Upload
lovesnow21
View
291
Download
0
Embed Size (px)
Citation preview
1. Chủ thể phát hành chứng khoán
1.1. Chính phủ
Chính phủ là chủ thể phát hành chứng khoán đặc biệt. Điều này xuất phát từ chức
năng của Chính phủ. Đó là cơ quan hành pháp, thực hiện hoạt động quản lý Nhà nước
trên tất cả các lĩnh vực kinh tế, chính trị an ninh quốc phòng văn hoá, giáo dục y tế từ
Trung ương đến địa phương. Nhằm bù đắp thiếu hụt cho ngân sách Nhà nước, đáp ứng
nhu cầu của quốc gia, pháp luật qui định Chính phủ được phép phát hành trái phiếu. Phát
hành trái phiếu của Chính phủ là một hình thức vay vốn trong dân chúng, để cân đối
chênh lệch thu chi cho Ngân sách Nhà nước cũng như để thực hiện các chính sách kinh tế
tiền tệ như chi cho đầu tư phát triển, phát triển kinh tế xã hội, chống lạm phát.
Hiện nay tư cách chủ thể phát hành trái phiếu Chính phủ được quy định tại Nghị
định 141/2003/NĐ-CP ngày 20 tháng 11 năm 2003 về việc phát hành trái phiếu Chính
phủ, trái phiếu được Chính phủ bảo lãnh và trái phiếu chính quyền địa phương.
Tuy nhiên không phải tất cả các loại trái phiếu được quy định trong Nghị định đều
được coi là chứng khoán mà chỉ có trái phiếu kho bạc, trái phiếu công trình Trung Ương,
trái phiếu ngoại tệ và trái phiếu đầu tư là chứng khoán. Đồng thời theo quy định của pháp
luật hiện hành, Chính phủ sẽ giao cho Kho Bạc Nhà Nước, Bộ Tài chính, các tổ chức tài
chính và tổ chức tín dụng Nhà nước phát hành các loại chứng khoán này.
Trong bối cảnh Việt Nam hiện nay, Trái phiếu Chính phủ vẫn là một kênh huy
động vốn quan trong của Nhà Nước, chiếm 90% khối lượng trái phiếu trên thị trường trái
phiếu. Hàng năm, Chính phủ vẫn liên tục phát hành trái phiếu Chính phủ để đáp ứng nhu
cầu đầu tư, duy trì tốc độ phát triển kinh tế.
1.2. Chính quyền địa phương
Với chức năng quản lý Nhà nước giống Chính Phủ thì chính quyền địa phương
cũng có quyền phát hành trái phiếu chính quyền địa phương. Tuy nhiên một điểm khác
cơ bản đó là Chính quyền địa phương chỉ được phát hành trái phiếu trong phạm vi đơn vị
hành chính địa phương mình.
Cơ sở pháp lý về việc phát hành trái phiếu chính quyền địa phương được cũng
được quy định tại Nghị định 141/2003/NĐ-CP ngày 20 tháng 11 năm 2003. Theo đó, chủ
thể phát hành trái phiếu chính quyền địa phương là Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh. Tuy nhiên
chủ thể này không trực tiếp phát hành mà uỷ quyền cho Kho bạc Nhà nước hoặc tổ chức
tài chính, tổ chức tài chính trên địa bàn phát hành. Mục đích của việc phát hành trái phiếu
chính quyền địa phương là nhằm huy động vốn cho các dự án, công trình thuộc nguồn
vốn ngân sách địa phương. Có thể nói, trái phiếu chính quyền địa phương là một trong
những công cụ hữu hiệu đáp ứng nhu cầu vốn cho địa phương, giảm bớt gánh nặng cho
ngân sách Trung ương khi ngân sách địa phương chưa đáp ứng kịp và vẫn đảm bảo sự
phát triển cho địa phương.
1.3. Doanh nghiệp
1.3.1. Chủ thể phát hành chứng khoán vốn
1.3.1.1. Công ty cổ phần
Hiện nay, công ty cổ phần có vai trò quan trọng đối với nền kinh tế trong đó có thị
trường chứng khoán. Như chúng ta đã biết, trong nền kinh tế thị trường công ty cổ phần
được xem là nhân tố quan trọng góp phần thúc đẩy xã hội hoá sản xuất, thúc đẩy tăng
trưởng kinh tế, đưa nền kinh tế từ kinh tế hàng hoá vận hành theo cơ chế thị trường sang
nền kinh tế thị trường. Đối với thị trường chứng khoán, công ty cổ phần tạo ra hàng hoá,
góp phần hình thành thị trường sơ cấp.
Theo quy định của Luật doanh nghiệp 2005, công ty cổ phần được quyền phát
hành chứng khoán (khoản 3, điều 77). So với các loại hình doanh nghiệp khác, công ty cổ
phần có ưu thế đặc biệt. Đó là khả năng công ty cổ phần được quyền phát hành rộng rãi
cổ phiếu và trái phiếu để huy động vốn trong đó có cổ phiếu là loại chứng khoán vốn.
Việc chào bán cổ phiếu của công ty cổ phần nhằm tạo lập vốn điều lệ để hình thành công
ty hoặc để tăng vốn điều lệ. Thực tế hiện nay, công ty cổ phần giữ vai trò chủ yếu trong
việc cung cấp hàng hoá cho thị trường thứ cấp, chứng khoán đã niêm yết trên thị trường
giao dịch tập trung chủ yếu là các cổ phiếu của công ty cổ phần.
Có thể nói, Luật doanh nghiệp 2005 đã tạo cơ sở pháp lý cho việc thành lập công
ty cổ phần, từ đó làm tăng chủ thể chào bán chứng khoán cho thị trường chứng khoán.
Tuy nhiên Luật chỉ quy định việc chào bán riêng lẻ cổ phiếu của công ty cổ phần để tăng
vốn điều lệ còn việc chào bán ra công chúng phải tuân theo Luật chứng khoán 2006.
1.3.1.2. Công ty Nhà nước cổ phần hoá
Cùng với quá trình “đổi mới”, chuyển đổi từ nền kinh tế tập trung bao cấp sang
nền kinh tế thị trường, việc cổ phần hoá các công ty Nhà nước đã trở thành một tất yếu
khách quan. Cũng chính vì lẽ đó, một chủ thể mới xuất hiện trong những năm gần đây,
tạo động lực mạnh mẽ và cơ chế quản lý năng động cho các doanh nghiệp sử dụng vốn có
hiệu quả, đảm bảo hài hoà lợi ích của Nhà nước, doanh nghiệp, nhà đầu tư và người lao
động trong doanh nghiệp. Đó là công ty Nhà nước cổ phần hoá.
Để cổ phần hoá, công ty Nhà nước được quyền phát hành cổ phiếu (hay cổ phần).
Việc cổ phần hoá các công ty Nhà nước hiện nay chịu sự điều chỉnh của nghị định
187/2004/NĐ-CP ngày 16 tháng 11 năm 2004 về việc chuyển công ty Nhà nước thành
công ty cổ phần thay thế Nghị định 64/2002/NĐ-CP ngày 19 tháng 6 năm 2002 trước đây
về việc chuyển doanh nghiệp Nhà nước thành công ty cổ phần. Theo quy định của pháp
luật hiện hành các công ty Nhà nước được chuyển đổi bao gồm: Tổng công ty Nhà nước,
công ty Nhà nước độc lập, công ty thành viên hoạch toán độc lập của tổng công ty do
Nhà nước quyết định đầu tư và thành lập, đơn vị hoạch toán phụ thuộc của công ty Nhà
nước.
Sau khi chào bán cổ phiếu thành công, các công ty Nhà nước sẽ chuyển thành công
ty cổ phần, chịu sự điều chỉnh của pháp luật về công ty cổ phần. Là một chủ thể khá đặc
biệt nên trong việc chào bán cổ phiếu của công ty Nhà Nước cũng có những đặc điểm
riêng. Công ty Nhà nước cổ phần hoá thường có một tỷ lệ nhất định cổ phần do Nhà
Nước nắm giữ, đồng thời tại đây, người lao động luôn được hưởng chính sách ưu đãi về
giá khi mua cổ phần. Đây là những điểm không thể thấy được ở việc chào bán cổ phiếu
của các chủ thể khác.
Thực tế từ khi có Nghị định 187/2004/NĐ-CP ngày 16 tháng 11 năm 2004, đã có
hàng loạt công ty Nhà Nước cổ phần hoá thành công với hình thức chào bán cổ phiếu
như: Công ty xi măng Hà Tiên, Công ty nhựa Rạng Đông, Công ty bóng đèn Điện
Quang… Trong năm 2006 đã có khoảng hơn 100 công ty Nhà Nước chuyển đổi thành
công ty cổ phần.
