai thị phần Mật
8 Đức Phật dặn ngài Anan phải dùng câu “tôi nghe như vầy” trước khi kể
lại lời dạy của Đức Phật trong Pháp hội, để tránh tứ chúng hiểu lầm lời
dạy này là của ngài Anan. 9 Kinh Phật thường ghi rõ Pháp hội xảy ra tại nơi nào, và có những ai
tham dự … 10
Tam Ma: Để nói Pháp Quán tưởng, tiếng Phạn thường dùng chữ
Vipassana phiên âm là Tỳ Bà Xá Na! Một vài chỗ trong kinh dùng danh
từ này.
16
giáo, phóng quang đọc Thần Chú “Ma Ha Tát Đát Đa Bát
Đát Ra” thường được gọi là Thần Chú Thủ Lăng Nghiêm để
chỉ dẫn Phật tử, vào thời Mạt Pháp, xây dựng đàn tràng tu
tập như ngài đã dạy rõ trong Kinh Thủ Lăng Nghiêm.)
Phần 2
(Lưu ý: Nên đọc qua tất cả nội dung của kinh để hiểu, nhưng
phải ghi nhớ những nội dung được in đậm để thực hành)
Chỉ bày Chơn Tâm
Đức Phật bảo ngài Anan:”Ông với Ta đồng phái, tình như
anh em ruột. ậy, khi ông mới phát tâm xuất gia, ở trong
Phật Pháp, thấy11
tướng tốt gì của ta mà bỏ được những ân ái
sâu nặng của thế gian?”
Ngài Anan bạch Phật:” Con thấy ba mươi hai tướng tốt của
Như Lai12
nên con khao khát ngưỡng mộ mà xuất gia.”
Đức Phật dạy:”Lành thay Anan! Ông phải biết: “Tất cả
chúng sanh từ vô thủy đến nay, sống chết nối nhau đều do
không biết cái Chơn Tâm Thường Trụ, Thể Tánh vốn
trong sạch, sáng suốt mà lại dùng các Vọng Tưởng chẳng
11
Phật chọn căn mắt (một trong sáu căn: mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý) để
giảng dạy về Tâm. 12
Như Lai là một trong mười danh hiệu của Đức Phật gồm: Như Lai
(thường trụ, không từ đâu đến, cũng không đi về đâu,) Ứng Cúng (người
đáng được cúng dường,) Chánh Biến Tri (người hiểu biết đúng tất cả
Pháp,) Minh Hạnh Túc (người có đủ Trí Huệ và đức hạnh,) Thiện Thệ
(người đã đi một cách tốt đẹp,) Thế Gian Giải (người đã thấu hiểu thế
giới,) ô Thượng Sĩ (đấng tối cao không ai vượt qua,) Điều Ngự Trượng
Phu (người đã chế ngự được bản ngã và nhân loại,) Thiên Nhơn Sư (bậc
thầy của cõi trời và cõi người,) Phật Thế Tôn (bậc giác ngộ được các cõi
tôn kính.)
17
chân thật nên mới có sự chuyển động trôi lăn.13
Nay ông
muốn học đạo Bồ Đề ô Thượng thì phải lấy Tâm Ngay
Thẳng mà trả lời chỗ Ta hỏi không có quanh co.”
“Anan! Nay Ta hỏi ông:”Khi ông do ba mươi hai tướng tốt
của Như Lai mà phát tâm thì ông lấy cái gì mà thấy và lấy
cái gì mà ưa thích?”
Ngài Anan bạch Phật: “Bạch Thế Tôn: con do mắt thấy
tướng tốt của Như Lai tâm sanh ra ưa thích, nên con phát
nguyện lìa bỏ sanh tử.”
Đức Phật bảy lần phá cái chấp của ngài Anan về nơi trú
của Tâm
(Lưu ý: Bảy lần chấp Tâm của ngài Anan, đọc nhưng không
cần phải nhớ.)
Đức Phật bảo: “Nay Ta hỏi ông Tâm và mắt ấy hiện nay ở
chỗ nào?”
1. Chấp Tâm ở trong thân
Ngài Anan bạch Phật: “Con mắt của con ở trên mặt con, còn
cái Tâm Thức hay biết ở trong thân con.”
Đức Phật bảo: “Nếu cái Tâm hiểu biết ở trong thân thì sao nó
không thấy được tim, gan, phổi, bao tử … Đã không biết bên
trong làm sao biết được bên ngoài.”
2. Chấp Tâm ở ngoài thân
Ngài Anan bạch Phật: “Như vậy Tâm con thật ở ngoài thân,
ví như ngọn đèn đặt ở ngoài phòng không thấy vật trong
phòng nhưng thấy vật ở ngoài phòng.”
13
Trôi lăn trong vòng sanh tử luân hồi. Căn bản tu Phật nằm ngay chỗ
này có nghĩa là muốn không còn đau khổ, chúng ta phải “thoát vòng
sanh tử luân hồi.”
18
Đức Phật bảo: “Nếu Tâm ở ngoài thân thì Tâm và thân khác
nhau, chẳng dính líu gì với nhau. ậy thì cái gì Tâm biết thì
thân không thể biết, còn cái gì thân biết thì Tâm không thể
biết. Còn nếu Tâm và thân cùng hay biết thì làm sao Tâm lại
ở ngoài thân?”
3. Chấp Tâm núp sau con mắt
Ngài Anan bạch Phật: “Như vậy, cái Tâm con núp sau con
mắt. í dụ như có người lấy chén lưu ly trong suốt úp vào
đôi mắt, Tâm ở nơi mắt nên không thấy ở trong, nhưng vẫn
thấy bên ngoài qua cái chén, nên con nói Tâm núp sau con
mắt.”
Đức Phật bảo: “Nếu Tâm núp sau con mắt, sao Tâm không
thấy con mắt?”
4. Chấp nhắm mắt thấy tối là thấy bên trong thân
Ngài Anan bạch Phật: “Mở mắt thấy sáng gọi là thấy bên
ngoài; nhắm mắt thấy tối là thấy bên trong. Nghĩa ấy như
thế nào?”
Đức Phật bảo: “Nếu mắt thấy tối thì cái tối ở trước mắt sao
lại ở trong thân? Còn nếu cái tối đó ở trong thân thì khi ở
trong phòng tối không có ánh sáng thì cái gì ở trong nhà tối
đó là tạng phủ của ông sao? ậy ông nói thấy tối gọi là thấy
bên trong thân, thật không có lẽ đó.”
5. Chấp Tâm hợp chỗ nào thì liền có ở chỗ đó
Ngài Anan bạch Phật: “Con thường nghe Phật dạy rằng: “ o
Tâm sanh nên các Pháp sanh. Nay con nghĩ rằng cái Thể
biết suy nghĩ đó mới thật là Tâm của con, hễ hợp với chỗ nào
thì Tâm liền hiện chỗ đó, chứ không phải ở trong, ở ngoài
hay ở chặng giữa.”
Đức Phật bảo ngài Anan: “Cái Tâm ấy nếu không có tự Thể
thì không thể hợp được, còn nếu không có tự Thể mà hợp
19
được thì giới thứ mười chín14
cùng trần thứ bảy hợp lại được
hay sao? Nghĩa ấy không đúng. Còn nếu Tâm ông có tự
Thể thì khi ông lấy tay gải một chi lẽ ra tứ chi15
đều biết, mà
nếu điều biết thì lại không biết gãi chỗ nào, như vậy nói rằng
hợp chỗ nào Tâm liền ở chỗ đó, thật không có lẽ ấy.”
6. Chấp Tâm ở chặng giữa
Ngài Anan bạch Phật: Khi nói về nghĩa Thật Tướng, Thế
Tôn cũng nói rằng: “Tâm không ở trong cũng không ở
ngoài” như vậy Tâm chắc phải ở chặng giữa?”
Đức Phật bảo ngài Anan: Theo ông cái giữa ấy ở chỗ nào, ở
nơi cảnh hay ở nơi thân? Nếu nói ở giữa căn và trần sinh ra
Nhãn Thức thì Tâm ấy gồm cả hai bên hay không gồm cả hai
bên? Nếu gồm cả hai bên thì vật (vô tri) và Tâm Thể (hay
biết) xen lộn lẫn nhau lấy cái gì làm cái giữa? ậy ông nói
cái Tâm ở chặng giữa thật không có lẽ đó.”
7. Chấp Tâm chẳng dinh dán vào đâu cả
Ngài Anan bạch Phật: “Trước đây Phật dạy Tâm không ở
trong, không ở ngoài, không ở chính giữa, tất cả không dính
bám tạm gọi là Tâm, nay con nói không dính bám thì gọi là
Tâm.”
Đức Phật bảo ngài Anan: “Các vật tượng trong thế gian như
hư không và chúng sanh ông cho là có hay không có, nếu
không có tướng tức là không, chẳng lẽ không lại có tướng.
Có tướng thì có chỗ ở, làm sao lại cho là không dính bám
được? ậy, nên biết rằng cái không dính bám vào đâu cả
chính là Tâm hiểu biết thật không có lẽ đó.”
14
Sáu căn, sáu trần, sáu thức cọng lại gọi là mười tám giới. Nay nói giới
thứ mười chín nghĩa là không có. Trần chỉ có sáu, nay nói trần thứ bảy
cũng nghĩa là không có. Cho nên, Đức Phật hỏi hai cái không có hợp lạI
được hay sao? 15
Tứ chi là hai tay và hai chân. Khi nói “một chi” có nghĩa là nói một
tay hay một chân nào đó.
20
Phần 3
Đức Phật chỉ rõ Tánh Thấy
Lúc bấy giờ, từ gương mặt, Đức Phật phóng ra các hào
quang báu, ánh sáng rực rỡ như mặt trời chiếu sáng khắp thế
giới của Chư Phật, sáu thứ chấn động16, các cõi nước nhiều
như vi trần trong mười phương hiện ra cùng một lúc. Trong
các thế giới này, tất cả các vị Bồ Tát hiện có mặt đều an trụ ở
nước mình cung kính chấp tay nghe lời Phật dạy.
Hai thứ căn bản
(Lưu ý: Hai thứ căn bản này phải ghi nhớ)
Đức Phật bảo ngài Anan: “ ết thảy chúng sanh từ vô thủy
đến nay, do không biết hai loại căn bản lầm lẫn tu tập, cũng
như nấu cát mà muốn thành món ngon, dầu trải qua số kiếp
nhiều như bụi, rốt cũng chẳng được. Thế nào là hai loại căn
bản? Anan! Một là: Cội gốc của Sanh Tử từ vô thủy17
.
Tức là ông hiện giờ và các chúng sanh dùng cái Tâm bám
níu theo duyên18
mà làm Tự Tánh19.” ai là: Cái Thể Bổn
16 Sáu cách rúng động trên mặt đất bao gồm:
1. Động: Động tức là động cựa
2. Khởi: Khởi tức là vùng dậy.
3. Dõng: õng tức là phun ra
4. Chấn: Chấn tức là vang dội
5. ống: ống tức là gào lên
6. Kích: Kích tức là đánh ra
Ba thứ chấn động trước gọi là biến hóa của hình thể, ba thứ chấn
động sau gọi là sự biến hóa của âm thanh. Ấy là sáu thứ chấn động nơi
địa cầu, chứng minh cho một đại sự, như khi Phật thành đạo. 17
Cội gốc của Sanh Tử từ vô thủy là “Căn bản vô minh” 18
Cái Tâm bám níu theo duyên là “Vọng Tâm.”
21
Lai Thanh Tịnh Bồ Đề Niết Bàn Vô Thủy, tức là cái Chơn
Tâm vốn sáng soi của ông bây giờ, hay sanh các duyên. Ông lại duyên theo các tướng duyên này mà bỏ quên Chơn
Tâm. Cho nên tuy trọn ngày sử dụng Nó [Chơn Tâm] mà
chẳng tự biết, oan uổng lạc vào sáu nẽo20.”
Nương cái Thấy21
gạn hỏi cái Tâm (Lưu ý: Đoạn này đọc cho biết, không cần phải nhớ)
Đức Phật đưa tay và co năm ngón tay lại, hỏi ngài Anan:
Ông có thấy không?
Ngài Anan bạch Phật: ạ có thấy.
Đức Phật bảo: Ông thấy cái gì?
Ngài Anan trả lời: Con thấy Như Lai đưa tay lên rồi co ngón
thành nắm tay sáng ngời chói Tâm và Mắt của con.”
Đức Phật hỏi: Ông lấy cái gì mà thấy?”
Ngài Anan trả lời: Con và đại chúng đều lấy con mắt mà
thấy.
Đức Phật bảo ngài Anan: Con mắt ông thì thấy, còn ông lấy
cái gì làm Tâm đối với nắm tay chói sáng của Ta?
Ngài Anan bạch Phật: Thưa con lấy cái năng biết suy nghĩ
làm Tâm22
.
Đức Phật bảo: Cái đó chẳng phải là Tâm của ông đâu.
Ngài Anan bạch Phật: Nếu cái ấy không phải là Tâm của con
thì gọi là cái gì?
19
Tự Tánh cũng gọi là Chơn Tâm, Phật Tánh … 20
Sáu nẽo còn gọi là sáu đường: Theo quan niệm về vũ trụ (vũ trụ quan)
của Phật giáo, chúng sanh chết và tái sanh vào sáu đường tùy theo nghiệp
(hành động) của mình trong kiếp sống trước, còn gọi là “vòng sanh tử
luân hồi.” Sáu đường gồm: Địa ngục, Ngạ quỹ, Súc sanh, A tu la, Người,
Trời (Thiên) 21
Đức Phật dùng cái Thấy (mắt, một trong sáu Căn: mắt, tai, mũi, lưỡi,
thân, ý) để giảng dạy. 22
Cái năng biết suy nghĩ là ọng Tâm, trong lúc đó Đức Phật muốn ngài
Anan chỉ bày cái Chơn Tâm.
22
Đức Phật bảo: Đó là cái Tưởng tạo nên các tướng hư vọng
của tiền trần23, nó làm mê lầm Chơn Tánh của ông. Do
từ vô thủy đến nay, ông nhận tên giặc đó làm con, bèn mất đi
cái ốn Thường ằng24
của ông nên phải chịu luân hồi.
Ngài Anan bạch Phật: Từ lâu nay con dùng cái Tâm này, nay
Như Lai nói đó không phải là Tâm, như vậy con không có
Tâm sao? Kính xin Phật rũ lòng từ bi chỉ bày.
Khi ấy Đức Thế Tôn liền khai thị cho ngài Anan và đại
chúng muốn được ô Sanh Pháp Nhẫn25. Ngài nói: Như
Lai thường nói các Pháp26
sanh ra đều do Tâm hiện. Hãy
phân biệt, nếu rời cái tiền trần mà có cái phân biệt (cái
biết nói chung) thì đó mới là Chơn Tâm của ông; còn nếu
rời tiền trần mà không có cái phân biệt (cái biết) thì đó chỉ là
sự phân biệt bóng dáng tiền trần ( ọng Tâm) mà thôi không
thể chứng ô Sanh Pháp Nhẫn.
Tánh Thấy không phải là con mắt
Phật bảo ngài Anan: ết thảy những người tu học trong thế
gian hiện tuy thành được chín bậc định27
thứ lớp mà chẳng
được hết lậu để thành A la hán, đều do chấp lấy cái vọng
tưởng sanh tử này mà lầm cho là chân thật. Thế nên, ông
nay tuy được đa văn mà không thành Quả Thánh.
Ngài Anan khóc than và biết rằng nếu có đa văn mà chẳng
tu hành thì chẳng khác gì chưa từng được nghe đạo, như
người chỉ nói chuyện ăn rốt cuộc chẳng được no.
Liền khi ấy, Như Lai từ chữ ạn ở ngực phóng ra ánh sáng
báu, chiếu khắp tất cả thế giới của Chư Phật mười phương
như số vi trần. ào quang rưới khắp Đảnh các Đức Như Lai
23
Tất cả những gì là đối tượng của sáu căn thì được gọi là “tiền trần.” 24
Cái “ ốn Thường Hằng” chỉ cho Chơn Tâm. 25
Vô Sanh Pháp Nhẫn là quả vị không còn tái sanh nữa. 26
Các Pháp ở đây có nghĩa là tất cả núi sông, đất đai, chúng sanh... 27
Chín bậc định gồm: Sơ Thiền, Nhị Thiền, Tam Thiền, Tứ Thiền,
Không Vô Biên Xứ, Thức Vô Biên Xứ. Vô Sở Hữu Xứ, Phi Tưởng Phi
Phi Tưởng Xứ, Diệt Thọ Tưởng Định (cũng còn gọi là Diệt Tận Định.)
23
của mười phương cõi báu, rồi xoay về chiếu sáng đến ngài
Anan và đại chúng.
Phật hỏi ngài Anan: Nếu không có bàn tay Ta thì không có
nắm tay của Ta và nếu không có con mắt của ông thì không
thành cái thấy của ông. ậy thì lấy nhãn căn (con mắt) của
ông mà so với nắm tay của Ta, cái nghĩa có tương xứng
không?
Ngài Anan bạch Phật: Bạch Phật có nghĩa giống nhau.
Đức Phật bảo: Ông nói giống nhau nghĩa không đúng.
Người không có bàn tay thì không có nắm tay, nhưng người
mù vẫn thấy tối đen, tiền trần tối đen chứ cái thấy nào có hao
kém gì?
Ngài Anan thưa: Trước mắt người mù thấy đen sao gọi là
thấy được?
Đức Phật bảo ngài Anan: Người mù không có con mắt chỉ
thấy tối đen, so với người có mắt trong nhà tối thì hai cái tối
đen ấy không giống nhau. ì nếu người mù mắt được sáng
lại thì người ta bảo mắt người ấy thấy mọi sự vật. Trong lúc
đó, nếu người ở trong phòng tối bổng có đèn đốt sáng lên
liền thấy mọi vật, lẽ ra phải nói cái đèn tự nó thấy, nhưng cái
đèn đâu có tự thấy được. Đèn chỉ làm sáng các hình sắc và
mắt thấy chứ không phải đèn. Mắt làm sáng tỏ các sắc
nhưng Tánh Thấy là Tâm chứ chẳng phải mắt.
Ý nghĩa chủ và khách
(Lưu ý: Phần này đọc để hiểu, không có gì khó khăn)
Ngài Kiều Trần Như bạch Phật: Con nghĩ như vầy: Không ở
yên mãi thì gọi là Khách, còn ở mãi là Chủ, giống như người
khách đi đường vào nghỉ nơi quán trọ, sau đó lại đi, còn
người chủ quán trọ thì chẳng đi đâu cả. Lại nữa, ánh sáng
mặt trời qua khe hở chiếu rõ bụi trần dao động trong hư
không lặng yên. Như vậy, lay động gọi là trần, đứng lặng là
hư không.
Đức Phật bảo: Đúng vậy!
24
Khi ấy Đức Như Lai co năm ngón tay lại, rồi mở ra, và hỏi
ngài Anan rằng ông thấy gì?
Ngài Anan đáp: Con thấy bàn tay của Như Lai lúc nắm, lúc
mở.
Đức Phật bảo ngài Anan: Ông thấy tay Ta khi nắm, khi mở,
đó là tay Ta có mở có nắm hay là cái Thấy của ông có mở có
nắm?
Ngài Anan thưa: Bàn tay của Phật có nắm có mở, chẳng phải
cái Tánh Thấy của con có mở có nắm.
Đức Phật hỏi: Cái gì Động, cái gì Tĩnh?
Ngài Anan thưa: Bàn tay của Phật không ở yên (Động) còn
Tánh Thấy của con còn không có Tĩnh, lấy gì gọi là không ở
yên được.
Phật dạy: Đúng thế!
Khi ấy, từ trong bàn tay Phật phát ra một đạo hào quang
chiếu qua bên phải ngài Anan, ngài Anan liền quay đầu trông
qua bên phải; Phật lại phóng quang qua bên tay trái ngài
Anan, ngài Anan lại quay đầu trông qua bên trái.
Đức Phật bảo: ôm nay vì sao đầu ông dao động?
Ngài Anan bạch Phật: Con thấy hào quang của Phật chiếu
qua bên phải rồi lại qua bên trái, nên đầu con tự dao động.
Đức Phật hỏi: Như vậy, đầu ông động hay cái Thấy của ông
động?
Ngài Anan bạch Phật: Thưa Thế Tôn, đầu con động chứ
Tánh Thấy của con thì dừng đứng còn chẳng có, lấy gì mà
dao động.
Đức Phật dạy: Đúng thế!
Lúc bấy giờ Như Lai bảo cùng tất cả đại chúng: Các chúng
sanh lấy cái dao động mà gọi là Trần, lấy cái không ở yên
gọi là Khách, các ông hãy xem ông Anan đầu tự dao động
mà cái Thấy không có chỗ động. Bàn tay của Ta có khi nắm
khi mở mà cái Thấy không duỗi không co. Cớ sao các ông
hiện nay lại lấy cái động làm Thân, làm Cảnh, từ đầu đến
cuối niệm niệm sanh diệt. bỏ mất Chân Tánh, làm việc
điên đảo, mất chỗ Chân Thật, nhận vật làm mình, luân hồi
trong ấy, tự mình chọn lấy sự trôi nổi đổi thay?
25
Quyển II
Phần 4
Chỉ Tánh Thấy không sanh diệt
(Lưu ý: Phần này đọc để hiểu, không có gì khó khăn)
Khi ấy, vua Ba Tư Nặc đứng lên bạch Phật: Kính xin Phật
chỉ rõ làm thế nào chứng biết chỗ Chẳng Sanh iệt của Tâm
này.
Phật hỏi: Đại ương! Thân ông hiện nay có giống được như
kim cang còn hoài chẳng hoại, hay lại biến đổi và tan rã?
“Bạch Thế Tôn! Cái thân đây của con rốt cuộc rồi cũng thay
đổi và tiêu diệt.”
Đức Phật bảo: Đại ương! Ông chưa từng diệt làm sao lại
biết là phải bị diệt?
“Bạch Thế Tôn! ồi còn bé nhỏ, da con mịn màng, đến lúc
này tóc bạc da nhăn, sống chẳng còn bao lâu.”
Đức Phật bảo: Đại ương! Ông thấy thân ông biến đổi
không ngừng, rõ là phải diệt. ậy, ông có biết trong thân
ông có cái gì không diệt không?
ua Ba Tư Nặc chấp tay bạch Phật: Con thật không biết.
Đức Phật dạy: Nay Ta sẽ chỉ cho ông rõ cái Tánh Không
Sanh iệt. Đại ương! Ông năm mấy tuổi thì thấy sông
ằng?
ua bạch: Khi con lên ba, mẹ con dẫn con đi qua sông ằng.
Đức Phật bảo: Đại ương! Như lời ông nói khi ba tuổi ông
thấy nước sông ằng, nay ông đã già thì nước ấy có gì thay
đổi không?
ua bạch: Thưa, cũng như khi lên ba, chẳng khác gì.
Đức Phật bảo: Này Đại ương! Mặt ông tuy nhăn, nhưng
Tánh của cái Thấy chưa hề bị nhăn. Cái nhăn thì thay đổi,
còn cái không bị nhăn thì chẳng thay đổi. Cái thay đổi thì
phải diệt, còn cái không thay đổi thì vốn không sanh, không
diệt.
26
Chỉ chỗ điên đảo
Ngài Anan liền bạch Phật rằng: Thưa Thế Tôn! Nếu cái
Thấy, Nghe này thật không sanh diệt thì tại sao Đức Thế Tôn
lại bảo rằng chúng con đều bỏ mất Chân Tánh, làm việc điên
đảo, lộn ngược. Cúi xin Phật mở lòng từ bi rửa sạch trần cấu
cho chúng con.
Khi ấy, Đức Như Lai liền duỗi cánh tay, ngón tay chỉ xuống,
hỏi ngài Anan: Như nay ông thấy tay của Ta là chánh hay
đảo?
Ngài Anan bạch Phật: Chúng sanh thế gian cho là đảo
ngược, còn con thì chẳng biết cái nào là chánh, cái nào là
đảo.
Đức Phật bảo: Nếu người thế gian cho như thế là đảo ngược,
như vậy thế nào là chánh?
Ngài Anan bạch Phật: Đức Như Lai đưa tay chỉ lên là chánh.
Đức Phật bảo: Cánh tay đảo ngược như thế chỉ là đầu đuôi
thay đổi lẫn nhau mà thôi. Nay lấy cái thân ông và Pháp
Thân Thanh Tịnh của Như Lai mà so sánh thì thân của Như
Lai gọi là Chánh Biến Tri, còn thân của ông gọi là Tánh
Điên Đảo. Tùy ông xét kỹ: Thân ông, thân Phật, cái gọi là
điên đảo lộn ngược đó, do ở chỗ nào mà gọi là điên đảo?
Khi ấy, ngài Anan và đại chúng sửng sốt nhìn Phật chẳng
biết Thân Tâm chỗ nào điên đảo? Đức Phật khởi lòng từ bi,
thương xót, phát tiếng hải triều bảo khắp trong hội: Ta
thường dạy rằng: Sắc Tâm, các duyên và các Tâm Sở, các
Pháp sở duyên đều duy Tâm mà hiện. Thân ông và Tâm
( ọng Tâm) ông đều là những vật hiện ra ở trong cái Diệu
Tâm Mầu Sáng Thuần Chân (Chơn Tâm.) Tại sao ông bỏ
mất cái Tâm mà Tánh nó vốn nhiệm mầu, tròn sáng, quý báu
để nhận lấy sự mê lầm trong cái vốn đã Giác ngộ?
Mê muội (vô minh) thành có Hư Không. Trong hư không
mê muội ấy, kết cái tối ám thành Sắc, Sắc xen lẫn với vọng
tưởng ra hình tướng làm Thân. Nhóm các duyên dao động
bên trong, giong ruổi theo bên ngoài, rồi lấy cái tướng mù
mịt lăng xăng đó làm Tâm. Một phen mê lầm cái tướng ấy
27
làm Tâm thì đưa tới cái lầm là Tâm ở trong sắc thân, mà
chẳng biết rằng từ sắc thân cho đến núi sông, hư không,
đất đai bên ngoài, hết thảy đều là vật hiện ra trong cái
Diệu Minh Chơn Tâm này. [Phần này nói vì vô minh mà
sanh ra núi sông, đất đai và chúng sanh …, khó có thể suy
nghĩ được, chúng ta chỉ tin lời Phật dạy rồi tu tập, đến khi
thành Phật sẽ biết.]
Lựa bỏ Tâm phan duyên để chỉ tánh Thấy không trả về
đâu
Phật bảo ngài Anan: Nếu các ông còn lấy cái Tâm phan
duyên để nghe Pháp thì Pháp đó cũng chỉ là cái sở duyên
(được duyên) chứ chẳng phải là Pháp Tánh28. í như có
người lấy ngón tay chỉ mặt trăng cho người kia, mà người
kia chỉ nhìn vào ngón tay thì làm sao thấy được cái sáng của
mặt trăng? Lại nữa, nếu các ông lấy cái phân biệt pháp âm
của Ta mà làm Tâm của ông, thì cái Tâm [phân biệt] ấy
phải rời tiếng nói mà vẫn tự nó có tánh phân biệt. í như
người khách ngủ trọ nơi quán rồi lại đi, trong lúc đó người
chủ quán thì chẳng đi đâu cả. Ở đây cũng thế, nếu thật là
Tâm của ông thì chẳng đi đâu cả.
Ngài Anan thưa: Nếu Tâm Tánh của con đều mỗi mỗi đều có
chỗ trả về, thì cái Diệu Minh Nguyên Tâm mà Như Lai nói
đó sao lại không trả về?
Phật bảo ngài Anan: Nay Ta trả cái sáng về cho mặt trời, cái
tối trả về cho đêm không trăng, thông suốt trả về cho các
cửa, ngăn bít trả về cho tường vách, sắc duyên trả về cho
phân biệt, trống rỗng trả về cho hư không, mù mịt trả về cho
bụi bặm, trong sáng trả về cho trời tạnh. Tất cả mọi vật gì
trong thế gian đều không ra ngoài những loại ấy. Còn cái
Thấy của ông thấy tám thứ kia thì ông định trả về đâu? Tám
thứ kia có sai biệt, còn Cái Thấy không có sai biệt. Các thứ
có thể trả về tất nhiên không phải là ông, còn cái không trả
28
Pháp Tánh thì không có năng (chủ thể) và sở (đối tượng.)
28
về được, không phải chính ông thì là ai? Thế mới biết rằng
Tâm ông vốn nhiệm mầu, sáng sạch, ông tự mê muội bỏ
mất Bổn Tánh mà chịu luân hồi sanh tử, thường bị chìm
đắm, thế nên Như Lai nói rất đáng thương xót vậy!
Lựa riêng trần cảnh để nêu ra Tánh Thấy
Ngài Anan bạch Phật: Tuy con biết Tánh Thấy không thể trả
về đâu, nhưng làm sao biết đó là Chân Tánh của con?
Phật bảo ngài Anan: Anan! Cùng tột sức Thấy của ông, núi
sông, người vật, … đều là vật chứ không phải là ông. Các
vật ấy xa gần tuy sai khác nhau nhưng đồng do cái Thấy
trong sạch (Kiến Tinh) của ông trông thấy, thì các vật đó tuy
có sai khác mà Tánh Thấy không sai khác. Cái Tinh Diệu
Minh (trong sáng, mầu nhiệm, sáng suốt) này là Tánh Thấy
của ông. Tất cả chúng sanh từ vô thủy đến nay, mê mình
làm vật, bỏ mất Bản Tâm, bị vật xoay chuyển, cho nên ở
trong đó mà thấy lớn, thấy nhỏ. Nếu có thể chuyển được
vật thì đồng với Như Lai, Thân Tâm tròn sáng. Đó là
Đạo Tràng Bất Động, trên đầu một mảy lông, trùm chứa
mười phương quốc độ29
.
Phần 5
Đức Phật nêu ra Tánh Thấy ngoài các nghĩa “Phải” và
“Chẳng Phải”
Ngài Anan bạch Phật: Thưa Thế Tôn! Nếu cái Thấy đó thật
là iệu Tánh của con, thì cái Chân Tánh hiện đang trước mặt
con.
Phật bảo ngài Anan: Nếu cái Thấy đang ở trước mặt ông thì
ông hãy lấy tay chỉ rõ đích xác cái gì là cái Thấy?
29
Chơn Tâm bao trùm tất cả, sợi lông rất nhỏ nằm trong Chơn Tâm như
vậy là một với Chơn Tâm.
29
Ngài Anan bạch Phật: Thưa Thế Tôn! Chẳng những hàng
hữu lậu sơ học Thanh ăn như chúng con mà cho đên các vị
Bồ Tát cũng không thể ở nơi hiện tượng muôn vật mà có thể
chỉ ra cái Thấy lìa ngoài tất cả vật lại có riêng Tự Tánh.
Đức Phật bảo: Đúng thế! Đúng Thế! Mười phương Như Lai
và các Đại Bồ Tát ở trong Tự Trụ Tam Ma Địa30
, ở trong
ấy, cái Thấy và cái được thấy cùng các chỗ Tưởng Tướng
đều như hoa đốm giữa hư không, vốn không chỗ có cái
Thấy cho đến những cái được Thấy, tất cả vốn là Thể Bồ
Đề31
sáng sạch nhiệm mầu. Làm sao ở trong đó lại có Phải
hay Chẳng Phải32
?
Phần 6
Chỉ thẳng Tánh Thấy
Đức Phật bảo: Anan ông nên biết rằng: Khi thấy sáng, cái
Thấy chẳng phải là sáng; khi thấy tối, cái Thấy chẳng phải là
tối; khi thấy không, cái thấy chẳng phải là cái không; khi
thấy ngăn bít, cái Thấy chẳng phải là ngăn bít. Đây là bốn
nghĩa đã thành rồi vậy!
Ông lại nên biết: Khi thấy mà có Tướng Thấy, cái thấy đó
chẳng phải là Tánh Thấy. Cái Thấy mà do lìa Tướng Thấy
vẫn có, đó mới là Tánh Thấy siêu việt. [Câu này phải ghi
nhớ trong tim.]
30
Tam Ma Địa là âm chữ Phạn Samadhi có nghĩa là Chánh Định. 31
Tất cả vốn Thể Bồ Đề có nghĩa là tất cả đưa về Như Lai Tạng (Chơn
Tâm.) 32
Không còn sự đối đãi, bất nhị (không hai).
30
Phần 7
Chỉ ra cái Vọng Thấy (Lưu ý: Phần này cần đọc để hiểu)
Đức Phật dạy: Này Anan! Tất cả chúng sanh luân hồi trong
thế gian đều do hai thứ vọng thấy điên đảo phân biệt ngay
nơi Tâm Tánh mà phát sanh, ngay theo nghiệp mà xoay vần.
Thế nào là hai thứ vọng thấy? Một là ọng Thấy Biệt
Nghiệp của chúng sanh, hai là ọng Thấy Đồng Phận của
chúng sanh.
Thế nào là Vọng Thấy Biệt Nghiệp33? Anan! Như người bị
nhặm mắt ban đêm nhìn ngọn đèn thấy có năm màu bao phủ.
Tuy nhiên, người không bị nhặm mắt, nhìn ngọn đèn lại
không thấy có năm màu bao phủ. Cho nên cái thấy có năm
màu bao phủ là do bệnh nhặm mắt mà ra. Còn cái thấy được
bệnh nhặm mắt thì vốn chẳng phải là bệnh vậy. Cho nên
người trí không nên đi tìm căn nguyên của năm màu do
mắt nhặm sanh ra là có hình tướng hay chẳng có hình
tướng. [Vì sao vậy? Năm màu là do mắt bị nhặm vọng sanh
ra, không thực có hình tướng, cho nên không thể hỏi về căn
nguyên của hình tướng của năm màu?]
Thế nào là Vọng Thấy Đồng Phận34
? Anan! Cõi Diêm
Phù Đề này, ngoài nước biển ra, trong đó có ba ngàn Châu
(lục địa.) Nếu ở trong đó có một Châu nhỏ chỉ có hai nước
mà riêng người trong một nước đồng cảm ác duyên, thì
chúng sanh trong nước đó thấy tất cả những cảnh giới không
tốt, còn chúng sanh trong nước gần bên thì không thấy.
33
Biệt nghiệp là nghiệp riêng của mỗi chúng sanh. 34
Đồng Phận cũng gọi là Cộng nghiệp, nghiệp chung của một số chúng
sanh.
31
Phần 8
Tánh Thấy không phải là Cái Thấy
Đức Phật dạy: Này Anan! iện giờ, ông dùng con mắt xem
thấy núi sông, cõi nước và chúng sanh đều là do cái Bệnh
Thấy từ vô thủy35
tạo thành. Cái thấy và vật được thấy
hình như hiện ra nơi tiền cảnh, nhưng thật ra đó vốn chỉ là
cái bệnh nhặm mắt thành lòa, cho nên thấy có Năng Kiến
(cái thấy) và Sở Kiến (vật được thấy) hiện ở trong cái Giác
Minh (Bổn Giác Minh Tâm36
) mà thôi.
Tóm lại, hai cái thấy Vọng Thấy Biệt Nghiệp và Vọng
Thấy Đồng Phận đều do cái Thấy Hư Vọng từ vô thủy
sanh ra. Chính cái bệnh duyên hư vọng tạo thành thấy
nghe hay biết, hòa hợp mà giả dối sanh ra, hòa hợp giả dối
mà diệt mất. Cho nên, nếu xa lìa các bệnh duyên hòa hợp
và chẳng hòa hợp này, tức thời diệt được các nguyên
nhân sanh tử, trọn đủ Thể Bồ Đề Không Sanh, Không
Diệt. [Câu này là cốt tủy của sự tu tập.] Đó là cái Bản Tâm
xưa nay trong sạch (Chơn Tâm,) cái vốn Giác Ngộ Thường
Trụ xưa nay. Thêm vào đó, phải hiểu rằng Bản Giác không
phải hòa hợp mà sanh, cũng không phải không hòa hợp.
Phần 9
(Lưu ý: Phần này đọc để hiểu, và nhớ rằng năm Ấm đều giả
dối)
Tóm thu về Như Lai Tạng
Đức Phật dạy: Anan! Ông còn chưa rõ tất cả các tướng
huyễn hóa nơi tiền trần, chính nơi tâm mà sinh ra, rồi
theo nơi tâm mà diệt mất. Cái huyễn hóa giả dối gọi là
35
Bệnh Thấy từ vô thủy còn gọi là Căn Bản Vô Minh. 36
Bổn Giác Minh Tâm còn gọi là Chơn Tâm, Phật Tánh …
32
Tướng, mà cái Tánh chính là tâm tánh nhiệm mầu sáng
suốt; như vậy, cho đến năm ấm, sáu nhập, mười hai xứ và
mười tám giới, nhân duyên hòa hợp giả dối có sinh ra, nhân
duyên chia lìa giả dối gọi rằng diệt; mà không biết rằng sinh,
diệt, đi, lại đều vốn là tánh chân như cùng khắp, không
lay động, nhiệm mầu, sáng suốt, thường trụ của Như Lai
Tạng. Trong tâm tánh chân thường đó, cầu cho ra những cái
đi, lại, mê, ngộ, sống, chết, hẳn không thể được. [Phần tiếp
theo, đức Phật giảng chi tiết về Năm Ấm (Ngũ Ấm, cũng gọi
là Ngũ Uẩn) năm thành phần duyên hợp nên con người.
Phần này chỉ đọc để biết rằng Năm Ấm là không thực, không
cần phải thuộc vì ngoài phạm vi hiểu biết của chúng ta và
ngoài sự cần thiết trong pháp tu nhập đàn tràng Lăng
Nghiêm của chúng ta.]
Thu Sắc Ấm
"Anan! Làm sao năm Ấm37
vốn là tánh chân như nhiệm mầu
của Như Lai Tạng? Anan! í như có người đem con mắt
trong sạch, xem hư không trong sáng, chỉ thấy một hư không
trong sáng, hẳn không thấy gì khác. Người kia, không lý do
gì, lại bắt con mắt không lay động; ngó chăm mãi, phát ra
mỏi mệt thì ở giữa hư không, riêng thấy có hoa đốm lăng
xăng và có tất cả những tướng giả dối lộn xộn; nên biết Sắc
Ấm cũng lại như vậy. [Nơi đây, đức Phật dùng ví dụ con
mắt ngó lâu mệt mỏi nên thấy có hoa đớm để gợi ý cho
chúng ta tự hiểu được sự thành hình của Sắc Ấm.]
Anan! Các hoa đốm lăng xăng ấy, không phải từ hư không
mà đến, không phải từ con mắt mà ra. Thật vậy, Anan! Nếu
từ hư không mà đến, thì phải trở về hư không; mà đã có ra có
vào, thì không phải là hư không nữa. ư không, nếu lại
không phải là hư không, thì tự nhiên không thể dung nạp hoa
37
Năm Ấm: Sắc, Thọ, Tưởng, Hành, Thức.
33
đóm sinh diệt trong ấy, như thân thể ông Anan không dung
nạp được một ông Anan nữa.
Nếu, hoa đốm từ con mắt mà ra, thì nếu đã từ con mắt mà ra,
tất rồi phải trở vào con mắt; lại cái tánh hoa đốm ấy đã từ
con mắt mà ra, thì lẽ ra phải có thấy. Nếu như có thấy thì khi
đi ra, đã làm hoa đốm giữa hư không, đến khi xoay về, phải
thấy được con mắt. Nếu không có thấy, thì khi đi ra đã làm
mờ hư không, đến khi trở về phải làm mờ con mắt. Lại như
thế, khi thấy hoa đốm, lẽ ra con mắt không mờ, làm sao, chỉ
khi thấy hư không trong suốt, thì mới gọi là con mắt trong
sáng? ậy nên biết rằng Sắc Ấm là giả dối, vốn không phải
tánh nhân duyên, không phải tánh tự nhiên.
Thu Thọ Ấm
Anan! í như có người tay chân yên ổn, trăm vóc điều hòa,
bỗng như quên mình, không có gì là trái là thuận; người ấy
không lý do gì, lấy hai bàn tay xoa nhau giữa hư không, thì
nơi hai bàn tay giả dối sinh ra những cảm xúc trơn, rít, lạnh,
nóng. Nên biết Thọ Ấm cũng lại như vậy.
Anan! Các cảm xúc giả dối kia, không phải từ hư không mà
đến, không phải từ bàn tay mà ra. Thật vậy, Anan! Nếu từ hư
không mà đến, thì đã sinh cảm xúc nơi bàn tay, sao lại không
sinh cảm xúc nơi thân thể, không lẽ hư không lại biết lựa chỗ
sinh ra cảm xúc. Nếu như từ bàn tay mà ra, thì lẽ ra không
cần hai bàn tay phải hợp lại. Lại nữa, đã từ bàn tay mà ra, thì
khi bàn tay hợp lại, biết có cảm xúc, đến khi bàn tay rời ra,
thì cảm xúc phải chạy vào và xương tủy cánh tay, lẽ ra phải
biết đường vào của cảm xúc; rồi lại phải có tâm hay biết, biết
ra, biết vào, và phải có một vật đi lại trong thân, sao lại phải
chờ đến hai tay hợp lại mới gọi là cảm xúc. ậy nên biết rằng
34
Thọ Ấm là giả dối, vốn không phải tánh nhân duyên, không
phải tánh tự nhiên.
Thu Tưởng Ấm
Anan! í như có người, khi nghe nói đến quả mơ chua thì
trong miệng có nước bọt chảy ra; khi nghĩ đến đứng trên dốc
cao thì lòng bàn chân ghê rợn. Nên biết Tưởng Ấm cũng lại
như vậy.
Anan! Câu chuyện mơ chua như thế, không phải do quả mơ
sinh ra, không phải do cái miệng mà vào. Thật vậy, Anan!
Nếu do quả mơ sinh ra, thì quả mơ tự nói lấy, sao phải đợi
người ta nói; nếu do cái miệng mà vào, thì lẽ ra cái miệng tự
nghe lấy, cần gì đến lỗ tai; nếu riêng mình lỗ tai nghe, thì
nước bọt kia, sao không từ lỗ tai chảy ra. Câu chuyện nghĩ
đến đứng trên dốc cao cũng giống như vậy. ậy nên biết
rằng Tưởng Ấm là giả dối, vốn không phải tánh nhân
duyên, không phải tánh tự nhiên.
Thu Hành Ấm
Anan! í như dòng nước dốc, sóng mòi nối nhau, lớp trước
lớp sau, không vượt khỏi nhau. Nên biết ành Ấm cũng lại
như vậy.
Anan! òng nước như vậy không nhân hư không mà sinh,
không nhân nước mà có, không phải tánh nước, cũng không
ra ngoài hư không và nước. Thật vậy, Anan! Nếu nhân hư
không mà sinh, thì cả thập phương hư không vô cùng tận,
phải thành dòng nước vô cùng tận và tự nhiên thế giới đều bị
chìm đắm cả. Nếu nhân nước mà có, thì dòng nước dốc ấy
bản tánh lẽ ra không phải là nước nữa và hiện nay, đã có thể
chỉ ra hai tướng của nước và của dòng nước khác nhau. Nếu
dòng nước dốc tức là tánh nước thì khi nước đứng lại, lẽ ra
35
không phải là nước nữa; nếu ra ngoài hư không và nước thì
không có cái gì ở ngoài hư không và, ngoài nước ra, không
thể có dòng nước. ậy nên biết rằng Hành Ấm là giả dối,
vốn không phải tánh nhân duyên, không phải tánh tự nhiên.
Thu Thức Ấm
Anan! í như có người lấy bình tần già, bít cả hai lỗ, rồi vác
đầy bình hư không, đi xa nghìn dặm, đem cho nước khác.
Nên biết Thức Ấm cũng lại như vậy.
Anan! Cái hư không đó, không phải đến từ phương kia,
cũng không phải đưa vào phương nầy. Thật vậy, Anan! Nếu
đến từ phương kia, thì trong cái bình đã đựng hư không đem
đi, ở chỗ cũ cái bình phải thiếu hư không; nếu đưa vào
phương nầy, thì khi mở miệng bình trút ra, phải thấy hư
không ra. ậy nên biết rằng Thức Ấm là giả dối, vốn không
phải tánh nhân duyên, không phải tánh tự nhiên.
36
KINH ĐẠI PHẬT ĐẢNH THỦ LĂNG NGHIÊM (T M T T NG N)
37
Quyển III
Thu Sáu Nhập38
(Lưu ý: Phần này đọc để hiểu, và nhớ rằng sáu nhập cũng là
giả dối)
Thu nhãn nhập
"Lại nữa, Anan! vì sao bản tánh của sáu nhập, vốn là tánh
chân như nhiệm mầu của Như Lai Tạng? Anan! tức nơi
tròng con mắt kia, ngó chăm phát ra mỏi mệt, thì cả cái thấy
và cái mỏi mệt đó đều là thể tánh Bồ Đề, chăm chú phát ra
tướng mỏi mệt.
Nhân nơi hai thứ vọng trần sáng và tối, phát ra cái thấy bên
trong, thu nạp các trần tướng ấy gọi là tánh thấy; cái thấy đó
rời hai trần sáng và tối kia, rốt ráo không có tự thể. Thật vậy,
Anan! Ông nên biết cái thấy đó không phải từ nơi sáng, nơi
tối mà đến, không phải từ nơi con mắt mà ra, cũng không
phải do cái hư không mà sinh. Vì cớ sao? Nếu từ cái sáng mà
đến, thì khi tối đã theo cái sáng mà diệt, lẽ ra không thấy
được tối. Nếu từ cái tối mà đến, thì khi sáng phải theo cái tối
mà diệt, lẽ ra không thấy được sáng. Nếu do con mắt mà
sinh, hẳn không có sáng, có tối, thì cái thấy như vậy vốn
không tự tánh. Nếu do hư không mà ra, thì ngó trước thấy
các trần tượng, xoay về phải thấy con mắt; lại hư không tự
thấy, nào có dính gì chỗ thu nạp của ông. ậy nên biết rằng
nhãn nhập là giả dối (hư vọng,) vốn không phải tánh nhân
duyên, không phải tánh tự nhiên.
Thu nhĩ nhập
"Anan! Ví như người lấy hai ngón tay bít chặt hai lỗ tai, do
lỗ tai mỏi mệt, trong đầu hóa ra có tiếng; cả cái nghe cùng
38
Sáu Nhập: Nhãn (Mắt,) Nhĩ (Tai,) Tỷ (Mũi,) Thiệt (lưỡi,) Thân, Ý.
38
cái mỏi mệt đồng là thể tánh Bồ Đề, chăm chú phát ra tướng
mỏi mệt.
Nhân nơi hai thứ vọng trần động và tĩnh, phát ra cái nghe ở
trong, thu nạp cái trần tượng đó, gọi là tánh nghe. Tánh nghe
ấy rời hai trần động, tĩnh kia, rốt ráo không có tự thể. Thật
vậy, Anan! Ông nên biết, cái nghe đó không phải từ nơi
động, nơi tĩnh mà đến, không phải từ nơi lỗ tai mà ra, không
phải do hư không mà sinh. ì cớ sao? Nếu cái nghe kia từ
nơi tĩnh mà đến, thì khi động phải theo cái tĩnh mà diệt, lẽ ra
không nghe được động. Nếu từ nơi động mà đến, thì khi tĩnh
sẽ theo cái động mà diệt, lẽ ra không biết được tĩnh. Nếu do
lỗ tai mà sinh, hẳn không có động, có tĩnh, thì cái nghe như
vậy vốn không tự tánh. Nếu do hư không mà ra, thì đã có
tánh nghe, chắc không phải là hư không nữa; lại hư không tự
nghe, nào có dính gì chỗ thu nạp của ông. ậy nên biết rằng
nhĩ nhập là giả dối, vốn không phải tánh nhân duyên, không
phải tánh tự nhiên.
Thu tỷ nhập
"Anan! í như có người bít gấp hai lỗ mũi, bít lâu thành ra
mỏi mệt thì ở, trong lỗ mũi, nghe có cảm xúc lạnh; nhân
những cảm xúc như thế, mà phân biệt được là thông, là ngăn
bít, là rỗng, là đặc, cho đến các mùi thơm, thối; cả cái ngửi
cùng cái mỏi mệt đồng là thể tánh Bồ Đề, chăm chú phát ra
tướng mỏi mệt.
Nhân nơi hai thứ vọng trần thông và bít, phát ra cái ngửi ở
trong, thu nạp các trần tượng đó gọi là tánh biết ngửi. Cái
ngửi đó rời hai trần thông và bít kia, rốt ráo không có tự thể.
Nên biết cái ngửi đó, không phải từ cái thông, cái bít mà đến,
không phải từ nơi lỗ mũi mà ra, cũng không phải do hư
không mà sinh. ì cớ sao? Nếu từ cái thông mà đến, thì khi
39
bít, cái ngửi đã mất rồi, làm sao mà biết được bít; nếu nhân
cái bít mà có, thì khi thông, không còn cái ngửi, làm sao biết
được các mùi thơm, thối. Nếu từ lổ mũi sinh ra, hẳn không
có cái thông, cái bít, thì cái ngửi như vậy vốn không tự tánh.
Nếu do hư không mà ra, thì cái ngửi đó, phải xoay lại ngửi lỗ
mũi của ông; lại hư không tự ngửi, nào có dính gì chỗ thu
nạp của ông. ậy nên biết rằng tỷ nhập là giả dối, vốn
không phải tánh nhân duyên, không phải tánh tự nhiên.
Thu thiệt nhập
"Anan! í như có người dùng lưỡi liếm mép, liếm mãi sinh
ra mỏi mệt. Nếu người đó có bệnh thì có vị đắng. Còn người
không có bệnh thì có chút vị ngọt. o những cảm xúc ngọt,
đắng, mà bày tỏ cái tánh nếm; còn khi không động thì
thường có tánh nhạt. Cả cái nếm và cái mỏi mệt đồng là thể
tánh Bồ Đề, chăm chú phát ra tướng mỏi mệt.
Nhân nơi hai thứ vọng trần nhạt và ngọt, đắng, phát cái nếm
ở trong, thu nạp các trần tượng đó, gọi là tánh biết nếm. Tánh
biết nếm ấy rời hai trần nhạt và ngọt, đắng kia, rốt ráo không
có tự thể. Thật vậy, Anan! Ông nên biết rằng cái biết đắng,
biết nhạt như vậy, không phải từ vị ngọt, đắng mà đến,
không phải nhân tánh nhạt mà có, không phải từ nơi lưỡi mà
ra, cũng không phải do hư không mà sinh. ì cớ sao? Nếu từ
các vị ngọt đắng mà đến, thì khi nhạt, cái biết nếm đã diệt
rồi, làm sao biết được nhạt; nếu từ cái nhạt mà ra thì khi
ngọt, cái nếm đã mất rồi, làm sao biết được vị ngọt, đắng.
Nếu do cái lưởi sinh ra, hẳn không có những vị ngọt, đắng và
nhạt, thì cái biết nếm ấy vốn không tự tánh. Nếu do hư
không mà ra, thì hư không tự nếm, chứ không phải lưỡi ông
nếm; lại hư không tự biết, nào có dính gì đến chỗ thu nạp của
ông. ậy nên biết rằng thiệt nhập là giả dối, vốn không
phải tánh nhân duyên, không phải tánh tự nhiên.
40
Thu thân nhập
"Anan! í dụ như có người dùng bàn tay lạnh chạm bàn tay
nóng, nếu thế bên lạnh nhiều hơn, thì bên nóng cũng thành
lạnh theo, nếu thế bên nóng nhiều hơn, thì bên lạnh cũng
thành ra nóng; rồi như vậy, do cái cảm xúc nhận biết trong
lúc hợp lại mà rõ sự nhận biết lúc rời ra. Nếu cái thế chênh
lệch hiện thành giữa nóng và lạnh, thì nhân đó phát ra mỏi
mệt mà có cảm xúc. Cả cái biết cảm xúc cùng cái mỏi mệt
đồng là thể tánh Bồ Đề, chăm chú phát ra tướng mỏi mệt.
Nhân nơi hai vọng trần ly và hợp, phát ra cái hay biết ở
trong, thu nạp các trần tượng đó, gọi là cái biết cảm xúc. Cái
biết như thế, rời hai trần ly và hợp, trái và thuận kia, rốt ráo
không có tự thể; thật vậy, Anan! Ông nên biết cái cảm xúc
đó, không phải từ cái ly, cái hợp mà tới, không phải từ cái
trái, cái thuận mà có, không phải do nơi thân thể mà ra, cũng
không phải do nơi hư không mà sinh. ì cớ sao? Nếu từ cái
hợp mà đến thì khi ly, cái biết đã mất rồi, làm sao biết được
cái ly; đối với hai tướng trái và thuận thì cũng như vậy. Nếu
từ thân thể mà ra, hẳn không có những tướng ly, hợp, trái,
thuận, thì cái biết cảm xúc của ông vốn không tự tánh. Nếu
từ nơi hư không mà ra, thì hư không tự hay biết, nào có dính
gì chỗ thu nạp của ông. ậy nên biết rằng thân nhập là giả
dối, vốn không phải tánh nhân duyên, không phải tánh tự
nhiên.
Thu ý nhập
"Anan! í như có người nhọc mỏi thì ngủ, ngủ chán thì thức
dậy, khi nhận biết trần cảnh thì nhớ, khi hết nhớ thì gọi là
quên. Các món sinh, trụ, dị, diệt, trái ngược đó, thói quen thu
nạp đưa vào trong, không lẫn lộn nhau, gọi là ý căn. Cả cái ý
41
căn cùng cái mỏi mệt, đồng là thể tánh Bồ Đề, chăm chú
phát ra tướng mỏi mệt.
Nhân nơi hai thứ vọng trần sinh và diệt, nhóm cái biết ở
trong, thu nạp pháp trần bên trong, dòng thấy nghe đi ngược
lại vào bên trong mà không đến đâu, gọi là cái ý hay biết.
Cái ý hay biết đó rời hai trần thức và ngủ, sinh và diệt kia,
rốt ráo không có tự thể. Thật vậy, Anan! Nên biết cái ý căn
hay biết như thế, không phải từ nơi thức, nơi ngủ mà đến,
không phải do cái sinh, cái diệt mà có, không phải từ nơi ý
căn mà phát ra, cũng không phải do nơi hư không mà sinh.
Vì cớ sao? Nếu từ nơi thức mà đến, thì khi ngủ đã theo cái
thức mà diệt rồi, còn lấy cái gì làm cái ngủ; nếu chắc lúc sinh
mới có, thì khi diệt, đã hóa như không có rồi, thì lấy cái gì
mà biết là diệt. Nếu do cái diệt mà có, thì khi sinh, không có
diệt nữa, lấy gì mà biết là sinh. Nếu do ý căn mà ra, thì hai
tướng thức, ngủ thay đổi lẫn nhau nơi thân thể, nếu rời hai
tướng ấy ra, thì cái ý hay biết đó, cũng như hoa đốm hư
không, rốt ráo không có tự tánh. Nếu do hư không mà sinh,
thì hư không tự biết, nào có dính gì chỗ thu nạp của ông. ậy
nên biết rằng ý nhập là giả dối, vốn không phải tánh nhân
duyên, không phải tánh tự nhiên.
Thu Mười Hai Xứ39
(Lưu ý: Phần này đọc để hiểu, và nhớ rằng mười hai Xứ
cũng là giả dối)
Thu hai xứ sắc trần và nhãn căn
"Lại nữa, Anan! Vì sao bản tánh của mười hai xứ, vốn là
tánh chân như nhiệm mầu của Như Lai Tạng?
39
Mười Hai Xứ gồm Sáu căn và Sáu trần.
42
Anan! Ông hãy xem rừng cây Kỳ đà và các suối ao đó; ý
ông nghĩ thế nào? Như thế là sắc trần sinh ra cái thấy, hay
cái thấy sinh ra sắc tướng?
Anan! Nếu cái thấy sinh ra sắc tướng, thì khi thấy hư không,
không có sắc tướng, lẽ ra tánh thấy sinh ra sắc tướng đã tiêu
mất rồi. Mà đã tiêu mất, thì tỏ ra hết thảy đều không; sắc
tướng đã không, thì lấy gì rõ được tướng hư không? Đối với
hư không thì cũng như vậy.
Lại nếu sắc trần sinh ra cái thấy, thì khi thấy hư không,
không có sắc, cái thấy liền tiêu mất đi, tiêu mất thì tất cả đều
không, lấy gì rõ được hư không và sắc tướng?
ậy nên biết rằng cái thấy cùng sắc, không, đều không có xứ
sở; tức sắc trần và cái thấy, hai xứ đó đều giả dối, vốn
không phải tánh nhân duyên, không phải tánh tự nhiên.
Thu hai xứ thanh trần và nhĩ căn
Anan! Ông lại nghe trong vườn Kỳ đà nầy, khi đồ ăn dọn rồi
thì đánh trống, khi chúng nhóm lại thì đánh chuông, tiếng
chuông, tiếng trống trước sau nối nhau. Ý ông nghĩ thế nào?
Như thế là, cái tiếng đến bên cái nghe hay cái nghe đến chỗ
cái tiếng? Anan! Nếu như cái tiếng đó đến bên cái nghe, thì
cũng như Ta khất thực trong thành Thất la phiệt, tại rừng Kỳ
đà không có Ta nữa. Cái tiếng đó đã đến bên cái nghe của
ông Anan thì lẽ ra ông Mục Kiền Liên, ông Ca iếp không
cùng nghe một lần, huống chi, trong nầy có một ngàn hai
trăm năm mươi vị sa môn, một khi nghe tiếng chuông, đồng
đến chỗ ăn cơm cả.
Lại như cái nghe của ông đến bên cái tiếng, thì cũng như Ta
đã về rừng Kỳ đà rồi, trong thành Thất la phiệt, không còn
Ta nữa; vậy khi ông nghe tiếng trống, cái nghe của ông đã
43
đến nơi tiếng trống rồi, thì khi tiếng chuông cũng phát ra, lẽ
ra ông không thể nghe cả hai bên, huống nữa, ông còn nghe
được cả tiếng voi, ngựa, trâu, dê và nhiều tiếng khác. Còn
nếu không đi đến với nhau, thì lại không nghe.
ậy nên biết rằng cái nghe và cái tiếng đều không có xứ sở;
tức cái nghe và thanh trần, hai xứ đều giả dối, vốn không
phải tánh nhân duyên, không phải tánh tự nhiên.
Thu hai xứ hương trần và tỷ căn
Anan! Ông hãy ngửi hương chiên đàn trong lư nầy, hương
ấy, nếu đốt đến một thù, thì cả thành Thất la phiệt, trong bốn
mươi dặm, đồng thời đều ngửi mùi thơm. Ý ông nghĩ thế
nào? Mùi thơm ấy sinh ra, do cây chiên đàn, do nơi lỗ mũi
của ông hay do nơi hư không? Nếu như mùi thơm ấy sinh ra
do lỗ mũi của ông, thì đã gọi là do lỗ mũi sinh ra, tất phải từ
lỗ mũi mà ra, lỗ mũi không phải chiên đàn, làm sao trong lỗ
mũi, lại có được mùi thơm chiên đàn? Lại đã gọi rằng ông
ngửi mùi thơm, thì mùi thơm phải vào trong lỗ mũi, còn
trong lỗ mũi phát ra mùi thơm, mà nói rằng ngửi được, thì
không đúng nghĩa.
Nếu sinh ra do nơi hư không, thì tánh hư không thường còn,
mùi thơm cũng phải thường có, cần gì phải đốt cây khô chiên
đàn trong lư rồi mới có. Nếu mùi thơm sinh ra do cây chiên
đàn, thì cái chất thơm ấy nhân đốt mà thành khói; nếu lỗ mũi
ngữi được, thì lẽ ra khói phải xông đến lỗ mũi, làm sao, khói
đó lên trên không, chưa được bao xa, mà trong 40 dặm đều
ngửi thơm cả.
ậy, nên biết rằng hương trần và cái ngửi đều không có xứ
sở, tức cái ngửi và hương trần hai xứ đều giả dối, vốn
không phải tánh nhân duyên, không phải tánh tự nhiên.
44
Thu hai xứ vị trần và thiệt căn
Anan! Ông thường hai thời, ở trong chúng cầm bình bát khất
thực. Trong đó, hoặc gặp những món tô, lạc, đề hồ, gọi là vị
quý.
Ý ông nghĩ thế nào? ị đó sinh ra, do nơi hư không, do nơi
cái lưỡi hay do nơi đồ ăn?
Anan! Nếu vị ấy sinh ra do nơi cái lưỡi của ông, thì ở trong
miệng ông chỉ có một cái lưỡi; cái lưỡi lúc bấy giờ đã thành
vị tô rồi, nếu gặp đường phèn, lẽ ra cái vị không dời đổi, mà
nếu không dời đổi, thì không gọi được là biết vị, còn nếu dời
đổi, thì cái lưỡi không phải có nhiều tự thể, làm sao, một cái
lưỡi lại biết được nhiều vị? Nếu sinh ra do đồ ăn, thì đồ ăn
không có tri Giác, làm sao tự biết được vị? Lại đồ ăn tự biết,
thì cũng đồng như người khác ăn, nào có dính gì đến ông, mà
gọi rằng ông biết vị? Nếu sinh ra do hư không, thì ông hãy
nếm cái hư không xem là vị gì. Nếu cái hư không đó vị mặn,
thì đã làm mặn cái lưỡi của ông, cũng phải làm mặn cái mặt
của ông và mọi người trong cõi nầy, cũng giống như cá bể,
đã thường chịu cái mặn, không còn biết thế nào là nhạt nữa.
Nhưng nếu không biết nhạt, thì lại cũng không biết mặn. Mà
đã không biết cái gì, thì làm sao còn gọi là biết vị?
ậy nên biết rằng các vị và cái lưỡi biết nếm đều không có
xứ sở; tức cái biết nếm cùng với các vị, hai xứ đều giả dối,
vốn không phải tánh nhân duyên, không phải tánh tự nhiên.
Thu hai xứ xúc trần và thân căn
Anan! Ông thường sớm mai lấy tay xoa đầu, ý ông nghĩ thế
nào? Trong việc biết xoa đó, lấy cái gì làm cái biết cảm xúc?
Cái biết ở nơi tay hay ở nơi đầu? Nếu nó ở nơi tay, mà cái
đầu không biết, thì làm sao thành cái cảm xúc ấy? Còn nếu
45
nó ở nơi đầu, mà cái tay vô dụng, thì làm sao gọi là cảm xúc
được. Nếu cả cái đầu và cái tay, mỗi cái đều có biết, thì một
mình ông Anan phải có hai cái biết cảm xúc.
Nếu cả đầu và tay đều do một cảm xúc sinh ra, thì tay và đầu
lẽ ra chỉ có một tự thể; mà nếu chỉ có một tự thể, thì không
năng, không sở, cảm xúc không thành lập được. Còn nếu là
hai thể, thì cảm xúc ở phía nào, ở bên năng, thì không ở bên
sở, ở bên sở, thì không ở bên năng; không lẽ hư không tạo
thành cảm xúc cho ông?
ậy nên biết rằng cảm xúc và thân căn đều không có xứ sở;
tức cái thân biết cảm xúc cùng cái cảm xúc, hai thứ đều
giả dối, vốn không phải tánh nhân duyên, không phải tánh tự
nhiên.
Thu hai xứ pháp trần và ý căn
Anan! Ông thường trong ý duyên với ba tánh: thiện, ác và
vô ký, sinh ra có các pháp trần40. Những pháp trần đó tức
nơi tâm mà sinh ra hay là rời cái tâm, riêng có chỗ khác?
Anan! Nếu tức nơi tâm, thì pháp trần không phải là trần
cảnh nữa, và như thế, thì nó không phải là cái sở duyên của
tự tâm, làm sao thành một xứ được?
Nếu rời cái tâm, riêng có chỗ khác, thì bản tánh của pháp
trần là có biết hay không có biết?
Nếu có biết, thì gọi là tâm, nhưng nếu nó khác với ông và
không phải trần cảnh, thì cũng như cái tâm của người khác;
còn nếu nó tức là ông và cũng tức là tâm, thì làm sao cái tâm
nơi ông lại thành hai được?
40
Ở đây kinh nói rõ rằng Ý căn duyên với ba tánh thiện, ác, vô ký sinh ra
Pháp trần (không thuộc vật chất.)
46
Lại nếu như không có biết, cái pháp trần đó đã không phải
sắc, thanh, hương, vị, ly, hợp, lạnh, nóng và tướng hư không,
thì nó sẽ ở chỗ nào? iện nay nơi sắc, không, không thể chỉ
nó ra được; không lẽ trong nhân gian lại có cái ngoài hư
không?
Không có cảnh sở duyên, thì ý căn do đâu mà lập thành một
xứ được?
ậy nên biết rằng pháp trần cùng ý căn đều không có xứ sở;
tức ý căn cùng pháp trần, hai xứ đều giả dối, vốn không
phải tánh nhân duyên, không phải tánh tự nhiên.
Thu mười tám giới41
(Lưu ý: Phần “thu mười tám giới” này có thể tóm tắt như
sau: Nếu đã biết căn và trần đều là giả dối (theo luận giải ở
phần trên), vậy thức do căn và trần duyên nhau mà sanh ra,
thức này cũng là giả dối)
Thu nhãn, sắc và nhãn thức giới
Lại nữa Anan! Làm sao mười tám giới vốn là tánh chân như
nhiệm mầu của Như Lai Tạng?
