247

NGUYỄN VĂN LÂN - nguyenvanlan.files.wordpress.com · con người phụ thuộc vào điều kiện khí hậu, môi trường sống và các đặc tính dân tộc. Trật

  • Upload
    others

  • View
    1

  • Download
    0

Embed Size (px)

Citation preview

2

NGUYỄN VĂN LÂN

Cùng cội nguồn (toàn tập)

Tiểu thuyết giả tưởng

SÀI GÒN - 2015

3

MỤC LỤC

Lời tác giả (trang 4)

Mọi câu chuyện bắt đầu từ chiếc mũ thần kỳ (trang 5)

Thành lập một viện nghiên cứu chẳng giống ai (trang 8)

Cuộc du hành vào vũ trụ (trang 9)

Viếng thăm hành tinh P52 – Hành tinh Atlantis (trang 14)

Viếng thăm hành tinh P53 – Hành tinh Lemuria (trang 32)

Hậu duệ người Lemuri thăm lại cố hương (trang 56)

Trở lại Lemuria và Atlantis (trang 71)

Trở về trong vòng tay mẹ (trang 92)

Giao lưu văn hóa liên hành tinh (trang 107)

Xin mở công ty cổ phần kinh doanh không vụ lợi (trang 127)

Sự xuất hiện bất ngờ của thầy Hơn và kế hoạch phát triển Viện (trang 130)

Chuyến thăm ba hành tinh và những đề nghị giúp đỡ (trang 132)

Ghé thăm các hành tinh láng giềng (trang 139)

Dời viện ra một hòn đảo biệt lập (trang 150)

Du lịch Nam Phi và tìm mối tiêu thụ kim cương (trang 161)

Viếng thăm thánh địa của người xưa (trang 167)

Lại những chuyến thăm thánh địa qua cổng thời gian (trang 186)

Một thành công nghiên cứu ngoài mong đợi (trang 205)

Bé Mai và bé Hay viếng thăm Trái Đất (trang 208)

Gặp lại người bạn vong niên (trang 216)

Chương trình nghiên cứu của giáo sư Hữu (trang 220)

Nỗi ưu tư của giáo sư Hữu (trang 223)

Nhận học viên mới (trang 226)

Gặp lại người xưa và những lời tâm sự xuyên thế kỷ (trang 230)

Thầy Hơn đến Việt Nam mở lớp học (trang 241)

Những tiến bộ của các hành tinh bạn (trang 243)

Chuyển địa điểm của Viện lần cuối (trang 245)

4

LỜI TÁC GIẢ

Theo nhà tiên tri Blavatskaia, Trái Đất đã từng có bốn chủng người sinh sống trước

ta, trong đó hai chủng sau có dạng người giống ta là Lemuri và Atlan, đến chúng ta ngày

nay thuộc chủng Aryan. Cũng theo bà dự đoán, trong vòng 100 năm nữa chúng ta sẽ

khám phá ra hai hành tinh giống chúng ta đến kỳ lạ. Những người đâu tiên xuất

hiên trên trái đất 3,5 ty năm trước công nguyên, và có độ cao khoang 52 m. Tất ca moi

vât xung quanh ho: cây co thực vât, động vât cũng có độ cao tương tự. Tâm vóc của

con người phu thuộc vào điêu kiên khi hâu, môi trường sống và các đăc tinh dân

tộc. Trât tự đó của sự vât vân giữ lại đến ngày nay . Có những dân tộc cao

và có những dân tộc tâm vóc nho bé . Những người cao, nói chung, sống ơ

những nơi có khi hâu tốt, ôn hoa. Ơ những nơi có khí hâu khắc nghiêt là những dân tộc

vóc dáng nho bé như Eckimô, Chuccha... Môi một lân thay đôi khi hâu toàn câu (đã

bốn lân) con người và động vât, cây co, dân dân nho đi. Ơ nên văn minh thư

hai, con người chi con cao khoang 36 m, thư ba (Lemuri): 18 m vào cuối kỳ chi còn

7-8 m, thư tư (Atlan) – 6 m vào cuối kỳ chi con 3-4 m, thư năm là chúng ta hiên nay

(Aryan) – 1,5 đến 2 m. Nếu không bao vê s inh thá i t ố t, ơ nên văn minh sau

con người ch i con cao khoang 50 cm. Theo bà, nối tiếp là nên văn minh thư

6 và thư 7, rồi sau đó Trái Đất sẽ trơ thành một hành tinh không thể ơ được.

Năm cuốn sách của nhà bác hoc giai phâu mắt Muldashev (Chúng ta thoát

thai từ đâu, Bức thông điệp bi thảm của cổ nhân, Hoàng kim bản Karachi,

Trong vòng tay Shamballa và Ma trận sự sống trên trái đất) được viết sau

những chuyến phiêu lưu đến các vùng đất thiêng của Nepal, Ấn Độ và Tây

Tạng cũng đã nói đến những điêu trên.

Vây là bây giờ dù ơ phương nao, ba chủng người chúng ta (Lê muri, Atlan và Aryan)

đêu có cùng cội nguồn là Trái Đất. Tác gia nghĩ rằng nếu thoát ly được Trái Đất, ta có

thể găp lại hai chủng người kia ơ hai hành tinh nào đó trong vũ tru. Hoăc nếu có được

hai câu thân chú, ta cũng găp được hai chủng người kia ngay bên dưới luc địa châu Á

qua nga vùng cao nguyên Tây Tạng.

Qua cuốn sách gia tương này, tác gia ước mong rằng những chủng người có cùng cội

nguồn sẽ lại găp nhau trên đất Mẹ thân thương là Trái Đất. Tên cuốn sách là « Cùng cội

nguồn » toàn tâp do gộp hai cuốn « Cùng cội nguồn » tâp 1 và tâp 2 in từ năm 2007 và

2008 do nhà xuất ban Văn Nghê cấp phép. Cuốn « Cùng cội nguồn » toàn tâp in lân này

có lược bo bớt một số đoạn, sửa chữa và bô sung với phân kết thúc câu chuyên.

Tác giả

5

Mọi câu chuyện bắt đầu từ chiếc mũ thần kỳ

Sau khi được linh hồn các bạn Tân, Lan và Hoa giúp đỡ, Kim hoàn thành chiếc mũ

thần kỳ mà bất cứ ai nếu đội nó lên đầu sẽ nhìn thấy rõ linh hồn và nghe được tiếng linh

hồn nói. Sau đó, với sự giúp đỡ của một nhà ngoại cảm, Kim đã bảo vệ thành công luận

án tiến sĩ vật lý về đề tài thiết kế và chế tạo chiếc mũ thần kỳ này.

Một hôm trong phòng làm việc, mặc dù không mang thiết bị nghe nhìn nhưng Kim

chợt nhận ra một giọng nói. Nó không phải từ bên ngoài đập vào tai mà cứ như từ chính

trong đầu mình.

Chào bạn. Tôi vẫn nghe mọi người nói về bạn. Bạn tên là Kim đúng không?

Đúng. Thế bạn là ai? Từ đâu tới?

Tôi tên là Ushu. Tôi không thuộc thế giới linh hồn của các bạn. Tôi là một con

người thực sự ở một hành tinh xa xôi đến đây muốn làm quen với bạn.

Xin cám ơn và sẵn lòng.

Bạn muốn nhìn thấy tôi không?

Có.

Xin chờ một lát. Hãy đeo kính thấu thị của bạn vào đi. Bạn chưa nhìn thấy tôi đâu.

Chờ tôi lắp thêm bộ điều chỉnh. Xong rồi! Hãy nhìn đây.

Kim ngước nhìn lên và thấy một hình bóng trong suốt xanh lơ như một bức tượng

người bằng thủy tinh nhưng không cứng nhắc mà phập phồng lãng đãng, linh hoạt không

ngừng. Một cái đầu không mắt, mũi, tóc, tai, tuy rằng hai tay và hai chân đều có ngón dài

như chúng ta. Dáng cân đối như hình bóng tạc theo mẫu một cô gái đẹp.

Bạn Ushu đấy ư? Bạn là một cô gái chăng?

Cô gái là gì?

Mình là chàng trai. Còn cô gái... như hai cô bạn đang làm việc ở trong phòng này

đấy.

Mình không hiểu.

Kim nghĩ thầm có sự lạ rồi đây.

Thế bạn là robot chăng?

Robot là gì?

Là một cái máy do con người tạo nên, có thể đi lại, làm việc

kể cả suy nghĩ, nhưng tất cả đều theo một chương trình lập sẵn.

Không. Mình được loài người trên hành tinh chúng mình sinh ra.

Thế bạn có bố mẹ không?

Bố mẹ là gì?

Là người đã sinh ra mình đó. Bố mẹ là hai vợ chồng (đôi khi không hẳn). Bố giống

đực, mẹ giống cái.

Thế bố mẹ bạn sinh ra bạn thế nào?

À, ừ... đại khái thế này. Bố và mẹ qua giao phối, sẽ có một tinh trùng gặp trứng và

trở thành bào thai. Nằm trong bụng mẹ hơn chín tháng, bào thai biến thành em bé (trai

hoặc gái) và được mẹ đẻ ra, nuôi ở bên ngoài. Bé lớn lên là con người chúng mình.

6

Mình không được sinh ra theo cách ấy. Mình lớn lên từ một tế bào mầm của người

tiền bối trữ sẵn trong ngân hàng tế bào mầm của hành tinh. Theo kế hoạch, mình được ấp

ủ và nuôi lớn thành người trong máy lồng ấp.

Sau này khi đã trở thành bạn thân lâu năm rồi, thỉnh thoảng Ushu lại hỏi Kim sao

không tìm một bạn khác giới để sinh con cái. Khác hành tinh của Ushu, chuyện sinh sản

của loài người trên Trái Đất phải vận dụng đến những lực cơ học thô thiển. Kim phải thú

nhận rằng ở loài thú cũng sinh sản như vậy nhưng có chừng mực. Còn loài người trên

Trái Đất đã lạm dụng thái quá, biến chuyện này thành lạc thú ở đời, thậm chí vô độ đến

mức bệnh hoạn. Nhưng Kim cũng chế giễu lại Ushu là làm người nhưng không biết nếm

trải những rung động đầu đời trước bạn tình là gì.

Kim hỏi Ushu:

Bạn đến Trái Đất chúng mình từ khi nào vậy?

Được mấy ngày rồi. Mình đến đây có mỗi mình trên con tàu vũ trụ nhỏ. Các bạn

của mình cùng đi nhưng đến hành tinh khác.

Bạn để con tàu vũ trụ ở đâu?

Ở ngoài rừng cấm quốc gia, cách đây mươi cây số.

Bạn không sợ loài người Trái Đất chúng mình nhìn thấy và mang nó đi à?

Không. Các bạn không thể nhìn thấy nó trừ phi mang kính thấu thị của bạn đã được

mình gắn bộ điều chỉnh. Cũng như con người mình thôi, con tàu làm bằng loại vật liệu

mà cặp mắt loài người các bạn không nhìn thấy được.

Hành tinh các bạn cũng bằng loại vật liệu này sao?

Không hẳn thế. Chỉ có loài người chúng mình và những thứ do chúng mình tạo ra

thôi. Còn những thứ khác của thiên nhiên trên hành tinh chúng mình, các bạn nhìn thấy

được.

Hay thật đấy! Mình rất thú vị vì có Ushu kết bạn.

Mình cũng thế, bởi vì bạn có cái để nhìn thấy được mình.

Hay quá! Thế từ nay về sau, muốn gặp nhau, phải tìm lại bạn bằng cách nào đây?

Bạn hãy đeo kính thấu thị vào, gọi thầm U-s-h-u kéo dài là mình đến ngay.

Thế bộ phận điều chỉnh lắp thêm ở đâu để nhìn rõ bạn?

Ở gần nút điều chỉnh đấy. Nhưng nếu bạn bỏ kính ra, bằng mắt thường bạn không

nhìn thấy nó đâu.

Cám ơn. Tạm biệt Ushu.

Tạm biệt Kim.

Kim đã đến gặp thầy An, thổ lộ chuyện ngẫu nhiên được làm quen với một người bạn

mới thuộc một hành tinh khác. Thầy An nhìn người học trò của mình với ánh mắt kinh

ngạc tột độ:

Lại có chuyện lạ lùng thế kia à?

Xin thầy giấu kín cho chuyện này!

Em cho thầy biết kỹ hơn câu chuyện người ngoài hành tinh được không? Làm sao

mà em gặp được họ và kết bạn?

Được ạ! Chỉ có một người thôi ạ. Bạn ấy xưng tên là Ushu. Xin thầy đeo kính thấu

thị để em mời bạn ấy đến.

Trong lúc thầy An đeo kính vào mắt, Kim thầm gọi:

U... s... h... u..u..u...

Xin chào bạn Kim, xin chào...

Đây là thầy giáo dạy mình, tên thầy là An.

7

Em xin chào thầy An.

Còn đây là Ushu, người ở hành tinh...

Hành tinh P16 thuộc thái dương hệ S1 nằm trong dải Ngân Hà cùng với hành tinh

này.

Xin chào em.

Hai thầy trò nhận ra tiếng chào từ trong đầu mình, còn thầy An nhìn thấy một bóng

người lung linh dạng thủy tinh màu trong xanh, thân thể khá cân đối nhưng không có

mắt, mũi, miệng, tai.

Hành tinh của em có xa Trái Đất không?

Không xa lắm đâu ạ. Khoảng cách từ Trái Đất đến chỗ em

phải hai năm ánh sáng. Nhưng con tàu của em chỉ cần bay trong một ngày là đến nơi.

Cũng như Kim, nhìn bộ dạng của Ushu, thầy An lại thắc mắc:

Ushu, em là nam hay nữ vậy?

Thưa, hành tinh chúng em không phân biệt nam nữ đâu ạ. Người chúng em được

sinh sản theo... ở Trái Đất nói là gì nhỉ?

Vô tính – Kim tiếp lời.

Vâng, vô tính.

Thầy chúc mừng tình bạn của hai em.

Em cũng rất hân hạnh được làm quen với thầy

Rồi Ushu thành thật thổ lộ:

Tashi, bạn em, có lần kể cho em nghe một cuộc chạm trán bất ngờ với con người

giống y hệt con người trên Trái Đất ở một hành tinh lạ. Hôm đó sau khi phát hiện hành

tinh xanh, Tashi cho tàu đáp xuống một bãi đất trống. Tashi chợt nhận thấy dưới các tán

lá rìa bãi có nhiều lều trại đã dựng lên từ trước. Đi sâu vào trong, thấy có nhiều thanh

niên nam nữ đang đàn và hát múa rất vui nhộn. Có một bạn gái không tham gia ngồi thui

thủi một mình trên tảng đá lớn cách đó khoảng trăm mét. Tashi đến bắt chuyện:

Chào bạn!

Cô gái hốt hoảng nhìn quanh, không thấy ai ú ớ: “Ma!” và định bỏ chạy. Nhưng Tashi

nắm tay giữ lại, bảo:

Không phải ma, là người hành tinh khác đến đây. Tôi sẽ không hại em, em đừng sợ.

Tôi cũng là một con người nhưng khác vật chất với em nên em không nhìn thấy tôi đó

thôi. Nhưng em hiểu được điều tôi nói. Nào hãy ngồi lại như cũ. Em có điều gì buồn

chăng?

À, không có gì đâu – Cô gái đã bình tĩnh lại.

Mọi người đang làm gì ở đây vậy?

Trường em đang cắm trại. Tổ chức vui chơi dã ngoại để giải tỏa căng thẳng sau một

tuần học tập.

Tôi thấy em và các bạn rất giống những cư dân trên hành tinh

gọi là Trái Đất.

Đúng. Ngành Lịch sử dạy chúng em, bảo rằng tổ tiên chúng em mấy triệu năm

trước gốc ở Trái Đất. Do trận đại hồng thủy, chúng em thuộc nhóm người văn minh nhất

đã buộc phải lên tàu vũ trụ tìm định cư đến hành tinh này. Nghe đâu các phi hành gia

chúng em mấy năm rồi có trở lại Trái Đất. Họ thấy ở đó, dân cư rất đông đúc, khoa học

kỹ thuật đã khá tuy chưa bằng chúng em thời đó. Nhưng người của chúng em không thể

đáp xuống được vì bây giờ lãnh thổ từ lục địa, mặt biển cho đến vùng trời đều bị phân

chia rạch ròi cả. Con tàu chúng em bay đến đâu cũng bị máy bay, tên lửa săn đuổi. Sao

8

loài người trên Trái Đất sau này được cho là văn minh hơn trước nhưng lại hung hăng

hiếu chiến quá!

Khi Tashi chào từ biệt, cô gái vội chạy về báo tin mình vừa nói chuyện với một con

người vô hình ngoài hành tinh nhưng bạn bè không tin, cười cợt chế giễu.

Thành lập một viện nghiên cứu chẳng giống ai

Lại thêm một viện nghiên cứu khoa học kỹ thuật tư nhân nữa được Nhà nước cho

phép thành lập, thủ tướng ký giấy phê chuẩn. Viện trưởng là thầy An, giáo sư tiến Ngô

Quốc An. Theo nội dung tờ trình, thủ tướng Chính phủ đã hoàn toàn đồng ý ký quyết

định thành lập một cách nhanh chóng bất ngờ mà không cần cho điều tra gì thêm.

Thật ra, viện nghiên cứu tư nhân đầu tiên của nước ta phải kể đến là viện Kinh tế Sinh

thái do giáo sư, tiến sĩ khoa học, anh hùng lao động Nguyễn Văn Trương đề nghị được

thủ tướng cho phép thành lập vào ngày 6 tháng 1 năm 1990, gồm toàn những tiến sĩ đã về

hưu. Cơ ngơi của Viện là hai căn phòng nhỏ thuê trên tầng ba nhà số 51 phố Lạc Trung

Hà Nội. Vốn liếng ban đầu coi như con số không. Thế mà viện này đã đóng góp khá

nhiều thành tích về vấn đề cải tạo môi trường, về công tác xã hội đem lại công ăn việc

làm cho nhiều dân cư vùng sâu, vùng cao. Cho đến nay, Viện đã xây dựng thành công 13

làng kinh tế sinh thái ở miền Bắc và miền Trung. Thật không may, tháng 6 năm 1807,

giáo sư Trương đã đột ngột qua đời do nhồi máu cơ tim, hưởng thọ 85 tuổi.

Mang một cái tên khiêm tốn là “Viên Vât lý”, viện tư nhân thứ hai do giáo sư Ngô

Quốc An lãnh đạo được xây dựng ở một địa điểm về phía Tây, cách thủ đô Hà Nội

khoảng 30 km, trên một ngọn đồi thấp cây cối um tùm, mặt trông ra bờ đê sông Hồng.

Thoạt nhìn quang cảnh của Viện từ bên ngoài, khó ai đoán được đó là một cơ sở nghiên

cứu tầm cỡ quốc gia mà trông nó hao hao như một vi la tráng lệ được vây quanh bởi

muôn màu sắc của đủ các loại hoa. Đặc biệt có những loài hoa trước đây chưa hề tồn tại

trên Trái Đất này, cũng không phải do lai tạo mà có, mà thực sự là lấy giống từ một hành

tinh nào đó mang về. Ngoài ra, còn một số cây ăn quả mang giống từ hành tinh Lemuria,

vài năm sau sẽ cho những trái khổng lồ nguyên chủng, thơm và ngon tuyệt vời. Trước

mặt Viện là một sân cỏ rộng, thoai thoải trải dài đến tận chân đê, dùng làm bãi đáp cho

những con tàu vũ trụ vô hình.

Số cán bộ của Viện có thể nói là ít không thể tưởng, đếm không hết trên đầu ngón tay.

Tài chính của Viện hoàn toàn được giữ bí mật, chủ yếu lấy từ sự viện trợ vô tư của một

hành tinh trong vũ trụ, hành tinh P16. Viện có tính chất tư nhân nên mọi hoạt động của

nó không hề chịu một sức ép hay kế hoạch nào của Nhà nước. Nhưng thuế đóng cho Nhà

nước đầy đủ, đều đều mỗi năm khoảng mười tỷ đồng. Những thành quả nghiên cứu của

Viện tuy không được công bố nhưng những ứng dụng cụ thể đã được thể hiện đem lại

nhiều bất ngờ cho người dân.

Có một đề tài mà một số thành viên trong Viện tự nguyện dùng chính bản thân để thí

nghiệm. Cái thí nghiệm này phải nhờ đến các chuyến tàu vũ trụ do Kim lái, hằng tháng

đưa đến vùng phát năng lượng vũ trụ để hấp thu mỗi lần một giờ. Thế rồi, quyết không ăn

uống gì để xem cơ thể phản ứng thế nào. Mỗi tháng lại một lần khám toàn thân. Kim

trước đó vài năm là người tự nguyện thí nghiệm đầu tiên. Sau đó đến thầy An, Ngân,

Minh. Còn Duyên thì nhoẻn miệng từ chối khéo. Chả là lâu nay, Duyên là một cây sành

ăn của Viện mà. Trong các cuộc thi nấu ăn do đài truyền hình tổ chức, thường Duyên bê

về khá nhiều giải thưởng. Duyên dọa mọi người, bộ phận tiêu hóa trong cơ thể nếu không

dùng đến sẽ bị teo tóp. Rồi thì nền y học hiện đại bây giờ chưa đủ trình độ để cấy ghép

9

nguyên cả bộ lòng. Chưa nghe có ai công bố muốn bán nguyên cả bộ lòng để phục vụ cấy

ghép. Duyên còn nói đùa nên đổi tên viện thành Viện Nghiên cứu không ăn. Không ăn ở

đây nếu theo nghĩa bóng thì quá đẹp vì xã hội đang khuyến khích động viên, thậm chí

cảnh báo những cán bộ về chuyện ăn bẩn như ăn của đút lót, ăn sắt, ăn xi măng rút ruột

công trình. Không ăn đúng theo nghĩa đen: cố tình để cho các bếp núc lạnh tanh, các nhà

hàng kinh doanh ăn uống ế ẩm.

Có một lần, Kim được Ushu đưa lên thăm hành tinh P16, thủ lĩnh tỏ lòng mến khách

và hứa giúp Viện về việc khai thác đá quý như kim cương trên các hành tinh xanh để gây

quỹ cho Viện. Viện do đó có tuyển hai kỹ sư địa chất tên là Minh và Quang thực hiện

việc khai thác này. Còn bản thân Kim được Ushu gợi ý là nên cùng Tashi đến khảo sát

những hành tinh mà cư dân có cội nguồn từ P23, nói theo ký hiệu của cư dân P16, tức là

từ Trái Đất.

Cuộc khởi hành vào vũ trụ

Sau đây là những gì xảy ra từ lúc bắt đầu chuyến đi do Kim thuật lại.

Trong kế hoạch hợp tác, tôi được phân công tìm hiểu một số hành tinh xanh với sự trợ

giúp của Tashi. Tashi nhanh chóng đề nghị tôi nên đến thăm hai hành tinh có cư dân cùng

cội nguồn. Ý Tashi là cư dân của hai hành tinh này vốn xa xưa có nguồn gốc Trái Đất mà

Tashi một lần tình cờ đáp xuống một hành tinh và đã kể lại với Ushu. Hơn nữa, tôi và cư

dân ở đó hoàn toàn giống nhau về hình hài và thể chất. Nếu tôi đến đó, họ và tôi có thể

nhìn thấy nhau và trao đổi ý nghĩ nếu biết được tiếng nói của nhau. Khi nêu kế hoạch này

với thầy An, thầy hoàn toàn đồng ý và còn tỏ ra thích thú chờ đợi báo cáo của tôi. Chưa

biết sự việc sẽ xảy đến như thế nào, thuận lợi hay bất trắc, thầy An khuyên tôi chỉ nên đi

một mình, đương nhiên là có Tashi dẫn dắt. Tôi có trách nhiệm bàn tỷ mỉ với Tashi mọi

tình huống có thể xảy ra và cách đối phó thích hợp sao cho an toàn nhất.

Hôm ấy là một ngày đẹp trời. Vào khoảng 8 giờ sáng, bên cạnh những người đưa tiễn,

khi tôi đội chiếc mũ vô hình lên đầu thì đã thấy con tàu vũ trụ đậu sẵn trong sân từ lúc

nào. Ngoái lại chào mọi người, tôi khoác vội chiếc túi nhét một ít quần áo và vật dụng

cần thiết cho chuyến đi, cứ thế bước thẳng ra. Cùng lúc đó, cánh cửa ở đáy con tàu bật

mở, buông xuống một chiếc thang. Như một việc làm quen thuộc, tôi bước lên các bậc

thang và leo sâu vào bên trong. Khi những người tiễn đưa đột ngột không nhìn thấy bóng

dáng của tôi thì đều tin rằng tôi đã vào bên trong con tàu vũ trụ vô hình và họ lần lượt trở

vào nhà.

Chào Kim!

Một tiếng nói đâu đó tự nhiên chui vào đầu tôi. Chưa kịp nhìn thấy Tashi ở đâu,

nhưng bằng ý nghĩ, tôi cũng đáp lại:

Chào Tashi! Bạn khoẻ chứ? Còn Ushu thế nào?

Cám ơn. Tất cả đều bình thường. Cánh cửa phòng mình đã mở rồi đó, Kim cứ bước

vào đi. Chúng mình hãy đi nạp năng lượng dự trữ trước đã. Tiếp đó, con tàu nhẹ nhàng

bốc lên cao. Hoàn toàn êm ru, tuyệt nhiên không một tiếng động nào chứng tỏ là có máy

móc đang làm việc. Chẳng bù với các chuyến bay của loài người chúng ta hiện nay trên

những chiếc phản lực ồn ào, cổ lỗ. Phút chốc, chúng tôi đã nhìn thấy mặt biển Đông xanh

ngăn ngắt với những con sóng bạc đầu ào ạt xô vào bờ không mệt mỏi. Khi bóng đèn

màu xanh trong khoang nhấp nháy báo hiệu đã đến vùng phát năng lượng, các cửa con

tàu mở toang hết cỡ để cho gió tự do luồn vào mát rượi, mang theo hơi ẩm và cả vị mặn

10

của muối. Khoảng một tiếng đồng hồ. Chúng tôi giữ im lặng, lắng nghe cơ thể rạo rực bởi

luồng sinh khí tươi mát tràn ngập, trong giai điệu êm đềm du dương của nhạc hành tinh.

Đủ rồi, chúng ta khởi hành thôi! Kim biết không, sau khi nghe Ushu đề nghị về

chuyến đi này, chính thủ lĩnh đã đồng tình, cử ngay mình là người đã từng đến đó một

lần. Thái dương hệ này có một mặt trời lớn xấp xỉ Mặt Trời của các bạn nhưng chỉ có ba

hành tinh quay xung quanh. Hai thuộc loại hành tinh xanh, còn hành tinh kia có lõi đá và

băng bao bọc bằng một bầu khí quyển dày đặc metan. Nếu theo trình độ kỹ thuật hiện nay

của Trái Đất, từ đây đến đó, con tàu vũ trụ của các bạn phải bay mất 41 năm ánh sáng.

Cả hai hành tinh xanh đều có người ở chứ?

Vâng cả hai và họ sống theo hai phong cách khác nhau.

Họ có thân thiện với khách không mời mà đến không?

Mình hy vọng là có. Bởi vì họ đã đạt đến cuộc sống văn minh đích thực. Mình bảo

đảm Kim sẽ rất thú vị khi tiếp xúc với hai nền văn minh đó. Đã lâu lắm rồi, chúng mình

không phát hiện trên hai hành tinh này có những cuộc chiến tranh mang lại sự tàn phá và

chết chóc như ở hành tinh của bạn hiện nay.

Cùng lúc với ý nghĩ trao đổi giữa chúng tôi, các cánh cửa lặng lẽ khép lại và con tàu

nhẹ nhàng bốc lên cao. Trên màn hình của con tàu vũ trụ, Trái Đất đang chiếm toàn bộ

nhưng thu lại nhỏ dần. Tashi lên tiếng:

P23 của các bạn nhìn từ xa trông đẹp lắm, nhất là vùng biển một màu xanh biêng

biếc.

Trên hành tinh chúng mình, biển chiếm 3/4 diện tích. Có một nhà thơ Việt Nam bút

danh là Xuận Diệu đã từng viết rằng:

Trái Đất ba phân tư nước mắt

Đi như giot lê giữa không trung

Ý nhà thơ muốn nói gì vậy?

Nước mắt biểu hiện cho sự đau khổ. Con người chúng mình vừa mới lọt lòng mẹ

biểu lộ đầu tiên là khóc, tức là sản sinh những giọt nước mắt. Khi lớn lên, chính sự cùng

cực vì đói khát, vì bệnh tật và vì chiến tranh liên miên không một ngày ngưng nghỉ làm

cho cư dân hành tinh suốt cuộc đời mình sống trong đau khổ nhiều hơn là sung sướng. Vì

vậy nhà thơ đã đồng nhất hóa với diện tích biển cho rằng 3/4 cuộc đời là đau khổ, chỉ

toàn nước mắt.

May mắn làm sao cư dân hành tinh chúng mình không bị cảnh này, mặc dù 1/2 diện

tích hành tinh chứa đầy nước của biển cả cũng có vị mặn.

Bỗng Tashi chỉ vào một chấm nhỏ trên màn hình nằm ngay trên vùng trời Việt Nam

và hỏi:

Kim có biết cái gì đây không?

Cái gì vậy?

Vinasat nước bạn vừa mới phóng đó. Vệ tinh đang bay cách mặt đất 36 000 km,

giúp việc phủ sóng phát thanh, truyền hình, truyền tin tức đến mọi miền đất nước.

Kìa, theo kế hoạch mãi đến tháng 4 năm 1808, Việt Nam mới phóng Vinasat lên

quỹ đạo cơ mà? Bây giờ mới trong năm 1807. Chắc Tashi nhầm nó với cái gì rồi!

Không nhầm đâu. Bảo đảm nó là Vinasat. Nó sẽ được phóng trong tương lai? Đúng.

Và hiện giờ con tàu chúng mình đang ở thì tương lai cuối năm 1808 đó.

Tôi quá ngạc nhiên:

Tashi bảo sao, mình không hiểu.

11

Có một điều bọn mình chưa cho Kim biết. Những con tàu vũ trụ của chúng mình

còn có chức năng rất đặc biệt của một cỗ máy thời gian... Chỉ với cái cần gạt, mình có thể

đưa con tàu trở về quá khứ hay đi nhanh đến tương lai. Chỉ có điều, mỗi lần làm như

vậy, tàu tiêu tốn nhiều năng lượng lắm.

Thế từ con tàu này, thông qua Vinasat mình gọi điện thoại di động về nhà được

không?

Được quá đi chứ!

Như một quán tính, tôi thọc tay vào túi tìm điện thoại di động. Nhưng sực nhớ ra,

mình đã để nó lại nhà vì nghĩ rằng nó chẳng còn ích gì trong khi du hành vũ trụ, mang

theo người chỉ thêm nặng. Thầm tiếc rẻ. Nhưng Tashi đã đoán biết.

Kim ơi, khỏi lo. Mình sẽ tặng Kim một cái điện thoại di động vũ trụ nhỏ gọn mà vô

hình, có thể gọi về bất cứ hành tinh nào nếu biết mã số. Trái Đất của bạn có mã số theo

tên chúng mình gọi, đó là P23. Còn gọi về hành tinh chúng mình, Kim phải dùng mã số

P16. Sóng vào được vùng trời của hành tinh rồi thì gọi tiếp theo mã số quy định của hành

tinh đó. Mình sẽ cho Kim biết mã số mình, Ushu, Oshi tiếp sau P16, kể cả mã số của thủ

lĩnh nếu Kim muốn thỉnh cầu trực tiếp. Thôi, mình chuyển tàu về thì hiện tại đây.

Chú ý lắm, tôi mới có một cảm nhận rất tinh tế hình như con tàu hơi rùng mình một

chút khi chuyển đổi thời gian. Có lẽ nhờ đó mà sau này, dẫu có trang thiết bị hiện đại của

Trái Đất nhìn thấy được con tàu vô hình này, nó vẫn có thể lẩn trốn dễ dàng bằng cách

“nhảy” về quá khứ, thời mà loài người trên Trái Đất còn chưa văn minh lắm hoặc về

tương lai.

Từ lúc này, bóng dáng tròn trĩnh tô đậm màu xanh các đại dương quen thuộc, màu

nâu loang lổ của những đồi núi trọc và sa mạc cùng những đám xanh lá cây rừng của lục

địa Trái Đất trên cái nền mênh mông đen kịt in rõ bóng quả cầu lửa Mặt Trời đỏ rực phía

sau hiện rõ mồn một trên màn hình con tàu nhưng nhanh chóng lùi xa.

Từ Trái Đất để bay đến được các hành tinh ở vòng ngoài như Hỏa tinh, Mộc tinh,

Thổ tinh, Thiên vương, Hải vương và Diêm vương, với tốc độ vũ trụ cấp 3 gần nhất là

Hỏa tinh cần đến 55 tháng, còn xa nhất là Diêm vương phải hơn 10 năm với kỹ thuật du

hành vũ trụ hiện nay của loài người. Nhưng với con tàu của Tashi đang bay khá nhanh so

với tốc độ ánh sáng, 4 phút là đến Hỏa tinh và khoảng 5 giờ là đến Diêm vương tinh. Tôi

có ý muốn bay gần để quan sát lần lượt các hành tinh đó, nhưng Tashi gạt đi:

Các hành tinh bạn vừa nghĩ vào thời điểm này có nằm thẳng hàng đâu mà bạn định

lần lượt thăm viếng. Còn đến từng hành tinh một thì phải bay vòng vèo khá xa. Chẳng có

gì để bạn nhìn rõ chúng. Vả lại khi đến gần bất kỳ hành tinh nào, con tàu sẽ chịu sức hút

khá lớn, quá nguy hiểm. Để chống lại những sức hút đó, con tàu sẽ phải tiêu tốn nhiều

năng lượng một cách vô ích. Đáp xuống lại càng không thể bởi vì ngoài Trái Đất ra, bầu

khí quyển của những hành tinh đó chiếm phần lớn là hydro trên 80%, còn oxy thì rất

hiếm, thậm chí có khí quyển chứa chủ yếu hơn 95% là khí carbonic như trên bầu trời của

sao Hỏa. Đó là chưa kể nhiệt độ trên bề mặt các hành tinh này khá lạnh, toàn là hàng

chục, hàng trăm độ âm.

Trong Thái dương hệ, bốn hành tinh dạng đặc giống nhau là Thủy tinh, Kim tinh, Trái

Đất và Hỏa tinh, còn lại là dạng khí ngoại trừ Diêm Vương tinh có thể nói chỉ là một tiểu

hành tinh đặc nhỏ xíu, thể tích chưa bằng 2/3 thể tích vệ tinh Mặt Trăng của Trái Đất.

Năm 1806, ngôi sao này đã bị Hiệp hội Thiên văn học Thế giới loại ra khỏi danh sách

hành tinh của Thái dương hệ do nó không đạt tính chất của hành tinh như phải có quỹ đạo

tách biệt, không chồng lấn sang quỹ đạo hành tinh khác và có khối lượng đủ lớn tạo lực

hấp dẫn. Tôi bỗng nhớ lại mình đã từng đọc ở đâu đó người ta có nói kinh Dịch cho rằng

12

trong Thái dương hệ chỉ có chín vì sao kể cả Mặt Trời. Hóa ra ông cha ta từ thời xa xưa

đã biết trước chuyện này.

Ở thời điểm hiện tại, Hỏa tinh đang nằm phía sau bên kia Mặt Trời. Trước mặt con

tàu vũ trụ bây giờ là sao Mộc, cách xa Trái Đất 629 triệu kilomet có đường kính lớn nhất.

Sau chừng 35 phút bay, Tashi chĩa ống kính máy thăm dò từ xa về phía sao Mộc, làm cho

màn hình điều khiển hiện lên một số thông số cơ bản của ngôi sao này mà Tashi đọc và

dịch ra như sau: đường kính 142 984 km (gấp 10,5 lần đường kính Trái Đất), gia tốc

trọng trường 23,12 m/s2 (gấp 2,36 lần so với Trái Đất), vận tốc thoát ly 59,54 km/s (tức là

vận tốc vũ trụ cấp 2, với Trái Đất là 11,19 km/s), cấu tạo khí quyển: hydro khoảng 86%,

heli khoảng 14%, metan 0,1%, hơi nước 0,1%, khí amoniac 0,02%,... áp suất khí quyển

70 kPa bằng 0,7 lần Trái Đất, nhiệt độ trung bình trên bề mặt âm 121oC. Rõ ràng là chúng

ta không thể hít thở trong bầu khí quyển thiếu vắng oxy này. Tashi nhấn mạnh rằng điều

đáng sợ là gia tốc trọng trường của sao Mộc lớn nhất và vận tốc thoát ly cũng cao nhất

trong Thái dương hệ, sẽ ảnh hưởng mạnh đến hoạt động con tàu nếu nó đến gần.

Chúng tôi rời khỏi phạm vi ảnh hưởng của Thái dương hệ sau 5 giờ bay. Quay nhìn

lại phía sau, trong màn đêm đen dày đặc của vũ trụ, ngoài quả cầu rực đỏ của Mặt Trời,

nổi bật nhất trong quỹ đạo chỉ có sao Mộc, sau đó là sao Thổ với vành đai sáng đẹp, còn

các sao khác kể cả Trái Đất quá bé không thể tìm thấy.

Tashi biết không, cách đây mấy hôm cư dân Trái Đất chúng mình xôn xao cả lên vì

một tin vui.

Tin gì vậy?

Bạn có cho rằng trong vũ trụ mênh mông có hàng trăm tỷ thiên hà, mỗi thiên hà

(như dải Ngân Hà của chúng ta) có hàng trăm tỷ ngôi sao? Mỗi ngôi sao chính là một mặt

trời vây quanh bởi một số hành tinh tạo nên một thái dương hệ. Chỉ cần với xác suất rất

nhỏ là có một phần tỷ số thiên hà trong số đó có một phần tỷ thái dương hệ có một hành

tinh xanh. Cho nên hy vọng nhiều hành tinh có người ở trong vũ trụ là chắc chắn. Bởi vậy

mấy chục năm nay, cư dân chúng mình thường xuyên gửi tín hiệu vào không gian tìm

cách liên lạc với một nền văn minh nào đó trong vũ trụ.

Kết quả thế nào?

Mới nhận được một phản hồi. Tín hiệu đã được giải mã. Hóa ra là một bức thư hay

đúng hơn là một thông điệp của một hành tinh ở cách xa Trái Đất cỡ 50 năm ánh sáng.

Thông điệp nói gì?

Họ nói rằng đã từng cho nhiều chuyến tàu vũ trụ đến Trái Đất bắt liên lạc nhưng tất

cả đều không thành công do bị máy bay và tên lửa của Trái Đất đuổi đánh. Trong số

chuyến đầu, có tàu của họ gặp nạn rơi xuống đất bốc cháy dữ dội gây nên hỏa hoạn khá

lớn.

Rồi sao nữa?

Thông điệp nhắc nhở rằng Trái Đất muốn giao lưu hữu hảo với các nền văn minh

vũ trụ khác cần phải đạt đến một nền văn minh đích thực, trong đó toàn nhân loại phải

được sống trong hòa bình, ấm no, hạnh phúc vĩnh viễn. Một nền văn minh còn xem việc

chế tạo vũ khí ngày càng hiện đại có sức hủy diệt ngày càng lớn chỉ có thể dẫn dắt nhân

loại đến chỗ tự diệt vong.

Cuối cùng thế nào?

Báo chí các nước bàn tán rất nhiều, phê phán rất dữ các nước giàu đang tích trữ

bom đạn hạt nhân, một bộ phận lớn cư dân đang sục sôi chém giết nhau vô tội vạ nhằm

phản kháng chế độ bất công và bất bình đẳng hiện hữu trên toàn hành tinh. Sẽ có một

cuộc hội nghị lớn của Liên Hợp Quốc bao gồm các nhà lãnh đạo hàng đầu của mỗi nước

13

và những nhà khoa học có tên tuổi hiện nay cũng sẽ được mời tham gia để bàn sự kiện

này.

Kim nghĩ gì về phản ứng này?

Thú thật là mình không tin tưởng lắm về cuộc hội nghị sắp tới. Hy vọng có một nền

hòa bình ngay lập tức bởi ảnh hưởng của một bức thông điệp từ một hành tinh xa xôi gửi

đến là quá ảo tưởng.

Đây mới thực sự là bi kịch của hành tinh các bạn hiện nay đó!

Ý Tashi muốn nói gì?

Đại loại việc này giống chuyện Việt Nam đăng ký vào WTO ấy. Anh muốn bước

chân vào sân chơi tầm cỡ quốc tế này, anh phải tạo dựng một chính sách đường lối bình

đẳng về kinh tế, về thương mại. Còn thông điệp của hành tinh nọ nói rằng anh muốn giao

lưu với tôi ấy ư? Khó lắm đấy! Anh phải đạt đến nền văn minh đích thực đi đã. Thế nào

là văn minh đích thực? Đó là trên hành tinh các bạn không bao giờ còn cái cảnh áp bức

đồng loại, cảnh bom đạn bắn giết lẫn nhau xảy ra mọi lúc mọi nơi như hiện nay. Chẳng

phải trên hành tinh bạn có câu nói “Khi bắt tay với ai đó để kết bạn, hãy xem kỹ sau cái

bắt tay, bàn tay mình có còn đủ năm ngón hay không ” là gì?

Thánh thật! Làm sao mà bạn biết được câu nói này của cư dân Trái Đất chúng

mình?

Bạn đã biết câu nói này từ lâu rồi phải không?

Vâng.

Mình vừa mới tìm thấy nó trong đầu bạn ấy thôi! Chính bộ não mỗi con người là

một thư viện, là một cái kho chứa vô vàn kiến thức, kể cả những suy nghĩ và cảm xúc.

Người sống càng lâu, học thức càng cao thì kho tư liệu càng phong phú. Chúng như

những thông tin, đã xuất hiện là không bao giờ mất đi. Chúng được ghi và tồn tại lâu dài.

Có cả những thông tin thời quá khứ xa xôi dạng truyền kiếp, nhưng hiếm có người trong

cư dân các bạn khai thác được. Chúng mình ở hành tinh P16 thuộc loại người có khả

năng tra cứu nguồn thông tin đó trong đầu mọi người. Rồi đây bạn sẽ thấy, cư dân trên

hành tinh P53 cơ thể tuy giống các bạn nhưng họ đạt được khả năng khai thác thông tin.

Do rèn luyện mà có chứ không phải do bẩm sinh như cư dân chúng mình.

Tashi, chẳng lẽ bạn lục lọi được mọi thứ trong đầu người khác ư?

Xin lỗi, mình không chủ tâm. Điều này xảy ra rất tự nhiên với cư dân chúng mình.

Vậy đối với cư dân các bạn, không có điều gì gọi là bí mật riêng tư ư?

Không! Bởi vậy cuộc sống đòi hỏi mọi người trên hành tinh chúng mình phải tuyệt

đối vô tư, trong sáng. Kim! Trong đầu, bạn đang liên tưởng đến nạn tham nhũng, sách

nhiễu người dân của cán bộ chính quyền hiện tràn ngập ở nước bạn đấy ư? Mình xin chia

buồn cùng bạn.

Khiếp thật! Mình chẳng giấu được Tashi điều gì, kể cả những ý nghĩ thầm kín bất

chợt.

Không sao. Miễn Kim luôn luôn là một con người trong sáng, hoàn thiện, lạc quan

và đầy tình yêu thương.

Tashi nói thêm:

Chúng mình từng được thủ lĩnh phổ biến thông điệp hay là luật của văn minh liên

hành tinh trong vũ trụ. Đó là cư dân của mọi hành tinh:

* không được can thiệp vào bất cứ hành tinh nào;

* không được áp đặt hay truyền bá nền văn minh hiện hữu của hành tinh mình cho

hành tinh khác;

14

* không được xâm lược;

* có quyền giáng trả hay được sự hỗ trợ của nền văn minh liên hành tinh nếu hành tinh

mình bị xâm lược.

Tashi trở về với thực tại:

Kim, bạn có thấy đói không?

Cám ơn Tashi, mình không cảm thấy đói. Khát nước cũng không.

Thế là năng lượng vũ trụ mà bạn hấp thu vừa rồi có tác dụng đấy. Mình hy vọng

bạn sẽ giữ được tình trạng này lâu dài.

Tashi biết không. Ở Trái Đất của chúng mình, người ta đã thống kê và thấy rằng cứ

mỗi năm giây qua đi là có một em bé chết vì đói. Như vậy là một ngày 24 giờ đã làm

thiệt mạng hơn 17 ngàn em bé. Chết đói bên cạnh một nguồn năng lượng vô tận đang

hiện hữu trên một hành tinh xanh như thế này thật đau lòng biết bao!

Kim phải tìm cách làm cho loài người các bạn tận dụng được nguồn năng lượng trời

cho này, đừng để uổng phí. Qua tìm hiểu của Ushu và Isha, cư dân chúng mình được

nghe hai bạn ấy báo cáo lại là cư dân Trái Đất để có nguồn dinh dưỡng, đã triệt hạ khá

nhiều thực vật và giết vô số động vật, tàn phá môi trường kinh khủng?

Thời xa xưa, khi loài người Trái Đất còn mông muội, ông cha chúng tôi phải hái

trái cây, đào củ rễ, săn bắt thú rừng để sống. Bây giờ, chúng tôi đã tự trồng trọt và chăn

nuôi thì sao gọi là tàn phá môi trường?

Dù cho chúng được sinh ra từ đâu, từ thiên nhiên hay từ loài người các bạn nhưng

chẳng lẽ vì vậy mà giới thực vật và động vật trên Trái Đất ngoài loài người không có

quyền bình đẳng, quyền được sống như loài người sao?

Loài người trên Trái Đất chúng mình không thể làm khác được. Tashi nếu là một

sinh vật như chúng mình rồi cũng sẽ ứng xử kiểu như chúng mình mà thôi! Phải tìm lấy

cái ăn, đó là gì nếu không phải những thực vật và động vật ở ngay bên cạnh mình?

Trầm ngâm một lúc. Nhưng không muốn chịu thua, Tashi nêu lên ý tưởng:

Xin lỗi Kim và cư dân các bạn, mình nghĩ vẫn còn cách. Loài người các bạn chẳng

phải đã cấy được mô để gầy giống thực vật, đã nuôi sống được một số tế bào của người

dùng trong y học. Vậy thì tại sao các bạn không tiến mạnh hơn trong việc nuôi nhân tạo,

lần này không phải cây giống, con giống mà chú ý đến bậc thấp hơn, đó là tế bào thực vật

và tế bào động vật để tự nuôi mình?

Chà, ý tưởng mới tuyệt vời làm sao!

Im lặng một lúc. Tashi đề nghị:

Từ bây giờ cho đến đích, quãng đường còn xa lắm. Để giữ sức, chúng mình hãy

chợp mắt một lúc. Con tàu sẽ tự động lái.

Nói rồi, Tashi chuyển nút điều khiển con tàu sang chế độ tự động. Đích đến là hành

tinh P52 đã gài sẵn trong chương trình bay. Từ hai bức tường đối diện, tự động ngả ra hai

chiếc giường nệm trải ra trắng, một dành cho tôi và một dành cho Tashi. Trước khi đi

nằm, Tashi còn không quên bật máy phát nhạc của hành tinh, lần này điệu nhạc êm ả du

dương có lẫn bước sóng phù hợp ru con người ta nhẹ nhàng đi vào giấc ngủ. Thật tình

Tashi không có mắt, nên việc “chợp mắt” của Tashi có ý nghĩa như một cuộc tham thiền

thì đúng hơn.

Viếng thăm hành tinh P52 – Hành tinh Atlantis

Hành tinh đích đang hiện dần trong thị trường màn hình của con tàu. Có tiếng rú rít

kèm theo là một bản nhạc du dương. Tôi ngủ rất say buộc Tashi phải lay gọi mãi.

15

Đến rồi! Kim xem kìa, trên màn hình P52 đang hiện rõ dần. Nó là hành tinh thứ hai

tính từ mặt trời trở ra. Nó giống hệt P23 của bạn, chỉ khác chút ít ở gia tốc trọng trường

thay vì 9,81 là 8,05 mét trên giây bình phương. Có thể nói P52 như một đứa em song sinh

của P23 nhưng đã bị ai đó nghịch ngợm ném ra xa trong vũ trụ. Buổi đầu tiên đặt chân

lên P52, chắc chắn Kim sẽ cảm thấy mình nhẹ nhàng thơ thới hơn nhiều sau mỗi bước

chân so với khi bước đi trên P23 của bạn.

Nước trên P52 chiếm diện tích có nhiều không?

Nào thử xem!

Tashi với tay bấm một chiếc nút đâu đó. Trên màn hình con tàu, hàng loạt thông số

vật lý của P52 hiện ra. Cũng 3/4 diện tích là biển như trên Trái Đất. Tuy nhiên, bản đồ

địa lý của P52 khác hẳn Trái Đất. Điều đặc biệt là không tìm thấy hoang mạc. Dù lục địa

có rộng lớn bao nhiêu, ở trung tâm vẫn có những biển, những hồ to nằm rải rác tôi ngờ

các biển và hồ ở trong lòng các lục địa phần lớn là nhân tạo và chằng chịt những con

sông tựa như ở đồng bằng sông Cửu Long của ta. Bởi vậy, chắc chắn khí hậu ở các lục

địa P52 rất dễ chịu. Một điều thú vị nữa là P52 cũng có một vệ tinh như Mặt Trăng của

Trái Đất. Gọi P52 là hành tinh song sinh của Trái Đất thật không ngoa chút nào! Tuy

nhiên, ngoài vệ tinh thiên nhiên, còn có bốn vệ tinh nhân tạo với kích thước tương đương

đã được phóng lên. Năm vệ tinh di chuyển trên cùng quỹ đạo tròn, vị trí cách nhau một

phần năm chiều dài quỹ đạo làm cho trên bầu trời hành tinh luôn luôn tỏa sáng, một thứ

ánh sáng bàng bạc như ánh sáng trăng của Trái Đất.

Tashi dự định trước khi tìm chỗ đậu, sẽ cho tàu nạp năng lượng vũ trụ ở nơi đã được

định vị trong chuyến thám sát trước đây rồi lái con tàu bay vòng quanh hành tinh để quan

sát kỹ hơn. Tashi không quên trao cho tôi chiếc máy điện thoại di động kiêm chức năng

đồng hồ phù hợp với hành tinh P53 dưới dạng vòng đeo tay và bảo phải luôn luôn để ở

chế độ thường trực. Tashi còn báo cho tôi biết trong chiếc túi tôi mang theo có bộ quần

áo tàng hình và một chiếc ống nhòm mà Ngân và Duyên đã cẩn thận bỏ vào phòng khi tôi

cần đến trong một hành tinh xa lạ có thể gặp rủi ro bất chợt. Nhân đó, Tashi còn khen hai

cô gái này vừa đẹp xinh, vừa hiền thục, tôi nên chọn một trong hai cô làm vợ. Tashi bảo:

Kim có biết hai cô bạn gái ấy nhận xét gì về bạn không?

Khen hay chê?

Vừa khen vừa chê.

Thế nào?

Nhưng mình nói ra, Kim hứa không được “đì” hai bạn ấy mới được.

Đì? Tashi tìm thấy tiếng lóng này ở đâu vậy?

Ngay trong nguồn thông tin của P23 bạn chứ đâu. Đì nghĩa là có định kiến xấu và

vùi dập người khác phải không? Mình không muốn biến thành người “ngồi lê mách lẻo”

Khả năng sử dụng từ của Tashi trên cả tuyệt vời. Đúng, nhưng chỉ một nửa thôi.

Phải là người cấp trên mới có thể đì người cấp dưới được. Thôi được rồi, mình hứa. Hãy

nói đi.

Đã có lần hai cô bạn nói về Kim rằng “Người cũng đẹp trai đấy nhưng sao mà khô

như ngói. Chỉ biết mỗi việc nghiên cứu khoa học”

Tôi bực mình đáp lại:

Vẽ chuyện!

Một dụng cụ cũng không kém quan trọng mà Tashi đã chuẩn bị sẵn buộc tôi phải đeo

thường xuyên vào tai là máy thông dịch chuyển tiếng nói của tôi thành ngôn ngữ địa

phương và ngược lại. Máy thông dịch còn cho tôi biết luôn cả ý nghĩ của đối phương khi

16

nói cũng như khi im lặng, nhưng ngược lại thì không. Đương nhiên nó làm từ vật liệu vô

hình, người của P52 không thể nhìn thấy tôi mang hay đeo trên người.

Tashi còn cho tôi hay rằng với khả năng bẩm sinh, Tashi biết trước được tương lai gần.

Sắp tới, tôi sẽ đối mặt với nhiều bất ngờ và sẽ kết bạn với một cặp anh em sinh đôi khác

giới khá thắm thiết, 22 tuổi cùng làm nghề nghiên cứu và giảng dạy môn Lịch sử. Chính

cái duyên này sẽ giúp tôi hiểu khá tường tận cư dân của hành tinh P52. Tôi tò mò muốn

biết ngay bất ngờ đó là gì, Tashi bảo rồi hẳn rõ, bây giờ nói trước mất hay. Tôi nghi ngờ

hỏi:

Thế Tashi không biết nhân duyên của Kim trong tương lai sao?

Thú thật là tương lai xa đó mình chưa nắm được. Bởi vì tương lai gần không có một

biểu hiện gì gọi là “nhân” của “quả” tương lai xa.

Hình như vừa lục tìm được cái gì đó trong đầu tôi, Tashi tiếp ngay:

À, mình biết rồi đó. Kim còn nặng tình với người bạn nữ quá cố phải không? Cô ấy

tên là Hoa và Kim đã có hơn một lần gặp lại cô ấy?

Hệt như Tashi đã “đi guốc” trong bụng mình đó!

Đi guốc là gì?

À,..ừ, nó có nghĩa là hiểu được điều thầm kín mà đối phương cố tình chôn giấu

không muốn người khác phát hiện. Tashi đã nhìn thấy cô ấy lần nào chưa? Tức là nhìn

thấy linh hồn của cô ấy.

Chưa. Nhưng mình cũng có khả năng nhìn thấy linh hồn những người quá cố trên

hành tinh các bạn.

Tashi có cho rằng con người có định mệnh không?

Không chắc!

Nếu không, sao Tashi biết trước được điều sắp xảy đến?

Thời gian đối với mình có hai chiều và mình cảm nhận được cả hai chiều đó. Còn

Kim thì không, chỉ biết thì hiện tại. Kim nhìn về quá khứ và tương lai dù có cố gắng bao

nhiêu cũng không thấy gì.

Thế định mệnh là gì?

Định mệnh là cái gì đó phần nào phản ánh quy luật nhân quả của vũ trụ.

Sau một giờ tắm mình trong dòng thác năng lượng vũ trụ để dự trữ, Tashi cho tàu bay

vòng quanh hành tinh ở độ cao đủ để nhìn rõ toàn cảnh các thành phố nơi cư dân làm việc

và sinh sống, những đồng bằng, đồi núi, những biển lớn nhỏ và ao hồ. Tôi vô cùng ngạc

nhiên không tìm thấy bất kỳ một làng quê nào cùng với những cánh đồng lúa quen thuộc

và những bầy súc vật được chăn thả mà chỉ có nhiều vườn cây trĩu quả bên cạnh những

khu rừng rậm rạp có nhiều muông thú và chim chóc sinh sống. Trên biển, trên sông,

không hề có bóng dáng một chiếc tàu hoặc thuyền đánh cá nào.

Dường như đây là một hành tinh chết. Nhưng không, khi bay trên không phận các

thành phố ta vẫn nhìn thấy cư dân đi lại nhộn nhịp. Không thể đoán được họ đang vui

chơi hay làm việc. Toàn nhà là nhà. Những tòa nhà nhiều tầng đồ sộ được xây cất bằng

một thứ vật liệu đặc biệt toàn màu ánh bạc trông như hợp kim nhôm và bóng loáng như

thủy tinh. Ngoài ra, khá nhiều căn nhà trệt mái vòm, làm bằng vật liệu gì đó như thủy

tinh. Không thể nhận ra đâu là chung cư, đâu là trường học, viện nghiên cứu hay nhà máy

sản xuất. Hoàn toàn không có đường đi và những phương tiện vận chuyển phổ biến của

Trái Đất. Ô tô, xe máy, tàu điện hoàn toàn vắng bóng. Thay vào đó là dọc ngang những

băng chuyền kép chạy ngược xuôi đi và đến các khu nhà, các quảng trường, những thảm

17

cỏ xanh mượt hay vườn hoa muôn màu sắc. Những con người ở đây chỉ biết đi bộ hoặc di

chuyển nhờ các băng chuyền. Sẽ có nhiều sự lạ đây.

Tôi nêu ý kiến hỏi Tashi, so với Trái Đất, hành tinh này có “văn minh” hơn? Tashi cả

quyết là văn minh hơn, về mặt vật chất chưa biết thế nào nhưng chiến tranh thì không hề

nhìn thấy. Tashi xem “không chiến tranh” là một tiêu chí của văn minh, thậm chí là tiêu

chí số một quan trọng bậc nhất.

Cuối cùng, Tashi lái tàu cho đậu ở một bãi cỏ xanh hoàn toàn sạch sẽ cách thành phố

cuối cùng theo đường chim bay khoảng 1 km. Tashi bảo tôi mặc bộ quần áo tàng hình và

cùng đi vào thành phố. Lúc này tôi nhìn đồng hồ thấy màn hình hiện lên con số 10 (tức

10 giờ sáng). Tashi bảo thời gian ở đây khác chút ít ở Trái Đất. Nếu lấy độ dài thời gian

của một giờ thống nhất như trên Trái Đất, một ngày ở đây có 25 giờ, mỗi năm có 370

ngày. Như vậy là một tuổi ở hành tinh này dài bằng 1,06 tuổi ở Trái Đất.

Vượt qua khu rừng cây lúp xúp xanh tốt, chúng tôi bước lên chiếc băng chuyền đầu

tiên. Băng tự động dịch chuyển đưa chúng tôi vào thành phố. Tôi thấy nó giống như các

băng chuyền lên xuống có tay vịn phổ biến ở các siêu thị trên Trái Đất nhưng khác cái là

nó chạy ngang. Cách từng đoạn khoảng mười mét, cạnh tay vịn có hai nút bấm, một màu

đỏ, một màu trắng. Tashi giải thích nút màu trắng điều khiển băng chuyền chạy chậm,

màu đỏ chạy nhanh. Bình thường nút không được bấm, băng chuyền tự động chạy với tốc

độ trung bình và dừng lại nếu không còn người ở trên. Mỗi băng chuyền dài chừng 100

mét. Có hai chiếc song song một chạy ngược, một chạy xuôi. Băng chuyền nối tiếp băng

chuyền cho đến quảng trường, vườn hoa hay sân khu chung cư, hành lang các tòa nhà

làm việc. Trên băng chuyền ngược hướng chúng tôi, có nhiều em thiếu niên nói cười rôm

rả. Qua câu chuyện, tôi biết họ là những học sinh trung học nhân ngày nghỉ hôm nay đi ra

khu rừng ngoại vi vui chơi cắm trại. Dường như chẳng ai bận tâm nhìn về phía chúng tôi,

nếu như không thắc mắc sao băng chuyền không người mà vẫn cứ chạy. Qua khoảng

mười băng chuyền, chúng tôi bước xuống một quảng trường có vườn hoa và đài phun

nước ở trung tâm. Rất nhiều người đi đi lại lại, chậm chạp hoặc hối hả, già trẻ nam nữ có

đủ. Nước da vàng, tạng người thấp, nhỏ nhắn giống người Châu Á của Trái Đất. Họ nói

với nhau đủ thứ chuyện trên đời. Tiếng nói nghe líu lo với nhiều âm sắc tựa như tiếng

Việt mình.

Tại đây, cũng chẳng có ai bận tâm đến chúng tôi. Biết tôi nghĩ như vậy nên Tashi bảo

có ai nhìn thấy chúng tôi đâu mà bận tâm. Phải nói là cư dân hành tinh trang phục khá

đẹp, màu sắc sặc sỡ phổ biến. Không thấy có quần áo màu đen kể cả những màu thật

sậm. Đến sát bên họ, mới thấy rõ vải vóc hoàn toàn không như ta. Họ mặc toàn áo liền

quần. Một sọc dài từ cổ đến thắt lưng hình như dùng để cài mở cho dễ. Vật liệu không

phải là vải mà có lẽ là nhựa mỏng, xốp, lấm tấm hầu khắp những lỗ thủng nhỏ li ti nhằm

mục đích tạo sự thông thoáng. Áo quần liền mảnh tựa như chúng được đúc từ những

chiếc khuôn. Áo liền quần cho giới nữ và liền váy cho giới nam. Tại sao nam giới mặc

váy, tôi nói đùa với Tashi rằng có lẽ như vậy là hợp lý, bởi vì nam giới vướng cái cục

cưng nổi cộm và nhiều khi nó không chịu nằm yên. Tashi im lặng không có ý kiến gì tỏ

ra tán thưởng làm tôi cụt hứng. Suy cho cùng, Tashi đâu có cái của quý đó để mà nhận

xét, bình phẩm. Tôi hỏi Tashi bây giờ mình (tức chỉ mình tôi) sẽ lộ diện bằng cách nào

đây, chẳng lẽ với trang phục của người Trái Đất. Tashi bảo hãy gượm, ta đi sâu vào bên

trong tìm nơi bán quần áo “chôm” lấy một bộ. Trời ạ, Tashi bắt đầu nhiễm phải thói xấu

đáng ghét của người Trái Đất rồi đây. Biết tôi nghĩ gì, Tashi trấn an, bảo hoàn cảnh bắt

buộc, khi rời khỏi hành tinh, ta sẽ mang trả lại, lo gì!

18

Chúng tôi sục vào bên trong tòa nhà cao tầng, đi loanh quanh hồi lâu rồi cũng tìm ra

nơi những cái giá để quần áo. Hoàn toàn vắng bóng người bán. Hình như chuyện mua

bán ở hành tinh này hoàn toàn tự động. Sau này, khi đã “cặp bồ” được với người của

hành tinh, tôi mới biết phán đoán của tôi là đúng. Chọn lấy một bộ, ướm thử vào người

thấy vừa vặn, tôi và Tashi nhanh chân lẩn ra ngoài. Không hề nghe có tiếng chuông reo

báo động, tôi thở phào nhẹ nhõm. Bây giờ lại phải tìm chỗ kín để thay đổi trang phục.

Tashi quay quanh quan sát hồi lâu, sau khi định vị kéo tôi chui vào một căn phòng vắng

người. Tôi cài chặt khóa cửa, cởi bỏ bộ quần áo tàng hình cùng với bộ quần áo của Trái

Đất dồn vào chiếc túi mang theo, khoác vội lên người bộ áo liền váy của hành tinh. Bỗng

một cảm giác lâng lâng, nhẹ nhàng và dịu êm lan tỏa khắp cơ thể tựa như được đắm mình

trong không khí của một căn phòng điều hòa nhiệt độ ở Trái Đất. Tôi thấy người tự nhiên

khoẻ ra do mặc bộ áo váy lạ này.

Tôi mở cửa phòng, đàng hoàng bước ra với chút tự tin. Và chạm mặt ngay một đôi

nam nữ còn trẻ, tuổi độ trên dưới 18 gì đó thôi và có thể nói họ giống nhau như đúc. Tôi

cố nở nụ cười nói ngay:

Xin chào hai bạn. Tôi đoán rằng hai bạn là anh em song sinh?

Đúng vậy!

Trong hai bạn, ai là em?

Người con trai trả lời:

Tôi là anh, tên May. Còn đây là em gái tên Sao.

Tôi có thể biết đây là thành phố nào và hai bạn đang làm công việc gì ở đây không?

Cô gái liếc nhìn đôi giày dưới chân tôi. Còn chàng trai hơi mỉm cười, cố che giấu một

nét ngờ vực nhưng vẫn thản nhiên trả lời dịu dàng:

Đây là thành phố Mara. Chúng tôi vừa mới tốt nghiệp đại học ngành Xã hội học và

được hành tinh bố trí công tác ở đây.

Tôi biết mình lộ tẩy rồi. Tashi thì thầm bên tai trách tôi đoảng không chịu quan sát kỹ

những trang phục bên trên và bên dưới, tức mũ và giày. Nhưng điều tôi sợ nhất bây giờ

lại là sẽ bị đánh giá thuộc loại người dối trá. Một hành tinh văn minh không chấp nhận

loại người này. Chắc hai anh em hiểu quá rõ chỉ có người ngoài hành tinh mới không biết

đây là thành phố nào và cách ăn mặc rõ ràng là “giấu mình hở chân”. Tôi đành thú nhận:

Xin lỗi hai bạn vì lời nói dối. Tôi không thuộc nơi này mà là từ một hành tinh xa

xôi mới tới có tên gọi là Trái Đất. Hãy vui lòng tha thứ.

Cặp mắt người anh bỗng cụp xuống, nét mặt không còn vẻ thân thiện như trước,

miệng lẩm bẩm:

Lại... Trái Đất!

Cô gái hỏi nhanh:

Thế anh tên gì? Có ở tại Bắc Mỹ không?

Không. Tôi tên Kim, người Việt Nam. Nước tôi ở phía đông-nam Châu Á, cách Bắc

Mỹ một nửa vòng Trái Đất.

Cô gái trầm ngâm:

Thế là anh không chịu trách nhiệm gì...

Được rồi – người anh cướp lời, không cho em mình nói hết câu.

Tôi chưa hiểu điều gì đã xảy ra giữa tôi và hai anh em, nhưng vì mới lần đầu gặp mặt,

tôi chưa tiện hỏi.

Anh đến đây có việc gì? – người em gái lại hỏi.

19

Tôi đi tìm những người cùng cội nguồn. Tôi cho rằng tổ tiên các bạn thuộc chủng

người Atlan?

Đúng. Vì vậy mà các vị tiền bối của chúng tôi đặt tên cho hành tinh này là Atlantis.

Tiếng Tashi văng vẳng trong đầu:

Tình hình thuận lợi rồi. Kim ở đây chơi đến lúc cần về thì báo mình biết. Mình đi

đây. Sớm gặp lại.

Vâng. Chào tạm biệt Tashi – Tôi trả lời lại bằng ý nghĩ.

May hỏi tôi:

Hiện giờ bạn ở đâu?

Vừa mới xuống đây, mình chưa biết ở đâu.

Vậy hãy đến ở với chúng mình. Căn hộ chúng mình đủ rộng để dành cho bạn một

phòng riêng. Thời gian này, toàn hành tinh chúng mình đang nghỉ Hè.

Nghỉ Hè toàn hành tinh?

Vâng. Bạn ngạc nhiên lắm sao?

Vừa ngạc nhiên vừa thú vị!

Nào, bạn hãy đi theo chúng mình!

Hai anh em May và Sao bước đi trước, loanh quanh một lúc lại dẫn tôi trở lại cửa

hàng bán quần áo. Người anh hỏi:

Bạn vừa lấy bộ quần áo ở đây phải không?

Vâng. Xin lỗi vì mình không có tiền của hành tinh đây.

Đã lâu lắm rồi chúng mình không dùng tiền. Ai cũng có một tài khoản riêng, “tiền”

nằm trong tài khoản. Vừa rồi, bạn đã lấy bộ quần áo trưng bày. Chúng mình sẽ mua một

xấp quần áo để thay đổi, thêm một mũ và một đôi giày cho bạn, trả lại bộ quần áo trưng

bày. Mình thanh toán tiền mua cho cửa hàng bằng thẻ này đây.

Nói rồi, May đưa cho tôi xem qua chiếc thẻ tài khoản, bảo Sao lấy mấy thứ vừa kê, xé

bọc rút ra bộ áo váy giống hệt bộ tôi đang mặc mắc trả lên giá, còn mình đưa thẻ vào máy

để thanh toán tiền.