1.3.1.3. Công ty quản lý quỹ đầu tư
Nhắc đến chứng khoán vốn, bên cạnh cổ phiếu, không thể không nhắc đến chứng
chỉ quỹ đầu tư. Như vậy công ty quản lý quỹ đầu tư cũng là một chủ thể chào bán chứng
khoán vốn. Theo quy định của Luật chứng khoán 2006, công ty quản lý quỹ đầu tư được
chào bán chứng chỉ quỹ đầu tư theo hình thức chào bán ra công chúng. Công ty quản lý
quỹ đầu tư cũng là một chủ thể khá đặc biệt. Chủ thể này thực hiện việc thành lập các quỹ
đầu tư chứng khoán- tập trung các nguồn vốn của các nhà đầu tư để chủ yếu đầu tư vào
chứng khoán và tiến hành hoạt động đầu tư của quỹ. Do quỹ đầu tư chứng khoán không
được huy động vốn vay để đầu tư chứng khoán nên việc phát hành chứng chỉ quỹ đầu tư
là phương thức chính để thu hút vốn, đáp ứng mục tiêu của quỹ. Và hoạt động chào bán
chứng chỉ quỹ đầu tư ra công chúng do công ty quản lý quỹ thực hiện. Tại Việt Nam hiện
nay, có khoảng 18 công ty quản lý quỹ đầu tư như công ty cổ phần quản lý quỹ đầu tư
chứng khoán Việt Long với số vốn điều lệ lên đến 40 tỷ đồng, công ty liên doanh quản lý
quỹ đầu tư BIDV-Vietnam Partner vốn điều lệ là 32 tỷ đồng.
1.3.1.4. Công ty đại chúng
Việc quy định công ty đại chúng là một trong những điểm mới của Luật chứng
khoán 2006. Luật đã đưa ra khái niệm công ty đại chúng, bao quát 3 loại hình công ty cổ
phần là công ty đã thực hiện việc phát hành chứng khoán ra công chúng ( kể cả đã chào
bán chứng khoán ra công chúng trước khi Luật chứng khoán 2006 có hiệu lực); công ty
có cổ phiếu niêm yết trên Sở giao dịch chứng khoán hoặc Trung tâm giao dịch chứng
khoán; công ty do phát hành riêng lẻ nhiều lần mà có cổ phiếu được ít nhất 100 nhà đầu
tư sở hữu và có vốn điều lệ thực góp từ 10 tỷ đồng trở lên. Như vậy thực chất công ty đại
chúng là những công ty cổ phần. Do đó công ty đại chúng được quyền phát hành cổ
phiếu. Tuy nhiên đây là những chủ thể có số lượng lớn các nhà đầu tư đã thực hiện việc
phát hành rộng rãi chứng khoán ra công chúng. Vì vậy gắn với việc quy định về công ty
đại chúng, pháp luật cũng quy định một nghĩa vụ quan trọng của nó là nghĩa vụ công bố
thông tin. Đây là quy định đóng vai trò đặc biệt quan trọng trong việc bảo vệ quyền và lợi
ích hợp pháp của nhà đầu tư. Trên thực tế trước đây rất nhiều công ty cổ phần hoạt động
với số vốn điều lệ trên 10 tỷ đồng có trên 100 nhà đầu tư sở hữu cổ phần nhưng họ chỉ
thực hiện chào bán chứng khoán riêng lẻ để lẩn tránh nghĩa vụ công bố thông tin. Vì vậy
mà Nhà nước không quản lý được chất lượng chứng khoán cũng như thị trường chứng
khoán. Do đó việc quy định về công ty đại chúng góp phần minh bạch hoá các thông tin
trên thị trường chứng khoán, hướng đến một thị trường chứng khoán an toàn và hiệu quả,
góp phần đắc lực vào việc phát triển nền kinh tế.
1.3.2. Chủ thể chào bán chứng khoán nợ
Chứng khoán nợ là loại chứng khoán ghi nhận quyền chủ nợ của người sở hữu loại
chứng khoán đó với tổ chức phát hành. Đó chính là các loại trái phiếu. Hiện nay, tư cách
chủ thể phát hành trái phiếu được quy định tại hai văn bản pháp luật: Nghị định
52/2006/NĐ-CP ngày 19 tháng 5 năm 2006 về phát hành trái phiếu doanh nghiệp và
quyết định 02/2004/QĐ-NHNN về việc ban hành quy chế phát hành giấy tờ có giá của tổ
chức tín dụng nhằm huy động vốn trong nước.
Theo Nghị định 52/2006/NĐ-CP ngày 19 tháng 5 năm 2006 chủ thể có quyền phát
hành trái phiếu doanh nghiệp bao gồm công ty cổ phần, công ty Nhà nước trong thời gian
chuyển đổi thành công ty cổ phần và công ty trách nhiệm hữu hạn theo quy định của Luật
doanh nghiệp và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài trên phạm vi lãnh thổ Việt Nam.
Tuy nhiên Nghị định đã không quy định một chủ thể mà theo Luật doanh nghiệp thì việc
chủ thể này phát hành trái phiếu để huy động vốn không bị cấm, đó là công ty trách
nhiệm hữu hạn. Chính điều này đã gây lúng túng trong việc áp dụng pháp luật về phát
hành trái phiếu của nhiều công ty trách nhiệm hữu hạn. Từ đó làm hạn chế khả năng huy
động vốn để đáp ứng nhu cầu sản xuất kinh doanh.
Theo quy định của quyết định 02/2004/QĐ-NHNN ngày 04 tháng 01 năm 2004
chủ thể có quyền phát hành trái phiếu để huy động vốn trong nước bao gồm: các tổ chức
tín dụng Nhà nước, tổ chức tín dụng cổ phần, quỹ tín dụng nhân dân trung ương, các tổ
chức tín dụng liên doanh, các tổ chức tín dụng 100% vốn nước ngoài và các chi nhánh
ngân hàng nước ngoài được phép hoạt động tại Việt Nam. Có thể nói, phạm vi chủ thể
được phép phát hành trái phiếu là rất rộng. Pháp luật đã có những quy định rất mở nhằm
tạo điều kiện cho các tổ chức tín dụng được huy động vốn hết khả năng của mình, đáp
ứng nhu cầu về vốn đang rất bức thiết hiện nay của các tổ chức tín dụng. Một khi nhu cầu
về vốn của các tổ chức này được đảm bảo thì nhu cầu về vốn như một “cơn khát” của các
doanh nghiệp sẽ được thoả mãn.
Với những quy định rất thông thoáng của pháp luật về chủ thể được quyền phát
hành trái phiếu để huy động vốn, thị trường trái phiếu Việt Nam trong những năm tới hứa
hẹn sẽ rất sôi động, thúc đẩy sự phát triển của các doanh nghiệp nói riêng và nền kinh tế
nói chung.
2. Điều kiện chào bán chứng khoán của doanh nghiệp
2.1. Điều kiện chào bán chứng khoán ra công chúng
Thị trường chứng khoán Việt Nam mới phát triển trong một vài năm gần đây nên
đa số các nhà đầu tư là các nhà đầu tư nhỏ, không có kiến thức chuyên môn về phân tích
và đầu tư chứng khoán. Nghị định 48/1998/NĐ-CP ngày 11 tháng 7 năm 1998 và Nghị
định 144/2003/NĐ-CP ngày 28 tháng 11 năm 2003 đã sử dụng khái niệm phát hành
chứng khoán ra công chúng là chưa phù hợp với chuẩn mực quốc tế và trong thực tiễn đã
tạo nên nhiều kẽ hở để các tổ chức chào bán lách luật thực hiện chào bán chứng khoán ra
công chúng mà không công khai thông tin theo quy định với lý do khi chào bán họ chưa
biết là có dẫn đến việc phát hành chứng khoán ra công chúng hay không. Khái niệm “
Chào bán chứng khoán ra công chúng” điều chỉnh bất kỳ hành vi chào mời, bán hay phát
hành chứng khoán ra công chúng. Điều này góp phần khắc phục một trong những trở
ngại cơ bản đối với sự phát triển của thị trường chính thức hiện nay, đó là sự thiếu đồng
bộ trong luật pháp điều chỉnh việc chào bán chứng khoán ra công chúng. Chào bán chứng
khoán ra công chúng được hiểu là việc chào bán ra đông đảo công chúng đầu tư. Chính vì
vậy để bảo vệ quyền và lợi ích của các nhà đầu tư, pháp luật nước ta quy định rất cụ thể
điều kiện chào bán chứng khoán ra công chúng.
2.1.1. Điều kiện chào bán cổ phiếu ra công chúng
Được quy định tại khoản 1 điều 12 Luật chứng khoán 2006.
Thứ nhất, về mức vốn điều lệ, doanh nghiệp phải có mức vốn điều lệ đã góp tại
thời điểm đăng ký chào bán từ 10 tỷ đồng trở lên tính theo giá trị ghi trên sổ kế toán.