Anan! Như ông bày tỏ: Nhãn căn và sắc trần làm duyên,
sinh ra nhãn thức. Thức đó lại là nhân nhãn căn sinh ra, lấy
nhãn căn làm giới, hay nhân sắc trần sinh ra, lấy sắc trần làm
giới?
Anan! Nếu nhân nhãn căn sinh ra, mà không có sắc có
không, thì không thể phân biệt, dầu cho có cái thức của ông
thì đem ra dùng về việc gì? Cái thấy của ông, ngoài những
sắc xanh, vàng, trắng, đỏ, thì không thể biểu hiện được; vậy
do đâu mà lập thành ra giới?
41
Mười tám giới: Sáu căn, sáu trần và sáu thức
47
Nếu nhân sắc trần sinh ra, thì khi chỉ có hư không, không có
sắc, lẽ ra cái thức của ông phải diệt, làm sao còn biết được là
hư không? Nếu khi sắc tướng biến đổi thành hư không, ông
cũng biết rằng sắc tướng biến đổi, mà cái thức của ông thì
không biến đổi; thế thì, do đâu mà lập sắc trần làm giới? Nếu
theo sắc trần mà biến đổi, thì tự nhiên sắc trần không thành
giới được. Nếu không biến đổi, thì là thường hằng, cái thức
đã do sắc trần sinh ra, lẽ ra không thể biết hư không ở đâu?
Nếu gồm hai thứ nhãn căn và sắc trần chúng cùng sinh ra;
vậy, như hợp lại, thì ở giữa phải ly, còn như ly ra, thì hai bên
lại hợp, thể tánh xen lộn, làm sao thành được giới?
ậy nên biết rằng nhãn căn sắc trần làm duyên, sinh ra
giới nhãn thức, cả ba chỗ đều không, và ba giới nhãn căn,
sắc trần và nhãn thức, vốn không phải tánh nhân duyên,
không phải tánh tự nhiên.
Thu nhĩ, thanh và nhĩ thức giới
Anan! Lại như ông bày tỏ: Nhĩ căn và thanh trần làm duyên,
sinh ra nhĩ thức. Thức đó nhân nhĩ căn sinh ra, lấy nhĩ căn
làm giới, hay nhân thanh trần sinh ra, lấy thanh trần làm
giới?
Anan! Nếu nhân nhĩ căn sinh ra, mà không có hai tướng
động, tĩnh hiện tiền, thì cái biết của nhĩ căn cũng không
thành; mà đã không biết gì, thì cái biết còn không thành,
huống nữa cái thức phân biệt còn có hình trạng gì.
Nếu nhân lỗ tai nghe thì đã không động, tĩnh, cái nghe cũng
không thành; làm sao lấy hình sắc lỗ tai đối với xúc trần, mà
gọi được là giới nhĩ thức ; và cái giới nhĩ thức như thế, do
đâu mà lập ra.
48
Nếu nhân thanh trần mà sinh, thì cái nhĩ thức nhân thanh trần
mà có, không có dính líu gì đến cái nghe; mà đã không nghe,
thì cũng không biết các tướng thanh trần ở đâu. Lại nói nhĩ
thức do thanh trần sinh ra, dầu cho rằng thanh trần, nhân cái
nghe mà có tướng, thì cái nghe, lẽ phải nghe được nhĩ thức.
Nếu không nghe được nhĩ thức, thì thanh trần không phải là
giới của nhĩ thức. Nếu nghe được, thì nhĩ thức cũng đồng
như thanh trần, và nhĩ thức đã bị nghe, thì lấy cái gì biết
được rằng đã nghe cái thức? Còn nếu cái thức không biết, thì
cũng như cỏ như cây.
Lại không lẽ thanh trần và cái nghe xen lộn, thành ra giới ở
giữa? Giới ở giữa đã không có, thì các tướng nội căn, ngoại
trần, do đâu mà thành lập được.
ậy, nên biết rằng nhĩ căn, thanh trần làm duyên, sinh ra
giới nhĩ thức, cả ba chỗ đều không và ba giới nhĩ căn,
thanh trần và nhĩ thức, vốn không phải tánh nhân duyên,
không phải tánh tự nhiên.
Thu tỷ, hương và tỷ thức giới
Anan! Lại như ông bày tỏ: Tỷ căn và hương trần làm duyên,
sinh ra tỷ thức. Thức đó lại nhân tỷ căn sinh ra, lấy tỷ căn
làm giới, hay nhân hương trần sinh ra, lấy hương trần làm
giới?
Anan! Nếu nhân tỷ căn sinh ra, thì trong tâm ông lấy cái gì
làm tỷ căn? Ông lấy cái hình tướng mũi thịt như hai móng
tay, hay lấy cái tánh ngửi biết lay động làm tỷ căn?
Nếu lấy cái hình tướng mũi thịt, thì chất thịt là thân căn và
cái biết của thân căn là cái biết cảm xúc. Đã gọi là thân căn
thì không phải là tỷ căn, đã gọi rằng cảm xúc, thì đó là xúc
49
trần đối với thân căn. ậy, còn không có gì đáng gọi là tỷ
căn, do đâu mà lập thành giới?
Nếu lấy cái ngửi biết làm tỷ căn, thì trong tâm ông lấy cái gì
làm cái có ngửi biết? Nếu lấy lỗ mũi thịt, thì cái biết của chất
thịt là xúc trần, chứ không phải như tỷ căn; nếu lấy cái hư
không làm cái có ngửi biết, thì hư không tự biết, còn xác thịt
lẽ ra không biết, như thế, thì lẽ ra hư không là ông; thân của
ông mà không có biết, thì ông Anan hiện nay lẽ cũng không
còn đâu nữa.
Nếu lấy cái hương làm cái có ngửi biết, thì cái biết thuộc về
hương trần, nào dính gì đến ông?
Nếu các mùi thơm, thối sinh ra do tỷ căn của ông, thì hai mùi
thơm, thối kia không sinh ra do cây y lan và cây chiên đàn;
hai vật đó không tới, ông tự ngửi lỗ mũi là thơm hay là thối;
thối thì không phải thơm, thơm thì không phải thối; nếu cả
hai mùi thơm, thối đều ngửi được cả, thì một người ông phải
có hai tỷ căn và đứng trước tôi hỏi đạo phải có hai ông Anan
thì ông nào mới là tự thể của ông. Còn nếu tỷ căn là một, thì
thơm, thối không hai, thối đã thành thơm, thơm đã thành
thối, hai tánh đó đã không có, thì lấy gì lập được thành giới?
Lại nếu nhân hương trần mà có, thì tỷ thức đã nhân hương
trần mà có, cũng như nhân con mắt có thấy, không thể thấy
được con mắt; tỷ thức nhân hương trần mà có, lẽ ra không
biết được hương trần. Nếu biết được hương trần, thì không
phải do hương trần sinh ra, nếu không biết được hương trần,
thì không phải là tỷ thức.
ương trần mà không ngửi biết là có, thì cái giới hương trần
không thành; tỷ thức mà không biết hương trần, thì cái giới
của nó, không phải do hương trần mà lập. Đã không có cái
50
thức trung gian, thì nội căn, ngoại trần cũng không thành và
tất cả những điều ngửi biết kia rốt ráo đều luống dối.
ậy, nên biết rằng tỷ căn, hương trần làm duyên, sinh ra
tỷ thức, cả ba chỗ đều không và ba giới tỷ căn, hương trần
và tỷ thức, vốn không phải tánh nhân duyên, không phải tánh
tự nhiên.
Thu thiệt, vị và thiệt thức giới
Anan! Lại như ông bày tỏ: Thiệt căn và vị trần làm duyên,
sinh ra thiệt thức. Thức đó lại nhân thiệt căn sinh ra, lấy thiệt
căn làm giới, hay nhân vị trần sinh ra, lấy vị trần làm giới?
Anan! Nếu nhân thiệt căn sinh ra, thì như trong thế gian,
những loại mía ngọt, mơ chua, hoàng liên đắng, muối mặn,
tế tân, gừng, quế cay, đều không có vị, ông tự nếm cái lưỡi là
ngọt hay là đắng. Nếu cái lưỡi là đắng, thì lấy cái gì mà nếm
cái lưỡi; cái lưỡi đã không thể tự nếm được, thì lấy gì mà có
hay biết; còn nếu cái lưỡi không đắng, thì tự nhiên vị trần
không sinh ra, làm sao mà lập được thành giới?
Nếu nhân vị trần sinh ra; vậy thiệt thức đã là vị rồi, thì cũng
đồng như thiệt căn, không thể tự nếm được, làm sao còn biết
được là có vị hay không có vị? Lại tất cả các vị không phải
do một vật sinh ra. Các vị đã do nhiều vật sinh ra, thì cái
thiệt thức do vị trần sinh ra, cũng phải có nhiều tự thể. Nếu
tự thể của thiệt thức là một và tự thể đó thật do vị trần sinh
ra, thì các vị mặn, nhạt, chua, cay và nhiều vị khác nhau, do
các thứ đó hòa hợp cùng sinh ra, đều chỉ là một vị, lẽ ra
không có phân biệt; mà đã không có phân biệt, thì không thể
gọi là thức, làm sao còn gọi là giới thiệt thức? Không lẽ hư
không lại sinh được cái thức của ông?
51
Nếu thiệt căn, vị trần, hòa hợp mà sinh ra cái thức ở giữa,
vốn không tự tánh, làm sao mà lập được thành giới?
ậy, nên biết rằng thiệt căn, vị trần làm duyên, sinh ra
thiệt thức, cả ba chỗ đều không, và ba giới thiệt căn, vị trần
và thiệt thức, vốn không phải tánh nhân duyên, không phải
tánh tự nhiên.
Thu thân, xúc và thân thức giới
Anan! Lại như ông bày tỏ: Thân căn và xúc trần làm duyên,
sinh ra thân thức. Thức đó lại là nhân thân căn sinh ra, lấy
thân căn làm giới, hay nhân xúc trần sinh ra, lấy xúc trần làm
giới?
Anan! Nếu nhân thân căn sinh ra, không có cái duyên của
hai cảm xúc hợp và ly, thì thân căn còn biết gì. Nếu nhân xúc
trần sinh ra mà không có thân căn của ông, thì có ai không có
thân căn mà biết hợp, biết ly được.
Anan! ật thì không biết cảm xúc, thân căn có biết, mới có
cảm xúc; tức nơi cảm xúc, mà biết có thân căn, tức nơi thân
căn mà biết có cảm xúc; nhưng đã tức là cảm xúc, thì không
phải thân căn, mà đã tức là thân căn, thì không phải cảm xúc;
cả hai tướng thân căn và xúc trần, vốn không có xứ sở. Nếu
xúc trần hợp một với thân căn, thì tức là tự thể của thân căn
rồi; còn nếu rời hẳn với thân căn, thì thành không có gì, như
các tướng hư không.
Nội căn, ngoại trần đã không thành, thì làm sao lập được cái
thức ở giữa; cái thức ở giữa đã không lập được, thì nội căn,
ngoại trần, bản tánh cũng rỗng không và cái thức của ông do
đâu mà lập được thành giới.
ậy, nên biết rằng thân căn, xúc trần làm duyên, sinh ra
thân thức, cả ba chỗ đều không, và ba giới thân căn, xúc
52
trần và thân thức, vốn không phải tánh nhân duyên, không
phải tánh tự nhiên.
Thu ý, pháp và ý thức giới
Anan! Lại như ông bày tỏ: Ý căn và pháp trần làm duyên,
sinh ra ý thức. Thức đó lại là nhân ý căn sinh ra, lấy ý căn
làm giới, hay nhân pháp trần sinh ra, lấy pháp trần làm giới?
Anan! Nếu nhân ý căn sinh ra, thì trong ý ông, chắc phải có
chỗ nghĩ ngợi mới phát minh được cái ý của ông; nếu không
có các pháp trần, thì ý căn không thể sinh ra được. Rời các
pháp trần, ý căn còn không có hình tướng, thì đem ý thức ra
mà dùng vào việc gì?
Lại cái thức tâm của ông với các thứ nghĩ ngợi, các sự rõ biết
là đồng nhau hay khác nhau. Nếu đồng với ý căn, thì tức là ý
căn rồi, làm sao lại do ý căn sinh ra? Nếu khác, mà không
đồng với ý căn, thì lẽ ra không còn biết gì. Nếu không biết
gì, thì làm sao lại do ý căn sinh ra; còng nếu có biết, thì làm
sao lại chia ra ý thứ và ý căn? Chỉ hai tánh đồng nhau, khác
nhau còn không thành, làm sao lập được thành giới?
Nếu nhân pháp trần sinh ra, thì các pháp trong thế gian,
không ngoài năm trần. Ông hãy xét các pháp sắc, thanh,
hương, vị, xúc, có tướng rõ ràng đối với năm căn, đều không
thuộc về phần thu nạp của ý căn. Nếu ý thức của ông quyết
định nương nơi pháp trần mà sinh ra, thì ông hãy xét từng
pháp, từng pháp hình trạng thế nào. Nếu rời hẳn các tướng
sắc, không, động, tĩnh, thông, bít, hợp, ly, sinh, diệt, thì rốt
ráo không thành một pháp nào cả. Lại, sinh cũng là các pháp
như sắc, như không sinh ra, diệt cũng như các pháp như sắc,
như không diệt mất. Các nguyên nhân đã không thành, thì
cái thức do nó sinh ra, còn có hình tướng gì; hình tướng còn
không có, làm sao mà lập được thành giới. ậy, nên biết
53
rằng ý căn, pháp trần làm duyên, sinh ra ý thức, cả ba
chỗ đều không, và ba giới ý căn, pháp trần và ý thức, vốn
không phải tánh nhân duyên, không phải tánh tự nhiên.”
Thu bảy Đại42
Xin khai thị về tứ đại hòa hợp
Ông Anan bạch Phật: "Thưa Thế Tôn! Đức Như Lai thường
nói về nhân duyên hòa hợp rằng: Tất cả các thứ biến hóa
trong thế gian đều nhân bốn món "Đại" hòa hợp mà phát ra.
Làm sao đức Như Lai lại bác bỏ cả hai nghĩa nhân duyên và
tự nhiên. Nay con không biết nghĩa đó thế nào, xin Phật rủ
lòng thương xót chỉ bày cho chúng sanh nghĩa rốt ráo của
trung đạo, không còn các đều hý luận."
Chỉ rõ thể tánh tứ đại không phải hòa hợp
Khi bấy giờ, đức Thế Tôn bảo ngài Anan rằng: "Trước đây
ông nhàm chán các pháp Tiểu Thừa Thanh ăn, uyên Giác,
phát tâm tha thiết cầu đạo vô thượng Bồ Đề, nên Ta lúc nầy
chỉ bày cho ông Đệ Nhất Nghĩa Đế, làm sao ông lại còn đem
những nhân duyên vọng tưởng hý luận thế gian mà tự ràng
buộc mình? Ông tuy nghe được nhiều pháp, nhưng cũng như
người nói tên vị thuốc, mà đến khi thuốc thật ở trước mắt, thì
lại không phân biệt được. Như Lai gọi là rất đáng thương
xót. Nay ông hãy nghe cho kỹ, Ta sẽ vì ông phân tách chỉ
bày và cũng để cho những người tu đại thừa sau nầy thông
suốt được thật tướng."
Ngài Anan yên lặng kính vâng thánh chỉ của Phật.
42
Bảy Đại: Địa (Đất,) Thủy (Nước,) Hỏa (Lửa,) Phong (Gió,) Không,
Kiến (Thấy,) Thức (Biết.)
54
Phật dạy: "Anan! Như ông đã nói: Bốn món "Đại" hòa hợp
phát ra các thứ biến hóa trong thế gian. Anan! Nếu tánh các
món đại kia không phải hòa hợp, thì không thể lẫn lộn với
các đại khác, cũng như hư không không thể hòa hợp được
với các sắc tướng. Nếu tánh của các đại là hòa hợp, thì cũng
đồng như các thứ biến hóa, thủy chung thành nhau, sinh diệt
nối nhau, sinh rồi diệt, diệt rồi sinh, sinh sinh diệt diệt, như
vòng lửa quay tròn chưa hề dừng nghỉ. Anan! Như nước
thành giá, giá lại thành nước.
Thu địa đại
Ông hãy xét cái tánh của địa đại, to thì làm đất liền, nhỏ thì
làm vi trần, cho đến lân hư trần, do chẻ chất cực vi, là sắc
tướng nhỏ tột, ra bảy phần mà thành. Nếu chẻ lân hư trần
nữa, thì thật là tánh hư không.
Anan! Nếu cái lân hư trần đó, chẻ ra thành được hư không,
thì biết hư không cũng sinh ra được sắc tướng. Nay ông hỏi
rằng do hòa hợp mà sinh ra các tướng biến hóa trong thế
gian, thì ông hãy xét một cái lân hư trần, phải dùng bao
nhiêu hư không hợp lại mới có, không thể lân hư trần hợp lại
thành lân hư trần. Lại lân hư trần đã chẻ được thành hư
không, thì phải dùng bao nhiêu sắc tướng hợp lại, mới thành
cả hư không. Nhưng nếu sắc tướng hợp lại, thì hợp sắc tướng
lại, không thể thành được hư không; còn nếu hư không hợp
lại, thì hợp hư không lại, không thể thành được sắc tướng;
sắc tướng còn có thể chẻ được, chứ hư không thì làm sao mà
hợp được?
Ông vốn không biết trong Như Lai Tạng, tánh sắc là chân
không, tánh không là chân sắc, bản nhiên thanh tịnh,
cùng khắp pháp giới, theo tâm chúng sanh, đáp ứng với
lượng hay biết, theo nghiệp mà phát hiện; thế gian không
55
biết, lầm là nhân duyên và tánh tự nhiên, đều là những so đo
phân biệt của ý thức, chỉ có lời nói, toàn không có nghĩa
chân thật.
Thu hỏa đại
"Anan! ỏa đại không có tự thể, gửi nơi các duyên mà phát
hiện. Ông hãy xem các nhà, chưa ăn ở trong thành, khi muốn
nhóm bếp, thì tay cầm kính hiển vi, đưa trước ánh sáng mặt
trời mà lấy lửa.
Anan! Phàm gọi là hòa hợp, thì như tôi cùng ông và một
ngàn hai trăm năm mươi vị tỷ kheo, hiện nay, hợp thành một
chúng; tuy chúng chỉ có một, song gạn xét về căn bản, thì
mỗi người đều có thân, đều có danh tự họ hàng của mình,
như ông Xá Lợi Phất, thì thuộc dòng Bà la môn, ông u lâu
tần loa, thì thuộc dòng Ca diếp ba, cho đến ông Anan thì
thuộc dòng họ Cù đàm.
Anan! Nếu lửa đó nhân hòa hợp mà có, thì khi người kia cầm
kính lấy lửa nơi ánh sáng mặt trời, lửa đó từ trong kính mà
ra, do bùi nhùi mà có hay từ mặt trời mà đến?
Anan! Nếu từ mặt trời mà đến, thì lửa ấy đã đốt được bùi
nhùi trong tay của ông, những rừng cây mà ánh sáng mặt trời
đi qua, lẽ ra đều bị đốt cả. Nếu từ trong kính mà ra, thì lửa ấy
đã có thể từ trong kính ra đốt cháy bùi nhùi, làm sao cái kính
lại không chảy; cho đến cả cái tay ông cầm kính còn không
thấy nóng, thì làm sao kính lại chảy được. Nếu do bùi nhùi
sinh ra, thì cần gì ánh sáng mặt trời và kính tiếp đối với
nhau, rồi sau lửa mới sinh ra. Ông hãy xét cho kỹ, kính do
tay cầm, mặt trời thì ở trên trời, còn bùi nhùi thì từ đất sinh
ra, vậy lửa từ phương nào đi đến chỗ đó. Mặt trời và kính xa
nhau, không phải hòa, không phải hợp, không lẽ lửa kia,
không do đâu mà tự có.
56
Ông còn không biết trong Như Lai Tạng, tánh hỏa là chân
không, tánh không là chân hỏa, bản nhiên thanh tịnh
cùng khắp pháp giới, theo tâm chúng sanh, đáp ứng với
lượng hay biết.
Anan! Ông nên biết rằng người đời cầm kính một chỗ, thì
một chỗ có lửa sinh ra, khắp pháp giới đều cầm kính, thì
khắp pháp giới bốc lửa. Lửa bốc khắp thế gian, đâu có chỗ ở,
theo nghiệp mà phát hiện. Thế gian không biết, lầm là nhân
duyên và tánh tự nhiên, đều là những so đo phân biệt của ý
thức, chỉ có lời nói, toàn không có nghĩa chân thật.
Thu thủy đại
"Anan! Tánh nước không nhất định, khi chảy, khi đứng
không chừng. Như trong thành Thất la phiệt, các ông tiên Ca
tỳ la, Chước ca la và các nhà đại huyễn thuật Bát đầu ma, a
tát đa, vân vân... muốn cầu tinh Thái âm để hòa với các
thuốc huyễn thuật, thì các ông ấy, trong lúc sáng trăng trong,
tay cầm hạt châu Phương chư, hứng nước trong ánh mặt
trăng. ậy, nước ấy từ trong hạt châu mà ra, do hư không mà
có hay từ mặt trăng mà đến?
Anan! Nếu từ mặt trăng mà đến, thì ở phương xa còn có thể
làm cho hạt châu chảy ra nước, những rừng cây ánh sáng mặt
trăng đi qua, lẽ ra đều phải phun nước; mà nếu phun nước,
thì sao lại phải đợi có hạt châu Phương như mới chảy nước
được? Còn nếu không phun nước, thì rõ ràng nước đó, không
phải từ mặt trăng mà xuống. Nếu từ hạt châu mà ra, thì trong
hạt châu ấy, thường phải chảy nước, sao còn phải đợi ánh
sáng mặt trăng trong lúc nửa đêm? Nếu do hư không mà
sinh, thì hư không không bờ bến, nước cũng không giới hạn;
vậy từ cõi người đến cõi trời, lẽ ra đều phải chìm ngập cả,
làm sao lại còn có thủy, lục, không, hành? Ông hãy xét cho
57
kỹ, mặt trăng từ trên trời đi qua, hạt châu do tay cầm, còn cái
mâm hứng nước thì do người sắp đặt; vậy nước kia từ
phương nào mà chảy đến đó. Mặt trăng và hạt châu xa nhau,
không phải hòa, không phải hợp, không lẽ nưóc kia, không
do đâu mà tự có.
Ông còn biết trong Như Lai Tạng, tánh thủy là chân
không, tánh không là chân thủy, bản nhiên thanh tịnh,
cùng khắp pháp giới, theo tâm chúng sanh, đáp ứng với
lượng hay biết. Một chỗ cầm hạt châu, thì một chỗ nước
chảy ra, khắp pháp giới cầm hạt châu, thì đầy pháp giới nước
sinh ra. Thủy đại sinh khắp thế gian, đâu có chỗ ở, theo
nghiệp mà phát hiện; thế gian không biết, lầm là nhân duyên
và tánh tự nhiên, đều là những so đo phân biệt của ý thức,
chỉ có lời nói, toàn không có nghĩa chân thật.
Thu phong đại
"Anan! Phong đại không có tự thể, khi động, khi tĩnh không
chừng. Ông thường sửa áo, vào trong đại chúng, gấu áo Tăng
già lê động đến người bên cạnh, thì có chút gió phảy qua mặt
người kia. Gió đó lại là, do gấu áo cà sa mà ra, do hư không
mà phát khởi hay do mặt người kia mà sinh?
Anan! Nếu gió đó phát ra, do gấu áo cà sa, thì ông đã mặc cả
gió, lẽ ra cái áo phải bay tung ra, rời khỏi thân thể của ông.
Nay Ta thuyết pháp, rũ áo ở trong ội nầy, ông hãy xem cái
áo của Ta, gió ở chỗ nào? Không lẽ trong áo lại có chỗ chứa
gió.
Nếu gió đó do hư không sinh ra, thì khi cái áo ông không
động, vì sao lại không phải gió? à tánh hư không thường
còn, thì gió lại phải thường sinh ra; khi không có gió, thì hư
không phải diệt mất. Gió diệt, thì có thể thấy được, còn hư
không diệt, thì hình trạng thế nào? Lại nếu có sinh diệt, thì
58
không gọi là hư không và đã gọi là hư không, thì làm sao lại
phát ra gió được?
Nếu gió đó sinh ra do cái mặt người bị phảy, thì đã do mặt
người đó sinh ra, lẽ ra phải phảy lại ông, sao tự ông sửa áo
mà lại phảy ngược lại người kia?
Ông hãy xét cho kỹ: Sửa áo là do nơi ông, cái mặt thì thuộc
về người kia, hư không thì vắng lặng, không thể lay động,
vậy gió từ phương nào giong ruổi đến đó. Tánh gió và tánh
hư không cách xa nhau, không phải hòa, không phải hợp,
không lẽ gió kia, không do đâu mà tự có.
Ông thật không biết trong Như Lai Tạng, tánh phong [gió]
là tánh chân không, tánh không là chân phong [gió], bản
nhiên thanh tịnh cùng khắp pháp giới, theo tâm chúng
sanh, đáp ứng với lượng hay biết.
Anan! Như một mình ông hơi động cái áo, thì có chút gió
phát ra; khắp pháp giới đều phảy, thì khắp cõi nước sinh ra
phong đại. Phong đại đầy dẩy thế gian, đâu có chỗ ở, theo
nghiệp mà phát hiện. Thế gian không biết, lầm là nhân duyên
và tánh tự nhiên, đều là những so đo phân biệt của ý thức,
chỉ có lời nói, toàn không có nghĩa chân thật.
Thu không đại
"Anan! ư không không có hình, nhân sắc tướng mà tỏ bày
ra. Như trong thành Thất la phiệt, chỗ cách xa sông, những
người dòng Sát lỵ, dòng Bà la môn, dòng Tỳ xá, dòng Thủ
đà hay dòng Phả la đọa, dòng Chiên đà la, vân vân... khi
dựng nhà mới, thì đào giếng mà lấy nước, đào đất ra một
thước, thì trong đó có một thước hư không, như vậy cho đến
đào đất ra một trượng, thì trong đó lại được một trượng hư
không, hư không nông [cạn] hay sâu, tùy đào đất ra nhiều
59
hay ít. ư không đó là nhân đất mà ra, nhân đào mà có hay
không nhân gì mà tự sinh?
Anan! Nếu hư không đó không nhân gì mà tự sinh, thì khi
trước khi chưa đào đất, sao nơi đó lại không trống rỗng, mà
chỉ thấy đất liền, hẳn không thông suốt. Nếu nhân đất mà ra,
thì khi đất ra, phải thấy hư không vào; nếu đất ra trước, mà
không thấy hư không vào, thì làm sao hư không lại nhân đất
mà ra. Còn nếu không ra, không vào, thì hư không với đất
vốn không khác nhau; không khác tức là đồng, thì khi đất ra,
sao hư không lại không ra. Nếu nhân đào mà ra, thì phải đào
ra hư không, chứ không đào ra đất; nếu không nhân đào mà
ra, thì tự đào ra đất, làm sao lại thấy hư không?
Ông hãy xét cho kỹ, nhận rõ xét chín: Đào, thì do tay người,
theo phương hướng mà vận chuyển, đất, thì từ nơi đất liền
mà dời đi, còn hư không, như vậy, thì nhân đâu mà ra. Đào
là thật sự, hư không là rỗng trống, không có tác dụng gì với
nhau, không phải hòa, không phải hợp, không lẽ hư không
không do đâu mà tự ra. Nếu cái hư không đó, bản tánh viên
mãn cùng khắp, không có lay động, thì nên biết hiện tiền hư
không và bốn thứ địa, thủy, hỏa, phong, đều gọi là năm đại,
tánh thật viên dung, vốn là tánh Như Lai Tạng, không sinh,
không diệt.
Anan! Tâm ông mê muội, không ngộ được bốn đại vốn là
tánh Như Lai Tạng, ông hãy xét cái hư không là ra, là vào
hay không ra, không vào. Ông toàn không biết trong Như
Lai Tạng, tánh Giác là chân không, tánh không là chân
Giác, bản nhiên thanh tịnh, cùng khắp pháp giới, theo
tâm chúng sanh, đáp ứng với lượng hay biết.
Anan! Như một giếng trống không, thì hư không sinh trong
một giếng; hư không thập phương, thì cũng như vậy. Không
60
đại cùng khắp mười phương, đâu có chỗ ở, theo nghiệp mà
phát hiện; thế gian không biết, lầm là nhân duyên và tánh tự
nhiên, đều là những so đo phân biệt của ý thức, chỉ có lời
nói, toàn không có nghĩa chân thật.
Thu kiến đại
"Anan! Cái biết của kiến đại, nhân các thứ sắc, không mà có.
Như hiện nay ông ở trong rừng Kỳ đà, sớm mai thì sáng, ban
đêm thì tối, đến lúc nửa đêm, trăng tròn thì sáng, vắng trăng
thì tối; những tướng sáng, tối ấy do cái thấy phân tách. Cái
thấy đó, lại là đồng một thể với các tướng sáng, tối và cả hư
không, hay không đồng một thể. oặc cũng đồng, cũng
không phải đồng, hoặc cũng khác, cũng không phải khác?
Anan! Nếu cái thấy đó, cùng với sáng, tối và hư không vốn
là một thể, thì cái sáng, cái tối tiêu diệt lẫn nhau, khi tối, thì
không sáng, khi sáng thì không tối; nếu như cái thấy cùng
một thể với cái tối, thì khi sáng, cái thấy phải tiêu mất; nếu
cùng một thể với cái sáng, thì khi tối, cái thấy phải diệt rồi,
mà đã diệt, thì làm sao còn thấy được sáng, thấy được tối.
Còn như sáng và tối khác nhau, còn cái thấy thì không sinh
không diệt, thì làm sao lại thành đồng một thể được?
Nếu cái thấy đó không phải đồng một thể với cái tối và cái
sáng, thì ngoài cái sáng, cái tối và hư không ra, ông hãy phân
tách cái thấy thành hình tướng gì; rời cái sáng, cái tối và hư
không, cái thấy đó cũng đồng như lông rùa sừng thỏ43; nếu
tách hẳn ba thứ sáng, tối và hư không, thì do đâu mà thành
lập được cái thấy?
43
Lông rùa sừng thỏ có nghĩa là không có vì rùa không có lông và thỏ
không có sừng.
61
Sáng và tối trái ngược lẫn nhau, làm sao hoặc cũng là đồng;
rời ba thứ sáng, tối và hư không, cái thấy vốn không còn gì,
làm sao hoặc cũng là khác. Bên hư không, bên cái thấy, vốn
không có bờ cõi, làm sao lại không phải đồng; thấy cái tối,
thấy cái sáng, tánh không dời đổi, làm sao lại không phải
khác?
Ông hãy xét cho kỹ, suy xét chín chắn, nhận cho cùng, xét
cho rõ, sáng là do mặt trời, tối là do đêm không trăng, thông
suốt thuộc về hư không, ngăn bít thuộc về đất liền còn cái
thấy, như vậy nhân đâu mà ra. Cái thấy có Giác quan, hư
không thì không hay biết, không phải hòa, không phải hợp;
không lẽ cái thấy, không do đâu mà tự phát ra. Còn như tất
cả các sự thấy, nghe, hay, biết, bản tánh viên mãn cùng khắp,
vốn không lay động, thì nên biết kiến đại cùng với hư không
không bờ bến, không lay động và bốn món đại: địa, thủy,
hỏa, phong, có lay động, đều gọi là sáu đại, tánh thật là viên
dung, vốn là tánh Như Lai Tạng, không sinh, không diệt.
Anan! Tánh ông chìm đắm, không ngộ được những sự thấy,
nghe, hay, biết của ông vốn là tánh Như Lai Tạng; ông hãy
xét những thấy, nghe, hay, biết, đó là sinh hay diệt, là đồng
hay là khác, là không phải sinh, không phải diệt, hay không
phải đồng, không phải khác. Ông chưa từng biết trong Như
Lai Tạng, cái thấy nơi tâm tánh là cái tánh minh của bản
Giác; cái tánh minh của bản Giác biểu lộ ra nơi cái thấy,
bản nhiên thanh tịnh cùng khắp pháp giới, theo tâm
chúng sanh đáp ứng với lượng hay biết.
Như nơi nhãn căn, cái thấy cùng khắp pháp giới, thì cái biết
nghe, biết ngửi, biết nếm, biết xúc, biết các pháp, công đức
nhiệm mầu sáng suốt cũng cùng khắp pháp giới, đầy đủ thập
phương hư không, đâu có chỗ ở, theo nghiệp mà phát hiện.
Thế gian không biết, lầm là nhân duyên và tánh tự nhiên, đều
62
là những phân biệt so đo của ý thức, chỉ có lời nói, toàn
không có nghĩa chân thật.
Thu thức đại
"Anan! Thức đại không có nguồn gốc, nhân nơi sáu thứ căn,
trần giả dối phát ra. Nay ông hãy xem khắp thánh chúng
trong ội này; ông dùng con mắt lướt qua, mắt ông trông
khắp, chỉ như bóng trong gương, không phân tách riêng biệt.
Cái thức ông, trong ấy theo thứ lớp chỉ ra đây là ông ăn
Thù, đây là ông Phú lâu na, đây là ông Mục kiền liên, đây là
ông Tu Bồ Đề, đây là ông Xá Lợi Phất. Cái thức nhận biết
như thế sinh ra do cái thấy, do các tướng, do hư không, hay
không nhân gì bỗng nhiên sinh ra?
Anan! Nếu cái thức của ông sinh ra do cái thấy; mà như
không có các tướng sáng, tối và sắc, không, thì không còn
cái thấy của ông; cái thấy còn không có, do đâu mà phát ra
được cái thức? Nếu cái thức của ông sinh ra do các tướng,
chứ không do cái thấy, thì đã không thấy sáng, cũng không
thấy tối; sáng và tối đã không thấy, thì cũng không có sắc,
không; các tướng kia còn không có, thì cái thức do đâu mà
phát ra? Nếu cái thức sinh ra do hư không, ngoài các tướng
và ngoài cái thấy, thì ngoài cái thấy không có cảm Giác, tự
nhiên không thể biết được cái sáng, cái tối, các sắc tướng và
hư không; ngoài các tướng, thì không có các duyên của tiền
trần, sự thấy, nghe, hay, biết, không do đâu mà thành lập
được. Ngoài hai thứ căn trần ra, nếu là không, thì cũng đồng
như không có, còn nếu là có, thì cũng không đồng như các
vật, dầu cho phát ra cái thức của ông, thì đem ra mà phân
biệt cái gì?
63
Nếu cái thức không nhân gì bỗng nhiên mà phát ra, làm sao
lại không phân biệt mặt trăng sáng, trong lúc mặt trời đứng
bóng?
Ông hãy xét kỹ, nhận xét chín chắn, cái thấy gá vào mắt của
ông, các tướng thì trả về cho tiền cảnh, cái gì có thể hình
trạng được, thì mới thành có, cái gì không có tướng, thì
thành ra không; còn cái thức như vậy, nhân đâu mà ra?
Cái thức thì lay động, cái thấy thì đứng lặng, không phải hòa,
không phải hợp, cho đến các sự nghe, ngửi, hay, biết, cũng
đều như vậy. Không lẽ cái thức nhận biết không do đâu mà
phát ra.
Nếu cái thức đó không do đâu, thì nên biết cái thức đại nhận
biết và cái căn đại thấy, nghe, hay, biết, vẳng lặng cùng
khắp, bản tánh không nương vào đâu mà có; hai món đại ấy
cùng với hư không, địa, thủy, hỏa, phong, đều gọi là bảy đại,
tánh thật là viên dung, vốn là tánh Như Lai Tạng, không
sinh, không diệt.
Anan! Tâm ông nông nổi, không ngộ được cái nhận biết các
điều thấy nghe, vốn là tánh Như Lai Tạng. Ông hãy xét sáu
cái thức là đồng hay là khác, là không hay là có, là không
phải đồng, không phải khác, hay không phải không, không
phải có. Ông vốn không biết trong Như Lai Tạng, cái thức
là cái Tánh Giác Minh, Tánh Giác Minh là Chân Thức,
là cái biết nhiệm mầu yên lặng cùng khắp pháp giới, ẩn
hiện thập phương hư không, đâu có chỗ ở, chỉ theo
nghiệp mà phát hiện. Thế gian không biết, lầm là nhân
duyên, và tánh tự nhiên, đều là những so đo phân biệt của ý
thức, chỉ có lời nói, toàn không có nghĩa chân thật.”
64
Giác Ngộ và Phát Nguyện
Khi bấy giờ, ông Anan và cả đại chúng nhờ Phật nhiệm mầu
chỉ bày, thân tâm vắng lặng, không điều ngăn ngại. Cả trong
đại chúng đó, mỗi người tự biết tâm tánh cùng khắp mười
phương, trông mười phương hư không như xem cái vật, cái
lá nắm trong bàn tay; tất cả những vật có ra trong thế gian,
đều tức là tâm tánh Bồ Đề nhiệm mầu sáng suốt. Tâm
tánh viên mãn cùng khắp, trùm chứa mười phương, trở lại
xem cái thân cha mẹ sinh ra cũng như trong mười phương hư
không kia, thổi một vi trần, dầu còn, dầu mất, chẳng khác
biển lớn yên lặng, nổi lên một bọt nước, dầu sinh hay diệt,
cũng không dính dáng gì. Rõ như vậy, tự biết nhận được tâm
tánh bản lai thường trụ không diệt, lễ Phật chấp tay, được cái
chưa từng có, ở trước đức Như Lai, nói bài kệ tán thán
Phật44
:
"Đức Thế Tôn bất động,
Tổng trì tánh diệu trạm,
Nói pháp Thủ lăng nghiêm,
Thật hy hữu trong đời,
Khiến chúng con tiêu diệt
ọng tưởng trong ức kiếp,
Không trải qua tăng kỳ
Mà chứng được pháp thân.
Nguyện nay đã chứng quả
Thành được vị Bảo vương
Lại hóa độ như thế
Cho cả hằng sa chúng.
Đem thâm tâm phụng sự
Cõi nước như vi trần,
44
Tại Chùa Bắc Tông thường tụng bài kệ này bằng chữ Hán Việt.
65
Làm được như vậy mới
Gọi là báo ơn Phật.
Cúi xin đức Thế Tôn
Chứng minh cho chúng con,
Thệ nguyện quyết vào trước
Trong ngũ trược ác thế;
Nếu còn một chúng sanh
Chưa thành được Phật đạo,
Quyết không ở nơi đó
Chịu chứng quả Niết Bàn.
Kính thưa đức Đại ùng,
Đại lực, Đại Từ Bi,
Trông mong lại xét trừ
Những điều lầm nhỏ nhiệm,
Cho chúng con sớm lên
Đến bậc ô Thượng Giác,
Nơi thập phương thế giới
Ngồi đạo tràng thuyết pháp.
Tánh hư không bất diệt
ầu có thể tiêu mất,
Tâm nguyện chắc chắn nầy,
Quyết không hề lay động."
66
KINH ĐẠI PHẬT ĐẢNH THỦ LĂNG NGHIÊM (T M T T NG N)
67
Quyển IV
Phần 10
(Lưu ý: Đọc phần này hiểu hay không hiểu cũng không sao.
Chỉ khi đạt được Chơn Tâm mới rõ Vọng Tâm sinh ra như
thế nào, cũng như khi tỉnh mộng mới biết trước đó đang
trong mộng mà thôi.)
Căn nguyên và Tánh Giác vẹn toàn
Ông Mãn Từ bạch Phật: "Bạch Thế Tôn, nếu như hết thảy
các thứ căn, trần, ấm, xứ, giới, vân vân... trong thế gian, đều
là tánh thanh tịnh bản nhiên Như Lai Tạng, thì làm sao bỗng
nhiên lại sinh ra các tướng hữu vi như núi, sông, đất liền, thứ
lớp dời đổi, hết rồi lại có?
Lại đức Như Lai nói bốn món đại địa, thủy, hỏa, phong, bản
tánh viên mãn dung hòa, cùng khắp pháp giới, vẳng lặng
thường trụ. Bạch Thế Tôn, nếu tánh địa đại cùng khắp, sao
lại dung được thủy đại; nếu tánh thủy đại cùng khắp thì hỏa
đại không thể phát sinh; làm sao lại phát minh hai tánh thủy
đại và hỏa đại đều cùng khắp hư không, không diệt lẫn nhau?
Bạch Thế Tôn, tánh địa đại là ngăn ngại, tánh hư không là
rỗng suốt, làm sao hai đại ấy lại đều cùng khắp pháp giới.
Con nay không biết nghĩa ấy do đâu, xin Phật phát lòng đại
từ, vén mây mê lầm cho con và trong đại chúng." Ông Mãn
Từ nói lời ấy rồi, năm vóc gieo xuống đất, kính mong lời dạy
từ bi vô thượng của đức Như Lai.
68
Vô Minh Đầu tiên
(Lưu ý: Phần này chỉ đọc qua để có một khái niệm mà thôi
vì chỉ có Phật mới biết được việc này)
Khi bấy giờ, đức Thế Tôn bảo ngài Phú lâu na và các vị A la
hán lậu tận vô học trong ội rằng: "Ngày nay Như Lai khắp
vì trong ội nầy chỉ bày tánh chân thắng nghĩa trong thắng
nghĩa, khiến cho ở trong ội nầy, những hàng định tánh
Thanh ăn và hết thảy các bậc A la hán, chưa được hai phép
ngã không pháp không, phát tâm hướng về thượng thừa, đều
được chỗ tu hành chân chính, thiết thực không xao động của
cảnh giới tịch diệt nhất thừa. Ông hãy nghe kỹ, tôi sẽ vì ông
mà nói.”
Phật dạy: "Ông Phú lâu na! Như ông vừa nói: Đã là bản
nhiên thanh tịnh, làm sao bỗng nhiên lại sinh ra có núi sông,
đất liền. ậy ông không thường nghe Như Lai chỉ dạy: Tánh
Giác là Diệu Minh, Bản Giác là Minh Diệu, hay sao?"
Ông Phú lâu na bạch: "Thưa Thế Tôn, vâng, con thường
nghe Phật chỉ dạy nghĩa ấy."
Phật bảo: "Ông gọi là Giác Minh, vì bản tánh nó là Minh,
nên gọi nó là Giác, hay là vì Giác được cái không Minh, mà
gọi là Minh Giác?"
Ông Phú lâu na bạch: "Nếu cái không minh đó mà gọi là
Giác, thì nó không minh được cái gì."
Nguyên nhân vọng thấy có thế giới
Phật dạy: "Nếu không có sở minh thì không có Minh Giác,
nếu có sở45
thì không phải là Giác, mà không sở, lại không
45
Sở để chỉ đối tượng, Năng để chỉ chủ thể, Năng và Sở khế hợp với
nhau.
69
phải là Minh; và không minh, thì lại không phải là cái Tánh
Giác trong lặng sáng suốt. ậy tánh Giác vốn là minh, do
vọng tưởng mà cho là Minh Giác. Giác không có gì là sở
minh, nhân có minh mà lập ra thành sở; đã giả dối lập ra có
sở, mới sinh ra cái năng hư vọng của các ông. "Trong tánh
không đồng, không khác, nổi dậy thành ra có khác; khác với
cái khác kia, thì nhân cái khác đó, mà lập thành cái đồng.
Phát minh cái đồng, cái khác rồi, thì nhân đó, mà lập ra cái
không đồng, không khác. Rối loạn như vậy, đối dãi với nhau
sinh ra lao lự; lao lự mãi phát ra trần tướng, tự vẩn đục lẫn
nhau; do đó, đưa đến những trần lao phiền não. Nổi lên thì
thành thế giới, lặng xuống thì thành hư không; hư không là
đồng, thế giới là khác; cái không đồng, không khác kia, thật
là pháp hữu vi.
"Cái Giác là sáng suốt, cái hư không thì không hay biết, hai
cái đối đãi với nhau, thành có lay động, cho nên có Phong
Luân nắm giữ thế giới. Nhân cái hư không, mà sinh ra có lay
động, phát minh tánh cứng, thì thành có ngăn ngại; các loại
kim bảo đều do Minh Giác lập ra tánh cứng, cho nên có Kim
Luân nắm giữ cõi nước. Biết cái cứng, thì thành có kim bảo,
rõ cái lay động, thì phong đại phát ra; phong đại và kim bảo
cọ xát nhau, cho nên có ỏa đại làm tánh biến hóa. Ngọn lửa
xông lên, kim bảo sinh ra tánh ướt, cho nên có Thủy Luân
trùm khắp các cõi mười phương. Lửa bốc lên, nước sa
xuống, giao nhau phát hiện, mà lập thành tánh cứng; chỗ ướt
là bể lớn, chỗ khô là gò nổi; do cái nghĩa ấy, trong bể lớn
kia, hơi nóng thường bốc lên; trong gò nổi kia, sông ngòi
thường chảy xuống. Thế nước kém thế lửa, thì kết thành núi
cao, vậy nên đá núi, đập thì có tia lửa, nấu thì chảy ra nước.
Thế đất kém thế nước, rút ra thành cỏ cây, vậy nên rừng rú bị
đốt thì thành đất, vắt ra thì có nước.
70
ọng tưởng giao xen phát sinh, xoay vần làm chủng tử cho
nhau; do nhân duyên ấy mà thế giới tiếp tục.
Lại nữa, Phú lâu na! Vọng tưởng chẳng phải gì khác, do
Tánh Giác Minh hóa ra lầm lỗi; cái sở minh hư vọng đã
lập, thì phạm vi của cái năng minh không vượt khỏi được.
o nhân duyên ấy, nghe không ra ngoài tiếng, thấy không
vượt khỏi sắc, sáu cái vọng: Sắc, hương, vị, xúc vân vân...,
đã thành lập, thì do đó, chia ra có thấy, nghe, hay, biết.
Đồng nghiệp ràng buộc lẫn nhau mà hợp, mà ly, mà thành,
mà hoại. Cái thấy phát minh, thì các sắc phát ra; nhận rõ nơi
sự thấy, thì thành có tư tưởng; rồi ý kiến khác nhau, thì thành
ra ghét, tưởng niệm đồng nhau, thì thành ra yêu. Lan [tràn]
cái yêu ra, thành hạt giống, thu nạp tưởng niệm, thành ra cái
thai, giao cấu phát sinh, hấp dẫn nhóm đồng nghiệp, nên có
nhân duyên sinh ra yết la lam, át bồ đàm, vân vân... Thai
sinh, noãn sinh, thấp sinh hay hóa sinh là tùy tùy theo chỗ
mà ứng: Noãn chỉ do tưởng niệm mà sinh, thai thì nhân ái
tình mà có, thấp sinh thì do cảm mà hợp lại, còn hóa sinh thì
phân ly mà ứng hiện. Khi tình, khi tưởng, khi hợp, khi ly,
thay đổi lẫn nhau, nên các loài chịu nghiệp báo cũng theo đó
mà lên xuống; do nhân duyên ấy, chúng sanh nối tiếp nhau
không dứt.
Phú lâu na! Tư tưởng thương yêu ràng buộc lẫn nhau, yêu
mãi không rời, thì những cha mẹ con cháu trong thế gian
sinh nhau không ngớt, nhóm nầy thì lấy dục tham làm gốc.
Lòng tham, lòng yêu giúp nhau tăng trưởng, tham mãi không
thôi, thì các loài thai sinh, noãn sinh, thấp sinh, hóa sinh
trong thế gian, tùy sức mạnh yếu, ăn nuốt lẫn nhau; nhóm
nầy thì lấy sát tham làm gốc. Lấy thân người ăn con dê, dê
chết làm người, người chết làm dê, như vậy cho đến mười
loài chúng sanh chết sống, sống chết, ăn nuốt lẫn nhau,
71
nghiệp dữ cùng sinh ra tột đời vị lai, nhóm nầy thì lấy đạo
tham làm gốc.
Người nầy mắc nợ thân mệnh người kia, người kia trả nợ cũ
cho người nầy; do nhân duyên ấy, trải qua trăm nghìn kiếp,
thường ở trong đường sống chết. Người nầy yêu cái tâm
người kia, người kia ưa cái sắc người nầy, do nhân duyên ấy,
trải qua trăm nghìn kiếp, thường ở trong vòng ràng buộc.
uy ba món sát, đạo, dâm làm gốc và vì nhân duyên đó,
nghiệp quả tiếp tục.
Phú lâu na! Ba thứ tiếp tục điên đảo ấy, đều do tánh sáng
suốt rõ biết của Giác Minh, nhân rõ biết phát ra có tướng,
theo vọng tưởng mà kiến chấp sinh ra, các tướng hữu vi
núi sông, đất liền thứ lớp dời đổi, đều nhân cái hư vọng đó,
mà xoay vần sau trước.”
Giác chẳng sanh mê
Ông Phú lâu na bạch: "Nếu cái iệu Giác đó, bản tánh là
iệu Minh, cùng với tâm Như Lai, không thêm không bớt,
mà không cớ gì bỗng nhiên lại sinh ra các tướng hữu vi núi
sông, đất liền; vậy Như Lai hiện nay đã chứng được Bản
Giác iệu Minh, không có phân biệt, thì đến lúc nào lại sinh
ra núi sông, đất liền và các tập lậu hữu vi?"
Phật bảo ngài Phú lâu na: " í như người mê, nơi một xóm
làng, lầm phương Nam làm phương Bắc, thì cái mê ấy, lại
là nhân mê mà có hay nhân ngộ mà ra?"
Ông Phú lâu na bạch: "Người mê như vậy, cũng không nhân
mê, cũng không nhân ngộ. ì sao? Mê, vốn không có gốc,
làm sao lại nhân mê? Còn ngộ, không phải cái sinh ra mê,
làm sao lại nhân ngộ?"
72
Phật dạy: "Người mê kia, chính trong lúc mê, bỗng có người
ngộ chỉ bày cho được ngộ. Phú lâu na! Ý ông nghĩ thế nào?
Người ấy giải trừ được cái mê đi, thì đối với xóm làng đó,
còn có sanh mê nữa không?
Thưa Thế Tôn, không.
Phú lâu na! Như Lai mười phương thì cũng như vậy. Cái mê
đó không có gốc, tánh nó rốt ráo là rỗng không; xưa vốn
không mê, chỉ hình như có mê, có Giác; Giác được cái
mê, thì cái mê diệt và Giác không sinh ra mê.
Cũng như người lòa thấy hoa đốm giữa hư không, nếu trừ
được bệnh lòa, thì hoa đốm nơi hư không diệt mất. Bỗng có
người ngu, ở chỗ hư không mà hoa đốm kia đã diệt rồi, lại
mong đợi hoa đốm sinh lại. Ông xét người ấy, là ngu hay là
trí tuệ?"
Ông Phú lâu na bạch: " ư không vốn không có hoa đốm, vì
hư vọng mà thấy có sinh diệt; thấy hoa đốm diệt mất nơi hư
không đã là điên đảo rồi; lại còn muốn bảo nó sinh lại, thì
thật là điên dại; làm sao còn gọi người điên như vậy, là ngu
hay là trí tuệ."
Phật dạy: "Ông hiểu như vậy, làm sao còn hỏi Tánh Giác
iệu Minh, không có phân biệt của chư Phật Như Lai, lúc
nào lại sinh ra núi sông, đất liền.
Lại như quặng vàng lộn với vàng ròng, khi vàng đã luyện
thành ròng rồi, thì không xen lộn được nữa; cũng như cây đã
đốt ra tro, thì không thành cây được nữa; Bồ Đề Niết Bàn
chư Phật Như Lai thì cũng như vậy.
73
Các Đại có thể tương dung
"Phú lâu na! Ông lại hỏi về địa, thủy, hỏa, phong, bản tánh
viên mãn dung hòa, cùng khắp pháp giới, nghi sao tánh
nước, tánh lửa lại không lấn nhau, diệt nhau và nêu ra hư
không và địa đại đều cùng khắp pháp giới, lẽ ra không dung
được nhau.
Phú lâu na! í như hư không, bản thể không phải các tướng,
mà không ngăn cản các tướng phát huy. ì sao? Phú lâu na!
Nơi hư không kia, mặt trời soi thì sáng, mây kéo thì tối, gió
lay động, trời tạnh thì trong, hơi đọng, thì đục, bụi nổi thì
mù, nước đứng thì ánh. Ý ông nghĩ thế nào? Các tướng hữu
vi khác nhau như vậy, nhân các cái kia mà sinh, hay nhân hư
không mà có. Phú lâu na! Nếu như do các cái kia sinh ra, thì
khi mặt trời soi, đã là mặt trời sáng, mười phương thế giới
đều thành sắc của mặt trời, làm sao giữa hư không, lại còn
thấy mặt trời tròn. Nếu là hư không sáng, thì hư không phải
tự soi lấy, làm sao lúc giữa đêm mây mù, lại không sinh ra
sáng chói. ậy nên biết rằng cái sáng đó, không phải mặt
trời, không phải hư không và cũng không ra ngoài hư không
và mặt trời. Xét kỹ các tướng vốn là vọng, không thể chỉ
bày, cũng như muốn hoa đốm hư không kết thành quả hư
không, làm sao còn gạn hỏi cái nghĩa lấn diệt lẫn nhau? Xét
cái tánh, vốn là chân, chỉ là Tánh Giác iệu Minh. Tánh
Giác iệu Minh, vốn không phải là nước hay là lửa, làm sao
còn hỏi về nghĩa không dung được nhau?
Bản Tánh iệu Minh chân thật thì cũng như vậy. Ông phát
minh cái hư không, thì có hư không hiện ra; địa, thủy, hỏa,
phong, mỗi mỗi phát minh, thì mỗi mỗi hiện ra; nếu cùng
phát minh, thì cùng hiện ra.
74
Thế nào là cùng hiện ra? Phú lâu na! Như trong một chỗ có
nước, hiện ra bóng mặt trời, hai người đồng xem mặt trời
trong nước; rồi một người đi phương Đông, một người đi
phương Tây, thì hai bên đều có mặt trời theo mình cùng đi,
một cái về phương Đông, một cái về phương Tây, không có
chuẩn đích nhất định. Không nên gạn hỏi rằng, mặt trời đó là
một, sao lại mỗi cái đi theo mỗi người? Các mặt trời đã thành
hai, làm sao trước kia chỉ hiện ra có một? ư vọng quanh lộn
như thế, không thể lấy gì làm bằng cứ.
Chỉ rõ Tánh Diệu Minh là Như Lai Tạng rời cả hai nghĩa
“Phi” và “Tức”
"Phú lâu na! Ông đem cái sắc, cái không, mà lấn đoạt lẫn
nhau nơi Như Lai Tạng, thì Như Lai Tạng theo ông làm sắc,
làm không, cùng khắp pháp giới; vậy nên trong ấy, gió thổi
thì động, hư không thì lặng, mặt trời thì sáng, mây mù thì tối:
Chúng sanh mê lầm, lìa xa Giác tánh, hợp với trần tướng,
cho nên phát ra trần lao mà có các tướng thế gian.”
"Ta thì lấy tánh iệu Minh, không diệt không sinh, hợp với
Như Lai Tạng, thì Như Lai Tạng chỉ là tánh Giác iệu
Minh, soi khắp pháp giới; vậy nên trong ấy, một là vô lượng,
vô lượng là một, trong nhỏ hiện ra lớn, trong lớn hiện ra nhỏ,
đạo trường [tràng] bất động cùng khắp thế giới mười
phương, thân trùm cả hư không vô tận mười phương, nơi đầu
một mãy lông, hiện ra cõi Bảo vương, ngồi trong vi trần,
chuyển bánh xe pháp lớn; lìa trần tướng, hợp Giác tánh, nên
tánh Giác chân như nhiệm mầu sáng suốt hiển bày.
"Nhưng Như Lai Tạng bản tánh diệu viên, không phải là
tâm, là không, là địa, là thủy, là phong, là hỏa; không phải là
nhãn, là nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý; không phải là sắc, là thanh,
hương, vị, xúc, pháp; không phải là nhãn thức giới, cho đến
75
không phải là ý thức giới; không phải là minh, là vô minh, là
hết minh, là hết vô minh, cho đến không phải là lão, là tử, là
hết lão tử; không phải là khổ, là tập, là diệt, là đạo; không
phải là trí, là đắc; không phải là bố thí, là trì giới, là tinh tiến,
là nhẫn nhục, là thiền định, là trí tuệ, là Ba la mật đa, cho đến
cũng không phải là Như Lai, là Ứng cúng, là Chính biến tri;
không phải là Đại Niết Bàn, là đức Thường, đức Lạc, đức
Ngã, đức Tịnh, vì cái đó, đều không là các pháp thế gian và
xuất thế gian vậy46.”
"Tức cái bản tánh minh diệu Như Lai Tạng, cũng tức là
tâm, là không, là địa, là thủy, là phong, là hỏa; tức là nhãn, là
nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý; tức là sắc, là thanh, hương, vị, xúc,
pháp; tức là nhãn thức giới, cho đến là ý thức giới; tức là
minh, là vô minh, là hết minh, là hết vô minh, cho đến tức là
lão, là tử, là hết lão tử; tức là khổ, là tập, là diệt, là đạo; tức
là trí, là đắc; tức là bố thí, là trì giới, là tinh tiến, là nhẫn
nhục, là thiền định, là trí tuệ, là Ba la mật đa, cho đến tức là
Như Lai, là Ứng cung, là Chính biến tri; tức là Đại Niết Bàn,
là đức Thường, đức Lạc, đức Ngã, đức Tịnh; do cái đó, tức là
các pháp thế gian và xuất thế gian vậy.”
"Tức cái tánh Giác iệu Minh Như Lai Tạng, rời cả các
nghĩa "tức", "phi" và cũng là "tức", là "phi"; làm sao
chúng sanh ba cõi thế gian và các hàng Thanh Văn,
Duyên Giác xuất thế gian, lấy cái tâm hay biết sự vật, mà
đo lường được vô thượng Bồ Đề của Như Lai, dùng tiếng
nói thế gian, mà vào được tri kiến của Phật47. í như,
những cây đàn cầm, sắt, không hầu, tỳ bà, tuy có tiếng hay,
nhưng nếu không có ngón tay hay, thì rốt cuộc cũng không
46
Nơi Như Lai Tạng không còn phân biệt, không còn danh tự. 47
Phần này cho biết chúng sanh không thể hiểu nổi, lời Đức Phật dạy
bằng ví dụ chàng Diễn Nhã Đạt Đa chỉ là để gợi ý mà thôi.
76
phát ra được. Ông cùng chúng sanh thì cũng như vậy. Tâm
tánh chân thật, mỗi người đều đầy đủ, nhưng khi Ta ấn ngón
tay, thì hải ấn phát ra hào quang, còn các ông tạm móng tâm
lên, thì trần lao đã nổi, do vì không siêng năng cầu đạo vô
thượng Giác, ưa nhớ Tiểu Thừa, được một ít đã cho là đủ.”
Mê vọng không có nhân, hết mê là Bồ Đề
Ông Phú lâu na bạch: "Chơn Tâm iên Giác iệu Minh của
con và của Như Lai, đều viên mãn không hai, mà con, trước
kia mắc vọng tưởng vô thủy, ở lâu trong luân hồi, nay được
thánh thừa, còn chưa rốt ráo; Thế Tôn, thì khắp tất cả các
vọng đều diệt trọn, chỉ có diệu dụng tánh chân thường. Xin
hỏi đức Như Lai, hết thảy chúng sanh, vì nhân gì mà có
vọng, tự che Tánh iệu Minh, mà chịu chìm đắm như vậy?"
Phật bảo ngài Phú lâu na: "Ông tuy trừ được lòng nghi,
nhưng còn những điều lầm chưa dứt hết. Nay Ta lại đem
những việc hiện tiền thế gian mà hỏi ông. á ông không
nghe trong thành Thất la phiệt, có anh iễn nhã đạt đa, buổi
mai lấy gương soi mặt, bỗng nhiên ưa cái đầu trong gương,
lông mày, con mắt có thể thấy được, rồi giận trách cái đầu
mình, sao lại không thấy mặt mày, cho là giống yêu quái, rồi
không cớ gì [bổng nhiên] phát điên bỏ chạy. Ý ông nghĩ thế
nào, người đó vì nguyên nhân gì, vô cớ phát điên bỏ chạy?"
Ông Phú lâu na bạch: "Tâm người ấy điên, chứ không có cớ
gì khác."
Phật dạy: "Tánh iệu Giác viên mãn sáng suốt, bản lai là
iệu Minh cùng khắp; đã gọi là vọng, thì làm sao có nhân,
nếu có nguyên nhân, thì sao gọi là vọng? Chỉ tự các vọng
tưởng xoay vần làm nguyên nhân cho nhau, theo cái mê,
chứa cái mê, trải qua kiếp số như vi trần; tuy Phật phát minh,
còn không biết trở về. Nguyên nhân cái mê như vậy, là nhân
77
mê tự có, biết cái mê không có nhân, thì cái vọng không
chỗ nương tựa, còn không có sinh, thì muốn đem cái gì
mà làm cái diệt. Người được đạo Bồ Đề như người tỉnh giấc
kể chuyện trong chiêm bao; tâm dầu rõ ràng, nhưng không
thể có nhân duyên gì lấy được những vật trong chiêm bao;
huống nữa, cái mê lại không có nhân, vốn không có gì cả.
Như anh iễn nhã đạt đa trong thành kia, đâu có nhân duyên,
mà tự sợ đầu mình bỏ chạy, khi hết điên, thì cái đầu đâu phải
từ ngoài đưa tới; dầu chưa hết điên, cái đầu cũng không hề
mất.
Phú lâu na! Tánh của cái vọng là như vậy, làm sao còn có
nguyên nhân được. Ông chỉ không theo sự phân biệt ba
thứ “các Pháp nơi thế gian, nghiệp quả, chúng sanh", khi
ba duyên đã đoạn rồi, ba nhân không sinh ra nữa, và
tánh điên của anh Diễn nhã đạt đa trong tâm ông tự hết.
Hết, tức là tâm tánh Bồ Đề trong sạch sáng suốt, bản lai
cùng khắp pháp giới hiện ra, không do ai đưa lại, nào cần
gì phải tu chứng nhọc nhằn vất vả.
í như có người, ở nơi áo mình, buộc một hạt châu như ý48
,
mà không hay biết, nên phải xin ăn rong ruổi phương xa,
nghèo nàn rách rưới; tuy người ấy thật nghèo nàn, nhưng hạt
châu không hề bị mất; bỗng nhiên có người khôn, chỉ hạt
châu ra cho, thì người ấy muốn gì được nấy, thành giàu có
lớn, rồi mới ngộ được hạt châu quý hóa ấy, không phải do ở
ngoài đưa tới.”
Phá xích nhân duyên, tự nhiên xưa nay không vọng
Lúc bấy giờ ngài Anan ở trong đại chúng, đãnh lễ chân Phật,
đứng dậy bạch Phật: "Đức Thế Tôn hiện nói về các nghiệp
48
Hột châu trong chéo áo là chuyện người cùng tử trong kinh Diệu Pháp
Liên Hoa.
78
sát, đạo, dâm. ề ba duyên đoạn rồi, thì ba nhân không sinh
và tánh điên anh iễn nhã đạt đa trong tâm tự hết; hết, tức là
Bồ Đề, không do người khác đưa tới; như thế, rõ ràng là
nhân duyên rồi, làm sao đức Như Lai lại bỏ nghĩa nhân
duyên? Chính con, do nhân duyên, mà tâm được khai ngộ.
Bạch Thế Tôn, nghĩa ấy đâu chỉ đối với hàng Thanh ăn hữu
học, ít tuổi như chúng con, mà hiện nay, trong ội nầy, ông
Đại mục kiền liên, ông Xá Lợi Phất, ông Tu Bồ Đề, vân vân
... cũng từ ông lão Phạm Chí nghe lý nhân duyên của Phật,
mà phát tâm khai ngộ, được thành quả vô lậu. Nay Phật dạy
rằng Bồ Đề không do nhân duyên, thì các thuyết tự nhiên của
nhóm Câu xá ly, thành ương xá, lại thành đệ nhất nghĩa.
Xin Phật rủ lòng đại bi, khai phá chỗ mê lầm cho chúng
con.”
Đức Phật bảo: "Anan! Như cái đầu anh iễn nhã đạt đa vốn
là tự nhiên, nó đã tự nhiên như thế, thì có lúc nào lại không
tự nhiên, vậy vì nhân duyên gì, mà sợ cái đầu, phát điên bỏ
chạy? Nếu cái đầu tự nhiên, vì nhân duyên mà điên, thì sao
không tự nhiên, vì nhân duyên mà mất đi? Cái đầu vốn
không mất, điên sợ giả dối phát ra, chứ nào có thay đổi gì,
mà phải nhờ đến nhân duyên. Nếu tánh điên vốn là tự nhiên
và vốn có sẵn tánh điên sợ, thì khi chưa điên, cái điên núp
vào chỗ nào? Nếu tánh không điên là tự nhiên, thì cái đầu
vẫn không việc gì, sao lại phát điên bỏ chạy? Nếu ngộ được
cái đầu sẵn có, biết mình vì phát điên mà bỏ chạy, thì nhân
duyên và tự nhiên đều là hý luận."
Đưa vào Bồ Đề
" ậy nên Ta nói: Ba duyên đoạn trừ rồi, tức là tâm Bồ Đề.