Thẻ tài khoản, nước mình và toàn thể cư dân Trái Đất đều đã biết dùng.

Trước kia, cách nay lâu lắm rồi, thẻ tài khoản nói lên tiền lương mà mỗi nhân viên

làm việc cho hành tinh được trả và dùng để mua những thứ cần thiết cho sinh hoạt. Sau

người ta thấy điều này không có tác dụng gì đối với mỗi cá thể của hành tinh. Bởi lẽ,

trong lúc nhu cầu của mỗi cá thể là nhất định mà của cải vật chất do người làm ra vô cùng

nhiều và phong phú, nên thủ lĩnh đã quyết định bỏ, ban bố chế độ làm việc tùy sức, tiêu

dùng tùy nhu cầu. Nhưng, có người đề nghị vẫn giữ hình thức thẻ tài khoản nhưng thay

đổi công năng của nó, tức là dùng nó thống kê mức tiêu dùng của toàn thể hành tinh để

cân đối sản xuất-tiêu dùng, cân bằng thu chi. Vì vậy, vừa mới lọt lòng mẹ, đứa bé đã

nhận được thẻ tài khoản. Thẻ tài khoản còn dùng để theo dõi sức khoẻ cá nhân...

Theo dõi sức khoẻ cá nhân là sao? – tôi thắc mắc.

Giả dụ có một người nào đó sử dụng thẻ để lấy nhu yếu phẩm nhiều hơn một người

bình thường – cô gái thay anh trả lời , hành tinh không coi anh tham lam mà nghĩ là có

bệnh tật gì đó, cơ thể không được bình thường. Thế là anh bị gọi đi khám sức khoẻ!

Tôi bật cười:

Hay thật! Cho mình hỏi thêm. Tại sao khi chúng mình mang áo váy ra khỏi cửa

hàng, không hề có chuông reo cảnh báo mất cắp?

Ở hành tinh chúng mình, từ rất lâu đã không còn cảnh lấy cắp. Vì vậy cài phần

mềm báo động mất cắp vào máy điện toán là thừa.

20

À ra thế! Mình cảm thấy xấu hổ...

Ồ không sao – May trấn an – Bạn thuộc trường hợp đặc biệt. Đừng có tự dằn vặt

mình làm gì.

Vừa rồi – cô gái lên tiếng – anh Kim bảo “chúng mình mang bộ quần áo ra ngoài”,

vậy còn một người nữa đâu?

À, anh bạn này đã lên con tàu vũ trụ trở về rồi. Hẹn sẽ quay lại đón mình khi thời

gian thăm thú kết thúc.

Thật đáng tiếc – cũng cô gái nói – Nếu biết có anh ấy, chúng em thế nào cũng mời

anh ấy ở lại chơi.

Anh ấy không giống chúng mình đâu! – tôi buột miệng nói lên điều bí mật.

Hai anh em hơi ngỡ ngàng nhưng giữ ý không hỏi gì thêm.

Buồng thang máy êm ru lao vun vút không rõ qua mấy chục tầng lầu thì dừng lại.

Cảm nhận được điều đó là do tôi nhìn thấy hàng số bằng đèn LED nhấp nháy liên hồi

nhanh chóng đến mức không làm sao đọc được rõ chữ. Cửa buồng tự mở rộng cho ba

chúng tôi bước ra và khép lại ngay sau lưng. Dẫn tôi đi dọc hành lang một đoạn, May

dừng lại. Cánh cửa tự động kéo mở. May mời tôi vào trước, sau đó hai anh em vào theo.

Căn buồng rộng khoảng 18 m vuông hoàn toàn trống trải. Nhưng không phải vậy, một

chiếc bàn cùng ba chiếc ghế từ dưới sàn tự động nhô lên. Bàn ghế đều bằng vật liệu của

căn nhà, của sàn nhà, hình như là hợp kim nhôm màu sáng ánh bạc. Mặt bàn và mặt ghế

đều hình tròn, mỏng nhưng chắc chắn. Đường kính bàn khoảng một mét, đường kính ghế

khoảng bốn tấc, mỗi cái đều đính vào đầu một chân trụ sáng bóng vững chắc.

Tôi ngồi lên một chiếc ghế và chưa hết ngạc nhiên đã thấy trên mặt bàn xuất hiện một

chai nước và ba chiếc cốc. Sao điềm nhiên cầm lấy chai, rót đầy các cốc một thứ chất

lỏng màu xanh lơ, thơm phức. Nước giải khát của hành tinh. Được mời, tuy không khát

nhưng tôi vẫn cầm lấy một cốc, từ tốn nhấp từng ngụm nhỏ và bỗng nhiên nhận thấy rất

rõ thứ chất lỏng chạy đến đâu là nơi đó của cơ thể trở nên đê mê, lạnh mát, khoái trá. Rồi

tiếp đến ở bức tường đối diện sáng lên một màn hình TV kích thước khoảng 12 mét và

theo lời May nói, nó có độ tương phản rất cao 5000:1 và hơn 12,8 tỷ màu, đang thể hiện

một chương trình ca nhạc rất lạ và du dương của hành tinh. May lên tiếng:

Căn hộ chúng mình có buồng này dùng làm việc, ăn uống và tiếp khách. Ngoài ra

còn ba buồng nữa chật hơn vừa đủ kê một chiếc giường rộng nhưng vẫn có ngăn tủ và

phòng tắm rửa vệ sinh âm tường.

Cầm lấy chiếc túi xách của tôi cùng với xấp áo váy, May nói tiếp:

Mình đưa bạn sang phòng dành cho khách.

Cùng với May đến đứng trước một góc phòng, tự nhiên có một cánh cửa kéo mở để

chúng tôi bước vào. Buồng nhỏ khoảng 6 mét vuông cũng hoàn toàn trống rỗng. May

đem chiếc túi của tôi cùng với xấp áo váy và mũ, giày mới mua đến một góc buồng. Một

cánh cửa nhỏ tự động mở ra để lộ ngăn tủ đựng đồ dùng và treo quần áo và May vứt tất

cả vào đấy. Cửa tủ tự động đóng lại.

May lại mời tôi trở ra. Sao đang ngồi đợi trên một chiếc ghế. Trên bàn tự lúc nào đã

dọn sẵn bữa ăn trưa. Bấy giờ đã hơn 11 giờ. Bữa ăn rất đơn giản gồm ba chiếc khay đựng

mấy mẩu bánh vuông vức màu nâu và màu trắng. Bên cạnh mỗi khay là một cốc chất

lỏng màu trắng, tôi đoán là sữa. Sao giới thiệu đây là bữa ăn của hành tinh, hoàn toàn

nhân tạo. Tuy trông đơn giản và ít ỏi nhưng nó chứa đầy đủ các chất dinh dưỡng cần thiết

cho con người: chất đường, chất béo, chất bột, chất xơ cùng đủ loại khoáng chất và

vitamin.

21

Tuy không thấy đói nhưng tôi vẫn cứ tham gia bữa ăn. Cắn một miếng bánh, cái cảm

giác mát lạnh tan nhanh của bột ở ngay đầu lưỡi. Còn sữa thì hơi nhạt nhưng không hề có

mùi đặc trưng của bất kỳ một thứ sữa quen thuộc nào của Trái Đất. Ăn hết mấy thứ, tuy

nhẹ bụng nhưng cảm giác no cảm nhận rất rõ. Sao dọn bàn, tức là làm gì đó tôi không rõ

nhưng mọi thứ bừa bãi trên bàn lập tức biến mất. Máy thông dịch cho tôi biết Sao đã ra

lệnh bằng ý nghĩ.

Sao mời tôi về phòng nghỉ và khi mọi người vừa đứng lên, các bàn ghế tụt ngay trở

lại sàn nhà, nhìn kỹ khó mà nhận ra một dấu tích gì. May đi theo tôi, bước vào buồng,

hướng dẫn tôi ra lệnh kéo giường, mở phòng vệ sinh hoặc tủ đựng quần áo. Sau đó, May

chúc tôi ngủ ngon, hẹn gặp lại vào lúc 2 giờ chiều để đi thăm thú các nơi của thành phố.

Khi May vừa bước ra khỏi, một giai điệu rất du dương, êm dịu từ tường phát ra. Cùng

lúc, mắt tôi bỗng ríu lại. Phải lên giường ngủ ngay thôi, tôi lầu bầu bực bội vì bị ép buộc.

Trước khi chìm sâu vào giấc ngủ, tôi ngờ rằng tiếng nhạc nhất định có kèm bước sóng

mang tần số ru ngủ hệt như tôi uống phải một cốc nước giải khát có pha thuốc mê. Không

rõ có phải May cố tình làm điều này không hay chỉ là một trong những chương trình lập

sẵn của hành tinh. Điều này chưa chắc đã hay ho. Không khéo con người lại biến thành

nô lệ của những chương trình tự động hóa do chính mình lập ra. Lan man nghĩ ngợi chưa

đến mấy giây đã bị giấc ngủ ào đến dập tắt mọi ý nghĩ chợt đến trong đầu tôi không

thương tiếc...

Có tiếng chuông reo rít róng đánh thức tôi dậy. Nhìn đồng hồ: hai giờ đúng! Cùng lúc

có tiếng gõ cửa. Tôi quàng vội bộ áo liền váy, xỏ tất mang giày quày quả bước ra. Chưa

kịp rửa qua bộ mặt còn đang ngái ngủ. Cửa tự động mở. Phía sau là hai anh em May, Sao.

Họ dẫn tôi đi ngược hành lang, bước vào thang máy rồi ra khỏi nhà.

Chương trình tham quan diễn ra đơn giản và chóng vánh bất ngờ. Những tòa nhà

sừng sững ngay trước mắt trông khá giống nhau như cùng đúc từ một khuôn thiết kế.

Những tòa nhà, ngoài các bức tường tầng trệt cùng với sàn, tường các phòng bên trong,

bàn ghế,...đều làm bằng một thứ hợp kim ánh bạc, các bức tường từ tầng hai trở lên kể cả

mái dường như làm bằng kính. Tôi hỏi, May bảo không phải kính mà là những tấm bán

dẫn thu ánh sáng mặt trời biến quang năng thành điện năng. Các mái của những nhà vòm

to lớn dùng làm xưởng sản xuất cũng làm bằng chất liệu ấy. Bởi vậy, các mái nhất nhất

đều quay về hướng đông-tây cả. Ở hành tinh này, năng lượng sử dụng cho mọi hoạt động

duy nhất từ điện mặt trời. Hiệu suất từ quang năng sang điện năng của các bộ thu khá

cao, hơn 90% trong lúc ở Trái đất ta hiện nay, cao nhất mới với tới là 40%. Mức sử dụng

năng lượng khá tiết kiệm do mọi việc bật tắt hoàn toàn tự động. Trong một ngày, mọi

người làm việc chỉ nửa thời gian, vào buổi chiều. Thời gian còn lại là vui chơi, giải trí.

May chỉ trỏ hết tòa nhà này đến tòa nhà khác, thuyết minh là chính. Một tòa nhà dành

cho quản lý hành chính của thành phố. Một tòa nhà của viện nghiên cứu tổng hợp khoa

học xã hội và khoa học tự nhiên kiêm luôn cả việc chữa bệnh chăm lo sức khoẻ cộng

đồng. Một tòa thuộc ngành giáo dục, chỉ có phòng thí nghiệm chứ không hề có lớp học.

Tôi thắc mắc hỏi thế học sinh các lớp ngày thường học lý thuyết ở đâu, Sao bảo học ở

nhà, bật màn hình TV trên tường lên để nghe thầy cô giáo giảng bài. Nhiều khu nhà còn

lại dành cho sản xuất nhu yếu phẩm. Tôi ngỏ ý muốn vào sâu bên trong để xem nhưng

Sao bảo thời gian này đang là mùa nghỉ Hè, toàn hành tinh, tất cả các căn phòng hoàn

toàn trống vắng. Trong thời gian làm việc, chủ yếu ở khu nhà sản xuất, hầu như chỉ nhìn

thấy những con người máy và những cỗ máy hoạt động tự động theo những chương trình

cài sẵn, còn người thật rất hiếm và chỉ ngồi ở phòng điều khiển.

22

Tôi hỏi về việc quản lý hành tinh. May bảo toàn hành tinh là một quốc gia duy nhất,

đứng đầu là một thủ lĩnh không cần ai giúp việc. Mọi công việc trên hành tinh đều do các

cán bộ nhân viên bên dưới phụ trách dưới sự lãnh đạo của một thủ trưởng chung cho các

thành phố. Tỷ dụ như bên nghiên cứu có một viện trưởng, bên giáo dục, bên sản xuất đều

có một bộ trưởng riêng.

Tôi hỏi hành tinh có chia ra những tầng lớp người khác nhau, đảng phái khác nhau

hay không, hai anh em May, Sao tỏ ra không hiểu. Chia ra như vậy để làm gì nhỉ, chỉ

thêm rối rắm, phức tạp cuộc sống.

Tôi hỏi về tổ chức phân bố nhân sự cho các khối trên hành tinh. May bảo số nhân

viên đông nhất ở viện nghiên cứu, sau đó đến giáo dục, còn ít nhất là khu quản lý và sản

xuất. Việc chương trình hóa và tự động hóa ở hai khu vực này là tối đa do đạt trình độ

khoa học kỹ thuật rất cao nên không cần nhiều người. Hầu như trên hành tinh này không

còn khái niệm về lao động chân tay hay sức mạnh cơ bắp nếu không kể đến các môn thi

đấu điền kinh, thể thao.

Tôi thắc mắc sao hành tinh không hề có một cánh đồng lúa nào và cả những bãi chăn

nuôi gia súc thì lấy đâu ra bột và thịt để làm thức ăn cho mọi người. May bảo cư dân

hành tinh chủ trương không can thiệp hay cải biến môi trường thiên nhiên sẵn có và

không được làm ô nhiễm môi trường. Chỉ những công trình kiến trúc, những băng chuyền

di chuyển là cấp thiết với cuộc sống nên bắt buộc phải làm. Với trình độ khoa học kỹ

thuật cao, hành tinh đủ sức tự cấp tự sản xuất bột, đường, thịt, trứng, sữa, rau nhân tạo

cùng với những khoáng chất và vitamin để tổng hợp nên những bánh thức ăn giàu dinh

dưỡng. Hoàn toàn không phải lo thiên tai hạn hán ảnh hưởng đến thu hoạch mùa màng.

Cũng không phải lo dịch bệnh làm giảm đàn gia súc gia cầm. Nuôi béo gia súc, gia cầm

để rồi ra tay sát hại chúng, điều này hiện nay hành tinh không còn chấp nhận.

Tôi hỏi về dân số của hành tinh, Sao bảo hành tinh này khá rộng lớn nhưng dân số

không quá 1 triệu. Được như vậy là bởi việc kế hoạch hoá sinh đẻ bắt buộc thực hiện

nghiêm ngặt. Không phải ai muốn sinh con cũng được. Hành tinh buộc cặp vợ chồng nào

muốn sinh con phải có chỉ số thông minh ở mức nhất định và chỉ được sinh duy nhất một

con mà thôi, gái trai không phân biệt. Hai anh em mình sinh đôi là ngoại lệ, hành tinh cho

phép và không buộc mẹ mình phá thai. Việc phá thai theo quan niệm của hành tinh tương

đương với việc giết một hài nhi, là một tội ác vô cùng man rợ. Hành tinh cho rằng bào

thai đã sẵn có linh hồn. Tôi thầm nghĩ, nếu sinh đẻ theo kế hoạch như thế này, chắc chắn

dân số hành tinh sẽ sụt giảm mạnh trong thời gian tới.

Tôi hỏi về công tác y tế cộng đồng. May đáp:

Về dinh dưỡng, do thực phẩm đủ chất và cân bằng cộng với môi

trường thiên nhiên hoàn toàn trong lành, thanh khiết nên con người ở đây sống mạnh

khoẻ, ít bệnh tật và hoàn toàn không mắc những chứng nan y như ngày xưa. Chúng tôi trị

bệnh rất nhanh, thậm chí đơn giản trên những máy điện tử áp dụng phương pháp đối

chiếu các thông tin về mô lành và mô bệnh. Khi thông tin sai lệch, máy sẽ tự động uốn

nắn điều chỉnh những trục trặc sinh học và thế là người bệnh khỏi bệnh. Mỗi người sinh

ra đều được gửi tế bào gốc của mình ở ngân hàng tế bào của hành tinh, lúc cần có thể lấy

ra sử dụng, thay thế những bộ phận hư hỏng của cơ thể. Không có chuyện hiến máu mà

có máu nhân tạo phù hợp với bất kỳ người nào. Nhờ vậy tuổi trung bình của cư dân hành

tinh chúng tôi khá cao.

Cao bao nhiêu?

Hai trăm năm.

23

Tôi nhẩm tính theo như Tashi đã cho biết, tuổi của con người hành tinh này nhân với

1,06 sẽ ra được tuổi tương đương ở Trái Đất. Hai trăm nhân với một phảy không sáu là

hai trăm mười hai. Quá thọ và bất cứ một cư dân nào của Trái Đất cũng không mơ sống

nổi tới cái tuổi ấy.

May hỏi ngược lại tôi:

Thế người Trái Đất sống lâu nhất là bao nhiêu năm?

Hiếm khi vượt quá 116 năm, thường là dưới 100 năm tương đương ở hành tinh này

là 110 năm và 95 năm.

Người Trái Đất yểu mệnh quá! – May chia buồn cùng tôi.

Tôi thắc mắc:

Với điều kiện sống trên hành tinh này, người Atlan cuối cùng đâu có tránh được cái

chết?

Đương nhiên là không tránh được. Theo thời gian, cơ thể con người sẽ rệu rã dần đi

chứ – May giải thích –. Những tế bào già dần dần chiếm tỷ lệ cao so với những tế bào trẻ

mới sinh sôi. Đến một lúc nào đó, tỷ lệ tế bào già vượt trội tất yếu dẫn đến cái chết sinh

học. Nhưng cái chết sẽ đến nhanh một khi cư dân không biết bảo vệ giữ gìn hành tinh của

mình, môi trường của mình đang sống. Thêm vào đó, những bệnh tật, những tai nạn và

các cuộc chiến tranh liên miên đã cướp đi mạng sống của cư dân Trái Đất trước khi họ

được hưởng đúng tuổi thọ sinh học của mình.

Trên Trái Đất hiện nay, một số người tin rằng cái chết của con người chỉ là cái chết

thể xác, còn lại linh hồn có đời sống vĩnh cửu. Linh hồn con người rồi sẽ tái sinh trong

một cơ thể sống khác. Nhiều nhà trí thức không tin điều này.

Ở hành tinh Atlantis, cũng có người tin và người không tin như trên Trái Đất. Mình

thì đứng giữa – May tuyên bố – Thái độ hợp lý của một nhà khoa học là nghi ngờ cho đến

khi nào có được bằng chứng.

Anh Kim có tin không? – Sao hỏi tôi.

Mình tin. Vì mình có bằng chứng. Ở Trái Đất hiện nay có một số người có năng lực

nhìn thấy linh hồn và trò chuyện với họ. Hàng nghìn hài cốt liệt sĩ lưu lạc qua hai cuộc

kháng chiến đã được tìm thấy với một tỷ lệ không nhỏ là nhờ các linh hồn mách bảo và

được quy tập về các nghĩa trang. Mình cũng có khả năng ấy.

Thật không? Hai anh em cùng nghi ngờ cật vấn.

Chà, hai bạn quên rằng ở hành tinh này, bắt buộc ai cũng phải nói thật kia mà! Hãy

gượm. Chờ tôi một lát.

Tôi giả vờ chìm trong suy tư nhằm trì hoãn để có thời gian hỏi vọng ý kiến của Tashi

xem có nên lộ bí mật về chiếc mũ thần kỳ hay không? Kể cả bộ áo tàng hình nữa. Tashi

từ đâu đó trong vũ trụ đáp rằng có thể, thậm chí dùng chúng làm quà biếu cũng được. Sắp

đến, tôi sẽ không phải dùng đến chúng và muốn có lại, Tashi sẽ hỏi xin giúp ở Oshi. Tôi

yên tâm trả lời hai anh em:

Hiện có một công cụ giúp được chúng mình, tức là cả ba người, nhìn thấy linh hồn

và nghe được linh hồn nói.

Là cái gì vậy anh Kim – Sao sốt ruột chồm người về phía tôi.

Hãy chịu khó chờ đã. Nó đang nằm trong tủ buồng mình đó.

Bây giờ đã gần năm giờ chiều. Hai anh em hối hả giục tôi về nhà ngay. Gấp gáp bước

vào buồng thang máy, gấp gáp đi như chạy dọc hành lang rồi hấp tấp ào vào trong khi

cửa phòng vừa mở. May đưa tôi đến trước cửa buồng của tôi, sốt ruột đứng ngoài chờ cho

đến lúc tôi mang hẳn chiếc túi ra ngoài. Cũng như buổi trưa, chiếc bàn tròn cùng với ba

24

chiếc ghế bằng kim loại đã nhô lên sẵn sàng. Tôi đặt túi lên bàn, hai tay làm động tác bê

ra cái gì đó mà hai anh em không hề trông thấy, tưởng như một động tác giả. Sao bất ngờ

được tôi chụp cái mũ vô hình lên đầu, chỉ cảm thấy có vật gì đó nằng nặng bên trên chứ

không rõ là cái gì. Hai tay đưa lên quờ quạng và nhận ra hình dạng của một chiếc mũ.

Bấy giờ Sao mới thật sự tin tưởng, mỉm cười nhìn xung quanh chờ đợi. Tôi hỏi:

Hai bạn có ai là người thân đã quá cố?

Bố mẹ chúng mình. Hai ông bà đã tử nạn trong chuyến du hành trở về viếng thăm

Trái Đất. Những người bay trên các con tàu khác đã nhìn thấy tàu bố chúng mình lái tự

nhiên bốc cháy dữ dội và đâm sầm xuống biển.

Mình chân thành chia buồn cùng hai bạn. Bây giờ Sao thử khấn mời hai bác về đi!

Sao thầm thì điều gì đó, tôi nghe không rõ. Nhưng máy thông dịch đã chuyển ý nghĩ

của Sao cho tôi biết. Sao khấn:

Mời bố mẹ hãy về thăm chúng con. Hai anh em chúng con ngày ngày chỉ muốn

được nhìn thấy lại bố mẹ.

Nói rồi, mắt Sao rơm rớm muốn khóc. Hai anh em căng thẳng đợi. Một phút rồi hai

phút trôi qua. Bỗng Sao đứng thẳng người, mắt sáng long lanh, miệng lắp bắp:

Kìa, có phải bố mẹ đấy không. Sao con nhìn không rõ lắm. À rõ rồi, chúng con

chào bố mẹ. Con là Sao, còn kia là anh May. Hai anh em sinh đôi, bố mẹ còn nhớ chứ?

Sao nhìn thấy rõ bố mẹ đang khóc cũng bật khóc theo. Sao nghe rõ tiếng mẹ:

Làm sao bố mẹ không nhận ra hai con được. Có ngày nào mà bố mẹ không về đây

thăm hai con – Tiếng nói của bà mẹ qua máy thông dịch, tôi nghe rõ mồn một – Con tàu

do bố lái đã bị tên lửa Trái Đất bắn trúng. Không hiểu đầu tên lửa có chất gì đó làm cho

con tàu bùng cháy dữ dội. Trong khi tàu bố đang trên không phận Bắc Mỹ, bố chủ quan

và thiếu cảnh giác đã không chuyển con tàu sang chế độ phòng tránh vì cứ tưởng cư dân

Trái Đất ngày nay văn minh hơn nên cũng hiền hòa hiếu khách.

Nghe đến đâu, Sao dịch ngay đến đấy cho người anh cùng nghe. Đến cuối câu, như

một phản xạ, Sao liếc nhanh về phía tôi với ánh mắt oán trách. Tôi giả vờ không nhận

biết, điềm nhiên bảo Sao hãy chuyển mũ cho May. Người anh hàn huyên với bố mẹ rất

lâu, cố nén xúc động vừa nghe vừa phiên dịch. Còn Sao thì không kìm được cảm xúc,

nước mắt cứ tuôn trào ướt đẫm cả đôi má. Người bố bây giờ mới lên tiếng:

Chúng tôi chào anh Kim. Người bạn mới của hai con tuy từ Trái Đất đến nhưng

không phải chịu trách nhiệm gì về tai nạn của bố mẹ. Anh ấy là người tốt, một trí thức

luôn đấu tranh cho lẽ phải và cho hòa bình. Chúng ta nhìn thấy và nói chuyện được với

nhau là nhờ anh ấy. Chiếc mũ quả là một tác phẩm thần kỳ mà hành tinh mình chưa làm

được.

Tôi theo dõi được cả toàn bộ các câu đối thoại, rất xúc động nên quyết định ngay bây

giờ khi đang còn sự hiện diện của linh hồn bố mẹ hai bạn, tôi tuyên bố kính tặng chiếc

mũ cho gia đình giúp hai bác được thường xuyên gặp lại các con để hàn huyên. Hai linh

hồn bảo chiếc mũ này là một tặng vật vô giá, không hiểu cơ duyên nào đã xui khiến hai

anh em được gặp tôi và kết bạn. Người mẹ cảm động nói sẵn sàng xem tôi như một đứa

con yêu trong gia đình bắt đầu từ hôm nay. Tôi từ tốn cảm ơn chân thành và nói thêm

rằng món quà còn có ý nghĩa như món nợ mà Trái Đất cần phải trả để bù đắp phần nào

thiệt thòi to lớn mà gia đình ta phải gánh chịu.

Sau này khi tôi đã rời khỏi hành tinh, do Sao kể lại nên tôi mới biết, trong một lần gặp

gỡ hàn huyên với hai linh hồn bố mẹ, cứ phải luân phiên đội mũ và phiên dịch, Sao đã

bực mình:

Ước gì em có thêm chiếc nữa để khỏi phải luân phiên...

25

Người anh chấn chỉnh ngay:

Sao! Không được lạm dụng. Đây là tính xấu hành tinh không chấp nhận.

Người mẹ bênh con gái:

May! Không được trách em con. Nó có quyền ước mơ. Sao! Rồi con sẽ có một cái

mũ cho riêng mình. Nhưng mẹ không chắc lắm bởi nhìn về tương lai của con, hình ảnh

chưa thật rõ nét.

Rồi đến lúc hai linh hồn người quá cố cũng phải nói lời từ biệt, hẹn sau này sẽ trở về

thăm viếng thường xuyên hơn. Trời đã tối. Bữa ăn giống hệt bữa trưa không hiểu bằng

cách nào đã được dọn ra. Thật tình không thấy đói nên tôi rất muốn từ chối. Nói với Sao,

tôi chỉ cần uống cốc sữa cũng đủ, còn hai phong bánh tôi xin cất để dành cho chuyến du

hành trở về. Hai anh em hoàn toàn không chút nghi ngờ gì. Sao một lần nữa lặp lại lời nói

cảm ơn tôi của người mẹ. Tôi nhanh lẹ đáp lại lời nói cảm ơn bây giờ không còn ý nghĩa

bởi vì bác gái đã nhận tôi làm con. Đã là anh em một nhà, đâu phải khách khí nói lời ân

huệ.

Gõ ngón tay lên bàn để cô gái chú ý, tôi nháy mắt nói lộ cho Sao biết còn một món

quà nữa. Cũng đắt giá không kém. Nhất định nó sẽ làm cho Sao mê mẩn. Sao nhìn lại tôi

bằng ánh mắt nghi ngờ. Còn người anh thì mỉm cười không nói gì, thái độ có vẻ chờ đợi.

Tôi bảo Sao quay lưng trong vài giây và cấm không được nhìn lại chúng tôi. Tất nhiên

Sao tuân thủ “mệnh lệnh” một cách nghiêm ngặt. Tôi rút vội từ trong túi chiếc áo tàng

hình và choàng nó ngay lên người May. Tôi bảo Sao quay lại và dĩ nhiên cả tôi nữa,

không ai nhìn thấy May đâu cả. May thì không biết tình huống đó, thấy cô em láo liêng

tìm kiếm mới lên tiếng hỏi:

Em tìm cái gì đấy?

Anh ở đâu?

Kìa, anh ở đây cơ mà! Mắt em làm sao vậy?

Tôi bật cười giật lấy chiếc áo tàng hình để lộ rõ người anh và nói:

− Anh May vẫn còn đó! Do chiếc áo tàng hình mà May biến mất. Nó vô giá và hai

anh em không đủ tiền để mua nó đâu.

Hai anh em cũng cười theo nhưng hai mắt cứ chăm chăm nhìn vào hai bàn tay tôi

mong tìm thấy cái gì đó gọi là chiếc áo tàng hình. Sao khen tôi giỏi làm trò ảo thuật. Tôi

tự ái do bị gán cho tính không trung thực. Đoán chắc Sao chỉ kích tôi tức lên để diễn trò

lại một lần nữa, tôi trùm vội lên người chiếc áo tàng hình và hỏi:

Có nhìn thấy tôi không?

Không – cả hai anh em cùng lên tiếng.

Tôi lại giật chiếc áo ra trùm lên người Sao và hỏi ông anh:

Cô em gái đâu rồi?

Sao đã biến đi đâu rồi! – người anh thành thực trả lời.

Tôi kết luận:

Thế đó! Đây đâu phải là ảo thuật mà chúng ta đang có trong tay một chiếc áo tàng

hình thực sự.

May tấm tắc:

Quả là của quý.

Bỗng giật nẩy người hốt hoảng, May hỏi:

Chiếc mũ thần kỳ đâu rồi?

Tôi trấn an:

Nó vẫn ở trên bàn ấy thôi.

26

Sao đưa tay rà khắp mặt bàn, chạm được nó tuy không nhìn thấy, reo lên:

Chiếc mũ đây rồi!

Tôi cảnh báo:

Chiếc mũ và chiếc áo mà để thất lạc, hai bạn sẽ khó tìm lại lắm đó.

Tôi nói thêm:

Mũ và áo tàng hình là công trình nghiên cứu phối hợp giữa chúng mình ở Trái Đất

với người của hành tinh P16. Bằng vật liệu đặc biệt của hành tinh ấy, chúng hoàn toàn vô

hình với chúng ta tức là chúng ta không nhìn thấy chúng.

May thắc mắc:

Trên Trái Đất, các bạn đã dùng chúng làm gì?

Mũ có đem thử nghiệm áp dụng thành công trong vài lĩnh vực, nhất là khi dò tìm

hài cốt liệt sĩ đã ngã xuống qua hai cuộc chiến tranh bảo vệ tổ quốc. Chắc chắn, nhờ có

mũ, được gặp lại hai bác thường xuyên, với kiến thức phong phú, hai bác sẽ có thể truyền

lại một cách thuận lợi cho hai người. Còn áo thì tuyệt đối giữ bí mật và không được dùng

làm gì cả. Hai bạn phải giữ kỹ, chỉ xem nó như một kỷ vật. Ở Trái Đất từng có một bộ

phim nói về người tàng hình, tức là có một chiếc áo mặc vào là trở nên vô hình. Phim mô

tả nhân vật này đã lợi dụng sự tàng hình để làm bao nhiêu chuyện bậy bạ, quái quỷ. Thật

tình khi mới đến đây, chính mình đã phải tàng hình để tránh gặp các bạn bởi sự khác biệt

về trang phục. Rồi mình đã lợi dụng nó để chôm luôn một bộ quần áo.

Sao cười ngặt nghẽo:

Nhưng anh đã quên chôm thêm chiếc mũ và đôi giày nên bị lộ tẩy.

Mình ngàn lần xin lỗi về chuyện này.

May dí dỏm trấn an:

Không sao! Đây là một tội lỗi...đáng yêu. Hành tinh này sẵn sàng tha thứ.

Qua một đêm ở hành tinh trên chiếc giường nệm êm ái trong tiếng nhạc du dương có

pha lẫn sóng ru, tôi cũng bị nhanh chóng ríu mắt như buổi trưa và chìm sâu vào giấc ngủ.

Tôi không còn cảm giác tự ái do bắt buộc nữa. Một giấc ngủ say như của trẻ thơ và

không hề mộng mị.

Đến sáng, có tiếng chuông réo gay gắt buộc tôi phải chồm dậy. Làm qua loa các động

tác thể dục, tôi vắt óc suy nghĩ không tìm đâu ra chậu rửa cùng khăn mặt, bàn chải và

thuốc đánh răng bởi May không hề hướng dẫn. Bỗng các thứ ấy từ trong bức tường đối

diện nhô ra đầy đủ. Tôi cảm nhận căn phòng hình như đã nhận biết suy nghĩ của con

người và coi đó là mệnh lệnh phải thực hiện. Làm xong mấy công việc, chậu rửa cùng

các thứ thụt nhanh vào tường. Tôi lại nghĩ đến phòng vệ sinh rồi đến tủ đựng quần áo.

Khi vừa bước ra khỏi buồng, tôi đã thấy hai anh em ngồi sẵn ngay cạnh chiếc bàn ăn

quen thuộc chờ đợi. Lại cũng ba chiếc khay, mỗi chiếc đựng hai phong bánh màu nâu và

màu trắng, bên cạnh là một cốc sữa. Cái cảm giác ngán đến tận cổ chợt đến mặc dù tôi

hoàn toàn không cảm thấy đói. Sao mời tôi. Cũng như chiều qua, tôi chỉ uống cốc sữa.

Tôi thắc mắc:

Ngày nào, bữa nào cũng ăn thế này, các bạn không chán sao?

Hai anh em nhìn tôi, thực sự ngạc nhiên. Có lẽ chưa bao giờ họ nghĩ đến điều này.

Sao trả lời tôi:

Từ khi rời bỏ vú mẹ, mọi đứa bé trên hành tinh này đều ăn cùng một thực đơn cho

đến hết cuộc đời. Quen rồi, không ai thấy chán.

Tôi khoe:

Ở Trái Đất hiện nay, thực đơn cho từng bữa ăn dồi dào phong phú lắm. Việc chuẩn

bị một bữa ăn khá phức tạp và công phu. Nhất là trong các bữa tiệc, mỗi món ăn đúng là

27

một công trình nghệ thuật. Bài trí đẹp mắt. Đủ mọi hương và vị. Việc chuẩn bị một bữa

ăn đòi hỏi phải có tay nghề và kinh nghiệm. Ngoài thức ăn, còn có các loại nước uống.

Như nước trái cây, như trà, rượu, cà phê, cốc tay. Cư dân Trái Đất đã xem công việc này

như một nghệ thuật: nghệ thuật ẩm thực. Giá như hai bạn một lần viếng thăm Trái Đất.

Tôi thấy hai anh em đột nhiên rùng mình. Mặt biến sắc, không còn giữ được vẻ tò mò

cùng nét thơ ngây như trước đó. Tôi ngờ có thể là linh hồn bố mẹ đang hiện diện ngay

đây và tác động lên hai người con.

Sau này khi đã trở thành vợ chồng, một lần tôi hỏi Sao:

Em có thích về thăm Trái Đất không?

Em chưa hề tự hỏi mình điều này.

Nhưng Trái Đất vừa là quê chồng, vừa là nơi bố mẹ đã gửi thân xác ở đó.

Mặt Sao đột nhiên biến sắc. Một lần nữa, tôi lại chạm đến vết thương lòng của gia

đình. Nhưng Sao cố gượng trả lời:

Bố mẹ ngăn cấm chúng em mạo hiểm.

Sau đó, Sao tiếp tục nói trong nước mắt:

Đó là vào năm cuối cùng của chúng em ở trường đại học. Khi nhận tin cả bố và mẹ

đều tử nạn vì tên lửa Trái Đất, em nước mắt giàn giụa tràn ra ngoài, còn anh May thì nuốt

nước mắt vào trong, phẫn nộ gầm lên, nguyền rủa:

Trái Đất chết tiệt! Lũ người chúng bay đáng bị tiêu diệt!

Em can ngăn:

Anh May, không được nói bậy. Thủ lĩnh sẽ trừng phạt anh đó. Chẳng lẽ sinh mạng

của hai người thân đáng giá cả mấy tỷ sinh linh cùng với bao công trình trên Trái Đất hay

sao? Luật liên hành tinh đâu cho phép trả thù. Em biết anh May không thể quên những lời

tường thuật về những giây phút cuối cùng của bố mẹ. Khi con tàu của bố bị bốc cháy, các

tàu khác vẫn còn kịp nhận điện của bố nói lời vĩnh biệt, cho rằng bố mẹ gặp số phận

không may và bố đang cố gắng... làm gì đó thì không còn nghe được nữa. Mọi người trên

bầu trời lúc ấy thấy rõ quầng lửa rực sáng của con tàu bị cháy đáng lẽ rơi ngay xuống đất

nhưng dường như nó, trong những giây cuối cùng bị một mãnh lực tác động lợi dụng tốc

độ đang cao cố lái bay nghiêng, liêu xiêu, hết sức gắng gượng vượt qua không phận quốc

gia Hoa Kỳ, một số đảo ven bờ rồi mới chịu rơi vào trung tâm Đại tây dương về hướng

châu Âu. Mọi người mới vỡ lẽ ý nghĩa của phần sau câu nói bỏ dở của bố. Bố muốn tránh

vạ lây cho những người bên dưới.

Tôi đoán:

Tại nơi con tàu rơi, người Trái Đất hiện nay ngờ rằng dưới đáy sâu là lục địa

Atlantis đã chìm xuống trong trận đại hồng thủy. Nếu đúng như vậy, bố mẹ đã trở về gửi

thân xác nơi quê hương cội nguồn xưa.

Như bừng tỉnh sau cơn quẫn trí đột xuất, May đề nghị cả ba cùng ra biển tắm. Vừa

bước ra khỏi chung cư, May đến thẳng cửa hàng hôm trước chọn mua cho tôi một cái

quần lót. Rồi cả ba đi bộ vượt qua khỏi các tòa nhà, hướng về phía mặt trời. Những băng

chuyền hoạt động không ngừng. Những người đi và những người về. Cuối băng chuyền

là một rừng cây lúp xúp xanh tốt. Vượt qua rừng cây, mở ra trước mắt chúng tôi là một

bãi cát mịn mát, trắng tinh và sạch bong. Sau đó là những đợt sóng bạc đầu ào ạt xô vào

bờ của một biển nước mênh mông xanh ngắt trải dài đến tận chân trời.

Có rất nhiều người đến đây tự bao giờ. Trẻ, già, trai, gái đủ cả. Các em bé chạy nhảy

tung tăng khắp nơi nghịch cát. Một số đông đang vùng vẫy dưới nước. May và tôi lấy

quần lót ra mặc trước khi cởi bỏ chiếc áo liền váy ra ngoài. Sao chỉ cởi chiếc áo liền

quần, còn quần lót đã mặc sẵn từ nhà. Quần lót trên bãi biển sặc sỡ đủ màu. Những phụ

28

nữ còn mặc thêm chiếc áo ngực giống như phụ nữ chúng ta trên Trái Đất. Để lộ cả cơ thể

chỉ có chút ít phần che chắn cần thiết, Sao trông khá xinh xắn, đầy đặn và cân đối. Nước

da mịn màng và trắng trẻo theo kiểu những cô gái Á Đông của ta. Sao nắm lấy tay tôi

chạy ào xuống biển, May theo sát phía sau. Sau khi lặn ngụp thỏa thuê, Sao tiếp tục câu

chuyện về bữa ăn, hỏi tôi:

Anh Kim chán lắm bữa ăn của hành tinh chúng em rồi phải không?

Cũng có thể. Nhưng thực sự là mình không đói.

Tại sao?

Mình đã nạp đủ năng lượng trước khi đến đây nên mình không đói.

Năng lượng nào? Thức ăn dồi dào phong phú của Trái Đất như anh đã mô tả chăng?

Hoàn toàn không phải. Lấy năng lượng ở ngay hành tinh này: năng lượng vũ trụ.

Nếu hai bạn cũng được nạp năng lượng như mình, chắc chắn không cần ăn cũng vẫn

không đói.

Một lần nữa, hai anh em nhíu mắt ngạc nhiên, chằm chằm nhìn tôi như thể muốn

đoán xem tôi thuộc loại người nào, thần thánh hay ma quỷ. Tôi tiếp tục:

Đây là bí mật cuối cùng của mình. Xem đó là quà tặng cũng được. Quà tặng này sẽ

được trao vào một ngày gần đây khi mình lên tàu từ biệt hai bạn. Quà tặng không chỉ

riêng cho hai người mà là cho cả toàn thể cư dân trên hành tinh này. Ở Trái Đất cũng có

một vùng năng lượng tương tự, ngay trên thềm lục địa nước mình. Việc khai thác năng

lượng này đang được giữ bí mật tuyệt đối nhằm tránh sự tranh chấp dẫn đến những cuộc

chiến tranh giành giật đẫm máu không mong muốn.

Cho đến lúc này đây, cái cảm giác ban đầu trong tôi về sự thua kém trình độ văn minh

của người Trái Đất so với nền văn minh của người ở đây biến mất. Chính linh hồn bố mẹ

hai bạn đã thừa nhận nền văn minh hành tinh hiện chưa chế tạo được chiếc mũ thần kỳ.

Lại còn nguồn năng lượng vũ trụ vô tận ở ngay trên chính hành tinh mình mà người bản

địa đâu có nhận ra.

Bảo tôi và cô em gái tiếp tục tắm, May lên bờ gặp các bạn có chút việc. Tôi hỏi cô em

gái:

Sao có biết bơi không?

Có.

Tốt chứ?

Xoàng thôi. Sao mới học.

Thế rồi nàng xoãi tay, bơi ra xa. Tôi chờ cô nàng bơi một đoạn khoảng mươi mét rồi

mới đuổi theo. Bỗng Sao giơ cao hai tay chới với rồi chìm nghỉm. Tôi hoảng hồn, hít vội

một hơi thật sâu, lao ra. Tôi lặn nhanh sát đáy biển và thấy Sao đang đưa hai tay lên cao,

miệng mũi sùi bọt bong bóng liên tục. Chỗ này không sâu, tôi áng chừng khoảng bốn mét

nước. Tôi ôm vội lấy cô nàng, quẫy chân đạp mạnh xuống cát cho hai người trồi nhanh

lên khỏi mặt nước. Rồi tôi ôm ngang eo Sao, cuống quýt bơi vào bờ. Tôi ngạc nhiên thấy

May đang ngồi thản nhiên nhìn ra. Còn mọi người khác trên bãi biển không ai thèm quan

tâm đến chúng tôi. Tôi nhíu mày tỏ vẻ bực mình, tự hỏi không hiểu ở hành tinh này họ

sống theo kiểu gì. Lúc đó, tôi định ôm ngược người Sao để xốc nước thì cô nàng đã lăn

mấy vòng trên cát rồi nằm im. May nhăn mặt cười, bảo tôi:

Một vận động viên bơi có hạng của hành tinh đang đánh lừa Kim đó?

Thế sao?

Tôi đi lại chỗ Sao nằm. Cô nàng đang ôm mặt cười rũ:

Sao bắt đền anh đó. Hãy đưa em về chỗ cũ.

29

Chỗ nào?

Ngoài biển ấy!

Tôi chìa tay. Cô nàng lắc đầu, vẫn nằm im giống như ăn vạ. Tôi đành ôm gọn lấy tấm

thân nõn nà muối đầy cát, chạy vội ra. Cát dính cả mặt, cả tóc, len cả vào trong đồ lót.

Sao nhào ra xa hơn, kéo tôi theo. Sao phụng phịu:

Hãy hôn em đi!

Tôi lắc đầu. Nàng đột ngột nhấn chìm tôi xuống dưới mặt nước và giữ chặt bằng cách

nào đó mà tôi không thể quẫy ra được. Chờ cho tôi sắp sặc nước, cô nàng mới buông tay.

Tôi phải nói:

Tôi xin đầu hàng công chúa con vua Thủy Tề.

Sao không hiểu tôi nói gì.

Công chúa con vua Thủy Tề là gì?

Là con gái của một vị thủ lĩnh cai quản đáy biển, có quyền lực rất lớn.

Thật vậy sao?

Không có. Chỉ là câu chuyện người Trái Đất viết ra cho các em nhỏ đọc giải trí.

Thế ở Atlantis, người ta không có những câu chuyện kể cho thiếu nhi sao?

Có. Nhưng người viết không được bịa ra những điều không có thực, như vua Thủy

Tề đang cai quản đáy biển chẳng hạn. Việc nói dối trẻ con không được phép. Thôi nào,

hãy hôn cô công chúa con vua Thủy Tề đi.

Tôi nhìn vào trong bờ, không thấy có ai chú ý đến mình. Tôi ôm lấy Sao, ngượng

nghịu hôn vào má. Má cô nàng ướt đẫm nước biển nhưng tôi vẫn cảm nhận được cái mùi

thơm đặc biệt khó tả đang tỏa ra. Trong lúc Sao vẫn còn bần thần, tôi kéo mạnh tay nàng

cùng bơi vào bờ. May đang quàng qua vai chiếc khăn tắm lớn, tay cầm sẵn hai chiếc

khác, ngồi trầm ngâm, mắt dõi nhìn ra phía những rặng núi xa, chờ chúng tôi.

Trên đường về, tôi tọc mạch hỏi hai anh em:

Theo mình được biết, ngày xưa chủng người Atlan sống trên Trái Đất to con hơn

bây giờ nhiều. Chiều cao trung bình từ năm đến sáu mét. Còn chủng Aryen chúng mình

ngày nay vào thời sơ kỳ cao từ ba đến bốn mét. Một mét bằng ngần này tôi giang hai

tay lấy cữ để cho hai anh em hình dung.

May thực sự ngạc nhiên về kiến thức của tôi:

Kim biết lịch sử về chủng tộc Atlan à? Chúng ta là hậu duệ của mỗi chủng tộc, có lẽ

trải qua mấy trăm nghìn năm, thậm chí mấy triệu năm, tạo hóa đã cân bằng lại cơ thể con

người chúng ta. Cao to phỏng ích gì, chỉ tiêu tốn nhiều năng lượng trong lúc càng ngày

việc làm của nền văn minh phát triển càng không đòi hỏi nhiều sức lao động của cơ bắp.

Những vị tiền bối của các bạn ở đây chắc thuộc nhóm những nhà bác học giỏi

giang, thông minh nhất và cũng đồng tâm nhất trí yêu chuộng hòa bình, phản đối chiến

tranh?

Đúng vậy.

Tôi tiếp tục để chứng tỏ mình còn hiểu biết nhiều hơn về chủng người Atlan:

Một số nhà thần học ngày nay trên Trái đất cho rằng vì người Atlan cổ xưa đạt đến

một nền văn minh tương đối cao nên tự cao tự đại, đã sử dụng năng lượng bừa bãi nên bị

Trái Đất trừng phạt gây nên trận Đại hồng thủy...

May không nghĩ vậy. Tiền bối của chúng mình có ghi trong lịch sử rằng họ đã xây

dựng một kim tự tháp to lớn cỡ một quả núi cao đến 6666 mét ngay tại cực Bắc của Trái

đất nhằm thu hút năng lượng vũ trụ. Đột nhiên, Trái đất đổi cực. Cực mới là cực Bắc

ngày nay của Trái đất dịch về phía trên vẫn cùng kinh tuyến là 6666 kilomet tức 1/6 chu

30

vi kinh tuyến. Việc đổi cực đột ngột làm cho nước biển là chất lỏng trên bề mặt rất linh

động tạo nên những cơn sóng khổng lồ cao đến cả nghìn mét, trùm lên toàn bộ hành tinh,

quét sạch mọi thứ trên đường đi của nó, nhấn chìm các vùng thấp và các lục địa. Cùng

lúc chất nóng chảy trong lòng Trái đất cũng bị xáo động, tạo nên những trận động đất và

phun những dòng dung nham qua các miệng núi lửa cùng với tro bụi. Bầu trời đen kịt

những khói và hơi nước. Đó là quang cảnh của trận Đại hồng thủy cách nay hơn 850

nghìn năm. Nếu có tự cao tự đại thì chỉ ở một nhóm thiểu số, làm sao xoay chuyển được

sự vận động của Trái đất có kích thước khổng lồ đem so sánh với kích thước của con

người?

Mình cũng phân vân không dám tin điều đó khi đọc đến những lời phán xét đầy ác

ý đổ tội cho cư dân Atlan cổ. Cũng chính vì việc chuyển cực mà bầu trời màu đỏ rực rỡ

ngày xưa cùng với cây cối màu đỏ tía chuyển sang màu xanh lam và màu xanh lục tương

ứng như hiện nay.

Trái đất hiện có các màu bầu trời và màu cây cối như ở đây sao?

Đúng vậy. Những màu này êm dịu và hòa bình hơn nhiều.

May tiếp tục:

Một số người đang bay trên các con tàu vũ trụ lúc trận Đại hồng thủy đột ngột xảy

ra nhấn chìm toàn bộ lục địa Atlantis. Họ đành tìm đến hành tinh này để định cư, chủ

trương xây dựng hẳn một xã hội văn minh đích thực theo mong ước.

Có trở ngại gì không khi họ xuống đây? Cư dân bản địa đâu cả rồi hay đã bị các

bạn đồng hóa hết?

Tôi thừa biết chắc không còn một mống cư dân bản địa nào trong khi cùng Tashi bay

vòng quanh hành tinh ở độ cao tối thiểu vừa đủ rõ cho việc quan sát mọi ngóc ngách của

hành tinh, những vùng rừng sâu, núi cao cùng các hang động hiểm trở nhưng vẫn cứ hỏi.

May thành thực:

Thú thật mình rất xấu hổ khi phải nói lên điều này. Khi các vị tiền bối chúng mình

đáp xuống đây, cư dân bản địa có nhưng không nhiều. Điều đặc biệt là họ rất hiếu chiến,

khăng khăng không chịu thừa nhận sự có mặt của khách lạ. Bộ tộc nào cũng xông đến

muốn tàn sát, tận diệt những người mới đến chỉ bằng những thứ vũ khí thô sơ. Cố gắng

tìm mọi cách để thương lượng hòa bình đều thất bại. Các vị tiền bối đành phải quây lại

bằng một hàng rào điện cao thế, chiếm hẳn một khu biệt lập và chỉ quanh quẩn trong đó.

Thế là bao nhiêu con thiêu thân tự nguyện lao vào bỏ xác vì cái hàng rào chết người đó.

Người chết trước kéo thêm người chết sau thành một dây dài xác chết do điện giật dây

chuyền. Khi không còn đối thủ, ân hận vì việc ác không thể không làm, những người chủ

mới của hành tinh nguyện suốt đời chấm dứt sát sinh. Không can thiệp vào hệ sinh thái

vốn có của nơi đây. Cũng không tự mình trồng trọt chăn nuôi. Thế là thức ăn tổng hợp

được ưu tiên nghiên cứu và ra đời sớm nhất. Về phương diện đạo đức, ngành giáo dục rèn

dạy cho mọi công dân ngay từ khi còn nhỏ phải tuyệt đối trung thực, không làm điều gì

xấu xa phương hại đến người khác kể cả những súc vật và cây cối hoang dã. Không được

nuôi lòng thù hận. Không dung dưỡng những thói tham lam, độc ác. Tình thương cộng

đồng là trên hết. Bây giờ trên hành tinh này, mọi công dân đã đạt được chất “Nhân chi

sơ, tinh bôn thiên”.

Tôi ngạc nhiên vì câu này là của Trái Đất và May dùng đến nó, chẳng lẽ đã có sự

trùng hợp ngẫu nhiên giữa hai hành tinh?

Mấy ngày trôi qua hình như là tạm đủ cho chuyến thám sát “cưỡi ngựa xem hoa” của

tôi trên hành tinh này. Nếu muốn học tập họ về những thành tựu khoa học kỹ thuật cụ thể,

phải có thời gian nhiều hơn. Hy vọng tôi còn có dịp quay trở lại. Tôi gọi điện cho Tashi

31

chuẩn bị lên đường. Tashi hẹn tôi đúng tám giờ ngày thứ tư tính từ lúc tôi đáp xuống

hành tinh ở địa điểm cũ. Tôi nêu ý kiến muốn tặng cho cư dân hành tinh thêm một món

quà đầy ý nghĩa và có tầm quan trọng rất to lớn: đó là vị trí nguồn năng lượng vũ trụ vô

cùng vô tận của hành tinh. Nếu được vậy, phải chở hai anh em May và Sao đến tận nơi

bàn giao luôn. Tashi lập tức đồng ý không chút đắn đo.

Ngày thứ tư cuối cùng rồi cũng tới. Trong buổi điểm tâm sáng, trước ba khay thực

phẩm, Sao nhìn tôi ái ngại. Tôi lại chỉ uống xã giao cốc sữa và bỏ gọn vào túi hai phong

bánh phần mình nói là làm vật kỷ niệm. Tôi nói lời chia tay và cám ơn về sự bận rộn đón

tiếp phục vụ tôi của hai anh em trong mấy ngày qua. Tôi cũng nhờ chuyển lời cám ơn và

lời chào từ biệt đến bố mẹ May và Sao. Sao rơm rớm nước mắt ra chiều quyến luyến.

Sau một phút ngập ngừng, Sao đánh bạo đề nghị:

Hay là anh Kim ở lại đi. Đã là anh em một nhà, tiến thêm bước nữa làm công dân của

hành tinh này? Bây giờ thì không nhưng có thể, thời gian tới Sao sẽ yêu anh và muốn

chúng ta sống chung bên nhau trọn đời.

Tôi thầm nghĩ tới sự thành thật đến mức lộ liễu của một cô gái trên hành tinh văn

minh và hiền hòa này. Phải thừa nhận là Sao khá xinh, cái xinh có vẻ gì đó không giống

lắm với các cô gái xinh trên Trái Đất, nhưng tôi chưa đủ thời gian để làm rõ. Lại rất có

duyên nữa. Cái duyên này dễ thu hút mọi cánh đàn ông. Đôi mắt rực sáng, thông minh.

Nét mặt thanh tú, hiền thục. Ăn nói dịu dàng. Thân thể khá cân đối, biểu hiện một sức

sống dồi dào, mãnh liệt. Chà! Đúng là một cô gái lý tưởng đây. Đó là tôi chưa dám tìm

hiểu về trình độ học vấn của cô. Sống trên một hành tinh văn minh tột đỉnh như vậy,

không chắc về nhiều lĩnh vực tôi đã hơn cô ấy. Đột nhiên không hiểu sao, trí óc tôi lại

nghĩ đến chuyện ăn uống. Sống với một người vợ tuyệt vời nhưng không hề biết nấu

nướng, suốt năm suốt tháng chỉ mỗi chai sữa với hai phong bánh bé tẹo hai màu nâu

trắng, liệu có...chán không đây! Cũng may là hai anh em không thuộc loại người có khả

năng nắm bắt được ý nghĩ thầm kín của kẻ khác, nếu phải tay Ushu hay Tashi chắc chắn

tôi sẽ bị ...!

Mình rất cám ơn thịnh tình của hai bạn, hai bác dành cho mình. Thật lòng mình rất

quyến luyến nơi đây mặc dù thời gian thăm viếng không nhiều. Mình còn có trách nhiệm

với gia đình, với tổ quốc. Hãy cho mình thời gian suy nghĩ kỹ. Nào, chúng mình cùng ra

bãi đáp của con tàu.

Tôi hỏi mượn lại chiếc mũ vô hình và đội lên đầu. Ba chúng tôi bước ra khỏi chung

cư, tiến về phía tây của thành phố. Tôi chỉ vào một bãi đất trống có cỏ nhỏ mọc rậm và

nói với hai anh em rằng con tàu đã tới. Cùng lúc, Tashi bước xuống, tay cầm một chiếc

mũ khác tiến về phía tôi. Tôi giới thiệu hai người bạn với Tashi. Tashi gật đầu ra ý biết

rồi. Chắc chắn hai anh em không nhìn thấy gì ngoài việc nghe tôi nói. Tôi đội chiếc mũ

nhận từ tay Tashi lên đầu Sao, còn chiếc tôi mượn lên đầu May. Bây giờ thì mắt tôi mù tịt

không thấy gì, còn May và Sao nhận ngay ra con tàu vũ trụ có hình dạng gần như quen

thuộc và bóng dáng xanh lơ lãng đãng của Tashi. Sao buột miệng hỏi nhỏ tôi:

Tashi là nam hay nữ vậy anh? Sao không mặc gì?

Tôi bỗng nhớ lại lần đầu gặp Ushu, cũng hỏi chính câu đó và phải giải thích mãi vì

Ushu không hiểu nam và nữ là gì. Tôi định bảo Sao hỏi thẳng Tashi, nhưng nghĩ lại làm

thế không tế nhị, tôi giải thích luôn:

Tashi không có giống, bảo là nam hay nữ đều không đúng. Sao hãy nhìn kỹ Tashi!

Có thấy tai, mắt, mũi, miệng ở đâu không? Kể cả cái phần bên dưới cần che giấu? Bởi

thế, trên hành tinh P16, không một ai có nhu cầu mặc quần áo cả. Những cư dân như

Tashi sinh sản bằng tế bào mầm chứ không cần đến vợ chồng như chúng ta. Họ là loại

32

người đặc biệt về cấu trúc, về hình dáng. Bằng mắt thường, ta không thể nhìn thấy họ. Về

trí thông minh thì họ thuộc hạng tuyệt vời. Hãy tạm gọi Tashi là anh, gán tạm giống đực

cũng không hề gì.

Chúng em chào anh Tashi – May và Sao lên tiếng.

Chào hai bạn. Mời hai bạn cùng lên tàu, bay đến nơi tiếp nhận nguồn năng lượng

của hành tinh do chúng tôi phát hiện nay đem kính tặng.

Vì không nhìn thấy gì nên tôi đành theo hai anh em mà đi chứ không tiện đòi lại chiếc

mũ. Sau khi mọi người ngồi yên vị, con tàu bốc lên nhẹ nhàng và bay êm ru, hoàn toàn

không một tiếng động. Vùng phát năng lượng ở ngoài biển. Tashi cho tàu dừng lại, bất

động ở độ cao khoảng 100 mét ngay bên trên vị trí đó để con tàu cùng với mọi người tắm

trong dòng thác năng lượng. Hai anh em nằm im, lim dim mắt, đê mê khoan khoái tận

hưởng cái cảm giác mới lạ lần đầu tiên xảy đến trong đời. Tôi nhắc hai anh em sau đó

hãy nhịn ăn, dõi xem cơ thể thế nào.

Một giờ đồng hồ trôi qua. Tashi lại lái con tàu về bãi đáp cũ, trả hai anh em về với

hành tinh. Sao hỏi tôi:

Sau khi rời khỏi đây, anh Kim về Trái Đất ngay hay còn đi đâu nữa?

Theo chương trình định trước, mình còn ghé thăm hành tinh P53 – như Tashi gọi –

tức là hành tinh bay vòng ngoài của thái dương hệ này.

Hành tinh này cũng có người ở đấy!

Mình biết.

Họ tự gọi hành tinh mình là Lemuria để nhớ đến lục địa xưa kia họ đã sống trên

Trái Đất.

Họ thuộc chủng Lemuri?

Đúng – Lần này May lên tiếng – Tổ tiên họ đã tới đó định cư trước nạn Đại hồng

thủy xảy ra trên Trái Đất. Họ rất thông minh, tài giỏi và có nhiều phép lạ. Tổ tiên chúng

mình gọi họ là thầy. Nhờ họ chỉ dẫn mà đời sống văn minh của người Atlan tiến rất

nhanh.

Nhưng họ lạ lắm – Sao tiếp lời người anh – Đến hành tinh Lemuria đã mấy trăm

nghìn năm rồi mà họ vẫn sống như người nguyên thủy ấy, tức là trên quê hương mới họ

chẳng xây dựng được cái gì ra hồn. Các tàu vũ trụ của chúng em đã từng bay đến thăm họ

nhưng họ không tiếp. Bằng cách nào đó, hai vị thủ lĩnh của hai hành tinh láng giềng đã

trao đổi với nhau và cuối cùng thủ lĩnh chúng em ra lệnh cấm ngặt tàu vũ trụ của mình

bén mảng đến đó.

Tôi hứa nếu được phép đến thăm Lemuria, tôi sẽ cố hỏi để biết ngọn ngành vì sao hậu

duệ của hai thầy trò lại muốn tuyệt giao với nhau. Rồi tôi xin lại chiếc mũ trên đầu Sao,

bắt chặt tay và ôm lấy hồi lâu từng người một. Sao kín đáo nắm chặt tay tôi, hôn nhẹ lên

má tôi. Tiếng tim đập rộn ràng trong lồng ngực nóng hổi đang êm ái áp chặt vào tôi tố

cáo Sao đang thổn thức, không hề muốn rời xa tôi một chút nào. Đồng thời một mùi thơm

là lạ đầy nữ tính toát ra từ con người Sao, rất quyến rũ và mê hoặc khó quên, đã đọng lại

trong tôi suốt cuộc hành trình tiếp theo. Lúc ấy, tôi chưa nghĩ tới rồi đây mùi hương này

sẽ còn mãi đi với tôi suốt cả cuộc đời. Trong phút chốc, tôi kịp nhận ra bàn tay hai anh

em không hề có màng rõ rệt dính liền các ngón như sách lịch sử đã ghi khi nói về chủng

người Atlan.

Viếng thăm hành tinh P53 – Hành tinh Lemuria

33

Khi con tàu lên cao, màn hình chỉ rõ hành tinh P52 lùi xa, nhỏ dần rồi biến mất. Thái

dương hệ S5 trong đó có ba hành tinh bay trên ba quỹ đạo hiện rõ dần. Tashi hỏi tôi trở

về Trái Đất hay tiếp tục chuyến bay đến thăm hành tinh P53 theo kế hoạch. Tôi đang

lưỡng lự thì Tashi phân tích:

Trở về Trái Đất để làm gì đó rồi quay trở lại sẽ rất lâu, mất nhiều thời gian cho

chuyến bay. Chẳng bằng ta hãy bay thẳng đến hành tinh P53, thăm viếng mấy ngày rồi về

luôn.

Tôi nhất trí. Tashi lái con tàu về phía hành tinh ngoài cùng của thái dương hệ này.

Trên đường bay, Tashi hóm hỉnh nói với tôi:

Kim đang bị hành tinh P52 bỏ bùa mê rồi đấy!

Thật thế sao? – tôi giả vờ cứng rắn trả lời.

Một loại bùa mê êm ái, dịu dàng! Để rồi mình xem liệu Kim có duyên nợ gì ở đấy

không.

Nói rồi Tashi chuyển sang sự việc sắp xảy đến. Không rõ bằng cách nào, Tashi cho

tôi biết cư dân P53 đã biết trước cuộc thăm viếng sắp tới của tôi và đặc biệt căn dặn tôi

giao tiếp với cư dân này phải hết sức thận trọng, hoàn toàn không đơn giản dễ dàng như

với May và Sao trên hành tinh P52. Tôi hỏi khó khăn gì, họ dữ tính lắm sao, Tashi bảo

không phải. Bởi họ có một nền văn minh khác nền văn minh vật chất như trên P52. Nói là

ở hành tinh này, họ phát triển một nền văn minh tâm linh thì chính xác hơn. Chính nhờ họ

giúp đỡ mà sau trận Đại hồng thủy, người Atlan mới có thể xây dựng những công trình

nổi tiếng trên Trái Đất như kim tự tháp đầu nhọn và tượng Nhân sư ở Ai cập, kim tự tháp

đầu bằng ở Mehico, tượng đài trên đảo Phục Sinh ở Chile, cánh đồng đá Stonehange ở

Anh, cùng nhiều kim tự tháp lớn nhỏ khác còn rất nhiều ở Tây Tạng hoặc đã chìm sâu

dưới đáy các đại dương. Trình độ khoa học kỹ thuật của Trái Đất hiện nay không tạo

dựng và chế tác được như vậy.

Trong lịch sử hình thành các chủng tộc của Trái Đất, họ thuộc chủng thứ ba có tên là

Lemuri. Từ xa xưa do thiên tai, một nhóm nhỏ người Lemuri đã rời Trái Đất đến định cư

trên hành tinh P53 từ đó đến nay. Họ đã có tàu vũ trụ và tìm đến hành tinh này trước cả

người Atlan. Có vẻ như họ nhường thuận lợi cho người Atlan, bởi lẽ ở P52, khí hậu điều

hòa, dễ chịu hơn ở P53 nhiều. Có thể do có năng lực tâm linh cao nên họ giỏi chịu đựng

thời tiết khắc nghiệt hơn. Họ có khả năng đặc biệt nhìn thấu suốt con người anh. Áo tàng

hình không che mắt được họ. Họ biết anh đang nghĩ gì. Con mắt thứ ba ấy, đó là cơ quan

cảm nhận của cơ thể con người nằm sâu dưới trán, giữa hai con mắt “trần tục”. Nó giúp

họ nhìn xuyên suốt mọi sinh vật ở dạng tế bào, thậm chí cả dạng phân tử. Cho nên sắp

đến trong thời gian tiếp xúc với họ, Kim phải luôn luôn có ý nghĩ thành thực và trong

sáng. Chỉ cần một ý xấu nhỏ xuất hiện trong đầu, coi như chấm dứt cuộc giao tiếp. Khi

đó, mọi người sẽ đồng lòng tẩy chay anh. Mình nói “không đơn giản dễ dàng” ở đây là

như vậy.

Nghe được những lời khuyên cũng là lời cảnh báo của Tashi, tôi cảm thấy bứt rứt

trong người không yên. Hoãn cuộc thăm viếng này ư? Một ý nghĩ tiêu cực thoáng qua

trong đầu. Tashi biết nhưng không nói gì. Hình như bạn ấy muốn mình tự đấu tranh.

Tashi còn báo cho tôi biết thêm bạn đã phải đánh tín hiệu xin phép trước và vừa nhận

được sự đồng ý chính thức của thủ lĩnh P53. Nếu không sẽ nguy hiểm đến tính mạng, chứ

không phải cứ xồng xộc lao vào lãnh địa người ta mà vẫn không hề hấn gì như ở P52.

Tashi không thể vô hình trước mắt cư dân ở hành tinh này, còn tàng hình bằng chiếc áo

đặc biệt là trò trẻ con đối với họ.

34

Bây giờ tôi phát hoảng thực sự. Hình như điều này làm tiêu tốn nhanh chóng năng

lượng dự trữ trong tôi. Tôi bất chợt thấy đói, thấy khát. Lấy mấy phong bánh để dành

những tưởng sẽ không bao giờ đụng tới, tôi nhai ngấu nghiến. Tôi mắc nghẹn vì không có

nước. Tashi phì cười và đẩy sang tôi chai nước khoáng không biết lấy từ đâu ra.

Rồi cũng đến lúc, trên màn hình con tàu hiện rõ dần hành tinh P53. Từ một chấm nhỏ

xíu, nó lớn dần lên nhanh chóng. Tashi cho tôi biết hành tinh này quay quanh mặt trời của

nó mất 400 ngày, mỗi ngày tính theo giờ của Trái Đất dài 18 giờ. Như vậy một năm của

hành tinh chỉ xấp xỉ 0,91 năm của Trái Đất. Ngày ngắn mà năm cũng ngắn. Cái bất hạnh

của hành tinh này là không hề có một vệ tinh nào, làm cho mỗi khi đêm đến là bầu trời

tối đen như mực.

