105
i GIÁO TRÌNH MÔN Ging Viên: Truyền đạo Nguyễn Phƣơng Nam THÁNH KINH TRUNG CP VAD (Ban Hc Vca VCFK) PHƢƠNG PHÁP CHỨNG ĐẠO

PHƢƠNG PHÁP CHỨNG ĐẠ · Đạo đtheo chữ Hán có nghĩa en là con đƣờng, nghĩa bóng là chỉ về một phƣơng hƣớng, một đƣờng lối dẫn con ngƣời

  • Upload
    others

  • View
    5

  • Download
    0

Embed Size (px)

Citation preview

  • i

    GIÁO TRÌNH MÔN

    Giảng Viên:

    Truyền đạo Nguyễn Phƣơng Nam

    THÁNH KINH TRUNG CẤP

    VAD (Ban Học Vụ của VCFK)

    PHƢƠNG PHÁP CHỨNG ĐẠO

  • ii

    Trƣờng Kinh Thánh Việt Hàn

    http://vkbs2013.wordpress.com

    Dân số Việt Nam chúng ta đến nay có khoảng 90 triệu người.

    Trong 90 triệu người đó có khoảng 3 triệu người đã tiếp nhận Chúa

    Giêxu làm Chúa Cứu Thế cuộc đời mình, họ là những người đã được

    cứu, nhưng còn đến 87 triệu người còn lại vẫn chưa được cứu. Họ chưa

    tin Chúa có thể có nhiều lý do, nhưng lý do chính là vì họ chưa nghe

    được Phúc Âm của Ngài. Họ chưa nghe được Phúc Âm của Ngài là vì có

    quá nhiều Cơ Đốc nhân ngày nay coi nhẹ Đại mạng lệnh rao giảng Tin

    lành của Chúa đã truyền cho, như Kinh thánh đã nói:

    “Nhưng họ chưa tin Ngài thì kêu cầu sao được? Chưa nghe nói về

    Ngài thì làm thế nào mà tin? Nếu chẳng ai rao giảng, thì nghe làm sao?

    Lại nếu chẳng ai được sai đi, thì rao giảng thể nào? Như có chép rằng:

    Những bàn chân kẻ rao truyền Tin lành là tốt đẹp biết bao!”(Rôma

    10:14-15).

    Mục đích học môn “Phương Pháp Chứng Đạo” nhằm nhắc lại cho chúng

    ta Đại mạng lệnh rao truyền Tin lành của Chúa Giêxu, và những cách

    thức thực hiện Đại mạng lệnh đó một cách hiệu quả.

    Nguyện xin Đức Chúa Trời Ba Ngôi thêm sức mới và sự khôn ngoan cho

    chúng ta trong suốt khóa học, để mỗi học viên sẽ sớm trở nên tay đánh

    lưới người thật giỏi cho Chúa Cứu Thế Giêxu Christ, Cứu Chúa chúng ta.

    Incheon, 26/6/2014

    Truyền đạo NGUYỄN PHƢƠNG NAM

    Lời Ngỏ

  • iii

    MỤC LỤC

    Lời ngỏ ……………………………………………………………. ii

    Mục lục …………………………………………………………… iii

    Bài 1 – Tìm Hiểu Về Chứng Đạo ..................................................... 1

    Bài 2 - Những Điều Cần Có Của Người Chứng Đạo ...................... 12

    Bài 3 - Những Điều Cần Làm và Không làm Khi Đi Chứng Đạo … 18

    Bài 4 - Nội Dung Của Sứ Điệp Chứng Đạo ..................................... 28

    Bài 5 – Cách Sử Dụng Truyền Đạo Đơn ......................................... 41

    Bài 6 - Các Phương Pháp Chứng Đạo .............................................. 43

    Bài 7 – Tìm Hiểu Các Tôn Giáo ...................................................... 84

    Những Câu Kinh Thánh Cần Cho Việc Chứng Đạo ........................ 97

    Tài Liệu Tham Khảo ...................................................................... 102

  • 1

    BÀI 1

    TÌM HIỂU VỀ CHỨNG ĐẠO

    I. Định nghĩavề chứng Đạo.

    1. Hiểu về chữ “Đạo”

    Đạo theo chữ Hán có nghĩa đen là con đƣờng, nghĩa bóng là chỉ về

    một phƣơng hƣớng, một đƣờng lối dẫn con ngƣời đến một mục tiêu, một

    lý tƣởng nào đó.

    Trong sách Giăng 14:6, Chúa Giêxutuyên bố về Ngài rằng:

    “Ta là đường đi, chân lý và sự sống. Chẳng bởi ta ta thì không ai được

    đến cùng Cha.”

    Ở đây, Chúa Giêxu tuyên bố Ngài là con đƣờng, một con đƣờng duy

    nhất dẫn đến thiên đàng. Ngoài Ngài không có con đƣờng nào khác dẫn

    con ngƣời đến với Đức Chúa Trời, đến với sự cứu rỗi. “Đƣờng đi” ở đây

    đƣợc hiểu là Đạo.Chúa Giêxu là Đạo, là Chân lý duy nhất dẫn con ngƣời

    đến với sự sống đời đời.

    2. Hiểu về chữ “Tin Lành” hay “Phúc Âm”

    Mác 1:1 là lời đầu tiên của sách Phúc Âm nầy giới thiệu về Chúa

    Giêxu nhƣ vầy:

    “Đầu Tin lành của Đức Chúa Giêxu Christ, là Con Đức Chúa Trời.”

    Chữ “Tin lành” trong tiếng Hylạp là “εὐαγγελίοσ” đọclà “yu-eng-ge-lí-ou”.

    Chữ nầy là đƣợc ghép từ hai chữ“εὐ” có nghĩa là “tốt lành” với

    chữ“αγγελία”mang nghĩa là “tin tức”, “thông điệp.” Nhƣ vậy, khi ghép hai

    chữ này lại, chữ“εὐαγγελίοσ”mang ý nghĩa là “một tin tức tốt lành”, hay

    “một thông điệp tốt lành”. Tin lành hay tin tức tốt lành, còn đƣợc gọi là

    Phúc Âm. Vậy, “Đạo Tin lành” đƣợc hiểu đó là “Tin tức tốt lành của Chúa

    Giêxu.”

    Trong đêm Chúa Giêxu giáng sinh, các thiên sứ hiện ra cùng các gã

    chăn chiên đang thức đêm canh giữ bầy chiên ngoài đồng, mà phán rằng:

  • 2

    “Đừng sợ chi, vì nầy, ta báo cho các ngươi một Tin lành, sẽ là một sự vui

    mừng lớn cho muôn dân, ấy là hôm nay tại thành Đavít đã sanh cho các ngươi

    một Đấng Cứu Thế, là Christ, là Chúa”(Luca 2:10-11).

    Các thiên sứ loan báo rằng sự giáng sinh vào đời của Chúa Giêxu là

    một Tin lành, một tin tức tốt lành không phải chỉ dành riêng cho dân tộc

    Dothái, mà còn cho muôn dân trên khắp thế giới, trong đó có chúng ta.

    Ngài là Đấng Cứu Thế, tức là Đấng đến để tìm và cứu mọi tội nhân hƣ

    mất. Ngài là Christ, tức là Đấng chịu xức dầu và sai đi của Đức Chúa Trời

    để đến thế gian tìm và cứu ngƣời lạc mất. Chính Ngài cũng là Chúa, vì chỉ

    có một mình Đức Chúa Trời, Đấng thánh khiết, công bình, yêu thƣơng và

    toàn năng mới đủ tƣ cách và năng quyền để có thể giải cứu con ngƣời tội

    lỗi ra khỏi chốn ô uế và khổ hình mà thôi.

    Tin lành của Chúa Giêxu đƣợc gọi là “Tin tức tốt lành”, vì Tin lành

    nầy rao báo những điều mà Chúa Giêxu làm cho muôn dân nhƣ sau:

    - Chúa Giêxu đến thế gian, chết và sống lại để mang ơn tha thứ mọi

    tội cho con ngƣời (Rôma 4:25).

    - Chúa Giêxu mang đến cho con ngƣời một bản chất mới, thánh sạch và

    công bình (1 Giăng 1:9, 5:1, Êphêsô 4:24), làm cho chúng ta hòa thuận

    lại với Đức Chúa Trời, và trở nên con của Đức Chúa Trời (Giăng 1:12).

    - Ngài giải phóng chúng ta khỏi ách cai trị của tội lỗi, và ma quỷ(1 Giăng

    5:18).

    - Ngài ban cho chúng ta sự sống đời đời và nƣớc thiên đàng vinh hiển

    (Giăng 3:16, 14:2-3).

    3. Hiểu về “chứng Đạo.”

    Trong bản kinh thánh tiếng Hylạp, chữ“làm chứng về ta”là“ μοσ

    μάρτσρες”, đọc là“Mou már-tu-res”, mang ý nghĩa là “ngƣời làm chứng của

    ta”, hay “ngƣời làm chứng cho ta”

    Theo pháp lý, ngƣời làm chứng là ngƣời nói về một sựkiện, một sựviệc gì

    đó mà mình biết chắc, do chính mình trực tiếp thấy, hoặc nghe hoặc kinh

    nghiệm đƣợc. Ngƣời làm chứng không đƣợc phép nói thêm những gì mình

    không biết chắc, là điều mình suy đoán, hay bịa chuyện thêm thắt. Vậy,

    ngƣời làm chứng về Chúa Giêxu là ngƣời nói với Thân hữu về điều mình

    biết chính xác, rõ ràng về Chúa Giêxu, không nói thêm hay nói những

    điều không rõ về Ngài.

    Chữ chứng Đạo còn có một từ nữa là “εὐαγγελίζω”(đọc là „yu-

    eng-ge-lí-chồ „) có nghĩa là công bố, rao giảng Tin lành cho ngƣời khác.

  • 3

    Để hiểu đầy đủ về ý nghĩa của việc chứng Đạo, chúng ta cùng xem

    thêm đoạn Kinh thánh sau

    Trƣớc khi thăng thiên về trời, Chúa Giêxu phán cùng các môn đồ về

    việc làm chứng về Ngài mà rằng:

    “(46) Có lời chép rằng Đấng Christ phải chịu đau đớn dường ấy, ngày

    thứ ba sẽ từ kẻ chết sống lại, (47) và người ta sẽ nhân danh Ngài mà

    rao giảng cho dân các nước sự ăn năn để đƣợc tha tội, bắt đầu từ

    thành Giêrusalem. (48) Các ngươi làm chứng về mọi việc đó, ta đây

    sẽ ban cho các ngươi điều Cha ta đã hứa, (49) còn về phần các ngươi,

    hãy đợi trong thành cho đến khi được mặc lấy quyền phép từ trên

    cao”(Luca 24:46-49).

    Tại đây, chúng ta thấy nội dung căn bản của sứ điệp Phúc Âm mà

    Chúa Giêxu muốn các môn đồ cần rao giảng, đó là sứ điệp về sự chết, sự

    sống lại của Ngài, đồng thời kêu gọi tội nhân hãy ăn năn tội lỗi của chính

    mình và tin Chúa Giêxu để nhận đƣợc sự tha tội.

    Thêm nữa, Chúa Giêxu còn dạy các môn đồ cần phải mặc lấy quyền

    năng của Đức Thánh Linh khi ra đi rao giảng về Ngài. Công vụ 1:8 cũng

    thuật lại đại mạng lệnh của Ngài rằng:

    “Nhưng khi Đức Thánh Linh giáng trên các ngươi, thì các ngươi sẽ

    nhận lấy quyền phép, và làm chứng về ta tại thành Giêrusalem, cả xứ

    Giuđê, xứ Samari, cho đến cùng trái đất.”

    Sách Công vụ còn có thể hiểu đó sách nói về công việc của Đức

    Thánh Linh. Các môn đồ ra đi rao giảng Tin lành cách thành công là nhờ

    quyền năng của Đức Thánh Linh vận hành trên họ. Từ nay cho đến kỳ

    Chúa Giêxu tái lâm cũng vậy, việc chứng Đạo chỉ có kết quả khi mà có sự

    đồng công của Đức Thánh Linh.