Tâm Bồ Đề sinh, tâm sinh diệt diệt, đó chỉ là sinh diệt. iệt
79
và sinh đều hết, thì gọi là vô công dụng đạo49. Nếu có tự
nhiên, như vậy là phát minh tâm tự nhiên sinh, tâm sinh diệt
diệt, thế cũng là sinh diệt và lấy cái không sinh diệt, gọi là tự
nhiên. Cũng như, trong thế gian các tướng hòa lẫn thành ra
một thể, gọi là tánh hòa hợp; cái không phải hòa hợp, thì gọi
là tánh bản nhiên. Bản nhiên không phải bản nhiên, hòa hợp
không phải hòa hợp, hòa hợp và bản nhiên đều rời bỏ, rời bỏ
và không rời bỏ đều "phi", câu nói nầy, mới gọi là pháp
không hý luận."
"Bồ Đề Niết Bàn còn ở xa xôi, nếu ông không trải qua nhiều
kiếp siêng năng tu chứng, thì tuy ghi nhớ diệu lý thanh tịnh
mười hai bộ kinh của thập phương Như Lai, như cát sông
ằng, cũng chỉ càng thêm hý luận. Ông tuy nói lý nhân
duyên, tự nhiên, chắc chắn rõ ràng, người đời gọi ông là đa
văn bậc nhất. ới cái huân tập đa văn nhiều kiếp đó, ông
không thoát khỏi được nạn Ma đăng già, phải đợi thần chú
Phật đảnh của Ta, làm cho lửa dâm trong tâm nàng Ma đăng
già hết đi và nàng được quả A na hàm, ở trong Phật pháp
thành rừng tinh tiến, sông ái khô cạn, mới khiến cho ông
được giải thoát. ậy nên ông Anan, tuy ông nhiều kiếp ghi
nhớ những pháp bí mật diệu nghiêm của Như Lai, cũng
không bằng một ngày tu nghiệp vô lậu, xa rời hai khổ ưa
ghét thế gian. Như nàng Ma đăng già, trước kia là dâm nữ,
do sức thần chú, tiêu diệt lòng ưa muốn, nay ở trong Phật
pháp, gọi tên là Tánh Tỷ kheo ni, cùng với mẹ La hầu la là
a du đà la, đồng ngộ nhân trước, biết đã trải qua nhiều đời,
nhân vì tham ái mà khổ, một niệm huân tu pháp vô lậu thiện,
thì người đã ra khỏi ràng buộc, người thì được Phật thọ ký,
làm sao, ông còn tự dối mình, mắc míu mãi trong vòng nghe
thấy.”
49
Vô công dụng đạo: ùng đạo không tốn công sức.
80
Phần 11
Chỉ nghĩa quyết định
Các pháp tu hành sau khi đốn ngộ, phát Bồ Đề Tâm
Ngài Anan và cả đại chúng nghe lời Phật dạy, tiêu hết nghi
hoặc, ngộ được thật tướng, thân và ý đều yên lành, được
pháp chưa từng có, nên thỉnh cầu đức Phật dạy pháp tu hành,
phát Bồ Đề Tâm.
Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn thương xót các hàng Thanh ăn,
Duyên Giác trong ội, chưa được tự tại nơi tâm Bồ Đề, và
những chúng sanh phát Bồ Đề tâm trong đời Mạt Pháp về
sau, khi Phật đã diệt độ rồi, khai thị cho đường tu hành
nhiệm mầu pháp vô thượng thừa, và chỉ dạy ông Anan với
cả đại chúng rằng: "Các ông quyết định phát tâm Bồ Đề, đối
với pháp Tam ma đề chư Phật Như Lai, không sinh mệt mỏi,
thì trước hết, nên rõ hai nghĩa quyết định, trong lúc bắt đầu
phát tâm tự Giác50
."
Phát Tâm trong lúc tu nhân
(Lưu ý: Đọc kỹ đoạn này và nhớ lấy để khi tu không lạc vào tà
đạo)
"Thế nào là hai nghĩa quyết định trong lúc mới phát tâm.
Anan! nghĩa thứ nhất là: Nếu các ông muốn rời bỏ phép
Thanh ăn, tu thừa Bồ Tát, vào tri kiến của Phật, thì nên xét
kỹ cái nhân địa phát tâm với quả địa của Giác ngộ là
đồng hay là khác nhau. Anan! Nếu nơi nhân địa mà đem
cái tâm sinh diệt làm cái nhân tu hành, đề cầu cho được
cái quả bất sinh bất diệt của Phật thừa, thì thật không
thể được. o cái nghĩa đó, ông nên xét các pháp, có thể làm
50
Phát Tâm tự Giác còn gọi là Sơ Tâm Giác Ngộ.
81
ra trong khí thế gian, đều phải thay đổi diệt mất. Anan! Ông
xét các pháp, có thể làm ra trong thế gian, có cái gì là không
hư nát, nhưng không bao giờ nghe hư không tan rã, vì sao?
ì hư không không phải là cái bị làm ra, do đó, trước sau
không hề tan mất. Thì trong thân ông, tướng cứng là địa đại,
thấm ướt là thủy đại, hơi ấm là hỏa đại, lay động là phong
đại; do bốn cái ấy ràng buộc, mà chia cái Tâm Tánh Diệu
Minh vắng lặng, cùng khắp của ông, làm ra cái thấy, cái
nghe, cái biết, cái xét nghĩ, từ đầu đến cuối, tạo thành
năm lớp ô trược.
"Thế nào là trược? Anan! Ví như nước trong, bản nhiên là
trong sạch, lại như những thứ bụi, đất, tro, cát, bản chất là
ngăn ngại; hai bên bản nhiên thể chất khác nhau, không hợp
nhau được. Có người thế gian lấy đất bụi kia, ném vào nước
sạch, thì đất mất ngăn ngại, nước mất trong sạch, hình trạng
đục vẩn, gọi đó là trược; năm lớp ô trược của ông cũng giống
như vậy.
Anan! Ông thấy hư không khắp mười phương thế giới. Bên
không, bên thấy, không tách rời nhau; có cái không mà
không thật thể, có cái thấy mà không hay biết, hai bên xen
lộn giả dối thành ra lớp thứ nhất, gọi là kiếp trược.
Thân ông hiện ôm bốn món đại làm tự thể, che bít những sự
thấy, nghe, hay, biết, thành bị ngăn ngại và trở lại làm cho
các thứ địa, thủy, hỏa, phong, thành có hay biết; các điều đó
xen lộn giả dối thành ra lớp thứ hai, gọi là kiến trược.
Lại trong tâm ông, những sự nhớ biết học tập, phát ra tri
kiến, hiện ra tướng sáu trần, thì những sự đó, rời tiền trần
không có tướng, rời tri Giác không có tánh, xen lộn giả dối
thành ra lớp thứ ba, gọi là phiền não trược.
82
Lại tâm ông ngày đêm sinh diệt không ngừng, tri kiến thì
muốn lưu mãi ở thế gian, nhưng nghiệp báo xoay vần thì lại
thường dời đổi cõi nầy cõi khác, những điều đó xen lộn giả
dối thành ra lớp thứ tư, gọi là chúng sanh trược.
Cái thấy, cái nghe của ông, bản tánh vốn không khác nhau,
do các trần cách trở, mà không duyên cớ gì, lại sinh ra khác
nhau; trong tánh thì vẫn biết nhau, nhưng trong dụng thì trái
ngược nhau, cái đồng và cái khác đã mất hẳn chuẩn đích, xen
lộn giả dối thành ra lớp thứ năm, gọi là mệnh trược.
Anan! Nay ông muốn cho cái sự thấy, nghe, hay, biết, vĩnh
viễn khế hợp với bốn đức thường, lạc, ngã, tịnh của Như
Lai, thì trước hết, phải lựa bỏ cỗi gốc sống chết, nương theo
cái không sinh diệt mà thành tựu tánh trong lặng cùng
khắp. Dùng cái trong lặng mà xoay các thứ sinh diệt hư
vọng trở về nơi bản Giác, được tánh không sinh diệt của
bản Giác làm cái tâm nhân địa, thì về sau mới viên thành
Quả Địa tu chứng51. Như lắng nước đục đựng trong một cái
đồ để yên, để yên mãi không lay động, thì đất cát tự chìm
xuống và nước trong hiện ra, thế gọi là bắt đầu uốn dẹp các
khách trần phiền não; gạn bùn hết sạch, chỉ còn nước trong,
thì gọi là dứt hẳn căn bản vô minh; tướng sáng suốt đã tinh
thuần, thì tất cả các điều biến hiện đều không gây ra phiền
não và hợp với đức mầu thanh tịnh của Niết Bàn.
Xét rõ gốc rễ phiền não
Nghĩa thứ hai là các ông quyết muốn phát tâm Bồ Đề, nơi
thừa Bồ Tát, sinh lòng đại dũng mãnh, quyết định rời bỏ các
tướng hữu vi, thì nên xét rõ cỗi gốc phiền não, những thứ
51
Câu này phải nhớ kỹ vì đó là pháp tu để áp dụng vào thực hành chứ
không phải nói suông.
83
ấy từ vô thủy đến nay phát sinh nghiệp và nẩy nở ra, là ai
làm, ai chịu?
Anan! Ông tu đạo Bồ Đề, nếu không suy xét cỗi gốc phiền
não, thì không thể biết những căn trần hư vọng, nó điên đảo
ở chỗ nào; chỗ điên đảo còn không biết, thì làm sao uốn dẹp
được nó và chứng được quả vị Như Lai.
Anan! Ông hãy xem người thế gian cởi nút, hễ không thấy
chỗ thắt nút, thì không biết cởi, chứ không hề nghe hư không
bị phá tan; vì sao? ì hư không không có hình tướng, không
thắt, không cởi vậy. Thì như ông hiện nay, sáu thứ nhãn, nhĩ,
tỷ, thiệt, thân, ý làm mai mối cho giặc, tự cướp của báu trong
nhà; do đó, từ vô thủy, thế giới chúng sanh sinh ra ràng buộc,
không thể vượt khỏi thế gian sự vật.52
Anan! Thế nào gọi là thế giới chúng sanh? Thế là thời gian
dời đổi, giới là không gian phương hướng. Nay ông nên biết
những phương Đông, Tây, Nam, Bắc, Đông Nam, Tây Nam,
Đông Bắc, Tây Bắc, phương trên, phương dưới là giới. Còn
quá khứ, vị lai, hiện tại là thế. Phương hướng có mười, số
lưu chuyển của thời gian có ba, hết thảy chúng sanh dệt cái
vọng mà thành như vậy; nơi sự dời đổi trong thân, thế và
giới gắn bó với nhau. Nhưng cái tánh của giới đó, tuy là
mười phương, song có chỗ nhất định có thể chỉ rõ, thì thế
gian chỉ nhận phương Đông, phương Tây, phương Nam,
phương Bắc; phía trên, phía dưới, thì không có vị trí rõ ràng;
ở giữa cũng không có chỗ nhất định. Số bốn đã rõ rồi, nhân
với số thế, thì ba lần bốn, bốn lần ba, xoay vần là số mười
hai, nhân luôn ba lớp, một chục thành trăm, thành nghìn, thì
52
Ý nghĩa đoạn này là qua sáu căn, chúng sanh dính mắc (ràng buộc) vào
thế gian.
84
tổng quát trước sau, ở trong sáu căn, mỗi mỗi có thể có đến
một nghìn hai trăm công đức.
Anan! Trong sáu căn đó, ông lại xét định chỗ hơn, chỗ kém.
Như nhãn căn xem thấy, phía sau thì tối, phía trước thì sáng,
phương trước toàn sáng, phương sau toàn tối, kể cả ngó qua
bên phải bên trái, thì ba phần chỉ thấy được hai; tóm lại công
đức của nhãn căn không toàn vẹn, trong ba phần công đức
thì một phần không có; vậy nên biết nhãn căn chỉ có tám
trăm công đức.
Như nhĩ căn nghe khắp, mười phương không sót, động thì
giống như có xa có gần, tĩnh thì không có bờ bến; vậy nên
biết nhĩ căn đầy đủ một nghìn hai trăm công đức.
Như tỷ căn ngửi biết cả lúc thở ra, thở vào; chỉ có trong lúc
thở ra, thở vào mà còn thiếu trong lúc hơi thở giao tiếp; xét
nơi tỷ căn, ba phần còn thiếu một; vậy nên biết tỷ căn chỉ có
tám trăm công đức.
Như thiệt căn phô bày cùng tột trí thế gian và xuất thế gian;
lời nói có chừng hạn, nhưng lý thì vô cùng vô tận; vậy nên
biết thiệt căn đầy đủ một nghìn hai trăm công đức.
Như thân căn biết xúc trần, biết các cảm xúc trái và thuận;
khi hợp lại thì biết, khi rời ra thì không biết, rời chỉ có một,
hợp thì có hai; xét nơi thân căn, ba phần còn thiếu một; vậy
nên biết thân căn chỉ có tám trăm công đức.
Như ý căn thầm lặng dung nạp tất cả các pháp thế gian, xuất
thế gian trong mười phương ba đời; dù thánh hay phàm,
không pháp nào không bao dung cùng tột bờ bến; vậy nên
biết ý căn đầy đủ một nghìn hai trăm công đức.
Anan! Nay ông muốn ngược dòng sinh tử, xoay về tột gốc
lưu chuyển, đến chỗ không sinh diệt, thì nên xét trong sáu
85
căn hiện đương thọ dụng, cái gì là hợp, cái gì là ly, cái gì là
sâu, cái gì là cạn, cái gì là viên thông, cái gì là không viên
mãn. Nếu ngộ được căn tánh viên thông nơi đó, ngược lại
dòng nghiệp dệt vọng vô thủy kia và theo được tánh viên
thông, thì đối với sự tu hành nơi cái căn không viên thông,
hiệu quả xấp bội, một ngày bằng một kiếp. Ta nay đã chỉ rõ
sáu căn viên minh, vốn có những số lượng công đức như thế;
tùy ông lựa chọn nơi căn nào, có thể nhập đạo được, thì Ta
sẽ phát minh, để cho ông được tăng tiến trên đường tu hành.
Thập phương Như Lai, nơi mười tám giới, mỗi giới đều tu
hành được viên mãn vô thượng Bồ Đề; trong các giới đó,
cũng không có gì là hơn, là kém. Chỉ vì ông căn cơ thấp
kém53, chưa thể viên mãn trí tuệ, tự tại trong ấy được, nên Ta
bảo ông chỉ đi sâu vào một căn, đi sâu đến chỗ không còn
vọng tưởng, thì cả sáu căn kia một thời đều thanh tịnh.”
Ngài Anan bạch Phật rằng: "Thưa Thế Tôn, làm sao ngược
dòng hư vọng, đi sâu vào một căn, lại có thể khiến cho sáu
căn một thời đều thanh tịnh?"
Phật bảo ngài Anan: "Ông nay đã được quả Tu đà hoàn, đã
diệt được kiến hoặc của ba cõi thế gian chúng sanh, song còn
chưa biết những tập khí hư vọng chứa nhóm trong căn từ vô
thủy; các tập khí kia, phải nhân tu đạo rồi mới đoạn được,
huống chi, trong đó còn có rất nhiều phân loại, số mục sinh
trụ dị diệt.
Nay ông hãy xét sáu căn hiện tiền là một, hay là sáu. Anan!
Nếu nói là một, thì lỗ tai sao không thấy, con mắt sao không
nghe, đầu sao không đi, chân sao không nói; còn nếu sáu căn
đó quyết định là sáu, thì như trong ội nầy, tôi chỉ dạy pháp
53
Đức Phật nói rõ sự lựa chọn căn viên thông để phù hợp với căn cơ của
mình, chứ không nhất định phải chọn một trong sáu căn.
86
môn nhiệm mầu cho ông, trong sáu căn của ông, cái gì lĩnh
thọ?"
Ông Anan bạch: "Tôi dùng lỗ tai nghe.”
Phật dạy: "Lỗ tai ông tự nghe, nào dính gì đến thân với
miệng, mà miệng ông thì hỏi nghĩa, thân ông thì đứng dậy
kính vâng. ậy nên biết rằng chẳng phải một, mà cuối cùng
thành sáu, chẳng phải sáu, mà cuối cùng thành một, rốt cuộc
cái căn của ông, vốn không phải là một, hay là sáu. Anan!
Ông nên biết cái căn ấy không phải một, không phải sáu; do
từ vô thủy đắm chấp trái ngược, nên nơi tánh viên trạm
(trong lặng,) sinh ra có cái một, cái sáu. Nay ông được quả
Tu đà hoàn, tuy đã tiêu được cái sáu, nhưng còn chưa quên
cái một.
Như cái hư không, tham hợp với các vật dụng; do hình trạng
vật dụng khác nhau, mà gọi là hư không khác nhau, đến khi
trừ bỏ vật dụng mà xem cái hư không, thì nói hư không là
một; chứ cái hư không kia, làm sao lại vì ông mà thành đồng
hay không đồng, huống nữa, lại gọi là một hay không phải
một.
Sáu căn hay biết của ông thì cũng như vậy.
Do hai thứ sáng và tối, tỏ bày lẫn nhau, nơi tánh diệu viên,
làm dính che tánh yên lặng, phát ra cái thấy; cái thấy dọi ra
thành sắc, kết cái sắc lại thành căn, gốc căn, thì gọi là tứ đại
thanh tịnh, nhân gọi hình thể con mắt như quả bồ đào; bốn
trần của phù căn rong ruổi chạy theo sắc.
Do hai thứ động và tĩnh, đối chọi lẫn nhau, nơi tánh diệu
viên, làm dính che tánh yên lặng, phát ra cái nghe; cái nghe
ánh ra thành tiếng, cuốn cái tiếng lại thành căn, gốc căn, thì
87
gọi là tứ đại thanh tịnh, nhân gọi hình thể cái tai như lá mới
cuốn; bốn trần của phù căn rong ruổi chạy theo tiếng.
Do hai thứ thông và bít, phát hiện lẫn nhau, nơi tánh diệu
viên, làm dính che tánh yên lặng, phát ra cái ngữi; cái ngửi
ánh ra thành hương, thu nạp cái hương thành căn, gốc căn,
thì gọi đó là tứ đại thanh tịnh, nhân gọi hình thể cái mủi như
hai móng tay rủ xuống; bốn trần của phù căn rong ruổi chạy
theo hương.
Do hai thứ nhạt và có vị, tham chước lẫn nhau, nơi tánh
diệu viên, làm dính che tánh yên lặng, phát ra cái nếm; cái
nếm ánh ra thành vị, thắt cái vị thành căn, gốc căn, thì gọi là
tứ đại thanh tịnh, nhân gọi hình thể cái lưỡi như mặt trăng
mới khuyết; bốn trần của phù căn rong ruổi chạy theo vị.
Do hai thứ ly và hợp, so sánh lẫn nhau, nơi tánh diệu viên,
làm dính che tánh yên lặng, phát ra cái biết xúc; cái biết
xúc ánh ra thành xúc, ôm nắm cái xúc thành căn, gốc căn, thì
gọi là tứ đại thanh tịnh, nhân gọi hình thể cái thân như dáng
trống cơm, bốn trần của phù căn rong ruổi chạy theo xúc.
Do hai thứ sinh và diệt, tiếp tục lẩn nhau, nơi tánh diệu
viên, làm dính che tánh yên lặng, phát ra cái biết; cái biết
ánh ra thành các pháp, tóm thu các pháp thành căn, gốc căn,
thì gọi là tứ đại thanh tịnh, nhân gọi cái ý như cái thấy trong
phòng tối; bốn trần của phù căn rong ruổi chạy theo pháp.”
"Anan! Sáu căn như vậy do tánh Giác Minh kia chuyển
thành Minh Giác, mất tánh sáng suốt, dính với cái vọng mà
phát ra hay biết. ậy nên ông nay rời sáng rời tối, thì không
có cái thấy, rời động rời tĩnh, thì không có cái nghe, không
thông không bít, thì cái ngửi không sinh, không vị không
nhạt, thì cái nếm không phát ra, không ly không hợp, thì cái
88
biết xúc vốn không, không diệt không sinh, thì cái rõ biết
không gá vào đâu.
Ông chỉ không đi theo những động tĩnh, hợp ly, không vị có
vị, thông bít, sáng tối, sinh diệt, cả mười hai tướng hữu vi đó,
đi đến rút được một căn ra khỏi cái dính, phục vào bên
trong, phục trở về tánh bản chân, phát ra tánh sáng suốt
bản lai; tánh sáng suốt đó đã phát minh, thì năm chỗ
dính khác cũng liền đó được giải thoát. Từ đó cái hay
biết có mà chẳng do tiền trần, vốn sáng suốt mà không đi
theo căn, chỉ gửi nơi căn mà phát ra; bởi thế sáu căn có
thể dùng thay lẫn nhau.
Anan! á ông không biết ở trong ội nầy, ông A na luật đà
không có mắt mà thấy, rồng Bạt nan đà không có tai mà
nghe, thần nữ Căng già không có mũi mà nghe hương, ông
Kiều phạm bát đề lưỡi khác mà biết vị, thần Thuấn nhã đa
không có thân mà biết xúc, do hào quang Như Lai ánh ra,
làm cho ông ấy tạm thời hiện ra có thân, chứ bản chất của
ông là gió, thì thân thể vốn không có; các vị Thanh ăn được
tịch diệt trong diệt tận định, như ông Ma ha ca diếp trong
ội nầy, đã diệt ý căn lâu rồi mà vẫn rõ biết cùng khắp,
không do ở tâm niệm.
Anan! Nếu các căn của ông đều được giải thoát trọn đủ,
thì cái sáng suốt trong tâm tánh phát ra; như thế, thì các
phù trần và các tướng biến hoá trong thế gian sự vật đều tiêu
mất, như giá gặp nước sôi, ngay đó, liền hóa thành ô
Thượng Tri Giác.
Anan! Như người thế gian kia, nhóm cái thấy nơi con mắt;
nếu bảo nhắm kín, thì tướng tối hiện ra, cả sáu căn đều tối,
đầu và chân giống nhau. Người kia lấy tay rờ quanh ngoài
89
thân thể, thì tuy không thấy, nhưng một phen nhận được đầu
và chân rồi, thì cái hay biết vẫn đồng như trước kia.
uyên vì cái thấy nhân nơi sáng, nên khi tối thành ra không
thấy, chứ không có sáng mà tự phát ra cái thấy, thì các thứ
tối hẳn không thể làm mờ được. Căn và trần đã tiêu rồi, làm
sao tánh Giác Minh lại không thành nhiệm mầu cùng khắp.”
Nghi căn tánh không có tự thể
Ngài Anan bạch Phật rằng: “Bạch Thế Tôn, như lời Phật dạy,
chỗ phát tâm cầu được thường trụ thì phải từ Nhân Địa là
Giác Tâm, và những danh mục tu chứng cốt yếu cần phải
tương ứng với quả vị. Bạch Thế Tôn, như trong quả vị, nào
là Bồ Đề, Niết Bàn, Chân như, Phật tánh, Am ma la thức,
Không Như Lai Tạng, Đại viên kính trí; bảy thứ danh hiệu
tuy có khác nhau, nhưng thể tánh đều thanh tịnh viên mãn,
vững chắc như Kim cương vương, thường trụ, không hư nát.
Nếu cái thấy nghe, ngoài những tướng sáng tối, động tĩnh,
thông bít, rốt ráo không có tự thể cũng như cái tâm niệm, rời
tiền trần ra, vốn không có gì, thì làm sao lại đem cái rốt ráo
đoạn diệt ấy làm cái nhân tu hành, để được bảy quả thường
trụ của Như Lai? Bạch Thế Tôn, nếu rời sáng tối, thì cái
thấy rốt ráo là không; nếu không có tiền trần, thì tự tánh của
tâm niệm diệt mất, lui tới vần xoay, suy xét chín chắn, vốn
không có tâm con và tâm sở của con; vậy đem cái gì làm
nhân, để cầu được vô thượng Giác. Xin Phật rủ lòng đại từ,
mở chỗ mê chấp cho con.”
Thỉnh chuông để thể hiện tánh nghe là thường trụ
Đức Phật bảo ngài La hãu la đánh một tiếng chuông, rồi hỏi
ông Anan rằng: "Nay ông có nghe chăng?"
Ngài Anan và đại chúng đều nói: "Có nghe.”
90
Chuông hết kêu, không tiếng, Phật lại hỏi rằng: "Nay ông có
nghe chăng?"
Ngài Anan và đại chúng đều đáp: "Không nghe.”
Khi đó, ông La hầu la lại đánh một tiếng, Phật lại hỏi rằng:
"Nay ông có nghe chăng?"
Ngài Anan và đại chúng đều đáp: "Có nghe.”
Phật hỏi ông Anan: "Thế nào, thì ông có nghe, còn thế nào,
thì ông không nghe?"
Ngài Anan và đại chúng đều bạch Phật rằng: "Tiếng chuông
nếu đánh lên, thì chúng con được nghe; để lâu tiếng hết, âm
vang đều không còn, thì gọi là không nghe."
Như Lai lại bảo ngài La hầu la đánh chuông, rồi hỏi ông
Anan rằng: "Theo ông, nay có tiếng không?"
Ngài Anan và đại chúng đều nói: "Có tiếng.”
Ít lâu tiếng dứt, Phật lại hỏi rằng: "Theo ông, nay có tiếng
không?"
Ngài Anan và đại chúng đều đáp: "Không tiếng."
Lát sau, ông La hầu la lại đánh chuông, Phật lại hỏi rằng:
"Theo ông, nay có tiếng không?"
Ngài Anan và đại chúng đều nói: "Có tiếng.”
Phật hỏi ông Anan: "Thế nào, ông gọi là có tiếng, còn thế
nào, thì gọi là không tiếng?"
Ngài Anan và đại chúng đều bạch Phật rằng: "Tiếng chuông,
nếu đánh lên, thì gọi là có tiếng, để lâu tiếng hết, âm vang
đều không còn, thì gọi là không tiếng.”
91
Phật bảo ngài Anan và đại chúng rằng: " ôm nay các ông
sao nói trái ngược, lộn xộn như thế?"
Đại chúng và Ngài Anan đồng thời bạch Phật: "Làm sao Phật
bảo chúng tôi trái ngược lộn xộn?"
Phật dạy: "Tôi hỏi ông về sự nghe, thì ông nói là nghe, tôi
hỏi về cái tiếng, thì ông nói là tiếng, chỉ cái nghe và cái tiếng
mà trả lời không nhất định như thế, sao lại không gọi là trái
ngược lộn xộn? Anan! Tiếng tiêu mất, không âm vang, thì
ông gọi là không nghe; nếu thật không nghe, thì tánh nghe đã
diệt rồi đồng như cây khô, khi tiếng chuông lại đánh lên, làm
sao ông còn biết được. Biết có, biết không là tự cái tiếng
hoặc không, hoặc có, đâu phải tánh nghe kia vì đó mà có, mà
không; nếu tánh nghe thật là không, thì còn cái gì biết là
không nữa.
ậy nên Anan! Cái tiếng ở trong cái nghe tự có sinh, có diệt,
không phải vì ông nghe cái tiếng sinh diệt, mà làm cho tánh
nghe của ông thành có, thành không. Ông còn lộn lạo, lầm
cái tiếng làm cái nghe, lạ gì chẳng mê mờ, lấy cái thường
làm cái đoạn. Tóm lại, ông không nên nói rằng rời các thứ
động tĩnh, đóng mở, thông bịt, thì cái nghe không có tự tánh.
Như người ngủ mê, nằm trên giường gối; trong nhà có
người, trong lúc người kia ngủ, giã một cối gạo; người ấy
trong chiêm bao nghe tiếng giã gạo, lầm thành vật khác, hoặc
cho là đánh trống, hoặc cho là đánh chuông. Tức trong chiêm
bao người ấy cũng lấy làm lạ rằng sao tiếng chuông lại vang
lên như cây, như đá. Khi chợt tỉnh dậy, liền nghe tiếng chày,
thì người ấy tự bảo người nhà rằng chính trong lúc chiêm
bao, tôi đã lầm tiếng chày nầy là tiếng trống. Anan! người
đó, trong chiêm bao, đâu nhớ những chuyện động tĩnh, đóng
mở, thông bít; thân thể người kia tuy ngủ nhưng tánh nghe
92
không mờ, dầu cho thân ông tiêu tan, thân mạng dời đổi diệt
mất, làm sao tánh nghe ấy lại vì ông mà tiêu diệt được.
o các chúng sanh, từ vô thủy đến nay, đi theo hình theo
tiếng, theo niệm mà lưu chuyển, không hề khai ngộ bản tánh
thanh tịnh diệu thường; không theo cái thường, chỉ theo các
thứ sinh diệt, do đó, đời đời bị tạp nhiễm mà phải lưu
chuyển.
Nếu bỏ cái sinh diệt, giữ tánh chân thường thì cái sáng suốt
chân thường hiện ra, và các tâm niệm căn, trần, thức, ngay
đó đều tiêu mất. Tướng vọng tưởng là trần, Thức tình (tánh
phân biệt) là cấu, hai cái đó đã xa rời, thì pháp nhãn của ông
liền được trong suốt, làm sao lại không thành bậc vô thượng
tri Giác?"
93
Quyển V
Phần 12
Nương chỗ ngộ mà tu
Nêu ra cái căn để chỉ chỗ mê
Ngài Anan bạch Phật rằng: "Thưa Thế Tôn, tuy Như Lai đã
dạy nghĩa quyết định thứ hai, song con xem trong thế gian,
những người cởi nút, nếu không biết đầu nút ở đâu, thì chắc
không thể cởi được. Bạch Thế Tôn! Xin ngài khai thị cho nơi
Thân Tâm thế nào là nút, do đâu mà mở.
Phật bảo: Ông Anan! Ông muốn biết cái câu sinh vô minh54
là cái đầu nút, khiến ông phải luân hồi sinh tử, thì nó
chính là sáu căn của ông, chứ không phải vật gì khác; ông
lại muốn biết Tánh Vô Thượng Bồ Đề, khiến ông chóng
chứng đạo quả an vui, giải thoát, vẳng lặng, diệu thường,
thì cũng chính là sáu căn của ông, chứ không phải vật gì
khác.”
Phật bảo ngài Anan: "Căn và trần, đồng một nguồn, cột và
cởi không phải hai, cái Thức phân biệt là hư vọng như hoa
đốm giữa hư không. Anan! Nhân cái trần, mà phát ra cái biết
của căn, nhân cái căn, mà có ra cái tướng của trần, tướng
phần sở kiến và kiến phần năng kiến đều không có tự tánh,
như những hình cây lau gác vào nhau.
Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn muốn lặp lại nghĩa nầy mà nói bài
kệ rằng:
"Nơi chân tánh hữu vi là không,
ì duyên sinh, nên giống như huyễn;
54
Câu sinh vô minh cũng còn được gọi là Căn bản vô minh, vô minh từ
vô thủy.
94
ô vi, thì không sinh, không diệt,
Chẳng thật như hoa đốm hư không.
Nói cái vọng để tỏ cái chân,
ọng, chân ấy, cả hai đều vọng;
Còn không phải chân và phi chân,
Làm sao có năng kiến, sở kiến,
Thức ở giữa, không có thật tánh,
ậy nên, như hình lau gác nhau.
Cột và cởi đồng một sở nhân,
Thánh và phàm không có hai đường.
Hãy xét tánh hình lau gác nhau,
Đâu phải là không hay là có.
Mê mờ nghĩa đó, là vô minh,
Phát minh nghĩa đó, thì giải thoát.
Cởi nút, tuy phải theo thứ lớp,
Sáu đã cởi, một cũng không còn.
Nơi các căn, chọn tánh viên thông,
Nhập lưu được, thì thành chánh Giác.
Thức A đà na55
rất nhỏ nhiệm,
Tập khí lưu hành như nước dốc;
E lầm là chơn hay phi chơn,
Nên Ta thường không diễn giảng đến,
Tự tâm trở chấp lấy tự tâm,
Không phải huyễn, thành ra pháp huyễn.
Không chấp trước, không gì phi huyễn
Cả cái phi huyễn còn không sinh,
Pháp huyễn, làm sao thành lập được.
Ấy gọi như huyễn Tam ma đề56
,
Bảo Giác chắc như Kim cương vương,
55
Thức A đà na cũng còn gọi là Thức A lại da. 56
Nếu để chỉ Chánh Định thì dùng chữ Ta ma địa (Samadhi) thay vì Ta
ma đề.
95
Không nhiễm, tịnh như diệu liên hoa57
;
Gẩy ngón tay, vượt hàng vô học;
Pháp ấy, không gì so sánh được,
Là một đường thẳng vào Niết Bàn,
Của các đức Thế Tôn mười phương.”
Phần 13
Cầu Phật khai thị cởi nút
Ngài Anan chấp tay đảnh lễ bạch Phật: "Nay con nghe Phật
mở lòng đại từ dạy cho những câu pháp chân thật thanh tịnh
diệu thường, nhưng tâm còn chưa rõ thứ lớp cởi nút, đi đến
cởi cả sáu, thì một cũng không còn.
Liền khi ấy đức Như Lai, nơi sư tử tọa, sửa áo Niết Bàn tăng,
vén áo tăng già lê, dựa ghế thất bảo, đưa tay nơi ghế, lấy cái
khăn hoa của cõi trời Kiếp ba la đã cúng dường cho ngài, rồi
ở trước đại chúng, cột thành một nút, đưa cho ông Anan xem
và bảo rằng: "Cái nầy gọi là gì?" Ngài Anan và đại chúng
đều bạch Phật rằng: "Cái nầy gọi là nút.” Lúc ấy đức Như
Lai lại cột khăn hoa thành một nút nữa và hỏi ông Anan:
"Cái nầy gọi là gì?" Ngài Anan và đại chúng lại bạch Phật
rằng: "Cái ấy cũng gọi là nút.”
Phật tuần tự cột khăn hoa như vậy, tổng cộng thành sáu nút,
mỗi khi cột xong một nút, đều lấy cái nút vừa cột xong trong
tay, đưa hỏi ông Anan: "Cái nầy gọi là gì?" Ngài Anan và đại
chúng cũng tuần tự đáp lại Phật: "Cái ấy gọi là nút.” Phật
bảo ngài Anan: "Khi tôi mới cột khăn thì ông gọi là nút, cái
khăn hoa này, trước kia chỉ có một cái, cớ sao lần thứ hai,
lần thứ ba, các ông cũng gọi là nút?"
57 oa sen trong bùn nhưng không nhuốm mùi bùn.
96
Ngài Anan bạch Phật rằng: "Thưa Thế Tôn! Cái khăn hoa
thêu dệt quý báu nầy vốn chỉ một thể, song theo ý con suy
nghĩ, Như Lai cột một lần, thì được gọi là một nút, nếu cột
một trăm lần, thì rốt cuộc phải gọi là trăm nút, huống chi,
khăn nầy chỉ có sáu nút, không lên đến bảy, cũng không
đứng ở số năm, sao đức Như Lai chỉ cho cái đầu là nút, còn
cái thứ hai, thứ ba, thì không gọi là nút?"
Phật bảo ngài Anan: "Cái khăn hoa báu nầy, ông biết nó vốn
chỉ có một cái, đến khi Ta cột sáu lần, thì ông gọi là sáu nút;
ông hãy xem xét bản thể cái khăn nầy là đồng, nhân vì các
nút mà hóa ra khác. Ý ông nghĩ sao, khi mới cột nút ban đầu,
thì gọi là nút thứ nhất, như thế, cho đến cột lần thứ sáu, thì
gọi là nút thứ sáu. Nay, Ta muốn gọi nút thứ sáu là nút thứ
nhất, có được không?"
Bạch Thế Tôn! Không; nếu còn sáu nút, thì cái gọi là thứ
sáu, rốt cuộc không phải là cái thứ nhất; dầu cho con cố gắng
biện bạch suốt đời, cũng không thể làm cho sáu nút đổi tên
được.”
Phật dạy: "Đúng thế, sáu nút không đồng nhau; tuy xét về
bản thân [của sáu nút] vẫn do một cái khăn tạo ra, nhưng rốt
cuộc không thể làm cho sáu nút xáo lộn lẫn nhau. Sáu căn
của ông thì cũng như vậy; trong thể rốt ráo đồng nhau58
, sinh
ra rốt ráo khác nhau.” Phật bảo ngài Anan: "Chắc hẳn ông
không muốn thành ra sáu nút và trông mong chỉ thành một
thể, thì ông phải làm thế nào?"
Ngài Anan bạch: "Nếu còn những nút đó, thì sự phải trái nổi
lên, trong đó, tự sinh ra nút nầy không phải nút kia, nút kia
58 Tánh biết của sáu căn giống nhau, nhưng cái biết của mắt là thấy,
của tai là nghe, của mũi là ngửi, của lưỡi là nếm, của thân là cảm giác,
của ý là suy nghĩ.
97
không phải nút nầy. Nếu ngày nay, đức Như Lai cởi bỏ tất
cả, thì không còn nút nữa thì không có đây kia (bỉ thử,)
không còn gọi là một, làm sao mà thành sáu được.”
Phật dạy: "Cái nghĩa cởi cả sáu, một cũng không còn, thì
cũng như thế. o từ vô thủy, tâm ông điên loạn, tri kiến
(thấy biết) vọng phát ra, vọng phát mãi không thôi, làm cho
tri kiến sinh bệnh, phát ra trần tướng; như khi con mắt mỏi
mệt, thì có hoa đốm lăng xăng; tất cả những tướng thế gian,
núi sông, đất liền, sống chết, Niết Bàn …, đều là những
tướng hoa đốm điên đảo do bệnh mê lầm phát ra.”
Phật dạy cách mở nút
Ngài Anan bạch: "Cái bệnh mê lầm giống như cái nút kia,
làm sao cởi bỏ cho được?"
Đức Như Lai, lấy tay cầm cái khăn có nút, kéo riêng mối bên
trái, rồi hỏi ông Anan rằng: "Thế nầy có cởi được chăng?"
Thưa Thế Tôn không thể được.
Phật liền lấy tay kéo riêng mối bên phải, rồi lại hỏi ông
Anan: "Thế nầy có cởi được chăng?"
Thưa Thế Tôn không thể được.
Phật bảo ngài Anan: "Nay Ta lấy tay kéo mối bên phải, bên
trái mà rốt cuộc không cởi được, vậy ông dùng phương tiện
thế nào mà cởi cho được.”
Ngài Anan thưa: Phải ở ngay nơi trung tâm của nút thì mở ra
ngay.
Phật bảo ngài Anan: "Đúng thế, đúng thế, muốn trừ cái nút
thì phải cởi nơi trung tâm.
98
Anan! Ta nói Phật pháp do nhân duyên sinh, không phải lấy
những tướng hòa hợp thô phù của thế gian. Như Lai phát
minh các pháp thế gian và xuất thế gian, đều biết rõ bản nhân
của nó theo những duyên gì mà phát ra, cho đến một giọt
mưa ở ngoài hằng sa thế giới cũng biết số mục, hiện tiền các
thứ cây tùng thẳng, cây gai cong, chim hộc trắng, chim quạ
đen, đều rõ nguyên do. ậy nên Anan! Tùy tâm ông lựa chọn
nơi sáu căn; nếu trừ được cái nút nơi căn ấy rồi, thì trần
tướng tự tiêu diệt; các vọng đã tiêu mất, thì chẳng phải cái
chân hiện ra hay sao?
"Anan! Nay Ta lại hỏi ông: "Cái khăn hoa nầy hiện có sáu
nút, nếu đồng một thời cởi ra, thì có thể đồng một thời trừ
hết được chăng?"
Thưa Thế Tôn không. Những cái nút nầy, khi cột lại, vốn có
thứ lớp, thì ngày nay cũng theo thứ lớp mà cởi; sáu cái nút
tuy đồng một thể, nhưng cột lại không đồng một thời, thì khi
cởi nút, làm sao đồng một thời, mà trừ hết được?
Phật dạy: " iệc cởi trừ cái nút nơi sáu căn cũng giống như
vậy. Căn ấy khi bắt đầu cởi ra, thì trước hết được nhân
không, đến khi tánh không viên mãn sáng suốt, thì giải thoát
pháp chấp. Pháp chấp được giải thoát rồi, cả cái nhân không
và pháp không cũng không còn; thế thì gọi là Bồ Tát do Tam
ma địa mà chứng được ô Sinh Nhẫn.”
Phần 14
Đức Phật hỏi đại chúng về pháp tu viên thông
(Lưu ý: Cốt tủy của sự chứng đắc là quý vị đại đệ tử của đức
Phật quán sâu vào tự tánh. Đọc đoạn này cho biết, chúng
ta không áp dụng một trong những pháp tu viên thông này.)
99
Ngài Anan xin Phật rủ lòng đại bi ban cho chúng con những
pháp bí mật trang nghiêm; thành tựu lời chỉ dạy cuối cùng
của Như Lai.
Khi bấy giờ, đức Thế Tôn bảo khắp các vị Đại Bồ Tát và các
vị lậu tận Đại A la hán trong chúng rằng: "Các ông là những
vị Bồ Tát và A la hán sinh trưởng trong Phật Pháp, đã chứng
quả vô học, nay tôi hỏi các ông: Trong lúc ban đầu mới phát
tâm, trong thập bát giới59, ngộ được viên thông ở giới nào và
do phương tiện gì vào được Tam ma địa60
?"
Viên thông về thanh trần
Nhóm ông Kiều trần na, năm vị Tỷ kheo, liền từ chỗ ngồi
đứng dậy, đảnh lễ nơi chân Phật mà bạch Phật rằng: "Ở Lộc
uyển và ở Kê viên, chúng con được xem thấy đức Như Lai
khi mới thành đạo. Chúng con do tiếng nói của Phật, tỏ ngộ
được Tứ đế. Phật hỏi trong hàng Tỷ kheo, thì trước tiên con
thưa đã hiểu. Như Lai ấn chứng cho con cái tên là A nhã đa
(hiểu.) Đi sâu vào bản tánh nhiệm mầu, thì âm thanh thật là
viên dung; con do âm thanh mà được quả A la hán. Cho nên,
khi Phật hỏi về viên thông, như chỗ chứng của con, thì do
âm thanh là hơn cả."
Viên thông về Sắc trần
Ông u ba ni sa đà liền từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ nơi
chân Phật mà bạch Phật rằng: "Con cũng được thấy Phật
trong lúc mới thành đạo; con quán tưởng bất tịnh, sinh lòng
nhàm chán rời bỏ tột bậc, ngộ cái tánh của các sắc, từ tướng
bất tịnh đến tướng xương trắng, tướng vi trần, rồi tan về hư
không; cả hai cái không và cái sắc đều không, thành đạo vô
59 Thập bát giới (mười tám giới): gồm sáu căn, sáu trần và sáu thức.
60 Tam ma địa dịch âm của tiếng Phạn là Samadhi (chánh Định.)
100
học. Đức Như Lai ấn chứng cho con cái tên là Ni sa đà (Trần
Tánh Không;) sắc của trần cảnh đã hết, sắc của tánh diệu
được mật viên. Con do sắc tướng mà chứng quả A la hán.
Phật hỏi về viên thông, như chỗ chứng của con, thì do sắc
trần là hơn cả.”
Viên thông về hương trần
Ông ương nghiêm đồng tử liền từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh
lễ nơi chân Phật mà bạch Phật rằng: "Con nghe đức Như Lai
dạy con quan sát chín chắn các tướng hữu vi. Khi ấy con từ
giả Phật, đầu hôm về tĩnh tọa trong nhà thanh trai, thấy các
Tỷ kheo đốt hương trầm thủy, hơi hương vẳng lặng bay vào
trong mũi con. Con quán cái hơi ấy, không phải là cây,
không phải là không, không phải là khói, không phải là lửa,
đi ra không dính vào đâu, đến nơi cũng không do đâu; do đó,
ý niệm phân biệt tiêu diệt, phát minh tánh vô lậu. Đức Như
Lai ấn chứng cho con cái hiệu là ương nghiêm. Tướng
hương tiền trần bổng diệt, thì diệu tánh của hương là mật
viên. Con do hương nghiêm mà chứng quả A la hán. Phật hỏi
về viên thông, như chỗ chứng của con, thì do hương trần là
hơn cả.”
Viên thông về vị trần
ai vị Pháp vương tử ược vương, ược thượng, cùng với
năm trăm Phạm thiên trong ội, liền từ chỗ ngồi đứng dậy,
đảnh lễ nơi chân Phật mà bạch Phật rằng: "Từ kiếp vô thủy,
chúng con làm lương y thế gian, trong miệng thường nếm
những cỏ cây, kim thạch trong thế giới Ta bà nầy, số mục lên
đến mười vạn tám nghìn, biết hết các vị đắng, chua, mặn,
nhạt, ngọt, cay vân vân..., cùng với các vị biến đổi, do các vị
kia hòa hợp cùng sinh ra; thứ nào là lạnh, thứ nào là nóng,
thứ nào có độc, thứ nào không độc, con đều biết cả. Được
101
thừa sự các đức Như Lai, rõ biết bản tánh của vị trần, không
phải không, không phải có, không phải tức là thân tâm,
không phải thoát ly thân tâm; do phân biệt đúng bản tánh vị
trần mà được khai ngộ. Nhờ Phật ấn chứng cho anh em
chúng con cái danh hiệu là ược vương và ược thượng Bồ
Tát; nay ở trong ội nầy làm vị Pháp vương tử. Chúng con
nhân vi trần mà Giác ngộ, lên bậc Bồ Tát. Phật hỏi về viên
thông, như chỗ chứng của chúng con, thì do vị trần là hơn
cả.”
Viên thông về xúc trần
Ông Bạt đà bà la, với mười sáu vị Khai sĩ đồng bạn, liền từ
chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ nơi chân Phật mà bạch Phật rằng:
"Chúng con, trước kia nơi đức Phật Uy âm vương, nghe
Pháp xuất gia. Trong lúc chư tăng tắm, con theo thứ lớp vào
phòng tắm; bỗng nhiên ngộ được chân tánh của nước, đã
không rửa bụi, cũng không rửa mình, chặng giửa yên lặng,
được chỗ không có gì [Đắc ô Sở ữu.] Chỗ học xưa không
quên, nên đến ngày nay theo Phật xuất gia, được thành quả
vô học. Đức Phật kia, gọi con tên là Bạt đà bà la. o phát
minh diệu tánh của xúc trần, thành được bậc Phật tử trụ. Phật
hỏi về viên thông, như chỗ chứng của con, thì do xúc trần là
hơn cả."
Viên thông về Pháp trần
Ông Ma ha ca diếp và Tỳ kheo Ni Tử Kim Quang liền từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ nơi chân Phật mà bạch Phật rằng:
"Kiếp xưa, trong cõi nầy, có đức Phật ra đời, tên là Nhựt
nguyệt đăng diệt độ rồi, chúng con thắp đèn sáng mãi cúng
dường xá lợi, lại lấy vàng thắm thếp hình tượng Phật. Từ đó
đến nay, đời nào đời nào, thân thể thường viên mãn, sáng
ngời như vàng thắm. Nhóm Tỳ Kheo Ni Tử Kim Quang nầy,
102
tức là quyến thuộc của con lúc đó, cũng đồng một thời phát
tâm như con. Con quán trong thế gian, sáu trần đều dời đổi
tan nát, chí dùng pháp không tịch, tu Định iệt Tận, thì thân
tâm mới có thể trải qua trăm nghìn kiếp như một thời gian
gẩy ngón tay. Con do quán được các pháp là rỗng không, mà
thành quả A la hán. Đức Thế Tôn bảo con tu hạnh đầu đà bậc
nhất. iệu tánh của các pháp được khai ngộ, thì tiêu diệt các
lậu. Phật hỏi về viên thông, như chỗ chứng của con, thì do
pháp trần là hơn cả."
Viên thông về nhãn căn
Ông A na luật đà liền từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ nơi chân
Phật mà bạch Phật rằng: "Lúc con mới xuất gia, thường
thích nằm ngủ, nên Như Lai quở con là loài súc sinh. Nghe
lời Phật quở, con khóc lóc tự trách, suốt bảy ngày không
ngủ, hư cả hai con mắt. Đức Thế Tôn dạy con tu pháp "Lạc
Kiến Chiếu Minh Kim Cang Tam Muội.” Con không do con
mắt mà xem thấy mười phương rỗng suốt tinh tường như
xem trái cây trong bàn tay, Như Lai ấn chứng cho con thành
quả A la hán. Phật hỏi về viên thông, như chỗ chứng của
con, thì xoay cái thấy trở về bản tánh, đó là thứ nhất.”
Viên thông về tỷ căn
Ông Châu lỵ bàn đặc ca liền từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ
nơi chân Phật mà bạch Phật rằng: "Con thiếu tu về phần tụng
trì, không có tuệ đa văn. Khi mới gặp Phật, nghe Pháp và
xuất gia, con cố nhớ một câu kệ của Như Lai, song trong một
trăm ngày, hễ nhớ trước thì quên sau, mà nhớ sau thì quên
trước. Phật thương con ngu muội, dạy con phép an cư, điều
hòa hơi thở ra vào. Con quán hơi thở, cùng tột các tướng
sinh, trụ, dị, diệt nhỏ nhiệm, đến từng sát na; tâm con rỗng
suốt, được đại vô ngại, cho đến hết các lậu, thành quả A la
103
hán, trước pháp tọa của Phật, được ấn chứng thành quả vô
học. Phật hỏi về viên thông, như chỗ chứng của con, thì xoay
hơi thở về tánh rỗng không, đó là thứ nhất."
Viên thông về thiệt căn
Ông Kiều phạm bát đề liền từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ nơi
chân Phật mà bạch Phật rằng: "Con mắc khẩu nghiệp, khinh
rẻ, chế giễu vị Sa môn trong kiếp quá khứ, nên đời đời mắc
bệnh nhai lại như trâu. Đức Như Lai chỉ dạy cho con pháp
môn "Nhất ị Thanh Tịnh Tâm Địa.” Con nhờ vậy, mà diệt
được phân biệt vào Tam ma địa; con quán tánh biết vị, không
phải thân thể, không phải ngoại vật, liền đó vượt khỏi các lậu
thế gian, bên trong giải thoát thân tâm, bên ngoài rời bỏ thế
giới, xa rời ba cõi như chim sổ lồng, rời hết cấu nhiễm, tiêu
diệt trần tướng, nên pháp nhãn được thanh tịnh, thành quả A
la hán. Đức Như Lai ấn chứng cho con lên bậc vô học. Phật
hỏi về viên thông, như chỗ chứng của con, trả các vị về phân
biệt, xoay cái biết về tự tánh, đó là thứ nhất."
Viên thông về thân căn
Ông Tất lăng già bà ta liền từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ nơi
chân Phật mà bạch Phật rằng: "Con lúc mới phát tâm theo
Phật nhập đạo, thường nghe đức Như Lai dạy về những việc
không vui được trong thế gian. Lúc đi khất thực trong thành,
tâm con đang suy nghĩ pháp môn Phật dạy, giữa đường,
không ngờ bị gai độc đâm vào chân, cả mình đau đớn. Tâm
niệm con có biết cái đau đớn ấy; tuy biết đau đớn nhưng
đồng thời biết nơi tâm thanh tịnh, không có cái đau và cái
biết đau. Con lại suy nghĩ: Một thân thể này, lẽ đâu có hai
tánh biết; nhiếp niệm chưa bao lâu, thì thân tâm bỗng nhiên
rỗng không; trong ba lần bảy ngày, các lậu đều tiêu hết,
thành quả A la hán; được Phật ấn chứng lên bậc vô học. Phật
104
hỏi về viên thông, như chỗ chứng của con, thì thuần một
Giác tánh, không còn thân thể, đó là thứ nhất."
Viên thông về ý căn
Ông Tu Bồ Đề liền từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ nơi chân
Phật mà bạch Phật rằng: "Từ nhiều kiếp đến nay, tâm con
được vô ngại, tự nhớ thọ sinh nhiều đời như số cát sông
ằng; lúc còn trong thai mẹ, cũng liền biết tánh không tịch,
như thế cho đến mười phương đều thành rỗng không và cũng
khiến cho chúng sanh chứng được tánh không; nhờ đức Như
lai phát minh tánh Giác là chân không, nên tánh không được
viên mãn sáng suốt, chứng quả A la hán, liền nhập vào biển
Không quý báu của Như Lai, tri kiến đồng như Phật, được ấn
chứng thành quả vô học; tánh giải thoát rỗng không, con là
hơn cả. Phật hỏi về viên thông, như chỗ chứng của con: Các
tướng đều xoay vào phi tướng, năng phi và sở phi đều hết,
xoay các pháp về chỗ không, đó là thứ nhất."
Viên thông về nhãn thức
Ngài Xá lợi phất liền từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ nơi chân
Phật mà bạch Phật rằng: "Từ nhiều kiếp đến nay, chỗ nhận
thấy của con được thanh tịnh; tuy con thọ sinh nhiều đời như
số cát sông ằng, như vậy, mà đối với các pháp biến hóa thế
gian và xuất thế gian, hễ thấy được đều thông suốt, không có
ngăn ngại. Con ở giữa đường, gặp anh em ông Ca diếp ba
theo rõi, nói pháp nhân duyên, thì ngộ được tâm không có bờ
bến. Con theo Phật xuất gia, chỗ nhận thấy sáng suốt viên
mãn, được pháp đại vô úy, thành quả A la hán, làm trưởng tử
của Phật, từ miệng Phật mà sinh ra, do Pháp Phật mà hóa
sinh. Phật hỏi về viên thông, như chỗ chứng của con, thì tánh
thấy của tâm thể phát ra sáng suốt, cùng tột các tri kiến (thấy
biết,) đó là thứ nhất."
105
Viên thông về nhĩ thức
Ngài Phổ hiền Bồ Tát liền từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ nơi
chân Phật mà bạch Phật rằng: "Con đã từng làm Pháp vương
tử cho các đức Như Lai như số cát sông ằng; thập phương
Như Lai dạy các đệ tử có căn cơ Bồ Tát, tu hạnh Phổ hiền,
hạnh đó, do con mà đặt tên như vậy. Thưa đức Thế Tôn, con
dùng Tánh nghe của tâm thể phân biệt tất cả tri kiến của
chúng sanh. Nếu ở phương khác, cách ngoài hằng sa thế giới,
có một chúng sanh, trong tâm phát được hạnh nguyện Phổ
hiền, thì liền trong lúc ấy, con cưỡi voi sáu ngà, phân thân
thành trăm nghìn, đến chỗ người ấy. ầu cho người ấy
nghiệp chướng còn sâu, chưa thấy được con, con cũng thầm
kín xoa đảnh đầu người ấy, ủng hộ an ủi, khiến cho được
thành tựu. Phật hỏi về viên thông, con nói chỗ bản nhân của
con là phát minh tánh nghe của Tâm, tự tại mà phân biệt, đó
là thứ nhất."
Viên thông về tỷ thức
Ông Tôn đà la nan đà liền từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ nơi
chân Phật mà bạch Phật rằng: "Lúc con mới xuất gia theo
Phật nhập đạo, tuy giữ đủ giới luật, nhưng trong lúc tu
Tam ma địa, tâm thường tán loạn61, chưa được quả vô lậu.
Đức Thế Tôn dạy con và ông Câu si la quán đầu lỗ mũi
trắng. Lúc con bắt đầu tu quán ấy, trải qua ba lần bảy ngày,
thấy hơi thở trong mũi ra vào như khói, thân tâm bên trong
sáng soi thông suốt thế giới, khắp nơi thành trống không
thanh tịnh, như ngọc lưu ly; tướng khói lần lần tiêu mất, hơi
thở hóa thành trắng, đến khi tâm được khai ngộ, các lậu hết
sạch, thì những hơi thở ra vào hóa thành hào quang, soi khắp
61
Đây là một bằng chứng về giữ giới không sinh ra định. Giới là điều
kiện cần để tu định, nhưng không thể là điều kiện đủ để sinh định.
106
mười phương thế giới, được quả A la hán. Đức Thế Tôn thọ
ký cho con sẽ được quả Bồ Đề. Phật hỏi về viên thông, con
dùng phép nhiếp thu ý niệm nơi hơi thở, yên lặng lâu ngày,
phát ra sáng suốt, sáng suốt viên mãn, diệt hết các lậu, đó là
thứ nhất."
Viên thông về thiệt thức
Ông Phú lâu na di đa la ni tử liền từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh
lễ nơi chân Phật mà bạch Phật rằng: "Con từ nhiều kiếp đến
nay, tài biện thuyết được vô ngại, tuyên dương các pháp
Khổ, Không, thấu suốt tướng chân thật, như thế cho đến các
pháp môn bí mật hằng sa Như Lai, con phương tiện chỉ bày
trong chúng, được sức vô úy. Đức Thế Tôn biết con có tài
biện thuyết lớn lao, nên dùng pháp luân âm thanh, dạy con
tuyên dương Chính pháp. Con ở trước Phật, giúp Phật
chuyển pháp luân, nhân nói Chính pháp, thành quả A la hán.
Đức Thế Tôn ấn chứng cho con thuyết pháp hơn cả. Phật hỏi
về viên thông, con dùng pháp âm hàng phục tà ma ngoại đạo,
tiêu diệt các lậu, đó là thứ nhất."
Viên thông về thân thức
Ông u ba ly liền từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ nơi chân
Phật mà bạch Phật rằng: "Chính con được theo Phật vượt
thành xuất gia, xem thấy đức Như Lai sáu năm siêng tu khổ
hạnh, thấy đức Như lai hàng phục bọn tà ma, đối trị các
ngoại đạo, giải thoát các lậu tham dục thế gian; con được
nhờ Phật dạy giữ giới, cho đến ba nghìn uy nghi, tám vạn
hạnh vi tế, các Tánh nghiệp62
và Giá nghiệp63
thảy đều thanh
tịnh; do đó, thân tâm được tịch diệt, thành quả A la hán, nay
làm vị cương kỷ trong chúng của Như Lai; Phật ấn chứng
62
Giữ các nghiệp về Thân cho đến tự tại gọi là Tánh nghiệp thanh tịnh. 63
Giữ gìn Tâm được thanh tịnh gọi là Giá nghiệp thanh tịnh.
107
cho con giữ giới tu thân hơn cả trong chúng. Phật hỏi viên
thông, con do chấp trì cái thân mà thân được tự tại, lần đến
chấp trì cái tâm mà tâm được thông suốt, về sau cả thân và
tâm tất cả đều viên thông, tự tại, đó là thứ nhất."
Viên thông về ý thức
Ngài Đại Mục kiền liên liền từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ
nơi chân Phật mà bạch Phật rằng: "Lúc trước con còn khất
thực giữa đường, gặp ba anh em họ Ca diếp ba là ông u lâu
tần loa, ông Già da và ông Na đề, giảng nói nghĩa lý nhân
duyên sâu xa của Như Lai; con liền phát tâm, được rất thông
suốt; Như Lai ban cho áo ca sa đắp trên mình, râu tóc tự
rụng. Con đi khắp mười phương không ngăn ngại, phát
minh thần thông, được trong chúng suy tôn là vô thượng,
thành quả A la hán. Không những riêng đức Thế Tôn, mà
thập phương Như Lai đều khen sức thần thông của con thanh
tịnh tròn sáng, tự tại không e sợ, Phật hỏi về viên thông, con
do xoay ý niệm trở về bản tánh trong lặng nên tâm trí mở
bày, như lắng nước đục lâu thành trong sáng, đó là thứ nhất."
Viên thông về hỏa đại
Ông Ô xô sắt ma, ở trước đức Như lai, chấp tay đảnh lễ nơi
hai chân Phật mà bạch Phật rằng: "Con thường nhớ trước
kia, trong kiếp xa xôi, Tánh có nhiều tham dục; lúc ấy, có
đức Phật ra đời hiệu là Không vương, bảo người đa dâm như
đống lửa hồng và dạy con quán khắp những hơi nóng lạnh
nơi trăm vóc tứ chi; con nhờ quán như vậy, mà được Giác
tánh sáng suốt lặng đứng bên trong, hóa tâm đa dâm thành
lửa trí tuệ. Từ ấy, các đức Phật đều gọi tên con là ỏa đầu.
Con dùng sức hỏa quang tam muội mà thành quả A la hán;
trong tâm phát đại nguyện, khi các đức Phật thành đạo, thì
làm lực sĩ, thân ở bên Phật, uốn dẹp bọn tà ma quấy phá.
108
Phật hỏi về viên thông, con dùng pháp quán các hơi ấm nơi
thân tâm đều lưu thông không ngăn ngại; các lậu đã tiêu,
sinh ra ngọn lửa đại trí quý báu, lên bậc ô thượng Giác, đó
là thứ nhất."
Viên thông về địa đại
Ngài Trì địa Bồ Tát liền từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ nơi
chân Phật mà bạch Phật rằng: "Con nhớ kiếp xưa, khi đức
Phật Phổ quang ra đời, con làm Tỷ kheo, thường ở nơi các
nẻo đường bến đò, đất đai hiểm trở eo hẹp, không đúng
nguyên tắc, có thể làm tổn hại đến xe ngựa, thì con đều đắp
bằng, hoặc làm cầu cống, hoặc gánh đất cát; siêng năng khó
nhọc như vậy trong suốt thời gian vô lượng Phật ra đời. oặc
có chúng sanh, ở nơi chợ búa, cần người mang đồ vật, trước
tiên con mang hộ đến nơi, đến chốn, để đồ vật xuống, liền đi
ngay, không lấy tiền thuê.
Khi đức Phật Tỳ xá phù ra đời, thế gian phần nhiều đói kém;
con cõng giúp người, không kể gần xa, chỉ lấy một đồng
tiền; hoặc có xe trâu sa xuống bùn lầy, con dùng sức mạnh
đẩy bánh xe lên cho khỏi khổ não. Ông vua trong nước thuở
đó thết trai mời Phật; lúc ấy, con liền sửa sang đường đất
bằng phẳng, đợi Phật đi qua. Đức Tỳ Xá Như Lai xoa đỉnh
đầu con mà bảo rằng: "Nên bình cái tâm địa, thì tất cả đất đai
trên thế giới đều bình.” Con liền khai ngộ, thấy vi trần
nơi thân thể cùng với tất cả vi trần tạo thành thế giới đều
bình đẳng không sai khác, tự tánh của vi trần không chạm
xát nhau, cho đến các thứ đao binh cũng không đụng chạm
gì; con do nơi pháp tánh ngộ được ô Sinh Nhẫn, thành quả
A la hán, xoay tâm về đại thừa, nên hiện nay, ở trong hàng
Bồ Tát; khi nghe các đức Như Lai dạy về chổ tri kiến của
Phật như iệu liên hoa, thì con chứng tỏ đầu tiên, làm vị
thượng thủ. Phật hỏi về viên thông, do con quán kỹ hai thứ
109
trần nơi căn thân và thế giới đều bình đẳng không sai khác,
vốn là Như Lai Tạng giả dối phát ra trần tướng; trần tướng
đã tiêu diệt, thì trí tuệ được viên mãn, thành đạo vô thượng,
đó là thứ nhất."
Viên thông về thủy đại
Ngài Nguyệt quang đồng tử liền từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh
lễ nơi chân Phật mà bạch Phật rằng: "Con nhớ hằng sa kiếp
về trước, có đức Phật ra đời, hiệu là Thủy thiên, dạy hàng Bồ
Tát tu tập phép quán thủy để vào Tam ma địa; nghĩa là quán
ở trong thân, Tánh nước không gì ngăn ngại, quán từ nước
mũi, nước bọt cho đến tất cả các thứ tân, dịch tinh, huyết, đại
tiện, tiểu tiện; xoay vần trong thân đều đồng một Tánh nước,
quán thấy nước trong thân cùng nước các bể hương thủy của
Phù tràng vương sát ở ngoài thế giới, đều bình đẳng không
sai khác.
Con trong lúc ấy, mới thành tựu phép quán nầy, chỉ thấy
được nước, chưa được không có thân; lúc đang làm Tỷ kheo,
tọa thiền trong phòng, con có người đệ tử dòm cửa sổ trông
vào phòng chỉ thấy nước trong, đầy khắp trong phòng, chứ
không có gì; nó nhỏ dại không biết, liền lấy một miếng ngói
ném vào trong nước, đập vào nước phát ra tiếng, ngó quanh
rồi bỏ đi; về sau, con xuất định, liền thấy đau tim như ông Xá
lợi phất bị con quỷ i hại đập. Con tự suy nghĩ: Nay con đã
được đạo A la hán, đã lâu không còn nhân duyên mắc bệnh
được nữa, làm sao ngày nay lại sinh ra đau tim, không lẽ đã
bị thoái thất rồi chăng? Khi bấy giờ, đệ tử của con đi đến, kể
lại cho con những việc như trước, con mới bảo nó, sau nầy,
nếu lại thấy nước, thì nên mở cửa, vào lấy viên ngói trong
nước ấy đi. Đệ tử vâng lời con bảo; về sau, khi con nhập
định, nó lại thấy nước với viên ngói rõ ràng, nó liền mở cửa,
110
lấy viên ngói ra. Sau đó, con xuất định, thì thân thể lại được
như cũ.
Con đã gặp được vô lượng Phật, đến đức Sơn hải tự tại thông
vương Như Lai, thì con mới được không còn thân riêng và
cùng với nước bể hương thủy mười phương thế giới, đồng
một tánh chân không, không hai không khác; hiện nay, ở nơi
đức Như Lai, được danh hiệu là Đồng chân, dự ội Bồ Tát.
Phật hỏi về viên thông, con do quán Tánh nước một mực lưu
thông, được phép ô Sinh Nhẫn, viên mãn đạo Bồ Đề, đó là
thứ nhất."
