39
1. Chủ thể phát hành chứng khoán 1.1. Chính phủ Chính phủ là chủ thể phát hành chứng khoán đặc biệt. Điều này xuất phát từ chức năng của Chính phủ. Đó là cơ quan hành pháp, thực hiện hoạt động quản lý Nhà nước trên tất cả các lĩnh vực kinh tế, chính trị an ninh quốc phòng văn hoá, giáo dục y tế từ Trung ương đến địa phương. Nhằm bù đắp thiếu hụt cho ngân sách Nhà nước, đáp ứng nhu cầu của quốc gia, pháp luật qui định Chính phủ được phép phát hành trái phiếu. Phát hành trái phiếu của Chính phủ là một hình thức vay vốn trong dân chúng, để cân đối chênh lệch thu chi cho Ngân sách Nhà nước cũng như để thực hiện các chính sách kinh tế tiền tệ như chi cho đầu tư phát triển, phát triển kinh tế xã hội, chống lạm phát. Hiện nay tư cách chủ thể phát hành trái phiếu Chính phủ được quy định tại Nghị định 141/2003/NĐ-CP ngày 20 tháng 11 năm 2003 về việc phát hành trái phiếu Chính phủ, trái phiếu được Chính phủ bảo lãnh và trái phiếu chính quyền địa phương. Tuy nhiên không phải tất cả các loại trái phiếu được quy định trong Nghị định đều được coi là chứng khoán mà chỉ có trái phiếu kho bạc, trái phiếu công trình Trung Ương, trái phiếu ngoại tệ và trái phiếu đầu tư là chứng khoán. Đồng thời theo quy định của pháp luật hiện hành, Chính phủ sẽ giao cho Kho Bạc Nhà Nước, Bộ Tài chính, các tổ chức tài

Phần điều kiện

Embed Size (px)

Citation preview

Page 1: Phần điều kiện

1. Chủ thể phát hành chứng khoán

1.1. Chính phủ

Chính phủ là chủ thể phát hành chứng khoán đặc biệt. Điều này xuất phát từ chức

năng của Chính phủ. Đó là cơ quan hành pháp, thực hiện hoạt động quản lý Nhà nước

trên tất cả các lĩnh vực kinh tế, chính trị an ninh quốc phòng văn hoá, giáo dục y tế từ

Trung ương đến địa phương. Nhằm bù đắp thiếu hụt cho ngân sách Nhà nước, đáp ứng

nhu cầu của quốc gia, pháp luật qui định Chính phủ được phép phát hành trái phiếu. Phát

hành trái phiếu của Chính phủ là một hình thức vay vốn trong dân chúng, để cân đối

chênh lệch thu chi cho Ngân sách Nhà nước cũng như để thực hiện các chính sách kinh tế

tiền tệ như chi cho đầu tư phát triển, phát triển kinh tế xã hội, chống lạm phát.

Hiện nay tư cách chủ thể phát hành trái phiếu Chính phủ được quy định tại Nghị

định 141/2003/NĐ-CP ngày 20 tháng 11 năm 2003 về việc phát hành trái phiếu Chính

phủ, trái phiếu được Chính phủ bảo lãnh và trái phiếu chính quyền địa phương.

Tuy nhiên không phải tất cả các loại trái phiếu được quy định trong Nghị định đều

được coi là chứng khoán mà chỉ có trái phiếu kho bạc, trái phiếu công trình Trung Ương,

trái phiếu ngoại tệ và trái phiếu đầu tư là chứng khoán. Đồng thời theo quy định của pháp

luật hiện hành, Chính phủ sẽ giao cho Kho Bạc Nhà Nước, Bộ Tài chính, các tổ chức tài

chính và tổ chức tín dụng Nhà nước phát hành các loại chứng khoán này.

Trong bối cảnh Việt Nam hiện nay, Trái phiếu Chính phủ vẫn là một kênh huy

động vốn quan trong của Nhà Nước, chiếm 90% khối lượng trái phiếu trên thị trường trái

phiếu. Hàng năm, Chính phủ vẫn liên tục phát hành trái phiếu Chính phủ để đáp ứng nhu

cầu đầu tư, duy trì tốc độ phát triển kinh tế.

1.2. Chính quyền địa phương

Với chức năng quản lý Nhà nước giống Chính Phủ thì chính quyền địa phương

cũng có quyền phát hành trái phiếu chính quyền địa phương. Tuy nhiên một điểm khác

cơ bản đó là Chính quyền địa phương chỉ được phát hành trái phiếu trong phạm vi đơn vị

hành chính địa phương mình.

Cơ sở pháp lý về việc phát hành trái phiếu chính quyền địa phương được cũng

được quy định tại Nghị định 141/2003/NĐ-CP ngày 20 tháng 11 năm 2003. Theo đó, chủ

Page 2: Phần điều kiện

thể phát hành trái phiếu chính quyền địa phương là Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh. Tuy nhiên

chủ thể này không trực tiếp phát hành mà uỷ quyền cho Kho bạc Nhà nước hoặc tổ chức

tài chính, tổ chức tài chính trên địa bàn phát hành. Mục đích của việc phát hành trái phiếu

chính quyền địa phương là nhằm huy động vốn cho các dự án, công trình thuộc nguồn

vốn ngân sách địa phương. Có thể nói, trái phiếu chính quyền địa phương là một trong

những công cụ hữu hiệu đáp ứng nhu cầu vốn cho địa phương, giảm bớt gánh nặng cho

ngân sách Trung ương khi ngân sách địa phương chưa đáp ứng kịp và vẫn đảm bảo sự

phát triển cho địa phương.

1.3. Doanh nghiệp

1.3.1. Chủ thể phát hành chứng khoán vốn

1.3.1.1. Công ty cổ phần

Hiện nay, công ty cổ phần có vai trò quan trọng đối với nền kinh tế trong đó có thị

trường chứng khoán. Như chúng ta đã biết, trong nền kinh tế thị trường công ty cổ phần

được xem là nhân tố quan trọng góp phần thúc đẩy xã hội hoá sản xuất, thúc đẩy tăng

trưởng kinh tế, đưa nền kinh tế từ kinh tế hàng hoá vận hành theo cơ chế thị trường sang

nền kinh tế thị trường. Đối với thị trường chứng khoán, công ty cổ phần tạo ra hàng hoá,

góp phần hình thành thị trường sơ cấp.

Theo quy định của Luật doanh nghiệp 2005, công ty cổ phần được quyền phát

hành chứng khoán (khoản 3, điều 77). So với các loại hình doanh nghiệp khác, công ty cổ

phần có ưu thế đặc biệt. Đó là khả năng công ty cổ phần được quyền phát hành rộng rãi

cổ phiếu và trái phiếu để huy động vốn trong đó có cổ phiếu là loại chứng khoán vốn.

Việc chào bán cổ phiếu của công ty cổ phần nhằm tạo lập vốn điều lệ để hình thành công

ty hoặc để tăng vốn điều lệ. Thực tế hiện nay, công ty cổ phần giữ vai trò chủ yếu trong

việc cung cấp hàng hoá cho thị trường thứ cấp, chứng khoán đã niêm yết trên thị trường

giao dịch tập trung chủ yếu là các cổ phiếu của công ty cổ phần.

Có thể nói, Luật doanh nghiệp 2005 đã tạo cơ sở pháp lý cho việc thành lập công

ty cổ phần, từ đó làm tăng chủ thể chào bán chứng khoán cho thị trường chứng khoán.

Tuy nhiên Luật chỉ quy định việc chào bán riêng lẻ cổ phiếu của công ty cổ phần để tăng

vốn điều lệ còn việc chào bán ra công chúng phải tuân theo Luật chứng khoán 2006.

1.3.1.2. Công ty Nhà nước cổ phần hoá

Page 3: Phần điều kiện

Cùng với quá trình “đổi mới”, chuyển đổi từ nền kinh tế tập trung bao cấp sang

nền kinh tế thị trường, việc cổ phần hoá các công ty Nhà nước đã trở thành một tất yếu

khách quan. Cũng chính vì lẽ đó, một chủ thể mới xuất hiện trong những năm gần đây,

tạo động lực mạnh mẽ và cơ chế quản lý năng động cho các doanh nghiệp sử dụng vốn có

hiệu quả, đảm bảo hài hoà lợi ích của Nhà nước, doanh nghiệp, nhà đầu tư và người lao

động trong doanh nghiệp. Đó là công ty Nhà nước cổ phần hoá.

Để cổ phần hoá, công ty Nhà nước được quyền phát hành cổ phiếu (hay cổ phần).

Việc cổ phần hoá các công ty Nhà nước hiện nay chịu sự điều chỉnh của nghị định

187/2004/NĐ-CP ngày 16 tháng 11 năm 2004 về việc chuyển công ty Nhà nước thành

công ty cổ phần thay thế Nghị định 64/2002/NĐ-CP ngày 19 tháng 6 năm 2002 trước đây

về việc chuyển doanh nghiệp Nhà nước thành công ty cổ phần. Theo quy định của pháp

luật hiện hành các công ty Nhà nước được chuyển đổi bao gồm: Tổng công ty Nhà nước,

công ty Nhà nước độc lập, công ty thành viên hoạch toán độc lập của tổng công ty do

Nhà nước quyết định đầu tư và thành lập, đơn vị hoạch toán phụ thuộc của công ty Nhà

nước.