Trong đó vốn điều lệ thực có được tính bằng tổng số vốn kinh doanh trừ vốn vay. Quy
định về mức vốn điều lệ tối thiểu trên là hợp lý vì nó đảm bảo sự an toàn, tạo sự ổn định
cho thị trường chứng khoán, tạo niềm tin cho nhà đầu tư, đảm bảo chất lượng chứng
khoán. Tại hai văn bản pháp luật trước đây về chứng khoán và thị trường chứng khoán
đều quy định về mức vốn điều lệ tối thiểu để phát hành chứng khoán ra công chúng,
nhưng dường như nó tỏ ra không hợp lý. Theo điều 6 Nghị định 48/1998/NĐ-CP ngày 11
tháng 7 năm 1998 mức vốn điều lệ tối thiểu là 10 tỷ đồng. Tuy nhiên vào khoảng thời
gian 1998-1999, yêu cầu về mức vốn điều lệ đó là quá cao so với tình hình thực tế của
các doanh nghiệp. Trong khi đó, thị trường chứng khoán tập trung đang rất cần hàng hoá
để đảm bảo lượng giao dịch tối thiểu, cần các doanh nghiệp lên sàn. Điều kiện về vốn cao
sẽ hạn chế doanh nghiệp phát hành chứng khoán ra công chúng. Sau đó tại điều 6 nghị
định 144/2003/NĐ-CP ngày 28 tháng 11 năm 2003 quy định về điều kiện phát hành
chứng khoán ra công chúng, mức vốn điều lệ tối thiểu hạ xuống còn 5 tỷ đồng tại thời
điểm đăng ký phát hành. Mục đích của quy định này là nhằm tạo điều kiện cho các doanh
nghiệp vừa và nhỏ có khả năng chào bán chứng khoán ra công chúng. Tuy nhiên sau hơn
hai năm, quy định này cũng tỏ ra không khả thi vì lượng doanh nghiệp chào bán cổ phiếu
không tăng mạnh. Đồng thời do không có sự thống nhất về mức vốn điều lệ tối thiểu đối
với tổ chức chào bán cổ phiếu và tổ chức chào bán trái phiếu nên quy định này khó áp
dụng trên thực tế. Vì vậy đến Luật chứng khoán 2006, quy định về điều kiện mức vốn
điều lệ tối thiểu một lần nữa được sửa đổi là 10 tỷ. Đồng thời xoá bỏ sự phân biệt của tổ
chức chào bán cổ phiếu và tổ chức chào bán trái phiếu. Điều này là hoàn toàn phù hợp
với tình hình tài chính hiện nay của các doanh nghiệp. Ngay sau khi Luật chứng khoán có
hiệu lực- ngày 1/1/2007, một loạt các công ty đã tiến hành chào bán chứng khoán ra công
chúng.
Ví dụ: Ngày 2/1/2007 công ty cổ phần xây dựng 565 (vốn điều lệ 19,5 tỷ đồng)
tiến hành chào bán ra công chúng 567.235 cổ phần lần đầu.
Ngày 10/1/2007 công ty xây dựng công nghiệp (vốn điều lệ 38 tỷ đồng) chào bán
ra công chúng 1.376.400 cổ phần.
Thứ hai, hoạt động kinh doanh của năm liền trước năm đăng ký chào bán phải có
lãi đồng thời không có lỗ luỹ kế tính đến năm đang ký chào bán. Đây là quy định khá hợp
lý thay vì quy định hai năm có lãi liên tục như trước đây. Lý do là để một số doanh
nghiệp có lãi trong hai năm liên tiếp cần một khoảng thời gian khá dài. Trong khi đó có
những doanh nghiệp đang rất cần chào bán chứng khoán để huy động vốn đầu tư. Vì vậy
quy định như này là phù hợp, tạo cơ chế thông thoáng cho các doanh nghiệp chào bán
chứng khoán ra công chúng. Tuy nhiên có ý kiến cho rằng quy định trên là không cần
thiết, đặc biệt là các doanh nghiệp do làm ăn thua lỗ rất cần vốn. Nhưng họ lại gặp phải
rào cản là bắt buộc phải lãi trước khi chào bán chứng khoán ra công chúng.
Thứ ba, có phương án phát hành và phương án sử dụng vốn thu được từ đợt chào
bán được đại hội đồng cổ đông thông qua. Có thể nói, điều kiện này là rất cần thiết. Nó là
cơ sở bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho nhà đầu tư, tạo niềm tin cho họ. Bởi vì, đối
với công ty cổ phần, đại hội đồng cổ đông là cơ quan quyết định cao nhất.So với Nghị
định 144/200/NĐ-CP ngày 28 tháng 11 năm 2003, quy định này có sự cụ thể hoá hơn.
Trước đây, pháp luật không yêu cầu phải có phương án sử dụng vốn của tổ chức chào bán
phải được đại hội đồng cổ đông thông qua nên không đem đến một sự đảm bảo từ phía tổ
chức chào bán cho nhà đầu tư và tạo niềm tin cho các nhà đầu tư vì vậy không khuyến
khích họ mua cổ phiếu. Như vậy Luật chứng khoán 2006 đã khắc phục được điểm hạn
chế này của Nghị định 144/2003/NĐ-CP ngày 28 tháng 11 năm 2003 .
2.1.2. Điều kiện chào bán trái phiếu ra công chúng
Theo quy định tại khoản 2 điều 12 Luật chứng khoán 2006, doanh nghiệp có đủ
các điền kiện sau được chào bán trái phiếu ra công chúng.
Thứ nhất, doanh nghiệp có mức vốn điều lệ tại thời điểm đăng ký chào bán từ 10
tỷ đồng Việt Nam trở lên tính theo giá trị ghi trên sổ kế toán. Quy định này là sự kế thừa
của nghị định 144/2003/NĐ-CP ngày 28 tháng 11 năm 2003. Mức vốn tối thiểu mà pháp
luật ấn định cho các tổ chức chào bán trái phiếu ra công chúng là hoàn toàn phù hợp.
Mục đích là để đảm bảo chất lượng trái phiếu chào bán ra công chúng bởi vì mức vốn này
đòi hỏi tổ chức chào bán phải là những doanh nghiệp có quy mô lớn, có tiềm lực tài chính
dồi dào. Đồng thời với mức vốn tối thiếu như vậy, doanh nghiệp vẫn có thể đảm bảo khả
năng trả nợ cho người sở hữu trái phiếu.
Thứ hai, hoạt động kinh doanh của năm liền trước năm đăng ký chào bán phải có
lãi đồng thời không có lỗ luỹ kế tính đến năm đăng ký chào bán, không có khoản nợ quá
hạn trên một năm. So với quy định trước đây, điều kiện này có sự sửa đổi theo hướng cụ
thể hơn, từ đó củng cố niềm tin ở nhà đầu tư. Với bản chất là chứng khoán nợ, chủ thể sở
hữu trái phiếu là chủ nợ của doanh nghiệp phát hành. Khả năng được hoàn trả số tiền đầu
tư luôn là mối quan tâm hàng đầu của nhà đầu tư. Vì vậy, Luật chứng khoán 2006 phần
nào thắt chặt điều kiện này là hoàn toàn hợp lý.
Thứ ba, có phương án phát hành phương án sử dụng và trả nợ vốn thu được từ đợt
chào bán được hội đồng quản trị, hoặc hội đồng thành viên hoặc chủ sở hữu thông qua.
Quy định này góp phần củng cố niềm tin của nhà đầu tư vào tổ chức chào bán, từ đó
doanh nghiệp nhanh chóng đạt được mục đích huy động vốn.
Thứ tư, có cam kết thực hiện những nghĩa vụ của tổ chức phát hành đối với nhà
đầu tư về điều kiện phát hành, thanh toán, đảm bảo quyền và lợi ích của nhà đầu tư. Trên
đây là những điều kiện để doanh nghiệp có thể chào bán trái phiếu ra công chúng. Những
quy định này nhằm đảm bảo tính thanh khoản, chất lượng chứng khoán, đảm bảo tính hấp
dẫn đối với nhà đầu tư và khả năng thanh toán của tổ chức phát hành. So với quy định
trước đây, các quy định bắt buộc phải có tổ chức bảo lãnh phát hành và việc xác định đại
diện người sở hữu trái phiếu đối với việc phát hành trái phiếu ra công chúng không được
đề cập trong Luật chứng khoán 2006. Việc loại bỏ các quy định bắt buộc này sẽ tạo ra
một cơ chế mở thông thoáng hơn cho các chủ thể chào bán trái phiếu. Thực tế, trong năm
2007 một số doanh nghiệp lớn như: Vinashin, Petro Việt Nam, EVN đã có kế hoạch huy
động vốn thông qua chào bán trái phiếu ra công chúng lên đến hàng nghìn tỷ đồng [7].