    Tóm lại, chứng Đạo là việc nhờ cậy quyền năng của Đức Thánh Linh

    để nói cho ngƣời chƣa tin Chúa về sự cứu rỗi của Chúa Giêxu mà trọng

    tâm là sự chết, sự sống lại và sự tha tội củaNgài dành cho loài ngƣời,

    đồng thời mời gọi họ ăn năn tội lỗi, và tiếp nhận Chúa Giêxu là Chúa Cứu

    Thế của mình để nhận đƣợc sự cứu rỗi.

    II. Lý do chứng Đạo.

  • 4

    1 – Vì là Ngƣời tin Chúa Giêxu.

    Ngƣời tin Chúa Giêxu là ngƣời có mối quan hệ mật thiết với Chúa

    Giêxu, nhƣ một nhánh nho gắn liền vào gốc nho. Nhánh nho khi lìa khỏi

    gốc nho thì nó sẽ chết, một ngƣời xa lìa Chúa Giêxu cũng chết tâm linh

    nhƣ vậy. Nhƣng khi nhánh nho gắn liền gốc nho, không những nó sống

    mà còn ra trái nữa. Cũng vậy, một ngƣời tin Chúa Giêxu, hay ở trong

    Chúa Giêxu, không những ngƣời đó có sự sống đời đời, mà còn ra trái nữa,

    trái đó vừa chính là trái của Đức Thánh Linh nhƣ là: sự yêu thƣơng, vui

    mừng, bình an, nhịn nhục, nhân từ, hiền lành, trung tín, mềm mại, tiết độ

    (Galati 5:22), mà vừa là việc“sinh ra” nhiều CơĐốc Nhân khác cho Chúa

    nữa, tức là đemnhiều ngƣời trở lại tin Chúa Giêxuqua chính đời sống

    chứng Đạo của mình nữa.

    Mục sƣAvery T.willis, Jr. Kay Moore nói: “Là một Cơ Đốc nhân, bạn

    sống một cuộc đời phản ánh các đặc tánh giống nhƣ Chúa Cứu Thế. Bông

    trái Thánh Linh (Galati 5:22-23) sẽ tự nhiên sanh ra trong đời sống bạn

    nếu bạn ở trong Chúa Cứu Thế. Kết quả của việc sanh bông trái là sản

    sinh ra các Cơ Đốc nhân khác.”1Chúa Giêxu dạy: “Ta là gốc nho, các ngươi

    là nhánh. Ai cứở trong ta và ta trong họ thì sanh ra lắm trái. Vì ngoài ta, các

    ngươi chẳng làm chi được”(Giăng 15:5).

    Nhánh nho trực tiếp ra trái nho, nhƣng gốc nho mới là yếu tố quyết

    định việc trái nho đƣợc sinh ra. Nhánh nho ra trái đƣợc chỉ vì nhánh nho

    gắn liền với gốc nho. Cũng vậy, một ngƣời tin Chúa Giêxu thực sự sẽ phải

    là ngƣời sanh ra trái Thánh Linh và đem nhiều tội nhân trở lại tin Chúa

    qua đời sống chứng Đạo của mình khi còn cơ hội sống. Nếu bạn cho rằng

    mình là một Cơ Đốc nhân, nhƣng bạn không yêu mến linh hồn của ngƣời

    khác, và không chứng Đạo cho họ, thì bạn cần xét lại rằng mình đang ở

    trong Chúa hay đang ở ngoài Chúa.

    2. Vì tình thƣơng của Đức Chúa Trờicảm động trong lòng.

    Trƣớc khi tin nhận Chúa Giêxu làm Cứu Chúa của cuộc đời mình,

    ngƣời chƣa tin Chúa là một tội nhân, là kẻ nghịchvớiĐức Chúa Trời, là nô

    1 Avery T.willis, Jr. Kay Moore, 『Thập tự giá của môn đệ Chúa Giêxu-Sống với

    Chúa 1』 trang 202

  • 5

    lệ của maquỷ, là kẻ bất hạnh trong cuộc đời và là đối tƣợng sẽ bị giam

    cầm trong hồ lửa đời đời. Nhƣng Chúa Giêxu đã đến tìm và cứu kẻ có tội,

    những con ngƣời đã từng hƣ mất vì tội ác mình.

    Ngài chết trên thập tự giá, lấy máu mình rửa sạch tội ngƣời ăn năn và tin

    nhận Ngài (Êphêsô 1:7). Kế đó, Chúa Thánh Linh bƣớc vào cuộc đời

    ngƣời tin, ban cho họ một bản chất mới giống nhƣ Chúa trong sự công

    bình, thánh sạch của lẽ thật (Êphêsô 4:24). Ngày trƣớc họ làm kẻ thù

    nghịch vớiĐức Chúa Trời, còn bây giờ thì họ đƣợc làm hòa cùng Ngài, làm

    con cái Ngài(1 Côrinhtô 5:18). Trƣớc kia bị ma quỷ cai trị và làm cho

    khốn khổ, nhƣng bây giờ thì ma quỷ lánh xa vìhọ đƣợc Đức Chúa Trời

    luôn bên cạnh, bảo vệ, chăm sóc (1 Giăng 5:18, Giacơ 4:7). Ngày trƣớc

    sống bất an và bất hạnh, bây giờ sống bình an và hạnh phúc. Ngày trƣớc

    là công dân của hỏa ngục, còn bây giờ là công dân của thiên đàng.

    Một ngƣời tin Chúa sẽ kinh nghiệm về tình thƣơng lớn lao Chúa làm cho

    họ, và ngƣời đó sẽ không thể im lặng đối với những ngƣời khác, nhất là

    những ngƣời chƣa biết Chúa Giêxu. Nhƣ vậy, chính tình yêu thƣơng bằng

    hành động của Đức Chúa Trờicảm thúc CơĐốc nhânnói về tình yêu đó

    của Chúa cho ngƣời khác.

    3. Vì Ngƣời không tin Chúa đang đau khổ ở đời nầy và con đời sau.

    Ngƣời không tin Chúa sống dƣới quyền lực cai trị của tội lỗi và

    Satannên họ gặp nhiều đau khổ trong cuộc sống. Đức Chúa Trời là Đấng

    hằng sống, Ngài đem sự sống đến cho con ngƣời, nhƣng ngƣời không tin

    Chúa thì sống cách li với Ngài, nên không nhận đƣợc sự sống từ nơi

    Chúa.Chúa Giêxu ví sánh họnhƣ cành nho lìa khỏi gốc, mất sự sống, chết

    khô và bị đốt trong lửa (Giăng 15:6).

    a) Khổở đời nầy.

    Ngƣời không tin Chúa không biết mục đích sốngcủa mình. Họ cố sống vì

    tình cảm, vì tiền, vì danh vọng rồi chết, cuối cùng hƣ mất đời đời.

    Ngƣời chƣa tin Chúa có hai kẻ thù lớn mà tự chính mình không chiến

    thắng đƣợc, và cũng không có ai giúp họ vƣợt qua đƣợc. Hai kẻ thù đáng

    gờm đó chính là tội lỗi và ma quỷ.

    Tội lỗi khiến con ngƣời buồn chán, thất vọng, và tự gây hại

    chomình,hầu hết họ tìm đếnbia, rƣợu, thuốc lá, ma tuý...và đỉnh cao nhất

    là tự sát. Theo báo cáo của Tổ chức Y tế thế giới (WHO), hàng năm thế

    giới có 1 triệu ngƣời chết vì tự tử, nghĩa là có 3 ngàn ngƣời chết vì tự tử

  • 6

    mỗi ngày. Theo dự đoán đến năm 2020, con số nầy sẽ là 1,5 triệu một

    một ngày.Theo số liệu thống kê năm 2013,mỗi ngày có 43 ngƣời Hàn

    Quốc tự sát, Nhật Bản khoảng 90 ngƣời mỗi ngày. Riêng nƣớc ta, trong

    lứa tuổi từ 14-25 tuổi, có đến 4,1% là thanh thiếu niên nghĩ đến việc tự

    tử, và 2,5 % thực hiện hành vi tự tử.

    Tội lỗi còn khiến ngƣời ta làm hại đến những ngƣời sống chung

    quanh mình, nhƣ thù địch, nói hành, chửi rủa, trộm cắp, bất hiếu, ngoại

    tình, lừa thầy phản bạn, chiến tranh,...và nhiều thứ khác.

    Ma quỷ là kẻ thù nguy hiểm thứ hai mà con ngƣời không ai thắng đƣợc.

    Kinh thánh cho biết Satan là kẻ có quyền lực trong thế gian, mà chỉ có

    quyền năng của Đức Chúa Trời mới đánh bại nó đƣợc.

    “10 Vả lại, anh em phải làm mạnh dạn trong Chúa, nhờ sức toàn năng

    của Ngài. 11 Hãy mang lấy mọi khí giới của Đức Chúa Trời, để được

    đứng vững mà địch cùng mưu kế của ma quỷ. 12 Vì chúng ta đánh trận,

    chẳng phải cùng thịt và huyết, bèn là cùng chủ quyền, cùng thế lực,

    cùng vua chúa của thế gian mờ tối nầy cùng các thần dữ ở các miền trên

    trời vậy”(Êphêsô 6:10-12).

    Một ngƣời chƣa có Chúa, ma quỷ sẽ bƣớc vào trong lòng họ, và làm

    cho họ khốn khổ (Luca 11:26). Ma quỷ sẽ ra khỏi một ngƣời vĩnh viễn chỉ

    khi nào ngƣời đó tiếp nhận Chúa Giêxu làm Chủ cuộc đời mình. Ngƣời tin

    Chúa sẽ đƣợc Ba Ngôi Đức Chúa Trời ngự trong lòng họ, nên ma quỷ

    không còn quyền cai trị và làm hại họ nữa(1 Giăng 5:18).

    b) Khổở đời sau

    Khổở đời nầy đã là sợ, khổở đời sau lại đáng sợ hơn. Sau khi qua đời,

    ngƣời không tin Chúa sẽ phải đối diện với cái chết thứ hai, đó là ở trong

    hỏa ngục muôn đời. Đức Chúa Trời dựng nên hỏa ngục cho ma quỷ, Satan

    (Mathiơ 25:41), nhƣng ngƣời chết mà chƣa đƣợc tha tội cũng đồng một

    số phận với ma quỷ.

    “Còn những kẻ hèn nhát, kẻ chẳng tin, kẻ đáng gớm ghét, kẻ giết người,

    kẻ dâm loạn, kẻ phù phép, kẻ thờ thần tượng, và phàm kẻ nào nói dối,

    phần của chúng nó ở trong hồ có lửa và diêm cháy bừng bừng: đó là sự

    chết thứ hai”(Khải huyền 21:8).

    Một ngƣời có tình thƣơng của Đức Chúa Trờithì không thể không nói

    Phúc Âm Cứu Rỗi của Chúa Giêxu cho ngƣời thân trong gia đình, bạnbè

    cùng mọi ngƣời khác đƣợc, khi mà biết họ đang đau khổ trên đời và đang

  • 7

    trên đƣờng xuống hỏa ngục khổ hình. Họ rất cần nghe Phúc Âm Cứu Rỗi

    của Chúa Giêxu, vì khi họ nghe và hiểu đƣợc thì họ sẽ tin, mà khi tin thì

    họ sẽ đƣợc cứu khỏi những khổ đau ấy.

    4. Vì mạng lệnh chứng Đạo của Chúa Giêxu.

    Sau khi chịu khổ và phục sinh để hoàn thành sứ mạng cứu rỗi nhân

    loại, Chúa Giêxu để lại đại mạng lệnh truyền giáo trƣớc khi Ngài thăng

    thiên mà rằng:

    “Vậy, hãy đi dạy dỗ muôn dân, hãy nhân danh Đức Cha, Đức Con, và

    Đức Thánh Linh mà làm phép báp têm cho họ, và dạy họ giữ hết cả

    mọi điều mà ta đã truyền cho các ngươi. Và nầy, ta thường ở cùng các

    ngươi luôn cho đến tận thế” (Mathiơ 28:19-20).

    “Ngài phán cùng các sứ đồ rằng: Hãy đi khắp thế gian, giảng Tin lành

    cho mọi người”(Mác 16:15).

    “Nhưng khi Đức Thánh Linh giáng trên các ngươi, thì các ngươi sẽ

    nhận lấy quyền phép, và làm chứng về ta tại thành Giêrusalem, cả xứ

    Giuđê, xứ Samari, cho đến cùng trái đất”(Công vụ 1:8).