Chắc chắn mỗi hành tinh xanh đều có ít nhất một vùng phát năng lượng vũ trụ. Tashi

lái vòng quanh P53 ở độ cao cần thiết để vừa tìm kiếm, vừa cho tôi quan sát luôn thể từ

bên trên nhằm có cái nhìn tổng quát. Có thể nhận thấy rõ trên P53, lục địa chiếm phần lớn

diện tích, phần còn lại là biển có lẽ chỉ được một phần ba. Lục địa lại phần lớn là rừng

núi hiểm trở, cây cối rậm rạp, bên dưới ẩn hiện những lâu đài cổ kính trông rất giống

những đền hoặc chùa ở Trái Đất, nằm trong mạng lưới chằng chịt những con đường đất

và các sông ngòi. Còn đồng bằng rất ít. Cảnh quan đầy vẻ hoang sơ nhưng huyền bí. Lẽ

nào một nền văn minh tâm linh không cần đến những công trình vật chất phục vụ nhu cầu

cao nhất của con người? Hay là nền văn minh này lấy sự khổ hạnh làm hạnh phúc? Màn

hình bỗng nhấp nháy kèm theo tiếng rú rít không bình thường. Tashi bảo tôi yên tâm, đó

là tín hiệu do cư dân hành tinh này đã nhận biết khách đang đến và vì cùng đồng loạt

hướng về con tàu, tập trung năng lượng khá lớn làm cho con tàu “hốt hoảng” một chút. À

đây rồi, vùng năng lượng. Những bóng đèn trong buồng máy đồng loạt phát tín hiệu xanh

nhấp nháy. Tashi nói với tôi không rõ đùa hay thật:

Mình đang lo Kim sắp ngất xỉu đến nơi vì nguồn năng lượng dự trữ trong người cạn

kiệt. Dù có bác sĩ Trái đất ở ngay cạnh, cũng không cứu được bạn.

Tôi đáp lại không chút vui vẻ:

Cám ơn.

Không hiểu sao, càng gần đến hành tinh này, cái cảm giác bồn chồn trong tôi càng

dâng cao. Không khéo sau khi con tàu hạ cánh (nói như vậy theo quán tính chứ thật ra

các tàu vũ trụ đâu hề có một cánh nào), tôi không còn đủ sức để tiếp xúc với cư dân hành

tinh này. Và rồi tôi lịm đi, mê man.

Con tàu dừng lại, treo lơ lửng trên vùng phát năng lượng. Một luồng sinh khí mát mẻ

đê mê ào ạt thổi xuyên qua con tàu và hai người chúng tôi. Tôi mơ hồ biết mình đang hồi

sinh, cái cảm giác bứt rứt bất an lui dần, lui dần cuối cùng biến mất. Tashi reo lên chúc

mừng tôi.

Tashi nhận được tín hiệu thủ lĩnh hành tinh mời tôi trực tiếp đến gặp ngài ngay sau

khi con tàu đáp xuống đất. Đồng thời họ cũng cho biết vị trí mà con tàu phải đáp. Tashi

lần này lại cho tôi biết trước một cách úp úp mở mở là phải chuẩn bị tinh thần, đón lấy

những điều ngạc nhiên. Lúc này, tôi chán chẳng buồn gặng hỏi kỹ.

Con tàu bay một lúc nữa trên bầu trời hành tinh rồi nhẹ nhàng hạ xuống. Cửa mở. Tôi

khoác túi quần áo lảo đảo bước xuống trước, trong người vẫn chưa hết bần thần. Tashi đi

liền theo sau.

Ô trời, gì thế này? Điều ngạc nhiên Tashi dành cho tôi là đây sao? Tôi không dám

bước tiếp, đứng như trời trồng tại chỗ. Vây quanh tôi và Tashi là những con người khổng

lồ! Tôi ngước nhìn lên như khi chiêm ngưỡng một ngôi nhà ba tầng. Máy thông dịch cất

35

tiếng dịch lời của một người nào đó mà tôi chưa định hướng được. Đó là lời chào mừng

hai khách đến thăm Lemuria, hành tinh của chủng người Lemuri sinh sống.

Sau đó, một người ngồi xổm đưa bàn tay rất to xoè ra bảo tôi leo lên lòng bàn tay để

ông ta đưa đến gặp thủ lĩnh. Tôi bỗng nhớ đến truyện Gulliver du ký mà tôi đã đọc say

sưa hồi còn nhỏ, trong đó có đoạn mô tả tác giả đến thăm vương quốc của những người tý

hon và những người khổng lồ. Tôi và Tashi cao chưa đến mét bảy, còn họ vẫn cứ cao

mười tám mét như lịch sử đã ghi chứ không hề nhỏ lại chút nào để nhằm tiết kiệm năng

lượng dinh dưỡng như May đã nói trên hành tinh P52 mặc dù đã trải qua hàng triệu

năm rời xa Trái Đất. Nếu con người khổng lồ này cao bằng tôi thì tôi sẽ cao đúng bằng

người tý hon của xứ sở Lilliput, tức là 15 cm.

Tashi cáo từ và trước khi trở lại con tàu, dặn nhỏ tôi “Dĩ bất biến, ứng vạn biến”. Tôi

thầm phục Tashi tế nhị, tìm được ở nguồn thông tin của Trái Đất câu nói rất đắt để

khuyên tôi lúc này. Tôi nói lời cám ơn và hứa sẽ bình tĩnh trong mọi tình huống. Tôi nghĩ

khó khăn này có thể giống như khó khăn mà những người Việt ta đi sứ sang Tàu xưa kia.

Tôi leo lên lòng bàn tay người khổng lồ, ngồi xuống với cảm giác như ở trên chiếc

nệm giường đàn hồi nhưng thô ráp nhìn thấy rõ dấu vân tay, hơi choáng vì độ cao và vì

lòng bàn tay mong manh chỉ rộng một mét và một mét hai không kể các ngón. Với bước

sải dài của người mang tôi, tôi có cảm giác chòng chành như khi tọa lạc trên bành voi.

Tôi tưởng tượng giả dụ người mang tôi vấp ngã thì sao nhỉ? Nếu ở cảnh ngộ tôi, Tashi sẽ

không hề gì, nhưng tôi thì.... Hoặc là thoát ra khỏi bàn tay để rồi rơi từ độ cao mười lăm

mét xuống đất. Hoặc bị bẹp dí trong lòng bàn tay nắm chặt. Đằng nào tôi cũng bỏ xác!

Hình như con người mang tôi biết được ý nghĩ lo sợ đó nên đi chậm lại, có vẻ thận trọng

hơn trước nhưng hoàn toàn không nói gì. Có tiếng khục khục phát ra ở bên trên và tôi

đoán là tiếng cười cố nén trong cổ họng ông ta.

Lúc này gió thổi rất mạnh và cành lá lao xao. Cũng như người, cây cối ở đây to và

cao ngất trời. Chim chóc có vẻ không lớn lắm, ríu rít bay loạn xạ và hót líu lo. Bầu trời

trong xanh với những áng mây trắng tinh bay lang thang. Đến trước một tòa cung điện

lộng lẫy nhưng cổ kính được bao quanh bởi một rừng cây xanh um tùm, con người mang

tôi đưa bàn tay kia ra ôm gọn lấy tôi và đặt xuống đất. Những người đi theo dừng lại từ

xa. Lúc này đây tôi mới nhìn kỹ, thấy họ toàn mặc quần áo trắng bằng vải thô, còn tạng

người hao hao giống dân da đen Châu Phi của Trái Đất nhưng nước da không đến nỗi đen

nhiều như người dân một số nước ở đó. Tiếng nói ồ ồ cất lên từ người dẫn đường mời tôi

đi theo ông ta. Nói rồi, ông ta đi trước, tôi lẽo đẽo theo sau. Những người dừng lại chắc

chắn buồn cười khi nhìn thấy cái cảnh một con người nhỏ bé là tôi chỉ cao bằng một phần

tư cẳng chân tức là tính từ bàn chân đến đầu gối của người đi trước, đang lon ton hối hả

chạy theo sau bước chân sải dài thong thả của ông ta.

Khí hậu ở đây khá lạnh nhưng do chạy, người tôi nóng bừng lên, thở gấp gáp. Khi

gặp bậc cửa cao quá, tôi đành dừng lại. Người dẫn đường ngoái nhìn, đưa tay ôm lấy tôi

chuyển lên. Qua một khoảng sân rất rộng, đến trước các bậc thềm cao, tôi lại được người

dẫn đường ôm lấy và cuối cùng đặt tôi đứng trong một căn phòng rộng thênh thang, sàn

lót toàn gỗ phẳng phiu và được trang trí rất đẹp. Giữa phòng là chiếc bàn và hai dãy ghế

tựa khổng lồ mà tôi không thể leo lên được. Tôi đảo mắt tìm một chiếc ngai vàng vì trong

tâm tưởng cứ đinh ninh thế nào thủ lĩnh cũng sẽ ngồi lên đó tiếp tôi. Nhưng không, rẽ

tấm màn nhung đồ sộ, một con người ăn mặc giản dị cũng trong bộ quần áo trắng bằng

vải thô bước ra. Người dẫn đường nói với tôi đó là thủ lĩnh của hành tinh. Tôi cất tiếng

chào trước:

Chào thủ lĩnh ạ.

36

Bấy giờ thủ lĩnh mới cất tiếng nói to:

Chào vị khách bé nhỏ ở xứ sở Trái Đất đến thăm. Hân hạnh quá!

Đoạn ông bảo người dẫn đường của tôi:

Cay, hãy đặt vị khách bé nhỏ này lên bàn và chúng ta ngồi trò chuyện một lúc.

Bây giờ, tôi mới biết người dẫn đường tên Cay. Hắn đưa bàn tay to bè ôm lấy tôi như

ôm một con mèo ốm rồi đặt tôi lên bàn. Thủ lĩnh ngồi đầu bàn, còn Cay ngồi cạnh bàn sát

bên tôi. Tôi vẫn đứng và nghiêng mình chào thủ lĩnh. Ông cười hề hề:

Chúng ta đối xử với nhau như những người bạn, không phải quan cách. Cho ta

được gọi ngươi là “cháu” và ngươi cứ gọi ta bằng “ông” nếu muốn?

Tôi dè dặt trả lời:

Thưa, tùy thủ lĩnh ạ. Ở quê cháu, xưng hô ông cháu khi nào rất thân mật.

Chính ta muốn “thân mật “ với cháu. Tên cháu là gì? Người nước nào và đang làm

gì trên Trái Đất?

Thưa cháu tên Kim ở Việt Nam, một nước nằm trong lục địa Châu Á. Cháu đang

làm việc tại một viện nghiên cứu về Vật lý.

Tốt. Cháu đến đây nhằm mục đích gì?

Dạ thưa, theo gợi ý của những người bạn ở hành tinh P16 trong thái dương hệ S1,

Viện cử cháu đi tìm hiểu nền văn minh hiện nay của hai hành tinh có người gốc xa xưa

trên Trái Đất tên là Atlan và Lemuri. Cháu đã đến Atlantis, hành tinh của hậu duệ người

Atlan rồi. Nay được phép của thủ lĩnh, cháu đến đây.

Thú vị thay! Hậu duệ của ba chủng Lemuri, Atlan và Aryen có cùng chiếc nôi là

Trái Đất ngày nay tìm đến gặp nhau. Ta thay mặt cư dân hành tinh Lemuria xin cám ơn

cháu. Ta có biết hành tinh P16. Họ thuộc chủng người gần giống như chủng thứ hai xuất

hiện trên Trái Đất, có dạng hình nhưng không để cho người Atlan và người Aryen nhìn

thấy. Họ rất hiền lành và thông minh. Hiện nay họ đạt tới đỉnh cao của nền văn minh loài

người trong vũ trụ.

Dạ thưa, người Atlan cũng rất thông minh. Nền văn minh của họ theo cháu đã đạt

đỉnh cao. Cháu tìm thấy trên đấy, cư dân đang sống trong hòa bình và hạnh phúc. Còn

Trái Đất hiện nay? Chán lắm ạ.

Ta có biết điều gì đang xảy ra trên Trái Đất hiện nay. Chúng ta sẽ quay lại chuyện

này sau. À, Kim cho ta hỏi, năm nay cháu bao nhiêu tuổi rồi?

Cháu đã 26 tuổi rồi ạ.

Tuổi cháu bằng tuổi của Cay đó. Cay, ta muốn hai đứa kết bạn với nhau và từ hôm

nay, ngươi hãy bảo vệ chăm sóc người bạn tý hon này, hướng dẫn bạn đi thăm hành tinh

và trò chuyện, giải đáp những thắc mắc của nó. Điều gì ngươi không trả lời được, hãy hỏi

lại ta.

Vâng ạ.

Thôi hai đứa đi đi.

Chào thủ lĩnh – Cay nói.

Cháu xin chào tạm biệt thủ lĩnh – tôi tiếp lời.

Ừ!

Cay bắt tôi lần này bỏ lọt thỏm vào túi, bước ra khỏi cung điện của thủ lĩnh. Tiếng

Cay ồm ồm:

Bạn sẽ về ở nhà mình. Nhà chật chội vì đông người nhưng với bạn thì nó còn rộng

chán! Thế này nhé. Trong buồng mình, có một cái giường và một cái bàn. Đến tối, nếu

bạn nằm cùng giường với mình, mình ngủ mê không biết sẽ đè bạn chết mất. Chẳng bằng

37

ta để bạn nằm trong ngăn kéo bàn, có lót khăn êm ái và ấm áp để bạn nằm. Ban ngày ta sẽ

để bạn ngồi trên bàn trò chuyện hoặc mang bạn đi chơi đâu đó. Được chứ?

Vâng, không còn cách nào hay hơn.

Trong hoàn cảnh này, tôi đành phải chấp nhận cách ấy. Trong đầu tôi tự nhiên xuất

hiện thắc mắc. Gọi là đạt tới đỉnh cao văn minh nhưng sao cuộc sống vật chất ở đây đơn

giản đến như vậy? Tôi bỗng nghe tiếng lao xao của nhiều người. Rồi một giọng nữ cất

lên:

Cay con, thủ lĩnh bảo con làm gì?

Thưa mẹ, thủ lĩnh giao trách nhiệm cho con chăm sóc và trò chuyện cùng con người

tý hon vừa đáp xuống hành tinh sáng nay. Xin mời mọi người vào nhà.

Cay nhón lấy tôi ra khỏi túi và đặt tôi lên bàn. Cùng với Cay, bốn con người khổng lồ

đứng vây quanh đó. Có hai em bé, một trai một gái. Tôi nhận ra chúng bởi những bộ mặt

bụ sữa, nhưng vóc dáng thì không bé chút nào. Chúng cao ước chừng trên dưới mười

mét. Hai đứa bé rất hoan hỷ khi nhìn thấy tôi. Có lẽ chúng xem tôi như một con búp bê

sống. Còn hai ông bà già, tôi đoán là bố và mẹ của Cay thì trố mắt ngạc nhiên, nghe nói

có người Trái Đất đến nhưng chưa hình dung ra sao, bây giờ mới nhìn thấy tận mắt. Cay

đưa tay giới thiệu:

Đây là bố và mẹ mình. Còn hai đứa nhỏ là em của mình.

Xin chào hai bác. Xin chào... hai em – tôi nghiêng mình nói.

Ông bố tỏ ra ngạc nhiên thực sự:

Anh ấy cỡ tuổi bao nhiêu? Biết tiếng người mình à?

Anh ấy bằng tuổi con. Nhờ có máy thông dịch, anh ấy nói tiếng anh ấy, mình nói

tiếng mình nhưng chúng ta vẫn hiểu nhau.

Bà mẹ vỡ lẽ:

Thế a! Này anh kia, tên anh là gì?

Cháu tên Kim ạ.

Anh Kim ơi, – bấy giờ nhỏ gái mới mạnh dạn lên tiếng – anh ở lại nhà chúng em

nhé.

Kìa Mai, anh ấy đến đây để làm việc với anh, với thủ lĩnh chứ không phải để chơi

với các em đâu. Anh ấy là người lớn đó.

Bà mẹ bảo con gái:

Mai con, bây giờ đã trưa rồi, xuống bếp mang thức ăn lên đây cho cả nhà cùng ăn

với khách.

Đoạn bà quay sang tôi nói:

Cháu bằng tuổi Cay, nên cả nhà sẽ coi cháu như con trong nhà. Cứ ăn uống và sinh

hoạt tự nhiên như người nhà, đừng khách sáo nghe.

Tôi từ tốn đáp lời:

Vâng. Cháu xin cám ơn hai bác.

Mai bê lên một đĩa trái cây to tướng, theo sau là cậu em mang một khay đựng năm

cốc nước đục màu trái cây. Tôi không rõ trái cây gì nhưng trái nào cũng rất to và đủ màu

sắc đỏ, hồng, vàng, xanh, trắng bốc mùi thơm lừng. Các cốc nước cao gần bằng tôi, mỗi

cốc chứa có đến hơn mươi lít. Cậu em út tên Hay, hết nhìn tôi lại đưa mắt nhìn đĩa trái

cây và các cốc nước, biết rằng tôi không thể làm gì được với mấy thứ này, chạy ù xuống

bếp mang lên một con dao phay to tướng và một chiếc cốc nhỏ dạng như chiếc ly uống

rượu khai vị nhưng dung tích đến phải một lít. Cay cầm dao bổ nhỏ một vài trái đặt trước

38

mặt tôi trong lúc bé bự Mai rót từ cốc một ít nước ra ly. Người bố có vẻ hiền từ ít nói bây

giờ mới lên tiếng:

Bữa ăn đạm bạc. Mời cháu Kim và cả nhà.

Tôi cầm lấy những mẩu trái cây đã cắt cố ăn cho hết, nên không còn đủ chỗ trong dạ

dày để uống thêm nước. Trái cây rất ngon, giá được phép mang hạt giống về Trái Đất

trồng thì hay biết mấy. Còn nước, sau này uống tôi mới biết nó là một thứ nước dinh

dưỡng đủ vị thơm, ngon được pha chế công phu. Ăn xong, tôi nói lời cám ơn. Cả nhà

không ai nài ép tôi ăn thêm theo kiểu ở Trái Đất khi có khách dùng bữa. Chắc họ nghĩ

mình nhỏ con nên không thể ăn nhiều. Cũng có thể họ quen đối xử thành thật nên không

muốn nói lên những lời khách sáo.

Rồi đến bữa chiều hôm đó và các bữa ăn của những ngày sau vẫn chỉ có hai món: trái

cây và nước dinh dưỡng. Tôi cười thầm trong bụng về việc so sánh hai hành tinh láng

giềng giống hệt nhau về tính đơn điệu trong các bữa ăn nhưng khác nhau ở chỗ một bên

là hoàn toàn thiên nhiên, một bên là nhân tạo. Tôi chợt nhớ ở Trái Đất, có một nhà động

vật học nào đó khi nghiên cứu chiều dài ruột già ruột non của những động vật ăn thịt và

động vật ăn cỏ, thấy rằng ở động vật ăn thịt ruột ngắn, ở động vật ăn cỏ ruột dài. Người

có ruột dài phải là động vật ăn cỏ mới đúng. Người ở hai hành tinh văn minh này chắc

hẳn chỉ cần bộ ruột rất ngắn.

Chưa kịp để đến lúc chán ăn mới nói như trên hành tinh Atlantis, tôi thổ lộ cho Cay

biết là tôi không cần ăn uống vẫn sống được. Mấy bữa ăn vừa qua, vì tò mò và để chiều

lòng hai bác, tôi nếm thử nhiều đến mức gần bội thực. Nhưng được cái trái cây mau tiêu,

nên tôi không hề hấn gì. Rõ ràng là Cay rất ngạc nhiên nhưng ngại chưa tiện hỏi lại.

Buổi chiều đầu tiên và các ngày hôm sau, Cay đưa tôi dạo khắp nơi. Hành tinh đương

nhiên rộng lớn nhưng Cay bảo không cần đi nhiều, chỉ vùng này đủ đại diện cho cả hành

tinh. Điều đập vào mắt tôi trước tiên là nhà nào cũng có những vườn rộng sum suê đủ

loại cây trái. Hoàn toàn không có những cánh đồng lúa mì, lúa mạch, lúa gạo như ở Trái

Đất. Chăn nuôi cũng không. Tôi thắc mắc, Cay bảo đã từ lâu loài người trên hành tinh

này chỉ ăn trái cây, uống nước dinh dưỡng tự pha chế cũng từ trái cây để sống. Tôi hỏi

không chán sao. Cay trố mắt ngạc nhiên không hiểu tại sao lại chán những bữa ăn ngon

lành và bổ dưỡng như vậy. Ngay từ khi còn bú mẹ, Cay đã biết uống nước trái cây rồi.

Rồi lớn lên, cũng ăn trái cây, có sao đâu. Tôi nói ở Trái Đất hiện nay bữa ăn phong phú

lắm. Nào thịt, nào cá, nào bột, nào rau. Thịt, cá, bột, rau, thứ nào cũng đầy đủ chủng loại.

Trái cây chỉ ăn đệm sau bữa chính. Cay hỏi lại tôi:

Những thứ đó ở đâu ra?

Trước đây lấy từ thiên nhiên, bây giờ nuôi trồng là chính. Giả dụ thịt có thịt bò, thịt

lợn, thịt cừu, thịt dê, thịt gà, thịt vịt....Cá có nhiều giống loài đánh bắt từ biển hoặc từ

sông, tự nuôi ít thôi. Bột lấy từ hạt của các loại cây lúa và từ các loại củ. Cây, củ, rau là

do con người tự trồng là chính.

Muốn có thịt phải giết các con thú ư?

Vâng.

Trời ơi, thế thì ác quá!

Tại sao?

Ở hành tinh chúng mình, từ rất lâu đã có luật cấm giết hại thú vật dưới mọi hình

thức dẫu có vì mục đích gì. Sát sinh là một tội lỗi.

Tôi ngạc nhiên tột độ. Nhà cửa tuềnh toàng. Ban đêm tối tăm không đèn, nến. Ăn

uống kham khổ theo kiểu tu hành. Tôi hỏi Cay:

Ở hành tinh này, mọi người theo đạo gì?

39

Nghĩa là sao?

Là theo một tôn giáo nào đó mà có một vị tối cao được phụng thờ thành kính có tên

là Thánh hay Phật hay Thượng đế chẳng hạn.

Ở đây không hề có chuyện đó.

Tôi tự hỏi vậy thì nền văn minh ở đây dựa vào cái gì? Chả trách ở Atlantis, Sao đã

bảo người Lemuri sống theo mẫu người nguyên thủy. Xây dựng một xã hội hạnh phúc

trong hòa bình, đương nhiên không có hạnh phúc trong chiến tranh, cần hai mặt: về tinh

thần hoàn toàn trung thực, trong sáng, tình thương yêu đồng loại kể cả khác loài được

nâng lên mức tuyệt đối, còn về vật chất là phải đáp ứng tối đa mọi nhu cầu lành mạnh của

con người. Phương thức này, người Atlan đã thực hiện được. Còn người Lemuri, điều thứ

nhất làm được, còn điều thứ hai có vẻ ngược với người Atlan, con người muốn đạt hạnh

phúc phải giảm thiểu nhu cầu vật chất. Ở Trái Đất, tôi đã thấy điều này ở những nhà tu

khổ hạnh. Nhận định này tôi chưa dám thổ lộ với Cay, bởi vì tôi chưa biết Cay đã đạt đến

trình độ học vấn nào.

Trong ngày thứ hai thăm thú các công trình xây dựng có dáng vẻ bên ngoài tựa chùa

chiềng đền miếu, tôi hỏi Cay trong đó có gì và dùng để làm gì. Cay bảo không có gì

ngoài vài chiếc bàn ghế và sân khấu làm nơi hội họp bàn chuyện quản lý xã hội hoặc

dùng làm lớp học cho các lứa tuổi trên hành tinh. Tôi ngỏ ý muốn tham dự một lớp học

để xem hành tinh tổ chức dạy như thế nào và học những gì. Cay hỏi tôi:

Kim xem cho biết hay muốn học?

Câu hỏi hơi bất ngờ với tôi. Ý tôi đương nhiên là muốn xem cho biết, nhưng không

hiểu sao, tôi lại nói khác:

Mình muốn học có được không?

Được, nhưng lớp học này đặc biệt chỉ có mình Kim thôi. Bởi vì nếu bắt đầu từ đầu,

Kim phải học cùng với bọn trẻ năm bảy tuổi, e chẳng ra cái thể thống gì. Bọn trẻ thấy

Kim trong vóc dáng nhỏ bé sẽ không còn tâm trí đâu để tập trung học. Còn Kim đã là

người lớn nên mức tiếp thu nhất định nhanh hơn bọn trẻ.

Chỉ mấy ngày thăm thú ở đây sao? Cay biết đấy, mình không thể ở đây lâu.

Để xem sao.

Thế là ngay buổi sáng ngày thứ hai của cuộc thăm viếng, Cay đưa tôi vào một một

khu rừng cạnh đấy, tìm bãi trống dạy tôi học. Cay bảo đầu tiên, tôi phải được khai mở hết

các luân xa mới có thể hấp thu tri thức và quyền năng. Đó là những huyệt đạo giống cái

bánh xe quay tít với tốc độ cao nên gọi là luân xa và có bảy cái tất cả. Vị trí các luân xa

trên cơ thể như sau. Luân xa 1 nằm giữa bộ phận sinh dục và hậu môn, là điểm của thần

kinh hạ vị. Luân xa 2 ở chót cột xương sống. Luân xa 3 nằm tại xương sống, ngang đan

điền, dưới rốn. Luân xa 4 nằm tại xương sống, ngang quả tim. Luân xa 5 nằm giữa hai bờ

vai, ngay sau gáy. Luân xa 6 nằm giữa trán và luân xa 7 nằm ngay nơi đỉnh đầu. Bảy luân

xa là bảy địa điểm thần kinh chỉ huy hoạt động toàn cơ thể. Nếu kích thích các điểm thần

kinh đó chạy tốt thì khí huyết sẽ thông suốt, con người sẽ thư thới, trí óc sẽ minh mẫn,

biết điều hay lẽ phải, biết thương yêu mọi người. Luân xa 1 và 2 nếu luyện tập tốt sẽ giúp

cho hậu môn và bộ phận sinh dục hoạt động tốt. Luân xa 3 điều khiển hoạt động của bộ

máy tiêu hóa, gan, lá lách, tụy tạng, bộ máy bài tiết, thận. Luân xa 4 điều khiển hoạt động

tim, bộ máy tuần hoàn. Luân xa 5 điều khiển bộ máy hô hấp mũi, phổi, cuống họng, da.

Luân xa 6 và 7 là hai luân xa quan trọng bậc nhất, là trung tâm cao nhất, sáng suốt nhất.

Chúng điều khiển tất cả, duy trì nòi giống, sự ăn uống, bài tiết, sản xuất ra tinh huyết,

điều khiển cả tim phổi và các hoạt động về khí. Nếu ta khai mở tốt luân xa 5 còn gọi là

thiên nhĩ, chúng ta sẽ nghe được tiếng nói vô thinh, tiếng nói của những linh hồn, cây cỏ

40

và vũ trụ. Nếu ta khai mở tốt luân xa 6 còn gọi là thiên nhãn, chúng ta sẽ nhìn thấy được

những cái mà hai con mắt trần tục không nhìn thấy. Cay bảo sau này, nên thường xuyên

ngồi thiền tịnh tâm. Mỗi lần như vậy, năng lượng vũ trụ sẽ thâm nhập theo luân xa 7 lan

khắp cơ thể, làm cho ta mạnh khoẻ, minh mẫn hơn. Còn muốn lục lọi ý nghĩ của người

khác hay trao đổi ý nghĩ với ai, ta dùng luân xa 6, kể cả khi thực hiện một quyền năng

nào đó.

Mỗi lần lên lớp, hai thầy trò Cay và tôi cùng ngồi xếp hai chân chéo nhau theo

kiểu kiết già, hai bàn tay đặt ngửa trên hai đầu gối, mắt nhắm lại và cố tập trung để cho

đầu óc trống rỗng, thanh thoát. Thế rồi, tôi chìm vào trong trạng thái lơ mơ. Có cảm giác

như những luồng sinh khí từ bên trên ào ạt từng đợt từng đợt giội qua người tôi. Không

hề có một lời thuyết giảng nào kể cả dưới dạng ý nghĩ. Buổi học kéo dài chỉ chừng một

tiếng đồng hồ. Cay bảo dù lớp học ở trình độ nào, thời gian chỉ được bấy nhiêu vì cơ thể

không thể chịu đựng nổi. Quá mức sẽ phản tác dụng, ảnh hưởng xấu đến thể xác. Buổi

chiều cũng vậy, một tiếng đồng hồ. Rồi các ngày hôm sau, hôm sau nữa, Cay dành cho

tôi đều đều mỗi buổi một giờ để dạy tôi học. Ngay tối ngày thứ ba, kết quả đã đến ngay

với tôi. Dù ban đêm không đèn đóm, dù nhắm mắt hay mở mắt, tôi vẫn nhìn thấy rõ mọi

vật xung quanh như thể ban ngày. A, hóa ra hành tinh ban đêm không cần đèn đóm là

như vậy. Trở lại đời sống nguyên thủy? Đúng, nhưng ở mức độ văn minh cao gấp bội.

Sang ngày thứ tư, sau buổi học Cay bảo tôi bây giờ không cần đi đâu theo kiểu “mèo con

bỏ túi” nữa. Hãy đứng yên, chuyển ý nghĩ tập trung vào sự di chuyển. Thế là hai chúng

tôi nhẹ nhàng bốc người lên cao. Ở độ cao vừa đủ tầm vượt qua khỏi các ngọn cây, Cay

“bay” trước, tôi bén gót theo sau. Tiếng Cay nói lào phào trong gió nhưng tôi vẫn nghe rõ

nhờ chiếc máy thông dịch:

Thủ lĩnh muốn gặp chúng ta sáng nay và chúng ta đến đó luôn.

Sau đó không mấy chốc, hai chúng tôi có mặt ngay trong sảnh của dinh thủ lĩnh. Thủ

lĩnh đã ngồi sẵn tại chỗ ngồi quen thuộc tự bao giờ. Cay chào thủ lĩnh và xin phép ngồi

lên ghế bên cạnh mặc cho tôi đứng chết trân dưới sàn, không thèm đoái hoài đến. Bấy

giờ, không hề trách móc Cay một lời, thủ lĩnh mới lên tiếng:

Kim, hãy bay lên đây đi cháu. Cháu làm được điều này mà!

Tôi sực nhớ ra là mình đã biết bay, thế là tôi tập trung ý chí... rồi nhẹ nhàng vút lên

bàn, đến đứng trước mặt thủ lĩnh nghiêng mình:

Cháu xin chào thủ lĩnh ạ!

Thủ lĩnh bấy giờ mới cất tiếng:

Cay có hỏi ta về việc dạy cháu học. Lúc đầu ta hơi phân vân là thời gian cháu ở đây

ít quá, sợ không có kết quả. Thế là mỗi lần dạy cháu, Cay được ta phụ giúp. Ta không

ngờ cháu tiếp thu rất nhanh. Có lẽ vì con người cháu tinh khiết, tâm hồn cháu trong sáng

nên mới tiến bộ mau như vậy. Ngay chiều nay, Cay sẽ đưa cháu đến học ở một người

thầy khác già hơn Cay và tất nhiên phải giỏi hơn Cay. Cay sẽ cùng học với cháu nhưng ở

mức độ tiếp thu cao hơn cháu.

Cháu xin cám ơn thủ lĩnh.

Cay còn cho ta biết cháu không ăn gì mà vẫn không đói, đúng vậy chứ? Ở hành tinh

này, mọi người ăn rất ít so với thể trọng nhưng vẫn khoẻ mạnh, ta nghĩ thế là tốt. Nhưng

cháu còn vượt qua chúng ta, không thèm ăn mới lạ chứ!

Thưa thủ lĩnh, không có gì lạ đâu ạ. Chẳng qua là...

Này, hãy gượm. Cay, ngươi có biết vì sao không?

Thưa thủ lĩnh, cháu chưa hỏi Kim ạ.

Thủ lĩnh mỉm cười:

41

Vừa rồi ta lục tìm trong đầu Kim...Cháu tha lỗi cho ta nhé, ta biết rằng ở hành tinh

này có một nguồn năng lượng vũ trụ vô tận. Thế là ta đã hiểu vì sao trước khi đáp xuống,

con tàu của hai vị đã dừng khá lâu ở một nơi mà ta không đoán được để làm gì. Bây giờ

ta mới vỡ lẽ.

Cay ngạc nhiên thực sự:

Có chuyện thế a Kim?

Vâng. Nhân đây, cháu và thay mặt cho cả Tashi xin lỗi thủ lĩnh vì đã... tự tiện sử

dụng năng lượng của hành tinh mà không xin phép.

Rõ hay! Chúng ta sở hữu một cái kho quý như vậy mà lâu nay không biết – thủ lĩnh

vừa nói, vừa nhìn Cay.

Tôi điềm tĩnh nói thêm:

Ở Atlantis, chúng cháu có phát hiện một vùng phát năng lượng vũ trụ và cũng đã

báo cho hai bạn cháu ở đó biết.

Đột nhiên, thủ lĩnh quay sang Cay:

Cay, ngươi hãy báo giúp ta mời gấp các nghị sĩ hai giờ chiều nay đến dinh họp bàn

chuyện đại sự.

Tôi biết chuyện đại sự là gì rồi. Sắp tới, thủ lĩnh sẽ huy động mọi người cùng khai

thác triệt để năng lượng trời cho này.

Cay nói vâng và đi vào bên trong. Sau này, Cay cho tôi biết trong khuôn viên dinh thủ

lĩnh có một căn phòng đặc biệt, không có máy móc gì, hoàn toàn trống rỗng. Nhưng ở đó,

bao nhiêu kênh từ các dinh thủ lĩnh bang đều mở thường trực về đó. Chỉ cần có tin báo

nói lên trong phòng ấy là mọi nghị sĩ đồng thời cũng là thủ lĩnh bang biết ngay.

Trước khi tạm biệt, thủ lĩnh mời tôi cùng dự buổi gặp mặt chiều

nay luôn thể. Tôi hơi do dự vì thấy mình không xứng đáng nhưng thủ lĩnh biết ý trấn an:

Cháu hiện nay là khách đồng thời cũng là nhân vật quan trọng có ảnh hưởng to lớn

đến đời sống hành tinh Lemuria trong tương lai đó. Ta sẽ giới thiệu cháu với mọi người

và mọi người sẽ nhiệt thành nghe cháu nói. Đừng mặc cảm về vóc dáng nhỏ bé của mình.

Cám ơn thủ lĩnh. Cháu xin vâng.

Chúng tôi nói lời tạm biệt thủ lĩnh. Trong khi cùng đi bộ ra khỏi sảnh đường, tôi nói

thầm qua máy thông dịch báo cho Tashi biết ý định tặng hành tinh P53 vùng phát năng

lượng vũ trụ. Không chút chần chừ, Tashi đồng ý ngay. Tôi nói lại lần này không phải

tặng đâu mà là bàn giao đấy. Sở hữu của người ta sao gọi là tặng được. Tashi xác nhận lại

một lần nữa bằng câu nói của người Trái Đất “Của Caezar phải trả lại cho Caezar thôi!”

Thế rồi tôi và Cay cùng bay về nhà. Tôi vào thẳng buồng của Cay, nhờ Cay kéo ngăn bàn

để tôi chui vào đấy nghỉ sớm. Tôi cũng nhờ Cay xin lỗi gia đình không tham gia bữa trưa,

nói là tôi không đói.

Buổi chiều, Cay kéo ngăn bàn đánh thức tôi dậy. Tôi ngủ say quá. Chính nhờ vậy mà

khi đã tỉnh giấc, tôi cảm thấy trong người khoan khoái lạ thường. Tôi và Cay lại cùng bay

về nhà ông thầy mà thủ lĩnh nói đến khi sáng. Ông đã được báo trước và niềm nở đón tôi

và Cay ngay trước cửa. Cay ôm gọn tôi vào lòng bàn tay, nhấc lên đi theo thầy vào thư

phòng. Tôi lên tiếng trước:

Con xin chào thầy. Con tên là Kim, đến đây từ một hành tinh gọi là Trái Đất, xin

nhờ được thầy chỉ giáo.

Không dám. Còn ta tên là Hơn, nguyên trước đây là nghị sĩ trông coi bang này. Bây

giờ ta đã lớn tuổi vượt quá tiêu chuẩn thủ lĩnh bang.

Đến lượt Cay nói:

Con được thủ lĩnh hành tinh phái con đưa Kim cùng đến ...

42

Thầy Hơn ngắt lời:

Ừ, ta biết nhiệm vụ của ta rồi, con khỏi nói.

Rồi thầy Hơn chìa tay mời chúng tôi bắt đầu. Phòng khá rộng, đương nhiên là rộng

đối với tôi. Sàn nhà sạch sẽ bóng loáng nhìn thấy cả đường vân gỗ tự nhiên. Trong

phòng, bàn ghế tuy có ở phía góc nhưng không dùng tới. Thầy ngồi ngay giữa phòng trên

sàn nhà theo lối kiết già. Cay và tôi cùng làm theo. Thầy lên tiếng:

Nào, ta bắt đầu!

Một không khí im lặng bao trùm cả gian phòng. Ngoài kia, gió lao xao như đang đùa

cùng cây lá. Chim hót líu lo. Tôi nhắm mắt lại, sau đó lặng người đi, không còn nghe một

tiếng động nào nữa. Cái cảm giác tràn ngập toàn thân bởi một luồng sinh khí trong lành

lại đến với tôi.

Hết giờ. Thầy Hơn lên tiếng:

Chào các con. Sáng mai chúng ta gặp lại. Hãy đi cho kịp giờ họp của Hội đồng

hành tinh.

Xin chào thầy ạ!

Tôi và Cay cùng lên tiếng, nghiêng mình chào thầy. Cay bảo tôi tập trung ý nghĩ và

rồi cả hai đứa cùng nâng mình bay đi. Ngoái nhìn lại, tôi còn thấy thầy ngước mặt trông

theo mỉm cười.

Đến dinh thủ lĩnh. Cay không hề hạ xuống, dẫn tôi tới một căn nhà khác cũng trong

khuôn viên của dinh, rất to và rộng. Đó là hội trường hành tinh, dùng cho những cuộc

họp long trọng bàn chuyện đại sự. Tôi thấy rất đông những người đã tụ hội về đây. Có

nhiều người đang bay đến như tôi và Cay. Cảnh bay tấp nập của những “người chim”

khổng lồ. Trang phục màu trắng bằng vải thô ai cũng như ai, không hề có nét gì phân biệt

đẳng cấp, người trên kẻ dưới. Khi đã xuống đất, Cay ôm lấy tôi bước những sải dài và đặt

tôi lên một chiếc bàn con trên sân khấu. Nói bàn con là khi so sánh nó với chiếc bàn họp

ở dinh thủ lĩnh, còn với tôi nó là cả một cái sân bóng rổ. Sau bàn, chiếc ghế còn bỏ trống.

Cay chào tạm biệt tôi và hứa sẽ đến đón tôi sau cuộc họp. Mọi người bên dưới lao xao

nhộn nhịp tìm chỗ ngồi. Hình như chưa có ai nhìn thấy một sinh vật bé nhỏ dạng người là

tôi đang thu mình trên mặt bàn rộng lớn trên sân khấu.

Đúng giờ, thủ lĩnh hành tinh từ phía sau bước tới đứng trước ghế. Mọi người bên

dưới đồng loạt đứng dậy nghiêng mình chào thủ lĩnh. Thủ lĩnh đưa tay mời mọi người

ngồi xuống và dõng dạc:

Hôm nay cuộc họp bất thường bàn chuyện đại sự có tầm ảnh hưởng lớn của hành

tinh trong thời gian tới. Đến dự, có người khách tý hon này – thủ lĩnh chỉ vào tôi – là

người của Trái Đất vừa mới đến cách đây mấy hôm.

Mọi con mắt bên dưới hội trường đổ dồn về phía tôi, gây cho tôi một cảm giác bồn

chồn bất an. Thủ lĩnh bất chợt im lặng, có lẽ đã cảm nhận điều này nên nhìn tôi trân trân

trong giây phút. Tôi cảm thấy mình bình tĩnh trở lại. Rồi thủ lĩnh nhìn trở xuống bên

dưới, tiếp tục:

Về người khách đến thăm, các ông đã biết. Nhưng các ông chưa biết điều mà người

khách mang lại cũng là đề tài chúng ta sắp bàn thảo hôm nay. Hành tinh chúng ta từ lâu

đã có một vùng phát năng lượng vũ trụ dồi dào và vô tận.

Nhiều tiếng lao xao bên dưới tỏ vẻ ngạc nhiên, thích thú. Thủ lĩnh đưa tay ra dấu im

lặng, nói tiếp:

Nơi đó, con tàu vũ trụ của khách đã phát hiện ra. Nó là sở hữu chung của chúng ta

và sẽ được bàn giao nay mai, có phải thế không cháu? – ông hạ giọng nói nhỏ với tôi.

Tôi nhỏ nhẹ:

43

Thưa vâng và nói thêm rằng người bạn hành tinh P16 cũng đã có ý định này,

nhất trí với đề nghị mới đây của cháu. Nó nằm trên hành tinh Lemuria và người Lemuri

đương nhiên là chủ nhân đích thực.

Thủ lĩnh tiếp lời:

Vài hôm nữa, chúng ta sẽ làm lễ bàn giao kho báu này. Tôi sẽ thông báo cho các

ông ngày giờ chính thức. Nhưng hôm nay, ta bàn đến việc khai thác. Các ông có ý kiến gì

hãy phát biểu.

Tôi thưa với thủ lĩnh xin mạn phép gợi mở trước. Tôi cảm nhận rõ mọi người bên

dưới đang lắng nghe tôi có lẽ bằng sóng sinh học chứ không phải bằng lời nói trực tiếp

quá nhỏ trong một căn phòng quá rộng không có máy tăng âm:

Thưa các thủ lĩnh, hầu như hành tinh xanh nào cũng có ít nhất một vùng phát năng

lượng vũ trụ. Ở hành tinh P16, nơi bạn Tashi của cháu đang sống cũng có một vùng phát

năng lượng được phát hiện. Cư dân ở đấy đã xây hẳn trên vùng phát năng lượng một hòn

đảo nhân tạo, nhằm giúp cho tất thảy mọi người thường xuyên đến đấy nạp năng lượng.

Kết quả là con người không ăn uống gì vẫn sống lâu và mạnh khoẻ. Các con tàu vũ trụ

cũng thường xuyên đến đấy nạp năng lượng. Ngoài ra, năng lượng vũ trụ còn được cư

dân dùng máy thu, dự trữ để làm hoạt động các máy móc cần thiết, thắp các đèn ngoài

đường và trong nhà vào ban đêm. Họ không cần đến các năng lượng khác như than đá,

dầu mỏ, khí đốt,... như ở Trái Đất hiện nay. Ba nguồn năng lượng này sẽ làm ô nhiễm

nặng nề môi trường.

Thủ lĩnh hành tinh lên tiếng:

Các ông thấy thế nào? Nên hay không tiến hành khai thác nguồn năng lượng trời

cho đó?

Rất nên, rất nên – nhiều tiếng nói đồng thanh đáp.

Ai có ý kiến khác?

Nhìn quanh, thấy không ai đưa tay phát biểu, thủ lĩnh hành tinh tiếp tục:

Vậy chúng ta sẽ khai thác nó. Nhưng theo kiểu nào? Xây một hòn đảo nhân tạo?

Đồng ý, đồng ý – mọi người trong phòng họp lại đồng thanh nhất trí.

Tất cả mọi người không phân biệt già trẻ lớn bé đều phải định kỳ ra đảo hấp thu

năng lượng? – thủ lĩnh lại hỏi tiếp.

Hãy để ai muốn thì cho ra đấy hấp thụ năng lượng vũ trụ. Không nên bắt buộc. Vả

lại, – người phát biểu bỗng ngập ngừng – đừng buộc những người ấy nhịn ăn nhịn uống

ạ.

Mọi người trong phòng cười ồ. Thủ lĩnh hành tinh cũng không nhịn được cười và sau

đó phát biểu:

Tôi không phản đối ý kiến này, ngược lại ủng hộ hết mình. Các ông thấy đấy, cư

dân chúng ta từ xưa đến nay đã bao giờ bị sống theo kiểu ép buộc đâu. Luật của hành tinh

không cho phép hành động áp bức dù rất nhỏ, phát sinh và tồn tại trong đời sống cư dân.

Tôi xin có ý kiến – một nghị sĩ bang nào đó đứng lên phát biểu – Lâu lắm rồi,

chúng ta không cần đến một vật thể bay nào để di chuyển mà tự thân, ta có thể di chuyển

dễ dàng, nhanh chóng. Vì vậy, sẽ không có chuyện dùng năng lượng vũ trụ để nạp vào

các vật thể bay. Còn chuyện dùng năng lượng vũ trụ để thắp sáng thì nên bàn bạc thảo

luận.

Một người nữa đứng lên phát biểu:

Tại sao phải dùng năng lượng để thắp sáng trong lúc mọi cư dân chúng ta ai cũng

có thể nhìn rõ mọi vật đêm cũng như ngày?

44

Phải đó! – có ai đó ủng hộ ý kiến vừa nêu.

Thủ lĩnh lên tiếng:

Thật tình tôi tôn trọng ý kiến này. Nhưng tôi cũng xin đưa ra một nhận xét để các

ông bàn thảo. Thủ lĩnh một hành tinh nọ nói với tôi rằng từ bên ngoài không gian mà

nhìn vào hành tinh chúng ta, cứ y như rằng đêm đến là chúng ta biến đi đâu mất. Sao ta,

thủ lĩnh của hành tinh, đang tâm dìm cư dân vào cảnh ngục tối như vậy? Vì lẽ gì? Hành

tinh chúng ta đã trở lại thời kỳ mông muội rồi sao?

Thật quá quắt! Ai cho phép họ can thiệp vào chuyện nội bộ hành tinh chúng ta?

Họ có quyền gì nói xấu người khác?

Bao nhiêu lời lẽ phản đối theo đủ mọi kiểu phát lên ào ào, lộn xộn. Thủ lĩnh hành tinh

phải lớn tiếng:

Các ông trật tự! Tuy các ông phát biểu cùng lúc, ào ào như giông bão nhưng ta vẫn

tách riêng ra được từng ý của mỗi ông. Hãy bình tĩnh lại. Cái giận dữ không đáng có sẽ

đẩy ta xuống mức thấp hèn, làm tiêu hao nhiều năng lượng một cách vô ích. Ta nói lên

nhận xét đó đâu để làm các ông tức giận? Phải chăng, chúng ta muốn quay trở lại thói

kiêu căng khi được người khác ngợi khen và lòng giận dữ phẫn uất khi bị người khác chê

cười? Mình phải tự nhìn lại mình đi.

Tôi nói nhỏ với thủ lĩnh:

Khi con tàu chúng cháu từ biệt hành tinh Atlantis vào ban đêm, quay nhìn lại cháu

thấy nó rực sáng lên như một hòn ngọc lưu ly. Đẹp lắm cái cảnh ấy, ngoài đường có

nhiều đèn trải dài theo mỗi băng chuyền, mỗi bức tường của tòa nhà cũng là một màn

hình lung linh sáng. Còn trên bầu trời, các mặt trăng luôn phiên chiếu tỏa thứ ánh sáng

bàng bạc soi tỏ toàn bộ hành tinh mỗi khi đêm về.

Khi nói về hành tinh Atlantis, về vẻ đẹp rực rỡ vào ban đêm của nó lúc này, lòng tôi

lại rạo rực nhớ Sao, nhớ cái giờ phút bịn rịn chia tay mà không một lời hẹn ước. Thủ lĩnh

cúi nhìn tôi mỉm cười, lộ vẻ cảm thông. Cả hành tinh Atlantis được trang trí đẹp mắt. Còn

Sao cũng có trang điểm chút ít đấy chứ? Khi người ta bõ công trang điểm làm đẹp, đâu có

phải vì mình mà chính là để mọi người chiêm ngưỡng. Đừng nên ác ý gán cho họ cái tội

“làm dáng”, “thiếu chân thật”, “tô son trát phấn nhằm che giấu cái xấu bên trong”. Nếu

ta đẹp cả trong lẫn ngoài thì sao?

Sau này Cay cho tôi biết tất cả các thủ lĩnh bang đều là những bậc thầy của học vấn.

Nếu trên Trái Đất, họ sẽ được tôn vinh là những nhà bác học thực thụ uyên thâm. Có lẽ

tất cả họ đều cảm nhận được từ xa lời nói thầm của tôi với thủ lĩnh do nội dung ý nghĩ đã

được truyền đi mọi hướng theo dạng sóng.

Tôi quay lại quan sát cái ầm ĩ, lộn xộn của hội trường đang dần trở lại lắng dịu. Có

một ý kiến đáng quan tâm:

Nếu ta không làm gì cả là khoẻ nhất, có phải vậy không các ông? Nhưng dân bầu

chúng ta lên chức thủ lĩnh bang để làm gì, hay để không làm gì? Tôi xin trở lại vấn đề

ánh sáng ban đêm cho hành tinh. Khi mặt trời khuất bóng, Lemuria chúng ta chìm trong

đêm tối mặc dù mắt tất cả chúng ta đều sáng, nhìn thấy rõ mọi thứ ban đêm cũng như ban

ngày, phải không các ông? Nhưng, để nhìn thấy được mọi vật vào ban đêm, đâu có phải

không tiêu tốn tâm năng. Chúng ta phải lấy lại tiêu hao đó vào ngày hôm sau chẳng dễ

dàng gì. Nếu trên hành tinh ta đêm nào cũng có ánh sáng nhưng là ánh sáng nhân tạo dẫu

rằng nó không được rực rỡ như ánh sáng ban ngày thì sao nhỉ?

Tôi tưởng tượng nếu từ ngoài không gian nhìn vào, chắc chắn hành tinh chúng ta sẽ

đẹp vô cùng. Còn cư dân hành tinh từ già đến trẻ sẽ hân hoan vui chơi trong cái không

45

gian ánh sáng dào dạt ấy chứ không phải cứ màn đêm buông xuống là rủ nhau đi ngủ sớm

và cuộc sống sẽ kéo dài thêm ra cũng nên.

Cả hội trường im lặng như đang ưu tư. Hình như không ai muốn và dám phản đối

những ý kiến tốt đẹp được thốt lên như những ý thơ trên đây. Thủ lĩnh hành tinh bấy giờ

lên tiếng và tôi chưa kịp nghĩ rằng sau đó, lại tiếp tục nảy sinh một cuộc tranh luận không

kém phần quyết liệt:

Tôi hoàn toàn tán thành ý kiến của hai ông. Vậy là chúng ta quyết định thắp sáng

toàn hành tinh vào ban đêm. Nhưng nếu việc làm này chỉ đòi hỏi tâm năng thì sẽ quá đơn

giản bởi vì chúng ta thừa khả năng. Chúng ta không thể có nó bằng cách di chuyển các

thứ ấy từ các hành tinh khác về, giả dụ như từ Trái Đất hay gần đây từ Atlantis. Hành

động này có tên là “ăn cắp”, nó là một tội ác.

Bên dưới hội trường có tiếng bàn cãi râm ran:

Chúng ta phải nhờ vả người Atlan thôi! – một ý kiến cất lên.

Sao? Nhờ vả một loại người mà tổ tiên chúng trước đây là học trò của tiền bối

chúng ta hay sao? – một ý kiến khá quyết liệt.

Này, xin lỗi ông, hiện nay ta và họ đều là hậu duệ. Đừng lôi kéo tổ tiên nhau vào

đây vì tính sĩ diện.

Nét mặt thủ lĩnh căng như dây đàn. Tôi chưa rõ ngọn ngành nhưng có cảm nhận như

thủ lĩnh nghiêng về ý kiến mang đậm tính sĩ diện nhiều hơn. Thủ lĩnh mà phát biểu bênh

vực một ý kiến cực đoan như vậy sẽ nguy hiểm vô cùng. Tôi quyết định can thiệp. Tôi đề

nghị thủ lĩnh cho hoãn cuộc họp lại để tìm cách gỡ rối. Thủ lĩnh gật đầu đồng ý và cất

cao giọng nói với toàn thể:

Tôi nhận thấy vấn đề này khá phức tạp, đòi hỏi mọi người phải suy nghĩ kỹ hơn

trước khi quyết định. Chúng ta còn nhiều thời gian để làm việc này. Nhân danh thủ lĩnh

hành tinh, tôi tuyên bố kết thúc hội nghị. Chào tất thảy mọi người. Xin tạm biệt.

Mọi người đồng thanh hô to:

Xin chào thủ lĩnh.

Tôi cũng chào từ biệt thủ lĩnh. Hình như thủ lĩnh đã lục lọi được trong đầu tôi một

giải pháp nào đó đang manh nha chưa được hoàn chỉnh lắm để giải bài toán mà hội nghị

treo lại. Cho nên thủ lĩnh hẹn tôi gặp lại sáng hôm sau. Lúc bấy giờ mọi người đã ra về

hết. Tôi bay vụt ra khỏi hội trường và gặp ngay Cay đang chờ sẵn. Cay cũng nhấc mình

bay theo. Lần này, tôi đã đạt được trình độ vừa bay vừa trò chuyện chứ không phải tập

trung tư tưởng cao độ như trước. Cay bảo tôi sau khi học ông thầy mới ở bậc cao hơn, tôi

sẽ đạt thêm năng lực thấu thị những vật thể có cấu trúc. Nghĩa là nếu tôi nhìn chăm chăm

vào một người nào đó, tôi sẽ thấy được ruột, gan, phèo, phổi, tim, óc của họ. Tôi sẽ phân

biệt được một cơ thể lành mạnh và một cơ thể đang mắc bệnh và bệnh đang khu trú tại bộ

phận nào. Còn Cay thì đạt trình độ cao hơn. Cay sẽ có thêm năng lực thấu thị những vật

thể không cấu trúc ví dụ Cay có thể nhìn thấy rõ Tashi chẳng hạn, có thể truyền và thu

nhận những thông tin từ một nguồn nào đó bất kể xa gần và cuối cùng là có khả năng lục

lọi những thông tin hay những ý nghĩ của người khác. Cho Cay theo học ông thầy này có

nghĩa thủ lĩnh đã dành nhiều ưu ái đối với Cay mà ở độ tuổi này, các thanh niên khác

không được như vậy. Điều ấy còn có ý nghĩa trọng đại là Cay sẽ được tham dự vào hàng

ngũ những người kế thừa thủ lĩnh bang. Gia đình Cay sau khi nhận được tin này rất lấy

làm vui mừng, vinh hạnh và còn nghĩ rằng chính nhờ tôi đến đây thăm viếng, gia đình

mới được cái vinh dự kép ấy. Kép ý nói là sự kiện tôi đến ở tại nhà và thằng con có

nhiệm vụ chăm sóc hướng dẫn tôi cũng là một vinh dự.

46

Bữa trưa, tôi không tham gia cùng ăn với gia đình, à có uống tí chút nước dinh dưỡng

vừa ngòn ngọt vừa thơm thơm. Chỉ bấy nhiêu thôi mà hai đứa em Cay mừng vui khôn

xiết, nhìn tôi chăm chăm với ánh mắt trìu mến. Chúng không còn xem tôi như con búp bê

biết cử động. Chúng ép tôi uống thêm nhưng tôi lắc đầu đưa ngón tay chỉ vào bụng tỏ ý là

bụng đã đầy. Còn bố mẹ Cay thì kính nể tôi thực sự. Mọi người còn ngạc nhiên thấy tôi

bay được và bay thẳng vào buồng của Cay. Tôi nghe rõ tiếng reo bên ngoài của hai bé bự:

Hoan hô anh Kim.

Tất nhiên việc bay của tôi chẳng phải là sự kiện lạ lùng gì trên hành tinh này. Có điều

mới mấy ngày trước đây thôi, mọi người còn ôm bụng mà không dám cười khi thấy tôi,

một thằng người tý hon, lon ton chạy theo sau gót chân của Cay, rồi tiếp đến ngày hôm

sau bị Cay bắt bỏ vào túi như bắt một con mèo ốm khi cùng tôi di chuyển đâu đó.

Tôi chờ Cay đi vào buồng nhờ kéo giúp ngăn bàn để rồi chui tọt vào đấy, làm một

giấc ngủ trưa. Cay bảo tôi hãy tập trung ánh mắt và ý nghĩ để tự mình đẩy nó ra. Tôi cố

nhưng không đạt kết quả. Người mệt nhoài. Cay bảo tôi chưa đủ năng lực. Phải học thêm

nữa.

Buổi chiều, tôi và Cay bay đến nhà thầy. Sau buổi học, Cay rủ tôi đi bộ lang thang

đây đó. Cay bảo, bay tốn nhiều năng lượng hơn đi bộ. Cần thiết lắm mới bay. Còn đi bộ

vẫn tốt hơn.

Tôi hỏi Cay về tổ chức quản lý ở hành tinh như thế nào. Cay bảo toàn cư dân hành

tinh chia làm năm mươi bang, mỗi bang là một khu vực dân cư sống tập trung trung bình

khoảng mươi nghìn người tức là dân số hành tinh khoảng nửa triệu người. Mỗi bang có

một thủ lĩnh trông coi chung.

Buổi sáng, tôi nhìn toàn bộ hội trường chỉ thấy toàn những nghị sĩ nam. Tôi thắc mắc

hỏi Cay trên hành tinh này, nữ giới không được bình đẳng như nam giới sao. Cay không

hiểu bình đẳng là gì. Tôi nói nếu có nam nghị sĩ thì cũng phải có nữ nghị sĩ mới gọi là

bình đẳng. Thế ở đây, có những cô, những bà trình độ học vấn cao như các ông nghị sĩ

không, Cay bảo có và nhiều lắm. Tôi hỏi:

Thế sao không ai bầu họ làm nghị sĩ, quản lý bang?

Để làm gì? Họ đâu có thích làm quản lý? Công việc nội trợ ở nhà, chăm sóc nuôi

dạy con cái đủ làm cho họ mệt rồi. Nếu có làm công việc của bang, đó là dạy học. Vả lại,

những bà, những cô ở hành tinh này không xem chuyện tham gia chính quyền là vinh dự.

Nếu có vinh dự, họ sẵn sàng dành cho các ông.

Ở Trái Đất, phụ nữ đòi quyền bình đẳng với nam giới trong mọi lĩnh vực, nghĩa là

trong bất kỳ chỗ nào họ có cũng có mặt, mặc dù công việc nội trợ, một công việc không

hề nhẹ nhàng chút nào, họ vẫn phải đảm trách. Họ không muốn để cho nam giới coi

khinh.

Sao lại coi khinh? Coi khinh người khác là một tính xấu, là một tội ác. Như vậy,

làm người phụ nữ ở Trái Đất là phải gánh vác công việc nặng nhọc hơn nam giới, đó là

không bình đẳng. Đòi quyền bình đẳng cuối cùng nhận được sự bất bình đẳng, đó là

nghịch lý, đúng không?

Có lẽ bạn nói đúng.

Cay tiếp tục:

Nhiệm vụ trọng tâm của hành tinh này là giáo dục, bởi vì giáo dục chi phối mọi thứ

trong đó có đời sống tinh thần và đời sống vật chất. Phụ nữ tham gia nhiều trong lĩnh vực

này. Có nhiều bà, nhiều cô dạy rất giỏi. Mẹ mình đang là bà giáo đó. Việc học tập của cư

dân từ bé đến lớn chia làm ba cấp. Nội dung truyền đạt cho học sinh mỗi cấp gồm kiến

thức và quyền năng từ thấp đến cao. Mỗi khi lên lớp, như tôi đã trải qua, thời lượng chỉ

47

một giờ. Thầy và trò cùng ngồi theo kiểu thiền trên sàn nhà, yên lặng tập trung tư tưởng.

Thầy truyền đạt kiến thức và quyền năng thông qua sóng sinh học đến từng học sinh.

Đời sống vật chất của cư dân khá đơn giản. Thức ăn là trái cây và nước uống trong

bữa ăn cũng là ép từ trái cây. Cho nên xen lẫn với rừng cây lấy gỗ phục vụ các công trình

xây dựng là những vườn cây bạt ngàn đủ chủng loại, cho trái quanh năm. Thực phẩm từ

trái cây làm con người thanh khiết, mạnh khoẻ và ít bệnh tật. Học tập và rèn luyện quyền

năng cũng giúp cơ thể ăn ít nhưng vẫn cường tráng góp phần loại trừ các bệnh tật.

Thiên nhiên được cư dân gìn giữ, cố gắng không tác động làm thay đổi. Nhờ vậy mà

môi trường rất trong lành, hiền hòa, hiếm khi xảy ra lũ lụt, bão tố, nếu có cũng chỉ là

những trận nhỏ. Trong những điều kiện như vậy, tuổi của cư dân Lemuri rất cao, có thể

tới hai nghìn năm. Tôi không hề ngạc nhiên, vì điều này đã ghi trong lịch sử. Nếu có ngạc

nhiên thì đó là trải qua thời gian dài đến cả triệu năm mà thể tạng và cuộc sống của người

Lemuri không hề thay đổi. Chẳng lẽ thuyết tiến hóa (tiến hóa hay thoái hóa?) của sinh vật

trong thiên nhiên có trường hợp nào đó không đúng chăng? Tôi còn nhớ ở Trái Đất, mỗi

khi ai đó sống được trên trăm tuổi, họ được liệt vào hàng ngũ vinh dự là con cháu ông

Bành. Ông Bành tức Bành Tổ đời nhà Đường bên Trung Quốc sống đến tám trăm năm.

Không khéo ông này đúng chóc người Lemuri đi đâu bị lạc đến lãnh địa người Tàu thời

đó?

Ở hành tinh Lemuria, lâu lâu mới có người sinh, mà trong quãng đời dài của hai vợ

chồng, cũng chỉ có chừng hai con thôi. Trẻ con rất mạnh khoẻ và mau biết đi. Còn người

chết khá hiếm. Chết vì già chứ không vì bệnh tật, tai nạn hay bị giết. Người đi sang cõi

vĩnh hằng một cách êm ái, không hề đau đớn. Ấy là khi họ tự biết tri thức và quyền năng

của mình cạn kiệt, với sinh lực ít ỏi cuối cùng, họ tự để cho mình chìm trong giấc ngủ

dài, trái tim đập chậm dần, chậm dần cho đến khi ngừng hẳn, đó là lúc họ ra đi. Thi hài

được hỏa táng và gia đình người quá cố rải tro đây đó khắp hành tinh với quan niệm

giống chúng ta, rằng con người sinh ra từ cát bụi, nay lại trở về với cát bụi. Tôi cho Cay

biết:

Ở Trái Đất, mỗi khi có người chết, những người thân rất đau lòng. Còn những

người đang sống rất sợ chết, kể cả những người phải sống khắc khoải vì bệnh tật và

nghèo đói mà vẫn sợ chết. Có lẽ cuộc đời mỗi người quá ngắn, tuổi thọ không mấy khi

lên đến trăm năm, nên họ luyến tiếc cuộc sống dẫu cho nghèo hèn, cơ cực. Sau khi có

người thân qua đời, những gia đình khá giả thường tổ chức ma chay rình rang tốn kém.

Những thi hài hiếm khi đốt mà được chôn với những mộ chí xây cất đồ sộ, trang trí nguy

nga nếu gia chủ giàu có, lắm tiền. Từ ngoài nhìn vào, nghĩa địa ở nhiều địa phương có

người giàu giống như những thành phố thu nhỏ. Chôn chứ không đốt xác, hủ tục này

không những chiếm dụng một số đất đai mà hậu quả xấu đem lại cho đời sống cư dân khá

lớn là làm ô nhiễm nguồn nước ngầm hiện hữu vốn ngày càng bị ô nhiễm nhiều hơn do

thuốc trừ sâu và chất diệt cỏ từ nền nông nghiệp mang lại.

Ở đây, không ai quan tâm đến chuyện chết. Việc ra đi của những người quá già, khi

mà họ không còn giúp ích được gì cho đời, là lẽ tự nhiên. Luyến tiếc, đau xót ư? Cũng có

chút ít, bởi vì bỗng nhiên trong nhà thiếu vắng đi một người, nhưng rồi cũng quen đi. Vả

lại, linh hồn của người quá cố vẫn trở về thăm nhà thường xuyên. Người dân ở hành tinh

này có năng lực nhìn thấy linh hồn và nghe được linh hồn nói chuyện. Nhiều khi ra

đường, ta khó phân biệt đó là người sống hay là ma, tức là linh hồn người quá cố, nếu

không biết người ấy đã chết.

Tôi nói ở hành tinh Atlantis, hai anh em May và Sao cũng đau xót vì cái chết của bố

mẹ, giống hệt như ở Trái Đất. Cay cho rằng cái chết ấy thuộc dạng bất đắc kỳ tử nên gây

48

ra xót xa cho người thân là lẽ đương nhiên.

Dòng suy nghĩ của tôi cứ lan man về cuộc sống nơi đây và tự nhiên cho tôi cái cảm

nhận là mỗi người, mỗi gia đình người Lemuri hiện đang sống rất hạnh phúc. Bởi vì tất

cả đều hài lòng với cuộc sống. Điều kiện để có hạnh phúc phải chăng là thỏa mãn đầy đủ

những nhu cầu lành mạnh về vật chất cũng như về tinh thần? Chẳng trách ở Trái Đất ta

hiện nay, cuộc sống xã hội quá phức tạp dẫn đến nhu cầu của con người quá lớn, nên số

người tìm thấy được cuộc sống hạnh phúc trở nên hiếm hoi chăng?

Lại nói về vấn đề còn treo lại của hội nghị toàn thể các thủ lĩnh hành tinh. Tôi đem

giải pháp nhờ P16 giúp đỡ, điện hỏi Tashi. Tashi suy nghĩ rất lâu, muốn bàn lại với tôi

chứ không dám quyết định ngay. Tashi bảo giải pháp tốt nhất đối với hành tinh này là áp

dụng cách làm của hành tinh P52, nhờ họ giúp. Bởi vì họ có vật liệu hữu hình, có sẵn

công nghệ ánh sáng nhân tạo và một thuận lợi trời cho là hai hành tinh đang ở ngay bên

cạnh nhau. Nhưng tại sao P53 không muốn, Tashi bảo tôi dò hỏi kỹ rồi sẽ đề ra phương

án.

Y lời hẹn, tôi và Cay sau khi học ở nhà thầy xong, bay đi gặp thủ lĩnh. Thời gian lưu

lại hành tinh Lemuria của tôi bước sang ngày thứ sáu. Thủ lĩnh vẫn ngồi ở chỗ cũ, Cay

ngồi bên và tôi đứng trên bàn trước mặt hai người. Tôi sẽ sàng nói:

Thưa thủ lĩnh, cháu rất muốn biết tại sao nhiều người lãnh đạo ở Lemuria không

thích giao du với hành tinh láng giềng? Ở nước chúng cháu có câu nói “Bà con xa không

bằng láng giềng gần”. Bạn cháu ở Atlantis để lộ cho cháu biết hiện nay thủ lĩnh của họ ra

lệnh cấm ngặt các tàu vũ trụ của họ không được bén mảng trên bầu trời Lemuria.

Thủ lĩnh cười hề hề thoải mái:

Có vậy sao? Thế là họ biết thân biết phận của họ rồi đó. Trong thâm tâm, họ có ý so

sánh nền văn minh của hai hành tinh qua cái nhìn hình thức bên ngoài. Họ từng đề nghị ta

được phép giúp Lemuria trang bị nguồn phát sáng nhân tạo để cải thiện cuộc sống hành

tinh và cũng để tạ ơn thầy trò của các vị tiền bối.

Thế là họ có ý tốt chứ ạ? – tôi lên tiếng cố ý bảo vệ hành tinh của Sao.

Không hẳn. Vừa có ý tốt cũng vừa có ý xấu. Dám so sánh hai nền văn minh..

Thông qua lần gặp nào mà thủ lĩnh biết họ có ý đó?

Tôi cố vớt vát không chịu thua mà quên béng đi rằng thủ lĩnh ngồi trước mình đây có

năng lực siêu phàm là biết lục lọi ý nghĩ của người khác.

Ta biết rõ ý nghĩ của thủ lĩnh người Atlan.

Xin cho phép cháu đề nghị. Thủ lĩnh hãy rộng lòng bỏ qua cho họ đi. Thủ lĩnh

“hận” họ chỉ vì biết “họ dám so sánh...” sau khi lục lọi tìm kiếm một cách “bất hợp

pháp” những ý nghĩ thầm kín riêng tư trong đầu óc họ hay sao? Thế thì thủ lĩnh cũng có

lỗi vậy...

