53
QUYỀN CỦA TRẺ EM KHUYẾT TẬT TẠI VIỆT NAM Đưa Luật pháp của Việt Nam phù hợp với Công ước Liên Hiệp quốc về Quyền của Người khuyết tật Tháng 12, 2009 Tác giả Eric Rosenthal Viện Quốc tế bảo vệ quyền người khuyết tật tâm thần thực hiện theo yêu cầu của UNICEF Việt Nam

QUYỀN CỦA TRẺ EM KHUYẾT TẬT TẠI VIỆT NAM

Embed Size (px)

Citation preview

Page 1: QUYỀN CỦA TRẺ EM KHUYẾT TẬT TẠI VIỆT NAM

QUYỀN CỦA TRẺ EM KHUYẾT TẬT TẠI VIỆT NAM

Đưa Luật pháp của Việt Nam phù hợp với Công ước Liên Hiệp quốc

về Quyền của Người khuyết tật

Tháng 12, 2009

Tác giả

Eric Rosenthal

Viện Quốc tế bảo vệ quyền người khuyết tật tâm thần thực hiện theo yêu cầu của UNICEF Việt Nam

Page 2: QUYỀN CỦA TRẺ EM KHUYẾT TẬT TẠI VIỆT NAM
Page 3: QUYỀN CỦA TRẺ EM KHUYẾT TẬT TẠI VIỆT NAM

3

mục lục

Viết tắt ........................................................................................................................................................................ 6

Lời tựa đề ................................................................................................................................................................... 7

Lời cảm ơn ................................................................................................................................................................. 9

1. Bối cảnh thực tế của TKT tại Việt Nam ........................................................................................................13

1.1. Khả năng tiếp cận .....................................................................................................................................13

1.2. Dịch vụ dựa vào cộng đồng và y tế ........................................................................................................14

1.3. Giáo dục .....................................................................................................................................................14

1.4. Thành lập các cơ sở chăm sóc tập trung ...............................................................................................15

1.5. Hệ thống bảo vệ trẻ em............................................................................................................................15

1.6. Tham gia của công dân ............................................................................................................................16

2. Tổng quan Công ước về Quyền của NKT ....................................................................................................16

2.1. Tác động của phê chuẩn và tuân thủ với CRPD .................................................................................16

2.2. Nội dung tổng quát của Công ước về Quyền của Người khuyết tật ...............................................17

3. Tổng quan pháp luật Việt Nam liên quan đến NKT và Dự thảo Luật Người khuyết tật ....................17

3.1.Cơ sở của pháp luật Việt Nam liên quan đến NKT ............................................................................17

4. Quyền được bảo vệ không bị phân biệt đối xử chỉ vì khuyết tật ..............................................................20

4.1 Định nghĩa khuyết tật ...............................................................................................................................20

4.2. Nâng cao phẩm giá, bình đẳng và không phân biệt đối xử ...............................................................21

4.3. Môi trường sống phù hợp .......................................................................................................................22

5. Quyền tiếp cận ...................................................................................................................................................22

5.1. Quyền tiếp cận môi trường lý tính và phương tiện giao thông .......................................................23

5.2. Quyền tiếp cận công nghệ thông tin và truyền thông .......................................................................24

6. Quyền sống trong cộng đồng ..........................................................................................................................24

6.1. Quyền được gia đình bảo vệ ...................................................................................................................24

6.2. Quyền được sống trong cộng đồng .......................................................................................................25

6.2.1. Quyền được sống trong nền tảng gia đình .................................................................................26

6.2.2. Quyền được ra khỏi các cơ sở chăm sóc tập trung ....................................................................27

6.3. Quyền được dịch vụ và đủ tiêu chuẩn cuộc sống ...............................................................................30

6.4. Quyền không bị lạm dụng và bóc lột, và quyền không bị tra tấn, đối xử ác nghiệt, phi nhân bản,

đối xử nhục mạ và trừng phạt .........................................................................................................................31

7. Quyền được chăm sóc sức khỏe .....................................................................................................................32

7.1. Quyền được chăm sóc sức khỏe miễn phí và đặc biệt .......................................................................32

7.2. Quyền được phòng ngừa và can thiệp sớm .........................................................................................34

Page 4: QUYỀN CỦA TRẺ EM KHUYẾT TẬT TẠI VIỆT NAM

4

7.3. Quyền được thể hiện ý nguyện bằng lòng, tự quyết và tự lựa chọn ...............................................34

8. Quyền được giáo dục ........................................................................................................................................35

8.1 Giáo dục hòa nhập .....................................................................................................................................36

8.1.1. Giáo dục hòa nhập theo luật chung của Việt Nam ...................................................................37

8.1.2. Giáo dục hòa nhập theo Dự thảo Luật Người khuyết tật của Việt Nam ..............................39

8.2. Môi trường phù hợp trong các chương trình giáo dục .....................................................................40

9. Quyền về danh tính , khai sinh và năng lực pháp lý ....................................................................................41

9.1. Danh tính và khai sinh .............................................................................................................................41

9.2. Năng lực pháp lý........................................................................................................................................42

10. Giám sát & tăng cường ...................................................................................................................................43

10.1. Hệ thống bảo vệ trẻ em .........................................................................................................................43

10.2. Giám sát thực thi CRPD .......................................................................................................................44

10.3. Thu thập dữ liệu ......................................................................................................................................45

11. Tham gia công dân ..........................................................................................................................................45

12. Kiến nghị cho chính phủ Việt Nam .............................................................................................................46

12.1. Quyền được bảo vệ không bị phân biệt đối xử vì khuyết tật .........................................................46

12.1.1. Tuyên bố về phân biệt đối xử ......................................................................................................46

12.1.2. Tuyên bố về môi trường cư ngụ hợp lý .....................................................................................46

12.2. Quyền tiếp cận ........................................................................................................................................47

12.2.1. Nêu rõ về khái niệm tiếp cận .......................................................................................................47

12.2.2. Tăng cường thực hiện những quy định hiện hành ..................................................................47

12.3. Quyền được sống trong cộng đồng ....................................................................................................47

12.3.1. Tuyên bố về quyền của TKT được sống với gia đình riêng của mình ................................47

12.3.2. Tuyên bố về quyền của TKT được sống với một gia đình thay thế ....................................47

12.3.3. Thiết lập một hệ thống toàn diện chăm sóc như gia đình có điều tiết công khai .............47

12.3.4. Tạo lập tiêu chuẩn chăm sóc trong các......................................................................................47

12.3.5. Cấm đưa thêm TKT mới vào các cơ sở chăm sóc tập trung .................................................47

12.3.6. Thiết lập hệ thống bảo vệ trẻ em để phòng ngừa lạm dụng trong gia đình và trong các cơ

sở chăm sóc ..................................................................................................................................................48

12.4. Quyền được chăm sóc sức khỏe ..........................................................................................................48

12.4.1. Cải thiện tình hình tiếp cận chăm sóc sức khỏe can thiệp sớm ...........................................48

12.4.2. Cải thiện tình hình tại những cơ sở và phương tiện thiết bị phục hồi chức năng .............48

12.4.3. Tuyên bố về quyền có ý kiến đồng ý .........................................................................................48

12.5. Quyền được giáo dục .............................................................................................................................48

12.5.1. Yêu cầu pháp lý ..............................................................................................................................48

Page 5: QUYỀN CỦA TRẺ EM KHUYẾT TẬT TẠI VIỆT NAM

5

12.5.2. Khảo sát việc tiếp cận ...................................................................................................................48

12.5.3. Đào tạo giáo viên ...........................................................................................................................48

12.5.4. Thay đổi thái độ .............................................................................................................................49

12.5.5. Thu thập dữ liệu .............................................................................................................................49

12.5.6. Tăng cường việc thi hành Chỉ thị của Thủ tướng số 01/2006/CT-TTg .............................49

12.5.7. Chính sách đối với các nhà tài trợ quốc tế................................................................................49

12.6. Quyền về danh tính................................................................................................................................50

12.6.1. Đăng ký khai sinh khi ra đời ........................................................................................................50

12.6.2. Tôn trọng năng lực tham gia của TKT ......................................................................................50

12.7. Tăng cường thực hiện và cơ chế giám sát ...........................................................................................50

12.7.1. Thiết lập một hệ thống bảo vệ trẻ em ........................................................................................50

12.7.2. Đào tạo cán bộ công tác xã hội chuyên nghiệp .......................................................................50

12.7.3. Giám sát và thực thi ......................................................................................................................50

12.7.4. Tham gia công dân ........................................................................................................................50

13. Kiến nghị cho các nhà tài trợ .........................................................................................................................50

Phụ bản 1: Ban hành giáo dục hòa nhập ở các nước đang phát triển ..........................................................52

Page 6: QUYỀN CỦA TRẺ EM KHUYẾT TẬT TẠI VIỆT NAM

6

viết tắt

UBVH,GD Ủy ban Văn hóa, Giáo dục, Thanh thiếu niên và Nhi đồng của Quốc hội.Bộ GD&ĐT Bộ Giáo dục và Đào tạoBộ LĐ,TB&XH Bộ Lao động, Thương binh và Xã hộiBộ TC Bộ Tài chínhBộ KH&ĐT Bộ kế hoạch và đầu tưBộ YT Bộ Y tếBộ GT&VT Bộ Giao thông vận tảiCT-TTg Chỉ thị của Thủ tướng chính phủCNTT&TT Công nghệ thông tin và truyền thôngMDRI Viện Quốc tế bảo vệ quyền người khuyết tật tâm thầnNCCD Ban điều phối các hoạt động hỗ trợ người tàn tật Việt NamVNAH Hội trợ giúp người khuyết tật Việt NamWHO Tổ chức Y tế Thế giới

Page 7: QUYỀN CỦA TRẺ EM KHUYẾT TẬT TẠI VIỆT NAM

7

lời tựa đề

Quỹ Nhi đồng Liên hiệp quốc (UNICEF) và chính phủ Việt Nam ủy nhiệm cho ông Eric Rosenthal thực hiện đánh giá và phân tích trong báo cáo này, cùng với những chuyên gia khác của Viện Quốc tế bảo vệ Quyền Người khuyết tật tâm thần (MDRI). Mục đích chính của báo cáo là để giúp chính phủ Việt Nam đưa luật pháp và những chính sách của mình phù hợp với Công ước mới của Liên Hiệp Quốc về Quyền của Người khuyết tật (sau đây viết tắt là CRPD), mà Việt Nam đã ký kết vào ngày 22 tháng 10 năm 2007. Những mục tiêu chính của nhiệm vụ tư vấn này là:

Đánh giá và phân tích văn bản quy phạm pháp luật của Việt Nam liên quan đến trẻ khuyết tật ▪(TKT) cùng với Công ước CRPD và những hiệp ước, chuẩn mực và tiêu chuẩn khác về NKT (sử dụng phương pháp rà soát những văn bản quy phạm pháp luật Việt Nam liên quan đến TKT do chuyên gia luật trong nước thực hiện);

Rà soát dự thảo Luật Người khuyết tật, rà soát những nhận xét và khuyến nghị để sửa đổi và ▪hoàn chỉnh luật này;

Soạn thảo những khuyến nghị cho chính phủ Việt Nam về thay đổi chính sách và pháp luật để ▪việc thực thi những tiêu chuẩn pháp lý mới đã được qui định trong CRPD; những gợi ý này dựa trên phân tích của chúng tôi về luật pháp Việt Nam cùng với các cuộc phỏng vấn với quan chức chính phủ, các nhà cung cấp dịch vụ, nhà giáo dục, những người hoạt động về khuyết tật; phân tích của chúng tôi cũng có thông tin từ các chuyến thăm thực địa đến những chương trình dịch vụ phục vụ cho cả trẻ em và người lớn khuyết tật tại Việt Nam.

Văn bản phân tích luật này đã được ông Eric Rosenthal, Giám đốc điều hành của MDRI soạn thảo, có hỗ trợ của Arlene S. Kanter, Giáo sư Luật, Đại học luật Syracuse, và Erin Jehn, luật sư trợ lý của MDRI. Giáo sư Arlene S Kanter đã thăm Việt Nam hồi mùa xuân năm 2009 thay mặt cho VNAH và đã tham gia vào các buổi họp biên soạn bộ Luật Người khuyết tật mới của Việt Nam. UNICEF đã mời Eric Rosenthal đến Việt Nam hồi tháng 7 và tháng 9 năm 2009. Hồi tháng 9-2009, Viện Quốc tế bảo vệ Quyền người Khuyết tật tâm thần (MDRI) đã mời bà Elizabeth Bauer, thư ký của Ban giám đốc MDRI, đồng thời là ủy viên của Sở Giáo dục tiểu bang Michigan (Hoa Kỳ). Còn hồi tháng 7 năm 2009, Eric Rosenthal đã tham gia vào một hội thảo do Bộ LĐTB&XH và VNAH bảo trợ để soạn thảo bộ Luật Người khuyết tật mới. Ông Rosenthal cũng tham gia và một lớp tập huấn các nhà hoạt động khuyết tật do VNAH tổ chức, và ông cũng đã đến thăm thực địa một Trung tâm Phục hồi chức năng cho TKT tại Hà nội. Rosenthal và cán bộ của UNICEF đã đến Đà nẵng hồi tháng 7 năm 2009 và thăm một trung tâm phục hồi chức năng dựa vào cộng đồng cho trẻ em và NKT, một trường học chuyên cho trẻ khuyết tật, một trung tâm nuôi dưỡng trẻ em mồ côi và một trung tâm chăm sóc nạn nhân chất độc da cam. Hồi tháng 9 năm 2009, Rosenthal và Bauer đã gặp gỡ các quan chức chính phủ tại Hà nội, Đà Nẵng và Đồ Sơn, tiến hành hội thảo cho các quan chức cấp bộ về xây dựng các văn bản pháp lý về NKT. Những chuyên gia này cũng đã phát biểu tại một hội thảo của Quốc hội về dự thảo Luật Người khuyết tật hồi tháng 9 năm 2009. Cũng trong tháng 9, MDRI và cán bộ UNICEF đã tới thăm thực địa tại một trường đặc biệt, một cơ sở tâm thần, một mô hình trung chăm sóc ban ngày dành cho TKT. Chuyên gia Rosenthal và Bauer đã thực hiện một hội thảo cho UNICEF và các tổ chức phát triển quốc tế khác đang hoạt động tại Việt Nam về cách áp dụng thích hợp những chương trình do quốc tế tài trợ để đáp ứng những yêu cầu của Công ước Liên Hiệp Quốc về Quyền của Người khuyết tật (CRPD).

Phần phân tích pháp luật Việt Nam phụ thuộc rất nhiều vào công trình nghiên cứu rất tỷ mỉ của Tiến sĩ Tường Duy Kiên. Công trình nghiên cứu này tóm lược pháp luật Việt Nam và phân tích những điểm mạnh và những hạn chế. Chúng tôi không có bản dịch sang tiếng Anh của một số văn bản luật được đề

Page 8: QUYỀN CỦA TRẺ EM KHUYẾT TẬT TẠI VIỆT NAM

8

cập trong công trình nghiên cứu này và chúng tôi đã giả định rằng đa phần nội dung công trình nghiên cứu của Tiến sĩ Kiên là chính xác trong việc miêu tả về pháp luật Việt Nam.

MDRI đã gặp đại diện Bộ Y tế và Tổ chức Y tế thế giới trong chuyến thăm tháng 9 năm 009. MDRI biết rằng Bộ Y tế đang phác thảo một luật mới về Sức khỏe tâm thần mới, nhưng MDRI chưa thể có được bản dịch bằng tiếng Anh của luật này. CRPD quy định quyền của những người tâm thần hoặc khuyết tật về tâm lý xã hội và yêu cầu điều trị cho họ, nhưng việc không được tiếp cận với luật chăm sóc sức khỏe tâm thần đã tạo nên điểm hạn chế trong phần phân tích này. Quan trọng rằng luật pháp mới này phù hợp với những tiêu chuẩn nêu trong CRPD.

Báo cáo này chủ yếu tập trung vào những thay đổi lập pháp cần thiết để Việt Nam có các qui định phù hợp với CRPD. Tuy nhiên, ngoài việc thay đổi luật, CRPD yêu cầu chính phủ Việt Nam cũng phải có thay đổi trong chính sách và thực hiện để chấm dứt sự phân biệt đối xử với trẻ khuyết tật trong xã hội Việt Nam, cũng như để tăng cường thực hiện pháp luật sao cho quyền của những NKT được bảo đảm. Những thay đổi cần thiết này trong chính sách, luật, và thi hành luật được nêu đại cương trong báo cáo này.

Page 9: QUYỀN CỦA TRẺ EM KHUYẾT TẬT TẠI VIỆT NAM

9

lời cảm ơn

Chúng tôi chân thành cám ơn nhiều người đã dành thời gian thảo luận với chúng tôi tại Việt Nam. Ban chuyên gia soạn thảo Luật Người khuyết tật của Bộ Lao động,Thương binh,Xã hội đã nhiều lần họp với chúng tôi và cung cấp thông tin nền tảng có giá trị về tình hình pháp lý của TKT. Trưởng ban soạn thảo, ông Lập cùng cán bộ của mình đã hỗ trợ đắc lực để tổ chức những chuyến đi thực địa khắp Việt Nam. Đại diện của Quốc hội cởi mở và nhiệt tình, cũng như các quan chức của Bộ Giáo dục và Đào tạo, Bộ Y tế. Các cán bộ của Sở Lao động,Thương binh, Xã hội Đà Nẵng đã nhiệt tình giới thiệu các chương trình của họ và đã cung cấp cho chúng tôi thông tin nền tảng về những dịch vụ và chương trình giáo dục TKT trong tỉnh. Chúng tôi đặc biệt đánh giá cao phần giúp đỡ và hỗ trợ của cán bộ UNICEF, đặc biệt là chị Naira Avetisyan, người có kiến thức rộng về TKT và mối quan hệ công tác tuyệt vời với các quan chức Việt Nam, mới làm nên được bản phân tích này.

Page 10: QUYỀN CỦA TRẺ EM KHUYẾT TẬT TẠI VIỆT NAM

10

Tóm tắt các quan sát chính

VĂN BẢN PHÁP LUẬT

Cam kết của chính phủ Việt Nam đưa quốc gia mình tuân thủ với Công ước LHQ về Quyền của Người khuyết tật (CRPD) rất có ấn tượng. Như bản phân tích này cho thấy, Việt Nam đã ban hành một số luật rất có giá trị để bảo vệ quyền của người khuyết tật. Nếu Việt Nam thông qua/phê duyệt Luật về NKT mà hiện nay bản thảo của Luật này đang được xem xét, Việt Nam sẽ đi lâu dài theo hướng tuân thủ với CRPD. Tuy nhiên, còn một số thiếu sót đáng kể trong bản thảo Luật người khuyết tật, song có thể chỉnh sửa những thiếu sót này để luật này phù hợp với CPRD. Để phù hợp hoàn toàn với CRPD, chính phủ Việt Nam nên xem xét những nét chuyển đổi sau đây:

Để bảo vệ chống phân biệt đối xử, đề xuất về Luật người khuyết tật cần bao gồm quyền có điều chỉnh ▪hợp lý, như yêu cầu của CRPD Điều 5(3) và được xác định trong CRPD Điều 2; một điều khoản như vậy cần điều chỉnh dịch vụ công và các chương trình cần thiết để cho phép cá nhân khuyết tật tiếp cận đến được giáo dục, nhà ở, y tế, dịch vụ, giao thông và những lĩnh vực khác của cuộc sống.Quyền có được công nghệ thông tin và truyền thông phù hợp phải được thiết lập trong đề xuất Luật ▪về Người khuyết tật, trong khi đó văn bản hiện nay chưa rõ ràng là quyền này có được bảo đảm hay không.Luật pháp và quy định về quyền tiếp cận phải được tăng cường; việc này gồm quyền tiếp cận môi ▪trường vật chất, phương tiện giao thông, truyền thông, thông tin liên lạc và các cơ sở dịch vụ khác; những dạng thức truyền thông có thể tiếp cận đến các dịch vụ công cũng phải được thực thi, kể cả ngôn ngữ ký hiệu, chữ nổi Braille, cassettes, cỡ phông chữ lớn, và những biện pháp công nghệ hỗ trợ khác.Quyền của trẻ em khuyết tật sống trong cộng đồng cùng với gia đình, hoặc nếu nên đảm bảo có được ▪các hình thức các gia đình khác chăm sóc thay thế, nếu cần thiêt. Can thiệp sớm và chăm sóc sức khỏe cần có sẵn sao cho TKT và gia đình các em dễ tiếp cận. ▪Cần phải thiết lập quy trình và đánh giá định kỳ việc đưa các em vào các cơ sở chăm sóc tập trung và ▪luật cần nêu rõ một thời điểm cụ thể khi đã tạo lập được hệ thống hỗ trợ chăm sóc tại cộng đồng thì chấm dứt đưa các cháu mới vào sống trong các cơ sở chăm sóc tập trung. Cần thành lập kế hoạch quá độ để chuyển đổi các trường chuyên biệt thành chương trình giáo dục ▪hòa nhập nhằm đảm bảo rằng tất cả TKT được giáo dục trong hệ thống giáo dục chung. Dự thảo Luật Người khuyết tật cần yêu cầu rằng tất cả trẻ em khuyết tật phải được làm giấy khai sinh ▪khi ra đời. Công tác bảo trợ luật pháp cần được tạo lập để bảo vệ quyền nâng cao năng lực của TKT sao cho ▪các em có thể diễn đạt được quan điểm của mình và có quyền lựa chọn những vấn đề liên quan đến mình.Công tác bảo trợ luật pháp cần phải có để chống lại kiểu chăm sóc ép buộc, không đúng quy cách và ▪cưỡng chế đưa vào trại tâm thần, như yêu cầu của các Điều 12 và 14 của CRPD; pháp chế mới của Việt Nam về sức khỏe tâm thần cần được soạn thảo theo tinh thần nhất quán với những điều khoản này. Cần phải thiết lập hệ thống bảo trợ trẻ em để báo cáo và điều tra những vụ việc tắc trách và lạm ▪dụng.Nên thiết lập một hệ thống giám sát và theo dõi tất cả các chương trình cộng đồng và tất cả các cơ sở ▪chăm sóc nuôi dưỡng trẻ em khuyết tật.Tổ chức độc lập của NKT và thành viên gia đình cần phải được lôi cuốn tham gia vào những vấn đề ▪liên quan đến theo dõi và thực thi CRPD.

Page 11: QUYỀN CỦA TRẺ EM KHUYẾT TẬT TẠI VIỆT NAM

11

CHÍNH SÁCH

Luật pháp của Việt Nam cần phản ánh những nguyên tắc cốt lõi của CRPD, gồm có quyền của tất cả những NKT để họ “tham gia đầy đủ và hiệu quả vào xã hội” − Để có thể làm nên việc này, hệ thống dịch vụ phải được cải cách sao cho TKT có thể sống và lớn lên cùng gia đình trong cộng đồng. Các em phải được giáo dục thích hợp trong hệ thống trường học chính.

Dịch vụ y tế, tái phục hồi chức năng, phục hồi chức năng phải có sẵn trong cộng đồng. Thiếu vắng những chương trình hỗ trợ cộng đồng toàn diện, nhiều TKT sẽ ít có cơ hội sống độc lập khi thành người lớn. Một số TKT hiện nay đang sống trong các trại mồ côi và các cơ sở chăm sóc tập trung khác mà tại đó các cháu chịu rủi ro phải sống cả đời tại đó. Trực tiếp đi ngược với Điều 19 của CRPD, MDRI đã thấy rằng Việt Nam đang mở rộng những cơ sở chăm sóc nội trú tập trung và chương trình chuyên biệt kiểu này.

Việt Nam nên đảo lại những kế hoạch hiện nay mở rộng các cơ sở nội trú cho trẻ em và mở rộng tầm cỡ của các cơ sở nội trú người tâm thần – Thay vì mở rộng những cơ sở hiện nay, Việt Nam nên thông qua các kế hoạch chấm dứt việc đưa TKT vào sống trong các cơ sở này. Đây nên được coi là ưu tiên hàng đầu cho những cố gắng cài cách bởi vì việc chia tách người ta ra khỏi xã hội sẽ góp phần làm tăng thêm khuyết tật và cản trở việc hưởng thụ những quyền khác. Chính phủ Việt Nam và các nhà tài trợ nước ngoài cần hướng công sức vào hỗ trợ cho các trẻ em tại gia đình và cung cấp dịch vụ theo một nền tảng cơ sở tổng hợp nhất. Cần dành công sức hỗ trợ và đào tạo cha mẹ các TKT, đặc biệt là cha mẹ các cháu khuyết tật trí tuệ, bởi vì chính họ là nguồn lực thường xuyên bị coi nhẹ đối với hỗ trợ cộng đồng hiện, mà họ lại đóng tỉ lệ hỗ trợ các cháu khuyết tật rất lớn.

Vì Việt Nam dành nguồn lực hạn chế để cung cấp dịch vụ hỗ trợ dựa vào cộng đồng và hỗ trợ cho TKT, Việt Nam nên tránh sai lầm thiết lập những chương trình dịch vụ mới và các trường chuyên biệt, mà chính những cơ sở này lại không hòa nhập TKT vào xã hội một cách đầy đủ − Cần tránh đầu tư vào các cơ sở nội trú mới, cho dù những cơ sở này nhỏ hơn, sạch sẽ hơn những cơ sở hiện nay. Tương tự như thế, ta nên tránh đầu tư vào giáo dục chuyên biệt.

Cải cách giáo dục nên thiết lập giáo dục hòa nhập cho tất cả TKT − Điều 24 của CRPD nêu rằng các chính phủ “phải bảo đảm có một hệ thống giáo dục hòa nhập ở tất cả các cấp học”. Theo đó, Việt Nam nên bảo đảm rằng các trường phải nhận, dạy và tiếp nhận TKT. Cộng thêm vào xây dựng, sửa đổi các trường hiện có, sao cho học sinh khuyết tật các loại có thể tiếp cận đến học, điều thiết yếu là phải đầu tư mới vào các chương trình đào tạo giáo viên, cung cấp các giáo trình học tập thích hợp và hỗ trợ giảng dạy TKT tật trí tuệ và các dạng khuyết tật khác.

Chính phủ, NKT và thành viên gia đình có NKT cũng nên tham gia tích cực đóng góp công sức vào giám sát những chương trình và cố gắng cải cách hiện nay − Cuộc cải cách hiệu quả sẽ bị hạn chế nếu không minh bạch và không có số liệu về tình hình hiện nay. Như UNICEF và Bộ LĐTB&XH đã mô tả trong báo cáo năm 2009 “tạo ra một môi trường bảo vệ trẻ em tại Việt Nam”, sẽ không thể có một hệ thống tổng hợp và toàn diện để bảo vệ trẻ em trong những hoàn cảnh chuyên biệt. CRPD đòi hỏi rằng cơ quan chính quyền độc lập cần được thành lập để theo dõi giám sát bất cứ chương trình nào phục vụ TKTt. Điều 4(3) nêu rõ rằng NKT và những tổ chức đại diện cho họ cần được tham gia giám sát như vậy cũng như được tham gia vào lập kế hoạch thực thi CRPD.

Page 12: QUYỀN CỦA TRẺ EM KHUYẾT TẬT TẠI VIỆT NAM

12

THAM GIA CÔNG DÂN & THỰC THI

Thiếu sót chính trong bất cứ một cố gắng cải cách nào tại Việt Nam chính là thiếu một phong trào mạnh, có tổ chức và độc lập của các bên liên quan – chủ yếu là NKT và thành viên gia đình họ - cam kết hối thúc việc thực thi và thực hiện luật hiện có tại cấp địa phương và quốc gia. Thiếu một cơ chế cử tri mạnh giám sát việc thực hiện thì một bộ Luật mới về Người khuyết tật dù có ấn tượng đến đâu cũng không được tăng cường thực hiện. Để làm cho những cố gắng khổng lồ trong cải cách luật pháp của Việt Nam xứng đáng, điều thiết yếu là cần trao quyền cho NKT lập chính sách và biện lý chính sách công. Đa phần trên thế giới, cải cách đã diễn ra tại nơi đâu xã hội dân sự độc lập có lãnh đạo của NKT tìm kiếm được cải cách chính phủ. Người khuyết tật nên được bổ nhiệm vào UBND và những chức vụ lãnh đạo khác trong các cấp chính quyền trung ương và địa phương làm chính sách và thực thi những chương trình tác động đến những NKT. Giả định là từ lâu đã thiếu đào tạo và cơ hội cho NKT, nhóm khuyết tật này trong xã hội có thể thiếu kinh nghiệm và thiếu trình độ đảm đương những vị trí này. Cách nhanh nhất để phát triển kinh nghiệm đó là thách thức cá nhân khuyết tật bằng chính trải nghiệm đời thực triển khai và thực thi các chương trình. Cá nhân khuyết tật phải được hỗ trợ và đào tạo cần thiết cho phép họ làm việc hiệu quả trong những cương vị ấy.

Page 13: QUYỀN CỦA TRẺ EM KHUYẾT TẬT TẠI VIỆT NAM

13

1. Bối cảnh thực tế của TKT tại Việt Nam

Giống như bất cứ trẻ em nào, TKT cũng có tiềm năng phát triển trong cộng đồng và ảnh hưởng tích cực đến cuộc sống của mọi người quanh mình. Khác biệt ở đây là xã hội có thể phải thích ứng để thực hiện hóa tiềm năng đó của trẻ. Bằng việc ký Công ước về Quyền của Người khuyết tật (CRPD), Việt Nam đã đánh tín hiệu rằng nước mình cam kết một xã hội thích ứng với nhu cầu của TKT và Việt Nam đã đạt tiến bộ đầy ý nghĩa trong lĩnh vực này. Tại Việt Nam, như nhiều nơi trên thế giới, TKT đương đầu với nhiều khó khăn tiếp cận môi trường vật chất, cũng như tiếp cận những dịch vụ dựa vào cộng đồng, dịch vụ y tế, giáo dục và hệ thống bảo vệ trẻ em. Thực thi CRPD sẽ đòi hỏi nhiều biện pháp tích cực để chấm dứt tình trạng phân biệt đối xử. Trong khi một số biểu hiện phân biệt đối xử là kết quả của luật pháp có tính phân biệt, đại đa số phân biệt đối xử lại là kết quả của những chính sách và cách làm có lịch sử từ lâu là tách biệt TKT ra khỏi xã hội thông thường. Những thách thức đặc biệt đối với TKT tại Việt Nam được nêu đại cương dưới đây.