Viên thông về phong đại
Ngài Lưu ly quang Pháp vương tử liền từ chỗ ngồi đứng dậy,
đảnh lễ nơi chân Phật mà bạch Phật rằng: "Con nhớ hằng sa
kiếp về trước, có đức Phật ra đời, hiệu là ô lượng thanh;
ngài khai thị tánh Bản Giác iệu Minh cho các hàng Bồ Tát
và dạy quán thế giới và thân chúng sanh nầy đều do sức lay
động của vọng duyên chuyển biến ra. Con lúc bấy giờ, quán
cái không gian an lập, quán sự trôi chuyển của thời gian,
quán cái thân thể khi động, khi yên, quán cái thức tâm niệm
niệm sinh diệt, tất cả đều lay động như nhau, bình đẳng
không sai khác. Lúc bấy giờ, con Giác ngộ cái tánh của các
thứ động ấy, đến không do đâu, đi không tới đâu; tất cả
chúng sanh điên đảo, số như vi trần trong mười phương đều
đồng một hư vọng; như vậy, cho đến tất cả chúng sanh trong
một tam thiên đại thiên thế giới, cũng như hàng trăm loài
muỗi mòng đựng trong một đồ đựng, vo vo kêu ầm, ở trong
gang tấc, ồn ào rối rít. Con gặp Phật chưa bao lâu, thì được
pháp ô Sinh Nhẫn; lúc bấy giờ, tâm đã khai ngộ, mới thấy
cõi Phật Bất Động phương Đông, làm vị Pháp vương tử. Con
thừa sự mười phương Phật, thân tâm phát ra sáng suốt, rỗng
thấu không ngăn ngại. Phật hỏi về viên thông, con do quan
111
sát sức lay động không nương vào đâu, ngộ được tâm Bồ Đề,
vào được Tam ma địa, hợp với Nhất iệu Tâm mà mười
phương Phật truyền dạy, đó là thứ nhất.”
Viên thông về không đại
Ngài ư Không Tạng Bồ Tát liền từ chỗ ngồi đứng dậy,
đảnh lễ nơi chân Phật mà bạch Phật rằng: "Con cùng đức
Như Lai chứng được thân vô biên nơi đức Phật Định Quang;
lúc ấy, tay con cầm bốn hạt châu báu lớn, soi tỏ cõi Phật
mười phương số như vi trần, đều hóa thành hư không; lại ở
nơi tự tâm hiện ra gương tròn lớn, trong ấy phóng ra mười
thứ hào quang, vi diệu quý báu, soi khắp mười phương, cùng
tột hư không, các cõi Phật đều vào trong gương “Đại iên
Cảnh” ấy, nhập với thân con và thân con đồng như hư
không, không có ngăn ngại lẫn nhau, thân con lại khéo vào
vi trần quốc độ, rộng làm việc Phật, được đại tùy thuận. Thần
lực lớn đó là do con quán kỹ tứ đại không nương vào đâu, do
vọng tưởng mà có sinh diệt, hư không không có hai và cõi
Phật vốn là đồng, do phát minh được tánh đồng mà chứng
ô Sinh Nhẫn. Phật hỏi về viên thông, con quán hư không
không bờ bến; vào Tam ma địa, diệu lực viên mãn sáng suốt,
đó là thứ nhất.”
Viên thông về thức đại
Ngài i Lặc Bồ Tát liền từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ nơi
chân Phật mà bạch Phật rằng: "Con nhớ vi trần kiếp về trước,
có đức Phật ra đời tên là Nhật Nguyệt Đăng Minh; con được
xuất gia theo đức Phật kia, nhưng tâm còn trọng hư danh thế
gian, ưa giao du với các vọng tộc. Lúc ấy đức Thế Tôn dạy
con tu tập định duy tâm thức, con được vào Tam ma địa; trải
qua nhiều kiếp đến nay, dùng pháp Tam muội ấy phụng sự
hằng sa Phật, tâm cầu hư danh thế gian diệt hết không còn.
112
Đến khi đức Phật Nhiên Đăng ra đời, con mới được thành
tựu ô Thượng iệu iên Thức Tâm Tam Muội. Tất cả cõi
nước Như Lai tột bờ bến hư không, cho đến những điều tịnh,
uế, có, không, đều do tâm con biến hóa hiện ra. Bạch Thế
Tôn, do con rõ được duy tâm thức như vậy, nên nơi thức
tánh, xuất hiện vô lượng Như Lai và hiện nay, con được thọ
ký, liền sau đây, bổ xứ thành Phật nơi cõi này. Phật hỏi
về viên thông, con dùng phép quán mười phương đều duy
thức, thức tâm được tròn sáng, chứng nhập tánh iên Thành
Thật, xa rời tánh Y Tha Khởi và Tánh Biến Kế Chấp, được
pháp ô Sinh Nhẫn, đó là thứ nhất.”
Viên thông về kiến đại
Ngài Đại Thế Chí Pháp vương tử cùng với năm mươi hai vị
Bồ Tát đồng tu một pháp môn, liền từ chổ ngồi đứng dậy,
đảnh lễ nơi chân Phật mà bạch Phật rằng: "Con nhớ hằng sa
kiếp trước, có đức Phật ra đời, tên là ô Lượng Quang; lúc
ấy mười hai đức Như Lai kế nhau thành Phật trong một kiếp
đức Phật sau hết, hiệu là Siêu Nhật Nguyệt Quang, dạy cho
con phép Niệm Phật Tam Muội. í như có người, một đằng
chuyên nhớ, một đằng chuyên quên, thì hai người ấy, dầu
gặp cũng không là gặp, dầu thấy cũng là không thấy; nếu cả
hai người đều nhớ nhau, hai bên nhớ mãi, khắc sâu vào tâm
niệm, thì đồng như hình với bóng, cho đến từ đời nầy sang
đời khác, không bao giờ cách xa nhau. Mười phương Như
Lai thương tưởng chúng sanh như mẹ nhớ con, nếu con trốn
tránh, thì tuy nhớ, nào có ích gì; nếu con nhớ mẹ như mẹ nhớ
con, thì đời đời mẹ con không cách xa nhau. Nếu tâm chúng
sanh nhớ Phật, tưởng Phật, thì hiện nay hay về sau, nhất định
thấy Phật; cách Phật không xa thì không cần phương tiện,
tâm tự được khai ngộ như người ướp hương thì thân thể
có mùi thơm, ấy gọi là hương quang trang nghiêm. Nhân địa
113
căn bản của con là dùng tâm niệm Phật mà vào pháp ô Sinh
Nhẫn, nay ở cõi nầy tiếp dẫn những người niệm Phật về cõi
Tịnh độ. Phật hỏi về viên thông, con thu nhiếp tất cả sáu căn,
không có lựa chọn, tịnh niệm kế tiếp, được vào Tam ma địa,
đó là thứ nhất."
114
KINH ĐẠI PHẬT ĐẢNH THỦ LĂNG NGHIÊM (T M T T NG N)
115
Quyển VI
Viên thông về nhĩ căn
Lúc bấy giờ, ngài Quán Thế Âm Bồ Tát liền từ chỗ ngồi
đứng dậy, đảnh lễ nơi chân Phật mà bạch Phật rằng: "Thưa
Thế Tôn, con nhớ vô số hằng sa kiếp về trước, có đức Phật ra
đời, hiệu là Quán Thế Âm; từ đức Phật kia, con phát tâm Bồ
Đề. Đức Phật kia dạy con, do nghe, nghĩ và tu, mà vào Tam
ma địa.
Ban đầu, ở trong Tánh nghe, vào được dòng viên thông,
không còn tướng sở văn nữa. Trần tướng đã vẳng lặng, hai
tướng động, tĩnh rõ thật không sinh. Như vậy thêm lần, các
tướng năng nghe, sở nghe đều hết. Không dừng lại nơi chỗ
dứt hết năng nghe, sở nghe mà tiến lên nữa, thì năng Giác, sở
Giác, đều không. Không Giác tột bậc viên mãn, các tướng
năng không, sở không đều diệt. Sinh diệt đã diệt, thì bản tánh
tịch diệt hiện tiền. Bỗng nhiên, vượt ngoài thế gian và xuất
thế gian, sáng suốt cùng khắp mười phương, được hai cái thù
thắng: Một là, trên hợp với Bản Giác iệu Tâm mười
phương chư Phật, cùng với chư Phật Như Lai đồng một sức
Từ; hai là, dưới hợp với tất cả chúng sanh trong sáu đường
trong mười phương, cùng với các chúng sanh đồng một bi
ngưỡng.
Phần 15
Bạch Thế Tôn! o con cúng dường đức Quán Âm Như Lai,
nhờ Ngài truyền thọ cho con Như uyễn ăn uân, ăn Tu
Kim Cương Tam Muội, được cùng chư Phật đồng một sức
Từ, nên làm cho thân con thành tựu ba mươi hai ứng thân
vào các cõi nước.
116
1. Bạch Thế Tôn! Nếu các vị Bồ Tát vào Tam ma địa, tiến tu
pháp vô lậu, thắng giải hiện đã viên mãn, con hiện ra thân
Phật, vì họ mà thuyết pháp, khiến cho được giải thoát.
2. Nếu các hàng hữu học tu phép iệu Minh vẳng lặng, chỗ
thắng diệu đã viên mãn, con ở trước người kia, hiện ra thân
Độc Giác, vì họ mà thuyết pháp, khiến cho được giải thoát.
3. Nếu các hàng hữu học đoạn Mười ai Nhân uyên; do
các nhân duyên đã đoạn mà phát ra thắng tánh viên mãn, con
ở trước người kia, hiện ra thân uyên Giác, vì họ mà thuyết
pháp khiến cho được giải thoát.
4. Nếu các hàng hữu học được phép Không của Tứ Đế, tu
Đạo Đế vào iệt Đế, thắng tánh hiện ra viên mãn, con ở
trước người kia, hiện ra thân Thanh ăn, vì họ mà thuyết
pháp, khiến cho được giải thoát.
5. Nếu chúng sanh muốn tâm được tỏ ngộ, không phạm vào
cảnh ngũ dục và muốn cho thân được thanh tịnh, con ở trước
người kia, hiện ra thân Phạm ương, vì họ mà thuyết pháp,
khiến cho được giải thoát.
6. Nếu các chúng sanh muốn làm ua cõi trời, thống lĩnh
chư thiên, con ở trước người kia, hiện ra thân Đế Thích, vì
họ mà thuyết pháp, khiến cho được thành tựu.
7. Nếu các chúng sanh muốn thân được tự tại, đi khắp mười
phương, con ở trước người kia, hiện ra thân Tự Tại Thiên, vì
họ mà thuyết pháp, khiến cho được thành tựu.
8. Nếu các chúng sanh muốn thân được đại tự tại, bay đi trên
hư không, con ở trước người kia, hiện ra thân Đại Tự Tại
Thiên, vì họ mà thuyết pháp, khiến cho được thành tựu.
117
9. Nếu các chúng sanh muốn thống lĩnh quỷ thần, cứu giúp
cõi nước, con ở trước người kia, hiện ra thân Thiên Đại
Tướng Quân, vì họ mà thuyết pháp, khiến cho được thành
tựu.
10. Nếu các chúng sanh muống sinh nơi thiên cung, sai khiến
quỷ thần, con ở trước người kia, hiện ra thân Thái Tử,
con của Tứ Thiên ương, vì họ mà thuyết pháp, khiến cho
được thành tựu.
11. Nếu các chúng sanh muốn làm vua cõi người, con ở
trước người kia, hiện ra thân ua, vì họ mà thuyết pháp,
khiến cho được thành tựu.
12. Nếu các chúng sanh muốn làm chủ gia đình danh tiếng,
thế gian kính nhường, con ở trước người kia, hiện ra thân
Trưởng giả vì họ mà thuyết pháp, khiến cho được thành tựu.
13. Nếu các chúng sanh thích đàm luận những lời hay, giữ
mình trong sạch, con ở trước người kia, hiện ra thân Cư sĩ, vì
họ mà thuyết pháp, khiến cho được thành tựu.
14. Nếu các chúng sanh muốn trị cõi nước, chia rõ các bang,
các ấp, con ở trước người kia, hiện ra thân Tể quan, vì họ mà
thuyết pháp, khiến cho được thành tựu.
15. Nếu các chúng sanh thích các số thuật, tự mình nhiếp tâm
giữ thân, con ở trước người kia, hiện ra thân Bà la môn, vì họ
mà thuyết pháp, khiến cho được thành tựu.
16. Nếu có người con trai muốn học phép xuất gia, giữ các
giới luật, con ở trước người kia, hiện ra thân Tỷ kheo, vì họ
mà thuyết pháp, khiến cho được thành tựu.
118
17. Nếu có người con gái muốn học phép xuất gia, giữ các
cấm giới, con ở trước người kia, hiện ra thân Tỷ kheo ni, vì
họ mà thuyết pháp, khiến cho được thành tựu.
18. Nếu có người con trai thích giữ ngũ giới, con ở trước
người kia, hiện ra thân u bà tắc, vì họ mà thuyết pháp,
khiến cho được thành tựu.
19. Nếu có người con gái tự giữ ngũ giới, con ở trước người
kia, hiện ra thân u bà di, vì họ mà thuyết pháp, khiến cho
được thành tựu.
20. Nếu có người con gái lập thân trong nội chính, để tu sửa
nhà nước, con ở trước người kia, hiện ra thân Nữ chúa hay
thân Quốc phu nhân, mệnh phụ, đại gia, vì họ mà thuyết
pháp, khiến cho được thành tựu.
21. Nếu có chúng sanh không phá nam căn, con ở trước
người kia, hiện ra thân đồng nam, vì họ mà thuyết pháp,
khiến cho được thành tựu.
22. Nếu có người xử nữ, thích thân xử nữ, không cầu sự xâm
bạo, con ở trước người kia, hiện ra thân đồng nữ, vì họ mà
thuyết pháp, khiến cho được thành tựu.
23. Nếu có chư thiên muốn ra khỏi loài trời, con hiện ra thân
chư thiên, vì họ mà thuyết pháp, khiến cho được thành tựu.
24. Nếu có các con rồng muốn ra khỏi loài rồng, con hiện ra
thân rồng, vì họ mà thuyết pháp, khiến cho được thành tựu.
25. Nếu có ược xoa muốn thoát khỏi loài mình, con ở trước
họ, hiện ra thân ược xoa, vì họ mà thuyết pháp, khiến cho
được thành tựu.
119
26. Nếu có Càn thát bà muốn thoát khỏi loài mình, con ở
trước họ, hiện ra thân Càn thát bà, vì họ mà thuyết pháp,
khiến cho được thành tựu.
27. Nếu có A tu la, muốn thoát khỏi loài mình, con ở trước
họ, hiện ra thân A tu la, vì họ mà thuyết pháp, khiến cho
được thành tựu.
28. Nếu có Ca lâu la muốn thoát khỏi loài mình, con ở trước
họ, hiện ra thân Ca câu la, vì họ mà thuyết pháp, khiến cho
được thành tựu.
29. Nếu có Khẩn na la muốn thoát khỏi loài mình, con ở
trước họ, hiện ra thân Khẩn na la, vì họ mà thuyết pháp,
khiến cho được thành tựu.
30. Nếu có Ma hô la già muốn thoát khỏi loài mình; con ở
trước họ, hiện ra thân Ma hô la già, vì họ mà thuyết pháp,
khiến cho được thành tựu.
31. Nếu có chúng sanh thích làm người, tu cho được thân
người, con hiện ra thân người, vì họ mà thuyết pháp, khiến
cho được thành tựu.
32. Nếu có loài phi nhân, hoặc có hình, hoặc không hình,
hoặc có tưởng, hoặc không tưởng, muốn thoát khỏi loài
mình, con ở trước họ, hiện ra thân như họ, vì họ mà thuyết
pháp, khiến cho được thành tựu.
Ấy gọi là ba mươi hai ứng thân diệu tịnh, vào các cõi nước.
Những thân ấy đều do vô tác diệu lực của ăn uân ăn Tu
Tam Muội, mà tự tại thành tựu.
Mười bốn công đức vô úy
"Bạch Thế Tôn! o con lại dùng ô Tác iệu Lực của ăn
uân ăn Tu Kim Cương Tam Muội ấy, cùng với tất cả sáu
120
đường chúng sanh trong mười phương ba đời, đồng một lòng
bi ngưỡng, nên khiến các chúng sanh, nơi thân tâm con,
được mười bốn thứ công đức vô úy:
Một, là do con không tự quán cái âm thanh, mà quán cái tâm
năng quán, nên khiến cho chúng sanh khổ não mười phương
kia, quán cái âm thanh, thì liền được giải thoát.
Hai, là tri kiến (thấy biết) đã xoay trở lại, khiến cho các
chúng sanh, dầu vào đống lửa, lửa không thể đốt được.
Ba, là quán cái nghe đã xoay trở lại, khiến cho các chúng
sanh bị nước lớn cuốn đi, mà không chết đuối.
Bốn, là diệt hết vọng tưởng, tâm không sát hại, khiến các
chúng sanh vào những nước quỷ, quỷ không thể hại được.
Năm, là huân tập và thành tựu được Tánh nghe, cả sáu căn
đều tiêu về Bản Tánh, đồng như cái nghe, cái tiếng, có thể
khiến cho chúng sanh, lúc đương bị hại, dao gãy từng đoạn,
khiến cho các binh khí chạm vào thân người như cắt dòng
nước, như thổi ánh sáng, Bản Tánh không hề lay động.
Sáu, là huân tập Tánh nghe sáng suốt thấu khắp pháp giới,
thì các Tánh tối tăm không thể toàn được, có thể khiến cho
chúng sanh, tuy các loài ược xoa, La sát, Cưu bàn trà, Tỳ
xá già, Phú dan na! vân vân ... ở gần một bên, con mắt chúng
vẫn không thể thấy được.
Bảy, là các tiếng đều tiêu trọn, thấy nghe đã xoay vào tự
tánh, rời các trần cảnh hư vọng, có thể khiến cho các chúng
sanh, những thứ cùm, dây, gông, xiềng không thể dính vào
mình được.
121
Tám, là diệt tướng âm thanh, viên thông Tánh Nghe, phát
sinh sức Từ cùng khắp, có thể khiến cho chúng sanh đi qua
đường hiểm, giặc không cướp được.
Chín, là huân tu theo Tánh Nghe, rời các trần tướng, sắc dục
không lôi kéo được, có thể khiến cho tất cả chúng sanh đa
dâm, xa rời lòng dục.
Mười, là thuần một thật tướng của âm thanh, không còn gì là
tiền trần, căn và cảnh đều viên dung, không có năng, sở đối
đãi, có thể khiến cho tất cả chúng sanh nóng giận, rời bỏ
lòng thù ghét.
Mười một, là tiêu diệt trần tướng, xoay về Tánh Bản Minh,
thì pháp giới, thân, tâm đều như ngọc lưu ly, sáng suốt không
ngăn ngại, có thể khiến cho những kẻ ngu ngốc u mê, xa rời
hẳn sự si mê tối tăm.
Mười hai, là viên dung các hình tướng, xoay Tánh Nghe trở
về đạo tràng bất động, hòa vào thế gian mà không hủy hoại
thế giới, cúng dường được chư Phật Như Lai như số vi trần,
cùng khắp mười phương, ở bên mỗi mỗi đức Phật, làm vị
Pháp vương tử, có thể khiến cho trong pháp giới, những
chúng sanh không con, cầu có con trai, sinh ra đứa con trai
có phúc đức trí tuệ.
Mười ba, là sáu căn viên thông, soi sáng không hai, trùm
khắp mười phương thế giới, thành lập Đại iên Cảnh Không
Như Lai Tạng, vâng lĩnh pháp môn bí mật của mười phương
vi trần Như Lai, không có thiếu sót, có thể khiến cho trong
pháp giới, những chúng sanh không con, cầu có con gái, sinh
ra người con gái có tướng tốt, đoan chính, phúc đức, dịu
dàng, được mọi người yêu kính.
122
Mười bốn, là trong tam thiên đại thiên thế giới này, có trăm
ức mặt trời, mặt trăng, các Pháp vương tử hiện ở trong thế
gian, số lượng có đến sáu mươi hai số cát sông ằng, đều tu
Phật pháp, nêu gương mẫu, giáo hóa chúng sanh, tùy thuận
chúng sanh, phương tiện trí tuệ của mỗi mỗi vị không đồng
nhau. Do con được Tánh viên thông, phát ra diệu tánh của
nhĩ căn, cho đến thân tâm nhiệm mầu bao trùm khắp pháp
giới, nên có thể khiến cho chúng sanh chấp trì danh hiệu của
con, so với những người chấp trì danh hiệu của tất cả các vị
Pháp vương tử số lượng bằng sáu mươi hai số cát sông ằng
kia, phúc đức hai bên thật bằng bậc, không sai khác.
Bạch Thế Tôn! Một danh hiệu của con cùng với rất nhiều
danh hiệu kia không khác, là do con tu tập được tánh viên
thông chân thật. Ấy gọi là mười bốn sức thí vô úy, đem phúc
khắp cho chúng sanh.
"Bạch Thế Tôn! o con đã được Đạo tu chứng viên thông
vô thượng đó, nên lại khéo được bốn ô Tác iệu Đức
không nghĩ bàn:
Một, là do con chứng được tánh nghe chí diệu, nơi tâm tánh
không còn có tướng năng văn, các sự thấy, nghe, hay, biết
không còn cách biệt và đều thành một Bảo Giác iên ung
Thanh Tịnh, nên con có thể hiện ra rất nhiều hình dung
nhiệm mầu, nói ra vô số thần chú bí mật. Trong đó, hoặc
hiện ra một đầu, ba đầu, năm đầu, bảy đầu, chín đầu, mười
một đầu, như thế cho đến một trăm lẽ tám đầu, một ngàn
đầu, một vạn đầu, tám vạn bốn ngàn cái đầu, đầy đủ các
tướng; hoặc hiện ra hai tay, bốn tay, sáu tay, mười hai tay,
mười bốn, mười sáu, mười tám, hai mươi, hai mươi bốn, như
thế cho đến một trăm lẽ tám tay, một ngàn tay, một vạn tay,
tám vạn bốn ngàn cái tay bắt ấn; hoặc hiện ra hai mắt, ba
mắt, bốn mắt, chín mắt, như thế cho đến một trăm lẽ tám
123
mắt, một ngàn mắt, một vạn mắt, tám vạn bốn ngàn con mắt
báu thanh tịnh; hoặc khi thì từ, hoặc khi thì oai, hoặc khi thì
định, hoặc khi thì tuệ, cứu giúp chúng sanh được rất tự tại.
Hai, là do cái nghe, cái nghĩ của con, thoát ra ngoài sáu trần
như cái tiếng qua bức tường, không thể bị ngăn ngại, cho nên
diệu dụng của con có thể hiện mỗi mỗi hình, tụng mỗi mỗi
chú, hình đó, chú đó đều có thể đem sức vô úy mà bố thí cho
các chúng sanh; vì thế, cõi nước mười phương như vi trần
đều gọi con là vị Thí ô Úy.
Ba, là con tu tập, phát ra căn tánh Bản iệu iên Thông
Thanh Tịnh, nên đi qua thế giới nào, đều khiến cho chúng
sanh xả thân, xả đồ trân bảo, cầu con thương xót.
Bốn, là do con được tâm Phật, chứng đến chỗ rốt ráo, nên có
thể đem các thứ quý báu cúng dường mười phương Như Lai,
cả đến chúng sanh sáu đường trong pháp giới, ai cầu vợ thì
được vợ, cầu con thì được con, cầu Tam Muội thì được Tam
Muội, cầu sống lâu thì được sống lâu, như thế, cho đến cầu
Đại Niết Bàn thì được Đại Niết Bàn. "Phật hỏi về viên
thông, con do văn chiếu Tam Muội nơi nhĩ căn mà duyên
tâm được tự tại; nhân tướng nhập lưu, được Tam ma địa,
thành tựu quả Bồ Đề, đó là thứ nhất.
Bạch Thế Tôn! Đức Phật Như Lai kia, khen con khéo được
pháp môn viên thông, ở trong Đại hội, thọ ký cho con cái
hiệu là Quán Thế Âm; do con thấy nghe thấu suốt mười
phương, nên danh tiếng Quán Âm cùng khắp thập phương
thế giới.”
Phần 16
Chỉ dạy Pháp Viên tu
Đức Phật phóng hào quang hiện điềm lành
124
Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn nơi sư tử tọa, năm vóc đồng
phóng ra hào quang báu, rọi xa trên đảnh tướng mười
phương Như Lai số như vi trần và trên đảnh các vị Pháp
vương tử, các vị Bồ Tát. Các đức Như Lai kia, năm vóc cũng
đồng phóng ra hào quang báu, từ các thế giới số như vi trần
đến rọi trên đảnh Phật và trên đảnh các vị Đại Bồ Tát và A la
hán trong ội; rừng cây, ao hồ đều diễn ra pháp âm; hào
quang giao xen cùng nhau như lưới tơ báu. Cả trong đại
chúng được cái chưa từng có; tất cả đều được Kim cương
tam muội. Liền khi ấy, trời mưa hoa sen trăm bảu màu xanh,
màu vàng, màu đỏ, màu trắng xen lộn lẫn nhau, mười
phương hư không hóa thành sắc bảy bảu. Đất liền, núi sông
của cõi Ta bà nầy cùng một lúc không hiện ra, chỉ thấy vi
trần quốc độ mười phương hợp thành một cõi, Phạm Âm ca
ngợi tự nhiên nổi lên.
Đức Phật bảo ngài Văn Thù chọn căn viên thông
Lúc bấy giờ, đức Như Lai bảo Ngài ăn Thù Sư Lợi Pháp
vương tử rằng: "Ông hãy xét trong hai mươi lăm vị vô học
Đại Bồ Tát và A la hán, mỗi mỗi đều trình bày phương tiện
hành đạo lúc đầu, đều nói tu tập tánh viên thông chân thật;
chỗ tu hành của các vị kia, thật không có hơn, kém, trước,
sau gì khác nhau. Nay Ta muốn khiến cho ông Anan khai
ngộ, thì trong hai mươi lăm phép tu, phép nào hợp với căn cơ
của ông ấy; lại nữa, sau khi Ta diệt độ rồi, chúng sanh trong
cõi nầy vào thừa Bồ Tát, cầu đạo vô thượng, thì do pháp môn
phương tiện gì, được dễ thành tựu hơn?"
Lựa ra những căn viên thông
(Lưu ý: Đọc qua không cần phải nhớ, ngay cả căn viên
thông đã được chọn vì chúng ta dùng Lăng Nghiêm Đại
Đinh để vào Ta Ma Địa – Chánh Định)
125
Ngài ăn Thù Sư Lợi Pháp vương tử, vâng ý chỉ của Phật,
liền từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ nơi chân Phật, dựa vào uy
thần của Phật, nói bài kệ đáp lại:
"Bản tánh biển Giác khắp đứng lặng,
Tánh khắp đứng lặng vốn nhiệm mầu,
Bản Minh chiếu ra hình như sở,
Lập tướng sở, bỏ mất Bản Minh.
o mê vọng, mà có hư không,
Nương hư không, lập thành thế giới;
Tư tưởng chăm chú thành cõi nước,
ay biết mọi việc, là chúng sinh.
ư không sinh ra trong Đại Giác,
Như một bọt nước sinh trong bể;
Các nước hữu lậu, như vi trần
Đều nương hư không, mà phát sinh;
Bọt nước diệt, vốn không hư không,
uống nữa là, hình tướng ba cõi.
"Bản tánh xoay về, vốn không hai,
Phương tiện tu chứng có nhiều cách,
Cách nào cũng thông vào bản tánh,
Nói thuận, nghịch, chỉ là phương tiện;
o hàng sơ tâm vào Tam muội,
Bên mau, bên chậm không đồng nhau.
" ọng tưởng kết lại thành sắc trần,
ay biết không thể thông suốt được;
Làm sao, chính chỗ không thông suốt,
Tu hành, lại được Tánh viên thông?
Âm thanh xen lộn với lời nói,
Chỉ nương theo ý vị danh từ;
Nếu một, không trùm được tất cả,
Thì làm sao, được Tánh viên thông?
126
ương, chỉ lúc hợp, mới rõ biết,
Lúc rời cách, thì vốn không có;
Nếu sở Giác, không được thường xuyên,
Thì làm sao, được tánh viên thông?
ị, không phải bản nhiên tự có,
Cần phải nếm, mới biết có vị;
Nếu Giác quan, không thường duy nhất,
Thì làm sao, được tánh viên thông?
Xúc, do các vật chạm mà biết,
Không vật chạm, thì không thành xúc;
Khi hợp, khi ly, không nhất định,
Thì làm sao, được tánh viên thông?
Pháp, cũng có tên là nội trần64
,
Nương theo trần, tất phải có sở;
Năng sở, không viên dung nhập một,
Thì làm sao, được tánh viên thông?
"Cái thấy, tuy rỗng suốt rất xa,
Nhưng thấy trước, mà không thấy sau;
Bốn bề, còn thiếu mất một nửa,
Thì làm sao, được tánh viên thông!
Mũi, có thở ra và thở vào,
Chặng giữa, hiện không có hơi thở,
Nếu không viên dung sự cách bức,
Thì làm sao, được tánh viên thông?
Ngoài sở nhập, tánh nếm không thành,
Nhân các vị, mới có hay biết;
Không có vị, rốt ráo không có,
Thì làm sao, được tánh viên thông?
Thân biết xúc với cảnh sở xúc,
Đều có hạn, không phải cùng khắp;
64
Pháp này là trần đối với căn Ý
127
Nếu không nhận tánh không bờ bến,
Thì làm sao, được tánh viên thông?
Ý căn xen với các loạn tưởng,
Đứng lặng, rốt cuộc không thấy gì;
Nếu không thoát được các tưởng niệm,
Thì làm sao, được tánh viên thông?"
"Nhãn thức, phát khởi nhờ căn trần,
Gạn cùng, vốn không có tự tướng;
Cả tự thể, còn không nhất định,
Thì làm sao, được tánh viên thông?
Tâm nghe rỗng thấu cả mười phương,
Là do sức hoằng thệ rộng lớn;
Sơ tâm, không thể đến chỗ ấy
Thì làm sao, được tánh viên thông?
Quán đầu mũi, vốn là duyên cơ,
Chỉ để nhiếp tâm được an trụ;
Nếu cảnh quán, lại thành sở trụ,
Thì làm sao, được tánh viên thông?
Thuyết pháp, diệu dụng các danh từ;
Cốt phải đã được khai ngộ trước;
Nếu lời nói, không phải vô lậu,
Thì làm sao, được tánh viên thông?
Giữ giới, chỉ câu thúc cái thân,
Ngoài cái thân, lấy gì câu thúc;
ốn không phải cùng khắp tất cả,
Thì làm sao, được tánh viên thông?
Thần thông, do túc tập từ trước,
Nào dính gì ý thức phân biệt;
Tưởng niệm, không thoát ly sự vật,
Thì làm sao, được tánh viên thông?
128
"Nếu quán cái tánh của địa đại,
Thì nó ngăn ngại, không thông suốt;
Pháp hữu vi, không phải chân tánh,
Thì làm sao, được tánh viên thông?
Nếu quán cái tánh của thủy đại,
Quán tưởng, đâu phải là chân thật,
Nếu không đi đến iệu Chân Như,
Thì làm sao, được tánh viên thông?
Nếu quán hỏa đại, trừ dâm dục,
Chán cái có, không phải thật ly;
Phương tiện, không hợp với sơ tâm,
Thì làm sao, được tánh viên thông?
Nếu quán cái tánh của phong đại,
Động, tĩnh, đâu phải không đối đãi;
Đối đãi, trái với vô thượng Giác,
Thì làm sao, được tánh viên thông?
Nếu quán cái tánh của không đại,
ư không vô tri, không hay biết;
Không biết, khác hẳn với Bồ Đề,
Thì làm sao, được tánh viên thông?
Nếu quán cái tánh của thức đại,
Thức sinh diệt, đâu phải thường trụ,
Để tâm trong phân biệt hư vọng,
Thì làm sao, được tánh viên thông?
Tất cả các hành đều vô thường,
Tưởng niệm, vốn trong vòng sinh diệt,
Nhân và quả, khác nhau như thế,
Thì làm sao, được tánh viên thông?"
Nhĩ căn viên thông hơn hết
"Con nay xin bạch đức Thế Tôn,
Phật ra đời trong cõi Ta bà,
129
Trong cõi nầy, lối dạy chân thật,
Thanh tịnh, do chỗ nói và nghe;
Nay muốn tu chứngTam ma địa,
Thật nên do cái nghe mà vào."
"Rời cái khổ và được giải thoát,
ay thay cho ngài Quán Thế Âm;
Trong kiếp số như cát sông ằng,
ào cõi Phật như số vi trần,
Được sức tự tại rất to lớn,
Bố thí vô úy cho chúng sinh.
Ngài Quán Thế Âm, tiếng nhiệm mầu,
Tiếng trong sạch và tiếng hải triều,
Cứu đời, mọi việc được yên lành,
Xuất thế gian, được quả thường trụ."
"Con nay kính bạch đức Như Lai,
Như lời ngài Quán Âm vừa nói:
í như, có người trong yên lặng,
Chung quanh mười phương đều đánh trống,
Thì đồng thời nghe khắp mười nơi,
Như thế, mới là viên chân thật.
Mắt bị ngăn che, không thấy được,
Thiệt căn, tỷ căn cũng như vậy,
Thân căn, lúc hợp mới biết xúc,
Ý căn, phân vân không manh mối;
Cách tường, nhĩ căn vẫn nghe tiếng,
ầu xa, dầu gần, đều nghe được;
Năm căn so sánh thật không bằng,
Như thế, mới là thông chân thật.
Tánh thanh trần, có động, có tĩnh,
Trong tánh nghe thành có, thành không;
Khi không tiếng, gọi là không nghe,
130
Đâu phải thật không còn tánh nghe;
Không tiếng, tánh nghe đã không diệt,
Có tiếng, tánh nghe đâu phải sinh;
Trọn rời cả hai thứ sinh diệt,
Như thế, mới là thường chân thật.
ầu cho, trong lúc đương ngủ mê,
Không vì không nghĩ, mà không nghe;
Tánh nghe ra ngoài sự suy nghĩ,
Thân, ý không thể so bằng được.
“ iện nay, trong cõi Ta bà nầy,
Các thứ thanh luận được truyền bá,
o chúng sinh bỏ mất tánh nghe,
Theo thanh trần, nên bị lưu chuyển;
Anan tuy có Tánh nhớ dai,
ẫn không khỏi mắc các tà niệm;
á không phải tùy chỗ chìm đắm,
Xoay ngược dòng, thoát khỏi hư vọng.
Anan! ông hãy nghe cho chín,
Nay tôi nương uy lực của Phật,
Tuyên nói phép Tam Muội chân thật,
Chắc như Kim cương vương, như huyễn,
Không nghĩ bàn, xuất sinh chư Phật.
Ông nghe tất cả pháp bí mật
Của chư Phật, số như vi trần,
Nếu trước hết, không trừ dục lậu,
Nghe nhiều, chứa chấp thành lầm lỗi;
ùng cái nghe thọ trì Phật pháp,
Sao lại không tự nghe cái nghe?
Tánh nghe không phải tự nhiên sinh,
Nhân thanh trần mà có danh hiệu,
Xoay cái nghe, thoát ly thanh trần,
Cái thoát ly ấy, gọi là gì?
131
Một căn, đã trở về Bản Tánh,
Thì cả sáu căn, được giải thoát,
Thấy, nghe như bệnh lòa huyễn hóa,
Ba cõi như hoa đốm hư không;
Xoay Tánh Nghe, gốc lòa tiêu trừ,
Trần tướng tiêu, Giác Tánh viên tịnh.
Tột thanh tịnh, trí quang thông suốt,
Thể tịch chiếu trùm khắp hư không,
Trở lại xem các việc thế gian
Thật giống như chiêm bao không khác.
Nàng Ma đăng già là chiêm bao
Thì còn ai bắt ông được nữa?
Như các huyễn sư khéo trong đời,
Làm trò, thành ra các trai, gái;
Tuy thấy các căn đều cử động,
Cốt yếu, do cái máy dật dây;
Nghỉ máy, tất cả đều yên lặng,
Các trò, trở thành không có tánh.
Cả sáu căn cũng giống như thế,
ốn đều nương một tánh tinh minh
Chia ra thành sáu thứ hòa hợp;
Một nơi, đã rời bỏ quay về,
Thì cả sáu, đều không thành lập;
Trong một niệm, trần cấu đều tiêu,
Chuyển thành Tánh iên Minh Tịnh iệu,
Còn sót trần cấu là học vị,
Sáng suốt cùng tột, tức Như Lai.
ỡi đại chúng và ông Anan!
ãy xoay lại cái nghe điên đảo,
Xoay cái nghe về, nghe tự tánh,
Nhận tự tánh, thành đạo vô thượng;
Thật tánh viên thông là như thế."
132
"Đây thật là một đường thẳng tiến
ào Niết Bàn của vi trần Phật;
Các đức Như Lai trong quá khứ
Đều đã thành tựu pháp môn nầy;
Các vị Bồ Tát trong hiện tại
Điều viên minh vào pháp môn ấy;
Những người tu học đời vị lai
Đều nên nương theo pháp môn đó;
Tôi cũng do pháp ấy mà chứng,
Không phải chỉ ngài Quán Thế Âm.
Thật như lời đức Phật Thế Tôn
Đã hỏi tôi về các phương tiện
Để cứu giúp, trong đời Mạt Pháp,
Những người cầu pháp xuất thế gian
Thành tựu được tâm tánh Niết Bàn
Thì ngài Quán Âm là hơn cả.
Còn tất cả các phương tiện khác
Đều là nhờ uy thần của Phật,
Tức nơi sự, rời bỏ trần lao,
Không phải phép tu học thường xuyên,
Cạn hay sâu cũng đồng nghe được.
"Xin đảnh lễ Tánh Như Lai Tạng,
ô lậu, không còn sự nghĩ bàn,
Nguyện gia bị cho đời vị lai,
Nơi pháp môn nầy, không lầm lẫn.
Đây là phương tiện dễ thành tựu,
Nên đem dạy cho ông Anan
Cùng những kẻ trầm luân mạt kiếp,
Chỉ dùng nhĩ căn mà tu tập,
Thì viên thông chóng hơn pháp khác;
Tâm tánh chân thật là như thế."
133
Lúc ấy, ông Anan cùng cả đại chúng, thân tâm tỏ rõ, nhận
được sự khai thị to lớn, xem quả Bồ Đề và Đại Niết Bàn của
Phật, cũng như có người thân có việc phải đi xa, chưa trở về
được, song đã biết rõ con đường về nhà. Trong Pháp hội, cả
đại chúng, thiên long bát bộ, hàng Nhị thừa hữu học và tất cả
các Bồ Tát mới phát tâm, số lượng bằng mười số cát sông
ằng, đều được bản tâm xa trần tướng, rời cấu nhiễm, được
pháp nhãn thanh tịnh. Bà Tánh Tỷ kheo ni nghe nói bài kệ
xong, thành quả A la hán; vô lượng chúng sinh đều phát tâm
ô Đẳng ô Thượng Chính Đẳng Chính Giác.
Lúc bấy giờ ngài Anan sửa áo chỉnh tề, ở trong đại chúng,
chấp tay đỉnh lễ; tâm tánh trọn sáng, vừa mừng vừa tủi; vì
muốn lợi ích cho các chúng sinh vị lai, cúi đầu bạch Phật:
"Thưa đức Thế Tôn đại bi, con nay đã ngộ được pháp môn
thành Phật, tu hành trong đó, được không nghi hoặc. Con
thường nghe đức Như lai dạy như thế nầy: Tự mình chưa
được độ, trước đã độ người, đó là chỗ phát tâm của các vị Bồ
Tát; tự mình Giác ngộ viên mãn, có thể Giác ngộ kẻ khác, đó
là sự ứng thế của các đức Như Lai. Con tuy chưa được độ,
song nguyện độ tất cả chúng sinh trong đời Mạt Pháp. Bạch
Thế Tôn, các chúng sinh đó cách Phật ngày càng xa, những
tà sư thuyết pháp; số như cát sông ằng; nếu muốn họ nhiếp
tâm vào Tam ma địa, thì nên khiến họ dựng lập đàn tràng thế
nào để rời các ma sự, được không thoái khuất nơi tâm Bồ
Đề."
Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn, ở trong đại chúng, khen ngợi ông
Anan: " ay lắm, hay lắm, như chỗ ông hỏi về dựng lập đàn
tràng, cứu giúp chúng sinh chìm đắm trong đời Mạt Pháp,
ông hãy nghe cho kỹ, tôi sẽ vì ông mà nói.” Ngài Anan và cả
đại chúng kính vâng lời dạy của Phật.
134
Phật bảo ngài Anan: "Ông thường nghe Ta, trong Tỳ Nại
Gia65, tuyên nói ba nghĩa quyết định của sự tu hành, đó là thu
nhiếp cái tâm là giới, nhân giới mà sinh định, nhân định mà
phát tuệ66, thế gọi là ba pháp ô lậu học."
“Anan! Thế nào thu nhiếp cái tâm thì gọi là giới?
Nếu chúng sinh sáu đường trong các thế giới, cái tâm không
dâm, thì không đi theo dòng sinh tử tiếp tục. Ông tu phép
Tam Muội cốt để ra khỏi trần lao, nếu không trừ lòng dâm,
thì không thể ra khỏi trần lao được. ầu có nhiều trí thiền
định hiện tiền, nếu không đoạn lòng dâm, cũng chắc lạc vào
ma đạo, hạng trên thành ma vương, hạng giữa thành ma dân,
hạng dưới thành ma nữ; các bọn ma kia cũng có đồ chúng,
mỗi mỗi tự xưng là thành đạo vô thượng. Sau khi Ta diệt độ
rồi, trong đời Mạt Pháp, có nhiều bọn ma nầy sôi nổi trong
thế gian, gây nhiều việc tham dâm, lại giả làm người thiện tri
thức, khiến cho các chúng sanh sa vào hầm ái kiến; bỏ mất
con đường Bồ Đề. Ông dạy người đời tu pháp Tam ma đề
(quán), trước hết phải đoạn cái dâm trong tự tâm. Ấy gọi là
lời dạy bảo rõ ràng thanh tịnh, quyết định thứ nhất của các
đức Như Lai Tiên-Phật Thế Tôn. ậy nên ông Anan! Nếu
không đoạn lòng dâm mà tu thiền định, thì cũng như nấu cát,
nấu đá muốn cho thành cơm, dầu trải qua trăm nghìn kiếp
cũng chỉ gọi là cát nóng, đá nóng, vì cớ sao? ì đó là giống
cát, giống đá, không phải là bản nhân của cơm vậy. Ông đem
thân dâm cầu diệu quả của Phật, dầu được diệu ngộ, cũng chỉ
là gốc dâm, cỗi gốc đã thành dâm, thì phải trôi lăn trong tam
đồ, chắc không ra khỏi, còn đường nào tu chứng Niết Bàn
65
Tỳ Nại Gia nói về giới luật. 66
Phải hiểu như thế nào về chữ “sinh” trong Giới sinh Định, Định sinh
Tuệ? Cũng trong Kinh này, Ông Tôn Đà La Nan Đà (vị thứ mười bốn)
trình bày sự chứng ngộ của mình đã nói: Con đã giữ giới luật đầy đủ
nhưng không thể vào Tam ma địa (Samadhi: Chánh Định.)
135
Như Lai. Chắc phải khiến cho thân tâm đều đoạn hết giống
dâm, cho đến tánh đoạn cũng không còn nữa, thì mới trông
mong chứng quả Bồ Đề của Phật. Như lời Ta nói đây, gọi là
lời nói của Phật; không như lời nói đó, tức là lời nói của ma
Ba tuần."
“Anan! Ai trong các chúng sanh sáu đường trong các thế
giới, nếu cái tâm không sát, thì không theo dòng sinh tử tiếp
tục. Ông tu phép Tam Muội, cốt ra khỏi trần lao, nếu không
trừ lòng sát, thì không thể ra khỏi trần lao được. ầu có
nhiều trí thiền định hiện tiền, nếu không đoạn lòng sát, thì
chắc phải lạc vào thần đạo; người bậc trên thì thành đại lực
quỷ, người bậc giữa thì thành phi hành dạ xoa và các loài
quỷ soái, người bậc dưới thì thành địa hành la sát, các loài
quỷ thần kia cũng có đồ chúng, mỗi mỗi tự xưng là thành
đạo vô thượng.
Sau khi Ta diệt độ rồi, trong đời Mạt Pháp, có nhiều quỷ
thần nầy sôi nổi trong thế gian, tự nói rằng ăn thịt, được đạo
Bồ Đề. Anan! Ta khiến hàng Tỷ kheo ăn năm thứ tịnh nhục,
thịt kia đều do thần lực Ta hóa sinh ra, vốn không có mạng
căn. Xứ Bà la môn các ông, đất đai phần nhiều nóng ướt, lại
thêm cát đá, rau cỏ không sinh được; Ta dùng sức đại bi gia
bị, nhân sức đại từ bi, giả gọi là thịt và các ông cũng nhận
được cái vị như thịt; làm sao, sau khi Như Lai diệt độ, người
ăn thịt chúng sinh, lại gọi là Phật tử! Các ông nên biết những
người ăn thịt đó, dầu cho tâm được khai ngộ, giống như Tam
ma địa, đều là loài La sát, quả báo hết rồi, phải chìm đắm
trong bể khổ, không phải đệ tử Phật. Những người như vậy,
giết nhau, nuốt nhau, ăn nhau chưa thôi, làm sao, lại được ra
khỏi ba cõi. Ông dạy người đời tu phép Tam ma đề, thứ nữa,
phải đoạn lòng sát. Ấy gọi là lời dạy rõ ràng thanh tịnh,
quyết định thứ hai của các đức Như Lai Tiên-Phật Thế Tôn.
136
ậy nên Anan! Nếu không đoạn lòng sát mà tu thiền định,
thì cũng ví như có người tự bịt lỗ tai, cất tiếng kêu to mà
trông mong người khác không nghe; bọn này gọi là muốn
giấu thì càng lộ. àng Tỷ kheo thanh tịnh và các vị Bồ Tát đi
trong đường rẽ, không dẫm cỏ non, huống nữa là lấy tay nhổ
cỏ; làm sao đức Đại bi, lại lấy máu thịt của các chúng sinh,
mà làm đồ ăn?
Nếu các hàng Tỷ kheo không mặc những đồ tơ lụa, là lượt
phương Đông và không dùng những giày dép, áo cừu, áo
len hay các thứ sữa, phó mát, đề hồ, thì những Tỷ kheo
như thế, đối với thế gian, thật là giải thoát, trả hết nợ cũ
xong, thì không vào trong ba cõi nữa, vì cớ sao? ùng những
bộ phận thân thể chúng sinh, thì đều bị ảnh hưởng chúng
sinh, cũng như con người ăn giống bách cốc trong đất, thì
chân không rời khỏi đất. Quyết phải khiến cho thân tâm, đối
với thân thể hay bộ phận thân thể của chúng sinh, đều không
mặc, không ăn, thì những người như thế, Ta mới gọi thật là
giải thoát. Như lời Ta nói đây, gọi là lời nói của Phật; không
như lời nói đó, tức là lời nói của ma Ba tuần."
“Anan! Lại như chúng sanh sáu đường trong thế giới, tâm
không trộm cắp, thì không theo dòng sinh tử tiếp tục. Ông tu
phép Tam Muội, cốt ra khỏi trần lao, nếu lòng trộm cắp
không trừ, thì không thể ra khỏi trần lao được; dầu có nhiều
trí thiền định hiện tiền, nếu không đoạn được lòng trộm cắp,
thì chắc phải lạc vào tà đạo, hạng trên thì thành tinh linh,
hạng giữa thì thành yêu mị, hạng dưới thì thành người tà đạo
bị các loài quỷ mị nhập vào; các bọn tà đạo kia cũng có đồ
chúng, mỗi mỗi tự xưng là thành đạo vô thượng. Sau khi Ta
diệt độ rồi, trong đời Mạt Pháp, có nhiều những hạng yêu mị
tà đạo ấy sôi nổi trong thế gian, chúng lén núp gian dối, tự
xưng là thiện tri thức, mỗi người tự xưng đã được đạo pháp
137
vô thượng, lừa gạt kẻ không biết, dọa dẫm khiến cho mất
lòng chánh tín; chúng đi qua đến đâu, cửa nhà người ta đều
bị hao tổn tan nát. Ta dạy hàng Tỷ kheo theo thứ lớp khất
thực để bỏ lòng tham, thành đạo Bồ Đề. Các hàng Tỷ kheo
không tự nấu ăn, gửi cái sống thừa tạm bợ trong ba cõi, thị
hiện chỉ đi về một phen, đi rồi không trở lại nữa. Làm sao,
bọn giặc mượn y phục đạo Phật, buôn bán Như Lai, gây các
thứ nghiệp mà đều gọi là Phật pháp, lại còn chê bai các vị Tỷ
kheo đầy đủ giới luật xuất gia là đạo Tiểu Thừa; do chúng
làm cho vô lượng chúng sinh mắc phải nghi lầm, nên sẽ bị
đọa vào ngục vô gián.
Sau khi Ta diệt độ rồi, nếu có Tỷ kheo phát tâm quyết định
tu phép Tam ma đề, biết ở trước hình tượng Như Lai, chính
mình thắp một cây đèn, đốt một đốt ngón tay hay ở trên thân,
đốt một điểm hương, Ta nói người ấy, nợ cũ từ vô thủy,
trong một thời trả hết, cáo từ thế gian, thoát hẳn các lậu.
Người ấy, tuy chưa hiểu rõ đạo ô Thượng Giác, nhưng đối
với Phật pháp, tâm đã quyết định; nếu không làm được cái
nhân nhỏ mọn xả thân ấy, thì dầu thành đạo vô vi, cùng phải
lại sinh làm người, trả các nợ cũ, như quả báo ăn lúa ngựa
của Ta, thật không sai khác. Ông dạy người đời tu phép Tam
ma đề, sau nữa, phải đoạn lòng trộm cắp. Ấy gọi là lời dạy rõ
ràng thanh tịnh, quyết định thứ ba của các đức Như Lai Tiên
Phật Thế Tôn.
ậy nên ông Anan! Nếu không đoạn lòng trộm cắp mà tu
thiền định, thì cũng như người lấy nước rót vào chén thủng,
mong cho đầy chén, dầu trải qua kiếp số như vi trần, rốt cuộc
không thể đầy được. Nếu các hàng Tỷ kheo, ngoài y bát ra,
mảy may không tích trữ, xin ăn có dư, thì bố thí cho chúng
sanh đói, nơi nhóm ội lớn, chấp tay vái chào đại chúng, có
người đánh mắng cũng đồng như khen ngợi, quyết định rời
138
bỏ cả thân và tâm, thân thịt xương máu thành sở hữu chúng
của chúng sanh, không đem những lời dạy bất liễu nghĩa của
Như Lai làm chỗ hiểu của mình, khiến cho kẻ sơ học phải
lầm lạc, thì Phật ấn chứng người ấy, thật được Tam muội.
Như lời Ta nói đây, gọi là lời nói của Phật; không như lời nói
đó, tức là lời nói của ma Ba tuần."
“Anan! Chúng sinh sáu đường trong thế giới như thế, tuy nơi
thân tâm không còn sát, đạo, dâm, cả ba hạnh đã được viên
mãn, nếu mắc phải đại vọng ngữ, thì Tam ma địa không
được thanh tịnh, thành giống ma ái kiến và mất giống Như
Lai; tức như chưa được gọi rằng được, chưa chứng gọi rằng
chứng, hoặc để cầu thế gian tôn trọng tột bậc, bảo người
khác rằng: Nay tôi đã được quả Tu đà hoàn, quả Tư đà hàm,
quả A na hàm, đạo A la hán, thừa Bích chi Phật hay các quả
vị Bồ Tát trong thập địa hay trước thập địa, trông mong
người kia lễ sám, tham sự cúng dường. Những tên nhất điên
ca ấy, tự tiêu diệt giống Phật, như người lấy dao chặt cây đa
la; Phật ấn ký người ấy, mất hẳn thiện căn, không còn chánh
tri kiến, chìm đắm trong ba bể khổ, không thành tựu pháp
Tam Muội. Ta bảo các hàng Bồ Tát và A la hán, sau khi Ta
diệt độ rồi, hiện ra ứng thân, sinh trong đời Mạt Pháp kia,
hiện ra nhiều hình tướng khác nhau, để độ những người còn
trong vòng luân hồi, hoặc làm sa môn, bạch y cư sĩ, vua
chúa, quan lại, đồng nam, đồng nữ, như thế cho đến người
dâm nữ, người quả phụ, người gian dối, trộm cắp, người
hàng thịt, buôn bán, để khen ngợi Phật thừa với những người
đồng sự, khiến cho thân tâm của họ vào được Tam ma địa;
nhưng rốt ráo không tự bảo rằng tôi thật là Bồ Tát, thật là A
la hán, khinh xuất nói với những người chưa học, làm tiết lậu
mật nhân của Phật, chỉ trừ đến lâm chung, hoặc chăng, thầm
có những lời di chúc; làm sao, lại còn có lừa gạt chúng sanh,
thành tội đại vọng ngữ. Ông dạy người đời tu phép Tam ma
139
đề, sau rốt phải đoạn trừ các đại vọng ngữ. Ấy gọi là lời dạy
rõ ràng thanh tịnh, quyết định thứ tư của các đức Như Lai
Tiên Phật Thế Tôn.
ậy nên ông Anan! Nếu không đoạn trừ lòng đại vọng ngữ,
thì cũng như khắc phân người làm thành hình cây chiên đàn,
mà muốn được hương thơm, thật không có lẽ nào như vậy.
Ta dạy hàng Tỷ kheo lấy trực tâm làm đạo tràng, trong hết
thảy hành động, nơi bốn uy nghi, còn không có giả dối, làm
sao, lại có kẻ tự xưng đã được đạo pháp thượng nhân! í như
người dân cùng xưng càn là đế vương để tự chuốc lấy sự tru
diệt, huống nữa, là vị Pháp vương, làm sao, lại dám xưng
càn! Nhân đã không thật, quả ắt quanh co, như thế, mà cầu
đạo Bồ Đề của Phật, thì cũng như người muốn cắn rốn, làm
sao, mà thành tựu được. Nếu như các hàng Tỷ kheo, tâm như
dây đàn thẳng, tất cả đều chân thật mà vào Tam ma địa, thì
hẳn không có các ma sự, Ta ấn chứng người đó, thành tựu
được ô Thượng Tri Giác của các hàng Bồ Tát. Như lời Ta
nói đây, gọi là lời nói của Phật; không như lời nói đó, tức là
lời nói của ma Ba tuần."
140
KINH ĐẠI PHẬT ĐẢNH THỦ LĂNG NGHIÊM (T M T T NG N)
141
Quyển VII
Phần 17
Đức Phật khai thị về Mật Giáo
(Lưu ý: Phần này chúng ta đọc kỹ để tăng niềm tin xây dựng
Đàn Tràng Lăng Nghiêm mà tu tập.)
“Anan ! Ông hỏi về nhiếp tâm, Ta nay đã nói: “Để vào Tam
Ma Địa tu học pháp môn nhiệm mầu, cầu Đạo Bồ Đề, trước
hết phải giữ bốn thứ Luật Nghi67
này trong trắng như sương
tuyết, tự không còn sanh mảy mún cành lá. Ba cái của
Tâm68, bốn cái của Miệng
69 không có nhân để sanh ra.
“Anan! Nếu chẳng sai mất bốn Luật Nghi đó thì tâm còn
chẳng duyên theo Sắc, ương, ị, Xúc, cả thảy ma sự làm
sao phát sanh? Nếu có tập khí cũ không thể diệt trừ, ông
dạy người đó nhất tâm trì tụng Thần Chú Vô Thượng
Phật Đảnh Quang Minh “Ma Ha Tát Đát Đa Bát Đát Ra”
của Ta. Đây là Tâm Chú Như Lai ô Kiến Đảnh Tướng,
Phật Tâm ô i, từ đảnh phát huy, ngồi đài sen báu mà
tuyên thuyết ra.
“Như ông đời trước cùng Cô Ma Đăng Già nhân duyên nhiều
kiếp, tập khí ân ái chẳng phải một đời hay một kiếp, song Ta
một phen tuyên dương Thần Chú thì vĩnh viễn thoát khỏi
lòng yêu, thành A La Hán. Nàng kia là dâm nữ, không tâm tu
hành, chỉ nhờ thần lực của Chú ngầm giúp mà thành liền quả
ô ọc, huống gì các ông, những hàng Thanh ăn trong hội,
cầu Tối Thượng Thừa, quyết định thành Phật, ví như tung
bụi vào gió thuận, nào khó khăn gì.
67
Bốn luật nghi căn bản: Sát (giết hại,) Đạo (trộm cắp,) Dâm (tà dâm,)
Vọng (nói dối.) 68
Ba cái tâm: Tham, Sân, Si. 69
Bốn cái của miệng: nói dối, nói thêu dệt, nói hai lưỡi, nói hung ác.
142
“Nếu ở đời mạt thế, có người muốn ngồi đàn tràng tu hành,
trước hãy giữ Cấm Giới Tỳ kheo trong sạch. Cần phải chọn
lựa vị Sa Môn Giới ạnh trong sạch bậc nhất làm thầy. Nếu
chẳng gặp được vị tăng chân thật thanh tịnh thì Giới Luật
Nghi của người tu tất không thành tựu.
“Sau khi Giới được thành tựu, mặc áo mới, sạch, đốt hương,
ở chỗ vắng mà trì tụng Thần Chú nói ra từ Tâm Phật này,
một trăm lẻ tám biến70. Sau đó kiết giới, dựng lập đàn tràng,
cầu xin Chư ô Thượng Như Lai mười phương hiện trụ các
quốc độ phóng quang Đại Bi đến rọi đỉnh đầu. “Anan!
Những hàng Tỳ Kheo, Tỳ Kheo Ni hay hàng Cư sĩ, thí chủ
trong sạch như thế, vào đời mạt thế, tâm dứt tham dâm, giữ
tịnh giới Phật, ở trong đàn tràng, phát nguyện Bồ Đề, ra vào
tắm rửa, sáu thời hành đạo, không lo ngủ nghỉ, như thế
trải qua ba lần bảy ngày, Ta tự hiện thân đến trước
người ấy, xoa đỉnh an ủi, khiến nên Giác Ngộ.”
Khai thị đàn tràng tu chứng
Ngài Anan bạch Phật: “Thưa Thế Tôn, con nhớ lời dạy bảo
Từ Bi ô Thượng của Như Lai, tâm tự khai ngộ, tự biết tu
chứng, thành Đạo ô ọc. Còn người tu hành đời Mạt Pháp
muốn lập đàn tràng, thế nào mà kiết giới cho hợp với pháp
tắc trong sạch của Chư Phật Thế Tôn ?”
Phật dạy ngài Anan: “Người đời Mạt Pháp, nguyện lập đàn
tràng, trước hết kiếm con trâu trắng sức mạnh ở núi Tuyết
Sơn, sống bằng cỏ thơm non mướt, loài trâu trắng này chỉ
uống nước trong của núi Tuyết Sơn, phân rất nhuyễn mịn.
Nên lấy phân đó hòa trộn với bột hương Chiên Đàn để tráng
nền đất. Nếu không phải là loài trâu trắng ở Tuyết Sơn thì
70
Phải tụng toàn bộ Tâm Chú gồm ngũ đệ (năm phần) một trămm lẽ tám
(108) lần trước khi xây dựng đàn tràng.
143
phân hôi bẩn71, không thể tráng nền. Riêng ở đồng bằng, có
thể đào bỏ lớp đất trên mặt, lấy đất sét vàng từ năm thước trở
xuống rồi hòa trộn với hương Chiên Đàn, trầm thủy, tô hợp,
hồng lục, uất kim, bạch giao, thanh mộc, linh lăng, can tùng
và kê thiệt. Mười thứ ấy rây nghiền thành bột, trộn với đất
sét để làm nền đàn tràng, mỗi bề một trượng sáu, thành cái
đàn bát Giác.
“Trung tâm đàn đặt một cái bát, trong bát đựng nước sương
móc tháng Tám. Trong nước tùy ý để các hoa lá hiện có. Lấy
tám cái gương tròn, mỗi cái để theo mỗi hướng, chung quanh
cái bát hoa. Bên ngoài gương, dựng lập mười sáu hoa sen,
mười sáu lư hương, giữa chưng bày hoa. Các lư hương đều
trang nghiêm, đốt thuần bằng trầm thủy, không cho thấy lửa.
Lấy sữa trâu trắng để trong mười sáu đồ chứa. Lấy sữa làm
bánh với đường cát, bánh rán, váng sữa, tô hợp, mật gừng,
thuần kem, thuần mật, mỗi thứ mười sáu cái đặt quanh ngoài
hoa sen để cùng dâng Chư Phật và các Đại Bồ Tát. Mỗi giờ
ăn cơm và lúc nửa đêm dùng nửa thăng mật hòa với thăng
rưỡi váng sữa (bơ). Trước đàn để riêng một lò lửa nhỏ, lấy
hương Đâu Lâu Bà nấu lấy nước thơm mà rửa than, đốt cho
cháy hừng, rót mật bỏ vào, đốt cho hết khói, cúng dường
Phật và Bồ Tát.
Ở bốn phía ngoài, treo khắp phan, hoa; ở trong nhà đàn, bốn
vách chưng bày các hình tượng của mười phương Như Lai
và các vị Bồ Tát. Chính giữa để tượng Phật Lô Xá Na! Phật
Thích Ca, Phật i Lặc, Phật A Súc, Phật A i Đà; hai bên
71
Ngày xưa làm nền bằng đất. Ý chính đức Phật dạy là làm đàn tràng
phải dùng vật liệu tinh khiết. Áp dụng ý chính này, các Chùa thuộc hệ
thống Thanh Tịnh Tâm đã xây dựng được cho đến nay (năm 2015) năm
đàn tràng để tu tập và được thành tựu, có nghĩa là “thực chứng” được
những gì đức Phật dạy trong Kinh là có.
144
đặt tượng Đức Quan Âm Đại Biến óa và Kim Cang Tạng
Bồ Tát. ai bên cửa để hình tượng Đế Thích, Phạm ương,
Ô Sô Sắt Ma, Lam Địa Ca, Quân Trà Lợi, Tỳ Câu Chi, bốn
vị Thiên ương, Tần Na ạ Ca... Lại dùng tám cái gương
treo úp giữa hư không, đối chiếu với tám gương trước trong
đàn tràng, khiến cho hình ảnh lồng nhập vào nhau nhiều lớp.
Trong bảy ngày đầu, chí thành đảnh lễ danh hiệu mười
phương Như Lai, Chư Đại Bồ Tát, Chư A La án. Thường
trong sáu thời đi quanh đàn tụng Chú, hết lòng hành Đạo,
mỗi thời trì một trăm lẻ tám biến. Trong bảy ngày thứ hai,
một mặt chuyên tâm phát nguyện Bồ Tát, tâm không gián
đoạn. Trong Luật Tạng của Ta đã có chỉ dạy về nguyện.
Trong bảy ngày thứ ba, trong cả mười hai thời (?), một bề
trì Chú Bát Đát Ra của Phật. Cho đến ngày thứ bảy, mười
phương Như Lai nhất thời xuất hiện chỗ ánh sáng của
gương giao nhau, được Phật xoa đảnh; bèn ở nơi đạo
tràng tu Tam Ma Địa, có thể khiến cho hạng tu học đời
mạt thế thân tâm sáng sạch như ngọc lưu ly.
“Anan! Nếu vị Giới Sư mà vị Tỳ Kheo thọ giới hay một
trong mười vị Giới Sư chứng minh không được thanh tịnh thì
những đạo tràng đó phần nhiều chẳng được thành tựu. Sau
hai mươi mốt ngày, ngồi nghiêm chỉnh an cư. Trải qua
một trăm ngày, những người có lợi căn không rời khỏi
chỗ ngồi mà đắc quả Tu Đà Hoàn. Dầu cho thân tâm
thánh quả chưa thành, vẫn quyết định tự biết thành Phật
không sai lầm. “Ông hỏi về Đàn Tràng, kiến lập như thế.”
Tuyên thuyết Thần Chú
Ngài Anan đảnh lễ chân Phật, bạch rằng: “Từ khi xuất gia,
con ỷ lại sự thương yêu của Phật, vì cầu sự đa văn nên chưa
chứng vô vi. Gặp sự trói buộc của tà thuật Phạm Thiên, tâm
145
tuy sáng suốt mà sức chẳng tự do. Nhờ gặp Ngài ăn Thù
khiến con được giải thoát. Tuy nhờ Phật Đảnh Thần Chú
Như Lai âm thầm giúp sức, nhưng chính mình chưa được
nghe. Mong Bậc Đại Từ tuyên thuyết trở lại, thương xót cứu
giúp cho những người tu hành trong hội này cho đến những
người còn trong luân hồi ở đời sau nhờ mật âm Phật mà thân
ý giải thoát.” Khi ấy, hết thảy đại chúng trong hội đều làm lễ,
chờ nghe chương cú bí mật của Như Lai.
