29
MỤC LỤC I. MỞ ĐẦU............................................................2 II. NỘI DUNG..........................................................2 1. Khái niệm thẩm quyền xét xử dân sự quốc tế...................... 2 2. Qui tắc xác định thẩm quyền xét xử dân sự quốc tế............... 3 3. Thẩm quyền xét xử của tòa án Việt nam đối với các vụ việc dân sự có yếu tố nước ngoài................................................5 3.1 Theo các điều ước quốc tế.......................................... 5 3.2 Theo pháp luật Việt nam...........................................6 4. Thẩm quyền của tòa án Việt Nam đối với các tranh chấp trong thương mại quốc tế........................................................10 5. Vấn đề từ chối thẩm quyền của tòa án Việt Nam.................. 13 III. Kết luận

nhom8-thẩm quyền xét xử dân sự quốc tế của TAVN

Embed Size (px)

Citation preview

Page 1: nhom8-thẩm quyền xét xử dân sự quốc tế của TAVN

M C L CỤ ỤI. MỞ ĐẦU.............................................................................................................................................2

II. NỘI DUNG.........................................................................................................................................2

1. Khái niệm thẩm quyền xét xử dân sự quốc tế..................................................................................2

2. Qui tắc xác định thẩm quyền xét xử dân sự quốc tế.........................................................................3

3. Thẩm quyền xét xử của tòa án Việt nam đối với các vụ việc dân sự có yếu tố nước ngoài..............5

3.1 Theo các điều ước quốc tế.......................................................................................................5

3.2 Theo pháp luật Việt nam..........................................................................................................6

4. Thẩm quyền của tòa án Việt Nam đối với các tranh chấp trong thương mại quốc tế.........................10

5. Vấn đề từ chối thẩm quyền của tòa án Việt Nam..............................................................................13

III. Kết luận

Page 2: nhom8-thẩm quyền xét xử dân sự quốc tế của TAVN

I. MỞ ĐẦU

Nhu cầu giao lưu quốc tế giữa các quốc gia gia tăng không ngừng theo từng giai đoạn phát triển,

cùng với sự gia tăng đột biến về số lượng, đó là sự phong phú và đa dạng của các loại hình quan

hệ. Mỗi mối quan hệ luôn hình thành trên cơ sở lợi ích hữu hình hoặc vô hình giữa các chủ thể

nhất định. Chính vì vậy, việc giải quyết các tranh chấp phát sinh giữa các chủ thể này khi xảy ra

vấn đề xung đột lợi ích là nhu cầu tất yếu của xã hội, nhà nước và pháp luật ra đời không ngoài

mục đích trên. Sự gia tăng các quan hệ quốc tế, những mối quan hệ vượt ra ngoài khuôn khổ biên

giới, pháp luật quốc gia mang những đặt tính hoàn toàn khác biệt đòi hỏi những phương thức giải

quyết mang tính đặc thù hơn. Khi một tranh chấp dân sự có yếu tố nước ngoài được khởi kiện tại

Tòa án của một quốc gia, vấn đề đầu tiên là Tòa án phải xác định xem mình có thẩm quyền thụ

lý giải quyết hay không? Vì vậy, xác định thẩm quyền giải quyết của tòa án luôn luôn là vấn đề

đầu tiên đặt ra và có ý nghĩa quan trọng đối với toàn bộ tiến trình giải quyết tranh chấp.

II. NỘI DUNG

1. Khái niệm thẩm quyền xét xử dân sự quốc tế

Thuật ngữ “thẩm quyền”, trong tiếng Anh là “jurisdiction” hoặc “competence”, được dùng để chỉ

quyền phán quyết về 1 vụ việc nào đó trong phạm vi pháp luật cho phép.

Trong 1 vụ kiện dân sự, thương mại có yếu tố nước ngoài, xác định thẩm quyền giải quyết của

tòa án luôn luôn là vấn đề đầu tiên được đặt ra và có ý nghĩa quan trọng đối với tiến trình giải

quyết tranh chấp. Thẩm quyền xét xử dân sự quốc tế là khả năng của pháp luật các quốc gia qui

định cho tòa án của mình có trách nhiệm và nghĩa vụ xét xử các vụ việc dân sự có yếu tố nước

Page 3: nhom8-thẩm quyền xét xử dân sự quốc tế của TAVN

ngoài. Thẩm quyền xét xử dân sự quốc tế trước hết được qui định trong pháp luật tố tụng của các

quốc gia.

2. Qui tắc xác định thẩm quyền xét xử dân sự quốc tế

Theo pháp luật các nước, tòa án thương mại hoặc toàn án dân sự là cơ quan giải quyết các tranh

chấp phát sinh trong quan hệ thương mại trong nước và các quan hệ thương mại có yếu tố nước

ngoài. Tuy nhiên, để xác định được việc giải quyết tranh chấp có thể được thực hiện tại tòa án

nước nào, cần phải dựa trên cơ sở điều khoản chọn luật áp dụng trong hợp đồng, văn bản thỏa

thuận giữa các bên và/hoặc áp dụng quy tắc giải quyết xung đột pháp luật trong điều ước quốc tế

hoặc pháp luật quốc gia liên quan tới quan hệ hợp đồng đó.

