Upload
nguyentrungthanh
View
219
Download
4
Embed Size (px)
Citation preview
Đề tài: Quan hệ giữa Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc Và các đoàn thể
chính trị - xã hội trong tiến trình đổi mới và hội nhập quốc tế
(Tiểu luận môn: Thể chế chính trị thế giới đương đại)
Người thực hiện: Hà Thị Út Minh
Lớp Chính trị học K27
0
MỤC LỤCMỞ ĐẦU………………………………………………………………………...21. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI…………………………………………………..….22. TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI……………………………………....33. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU………………………………44. CƠ SỞ LÝ LUẬN…………………………………………………………...45. CHỨC NĂNG VÀ NHIỆM VỤ CỦA TIỂU LUẬN………………………..46. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU…………………………………………...57. KẾT CẤU CỦA TIỂU LUẬN………………………………………………5NỘI DUNG……………………………………………………………………...6
Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ MỐI QUAN HỆ GIỮA ĐẢNG, NHÀ NƯỚC, MẶT TRẬN TỔ QUỐC VÀ CÁC ĐOÀN THỂ CHÍNH TRỊ - XÃ HỘI………………………………………………………………………..6
1.1 Khái niệm về hệ thống chính trị ở Việt Nam…………………………61.2 Quan điểm Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về quan hệ giữa
Đảng, Nhà nước và các tổ chức chính trị - xã hội……………………71.3 Sơ lược về quá trình hình thành và phát triển quan hệ giữa Đảng, Nhà
nước và các tổ chức chính trị - xã hội……………………………….13Chương 2 : THỰC TRẠNG VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA VỀ QUAN HỆ GIỮA ĐẢNG, NHÀ NƯỚC, MẶT TRẬN TỔ QUỐC VÀ CÁC ĐOÀN THỂ CHÍNH TRỊ - XÃ HỘI TRONG TIẾN TRÌNH ĐỔI MỐI VÀ HỘI NHẬP QUỐC TẾ…………………………………………………………………….17
2.1 Thực trạng quan hệ giữa Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội trong tiến trình đổi mới và hội nhập quốc tế…………………………………………………………………….17
2.2 Những mặt hạn chế và nguyên nhân của quan hệ giữa Đảng, Nhà nước và các tổ chức chính trị - xã hội………………………………25
2.3 Những vấn đề đặt ra nhằm đổỉ mới quan hệ giữa Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội trong tiến trình đổỉ mới và hội nhập quốc tế………………………………………...27
Chương 3 : MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM ĐỔI MỚI QUAN HỆ GIỮA ĐẢNG, NHÀ NƯỚC, MẶT TRẬN TỔ QUỐC VÀ CÁC ĐOÀN THỂ CHÍNH TRỊ - XÃ HỘI……………………………………………………….29
3.1 Những quan điểm của Đảng trong thời kỳ đổi mới về mối quan hệ giữa Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội…………………………………………………………………...29
2.3 Một số giải pháp nhằm đổi mới quan hệ giữa Đảng, Nhà nước, Mặt trận tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội trong tiến trình đổi mới và hội nhập quốc tế………………………………………………….30
KẾT LUẬN……………………………………………………………………35DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO…………………………………….36
1
MỞ ĐẦU
1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Hệ thống chính trị Việt Nam là một tổ hợp có tính chỉnh thể được cấu
thành từ 3 thành tố cơ bản: Đảng, Nhà nước, các tổ chức chính trị - xã hội vận
hành theo nguyên tắc, cơ chế và các mối quan hệ nhằm thực thi quyền lực chính
trị. Mỗi thành tố của hệ thống chính trị đều có những vị trí, chức năng nhất định
và vận hành theo nguyên tắc, cơ chế riêng nhưng để đảm bảo sự vận hành thông
suốt, thống nhất và mang tính chỉnh thể, vượt trội của toàn hệ thống thì nhất
thiết giữa chúng phải có mối quan hệ tạo nên cơ chế vận hành chung của hệ
thống. Cơ chế vận hành của hệ thống chính trị Việt Nam được xác định là:
“Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ”.
Trên thực tế, cơ chế trên mới xác định vị trí, chức năng của các thành tố
trong hệ thống chính trị chứ chưa nói lên mối quan hệ giữa các thành tố này.
Hơn nữa, cơ chế này cũng chưa được cụ thể hóa, chưa phân định rõ ràng chức
năng, nhiệm vụ, phương thức và phạm vi hoạt động của từng chủ thể trong hệ
thống chính trị. Điều này dẫn đến trong một thời gian dài trước thời kỳ đổi mới,
hệ thống chính trị nói chung và các chủ thể chính trị nói riêng chưa phát huy
được vai trò, chức năng của mình. Vai trò lãnh đạo toàn diện của Đảng được
nhìn nhận chưa đúng, dẫn tới tổ chức và hoạt động của Đảng bao trùm và chi
phối toàn bộ hoạt động của Nhà nước, các tổ chức chính trị - xã hội. Hệ quả là
Nhà nước và các tổ chức chính trị- xã hội tồn tại một cách hình thức, bị động,
dựa dẫm và ỷ lại vào Đảng. Sự vận hành của toàn bộ hệ thống theo cơ chế tập
trung quan liêu bao cấp đã tạo nên sự trì trệ, quan liêu, hoạt động kém hiệu quả
của cả Đảng, nhà nước và các tổ chức chính trị - xã hội, để đất nước rơi vào tình
trạng khủng hoảng, kém phát triển.
Bước sang thế kỷ XXI, trước những thách thức, cơ hội của hợp tác và hội
nhập kinh tế quốc tế, hệ thống chính trị cần được dổi mới cả về tổ chức và hoạt
động, quan hệ giữa các thành tố trong nó phải tiếp tục đổi mới và chủ động thích
ứng với những biến đổi của thế giới, chủ động vượt qua mọi thách thức và khai
thác có hiệu quả của sự hội nhập quốc tế.
Chính vì vậy, tôi đã chọn đề tài: “ Quan hệ giữa Đảng, Nhà nước, Mặt
trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội trong tiến trình đổi mới và
2
hội nhập quốc tế”,với mong muốn đứng trên lập trường quan điểm Duy vật
biện chứng và duy vật lịch sử của Chủ nghĩa Mác - Lê Nin, tư tưởng Hồ Chí
Minh nhắm làm rõ mối quan hệ giữa Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và các
đoàn thể chính trị- xã hội cũng như ý nghĩa của mối quan hệ đó trong việc đổi
mới hệ thống chính trị nước ta trong tiến trình đổi mới và hội nhập quốc tế.
2. TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI
Như đã nói ở trên nghiên cứu quan hệ giữa Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ
quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội có ý nghĩa quan trọng trong việc tìm ra
các phương thức nhằm đổi mới hệ thống chính trị. Nhiệm vụ đặt ra là cần phải
nghiên cứu quan hệ này trên lập trường quan điểm Mácxít, góp phần xây dựng
và củng cố hệ thống chính trị xã hội trong thời kỳ đổi mới và hội nhập quốc tế.
Về vấn đề này có một số tài liệu nghiên cứu ở những khía cạnh khác nhau, cụ
thể là:
Trong cuốn sách: Đảng và các tổ chức chính trị- xã hội trong hệ thống
chính trị Việt Nam hiện nay của tiến sỹ Nguyễn Hữu Đổng, Nxb Chính trị Quốc
gia năm 2009, đã đề cập đến khía cạnh thực trạng quan hệ giữa Đảng, Nhà nước
và các tổ chức chính trị - xã hội để từ đó đưa ra giải pháp nhằm đổi mới phương
thức lãnh đạo của Đảng và nâng cao vị trí, vai trò của các tổ chức chính trị - xã
hội trong hệ thống chính trị nước ta hiện nay.
Trong cuốn sách: Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Mặt trận
Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân trong thời kỳ đổi mới của tập thể tác giả: Đỗ
Quang Tuấn, Nguyễn Văn Hùng, Trần Hậu, Nxb Chính trị Quốc gia, năm 2006.
Nôi dung cuốn sách nêu lên cơ sở khoa học, một số vấn đề có tính lý luận của
Chủ nghĩa Mác- Lê Nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, mối quan hệ giữa Đảng với Mặt
trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân, và thực trạng đổi mới phương thức lãnh
đạo của Đảng, đổi mới Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân.
Đặc biệt phải kể đến cuốn sách: Đổi mới quan hệ giữa Đảng, Nhà nước và
các tổ chức chính trị xã hội trong hệ thống chính trị ở Việt Nam, Nxb Chính trị
Quốc gia, năm 2008. Cuốn sách đưa ra cơ sở lý luận và thực tiễn để nghiên cứu
đổi mới quan hệ giữa Đảng, Nhà nước và các tổ chức chính trị xã hội. Thực
trạng mối quan hệ đó trong hệ thống chính trị. Từ đó đưa ra những quan điểm,
3
nguyên tắc nhằm đổi mới quan hệ giữa Đảng, Nhà nước và các tổ chức chính trị
xã hội ở nước ta hiện nay.
Đứng trên lập trường quan điểm của Chủ nghĩa Mác- Lê Nin những nghiên
cứu nói trên đã tiếp cận quan hệ giữa Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và các
đoàn thể chính trị xã hội một cách khoa học. Tuy nhiên những nghiên cứu này
mới chỉ dừng lạ ở việc đưa ra những quan điểm cơ bản về quan hệ giữa Đảng,
Nhà nước, và các đoàn thể chính trị- xã hội hoặc tìm hiểu một khía cạnh cụ thể
nào đó mà chưa đi nghiên cứu một cách chi tiết và có hệ thống về mối quan hệ
đó, đặc biệt là quan hệ giữa Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể
chính trị- xã hội trong tiến trình đổi mới và hội nhập quốc tế. Với bài viết này tôi
hy vọng sẽ tạo nên một cách nhìn mới, một cách nhìn toàn diện về quan hệ giữa
Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị- xã hội trong tiến
trình đổi mới và hội nhập quốc tế.
3. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU
- Đối tượng: Nghiên cứu quan hệ giữa Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc
và các đoàn thể chính trị- xã hội trong tiến trình đổi mới và hội nhập quốc tế.
- Phạm vi: Bài tiểu luận tập trung nghiên cứu những vấn đề cơ bản trong
quan hệ giữa Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị- xã
hội ở nước ta hiện nay.
4. CƠ SỞ LÝ LUẬN
Tiểu luận dựa trên cơ sở lý luận sau: Đứng trên lập trường quan điểm của
Chủ nghĩa Mác- Lê Nin, tư tưởng Hồ Chí Minh về quan hệ giữa Đảng, Nhà
nước, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội. Trên cơ sở đó cung
cấp cho người đọc một cái nhìn tổng quát về mối quan hệ đó cũng như những
giải pháp nhằm đổi mới quan hệ giữa Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và các
đoàn thể chính trị- xã hội trong tiến trình đổi mới và hội nhập quốc tế.
5. CHỨC NĂNG VÀ NHIỆM VỤ CỦA TIỂU LUẬN
- Chức năng: Tiểu luận “Quan hệ giữa Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc
và các đoàn thể chính trị- xã hội” nhằm nghiên cứu mối quan hệ giữa Đảng, Nhà
nước, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội một cách cơ bàn và có
hệ thống, tù những quan điểm, lịch sử hình thành, nội dung, những hạn chế và
nguyên nhân của những hạn chế đó, để từ đó đưa ra những giải pháp đổi mới
4
quan hệ giữa Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã
hội trong quá trình đổi mới và hội nhập quốc tế.
- Để thực hiện chức năng đó, tiểu luận cần phải thực hiện những nhiệm vụ
sau:
+ Trình bày quan điểm của Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và lịch sử
hình thành quan hệ giữa Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể
chính trị - xã hội.
+ Làm sáng tỏ nội dung, những mặt hạn chế, nguyên nhân của những mặt
hạn chế đó trong quan hệ giữa Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn
thể chính trị - xã hội.
+ Đưa ra một số giải pháp nhằm đổi mới quan hệ giữa Đảng, Nhà nước,
Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị- xã hội trong tiến trình đổi mới và
hội nhập quốc tế.
6. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Tiểu luận sử dụng phương pháp Duy vật Biện chứng và Duy vật lịch sử của
Chủ nghĩa Mác- Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh.
Ngoài ra để thực hiện mục tiêu nghiên cứu của tiểu luận, cũng như việc
triển khai nội dung, tiểu luận kết hợp sử dụng các phương pháp lôgic- lịch sử và
một số phương pháp cụ thể như: Tra cứu, phân tích tài liệu, phương pháp phân
tích tổng hợp, phương pháp thu thập và xử lý thông tin…
7. KẾT CẤU CỦA TIỂU LUẬN
Tiểu luận bao gồm phần mở đầu, ba chương nội dung (8 tiết), kết luận và
danh mục tài liệu tham khảo.