    Chúa Giêxu bảo các môn đồ hãy đi khắp thế gian, giảng Tin lành

    cho mọi ngƣời, bắt đầu tại Giêrusalem, nơi họ đang có mặt, rồi lan

    rộng ra các vùng nhƣ Giuđê, xứ Samari và cho đến cùng trái đất.

    Mạng lệnh làm chứng về Chúa Giêxu không phải chỉ dành cho khoảng

    120 ngƣời, trong đó có các sứ đồ (Công vụ1:11-15) có mặt lúc nghe

    Ngài truyền dạy, bèn làcho mọi ngƣời tin Chúa khắo thế giới, trong đó

    có mỗi chúng ta hôm nay. Nếu mạng lệnh nầy chỉ dành cho các môn

    đồ thì chắc rằng Tin lành không thể đƣợc rao giảng cho mọi ngƣời ở

    khắp nơi trên trái đất nhƣ Chúa Giêxu truyền dạy đƣợc. Vì 120 ngƣời

    kia đã chết ở thế kỷ thứ nhứt, còn ngày nay thế giới đã có 7 tỉ ngƣời.

    Để Tin lành đƣợc giảng cho mọi ngƣời khắp mọi nơi trên thế giới, thì

    mọi ngƣời sau khi tin nhận Chúa cần phải làm chứng về Chúa Giêxu cho

    những ngƣời mình biết, mình gặp, và nhiều ngƣời cần đi đến hải ngoại để

    làm giáo sĩ rao giảng Tin Lành nữa. Vì vậy mà đại mạng lệnh rao giảng

    Tin lành của Chúa Giêxu dành cho tất cả mọi ngƣời tin Chúa, trong đó có

    mỗi chúng ta.

    Chúa Giêxu không phải chỉ là Chúa Cứu Thế của ngƣời Do thái,

    nhƣng là của mọi ngƣời trên mặt đất nầy. Ngài chết đền tội không phải

    chỉ riêng cho ngƣời Do thái, bèn cho hết thảy mọi ngƣời trên đất.

  • 8

    Mọi ngƣời đều phạm tội, đều phải chết, nên mọi ngƣời, không phân

    biệt dân tộc nào, ở châu lục nào, theo tôn giáo nào, thuộc tầng lớp nào,

    hay giới tính nào, mọi ngƣời đều cần đƣợc nghe Tin lành để tin Chúa mà

    nhận đƣợc sự cứu rỗi.Mọi ngƣời đều bình đẳng trƣớc mặt Đức Chúa Trời,

    họ đều đƣợc dựng nên theo ảnh tƣởng của Ngài.

    Công dân tốt phải tuân phục luật pháp của quốc gia mình, con cái ngoan

    phải vâng lời cha mẹ mình. Chúa GiêxulàVua thiên đàng, ngƣời tin Chúa

    là công dân của nƣớc Ngài, Ngài còn là Cha, màngƣời tin Chúa là con, vậy

    nên việc thực thi Đại mạng lệnh rao truyền Tin lành của Chúa là bổn phận

    của Ngƣời CơĐốc.

    III. Mục đích của chứng Đạo

    1 - Để tội nhân nhận đƣợc sự cứu rỗi của Ngài.Sự cứu rỗi đó là:

    - Đƣợc tha thứ mọi tội lỗi (Rôma 6:18, 1 Giăng 1:7)

    “Nhưng, nếu chúng ta đi trong sự sáng cũng như chính mình Ngài ở

    trong sự sáng, thì chúng ta giao thông cùng nhau, và huyết của Đức

    Chúa Giêxu, Con Ngài, làm sạch mọi tội chúng ta”(1 Giăng 1:7).

    “Vậy, anh em đã được buông tha khỏi tội lỗi, trở nên tôi mọi của sự

    công bình rồi”(Rôma 6:18).

    - Đƣợc tái sanh (1 Côr 5:17, 1 Giăng 5:1, Giăng 5:5-7, Êph 4:24, Rôma

    6:6...)

    “Vậy, nếu ai ở trong Đấng Christ, thì nấy là người dựng nên mới:

    những sự cũ đã qua đi, nầy mọi sự đều trở nên mới”(2 Côrinhtô 5:17).

    - Đƣợc ban cho sự sống đời đời (Giăng 3:16, 3:36...)

    “Ai tin Con thì được sự sống đời đời, ai không chịu thì Con thì chẳng

    thấy sự sống đâu, nhưng cơn thạnh nộ của Đức Chúa Trời vẫn còn ở

    trên người đó (Giăng 3:36).

    - Đƣợc ban cho thân thể mới và nƣớc thiên đàng.

    “Ngài sẽ biến hóa thân thể hèn mạt chúng ta ra giống như thân thể

    vinh hiển Ngài, y theo quyền phép Ngài có để phục muôn vật”(Philíp

    3:21”

    (16) Vì sẽ có tiếng kêu lớn và tiếng của thiên sứ lớn cùng tiếng kèn

    của Đức Chúa Trời, thì chính mình Chúa ở trên trời giáng xuống; bấy

    giờ những kẻ chết trong Đấng Christ, sẽ sống lại trước hết (17) Kế đến

    chúng ta là kẻ sống, mà còn ở lại, sẽ cùng nhau đều được cất lên với

  • 9

    những người ấy giữa đám mây, tại nơi không trung mà gặp Chúa, như

    vậy chúng ta sẽ ở cùng Chúa luôn luôn”(1 Têsalônica 4:16-17).

    Mọi ngƣời nhận đƣợc sự cứu rỗi, đó là mục đích chính của việc

    ra đi chứng Đạo của ngƣời rao giảng Tin lành.

    2 - Để tội nhân trở nên ánh sáng và muối cho thế giới.

    (1) Sống thánh sạch và công chính và chân thật.

    Ngƣời tin Chúa Giêxu sẽ đƣợc Đức Chúa Trời làm cho mất đi bản chất

    cũ tội lỗi và ban cho một bản chất mới thánh sạch, công bình, và chân

    thật nhƣ Kinh thánh chép rằng:

    “Ai sanh bởi Đức Chúa Trời thì chẳng phạm tội, vì hột giống (bản chất)

    của Đức Chúa Trời ở trong người, và người không thể phạm tội được,

    vì đã sanh bởi Đức Chúa Trời”(1 Giăng 3:9).

    “Và mặc lấy người mới, tức là người đã được dựng nên giống như

    Đức Chúa Trời trong sự công bình và thánh sạch của lẽ thật”(Êphêsô

    4:24).

    Một ngƣời thực sự tin Chúa, mọi tội lỗi cũ đều đƣợc Chúa tha thứ, và với

    bản chất mới thánh sạch, công bình Chúa ban cho, ngƣời tin Chúa sống

    chiến thắng lỗi lầm, sống ngay thẳng giữa thế giới lỗi lầm và đầy dẫy sự

    bất công nầy.

    (2) Sống yêu thƣơng.

    Ngƣời tin Chúa Giêxu sẽ đƣợc Đức Chúa Trời ban cho bản tánh yêu

    thƣơng. Vì vậy mà ngƣời tin Chúa sẽ yêu thƣơng mọi ngƣời, đến nỗi yêu

    thƣơng đƣợc kẻ thù nghịch mình nữa. Ngƣời tin Chúa dễ dàng tha thứ cho

    những lỗi lầm của ngƣời khác đối với mình, và họ làm mọi cách để mọi

    ngƣời đƣợc sống hạnh phúc trên đời nầy và ở đời sau.Kinh thánh chép

    rằng:

    “Hỡi kẻ rất yêu dấu, chúng ta hãy yêu mến lẫn nhau, vì sự yêu thương

    đến từ Đức Chúa Trời. Kẻ nào yêu thì sanh bởi Đức Chúa Trời và nhìn

    biết Đức Chúa Trời. Ai chẳng yêu thì không biết Đức Chúa Trời, vì

    Đức Chúa Trời là tình yêu thương”(1 Giăng 4:7-8).

    Xã hội có nhiều ngƣời tin Chúa, xã hội đó sẽ có sự trong sạch, công

    bằng, thành thật và đầy dẫy tình yêu thƣơng. Đó là một xã hội công bằng,

    văn minh, hạnh phúc, đƣợc Chúa làm chủ và ban phƣớc dồi dào.

  • 10

    3. Để mọi ngƣời đều tôn vinh Đức Chúa Trời.

    Sau 3 năm thi hành chức vụ rao giảng Tin lành cho mọi ngƣời tại xứ

    Dothái, Chúa Giêxu cầu nguyện với Đức Chúa Trời mà rằng:

    “Con đã tôn vinh Cha trên đất, làm xong công việc Cha giao cho

    làm”(Giăng 17:4).

    Mục đích Chúa Giêxu giảng Tin lành nƣớc Đức Chúa Trời để mọi

    ngƣời tin Ngài mà đƣợc sự cứu rỗi, nhƣng đó cũng chính là việc mà Ngài

    tôn vinh Đức Chúa Trời, Cha của Ngài.

    Ngài nói: “Ai đã thấy ta, tức là đã thấy Cha”(Giăng 14:9). Chúa Giêxu

    khi đi giảng đạo, Ngài bày tỏ cho mọi ngƣời thấy việc của Cha Ngài làm

    qua Ngài. Ngài bày tỏ lòng thƣơng xót và quyền năng lớn lao của Đức

    Chúa Trời qua những việc chữa lành bệnh tật, kêu ngƣời chết sống lại,

    hóa bánh, quở sóng biển yên lặng, đuổi quỷ, việc thay đổi lòng ngƣời,

    cách sống và những bài giảng chứa đầy tình thƣơng, khôn ngoan và chân

    lý của Ngài trong công tác rao truyền Tin lành của nƣớc Đức Chúa Trời.

    Chính đời sống và mọi việc làm đó của Chúa Giêxu đã tôn vinh Đức Chúa

    Trời la Cha Ngài.

    Đức Chúa Trời là Đấng Tạo Hóa toàn năng, Chân thật, Thánh khiết,

    Công bình và là Cha Yêu thƣơng của con ngƣời, nên Danh Ngài xứng đáng

    đƣợc tôn vinh cao hơn trên hết thảy mọi danh khác. Những ngƣời biết

    Ngài, tin Ngài thì tôn vinh Ngài, nhƣng những ngƣời không biết Ngài,

    không tin nhận Ngài thì không tôn vinh Ngài, thậm chí nhiều ngƣời hoặc

    cố tình hoặc vô tình làm nhục Danh của Ngài nữa. Ngƣời tin Chúa cần làm

    chứng Đạo, để mọi ngƣời tôn vinh Đức Chúa Trời, Đấng duy nhất xứng

    đáng đƣợc mọi ngƣời tôn thờ và làm sáng sanh.

    4- Để Chúa Giêxu mau trở lại.

    Khi Tin lành đƣợc giảng khắp đất, thì Chúa Giêxu sẽ trở lại thế giới nầy để

    đón mọi ngƣời tin Ngài về thiên đàng, nhƣ lời tuyên bố của Chúa Giêxu:

    “Tin lành nầy về nước Đức Chúa Trời sẽ được giảng ra khắp đất, để

    làm chứng cho muôn dân. Bấy giờ sự cuối cùng sẽ đến”(Mathiơ

    24:14).

    Khi Chúa Giêxu tái lâm, Ngài sẽ biến hóa ngƣời tin, ban cho họ một

    thân thể vinh hiển giống Ngài và đem họ về thiên đàng xinh đẹp, vinh

    hiển, và đƣợc ở cùng Chúa luôn luôn.

    “Vì sẽ có tiếng kêu lớn cùng tiếng kèn của Đức Chúa Trời, thì chính

    mình Chúa ở trên trời giáng xuống. Bấy giờ, những kẻ chết trong

    Đấng Christ sẽ sống lại trước hết. Kế đến chúng ta là kẻ sống, mà còn

  • 11

    ở lại, sẽ cùng nhau đều được cất lên với những người ấy giữa đám mây,

    tại nơi không trung mà gặp Chúa, như vậy chúng ta sẽ ở cùng Chúa

    luôn luôn” (1 Têsalônica 4:16-17).

    “Khi Ngài biết rằng khi Ngài hiện đến, chúng ta sẽ giống như Ngài, vì

    sẽ thấy Ngài như vốn có thật vậy”(1 Giăng 3:2b).

    “Ngài sẽ biến hóa thân thể hèn mạt chúng ta ra giống như thân thể

    vinh hiển Ngài, y theo quyền phép Ngài có để phục muôn vật”(Philíp

    3:21).