Cay gõ gõ ngón tay lên mặt bàn tỏ ý cảnh cáo tôi đang đi quá đà. Cặp mắt thủ lĩnh

bỗng như rực lửa nhưng cố tình không nhìn thẳng vào tôi. Ông buột mồm không có chủ

định:

Tên này lém nhỉ?

Rồi ông thở dài lặng đi trong giây lát như để lấy lại bình tĩnh. Còn tôi thì đứng chết

trân tại chỗ. Cay hốt hoảng thực sự, có vẻ như đang chuẩn bị trong tư thế sẵn sàng để làm

một điều gì đó. Đôi mắt của thủ lĩnh dịu lại.

Thôi được, ta chịu thua ngươi. Ta chấp nhận đề nghị của ngươi. Con người dù tài giỏi

đến mấy có lúc cũng phạm phải lỗi lầm. Họ sai mà ta cũng sai, thế là hòa. Cay, ta quyết

định hủy bỏ cuộc họp Hội đồng hành tinh. Thay vào đó, ta sẽ đến từng bang một để

thuyết phục từng nghị sĩ theo ta.

49

Cay thở phào nhẹ nhõm, còn tôi thì mỉm cười với ý nghĩ “thế là thủ lĩnh áp dụng

chính sách chia để trị” rồi đó. Thủ lĩnh nhìn lại tôi với ánh mắt ranh mãnh. Thật không

thể giấu được thủ lĩnh điều gì.

Khi trên đường trở về, Cay thổ lộ cho tôi biết lúc tôi nói gay gắt quá Cay đã sợ hãi

thực sự. Cay cảm nhận rõ rệt thần kinh thủ lĩnh mỗi lúc một căng thẳng và nỗi sợ hãi của

Cay cũng mỗi lúc một dâng cao. Cay cảnh giác theo dõi thủ lĩnh. Chỉ cần tia nhìn dữ dội

của thủ lĩnh hạ xuống hay bàn tay gân guốc của thủ lĩnh đưa ra... hướng về tôi là Cay lập

tức sẽ thổi mạnh cho tôi bắn đi xa, ngăn chặn ngay thảm họa. Tôi rùng mình ớn lạnh. Tôi

hỏi Cay:

Giả sử tôi bị thủ lĩnh sát hại trong cơn phẫn nộ thì sao?

Thủ lĩnh sẽ bị phạt theo luật sát sinh. Trước hết là bị cách chức, sau đó bị tước hết

quyền năng, cuối cùng bị tống ra khỏi hành tinh, cho bay lang thang và chết đâu đó trong

vũ trụ.

Đã có ai bị xử phạt theo luật này chưa?

Rất may là chưa có ai, nhưng Cay mong rằng vĩnh viễn sẽ không có ai trên hành

tinh này vi phạm luật đó.

Sau buổi học chiều, thủ lĩnh lệnh cho Cay đưa tôi đến gặp để bàn tiếp câu chuyện bỏ

dở. Về hòn đảo nhân tạo tại nơi phát năng lượng, khả năng của hành tinh sẽ hoàn thành

dễ dàng. Còn việc trang bị cho toàn hành tinh ánh sáng nhân tạo đòi hỏi một công nghệ

hiện đại của một nền văn minh vật chất thì hành tinh này không thể đáp ứng, ít ra là trong

thời gian trước mắt. Tôi đề ra một sáng kiến để thủ lĩnh xem xét.

Thưa thủ lĩnh, cháu có một ý như thế này. Nhà cửa cư dân ở đây hoàn toàn sơ sài,

hầu hết bằng gỗ nên rất phù hợp với kỹ thuật ánh sáng hiện nay của Trái Đất. Cháu muốn

đưa một số bộ đèn từ Việt Nam đến đây lắp thử cho một số nhà. Nếu thành công, chúng

ta nhân ra, lắp đặt trên khắp hành tinh. Có được không ạ?

Thủ lĩnh ngập ngừng vì chưa hình dung ra sự việc cụ thể nó như thế nào:

Ta nghĩ là được. Nếu có mặt ở đây những sản phẩm của Trái Đất, mọi người sẽ

luôn luôn nhớ và nhắc đến cháu.

Tôi khiêm tốn trả lời:

Thưa thủ lĩnh, cháu không dám mong được như vậy. Có một điều cháu đề nghị cho

phép cháu “thử năng lực” của mọi người ở đây trước khi tiến hành công việc cụ thể.

Tôi bỗng chột dạ vì lỡ phát biểu một lời nói dễ làm thủ lĩnh và cả Cay nữa tự ái.

Nhưng ngược lại với sự lo sợ của tôi, thủ lĩnh mỉm cười đồng ý. Tôi xin phép được lục

vấn và yêu cầu thực hành ngay những động tác đơn giản.

Thưa thủ lĩnh, nếu cháu có một đồ vật mang từ Trái Đất đến đây, thủ lĩnh, Cay hoặc

ai đó có thể nhân lên một cái thành nhiều cái được không ạ?

Nói rồi, tôi cầm chiếc bút bic đặt ngay lên bàn. Một vật nhỏ xíu buộc hai con người

khổng lồ ở đây phải “nhăn mặt nhíu mày” mới nhìn thấy được và cũng chẳng biết nó

dùng để làm gì. Nhưng không cần hỏi mất thì giờ, thủ lĩnh đưa mắt cho Cay:

Cay, ngươi trổ tài đi!

Thưa vâng.

Sau hai tiếng đáp, ùn ùn trên bàn từng loạt từng loạt bút bic giống hệt nhau như được

cùng ra lò từ một dây chuyền. Tôi né tránh, né tránh cuối cùng không còn chỗ đứng phải

bay lên lơ lửng bên trên. Tôi hét lên:

Được rồi Cay. Mình xin bái phục năng lực nhân bản của bạn.

Tuy nhiên tôi chưa tin hẳn. Biết đâu Cay chỉ nhân hình thức, còn nội dung rỗng tuếch

50

thì sao. Tôi nhờ Cay dồn bút thành đống để tôi có chỗ đứng. Xong tôi nhón lấy một

chiếc, vạch thử đầu bi trên tay. Một đường mực hiện ra. Tôi phán:

Đạt rồi Cay. Thưa thủ lĩnh, đây là cây bút dùng cho học sinh ghi chép mỗi khi đến

lớp học. Bây giờ thử nghiệm thứ hai, cháu thử nhờ Cay.

Nói rồi, tôi tháo dây nịt quần ra, đặt nó lên bàn. Tôi hỏi Cay:

Cay giúp mình gắn thật chặt dây nịt này lên mặt bàn.

Cay bảo:

Xong rồi, Kim thử kéo nó lên xem.

Tôi nắm một đầu nịt dùng hết sức kéo ra nhưng vô ích. Tôi bảo tiếp:

Cay, hãy đưa dây nịt này bay lên đính chặt vào cây cột của dinh.

Trong nháy mắt, điều tôi yêu cầu được thực hiện ngay. Thủ lĩnh bấy giờ mới lên

tiếng:

Cháu ạ, cái trò trẻ con này trên hành tinh ta chẳng có ai là không biết làm. Cay,

ngươi thu dọn mọi thứ trả về chỗ cũ.

Cay phất tay, đống bút bic biến hết chỉ còn lại chiếc của tôi trên bàn. Lại một cái phất

tay nữa, chiếc nịt rời cột bay lửng lơ, lưỡng lự ít giây rồi chui tọt vào các đai quần của

tôi. Thủ lĩnh lên tiếng:

À, mà cháu cũng làm được như Cay đó. Cháu đã học được mấy ngày cùng với Cay

ở nhà thầy rồi đấy thôi.

Cay động viên tôi:

Kim, hãy tập trung tâm năng và dùng ý nghĩ ra lệnh...

Tôi đứng yên, tập trung... và thế là hàng loạt bút bic cùng hiện ra như Cay đã làm. Tôi

lại thử với dây nịt, kết quả cũng đạt được mỹ mãn. Rồi tự tôi cũng thu dọn “chiến

trường”. Thành công mỹ mãn. Cả ba chúng tôi nhìn nhau cùng cười. Cay bấy giờ mới

thắc mắc và lên tiếng:

Xin phép thủ lĩnh, cho cháu hỏi Kim một câu. Kim đề ra các trò vừa rồi để làm gì

vậy?

Ta cũng định hỏi cháu như Cay vậy đó – thủ lĩnh lên tiếng.

Thưa thủ lĩnh, hành tinh đây có nửa triệu dân và số căn hộ khoảng một trăm hai

mươi lăm nghìn. Nếu mỗi căn hộ dùng tám bóng đèn thì hành tinh ta cần một triệu bóng.

Ngoài ra, còn có các công trình công cộng như nhà họp, lớp học, đường sá và các nơi vui

chơi giải trí. Tổng cộng hành tinh cần đến vài triệu chiếc, có khi hơn nữa. Đem một bóng

đèn từ Trái Đất đến đây đã khó, vậy làm thế nào để có hàng triệu chiếc nếu không dùng

đến phép nhân bản? Khi đã có đèn rồi, lại phải gắn nó lên trần nhà, lên các cột trụ mà

dùng phương pháp của Trái Đất hiện nay là khoan lỗ bắt vít sẽ rất nhiêu khê. Vì vậy, ở

đây ta dùng tâm năng để gắn chúng là thích hợp.

Tôi chợt hỏi thử có cách nào đơn giản và nhanh chóng để đưa một bộ đèn cùng các

phụ tùng từ Trái Đất lên hành tinh Lemuria không. Thủ lĩnh ngập ngừng trả lời nhưng

không dám khẳng định:

Hình như có thể. Ta chỉ e ngại khoảng cách không gian quá lớn làm ta không đủ

lực.

Đoạn thủ lĩnh quay sang Cay:

Theo ngươi, ta áp dụng phương pháp bắc cầu, một người chuyền một người bắt có

được chăng?

Cháu nghĩ là được nếu từ Trái Đất có người đủ năng lực để chuyền. Tiếc rằng Kim

hiện nay chưa có đủ năng lực đó. Hay thủ lĩnh phái một nghị sĩ đi với Kim về Trái Đất.

51

Tôi hỏi ngay:

Trên con tàu vũ trụ của hành tinh Lemuria?

Chúng ta đâu có tàu vũ trụ.

Tôi hốt hoảng:

Cháu nghĩ rằng con tàu của chúng cháu không chứa nổi bất kỳ một người nào ở

hành tinh này đâu ạ.

Cay, thủ lĩnh đột nhiên lên tiếng – ngươi hãy thu nhỏ người lại xem nào!

Cay rời khỏi ghế, đứng lên. Rồi tức thì ngay trước mắt tôi, con người Cay thấp dần,

thấp dần đến một lúc thì dừng lại. Cay nhảy phóc lên mặt bàn đến đứng cạnh tôi, chiều

cao đúng ngang bằng tôi. Trong khi Cay biểu diễn, thủ lĩnh vỗ tay chầm chậm tán

thưởng. Tôi dè dặt hỏi:

Thế cháu làm được như Cay không ạ?

Cháu muốn thấp đi hay cao lên?

Cao lên bằng Cay ạ.

Nào cứ thử đi.

Cay đột nhiên kéo tôi nhảy xuống sàn. Thế rồi sau phút tập trung cao độ, tôi cất mình

cao dần cao dần lên cùng lúc với Cay cũng trở lại hình dạng vốn có. Cay kéo tôi ngồi

xuống hai ghế cạnh nhau. Thủ lĩnh bỗng nhiên lặng đi trong giây lát, sau đó vui vẻ báo

cho tôi biết:

Ta vừa liên hệ với Tashi. Bạn ấy nhận giúp ta đưa một nghị sĩ cùng cháu đến thăm

một lần xem Trái Đất cháu nó như thế nào.

Cay bảo tôi rời ghế, đứng lên và đập nhẹ tay lên đầu tôi. Thế là tôi nhỏ dần, nhỏ dần

cho đến đúng kích thước thực của mình. Cay bảo tự làm cho mình cao lên mất rất nhiều

năng lượng, nhưng giữ lâu kích thước không phải của mình, năng lượng càng tiêu hao dữ

dội, e rằng trong chuyến về, tôi không đủ sức để bay. Thật đúng y như vậy, sau đó trên

đường về, dù cố gắng cách nào, tôi cũng không thể cất mình lên được. Cay túm ngay lấy

tôi bỏ lọt vào túi, chào từ biệt thủ lĩnh rồi bay đi.

Bữa tiệc nào rồi cũng đến lúc tàn, cuộc vui nào rồi cũng phải kết thúc. Bước sang

ngày thứ bảy. Buổi sáng, tôi và Cay bay đến nhà thầy Hơn. Sau buổi học, thầy nói với hai

đứa:

Hôm nay là buổi học cuối cùng. Hai đứa hãy đến gặp thủ lĩnh. Thủ lĩnh có nhiều

chuyện để nói với con – thầy Hơn hướng về tôi nói tiếp – Ta biết trước rằng chiều nay

con tạm thời chia tay cùng hành tinh Lemuria. Ta sẽ đợi con những buổi học sau mà thời

gian chưa cho phép con và ta hoàn thành.

Tôi từ tốn thưa:

Con rất biết ơn thầy. Trước đó là Cay, sau đến thầy. Thầy đã cung cấp cho con

nhiều kiến thức và khai mở cho con nhiều quyền năng mà con không thể lĩnh hội được ở

Trái Đất. Con xin chào tạm biệt thầy.

Nói rồi, Cay và tôi cùng bay đến dinh gặp thủ lĩnh. Thủ lĩnh ngồi đợi hai chúng tôi

trên chiếc ghế quen thuộc. Cạnh thủ lĩnh, còn một người nữa mà tôi chưa hề gặp.

Chúng cháu xin chào thủ lĩnh – tôi thay mặt cả Cay chào thủ lĩnh – Chào ….

Cay nói thầm với tôi “Nghị sĩ Mun”.

Chào nghị sĩ ạ!

Chào cháu! – thủ lĩnh lên tiếng và chỉ vào người ngồi cạnh – Giới thiệu với cháu

đây là nghị sĩ Mun. Nghị sĩ sẽ theo cháu, đi nhờ con tàu của Tashi để đến Trái Đất và làm

nhiệm vụ chuyển bộ đèn ra không gian vũ trụ. Chúng ta ở đây sẽ thu hút nó về hành tinh

52

này. Trong thời gian chờ Tashi đưa tàu quay lại đón, ta muốn cháu tìm cách cho ông Mun

thăm thú một số nơi trên Trái Đất rồi về kể lại cho toàn cư dân Lemuria nghe, được chứ

ông Mun?

Vâng, được ạ. Chuyến thăm này chắc là thú vị lắm đây!

Nhưng với tôi, thú thật tôi chả cảm thấy thú vị chút nào mà chắc chắn sẽ phải lo toan

nhiều cho ông Mun.

Thưa thủ lĩnh, cháu sẽ trở về cùng nghị sĩ Mun chứ ạ? Cháu còn nhiệm vụ...

Đương nhiên rồi, ta biết. Hành tinh này còn nhờ cháu kia mà! Vả lại “cháu cần học

thêm và phải thi tốt nghiệp”!

Ta sẽ dạy thêm và bày cháu cách thi đậu! – nghị sĩ Mun mỉm cười đế thêm.

Tôi bất giác ngờ ngợ hai người này đang nói móc cái kiểu học hành và thi cử của Việt

Nam ta hiện nay! Nhưng tôi im lặng. Thủ lĩnh lên tiếng:

Ông Mun bây giờ về nhà chuẩn bị, chiều nay đúng ba giờ đi cùng tôi đến bãi đáp

của con tàu.

Vâng. Xin chào thủ lĩnh. Chào hai cháu.

Chào nghị sĩ.

Ông nghị bước ra cửa rồi cất mình bay đi. Một người đàn bà từ bên trong dinh bước

ra mang theo một đĩa trái cây và một khay nước rồi gật đầu chào mọi người. Thủ lĩnh

bảo:

Bây giờ trưa rồi. Ta muốn hai đứa vừa dùng bữa với ta vừa nói chuyện tiếp.

Cay đứng lên theo gót người đàn bà, sau đó mang ra con dao và một chiếc ly nhỏ.

Cay đã quen với cách ăn uống như mèo của tôi. Tôi dò hỏi:

Thưa thủ lĩnh, trong những ngày lưu lại ở đây, cháu không hề thấy một chiếc kim tự

tháp nào. Thế nhưng lịch sử Trái Đất có nói rằng các đền, tượng cổ xưa và các kim tự

tháp là do người Lemuri cùng người Atlan xây dựng trên Trái Đất sau trận Đại hồng

thủy. Kỹ thuật xây dựng tạo tác ấy, chủng người Aryen ngày nay chưa làm được. Thủ

lĩnh có biết thông qua những công trình ấy, người Lemuri xưa muốn nói lên điều gì

không ạ?

Câu hỏi đột ngột này làm thủ lĩnh hơi lúng túng. Im lặng hồi lâu. Có lẽ thủ lĩnh đang

lục tìm những thông tin trong ký ức của vũ trụ chăng! Tôi lại tiếp tục thắc mắc:

Trận Đại hồng thủy xảy ra cách nay hơn tám trăm năm mươi nghìn năm. Các vị đạo

sĩ cùng những nhà tiên tri trên Trái Đất cho rằng nó biểu hiện sự trừng phạt của Thượng

đế đối với loài người. Bởi vì, người Atlan lúc bấy giờ tuy đạt tới nền văn minh cao nhưng

đã sử dụng nó làm phương tiện gây nên những điều ác như gây chiến, giết hại đồng loại,

tự coi mình là Thượng đế của Trái Đất. May, một người của hành tinh Atlantis hiện nay

cho rằng trận Đại hồng thủy là kết quả của Trái Đất chuyển cực, từ vị trí núi Kailash đến

vị trí cực Bắc hiện nay, một đoạn đường dài dọc theo cùng kinh tuyến 6666 kilomet ứng

với một góc sáu mươi độ tính theo tâm của Trái Đất.

Bấy giờ, thủ lĩnh mới lên tiếng:

Đúng là một số tượng đài và nhiều kim tự tháp do chúng ta, tức người Lemuri và

người Atlan cổ tạo dựng ngay sau trận Đại hồng thủy. Lúc đó, những vị tiền bối chỉ dùng

tâm năng, di chuyển các tảng đá từ nơi khác đến. Rồi cũng dùng tia la de đẽo gọt và dùng

tâm năng lắp ghép.

Im lặng trong giây lát, sau đó thủ lĩnh tiếp tục:

Trận Đại hồng thủy là kết quả của việc chuyển cực, điều đó đương nhiên. Nhưng

phải tự hỏi tại sao Trái Đất chuyển cực, hoạt động này không thể là ngẫu nhiên. Nhóm

53

các vị tiền bối của hai chủng Lemuri và Atlan không di tản mà còn bám trụ ẩn náu lại

cũng tự hỏi như vậy. Trái Đất đâu phải là vật vô tri. Nó là một sinh thể hẳn hoi, có đời

sống riêng của nó, tên nó là Iima. Trái Đất có tri thức vô cùng phong phú và một tâm hồn

rất nhạy cảm hơn cả chúng ta. Loài người gọi Trái Đất là Mẹ, cùng với các sinh vật khác

sống bám trên đó. Thế loài người đã làm gì đến nỗi Mẹ phải cựa mình phẫn nộ?

Xin thưa, một học giả hiện nay trên Trái Đất phỏng đoán rằng các công trình được

xây dựng nêu trên nhằm cảnh báo cho lớp hậu sinh “Hãy cảnh giác!”. Sắp tới có thể xảy

tiếp một ngày tận thế nếu cái ác tiếp tục sinh ra, tiếp tục phát triển rộng khắp át cái thiện,

dễ làm Bà Mẹ lại thêm một lần rùng mình nổi giận. Nhưng ông còn nhận thấy các công

trình nằm xa nhau bằng những khoảng cách rất lạ dọc theo các cạnh của những hình tam

giác. Phải chăng các tam giác là những cái bẫy, giam giữ và tiêu diệt cái ác không cho nó

phát triển?

Thú thật, ta chưa rõ. Ta là hậu duệ của họ nhưng khi lục tìm kho thông tin tư liệu

lịch sử trong không gian vũ trụ của người Lemuri cổ, ta không hoặc có thể là chưa, tìm

được lời giải thích cho những thắc mắc của cháu. Sau này khi học tiếp lên trình độ cao

hơn, đạt đến tâm năng tra cứu thông tin, cháu hãy tìm hiểu để tự trả lời cho những thắc

mắc của mình hôm nay. Cũng có thể nếu có duyên cháu tìm gặp được những hậu duệ của

người Lemuri như chúng ta nhưng hiện đang sống trên Trái Đất để hỏi trực tiếp, họ sẽ trả

lời cho cháu rõ. Bởi vì chính họ đang quản lý các kim tự tháp và những tượng đài cổ.

Rồi thủ lĩnh ôn tồn nói thêm:

Có thể vì những lý do mà vị học giả nọ phán đoán, các kim tự tháp đâu có cần cho

Lemuria hoặc cho Atlantis? Đúng vậy không?

Cháu cũng nghĩ như vậy ạ.

Nói rồi, tôi và Cay chào từ biệt thủ lĩnh. Chúng tôi cùng bay về nhà, chuẩn bị hành

trang cho buổi chiều tạm biệt. Trên đường về, tôi bỗng nảy ra một ý nghĩ táo bạo, hỏi

Cay:

Trên hành tinh này, Cay có biết nơi nào có nhiều những hạt cát lấp lánh trong suốt

không? Có những hạt khá to và thông thường chúng ở tại các dòng suối chứ không phải

trên bãi biển.

Nó là gì vậy?

Trái Đất gọi nó là kim cương. Nó rất quý và đắt tiền đối với đời sống cư dân chúng

mình. Mình nghĩ là hành tinh này nếu có, mọi người cũng không biết dùng chúng để làm

gì.

Cay ngẫm nghĩ một lúc trả lời:

Hình như có đấy. Nào chúng mình cùng đến đó.

Nói rồi hai đứa bay nhanh, vượt qua những bình nguyên, những đồng cỏ, bao nhiêu

núi, bao nhiêu rừng mới đến một khe suối đầu nguồn của một dòng sông lớn. Dưới ánh

mặt trời ban trưa, cả hai bên bờ khe rực sáng lấp lánh những hạt cát to nhỏ đủ cỡ. Tôi

nhận ra ngay đấy là kim cương. Cay hỏi tôi:

Kim cương khác gì những hạt cát bình thường?

Cát bình thường gốc silic, không có hình thù rõ rệt, không cứng, đập dễ vỡ. Còn

kim cương bản chất là than nguyên chất được thiên nhiên nén chặt nên trong suốt, rất

cứng và có hình thù đặc biệt như khum hai bàn tay úp lại.

Nói rồi, tôi nhặt đồng thời một hạt kim cương và một hạt cát to đặt lên một hòn đá

phẳng, dùng một hòn đá khác đập mạnh, hạt cát vỡ nát, còn viên kim cương vẫn cứ trơ

trơ. Tôi bảo:

54

Đối với cư dân Trái Đất, kim cương rất quý, hiếm, giá rất cao do được chọn làm vật

trang sức và dùng trong kỹ thuật. Hạt kim cương vừa đập thử cỡ khoảng một carat(1) có

giá khoảng ba trăm hai chục triệu đồng tiền Việt.

Thế Kim cần nhiều không?

Càng nhiều càng tốt – tôi tham lam trả lời.

Cay bấy giờ mới bảo tôi:

Không cần lấy nhiều đâu. Một nắm thôi, về nhà sẽ nhân bản.

Thế rồi tôi và Cay chọn chọn lựa lựa bỏ vào túi Cay một nắm hạt đẹp nhất rồi bay về.

Trong không gian vũ trụ, Tashi đã nhận được điện của thủ lĩnh và báo cho tôi biết sẵn

sàng giờ “cất cánh”.

Trưa nay, mọi thành viên trong nhà Cay bỏ giấc nghỉ ngơi thường lệ, ngồi tập trung

quanh bàn cùng với tôi. Tôi bay lên đứng hẳn trên bàn như mọi khi. Hai ông bà, bố mẹ

Cay, lần lượt từng người nói lên lời lưu luyến tạm biệt tôi và chúc tôi lên đường bình an.

Hai bé bự cũng nói chào từ biệt và mong mỏi sớm được gặp lại tôi. Bé Mai tỳ cằm lên

cạnh bàn ngoắc tôi lại gần. Tôi dang rộng hai tay ôm lấy một bên bầu má bụ bẫm và đặt

một cái hôn vào đây. Cái cảm giác nhồn nhột làm bé mím chặt môi trong khi cặp mắt

trong veo chớp chớp không ngừng.

Ở hành tinh này, người ta không tổ chức những bữa tiệc rình rang để tiễn biệt. Nếu

có, chắc lại những đĩa trái cây với nước dinh dưỡng mà thôi. Bên ngoài có tiếng lao xao,

khá đông người. Thủ lĩnh cùng nghị sĩ Mun đang chờ tôi. Tôi bay lên nhảy tọt vào túi áo

của Cay. Cay bước ra ngoài cùng tất cả thành viên của gia đình. Thủ lĩnh hỏi Cay:

Vị khách bé nhỏ của ta đâu rồi?

Dạ con mèo đang nằm trong bị cháu đấy ạ!

Bố mẹ cùng với hai em Cay đều bật cười. Từ trong túi, tôi cất tiếng:

Chào thủ lĩnh ạ.

Song sau đó, tôi bay vút ra khỏi túi, đáp xuống cạnh chân Cay, tự mình nâng lên,

nâng lên cho đến khi cao bằng Cay. Lần lượt thủ lĩnh, nghị sĩ Mun bắt chặt tay tôi. Tiếng

bé May:

Anh Kim ơi, cứ giữ như thế đừng nhỏ trở lại nhé!

Cay quát:

Bé con! Không nhỏ trở lại thì làm sao chui lọt vào tàu để trở về?

Đi sau thủ lĩnh, nghị sĩ, Cay và tôi là gia đình bố mẹ, hai em của Cay và cả một đoàn

người rồng rắn. Đối với những người khổng lồ, đoạn đường từ nhà đến bãi đáp của con

tàu không là gì cả. Những bước sải dài đã rút ngắn quãng đường đi. Tuy tàu vô hình

nhưng những người ở hành tinh này vẫn nhìn thấy nó. Tashi bước ra, tay cầm chiếc mũ

thấu thị dành cho tôi, cúi mình chào thủ lĩnh và mọi người, sau đó đưa mắt tìm tôi. Đoán

là Tashi đã ra, nhất định đang ngơ ngác tìm tôi. Từ trên cao, tôi nói vọng xuống:

Tashi, mình đây.

Lần này, tôi đã tạo một bất ngờ cho Tashi. Ở trên hành tinh này mấy ngày, ăn uống

kiểu gì mà tôi trở nên khổng lồ như vậy? Tashi hỏi lên:

Với kích thước như thế này, làm sao ta đi đây?

Chẳng ai thèm trả lời Tashi. Thủ lĩnh nói nhỏ với nghị sĩ Mun. Đứng bên nhau, tôi

nháy mắt với ông, tự làm cho mình thấp dần, thấp dần. Tôi lấy lại kích thước vốn có, đỡ

lấy chiếc mũ từ tay Tashi. Còn ông Mun, chắc là phải chịu đựng nhọc nhằn vì cái độ đậm

đặc của cơ thể. Cùng với Tashi, hai chúng tôi ngoái chào mọi người và theo nhau bước

(1) 1 carat = 0,2 gam

55

lên tàu. Con tàu bốc lên nhè nhẹ. Mọi người bên dưới còn vẫy tay, nán lại hồi lâu cho đến

khi con tàu khuất hẳn. Tashi đề nghị cho tàu cùng mọi người đi nạp năng lượng. Các

bóng đèn xanh nhỏ bắt đầu nhấp nháy. Tôi nhìn xuống, ngạc nhiên thấy bên dưới một

hòn đảo nhân tạo có mặt đá phẳng lỳ, rộng ước chừng một hecta đã được xây từ bao giờ.

Lần đầu tiên trong đời, nghị sĩ Mun được tắm năng lượng vũ trụ. Ông mỉm cười khoái

chá. Tôi hỏi đùa:

Thưa nghị sĩ, ông có mang theo trái cây dự trữ để ăn trong hành trình không ạ?

Ngài nghị sĩ bấy giờ mới lục lọi hành trang. Im lặng một lát. Bỗng ông nói:

Cái thằng quỷ Cay đã “cuỗm” mất của ta túi trái cây rồi.

Tôi bật cười:

Cháu có nhìn thấy Cay cầm túi trái cây nhưng Cay nháy mắt bảo cháu đừng nói.

Chắc chắn ông sẽ không cần ăn uống gì đâu, như cháu vậy. Ông đừng lo chuyện này.

Để giết thì giờ trong chuyến bay, tôi hỏi ông Mun:

Thưa nghị sĩ, xin lỗi, năm nay ông bao nhiêu tuổi rồi ạ?

Ta đã vượt cái tuổi 750. Thế còn ngươi?

Cháu mới 26. Bằng tuổi Cay.

Tôi chợt nhớ hai câu thơ tự trào của Nguyễn Khuyến:

Cũng muốn sống thêm dăm tuôi nữa,

Sợ ông Bành Tô tương đồng môn.

Tashi lên tiếng:

Hai ông cháu còn thua Tashi nhiều lắm. Năm nay Tashi tròn 2118 tuổi rồi đó.

Nhưng ta trông ngươi còn trẻ lắm! – ông nghị nhận xét.

Ở Trái Đất chúng cháu, mọi người sẽ cho Tashi là “đứng tuổi”, nghĩa là người

không bị già đi. Nếu ông đến thăm hành tinh P16 của Tashi một chuyến, ông sẽ không

phân biệt được ai già, ai trẻ đâu ạ. Mọi người ở đấy giống hệt nhau tựa hồ được đúc cùng

một khuôn.

Ông Mun ghé miệng hỏi nhỏ tôi:

Sao ta thấy Tashi hình dạng lạ lùng. Không mắt, không mũi, không miệng, không

tóc. Không luôn cả cái bộ phận bên dưới nữa. Hắn còn không thèm mặc một thứ gì trên

người!

Tashi thuộc giống người không như chúng ta. Cậu ấy vô hình với cư dân hành tinh

chúng cháu. Cho nên cháu phải đội chiếc mũ này mới nhìn thấy Tashi.

Thế hắn ta là gái hay trai?

Lại nữa! Câu hỏi của loại người vốn sẵn có hai giống: đực và cái. Tôi trả lời như một

cái máy tự động, không cần suy nghĩ:

Trung tính. Cư dân ở P16 sinh sản bằng mầm. Thế ông còn nhớ lịch sử Trái Đất nói

về các chủng người đã sinh sống chứ?

Có.

Chủng thứ nhất?

Người giống thiên thần.

Chủng thứ hai?

Người giống ma.

Chủng thứ ba?

Người Lemuri.

56

Thế đấy. Nếu Tashi gốc từ Trái Đất sẽ thuộc giống ma. Giống thiên thần chưa có

hình thù, còn giống ma đã có hình thù rõ rệt và sinh sản theo kiểu mọc mầm.

Ông Mun trở nên trầm ngâm, ưu tư. Tôi không rõ ông đang nghĩ gì, tò mò chuyển

hướng, chất vấn ông Mun:

Ở trong cơ thể nhỏ nhắn như thế này, ông cảm thấy thế nào?

Quả là cực hình đối với ta, nhưng ta chịu được. Ta bị tiêu tốn năng lượng dữ lắm.

Ông còn phải giữ cái vóc dáng này trong thời gian dài trên Trái Đất.

Chà! Sẽ mệt lắm đây. Không hiểu ta có còn đủ sinh lực để chuyển món gì đó vào

không gian không đây? – ông Mun thở dài.

Ban đêm ở hành tinh của cháu, ông có thể trở lại nguyên hình mà!

Được ư? Thế thì tốt! Ta sẽ thiền định để nạp lại năng lượng.

Nhưng ông phải ra ngoài trời. Ở Trái Đất, không có một ngôi nhà nào chứa nổi ông.

Điều đó không quan trọng. Ta sẽ nhỏ người như cư dân Trái Đất vào ban ngày và

lấy lại vóc dáng vốn có vào ban đêm, được chưa?

Hoan hô ông!

Chuyện dẫu nhiều bao nhiêu cũng không thể choán hết cả thời gian dài bay về Trái

Đất. Tashi đề nghị mọi người ngủ dưỡng sức và chuyển con tàu sang chế độ lái tự động.

Ba chiếc giường nệm trắng tinh được đẩy ra từ bức tường con tàu. Tashi mời mọi người.

Tiếp theo là một điệu nhạc du dương, trầm bổng nhè nhẹ cất lên.

Tuy nằm đấy, tai nghe tiếng nhạc êm ái dịu dàng nhưng đầu óc tôi không yên. Tôi

phải bắt đầu hoạch định dần, sắp xếp thứ tự các công việc cần thực hiện. Việc tổ chức

gửi bộ đèn ra không gian có lẽ dễ dàng thôi. Nhưng tổ chức cho ông Mun đi tham quan

đây đó lại hoàn toàn không đơn giản chút nào. Mảnh đất Việt Nam không có liên quan gì

đến lịch sử của người Lemuri. Biết đâu thời người Lemuri sống, mảnh đất mà chúng ta

đang ở hiện nay còn chìm sâu dưới đáy biển? Vậy là, đương nhiên rồi, ông Mun phải

được đưa đi thăm Ai Cập, Ấn Độ, Tây Tạng. Nơi đâu cần đến nữa nhỉ? Còn giấy tờ thông

hành nữa chứ! Tuy nhiên không lâu sau, tôi cứ lịm dần đi, không chống chọi nổi với giấc

ngủ ào đến.

Hậu duệ người Lemuri thăm lại cố hương

Tiếng rú rít kèm theo điệu nhạc vui vang lên trong phòng lái của con tàu. Tôi và ông

Mun ngủ say đến mức Tashi phải lay gọi hồi lâu. Trên màn hình trước bảng điều khiển,

hiện rõ Thái dương hệ quen thuộc của Trái Đất. Vượt qua những hành tinh to xác như

Thổ tinh với vành đai rực rỡ và Mộc tinh, chúng cũng là hai hành tinh có nhiều vệ tinh

nhất (34 và 63), con tàu tiến thẳng về phía Trái Đất. Hình quả cầu Trái Đất lớn dần lớn

dần trong màn hình và cuối cùng là hình chữ S của dải đất Việt Nam hiện ra rất rõ. Tôi

chỉ tay về phía bờ biển xanh ngăn ngắt ấy và giới thiệu quê hương mình với ông Mun.

Theo lệ thường, Tashi cho tàu ghé vào chỗ phát năng lượng. Khi các bóng đèn nhỏ

xíu màu xanh lơ trong buồng lái nhấp nháy thì con tàu cũng dừng lại, lơ lửng trên độ cao

khoảng năm trăm mét. Ông Mun nhìn xuống bên dưới, ngạc nhiên chẳng thấy gì cả ngoài

mặt biển rộng nhấp nhô sóng. Tôi phải giải thích cho ông biết Việt Nam chưa có điều

kiện xây dựng một hòn đảo nhân tạo để đón lấy năng lượng như trên Lemuria. Trừ Tashi

ngồi trước bàn điều khiển, tôi và ông Mun trở lại giường nằm, tận hưởng luồng sinh khí

ào ạt xuyên qua người, khoan khái đê mê. Ông Mun bảo rằng mình cần khá nhiều năng

lượng do phải thu nhỏ vóc dáng trong thời gian dài mấy ngày ở Trái Đất sắp tới. Cuối

cùng rồi con tàu cũng đáp nhẹ nhàng xuống bãi cỏ rộng thoải thoải trước sân Viện Vật lý.

57

Trước khi ra ngoài, tôi đưa tặng ông Mun máy thông dịch, dặn ông phải đeo thường

xuyên để nói chuyện với người Trái Đất.

Do không báo trước nên không có ai ra đón. Tôi đưa ông Mun và Tashi đi vào, bước

lên mấy bậc thềm. Tôi bấm chuông. Ngân chạy ra mở cửa, reo lên:

A, anh Kim đã về.

Rồi gần như hết thảy mọi người trong Viện, đi đầu là thầy An, Duyên,...bước ra.

Tôi cất tiếng chào thầy và các bạn. Chỉ vào ông Mun, tôi giới thiệu:

Đây là ông Mun, nghị sĩ của hành tinh Lemuria. Ngoài ra còn có Tashi.

Thầy An vui vẻ:

Xin chào nghị sĩ, chào Tashi. Rất hân hạnh được nghị sĩ đại diện cho hành tinh

Lemuria đến thăm đất nước Việt Nam chúng tôi, Trái Đất chúng tôi.

Về phía mình, tôi giới thiệu:

Xin giới thiệu với nghị sĩ, người vừa nói là thầy An, lãnh đạo Viện của chúng cháu.

Những người còn lại là nhân viên của Viện.

Lúc bấy giờ ông Mun mới lên tiếng:

Tôi cũng xin chào lại các ngài. Thay mặt thủ lĩnh hành tinh, tôi xin gửi đến toàn thể

các ngài lời chào trân trọng.

Thầy An mời mọi người vào trong. Số lượng khách và chủ không nhiều. Tất cả cùng

ngồi vào bàn của phòng họp. Ngân và Duyên đi vào trong chuẩn bị nước uống. Tôi bố trí

ghế bên trái tôi cho Tashi và bên phải tôi cho ông Mun. Ông Mun cũng ngồi kế bên thầy

An. Để mọi người hiểu rõ chuyến thăm không báo trước của vị khách không mời, tôi

đứng lên:

Thưa nghị sĩ, thưa thầy và các bạn. Chuyến về lần này của tôi có nghị sĩ do thủ lĩnh

hành tinh Lemuria phái đi. Trong những ngày viếng thăm hành tinh này, tôi đã được thủ

lĩnh và cư dân hành tinh rất ưu ái. Đây là một hành tinh có nền văn minh rất cao. Cư dân

hoàn toàn sống hạnh phúc và yên bình. Tôi có may mắn được học tập trau dồi kiến thức

và tâm năng rất nhiều mặc dù chỉ trong khoảng thời gian ngắn ngủi. Tôi sẽ báo cáo kết

quả học tập cho thầy và toàn thể các bạn ở Viện biết.

Cư dân hành tinh lâu nay có thói quen không thắp sáng ban đêm...

Khi tôi nói đến đây, có nhiều người sửng sốt. Tôi đoan chắc mọi người sẽ tự hỏi “Nền

văn minh gì rất cao mà lại không cần đến ánh sáng”. Tôi cố ý dừng lại mấy giây rồi mới

giải thích:

Hành tinh không cần ánh sáng ban đêm là vì... bất kỳ ai cũng có thể nhìn xuyên

đêm tối, thấy rõ mọi cái như thể ban ngày. Phải vậy không thưa nghị sĩ? – tôi quay nhìn

sang ông Mun.

Vâng. Đúng vậy – ông Mun xác nhận.

Lần này thì mọi người còn kinh ngạc hơn. Ông Mun giải thích thêm:

Mọi người trên hành tinh chúng tôi đạt được khả năng đó là do học và rèn luyện.

Bạn Kim đây đang theo chương trình dạy của hành tinh và đã đạt đến trình độ nhìn xuyên

đêm tối.

Bỏ qua mọi lời xì xào thắc mắc do chưa thỏa mãn trí tò mò của nhiều người, tôi nói lý

do cuộc thăm viếng Trái Đất của ông Mun:

Tuy nhiên cách đây mấy hôm, Hội đồng tối cao của hành tinh quyết định trang bị

ánh sáng vào ban đêm cho toàn hành tinh. Phải nói rằng, nền văn minh của Lemuria

không đi theo phương thức chúng ta, nên hiện nay trên hành tinh không hề có một cơ sở

vật chất kỹ thuật nào để sản xuất trang thiết bị chiếu sáng. Tôi đề nghị giúp đỡ, sẽ gửi lên

Lemuria trang bị chiếu sáng.

58

Mọi người trong phòng xì xào bàn tán. Tôi đoán họ theo logic sẽ tự hỏi không biết sẽ

gửi như thế nào đây và gửi bao nhiêu bộ cho đủ. Tôi nói luôn không để ai nêu ý kiến:

Hành tinh Lemuria có dân số khoảng nửa triệu và số hộ chiếm khoảng một phần tư

con số đó. Nếu mỗi hộ cần trang bị bốn bóng đèn (bốn bóng hơi ít) thì đã cần một nửa

triệu bóng đèn. Đấy là chưa kể những công trình công cộng, đường sá, nơi vui chơi giải

trí. Trước mắt, làm cách nào đó tạm gửi lên khoảng hai ba triệu bóng đèn cùng với dây

nhợ phụ tùng?

Tôi lại cố tình im lặng một phút để cho câu chuyện đến hồi gay cấn rồi mới “xả”. Tôi

nhìn qua ông Mun và nói:

Thủ lĩnh đã giải đáp cho tôi chuyện số lượng này. Thủ lĩnh chỉ cần một bộ đèn thôi

và sẽ dùng tâm năng sẵn có để nhân bản. Việc còn lại là chuyển bộ đèn ấy đi và cũng lại

dùng tâm năng. Ngài nghị sĩ đây sẽ làm nhiệm vụ “đẩy” bộ đèn vào không gian vũ trụ,

còn những người ở Lemuria sẽ đồng tâm hiệp lực “hút” về mình bộ đèn ấy.

Để chứng thực khả năng nhân bản, tôi rút trong túi ra chiếc bút bic, đặt nó lên bàn

và...ngồi im tập trung. Mọi người chợt há hốc mồm nhìn từng dãy từng dãy bút bic lần

lượt xếp ngay ngắn trên bàn. Chờ cho mặt bàn không còn chỗ trống, tôi cho ngừng “sản

xuất”. Tiếp liền sau đó, tôi cho số bút bic này bay lên đậu kín trên bức tường trước mặt

tựa như những con bọ dài có cánh và có chân bám. Tôi nhờ Ngân đến gỡ lấy vài chiếc

nhưng Ngân trầy trật mãi không sao gỡ được. Tôi đưa mắt nhìn sang ông Mun. Ông hiểu

ý và cho bọn bút bay rào rào trở lại đáp xuống bàn, rồi từng cái từng cái lần lượt biến

mất, chỉ dành lại cái cuối cùng của tôi.

Thầy An nghi ngờ hỏi:

Ảo thuật này do ai làm?

Ông Mun nổi tự ái mà lẽ ra ông phải biết kiềm chế, bởi vì tôi hiểu rõ bất cứ một thái

độ xấu nào cũng tiêu tốn năng lượng rất lớn:

Chuyện vừa rồi là thực và do hai chúng tôi làm!

Tôi nói thêm:

Nghị sĩ Mun là một trong những bậc thầy về tri thức và tâm năng của hành tinh

Lemuria. Nếu ở Trái Đất, ông sẽ tương đương với hàng đạo sĩ hay những nhà bác học

danh tiếng. Xin ông bỏ qua cho những nghi hoặc của chúng tôi, do chúng tôi không am

hiểu nền văn minh Lemuria. Cư dân của hành tinh này chính là hậu duệ của chủng người

Lemuri đã từng tồn tại trên Trái Đất cách nay hàng triệu năm. Nghị sĩ về đây chính là trở

lại cái nôi đã từng nuôi dưỡng tiền bối của cư dân hành tinh Lemuria.

Sau khi vẫy tay ngoắt Duyên lại gần, thầy An nói gì đó rồi đứng lên:

Bây giờ trưa rồi, xin mời mọi người ra ngoài nghỉ giải lao một lúc rồi trở vào dùng

bữa.

Nói rồi, thầy mời nghị sĩ, Tashi và tôi vào văn phòng của thầy. Tashi lưu ý tôi:

Kim đã nghĩ đến chuyện sau khi có bộ đèn rồi, làm cách nào để nối nó với bộ

nguồn trữ năng lượng vũ trụ làm cho đèn sáng chưa? Mà bộ nguồn loại này, Trái Đất

chưa làm.

À chết chửa, mình quên mất. Không có bộ nguồn đặc biệt này thì làm sao đèn sáng.

Hay là Tashi chế tạo giúp mình đi.

Xin lỗi, tuy chúng mình có khả năng nhưng nên đề nghị May giúp. Hành tinh

Atlantis thừa sức làm điều này. Vả lại, họ cũng đang phải làm những bộ nguồn to nhỏ để

hấp thụ năng lượng vũ trụ từ địa điểm mà chúng ta đã chuyển giao là gì?

Thầy An và ông Mun lắng nghe, theo dõi câu chuyện của chúng

tôi mà không nói gì. Quay về phía thầy An, Tashi lại nói:

59

Ít giờ nữa Tashi sẽ tạm biệt thầy, ngài nghị sĩ và toàn thể mọi người. Bây giờ, xin

thầy gấp gáp cho người đi ra cửa hàng điện máy, mua lấy hai bộ đèn huỳnh quang với

đầy đủ công tắc, phụ tùng và cả đoạn dây dẫn khoảng vài mươi mét đem về đây. Một bộ,

ngài nghị sĩ sẽ đưa về Lemuria, còn bộ kia, Tashi sẽ đem đến Atlantis nhờ May (rồi May

nhờ ai đó tùy cậu ấy) tạo thêm bộ nguồn thích hợp. Sau này, trên đường trở lại Lemuria,

chúng ta sẽ ghé Atlantis xin bộ nguồn rồi đem về Lemuria nhân bản.

Thầy An ra cửa gọi to một người nào đó mà tôi chưa quen tên, phân công việc đi mua

bộ đèn. Bữa ăn đã dọn xong, thầy mời ba chúng tôi. Tashi từ chối, đương nhiên và thầy

An không hề thắc mắc. Còn tôi, thay mặt luôn nghị sĩ cũng từ chối theo. Ông Mun ra vẻ

không đồng ý. Tôi thật tình khuyên ông:

Thưa nghị sĩ, cháu cả quyết là ông không đói. Nhưng nếu vì tò mò thì chúng ta

cùng ra, ngồi với họ một lúc cho phải phép.

Trên chiếc bàn rộng phủ khăn trắng, một bữa tiệc đúng nghĩa dọn sẵn. Những thố

cơm đầy, những bát canh nghi ngút khói, những đĩa rau xào, những đĩa cá, đĩa thịt, bò có,

lợn có bốc mùi thơm phức, màu sắc phong phú. Thầy An mời nghị sĩ ngồi ghế bên phải,

tôi bên trái rồi lần lượt mọi người trong Viện chọn mỗi người một vị trí. Tôi hỏi Duyên

làm sao chuẩn bị được một bữa ăn thịnh soạn như vậy. Duyên bảo chúng em đang mải dự

buổi biểu diễn hấp dẫn, ai còn thì giờ đâu để đi chợ nấu nướng. Ở Sơn Tây bây giờ, chỉ

một cú điện thoại, nhà hàng sẽ mang bữa ăn đến tận nơi. Tôi nêu riêng với Duyên một

yêu cầu đặc biệt. Một đĩa trái cây, loại càng ngon càng tốt, chọn thư dữ của Việt Nam ấy.

Một chai nước ép trái cây thiên nhiên. Hai cái này dành cho ông nghị. Ông ấy không ăn

được những món của chúng mình. Tôi e rằng ông sẽ nôn oẹ khi nếm phải những thứ vốn

tanh tưởi như thịt, cá mà chúng mình dùng lâu nên quen đi. Duyên bảo có ngay và sẽ

mang đến khi tôi “ra lệnh”.

Tôi nói với thầy An rằng đã lâu lắm rồi tôi nhịn ăn, nhịn uống. Không khéo đến một

lúc nào đó, cả bộ máy tiêu hóa của tôi sẽ teo đi và biến mất. Xin thầy đừng quan tâm đến

việc tôi có dùng bữa hay không. Tôi đưa mắt liếc về phía ông Mun. Quả là giây phút

quan trọng này đã tới. Mặt ông nhăn lại. Ông khéo léo đưa ngang bàn tay che mũi.

Nhưng rồi không thể chịu đựng được nữa, ông bật đứng dậy và lao ra ngoài. Tôi xin lỗi

thầy An và mọi người, lao ra theo. Ông nghị ngồi xuống, tay bịt chặt mồm cố ngăn một

cơn buồn nôn. Tôi biết cái cảm giác này từ những người quen ăn chay. Chỉ cần ngửi tới

cái bát, đôi đũa của người ăn mặn là họ có thể nôn thốc nôn tháo. Bởi khứu giác của họ

rất nhạy với các mùi tanh. Có một số người nói rằng có những thầy tu “hổ mang” tuy ăn

chay nhưng thỉnh thoảng cũng thèm nhắm chút thịt cầy, tôi cho đó là một sự bêu riếu đầy

ác ý. May mắn làm sao là ông Mun không nôn được. Từ lúc lên tàu cho đến khi đáp

xuống Trái Đất, ông có ăn gì đâu. Bụng ông đang trống rỗng mặc dù vậy, ông không đói.

Tôi gọi Duyên, cùng dìu ông đứng lên. May mà ông đang ở vóc dáng nhỏ con. Tôi đưa

ông vào phòng của thầy An. Trên mặt bàn làm việc, có sẵn đĩa trái cây và chai nước. Tôi

mời ông và rót chai nước ra cốc. Ông ăn, ông uống một cách dè chừng. Tôi hỏi trái cây

Việt Nam có ngon không. Ông thành thật lắc đầu bảo trái cây chỉ lạ miệng thôi chứ

không ngon và thơm như trái cây trên Lemuria. Tôi mời ông cứ ngồi đây nghỉ, còn tôi ra

bàn ăn tiếp tục trò chuyện với thầy An. Mọi người hỏi tôi về ông nghị. Tôi nói vui, là nhà

tu hành đến bực thượng thặng, ông ấy chỉ biết chay trường nên không chịu được các mùi

thức ăn mặn.

Tôi còn báo cho mọi người biết trước để đề phòng sự ngạc nhiên:

Đồng bào của ông nghị kể cả ông ấy vóc dáng cao to lắm. Chiều cao thường xuyên

của người trưởng thành là 18 mét.

60

Mọi người cùng ồ lên. Tôi tiếp tục:

Ngay tối nay, mọi người sẽ chứng kiến điều đó. Vóc dáng nhỏ bé hiện tại là do ông

ấy tự thu lại. Điều này làm ông ấy tốn khá nhiều sinh lực. Ban đêm, phải để ông ấy tự do,

thoải mái trong vóc dáng vốn có. Được như vậy, ông ấy sẽ khoẻ khoắn. Sau phút ngồi

thiền, ông lấy lại được năng lượng bổ sung.

Bỗng Ngân lo lắng cho ông ấy theo kiểu người nội trợ quán xuyến trong gia đình:

Với chiều cao như vậy, ta bố trí cho ông ấy ngủ nghê thế nào đây?

Mọi người không ai bảo ai, đưa mắt quan sát căn phòng. Nếu ông ấy nằm nghỉ tại

đây, chiều dài và chiều rộng căn phòng này đáp ứng được. Nhưng còn giường, chiếu,

chăn, nệm, mùng màn nào to cho vừa? Tôi bảo tôi lo được, mọi người yên tâm.

Người mua hai bộ đèn cùng dây nhợ linh tinh đã về. Tashi xin một bộ và nói lời từ

biệt tất cả mọi người. Tôi bắt chặt tay Tashi. Tashi hỏi tôi:

Có nhắn gửi gì đến Sao không?

Tôi cười:

Đương nhiên. Nói giúp là mình rất nhớ cô ấy, nhớ May.

Tashi biết trước rằng trong tương lai, Kim sẽ gắn bó lâu dài với hành tinh P52.

Để xem đã. Mình cũng mong như vậy. Thôi chào tạm biệt.

Tạm biệt. Hẹn gặp lại.

Tashi chào thầy An cùng mọi người, ôm bộ đèn cùng dây nhợ đi ra phía con tàu.

Nhiều người ngạc nhiên nhìn thấy có một bộ đèn tự nhấc mình lên khỏi mặt đất, rung

rinh di chuyển chậm chạp về phía bãi trống trước mặt Viện rồi bỗng nhiên biến mất.

Sau bữa tiệc trưa, mọi người trong Viện không ai muốn về nhà, ở lại chợp mắt chút

đỉnh rồi làm việc tiếp. Thầy An thông báo mời mọi người đến phòng họp nghe tôi tường

thuật chuyến đi. Buổi tường thuật tất nhiên khá dài bởi vì ở mỗi hành tinh, bao nhiêu là

sự kiện đã xảy ra với tôi. Những tình huống bất ngờ mang đậm tính bi hài đã làm cho mọi

người không còn giữ gìn ý tứ gì, cứ cười lăn cười bò. Tôi mạn phép không nêu ra đây bởi

độc giả đã đọc hết rồi. Cuối cùng, tôi nói lên nhận xét của mình và đề nghị mọi người cho

thêm ý kiến:

Thế là tôi đã vô cùng may mắn được đến thăm hậu duệ của những người vốn có

cùng một nôi, cùng một Bà Mẹ là Trái Đất. Họ đã mở rộng cõi lòng nhận tôi là người anh

em. Thế rồi, tôi đã tận mắt chứng kiến thế nào là một xã hội hòa bình, văn minh, hạnh

phúc thực sự đúng nghĩa, tuy mỗi hành tinh có một phong cách riêng. Không có giai cấp.

Không có áp bức bóc lột. Không đảng phái. Không tôn giáo. Không cảnh nước này xâm

lăng nước kia, tàn sát lẫn nhau rồi cùng đau khổ. Không, không và không... những cảnh

éo le hiện đang đầy rẫy phổ biến trên Trái Đất này. Lòng trung thực và tình thương là hai

yếu tố căn bản cấu thành xã hội, có thể tóm gọn trong một câu đơn giản như vậy. Ngược

với lòng trung thực và tình thương là tội ác, sẽ bị xã hội lên án, trừng phạt. Chỉ cần biểu

lộ một ý nghĩ hay lời nói tiêu cực, người này phải nhanh chóng sám hối để “dọn sạch

mình”.

Có một ý kiến nêu lên của một người tôi chưa quen:

Ở xã hội đó chỉ có hòa bình, vậy có đấu tranh không? Theo Marx, có đấu tranh, xã

hội loài người mới tiến bộ, phát triển lên được. Một xã hội không có những giai cấp khác

nhau, không hề có đảng này đảng kia, không có người giàu người nghèo, không có kẻ tốt

kẻ xấu thì sự đấu tranh đâu có cần. Sống như vậy không chán sao?

Ý kiến một người khác:

Chẳng lẽ muốn tồn tại đấu tranh để xã hội phát triển mà ta đành giữ cái bất công

sao?

61

Tôi không nghĩ như vậy. Để xã hội phát triển, cần có tri thức. Chính tri thức là động

cơ phát triển của xã hội chứ không phải đấu tranh. Trái Đất chúng ta mới phát triển trong

vòng hơn trăm năm nay. Thế trước đó hàng mấy nghìn năm, loài người đấu tranh lẫn

nhau, từng gây ra bao cuộc chiến tranh đẫm máu, điều đó có đem lại sự phát triển cho xã

hội đâu?

Về sinh hoạt ăn uống, vui chơi ở hai hành tinh mà anh Kim đến thăm, theo em sao

trông nó nghèo nàn và đơn điệu quá! – một giọng nữ lên tiếng.

Tôi không biết nói thế nào, đành ngụy biện để an ủi mọi người theo cách này:

Nghèo nàn hay đơn điệu, có lẽ ta phải đặt mình vào địa vị của người ta, mới có

nhận thức khách quan được. Giả dụ những bộ tộc lạc hậu, quanh năm sống trong rừng ăn

uống thiếu thốn, cuộc sống của họ thế là tẻ nhạt đơn điệu chăng? Ngay cả những ông vua

của những thế kỷ 18 trở về trước, họ giàu có đấy nhưng không phải vì họ chưa có đèn

điện, máy thu hình, tủ lạnh, quạt máy mà chúng ta bảo ông ấy sống nghèo nàn, tẻ nhạt?

Về những bữa ăn giống nhau ở mỗi hành tinh, họ rất ngạc nhiên vì tôi dùng từ “chán”.

Ngài nghị Mun chẳng đã cho thấy phản ứng của ông ấy như thế nào trước sự phong phú

về bữa ăn của chúng ta?

Hình như cuộc thảo luận này chẳng đem lại ích lợi gì, không ai thèm phát biểu nữa.

Tôi quay sang thầy An đề nghị cho người đánh xe về thị trấn mua một bộ giường, nệm,

gối, chăn, màn, dành cho ông nghị tối nay. Cứ mua bộ bình thường một người nằm rồi

ông ấy cũng sẽ xoay trở giải quyết được cho tấm thân đồ sộ của mình. Việc chuyển giao

bộ đèn cho hành tinh Lemuria sẽ thực hiện tối nay, lúc 8 giờ. Thầy An mời mọi người

đến chứng kiến.

Hết giờ làm việc chiều, mọi người trở về nhà lo chuyện gia đình trừ thầy An và tôi

cùng ở lại tiếp ông nghị. Đương nhiên người bảo vệ trực đêm cũng có mặt. Thầy An gọi

điện về nhà báo gia đình biết rồi đành đem gói mì ăn liền ra thay bữa cơm chiều. Tôi nói

với thầy An rằng, khi còn ở hành tinh Lemuria, tôi được thủ lĩnh nhờ đưa ông nghị đi

thăm thú một số nơi trên Trái Đất. Tôi dự kiến mời ông sau khi đi thăm một số thành phố

hoa lệ như Venice, Paris, sẽ đến Ai Cập thăm kim tự tháp Cheops, tượng Nhân sư và đến

Tây Tạng thăm núi Kailash. Tôi giải thích cho thầy rõ là trừ Paris và Venice, các kim tự

tháp và tượng đài nêu trên được lưu truyền là do người Lemuri cùng với người Atlan cổ

đã dựng nên sau trận Đại hồng thủy. Vấn đề trước mắt là ông Mun và tôi phải có giấy hộ

chiếu và visa. Tôi thì rõ rồi vì tôi có giấy chứng minh nhân dân là người Việt Nam. Còn

ông Mun, xin... thầy tạm cho ông ấy mượn chứng minh nhân dân và hộ chiếu của thầy để

nhân bản ra vậy. Nét mặt thầy An bỗng căng thẳng, lộ rõ sự lo ngại, tiến thoái lưỡng nan

vì đồng ý cũng khó mà không đồng ý thì giải quyết sao đây. Tôi cũng chưa nghĩ ra được

cách gì, đành hỏi ông Mun. Ông hỏi mượn thầy An chứng minh nhân dân và hộ chiếu.

Thầy An vừa đưa hai cái ra thì trên bàn lập tức hiện thêm hai cái giống hệt. Thầy An hỏi:

Còn ảnh thì sao?

Kim, ngươi xem ta có giống thầy An không?

Tôi và thầy An quay phắt lại nhìn ông Mun. Đâu còn là ông Mun nữa mà ngồi đó là

một thầy An thứ hai. Ba chúng tôi cười ồ lên.

Thầy An thật đưa tay ra bắt chặt tay thầy An giả.

Có tiếng còi ô tô bên ngoài. Người được thầy An phân công đi mua giường cùng với

tài xế khệ nệ khiêng chiếc giường không lên nhà, đặt ngay giữa phòng, rồi cắm cúi quay

trở ra bê mấy thứ còn lại. Bỗng ngước mắt nhìn thấy một lúc có hai thầy An, họ đưa tay

dụi mắt. Vẫn cứ là hai thầy An cùng với tôi đang đứng trước cửa nhìn ra. Anh bạn đi mua

giường đánh bạo nhưng vẫn ngập ngừng:

62

Thưa thầy..

Tôi nói ngay:

Đây là thầy An.

Báo cáo thầy, em đã mua xong giường. Mọi thứ đầy đủ cả ạ. Còn...

Anh này chỉ vào ông Mun đang trong vai thầy An giả. Thầy An

thật nói ngay:

Đây là biệt tài của người Lemuri. Nào, xem kỹ xem ông ấy có giống ta không?

Đâu có, anh Kim đấy chứ!

Thầy An bỗng bị hố. Tôi, chính là Kim thật, cười to lên tiếng sau khi quay qua quay

lại bên cạnh ông Mun:

Em đố thầy đâu là Kim thật, đâu là Kim giả.

Thầy An kể ra cũng nhanh trí nhìn lên túi áo xem ai có bút bic sẽ là Kim thật, còn

người không có, đấy là Kim giả. Nhưng lần này thầy cũng thất bại: cả hai đều có bút bic.

Bỗng dưng, tôi có một thử nghiệm. Xin ông nghị lấy lại hình dạng thầy An. Xong tôi hỏi

thầy An bao nhiêu tuổi, có vợ và mấy con, họ tên gì? Ông Mun đáp ngay

Thầy năm nay đúng năm tám. Vợ thầy tên Lan, năm tư. Hai con thầy, lớn là gái tên

Giang mười sáu và nhỏ là trai tên Vang mười hai.

Thầy An chột dạ:

Ngài nghị nhân bản được cả kiến thức của tôi sao?

Ông Mun không trả lời vội. Còn tôi không hiểu trước đây mấy phút mình u mê quá.

Cái mánh của ông Mun thì tôi còn lạ gì. Ông đạt trình độ có năng lực lục lọi thông tin ở

trong đầu người khác. Khi tôi hỏi ông ấy cũng là lúc thầy An theo phản xạ nghĩ ngay đến

số tuổi của mình, tên và tuổi của vợ con mình. Việc làm này không khác chuyện nhắc

tuồng mà thầy An đã làm hoàn toàn vô thức. Tôi trả lời thay ông Mun:

Thưa thầy, ngài nghị có năng lực nắm bắt ý nghĩ của đối phương. Dẫu thầy có quên

tên tuổi của mình và của gia đình mình, ông ấy lục lọi riết rồi cũng moi ra được.

Trời sập tối nhanh chóng do mây đen ùn ùn kéo tới như báo sắp có cơn mưa. Nhưng

mọi người của Viện đã đến đông đủ mong muốn chứng kiến cái cảnh lạ mắt có một

không hai. Ông Mun vẫn trong vai thầy An làm cho mọi người ngỡ ngàng. Ngay chính cả

tôi cũng nhầm lẫn, chịu không thể nhận ra ai là thầy An thật và ai là thầy An giả. Không

hiểu có ai báo, tôi ngờ là Ngân và Duyên, cô Lan vợ thầy và hai nhỏ Vang và Giang cũng

có mặt. Biết có người thân của thầy An cũng đến, ông Mun chơi khăm, hễ thầy An thật đi

đâu thì ông, thầy An giả cũng đi theo. Cô Lan, Ngân và Duyên cười ngặt nghẽo, còn hai

nhỏ Vang, Giang cứ trân trân nhìn hai người, lộ vẻ khó chịu. Cô Lan người Sài Gòn. Có

người hỏi thầy sao cắc cớ đặt tên hai đứa con mà người ở đó, nhất là bà con họ hàng bên

ngoại, khi gọi tên chúng không phân biệt được Vang với Giang. Nhọc nhằn nhất là khi

tiếp điện thoại bạn của chúng gọi tới. Trừ chúng ra, mọi người trong nhà đều phải hỏi lại

muốn tìm Giang nào, Giang gái hay Giang trai.

Đã đến giờ chuyển hàng. Thầy An thật lúc bấy giờ mới mời thầy An giả bắt đầu. Ông

Mun lấy lại hình dạng của mình, bảo tôi mang bộ đèn cùng ông bước ra thảm cỏ của sân

Viện. Ông muốn tôi trợ lực thêm cho ông ấy. Tôi ngồi xuống bắt tréo chân theo kiểu kiết

già. Ông bước ra cách xa tôi theo chiều ngang khoảng năm mét rồi cũng ngồi xuống. Bộ

đèn đặt trước mặt hai chúng tôi cách khoảng mười mét. Trước tiên, ông nhìn lên cao, đẩy

hết đám mây đen kịt đang vần vũ ra xa, khỏi bầu trời thị xã, mặc cho nó muốn mưa đâu

thì mưa. Đoạn, ông bảo tôi hãy tập trung tinh lực nhìn vào bộ đèn và ra lệnh nhấc bổng

nó lên. Phần ông, bỗng nhiên ông cất mình cao vút lấy lại vóc dáng và chiều cao vốn có

trong khi tia mắt vẫn xoáy vào bộ đèn. Không đầy một giây, bộ đèn lắc lư từ từ, từ từ tự

63

nâng lên, sau đó vút nhanh, biến mất vào không trung. Có ai đó vỗ tay, rồi cả bấy nhiêu

con người đang có mặt cùng vỗ tay theo. Ông Mun bảo tôi đi vào cùng mọi người, xin để

yên cho ông ngồi tịnh tâm trong vài phút lấy lại cân bằng năng lượng. Sau đó, ông đứng

dậy trở thành người khổng lồ cao ngang bằng với tòa nhà ba tầng. Tôi nhìn thấy bước ra,

đứng cạnh ông rồi cũng từ từ, từ từ bốc mình cao vút lên trên cho đến khi bằng ông. Mọi

người trong Viện vừa ngạc nhiên vừa thú vị hò reo không ai bảo ai, đổ xô ra đứng phía

trước chúng tôi thành hai hàng, thầy An, cô và hai nhỏ đứng trước ông Mun, Ngân và

Duyên len đến đứng trước tôi. Có vài người thay nhau cầm máy ảnh bấm lia lịa. Sau này,

chính những tấm ảnh phóng to lên ấy trở thành vật lưu niệm quý giá có một không hai

được treo ngay trong hội trường của Viện. Nhiều người lạ đến Viện cứ khăng khăng bảo

đó là những ảnh giả, ảnh ghép chứ không phải ảnh thực.

Tối hôm ấy, sau khi mọi người chào ông Mun và thầy An ra về, tôi và thầy An ở lại

Viện. Ngân và Duyên cũng nài nỉ xin ở lại, nói là ông Mun có cần gì các cô sẽ giúp. Để

giải quyết chỗ nằm, bây giờ tôi mới trổ tài biến một giường thành bốn giường. Tiếp theo,

ông Mun cho chiếc giường của mình dài ra đến khoảng 20 mét và rộng khoảng 4 mét.

Liếc nhìn thầy An, tôi và hai bạn gái, ông cho giường thầy An và giường tôi dài 2 mét,

rộng 1,5 mét, giường của Ngân và Duyên cũng dài 2 mét và rộng gấp đôi, tức 3 mét. Tôi

lôi các màn chống muỗi ra. Ông Mun không biết đó là cái gì, hỏi tôi. Tôi bảo nơi đây cây

cối um tùm, gần sông nên lắm muỗi. Muỗi là con vật bé xíu bằng đầu bút bic, bay được

và tìm người để hút máu. Máu là thứ nước dinh dưỡng nuôi sống nó. Đang nói, có ngay

một con muỗi bay vo ve trước mặt, tôi đưa hai tay bốp một phát. Xác con muỗi chết tươi

nằm gọn trong lòng bàn tay tôi, máu đỏ đầm đìa. Ông Mun rùng mình kinh tởm, hét lên:

Ôi, ngươi lại phạm tôi sát sinh!

Tôi trấn an ông:

Cháu xin lỗi. Máu này không phải máu của nó mà là máu người bị nó hút. Ở hành

tinh này, mọi người đều cho rằng muỗi là loại động vật ác, cần phải tiêu diệt. Chẳng lẽ ở

hành tinh Lemuria, không có muỗi sao?

Không có. Nhưng ta không muốn ngươi xử ác như vậy, chừng nào ngươi còn theo

chương trình học của Lemuria.

Rồi ông nói tiếp:

Không cần phải dùng màn để chống muỗi. Ta sẽ tạo một vòm năng lượng làm rào

cản các con muỗi đến các giường ngủ.

Muỗi bay đến đụng phải vòm rào cản có bị chết không?

Không. Ta đâu được phép sát sinh.

Tôi hỏi tiếp dường như tranh thủ khai thác mọi khả năng giải đáp của ông ấy:

Thế ta tìm cách làm cho muỗi triệt sản, tức là dù có đẻ trứng nhưng trứng không nở

thành con có được không?