NỘI DUNG
5
Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐÊ LÝ LUẬN VỀ MỐI QUAN HỆ GIỮA ĐẢNG,
NHÀ NƯỚC, MẶT TRẬN TỔ QUỐC VÀ CÁC ĐOÀN THỂ
CHÍNH TRỊ - XÃ HỘI
1.1. Khái niệm về hệ thống chính trị ở Việt Nam
Chính trị, như Lênin đã chỉ ra, đó là công việc liên quan đến hàng triệu
người, để làm cho hàng triệu người như một, tất cả mọi người trong một cộng
đồng nhất định (một nhóm, một giai cấp hoặc một khối đông đảo hơn) đều hành
động theo một hướng duy nhất nhằm mục tiêu đã đề ra. Vì vậy việc tập hợp các
tổ chức, các giai cấp thành một hệ thống có ý nghĩa quan trọng nhằm bảo vệ và
phát triển xã hội.
Hệ thống chính trị là hệ thống các tổ chức chính trị hợp pháp (trong đó có
cả những tổ chức do giai cấp thống trị lập lên, và cả những tổ chức do giai cấp
không thống trị lập lên), các đảng chính trị hợp pháp và nhà nước của giai cấp
cầm quyền, cùng quan hệ qua lại trong sự tác động của các yêu tố đó. Để chi
phối các quá trình kinh tế - xã hội, nhằ bảo vệ, duy trì và phát triển xã hội
nđương thời, boả đảm quyền lực và quyền lợi của giai cấp cầm quyền.
Hệ thống chính trị Việt Nam hiện nay về mặt tổ chức bao gồm ba bộ phận
cấu thành cơ bản sau: Đảng cộng sản Việt Nam, Nhà nước cộng hoà xã hội chủ
nghĩa Việt Nam, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể chính trị - xã hội.
Đảng cộng sản Việt Nam là dội tiên phong chính trị của toàn xã hội, là hạt nhân
lãnh đạo hệ thống chính trị bằng cương lĩnh, đường lối, chiến lược và những chủ
trương, chính sách lớn; bằng việc nắm đội ngũ cán bộ; kiểm tra giám sát việc
thực hiện các chủ trương đường lối của Đảng; bằng thuyết phục và nêu gương.
đảng không làm thay công việc của các thành viên khác trong hệ thống chính trị,
đảm bảo khối liên minh giữa công nhân, nông dân và trí thức trỏ thành nên tảng
xã hội, thành sức mạnh của nhà nước. Nhà nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt
Nam là xã hội pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân. nhà nước
bao gồm Quốc hội, Chủ tịch nước, chính phủ, hệ thống Tư pháp (Toà án, Viện
kiểm sát nhân dân) và chính quyền địa phương. Quốc hội là cơ quan đại biểu
cao nhất của nhà nước.
6
Trong hệ thống chính trị Việt Nam, tất cả quyền lực nhà nước thuộc về
nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa các giai cấp nông dân và đội ngũ tri
thức. Quyền lực Nhà nước là thống nhất, có sự phân công phối hợp giữa các cơ
quan nhà nước trong việc thực hiện quyền lập pháp, hành phát và tư phát. Nhà
nước thực hiện mục tiêu dân giau, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn
minh, mọi người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển
toàn diện.
Trong hệ thống chính trị Việt Nam, sự vận hành và thực hiện quyền lực
theo một cơ chế chỉ đạo là “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Nhân dân làm
chủ”. Đảng, Nhà nước và các tổ chức chính trị - xã hội là các thành tố trong một
chỉnh thể thống nhất của hệ thống chính trị. Sự thống nhất đó yêu cầu quan hệ
giữa các thành tố trong hệ thống chính trị phải là quan hệ bình đẳng giả quyết
các vấn đề theo một cơ chế và khẳng định vai trò của Đảng, quyền lực nhà nước
thuộc về nhân dân. Nhà nước chịu sự lãnh đạo của Đảng, Nhà nước là công cụ
để Đảng ta thực hiện sứ mệnh lịch sử của mình đối với dân tộc. Quan hệ giữa
Đảng và Mặt trận Tổ quốc việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội thành viên
vừa là quan hệ lãnh đạo vừa là quan hệ hiệp thương dân chủ, phối hợp và thống
nhất hành động. quan hệ giữa Nhà nước và Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ
chức chính trị - xã hội thành viên là quan hệ phối hợp hành động, được thực
hiện theo quy chế phối hợp công tác cụ thể.
Như vậy mối quan hệ giữa Đảng, Nhà nước, Mặt trân Tổ quốc và các
đoàn thể chính trị - xã hội có vai trò quan trọng vừa tạo lên một chỉnh thể thống
nhất của hệ thống chính trị, vừa củng cố phát huy vai trò của từng thành tố:
“Đảng lãnh đạo, nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ”.
1.2. Quan điểm Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về quan hệ giữa
Đảng, Nhà nước và các tổ chức chính trị - xã hội.
1.2.1. Quan điểm Mác – Ăngghen
Mác – Ăngghen không để cho chúng ta lời bàn trực tiếp về các quan hệ
giữa Đảng, Nhà nước và các đoàn thể chính trị xã hội nhưng trong di sản mà hai
ông để lại có không ít những luận điểm mà giá trị khoa học và ỹ nghĩa cách
mạng của chúng cho đến nay vẫn nguyên tính thời sự và hiện đại, vẫn hết sức bổ
ích cho việc nghiên cứu các quan hệ chính trị trong thời kỳ đổi mới.
7
Tập trung và tiêu biểu nhất là hệ thống các quan điểm mà các nhà kinh
điển đã nêu ra về bản chất giai cấp công nhân, về nguyên tắc của đảng công
nhân cách mạng, về vai trò và đặc trưng lãnh đạo chính trị của Đảng về quan hệ
giữa các tư tưởng và sức mạnh vật chất của các lực lượng, các đoàn thể chính trị
thực hiện tư tưởng đó. Qua các vấn đề đó, các ông đặc biệt nhấn mạnh đến vai
trò của quần chúng nhân dân trong hoạt động sáng tạo lịch sử, trong tổ chức xây
dựng xã hội tương lai với sức mạnh của nền dân chủ, của nhà nước kiểu mới
(chuyên chính vô sản) của công đoàn như những thiết chế chính trị - xã hội có
quan hệ trực tiếp với Đảng cách mạng. Các quan hệ tác động có ảnh hưởng qua
lại giữa các tổ chức này hình thành và biểu hiện ra bởi hoạt động tư tưởng, giáo
dục tuyên truyền bằng lực lượng và tổ chức , trong đó lý luận, cương lĩnh,
đường lối, chính sách mà Đảng ta đề xướng có vai trò đặc biệt quan trọng. Đó là
những cơ sở để xác lập quan hệ của Đảng, phương thức lãnh đạo của Đảng đối
với giai cấp, dân tộc và xã hội trong tiến trình cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội
mới.
1.2.2.Quan điểm của Lênin về quan hệ giữa Đảng, Nhà nước và các tổ
chức chính trị - xã hội
Lênin đã để lại cho chúng ta những chỉ dẫn quan trọng về Đảng, Nhà
nước và xã hội, về quan hệ qua lại giữa các thể chế chính trị xã hội này trong
thực tiễn xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Một trong những giá trị nổi bật trong di sản Lênin là quan niệm khoa học
của người về chính trị: Đó là công việc liên quan đến hàng triệu người, để cho
hàng triệu người như một, tất cả mọi người trong một cộng đồng nhất định (một
nhóm, một giai cấp, hoặc một khối đông đảo hơn) đều hành động theo một
hướng duy nhất nhằm mục tiêu đã đề ra. Vì vậy việc tập hợp các tổ chức, các
giai cấp thành một hệ thống có ý nghĩa quan trọng nhằm bảo vệ và phát triển xã
hội.
Trong những nghiên cứu của Lênin, Người đã đưa ra, vấn đề đặc trưng sự
lãnh đạo của Đảng, chức năng quản lý của nhà nước và sự tham gia trực tiếp
ngày càng đông đảo của quần chúng vào việc kiểm tra, kiểm sát các hoạt động
của tổ chức quyền lực, tức là của các cơ quan lãnh đạo, quản lý. Đây thực chất là
8
các quan hệ theo chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền giữa các tổ chức trong hệ
thống thực thi qyền lực nhân dân.
Nói đến vai trò của Đảng, Lênin nhấn mạnh trước hết đến vai trò lãnh đạo.
Trách nhiệm, nhiệm vụ của Đảng là Đảng lãnh đạo giai cấp và trở thành người
tổ chức giai cấp. Đảng biểu hiện vai trò của người chiến sĩ tiên phong chủ động
và dẫn dắt hoạt động tổ chức của quần chúng trong xã hội. Vai trò và trọng trách
đó của đảng là lãnh đạo chính trị là việc vạch hướng đi cho Nhà nước, việc xác
định những hình thức, nhiệm vụ, nội dung hoạt động của nhà nước. Đảng tham
gia công việc của Nhà nước với tư cách là vai trò như thế chứ không phải là làm
thay công việc của Nhà nước, giải quyết trực tiếp công việc của Nhà nước. Để
thực hiện được chức năng lãnh đạo đó , một trong những điều kiện, tiền đề tối
cần thiết là Đảng phải có năng lực chiếm lĩnh, làm chủ lý luận. Chỉ một đảng
nào được lý luận tiền phong hướng dẫn thì mới có khả năng làm tròn vai trò
chiến sĩ tiên phong. Không có lý luận cách mạng thì không có cách mạng.
Đảng lãnh đạo nhà nước và xã hội, vì vậy đảng không coi nhẹ lãnh đạo
kinh tế và sản xuất, cũng không thể không quan tâm đến lãnh đạo trên lĩnh vực
tổ chức và cán bộ, tư tưởng và văn hoá. Nhưng Đảng thực hiện sứ mệnh ấy
không phải là tác tác nghiệp cụ thể, là những hoạt động chuyên môn, nghiệp vụ
như các cơ quan quản lý nhà nước mà nhà lãnh đạo phương hướng chính trị của
kinh tế, của sản xuất, phương hướng chính trị của xây dựng phát luật và nền dân
chủ, của quản lý kinh tế và quản lý xã hội. Là biểu hiện tập trung của kinh tế, là
kinh tế cô đọng lại, nền kinh tế không thể không chiếm vị trí quan trong so với
kinh tế.
Nhà nước bằng phương pháp và hiệu lực quản lý mà hiện thực hoá đường
lối, cương lĩnh chính trị của Đảng. Các nhà quản lý chủ chốt của nhà nước thực
hiện quản lý theo chuyên môn của mình, trên thực tế là những người trong
Đảng, những người của Đảng, tất cả đều là cán bộ của nhân dân, phục vụ nhân
dân, hoạt động trong địa hạn quản lý của nhà nước.
Từ những nhiệm vụ chức năng của Đảng, Nhà nước như trên, Lênin đưa ra
quan niệm là phải phân định rành mạch, phân biệt chính xác chính trị lãnh đạo
khác với chính trị quản lý. Quan hệ giữa Đảng với nhà nước khi Đảng cầm
quyền đã hiện nên thật rõ nét trong đời sống chính trị thực tiễn. Đó là quan hệ
9
giữa quan điểm, tư tưởng, đường lối chính trị, cương lĩnh chính trị và các quyết
sách cụ thể với trương trình kế hoạch quản lý, với nhiệm vụ và phương pháp
quản lý, quan hệ giữa tổ chức và bộ máy của con người.
Không chỉ đề cập đến quan hệ giữa Đảng, Nhà nước với xã hội, Lênin
còn có những quan niệm về tổ chức chính trị xã hội: Người quan niệm “Công
đoàn là bể chứa chính quyền, Nhà nước, là trường học Chủ nghĩa Cộng sản, là
trường quản lý kinh tế”. Ông cũng thấy rõ vai trò này, trong tính đặc thù của nó,
“không phải là việc quản lý mà là “sự liên hệ” giữa cơ quan quản lý trung
ương” (tất nhiên là cả ở địa phương nữa) “của Nhà nước, của nền kinh tế quốc
dân, với quần chúng lao động rộng rãi”.
Như vậy những di sản mà Lênin để lại có vị trí và vai trò hết sức quan
trọng đối với việc nghiên cứu cũng như xây dựng mối quan hệ chính trị trong hệ
thống chính trị nước ta thời kỳ đổi mới
1.2.3.Tư tưởng Hồ Chí Minh về quan hệ giữa Đảng, Nhà nước và các tổ
chức chính trị - xã hội.