1.1. Khả năng tiếp cận

Vấn đề thiếu khả năng tiếp cận đối với NKT tại Việt Nam đặc biệt trầm trọng đối với TKT, nó tạo ra những rào cản đến dịch vụ y tế, giáo dục, vui chơi giải trí, văn hóa, thể thao và những hoạt động khác rất thiết yếu cho sự phát triển của một đứa trẻ. Cụ thể là, TKT tật thiếu khả năng tiếp cận dịch vụ giao thông công cộng, trường học, bệnh viện, nhà vệ sinh, các tòa nhà văn hóa và những tòa nhà khác.1 Thiếu tiếp cận đến thông tin liên lạc đối với những người khiếm khuyết về thị lực và thính lực.2 Trẻ em khiếm khuyết thị lực và thính lực không thể tiếp cận được những chương trình học tập và những thông tin khác vì những nội dung đó không có bằng chữ nổi Braille, phông chữ lớn, hoặc có phụ đề bằng chữ đi kèm.3 Phiên dịch ngôn ngữ ký hiệu thì hiếm và NKT phải dựa vào cố gắng của các giáo viên tình nguyện làm việc với những người điếc.4 Trong kkhi đài truyền hình Việt Nam (VTV) có chương trình thời sự đêm với phụ đề, các chương trình khác có phụ đề thì lại chưa sẵn có.5

1.2. Dịch vụ dựa vào cộng đồng và y tế

Xét đến những dịch vụ dựa vào cộng đồng và dịch vụ y tế, thiếu những dịch vụ phát hiện sớm, can thiệp sớm, tái phục hồi chức năng dựa vào cộng đồng và dịch vụ chăm sóc sức khỏe có chất lượng dành cho TKT trong cộng đồng tại Việt Nam. Trong khi những chính sách chính thống cung cấp dịch vụ tái hồi chức năng cho NKT cũng có đấy, tổng quan vẫn còn thiếu rất nhiều những dịch vụ như vậy, cũng như hoàn toàn còn thiếu những dịch vụ lấy TKT làm mục tiêu.6 Thiếu những dịch vụ này là do kinh phí chưa đầy đủ, thực thi kém, mở rộng dàn trải và thiếu duy trì.7 Nhiều TKT không nhận được chăm sóc sức khỏe và dịch vụ phục hồi chức năng.8 Còn đối với những em nào nhận được, số lượng trẻ em sử dụng trợ giúp phục hồi chức năng rất thấp, chỉ khoảng 1/5 TKT được dùng tay giả, chân giả, chỉnh hình, hỗ trợ nghe và nhìn hoặc xe lăn..9 Dịch vụ phục hồi chức năng không sẵn có tại nhiều cộng đồng và nhân viên

1 Phân tích tình hình trẻ em khuyết tật tại Việt Nam, UNICEF và Bộ LĐ-TB-XH 155 (Hà Nội), 2004.2 Michael Schwartz, Điếc tại Việt Nam: Liệu Công ước Liên Hiệp Quốc về quyền của người khuyết tật có làm nên khác

biệt hay không? 34 Syracuse J. Int’l L. & Com 483, 492 (2007).3 Phân tích tình hình trẻ em khuyết tật tại Việt Nam, như đã trích dẫn chú giải 1, trang 128.4 Michael Schwartz, như đã trích dẫn chú giải 2, trang 492.5 Như trên6 Tạo lập một môi trường bảo vệ trẻ em tại Việt Nam: đánh giá luật và những chính sách bảo vệ trẻ em, đặc biệt là trẻ em

có những hoàn cảnh đặc biệt tại Việt Nam, UNICEF và Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội 80 (Hà Nội), 2009.7 Người hướng dẫn quyền người khuyết tật quốc tế (IDRM)—Báo cáo khu vực châu Á: báo cáo quốc gia Việt Nam

140 (2005), http://www.idrmnet.org/pdfs/CIR_IDRM_Asia_05.pdf (lần xem gần đây nhất 23 tháng 11, 2009).8 Tạo lập một môi trường bảo vệ trẻ em khuyết tật tại Việt Nam, như đã trích dẫn chú giải 6, tại 80.9 Như trên

Page 14: QUYỀN CỦA TRẺ EM KHUYẾT TẬT TẠI VIỆT NAM

14

y tế thì thường chưa được đào tạo đầy đủ, hoặc họ chưa có động viên vật chất để làm việc cùng với gia đình TKT.10 Nhiều gia đình TKT không nhận được hỗ trợ mà họ rất cần để nuôi một đứa con khuyết tật. Hiện nay, chưa có chương trình phát hiện có hệ thống, chưa có đánh giá chuyên nghiệp hoặc chưa giúp đỡ được cho những gia vị tổn thương thế để giúp cho TKT ở lại với gia đình.11 Còn một số chương trình hỗ trợ tại trường học và cộng đồng dành cho TKT thì còn hạn chế.12 Các gia đình không được lợi lộc gì từ các chương trình tham mưu, dịch vụ tư vấn cho tuổi thiếu niên, các chương trình kỹ năng sống, những trung tâm tiếp nhận hoặc những hoạt động giải trí.13 Thêm vào đó, còn thiếu cán bộ công tác xã hội chuyên nghiệp được đào tạo.14 Bởi vì công tác xã hội còn là một nghề mới, hiện nay vẫn chưa bổ nhiệm chức danh cho những cán bộ làm công tác xã hội được đào tạo.15

1.3. Giáo dục

Việt Nam từ lâu đã biết đánh giá tầm quan trọng của giáo dục và chính phủ Việt Nam đã đầu tư một tỉ lệ ngân sách nhà nước cao cho các dịch vụ giáo dục trẻ em. Tuy nhiên, lại có một tỉ lệ khá lớn TKT không được đi học tí nào. Theo một số con số thống kê, chỉ có 52% TKT được tiếp cận với giáo dục, trong khi đó 33% TKT bị mù chữ.16 Những nghiên cứu khác cho thấy một tỉ lệ thấp hơn rất nhiều (20%) các TKT được đi học.17 Trong số những TKT được đi học, hệ thống giáo dục chia tách các loại khuyết tật và xếp các em vào những trường học hoặc lớp học riêng.18 Mặc dầu đã có một số cố gắng để tạo ra một hệ thống giáo dục hòa nhập, vẫn còn thiếu hỗ trợ kỹ thuật và tài chính.19 Thiếu đào tạo giáo viên và thiếu thông tin cũng góp phần làm thiếu giáo dục hòa nhập.20 Cuối cùng, rất nhiều TKT không có được điều chỉnh phù hợp cho phép các em có thể học tập hoặc ở trường chuyên biệt, hoặc ở trường hòa nhập.21

1.4. Thành lập các cơ sở chăm sóc tập trung

Một trong những thách thức căng thẳng nhất đối với TKT tại Việt Nam là việc đưa các em vào những trung tâm bảo trợ xã hội, các trại tế bần, các trường nội trú hoặc các cơ sở khác. Vấn đề này là mối quan tâm đặc biệt khi Việt Nam dường như đang định hướng những luồng nguồn lực mới vào xây dựng các tòa nhà và chương trình để tăng số lượng người lớn và TKT nhận vào các cơ sở nội trú. Hiện nay, chưa có thống kê tin cậy về số lượng trẻ em trong các trung tâm và cơ sở như thế của chính phủ, của các tổ chức phi chính phủ quốc tế, các tổ chức tôn giáo, các cơ sở tư nhân và các tổ chức địa phương. Tuy nhiên, một nghiên cứu trích dẫn số lượng trẻ em trong những cơ sở này là 14,574,22 mặc dầu người ta tin rằng con số thực tế còn cao hơn. Còn tồn tại nhiều bất cập lớn liên quan đến những con số thống kê về số TKT không được học tập và cần phải có những quy trình thu thập số liệu tốt hơn để giải quyết vấn đề này.

10 Phân tích tình hình trẻ em khuyết tật tại Việt Nam, như đã trích dẫn chú giải 1, at 129.11 Tạo lập một môi trường bảo vệ trẻ em khuyết tật tại Việt Nam, như đã trích dẫn chú giải 6, at 24.12 Như trên13 Như trên14 Như trên tại 29.15 Như trên16 Như trên tại 81.17 Phân tích tình hình các chương trình và cơ sở chăm sóc trẻ em khuyết tật tại Việt Nam, UNICEF và Bộ LĐ-TB-XH

34 (Hà Nội), 2005.18 Tạo lập một môi trường bảo vệ trẻ em khuyết tật tại Việt Nam, như đã trích dẫn chú giải 6, tại 81.19 Như trên tại 82.20 Như trên21 Phân tích tình hình trẻ em khuyết tật tại Việt Nam, như đã trích dẫn chú giải 1, tại 128.22 Phân tích tình hình các chương trình và cơ sở chăm sóc trẻ em khuyết tật tại Việt Nam, như đã trích dẫn chú giải 17,

tại 8.

Page 15: QUYỀN CỦA TRẺ EM KHUYẾT TẬT TẠI VIỆT NAM

15

Việc nhận các em vào một cơ sở thường là dựa trên tư cách chung của trẻ chứ không dựa trên cơ sở thể hiện nhu cầu và việc nhận vào các cơ sở này lại không được coi là phương cách bất đắc dĩ cuối cùng.23 Nói chung, TKT được đưa vào các trường là do gia đình em đó khó khăn về kinh tế, khó chu cấp thực phẩm, chi phí đi học và y tế.24 Một khi cháu bé đã vào trường, không có tổng kết theo giai đoạn, không có đánh giá nhu cầu đối với việc đưa cháu vào trường.25 Lại nữa là, em bé đó chắc phải ở lại trong trường khá lâu (trung bình là 5- 12 năm).26 Còn TKT có thể ở mãi trong các trung tâm nuôi dưỡng tập trung cả đời. Mới đây, chính phủ đã cố gắng giảm việc đưa thêm số lượng trẻ vào các trại.27 Tuy nhiên, có một số nhân tố đang góp phần làm tăng thêm số trẻ vào trại. thứ nhất, không có một cơ chế rõ ràng thông qua đó các gia đình có TKT có thể tìm kiếm được dịch vụ; thứ hai là số lượng hạn chế các chương trình phát hiện và đánh giá để nhìn nhận những gia đình đang nằm trong tình trạng rủi ro; và thứ ba là hệ thống sẵn có hiện nay thiếu hụt nhân viên và thiếu đào tạo để thực hiện nhiệm vụ hỗ trợ có ý nghĩa.28 Hơn nữa, không có hệ thống theo dõi hoặc tổng kết theo định kỳ đối với trẻ em đang được chăm sóc.29 Bởi vì chương trình chưa được thực thi rộng rãi và bởi vì một số hộ gia đình không thể nuôi nổi một con khuyết tật, nên TKT vẫn phải đi đến kết cục là các em phải vào sống trong các trung tâm nuôi dưỡng tập trung.30

1.5. Hệ thống bảo vệ trẻ em

Không tồn tại một hệ thống bảo vệ trẻ em toàn diện làm cho việc phát hiện và báo cáo tình hình lạm dụng TKT thật khó khăn, cũng như công tác điều tra và tiến trình đánh giá những báo cáo về lạm dụng.31 Các dịch vụ xã hội hiện nay chủ yếu là theo phương pháp tiếp cận kiểu từ thiện, ngược với phương pháp tiếp cận dựa vào quyền.32 Còn đối với việc phát hiện và báo cáo, hiện Việt Nam chưa có quy chế khiếu nại tách biệt với Luật Khiếu nại và tố cáo hoặc Bộ Luật Tố tụng Hình sự, cả hai văn bản luật đó đều không có ích gì để trẻ em có thể lập hồ sơ cho mình.33 Không có hợp phần điều tra và đánh giá để đáp ứng với những báo cáo lạm dụng trẻ em, mà chỉ có Luật xử lý những vi phạm hành chính và Luật tố tụng hình sự là có để giải quyết những khiếu nại.34

1.6. Tham gia của công dân

Hiện nay, những điều khoản luật quy định quyền hạn của các tổ chức của NKT được tham gia vào tiến trình ra luật và giám sát các chương trình thì vẫn còn thiếu trong luật của Việt Nam. Ít tổ chức hoạt động trong lĩnh vực này và năng lực biện lý cho quyền của họ và tác động vào chính sách quốc gia còn hạn chế.35 Tổ chức nổi bật nhất có chức năng chính là biện lý chính sách cho NKT, và ảnh hưởng của nó tới công tác điều phối các luật và chính sách, giám sát việc thực thi Luật Người khuyết tật, hoặc gây ảnh hưởng đến việc đề ra luật và những quy định còn bị hạn chế.36

23 Như trên tại 38.24 Như trên, tại 51.25 Như trên.26 Như trên tại 55.27 Tạo lập một môi trường bảo vệ trẻ em tại Việt Nam, như đã trích dẫn chú giải 6, tại điểm 31-32.28 Như trên tại điểm 24.29 Như trên tại điểm 34.30 Như trên tại điểm 32.31 Như trên tại điểm 29-30.32 Như trên tại điểm 13.33 Như trên tại điểm 29.34 Như trên tại điểm 30.35 Tiến sĩ T. Duy Kiên, Báo cáo phân tích so sánh Luật quốc tế và Luật Việt Nam về quyền của trẻ em khuyết tật 53 (2009)

[từ sau đây gọi tắt là “Báo cáo phân tích so sánh”].36 Như trên

Page 16: QUYỀN CỦA TRẺ EM KHUYẾT TẬT TẠI VIỆT NAM

16

2. Tổng quan Công ước về Quyền của NKT

2.1. Tác động của phê chuẩn và tuân thủ với CRPD

Công ước nhân quyền đầu tiên của thế kỷ thứ 21, Công ước về Quyền của Người khuyết tật (CRPD), đã được LHQ thông qua vào ngày 13-12-2006 và có hiệu lực từ ngày 4 tháng 5 năm 2008. Từ đó đến nay, công ước đã được mau chóng công nhận khắp nơi trên thế giới. Đến thời điểm ngày 1 tháng 12 năm 2009, đã có 143 quốc gia ký vào CRPD và 74 quốc gia đã phê chuẩn thực hiện.37 Khi một nước “phê chuẩn” hay “tham gia vào” công ước, nước đó đã chấp nhận công ước là luật ràng buộc.38 Ký kết vào công ước là bước đầu tiên tiến đến phê chuẩn, việc đó thể hiện một cam kết chính trị là quốc gia sẽ không hành động trái ngược và có hại tới tới “đối tượng và mục đích” của công ước.39

Cao ủy LHQ về Quyền con người đã ban hành hướng dẫn cho các chính phủ nào đang xem xét việc phê chuẩn, hoặc những chính phủ nào mới đây phê chuẩn CRPD.40 Để chuẩn bị cho việc phê chuẩn, Cao ủy LHQ kiến nghị cần phải rà soát cả luật pháp và cả chính sách xem có tuân thủ với CRPD hay không.41 Trong cố gắng đó, Cao ủy LHQ kiến nghị rằng các chính phủ nên bàn thảo với xã hội dân sự, kể cả các tổ chức đại diện cho NKT.42 Trên cơ sở phê duyệt CRPD, các cơ quan nhà nước không chỉ có nghĩa vụ chấm dứt những cách làm có tính chất phân biệt đối xử NKT, mà còn khẳng định chắc chắn nghĩa vụ cung cấp dịch vụ cần thiết cho NKT để họ tham gia và xã hội trên cơ sở bình đẳng với những người không bị khuyết tật.

Công ước CRPD rút ra nhiều kinh nghiệm quốc tế để khuyến khích áp dụng những các thực hiện hay và hỗ trợ các quốc gia thành viên chú trọng đến các bước họ cần thực hiện để bảo đảm bảo vệ nhân quyền và để NKT được tham gia đầy đủ vào xã hội. CRPD cũng đòi hỏi các chính phủ không chỉ chuyển đổi luật pháp, chính sách và cách làm mà còn phải tăng cường thực hiện.43 CRPD công nhận rằng các quốc gia có quyền “thực hiện liên tục dần” những quyền con người đó sau một thời gian. Luật pháp về nhân quyền quốc tế, tuy thế, đòi hỏi rằng các quốc gia thành viên áp dụng các chính sách ngay lập tức để đặt quốc gia lên con đường tiến lên thực hiện đầy đủ những quyền đó.

37 http://un.org/disabilities/countries/asp?id=166 (lần truy cập gần đây nhất vào 20-10- 2009). Tổng quan những bước mà các nước trên thế giới tiến hành nhằm phù hợp với CRPD, xem phần hiện trạng của Công ước về quyền của người khuyết tật và Nghị định thư tùy nhiệm là : Báo cáo của tổng thư ký ngày 7-7- 2009, UNGA phiên họp lần thứ 65th , mục 70 nêu bật và bảo vệ nhân quyền: Công ước về quyền của người khuyết tật, tài liệu của LHQ số. A/64/128.

38 Theo điều 43 của CRPD, một nước có thể nêu dự định của mình ràng buộc pháp lý bằng việc đầu tiên là ký kết sau đó phê chuẩn hoặc có thể tham gia một công ước trực tiếp luôn mà không cần ký lúc đầu.

39 Công ước Vienna về Luật của những hiệp ước (VCLT), điều. 18.40 Cao ủy LHQ về Nhân quyền, “Báo cáo thường niên của Cao ủy LHQ về Nhân quyền và Báo cáo của văn phòng Cao

ủy LHQ và Tổng thư ký: Nghiên cứu chủ điểm của Văn phòng Cao ủy LHQ về Nhân quyền về tăng cường ý thức và hiểu biết về Công ước Quyền của Người khuyết tật” Hội đồng Nhân quyền, phiên họp lần thứ 10 ngày 29-1-2009, UN Doc. No. A/HRC/10/48. [sau đây gọi chung là “Báo cáo thường niên của Cao ủy LHQ về Nhân quyền và Báo cáo của văn phòng Cao ủy LHQ và Tổng thư ký”]

41 Như trên ở đoạn 16.42 Như trên ở đoạn 67.43 “Các quốc gia thành viên thực hiện bảo đảm và nêu cao việc thực hiện đầy đủ tất cả các quyền con người và những

quyền tự do căn bản cho tất cả những người khuyết tật mà không được phân biệt đối xử ở bất cứ dạng nào chỉ vì họ khuyết tật.” Điều 4(1). Việc này gồm cả hành động “thực hiện tất cả những biện pháp thích hợp để điều chỉnh, bãi bỏ những điều luật và quy định hiện hành nào, phong tục và tập quán nào gây ra phân biệt đối xử với người khuyết tật.” Điều 4(1)(b).

Page 17: QUYỀN CỦA TRẺ EM KHUYẾT TẬT TẠI VIỆT NAM

17

2.2. Nội dung tổng quát của Công ước về Quyền của Người khuyết tật

Công ước CRPD dựa trên những nguyên tắc (a) quyền được mọi người tôn trọng phẩm giá, tự chủ và độc lập, (b) không phân biệt đối xử, (c) được tham gia đầy đủ và hiệu quả vào hòa nhập xã hội, (d) tôn trọng sự khác biệt và chấp nhận NKT là một phần của tính đa dạng nhân loại và nhân văn, (e) bình đẳng trong mọi cơ hội, (f) bảo đảm khả năng tiếp cận, (g) bình đẳng nam nữ, và (h) tôn trọng năng lực tiến hóa của TKT và tôn trọng quyền của trẻ em được duy trì bản sắc của mình.44 Làm như thế, công ước nâng cao phẩm cách, bình đẳng và chống phân biệt đối xử, tất cả những điều đó đều là những hòn đá tảng của hiệp ước có tính nhân quyền quốc tế này.

Đặc biệt, CRPD thiết lập nên là “phân biệt đối xử chống lại bất cứ ai vì họ khuyết tật là vi phạm phẩm cách vốn có và nhân phẩm.”45 Để phòng ngừa sự phân biệt đối xử đó, chính phủ không chỉ “bảo vệ pháp lý hiệu quả” mà còn phải để xã hội thích ứng thông qua cung cấp “môi trường cư ngụ hợp lý” sao cho những cá nhân khuyết tật có thể thực hiện đầy đủ những quyền này.46 Một nguyên tắc cốt lõi của CRPD là cần có những cư ngụ hợp lý để bảo đảm cho tất cả những NKT “tham gia đầy đủ và hiệu quả vào xã hội”.47 Điều 19 của CRPD thiết lập Quyền của NKT được sống trong cộng đồng có quyền lựa chọn bình đẳng như những người. Quyền này áp dụng cho tất cả TKT, kể cả những TKT nặng về thể chất và trí lực mà các cháu có thể phải cần hỗ trợ rất nhiều từ cộng đồng. Việc tham gia đầy đủ vào xã hội đòi hỏi phải tiếp cận được về mặt lý tính48 và những chương trình tái phục hồi trí tuệ và phục hồi chức năng, kể cả các chương trình cho TKT trí tuệ.49 Đối với những cá nhân khiếm khuyết về giác quan, đó có thể là giúp học ngôn ngữ ký hiệu hoặc sử dụng chữ nổi Braille.50 CRPD là một văn bản tầm rộng mô tả việc chăm sóc sức khỏe,51 giáo dục,52 dịch vụ xã hội,53 công ăn việc làm,54 tiêu chuẩn chung cho cuộc sống,55 cũng như đời sống văn hóa, nghỉ ngơi và thể thao56 mà phải có cho trẻ em và NKT trên cơ sở bình đẳng với những người không khuyết tật.

3. Tổng quan pháp luật Việt Nam liên quan đến NKT và Dự thảo Luật Người khuyết tật

3.1.Cơ sở của pháp luật Việt Nam liên quan đến NKT

Cam kết của chính phủ Việt Nam bảo vệ quyền của TKT có ấn tượng. Là một quốc gia đã phê chuẩn Công ước Liên Hiệp Quốc về Quyền trẻ em (CRC) cách đây 20 năm, Việt Nam cam kết tăng cường những quyền con người cơ bản cho tất cả trẻ em mà không chỉ riêng TKT. Theo CRC, Việt Nam bảo

44 Như trên tại điều 3. Xem Arlene S. Kanter, “Lời hứa và thách thức của Công ước LHQ về quyền của người khuyết tật” Tạp chí Luật pháp và Thương mại quốc tế. 34: 287-321. (2007).

45 Công ước LHQ về Quyền của Người khuyết tật (CRPD), ngày 13-12- 2006, G.A. Res. 61/106, U.N. Doc. A/RES/106, có hiệu lực từ ngày 3-5-2008. Việt Nam đã ký ngày 22-10-2007.

46 Như trên tại điều 5(3).47 Như trên tại Điều 3(c). Xem Arlene S. Kanter, “Lời hứa và thách thức của Công ước LHQ về quyền của người khuyết

tật” Tạp chí Luật pháp và Thương mại quốc tế. 34: 287-321. (2007).48 Như trên tại điều 9.49 Như trên tại Điều 26.50 Như trên tại Điều 24(3) and (4).51 Như trên tại Điều 25.52 Như trên tại Điều 24.ho953 Như trên tại Điều 19.54 Như trên tại Điều 27.55 Như trên tại Điều 28.56 Như trên tại Điều 29.

Page 18: QUYỀN CỦA TRẺ EM KHUYẾT TẬT TẠI VIỆT NAM

18

đảm rằng mọi trẻ em, kể cả TKT, đều được “tiếp cận giáo dục và học hành, các dịch vụ y tế dịch vụ phục hồi chức năng, được chuẩn bị nghề cho việc làm và những cơ hội giải trí theo cách thức có lợi cho trẻ em để hội nhập xã hội và phát triển cá nhân đầy đủ nhất.”57 UNICEF và chính phủ Việt Nam đã có truyền thống lịch sử quan hệ cùng nhau xem xét những cách thức thực thi những quyền này.

Việt Nam đến nay đã áp dụng nhiều luật và chính sách để bảo vệ trẻ em. Bắt đầu với Điều 50 của Hiến pháp năm 1992, tất cả công dân Việt Nam đều được bảo đảm quyền xã hội, văn hóa, kinh tế và chính trị. Hiến pháp Việt Nam hơn nữa cũng nêu rằng NKT, người già, người cơ cực và trẻ em mồ côi “được nhà nước bảo trợ”58

Việt Nam tiếp tục thông qua những luật trao quyền bổ sung cho trẻ em và người lớn khuyết tật. Những luật này gồm Luật bảo vệ sức khỏe nhân dân năm 1989, Luật Xử phạt vi phạm hành chính năm 1999, Luật hôn nhân và gia đình năm 2000, Luật phổ cập giáo dục tiểu học năm 1991, Luật Bảo vệ chăm sóc và giáo dục trẻ em năm 2004, Luật Giáo dục năm 2005, Luật Đào tạo dạy nghề 2006, Luật Công nghệ thông tin năm 2006, Luật thể dục thể thao năm 2006, Luật Giao thông đường bộ năm 2008. Thêm vào những luật này, các bộ ngành khác nhau của chính phủ Việt Nam đã triển khai ít nhất là 20 chỉ thị, nghị định và những quyết định khác nhau liên quan đến khuyết tật trong những lĩnh vực như lao động và việc làm, dạy nghề, giao thông dễ tiếp cận, tiêu chuẩn xây dựng các công trình nhà ở và các tòa nhà thương mại, chính sách phúc lợi xã hội, đào tạo giáo viên và thể thao.59 Chính phủ Việt Nam đã tiến một bước

57 Công ước LHQ về Quyền trẻ em (CRC), G.A. Res. 44/25, U.N. G.A.O.R., phiên họp lần 44, phần bổ sung số 49. tại Điều 23(3), U.N. Doc. A/44/25, Việt Nam đã phê chuẩn vào ngày 28-2-1990.

58 VIETNAM CONST. (1992), điều. 67.59 Những tài liệu này gồm: Nghị định No.67/ND-CP ngày 13/4/2007 về chính sách hỗ trợ xã hội cho những đối

tượng chính sách; Nghị định No. 43/NĐ/2008/ND-CP của chính phủ ngày 8/4/2008 về quy định chi tiết và hướng dẫn thực thi Điều 62 và Điều 72 của Luật đào tạo dạy nghề; Nghị định của chính phủ No. 55/1999/ND-CP ngày 10/7/1999 về thi hành một số điều của Pháp lệnh về Người khuyết tật; Nghị định của chính phủ No. 36/2005/ND-CP ngày 17/3/2005 về thi hành một số điều của Luật Bảo vệ chăm sóc và giáo dục trẻ em; Thông tư số. 13/2000/TT-BLDTBXH ngày 12/5/2000 của Bộ LĐ-TB-XH về hướng dẫn thi hành một số điều Nghị định chính phủ số. 55/1999/ND-CP ngày 10/7/1999 về thi hành một số điều của Pháp lệnh về Người khuyết tật; Quyết định số: 23/2001/QD-TTg của Thủ tướng chính phủ ngày 26/02/2001 về phê duyệt Chương trình hành động quốc gia vì trẻ em Việt Nam, giai đoạn 2001 – 2010; Quyết định số 201/2001-TTg của Thủ tướng ngày 28/12/2001 về phê duyệt “Chiến lược phát triển giáo dục cho giai đoạn 2001 - 2010”; Quyết định số 65/2005-TTg của Thủ tướng ngày 25/3/2005 về phê duyệt “Kế hoạch quốc gia chăm sóc trẻ mồ côi vô thừa nhận, trẻ em bị bỏ rơi, trẻ em khuyết tật nặng, trẻ em là nạn nhân chất độc và trẻ em sống chung với HIV/AIDS cho giai đoạn 2005-2010;” Quyết định của Thủ tướng số 239/2006/QD-TTG ngày 24/10/2006 phê duyệt kế hoạch hỗ trợ người khuyết tật cho giai đoạn 2006-2010; Thông tư liên bộ số số .46/2007/TTLT-BTC–BLDTBXH của Bộ TC và Bộ LĐ-TB-XH hướng dẫn sử dụng kinh phí thực hiện Quyết định của Thủ tướng số 239/2006/QD-TTg ngày 24/10/2006 về phê duyệt Kế hoạch hỗ trợ người khuyết tật cho giai đoạn 2006-2010; Quyết định của Thủ tướng số 554/QD-TTg ngày 11/9/1995 phê duyệt việc thành lập Hiệp hội thể thao người khuyết tật Việt Nam; Chỉ thị số 03/2007/CT-UBDTTT của Ủy ban Thể dục thể thao ngày 11/07/2007 về thúc đẩy thực thi những chính sách hỗ trợ người khuyết tật trong các hoạt động thể thao; Chỉ thị số.03/2006/CT-BGTVT của Bộ Giao thông ngày 2/3/2006 về thúc đẩy thực thi những chính sách hỗ trợ người khuyết tật trong ngành giao thông; Quyết định số 23/2006/QD-BGDDT ngày 22/ 5/2006 của Bộ Giáo dục và Đào tạo về giáo dục hòa nhập cho người khuyết tật; Quyết định số 49/2007/QD-BGDT ngày 29/ 8/2007 về chương trình đào tạo giáo viên và quản lý giáo dục phụ trách giáo dục hòa nhập cho học sinh khuyết tật tại các trường phổ thông cơ sở; Quy chuẩn xây dựng Việt Nam QCXD Viet Nam 01:2002 về tiêu chuẩn xây dựng bảo đảm việc tiếp cận và sử dụng của người khuyết tật; Tiêu chuẩn xây dựng Việt Nam TCXD Viet Nam 264:2002 và nhà ở và công trình xây dựng – những nguyên lý cơ bản cho xây dựng công trình bảo đảm việc tiếp cận và sử dụng của người khuyết tật; Tiêu chuẩn xây dựng Việt Nam TCXD Viet Nam 265:2002 đường phố và hè đường - những nguyên lý cơ bản cho xây dựng công trình bảo đảm việc tiếp cận và sử dụng của người khuyết tật; Tiêu chuẩn xây dựng Việt Nam TCXD Viet Nam 266-2002 xây dựng nhà ở, hướng dẫn bảo đảm việc tiếp cận và sử dụng của người khuyết tật; Quyết định số 08/2005/QD-BGTVT ngày 10/01/ 2005 của Bộ Giao thông vận tải về ban hành quy định về các bến đỗ xe buýt chở khách.