Bấy giờ, Thế Tôn từ đảnh phóng ra hào quang trăm báu,
trong hào quang phóng ra hoa sen báu ngàn cánh, có Hóa
Thân Như Lai ngồi trong hoa sen, trên đảnh phóng mười
đạo hào quang trăm báu, mỗi mỗi hào quang đều thị hiện
khắp mười hằng hà sa Kim Cang Mật Tích đỡ núi, cầm chữ
khắp cõi hư không. Đại chúng ngước trông, sợ mừng hòa
lẫn, xin Phật thương che, nhất tâm lắng nghe Như Lai ô
Kiến Đảnh Tướng phóng quang Phật tuyên thuyết Thần Chú:
Đệ Nhất
1.- Nam mô tát đát tha, tô già đa da, a la ha đế, tam miệu tam
bồ đà tỏa.
2.- Nam mô tát đát tha, Phật đà câu tri sắc ni sam.
3.- Nam mô tát bà, bột đà bột địa, tát đa bệ tệ.
4.- Nam mô tát đa nẫm, tam miệu tam bồ đà cu tri nẫm.
5.- Ta xá ra bà ca, tăng già nẫm.
6.- Nam mô lô kê A la hán đa nẫm.
7.- Nam mô tô lô đa ba na nẫm.
8.- Nam mô ta yết rị đà già di nẫm.
9.- Nam mô lô kê tam miệu già đa nẫm.
10.- Tam miệu già ba ra, để ba đa na nẩm.
11.- Nam mô đề bà ly sắc nỏa.
12.- Nam mô tất đà da, tỳ địa da, đà ra ly sắt nỏa.
13.- Xá ba noa, yết ra ha, ta ha ta ra ma tha nẩm.
146
14.- Nam mô bạt ra ha ma ni.
15.- Nam mô nhơn đà ra da.
16.- Nam mô bà già bà đế.
17.- Lô đà ra da.
18.- Ô ma bát đế.
19.- Ta hê dạ da.
20.- Nam mô bà già bà đế.
21.- Na ra dã noa da.
22.- Bàn giá ma ha tam mộ đà ra.
23.- Nam mô tất yết rị đa da.
24.- Nam mô bà già bà đế.
25.- Ma ha ca ra da.
26.- Địa rị bát lặc na già ra.
27.- Tỳ đà ra ba noa ca ra da.
28.- A địa mục đế.
29.- Thi ma xá na nê bà tất nê.
30.- Ma đát rị già noa.
31.- Nam mô tất yết rị đa da.
32.- Nam mô bà già bà đế.
33.- Đa tha già đa cu ra da.
34.- Nam mô bát đầu ma cu ra da.
35.- Nam mô bạc xà la cu ra da.
36.- Nam mô ma ni cu ra da.
37.- Nam mô già xà cu ra da.
38.- Nam mô bà già bà đế.
39.- Đế rị trà du ra tây na.
40.- Ba ra ha ra noa ra xà da.
41.- Đa tha già đa da.
42.- Nam mô bà già bà đế.
43.- Nam mô a di đa bà da.
44.- Đá tha dà đa da.
45.- A ra ha đế.
147
46.- Tam miệu tam bồ đà da.
47.- Nam mô bà già bà đế.
48.- A sô bệ da.
49.- Đá tha già đa da.
50.- A ra ha đế.
51.- Tam miệu tam bồ đà da.
52.- Nam mô bà già bà đế.
53.- Bệ sa xà da, cu lô phệ trụ rị da.
54.- Bát ra bà ra xà da.
55.- Đá tha già đa da.
56.- Nam mô bà già bà đế.
57.- Tam bổ sư bí đa.
58.- Bát lân nại ra lặc xà da.
59.- Đá tha già đa da.
60.- A ra ha đế.
61.- Tam miệu tam bồ đà da.
62.- Nam mô bà già bà đế.
63.- Xá kê dã mẫu na duệ.
64.- Đá tha già đa da.
65.- A ra ha đế.
66.- Tam miệu tam bồ đà da.
67.- Nam mô bà già bà đế.
68.- Lặc đác na kê đô ra xà da.
69.- Đá tha già đa da.
70.- A ra ha đế.
71.- Tam miệu tam bồ đà da.
72.- Đế biều, Nam mô tát yết rị đa.
73.- Ế đàm bà già bà đa.
74.- Tát đát tha già đô sắt ni sam.
75.- Tát đát đa bác đát lam.
76.- Nam mô a bà ra thị đam.
77.- Bát ra đế, dương kỳ ra.
148
78.- Tát ra bà bộ đa yết ra ha.
79.- Ni yết ra ha, yết ca ra ha ni.
80.- Bạc ra bí địa da, sách đà nể.
81.- A ca ra, mật rị trụ.
82.- Bát rị đát ra da, nảnh yết rị.
83.- Tát ra bà, bàn đà na, mục xoa ni.
84.- Tát ra bà, đột sắt tra.
85.- Đột tất phạp, bát na nể, phạt ra ni.
86.- Giả đô ra, thất đế nẩm.
87.- Yết ra ha, ta ha tát ra nhã xà.
88.- Tỳ đa băng ta na yết rị.
89.- A sắc tra băng xá đế nẩm.
90.- Na xoa sát đát ra nhã xà.
91.- Ba ra tát đà na yết rị.
92.- A sắt tra nẩm.
93.- Ma ha yết ra ha nhã xà.
94.- Tỳ đa băng tát na yết rị.
95.- Tát bà xá đô lô, nể bà ra nhã xà.
96.- ô lam đột tất phạp, nan giá na xá ni.
97.- Bí Ta xá, tát đác ra.
98.- A kiết ni, ô đà ca ra nhã xà.
99.- A bát ra thị đa cu ra.
100.- Ma ha bát ra chiến trì.
101.- Ma ha điệp đa.
102.- Ma ha đế xà.
103.- Ma ha thuế đa xà bà ra.
104.- Ma ha bạt ra bàn đà ra, bà tất nể.
105.- A rị da đa ra.
106.- Tỳ rị cu tri.
107.- Thệ bà tỳ xà da.
108.- Bạt xà ra ma lễ để.
109.- Tỳ xá lô đa.
149
110.- Bột đằng võng ca.
111.- Bạt xà ra chế hắt na a giá.
112.- Ma ra chế bà, bát ra chất đa.
113.- Bạt xà ra thiện trì.
114.- Tỳ xá ra giá.
115.- Phiến đa xá, bệ đề bà, bổ thị đa.
116.- Tô ma lô ba.
117.- Ma ha thuế đa.
118.- A rị da đa ra.
119.- Ma ha bà ra a bác ra.
120.- Bạt xà ra thương yết ra chế bà.
121.- Bạt xà ra cu ma rị.
122.- Cu lam đà rị.
123.- Bạt xà ra hắc tát đa giá.
124.- Tỳ địa da, kiền giá na, ma rị ca.
125.- Khuất tô mẫu, bà yết ra đá na.
126.- Bệ lô giá na, cu rị da.
127.- Dạ ra thố, sắc ni sam.
128.- Tỳ chiết lam bà ma ni giá.
129.- Bạt xà ra, ca na, ca ba ra bà.
130.- Lô xà na, bạt xà ra, đốn trĩ giá.
131.- Thuế đa giá, ca ma ra.
132.- Sát xa thi, ba ra bà.
133.- Ế đế di đế.
134.- Mẫu đà ra, yết noa.
135.- Ta bệ ra sám.
136.- Quật phạm đô.
137.- Ấn thố na mạ mạ tả.
Đệ Nhị
138.- Ô hồng.
139.- Rị sắt yết noa.
150
140.- Bát lặc xá tất đa.
141.- Tát đát tha, già đô sắt ni sam.
142.- Hổ hồng.
143.- Đô lô ung.
144.- Chiêm bà na.
145.- Hổ hồng.
146.- Đô lô ung.
147.- Tất đam bà na.
148.- Hổ hồng.
149.- Đô lô ung.
150.- Ba ra sắc địa da, tam bác xá, noa yết ra.
151.- Hổ hồng.
152.- Đô lô ung.
153.- Tát bà dược xoa, hắc ra sát ta.
154.- Yết ra ha nhã xà
155.- Tỳ đằng băng tát na yết ra.
156.- Hổ hồng.
157.- Đô lô ung.
158.- Giả đô ra, thi để nẩm.
159.- Yết ra ha, ta ha tát ra nẩm.
160.- Tỳ đằng băng tát na ra.
161.- Hổ hồng.
162.- Đô lô ung.
163.- Ra xoa.
164.- Bà già phạm.
165.- Tát đát tha, già đô sắt ni sam.
166.- Ba ra điểm, xà kiết rị.
167.- Ma ha ta ha tát ra
168.- Bột thọ ta ha tát ra, thất rị sa.
169.- Cu tri ta ha tát nê đế lệ.
170.- A tệ đề thị, ba rị đa.
171.- Tra tra anh ca.
151
172.- Ma ha bạt xà lô đà ra.
173.- Đế rị, bồ bà na.
174.- Mạn trà ra.
175.- Ô hồng.
176.- Ta tất đế, bạc bà đô.
177.- Mạ mạ.
178.- Ấn thố na mạ mạ tỏa.
Đệ Tam
179.- Ra xà bà dạ.
180.- Chủ ra bạt dạ.
181.- A kỳ ni bà dạ.
182.- Ô đà ca bà dạ.
183.- Tỳ xa bà dạ.
184.- Xá tát đa ra bà dạ.
185.- Bà ra chước yết ra bà dạ.
186.- Đột sắt xoa bà dạ.
187.- A xá nể bà dạ.
188.- A ca ra, mật rị trụ bà dạ.
189.- Đà ra ni, bộ di kiếm, ba già ba đà bà dạ
190.- Ô ca ra, bà đa bà dạ.
191.- Lặc xà đàn trà bà dạ.
192.- Na già bà dạ.
193.- Tỳ điều đát bà dạ.
194.- Tô ba ra noa bà dạ.
195.- ược xoa yết ra ha.
196.- Ra xoa tư yết ra ha.
197.- Tất rị đa yết ra ha
198.- Tỳ xá giá yết ra ha.
199.- Bộ đa yết ra ha.
200.- Cưu bàn trà yết ra ha.
201.- Bổ đơn na yết ra ha.
152
202.- Ca tra bổ đơn na yết ra ha.
203.- Tất kiền độ yết ra ha.
204.- A bá tất ma ra yết ra ha.
205.- Ô đàn ma đà yết ra ha.
206.- Xa dạ yết ra ha.
207.- Hê rị bà đế yết ra ha.
208.- Xả đa ha rị nẩm.
209.- Yết bà ha rị nẩm.
210.- Lô địa ra ha rị nẩm.
211.- Mang ta ha rị nẩm.
212.- Mê đà ha rị nẩm.
213.- Ma xà ha rị nẩm.
214.- Xà đa ha rị nữ.
215.- Thị tỷ đa ha rị nẩm.
216.- Tỳ đa ha rị nẩm.
217.- Bà đa ha rị nẩm.
218.- A du giá ha rị nữ.
219.- Chất đa ha rị nữ.
220.- Đế sam tát bệ sam.
221.- Tát bà yết ra ha nẩm.
222.- Tỳ đà dạ xà, sân đà dạ di.
223.- Kê ra dạ di.
224.- Ba rị bạt ra giả ca, hất rị đởm.
225.- Tỳ đà dạ xà, sân đà dạ di.
226.- Kê ra dạ di.
227.- Trà diễn ni, hất rị đởm.
228.- Tỳ đà dạ xà, sân đà dạ di.
229.- Kê ra dạ di.
230.- Ma ha bát du bát đát dạ.
231.- Lô đà ra, hất rị đởm.
232.- Tỳ đà dạ xà, sân đà dạ di.
233.- Kê ra dạ di.
153
234.- Na ra dạ noa, hất rị đởm.
235.- Tỳ đà dạ xà, sân đà dạ di.
236.- Kê ra dạ di.
237.- Đát đỏa già lô trà tây, hất rị đởm.
238.- Tỳ đà dạ xà, sân đà dạ di.
239.- Kê ra dạ di.
240.- Ma ha ca ra, ma đát rị già noa, hất rị đởm.
241.- Tỳ đà dạ xà, sân đà dạ di.
242.- Kê ra dạ di.
243.- Ca ba rị ca, hất rị đảm.
244.- Tỳ đà dạ xà, sân đà dạ di.
245.- Kê ra dạ di.
246.- Xà dạ yết ra, ma độ yết ra.
247.- Tát bà ra tha ta đạt na, hất rị đởm.
248.- Tỳ đà dạ xà, sân đà dạ di.
249.- Kê ra dạ di.
250.- Giả đốt ra bà kỳ nể, hất rị đởm.
251.- Tỳ đà dạ xà, sân đà dạ di.
252.- Kê ra dạ di.
253.- Tỳ rị dương hất rị tri.
254.- Nan đà kê sa ra, dà noa bác đế.
255.- Sách hê dạ, hất rị đởm.
256.- Tỳ đà dạ xà, sân đà dạ di.
257.- Kê ra dạ di.
258.- Na yết na xá ra bà noa, hất rị đởm.
259.- Tỳ đà dạ xà, sân đà dạ di.
260.- Kê ra dạ di.
261.- A la hán, hất rị đởm, tỳ đà dạ xà, sân đà dạ di.
262.- Kê ra dạ di.
263.- Tỳ đa ra già, hất rị đởm.
264.- Tỳ đà dạ xà, sân đà dạ di.
265.- Kê ra dạ di, bạt xà ra ba nể.
154
266.- Cụ hê dạ, cụ hê dạ.
267.- Ca địa bát đế, hất rị đởm.
268.- Tỳ đà dạ xà, sân đà dạ di.
269.- Kê ra dạ di.
270.- Ra xoa võng.
271.- Bà già phạm.
272.- Ấn thố na mạ mạ tỏa.
Đệ Tứ
273.- Bà già phạm.
274.- Tát đát đa bát đát ra.
275.- Nam mô tý đô đế.
276.- A tất đa na ra lặc ca.
277.- Ba ra bà, tất phổ tra.
278.- Tỳ ca tát đát đa bát đế rị.
279.- Thập Phật ra, thập Phật ra.
280.- Đà ra đà ra.
281.- Tần đà ra tần đà ra, sân đà sân đà.
282.- Hổ hồng.
283.- Hổ hồng.
284.- Phấn tra.
285.- Phấn tra, phấn tra, phấn tra, phấn tra.
286.- Ta ha.
287.- Hê hê phấn.
288.- A mâu ca da phấn.
289.- A ba ra đề ha đa phấn.
290.- Bà ra bà ra đà phấn.
291.- A tố ra, tỳ đà ra, ba ca phấn.
292.- Tát bà đề bệ tệ phấn.
293.- Tát bà na già tệ phấn.
294.- Tát bà dược xoa tệ phấn.
295.- Tát bà kiền thát bà tệ phấn.
155
296.- Tát bà bổ đan na tệ phấn.
297.- Ca tra bổ đan na tệ phấn.
298.- Tát bà đột lang chỉ đế tệ phấn.
299.- Tát bà đột sáp tỷ lê, hất sắc đế tệ phấn.
300.- Tát bà thập bà lê tệ phấn.
301.- Tát bà a bá tất ma lê tệ phấn.
302.- Tát bà xá ra bà noa tệ phấn.
303.- Tát bà địa đế kê tệ phấn.
304.- Tát bà đát ma đà kê tệ phấn.
305.- Tát bà tỳ đà da, ra thệ giá lê tệ phấn.
306.- Xà dạ yết ra, ma độ yết ra.
307.- Tát bà ra tha ta đà kê tệ phấn.
308.- Tỳ địa dạ, giá lê tệ phấn.
309.- Giả đô ra, phược kỳ nể tệ phấn.
310.- Bạt xà ra, cu ma rị.
311.- Tỳ đà dạ, ra thệ tệ phấn.
312.- Ma ha ba ra đinh dương, xoa kỳ rị tệ phấn.
313.- Bạt xà ra thương yết ra dạ.
314.- Ba ra trượng kỳ ra xà da phấn.
315.- Ma ha ca ra dạ.
316.- Ma ha mạt đát rị ca noa.
317.- Nam mô ta yết rị đa dạ phấn.
318.- Tỷ sắc noa tỳ duệ phấn.
319.- Bột ra ha mâu ni duệ phấn.
320.- A kỳ ni duệ phấn.
321.- Ma ha yết rị duệ phấn.
322.- Yết ra đàn trì duệ phấn.
323.- Miệc đát rị duệ phấn.
324.- Lao đát rị duệ phấn.
325.- Giá văn trà duệ phấn.
326.- Yết la ra đát rị duệ phấn.
327.- Ca bát rị duệ phấn.
156
328.- A địa mục chất đa, ca thi ma xá na.
329.- Bà tư nể duệ phấn.
330.- Diễn kiết chất.
331.- Tát đỏa bà tỏa.
332.- Mạ mạ, ấn thố na mạ mạ tỏa.
Đệ Ngũ
333.- Đột sắc tra chất đa.
334.- A mạt đát rị chất đa.
335.- Ô xà ha ra.
336.- Già bà ha ra.
337.- Lô địa ra ha ra.
338.- Ta bà ha ra.
339.- Ma xà ha ra.
340.- Xà đa ha ra.
341.- Thị tỷ đa ha ra.
342.- Bạt lược dạ ha ra.
343.- Kiền đà ha ra.
344.- Bố sử ba ha ra.
345.- Phả ra ha ra.
346.- Bà tỏa ha ra.
347.- Bát ba chất đa.
348.- Đột sắc tra chất đa.
349.- Lao đà ra chất đa.
350.- ược xoa yết ra ha.
351.- Ra sát ta yết ra ha.
352.- Bế lệ đa yết ra ha.
353.- Tỳ xá giá yết ra ha.
354.- Bộ đa yết ra ha.
355.- Cưu bàn trà yết ra ha.
356.- Tất kiền đà yết ra ha.
357.- Ô đát ma đà yết ra ha.
157
358.- Xà dạ yết ra ha.
359.- A bá tất ma ra yết ra ha.
360.- Trạch khê cách, trà kỳ ni yết ra ha.
361.- Rị Phật đế yết ra ha.
362.- Xà di ca yết ra ha.
363.- Xá cu ni yết ra ha.
364.- Lao đà ra, nan địa ca yết ra ha.
365.- A lam bà yết ra ha.
366.- Kiền độ ba ni yết ra ha.
367.- Thập phạt ra, yên ca hê ca.
368.- Trị đế dược ca.
369.- Đát lệ đế dược ca.
370.- Giả đột thác ca.
371.- Ni đề thập phạt ra, tỷ sam ma thập phạt ra.
372.- Bạc để ca.
373.- Tỷ để ca.
374.- Thất lệ sắt mật ca.
375.- Ta nể bát để ca.
376.- Tát bà thập phạt ra.
377.- Thất lô kiết đế.
378.- Mạt đề bệ đạt lô chế kiếm.
379.- A ỷ lô kiềm.
380.- Mục khê lô kiềm.
381.- Yết rị đột lô kiềm.
382.- Yết ra ha yết lam.
383.- Yết noa du lam.
384.- Đàn đa du lam.
385.- Hất rị dạ du lam.
386.- Mạt mạ du lam.
387.- Bạt rị thất bà du lam.
388.- Tỷ lật sắc tra du lam.
389.- Ô đà ra du lam.
158
390.- Yết tri du lam.
391.- Bạt tất đế du lam.
392.- Ô lô du lam.
393.- Thường già du lam.
394.- Hắc tất đa du lam.
395.- Bạt đà du lam.
396.- Ta phòng án già, bát ra trượng già du lam.
397.- Bộ đa tỷ đa trà.
398.- Trà kỳ ni thập bà ra.
399.- Đà đột lô ca, kiến đốt lô kiết tri, bà lộ đa tỳ.
400.- Tát bát lô, ha lăng già.
401.- u sa đát ra, ta na yết ra.
402.- Tỳ sa dụ ca.
403.- A kỳ ni, ô đà ca.
404.- Mạt ra bệ ra, kiến đá ra.
405.- A ca ra, mật rị đốt, đát liểm bộ ca.
406.- Địa lật lặc tra.
407.- Tỷ rị sắt chất ca.
408.- Tát bà na cu ra.
409.- Tứ dẫn già bệ, yết ra rị dược xoa, đác ra sô.
410.- Mạt ra thị, phệ đế sam, ta bệ sam.
411.- Tất đát đa bác đát ra.
412.- Ma ha bạt xà lô, sắc ni sam.
413.- Ma ha bác lặc trượng kỳ lam.
414.- Dạ ba đột đà, xá dụ xà na.
415.- Biện đát lệ noa.
416.- Tỳ đà da, bàn đàm ca lô di.
417.- Đế thù, bàn đàm ca lô di.
418.- Bát ra tỳ đà, bàn đàm ca lô di.
419.- Đát điệt tha.
420.- Úm.
421.- A na lệ.
159
422.- Tỳ xá đề.
423.- Bệ ra, bạt xà ra, đà rị.
424.- Bàn đà bàn đà nể.
425.- Bà xà ra, bàn ni phấn.
426.- Hổ hồng, đô lô ung phấn.
427.- Ta bà ha.
“Anan! đây là Phật Đảnh Quang Tụ Tất Đát Đa Bát Đát
Ra (SITATAPATRA), bí mật Già Đà, vi diệu chương cú,
xuất sanh tất cả mười phương Chư Phật. Mười phương Như
Lai nhân Tâm Chú này đắc thành ô thượng Chánh Biến Tri
Giác. Mười phương Như Lai nắm Tâm Chú này hàng phục
các ma, chế dẹp ngoại đạo. Mười phương Như Lai cỡi Tâm
Chú này ngồi hoa sen báu mà ứng hiện vi trần quốc độ.
Mười phương Như Lai ngậm Tâm Chú này chuyển Đại Pháp
Luân trong vi trần quốc độ. Mười phương Như Lai trì Tâm
Chú này, ở khắp mười phương xoa đảnh thọ ký, tự quả của
mình chưa thành cũng ở nơi mười phương nhờ Phật thọ ký.
Mười phương Như Lai y Tâm Chú này, thường khắp mười
phương nhổ cứu các khổ như là địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh,
đui điếc, câm ngọng, oán ghét ở chúng khổ, thương phải xa
cách khổ, cầu chẳng được khổ, khổ vì năm ấm lẫy lừng, trái
ngang lớn nhỏ đồng thời giải thoát. Nạn cướp, nạn binh, nạn
vua, nạn ngục, nạn nước, gió, lửa, đói khát bần cùng ứng
niệm tiêu tan. Mười phương Như Lai tùy Tâm Chú này ở
khắp mười phương phụng sự thiện tri thức, trong bốn oai
nghi, cúng dường như ý, trong pháp hội hằng sa Như Lai
được suy tôn là Đại Pháp ương Tử. Mười phương Như Lai
được Tâm Chú này ở khắp mười phương nhiếp thọ thân
nhân, khiến cho hàng Tiểu Thừa nghe tạng bí mật chẳng
sanh kinh sợ. Mười phương Như Lai tụng Tâm Chú này
thành ô Thượng Giác, ngồi cội Bồ Đề, nhập Đại Niết Bàn.
Mười phương Như Lai truyền Tâm Chú này, sau khi diệt độ,
160
phó chúc Phật pháp sự, trụ trì rốt ráo, nghiêm tịnh Giới Luật,
tất hẳn đắc thanh tịnh.
“Nếu Ta nói về Chú Phật Đảnh Quang Tụ Bát Đát Ra này
thì dù âm thanh liên tục, câu chữ không lập lại, từ sáng đến
tối, trải qua hằng sa kiếp cũng không thể cùng tận. Chú này
cũng gọi tên là Như Lai Đảnh. àng ữu ọc các ông chưa
hết luân hồi, phát tâm chí thành cầu quả A La án mà không
trì Chú này thì không thể nào ngồi đạo tràng khiến cho thân
tâm xa lìa các ma sự được.
“Này Anan! Như các thế giới, theo chỗ cõi nước có chúng
sanh tùy theo sản vật nước mình có: vỏ cây hoa, lá bối, giấy
trắng, lụa bạch mà viết chép Chú này, đựng trong túi hương.
Người này tâm u tối chưa thể tụng nhớ thì mang trong người
hoặc viết trong nhà, phải biết rằng người đó suốt đời không
bị tất cả các thứ độc làm hại. “Anan! Nay Ta vì ông nói lại
Chú này để cứu hộ thế gian được Đại ô Úy và thành tựu Trí
Xuất Thế Gian của chúng sanh.
“Như sau khi Ta diệt độ, chúng sanh đời mạt thế có người tự
tụng hay dạy người khác tụng, phải biết những chúng sanh
trì tụng như thế: lửa không thể thiêu; nước chẳng thể chìm;
độc yếu, độc mạnh không thể hại được. Cho đến các Chú ác
dữ của Thiên, Long, Quỷ, Thần, Tinh kỳ, Ma mị đều không
làm gì nổi, tâm được Chánh Thọ. Tất cả bùa chú, trùng độc,
thuốc độc, kim khí độc địa, cỏ cây, trùng rắn, khí độc muôn
thứ vào trong miệng người ấy đều thành vị cam lồ. ết thảy
ác tinh cùng các quỷ thần lòng dữ hại người, đối với người
ấy không thể khởi ra niệm ác. Tần Na ạ Ca, các quỷ vương
ác độc cùng với quyến thuộc đều chịu ơn sâu, thường ủng hộ
che chở.
161
“Anan! Phải biết Chú này thường có tám vạn bốn ngàn na do
tha72
hằng hà sa câu chi73
chủng tộc Kim Cang Tạng Bồ Tát
mỗi mỗi đều có các chúng Kim Cang làm quyến thuộc, ngày
đêm theo hầu. Giả sử có chúng sanh tâm còn tán loạn, chưa
vào Tam Ma Địa mà lòng nhớ, miệng trì Chú này thì các
Kim Cang ương thường theo bên mình. uống là người
phát tâm Bồ Đề quyết định thì các vị Kim Cang Tạng ương
Bồ Tát ấy sẽ tinh thành âm thầm phù trợ mà phát khởi thần
thức người đó, khiến cho người ấy đúng lúc nhớ lại được tám
mươi bốn ngàn hằng hà sa74
kiếp, rõ biết khắp cả, không còn
nghi hoặc. Từ kiếp thứ nhất cho đến thân sau cùng, đời đời
không sanh vào các loài ược xoa, La sát, Phú đơn na, Ca
tra phú đơn na, Cưu bàn trà, Tỳ xá giá... và các ngạ quỷ hữu
hình hay vô hình, có tưởng hay không tưởng, và những chốn
dữ như thế. Người thiện nam này, hoặc đọc hoặc tụng, hoặc
viết hoặc chép, hoặc đeo hoặc cất, hoặc cúng dường nhiều
cách Thần Chú này thì kiếp kiếp chẳng sanh vào chỗ không
vui, bần cùng hạ tiện.
“Các chúng sanh ấy, dù tự mình chẳng làm nghiệp phước mà
công đức của mười phương Như Lai hẳn thông cho người
này. o vậy mà trải qua a tăng kỳ75
bất khả thuyết bất khả
thuyết kiếp thường được cùng Chư Phật sanh ở một nơi, vô
lượng công đức nhóm lại như chùm cây ác-xoa thành đồng
một chỗ hồng tu, vĩnh viễn không phân tán. Thế nên có thể
khiến người đã phá Giới được Giới Căn thanh tịnh; người
chưa đắc Giới khiến người cho đắc Giới; người chưa Tinh
Tấn khiến đắc Tinh Tấn; người không Trí uệ khiến đắc Trí
72
Na do tha bằng 10 vạn. 73
Câu chi bằng 10.000.000. 74
Hằng hà sa là cát sông Hằng. 75
A tăng kỳ dùng để chỉ con số rất lớn: 10 lũy thừa 140.
162
uệ; người không Thanh Tịnh chóng đắc Thanh Tịnh; người
chẳng giữ Trai Giới tự thành Trai Giới.
Anan! Người thiện nam đó khi trì Chú này, giả sử có
phạm Cấm Giới khi chưa thọ trì thì sau khi trì Chú hết
thảy tội Phá Giới, không kể nặng nhẹ, nhất thời tiêu diệt.
ù đã từng uống rượu, ăn năm thứ rau cay, các thứ bất tịnh
thì tất cả Chư Phật, Bồ Tát, Kim Cang, Tiên Thiên, Quỷ
Thần không cho là lỗi. Giả sử mặc y phục không sạch rách
nát thì mỗi cử chỉ đi đứng thảy đồng thanh tịnh. ù không
lập đàn, chẳng vào Đạo Tràng cũng không hành đạo mà trì
tụng Chú này thì công đức76
so vào Đàn, hành đạo giống
nhau không khác. Nếu tạo trọng tội Ngũ Nghịch, ô Gián và
tội Tứ Khí, Bát Khí của Tỳ Kheo, Tỳ Kheo Ni mà tụng Chú
này rồi thì các nghiệp nặng như vậy hẳn đều diệt hết như gió
mạnh thổi tan đống cát không còn chút gì.
Anan! Nếu có chúng sanh chưa hề sám hối hết thảy tội
chướng nặng nhẹ từ vô lượng vô số kiếp đến giờ mà nay có
thể đọc tụng Chú này, đeo giữ trên người hay để nơi chỗ ở
như trại, nhà vườn, quán... thì những nghiệp chứa nhóm
trước kia đều tiêu tan như nuớc sôi trên tuyết, chẳng bao lâu
đều được ngộ ô Sanh Nhẫn.
“Lại nữa, Anan! Nếu có người nữ chưa có con mong cầu có
thai mà có thể chí tâm nhớ niệm Chú này, hoặc đeo trên
người Chú Tát Đát Đa Bát Đát Ra này, bèn sanh con trai con
gái trí huệ phước đức. Người cầu sống lâu tức được sống lâu.
Muốn cầu quả báo mau được viên mãn thì mau được viên
mãn. ề thân mạng, dung mạo, sức khoẻ cũng lại như vậy.
Sau khi mạng chung, tùy nguyện mà sanh qua mười phương
76
Đức Phật so sánh “công đức” có được chứ không phải “thành tựu tu
chứng.”
163
quốc độ, nhất định không sanh nơi biên địa hạ tiện huống là
các loài dị hình.
“Anan! Nếu các cõi nước, châu huyện, làng xóm bị đói kém,
dịch lệ hay giặc nạn mà viết Thần Chú này treo ở bốn cửa
thành, các chỗ thờ tự hoặc trên các lá phướn, rồi khiến chúng
sanh nơi ấy vâng đón, cung kính lễ bái, hết lòng cúng dường
Chú này, khiến nhân dân mỗi người đeo trong mình hay cất
trong mỗi nhà thì tất cả tai ách thảy đều tiêu diệt.
“Này, Anan! Bất kỳ chỗ nào mà có Chú này thì Thiên Long
hoan hỷ, mưa thuận gió hòa, mùa màng sung túc, dân chúng
an vui. Chú này lại có thể trấn phục tất cả ác tinh, tùy
phương hiện các điềm quái, đều khiến cho tai chướng không
khởi, con người không bị chết dữ, chết yểu, thân thể không
vướng xiềng xích gông cùm, ngày đêm ngủ ngon, thường
không ác mộng.
“Này, Anan! Cõi Ta Bà này có tám vạn bốn ngàn tai biến ác
tinh, hai mươi tám đại ác tinh đứng làm đầu, lại có tám đại
ác tinh làm chủ biến hiện nhiều thứ trên đời, gây ra nhiều
loại tai họa dị thường cho chúng sanh. Chỗ nào có Chú này
thì các thứ đó đều tiêu diệt hết, trong mười hai do-tuần làm
vòng kết giới thì các điềm tai biến hung dữ vĩnh viễn không
vào được.
“Thế nên, Như Lai tuyên dạy Chú này để bảo hộ các
người tu hành sơ học trong đời vị lai vào được Tam Ma
Địa, thân tâm rỗng không, được đại an ổn, không bị hết thảy
ma quỷ thần và những oan khiên, nợ nghiệp từ vô thủy tới
nay đến khuấy hại. Ông với những người ữu ọc trong
chúng này cùng những người tu hành đời vị lai y theo đàn
tràng Ta dạy, như pháp mà trì Giới, gặp được bậc Giới Chủ
là vị Tăng thanh tịnh, đối với Tâm Chú này chẳng sanh nghi
164
hối; người thiện nam tử như thế ngay nơi thân cha mẹ sanh
ra này mà không được Tâm Thông thì mười phương Như Lai
hóa ra là vọng ngữ!”
Phật dạy lời ấy rồi, vô lượng trăm ngàn Kim Cang trong hội
đều đồng thời ở trước Phật chấp tay đảnh lễ, thưa rằng: “Như
lời Phật dạy, chúng con sẽ thành tâm bảo hộ những người tu
Bồ Đề như vậy.” Khi ấy, Phạm ương cùng trời Đế Thích,
bốn Đại Thiên ương cùng ở trước Phật đồng thời đảnh lễ,
thưa rằng: “Quả có người lành tu học như vậy chúng tôi sẽ
tận tâm chí thành bảo hộ, khiến cho họ suốt đời tu hành được
như nguyện.”
Lại có vô lượng Đại Tướng ược Xoa, các vua La Sát, vua
Phú Đơn Na! vua Cưu Bàn Trà, vua Tỳ Xá Giá, các Đại Quỷ
ương Tần Na ạ Ca cùng các Quỷ Soái cũng ở trước Phật
chấp tay đảnh lễ, thưa rằng: “Chúng tôi cũng thệ nguyện hộ
trì người này khiến tâm Bồ Đề sớm được viên mãn.”
Lại có vô lượng Thiên Tử Nhật Nguyệt, Thần Gió, Thần
Mưa, Thần Mây, Thần Sấm và các hàng Thần Điển, các quan
tuần trong năm, quyến thuộc chủ tinh... cũng ở trong hội
đảnh lễ chân Phật, thưa rằng: “Chúng tôi cũng bảo hộ người
tu hành này để an lập Đàn Tràng, được ô Sở Úy.”
Lại có vô lượng Thần Núi, Thần Biển, hết thảy các loài tinh
kỳ muôn vật ở đất đai, trên không, dưới nuớc và ua Thần
Gió, Trời ô Sắc Giới ở trước Như Lai đồng thời cúi đầu,
thưa rằng: “Chúng tôi cũng bảo hộ người tu hành ấy đắc
thành Bồ Đề, vĩnh viễn không có ma sự.”
Lúc bấy giờ, tám vạn bốn ngàn na do tha hằng hà sa câu chi
Kim Cương Tạng ương Bồ Tát ở trong Đại ội liền từ chỗ
ngồi đứng dậy, đảnh lễ chân Phật, thưa rằng: “Bạch Thế Tôn,
như bọn chúng con, công nghiệp tu hành đã thành Bồ Đề từ
165
lâu mà chẳng giữ Niết Bàn, thường theo Chú này để cứu
người chánh tu hành tu Tam Ma Địa trong đời mạt thế. Thưa
Thế Tôn, người tu tâm cầu chánh định như vậy, dầu ở đạo
tràng hay lúc kinh hành, cho đến tán tâm dạo chơi xóm làng
thì đồ chúng của chúng tôi vẫn thường đi theo hầu hạ bảo vệ
người ấy. Giả sử Ma ương, Đại Tự Tại Thiên muốn có cơ
hội để khuấy phá, rốt cuộc cũng không thể được. Các quỷ
thần nhỏ cách xa người này ngoài mười do-tuần77, trừ phi
hạng đó phát tâm muốn tu thiền. Bạch Thế Tôn, những ác ma
hay quyến thuộc của ma như vậy muốn đến quấy phá người
lành này, chúng tôi sẽ dùng bảo chử đánh nát đầu như tro
bụi, thường khiến cho người này tu hành được như nguyện.
Phần 18
Khai thị hai cái nhân điên đảo
(Lưu ý: Đọc đoạn này chậm rãi để hiểu rõ, làm căn bản để
tu Mật Giáo. Luôn luôn ghi nhớ: Vì Vô Minh mà sanh ra núi
sông, đất đai và chúng sanh.)
Đức Phật nói: “Anan! ãy biết, cái Diệu Tánh tròn sáng lìa
mọi danh tướng, bổn lai không có thế giới, chúng sanh.
Nhân vọng mà có sanh, nhân sanh mà có diệt. Sanh diệt
thì gọi là vọng, diệt vọng thì gọi là Chân. Đó gọi là hai
danh hiệu chuyển y Bồ Đề Vô Thượng và Đại Niết Bàn
của Như Lai vậy.
“Anan! Nay ông muốn tu pháp Chân Tam Ma Địa, thẳng đến
Đại Niết Bàn của Như Lai thì trước hết phải biết hai cái nhân
điên đảo này của chúng sanh cùng thế giới. Điên đảo chẳng
sanh, đó là Chân Tam Ma Địa của Như Lai.
77
Do tuần bằng 7,3 km, có chỗ nói là 14,6 km…
166
“Anan! Thế nào gọi là Điên Đảo tạo thành Chúng sanh?
“Anan! o Tâm Tánh vốn Minh, tánh Minh ấy tròn đầy toàn
khắp, nên nhân cái Minh vọng phát hình như có Tánh, cái
Tánh ấy do vọng kiến mà sanh. ậy là từ chỗ “rốt ráo
Không” lại hóa thành “rốt ráo Có.” Cái Có này có được là
do cái vốn chẳng có nhân làm nhân. Tướng Năng Trụ và
Sở Trụ từ căn bản không có cội gốc. Rồi nương nơi cái cội
gốc không có chỗ trụ này mà kiến lập ra thế giới cùng
chúng sanh.
[Đọc sơ qua các đoạn sau nói về sự tạo thành chúng sanh,
không cần thiết phải nhớ.]
“ ì mê [mờ] Bổn Tánh iên Minh mà sanh hư vọng, nhưng
tánh của vọng không có tự thể, chẳng có chỗ nương trụ.
Vừa muốn trở lại Chân Tánh thì cái muốn Chân đó đã
chẳng phải là Tánh Chân Như chân thật. Trong cái chẳng
phải Chân mà cầu trở lại Chân thì rõ ràng là hiện thành
những Phi Tướng: Phi Sanh, Phi Trụ, Phi Tâm, Phi Pháp.
Xoay vần phát sanh. Sanh lực phát minh, huân tập thành
Nghiệp. Đồng nghiệp thì cảm nhau, nhân có cảm nghiệp bèn
có sự sanh nhau, diệt nhau. o vậy mà có cái Điên Đảo tạo
thành Chúng Sanh.
“Anan! Thế nào là Điên Đảo tạo thành Thế Giới? “Cái Có
đó có được là do từng phần từng đoạn vọng sanh. o đó mà
Giới (Không Gian) kiến lập, chẳng phải nhân mà làm nhân,
không có trụ mà làm trụ. Trôi dời chẳng trụ, do đó mà Thế
(Thời Gian) thành. Bốn phương ba đời hòa hợp giao thiệp
lẫn nhau biến hóa thành chúng sanh mười hai loài. Thế
nên, thế giới thì nhân động có Tiếng, nhân Tiếng có Sắc,
nhân Sắc có ương, nhân ương có Xúc, nhân Xúc có ị,
nhân ị biết Pháp. Sáu vọng tưởng lộn loạn thành nghiệp
Tánh, bởi thế mà có mười hai Phần ạn (Loài) xoay chuyển.
167
ậy nên trong thế gian, các thứ Thanh, ương, ị, Xúc...
biến đổi cùng tột đến mười hai lần là quay trở lại.
“ ựa theo Tướng Điên Đảo luân chuyển đó mà có ra Thế
Giới, thành những loài: noãn sanh, thai sanh, thấp sanh, hóa
sanh, hữu sắc, vô sắc, hữu tưởng, phi hữu sắc, phi vô sắc, phi
hữu tưởng, phi vô tưởng.
“Anan! o nhân thế giới hư vọng luân hồi, điên đảo về
Động, nên hòa hợp với Khí thành ra tám mươi bốn ngàn loạn
tưởng bay lặn. o đó mà có mầm trứng trôi lăn trong cõi
nước: cá, chim, rùa, rắn... các loài đầy dẫy.
“ o nhân thế giới tạp nhiễm luân hồi, điên đảo về ục nên
hòa hợp với Tư (Phong Nhuận, Bổ Báo) thành ra tám mươi
bốn ngàn loạn tưởng ngang dọc. o đó mà có bọc thai trôi
lăn trong cõi nước: người, súc vật, rồng, tiên... các loài đầy
dẫy.
“ o nhân thế giới chấp trước luân hồi, điên đảo về Thú (Thú
ướng) nên hòa hợp với Noãn ( ơi Nóng) thành ra tám
mươi bốn ngàn loạn tưởng nghiêng ngửa. o đó mà có Thịt
Mềm thấp sanh trôi lăn trong cõi nước: nhung nhúc, ngọ
nguậy… các loài đầy dẫy.
“ o nhân thế giới biến dịch luân hồi về Giả nên hòa hợp với
Xúc thành ra tám mươi bốn ngàn loạn tưởng mới, cũ. o đó
có Thịt Cứng hóa sanh trong cõi nước: lột võ, bay đi... các
loài đầy dẫy.
“ o nhân thế giới lưu ngại luân hồi, điên đảo về Chướng nên
hòa hợp với Trước (Bám Níu) thành ra tám mươi bốn ngàn
loạn tưởng tinh diệu. o đó mà có yết nam sắc tướng, trôi
lăn trong cõi nước: lưu cữu, tinh minh... các loài đầy dẫy.
168
“ o nhân thế giới tiêu tán luân hồi, điên đảo về Cảm, nên
hòa hợp với Ám thành ra tám mươi bốn loạn tưởng âm ẩn.
o đó mà có yết nam vô sắc, trôi lăn trong cõi nước: không,
tán, tiêu, trầm... các loài đầy dẫy.
“ o nhân thế giới ảo tưởng luân hồi, điên đảo về Ảnh, nên
hòa hợp với Ức (Nhớ) thành ra tám mươi bốn ngàn loạn
tưởng tìm kết. o đó mà có yết nam hữu tưởng, trôi lăn trong
cõi nước: thần quỷ, tinh linh... các loài đầy dẫy.
“ o nhân thế giới ngu độn luân hồi, điên đảo về Si nên hòa
hợp với Ngoan (Ngu Độn, Ngoan Cố) thành ra tám mươi bốn
ngàn loạn tưởng khô cằn. o đó mà có yết nam vô tưởng,
trôi lăn trong cõi nước: tinh thần hóa làm đất, cây, sắt, đá...
các loài đầy dẫy.
“ o nhân thế giới tương đãi luân hồi, điên đảo về Ngụy nên
hòa hợp với Nhiễm thành ra tám mươi bốn ngàn loạn tưởng
nhân y. o đó mà có yết nam “Không phải có Sắc mà có
Sắc” trôi lăn trong cõi nước: những loài sứa lấy tôm làm
mắt... các loài đầy dẫy.
“ o nhân thế giới tương đãi luân hồi, điên đảo về Tánh nên
hòa hợp với Chú thành ra tám mươi bốn ngàn loạn tưởng hô
triệu. o đó mà có yết nam “Chẳng phải ô Sắc mà ô Sắc”
trôi lăn trong cõi nước: Chú trớ, yếm sanh... các loài đầy dẫy.
“ o nhân thế giới hợp vọng luân hồi, điên đảo về õng nên
hòa hợp với ị thành ra tám mươi bốn ngàn loạn tưởng hồi
hỗ. o đó mà có yết nam “Không phải Có Tưởng mà Có
Tưởng” trôi lăn trong cõi nước: các loài tò vò, lấy chất khác
thành thân mình... các loài đầy dẫy.
“ o nhân thế giới oán hại luân hồi, điên đảo về Sát nên hòa
hợp với Quái thành ra tám mươi bốn ngàn loạn tưởng ăn thịt
169
cha mẹ. o đó có yết nam “Không phải ô Tưởng mà Vô
Tưởng” trôi lăn trong cõi nước: như con thổ kiêu ấp đất cục
làm con, hay chim phá kính ấp quả cây độc làm con, con lớn
lên thì trở lại ăn thịt cha mẹ... các loài đầy dẫy. “Đó là mười
hai chủng loại chúng sanh.
170
KINH ĐẠI PHẬT ĐẢNH THỦ LĂNG NGHIÊM (T M T T NG N)
171
Quyển VIII
Phần 19
Khai thị ba tiệm thứ tu tập
(Lưu ý: Người tu Thiền Định bị trở ngại vì loạn động. Đọc
phần sau đây xem có thể áp dụng gì cho cá nhân mình hay
không)
“Anan! Như thế chúng sanh trong mỗi mỗi loài cũng đều đầy
đủ hết mười hai thứ Điên Đảo. Cũng như dụi mắt thì hoa
đốm cuồng loạn phát sanh, Chơn Tâm tròn sáng trong sạch
nhiệm mầu mà Điên Đảo thì đầy đủ loạn tưởng hư vọng như
thế. Nay ông tu chứng Tam Ma Địa của Phật thì đối với các
loạn tưởng làm nguyên nhân cội gốc của các Điên Đảo, phải
lập ra ba tiệm thứ mới trừ diệt được. Cũng như trong đồ
đựng sạch sẽ trừ bỏ mật độc, dùng nước nóng và chất tro,
chất thơm rửa sạch đồ đựng, rồi sau mới chứa nước cam lồ.
“Thế nào là ba món tiệm thứ? Một là, tu tập trừ các Trợ
Nhân. ai là, chân tu, nạo sạch Chính Tánh. Ba là, tăng tiến
trái lại iện Nghiệp.
“Thế nào là Trợ Nhân? “Anan! mười hai loài chúng sanh
đó trong thế giới không thể tự toàn, phải nương theo bốn
cách ăn mà sống, đó là Đoạn Thực, Xúc Thực, Tư Thực,
Thức Thực. ậy nên Phật bảo tất cả chúng sanh đều nương
cái ăn mà sống còn.
“Anan! Tất cả chúng sanh ăn thức lành thì sống, ăn thức độc
thì chết. ậy những chúng sanh cầu Tam Ma Địa phải dứt bỏ
năm thứ rau cay trong thế gian. Năm thứ rau cay này, ăn chín
phát lòng dâm, ăn sống thêm lòng giận. Trong thế gian,
những người ăn rau cay đó dầu có thể tuyên thuyết mười hai
bộ kinh, thì Tiên Thiên mười phương không thích hôi nhớp
172
đều lánh xa cả. Các loài quỷ đói v.v... nhân lúc người ấy
đang ăn bèn liếm môi mép. Thường ở với quỷ, nên phước
đức ngày càng tiêu mòn, lâu dài không được lợi ích. Người
ăn rau cay ấy, tu Tam Ma Địa, Bồ Tát, Thiên Tiên, Thiện
Thần mười phương không đến thủ hộ. Đại Lực Quỷ ương
thừa cơ hội đó hiện làm thân Phật đến thuyết pháp cho, chê
phá Cấm Giới, khen âm, Nộ, Si. Khi chết tự làm quyến
thuộc Ma ương, hưởng phước Ma hết, đọa vào ngục ô
Gián. Anan! Người tu Đạo Bồ Đề vĩnh viễn dứt bỏ năm
thứ rau cay. “Đó là tiệm thứ tu hành tăng tiến thứ nhất.
“Thế nào là Chánh Tánh? “Anan! Chúng sanh như thế vào
Tam Ma Địa trước hết cốt phải nghiêm trì Giới Luật thanh
tịnh, vĩnh viễn đoạn trừ lòng âm, chẳng dùng rượu thịt, chỉ
ăn đồ ăn trong sạch nấu chín, không ăn đồ sống. Anan!
Người tu hành đó, nếu chẳng đoạn âm ục và Sát Sanh mà
ra khỏi ba cõi, thì không thể có. Phải quan sát sự âm ục
như rắn độc, như thấy giặc thù. “Trước hết, hãy giữ gìn Tứ
Khí, Bát Khí của Giới Luật Thanh ăn, nắm giữ thân chẳng
động. Sau đó, hành trì Luật Nghi thanh tịnh của hàng Bồ Tát,
nắm giữ tâm chẳng khởi. Giới Cấm thành tựu thì trong thế
gian đời đời không còn nghiệp sanh sát nhau. Trộm cướp
chẳng làm, thì không còn mắc nợ nhau, và khỏi trả nợ đời
trước trong thế gian. Người trong sạch đó tu Tam Ma Địa,
ngay nơi thân xác thịt cha mẹ sanh, không cần thiên nhãn tự
nhiên xem thấy mười phương thế giới, thấy Phật nghe Pháp,
chính mình vâng lĩnh Thánh Chỉ của Phật, đắc đại thần
thông, dạo khắp mười phương thế giới, túc mạng được thanh
tịnh, được không khó khăn nguy hiểm. “Đó gọi là tiệm thứ tu
hành tăng tiến thứ hai.
“Thế nào là Hiện Nghiệp? “Anan! Người giữ gìn Cấm Giới
thanh tịnh như vậy, Tâm không tham dâm, đối với sáu Trần
173
ở ngoài không hay giong ruổi theo. o không giong ruổi nên
tự quay về Tánh gốc. Trần đã chẳng duyên, Căn không chỗ
hợp, ngược dòng toàn nhất, sáu ụng78
chẳng hành. Mười
phương cõi nước sáng suốt thanh tịnh, như ngọc lưu ly bên
trong treo mặt trăng sáng. Thân Tâm rỗng khoái, bình đẳng
diệu viên, được đại an ổn. Mật iên Tịnh iệu của tất cả
Như Lai đều hiện trong đó. Người ấy liền được ô Sanh
Pháp Nhẫn. Từ đó lần lượt tu hành, tùy chỗ phát ạnh mà an
lập các Thánh vị. “Đó gọi là tiệm thứ tu hành tăng tiến thứ
ba.
An lập các thánh vị
(Lưu ý: Phần này đọc qua không cần nhớ. Có thể căn cứ
vào đoạn kinh này để tự biết chúng ta tu tập tiến bộ đến
đâu.)
Càn Huệ Địa
“Anan! người thiện nam ấy, ục Ái cạn khô, Căn Cảnh
chẳng phối hợp, cái Thân Tâm hiện tại không còn sanh tiếp
nữa. Nắm lấy Tâm rỗng sáng, thuần là Trí uệ. Tánh uệ
toàn sáng tỏ sáng mười phương thế giới. Mới có cái uệ khô
khan, gọi là Càn Huệ Địa.”
Thập Tín
1.“Cái tập khí của ngũ dục mới khô cạn chưa tiếp thông
được với dòng nước pháp của Như Lai. Tức nhân tâm này,
ngay giữa lần vào iên iệu mở bày, theo iệu Giác iên
chân thật, càng phát ra chân diệu. iệu Tín thường trụ, tất cả
vọng tưởng hết sạch chẳng còn. Trung Đạo thuần Chân, gọi
là Tín Tâm Trụ.”
78
Sáu dụng là muốn nói đến sáu thức qua sáu căn.
174
2.“Chân Tín sáng rõ, hết thảy viên thông. Ba thứ Ấm, Xứ,
Giới không thể ngăn ngại. Như vậy cho đến trong vô số kiếp
quá khứ, vị lai tất cả tập khí bỏ thân, thọ thân đều hiện ra
trước mắt, người thiện nam này đều có thể nhớ tưởng không
quên mất, gọi là Niệm Tâm Trụ.”
3.“ iệu iên thuần Chân, Chân Tinh phát hóa ra, các tập khí
vô thủy thông thành một Tinh Minh. Chỉ nhân Tinh Minh ấy
tiến đến chỗ Chân Tịnh, gọi là Tinh Tiến Tâm.”
4.“Tâm Tinh hiện tiền, thuần dùng Trí uệ, gọi là Huệ Tâm
Trụ.”
5.“Nắm giữ Trí sáng, lặng trong cùng khắp, lặng lẽ nhiệm
mầu thường lắng đọng, gọi là Định Tâm Trụ.”
6. “Ánh sáng của Định phát ra vào sâu tánh sáng, chỉ có tiến
chớ không lui, gọi là Bất Thối Tâm.”
7. “Tâm an nhiên tiến tới, giữ gìn chẳng mất, giao tiếp với
khí phần của mười phương Như Lai, gọi là Hộ Pháp Tâm.”
8. “Giữ gìn tâm Giác sáng có thể dùng diệu lực xoay Từ
Quang của Phật lại nơi mình và hướng về Phật mà an trụ,
như hai tấm gương ánh sáng đối nhau, trong ấy các bóng
nhiệm mầu trùng trùng tương nhập, gọi là Hồi Hướng
Tâm.”
9. “Tâm quang thầm xoay lại, được chỗ thường lắng đọng
ô Thượng iệu Tịnh của Chư Phật, an trụ vô vi, được
không bỏ mất gọi là Giới Tâm Trụ.”
10. “Trụ giới tự tại có thể dạo khắp mười phương, đến đâu
tùy nguyện, gọi là Nguyện Tâm Trụ.”
175
Thập trụ
1.”Anan! Người thiện nam đó dùng phương tiện chân thật
phát được mười cái tâm ấy. Tâm tinh phát huy mười cái
ụng xen lẫn vào nhau, viên thành một tâm, gọi là Phát
Tâm Trụ.”
2.“Trong tâm phát sáng, như ngọc lưu ly trong sạch, ở trong
hiện chói sắc vàng ròng. ùng cái diệu tâm trước kia bước đi
thành địa vị, gọi là Trị Địa Trụ.”
3. “Tâm địa biết khắp, đều được tỏ rõ, dạo đi mười phương,
được không ngăn ngại, gọi là Tu Hành Trụ.”
4. “ ạnh đồng với Phật, lãnh nhận khí phần của Phật, như
thân trung ấm tự tìm cha mẹ. Cái âm tín thầm thông vào
dòng giống Như Lai, gọi là Sanh Quý Trụ.”
5. “Đã vào Đạo Thai, chính mình nhờ được sự nuôi sống của
Tánh Giác, như Thai đã thành, tướng người không thiếu gọi
là Phương Tiện Cụ Túc Trụ.”
6. “ ung mạo như Phật, tâm tướng cũng đồng, gọi là Chánh
Tâm Trụ.”
7. “Thân tâm hợp thành, ngày càng tăng trưởng, gọi là Bất
Thối Trụ.”
8. “Linh tướng của mười thân, cùng lúc đầy đủ, gọi là Đồng
Chân Trụ.”
9. “Thành đủ hình hài, ra khỏi thai, chính mình là Phật Tử,
gọi là Pháp Vương Tử Trụ.”
10. “Cốt cách đã thành người lớn, như vị Quốc ương phân
công ủy nhiệm các việc nước cho vị Thái Tử, khi vị Thế Tử
176
trưởng thành, Sát Lợi ương kia bày ra lễ Quán Đảnh, gọi là
Quán Đảnh Trụ.”
Thập Hạnh
1.”Anan! Người thiện nam đó đã thành Phật Tử, đầy đủ iệu
Đức của vô lượng Như Lai, tùy thuận mười phương, gọi là
Hoan Hỷ Hạnh.”
2. “Khéo hay lợi ích cho hết thảy chúng sanh, gọi là Nhiêu
Ích Hạnh.”
3. “Tự Giác, Giác tha, được không chống-trái, gọi là Vô Sân
Hận Hạnh.”
4. “Theo loài mà sanh ra, cùng tột vị lai, ba đời đều bình
đẳng, mười phương đều thông suốt gọi là Vô Tận Hạnh.”
5. “Tất cả hợp thành đồng nhất, thảy thảy pháp môn đều
không sai lầm, gọi là Ly Si Loạn Hạnh.”
6. “Ở ngay trong cái Đồng mà hiện ra các cái Khác. Mỗi mỗi
Tướng Khác đều mỗi mỗi thấy Đồng, gọi là Thiện Hiện
Hạnh.”
7. “Như thế cho đến mười phương hư không đầy khắp vi
trần, trong mỗi mỗi vi trần hiện mười phương thế giới. iện
vi trần, hiện thế giới, không ngăn ngại nhau, gọi là Vô
Trước Hạnh.”
8. “Mọi thứ trước mắt đều là Đệ Nhất Ba La Mật Đa, gọi là
Tôn Trọng Hạnh.”
9. “Như thế viên dung, thành tựu Quy Tắc của mười phương
Chư Phật, gọi là Thiện Pháp Hạnh.”
10. “Mỗi mỗi đều là Nhất Chân vô vi thanh tịnh vô lậu, vì
Tánh Bổn Nhiên là như thế, gọi là Chân Thật Hạnh.”
177
Thập Hồi Hướng
1.”Anan! người thiện nam ấy đầy đủ thần thông, thành tựu
Phật sự rồi, thuần khiết tinh chân, xa các lỗi nạn. iện độ
chúng sanh mà diệt dứt các tướng hóa độ. Quày tâm vô vi
hướng lối Niết Bàn, gọi là Cứu Hộ Nhất Thiết Chúng
sanh, Ly Chúng sanh Tướng Hồi Hướng.”
2. “ oại diệt cái có thể hoại diệt, xa lìa các sự lìa, gọi là Bất
Hoại Hồi Hướng.”
3. “Bản Giác lặng trong như nhiên, Giác ấy bằng cái Giác
của Phật, gọi là Đẳng Nhất Thiết Phật Hồi Hướng.”
4. “Tinh Chân phát sáng, địa như Phật Địa, gọi là Chí Nhất
Thiết Xứ Hồi Hướng.”
5. “Thế giới, Như Lai hỗ tương, dung nhập, được không
chướng ngại, gọi là Vô Tận Công Đức Tạng Hồi Hướng.”
6. “Ở nơi đồng với Phật Địa, trong ấy mỗi mỗi sanh nhân
thanh tịnh. Nương nhân ấy mà phát huy, giữ lấy đạo Niết
Bàn, gọi là Tùy Thuận Bình Đẳng Thiện Căn Hồi
Hướng.”
7. “Chân Căn đã thành, mười phương chúng sanh đều là Bản
Tánh của mình. Tánh tròn vẹn tựu thành, không bỏ sót một
chúng sanh, gọi là Tùy Thuận Đẳng Quán Nhứt Thiết
Chúng sanh Hồi Hướng.”
8. “Tức cả thảy pháp, lìa cả thảy tướng. Cả Tức và Lìa đều
không chỗ dính mắc, gọi là Chân Như Tướng Hồi Hướng.”
9. “Thật đắc Như Như, mười phương không ngại, gọi là Vô
Phược Giải Thoát Hồi Hướng.”
178
10. “Tánh Đức viên thành, hạn lượng về Pháp Giới diệt mất,
gọi là Pháp Giới Vô Lượng Hồi Hướng.”
Tứ Gia Hạnh
1.”Anan! Người thiện nam đó tu hết bốn mươi mốt tâm
thanh tịnh ấy rồi, tiếp đến thành tựu bốn thứ a ạnh iệu
Viên: tức lấy Phật Giác dùng làm tâm mình, như ra mà chưa
ra, cũng như dùi cây cho ra lửa để đốt cái cây, gọi là Noãn
Địa.”
2. “Lại lấy tâm mình thành chỗ hành vi của Phật. ình như
nương mà chẳng phải nương, như lên núi cao, thân đã vào hư
không mà bên dưới còn chút ngăn ngại, gọi là Đảnh Địa.”
3. “Tâm, Phật cả hai đồng, khéo được Trung Đạo, giống như
người biết nhẫn nhịn, chẳng phải ôm ấp, chẳng phải phát ra,
gọi là Nhẫn Địa.”
4. “Số lượng tiêu diệt, sự Mê, Giác và Trung Đạo cả hai đều
không danh mục, ấy là Thế Đệ Nhất Địa.”
Thập Địa
1.”Anan! người thiện nam đó trong Đại Bồ Đề, khéo được
thấu suốt. Giác thông với Như Lai, suốt hết cảnh giới Phật,
gọi là Hoan Hỉ Địa.”
2. “Tánh Khác nhập vào Đồng, tánh Đồng cũng diệt, gọi là
Ly Cấu Địa.”
3. “Thanh tịnh cùng tột, sáng suốt sanh ra, gọi là Phát
Quang Địa.”
4. “Sáng suốt cùng tột, Giác đầy khắp, gọi là Diệm Huệ
Địa.”
179
5. “ ết thảy có Đồng, có Khác không thể đến được, gọi là
Nan Thắng Địa.”
6. “Tánh Chân Như vô vi thanh tịnh bày lộ rõ ràng, gọi là
Hiện Tiền Địa.”
7. “Cùng tột bờ cõi Chân Như, gọi là Viễn Hành Địa.”
8. “Một Tâm Chân Như gọi là Bất Động Địa.”
9. “Phát cái ụng Chân Như, gọi là Thiện Tuệ Địa.”
10. “Bóng Từ mây iệu trùm biển Niết Bàn, gọi là Pháp
Vân Địa.”
Đẳng Giác và Diệu Giác
“Như Lai ngược dòng, còn vị Bồ Tát như thế thuận dòng mà
đến. Ranh giới của Giác thể nhập vào nhau, gọi là Đẳng
Giác. Anan! Từ Tâm Càn uệ đến Đẳng Giác rồi, cái Giác
này mới được Sơ Càn uệ Địa trong Tâm Kim Cương. Lớp
lớp như vậy, đơn hay kép mười hai địa vị, mới cùng tột iệu
Giác, thành ô Thượng Đạo.”
“Các thứ Địa này đều dùng Trí Kim Cương quán sát Như
uyễn mười thứ ví dụ sâu xa. Trong Xa Ma tha (Chỉ) dùng
Tỳ Bà Xá Na (Quán) của Chư Phật mà thanh tịnh tu chứng,
lần lượt tu nhập. “Anan! Như thế đều dùng ba tiệm thứ tăng
tiến, khéo có thể thành tựu năm mươi lăm ị của con đường
Bồ Đề Chân Thật.
“Làm cái Quán như vậy, gọi là Chánh Quán. Nếu Quán khác
đi gọi là Tà Quán.”
180
Chỉ Dạy Tên Kinh
Bấy giờ Ngài Pháp ương Tử ăn Thù Sư Lợi ở trong đại
chúng, liền từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ chân Phật mà bạch
Phật rằng: “Phải gọi tên kinh này là gì? Con cùng chúng
sanh phụng trì như thế nào?”
Phật bảo Ngài ăn Thù Sư Lợi: “Kinh này tên là Đại Phật
Đảnh Tát Đát Đa Bát Đát Ra, Vô Thượng Bảo Ấn, Thập
Phương Như Lai Thanh Tịnh Hải Nhãn.”
“Cũng gọi tên là Cứu Hộ Thân Nhân, độ thoát Anan cùng
Tánh Tỳ Kheo Ni trong hội này, đắc Bồ Đề Tâm, nhập
Biến Tri Hải.””
“Cũng tên là Như Lai Mật Nhân, Tu Chứng Liễu Nghĩa.
“Cũng gọi là “Đại Phương Quảng Diệu Liên Hoa Vương,
Thập Phương Phật Mẫu Đà La Ni Chú.”
“Cũng tên là “Quán Đảnh Chương Cú, Chư Bồ Tát Vạn
Hạnh, Thủ Lăng Nghiêm.” Ông hãy phụng trì.”
Phần 20
Phân biệt các nghiệp quả tạo thành tam giới
(Lưu ý: Phần này chỉ đọc qua cho có một khái niệm, không
cần nhớ)
1. Hỏi về sự sanh khởi và nhân quả của sáu đường
Phật nói lời ấy xong, liền khi đó, Ông Anan và cả đại chúng
nhờ được Như Lai khai thị ý nghĩa mật ấn Bát Đát Ra, lại
nghe được những tên gọi Liễu Nghĩa của kinh này, đốn ngộ
được diệu lý tăng thượng để tu, tiến vào các Thánh ị trong
Thiền Na. Tâm tư rỗng lặng, đoạn trừ sáu phẩm phiền não vi
tế tư-hoặc về tam giới.
181
Ông liền từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ dưới chân Phật, chắp
tay cung kính, bạch Phật rằng: “Đại oai đức Thế Tôn, Từ Âm
không che ngại, khéo khai ngộ những lỗi lầm sâu kín nhỏ
nhiệm của chúng sanh, khiến chúng con ngày nay thân tâm
khoan khoái rỗng nhiên, được lợi ích lớn.
“Thưa Thế Tôn, cái Chơn Tâm iệu Minh trong sạch nhiệm
mầu này bổn lai toàn khắp viên mãn, như thế cho đến đất
đai, cỏ cây, các loài máy động vốn nguyên là Chân Như, đó
là Chân Thể thành Phật của Như Lai. Nếu Phật Thể vốn chân
thật như thế thì cớ sao lại có các nẻo địa ngục, ngạ quỷ, súc
sanh, tu la, người, Trời. Bạch Thế Tôn, những nẻo ấy là bổn
lai tự có hay do tập khí hư vọng của chúng sanh khởi ra?
Bạch Thế Tôn, như Tỳ Kheo Ni Bảo Liên ương giữ Bồ Tát
Giới, lén làm việc dâm dục, rồi nói càn rằng hành dâm chẳng
phải sát sanh, chẳng phải trộm cắp, không có nghiệp báo!
Phát lời ấy rồi, trước hết nơi nữ căn sanh ra ngọn lửa hừng
lớn, sau nơi mỗi mỗi đốt xương lửa cháy phừng phừng, đọa
địa ngục ô Gián. Như Đại ương Lưu Ly và Tỳ Kheo
Thiện Tinh: Lưu Ly vì giết hại họ hàng Cù Đàm; Thiện Tinh
vì thuyết bậy rằng tất cả pháp đều rỗng không mà thân đang
sống đọa vào địa ngục A Tỳ. Các địa ngục này là có chỗ
nhất định, hay là tự nhiên mà khi mỗi người kia phát
nghiệp thì mỗi mỗi riêng chịu? “Xin Phật rủ lòng Đại Từ,
khai thị cho kẻ non dại mê muội, khiến cho tất cả các chúng
sanh trì giới nghe nghĩa quyết định, hoan hỉ đội đầu, cẩn thận
giữ gìn không phạm.”