Sau khi chào bán cổ phiếu thành công, các công ty Nhà nước sẽ chuyển thành công

ty cổ phần, chịu sự điều chỉnh của pháp luật về công ty cổ phần. Là một chủ thể khá đặc

biệt nên trong việc chào bán cổ phiếu của công ty Nhà Nước cũng có những đặc điểm

riêng. Công ty Nhà nước cổ phần hoá thường có một tỷ lệ nhất định cổ phần do Nhà

Nước nắm giữ, đồng thời tại đây, người lao động luôn được hưởng chính sách ưu đãi về

giá khi mua cổ phần. Đây là những điểm không thể thấy được ở việc chào bán cổ phiếu

của các chủ thể khác.

Thực tế từ khi có Nghị định 187/2004/NĐ-CP ngày 16 tháng 11 năm 2004, đã có

hàng loạt công ty Nhà Nước cổ phần hoá thành công với hình thức chào bán cổ phiếu

như: Công ty xi măng Hà Tiên, Công ty nhựa Rạng Đông, Công ty bóng đèn Điện

Quang… Trong năm 2006 đã có khoảng hơn 100 công ty Nhà Nước chuyển đổi thành

công ty cổ phần.

1.3.1.3. Công ty quản lý quỹ đầu tư

Nhắc đến chứng khoán vốn, bên cạnh cổ phiếu, không thể không nhắc đến chứng

chỉ quỹ đầu tư. Như vậy công ty quản lý quỹ đầu tư cũng là một chủ thể chào bán chứng

Page 4: Phần điều kiện

khoán vốn. Theo quy định của Luật chứng khoán 2006, công ty quản lý quỹ đầu tư được

chào bán chứng chỉ quỹ đầu tư theo hình thức chào bán ra công chúng. Công ty quản lý

quỹ đầu tư cũng là một chủ thể khá đặc biệt. Chủ thể này thực hiện việc thành lập các quỹ

đầu tư chứng khoán- tập trung các nguồn vốn của các nhà đầu tư để chủ yếu đầu tư vào

chứng khoán và tiến hành hoạt động đầu tư của quỹ. Do quỹ đầu tư chứng khoán không

được huy động vốn vay để đầu tư chứng khoán nên việc phát hành chứng chỉ quỹ đầu tư

là phương thức chính để thu hút vốn, đáp ứng mục tiêu của quỹ. Và hoạt động chào bán

chứng chỉ quỹ đầu tư ra công chúng do công ty quản lý quỹ thực hiện. Tại Việt Nam hiện

nay, có khoảng 18 công ty quản lý quỹ đầu tư như công ty cổ phần quản lý quỹ đầu tư

chứng khoán Việt Long với số vốn điều lệ lên đến 40 tỷ đồng, công ty liên doanh quản lý

quỹ đầu tư BIDV-Vietnam Partner vốn điều lệ là 32 tỷ đồng.

1.3.1.4. Công ty đại chúng

Việc quy định công ty đại chúng là một trong những điểm mới của Luật chứng

khoán 2006. Luật đã đưa ra khái niệm công ty đại chúng, bao quát 3 loại hình công ty cổ

phần là công ty đã thực hiện việc phát hành chứng khoán ra công chúng ( kể cả đã chào

bán chứng khoán ra công chúng trước khi Luật chứng khoán 2006 có hiệu lực); công ty

có cổ phiếu niêm yết trên Sở giao dịch chứng khoán hoặc Trung tâm giao dịch chứng

khoán; công ty do phát hành riêng lẻ nhiều lần mà có cổ phiếu được ít nhất 100 nhà đầu

tư sở hữu và có vốn điều lệ thực góp từ 10 tỷ đồng trở lên. Như vậy thực chất công ty đại

chúng là những công ty cổ phần. Do đó công ty đại chúng được quyền phát hành cổ

phiếu. Tuy nhiên đây là những chủ thể có số lượng lớn các nhà đầu tư đã thực hiện việc

phát hành rộng rãi chứng khoán ra công chúng. Vì vậy gắn với việc quy định về công ty

đại chúng, pháp luật cũng quy định một nghĩa vụ quan trọng của nó là nghĩa vụ công bố

thông tin. Đây là quy định đóng vai trò đặc biệt quan trọng trong việc bảo vệ quyền và lợi

ích hợp pháp của nhà đầu tư. Trên thực tế trước đây rất nhiều công ty cổ phần hoạt động

với số vốn điều lệ trên 10 tỷ đồng có trên 100 nhà đầu tư sở hữu cổ phần nhưng họ chỉ

thực hiện chào bán chứng khoán riêng lẻ để lẩn tránh nghĩa vụ công bố thông tin. Vì vậy

mà Nhà nước không quản lý được chất lượng chứng khoán cũng như thị trường chứng

khoán. Do đó việc quy định về công ty đại chúng góp phần minh bạch hoá các thông tin

Page 5: Phần điều kiện

trên thị trường chứng khoán, hướng đến một thị trường chứng khoán an toàn và hiệu quả,

góp phần đắc lực vào việc phát triển nền kinh tế.

1.3.2. Chủ thể chào bán chứng khoán nợ

Chứng khoán nợ là loại chứng khoán ghi nhận quyền chủ nợ của người sở hữu loại

chứng khoán đó với tổ chức phát hành. Đó chính là các loại trái phiếu. Hiện nay, tư cách

chủ thể phát hành trái phiếu được quy định tại hai văn bản pháp luật: Nghị định

52/2006/NĐ-CP ngày 19 tháng 5 năm 2006 về phát hành trái phiếu doanh nghiệp và

quyết định 02/2004/QĐ-NHNN về việc ban hành quy chế phát hành giấy tờ có giá của tổ

chức tín dụng nhằm huy động vốn trong nước.

Theo Nghị định 52/2006/NĐ-CP ngày 19 tháng 5 năm 2006 chủ thể có quyền phát

hành trái phiếu doanh nghiệp bao gồm công ty cổ phần, công ty Nhà nước trong thời gian

chuyển đổi thành công ty cổ phần và công ty trách nhiệm hữu hạn theo quy định của Luật

doanh nghiệp và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài trên phạm vi lãnh thổ Việt Nam.

Tuy nhiên Nghị định đã không quy định một chủ thể mà theo Luật doanh nghiệp thì việc

chủ thể này phát hành trái phiếu để huy động vốn không bị cấm, đó là công ty trách

nhiệm hữu hạn. Chính điều này đã gây lúng túng trong việc áp dụng pháp luật về phát

hành trái phiếu của nhiều công ty trách nhiệm hữu hạn. Từ đó làm hạn chế khả năng huy

động vốn để đáp ứng nhu cầu sản xuất kinh doanh.

Theo quy định của quyết định 02/2004/QĐ-NHNN ngày 04 tháng 01 năm 2004

chủ thể có quyền phát hành trái phiếu để huy động vốn trong nước bao gồm: các tổ chức

tín dụng Nhà nước, tổ chức tín dụng cổ phần, quỹ tín dụng nhân dân trung ương, các tổ

chức tín dụng liên doanh, các tổ chức tín dụng 100% vốn nước ngoài và các chi nhánh

ngân hàng nước ngoài được phép hoạt động tại Việt Nam. Có thể nói, phạm vi chủ thể

được phép phát hành trái phiếu là rất rộng. Pháp luật đã có những quy định rất mở nhằm

tạo điều kiện cho các tổ chức tín dụng được huy động vốn hết khả năng của mình, đáp

ứng nhu cầu về vốn đang rất bức thiết hiện nay của các tổ chức tín dụng. Một khi nhu cầu

về vốn của các tổ chức này được đảm bảo thì nhu cầu về vốn như một “cơn khát” của các

doanh nghiệp sẽ được thoả mãn.

Với những quy định rất thông thoáng của pháp luật về chủ thể được quyền phát

hành trái phiếu để huy động vốn, thị trường trái phiếu Việt Nam trong những năm tới hứa

Page 6: Phần điều kiện

hẹn sẽ rất sôi động, thúc đẩy sự phát triển của các doanh nghiệp nói riêng và nền kinh tế

nói chung.

2. Điều kiện chào bán chứng khoán của doanh nghiệp

2.1. Điều kiện chào bán chứng khoán ra công chúng

Thị trường chứng khoán Việt Nam mới phát triển trong một vài năm gần đây nên

đa số các nhà đầu tư là các nhà đầu tư nhỏ, không có kiến thức chuyên môn về phân tích

và đầu tư chứng khoán. Nghị định 48/1998/NĐ-CP ngày 11 tháng 7 năm 1998 và Nghị

định 144/2003/NĐ-CP ngày 28 tháng 11 năm 2003 đã sử dụng khái niệm phát hành

chứng khoán ra công chúng là chưa phù hợp với chuẩn mực quốc tế và trong thực tiễn đã

tạo nên nhiều kẽ hở để các tổ chức chào bán lách luật thực hiện chào bán chứng khoán ra

công chúng mà không công khai thông tin theo quy định với lý do khi chào bán họ chưa

biết là có dẫn đến việc phát hành chứng khoán ra công chúng hay không. Khái niệm “

Chào bán chứng khoán ra công chúng” điều chỉnh bất kỳ hành vi chào mời, bán hay phát

hành chứng khoán ra công chúng. Điều này góp phần khắc phục một trong những trở

ngại cơ bản đối với sự phát triển của thị trường chính thức hiện nay, đó là sự thiếu đồng

bộ trong luật pháp điều chỉnh việc chào bán chứng khoán ra công chúng. Chào bán chứng

khoán ra công chúng được hiểu là việc chào bán ra đông đảo công chúng đầu tư. Chính vì

vậy để bảo vệ quyền và lợi ích của các nhà đầu tư, pháp luật nước ta quy định rất cụ thể

điều kiện chào bán chứng khoán ra công chúng.