Page 19: QUYỀN CỦA TRẺ EM KHUYẾT TẬT TẠI VIỆT NAM

19

đầy ý nghĩa trong năm 2006 khi Bộ LĐTB&XH soạn thảo Kế hoạch quốc gia Hỗ trợ NKT để thực thi trong giai đoạn 2006 - 2010.

Hiện nay, dự thảo “Luật về Người khuyết tật” (là luật toàn diện nhất trong lĩnh vực NKT được Việt Nam triển khai. Trong mấy năm qua, Bộ LĐTB&XH đã chủ trì việc soạn thảo gồm đại diện của nhiều bộ liên quan. Ban soạn thảo cũng thu hút nhiều đại diện của Ủy ban quốc gia NKT, Hội hỗ trợ Người tàn tật Việt Nam (VNAH), và các chuyên gia quốc tế. Lấy theo hình thức của Công ước quốc tế về NKT làm mẫu, Dự thảo Luật Người Khuyết tật này có tiềm năng trở thành bộ luật NKT tiến bộ và toàn diện nhất trên thế giới. Đến tháng 10-2009, Dự thảo Luật Người khuyết tật đã được chính phủ và Bộ Tư pháp hoàn tất, trình lên Ủy ban Các vấn đề xã hội của Quốc hội để xem xét.

Bằng việc ký kết CRPD, chính phủ Việt Nam đã khẳng định cam kết của mình là đưa luật pháp và tập quán quốc gia phù hợp với Công ước quốc tế về NKT trong công tác chuẩn bị đệ trình CRPD cho Quốc hội để phê chuẩn. Như vậy, Việt Nam đã bắt đầu soạn luật để đưa quốc gia mình vào tuân thủ với CRPD.

Luật Người khuyết tật giải quyết phần lớn những lĩnh vực của cuộc sống NKT tại Việt Nam. Luật bảo đảm quyền của trẻ em và người lớn khuyết tật tiếp cận bình đẳng đến dịch vụ y tế, giáo dục, học nghề, việc làm, chỗ ở và các tòa nhà chính phủ, phương tiện giao thông công xe buýt, tàu hỏa, ICT, hoạt động văn hóa và giải trí. Luật này lần đầu tiên nghiêm cấm phân biệt đối xử chống lại NKT trong việc không chịu nhận họ vào các trường học vì lý do khuyết tật.60 Luật cũng dựng nên ưu tiên cho giáo dục hòa nhập,61 và đòi hỏi các trường giáo dục và dạy nghề cung cấp nơi ăn chốn ở cho học sinh.62 Luật cũng bảo đảm cho NKT về nghe, nói, nhìn và những khiếm khuyết khác cơ hội “tham dự các lớp dùng ngôn ngữ tín hiệu, chữ nổi Braille mà được chuẩn hóa ở cấp quốc gia hoặc sử dụng những công cụ giáo dục, tài liệu soạn cho NKT.”63

Dự thảo Luật Người khuyết tật này cũng bảo đảm cho NKT tiếp cận những địa điểm văn hóa, thể thao và vui chơi giải trí và công nhận cần phải phục hồi chức năng cho NKT dựa vào cộng đồng.64 Luật này cũng hỗ trợ tài chính cho các gia đình có NKT “nặng” mặc dầu không nhất thiết phải cho cả những người khác bị khuyết tật.65 Luật đề xuất này tạo ra một quỹ để hỗ trợ những NKT,66 luật cũng hướng các chính sách vì NKT vào chính sách phát triển kinh tế xã hội chung của cả nước.67 Có lẽ điều có ý nghĩa nhiều nhất chính là luật này đòi hỏi chính phủ Việt Nam bảo đảm một ngân sách hàng năm đủ để thực thi những chính sách từ Dự thảo Luật Người khuyết tật này.68

Dự thảo Luật Người khuyết tật đi một chặng đường dài đến chương mục bảo vệ pháp lý mà CRPD yêu cầu. Tuy nhiên, còn có một số lỗ hổng trọng yếu cũng như một vài lĩnh vực mà Dự thảo Luật Người khuyết tật mâu thuẫn với những nguyên tắc cơ bản thiết lập trong CRPD. Bản báo cáo này trình ra đây cách thức làm thế nào để Dự thảo Luật Người khuyết tật này có thể được chỉnh sửa nhằm bảo đảm tuân thủ với CRPD.

60 Luật Người khuyết tật 2010/QH12 điều 13(1). (2009) (bản thảo lần 6, cập nhật ngày 5-10-2009) [sau đây gọi là “Dự thảo Luật Người khuyết tật”].

61 Như trên tại Điều 21.62 Như trên tại Điều 25.63 Như trên tại Điều 20(3).64 Như trên tại Điều 18.65 Như trên tại điều 34.66 Như trên tại Điều 10.67 Như trên tại Điều 30.68 Như trên tại Điều 5(1).

Page 20: QUYỀN CỦA TRẺ EM KHUYẾT TẬT TẠI VIỆT NAM

20

4. Quyền được bảo vệ không bị phân biệt đối xử chỉ vì khuyết tật

Hiến pháp 1992 của Việt Nam, cùng danh mục lớn nhiều luật, nhìn chung đã nghiêm cấm phân biệt đối xử. Ấy vậy tới nay vẫn chưa có luật cụ thể riêng nào để bảo vệ NKT. Dự thảo Luật Người khuyết tật của Việt Nam sẽ là một bước tiến lớn lao nghiêm cấm phân biệt đối xử NKT. Luật này sẽ được củng cố, tất nhiên, bằng những điều khoản cụ thể hơn. Thứ nhất là, Dự thảo Luật Người khuyết tật cần một câu chữ rõ ràng đặc biệt nghiêm cấm việc phân biệt đối xử NKT trong giáo dục, nhà ở, y tế, tiếp cận dịch vụ, đi lại và tất cả những lĩnh vực khác của cuộc sống. Thứ hai là, luật cần thiết lập quyền có “môi trường cư ngụ hợp lý”, một yếu tố trọng yếu để bảo vệ trẻ em và người lớn khuyết tật khỏi bị phân biệt đối xử.

4.1 Định nghĩa khuyết tật

Bản thân văn bản CRPD không có định nghĩa khuyết tật, nhưng đó là để áp dụng cho “những người khiếm khuyết lâu ngày về thể chất, thần kinh, trí tuệ hoặc các giác quan mà khi tác động tương hỗ với những rào cản khác nhau có thể gây cản trở cho việc tham gia hiệu quả và đầy đủ vào xã hội, trên cơ sở bình đẳng với những người khác.”69 CRPD đặc biệt loại ra mô hình y tế về khuyết tật coi một NKT là một bệnh nhân cần điều trị hoặc cần từ thiện. Thay vào đó, CRPD công nhận “mô hình xã hội” của khuyết tật.70 Theo mô hình xã hội này, khuyết tật là một phần của trải nghiệm nhân loại; khuyết tật tự nó không giảm bớt quyền của trẻ em và người lớn được lựa chọn và kiểm soát cuộc đời mình, được sống và được dịch vụ trong một môi trường hòa nhập, được tham gia đầy đủ và đóng góp cho cộng đồng của mình thông qua kết nhập và hòa nhập đầy đủ vào dòng chảy cuộc sống về kinh tế, chính trị, xã hội, văn hóa và giáo dục. Hơn thế nữa, mô hình xã hội, như CRPD thừa nhận, đặt trách nhiệm lên toàn xã hội (chứ không phải lên cá nhân NKT) phải tháo dỡ những rào cản lý tính và thái độ đang “làm khuyết tật” những con người có chút khiếm khuyết và cản trở họ thực hiện quyền của họ, cản trở họ hòa nhập đầy đủ vào xã hội.

Dự thảo Luật Người khuyết tật xác định “là người bị khiếm khuyết một hoặc nhiều bộ phận cơ thể hoặc chức năng làm suy giảm về thể chất, thần kinh, trí tuệ, giác quan trong một thời gian dài được biểu hiện dưới các dạng khuyết tật và do các rào cản xã hội, thiếu các điều kiện hỗ trợ phù hợp dẫn tới bị cản trở tham gia bình đẳng vào hoạt động xã hội.”71 Định nghĩa này về khuyết tật là một cải biến lớn so với định nghĩa trong Pháp lệnh 1998 và những định nghĩa nằm trong những phiên bản luật trước đó, chỉ chú trọng duy nhất về hạn chế chức năng của NKT, mà không hề nhắc đến những nhân tố xã hội và môi trường can thiệp vào năng lực của những NKT cản trở họ thực hiện những quyền của mình.72 Như đã viết, định nghĩa này phù hợp với CRPD, mặc dầu những yếu tố khác trong Dự thảo Luật Người khuyết tật chưa nhất quán với định nghĩa này.

69 CRPD, 22-10-2007, điều 1.70 Thuật từ “khuyết tật” và “khiếm khuyết” trong tiếng Anh có một khác biệt. Định nghĩa khuyết tật do Tổ chức y tế

thế giới đưa ra năm 1980 phân biệt giữa khiếm khuyết như mất một bộ phận và khuyết tật như một hạn chế vì khiếm khuyết. Xem thêm Tổ chức y tế thế giới, Phân loại khiếm khuyết, khuyết tật và tật nguyền: Sổ tay phân loại liên quan đến hậu quả của bệnh tật (Geneva, 1980). LHQ chấp nhận trong: Những quy tắc tiêu chuẩn về Bình đẳng những cơ hội cho người khuyết tật, A/RES/48/96 (20-12- 1993.

71 Dự thảo Luật Người Khuyết tật, 5-10-2009, điều. 2(1).72 Ví dụ, Pháp lệnh 1998 định nghĩa một người khuyết tật là “ hỏng chức năng của một hoặc nhiều phần của cơ thể thể

hiện ra dạng khuyết tật khác nhau và làm giảm khả năng hoạt động, gây khó khăn cho làm việc, sống và học tập”. Bổ sung thêm, một trong những bản sơ thảo sớm nhất, hồi tháng 2- 2009, định nghĩa người khuyết tật là “công dân Việt Nam hỏng chức năng của một hoặc nhiều phần của cơ thể, ở dạng khuyết tật khác nhau và làm giảm khả năng thực hiện hoạt động của cuộc sống hàng ngày.” Những định nghĩa này bao hàm “mô hình y tế” của khuyết tật; trái lại Công ước về Người khuyết tật của LHQ sử dụng và phê chuẩn định nghĩa thay thế, “mô hình xã hội” của khuyết tật.

Page 21: QUYỀN CỦA TRẺ EM KHUYẾT TẬT TẠI VIỆT NAM

21

Một trong những yếu tố chưa nhất quán là định nghĩa về người “khuyết tật nặng”. Họ được định nghĩa là “NKT không có khả năng tự phục vụ nhu cầu sinh hoạt cá nhân hàng ngày hoặc bị giảm thiểu chức năng không đủ khả năng tự mình tham gia vào hoạt động xã hội.”73 Thực tế là do bị khiếm khuyết, một số người không thể tự phục vụ hoặc tự mình độc lập tham gia vào hoạt động xã hội và cuộc sống hàng ngày, không có nghĩa là những người này lại có ít quyền hơn theo luật được tham gia vào xã hội với mức độ khả năng cao nhất của họ so với những NKT không nặng và những người không bị khiếm khuyết gì. Thực ra, CRPD yêu cầu rằng tất cả mọi người (trẻ già, khiếm khuyết nhiều hay có năng lực hơn v.v) đều được tiếp cận hỗ trợ và dịch vụ cá nhân mà họ cần để tham gia đầy đủ vào hoạt động xã hội tới mức mà họ có thể. Do đó, để tuân thủ hoàn toàn với CRPD, nên xóa bỏ khỏi văn bản luật khổ đoạn thứ hai của định nghĩa NKT, chính là phần định nghĩa người “khuyết tật nặng”. Cũng nên lưu ý rằng thuật ngữ “retarded” dùng trong bản dịch tiếng Anh nghĩa là “trì độn” có tính chất xúc phạm. Chúng tôi không rõ là từ ngữ đó có sắc thái biểu cảm ở Việt Nam hay không, song thuật từ này không nên dùng trong tiếng Anh, có một từ thích hợp thay thế là trong tiếng Anh là “NKT”.

Luật Người khuyết tật áp dụng về mặt lý thuyết cho những NKT thể chất và thần kinh (gồm cả khuyết tật trí tuệ, tâm thần, tâm lý xã hội nữa). Tuy nhiên, phần lớn ngôn từ của luật dường như chủ yếu nói đến mối quan tâm của NKT thể chất. Ví dụ, luật tạo ra quyền phục hồi chức năng và dịch vụ chỉnh hình, nhưng lại không nói đến quyền được dịch vụ hồi phục trí tuệ rất cần cho TKT trí tuệ. Khi MDRI hỏi chuyện quan chức của Bộ Y tế về việc này, họ chỉ ra rằng nếu gộp đầy đủ cả những người khuyết tật trí tuệ sẽ mở rộng rất lớn phạm vi lợi ích và dịch vụ mà hiện nay chính phủ Việt Nam đang dự tính. Điều thiết yếu là trẻ em và người lớn khuyết tật trí tuệ cũng cần nhận được sự bảo trợ đầy đủ theo dự thảo Luật Người khuyết tật này. CRPD công nhận rằng nguồn lực thì hạn chế và việc thực hiện đầy đủ các quyền có thể cần thêm thời gian để hình thành. Nếu như chính phủ phải hạn chế lợi ích do hạn chế tài chính, thì chính phủ cũng phải làm bình đẳng như thế đối với tất cả những NKT.

4.2. Nâng cao phẩm giá, bình đẳng và không phân biệt đối xử

Dự thảo Luật Người Khuyết tật gồm một định nghĩa về phân biệt đối xử, khẳng định “Phân biệt đối xử đối với NKT hành vi xa lánh, từ chối, ngược đãi, phỉ báng, có thành kiến hoặc hạn chế quyền của người khác vì lý do khuyết tật của người đó.”74 Định nghĩa này phù hợp với định nghĩa của CRPD và phân biệt đối xử bị nghiêm cấm theo Dự thảo Luật Người Khuyết tật.75 Tuy nhiên, vấn đề là định nghĩa trong bản Dự thảo Luật Người Khuyết tật không đủ cụ thể. Thêm vào phần nghiêm cấm phân biệt đối xử chung, cần đặc biệt nghiêm cấm chuyện phân biệt đối xử đối với NKT trong bối cảnh giáo dục, nhà ở, y tế, tiếp cận dịch vụ, đi lại và tất cả những lĩnh vực khác của cuộc sống.

Bổ sung vào Dự thảo Luật Người Khuyết tật, Hiến pháp 1992 của Việt Nam tái khẳng định những nguyên tắc tôn trọng phẩm giá, bình đẳng và cấm phân biệt đối xử trong điều 52, nêu rằng “mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật”76 Điều 5 của bộ Luật dân sự, điều 8 của Luật tố tụng dân sự, điều 3 của Luật Xử phạt, điều 5 của Luật tố tụng xử phạt, điều 5 của Luật Lao động và điều 2 của Luật Hôn nhân và Gia đình cũng có những câu tương tự.77 Tuy nhiên, để làm sáng tỏ thêm và bảo vệ quyền của NKT, cần bổ sung thêm khẳng định việc áp dụng những quyền này cho NKT và nghiêm cấm phân biệt đối xử vì lý do khuyết tật.

73 Dự thảo Luật Người Khuyết tật, 5-10-2009, điều 2(2).74 Như trên tại Điều 2(8).75 Như trên tại Điều 13(1).76 Hiến pháp Việt Nam (1992), điều 52.77 Tiến sĩ T. Duy Kiên, như đã trích dẫn chú giải 35, at 11.

Page 22: QUYỀN CỦA TRẺ EM KHUYẾT TẬT TẠI VIỆT NAM

22

Điều 15 của CRPD cũng yêu cầu bảo vệ chống lại cách đối xử phi nhân đạo hoặc tra tấn, cấu thành một dạng thức phân biệt đối xử đối với người khuyết tật. Bảo vệ chống lại lạm dụng tại các trại –kể cả kiểu giam giữ hoặc nhốt riêng – phải được thiết lập theo luật pháp Việt Nam coi đây là vấn đề chống phân biệt đối xử. Trong các chuyến thăm của MDRI đến các cơ sở, chúng tôi quan sát thấy cách thức trông giữ các cháu khuyết tật chưa được kiểm soát.

4.3. Môi trường sống phù hợp

CRPD định nghĩa “môi trường sống hợp ” là sự điều chỉnh thích hợp và cần thiết không phải gây thêm gánh nặng không đáng có hoặc mất cân đối, là nơi cần trong trường hợp cụ thể, bảo đảm cho người khuyết tật thoải mái hoặc làm việc trên cơ sở bình đẳng với những người khác có được những quyền con người và quyền tự do cơ bản.78 Phủ nhận môi trường sống của NKT sẽ tạo nên phân biệt đối xử vì lý do khuyết tật.79

Khái niệm môi trường cư ngụ hợp lý cực kỳ quan trọng theo CRPD. Không có môi trường cư ngụ hợp lý, cá nhân khuyết tật se không thể nào thực hiện được quyền về tôn trọng phẩm cách, bình đẳng, và không bị phân biệt đối xử bởi vì họ sẽ không thể nào tham gia đầy đủ vào xã hội. Như vậy, CRPD khẳng định rằng “để đề cao bình đẳng và xóa bỏ phân biệt đối xử, các quốc gia thành viên phải thực hiện những bước thích hợp để bảo đảm cung cấp môi trường cư ngụ hợp lý.”80 Sự cần thiết của môi trường cư ngụ hợp lý cho trẻ em còn được nhấn mạnh hơn nữa trong điều 7, khẳng định trẻ em phải được đặc biệt “cung cấp thiết bị hỗ trợ phù hợp lứa tuổi và hỗ trợ khuyết tật.”81

Mặc dầu điều 2 của Dự thảo Luật Người khuyết tật nêu một định nghĩa chung về phân biệt đối xử, luật không khẳng định rằng việc không cung cấp được môi trường cư ngụ hợp lý cho NKT sẽ cấu thành phân biệt đối xử.82 Nếu không có môi trường cư ngụ hợp lý, NKT sẽ không thể tham gia đầy đủ vào xã hội và do đó trở thành chủ thể bị phân biệt đối xử. Kết quả sau đó là, ta nên bổ sung ý đó vào định nghĩa khuyết tật trong Dự thảo Luật Người khuyết tật điều 2 phần nghiêm cấm điều 13. Nhân đây muốn nói đây là lý do vì sao việc phát triển xã hội dân sự và trao quyền cho NKT tham gia vào công tác biện lý chính sách là rất thiết yếu. Trừ phi những người hiện nay đang bị từ chối có được cơ hội làm cùng với những người khác để phát hiện và làm nên những cải tiến, nếu không kiểu làm không giao quyền hiện hiện nay chắc chắn vẫn tiếp tục diễn ra.

5. Quyền tiếp cận

Một trong những vấn đề tràn lan nhất mà tất cả những NKT đối mặt là tình trạng thiếu tiếp cận đến những khu vực công và dịch vụ công. NKT không thể đến trường, đến trung tâm y tế, nơi công cộng bởi vì các tòa nhà đó và phương tiện giao thông đó không thiết kế làm môi trường cư ngụ cho họ. Tương tự như thế, NKT mắt và tai bị chối từ tiếp cận các chương trình học tập, đầu ra truyền thông, tin tức khác. Việt Nam có luật và quy định hứa hẹn sẽ tạo môi trường lý tính và phương tiện giao thông sẵn sàng, nhưng còn đối với mảng truyền thông tin tức cho người mù điếc thì mới chỉ ở mức khuyến khích phát triển. Dự thảo Luật Người khuyết tật của Việt Nam không nêu rõ ai chịu trách nhiệm làm cho mảng thông tin truyền thông này tiếp cận được, thời gian nào loại thông tin truyền thông này phải có, và hệ lụy sau đó đưa đến là gì. Dự thảo Luật Người khuyết tật sẽ có chất lượng tốt hơn rất nhiều nếu luật nêu

78 CRPD, 22-10- 2007, điều 2.79 Như trên80 Như trên tại Điều 5.81 Như trên tại Điều 7(3).82 Dự thảo Luật người Khuyết tật 5-10-2009, điều 2.

Page 23: QUYỀN CỦA TRẺ EM KHUYẾT TẬT TẠI VIỆT NAM

23

cụ thể bảo đảm cho NKT quyền được có công nghệ thông tin truyền thông và đề ra một kế hoạch bảo đảm quyền này.

5.1. Quyền tiếp cận môi trường lý tính và phương tiện giao thông

Đối với những NKT nhất định, quyền bình đẳng có ý nghĩa rất ít nếu như họ không thể tiếp cận môi trường của họ. Quyền tiếp cận môi trường giúp cho NKT sống độc lập và tham gia đầy đủ vào môi trường xung quanh. Tính tiếp cận không chỉ là một vấn đề đối với NKT thể chất khi họ gặp khó khăn đi vào và sử dụng tòa nhà, nhà ở, đường đi và phương tiện giao thông. Tính tiếp cận cũng còn là một vấn đề đối với những người khiếm khuyết thị lực và thính lực. Để họ tiệm cận được xã hội, cần thiết phải có ngôn ngữ tín hiệu, chữ nổi Braille, băng casset, phông chữ cỡ to, và những công cụ phương tiện sử dụng công nghệ hỗ trợ.83

Như là thế này, điều 9 của CRPD yêu cầu các quốc gia thành viên thi hành những biện pháp thích hợp để bảo đảm “việc tiếp cận của NKT, trên cơ sở bình đẳng với những người khác, đến (1) môi trường lý tính, (2) phương tiện giao thông, (3) thông tin và truyền thông, kể cả công nghệ và hệ thống thông tin và truyền thông, và (4) những cơ sở cùng dịch vụ khác mở ra và cung cấp cho công chúng, ở cả những vùng nông thôn và đô thị.”

Xét về việc tiếp cận đến môi trường lý tính và phương tiện giao thông, Bộ Xây dựng và Bộ Giao thông vận tải đã ban hành một loạt quy định đòi hỏi các tòa nhà và phương tiện giao thông phải được thiết kế sao cho NKT có thể tiếp cận sử dụng được.84 Xét về việc tiếp cận đến thông tin và truyền thông, Luật công nghệ thông tin có một điều khoản riêng liên quan đến NKT. Mặc dầu quy định khuyến khích phát triển công nghệ thông tin, không có điều khoản cụ thể về sử dụng ngôn ngữ ký hiệu, chữ nổi Braille, cỡ chữ lớn và những hình thức truyền thông khác, như các loại chữ và thiết bị hỗ trợ ngôn ngữ cho các dạng khuyết tật khác nhau.85

Còn đối với Dự thảo Luật Người khuyết tật, dự thảo đòi hỏi nâng cấp và cải tạo tất cả các tòa nhà công cộng để bảo đảm NKT tiếp cận được.86 Luật cũng đòi hỏi rằng tất cả những thiết kế trong tương lai phải tuân thủ với tiêu chuẩn xây dựng quốc gia.87 Phương tiện giao thông công cộng cũng phải được bố trí là sao cho NKT có thể dùng được.88 Còn đối với công nghệ thông tin và truyền thông, Dự thảo Luật Người khuyết tật đặt nghĩa vụ đối với “các cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp và cá nhân” thiết lập những chương trình triển khai lộ trình sử dụng ngôn ngữ tín hiệu, chữ nổi Braille, và những thiết bị kỹ thuật cho NKT.89 Tuy nhiên, theo cách nói này, vẫn chưa rõ ai chịu trách nhiệm thực thi hoặc thi hành những luật này. Hiện nay vẫn còn thiếu một lịch biểu thời gian và ngày hoàn thành. Tất cả những yếu tố đó cần được làm sáng tỏ trong luật để bảo đảm quyền tiếp cận.

Mặc dầu Việt Nam đã đạt những tiến bộ trong việc thông qua những quy định để điều chỉnh môi trường vật chất và phương tiện giao thông khả dụng cho NKT, vẫn còn nhiều yếu tố cần cải tiến như đã nêu trên.

83 CRPD, 22-10-2007, điều 9(1).84 Những quy định này gồm: Quy chuẩn xây dựng Việt Nam QCXD Viet Nam 01:2002 về luật xây dựng; Tiêu chuẩn

xây dựng Việt Nam TCXD 264:2002 về thiết kế và xây dựng cơ bản cho người khuyết tật; Tiêu chuẩn xây dựng Việt Nam TCXD 265:2002 quy định về đường và hè đường; Tiêu chuẩn xây dựng Việt Nam TCXD 266-2002 xây dựng nhà ở; Quyết định số 08/2005/QD-BGTVT ngày 10/01/ 2005 của Bộ Giao thông vận tải về ban hành quy định về các bến đỗ xe buýt.

85 Tiến sĩ T. Duy Kiên, như đã trích dẫn chú giải 35, at 12-13.86 Dự thảo Luật Người khuyết tật, 5-10-2009, điều. 30(1).87 Như trên tại Điều 30(2).88 Như trên tại Điều 32(1).89 Như trên tại Điều 33.

Page 24: QUYỀN CỦA TRẺ EM KHUYẾT TẬT TẠI VIỆT NAM

24

Xét về tiếp cận môi trường vật chất và phương tiện giao thông, vẫn chưa rõ ngay rằng liệu luật pháp hiện nay có đủ cụ thể để cải thiện việc tiếp cận của NKT hay chưa. Trong nhiều trường hợp, xe buýt, tàu hỏa, nhà ở, tòa nhà công, đường đi vẫn chưa thuận tiện cho NKT. Tuy nhiên, một phần lý do thiếu tiếp cận này là vì thiếu động thái tăng cường thi hành pháp luật hiện hành. Bất chấp việc đã có những quy định, NKT vẫn chưa thể tiếp cận phương tiện giao thông công cộng, trường học, bệnh viện, nhà vệ sinh, cửa hàng và tất cả các loại tòa nhà công sở khác.90

5.2. Quyền tiếp cận công nghệ thông tin và truyền thông

Xét về việc tiếp cận công nghệ thông tin và truyền thông, luật hiện nay của Việt Nam không đòi hỏi rằng công nghệ thông tin phải có cho NKT. Nhưng mà luật của Việt Nam lại khuyến khích phổ biến công nghệ thông tin.91 Như vậy, người khiếm khuyết nghe-nhìn không được bảo đảm có được chữ nổi Braille, băng cassettes, chữ phông lớn và các loại công nghệ khác.92 Mặc dầu bản thảo mới nhất của Dự thảo Luật Người khuyết tật yêu cầu các tổ chức truyền thông bắt đầu quy hoạch để tiếp cận thông tin và công nghệ,93 luật chưa nêu rõ ai chịu trách nhiệm thực thi những thay đổi này, tiêu chuẩn là gì, cách thức thi hành ra sao.

Như vậy, luật của Việt Nam sẽ tốt hơn nếu đặc biệt bảo đảm được NKT có quyền tiếp cận sử dụng chữ nổi Braille, băng cassettes, chữ phông lớn và các loại công nghệ khác trong một kế hoạch rõ ràng để thực thi. Những môi trường ngụ cư khác cũng cần được xem xét, kể cả làm phụ đề cho các băng videos, chương trình vi tính làm sao nghe được đối với những người khiếm thị, đèn tín hiệu giao thông không chỉ thể hiện bằng màu sắc mà cũng thể bằng lời thông báo an toàn cho người đi bộ, hệ thống báo cháy trong các tòa nhà cần có đèn nhấp nháy cho người khiếm thính và các thang máy cần có tín hiệu Braille và thông báo bằng âm thanh, xin kể tên ra đây một vài ví dụ.

6. Quyền sống trong cộng đồng

Hơn 6 vạn TKT tại Việt Nam, mà quyền được sống với gia đình của chính mình bị phủ nhận vì các cháu bị khuyết tật, cũng như quyền sống trong cộng đồng bình thường không thấy nêu trong luật của Việt Nam. Cần nhiều thay đổi pháp lý để đưa luật Việt Nam phù hợp với điều 19 của CRPD, thiết lập “quyền bình đẳng của tất cả những NKT được sống trong cộng đồng, quyền lựa chọn bình đẳng như những người khác”. Dự thảo Luật Người khuyết tật nên được điều chỉnh để: (1) gộp một điều khoản cụ thể bảo đảm quyền của trẻ em được sống với gia đình và (2) bảo đảm quyền của trẻ em sống với một gia đình thay thế nếu gia đình của em đó không thể cưu mang được. Pháp chế mới cũng nên được chỉnh sửa để thiết lập một hệ thống chăm sóc hỗ trợ cho tất cả TKT bất kể mức độ khuyết tật ra sao. Để bảo đảm rằng TKT có thể sống an toàn trong cộng đồng, như yêu cầu của CRPD điều 16, Việt Nam nên thiết lập hệ thống bảo vệ trẻ em ngăn ngừa lạm dụng tại gia đình, công sở và tại bất cứ chương trình nào khác phục vụ TKT. Chính phủ Việt Nam cũng nên lập những tiêu chuẩn chăm sóc và quy chế phân loại TKT trong những cơ sở, trung tâm hiện nay.