Quy tắc xác định thẩm quyền là các cách thức các quốc gia đưa ra để giải quyết hiện tượng xung

đột thẩm quyền xét xử, phải thể hiện được mối liên hệ giữa nội dung vụ việc và tòa án quốc gia

thông qua các dấu hiệu. Nhìn tổng quát, có các quy tắc chính xác định thẩm quyền xét xử dân sự

quốc tế sau đây:

Thứ nhất là qui tắc quốc tịch. Đây là cách thức xác định thẩm quyền của tòa án quốc gia trong

việc giải quyết các vụ việc dân sự có yếu tố nước ngoài dựa trên dấu hiệu quốc tịch của đương

sự. Đương sự mang quốc tịch của quốc gia nào thì tòa án của quốc gia đó có thẩm quyền giải

quyết xuất phát từ quyền tài phán đương nhiên của quốc gia đối với công dân của mình

Có thể xác định theo nguyên đơn hay bị đơn hay quốc tịch chung của các bên, có thể có 2 tòa án

có thẩm quyền. Cần chú ý rằng nếu đương sự không có quốc tịch thì không thể áp dụng quy tắc

này. Nếu đương sự có nhiều quốc tịch thì tất cả các tòa án có quốc tịch đều có thẩm quyền xác

định theo nơi đương sự khởi kiện. Quy tắc này thường được áp dụng nhằm xác định thẩm quyền

Page 4: nhom8-thẩm quyền xét xử dân sự quốc tế của TAVN

của tòa án trong các vụ việc liên quan đến các dấu hiệu nhân thân. Ví dụ như xác định cha mẹ

cho con.

Thứ hai là qui tắc nơi cư trú. Đây là cách thức xác định thẩm quyền của tòa án quốc gia trong

việc giải quyết các vụ việc dân sự có yếu tố nước ngoài dựa trên dấu hiệu nơi cư trú của đương

sự. Đương sự cư trú ở đâu thì tòa án ở đó có thẩm quyền giải quyết. Quy tắc này chủ yếu xác

định theo nơi cư trú của bị đơn nhằm đảm bảo điều kiện thuận lợi cho việc thực thi quá trình tố

tụng cũng như khả năng thi hành của bản án. Tuy nhiên trong một số trường hợp cá biệt, có thể

áp dụng dấu hiệu nơi cư trú của nguyên đơn khi bảo vệ khẩn cấp quyền lợi của nguyên đơn.

Ngoài ra cũng có thể áp dụng qui tắc nơi cư trú chung để xác địh thẩm quyền xét xử.

Tuy nhiê cần phải lưu ý ở đây là nơi cư trú phải là nơi cư trú ổn định, hợp pháp và có đầy đủ cơ

sở để xác minh. Nếu đương sự không có nơi cư trú thì không thể áp dụng được.

Còn nếu có nhiều nơi cư trú thì xác định theo nơi nguyên đơn khởi kiện.

Ngoài ra còn có các quy tắc khác như là qui tắc nơi hiện diện của bị đơn hay nơi có tài sản của

bị đơn hoặc quy tắc về mối liên hệ mật thiết. Thông thường tòa án của một nước cũng có thẩm

quyền giải quyết nếu vụ án có những mối liên hệ nhất định đối với lãnh thổ của quốc gia có tòa

án. Nếu đương sự cư trú, hiện diện trên lãnh thổ của quốc gia có tòa án, vật bị tranh chấp tồn tại

trên lãnh thổ của quốc gia có tòa án; sự kiện pháp lí gắn với quan hệ nội dung bị tranh chấp được

thực hiện trên lãnh thổ của quốc gia có tòa án thì quốc gia đó có thẩm quyền giải quyết. Ví dụ

mối liên hệ mật thiết trong quan hệ hợp đồng là nơi ký hợp đồng, nơi thực hiện hợp đồng, nơi đặt

trụ sở của nguyên đơn, bị đơn. Dấu hiệu này có thể được sử dụng một cách độc lập để xác định

thẩm quyền xét xử của tòa án, nhưng cũng có thể sử dụng như là dấu hiệu bổ sung cho các dấu

hiệu khác.

Page 5: nhom8-thẩm quyền xét xử dân sự quốc tế của TAVN

3. Thẩm quyền xét xử của tòa án Việt nam đối với các vụ việc dân sự có yếu tố nước

ngoài.

Thẩm quyền xét xử dân sự quốc tế của toàn án Việt nam được xác định i) theo điều ước quốc tế

mà Việt Nam kí kết hoặc tham gia và ii) theo quy tắc của pháp luật Việt Nam trong trường hợp

không có điều ước quốc tế thì thẩm quyền của Tòa án Việt Nam được xác định.

3.1 Theo các điều ước quốc tế.

Nghiên cứu các hiệp định tương trợ tư pháp thì tính đến tháng 9-2010, Việt Nam đã ký 26 hiệp

định tương trợ tư pháp với các nước trên đầy đủ các lĩnh vực dân sự, thương mại, hình sự, dẫn

độ, chuyển giao người bị kết án1. Trong các Hiệp định này, nhìn chung việc phân định thẩm

quyền xét xử của tòa án trong đại đa số các trường hợp được xác định dựa trên mối liên hệ quốc

tịch. Tòa án có thẩm quyền để giải quyết vụ việc là tòa án của nước mà một hoặc các bên đương

sự mang quốc tịch. Ngoài căn cứ quốc tịch của đương sự, một số các căn cứ khác cũng được sử

dụng như căn cứ nơi thường trú của đương sự, nơi có tài sản là đối tượng của tranh chấp.

Trong các hiệp định tương trợ tư pháp mà Việt Nam đã ký kết với nước ngoài2 đã thừa nhận các

quy tắc xác định thẩm quyền xét xử dân sự quốc tế sau:

1 Việt Nam đã kí 26 hiệp định tương trợ tư pháp, LX.

(Xem thêm: http :// xuan . phapluattp . vn /20110114123649275 p 0 c 1013/ viet - nam - da - ky -26- hiep - dinh - tuong - tro - tu - phap . htm ).