2.1.1. Điều kiện chào bán cổ phiếu ra công chúng

Được quy định tại khoản 1 điều 12 Luật chứng khoán 2006.

Thứ nhất, về mức vốn điều lệ, doanh nghiệp phải có mức vốn điều lệ đã góp tại

thời điểm đăng ký chào bán từ 10 tỷ đồng trở lên tính theo giá trị ghi trên sổ kế toán.

Trong đó vốn điều lệ thực có được tính bằng tổng số vốn kinh doanh trừ vốn vay. Quy

định về mức vốn điều lệ tối thiểu trên là hợp lý vì nó đảm bảo sự an toàn, tạo sự ổn định

cho thị trường chứng khoán, tạo niềm tin cho nhà đầu tư, đảm bảo chất lượng chứng

khoán. Tại hai văn bản pháp luật trước đây về chứng khoán và thị trường chứng khoán

đều quy định về mức vốn điều lệ tối thiểu để phát hành chứng khoán ra công chúng,

nhưng dường như nó tỏ ra không hợp lý. Theo điều 6 Nghị định 48/1998/NĐ-CP ngày 11

tháng 7 năm 1998 mức vốn điều lệ tối thiểu là 10 tỷ đồng. Tuy nhiên vào khoảng thời

Page 7: Phần điều kiện

gian 1998-1999, yêu cầu về mức vốn điều lệ đó là quá cao so với tình hình thực tế của

các doanh nghiệp. Trong khi đó, thị trường chứng khoán tập trung đang rất cần hàng hoá

để đảm bảo lượng giao dịch tối thiểu, cần các doanh nghiệp lên sàn. Điều kiện về vốn cao

sẽ hạn chế doanh nghiệp phát hành chứng khoán ra công chúng. Sau đó tại điều 6 nghị

định 144/2003/NĐ-CP ngày 28 tháng 11 năm 2003 quy định về điều kiện phát hành

chứng khoán ra công chúng, mức vốn điều lệ tối thiểu hạ xuống còn 5 tỷ đồng tại thời

điểm đăng ký phát hành. Mục đích của quy định này là nhằm tạo điều kiện cho các doanh

nghiệp vừa và nhỏ có khả năng chào bán chứng khoán ra công chúng. Tuy nhiên sau hơn

hai năm, quy định này cũng tỏ ra không khả thi vì lượng doanh nghiệp chào bán cổ phiếu

không tăng mạnh. Đồng thời do không có sự thống nhất về mức vốn điều lệ tối thiểu đối

với tổ chức chào bán cổ phiếu và tổ chức chào bán trái phiếu nên quy định này khó áp

dụng trên thực tế. Vì vậy đến Luật chứng khoán 2006, quy định về điều kiện mức vốn

điều lệ tối thiểu một lần nữa được sửa đổi là 10 tỷ. Đồng thời xoá bỏ sự phân biệt của tổ

chức chào bán cổ phiếu và tổ chức chào bán trái phiếu. Điều này là hoàn toàn phù hợp

với tình hình tài chính hiện nay của các doanh nghiệp. Ngay sau khi Luật chứng khoán có

hiệu lực- ngày 1/1/2007, một loạt các công ty đã tiến hành chào bán chứng khoán ra công

chúng.

Ví dụ: Ngày 2/1/2007 công ty cổ phần xây dựng 565 (vốn điều lệ 19,5 tỷ đồng)

tiến hành chào bán ra công chúng 567.235 cổ phần lần đầu.

Ngày 10/1/2007 công ty xây dựng công nghiệp (vốn điều lệ 38 tỷ đồng) chào bán

ra công chúng 1.376.400 cổ phần.

Thứ hai, hoạt động kinh doanh của năm liền trước năm đăng ký chào bán phải có

lãi đồng thời không có lỗ luỹ kế tính đến năm đang ký chào bán. Đây là quy định khá hợp

lý thay vì quy định hai năm có lãi liên tục như trước đây. Lý do là để một số doanh

nghiệp có lãi trong hai năm liên tiếp cần một khoảng thời gian khá dài. Trong khi đó có

những doanh nghiệp đang rất cần chào bán chứng khoán để huy động vốn đầu tư. Vì vậy

quy định như này là phù hợp, tạo cơ chế thông thoáng cho các doanh nghiệp chào bán

chứng khoán ra công chúng. Tuy nhiên có ý kiến cho rằng quy định trên là không cần

thiết, đặc biệt là các doanh nghiệp do làm ăn thua lỗ rất cần vốn. Nhưng họ lại gặp phải

rào cản là bắt buộc phải lãi trước khi chào bán chứng khoán ra công chúng.

Page 8: Phần điều kiện

Thứ ba, có phương án phát hành và phương án sử dụng vốn thu được từ đợt chào

bán được đại hội đồng cổ đông thông qua. Có thể nói, điều kiện này là rất cần thiết. Nó là

cơ sở bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho nhà đầu tư, tạo niềm tin cho họ. Bởi vì, đối

với công ty cổ phần, đại hội đồng cổ đông là cơ quan quyết định cao nhất.So với Nghị

định 144/200/NĐ-CP ngày 28 tháng 11 năm 2003, quy định này có sự cụ thể hoá hơn.

Trước đây, pháp luật không yêu cầu phải có phương án sử dụng vốn của tổ chức chào bán

phải được đại hội đồng cổ đông thông qua nên không đem đến một sự đảm bảo từ phía tổ

chức chào bán cho nhà đầu tư và tạo niềm tin cho các nhà đầu tư vì vậy không khuyến

khích họ mua cổ phiếu. Như vậy Luật chứng khoán 2006 đã khắc phục được điểm hạn

chế này của Nghị định 144/2003/NĐ-CP ngày 28 tháng 11 năm 2003 .

2.1.2. Điều kiện chào bán trái phiếu ra công chúng

Theo quy định tại khoản 2 điều 12 Luật chứng khoán 2006, doanh nghiệp có đủ

các điền kiện sau được chào bán trái phiếu ra công chúng.

Thứ nhất, doanh nghiệp có mức vốn điều lệ tại thời điểm đăng ký chào bán từ 10

tỷ đồng Việt Nam trở lên tính theo giá trị ghi trên sổ kế toán. Quy định này là sự kế thừa

của nghị định 144/2003/NĐ-CP ngày 28 tháng 11 năm 2003. Mức vốn tối thiểu mà pháp

luật ấn định cho các tổ chức chào bán trái phiếu ra công chúng là hoàn toàn phù hợp.

Mục đích là để đảm bảo chất lượng trái phiếu chào bán ra công chúng bởi vì mức vốn này

đòi hỏi tổ chức chào bán phải là những doanh nghiệp có quy mô lớn, có tiềm lực tài chính

dồi dào. Đồng thời với mức vốn tối thiếu như vậy, doanh nghiệp vẫn có thể đảm bảo khả

năng trả nợ cho người sở hữu trái phiếu.

Thứ hai, hoạt động kinh doanh của năm liền trước năm đăng ký chào bán phải có

lãi đồng thời không có lỗ luỹ kế tính đến năm đăng ký chào bán, không có khoản nợ quá

hạn trên một năm. So với quy định trước đây, điều kiện này có sự sửa đổi theo hướng cụ

thể hơn, từ đó củng cố niềm tin ở nhà đầu tư. Với bản chất là chứng khoán nợ, chủ thể sở

hữu trái phiếu là chủ nợ của doanh nghiệp phát hành. Khả năng được hoàn trả số tiền đầu

tư luôn là mối quan tâm hàng đầu của nhà đầu tư. Vì vậy, Luật chứng khoán 2006 phần

nào thắt chặt điều kiện này là hoàn toàn hợp lý.

Thứ ba, có phương án phát hành phương án sử dụng và trả nợ vốn thu được từ đợt

chào bán được hội đồng quản trị, hoặc hội đồng thành viên hoặc chủ sở hữu thông qua.

Page 9: Phần điều kiện

Quy định này góp phần củng cố niềm tin của nhà đầu tư vào tổ chức chào bán, từ đó

doanh nghiệp nhanh chóng đạt được mục đích huy động vốn.