Bàn về quan hệ giữa Đảng, Nhà nước và các tổ chức chính trị - xã hội,
bao giờ Hồ Chí Minh cũng hướng tới việc giải quyết các quan hệ đó vào việc
thực hiện dân chủ, bảo đảm và phát huy dân chủ của nhân dân. Đây là mục đích
là bản chất của hoạt động chính trị. Thông qua các quan hệ giữa các tổ chức cấu
thành hệ thống chính trị ở nước ta mà tác động đến đời sống xã hội đến thực
hiện lợi ích và quyền lực của nhân dân.
Như vậy thực chất của quan hệ giữa Đảng, Nhà nước và các tổ chức chính
trị - xã hội là quan hệ với nhân dân với xã hội. Phải lấy dân làm gốc, xuất phát
từ dân và hướng đích mọi họat động vào phục vụ dân, tôn trọng và bảo đảm
quyền làm chủ của dân, làm căn cứ quan trọng nhất để xác lập và giải quyết
quan hệ nội tại giữa các tổ chức trong hệ thống chính trị, trước hết là quan hệ
giữa Đảng và Nhà nước. Điều này đặc biệt quan trọng khi Đảng trở thành Đảng
cầm quyền, có trọng trách lãnh đạo Nhà nước và xã hội.
Thứ nhất, Hồ Chí Minh làm sáng tỏ bản chất của Đảng và quan hệ giữa
Đảng và nhân dân
Trong tác phẩm Sửa đổi lối làm việc (1947), Người đã nói: “Đảng không
phải là một tổ chức để làm quan phát tài. Nó phải làm tròn nhiệm vụ giải phóng
10
dân tộc, làm cho tổ quốc giàu mạnh, đồng bào sung sướng”. Mục đích và bản
chất ấy của Đảng quy định vai trò, trách nhiệm của Đảng, nguyên tắc tổ chức và
trách nhiệm của Đảng, quan hệ trong Đảng và quan hệ giữa Đảng với nhân dân
mà mỗi cán bộ, đảng viên phải tuân thủ thực hiện, phải thể hiện tính tiên phong
và gương mẫu để quần chúng noi theo, để lãnh đạo quần chúng thực hiện đường
lối, chính sách của Đảng. Một Đảng chân chính cách mạng phải giữ vững tính
cách mạng, lại phải khéo dùng những cách thức thi hành cho hoạt bát,...phải là
một Đảng to lớn, mạnh mẽ, chắc chắn, trong sạch, cách mạng, triệt để, phải là
người lãnh dậo sáng suốt, kiên quyết, trung thành của giai cấp công nhân và
nhân dân lao động, của nhân dân Việt Nam.
Thứ hai, nói về chính quyền Nhà nước để thực hiện quyền lực nhân dân,
Hồ Chí Minh nhấn mạnh đặc biệt đến vai trò của dân trong một nước dân chủ
Vai trò của dân đồng thời là thẩm quyền và trách nhiệm của dân, việc tổ
chức lên cơ quan quyền lực của mình, do mình uỷ quyền, người dân với tư cách
là người chủ phải ý thức được quyền của mình. Đây thực chất là quyền lực nhân
dân theo đúng tư tưởng Hồ Chí Minh, lý luận dân chủ thực chất là lý luận về xây
dựng chế độ uỷ quyền, lý luận về cơ chế thực hiện sự uỷ quyền đó. Nó quy định
cách thứch tổ chức bộ máy, phương thức hoạt động của bộ máy, phương thức
hoạt động của bộ máy nhà nước đó sao cho thi hành được đầy đủ điều kiện thực
sự tham gia quản láy nhà nước, đảm bảo quyền kiểm soát của nhân dân đối với
các đại biểu của mình.
Hồ Chí Minh xác định, Quốc hội là cơ quan quyền lực cao nhất của nhà
nước và Hội đồng nhân dân là cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương. Cần
phải quy định nhiệm vụ cho tất cả các cơ quan nhà nước là phải dựa vào dân,
liên hệ chặt chẽ với nhân dân, lắng nghe ý kiến và chịu sự kiểm soát của nhân
dân. Muốn cho nhân dân thực sự tham gia quản lý nhà nước thì phải đảm bảo
mọi quyền lực của nhân dân, mở rộng dân chủ, thực hiện đầy đủ quyền dân chủ
của nhân dân.
Thứ ba, về quan hệ giữa Đảng, Nhà nước, đoàn thẻ với nhân dân
Trong tác phẩm dân vận của Hồ Chí Minh không chỉ đề cập đến bản chất
dân chủ mà còn trình bày rõ ràng, cặn kẽ và thiết thực về quan hệ Đảng, Nhà
nước, đoàn thể với nhân dân và làm công tác dân vận, tức là vận động quần
11
chúng làm cách mạng trở thành trách nhiệm chung của tất cả mọi tổ chức, mọi
cán bộ, đảng viên, hội viên.Theo Hồ Chí Minh, tất cả cán bộ chính quyền, tất cả
cán bộ đoàn thể và tất cả hội viên của các tổ chức nhân dân đều phải phụ trách
dân vận, phải giải thích cho dân hiểu, hiểu rõ lợi ích, hiểu rõ nhiệm vụ để dân
hăng hái làm cho kỳ được. Làm dân vận thì bất cứ việc gì cũng phải bàn bạc với
dân, đặt kế hoạch cho thiết thực với hoàn cảnh địa phương, rồi động viên và tổ
chức toàn dân thi hành. Trong lúc thi hành đều phải dõi theo giúp đỡ, đôn đốc,
khuyến khích dân, thi hành xong phải cùng với dân kiểm tra lại công việc, rút
kinh nghiệm, phê bình và khen thưởng.
Thứ tư, về vai trò của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội
Để phục vụ nhân dân và phát huy quyền làm chủ của nhân dân, Hồ Chí
Minh không chỉ nhấn mạnh đến vai trò, trách nhiệm của Đảng, của Nhà nước
mà còn thường xuyên chăm lo tới tổ chức Mặt trận và các đoàn thể của quần
chúng. Theo Người, công tác Mặt trận là một công tác rất quan trọng trong toàn
bộ công tác cách mạng: Mặt trận là một trong những lực luợng to lớn của cách
mạng. Người cũng chỉ dẫn cụ thể về vai trò và tác dụng của Đoàn Thanh niên
của Công Hội và Nông hội, của tổ chức phụ nữ và công tác phụ nữ, của trí thức
và vận động trí thức... Đó là chủ trương tập hợp lực lượng, phát triển lực lượng
to lớn của toàn dân là chính sách đoàn kết, đại đoàn kết. Trong đó, lấy đoàn kết
trong Đảng làm hạt nhân, gương mẫu cho toàn dân noi theo, phảỉ mở rộng đoàn
kết mọi tổ chức, lực lượng, đoàn kết giai cấp và đoàn kết dân tộc, đoàn kết tôn
giáo, đoàn kết quốc tế, thêm bầu bạn bớt kẻ thù ...
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh bàn về quan hệ giữa Đảng, Nhà nước, các tổ
chức và đoàn thể với nhân dân. Người cho thấy, không chỉ quan điểm và nguyên
tắc mà còn là mục đích, phương pháp, nội dung và những nhiệm vụ cụ thể, đặc
biệt là làm nổi bật vai trò, khả năng to lớn, sức mạnh vô địch và sáng kiến vô tận
của quần chúng. Tin vào lực lượng của dân, thấu hiểu dân biết đề ra chủ trương,
đường lối, chính sách và biện pháp thiết thực và hợp với lòng dân, đem lại lợi
ích chính đáng cho dân, lại biết khéo léo tuyên truyền, vận động, tổ chứ dân
thành phong trào và lực lượng cách mạng, thuyết phục được dân tranh thủ sự tin
cậy, ủng hộ của dân thì dù khó đến mấy cũng giải quyết được. (xem 5, tr.46 -
55)
12
1.3. Sơ lược về quá trình hình thành và phát triển quan điểm giữa
Đảng, Nhà nước và các tổ chức chính trị - xã hội ở nước ta
Sự hình thành và phát triển của quan hệ giữa Đảng, Nhà nước và các tổ
chức chính trị - xã hội ở Việt Nam bắt nguồn từ hoàn cảnh lịch sử cụ thể với
tiềm đề kinh tế - xã hội và những tư tưởng chính trị nhất định. Từ những tiền đề
kinh tế - xã hội , tư tưởng chính trị đầu tiên, quan hệ giữa Đảng và các tổ chức
chính trị - xã hội, với quần chúng nhân dân đã được khẳng định đúng đắn trong
tư tưởng Hồ Chí Minh và trong các cương lĩnh đầu tiên của Đảng.
1.3.1. Giai đoạn 1930 - 1945
Năm 1930, sau khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời, Hội nghị Trung ương
lần thứ nhất (10/1930) và lần thứ hai (3/1931), đều xác định nhiệm vụ trọng tâm
của Đảng là xây dựng nhiệm vụ trọng tâm của Đảng là xây dựng và lãnh đạo các
tổ chức quần chúng, các đoàn thể cách mạng gắn với công tác xây dựng Đảng.
Ngày 18/11/1930, Thường vụ Trung ương Đảng đã ra chỉ thị thành lập Hội Phản
đế đồng minh Đông Dương. Các tổ chức Nông hội, Công hội, Đoàn Thanh niên
Cộng sản, Hội Phụ nữ giải phóng, phát triển nhanh chóng và mạnh mẽ.
Sau cao trào 1930 – 1931, kẻ thù khủng bố điên cuồng, cách mạng tạm
thời đi vào thoái trào. Trước tình hình đó, tại Đại hội lần thứ nhất của
Đảng( tháng 3/1935 tại Ma Cao) đã chỉ ra: phải mau chóng khôi phục và xây
dựng Công hội trong các xí nghiệp và các tổ chức quần chúng khác dưới các
hình thức bí mật, công khai và nửa công khai, phát triển Mặt trận dân chủ thống
nhất dưới hình thức phản đế liên minh. Đó là hình thức tập hợp dân chúng rộng
rãi nhất, lôi cuốn cả nhữ đảng phái quốc gia và những phàn tử cải lương có tinh
thần phản đế, không phân biệt thành phần giai cấp, tôn giáo..., với chủ trương
đúng đắn của Đảng, phong trào đã dần được hồi phục.
Đứng trước tình hình thế giới có nhiêu chuyển biến: nguy cơ phát xít gây
chiến tranh thế giới đang đến gần,Hội nghị Trung ương 7/1936 đã xác định mục
đích đấu tranh: đòi tự do, dân chủ, cơm áo hoà bình. Để thực hiện mục tiêu ấy,
Đảng chủ trương lập Mặt trận dân chủ Đông Dương, đồng thời chuyển mục tiêu
của các tổ chức quần chúng sang thực hiện mục tiêu mới. Nhiều tổ chức quần
chúng được tổ chức đa dạng, hoạt động công khai, bán công khai như: Hội Ái
hữu, Hội Tương tế, Hội Hiếu, Hội Hỷ, Hội rèn, Hợp tác xã ...Các tổ chức quần
13
chúng do Đảng thành lập đều có sự lãnh đạo, chỉ đạo và tham gia tích cực của
Đảng viên
Ngày 1/9/1939 Chiến tranh thế giới lần thứ hai bùng nổ, kếo theo một loạt
những thay đổi về kinh tế, xã hội, bộ máy chính quyền ở Pháp, Đông Dương và
Việt Nam. Trước tình hình ấy Hội nghị Trung ương lầ Sáu (11/1939), lần thứ
Bảy (11/1940) và đặc biệt là Hội nghị Trung ương lần Tám (5/1941) đã quyết
định và hoàn chỉnh việc chuyển hướng chỉ đạo chiến lược, và đổi tên “Mặt trận
dân tộc Phản đế Đông Dương” thành “Việt Nam độc lập đồng minh, gọi tắt là
Việt Minh”. Mặt trận Việt Minh có vai trò rất to lớn, lần đầu tiên có cơ quan
Trung ương của Mặt trận – đó là tổng bộ Việt Minh. Hoạt động của Việt Minh
rất phong phú, ảnh hưởng của Việt Minh rât lớn. Các hoạt động công khai của
Đảng đều dưới danh nghĩa Việt Minh, các đoàn thể khác đều là thành viên của
Việt Minh và các hoạt động của các tổ chức ấy đều dưới danh nghĩa của Việt
Minh. Với danh nghĩa Việt Minh, Hồ Chí minh đã liên hệ và tìm sự giúp đỡ của
Đồng minh. Đặc biệt dưới danh nghĩa của Tổng bộ Việt Minh, Hội nghị toàn
quốc của đảng và Quốc dân Đại hội đã họp tại Tân Trào, thành lập Uỷ ban giải
phóng do Hồ Chí Minh đứng đầu, đã phát động tổng khởi nghĩa. Chỉ trong vòng
10 ngày, cuộc cách mạng tháng Tám đã thắng lợi trong cả nước.