2.1.3. Điều kiện chào bán chứng chỉ quỹ ra công chúng
Chứng chỉ quỹ đầu tư là loại chứng khoán không phát hành riêng lẻ mà chỉ có hình
thức phát hành ra công chúng. Việc chào bán chứng chỉ quỹ đầu tư có những điểm khác
biệt so với chào bán cổ phiếu và trái phiếu. Đó là chào bán chứng chỉ quỹ đầu tư lần đầu
bao giờ cũng gắn với việc thành lập quỹ đầu tư chứng khoán. Nói cách khác, quỹ đầu tư
chứng khoán chỉ được thành lập nếu đợt chào bán chứng chỉ quỹ đầu tư kết thúc thành
công với số lượng, tỷ lệ theo quy định của pháp luật. Chứng chỉ quỹ đầu tư do công ty
quản lý quỹ đầu tư phát hành. Việc chào bán chứng chỉ quỹ đầu tư ra công chúng được
quy định tại khoản 3 điều 12 Luật Chứng khoán 2006.
Thứ nhất, tổng giá trị chứng chỉ quỹ đăng ký chào bán tối thiểu là 50 tỷ đồng Việt
Nam. Có thể nói, đây là bước thay đổi đáng kể theo hướng cụ thể hoá của Luật, nhằm
một mặt tạo ra một khung pháp lý cần thiết cho nhiều tổ chức chào bán, mặt khác đảm
bảo chất lượng của chứng chỉ quỹ được chào bán. Trước đây, tại điều 9 Nghị định
144/2003/NĐ-CP ngày 28 tháng 11 năm 2003, quy định về điều kiện phát hành chứng chỉ
quỹ đầu tư ra công chúng là: “1. Việc phát hành chứng chỉ quỹ đầu tư chứng khoán ra
công chúng lần đầu thực hiện đồng thời với thủ tục xin phép lập quỹ đầu tư chứng khoán.
2. Việc phát hành chứng chỉ quỹ đầu tư chứng khoán để tăng vốn của quỹ đầu tư chứng
khoán phải được uỷ ban chứng khoán chấp nhận”. Quy định chưa rõ ràng như trên gây
lúng túng cho chủ thể phát hành, nhưng đồng thời lại là kẽ hở cho nhiều chủ thể khác lợi
dụng. Vì vậy việc Luật chứng khoán đã cụ thể hoá điều kiện chào bán là điều cần thiết.
Thứ hai, có phương án phát hành và phương án đầu tư vốn thu được từ đợt chào
bán chứng chỉ quỹ phù hợp với quy định của Luật chứng khoán 2006.
Trên đây là toàn bộ những điều kiện mà pháp luật về chứng khoán đòi hỏi một tổ
chức chào bán phải có khi muốn chào bán chứng khoán ra công chúng. Tuy mới có hiệu
lực từ ngày 1/1/2007 nhưng những quy định này thực sự góp phần tạo ra một thị trường
chứng khoán an toàn, có hiệu quả, thực hiện đúng chức năng đối với nền kinh tế.
2.2. Điều kiện về chào bán riêng lẻ
(thêm phần bình luận)
2.2.1. Điều kiện về chào bán cổ phiếu
2.2.1.1. Chào bán cổ phiếu của công ty cổ phần
Chào bán cổ phiếu là quyền cơ bản của công ty cổ phần. Hoạt động chào bán cổ
phiếu riêng lẻ của công ty cổ phần chịu sự điều chỉnh của Luật doanh nghiệp 2005. Cũng
theo quy định của Luật, việc chào bán cổ phiếu riêng lẻ của công ty cổ phần được thực
hiện nhằm mục đích tạo lập vốn điều lệ hoặc để tăng vốn điều lệ. Thực chất của việc chào
bán cổ phiếu của công ty cổ phần là việc công ty bán cổ phần để huy động vốn, kết quả
của việc bán cổ phần sẽ làm tăng vốn điều lệ và tỷ lệ sở hữu cổ đông. Mặt khác, việc
chào bán cổ phần có nghĩa là bán một phần quyền sở hữu công ty cho người mua cổ
phần. Điều này cũng đồng nghĩa với việc thay đổi cơ cấu quản lý và kiểm soát của công
ty. Vì vậy, việc quyết định số lượng cổ phần, giá trị cổ phần, loại cổ phần trong mỗi đợt
chào bán cần được cân nhắc kỹ lưỡng. Hiện nay, việc chào bán cổ phần của công ty cổ
phần được quy định tại điều 87-Luật doanh nghiệp 2005.
Về quyền quyết định chào bán, Luật doanh nghiệp 2005 quy định Hội đồng quản
trị quyết định thời điểm, phương thức và giá chào bán. Theo quy định này, Hội đồng
quản trị được trao thêm quyền năng mới. Nếu Luật doanh nghiệp 1999 chỉ quy định Hội
đồng quản trị có quyền quyết định giá cổ phần được đưa ra chào bán thì theo quy định
của Luật doanh nghiệp 2005, Hội đồng quản trị được quyết định cả phương thức chào
bán và thời điểm chào bán. Tuy nhiên, pháp luật hiện hành lại không có quy định về
quyền quyết định của cổ phần được đưa ra chào bán. Có thể nói, đây là một nội dung rất
quan trọng không chỉ đối với doanh nghiệp mà còn đối với các nhà đầu tư. Nó cho thấy
khả năng về vốn của doanh nghiệp cũng như tiềm năng của các nhà đầu tư.
Về giá cổ phần, giá chào bán cổ phần không được thấp hơn giá thị trường tại thời
điểm chào bán hoặc giá trị được ghi trong sổ sách tại thời điểm gần nhất. Luật doanh
nghiệp 1999 cũng đưa ra qui định này, tuy nhiên về các trường hợp ngoại lệ, Luật doanh
nghiệp 2005 bổ sung một số điểm mới sau:
Thứ nhất, cổ phần chào bán lần đầu tiên cho những người không phải là cổ đông
sáng lập. Đây là quy định khá hợp lý vì đây là cổ phần được chào “lần đầu tiên”, đây
cũng là lần đầu tiên nhà đầu tư tiếp cận với cổ phần của công ty nên chưa xác định được
giá thị trường của cổ phần. Như vậy, Hội đồng quản trị có quyền quyết định giá chào bán
thất hơn giá thị trường. Điều này sẽ đảm bảo sự thành công của đợt chào bán cổ phần lần
đầu, thu hút rộng rãi nhà đầu tư .
Thứ hai, cổ phần chào bán cho tất cả các cổ đông theo tỷ lệ cổ phần hiện có của họ
ở công ty. Theo quy định này, các cổ đông đã nắm giữ cổ phần của doanh nghiệp sẽ được
quyền mua cổ phần theo tỷ lệ tương ứng, với giá bán không tham chiếu giá thị trường tại
thời điểm chào bán. Khi đó, giá cổ phần áp dụng cho các cổ đông cũ có thể sẽ thấp hơn
giá thị trường tại thời điểm chào bán. Tuy nhiên có một vấn đề đặt ra. Theo quy định của
pháp luật, công ty cổ phần có nhiều loại cổ phần khác nhau. Tuỳ thuộc vào loại cổ phần
mà họ nắm giữ, các cổ đông có các quyền và nghĩa vụ khác nhau. Ví dụ cổ đông sở hữu
cổ phần phổ thông sẽ được hưởng mức cổ tức thấp hơn cổ đông sở hữu cổ phần ưu đãi cổ
tức nhưng thay vào đó, những cổ đông này lại có quyền dự đại hội đồng cổ đông, có
quyền đề cử người vào hội đồng quản trị và biểu quyết về những quyết định của công ty.
Vì thế để đảm bảo sự công bằng giữa các cổ đông, quy định này cần điều chỉnh theo
hướng cụ thể hơn “ cổ phần chào bán cho tất cả các cổ đông theo tỷ lệ cổ phần của từng
loại hiện có của họ ở công ty” sẽ chính xác, đảm bảo sự thống nhất trong việc áp dụng
pháp luật.
Thứ ba, cổ phần chào bán cho người môi giới và người bảo lãnh. Qui định này là
sự kế thừa của Luật doanh nghiệp 1999 tuy nhiên Luật doanh nghiệp 2005 lại bổ sung
một nội dung quan trọng khắc phục thiếu sót của văn bản trước đó. “Số chiết khấu hoặc
tỷ lệ chiết khấu cụ thể phải được sự chấp thuận của số cổ đông đại diện cho ít nhất 75%
tổng số cổ phần có quyền biểu quyết”. Như vậy, sự ưu tiên về giá cho các đối tượng này
không phải là không có giới hạn. Tuy nhiên, khi bổ sung quy định về quyền biểu quyết
của đại hội đồng cổ đông trong trường hợp này, Luật 2005 lại bỏ qua cách tính giá chào
bán cổ phần- một nội dung rất quan trọng được quy định khá cụ thể và chi tiết tại điểm c
khoản 1 điều 61 Luật doanh nghiệp 1999.
Về chào bán thêm cổ phần phổ thông, đây là một nội dung khá quan trọng của Luật
doanh nghiệp 2005 và là một quy định hoàn toàn mới so với Luật doanh nghiệp 1999.