    Sau khi Chúa Giêxu bày tỏ với Giăng mọi điều sẽ xảy ra cho thế giới

    nhƣ đƣợc chép trong sách Khải huyền, thì Ngài phán rằng: “Phải, ta đến

    mau chóng!” Giăng liền thƣa: “Amen, lạy Đức Chúa Giêxu, xin hãy đến!

    (Khải huyền 22:20). Giăng đã mong ngày Chúa Giêxu đến, vì ông biết

    chắc những hạnh phúc lớn lao sẽ đƣợc ban cho mọi ngƣời tin Chúa trong

    ngày Chúa Giêxu tái lâm.

    Ngày giờ tái lâm của Chúa Giêxu do Đức Chúa Trời quyết định. Ngài

    chƣa đến là vì muốn cứu thêm nhiều ngƣời, nhƣ Kinh thánh chép rằng:

    “Chúa không chậm trễ về lời hứa của Ngài như mấy người kia tưởng

    đây, nhưng Ngài lấy lòng nhịn nhục đối với anh em, không muốn cho

    một người nào chết mất, song muốn cho mọi người đều ăn năn. Song

    le, ngày của Chúa sẽ đến như kẻ trộm (thình lình)”(2 Phierơ 3:9-10a)

    Vậy, chúng ta cần mau mau đi làm chứng về Tin lành của Chúa Giêxu

    cho mọi ngƣời mình biết, mình gặp, để họ đƣợc nghe Tin lành, để họ đƣợc

    cứu, xã hội đƣợc thay đổi, vƣơng quốc Đức Chúa Trời đƣợc mở rộng, để

    Danh Đức Chúa Trời đƣợc tôn vinh và ngày Chúa Giêxu mau trở lại.

    *******

  • 12

    BÀI 2

    ĐIỀU CẦN CÓ CỦA NGƢỜI CHỨNG ĐẠO

    Để trở thành một bác sĩ giỏi để cứu ngƣời, thì vị bác sĩ đó phải đƣợc

    trang bị rất nhiều kỷ năng về y khoa, nhƣ kiến thức y khoa đƣợc đào tạo

    nghiêm túc và dài hạn, những trang thiết bị y tế, thuốc men và cả tấm

    lòng nhân đạo. Chứng đạo là việc cứu ngƣời về phƣơng diện linh hồn. Linh

    hồn quý trọng hơn cả thân thể, nên chứng Đạo cứu linh hồn là việc càng

    cấp bách và cao trọng bấy nhiêu. Vì thế Ngƣời chứng Đạo càng phải có

    đầy đủ những trang bị thuộc linh cần thiết cho việc chứng đạo. Sau đây là

    những trang bị thuộc linh cơ bản cần có cho một Ngƣời chứng Đạo hiệu

    quả.

    1. Ngƣời chứng Đạo phải là ngƣời đã đƣợc tái sanh.

    Khi một ngƣời thực sự tin Chúa, Đức Thánh Linh sẽ làm chết đi con

    ngƣời cũ với bản tánh tội lỗi, đồng thời ban cho ngƣời đó bản chất mới,

    tấm lòng mới để họ sống theo ý muốn của Đức Chúa Trời, đó là sự tái

    sanh.

    “Đức Chúa Giêxu đáp rằng: Quả thật, quả thật, ta nói cùng ngươi, nếu một

    người chẳng nhờ nước và Thánh Linh mà sanh, thì không được vào nước Đức

    Chúa Trời”(Giăng 3:5)

    Ngƣời chứng Đạo là sứ giả của Thiên đàng, kêu gọi mọi ngƣời ăn năn,

    tin nhận Chúa để đƣợc hƣởng thiên đàng. Ngƣời không đƣợc tái sanh,

    không phải là công dân thiên đàng, thì không làm sứ giả của thiên đàng

    đƣợc.

    Chúa Giêxu dạy: “Môn đồ không hơn thầy, tôi tớ không hơn chủ”(Mathiơ

    10:24). Ngƣời chứng Đạo chính là thầy, và Thân hữu chính là trò. Ngƣời

    chứng Đạo mà chƣa đƣợc tái sanh thì không hơn gì so với Thân hữu, vậy

    tƣ cách để dạy Đạo là hoàn toàn chƣa có.

    Ngƣời chƣa đƣợc tái sanh là ngƣời không hiểu và không kinh nghiệm

    đƣợc sự cứu rỗi. Ngƣời nhƣ thế thì không thể nói về sự cứu rỗi cho ngƣời

    khác đƣợc.

    Ngƣời chƣa đƣợc tái sanh là ngƣời không có Chúa Thánh Linh. Việc đi

    chứng Đạo mà không có Đức Thánh Linh đồng công thì không thể có kết

    quả đƣợc.

    Ngƣời tin Chúa sẽ nhìn Chúa Giêxu mà bƣớc đi, còn ngƣời chƣa tin

    Chúa thì thƣờng nhìn đời sống của Ngƣời chứng Đạo mà tìm hiểu Chúa.

    Ngƣời chứng Đạo chƣa đƣợc tái sanh, bản chất tội lỗi cũ chƣa mất đi, lối

  • 13

    sống có nhiều vấp phạm, thì Thân hữu sẽ dễ dàng hiểu sai về Phúc Âm.

    Họ nghĩ ngƣời theo Chúa Giêxu có gì hơn mình đâu, sao phải theo Ngài

    làm gì.

    Tóm lại, Ngƣời chứng Đạo phải là ngƣời đã thực sự tin Chúa, đã kinh

    nghiệm đƣợc sự tái sanh, sự cứu rỗi của Đức Chúa Trời thì mới ra đi nói về

    Chúa.

    2. Đƣợc đầy dẫy Chúa Thánh Linh.

    Một ngƣời sau khi tin Chúa Giêxu, Đức Thánh Linh liền bƣớc vào cuộc

    đời ngƣời đó. Nhƣng để Đức Thánh Linh đầy dẫy, ngƣời tin Chúa phải

    khao khát và hết lòng tìm cầu Đức Thánh Linh(Luca 11:13), đồng thời

    giao phó mọi điều mình có, mọi việc mình làm cho Chúa làm chủ, thì khi

    đó, Chúa Thánh Linh sẽ đầy dẫy trên ngƣời đó.

    Cơ đốc nhân đầy dẫy Đức Thánh Linh, là ngƣời Ngƣời thôi sống theo

    ý muốn của mình, nhƣng bắt đầu sống theo ý muốn của Chúa.

    “Đừng say rượu, vì rượu xui cho luông tuồng; nhưng phải đầy dẫy

    Đức Thánh Linh”(Êphêsô 5:18)

    Ngƣời say rƣợu, họ để rƣợu điều khiển mình. Một ngƣời đầy dẫy Đức

    Thánh Linh sẽ để Đức Thánh Linh làm chủ mình trọn vẹn.

    Sau khi Chúa Giêxu thăng thiên, các môn đồ vâng Lời Chúa nhóm

    nhau lại một chỗ mà không ra khỏi thành Giêrusalem. Họ thờ phƣợng

    Chúa và khao khát trông đợi sự ban cho Đức Thánh Linh nhƣ Lời Chúa

    Giêxu đã hứa.

    Kinh Thánh cho biết Khi Chúa Thánh Linh đầy dẫy trên các môn đồ,

    Ngài đã làm cho họ những việc điển hình sau đây, để đem nhiều ngƣời trở

    lại với Đức Chúa Trời:

    - Trong ngày lễ ngũ tuần, Chúa ban cho các môn đồ ân tứ nói tiếng

    ngoại quốc, là thứ tiếng mà họ chƣa từng biết trƣớc đó. Có đến khoảng 15

    thứ ngoại ngữ đƣợc ban cho các môn đồ, để họ rao giảng Tin lành cho

    những ngƣời đến từ các quốc gia, dân tộc nói những ngôn ngữ nầy (Công

    vụ 2:8-11).

    - Khi Đức Thánh Linh đầy dẫy trên các sứ đồ, Chúa Thánh Linh ban

    cho họ có năng quyền chữa lành bệnh tật, đuổi quỷ và kêu ngƣời chết

    sống lại.

  • 14

    “Về phần các môn đồ, thì đi ra giảng đạo khắp mọi nơi, Chúa cùng làm

    với môn đồ, và lấy các phép lạ cặp theo lời giảng mà làm cho vững

    đạo”(Công vụ 16:20).

    - Đức Thánh Linh chỉ dẫn cho các môn đồ biết nơi để rao giảng.

    Chúa Thánh Linh sai chấp sự Philíp chạy theo xe của Hoạn quan

    ngƣời Êthiôbi để làm chứng cho ông, Ngài sai Phierơ đến nhà Cọt nây để

    làm chứng cho cả gia đình ông(Công vụ 10:19), hay Đức Thánh Linh

    không cho sứ đồ Phaolô giảng Tin lành tại cõi Asi, nhƣng sai đến xứ

    Maxêđoan(Công vụ 16:6-10)...

    - Đức Thánh Linh dạy các môn đồ phải nói điều gì khi chứng Đạo.

    “(11) Khi người ta đem các ngươi đến nhà hội, trước mặt quan án và

    quan cai trị, thì chớ lo về nói cách nào để binh vực mình, hoặc nói lời

    gì; (12) bởi vì chính giờ đó Đức Thánh Linh sẽ dạy các ngươi những

    lời phải nói”(Luca 12:11-12).

    - Đức Thánh Linh khiến Thân hữu bị cáo trách về tội lỗi mình, Ngài

    cũng khiến họ nhận thức về sự công bình của Đức Chúa Trời và sợ hãi về

    sự phán xét của Chúa, để có quyết định tin nhận Chúa.

    “Khi Ngài đến thì sẽ khiến thế gian tự cáo về tội lỗi, về sự công bình

    và về sự phán xét (Giăng 16:8).”

    3. Ham mến học biết lời của Đức Chúa Trời.

    Ngƣời chứng Đạo hiệu quả phải là ngƣời ham thích lời Đức Chúa Trời.

    Không những đọc Lời Chúa, suy ngẫm Lời Chúa mà còn ứng dụng Lời

    Chúa vào đời sống của mình mỗi ngày.

    - Đọc và suy ngẫm Lời Đức Chúa Trời để thêm lòng yêu mến Chúa, và

    biết ý muốn Ngài mà làm theo. Đó chính là cách để giữ cho việc đầy dẫy

    Đức Thánh Linh đƣợc lâu dài.

    - Học biết Lời Chúa để dùng lời Chúa mà đánh bại đƣợc Satan.

    Khi sai các môn đồ đi rao giảng Tin lành, Chúa Giêxu nói đến việc

    khó khăn mà họ sẽ gặp. Ngài phán:

    “Kìa, ta sai các ngươi đi khác nào như chiên vào giữa bầy muông

    sói. Vậy, hãy khôn khéo như rắn, đơn sơ như chim bò câu”(Mathiơ

    10:16).

    Việc chứng Đạo cũng đồng nghĩa với với mở rộng vƣơng quốc của

    Đức Chúa Trời và thu hẹp vƣơng quốc của Satan trên đất. Satan không để

    yên cho ngƣời làm hại vƣơng quốc của nó, nó sẽ kháng cự. Một cuộc chiến

  • 15

    vô hình sẽ xảy ra dữ dội khi việc chứng Đạo đang diễn ra. Lúc đó, Ngƣời

    chứng Đạo sẽ dùng vũ khí đánh bại chúng, đó chính là Gƣơm của Đức

    Thánh Linh, là Lời của Đức Chúa Trời hằng sống(Êphêsô 6:17).

    Chúa Giêxu cũng đã từng dùng Lời Đức Chúa Trời mà đánh bại sự

    cám dỗ của Satan trong đồng vắng(Mathiơ 4:1-11).

    Một ngƣời ra đi chứng Đạo mà không biết lời của Đức Chúa Trời, thì

    giống nhƣ một ngƣời ra trận mà không mang theo vũ khí.

    - Học biết lời Chúa để dùng lời Chúa mà chia sẻ Tin lành cho Thân hữu.

    Khi chứng đạo, thân hữu muốn nghe Lời Đức Chúa Trời nói gì hơn là muốn

    nghe Ngƣời chứng đạo nói gì. Dầu chúng ta cần phải dùng lời của mình để

    giải thích, hay nói về kinh nghiệm của đời sống có Chúa, nhƣng Lời Chúa

    mới có quyền năng khiến họ tin. Vì vậy, ngƣời chứng đạo phải ham mến

    học hỏi lời Chúa.