2. Khai thị về phận trong, phận ngoài của chúng sanh
Phật bảo ngài Anan: “ ay thay lời hỏi đó, khiến cho chúng
sanh chẳng rơi vào tà kiến. Nay ông hãy nghe kỹ, ta sẽ vì
ông mà nói.
182
“Anan! Tất cả chúng sanh thật ra vốn Chân Tịnh, nhân tự có
vọng kiến mà có các tập khí hư vọng sanh ra. o đó mà có
phân ra phận trong và phận ngoài.
“Anan! Phận Trong tức là trong phần của chúng sanh. o
các ái nhiễm phát khởi vọng tình, tình tích chứa mãi không
ngừng thì hay sanh ái thủy. Bởi thế chúng sanh hễ tâm nhớ
món ăn ngon thì trong miệng nước chảy ra; hễ tâm nhớ
người trước, hoặc thương hay ghét thì trong mắt lệ tràn.
Tham cầu của báu thì tâm phát ái diên (nước dãi), cả mình
đều trơn nóng. Tâm dính vào chuyện hành dâm thì hai căn
nam, nữ tự nhiên chảy nước dịch. “Anan! Các ái tuy có khác
nhau, nhưng kết quả chảy nước là đồng, thấm ướt không
lên được, tự nhiên theo đó mà sa xuống, ấy gọi là phận
trong.
“Anan! Phận Ngoài tức là ngoài phần của chúng sanh. Nhân
các lòng khao khát, trông mong, phát sanh ra các hư tưởng.
Cái Tưởng chứa chất mãi không thôi thì hay sanh ra sự trội
hơn về khí. Bởi thế chúng sanh tâm giữ Giới Cấm thì cả thân
mình nhẹ nhàng trong suốt. Tâm giữ Chú Ấn thì mắt nhìn
hùng dũng, nghiêm nghị. Tâm muốn sanh cõi Trời thì chiêm
bao thấy bay lên. Tâm để nơi cõi Phật thì Thánh cảnh thầm
hiện. Phụng sự bậc thiện trí thức thì tự coi nhẹ thân mệnh
mình. “Anan! Các Tưởng tuy khác nhau, nhưng sự nhẹ
nhàng cất lên thì đồng. Cất bay lên không chìm xuống, tự
nhiên vượt lên, ấy gọi là Phận Ngoài.
“Anan! ết thảy thế gian sống chết nối nhau: Sanh thì theo
tập khí quen thuộc; tử thì theo sự đổi dòng. Lúc mệnh chung,
chưa hết hơi ấm thì thiện ác một đời cùng lúc liền hiện ra.
Sống thuận, chết nghịch, hai tập khí giao nhau.
183
“Thuần là Tưởng thì bay lên, hẳn là sanh trên cõi Trời. Nếu
trong tâm bay lên đó gồm cả Phước Đức và Trí uệ cùng với
tịnh nguyện thì tự nhiên tâm mở tỏ, thấy tất cả Tịnh Độ của
mười phương Chư Phật, rồi tùy nguyện mà vãng sanh.
“Tình ít, Tưởng nhiều thì cất lên chẳng xa mà làm các loài
Phi Tiên, Đại Lực Quỷ ương, Phi ành ạ Xoa, Địa ành
La Sát dạo trong bốn cõi trời không bị ngăn ngại. Nếu có
thiện nguyện, thiện tâm hộ trì Phật Pháp hoặc hộ trì Cấm
Giới thì theo người trì Giới, hoặc hộ trì Thần Chú thì theo
người trì Chú, hoặc hộ trì Thiền Định thì giữ an pháp nhãn,
hết thảy đều được gần gũi dưới pháp tòa của Như Lai.
“Tình và Tưởng ngang nhau thì không bay lên, không đọa
xuống, sanh nơi cõi người. Tưởng sáng thì thông minh, Tình
tối thì ngu độn.
“Tình nhiều Tưởng ít thì trôi dạt vào cầm thú: Nặng thì làm
giống mang lông, nhẹ thì làm loài có cánh.
“Bảy phần Tình, ba phần Tưởng thì chìm xuống Thủy Luân,
sanh nơi mé ỏa Luân, chịu ngọn lửa mạnh, thân làm ngạ
quỉ, thường bị thiêu đốt. ì nước có thể hại mình nên trải
trăm ngàn kiếp không ăn không uống.
“Chín phần Tình, một phần Tưởng thì xuống thấu ỏa Luân,
thân đi vào ranh giới giao nhau của Phong Luân và ỏa
Luân, nhẹ thì sanh vào ữu Gián, nặng thì sanh vào ô
Gián, hai thứ địa ngục.
“Thuần là Tình thì chìm sâu vào ngục A Tỳ. Nếu trong tâm
chìm đắm đó mà có sự hủy báng Đại Thừa, phá Cấm Giới
của Phật, nói pháp láo dối, tham bậy của tín chủ, lạm nhận sự
cung kính hoặc Ngũ Nghịch, Thập Trọng thì lại sanh vào địa
ngục A Tỳ mười phương.
184
“Theo sự tạo ác nghiệp, tuy tự chuốc lấy nhưng trong nghiệp
đồng phận chúng đó vẫn có chỗ sẵn.
3. Mười tập nhân và sáu giao báo
“Anan! Những điều như thế đều do nghiệp báo của các
chúng sanh tự chiêu cảm lấy: Tạo mười Tập Nhân thì chịu
sáu Giao Báo.
“Anan! thế nào là mười Tập Nhân ?
Một là thói quen dâm dục giao tiếp, phát sanh nơi sự cọ xát
lẫn nhau. Cọ xát không thôi, như vậy cho nên trong ấy có
ngọn lửa lớn phát động ra, như người lấy hai tay xoa xát lẫn
nhau thì cảm Giác nóng hiện ra. ai cái tập khí thiêu đốt
nhau, nên mới có các thứ giường sắt, cột đồng. Thế nên tất
cả mười phương Như Lai xem việc ành âm đồng gọi là
lửa dục. Bồ Tát xem thấy âm ục như tránh hầm lửa.
“Hai là, thói quen tham lam, so đo tính toán, phát sanh nơi
sự thu hút lẫn nhau. ấp thu ôm ấp chẳng ngừng, như vậy
cho nên trong ấy có chứa hơi lạnh thành giá cứng đông đặc,
như người hút hơi gió vào thì cảm Giác lạnh sanh ra. ai cái
tập khí lấn nhau, nên có những sự tra tra, ba ba, la la, sen
sanh, đỏ, trắng, giá lạnh v.v... Bởi thế tất cả mười phương
Như Lai xem việc Tham nhiều đồng gọi là nước tham. Bồ
Tát xem thấy Tham như tránh biển độc.
“Ba là, thói quen kiêu mạn lấn lướt lẫn nhau phát sanh nơi
chỗ ỷ thế với nhau, giong ruổi không thôi, như vậy cho nên
có sự phóng túng, bôn ba, chứa sóng thành nước, như người
miệng lưỡi tự chép làm cho nước bọt sanh ra. ai cái tập khí
chọi nhau nên có các việc sông máu, sông tro, cát nóng, biển
độc, nước đồng bắt uống... Thế nên, tất cả mười phương Như
185
Lai xem lòng Ngã Mạn, đồng gọi là uống nước si mê. Bồ Tát
xem thấy Kiêu Mạn như tránh vực thẳm lớn.
“Bốn là, thói quen nóng giận xung đột lẫn nhau, phát sanh
nơi sự chống đối lẫn nhau. Chống đối hoài không thôi, tâm
nổi nóng phát ra lửa, nấu cái khí thành kim loại, như vậy cho
nên có núi dao, đòn sắt, cội cây gươm, bánh xe gươm, búa
rìu, thương, cưa, như người bị hàm oan thì sát khí nổi lên.
ai tập khí đánh nhau, nên có các sự thiến, cắt, chém, chặt,
dùi, đâm, đập, đánh. Thế nên tất cả mười phương Như Lai
xem sự Nóng Giận đồng gọi là kiếm, dao bén. Bồ Tát xem
thấy Nóng Giận như tránh chém, giết.
“Năm là, thói quen giả dối, dụ gạt lẫn nhau, phát sanh nơi sự
lôi kéo lẫn nhau. ẫn dụ chẳng ngừng, như vậy cho nên có
dây, cây thòng lọng, căng nọc, như nước thấm xuống ruộng
thì cỏ cây sanh trưởng. ai tập khí kéo nhau nên có các sự
gông, cùm, xiềng xích, roi, gậy, qua, bổng. Thế nên tất cả
mười phương Như Lai xem sự Giả ối đồng gọi là Sàm Tặc.
Bồ Tát xem thấy Gian ối như sợ sói, beo.
“Sáu là, thói quen lừa gạt, phỉnh dối lẫn nhau, phát sanh nơi
sự phỉnh gạt lẫn nhau. Phỉnh gạt chẳng thôi, phát tâm gây
điều gian dối, như vậy cho nên có bụi, đất, đại tiện, tiểu tiện,
dơ nhớp chẳng sạch; như bụi theo gió không thấy lẫn nhau.
ai cái tập khí dìm nhau nên có các sự chìm đắm, nhảy,
ném, bay, rơi, trôi lăn. Thế nên tất cả mười phương Như Lai
xem sự Lừa Gạt đồng gọi là cướp giết. Bồ Tát xem thấy việc
Lường Gạt như dẫm rắn độc.
“Bảy là, thói quen thù oán, hiềm khích lẫn nhau, phát sanh
nơi chỗ ôm ấp lòng giận. Như vậy cho nên có quăng đá, ném
gạch, cũi nhốt, xe tù, bình đựng, đảy bọc, như người hiểm
độc ôm ấp điều dữ. ai cái tập khí nuốt nhau, nên có các
186
việc ném, quăng, nắm, bắt, đánh, bắn, vất, ôm. Thế nên tất cả
mười phương Như Lai xem sự Thù Oán đồng gọi là quỉ i
ại. Bồ Tát xem thấy Thù Oán như uống rượu độc.
“Tám là, thói quen tà kiến, tranh cãi với nhau. Như thân
kiến, giới cấm thủ và các nghiệp hiểu biết sai lầm, phát sanh
nơi chỗ chống trái lẫn nhau. Như vậy cho nên có quan lại
chứng thực, nắm giữ giấy tờ, nhiều như người đi đường qua
lại gặp nhau. ai cái tập khí giao nhau nên có các sự khám
hỏi, mưu chước, vặn hỏi, đòi hỏi, gạn xét, cứu tra cho rõ ràng
và những đồng tử thiện ác tay cầm sổ sách, biện bạch, hạch
sách. Thế nên tất cả mười phương Như Lai xem Ác Kiến
đồng gọi là hố kiến chấp. Bồ Tát xem thấy các Thiên Chấp
hư vọng như nhìn xuống hố độc.
“Chín là, thói quen vu vạ làm hại cho nhau, phát sanh nơi
chỗ phao vu, bài báng. Như vậy cho nên có núi khép, đá
khép, cối nghiền, cối xay, như kẻ sàm tặc, áp bức vu oan
người lương thiện. ai cái tập khí bài xích lẫn nhau, nên có
các việc áp giải, đè đập, ép máu, tuốt mình. Thế nên tất cả
mười phương Như Lai xem sự u ạ đồng gọi là cọp sàm
báng. Bồ Tát xem thấy sự u ạ như bị sấm sét.
“Mười là, thói quen thưa kiện, cãi vã lẫn nhau, phát sanh ở
chỗ che đậy. Như vậy cho nên có gương soi, đuốc chiếu, như
giữa ban ngày chẳng thể giấu bóng. ai cái tập khí phơi bày
lẫn nhau, nên có các việc bạn ác, kiếng soi nghiệp, hỏa châu
phơi bày nghiệp xưa mà đối nghiệm. Thế nên tất cả mươi
phương Như Lai xem sự Che Đậy đồng gọi là giặc ngầm. Bồ
Tát xem thấy sự Che Đậy như đội núi cao lội trong biển lớn.
187
“Thế nào là sáu Giao Báo79? “Anan! ết thảy chúng sanh
sáu Thức tạo nghiệp nên chiêu lấy ác báo từ sáu căn ra.
“Thế nào là Ác Báo từ sáu Căn ra?
“Một là, Ác Báo về Thấy chiêu dẫn ác quả. Nghiệp Giao
Báo về thấy này là khi lâm chung, trước hết thấy lửa hừng
đầy cả mười phương, thần thức người chết bay đọa theo khói
vào ngục ô Gián, phát sanh hai tướng: Một là, thấy sáng thì
thấy khắp các thứ vật dữ, sanh sợ hãi ghê gớm. ai là, thấy
tối thì lặng soi chẳng thấy gì sanh hoảng sợ vô cùng. Lửa-
thấy như vậy đốt cái nghe thì có thể làm thành vạc sôi, đồng
chảy; đốt hơi thở thì có thể làm thành lửa đỏ, khói đen; đốt
cái nếm thì có thể làm thành hòn lửa, cơm sắt; đốt cảm xúc
thì có thể làm tro nóng, lò than; đốt tâm thức thì có thể sanh
sao lửa rưới khắp, làm rung động cõi hư không.
“Hai là, Ác Báo về Nghe chiêu dẫn ác quả. Nghiệp Giao Báo
về Nghe này là khi lâm chung, trước hết thấy sóng cuộn ngập
chìm trời đất, thần thức người chết sa xuống theo dòng nước
vào ngục ô Gián, phát sanh hai tướng: Một là, nghe rõ thì
nghe đủ thứ ồn ào, tinh thần bấn loạn. ai là, điếc hẳn, lặng
ngất không nghe thấy gì, thần phách chìm đắm. Sóng nghe
như vậy rót vào cái nghe thì có thể làm thành trách móc, cật
vấn; rót vào cái Thấy thì có thể làm thành sấm, thành tiếng
rống, làm hơi độc dữ; rót vào hơi thở thì có thể làm thành
mưa thành mù, rưới các sâu độc đầy khắp thân thể; rót vào
cái nếm thì có thể làm thành mủ, máu, các thứ dơ bẩn; rót
vào cảm xúc thì có thể làm súc vật, làm quỉ, làm phân, làm
nước tiểu; rót vào tâm ý có thể làm thành chớp, mưa đá, đập
nát tâm phách.
79
Giao Báo cũng có thể gọi là Quả Báo
188
“Ba là, Ác Báo về Ngửi chiêu dẫn ác quả. Nghiệp Giao báo
về ngửi này là khi lâm chung, trước hết thấy hơi độc đầy dẫy
xa gần, thần thức người chết từ đất trỗi lên vào ngục ô
Gián, phát sanh hai tướng: Một là, ngửi thông thì bị các hơi
độc xông tột bực làm cho tâm rối loạn. ai là, nghẹt mũi, hơi
ngạt không thông, nằm chết giấc trên đất. ơi ngửi như vậy
xông vào hơi thở thì có thể làm thông, làm ngạt; xông vào
cái thấy thì có thể làm thành lửa, thành đuốc; xông vào cái
nghe thì có thể làm chìm ngập, làm chết đuối, làm nước lớn,
làm nước sôi; xông vào cái nếm thì có thể làm sình, làm thối;
xông vào cái cảm xúc thì có thể làm xấu, làm nát, làm ra núi
thịt lớn có trăm ngàn con mắt, hút ăn không cùng; xông vào
ý nghĩ thì có thể làm ra tro, ra khí độc, làm gạch đá bay lên
đánh nát cơ thể.
“Bốn là, Ác Báo về Nếm chiêu dẫn ác quả. Nghiệp Giao Báo
về nếm này là khi lâm chung, trước hết thấy lưới sắt nung đỏ
che khắp thế giới, thần thức người chết từ dưới tung lên, mắc
lưới treo ngược đầu xuống vào ngục ô Gián, phát sanh hai
tướng: Một là, nuốt vào thì kết thành giá lạnh làm nứt nẻ
thân thể. ai là, mửa ra thì bay lên thành lửa hừng, thiêu rụi
xương tủy. Nếm biết như vậy, qua cái nếm thì có thể làm ra
nhận ra chịu; qua cái Thấy thì có thể làm ra các thứ kim
thạch đốt cháy; qua cái Nghe thì có thể làm binh khí sắc bén;
qua hơi thở thì có thể làm lồng sắt rộng che hết cõi nước; qua
cảm xúc thì có thể làm thành cung, thành tên, làm nỏ, làm
bắn; qua ý nghĩ thì có thể làm sắt nóng bay, từ trên không
rưới xuống.
“Năm là, Ác Báo về Xúc chiêu dẫn ác quả. Nghiệp Giao Báo
về Xúc này là khi lâm chung, trước hết thấy núi lớn bốn mặt
áp lại không còn lối ra, thần thức người chết thấy thành sắt
lớn, rắn lửa, chó lửa, cọp sói, sư tử, lính ngục đầu trâu, la sát
189
đầu ngựa tay cầm giáo chĩa lùa vào cửa thành hướng về ngục
ô Gián, phát sanh hai tướng: Một là, hợp xúc thì núi ép kẹp
mình, xương thịt nát ra máu. ai là, lìa xúc thì đao kiếm
chạm đụng mình, tim gan cắt xẻ. Xúc hợp như vậy qua cái
xúc thì có thể làm ra đường, ra quán, làm nha sảnh, làm tòa
án; qua cái thấy thì có thể làm đốt, làm nung; qua cái nghe
thì có thể làm thành đập, đánh, đâm, bắn; qua hơi thở thì có
thể làm thành trùm, đẩy, tra, trói; qua cái nếm thì có thể làm
cày, làm kềm, chém, chặt; qua ý nghĩ thì có thể làm rớt, làm
bay, làm nấu, làm nướng.
“Sáu là, ác báo về Ý chiêu dẫn ác quả. Nghiệp Giao Báo về
Ý này là khi lâm chung, trước hết thấy gió dữ thổi nát cõi
nước, thần thức người chết bị thổi lên trên không, xoay rơi
theo gió, sa vào ngục ô Gián, phát sanh hai tướng: Một là,
không biết, tột mê thì hoang mang, rông chạy không ngừng.
ai là, chẳng mê, hay biết thì khổ, bị nung đốt không cùng,
đau buốt không chịu nổi. Ý lầm lạc như vậy kết vào ý nghĩ
thì có thể làm thành nơi, làm chốn; kết vào cái thấy thì có thể
làm gương soi, làm chứng cớ; kết vào cái nghe thì có thể làm
ra núi lớn xáp vào nhau, làm ra giá, ra sương, ra đất, ra mù;
kết vào hơi thở thì có thể làm ra xe lửa lớn, làm thuyền lửa,
làm rọ lửa; kết vào cái nếm thì có thể làm kêu la to, làm ăn
năn, làm khóc lóc; kết vào cái xúc thì có thể làm ra lớn, làm
ra nhỏ, làm cho trong một ngày vạn lần sống, vạn lần chết,
làm té sấp, té ngửa.
“Anan! Đó là mười Tập Nhân và sáu Quả Báo của địa ngục.
Nhân quả ấy đều do cái mê vọng của chúng sanh tạo ra. Nếu
các chúng sanh tạo hết các nghiệp dữ thì vào địa ngục A Tỳ,
chịu ô lượng khổ, trải qua vô lượng kiếp. Các căn trong sáu
căn tạo riêng và nghiệp tạo ra gồm cả căn lẫn cảnh thì người
ấy vào tám địa ngục ô Gián. Ba thứ thân, khẩu, ý làm ra
190
Sát, Đạo, âm thì người đó vào Thập Bát Địa Ngục. Không
đủ cả ba nghiệp, trong đó chỉ có một cái hoặc Sát hay Đạo
thì người ấy vào trong Tam Thập Lục Địa Ngục. Chỉ có một
Căn riêng phạm một nghiệp, người ấy vào Nhất Bách Bát
Địa Ngục. “Đó là do chúng sanh riêng làm, riêng tạo, nên ở
trong thế giới vào chỗ đồng phận, duyên từ ọng Tưởng
phát sanh, chẳng phải vốn là tự có.
“Lại nữa, Anan! nếu các chúng sanh đó chẳng phá Luật
Nghi, phạm Bồ Tát Giới, hủy báng Niết Bàn của Phật mà chỉ
phạm những tạp nghiệp khác thì sau nhiều kiếp bị thiêu đốt,
đền hết tội rồi thì chịu những hình quỉ.
“Nếu nơi bản nhân do tham vật mà gây nên tội thì khi đền tội
xong, gặp vật thành hình gọi là Quái Quỉ. o tham sắc mà
gây nên tội thì khi đền tội xong, gặp gió thành hình gọi là
Bạt Quỉ. o tham dối trá mà gây nên tội thì khi đền tội xong,
gặp súc vật thành hình gọi là Mỵ Quỉ. o tham hận mà gây
nên tội thì khi đền tội xong, gặp sân thành hình, gọi là Cổ
Độc Quỉ. o tham ghi nhớ mà gây nên tội thì khi đền tội
xong, gặp sự suy tàn thành hình, gọi là Lệ Quỉ. o tham
ngạo mạn mà gây nên tội thì khi đền tội xong, gặp khí thành
hình, gọi là Ngạ Quỉ. o tham lừa gạt mà gây nên tội thì khi
đền tội xong, gặp u uẩn thành hình gọi là Áp Quỉ. o tham
vạch bày mà làm nên tội thì khi đền tội xong, gặp tinh hoa
thành hình, gọi là ọng Lượng Quỉ. o tham thành tựu mà
gây nên tội thì khi đền tội xong, gặp bóng sáng thành hình,
gọi là ịch Sử Quỉ. o tham bè đảng mà gây nên tội thì khi
đền tội xong, gặp con người thành hình, gọi là Truyền Tống
Quỉ.
“Anan! Những người ấy đều do thuần Tình mà đọa lạc, khi
lửa nghiệp đốt khô rồi thì lên làm Quỉ. Các thứ ấy đều do cái
191
nghiệp tự vọng tưởng chiêu dẫn tới; nếu ngộ được Bồ Đề thì
trong tánh iệu iên Minh, vốn nào đâu có.
“Lại nữa, Anan! Nghiệp Quỉ đã hết thì hai thứ Tình và
Tưởng đều không, mới ở thế gian cùng người nợ cũ oán đối
gặp nhau, thân làm súc sanh, để trả nợ xưa.
“Loài Quái Quỉ thì khi vật tiêu tan, quả báo hết, sanh nơi thế
gian, phần nhiều làm chim Cưu. Loài Bạt Quỉ thì khi gió tiêu
tan, quả báo hết, sanh nơi thế gian, phần nhiều làm loài báo
điềm kỳ dị. Loài Mỵ Quỉ thì khi súc chết, quả báo hết, sanh
nơi thế gian, phần nhiều làm loài chồn, cáo. Loài Cổ Quỉ thì
khi sâu bọ diệt, quả báo hết, sanh nơi thế gian, phần nhiều
làm loài có độc. Loài Lệ Quỉ thì khi sự suy dứt, quả báo hết,
sanh nơi thế gian, phần nhiều làm loài giun. Loài Ngạ Quỉ thì
khi khí tiêu, quả báo hết, sanh nơi thế gian, phần nhiều làm
loài bị ăn thịt. Loài Áp Quỉ thì khi u uẩn tiêu, quả báo hết,
sanh nơi thế gian, phần nhiều làm loài cung cấp đồ mặc. Loài
ọng Lượng Quỉ thì khi tinh hoa tiêu, quả báo hết, sanh nơi
thế gian, phần nhiều làm chim mùa. Loài ịch Sử Quỉ thì khi
bóng sáng diệt, quả báo hết, sanh nơi thế gian, phần nhiều
làm loài báo điềm lành. Loài Truyền Tống Quỉ thì khi người
chết, quả báo hết, sanh nơi thế gian, phần nhiều làm loài
thuần hóa.
“Anan! Các loài ấy đều do lửa nghiệp đốt xong, sanh làm súc
vật để trả nợ cũ. ết thảy cũng đều tự hư vọng chiêu dẫn lấy
nghiệp mà ra. Nhưng ngộ Bồ Đề thì các vọng duyên ấy vốn
không chỗ có!
“Như lời ông nói, nhóm Bảo Liên ương, Lưu Ly ương và
Tỳ Kheo Thiện Tinh đều vốn tự mình bày đặt ra nghiệp dữ.
Nghiệp ấy chẳng từ trời rơi xuống, cũng chẳng từ đất chui
lên, mà cũng chẳng phải do ai trao tặng. Chính là tự hư vọng
192
rước lấy rồi tự lãnh nhận. Trong Tâm Bồ Đề chúng đều là hư
huyễn vọng tưởng ngưng kết.
“Lại nữa, Anan! Các súc sanh ấy đều trả nợ trước mà nếu
trong lúc trả nợ, trả quá nợ cũ thì những chúng sanh ấy trở lại
làm người đòi lại chỗ dư. Nếu bên kia có sức lại có cả phúc
đức thì ở trong loài người không rời bỏ thân người mà hoàn
lại chỗ thừa đó, còn nếu không có phúc đức thì phải làm súc
sanh để đền lại chỗ thừa.
“Anan! Ông nên biết, nếu dùng tiền của hoặc sức người ta thì
đền đủ là xong, còn như trong ấy có giết thân mạng, hoặc ăn
thịt, như vậy trải qua nhiều kiếp ăn nhau, giết nhau, giống
như bánh xe quay hoài, chỗ cao thấp thay đổi nhau liên hồi
không nghỉ. Trừ pháp Xa Ma Tha hoặc gặp Phật ra đời chứ
chẳng thể nào thôi nghỉ được.
“Nay ông nên biết, loài chim Cưu kia, trả nợ đủ thì trở lại
hình người, sanh trong nhân đạo, tham hợp hạng ngoan cố.
Giống Cửu Trưng kia, trả nợ đủ thì trở lại hình người, sanh
trong nhân đạo, tham hợp hạng quái dị. Loài chồn kia trả nợ
đủ thì trở lại hình người, sanh trong nhân đạo, tham hợp
hạng ngu dại. Những loài có độc kia, trả nợ đủ thì trở lại hình
người, sanh trong nhân đạo, tham hợp hạng nham hiểm.
Những loài giun kia, trả nợ đủ, trở lại hình người, sanh trong
nhân đạo, tham hợp hạng hèn nhát. Những loại bị ăn thịt kia,
trả nợ đủ, trở lại hình người, sanh trong nhân đạo, tham hợp
hạng nhu nhược. Những loài cung cấp đồ mặc kia, trả nợ đủ,
trở lại hình người, sanh trong nhân đạo, tham hợp hạng lao
nhọc. Những loài chim mùa kia, trả nợ đủ, trở lại hình người,
sanh trong nhân đạo, tham hợp hạng văn hoa. Những loài
đem điềm lành kia, trả nợ đủ, trở lại hình người, sanh trong
nhân đạo, tham hợp hạng thông minh. Những loài thuần hóa
193
phải trả nợ đủ, trở lại hình người, sanh trong nhân đạo, tham
hợp hạng thông đạt.
“Anan! Các chúng sanh đó đều do trả hết nợ cũ, trở lại hình
của cõi người đều do từ vô thủy đến nay Điên Đảo mà gây
nghiệp, sanh sát lẫn nhau, chẳng gặp Như Lai, chẳng nghe
Chánh Pháp, ở trong trần lao cứ vậy mà xoay vần. Chúng ấy
gọi là đáng thương xót vậy.
4. Không tu thành Chánh Giác thành các thứ Tiên
“Anan! Lại có chúng sanh từ loài người, không nương theo
Chánh Giác tu pháp Tam Ma Địa, mà riêng tu vọng niệm tồn
giữ tư tưởng, củng cố hình hài, đi vào rừng núi, người chẳng
đến được, thành mười loại Tiên.
“Anan! Các chúng sanh kia bền gắng dùng đồ bổ không
ngừng nghỉ, khi đạo ăn được thành tựu, gọi là Địa Hành
Tiên.
“Bền gắng dùng cỏ cây không ngừng nghỉ, khi đạo thuốc
được thành tựu, gọi là Phi Hành Tiên.
“Bền gắng dùng kim thạch không ngừng nghỉ, khi đạo hóa
chất được thành tựu, gọi là Du Hành Tiên.
“Bền gắng làm những động tác không ngừng nghỉ, khi đạo
khí tinh được thành tựu, gọi là Không Hành Tiên.
“Bền gắng luyện nuớc bọt không ngừng nghỉ, khi nhuận đức
đã thành tựu, gọi là Thiên Hành Tiên.
“Bền gắng hấp thụ tinh hoa không ngừng nghỉ, khi hấp thụ
tinh túy thành tựu, gọi là Thông Hành Tiên.
“Bền gắng làm chú thuật không ngừng nghỉ, khi thuật pháp
được thành tựu, gọi là Đạo Hành Tiên.
194
“Bền gắng chuyên chú tâm niệm không ngừng nghỉ, khi
chuyên niệm được thành tựu, gọi là Chiếu Hành Tiên.
“Bền gắng về thủy hỏa giao cấu không ngừng nghỉ, khi cảm
ứng được thành tựu, gọi là Tinh Hành Tiên.
“Bền gắng tập luyện biến hóa không ngừng nghỉ, khi tỉnh
Giác được thành tựu, gọi là Tuyệt Hành Tiên.
“Anan! Những người này đều ở trong loài người mà luyện
tâm, chẳng tu theo Chánh Giác, chỉ riêng được sanh lý, thọ
ngàn vạn năm, nhàn nghỉ trong núi sâu hay trên hoang đảo
giữa đại dương, dứt tuyệt với cảnh người. Đó cũng là ở trong
vọng tưởng trôi lăn của sự luân hồi. Chẳng tu pháp Tam
Muội nên khi quả báo hết thì trở lại tản vào trong sáu nẻo.
195
Quyển IX
Phần 21
Các cõi Trời
(Lưu ý: Đoạn này đọc cho biết mà thôi, không cần phải
nhớ.)
Cõi Trời Dục Giới
“Anan! Các người thế gian chẳng cầu cái thường trụ, chưa
thể lìa bỏ được thê thiếp, ân ái, nhưng tâm không buông lung
trong tà dâm. o lắng trong sanh ra sáng suốt, sau khi mạng
chung, gần với mặt trời, mặt trăng. ạng như vậy gọi là Tứ
Thiên Vương Thiên.
“Đối với vợ nhà, dâm ái ít ỏi, trong khi tịnh cư chưa được
toàn vẹn mùi vị. Sau khi mạng chung, vượt sức sáng của mặt
trời, mặt trăng, ở trên đỉnh của nhân gian. Một hạng như vậy,
gọi là Đạo Lợi Thiên (Tam Thập Tam Thiên).
“Gặp cảnh dục tạm theo, qua rồi không nghĩ nhớ, ở trong cõi
nhân gian động ít tĩnh nhiều. Sau khi mạng chung, an trụ
sáng rỡ ở trong hư không. Ánh sáng mặt trời, mặt trăng soi
chiếu chẳng bằng. Các người ấy tự có ánh sáng. Một hạng
như vậy, gọi là Tu Diệm Ma Thiên (Thời Phân).
“Luôn luôn yên tĩnh, nhưng khi có cảm xúc đến, chưa thể
nghịch hẳn. Sau khi mạng chung, bay lên cõi tinh vi, không
giao tiếp với các cảnh nhân-thiên cõi dưới cho đến thời kiếp
hoại, tam tai cũng không đến được. Một hạng như vậy gọi là
Đâu Suất Đà Thiên (Tri Túc).
“Chính mình không có lòng dâm, đáp ứng với người mà
hành sự, trong lúc phô diễn vô vị như sáp. Sau khi mạng
196
chung, sanh vượt vào cõi biến hóa. Một hạng như vậy, gọi là
Lạc Biến Hóa Thiên.
“Không có tâm thế gian, chỉ đồng theo thế gian mà hành sự,
trong khi làm việc ấy, suốt thông siêu việt. Sau khi mạng
chung, vượt trên tất cả cảnh biến hóa và không biến hóa. Một
hạng như vậy, gọi là Tha Hóa Tự Tại Thiên.
“Anan! Sáu cõi trời như vậy thì hình thức tuy ra khỏi Động,
nhưng tâm Tánh còn dính mắc. Từ các cõi ấy trở xuống gọi
là ục Giới.
Cõi Trời Sắc Giới
“Anan! Tất cả những người tu tâm trong thế gian mà
không nhờ Thiền Na thì không có Trí Huệ. Người có thể
giữ cái thân không làm chuyện dâm dục, khi đi khi ngồi đều
không tưởng nhớ, ái nhiễm chẳng sanh thì không còn ở trong
ục Giới. Người ấy liền được bản thân làm Phạm Lữ. Một
hạng như vậy gọi là Phạm Chúng Thiên.
“Thói quen dâm dục đã trừ, tâm ly dục hiện ra, đối với các
Luật Nghi thì yêu thích tùy thuận. Người ấy liền có thể thực
hành Phạm đức. Một hạng như vậy gọi Phạm Phụ Thiên.
“Thân tâm diệu viên, uy nghi chẳng thiếu, Cấm Giới trong
sạch, lại thêm minh ngộ, người ấy liền có thể thống lãnh
Phạm Chúng, làm Đại Phạm ương. Một hạng như vậy gọi
là Đại Phạm Thiên.
“Anan! Ba hạng trổi vượt này, tất cả khổ não không thể bức
bách được. Tuy chẳng phải chân chánh tu hành Tam Ma Địa
mà trong tâm thanh tịnh các lậu chẳng động, gọi là Sơ
Thiền.
197
“Anan! Kế đó hàng Phạm Thiên thống nhiếp Phạm Chúng
tròn đầy Phạm ạnh, lóng tâm chẳng động, trong lặng sanh
ra ánh sáng. Một hạng như vậy, gọi là Thiểu Quang Thiên.
“Ánh sáng soi nhau, chiếu sáng vô tận, dọi mười phương cõi,
khắp hết thành lưu ly. Một hạng như vậy, gọi là Vô Lượng
Quang Thiên.
“ ẹn giữ ánh sáng tròn đủ, thành tựu giáo thể, phát ra sự
giáo hóa thanh tịnh, ứng dụng không cùng. Một hạng như
vậy, gọi là Quang Âm Thiên.
“Anan! Ba hạng trổi vượt này, tất cả lo buồn không thể bức
bách được. Tuy không phải chân chánh tu hành Tam Ma Địa,
mà trong tâm thanh tịnh các lậu thô đã dẹp xuống, gọi là Nhị
Thiền.
“Anan! ạng Người Trời như vậy, ánh sáng toàn vẹn thì
thành âm thanh, mở âm thanh bày lộ sự mầu diệu, phát nên
hạnh tinh thuần, tiếp thông với cái vui tịch diệt. Một hạng
như vậy, gọi là Thiển Tịnh Thiên.
“Trống rỗng, thanh tịnh hiện tiền, rộng phát không bờ bến,
thân tâm khinh an, thành cái vui tịch diệt. Một hạng như vậy,
gọi là Vô Lượng Tịnh Thiên.
“Thân tâm, thế giới tất cả đều vẹn toàn sáng sạch, cái tánh
đức trong sạch đã thành tựu, cảnh giới thù thắng hiện tiền,
quy về cái vui tịch diệt. Một hạng như vậy, gọi là Biến Tịnh
Thiên.
“Anan! Ba hạng trổi vượt này, đầy đủ chỗ tùy thuận bao la,
thân tâm an ổn, được cái vui vô lượng. Tuy chẳng phải chân
chánh được Tam Ma Địa mà trong tâm an ổn, đầy đủ hoan
hỉ, gọi là Tam Thiền.
198
“Anan! Kế đó, những hạng Người Trời thân tâm không còn
bị bức bách, cái nhân khổ đã hết, nhưng cái vui chẳng
thường trụ, lâu rồi cũng tiêu hoại. Bởi thế, đồng thời bỏ ngay
hai cái tâm khổ, vui. Những tướng thô nặng diệt mất, tánh
phúc thanh tịnh sanh ra. Một hạng như vậy, gọi là Phúc
Sanh Thiên.
“Tâm xả bỏ viên dung, sự hiểu biết thù thắng càng trong
sạch, trong cái Phúc không gì che đậy đó, được sự tùy thuận
mầu nhiệm cùng tột vị lai. Một hạng như vậy, gọi là Phúc Ái
Thiên.
“Nếu nơi tâm trước kia, nhàm chán cả khổ lẫn vui, lại nghiền
ngẫm cái tâm xả bỏ tiếp tục không ngừng, đến cùng tột sự
buông bỏ, thân tâm đều diệt, tâm ý dứt ngưng, trải qua năm
trăm kiếp. Người đó đã lấy cái sanh diệt làm nhân thì chẳng
có thể phát minh cái Tánh không sanh diệt. Nên nửa kiếp đầu
diệt, nửa kiếp sau lại sanh. Một hạng như vậy, gọi là Vô
Tưởng Thiên.
“Anan! Ba hạng trổi vượt này, tất cả cảnh khổ vui của thế
gian chẳng thể làm lay động. Tuy chẳng phải địa bất động
chân thật của ô i, mà cái tâm có chỗ đắc thì công dụng
thuần thục, gọi là Tứ Thiền.
“Anan! Trong đó lại có năm Bất Hoàn Thiên. Đã diệt hết
tập khí chín phẩm Tư oặc ở cõi dưới, Khổ ui đều mất,
bên dưới không còn chỗ ở, nên an lập chỗ ở nơi chúng đồng
phận của tâm xả.
“Anan! Khổ ui cả hai đều diệt, tâm tranh đấu chẳng còn
liên lụy, một hạng như vậy, gọi là Vô Phiền Thiên.
“Thênh thang độc hành, không còn chỗ so đo, một hạng như
vậy, gọi là Vô Nhiệt Thiên.
199
“Khéo thấy mười phương thế giới, tròn vẹn lặng trong,
không còn tất cả dơ nhiễm nặng nề của trần cảnh, một hạng
như vậy, gọi là Thiện Kiến Thiên.
“Cái thấy trong suốt hiện tiền, trui rèn không ngăn ngại, một
hạng như vậy, gọi là Thiện Hiện Thiên.
“Rốt ráo các cơ vi, cùng tột tánh của sắc pháp, thể nhập cõi
không bờ bến, một hạng như vậy, gọi Sắc Cứu Cánh Thiên.
“Anan! Những bậc Bất oàn Thiên đó, chỉ riêng bốn vị
Thiên Vương Tứ Thiền được sự kính nghe, nhưng không
thể thấy biết. Như hiện giờ có các Thánh, đạo tràng nơi rừng
sâu, đồng rộng thế gian đều là chỗ trụ trì của các vị A La
án, mà người thô thiển của thế gian chẳng thể thấy biết.
“Anan! Mười tám hạng Trời đó, độc hành không giao thiệp,
nhưng chưa hết cái lụy của ình Sắc. Từ đây trở lại, gọi là
Sắc Giới.
Cõi Trời Vô Sắc Giới
“Lại nữa, Anan! Từ chỗ cao tột của Sắc Giới này lại có hai
đường rẽ.
“Nếu nơi tâm xả bỏ, phát minh được Trí uệ, ánh sáng Trí
uệ viên thông, thì ra khỏi cõi trần, thành vị A La án, vào
Bồ Tát Thừa. Một hạng như vậy, gọi là Hồi Tâm Đại A La
Hán.
“Nếu nơi tâm xả bỏ, thành tựu sự chán bỏ, biết thân là ngăn
ngại, trên cái ngăn ngại ấy vào cái Không. Một hạng như
vậy, gọi là Không Xứ.
“Các ngăn ngại đã tiêu, nhưng cái ô Ngại không diệt, trong
đó còn lưu lại thức A Lại a nguyên vẹn và nửa phần vi tế
của thức Mạt Na. Một hạng như vậy, gọi là Thức Xứ.
200
“Sắc, Không đã hết, cái Thức Tâm diệt xong, mười phương
vắng lặng, tuyệt không qua lại. Một hạng như vậy, gọi là Vô
Sở Hữu Xứ.
“Thức tánh bất động, do nghiên cùng cái iệt, trong nơi vô
tận, bày ra cái tánh dứt hết, như còn mà chẳng còn, như hết
mà chẳng hết. Một hạng như vậy, gọi là Phi Tưởng, Phi Phi
Tưởng Xứ.
“Những hạng đó nghiên cùng cái Không, mà chẳng tột hết
Lý Không. Từ Bất oàn Thiên, thì cái Thánh Đạo đã đến
giới hạn tột cùng. Một hạng như vậy, gọi là Bất Hồi Tâm
Độn A La Hán.
“Nếu từ cõi trời ô Tưởng của các ngoại đạo, nghiên cùng
cái Không mà chẳng quay lại, mê lầm không nghe Chánh
Pháp thì sẽ rơi vào luân hồi.
“Anan! Trên các cõi trời đó, mỗi người trời là những phàm
phu theo sự báo đáp của nghiệp quả. Quả hết thì rơi luân hồi.
Thiên ương của các cõi ấy tức là Bồ Tát, dạo qua Tam Ma
Địa mà lần lượt tăng tiến trên đường hướng về Phật Đạo.
“Anan! Các cõi trời Tứ Không đó, thân tâm diệt hết, cái tánh
Định hiện tiền, không có sắc pháp của nghiệp quả. Từ đó đến
cuối cùng, gọi là Vô Sắc Giới.
“Những hạng đó chẳng rõ tánh iệu Giác Minh Tâm, chứa
nhóm vọng tưởng mà phát sanh, vọng có ra ba cõi. Ở trong
đó, hư vọng theo bảy nẻo chìm đắm, mỗi một chúng sanh
theo loại của mình.
Bốn Loại A Tu La
“Lại nữa, Anan! Trong ba cõi ấy, lại có bốn thứ A Tu La:
201
“Nếu từ loài Quỉ, do sức hộ pháp, nương thần thông nhập
vào Không. ạng A Tu La này từ trứng mà sanh, thuộc về
loài Quỉ.
“Nếu từ cõi trời, đức kém phải sa đọa thì chỗ ở gần với mặt
trời, mặt trăng. ạng A Tu La này từ Thai mà sanh, thuộc về
loài Người.
“Có Tu La ương nắm giữ thế giới, sức mạnh thấu triệt
không phải sợ ai, có thể tranh quyền với Phạm ương, Đế
Thích và Tứ Thiên ương. ạng A Tu La này do biến hóa
mà có, thuộc về loài Trời.
“Anan! Lại có một số Tu La thấp kém, sanh trong lòng biển
cả, lặn trong đáy vực, ngày dạo chơi trên không, tối về ngủ
dưới nước. ạng A Tu La này do thấp khí mà có, thuộc về
loài Súc sanh.
Khai thị sự hư vọng của bảy loài để khuyên tu chân
chánh
“Anan! xét kỹ ra thì bảy loài Địa Ngục, Ngạ Quỉ, Súc Sanh,
Người và Thần Tiên, Trời và A Tu La như thế đều là các
tướng hữu vi tối tăm chìm đắm, do vọng tưởng mà thọ sanh,
do vọng tưởng mà theo Nghiệp, trong Bản Tâm iệu iên
Minh ô Tác thì đều như hoa đốm giữa hư không, vốn
không dính bám, chỉ thuần là hư vọng, tuyệt không gốc rễ,
mối manh.
“Anan! Những chúng sanh đó chẳng nhận biết Bản Tâm,
chịu sự luân hồi như kia trong vô lượng kiếp, chẳng được cái
Thanh Tịnh Chân Thật đều là do thuận theo Sát, Đạo, âm
vậy. Còn ngược lại ba thứ đó thì lại sanh ra không Sát, không
Đạo, không âm. Có Sát, Đạo, âm thì gọi là loài Quỉ;
202
không có gọi là loài Trời. Có, Không đắp đổi nhau, khởi ra
tánh luân hồi.
“Nếu nhiệm mầu phát huy được pháp Tam Ma Đề ắt là
thường hằng tịch lặng nhiệm mầu, trong đó hai cái Có và
Không đều không, mà cái Không, Có cả hai cũng diệt. Cái
không Sát, không Đạo, không âm còn không có, lấy đâu
mà lại thuận theo việc Sát, Đạo, âm?
“Anan! Chẳng đoạn ba nghiệp thì mỗi mỗi chúng sanh đều
có phận riêng. Nhân mỗi mỗi phận riêng đó mà có đồng phận
chung của các cái riêng, không phải là không có chỗ nhất
định. Ấy là do tự hư vọng phát sanh ra, cái hư vọng phát
sanh ra đó vốn không có nhân, không có nguồn gốc ở đâu cả.
“Ông khuyên người tu hành muốn đắc Bồ Đề, cốt yếu phải
đoạn trừ ba cái oặc80. Ba oặc chẳng hết thì dầu có được
thần thông cũng đều là công dụng hữu vi của thế gian. Tập
khí mà chẳng diệt thì lạc vào đường ma, tuy muốn trừ vọng,
lại càng thêm hư dối, sai lầm. Như Lai nói là rất đáng thương
xót. Đó là tự mình tạo ra hư vọng, đâu phải là lỗi nơi Bồ Đề.
“Nói như thế gọi là lời chân chánh. Nếu nói khác thế, tức là
lời Ma ương.
Phân biệt các Ấm Ma
(Lưu ý: Đọc cho biết, không cần phải nhớ. Muốn khỏi bị
ngũ Ấm Ma, chỉ cần xem các hiện tượng gọi là “thần thông”
hiện ra trong Thiền Định chỉ là tu tập có tiến bộ mà thôi,
không thành Thánh, Phật gì cả)
80
Ba Hoặc là Kiến Tư oặc, T n c ô nh c.
203
Lúc bấy giờ, Đức Như Lai sắp chấm dứt thời thuyết pháp, ở
nơi Sư Tử tòa, vịn ghế thất bảo, xoay về Tử Kim sơn, trở lại
dựa nơi ghế, bảo khắp đại chúng cùng Ông Anan rằng:
“Các ông là hàng uyên Giác Thanh ăn hữu học, ngày nay
hồi tâm, hướng về ô Thượng iệu Giác Đại Bồ Đề. Nay ta
đã nói pháp tu hành chân chánh, nhưng các ông còn chưa
biết những Ma Sự vi tế khi tu hành Xa Ma Tha, và Tỳ Bà Xá
Na81
.
“Cảnh Ma nếu hiện mà ông không thể nhận biết thì việc làm
trong sạch tâm không được đúng, lạc vào tà kiến. oặc bị
Ma Ngũ Ấm của ông, hoặc bị Thiên Ma, hoặc mắc Quỉ
Thần, hoặc gặp Ly Mỵ mà trong tâm không rõ thì nhận giặc
làm con. Lại nữa, ở trong đó được ít mà cho là đủ, như Tỳ
kheo Vô Văn được Đệ Tứ Thiền, vọng nói là chứng Thánh,
khi quả báo chư Thiên hết, tướng suy hiện ra, bài báng quả vị
A La án là còn phải thọ sanh, nên đọa vào địa ngục A Tỳ.
Các ông nên nghe kỹ, nay Ta vì các ông mà phân biệt rành
rẽ.”
Ngài Anan đứng dậy cùng các hàng hữu học trong hội, hoan
hỉ đảnh lễ, kính nghe lời dạy bảo từ bi. Phật bảo ngài Anan
cùng cả đại chúng:
“Các ông nên biết cái tâm thể tỏ biết vẹn toàn, Bản Giác
Diệu Minh của mười hai loại chúng sanh trong thế giới
hữu lậu cùng mười phương Chư Phật không hai, không
khác. o vọng tưởng của các ông, mê Chân Lý thành ra lỗi
lầm. Si, Ái phát sanh, sanh mê cùng khắp nên có hư không.
Biến hóa ra cái mê không ngớt nên có thế giới sanh ra. ậy
thì mười phương cõi nước nhiều như vi trần này chẳng phải
là vô lậu, đều do vọng tưởng mê lầm kiến lập.
81
Tỳ Bà Xá Na: Sanskrit là Vipassana (Quán)
204
“Phải biết, hư không sanh trong tâm ông cũng như điểm mây
trong bầu trời, huống chi các thế giới ở trong hư không ấy!
Một người trong các ông phát khởi sự về nguồn chân thật
thì mười phương hư không ấy thảy đều tiêu mất. Làm sao
các cõi nước trong hư không ấy lại không rung đổ? Các ông
tu thiền, trau dồi pháp Tam Ma Địa thì cùng với mười
phương Bồ Tát và các vị Đại A La án vô lậu tâm tinh thông
hợp thầm nhiệm, đương xứ trong lặng như nhiên. Còn tất cả
Ma ương, Quỉ Thần, loài Trời phàm phu thì thấy cung điện
mình không cớ gì đổ vỡ, đất đai rung động, các loài thủy lục
bay nhảy thảy đều kinh sợ.
“ ạng phàm phu hôn muội không rõ, nên nghĩ lầm, còn hạng
kia đều được năm thứ thần thông, trừ Lậu Tận Thông, luyến
tiếc cảnh trần lao này đâu để ông phá hoại chỗ ở. Bởi thế,
Quỉ Thần, Thiên Ma, ọng Lượng, Yêu Tinh trong khi ông
tu Tam Muội đều đến quấy phá.
“Nhưng các Ma kia, tuy rất giận dữ mà họ ở trong trần lao,
còn các ông ở trong iệu Giác, thì cũng như gió thổi ánh
sáng, như dao chặt nước, chẳng hề hấn gì. Ông như nước sôi,
họ như giá cứng, vừa gần hơi ấm thì chẳng bao lâu mà tiêu
tan. Chúng ỷ lại suông thần lực, nhưng chỉ là Khách. Nếu
chúng có thể phá rối được, là do người Chủ ngũ ấm trong
tâm ông. Chủ nhân mà mê lầm, Khách mới được dịp quấy
phá.
“Đương xứ thiền định, Giác ngộ không lầm thì các Ma sự kia
không làm gì ông nổi. Khi Ấm tiêu tan vào trong tánh sáng;
sáng phá được tối, tối đến gần sáng thì tự tiêu mất, mà chúng
tà ma kia đều tối tăm làm sao còn dám ở lại quấy phá sự
thiền định? Nếu không tỏ ngộ sáng suốt, bị Ngũ Ấm ngăn
che, mê lầm thì chính Ông Anan là con của Ma và thành
người Ma. Như Cô Ma Đăng Già, sức còn yếu kém, chỉ dùng
205
chú thuật bắt ông phá Luật Nghi của Phật, trong tám muôn
hạnh chỉ phá một Giới, nhưng vì tâm ông thanh tịnh nên
chưa bị chìm đắm. Còn chúng Ma này thì phá hoại toàn thân
Bảo Giác của ông, giống như nhà quan Tể Tướng bỗng bị
tịch biên, long đong xiêu lạc, không thể thương cứu !
Phạm vi của Sắc Ấm
[Lưu ý: Phần nói về Ngũ Ấm Ma, đọc kỹ phần nói về “phạm
vi của các Ấm” và khi các Ấm tiêu diệt các “thành quả của
Thiền Định” hiện ra như thế nào để biết. Nếu những hiện
tượng xảy ra cho mình giống như đức Phật dạy trong kinh,
nhớ đừng cho rằng mình đã chứng Thánh quả, chỉ coi
như có tiến bộ.]
“Anan! Nên biết, ông ngồi đạo tràng, tiêu diệt các niệm,
niệm ấy mà hết thì tâm-lìa-niệm thuần túy sáng suốt thảy
cả, động tĩnh chẳng dời, nhớ quên như một. Đang khi an
trụ nơi đó mà vào Tam Ma Địa thì như người sáng mắt mà ở
chỗ rất tối. Cái tinh thuần của Tánh thì trong sạch nhiệm
mầu, nhưng tâm chưa phát sáng82. Thế gọi là phạm vi của
Sắc Ấm.
Nếu mắt sáng tỏ, mười phương mở suốt, không còn tối
tăm, gọi là Sắc Ấm hết. Người ấy có thể siêu vượt khỏi
Kiếp Trược83. Xét lại nguyên do Kiếp Trược thì gốc rễ là
ọng tưởng kiên cố84
.
[Đức Phật đưa ra mười ví dụ điển hình có thể xảy ra khi ở
trong trạng thái của tâm-lìa-niệm chứ không giới hạn trong
số mười, vì mỗi hành giả có căn cơ khác nhau. Phần mười
82
Tâm chưa phát sáng là vì sáu Căn che lấp. 83
Kiếp Trược là do Sắc Pháp đan nhau với cái Thấy mà thành. Muốn
hiểu rõ năm Trược (ngũ Trược) xem đoạn “Tâm Nhân Địa” trang 81-82. 84
Vọng tưởng kiên cố gồm ba thứ: của cha, của mẹ, và của mình.
206
ví dụ điển hình này giúp chúng ta nếu chúng ta có trải
nghiệm.]
1.”Anan! Ngay tại trong đó, nghiên cứu tinh tường85
Tánh
iệu Minh, bốn Đại chẳng kết hợp thì trong khoảng chốc lát,
tâm thức có thể ra khỏi sự ngăn ngại, đây gọi là tinh minh
tuôn tràn ra tiền cảnh, đó chỉ do dụng công mà tạm được như
vậy, chẳng phải là Thánh chứng. Nếu chẳng cho là chứng
ngộ thì cũng gọi là cảnh giới lành, còn cho là chứng ngộ việc
Thánh, tức lọt vào tà.
2.”Anan! Lại dùng cái tâm này nghiên cứu tinh tường Tánh
iệu Minh, trong thân thành rỗng suốt, người ấy bỗng nhiên
ở trong thân mình nhặt ra các thứ giun sán mà thân thể vẫn y
nguyên, không bị thương tổn, đây gọi là tinh minh tuôn tràn
nơi hình thể, đó chỉ do tu hành tinh tiến mà tạm được như
vậy, chẳng phải là Thánh chứng. Nếu chẳng cho là chứng
ngộ thì cũng gọi là cảnh giới lành, còn cho là chứng ngộ việc
Thánh tức lọt vào tà.
3.“Lại dùng cái tâm ấy nghiên cứu tinh tường trong ngoài,
khi ấy hồn phách86, ý chí, tinh thần, ngoài cái thân chấp thọ
ra, đều ăn nhập vào nhau, đắp đổi làm khách, làm chủ. Bỗng
nhiên, ở trong hư không nghe tiếng thuyết pháp, hoặc nghe
mười phương đồng diễn bày mật nghĩa. Đây gọi là sự thành
tựu thiện chủng của tinh phách thay nhau lìa hợp, tạm được
như vậy, chẳng phải Thánh chứng. Nếu chẳng cho là chứng
ngộ thì cũng gọi là cảnh giới lành, còn cho là chứng ngộ việc
Thánh tức lọt vào tà.
85
Nghiên cứu tinh tường có nghĩa là dùng pháp Quán trong khi đang
trong trạng thái tâm-lìa-niệm của pháp “Chỉ.” 86
Người dịch là người Trung Hoa (ảnh hưởng Lão giáo) nên dùng chữ
“hồn phách” thuộc Lão giáo thay vì chữ “thần thức” của Phật giáo.
207
4.“Lại dùng cái tâm ấy lắng trong, hiện ra sáng suốt, ánh
sáng bên trong phát ra, mười phương biến thành sắc iêm
Phù Đàn, hết thảy mọi loài hóa là Như Lai. Bấy giờ bỗng
thấy Phật Tỳ Lô Giá Na ngồi trên đài Thiên Quang, có ngàn
Đức Phật vây quanh. Trăm ức cõi nước cùng với hoa sen
cùng một lúc hiện ra. Đây gọi là sự tiêm nhiễm của tâm thức
linh ngộ. o ánh sáng của tâm phát ra soi sáng các thế giới
mà tạm được như vậy, chẳng phải Thánh chứng. Nếu chẳng
cho là chứng ngộ thì cũng gọi là cảnh giới lành, còn cho là
chứng ngộ việc Thánh, tức lọt vào tà.
5.“Lại dùng cái tâm ấy nghiên cứu tinh tường Tánh iệu
Minh, quan sát chẳng ngừng, đè nén hàng phục, ngăn dứt
thái quá, khi ấy bỗng nhiên mười phương hư không thành
sắc bảy báu hay sắc trăm báu, đồng thời cùng khắp, không
ngăn ngại nhau: xanh, vàng, đỏ, trắng mỗi mỗi hiện ra rõ
ràng. Đây gọi là công sức đè nén quá phần, tạm được như
vậy, chẳng phải là Thánh chứng. Nếu chẳng cho là chứng
ngộ thì cũng gọi cảnh giới lành, còn cho là chứng ngộ việc
Thánh, tức lọt vào tà.
6.“Lại dùng cái tâm ấy nghiên cứu, lặng suốt sáng trong
chẳng loạn, bỗng nhiên giữa đêm, ở trong nhà tối thấy thảy
thảy vật không khác gì ban ngày, mà những vật trong nhà tối
đó cũng không diệt mất. Đây gọi là tâm tế nhiệm lặng đứng
mà thấy, nên thấy suốt chỗ tối tăm, tạm được như vậy, chẳng
phải là Thánh chứng. Nếu chẳng cho là chứng ngộ thì cũng
gọi là cảnh giới lành, còn cho là chứng ngộ việc thánh, tức
lọt vào tà.
7.“Lại dùng cái tâm ấy vẹn nhập vào chỗ hư dung, bốn vóc
bỗng đồng như cây cỏ, lửa đốt, dao cắt hoàn toàn không cảm
giác, lửa ngọn không thể đốt cháy, dầu cho cắt thịt cũng như
chẻ cây. Đây là gọi là cùng như trần, do bài trừ bốn Đại một
208
mực, nhập vào sự thuần nhất, tạm được như vậy, chẳng phải
là Thánh chứng. Nếu chẳng cho là chứng ngộ thì cũng gọi là
cảnh giới lành, còn cho là chứng ngộ việc Thánh, tức lọt vào
tà.
8.“Lại dùng cái tâm ấy thành tựu sự trong sạch, dụng công
trong sạch tâm tột bực, bỗng thấy mười phương đất đai, sông
núi đều thành cõi Phật, đầy đủ bảy báu chói sáng cùng khắp.
Lại thấy hằng sa Chư Phật Như Lai đầy khắp hư không, lầu
điện rực rỡ. ưới thấy địa ngục, trên thấy thiên cung, được
không chướng ngại. Đây gọi là ưa thích đè nén ngưng tưởng
lâu ngày mà tưởng hóa thành, chẳng phải là Thánh chứng.
Nếu chẳng cho là chứng ngộ thì cũng gọi là cảnh giới lành,
còn cho là chứng ngộ việc Thánh, tức lọt vào tà.
9.“Lại dùng cái tâm ấy nghiên cứu sâu xa, bỗng nhiên ở giữa
đêm thấy rõ chợ búa, làng xóm bà con họ hàng ở phương xa,
hoặc nghe lời nói của họ. Đây gọi là bức bách cái tâm tột bực
nên nó bay ra, chẳng phải là Thánh chứng. Nếu chẳng cho là
chứng ngộ thì cũng gọi là cảnh giới lành, còn cho là chứng
ngộ việc Thánh, tức lọt vào tà.
10.“Lại dùng cái tâm ấy, nghiên cứu tinh tế cùng tột, thấy
được thiện tri thức, thân thể biến hóa, trong giây lát không
duyên cớ gì mà biến đổi đủ thứ. Đây gọi là tà tâm bị loài Ly
Mị hoặc Thiên Ma vào trong thân thể, không duyên cớ gì mà
thuyết pháp, thông suốt diệu nghĩa, chẳng phải là Thánh
chứng. Nếu chẳng cho là chứng ngộ thì Ma sự tự tiêu mất,
còn cho là chứng ngộ việc Thánh, tức lọt vào tà.
“Anan! mười thứ cảnh giới hiện ra trong thiền định như vậy
đều thuộc về Sắc Ấm, do dụng tâm giao xen lẫn nhau nên
hiện ra cái việc đó. Chúng sanh mê dại, chẳng biết tự xét,
gặp nhân duyên ấy, mê chẳng tự biết, cho là lên bậc Thánh,
209
thành Đại ọng Ngữ, đọa địa ngục ô Gián. Sau khi Như
Lai diệt độ rồi, các ông nên tuyên bày nghĩa này trong đời
Mạt Pháp, chớ để Thiên Ma được dịp quấy phá, giữ gìn che
chở cho người tu hành thành đạo ô Thượng.
Phạm vi của Thọ Ấm
“Anan! Thiện nam tử ấy tu Tam Ma Đề, trong Xa Ma Tha
khi Sắc Ấm hết, thấy Tâm chư Phật như trong gương
sáng hiển hiện hình tượng. ình như có được nhưng chưa
thể dùng, như người bị Mộc đè: Tay chân y nguyên, thấy
nghe không lầm, nhưng tâm gặp khách tà mà không cử động
được. Đó gọi là phạm vi của Thọ Ấm. “Nếu Mộc hết đè thì
cái tâm lìa thân, trở lại xem mặt mũi, đi ở tự do, không
còn ngăn ngại, gọi là Thọ Ấm hết. Người ấy có thể siêu
vượt Kiến Trược87, xét lại nguyên do thì gốc rễ là vọng
tưởng hư minh.
1.”Anan! thiện nam tử ấy, ngay ở trong đó, được biết sáng
tỏ, cái tâm phát minh, bên trong đè nén quá độ, bỗng ở nơi
đó phát lòng Bi vô cùng, như vậy cho đến xem thấy muỗi
mòng như con đỏ, tâm sanh thương xót, bất giác chảy nước
mắt. Đây gọi là công dụng đè nén quá mức. Biết thì không
có lỗi, chẳng phải là Thánh chứng. iểu biết chẳng mê, lâu
tự tiêu mất. Nếu cho là hiểu biết việc Thánh thì có ma Bi vào
trong lòng dạ, thấy người thì thương xót, khóc thương vô
hạn; sai mất Chánh Định, sẽ bị chìm đắm.
2.“Anan! Lại các thiện nam tử ấy, ở trong Định, thấy Sắc
Ấm tiêu rồi, Thọ Ấm tỏ rõ, thắng tướng hiện tiền nên cảm
kích quá độ, bỗng ở trong đó sanh lòng dũng mãnh vô hạn.
Cái tâm mạnh bén, chí bằng Chư Phật, nói rằng một niệm có
87
Muốn hiểu rõ năm Trược (ngũ Trược) xem đoạn “Tâm Nhân Địa”
trang 81-82.
210
thể vượt khỏi ba tăng kỳ. Đây gọi là công dụng lấn lướt quá
mức. Biết thì không lỗi, chẳng phải là Thánh chứng. Nếu cho
là hiểu biết việc Thánh thì có ma Cuồng vào trong lòng dạ,
thấy người thì khoe, ngã mạn không ai bằng, đến nỗi tâm
người ấy trên không thấy Phật, dưới chẳng thấy người; sai
mất Chánh Định, sẽ bị chìm đắm.
3.“Anan! Lại các thiện nam tử ấy ở trong Định, thấy Sắc Ấm
tiêu rồi, Thọ Ấm tỏ rõ. Tới trước thì chưa có chỗ chứng mới,
lui lại thì mất chỗ cũ, trí lực suy kém, vào địa vị Trung ủy
(Trung Ấm,) hoàn toàn không thấy gì. Trong tâm bỗng nhiên
sanh ra rất khô khát. Trong cả mọi thời thầm nhớ không thôi,
cho như vậy là tướng chuyên cần tinh tấn. Đây gọi là tu tâm
không Trí uệ, tự sanh lầm lạc. Biết thì không lỗi, chẳng
phải là Thánh chứng. Nếu cho là hiểu biết việc Thánh thì có
ma Nhớ vào trong lòng dạ, ngày đêm nắm cái tâm treo vào
một chỗ; sai mất Chánh Định, sẽ bị chìm đắm.
4.“Lại các thiện nam tử ấy ở trong Định, thấy Sắc Ấm tiêu
rồi, Thọ Ấm tỏ rõ, cái sức uệ quá Định, sai lầm nơi chỗ
mạnh mẽ, sắc bén, ôm giữ các thắng tánh trong tâm, tự ngờ
mình là Phật Lô Xá Na! được ít cho là đủ. Đây gọi là dụng
tâm quên mất suy xét, đắm vào Tri Kiến. Biết thì không lỗi,
chẳng phải là Thánh chứng. Nếu cho là hiểu biết việc Thánh
thì có ma ễ Biết Đủ Nên èn Kém vào trong lòng dạ; thấy
người thì tự nói “Ta đắc Đệ Nhất Nghĩa Đế ô Thượng”; sai
mất Chánh Định, sẽ bị chìm đắm.
5.“Lại các thiện nam tử ấy ở trong Định, thấy Sắc Ấm tiêu
rồi, Thọ Ấm tỏ rõ, chỗ chứng mới thì chưa được mà tâm cũ
thì đã mất, xem cả hai bên, tự cho là khó hiểu, trong tâm
bỗng sanh lo lắng không cùng, như ngồi giường sắt, như
uống thuốc độc. Tâm không muốn sống, thường cầu người
khác sát hại mạng mình để sớm giải thoát. Đây gọi là tu hành
211
sai mất phương tiện. Biết thì không lỗi, chẳng phải Thánh
chứng. Nếu cho là hiểu biết việc Thánh thì có một phần thứ
ma Thường Lo Buồn vào trong lòng dạ, tay cầm đao, kiếm
tự cắt thịt mình, thích được bỏ mạng, hoặc thường lo buồn,
chạy vào rừng núi, không muốn thấy người; sai mất chánh
niệm, sẽ bị chìm đắm.