Khoản 2- điều 87 quy định “trường hợp công ty phát hành thêm cổ phần phổ thông và
chào bán số cổ phần đó cho tất cả các cổ đông phổ thông theo tỷ lệ cổ phần hiện có của
họ tại công ty”. Điều luật cũng đã cũng đã cụ thể hoá thủ tục, trình tự chào bán cổ phần
phổ thông cho các cổ đông hiện có của doanh nghiệp. Đó là quy định về thông báo chào
bán thêm cổ phần cho các cổ đông; các nội dung cụ thể của thông báo trong đó có tổng số
cổ phần dự kiến phát hành, số cổ phần cổ đông được quyền mua, giá chào bán cổ phần,
thời hạn đăng ký mua. Chính những quy định về việc gửi thông báo đến từng cổ đông đã
khẳng định hình thức chào bán cổ phần theo Luật doanh nghiệp 2005 là chào bán riêng
lẻ. Ngoài ra còn có quy định về chuyển quyền ưu tiên mua cổ phần của cổ đông cho
người khác, về xử lý số cổ phần còn lại sau đợt phát hành.
Tóm lại, hoạt động chào bán riêng lẻ cổ phiếu của công ty cổ phần chịu sự điều
chỉnh của Luật doanh nghiệp 2005. Như vậy có sự phân biệt giữa hai hình thức chào bán
cổ phiếu của công ty cổ phần là chào bán riêng lẻ và chào bán ra công chúng. Hoạt động
chào bán cổ phiếu ra công chúng chịu sự điều chỉnh của Luật chứng khoán 2006. Thực tế,
xu hướng từ trước đến giờ hầu hết các doanh nghiệp đều lựa chọn hình thức chào bán
riêng lẻ để huy động vốn
2.2.1.2. Chào bán cổ phiếu của công ty Nhà nước cổ phần hoá
Hiện nay ở Việt Nam việc chào bán cổ phiếu để chuyển công ty Nhà nước thành
công ty cổ phần được quy định tại Nghị định 187/2004/NĐ-CP ngày 16 tháng 11 năm
2004 về việc chuyển công ty Nhà nước thành công ty cổ phần thay thế Nghị định
64/2000/NĐ-CP ngày 19 tháng 6 năm 2002 về việc chuyển doanh nghiệp Nhà nước
thành công ty cổ phần. Có thể nói, cổ phần hoá công ty Nhà nước chính là một tiến trình,
một “dự án” phát triển kinh tế, cải cách kinh tế mang tính đột phá không chỉ ở Việt Nam
mà ở hầu hết các nước có nền kinh tế chuyển đổi nhằm thay đổi hình thức sở hữu của các
doanh nghiệp từ Nhà nước sang đa sở hữu để Nhà nước không chịu áp lực về vốn, người
lao động gắn bó với doanh nghiệp. Đồng thời nhằm tăng năng lực tài chính, đổi mới công
nghệ, nâng cao hiệu quả và sức cạnh tranh của các doanh nghiệp.
Về đối tượng cổ phần hoá, như ta đã biết đó là những công ty Nhà nước không
thuộc diện Nhà nước phải nắm giữ 100% vốn điều lệ.
Về đối tượng và điều kiện được mua cổ phần của công ty Nhà nước cổ phần hoá:
tổ chức kinh tế, các tổ chức xã hội hoạt động theo luật pháp Việt Nam và cá nhân người
Việt Nam định cư ở trong nước được quyền mua cổ phần với số lượng không hạn chế;
các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, người nước ngoài hoạt động hợp pháp tại
Việt Nam, người Việt Nam định cư ở nước ngoài được mua cổ phần của doanh nghiệp cổ
phần hoá theo quy định pháp Việt Nam. Có thể nói, những quy định về đối tượng và điều
kiện được mua cổ phần tại Nghị định 187/2004/NĐ-CP ngày 16 tháng 11 năm 2004 là rất
thông thoáng, nhằm đẩy nhanh quá trình cổ phần hoá công ty Nhà nước ở nước ta.
Về cơ cấu cổ phần lần đầu, pháp luật quy định cơ cấu cổ phần lần đầu trong doanh
nghiệp cổ phần hoá theo cơ cấu ưu tiên nhất định:
(i) Cổ phần Nhà nước nắm giữ.
(ii) Người lao động có tên trong danh sách thường xuyên của doanh nghiệp tại thời
điểm quyết định cổ phần hoá được mua tối đa 100 cổ phần cho mỗi năm làm việc.
(iii) Nhà đầu tư chiến lược được mua tối đa 20%số cổ phần bán theo giá ưu đãi.
(iv) Cổ phần bán đấu giá công khai cho các nhà đầu tư không thấp hơn 20% vốn
điều lệ
Việc sắp xếp thứ tự mua cổ phần cho những đối tượng như vậy vừa đảm bảo vai
trò của Nhà nước đối với doanh nghiệp mà Nhà nước cần nắm giữ cổ phần, vừa đảm bảo
quyền lợi cho người lao động, giúp họ yên tâm sản xuất. Bên cạnh đó, việc dành tối thiểu
20% vốn điều lệ để chào bán đấu giá cổ phần công khai giúp doanh nghiệp có thêm điều
kiện để thu hút vốn đầu tư và có thêm nhiều cổ đông ngoài doanh nghiệp- là điều kiện để
doanh nghiệp có thể niêm yết chứng khoán trên thị trường chứng khoán tập trung.
Về giá bán cổ phần lần đầu, so với Nghị định 64/2002/NĐ-CP ngày 19 tháng 6
năm 2002 thì quy định về giá chào bán cổ phần lần đầu tại điều 8 Nghị định
187/2004/NĐ-CP ngày 16 tháng 11 năm 2004 là một quy định mới. Quy định này góp
phần cụ thể hoá, tạo ra một khung pháp lý về giá bán cổ phần cho các đối tượng. Theo
đó, điều luật đã đưa ra ba mức giá bán với ba đối tượng khác nhau. Đối với người lao
động giá bán cổ phần được giảm 40% so với giá đấu bình quân; đối với nhà đầu tư chiến
lược giá bán cổ phần được giảm 20% so với giá đấu bình quân; còn giá bán cho các đối
tượng khác được thực hiện theo giá đấu bình quân. Như vậy, giá đấu bình quân là tiêu
chuẩn xác định giá bán cổ phần cho người lao động và nhà đầu tư chiến lược. Tuy nhiên
chính quy định này cũng thể hiện những ưu thế và hạn chế rất rõ ràng. Nếu giá đấu thành
công của từng nhà đầu tư cao thì tổ chức chào bán nhanh chóng thu hút được nguồn vốn
lớn. Thế nhưng, khi đó tất yếu giá đấu bình quân cũng cao lên và vì vậy mà giá bán cổ
phần cho người lao động cũng lên. Lúc này, khả năng được sở hữu cổ phần của người lao
động tại doanh nghiệp hầu như khó thực hiện. Trên thực tế, thường xảy ra tình trạng các
nhà đầu tư lớn “mua hộ” cổ phần của người lao động trong doanh nghiệp. Như vậy, ưu
đãi dành cho người lao động khó được đảm bảo mà mục tiêu cổ phần hoá công ty Nhà
nước cũng không mấy khả thi.
Về phương thức bán cổ phần, nếu như Nghị định 64/2000/NĐ-CP ngày 19 tháng 6
năm 2002 trước đây chỉ đơn thuần qui định phương thức bán cổ phần tại chính doanh
nghiệp hoặc thông qua tổ chức trung gian tài chính thì đến Nghị định 187/2004/NĐ-CP
ngày 16 tháng 11 năm 2004, đấu giá cổ phần là phương thức bắt buộc để chào bán cổ
phần của công ty Nhà nước. Mục đích của việc áp dụng phương thức này là đảm bảo sự
công bằng cho các nhà đầu tư. Theo quy định tại điều 30 của Nghị định 187/2004/NĐ-CP
ngày 16 tháng 11 năm 2004 tuỳ thuộc vào khối lượng cổ phần mà việc bán đấu giá cổ
phần có thể diễn ra ở nhiều nơi khác nhau như tại chính công ty Nhà nước, tại tổ chức tài
chính trung gian. Tuy nhiên nếu khối lượng cổ phần bán ra trên 10 tỷ thì bắt buộc phải
bán đấu giá tại trung tâm giao dịch chứng khoán. Với phương thức bán đấu giá này, pháp
luật quy định cụ thể trình thủ tục thực hiện. Theo đó, doanh nghiệp, tổ chức tài chính
trung gian và trung tâm giao dịch chứng khoán thông báo công khai tại nơi tiến hành bán
đấu giá hoặc trên các phương tiện thông tin đại chúng những vấn đề liên quan đến việc
bán đấu giá cổ phần. Sau khi thực hiện bán đấu giá, cơ quan thực hiện bán đấu giá phải
xác định giá đấu bình quân để tính giá ưu đãi cho các nhà đầu tư chiến lược và người lao
động. Cuối cùng doanh nghiệp sẽ tiến hành phân phối cổ phần. Khoảng thời gian để
doanh nghiệp hoàn thành việc bán cổ phần là 4 tháng kể từ ngày quyết định phê duyệt
phương án cổ phần hoá. Như vậy, phương thức bán cổ phần lần đầu và trình tự thủ tục
thực hiện được quy định khá chặt chẽ, tạo ra một cơ chế rõ ràng cho việc bán cổ phiếu
của công ty Nhà nước. Trên thực tế, tổ chức bán cổ phần lần đầu dưới hình thức đấu giá
được nhiều công ty Nhà nước hưởng ứng do ưu điểm đó là nó thể hiện được tính dân chủ
công khai. Trong khi nhà đầu tư dễ dàng tiếp cận được thông tin và mục đích đầu tư thì
doanh nghiệp cũng huy động được vốn.