    - Học biết Lời Chúa để trả lời những thắc mắc của Thân hữu. Có rất

    nhiều thân hữu hiểu lầm về Đạo Tin Lành vì không biết Lời Chúa, nhƣng

    lại nghe một số ngƣời ghét đạo Chúa xuyên tạc Lời của Chúa. Vì vậy,

    Ngƣời chứng Đạo phải hiểu biết Lời Chúa để trình bày cho Thân hữu biết

    Đạo Tin Lành là Chân lý, đáng đƣợc nhận lấy để có đƣợc sự cứu rỗi.

    4. Sốt sắng cầu nguyện

    Đọc Kinh thánh là cách nghe tiếng Chúa dạy, còn cầu nguyện là cách

    đáp ứng với Lời Chúa dạy, và trình bày với Chúa mọi nỗi lòng, ƣớc muốn

    của mình lên cho Chúa, đồng thời nhận lấy sức mạnh quyền năng của Đức

    Thánh Linh và duy trì sự đầy dẫy Đức Thánh Linh.

    Trƣớc khi bƣớc vào chức vụ rao giảng Tin Lành và cứu rỗi nhân loại,

    Chúa Giêxu đã kiêng ăn, cầu nguyện 40 ngày đêm trong đồng vắng. Mỗi

    buổi sáng Chúa lên núi cầu nguyện, và ban đêm cũng vậy. Ngài là Đức

    Chúa Trời mà còn cầu nguyện với Đức Chúa Cha và Đức Thánh Linh nhƣ

    thế, còn chúng ta là ai mà coi thƣờng việc cầu nguyện?

    Ngƣời có mối tƣơng giao gần gũi với Chúa chừng nào, ngƣời đó sẽ

    mỗi ngày càng sống giống Chúa chừng đó. Ngƣời càng giống Chúa Giêxu

    chừng nào, thì họ sẽ làm chứng Đạo cho Ngài càng kết quả chừng nấy.

    “Hãy kêu cầu ta, ta sẽ trả lời cho, ta sẽ tỏ cho ngươi những việc lớn và

    khó, là những việc ngươi chưa từng biết”(Giêrêmi 33:3).

    “Người công bình lấy lòng sốt sắng cầu nguyện, thật có linh

    nghiệm nhiều”(Giacơ 5:16).

    - Cầu nguyện để Chúa đồng công trong khi chứng Đạo.

  • 16

    Đời sống cầu nguyện bày tỏ thái độ khiêm nhƣờng và nƣơng cậy nơi

    Chúa. Ngƣời không cầu nguyện tức là ngƣời kiêu ngạo, muốn nƣơng cậy

    vào sức riêng của chính mình. Đức Thánh Linh quyết định sự thành công

    của việc chứng Đạo và Ngài chỉ đồng công cùng ngƣời nào nhờ cậy nơi

    Ngài. Do đó, Ngƣời chứng Đạo mà không cầu nguyện thì việc chứng Đạo

    chắc chắn hoàn toàn thất bại.

    - Cầu nguyện là vũ khí của Đức Chúa Trời để chống lại quyền lực của

    ma quỷ (Êphêsô 6:18), dẹp sạch mọi sự ngăn cản đến từ ma quỷ.

    Khi đến một vùng đất mới để truyền giáo, các giáo sĩ thành công luôn

    là ngƣời biết dành một thời gian dài cho việc kiêng ăn và cầu nguyện để

    Chúa trói buộc quyền lực của quỷ Satan ở vùng đất đó lại trƣớc tiên. Họ

    cầu nguyện xin Chúa trói buộc quyền lực Satan đang cai trị ngƣời dân

    đang sống trong vùng, và xin Chúa mở lòng mọi ngƣời ở đó trƣớc Phúc Âm

    của Ngài. Cầu nguyện là việc ƣu tiên số một của ngƣời ra đi rao giảng Tin

    lành.

    - Cầu nguyện để Chúa ban cho Thân hữu tấm lòng mở ra tiếp nhận Lời

    Chúa. Ngài biến tấm lòng bằng đá trở thành nên bằng thịt, để họ khao

    khát Phúc âm, lắng nghe hiểu và tiếp nhận Chúa.

    Ngƣời ta nói: Giang sơn dễ đổi, bản tánh khó dời”, nếu không không

    cầu nguyện nhờ Đức Thánh Linh dời lòng Thân hữu, thì việc tiếp nhận

    Phúc Âm là việc bất năng.

    5. Cần đƣợc huấn luyện

    Một chiến sĩ trƣớc khi ra chiến trƣờng cần phải đƣợc huấn luyện thao

    tác chiến đấu. Ngƣời chứng đạo của Chúa cũng đƣợc coi nhƣ là một ngƣời

    lính của Đấng Christ trong chiến trƣờng giải cứu tội nhân ra khỏi tay của

    Satan.

    “Hãy cùng ta chịu khổ như một người lính giỏi của Đức Chúa Jêsus

    Christ”(1 Timôthê 2:3).

    Ngƣời ta nói, “Thao trƣờng đổ mồ hôi thì chiến trƣờng bớt đổ máu”,

    hàm ý việc huấn luyện là cần thiết cho bất cứ công việc gì mà mình muốn

    thành công. Việc chứng Đạo là việc cứu ngƣời, một việc quan trọng nhất

    trong các việc mà chúng ta phải làm trong đời nầy, nên việc huấn luyện là

    cần thiết.

    Ngƣời chứng Đạo đƣợc huấn luyện sẽ biết cách trình bày sứ điệp Phúc

    Âm cách có hệ thống, giúp ngƣời nghe dể hiểu và dễ nhớ đƣợc những gì

    đã nghe. Những giáo sĩ thành công đều là những ngƣời đƣợc đào tạo

    nghiêm túc. Các sứ đồ của Chúa Giêxu học nơi Chúa liên tục 3 năm, họ

  • 17

    học ngày, học đêm, không nghỉ hè hay đông. Học lời Chúa và nhìn thấy

    việc Chúa làm, và sau khi họ mặc lấy quyền phép Đức Thánh Linh, họ ra

    đi rao giảng Tin Lành cách hiệu quả. Chúa Giêxu đã huấn luyện họ thật kỷ

    để họ ra đi thật kết quả. Không có trƣờng thần học nào đào tạo nghiêm

    túc nhƣ ngôi trƣờng 3 năm di động của Chúa Giêxu dành cho 12 sứ đồ.

    Muốn trở nên Ngƣời chứng Đạo thành công, bạn cần đƣợc huấn luyện

    về phƣơng pháp chứng Đạo cách nghiêm túc. Bạn có thể học ở trƣờng, ở

    Hội thánh, ở một lớp chứng đạo nào đó, và chịu khó tìm đọc những tài

    liệu, sách giáo khoa viết về chứng đạo, để sớm trở thành ngƣời lính giỏi

    chinh phục nhiều tội nhân về cho Đấng Christ.

    *******

  • 18

    BÀI 3

    NHỮNG ĐIỀU CẦN LÀM VÀ KHÔNG NÊN LÀM

    KHI ĐI CHỨNG ĐẠ0

    1. Những việc cần phải làm để chứng Đạo có kết quả.

    (1)Cần tạo mối quan hệ tình thân.

    Là bạn bè của nhau thi ai cũng thích gặp nhau, và cùng chia sẻ với

    nhau những câu chuyện vui buồn. Để chứng Đạo có hiệu quả, Ngƣời

    chứng Đạo cần tạo ra các mối quan hệ rộng rãi với nhiều ngƣời ở trong

    Chúa và ngƣời ở ngoài Chúa. Trong mối quan hệ đó, Ngƣời chứng Đạo

    phải là ngƣời có đời sống ảnh hƣởng tốt đến nhiều ngƣời khác.

    Khi gặp ngƣời Việt, Ngƣời chứng Đạo cần bắt tay chào hỏi với thái độ

    niềm nở, lịch sự, đồng thời chủ động hỏi thăm, nói chuyện, động viên,

    khích lệ nhau bằng tấm lòng chân thành.Ngƣời chứng Đạo cần giới thiệu

    về mình, và hỏi thăm tên, tuổi, số điện thoại để liên lạc với nhau. Sau đó

    thì Ngƣời chứng Đạo bắt đầu chuyển sang việc chia sẽ Tin lành cho họ.

    Sau khi chia tay, Ngƣời chứng Đạo đừng quên giữ mối liên lạc với ngƣời

    đó, cần gọi điện thăm hỏi và có thể đƣợc thì đến thăm khi có dịp tiện. Khi

    có mối tình bạn thân quen, ngƣời đó sẽ dễ dàng mở lòng lắng sứ điệp về

    Chúa Giêxu, và không ngần ngại khi đƣợc mời đến Hội thánh. Rồi thông

    qua ngƣời đó, Ngƣời chứng đạo tìm cách làm quen với những ngƣời bạn

    của họ nữa, tất cả vì mục đích là họcần phải đƣợc cứu.

    (2) - Phải quan tâm đến nhu cầu và đáp ứng nhu cầu đó nếu có thể.

    Chúa Giêxu xuống thế gian với mục đích chính là tìm và cứu kẻ bị hƣ mất

    (1 Timôthê 1:15), nhƣng không phải chỉ vì mục đích đó mà Ngài không

    quan tâm đến nhu cầu thuộc thể của mọi chung quanh. Nhƣng ngƣợc lại,

    Chúa vừa quan tâm đến nhu cầu tâm linh lẫn nhu cầu thể xác của mọi

    ngƣời.

    Các sách Phúc Âm thuật lại rằng, Ngài đi hết làng nầy đến làng khác,

    nhiều khi chịu đói để tranh thủ thời gian mà rao giảng Tin lành,chữa

    lànhbệnh nhân.Ngài từng hóa bánh cho ngƣời đói, kêu ngƣời chết sống lại,

    và đuổi quỷ giải phóng ngƣời bị Satan trói buộc. Các sứ đồ và tín đồ ở Hội

    thánh đầu tiên cũng vậy, họ vừa giảng Đạo, vừa nhơn Danh Chúa chữa

    lành kẻ bệnh, và lấy gia tài mình bán đi, đem đặt dƣới chân các sứ đồ

  • 19

    đểphân phát cho nhau, tùy theo sự cần dùng của từng ngƣời (Công vụ

    2:42-45, 3:6-7)

    Con ngƣời ai cũng có những nhu cầu về thể xác lẫn tâm linh. Ngƣời thì có

    nhu cầu về thuộc thể nhƣ cơm ăn, áo mặc. Ngƣời thì có nhu cầu về việc

    làm, ngƣời thì có nhu cầu đƣợc chữa lành, ngƣời thì có nhu cầu về tình

    thƣơng, vì họ đang bị lẻ loi, cô đơn, buồn chán. Ngƣời thì có nhu cầu học

    hành, thậm chí có ngƣời có tất cả những nhu cầu đó.

    Ngƣời chứng Đạo không phải chỉ yêu thƣơng linh hồn tội nhân,

    nhƣng còn phải yêu thƣơng và quan tâm đến đời sống thể xác của họ nữa.

    Tình yêu thƣơng đó phải cần đƣợc thực hiện bằng những hành động cụ

    thể theo khả năng của chính mình. Khi Thân hữu thấy đƣợc hành động

    tình thƣơng của ngƣời Tin lành dành cho họ, thì họ sẽ dễ dàng mở lòng

    lắng nghe sứ điệp của ngƣời Tin lành rao giảng.

    Hầu hết các Hội thánh Việt Nam tại Hàn Quốc đều thực hiện chƣơng trình

    phục vụ cộng đồng ngƣời Việt song song với việc truyền giảng Tin lành.Họ

    tổ chức các lớp dạy tiếng Hàn; nhận thông dịch miễn phí cho ngƣời Việt;

    tƣ vấn về pháp luật sở tại; tƣ vấn hôn nhân gia đình cho các bạn lập gia

    đình với ngƣời Hàn; bảo vệ quyền lợi chính đáng cho ngƣời lao động;

    bênh vực ngƣời lao động khi bị chủ sử dụng lao động đối xử bất công; đòi

    lƣơng, bảo hiểm; đƣa ngƣời lao động bị bệnh hoặc bị tai nạn đến bệnh

    viện khám chữa bệnh,...Mọi việc trên đều đƣợc thực hiện cách hết lòng và

    hoàn toàn miễn phí.