6.1. Quyền được gia đình bảo vệ

Theo luật nhân quyền quốc tế, mọi TKT đều có quyền không bị chia ly khỏi gia đình chỉ vì khuyết tật. CRPD yêu cầu các quốc gia thành viên “bảo đảm rằng trẻ em không bị chia ly khỏi cha mẹ nếu cháu

90 Phân tích tình hình trẻ em khuyết tật tại Việt Nam, như đã trích dẫn chú giải 1, at 155.91 Tiến sĩ T. Duy Kiên, như đã trích dẫn chú giải 35, at 12.92 Như trên at 13.93 Dự thảo Luật Người khuyết tật, 5-10-2009, điều. 33.

Page 25: QUYỀN CỦA TRẺ EM KHUYẾT TẬT TẠI VIỆT NAM

25

không muốn, ngoại trừ khi cơ quan chức năng chiểu theo bản án quyết định, tuân thủ theo luật định và quy chế áp dụng, rằng việc chia ly đó là cần thiết vì lợi ích tốt nhất của trẻ. Ngoài ra không có trường hợp nào trẻ em bị chia tách khỏi cha mẹ chúng chỉ vì lý do khuyết tật của trẻ hoặc của một hoặc cả hai bố mẹ.”94

Luật Hôn nhân & Gia đình có nhiều nghĩa vụ mà các thành viên trong gia đình đều phải chia sẻ gánh vác giúp nhau. Tuy nhiên, trong những nghĩa vụ đó không có điều nào cụ thể giải quyết quyền của TKT được sống với gia đình mình và không bị chia ly khỏi gia đình chỉ vì khuyết tật. Luật Bảo vệ Chăm sóc và Giáo dục trẻ em của Việt Nam thì cụ thể hơn, nhưng vẫn chưa đủ mức cụ thể cần thiết. Luật này khẳng định rằng trẻ em (nói chung, chứ không chỉ TKT) có quyền sống với cha mẹ mình và không ai có quyền đưa trẻ xa khỏi cha mẹ chúng, trừ phi đó là vì lợi ích của trẻ.95 Luật cũng khẳng định rằng việc chăm sóc trẻ em bị thiệt thòi trong các cơ sở bảo trợ chỉ áp dụng cho các cháu bị thiệt thòi hoặc các cháu không được nuôi dưỡng trong gia đình riêng của mình.96 Tuy nhiên, không có điều khoản nào áp dụng đặc biệt riêng cho TKT quyền được sống với gia đình. Tương tự, Dự thảo Luật Người khuyết tật không gồm có điều khoản thiết lập quyền của trẻ em được sống cùng gia đình, và không bị chia ly khỏi gia đình chỉ vì khuyết tật.

Để phù hợp với CRPD, Việt Nam nên điều chỉnh các văn bản luật nêu rõ ràng dứt khoát rằng TKT có quyền sống với gia đình. Câu này nên được bổ sung vào Dự thảo Luật Người khuyết tật. Khi trẻ em bị đưa xa khỏi gia đình, các cháu gặp phải rất nhiều gian khó. Như vậy, cách giám sát này cần được sửa, và cần có những cố gắng đặc biệt để dành cơ hội cho TKT được sống với gia đình mình. Cần nêu rõ trong Dự thảo Luật Người khuyết tật các bước cần thiết phải làm để xác định những gia đình có TKT và những dịch vụ dành cho những gia đình này tại nhà họ.

Để tăng cường quyền được bảo vệ của gia đình, Việt Nam cần hỗ trợ cho cả TKT và gia đình của TKT. Hỗ trợ này gồm một loạt những dịch vụ giáo dục, xã hội và y tế cần phải có cho TKT tật nơi trẻ sống trong cộng đồng, như phúc lợi xã hội (hỗ trợ tài chính); hỗ trợ tạo thu nhập, các chương trình hỗ trợ và đến thăm gia đình; những trung tâm hỗ trợ gia đình; điều trị cai nghiện rượu và ma túy; dịch vụ tư vấn; chăm sóc an ủi; các nhóm hỗ trợ đồng đẳng; các lớp giáo dục làm cha làm mẹ.97 Các gia đình có TKT cũng nên được tư vấn để họ học được cách không xấu hổ vì có con khuyết tật thay vào đó nhin nhận được tiềm năng của con mình.98 Những gia đình này cũng cần hỗ trợ thêm về thu nhập và chăm sóc an ủi.

6.2. Quyền được sống trong cộng đồng

Quyền được hòa nhập cộng đồng là một nguyên tắc cốt lõi của luật quốc tế đi trước khi ra đời CRPD.99 Trong 30 năm qua, quyền này được khẳng định và tái khẳng định trong những nguyên tắc của LHQ bảo vệ người đau ốm về thần kinh, những quy định tiêu chuẩn về Cơ hội công bằng cho NKT, và Nghị quyết về dịch vụ xã hội cho người bị tật nguyền thể chất và trí tuệ.100 Tuy nhiên, CRC là hiệp ước ràng buộc đầu tiên công nhận rằng TKT có quyền “tham gia tích cực vào cộng đồng.”101 Các quốc gia thành

94 CRPD, 22-10-2007, điều 23(4).95 Luật Bảo vệ, Chăm sóc và Giáo dục trẻ em, No.25/2004/QH 11-6-2004, điều 13.96 Như trên97 Tạo lập một môi trường bảo vệ trẻ em tại Việt Nam, như đã trích dẫn chú giải 6, at 23.98 Như trên99 Eric Rosenthal, Elizabeth Bauer, Mary F. Hayden, và Andrea Holley, Thực hiện quyền hòa nhập cộng đồng cho trẻ em

khuyết tật tại Nga: Một khuôn khổ nhân quyền cho Hành động quốc tế, 4 Health and Hum. Rts. 83, 85 (1999).100 Như trên at 85-86.101 CRC, 28-2-1990, tại Điều 23(1).

Page 26: QUYỀN CỦA TRẺ EM KHUYẾT TẬT TẠI VIỆT NAM

26

viên có nghĩa vụ cung cấp dịch vụ xã hội để bảo đảm quyền này.102 Điều 23(3) của CRC nêu rõ rằng các chính phủ phải bảo đảm chắc chắn rằng “TKT tiếp cận hiệu quả và nhận được những dịch vụ giáo dục, đào tạo, y tế, dịch vụ phục hồi chức năng, chuẩn bị nghề cho có việc làm và những cơ hội giải trí theo cách có lợi cho trẻ để TKT đạt được hòa nhập xã hội đầy đủ nhất và phát triển cá nhân tốt nhất, kể cả phát triển văn hóa và tinh thần.”

Ủy ban về Quyền trẻ em đã bày tỏ quan tâm về việc đưa TKT vào các trung tâm chăm sóc tập trung.103 Mặc dầu ủy ban dứt khoát khẳng định rằng tất cả TKT đều có quyền được sống trong cộng đồng, ủy ban “thúc giục các quốc gia thành viên chỉ đưa TKT vào các trại như là biện pháp cứu cánh cuối cùng, khi hoàn toàn cần thiết và vì lợi ích tốt nhất của đứa trẻ””104 Ủy ban kêu gọi các quốc gia “xây dựng những chương trình dần dần đưa TKT ra khỏi các trại, về với gia đình hoặc người thân và các cơ sở nuôi dưỡng chăm sóc như gia đình.”105

Điều 19 của CRPD nêu rõ rằng tất cả TKT có quyền sống trong cộng đồng với những lựa chọn bình đẳng với những người khác. Gộp chung lại, CRC và CRPD đặt ra rằng chính phủ phải có kế hoạch đưa trẻ em nào hiện nay đang bị chia tách khỏi xã hội được hòa nhập đầy đủ vào xã hội. Việc này dẫn đến một kế hoạch cung cấp dịch vụ dựa vào cộng đồng để chấm dứt tình trạng phụ thuộc vào các trại tế bần, các trường nội trú, viện tâm thần và những cơ sở bảo trợ xã hội để nuôi dưỡng các em.

6.2.1. Quyền được sống trong nền tảng gia đình

Điều 19 của CRPD, đặc biệt đòi hỏi các chính phủ công nhận “tất cả những NKT được sống trong cộng đồng, có quyền lựa chọn bình đẳng với những người khác…”106 Điều này áp dụng bình đẳng cho cả trẻ em và NKT, bất kể cấp độ khiếm khuyết ra sao. Nếu gia đình ruột hoặc gia đình người thân của trẻ không thể hoặc không nuôi được trẻ thì những gia đình “thay thế” hoặc cơ sở “nuôi như gia đình” sẽ là phương án tiếp sau tốt nhất. CRPD giữ quan điểm rằng “tại đâu gia đình không có khả năng chăm sóc một TKT, [quốc gia thành viên sẽ] thực hiện mọi cố gắng để cung cấp chăm sóc thay thế trong một gia đình lớn, và cứ theo như thế, trong cộng đồng có nền tảng gia đình.”107 Tới mức độ những cơ sở chăm sóc như gia đình miễn cưỡng nhận TKT mà các cháu này có thể cần chăm sóc đặc biệt do tình trạng khuyết tật về thể chất, giác quan, tâm lý và trí tuệ, Ủy ban về quyền trẻ em kiến nghị rằng “những tổ chức chịu trách nhiệm đưa các TKT vào các cơ sở chăm sóc như gia đình phải tiến hành đào tạo cần thiết và khuyến khích các gia đình thích hợp, cung cấp hỗ trợ cho phép cơ sở gia đình này chăm sóc TKT đầy đủ.”108

Tuy nhiên, không có phần nào trong Dự thảo Luật Người khuyết tật của Việt Nam thiết lập quyền của TKT được sống trong một bối cảnh gia đình trong cộng đồng. Dự thảo Luật Người khuyết tật cần được sửa đổi để nêu dứt khoát rằng TKT thực tế có được quyền này. Trong khi Luật bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em Việt Nam khẳng định rằng tất cả trẻ em đều có quyền sống cùng cha mẹ và không ai có quyền đưa trẻ em rời xa cha mẹ, trừ phi vì lợi ích của trẻ,109 nhưng lại không áp dụng cụ thể riêng cho TKT.

Hiện nay, cách làm tách biệt TKT ra khỏi cha mẹ chúng phần nào vẫn đang tiếp tục diễn ra vì dịch vụ dựa vào cộng đồng hiện nay chưa đủ để cho phép thực hiện quyền này.110 Việt Nam với cơ chế còn bị

102 Như trên103 Ý kiến nhận xét chung 9, U.N. CRC, Phiên họp 43, đoạn 47 U.N. Doc. CRC/C/GC/9 (2006).104 Như trên105 Như trên106 CRPD, 22-10-2007, tại Điều 19.107 Như trên tại Điều 23(5).108 Ý kiến nhận xét chung 9, U.N. CRC, 43rd Sess., at 790, U.N. Doc. CRC/C/GC/9 (2006).109 Luật Bảo vệ, Chăm sóc và Giáo dục trẻ em, No.25/2004/QH 11 June, 2004, điều 13.110 Phân tích tình hình các cơ sở và chương trình chăm sóc thay thế tại Việt Nam, như đã trích dẫn chú giải 17, tại 38-39.

Page 27: QUYỀN CỦA TRẺ EM KHUYẾT TẬT TẠI VIỆT NAM

27

hạn chế để cung cấp tài chính và các dạng hỗ trợ khác cho những gia đình có TKT.111 Luật Việt Nam có một số điều khoản cho chăm sóc dựa vào cộng đồng thông qua (1) bà con họ hàng, (2) người bảo trợ, (3) nhận con nuôi, (4) cơ sở chăm sóc như gia đình, và (5) các cơ sở chăm sóc tập trung.112 Tuy nhiên, vẫn thiếu hệ thống chăm sóc như gia đình được điều tiết công khai cho những tình huống mà gia đình không thể nuôi dưỡng con cái bị khuyết tật.113 Nên chỉnh sửa những thiếu sót này để bảo đảm TKT có quyền sống trong một nền tảng gia đình.

6.2.2. Quyền được ra khỏi các cơ sở chăm sóc tập trung

Hơn 50 năm vừa qua, các nhà nghiên cứu đã thu thập tài liệu về hậu quả đưa trẻ em vào các trại.114 Trong khi nguy hiểm đặc biệt lớn đối với tuổi ấu thơ, thì các cháu già dặn hơn cũng dễ bị tổn thương.115 Những nguy hiểm này gồm vấn đề nhận thức, rối loạn hành vi và tình cảm nghiêm trọng, hội chứng bắt chước tự kỷ, những vấn đề nhập loạn giác quan, chậm nói và khả năng ngôn ngữ, bệnh tật, và thiếu chất phát triển thể chất.116 Trong khi trẻ em có thể hồi phục khỏi nhiều yếu tố cản trở phát triển do các trại gây ra, tổn thương tâm lý do trại gây ra chắc sẽ tồn tại suốt đời.117

Cao ủy LHQ về Nhân quyền đã dứt khoát khẳng định rằng “Nhất định phải bãi bỏ pháp chế cho quyền đưa những NKT vào trại vì họ khuyết tật mà không được sự đồng ý và tự do lựa chọn của họ.”118 Bổ sung vào việc đơn thuần bãi bỏ kiểu đưa NKT vào trại mà không được họ đồng ý, Điều 19 của CRPD tạo nghĩa vụ tích cực cho chính phủ cần lập kế hoạch đưa NKT ra khỏi các cơ sở chăm sóc tập trung và tạo ra những dịch vụ cần thiết làm phương án thay thế dựa vào cộng đồng có ý nghĩa hơn so với các trại. Như Cao ủy LHQ về Nhân quyền nêu rõ, một chính sách được khẳng định để đưa người ra khỏi trại là chưa đủ:

“Các khoản của Điều 19 của Công ước mang theo nhiều hàm ý xa vời đối với tất cả hình thức chăm sóc NKT trong trại. Sự công nhận quyền của NKT được sống độc lập và hòa nhập cộng đồng đòi hỏi sự chuyển biến của những chính sách chính phủ từ việc chăm sóc trong các trại sang những dịch vụ hỗ trợ dựa vào cộng đồng và tại gia đình. Yếu tố cơ bản của bất cứ sự can thiệp nào nhằm vào tác động đến quyền

111 Tạo lập một môi trường bảo vệ trẻ em tại Việt Nam, như đã trích dẫn chú giải 6, tại 24.112 Như trên at 31.113 Như trên114 Charles H. Zeanah và tất cả., Nghiên cứu thiết kế để tìm hiểu tác động của cuộc sống trong trại lên não bộ và phát triển hành

vi: dự án can thiệp sớm Bukaret, 15 Phát triển và Bệnh học tâm lý 885, 886 (2003) (tổng kết 5 thập niên nghiên cứu tài liệu về tác hại của cuộc sống trong trại); D.A. Frank và tất cả. Nhi đồng và trẻ nhỏ tuổi trong các trại trẻ em mồ côi: Một quan điểm từ các nhà tâm lý trẻ em và nhi khoa, 95 Nhi khoa (1996); JAMES CONROY và VALERY BRADLEY, Nghiên cứu ngành dọc PENNHURST: Báo cáo 5 năm Nghiên cứu và Phân tích (1985).

115 Dana Johnson, Trình tự y tế và phát triển của việc đưa trẻ em nhỏ tuổi vào trại tại các cơ sở nhận nuôi dưỡng trẻ em Đông Âu, trong cuốn Tác động bất lợi sớm lên phát triển thần kinh 147 (C. Nelson, xuất bản., 2000).

116 Zeanah và tất cả., như đã trích dẫn chú giải 114, tại 15. Xem Kim Chisholm, Báo cáo 3 năm theo dõi tình trạng lệ thuộc và phân biệt đối xử quan hệ bạn bè trong số trẻ em tại các trại trẻ mồ côi ở Ru-ma-ni, 69 Phát triển của trẻ em 1092 (1998); Megan Gunner, Jacqueline Bruse, và Harold Grotevant, Nhận làm con nuôi quốc tế các cháu được nuôi dưỡng trong các trại: Nghiên cứu và chính sách, 12 Phát triển và Nghiên cứu bệnh tâm lý 677 (2000); Dana Johnson, Những vấn đề y học trong nhận con nuôi quốc tế: Những tác nhân ảnh hưởng đến sức khỏe của trẻ trước khi được nhận, 30 Những gia đình nhận con nuôi 18 (1997); T.C. Benoit, và tất cả., Tình hình nhận con nuôi tại Ru-ma-ni: Kinh nghiệm Manitoba, 150 Hồ sơ lưu trữ về y học tuổi nhi đồng và tuổi dậy thì 1278 (1996); Michael Rutter, và tất cả., Kiểu tự kỷ ám thị sau tình hình sớm bị tước đoạt nặng nề, 40 Tạp chí Tâm lý trẻ em và Nhi khoa và những nguyên lý ứng dụng 547 (1999).

117 Johnson, như đã trích dẫn chú giải 115, at 147118 Báo cáo thường niên của Cao ủy LHQ về Nhân quyền và Báo cáo của văn phòng Cao ủy và Tổng thư ký, như đã trích

dẫn chú giải 40 đoạn 49.

Page 28: QUYỀN CỦA TRẺ EM KHUYẾT TẬT TẠI VIỆT NAM

28

được sống độc lập và hòa nhập cộng đồng là sự công nhận pháp lý rõ ràng về quyền của NKT được quyết định cho mình sống ở đâu và sống với ai. Sự công nhận này cũng nên phản ánh công khai việc thu xếp bố trí chăm sóc nội trú không đúng luật đã đi ngược lại với mong mỏi của NKT.”119

“Việc đưa NKT ra khỏi cơ sở chăm sóc tập trung là cần thiết nhưng không đủ để đạt được mục đích sống độc lập. Trong nhiều trường hợp, chiến lược quốc gia là phối kết hợp can thiệp vào những lĩnh vực dịch vụ xã hội, sức khỏe, nhà ở và việc làm, ở mức độ rất tối thiểu, sẽ là cần thiết. Để thực hiện hiệu quả những chiến lược như vậy điều cần thiết là nguyên tắc sống độc lập cần phải bắt nguồn trong khuôn khổ pháp lý được thiết lập rõ ràng là một quyền pháp lý và đến lượt nó đặt trách nhiệm vào chính quyền và các nhà cung cấp dịch vụ, trong khi đó cũng cho phép việc cầu viện trong trường hợp vi phạm. Những khuôn khổ pháp lý như vậy sẽ gồm có công nhận quyền tiếp cận những dịch vụ hỗ trợ cần thiết để cho phép sống độc lập và hòa nhập cuộc sống cộng đồng và bảo đảm rằng hỗ trợ sống độc lập được sắp xếp bố trí trên cơ sở lựa chọn và mong muốn cá nhân, theo đúng với những nguyên tắc của Công ước.”120

Vậy mà bất chấp cách nói này, những chính sách hiện nay tại Việt Nam không giải quyết tình huống của trẻ em đang sống trong các trại, và không có chiến lược quốc gia để đưa các em ra khỏi trại. Theo UNICEF và Bộ LĐTB&XH, TKT tại Việt Nam thường được đưa vào các trại là theo một quy trình tiêu chuẩn.121 Hơn thế nữa các em phải ở một thời gian lâu, thường là cho tới tận năm 18 tuổi và ngoài tuổi đó.122 Việc đưa các em vào trại hiếm khi được tổng kết, và khi có tổng kết thì trọng tâm lại đặt vào điều kiện vật chất của trẻ.123 Như vậy là chính phủ Việt Nam sau này nên chấm dứt việc đưa thêm các cháu khuyết tật vào các cơ sở tập trung. Trong thời gian này, cũng nên đề ra một lịch biểu để giảm dần việc sử dụng các trại hiện nay và đưa các em đang ở cơ sở đó về với gia đình trong cộng đồng.

Mặc dù dự thảo Luật Người khuyết tật nêu rằng các cơ sở chăm sóc, trại cần phải đề cao cuộc sống cộng đồng và gia đình cho trẻ em và người lớn khuyết tật,124 không có vẻ chắc chắn là việc này sẽ có tác động trong thực hành bởi vì một số lý do. Thứ nhất các trại này có thể có lợi ích khi giữ người tại đó để họ duy trì đội ngũ nhân viên và ngân sách của trại. Lý do thứ hai, một khi những cá nhân sống trong một cơ sở chăm sóc tập trung một thời gian khá lâu, họ trở nên bị “trại hóa”, hay nói cách khác là quen sống trong cơ sở tập trung và như vậy họ thường sợ bị thả ra thế giới bên ngoài nơi mà họ không hề hiểu biết. Hơn nữa, dự thảo Luật Người khuyết tật lại không gồm có tiêu chuẩn liên quan đến ai là người quyết định bệnh nhân nào là “đủ tiêu chuẩn” và “sẵn lòng” rời khỏi cơ sở tập trung. Nếu không có những tiêu chí như vậy, quyết định cho ra khỏi cơ sở chăm sóc tập trung là do đội ngũ cán bộ chuyên môn điều trị phán xét, mà việc này có thể khác với ý kiến của gia đình hoặc của người trong cơ sở. Trong những trường hợp như vậy, phán xét của đội ngũ cán bộ ở cơ sở thường chiếm ưu thế. Như vậy, Chính phủ Việt Nam nên chú trọng tạo ra một chiến lược để cung cấp những lựa chọn khác dựa vào cộng đồng thực sự thay thế cho chăm sóc trong cơ sở tập trung, thay thế cho việc tiếp tục thực hiện chăm sóc trong cơ sở tập trung.

119 Như trên ở đoạn 50.120 Như trên ở đoạn 51.121 Tạo lập một môi trường bảo vệ trẻ em tại Việt Nam, như đã trích dẫn chú giải 6, tại 33.122 Như trên123 Như trên124 Dự thảo Luật Người khuyết tật, 5-10-2009, điều. 37(5). Luật khẳng định rằng các cơ sở chịu trách nhiệm nuôi dưỡng

người khuyết tật phải “cộng tác với UBND cấp xã/phường nơi người khuyết tật cư trú để đưa trở về gia đình hoặc cộng đồng những ai đủ trình độ và sẵn lòng ra khỏi các trung tâm bảo trợ xã hội về với gia đình và cộng đồng.”

Page 29: QUYỀN CỦA TRẺ EM KHUYẾT TẬT TẠI VIỆT NAM

29

Còn đối với việc tạo ra một chiến lược để cung cấp việc chăm sóc thay thế dựa vào cộng đồng, hiện nay tại Việt Nam chưa tồn tại hệ thống chăm sóc như gia đình dược điều tiết công khai. Tuy nhiên Việt Nam đã bắt đầu quá độ từ các thể chế trại sang chăm sóc dựa vào gia đình.125 Vào ngày 25/3/2005, Thủ tướng ra quyết định số 65/2005/QĐ-TTg, đệ trình một kế hoạch “chăm sóc dựa vào cộng đồng trẻ em mồ côi vô gia cư, trẻ em bị bỏ rơi, TKT nặng, trẻ em là nạn nhân của chất độc hóa học, trẻ em sống chung với HIV/AID cho giai đoạn 2005 - 2010”126 Quyết định này có những kế hoạch làm những việc sau đây: thí điểm đưa trẻ em trong những hoàn cảnh đặc biệt hiện đang được chăm sóc tại các trung tâm bảo trợ xã hội của nhà nước về với cộng đồng theo hình thức những gia đình chăm sóc, cán bộ chăm sóc như cha mẹ hoặc chăm sóc tại nhà xã hội ; phát triển mô hình nhà xã hội thí điểm để chăm sóc trẻ em có những hoàn cảnh đặc biệt tại cấp xã ; thí điểm việc chuyển từ chăm sóc trong cơ sở trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt ở những trung tâm bảo trợ xã hội nhà nước sang hình thức chăm sóc tập trung với “gia đình quy mô nhỏ” trong các trung tâm bảo trợ xã hội của nhà nước.”127

Định hướng chính sách chung do quyết định số 65/2005/QĐ-TTg đề ra là một bước tích cực trong việc chuyển đổi sang hệ thống chăm sóc như gia đình có điều tiết công khai. Là một biện pháp đảm bảo quyền được sống với một gia đình, cố gắng cung cấp những phương án lựa chọn dựa vào cộng đồng được thiết lập trong chương trình thí điểm triển khai theo quyết định số 65/2005/QĐ-TTg nên được áp dụng cho tất cả TKT và thực thi đầy đủ. Trẻ em hiện nay đang sống trong các trại nên được hòa nhập trở lại vào xã hội mà không trì hoãn nữa.

Quyết định số 65/2005/QĐ-TTg là đưa trẻ em Việt Nam “trong các trung tâm bảo trợ xã hội vào “gia đình quy mô nhỏ” nằm bên trong những trung tâm bảo trợ xã hội của nhà nước.”128 Mô hình này dường như đơn thuần là hình thức thay thế một cơ sở tập trung to bằng một cơ sở nhỏ. Kinh nghiệm quốc tế cho thấy những mối nguy hiểm đối với trẻ em sống trong bối cảnh tập trung như vậy, thậm chí dù những trại đó nhỏ hơn và sạch sẽ.129 Những môi trường “giống gia đình” nằm bên trong những bức tường của trại không thể thay thế được những gia đình thực sự.130 Thậm chí khi nhiều nguồn lực được đầu tư vào đội ngũ nhân viên nhiều hơn hoặc các trại sạch sẽ hơn, trẻ em vẫn phải trải qua hao tổn tâm lý và chậm phát triển do lớn lên trong một bối cảnh tụ hợp.131 Như UNICEF đã phát hiện trong văn bản “Phân tích tình hình các chương trình chăm sóc ở trại và chăm sóc thay thế” 2004, các nhà tài trợ nước ngoài tại Việt Nam thể hiện ý muốn đầu tư vào việc chỉnh sửa nâng cấp các trại này hơn là đầu tư vào hỗ trợ hình thức hay thế dựa vào cộng đồng.132 Chính phủ Việt Nam và các nhà tài trợ nước ngoài nên tránh mắc lỗi này bằng việc chuyển hướng hỗ trợ cho trẻ em tại các gia đình có con khuyết tật và cung cấp dịch vụ trong một bối cảnh tập trung hơn trong những cộng đồng địa phương.

Một trong những sai lầm mà các nước khác đã mắc phải khi họ cải cách đã bắt đầu bằng việc phục vụ trẻ em ít khiếm khuyết nhất, để mặc trẻ em khiếm khuyết nhiều sống trong các trại hoặc bị chia tách khỏi xã hội ngay trong nhà của chúng. Điều không may là cải cách thường diễn ra lâu hơn mong đợi và TKT nặng bị lãng quên và sống trong những hoàn cảnh tồi tệ nhất việc chăm sóc trong các trại góp phần thậm chí làm tồi tệ hơn tình trạng khuyết tật. Nếu Việt Nam bắt đầu tiến trình cải cách bằng việc đáp ứng nhu

125 Tạo lập một môi trường bảo vệ trẻ em tại Việt Nam, như đã trích dẫn chú giải 6, at 31.126 Quyết định số 65/2006/QD-TTg, 25-3-2005.127 Như trên128 Quyết định số 65/2006/QD-TTg, 25-3-2005.129 Xem ví dụ. Nỗi đau khổ âm thầm: Chia tách và lạm dụng nhi đồng ở Ru-ma-ni, MDRI 20 (Washington DC), 2006.130 Như trên131 Như trên132 Phân tích tình hình các chương trình thay thế và cơ sở chăm sóc trẻ em khuyết tật tại Việt Nam, như đã trích dẫn chú

giải 17, tại 14.

Page 30: QUYỀN CỦA TRẺ EM KHUYẾT TẬT TẠI VIỆT NAM

30

cầu của TKT nặng nhất trước tiên, việc đó sẽ thể hiện rằng tất cả TKT có thể được hòa nhập vào cộng đồng. Giải pháp cho trẻ em hiện đang sống nội trú trong các trại về cơ bản cũng như đối với tất cả TKT trong xã hội Việt Nam.

6.3. Quyền được dịch vụ và đủ tiêu chuẩn cuộc sống

Dịch vụ và tiêu chuẩn sống đầy đủ là cần thiết cho trẻ em và NKT được sống trong gia đình hoặc bối cảnh cộng đồng nằm bên ngoài một cơ sở chăm sóc tập trung. Không có dịch vụ và tiêu chuẩn sống đầy đủ, sẽ không thực hiện được quyền của trẻ em và NKT. Như vậy, CRPD khẳng định rằng các quốc gia thành viên phải đảm bảo rằng “NKT tiếp cận được một loạt điều kiện tại gia, nội trú và hỗ trợ cộng đồng khác để sống và hòa nhập vào cộng đồng, và để ngăn ngừa sự cách ly hoặc chia tách khỏi cộng đồng.” 133Các quốc gia thành viên cũng phải “thực hiện cung cấp thông tin toàn diện sớm, dịch vụ và hỗ trợ TKT và gia đình của trẻ.”134

Dự thảo Luật Người khuyết tật đặt ra công tác hỗ trợ xã hội dựa vào cộng đồng cho những NKT và liệt kê những người được hưởng một khoản trợ cấp hàng tháng gồm cả những người “khuyết tật nặng”.135 Nó khẳng định rằng “những NKT nặng không có ai hỗ trợ hoặc không có khả năng sống với gia đình hoặc trong cộng đồng sẽ được Nhà nước hỗ trợ tài chính trong những dịch vụ nuôi dưỡng và chăm sóc tại những cơ sở bảo trợ xã hội.”136 Quyết định số 20/2007/QĐ-TTg tìm cách xóa đói giảm nghèo trong những cộng đồng nghèo và hộ gia đình nghèo có trẻ em và NKT. Nghị định số 67/NĐ-CP ngày 13/4/2007 đề ra những chính sách hỗ trợ công tác bảo trợ xã hội cho những NKT nặng, đã nêu đại cương về những khoản trợ cấp hàng tháng, và cung cấp thẻ bảo hiểm y tế. Tuy nhiên, những phiên bản cũ của Nghị định này lại không gồm trẻ em dưới 15 tuổi là những đối tượng được hưởng, và một số tỉnh vẫn tiếp tục sử dụng những phiên bản cũ để áp dụng.137 Như vậy, tất cả các tỉnh cần phải thực hiện theo Nghị định mới đây nhất.