Có thể nói, Nghị định 187/2004/NĐ-CP ngày 16 tháng 11 năm 2004 ra đời thay
thế Nghị định 64/2000/NĐ-CP ngày 19 tháng 6 năm 2002 đã thúc đẩy mạnh mẽ quá
trình cổ phần hoá diễn ra. Chính sách này đã giảm số lượng doanh nghiệp nhà nước từ
12000 đơn vị xuống còn 2663 đơn vị vào đầu 2006, vốn bình quân của doanh nghiệp tăng
từ 24 tỷ/2001 lên 63,6 tỷ /2005, doanh nghiệp huy động được thêm 21000 tỷ đồng . Tuy
nhiên, bên cạnh đó còn tồn tại không ít vướng mắc. Việc cổ phần hoá diễn ra chậm hơn
so với kế hoạch. Cụ thể là năm 2006, dự kiến cổ phần hoá khoảng 150 công ty nhưng chỉ
có thực hiện được 107 [7]. Các cơ quan thực hiện bán đấu giá còn thiếu kinh nghiệm lúng
túng. Phương thức đấu giá đã bộc lộ một số hạn chế như gần đây có tình trạng nhiều cuộc
đấu giá sức cầu bị đẩy lên quá cao so với cầu thực, do việc nhà đầu tư sử dụng dịch vụ uỷ
thác đầu tư. Để tăng khả năng mua được cổ phần, nhà đầu tư thường uỷ thác số lượng
mua lớn hơn nhiều lượng cầu thực (có người uỷ thác 2-3 nơi) [7]. Ngoài ra nhiều nhà đầu
tư vừa sử dụng dịch vụ uỷ thác, vừa tham gia đấu giá nên đã đẩy giá lên cao một cách bất
hợp lý. Đồng thời việc pháp luật chỉ quy định một phương thức bán cổ phần trong khi
trên thực tế còn có rất nhiều phương thức chào bán khác đã hạn chế các khả năng của
doanh nghiệp lựa chọn các phương thức chào bán phù hợp với đặc điểm của doanh
nghiệp. Thêm nữa hoạt động cổ phần hoá diễn ra trên khắp cả nước nhưng hoạt động đấu
giá mới chỉ dừng lại ở hai thành phố lớn là Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh. Nhà đầu
tư hiện nay rất phân vân về tính bảo mật thông tin của hoạt động này, việc đấu giá chưa
thực sự tuân thủ đúng quy luật của thị trường. Khi mà đấu giá chưa diễn ra thì đã có
những thông tin rò rỉ bên ngoài thị trường về giá đấu thành công. Một số chuyên gia nhận
định “việc cổ phần hoá công ty Nhà nước bằng phương thức bán đấu giá cổ phần lần đầu
mới chỉ thành công về mặt hình thức” [7]. Vì vậy cần có những quy định pháp luật phù
hợp hơn nữa, tạo động lực mạnh mẽ cho việc chào bán cổ phiếu, cổ phần hoá công ty
Nhà nước.
2.2.1.3. Phát hành cổ phiếu của Ngân hàng thương mại cổ phần
Thực tế ở Việt Nam từ nhiều năm nay, trước khi thị trường chứng khoán phát triển,
các ngân hàng thương mại đóng vai trò hàng đầu trong việc cấp tín dụng dưới hình thức
cho vay, bảo lãnh, chiết khấu cho các doanh nghiệp, đáp ứng nhu cầu sản xuất kinh
doanh. Theo quy định của pháp luật về tổ chức tín dụng ngoài việc huy động vốn từ tiền
gửi của tổ chức cá nhân, các ngân hàng thương mại cổ phần có thể chào bán cổ phiếu để
huy động vốn. Lý do xuất phát từ hình thức tổ chức của ngân hàng thương mại cổ phần.
Ngân hàng thương mại cổ phần thực chất là công ty cổ phần. Chính vì vậy, các ngân hàng
thương mại cổ phần có quyền chào bán cổ phiếu để huy động vốn. Đây chính là điểm đặc
thù và ưu việt của ngân hàng thương mại cổ phần. Hiện nay, hoạt động chào bán cổ phiếu
của ngân hàng thương mại cổ phần chịu sự điều chỉnh của quyết định số 1122/2001/QĐ-
NHHH ngày 4 tháng 9 năm 2001 về việc ban hành quy định về cổ đông, cổ phần, cổ
phiếu và vốn điều lệ của ngân hàng thương mại cổ phần của Nhà nước và nhân dân. Văn
bản pháp luật đã tạo ta cơ sở pháp lý cho việc huy động vốn của ngân hàng từ cổ phiếu
nhất là khi các cơ quan này đang bị quá tải do nhu cầu về vốn vay của doanh nghiệp.
Theo quyết định này, ngân hàng thương mại cổ phần được tăng vốn điều lệ bằng cách
phát hành thêm cổ phiếu. Như vậy nếu như công ty cổ phần có thể huy động vốn để thành
lập hoặc mở rộng vốn bằng hình thức chào bán riêng lẻ cổ phiếu (cổ phần), thì pháp luật
chỉ quy định hình thức chào bán cổ phiếu này cho ngân hàng thương mại để tăng vốn
điều lệ và pháp luật chỉ giới hạn một bộ phận cổ đông được mua. Theo quyết định
1122/2001/QĐ-NHNN ngày 4 tháng 9 năm 2001 ngân hàng thương mại cổ phần được
tăng vốn điều lệ bằng cách phát hành thêm cổ phiếu, ngân hàng sẽ gửi một bộ hồ sơ đề
nghị chấp nhận tăng vốn cho Ngân hàng Nhà nước bao gồm:
(i) Tờ trình của Hội đồng quản trị,
(ii) Biên bản Đại hội cổ đông về việc thay đổi vốn điều lệ,
(iii) Phương án thay đổi mức vốn điều lệ,
(iv) Danh sách và tỷ lệ vốn cổ phần của cổ đông trước và sau khi thay đổi vốn,
(v) Đơn xin mua cổ phần của những cổ đông lớn,
(vi) Các văn bản khác có liên quan theo quy định của pháp luật.
Việc pháp luật không đưa ra các điều kiện để tăng vốn điều lệ của ngân hàng
thương mại cổ phần là một quy định phù hợp với thực tiễn, góp phần khuyến khích các
ngân hàng phát hành cổ phiếu để tăng vốn điều lệ. Tuy nhiên thủ tục xin phát hành còn
rườm rà, mang nặng tính hành chính, quá chặt chẽ về hồ sơ. Điều này sẽ hạn chế khả
năng huy động vốn của ngân hàng thương mại cổ phần. Từ năm 2004 trở về trước đã có
một số ngân hàng huy động thêm vốn bằng cách phát hành cổ phiếu riêng lẻ như ngân
hàng cổ phần Đông á, ngân hàng cổ phần quân đội( MBB), ngân hàng Sài gòn thương tín
(STB). Tuy nhiên hiện nay, với ưu thế của việc chào bán cổ phiếu ra công chúng, các
ngân hàng thường lựa chọn hình thức này để tăng vốn điều lệ. Vì vậy, các quy định về
chào bán cổ phiếu riêng lẻ của ngân hàng thương mại cổ phần như trên sẽ không còn phù
hợp nữa và cần thay đổi.
2.2.Quy định về chào bán riêng lẻ trái phiếu
2.2.1. Quy định về chào bán riêng lẻ trái phiếu doanh nghiệp
Trước đây, hầu như pháp luật không có qui định về việc chào bán riêng lẻ trái
phiếu của doanh nghiệp nói chung ngoài Nghị định 120/1994/NĐ-CP ngày 17 tháng 9
năm 1994 ban hành quy chế tạm thời về việc phát hành cổ phiếu, trái phiếu của doanh
nghiệp Nhà nước. Như vậy việc phát hành trái phiếu của công ty cổ phần, công ty trách
nhiệm hữu hạn không có cơ sở pháp lý, từ đó hạn chế khả năng huy động vốn của chủ thể
này. Điều này đã được khắc phục cùng với sự ra đời của Nghị định 52/2006/ NĐ-CP
ngày 19 tháng 5 năm 2006 về phát hành trái phiếu doanh nghiệp.