1.3.2. Giai đoạn những năm 1945 – 1954
Nhiệm vụ của cách mạng trong giai đoạn này là xây dựng, bảo vệ chính
quyền cách mạng và tiến hành cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược.
Đảng chủ trương tiếp tục củng cố, phát triển và mở rộng Mặt trận tới tất cả các
tổ chức, cá nhân có tinh thần độc lập chống thực dân Pháp xâm lược. Với tinh
thần đó, ngày 29/5/1946. Hội liên hiệp Quốc dân Việt Nam ra đời (gọi tắt là
Liên Việt). Ngày 27/7/1946, Đảng xã hội được thành lập, tập hợp tất cả các tri
thức tư sản, phú hào chưa tham gia đoàn thể nào vào hàng ngũ Liên Việt. Ngày
3.3.1951, đại hội Quốc dân “ Mặt trận thống nhất Việt Minh và Liên Việt” lấy
tên là “Mặt trận liên hiệp Quốc dân Việt Nam” ( gọi tắt là Mặt trận Liên Việt).
Mặt trận Liên Việt đã phối hợp với Đảng, Tổng Liên đoàn lao động Việt
Nam, Đoàn Thanh niên, Hội nông dân tích cực vận động nhân dân cả nước đóng
góp sứ người, sức của phục vụ cho chiến dịch Điện Biên Phủ đi đến thắng lợi.
1.3.3. Giai đoạn những năm 1954 – 1975
14
Đây là giai đoạn kháng chiến chống thực dân Mỹ thống nhất đất nước và
cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc.
Ngày 10/9/1955, Đại hội Mặt trận Liên Việt được triệu tập, đại hội quyết
định lấy tên là Mặt trận Tổ quốc việt Nam. Thông qua Tuyên ngôn, Cương lĩnh,
Điều lệ mới, bầu chủ tịch Hồ chí Minh làm chủ tịch danh dự, đồng chí Tôn Đức
Thắng làm chủ tịch danh dự. Cương lĩnh của Mặt trận kêu gọi tầng lớp nhân
dân, kêu gọi mọi người dân Việt Nam, không phân biệt trai gái, trẻ già, không
phân biệt dân tộc, thành phần xã hội, khuynh hướng chính trị và tín ngưỡng tôn
giáo, không phân biệt trước đây đứng về phe nào, nếu ngày nay tán thành hoà
bình, thống nhất, độc lập, dân chủ hãy siết chặt hàng ngũ trong Mặt trận. Hưởng
ứng cương lĩnh của Mặt trận, hơn 30 đảng phái chính trị, đoàn thể nhân dân và
nhiều nhân sĩ tri thức, dân tộc, tôn giáo đã gia nhập Mặt trận Tổ quốc Việt Nam.
Ở Miền Nam, đáp ứng yêu cầu cuả thời kỳ cách mạng mới và nguyện
vọng của quần chúng nhân dân, ngày 20/12/1960, đại hội đại biểu các giai cấp,
dân tộc, tôn giáo và các đảng phái đã họp và quyết định thành lập “Mặt trận dân
tộc giải phong miền Nam Việt Nam”, Mặt trận trở thành người đại diện chân
chính duy nhất cho nhân dân miền Nam Việt Nam; tập hợp 20 tổ chức chính trị -
xã hội, đảng phái, tôn giáo như: Hội lao động giải phóng (công đoàn giải
phóng), Hội Nông dân giải phóng, Đoàn Thanh niên cách mạng cách mạng miền
Nam, Hội Phụ nữ giải phóng, Hội liên hiệp sinh viên và học sinh ...
Mặt trận ra Tuyên ngôn và Cương lĩnh hành động 10 điểm với mục tiêu
đấu tranh là: hoà bình, dân chủ, cơm áo và thống nhất Tổ quốc. Mặt trận không
chỉ làm nhiệm vụ vận động đoàn kết nhân dân mà ở những vùng giải phóng, Mặt
trận còn trở thành cơ quan chính quyền thực hiện nhiệm vụ làm chủ của nhân
dân về mọi mặt chính trị, quân sự, ngoại giao ...
1.3.4. Giai đoạn 1975 – 1985
Miền Nam hoàn toàn giải phóng, Hội nghị lần thứ 24 Ban chấp hành
Trung ương Đảng (khoá III) đã quyết định nhiệm vụ hoàn thành thống nhất
nước nhà, đưa cả nước tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc lên chủ nghĩa xã
hội. Kỳ họp thứ nhất nước Việt Nam thống nhất (2/7/1976) đã quyết định đổi tên
nước thành nước Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam và thành lập ra chính
15
phủ thống nhất, cũng trong năm 1976, Mặt trận và các đoàn thể quần chúng đã
lần lượt thống nhất.
Trong giai đoạn nay, cả nước bắt tay thực hiện nhiệm vụ chiến lược xây
dựng và bảo vệ tổ quốc, tiến hành cải tạo và phát triển kinh tế, củng cố và xây
dưng xã hội chủ nghĩa.
Nhìn chung qua mỗi chặng đường lịch sử cách mạnh, các tổ chức chính trị
- xã hội đã có những đóng góp đáng kể gắn với việc động viên quần chúng thực
hiện nhiệm vụ đấu tranh giải phóng dân tộc, bảo vệ và xây dựng đất nước. bên
cạnh những mặt cơ bản, quan hệ giữa Đảng, Nhà nước và các đoàn thể chính trị
- xã hội còn bộc lộ một số hạn chế yếu kém nhất định. (xem 5, tr. 104 - 115)
16
Chương 2
THỰC TRẠNG VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA VỀ QUAN HỆ GIỮA
ĐẢNG, NHÀ NƯỚC, MẶT TRÂN TỔ QUỐC VÀ CÁC ĐOÀN THỂ
CHÍNH TRỊ XÃ HỘI TRONG TIẾN TRÌNH ĐỔI MỚI
VÀ HỘI NHẬP QUỐC TẾ
Hội nhập và hợp tác quốc tế đang là một tất yếu khách quan đối với hầu
hết các quốc gia, không phân biệt chế độ chính trị trong một thế giới toàn cầu
hoá. đối với Việt Nam, mở cửa và hội nhập quốc tế là một chủ trương và quyết
tâm nhất quán, một bộ phận quan trọng hợp thành đường lối đổi mới của đảng
và Nhà nước ta. Nhưng trên thực tế cho đến nay trong hệ thống chính trị nước ta
vẫn còn tồn tại những sai lầm và khuyết điểm. Dựa trên cơ sở lý luận và thực
tiễn, Tiểu luận nêu lên thực trạng về quan hệ giữa Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ
quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội nhằm làm cơ sở cho việc nghiên cứu
phương thức đổi mới hệ thống chính trị ở nước ta hiện nay.
2.1. Thực trạng quan hệ giữa Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và
các đoàn thể chính trị - xã hội trong tiến trình đổi mới và hội nhập quốc tế.
Bước sang thời kỳ đổi mới, Hội nghị Trung ương sáu (khoá VI) đã đặt ra
vấn đề: Đổi mới tổ chức và phương thức hoạt động của hệ thống chính trị,
“phân định rõ chức năng, nhiệm vụ trên cơ sở đó đổi mới tổ chức và phương
thức hoạt động của Đảng, Nhà nước và các đoàn thể quần chúng”, “Dảng phải
tự đổi mới nội dung và phương thức lãnh đạo của mình” và đề ra các chủ trương
“tiếp tục đổi mới ngay một bước phương thức lãnh đạo của các cấp uỷ Đảng. Ở
Trung ương: phân định rõ thêm một bước chức năng, nhiệm vụ và mối quan hệ
giữa Trung ương Đảng (Bộ Chính trị, Ban Bí thư) với Quốc hội, Hội đồng Nhà
nước , Hội đồng Bộ trưởng và các đoàn thể quần chúng..., khắc phực lối lãnh
đạo quan liêu, độc đoán các nhân, duy ý trí, bao biện, sự vụ, nhưng phải chống
khuynh hướng phủ nhận hoặc hạ thấp vai trò lãnh đạo của Đảng”.
Tại Đại hội Đảng toàn qốc lần thứ VII, Đảng ta đã khẳng định: “để đổi
mới và kiện toàn hệ thống chính trị, xây dựng và thực hiện dân chủ xã hội chủ
nghĩa, vấn đề mấu chốt là phân định rõ chức năng và giải quyết tốt mối quan hệ
giữa Đảng với Nhà nước và các đoàn thể nhân dân”. (xem2, tr.101)
17
Trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa
xã hội, phương thức lãnh đạo của Đảng được xác định khá hoàn chỉnh: “Đảng
lãnh đạo xã hội bằng cương lĩnh, chiến lược, các định hướng về chính sách và
chủ trương công tác; bằng công tác tuyên truyền, thuyết phục vận động, tổ chức
kiểm tra và bằng hành động gương mẫu của dảng viên. Đảng giới thiệu những
người đảng viên ưu tú có đủ năng lực và phẩm chất vào hoạt động trong các cơ
quan lãnh đạo chính quyền và các đoàn thể. đảng không làm thay công việc của
các tổ chức khác trong hệ thống chính trị.” (xem2, tr.101)
Nghị quyết Hội nghị Trung ương 3 (khoá VII) về đổi mới chỉnh đốn Đảng
đã chỉ rõ quan hệ lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước: Đảng lãnh đạo theo
nguyên tắc tập trung dân chủ, tập thể lãnh đạo, các nhân phụ trách; lãnh đạo
thông qua các tổ chức đảng chứ chỉ thông qua các cá nhân đảng viên; lãnh đạo
bằng các quyết định của tập thể và bằng cách theo rõi, cho ý kiến chỉ đạo, kiểm
tra việc thực hiện, khuyến khích những mặt tốt, uốn nắn nhưng lệch lạc nhằm
phát huy mạnh mẽ vai trò và hiệu lực vủa Nhà nước chứ không điều hành thay
Nhà nước.
Tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII, đặt biệt tại hội nghị Trung ương
3 khoá VIII (6/1997), khi tổng kết vấn đề đổi mới phương thức lãnh đạo của
Đảng đối với Nhà nước, Đảng đã nhận định: “Nội dung và phương thức lãnh
đạo của Đảng đối với Nhà nước ta đã có bước đổi mới, vừa đảm bảo vai trò
lãnh đạo của Đảng, vừa phát huy trách nhiệm, tính chủ động của các cơ quan
nhà nước”.
Đến Đại hội toàn quốc lần thứ IX của Đảng, trên cơ sở tổng kết việc đối
mới hoạt động của hệ thống chính trị, Đảng ta đã khăng định: Đảng thực hiện sự
lãnh đạo “thông qua việc đề ra đường lối, chủ trương, các chính sách lớn, định
hướng cho sự phát triển và kiểm tra việc tổ chức thực hiện đường lối, chủ
trương của Đảng và Hiến pháp, pháp luật của Nhà nước ...”. Tại Đại hội toàn
quốc của Đảng lần thứ X, Đảng lãnh đạo nhà nước bằng đường lối, quan điểm,
các nghị quyết, lãnh đạo thể chế hoá, cụ thể hoá bằng Hiến pháp, pháp luật, kế
hoạch, các chương trình công tác lớn của Nhà nước, bố trí đúng cán bộ và
thường xuyên kiểm tra việc tổ chức thực hiện. Như vậy, trong quá trình triển
khai thực hiện chức năng lãnh đạo của Đảng, quản lí của Nhà nước và quyền
18
làm chủ của nân dân, các mối quan hệ giữa Đảng, Nhà nước và các tổ chức
chính trị - xã hội dần được hình thành và ngày càng được xác định rõ hơn trong
lí luận cũng như trong thực tế.
2.1.1. Mối quan hệ giữa Đảng và Nhà nước
Quan hệ giữa Đảng và Nhà nước thức chất và chủ yếu là quan hệ lãnh đạo
của Đảng đối với Nhà nước. Quan hệ nhà xuất phát từ tư tưởng và quan điểm
của Đảng, Đảng Cộng sản Việt Nam là lực lượng tiên phong đại diện cho trí tuệ
và lợi ích của nhân dân, Đảng cầm quyền lãnh đạo Nhà nước và toàn thể hội
nhằm thực hiện nhiệm vụ chung của toàn thể nhân dân và dân tộc.
Đảng lãnh đạo nhà nước bằng đường lối, chính sách và các nghị quyết của
Đảng. Về mặt lý thuyết, Đảng lãnh đạo bằng đường lối, nhưng trên thực tế trong
nhiều năm Đảng đã can thiệp sâu vào công việc của nhà nước. Sự phân biệt
chưa rõ ràng về chức năng lãnh đạo của Đảng và quản lý của nhà nước dẫn đến
tình trạng vừa lẫn lộn, vừa để trống trách nhiệm. Có những vấn đề tổ chức đảng
can thiệp quá sâu vào hoạt động của bộ máy nhà nước.