Dự thảo Luật Người khuyết tật và những chỉ thị nêu trên đang tìm cách cung cấp tiêu chuẩn sống đầy đủ, nhưng những chỉ thị trên cũng cần được thay đổi sao cho quyền được dịch vụ và tiêu chuẩn sống đầy đủ không chỉ nằm ở phía khuyết tật “nặng”. Tới mức độ như nêu ở Điều 34 và 35 của dự thảo Luật Người khuyết tật dựng lên những hệ thống riêng tách biệt của dịch vụ, hỗ trợ, trường học, các chương trình nội trú và các trại cho NKT “nặng”, nó không nhất quán với CRPD. Mặt khác nếu Luật được điều chỉnh để có được hỗ trợ tài chính cho tất cả những NKT được cộng đồng hỗ trợ, thì điều khoản này sẽ tuân theo đúng với CRPD bởi vì CRPD ủng hộ sống trong cộng đồng hơn là sống trong các cơ sở tập trung và các chương trình nội trú.

Chương của Dự thảo Luật Người khuyết tật về bảo trợ an sinh xã hội cũng nên khẳng định bằng ngôn từ chắc chắn rằng NKT có quyền sống trong cộng đồng và an sinh xã hội để công tác bảo trợ sẽ giúp cho họ có khả năng sống được trong cộng đồng, và quyền sống trong cộng đồng không phụ thuộc vào tình trạng khuyết tật nặng. Trong tình huống NKT bị giữ trong các trại bảo trợ xã hội, ta phải thiết lập những tiêu chuẩn để đảm bảo rằng họ có được dịch vụ và tiêu chuẩn sống đầy đủ.

133 CRPD. 22-10-2007, điều 19(b).134 Như trên tại Điều 23(3).135 Dự thảo Luật Người khuyết tật, 5-10-2009, điều. 34.136 Như trên tại Điều 35(1).137 Tiến sĩ T. Duy Kiên, như đã trích dẫn chú giải 35, at 47.

Page 31: QUYỀN CỦA TRẺ EM KHUYẾT TẬT TẠI VIỆT NAM

31

6.4. Quyền không bị lạm dụng và bóc lột, và quyền không bị tra tấn, đối xử ác nghiệt, phi nhân bản, đối xử nhục mạ và trừng phạt

CRPD khẳng định dứt khoát rằng “không ai bị tra tấn hoặc đối xử ác nghiệt, phi nhân bản hoặc nhục mạ hoặc bị trừng phạt.”138 Công ước này cũng ủy quyền là những quốc gia thành viên phải thực hiện tất cả các biện pháp để “ngăn ngừa việc NKT, trên cơ sở bình đẳng, bị tra tấn đối xử ác nghiệt, phi nhân bản hoặc nhục mạ hoặc trừng phạt.”139 Thông tín viên đặc biệt của Liên hiệp quốc về điều tra tra tấn đã nêu rằng một số tập quán y tế nhất định có thể cấu thành tra tấn, như là (i) thí nghiệm khoa học và y học và (ii) can thiệp y tế, như là nạo phá thai và triệt sản, liệu pháp sốc điện, can thiệp tâm thần cưỡng bức, bắt cam kết vào các trại tâm thần không tự nguyện.140 Ông cũng lưu ý rằng tập quán sử dụng kiểu cấm đoán về lý tính lâu dài đối với trẻ em trong các trại tế bần cũng cấu thành một hình thức “điều trị tồi tệ hoặc tra tấn.”141 Những nguyên tắc của Liên hiệp quốc bảo vệ người bệnh tâm thần đã cho những hướng dẫn chi tiết về quy trình bảo vệ cần thiết nhằm bảo đảm rằng những người bị nhốt cách ly không bị lạm dụng.142

CRPD yêu cầu các quốc gia thành viên thực hiện tất cả những biện pháp thích hợp để “bảo vệ NKT chống lại tất cả những hình thức bóc lột, bạo lực và lạm dụng, kể cả những vai trò dựa vào giới tính của họ.”143 Hơn thế nữa, các quốc gia thành viên còn phải thực hiện tất cả những biện pháp thích hợp để phòng ngừa những hình thức hỗ trợ giúp đỡ nhạy cảm về giới tính và lứa tuổi đối với NKT và gia đình của họ và những người chăm sóc. Thông tín viên đặc biệt của Liên hiệp quốc về tra tấn144 và Thông tín viên đặc biệt của Liên hiệp quốc về quyền được chăm sóc sức khỏe145 cả hai người đều chỉ ra rằng những cá nhân khuyết tật đặc biệt bị rủi ro lạm dụng khi họ ở những vị trí không có quyền lực điển hình thấy được khi họ bị giữ trong các trại nội trú. Vì trẻ em và người lớn khuyết tật trong các trại dễ bị tổn thương hơn, quyền được bảo vệ của họ không bị lạm dụng và bóc lột phải được bảo vệ đầy đủ.

Phòng ngừa lạm dụng và đối xử tàn tệ đối với trẻ em và người lớn khuyết tật cần phải là một ưu tiên trong thực tế là trẻ em và người lớn khuyết tật trong các trại đặc biệt dễ bị tổn thương. Như vậy, hiến pháp Việt Nam khẳng định: “Công dân phải được thừa hưởng những yêu cầu không được xâm phạm về thân thể và được luật pháp bảo vệ cuộc sống, sức khỏe, danh dự và phẩm giá. Nghiêm cấm sử dụng những hình thức quấy rối, ép buộc, tra tấn, xâm phạm danh dự, phẩm giá của công dân.”146 Việt Nam có những luật trong nước bảo vệ trẻ em không bị lạm dụng và bóc lột,147 và Dự thảo Luật Người khuyết tật chứa đựng

138 CRPD, 22-10-2007, điều 15(1).139 Như trên tại Điều 15(2).140 Đề cao và bảo vệ nhân quyền: Tra tấn và đối xử ác nghiệt, phi nhân tính và nhục mạ hoặc trừng phạt: Ghi chú của

Tổng thư ký LHQ G.A.O.R. 63 Sess., Item 67(a), at para. 58-65, U.N. Doc. A/63/175 (2008).141 Như trên khổ đoạn. 55.142 G.A. Res. 46/119, U.N. GAOR, Nguyên lý bảo vệ người thiểu năng thần kinh, phiên họp lần thứ 75,bản in 11(11),

tài liệu LHQ. A/RES/46/119 (1991).143 CRPD, 22-10-2007, điều 16(a).144 Tra tấn và đối xử ác nghiệt, phi nhân tính và nhục mạ hoặc trừng phạt:, tài liệu LHQ. A/63/175 (2008), như đã trích

dẫn chú giải 140, khổ đoạn 50 .145 Báo cáo của Thông tín viên đặc biệt về quyền của mọi người được hưởng tiêu chuẩn cao nhất có thể đạt được của

sức khỏe thể chất và tinh thần, Hội đồng kinh tế và xã hội LHQ chương, mục 10, khổ đoạn 8, tài liệu LHQ E/CN.4/2005/51 (2005).

146 Hiến pháp Việt Nam. (1992), điều 71.147 Luật bảo vệ chăm sóc và giáo dục trẻ em bảo vệ trẻ em chống các kiểu lạm dụng, tắc trách, và bóc lột. Thêm vào đó,

Nghị định Chính phủ số 114//2006/ND-CP gồm quy định xử phạt vi phạm và lạm dụng trẻ em, phạt tiền và truy tố hình sự những ai vi phạm. Năm 1999, chính phủ cũng ban hành Luật xử phạt, ngăn cấm một số tội chống lại trẻ em. Mới đây hơn, chương trình quốc gia Hành động vì trẻ em Việt Nam cho giai đoạn 2001 – 2010, được Thủ tướng phê duyệt theo Quyết định số 23/2001/QD-TTg ngày 26/02/2001, đề ra “những mục tiêu cụ thể bảo vệ trẻ em khỏi tệ nạn xã hội, phòng ngừa bạo lực chống lại trẻ em, chống phân biệt đối xử chống trẻ em, phòng ngừa thương tích trẻ em, đề cao xúc tiến chăm sóc trẻ em khuyết tật.”

Page 32: QUYỀN CỦA TRẺ EM KHUYẾT TẬT TẠI VIỆT NAM

32

những điều khoản bảo vệ NKR không bị lạm dụng do phân biệt đối xử.148 Việt Nam cũng đã phê chuẩn một vài công ước quốc tế bảo vệ quyền của trẻ em chống lạm dụng, bạo lực và bóc lột.149

Thế nhưng bất chấp có vô số luật nghiêm cấm lạm dụng, không có văn bản luật nào của Việt Nam đặc biệt bảo vệ TKT khỏi lạm dụng, đối xử tàn tệ, bạo lực và bóc lột đặc biệt trong bối cảnh sống nội trú và trong các trung tâm chăm sóc tập trung. Điều 13 của Dự thảo Luật Người khuyết tật nên gồm có một điều khoản mới đặc biệt nghiêm cấm cách cư xử như vậy, và tất cả những Luật liên quan khác nêu ở trên cũng cần phải được điều chỉnh để áp dụng đặc biệt cho TKT. những biện pháp cũng cần phải được thi hành để tăng cường quyền không bị lạm dụng và bóc lột bằng cách xây dựng những dịch vụ bảo vệ trẻ em. Điều này nghĩa là dịch vụ bảo vệ trẻ em nên được thiết lập cho phép người dân báo cáo những vụ lạm dụng, những vụ lạm dụng cần phải được điều tra, và phải có phản ứng tức thì để chấm dứt lạm dụng. Các cán bộ bảo trợ xã hội phải được đào tạo để xử lý những báo cáo và để tự mình báo cáo những tình huống lạm dụng như vậy. Để tìm hiểu thêm thông tin về bảo trợ trẻ em, xem thêm mục 12.7.1 của bản báo cáo này có tiêu đề Thiết lập một hệ thống bảo trợ trẻ em.

7. Quyền được chăm sóc sức khỏe

Trong khi luật Việt Nam công nhận quyền được chăm sóc sức khỏe và cung cấp những dịch vụ phục hồi chức năng dựa vào cộng đồng, còn nhiều TKT tại Việt nam chưa tiếp cận được với chăm sóc sức khỏe. Số lượng trẻ em được phục hồi chức năng dựa vào cộng đồng rất thấp, với mức xấp xỉ 1/3 gia đình có TKT chưa bao giờ nhận được điều trị cho con mình.150 Đối với những gia đình nào tìm kiếm được điều trị cho con mình, 50% được thừa hưởng từ chính sách hỗ trợ chăm sóc sức khỏe của Việt Nam, trong khi đó 38% tiếp cận được khám bệnh và điều trị miễn phí.151 45% nhận được thẻ bảo hiểm y tế.152 Như vậy, quyền được chăm sóc sức khỏe cần phải được thực thi theo cách thức có ý nghĩa là cung cấp cho NKT loại hình chăm sóc mà họ yêu cầu.

Dự thảo Luật Người khuyết tật đưa ra một loạt những dịch vụ chăm sóc sức khỏe và phục hồi chức năng cho NKT rất có giá trị. Luật lại không nêu quyền phục hồi trí tuệ mà điều này rất thiết yếu đối với những NKT trí tuệ hoặc những trường hợp khuyết tật nặng khác để xây dựng hoặc duy trì những kỹ năng sống trong cộng đồng và kỹ năng tự chăm sóc. Cũng cần đặc biệt tham khảo quyền được dịch vụ phục hồi chức năng tâm lý dựa vào cộng đồng, mà đây là những yếu tố thiết yếu cho trẻ em thiểu năng trí tuệ sống trong cộng đồng. Cuối cùng, Dự thảo Luật Người khuyết tật không bảo vệ quyền tự chủ của cá nhân, quyền tự quyết và quyền tự lựa chọn dịch vụ xã hội và chăm sóc y tế như đòi hỏi của CRPD. Chính phủ Việt Nam cũng nên bổ sung một chương vào Dự thảo Luật Người khuyết tật để bảo vệ quyền của NKT đối với ý nguyện của họ, tự quyết và tự lựa chọn. Cần có những điều khoản bảo vệ đặc biệt chống lại việc điều trị ép buộc đặc biệt trong bối cảnh của các cơ sở chăm sóc tập trung và chăm sóc sức khỏe tâm thần.

7.1. Quyền được chăm sóc sức khỏe miễn phí và đặc biệt

CRPD yêu cầu các quốc gia thành viên “cung cấp cho NKT cùng hạng loại, cùng chất lượng và tiêu chuẩn chăm sóc và những chương trình sức khỏe miễn phí hoặc có thể chi trả được như đối với những

148 Dự thảo Luật Người Khuyết tật 2009, điều 13.149 Những công ước này gồm Công ước về quyền trẻ em và Nghị định thư tùy nhiệm, Công ước Tổ chức Lao động quốc

tế số 138 (1973) liên quan đến độ tuổi tối thiểu được nhận làm việc, và Công ước ILO số 182 (1999) liên quan đến Nghiêm cấm và Thi hành ngay lập tức để chấm dứt tất cả các dạng thức Lao động trẻ em.

150 Tạo lập một môi trường bảo vệ trẻ em tại Việt Nam, như đã trích dẫn chú giải 6, tại 80.151 Như trên152 Như trên

Page 33: QUYỀN CỦA TRẺ EM KHUYẾT TẬT TẠI VIỆT NAM

33

người khác.”153 Các quốc gia thành viên cũng phải “cung cấp những dịch vụ tăng cường sức khỏe cần thiết cho NKT, đặc biệt bởi vì những khuyết tật của họ.”154 CRC cũng đưa ra quyền của TKT đối với chăm sóc sức khỏe: “Các quốc gia thành viên công nhận quyền của TKT được chăm sóc đặc biệt và phải khuyến khích và bảo đảm việc mở rộng, tùy thuộc vào nguồn lực sẵn có, đối với trẻ em và những người chịu trách nhiệm chăm sóc, hỗ trợ khi áp dụng và khi thích hợp đối với điều kiện của trẻ em và đối với hoàn cảnh của cha mẹ hoặc người khác vì trẻ em đó.”155

Quyền được chăm sóc sức khỏe đặc biệt và miễn phí tại Việt Nam được gộp vào trong nhiều luật khác nhau.156 Điều 10 của Sắc lệnh 1998 về NKT liên quan trực tiếp tới NKT. Sắc lệnh khẳng định: (1) NKT có quyền được phòng ngừa bệnh tật, chăm sóc sức khỏe và phục hồi chức năng và (2) những NKT nặng không có thu nhập và trợ giúp, và những người nghèo khuyết tật được đảm bảo khám chữa bệnh miễn phí.157 Đối với việc chăm sóc sức khỏe trẻ em, Điều 15 của Luật bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em khẳng định rằng trẻ em có quyền được chăm sóc sức khỏe và được bảo vệ, và những trẻ em dưới 6 tuổi có quyền được chăm sóc sức khỏe miễn phí.158 Dự thảo Luật Người khuyết tật của Việt Nam bảo đảm NKT có quyền “đến kiểm tra sức khỏe, điều trị và dịch vụ y tế thích hợp.”159 Dự thảo cũng yêu cầu chính phủ “cải tiến và nâng cấp những cơ sở dịch vụ y tế sao cho NKT có thể đến được.”160 Ý nghĩa ở đây là luật cũng yêu cầu NKT được hỗ trợ và có cơ hội tham gia những chương trình phục hồi chức năng dựa vào cộng đồng.”161

Hiện nay, số lượng trẻ em được chăm sóc sức khỏe đặc biệt rất ít (chỉ có 30% TKT nhận được thiết bị chỉnh hình và phục hồi chức năng162). Số lượng trẻ em sử dụng phương tiện hỗ trợ phục hồi chức năng còn rất thấp ở mức 1/5 TKT sử dụng chân tay giả, thiết bị trợ thính và thiết bị hỗ trợ khiếm thị và xe lăn.163 cụ thể hơn nữa dưới 10% TKT thể chất và 2% TKT về thính lực nhận được thiết bị phục hồi chức năng.164 Một báo cáo của Ủy ban văn hóa, giáo dục thanh thiếu niên của Quốc hội đã phát hiện tình hình sau: “Chúng ta vẫn chưa bảo đảm môi trường và điều kiện cho TKT trong những hoàn cảnh đặc biệt để thực hiện những quyền cơ bản nêu trong luật.”165 Một trong những lý do cho lỗ hổng này là vì từ khi ban hành những quy định, Bộ Y tế vẫn chưa ban hành một đề xuất chính thức để điều phối ở cấp địa phương. Công văn này còn thiếu những kế hoạch cụ thể, và công văn được ban hành nhiều năm sau khi có Chỉ thị số 55/1999/CT-TTg.166

Như vậy cần phải thiết lập những quy định cụ thể hơn về trách nhiệm của các bộ liên quan và các cơ quan nhà nước. Cần có những hướng dẫn chi tiết về biểu mẫu, nội dung, mục tiêu, nhiệm vụ, giải pháp, trách nhiệm, cũng như là quyền hạn và cơ chế để giám sát và điều phối cần thiết cho công tác điều phối và thực thi những quy định liên bộ này có hiệu quả.167 Dự thảo Luật Người khuyết tật còn thiếu ý về

153 CRPD, 22-10-2007, điều 25(a).154 Như trên tại Điều 25(b).155 CRC, 28-2-1990, điều 23(2).156 Tại cấp cơ sở nhất, điều 61 của Hiến pháp 1992 khẳng định rằng “công dân có quyền hưởng một chế độ chăm sóc sức

khỏe.” Cụ thể hơn, Chương VII của Luật bảo vệ sức khỏe nhân dân 1989 bảo vệ sức khỏe “người già, thương binh, người khuyết tật, và đồng bào dân tộc thiểu số.”

157 Tiến sĩ T. Duy Kiên, như đã trích dẫn chú giải 35, tại 43.158 Luật bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em số 25/2004/QH 11-6-2004,, tại Điều 15.159 Dự thảo Luật Người khuyết tật, 5-10-2009, điều. 15(1).160 Như trên tại Điều 16(1).161 Như trên tại Điều 18(1).162 CEYC’ Báo cáo về kết quả theo dõi chính sách và pháp chế đối với trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt và phòng ngừa

thương tích trẻ em.17-10-2008, như trong trích dẫn của Tiến sĩ Duy Kiên, như đã trích dẫn chú giải 35 tại 45.163 Tạo lập một môi trường bảo vệ trẻ em tại Việt Nam, như đã trích dẫn chú giải 6, tại 80-81.164 Như trên165 Tiến sĩ T. Duy Kiên, như đã trích dẫn chú giải 35, tại 45.166 Như trên tại 45.167 Như trên tại 44.

Page 34: QUYỀN CỦA TRẺ EM KHUYẾT TẬT TẠI VIỆT NAM

34

những dịch vụ phục hồi trí tuệ cho trẻ em. Luật nên được điều chỉnh sao cho có phần nhắc tới quyền được phục hồi trí tuệ cho TKT trí tuệ và những loại khuyết tật khác có thể phát triển những kỹ năng tự chăm sóc và sống trong cộng đồng.

7.2. Quyền được phòng ngừa và can thiệp sớm

Theo CRPD, can thiệp sớm là hợp pháp và các chính phủ phải đảm bảo “phát hiện và can thiệp sớm như những dịch vụ thích hợp được đề ra để giảm thiểu và phòng ngừa khuyết tật thêm, kể cả trẻ em và những người có tuổi.”168 Mặc dù vậy những khuyết tật thường không được phát hiện mãi tới khi quá muộn trong cuộc đời của trẻ.169 Do đó, phát hiện sớm đòi hỏi nâng cao ý thức trong số những cán bộ chuyên môn y tế, cha mẹ, giáo viên cũng như là những nhà chuyên môn khác làm việc với trẻ em. Ủy ban về quyền trẻ em cũng kiến nghị rằng các quốc gia thành viên cần thiết lập những hệ thống phát hiện sớm và can thiệp sớm như một phần của dịch vụ y tế.170

Theo Luật bảo vệ và chăm sóc giáo dục trẻ em, cha mẹ và những người bảo trợ phải chịu trách nhiệm thực hiện những quy định về kiểm tra sức khỏe, điều trị cho trẻ em, trong khi đó Bộ y tế chịu trách nhiệm tổ chức thực hiện khám cơ bản, phòng ngừa và điều trị.171 Bộ GD&ĐT tạo chịu trách nhiệm tổ chức chăm sóc sức khỏe thông qua nhà trường với mục đích phòng ngừa và can thiệp sớm.172 Mới đây, vào ngày 1/9/2006 Thủ tướng đã ban hành chỉ thị số 55/1999/CT-TTg về triển khai những chính sách hỗ trợ NKT, mà chỉ thị này trao trách nhiệm cho Bộ Y tế soạn thảo và thực hiện những chiến lược chăm sóc sức khỏe NKT, trong đó chú ý tới những chương trình dựa vào cộng đồng để phát hiện sớm và phục hồi chức năng.173 Dự thảo Luật Người khuyết tật khẳng định rằng những cơ sở chăm sóc sức khỏe có chức năng “phát hiện khuyết tật bẩm sinh ở các cháu mới sinh, để có thể phục hồi chức năng sớm.”174 Những cơ sở chăm sóc sức khỏe cũng phải đảm bảo điều kiện đầy đủ để khám và điều trị.175

Xét về viện mạo, luật của Việt Nam về can thiệp sớm dường như thiết lập được cơ sở pháp lý rõ ràng. Tuy nhiên, cũng giống như quyền được chăm sóc sức khỏe đặc biệt và miễn phí, quyền được phát hiện sớm và phòng ngừa vẫn chưa được thực thi. Con số thống kê cho thấy rằng 1/3 gia đình có TKT chưa bao giờ nhận được điều trị cho mình.176 Với những gia đình có được điều trị cho con, 50% được hưởng lợi từ những chính sách hỗ trợ chăm sóc sức khỏe của Việt Nam, trong khi 38% tiếp cận được tới khám sức khỏe và điều trị miễn phí.177 45% nhận được thẻ bảo hiểm y tế.178 Rất nhiều trẻ em không được chẩn đoán sớm và không nhận được những dịch vụ cần thiết. Như vậy, chính phủ Việt Nam phải thực hiện những biện pháp để đảm bảo rằng những quyền này được thi hành và tăng cường.

7.3. Quyền được thể hiện ý nguyện bằng lòng, tự quyết và tự lựa chọn

CRPD thiết lập rất rõ ràng quyền được thể hiện ý nguyện bằng lòng, tự quyết, và tự lựa chọn nêu rõ rằng NKT cũng có quyền tự do và an sinh con người mà mọi người đều có và rằng NKT không bị “tước bỏ quyền tự do của mình theo kiểu vi phạm luật pháp hoặc tùy tiện, và bất cứ hành động tước đoạt tự

168 CRPD, 22-10-2007, điều 25(b).169 Tiến sĩ T. Duy Kiên, như đã trích dẫn chú giải 35, tại 43.170 Như trên171 Luật Bảo vệ, Chăm sóc và Giáo dục trẻ em, No. 25/2004/QH, 11-6-2004, điều 27.172 Như trên173 Chỉ thị No. 55/1999/CT-TTg, 2005, tại Điều 2(5).174 Dự thảo Luật Người khuyết tật, 5-10-2009, điều. 16(3).175 Như trên176 Tạo lập một môi trường bảo vệ trẻ em tại Việt Nam, như đã trích dẫn chú giải 6, at 80177 Như trên178 Như trên

Page 35: QUYỀN CỦA TRẺ EM KHUYẾT TẬT TẠI VIỆT NAM

35

do nào đều không phù hợp với luật pháp và rằng sự tồn tại của những khuyết tật không thể lấy đó bào chữa cho hành động tước bỏ quyền tự do.”179 Trong tình thế NKT bị “tước đoạt quyền tự do của mình thông qua bất cứ tiến trình nào, trên cơ sở bình đẳng với những người khác, họ có quyền được đảm bảo theo luật nhân quyền quốc tế và được đối xử theo những mục tiêu và nguyên tắc của công ước hiện nay, gồm cả điều khoản về môi trường cư ngụ hợp lý.”180 CRPD cuối cùng khẳng định rằng “không ai bị tra tấn hoặc đối xử ác nghiệt, phi nhân đạo hoặc nhục mạ hoặc bị trừng phạt”.181 Cụ thể là, Thông tín viên đặc biệt về tra tấn đã ghi chú rằng việc sử dụng cách hạn chế và giam giữ riêng có thể cấu thành tra tấn, cũng như là những quy trình chăm sóc y tế khác được thực hiện mà không được sự đồng ý của người trong cuộc.182 Những phần này áp dụng cho tất cả mọi người kể cả khuyết tật thể chất và khuyết tật thần kinh.

Điều 10 của Sắc lệnh về NKT 1998 khẳng định rằng “những người có những dạng thiểu năng trí tuệ nghiêm trọng tạo mối nguy cho xã hội cần phải được điều trị bắt buộc trong những cơ sở tâm thần.”183 Tương tự như thế Dự thảo Luật Người khuyết tật nêu rằng những người tâm thần ở cả hai dạng quá khích hoặc quá trầm cảm thể hiện những hành vi tự sát hoặc phá hoại cuộc sống của những người khác được cung cấp phí đi lại và chi phí điều trị trong thời gian điều trị bắt buộc ở những cơ sở y tế.”184 Xét về diện mạo, điều này vi phạm trực tiếp đến những Điều 14 và 15 của CRPD, bởi vì CRPD nghiêm cấm hành động phi luật pháp tước đoạt tự do và nó đảm bảo quyền một người từ chối một hình thức điều trị y tế. Hơn thế nữa, khổ đoạn này đã phân biệt đối xử trên cơ sở khuyết tật bằng cách phân biệt những NKT thể chất với những NKT tật tâm thần và vi phạm quyền của những NKT tâm thần. Như vậy ta nên bỏ đoạn này đi để tuân thủ với CRPD.

8. Quyền được giáo dục

TKT tại Việt Nam thường chỉ nhận được giáo dục theo chuẩn thấp và tách biệt, trong khi rất nhiều trẻ em khác không được giáo dục gì. Mặc dù gần đây có nhiều cố gắng nhằm tạo ra hệ thống giáo dục hòa nhập, còn thiếu nhiều hỗ trợ kỹ thuật và tài chính và thiếu cả số lượng giáo viên có trình độ đã qua đào tạo.185 CRPD Điều 24(1) thiết lập quyền được giáo dục và đòi hỏi các quốc gia thành viên phải “đảm bảo có giáo dục hòa nhập ở tất cả các cấp học”. Hiện nay, Quyết định số 23/2006/QD-BGDDT, khẳng định rằng NKT nên (1) “được hưởng quyền giáo dục bình đẳng với bất cứ ai khác” và (2) học tập trong nền giáo dục chung, tham gia vào học nghề, được phục hồi chức năng, phát triển tiềm năng để hòa nhập tốt hơn vào cộng đồng.186 Quyết định số 9/2007/QD-BGDDT, ngày 29-8-2007, ủy quyền đào tạo cho giáo viên và các nhà quản lý giáo dục cần phải có những kỹ năng cần thiết để thực hiện giáo dục hòa nhập. Mặc dầu co số thống kê chính xác còn khác nhau, có khoảng 52%-24% TKT đến trường.187

Giống như những văn bản trước đó, Dự thảo Luật Người khuyết tật trao quyền được giáo dục, nhưng lại không công nhận quyền được giáo dục “hòa nhập” vào lớp học chung cho tất cả TKT; mà phần lớn TKT vẫn học trong các lớp tách biệt hoặc trường tách biệt. Trong khi các trường chuyên biệt cung cấp dịch vụ

179 CRPD, 22-10-2007, điều 14(1).180 Như trên tại Điều 14(2).181 Như trên tại Điều 15(1).182 Tra tấn và những hình thức điều trị khác ác nghiệt, phi nhân bản, nhục mạ hoặc trừng phạt, U.N. Doc. A/63/175

(2008), như đã trích dẫn chú giải 139, ở đoạn 55, 58-65.183 Tiến sĩ T. Duy Kiên, như đã trích dẫn chú giải 35, at 44.184 Dự thảo Luật Người khuyết tật, 5-10-2009, điều. 15(5).185 Tạo lập một môi trường bảo vệ trẻ em khuyết tật tại Việt Nam, như đã trích dẫn chú giải 6, tại 82.186 Tiến sĩ T. Duy Kiên, như đã trích dẫn chú giải 35, at 38.187 Xem CEYC Báo cáo về kết quả theo dõi chính sách và luật pháp đối với trẻ em có những hoàn cảnh đặc biệt, và phòng

chống thương tích trẻ em, ngày 17/10/2008, trích lục của Tiến sĩ T. Duy Kiên, như đã trích dẫn chú giải 35, tại 81.

Page 36: QUYỀN CỦA TRẺ EM KHUYẾT TẬT TẠI VIỆT NAM

36

thiết yếu cho số lượng nhỏ các cháu khuyết tật, pháp chế mới cần công nhận rằng đây là những chương trình quá độ mà thực chất sẽ được chuyển hóa thành những trung tâm nguồn để hỗ trợ TKT vào học tại các trường chung hiện nay. Dự thảo Luật Người khuyết tật nên cung cấp môi trường cư ngụ hợp lý cho tất cả TKT. Luật cũng nên ủy quyền cho tất cả giáo viên được đào tạo chuyên biệt để phục vụ TKT và cung cấp những phương pháp giáo dục hòa nhập.