Về đối tượng được quyền phát hành riêng lẻ trái phiếu để huy động vốn bao gồm
công ty cổ phần, công ty Nhà nước trong thời gian chuyển đổi thành công ty trách nhiệm
hữu hạn và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài; tổ chức tín dụng thuộc sở hữu Nhà
nước. Nghị định 52/2006/NĐ-CP ngày 19 tháng 5 năm 2006 đã có những quy định về
hình thức trái phiếu nguyên tắc phát hành trái phiếu; điều kiện và thẩm quyền quyết định
phát hành trái phiếu các loại trái phiếu doanh nghiệp; phương thức phát hành trái phiếu
và về việc công bố thông tin.
Về nguyên tắc phát hành trái phiếu, Nghị định 52/2006/NĐ-CP ngày 19 tháng 5
năm 2006 đã đưa ra ba nguyên tắc tại điều 3 [9.6]. Những quy định này đều hướng vào
việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nhà đầu tư đồng thời đảm bảo một nguyên tắc
rất quan trọng hiện nay là công khai minh bạch.
Về điều kiện phát hành trái phiếu, được quy định tại điều 17 của Nghị định
52/2006/NĐ-CP ngày 19 tháng 5 năm 2006. Theo đó doanh nghiệp chỉ được phát hành
trái phiếu khi có đủ các điều kiện sau:
(i) Là doanh nghiệp thuộc đối tượng phát hành trái phiếu riêng lẻ
(ii) Có thời gian hoạt động tối thiểu trong 1 năm kể từ ngày doanh nghiệp chính
thức đi vào hoạt động. Quy định này là hoàn toàn hợp lý để đảm bảo quyền của nhà đầu
tư. Với bản chất là chứng khoán nợ, khi nhà đầu tư sở hữu trái phiếu trong tay họ phải
được đảm bảo về khả năng trả nợ. Việc quy định thời gian hoạt động tối thiểu như trên
vừa thúc đẩy nhà đầu tư mua trái phiếu tăng khả năng về vốn cho doanh nghiệp vừa phù
hợp với nguyên tắc phát hành trái phiếu doanh nghiệp “ Tự vay, tự trả, tự chịu trách
nhiệm về hiệu quả sử dụng vốn vay”.
(iii) Có báo cáo tài chính của năm liền kề trước năm phát hành được kiểm toán.
Tuy nhiên để đảm bảo báo cáo tài chính của doanh nghiệp là một văn bản có tính trung
thực cao cần có những quy định về tiêu chuẩn kiểm toán và tổ chức kiểm toán
(iv) Kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh năm liền kề năm phát hành phải có lãi.
(v) Có phương án phát hành trái phiếu được các tổ chức, cá nhân có thẩm quyền
thông qua.
Mục đích của những quy định này nhằm đảm bảo tính thanh khoản cũng như chất
lượng của trái phiếu. Nếu so sánh với quy định về chào bán trái phiếu ra công chúng tại
Luật chứng khoán 2006 thì điều kiện chào bán trái phiếu riêng lẻ có một điểm khác cơ
bản: không quy định mức vốn tối thiểu của doanh nghiệp phát hành trái phiếu. Đây là
một điểm khá phù hợp với thực tế ở Việt Nam: chủ yếu các doanh nghiệp Việt Nam hiện
nay là các doanh nghiệp vừa và nhỏ, mức vốn điều lệ thấp. Nếu quy định điều kiện trên
thì các chủ thể này khó có khả năng huy động nguồn vốn thông qua trái phiếu. Điều này
sẽ ảnh hưởng tới sản xuất kinh doanh. Thêm nữa hoạt động phát hành trái phiếu riêng lẻ
chỉ được thực hiện trong một bộ phận dân chúng, không phải thông báo công khai nên chỉ
cần doanh nghiệp đảm bảo khả năng trả nợ cho nhà đầu tư là được. Về việc thông qua
phương án phát hành trái phiếu, trước đây chỉ có một văn bản điều chỉnh vấn đề phát
hành trái phiếu của doanh nghiệp Nhà nước. Theo văn bản này, Bộ Tài chính là cơ quan
ra quyết định phát hành trái phiếu doanh nghiệp Nhà nước. Hiện nay, theo Nghị định
52/2006/NĐ-CP ngày 19 thánh 5 năm 2006 quyền thông qua phương án phát hành trái
phiếu thuộc nội bộ của doanh nghiệp. Cụ thể là, Đại hội đồng cổ đông thông qua phương
án phát hành trái phiếu chuyển đổi; Hội đồng quản trị, Hội đồng thành viên hoặc đại diện
chủ sở hữu thông qua phương án phát hành trái phiếu không có khả năng chuyển đổi
(Điều 19). Đây là quy định khá hợp lý bởi trên thực tế những người nắm quyền quản lý
điều hành chính là những người hiểu nhất nhu cầu về vốn của doanh nghiệp để phát hành
trái phiếu còn Bộ Tài chính chỉ là cơ quan quản lý ở tầm vĩ mô.
Một điểm tiến bộ của Nghị định 52/2006/NĐ-CP ngày 19 thánh 5 năm 2006 là đã
quy định cho các tổ chức tín dụng Nhà nước được phát hành trái phiếu chuyển đổi. Loại
trái phiếu này sẽ chuyển thành cổ phần khi các tổ chức tín dụng Nhà nước chuyển sang
hình thức tổ chức tín dụng cổ phần. Điều này nào giải quyết được nhu cầu về vốn đồng
thời thúc đẩy quá trình cổ phần hoá các tổ chức tín dụng Nhà nước, cùng với lộ trình cổ
phần hoá các công ty Nhà nước. Đây cũng là biện pháp vừa giảm bớt các thủ tục như
định giá hay phát hành cổ phiếu ra ngoài, vừa tạo điều kiện thuận lợi để một số nhà đầu
tư mua trái phiếu chuyển đổi có cơ hội trở thành cổ đông của tổ chức tín dụng.
Với những quy định rất thông thoáng của Nghị định 52/2006/ NĐ-CP ngày 19
thánh 5 năm 2006 Chính phủ đã tạo ra nhiều cơ hội để doanh nghiệp tham gia vào thị
trường trái phiếu không chỉ với tư cách là nhà đầu tư mà còn là nhà phát hành. Văn bản
này đã mở đường cho các doanh nghiệp hoàn toàn chủ động trong việc huy động vốn
thông qua phát hành trái phiếu, giảm thiểu sự phụ thuộc quá lớn vào nguồn vốn từ tổ
chức tín dụng. Một điển hình là EVN vào tháng 7 năm 2006 EVN đã phát hành trái phiếu
và huy động tới 1000 tỷ đồng, tiết kiệm xấp xỉ một triệu đô tiền lãi.
2.2.2. Quy định về chào bán trái phiếu riêng lẻ của tổ chức tín dụng
Ngoài việc phát hành cổ phiếu của một số ngân hàng thương mại cổ phần, thì việc
huy động vốn thông qua phát hành trái phiếu cũng là một trong những hình thức huy
động vốn phổ biến của các tổ chức tín dụng hiện nay.
Hoạt động chào bán trái phiếu riêng lẻ của tổ chức tín dụng được quy định tại
Quyết định 02/2004/QĐ- NHNN ngày 4 tháng 1 năm 2004 của Ngân hàng Nhà nước về
việc ban hành quy chế phát hành giấy tờ có giá của tổ chức tín dụng để huy động vốn
trong nước. Giấy tờ có giá bao gồm kỳ phiếu, tín phiếu, trái phiếu, chứng chỉ tiền gửi
ngắn hạn, chứng chỉ tiền gửi dài hạn trong đó, nhưng chỉ có trái phiếu là chứng khoán.
Theo quy định của pháp luật phạm vi chủ thể được phép phát hành trái phiếu là khá rộng.
Ngoài Ngân hàng thương mại cổ phần, Ngân hàng thương mại Nhà nước còn có quỹ tín
dụng Nhân dân trung ương, tổ chức tín dụng liên doanh, tổ chức tín dụng 100% vốn nước
ngoài và chi nhánh Ngân hàng nước ngoài hoạt động tại Việt Nam.
Về điều kiện phát hành trái phiếu, Pháp luật quy định khá mở, chỉ yêu cầu tổ chức
tín dụng đáp ứng đủ các điều kiện sau:
(i) Tuân thủ các hạn chế để đảm bảo an toàn và hoạt động theo quy định của Pháp
luật về tổ chức tín dụng và của Ngân hàng nhà nước
(ii) Có tình hình tài chính lành mạnh theo đánh giá của thanh tra Ngân hàng.
Những điều kiện này đã mở rộng khả năng cho các tổ chức tín dụng phát hành trái phiếu
để huy động vốn, giảm bớt áp lực về vốn cho các tổ chức tín dụng.