Bấy giờ ông Mun mới dịu dàng bảo tôi:

Được cháu ạ. Bởi vì làm vậy không phải sát sinh. Ta biết cháu có khả năng làm

điều đó. Cháu cứ thử đi!

Từ lúc tôi đối đáp với ông Mun về chuyện con muỗi, ba thầy trò – thầy An cùng với

Ngân, Duyên – không ai nói gì. Bấy giờ thầy An mới lên tiếng:

Hay quá. Ta sẽ đưa vào kế hoạch nghiên cứu của Viện đề tài triệt sản muỗi do Kim

phụ trách.

Ngân và Duyên lém lỉnh đưa mắt nhìn tôi, bụm miệng cười. Ngân bạo dạn:

Triệt sản luôn những người không muốn có con nữa ạ.

Tôi trừng mắt:

64

Này, các cô liệu hồn!

Thầy An lên tiếng bảo vệ:

Kim, chúng nó đùa nhưng mà nội dung hoàn toàn nghiêm chỉnh đấy! Ôi, nếu ta làm

triệt sản cho người bằng tâm năng thì sự việc sẽ đơn giản xiết bao.

Chợt nhớ dân số của hành tinh Lemuria rất ít do mỗi gia đình có không quá hai con,

tôi hỏi ông Mun:

Thưa ông, ở Lemuria nhà nào cũng có ít con, có phải do triệt sản không ạ?

Ừ. Đã có quyết định của thủ lĩnh hành tinh. Gia đình tự nguyện làm triệt sản bằng

tâm năng.

Tôi phàn nàn:

Ở Việt Nam, việc làm triệt sản bằng biện pháp y học khá nặng nề khó khăn. Do

không chủ động được, nhiều người nhỡ có con trong bụng ngoài ý muốn, đã phải đến

bệnh viện móc bỏ nó đi.

Ông Mun trố mắt nhìn tôi như nhìn một con quái vật:

Trời! Các người giết đứa con sao? Ai cho phép các người làm vậy?

Tôi ngượng chín cả người, bặm môi không còn dám mở miệng nói một lời nào. Nếu

lúc này mà tôi cho ông Mun biết rằng Việt Nam hiện là một trong ba nước có tỷ lệ nạo

phá thai cao nhất Trái Đất, rằng có năm như năm 1804, toàn quốc có 107 nghìn bé được

sinh thì đồng thời cũng có 108 nghìn ca nạo phá thai, rằng riêng ở tuổi vị thành niên, mỗi

năm có khoảng 500 nghìn ca nạo phá thai thì ông sẽ kinh tởm và căm giận dân ta đến

mức nào! Đó là chưa kể những vụ giết người bất kể thân sơ chỉ vì những xích mích nhỏ

nhoi, vì tranh giành nhà cửa, của cải,..; những vụ chúng ta đối xử tệ với thú vật như trích

huyết dơi, rùa, rắn,.. hòa rượu uống, đốt nóng sọ khỉ đang còn sống và dãy dụa la hét để

múc lấy óc ăn thì chắc chắn ông sẽ đòi về ngay không thèm nán lại một phút một giây

trên cái hành tinh đầy rẫy những việc làm dã man kinh dị này.

Ông Mun than nóng mặc dù quạt trần trên hội trường quay vù vù. Ông bảo ở hành

tinh Lemuria, khí hậu mát mẻ hơn nhiều. Chỉ có mát và lạnh thôi chứ không mấy khi

nóng. Tôi ghé tai ông nói thầm:

Lát nữa, khi mọi người đã lên giường nằm, ông chuyển tất các giường ra sân đi ông

nhé.

...??

Ngủ ngoài ấy bảo đảm mát mẻ, còn được ngắm bầu trời sao lung linh.

Hay lắm. Với lại, ta và cháu còn được hấp thu sinh khí của vũ trụ.

Nhưng nhỡ khuya trời mưa thì sao?

Lo gì, vòm năng lượng của ta che được mưa.

Đến mười giờ đêm. Lại một phen làm mọi người ngạc nhiên khi người cuối cùng

bước lên giường. Cùng một lúc, bốn chiếc giường bốc lên cao và lần lượt bay ra hạ xuống

theo thứ tự cũ trên khoảnh sân rộng trước Viện. Hai cô gái reo lên thích thú trong khi

chiếc giường đang bay, nhưng đồng thời cũng la lên vì mấy đôi giày dép còn ở lại trong

nhà. Tức thì tôi đưa mắt điều khiển cho các thứ đó bay ra, hạ xuống đúng chỗ tương ứng

với các giường.

Có thể nói là từ khi tôi và ông Mun bước chân vào Viện, tất cả mọi người đều thấy lạ

lùng và thú vị bởi chốc chốc lại xảy ra một màn trình diễn tựa như ảo thuật. Cũng có

người không hoàn toàn tin hẳn, cho là hai chúng tôi thôi miên, nhìn thấy vậy mà không

phải vậy.

65

Riêng tôi, chẳng cần người ta tin hay không tin. Miễn mình làm được việc của mình.

Cả ngày hôm sau, tôi và ông Mun khi đó đóng vai thầy An nhân bản, đi lo các giấy tờ.

Tôi cần tấm hộ chiếu và sau khi có nó, tôi sẽ cùng ông Mun đến các đại sứ quán của các

nước Ý, Pháp, Ai Cập, Trung Quốc xin visa nhập cảnh theo dạng du lịch cá nhân. Trong

thời gian chờ đợi, tôi đưa ông Mun đi dạo loanh quanh trong Hà Nội. Tôi không cho ông

Mun đội lốt thầy An trong thời gian chưa xuất cảnh do đề phòng ông gặp người quen của

thầy An thì sẽ khó xử. Thầy An xuất quỹ của Viện chi tiền vé máy bay cho chúng tôi. Tôi

đổi tiền Việt ra mấy chục nghìn đô la Mỹ cho chuyến đi.

Vào ngày thứ tư của ông Mun trên Trái Đất, chúng tôi cùng lên máy bay bắt đầu cuộc

hành trình. Từ Hà Nội, chúng tôi lấy vé máy bay đi Ý, đáp xuống phi trường quốc tế

Leonardo da Vinci – Fiumicio rồi đi taxi về Venice. Venice là thành phố nổi giữa biển

nước, thành phố duy nhất trên thế giới không có phương tiện xe cộ, tất cả chỉ dựa vào hệ

thống tàu thuyền trên kênh rạch. Chúng tôi đi tham quan bằng thuyền dọc kênh Granal.

Những địa điểm nổi tiếng của Venice có quảng trường thánh Marco, nhà thờ Đức Mẹ

Phương Đông, nhà thờ thánh Paul, xưởng thủy tinh Murano, tháp nghiêng Pisa, quãng

trường thánh Peter, đấu trường La Mã. Đặc biệt đấu trường dù bị đổ vỡ, bào mòn vì năm

tháng nhưng vẫn cho ta cái cảm nhận về sự uy nghi, hoành tráng, bi hùng của nó. Nơi đây

đã từng diễn ra bao cuộc tắm máu của những nô lệ thời cổ đại nhằm mua vui cho mọi

tầng lớp thị dân. Tại Ý, Florence là cố đô, nổi tiếng với 10 chiếc cầu, mỗi chiếc là một

công trình kiến trúc mang sắc thái của thời kỳ Phục hưng của Châu Âu. Cổ nhất là Ponte

Vecchio nằm ở hạ nguồn sông Arno, xây từ năm 1345 với ba nhịp vòng cung, đặc biệt

hai bên thành cầu là những tòa nhà nhỏ. Những thánh đường ở Florence còn mang dấu

tích của các bậc thầy thời cận đại như Leonardo da Vinci, Michelangelo và Botticelli qua

những tác phẩm nghệ thuật tranh, tượng. Florence đông nghẹt khách, mỗi ngày có tới

1800 xe buýt loại 50 chỗ ngồi đổ người từ bốn phương đến.

Tuy nhìn thấy cảnh những lâu đài nguy nga nằm bên các con kênh trong trẻo hiền hòa

và đầy thơ mộng, những con người ở đó đi lại bằng những chiếc thuyền sang trọng trong

những trang phục đẹp rực rỡ, nhưng ông Mun tỏ ra rất thờ ơ. Ông hỏi tôi Paris thế nào.

Tôi mô tả theo trí tưởng tượng: Paris là thủ đô nước Pháp, nổi tiếng là một thành phố hoa

lệ nhất hành tinh. Ban đêm, được mệnh danh là kinh đô ánh sáng, Paris rực lên muôn

màu sắc bởi hệ thống đèn trang trí mỹ thuật. Những điểm tham quan thu hút ở đây có

tháp Eiffel, nhà thờ Đức Bà, viện Bảo tàng Versailles trong đó có kiệt tác Mona Lisa bản

gốc của Leonardo da Vinci, đại lộ Champs Elysées nhộn nhịp, Khải hoàn môn,

Disneyland, trung tâm mua sắm La Fayette, bảo tàng Louvre được coi là bảo tàng lớn

nhất thế giới. Nghe xong, ông Mun đâm ra rối trí, xua tay bảo tôi hủy bỏ chuyến đi Paris

mà lấy vé bay thẳng đến Ai Cập. Tôi vô cùng ngạc nhiên vì mặc dù đã cố hết sức, vẫn

không sao kích thích được óc tò mò của ông. Nhưng tôi không tiện hỏi.

Khách đi du lịch Ai Cập mà không một lần đến thăm kim tự tháp Cheops và tượng

Nhân sư thì bị xem là chưa đến Ai Cập. Tôi nói rõ Ai Cập nổi tiếng về các kim tự tháp

lớn nhỏ. Ông Mun nghe nói tỏ ra hào hứng hẳn lên. Nhưng ông không vui mừng mà lại

để lộ rõ tâm trạng bồn chồn, phấp phỏng, lo âu khó tả.

Ai Cập giáp biển hai mặt, giữa có sông Nile chảy qua. Thế mà, 94% diện tích của đất

nước này lại là sa mạc. Mới đặt chân đến Cairo, ta không có cảm giác đang đứng giữa sa

mạc vì nhà cửa, người, xe rất nhộn nhịp, đông đảo. Thế nhưng chỉ một ngày ở đây, ta sẽ

dễ dàng nhận ra sự hiện diện của sa mạc xung quanh. Nhà cửa dù sơn màu gì chỉ sau vài

trận bão cát cũng ngả sang màu vàng xỉn của cát trông rất chán. Trong khi ban ngày, nắng

66

chang chang trên 30 độ thì ban đêm, nhiệt độ giảm xuống còn xấp xỉ 18, cái khắc nghiệt

đặc thù chỉ có ở sa mạc.

Chúng tôi đến Cairo vào buổi sáng. Cairo là một thành phố của hàng ngàn ngọn tháp,

thành phố lớn nhất của thế giới Ả Rập và cũng quan trọng nhất của thế giới Hồi giáo. Khi

ra khỏi sân bay Cairo, đáng lẽ thuê taxi tìm khách sạn, chúng tôi bảo tài xế lái đến thẳng

Gizah, cách thủ đô khoảng 12 km để chiêm ngưỡng ngay cụm tháp và tượng Nhân sư.

Cụm có ba kim tự tháp lớn là Cheops, Khephren, Mykennos trong đó Cheops lớn nhất

cao 146,5 mét, xây bằng 2,5 triệu phiến đá cực lớn. Ngoài ra còn có 6 kim tự tháp nhỏ,

một số đền đài và 400 nhà mồ. Khi đã đứng trước Cheops, hai chúng tôi cảm thấy trong

người khoẻ khoắn hẳn lên, cơ thể như được tiếp thêm sinh khí. Tôi rủ ông Mun chui vào

bên trong, ông xua tay:

Chớ có dại!

Người ta đang vào đấy thôi.

Mặc người ta, chúng mình thì không. Nhất thiết không!

Khi đến đứng trước tượng Nhân sư, ông Mun tỏ vẻ tiếc nuối:

Chà, nếu được tự do ta đã có thể nhìn kỹ pho tượng kỳ bí này rồi.

Chả là tượng Nhân sư tạc một con quái vật bằng đá, đầu người, mình sư tử với những

chân có vuốt vươn ra phía trước. Tượng cao 18 mét và dài 57 mét với bộ mặt người có bề

ngang 5 mét. Còn ông Mun ở vóc dáng vốn có cao 18 mét nên có thể đưa tay sờ mó, quan

sát rất dễ. Tôi nói với ông rằng đâu đó có một lời nguyền là ở bên phía dưới tai của Nhân

sư có một chỗ, nếu bấm vào đó Nhân sư sẽ chuyển động hé lộ cho ta nhìn thấy nhiều điều

bí mật bên dưới. Hay là chờ đến tối, ông lấy lại vóc dáng đúng của mình, thử làm điều

này đi. Ông xua tay từ chối:

Không, không, không. Ta không biết điều đó và nếu có người được phép làm chắc

chắn không phải là ta.

Một chàng trai Ai Cập da sậm, sà đến, vai đeo lủng lẳng đủ thứ vật lưu niệm thu nhỏ

thể hiện kim tự tháp và Nhân sư, gạ bán. Ông Mun xua đuổi:

Không! Đi đi. Chúng ta không mua.

Tại sao? – tôi ngạc nhiên hỏi – Một vài thứ lưu niệm của chuyến đi cũng tốt chứ

sao đâu.

Không. Ngươi không biết chứ ta thấy rõ các thứ vật lưu niệm ở đây đều bị ma ám

hết. Mang chúng nó bên mình, người như chúng ta sẽ mất sinh khí nhiều lắm.

Ông Mun không muốn ở lâu, giục tôi thuê taxi trở về Cairo, mướn phòng khách sạn

ngủ một đêm, hôm sau ra phi trường lấy vé máy bay sớm ngược về Thượng Hải (Trung

Quốc). Từ Thượng Hải, chúng tôi lên ô tô đi Thanh Hải. Thanh Hải là một tỉnh ở phía

Tây Trung Quốc, cao nguyên của nó là thượng nguồn của nhiều con sông dài tầm cỡ thế

giới như Mekong, Dương tử. Trên sông Dương tử, có đập thủy điện nổi tiếng to lớn là

đập Tam Hiệp hoàn thành vào tháng 5 năm 2006, cao 185 m và dài 2390 m. Hai mươi cái

tổ máy phát điện của nó hoàn thành vào năm 2009 với tổng công suất 18200 megaoat,

đưa lên mạng lưới mỗi năm 84,7 tỷ kilooat-giờ. Chúng tôi lên chuyến tàu lửa T27 nối liền

thành phố Cách Nhĩ Mộc tức Golmud của tỉnh Thanh Hải để đi lên Lhasa, thủ đô của Tây

Tạng. Tuyến đường sắt này dài 1140 km nằm trên cao, trung bình là 4000 m so với mặt

biển, nơi cao nhất là 5072 m. Phải mất 12 giờ ngồi tàu, chui qua 33 hầm. Những toa tàu

khá đầy đủ tiện nghi do Canada chế tạo được thiết kế như trên máy bay, giúp hành khách

khỏi bị xây xẩm, nhức đầu do áp suất thấp và không khí loãng của cao nguyên Himalaya.

Trung Quốc còn dự định nối tiếp con đường sắt này đến thành phố lớn thứ hai của Tây

Tạng là Shigatse, dài thêm khoảng 270 km nữa về phía Tây.

67

Khi con tàu đi vào vùng đất Tây Tạng, ông Mun có vẻ phấn chấn hẳn lên. Tôi đoán

có lẽ cảnh quan và không khí vùng này hao hao như ở hành tinh quê hương ông. Nhiệt độ

hiện tại của Tây Tạng là 60oC. Cái lạnh giá không hề làm ông lo lắng. Còn tôi, trong

cái đống bùng nhùng của mấy lớp quần áo dày sụ, run lên vì cóng, phải cố vận dụng sinh

lực để tự sưởi ấm thêm. Tây Tạng, thế giới tâm linh với 16 000 tu viện lớn nhỏ, là một

vùng đất nằm trên cao độ trung bình so với mặt biển 4900 m, rộng 1,2 triệu km2, gần gấp

bốn lần diện tích Việt Nam, dân số chỉ có 2,7 triệu trong lúc Việt Nam có tới 90 triệu.

Thủ phủ Lhasa có cung điện Potala nổi tiếng được xây dựng từ thế kỷ thứ 7 tồn tại

hầu như nguyên vẹn cho đến nay, đánh dấu cuộc hôn nhân của hai dân tộc Tạng – Hán:

quốc vương Songtsen Gambo với công chúa Văn Thành đời nhà Đường. Nó là một quần

thể lâu đài trùng điệp, nguy nga cao 117 m gồm 13 tầng lầu, trong đó cung điện chiếm

diện tích 130 000 m2 với 1000 phòng chứa 10 nghìn miếu thờ và 20 nghìn tượng điêu

khắc lăng mộ của 8 vị Đạt lai Lạt ma.

Vừa đến Lhasa, chúng tôi thuê ngựa đi thăm núi Kailash ngay. Đương nhiên là phải

thuê cả người dẫn đường. Tôi nhường cho ông Mun con ngựa khoẻ hơn. Khi người dẫn

đường giúp ông lên yên, con ngựa oằn mình vì sức nặng tấm thân cô đặc của ông Mun

trông thật tội nghiệp. Con ngựa liêu xiêu không bước nổi. Tôi bối rối nhắc ông:

Thưa ông, con ngựa...

Ông Mun không trả lời, ngồi yên tự làm cho cơ thể nhẹ hơn. Chúng tôi nối thành

hàng một trên địa hình tương đối bằng phẳng. Ngay từ xa, chúng tôi đã nhìn thấy sừng

sững quả núi cao chót vót dạng giống kim tự tháp, vây quanh là rất nhiều kim tự tháp đủ

cỡ lớn nhỏ và hình dạng khác nhau không cái nào giống cái nào như ở Ai Cập nhưng

không cái nào vượt trội quả núi Kailash này. Tôi hỏi độ cao, người dẫn đường lắc đầu

không biết. Ông Mun nói ngay:

Độ cao của núi có ngay trong đầu cháu, còn hỏi làm gì?

Cháu quên rồi mặc dù đã đọc nó ở một quyển sách...

Thế mà ta lục tìm được. Nó cao 6666 mét.

Đứng nhìn từ xa, ông Mun cho tôi biết, cùng dãy với núi Kailash, còn có tượng đài

Gompo-pang và Ngôi nhà màu đỏ của Đá Hạnh phúc. Trên tượng đài có hình của bốn

chủng người đã từng ngự trị trên Trái Đất: tận cùng bên phải là chủng thần thánh to lớn

hơn cả, trên vai có một em bé (hình như mọc lên theo kiểu đâm chồi), sau đó người thấp

dần theo thứ tự là chủng ma, chủng Lemuri và chủng Atlan. Ngay bên cạnh, rất thấp ở

phía dưới là Ngôi nhà của Đá hạnh phúc. Nói là thấp nhưng chiều cao của nó không dưới

800 mét. Tôi nhìn theo tay ông Mun chỉ và buột miệng kêu lên do cảm thấy nhói mắt và

đau nhức như bị dao đâm. Ông Mun bảo:

Cháu nhìn về đó phải với thái độ ngưỡng mộ và tình cảm trìu mến mới được. Nhìn

như ta, có sao đâu!

Xin lỗi.

Nhưng tôi quay đi, không dám thử nghiệm lần thứ hai. Ở các bức tường Ngôi nhà của

Đá hạnh phúc có ba ô cửa, trong đó ô cửa lớn nhất có kích thước khá rộng, khoảng

250200 mét, nhìn thấy rõ một phiến đá chắn kín có ô lưới hình thoi. Nếu cửa được mở,

ta có thể đi sâu vào bên trong để đến một thế giới hoàn toàn khác lạ gọi là thế giới song

hành hay Cõi Âm. Bên cạnh đó, về phía bên phải Ngôi nhà, cũng vẫn bên dưới tượng đài

là một mặt núi lõm phẳng lì, bắt đầu từ chiều cao 600 mét cong vút lên tầm ngang ngôi

nhà, kết thúc tại đỉnh có hình mỏ chim gọi là Tấm gương Thời gian. Tấm gương lõm có

năng lực làm thời gian co lại. Ai đứng trong phạm vi chiếu của Tấm gương, ví dụ đến

trước các cửa Ngôi nhà của Đá Hạnh phúc sẽ bị già đi nhanh chóng và sau đó cơ thể biến

68

thành tro bụi. Người dẫn đường bảo nếu ai cố tình đến đó, sẽ không còn dịp để sống sót

trở về. Còn người nào được Bề Trên chọn làm yogi sẽ được cho biết hai câu thần chú:

một câu đọc lên sẽ được bình yên vô sự khi đi đến trước cửa và một câu để mở cánh cửa

là phiến đá chắn. Tôi hỏi ông Mun có biết hai câu thần chú đó không, ông bảo:

Ta không thuộc thế giới này dẫu rằng tổ tiên ta là người ở nơi đây. Vì vậy ta không

được chọn làm yogi.

Thế tại sao ông biết được tất cả những điều mà ông vừa nói?

Cháu không nhớ rằng ta có thể lục lọi tìm thông tin...

Tôi tiếp tục cật vấn:

Cháu nhớ khi còn ở Ai Cập, ông bảo không thể tìm thông tin là vì các kim tự tháp

và Nhân sư không có thái độ thân thiện, còn ở đây họ lại có thiện chí sao?

Đúng vậy! Cháu nhớ rằng vùng Gizah đất đai bằng phẳng, khí hậu dễ chịu nên du

khách từ tất cả các nơi trên thế giới đổ về hàng triệu lượt người mỗi năm, làm cho nó ô uế

nặng nề cùng với thái độ tò mò, trịch thượng của nhiều người, thử hỏi ai không nổi giận,

cái giận bị kìm nén lâu ngày không có cách nào giải tỏa. Họ – tức là các kim tự tháp Ai

Cập và Nhân sư – đành phải giấu kín mọi thông tin. Tại đây, với tâm hồn trong sạch vốn

có, cộng với thái độ ngưỡng mộ thành kính và tấm lòng trìu mến thực sự, ta muốn hỏi gì

mà chẳng được đáp ứng trọn vẹn?

Xa xa bên núi Kailash còn có một bức tượng cổ hình người đang ngồi xếp bằng, làm

một điều gì đó. Tôi hỏi ông Mun, ông bảo đó là tượng hình Người Đang Đọc. Tôi hỏi đọc

gì. Ông bảo đọc một tấm vàng.

Tấm vàng viết gì vậy, thưa ông?

Không viết mà nói. Nhìn vào nó, những tri thức sẽ tự nhiên đến với ta.

Cháu được biết, gần đó có ba cửa hang dẫn sang thế giới bên kia của những thần

thánh. Ngay chân tượng có một chiếc. Hay ta đi đến đó xem sao.

Ông Mun cảnh cáo tôi ngay:

Này, ngươi... Đừng có điên khùng như thế!

Còn cách núi khoảng một cây số, địa hình lúc này bắt đầu hiểm trở, ngồi ngựa e dễ

ngã, chúng tôi bỏ ngựa, đi bộ. Người dẫn đường bảo nếu ai đi vòng quanh núi Kailash

phải bước qua Cổng Tử và khi qua được rồi sẽ bước vào một đời mới. Ai đi được hết 108

vòng thì tâm hồn sẽ tinh khiết tới mức chuyển lên được bậc thánh thần. Hiện giờ chúng

tôi đang ở mặt Nam của Kailash. Ông Mun rủ tôi làm một vòng quanh núi. Người dẫn

đường bảo như vậy phải đi mất mấy ngày trên cái địa hình không mấy thú vị này. Trong

cảnh quan thanh vắng nơi đây, ông Mun chẳng cần giữ ý, rủ tôi cùng bay. Để phòng

người dẫn đường vì sợ bỏ trốn, tôi dặn hắn phải hứa ngồi chờ chúng tôi mấy giờ, chỉ mấy

giờ thôi chứ không đến mấy ngày và cuối chuyến trở về mới được nhận tiền công. Còn có

nhìn thấy gì lạ thì cố dán mồm dán miệng lại. Bằng cặp mắt trắng dã, hắn nhìn chúng tôi

gật đầu, bối rối há hốc mồm không nói nên lời vừa lúc thấy ông Mun vụt vươn lên thành

người khổng lồ.

Thế rồi chúng tôi cất mình lên cao, quay sang phải bay về hướng Đông của núi

Kailash. Ở mặt này, chúng tôi nhận rõ một tấm gương đá khổng lồ hình chiếc lá cây

mỏng. Tiếp tục bay ngược sang phía Bắc của núi Kailash. Mặt này được các lạt ma gọi là

“mặt đen” của núi theo nghĩa bóng. Lại một chiếc gương nữa gọi là Gương Tử vương

Iama nằm ở một mặt bên của rặng núi, chiếu thẳng vào Thung lũng Tử thần.

Đường đi vào Thung lũng Tử thần có hai con chó đá bốn mắt, lốm đốm màu hung

canh giữ. Ai qua được chúng sẽ đi sâu vào cửa hang để sang một thế giới khác. Nhưng

chỉ những yogi có tâm hồn tinh khiết mới làm được điều này. Còn những con người

69

vướng nhiều tục lụy khi đứng đối diện với chiếc gương sẽ già đi nhanh chóng trong chốc

lát rồi ngã xuống tại đây. Bởi vậy, chúng tôi thấy nằm rải rác đây đó ngay tại thung lũng

khá nhiều những bộ xương trắng. Hiện nay thì ông Mun và tôi chỉ đứng xa xa bên ngoài

nhìn vào chiêm ngưỡng cái nét hoang sơ huyền bí của Thung lũng. Nếu tôi đề nghị cứ

vào thử, thế nào ông Mun cũng phản đối ngay tức thì. Ông sẽ bảo đi vào sẽ muôn phần

nguy hiểm. Vả lại vào mà không biết hai câu thần chú phỏng có ích gì. Lúc này, chắc

chắn ông không thể ngờ rằng một thời gian sau đó không lâu, chính tự tôi lại có thể đi

vào đó để chiêm ngưỡng được vẻ đẹp của thế giới bên kia.

Ở mặt Tây của núi Kailash có rất nhiều tháp dáng vẻ khác nhau mà người bản địa gọi

là Trái tim của Nước. Cạnh đó còn có một cái tu viện đào chìm vào vách núi dẫn đến

động Milarepa. Cửa động bị một tảng đá rất dày và lớn bịt kín, không thể vào được. Vị tu

sĩ ở đó bảo sau cửa động là thế giới Cõi Âm. Trước tu viện còn có một khối đá sáu cạnh

rất lớn cao khoảng tám mét, dày gần bốn mét được đẽo gọt rất nhẵn nhụi và nặng ước

chừng 300 tấn. Vị tu sĩ bảo khối đá cũng do yogi Milarepa dùng ánh mắt đưa từ nơi khác

đến đây rồi dùng hai bàn tay đẽo gọt ra được như vậy. Milarepa là vị yogi sống vào

khoảng năm 1000 sau công nguyên. Ngày nay, ai dùng được ánh mắt nâng bổng hòn đá

sáu cạnh lên sẽ được cửa động mở để đi vào thăm viếng Cõi Âm.

Tôi hỏi ông Mun có biết vì sao ở Ai Cập, các kim tự tháp đều có đỉnh nhọn, bốn mặt

phẳng lỳ, còn ở Tây Tạng toàn là những kim tự tháp bậc thang.

Kim tự tháp bậc thang là để đi vào thế giới chúng ta, còn kim tự tháp đỉnh nhọn là

để đi ra khỏi thế giới chúng ta.

Ai đi vào và ai đi ra?

Ông Mun im lặng, không muốn trả lời. Nhưng chắc chắn ai đó không phải là ông

Mun, cũng chẳng phải tôi.

Đâu đâu ở quanh núi Kailash, ta cũng gặp những kim tự tháp bậc thang. Không ai

dám thử leo lên những bậc thang đó bởi vì chúng nằm trong vùng chiếu của các cỗ gương

Thời gian.

Chúng tôi bay trở lại điểm xuất phát. Người dẫn đường vẫn đang kiên nhẫn chờ

chúng tôi. Ông Mun lấy lại vóc dáng nhỏ con và được người dẫn đường giúp leo lên lưng

ngựa. Tôi cũng nhảy lên lưng con ngựa của mình. Trên đường trở về, thái độ người dẫn

đường đối với chúng tôi khác hẳn. Hắn trở nên cung kính quá mức. Cố gắng nhìn một lần

nữa về phía núi Kailash thiêng liêng và hùng vĩ, bằng ánh mắt trìu mến và lòng ngưỡng

mộ thành thực, chúng tôi nói thầm lời chào từ biệt. Tự nhiên, người chúng tôi trở nên

khoẻ khoắn lạ thường, tựa hồ như thể mình chưa hề trải qua chuyến bay vòng vất vả vừa

rồi.

Trở lại Lhasa, sau một đêm ngủ ở khách sạn, chúng tôi lấy vé máy bay đi Quảng

Châu. Tại ga sân bay Bạch Vân, làm thủ tục xuất cảnh, mua vé bay tiếp về Hà Nội. Nghĩ

lại, chúng tôi đi về hối hả giống hệt như những chính khách chứ không phải những nhà

du lịch. Ông Mun đặc biệt không lúc nào tỏ ra tò mò về những cảnh lạ mà chỉ có đến Trái

Đất, ông mới mục sở thị.

Tôi đã gọi điện báo Tashi đến đón chúng tôi về. Tashi hẹn sáng hôm sau. Ngày cuối

cùng ở Hà Nội của khách, thầy An triệu tập toàn thể đến chuyện trò một lần nữa với ông

Mun. Tôi báo trước sẽ nêu những thắc mắc trong chuyến đi và yêu cầu ông Mun giải đáp.

Nhưng ông bảo hãy để sau và nói lên những cảm tưởng của ông trước:

Những ngày lưu lại Hà Nội, tuy thời gian ngắn ngủi nhưng mọi người ở đây đã tỏ ra

rất hiếu khách và giúp đỡ ta tận tình, ta rất cảm động. Để đáp lại mối thịnh tình này, Viện

có yêu cầu gì, ta sẽ cố gắng đáp ứng trong phạm vi khả năng.

70

Thầy An lên tiếng:

Ngài nghị yên tâm. Thời gian qua, thủ lĩnh và cư dân Lemuria đã giúp Kim tìm hiểu

nền văn minh của hành tinh, ngoài ra còn giúp Kim học tập để có nhiều kiến thức và

quyền năng như ngày nay, đó là sự giúp đỡ quý giá mà hiện tại chúng tôi chưa lường hết

tầm quan trọng.

Ngân mạnh dạn đề nghị:

Việc học hành của chúng cháu trên Trái Đất quá nặng nhọc mà kết quả rất thấp.

Nếu Viện chúng cháu đề nghị ông giúp đỡ, liệu ông có thể sắp xếp công việc về đây

giảng dạy chúng cháu, có được không ạ?

Tôi lừ mắt nhìn Ngân. Con bé thật là bạo gan. Lẽ ra người đề nghị phải là thầy An

chứ không đến lượt nó. Tôi quay sang thầy An:

Ngân nói thế được không ạ?

Thầy bảo:

Có lẽ ý em Ngân cũng là ý nghĩ của hết thảy mọi người ở đây, ngài nghị thấy thế

nào ạ?

Ông Mun dè dặt trả lời, vẻ không hào hứng lắm do sự việc xảy ra ngoài dự kiến:

Ta có khả năng nhưng điều này ngoài ý muốn của ta. Nếu thủ lĩnh đồng ý với đề

nghị này, chắc thủ lĩnh sẽ phân công người khác giảng dạy. Còn ta đang quản lý một

bang của hành tinh, không bỏ công việc đi xa và lâu được. Sau khi về Lemuria, ta sẽ đề

đạt đề nghị này lên thủ lĩnh. Tuy nhiên muốn theo học chương trình giáo dục của

Lemuria, các người phải tuân thủ các điều kiện khá khắt khe đó, ta không hiểu liệu các

người ở đây đáp ứng được không?

Điều kiện gì ạ? – nhiều người nhao nhao.

Một là trong cuộc sống, không được có ý nghĩ ác và làm điều ác. Hai là cơ thể phải

trong sạch, tinh khiết. Các người cứ ăn uống xô bồ, hỗn tạp, kinh dị như hiện nay mà các

người cho là “phong phú” là không được.

Phải ăn uống như thế nào ạ?

Tôi nói rõ:

Trên hành tinh Lemuria, mọi người chỉ ăn trái cây và uống nước ép từ quả. Xin

miễn cho chuyện rượu chè, bia bọt.

Ông Mun tiếp lời:

Hoặc nhịn ăn nhịn uống như bạn Kim đây đang làm. Nếu đang học mà có ý nghĩ,

hành động ác và phá giới trong chuyện ăn uống, mọi kiến thức và quyền năng thu hoạch

được sẽ biến mất.

Mọi người trong Viện xôn xao, ra chiều thất vọng. Tôi động viên:

Bù lại, sống như người Lemuri, con người sẽ không bệnh tật và tuổi thọ rất cao.

Như ông nghị đây, tuổi đã ngót nghét 750 rồi mà trông còn khoẻ chán. Trên hành tinh

Lemuria, người dân sống đến hơn nghìn năm là chuyện bình thường.

Mọi người trố mắt ngạc nhiên. Ông Mun không giải thích gì thêm, điềm nhiên tiếp

tục sứ mạng do thủ lĩnh giao, đề nghị thầy An:

Trước khi đến đây để thực hiện nhiệm vụ truyền bộ đèn về và thăm thú vài nơi trên

Trái Đất, thủ lĩnh có dặn tôi đề nghị Viện mấy điều: Một là xin Viện cho Kim trở lại giúp

Lemuria hoàn thành công việc trang bị ánh sáng nhân tạo cho hành tinh. Hai là Kim được

phép tiếp tục theo chương trình học trên Lemuria cho xong. Thủ lĩnh rất ưu ái với Kim và

phân công sẵn một ông thầy tiếp tục dạy khi Kim trở lại Lemuria.

Thầy An vui vẻ nhận lời:

71

Nhân danh người quản lý Viện, tôi xin đồng ý chấp nhận đề nghị của thủ lĩnh.

Rồi quay sang tôi, thầy An bảo:

Trên chuyến bay tới, Kim sẽ đi cùng ngài nghị sĩ trở lại Lemuria. Tuy nhiên có điều

này mà mọi người cũng nên biết. Tashi đề nghị thầy vì tương lai của Viện đồng thời cũng

vì tương lai của Kim, sẽ phân nhiệm vụ cho Kim sau khi hoàn thành công việc và học

hành ở Lemuria, sẽ trở lại hành tinh Atlantis học hỏi công nghệ tiên tiến đang vượt xa

Trái Đất của cư dân ở đây, ngõ hầu đem kiến thức về giúp nước. Ngoài ra, nếu Kim có

yêu cầu cá nhân gì, xin Viện xem xét hợp tình hợp lý.

Nói rồi, thầy nhìn mọi người mỉm cười. Thật tình tôi chưa hiểu ý thầy muốn nói gì,

bởi vì bản thân tôi hiện nay chưa thấy cần yêu cầu Viện điều gì thuộc về cá nhân. Có lẽ

Tashi lo cho tôi, trong thời gian ở xa Trái Đất, việc quyết định sẽ trở nên khó khăn nếu

không được thường xuyên đi về. Mà với khoảng cách không gian như vậy, việc đi lại đâu

có dễ dàng!

Trở lại Lemuria và Atlantis

Đây là chuyện vừa hiện tại vừa tương lai của tôi mà bây giờ, tôi chưa có đủ thời gian

để hoạch định xa. Lại một đêm ngủ ngoài trời cuối cùng của chủ cùng với khách mà

thành phần tham gia vẫn giữ nguyên.

Sáng hôm sau đúng 8 giờ, Tashi đã có mặt ở Viện. Ông Mun nhận ra Tashi báo ngay

cho tôi biết, bởi vì không phải lúc nào tôi cũng đội mũ thấu thị.

Mọi người đã có mặt đầy đủ quanh bàn để tham dự buổi chia tay. Chợt nhớ trong túi

xách của mình còn gói kim cương tôi đã nhặt được cùng Cay ở một khe suối trong ngày

cuối cùng ở Lemuria, tôi lấy nó ra đổ hết lên bàn. Tôi đưa mắt nhìn và phù phép nhân lên

ùn ùn một đống khoảng mười ký.

Ối, ối – mọi người đồng loạt thốt lên ngạc nhiên, to tiếng nhất vẫn là Ngân và Duyên.

Tôi bảo Duyên ra sau lấy giúp một bịch nhựa lớn và một túi nhựa nhỏ. Tôi chọn để

riêng ra một viên đẹp nhất bỏ vào túi nhỏ. Còn lại, tôi gạt hết vào bịch lớn xin giao tặng

Viện để chi tiêu. Lúc này ngồi quanh bàn, có đầy đủ bảy người của Viện không kể tôi.

Trước các cặp mắt ngỡ ngàng đang theo dõi của mọi người, tôi nhân túi nhỏ chứa một hạt

kim cương thành bảy túi và cho chúng bay đến trước mặt mỗi người. Tôi nói với mọi

người:

Đây là món quà mọn của ông nghị và tôi gửi đến mỗi cá nhân thành viên của Viện

trước lúc chia tay.

Tôi nhờ Ngân đem túi nhỏ của thầy An cất vào ngăn kéo bàn làm việc của thầy. Tôi

dõi theo và kín đáo nhân số kim cương trong bịch này lên gấp đôi nhưng không cho Ngân

hay biết.

Chỉ có mấy ngày trở về nhà của tôi mà bao nhiêu chuyện lạ lùng liên tiếp ập đến với

mọi người. Tashi nói nhỏ cho tôi nghe:

Sắp tới, Viện này sẽ có nhiều thay đổi lớn mà tác nhân chính là bạn đó. Nhờ bạn mà

mọi người ở đây trở nên giàu sụ. Bạn giống như con gà đẻ trứng vàng. Bạn sẽ còn là mối

dây liên lạc thân tình giữa Viện với hai hành tinh Atlantis và Lemuria.

Hình như Tashi cũng truyền lời nói này cho thầy An nghe nên qua bộ mũ thấu thị và

thấu thính, thầy nhìn hai chúng tôi gật đầu mỉm cười lộ vẻ cảm ơn.

Với hành lý chẳng có gì đáng giá giống hệt như những người cùng khổ, tôi và ông

Mun bịn rịn chào từ biệt mọi người. Toàn thể nhân viên của Viện đều đứng trước cửa,

đưa tay vẫy tiễn đưa. Tất nhiên mọi người chỉ thấy tôi và ông Mun chứ không thấy Tashi.

72

Đến khi bóng dáng chúng tôi biến mất tựa hồ tan vào không khí, mọi người mới yên tâm

về chỗ làm việc.

Con tàu nhẹ nhàng bốc lên. Như thường lệ, Tashi lái cho nó đến nạp năng lượng ở

ngoài khơi biển Việt Nam. Ông Mun khoan khoái tắm trong dòng năng lượng và ngợi

khen việc hấp thu năng lượng kiểu này khá chóng vánh, mất ít thời gian mà lượng khá

dồi dào. Với lại, sau đó ông cảm thấy cơ thể trở nên thanh khiết, nhẹ nhàng và không

muốn ăn uống vì không thấy đói khát. Tôi nói khi trở về nhà, ông hãy vận động mọi

người năng bay ra hòn đảo nhân tạo, tắm năng lượng vũ trụ và bớt ăn trái cây đi. Ông gật

đầu đồng ý và hứa cho gia đình ông làm gương trước, sau đến mọi cư dân trong bang do

ông phụ trách.

Tôi chủ tâm hỏi đùa một câu có vẻ hơi ngớ ngẩn:

Ở Lemuria, để chuẩn bị bữa ăn, người ta hái trái cây không sợ trái cây phản đối

sao?

Không ngờ ông Mun trả lời nghiêm chỉnh:

Trước khi hái trái, mọi người phải hỏi ý kiến cây chứ! Chúng chỉ cho phép hái trái

chín, còn cố tình nghịch ngợm phá phách hái trái xanh, cây sẽ phản ứng dữ dội.

Thế nào là phản ứng dữ dội?

Cây tự giũ sạch không còn một quả nào. Thế là người ta đành nhịn, chờ cho đến

mùa sau.

Thế chim ăn trái thì sao?

Vẫn phải hỏi cây như người và chim không bao giờ phá phách trái xanh.

Lạ thật đấy. Đến giờ tôi mới hình dung một hành tinh mà trên đó, mọi vật từ con

người, chim chóc cho đến cỏ cây đều nói chuyện được với nhau và đối xử với nhau rất

bình đẳng.

Bây giờ mới nhớ lại những thái độ lạ lùng của ông trong khi du lịch đến các nơi trên

Trái Đất, tôi hỏi:

Ông nghị, cháu thấy ông khi đi thăm Venice ở Ý, ông không thích thú lắm. Sau đó,

ông đề nghị hủy bỏ chuyến đi đến Paris nữa là vì sao?

Cháu nói Venice đẹp, Paris tráng lệ nhưng ta sống nơi yên tĩnh, thanh vắng quen rồi

nên không chịu được cái cảnh chen chúc, ồn ào, xô bồ của người dân nơi đây. Không khí

bị ô nhiễm nhiều quá làm ta ngạt thở. Trong cảnh quan như vậy, ta bị mất nhiều năng

lượng.

Còn khi đến kim tự tháp và tượng Nhân sư ở Ai Cập, ông cảm thấy bất an?

Đúng! Kim tự tháp và tượng Nhân sư có vẻ không thân thiện với ta. Chúng là sinh

thể đấy, chứ không phải vật vô tri, kể cả núi Kailash và tượng Người Đang Đọc. Chúng

còn lưu giữ nhiều tri thức và quyền năng. Ta định lục tìm nhưng chúng phản ứng dữ dội.

Cho nên, không được phép trêu chọc chúng. Rồi cách đấy không xa, tại các nước lân cận

Ai Cập, không khí sực mùi tội ác do chiến tranh và bom đạn làm cho bầu trời ngùn ngụt

tử khí, còn ta thì rất nhạy cảm nên không thể chịu được. Lúc nào cũng hối hả, hối hả là vì

vậy. Ôi, một hành tinh sắp đến thời mạt vận rồi chăng? Ta xin lỗi vì những nhận xét đầy

ác ý.

Không đâu, ông nhận xét rất khách quan. Ước gì những nhận xét của ông cảnh tỉnh

được mọi người sống trên Trái Đất này!

Tôi bỗng nhớ đến hai câu thơ dữ dội của Dương Trọng Dật đăng trong số báo Chủ

nhật của Sài Gòn giải phóng ngày 13 tháng 8 năm 2006 khi ông cảm nhận nỗi đau tột

cùng, dồn dập của người

dân Lebanon trong cuộc chiến một chiều:

73

“Đất hỡi, người ăn gì mà quá khát,

“Sao uống nhiêu nước mắt, máu tươi?”

Thực ra, Đất Mẹ đâu có khát? Mà dẫu có khát, Mẹ cũng không thể đang tâm uống nổi

nước mắt và máu tươi của Con mình. Chính là con người, những đứa Con của Mẹ không

còn biết thương yêu nhau nữa, tự mình làm đổ máu, làm tuôn nước mắt đau thương đầm

đìa trên thân Mẹ.

Ông Mun chợt quay sang hỏi tôi:

Kim này, ta hỏi ngươi, tại sao Trái Đất phải có chiến tranh? Loài người các ngươi

chết chóc vì bệnh tật ốm đau, vì nghèo đói chưa đủ sao? Hiện nay, tử khí từ những thây

ma chiến tranh bốc lên ngùn ngụt ngất trời, ngươi có cảm thấy không?

Tôi cứng họng không trả lời được. Đương nhiên tôi không đủ trình độ để cảm nhận

trực tiếp dòng tử khí ngùn ngụt đó. Bằng cái đầu và con tim, tôi đã biết điều này từ lâu

nhưng thử hỏi một mình cái tôi nhỏ bé trong hơn bảy tỷ sinh linh liệu làm được gì?

Nhưng tôi vẫn gắng gượng đáp giọng chua xót:

Cư dân Trái Đất hiện đang thừa bom đạn nhưng lại thiếu tình thương mà!

Con tàu bắt đầu khởi hành. Tashi ngồi sau tay lái. Tôi hỏi Tashi:

Vừa qua, Tashi trao đổi gì với thầy An mà trong buổi chia tay trở lại P53, thầy nói

úp úp mở mở về những yêu cầu cá nhân sắp tới của mình?

Ông Mun, – Tashi không trả lời thẳng tôi mà quay sang hỏi ông Mun – ông có thể

nhìn thấu tương lai chăng?

Của ai?

Của Kim.

Có. Nhưng bây giờ ta không muốn nói trước.

Tôi sốt ruột lục vấn:

Thì ông cứ nói thử xem nào!

Ta nhất quyết không nói. Tashi, ngươi cũng thế chứ?

Vâng.

Tôi đành chịu thua hai người. Tôi đoán tương lai đến với tôi chắc chắn là tương lai

tốt. Nếu tương lai xấu, hai người không nỡ nào để tôi lãnh đủ. Cho nên tôi yên tâm. Qua

những sự kiện diễn ra trong chuyến du lịch cùng với ông Mun, bao nhiêu mệt mỏi dồn

nén lâu ngày bây giờ mới bùng ra. Tôi ríu mắt buồn ngủ. Chắc là cơ thể muốn lấy lại

sức. Tashi biết ý, khuyên mọi người nên chợp mắt, cho con tàu bay theo chế độ tự động.

Khi nghe có tiếng hú rít và sau đó là điệu nhạc ngắn, chúng tôi biết là con tàu đang

bay trên vùng trời hành tinh Atlantis nên chồm dậy. Không hiểu Tashi làm cách nào báo

trước nên khi con tàu hạ xuống bãi đáp lần trước, tôi đã thấy May và Sao đang đứng chờ.

Cả hai đều đội mũ thấu thị. Tôi bước ra trước, tiếp theo là ông Mun và cuối cùng là

Tashi. Tôi lao đến May trước, ôm lấy và nói:

Hân hạnh được gặp lại.

Sau đó tôi chuyển qua Sao, ôm hơi lâu một chút và thầm thì:

Anh nhớ em quá!

Em cũng vậy.

Tôi đưa tay chỉ vào ông Mun giới thiệu:

Đây là nghị sĩ Mun, thủ lĩnh một bang trên hành tinh Lemuria. Và đây là hai anh

em May và Sao, bạn của Kim, thưa nghị sĩ.

Ông Mun trịnh trọng:

Xin chào hai bạn. Hân hạnh được làm quen.

74

Chúng cháu chào ông. – May đáp – Xin mời mọi người về tệ xá nghỉ ngơi chốc lát.

Anh Tashi có định để mọi người nghỉ ở đây một đêm rồi sáng hôm sau lên đường về

Lemuria chứ ạ?

Tôi quay sang hỏi ông Mun:

Được chứ ông?

Tùy các ngươi. Được thăm thú chút ít hành tinh Atlantis kể cũng hay.

Tashi cùng đi hay ở lại tàu? – tôi hỏi sợ Tashi không muốn mà mình ép thật không

nên.

Tashi trả lời ngay không cần nghĩ ngợi:

Cho mình ở lại tàu.

Thế thì tạm biệt Tashi. Mai chúng mình gặp lại nhau.

Tôi cùng ông Mun theo chân hai anh em May bước lên một băng chuyền, bắt đầu đi

vào thành phố. Tôi hỏi May về bộ cấp điện cho đèn, May bảo đã làm xong, lên nhà chúng

ta sẽ cho thử. Lúc này, thời gian của hành tinh Atlantis là năm giờ chiều. Đèn đường và

các bức tường của các tòa chung cư bắt đầu bật sáng lên đồng loạt. Chúng tôi theo buồng

thang máy lên tầng 15, đi men theo hành lang dài một lúc, dừng lại trước một căn phòng.

Cửa mở rộng. Chúng tôi vào căn phòng tiếp khách. Chiếc bàn tròn từ sàn nhà trồi lên

cùng bốn chiếc ghế. May mời ông Mun và tôi ngồi. Sao nói đã đến bữa ăn chiều, sẵn đây

mời khách cùng dự luôn. Sao vừa dứt lời, từ mặt bàn hiện lên bốn khay, mỗi khay đựng

hai phong bánh và một cốc sữa nhân tạo. Ông Mun quan sát mọi thứ xảy ra từ khi bước

vào căn hộ chung cư nhưng không bình luận gì. Ông giỏi cái giữ được nét mặt luôn bình

thản. Tôi hỏi khẽ:

Ông tham gia chứ?

Thử xem.

Sao bóc phong bánh mời ông Mun. Bánh có mùi thơm thơm nên ông Mun quyết định

ăn. Nhưng ông chưa nếm vội, nhìn cách hai vị chủ nhà làm như thế nào rồi mới làm theo.

Tôi cũng ăn và hỏi lại ông Mun:

Ông thấy thế nào?

Ăn được! Bánh có vị mặn, ngọt, thơm, ngon.

Còn nước?

Ông Mun tợp thử một ngụm:

Cũng khá ngon và mát.

Tôi lộ cho ông biết chỗ giống nhau và chỗ khác nhau về bữa ăn của cư dân hai hành

tinh láng giềng:

Quanh năm suốt tháng, cư dân ở đây chỉ ăn bánh và uống sữa dinh dưỡng hệt như

người Lemuri chỉ biết có trái cây và nước ép trái cây. Song chỗ khác nhau là bánh và sữa

hoàn toàn nhân tạo, còn người Lemuri hái trái cây từ thiên nhiên.

Sao lên tiếng:

Điều này làm anh Kim mỗi lần đến bữa ăn là cảm thấy chán và cho rằng chúng

cháu đơn điệu trong việc ăn uống.

Ông Mun nhìn tôi:

Xin lỗi cháu, bữa ăn gọi là phong phú của người Trái Đất làm ta tởm lợm. Mùi thịt

của các con thú bị giết, nấu lên tanh không chịu được.

Tôi có đôi chút tự ái nhưng không tiện tranh cãi ở đây. Nếu tranh cãi, chắc chắn tôi

thua vì là thiểu số. Sao không hình dung được bữa ăn trên Trái Đất thế nào mà bị ông

Mun chê thẳng thừng, cứ nhìn tôi như muốn hỏi. Tôi biết vậy nhưng không nói gì thêm.

75

May mời ông Mun và tôi xuống nhà đi thăm thú ngắm cảnh ban đêm của thành phố.

Trước khi đi, May bảo hai người khách chịu khó thay trang phục của mình bằng trang

phục nam giới của hành tinh để không gây chú ý của nhiều người. May mở cửa buồng

trước kia tôi đã ở, mời chúng tôi vào, lấy ra hai bộ áo váy màu khác nhau rồi đi ra ngoài

đợi. Cởi bỏ quần áo cũ thì chậm nhưng tròng vào người bộ áo váy khá nhanh. Xúng xính

trong trang phục mới, ông Mun và tôi bước ra.

Khi xuống đến bên dưới căn nhà chung cư, cảnh rực rỡ ánh đèn của thành phố đập

ngay vào mắt chúng tôi. Ánh sáng ở tay vịn của những băng chuyền. Tường của các tòa

nhà cũng sáng lên, lung linh huyền ảo muôn màu muôn sắc. Trên bầu trời, lơ lửng một

mặt trăng nhân tạo tỏa ánh sáng cường độ gấp nhiều lần ánh trăng thiên nhiên, soi sáng cả

mọi nơi trên quảng trường, trong công viên và nơi các đài phun nước.

Ông Mun nhìn ngắm khắp chốn ra chiều thích thú. Tôi hỏi:

Khi Hội đồng tối cao của Lemuria bàn về trang bị chiếu sáng nhân tạo vào ban đêm

cho hành tinh, ông tán thành hay phản đối?

Ông Mun thành thật:

Lúc ấy ta phản đối. Bây giờ, sau khi đã tận mắt chứng kiến cảnh ban đêm ở đây, ta

không còn lý do gì để không tán thành quyết định của thủ lĩnh. Thủ lĩnh đã tỏ ra sáng

suốt.

Mọi cái ở đây đều làm cho ông Mun vừa thấy lạ lẫm vừa bị thu hút. Thiên nhiên trong

lành. Người dân hiền hòa. Cuộc sống thanh bình. Không có chỗ nào để ông chê như khi

ông nhận xét về Trái Đất. Loanh quanh một lúc rảo khắp các cửa hàng bán tự động,

chiêm ngưỡng các công trình công cộng phục vụ công tác hành chính, nghiên cứu, giáo

dục, các nhà vòm sản xuất và các nơi vui chơi, chúng tôi bốn người hai chủ hai khách trở

về nhà. May mang ra hộp tiếp điện cho bộ đèn. Hộp tiếp điện đã nhận năng lượng từ

vùng phát năng lượng của hành tinh. Đầu ra của hộp tiếp điện có hai ổ cắm. Vỏ của nó

làm bằng hợp kim nhôm sáng ánh bạc. Tôi lôi đầu phích của cuộn dây, cắm vào ổ điện.

Bóng đèn huỳnh quang dài một mét hai sáng bừng lên làm ông Mun lấy tay che mắt vì

chói. May không hề khách khí, chê thiết bị tạo ánh sáng của Trái Đất quá thô thiển. Tôi

đáp lại thành thực chứ không phải để chữa thẹn:

Hiện tại, nhà cửa toàn bằng gỗ của cư dân Lemuria dùng loại đèn này là thích hợp.

Phục vụ nhu cầu trước mắt đã, sau này chúng ta tìm cách cải tiến.

Đúng vậy! Mình có ý tưởng sẽ thay mái nhà trên hành tinh Lemuria bằng các tấm

lợp panen chất bán dẫn biến quang năng thành điện năng chứ không xài hộp tiếp điện

này.

Liệu có đủ điện dùng không? Hiện nay trên Trái Đất, hiệu suất sử dụng của những

panen bán dẫn chỉ mới được cao nhất là 40%.

Chúng mình đạt được hiệu suất 95% nên diện tích của hai mái nhà thừa điện năng

cho những bóng đèn thắp sáng, kể cả máy điều hòa, tủ lạnh, radio, máy thu hình.

Tôi chợt tự hỏi trong đầu, liệu người Lemuri có chịu chấp nhận sản phẩm của nền văn

minh vật chất này không. Tôi biết ông Mun đang dõi theo ý nghĩ của tôi, nhưng ông

không nói gì. Có lẽ những sản phẩm này quá xa lạ mà nếu không biết những tiện lợi của

chúng, chưa chắc người ta có nhu cầu.

Sao thắc mắc:

Chỉ một hộp tiếp điện thôi sao đủ, anh Kim? Người Lemuri sẽ đặt hàng cho hành

tinh này làm hay đem bản vẽ thiết kế về tự sản xuất?

Tôi nói vui:

76

Hành tinh Lemuria không có tiền để đặt hàng, cũng không có nhà máy để chế tạo

mà sản xuất bằng... cái đầu.

Tôi nháy mắt với ông Mun. Thế là, một hộp tiếp điện biến thành hai, hai biến thành

bốn, bốn biến thành tám, chẳng mấy chốc mà trên mặt bàn rộng xếp đầy các hộp tiếp

điện. Hai anh em May và Sao trố mắt ngạc nhiên xen lẫn thích thú. Tôi lại tiếp tục:

Hành tinh Lemuria cần khá nhiều hộp tiếp điện, có đến hàng mấy triệu chiếc, chứ ở

đây đâu có cần nhiều như vậy.

Vừa nói, tôi vừa kín đáo phóng ánh mắt nhìn lên bàn, làm biến mất lần lượt hộp này

đến hộp khác, cuối cùng chỉ chừa lại một hộp mẫu ban đầu.

May nháy mắt hỏi tôi:

Vừa rồi ai làm trò ảo thuật này?

Tôi tự ái:

Không phải ảo thuật mà là sự thật. Ông Mun và mình đã làm việc này. Phép mầu

này gọi là phép nhân bản. Nó thuộc về nền văn minh tâm linh của người Lemuri hiện

nay.

Ông Mun nhìn tôi với vẻ tự hào và biết ơn. Sao thành thực:

Thưa ông, – Sao hướng ánh mắt về phía ông Mun – chúng cháu học được phép lạ

này không ạ?

Ông Mun dịu dàng:

Được cháu ạ. Nhưng các cháu phải bắt đầu từ đầu như Kim đây đã làm.

Tôi nói ngay:

Anh đang theo chương trình học vấn của Lemuri. Lần này trở lại Lemuria, anh vừa

giúp cư dân lắp các bộ đèn, vừa tiếp tục học cho hết chương trình. Chương trình học khá

ngắn gọn, hiệu quả nhanh và rất lý thú, cho ta nhiều tri thức và quyền năng.

Thời gian qua nhanh, chẳng mấy chốc mà đã đến giờ ngủ. Tôi nói với ông Mun:

Ở đây không tiện ngủ ngoài trời, ta tạm một đêm trong phòng này đi.

Ông lắc đầu phản đối thẳng thừng. Ông hỏi May mượn một chiếc giường với đầy đủ

đệm, gối. May mở cửa buồng tôi đã nghỉ lần trước. Ông Mun đưa mắt chuyển chiếc

giường ra giữa phòng rồi nhân bản thành bốn chiếc. Ông mời hai vị chủ nhà cùng đi ngủ

ngoài trời. May và Sao phân vân không hiểu. Tôi bảo:

Thì hai anh em hẳn cứ lên giường đi đã!

Tôi và ông Mun nằm trước, còn hai anh em lên giường sau. Khi mọi người đã yên vị,

bốn chiếc giường lập tức lần lượt xuyên qua cửa sổ, bay ra khỏi phòng, ra khỏi tòa chung

cư, hướng thẳng về phía cánh rừng ngoại ô thành phố, rồi đáp xuống một bãi trống. Tôi

hỏi vui hai anh em:

Chuyến đi ngủ dã ngoại này thú vị đấy chứ?

Sao trả lời thay anh:

Thật thần kỳ! Em bái phục ông nghị. Hình như đối với người Lemuri, không

chuyện gì là không làm được.

Được ca tụng hết lời, mũi ông Mun chắc nở to lắm đây. Ông Mun biết tôi nghĩ gì

nhưng không phản ứng, chỉ trả lời Sao:

Chúng ta có khả năng thật đấy nhưng không bao giờ làm chuyện bậy bạ, ác độc.

Vừa nói, ông Mun cho chiếc giường của ông dài ra. Còn cơ thể ông cũng vừa to vừa

dài ra theo. Lại một điều nữa làm hai anh em ngạc nhiên. Tôi giải thích ngay không chờ

hai anh em cật vấn:

77

Người Lemuri vốn to lớn, chiều cao mười tám mét là phổ biến. Trong cái dáng nhỏ

nhắn như chúng ta, ông cảm thấy bó buộc, mất sức, nhưng phải chịu đựng để hòa đồng

với mọi người trên hành tinh này cũng như trên Trái Đất. Ban đêm, ông muốn trở về vóc

dáng vốn có để thoải mái trong giấc ngủ và cũng tiện việc hấp thu năng lượng phục hồi

sức khoẻ.

Tôi nói thêm:

Bao quanh bốn chiếc giường chúng ta, ông nghị đã cẩn thận tạo một vòm năng

lượng trong suốt che chắn, đề phòng mưa gió và sâu bọ hoặc thú dữ xâm hại.

Dù không được nghe giai điệu ru ngủ quen thuộc của hành tinh này, bốn chúng tôi

vẫn ngủ say cho đến khi trời sáng rõ, những tia nắng đầu tiên bắt đầu chiếu thẳng vào

mắt. Tôi là người tỉnh dậy đầu tiên, đến lay gọi ba người còn lại. Trễ quá rồi, không thể

bay tự do về nhà giữa thanh thiên bạch nhật. Tôi hỏi ông Mun:

Có thể làm cho vòm năng lượng che chắn chúng ta tàng hình được không ạ. Chúng

ta không thể bay về lộ liễu.

Được.

Thế là chúng tôi bay vút trở về, nằm ngay với kích thước ban đầu trong phòng tiếp

khách của chủ nhà. Khi mọi người bước ra khỏi giường, ông Mun làm bốn chiếc giường

đồng loạt biến mất. Tôi biết chắc rằng thời gian lưu lại ngắn ngủi trên hành tinh này của

hai chúng tôi sẽ là kỷ niệm nhớ đời của hai anh em May và Sao. Nó còn làm cho hai anh

em nảy sinh ước vọng thiết tha và cháy bỏng được học chương trình giáo dục của người

Lemuri sau này.

Buổi sáng, chúng tôi cũng dùng bữa với hai anh em mặc dù không thấy đói. Mỗi

người còn xin thêm một suất về làm quà cho người thân. Tôi hỏi hai anh em lần cùng

chúng tôi lên tàu vũ trụ ra tắm năng lượng, khi về có nhịn ăn không. Sao trả lời có nhịn

được một tuần, nhưng thấy đói nên phải ăn trở lại. Nhưng …

Tôi thắc mắc vội hỏi ngay:

Hai anh em gặp rắc rối gì à?

Báo hại, lần đầu tiên chúng em đinh ninh làm theo đúng lời anh nói mà không

lường trước được đối với hành tinh Atlantis, đó là việc làm bất bình thường. Mặc dù các

camera trong phòng chuyên theo dõi sức khỏe của hai anh em không có ý kiến gì nhưng

bộ phận tiếp phẩm thấy lạ: có người mà không thấy gọi bữa ăn vẫn cứ nghi ngờ báo động

cho bộ phận theo dõi sức khỏe. Bộ phận này lệnh cho bốn người máy thường trực của

chung cư mang hai băng ca đến ngay phòng cưỡng bức áp tải hai anh em, theo hành lang

khẩn cấp vào đường ống cấp cứu dẫn đến bộ phận khám sức khỏe. Máy khám tổng quát

rà sóat trên người hai anh em rất cẩn thận, không tìm được một dấu hiệu bất thường nào

bèn chuyển đèn đỏ sang đèn xanh báo an.

Tôi bật cười hỏi May:

Thế hai anh em có bị khiển trách gì không?

Tất cả những hành động trên là do máy thực hiện hết chứ có người nào đâu mà nói

lời khiển trách. Chỉ có điều sau đó, trên bức tường cạnh máy cũng là chiếc màn hình của

máy khám, một dấu chấm hỏi to tướng hiện ra.

Sao tiếp lời ông anh:

Anh May phải ngồi gõ lên bàn phím giải thích lý do và hứa sẽ không tái diễn cái trò

bất thường này mà không báo trước.

Lần này, đến lượt ông Mun thắc mắc, hai anh em May, Sao có quyền năng gì để biến

không thành có, giả dụ như chiếc bàn cùng bốn ghế từ dưới sàn nhà lù lù trồi lên khi có

khách bước vào và rồi các khay bữa ăn bỗng dưng hiện ngay trên mặt bàn đủ dùng cho

78

bốn người. Tôi trả lời văn minh của hành tinh này là sử dụng máy móc tự động. Tất cả

đều diễn ra theo chương trình vạch sẵn. Quyền năng con người là ra lệnh bằng ý nghĩ,

máy móc chỉ việc tuân theo nhờ những cỗ máy tính làm công việc quản lý, cài sẵn

chương trình hành động.

Đã đến giờ tạm biệt. Vẫn mặc trang phục của hành tinh Atlantis, chúng tôi khăn gói

ra bãi đáp của con tàu, mang theo luôn bộ đèn cùng hộp tiếp điện. Hai anh em May và

Sao đưa tiễn. Tôi ôm Sao nói nhỏ sẽ sớm trở lại để hoàn tất chuyện riêng của hai đứa.

Sao hôn tôi thắm thiết không cần giữ gìn ý tứ.

Theo thường lệ, Tashi cho tàu đến vùng phát năng lượng của Atlantis để nạp năng

lượng. Hình như anh em May và Sao chưa báo cáo chuyện bàn giao tiếp quản vùng phát

năng lượng với thủ lĩnh nên vùng biển này hoàn toàn trống trải. Con tàu dừng lơ lửng

trên không và sau một giờ tắm trong dòng thác năng lượng, con tàu khởi hành bay về

hướng hành tinh Lemuria.

Chúng tôi ngủ để lấy sức. Tashi cho con tàu tự lái. Do cơ thể đã phục hồi sức khoẻ,

chúng tôi không ngủ say như những lần trước để đến nỗi con tàu tới bãi đáp rồi mà buộc

Tashi phải lay gọi. Cửa mở. Ông Mun là người bước ra trước tiên. Tôi và Tashi theo sau.

Không hiểu sao, tại bãi đáp đã có nhiều người đứng chờ, trong số đó tôi nhận ra ngay thủ

lĩnh và toàn bộ những thành viên trong gia đình Cay. Tôi nghe mọi người đột nhiên cười

ồ vì nhìn thấy ông Mun đã lấy ngay lại hình vóc to cao vốn có và tôi trong trang phục

áo váy không hề giống ai. Khi tôi vươn mình lên cho cao bằng ông, ông ghé tai tôi nói

nhỏ:

Chết chửa, ta quên mất. Lẽ ra phải thay ngay trang phục khi vừa lên tàu khởi hành.

Tôi cười:

Chúng ta quên bởi vì bộ quần áo này mặc khá thoải mái, rộng rãi và mát mẻ tuyệt

vời, thưa ông.

Nhưng chốc lát sau, bằng quyền năng, ông Mun thay ngay bộ áo váy của người Atlan

bằng trang phục trước đây của hai người. Chúng tôi cùng chào thủ lĩnh và đưa tay lên cao

chào hết thảy mọi người. Bé Mai sà đến ôm chặt lấy tôi. Thủ lĩnh nói:

Ông Mun về nhà. Kim trở lại nhà Cay. Sáng mai, chúng ta có cuộc họp Hội đồng

tối cao và Kim cùng đến dự.

Tashi giao bộ đèn cùng hộp tiếp điện cho tôi, nói lời tạm biệt. Tôi nhờ Cay cầm hộ

trên đường về nhà. Tôi biến nhỏ lại và lần này nhảy tọt vào túi áo của bé Mai. Mai sung

sướng đưa tay đỡ lấy túi. Cay cảnh báo đứa em phải đi đứng cẩn thận, không được vấp

ngã.

Cả nhà Cay vui như mở hội. Tôi không còn là khách nữa mà mọi người đều coi tôi

như người thân lâu ngày mới trở về nhà. Hai bé bự Mai và Hay lúc nào cũng ríu ra ríu rít

bên tôi. Để tiện cho việc sinh hoạt chung với người Lemuri, tôi tự làm cho mình to cao

như Cay. Đến bữa trưa, Mai bưng ra một đĩa đầy trái cây. Hay mang theo chai nước ép

hoa quả. Tôi lấy từ túi ra một phong bánh rồi nhân bản thành mười hai phong. Tôi giới

thiệu đây là món ăn thường xuyên và suốt đời của người láng giềng Atlan. Nó hoàn toàn

nhân tạo, chứa đầy đủ chất dinh dưỡng cần thiết cho cơ thể con người. Mọi người háo

hức nếm thử. Ngon! Thế là mỗi người hai phong, vừa ăn vừa uống với nước trái cây, đủ

no nên trưa nay đĩa trái cây bị ế. Hay, bé trai hỏi tôi:

Thế thức ăn Trái Đất thế nào hở anh?

Kinh dị luôn! Nghị sĩ Mun chỉ mới ngửi thôi đã thấy buồn nôn. Mùi tanh của thịt

thú bị giết làm ông không chịu nổi. Vậy làm sao anh dám mang về đây?

Mọi người kinh ngạc thực sự khi nghe tôi nói. Mai hỏi:

79

Thế sao anh ăn được?

Anh ăn từ hồi còn nhỏ nên quen đi. Bây giờ thì nhịn rồi, không phải anh sợ tanh mà

vì anh nạp năng lượng vũ trụ nên lúc nào cũng bị no.