Mối quan hệ giữa Đảng với Nhà nước về căn bản đã dựa trên nguyên tắc
“tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách” (vốn là nguyên tắc lãnh đạo trong nội bộ
Đảng), Với quan niệm tập thể cấp uỷ đảng quyết định mọi nhiệm vụ, chủ
trương, biện pháp, phân công một số cán bộ chủ chốt làm “công tác chính
quyền” tức là nắm bộ máy nhà nước để tổ chức thực hiện các quyết định của
Đảng. Việc áp dụng nguyên tắc đó đã mặc nhiên hình thành cơ cấu kép Đảng –
Nhà nước, trong đó vô hình đặt Đảng ở vị trí cơ quan “siêu quyền lực” đứng
trên nhà nước và nghị quyết có hiệu lực cao hơn phát luật, còn Nhà nước bị
thoái hoá chức năng biến thành khâu thừa hành thụ động, mang tính thủ tục
hành chính, không có quyền lực để có thể chịu trách nhiệm pháp lý trước nhân
dân một cách đầy đủ, đặc biệt là Quốc hội – cơ quan quyền lực nhà nước cao
nhất do toàn dân bầu ra một cách hợp hiến.
Đến hiến pháp năm 1992, nhận thức về mối quan hệ trên đã có những thay
đổi quan trọng: Hiến pháp khẳng định nhà nước ta là nhà nước của nhân dân với
tất cả quyền lực thuộc về nhân dân; nhấn mạnh mọi tổ chức của Đảng thuộc
trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật. Như vậy, Đảng không quyết định trực
19
tiếp mọi công việc của Nhà nước, Đảng không phải là cấp trên của cơ quan nhà
nước.
Tuy nhiên, thực tế chung ta vẫn chưa giải quyết được tận gốc của vấn đề,
do đó chưa có sự chuyển biến rõ rệt trong mối quan hệ cơ bản nói trên. Tình
trạng Đảng bao biện làm thay cơ quan Nhà nước, can thiệp vào chức năng của
cơ quan nhà nước, dùng phương pháp mệnh lệnh, áp đặt đối với cơ quan nhà
nước vẫn diễn ra.
Đảng lãnh đạo Nhà nước thông qua việc cử những đảng viên của Đảng
nắm giữ chức vụ chủ chốt của Nhà nước. Song trên thực tể, công tác cán bộ của
Đảng đang bộc lộ rất nhiều bất cập. Đảng nắm công tác cán bộ, nhưng quan
niệm Đảng lãnh đạo công tác cán bộ, Đảng thống nhất quản lý cán bộ là như thế
nào cũng chưa thật rõ và cụ thể. Vì vậy, dẫn đến tình trạng là hầu hết cán bộ nhà
nước đều do Đảng, cấp uỷ quản lý, tổ chức và quyết định. người đứng đầu các
cơ quan nhà nước thụ động về vấn đề cán bộ. Việc đề bạt hay kỷ luật một cán bộ
ở cấp trung ương thuốc phạm vi Ban Bí thư, Bộ Chính trị quản lý. Cách làm này
do chính phủ, thủ tướng không có thực quyền, Thủ tướng không có quyết định
việc thăng tiến hoặc trừng phạt đối với cán bộ dưới quyền nên tình trạng “trên
bảo dưới không nghe” trong chỉ đạo, điều hành của Chính phủ cũng là điều dễ
hiểu. Trách nhiệm của các bộ trưởng trước Ban Bí thư, bộ Chính trị cũng chưa
được định rõ.
2.1.2. Mối quan hệ giữa Đảng, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính
trị - xã hội
Quan hệ giữa Đảng và Mặt trận Tổ quốc là quan hệ bình đẳng trước phát
luật. “Đảng cộng sản Việt Nam vừa là thành viên vừa là người lãnh đạo Mặt
trận”. Đảng tham gia mặt trận có nghĩa vụ như mọi thành viên khác. Đảng tôn
trọng tính độc lập về tổ chức và hoạt động sáng tạo của Mặt trận và các tổ chức
chính trị - xã hội, lắng nghe ý kiến của các tổ chức này.
Đảng thực hiện vai trò lãnh đạo Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ
chức chính trị - xã hội bằng đường lối, chủ trương, bằng công tác tuyên truyền,
vận động thuyết phục, tổ chức kiểm tra và bằng sự gương mẫu của đảng viên
trước các tầng lớp nhân dân.
20
Sự lãnh đạo của Đảng đối với Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là vấn đề có
tính nguyên tắc, bảo đảm cho Mặt trận Tổ quốc Việt Nam không ngừng được
củng cố và mở rộng. Ở cơ sở, cấp uỷ lãnh đạo Mặt trận thông qua đại diện của
cấp uỷ đảng và đảng viên tham gia Uỷ ban Mặt trận cùng cấp.
Đảng chăm lo bồi dưỡng cán bộ và giới thiệu những đảng viên có phẩm
chất, có tín nhiệm trong các tầng lớp nhân dân, có năng lực làm công tác mặt
trận, đoàn thể. Trên thực tế, Đảng là người bố trí, sắp xếp những cán bộ, đảng
viên có năng lực và trình độ giữ những cương vị chủ chốt trong các tổ chức
chính trị - xã hội. Song, do tư tưởng coi nhẹ công tác mặt trận, đoàn thể, việc bố
trí cán bộ mặt trận, đoàn thẻ một cách tuỳ tiện, áp đặt đã làm yếu đi vai trò của
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, đoàn thể, làm yếu đi Đảng.
Đảng kiểm tra, giám sát hoật động của các tổ chức chính trị - xã hội, khi
cần thiết có sự điều chỉnh, uốn nắn thậm chí phải sử lý kịp thời ở những mức độ
khác nhau. Khi có các tổ chức nào đó có những hoạt động trái với tôn chỉ, mục
đích, không chịu sự lãnh đạo của Đảng, thậm chí có những hoạt động chống Đảng
thì Đảng phải kiên quyết chấn chỉnh để giữ vững vai trò cầm quyền của mình.
Đảng lãnh đạo Mặt trận Tổ quốc Việt Nam nhưng lại là thành viên trong Mặt
trận, do đó để thực hiện được vai trò sự lãnh đạo có hiệu quả. Do tính chất của Mặt
trận hoạt động theo nguyên tắc hịêp thương dân chủ, đảng tham gia mặt trận trước
hết với tư các là một thành viên do đó Đảng tuân thủ nguyên tắc hiệp thương dân
chủ, song thành viên đó lại có chức năng lãnh đạo nên cần phải tìm ra một cơ chế
lãnh đạo thich hợp. Nghị quyết Hội nghị Trung ương 7(khoá IX) đã chỉ ra cơ chế
đó là: kết hợp giữa nguyên tắc tập trung dân chủ trong Đảng với nguyên tắc hiệp
thương dân chủ trong Mặt trân. Vấn đè là cần phải tìm ra những hình thức, biện
phát, bước đi để thực hiện sự kết hợp đó ở từng cấp, từng nơi, từng lúc.
Đảng lãnh đạo nhưng đảng không ra lệnh, áp đặp cho Mặt trận mà phải
thông qua hiệp thương, thuyết phục, thông qua sự gương mẫu của mỗi đảng viên
trong Mặt trận. Các cấp uỷ đang và cấp chính quyền có chế độ tiếp xúc, đối
thoại trực tiếp với nhân dân, thường xuyên lắng nghe ý kiến , phản ánh của Mặt
trận và các tổ chức chính trị - xã hôi với Đảng, Nhà nước về những vấn đề mà
nhân dân quan tâm.
Mặt trận có nhiệm vụ tuyên truyền, giáo dục chính trị, tư tưởng và đạo đức
21
cho mỗi đảng viên và tầng lớp nhân dân thực hiện đại đoàn kết dân tộc vì độc
lập dân tộc, dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
Mặt trận có trách nhiệm tổ chức, vận động nhân dân thực hiện chính sách
của Đảng và Nhà nước, trong việc xây dựng mối quan hệ mật thiết giữa Đảng,
Nhà nước với nhân dân. Mặt trận làm cho các thành viên nắm vững và thực hiện
đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước; kiểm tra giám sát hoạt động của tổ
chức đảng, các cơ quan nhà nước, cán bộ, đảng viên.
2.1.3. Quan hệ giữa Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính
trị - xã hội
Nhà nước và các đoàn thể chính trị - xã hội có quan hệ chặt chẽ với nhau,
biểu hiện tập trung trong quan hệ giữa Nhà nước và Mặt trận Tổ quốc việt Nam.
“Mặt trận Tổ quốc và Nhà nước có quan hệ mật thiết với nhau, nhưng đây là hai
thiết chế mang đặc trưng rất khác nhau. Do là thiết chế quyền lực, tổ chức và
thực thi quyền lực được dân uỷ quyền nên Nhà nước không tham gia Mặt trận,
nhưng Nhà nước xây dựng và ban hành luật, trong đó có luật Mặt trận Tôư quốc
Việt Nam, tạo mọi điều kiên cho Mặt trận Tổ quốc hoạt động hợp hiến, hợp
pháp, phát huy hết mọi khả năng của mình. Để làm tròn chức năng quản lý, thực
hiện quyền của nhân dân, Nhà nước rất cần sự phối hợp, hợp tác, tư vấn, giám
sát của Mặt trận Tổ quốc. Tuy không tham gia Mặt trận Tổ quốc nhưng Nhà nước
và Mạt trận tổ quốc lại cùng là thành viên trong hệ thống chính trị, cùng chịu sự
lãnh đạo của Đảng cộng sản cầm quyền. Mối quan hệ khăng khít giữa Nhà nước và
Mặt trận Tổ quốc thể hiện mối quan hệ giữa hai phương thức thực hiện quyền làm
chủ của nhân dân là: Làm chủ bằng Nhà nước và làm chủ bằng các thiết chế ngoài
Nhà nước. Cả hai phương thức đó bổ sung, tác động lẫn nhau.
Trong quan hệ với các tổ chức chính trị - xã hội, Nhà nước là cơ quan thể
chế hoá đường lối, chủ trương của Đảng về tổ chức và hoạt động của các tổ chức
chính trị - xã hội thành các văn bản quy phạm pháp luật, tạp cơ sở để đổi mới
quản lý của nhà nước đối với các tổ chức này, đồng thời tạo hành lang pháp lý
cho đổi mới tổ chức và hoạt động của các tổ chức chính trị - xã hội. Luật Mặt
trận Tổ quốc Việt Nam đã được thông qua cùng với Nghị định hướng dẫn thi hành
của Chính phủ đã đặt cơ sở pháp lý cho toàn bộ hoạt động của Mặt trận. Một số
hoạt động của Mặt trận đã được luật hoá và được tiến hành có nề nếp như tham gia
22
bầu cử Quốc hội, hội đồng nhân dân các cấp, tham gia tố tụng, tuyển chọn thẩm
phán, giới thiệu hội thẩm nhân dân, tham gia xây dựng pháp luật.
Để các tổ chức chính trị - xã hội thực hiện các chức năng của mình, Đại
hội lần thứ VIII của Đảng nhấn mạnh đến việc Nhà nước cần phải ban hành luật
về lập hội và tạo điều kiện cần thiế cho hoạt động của các đoàn thể nhân dân.
Đông thời chủ trương thực hiện cơ chế làm chủ thông qua đại diện và các cơ
quan dân cử, các đoàn thể, các hình thức làm chủ trực tiếp như “nhân dân tự
quan”, “quy ước, hương ước tại cơ sở phù hợp với pháp luật của Nhà nước”,
nhằm vừa phát huy quyền làm chủ của nhân dân, vừa mở rộng và tạo mọi điều
kiện để tập hợp nhân dân. Đại hội lần thứ X của Đảng đề ra chủ trương: mở rộng
và đa daing hoá các hình thức tập hợp nhân dân, nâng cao vị trí, vai trò của Mặt
trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể nhân dân... sớm ban hành Luật về hội
quần chúng.
Các cơ quan Nhà nước tạo diều kiện pháp lý cần thiết để các tổ chức chính
trị - xã hội hoạt động, phối hợp với các tổ chức trong thực hiện chủ trương,
đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước; xây dựng quy chế làm việc hoặc
trương trình phối hợp hoạt động với các tổ chức chính trị - xã hội, tạo điieù kiện
cho các tổ chức này nắm được chương trình, kế hoạch của Chính phủ và chính
quyền các cấp, cung cấp những thông tin cần thiết để từ đó xây dựng phương
hướng, nhiệm vụ hoạt động của mình. Nhà nước còn cấp phát, phân bổ ngân
sách và quản lý tài chính đảm bảo hoạt động của các tổ chức chính trị - xã hội
được chủ động và hiệu quả.