    Cho đến nay, đã có rất nhiều ngƣời Việt Nam tại Hàn quốc đƣợc

    Chúa cảm động qua các chƣơng trình từ thiện nầy, mà họ mở lòng ra lắng

    nghe Phúc Âm và tiếp nhận Chúa Giêxu là Chúa Cứu Thế của đời sống

    mình. Vì vậy, Ngƣời chứng Đạo cần phải quan tâm đến nhu cầu tâm linh

    lẫn thuộc thể của ngƣời mà mình muốn chứng Đạo cho họ. Đó là tấm

    gƣơng mà Chúa Giêxu và các tín hữu Hội thánh đầu tiên đã để lại cho

    Ngƣời chứng Đạo hôm nay.

    (3) – Nên đi chứng Đạo với ngƣời cùng phái.

    - Khi đi chứng Đạo, Ngƣời chứng Đạo nên đi cùng với một, hoặc hai

    ngƣời là vừa, nhƣ Chúa Giêxu sai đi từng đôi một vậy. Nếu không phải là

    hai vợ chồng, thì đừng nên đi hai ngƣời khác phái nhau, làm vậy để tránh

    sự cám dỗ, cũng nhƣ tránh bị ngƣời khác dị nghị. Cũng một lý do đó, khi

    hẹn gặp để làm chứng cho một ngƣời khác phái, thì Ngƣời chứng Đạo

    không nên đi một mình, nhƣng nên rủ thêm một ngƣời cùng phái với

    mình đồng đi.

  • 20

    (4) - Phải cầu nguyện cho việc chứng đạo.

    - Phải cầu nguyện trƣớc khi rời khỏi nhà để đi chứng Đạo. Cầu nguyện

    xin Chúa cho mình gặp đƣợc những ngƣời mà Chúa muốn mình làm chứng.

    Cầu nguyện xin Chúa ban quyền năng Đức Thánh Linh và ơn chia sẻ Tin

    lành cho mình và ngƣời đi cùng mình. Cầu nguyện xin Chúa mở lòng Thân

    hữu để nghe, hiểu và tiếp nhận Chúa Giêxu là Cứu Chúa của mình.

    - Cầu nguyện ngay khi đang làm chứng. Miệng thì chia sẻ, nhƣng lòng

    thì cầu nguyện thầm với Chúa, xin Ngài xức dầu trên sứ điệp, trục xuất

    ma quỷ đang cản trở và khiến Thân hữu không tập trung vào lời của Chúa.

    Thầm nguyện xin Chúa ban cho Thân hữu có đức tin, để tiếp nhận Chúa.

    - Sau khi kêu gọi Thân hữu tiếp nhận Chúa. Nếu Thân hữu quyết định

    tin Chúa thì phải hƣớng dẫn Thân hữu cầu nguyện tin Chúa, và cầu

    nguyện riêng cho ngƣời họ.

    - Trƣờng hợp ngƣời đó chƣa quyết định tin Chúa, thì cũng xin phép

    đƣợc cầu nguyện cho ngƣời ấy. Khi đƣợc phép cầu nguyện, thì Ngƣời

    chứng Đạo cầu nguyện xin Chúa ban đức tin cho ngƣời đó, và xin Chúa

    gìn giữ, ban phƣớc cho gia đình ngƣời đó. Nếu ngƣời đó không muốn cầu

    nguyện, thì Ngƣời chứng Đạo chỉ cầu nguyện thầm trong lòng với nội

    dung nhƣ trên.

    - Khi về nhà, Ngƣời chứng Đạo cần cầu nguyện tiếp tục cho ngƣời đó.

    (5)- Phải dùng Lời Chúa để giải bày Phúc Âm.

    Ngƣời chứng Đạo cần phải học thuộc một số câu Kinh thánh liên

    quan đến sự cứu rỗi cần thiết cho việc chứng Đạo. Một trong những lý do

    việc làm chứng không đem lại kết quả, là vì Ngƣời chứng Đạo chỉ dùng

    những lời lẽ của con ngƣời để cố sức chinh phục Thân hữu, mà không

    dùng đến Lời Chúa trong Kinh thánh.

    Việc dùng nhiều câu Kinh thánh nói về sự cứu rỗi đọc lên cho Thân

    hữu nghe là việc rất cần thiết, vì Thân hữu muốn nghe lời của Đức Chúa

    Trời nói gì về sự cứu rỗi, hơn là nghe con ngƣời nói về sự cứu rỗi. Hơn nữa

    Lời Chúa có quyền năng chinh phục con ngƣời trở lại với Chúa.

    Các ngươi sẽ biết lẽ thật, và lẽ thật sẽ buông tha các ngươi” (Giăng

    8:32) Xin Cha lấy lẽ thật khiến họ nên thánh; lời Cha tức là lẽ

    thật”(Giăng 17:17)

    “Vì lời của Đức Chúa Trời là lời sống và linh nghiệm, sắc hơn gươm

    hai lưỡi, thấu vào đến đỗi chia hồn, linh, cốt, tủy, xem xét tư tưởng và

    ý định trong lòng”(Hêbơrơ 4:12).

  • 21

    Vì vậy, khi chứng Đạo, Ngƣời chứng Đạo không chỉ nói về sự cứu rỗi

    bằng lời của mình mà thôi, nhƣng cũng cần phải dùng những câu Kinh

    thánh có liên quan để đọc cho Thân hữu nghe, để họ biết ý muốn của Đức

    Chúa Trời dành cho họ và để Lời Chúađụng chạm vào lòng họ, và khiến họ

    có đức tin mà tiếp nhận Ngài, vì Lời Chúa là lời sống, linh nghiệm và có

    quyền năng giải phóng con ngƣời cho đƣợc tự do. Ngƣời chứng Đạo cũng

    cần giải thích những từ ngữ khó hiểu trong những câu Kinh thánh đó, để

    Thân hữu hiểu đƣợc thấu đáo.

    (6) - Cần trang bị kiến thức về các tôn giáo, tín ngƣỡng ở Việt Nam.

    Dân tộc Việt Nam là dân tộc có tính duy tâm cao, hầu hết ngƣời Việt đều

    có tôn giáo hoặc tín ngƣỡng dân gian. Ngoại trừ tín hữu Đạo Tin Lành ra,

    thì tín hữu của các tôn giáo khác, hoặc theo tín ngƣỡng dân gian đều rất ít

    chịu tìm hiểu về tôn giáo, tín ngƣỡng mà mình đang theo. Đa số họ chủ

    trƣơng rằng: “Ông bà, bố mẹ sao, thìcon cái cứ vậy mà làm”, và họ nghĩ

    rằng, về tôn giáo, tín ngƣỡng, mình đi theo cách của bố mẹ mới là hiếu

    thảo.

    Khi chia sẻ về Chúa Giêxu cho những Thân hữu, Ngƣời chứng Đạo chỉ

    nên tập trung vào sứ điệp cứu rỗi của Chúa Giêxu mà thôi, không nên đề

    cập đến tôn giáo, tín ngƣỡng của họ. Tuy nhiên, trong trƣờng hợp Thân

    hữu đem tôn giáo mình ra để nói lại, thì Ngƣời chứng Đạo phải dùng kiến

    thức về tôn giáo, tín ngƣỡng của họ để giải thích cho họ hiểu, với thái độ

    hòa thuận và lời nói mềm mại, nhơn từ, tránh tranh cãi.

    Những tôn giáo và tín ngƣỡng thịnh hành tại Việt Nam ngày nay là Tín

    ngƣỡng thờ tổ tiên, Đạo Phật, Đạo Cao Đài, Đạo Công Giáo và Đạo Hồi.

    Ngƣời chứng Đạo nên tìm hiểu các tôn giáo và tín ngƣỡng nói trên, để biết

    cách chứng Đạo cho cách có hiệu quả đối với từng ngƣời theo từng tôn

    giáo, tín ngƣỡng khác nhau.

    II.Những điều cần tránh khi đi chứng Đạo.

    (1)-Đừnghiểu sai về trách nhiệm chứng Đạo.

    Nhiều ngƣời lãnh Đạo Hội thánh hiểu sai rằng công việc chứng Đạo là việc

    của tín hữu, còn mình thì tập trung công việc giảng dạy và lãnh Đạo Hội

    thánh. Do đó, họ không kinh nghiệm chứng Đạo, thậm chí là không có

    chƣơng trình cụ thể về việc chứng Đạo để cùng làm việc với tín hữu của

    Hội thánh. Có ngƣời cho rằng chiên mới đẻ ra chiên, còn ngƣời chăn bày

    thì không đẻ ra chiên đƣợc. Họ hàm ý rằng, tín đồ thì đi chứng Đạo, đem

  • 22

    tội nhân trở lại với Chúa, với Hội thánh, còn họ thì lo việc khác. Đó là một

    sự hiểu lầm đáng tiếc về chức vụ chứng Đạo.

    Ngƣợc lại, nhiều tín đồ nghĩ rằng việc đi ra rao làm chứng về Chúa Giêxu

    là việc của Mục sƣ, truyền Đạo, còn họ thì tin Chúa và đi thờ phƣợng

    thƣờng xuyên là đủ. Vì thế, họ không nói về Chúa Giêxu cho ai cả.

    Êtiên và Philíp là hai trong bảy chấp sự đầu tiên của Hội thánh tại

    Giêrusalem đã nhận lấy quyền phép của Đức Thánh Linh mà ra đi làm

    chứng cách mạnh dạn và hiệu quả (Công vụ 7:1-60, 8:26-40).

    Sứ mạng chứng Đạo là dành cho mọi ngƣời tin Chúa, từ ngƣời lãnh

    Đạo Hội thánh cho đến mọi tín hữu, là ngƣời đã tin nhận Chúa Giêxu. Đại

    mạng lệnh chứng Đạocủa Chúa Giêxu ban truyền trƣớc khi thăng thiên

    không phải chỉ dành cho các sứ đồ, hay chỉ cho những ngƣời có mặt tại

    thời điểm đó, mà con cho mọi CơĐốc nhân, trong đó có bạn và tôi.

    (2) -Đừng nhụt chí khi đi chứng Đạo.

    Khi đi ra chứng Đạo những lần đầu tiên, ngƣời đi chứng Đạo thƣờng

    có cảm giác lo lắng và không tự tin, đó là tâm lý thƣờng tình khi làm bất

    kỳ công việc gì ngoài xã hội. Ngƣời chứng Đạo thƣờng lo lắng về những

    phản ứng tiêu cực của Thân hữu. Nhƣng nhiều khi sự sợ sệt đó khiến

    Ngƣời chứng Đạo càng biết nhờ cậy Chúa nhiều hơn, và từ đó họ sẽ trở

    nên Ngƣời chứng Đạo chuyên nghiệp, vì Chúa vùa giúp cho ngƣời có lòng

    trông cậy nơi Ngài.

    Ngƣời Việt Nam hầu hết đều có tôn giáo hoặc tín ngƣỡng riêng, đặc biết là

    tín ngƣỡng thờ tổ tiên và Phật giáo,nên khi nghe về Tin lành, nhiều ngƣời

    có phản ứng tiêu cực. Họ có thể không nghe, hoặc phản bác thẩm chí là

    phê phán và bách hại. Nhƣng với lòng vâng phục mạng lệnh của Chúa, và

    sự trông cậy nơi quyền năng của Chúa Thánh Linh, thì những thách thức

    đókhông đáng phải sợ, nó sẽ không thểlà trở ngại lớn để ngăn cản việc

    chứng Đạo của ngƣời sống vâng Lời Chúa và yêu mến tha nhân.

    Ngoài ra, để khắc phục sự thiếu tự tin, Ngƣời chứng Đạo cần tham gia các

    lớp huấn luyện chứng Đạo của Hội thánh, đặc biệt là phải ở gần Chúa hơn

    qua việc siêng năng học Lời Chúa và cầu nguyện.