Sau bữa ăn, tôi phải biến nhỏ lại mới chui lọt ngăn kéo bàn, nơi Cay dành cho tôi làm

buồng ngủ. Buổi chiều, Cay bảo tôi đã quen đường rồi, hãy tự đến nhà thầy Hơn, không

cần Cay đi kèm nữa.

Con chào thầy ạ.

Vừa bay đến trước cửa, tôi đã vội chào thầy. Thầy Hơn đang ngồi sẵn trong phòng,

hai chân xếp bằng, hai tay để lên hai đầu gối. Với thái độ ân cần, thầy ngoắt tay ra hiệu

mời tôi vào bên trong. Thầy bảo:

Từ hôm nay, con phải đến học liên tục trong mười hai buổi. Sau mỗi buổi, con hãy

nán ở chơi cùng ta một lúc. Thầy nghĩ thầy sẽ được biết nhiều điều từ con và ngược lại,

con có vướng mắc gì thầy sẽ giải đáp cho trong phạm vi hiểu biết của thầy.

Thưa vâng.

Nào ta bắt đầu.

Cách học ngồi thiền truyền đạt kiến thức và quyền năng giống hệt như các lần trước

tôi đã từng học Cay và học thầy ở các lớp dưới. Tôi tập trung tư tưởng và chỉ hướng về

thầy. Tôi học tiến bộ nhanh chóng như lời thầy nhận xét trong những lần nán lại nhà thầy

đàm đạo. Thầy bảo được dạy một học trò ở một hành tinh khác là điều rất thú vị và là

niềm vui to lớn của thầy. Tôi nói lời cám ơn thầy đã ưu ái, tận tình hết mực, không phải

bằng lời nói mà bằng tất cả tấm lòng. Tôi cũng rất thú vị được học theo phương pháp độc

đáo, đơn giản mà hiệu quả rất cao của hành tinh này. Theo lời thầy nói, học sử dụng

quyền năng là chính, tức là dùng ý chí để thực hiện những ước vọng của mình. Ta cũng

dùng quyền năng để tìm hiểu trường thông tin toàn thể của vũ trụ. Đó là nơi lưu giữ

thông tin từ bất cứ nơi nào và khi nào. Nhờ đó ta có tri thức rất rộng và sâu, không phải

chỉ nhờ được tích lũy trong đầu từ trước mà còn do ta có khả năng tra cứu tự do ở nơi

khác, người khác. Một tâm hồn trong sạch, một cơ thể thanh khiết là hai yếu tố giúp ta

nhanh chóng tiến bộ trong học tập.

Qua thầy Hơn, tôi được biết thầy đã từng là một nghị sĩ, phụ trách bang nơi thầy và

Cay đang ở. Theo luật của hành tinh, những người độ tuổi từ 500 đến 1000, có tri thức và

quyền năng cao, đồng thời có năng khiếu quản lý, sẽ được thủ lĩnh bang sắp từ nhiệm vì

đến tuổi nghỉ giới thiệu, để Hội đồng tối cao phê chuẩn làm nghị sĩ đảm nhiệm chức thủ

lĩnh mới. Tôi hỏi về tiêu chuẩn đạo đức của một nghĩ sĩ được đề nghị. Ở Trái Đất, đối với

một người lãnh đạo từ thấp đến cao, tiêu chuẩn đạo đức là số một. Thầy Hơn cười bảo ở

đây không hề có tiêu chuẩn đạo đức riêng cho nghị sĩ. Nó từ lâu trở thành tiêu chuẩn

chung cho toàn cư dân hành tinh. Đã là cư dân Lemuria, phải có đạo đức tốt. Tôi cho thầy

Hơn biết thực trạng hiện nay của Trái Đất:

Ở hành tinh chúng con, nhiều người khi còn là thường dân, đạo đức của họ rất tốt.

Nhưng đến khi trở thành người lãnh đạo, họ thoái hóa biến chất, đạo đức tệ hại không thể

chịu được. Thế là quần chúng đề nghị chính quyền can thiệp. Nhưng khi nào cấp trên còn

bao che người ấy thì quần chúng còn khổ cực trăm bề.

Thế thì tệ quá! Ở đây không có chuyện ấy.

Thầy Hơn nói tiếp:

Còn thủ lĩnh hành tinh có độ tuổi quy định từ 800 đến 1500. Người nào đạt đến giới

hạn trên của tuổi sẽ được miễn nhiệm và thủ lĩnh bang sẽ giao trách nhiệm làm thầy giáo.

Như thầy đây, tuổi hiện nay đã đạt 1215. Tuổi thọ của người Lemuri có thể lên đến 2000.

80

Sau buổi học đầu tiên của khóa mới, tôi không quên biếu thầy Hơn món quà từ quê

hương Việt Nam: một tượng sư tử bằng than đá. Thầy đặt nó lên bàn, thích thú ngắm

nghía với vẻ ngạc nhiên. Hành tinh Lemuria không hề có loại thú này. Tôi giới thiệu ở

Trái Đất, sư tử tượng trưng cho sức mạnh, được làm từ than đá nên đen bóng. Than đá

phải đào từ lòng đất mới có được. Thầy hỏi trên Trái Đất, sư tử ăn gì, tôi đáp nó chỉ ăn

thịt sau khi giết các con thú yếu hơn. Thầy bỗng nhiên rùng mình, mặt biến sắc. Thầy bảo

thế là bức tượng này tượng trưng cho sức mạnh của điều ác. Để nó ở đây, thầy sẽ bị nó

hút hết sinh khí. Thầy xin lỗi không dám nhận và bảo tôi đã nhỡ rồi, không nên giữ lại

bên mình, tốt nhất là đem đi tiêu hủy. Chừng nào nó còn bên mình, tôi cũng bị mất sinh

khí khá nhiều trong thời gian học thầy. Tôi tự trách mình thiếu suy nghĩ. Sư tử tuy đẹp,

hùng dũng đấy nhưng đâu phải loại thú sống ở Việt Nam. Giá như tôi mua tượng con

trâu, có phải hay hơn không. Trâu hiền lành, cần mẫn, suốt đời lam lũ cùng người nông

dân một nắng hai sương. Khi về đến nhà, đem chuyện này nói với Cay, cho Cay xem con

sư tử. Cay cười, hỏi tôi:

Kim đi với ông Mun một thời gian mà không rút được bài học gì sao?

Hỏi tôi câu này, quả là Cay thông minh. Tôi đập tay lên trán, nhớ

lại thời khắc cùng với ông Mun khi còn ở Gizah. Người bán đồ lưu niệm. Những mô hình

thu nhỏ của kim tự tháp và tượng Nhân sư. À phải rồi, thái độ sợ sệt của ông Mun đã

cảnh báo trước mà tôi không chịu nhớ khi tìm mua đồ lưu niệm. Tôi rủ Cay cùng bay đến

bìa rừng, gom cành cây khô, bật lửa bằng ánh mắt tập trung, đốt chúng cùng với bức

tượng. Phải mất thời gian khá lâu chờ đợi, bức tượng từ hòn than đỏ rực mới lụi dần

thành tro. Tôi bỗng thở dài nhưng không phải vì luyến tiếc.

Sáng hôm sau, tôi bay một mình đến hội trường dinh thủ lĩnh hành tinh không cần có

Cay đi theo như mọi khi. Gặp lại ông Mun, tôi bắt chặt tay chúc mừng chuyến đi vừa qua

của hai người. Ông Mun vui hẳn lên như được gặp lại người thân. Ông nói với tôi rằng

ông có những kỷ niệm khó quên với những con người ở Viện nhưng ngược lại cũng có

những kỷ niệm đáng ghét lúc hành hương. Ông cố ý nhấn mạnh từ “hành hương” để tự

xem mình như một tín đồ muốn đến chiêm ngưỡng mảnh đất thánh nhưng rồi bị từ chối

với thái độ không hề thân thiện. Ấy là ông đã cảm nhận và nói lên vậy chứ tôi hoàn toàn

mù tịt.

Thủ lĩnh đã tìm thấy tôi tý hon bên cạnh ông Mun khổng lồ, chen xuống phía dưới

qua các ông nghị, đến gần, mời ông Mun và tôi lên sân khấu. Có hai ghế sau bàn dành

cho thủ lĩnh và ông Mun. Tôi nhảy lên ngồi ở một góc cạnh bàn gần thủ lĩnh. Cạnh đó, có

sẵn bộ đèn cùng dây nhợ và hộp tiếp điện không rõ Cay đã mang đến từ lúc nào. Bấy giờ,

mọi người đến đã đông đủ. Thủ lĩnh đứng lên, dõng dạc:

Thưa các ông, sáng nay chúng ta lại họp Hội đồng tối cao. Chương trình nghị sự

gồm hai phần. Phần đầu, nghị sĩ Mun báo cáo chuyến đi đến Trái Đất làm nhiệm vụ

chuyển bộ đèn về và cuộc hành trình thăm thú một số nơi ở đó. Phần hai, chúng ta bàn

cách triển khai việc lắp thiết bị ánh sáng nhân tạo cho toàn hành tinh. Xin mời ông Mun.

Ông Mun đứng ra khỏi ghế, đằng hắng:

Thưa thủ lĩnh hành tinh, thưa các ông. Tôi xin nói gọn một câu là nhiệm vụ thủ lĩnh

hành tinh giao cho, chúng tôi tức là tôi, nghị sĩ Mun cùng với người bạn nhỏ nhắn đây, đã

hoàn thành.

Mọi người vỗ tay hoan hô. Ông Mun nói tiếp, thuật lại từng chuyện, từng chuyện một

mà chúng ta đã biết. Mọi người lắng nghe rất chăm chú. Toàn hội trường im phăng phắc

ngoài tiếng nói to và rõ của ông Mun. Cuối cùng, ông nói lên cảm nghĩ của mình:

81

Thưa các ông, có đi ra khỏi hành tinh của mình, tôi mới vỡ lẽ ra được nhiều điều.

Lâu nay, chúng ta vẫn tự hào rằng cư dân hành tinh chúng ta đang sống trong cảnh thanh

bình, hạnh phúc, ấm no. Không một ai thấy có nhu cầu về vật chất và tinh thần gì khác

ngoài những cái mà chúng ta đang thụ hưởng. Cuộc sống tinh thần, đạo đức của chúng ta

đang ở đỉnh cao. Mỗi một người dân chúng ta đều có tri thức và quyền năng mà không

phải cư dân hành tinh nào cũng có. Trong những ngày lưu lại trên Trái Đất, ngay cả trên

hành tinh láng giềng, những quyền năng của chúng ta được những cư dân ở đó rất

ngưỡng mộ. Họ vừa ngạc nhiên vừa khâm phục những điều đơn giản mà tôi thực hiện để

cho họ nhìn thấy. Như ở Trái Đất, một bộ phận nhỏ của cư dân Việt Nam tỏ ý muốn theo

học chương trình giáo dục công dân của chúng ta. Ngoài những điều đó ra, hành tinh

chúng ta giữ gìn môi trường sống rất tốt. Quyền bình đẳng tuyệt đối cho mọi sinh vật trên

hành tinh, chúng ta đã làm được. Lòng trung thực và tình thương vô bờ là hai yếu tố cơ

bản để tạo dựng nên một nền văn minh trong vũ trụ, chúng ta cũng làm được. Có những

hành tinh thua chúng ta nhiều mặt nhưng không vì thế mà họ không có những cái hay để

chúng ta học tập. Công việc trước mắt của chúng ta là trang bị ánh sáng nhân tạo, đẩy lùi

bóng đêm để cho bộ mặt hành tinh chúng ta trở nên rạng rỡ lung linh, người dân sống

vui, sống khoẻ là một việc làm đầu tiên chúng ta quyết định học tập ở họ.

Ông Mun nói hay lắm – có một nghị sĩ nào đó ở hàng ghế dưới cùng lên tiếng tán

thưởng.

Chúng ta học tập họ nhưng phải có chọn lọc – một ý kiến khác bổ sung.

Thủ lĩnh bấy giờ mới lên tiếng:

Tôi đồng ý với những nhận định của ông Mun và các ý kiến bổ sung tiếp theo.

Nhưng việc này đòi hỏi thời gian tìm hiểu rất nhiều và rồi Hội đồng tối cao còn phải bàn

luận chán mới có thể đồng thuận và quyết định. Bây giờ ta bàn việc trước mắt cần phải

thực hiện. Ta muốn ông Mun tiếp tục có ý kiến cùng với con người bé nhỏ này – thủ lĩnh

chỉ vào tôi đang ngồi bên cạnh đống bùng nhùng những đèn, dây nhợ và hộp tiếp điện.

Để tiện việc phát biểu trao đổi, ta muốn tạm thời cháu lấy vóc dáng to lớn bằng chúng ta

– thủ lĩnh nhìn tôi ra lệnh.

Tôi nhảy xuống đất, gồng mình lớn dần, lớn dần đến khi ông Mun khẽ bảo “Thôi”, tôi

dừng lại. Hình như ông Mun chưa tin tôi có thể tự chủ, sợ tôi lớn quá đà, mất công sửa

sai. Thủ lĩnh ra dấu bảo tôi phát biểu. Tôi trịnh trọng:

Thưa thủ lĩnh hành tinh, thưa các thủ lĩnh bang, được phép của thủ lĩnh hành tinh,

cháu có mấy lời muốn đề nghị về các bước thực hiện công việc. Điều trước tiên cháu

muốn nói là do nhà cửa cư dân, các công trình xây dựng của hành tinh hiện tại khá đơn

giản, sơ sài nên kỹ thuật chiếu sáng nhân tạo chưa cần cao, lấy mức độ từ Trái Đất cũng

đủ. Năng lượng chiếu sáng phải được tổ chức nạp định kỳ từ vùng phát năng lượng của

hành tinh. Đó là điều bất tiện mà thời gian đầu chúng ta phải chịu. Về kích thước của bộ

đèn và hộp tiếp điện, chúng vừa tầm với người Trái Đất hoặc người Atlan, nhưng ở đây,

chúng quá nhỏ bé, yếu ớt với người Lemuri cao to nên phải khuếch đại nó lên.

Khi tôi nói đến đây, ông Mun khẽ hỏi tôi muốn chúng to lên bao nhiêu lần. Tôi đáp

khoảng mười hai lần là vừa. Bởi tôi nhẩm tính Cay cao hơn tôi gần mười hai lần nên bộ

đèn dùng cho người Trái Đất cũng nên nhân lên mười hai lần sẽ là phù hợp với người

Lemuri. Thế là trên mặt bàn, bộ đèn huỳnh quang đột nhiên nở to và giãn dài ra cùng với

dây dẫn và hộp tiếp điện chiếm gần kín mặt chiếc bàn rộng. Tôi nói tiếp:

Sau đó, đèn được gắn nằm ngang trên đầu tường hay xà nhà, dây dẫn chạy men

theo tường hoặc cột, đi xuống nối vào ổ cắm điện của hộp tiếp điện.

82

Tôi mô tả đến đâu thì ông Mun dùng ánh mắt thực hiện công việc đó ngay. Bộ đèn

vụt bay lên gắn chặt vào một thanh xà ngang của hội trường, tiếp theo là đoạn dây dẫn

chạy từ máng đèn men theo xà rồi theo cột đi xuống, dính chặt vào đó. Đoạn dây đã tự

giãn ra vừa đủ độ dài cho cái phích, cắm chặt vào ổ của hộp tiếp điện cũng vừa bay đến

nằm đúng vào vị trí bên dưới. Tôi đến bên hộp tiếp điện đưa tay bật công tắc. Một thứ

ánh sáng trắng dịu phát ra từ ống đèn dài trông thật rực rỡ, lung linh.

Tôi nói tiếp:

Bộ đèn và dây dẫn, mua ở Trái Đất, còn hộp tiếp điện là do người của hành tinh

láng giềng làm giúp và biếu không. Khi nhìn thấy bộ đèn mẫu này, người bạn cháu ở

hành tinh Atlantis hỏi có định đặt hàng cho Atlantis sản xuất hay tự mình sản xuất. Cháu

và ông Mun cười trả lời rằng sẽ tự sản xuất dẫu biết mình chẳng hề có nhà máy như ở

Atlantis hay trên Trái Đất.

Khi tôi nói đến đây thì ông Mun biểu diễn luôn trò phù phép nhân bản. Trên các xà

ngang và các cột của hội trường lần lượt xuất hiện những hộp tiếp điện nối liền bằng

đường dây dẫn đến các bóng đèn đang tỏa sáng. Thế là cả gian phòng rộng lớn của hội

trường rực sáng lên trông tựa ban ngày, trong lúc bên ngoài trời đang về chiều và trở nên

âm u hơn khi những tảng mây đen bắt đầu kéo đến giăng khắp cả bầu trời của bang.

Thủ lĩnh đứng lên tiếp lời:

Hành tinh chúng ta có năm mươi bang. Thế nên mỗi bang cần cử một đội, chỉ cần

vài ba người thôi nhưng có quyền năng nhân bản, để thực hiện công việc lắp đèn cho mọi

nhà. Trung ương sẽ cung cấp cho mỗi bang một bộ đèn mẫu, sau đó người chịu trách

nhiệm của bang sẽ tùy nhu cầu nhiều ít của từng gia đình và các công trình xây dựng

công cộng mà nhân bản lên.

Bây giờ đến lượt ông Mun thu dọn “chiến trường”, tôi thầm hỏi ông. Nhưng ông lắc

đầu. Ông tự hiểu mình phải tiếp tục làm gì. Ông gỡ ra khỏi hội trường một bộ đèn, nhân

bản lên thành năm mươi mốt bộ, trả về chỗ cũ một bộ. Năm mươi bộ còn lại, ông thu nhỏ

kích thước ban đầu. Tất cả nằm trên sàn sân khấu của hội trường. Tôi làm tiếp công việc

mà ông Mun chưa nghĩ đến. Tôi cho các bộ đèn bay ra khỏi hội trường, đáp xuống sân cỏ

phía trước. Thủ lĩnh hành tinh bấy giờ mới đứng lên:

Hội nghị của chúng ta đến đây kết thúc. Xin mời các thủ lĩnh bang ra sân lấy một

bộ đèn mẫu đem về nhân bản. Xin chào tạm biệt.

Chào thủ lĩnh – mọi người trong hội trường đồng thanh đáp lại.

Thủ lĩnh hành tinh đến bắt tay ông Mun và tôi, nói lời cám ơn và chào tạm biệt.

Chúng tôi cũng nói lại câu:

Chào thủ lĩnh.

Đến lượt chúng tôi, tôi và ông Mun, cùng bắt tay thắm thiết chào nhau. Dẫu sao thì

giữa ông và tôi từ giờ trở đi có một mối ràng buộc thân tình bằng những kỷ niệm vui lẫn

buồn không thể nào quên và rồi phải cùng nhau hợp tác để làm thêm một số công việc

của hành tinh. Tôi thu nhỏ người lại và chuẩn bị lên đường. Trong cái cảnh nhốn nháo, ồn

ã của những con người khổng lồ đang nhận những bộ đèn và loay hoay tìm cách thu nhỏ

bỏ vừa vào túi áo, tôi len lỏi và vụt bay ra khỏi hội trường như một con chim sẻ.

Về đến nhà, trời sập tối. Tôi chuyển mình thành vóc dáng to lớn. Trong cảnh không

đèn đóm cố hữu, tôi nghe rõ tiếng bé Mai nức nở khen ông anh mình tài giỏi, lắp hết các

bộ đèn không phải nhờ đến tôi. Lắp hết các bộ đèn mà để nhà tối om thế này ư? Tôi gọi

Cay. Nhờ đã có khả năng nhìn xuyên đêm tối, tôi đi thẳng đến chỗ một hộp tiếp điện, bật

công tắc. Một bóng đèn chớp sáng. Trong ánh sáng yếu ớt của bóng đèn nhỏ xíu tựa như

đồ chơi trẻ con, tôi nhận ra có khá nhiều bộ đèn khác lắp dọc ngang xiên xẹo, không theo

83

một thứ tự nào cả. Hình như con người ở hành tinh này không có con mắt mỹ thuật hay

sao ấy. Tôi cười bảo Cay xóa hết tất cả các bóng đèn đã lắp chỉ chừa một bộ gỡ xuống

cho nằm trên bàn và bộ bóng đèn đang sáng. Đương nhiên là Cay sẽ thực hiện gọn việc

này bằng ánh mắt chứ không bằng tay thô thiển như chúng ta. Tôi khuếch đại bộ đèn lên

mười hai lần, làm mỗi bóng dài suýt soát gần 14 mét rưỡi và đường kính hơn 3 tấc. Tôi

chỉ chỗ lắp đèn đầu tiên cho Cay. Tôi bật công tắc và bóng đèn mới to và dài bật sáng lên,

soi tỏ cả một vùng rộng lớn. Tôi đưa mắt xóa sạch bộ bóng đèn đồ chơi trước đó.

Bây giờ tôi kéo Cay đi khắp nhà, chỉ chỗ thuận tiện cho Cay phù phép nhân bản.

Chẳng mấy chốc, căn nhà rộng lớn của gia đình Cay tràn ngập ánh đèn, sáng như ban

ngày. Những người láng giềng thấy quang cảnh lạ, kéo đến xem đông nghịt. Cay nói to

cho mọi người biết, thủ lĩnh hành tinh lệnh từ ngày mai trở đi, bất cứ nhà nào cũng được

lắp đèn sáng như thế này để dùng khi trời tối. Mọi người cười nói râm ran ra chiều hoan

hỷ.

Qua ngày thứ tư, thủ lĩnh lệnh cho tôi cùng với ông Mun đến làm việc tại dinh vào

buổi sáng. Sau giờ học ở nhà thầy Hơn, tôi bay thẳng đến dinh rồi tự nâng mình cao lên.

Trong thời gian này, chỉ khi học ở nhà thầy, khi di chuyển hay khi nằm ngủ, tôi sử dụng

vóc dáng thực của mình để tiết kiệm năng lượng. Còn những lúc khác, tôi cho cơ thể

mình to ngang cơ thể cư dân bản địa để dễ bề sinh hoạt và làm việc. Khi vào phía trong

dinh, tôi đã thấy ông Mun ngồi sẵn ở đó đang trò chuyện cùng thủ lĩnh. Tôi chào hai

người. Thủ lĩnh trỏ chiếc ghế còn trống dành cho tôi. Thủ lĩnh lên tiếng trước:

Tôi mời hai ông cháu đến đây để bàn thêm chút việc của hành

tinh. Một là vừa qua, việc gửi và nhận bộ đèn từ Trái Đất đến Lemuria không đạt được

như ý là vì sao? Hai là tình hình lắp đặt đèn tại các bang tiến hành đến đâu rồi? Phản ứng

chung của người dân như thế nào về sự kiện này. Ba là chúng ta sắp tới có nên đưa vào

kế hoạch giao lưu giữa hành tinh chúng ta với nền văn minh của các hành tinh khác hay

chưa? Hay là cần có thời gian tìm hiểu kỹ rồi mới bàn thảo.

Ông Mun lên tiếng:

Trên Trái Đất, tôi đã làm xong nhiệm vụ gửi bộ đèn vào không gian. Thế rồi điều gì

đã xảy ra? Chẳng lẽ ở nhà, mọi người không nhận được nó hay sao?

Thủ lĩnh cười ra tiếng:

Không hề nhận được. Có lẽ bộ đèn đang lang thang đâu đó trong vũ trụ.

Tôi cố tình trêu tức ông Mun:

Cũng có thể bộ đèn bay vài vòng quanh Trái Đất rồi đâm sầm xuống nằm yên dưới

đáy một đại dương nào đó.

Ông Mun nhíu mày nhìn tôi, cố ngăn cơn giận dữ. Thủ lĩnh giảng hòa:

Tôi nghĩ rằng ông Mun không có lỗi. Chúng ta thất bại trong chuyện này là do

chúng ta không đủ sức để chuyển tải một vật thể qua khoảng không gian quá xa như vậy.

Vì thế, phép bắc cầu do tôi đề ra thất bại. Lỗi là ở tôi. Vả lại, thất bại này chẳng hề ảnh

hưởng đến kế hoạch trang bị chiếu sáng. Hai ông cháu chẳng phải đã mang được bộ đèn

mẫu về là gì. Đâu cần đến việc gửi nó qua không gian vũ trụ cho tốn sức?

Sau đó, thủ lĩnh hỏi ông Mun:

Việc lắp đèn cho nhà mọi người tiến hành thuận lợi chứ?

Vâng – ông Mun trả lời – Lúc đầu một bộ đèn lắp xong, mọi người thấy nó không

sáng nên nghĩ rằng nó hỏng. Loay hoay mãi, nhờ lục tìm thông tin trong đầu...ai nhỉ? –

ông nháy mắt nhìn tôi – và thế là biết vấn đề chính yếu ở chỗ cái công tắc trên hộp tiếp

điện. Những nhà được lắp xong đèn, họ vui sướng khôn tả.

Chỗ cháu cũng thế chứ? – thủ lĩnh hỏi tôi.

84

Vâng. Lúc đầu, Cay tự lắp các bộ đèn cho nhà mình. Cứ giữ kích thước nhỏ xíu vốn

có, nên trông như đồ chơi trẻ con. Mà lại bố trí đèn nằm dọc, ngang, xiên xẹo lung tung

cả lên, trông chả ra cái gì cả. Lắp bóng đèn khắp nhà nhưng vẫn không thấy đèn sáng.

Cháu phải bảo Cay dọn sạch hết, chừa lại một bộ, khuếch đại lên mười hai lần, gắn vào

một vị trí thích hợp rồi bật công tắc cho sáng. Sau đó cháu chỉ cho Cay từng vị trí trong

nhà và bảo Cay nhân bản. Đêm hôm qua, cả căn nhà Cay rực sáng như ban ngày, mọi

người xung quanh đến xem đông lắm.

Sau khi trang bị chiếu sáng cho hết tất cả các nhà dân, đội công tác chuyển sang lắp

đèn cho các nhà công cộng. Rồi đường đi, phải trồng các cột đèn hai bên sao cho đẹp.

Cháu sẽ xin hành tinh Atlantis một bộ đèn đường dùng ánh sáng mặt trời về đây

nhân bản và lắp đặt. Đèn tự động bật sáng và tắt theo chương trình định sẵn tùy thuộc độ

chiếu sáng của mặt trời ban ngày và giờ khởi đầu hay kết thúc của đêm. Hôm ghé hành

tinh Atlantis, sao mình quên bẵng chuyện ánh sáng cho đường sá, ông nhỉ? – tôi quay

sang nói với ông Mun – Nhân đó, mình xin thêm một bộ panen bán dẫn biến ánh sáng

mặt trời thành điện, tích trữ và dùng thắp sáng các đèn. Sẽ dỡ bỏ hết các mái lợp bằng

tranh của nhà dân cũng như của các nhà công cộng, thay vào đó là các tấm panen tiếp

điện chứ không dùng bộ tiếp điện như hiện nay. Cháu còn định đề nghị...

Thủ lĩnh ngăn tôi lại:

Thôi, thôi, khỏi nói. Ta và ông Mun hiểu cháu có kế hoạch gì rồi. Những kế hoạch

này chắc chắn sẽ làm đảo lộn cuộc sống của cư dân hành tinh chúng ta. Ta sẽ liệt kê, lên

các phương án để đưa ra cuộc họp của Hội đồng tối cao sắp tới sau khi thông qua nghị

quyết chung là học tập những cái hay của các nền văn minh khác.

Ông Mun lên tiếng:

Thưa thủ lĩnh, trong thời gian ngắn ngủi ở Việt Nam, quê hương của Kim, tôi thấy

sinh hoạt văn hóa của họ phong phú lắm. Ví dụ, đêm đến mọi nhà đều quây quần bên cái

gọi tên là “máy thu hình” để xem những màn trình diễn văn nghệ như múa, hát, xem các

trận đấu bóng sôi nổi và hồi hộp, xem những bộ phim và những tường trình thời sự trong

nước và thế giới diễn tả đủ mọi thứ rùng rợn trên Trái Đất do chính con người tạo nên.

Tôi thưa với thủ lĩnh:

Đấy là một phần sinh hoạt văn hóa của Trái Đất. Để có cái máy thu hình và các

chương trình phát lên cho nhiều người xem, cần trang bị nhiều máy móc phức tạp và thực

hiện nhiều công việc nhiêu khê lắm. Không phải chốc lát mà chúng ta làm được. Nó nằm

ngoài tầm của việc nhân bản. Người Atlan cũng có sinh hoạt này, cháu tin là họ có trang

bị hiện đại hơn.

Không còn chuyện gì nữa để bàn, tôi kể lại chuyện tôi thất bại như thế nào về vật lưu

niệm đem tặng thầy Hơn. Tôi cũng nói lại câu nói của Cay trách tôi không rút được bài

học từ ông Mun. Ông Mun nghe xong cười ngặt nghẽo và khuyên tôi rằng đã học người

Lemuri thì phải suy nghĩ theo kiểu của người Lemuri mới được.

Thấm thoắt đã hết sáu ngày trên hành tinh Lemuria. Sau buổi học cuối cùng, thầy

Hơn bảo tôi nán lại nói chuyện một lúc trước khi chia tay. Thầy yêu cầu tôi phải năng tập

luyện để đạt kết quả theo ý muốn ngày càng nhanh hơn và tốt hơn. Thầy muốn thường

xuyên liên lạc với tôi bằng ý nghĩ, bởi vì thế nào cũng có lúc tôi không thể tự mình giải

quyết những vấn đề phức tạp và khó khăn theo cách nào cho đúng. Thầy bảo đó là trách

nhiệm của thầy đối với bất kỳ người học trò nào đã qua tay thầy dạy dỗ. Thầy dặn tôi

những nguyên tắc cần nhớ: phải nuôi dưỡng một tâm hồn trong sáng và luôn mở rộng

lòng yêu thương hết thảy mọi người, có như vậy, con mới giữ được dài lâu những gì mà

ta đã truyền cho con. Nếu có phải làm thầy, con hãy chọn những người tốt để truyền đạt,

85

trao cho họ tri thức và quyền năng. Bởi vì ở những người xấu có học vấn cao, cái ác sẽ

được nhân lên gấp bội về liều lượng cũng như về mức độ, gây nguy hiểm lớn cho đồng

loại.

Tôi bay đến dinh gặp và chào từ biệt thủ lĩnh. Bằng ý nghĩ – bây giờ, tôi đã đạt được

trình độ cao này – tôi cũng chuyển lời chào đến ông Mun. Ông chúc tôi lên đường bình

an và mong có ngày gặp lại. Tôi nhắn Tashi đến đón vào sáng hôm sau để đến hành tinh

Atlantis. Rồi tôi bay về nhà.

Trong ánh đèn sáng lung linh rực rỡ, cả nhà Cay cùng tôi ngồi quanh bàn trò chuyện.

Tôi thuật lại những dự định mà thủ lĩnh hành tinh sẽ đưa vào kế hoạch bàn thảo của Hội

đồng tối cao sắp tới cho cả nhà nghe. Về vấn đề trao đổi văn hóa, tôi nói ta có thể cử thầy

đi dạy cho người ở hành tinh khác như Atlantis hay Trái Đất chẳng hạn chương trình học

tập của người Lemuri. Nếu được thủ lĩnh giao việc này, Cay nên đi một lần cho biết đó

biết đây, mở rộng tầm mắt. Ngược lại, Trái Đất có thể gửi đến đây những đoàn ca múa

nhạc biểu diễn cùng những đội chiếu phim lưu động cho tất cả mọi người thưởng lãm.

Được như vậy, hằng đêm dưới ánh sáng đèn nhân tạo, mọi người trên hành tinh này sẽ

được vui chơi, giải trí thỏa thích. Không còn cái cảnh trời vừa sụp tối, mọi người đã rủ

nhau đi ngủ sớm. Trong khi nói, tôi đã hình dung ra ngay công việc nặng nề sắp đến mà

tôi sẽ phải gánh vác. Nhưng tôi hoàn toàn tự nguyện, bởi vì không có cách gì để trả ơn

cho xứng với công lao dạy dỗ tôi sống làm người đích thực nhờ thủ lĩnh, thầy Hơn, Cay

và toàn thể mọi người trên hành tinh này.

Đêm ấy, trong ngăn kéo bàn của Cay, tôi ngủ rất ngon. Trời sáng rõ mà bé Mai ngăn

không cho một ai đánh thức tôi dậy. Bé Mai bảo hãy để yên cho anh Kim ngủ, lưu lại đây

càng lâu càng tốt.

Nhưng Tashi từ trên con tàu vũ trụ đã đánh thức tôi. Tashi trách trời sáng rõ mà tôi

còn lề mề quá. Không hiểu tôi nhiễm thói xấu này ở đâu vậy. Tôi xin lỗi Tashi. Rửa mặt,

mặc quần áo, không, tôi quàng lên người chiếc áo liền váy của hành tinh Atlantis, không

ăn sáng, đương nhiên. Rồi với hành trang gọn nhẹ, tôi chào từ biệt mọi người. Tôi không

quên ôm hôn bé Mai lên bầu má phúng phính. Hay, bây giờ đã trở nên mạnh dạn, cũng

đến bắt tôi ôm hôn như đã hôn chị mình.

Tôi biến người nhỏ trở lại rồi bay đi, đến bãi đáp của con tàu. Lần này, không cần

chiếc mũ thấu thị nữa, tôi đã có khả năng nhìn thấy những con người “vô hình” như

Tashi, những vật thể “vô hình” như con tàu vũ trụ của hành tinh P16. Khi đã vào trong

khoang, Tashi cho tàu bốc lên nhẹ nhàng, hướng đến vùng phát năng lượng. Không hiểu

bằng cách nào, Tashi bảo nguồn năng lượng dự trữ trong người tôi gần như cạn kiệt, nếu

không kịp nạp năng lượng ngay, việc tôi sắp đột quỵ là cái chắc.

Sau một giờ, con tàu bắt đầu cuộc hành trình hướng về Atlantis. Tashi báo cho một

tin quan trọng. Tôi nghĩ ngay đến Sao. Chắc là anh em Sao đã có kế hoạch gì đó. Đọc

được ý nghĩ thầm kín của tôi, Tashi bảo không phải. Thật là nguy hiểm khi phải sống với

những con người đọc rõ vanh vách ý nghĩ của người khác. Tôi vận dụng khả năng đã học,

lục lọi trong đầu Tashi và nói:

Mình biết rồi. Mình cảm ơn thủ lĩnh P16, cám ơn rất nhiều Tashi, Ushu, Isha và

Oshi. Thật là điều bất ngờ vì món quà này quý hiếm, vô giá.

Thế các bạn đọc biết món quà gì không? Tôi bảo đảm là không, chắc chắn không. Giá

như tôi cũng treo giải thưởng cho ai đoán ra món quà gì như một số hãng đã làm trên các

thông báo xuất hiện thường xuyên hiện nay trên máy thu hình của chúng ta, tôi dám cá là

tôi không bị mất tiền treo giải đó. Thôi để sau này, khi đã trở về Trái Đất, tôi báo cáo lại

thầy An hẳn hay.

86

Niềm vui cứ lâng lâng trong tôi theo suốt chặng bay đến hành tinh người Atlan. Tôi

lần này không thấy buồn ngủ. Tashi cũng thức như tôi. Tôi cho Tashi biết từ nay về sau,

nhờ học được ở hành tinh P53, không cần đến mũ thấu thị và thấu thính, tôi vẫn thấy

Tashi và những con người trên hành tinh P16, thấy được linh hồn những người quá cố và

nghe được linh hồn nói. Đó là linh hồn của những người trên Trái Đất cũng như linh hồn

bố mẹ của hai anh em May và Sao. Tôi còn biết tin vui gì mà hai người, ông Mun và

Tashi, cứ úp úp mở mở kiên quyết không chịu hé răng trong chuyến bay rời Trái Đất

trước đây.

Con tàu từ từ hạ xuống bãi đáp trên hành tinh Atlantis. Hai anh em May và Sao đã có

mặt ở đó tự khi nào. Nhờ có hai bộ mũ thấu thị, hai anh em nhìn thấy Tashi rất rõ. Tôi và

Tashi bước ra.

Xin chào!

Tôi chạy đến ôm hôn May và Sao. Sao cố giữ chặt tôi hơi lâu một chút. Tôi hỏi:

Mọi người vẫn khoẻ chứ?

Hình như đó là thói quen của những con người ở Trái Đất. Còn người ở đây, không ai

phải lo lắng thường trực những rủi ro bất trắc trong đời sống – bệnh tật – cũng như trong

những chuyến đi – tai nạn –. Hai anh em im lặng không trả lời tôi. May mời tôi và Tashi

về nhà. Lần này, Tashi không từ chối. Tôi đoán Tashi có công việc phải làm vì tôi. Hình

như Tashi đang cố giữ không cho ý nghĩ của mình lộ ra trong đầu. Vừa đi, tôi vừa hỏi

Tashi:

Lần này, Tashi nhận đi với mình về nhà hai anh em May. Tại sao vậy? Mình không

tìm thấy trong đầu Tashi lý do rõ ràng.

Tashi ranh mãnh trả lời:

Muốn giữ bí mật tuyệt đối không cho người khác biết mình nghĩ gì, phải có mánh!

Mánh gì?

Nghĩ ra trong đầu nhưng cất ngay ý nghĩ vào chỗ khác.

Chỗ nào?

Bất cứ chỗ nào, giả dụ ở bụng chẳng hạn.

Giữ ở bụng? Không sợ dạ dày tiêu hóa mất ý nghĩ sao?

Tashi nói đùa:

Kim thì có thể vì trong bụng vẫn còn nguyên bộ máy tiêu hóa. Còn mình không có.

Tôi nghi nghi hoặc hoặc, không biết Tashi có lục lọi ở kho kiến thức trong đầu tôi sao

mà biết người Việt Nam hay nói “nghĩ bụng...”, rồi gán cho dạ dày, ruột, gan chứa chất

những ý tốt xấu như “lòng tốt”, “xấu bụng”, “bạo gan”, “lòng dạ tham lam”, v.v..

Khi đã vào hẳn trong nhà, ngồi yên trên ghế nhấm nháp chút nước dinh dưỡng – chỉ

ba chúng tôi tham gia, trừ Tashi vì không có miệng –, biết tôi còn ngại ngần, Tashi lên

tiếng trước:

Trở lại Atlantis lần này, mình...– chợt cũng như tôi, nhìn thấy linh hồn hai bố mẹ

Sao và May hiện về, Tashi đổi giọng – chúng con muốn hai bác và anh May cho Kim và

Sao làm lễ thành hôn vào thời gian thích hợp.

Tôi đưa mắt nhìn hai anh em, ra hiệu lấy mũ đội lên đầu. Khi đã nhìn thấy rõ bố mẹ

mình, hai anh em cùng lên tiếng:

Chào bố mẹ ạ!

Chúng tôi, tôi và Tashi, cũng đồng thanh:

Chúng cháu chào hai bác.

87

Sao thầm ra lệnh cho hai chiếc ghế nữa trồi lên. Bố mẹ Sao như khi còn sống, tự ngồi

lên đó không cần mời. Bà mẹ lên tiếng trước:

Từ lâu, chúng ta đã xem Kim như con cái trong nhà. Bây giờ Kim muốn cưới Sao

làm vợ, điều này tốt cho cả chúng ta, tình thân càng trọn vẹn hơn. Ông thấy thế nào? Bà

mẹ quay hỏi ông chồng.

Ta cũng đồng ý thôi. Bố mẹ biết từ lâu hai con đã có mối tình cảm đặc biệt với

nhau. Tuy là mỗi người thuộc mỗi hành tinh, nhưng điều này không hề ngăn cản tình

duyên của hai con.

Tashi hỏi sâu vào cụ thể:

Thủ tục cưới xin ở hành tinh này như thế nào ạ?

May nói:

Rất đơn giản. Chỉ cần thủ lĩnh bang gật đầu là được. Tuy nhiên trường hợp này đặc

biệt, vượt qua giới hạn của hành tinh nên phải có sự đồng ý của thủ lĩnh hành tinh. Hoàn

toàn không cần giấy tờ chứng nhận gì hết.

Vẫn thay mặt tôi, Tashi lên tiếng:

Cám ơn nhiều. Ngày mai, anh May lo giúp thủ tục này đi! Lúc ba anh em đi gặp thủ

lĩnh, hai bác có tham dự không ạ?

Việc của gia đình mình, đương nhiên hai bác cũng phải đi chứ.

Nói rồi, bố mẹ của hai anh em chào tạm biệt, hẹn gặp lại nhau ngày mai tại dinh thủ

lĩnh hành tinh. Tashi cũng chào tạm biệt tôi và hai anh em May. Buổi tối, tôi hỏi May,

sau khi được thủ lĩnh đồng ý, chúng ta sẽ tổ chức tiệc tùng đám cưới như thế nào. Sao hỏi

ngay:

Tiệc tùng là gì?

Đó là bữa ăn thịnh soạn, tức là nhiều món ngon hơn ngày thường, kèm thêm rượu

và bia làm thức uống.

Ở đây, ngoài những phong bánh và nước dinh dưỡng, không còn thức ăn nào khác.

Thậm chí những hoa quả nhiều vô kể trong rừng, cũng không một ai rớ tới.

May tiếp lời em:

Thường sau khi gặp thủ lĩnh bang, bang sẽ thông báo cho toàn thể mọi người biết là

có một cặp nam nữ họ tên gì đó làm đám cưới. Còn hai vợ chồng mới sẽ đưa nhau đi

thăm bạn bè để giới thiệu cho nhau biết. Thế thôi.

Tôi ngạc nhiên:

Đơn giản thật đấy. Ở Trái Đất, người ta tổ chức đám cưới rình rang tốn kém lắm.

Đầu tiên phải đưa nhau đến chính quyền làm giấy hôn thú. Nhỡ một trong hai người

không có chứng minh nhân dân hoặc sổ hộ khẩu thì phiền to. Rồi phải tổ chức lễ hỏi, đi

họ, rước dâu. Bao nhiêu thức ăn thừa mứa, thức uống xả láng. Bi kịch nhất là khi trong

đám cưới có người say sưa, rũ rượi vì rượu. Đôi khi, bi kịch biến thành thảm kịch.

Tôi mô tả một đám cưới diễn ra ở Việt Nam vắn tắt như vậy và không hy vọng gì hai

anh em hiểu hết. Giá như ông Mun nhìn thấy một đám cưới nhỉ? Chắc chắn, nó sẽ bổ

sung vào tâm khảm ông ấy thêm một kỷ niệm ghê tởm, đáng ghét nói theo kiểu của ông

ấy . Để cho không khí gia đình được vui vẻ, đầm ấm, tôi không từ chối tham gia bữa ăn

chiều cùng người Atlan. Phải công tâm thừa nhận rằng phong bánh rất ngon và nước

uống thì số một. Chả trách bé Mai, bé Hay cùng những người lớn trong gia đình Cay đã

thích thú thưởng thức của lạ này, bỏ luôn đĩa trái cây và nước ép quen thuộc. Tôi đem

điều đó nói cho hai anh em biết và nhận rõ có chút tự hào trong ánh mắt của Sao.

88

Một đêm diễn ra như những đêm tôi đã trải trong căn buồng tràn đầy những giai điệu

du dương nhưng có pha thêm bước sóng “thuốc mê” ma quỷ. Không mấy chốc, tôi đã ríu

mắt chìm sâu vào giấc ngủ. Buổi sớm, lại bị tiếng chuông quay quắt réo gọi buộc người

ta không thể ngủ nán.

Không hiểu từ đâu ra, trong sân trước tòa nhà chung cư có một con tàu dạng du hành

vũ trụ đợi sẵn. May bảo tối hôm qua, May đã gọi điện đặt sẵn cho chuyến bay ba người

đến dinh thủ lĩnh hành tinh. Di chuyển đi lại như vậy nhưng không phải “trả tiền”. Hưởng

thụ theo nhu cầu mà! Trước đó, tôi có bảo hai anh em nhớ mang theo mũ thấu thị và thấu

thính để hai bác có điều kiện nói chuyện với thủ lĩnh. Còn tôi cũng mang theo chiếc mũ

của mình.

Chúng tôi bay không đến dăm phút đã tới nơi. Dinh thủ linh ở hành tinh này quá cao

đẹp và lộng lẫy. Nó thể hiện trình độ mỹ thuật và kỹ thuật rất siêu. Thủ lĩnh đang ngồi

sau bàn chờ chúng tôi. Chúng tôi đồng thanh chào thủ lĩnh. Vì đã biết mục đích của

chuyến đi, ông không hỏi gì thêm dẫu rằng thủ tục là phải có hỏi đi hỏi lại, một thủ tục

chán ngắt ta được gặp thường xuyên khi có một công dân đối mặt với chính quyền vì một

công việc nào đó trên Trái Đất. Thủ lĩnh chỉ chăm chú nhìn tôi và thốt lên:

Té ra ngươi là con người bằng xương bằng thịt từ Trái Đất đến đây đấy à?

Tôi nhỏ nhẹ đáp mà không hiểu ông này sẽ còn tra vấn tôi điều gì nữa đây:

Thưa vâng.

Nhưng ông hiền từ bảo:

Tốt thôi. Ta đồng ý tác hợp cho hai cháu. Ta chúc hai cháu sẽ sống với nhau hạnh

phúc, dẫu cho có khác ít nhiều về nền văn minh và xa cách nhau rất lớn về không gian.

Tôi nhìn thấy hai bố mẹ đã đến. Tôi đưa hai tay nâng mũ và chạm nó vào tay thủ lĩnh.

Tôi trao cho thủ lĩnh cái mũ và thưa với thủ lĩnh rằng linh hồn bố mẹ của cô dâu muốn

yết kiến thủ lĩnh. Tôi nói gấp để thủ lĩnh hiểu:

Cháu trao chiếc mũ vô hình để thủ lĩnh đội mới nhìn thấy và nói chuyện được với

linh hồn người quá cố.

Thủ lĩnh như cái máy, cầm lấy cái mà mình không nhìn thấy và đội lên đầu. Trước

mắt thủ lĩnh bây giờ không chỉ có ba mà là năm người. Hai con người lớn này, ông thấy

rất quen. À phải rồi, vợ chồng của viên phi công đã bỏ mình trên Trái Đất.

Chúng tôi xin chào thủ lĩnh.

Không dám. Xin chào... Hai vị là... bố mẹ đã quá cố của hai anh em Sao?

Thưa vâng. Chúng tôi đã đến thăm thủ lĩnh thường xuyên nhưng hôm nay, nhờ có

chiếc mũ, chúng tôi mới được thủ lĩnh nhìn thấy và cho phép trò chuyện cùng.

Giọng thủ lĩnh trở nên băn khoăn:

Tôi xin chia buồn cùng gia đình. Tôi rất ân hận là để cho hai ông bà...

Bố mẹ Sao không để cho thủ lĩnh nói hết câu:

Xin thủ lĩnh đừng nói vậy. Chuyện quá khứ, nên cho qua đi. Lỗi chủ yếu là của

chúng tôi, thủ lĩnh không phải áy náy. Hôm nay là ngày vui của hai cháu, xin thủ lĩnh

cùng chia vui với gia đình chúng tôi.

Thủ lĩnh mỉm cười:

Vâng, xin thứ lỗi. Việc hai cháu ở hai hành tinh khác nhau kết nghĩa, không có điều

luật nào của hành tinh chúng ta ngăn cấm. Quyết định chính là ở hai ông bà và các cháu.

Tôi, nhân danh thủ lĩnh hành tinh, tuyên bố chấp nhận cuộc hôn nhân này.

Thủ lĩnh nói thêm trước lúc chia tay:

Bây giờ gia đình đang bận chuyện vui, ta không muốn ai đó trong gia đình bận bịu

thêm vì ta. Sau đây vài hôm nữa, ta muốn mời cháu – ông hướng về tôi – tức là chàng rể

89

mới của người Atlan ấy, bỏ chút thì giờ đến gặp ta. Tiện thể – ông hướng về hai linh hồn

– ta cũng muốn mời hai ông bà đến đây cùng với chàng rể của mình.

Vâng, được ạ – tiếng nói của tôi cùng với lời đáp của hai linh hồn trộn lẫn vào

nhau.

Thủ lĩnh giấu nỗi ngạc nhiên trả lại chiếc mũ cho tôi. Tôi từ chối, bảo món quà đặc

biệt này đem đến dành tặng thủ lĩnh. Thủ lĩnh nói lời cảm ơn. Chúng tôi cùng nghiêng

mình chào tạm biệt thủ lĩnh. Lần này trên tàu ngoài ba chúng tôi, còn có hai linh hồn

người quá cố. Sao vẫn đội mũ, thầm thì gì đó với bố mẹ, chủ tâm không để cho người lái

tàu nghe được. Còn tôi và May, chỉ im lặng lắng nghe tiếng được tiếng mất, mà không

trao đổi với nhau điều gì.

Bằng ý nghĩ, tôi báo ngay tin mừng của chúng tôi về Lemuria đến thủ lĩnh, ông Mun,

thầy tôi và Cay. Mọi người đều nói ai cũng biết trước tình duyên của tôi nhưng chưa đoán

được nó sẽ kết thúc ra sao. Bây giờ kết quả tốt đẹp, họ đều chúc mừng hai vợ chồng

chúng tôi, mong sao cho chúng tôi sống hạnh phúc lâu bền bên nhau. Bé Mai khi biết tin,

nhờ anh Cay chúc mừng tôi và dặn thế nào cũng phải đem chị Sao về Lemuria ra mắt mọi

người. Bé hỏi ông anh:

Chị Sao cao lớn bằng ngần nào? Như chúng ta hay như anh Kim?

Đương nhiên như anh Kim. Nếu chị Sao như chúng ta, anh Kim sẽ còn mệt dài dài.

Nghe vậy thì biết vậy, trẻ con thời nào và ở đâu vẫn cứ là trẻ con, không thể hiểu hết

thâm ý của người lớn.

Đêm tân hôn, tôi ngủ trong buồng của Sao. Tôi bảo nàng hãy tắt cái thứ âm nhạc ma

quái ấy đi. Dẫu có thắc mắc nhưng nàng không hỏi lại, mà làm theo lời tôi. Tôi ôm chặt

nàng hôn vào môi, nói lời cám ơn. Sau đó, nàng dồn hết cho tôi mọi mãnh lực của tình

yêu mà không chút ngại ngùng. Cùng lúc ấy, một mùi thơm lạ quyến rũ, đầy nữ tính, toát

ra từ cơ thể nàng làm cho tôi mê mẩn. Nó cứ thế nhập sâu vào da thịt, vào từng tế bào của

cơ thể tôi rồi đọng lại đậm đặc trong tâm trí, buộc tôi cứ nhớ mãi những khi bay lang

thang cùng với Tashi trong vũ trụ. Cứ mỗi lần da diết nhớ, tôi lại bần thần, chỉ muốn lập

tức bay ngay về với nàng. Lúc ấy, tôi phải tịnh tâm, cố gắng đẩy hết mọi cảm xúc ra

ngoài cho đầu óc trống rỗng, nhờ đó tôi mới lấy lại được sự yên bình, thanh thản.

Đêm nay không nhạc, nhưng chúng tôi vẫn ngủ ngon lành bên nhau do một thứ nhạc

khác kèm mùi ma túy tự tạo có giai điệu lạ lẫm mà chúng tôi lần đầu tiên trong đời nếm

trải.

Những ngày sống bên nhau, Sao vui hẳn lên. Người rạng rỡ một cách lạ thường. Cặp

mắt lúc nào cũng lúng liếng sáng trong, luôn nhìn trìu mến tất thảy mọi người không

chừa một ai. Rồi có một lần tôi hỏi Sao có muốn về Trái Đất quê chồng thăm chơi một

chuyến không. Sao đột nhiên phản ứng dữ dội. Lý do vì sao, tôi đã nói ở phần trước các

bạn đọc rồi đó. Thường ngày, điều gì Sao cũng nghe tôi, chỉ mỗi chuyện này là tôi chịu

thua. Tôi nghĩ đành phải tìm cách đưa mẹ tôi lên tận đây, nếu mẹ tôi tha thiết muốn nhìn

mặt con dâu. Trong những ngày trăng mật này, chúng tôi quấn quýt bên nhau không rời.

Sao có đưa tôi đi giới thiệu với những bạn học cũ và những người đang cùng công tác.

Khi biết tôi là người của Trái Đất, ai cũng tò mò nhưng rồi sau đó mọi chuyện trở lại bình

thường bằng những cái bắt tay và những câu chúc mừng quen thuộc.

Mấy hôm sau theo lời hẹn, tôi và có cả Sao cùng đi, đến gặp thủ lĩnh. Con tàu hôm nào

đã đậu sẵn trên sân trước tòa nhà chung cư đón chúng tôi. Tôi bảo Sao đem theo cho bản

thân mình một mũ thấu thị. Khi chui vào buồng lái của con tàu, tôi đã thấy hai linh hồn

bố mẹ vợ ngồi đấy tự bao giờ. Tôi khẽ gật đầu chào và nhắc Sao đội mũ. Đến lúc đó, Sao

90

mới nhìn thấy bố mẹ mình, rồi thầm thì nói chuyện mãi với hai người trong suốt chuyến

bay.

Thủ lĩnh đang ngồi sau bàn, đầu đội mũ sẵn, chờ chúng tôi. Hai dãy ghế trống được

bố trí hai bên cạnh bàn. Sau lời chào hỏi, thủ lĩnh chìa tay mời chúng tôi ngồi. Tôi và Sao

một bên, hai linh hồn một bên cùng lần lượt ngồi xuống. Thủ lĩnh lên tiếng:

Thưa hai ông bà và hai cháu. Thú thật là hôm trước, mọi người đã đem đến cho tôi

hai điều bất ngờ. Một là không hiểu làm sao mà một cô gái người Atlan lại có thể quen và

kết duyên cùng người ở tận Trái Đất xa xôi cách trở. Hai là ở đâu mà có chiếc mũ thần kỳ

giúp tôi gặp lại và chuyện trò được với hai ông bà như thể hai ông bà còn đang sống trên

cõi đời này? Chiếc mũ thần kỳ chắc chắn không phải là sản phẩm của nền văn minh

người Atlan chúng ta đấy chứ?

Tôi đưa mắt nhìn Sao, động viên. Sao đứng dậy:

Vâng. Thưa thủ lĩnh, chúng cháu quen nhau do một lần tình cờ gặp gỡ khi Kim vừa

được người của hành tinh P16 mang đến bằng con tàu vũ trụ vô hình và cũng do con

người vô hình ở hành tinh đó lái. Anh ấy bảo muốn tìm hiểu nền văn minh của hành tinh

mà theo lịch sử, đã có tiền bối của người Atlan chúng ta đến định cư sau trận Đại hồng

thủy của Trái Đất. Chỉ một mình anh ấy đến với tư cách là một nhà khoa học. Chiếc mũ

cũng là do anh ấy mang theo, dùng để nhìn thấy người bạn cùng với con tàu vô hình.

Chính hai anh, Kim và Tashi, đã tặng cho chúng cháu chiếc mũ ấy để chúng cháu có điều

kiện thường xuyên gặp gỡ và tâm tình cùng bố mẹ chúng cháu.

Thưa thủ lĩnh – tôi tiếp lời Sao – cháu và Tashi, người bạn từ hành tinh P16 – còn

bàn giao cho hành tinh Atlantis thông qua hai anh em May và Sao một vùng phát năng

lượng vũ trụ vô tận nằm ngay trong vùng biển của hành tinh.

Lại có chuyện ấy à! Tại sao hai anh em cháu không báo ngay cho ta biết?

Linh hồn hai bố mẹ cũng góp lời:

Chuyện này rất hệ trọng, sẽ đem lại lợi ích lớn cho hành tinh chúng ta.

Sao thưa:

Chính vì vậy mà anh May bảo phải thận trọng suy nghĩ kỹ trước khi đề đạt lên thủ

lĩnh.

Tôi tiếp lời:

Khi bàn giao vùng năng lượng này, cháu và bạn cháu có gợi ý sử dụng nó vào ba

mục đích. Một là nghiên cứu xem có áp dụng làm động lực cho các con tàu vũ trụ của

hành tinh hay không. Hiện nay, hành tinh P16 có nhiều con tàu vũ trụ chỉ sử dụng năng

lượng này để chu du khắp nơi trong dải Ngân hà. Hai là so sánh xem việc sử dụng năng

lượng lấy từ ánh sáng mặt trời và năng lượng do vùng phát năng lượng cung cấp cho các

thiết bị chiếu sáng và các động cơ của dây chuyền sản xuất tự động của hành tinh hiện

nay, cái nào tiện lợi và đạt hiệu suất cao hơn thì dùng cái ấy. Ba là vùng phát năng lượng

có thể nuôi sống con người mà không cần ăn uống, làm cho cơ thể luôn luôn thanh khiết,

không hề bệnh tật ốm đau, nâng cao tuổi thọ mọi người, như cư dân hành tinh P16 đã

làm.

Sao bổ sung:

Chính anh Kim đang thực hiện mục đích thứ ba đấy ạ. Hiện nay anh không ăn một

thứ gì mà vẫn không thấy đói. Có một lần, cháu và anh May thử tắm trong dòng thác

năng lượng đó một giờ trên con tàu vũ trụ của Tashi, về nhà chúng cháu đã nhịn ăn được

một tuần.

Thủ lĩnh ngạc nhiên:

91

Có sự lạ đây! Lâu nay ta vẫn tự hào nền văn minh của hành tinh Atlantis đã lên đến

đỉnh cao tuyệt mỹ, không còn gì để tiến bộ hơn. Thế mà có những cái ta chưa nghĩ đến và

chưa làm được. Việc này rất quan trọng. Ta phải tổ chức cuộc họp Hội đồng tối cao của

hành tinh để bàn luận vấn đề mà các cháu nêu ra. Một mình ta không quyết định được.

Thấy thủ lĩnh khá cởi mở, tôi mạnh dạn:

Xin phép cho cháu phát biểu thêm. Hãy tha lỗi cho cháu nếu có điều gì không phải.

Cháu thấy cuộc sống của cư dân hành tinh hoàn toàn no đủ, hạnh phúc. Nhưng những tổ

chức sinh hoạt thuộc lĩnh vực văn hóa bao gồm văn nghệ, thể thao, có vẻ chưa được

phong phú lắm. Ngoài ra, theo tư liệu lịch sử Trái Đất mà cháu đọc được, các vị tiền bối

chủng Atlan sống trên Trái Đất trước nạn Đại hồng thủy tuy chưa đạt được nền văn minh

khoa học kỹ thuật như hiện nay trên hành tinh Atlantis nhưng về phương diện tâm linh,

họ đã có một số thành tựu. Có lẽ hậu duệ của những người Atlan ngày nay không quan

tâm đến loại văn minh này. Trong lúc đó ở hành tinh láng giềng của chúng ta, người

Lemuri đang tiếp tục phát triển và đã đạt được những thành tựu đáng nể. Họ tích lũy

được tri thức một cách nhanh chóng, đồng thời có nhiều quyền năng.

Sao giới thiệu với thủ lĩnh:

Anh Kim đã học xong chương trình giáo dục của người Lemuri đấy ạ. Anh có một

số quyền năng như khuếch đại hoặc nhân bản. Khuếch đại là làm cho cái gì đó to lên.

Nhân bản là biến một cái thành nhiều cái. Kim, anh hãy biểu diễn cho thủ lĩnh và bố mẹ

xem đi.

Tôi vươn người lên cao dần, cao dần cho đến khi đầu chạm nóc dinh. Sau đó tôi nhân

bản một Sao thành mười Sao ngồi chật một hàng ghế.

Thủ lĩnh và bố mẹ Sao vỗ tay tán thưởng. Tôi thu dọn “chiến trường”, hạ mình thấp

dần thấp dần cho đến vóc dáng ban đầu. Rồi chín Sao giả biến đi, chỉ còn lại một Sao

thật, vợ tôi. Thủ lĩnh hình như chưa tin, thành thực hỏi tôi:

Đó là màn ảo thuật, phải không?

Không đâu ạ. Đấy là sự thực. Chúng cháu đã đem một bộ đèn huỳnh quang từ Trái

Đất và xin May một hộp tiếp điện sử dụng năng lượng vũ trụ, đem đến hành tinh Lemuria

nhân bản hàng triệu cái và đang lắp đặt. Ban đêm, hành tinh này sẽ không còn tối tăm

như chính ngài, thủ lĩnh của hành tinh Atlantis, đã từng chê bai.

Thủ lĩnh chột dạ:

Ta chê bai lúc nào? Với ai?

Thủ lĩnh chưa hề nói ra bằng lời nhưng đã từng suy nghĩ “Hành tinh láng giềng mỗi

khi đêm đến trông như một địa ngục tăm tối” có đúng không?

Đúng. Thú thật, đã có lần ta nghĩ như vậy. Thì đã sao nào?

Thế là những con người học vấn cao siêu của hành tinh Lemuria đã dò được ý nghĩ

của thủ lĩnh và họ rất tức giận. Có nghị sĩ đã nói “Hậu duệ của người Atlan thật quá quắt.

Họ không biết rằng tổ tiên của họ là học trò của tổ tiên người Lemuri”.

Thủ lĩnh và hai linh hồn bố mẹ vợ tôi cười to. Thật đúng là một câu chuyện thú vị mà

nếu tôi không thổ lộ ra thì chẳng ai trên hành tinh này biết được.

Tôi nói thêm:

Thưa thủ lĩnh, nền văn minh không chấp nhận những nhận xét xấu về người khác

dù chỉ mới là trong ý nghĩ.

Thật đến nghiệt ngã – Thủ lĩnh than – Chính sự nhạy cảm tuyệt đỉnh của họ cuối

cùng chỉ làm khổ họ nhiều hơn mà thôi.

Tôi quay sang hỏi Sao:

92

Em đã từng nói thủ lĩnh chúng ta cấm ngặt các con tàu vũ trụ của Atlantis không

được bén mảng trên vùng trời Lemuria?

Thủ lĩnh trả lời thay cho Sao:

Đúng vậy. Ta có ra lệnh.

Do đâu?

Không hiểu sao cách đây khá lâu, ta bị ám ảnh bởi một nỗi bất an lạ lùng, người

bồn chồn không sao chịu được. Thấp thoáng trước mắt ta luôn hiện ra ngay trong ban

ngày một ảo giác kinh dị như là điềm báo xấu: hình ảnh những con tàu vũ trụ của Atlantis

bay đảo điên, rơi rụng dần từng chiếc, từng chiếc một và bị bóng đêm của hành tinh

Lemuria nuốt chửng.

Tôi nói chắc nịch:

Đó là tín hiệu cảnh báo của người Lemuri. Họ đã đạt tới một nền văn minh tâm linh

siêu việt. Về việc trang bị ánh sáng nhân tạo cho Lemuria, Hội đồng tối cao của người

Lemuri đã bàn cãi rất dữ, trong đó cháu có tham dự. Có một số nghị sĩ phản đối. Bởi vì

ban đêm, người Lemuri có năng lực nhìn thấy mọi vật sáng tỏ như ban ngày. Cháu những

ngày đầu mới đến, cứ ban đêm là cháu như người mù. Bây giờ thì tình hình khác rồi. Tối

đến, ở hành tinh Lemuria, không ai còn ngủ sớm nữa. Họ có nhiều thì giờ vui chơi, giải

trí về đêm bởi mọi căn nhà, mọi góc phố và đường sá đều rực sáng như ban ngày.

Khi chào từ biệt thủ lĩnh để ra về, tôi bảo Sao lên tàu về trước. Còn tôi rủ bố mẹ sẽ

bay về sau. Tôi biết bay, đương nhiên. Còn linh hồn của ông bà nhạc biết bay cũng là lẽ

đương nhiên. Trên đường về, tôi phàn nàn với hai ông bà là một lần gợi ý cho Sao sắp

xếp công việc về Trái Đất thăm quê chồng, đồng thời ra mắt mẹ chồng cùng họ hàng bà

con nội ngoại cho phải đạo làm dâu. Sao đã nổi khùng lên. Mẹ vợ tôi bảo:

Em nó vẫn còn xót xa về tai nạn mà bố mẹ hứng chịu trong khi con tàu đang lang

thang trên bầu trời Bắc Mỹ.

Bố vợ hỏi:

Kim, con có bảo đảm cho vợ con an toàn trong chuyến bay về không?

Tôi trấn an hai người:

Thưa bố mẹ, con xin bảo đảm. Con tàu vũ trụ do bạn con lái đã bay đi bay về Trái

Đất bao nhiêu lần rồi có sao đâu. Trình độ radar của Trái Đất hiện tại là mù tịt, không hề

trông thấy con tàu của chúng con. Vả lại, Việt Nam quê hương con hiện nay được nhiều

người công nhận là một trong những đất nước thanh bình trên Trái Đất.

Mẹ vợ tôi nói:

Thôi được. Để mẹ bảo nó.

Con muốn mời hai bố mẹ cùng đi với chúng con được không ạ?

Ông bố trả lời:

Để bố mẹ suy nghĩ. Bây giờ chưa thể trả lời ngay cho con được.

Trở về trong vòng tay mẹ

Bẵng đi mấy hôm, không rõ hai anh em May đã gặp bố mẹ lúc nào mà sau khi đi làm

về, Sao báo cho tôi biết nàng chấp nhận cùng về Trái Đất thăm mẹ chồng và họ hàng nhà

chồng. Sao bảo đã xin phép cơ quan và sẵn sàng đi với tôi. Tôi gọi điện nhắn Tashi. Tashi

trả lời đồng ý.

Sáng hôm sau, ngoài May còn có bạn bè của Sao khoảng hơn mười người, cùng đi

với chúng tôi ra bãi đáp của con tàu. Khi đến nơi, tôi hơi ngạc nhiên thấy một lúc có hai

con tàu và hai người đứng sẵn trước đó. Tashi là chắc rồi, còn ai nữa trong các bạn quen

93

của tôi ở hành tinh P16 thì tôi không thể nhận ra. Tashi là người tiến lên phía trước bắt

tay tôi và giới thiệu cùng mọi người, đi với anh là Oshi. Tôi nói lời chào Oshi và giới

thiệu Sao, vợ tôi, May, anh vợ tôi và những người bạn cùng làm của Sao. Bởi vì không có

mũ nên việc giới thiệu và trao đổi chuyện trò của chúng tôi, các người bạn của Sao không

hề hay biết. Tôi thầm trách Sao là đưa họ ra đây để làm gì. Chợt tôi nghĩ đến thầy Hơn.

Thầy nhắn bảo tôi là cứ thử vận dụng quyền năng của mình, chuyển hai con tàu và hai

con người vô hình của P16 ra dạng hữu hình trong chốc lát xem sao. Tôi tập trung tia

nhìn, bỗng vui sướng thấy mình thành công. Tôi nói to để mọi người không có mũ

cùng nghe:

Đây là hai con tàu vũ trụ và hai phi công thuộc hành tinh P16 vừa đến đây để đón

chúng tôi.

Mọi người ồ lên ngạc nhiên. Tôi biết họ ngạc nhiên không vì con tàu mà vì hai con

người xa lạ với cơ thể trơn tru không tóc, không mắt, không mũi, không tai, dạng hình

bảng lảng như bằng vật liệu dẻo trong suốt màu xanh lơ. Sau đó, những hình ảnh vừa

trông thấy đột ngột biến mất. Tôi biết mình không đủ sức để giữ hình ảnh đó được lâu.

Tôi nhờ May lúc trở về hãy giải thích cho các bạn của Sao hiểu. Rồi hai vợ chồng tôi vẫy

tay chào từ biệt mọi người. Mấy người bạn của Sao còn đang tần ngần chưa kịp hiểu ra

chuyện gì, đã thấy tôi nắm tay Sao cùng biến mất tăm. Ấy là lúc chúng tôi đã vào hẳn bên

trong khoang con tàu do Tashi lái.

Trước khi rời hẳn hành tinh Atlantis, Tashi điện cho Oshi lái tàu cùng đến chỗ nạp

năng lượng của hành tinh. Tại đó, hai con tàu treo mình lơ lửng trên không khoảng một

giờ, sau đó cùng bay đi.