8.1 Giáo dục hòa nhập

Trước khi Công ước về Quyền của NKT được LHQ thông qua hồi năm 2006, luật quốc tế đã công nhận quyền được giáo dục là một quyền phổ thông của con người.188 Quyền được giáo dục được trân trọng gói ghém trong Điều 26(1) của Tuyên bố Nhân quyền toàn cầu (UDHR) khẳng định rằng “Mọi người đều có quyền được giáo dục. Giáo dục phải miễn phí, ít nhất là ở các giai đoạn học tiểu học và cơ sở. Giáo dục tiểu học là bắt buộc.”189 Quyền được giáo dục toàn cầu này được bình đẳng khẳng định chắc chắn và ràng buộc đối với các quốc gia thành viên theo Điều 13(1) của Thỏa ước quốc tế về Quyền kinh tế, xã hội và văn hóa (ICESCR), mà Việt Nam đã ký kết và phê chuẩn trong năm 1982.190 Bằng việc thông qua CRC trong năm 1989, quyền giáo dục phổ thông đã được áp dụng đặc biệt cho TKT lần đầu tiên.191

Bằng việc thông qua CRPD trong năm 2006, quyền phổ thông được giáo dục hòa nhập và thích hợp đối với trẻ em và người lớn khuyết tật cuối cùng đã được trân trọng ghi vào luật quốc tế. Điều 24 của CRPD yêu cầu các quốc gia “đảm bảo một hệ thống giáo dục hòa nhập ở tất cả các cấp” và công nhận tầm quan trọng của quyền giáo dục đối với sự phát triển của con người và phẩm giá cũng như là tầm quan trọng của quyền được giáo dục trong khái niệm được tôn trọng “nhân quyền, quyền tự do cơ bản và đa dạng nhân loại.”192 Phần 2 của Điều 24 của CRPD khẳng định rằng các quốc gia thành viên phải đảm bảo rằng

188 Liên Hiệp Quốc, G.A. Res. 217A(III), U.N. GAOR, 3rd Sess., U.N. Doc. 217A(III) (1948).189 Tuyên bố Nhân quyền toàn cầu, LHQ, G.A. res. 217A (III), U.N. GAOR , 3rd Sess., U.N. Doc A/810 (1948). Điều

26 nêu đầy đủ toàn văn như sau: (1) Ai cũng có quyền được giáo dục. Giáo dục phải miễn phí, ít nhất là ở cấp tiểu học và cơ sở. Giáo dục tiểu học là bắt buộc. Giáo dục kỹ thuật và chuyên nghiệp phải sẵn có chung và giáo dục đại học phải bình đẳng cho tất cả những ai có trình độ đều tiếp cận được. (2) giáo dục phải được định hướng đến phát triển đầy đủ nhân cách và củng cố tôn trọng nhân quyền và những quyền tự do cơ bản. Giáo dục đề cao hiểu biết, khoan dung và tình hữu nghị giữa các dân tộc, các nhóm tôn giáo và chủng tộc khác nhau, và hướng tới những hoạt động của LHQ gìn giữ hòa bình. (3) Cha mẹ có quyền ưu tiên lựa chọn loại hình giáo dục cho con cái mình.

190 Việt Nam đã ban hành một tuyên bố phê chuẩn nêu rằng: Những khoản của điều 48, khổ 1, của Thỏa ước quốc tế về Quyền dân sự và chính trị, điều 26, khổ đoạn 1, của Thỏa ước quốc tế về Quyền kinh tế, xã hội , văn hóa theo đó nhiều nước mất cơ hội làm thành viên của Thỏa ước, là có bản chất phân biệt đối xử. Chính phủ nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam cho rằng những Thỏa ước này, tuân theo nguyên tắc chủ quyền quốc gia bình đẳng nên được mở ra cho tất cả các quốc gia tham gia mà không phân biệt đối xử hoặc hạn chế.

191 Có nhiều công cụ luật quốc tế quan trọng khác nêu rõ quyền của người khuyết tật được giáo dục, gộp trong Công ước của UNESCO chống phân biệt đối xử trong giáo dục; Tuyên bố Sundberg thông qua tại Hội nghị Thế giới về hành động và chiến lược Giáo dục, Phòng ngừa và Hội nhập ngày 7-11- 1981; Tuyên bố thế giới về Giáo dục cho tất cả - đáp ứng nhu cầu học tập cơ bản, được thông qua tại Hội nghị thế giới về Giáo dục cho tất cả vào ngày 9-3- 1990; ILO Công ước 159 liên quan đến phục hồi chức năng nghề và việc làm (người khuyết tật) thông qua ngày 1-6- 1983; Hướng dẫn Tallinn cho hành động phát triển nguồn nhân lực trong lĩnh vực khuyết tật, thông qua bằng Nghị quyết của tổng hội đồng LHQ số 44/70 ngày 15-3-1990; chương trình của Thế giới về hành động liên quan đến người khuyết tật, Nghị quyết của tổng hội đồng LHQ số 37/52 ngày 3-12-1982; Tuyên bố Vienna và chương trình hành động thông qua tại Hội nghị Thế giới về Nhân quyền ngày 25-6-1993; Quy tắc tiêu chuẩn về Bình đẳng cơ hội cho NKT Nghị quyết của tổng hội đồng LHQ số 48/96 ngày 20-12-1993; Công bố Salamanca về Nguyên tắc, Chính sách và Thực hiện nhu cầu giáo dục đặc biệt và Khuôn khổ Salamanca hành động về nhu cầu giáo dục đặc biệt được thông qua tại Hội nghị thế giới về nhu cầu giáo dục đặc biệt: Tiếp cận và Chất lượng 7-10/6/1994.

192 Điều 24(1) và (2) toàn văn như sau: Các quốc gia thành viên công nhận quyền giáo dục của người khuyết tật. Với quan điểm thực hiện quyền này trên cơ sở cơ hội bình đẳng mà không phân biệt đối xử. Các quốc gia thành viên phải bảo đảm có một hệ thống giáo dục hòa nhập tại tất cả các cấp và học tập giáo dục thường xuyên hướng tới: a) Phát triển tiềm năng con người đầy đủ, nhân phẩm và phẩm cách và củng cố tôn trọng nhân quyền, các quyền tự do cơ

Page 37: QUYỀN CỦA TRẺ EM KHUYẾT TẬT TẠI VIỆT NAM

37

NKT không bị loại khỏi hệ thống giáo dục chung vì lý do khuyết tật, và rằng TKT được tiếp cận đến giáo dục hòa nhập, có chất lượng và miễn phí đối với giáo dục tiểu học và trung học trên cơ sở bình đẳng với những trẻ em khác trong cộng đồng sinh sống mỗi một phần này, cũng như là toàn bộ CRPD, áp dụng cho NKT, kể cả những NKT nặng.

8.1.1. Giáo dục hòa nhập theo luật chung của Việt Nam

Ước tính rằng trong tổng số xấp xỉ 1 triệu TKT Việt Nam, chỉ có 269.000 hoặc 24,22% tổng số TKT đến trường.193 Trong khi con số đó cao hơn, cấp độ giáo dục chung của TKT ở độ tuổi 6–17 đến trường rất thấp và hầu như một nửa số này là không biết chữ. Cùng với Bộ LĐTB&XH, UNICEF báo cáo rằng 34% NKT tại Việt Nam mù chữ so với tỉ lệ người biết chữ tại Việt Nam là 91,1% tổng dân số.

Thậm chí như vậy, Việt Nam từ lâu nay luôn là nước khởi xướng về giáo dục, công nhận rằng giáo dục tạo lập cơ hội cho trẻ em được học tập về xã hội, và đối với nhiều người đây là phương cách thoát đói nghèo. Hiến pháp khẳng định rằng “nhà nước và xã hội sẽ tạo những cơ hội cần thiết cho trẻ em tật nguyền để nắm bắt được kiến thức chung và đào tạo nghề thích hợp.” Chi tiết hóa quyền được giáo dục cho TKT, chính phủ Việt Nam đã thông qua Luật bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em 2004, Luật giáo dục 2005 và Pháp lệnh về NKT. Để nâng cao tầm của giáo dục hòa nhập, Bộ GD&ĐT đã ban hành quyết định số 23/2006/QĐ-BGD&ĐT ngày 22 tháng 5 năm 2006 sao cho NKT có thể (1) “được hưởng quyền giáo dục bình đẳng với mọi người khác” và (2) học tập chung, tham gia vào đào tạo học nghề, được phục hồi chức năng và phát triển tiềm năng của mình để hòa nhập tốt hơn vào cộng đồng. Quyết định số 9/2007/QĐ-BGD&ĐT ngày 29 tháng 8 năm 2007 ủy quyền đào tạo cho giáo viên và các nhà quản lý giáo dục để họ học những kỹ năng cần thiết nhằm thực hiện giáo dục hòa nhập.194

bản và đa dạng nhân loại; b) Phát triển của những người khuyết tật đầy đủ nhất tính cách, tài năng, sáng tạo cũng như những khả năng thể chất, thần kinh của họ. Sao cho người khuyết tật tham gia hiệu quả vào một xã hội tự do. (2) Thực hiện quyền này, các quốc gia thành viên phải đảm bảo rằng: a) người khuyết tật không bị loại khỏi hệ thống giáo dục chung chỉ vì khuyết tật, và trẻ em khuyết tật không bị loại khỏi giáo dục tiểu học bắt buộc, hoặc giáo dục trung học chỉ vì khuyết tật; b) Người khuyết tật có thể tiếp cận giáo dục tiểu học và giáo dục trung học tự do, có chất lượng và hòa nhập trên cơ sở bình đẳng với những người khác trong cộng đồng sinh sống; c) Môi trường cư ngụ hợp lý như yêu cầu của cá nhân được cung cấp; d) Người khuyết tật được hỗ trợ cần thiết, trong hệ thống giáo dục chung để giúp họ học tập hiệu quả; e) Những biện pháp hỗ trợ được cá nhân hóa hiệu quả được cung cấp trong môi trường tối đa hóa khả năng phát triển học thuật và xã hội, nhất quán với mục đích hòa nhập đầy đủ.

193 CEYC Báo cáo về kết quả theo dõi chính sách và luật pháp đối với trẻ em có những hoàn cảnh đặc biệt, và phòng chống thương tích trẻ em, ngày 17/10/2008, trích lục của Tiến sĩ T. Duy Kiên, như đã trích dẫn chú giải 35, tại 29.

194 Người hướng dẫn quyền người khuyết tật quốc tế (IDRM) 2005—Báo cáo khu vực châu Á: tại 133, truy cập tại http://www.idrmnet.org/pdfs/CIR_IDRM_Asia_05.pdf, lần truy cập gần đây 20-10- 2009. Để có thêm thông tin về Giáo dục hòa nhập tại Việt Nam, xem http://www.eenet.org.uk/newsletters/news8/page23.shtml.. USAID thấy rằng mặc dầu một số trường cho trẻ em khuyết tật tại Việt Nam mới được thành lập qua hợp tác với những tổ chức phi chính phủ quốc tế, đưa đến số lượng tuyển sinh xấp xỉ 21.000 cả nước, tỉ lệ tuyển sinh trẻ em khuyết tật trong các trường chuyên biệt chỉ khoảng 2% tổng số trẻ em đáng được hưởng cơ hội giáo dục. Hơn nữa, một báo cáo của UNESCO lưu ý rằng những cố gắng quan trọng đang được xúc tiến, thể hiện trong câu chuyện về một thanh niên, tên là Kiên:

Kiên là một trong hơn 26.000 trẻ em khiếm khuyết được tái hòa nhập vào trường phổ thông từ năm 1991. Cháu được cấp một xe đẩy qua hỗ trợ của UNICEF và Radda Barnen kịp thời cho cháu bắt đầu năm học 1996/97. Hiện nay các bạn cùng lớp giúp cháu đẩy xe đến trường. Khao khát kiến thức cháu đã học xuất sắc, bất chấp vận động khó khăn ghê gớm làm cháu khó cầm bút. Trước khi cháu đến, giáo viên của lớp đã được đào tạo về phương pháp hỗ trợ hòa nhập. Chỉ sau 2 tháng ở trường, cháu đã thuộc hết các chữ, và đến cuối năm học cháu đã đọc tốt. Cháu nổi tiếng về tốc độ làm toán. Cháu dễ dàng lên lớp 2 và tiếp tục học tốt. Xem thêm Radda Barnen/Dịch vụ cứu trợ Thiên chúa giáo /Tổ chức cứu trợ nhi đồng Anh, Giáo dục hòa nhập tại Việt Nam 1991-8. Stockholm, 1998, có tại:http://unesdoc.unesco.org/images/0012/001234/123486e.pdf.

Page 38: QUYỀN CỦA TRẺ EM KHUYẾT TẬT TẠI VIỆT NAM

38

Thậm chí như vậy, Việt Nam từ lâu nay luôn là nước khởi xướng về giáo dục, công nhận rằng giáo dục tạo lập cơ hội cho trẻ em được học tập về xã hội, và đối với nhiều người đây là phương cách thoát đói nghèo. Hiến pháp khẳng định rằng “nhà nước và xã hội sẽ tạo những cơ hội cần thiết cho trẻ em tật nguyền để nắm bắt được kiến thức chung và đào tạo nghề thích hợp.”195 Chi tiết hóa quyền được giáo dục cho TKT, chính phủ Việt Nam đã thông qua Luật bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em 2004, Luật giáo dục 2005 và Pháp lệnh về NKT. Để nâng cao tầm của giáo dục hòa nhập, Bộ GD&ĐT đã ban hành quyết định số 23/2006/QĐ-BGD&ĐT ngày 22 tháng 5 năm 2006 sao cho NKT có thể (1) “được hưởng quyền giáo dục bình đẳng với mọi người khác” và (2) học tập chung, tham gia vào đào tạo học nghề, được phục hồi chức năng và phát triển tiềm năng của mình để hòa nhập tốt hơn vào cộng đồng.196 Quyết định số 9/2007/QĐ-BGD&ĐT ngày 29 tháng 8 năm 2007 ủy quyền đào tạo cho giáo viên và các nhà quản lý giáo dục để họ học những kỹ năng cần thiết nhằm thực hiện giáo dục hòa nhập.

Ấy nhưng Việt Nam tiếp tục công nhận và sử dụng hệ thống giáo dục tách biệt, không nhất quán với CRPD. Điều 63 của Luật giáo dục 2005 cho phép thành lập một hệ thống giáo dục 2 nấc trong đó “NKT và tật nguyền” được giáo dục trong các trường và lớp học tách biệt. Ước tính tới nay có khoảng hơn 107 trường chuyên biệt cho hơn 7.000 TKT tại Việt Nam.197 Mặc dù mục đích của những trường lớp tách biệt này là “phục hồi chức năng của những NKT để họ học tập và học nghề nhằm hòa nhập vào cộng đồng” một hệ thống giáo dục dựa vào những trường tách biệt như thế là vi phạm tinh thần và ý nghĩa của CRPD. Hơn thế nữa theo Luật giáo dục 2005 hiện nay, chỉ có những học sinh khuyết tật nặng hoặc những học sinh khuyết tật của những gia đình nghèo mới có quyền học tập miễn phí; tất cả những trẻ em khác, phải trả học phí và chỉ được quyền “miễn giảm học phí”.

Luật của Việt Nam về giáo dục là một khởi điểm cho TKT có được giáo dục hòa nhập, nhưng luật cũng nên được điều chỉnh để nêu rõ rằng giáo dục tách biệt chỉ tồn tại như một giai đoạn quá độ sang hòa nhập toàn diện. Lý do thất bại trong giáo dục học sinh khuyết tật tại Việt Nam có rất nhiều, kể cả một hệ thống đã đào tạo rất ít hoặc không hề đào tạo giáo viên để hiểu về NKT, kể cả định kiến với NKT của xã hội, giáo viên và phụ huynh đưa tới kết quả là người ta mong đợi thấp đối với tiềm năng của TKTt, cũng như khó tiếp cận đến các tòa nhà, thiếu những chương trình giảng dạy phù hợp, thiếu thiết bị hỗ trợ, thiếu tài liệu giáo dục và thiếu kinh phí.198 Từng mục trong những vấn đề này đều có thể sửa chữa được nếu như luật pháp được tăng cường, tuân thủ với luật quốc tế và được đưa vào Dự thảo Luật Người khuyết tật mới của Việt Nam và Luật giáo dục 2005..

Thứ nhất là, để Việt Nam hoàn toàn tuân thủ theo Điều 24 của CRPD, đòi hỏi các chính phủ “đảm bảo một hệ thống giáo dục hòa nhập ở tất cả các cấp”, Luật giáo dục 2005 cũng như Dự thảo Luật Người khuyết tật cần được điều chỉnh để tạo ra một tuyến thời gian và một kế hoạch giải tán dần các trường tách biệt cho TKT. Những luật này nên có một mệnh đề rằng mục đích của cải cách giáo dục Việt Nam là định hướng cho tất cả TKT vào các trường hòa nhập. Để tiến thêm tới mục đích đó Điều 4 của Dự thảo Luật Người khuyết tật, có đưa ra những quyền tổng quát của NKT nên gồm có một quyền cụ thể được giáo dục cho tất cả trẻ em, kể cả tất cả TKT. Quyền này không thấy nằm trong những quyền đã được công nhận tại danh mục của Điều 4 phiên bản mới nhất của Dự thảo Luật Người khuyết tật.

Thứ hai là, để cải thiện tình hình thực thi giáo dục hòa nhập, giáo viên phải được đào tạo sao cho họ có kiến thức và kỹ năng thực hiện nhiệm vụ giáo dục hòa nhập. Ngày nay tại Việt Nam, mới chỉ có khoảng

195 Hiến pháp Việt Nam. (1992), điều 59.196 Tiến sĩ T. Duy Kiên, như đã trích dẫn chú giải 35, at 38.197 CEYC’s Báo cáo về kết quả theo dõi chính sách và luật pháp đối với trẻ em có những hoàn cảnh đặc biệt, và phòng

chống thương tích trẻ em, ngày 17/10/2008, trích lục của Tiến sĩ T. Duy Kiên, như đã trích dẫn chú giải 35.198 USAID Đánh giá tình hình người khuyết tật Việt Nam và tổng kết chương trình (2005), hiện có tại http://pdf.usa-

gov/pdf_docs/Pdacf476.pdf, truy cập gần đây nhất ngày 28-8-2009.

Page 39: QUYỀN CỦA TRẺ EM KHUYẾT TẬT TẠI VIỆT NAM

39

1500 giáo viên được đào tạo chính quy hoặc tại chức chuyên về lĩnh vực giáo dục học sinh khuyết tật. Hơn nữa, năng lực của các trường sư phạm đào tạo giáo viên chuyên giảng dạy cho học sinh khuyết tật vẫn còn rất hạn chế - chỉ có 7 cơ sở đào tạo trên cả nước có các khoa giáo dục đặc biệt.199 Không những phải tăng cường đào tạo giáo viên mà còn phải có hỗ trợ khác để hiện thực hóa những mục tiêu của hòa nhập. Những hỗ trợ này có thể gồm hỗ trợ cha mẹ hoặc những người bán chuyên môn khác để ngồi cùng học sinh khuyết tật hoặc đẩy xe ra vào những lớp học khác nhau hoặc nhà vệ sinh khi cần thiết, hoặc những chương trình đào tạo giáo viên cách thức phát triển chương trình học linh hoạt và cách thức làm việc với học sinh có những dạng khuyết tật khác nhau, cũng như thiết lập một nền văn hóa học đường hân hoan (từ cấp trên xuống cấp dưới) không chỉ tiếp nhận học sinh khuyết tật mà còn phải chào đón học sinh và phấn đấu vì học sinh để học sinh có cảm giác là một phần trong cộng đồng nhà trường.200

8.1.2. Giáo dục hòa nhập theo Dự thảo Luật Người khuyết tật của Việt Nam

Điều 21 của Dự thảo Luật Người khuyết tật mô tả 3 hình thức tiếp cận giáo dục: (1) giáo dục hòa nhập, (2) giáo dục bán hòa nhập và (3) giáo dục chuyên biệt. Theo luật, giáo dục hòa nhập sẽ là phương hướng tiếp cận chính áp dụng cho giáo dục NKT, còn giáo dục bán hòa nhập và giáo dục chuyên biệt là cách tiếp cận chỉ áp dụng cho những học sinh “không có khả năng học bằng phương thức giáo dục hòa nhập.”201 Phương thức được sử dụng sẽ phụ thuộc vào lựa chọn của TKT, của gia đình hoặc người bảo trợ theo pháp luật của trẻ mà họ cho rằng thích hợp với sự phát triển cá nhân của NKT.202

Trong khi chính phủ Việt Nam đã đạt được nhiều tiến bộ trong việc giải quyết quyền của TKT được giáo dục hòa nhập, Điều 21 của Dự thảo Luật Người khuyết tật đòi hỏi nhiều công việc cần phải tiếp tục. Đặc biệt là Điều 21 có nhắc tới trẻ em bị coi là “không có khả năng học bằng phương thức giáo dục hòa nhập” mệnh đề này không nhất quán với ngôn từ và dự định của CRPD, và ta nên xóa đi. Chỉ khi nào trẻ em được cơ hội đến các trường và lớp hòa nhập thì luật nên giả định rằng tất cả trẻ em có tiềm năng đều được thừa hưởng giáo dục hòa nhập. Thực tế, nếu môi trường thực sự là hòa nhập, tất cả học sinh khuyết tật đều có thể nhập vào được.

Bằng việc nhắc tới một số học sinh coi là “không thể học tập” câu này duy trì một cách hiểu dập khuôn và phân biệt đối xử đối với nhóm học sinh này.203 CRPD công nhận rằng tất cả học sinh và người lớn khuyết tật đều có tiềm năng, kể cả tiềm năng học tập. Đây chính là trách nhiệm của xã hội phải dỡ bỏ rào cản ngăn cản họ thực hiện tiềm năng của mình.204 Những chương trình giáo dục thành công không nên chú trọng vào “những điểm sai sót của học sinh” và những gì học sinh không thể làm được hoặc học sinh “không thể có khả năng học” mà cần phải chú trọng vào những gì nhà trường có thể làm khác đi để nhận được tất cả trẻ em, để giúp tất cả trẻ em hiện thực hóa đầy đủ tiềm năng của chúng và cung cấp cho tất cả trẻ em những kỹ năng chúng cần để tham gia đầy đủ vào tất cả những lĩnh vực của cộng đồng và cuộc sống chung.

199 Tiến sĩ T. Duy Kiên, như đã trích dẫn chú giải 35, tại 139.200 Xem ví dụ. Tony Booth –giáo sư Đại học tổng hợp Nhà thờ Thiên chúa giáo Canterbury Giáo dục hòa nhập, Anh

quốc, Hòa nhập trong giáo dục: Tham gia của học viên khuyết tật, Diễn đàn giáo dục thế giới 2000 hiện có thể truy cập tại địa chỉ http://www.unesco.org/education/wef/en-leadup/findings_inclusion.shtm, lần vào gần đây nhất 28-8-2009.

201 Dự thảo Luật Người Khuyết tật 2009, điều 21(2).202 Như trên tại Điều 21(3).203 Như trên, tại Điều 2, khổ đoạn 2: Giải thích từ ngữ: …2. Người khuyết tật nặng là người khuyết tật không có khả năng

tự phục vụ nhu cầu sinh hoạt cá nhân hàng ngày hoặc bị giảm thiểu chức năng không đủ khả năng tự mình tham gia vào hoạt động xã hội.

204 Arlene S. Kanter, “Lời hứa và thách thức của Công ước LHQ về quyền của người khuyết tật” Tạp chí Luật pháp và Thương mại quốc tế. 34: 287-321. (2007).

Page 40: QUYỀN CỦA TRẺ EM KHUYẾT TẬT TẠI VIỆT NAM

40

Điều 21 của Dự thảo Luật Người khuyết tật nên được viết lại để ghi nhận rằng mặc dù hệ thống giáo dục hòa nhập hoàn toàn hiện nay chưa có tại Việt Nam, hệ thống này sẽ phải là mục đích tiến tới. Triển khai và thực thi một hệ thống giáo dục hòa nhập đầy đủ là cần thiết và sẽ cần một tiến trình cải cách – có lẽ phải mất nhiều năm – để có được hòa nhập hoàn toàn cho TKT vào hệ thống giáo dục chung.

8.2. Môi trường phù hợp trong các chương trình giáo dục

Theo CRPD, một môi trường phù hơpự được xác định là “phương thuốc chữa trị cần thiết và thích hợp và điều chỉnh không phải để tạo thêm một gánh nặng mất hợp lý hoặc không cần thiết, ở nơi cần trong một trường hợp cụ thể, để đảm bảo NKT được thừa hưởng thực hiện trên cơ sở bình đẳng với những người khác về nhân quyền và những quyền tự do cơ bản.”205 Các quốc gia thành viên đòi hỏi phải cung cấp “môi trường cư ngụ hợp lý của những yêu cầu cá nhân.”206 Tương tự như thế, các quốc gia thành viên phải hỗ trợ sao cho họ có thể vươn tới hệ thống giáo dục chung.207 Trẻ em bị mù, điếc hoặc vừa mù vừa điếc có quyền giáo dục học tập bằng ngôn ngữ thích hợp và những dạng thức, phương tiện truyền thông cho cá nhân mình, và trong những môi trường có thể tối đa hóa sự phát triển xã hội và học tập của học sinh.208

Trong một bản thảo trước đó của Dự thảo Luật Người khuyết tật, quyền có được môi trường cư ngụ hợp lý là quyền đầu tiên được đảm bảo cho TKT trong Điều 20 (“Nhà nước đảm bảo quyền của NKT được học tập, với môi trường cư ngụ hợp lý”) ta thấy rằng khổ đoạn 1 đó của Điều 20 đã được thay đổi. Đoạn này giờ đây khẳng định rằng “Nhà nước tạo lập và đảm bảo quyền được giáo dục cho NKT theo nhu cầu của họ.”209 Điều tiếp sau đó muốn đưa TKT vào, thông qua việc cho phép những phần sau đây: tuổi bắt đầu đi học cao hơn, được miễn trừ những môn hoặc hoạt động mà trẻ em không thể tham gia thể chất được; có quyền được miễn giảm học phí ; được phép xin trợ cấp và hỗ trợ.210 Đối với những trẻ em khiếm khuyết về nghe và nói, việc sử dụng ngôn ngữ ký hiệu, chữ nổi Braille tiêu chuẩn hoặc những công cụ giáo dục khác phải có sẵn.211

Để đưa Dự thảo Luật Người khuyết tật tuân thủ với CRPD, cần thay đổi một số điểm đáng kể. Thứ nhất, ngôn từ cho bản thảo mới đây nhất cần được thay đổi bằng ngôn từ trong bản thảo trước đó mà nêu đặc biệt việc đảm bảo cho TKT có quyền ở môi trường cư ngụ hợp lý. Nếu không có môi trường cư ngụ hợp lý, sẽ rất khó khăn cho TKT được hòa nhập đầy đủ.

Khổ đoạn 2 của Điều 20 đầu tiên cũng nên được thay đổi nó bắt đầu bằng việc khẳng định rằng “NKT được nhập học ở độ tuổi cao hơn so với độ tuổi quy định”212 Câu này là để linh hoạt cho TKT bằng cách miễn trừ không bắt buộc yêu cầu lứa tuổi cho học sinh bắt đầu đi học. Tuy nhiên, bằng việc miễn trừ TKT, như một nhóm này, điều khoản này lại duy trì một kiểu rập khuôn tư duy rằng TKT là những học sinh chậm và không thể học được.

Khổ đoạn 3 của Điều 20 đầu tiên nên khẳng định chắc chắn rằng mọi người đến học tại các lớp có quyền được hưởng phiên dịch ngôn ngữ tín hiệu, chữ nổi Braille và những công cụ giáo dục khác. Ngôn từ hiện nay có cải tiến hơn phiên bản trước của Luật chỉ đơn thuần khẳng định rằng trẻ em “có thể tham dự”

205 CRPD, 22-10-2007, điều 25(a).206 Như trên tại Điều 24(2)(c).207 Như trên tại Điều 24(2)(d).208 Như trên tại Điều 24(3).209 Dự thảo Luật Người khuyết tật, 5-10-2009, điều. 20(1).210 Như trên tại Điều 20(2).211 Như trên tại Điều 20(3).212 Như trên tại Điều 20.

Page 41: QUYỀN CỦA TRẺ EM KHUYẾT TẬT TẠI VIỆT NAM

41

lớp học. Tuy nhiên vẫn chưa hoàn toàn rõ ràng qua ngôn từ được sử dụng rằng trẻ em có quyền hưởng phiên dịch ngôn ngữ, chữ nổi Braille và những công cụ giáo dục khác, và ngôn từ như vậy là cần thiết để tuân thủ với CRPD.

Tiếp sau, khổ đoạn 1 của Điều 21 đã không gộp được một mệnh đề nêu rõ rằng thậm chí những chương trình giáo dục chuyên biệt cũng có thể gồm những lĩnh vực hòa nhập. Với môi trường cư ngụ hợp lý, bất cứ trẻ em nào bị khuyết tật đều có thể hưởng lợi từ giáo dục hòa nhập theo một cách nào đó. Trẻ em học các lớp giáo dục chuyên biệt vẫn phải được trao cơ hội nhập vào các lớp chung trong những giai đoạn học tập nhất định của ngày học, để tương tác với những người đồng đẳng, và là một phần của xã hội chung.