    Ngƣời chứng Đạo đừng quên một điều quan trọng rằng, Chúa Giêxu đang

    ở bên cạnh bạn và Chúa Thánh Linh đang đồng công cùng bạn khi bạn

    đang làm chứng cho bất kỳ ngƣời nào. Kinh thánh nói về điều nầy nhƣ

    vầy:

    “(18) Đức Chúa Giêxu đến gần, phán cùng môn đồ như vầy: Hết cả

    quyền phép ở trên trời và dưới đất đã giao cho ta. (19) Vậy, hãy đi dạy

    dỗ muôn dân, hãy nhân danh Đức Cha, Đức Con, và Đức Thánh Linh

  • 23

    mà làm phép báp têm cho họ, (20) và dạy họ giữ hết cả mọi điều mà ta

    đã truyền cho các ngươi. Và nầy, ta thường ở cùng các ngươi luôn cho

    đến tận thế”(Mathiơ 28:18-20).

    “(11) Khi người ta đem các ngươi đến nhà hội, trước mặt các quan án

    và quan cai trị, thì chớ lo về nói cách nào để binh vực mình, hoặc nói

    lời gì. (12) Bởi vì chính giờ đó Đức Thánh Linh sẽ dạycác ngươi

    những lời phải nói”(Luca 12:11-12)

    “(14) Vậy các ngươi hãy nhớ kỹ trong trí, đừng lo trước về sự binh

    vực mình thể nào.(15) Vì ta sẽ ban cho các ngươi lời lẽ và sự khôn

    ngoan, mà kẻ nghịch không chống cự và bẻ bác được”(Luca 21:14-15).

    (3)-Đừng trình bày nội dung sứ điệp khó hiểu.

    Ngƣời chứng nhân trình bày đầy đủ về sứ điệp cứu rỗi của Chúa Giêxu,

    nhƣng cách trình bày không hệ thống, không trình tự, và dùng những

    ngôn từ có tính thần học, nhƣng lại không giải thích nghĩa của ngôn từ

    đó ...khiến Thân hữu khó hiểu, nản lòng khiến lời chứng không có kết quả.

    Ngƣời chứng Đạo cần đơn giản hóa ngôn từ để giúp cho Thân hữu hiểu

    đƣợc trọng tâm của Tin lành một cách dễ nhất. Có nhiều phƣơng cách

    chứng Đạo, nhƣng những nội căn bản mà Ngƣời chứng Đạo cần phải đề

    cập đến, và cần truyền đạttheo thứ tự nhƣ sau là tốt nhất.

    - Thứ nhất, Đức Chúa Trời là Đấng sáng tạo.

    - Thứ hai, Số phận hƣ mất của con ngƣời chối bỏ Đức Chúa Trời.

    - Thứ ba, Chúa Giêxu đã đến thế gian giải cứu, thay đổi số phận của

    con ngƣời. Ở đây, Ngƣời chứng Đạo cần giải thích vì sao Chúa chết trên

    thập tự giá và vì sao Ngài phục sinh, và phục sinh nhằm mục đích gì?

    - Thứ tƣ, Thái độ và trách nhiệm của con ngƣời cần có đối với sự cứu

    rỗi của Chúa.

    Ngoài ra, Ngƣời chứng Đạo tránh dùng những từ có tình thần học

    khó hiểu. Nên dùng chữ „Đức Chúa Trời‟ thay chochữ “Thiên Chúa”, “chịu

    khổ” thay cho chữ “chịu thƣơng khó”, “sống lại” thay cho chữ “phục sinh”,

    “Chúa sẽ trở lại” thay cho chữ “Chúa tái lâm”,“về trời” thay cho chữ“thăng

    thiên.”

    Những từ có tính Hán tự, thì nên dùng từ ngữ hiện đại để diễn đạt.

    Còn nếu dùng tiếng Hán thì cần giải thích dễ hiểu. Ngay trong buổi thờ

    phƣợng Chúa cũng vậy, nếu biết có thân tín hữu đến thờ phƣợng Chúa

    chung, thì ngƣời giảng luận cũng không nên dùng những từ ngữ khó hiểu.

    Vì nếu không, ngƣời chƣa tin Chúa sẽ dừng lại tập trung để cố hiểu những

  • 24

    từ khó hiểu, kết cuộc, họ sẽ dễ đánh mất sự tập trung những nội dung kế

    tiếp.

    (4)- Tránh những cách làm chứng khiến Thân hữu phản ứng tiêu

    cực.

    Một số Cơ Đốc nhân bởi lòng sốt sắng cá nhân, họ đi đến những nơi công

    cộng, một tay cầm Kinh thánh, một tay cầm cây thánh giá, họ vừa đi giữa

    đám đông, vừa hô lên thật to: “Ai tin Chúa Giêxu thì đi thiên đàng, Ai

    không tin Chúa Giêxu thì đi hỏa ngục!”, và họ lập đi, lập lại một sứ điệp

    nhƣ thế. Việc nầy dễ tìm thấy tại các bến ga tàu, những nơi công cộng

    của Hàn Quốc. Những ngƣời chƣa tin Chúa, khi nghe lời rao nhƣ vậy thì

    họ tỏ vẻ khó chịu, thậm chí là tức giận, và lắm ngƣời mắng chửi lại.

    Những ngƣời chƣa tin Chúa có nhiều hạng ngƣời. Có ngƣời chƣa nghe và

    chƣa hiểu về Tin lành của Chúa Giêxu. Có ngƣời đang theo một tôn giáo,

    một tín ngƣỡng nào đó mà lòng họ hết mực trung tín. Có ngƣời theo chủ

    trƣởng của chủ nghĩa vô thần. Và cũng có ngƣời phản đối đạo Tin Lành.

    Khi ngƣời rao những lời có tính đe dọa nhƣ thế,họ sẽ hiểu sai vềTin Lành,

    họ sẽ phản ứng cách tiêu cực, thậm chí đánh mất cảm tình với Phúc Âm

    của Chúa Giêxu, và lòng họ đóng băng khi có ai đó nói cho họ về Chúa

    Giêxu về sau nầy.Vì họ nghĩ rằng Đạo Tin lành không tôn trọng hoặc xúc

    phạm đến tôn giáo, tín ngƣỡng của ngƣời khác, Đạo Tin lành có tính ép

    buộc ngƣời khác phải nhập Đạo, nên mới lấy địa ngục ra đe dọa.

    Đạo Tin lành của Chúa Giêxu là Đạo yêu thƣơng, Đạo cứu rỗi. Con ngƣời

    không phải vì không tin Chúa Giêxu mà bị ném xuống hỏa ngục. Con

    ngƣời đi vào hỏa ngục là vì họ phạm tội. Chúa Giêxu đã đến để tìm cứu kẻ

    có tội. Ai tin Ngài thì đƣợc cứu, còn ai chối bỏ Ngài thì họ phải chịu trách

    nhiệm trƣớc hậu quả về tội lỗi họ đã gây ra, mà hậu quả của tội lỗi chính

    là sự chết đời trong hỏa ngục.

    Nếu từ khi họ sinh ra cho đến khi họ qua đời, họ không phạm một tội

    lỗi nào từ trong mọi ý tƣởng cho đếnmọi hành động, thì họ cũng sẽ đƣợc

    ban cho nƣớc thiên đàng. Nhƣng không ai sống trên đời mà không phạm

    tội, ngoại trừ những em bé bị chết trong bào thai mẹ hoặc sinh ra chƣa

    biết phạm tội mà qua đời mà thôi. Những trẻ em nhƣ thế nầy chắc chắn

    sẽ đƣợc Chúa ban cho nƣớc thiên đàng, vì chúng vô tội.

    “Song Đức Chúa Giêxu phán rằng: Hãy để con trẻ đến cùng ta, đừng

    ngăn trở; vì nước thiên đàng thuộc về những kẻ giống như con trẻ

    ấy”(Mathiơ 19:14).

  • 25

    Chúa Giêxu đến thế gian không phải là để tìm cứu ngƣời công bình,

    nhƣng là để tìm cứu kẻ có tội.

    “ Đức Chúa Giêxu nghe vậy, bèn phán cùng họ rằng: Chẳng phải kẻ

    mạnh khỏe cần thầy thuốc đâu, nhưng là kẻ có bịnh; ta chẳng phải đến

    gọi người công bình, nhưng gọi kẻ có tội”(Mác 2:17)

    Khi nói tới những từ chỉ về hình phạt nhƣ „sự phán xét‟, hay „hỏa

    ngục‟, „đại nạn‟...Ngƣời chứng Đạo cần phải giải thích rõ về nguyên nhân

    nào con ngƣời phải gánh lấy những hình phạt đó, thay vì khiến họ hiểu

    lầm rằng Đức Chúa Trời là hung thần, thì cần phải dùng Lời Chúa để giúp

    họ hiểu đúng rằng Ngài là Đấng yêu thƣơng, là Đấng cứu rỗi.

    (5)-Dừng việc làm chứng khi Thân hữutừ chối nghe.

    Ngƣời chứng Đạo cần để ý thái độ của ngƣời mà mình sẽ hoặc đang

    làm chứng cho. Có thể họ đang làm một công việc gì đó, nhƣng lòng họ

    sẳn sàng nghe, thì chúng ta cứ chia sẻ. Nhƣng nếu họ tỏ ra bực bội hoặc

    có lời xin lỗi bây giờ đang bận việc hoặc không muốn nghe, thì Ngƣời

    chứng Đạo đừng cố gắng năn nỉ hay nài ép họ phải nghe.

    Cũng có trƣờng hợp, vì tính tình lịch sự mà Thân hữu có vẻ đang

    chăm chú nghe, nhƣng trong lòng thì không muốn nghe tiếp. Dấu hiệu là

    họ rất im lặng, không có phản ứng gì cả. Lúc đó, Ngƣời chứng Đạo có thể

    hỏi họ rằng mình có thể nói thêm đƣợc không? Nếu họ cho phép thì mình

    tiếp tục, còn nếu không thì mình nên đi đến phần kết luận cách ngắn gọn.

    Khi Thân hữu không muốn nghe, mà Ngƣời chứng Đạo cứ nói, thì Thân

    hữu chẳng những không để tâm vào lời chứng Đạo, mà còn nghĩ tiêu cực

    về Ngƣời chứng Đạo, thậm chí là tranh cãi và tránh né cả những Ngƣời

    chứng Đạokhác khi họ gặp ở những lần sau.

    Gặp trƣờng hợp nhƣ vậy, Ngƣời chứng Đạo nên dừng lại và xin họ một cơ

    hội khác để nói về Chúa, đồng thời trao cho họ một vài cuốn truyền Đạo

    đơn trƣớc khi rời khỏi họ và đừng quên hỏi thăm tên của họ, để nhớ mà

    cầu nguyện cho. Bạn cần nhớ rằng, việc khiến họ mở lòng ra đón nhận

    Phúc Âm là việc của Đức Chúa Trời. Ngƣời chứng Đạo chỉ là lƣỡi hái, còn

    chính Chúa mới là Ngƣời gặt. Đừng thất vọng và bỏ cuộc khi gặp những

    trƣờng hợp nhƣ trên.

    (6)-Đừng làm chứng lòng vòng, dài dòng.

    Lý do mà Ngƣời chứng Đạo thƣờng hay nói dài, có khi đến hai ba tiếng

    đồng hồ, khiến Thân hữu phát mệt là vì Ngƣời chứng Đạo không đƣợc

    huấn luyện phƣơng cách làm chứng, hoặc đƣợc huấn luyện nhƣng không

  • 26

    nắm bắt đƣợc nội dung. Ngƣời chứng Đạo không nên nói tất cả những gì

    mình biết, mà chỉ nói những gì vừa đủ để Thân hữu biết rằng Đức Chúa

    Trời là Cha của họ, Ngài yêu thƣơng họ. Chúa Giêxu đã chết và sống lại

    để ban sự cứu rỗi cho họ và họ cần tin Ngài để đƣợc cứu.

    Tránh dùng triết học ra lý luận cách không cần thiết. Khi làm chứng thì

    cũng cần kể một vài điều Chúa đã làm cho cuộc đời mình để giúp Thân

    hữu thấy đƣợc quyền năng của Phúc Âm, song đừng kể quá chi tiết và

    quá nhiều, khiến Thân hữu mệt mỏi.

    Khi làm chứng, Ngƣời chứng Đạo không nên độc thoại, nhƣng cần đƣa ra

    những câu hỏi gợi ý đối với Thân hữu. Đƣợc nhƣ vậy, Thân hữu sẽ thấy

    thú vị khi nghe, và không thấy thời gian kéo dài nhƣ khi nghe một chiều.

    (7)-Đừng tranh cãi.