Quan hệ giữa các tổ chức chính trị - xã hội với Nhà nước được thực hiện
dưới các khía cạnh sau:
- Mặt trận Tổ quốc Việt nam các cấp và các tổ chức chính trị xã hội
tập hợp ý kiến , kiến nghị của nhân dân để phản ánh, kiến nghị với Đảng và Nhà
nước. Trên cơ sở nắm bắt tâm tư, nguyện vọng và các ý kiến của các tầng lớp
nhân dân về tình hình thực hiện chính sách , pháp luật tại địa phương về hoạt
động cảu các cơ quan, cán bộ nhà nước, Mặt trận Tổ quốc Việt nam và các đoàn
thể chính trị - xã hội phản ánh, kiến nghị với Đảng, chính quyền và các ngành có
liên quan. Nhiều kiến nghị đã đước các cơ quan nhà nước nghiên cứu, giả quyết
từng bước và trả lời công khai.
23
- Mặt trận Tổ quốc Việt Nam ở nhiều địa phương đã tăng cường chỉ
đạo hoạt động của ban thanh tra nhân dân, tiến hành kiểm tra, giám sát thực hiện
chính sách, pháp luật, sử dụng đất đai, nguồn vốn, góp phần tăng cường công tác
quản lý, giám sát những trương trình, kế hoạch, dự án ảnh hưởng trực tiếp tới
chính quyền và lợi ích của nhân dân
- Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức vhính trị - xã hội đã
phối hợp với chính quyền cải tiến nội dung và quy trình tiếp dân, xử lý đơn thư
khiếu lại, tố cáo và bước đầu phối hợp với chính quyền triển khai xây dựng và
thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở, nhằm thực hiện quyền dân chủ trực tiếp của
nhân dân.
- Tham gia xây dựng và củng cố chính quyền nhân dân như tích cực
tham gia các cuộc bầu cử các cơ quan dân cử các cấp theo luật định. Nhiều địa
phương đã xây dụng quy chế tổ chức các cuộc thiếp xúc giữa đại biểu dân chủ
và cử chi, góp phần quan trọng vào kết quả bầu cử và tuyển trọn thẩm phán toà
án nhân dân các cấp.
- Đề xuất sáng kiến pháp luật, tham gia góp ý xây dựng các chủ
trương, chính sách, pháp luật, pháp lệnh, văn bản pháp quy thuộc nhiều lĩnh vực
kinh tế, văn hoá, xã hội...Nhiều kiến nghị, đề xuất đã được Nhà nuớc nghiên
cứu, tiếp thu và đưa vào chủ trương, chính sách.
Quan hệ giữa Mặt trận Tổ quốc Việt Nam với Nhà nước đã được ghi
trong Luật Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là quan hệ phối hợp để thực hiện nhiệm
vụ và quyền hạn theo quy định của Hiến pháp và pháp luật.Uỷ ban Mặt trận Tổ
quốc Việt Nam và hầu hết uỷ ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cấp tỉnh, cấp
huyện, đã xây dựng được quy chế phối hợp công tác giữa Mặt trận và Quốc hội,
Chính phủ, Toà án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân, Hội đồng nhân dân và Uỷ
ban nhân dân cùng cấp. Qua một số hoạt động trên, mối quan hệ giữa Mặt trận
và chính quyền được tăng cường và dần dần đi vào nếp. Ở nhiều nơi, chính
quyền đã quan tâm phối hợp, tạo điều kiện để Mặt trận hoạt động có hiệu quả
hơn. Tuy nhiên, quy chế phối hợp giữa Mặt trận Tổ quốc Và chính quyền các
cấp, đặt biệt ở cơ sở còn nhiều bất cập, hoạt động của Mặt trận Tổ quốc chưa
mang tính độc lập.
24
Nhà nước dựa vào Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể để phát
huy quyền làm chủ và sức mạnh có tổ chức của nhân dân, tôn trọng và tạo điều
kiện để nhân dân trực tiếp hoặc thông qua đoàn thể của mình, để xây dựng, quản
lý, bảo vệ Nhà nước, hướng dẫn và tạo điều kiện cho các tầng lớp nhân dân ở cơ
sở tham gia rộng rãi và thường xuyên vào việc quản lý kinh tế và đời sống xã
hội. Đó cũng là sức mạnh của bản thân Nhà nước.
2.2. Những mặt hạn chế và nguyên nhân của quan hệ giữa Đảng, Nhà
nước, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể chính trị - xã hội
2.2.1. Những mặt hạn chế
Một là, sự lãnh đạo của Đảng chưa đàp ứng được yêu cầu của quá trình
đổi mới tổ chức, hoạt động của nhà nước. Tình trạng bao biện lam thay chính
quyền vẫn còn diên ra ở nhiều cấp, nhiều nơi, tình trạng chồng chéo trong quan
hệ giữa Đảng, Nhà nước và các đoàn thể đã làm hạn chế vai trò của các tổ chức
của Đảng, Nhà nước và các đoàn thể; phương thức lãnh đạo vẫn còn vướng mắc,
bất cập, có tình trạng các cơ quan chính quyền và đoàn thể còn thụ động, chưa
phát huy tốt vai trò của mình.
Hai là, chưa phân rõ, lẫn lộn chức năng, quyền hạn giữa Đảng lãnh đạo
với Nhà nước quản lý, bộ máy Đảng bị “nhà nước hoá”, cồng kềnh, không rõ chức
năng lãnh đạo, cơ chế tập trung, quan liêu bao cấp và mệnh lệnh vẫn còn in dấu
khá sâu sắc trong các quan hệ trong hệ thống chính trị. Thủ tục giấy tờ nhiều phiền
hà còn nặng và thiếu nhất quán của hệ thống, nhiều khi mâu thuẫn đối lập nhau.
Ba là, cơ chế Đảng lãnh đạo – Nhà nước quản lý – nhân dân làm chủ đã
được xác định từ lâu, nhưng chưa được nghiên cứu cụ thể hoá. Đảng vừa giữa
vai trò lãnh đạo vừ là thành viên của Mặt trận Tổ quốc, chưa được hiểu đúng và
chưa có cơ chế cụ thể, hữu hiệu để thực hiện quan điểm đó. Còn có tình trạng
coi Đảng đứng trên, đứng ngoài Mặt trận. Nhiều nơi coi Đảng đứng trên Mặt
trận, tổ chức đảng, cán bộ, đảng viên can thiệp quá sâu, không đúng chức năng
nhiệm vụ của Đảng đối với công việc của các tổ chức. Nhiều chế độ, chính sách
của Đảng đối với Mặt trận và các tổ chức chính trị - xã hội khác ở nước ta hiện
nay vẫn chưa có sự đổi mới về thực chất và căn bản thậm chí không còn phù
hợp không theo kịp với tình hình. Đảng chỉ đạo quá trình đổi mới tổ chức và
hoạt động của các tổ chức chính trị xã hội nói chung chưa theo kịp sự đổi mới về
25
kinh tế - xã hội. Đảng lãnh đạo Nhà nước, thể chế hoá các chủ trương của Đảng
đối với các tổ chức chính trị - xã hội nói chung còn chậm, thiếu dồng bộ và chưa
kiểm tra và đôn đốc chặt chẽ để việc thực hiện được nhgiêm túc. Vai trò của một
số Đảng đoàn chưa thật rõ nét không có quy định về Đảng đoàn cấp trên và
Đảng đoàn cấp dưới, nên khi Đảng đoàn cấp trên phát hiện thiếu sót của các tổ
chức cấp dưới thì rất khó trong chỉ đạo giải quyết.
Bốn là, Bộ máy hành chính còn nhiều tầng, nhiều nấc làm cho vịêc quản
lý các quá trình kinh tế, xã hội chưa thật nhanh, nhạy và có hiệu quả. Bộ máy
nhà nước ta chưa thật trong sạch vững mạnh, tình trạng tham nhũng lãng phí,
quan liêu còn nghiêm trọng chưa được ngăn chặn; hiệu kực quản lý điều hành
chưa nghiêm; kỷ cương xã hội bị buông lỏng, làm giảm sút niềm tin của nhân
dân đối với Đảng và Nhà nước; tình trạng Nhà nước xa dân, dân thiếu gắn bó
với Nhà nước đang là một thực tế không thể xem nhẹ.
Năm là, phương thức tổ chức, phong cách hoạt động của Mặt trận và các
đoàn thể vẫn còn tình trạng xơ cứng, chậm đổi mới, một số cán bộ đoàn thể bị
viên chức hoá, chưa thật gắn bó với quần chúng. Nạn tham nhũng trong hệ
thống còn trầm trọng, quyền làm chủ của nhân dân ở nhiều nơi bị vi phạm
nghiêm trọng. (xem 5,tr. 256 - 262)
2.2.2. Nguyên nhân của những mặt hạn chế, yếu kém
Một là, về nhận thức, chưa làm sáng tỏ tính độc lập tương đối của mỗi tổ
chức trong hệ thống chính trị, về sự chế ước lẫn nhau giữa các nhánh quyền lực,
chưa nhận thức đầy đủ, đúng đắn về vai trò, chức năng, nhiệm vụ và quan hệ
của các tổ chức trong hệ thống chính trị ở nước ta trong giai đoạn hiện nay.
Thứ hai, chưa đi sâu nghiên cứu để làm sáng tỏ cơ sở lý luận về quan hệ
giữa các tổ chức trong hệ thống chính trị, do đó, các tiêu chí cơ cấu quan hệ giữa
các bộ phận trong hệ thống chưa rõ ràng, chồng chéo, song trùng, một hệ thống
lẫn lộn chức năng, Đảng làm việc Nhà nước, Nhà nước làm việc của Mặt trận,
Mặt trận và các đoàn thể làm việc của Nhà nước hoặc như một cơ quan Nhà
nước, tính chất quần chúng của các tổ chức này không rõ ràng.
Ba là, phương thức lãnh đạo của Đảng chậm đổi mới. Việc đổi mới hệ
thống chính trị, đổi mới quan hệ giữa Đảng, Nhà nước và các tổ chức chính trị -
xã hội chưa được quan tâm đúng mức.
26
Bốn là, đội ngũ cán bộ trong các cơ quan Đảng, Nhà nước và các tổ chức
chính trị - xã hội còn nhiều bất cập trước yêu cầu mới, thiếu và yếu cả về phẩm
chất chính trị, trình độ trí tuệ, năng lực chuyên môn, phương pháp, tác phong
công tác, năng lực vận động thuyết phục quần chúng, một số thiếu gương mẫu
về đạo đức, lối sống.
Năm là, năng lực thể chế hoá đường lối của Đảng, triển khai thực hiện
năng lực điều hành của Nhà nước còn bất cập trước đòi hỏi thực tiễn. Vai trò
giám sát, phản biện của các ban của Đảng, của các tổ chức chính trị - xã hội còn
yếu kém, chưa có cơ chế hợp lý để phát huy vai trò của các bộ phận này.
Sáu là, thiếu một hệ thống pháp luật hoàn chỉnh để luật pháp hoá các quan
hệ giữa các tổ chức trong hệ thống chính trị, quyền lợi, nghĩa vụ và trách nhiệm
của các tổ chức, của từng thành viên trong các tổ chức và của từng công dân.
2.3. Những vấn đề đặt ra nhằm đổi mới quan hệ giữa Đảng, Nhà
nước, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị xã hội trong tiến trình đổi
mới và hội nhập quốc tế
Một là, thiết lập quan hệ gắp bó mật thiết giữa Đảng, Nhà nước và các Tổ
chức chính trị - xã hội với nhân dân trên thực tế một cách thực chất và đi vào
chiều sâu trên các lĩnh vực của đời sống xã hội. Một số cán bộ, đảng viên xa dân
trong công việc trong cách nghĩ, trong lối sống, trong mức sống. Dân xa cán bộ,
đảng viên (một số có chức quyền, tha hoá, biến chất) trong sự phân hoá giàu
nghèo, trong tình cảm, niềm tin, lối sống, mức sống.
Hai là, tăng tính hiệu lực, hoạt động đúng chức năng của các tổ chức
trong hệ thông chính trị. Chúng ta đã nói nhiều về cải cách hành chính, cải cách
tổ chức, bộ máy của các tổ chức trong hệ thống chính tri, nhưng trên thực tế các
bộ máy ấy càng ngày càng phình to ra, cồng kềnh, nhiều tầng nấc, trong một số
công việc, lĩnh vực đã gây ách tắc và cản trở công việc. Cải cách hnàh chính
thiếu triệt để; nhận thức không đúng đắn quan hệ giữa dân chủ và tập trung dẫn
đến tình trạng vừa thừa dân chủ, vừ thiếu dân chủ, vừa tập trung quan liêu, vừa
vô chính phủ; sự lẫn lộn chức năng các tổ chức trong hệ thống chính trị... Tất cả
đã làm suy giảm quyền lực, hiệu lực của các tổ chức trong hệ thống chính trị ở
nước ta hiện nay. Đây là vấn đề bức xúc đặt ra phải giải quyết.