2 Hiệp định tương trợ tư pháp và pháp lý về các vấn đề dân sự và hình sự giữa CHXHCN Việt Nam và Liên bang Nga; Hiệp định tương trợ tư pháp về các vấn đề dân sự và hình sự giữa nước CHXHCNVN với nước CHDCND Lào và giáo trình Tư Pháp Quốc Tế (Nguyễn Bá Diến chủ biên_ Khoa Luật - ĐHQGHN) tr.344-348

(xem thêm: http :// truclaw 08. hexat . com / )

Page 6: nhom8-thẩm quyền xét xử dân sự quốc tế của TAVN

● Đối với các tranh chấp liên quan đến việc hạn chế hoặc tuyên bố mất năng lực hành vi:

quy tắc luật quốc tịch được ưu tiên áp dụng, ví dụ trong điều 20 Hiệp định Việt Nam-

Cuba; điều 16 Hiệp định Việt Nam- Bungari; Điều 33 Hiệp định Việt Nam- Ba Lan.

● Đối với các tranh chấp về bồi thường thiệt hại, quy tắc nơi xảy ra hành vi gây thiệt hại

được ưu tiên áp dụng, tuy nhiên có thể thỏa thuận áp dụng các quy tắc khác để giải uyết

xung đột về vấn đề này (quy tắc nơi thường trú của bị đơn hoặc của nguyên đơn).

● Thẩm quyền giải quyết tranh chấp về thừa kế động sản thuộc cơ quan tư pháp của nước

ký kết mà người để lại tài sản là công dân.

● Thẩm quyền giải quyết tranh chấp về thừa kế bất động sản thuộc cơ quan tư pháp của

nước ký kết nơi có bất động sản thừa kế.

3.2 Theo pháp luật Việt nam

Nhìn chung, thẩm quyền xét xử vụ việc dân sự có yếu tố nước ngoài của tòa án các nước có hai

dạng: thẩm quyền xét xử chung và thẩm quyền xét xử riêng biệt.

Thẩm quyền xét xử chung là thẩm quyền đối với những vụ việc mà tòa án nước đó có quyền xét

xử nhưng tòa án nước khác cũng có thể xét xử (điều này tùy thuộc vào tư pháp quốc tế của các

nước khác có quy định là tòa án nước họ có thẩm quyền với những vụ việc như vậy hay không).

Khi mà tòa án nhiều nước đều có thẩm quyền xét xử với một vụ việc dân sự có yếu tố nước

ngoài, thì quyền xét xử thuộc về tòa án nước nào phụ thuộc vào việc nộp đơn của các bên chủ

thể.

Thẩm quyền chung qui định tại điều 410 luật tố tụng dân sự như sau:

Page 7: nhom8-thẩm quyền xét xử dân sự quốc tế của TAVN

Điều 410. Quy định chung về thẩm quyền của Toà án Việt Nam giải quyết các vụ việc dân sự có

yếu tố nước ngoài

1. Thẩm quyền của Toà án Việt Nam giải quyết các vụ việc dân sự có yếu tố nước ngoài được

xác định theo quy định tại Chương III của Bộ luật này, trừ trường hợp Chương này có quy định

khác.

2. Toà án Việt Nam giải quyết các vụ việc dân sự có yếu tố nước ngoài trong các trường hợp sau

đây:

A) Bị đơn là cơ quan, tổ chức nước ngoài có trụ sở chính tại Việt Nam hoặc bị đơn có cơ quan

quản lý, chi nhánh, văn phòng đại diện tại Việt Nam;

B) Bị đơn là công dân nước ngoài, người không quốc tịch cư trú, làm ăn, sinh sống lâu dài tại

Việt Nam hoặc có tài sản trên lãnh thổ Việt Nam;

C) Nguyên đơn là công dân nước ngoài, người không quốc tịch cư trú, làm ăn, sinh sống lâu dài

tại Việt Nam đối với vụ việc dân sự về yêu cầu đòi tiền cấp dưỡng, xác định cha mẹ;

D) Vụ việc dân sự về quan hệ dân sự mà căn cứ để xác lập, thay đổi, chấm dứt quan hệ đó theo

pháp luật Việt Nam hoặc xảy ra trên lãnh thổ Việt Nam, nhưng có ít nhất một trong các đương sự

là cá nhân, cơ quan, tổ chức nước ngoài;

Đ) Vụ việc dân sự về quan hệ dân sự mà căn cứ để xác lập, thay đổi, chấm dứt quan hệ đó theo

pháp luật nước ngoài hoặc xảy ra ở nước ngoài, nhưng các đương sự đều là công dân, cơ quan, tổ

chức Việt Nam và nguyên đơn hoặc bị đơn cư trú tại Việt Nam;

E) Tranh chấp phát sinh từ hợp đồng mà việc thực hiện toàn bộ hoặc một phần hợp đồng xảy ra

trên lãnh thổ Việt Nam;

Page 8: nhom8-thẩm quyền xét xử dân sự quốc tế của TAVN

G) Vụ việc ly hôn mà nguyên đơn hoặc bị đơn là công dân Việt Nam

Phân tích một số ưu điểm và hạn chế của điều A và điều E: (1)

A) Bị đơn là cơ quan tổ chức nước ngoài có trụ sở chính tại Việt Nam hoặc bị đơn có cơ

quản lí, chi nhánh, văn phòng đại diện tại Việt Nam.