Tashi báo ngay cho tôi biết, con tàu do Oshi lái là quà tặng cho Viện của thủ lĩnh

hành tinh P16. Người lái con tàu đó, Tashi đề nghị trước mắt tôi hãy đảm nhận. Sau này

thầy An muốn giao cho ai lái, tôi sẽ hướng dẫn lại. Bởi vậy, trong suốt chuyến bay này,

tôi không được ngủ nhiều mà phải tập lái theo chỉ dẫn của Tashi. Tất nhiên là tôi phải

chấp nhận đề nghị hợp tình hợp lý này, bởi không còn phương án nào khác hay hơn trong

hoàn cảnh hiện tại.

Hóa ra lái tàu vũ trụ không hề khó. Bình thường, chỉ cần làm vài động tác đơn giản và

phải nhớ kỹ chức năng của từng nút bấm. Trong chế độ lái tự động, phải biết gạt cần gạt,

chọn thứ tự công việc sẽ phải thực hiện như bay thẳng đến mục tiêu định trước, chuẩn bị

“cất cánh”, “hạ cánh”, v.v..

Trong suốt chuyến bay, Sao đã ngủ ngon lành trong điệu nhạc du dương của hành

tinh. Có lẽ đây là lần đầu tiên trong đời con gái, nàng phải xa nhà. Rồi bao nhiêu chuyện

sắp xảy đến, lạ lẫm nơi xứ người, không rõ nàng có đủ bản lĩnh ứng xử cho vừa lòng mọi

người không đây. Tôi bất chợt đâm ra lo lắng. Ở quê hương Việt Nam, thử thách thông

thường và đầu tiên của bất kỳ một nàng dâu nào vừa mới về nhà chồng là... chuẩn bị bữa

ăn. Bi kịch cho Sao là từ bé đến lớn, nàng chỉ biết mỗi phong bánh và chai nước dinh

dưỡng. Mà những thứ đó, nàng cũng chỉ biết ăn, uống chứ đâu biết làm ra chúng. Bánh,

nước ư? Đã có máy tự động của hành tinh. Nhưng tôi có một lòng tin vững chắc rằng mẹ

tôi sẽ tha thứ tất cả. Trong trường hợp của cô dâu đặc biệt này, phải rộng lòng chối bỏ

câu “nhập gia tùy tục”.

Mẹ tôi năm nay tròn sáu mươi. Bà vốn là một cô giáo dạy văn ở một trường phổ

thông trung học của tỉnh. Lấy chồng lúc hai mươi tám. Sống được với chồng dăm hôm thì

chồng đã phải ra chiến trường. Biền biệt sáu năm, chồng mới về phép thăm nhà một lần

và lần đó mẹ tôi có bầu sinh ra tôi. Ở nhà với vợ cũng chỉ được có dăm hôm lại phải ra đi.

Và lần ấy, bố tôi đi mãi không về, chưa một lần gặp mặt con trai. Nghe báo tử, mẹ tôi đã

94

ngã gục tưởng chừng không bao giờ còn gượng dậy được. Gọi là vợ chồng gá nghĩa trăm

năm nhưng thời gian hai người dành cho nhau cộng lại không quá mươi ngày. Mẹ tôi

gắng gượng sống được cho đến ngày hôm nay là vì tôi. Thế mà tôi... chỉ lo công việc của

mình, không mấy khi về nhà thăm mẹ, kể ra thật bất nhẫn.

Hai con tàu đáp xuống mảnh sân trước Viện vào buổi trưa. Oshi để lại con tàu mình

đã lái, không quên bảo tôi lên nhận diện và cài chế độ cảnh giới. Sau khi chào tạm biệt,

Oshi và Tashi cùng lên tàu trở về.

Không khí lặng ngắt. Mọi người đang nghỉ trưa. Chiếc đồng hồ to treo trước Viện chỉ

đúng con số 12 giờ. Tôi dẫn Sao đi quanh Viện một vòng, cho nàng nhìn ngắm mọi thứ

để làm quen dần với phong cảnh của Trái Đất. Sao thắc mắc ở đây ít chim chóc líu lo bay

lượn như trên hành tinh Atlantis. Cây cối ít hoa đẹp, thơm. Chợt nhớ mình và Sao vẫn

còn mặc trên người những bộ quần áo của người Atlan, tôi trở lại tàu, thay lấy bộ quần áo

của mình. Tôi khoác lên người nàng chiếc áo tàng hình rồi dẫn ra thị xã Sơn Tây, tìm đến

siêu thị mua mấy bộ quần áo và đồ lót nữ. Siêu thị tấp nập người là người, nên cô nàng

phải hết sức chú ý né tránh để không va phải họ. Chưa có một ý thức gì về mốt quần áo

nữ ở Trái Đất nên nàng để mặc tôi tự mình định đoạt lấy, muốn mua gì thì mua, không hề

có ý kiến. Tôi cố tình chọn những bộ quần áo và cả váy bằng vải bông trăm phần trăm đề

phòng cô nàng bị dị ứng với hàng vải sợi tổng hợp. Tuy vậy Sao vẫn không cảm thấy

thoải mái lắm nhưng cố chịu đựng. Chúng tôi trở lại tàu để thay quần áo. Sao hỏi:

Em cởi quần áo trên tàu trước mặt anh được không?

Được. Chúng mình đã là vợ chồng rồi, không phải e ngại điều gì.

Sao vừa cởi bỏ hết quần áo của người Atlan, còi tàu bỗng hú rít. Tôi nhìn ra bên ngoài

không thấy có ai đến mới biết rằng tàu phản ứng với hành vi lõa thể. Tôi bấm nút tắt chế

độ cảnh giới, nói vui:

Tàu khen em có cơ thể đẹp nên rú còi đó!

Tàu đâu có biết nịnh vợ giống anh mà nó chê em bất lịch sự đấy.

Tôi thầm nghĩ trong đầu. Người P16 không mặc quần áo, tàu không có ý kiến gì, đến

khi người Atlan không mặc quần áo lại có ý kiến, thật quái đản! Thấy Sao sau khi mặc đồ

lót xong cứ loay hoay mãi với mấy bộ quần áo, tôi phải đến giúp. Tôi chọn bộ áo váy

ướm thử. Cô nàng giãy nảy:

Kìa, sao anh mặc cho em bộ áo váy của nam giới?

Không đâu. Ở Việt Nam, nam giới không mặc áo váy. Chỉ có

nữ mới mặc áo váy. Nào, vịn người anh, bước chân vào váy đi. Được rồi. Còn hai tay,

quay người lại, anh mặc cho chiếc áo. Bộ áo váy vừa khít người cô nàng, ôm lấy tấm

thân thon thả trông thật sang trọng và đẹp mắt. Nhìn Sao, không ai đoán được đấy là

người ngoài hành tinh, mà giống hệt một cô gái Việt Nam thuộc lớp thị dân.

Khi chúng tôi bước ra khỏi con tàu để vào Viện thì đồng hồ chỉ đúng 1 giờ 30. Mọi

người đang lục tục trở dậy. Tôi chuyển cho Sao một máy thông dịch, bảo hãy mang suốt

thời gian ở Trái Đất để tiếp xúc trò chuyện với mọi người. Chúng tôi bước vào nhà, đi

thẳng đến gõ cửa phòng thầy An. Thầy mở toang cửa, ồ lên vì ngạc nhiên khi nhìn thấy

tôi, theo sau là một cô gái lạ. Thấy thầy hơi ngỡ ngàng, tôi nói ngay:

Xin giới thiệu với thầy, đây là vợ em. Chúng em vừa mới cưới nhau trên hành tinh

Atlantis. Sao là tên cô ấy.

Thầy An thông báo họp Viện có chuyện gấp. Thế là mọi người lần lượt kéo đến, ngồi

vào hai dãy ghế cạnh chiếc bàn lớn đặt giữa hội trường. Thầy An bảo cách đây mấy ngày,

Tashi đến báo cho thầy biết thủ lĩnh P16 có lòng ưu ái giúp một con tàu vũ trụ cho Viện.

Ai cũng cảm thấy bất ngờ vì sự kiện xảy ra quá lớn, vượt ra ngoài ước mơ và mong đợi.

95

Rồi bây giờ tin vui tiếp đến là Viện có một cô dâu người ngoài hành tinh. Tin này mới

giật gân làm sao!

Khi chúng tôi bước ra theo sau thầy An, mọi con mắt đổ dồn về phía người lạ. Thầy

An giới thiệu Sao với mọi người:

Đây là vợ mới cưới của Kim, người Atlan.

Chào các anh, các chị – Sao lên tiếng.

Atlan ở nước nào ạ? – có người ngẩn ngơ không nhớ rõ mình đã nghe từ này lúc

nào và ở đâu, thắc mắc hỏi.

Tôi đáp ngay:

Người Atlan là cư dân hành tinh P52 mà mình đã kể cho các bạn nghe trong chuyến

trở về trước đây.

À!

Mọi người cùng ồ lên, vỡ lẽ. Sau đó mọi người càng chăm chú nhìn Sao hơn, cố tìm

xem ở người con gái này có điểm gì khác những cô gái Việt Nam. Ngân và Duyên mạnh

dạn đến kéo tay Sao dẫn về ngồi ngay cạnh mình.

Duyên thắc mắc:

Anh Kim dạy chị ấy nói tiếng Việt lúc nào mà sõi thế ạ?

Tôi cười:

Cô ấy đâu biết nói tiếng Việt. Tiếng mà mọi người nghe chính là do máy thông dịch

chuyển từ tiếng nói của người Atlan sang đó. Máy này do các bạn trên hành tinh P16

tặng.

Có tiếng thì thào bình phẩm rất khẽ của ai đó trong nhóm các chàng trai nhưng tôi

vẫn nghe được, không phải chỉ bằng tai mà còn nhờ sự hỗ trợ của khả năng lục lọi đầu óc

người khác:

Cô nàng người ngoài hành tinh này xinh đấy chứ? Chả trách mà chàng Kim nhà ta

say mê quên mất các cô gái “ao nhà”.

Tôi đứng lên nói:

Thưa thầy, thưa các bạn. Chúng tôi về trở lại đây là nhờ con tàu của Tashi. Cùng

chuyến, còn có con tàu thứ hai do Oshi lái. Con tàu này, Oshi để lại bởi thủ lĩnh hành tinh

P16 đã quyết định tặng cho Viện chúng ta sử dụng trong thời gian sắp tới. Trong hoàn

cảnh trước mắt Viện chưa kịp cử người học lái, Tashi có tạm thời hướng dẫn tôi lái trên

đường trở về Trái Đất. Nếu sắp đến, thầy An cử người lái chính thức, tôi sẽ hướng dẫn

lại.

Mọi người xôn xao bàn tán. Ngân và Duyên chạy vào trong mang ra mấy chiếc mũ

thấu thị vừa đủ cho số người trong Viện. Mọi người vội vàng đội mũ vào đầu và nhìn

thấy dạng con tàu vũ trụ quen thuộc đang đậu trên bãi cỏ trước sân. Có ai đó chạy ra

muốn nhìn rõ hơn nhưng con tàu từ từ tự nâng lên, lơ lửng cách mặt đất khoảng 100 mét

thì dừng lại. Ngân ngạc nhiên hỏi tôi:

Anh Oshi còn trong tàu à? Sao không mời anh ấy vào?

Anh Oshi đã về cùng anh Tashi rồi. Con tàu tự bay lên là do

có người lạ đến gần. Nó đang ở chế độ cảnh giới.

À, ra thế.

Thầy An lên tiếng:

Bây giờ, việc lái con tàu, quà tặng quý giá của P16, hẳn cứ để cho Kim đảm trách.

Kim còn đi đi về về nhiều lượt nữa, bởi vì nhiều việc được giao vẫn chưa làm xong. Phải

công nhận là thời gian qua, chúng ta làm phiền Tashi nhiều quá. Hầu như suốt thời gian

96

đó, Tashi chỉ lo phục vụ chúng ta, bỏ bê hết công việc của hành tinh mình. Có thể là thủ

lĩnh đã thấy điều này, nên mới quyết định tặng luôn cho chúng ta một chiếc ngoài dự

kiến.

Tôi đứng dậy tiếp tục:

Thầy An đã giao việc sử dụng con tàu, tôi xin hết lòng phục vụ. Có thể trong tương

lai, nhờ có nó mà mọi người ở Viện chúng ta có thể thường xuyên ra biển, hấp thụ năng

lượng vũ trụ để không ăn uống gì mà vẫn không đói.

Ý này hay đấy – có một ai đó phát biểu – Tôi đang lo là nếu làm mà không ăn thì

tiền bạc của chúng ta để đâu cho hết.

Bỏ qua một trong bốn cái khoái – một ý kiến ngộ nghĩnh tiếp theo – không hiểu

cuộc sống này phỏng còn có ý nghĩa gì?

Thầy An tươi cười đứng lên:

Chúng ta chưa bàn đến chuyện này vội. Công việc trước mắt là...

Có ai đó cướp lời:

... tổ chức tiệc liên hoan ạ.

Đúng rồi – thầy An tiếp lời – Ta mở tiệc mừng đón cô dâu mới và mừng nhận món

quà vô giá mà thủ lĩnh hành tinh P16 đã ưu ái dành cho Viện chúng ta. Ngân, Duyên, hai

em gọi điện thoại đặt nhà hàng ngay cho chúng ta bữa tiệc vào cuối buổi chiều nay.

Tôi bỗng cảm thấy lo. Tôi thì khỏi bàn, nhưng còn Sao. Nàng không thể hội nhập

ngay vào sự kiện mới lạ này. Tôi vội đứng lên:

Thưa thầy, thưa các anh chị. Tôi tuy nhịn ăn đã lâu nhưng những bữa tiệc quen

thuộc thì tôi vẫn có thể tham gia được. Còn Sao, cô ấy từ bé đến giờ chỉ biết có mỗi

phong bánh và nước dinh dưỡng, không thể ăn bất cứ thứ gì của chúng ta, kể cả trái cây.

Xin đừng để phản ứng với thức ăn mặn được lặp lại giống như ông Mun.

Đương nhiên là mọi người hoàn toàn nhất trí với khẩn cầu của chúng tôi. Chiếc xe

chở thức ăn đồ uống của nhà hàng bóp còi ầm ĩ đậu ngay trước sân. Mọi người rời khỏi

ghế, bắt tay dọn dẹp, trải khăn trắng lên bàn và ra xe khuân các thứ phụ giúp mấy người

áp tải. Trong bữa tiệc, tôi xin phép thầy An và mọi người đưa Sao lánh tạm vào phòng

thầy An bởi sợ Sao lại lặp lại nỗi khổ của ông Mun khi ngửi phải mùa tanh không quen

thuộc của thức ăn người Trái Đất. Trước sự ngạc nhiên của Sao, như một phép ảo thuật,

tôi cho hiện lên trên bàn hai phong bánh và một cốc sữa để Sao tùy ý sử dụng. Còn tôi thì

bước ra, sà vào bàn, cùng tham dự bữa tiệc mặn của mọi người.

Sau bữa tiệc, tôi xin phép về ngay thị xã Bắc Ninh, nơi đó có bà mẹ đang mòn mỏi

ngóng chờ đứa con trai độc nhất cứ đi biền biệt, là tôi. Không hiểu chuẩn bị từ lúc nào,

Duyên mang ra biếu hai chúng tôi bộ quần áo cưới: tôi bộ vét đen, sơ mi trắng, cà vạt đỏ,

Sao bộ áo dài lụa đỏ thêu kim tuyến sặc sỡ cùng với chiếc quần lụa trắng, có cả chiếc

khăn xếp đội đầu màu vàng chanh. Tôi vô cùng ngạc nhiên và quá xúc động không nói

nên lời. Hình ảnh đẹp này rồi sẽ theo tôi mãi mãi dù tôi có đi đâu, ở đâu vẫn nhớ về tuần

trăng mật của chúng tôi trên quê hương Trái Đất. Sao thay mặt cả hai đứa nói lời cám ơn.

Ngân ghé tai tôi nói khẽ:

Toàn hàng xịn đó anh. Nhất là trang phục cô dâu, bảo đảm tơ tằm trăm phần trăm.

Tôi thở phào nhẹ nhõm. Dù lạ lẫm với phục sức của người Trái Đất nhưng với Sao,

tôi tin cô nàng sẽ cảm thấy dễ chịu trong mấy ngày làm lễ ra mắt họ hàng nhà chồng. Sau

đó, tôi đưa Sao lên con tàu vũ trụ và lần đầu tiên trong đời, một mình tôi tự lái. Dịp này

vào giữa tháng âm lịch, bóng trăng tròn vằng vặc treo lơ lửng trên bầu trời. Ánh trăng soi

sáng những ruộng đồng làng mạc bên dưới, vùng mà chúng tôi bay qua. Đến bầu trời thị

xã Bắc Ninh nhìn xuống, đèn điện giăng sáng hai bên đường, xe cộ chạy nườm nượp tuy

97

không nhiều như ở Hà Nội. Điện thắp sáng tất cả các nhà trong những dãy phố, trông thật

là vui mắt. Tôi cho con tàu hạ xuống một bãi đất trống sau nhà. Sau khi cài chế độ cảnh

giới cho tàu, chúng tôi bước ra ngoài. Tôi dắt nàng loanh quanh một lúc mới đến được

cửa chính. Cửa đang để ngỏ và tôi nhận ra cái bóng khắc khổ lầm lũi của mẹ tôi đang lui

cui làm gì dưới bếp. Tôi gọi to:

Mẹ!

Không thể có ai gọi “mẹ” trong lúc này. Bà biết chắc chắn chỉ

có tôi. Vội vàng đến nỗi vứt luôn đôi dép vướng víu, bà chân đất chạy bổ lên và ôm chầm

lấy tôi trách yêu:

Bố tiên sư nhà anh! Bây giờ mới về thăm mẹ đấy hả?

Chợt nhìn thấy còn có người sau lưng tôi, bà vội buông tôi ra. Tôi giới thiệu với mẹ:

Xin lỗi mẹ, đây là vợ con.

Sao nhỏ nhẹ:

Con chào mẹ!

Bà cầm tay chúng tôi kéo vào hẳn trong nhà, ấn ngồi xuống ghế, rồi tự ngồi vào chiếc

đối diện sau bàn. Bà ngắm nhìn con dâu trong giây lát, ánh mắt sáng lên tràn đầy mến

thương. Tôi bỗng có ý nghĩ thử lục lọi trong đầu mẹ mình xem thái độ thực sự của bà như

thế nào. Bà nghĩ:

Con bé này xinh đấy chứ! Thằng Kim khéo chọn. Không biết con cái nhà ai mà mới

gặp lần đầu, mình đã thấy thương mến ngay. Nhìn kìa. Trông nó quyến rũ làm sao. Cặp

mắt lung linh trong sáng thật đáng yêu.

Tôi không để mẹ nghĩ tiếp, hỏi ngay:

Mẹ đang làm gì thế? Tối rồi, mẹ đã ăn chưa?

À, mẹ chưa. Để mẹ xuống dọn lên cho hai con cùng ăn với mẹ.

Tôi biết ngay là bà nói dối. Bà đang lui cui rửa bát đĩa, nồi niêu của bữa cơm chiều.

Tôi ngăn lại:

Thôi mẹ ạ. Chúng con vừa dự tiệc chiêu đãi của Viện xong mới về đây. Con cũng

biết là mẹ không đói khi nhìn thấy chúng con về.

Từ nhà dưới, mẹ cười, nói vọng lên trách yêu:

Anh giỏi lắm. Học được đâu cái thói “đi guốc trong bụng mẹ”?

Sao thắc mắc hỏi nhỏ tôi:

Mẹ nói gì vậy anh?

Tôi cười:

Chả là mẹ biết anh nói đúng ý mẹ. Mẹ đã ăn tối rồi, thực tình không đói nhưng nói

vậy để cùng ăn thêm với chúng mình cho vui.

Em đang lo không biết làm sao để nói cho mẹ hiểu là em không thể ăn những thứ

của người Trái Đất.

Từ từ anh sẽ tính. Chúng mình nhờ hấp thu năng lượng vũ trụ nên khỏi phải lo

chuyện ăn uống. Đói mà không ăn được mới đáng sợ.

Đêm ấy, mẹ bảo tôi hãy kể hết những việc đã làm cho mẹ nghe. Rồi quay sang Sao,

mẹ hỏi nàng đủ thứ về gia cảnh, bố mẹ, công việc. Sao cứ trả lời ấp a ấp úng làm mẹ

không thật hiểu rõ. Tôi đành phải nói thật với mẹ, Sao không phải là người Việt mà là

người Atlan, từ một hành tinh xa xôi về đây. Tôi quen nàng trong những chuyến du hành.

Mẹ ngỡ ngàng thực sự. Mẹ nghĩ trong đầu mà không nói ra lời:

Hóa ra con bé này là người ngoài hành tinh. Ôi, rồi mình sẽ sống với chúng nó như

thế nào đây.

98

Biết thế nên tôi trấn an bà:

Không sao đâu mẹ ạ! Vợ con sẽ giống như mọi người con gái Việt Nam ta. Sao sẽ

thương yêu mẹ như con thương yêu mẹ. Chúng con sẽ không làm cho mẹ buồn. Chúng

con sẽ nuôi mẹ cho bõ những ngày gian khó.

Sao nghe tôi nói cũng rất cảm động. Mắt nàng rơm rớm như chực khóc.

Chúng tôi về đến nhà đúng vào dịp lễ Vu lan. Mẹ, tôi và Sao hòa vào dòng người

đông đúc cùng đến chùa. Quang cảnh ngày lễ ở chùa vùng quê tôi vừa vui vẻ, vừa trang

nghiêm. Số người đi lễ rất đông, phần lớn là các bà đã luống tuổi như mẹ tôi và các cụ bà

gắng sức lọ mọ chống gậy đi được. Ngoài ra, còn rất nhiều, rất nhiều những đôi thanh

niên nam nữ như tôi và Sao. Hoa, quả, oản nườm nượp được dâng lên trên những bàn thờ

to kê cao, sắc màu đỏ vàng rực rỡ, nghi ngút khói hương. Các thầy tu, bà vãi, trong bộ áo

nâu sồng quỳ lạy sì sụp, đọc kinh râm ran, tay lần tràng hạt trong tiếng mõ gõ đều đều

liên tục và tiếng chuông thỉnh thoảng gióng lên điểm xuyết. Sao nhìn chừng làm theo tôi

và mẹ, cũng đốt hương, cũng lầm rầm khấn vái. Tôi lục lọi trong đầu cô nàng. Té ra, cô

chỉ mấp máy môi thôi chứ không biết khấn gì.

Trên đường trở về nhà, tôi nói bà về trước. Tôi đưa Sao ra gánh hàng hoa mua hai bó,

một bó hoa ly và một bó hoa sen đỏ. Tôi mua thêm một bông hồng đỏ gắn vào ngực áo

mình và một bông hồng trắng gắn lên ngực áo Sao. Tôi giải thích cho Sao biết ở Việt

Nam trong ngày lễ Vu lan là ngày để cho con cháu tri ân đấng sinh thành, bó hoa ly để

tặng mẹ, bó hoa sen đỏ để tặng bố, trên ngực áo tôi gắn bông hồng đỏ là do mẹ tôi còn

sống, còn ngực áo Sao gắn bông hồng trắng là vì mẹ Sao đã mất. Sao nói hơi tiếc, nếu

biết sớm, mình hái hoa trên Atlantis đem về tặng mẹ thì hay biết bao.

Hoa trên ấy vừa đẹp vừa thơm, màu sắc sặc sỡ quyến rũ.

Khi về đến nhà, chúng tôi ùa đến mẹ và nói lên lòng biết ơn về công lao nuôi dưỡng

sinh thành. Tôi để Sao cầm bó hoa ly tặng bà, còn tôi đem bó sen đến cắm trên bàn thờ

trước mặt ảnh bố. Bà cảm động rơm rớm nước mắt. Tôi nói với bà tôi mang về đây thêm

một đứa con cho vui cửa vui nhà. Như vậy là nhà ta có đủ cả trai lẫn gái. Bà nở nụ cười

độ lượng nhưng bỗng im bặt, bối rối. Tôi nhìn mẹ, biết mẹ chợt buồn, nghĩ rằng rồi đây

sẽ lại xa con. Tôi hứa với bà rằng chắc chắn sắp đến, tôi sẽ cố gắng cùng với vợ về nhà

thăm mẹ thường xuyên hơn. Tôi nhắc Sao biếu mẹ tiền và kim cương để mẹ tiêu dùng.

Mẹ sẽ không phải vất vả về chuyện mưu sinh, nghỉ hưu rồi mà ngày ngày vẫn cố gò ép

bắt lũ học trò học gạo những bài văn mẫu vô bổ nhằm mục đích đi thi trúng tủ. Chuyện

này từ khi có ông bộ trưởng mới lãnh đạo, bộ Giáo dục Đào tạo đã kiên quyết cấm. Nếu

mẹ cảm thấy rỗi rãi quá, hãy tổ chức những lớp học tình thương.

Mẹ ngần ngại khi chạm phải xấp tiền và túi kim cương vợ tôi đưa. Sao nói mẹ đừng

lo, những thứ biếu mẹ là hoàn toàn chính đáng, trong sạch. Anh Kim có nhiều quyền

năng mà mẹ chưa biết. Viện nơi anh ấy công tác coi anh như là “con gà đẻ trứng vàng”.

Nghĩa là Viện cần bao nhiêu tiền, anh cũng cung cấp đủ. Mẹ tôi trở nên bần thần không

hiểu rồi lại đâm ra lo nhiều hơn cho tôi. Hai vợ chồng chúng nó đang làm chuyện mờ ám

gì đây mà giàu? Mẹ liên tưởng đến vụ PMU 18, một cái gương tầy liếp.

Tôi mời mẹ chuyển đến thị xã Sơn Tây cùng sống với chúng tôi. Mẹ bảo dù có ở đâu

mẹ vẫn chỉ một mình. Ở quê, còn có chòm xóm láng giềng quen thuộc, tắt lửa tối đèn có

nhau. Vả lại, họ hàng hai bên nội ngoại lâu nay đối xử với mẹ rất tốt. Họ đùm bọc mẹ

trong cơn bĩ cực, vào những lúc khó khăn tưởng chừng không thể vượt qua của thời bao

cấp, chiến tranh, đau thương mất mát nhiều hơn niềm vui.

Bởi vì chúng tôi đã làm lễ cưới ở tận đâu đâu, nên mẹ không muốn lặp lại, chỉ tổ chức

một bữa tiệc chiêu đãi họ hàng và cho cô dâu ra mắt. Mẹ nhắn gọi một số chị em, cháu

99

gái nội ngoại về đi chợ phụ giúp mẹ làm mâm cỗ. Các cháu thanh niên thì trang trí cửa

nhà, sắp xếp bàn ghế mượn thêm của hàng xóm. Tôi bảo Sao xuống bếp phụ giúp mẹ.

Sao xuống được một lúc, xin lỗi mẹ rồi vội vã lên ngay. Sao không chịu được mùi tanh

tưởi của thịt, cá. Tôi phải xuống giải thích cho các bà các chị hiểu, rồi lên bảo Sao chọn

hoa cắm vào các bình và thấy có chỗ trang trí nào chưa vừa ý thì sửa sang lại. Các ông

bác, ông cậu lớn tuổi cũng lục tục đến, không quên mang theo chai rượu cuốc lủi, nước

trong veo còn thấy sủi tăm ngay trong chai.

Bác cả tôi là người lớn tuổi nhất của hai họ nội ngoại. Khi vừa bước chân vào nhà,

ông sà ngay đến Sao một cách thân tình, nắm lấy hai bàn tay cháu lắc lắc ra chiều quý

mến, nhưng mắt cứ nhìn chăm chăm ra vẻ soi mói. Cuối cùng, ông nói tuột ra ý nghĩ của

mình và cũng có thể là ý nghĩ của hết thảy mọi người:

Cháu dâu ta xinh đẹp thế này a? Ta cứ ngỡ người ngoài hành tinh thì da xanh tàu lá,

đầu trọc lốc, mắt ốc nhồi, mũi tẹt, mồm rộng, chân tay có màng như chân vịt ấy chứ!

Đúng là bác đã nhớ lại một phim giả tưởng nào đó có mô tả con người ngoài hành

tinh ghé thăm Trái Đất. Cái không khí vui nhộn, thân mật tự nhiên ở quê chồng đã làm

Sao cảm động. Hình như ai cũng muốn tỏ ra mình quan tâm chăm sóc cô dâu đặc biệt có

một không hai này. Thích thú nhất là các cháu nhỏ. Chúng quấn quýt và hỏi Sao đủ thứ

câu ngây thơ, ngớ ngẩn, sau khi nghe nói Sao là cô dâu người ngoài hành tinh. Ví dụ cô

có biết bay không ạ, cô biến đi có được không ạ. Sao cười cười bảo với chúng rằng chú

Kim biết bay, còn cô thì chỉ biết biến được thôi. Sao rút trong túi ra chiếc áo tàng hình,

trùm vội lên người. Trước những cặp mắt vô cùng kinh ngạc của bọn trẻ, mà còn có cả

của những người lớn đứng quanh đấy nữa, chỗ Sao đứng biến thành “khoảng trống

không”. Sao chạy vội vào trong, rồi hiện nguyên hình từ trong bước ra.

Cô làm chúng cháu biến mất được không?

Được. Nhưng cô sợ bố mẹ các cháu bắt đền cô.

Không sao. Cô lại làm chúng cháu hiện trở lại chứ có phải biến luôn đi đâu mà sợ.

Vậy cháu nào muốn biến nào?

Cháu.

Cháu.

Hàng loạt cánh tay đưa lên. Sao chọn cháu bé bụ bẫm và nhỏ nhất bọn, kéo lại gần

và...Thế là bé biến đi ngay trước mắt bọn trẻ. Nhưng Sao không để lâu, cho bé hiện

nguyên hình trở lại. Có một đứa trong bọn hỏi:

Cái Xoan vừa đi đâu vậy?

Bé vừa biến đi, tên Xoan, trả lời:

Em có đi đâu đâu. Em vẫn đứng đây từ giờ. Các anh chị không nhìn thấy em sao?

Không.

Vừa đúng lúc đó, tôi từ ngoài nhà bước vào. Bọn trẻ nhảy cẫng lên, nhao nhao:

Chú Kim ơi, chú Kim. Chú bay cho chúng cháu xem đi.

Ai bảo các cháu thế?

Lại nhao nhao:

Cô Sao, cô Sao.

Tôi lừ mắt nhìn Sao, ý bảo hết chuyện làm rồi sao mà bày vẽ thêm ra. Tôi trả lời:

Chú không biết bay. Chú đâu có cánh như chim. Thôi, để chú làm cái này.

Tôi từ từ tự nâng mình lên cho đến khi đầu chạm trần nhà. Xong, tôi hạ xuống ngay,

cố không để cho những người lớn nhìn thấy.

Hoan hô chú Kim, hoan hô chú Kim.

100

Cô chú học làm ảo thuật ở đâu thế – đứa bé lớn nhất bọn hỏi chúng tôi.

Tôi vội trả lời:

Ở đoàn xiếc trên hành tinh của cô.

Chúng cháu học được không ạ?

Được. Nhưng phải lớn lớn chút đã. Học cái ảo thuật này công phu lắm.

Bàn thờ gia tiên đã được trang trí, đầy đủ ngũ quả và một bình to hoa huệ cánh trắng

muốt, tinh khiết, tỏa hương thơm ngào ngạt. Mẹ tôi mặc áo dài lụa màu xanh da trời như

trước đây thường mặc khi còn dạy học, cùng với quần lụa trắng từ buồng trong đi ra. Ông

bác cả của tôi vận áo dài đen bên ngoài chiếc áo nâu, quần vải nhuộm củ nâu. Tôi kéo

Sao vào trong buồng, vội vàng mặc cho nhau bộ đồ cưới Duyên tặng. Bác cả đứng ra cầm

nén hương khấn vái tổ tiên trước, sau đó đến lượt mẹ tôi. Rồi bà đưa mắt âu yếm nhìn

chúng tôi rạng rỡ trong lễ phục, bảo cùng đứng ra lạy gia tiên. Đột nhiên, tôi có cảm giác

là lạ. Quay ra ngoài, tôi thấy rõ linh hồn hai bố mẹ vợ. Tôi ghé tai Sao bảo nhỏ hãy vào

trong lấy mũ đội, bố mẹ đã đến. Chắc là bác cả và mẹ tôi ngạc nhiên lắm khi thấy Sao vội

vã đi vào trong, còn tôi nhanh chân bước ra ngoài, miệng lẩm bẩm điều gì đó rồi cả hai

trở về nhanh chỗ cũ. Hai chúng tôi, mỗi đứa một nén hương, cung kính vái mấy vái rồi từ

tốn đi đến cắm chúng vào chiếc lư sành đầy tro.

Sao sau đó đi ngay ra ngoài. Tôi kéo mẹ tôi đến gần bác cả, khẽ báo cho hai người

biết:

Bố mẹ Sao đã quá cố. Nhưng hôm nay ngày vui của gia đình, linh hồn của hai

người đã đến đây để chia vui.

Sao đi vào một mình, nhưng tôi thấy rõ còn có cả bố mẹ cùng vào. Tôi nhấc chiếc mũ

khỏi đầu Sao rồi đội nó lên đầu mẹ.

Chào bà. Chúng tôi là bố mẹ của cháu Sao, xin đến chia vui cùng gia đình mà

không báo trước. Xin thứ lỗi. – Bà mẹ vợ tôi lên tiếng trước.

Mẹ tôi ngước lên, thấy rõ hai bóng người trong bộ quần áo của phi công du hành vũ

trụ, tuổi xấp xỉ tuổi mình. Bà còn nghe rõ giọng nói gãy gọn, khúc chiết phát ra từ bà mẹ

của Sao. Bà nói lập cập, không được bình tĩnh cho lắm:

Chào hai ông bà. Rất hân hạnh được gặp mặt. Mời hai ông bà, mời bác cả và hai

con, chúng ta sao cứ đứng đây? Hãy lại bàn kia ngồi nói chuyện.

Mẹ tôi trỏ chiếc bàn nhỏ gần nhất, ở đó đầy đủ sáu chiếc ghế. Mẹ nhấc mũ đưa cho

tôi, bảo đội lên đầu bác cả để bác nhìn rõ khách. Chợt thấy rõ hai người, bấy giờ bác mới

nói:

Cháu Kim nhà chúng tôi có được chiếc mũ này thật là hay. Âm dương cách trở vẫn

gặp nhau và trò chuyện với nhau là chuyện lạ xưa nay hiếm. Tôi là bác cả của cháu Kim.

Còn đây là mẹ cháu Kim.

Bỗng bác nẩy ra một sáng kiến mà tôi không ngờ tới. Sau này tôi cứ tấm tắc khen bác

là đầu óc bác sáng suốt, từ chuyện này suy ra chuyện kia thật tài tình. Bác nhắc tôi:

Bố mẹ cháu Sao về được. Còn cháu, tại sao không mời bố về?

Tôi ngớ người, bước vội đến bàn thờ, rút ra một que hương, lầm rầm khấn. Thế rồi bố

tôi về thật. Bác cả là người nhìn thấy bố tôi trước tiên. Bác hét lên giục:

Lấy thêm ghế!

Một chiếc ghế trống được đặt cạnh mẹ tôi. Bác cả chuyển mũ ưu tiên cho mẹ tôi. Vừa

nhìn thấy linh hồn chồng, bà ôm mặt khóc. Bố tôi thật là bình tĩnh, lúc nào cũng chủ

động, cười nói:

Này bà, ngày vui của hai con, sao lại khóc.

101

Tôi nhận ra việc chuyển mũ lần lượt cho nhau quá bất tiện nên kín đáo nhìn vào đầu

mẹ, nhân bản ra một chiếc, đem đến đội vào đầu bác cả, lại nhân bản ra chiếc thứ hai đem

đến cho Sao. Thế là người nào cũng có mũ, nhìn thấy nhau và nói chuyện thoải mái.

Bố tôi quay sang bố mẹ Sao và bác cả:

Xin chào hai anh chị. Chào anh cả. Nếu Kim không báo, tôi không thể biết có cuộc

vui này mà về đây. Cháu nhà tôi thật đoảng.

Tôi nghe được, xin lỗi bố. Mẹ tôi nhờ có chiếc mũ theo dõi được hai bố con tôi nói gì

với nhau. Mẹ bình tĩnh trở lại, bảo bố đến ngồi lên chiếc ghế trống cạnh mình. Mẹ rấm

rứt:

Ông đi biệt tăm, hôm nay mới biết mà về thăm mẹ con tôi đấy ư?

Rồi không ngăn nổi cảm xúc, mẹ lại khóc. Bố tôi an ủi:

Kìa bà. Ngày vui của hai con. Lại còn có nhà gái đang ở đây.

Rồi bố quay sang nhìn Sao:

Sao con. Ta là bố đẻ của chồng con. Ta rất mừng có được đứa con dâu xinh đẹp, nết

na như con. Hai bố mẹ của chồng con và của con chắc chắn ai cũng muốn hai con sống

hạnh phúc đời đời.

Bỗng bố quay sang tôi:

Kim con, bố về đây gặp và trực tiếp nói chuyện được với mọi người, vậy con giúp

bố mời bố của Tân về được không, ta lâu lắm chưa gặp lại ông ấy?

Được ạ!

Rồi bố quay sang mẹ:

Nhân có bố Tân về, bà cho người mời mẹ Tân sang ngay.

Chết chửa! Sao tôi đoảng thế! Ngày vui của con mình mà tôi quên mất bà ấy.

Rồi mẹ tôi vội vàng ra sau nhà, bảo con cháu chạy ù đi mời mẹ Tân sang gấp, dù bận

bịu gì cũng phải để đấy. Có chuyện rất quan trọng.

Tôi đến bàn thờ, rút mấy cây hương châm lửa đốt. Tôi khấn mời không chỉ có bố Tân

mà cả Tân, người bạn đã đi cùng tôi được nửa đoạn đường chế ra chiếc máy thấu thị, rồi

cả Lan, Hoa, hai người bạn gái thân thiết thời cùng học ở trường phổ thông đã quá cố.

Thế là linh hồn của những người tôi mời lần lượt hiện về. Cùng lúc đó, bà mẹ Tân

cũng vừa đến. Tôi ra tận ngõ, chào bà và nắm tay bà đưa vào nhà. Vừa đi, tôi vừa nói về

lý do nhà tổ chức cuộc vui hôm nay, đồng thời báo cho bà biết nhân dịp này có mời linh

hồn những người đã quá cố về tham dự trong đó có bố mẹ cô dâu, bố cháu và... nhiều

người nữa.

Cháu tha thiết xin bác hãy cố giữ bình tĩnh nếu có gặp lại người thân. Bác hứa với

cháu đi.

Bà mẹ Tân chưa đoán được sự thể ra sao nhưng cứ hứa bừa cho xong chuyện.

Bác hứa với cháu.

Tôi trao cho bà chiếc mũ. Bà chợt bần thần khi nhìn thấy ngay cạnh mình ông chồng

và đứa con trai đã quá cố. Chưa kịp nói gì, bà ngất xỉu. Chúng tôi phải dìu bà vào buồng

trong, lấy dầu xoa bóp một lúc, bà mới tỉnh lại. Tôi trách bà đã hứa rồi mà không giữ

được. Mắt bà chớp chớp ra vẻ hối lỗi. Bỗng bà nghe giọng nói quen thuộc:

Chào bà. Tôi và thằng Tân về thăm bà đây.

Bà mẹ Tân ngước nhìn lên, thấy ngoài chồng và con trai, còn có bố tôi và hai cô gái

khác. Bà không ngăn nổi cảm xúc sụt sịt khóc. Bác cả tôi vào mời mọi người ra ngồi bàn,

ở đó đã có nhà gái đang ngồi gồm cô dâu cùng với linh hồn hai ông bà già vợ tôi. Thay

mặt gia đình, bác giới thiệu nhà trai có tôi – chú rể – bác, mẹ tôi và linh hồn bố tôi. Tôi

giới thiệu gia đình bạn của bố tôi gồm mẹ Tân, linh hồn bố Tân và Tân. Hai linh hồn cô

102

gái là bạn học của chúng tôi – tôi và Tân – thời trung học tên Lan và Hoa. Tôi bố trí ghế

cho bố tôi ngồi cạnh mẹ tôi, bố Tân và Tân ngồi hai bên mẹ Tân, rồi đến Lan, Hoa, tôi và

Sao. Ba linh hồn Tân, Lan và Hoa cứ nhìn Sao chằm chằm ra vẻ tò mò. Họ nói lời chúc

mừng hai chúng tôi.

Tôi nhờ bác cả thay mặt giúp gia đình đến ngồi tiếp chuyện và ăn uống ở bàn những

người đàn ông lớn tuổi trong hai họ nội ngoại. Mẹ tôi nhờ một bà cô cũng là người già

nhất ở đây ngồi tiếp đãi ở bàn các bà, các chị lớn tuổi. Những mâm của thanh niên nam

nữ, tôi nhờ ông anh con bác cả. Mâm của các bé con cũng vui nhộn không kém. Bé nào

cũng bí ba bí bô tranh nhau nói mà ít muốn nghe bạn khác.

Nhờ có mấy chiếc mũ, chúng tôi nói với nhau rất nhiều chuyện. Mẹ tôi và mẹ Tân

quá xúc động nên không muốn ăn gì. Tôi và Sao cũng không ăn. Thành ra, trong lúc mọi

người vui vẻ ăn nói ầm ĩ thì bàn chúng tôi vẫn trống không ngoài các cốc nước và bình

hoa trang trí. Họ chỉ thấy bốn ghế có người ngồi là mẹ tôi, mẹ Tân, tôi và Sao, còn lại sáu

chiếc ghế dường như để trống.

Sau tiệc vui, trước cảnh bát, đĩa, đồ ăn thức uống thừa thãi bày la liệt, tôi lên tiếng

mời mọi người về nhà nghỉ, chúng tôi tức tôi và Sao , sẽ tự dọn dẹp lấy. Mọi người

hơi ngỡ ngàng, nhất là các bà, các chị và các cháu gái. Bởi vì lâu nay thành cái lệ, dọn

dẹp chiến trường của các bữa tiệc đều do các cô gái đảm trách. Khi mọi người ra về hết,

trước cặp mắt ngạc nhiên của bác cả, của mẹ tôi, mẹ Tân và cả linh hồn những người quá

cố, tôi dùng quyền năng sắp xếp trật tự, gọn gàng, sạch sẽ đâu vào đó trong nháy mắt.

Bàn, ghế, bát, đĩa, nồi niêu, soong chảo mượn của ai tự động quay về nhà nấy. Các thứ

trong nhà được xếp thứ tự và ngăn nắp vào các chạn, các tủ.

Sao thưa với mọi người là tôi có nhiều tri thức và quyền năng học được ở người

Lemuri, cũng là người ngoài hành tinh như Sao nhưng cơ thể to lớn hơn, cư trú trên một

hành tinh kế cận.

Người Lemuri to lớn như thế nào, anh Kim hãy biểu diễn cho mọi người xem.

Sao bảo tôi. Thoáng chần chừ giây lát, nhưng tôi nghĩ trước sau gì cũng phải nói cho

người thân trong gia đình biết, tôi bước ra sân. Tôi tự làm mình lớn dần, lớn dần cho đến

khi đạt chiều cao 18 mét thì dừng lại. Sau đó tôi tự làm mình nhỏ dần nhỏ dần cho tới vóc

dáng cũ. Tôi thấy rõ bố mẹ Sao tỏ ra cảm phục chàng rể là tôi. Còn bố mẹ tôi rất hài lòng

về đứa con đẻ của mình. Với bác cả, tôi chắc bác sẽ kể chuyện tôi đã biểu diễn như thế

nào không quên gia tăng mắm muối cho thêm phần hấp dẫn.

Trước khi bác cả và mẹ Tân ra về, tôi ngỏ ý muốn tặng hai người chiếc mũ làm kỷ

niệm, đồng thời có điều kiện để gặp lại linh hồn những người thân đã quá cố. Mẹ tôi cứ

giữ chiếc mũ cho riêng mình để lúc nào buồn thì thắp hương khấn mời bố tôi về hàn

huyên cho vui. Bác cả và mẹ Tân cám ơn tôi rối rít, còn mẹ tôi thì không nói gì. Tôi kéo

mẹ tôi vào buồng trong, mượn lại cọc tiền và túi kim cương. Tôi san ra mỗi thứ hai phần

bằng nhau, một phần để mẹ giữ, phần còn lại đem ra biếu bà mẹ Tân. Mẹ tôi rất hài lòng

về chuyện này. Tôi còn nói thêm với mẹ rằng, hai thứ biếu cho hai bà mẹ, tiền tiêu thì hết

nhưng chỗ kim cương nếu dùng viên nào sẽ được đền bù đủ số như cũ nên không bao giờ

hết. Con đã phù phép nó như vậy.

Gia đình Tân chào từ biệt gia đình chúng tôi, đưa nhau về nhà. Lan và Hoa cũng giã

từ chúng tôi. Khi bố mẹ Sao chào ra về, tôi và Sao đi ra tiễn hai người. Mẹ kéo bố vào

trong tiếp tục hàn huyên. Chốc chốc, tôi lại nghe tiếng mẹ khóc. Bố phải an ủi mẹ rất

nhiều. Rồi bố cũng phải ra đi. Bố hứa, bây giờ mẹ có chiếc mũ rồi, chỉ cần mẹ nói lên

một tiếng là bố bay về ngay. Âm dương không còn cách trở như mọi người thường nói.

103

Chúng tôi nán lại nhà với mẹ mấy hôm cho mẹ vui lòng. Mẹ nói lần này, mẹ rất mãn

nguyện được nhìn thấy chúng tôi và nhất là mẹ có nhiều cơ hội để gặp lại bố. Mẹ không

cô đơn vì xa tôi như đã từng trong thời gian trước. Mẹ thích nhất là bất cứ lúc nào bố

muốn hoặc mẹ muốn là hai người sẽ lại được gặp nhau ngay. Tôi nói thêm là mẹ cũng có

thể gặp hai vợ chồng tôi bất cứ lúc nào nếu mẹ tập trung ý nghĩ hướng về tôi và cho tôi

biết mẹ nghĩ gì. Tôi luôn luôn “để kênh” thường trực nối liền với mẹ cũng như thầy Hơn

đang làm như vậy đối với tôi. Bỗng nhiên tôi hơi bất ngờ vì mẹ có ý muốn một lần đến

thăm thầy An, thăm những con người đã cùng tôi vất vả quanh năm vì công việc của

Viện. Không những tôi mà cả Sao cũng đều lộ vẻ vui mừng.

Hình như giữa Sao và mẹ đã hình thành một mối thân tình còn hơn cả tình mẹ chồng

nàng dâu. Có nhiều hôm tôi thấy mẹ ôm chặt Sao trong lòng như ôm một đứa con gái bé

bỏng mà mẹ tưởng tượng đã sinh ra nó sau tôi. Sao cứ để yên, đắm mình trong vòng tay

của mẹ, lim dim hưởng trọn những tình cảm ngọt ngào mà mẹ tôi truyền sang. Sau này,

tôi nghe Ngân kể lại là mẹ đã tâm sự với Ngân rằng con dâu đã cuốn hút mẹ một cách kỳ

lạ không thể hiểu nổi, cứ như nó là một núm ruột mà mẹ đã từng sinh ra, thất lạc mãi đến

bây giờ mới tìm lại được.

Mẹ bảo tôi đi ra bến xe lấy vé kẻo muộn. Tôi cười bảo mẹ sẽ cùng bay với chúng con.

Mẹ bảo mẹ chưa bao giờ nghe nói có chuyến bay từ Bắc Ninh về Hà Nội hoặc Sơn Tây.

Sao bảo tôi, hai mẹ con thôi đừng đôi co với nhau nữa, ta chuẩn bị hành trang giúp mẹ đi

ngay bây giờ kẻo muộn. Thật ra cũng chẳng phải gấp gáp gì. Tôi nhắc Sao và mẹ nhớ hai

cái mũ, chịu khó thường xuyên đội nó lên đầu. Nó nhẹ tênh, không hề làm ta vướng víu.

Ra đến bãi sau, mẹ nhìn thấy một con tàu vũ trụ đợi sẵn. Mẹ nghĩ đến con dâu. Người

ngoài hành tinh có khác, đi đâu cũng dùng tàu vũ trụ. Tôi nhìn quanh xem có ai đang chú

ý đến chúng tôi không. Nếu không đề phòng chuyện này, ắt có người sẽ cho gia đình tôi

đã biến thành ma, sau khi làm đám cưới cho thằng con trai với người ngoài hành tinh.

Bởi vì họ sẽ thấy chúng tôi đang đi rồi bỗng nhiên biến mất tăm. Đó là lúc chúng tôi đã

vào bên trong con tàu vô hình, khuất khỏi tầm nhìn của họ.

Tôi lái con tàu ra biển, đến vùng năng lượng vũ trụ để nạp năng lượng cho con tàu và

cho cả ba người. Khi các bóng đèn nhỏ chớp nháy một màu xanh, tôi hỏi mẹ có cảm thấy

gì không. Mẹ bảo dường như có một luồng sinh khí thổi rạt rào qua người mẹ liên tục và

mẹ cảm thấy khoẻ hẳn ra. Chờ cho đủ một giờ, tôi lái tàu quay trở vào. Với tốc độ cấp vũ

trụ, khoảng chừng mươi giây sau là trở lại Sơn Tây. Tôi cho tàu đáp xuống bãi cỏ trước

sân Viện như mọi khi. Tôi bấm nút mở cửa khoang, chờ hai người xuống xong, tôi cài

chế độ cảnh giới rồi bước theo ra.

Bấy giờ là buổi trưa. Đang giờ ăn của mọi người. Thấy chúng tôi về, mọi người bỏ dở

bữa cơm. Ngân chạy đi tìm ghế mời mẹ tôi ngồi. Có ai đó mời mẹ tôi dùng bữa. Tôi cũng

đưa mắt, ý hỏi mẹ có đói không. Mẹ bảo không. Ngày thường đến giờ này là mẹ thấy đói

lắm. Tôi nửa đùa nửa thật:

Vừa rồi được hấp thu năng lượng vũ trụ, mẹ sẽ nhịn được suốt tuần ấy. Con đã mấy

tháng nay, có bỏ gì vào bụng đâu. Mẹ nhìn tôi nghi ngờ, nhưng không nói gì.

Thầy An nghe nói mẹ tôi đến, cũng bỏ giấc nghỉ trưa bước ra khỏi văn phòng đến

chào mẹ tôi. Thầy dành thì giờ tiếp chuyện riêng với mẹ tôi khá lâu. Thầy hỏi thăm mẹ

tôi đủ thứ chuyện về sức khoẻ, về việc làm ăn ở quê, bà còn dạy thêm để kiếm chút đỉnh

hay đã nghỉ. Mẹ tôi cười:

Thời buổi bây giờ, có giáo viên phổ thông nào không tìm cách dạy thêm đâu thầy.

Nói là giúp đỡ học sinh nhưng động cơ cuối cùng vẫn là nhằm bổ sung cho đồng lương

quá hẻo.

104

Nghe nói rồi đây, ông bộ trưởng giáo dục mới lên sẽ ra lệnh cấm tiệt chuyện dạy

thêm, học thêm.

Tôi cũng nghĩ thế. Mà phải thế thôi. Nhưng sau khi hai cháu về thăm, tôi đã trở

thành “tỷ phú” rồi! Con dâu mới đã biếu mẹ một cọc tiền nhiều đếm không xuể và một

túi kim cương, một mình tôi làm sao tiêu hết?

Thầy An bật cười:

Cô giáo không biết đấy thôi. Ở đây, ai cũng trở thành tỷ phú cả sau khi cháu Kim từ

hành tinh Lemuria trở về.

Tôi đang lo cho cháu. Có bề gì...

Cô giáo khỏi lo, việc làm của Kim và của Viện chúng tôi hoàn toàn chính đáng.

Mình không hề xâm phạm của cải của Nhà nước hay của cá nhân nào. Cũng không buôn

lậu các mặt hàng quốc cấm. Viện khai thác kim cương ở các hành tinh khác. Hằng năm

có đóng thuế đầy đủ và vượt trội bất cứ viện nghiên cứu nào trong nước. Ở đây, mọi

người có cuộc sống khá giả là do Viện giúp đỡ. Họ gắn bó lâu dài với Viện, làm việc hết

sức mình vì sự nghiệp của Viện.

Thưa thầy, tôi trộm nghĩ nếu Viện chỉ lo cuộc sống vật chất cho mỗi thành viên tuy

quan trọng bậc nhất đó nhưng vẫn chưa đủ. Tinh thần hay là đạo đức của con người rất

quan trọng. Có nhiều tiền của nhưng không có đạo đức sẽ dễ tạo điều kiện cho người ta

mắc nhiều sai phạm nghiêm trọng.

Cô giáo nói chí phải. Có lẽ sắp tới, Viện sẽ soạn thảo một quy ước bắt buộc, ai đã là

thành viên của Viện đều phải tuân thủ.

Sau đó, thầy An nói nhiều về tôi:

Có điều này tôi muốn nói để cô giáo biết. Tôi nghĩ có lẽ cháu Kim chưa có đủ thời

gian để tâm sự nhiều với mẹ, nhất là chuyện công tác và những tiến bộ trong học tập, rèn

luyện mà Kim đã đạt được. Sau khi bảo vệ luận án tiến sĩ về bản thiết kế chế tạo chiếc

mũ thấu thị và thấu thính, do tình cờ, cháu làm quen với một người bạn ngoài hành tinh.

Chưa phải cháu Sao đâu. Sao mãi sau này mới gặp Kim. Người bạn trước đó tên là Ushu

thuộc loại người vô hình ở một hành tinh rất xa chúng ta.

Thế rồi, thầy An kể tỷ mỉ mọi sự việc đã xảy ra quanh công trình mũ thấu thị và thấu

thính. Cũng qua những người bạn vô hình đó, Kim được Viện cử đi thám sát các hành

tinh có người ở, những người này là hậu duệ của những bậc tiền bối có cội nguồn xa xưa

trên Trái Đất.

Cháu Kim đã tìm thấy nền văn minh vật chất tột đỉnh của hành tinh mà cháu Sao là

một cư dân – thầy An tiếp tục –. Rồi Kim đến một hành tinh láng giềng của cháu Sao, có

giống người Lemuri khổng lồ cư trú và họ đạt tới nền văn minh tâm linh tuyệt đỉnh. Kim

đã xin theo chương trình học vấn của họ và đạt được vốn tri thức rất khá và những quyền

năng tuyệt vời. Theo dần từng cấp học, Kim bắt đầu tập bay, tức là tự nhấc mình lên rồi

di chuyển trong không trung, tập phép khuếch đại tức làm cho vật to lên, tập phép nhân

bản tức là làm số lượng vật tăng gấp nhiều lần, tập truyền tin và tra cứu thông tin từ trong

con người, từ trong vũ trụ. Kim còn có thể nhìn thấy mọi vật trong đêm tối, nhìn thấy

những dạng vật chất vô hình như linh hồn, nghe tiếng nói của vô thinh, v.v.. Tôi nghĩ

rằng cô giáo có thể tự hào về đứa con duy nhất của mình. Tôi xin nói thêm rằng để đạt

được những phép mầu nhiệm đó, thầy giáo người Lemuri bắt buộc Kim phải rèn luyện

thành con người trung thực, không có ý nghĩ ác và không làm điều ác, luôn nuôi dưỡng

lòng nhân từ, bác ái. Có thể nói những người theo đuổi nền học vấn của người Lemuri

chắc chắn sẽ là con người toàn bích, đạt đến đỉnh cao của nền văn minh tâm linh.

105

Sau này tôi nghe Ngân thuật lại: mẹ đã tâm sự với Ngân là sau khi nghe thầy An nói

về tôi, mẹ rất tự hào về tôi và hơn lúc nào hết, mẹ tin yêu tôi vô cùng.

Mẹ và hai vợ chồng tôi thuê khách sạn trong thị xã, ở chơi với nhau mấy ngày. Nhà ở

Bắc Ninh, mẹ nhờ một cháu gái con dì tôi trông coi hộ. Trước lúc chia tay, tức là vợ

chồng tôi tạm biệt mẹ, mẹ và hai chúng tôi tạm biệt Viện, thầy An tổ chức một bữa tiệc

tiễn đưa nhẹ chỉ dùng trái cây chứ không ăn mặn. Ý thầy là muốn Sao có thể ngồi chung

với mọi người. Tuy không có phản ứng gì với trái cây nhưng Sao không ăn. Có một bạn

nam lấy đâu ra mấy phong bánh lương khô dinh dưỡng do công ty cổ phần bánh kẹo Hải

Ngân, Hà Nội sản xuất. Sao bóc ra nhỏ nhẹ nếm thử, nhâm nhi chút ít chứ không ăn hết.

Sau này tôi hỏi bánh thế nào, Sao chê nó quá nhạt nhẽo, vô vị, không thể chỉ hai phong là

đầy đủ chất bổ dưỡng để nuôi sống con người. Có thể, Sao sẽ xin công thức chế biến

bánh dinh dưỡng của người Atlan đem về biếu công ty.

Nhân dịp chia tay và có mặt mẹ tôi, thầy An muốn tôi biểu diễn một vài trò cho mẹ

vui. Tôi gật đầu. Đột nhiên, từ trong phòng thầy An đi ra một người giống tôi và một

người giống Sao. Mọi người xôn xao. Ngân đứng dậy hỏi mẹ tôi:

Xin bác cho biết ai là anh Kim thật, ai là chị Sao thật?

Mẹ tôi lắc đầu cười, chưa trả lời vội. Tôi nháy mắt, hướng mẹ về phía Kim từ phòng

thầy An bước ra. Tôi nói:

Mẹ cứ hỏi điều gì bí mật nhất mà chỉ có mình mẹ và Kim biết ấy.

Mẹ rời chỗ ngồi, bước đến bên Kim kia, ghé tai hỏi nhỏ điều gì đó và được đáp lại.

Mẹ nắm ngay lấy anh này và bảo đây là Kim thật. Trong lúc mọi người ngờ ngợ, tự hỏi

Kim thật hồi giờ vẫn ngồi ở bàn chứ có chuyển đi đâu, việc quá đơn giản sao mẹ không

chọn ngay tôi. Tôi lên tiếng:

Mẹ ạ, hai Kim đều là con thật của mẹ, không ai là giả cả. Hai Sao cũng vậy. Con đã

dùng phép phân thân.

Nhân đây, lại nói về phép phân thân. Có một lần tôi đang học thầy Hơn ở Lemuria ở

cấp độ cao, đêm về ngủ ở nhà Cay bỗng nghĩ đến Sao quay quắt. Tôi bỗng thấy mình có

mặt ngay trước cửa buồng của Sao. Nhận thấy có người, cửa buồng mở và tôi điềm nhiên

bước vào. Thấy tôi đột ngột về, Sao mừng lắm. Không chút nghi ngờ, Sao ôm lấy tôi, hôn

rất tự nhiên rồi kéo tôi đến ngồi vào bàn, lệnh cho hai ly nước giải khát hiện lên. Chợt

May gõ cửa bước vào, ngạc nhiên thấy có mỗi mình đứa em gái mà gọi đến hai ly nước:

Em đang tiếp ai đó?

Anh Kim vừa ngồi đây mà

Thế hắn đã biến đi đâu?

Sao gọi to:

Anh Kim ơi, anh Kim.

Hình như em nằm mơ hay sao ấy.

Em đâu có ngủ mà nằm mơ. Em đã chạm thực sự vào con người anh ấy.

Gọi mấy lần nữa không nghe thấy tôi trả lời và hiện hình, hai anh em tỏ ra thất vọng

và cho qua câu chuyện mà không hiểu vì sao.

Ngân đến ghé vào tai tôi nói thầm trêu chọc:

Anh đừng làm biến chàng Kim kia đi vội. Hãy để cho chúng em mượn đỡ một thời

gian.

Hừm!...

Tôi lừ mắt nhìn cô nàng. Ngân cười tủm tỉm bỏ đi. Duyên đứng lên, không biết đã

chuẩn bị từ lúc nào một túi nhựa nhỏ đựng sẵn một hạt kim cương, nhờ tôi nhân hộ thành

tám túi. Đến lúc đó, thầy An mới phát biểu với mọi người:

106

Đây là món quà mà Kim phù phép tạo ra và thay mặt Viện, tặng cho mọi thành viên

trong buổi chia tay này. Nhưng theo gợi ý của cô giáo, mẹ của Kim, từ nay Viện cần có

một điều ràng buộc cho mỗi thành viên sau khi nhận tặng vật, có đi thì phải có lại: đó là

mọi người phải rèn luyện tu dưỡng biến mình thành con người luôn luôn sống trung thực,

vị tha, bác ái, tránh xa những ý nghĩ ác và hành động tiêu cực. Nếu không được như vậy,

của cải được ban tặng sẽ mất ý nghĩa dẫn đến tự hao hụt dần không thể nào kiềm chế

được.

Nói xong, thầy An đưa mắt nhìn tôi có ý hỏi. Tôi đồng tình, nói thêm:

Do quyền năng con người mà của cải được tạo ra chứ không phải từ thiên nhiên nên

nó tự sinh sôi được thì cũng tự hủy diệt được. Thầy tôi ở hành tinh Lemuria thường nói

với tôi rằng: mỗi lần ý nghĩ ác xuất hiện trong con người mình là mình sẽ bị mất đi sinh

khí rất nhiều, giảm hiệu lực của quyền năng. Cho nên những kẻ giàu có mà ác thì sức hủy

hoại của họ đối với xã hội rất lớn.

Lời của thầy An và của tôi nêu lên, không ai dám bắt bẻ, phản đối. Mọi người im

lặng, suy ngẫm. Vậy là tôi phải lãnh thêm nhiệm vụ “thổi hồn” vào những viên kim

cương đã nhân bản trước khi giao cho mọi người. Từ nay, tùy theo đạo đức của mỗi

người mà số hạt kim cương do anh sở hữu sẽ được giữ nguyên hay bị giảm bớt.

Bỗng Duyên thắc mắc:

Anh Kim này, tại sao lâu nay chúng ta chỉ tặng kim cương mà không là tiền? Kim

cương phải đem ra cửa hàng đổi, còn tiền nhân bản sẽ có ngay để tiêu.

Tiền cũng có thể nhân bản được, nhưng điều này bị cấm, bởi vì nó tương đương với

việc in bạc giả. Ta phải giữ cho tâm hồn mình luôn luôn trong sáng, tránh làm chuyện

tiêu cực. Cho nên không được nhân bản tiền là vì vậy.

Tôi tuyên bố thêm:

Từ nay về sau, tôi sẽ không làm cái việc nhân bản kim cương để tặng mọi người

nữa. Nhưng,... chỗ kim cương mà mỗi người đang có, tôi đã phù phép vào đấy rằng là cứ

tiêu một viên thì sẽ có viên khác bù vào ngay cho đủ số cũ.

Tôi thấy lúc đầu khi nghe tôi nói, mọi người có vẻ thất vọng, nhưng sau đó nỗi lo

nhanh chóng biến thành sự hoan hỷ. Tôi đoan chắc, sẽ có người liên hệ cái túi đựng kim

cương tôi biếu giống hệt cái nồi Thạch Sanh vậy.

Tôi có ý định là sẽ đưa mẹ về Bắc Ninh, không phải bằng con tàu vũ trụ mà bằng

cách mang mẹ cùng bay. Nhưng tôi không thể để mẹ cao lớn như vậy được. Tôi hỏi ý

kiến thầy Hơn về việc muốn hóa nhỏ con người hay vật thể, tức là làm ngược lại phép

khuếch đại, có được không. Thầy bảo có thể được, tôi cứ thử làm. Tôi chọn mặc chiếc áo

sơ mi may hai túi ở ngực rồi ra quầy tiếp tân của khách sạn trả phòng. Tôi nói với mẹ và

Sao là tôi muốn cho mẹ thấy tôi bay như thế nào nên để mang mẹ và Sao cùng bay, tôi

phải biến thành người khổng lồ. Thật ra là tôi đã hóa nhỏ mẹ và Sao để cho hai người

thấy tôi trở nên cao lớn. Rồi tôi đưa tay ôm lấy từng người bỏ vào mỗi túi áo riêng. Tôi

khoác chiếc áo tàng hình rồi nhấc mình bay lên.

Quả như lời thầy Hơn, tôi làm được việc này không mấy khó khăn và không hao tổn

sức nhiều lắm. Đến trước nhà, tôi ôm lần lượt mẹ và Sao ra khỏi túi, khuếch đại hai người

trở về vóc dáng cũ. Chúng tôi nán lại nhà mình một hôm nữa rồi mới chào từ biệt mẹ. Mẹ

ôm chặt hai đứa tôi, mắt rơm rớm. Tôi hứa với mẹ là chúng tôi sẽ về thăm mẹ luôn.

Lần này cũng như lần trước, nhưng chỉ mình Sao là bị tôi thu nhỏ lại. Mẹ trách bảo

lần trước tôi đã nói dối mẹ. Tôi cười xin lỗi và chống chế lần trước là lần đầu tiên trong

đời, con mới áp dụng thử phép thu nhỏ. Tôi bắt Sao bỏ vào túi, quàng lấy chiếc áo tàng

hình rồi bay đi. Khi đã về đến Viện, tôi hỏi trong khi tôi bay, nằm trong túi, Sao có cảm

107

giác gì không. Sao bảo nghe tiếng tim tôi đập thình thình to như tiếng trống, còn bên

ngoài túi thì gió réo ù ù. Tim đập thình thình như tiếng trống thì có thể nhưng gió réo ù ù

đúng là bịa đặt, khó tin vì bên ngoài túi còn chiếc áo tàng hình. Nhưng Sao khăng khăng

bảo là không bịa.

Giao lưu văn hóa liên hành tinh

Tôi bỗng có sáng kiến là nhân dịp này thử làm một cuộc giao lưu văn hóa giữa các

hành tinh và Trái Đất mà đại diện là Việt Nam. Cụ thể là đưa một đoàn văn công lên biểu

diễn. Thầy An có vẻ ngại ngần không hiểu có cần giấy phép của bộ Văn hóa Thông tin và

thủ tướng chính phủ hay không. Sau cùng thầy bảo chuyện này hãy làm bí mật, không

nên công bố thì sẽ ổn thôi. Phần tôi, tôi báo về Lemuria, đề đạt việc này lên thủ lĩnh hành

tinh. Thủ lĩnh rất hoan nghênh. Tôi trình bày kế hoạch với thầy Hơn cách đưa đoàn văn

công gồm khoảng 20 người lên Lemuria chỉ bằng con tàu vũ trụ chật chội của Viện nên

phải thu nhỏ họ lại. Lần này, thầy cũng động viên tôi, bảo khả năng tôi có thể làm được.

Đồng thời trong chuyến bay ấy, thầy sẽ tìm cách hỗ trợ thêm.

Việc đầu tiên là đề tài gì và đoàn văn công nào. Tôi nghĩ đến Bắc Ninh, quê hương

tôi. Âu đó cũng là một dịp để trả ơn cái nôi mà tôi được sinh ra và lớn lên. Tôi tìm đến

một ông bầu chuyên lĩnh vực dân ca Quan họ.