6.“Lại nữa, các thiện nam tử ấy ở trong Định, thấy Sắc Ấm
tiêu rồi, Thọ Ấm tỏ rõ, ở trong thanh tịnh, tâm an ổn rồi,
bỗng nhiên tự sanh ra mừng vui vô hạn. Trong tâm mừng rỡ
không thể tự dừng. Đây gọi là sự khinh an mà không có uệ
tự ngăn lại. Biết thì không lỗi, chẳng phải là Thánh chứng.
Nếu cho là hiểu biết việc Thánh thì có một phần thứ ma
Thích ui Mừng vào trong lòng dạ, thấy người thì cười, ở
bên đường cái tự ca, tự múa, tự bảo rằng đã đắc vô ngại giải
thoát; sai mất Chánh Định, sẽ bị chìm đắm.
7.“Lại nữa, các thiện nam tử ấy ở trong Định, thấy Sắc Ấm
tiêu, Thọ Ấm tỏ rõ, tự bảo đã đủ, bỗng nhiên vô cớ sanh đại
ngã mạn, như vậy cho đến lòng mạn, quá mạn, và mạn quá
mạn, hoặc lòng tăng thượng mạn, hoặc ty liệt mạn đồng thời
phát ra. Trong tâm còn khinh cả mười phương Như Lai,
huống gì các địa vị dưới như Thanh ăn, uyên Giác. Đây
gọi là thắng giải quá mức, không có uệ để tự cứu. Biết thì
không lỗi, chẳng phải Thánh chứng. Nếu cho là hiểu biết
việc Thánh thì có một phần ma Đại Ngã Mạn vào trong lòng
dạ, chẳng lạy tháp, miếu, phá hủy kinh tượng, bảo với người
đàn việt rằng “Đó là vàng, đồng, hoặc gỗ, đất. Kinh là lá cây,
hay là giấy lụa. Xác thịt chân thường không tự cung kính, lại
sùng bái gỗ, đất, thật là điên đảo.” Những kẻ quá tin theo đó
mà đập nát, chôn bỏ trong đất; do gây nghi ngờ lầm lạc cho
chúng sanh, đọa vào ngục ô Gián; sai mất Chánh Định, sẽ
bị chìm đắm.
212
8.“Lại nữa, những thiện nam tử ấy ở trong Định, thấy Sắc
Ấm tiêu rồi, Thọ Ấm tỏ rõ, trong chỗ tinh minh, viên ngộ
tinh lý, được đại tùy thuận, tâm ấy bỗng sanh vô lượng khinh
an, tự nói đã thành Thánh, đắc đại tự tại. Đây gọi là nhân cái
uệ mà được các sự nhẹ trong. Biết thì không lỗi, chẳng
phải Thánh chứng. Nếu cho là hiểu biết việc Thánh thì có
một phần loại ma Thích Sự Trong Nhẹ vào trong lòng dạ, tự
cho là đủ, chẳng thèm cầu tiến. ạng này phần nhiều làm
như Tỳ Kheo ô ăn, gây nghi lầm cho chúng sanh, đọa vào
ngục A Tỳ; sai mất Chánh Định, sẽ bị chìm đắm.
9.“Lại nữa, các thiện nam tử ấy ở trong Định, thấy Sắc Ấm
tiêu rồi, Thọ Ấm tỏ rõ, trong chỗ minh ngộ, được tánh hư
minh, trong ấy bỗng xoay hướng về sự vĩnh viễn đoạn diệt,
bác bỏ không có nhân quả, một mực nhắm vào Không. Tâm
Không hiện tiền đến nỗi tâm sanh chấp chặt là đoạn diệt mãi
mãi. Biết thì không lỗi, chẳng phải Thánh chứng. Nếu cho là
hiểu biết việc Thánh thì có ma Không vào trong lòng dạ, bèn
bài báng sự giữ Giới cho là Tiểu Thừa, còn Bồ Tát ngộ
Không có gì mà giữ hay phạm! Người này thường ở chỗ thí
chủ tín tâm, ăn thịt uống rượu, làm nhiều điều dâm uế. Nhờ
có sức Ma mà nhiếp phục người ta, khiến chẳng sanh nghi
báng. Quỉ vào tâm lâu ngày: ăn uống cứt đái cũng không
khác gì rượu thịt, cứ cho là mọi thứ đều Không. Phá Luật
Nghi của Phật, làm người khác lầm lạc mắc tội; sai mất
Chánh Định, sẽ bị chìm đắm.
10.“Lại nữa, các thiện nam tử ấy ở trong Định, thấy Sắc Ấm
tiêu rồi, Thọ Ấm tỏ rõ, tham nếm cái hư vinh, ăn sâu vào tim
cốt, trong tâm bỗng có lòng yêu vô hạn sanh ra. Yêu thương
quá phát cuồng, bèn làm chuyện tham dục. Đây gọi là cảnh
Định an thuận vào tâm, không có uệ tự giữ, lầm vào Ngũ
ục. Biết thì không lỗi, chẳng phải Thánh chứng. Nếu cho là
213
hiểu biết việc Thánh thì có ma ục vào trong lòng dạ, một
bề nói ục tức đạo Bồ Đề, dạy hàng cư sĩ bình đẳng mà
hành ục, những người hành âm gọi là đệ tử giữ Pháp. o
sức Thần Quỉ nhiếp phục người phàm phu trong đời Mạt
Pháp nhiều đến cả một trăm, hai trăm, năm trăm, sáu trăm,
nhiều đến ngàn vạn. Khi tâm ma sanh chán, lìa khỏi thân thể,
oai đức đã không còn thì sa vào lưới pháp luật. Gây nghi lầm
cho chúng sanh, vào ngục ô Gián; sai mất Chánh Định, sẽ
bị chìm đắm.
“Anan! mười thứ cảnh hiện của Thiền Na như vậy đều thuộc
về Thọ Ấm, do dụng tâm giao xen lẫn nhau mà hiện các việc
đó. Chúng sanh mê dại, chẳng biết tự xét, gặp nhân duyên
ấy, mê chẳng tự biết cho là lên bậc Thánh, thành Đại ọng
Ngữ, đọa ngục ô Gián. Sau khi Ta diệt độ, các ông hãy
đem lời nói này của Như Lai truyền dạy cho đời Mạt Pháp,
khiến khắp chúng sanh đều tỏ ngộ nghĩa đó, không để cho
Thiên Ma được dịp quấy phá, giữ gìn che chở cho người tu
hành thành đạo ô Thượng.
Phạm vi của Tưởng Ấm
“Anan! Thiện nam tử kia tu Tam Ma Đề, khi Thọ Ấm hết
rồi, tuy chưa hết các Lậu, nhưng tâm rời khỏi hình hài
như chim ra khỏi lồng. Từ phàm thân này tiến lên, trải qua
sáu mươi Thánh ị Bồ Tát88, được Ý Sanh Thân, tùy ý đi lại
không ngăn ngại, đã có thể thành tựu như vậy. í như có
người ngủ say nói mớ, người ấy tuy không hay biết gì, nhưng
lời nói đã thành âm vận, thứ tự khiến những người không
ngủ đều hiểu được lời nói ấy. Đây là phạm vi của Tưởng
Ấm.
88
Muốn biết chi tiết các Thánh vị, xem phần “An lập các Thánh vị” từ
trang 173-179.
214
“Nếu động niệm hết, vọng tưởng vật vờ tiêu trừ, thì nơi
Tâm Giác Minh như bỏ hết bụi dơ, một dòng sanh tử đầu
đuôi soi sáng khắp, gọi là hết Tưởng Ấm. Người ấy mới có
thể vượt khỏi Phiền Não Trược89, xét lại nguyên do thì gốc
rễ là vọng tưởng dung thông.
1.“Anan! thiện nam tử kia, Thọ Ấm đã hư diệu, không còn
mắc các tà lự, Định tròn đầy phát sáng, trong Tam Ma Địa
tâm lại ưa thích sự tròn đầy sáng suốt, thúc đẩy tư tưởng
thêm tinh nhạy, tham cầu thiện xảo. Bấy giờ Thiên Ma chờ
được dịp ấy, cho tinh thần gá vào người khác, miệng nói
kinh pháp. Người đó không biết bị Ma gá vào, tự nói đã đắc
ô Thượng Niết Bàn, đến chỗ thiện nam tử cầu thiện xảo
kia, trải tòa thuyết pháp. Thân hình người đó giây lát, hoặc
làm Tỳ Kheo cho người kia thấy, hoặc làm Đế Thích, hoặc
làm phụ nữ, hoặc làm Tỳ Kheo Ni, hoặc nằm trong nhà tối
mà thân có hào quang chói sáng. Người tu hành kia mê dại
lầm cho là Bồ Tát, tin theo lời dạy, chao đảo cái tâm, phá
Luật Nghi Phật, lén làm việc tham dục. Miệng Ma ưa nói sự
rủi may, biến đổi, hoặc nói Như Lai ra đời chỗ này chỗ nọ,
hoặc nói về Kiếp ỏa, hoặc nói có đao binh làm người ta sợ
hãi, khiến cho nhà cửa, sự nghiệp vô cớ hao tán. Đây gọi là
Quái Quỉ, lâu năm thành Ma, khuấy rối người tu hành.
Khuấy rối chán rồi, bỏ thân người không gá nữa thì đệ tử
cùng thầy đều sa vào lưới pháp luật. Ông nên tỏ biết trước thì
khỏi lọt luân hồi, còn mê lầm không biết thì đọa ngục ô
Gián.
2.“Anan! lại nữa, thiện nam tử kia, Thọ Ấm đã hư diệu,
không còn mắc các tà lự, Định tròn đầy phát sáng, trong Tam
Ma Địa tâm lại ưa thích đi chơi, cho tư tưởng bay đi, tham
89
Muốn hiểu rõ năm Trược (ngũ Trược) xem đoạn “Tâm Nhân Địa”
trang 81-82.
215
cầu trải qua nhiều chốn. Bấy giờ Thiên Ma chờ được dịp ấy,
cho tinh thần gá vào người khác, miệng nói kinh pháp.
Người ấy không biết bị Ma gá vào, rồi tự nói đã đắc ô
Thượng Niết Bàn, đến chỗ thiện nam tử muốn ngao du kia,
trải tòa thuyết pháp. ình người đó không thay đổi, nhưng
những người nghe pháp bỗng tự thấy mình ngồi trên hoa sen
báu, toàn thân hóa thành sắc vàng sáng chói. Cả thảy thính
chúng, mỗi mỗi đều như vậy, được sự chưa từng có. Người
tu hành kia mê dại lầm cho là Bồ Tát, tâm trở nên dâm dật,
phá Luật Nghi Phật, lén làm việc tham dục. Miệng Ma ưa nói
các Đức Phật ứng hóa ra đời, người ấy, chỗ ấy là Đức Phật
ấy. Người kia hóa thân đến đây tức là vị Bồ Tát kia, đến giáo
hóa nhân gian. Người tu hành thấy thế, tâm sanh ngưỡng mộ,
tà kiến âm thầm nổi lên, Chủng Trí tiêu diệt. Đây gọi là Bạt
Quỉ lâu năm thành Ma, khuấy rối người tu hành. Khuấy rối
chán rồi bỏ thân người không gá nữa thì đệ tử cùng thầy đều
sa vào lưới pháp luật. Ông nên tỏ biết trước thì khỏi lọt luân
hồi, còn mê lầm không biết thì đọa địa ngục ô Gián.
3.”Anan! Lại nữa, thiện nam tử kia, Thọ Ấm đã hư diệu,
không còn mắc các tà lự, Định tròn đầy phát sáng, trong Tam
Ma Địa tâm lại ưa thầm hợp, lặng đứng cái tư tưởng, tham
cầu sự khế hợp. Bấy giờ Thiên Ma chờ được dịp ấy, cho tinh
thần gá vào người khác, miệng nói kinh pháp. Người đó thật
không biết bị ma gá vào, rồi tự nói đã đắc ô Thượng Niết
Bàn, đến chỗ thiện nam tử muốn cầu khế hợp kia, trải tòa
thuyết pháp. ình người đó và những người nghe pháp bề
ngoài không có gì thay đổi, nhưng lại khiến cho các thính
giả, trước khi nghe pháp, tâm đã tự khai ngộ, niệm niệm dời
đổi. oặc được Túc Mạng Thông, hoặc được Tha Tâm
Thông, hoặc thấy địa ngục, hoặc biết các việc lành dữ trong
thế gian, hoặc miệng nói kệ, hoặc tự tụng kinh, mỗi mỗi đều
vui vẻ, được sự chưa từng có. Người tu hành mê dại, lầm cho
216
là Bồ Tát, tâm sanh ra mê luyến, phá Luật Nghi Phật, lén làm
chuyện tham dục. Miệng Ma thích nói rằng Phật có lớn, nhỏ,
Phật X là Phật trước, Phật Y là Phật sau, trong đó cũng có
Phật thật Phật giả, Phật trai, Phật gái. Các Bồ Tát cũng thế.
Người tu hành thấy vậy, bỏ mất bản tâm, dễ vào tà ngộ. Đây
gọi là Mỵ Quỉ lâu năm thành Ma, khuấy rối người tu hành.
Khuấy rối chán rồi, bỏ thân người không gá nữa, thì đệ tử
cùng thầy đều sa vào lưới pháp luật. Ông nên tỏ biết trước
thì khỏi lọt luân hồi, còn mê lầm không biết thì đọa ngục ô
Gián.
4.“Anan! Lại nữa, thiện nam tử kia, Thọ Ấm đã hư diệu,
không còn mắc các tà lự, Định tròn đầy phát sáng, trong Tam
Ma Địa, tâm lại ưa biết cái cội gốc, nơi sự vật biến hóa,
muốn xét rõ cùng tột chung thủy. Thúc cái tâm sáng suốt
thêm, tham cầu phân biệt, chia chẻ. Bấy giờ Thiên Ma chờ
được dịp ấy, cho tinh thần gá vào người khác, miệng nói
kinh pháp. Người đó thật không biết bị Ma gá vào, rồi tự bảo
đã đắc ô Thượng Niết Bàn, đến chỗ thiện nam tử cầu biết
cái cội gốc kia, trải tòa thuyết pháp. Người đó có uy thần làm
cho những người cầu pháp đều kính phục, khiến cho thính
chúng dưới pháp tòa tuy chưa nghe pháp, tự nhiên tâm đã
phục rồi. Cả bọn họ đều cho rằng Niết Bàn, Bồ Đề, Pháp
Thân của Phật chính là cái xác thịt hiện tiền của ta đây; cha
con sanh nhau, đời này sang đời khác, tức là Pháp Thân
thường trụ chẳng dứt; đều chỉ hiện tại tức là cõi Phật, không
có Tịnh Độ và Tướng Sắc àng nào khác. Người tu hành tin
nhận, quên mất Tự Tâm, đem thân mạng mà quy y, được sự
chưa từng có. Người ấy mê dại, lầm cho là Bồ Tát, tu hành
theo tâm ấy, phá Luật Nghi Phật, lén làm chuyện tham dục.
Miệng Ma ưa nói rằng mắt, tai, mũi, lưỡi đều là Tịnh Độ; hai
căn nam, nữ là chỗ đích thực của Bồ Đề, Niết Bàn! ạng
không biết kia đều tin lời dơ uế đó. Đây gọi là Cổ Độc Quỉ
217
và Áp Thắng Quỉ, lâu năm thành Ma, khuấy rối người tu
hành. Khuấy rối chán rồi, bỏ thân người không gá nữa thì đệ
tử cùng thầy đều sa vào lưới pháp luật. Ông nên tỏ biết trước
thì khỏi lọt luân hồi, còn mê lầm không biết thì đọa ngục ô
Gián.
5.“Anan! Lại nữa, thiện nam tử kia, Thọ Ấm đã hư diệu,
không còn mắc các tà lự, Định tròn đầy phát sáng, trong Tam
Ma Địa lại ưa biết các việc trước sau, cứu xét cùng khắp,
tham cầu được thầm cảm. Bấy giờ, Thiên Ma chờ được dịp
ấy, cho tinh thần gá vào người khác, miệng nói kinh pháp.
Người đó không biết bị Ma gá vào, rồi cũng tự bảo đã đắc
ô Thượng Niết Bàn, đến chỗ thiện nam tử cầu cảm ứng kia,
trải tòa thuyết pháp. Có thể khiến cho thính chúng tạm thấy
cái thân như đã trăm ngàn tuổi, tâm sanh ái nhiễm, không thể
rời bỏ; đem thân làm nô bộc, cúng dường tứ sự chẳng biết
mệt mõi. Lại khiến cho mỗi ai nghe pháp dưới tòa tâm biết
đó là vị tiên sư, là vị thiện trí thức của mình, riêng sanh lòng
yêu pháp, khắn khít như keo sơn, được sự chưa từng có.
Người tu hành mê dại, lầm cho là Bồ Tát, gần gũi tâm Ma,
phá Luật Nghi Phật, lén làm chuyện tham dục. Miệng Ma ưa
nói ta ở kiếp trước, trong đời X độ người Y, lúc đó là thê
thiếp, anh em của ta, nên nay lại đến độ cho nhau, ta sẽ cùng
các người theo nhau về thế giới X cúng dường Đức Phật Y.
oặc nói có cõi trời Đại Quang Minh riêng biệt, Phật trụ nơi
ấy, là chỗ nghỉ ngơi của tất cả Chư Phật. ạng không biết kia
tin những lời lừa gạt đó, bỏ mất tự tâm. Đây gọi là giống Lệ
Quỉ, lâu năm thành Ma, khuấy phá người tu. Khuấy rối chán
rồi, bỏ thân người không gá nữa thì đệ tử cùng thầy đều sa
vào lưới pháp luật. Ông nên tỏ biết trước thì khỏi lọt luân
hồi, còn mê lầm không biết thì đọa ngục ô Gián.
218
6.“Anan! Lại nữa, thiện nam tử kia, Thọ Ấm đã hư diệu,
không còn mắc các tà lự, Định tròn đầy phát sáng, trong Tam
Ma Địa tâm lại ưa đi sâu vào, cần khổ ép mình, thích chỗ
vắng vẻ, tham cầu sự yên lặng. Bấy giờ, Thiên Ma chờ được
dịp ấy, cho tinh thần gá vào người khác, miệng nói kinh
pháp. Người đó không biết bị Ma gá vào, rồi tự bảo đã đắc
ô Thượng Niết Bàn, đến chỗ thiện nam tử cầu thầm lặng
kia, trải tòa thuyết pháp, khiến cho thính chúng mỗi người
đều biết nghiệp cũ của mình. oặc ở nơi đó, bảo với một
người: “Ngươi nay chưa chết đã làm súc sanh”, rồi bảo một
người khác đạp cái đuôi đằng sau, thì khiến người đó đứng
dậy không được. Cả thảy chúng ấy đều hết lòng khâm phục.
Có người móng tâm thì liền biết ý. Ngoài Luật Nghi của Phật
ra, nó lại còn gia thêm khắc khổ, chê bai Tỳ Kheo, mắng
nhiếc đồ chúng, phơi lộ việc người ta chẳng tránh sự cơ
hiềm. Miệng Ma ưa nói những việc họa phúc chưa đến và
khi đến thì không sai mảy may. Đây gọi là Đại Lực Quỉ, lâu
năm thành Ma, khuấy rối người tu hành. Khuấy rối chán rồi,
bỏ thân người không gá nữa, thì đệ tử cùng thầy đều sa vào
lưới pháp luật. Ông nên tỏ biết trước thì khỏi lọt luân hồi,
còn mê lầm không biết thì đọa ngục ô Gián.
7.“Anan! Lại nữa, thiện nam tử kia, Thọ Ấm đã hư diệu,
không còn mắc các tà lự, Định tròn đầy phát sáng, trong Tam
Ma Địa tâm lại ưa thấy biết, cần khổ xét tìm, tham cầu biết
túc mạng. Bấy giờ, Thiên Ma chờ được dịp ấy, cho tinh thần
gá vào người khác, miệng nói kinh pháp. Người đó không
biết bị Ma gá vào, rồi tự bảo đã đắc ô Thượng Niết Bàn,
đến chỗ thiện nam tử cầu hiểu biết kia, trải tòa thuyết pháp.
Người tu hành bỗng nhiên ở chỗ thuyết pháp được hạt châu
báu lớn. oặc có khi Ma hóa làm súc sanh, miệng ngậm hạt
châu cùng những vật kỳ lạ như đồ trân bảo, giản sách, phù
độc, đến trao trước cho người tu hành, rồi sau đeo vào mình.
219
oặc có khi Ma bảo người nghe pháp có hạt châu minh
nguyệt chôn dưới đất chói sáng chỗ đó, làm cho các thính giả
được sự chưa từng có. Ma thường ăn cây thuốc chứ không ăn
cơm. oặc có khi mỗi ngày chỉ ăn một hạt mè, hoặc hạt
mạch, do sức Ma giữ gìn, thân hình vẫn béo tốt. Ma lại chê
bai Tỳ Kheo, nhiếc mắng đồ chúng, chẳng tránh sự cơ hiềm.
Miệng Ma ưa nói kho báu ở phương khác và chỗ ẩn cư của
Thánh iền thập phương. Những người đi theo sau Ma
thường thấy có những người kỳ lạ. Đây gọi là giống Quỉ
Thần Rừng Núi, Thổ Địa, Thành oàng, Sông Núi lâu năm
thành Ma. oặc có khi kêu gọi làm điều dâm dục, phá Giới
Luật Phật, cùng với kẻ thừa sự lén làm việc Ngũ ục. oặc
có khi tinh tấn, ăn toàn cỏ cây. iệc làm không nhất định,
cốt để khuấy phá người tu hành. Khuấy rối chán rồi, bỏ thân
người không gá nữa thì đệ tử và thầy phần nhiều sa vào lưới
pháp luật. Ông nên tỏ biết trước thì khỏi lọt luân hồi, còn mê
lầm không biết thì đọa ngục ô Gián.
8.“Anan! Lại nữa, thiện nam tử kia, Thọ Ấm đã hư diệu,
không còn mắc các tà lự, Định tròn đầy phát sáng, trong Tam
Ma Địa tâm lại ưa các thứ thần thông biến hóa, nghiên cứu
nguồn gốc biến hóa, tham cầu có thần lực. Bấy giờ, Thiên
Ma chờ được dịp ấy, cho tinh thần gá vào người khác, miệng
nói kinh pháp. Người đó không biết bị Ma gá vào, rồi tự bảo
đã đắc ô Thượng Niết Bàn, đến chỗ thiện nam tử cầu thần
thông kia, trải tòa thuyết pháp. Người đó hoặc tay cầm ngọn
lửa, nắm chia ngọn lửa trên đầu bốn chúng nghe pháp, ngọn
lửa trên đỉnh đầu những người nghe pháp đều dài vài thước
mà không nóng, cũng không đốt cháy. oặc đi trên nước như
đi trên đất bằng, hoặc giữa hư không ngồi yên không động,
hoặc vào trong bình, hoặc ở trong đãy, hoặc vượt cửa sổ,
hoặc xuyên qua tường không chút ngăn ngại. Chỉ đối với đao
binh thì không được tự tại. Người đó tự bảo là Phật, thân
220
mặc bạch y, chịu Tỳ Kheo lễ bái, chê bai luật Thiền, mắng
nhiếc đồ chúng, phơi lộ việc người không tránh sự cơ hiềm.
Trong miệng thường nói thần thông tự tại, hoặc cho người
thấy cõi Phật cạnh bên. Đó là do sức quỉ mê hoặc, không có
gì chân thật. Người đó khen ngợi việc hành dâm, không từ
bỏ những việc làm thô tục, đem những việc bậy bàn với nhau
cho là truyền pháp. Đây gọi là những giống Sơn Tinh, ải
Tinh, Phong Tinh, à Tinh, Thổ Tinh và những loài Tinh
Mỵ của tất cả cỏ cây đã sống nhiều kiếp có sức lớn trong trời
đất. oặc là Long Mỵ, hoặc là tiêu hết kiếp sống lại làm Mỵ.
oặc tiêu đến hồi hết quả báo, kể năm thì phải chết, nhưng
hình hài không tiêu mất, nên loài quái khác bám vào. Bọn ấy
lâu năm thành Ma, khuấy rối người tu hành. Khuấy rối chán
rồi, bỏ thân người không gá nữa, thì đệ tử và thầy phần nhiều
sa vào lưới pháp luật. Ông nên tỏ biết trước thì khỏi lọt luân
hồi, còn mê lầm không biết thì đọa ngục ô Gián.
9.“Anan! Lại nữa, thiện nam tử kia, Thọ Ấm đã hư diệu,
không còn mắc các tà lự, Định tròn đầy phát sáng, trong Tam
Ma Địa tâm lại ưa các thứ thần thông biến hóa, nghiên cứu
nguồn gốc biến hóa, tham cầu cái rỗng không sâu nhiệm.
Bấy giờ, Thiên Ma chờ được dịp ấy, cho tinh thần gá vào
người khác, miệng nói kinh pháp. Người đó không biết bị
Ma gá vào, rồi tự bảo đã đắc ô Thượng Niết Bàn, đến chỗ
thiện nam tử cầu rỗng không kia, trải tòa thuyết pháp. Ở
trong đại chúng, hình người ấy bỗng hóa thành không, cả
chúng không thấy gì, rồi lại từ hư không bỗng hiện ra, khi
còn khi mất rất tự tại. oặc hiện cái thân rỗng suốt như ngọc
lưu ly. oặc duỗi tay chân xuống phát mùi hương chiên đàn.
oặc đại, tiểu tiện như đường phèn cứng ngắc. Người đó chê
phá Giới Luật, khinh rẻ bậc xuất gia, trong miệng thường nói
không nhân không quả, một lần chết là xong hết vĩnh viễn,
không còn có thân sau. Lại nói phàm, Thánh tuy đắc không
221
tịch, vẫn lén làm chuyện tham dục, thọ ục ấy mà vẫn đắc
tâm không, bác không Nhân Quả. Đây gọi là những giống
Tinh Khí của Nhật, Nguyệt giao che; vàng, ngọc, chi thảo,
lân, phụng, quy, hạc trải ngàn vạn năm không chết trở thành
tinh linh, sanh ra trong cõi nước, lâu năm thành Ma, khuấy
rối người tu hành. Khuấy chán rồi, bỏ thân người không gá
nữa, thì đệ tử và thầy phần nhiều sa vào lưới pháp luật. Ông
nên tỏ biết trước thì khỏi lọt luân hồi, còn mê lầm không biết
thì đọa ngục ô Gián.
10.“Anan! Lại nữa, thiện nam tử kia, Thọ Ấm đã hư diệu,
không còn mắc các tà lự, Định tròn đầy phát sáng, trong Tam
Ma Địa tâm lại ưa sống lâu, cần khổ nghiên cứu tinh vi, tham
cầu sống mãi, bỏ cái sống phần đoạn mà trông mong cái
tướng vi tế của biến dịch được thường trụ. Bấy giờ, Thiên
Ma chờ được dịp ấy, cho tinh thần gá vào người khác, miệng
nói kinh pháp. Người đó không biết bị Ma gá vào, rồi tự bảo
đã đắc ô Thượng Niết Bàn, đến chỗ thiện nam tử cầu sống
lâu kia, trải tòa thuyết pháp. Người đó ưa nói đi qua phương
khác rồi trở về không trở ngại, hoặc trải qua muôn dặm, giây
lát trở lại mà đều lấy được đồ vật ở phương kia. oặc ở một
chỗ hay trong nhà, cách chỉ vài bước bảo người ta đi từ vách
phía Đông qua vách phía Tây, nhưng người ta đi mau cả năm
không đến. Nhân đó người tu hành tin tưởng, cho là Phật
hiện tiền. Miệng Ma thường nói mười phương chúng sanh
đều là con ta, ta sanh Chư Phật, ta sanh thế giới. Ta là Phật
nguyên thủy, tự nhiên ra đời, chẳng nhờ tu mà đắc. Đây gọi
là Thiên Ma trụ thế tự tại, nó khiến bọn quyến thuộc chưa
phát tâm như bọn Giá ăn Trà hay đồng tử Tỳ Xá cõi Tứ
Thiên ương thích cái hư minh đến ăn tinh khí người tu
hành. oặc không nhân ông thầy, người tu hành chính tự
mình xem thấy bọn đó đến xưng là thần Chấp Kim Cang ban
cho trường thọ. Bọn đó hiện thân gái đẹp, thịnh hành việc
222
dâm dục, làm cho chưa đến một năm, gan óc người tu khô
kiệt, miệng lẩm bẩm một mình nghe như yêu mỵ. Người
ngoài chưa rõ biết, nên phần nhiều mắc phải lưới pháp luật,
và chưa kịp xử hình đã chết khô trước. Thế là bọn Ma khuấy
phá người tu hành đến phải ốm chết. Ông nên tỏ biết trước
thì chẳng lọt luân hồi, còn mê lầm không biết thì đọa ngục
vô gián.
“Anan! phải biết rằng mười thứ Ma đó, trong thời Mạt Pháp,
hoặc xuất gia tu hành trong giáo pháp của Ta, hoặc gá thân
người, hoặc tự hiện hình, đều nói là đã thành Chánh Biến Tri
Giác, khen ngợi dâm dục, phá Luật Nghi Phật. Trước là thầy
Ác Ma cùng đệ tử Ma dâm dục truyền nhau, tà ma như vậy
mê hoặc lòng dạ, ít thì chín đời, nhiều thì trăm đời, khiến cho
người tu hành chân chánh đều làm quyến thuộc của Ma. Sau
khi chết đi hẳn làm dân Ma, bỏ mất Chánh Biến Tri, đọa
ngục ô Gián.
“Các ông nay chưa nên vội nhận lấy Niết Bàn tịch diệt trước.
ầu đắc quả ô ọc, cũng phát nguyện vào trong đời Mạt
Pháp kia, khởi Tâm Đại Từ Bi mà cứu độ cho chúng sanh
tâm địa ngay chánh, lòng tin tha thiết, khiến họ không mắc
vào tà ma, được tri kiến chân chánh. Nay Ta đã độ các ông ra
khỏi Sống Chết; các ông tuân theo lời Phật, đó gọi là báo
Phật Ân.
“Anan! Mười thứ cảnh hiện của Thiền Na như vậy đều thuộc
về Tưởng Ấm, do dụng tâm giao xen lẫn nhau mà hiện các
việc đó. Chúng sanh mê dại, chẳng biết tự xét, gặp nhân
duyên ấy, mê chẳng tự biết, cho là lên bực Thánh, thành Đại
ọng Ngữ, đọa ngục ô Gián. Sau khi Ta diệt độ, các ông
hãy đem lời nói này của Như Lai truyền dạy cho đời Mạt
Pháp, khiến khắp chúng sanh đều tỏ ngộ nghĩa đó, không để
223
cho Thiên Ma được dịp khuấy phá; giữ gìn che chở cho
người tu hành thành Đạo ô Thượng.
224
KINH ĐẠI PHẬT ĐẢNH THỦ LĂNG NGHIÊM (T M T T NG N)
225
Quyển X
Phạm vi của Hành Ấm
“Anan! Thiện nam tử kia, tu Tam Ma Đề, khi Tưởng Ấm
hết rồi thì những mộng tưởng bình thường của người ấy
tiêu diệt. Thức, ngủ là một, tánh Giác Minh rỗng lặng
như hư không trong trẻo, không còn những sự tướng tiền
trần thô trọng. Xem những núi sông, đất liền của thế gian
như gương soi sáng, đến không chỗ dính, đi không dấu vết,
rỗng thọ chiếu ứng, rõ ràng không còn các tập khí, chỉ thuần
một Tánh Tinh Chân. “Căn nguyên của Sanh iệt từ đó phơi
lộ ra, thấy được mười hai loài chúng sanh mười phương, rõ
hết các loài. Tuy chưa thông suốt manh mối của mỗi chúng
sanh nhưng đã thấy cái cơ sở sanh diệt chúng, giống như
bóng dã mã, vùn vụt lăng xăng sơ tượng hiện ra, làm cái then
chốt phát sanh của Phù căn trần. Đây gọi là phạm vi của
ành Ấm.
“Nếu cái nguồn gốc của những chớp nhoáng lăng xăng đó
nhập vào tánh lặng trong bản lai, những tập khí nguồn
gốc lặng trong thành một phiến, như sóng mòi diệt hóa
thành nước đứng, thì gọi là Hành Ấm hết. Người đó liền
vượt khỏi Chúng Sanh Trược90. Xét lại nguyên do, cội gốc
là ọng Tưởng u ẩn.
1.”Anan! Ông nên biết rằng các thiện nam tử được sự Chánh
Tri trong Tam Ma Địa thì Chánh Tâm đứng lặng sáng suốt,
mười loài Thiên Ma không còn được dịp khuấy phá, mới
được cứu xét cùng tột cái cội gốc sanh loại. Nơi cái cội gốc
sanh loại, nguồn gốc sự sống bày lộ ra. Xét cái cội nguồn
máy động lăng xăng tròn khắp giản phác u ẩn kia ở trong
90
Muốn hiểu rõ năm Trược (ngũ Trược) xem đoạn “Tâm Nhân Địa”
trang 81-82.
226
Tánh vốn toàn vẹn lại mống tâm so đo suy diễn, thì người đó
rơi lọt vào hai thứ luận ô Nhân.
“Một là, người đó thấy cái gốc vốn không có Nhân. ì sao
thế? Người đó đã phát lộ hoàn toàn được cơ quan của Sanh
iệt, nương theo tám trăm công đức của Nhãn Căn, thấy
được trong tám muôn kiếp tất cả chúng sanh đều do dòng
nghiệp lực mà xoay vần, chết đây sanh kia. Chỉ thấy chúng
sanh luân hồi trong đó, ngoài tám muôn kiếp thì mờ mịt
không thấy gì, bèn khởi tâm suy diễn rằng những loài chúng
sanh mười phương trong thế gian này trước tám vạn kiếp
không có Nhân, mà tự có. o sự suy diễn này, bỏ mất Chánh
Biến Tri, rơi lạc vào ngoại đạo, mê lầm Tánh Bồ Đề.
“ ai là, người đó thấy cái ngọn không có Nhân. ì sao thế?
Người đó nơi sự Sanh iệt đã thấy cội gốc, biết rằng người
sanh người, rõ chim sanh chim, quạ xưa nay đen, hạc xưa
nay trắng, người, trời thì thân đứng, súc sanh thì thân ngang,
màu trắng không phải do tẩy mà thành, màu đen chẳng phải
do nhuộm mà ra. Suốt tám muôn kiếp không hề dời đổi, sống
hết đời này cũng lại vẫn vậy, mà mình xưa nay chẳng thấy
Bồ Đề, làm sao có chuyện thành tựu Bồ Đề, rồi cho rằng tất
cả sự vật ngày nay đều vốn không có Nhân. o so đo suy
diễn như vậy, bỏ mất Chánh Biến Tri, rơi lạc vào ngoại đạo,
mê lầm Tánh Bồ Đề. Đây gọi là ngoại đạo Thứ Nhất, lập ra
luận ô Nhân.
2.”Anan! Trong Tam Ma Địa đó, các thiện nam tử chánh tâm
lặng trong, Ma không còn cơ hội. Người ấy cứu xét cùng tột
cội gốc sanh loại, xem thấy cái cội nguồn giản phác u ẩn
thường máy động kia, trong Tánh iên Thường lại khởi lên
so tính thì người ấy sa vào bốn cái Luận Biến Thường.
227
“Một là, người ấy xét cùng tánh của Tâm Cảnh, cả hai đều
không có Nhân. Tu tập biết được trong hai vạn kiếp mười
phương chúng sanh, chỗ có sanh diệt đều là xoay vần, chưa
hề tan mất, nên chấp đó là Thường.
“ ai là, người ấy xét cùng nguồn gốc tứ Đại, thấy bốn Đại
thường trụ. Tu tập biết được trong bốn vạn kiếp, mười
phương chúng sanh, chỗ có sanh diệt đều nằm trong bản thể
thường hằng, chưa hề tan mất, nên chấp đó là Thường.
“Ba là, người ấy xét cùng sáu Căn, trong Tâm, Ý và Thức
của Mạt Na Thức chấp thọ thì thấy cái gốc gác nguyên do
tánh vẫn thường hằng. Tu tập biết được trong tám vạn kiếp,
tất cả chúng sanh xoay vần chẳng mất, bản lai thường trụ.
Xét cùng cái tánh chẳng mất đó, chấp ấy là Thường.
“Bốn là, người ấy đã hết Tưởng Ấm, cái lẽ sanh diệt không
còn, sự trôi chuyển dừng lặng, tâm tưởng sanh diệt nay đã
vĩnh viễn diệt dứt. Trong lý tự nhiên thành ra cái chẳng sanh
diệt. o tâm so tính mà chấp đó là Thường. o những sự
Chấp Thường ấy, bỏ mất Chánh Biến Tri, sa vào ngoại đạo,
mê lầm tánh Bồ Đề. Đây gọi là ngoại đạo Thứ ai, lập ra
những luận iên Thường.
3. “Lại nữa, trong Tam Ma Địa, các thiện nam tử đó chánh
tâm đứng lặng kiên cố, Ma không còn cơ hội. Người ấy cứu
xét cùng tột gốc sanh loại, xem thấy cái cội nguồn giản phác
u ẩn thường máy động kia, lại khởi tâm so tính ra cái Ta và
cái khác Ta, thì người ấy sa vào bốn Kiến Chấp điên đảo, là
những luận Một phần ô Thường, một phần Thường.
“Một là, người ấy xét thấy cái tâm diệu minh lặng nhiên
khắp mười phương cõi, cho là Thần Ngã rốt ráo. Từ đó suy
diễn rằng Ta khắp cả mười phương, lặng sáng chẳng động,
còn tất cả chúng sanh, ở trong tâm Ta tự sanh tự chết. ậy
228
thì tâm tánh của Ta gọi là Thường, còn các thứ sanh diệt kia
là tánh ô Thường.
“ ai là, người ấy không xét xem cái tâm, lại xét xem khắp
mười phương hằng sa cõi nước, thấy chỗ kiếp hoại thì cho là
chủng tánh rốt ráo ô Thường, còn chỗ kiếp chẳng hoại thì
gọi là rốt ráo Thường.
“Ba là, người ấy xét xem riêng cái Tâm mình, thấy nó tinh tế
nhỏ nhiệm giống như vi trần, lưu chuyển mười phương,
Tánh không dời đổi. Có thể khiến thân này liền sanh liền
diệt. Cho cái tánh chẳng hoại đó là Tánh Thường của mình,
còn tất cả sự sanh tử từ tánh ấy sanh ra thì gọi là tánh ô
Thường.
“Bốn là, người ấy biết Tưởng Ấm hết, thấy dòng ành Ấm,
chấp rằng sự trôi chuyển không ngừng của ành Ấm là tánh
Thường, còn Sắc, Thọ, Tưởng nay đã diệt hết thì cho là Vô
Thường. o sự so tính một phần ô Thường, một phần
Thường đó mà sa lạc vào ngoại đạo, mê lầm tánh Bồ Đề.
Đây gọi là ngoại đạo Thứ Ba, lập ra những luận Một Phần
Thường.
4. “Lại nữa, trong Tam Ma Địa các thiện nam tử đó chánh
tâm đứng lặng kiên cố, Ma không còn cơ hội. Người ấy cứu
xét cùng tột cội gốc sanh loại, xem thấy cái cội nguồn giản
phác u ẩn thường máy động kia, lại sanh so tính về phận vị,
thì người ấy sa vào bốn cái luận ữu Biên.
“Một là, người ấy so tính cái cội nguồn Sanh iệt lưu
chuyển không ngừng, chấp quá khứ, vị lai là ữu Biên, còn
cái tâm tương tục là ô Biên.
“ ai là, người ấy xét xem trong tám vạn kiếp thì thấy chúng
sanh, còn trước tám vạn kiếp thì bặt không thấy nghe gì, rồi
229
gọi chỗ không thấy nghe gì là ô Biên, còn chỗ có chúng
sanh là ữu Biên.
“Ba là, người ấy cho rằng mình biết cùng khắp là được cái
tánh ô Biên, còn tất cả các người kia hiện ra trong cái biết
của mình mà mình không hề biết cái tánh biết của họ, vậy thì
họ không được cái tâm ô Biên, chỉ có tánh ữu Biên.
“Bốn là, người ấy xét cùng ành Ấm là Không, dùng chỗ
thấy biết của mình mà so lường, trù tính rằng trong một thân
của tất cả chúng sanh đều là nửa phần sanh, nửa phần diệt,
và chấp rằng tất cả sự vật có ra trong thế giới đều một nửa là
ữu Biên, một nửa là ô Biên. o sự suy tính ữu Biên,
ô Biên này mà sa lạc vào ngoại đạo, mê lầm tánh Bồ Đề.
Đây gọi là ngoại đạo Thứ Tư, lập ra những luận ữu Biên.
5. “Lại nữa, trong Tam Ma Địa các thiện nam tử đó chánh
tâm đứng lặng kiên cố, Ma không còn cơ hội. Người ấy cứu
xét cùng tột gốc sanh loại, xem thấy cái cội nguồn giản phác
u ẩn thường máy động kia, trong chỗ tri kiến lại khởi sanh so
tính thì người đó sa lạc vào bốn thứ luận hư vọng Biến Kế
Điên Đảo, Bất Tử Càn Loạn.
“Một là, người ấy quan sát cái cội nguồn biến hóa, thấy chỗ
dời đổi thì gọi là Biến, thấy chỗ tương tục thì gọi là Thường.
Thấy chỗ thấy được thì gọi là Sanh, chỗ không thấy được thì
gọi là iệt. Chỗ các nhân tương tục, không có gián đoạn thì
gọi là Tăng, chính trong tương tục, chỗ rời nhau ở giữa thì
gọi là Giảm. Chỗ sanh ra của mỗi cái thì gọi là Có, chỗ mất
đi của mỗi cái thì gọi là Không. ùng lý quán sát tất cả,
dụng tâm thấy riêng biệt nhau. Có người cầu pháp đến hỏi
nghĩa lý thì đáp rằng “Ta nay cũng sanh, cũng diệt, cũng có,
cũng không, cũng tăng, cũng giảm.” Trong mọi thời đều nói
năng lộn xộn, khiến cho người nghe lầm loạn chữ nghĩa.
230
“ ai là, người ấy quán kỹ cái tâm đắp đổi không nơi chốn,
nhân cái Không mà cho là chứng, có người đến hỏi, chỉ đáp
một chữ, chỉ nói là Không. Ngoài chữ Không ra không nói gì
cả.
“Ba là, người ấy quán kỹ cái tâm mỗi mỗi đều có chỗ, nhân
cái Có mà cho là chứng, có người đến hỏi, chỉ đáp một chữ,
chỉ nói là Phải. Trừ chữ Phải ra, không nói gì cả.
“Bốn là, người ấy chấp cả Có và Không. Cái cảnh đã phân
chia như vậy thì cái tâm cũng lộn xộn. Có người đến hỏi thì
đáp rằng: Cũng Có tức là cũng Không, trong cái Cũng
Không chẳng phải là Cũng Có. Tất cả đều càn loạn, không
thể nói hết được. o những so tính, càn loạn trống rỗng như
vậy mà sa lạc vào ngoại đạo, mê lầm tánh Bồ Đề. Đây gọi là
ngoại đạo Thứ Năm, lập ra bốn thứ luận hư vọng Biến Kế
Điên Đảo, Bất Tử Càn Loạn.
6. “Lại nữa, trong Tam Ma Địa các thiện nam tử đó chánh
tâm đứng lặng kiên cố, Ma không còn cơ hội. Người ấy cứu
xét cùng tột cội gốc sanh loại, xem thấy cái cội nguồn giản
phác u ẩn thường máy động kia, ở nơi dòng sanh diệt vô tận
khởi sanh so đo thì người ấy sa vào cái chấp điên đảo là sau
khi chết có tướng.
“ oặc tự củng cố sắc thân, bảo Sắc là Ta. oặc thấy cái Ta
tròn đầy, bao trùm khắp các cõi nước, bảo ta có sắc. oặc
thấy các tiền trần kia theo ta mà xoay trở lại, bảo sắc thuộc
về Ta. oặc thấy cái Ta nương trong ành Ấm mà tương
tục, bảo Ta ở nơi sắc. ọ đều so Tính mà cho rằng sau khi
chết có tướng, tuần hoàn như vậy có đến mười sáu tướng.
“Từ đó mà suy tính rằng rốt ráo phiền não và rốt ráo Bồ Đề,
hai tánh đó đi song song, không tiếp xúc nhau.
231
“ o sự so tính chấp rằng sau khi chết có tướng như vậy mà
sa lạc vào ngoại đạo, mê lầm tánh Bồ Đề. Đây gọi là ngoại
đạo Thứ Sáu, lập ra những Luận điên đảo Trong năm Ấm,
sau khi chết có tướng.
7. “Lại nữa, trong Tam Ma Địa các thiện nam tử đó chánh
tâm đứng lặng kiên cố, Ma không còn cơ hội. Người ấy cứu
xét cùng tột gốc sanh loại, xem thấy cái cội nguồn giản phác
u ẩn thường máy động kia, ở trong các Ấm: Sắc, Thọ, Tưởng
đã diệt ở trước khởi sanh so tính, người ấy sa vào những tư
tưởng điên đảo là sau khi chết không có Tướng.
“Người ấy thấy Sắc Ấm diệt, hình hài không nhân vào đâu.
Xét Tưởng Ấm diệt, tâm không ràng buộc vào đâu. Biết Thọ
Ấm diệt, không còn dính dáng. Tánh các Ấm được tiêu tan,
dù có sanh lý mà không có Thọ, Tưởng: đồng như cỏ cây.
Cái hình chất hiện tiền còn không thể nắm được, vậy sau khi
chết làm sao còn có các Tướng? o vậy mà cho rằng sau khi
chết không có Tướng. Xoay vần như vậy mà có tám thứ ô
Tướng.
“Từ đó mà suy tính rằng: Niết Bàn, Nhân Quả, tất cả đều
Không, chỉ có danh tự suông, chứ rốt ráo là Đoạn iệt. o
sự suy tính, chấp sau khi chết không có Tướng này mà sa lạc
vào ngoại đạo, mê lầm tánh Bồ Đề. Đây gọi là ngoại đạo
Thứ Bảy, lập ra những luận điên đảo Trong ngũ Ấm, sau khi
chết không có Tướng.
8. “Lại nữa, trong Tam Ma Địa các thiện nam tử đó chánh
tâm đứng lặng kiên cố, Ma không còn cơ hội. Người ấy cứu
xét cùng tột cội gốc sanh loại, xem thấy cái cội nguồn giản
phác u ẩn thường máy động kia, trong chỗ ành Ấm còn tồn
tại và Thọ, Tưởng Ấm đã diệt, lại so tính cả cái Có và
232
Không, tự thể phá nhau, thì người ấy lọt vào những luận điên
đảo Sau khi chết, Có và Không đều chẳng phải.
“Người ấy trong Sắc, Thọ, Tưởng thấy Có mà chẳng phải
Có, trong ành Ấm chuyển biến thấy Không mà chẳng phải
Không. Xoay vần như vậy cùng tột các Ấm thành ra tám
Tướng đều chẳng phải. Tùy gặp duyên gì đều nói sau khi
chết có Tướng, không Tướng.
“Lại suy tính ành Ấm tánh nó dời đổi nên tâm phát ra
thông tỏ, cho rằng Có, Không đều chẳng phải, hư thật lộn
lạo. o sự so tính, chấp “Sau khi chết, Có và Không đều
chẳng phải” mà việc về sau tối tăm mù mịt, không còn lối đi,
sa lạc vào ngoại đạo, mê lầm tánh Bồ Đề. Đây gọi là ngoại
đạo Thứ Tám, lập luận điên đảo: Trong ngũ Ấm, sau khi
chết, Có và Không đều chẳng phải.
9. “Lại nữa, trong Tam Ma Địa các thiện nam tử đó chánh
tâm đứng lặng kiên cố, Ma không còn cơ hội. Người ấy cứu
xét cùng tột cội gốc sanh loại, xem thấy cái cội nguồn giản
phác u ẩn thường máy động kia, sanh ra so tính rằng về sau
này là Không, thì người ấy lọt vào bảy thứ luận Đoạn iệt.
“ oặc chấp Thân này là diệt, hoặc chấp hết ục là diệt, hoặc
hết Khổ là diệt, hoặc Cực Lạc là diệt, hoặc Tột Xả là diệt.
Xoay vần như vậy cùng tột bảy cách, cho rằng hiện tiền là
tiêu diệt, diệt rồi không trở lại nữa.
o sự so tính “Sau khi chết là đoạn diệt” như vậy, sa lạc vào
ngoại đạo, mê lầm tánh Bồ Đề. Đây gọi là ngoại đạo Thứ
Chín lập ra luận điên đảo “Sau khi chết là Đoạn iệt.”
10. “Lại nữa, trong Tam Ma Địa các thiện nam tử đó chánh
tâm đứng lặng vững chắc, Ma không còn cơ hội. Người ấy
cứu xét cùng tột cội gốc sanh loại, xem thấy cái cội nguồn
233
giản phác u ẩn thường máy động kia, lại sanh ra so tính rằng
sau này là Có, thì người ấy sa vào năm luận Niết Bàn.
“ oặc lấy ục Giới làm cái chuyển y chánh thật, do xem
thấy sáng suốt vẹn khắp mà sanh yêu mến vậy. oặc lấy Sơ
Thiền làm cái chuyển y chánh thật, vì thấy tánh cõi này
không có Lo Âu. oặc lấy Nhị Thiền, vì tánh nó không có
Khổ. oặc lấy Tam Thiền, vì rất ui Đẹp. oặc lấy Tứ
Thiền, vì Khổ ui đều hết, chẳng chịu luân hồi sanh diệt.
ậy là mê lầm cõi trời ữu Lậu là tánh ô i, cho rằng năm
chỗ yên ẩn trên là nơi quả báo thù thẳng thanh tịnh. Xoay
vần như vậy cùng tột có năm chỗ.
“ o suy tính chấp trước năm thứ Niết Bàn hiện có như vậy
mà sa lạc vào ngoại đạo, mê lầm tánh Bồ Đề. Đây gọi là
ngoại đạo Thứ Mười, lập ra những luận điên đảo: Trong năm
Ấm có năm thứ Niết Bàn hiện có.
“Anan! Mười thứ cuồng giải Thiền Na như vậy đều do ành
Ấm và tâm dụng công xen nhau, nên hiện ra những nhận
thức đó. Chúng sanh mê dại, không biết tự lượng xét, gặp
các cái đó hiện ra, lấy mê làm ngộ, tự cho là chứng Thánh,
thành tội Đại ọng Ngữ mà đọa ngục ô Gián.
“Các ông quyết phải đem lời của Như Lai, sau khi Ta diệt độ
rồi, truyền dạy cho đời Mạt Pháp, khắp giúp chúng sanh hiểu
rõ nghĩa này, không để cho Tâm Ma tự gây nên những tội lỗi
sâu nặng, giữ gìn che chở cho chúng sanh tiêu diệt các tà
kiến, dạy cho thân tâm họ khai mở Giác ngộ Chân Nghĩa,
không mắc vào các đường rẽ trong Đạo ô Thượng. Chớ để
họ được một ít đã cho là đủ, và nêu ra lời chỉ dạy thanh tịnh
của vị Đại Giác.
234
Phạm vi của Thức Ấm
“Anan! Thiện nam tử ấy tu Tam Ma Đề, Hành Ấm hết rồi
thì cái then chốt chung U Ẩn giản phác máy động sanh ra các
loài thế gian bỗng chốc nát tan. Giềng mối vi tế, mạch ngầm
gây nghiệp chịu quả báo của ngã thể chúng sanh, cảm ứng
đều dứt bặt. Người ấy hầu như sắp đại minh ngộ trong
bầu trời Niết Bàn, ví như gà gáy lần chót, ngắm về phương
Đông đã có sắc tinh sáng. Sáu Căn rỗng sạch, không còn
rong ruổi, trong ngoài trong lặng sáng suốt, nhập vào cái
Không Chỗ ào. Thấu suốt nguyên do nắm lấy cội nguồn,
các loài không còn hấp dẫn được. Nơi mười phương thế giới
đã được Tánh Đồng. Cái sắc tinh sáng chẳng chìm, phát hiện
u ẩn bí mật. Đây gọi là phạm vi của Thức Ấm.
“Nếu trong Tánh Đồng đã chứng được của các loài mà tiêu
tan sáu căn, khi hợp, khi chia được thành tựu, thấy nghe
thông nhau, dùng thay lẫn nhau một cách thanh tịnh, mười
phương thế giới cùng với thân tâm như ngọc lưu ly, trong
ngoài sáng suốt thì gọi là Thức Ấm hết. Người ấy có thể siêu
vượt Mạng Trược91. Xét lại nguyên do, cội gốc là vọng
tưởng điên đảo, ảo tượng rỗng không.
“Anan! Phải biết thiện nam tử ấy đã cùng tột tánh Không của
các ành, về đến nguồn Thức, đã diệt sanh diệt nhưng chưa
viên mãn trong chỗ tinh diệu của Tịch iệt. Người ấy có thể
khiến nơi thân mình, các Căn khác nhau khi hợp, khi chia và
cùng với các loài mười phương thông chung Tánh Giác. Cái
Giác Tri thông suốt một màu vắng lặng, có thể nhập vào
nguồn viên mãn.
91
Muốn hiểu rõ năm Trược (ngũ Trược) xem đoạn “Tâm Nhân Địa”
trang 81-82.
235
[Sau khi đã phá được Hành Ấm rồi và đang trong trạng thái
của Thức Ấm, hành giả có thể khởi sanh những tư tưởng cho
là “thắng giải” như mười quan niệm của các nhóm ngoại
đạo thời bấy giờ như Đức Phật nêu ra sau đây.]
1.“Anan! Nếu ở chỗ quay về, lập ra cái nhân Chân Thường
mà sanh thắng giải, thì người ấy sa vào cái chấp Nhân Sở
Nhân, thành bạn bè với đám Sa Tỳ Ca La, quy về Minh Đế,
mê lầm Bồ Đề của Phật, bỏ mất Chánh Tri Kiến. “Đó gọi là
hạng Thứ Nhất, lập ra cái tâm có chỗ đắc, thành cái quả có
chỗ quy về, trái xa tánh iên Thông, ngược với đạo Niết
Bàn, sanh vào giống ngoại đạo.
2. “Anan! Lại nữa, thiện nam tử ấy đã cùng tột Tánh Không
của ành Ấm, đã diệt sanh diệt, nhưng chưa viên mãn trong
chỗ tinh diệu của Tịch iệt. Nếu ở chỗ quay về mà ôm làm
tự thể của mình, tất cả chúng sanh trong mười hai loài khắp
cả hư không đều ở trong thân mình tuôn khởi ra, rồi sanh
thắng giải thì người ấy sa vào kiến chấp Năng, Phi Năng,
thành bạn bè với Trời Ma ê Thủ La, hiện thân ô Biên, mê
lầm Bồ Đề của Phật, bỏ mất Chánh Tri Kiến. “Đó gọi là
hạng Thứ ai, lập ra cái tâm Năng i, thành cái quả Năng
Sự, trái xa tánh iên Thông, ngược với đạo Niết Bàn, sanh
vào giống Đại Mạn Thiên, cho cái Ta là cùng khắp viên mãn.
3.“Anan! Lại nữa, thiện nam tử ấy đã cùng tột Tánh Không
của ành Ấm, đã diệt sanh diệt, nhưng chưa viên mãn trong
chỗ tinh diệu của tịch diệt. Nếu ở chỗ quay về mà có chỗ
nương tựa, tự nghi rằng thân tâm mình từ chỗ kia phát sanh
ra, và cả mười phương hư không cũng đều do chỗ kia sanh
ra, rồi ngay nơi cái chỗ sanh ra tất cả đó cho là thể chân
thường không sanh diệt. ậy là ở trong sanh diệt sớm chấp là
thường trụ. Đã lầm là chẳng sanh, mà còn mê sự sanh diệt.
An trụ trong mê lầm trầm trọng mà sanh thắng giải thì người
236
ấy sa vào cái chấp Thường, Phi Thường, thành bạn bè của
những kẻ chấp Tự Tại Thiên, mê lầm Bồ Đề của Phật, bỏ
mất Chánh Tri Kiến. “Đó gọi là hạng Thứ Ba, lập ra cái tâm
Nhân Y, thành cái quả ọng Kế, trái xa iên Thông, đi
ngược đạo Niết Bàn, sanh ra dòng giống Đảo iên.
4.“Anan! Lại nữa, thiện nam tử ấy đã cùng tột Tánh Không
của ành Ấm, đã diệt sanh diệt, nhưng chưa viên mãn trong
chỗ tinh diệu của Tịch iệt. Nếu nơi chỗ hay biết, nhân sự
hay biết cùng khắp mà lập ra cái nhận thức rằng cỏ cây mười
phương đều gọi là hữu tình, không khác với người. Cây cỏ
làm người, người chết rồi trở lại thành cỏ cây mười phương.
Ở nơi cái hay biết cùng khắp, không có chọn lựa và cho là
thắng giải. Người ấy sa vào kiến chấp Tri, ô Tri, thành bạn
bè của bọn Bà Tra, Tiển Ni chấp tất cả đều có hay biết, mê
lầm Bồ Đề của Phật, bỏ mất Chánh Tri Kiến. “Đó gọi là
hạng Thứ Tư suy Tánh cái tâm iên Tri thành cái quả sai
lầm, trái xa Tánh iên Thông, đi ngược đạo Niết Bàn, sanh
ra giống Đảo Tri.
5.“Anan! Lại nữa, thiện nam tử ấy đã cùng tột Tánh Không
của ành Ấm, đã diệt sanh diệt, nhưng chưa viên mãn trong
chỗ tinh diệu của Tịch iệt. Nếu ở trong chỗ viên dung của
các Căn dùng thay lẫn nhau đã được tùy thuận, bèn ở nơi
tánh viên dung biến hóa phát sanh các thứ mà cầu cái ánh
sáng của ỏa Đại, ưa cái trong sạch của Thủy Đại, thích cái
tràn khắp của Phong Đại, ngắm cái thành tựu của Địa Đại.
Mỗi mỗi đều sùng phụng cho các Đại kia là bản nhân, lập
thành cái nhận thức thường trụ thì người ấy sa vào cái kiến
chấp sanh vô sanh, thành bè bạn của nhóm Ca iếp Ba và Bà
La Môn, đem hết thân tâm thờ nước, thờ lửa để cầu ra khỏi
sanh tử, mê lầm Bồ Đề của Phật, bỏ mất Chánh Tri Kiến.
237
“Đó gọi là hạng Thứ Năm, chấp trước sùng phụng, mê tâm
theo vật, lập ra cái nhân mong cầu hư vọng mà đợi cái quả
giả dối, trái xa tánh viên thông, đi ngược đạo Niết Bàn, sanh
ra giống Điên óa.
6. “Anan! Lại nữa, thiện nam tử ấy đã cùng tột Tánh Không
của ành Ấm, đã diệt sanh diệt, nhưng chưa viên mãn trong
chỗ tinh diệu của Tịch iệt. Nếu ở nơi chỗ viên minh, chấp
sự trống không trong viên minh, bác bỏ tiêu diệt các sự vật
biến hóa. Lấy sự vĩnh viễn diệt mất làm chỗ quy y, rồi sanh
thắng giải thì người ấy sa vào kiến chấp Quy ô Quy thành
bè bạn của nhóm chấp Không trong ô Tưởng Thiên, mê
lầm Bồ Đề của Phật, bỏ mất Chánh Tri Kiến.
“Đó gọi là hạng Thứ Sáu, vẹn thành tâm hư vô, kết nên cái
quả Không ong, trái xa tánh iên Thông, đi ngược đạo
Niết Bàn, sanh ra giống Đoạn iệt.
7.“Anan! Lại nữa, thiện nam tử ấy đã cùng tột Tánh Không
của ành Ấm, đã diệt sanh diệt, nhưng chưa viên mãn trong
chỗ tinh diệu của Tịch iệt. Nếu nơi tánh iên Thường củng
cố cái thân cho thường trụ như tánh ấy, mãi không suy mất
mà sanh thắng giải, thì người ấy sa vào cái chấp Tham Phi
Tham, thành bè bạn của nhóm A Tư Đà, cầu được mạng
sống lâu dài, mê muội Bồ Đề của Phật, bỏ mất Chánh Tri
Kiến.
“Đó gọi là hạng Thứ Bảy, bám níu cái Mệnh Căn, lập cái
Nhân củng cố vọng thân hướng theo cái Quả Khổ nhọc lâu
dài, trái xa tánh iên Thông, đi ngược đạo Niết Bàn, sanh ra
giống ọng iên.
8. “Lại nữa, thiện nam tử ấy cùng tột Tánh Không của ành
Ấm, đã diệt sanh diệt, nhưng chưa viên mãn trong chỗ tinh
diệu của Tịch iệt. Xét Mệnh Căn thông lẫn với nhau, lại
238
muốn giữ lại nơi trần lao, sợ nó tiêu hết. Bèn ở giới hạn này,
ngồi cung liên hoa, hóa ra nhiều thứ bảy báu cùng nhiều mỹ
nữ, buông lung tâm mình mà sanh thắng giải. Người ấy sa
vào cái chấp Chân ô Chân thành bè bạn của nhóm Tra Chỉ
Ca La, mê lầm Bồ Đề của Phật, bỏ mất Chánh Tri Kiến.
“Đó gọi là hạng Thứ Tám, lập cái nhân Tà Tư thành cái quả
Xí Trần, trái xa tánh iên Thông, đi ngược đạo Niết Bàn,
sanh ra giống Thiên Ma.
9.“Anan! Lại nữa, thiện nam tử ấy đã cùng tột Tánh Không
của ành Ấm, đã diệt sanh diệt, nhưng chưa viên mãn trong
chỗ tinh diệu của Tịch iệt. Ở trong chỗ cội gốc rỗng sáng
của Mạng Căn, phân biệt cái tinh, cái thô để quyết rõ Chân,
Ngụy. Nơi nhân quả đền đáp, chỉ cầu cảm ứng, trái ngược
với đạo thanh tịnh là thấy Khổ, đoạn Tập, chứng iệt, tu Đạo
mà ở nơi chỗ iệt cho là xong, không chịu tiến tới rồi sanh
thắng giải. Người ấy sa vào hàng Định Tánh Thanh ăn,
thành bạn bè của nhóm tăng ô ăn là những người tăng
thượng mạn, mê lầm Bồ Đề của Phật, bỏ mất Chánh Tri
Kiến.
“Đó gọi là hạng Thứ Chín, cố viên thành cái tâm Tinh Ứng,
thành cái quả Thú Tịnh, trái xa tánh iên Thông, đi ngược
đạo Niết Bàn, sanh ra giống Triền Không.
10.“Anan! Lại nữa, thiện nam tử ấy đã cùng tột Tánh Không
của ành Ấm, đã diệt sanh diệt, nhưng chưa viên mãn trong
chỗ tinh diệu của Tịch iệt. Nếu ở trong tánh Giác Minh
thanh tịnh viên dung phát minh chỗ thâm diệu bèn lập đó là
Niết Bàn mà không tiến tới, sanh làm thắng giải, thì người ấy
sa vào hàng định tánh Bích Chi, thành bạn bè của các vị
uyên Giác, Độc Giác chẳng hồi tâm hướng Đại Thừa, mê
lầm Bồ Đề của Phật, bỏ mất Chánh Tri Kiến.
239
“Đó gọi là hạng Thứ Mười, viên thành Giác Tâm vắng lặng,
thành cái quả Trạm Minh, trái xa tánh iên Thông, đi ngược
đạo Niết Bàn, sanh ra hạng Giác iên Minh, mà không dung
hóa được tánh iên.
“Anan! Mười loại Thiền Na như vậy, giữa đường hóa điên,
do nương mê lầm trong chỗ chưa đủ lại cho đã chứng đủ, đều
do Thức Ấm và tâm dụng công xen nhau mà sanh các thứ vị
như thế. Chúng sanh mê dại, không biết tự xét, gặp cái đó
hiện tiền, mỗi mỗi dùng cái tâm mê lầm còn ưa thích những
tập quán cũ mà tự dừng nghỉ, cho đó là chỗ quay về rốt ráo,
tự bảo đã đầy đủ ô Thượng Bồ Đề, thành đại vọng ngữ.
Các tà ma ngoại đạo khi nghiệp báo chiêu cảm hết rồi thì sa
vào ngục ô Gián. àng Thanh ăn, uyên Giác thì không
thể tiến tới thêm.
“Các ông để tâm giữ gìn Đạo Như Lai, sau khi Ta diệt độ rồi,
đem pháp môn này truyền bày trong đời Mạt Pháp, khiến
khắp chúng sanh hiểu rõ nghĩa này, không để cho những ma
tà kiến tự gây ra nạn lớn cho mình. Giữ gìn thương cứu, tiêu
dứt các tà duyên, khiến cho thân tâm vào Tri Kiến Phật, từ
bắt đầu đến thành tựu, không mắc các lối rẽ.