Ưu điểm:

Nguyên tắc xác định thẩm quyền xét xử theo nơi cư trú của bị đơn mang tính uyển chuyển hơn

nguyên tắc xác định thẩm quyền xét xử theo quốc tịch, hướng đến sự thuận lợi cho sự thực thi

quá trình tố tụng cũng như khả năng thực thi bản án được tuyên, thể hiện thiện chí của các quốc

gia trong việc giải quyết các vụ việc dân sự có yếu tố nước ngoài, tiến tới việc đảm bảo quyền lợi

của các đương sự trong vụ việc dân sự được giải quyết cách thuận lợi hơn, tuy nhiên nó cũng hạn

chế quyền xét xử của quốc gia đó. Quy định này là một điểm tiến bộ phù hợp với thông lệ quốc

tế.

Hạn chế:

Theo quy định tại khoản 1 Điều 37 Luật DN: “Văn phòng đại diện là đơn vị phụ thuộc của DN,

có nhiệm vụ đại diện theo ủy quyền cho lợi ích của DN và bảo vệ các lợi ích đó. Tổ chức hoạt

động của văn phòng đại diện theo quy định của pháp luật”

“Chi nhánh là đơn vị phụ thuộc của DN có nhiệm vụ thực hiện toàn bộ hoặc một phần chức năng

của DN kể cả chức năng đại diện theo ủy quyền. Ngành nghề kinh doanh của chi nhánh phải phù

hợp với ngành, nghề kinh doanh của DN”

Suy ra, chi nhánh hay văn phòng đại diện là một bộ phận thuộc chỉnh thể thống nhất của DN,

không thể tách rời, luôn có thẩm quyền đại diện cho DN đó trong việc tham gia các hoạt động tố

(1) http://vn.360plus.yahoo.com/hoada131/article?mid=20

Page 9: nhom8-thẩm quyền xét xử dân sự quốc tế của TAVN

tụng cũng như chịu trách nhiệm thực thi trách nhiệm được quy kết. Về mặt lí luận cũng như việc

vận dụng trong thực tiễn có khả năng phát sinh những bất cập sau:

• Ở góc độ lí luận, theo quy định của các quy định được nêu trên, văn phòng đại diện chỉ là đơn

vị phụ thuộc hoạt động theo sự ủy quyền, vậy nó có đương nhiên đại diện cho DN đó trong mọi

giao dịch, mọi lĩnh vực mà DN đó tham gia hay không. Trên thực tế, phạm vi đại diện của một

số các văn phòng là khá hạn chế.

Tương tự đối với chi nhánh, các chi nhánh thuộc chỉnh thể thống nhất của một DN, tuy nhiên,

một DN có thể có rất nhiều chi nhánh và các chi nhánh này hoạt động dưới sự điều phối của Ban

điều hành DN, tuy nhiên chúng khá độc lập với nhau trong hoạt động. Đặc biệt, khi các chi

nhánh này hoạt động trong các lĩnh vực khác nhau.

Do vậy, mục đích quản lí, điều chỉnh dựa trên thuyết chủ quyền theo lãnh thổ hoàn toàn không

phát huy được tác dụng khi hành vi bị xử lí không được thực hiện bởi chi nhánh hoặc văn phòng

đại diện trên chính lãnh thổ quốc gia có thẩm quyền xét xử đó. Mặt khác, nó cũng không đạt đến

được sự thuận lợi về quá trình tố tụng như được trình bày ở trên, là một trong những tiêu chí

hướng đến của quy định này.

• Về mặt thực tiễn, vấn đề này sẽ tạo nên khá nhiều các bất cập. Có thể lí giải một số các bất cập

đó khi xem xét ví dụ sau: Doanh nghiệp A là doanh nghiệp của Đức, có các chi nhánh tại Thái

Lan, và một văn phòng đại diện tại Việt Nam nhằm mục đích giới thiệu sản phẩm. Chi nhánh tại

Thái Lan của doanh nghiệp này vi phạm hợp đồng và nếu theo quy định như trên của pháp luật

tố tụng Việt Nam thì nguyên đơn trong vụ kiện này có thể khởi kiện tại Việt Nam. Có thể vì một

lí do nào đó (chẳng hạn như nguyên đơn nhận thấy quy trình tố tụng của Tòa án Việt Nam sẽ tạo

thuận lợi hơn cho họ, hoặc có khả năng dẫn đến một kết quả có lợi hơn) vụ án được khởi kiện tại

Việt Nam, chúng ta phải thụ lí. Rõ ràng như trường hợp trên, thẩm quyền xét xử mà chúng ta quy

Page 10: nhom8-thẩm quyền xét xử dân sự quốc tế của TAVN

định là không hợp lí vì mối liên hệ giữa chúng rất mơ hồ.

Mặt khác, nếu xét từ góc độ tạo việc thuận lợi cho việc thi hành án, bảo vệ quyền lợi của nguyên

đơn thì tính khả thi của nó cũng gần như không được đảm bảo trong trường hợp này.

Quy định này nên sửa đổi theo hướng Tòa án Việt Nam sẽ có thẩm quyền giải quyết trong trường

hợp bị đơn có cơ quan quản lí, chi nhành văn phòng đại diện tại Việt Nam nhưng hoạt động đó

phải liên quan đến hoạt động của chi nhánh văn phòng đại diện đó, tương tự như quy định của

Brussell Convention 2002, tại khoản 5 Điều 4: “Dựa theo tranh chấp phát sinh liên quan đến hoạt

động của chi nhánh văn phòng đại diện hoặc cơ quan quản lí khác thì Tòa án nơi mà chi nhánh,

văn phòng đại diện đặt trụ sở sẽ có thẩm quyền”.