Thứ tư, có cam kết thực hiện những nghĩa vụ của tổ chức phát hành đối với nhà

đầu tư về điều kiện phát hành, thanh toán, đảm bảo quyền và lợi ích của nhà đầu tư. Trên

đây là những điều kiện để doanh nghiệp có thể chào bán trái phiếu ra công chúng. Những

quy định này nhằm đảm bảo tính thanh khoản, chất lượng chứng khoán, đảm bảo tính hấp

dẫn đối với nhà đầu tư và khả năng thanh toán của tổ chức phát hành. So với quy định

trước đây, các quy định bắt buộc phải có tổ chức bảo lãnh phát hành và việc xác định đại

diện người sở hữu trái phiếu đối với việc phát hành trái phiếu ra công chúng không được

đề cập trong Luật chứng khoán 2006. Việc loại bỏ các quy định bắt buộc này sẽ tạo ra

một cơ chế mở thông thoáng hơn cho các chủ thể chào bán trái phiếu. Thực tế, trong năm

2007 một số doanh nghiệp lớn như: Vinashin, Petro Việt Nam, EVN đã có kế hoạch huy

động vốn thông qua chào bán trái phiếu ra công chúng lên đến hàng nghìn tỷ đồng [7].

2.1.3. Điều kiện chào bán chứng chỉ quỹ ra công chúng

Chứng chỉ quỹ đầu tư là loại chứng khoán không phát hành riêng lẻ mà chỉ có hình

thức phát hành ra công chúng. Việc chào bán chứng chỉ quỹ đầu tư có những điểm khác

biệt so với chào bán cổ phiếu và trái phiếu. Đó là chào bán chứng chỉ quỹ đầu tư lần đầu

bao giờ cũng gắn với việc thành lập quỹ đầu tư chứng khoán. Nói cách khác, quỹ đầu tư

chứng khoán chỉ được thành lập nếu đợt chào bán chứng chỉ quỹ đầu tư kết thúc thành

công với số lượng, tỷ lệ theo quy định của pháp luật. Chứng chỉ quỹ đầu tư do công ty

quản lý quỹ đầu tư phát hành. Việc chào bán chứng chỉ quỹ đầu tư ra công chúng được

quy định tại khoản 3 điều 12 Luật Chứng khoán 2006.

Thứ nhất, tổng giá trị chứng chỉ quỹ đăng ký chào bán tối thiểu là 50 tỷ đồng Việt

Nam. Có thể nói, đây là bước thay đổi đáng kể theo hướng cụ thể hoá của Luật, nhằm

một mặt tạo ra một khung pháp lý cần thiết cho nhiều tổ chức chào bán, mặt khác đảm

bảo chất lượng của chứng chỉ quỹ được chào bán. Trước đây, tại điều 9 Nghị định

144/2003/NĐ-CP ngày 28 tháng 11 năm 2003, quy định về điều kiện phát hành chứng chỉ

quỹ đầu tư ra công chúng là: “1. Việc phát hành chứng chỉ quỹ đầu tư chứng khoán ra

công chúng lần đầu thực hiện đồng thời với thủ tục xin phép lập quỹ đầu tư chứng khoán.

2. Việc phát hành chứng chỉ quỹ đầu tư chứng khoán để tăng vốn của quỹ đầu tư chứng

Page 10: Phần điều kiện

khoán phải được uỷ ban chứng khoán chấp nhận”. Quy định chưa rõ ràng như trên gây

lúng túng cho chủ thể phát hành, nhưng đồng thời lại là kẽ hở cho nhiều chủ thể khác lợi

dụng. Vì vậy việc Luật chứng khoán đã cụ thể hoá điều kiện chào bán là điều cần thiết.

Thứ hai, có phương án phát hành và phương án đầu tư vốn thu được từ đợt chào

bán chứng chỉ quỹ phù hợp với quy định của Luật chứng khoán 2006.

Trên đây là toàn bộ những điều kiện mà pháp luật về chứng khoán đòi hỏi một tổ

chức chào bán phải có khi muốn chào bán chứng khoán ra công chúng. Tuy mới có hiệu

lực từ ngày 1/1/2007 nhưng những quy định này thực sự góp phần tạo ra một thị trường

chứng khoán an toàn, có hiệu quả, thực hiện đúng chức năng đối với nền kinh tế.

2.2. Điều kiện về chào bán riêng lẻ

(thêm phần bình luận)

2.2.1. Điều kiện về chào bán cổ phiếu

2.2.1.1. Chào bán cổ phiếu của công ty cổ phần

Chào bán cổ phiếu là quyền cơ bản của công ty cổ phần. Hoạt động chào bán cổ

phiếu riêng lẻ của công ty cổ phần chịu sự điều chỉnh của Luật doanh nghiệp 2005. Cũng

theo quy định của Luật, việc chào bán cổ phiếu riêng lẻ của công ty cổ phần được thực

hiện nhằm mục đích tạo lập vốn điều lệ hoặc để tăng vốn điều lệ. Thực chất của việc chào

bán cổ phiếu của công ty cổ phần là việc công ty bán cổ phần để huy động vốn, kết quả

của việc bán cổ phần sẽ làm tăng vốn điều lệ và tỷ lệ sở hữu cổ đông. Mặt khác, việc

chào bán cổ phần có nghĩa là bán một phần quyền sở hữu công ty cho người mua cổ

phần. Điều này cũng đồng nghĩa với việc thay đổi cơ cấu quản lý và kiểm soát của công

ty. Vì vậy, việc quyết định số lượng cổ phần, giá trị cổ phần, loại cổ phần trong mỗi đợt

chào bán cần được cân nhắc kỹ lưỡng. Hiện nay, việc chào bán cổ phần của công ty cổ

phần được quy định tại điều 87-Luật doanh nghiệp 2005.

Về quyền quyết định chào bán, Luật doanh nghiệp 2005 quy định Hội đồng quản

trị quyết định thời điểm, phương thức và giá chào bán. Theo quy định này, Hội đồng

quản trị được trao thêm quyền năng mới. Nếu Luật doanh nghiệp 1999 chỉ quy định Hội

đồng quản trị có quyền quyết định giá cổ phần được đưa ra chào bán thì theo quy định

của Luật doanh nghiệp 2005, Hội đồng quản trị được quyết định cả phương thức chào

bán và thời điểm chào bán. Tuy nhiên, pháp luật hiện hành lại không có quy định về

Page 11: Phần điều kiện

quyền quyết định của cổ phần được đưa ra chào bán. Có thể nói, đây là một nội dung rất

quan trọng không chỉ đối với doanh nghiệp mà còn đối với các nhà đầu tư. Nó cho thấy

khả năng về vốn của doanh nghiệp cũng như tiềm năng của các nhà đầu tư.

Về giá cổ phần, giá chào bán cổ phần không được thấp hơn giá thị trường tại thời

điểm chào bán hoặc giá trị được ghi trong sổ sách tại thời điểm gần nhất. Luật doanh

nghiệp 1999 cũng đưa ra qui định này, tuy nhiên về các trường hợp ngoại lệ, Luật doanh

nghiệp 2005 bổ sung một số điểm mới sau:

Thứ nhất, cổ phần chào bán lần đầu tiên cho những người không phải là cổ đông

sáng lập. Đây là quy định khá hợp lý vì đây là cổ phần được chào “lần đầu tiên”, đây

cũng là lần đầu tiên nhà đầu tư tiếp cận với cổ phần của công ty nên chưa xác định được

giá thị trường của cổ phần. Như vậy, Hội đồng quản trị có quyền quyết định giá chào bán

thất hơn giá thị trường. Điều này sẽ đảm bảo sự thành công của đợt chào bán cổ phần lần

đầu, thu hút rộng rãi nhà đầu tư .

Thứ hai, cổ phần chào bán cho tất cả các cổ đông theo tỷ lệ cổ phần hiện có của họ

ở công ty. Theo quy định này, các cổ đông đã nắm giữ cổ phần của doanh nghiệp sẽ được

quyền mua cổ phần theo tỷ lệ tương ứng, với giá bán không tham chiếu giá thị trường tại

thời điểm chào bán. Khi đó, giá cổ phần áp dụng cho các cổ đông cũ có thể sẽ thấp hơn

giá thị trường tại thời điểm chào bán. Tuy nhiên có một vấn đề đặt ra. Theo quy định của

pháp luật, công ty cổ phần có nhiều loại cổ phần khác nhau. Tuỳ thuộc vào loại cổ phần

mà họ nắm giữ, các cổ đông có các quyền và nghĩa vụ khác nhau. Ví dụ cổ đông sở hữu

cổ phần phổ thông sẽ được hưởng mức cổ tức thấp hơn cổ đông sở hữu cổ phần ưu đãi cổ

tức nhưng thay vào đó, những cổ đông này lại có quyền dự đại hội đồng cổ đông, có

quyền đề cử người vào hội đồng quản trị và biểu quyết về những quyết định của công ty.

Vì thế để đảm bảo sự công bằng giữa các cổ đông, quy định này cần điều chỉnh theo

hướng cụ thể hơn “ cổ phần chào bán cho tất cả các cổ đông theo tỷ lệ cổ phần của từng

loại hiện có của họ ở công ty” sẽ chính xác, đảm bảo sự thống nhất trong việc áp dụng

pháp luật.