“Pháp môn như thế, các Đức Như Lai như số vi trần trong
hằng sa kiếp quá khứ đều nương cái Tâm mở tỏ này mà đắc
đạo ô Thượng. Khi Thức Ấm hết sạch rồi thì ngay hiện
tiền, các Căn của ông đều có thể dùng thay lẫn nhau. Từ
chỗ các Căn dùng thay lẫn nhau, bèn vào Kim Cương
Càn Huệ Địa Bồ Tát, cái Tâm tinh diệu viên minh ở
trong đó phát hóa ra như ngọc lưu ly thanh tịnh bên
trong ngậm mặt trăng báu. Như thế mà vượt lên Thập Tín,
Thập Trụ, Thập ạnh, Thập ồi ướng, Tứ Gia ạnh Tâm
và Thập Địa Kim Cương là chỗ ành của Bồ Tát, cho đến
địa vị Đẳng Giác iên Minh mà thể nhập vào Biển iệu
240
Trang Nghiêm Như Lai, viên mãn Bồ Đề, về trong ô Sở
Đắc.
“Đó là những ma sự vi tế mà các đức Phật Thế Tôn đời quá
khứ trước đã Giác ngộ, nghiệm rõ và phân tích trong pháp
Chỉ Quán. Nếu cảnh ma hiện ra mà ông rõ biết thì sự dơ
nhiễm của tâm được rửa trừ, không lạc vào tà kiến, Ấm Ma
tiêu diệt, Thiên Ma tan tác, Đại Lực Quỉ Thần hết hồn chạy
trốn, Ly Mỵ, ọng Lượng chẳng còn sanh ra, thẳng đến Bồ
Đề, không có những thiếu sót. àng hạ liệt cũng được tăng
tiến, đối trong Đại Niết Bàn Tâm không mê buồn. Nếu các
chúng sanh mê dại trong đời Mạt Pháp chưa hiểu Thiền Na,
chẳng rõ lời thuyết pháp mà ưa tu Tam Muội, ông e rằng họ
lạc vào đường tà thì phải một lòng khuyên bảo họ trì chú
Phật Đảnh Đà La Ni của Ta. Nếu chưa có thể tụng niệm, hãy
viết nơi thiền đường hoặc đeo trong thân thì tất cả các ma
không thể động đến. Ông nên kính vâng sự dạy bảo cuối
cùng về đường tiến tu rốt ráo của mười phương Như Lai.
Sanh tử là vọng tưởng của năm Ấm mà có, Lý tuy đốn
ngộ, Sự phải tiệm trừ
Ngài Anan liền từ chỗ ngồi đứng dậy, nghe Phật dạy bảo,
đảnh lễ kính vâng, ghi nhớ không sót, ở trong đại chúng lại
bạch Phật rằng:
“Như lời Phật dạy, trong Tướng Ngũ Ấm có năm thứ hư
vọng làm cái tâm tưởng cội gốc. Chúng con bình thường
chưa được nhờ Đức Như Lai khai thị tỉ mỉ. Lại năm Ấm ấy
là tiêu trừ một lượt hay theo thứ lớp mà hết? Năm lớp như
vậy đến đâu là giới hạn? Xin nguyện Đức Như Lai phát rộng
đại từ làm cho con mắt Tâm của đại chúng này được trong
sáng để làm đạo nhãn tương lai cho tất cả chúng sanh trong
đời Mạt Pháp.”
241
Phật bảo ngài Anan: “Tánh Tinh Chân thì iệu Minh, tánh
Bản Giác là iên Tịnh, chẳng có vết tích của sanh tử và các
trần cấu, cho đến hư không cũng đều nhân vọng tưởng mà có
ra. Tất cả cái ấy nguyên là Bản Giác Diệu Minh Chân
Tinh vọng phát sanh ra các khí thế gian, như chàng iễn
Nhã Đa mê cái đầu mà nhận bóng trong gương. ọng vốn
không có nhân, mà ở trong vọng tưởng lập ra tánh Nhân
uyên. Mê lầm Nhân uyên thì gọi đó là Tự Nhiên. Cái
tánh của hư không kia còn thật là huyễn hóa sanh ra huống là
Nhân uyên hay Tự Nhiên, tất cả đều là sự so tính của vọng
tâm chúng sanh mà ra cả.
“Anan! Biết là hư vọng khởi ra mà nói nhân duyên hư
vọng. Nhưng hư vọng gốc vốn không có thì cái nhân duyên
hư vọng đó không chỗ có, huống gì là không biết mà suy
rằng Tự Nhiên.
“Thế nên Như Lai phát minh cho các ông rằng bản nhân của
năm Ấm đồng là Vọng Tưởng. Thân thể của ông trước hết
nhân cái Tưởng của cha mẹ mà sanh. Tâm của ông nếu
chẳng phải là Tưởng thì đâu có đến trong Tưởng mà gá
mạng. Như Ta đã nói ở trước, Tâm tưởng đến vị chua thì
trong miệng chảy nước bọt. Tâm tưởng việc lên cao, trong
lòng bàn chân thấy ghê ghê. ốc cao không có, vật chua
chưa tới, thân thể của ông nếu chẳng cùng loài hư vọng thì
cớ sao nghe nói tới chua thì nước miếng chảy ra? “Thế nên,
phải biết Sắc Thân hiện giờ của ông chính là Vọng Tưởng
kiên cố Thứ Nhất.
“Ngay nơi cái tâm tưởng tượng lên cao vừa nói đó mà có thể
khiến thân ông thật thọ sự ghê rợn. o các Thọ sanh ra mà
có thể giao động Sắc Thân.
242
“Vậy hiện nay hai thứ Thuận Ích và Trái Tổn92
đang
giong ruổi nơi ông chính là Vọng Tưởng hư minh Thứ
Hai.
“ o những niệm lự sai khiến Sắc Thân của ông, nếu Sắc
Thân chẳng phải cùng loại với Niệm thì cớ sao thân ông lại
theo Niệm mà bị sai sử, mỗi mỗi nhận lấy hình tượng, tâm
khởi nắm giữ hình tượng tương ứng với Niệm? Thức là
tưởng Tâm, ngủ làm chiêm bao.
“Vậy Vọng Tình, Tưởng Niệm giao động của ông chính là
Vọng Tưởng dung thông Thứ Ba.
“Sự chuyển hóa không dừng, xoay vần âm thầm dời đổi,
móng tay dài, tóc mọc lên, khí lực tiêu, dung mạo nhăn, ngày
đêm thay thế, không hề hay biết. Anan! Nếu cái đó không
phải là ông thì cớ sao thân ông lại thay đổi? Còn nếu nó thật
là ông, thì cớ sao ông không hay biết?
“Vậy các Hành Ấm của ông niệm niệm chẳng dừng chính
là Vọng Tưởng u ẩn Thứ Tư.
“Lại chỗ tinh minh đứng lặng không giao động của ông mà
gọi là thường hằng thì nơi thân ông chẳng ra ngoài những sự
Thấy, Nghe, ay, Biết. Nếu nó thật là Tánh Tinh Chân thì
chẳng chứa nhóm hư vọng, vì sao các ông trong năm xưa đã
từng thấy một vật lạ, trải qua nhiều năm không hề nghĩ đến,
về sau bỗng nhiên thấy vật lạ đó thì nhớ lại rõ ràng, không hề
sót mất. ậy trong cái tinh minh đứng lặng không lay động
này, niệm niệm chịu sự huân tập không thể tính toán hết
được.
“Anan! Nên biết cái trong lặng này chẳng phải chân thật,
như dòng nước chảy xiết, trông như đứng yên, vì chảy nhanh
92
Thuận thì lợi Ích, Trái thì Tổn hại.
243
nên không thấy chứ chẳng phải không chảy. Nếu chẳng phải
là nguồn Tưởng thì đâu chịu tập khí hư vọng. Nếu sáu Căn
của ông chưa được chia hợp, dùng thay lẫn nhau thì cái
ọng Tưởng đó không khi nào diệt được.
Vậy nên hiện nay cái tập khí tập hợp quán xuyến những
sự Thấy, Nghe, Hay, Biết của ông là cái Tưởng tinh vi tế
nhiệm, điên đảo, ảo tượng rỗng không Thứ Năm trong
tánh trong lặng thấu suốt của ông.
“Anan! Năm cái Thọ Ấm đó do năm ọng Tưởng tạo thành.
“Ông nay muốn biết nguyên do và giới hạn sâu cạn, thì Sắc
và Không là biên giới của Sắc Ấm; Xúc và Lìa là biên giới
của Thọ Ấm; Nhớ và Quên là biên giới của Tưởng Ấm;
Diệt và Sanh là biên giới của Hành Ấm; Lặng trong nhập
hợp với Lặng trong là biên giới của Thức Ấm.
“Năm Ấm ấy vốn trùng điệp sanh khởi. Sanh thì nhân Thức
mà có, diệt thì từ Sắc mà trừ. Lý ắt đốn ngộ, nương Ngộ tiêu
sạch. Sự chẳng phải đốn trừ, theo thứ lớp dứt hết.
“Ta đã chỉ cho ông về cái nút khăn Kiếp Ba La, có chỗ nào
chẳng suốt tỏ, mà phải hỏi lại như vậy. Ông nên dùng cái
tâm được khai thông về căn nguyên ọng Tưởng này, truyền
dạy cho tương lai những người tu hành trong đời Mạt Pháp,
khiến cho họ rõ hư vọng, tự sanh nhàm chán sâu xa, biết có
Niết Bàn, chẳng luyến mê ba cõi.
Được Phước tiêu Tội hơn cả
“Anan! í như có người đem các thứ thất bảo đầy dẫy hư
không cùng khắp mười phương, dâng lên Chư Phật như số vi
trần, vâng thờ cúng dường, Tâm không lúc nào xao lãng. Ý
ông thế nào? Người ấy do nhân duyên cúng dường Phật như
vậy được phước nhiều chăng?”
244
Ngài Anan đáp rằng: “ ư không vô tận, trân bảo vô biên.
Ngày xưa có chúng sanh cúng Phật bảy đồng tiền, đến lúc bỏ
thân rồi còn được địa vị Chuyển Luân ương, huống gì hiện
tiền hư không cùng tột, cõi Phật đầy khắp, đều là trân bảo,
thì dù suy nghĩ cùng kiếp còn chẳng thể thấy, phước ấy làm
sao có bờ bến.”
Phật bảo ngài Anan: “Chư Phật Như Lai lời không hư vọng.
Nếu lại có người thân đủ các tội Tứ Trọng, thập Ba La i,
giây lát phải trải qua địa ngục A Tỳ phương này phương
khác, cho đến cùng hết các địa ngục ô Gián mười phương,
không đâu chẳng trải mà có thể trong một niệm đem pháp
môn này khai thị cho người chưa học đời Mạt Pháp, thì tội
chướng người ấy trong niệm đó liền được tiêu diệt, biến cái
nhân phải chịu khổ địa ngục thành An Lạc Quốc, được
phước siêu vượt trăm lần, ngàn lần, vạn lần, ức lần hơn
người thí cúng trước, như thế cho đến toán số thí dụ không
thể nói hết được.
“Anan! Nếu có chúng sanh tụng được kinh này, trì được chú
này như Ta nói rộng ra thì cùng kiếp chẳng hết. Y theo lời
dạy của Ta, như lời dạy mà hành đạo, thẳng vào Bồ Đề,
không còn ma nghiệp.
Phật nói kinh này xong, hàng Tỳ Kheo, Tỳ Kheo Ni, cư sĩ
nam, cư sĩ nữ, tất cả thế gian Trời, Người, A Tu La cùng các
vị Bồ Tát, Nhị Thừa, Thánh Tiên, Đồng Tử ở phương khác và
các Đại Lực Quỉ Thần mới phát tâm thảy đều hoan hỷ, làm
lễ mà lui.
Kinh Chấm Dứt
245
Những đoạn cần lưu ý, trích từ
Kinh Đại Phật Đảnh Thủ Lăng Nghiêm
(1) Tất cả chúng sanh từ vô thủy đến nay, sống
chết nối nhau đều do không biết cái Chơn Tâm
Thường Trụ, Thể Tánh vốn trong sạch, sáng suốt
mà lại dùng các Vọng Tưởng chẳng chân thật nên
mới có sự chuyển động trôi lăn.
(2) Hết thảy chúng sanh từ vô thủy đến nay, do
không biết hai loại căn bản lầm lẫn tu tập, cũng như
nấu cát mà muốn thành món ngon, dầu trải qua số
kiếp nhiều như bụi, rốt cũng chẳng được. Thế nào là
hai loại căn bản? Anan! Một là: Cội gốc của Sanh
Tử từ vô thủy93
. Tức là ông hiện giờ và các chúng
sanh dùng cái Tâm bám níu theo duyên94
mà làm
Tự Tánh95.” ai là: Cái Thể Bổn Lai Thanh Tịnh
Bồ Đề Niết Bàn Vô Thủy, tức là cái Chơn Tâm vốn
sáng soi của ông bây giờ, hay sanh các duyên. Ông
lại duyên theo các tướng duyên này mà bỏ quên Chơn
Tâm. Cho nên tuy trọn ngày sử dụng Nó (Chơn
Tâm) mà chẳng tự biết, oan uổng lạc vào sáu nẽo.
(3) Cái năng biết suy nghĩ hiện nay của Ông (ngài
Anan) đó là cái Tưởng tạo nên các tướng hư vọng
của tiền trần96
, nó làm mê lầm Chơn Tánh của
ông. Do từ vô thủy đến nay, ông nhận tên giặc đó
làm con, bèn mất đi cái ốn Thường Hằng (Chơn
Tâm.)
(4) Khi ấy Đức Thế Tôn liền khai thị cho ngài
Anan và đại chúng muốn được Vô Sanh Pháp
93
Cội gốc của Sanh Tử từ vô thủy là “Căn bản vô minh” 94
Cái Tâm bám níu theo duyên là “ ọng Tâm.” 95
Tự Tánh cũng gọi là Chơn Tâm, Phật Tánh … 96
Tất cả những gì là đối tượng của sáu căn thì được gọi là “tiền trần.”
246
Nhẫn97. Ngài nói: Như Lai thường nói các Pháp
98
sanh ra đều do Tâm hiện. Hãy phân biệt, nếu rời
cái tiền trần mà có cái phân biệt (cái biết nói
chung) thì đó mới là Chơn Tâm của ông; còn nếu
rời tiền trần mà không có cái phân biệt (cái biết) thì
đó chỉ là sự phân biệt bóng dáng tiền trần (Vọng
Tâm) mà thôi không thể chứng Vô Sanh Pháp Nhẫn.
(5) Từ sắc thân cho đến núi sông, hư không, đất
đai bên ngoài, hết thảy đều là vật hiện trong cái
Diệu Minh Chơn Tâm.
(6) Tất cả chúng sanh từ vô thủy đến nay, mê
[lầm] mình làm vật, bỏ mất Bản Tâm, bị vật xoay
chuyển, cho nên ở trong đó mà thấy lớn thấy nhỏ.
Nếu có thể chuyển được vật thì đồng với Như Lai,
Thân Tâm tròn sáng. Đó là Đạo Tràng Bất Động,
trên đầu một mảy lông, trùm chứa mười phương quốc
độ.
(7) Đức Phật bảo: Mười phương Như Lai và các
Đại Bồ Tát ở trong Tự Trụ Ta Ma Địa99
, ở trong ấy,
cái Thấy và cái được thấy cùng các chỗ Tưởng
Tướng đều như hoa đốm giữa hư không, vốn không
chỗ có cái Thấy cho đến những cái được Thấy, tất cả
vốn là Thể Bồ Đề100
sáng sạch nhiệm mầu. Làm sao
ở trong đó lại có Phải hay Chẳng Phải101
?
(8) Khi thấy mà có Tướng Thấy, cái thấy đó chẳng
phải là Tánh Thấy. Cái Thấy mà do lìa Tướng
Thấy vẫn có, đó mới là Tánh Thấy siêu việt.
97
Vô Sanh Pháp Nhẫn là quả vị không còn tái sanh nữa. 98
Các Pháp ở đây có nghĩa là tất cả núi sông, đất đai, chúng sanh... 99
Tam Ma Địa là âm chữ Phạn Samadhi có nghĩa là Chánh Định. 100
Tất cả vốn Thể Bồ Đề có nghĩa là tất cả đưa về Như Lai Tạng. 101
Không còn sự đối đãi, bất nhị (không hai).
247
(9) Đức Phật dạy: Này Anan! Tất cả chúng sanh
luân hồi trong thế gian đều do hai thứ vọng thấy điên
đảo phân biệt ngay nơi Tâm Tánh mà phát sanh, ngay
theo nghiệp mà xoay vần. Thế nào là hai thứ vọng
thấy? Một là Vọng Thấy Biệt Nghiệp của chúng
sanh, hai là Vọng Thấy Đồng Phận của chúng sanh.
Thế nào là Vọng Thấy Biệt Nghiệp? Anan! Như
người bị nhặm mắt ban đêm nhìn ngọn đèn thấy có
năm màu bao phủ. Tuy nhiên, người không bị nhặm
mắt, nhìn ngọn đèn lại không thấy có năm màu bao
phủ. Cho nên cái thấy có năm màu bao phủ là do
bệnh nhặm mắt mà ra. Còn cái thấy được bệnh nhặm
mắt thì vốn chẳng phải là bệnh vậy. Cho nên người
trí không nên đi tìm căn nguyên của năm màu do
mắt nhặm sanh ra là có hình tướng hay chẳng có
hình tướng.
Thế nào là Vọng Thấy Đồng Phận? Anan! Cõi
iêm Phù Đề này, ngoài nước biển ra, trong đó có ba
ngàn Châu (lục địa.) Nếu ở trong đó có một Châu
nhỏ chỉ có hai nước mà riêng người trong một nước
đồng cảm ác duyên, thì chúng sanh trong nước đó
thấy tất cả những cảnh giới không tốt. còn chúng
sanh trong nước gần bên thì không thấy.
(10) Đức Phật dạy: Này Anan! Hiện giờ, ông dùng
con mắt xem thấy núi sông, cõi nước và chúng sanh
đều là do cái Bệnh Thấy từ vô thủy102
tạo thành.
Cái thấy và vật được thấy hình như hiện ra nơi tiền
cảnh, nhưng thật ra đó vốn chỉ là cái bệnh nhặm mắt
thành lòa, cho nên thấy có Năng Kiến (cái thấy) và
102
Bệnh Thấy từ vô thủy còn gọi là Căn Bản Vô Minh.
248
Sở Kiến (vật được thấy) hiện ở trong cái Giác Minh
(Bổn Giác Minh Tâm103
) mà thôi.
(11) Tóm lại, hai cái thấy Vọng Thấy Biệt
Nghiệp và Vọng Thấy Đồng Phận đều do cái Thấy
Hư Vọng từ vô thủy sanh ra. Chính cái bệnh
duyên hư vọng tạo thành thấy nghe hay biết hòa hợp
mà giả dối sanh ra, hòa hợp giả dối mà diệt mất. Cho
nên, nếu xa lìa các bệnh duyên hòa hợp và chẳng
hòa hợp này, tức thời diệt được các nguyên nhân
sanh tử, trọn đủ Thể Bồ Đề Không Sanh, Không
Diệt. Đó là cái Bản Tâm xưa nay trong sạch (Chơn
Tâm,) cái vốn Giác Ngộ Thường Trụ xưa nay. Thêm
vào đó, phải hiểu rằng Bản Giác không phải hòa hợp
mà sanh, cũng không phải không hòa hợp.
(12) Trong Như Lai Tạng104
: Tánh Sắc là Chân
Không, Tánh Không là Chân Sắc, bản nhiên thanh
tịnh, tròn khắp pháp giới, tùy tâm chúng sanh ứng ra
chỗ hay biết, theo nghiệp mà hiện bày.
(13) Tánh của Thức không có nguồn gốc, nhân nơi
sáu thứ Căn và Trần mà hư vọng hiện ra.
(14) Trong Như Lai Tạng, cái Thức là Tánh Giác
Minh. Tánh Giác Minh là Chân Thức, là cái Biết
nhiệm mầu vắng lặng toàn khắp pháp giới, ngậm
chứa và nhả ra mười phương hư không, nào có nơi
chốn. Chỉ tùy theo nghiệp mà hiện bày ra.
(15) Nơi Tánh Giác thì nói Diệu Minh, vì cái Thể
ấy vốn tự nhiệm mầu (Diệu) mà hằng sáng (Minh),
chẳng do cái nào khác mà sáng. Nơi Bản Giác thì nói
là Minh Diệu, vì do lực huân tu bất tư nghì mà rõ biết
103
Bổn Giác Minh Tâm còn gọi là Chơn Tâm, Phật Tánh … 104
Bảy Đại gồm thu về Như Lai Tạng: Địa, Thủy, Hỏa, Phong, Không,
Kiến, Thức.
249
Tánh Giác nhiệm mầu. [Học kỹ hai định nghĩa này
sẽ không còn bối rối nữa.]
(16) Cái Giác không có gì là Sở Minh, thế mà
nhân Minh lập nên cái sở. Cái Sở đã vọng lập nên, thì
sanh khởi ra cái Vọng Năng của ông. Trong cái vốn
không đồng, không khác bỗng khởi dậy thành có cái
khác. Khác với cái khác đã có, nhân cái khác ấy mà
lập nên cái đồng. Cái Đồng, cái Khác đã phát minh
ra, thì nhân đó mới lập ra lại cái không đồng không
khác! Như thế mà rối loạn, đối đãi với nhau mà sanh
lao nhọc. Lao lự kéo dài sanh ra trần tướng mà làm
vẩn đục nhau, do đó mà dẫn khởi ra những trần lao,
phiền não. Khởi lên thì có ra thế giới, yên lặng thì
thành hư không. ư không là Đồng, thế giới là Khác.
(17) Anan! Ông tuy nhiều kiếp ghi nhớ những bí
mật mầu nhiệm trang nghiêm của Như Lai, không
bằng chỉ một ngày tu Nghiệp vô lậu, lìa xa thế gian
hai thứ khổ ghét-thương.
(18) Muốn nhiếp phục Tâm Phan Duyên bám níu,
phải xét rõ gốc rễ phiền não, biết sáu Căn làm môi
giới cho giặc, tự làm tự chịu. Chỉ cần chọn lựa một
Căn viên thông, một cửa mà thâm nhập, thì sáu Căn
hay biết kia, đồng thời trong sạch, đây là nghĩa thứ
hai của Sơ Tâm. Muốn đắc Vô Sanh, phải diệt sạch
phiền não. Hết sạch phiền não, thì chứng Vô Sanh.
ai cái này chưa từng rời nhau được.
(19) Anan ! Nếu ở nơi nhân địa mà lấy cái Tâm
Sanh Diệt105
làm gốc, nhân đó mà tu để cầu quả Bất
Sanh Bất Diệt106
của Phật Thừa, thì không thể có
chuyện ấy được.
105
Tâm Sanh Diệt là Vọng Tâm. 106
Bất Sanh Bất Diệt là Chơn Tâm.
250
(20) Thế nào là Trược? Anan, ví như nước trong,
thanh khiết bản nhiên, còn bụi đất, tro cát kia bản
chất là ngăn ngại. Hai bên tự thể như vậy thì không
hợp nhau được. Có người thế gian, lấy bụi đất kia,
ném vào nước sạch, thì đất mất đi ngăn ngại, nước
mất đi trong sạch, hình trạng đục vẩn, gọi đó là
Trược.
(21) ư không và cái thấy chẳng phân rời nhau.
Có cái không mà không có hình thể, có cái thấy mà
không hay biết, đan nhau giả dối mà thành. Đó là lớp
thứ nhất, gọi là Kiếp Trược.
(22) Thân ông hiện nắm giữ bốn Đại làm cái thể,
Thấy, Nghe, Hay, Biết bị che bít thành ra ngăn ngại.
Còn các thứ Địa, Thủy, Hỏa, Phong lại thành ra hay
biết. Đan nhau hư vọng mà thành. Đây là lớp thứ hai,
gọi là Kiến Trược.
(23) Trong tâm ông, những sự Nhớ, Biết, Học Tập,
phát ra tri kiến, dung chứa hiện ra sáu trần. Rời trần
thì không có tướng; rời hay-biết thì không có tánh.
Đan nhau hư vọng mà thành. Đây là lớp thứ ba, gọi là
Phiền Não Trược.
(24) Tâm ông ngày đêm sanh diệt không ngừng,
cái tri kiến thường muốn ở lại thế gian, nhưng nghiệp
xoay chuyển thì lại thường dời đi các cõi. Đan nhau
hư vọng mà thành. Đây là lớp thứ tư, gọi là Chúng
Sanh Trược.
(25) Cái thấy, cái nghe của ông vốn tánh không
khác nhau, mà do các trần cách trở, không do đâu lại
sanh ra khác nhau. Trong tánh thì biết nhau, mà trong
chỗ dùng lại trái ngược nhau. Cái đồng và cái khác
mất chuẩn đích. Xen nhau hư vọng mà thành lập. Đây
là lớp thứ năm, gọi là Mệnh Trược.
251
(26) Anan, giờ đây các Căn của ông mà nhổ sạch
ra được, thì cái sáng chói bên trong phát ra. Như thế,
các phù trần và các tướng biến hóa của thế gian vật
chất đều tiêu mất như băng gặp nước sôi, lập tức hóa
thành Tri Giác Vô Thượng.
(27) Không Như Lai Tạng là Quả Thường Trụ.
Đại Viên Cảnh Trí thấy rõ tất cả mà không phân
biệt. Am Ma La Thức phân biệt tất cả mà không
nhiễm trước. Vì rõ ràng thấu suốt nên gọi là Phật
Tánh. Rõ ràng thấu suốt là Cứu Cánh Giác, nên gọi
là Bồ Đề. Cứu Cánh Giác, Thể vốn Tịch Diệt, nên gọi
là Niết Bàn. Tịch Diệt nên hết thảy vọng tâm không
chạm tới được, nên gọi là Chân Như. Bảy quả đức
vốn là một Thể vậy (Kinh Bảo Tích.)
(28) Tướng vọng tưởng là trần, thức tình là cấu.
Hai thứ ấy một lúc xa lìa, thì con mắt Pháp của ông
ngay liền trong sáng. Thế thì sao không thành Tri
Giác ô Thượng?
(29) Anan! Ông muốn biết cái câu sanh vô
minh107
, khiến ông lưu chuyển, cái căn mối nút sanh
tử. Đó chính là sáu Căn của ông, chứ chẳng phải vật
gì khác! Ông lại muốn biết Bồ Đề Vô Thượng, khiến
chóng chứng Tánh Diệu Thường an lạc, giải thoát,
tịch tịnh thì cũng chính là sáu Căn của ông, chứ
chẳng phải vật gì khác.”
(30) Căn, Trần cùng nguồn. Trói mở không hai.
Tánh của Thức là hư vọng, cũng như hoa đốm giữa
hư không. Anan, do cái Trần mà phát ra cái biết, nhân
cái Căn mà có cái Tướng. Cả Tướng Phần và Kiến
Phần đều không có tự tánh, giống như các nhánh lau
gác lên nhau.
107
Câu sanh vô minh cũng còn gọi là Căn bản vô minh, vô minh từ vô
thủy.
252
(31) Chính nơi Thấy Biết mà lập ra Tướng có
Thấy Biết, đó là cội gốc ô Minh. Chính nơi Thấy
Biết mà chẳng có Tướng Thấy Biết, đó là Niết Bàn
chân tịnh, vô lậu.
(32) Kệ của Đức Phật: (Trong) Chân Tánh, hữu
vi (là) không/ uyên sanh nên Như uyễn/ Vô vi,
không khởi diệt/ Chẳng thật, như Không-hoa/ Nói
Vọng để hiển Chơn/ ọng, Chơn đều là vọng/ Còn
không (phải) Chơn, Phi Chơn/ Lấy đâu Kiến, Sở
Kiến?/ Mở nút theo thứ lớp/ Sáu mở, một cũng mất/
Nơi Căn, chọn Viên Thông/ Vào dòng, thành Chánh
Giác!/ Thức Đà Na vi tế/ Tập khí thành dòng xiết/ Sợ
lầm Chân, Phi Chân/ Ta thường chẳng khai diễn./ Tự
tâm nắm tự tâm/ Chẳng huyễn, thành pháp huyễn/
Không giữ: không “chẳng huyễn”/ “Chẳng huyễn”
còn không sanh/ Pháp huyễn làm sao lập?/ Đó là
Diệu Liên Hoa /Bảo Giác Kim Cương ương/ Như
huyễn Tam Ma Đề/ Gẩy móng (tay) vượt Vô Học/
Đây là pháp ô Thượng/ Một đường đến Niết Bàn/
Của mười phương Chư Phật.
(33) Anan, tùy nơi tâm ông mà chọn lựa một trong
sáu Căn. Nếu trừ được cái nút của Căn, thì Trần
Tướng tự diệt, các Vọng tiêu mất, còn đợi cái Chân
nào nữa?
(34) Cởi trừ sáu Căn cũng như vậy. Căn ấy khi
mới mở, thì trước hết được Nhân Không, đến khi
Tánh Không tròn sáng thì giải thoát được Pháp Chấp.
Giải thoát khỏi Pháp Chấp rồi, thì cả hai Nhân Không
và Pháp Không đều chẳng sanh. Đó gọi là Bồ Tát do
Tam Ma Địa mà đắc Vô Sanh Pháp Nhẫn.
(35) Tăng Phụng Nghi bình giảng: Năng và Sở
đều tịch diệt, đó tức là cái Định Thủ Lăng Nghiêm,
253
“ iệu Trạm Tổng Trì Bất Động Tôn” vậy. Thế nên
nói là đắc Vô Sanh Nhẫn.
(36) Nếu có tập khí cũ không thể diệt trừ, ông dạy
người đó nhất tâm trì tụng Thần Chú ô Thượng
Phật Đảnh Quang Minh “Ma a Tát Đát Đa Bát Đát
Ra” của Ta.
(37) Anan, hãy biết, cái Diệu Tánh tròn sáng lìa
mọi danh tướng, bổn lai không có thế giới, chúng
sanh. Nhân vọng mà có sanh, nhân sanh mà có diệt.
Sanh diệt thì gọi là vọng, diệt vọng thì gọi là Chân.
Đó gọi là hai danh hiệu chuyển y Bồ Đề ô Thượng
và Đại Niết Bàn của Như Lai vậy.
(38) Anan, nay ông muốn tu pháp Chân Tam Ma
Địa, thẳng đến Đại Niết Bàn của Như Lai thì trước
hết phải biết hai cái nhân điên đảo này của chúng
sanh cùng thế giới. Điên đảo chẳng sanh, đó là Chân
Tam Ma Địa của Như Lai. Anan, do Tâm Tánh vốn
Minh, tánh Minh ấy tròn đầy toàn khắp, nên nhân cái
Minh vọng phát hình như có tánh, cái tánh ấy do
vọng kiến mà sanh. Vậy là từ chỗ “Rốt ráo không” lại
hóa thành “Rốt ráo có.” Cái Có này có được là do cái
vốn chẳng có nhân làm nhân. Tướng Năng Trụ và Sở
Trụ từ căn bản không có cội gốc. Rồi nương nơi cái
cội gốc không có chỗ trụ này mà kiến lập ra thế giới
cùng chúng sanh. “ ì mê Bổn Tánh Viên Minh mà
sanh hư vọng, nhưng tánh của vọng không có tự thể,
chẳng có chỗ nương trụ. Vừa muốn trở lại Chân Tánh
thì cái muốn Chân đó đã chẳng phải là Tánh Chân
Như chân thật. Trong cái chẳng phải Chân mà cầu trở
lại Chân thì rõ ràng là hiện thành những Phi Tướng:
Phi Sanh, Phi Trụ, Phi Tâm, Phi Pháp. Xoay vần phát
sanh. Sanh lực phát minh, huân tập thành Nghiệp.
Đồng nghiệp thì cảm nhau, nhân có cảm nghiệp bèn
254
có sự sanh nhau, diệt nhau. Do vậy mà có cái Điên
Đảo tạo thành Chúng Sanh. Anan, thế nào là Điên
Đảo tạo thành Thế Giới? “Cái Có đó có được là do
từng phần từng đoạn vọng sanh. o đó mà Giới
(Không Gian) kiến lập, chẳng phải nhân mà làm
nhân, không có trụ mà làm trụ. Trôi dời chẳng trụ, do
đó mà Thế (Thời Gian) thành. Bốn phương ba đời
hòa hợp giao thiệp lẫn nhau biến hóa thành chúng
sanh mười hai loài. Thế nên, thế giới thì nhân động
có Tiếng, nhân Tiếng có Sắc, nhân Sắc có ương,
nhân có ương có Xúc, nhân Xúc có ị, nhân Vị biết
Pháp. Sáu vọng tưởng lộn loạn thành nghiệp tính, bởi
thế mà có mười hai Phần Hạn (Loài) xoay chuyển.
Vậy nên trong thế gian, các thứ Thanh, ương, ị,
Xúc... biến đổi cùng tột đến mười hai lần là quay trở
lại. “ ựa theo Tướng Điên Đảo luân chuyển đó mà
có ra Thế Giới, thành những loài: noãn sanh, thai
sanh, thấp sanh, hóa sanh, hữu sắc, vô sắc, hữu
tưởng, phi hữu sắc, phi vô sắc, phi hữu tưởng, phi vô
tưởng.
(39) Thế nào là ba món tiệm thứ? Một là, tu tập trừ
các Trợ Nhân108
. Hai là, chân tu, nạo sạch Chánh
Tánh109
. Ba là, tăng tiến trái lại Hiện Nghiệp110
.
[Chúng ta không thực hành ba món tiệm tu này.]
(40) Ba Hoặc, các kinh thường chỉ Kiến Tư
Hoặc111
, Trần Sa Hoặc112
và Vô Minh Hoặc113
. Kiến
108
Trợ Nhân: Không ăn ngũ vị tân 109
Chánh Tánh: Sát, Đạo, Dâm 110
Hiện Nghiệp: Nghiệp tạo ra do vô minh hiện tại. 111
Kiến Tư oặc: Kiến hoặc là những thứ mê lầm thuộc về Lý. Chúng
gồm có 5 thứ: thân kiến, biên kiến, tà kiến, kiến thủ và giới cấm thủ.
Còn tư hoặc là những thứ mê lầm thuộc về Sự. Chúng cũng gồm có 5
thứ: tham, sân, si, mạn, nghi.
255
Tư oặc cũng gọi là Thông Hoặc vì chung cho cả ba
thừa cùng đoạn trừ. Trần Sa Hoặc còn gọi là Biệt
Hoặc, vì chỉ hàng Bồ Tát mới đoạn trừ nổi. Vô Minh
Hoặc là chủng tử của nghiệp thức, chỉ có hàng Bồ Tát
Đại Thừa mới đoạn trừ nổi.
(41) Các ông nên biết cái tâm thể tỏ biết vẹn toàn,
Bản Giác Diệu Minh của mười hai loại chúng sanh
trong thế giới hữu lậu cùng mười phương Chư Phật
không hai, không khác. Do vọng tưởng của các ông,
mê [mờ] Chân Lý thành ra lỗi lầm. Si, Ái phát sanh,
sanh mê cùng khắp nên có hư không. Biến hóa ra cái
mê không ngớt nên có thế giới sanh ra. Vậy thì mười
phương cõi nước nhiều như vi trần này chẳng phải là
vô lậu, đều do vọng tưởng mê lầm kiến lập.
(42) Khi Ấm tiêu tan vào trong tánh sáng; sáng
phá được tối, tối đến gần sáng thì tự tiêu mất, mà
chúng tà ma kia đều tối tăm làm sao còn dám ở lại
quấy phá sự thiền định?
(43) Anan, nên biết, ông ngồi đạo tràng, tiêu diệt
các niệm114
, niệm ấy mà hết thì tâm lìa niệm thuần
túy sáng suốt thảy cả, động tĩnh chẳng dời, nhớ quên
như một. Đang khi an trụ nơi đó mà vào Tam Ma Địa
thì như người sáng mắt mà ở chỗ rất tối. Cái tinh
thuần của Tánh thì trong sạch nhiệm mầu, nhưng tâm
chưa phát sáng. Thế gọi là phạm vi của Sắc Ấm. Nếu
mắt sáng tỏ, mười phương mở suốt, không còn tối
112
Trần Sa Hoặc: Trần sa hoặc không phải là thứ phiền não của các vị A
la hán. Vì những vị A la hán đã đoạn hết kiến, tư hoặc, như các ngài bị
chướng ngại ở nơi hoặc lậu (phiền não) của chúng sanh. Nghĩa là các
ngài thấy phiền não của chứng sanh nhiều như cát bụi (trần sa.) Do đó,
các ngài không dám ra độ sanh như các vị Bồ tát. 113
Vô minh Hoặc: Mê lầm không rõ bản chất của Chơn Tâm. 114
Thiền Định tiêu diệt các niệm là pháp Xa Ma Tha.
256
tăm, gọi là Sắc Ấm hết. Người ấy có thể siêu vượt
khỏi Kiếp Trược.
(44) Anan, thiện nam tử ấy tu Tam Ma Đề115
,
trong Xa Ma Tha khi Sắc Ấm hết, thấy Tâm chư Phật
như trong gương sáng hiển hiện hình tượng. Hình
như có được nhưng chưa thể dùng, như người bị Mộc
đè: tay chân y nguyên, thấy nghe không lầm, nhưng
tâm gặp khách tà mà không cử động được. Đó gọi là
phạm vi của Thọ Ấm. Nếu Mộc hết đè thì cái tâm lìa
thân, trở lại xem mặt mũi, đi ở tự do, không còn ngăn
ngại, gọi là Thọ Ấm hết. Người ấy có thể siêu vượt
Kiến Trược.
(45) Anan, thiện nam tử kia tu Tam Ma Đề116
, khi
Thọ Ấm hết rồi, tuy chưa hết các Lậu, nhưng tâm rời
khỏi hình hài như chim ra khỏi lồng. Từ phàm thân
này tiến lên, trải qua sáu mươi Thánh ị Bồ Tát,
được Ý Sanh Thân, tùy ý đi lại không ngăn ngại, đã
có thể thành tựu như vậy. í như có người ngủ say
nói mớ, người ấy tuy không hay biết gì, nhưng lời nói
đã thành âm vận, thứ tự khiến những người không
ngủ đều hiểu được lời nói ấy. Đây là phạm vi của
Tưởng Ấm. Nếu động niệm hết, vọng tưởng vật vờ
tiêu trừ, thì nơi Tâm Giác Minh như bỏ hết bụi dơ,
một dòng sanh tử đầu đuôi soi sáng khắp, gọi là hết
Tưởng Ấm. Người ấy mới có thể vượt khỏi Phiền
Não Trược.
(46) Anan, thiện nam tử kia, tu Tam Ma Đề, khi
Tưởng Ấm hết rồi thì những mộng tưởng bình
thường của người ấy tiêu diệt. Thức, ngủ là một, tánh
Giác Minh rỗng lặng như hư không trong trẻo, không
115
Phải chăng đây là thiền Quán Tỳ Bà Xá Na do in sai chăng?) 116
Ở đây, nếu không còn tu pháp Xa Ma Tha mà vào pháp quán thì gọi là
Tỳ Bà Xá Na! sao gọi là tu Tam Ma Đề, có in sai chăng?
257
còn những sự tướng tiền trần thô trọng. Xem những
núi sông, đất liền của thế gian như gương soi sáng,
đến không chỗ dính, đi không dấu vết, rỗng thọ chiếu
ứng, rõ ràng không còn các tập khí, chỉ thuần một
tính Tinh Chân. “Căn nguyên của Sanh Diệt từ đó
phơi lộ ra, thấy được mười hai loài chúng sanh mười
phương, rõ hết các loài. Tuy chưa thông suốt manh
mối của mỗi chúng sanh nhưng đã thấy cái cơ sở
sanh diệt chung, giống như bóng dã mã117
, vùn vụt
lăng xăng sơ tượng118
hiện ra, làm cái then chốt phát
sanh của Phù căn trần. Đây gọi là phạm vi của Hành
Ấm. “Nếu cái nguồn gốc của những chớp nhoáng
lăng xăng đó nhập vào tánh lặng trong bản lai, những
tập khí nguồn gốc lặng trong thành một phiến, như
sóng mòi diệt hóa thành nước đứng, thì gọi là Hành
Ấm hết. Người đó liền vượt khỏi Chúng Sanh Trược.
(47) Anan, thiện nam tử ấy tu Tam Ma Đề, Hành
Ấm hết rồi thì cái then chốt chung u ẩn giản phác
máy động sanh ra các loài thế gian bỗng chốc nát tan.
Giềng mối vi tế, mạch ngầm gây nghiệp chịu quả báo
của ngã thể chúng sanh, cảm ứng đều dứt bặt. Người
ấy hầu như sắp đại minh ngộ trong bầu trời Niết Bàn,
ví như gà gáy lần chót, ngắm về phương Đông đã có
sắc tinh sáng. Sáu Căn rỗng sạch, không còn rong
ruổi, trong ngoài trong lặng sáng suốt, nhập vào cái
Không Chỗ Vào. Thấu suốt nguyên do nắm lấy cội
nguồn, các loài không còn hấp dẫn được. Nơi mười
phương thế giới đã được tính Đồng. Cái sắc tinh sáng
chẳng chìm, phát hiện u ẩn bí mật. Đây gọi là phạm
vi của Thức Ấm. “Nếu trong tính Đồng đã chứng
117
Dã mã là hạt bụi nhỏ bay lăng xăng. 118
Lăng xăng sơ tượng có nghĩa là nhiễu loạn một cách nhỏ nhiệm (thanh
nhiễu)
258
được của các loài mà tiêu tan sáu căn, khi hợp, khi
chia được thành tựu, thấy nghe thông nhau, dùng thay
lẫn nhau một cách thanh tịnh, mười phương thế giới
cùng với thân tâm như ngọc lưu ly, trong ngoài sáng
suốt thì gọi là Thức Ấm hết. Người ấy có thể siêu
vượt Mệnh Trược. [Các đoạn sau đây (48-57) là
dành cho những ai đã qua được Hành Ấm, phải coi
chừng, nếu không sẽ bỏ mất Chánh Tri Kiến]
(48) Anan, phải biết thiện nam tử ấy đã cùng tột
tánh Không của các Hành, về đến nguồn Thức, đã
diệt sanh diệt nhưng chưa viên mãn trong chỗ tinh
diệu của Tịch Diệt. Người ấy có thể khiến nơi thân
mình, các Căn khác nhau khi hợp, khi chia và cùng
với các loài mười phương thông chung Tánh Giác.
Cái Giác Tri thông suốt một màu vắng lặng, có thể
nhập vào nguồn viên mãn. Nếu ở chỗ quay về, lập
ra cái nhân chân thường mà sanh thắng giải, thì
người ấy sa vào cái chấp Nhân Sở Nhân, thành bạn
bè với đám Sa Tỳ Ca La, quy về Minh Đế, mê lầm
Bồ Đề của Phật, bỏ mất Chánh Tri Kiến.
(49) Anan, lại nữa, thiện nam tử ấy đã cùng tột
tánh không của Hành Ấm, đã diệt sanh diệt, nhưng
chưa viên mãn trong chỗ tinh diệu của Tịch Diệt. Nếu
ở chỗ quay về mà ôm làm tự thể của mình, tất cả
chúng sanh trong mười hai loài khắp cả hư không đều
ở trong thân mình tuôn khởi ra, rồi sanh thắng giải thì
người ấy sa vào kiến chấp Năng, Phi Năng, thành bạn
bè với Trời Ma Hê Thủ La, hiện thân Vô Biên, mê
lầm Bồ Đề của Phật, bỏ mất Chánh Tri Kiến.
(50) Lại nữa, thiện nam tử ấy đã cùng tột tánh
không của Hành Ấm, đã diệt sanh diệt, nhưng chưa
viên mãn trong chỗ tinh diệu của tịch diệt. Nếu ở chỗ
quay về mà có chỗ nương tựa, tự nghi rằng thân tâm
259
mình từ chỗ kia phát sanh ra, và cả mười phương hư
không cũng đều do chỗ kia sanh ra, rồi ngay nơi cái
chỗ sanh ra tất cả đó cho là thể chân thường không
sanh diệt. Vậy là ở trong sanh diệt sớm chấp là
thường trụ. Đã lầm là chẳng sanh, mà còn mê sự sanh
diệt. An trụ trong mê lầm trầm trọng mà sanh thắng
giải thì người ấy sa vào cái chấp Thường, Phi
Thường, thành bạn bè của những kẻ chấp Tự Tại
Thiên, mê lầm Bồ Đề của Phật, bỏ mất Chánh Tri
Kiến.
(51) Lại nữa, thiện nam tử ấy đã cùng tột tánh
không của Hành Ấm, đã diệt sanh diệt, nhưng chưa
viên mãn trong chỗ tinh diệu của Tịch Diệt. Nếu nơi
chỗ hay biết, nhân sự hay biết cùng khắp mà lập ra
cái nhận thức rằng cỏ cây mười phương đều gọi là
hữu tình, không khác với người. Cây cỏ làm người,
người chết rồi trở lại thành cỏ cây mười phương. Ở
nơi cái hay biết cùng khắp, không có chọn lựa và cho
là thắng giải. Người ấy sa vào kiến chấp Tri, Vô Tri,
thành bạn bè của bọn Bà Tra, Tiển Ni chấp tất cả đều
có hay biết, mê lầm Bồ Đề của Phật, bỏ mất Chánh
Tri Kiến.
(52) Lại nữa, thiện nam tử ấy đã cùng tột tánh
không của Hành Ấm, đã diệt sanh diệt, nhưng chưa
viên mãn trong chỗ tinh diệu của Tịch Diệt. Nếu ở
trong chỗ viên dung của các Căn dùng thay lẫn nhau
đã được tùy thuận, bèn ở nơi tánh viên dung biến hóa
phát sanh các thứ mà cầu cái ánh sáng của Hỏa Đại,
ưa cái trong sạch của Thủy Đại, thích cái tràn khắp
của Phong Đại, ngắm cái thành tựu của Địa Đại. Mỗi
mỗi đều sùng phụng cho các Đại kia là bản nhân, lập
thành cái nhận thức thường trụ thì người ấy sa vào cái
kiến chấp sanh vô sanh, thành bè bạn của nhóm Ca
260
Diếp Ba và Bà La Môn, đem hết thân tâm thờ nước,
thờ lửa để cầu ra khỏi sanh tử, mê lầm Bồ Đề của
Phật, bỏ mất Chánh Tri Kiến.
(53) Lại nữa, thiện nam tử ấy đã cùng tột tánh
không của Hành Ấm, đã diệt sanh diệt, nhưng chưa
viên mãn trong chỗ tinh diệu của Tịch Diệt. Nếu ở
nơi chỗ viên minh, chấp sự trống không trong viên
minh, bác bỏ tiêu diệt các sự vật biến hóa. Lấy sự
vĩnh viễn diệt mất làm chỗ quy y, rồi sanh thắng giải
thì người ấy sa vào kiến chấp Quy Vô Quy thành bè
bạn của nhóm chấp Không trong ô Tưởng Thiên,
mê lầm Bồ Đề của Phật, bỏ mất Chánh Tri Kiến.
(54) Lại nữa, thiện nam tử ấy đã cùng tột tánh
không của Hành Ấm, đã diệt sanh diệt, nhưng chưa
viên mãn trong chỗ tinh diệu của Tịch Diệt. Nếu nơi
tánh iên Thường củng cố cái thân cho thường trụ
như tánh ấy, mãi không suy mất mà sanh thắng giải,
thì người ấy sa vào cái chấp Tham Phi Tham, thành
bè bạn của nhóm A Tư Đà, cầu được mạng sống lâu
dài, mê muội Bồ Đề của Phật, bỏ mất Chánh Tri
Kiến.
(55) Lại nữa, thiện nam tử ấy cùng tột tánh không
của Hành Ấm, đã diệt sanh diệt, nhưng chưa viên
mãn trong chỗ tinh diệu của Tịch Diệt. Xét Mệnh
Căn thông lẫn với nhau, lại muốn giữ lại nơi trần lao,
sợ nó tiêu hết. Bèn ở giới hạn này, ngồi cung liên
hoa, hóa ra nhiều thứ bảy báu cùng nhiều mỹ nữ,
buông lung tâm mình mà sanh thắng giải. Người ấy
sa vào cái chấp Chân Vô Chân thành bè bạn của
nhóm Tra Chỉ Ca La, mê lầm Bồ Đề của Phật, bỏ mất
Chánh Tri Kiến.
(56) Lại nữa, thiện nam tử ấy đã cùng tột tánh
không của Hành Ấm, đã diệt sanh diệt, nhưng chưa
261
viên mãn trong chỗ tinh diệu của Tịch Diệt. Ở trong
chỗ cội gốc rỗng sáng của Mạng Căn, phân biệt cái
tinh, cái thô để quyết rõ Chân, Ngụy. Nơi nhân quả
đền đáp, chỉ cầu cảm ứng, trái ngược với đạo thanh
tịnh là thấy Khổ, đoạn Tập, chứng Diệt, tu Đạo mà ở
nơi chỗ Diệt cho là xong, không chịu tiến tới rồi sanh
thắng giải. Người ấy sa vào hàng Định Tánh Thanh
ăn, thành bạn bè của nhóm tăng ô ăn là những
người tăng thượng mạn, mê lầm Bồ Đề của Phật, bỏ
mất Chánh Tri Kiến.
(57) Lại nữa, thiện nam tử ấy đã cùng tột tánh
không của Hành Ấm, đã diệt sanh diệt, nhưng chưa
viên mãn trong chỗ tinh diệu của Tịch Diệt. Nếu ở
trong tánh Giác Minh thanh tịnh viên dung phát minh
chỗ thâm diệu bèn lập đó là Niết Bàn mà không tiến
tới, sanh làm thắng giải, thì người ấy sa vào hàng
định tánh Bích Chi, thành bạn bè của các vị Duyên
Giác, Độc Giác chẳng hồi tâm hướng Đại Thừa, mê
lầm Bồ Đề của Phật, bỏ mất Chánh Tri Kiến.
(58) Anan, mười loại Thiền Na như vậy, giữa
đường hóa điên, do nương mê lầm trong chỗ chưa đủ
lại cho đã chứng đủ, đều do Thức Ấm và tâm dụng
công xen nhau mà sanh các thứ vị như thế. Chúng
sanh mê dại, không biết tự xét, gặp cái đó hiện tiền,
mỗi mỗi dùng cái tâm mê lầm còn ưa thích những tập
quán cũ mà tự dừng nghỉ, cho đó là chỗ quay về rốt
ráo, tự bảo đã đầy đủ ô Thượng Bồ Đề, thành đại
vọng ngữ. Các tà ma ngoại đạo khi nghiệp báo chiêu
cảm hết rồi thì sa vào ngục Vô Gián. Hàng Thanh
ăn, uyên Giác thì không thể tiến tới thêm. Các
ông để tâm giữ gìn Đạo Như Lai, sau khi Ta diệt độ
rồi, đem pháp môn này truyền bày trong đời Mạt
Pháp, khiến khắp chúng sanh hiểu rõ nghĩa này,
262
không để cho những ma tà kiến tự gây ra nạn lớn cho
mình. Giữ gìn thương cứu, tiêu dứt các tà duyên,
khiến cho thân tâm vào Tri Kiến Phật, từ bắt đầu đến
thành tựu, không mắc các lối rẽ.
(59) Pháp môn như thế, các Đức Như Lai như số
vi trần trong hằng sa kiếp quá khứ đều nương cái
Tâm mở tỏ này mà đắc đạo ô Thượng. Khi Thức
Ấm hết sạch rồi thì ngay hiện tiền, các Căn của
ông đều có thể dùng thay lẫn nhau. Từ chỗ các Căn
dùng thay lẫn nhau, bèn vào Kim Cương Càn Huệ
Địa Bồ Tát, cái Tâm Tinh Diệu Viên Minh ở trong đó
phát hóa ra như ngọc lưu ly thanh tịnh bên trong
ngậm mặt trăng báu. Như thế mà vượt lên Thập Tín,
Thập Trụ, Thập Hạnh, Thập Hồi ướng, Tứ Gia
Hạnh Tâm và Thập Địa Kim Cương là chỗ Hành của
Bồ Tát, cho đến địa vị Đẳng Giác Viên Minh mà thể
nhập vào Biển Diệu Trang Nghiêm Như Lai, viên
mãn Bồ Đề, về trong Vô Sở Đắc.
(60) Đó là những ma sự vi tế mà các đức Phật Thế
Tôn đời quá khứ trước đã giác ngộ, nghiệm rõ và
phân tích trong pháp Chỉ Quán. Nếu cảnh ma hiện
ra mà ông rõ biết thì sự dơ nhiễm của tâm được
rửa trừ, không lạc vào tà kiến, Ấm Ma tiêu diệt,
Thiên Ma tan tác, Đại Lực Quỉ Thần hết hồn chạy
trốn, Ly Mỵ, Vọng Lượng chẳng còn sanh ra, thẳng
đến Bồ Đề, không có những thiếu sót. Hàng hạ liệt
cũng được tăng tiến, đối trong Đại Niết Bàn Tâm
không mê buồn. Nếu các chúng sanh mê dại trong
đời Mạt Pháp chưa hiểu Thiền Na! chẳng rõ lời
thuyết pháp mà ưa tu Tam Muội, ông e rằng họ
lạc vào đường tà thì phải một lòng khuyên bảo họ
trì chú Phật Đảnh Đà La Ni của Ta. Nếu chưa có
thể tụng niệm, hãy viết nơi thiền đường hoặc đeo
263
trong thân thì tất cả các ma không thể động đến. Ông
nên kính vâng sự dạy bảo cuối cùng về đường tiến tu
rốt ráo của mười phương Như Lai.
(61) Tánh Tinh Chân thì Diệu Minh, tánh Bản
Giác là Viên Tịnh, chẳng có vết tích của sanh tử và
các trần cấu, cho đến hư không cũng đều nhân vọng
tưởng mà có ra. Tất cả cái ấy nguyên là Bản Giác
Diệu Minh Chân Tinh vọng phát sanh ra các khí thế
gian, như chàng iễn Nhã Đa mê cái đầu mà nhận
bóng trong gương. ọng vốn không có nhân, mà ở
trong vọng tưởng lập ra tánh Nhân Duyên. Mê lầm
Nhân Duyên thì gọi đó là Tự Nhiên. Cái tánh của hư
không kia còn thật là huyễn hóa sanh ra huống là
Nhân Duyên hay Tự Nhiên đều là sự so tính của
vọng tâm chúng sanh. Anan, biết là hư vọng khởi ra
mà nói nhân duyên hư vọng, nhưng hư vọng gốc vốn
không có thì cái nhân duyên hư vọng đó không chỗ
có, huống gì là không biết mà suy rằng Tự Nhiên.
Thế nên Như Lai phát minh cho các ông rằng bản
nhân của năm Ấm đồng là Vọng Tưởng.119
Anan!
Ông nên dùng cái tâm được khai thông về căn
nguyên Vọng Tưởng này, truyền dạy cho tương lai
những người tu hành trong đời Mạt Pháp, khiến
cho họ rõ hư vọng, tự sanh nhàm chán sâu xa, biết
có Niết Bàn, chẳng luyến mê ba cõi.
Hết Mô Phật
Sa Môn Di Tùng
119
Nếu nhận biết được năm Ấm vốn là vọng tưởng thì đ thẳng vào gốc này mà quán tưởng đó là pháp “Đốn.”
265
M C L C
KINH ĐẠI PHẬT ĐẢNH THỦ LĂNG NGHIÊM (T M T T NG N)
LỜI NÓI ĐẦU ................................................................................. 1
TIẾN TRÌNH XÂY DỰNG ĐÀN TRÀNG LĂNG
NGHIÊM TẠI HOA KỲ .................................................................. 3
1. Khởi quyết tâm xây dựng
Đàn tràng Lăng Nghiêm .................................................... 4
2. Giai đoạn giải quyết các điều kiện xây dựng
Đàn tràng Lăng Nghiêm .................................................... 6
3. Xây dựng Đàn tràng đầu tiên ........................................... 8
4. Đàn tràng cho tứ chúng .................................................... 9
Quyển I
Phần 1
Duyên khởi của kinh:...................................................................... 15
Phần 2
Chỉ bày Chơn Tâm ......................................................................... 16
Đức Phật bảy lần phá cái chấp của ngài Anan về nơi trú của Tâm
1. Chấp Tâm ở trong thân .................................................. 17
2. Chấp Tâm ở ngoài thân .................................................. 17
3. Chấp Tâm núp sau con mắt ........................................... 18
4. Chấp nhắm mắt thấy tối là thấy bên trong thân........... 18
5. Chấp Tâm hợp chỗ nào thì liền có ở chỗ đó................... 18
6. Chấp Tâm ở chặng giữa .................................................. 19
7. Chấp Tâm chẳng dinh dán vào đâu cả .......................... 19
Phần 3
Đức Phật chỉ rõ Tánh Thấy .......................................................... 20
Hai thứ căn bản ............................................................................. 20
Nương cái Thấy gạn hỏi cái Tâm ................................................ 21
Tánh Thấy không phải là con mắt .............................................. 22
Ý nghĩa chủ và khách ................................................................... 23
Quyển II
Phần 4
Chỉ Tánh Thấy không sanh diệt ................................................. 25
Chỉ chỗ điên đảo .......................................................................... 26
266
Lựa bỏ Tâm phan duyên để chỉ tánh
Thấy không trả về đâu ...................................................................... 27
Lựa riêng trần cảnh để nêu ra Tánh Thấy ..................................... 28
Phần 5
Đức Phật nêu ra Tánh Thấy ngoài các nghĩa “Phải”
và “Chẳng Phải” ............................................................................... 28
Phần 6
Chỉ thẳng Tánh Thấy ....................................................................... 29
Phần 7
Chỉ ra cái Vọng Thấy ...................................................................... 30
Phần 8
Tánh Thấy không phải là Cái Thấy .............................................. 31
Phần 9
Tóm thu về Như Lai Tạng ............................................................. 31
Thu Sắc Ấm .................................................................................... 32
Thu Thọ Ấm ................................................................................... 33
Thu Tưởng Ấm .............................................................................. 34
Thu Hành Ấm ................................................................................ 34
Thu Thức Ấm ................................................................................ 35
Quyển III
Thu Sáu Nhập ............................................................................... 37
Thu nhãn nhập ............................................................................. 37
Thu nhĩ nhập ................................................................................ 37
Thu tỷ nhập .................................................................................. 38
Thu thiệt nhập ............................................................................. 39
Thu thân nhập ............................................................................. 40
Thu ý nhập .................................................................................. 40
Thu Mười Hai Xứ ....................................................................... 41
Thu hai xứ sắc trần và nhãn căn ............................................... 41
Thu hai xứ thanh trần và nhĩ căn ............................................. 42
Thu hai xứ hương trần và tỷ căn .............................................. 43
Thu hai xứ vị trần và thiệt căn .................................................. 44
Thu hai xứ xúc trần và thân căn ............................................... 44
Thu hai xứ pháp trần và ý căn ................................................. 45
Thu mười tám giới ...................................................................... 46
Thu nhãn, sắc và nhãn thức giới ................................................. 46
Thu nhĩ, thanh và nhĩ thức giới ................................................... 47
Thu tỷ, hương và tỷ thức giới ...................................................... 48
Thu thiệt, vị và thiệt thức giới ..................................................... 50
Thu thân, xúc và thân thức giới .................................................. 51
Thu ý, pháp và ý thức giới ........................................................... 52
267
Thu bảy Đại ............................................................................53
Xin khai thị về tứ đại hòa hợp ............................................53
Chỉ rõ thể tánh tứ đại không phải hòa hợp ......................53
Thu địa đại .............................................................................54
Thu hỏa đại ............................................................................55
Thu thủy đại ..........................................................................56
Thu phong đại ........................................................................57
Thu không đại ........................................................................58
Thu kiến đại ...........................................................................60
Thu thức đại ...........................................................................62
Giác Ngộ và Phát Nguyện ....................................................64
Quyển IV
Phần 10
Căn nguyên và Tánh Giác vẹn toàn ...................................67
Vô Minh Đầu tiên .................................................................68
Nguyên nhân vọng thấy có thế giới ...................................68
Giác chẳng sanh mê .............................................................71
Các Đại có thể tương dung .................................................73
Chỉ rõ Tánh Diệu Minh là Như Lai Tạng rời
cả hai nghĩa “Phi” và “Tức” .............................................74
Mê vọng không có nhân, hết mê là Bồ Đề .......................76
Phá xích nhân duyên, tự nhiên xưa nay không vọng .....77
Đưa vào Bồ Đề ......................................................................78
Phần 11
Chỉ nghĩa quyết định ............................................................80
Các pháp tu hành sau khi đốn ngộ, phát Bồ Đề Tâm .....80
Phát Tâm trong lúc tu nhân .................................................80
Xét rõ gốc rễ phiền não ........................................................82
Nghi căn tánh không có tự thể ............................................89
Thỉnh chuông để thể hiện tánh nghe là thường trụ .........89
268
Quyển V
Phần 12
Nương chỗ ngộ mà tu
Nêu ra cái căn để chỉ chỗ mê ............................................93
Phần 13
Cầu Phật khai thị cởi nút ..................................................95
Phật dạy cách mở nút ........................................................97
Phần 14
Đức Phật hỏi đại chúng về pháp tu viên thông ...............98
Viên thông về thanh trần ..................................................99
Viên thông về Sắc trần ......................................................99
Viên thông về hương trần ...............................................100
Viên thông về vị trần .......................................................100
Viên thông về xúc trần ....................................................101
Viên thông về Pháp trần .................................................101
Viên thông về nhãn căn ...................................................102
Viên thông về tỷ căn ........................................................102
Viên thông về thiệt căn ...................................................103
Viên thông về thân căn ...................................................103
Viên thông về ý căn .........................................................104
Viên thông về nhãn thức ................................................104
Viên thông về nhĩ thúc ....................................................105
Viên thông về tỷ thức ......................................................105
Viên thông về thiệt thức .................................................106
Viên thông về thân thức .................................................106
Viên thông về ý thức .......................................................107
Viên thông về hỏa đại .....................................................107
Viên thông về địa đại ......................................................108
Viên thông về thủy đại ....................................................109
Viên thông về phong đại .................................................110
Viên thông về không đại .................................................111
269
Viên thông về thức đại ....................................................111
Viên thông về kiến đại ....................................................112
Quyển VI
Viên thông về nhĩ căn .....................................................115
Phần 15
Mười bốn công đức vô úy ..............................................119
Phần 16
Chỉ dạy Pháp Viên tu
Đức Phật phóng hào quang hiện điềm lành ................123
Đức Phật bảo ngài Văn Thù chọn căn viên thông .....124
Lựa ra những căn viên thông ........................................124
Nhĩ căn viên thông hơn hết .............................................128
Quyển VII
Phần 17
Đức Phật khai thị về Mật giáo .......................................141
Khai thị đàn tràng tu chứng ..........................................142
Tuyên thuyết Thần Chú .................................................144
Phần 18
Khai thị hai cái nhân điên đảo ......................................165
Quyển VIII
Phần 19
Khai thị ba tiệm thứ tu tập ............................................171
An lập các thánh vị ..........................................................173
Càn Huệ Địa .....................................................................173
Thập Tín ...........................................................................173
Thập trụ ............................................................................175
Thập Hạnh ........................................................................176
Thập Hồi Hướng ...............................................................177
Tứ Gia Hạnh .....................................................................178
Thập Địa ............................................................................178
Đẳng Giác và Diệu Giác ..................................................179
270
Chỉ dạy tên kinh ................................................................180
Phần 20
Phân biệt các nghiệp quả tạo thành tam giới .............................180
1. Hỏi về sự sanh khởi và nhân quả của sáu đường ........180
2. Khai thị về phận trong, phận ngoài của chúng sanh ..181
3. Mười tập nhân và sáu giao báo ......................................184
4. Không tu thành Chánh Giác thành các thứ Tiên ........193
Quyển IX
Phần 21
Các cõi Trời
Cõi Trời Dục Giới ............................................................................195
Cõi Trời Sắc Giới .............................................................................196
Cõi Trời Vô Sắc Giới .......................................................................199
Bốn Loại A Tu La ...........................................................................200
Khai thị sự hư vọng của bảy loài để khuyên tu chân chánh ....201
Phân biệt các Ấm Ma ......................................................................202
Phạm vi của Sắc Ấm ........................................................................205
Phạm vi của Thọ Ấm .......................................................................209
Phạm vi của Tưởng Ấm ..................................................................213
Quyển X
Phạm vi của Hành Ấm ....................................................................225
Phạm vi của Thức Ấm .....................................................................234
Được Phước tiêu Tội hơn cả ...........................................................243
Những đoạn cần lưu ý, trích từ Kinh Đại Phật Đảnh Thủ Lăng
Nghiêm .............................................................................................245
KINH ĐẠI PHẬT ĐẢNH THỦ LĂNG NGHIÊM T M T T H NG N)
(Tái bản lần thứ ba)
N TH Đ N T NG LĂNG NGHIÊM
TÂM NG N
1. Giữ Bồ đề tâm kiên cố
2. Chí tu học vững bền
3. Mau đắc quả giải thoát sinh tử luân hồi
4. Để cứu độ chúng sanh
5. Giữ n hật háp trườn tồn.
Sa Môn I T NG
PHẬT QUỐC THANH TỊNH TÂM
MAITREYA BUDDHA MEDITATION CENTER
310 E. Red Bird Lane
Duncanville, Texas 75116 - U.S.A.
Tel. 972-709-5685
------------***----------- PL. 2561 - DL. 2017