E) Tranh chấp phát sinh từ hợp đồng mà việc thực hiện toàn bộ hoặc một phần hợp đồng xảy ra trên

lãnh thổ Việt Nam.

Có ba vấn đề phát sinh:

- Vấn đề thứ nhất: Vấn đề phát sinh trong quá trình đàm phán, thương thuyết hợp đồng. Quá trình đàm

phán, thương thuyết hợp đồng bắt đầu khi các bên có tiếp xúc đầu tiên với nhau và kết thúc khi hợp

đồng được kí kết. Theo thông lệ chung, trong quá trình này, mỗi bên đều có toàn quyền quyết định tiếp

tục hay ngừng đàm phán, thương thuyết. Tuy nhiên, trong một số trường hợp bên ngừng đàm phán,

thương thuyết phải chịu trách nhiệm nếu việc ngừng đàm phán, thương thuyết đó không có lý do chính

đáng hoặc khi đã làm cho bên kia tin rằng hợp đồng sẽ được giao kết. Rõ ràng, trong trường hợp này,

trách nhiệm bồi thường phát sinh là do sự xâm hại quyền lợi của bên thứ hai, hay nói cách khác đây chỉ

là trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng. Vì vậy, những trường hợp tương tự như thế này,

phát sinh trong quá trình thương thuyết không phải là vấn đề phát sinh từ hợp đồng, vì vậy không thuộc

phạm vi điều chỉnh của điểm E khoản 2 Điều 410.

Page 11: nhom8-thẩm quyền xét xử dân sự quốc tế của TAVN

- Vấn đề thứ hai: Xem xét sự tồn tại của hợp đồng. Đây cũng là một vấn đề khá phức tạp trong khoa học

pháp lí cũng như thực tiễn xét xử tuy cũng đã được quy định khá cụ thể trong một số các văn bản pháp

luật, đặc biệt là các hợp đồng được giao kết bằng phương tiện điện tử, một hình thức giao kết hợp đồng

khá phổ biến hiện nay. Ví dụ, theo quy định của điều 397 Tố tụng dân sự, “trong trường hợp thông báo

giao kết hợp đồng đến chậm vì lí do khách quan mà bên đề nghị biết hoặc phải biết lí do khách quan này

thì thông báo chấp nhận giao kết hợp đồng vẫn có hiệu lực, trừ trường hợp bên đề nghị trả lời ngay

không đồng ý với chấp nhận đó của bên được đề nghị”. Với những quy định này thì khả năng xảy ra

tranh chấp về sự tồn tại của một hợp đồng (hợp đồng đã được thiết lập hay chưa) hoàn toàn có khả

năng phát sinh. Vậy tranh chấp này có được xem là tranh chấp phát sinh từ hợp đồng hay không khi mà

thực tế việc tồn tại của hợp đồng còn chưa được xác định.

- Vấn đề thứ ba: Đề nghị giao kết hợp đồng có phải là một hợp đồng không? Theo các quan điểm khoa

học pháp lí hiện nay, đề nghị giao kết hợp đồng là một hành vi pháp lí đơn phương của một chủ thể, nên

nhìn chung, nó không được xem là hợp đồng tuy theo các quy định của pháp luật nhiều nước đều ràng

buộc cho chủ thể này những nghĩa vụ nhất định. Tuy nhiên, trường hợp đơn phương hứa giao kết hợp

đồng lại được xem là là một loại hợp đồng đơn vụ, đây là một trường hợp đặc biệt của đề nghị giao kết

hợp đồng. Trong pháp luật Việt Nam không có quy định nào cụ thể về vấn đề có công nhận đề nghị giao

kết hợp đồng, hay đơn phương hứa giao kết hợp đồng có được xem là một loại hợp đồng hay không.

Trường hợp đơn phương hứa giao kết hợp đồng nên được được xem là một loại hợp đồng, vì trong

trường hợp này, nghĩa vụ của chủ thể đưa ra lời hưa giao kết là khá rõ ràng, và với việc đưa ra lời hứa

của mình chủ thể đó đã tự ràng buộc nghĩa vụ của mình đối với bên được đề nghị. Điều này cũng tương

đối phù hợp với định nghĩa hợp đồng được đưa ra trong Điều 388 Bộ luật dân sự 2005: “Hợp đồng dân

sự là sự thỏa thuận của các bên về việc xác lập, thay đổi, chấm dứt quyền và nghĩa vụ dân sự”.

Thẩm quyền xét xử riêng biệt là trường hợp quốc gia sở tại tuyên bố chỉ có tòa án nước họ mới

có thẩm quyền xét xử đối với những vụ việc nhất định. Nếu tòa án nước khác vẫn tiến hành xét

Page 12: nhom8-thẩm quyền xét xử dân sự quốc tế của TAVN

xử đối với những vụ việc thuộc thẩm quyền xét xử riêng biệt, hậu quả là bản án, quyết định được

tuyên bởi tòa án nước khác sẽ không được công nhận, cho thi hành tại quốc gia sở tại. Trong

trường hợp này, kể cả các bên chủ thể thỏa thuận tòa án nước khác thì về nguyên tắc, tòa án nước

đó cũng cần phải từ chối thụ lý vụ việc để tôn trọng thẩm quyền xét xử riêng biệt của quốc gia sở

tại.