Thứ ba, cổ phần chào bán cho người môi giới và người bảo lãnh. Qui định này là

sự kế thừa của Luật doanh nghiệp 1999 tuy nhiên Luật doanh nghiệp 2005 lại bổ sung

một nội dung quan trọng khắc phục thiếu sót của văn bản trước đó. “Số chiết khấu hoặc

Page 12: Phần điều kiện

tỷ lệ chiết khấu cụ thể phải được sự chấp thuận của số cổ đông đại diện cho ít nhất 75%

tổng số cổ phần có quyền biểu quyết”. Như vậy, sự ưu tiên về giá cho các đối tượng này

không phải là không có giới hạn. Tuy nhiên, khi bổ sung quy định về quyền biểu quyết

của đại hội đồng cổ đông trong trường hợp này, Luật 2005 lại bỏ qua cách tính giá chào

bán cổ phần- một nội dung rất quan trọng được quy định khá cụ thể và chi tiết tại điểm c

khoản 1 điều 61 Luật doanh nghiệp 1999.

Về chào bán thêm cổ phần phổ thông, đây là một nội dung khá quan trọng của Luật

doanh nghiệp 2005 và là một quy định hoàn toàn mới so với Luật doanh nghiệp 1999.

Khoản 2- điều 87 quy định “trường hợp công ty phát hành thêm cổ phần phổ thông và

chào bán số cổ phần đó cho tất cả các cổ đông phổ thông theo tỷ lệ cổ phần hiện có của

họ tại công ty”. Điều luật cũng đã cũng đã cụ thể hoá thủ tục, trình tự chào bán cổ phần

phổ thông cho các cổ đông hiện có của doanh nghiệp. Đó là quy định về thông báo chào

bán thêm cổ phần cho các cổ đông; các nội dung cụ thể của thông báo trong đó có tổng số

cổ phần dự kiến phát hành, số cổ phần cổ đông được quyền mua, giá chào bán cổ phần,

thời hạn đăng ký mua. Chính những quy định về việc gửi thông báo đến từng cổ đông đã

khẳng định hình thức chào bán cổ phần theo Luật doanh nghiệp 2005 là chào bán riêng

lẻ. Ngoài ra còn có quy định về chuyển quyền ưu tiên mua cổ phần của cổ đông cho

người khác, về xử lý số cổ phần còn lại sau đợt phát hành.

Tóm lại, hoạt động chào bán riêng lẻ cổ phiếu của công ty cổ phần chịu sự điều

chỉnh của Luật doanh nghiệp 2005. Như vậy có sự phân biệt giữa hai hình thức chào bán

cổ phiếu của công ty cổ phần là chào bán riêng lẻ và chào bán ra công chúng. Hoạt động

chào bán cổ phiếu ra công chúng chịu sự điều chỉnh của Luật chứng khoán 2006. Thực tế,

xu hướng từ trước đến giờ hầu hết các doanh nghiệp đều lựa chọn hình thức chào bán

riêng lẻ để huy động vốn

2.2.1.2. Chào bán cổ phiếu của công ty Nhà nước cổ phần hoá

Hiện nay ở Việt Nam việc chào bán cổ phiếu để chuyển công ty Nhà nước thành

công ty cổ phần được quy định tại Nghị định 187/2004/NĐ-CP ngày 16 tháng 11 năm

2004 về việc chuyển công ty Nhà nước thành công ty cổ phần thay thế Nghị định

64/2000/NĐ-CP ngày 19 tháng 6 năm 2002 về việc chuyển doanh nghiệp Nhà nước

thành công ty cổ phần. Có thể nói, cổ phần hoá công ty Nhà nước chính là một tiến trình,

Page 13: Phần điều kiện

một “dự án” phát triển kinh tế, cải cách kinh tế mang tính đột phá không chỉ ở Việt Nam

mà ở hầu hết các nước có nền kinh tế chuyển đổi nhằm thay đổi hình thức sở hữu của các

doanh nghiệp từ Nhà nước sang đa sở hữu để Nhà nước không chịu áp lực về vốn, người

lao động gắn bó với doanh nghiệp. Đồng thời nhằm tăng năng lực tài chính, đổi mới công

nghệ, nâng cao hiệu quả và sức cạnh tranh của các doanh nghiệp.

Về đối tượng cổ phần hoá, như ta đã biết đó là những công ty Nhà nước không

thuộc diện Nhà nước phải nắm giữ 100% vốn điều lệ.

Về đối tượng và điều kiện được mua cổ phần của công ty Nhà nước cổ phần hoá:

tổ chức kinh tế, các tổ chức xã hội hoạt động theo luật pháp Việt Nam và cá nhân người

Việt Nam định cư ở trong nước được quyền mua cổ phần với số lượng không hạn chế;

các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, người nước ngoài hoạt động hợp pháp tại

Việt Nam, người Việt Nam định cư ở nước ngoài được mua cổ phần của doanh nghiệp cổ

phần hoá theo quy định pháp Việt Nam. Có thể nói, những quy định về đối tượng và điều

kiện được mua cổ phần tại Nghị định 187/2004/NĐ-CP ngày 16 tháng 11 năm 2004 là rất

thông thoáng, nhằm đẩy nhanh quá trình cổ phần hoá công ty Nhà nước ở nước ta.

Về cơ cấu cổ phần lần đầu, pháp luật quy định cơ cấu cổ phần lần đầu trong doanh

nghiệp cổ phần hoá theo cơ cấu ưu tiên nhất định:

(i) Cổ phần Nhà nước nắm giữ.

(ii) Người lao động có tên trong danh sách thường xuyên của doanh nghiệp tại thời

điểm quyết định cổ phần hoá được mua tối đa 100 cổ phần cho mỗi năm làm việc.

(iii) Nhà đầu tư chiến lược được mua tối đa 20%số cổ phần bán theo giá ưu đãi.

(iv) Cổ phần bán đấu giá công khai cho các nhà đầu tư không thấp hơn 20% vốn

điều lệ

Việc sắp xếp thứ tự mua cổ phần cho những đối tượng như vậy vừa đảm bảo vai

trò của Nhà nước đối với doanh nghiệp mà Nhà nước cần nắm giữ cổ phần, vừa đảm bảo

quyền lợi cho người lao động, giúp họ yên tâm sản xuất. Bên cạnh đó, việc dành tối thiểu

20% vốn điều lệ để chào bán đấu giá cổ phần công khai giúp doanh nghiệp có thêm điều

kiện để thu hút vốn đầu tư và có thêm nhiều cổ đông ngoài doanh nghiệp- là điều kiện để

doanh nghiệp có thể niêm yết chứng khoán trên thị trường chứng khoán tập trung.

Page 14: Phần điều kiện

Về giá bán cổ phần lần đầu, so với Nghị định 64/2002/NĐ-CP ngày 19 tháng 6

năm 2002 thì quy định về giá chào bán cổ phần lần đầu tại điều 8 Nghị định

187/2004/NĐ-CP ngày 16 tháng 11 năm 2004 là một quy định mới. Quy định này góp

phần cụ thể hoá, tạo ra một khung pháp lý về giá bán cổ phần cho các đối tượng. Theo

đó, điều luật đã đưa ra ba mức giá bán với ba đối tượng khác nhau. Đối với người lao

động giá bán cổ phần được giảm 40% so với giá đấu bình quân; đối với nhà đầu tư chiến

lược giá bán cổ phần được giảm 20% so với giá đấu bình quân; còn giá bán cho các đối

tượng khác được thực hiện theo giá đấu bình quân. Như vậy, giá đấu bình quân là tiêu

chuẩn xác định giá bán cổ phần cho người lao động và nhà đầu tư chiến lược. Tuy nhiên

chính quy định này cũng thể hiện những ưu thế và hạn chế rất rõ ràng. Nếu giá đấu thành

công của từng nhà đầu tư cao thì tổ chức chào bán nhanh chóng thu hút được nguồn vốn

lớn. Thế nhưng, khi đó tất yếu giá đấu bình quân cũng cao lên và vì vậy mà giá bán cổ

phần cho người lao động cũng lên. Lúc này, khả năng được sở hữu cổ phần của người lao

động tại doanh nghiệp hầu như khó thực hiện. Trên thực tế, thường xảy ra tình trạng các

nhà đầu tư lớn “mua hộ” cổ phần của người lao động trong doanh nghiệp. Như vậy, ưu

đãi dành cho người lao động khó được đảm bảo mà mục tiêu cổ phần hoá công ty Nhà

nước cũng không mấy khả thi.