27
Ba là, đổi mới và cụ thể hoá quy trình vận hành của cơ chế: Đảng lãnh
đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ. Đổi mới nội dung, phương thức, quy
trình vận hành của cơ chế Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ
là sự tìm tòi, nỗ lực thường xuyên, chủ động sáng tạo, của từng chủ thể trong
từng tổ chức của hệ thống chính trị; nhưng phải có chủ trương, biện phát đủ
mạnh ở tầm vĩ mô cho cảc hệ thống để thực hiện.
Bốn là, cải cách hành chính Nhà nước, xây dựng hệ thống pháp luật.
Trong cải cách hành chính cafn tập trung các khâu then chốt:
+ Cải cách ttổ chức bộ máy gọn nhẹ, xác định rõ vị trí vai trò, chức năng,
nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm của từng tổ chức cá nhân.
+ Cải cách thủ tục hành chính, bớt đi nhưng công văn, quy định rườm rà...
gây khó khăn, phiền hà cho người dân. Đơn giản hoá các thủ tục không cần thiết
thực hiện “một dấu, một cửa”, nhưng trách cử quyền.
+ Cải cách công chức hành chính nhằm tăng chất lượng, hiệu suất phục
vụ của công chức. Cán bộ, công chức phải gần dân, sát dân, trọng dân, trọng
phát, có tâm, có tài, thực sự là “công bộc của dân”.
Năm là, Nâng cao dân trí, thực hiện dân chủ, cải thiện dân sinh. Để nhân
dân có thể thực sự làm chủ thể tích cực trong quan hệ vững chắc vơi Đảng, Nhà
nước, và các tổ chức chính trị - xã hội, họ phải được phát triển đầy đủ cả ba mặt:
dân trí, dân chủ, dân sinh.
Sáu là, xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý, người đứng đầu các tổ
chức trong hệ thống chính trị các cấp.
Công tác cán bộ có vai trò vô cùng quan trọng, liên quan đến thành bại của
sự nghiệp cách mạng, thành bại của công cuộc đổi mới đòi hỏi người làm công tác
này phải hội tụ đủ các đức tính cần thiết; bản lĩnh chính trị vững vàng, phẩm chất
đạo đức trong sáng, trung thực, khách quan, công tâm, vô tư, giữ vững nguyên tắc,
có tầm nhìn chiến lược, bố trí, sử dụng đúng người, đúng việc vì lợi ích chung.
Bảy là, hướng về cơ sở, xây dựng hệ thống chính trị - xã hội ở cơ sở vững
chắc, giảm bớt cấp trung gian. Hệ thống chính trị ở cơ sở có vi trí vai trò cực kỳ
quan trọng, là nền tảng của Đảng và Nhà nước nhưng hiện nay lại là nơi có
nhiều yếu kém bất cập...
28
Chương 3
MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM ĐỔI MỚI QUAN HỆ GIỮA ĐẢNG, NHÀ
NƯỚC, MẶT TRẬN TỔ QUỐC VÀ CÁC ĐOÀN THỂ
CHÍNH TRỊ - XÃ HỘI
3.1. Những quan điểm của Đảng trong thời kỳ đổi mới về mối quan
hệ giữa Đảng, Nhà nước và các đoàn thể chính trị - xã hội
Từ khi Đại hội Đảng VI khởi sướng đường lối dổi mới (12. 1986) đến
nay, công cuộc đổi mới diễn ra ở nước ta đã trải qua hơn 20 năm. Những kết quả
bước đầu trong quan điểm của đảng trong thời kỳ đổi mới về đổi mới quan hệ
chính trị nói chung và đổi mới quan hệ giữa Đảng, Nhà nước và các tổ chức
chính trị - xã hội ở nước ta nói riêng. Từ những quan điểm đó có thể thấy những
bước tiến của Đảng trong nhận thức lý luận và tổ chức thực hiện các công tác
thực tế đã đạt được, cùng những hạn chế và những vẫn đề đặt ra cần tiếp tục giả
quyết.
Thứ nhất, Với đổi mới, lần đầu tiên, vấn đề dân chủ và hệ thống chính tri,
dân chủ hoá các lĩnh vực đời sống và xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa,
đổi mới nội dung phương thức lãnh đạo của Đảng, xác lập quan hệ giữa Đảng,
Nhà nước và các tổ chức chính trị - xã hội trong hệ thống chính trị đặt ra một
cách thực tiễn trong đời sống chính trị, một cách bức xúc trong đổi mới. Những
nhận thức mới của Đảng trong quan niệm về chủ nghĩa xã hội và con đường đi
lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta ngày một rõ hơn, sáng tỏ hơn. Trong những nhận
thức lý luận chung đó có bao hàm lý luận chính trị của chủ nghĩa xã hội. Đó
chính là lý luận về dân chủ và hệ thống chính trị mà điều mấu chốt là nhận thức
về quan hệ giữa Đảng, Nhà nước và các tổ chức chính trị xã hội cũng như quan
hệ giữa hệ thống chíng trị với nhân dân và xã hội. Những nhận thức mới đó dựa
trên cơ sở lý luận Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh đã đước khẳng địinh
trong văn kiện, Nghị quyết của mình, coi chủ nghĩa Mác – Lênin, tưởng Hồ Chí
Minh là ý thức hệ chủ đạo của xã hội, nền tảng tư tưởng của đổi mới, là kim chi
nam hành động của cách mạng Việt Nam. (xem 5, tr.57)
Hai là, đổi mới chính trị ở nước ta thực chất là đổi mới hệ thống chính trị,
là dân chủ hoá hệ thống chính trị mà điểm mấu chốt là đổi mới quan hệ giữa
29
Đảng với Nhà nước khi Đảng ở vị trí cầm quyền, đổi mới quan hệ giữa Đảng,
Nhà nước và các tổ chức chính trị - xã hội với nhân dân. Nôi dung chủ yếu và
trực tiếp của các quan hệ này là phân định, phân biệt chức năng, thẩm quyền,
phương thức tổ chức và phương pháp hoạt động giữa các tổ chức đó trong hệ
thống chính trị, trong đời sỗng xã hội để dân chủ được đảm bảo và quyền dân
chủ, quyền làm chủ của nhân dân được thực hiện, được phát huy. Để thực hiện
yêu cầu đó, cần phải làm rõ vai trò, chức năng lãnh đạo của Đảng, những đặc
trưng và thẩm quyền quản lý của nhà nước, vai trò của các tổ chức chính trị xã
hội đại diện cho nhân dân tham gia vào công việc xây dựng, quản lý Nhà nước,
kiểm tra, giám sát việc thực thi quyền lực nhân dân.
Ba là, trong thời kỳ hiện nay, cần tập trung giải quyết những vấn đề bức
xúc, góp phần củng cố vững chắc ổn định chính tri và làm lành mạnh môi
trường xã hội, củng cố khối đại đoàn kết dân tộc, đảm bảo sức mạnh cơ sở xã
hội của Đảng, Nhà nước và xã hội ta.
3.2. Một số giải pháp nhằm đổi mới quan hệ giữa Đảng, Nhà nước,
Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội trong tiến trình đổi mới
và hội nhập quốc tế
Trên cơ sở lý luận và thực tiễn nêu trên tiểu luận xin đưa ra một số giải
pháp nhằm đổi mới quan hệ giữa Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và các
đoàn thể chính trị - xã hội trong tiến trình đổi mới và hội nhập quốc tế:
Thứ nhất, đổi mới chính trị ở nước ta hiện nay thực chất là đổi mới hệ
thống chính trị, là dân chủ hoá chính trị mà điểm mấu chốt là đổi mới quan hệ
giữa Đảng, Nhà nước và các tổ chức chính trị - xã hội và với nhân dân. Việc đổi
mới quan hệ giữa Đảng, Nhà nước và các tổ chức chính trị - xã hội không tách
rời việc đổi mới bản thân từng thành tố trong hệ thống chính trị. Đổi mới chỉnh
đốn Đảng, đặc biệt đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng để đảm bảo Đảng là
lực lượng lãnh đạo của xã hội, lãnh đạo nhà nước. Đổi mới hệ thông tổ chức của
Đảng, trước hết là hệ thống ở cấp trung ương cần được đổi mới, Sắp xếp như thế
nào để không rời vào khuynh hướng “nhà nước hoá”, để quan hệ giữa các cơ
quan lãnh đạo cấp cao của Đảng với các cơ quan lãnh đạo của Nhà nước và các
tổ chức chính trị - xã hội (ở trung ương) được định tính và định lượng rõ ràng,
không chồng chéo, trùng lặp, lẫn lộn chức năng, bao biện, làm thay,buông lỏng
30
lãnh đạo. Đổi mới các tổ chức chính trị - xã hội, khắc phục tình trạng hành chính
hoá, quan liêu hoá và hình thức hoá. Đổi mới quan hệ giữa Đảng, Nhà nước và
các tổ chức chính trị - xã hội một cách thực chất, nhất quán, có hiệu quả. Phải
thiết thực rõ ràng, chính xác sự phân định chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền, nội
dung, phương thức hoạt động, phương pháp là việc. Phải tạo ra được hệ thống
chính trị dân chủ, năng động, hiệu lực, hiệu quả; tạo ra chuyển biến tích cực,
thực sự trong đấu tranh chống quan liêu, tham nhũng.
Thứ hai, đổi mới quan hệ giữa Đảng, Nhà nước và các tổ chức chính trị -
xã hội phải trên cơ sở nhận thức rõ sự tác động của tình hình, bối cảnh mới của
đất nước và quốc tế; phải gĩư vưng, tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng, phát
huy tính chủ động, sáng tạo của Nhà nước và các tổ chức chính trị - xã hội, thực
hiện dân chủ, phát huy quyền làm chủ trên thực tế của nhân dân; phải trên cơ sở
xác định rõ vị trí, chức năng, nhiệm vụ và phương thức vận hành của từng tổ
chức trong hệ thống chính trị; phải gắn liền với đổi mới toàn bộ hệ thống chính
trị với đổi mới chỉnh đốn Đảng, cải cách, hoàn thiện bộ máy nhà nước, kiện
toàn, củng cố các tổ chức chính trị – xã hội; gắn liền với phương thức lãnh đạo
của Đảng đối với Nhà nước và các tổ chức chính trị - xã hội. Đổi mới quan hệ
giữa Đảng, Nhà nước và các tổ chức chính trị - xã hội cần tập trung giải quyết
được những vấn đề hạn chế có tính bức xúc hiện nay trong từng quan hệ cụ thể.
Thứ ba, đổi mới quan hệ giữa Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và các
đoàn thể chính trị - xã hội cầ nắm vững các nguyên tắc: lấy đổi mới Đảng, đổi
mới quan hệ giữa Đảng với Nhà nước làm trọng tâm. Dân chủ hoá quan hệ đa
dạng, nhiều chiều trong sự tương tác lẫn nhau giữa các bộ phận cơ bản cấu thành
hệ thống; luôn quán triệt tư tưởng “lấy dân làm gốc” trong quá trình đổi mới;
hướng vào việc củng cố tăng cường quyền làm chủ của nhân dân, làm cho dân
chủ xã hội nhày càng tốt hơn. Phân rõ chức năng của Đảngđối với công tác cán
bộ và quản lý cán bộ của toàn bộ hệ thống chính trị. Giữa vững nguyên tăc lãnh
đạo toàn diện của Đảng trong quá trình đổi mới; đồng thời phát huy tính chủ
động, sáng tạo của Nhà nước và các tổ chức chính trị - xã hội. Đổi mới cơ bản,
toàn diện, sâu sắc với phương châm thận trọng, vững chắc, có bước đi thích hợp,
có trọng điểm. Nâng cao phẩm chất, trí tuệ đội ngũ cán bộ trong bộ máy Đảng,
Nhà nước; tinh giản bộ máy; củng cố hệ thống mật thiết, máu thịt với nhân dân,
31
Phải thắng được các lực cản trong quá trình đổi mới, đó là: tư duy giáo điều và
của nghĩa giáo điều, cơ hội, sự thấp kém về trí tuệ, sự thoái hoá biến chất và chủ
nghĩa cá nhân.