Bên cạnh đó, điều 411 Bộ luật tố tụng dân sự , phần 9 - Thủ tục giải quyết các vụ việc dân sự có

yếu tố nước ngoài và tương trợ tư pháp trong trong tố tụng dân sự quy định như sau:

Điều 411. Thẩm quyền riêng biệt của Tòa án Việt Nam:

1. Những vụ án dân sự có yếu tố nước ngoài sau đây thuộc thẩm quyền giải quyết riêng biệt của

Tòa án Việt Nam:

a) Vụ án dân sự có liên quan đến quyền đối với tài sản là bất động sản có trên lãnh thổ Việt Nam;

b) Tranh chấp phát sinh từ hợp đồng vận chuyển mà người vận chuyển có trụ sở chính hoặc chi

nhánh tại Việt Nam;

c) Vụ án ly hôn giữa công dân Việt Nam với công dân nước ngoài hoặc người không quốc tịch,

nếu cả hai vợ chồng cư trú, làm ăn, sinh sống ở Việt Nam.

2. Những việc dân sự có yếu tố nước ngoài sau đây thuộc thẩm quyền giải quyết riêng biệt của

Tòa án Việt Nam:

a) Xác định một sự kiện pháp lý, nếu sự kiện đó xảy ra trên lãnh thổ Việt Nam;

Page 13: nhom8-thẩm quyền xét xử dân sự quốc tế của TAVN

b) Tuyên bố công dân nước ngoài, người không quốc tịch bị hạn chế năng lực hành vi dân sự,

mất năng lực hành vi dân sự nếu họ cư trú, làm ăn, sinh sống ở Việt Nam và việc tuyên bố đó có

liên quan đến việc xác lập quyền, nghĩa vụ của họ trên lãnh thổ Việt Nam;

c) Tuyên bố công dân nước ngoài, người không quốc tịch mất tích, đã chết nếu họ có mặt ở Việt

Nam tại thời điểm có sự kiện xảy ra mà sự kiện đó là căn cứ để tuyên bố một người mất tích, đã

chết và việc tuyên bố đó có liên quan đến việc xác lập quyền, nghĩa vụ của họ trên lãnh thổ Việt

Nam;

d) yêu cầu Tòa án Việt Nam tuyên bố công dân Việt Nam mất tích, đã chết nếu việc tuyên bố đó

có liên quan đến việc xác lập quyền, nghĩa vụ của họ trên lãnh thổ Việt Nam;

đ) Công nhận tài sản có trên lãnh thổ Việt Nam là vô chủ hoặc công nhận quyền sở hữu của

người đang quản lý đối với bất động sản vô chủ trên lãnh thổ Việt Nam.Theo quy định của pháp

luật Việt Nam thẩm quyền giải quyết các vụ việc dân sự có yếu tố nước ngoài là tòa án nhân dân

cấp tỉnh (Điều 33, 34 BLTTDS). Hiện nay một số quy định mới nhằm tăng thẩm quyền cho Tòa

án cấp huyện trong trường hợp không cần ủy thác tư pháp cho cơ quan lãnh sự Việt Nam ở nước

ngoài, Tòa án nước ngoài thì một số cơ quan cấp huyện sẽ giải quyết ở Hà Nội: Ba Đình, Hoàn

Kiếm…

Khi giải quyết các vụ việc dân sự có yếu tố nước ngoài, Toà án có thể uỷ thác tư pháp cho cơ

quan lãnh sự của Việt Nam ở nước ngoài, uỷ thác cho Toà án nước ngoài điều tra, tống đạt… và

thực hiện các hành vi tố tụng khác. Do đó, Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án dân sự cũng

như Bộ luật tố tụng dân sự đều quy định thẩm quyền giải quyết các vụ việc dân sự có yếu tố

nước ngoài là Toà án nhân dân cấp tỉnh (Điều 33, 34 BLTTDS), Toà án nhân dân cấp huyện

không có thẩm quyền giải quyết những vụ việc có yếu tố nước ngoài. Hiện nay, theo quy định về

Page 14: nhom8-thẩm quyền xét xử dân sự quốc tế của TAVN

tăng thẩm quyền cho Toà án cấp huyện giải quyết các tranh chấp về dân sự, hôn nhân và gia đình

có yếu tố nước ngoài theo quy định tại điều 33 Bộ luật Tố tụng dân sự, trường hợp không phải uỷ

thác tư pháp cho cơ quan lãnh sự Việt Nam ở nước ngoài, Toà án nước ngoài… thì một số Toà

án cấp huyện sẽ thụ lý giải quyết. Tại Hà Nội , Theo Nghị quyết số 742/NQ-UBTVQH ngày

24/12/2004 gồm 5 Toà án cấp huyện là (1) Ba Đình, (2) Đống Đa, (3) Hai Bà Trưng, (4) Hoàn

Kiếm, (5) Thanh Xuân. Các Toà án cấp huyện được tăng thẩm quyền đã thụ lý giải quyết các loại

vụ việc thuộc trường hợp này3.

4. Thẩm quyền của tòa án Việt Nam đối với các tranh chấp trong thương mại quốc tế

Theo pháp luật Việt Nam hiện hành, các bên tranh chấp có quyền yêu cầu tòa án Việt Nam giải

quyết các tranh chấp kinh tế, thương mại có yếu tố nước ngoài, nếu các bên thương lượng, hòa

giải không thành và không thỏa thuận đưa vụ việc ra trọng tài giải quyết.