Về phương thức bán cổ phần, nếu như Nghị định 64/2000/NĐ-CP ngày 19 tháng 6

năm 2002 trước đây chỉ đơn thuần qui định phương thức bán cổ phần tại chính doanh

nghiệp hoặc thông qua tổ chức trung gian tài chính thì đến Nghị định 187/2004/NĐ-CP

ngày 16 tháng 11 năm 2004, đấu giá cổ phần là phương thức bắt buộc để chào bán cổ

phần của công ty Nhà nước. Mục đích của việc áp dụng phương thức này là đảm bảo sự

công bằng cho các nhà đầu tư. Theo quy định tại điều 30 của Nghị định 187/2004/NĐ-CP

ngày 16 tháng 11 năm 2004 tuỳ thuộc vào khối lượng cổ phần mà việc bán đấu giá cổ

phần có thể diễn ra ở nhiều nơi khác nhau như tại chính công ty Nhà nước, tại tổ chức tài

chính trung gian. Tuy nhiên nếu khối lượng cổ phần bán ra trên 10 tỷ thì bắt buộc phải

bán đấu giá tại trung tâm giao dịch chứng khoán. Với phương thức bán đấu giá này, pháp

luật quy định cụ thể trình thủ tục thực hiện. Theo đó, doanh nghiệp, tổ chức tài chính

trung gian và trung tâm giao dịch chứng khoán thông báo công khai tại nơi tiến hành bán

đấu giá hoặc trên các phương tiện thông tin đại chúng những vấn đề liên quan đến việc

Page 15: Phần điều kiện

bán đấu giá cổ phần. Sau khi thực hiện bán đấu giá, cơ quan thực hiện bán đấu giá phải

xác định giá đấu bình quân để tính giá ưu đãi cho các nhà đầu tư chiến lược và người lao

động. Cuối cùng doanh nghiệp sẽ tiến hành phân phối cổ phần. Khoảng thời gian để

doanh nghiệp hoàn thành việc bán cổ phần là 4 tháng kể từ ngày quyết định phê duyệt

phương án cổ phần hoá. Như vậy, phương thức bán cổ phần lần đầu và trình tự thủ tục

thực hiện được quy định khá chặt chẽ, tạo ra một cơ chế rõ ràng cho việc bán cổ phiếu

của công ty Nhà nước. Trên thực tế, tổ chức bán cổ phần lần đầu dưới hình thức đấu giá

được nhiều công ty Nhà nước hưởng ứng do ưu điểm đó là nó thể hiện được tính dân chủ

công khai. Trong khi nhà đầu tư dễ dàng tiếp cận được thông tin và mục đích đầu tư thì

doanh nghiệp cũng huy động được vốn.

Có thể nói, Nghị định 187/2004/NĐ-CP ngày 16 tháng 11 năm 2004 ra đời thay

thế Nghị định 64/2000/NĐ-CP ngày 19 tháng 6 năm 2002 đã thúc đẩy mạnh mẽ quá

trình cổ phần hoá diễn ra. Chính sách này đã giảm số lượng doanh nghiệp nhà nước từ

12000 đơn vị xuống còn 2663 đơn vị vào đầu 2006, vốn bình quân của doanh nghiệp tăng

từ 24 tỷ/2001 lên 63,6 tỷ /2005, doanh nghiệp huy động được thêm 21000 tỷ đồng . Tuy

nhiên, bên cạnh đó còn tồn tại không ít vướng mắc. Việc cổ phần hoá diễn ra chậm hơn

so với kế hoạch. Cụ thể là năm 2006, dự kiến cổ phần hoá khoảng 150 công ty nhưng chỉ

có thực hiện được 107 [7]. Các cơ quan thực hiện bán đấu giá còn thiếu kinh nghiệm lúng

túng. Phương thức đấu giá đã bộc lộ một số hạn chế như gần đây có tình trạng nhiều cuộc

đấu giá sức cầu bị đẩy lên quá cao so với cầu thực, do việc nhà đầu tư sử dụng dịch vụ uỷ

thác đầu tư. Để tăng khả năng mua được cổ phần, nhà đầu tư thường uỷ thác số lượng

mua lớn hơn nhiều lượng cầu thực (có người uỷ thác 2-3 nơi) [7]. Ngoài ra nhiều nhà đầu

tư vừa sử dụng dịch vụ uỷ thác, vừa tham gia đấu giá nên đã đẩy giá lên cao một cách bất

hợp lý. Đồng thời việc pháp luật chỉ quy định một phương thức bán cổ phần trong khi

trên thực tế còn có rất nhiều phương thức chào bán khác đã hạn chế các khả năng của

doanh nghiệp lựa chọn các phương thức chào bán phù hợp với đặc điểm của doanh

nghiệp. Thêm nữa hoạt động cổ phần hoá diễn ra trên khắp cả nước nhưng hoạt động đấu

giá mới chỉ dừng lại ở hai thành phố lớn là Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh. Nhà đầu

tư hiện nay rất phân vân về tính bảo mật thông tin của hoạt động này, việc đấu giá chưa

thực sự tuân thủ đúng quy luật của thị trường. Khi mà đấu giá chưa diễn ra thì đã có

Page 16: Phần điều kiện

những thông tin rò rỉ bên ngoài thị trường về giá đấu thành công. Một số chuyên gia nhận

định “việc cổ phần hoá công ty Nhà nước bằng phương thức bán đấu giá cổ phần lần đầu

mới chỉ thành công về mặt hình thức” [7]. Vì vậy cần có những quy định pháp luật phù

hợp hơn nữa, tạo động lực mạnh mẽ cho việc chào bán cổ phiếu, cổ phần hoá công ty

Nhà nước.

2.2.1.3. Phát hành cổ phiếu của Ngân hàng thương mại cổ phần

Thực tế ở Việt Nam từ nhiều năm nay, trước khi thị trường chứng khoán phát triển,

các ngân hàng thương mại đóng vai trò hàng đầu trong việc cấp tín dụng dưới hình thức

cho vay, bảo lãnh, chiết khấu cho các doanh nghiệp, đáp ứng nhu cầu sản xuất kinh

doanh. Theo quy định của pháp luật về tổ chức tín dụng ngoài việc huy động vốn từ tiền

gửi của tổ chức cá nhân, các ngân hàng thương mại cổ phần có thể chào bán cổ phiếu để

huy động vốn. Lý do xuất phát từ hình thức tổ chức của ngân hàng thương mại cổ phần.

Ngân hàng thương mại cổ phần thực chất là công ty cổ phần. Chính vì vậy, các ngân hàng

thương mại cổ phần có quyền chào bán cổ phiếu để huy động vốn. Đây chính là điểm đặc

thù và ưu việt của ngân hàng thương mại cổ phần. Hiện nay, hoạt động chào bán cổ phiếu

của ngân hàng thương mại cổ phần chịu sự điều chỉnh của quyết định số 1122/2001/QĐ-

NHHH ngày 4 tháng 9 năm 2001 về việc ban hành quy định về cổ đông, cổ phần, cổ

phiếu và vốn điều lệ của ngân hàng thương mại cổ phần của Nhà nước và nhân dân. Văn

bản pháp luật đã tạo ta cơ sở pháp lý cho việc huy động vốn của ngân hàng từ cổ phiếu

nhất là khi các cơ quan này đang bị quá tải do nhu cầu về vốn vay của doanh nghiệp.

Theo quyết định này, ngân hàng thương mại cổ phần được tăng vốn điều lệ bằng cách

phát hành thêm cổ phiếu. Như vậy nếu như công ty cổ phần có thể huy động vốn để thành

lập hoặc mở rộng vốn bằng hình thức chào bán riêng lẻ cổ phiếu (cổ phần), thì pháp luật

chỉ quy định hình thức chào bán cổ phiếu này cho ngân hàng thương mại để tăng vốn

điều lệ và pháp luật chỉ giới hạn một bộ phận cổ đông được mua. Theo quyết định

1122/2001/QĐ-NHNN ngày 4 tháng 9 năm 2001 ngân hàng thương mại cổ phần được

tăng vốn điều lệ bằng cách phát hành thêm cổ phiếu, ngân hàng sẽ gửi một bộ hồ sơ đề

nghị chấp nhận tăng vốn cho Ngân hàng Nhà nước bao gồm:

(i) Tờ trình của Hội đồng quản trị,

(ii) Biên bản Đại hội cổ đông về việc thay đổi vốn điều lệ,

Page 17: Phần điều kiện

(iii) Phương án thay đổi mức vốn điều lệ,

(iv) Danh sách và tỷ lệ vốn cổ phần của cổ đông trước và sau khi thay đổi vốn,

(v) Đơn xin mua cổ phần của những cổ đông lớn,

(vi) Các văn bản khác có liên quan theo quy định của pháp luật.

Việc pháp luật không đưa ra các điều kiện để tăng vốn điều lệ của ngân hàng

thương mại cổ phần là một quy định phù hợp với thực tiễn, góp phần khuyến khích các

ngân hàng phát hành cổ phiếu để tăng vốn điều lệ. Tuy nhiên thủ tục xin phát hành còn

rườm rà, mang nặng tính hành chính, quá chặt chẽ về hồ sơ. Điều này sẽ hạn chế khả

năng huy động vốn của ngân hàng thương mại cổ phần. Từ năm 2004 trở về trước đã có

một số ngân hàng huy động thêm vốn bằng cách phát hành cổ phiếu riêng lẻ như ngân

hàng cổ phần Đông á, ngân hàng cổ phần quân đội( MBB), ngân hàng Sài gòn thương tín

(STB). Tuy nhiên hiện nay, với ưu thế của việc chào bán cổ phiếu ra công chúng, các

ngân hàng thường lựa chọn hình thức này để tăng vốn điều lệ. Vì vậy, các quy định về

chào bán cổ phiếu riêng lẻ của ngân hàng thương mại cổ phần như trên sẽ không còn phù

hợp nữa và cần thay đổi.

2.2.Quy định về chào bán riêng lẻ trái phiếu

2.2.1. Quy định về chào bán riêng lẻ trái phiếu doanh nghiệp

Trước đây, hầu như pháp luật không có qui định về việc chào bán riêng lẻ trái

phiếu của doanh nghiệp nói chung ngoài Nghị định 120/1994/NĐ-CP ngày 17 tháng 9

năm 1994 ban hành quy chế tạm thời về việc phát hành cổ phiếu, trái phiếu của doanh

nghiệp Nhà nước. Như vậy việc phát hành trái phiếu của công ty cổ phần, công ty trách

nhiệm hữu hạn không có cơ sở pháp lý, từ đó hạn chế khả năng huy động vốn của chủ thể

này. Điều này đã được khắc phục cùng với sự ra đời của Nghị định 52/2006/ NĐ-CP

ngày 19 tháng 5 năm 2006 về phát hành trái phiếu doanh nghiệp.