    Khi bị Thân hữuphủ nhận và phản đối điều mình nói, Ngƣời chứng Đạo

    nóng tính dễ bị kích động dẫn đến tranh cãi. Khi tranh cãi, thì dầu Ngƣời

    chứng Đạo có lý lẽ thuyết phục đi nữa, thì anh ta vẫn là kẻ bị bại trận.

    Mục đích của Ngƣời chứng Đạo là đem Thân hữu trở lại với Chúa, nhƣng

    sau trận tranh cãi thắng thua, chắc chắn Thân hữu sẽ tức giận, có ác cảm

    với Đạo Tin lành và tránh gặp mặt những Ngƣời chứng Đạo lần sau.

    Tin lành Đạo bình an, Tin lành đem con ngƣời trở lại hòa thuận với

    Đức Chúa Trời và hòa thuận với nhau. Lời Chúa có chép rằng:

    “Dùng sự sẳn sàng của Tin lành bình an mà làm giày dép”(Êphêsô 6:15).

    “Phước cho những kẻ làm cho ngươi hòa thuận, vì sẽ được gọi là con

    Đức Chúa Trời”(Mathiơ 5:9).

    “(24) Vả, tôi tớ của Chúa không nên ưa sự tranh cạnh, nhưng phải ở tử tế

    với mọi người, có tài dạy dỗ và nhịn nhục, (25) dùng cách mềm mại mà

    sửa dạy những kẻ chống trả, mong rằng Đức Chúa Trời ban cho họ sự ăn

    năn để nhìn biết lẽ thật”(2 Timôthê 2:24-25).

    Vì vậy, không có gì phải tranh cãi để rồi dẫn đến xung đột, nhất là khi

    trình bày Phúc Âm yêu thƣơng, bình an của Chúa Giêxu. Khi Thân hữu có

    những câu hỏi mang tính bắt bẻ, thì ngƣời tin Chúa cứ nhờ cậy Chúa mà

    nhẫn nhục giải đáp mọi câu hỏi của họ tùy theo sự hiểu biết dựa trên Kinh

    thánh. Nếu Thân hữu có ý muốn tranh cãi để gây xung đột, thì Ngƣời

    chứng Đạo nên dừng lại, và cứ dùng lời nói mềm mại mà bảo với họ rằng:

    “tôi sẽ suy nghĩ thêm về lời nói của anh, và mong anh cũng suy nghĩ

    thêm về những lời mà tôi đã chia sẻ cùng anh, mong đƣợc gặp lại anh ở

    dịp khác.Đừng quên trao tặng họ một vài cuốn truyền Đạo đơn trƣớc khi

    rời đi.

  • 27

    (8). Đừng phê phán tôn giáo, tín ngƣỡng.

    Hai thứ chiến tranh khủng khiếp nhất trên thế giới là chiến tranh sắc

    tộc và chiến tranh tôn giáo. Nên việc xúc phạm đến tôn giáo và sắc tộc là

    một trong những nguyên nhân dẫn đến tranh cãi, thậm chí là tranh chiến.

    Chúa dạy mọi ngƣời phải tôn trọng ngƣời khác hơn chính mình (Philíp 2:3).

    Vì vậy, ngƣời chứng đạo cần tôn trọng thân hữu cũng nhƣ tôn giáo, tín

    ngƣỡng của họ, đặc biệt là vị giáo chủ của tôn giáo họ trong những danh

    xƣng, cách gọi. Đừng phê phán giáo lý của họ, nhƣng hãy giải thích cho

    họ nghe nếu thấy cần thiết trên tinh thần tôn trọng.

    *******

  • 28

    BÀI 4 - NỘI DUNG CỦA SỨ ĐIỆP CHỨNG ĐẠO

    I. Con ngƣời đƣợc Đức Chúa Trời tạo dựng nên.

    Đức Chúa Trời sáng tạo nên trời đất và muôn vật, muôn loài trong 6

    ngày, ngày thứ bảy Ngài làm ngày nghỉ. Con ngƣời là tạo vật đƣợc Ngài

    tạo nên sau cùng. Đức Chúa Trời dựng nên Ađam là con ngƣời đàn ông

    đầu tiên trên mặt đất, bằng cách lấy bụi đất nắn nên hình ngƣời, hà sanh

    khí vào lỗ mũi, thì trở nên một loài sanh linh (Sáng thế ký 2:7). Ngài lấy

    xƣơng sƣờn của Ađam và làm nên một ngƣời nữ, tên là Êva (Sáng thế ký

    2:21-22). Ađam và Êva đƣợc tạo nên dựa theo hình ảnh của Đức Chúa

    Trời (Sáng thế ký 1:27). Từ Ađam và Êva, loài ngƣời đƣợc sanh ra và lan

    tràn khắp mặt đất.

    Mục đích tạo dựng nên con ngƣời.

    Mục đích tạo dựng nên con ngƣời đƣợc tìm thấy trong sách Sáng thế

    ký 1:27-28.

    “(27) Đức Chúa Trời dựng nên loài người như hình Ngài; Ngài dựng

    nên loài người giống như hình Đức Chúa Trời; Ngài dựng nên người

    nam cùng người nữ. (28)Đức Chúa Trời ban phước cho loài người và

    phán rằng: Hãy sanh sản, thêm nhiều, làm cho đầy dẫy đất; hãy làm

    cho đất phục tùng, hãy quản trị loài cá dưới biển, loài chim trên trời

    cùng các vật sống hành động trên mặt đất.”

    Mục đích thứ nhất:ĐểĐức Chúa Trời và con ngƣời tƣơng giao với

    nhau. Chỉ riêng đối với con ngƣời, Ngài sáng tạo theo hình ảnh của Ngài.

    Ngài phán cùng con ngƣời rằng: “Hãy sanh sản, thêm nhiều, làm cho đầy

    dẫy đất.”Đức Chúa Trời tạo dựng con ngƣời cách nhƣ vậy nhằm mục đích

    để Ngài và con ngƣời có mối tƣơng giao với nhau. Trong quan hệ đó, con

    ngƣời kinh nghiệm tình yêu thƣơng của Ngài, và con ngƣời sống động,

    suy nghĩ, ăn nói,hành động tất cả đều vì vinh hiển của Chúa.

    Mục đích thứ hai:Để con ngƣời sống với với con ngƣời. Ngài sáng

    tạo nên ngƣời nam và ngƣời nữ, lập họ nên một gia đình.

    Mục đích thứ ba:Để con ngƣời cai trị thiên nhiên và mọi vật trong

    đó.

  • 29

    Tóm lại, Quan hệ tốt lành ba chiều của con ngƣời là mục đích Đức

    Chúa Trời dựng nên con ngƣời. Quan hệ với Đức Chúa Trời, với nhau và

    với muôn vật trong vụ trụ.2

    II.Con ngƣời phạm tội và chịu đoán phạt.

    1- Tội lỗi

    - Kinh thánh dạy về tội lỗi:

    “Còn ai phạm tội tức là trái luật pháp; và sự tội lỗi tức là sự trái luật

    pháp”(1Giăng 3:4). “Mọi sự không công bình đều là tội”(1 Giăng

    5:17).

    Luật pháp ở đây chỉ về ý muốn của Đức Chúa Trời, ý muốn của Ngài

    là công bình, tức là công bằng, ngay thẳng, không sai trật. Mọi tƣ tƣởng,

    hành động trái với ý của Chúa là tội lỗi. Hành động trái với ý muốn của

    Đức Chúa Trời là không làm điều Chúa sai bảo,và làm điều Chúa cấm.

    - Luật pháp trên đời kết tội chỉ dựa vào hành động, và hành động đó

    chỉ khi nào gây ra hậu quả nguy hiểm. Nhƣng với Đức Chúa Trời, thì ngay

    cả khi tƣ tƣởng sai trái cũng đã là tội. Ngài là Đấng Toàn Tri, biết rõ mọi

    hành động và từng ý nghĩ của con ngƣời, nên mọi tội của con ngƣời đều

    bày ra trƣớc mặt Ngài.

    “Đức Giê-hô-va chẳng xem điều gì loài người xem; loài người xem bề

    ngoài, nhưng Đức Giê-hô-va nhìn thấy trong lòng”(1 Samuên 16:7).

    “Tư tưởng ngu dại là tội lỗi”(Châm ngôn 24:9)

    “Song ta phán cho các ngươi biết: Hễ ai ngó đàn bà mà động tình tham

    muốn, thì trong lòng đã phạm tội tà dâm cùng người rồi”(Mathiơ 5:28).

    - Ngoài ra, một ngƣời biết điều lành mà lại không làm thì cũng bị kể là

    tội lỗi.

    “Cho nên, kẻ biết làm điều lành mà chẳng làm, thì phạm tội”(Giacơ 4:17).

    Con ngƣời ban đầu đƣợc tạo dựng rất là tốt lành, không có tội lỗi.

    Nhƣng con ngƣời lợi dụng ý chí tự do mình có mà không vâng lời Đức

    Chúa Trời, và do không vâng lời Đức Chúa Trời mà gây nên nhiều tội lỗi.

    Từ ban đầu, thủy tổ loài ngƣời là Ađam và Êva đã không vâng lời Đức

    2 John Sungchul Hong, 『Introduduction to Evangelism』, (Seoul: Nhà xuất bản Saebok, 2014), trang

    162-163

  • 30

    Chúa Trời mà hái ăn trái cây biết điều thiện và điều ácở giữa vƣờn Êđen, là

    cây mà Đức Chúa Trời cấm ăn. Và từ đó đến nay, con ngƣời gây ra tội lỗi

    lan tràn khắp mặt đất, mọi ngƣời đều phạm tội. Lý do phạm tội là họ chối

    bỏ Đức Chúa Trời, muốn thay mình vào vị trí của Ngài để làm theo điều

    mình muốn, chứ không làm theo điều Đức Chúa Trời muốn.

    Nhƣ vậy, mọi ngƣời đều phạm tội và đánh mất đi vinh hiển mà Ngài

    dành cho họ ở buổi đầu sáng thế. Đó là mất đi mối quan hệ mật thiết với

    Đức Chúa Trời, không còn ở trong mối tƣơng giao gần gũi, ngọt ngào với

    Ngài nữa. Họ đánh mất đi sự thánh khiết, công bình và sự chân thật của

    con ngƣời đầu tiên. Ban đầu họ đƣợc tự do và quyền làm chủ, nhƣng sau

    khi phạm tội, họ trở nên nô lệ của tội lỗi và Satan. Giữa con ngƣời và con

    ngƣời cũng mất đi dần tình yêu thƣơng chân thành.

    Trong đời nầy, không ai tự mình sống thánh sạch trọn vẹn từ trong tƣ

    tƣởng, lời nóiđến hành động nhƣChúa Giêxu đƣợc. Tội lỗi quá khứ vẫn còn

    đó, trong khi hiện tại và tƣơng lại thì cứ tiếp tục phạm tội. Kinh thánh

    khẳng định:

    “Chẳng có một người công bình nào hết, dẫu một người cũng

    không”(Rôma 3:10).

    Tội là thiếu hụt tiêu chuẩn của Đức Chúa Trời. Tiêu chuẩn của Đức

    Chúa Trời là Chúa Cứu Thế Giêxu. Ai không sống trong sạch, yêu thƣơng

    và công bình bằng Chúa Giêxu, thì bị kể là tội nhân.3

    2 - Số phận của ngƣời phạm tội.

    Đức Chúa Trời là Đấng yêu thƣơng, nhƣng cũng là Đức Chúa Trời

    thánh khiết và công bình. Vì bản chất thánh khiết, Ngài không thể chấp

    nhận đƣợc tội lỗi mà con ngƣời gây ra. Vì tính công bình, Ngài phải đoán

    phạt ngƣời gây ra lỗi lầm. Hình phạt của Ngài đó là sự chết nhƣ Kinh

    thánh chép rằng:

    “Vì tiền công của tội lỗi là sự chết; nhưng sự ban cho của Đức Chúa

    Trời là sự sống đời đời trong Đức Chúa Giêxu Christ, Chúa chúng

    ta”(Rôma 6:23)

    Con ngƣời phạm tội, họ lại không có khả năng xóa đƣợc tội lỗi ở quá

    khứ, trong khi ở hiện tại và tƣơng thì lại cứ phải tiếp tục phạm tội. Họ

    không tự mình sống trong sạch đƣợc, và cũng không con ngƣời nào có thể

    giúp họ sống vô tộiđƣợc. Kết cuộc, họ s