Luật thương mại Việt Nam 1977 quy định: trong trường họp thương lượng hoặc hòa giải không

đạt kết quả thì tranh chấp thương mại được giải quyết tại trọng tài hoặc tòa án; thủ tục giải quyết

tranh chấp thương mại tại trọng tài, tòa án được tiến hành theo các thủ tục tố tụng của trọng tài,

tòa án mà các bên lựa chọn (khoản 3 Điều 239). Đối với các tranh chấp thương mại với thương

nhân nước ngoài, nếu các bên không có thỏa thuận hoặc điều ước quốc tế mà nước Cộng hòa xã

hội chủ nghĩa Việt Nam ký kết hoặc tham gia không có quy định thì tranh chấp được giả quyết

tại tòa án Việt Nam (điều 240).

Trong Bộ luật tố tụng dân sự năm 2004, thẩm quyền giải quyết tranh chấp thương mại có yếu tố

nước ngoài của tòa án được quy định tại các điều 29, 30, 33, 34, 34, 35, 36 và 37. (Chương III)

và các điều 410, 411, 412 và 413 (Chương XXXV)

3 MỘT SỐ ĐẶC THÙ TRONG GIẢI QUYẾT CÁC VỤ VIỆC DÂN SỰ CÓ YẾU TỐ NƯỚC NGOÀI_TH.S NGÔ THỊ MINH NGỌC_Phó Chánh tòa Dân sựToà án nhân dân TP Hà Nộ

Page 15: nhom8-thẩm quyền xét xử dân sự quốc tế của TAVN

Những tranh chấp quyền kinh doanh thương mại thuộc thẩm quyền giải quyết của tòa án (theo

điều 29 bộ luật tố tụng dân sự 2004) bao gồm:

1. Tranh chấp phát sinh trong hoạt động kinh doanh, thương mại giữa cá nhân, tổ chức có đăng

ký kinh doanh với nhau và đều có mục đích lợi nhuận bao gồm:

A) Mua bán hàng hoá;

B) Cung ứng dịch vụ;

C) Phân phối;

D) Đại diện, đại lý;

Đ) Ký gửi;

E) Thuê, cho thuê, thuê mua;

G) Xây dựng;

H) Tư vấn, kỹ thuật;

I) Vận chuyển hàng hoá, hành khách bằng đường sắt, đường bộ, đường thuỷ nội địa;

K) Vận chuyển hàng hoá, hành khách bằng đường hàng không, đường biển;

L) Mua bán cổ phiếu, trái phiếu và giấy tờ có giá khác;

M) Đầu tư, tài chính, ngân hàng;

N) Bảo hiểm;

O) Thăm dò, khai thác.

Page 16: nhom8-thẩm quyền xét xử dân sự quốc tế của TAVN

2. Tranh chấp về quyền sở hữu trí tuệ, chuyển giao công nghệ giữa cá nhân, tổ chức với nhau và

đều có mục đích lợi nhuận.

3. Tranh chấp giữa công ty với các thành viên của công ty, giữa các thành viên của công ty với

nhau liên quan đến việc thành lập, hoạt động, giải thể, sáp nhập, hợp nhất, chia, tách, chuyển đổi

hình thức tổ chức của công ty.

4. Các tranh chấp khác về kinh doanh, thương mại mà pháp luật có quy định.

Những việc kinh doanh thương mại thuộc thẩm quyền giải quyết của tòa án (theo điều 30

BLTTDS 2004) bao gồm:

1. Yêu cầu liên quan đến việc Trọng tài thương mại Việt Nam giải quyết các vụ tranh chấp theo

quy định của pháp luật về Trọng tài thương mại.

2. Yêu cầu công nhận và cho thi hành tại Việt Nam bản án, quyết định kinh doanh, thương mại

của Toà án nước ngoài hoặc không công nhận bản án, quyết định kinh doanh, thương mại của

Toà án nước ngoài mà không có yêu cầu thi hành tại Việt Nam.

3. Yêu cầu công nhận và cho thi hành tại Việt Nam quyết định kinh doanh, thương mại của

Trọng tài nước ngoài.

4. Các yêu cầu khác về kinh doanh, thương mại mà pháp luật có quy định.

5. Vấn đề từ chối thẩm quyền của tòa án Việt Nam

BLTTDS 2004 có quy định một số tường hợp từ chối thẩm quyền của Tòa án Việt Nam đối với

các tranh chấp có yếu tố nước ngoài với mục đích nhằm tránh sự chồng chéo, trái ngược nhau

trong việc giải quyết các vụ việc dân sự có yếu tố nước ngoài thường lien quan đến nhau, do đó

Page 17: nhom8-thẩm quyền xét xử dân sự quốc tế của TAVN

có thể là cùng một vụ việc mà các tòa án của các nước này cùng giải quyết. Điều 413 bộ luật này

quy định: Trả lại đơn khởi kiện, đơn yêu cầu hoặc đình chỉ giải quyết vụ việc dân sự trong

trường hợp đã có Toà án nước ngoài giải quyết

1. Toà án Việt Nam trả lại đơn khởi kiện, đơn yêu cầu hoặc đình chỉ giải quyết vụ việc dân sự có

yếu tố nước ngoài trong trường hợp đã có bản án, quyết định của Toà án nước ngoài giải quyết

vụ việc dân sự đó và nước có Toà án ra bản án, quyết định dân sự đó và Việt Nam đã ký kết hoặc

gia nhập điều ước quốc tế quy định việc công nhận và cho thi hành bản án, quyết định dân sự.

2. Toà án Việt Nam trả lại đơn khởi kiện, đơn yêu cầu hoặc đình chỉ giải quyết vụ việc dân sự có

yếu tố nước ngoài nếu có Toà án nước ngoài đã thụ lý vụ việc dân sự đó và bản án, quyết định

của Toà án nước ngoài về vụ việc dân sự đó được công nhận và cho thi hành tại Việt Nam.