Cuối cùng, phương tiện giao thông đi học nên được công nhận là một quyền thể hiện môi trường cư ngụ hợp lý. Một trong nhiều lý do mà rất nhiều TKT không đi học được là thậm chí ngôi trường có thể tiếp cận được (thường thì không), không có phương tiện giao thông đưa đón học sinh đi học.213 Như vậy, sẽ là một lợi thế nếu như Chỉ thị số 03/2006/CT-BGTVT của Bộ Giao thông vận tải ngày 2-3-2006 về việc xúc tiến thực thi những chính sách hỗ trợ NKT trong ngành giao thông vận tải được điều chỉnh để cung cấp quyền có được phương tiện giao thông vận tải tiếp cận được đối với tất cả TKT được đưa đón đến trường. Chương 3 của Luật Người khuyết tật mới cũng nên gồm có quyền của tất cả trẻ em, thanh thiếu niên và người lớn tiếp cận được đến phương tiện giao thông để được đưa đón đến các trường học và trường dạy nghề. Nêu rõ quyền pháp lý của TKT được đến trường trên cơ sở bình đẳng với những trẻ em khác không bị khuyết tật và để có được môi trường cư ngụ cần thiết cho phép trẻ em học tập và trở nên độc lập tới mức có thể, là một bước quan trọng và cần thiết đối với Việt Nam.

9. Quyền về danh tính , khai sinh và năng lực pháp lý

Điều 18 (2) của CRPD yêu cầu TKT phải được khai sinh ngay khi ra đời. Hiện nay, không có luật nào ở Việt Nam yêu cầu TKT phải được khai sinh lúc ra đời. Đăng ký khai sinh đặc biệt quan trọng ở một quốc gia như Việt Nam với dân số lượng trẻ em rất đông hiện nay đang nằm trong các cơ sở chăm sóc. Trẻ em không được khai sinh thường bị lọt khỏi những chương trình dịch vụ xã hội, bị ủy thác cuộc đời vào các trại hoặc bị bỏ rơi.

Điều 12 của CRPD cho quyền có căn cước pháp lý, và nó đòi hỏi việc thiết lập những nền tảng bảo vệ để đảm bảo rằng quyền của những cá nhân được kiểm soát trong cuộc đời của mình không bị lấy đi. Việc này gồm có quyền được “đưa ra quyết định có hỗ trợ”. Những quyền này hiện nay không được bảo vệ theo pháp luật Việt Nam, và Dự thảo Luật khuyết tật cũng chưa sửa chữa vấn đề này. Thực ra một số điều khoản của Dự thảo Người khuyết tật không nhất quán với những yêu cầu bảo vệ thiết lập trong CRPD. Việc này gồm có quyền được công nhận để mở ra năng lực của TKT đưa ra lựa chọn về cuộc đời của mình.

9.1. Danh tính và khai sinh

Để được đối xử bình đẳng trước pháp luật, trước hết con người ta phải được công nhận trước pháp luật. Để phòng ngừa TKT bị loại bỏ, CRPD yêu cầu rằng TKT phải được đăng ký khai sinh và có tên, quốc tịch và quyền được biết và được chăm sóc bởi cha mẹ mình.214

213 Tạo lập một môi trường bảo vệ trẻ em tại Việt Nam, như đã trích dẫn chú giải 6, tại 85.214 CRPD, 22-10-2007, điều 18 (2).

Page 42: QUYỀN CỦA TRẺ EM KHUYẾT TẬT TẠI VIỆT NAM

42

Tại Việt Nam, một trẻ khuyết tật phải có giấy khai sinh được công nhận về pháp lý, được đến trường, được đăng ký thi v.v..., cũng như là được bảo vệ chống lại lao động trẻ em và lạm dụng buôn bán trẻ em.215 Tuy nhiên, nhiều TKT không được đăng ký khai sinh lúc ra đời.216 Việc này một phần là do tránh trả lệ phí khai sinh, tránh trả lệ phí phạt vì khai sinh muộn hoặc tránh những chuyện rắc rối.217 Tuy nhiên, Việt Nam không có một điều khoản cụ thể về đăng ký khai sinh cho TKT ; trách nhiệm đăng ký khai sinh cho một đứa trẻ cần phải được áp dụng bình đẳng cho tất cả trẻ em, mặc dù quy định hiện nay miễn trừ lệ phí đăng ký khai sinh cho trẻ em của các hộ nghèo. Để cải thiện tình hình đăng ký khai sinh cho TKT, chính sách miễn trừ lệ phí đăng ký khai sinh cũng nên được mở rộng để gồm có cả những gia đình có TKT và cần phải nêu cụ thể rằng TKT phải được đăng ký khai sinh giống như những trẻ em khác không bị khuyết tật.218 Dự thảo NKT cũng nên được điều chỉnh để yêu cầu rằng TKT phải được đăng ký khai sinh nhằm tuân thủ với CRPD.

9.2. Năng lực pháp lý

CRPD cho phép NKT được công nhận bình đẳng trước pháp luật: (1) “các quốc gia thành viên tái khẳng định rằng NKT có quyền được công nhận ở bất cứ đâu là con người trước pháp luật” và (2) “các quốc gia thành viên phải công nhận rằng NKT có năng lực pháp lý trên cơ sở bình đẳng với những người khác trong tất cả những lĩnh vực của cuộc sống.”219 Còn đối với trẻ em, CRPD đề ra nguyên tắc “tôn trọng năng lực tham gia của TKT và tôn trọng quyền của TKT được duy trì căn cước của mình.”220 Và còn nữa là “TKT có quyền tự do diễn đạt quan điểm về tất cả những vấn đề ảnh hưởng tới chúng.”221

Quyền được công nhận bình đẳng trước pháp luật được đề ra trong rất nhiều văn bản luật Việt Nam.222 Theo Điều 5 của Bộ luật dân sự, nghiêm cấm việc phân biệt đối xử với một cá nhân theo chủng tộc, địa vị xã hội, giới tính, điều kiện kinh tế, tôn giáo, trình độ giáo dục và nghề nghiệp của người đó. Điều 5 của Bộ luật dân sự tuy nhiên lại không liệt kê khuyết tật như là một lý do nghiêm cấm phân biệt đối xử. Điều này cần phải được điều chỉnh để bổ sung thêm phần khuyết tật vào danh mục liệt kê trên.223 Liên quan tới năng lực pháp lý, một người bị coi là thiếu năng lực pháp lý nếu như người đó mất khả năng đưa ra quyết định do thiểu năng trí tuệ hoặc không thể hiểu được những hành động riêng của mình. Trong trường hợp như vậy, một tòa có thể, theo đề nghị của người có quyền và lợi ích liên quan, ban hành một quyết định tuyên bố một người là như vậy dựa trên kết luận của tổ chức có năng lực khám và xem xét.224

Luật hiện nay của Việt Nam, không công nhận năng lực pháp lý của NKT, cũng không gồm có bất cứ điều khoản nào tôn trọng năng lực pháp lý của TKT như yêu cầu Trong Điều 3 của CRPD. Như vậy, nguyên tức này cần phải được bổ sung vào Dự thảo Luật Người khuyết tật. Trẻ em ít yếu thế và có thêm nguồn lực khi chúng lớn lên trong một môi trường tôn trọng quyền và ý kiến của chúng.225 Bổ sung thêm

215 Phân tích tình hình những chương trình và cơ sở chăm sóc thay thế tại Việt Nam, như đã trích dẫn chú giải 17, tại 35.216 Như trên217 Như trên218 Tiến sĩ T. Duy Kiên, như đã trích dẫn chú giải 35, tại 30.219 CRPD, 22-10-2007, tại Điều 12. Ghi chú: đây là một điều khoản cực kỳ sáng tạo của điều 12. Để làm sáng tỏ thêm ý

nghĩa của điều khoản này, hãy xem thêm bài viết của Michael Bach (hiện nay chưa xuất bản, nhưng đã có tại MDRI nếu yêu cầu).

220 Như trên tại Điều 3(h).221 Như trên điều 7(3).222 Những tài liệu này gồm Hiến pháp, Luật tố tụng dân sự, Luật xử phạt, Luật Hôn nhân Gia đình cũng như Pháp lệnh

về người khuyết tật. Xem Báo cáo phân tích so sánh, 2009, tại 44.223 Tiến sĩ T. Duy Kiên, như đã trích dẫn chú giải 37, tại 44.224 Như trên225 Tạo lập một môi trường bảo vệ trẻ em tại Việt Nam, như đã trích dẫn chú giải 6, tại 17.

Page 43: QUYỀN CỦA TRẺ EM KHUYẾT TẬT TẠI VIỆT NAM

43

vào việc công nhận quyền được tôn trọng đối với năng lực tham gia pháp lý của trẻ em, gia đình, trường học và cộng đồng nên tạo ra một môi trường nơi mà trẻ em có thể diễn đạt ý mình, học được những kỹ năng giải quyết vấn đề và ý kiến của trẻ em được tôn trọng.226 Các tổ chức thanh thiếu niên, những hoạt động văn hóa, trung tâm cộng đồng và những hoạt động vui chơi giải trí tất cả đều giúp sức cho lĩnh vực này.227

10. Giám sát & tăng cường

Trong khi Việt Nam đã có luật và những quy định để bảo vệ quyền của NKT, giám sát và tăng cường thực hiện những luật và quy định này là việc cốt yếu để đảm bảo quyền của NKT thì hiện nay vẫn còn đang thiếu. Thiếu giám sát và tăng cường thực hiện những luật hiện có về quyền của NKT theo báo cáo là vấn đề đang lan tràn tại Việt Nam, đây là một trong những lỗ hổng quan trọng nhất trong luật Việt Nam. TKT dễ bị tổn thương do sao nhãng và lạm dụng trong cộng đồng, và đặc biệt trong những cơ sở chăm sóc. Vì những lý do này, Điều 16 CRPD yêu cầu tạo lập những hệ thống bảo trợ trẻ em mà hệ thống này sẽ phát hiện những trường hợp lạm dụng có thể xảy ra trong cộng đồng, những chương trình dựa vào cộng đồng hoặc trong các trại.

UNICEF và Bộ LĐTB&XH đã phát hiện thiếu sót của hệ thống bảo trợ trẻ em tại Việt Nam là vấn đề nghiêm trọng đối với tất cả trẻ em. Hiện nay, những trường hợp lạm dụng đáng nhẽ phải báo cáo thông qua Luật khiếu tố và khiếu nại hoặc Luật tố tụng xử phạt. Những hệ thống này không được thiết kế để xử lý bản chất nhạy cảm của lạm dụng trẻ em hoặc liên quan tới TKT. UNICEF và Bộ LĐTB&XH mô tả, một hệ thống mới bảo vệ trẻ em cần phải được thiết lập gồm có những hệ thống phát hiện những trường hợp tắc trách và lạm dụng, để báo cáo, điều tra, đánh giá, phục hồi và có những biện pháp khôi phục.

Bảo vệ TKT cũng cần phải được kết nhập vào hệ thống chung bảo vệ trẻ em cho tất cả trẻ em. Việc này cần gồm có tạo ra những hệ thống đặc biệt và công tác đào tạo nhân viên cũng cần phải thiết lập để đảm bảo rằng hệ thống này được áp dụng nhằm đảm bảo TKT được bảo vệ. Hệ thống chung bảo vệ trẻ em cũng cần được bổ sung thêm bằng thiết lập một hệ thống có cơ chế giám sát. Hệ thống này cần đảm bảo rằng tất cả những chương trình phục vụ TKT được kiểm soát đều đặn. Cơ chế giám sát không những chỉ bổ sung thêm cho hệ thống để báo cáo những trường hợp lạm dụng mà còn phải được thiết kế sao cho có thể phát hiện được những tình huống dẫn đến tắc trách và lạm dụng. Báo cáo thường kỳ cần phải được thông báo cho công chúng và luôn sẵn sàng trình các cấp chính quyền địa phương, khu vực và quốc gia sao cho việc cải cách này có thể được áp dụng để đáp ứng những vấn đề tiềm ẩn được phát hiện.

CRPD cũng yêu cầu cần phải có một cơ quan chủ trì cấp quốc gia để giám sát việc thực thi toàn bộ CRPD. Việt Nam cần phải cử một văn phòng trong một bộ của chính phủ chịu trách nhiệm chính việc giám sát và thực thi CRPD. Văn phòng này cần phát triển và lãnh trách nhiệm cho những quy trình thu thập số liệu thường kỳ để tuân thủ với Điều 31 của CRPD.

10.1. Hệ thống bảo vệ trẻ em

CRPD yêu cầu phải có một kế hoạch bảo vệ trẻ em nhằm bảo vệ TKT chống lại lạm dụng và bóc lột. Các quốc gia thành viên có nhiệm vụ ngăn ngừa lạm dụng và bóc lột TKT.228 Để phòng ngừa lạm dụng, các quốc gia thành viên phải tiến hành tất cả những biện pháp thích hợp để bảo vệ trẻ em, kể cả “bằng một

226 Như trên227 Như trên228 CRPD, 22-10-2007, điều 16(2).

Page 44: QUYỀN CỦA TRẺ EM KHUYẾT TẬT TẠI VIỆT NAM

44

điều khoản dịch vụ bảo vệ.”229 Những dịch vụ bảo vệ này phải “đảm bảo rằng những vụ bóc lột, bạo lực và lạm dụng chống lại NKT phải được phát hiện, điều tra và ở đâu thích hợp cần phải được thẩm tra.”230

Trong khi Việt Nam có rất nhiều luật liên quan tới bảo vệ trẻ em nói chung (xem Chương 5, Quyền được sống trong cộng đồng), Việt Nam thiếu một hệ thống bảo vệ trẻ em toàn diện. Theo Luật bảo vệ chăm sóc và giáo dục trẻ em và Nghị định số 36/2005/NĐ-CP hướng dẫn thực thi luật đó, Bộ LĐTB&XH chịu trách nhiệm chính triển khai và thực hiện một chương trình bảo vệ trẻ em.231 Tuy nhiên, hiện nay chưa có hệ thống toàn diện và thống nhất được thiết kế để phòng ngừa và đáp ứng những báo cáo lạm dụng trẻ em, và cũng chưa có những cán bộ bảo trợ xã hội để đáp ứng những trường hợp trẻ em cần bảo trợ.232 Những dịch vụ xã hội hiện có chủ yếu dựa vào những cố gắng từ thiện, ngược với phương pháp tiếp cận dựa vào được hưởng quyền.233 Để ban hành một hệ thống bảo trợ trẻ em toàn diện, những hệ thống sau đây cần phải được thiết lập và thực hiện: (1) Hệ thống phát hiện và báo cáo, (2) Điều tra và đánh giá, (3) Phục hồi và tái hòa nhập, (4) Hệ thống chăm sóc thay thế.234

Về mặt phát hiện và báo cáo, Việt Nam không có những quy trình khiếu nại khác với Luật về tố cáo và khiếu nại hoặc luật tố tụng xử phạt, mà chẳng luật nào trong số đó có lợi cho trẻ em để cho phép chúng tự khiếu nại tố cáo cũng như là không có yếu tố điều tra và đánh giá để đáp ứng lại những báo cáo lạm dụng trẻ em.235 Chỉ có Luật về xử lý vi phạm hành chính và Luật tố tụng hình sự là chịu trách nhiệm chung cho công tác xử lý khiếu nại.236 Tuy nhiên, những hệ thống này lại không được thiết kế để xử lý những trường hợp lạm dụng trẻ em, thường có bản chất nhạy cảm và tế nhị. Để có được một hệ thống bảo vệ trẻ em hoạt động có hiệu quả, hệ thống báo vệ trẻ em tự nó phải gồm những điều khoản liên quan tới quy trình đưa một trẻ khuyết tật khuyết tật rời xa cha mẹ, và những quy trình chăm sóc như gia đình. (Xem thêm phần 5 của báo cáo này, Quyền sống trong cộng đồng). Hơn thế nữa những quy định cụ thể cần phải được tăng cường thực hiện để đảm bảo theo đúng những quy trình này.

Cuối cùng, không có đủ cán bộ công tác xã hội có trình độ để ngăn ngừa và đáp ứng lại những báo cáo lạm dụng.237 Điều này một phần là do công tác bảo trợ xã hội chưa được công nhận là một chuyên nghề pháp lý.238 Công tác xã hội cũng thường được quan niệm có tính chất từ thiện, đối lập với một công việc dựa trên cơ sở thực hiện quyền.239 Như vậy, nghề công tác bảo trợ xã hội mới cũng cần được ủng hộ, gồm cả việc đào tạo và công nhận những người làm công tác bảo trợ xã hội như một chuyên nghề.

10.2. Giám sát thực thi CRPD

CRPD đòi hỏi các quốc gia thành viên phân công một hoặc nhiều bộ chủ trì làm đầu mối trong chính phủ của mình để chịu trách nhiệm thực thi CRPD. Các quốc gia thành viên cũng phải thiết lập cơ quan bảo vệ độc lập và cơ chế theo dõi để xem luật và những quy định có tuân theo CRPD hay không và có được thực hiện theo dõi đầy đủ hay không.240

229 Như trên tại Điều 16(4).230 Như trên tại Điều 16(5).231 Tạo lập một môi trường bảo vệ trẻ em tại Việt Nam, như đã trích dẫn chú giải 6, at 13.232 Như trên233 Như trên234 Như trên235 Như trên tại 29.236 Như trên tại 30.237 Như trên tại 13.238 Như trên239 Như trên240 CRPD, 22-10-2007, điều 33(1).

Page 45: QUYỀN CỦA TRẺ EM KHUYẾT TẬT TẠI VIỆT NAM

45

Chương VIII của Dự thảo Luật Người khuyết tật vạch ra những trách nhiệm của các cơ quan quản lý nhà nước về công tác NKT. Điều 31 đặt cho Bộ LĐTB&XH “trách nhiệm báo cáo với chính phủ về việc thi hành chức năng quản lý nhà nước đối với công tác NKT”. Điều 40 khẳng định nhiệm vụ của các bộ sau đây thực hiện và tăng cường CRPD.241 Trong khi Bộ LĐTB&XH chịu trách nhiệm “thi hành chức năng quản lý nhà nước về công tác NKT” vẫn không rõ cơ quan nào chịu trách nhiệm theo dõi và giám sát việc ban hành CRPD.242 Như vậy cơ chế điều phối hiện nay cho công tác theo dõi và giám sát tỏ ra không hiệu quả.243

Lỗ hổng này giữa việc thiết lập luật pháp và việc thực thi theo dõi luật đã được ghi chú trong báo cáo của UBVH,TTN&NĐQH, báo cáo khẳng định “nhiều vấn đề trực tiếp liên quan đến trách nhiệm của các bộ khác nhau và công tác điều phối giữa những cơ quan khác nhau vẫn chưa được mô tả tỉ mỉ trong văn bản luật.”244 Mặc dù Bộ LĐTB&XH đã thiết lập Ủy ban NCCD, công tác điều phối của NCCD chỉ hạn chế ở cấp bộ, thiếu thẩm quyền điều phối ở cấp cả nước và cấp vùng. Hơn thế nữa NCCD chưa đáp ứng được những tiêu chuẩn quốc tế để trở thành một Ủy ban điều phối độc lập hoặc một cơ quan nhân quyền độc lập.245

Như vậy Dự thảo Luật Người khuyết tật cần được điều chỉnh để giao nhiệm vụ rõ ràng cho một bộ chịu trách nhiệm theo dõi việc thực thi Luật Người khuyết tật sau này. Bất kể là liệu Bộ LĐTB&XH có được giao quyền hạn này hay một Ủy ban điều phối quốc gia có được thành lập hay không, Luật người khuyết tật phải được theo dõi và phải được thực thi, nếu không thì luật sẽ là vô dụng.

10.3. Thu thập dữ liệu

Các quốc gia thành viên được yêu cầu thu thập dữ liệu thống kê và nghiên cứu để giúp việc hình thành và thực thi những chính sách cần có theo yêu cầu của CRPD.246 Dữ liệu phải được thu thập theo cách thức bảo đảm tính riêng tư và bí mật, đồng thời phải tuân thủ với những tiêu chí định mức được quốc tế chấp nhận để bảo vệ nhân quyền và những quyền tự do cơ bản.247 Thêm vào đó, dữ liệu cần phải được phổ biến và sử dụng để giúp cho việc đánh giá sự thành công của các quốc gia thành viên trong thực thi CRPD.248

Từ Dự thảo Luật Người khuyết tật, chưa thấy rõ ràng ngay Bộ nào chịu trách nhiệm thu thập dữ liệu. Tuy nhiên, điều rõ ràng là cần phải có một hệ thống để thu nhập dữ liệu theo cách thức tuân thủ với tiêu chuẩn quốc tế. Cần phải chỉ định một bộ phụ trách thu thập dữ liệu, và việc chỉ định này cũng nên được thừa nhận trong Luật Người khuyết tật mới.

11. Tham gia công dân

Để làm cho những cố gắng lớn lao của Việt Nam trong công cuộc cải cách pháp luật xứng đáng hơn điều thiết yếu là cần phải cố gắng trao quyền cho NKT trong tất cả tầng lớp nhân dân. Tại nhiều nơi trên thế giới cải cách diễn ra tại nơi nào xã hội dân sự độc lập có cả sự lãnh đạo của NKT tìm kiếm được cải cách

241 Những bộ này gồm: Bộ LĐTBXH, Bộ Y tế, Bộ Giáo dục Đào tạo, Bộ văn hóa Thể thao và Du lịch, Bộ Xây dựng, Bộ Thông tin và Truyền thông, Bộ Khoa học và Công nghệ, Bộ Tài chính; Bộ Kế hoạch và Đầu tư và UBND.

242 Tiến sĩ T. Duy Kiên, như đã trích dẫn chú giải 35, at 53.243 Như trên244 Như trên245 Như trên246 CRPD, 22-10-2007, điều 31.247 Như trên tại Điều 31(1)(a)(b).248 Như trên tại điều 31(2).

Page 46: QUYỀN CỦA TRẺ EM KHUYẾT TẬT TẠI VIỆT NAM

46

của chính phủ. NKT nên được bổ nhiệm vào Ủy ban nhân dân và những vị trí lãnh đạo khác trong chính quyền địa phương và quốc gia đề ra chính sách và thực thi những chương trình tác động tới cá nhân những NKT.

Điều 4(3) của CRPD thiết lập nền tảng rằng NKT thông qua những tổ chức đại diện cho mình nên được lôi cuốn vào quy hoạch chương trình và thực thi ở tất cả các cấp xã hội và chính phủ. Điều 31 đòi hỏi các quốc gia thành viên lôi cuốn xã hội dân sự vào việc thực thi CRPD và cho phép xã hội tham gia đầy đủ vào tiến trình theo dõi. Điều đặc biệt quan trọng là NKT và những tổ chức đại diện cho họ cũng nằm trong số đó.249

Tham gia và biện lý công dân của NKT và gia đình họ là điều cốt yếu đối với cải cách pháp luật và thực thi chương trình.250 NKT và gia đình họ là những người hiểu biết nhất về nhu cầu của mình mà cải cách cần phải công nhận và nâng cao quyền và nhu cầu của họ. Nói chung, quyền của NKT vẫn chưa nhận được sự công nhận từ những tổ chức nhân quyền khác.251 Đào tạo biện lý cho các nhóm khuyết tật là một cách thức hiệu quả giúp nhóm khuyết tật tham gia vào tiến trình ra chính sách và thực thi những chương trình mới nếu những nhóm khuyết tật chưa có kinh nghiệm trong những vấn đề như vậy.252

Hiện nay những điều khoản pháp lý quy định quyền hạn của những tổ chức NKT liên quan vào tiến trình làm luật và giám sát còn thiếu trong Luật Việt Nam. Đa số các tổ chức làm công tác hoặc là xã hội hoặc là công tác từ thiện và có năng lực biện lý chính sách hạn chế để tác động tới quyết định, tới chính sách ở cấp địa phương và cấp quốc gia. Như Tiến sĩ T.Duy Kiên khẳng định trong báo cáo so sánh của mình “hoạt động của hiệp hội chủ yếu có tính chất hỗ trợ và từ thiện, có tác động rất ít đến công tác điều phối cũng như tham gia vào giám sát và chất vấn xã hội về chính sách, pháp chế và việc thực thi những chính sách pháp chế liên quan tới NKT.”253 Vai trò của các tổ chức cần phải được tăng cường gồm có quyền được kiến nghị và tác động tới chính sách. Những tổ chức này cần phải có năng lực chất vấn độc lập và giám sát luật của Việt Nam về NKT.254 Cũng cần phải khuyến khích công tác đào tạo kỹ năng biện lý chính sách.

12. Kiến nghị cho chính phủ Việt Nam

12.1. Quyền được bảo vệ không bị phân biệt đối xử vì khuyết tật

12.1.1. Tuyên bố về phân biệt đối xử − Dự thảo Luật Người khuyết tật nên gồm có một mệnh đề rõ ràng đặc biệt nghiêm cấm phân biệt đối xử trên vì lý do khuyết tật trong bối cảnh giáo dục, nhà ở, chăm sóc y tế, tiếp cận các dịch vụ, giao thông vận tải và tất cả những lĩnh vực khác của cuộc sống.

12.1.2. Tuyên bố về môi trường cư ngụ hợp lý − Định nghĩa phân biệt đối xử trong Dự thảo Luật Người khuyết tật của Việt Nam nên gồm có phần điều kiện nếu không cung cấp được môi trường cư ngụ hợp lý.

249 Như trên tại điều 33(3).250 Eric Rosenthal và tất cả, như đã trích dẫn chú giải 99, tại-103.251 Như trên252 Như trên253 Tiến sĩ T. Duy Kiên, như đã trích dẫn chú giải 35, at 54.254 Như trên

Page 47: QUYỀN CỦA TRẺ EM KHUYẾT TẬT TẠI VIỆT NAM

47

12.2. Quyền tiếp cận

12.2.1. Nêu rõ về khái niệm tiếp cận − Việc sử dụng ngôn ngữ ký hiệu, chữ nổi Braille, băng cat- set, cỡ chữ lớn và những biện pháp khác của công nghệ hỗ trợ cần phải được công nhận là một phần của quyền được tiếp cận đối với NKT.

12.2.2. Tăng cường thực hiện những quy định hiện hành − Những quy định hiện hành của Việt Nam cho phép môi trường lý tính, phương tiện giao thông, thông tin và truyền thông, và những cơ sở cùng dịch vụ khác tiếp cận được đối với NKT phải được thực hiện và tăng cường, đặc biệt việc sử dụng ngôn ngữ ký hiệu, chữ nổi Braille, băng cat-set, cỡ chữ lớn và những biện pháp khác của công nghệ hỗ trợ.

12.3. Quyền được sống trong cộng đồng

12.3.1. Tuyên bố về quyền của TKT được sống với gia đình riêng của mình − Một điều khoản đặc biệt nên được bổ sung vào Dự thảo Luật Người khuyết tật bảo đảm quyền của tất TKT được sống trong gia đình riêng của mình hoặc gia đình thay thế.

12.3.2. Tuyên bố về quyền của TKT được sống với một gia đình thay thế − Một điều khoản đặc biệt nên được bổ sung vào Dự thảo Luật Người khuyết tật để đảm bảo quyền của trẻ em được sống với một gia đình lựa chọn thay thế nếu như gia đình riêng không thể chăm sóc trẻ em đó.

12.3.3. Thiết lập một hệ thống toàn diện chăm sóc như gia đình có điều tiết công khai − Phải thiết lập một hệ thống toàn diện chăm sóc như gia đình có điều tiết công khai cho tất cả TKT bất kể mức độ khuyết tật nặng tới đâu.

12.3.4. Tạo lập tiêu chuẩn chăm sóc trong các cơ sở chăm sóc tập trung− Trong tình huống TKT được chăm sóc tại một cơ sở nội trú, cần phải tạo lập những tiêu chuẩn để điều tiết điều kiện của những cơ sở đó, thời hạn cho phép giữ trẻ em đến tuổi 18, cũng như những yêu cầu tổng kết định kỳ để xác định xem có nên tiếp tục đưa các em ra khỏi gia đình như là một biện pháp hoàn toàn cần thiết hay không và xem có những phương án thay thế nào khác sẵn có trong cộng đồng hay không.

12.3.5. Cấm đưa thêm TKT mới vào các cơ sở chăm sóc tập trung − Kinh nghiệm quốc tế cho thấy rằng cách dễ nhất và hiệu quả nhất để bắt đầu trên con đường này là chấm dứt bất cứ việc nhận thêm các em mới vào cơ sở chăm sóc tập trung. Để có thể làm được việc này phải thiết lập một loạt hệ thống hỗ trợ vào dịch vụ dựa vào cộng đồng cho số lượng nhỏ TKT cần đươc đến nơi mới. Luật cũng nên thiết lập một ủy quyền đặc biệt để ưu tiên việc tạo ra những dịch vụ cần thiết nhằm chấm dứt việc đưa các em mới vào cơ sở chăm sóc tập trung. Một thời điểm mục tiêu để chấm dứt việc nhận thêm các em mới cũng nên được đưa ra , có lẽ vào năm 2011.

12.3.6. Thiết lập hệ thống bảo vệ trẻ em để phòng ngừa lạm dụng trong gia đình và trong các cơ sở chăm sóc − Hiện nay chưa có một hệ thống tổng hợp và toàn diện để thực thi mà điều đó sẽ cản trở việc đáp ứng lại những báo cáo về lạm dụng trẻ em tại gia đình hoặc trong một trại. Cũng chưa có những cán bộ bảo trợ xã hội được chính thức giao nhiệm vụ đáp ứng những trường hợp bảo vệ trẻ em. Dịch vụ xã hội hiện có chủ yếu dựa vào những cố gắng từ thiện, đối lập với phương pháp tiếp cận dựa vào quyền. Như vậy, một hệ thống bảo vệ trẻ em toàn diện cần phải có mà hệ thống này sẽ gồm những hệ thống sau đây: (1) Hệ thống phát hiện và báo cáo, (2) Hệ thống điều tra và đánh giá, (3) Hệ thống phục hồi và tái hòa nhập, và (4) Hệ thống chăm sóc thay thế.