Thứ tư, nội dung lãnh đạo quan trọng hàng đầu của Đảng đối với Nhà
nước ta thực sự là Nhà nước của dân, do dân, vì dân, một nhà nước trong sạch,
dân chủ và hiện đại. Đảng lãnh đạo không phải làm thay Nhà nước, Nhà nước
cần có thực quyền cả ba mặt: lập pháp, hành pháp và tư pháp. Đảng không quyết
định vấn đề thuộc chức năng và quyền hạn của Quốc hội, Chính phủ, Toà án
được nhân dân uỷ nhiệm. Đảng lãnh đạo Nhà nước xây dựng Hiến pháp và ban
hành pháp luật, song mọi đảng viên của tổ chức đảng phải hoạt động trong
khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật. Nhà nước pháp quyền là một nhà nước mà
pháp luật là tối thượng, không ai có quyền đứng trên và đứng ngoài pháp luật.
Đảng đề ra quan điểm, đường lối, chính sách lớn có ý nghĩa định hướng cho
công tác tổ chức cán bộ. Đảng lãnh đạo Nhà nước và lãnh đạo các tổ chức chính
trị - xã hội trong hệ thống chính trị bằng Cương lĩnh, đường lối, chủ ttương,
chiến lược; về các định hướng về chính sách lớn; bằng công tác tuyên truyền,
thuyết phục, bằng công tác kiểm tra; bằng hành động gương mẫu của đảng viên,
bằng việc giới thiệu những đảng viên có đức, có tài, có uy tín tham gia vào
cương vị lãnh đạo trong bộ máy nhà nước và các tổ chức chính trị - xã hội.
Sự lãnh đạo của Đảng đối với Quốc hội là sự lãnh đạo đối với các cơ quan
quyền lực nhà nước cao nhất, cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân; là sự lãnh
đạo đối với một thể chế tạo lập nền tảng chính trị, pháp lý cho sự tồn tại và phát
triển của Nhà nước và xã hội ta, là sự lãnh đạo đối với một thể chế vừa là Nhà
nước vừa là nhân dân; là sự lãnh đạo đối với một tổ chức bao gồm những đại
biểu là hình ảnh của “nhân dân thu nhỏ”, là hiện thân của sức mạnh vô địch của
khối đại đoàn kết toàn dân được thông nhất lại dưới hình thức Nhà nước.
Đổi mới nội dung và phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Quốc hội
phải đảm bảo cho nền tảng chính trị - pháp lý của quốc gia phát triển bền vững,
tăng cường quan hệ mật thiết giữa Đảng với Quốc hội và nhân dân. Đảng lãnh
đạo định hướng hoạt động lập hiến, lập pháp; lãnh đạo việc xây dựng tổ quốc và
đội ngũ cán bộ cho công tác lập pháp; lãnh đạo Quốc hội quyết định các vấn đề
32
quan trọng của đất nước; lãnh đạo quốc hội thực hiện chức năng giám sát tối cao
toàn bộ hoạt động của Nhà nước.
Thứ năm, nâng cao và phát huy vai trò, quyền hạn, nhiệm vụ của các tổ
chức chính trị - xã hội. Xây dựng cơ chế và hoàn thiện cơ chế phản biện xã hội
và giám sát xã hội của các tổ chức chính trị xã hội. Phát huy tính chủ động của
các tổ chức chính trị - hội trong việc giải quyết những vấn đề hàng ngày, hàng
giờ quan hệ tới đời sống vật chất, tinh thần của người dân, không thụ động thụ
động ngồi chờ nghị quyết của Đảng để chấp hành. Các tổ chức náy f phải thực
sự đại diện cho lược lượng được quyền “biết, bàn, làm, kiểm tra, giám sát và
quyết định” mọi việc của đất nước ở tất cả các cấp, trong phạm vi không trái
Hiến phát và phát luật.
Nhà nước cần thể chế hoá quyền giám sát của các tổ chức chính trị - xã
hội đối với công việc của mình, không chỉ thông qua việc báo cáo của Chính phủ
và Quốc hội, boá cáo của uỷ ban nhân dân với Hội đồng nhân dân và cả việc báo
cáo những công việc có liên quan tới các giới, các tầng lớp nhân dân trước các đại
biểu của họ là cơ quan lãnh đạo các tổ chức chính trị - xã hội, coi những chấp vấn
của các cơ quan đó có giá trị ngang các chấp vấn của các đại biểu dân cử.
Sử dụng các tổ chức chính trị - xã hội như một lực lượng làm phả biện xã
hội, thường xuyên giám sát chính quyền.
Thứ sáu, đổi mới và hoàn thiện các quan hệ giữa Đảng, Nhà nước và các
tổ chức chính trị - xã hội liên quan tới nội tại từng tổ chức và hệ thống các tổ
chức; đồng thời, liên quan đến quan hệ giữa các tổ chức này với nhân dân và xã
hội mà mực tiêu sâu xa là cùng hướng vào phát triển dân chủ, phát huy quyền
làm chủ của dân để phục vụ dân. Quan hệ cơ bản, mấu chốt và bao trùm trong
các quan hệ chính trị là quan hệ với dân, phát triển vững chắc cơ sơ xã hội của
chế độ là lòng dân, sức dân, lực lược của dân, hành động tự giác, sáng tạo của
dân. Đó là điểm xuất phát và mục đích của việc nghiên cứu và tổ chức thực hiện
các quan hệ chính trị là quan hệ với dân, phát triển vững chắc cơ sở xã hội của
chế độ là lòng dân, sức dân, lực lược của dân, hành động tư giác, sáng tạo chủa
dân. Đó phải là điểm xuất phát và mục đích của việc nghiên cứu và tổ chức thực
hiện các quan hệ , là cơ sở để xây dựng Đảng, chính quyền Nhà nước và các tổ
chức chính trị xã hội ở nước ta.
33
Dân là gốc, là nền tảng và đồng thời là quyết định của mọi giải pháp được
đề cập tới, đó là những nhóm giải pháp đổi mới, từ đổi mới nhận thức đến đổi
mới tổ chức, từ công tác cán bộ đến chính sách cán bộ, từ hoàn thiện thể chế,
quy chế và cơ chế đến thực hành dân chủ, từ tạo lập môi trường xã hội lành
mạnh đến giáo dục và trau dồi văn hoá, lối sống, đạo đức trong toàn xã hội,
trước hết trong Đảng, Nhà nước và hệ thống chính trị. các nhóm giải pháp đó và
những giải pháp tương ứng, cụ thể khi thực thi lại phải đồng bộ và có những
diều kiện đảm bảo để đem lại hiệu quả thiết thực, trước mắt cũng như cơ bản,
lâu dài cho ổn định tích cực và phát triển bền vững.
34
KẾT LUẬN
Thực chất quan hệ hội giữa Đảng, Nhà nước và Mặt trận Tổ quốc và các
đoàn thể chính trị xã hội là quan hệ với nhân dân với xã hội. Đổi mới quan hệ
giữa Đảng với Nhà nước và các đoàn thể chính trị xã hội là nội dung chủ yếu và
căn bản của đổi mới hệ thống chính trị nước ta hiện nay. Với ý nghĩa hết sức
quan trọng đó song trên thực tế mối quan hệ ấy vấn còn tồn tại nhiều hạn chế:
tình trạng chồng chéo trong quan hệ Đảng, Nhà nước và đoàn thể chính trị xã
hội, chưa phân định rõ, lẫn lộn chức năng, quyền hạn giữa Đảng lãnh đạo và
Nhà nước quản lý, bộ máy Đảng bị “nhà nước hoá”, cồng kềnh, không phân rõ
chức năng lãnh đạo, tình trạng “song trùng quyền lực” diễn ra mở nhiều cấp,
nhiều ngành. Hoạt động của Mặt trận Tổ quốc và các doàn thể chính trị - xã hội
còn mang tính chất hành chính hoá, chưa phát huy hết vai trò giám sát và phản
biện xã hội của quần chúng nhân dân, hoạt động dân chủ còn kém hiệu quả,
nhiều nơi dẫn đến tình trạng Đảng xa rời dân, dân xa rời Đảng. Chính vì vậy vấn
đề đặt ra trong thời kỳ đổi mới và hội nhập ngày nay là phải đổi mới quan hệ
giữa đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị xã hội. Đây
cũng là thực chất của đổi mới chính trị nhằm xây dựng một nền chính trị thực sự
của dân, do dân, vì dân đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững của nước ta thời kỳ
đẩy mạnh Công nghiệp hoá, Hiện đại hoá và hội nhập quốc kinh tế, quốc tế vì
mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ văn minh.
35
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Nguyễn Đức Bình, Trần Ngọc Hiên, Đoàn Trọng Truyến, Nguyễn Văn Thảo,
Trần Xuân Sơn (đồng chủ biên), Đổi mới và tăng cường hệ thống chính trị
nước ta trong giai đoạn mới, Nxb chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1999.
2. TS. Nguyễn Hữu Đổng, Đảng và các tổ chức chính trị xã hội trong hệ thống
chính trị Việt Nam hiện nay, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2009.
3. Điều lệ Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2004.
4. Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh. Phân viện Báo chí và Tuyên
truyền. Khoa Chính trị học, Chính trị học đại cương, Nxb Chính trị Quốc
gia, Hà Nội, 1999.
5. GS.TS. Lê Hữu Nghĩa, Đổi mới quan hệ giữa Đảng, Nhà nước và các tổ
chức chính trị - xã hội trong hệ thống chính trị ở Việt Nam, Nxb Chính trị
Quốc gia, Hà Nội, 2008.
6. Lê Văn Quang, Văn Đức Thanh, Quan hệ giữa nhà nước và xã hội dân sự
Việt Nam – lịch sử và hiện tại, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2003.
7. GS.VS. Nguyễn Duy Quý, Hệ thống chính trị nước ta trong thời kỳ đổi
mới, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2003.
8. TS. Đỗ Quang Tuấn, Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Mặt
trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân trong thời kỳ đổi mới, Nxb chính trị
Quốc gia, Hà Nội
9. http://www.ubmttq.hochiminhcity.gov.vn/web/tintuc/clefault.asps .
Mối quan hệ giữa Mặt trận và các thành viên trong hệ thống chính trị
10.http://www.thongtinphapluatdansu.wordpress.com.vn
Tiếp tục đổi mới hoàn thiện các quan hệ giữa Đảng, Nhà nước và các tổ chức
chính trị xã hội ở nước ta.
36
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU.................................................................................................................................1
1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI..................................................................................................1
2. TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI............................................................................2
3. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU................................................................3
4. CƠ SỞ LÝ LUẬN..........................................................................................................3
5. CHỨC NĂNG VÀ NHIỆM VỤ CỦA TIỂU LUẬN.....................................................3
6. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU..................................................................................4
7. KẾT CẤU CỦA TIỂU LUẬN........................................................................................4
NỘI DUNGF..........................................................................................................................5
Chương 1:MỘT SỐ VẤN ĐÊ LÝ LUẬN VỀ MỐI QUAN HỆ GIỮA ĐẢNG, NHÀ
NƯỚC, MẶT TRẬN TỔ QUỐC VÀ CÁC ĐOÀN THỂ CHÍNH TRỊ - XÃ HỘI.....5
1.1.Khái niệm về hệ thống chính trị ở Việt Nam.....................................51.2. Quan điểm Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về quan hệ giữa Đảng,
Nhà nước và các tổ chức chính trị - xã hội............................................61.3. Sơ lược về quá trình hình thành và phát triển quan điểm giữa Đảng, Nhà
nước và các tổ chức chính trị - xã hội ở nước ta....................................12Chương 2:THỰC TRẠNG VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA VỀ QUAN HỆ GIỮA
ĐẢNG, NHÀ NƯỚC, MẶT TRÂN TỔ QUỐC VÀ CÁC ĐOÀN THỂ CHÍNH TRỊ
XÃ HỘI TRONG TIẾN TRÌNH ĐỔI MỚI VÀ HỘI NHẬP......................................16
2.1. Thực trạng quan hệ giữa Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn
thể chính trị - xã hội trong tiến trình đổi mới và hội nhập quốc tế.....................16
2.2. Những mặt hạn chế và nguyên nhân của quan hệ giữa Đảng, Nhà nước,
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể chính trị - xã hội..................242.3. Những vấn đề dặt ra nhằm đổi mới quan hệ giữa Đảng, Nhà nước, Mặt
trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị xã hội trong tiến trình đổi mới và hội
nhập quốc tế..............................................................................26Chương 3:MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM ĐỔI MỚI QUAN HỆ GIỮA ĐẢNG,
NHÀ NƯỚC, MẶT TRẬN TỔ QUỐC VÀ CÁC ĐOÀN THỂ CHÍNH TRỊ - XÃ
HỘI 27
3.1. Những quan điểm của Đảng trong thời kỳ đổi mới về mối quan hệ giữa Đảng,
Nhà nước và các đoàn thể chính trị - xã hội.............................................................28
3.2. Một số giải pháp nhằm đổi mới quan hệ giữa Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ
quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội trong tiến trình đổi mới và hội nhập quốc
tế...................................................................................................................................29
KẾT LUẬN..............................................................................................................................34
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO...............................................................................35
37