Tuy nhiên bộ luật này quy định về việc không thay đổi thẩm quyền của tòa án nhằm tạo sự ổn

định, nhất quán trong giải quyết vụ việc mà vẫn không ảnh hưởng đến bản chất vụ án theo điều

412: Vụ việc dân sự đã được một Toà án Việt Nam thụ lý giải quyết theo quy định về thẩm

quyền do Bộ luật này quy định thì phải được Toà án đó tiếp tục giải quyết mặc dù trong quá trình

giải quyết có sự thay đổi quốc tịch, nơi cư trú, địa chỉ của các đương sự hoặc có tình tiết mới làm

cho vụ việc dân sự đó thuộc thẩm quyền của Toà án khác của Việt Nam hoặc của Toà án nước

ngoài.

Bên canh việc quy định giải quyết tranh chấp kinh doanh thương mại tại hệ thống tòa án nhân

dân pháp luật Việt Nam hiện hành cũng quy định việc giải quyết kinh doanh thương mại bằng

trọng tài thương mại. theo quy định của Pháp lệnh Trọng tài Thương mại Việt Nam 2003 vầ

Nghị quyết số 05/2003/NQ-HĐTP 31/7/2003 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao

hướng dẫn thi hành một số quy định của Pháp lệnh trong tài thương mại, việc phân biệt thẩm

Page 18: nhom8-thẩm quyền xét xử dân sự quốc tế của TAVN

quyền giải quyết các vụ tranh chấp phát sinh trong hoạt động thương mại nói chung và hoạt động

thương mại quốc tế nói riêng giữa trọng tại thương mại và tòa án nhân dân như sau:

1. Trọng tài thương mại có thẩm quyền giải quyết các vụ tranh chấp phát sinh trong hoạt

động thương mại nếu trước hoặc sau khi xảy ra tranh chấp, các bên có thỏa thuận trọng

tài. Nếu các bên đã có thỏa thuận trọng tài thì tòa án trả lại đơn khởi kiện, trong trường

hợp sau khi thụ lí vụ án mà tòa án mới phát hiện được các bên đã có thỏa thuện trọng tài,

tòa án đình chỉ việc giải quyết vụ án, trả lại đơn kiện và tài liệu kèm theo cho đơn sự

(theo điều 1, điều 3 và điều 5).

2. Trong các trường hợp sau, vụ tranh chấp tuy các bên đã có thỏa thuận trọng tài những

thuộc thẩm quyền giải quyết của tòa án:

● Thỏa thuận trọng tài vô hiệu trong một số trường hợp sau i) người ký thỏa thuận trọng tài

không có thẩm quyền ký kết theo quy định của pháp luật trư trường hợp người có thẩm

quyền ký kêt thỏa thuận trọng tài chấp nhận thỏa thuận trọng tài đó; ii)người ký thỏa

thuận trọng tài không có năng lực hành vi dân sự theo quy định của bộ luật dân sự;

iii)theo thỏa thuận trọng tài thì không xác định được đối tượng tranh chấp hoặc không thể

xác định được hội đồng trọng tài nào mà các bên không có thỏa thuận bổ sung hoặc

không có thỏa thuận.

● Khi nguyên đơn cho biết bằng văn bản sẽ khởi kiện yêu cầu tòa án giải quyết hoặc khi

được tòa án thong báo về việc nguyên đơn đã nộp đơn khởi kiện yêu cầu tòa án giải quyết

vụ tranh chấp mà trong thời hạn 7 ngày làm việc kể từ ngày nhận được văn bản của

nguyên đơn hoặc thong báo của tòa án bị đơn không phản đối (được coi là ác bên có thảo

thuận mới lựa chọn tòa án giả quyết vụ tranh chấp thay cho thỏa thuận trọng tài) hoặc bị

đơn có phản đối nhưng không xuất trình được tài liệu, chứng cứ chứng minh là trước đó

Page 19: nhom8-thẩm quyền xét xử dân sự quốc tế của TAVN

các bên đã có thỏa thuân trọng tài (trường hợp này được coi là không có thỏa thuận trọng

tài).

● Có quyết định của tòa án hủy quyết định trọng tài trên cơ sở yêu cầu của một hoặc hai

bên tranh chấp do không đồng ý với quyết định trọng tài, nếu các bên không có thỏa

thuận nào khác.

Trong thực tiện giải quyết tranh chấp thương mại quốc tế, việc phân định thẩm quyền giữa hệ

thống tòa án và trọng tài là hết sức cần thiết. có nhiều trường hợp giữa các bên có thỏa thuân

trọng tài nhưng thỏa thuận trọng tài đó không thực hiện được và do các bên không thỏa thuận

lại thỏa thuận trọng tài.

III. Kết luận

Ngày nay, với sự phát triển mạnh mẽ của các quan hệ kinh tế quốc tế thì các vụ việc dân sự có

yếu tố nước ngoài xảy ra ngày càng tăng, kéo theo đó là các tranh chấp dân sự có yếu tố nước

ngoài ngày càng nhiều. Khi một tranh chấp dân sự có yếu tố nước ngoài được khởi kiện tại Tòa

án của một quốc gia, vấn đề đầu tiên là Tòa án phải xác định thẩm quyền thụ lý giải quyết. Vì

vậy, cần phải dựa vào các quy tắc xác định thẩm quyền xét xử dân sự một cách toàn diện để

tranh chấp được giải quyết đúng nơi đúng chỗ.