Như vậy, những quy định của quyết định 02/2004/ QĐ- NHNN ngày 4 ngày 1
năm 2004 về phát hành trái phiếu của tổ chức tín dụng là tương đối chặt chẽ và phù hợp,
từ điều kiện, phương thức và trình tự thủ tục phát hành. Quyết định đã tạo điều kiện tốt
nhất cho các tổ chức tín dụng huy động vốn.
3. Phát hành chứng khoán của chính phủ và chính quyền địa phương
Trên thị trường chứng khoán hiện nay, bên cạnh các loại chứng khoán của các
doanh nghiệp, còn có loại chứng khoán do Chính phủ và chính quyền địa phương phát
hành: đó là trái phiếu Chính phủ và chính quyền địa phương. Trong thời gian vừa qua, thị
trường trái phiếu nói chung và thị trường trái phiếu Chính phủ nói riêng không có những
hoạt động sôi nổi như thị trường cổ phiếu, nhưng trái phiếu Chính Phủ và trái phiếu chính
quyền địa phương luôn là công cụ hữu hiệu để Chính phủ và chính quyền địa phương huy
động vốn trong dân chúng; nhằm bù đắp sự thiếu hụt ngân sách cũng như để đáp ứng nhu
cầu đầu tư phát triển. So với các loại chứng khoán khác, trái phiếu Chính phủ có lẽ loại
chứng khoán tiếp cận sớm nhất với người dân ( Năm 1994 Chính phủ ban hành nghị định
số 72/CP ngày 26 tháng 7 năm 1994 về quy chế phát hành các loại trái phiếu Chính phủ).
Đây chính là nguồn hàng cơ bản, đóng vai trò trung tâm cho sự khởi động của thị trường
chứng khoán. Cho đến nay, trái phiếu Chính phủ vẫn giữ vai trò chủ đạo trên thị trường
trái phiếu Việt Nam với hơn 90% tổng khối lượng trái phiếu. Hiện nay, hoạt động phát
hành trái phiếu Chính phủ và chính quyền địa phương chịu sự điều chỉnh của Nghị định
141/2003/NĐ-CP ngày 20 tháng 11 năm 2003 về phát hành trái phiếu Chính phủ, trái
phiếu được Chính phủ bảo lãnh và trái phiếu chính quyền địa phương.
Theo Nghị định 141/2003/NĐ-CP ngày 20 tháng 11 năm 2003 và pháp luật về
chứng khoán: chứng khoán là công cụ huy động vốn trung và dài hạn ( có thời hạn trên 1
năm); chứng khoán do chính phủ và chính quyền địa phương phát hành bao gồm trái
phiếu kho bạc, trái phiếu công trình Trung ương, trái phiếu đầu tư, trái phiếu ngoại tệ và
trái phiếu chính quyền trung ương.
3.1. Trái phiếu Chính phủ
Về tổ chức phát hành. Theo quy định của Nghị định 141/2003/NĐ-CP ngày 20
tháng 11 năm 2003, chủ thể phát hành các loại trái phiếu Chính phủ là Chính phủ. Tuy
nhiên trên thực tế, Chính phủ không trực tiếp thực hiện các hoạt động và tiến hành các
phương thức phát hành mà uỷ quyền cho Kho bạc Nhà nước (đối với trái phiếu kho bạc,
trái phiếu công trình trung ương), Bộ Tài Chính (đối với trái phiếu ngoại tệ), các tổ chức
tài chính nhà nước, tổ chức tín dụng và tổ chức tài chính được Chính phủ chỉ định (đối
với trái phiếu đầu tư) trực tiếp phát hành.
Về điều kiện phát hành. Pháp luật chỉ quy định điều kiện phát hành đối với trái
phiếu công trình trung ương. Theo đó, điều kiện phát hành loại chứng khoán này được
quy định tại điều 29 của Nghị định :
(i) Công trình nằm trong danh mục đầu tư trọng điểm hàng năm của Chính phủ.
Điều kiện này là phù hợp với mục đích của việc phát hành trái phiếu công trình Trung
ương. Mục đích của việc phát hành trái phiếu công trình Trung ương là nhằm huy động
vốn cho các dự án thuộc nguồn vốn đầu tư của ngân sách trung ương, đã ghi trong kế
hoạch nhưng chưa được bố trí vốn ngân sách trong năm. Đây chính là điều kiện cần và là
điều kiện tiên quyết để phát hành loại chứng khoán này. Bởi vì, nếu không có “công trình
nằm trong danh mục đầu tư..” thì Chính phủ không phải huy động vốn và từ đó không
phải phát hành trái phiếu công trình trung ương.
(ii) Phương án phát hành trái phiếu, kế hoạch sử dụng vốn vay và phương án hoàn
trả nợ vay khi đến hạn được thực hiện theo quyết định của Thủ tướng Chính phủ trên cơ
sở đề án do Bộ Tài chính chủ trì xây dựng.
Có thể nói, Nghị định 141/2003/NĐ-CP ngày 20 tháng 11 năm 2003 ra đời đã thực
sự tạo cơ hội thông thoáng cho việc phát hành chứng khoán của Chính phủ. So với Nghị
định 72/CP ngày 26 tháng 7 năm 1994 trước đây, Nghị định đã hoàn thiện một số nội
dung như: đa dạng hoá các loại trái phiếu chính phủ (bổ sung hai loại trái phiếu ngoại tệ
và trái phiếu đầu tư) từ đó tạo sự phong phú cho nguồn hàng của thị trường chứng khoán
nói chung và thị trường trái phiếu nói riêng. Đồng thời Nghị định cũng bổ sung phương
thức bảo lãnh phát hành trái phiếu chính phủ, xoá bỏ điều kiện để phát hành trái phiếu
Kho bạc. Trong thời gian qua, cùng với sự ra đời của VDB (ngân hàng phát triển Việt
Nam) cộng một cơ chế phát hành trái phiếu Chính phủ rất “mở” theo Nghị định
141/2003/NĐ-CP ngày 20 tháng 11 năm 2003, một khối lượng vốn rất lớn đã được huy
động thông qua phát hành trái phiếu Chính phủ. Sáu tháng cuối năm 2006, VDB đã huy
động được 8730 tỷ đồng. Năm 2006 là năm đầu tiên VDB hoàn thành nhiệm vụ huy động
vốn để cấp tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước và bảo lãnh tín dụng [7]. Vốn trái
phiếu Chính phủ đã phát huy được vai trò quan trọng trong việc đầu tư các công trình, dự
án lớn của Chính phủ. Với các quy định rất thông thoáng, trái phiếu Chính phủ trong thời
gian tới sẽ thực sự trở thành công cụ nợ trên thị trường tài chính, trở thành hàng hoá được
giao dịch thực sự sôi động trên thị trường chứng khoán sơ cấp.
3.2. Trái phiếu Chính quyền địa phương
Trái phiếu chính quyền địa phương đang ngày càng trở thành một công cụ huy
động vốn hiệu quả cho địa phương, phát huy tiềm lực về vốn của nhà đầu tư tại địa
phương mình. Trái phiếu Chính quyền địa phương là loại trái phiếu có kỳ hạn trên 1 năm
nên nó cũng được coi là một loại chứng khoán- hàng hoá của thị trường chứng khoán.
Về điều kiện phát hành. Trái phiếu chính quyền địa phương không phải là loại trái
phiếu được phát hành một cách thường xuyên. Mục đích của việc phát hành loại chứng
khoán này là nhằm huy động vốn cho các dự án công trình thuộc nguồn vốn đầu tư của
ngân sách địa phương, đã ghi trong kế hoạch nhưng chưa được bố trí vốn ngân sách trong
năm. Vì vậy, việc phát hành phải tuân thủ các điều kiện sau:
(i) Dự án, công trình thuộc danh mục đầu tư trong kế hoạch đầu tư 05 năm đã được
Hội đồng nhận dân cấp tỉnh quyết định.
(ii) Phương án phát hành trái phiếu, kế hoạch sử dụng vốn vay và phương án hoàn
trả nợ vốn vay khi đến hạn được Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh xây dựng trình Hội đồng nhân
dân thông qua và được Bộ trưởng Bộ Tài chính chấp thuận bằng văn bản.
(iii) Có quyết định của Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh uỷ quyền cho Kho bạc
Nhà nước hoặc tổ chức tài chính, tín dụng trên địa bàn chịu trách nhiệm phát hành, thanh
toán trái phiếu.
Những điều kiện này một mặt đảm bảo cho chất lượng và tính thanh khoản của trái
phiếu được phát hành một mặt hạn chế sự phát hành một cách bừa bãi loại chứng khoán
này để huy động vốn trong dân chúng của chính quyền địa phương.
Có thể nói, những quy định của Nghị định 141/2003/NĐ-CP ngày 20 tháng 11 năm
2003 đã tạo ra một cơ sở pháp lý cho Chính phủ và chính quyền địa phương phát hành
trái phiếu, huy động vốn nhàn rỗi trong dân chúng vào những chương trình kinh tế của
mình, qua đó cung cấp và tạo sự đa dạng về hàng hoá cho thị trường chứng khoán.