Page 48: QUYỀN CỦA TRẺ EM KHUYẾT TẬT TẠI VIỆT NAM

48

12.4. Quyền được chăm sóc sức khỏe

12.4.1. Cải thiện tình hình tiếp cận chăm sóc sức khỏe can thiệp sớm − Vì có nhiều TKT không tiếp cận được chăm sóc sức khỏe, Việt Nam cần cải thiện tình hình tiếp cận chăm sóc sức khỏe của TKT và gia đình các em.

12.4.2. Cải thiện tình hình tại những cơ sở và phương tiện thiết bị phục hồi chức năng − Thiếu những cơ sở phương tiện và thiết bị phục hồi chức năng đưa đến kết quả là rất ít TKT được chăm sóc sức khỏe chuyên biệt. Do vậy Việt Nam cần cải thiện tình hình tại những cơ sở chăm sóc và phương tiện thiết bị phục hồi chức năng.

12.4.3. Tuyên bố về quyền có ý kiến đồng ý − Một chương cần được bổ sung vào Dự thảo Luật NKT để bảo vệ quyền của NKT có ý kiến đồng ý, tự quyết và tự lựa chọn và không bị ép buộc điều trị.

12.5. Quyền được giáo dục

12.5.1. Yêu cầu pháp lý − Bước đầu tiên để đảm bảo quyền được giáo dục cho tất cả TKT tại Việt Nam là đưa vào trong Luật Khuyết tật mới một yêu cầu có một hệ thống giáo dục hòa nhập (thay cho hệ thống hai kiểu, kiểu chung và kiểu chuyên biệt) cũng như là yêu cầu dạy nghề cho trẻ em và thanh thiếu niên khuyết tật. Để đạt được mục đích này, nên đưa đại ý sau vào Điều 21: Giáo dục hòa nhập phải là phương thức giáo dục chính có mục đích với NKT và mục đích của cải cách giáo dục là đưa nền giáo dục chung cho tất cả trẻ khuyết tật. Trong tiến trình cải cách, giáo dục chuyên biệt sẽ được chuyển thể, khi những nguồn lực có sẵn, thành những trung tâm nguồn để hỗ trợ cho các trường chung và số lượng nhập học tăng của TKT vào các trường chung. Luật giáo dục 2005 và Luật dạy nghề cũng cần được thay đổi để phù hợp với Luật Người khuyết tật sửa đổi. Để mang lại hiệu quả, tính pháp của việc hòa nhập này cần phải thực hiện nghiêm túc, kể cả việc cấm xây dựng thêm hoặc mở thêm những chương trình chuyên biệt hoặc tách biệt mới, trường và trại mới cho TKT cũng như là cần phải đóng cửa hoặc sử dụng các trường chuyên biệt đó vào mục đích khác, những chương trình, cơ sở và việc chuyển ngân sách cho các trường tách lập sang hỗ trợ phát triển các trường hòa nhập, nơi cư ngụ cần thiết, đào tạo giáo viên, và phát triển các chương trình dạy nghề và hướng nghiệp cho thanh thiếu niên và người lớn khuyết tật. Quyết định của Bộ GD&ĐTsố 23/2006/QĐ-BGDĐT ngày 22/5/2006 về giáo dục hòa nhập cần phải được thực thi đầy đủ.

12.5.2. Khảo sát việc tiếp cận − Bổ sung vào việc cấm lập thêm các trường và chương trình tách biệt mới, cần tiến hành những cuộc khảo sát tiếp cận liên quan tới việc xây dựng chương trình giáo dục và dạy nghề hiện nay, kế hoạch và ngân sách cần được soạn ra để cải tạo chỉnh trang những công trình và để cung cấp nơi cư ngụ cần thiết và cải tạo để sử dụng như những trường hòa nhập. Để tránh hình thức rập khuôn trong cách thức cải thiện sự tiếp cận, Điều 20 của Dự thảo Luật Người khuyết tật cần được thay đổi như sau: Hệ thống giáo dục phải hết sức linh hoạt cho tất cả trẻ em trong độ tuổi đến trường. TKT cũng cần được tính toán đến theo mức linh hoạt như vậy như những học sinh khác. Môi trường cư ngụ hợp lý phải có sẵn cho TKT xét về độ tuổi đến trường, lệ phí, điều kiện của nhà trường, và những hình thức giao tiếp.

12.5.3. Đào tạo giáo viên − Bước tiếp sau trong việc chuyển đổi hệ thống giáo dục hiện nay sang hệ thống giáo dục hòa nhập là phát triển những chương trình đào tạo giáo viên mới (và đào tạo lại). Vì giáo viên là nhân tố chính trong việc tiên lượng thành công của học sinh, giáo viên phải được học cách dạy học sinh, học sinh khuyết tật và không khuyết tật, để có được hỗ trợ đầy đủ giúp học sinh học những kỹ năng mới. Những chương trình như vậy có thể được chính phủ hỗ trợ hoặc được các chuyên gia tư vấn hỗ trợ do các nhà tài trợ quốc tế cấp kinh phí.

Page 49: QUYỀN CỦA TRẺ EM KHUYẾT TẬT TẠI VIỆT NAM

49

12.5.4. Thay đổi thái độ − Một điều kiện tất yếu có liên quan đến việc tạo lập một hệ thống giáo dục hòa nhập là cần phải thay đổi có hệ thống những rào cản thái độ do giáo viên, phụ huynh và xã hội tạo ra. Đây không phải là một nhiệm vụ dễ dàng và sẽ phải cần cộng tác của nhiều bộ, tổ chức phi chính phủ, các nhà tài trợ quốc tế và UNICEF. Giáo viên, những người được đào tạo và trưởng thành trong một xã hội đã kỳ thị, đã gạt ra ngoài lề và đã phân lập TKT cần thiết phải học lại không chỉ cách giảng dạy học sinh khuyết tật mà còn học cách giải quyết những vấn đề rập khuôn riêng của mình suy nghĩ về TKT mà họ đang giảng dạy. Giáo viên và tất cả cán bộ trong trường cũng như phụ huynh và các nhà quản lý hành chính cần phải học cách tôn trọng sự khác biệt, kể cả những hình thức khác biệt mà TKT có thể phải học và thể hiện trong lớp học. Tới mức độ đó hàng rào thái độ trong hệ thống nhà trường song song với thái độ chung của xã hội Việt Nam đối với trẻ em và NKT, nó sẽ kết nối liên tục và có mối quan hệ khăng khít với những trẻ em có những dạng khiếm khuyết khác nhau để tháo dỡ những hàng rào này ngay trong giáo viên, phụ huynh và những người khác trong hệ thống giáo dục Việt Nam.

12.5.5. Thu thập dữ liệu − Một bước quan trọng khác trong chuyển đổi hệ thống hiện nay sang hệ thống giáo dục hòa nhập liên quan đến thu thập dữ liệu. Chính phủ Việt Nam nên bổ nhiệm một văn phòng tại mỗi bộ để thu thập dữ liệu liên quan tới NKT nói chung, và liên quan đến những vấn đề giáo dục nói riêng. Những dữ liệu như vậy nên gồm có số lượng và vị trí của TKT (phân hạng theo lứa tuổi, giới tính, loại khuyết tật) những cháu chưa đi học tí nào, số lượng các cháu đang theo học tại các trường chung, số lượng các cháu đang theo học tại các trường chuyên biệt, hoặc đang học trong các trại. Những số liệu cũng cần được thu thập liên quan tới số lượng học sinh đã hoàn thành bậc tiểu học, và bậc trung học; các loại cơ sở chăm sóc và chương trình giáo dục hiện có và nguồn kinh phí; tỷ lệ giáo viên với học sinh cho các chương trình giáo dục, kể cả tỷ lệ này trong các trại chăm sóc và các trại trẻ mồ côi. Thu thập những số liệu này sẽ giúp Việt Nam theo dõi số lượng học sinh khuyết tật, những cháu có quyền được đi học cũng như là số lượng học sinh không đi học và nơi sinh sống của các em. Một khi chính phủ biết có bao nhiêu học sinh cần đưa vào các trường chung, nơi mà học sinh rồi sẽ phải đến, Bộ GD&ĐT lúc đó có thể triển khai một tiến trình phân bổ nguồn lực cần thiết và một thời điểm thích hợp để chuyển tất cả các cháu vào các trường hòa nhập chung. Số liệu bổ sung, gồm có tỷ lệ tốt nghiệp và tỷ lệ có việc làm trên tỷ lệ tốt nghiệp, cũng rất quan trọng để theo dõi và tăng cường thực thi Luật giáo dục hòa nhập mới chưa kể đến những việc cần phải làm như một phần của trách nhiệm theo dõi và tăng cường thực thi mà Việt Nam sẽ gánh vác một khi phê chuẩn CRPD.

12.5.6. Tăng cường việc thi hành Chỉ thị của Thủ tướng số 01/2006/CT-TTg − Việt Nam nên tăng cường thi hành chỉ thị số 01/2006/CT-TTg, ngày 9/1/2006 về đề cao những chính sách hỗ trợ NKT trong tình hình kinh tế xã hội hiện nay, giao nhiệm vụ cho Bộ GD&ĐT “soạn thảo và đệ trình lên Thủ tướng chiến lược và kế hoạch hành động giáo dục TKT cho giai đoạn 2006 – 2010 và những năm sau theo hướng dựa vào cộng đồng trên cơ sở giáo dục hòa nhập”. Sau 3 năm, vì nhiều lý do khác nhau, chiến lược như vậy chưa được ban hành.

12.5.7. Chính sách đối với các nhà tài trợ quốc tế − Cần phải thu thập thông tin liên quan tới nguồn kinh phí cho các trường và chương trình chuyên biệt cũng như là các trường và chương trình hòa nhập. Tới mức độ là các nhà tài trợ quốc tế hỗ trợ kinh phí cho một số trường và chương trình tách biệt, cũng nên khuyến khích họ thay vào đó cấp kinh phí cho các chương trình hòa nhập dựa trên quan điểm rằng tất cả NKT đều có quyền được giáo dục. Những chương trình giáo dục như vậy nên tạo điều kiện cho TKT hiện thực hóa được đầy đủ tiềm năng của mình và sẽ cung cấp những kỹ năng cần thiết để tham gia đầy đủ vào tất cả những lĩnh vực của cộng đồng và cuộc sống xã hội. Với quan điểm hiện thực hóa quyền này không phân biệt đối xử và có cơ hội bình đẳng, hệ thống giáo dục sẽ được cải cách với những cố gắng thực hiện hòa nhập đầy đủ tất cả TKT vào hệ thống giáo dục chung. Nhà nước sẽ cấp ngân sách cần thiết để chuyển đổi hệ thống giáo dục thông qua tiến trình cải cách để làm cho hệ thống giáo dục chính có thể tiếp cận đầy đủ và thích hợp cho tất cả những NKT.

Page 50: QUYỀN CỦA TRẺ EM KHUYẾT TẬT TẠI VIỆT NAM

50

12.6. Quyền về danh tính

12.6.1. Đăng ký khai sinh khi ra đời − Việt Nam hiện còn thiếu bảo trợ đầy đủ để bảo đảm tất cả TKT được khai sinh khi chào đời. Như vậy, cần bổ sung vào Dự thảo Luật Người khuyết tật một phần bảo đảm rằng TKT được đăng ký khai sinh lúc chào đời và năng lực pháp lý tham gia của TKT được công nhận.

12.6.2. Tôn trọng năng lực tham gia của TKT − TKT có quyền tự do diễn đạt quan điểm về tất cả những vấn đề tác động đến mình và những quan điểm đó “có sức nặng theo lứa tuổi và độ trưởng thành trên cơ sở bình đẳng với những trẻ em khác”. Quyền được tôn trọng đối với năng lực tham gia của TKT cần phải được công nhận theo luật pháp Việt Nam sao cho TKT có được hỗ trợ khi cần để được lựa chọn và chuẩn bị hưởng những quyền này khi thành người lớn.

12.7. Tăng cường thực hiện và cơ chế giám sát

12.7.1. Thiết lập một hệ thống bảo vệ trẻ em − phải thiết lập một hệ thống bảo vệ trẻ em toàn diện gồm hệ thống phát hiện, báo cáo, điều tra, đánh giá, phục hồi và những biện pháp tái hòa nhập.

12.7.2. Đào tạo cán bộ công tác xã hội chuyên nghiệp − Một trong những vấn đề liên quan đến tăng cường thực thi và theo dõi là thiếu cán bộ làm công tác xã hội chuyên nghiệp được đào tạo để thực hiện những trách nhiệm trong hệ thống bảo trợ trẻ em.

12.7.3. Giám sát và thực thi− Một bộ của chính phủ hoặc một cục mới thành lập phải đảm đương trách nhiệm giám sát và thực thi CRPD.

12.7.4. Tham gia công dân − Các tổ chức công dân phải được tạo lập để tham gia vào thực thi và lập kế hoạch chương trình. Những tổ chức này phải có khả năng chất vấn độc lập và giám sát luật Việt Nam đối với NKT.

13. Kiến nghị cho các nhà tài trợ

CRPD có những ảnh hưởng chính cho công việc của UNICEF và tất cả các nhà tài trợ quốc tế đang hoạt động tại Việt Nam. Điều 32 của CRPD cam kết các nhà tài trợ quốc tế hỗ trợ “những cố gắng quốc gia để thực hiện mục đích và những mục tiêu của Công ước hiện nay”. Công ước không chỉ kêu gọi các nhà tài trợ quốc tế thiết lập những chương trình đặc biệt để thúc đẩy việc thực thi Công ước, mà Điều 31(1)(a) cam kết các nhà tài trợ bảo đảm rằng tất cả những chương trình phục vụ nhân dân rộng khắp phải “hòa nhập và có thể tiếp cận cho NKT”.

Ví dụ, điều này có nghĩa là tất cả những tòa nhà dùng kinh phí của các nhà tài trợ quốc tế cần phải tiếp cận được về lý tính cho NKT. Thông tin cho công chúng cũng cần phải có những dạng thức có thể tiếp cận được cho NKT. Những dự án dịch vụ y tế và dịch vụ công cộng cần phải có theo cách thức mà TKT và gia đình họ có thể tiếp cận được. Các chương trình giáo dục cần phải được làm thích ứng sao cho thích hợp và hòa nhập với TKT về thể chất, giác quan và nhận thức. Những chương trình tách biệt TKT khỏi cộng đồng là vi phạm những nguyên tắc cốt lõi của CRPD. Theo đó, kinh phí và hỗ trợ quốc tế không nên để tạo lập thêm những trường chuyên biệt và tách biệt hoặc những cơ sở chăm sóc nội trú mới, hoặc những chương trình không phục vụ trẻ em tại gia đình và trong cộng đồng. Nhất quán với Điều 19 của CRPD, hỗ trợ quốc tế nên khuyến khích đề cao hòa nhập cộng đồng toàn bộ TKT.

Hỗ trợ quốc tế có thể rất quan trọng để giúp Việt Nam thực thi được CRPD và áp dụng cải cách những chính sách nêu ra trong báo cáo này. Điều 32(b) nêu lên sự cần thiết “xây dựng năng lực, kể cả thông qua

Page 51: QUYỀN CỦA TRẺ EM KHUYẾT TẬT TẠI VIỆT NAM

51

trao đổi và chia sẻ thông tin, kinh nghiệm chương trình đào tạo và những cách làm hay.” Hỗ trợ quốc tế có thể đặc biệt quan trọng hỗ trợ Việt Nam chuyển đổi từ giáo dục tách biệt sang giáo dục hòa nhập và dịch vụ dựa vào cộng đồng. Trong khi định hướng chung cho trẻ em vào với cộng đồng có thể giảm chi phí xã hội cho cung cấp dịch vụ, giai đoạn qua độ có thể rất tốn kém. Một khi những trường tách biệt đóng cửa, những khoản kinh phí được dùng cho các chương trình này có thể được chuyển sang hỗ trợ dịch vụ dựa vào cộng đồng. Nhưng các cơ sở chăm sóc bảo trợ xã hội không thể đóng cửa ngay, phải đợi đến khi những chương trình hỗ trợ được thiết lập xong để giúp cho các gia đình nuôi dưỡng TKT tại nhà. Kinh phí quốc tế có thể đặc biệt quan trọng giúp cho Việt Nam qua được giai đoạn quá độ đắt giá này.

Đạt được kết quả cuối cùng này, suất đầu tư mới cần thực hiện vào những chương trình phục vụ trẻ em trong những bối cảnh nền tảng hòa nhập nhất. Nguồn lực hạn chế nên được sử dụng để đề cao những cách làm hay, hơn là những chương trình và dịch vụ phải mất hàng năm trời mới có. Một trong những sai lầm mà các nhà tài trợ mắc phải là đầu tư vào những chương trình không hòa nhập TKT đầy đủ vào cộng đồng.255 Chuyển trẻ em từ các trung tâm chăm sóc tập trung lớn sang những trung tâm nhỏ, có vẻ như là một sự cải tiến, song nghiên cứu quốc tế cho thấy rằng TKT không phấn đấu khi chúng được nuôi dưỡng trong bối cảnh chăm sóc tập trung. Trong khi các tòa nhà mới trông sạch sẽ hơn, tốt hơn để thay thể những cơ sở chăm sóc tập trung, những cơ sở tách biệt này thành ra gánh nặng tốn kém đè lên hệ thống dịch vụ xã hội, mà việc này có thể đã sử dụng không đúng những nguồn lực vốn đã hạn chế đáng ra nên để dùng cho cải cách khác.

Để tác động cải cách tích cực và hiểu thấu đáo vấn đề, các nhà tài trợ quốc tế có thể đưa ra những ý kiến tư vấn kỹ thuật về cách thức thực hiện những kinh nghiệm đã làm tốt nhất. Các nước khác đã trải qua giai đoạn quá độ tương tự, nên có thể đặc biệt giá trị học hỏi từ kinh nghiệm quốc tế trong pha lập kế hoạch chuyển đổi pháp lý và kế hoạch phát triển chính sách mới.256 Các nhà tài trợ quốc tế nên giữ quan hệ chặt chẽ với chính quyền của tỉnh, huyện và xã.257

Khi các nhà tài trợ quốc tế xúc tiến thực thi những cách làm tốt nhất, cũng rất giá trị nếu ta thu hút sử dụng các chuyên gia của cộng đồng khuyết tật quốc tế. Lôi cuốn những NKT vào những vị trí lãnh đạo có thể giúp phá bỏ hình thức rập khuôn coi thường NKT và cung cấp những mô hình lãnh đạo cho NKT tại Việt Nam. Việc này có thể đặc biệt quan trọng đối với những NKT trí thức tâm thần, mà đối với họ hiện nay tại Việt Nam không có mô hình lãnh tụ tích cực. Theo yêu cầu của Điều 4(3), chính phủ nên “tham vấn chặt chẽ với những NKT tham gia tích cực, kể cả TKT, thông qua những tổ chức đại diện của họ.”

Một trong những trở ngại chính cho công tác thực thi CRPD là thiếu vắng một phong trào của NKT độc lập và đủ mạnh. Các nhà tài trợ nước ngoài có thể đóng một vai trò quyết định xây dựng năng lực cho các nhóm khuyết tật Việt Nam. Các nhà tài trợ nên làm việc với các tổ chức công dân và các Tổ chức của NKT để đánh giá tình hình soạn thảo và thực hiện pháp chế, sao cho các văn bản luật phản ánh chính xác nhu cầu của NKT.258 Các nhà tài trợ quốc tế cũng nên hỗ trợ các tổ chức của công dân và các Tổ chức của NKT như một tổng thể sao cho các tổ chức công dân và các Tổ chức của NKT có thể nắm những vai trò lãnh đạo trong biện lý chính sách vì quyền của họ.

255 Xem Viện quốc tế quyền của NKT tâm thần, Khổ đau âm thầm: Chia tách và lạm dụng nhi đồng và TKT ở Ru-ma-ni (2006) (mô tả kinh nghiệm của Ru-ma-ni chuyển trẻ em từ các trại lớn sang các trại nhỏ).

256 Phân tích tình hình trẻ em khuyết tật tại Việt Nam, như đã trích dẫn chú giải 1, at 145.257 Như trên258 Như trên

Page 52: QUYỀN CỦA TRẺ EM KHUYẾT TẬT TẠI VIỆT NAM

52

phụ lục 1: Ban hành giáo dục hòa nhập ở các nước đang phát triển

Tại Hoa Kỳ, Quốc hội đã phê chuẩn ban hành Đạo luật giáo dục cho tất cả trẻ em tật nguyền trong năm 1975, lần đầu tiên yêu cầu tất cả TKT có quyền “hưởng giáo dục công thích hợp và miễn phí”. Mặc dầu luật này, hiện được biết tới là luật Đạo luật cho những cá nhân khuyết tật, có nhiều ý kiến phê bình, nhưng không thể phủ nhận rằng từ khi Đạo luật cho những cá nhân khuyết tật được phê chuẩn ban hành, TKT tại Hoa Kỳ đã được hưởng quyền giáo dục như những trẻ em khác không khuyết tật.

Các nước khác cũng công nhận quyền được giáo dục hòa nhập cho NKT và hiện đang cung cấp những nguồn lực cần thiết để hỗ trợ mô hình này. Ví dụ, kết quả của Khuôn khổ Hành động Dakar dẫn đến kết quả Đánh giá EFA toàn cầu 2000, các nước như Bangladesh, Brazil và Ai cập hiện nay đang dành sít soát 6% của Tổng sản phẩm quốc nội (GNP) cho giáo dục.259 Đối với các nước châu Phi, giáo dục hút khoảng 1/3 ngân sách quốc gia, mặc dầu một vài nước chi tiêu cho y tế và giáo dục cộng lại bằng các khoản nợ trả dần.260

Báo cáo năm 2000 của UNESCO về khu tự trị Quảng Tây, trong năm 1996 đã chuyển đổi một trường chuyên biệt có 500 học sinh khiếm thị thành một trường hòa nhập bình thường đến nay đã giáo dục cho 1.700 cháu, thấy rằng các em này đã được hưởng lợi qua giúp đỡ của giáo viên được đào tạo trong dự án, và trường hòa nhập này đã mang lại những lợi ích bổ sung cho cộng đồng, đó là xóa bỏ được định kiến từ bao lâu nay đối với NKT.261

Tại Constanta, Ru-ma-ni, UNESCO đã báo cáo rằng nơi nào có cản trở chính cho giáo dục hòa nhập là đối kháng của một số phụ huynh và giáo viên thì “ kiên trì và sử dụng thông minh những chiến lược đầy đủ” sẽ vượt qua được những mối lo và sự đối kháng. “bà hiệu trưởng và cán bộ nhà trường ước tính rằng tương lai của giáo dục hòa nhập mà trường họ mang lại sẽ tốt đẹp và họ dự định tiếp tục phát triển kinh nghiệm này.”262 Xa hơn nữa, tại Kenya, Hội Người mù Kenya cũng đã tăng số lượng tuyển sinh trẻ em mù vào các trường phổ thông.263

UNESCO cũng đã báo cáo rằng tại Trung tâm Silahis Kaunlaran (Manila) tất cả trẻ em theo học các chương trình chính khóa và thực hành hòa nhập cũng được lưu ý về nhu cầu và điều kiện cụ thể của các cháu. Ví dụ, mặc dầu những học sinh khó khăn về thính lực được đào tạo kỹ năng nghe-nói bổ sung đặc biệt, các cháu vẫn theo cùng chương trình như những học sinh khác. Tình hình tương tự áp dụng cho học sinh mù, các cháu này được giáo viên chính khóa hướng dẫn trên lớp và dạy bổ sung và giao bài tập bằng chữ nổi Braille.264 Còn tại Ấn Độ, Ngân hàng Thế giới báo cáo trong năm 2003 rằng Dự án sáng kiến xóa đói giảm nghèo huyện Andhra Pradesh đã giúp đỡ giáo dục hòa nhập bằng cách lên tiếng ủng hộ cha mẹ TKT và kêu gọi những phụ huynh khác hỗ trợ, tạo tự tin cho TKT, công nhận, và tạo cơ hội

259 Xem báo cáo của UNESCO, hiện có tại http://www.unesco.org/education/efa/ed_for_all/ để có báo cáo cụ thể về giáo dục hòa nhập, và tình hình đáp ứng của các quốc gia đối với nhiệm vụ pháp lý quốc tế trong lĩnh vực này, xin xem thêm tại http://www.unesco.org/education/efa/efa_2000_assess/studies/inclusion_summary.shtml

260 Xem báo cáo của UNESCO, http://www.unesco.org/education/efa/ed_for_all/.261 UNESCO, Giáo dục hòa nhập theo lịch biểu chương trình, Paris, UNESCO, 1998. http://unesdoc.unesco.org/

images/0012/001234/123486e.pdf262 Như trên (trích đoạn báo cáo trường hợp nghiên cứu điển hình Ru-ma-ni về hòa nhập, do UNESCO tiến hành trong

năm 1999).263 UNESCO, Giáo dục hòa nhập theo lịch biểu chương trình, Paris, UNESCO, 1998. http://unesdoc.unesco.org/

images/0012/001234/123486e.pdf264 Như trên (được tóm tắt từ nghiên cứu trường hợp quốc gia về Philippines, do UNESCO tiến hành).

Page 53: QUYỀN CỦA TRẺ EM KHUYẾT TẬT TẠI VIỆT NAM

53

thích hợp các cấp và gợi nên hy vọng.”265 Đây chỉ là một vài ví dụ của rất nhiều sáng kiến thành công trên toàn thế giới nhằm xúc tiến giáo dục hòa nhập.

Hơn nữa, một báo cáo về châu Á do tổ chức Người hướng dẫn Quyền Người khuyết tật quốc tế cho thấy rằng trong năm 2005 đa số các quốc gia trong báo cáo đã có những chính sách giáo dục đề cao giáo dục hòa nhập cho NKT, dẫu rằng còn trộn chung các trường hòa nhập và các trường chuyên biệt và thực thi thực tế có khác nhau. Tại Trung quốc trong năm 2004, ví dụ, có đến 66.23% học sinh với nhu cầu đặc biệt được học tại các trường phổ thông chung. Mặt khác, tại Philippin, chỉ có 23 trên tổng 49,779 trường hòa nhập học sinh khuyết tật vào hệ thống giáo dục chung. Hơn nữa, có nhiều mối quan tâm về chất lượng của giáo dục hòa nhập tại một số nước như Ấn Độ và Philippin, tại đó số lượng mỗi lớp học sinh khuyết tật gần như đông gấp đôi mức trung bình quốc gia. Chỉ có Căm-pu-chia và Nhật Bản chú trọng riêng vào giáo dục chuyên biệt.266

Những ví dụ này tạo tự tin cho chính phủ Việt Nam và những đối tác để thấy đích đến giáo dục hòa nhập đã hoàn thành tại nhiều nước trên toàn thế giới ngày nay, bất chấp những cản trở và mối lo kinh phí. Báo cáo từ nhiều nước khác nhau chỉ ra rằng phát triển hòa nhập đầy đủ trong giáo dục đòi hỏi tập trung không chỉ vào cấu trúc nhà trường và lớp học, mà còn vào những điều kiện liên quan thúc đẩy học tập cho tất cả, cũng như phát triển và hỗ trợ quan hệ đối tác sáng tạo, lôi cuốn cả các tổ chức của chính phủ và phi chính phủ, giáo viên gia đình và chính những NKT.

Tóm tắt lại, quyền được giáo dục hòa nhập, ở tất cả các cấp, cho TKT là có thể thực hiện được tại Việt Nam như đã thực hiện được ở các nước khác. Luật pháp và những chính sách quốc tế hỗ trợ công tác loại bỏ hệ thống các trường chuyên biệt và chương trình chuyên biệt cho TKT hiện nay của Việt Nam, và tạo lập pháp nhân mới cho hệ thống giáo dục hòa nhập. Việt Nam còn nhiều khó khăn thử thách trước mặt trước khi có thể phát triển và thực thi được một hệ thống giáo dục hòa nhập. Tuy nhiên, để tuân thủ hoàn toàn với pháp nhân hòa nhập của CRPD, Việt Nam phải sử dụng cơ hội này để chỉnh sửa Luật Người khuyết tật nhằm bảo đảm chương trình giáo dục hòa nhập cho tất cả trẻ em. Luật pháp và những chính sách có thể thực thi được là cần thiết để chấm dứt kiểu đưa trẻ sơ sinh và các TKT vào các trại mồ côi và các trung tâm nuôi dưỡng, và cần phải có kế hoạch trả các em này về với cộng đồng và hệ thống giáo dục hòa nhập chung.

Tất cả trẻ em Việt Nam có quyền được hưởng nền tảng giáo dục hòa nhập, sẽ giúp các cháu lớn lên thành những công dân hữu ích và khỏe mạnh. Như đã bàn ở phần trên, giai đoạn quá độ sang hệ thống giáo dục hòa nhập sẽ đòi hỏi nhiều bước, và quan hệ đối tác giữa chính phủ, các tổ chức phi chính phủ, cán bộ nhà trường và gia đình để bảo đảm chăm sóc và giáo dục tốt trẻ em, đặc biệt là những trẻ em bị thiệt thòi. Việt Nam giờ đây có cơ hội tăng cường quyền được giáo dục cho tất cả TKT theo Luật Người Khuyết tật mới và để tạo lập một hệ thống chăm sóc mới khuyến khích hòa nhập TKT vào cộng đồng và các trường chung, hơn là vào các trường chuyên biệt, các trại trẻ mồ côi và những kiểu cơ sở chăm sóc tập trung khác.

265 Ngân hàng Thế giới, Khuyết tật và Phát triển tại Ấn Độ (2003) http://web.worldbank.org/WBSITE/EXTERNAL/NEWS/0,,contentMDK:20092924~menuPK:34457~pagePK:34370~piPK:34424~theSitePK:4607,00.html

266 IDRM Báo cáo về châu Á (2005), Tóm tắt thực hiện, phần. XIV.