Về đối tượng được quyền phát hành riêng lẻ trái phiếu để huy động vốn bao gồm

công ty cổ phần, công ty Nhà nước trong thời gian chuyển đổi thành công ty trách nhiệm

hữu hạn và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài; tổ chức tín dụng thuộc sở hữu Nhà

nước. Nghị định 52/2006/NĐ-CP ngày 19 tháng 5 năm 2006 đã có những quy định về

hình thức trái phiếu nguyên tắc phát hành trái phiếu; điều kiện và thẩm quyền quyết định

Page 18: Phần điều kiện

phát hành trái phiếu các loại trái phiếu doanh nghiệp; phương thức phát hành trái phiếu

và về việc công bố thông tin.

Về nguyên tắc phát hành trái phiếu, Nghị định 52/2006/NĐ-CP ngày 19 tháng 5

năm 2006 đã đưa ra ba nguyên tắc tại điều 3 [9.6]. Những quy định này đều hướng vào

việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nhà đầu tư đồng thời đảm bảo một nguyên tắc

rất quan trọng hiện nay là công khai minh bạch.

Về điều kiện phát hành trái phiếu, được quy định tại điều 17 của Nghị định

52/2006/NĐ-CP ngày 19 tháng 5 năm 2006. Theo đó doanh nghiệp chỉ được phát hành

trái phiếu khi có đủ các điều kiện sau:

(i) Là doanh nghiệp thuộc đối tượng phát hành trái phiếu riêng lẻ

(ii) Có thời gian hoạt động tối thiểu trong 1 năm kể từ ngày doanh nghiệp chính

thức đi vào hoạt động. Quy định này là hoàn toàn hợp lý để đảm bảo quyền của nhà đầu

tư. Với bản chất là chứng khoán nợ, khi nhà đầu tư sở hữu trái phiếu trong tay họ phải

được đảm bảo về khả năng trả nợ. Việc quy định thời gian hoạt động tối thiểu như trên

vừa thúc đẩy nhà đầu tư mua trái phiếu tăng khả năng về vốn cho doanh nghiệp vừa phù

hợp với nguyên tắc phát hành trái phiếu doanh nghiệp “ Tự vay, tự trả, tự chịu trách

nhiệm về hiệu quả sử dụng vốn vay”.

(iii) Có báo cáo tài chính của năm liền kề trước năm phát hành được kiểm toán.

Tuy nhiên để đảm bảo báo cáo tài chính của doanh nghiệp là một văn bản có tính trung

thực cao cần có những quy định về tiêu chuẩn kiểm toán và tổ chức kiểm toán

(iv) Kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh năm liền kề năm phát hành phải có lãi.

(v) Có phương án phát hành trái phiếu được các tổ chức, cá nhân có thẩm quyền

thông qua.

Mục đích của những quy định này nhằm đảm bảo tính thanh khoản cũng như chất

lượng của trái phiếu. Nếu so sánh với quy định về chào bán trái phiếu ra công chúng tại

Luật chứng khoán 2006 thì điều kiện chào bán trái phiếu riêng lẻ có một điểm khác cơ

bản: không quy định mức vốn tối thiểu của doanh nghiệp phát hành trái phiếu. Đây là

một điểm khá phù hợp với thực tế ở Việt Nam: chủ yếu các doanh nghiệp Việt Nam hiện

nay là các doanh nghiệp vừa và nhỏ, mức vốn điều lệ thấp. Nếu quy định điều kiện trên

thì các chủ thể này khó có khả năng huy động nguồn vốn thông qua trái phiếu. Điều này

Page 19: Phần điều kiện

sẽ ảnh hưởng tới sản xuất kinh doanh. Thêm nữa hoạt động phát hành trái phiếu riêng lẻ

chỉ được thực hiện trong một bộ phận dân chúng, không phải thông báo công khai nên chỉ

cần doanh nghiệp đảm bảo khả năng trả nợ cho nhà đầu tư là được. Về việc thông qua

phương án phát hành trái phiếu, trước đây chỉ có một văn bản điều chỉnh vấn đề phát

hành trái phiếu của doanh nghiệp Nhà nước. Theo văn bản này, Bộ Tài chính là cơ quan

ra quyết định phát hành trái phiếu doanh nghiệp Nhà nước. Hiện nay, theo Nghị định

52/2006/NĐ-CP ngày 19 thánh 5 năm 2006 quyền thông qua phương án phát hành trái

phiếu thuộc nội bộ của doanh nghiệp. Cụ thể là, Đại hội đồng cổ đông thông qua phương

án phát hành trái phiếu chuyển đổi; Hội đồng quản trị, Hội đồng thành viên hoặc đại diện

chủ sở hữu thông qua phương án phát hành trái phiếu không có khả năng chuyển đổi

(Điều 19). Đây là quy định khá hợp lý bởi trên thực tế những người nắm quyền quản lý

điều hành chính là những người hiểu nhất nhu cầu về vốn của doanh nghiệp để phát hành

trái phiếu còn Bộ Tài chính chỉ là cơ quan quản lý ở tầm vĩ mô.

Một điểm tiến bộ của Nghị định 52/2006/NĐ-CP ngày 19 thánh 5 năm 2006 là đã

quy định cho các tổ chức tín dụng Nhà nước được phát hành trái phiếu chuyển đổi. Loại

trái phiếu này sẽ chuyển thành cổ phần khi các tổ chức tín dụng Nhà nước chuyển sang

hình thức tổ chức tín dụng cổ phần. Điều này nào giải quyết được nhu cầu về vốn đồng

thời thúc đẩy quá trình cổ phần hoá các tổ chức tín dụng Nhà nước, cùng với lộ trình cổ

phần hoá các công ty Nhà nước. Đây cũng là biện pháp vừa giảm bớt các thủ tục như

định giá hay phát hành cổ phiếu ra ngoài, vừa tạo điều kiện thuận lợi để một số nhà đầu

tư mua trái phiếu chuyển đổi có cơ hội trở thành cổ đông của tổ chức tín dụng.

Với những quy định rất thông thoáng của Nghị định 52/2006/ NĐ-CP ngày 19

thánh 5 năm 2006 Chính phủ đã tạo ra nhiều cơ hội để doanh nghiệp tham gia vào thị

trường trái phiếu không chỉ với tư cách là nhà đầu tư mà còn là nhà phát hành. Văn bản

này đã mở đường cho các doanh nghiệp hoàn toàn chủ động trong việc huy động vốn

thông qua phát hành trái phiếu, giảm thiểu sự phụ thuộc quá lớn vào nguồn vốn từ tổ

chức tín dụng. Một điển hình là EVN vào tháng 7 năm 2006 EVN đã phát hành trái phiếu

và huy động tới 1000 tỷ đồng, tiết kiệm xấp xỉ một triệu đô tiền lãi.

2.2.2. Quy định về chào bán trái phiếu riêng lẻ của tổ chức tín dụng

Page 20: Phần điều kiện

Ngoài việc phát hành cổ phiếu của một số ngân hàng thương mại cổ phần, thì việc

huy động vốn thông qua phát hành trái phiếu cũng là một trong những hình thức huy

động vốn phổ biến của các tổ chức tín dụng hiện nay.

Hoạt động chào bán trái phiếu riêng lẻ của tổ chức tín dụng được quy định tại

Quyết định 02/2004/QĐ- NHNN ngày 4 tháng 1 năm 2004 của Ngân hàng Nhà nước về

việc ban hành quy chế phát hành giấy tờ có giá của tổ chức tín dụng để huy động vốn

trong nước. Giấy tờ có giá bao gồm kỳ phiếu, tín phiếu, trái phiếu, chứng chỉ tiền gửi

ngắn hạn, chứng chỉ tiền gửi dài hạn trong đó, nhưng chỉ có trái phiếu là chứng khoán.

Theo quy định của pháp luật phạm vi chủ thể được phép phát hành trái phiếu là khá rộng.

Ngoài Ngân hàng thương mại cổ phần, Ngân hàng thương mại Nhà nước còn có quỹ tín

dụng Nhân dân trung ương, tổ chức tín dụng liên doanh, tổ chức tín dụng 100% vốn nước

ngoài và chi nhánh Ngân hàng nước ngoài hoạt động tại Việt Nam.

Về điều kiện phát hành trái phiếu, Pháp luật quy định khá mở, chỉ yêu cầu tổ chức

tín dụng đáp ứng đủ các điều kiện sau:

(i) Tuân thủ các hạn chế để đảm bảo an toàn và hoạt động theo quy định của Pháp

luật về tổ chức tín dụng và của Ngân hàng nhà nước

(ii) Có tình hình tài chính lành mạnh theo đánh giá của thanh tra Ngân hàng.

Những điều kiện này đã mở rộng khả năng cho các tổ chức tín dụng phát hành trái phiếu

để huy động vốn, giảm bớt áp lực về vốn cho các tổ chức tín dụng.

Như vậy, những quy định của quyết định 02/2004/ QĐ- NHNN ngày 4 ngày 1

năm 2004 về phát hành trái phiếu của tổ chức tín dụng là tương đối chặt chẽ và phù hợp,

từ điều kiện, phương thức và trình tự thủ tục phát hành. Quyết định đã tạo điều kiện tốt

nhất cho các tổ chức tín dụng huy động vốn.

3. Phát hành chứng khoán của chính phủ và chính quyền địa phương

Trên thị trường chứng khoán hiện nay, bên cạnh các loại chứng khoán của các

doanh nghiệp, còn có loại chứng khoán do Chính phủ và chính quyền địa phương phát

hành: đó là trái phiếu Chính phủ và chính quyền địa phương. Trong thời gian vừa qua, thị

trường trái phiếu nói chung và thị trường trái phiếu Chính phủ nói riêng không có những

hoạt động sôi nổi như thị trường cổ phiếu, nhưng trái phiếu Chính Phủ và trái phiếu chính

quyền địa phương luôn là công cụ hữu hiệu để Chính phủ và chính quyền địa phương huy

Page 21: Phần điều kiện

động vốn trong dân chúng; nhằm bù đắp sự thiếu hụt ngân sách cũng như để đáp ứng nhu

cầu đầu tư phát triển. So với các loại chứng khoán khác, trái phiếu Chính phủ có lẽ loại

chứng khoán tiếp cận sớm nhất với người dân ( Năm 1994 Chính phủ ban hành nghị định

số 72/CP ngày 26 tháng 7 năm 1994 về quy chế phát hành các loại trái phiếu Chính phủ).

Đây chính là nguồn hàng cơ bản, đóng vai trò trung tâm cho sự khởi động của thị trường

chứng khoán. Cho đến nay, trái phiếu Chính phủ vẫn giữ vai trò chủ đạo trên thị trường

trái phiếu Việt Nam với hơn 90% tổng khối lượng trái phiếu. Hiện nay, hoạt động phát

hành trái phiếu Chính phủ và chính quyền địa phương chịu sự điều chỉnh của Nghị định

141/2003/NĐ-CP ngày 20 tháng 11 năm 2003 về phát hành trái phiếu Chính phủ, trái

phiếu được Chính phủ bảo lãnh và trái phiếu chính quyền địa phương.

Theo Nghị định 141/2003/NĐ-CP ngày 20 tháng 11 năm 2003 và pháp luật về

chứng khoán: chứng khoán là công cụ huy động vốn trung và dài hạn ( có thời hạn trên 1

năm); chứng khoán do chính phủ và chính quyền địa phương phát hành bao gồm trái

phiếu kho bạc, trái phiếu công trình Trung ương, trái phiếu đầu tư, trái phiếu ngoại tệ và

trái phiếu chính quyền trung ương.

3.1. Trái phiếu Chính phủ

Về tổ chức phát hành. Theo quy định của Nghị định 141/2003/NĐ-CP ngày 20

tháng 11 năm 2003, chủ thể phát hành các loại trái phiếu Chính phủ là Chính phủ. Tuy

nhiên trên thực tế, Chính phủ không trực tiếp thực hiện các hoạt động và tiến hành các

phương thức phát hành mà uỷ quyền cho Kho bạc Nhà nước (đối với trái phiếu kho bạc,

trái phiếu công trình trung ương), Bộ Tài Chính (đối với trái phiếu ngoại tệ), các tổ chức

tài chính nhà nước, tổ chức tín dụng và tổ chức tài chính được Chính phủ chỉ định (đối

với trái phiếu đầu tư) trực tiếp phát hành.

Về điều kiện phát hành. Pháp luật chỉ quy định điều kiện phát hành đối với trái

phiếu công trình trung ương. Theo đó, điều kiện phát hành loại chứng khoán này được

quy định tại điều 29 của Nghị định :

(i) Công trình nằm trong danh mục đầu tư trọng điểm hàng năm của Chính phủ.

Điều kiện này là phù hợp với mục đích của việc phát hành trái phiếu công trình Trung

ương. Mục đích của việc phát hành trái phiếu công trình Trung ương là nhằm huy động

vốn cho các dự án thuộc nguồn vốn đầu tư của ngân sách trung ương, đã ghi trong kế

Page 22: Phần điều kiện

hoạch nhưng chưa được bố trí vốn ngân sách trong năm. Đây chính là điều kiện cần và là

điều kiện tiên quyết để phát hành loại chứng khoán này. Bởi vì, nếu không có “công trình

nằm trong danh mục đầu tư..” thì Chính phủ không phải huy động vốn và từ đó không

phải phát hành trái phiếu công trình trung ương.

(ii) Phương án phát hành trái phiếu, kế hoạch sử dụng vốn vay và phương án hoàn

trả nợ vay khi đến hạn được thực hiện theo quyết định của Thủ tướng Chính phủ trên cơ

sở đề án do Bộ Tài chính chủ trì xây dựng.

Có thể nói, Nghị định 141/2003/NĐ-CP ngày 20 tháng 11 năm 2003 ra đời đã thực

sự tạo cơ hội thông thoáng cho việc phát hành chứng khoán của Chính phủ. So với Nghị

định 72/CP ngày 26 tháng 7 năm 1994 trước đây, Nghị định đã hoàn thiện một số nội

dung như: đa dạng hoá các loại trái phiếu chính phủ (bổ sung hai loại trái phiếu ngoại tệ

và trái phiếu đầu tư) từ đó tạo sự phong phú cho nguồn hàng của thị trường chứng khoán

nói chung và thị trường trái phiếu nói riêng. Đồng thời Nghị định cũng bổ sung phương

thức bảo lãnh phát hành trái phiếu chính phủ, xoá bỏ điều kiện để phát hành trái phiếu

Kho bạc. Trong thời gian qua, cùng với sự ra đời của VDB (ngân hàng phát triển Việt

Nam) cộng một cơ chế phát hành trái phiếu Chính phủ rất “mở” theo Nghị định

141/2003/NĐ-CP ngày 20 tháng 11 năm 2003, một khối lượng vốn rất lớn đã được huy

động thông qua phát hành trái phiếu Chính phủ. Sáu tháng cuối năm 2006, VDB đã huy

động được 8730 tỷ đồng. Năm 2006 là năm đầu tiên VDB hoàn thành nhiệm vụ huy động

vốn để cấp tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước và bảo lãnh tín dụng [7]. Vốn trái

phiếu Chính phủ đã phát huy được vai trò quan trọng trong việc đầu tư các công trình, dự

án lớn của Chính phủ. Với các quy định rất thông thoáng, trái phiếu Chính phủ trong thời

gian tới sẽ thực sự trở thành công cụ nợ trên thị trường tài chính, trở thành hàng hoá được

giao dịch thực sự sôi động trên thị trường chứng khoán sơ cấp.

3.2. Trái phiếu Chính quyền địa phương

Trái phiếu chính quyền địa phương đang ngày càng trở thành một công cụ huy

động vốn hiệu quả cho địa phương, phát huy tiềm lực về vốn của nhà đầu tư tại địa

phương mình. Trái phiếu Chính quyền địa phương là loại trái phiếu có kỳ hạn trên 1 năm

nên nó cũng được coi là một loại chứng khoán- hàng hoá của thị trường chứng khoán.

Page 23: Phần điều kiện

Về điều kiện phát hành. Trái phiếu chính quyền địa phương không phải là loại trái

phiếu được phát hành một cách thường xuyên. Mục đích của việc phát hành loại chứng

khoán này là nhằm huy động vốn cho các dự án công trình thuộc nguồn vốn đầu tư của

ngân sách địa phương, đã ghi trong kế hoạch nhưng chưa được bố trí vốn ngân sách trong

năm. Vì vậy, việc phát hành phải tuân thủ các điều kiện sau:

(i) Dự án, công trình thuộc danh mục đầu tư trong kế hoạch đầu tư 05 năm đã được

Hội đồng nhận dân cấp tỉnh quyết định.

(ii) Phương án phát hành trái phiếu, kế hoạch sử dụng vốn vay và phương án hoàn

trả nợ vốn vay khi đến hạn được Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh xây dựng trình Hội đồng nhân

dân thông qua và được Bộ trưởng Bộ Tài chính chấp thuận bằng văn bản.

(iii) Có quyết định của Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh uỷ quyền cho Kho bạc

Nhà nước hoặc tổ chức tài chính, tín dụng trên địa bàn chịu trách nhiệm phát hành, thanh

toán trái phiếu.

Những điều kiện này một mặt đảm bảo cho chất lượng và tính thanh khoản của trái

phiếu được phát hành một mặt hạn chế sự phát hành một cách bừa bãi loại chứng khoán

này để huy động vốn trong dân chúng của chính quyền địa phương.

Có thể nói, những quy định của Nghị định 141/2003/NĐ-CP ngày 20 tháng 11 năm

2003 đã tạo ra một cơ sở pháp lý cho Chính phủ và chính quyền địa phương phát hành

trái phiếu, huy động vốn nhàn rỗi trong dân chúng vào những chương trình kinh tế của

mình, qua đó cung cấp và tạo sự đa dạng về hàng hoá cho thị trường chứng khoán.