Đấy là một chàng trai còn trẻ, đồng hương với tôi, vừa mới tốt nghiệp trường Ca múa

nhạc Hà Nội, có nhiều hoài bão muốn nâng dân ca Quan họ lên tầm cao mới, đạt tính

hiện đại nhưng vẫn giữ phong cách dân tộc. Tôi đặt thẳng vấn đề là tôi trả lương trực tiếp

cho từng người trong đoàn, còn anh ta làm trưởng đoàn chứ không trong cương vị ông

bầu, có nhiệm vụ tìm người để hình thành một đoàn mới. Phải bảo đảm chất lượng và

thời lượng cho chuyến biểu diễn. Rất thực dụng, hắn ta hỏi ngay về tiền nong. Rút từ

trong người, tôi giơ ra trước mặt hắn một túi nhỏ dốc ra bàn cho hắn xem hai hạt kim

cương, mỗi hạt một carat. Hắn cầm lên một hạt, ghé mắt săm soi nhưng cố tỏ vẻ thờ ơ

trước vẻ lóng lánh đẹp mắt của loại đá quý này. Tôi nói đây là quà biếu đãi bôi buổi đầu

gặp mặt và muốn ông trưởng đoàn chi tiêu trong việc luyện tập của đoàn khi đã được

thành lập. Tôi còn nói thêm giá thị trường hiện nay của kim cương, hai hạt này mỗi hạt

đáng giá 40 000 đô Mỹ, quy ra hơn 160 triệu đồng Việt Nam. Chưa để hắn kịp ngạc

nhiên, tôi bồi tiếp những chuyện khác mà hắn không thể đoán trước.

Đoàn dân ca Quan họ này chỉ nên khoảng hai mươi người thôi, kể cả trưởng đoàn.

Nhớ mời cho bằng được nghệ sĩ ưu tú Thúy Cải, nói là đi diễn ở một hành tinh xa xôi

ngoài Trái Đất, vì tò mò thế nào bà cũng nhận lời. Số đêm biểu diễn có thể là mười hoặc

nhiều hơn chút ít. Nơi biểu diễn là những hành tinh cách Trái Đất khoảng hơn một ngày

bay của tàu vũ trụ. Cứ mỗi đêm diễn, tất thảy mọi người không phân biệt ai, mỗi người

được trả một viên kim cương một carat. Trưởng đoàn và nghệ sĩ Thúy Cải được gấp rưỡi.

Tôi sẽ ứng trước một ít cho mỗi thành viên để lại nhà chi tiêu,

phần còn lại về Trái Đất sẽ trả đủ. Tất cả đều bằng kim cương thật.

Đến lúc này, dưới mắt hắn ta, tôi không còn là tôi trước đây mà đã trở thành đủ loại

người diễn nhanh trong đầu óc hắn: lọc lõi, gian manh, buôn lậu, lừa bịp, phù thủy. Hắn

chọn gắn cho tôi vai cuối cùng “phù thủy”. Hắn vẫn chưa tin hẳn hai hạt kim cương kia là

đồ thật và dự định sau khi ra tiệm kinh doanh vàng bạc đá quý thử, nếu của giả hắn sẽ

vĩnh biệt tôi luôn.

Nhưng tin chắc hắn sẽ quay lại, nên tôi tiếp tục những điều kiện của hợp đồng.

108

Mình xin nói trước với bạn và sau này khi gặp mặt toàn đoàn, mình sẽ còn nhắc lại

một lần nữa. Hành tinh mà chúng ta sắp phục vụ văn nghệ đã đạt đến một nền văn minh

tuyệt đỉnh. Nhưng cuộc sống của họ rất đơn giản, nên việc chúng ta đến biểu diễn sẽ là

một sự kiện trọng đại ở đấy. Công xá mà hành tinh trả cho chúng ta thể hiện bằng kim

cương. Kim cương thật như kim cương của ta, nhưng khác cái là nó còn có hồn. Nó ở lại

với bạn lâu dài chừng nào bạn còn là con người trung thực, có tâm hồn trong sáng và

lòng từ bi, bác ái. Đó là mình nói về số kim cương còn nằm trong túi bạn chứ kim cương

mà bạn đã tiêu xài, đang ở túi người khác thì vẫn còn mãi chứ không tự biến đi. Điều thứ

hai, trước và sau khi hoàn thành hợp đồng, mình yêu cầu toàn đoàn không được hé răng

nửa lời về chuyện đi biểu diễn Quan họ ở lãnh địa ngoài Trái Đất, không cho phóng viên

phỏng vấn và báo chí đăng tin giật gân. Nếu không làm được cam kết này, toàn bộ số kim

cương mà các bạn nhận được sẽ bị hao hụt rất lớn thậm chí có thể bị cạn kiệt nhanh

chóng.

Hai cam kết này trông thế mà không dễ thực hiện. Nét lo lắng hiện rõ trên mặt người

bạn trẻ. Tôi ra hạn cho hắn tuần sau trả lời, một tháng sau đến biểu diễn tổng duyệt tại

Viện rồi khăn gói lên đường đi luôn. Sau khi trao đổi điện thoại liên lạc, tôi đứng dậy

chìa tay ra bắt, tỏ ý kết thúc cuộc đàm phán.

Cùng ngày hôm ấy, chúng tôi từ biệt mọi người ở Viện, đưa Sao về nhà. Trên đường

bay, tôi hỏi Sao có cảm tưởng gì sau những ngày sống trên Trái Đất, quê hương nhà

chồng. Sao thú nhận với tôi rằng cái cảm giác bất an lúc nào cũng ám ảnh nàng. Trên

mảnh đất này, bất kỳ lúc nào và ở đâu, cái rủi ro đều có thể ập đến với mình. Chỉ trong

mấy ngày ngắn ngủi ở Bắc Ninh và Sơn Tây, nàng đã chứng kiến bao nhiêu tai nạn giao

thông chết người. Tôi bảo, ở Việt Nam hiện nay, người ta đã tổng kết trung bình hằng

ngày có 30 người chết vì tai nạn giao thông. Ngoài ra, nàng còn trông thấy nhan nhản

những cảnh ăn uống xô bồ, đi lại hối hả diễn ra hầu như suốt ngày. Không khí nơi nào

cũng bị ô nhiễm nghiêm trọng bởi rác vung vãi khắp nơi, khí thải của các phương tiện

giao thông, khí độc đủ loại bốc lên từ những vườn rau và cánh đồng. Những cái đó, Sao

cảm nhận rất rõ bởi vì từ bé nàng chỉ được sống trong bầu không khí hoàn toàn trong lành

của hành tinh quê mình. Còn tôi chắc là các giác quan bị thử thách lâu ngày trong môi

trường ô nhiễm nên đã bị chai lỳ. Tôi nói cho nàng biết, không riêng Việt Nam mà trên

toàn Trái Đất, mỗi năm có ba triệu người chết vì ô nhiễm không khí ngoài trời bởi khí

thải công nghiệp và giao thông, cộng với 1,6 triệu người nữa, chủ yếu là ở các nước

nghèo, chết vì ô nhiễm không khí trong nhà do đun nấu bằng than, củi và dầu các loại. Sự

ô nhiễm không khí đã dẫn đến sự thay đổi khí hậu của hành tinh, gây nên nạn đói từ hạn

hán, mất mùa và gây nên nhiều bệnh tật cho con người. Vì vậy, tuổi thọ trung bình của

người Trái Đất rất thấp, ít người sống quá trăm tuổi.

Trong thời gian lưu lại hành tinh Atlantis mấy ngày, tôi nhờ May chế tạo giúp cho

một tấm panen bán dẫn tích trữ năng lượng chuyển từ ánh sáng mặt trời ra dòng điện

xoay chiều, có nhiều ổ cắm ở một cạnh tấm để lấy điện trực tiếp dùng cho các bóng đèn

huỳnh quang. Đối với người Atlan, yêu cầu này rất đơn giản, không đòi hỏi nhiều trí lực.

Đồng thời, tôi cũng báo cho Cay biết ngày tôi trở lại Lemuria để thực hiện cải tiến việc

cung cấp ánh sáng nhân tạo. Tôi còn thổ lộ cho May biết mình ân hận một điều là hiện

nay, Trái Đất đã chuyển sang dùng đèn compact tiết kiệm điện và thời gian không xa sau

đó đến đèn LED trắng, không làm thế nào đem đến giúp cho hành tinh Lemuria cái hiện

đại nhất của quê hương. May bảo gì chứ đèn LED thì hành tinh Atlantis đang có sẵn, đã

dùng phổ biến từ rất lâu. Hiện Atlantis để thắp sáng, chỉ xài đèn LED. Nó chỉ cần công

suất thấp không quá 10 oát, ít tiêu hao năng lượng, rất thích hợp với nguồn năng lượng

109

mặt trời. Lần tới, tôi có thể giúp Lemuria cải tạo toàn bộ hệ thống chiếu sáng, thay tất cả

đèn huỳnh quang cùng bộ nạp năng lượng vũ trụ lỉnh kỉnh kém hiệu quả.

Nghỉ ngơi mấy ngày trên Atlantis, tôi rủ Sao cùng đi sang Lemuria. Đối với hành tinh

này, việc đi làm hay xin nghỉ lâu dài hoàn toàn thoải mái, không phải nghiêm ngặt và

nặng nề như ở ta. Trường hợp của Sao, giảng viên môn Lịch sử, việc đi đây đi đó trong

không gian vũ trụ khi có điều kiện để tìm hiểu lịch sử của các cư dân hành tinh khác là

một công việc đáng khuyến khích. Bởi vậy, nàng đồng ý ngay. Từ khi cùng tôi nạp năng

lượng vũ trụ, nàng không hề ăn uống, thậm chí cả tắm rửa, nhưng cơ thể hoàn toàn khoẻ

mạnh, thanh khiết. Khi con tàu sắp chui vào bầu không khí của hành tinh Lemuria, tôi gọi

điện xin phép thủ lĩnh hạ cánh. Thủ lĩnh hành tinh vui vẻ đồng ý. Không rõ bằng cách

nào, thủ lĩnh còn biết có Sao cùng đi và gửi lời chào hoan nghênh.

Tuy đã chuẩn bị tinh thần trước, nhưng Sao không khỏi bị choáng khi nhìn thấy

những con người khổng lồ Lemuri đến đón tại bãi đáp qua ô cửa của con tàu. Mới chỉ có

ba anh em Cay thôi đấy.

Xin chào ba anh em – tôi lên tiếng.

Chào anh Kim, chào chị Sao – hai chị em Mai đồng thanh.

Chào hai em – Sao lên tiếng.

Để thuận tiện trong việc di chuyển, tôi có ý nghịch ngợm đề nghị Cay bắt tôi và Sao

bỏ vào túi khi trở về nhà. Bé Mai muốn nhận lấy Sao, nhưng Cay trừng mắt, từ chối. Ý

Cay sợ nằm trong túi áo Mai, vợ tôi nếu có bề gì sẽ ân hận suốt đời. Trong túi áo của

Cay, tôi cho Sao biết đó là cách di chuyển thường xuyên ở hành tinh này trong những

ngày đầu tôi mới đến đây. Nó vừa nhanh chóng, vừa an toàn. Khi đó, Cay gọi tôi là chú

mèo con. Vậy nên bây giờ, chúng ta đang là hai chú mèo con trong túi của Cay. Tôi còn

báo trước cho Sao biết là khi đêm đến, chúng mình sẽ ngủ trong ngăn kéo bàn của Cay.

Điều này lại hóa hay, bởi vì nằm trong ngăn kéo bàn vừa ấm áp, vừa kín đáo, bảo đảm

được chuyện riêng tư. Tuy nhiên để thuận tiện trong sinh hoạt, tôi tự biến mình cao lớn

bằng Cay rồi phù phép làm cho Sao cũng cao lớn như vậy.

Trong thời gian ở nhà bố mẹ Cay, tình yêu thương của bố mẹ và anh em Cay đối với

tôi như thế nào thì đối với Sao cũng y như vậy. Đặc biệt bé Mai cứ quấn quýt bên Sao,

hỏi chị đủ mọi thứ chuyện trên hành tinh Atlantis, còn bé Hay hiền lành và ít nói, tựa hẳn

người vào Sao, tròn xoe đôi mắt lắng nghe. Những bữa ăn dọn ra, hai vợ chồng tôi chỉ

ngồi tiếp chuyện chứ không ăn. Cả nhà biết ý nên không ép.

Đã báo trước cho thủ lĩnh hành tinh, nghỉ ngày hôm trước, sáng hôm sau, vợ chồng

tôi và Cay mang bộ đèn LED trắng cùng tấm panen bán dẫn bay đến dinh thủ lĩnh. Tôi

biến Sao nhỏ lại bằng thật, ôm bỏ gọn vào túi áo rồi cùng bay với Cay. Tôi nói vui:

Bây giờ, em biến thành con mèo nhỏ của anh.

Trong túi, Sao nắm tay đấm đấm vào ngực tôi qua lần vải túi. Trên đường bay, chúng

tôi ghé thăm thầy Hơn. Tôi giới thiệu Sao với thầy:

Thưa thầy, đây là vợ con, người của hành tinh bên cạnh.

Trước đó, tôi biến Sao thành người to lớn như người Lemuri, kể cả món quà tôi đem

theo cho nó to đúng bằng con vật thật.

Con xin chào thầy. Anh Kim nói rất nhiều về thầy, hôm nay con mới có dịp đến

thăm thầy. – Sao lên tiếng.

Ta cám ơn con. Ta đã nghĩ rằng hai con thật xứng đôi khi chung sống với nhau.

Tôi lôi tặng phẩm ra. Đó là tượng con trâu bằng than đá mà tôi vừa khuếch đại cho nó

to bằng thật. Tôi nói:

110

Thưa thầy, hôm nay con đem tượng con trâu đến biếu thầy. Loài vật này ở Lemuria

không có.

Thầy Hơn cầm lấy tượng trâu ngắm nghía nhưng ánh mắt có vẻ ngại ngùng. Tôi nghi

đôi sừng bự, cong vút đầy thách thức của con trâu không gây được cảm tình cho thầy. Tôi

nói tiếp:

Thưa với thầy, con trâu là một loài vật hiền lành có nhiều ở Việt Nam, suốt đời chỉ

biết ăn cỏ để sống. Nó theo người nông dân Việt Nam một nắng hai sương, chịu thương

chịu khó làm những việc đồng áng nặng nhọc mà không hề than vãn. Cặp sừng dễ sợ

dùng để tự vệ khi trâu bị ác thú tấn công.

Thầy vui vẻ chấp nhận và nói lời cám ơn. Tôi lại báo thêm cho thầy biết sắp tới, tôi sẽ

đưa một đoàn văn công đến hành tinh này biểu diễn cho mọi người xem. Vì tàu nhỏ chật

chội, tôi định làm cho khoảng hai mươi con người nhỏ lại để tiện việc vận chuyển. Thầy

bảo tôi đã làm nhỏ được hai người thì bây giờ làm nhỏ hai mươi người vẫn được, nhưng

tôi phải tiêu tốn năng lượng nhiều hơn. Tôi cám ơn thầy. Chúng tôi cùng nói lời tạm biệt.

Thầy thân hành đưa tiễn chúng tôi ra đến cửa.

Tôi lại thu nhỏ Sao và ôm bỏ vào túi áo. Rồi tôi cùng Cay bay đi gặp thủ lĩnh. Đến

dinh, tôi cho Sao lớn lên cỡ người Lemuri. Thủ lĩnh ra tận cửa đón ba chúng tôi.

Chúng cháu chào thủ lĩnh – ba chúng tôi đồng thanh.

Chào các cháu. – Rồi thủ lĩnh chỉ vào Sao – Đây có phải là...

Thưa thủ lĩnh, đấy là vợ cháu, người Atlan.

Ta biết. Nhưng người Atlan cũng nhỏ nhắn “như con mèo ốm” có đúng không? –

Thủ lĩnh vừa hỏi vừa cười, gợi lại chuyện cũ của tôi với Cay mỗi lần di chuyển đến dinh

có công việc.

Thưa vâng. Cháu làm cho vợ cháu cũng to cao như người Lemuri để dễ bề sinh

hoạt, tiếp xúc với mọi người ở đây.

Ta biết. Nhưng cháu sẽ mất sức nhiều lắm đó.

Lúc bấy giờ, Cay mới lên tiếng:

Thưa thủ lĩnh, lần này Kim mang về cho chúng ta bộ đèn mới cùng tấm panen bán

dẫn để toàn hành tinh cải tạo lại hệ thống chiếu sáng nhân tạo. Nó sẽ thay cho bộ đèn

huỳnh quang cùng bộ tiếp điện không thuận lợi trong việc sử dụng đèn. Tuy nhiên muốn

dùng nó, phải đưa tấm panen lên thay các mái nhà để nó hấp thu ánh sáng mặt trời và

biến năng lượng ánh sáng thành điện năng cung cấp cho các bóng đèn mới.

Bởi vì tấm panen còn trữ một ít điện nên khi chúng tôi cắm phích của một bộ đèn mới

vào ổ của panen, bóng đèn bật sáng ngay. Thủ lĩnh rất hài lòng chuyện cải tiến này và

bàn việc triển khai. Đầu tiên nhân bản tấm panen này thành 50 tấm mẫu để cung cấp cho

50 bang. Sau đó mỗi bang tự nhân bản lấy số panen sao cho đủ dùng để thay thế các tấm

lợp bằng tranh của các nhà dân và các công trình xây dựng công cộng. Mỗi tấm còn được

khuếch đại sao cho kích thước dài và rộng vừa đúng mái tranh. Cay tự mình nhân thêm

50 tấm panen để lại trong dinh dành cho các bang cử người đến lấy. Còn cái cũ, chúng tôi

sẽ mang nó về nhà để vừa nhân bản, vừa khuếch đại, lắp mẫu thay hai mái nhà của Cay.

Các bộ đèn LED cũng được nhân bản theo kiểu ấy.

Tôi còn bàn với thủ lĩnh về kế hoạch giao lưu văn hóa giữa Việt Nam với hành tinh

Lemuria. Sắp tới, tôi sẽ đưa thử một đoàn văn nghệ dân ca biểu diễn cho một số bang ở

đây thưởng thức. Nếu có kết quả tốt, tôi sẽ đưa tiếp những đoàn chuyên các lĩnh vực văn

hóa khác như chèo, tuồng, nhạc nhẹ, ca múa, giao hưởng. Thủ lĩnh cho rằng những việc

làm này rất hay, chắn chắn sẽ thu hút cư dân ở đây và nhất định sẽ thành công.

111

Việc cuối cùng thuộc chuyện riêng tư. Tôi xin thủ lĩnh cho phép Sao được “giáo dục

lại” giống như tôi trước đây, nghĩa là theo hết chương trình học vấn của người Lemuri.

Điều này chứng tỏ chương trình học vấn ở đây vẫn còn tiếp tục vượt trội đối với người

Atlan, mặc dù cả hai cư dân đều là hậu duệ của hai vị thầy và trò thời xa xưa. Thủ lĩnh

nghe tôi nói lấy làm đắc chí và đồng ý ngay. Thủ lĩnh giao cho Cay giúp vợ tôi trong thời

gian đầu, sau đó thủ lĩnh sẽ giao thầy Hơn dạy tiếp như đã từng dạy tôi.

Chúng tôi rất cám ơn thủ lĩnh và cả ba cùng chào thủ lĩnh ra về. Lần này, tôi vẫn giữ

vóc dáng to cao như Cay nhưng Sao thì được làm nhỏ lại và tôi ôm ngay con mèo nhỏ

thân yêu của mình bỏ vào túi áo cùng bay về với Cay. Trong túi, Sao trách tôi xin cho vợ

học mà không hỏi ý kiến vợ trước. Tôi cười bảo đã từng lục lọi trong đầu óc của Sao vào

những lúc tôi làm trò phù phép và thấy em cũng muốn làm được như tôi. Vậy thì đúng ý

em quá rồi, còn xin phép gì nữa. Sao lại đấm thùm thụp vào ngực tôi qua lần vải túi áo.

Lần này, tôi để Sao ở lại Lemuria bắt đầu thọ giáo Cay. Nghe tin này, cả nhà bố mẹ

và các em của Cay đều rất vui mừng. Thích nhất là hai bé bự. Bé Mai đề nghị tối đến, chị

Sao sang phòng em ngủ. Em sẽ chuẩn bị một cái hộp lấy trong đống đồ chơi của hai chị

em Mai và Hay, dọn sạch rồi lót vào đó chăn, gối cho chị nằm. Tôi chuẩn bị thức ăn cho

nàng bằng cách nhân bản các phong bánh và chai nước dinh dưỡng đem theo nhỡ khi

nàng hết năng lượng dự trữ không tiếp tục nhịn ăn được.

Tôi ôm chặt nàng, âu yếm dặn hãy tập trung học cho chóng có kết quả, chờ anh đưa

đoàn văn công trở lại. Rồi tôi lái con tàu về Trái Đất, không ghé Viện mà đến thẳng Bắc

Ninh. Tôi gọi điện cho tay trưởng đoàn, hẹn gặp nhau ở tại nhà tôi.

Trong thời gian mấy ngày tôi vắng nhà, đoàn dân ca Quan họ được hình thành, đang

trong giai đoạn tập luyện. Theo đúng ý tôi, tay trưởng đoàn này đã khéo chọn được toàn

là nam thanh nữ tú. Hình như tay này đã chịu khó lùng khắp cả nước hay sao ấy. Vậy mới

bõ công đem chuông đi đánh xứ người. Tôi ngỏ lời khen và tay trưởng đoàn hãnh diện ra

mặt.

Buổi tổng duyệt được tổ chức tại khuôn viên của Viện. Thầy An gặp riêng nghệ sĩ

Thúy Cải, trao đổi về mục đích chuyến đi biểu diễn của đoàn. Nghệ sĩ phàn nàn rằng các

cô cậu ca sĩ tuy trẻ xinh, nhưng tay nghề chưa cao. Tôi an ủi bà rằng cư dân những hành

tinh mà ta đến biểu diễn tuy văn minh hơn ta đấy nhưng trình độ am hiểu nghệ thuật

không bằng ta. Bởi vậy, về mặt hình thức, ta rất cần những cô gái chàng trai thật trẻ, thật

đẹp dẫu có hát chưa hay lắm nhưng là đại diện cho những con người Việt Nam, con

người Trái Đất.

Tôi chủ trương cho đoàn biểu diễn trong một vòng tròn mà khán giả ngồi bao quanh

theo kiểu lửa trại. Làm thế này, không mất thì giờ chuẩn bị sân khấu. Tay trưởng đoàn lúc

đầu không đồng ý nhưng sau khi nghe tôi phân tích, chọn trường hợp xấu nhất là không

dựng được sân khấu để biểu diễn xem sao. Nếu biểu diễn tốt thì khi có sân khấu, kết quả

biểu diễn sẽ cao hơn.

Không mấy khi có một đoàn văn công chuyên Quan họ Bắc Ninh về, Viện mời hết

thảy bà con quanh vùng và gia đình của những thành viên của Viện đến thưởng thức.

Buổi biểu diễn kéo dài hơn hai giờ với những bài mở đầu Những cô gái Quan ho, Vê quê

của Phó Đức Phương, Mùa xuân qua sông Đuống, Dịu dàng của Nguyễn Đức Miêng,

tiếp theo sau là các bài ca cổ Ngồi tựa mạn thuyên, Đêm qua nhớ bạn, Nón ba tâm, Trâu

cau Quan ho, Con duyên, Cây trúc xinh, Tay tiên chuốc chén rượu đào, Trống cơm, Cò

la, Con sông tuôi thơ, Xe chi luồn kim, Bèo giạt mây trôi, cuối cùng là bài Người ơ đừng

vê.

112

Phải nói là tôi rất hài lòng với công việc chuẩn bị của tay trưởng đoàn trẻ này. Xong

buổi biểu diễn, tôi bảo đồ nghề, nhạc cụ tất cả đều để lại Viện, sau đó mời mọi người

trong đoàn ra khách sạn thị xã ăn nhẹ và chia nhau các phòng trọ ngủ qua đêm. Sáng hôm

sau, tôi họp tất cả lại, trình bày kế hoạch xuất ngoại, không cần đến hộ chiếu hay visa.

Bởi vì phải vượt không gian bằng con tàu vũ trụ nên hành trang phải thật gọn nhẹ, không

được mang theo những thứ không cần thiết và bất cứ thức ăn, đồ uống gì. Mọi nhu cầu

sinh hoạt thường ngày, tôi xin bảo đảm chu toàn, sẽ không để cho một thành viên nào kêu

ca vì thiếu thốn. Tôi chuyển cho mỗi thành viên một hộp nhỏ, mỗi hộp chứa 2 hạt kim

cương cỡ 1 carat, coi như phần tạm ứng phát trước cho mọi người để lại nhà chi tiêu. Tôi

mời mọi người trở về nhà thu xếp, hai ngày sau tập trung đến Viện để khởi hành.

Tôi về Hà Nội, đến một cửa hàng mã đặt làm một căn nhà bằng bìa nhựa, có ba buồng

ngăn cách nhau nhưng có cửa cài, hai buồng rộng lót vải nhung trên đó đặt chiếc gối dài

và buồng thứ ba nhỏ hơn để trống. Nhà dài một mét, rộng nửa mét, cao một phần tư mét.

Vì cấu trúc nhà đơn giản nên tôi chỉ cần chờ hai giờ là có sản phẩm. Trả tiền, cầm lấy căn

nhà hàng mã, vừa bước ra cửa vừa choàng qua người chiếc áo tàng hình, tôi bay về Sơn

Tây.

Mấy hôm chờ đợi, tôi nghỉ ở khách sạn. Sáng hôm đúng hẹn, khi đến Viện, tôi đã

thấy đông đủ mọi người trong đoàn dân ca. Tôi lánh mặt, ra phía sau, dùng phép khuếch

đại phóng to căn nhà lên gấp hai mươi lần đạt kích thước dài 20 mét, rộng 10 mét và cao

5 mét. Tôi ra phía trước, tập họp và dẫn lần lượt từng người vào nhà, nam một phòng, nữ

một phòng, phòng trống dành cho nhạc cụ, phông màn, thiết bị tăng âm và chiếu sáng,

nhưng giữ nghệ sĩ Thúy Cải ở lại.

Khi mọi người vào hết, tôi đề nghị cài chặt cửa. Rồi trước sự ngạc nhiên tột độ của

bà, tôi phù phép cho căn nhà kể cả người và vật dụng trong đó thu nhỏ lại hai mươi lần.

Tôi đưa mắt chuyển căn nhà bay đi một lúc biến mất tăm. Ấy là lúc căn nhà đã chui tọt

vào trong khoang con tàu đang đậu trước sân Viện. Tôi đội lên đầu bà chiếc mũ thấu thị

và giao cho bà máy quay phim kỹ thuật số, nói là bà muốn quay cảnh gì tùy thích. Bây

giờ, bà đã nhìn thấy con tàu. Tôi đưa tay dắt bà bước vào trong khoang rồi tuyên bố khởi

hành. Tôi bấm nút cho chiếc giường ngả ra, mời nghệ sĩ Thúy Cải nằm lên đó, rồi lái tàu

đến vùng phát năng lượng để nạp năng lượng. Sau đó, tôi cho tàu bay đi cùng lúc với một

nhạc điệu êm dịu của hành tinh P16 có lẫn bước sóng ru ngủ được phát ra.

Từ bây giờ, tôi không phải lo lắng gì về những nhu cầu bình thường của họ. Tất cả

đều ngủ say trong suốt chuyến bay và nhờ hấp thu năng lượng vũ trụ, họ sẽ không bị

đánh thức bởi cơn đói do dạ dày cảnh báo. Tôi thức trong khi bay ra khỏi bầu khí quyển

của Trái Đất, sau đó cài chế độ bay tự động, tôi cũng đi ngủ trên chiếc giường của mình

bật ra từ vách khoang con tàu. Thời gian lâu hay mau của chuyến bay từ giờ không còn

có ý nghĩa gì đối với tất cả mọi người.

Tôi choàng dậy khi nghe tiếng hú rít và điệu nhạc quen thuộc mỗi khi con tàu đã nhận

ra mục tiêu. Tôi gọi điện báo thủ lĩnh hành tinh xin được hạ cánh xuống Lemuria. Thủ

lĩnh đồng ý. Đồng thời, tôi cũng báo cho Cay biết tôi sắp hạ cánh.

Khi gần đến bãi đáp, qua ô cửa con tàu, tôi nhìn thấy Sao và ba anh em Cay đang

đứng chờ. Bà Thúy Cải đã được báo trước cùng đoàn là những người Lemuri rất cao lớn

nên khi thấy họ tận mắt, bà không còn ngạc nhiên. Bật chế độ cảnh giới cho con tàu, tôi

cùng bà Thúy Cải bước ra khỏi khoang và đưa mắt chuyển căn nhà hàng mã ra ngoài. Sao

sà đến ôm lấy tôi. Hôn nhẹ lên má nàng, tôi buông vội nàng ra, chạy đến xách căn nhà lên

trong khi hai bé chưa kịp tò mò xông đến. Mai thắc mắc. Tôi bảo đang vội chưa giải thích

ngay được, dặn ba chị em trở về nhà trước, còn tôi và Cay đem ngay căn nhà đến dinh thủ

113

lĩnh. Tôi nhờ Cay xách căn nhà, tự mình vươn cao cho bằng Cay, nói lời xin lỗi cúi

xuống ôm gọn nghệ sĩ bỏ vào túi áo mình. Rồi chúng tôi bay đi. Ngồi trong túi, bà Thúy

Cải đấm đấm vào ngực tôi qua lần vải áo, vừa cười vừa khen tôi giống hệt như một phù

thủy chính hiệu.

Đến sân dinh thủ lĩnh, sau khi nhẹ nhàng ôm bà Thúy Cải đặt xuống đất, tôi bảo Cay

cũng đặt căn nhà xuống, phù phép cho nó to cao lên hai mươi lần. Tôi gõ vào tường, gọi

mọi người ra. Tay trưởng đoàn ra trước, mặt vẫn còn ngái ngủ, đưa tay che miệng ngáp.

Sau đó lần lượt nhạc công, ca sĩ lục tục đi ra. Tôi bảo đừng quên các đồ nghề. Tôi mời

mọi người đi theo Cay đến hội trường. Trước đó, Cay nháy với tôi cùng thu nhỏ mình lại

để cho những khách mới tới không bị ngạc nhiên, lo sợ. Tiếp theo, tôi thu nhỏ căn nhà

lại, nhỏ hơn mức vốn có mười lần trông như chiếc hộp đồ chơi, mang vào cất kỹ ở một

góc sân khấu hội trường.

Khi mọi người còn ở trong sân hội trường và chưa hết ngỡ ngàng vì sự khổng lồ của

những cây cột, những bức tường và tòa nhà cao chót vót, tôi lên tiếng:

Thưa các anh chị, chúng ta đang ở trên hành tinh của những người khổng lồ có tên

là Lemuri. Chiều cao của người trưởng thành là mười tám mét.

Ồ, ồ....

Tiếng reo lên ngạc nhiên của nhiều người. Tôi phát cho mỗi người một máy thông

dịch mà trước đó tôi đã nhân bản từ chiếc máy của tôi, tiếp tục:

Nếu chúng ta vẫn giữ vóc dáng nhỏ bé vốn có, người ở đây sẽ không nhìn thấy và

nghe chúng ta hát. Bởi vậy, tôi và bạn Cay đây – tôi chỉ vào Cay – sẽ làm cho chúng ta

cùng to lớn lên bằng người bản địa.

Mọi người bỗng nhiên tự nhìn thấy mình to dần, to dần lên. Tôi nhắc Cay các dụng cụ

đồ nghề mà họ mang theo cũng phải làm to lên theo kích thước tương ứng. Bấy giờ, thủ

lĩnh từ xa đi đến. Tôi giới thiệu ông là thủ lĩnh cai quản cả hành tinh. Mọi người nghiêng

mình chào. Thủ lĩnh bắt đầu nói:

Nhân danh thủ lĩnh của hành tinh Lemuria, ta hoan nghênh các người đã không ngại

xa xôi đến đây mở đầu cuộc giao lưu văn hóa liên hành tinh. Ta muốn ngay đêm nay, mọi

người sẽ biểu diễn cho cấp lãnh đạo bang và hành tinh xem trước tại đây, có được chăng?

Tôi đưa mắt nhìn tay trưởng đoàn động viên. Tay trưởng đoàn cung kính:

Thưa được ạ.

Thủ lĩnh quay sang Cay:

Lát nữa trên đường về, ngươi nhớ ghé mời thầy Hơn giúp ta nhé.

Cay bay về. Tôi xin phép chuẩn bị ngay. Tôi cũng không quên nhờ thủ lĩnh cho người

mang ra một ít trái cây và nước uống để chiêu đãi. Tôi cố ý nhân thêm lên thật nhiều đĩa,

bày la liệt trên sân dinh. Tôi nói cho mọi người được rõ, người trên hành tinh này chỉ

nuôi sống bằng trái cây và nước ép trái cây. Ngoài ra, không có thứ gì khác. Nhưng tôi

bảo đảm rằng mọi người trong thời gian lưu lại trên hành tinh này sẽ luôn luôn khoẻ

mạnh và không thấy đói. Bây giờ, thời gian của hành tinh là vào khoảng bốn giờ chiều.

Ánh nắng mặt trời đang bắt đầu dịu lại. Nhưng khí hậu ở đây luôn luôn mát mẻ dễ chịu,

càng về đêm, càng lạnh. Trong lúc các ca sĩ giúp nhau trang điểm, tôi cùng tay trưởng

đoàn và các nhạc công đem đồ nghề lên sân khấu căng phông màn, chuẩn bị đèn và loa

tăng âm. Tôi dùng ánh mắt đưa các phích cắm lên các ổ trên mái nhà. Việc chuẩn bị ánh

sáng, âm thanh hoàn toàn thuận lợi. Tiếng đàn so dây và lúc lúc lại vang lên réo rắt một

đoạn nhạc thử.

Trời bắt đầu tối dần. Các đèn đường và đèn nhà tự động bật lên soi sáng cả một vùng.

Tuy không đói nhưng thấy trái cây lạ, mọi người ai cũng lấy nếm thử. Họ tấm tắc khen

114

trái cây trên hành tinh này ngon. Bỗng mọi người kinh ngạc thấy bên ngoài rợp trời hàng

đàn hàng đàn chim, a không phải chim mà là người, đang lũ lượt đáp xuống sân, cười nói

chào hỏi ồn ào. Khán giả bắt đầu vào chiếm lĩnh vị trí trên các hàng ghế. Thủ lĩnh ra tận

cửa, đón thầy Hơn, đưa vào ngồi ở hàng ghế đặc biệt trên cùng. Ở đó, còn một chỗ dành

cho tôi và một chỗ dành cho thủ lĩnh. Tôi có mời bà Thúy Cải đến ngồi cạnh tôi như lần

tổng duyệt ở Viện nhưng bà từ chối, bảo phải vào sau sân khấu để chỉ đạo thêm cho các

em. Biết mọi người đã đến đông đủ, thủ lĩnh lên sân khấu khai mạc buổi diễn.

Thưa các ông. Lần đầu tiên trong lịch sử phát triển nền văn minh Lemuria chúng ta,

Trái Đất gửi đến đây một đoàn văn công Quan họ. Đoàn sẽ cho chúng ta thưởng thức

những giai điệu ngọt ngào dân ca ở một miền quê của Việt Nam, xứ sở của Kim có tên là

Bắc Ninh. Hôm nay, buổi đầu tiên ra mắt phục vụ chủ yếu các thành viên của Hội đồng

tối cao của hành tinh. Từ đêm mai, đoàn sẽ đến biểu diễn ở một số bang sẽ được lên danh

sách sau đây và yêu cầu các ông thủ lĩnh bang đó thông báo cho người dân mình biết mà

tham dự. Bây giờ, tôi nhường lời cho trưởng đoàn.

Theo sự sắp đặt trước, tay trưởng đoàn ra trước sân khấu cúi rạp mình chào mọi

người rồi giới thiệu ngắn gọn loại hình và xuất xứ của làn điệu dân ca Quan họ. Sau đó,

nhạc nền nổi lên bắt đầu đêm diễn. Thứ tự các bài dân ca diễn ra như đã từng diễn ở

khuôn viên của Viện.

Khỏi nói, tất cả khán giả là những nghị sĩ của hành tinh đã dồn hết chú ý, uống từng

lời hát, từng giai điệu ngọt ngào của các bài dân ca Quan họ. Có thể tin rằng đêm biểu

diễn đã thành công ngoài mong đợi. Tôi và Cay bố trí cho bà Thúy Cải cùng đoàn ngủ

luôn tại hội trường với đầy đủ chăn, màn, nệm, gối đã được chuẩn bị trước. Tôi bay về

nhà Cay. Sao đề nghị tôi trong thời gian ở đây, cứ đêm đến chuyển vào cùng nằm ngủ

trong hộp đồ chơi của bé Mai.

Từ đó, cứ mỗi buổi sáng, tôi và Cay đến hội trường của đêm hôm trước, phóng to căn

nhà hàng mã lên, đưa mọi người của đoàn văn công vào đó rồi thu nhỏ căn nhà chứa mọi

người về kích thước thật của căn nhà. Cay làm nhiệm vụ mang nó. Tôi mang bà Thúy

Cải. Hai đứa cùng bay đến hội trường của mỗi bang theo kế hoạch. Cứ như vậy, chúng tôi

thực hiện chương trình với mười một đêm biểu diễn cả thảy.

Trong thời gian này, Sao học tập tiến bộ trông thấy. Sao đã tự bay được. Đêm nào,

Sao cũng cùng bay với tôi đến nơi biểu diễn. Xem đi xem lại nhiều lần nhưng Sao không

thấy chán. Cứ mỗi lần xem lại, Sao bảo với tôi rằng Sao tìm thêm được một điều gì đó

sâu sắc và thâm thúy hơn.

Đã đến lúc đoàn văn công Quan họ nói lời chia tay với cư dân Lemuria để bay sang

hành tinh Atlantis. Trước đó mấy ngày, tôi đã điện đến May đề nghị thủ lĩnh hành tinh

cho phép tổ chức biểu diễn. Thủ lĩnh vui vẻ đồng ý ngay. Cùng lúc này, Sao cũng đã học

xong khóa sơ cấp do Cay hướng dẫn. Nghỉ mấy hôm ở nhà mình, Sao phải quay trở lại để

học tiếp ở thầy Hơn theo như kế hoạch đã định.

Việc biểu diễn của đoàn ở hành tinh Atlantis cũng hoàn toàn thuận lợi. Có điều ở đây,

cư dân có vóc dáng như ta nên tôi không phải khuếch đại mọi người nữa. Chương trình

biểu diễn thực hiện trong sáu đêm, đêm đầu dành cho hàng ngũ lãnh đạo từ bang trở lên.

Tôi báo cho Ushu xin phép thủ lĩnh cho đoàn bay đến phục vụ cư dân hành tinh P16. Thủ

lĩnh vui vẻ đồng ý ngay. Lần này tôi xin phép cho Sao tạm nghỉ học cùng đi với tôi một

chuyến đến hành tinh của những người vô hình. Với đoàn văn công, tôi phát cho mỗi

người một mũ thấu thị và thấu thính. Tôi báo cho mọi người biết rằng, những con người

ở hành tinh này vô hình, nếu bỏ mũ ra, chúng ta sẽ không nhìn thấy họ và không nghe họ

115

nói. Họ không có hội trường nên phải diễn ngoài trời, cho toàn thể hai trăm người xem.

Đó là toàn bộ cư dân của hành tinh. Sau đó đoàn sẽ từ giã lên tàu về ngay Trái Đất.

Buổi diễn dù chỉ một đêm thôi nhưng cũng đã để lại cho cả đôi bên những cảm xúc và

tình thân ái mặn nồng như một kỷ niệm suốt đời không bao giờ lặp lại và không thể nào

quên. “Người ơi người ơ đừng vê” hay “Đến đây thì ơ lại đây / Chờ cho bén rễ xanh cây

thì vê” là những câu hát của những bài hát cuối cùng đã gây xúc động mạnh cho người ở

lại cũng như người ra đi. Lần nào cũng vậy, cứ nghe đến những câu hát ấy là Sao rơm

rớm nước mắt. Cuối cùng, chúng tôi rồi cũng phải ra đi. Cả đoàn đưa cao tay vẫy trước

khi chui vào căn nhà hàng mã. Hai trăm con người của hành tinh bật phát sáng lên, tỏ

lòng bịn rịn ưu ái. Chờ cho người cuối cùng vào xong, tôi đưa mắt thu nhỏ căn nhà và

cho nó bay vào trong khoang tàu. Tôi nắm tay bà Thúy Cải và Sao, quay lại chào mọi

người của hành tinh một lần nữa rồi chui tiếp vào khoang. Tôi cho tàu bốc lên, bay thẳng

ra bến phát năng lượng quen thuộc, dừng trên đó một tiếng rồi mới bay đi. Trên đường

về, tôi ghé lại hành tinh Lemuria cho Sao xuống để tiếp tục khóa học.

Trong mấy ngày vật lộn với công việc dồn dập, bức xúc trên ba hành tinh, giữa bà

Thúy Cải và tôi đã hình thành một tình cảm đặc biệt thân thuộc như chị em. Bà xưng chị

với tôi và gọi tôi là cậu em một cách thân mật, không hề khách sáo. Trên đường trở về

Trái Đất, trong thời gian đợi chờ và buộc phải ngắm nhìn cảnh u u minh minh của vũ trụ

một cách nhàm chán đơn điệu, để thay đổi không khí trầm mặc trước giờ đi ngủ, tôi báo

cho bà Thúy Cải biết điều bí mật của con tàu:

Chị biết không, con tàu này có thể đưa ta về quá khứ hoặc vào tương lai đó!

Thật thế ư?

Thật chứ ạ! Thế chị có muốn trở về Trái Đất để nhìn lại quá

khứ huy hoàng của chị không?

Quá khứ huy hoàng ư? Có đấy, nhưng cũng còn có cả sai lầm đau xót nữa. Liệu có

thể thay đổi quá khứ sai lầm khi mình trở về được không?

Không được đâu chị ạ! Thông tin này đã ghi vào vũ trụ rồi, nó đã trở thành một

định mệnh.

Thế thì trở về quá khứ để làm gì trong lúc mình đã biết tất cả rồi?

Thế chị có muốn đến Trái Đất vào thì tương lai khoảng chừng năm, mười năm tới

không?

Thấy trước được mình trong tương lai như thế nào cũng hay đấy nhỉ! Thế khi đó,

chị có “bị già” theo tuổi không?

Không đâu! Mọi người kể cả con người chị hiện tại sẽ thấy chị trong bộ dạng một

nữ nghệ sĩ già khụ, lọm khọm bước đi không vững, phải nhờ vả đến một cây gậy. Cũng

có thể chị về đúng vào lúc đám tang của chị đang tiến hành.

Bà Thúy Cải thoáng rùng mình. Nhưng không ngăn nổi sự tò mò đang từng lúc từng

dâng cao.

– Ừ nhỉ! Khi đó, ta sẽ chứng kiến mọi sự thật phơi bày, ai sẽ là người thực sự thương

tiếc ta. Nhưng, làm thế nào để mọi người không nhìn thấy chị?

– Em sẽ cho chị mượn bộ áo tàng hình.

– Lại nữa! Sao em lắm trò ảo thuật thế? Em là người bình thường hay là một tay phù

thủy đấy?

Tôi chợt có cảm giác mọi nghi ngờ dồn nén trong người đàn bà này bây giờ mới có

dịp bung ra. Tôi đành thú thật:

Gọi em là người bình thường hay là phù thủy đều đúng cả. Duy có điều chị phải tin

rằng em luôn luôn là người trung thực, tự nguyện suốt đời mình chỉ biết làm điều tốt cho

116

mọi người, trong đó có chị.

Cho chị xin lỗi vì đã làm mếch lòng em. Dù những gì em vừa nói đều có thể biến

thành hiện thực, nhưng để chị cứ tiếp tục sống ở thì hiện tại mà không phải nhọc lòng làm

điều gì khác thường.

Tôi quá biết bà đang nghĩ gì và đó là lẽ thường tình của một con người từng trải. Tôi

nói tiếp cho bà hiểu thêm về quy luật của vũ trụ:

Trong vũ trụ, không có khái niệm về không gian ba chiều và thời gian một chiều

như ở trên Trái Đất chúng ta. Con tàu này được thiết kế và chế tạo khá đặc biệt trong đó

có một bộ phận dò tìm cái mà trên Trái Đất chúng ta gọi là “lỗ hổng thời gian”. Khi con

tàu bay vào đó, ta có thể điều khiển nó ngược về quá khứ hay xuôi về tương lai tùy thích.

Người của hành tinh P16 đã nhiều lần lái tàu ngược về quá khứ để tìm đến những hành

tinh lân cận khi nó còn là hành tinh xanh và đang sở hữu nguồn năng lượng vô tận.

Để giết thì giờ, tôi chuyển sang chuyện khác.

Hiện nay, viện chúng em đang mở lớp học tập theo nền giáo dục của người Lemuri,

chị có muốn đi học cùng không?

Em bảo học cái gì ở người Lemuri? Chị giờ đã già rồi, cuộc đời mình trót quyện

vào cái nghiệp hát quan họ, em bảo chị còn sức đâu mà học thêm một cái gì nữa?

Thực tình, tôi nói là để cho có chuyện nói thôi, đâu có mong được bà chị cùng tham

gia vào cuộc sống khá lạ này. Với tầng lớp nghệ sĩ, không chắc họ dễ dàng chịu ràng

buộc, đi vào khuôn phép nghiệt ngã trong lối sống như bóp mồm bóp miệng ăn chay

trường chẳng hạn, hay cấm kỵ buông thả trong quan hệ luyến ái...

Trong việc giao lưu văn hóa liên hành tinh này, được phép của thầy An, tôi đã tổ chức

thêm các đoàn sau: đoàn Chèo và ca trù, đoàn Dân ca ba miền, đoàn Ca múa dân tộc,

đoàn Múa ba lê và cuối cùng là đoàn Nhạc giao hưởng. Đoàn nào cũng được ba hành tinh

bạn hoan nghênh nhiệt liệt.

Về chuyện học tập chương trình của người Lemuri, tôi tổ chức một lớp tập thể năm

người của Trái Đất gồm thầy An và vợ thầy, Ngân, Duyên và mẹ tôi; còn lớp nữa chỉ có

một người là May.

Lúc đầu, May được tôi đưa đến Viện, tham gia học chung với những người trên Trái

Đất. Nhưng cảm giác đau đớn, xót xa về cái chết của bố mẹ ngay trên bầu trời hành tinh

này cứ thường xuyên ám ảnh May không thôi. May không thể nào tập trung tư tưởng để

học, buộc lòng phải bỏ dở, trở về. Về chuyện này, một lần nữa tôi cùng với Sao cầu cứu

đến linh hồn hai bố mẹ. Hôm chúng tôi mời ông bà về, tại nhà riêng của hai anh em trên

hành tinh Atlantis, bà mẹ lên tiếng:

May à, bố mẹ không ngờ đến giờ con vẫn còn đau đáu xót xa, nuôi lòng hận thù

Trái Đất hay sao? Điều này phỏng ích gì? Quá khứ dẫu có thế nào, con cũng đừng để nó

ảnh hưởng đến hiện tại và tương lai của con.

Nghe mẹ nói, May đã khóc rất nhiều. Nước mắt giàn giụa hai bên má như thể lần này

là lần cuối cùng, xót xa hận thù May buộc phải để nó trôi đi theo dòng nước mắt. Nước

mắt lần này đã gột rửa hết mọi hận thù.

Tôi góp thêm:

Không phải riêng một cá nhân mà cả dân tộc Việt Nam, trong lịch sử phát triển của

mình, cũng đã bao lần chết chóc đau thương trong các cuộc xâm lược của các đế quốc.

Người Việt Nam cũng hận lắm chứ, nhưng bây giờ phải quên đi quá khứ, bắt tay làm ăn,

giao lưu học hỏi tất cả các nước để xây dựng xã hội hòa bình, ấm no, hạnh phúc.

May bây giờ đã thôi khóc:

Con đã hiểu. Từ nay con xin hứa quên đi tất cả.

117

Tuy nhiên, May vẫn kiên quyết:

– Nhưng, xin bố mẹ thứ lỗi, tự đáy lòng, con vẫn không muốn học trên Trái Đất một

giờ khắc nào. Hãy để con học người Lemuri trên hành tinh của họ. Chắc chắn ở đó, con

sẽ tìm thấy sự yên ổn thanh thản, bởi vì hành tinh này rất bình yên, con người rất hiền

hòa hệt như hành tinh và con người chúng ta. Hơn nữa, đêm đêm, con còn có thể nhìn lên

bầu trời sao, tìm lại hành tinh của chúng ta để đỡ nhớ nhà. Ý May đã quyết như vậy, vả

lại điều này cũng hợp lý, tôi đành chuyển May sang học ngay ở hành tinh Lemuria.

Chuyện học của những con người Trái Đất không phải là xuôi chèo mát mái, không

có điều gì phải bàn cãi. Lúc đầu nghe nói, ai cũng thích và ghi tên ào ào. Tôi bảo cần phải

suy nghĩ cho kỹ trước khi quyết định, bởi vì chuyện này sẽ lái cuộc đời mình đi theo một

hướng mà mình chưa biết nó sẽ ra sao. Tôi dùng một câu hỏi khá cụ thể: có ai muốn mình

đi tu hay không, ví dụ ăn chay niệm Phật? Ở đây không có chuyện ngày ngày mất thì giờ

lên chùa đọc kinh niệm Phật, nhưng ăn chay thì có. Yêu cầu những ai tham dự lớp phải

bảo đảm có cơ thể thanh khiết, tâm hồn trong sáng và tấm lòng nhân ái. “Học người

Lemuri là phải sống và suy nghĩ theo phong cách của người Lemuri”, tôi lặp lại câu nói

của ông Mun cho mọi người nghe. Thế là mọi người trở nên đăm chiêu, suy xét. Rèn

luyện đạo đức, tu dưỡng tinh thần để có một tâm hồn trong sáng và một tấm lòng nhân ái,

yêu cầu này là lẽ đương nhiên nếu muốn mình là một người lương thiện. Tuy khó đấy

nhưng nếu có lòng quyết tâm vẫn khả dĩ. Song, cái món chay tịnh, suốt đời chỉ biết trái

cây hay nhịn ăn như tôi thì còn phải xem lại. Con người trên thế gian này vất vả chịu

thương chịu khó chủ yếu là vì miếng ăn. Nhà cửa tuềnh toàng, áo quần rách rưới, thiếu

thốn những phương tiện giải trí của xã hội văn minh, v.v.. đều có thể chịu được, nhưng

đói khát thì không thể. Con người ở tầng lớp cùng khổ của xã hội không được học hành

đến nơi đến chốn cũng chỉ vì nghèo, thiếu ăn. Đối với người giàu, ăn là một trong các tứ

khoái ở đời. Chính điều kiện này làm nhiều người phân vân.

Hỏi những người vẫn quyết tâm theo đuổi chuyện học tập thì được biết như sau. Thầy

An đồng ý học vì thầy muốn qua tri thức và quyền năng lĩnh hội được, thầy sẽ thực hiện

nhiều đề tài nghiên cứu trong nhiều lĩnh vực mà thầy thấy trước sự thành công to lớn. Vì

khoa học, thầy tự nguyện sống hơi kham khổ một chút và thầy tin tưởng vững chắc rằng

mình sẽ không bõ công. Với lại, thầy bảo mình già rồi, gian khó thiếu thốn thời chiến

tranh, bao cấp đã từng mà cao lương mỹ vị trong thời bình cũng đã trải, nên việc ăn uống

bây giờ đối với thầy không còn quan trọng nữa. Đấu tranh dữ dội nhất là các chàng trai,

cô gái vừa mới đôi mươi. Họ rất cần một thân thể cân đối, khoẻ mạnh, mà theo lý thuyết

dinh dưỡng hiện đại, con người mỗi ngày phải bảo đảm lượng bột, lượng đạm, lượng chất

béo cùng bao nhiêu thứ khoáng chất và vitamin. Họ còn phải nghĩ đến chuyện lập gia

đình. Cuối cùng còn lại Ngân, cử nhân vật lý và Minh, kỹ sư địa chất là mạnh dạn ghi

tên. Những người khác bảo cần suy nghĩ thêm, nếu có học, xin tham dự ở khóa sau cũng

chẳng muộn.

Ngoài những thành viên ở Viện ra, thầy An xin cho cô Lan, vợ thầy, cùng học. Về

phần tôi, tôi mời bác cả và mẹ tôi. Bác cả lúc đầu có vẻ hăm hở nhưng sau xin rút vì thấy

mình già rồi mà còn phải bóp mồm bóp miệng để đi học. Bác có thể nhịn ăn một ngày

nhưng, nhịn rượu một bữa thì không. Mẹ tôi có hơi chần chừ vì nghĩ mình già rồi, còn

bon chen ham hố làm gì về chuyện có nhiều tri thức và quyền năng. Nhưng sau một buổi

suy nghĩ lại, mẹ bảo mẹ có thể hy sinh tất cả, làm mọi thứ – ở đây là theo lớp học – để

được gần hai vợ chồng tôi. Hóa ra mới đặt vấn đề mở lớp, tưởng nhiều người sẽ náo nức

đổ xô đăng ký nhưng không phải vậy.

118

Trừ May là người Atlan, những học viên là người Trái Đất bị chọn lựa gắt gao, ngoài

chuyện tự nguyện ăn chay. Cay đã kiểm tra lục lọi rất dữ trong đầu óc từng người xem

động cơ học tập có lành mạnh không, xem ai nuôi những ý tưởng có tính chất mưu mô

tính toán thiệt hơn. Cay cảnh báo thẳng với mọi người rằng trong lúc học cũng như sau

khi học xong, tri thức và quyền năng ở những người thoái hóa về đạo đức sẽ mất dần đến

lúc không còn giữ lại được chút gì, hệt như người chưa học. Thủ lĩnh cử Cay về Trái Đất

dạy đầu tiên. Nơi học là Viện của chúng tôi. Tôi bố trí cho những người ngoài Viện đến ở

khách sạn tại thị xã, mỗi ngày đi về hai lần bằng taxi. Tổ chức ăn uống theo quy định,

ngay tại Viện.

Thời điểm này, tôi đang chuẩn bị cho đoàn Chèo và ca trù đi biểu diễn, trên cả ba

hành tinh: Lemuria, Atlantis và P16. Trước khi tôi đi, thầy An triệu tập cuộc họp toàn thể.

Thầy muốn bàn kế hoạch hoạt động chính thức của Viện trong thời gian tới. Chủ đề chính

là giúp Nhà nước nâng cao đời sống cho người nghèo. Thầy nói:

Xóa đói giảm nghèo hiện nay là chính sách lớn của Nhà nước ta. Chế độ ta có tỏ ra

ưu việt so với các chế độ khác hay không phần lớn là ở chính sách này. Vậy Viện ta hỗ

trợ Nhà nước đến đâu trong tầm khả năng của mình?

Sau đó thầy phân tích: muốn giúp người nghèo, phải chú ý đủ hai mặt, một là xóa đói

nghèo, hai là xóa bệnh tật ốm đau do nghèo. Ngay người giàu mà lắm bệnh, họ cũng đâu

có thấy sung sướng hạnh phúc trong cảnh giàu có đó.

Muốn người nghèo không còn đói, tức là thiếu ăn nên bị đói, có mấy cách giải quyết.

Một là không cần phải ăn nữa nhưng vẫn no như cách làm hiện nay của tôi. Muốn vậy,

phải nhờ Oshi nghiên cứu cải tiến bộ tiếp điện dùng cho đèn mà hành tinh Lemuria vừa

thải bỏ, chuyển đổi công năng cho nó phát lại năng lượng vũ trụ vào cơ thể con người

thay năng lượng do thực phẩm mang lại. Chỉ e rằng con người phải đấu tranh tư tưởng dữ

lắm mới chế ngự nổi cơn thèm một trong bốn tứ khoái ở đời. Hai là chỉ với ít tiền vẫn đủ

để mua loại thực phẩm giàu dinh dưỡng, ăn ít vẫn no, như trái cây của người Lemuri hay

phong bánh dinh dưỡng của người Atlan. Vậy nên, một là Viện có kế hoạch kết hợp với

Viện Nông nghiệp nghiên cứu chất lượng dinh dưỡng trái cây các loại trên hành tinh

Lemuria và nuôi cấy tế bào để phát triển, hai là Viện kết hợp với Viện dinh dưỡng và

thực phẩm nghiên cứu phân chất bánh và sữa dinh dưỡng của người Atlan, học quy trình

sản xuất để có sản phẩm rẻ bán cho người nghèo.

Vấn đề thứ hai cũng khá lớn mà Nhà nước và bộ Y tế chưa nghĩ đến là chương trình

xóa thuốc, giảm bệnh cho người nghèo. Người nghèo khi có bệnh, nhất là bệnh hiểm

nghèo, thực sự không biết xoay trở thế nào trước viện phí và giá thuốc cao ngất trời hiện

nay. Nhiều người đành bó tay, trở về nhà chờ chết. Tuy đây đó, nhờ báo chí phát hiện và

đề nghị, nhiều mạnh thường quân là những cá nhân hay đơn vị công ty xí nghiệp giúp đỡ

nhưng không thể thỏa mãn hết tất cả người nghèo bị bệnh. Vấn đề bệnh tật của người

nghèo theo ý thầy An là phải chữa tận gốc mới được. Gốc của vấn đề này là gì? Là làm

sao người nghèo không mắc bệnh. Điều này nêu ra có vẻ khôi hài vì người giàu ăn uống

đầy đủ còn mắc bệnh nữa huống chi người nghèo vốn suy dinh dưỡng trầm kha, nhất là

luôn luôn phải sống trong cảnh thiếu thốn, mất vệ sinh. Theo ý tôi, nếu ta giải quyết

không để người nghèo bị đói thì bệnh tật tất yếu sẽ giảm hoặc không có. Tuy nhiên khi có

cái ăn rồi, cái ăn buộc phải nhiều chất dinh dưỡng đồng thời phải thanh khiết như trái cây

của người Lemuri hay phong bánh của người Atlan. Bởi vì người giàu cũng vẫn bị bệnh

tật đâu phải do thiếu ăn mà chính vì cái ăn vừa vô độ, vừa chứa nhiều độc tố do nền

“công nghiệp hiện đại” mang lại, cộng với môi trường (không khí, đất, nước) ngày càng ô

nhiễm nặng nề.

119

Trước mắt, việc giúp đỡ người nghèo phải gấp rút chống bệnh tật. Tìm cách nào khi

trị bệnh, người nghèo không phải mất tiền. Có thể dùng quyền năng để trị bệnh theo cách

của người Lemuri được chăng? Tôi biết ở nước ta hiện nay, một số ít người có biết dùng

quyền năng để chữa bệnh. Họ thực sự vì người bệnh bởi vì họ chữa nhưng không lấy tiền.

Có nhiều người bệnh tật thuyên giảm, thậm chí khỏi được bệnh. Thế nhưng, Nhà nước và

nền y học hiện đại không muốn thừa nhận kết quả chữa bệnh của họ. Thậm chí một số

phương pháp chữa bệnh như thực dưỡng, nhịn ăn Oshawa, bấm huyệt, châm cứu, thiền,

yoga có cơ sở khoa học hẳn hoi, vẫn chưa được khuyến khích nhiệt tình. Tôi chạnh nghĩ

giá như bộ Y tế, bỏ ra ngoài tai những phản đối chê bai của những thầy thuốc Tây y được

học hành bài bản và có cơ sở lý luận đầy mình, cứ thử nghiệm tổ chức cơ cấu vào bất kỳ

bệnh viện nào một khoa dành cho người nghèo, chuyên trị bệnh bằng những phương

pháp không tốn tiền thuốc. Điều này còn dính đến những khoản thu của Nhà nước do

thuế mang lại. Nhưng có những khoản thu giống như con dao hai lưỡi là từ những ngành

công nghiệp như thuốc lá, rượu bia, thuốc diệt cỏ, thuốc trừ sâu,... và suy cho cùng kể cả

dược phẩm.

Nhân chuyện này, tôi bỗng nhớ đến một câu nói của nhà bác học nổi tiếng Pascal

“Con người là một cây sây yếu ớt nhưng là cây sây biết suy nghĩ”. Sao mà nó quá đúng

trong trường hợp này. Ở đây, con người khi bị bệnh luôn luôn ỷ lại vào các loại thuốc mà

không biết tự vận dụng năng lực tiềm ẩn vốn có để tự chữa trị. Rõ ràng con người biết

suy nghĩ của ông Pascal cần có một cây cọc, tự buộc chặt mình vào đó phòng khi có một

trận cuồng phong ập đến mới đứng vững nổi. Tại sao con người không phải tự mình là

cây tre hay cây đa, cây đề vững chải biết suy nghĩ như người Lemuri có hơn không? Thầy

An cuối cùng cho rằng việc theo học lớp đào tạo con người theo mẫu người Lemuri cũng

góp phần không nhỏ trong đề tài nghiên cứu có ý nghĩa to lớn này. ZZZ

Do đã có kinh nghiệm từ lần đón ông Mun, tôi đưa Cay về Trái Đất và cho nghỉ tại

Viện. Trước khi bắt đầu khai giảng, tôi dùng tàu chở Cay và tất cả học viên đi tắm năng

lượng vũ trụ. Do vậy, trong thời gian học, không ai thấy đói và cần ăn. Điều này làm cho

cơ thể thanh khiết và việc tiếp thu trở nên nhanh chóng và hiệu quả rõ rệt. Đều đều mỗi

ngày hai buổi, mỗi buổi một giờ, lớp học tổ chức ngay tại hội trường của Viện. Sàn nhà

đã được trải kín bằng thảm trông khá sạch sẽ và đẹp mắt. Mọi người ngồi xếp bằng ngay

trên thảm. Tối, Cay lấy lại vóc dáng to lớn vốn có và ra ngủ ngoài trời giống hệt ông

Mun. Những ngày cuối khóa, mọi người đã nhìn được mọi vật trong đêm tối và biết tự

mình bốc lên cao và bay đi. Mọi chuyện chỉ được phép diễn ra trong Viện, không được lộ

ra ngoài.

Trong những ngày ở Viện, ngoài giờ dạy, tôi bố trí người đưa Cay đi thăm thú các nơi

trong Hà Nội. Giống hệt ông Mun, Cay chê Hà Nội ồn ào, không khí đầy bụi bặm, hơi

xăng dầu nồng nặc khó thở, khí hậu nóng bức, ẩm ướt, khó chịu. Cay không hiểu tại sao

mọi người suốt ngày cứ tràn ra đường, chen nhau mà đi rồi va chạm nhau sứt đầu mẻ

trán, lắm lúc còn xảy ra tai nạn chết người.

Hôm có trận đấu bóng giữa sinh viên các trường đại học, Minh mua vé đưa Cay vào

xem. Ngồi trong khán đài hạng vé VIP (Very Important Person – người rất quan trọng),

Cay thắc mắc tại sao mọi người cứ phải tranh nhau một quả bóng trong lúc hai bên có

đến hai mươi người trừ hai thủ môn. Thế là Cay nhân bản một quả bóng thành mười quả,

ý muốn cứ hai người của hai đội tranh nhau một quả. Thế là sân bóng đầy nhưng quả

bóng không biết từ đâu xuất hiện. Tiếng còi rú rít đinh tai nhức óc của trọng tài, tiếng

cười nói la hét inh ỏi ngạc nhiên thích thú của khán giả tràn ngập bắt buộc trận đấu dừng

ngay lại. Minh kéo tay Cay, nói nhỏ hãy làm biến ngay chín quả bóng thừa thãi vô bổ ấy

120

đi. Cay nhíu mắt, dọn đấu trường cho trở lại như cũ. Trận đấu tiếp tục nhưng không một

ai hiểu vì sao trừ Minh. Ngày hôm sau, tất cả các báo Hà Nội đều đăng tin chuyện lạ này

và ai nấy đều phỏng đoán có một ông già Khốt Ta Bít thật đang có mặt tại Hà Nội và

mong chờ xem những chuyện lạ khác sắp xảy ra. Từ lúc trận đấu tiếp tục, Cay tỏ vẻ

không thích thú với trò “không biết nhường nhịn nhau” này, ngồi uể oải ngáp dài. Minh

thấy vậy kéo Cay đi xuống, ra cổng. Lần trở về, không muốn gọi taxi như lần đi, Cay thu

nhỏ người Minh, bắt bỏ vào túi hệt như bắt một con mèo con, khoác tấm áo tàng hình rồi

bốc người lên cao, bay đi.

Hôm sau, đến lượt Ngân đưa Cay đi chơi. Ngân vào văn phòng thầy An xin giấy giới

thiệu đến tham quan một cơ sở giết mổ gia cầm hiện đại công suất 500 con/giờ vừa xây

dựng xong sau đợt dịch cúm gia cầm do virut H5N1, ngay tại thị xã Sơn Tây. Ngân bị

thầy An mắng cho một trận. Thầy nói thẳng mà không hề sợ Ngân tự ái:

Em để đầu óc đâu đâu mà mê muội đến vậy? Làm sao người Lemuri ngửi được

mùi tanh của súc vật bị giết mà đưa Cay vào đó? Còn nhớ ông Mun không?

Ngân ngớ ra:

Vâng em xin lỗi. Thôi, khỏi cần giấy giới thiệu, em đưa Cay đến siêu thị vậy.

Đương nhiên, Ngân sẽ đưa Cay đến siêu thị. Nhưng cái máu nghịch ngợm của cô gái

thông minh này không chịu thua. Trước khi đến siêu thị, cô vẫn đưa Cay đến nhà máy

giết mổ gia cầm.

Cô chuẩn bị cho mỗi người một áo tàng hình và một cái khẩu trang có tẩm nước hoa,

chọn lấy thứ mùi mà Cay vừa chấp nhận được vừa còn có tác dụng làm át mùi tanh. Có

áo tàng hình thì đâu cần giấy phép. Ngân nói thật cho Cay biết là đi xem dây chuyền giết

mổ gia cầm “dã man” của người Trái Đất. Cay hãy cố gắng giữ mình thật bình tĩnh, biến

đổi tạm trong chốc lát các con gà đang bị treo trên dây chuyền thành những thây người

rồi rút ra ngay, dọa mọi người một chuyến cho thỏa thích. Cay đã thực hiện đúng y yêu

cầu của Ngân.

Và chuyện gì đã xảy ra khi đó tại cơ sở giết mổ gia cầm? Những nữ công nhân đang

làm bỗng ngước nhìn, thấy toàn là thây trẻ con treo lủng lẳng trên móc dây chuyền, hốt

hoảng ôm mặt bỏ ra ngoài kêu cứu. Bảo vệ xông vào xưởng nhưng không thấy gì khác lạ.

Dây chuyền vẫn đang chạy và những con gà đang bị treo trên móc di chuyển. Bảo vệ bực

bội lầu bầu cho rằng các cô công nhân thần hồn nát thần tính, buổi sáng ăn gì mà nhìn gà

hóa cuốc, không thể tin là xí nghiệp đang giết mổ trẻ con. Thế nhưng các báo lại tin. Một

lần nữa, các báo Hà Nội đăng tin giật gân ông già Khốt Ta Bít vừa đến Sơn Tây, vào

quậy cơ sở giết mổ gia cầm hiện đại mới được khai trương ít ngày.

Khi vào siêu thị, trong cái cảnh ngồn ngộn đầy ắp hàng hóa đủ loại, Cay cứ nhăn

mày, nhíu mũi vì mẫn cảm với sự ô nhiễm của rau quả do thuốc trừ sâu, của thịt, cá do

thuốc tăng trưởng, của thực phẩm nấu sẵn do thuốc chống mốc. Thấy Cay đi chơi trong

tâm trạng không thoải mái, Ngân đành bỏ cuộc rủ Cay về nhà. Cay lại thu nhỏ Ngân, bắt

bỏ vào túi như bắt một con mèo con, khoác lên người chiếc áo tàng hình rồi bay về.

E rằng thị xã Sơn Tây “heo hút không hấp dẫn”, Ngân đề nghị thầy An cho đưa thầy

Cay xuôi về Hà Nội thăm thú một chuyến, nhất là vào dịp cả thủ đô đang tưng bừng lo

cho Hội nghị APEC. Vẫn áp dụng kiểu “mèo con bỏ túi”, khoác trùm lên người chiếc áo

tàng hình, Cay theo lời hướng dẫn của Ngân bay nhanh về hướng Đông. Tìm một chỗ

vắng khu vực Cầu Giấy, Ngân bảo Cay hạ xuống, thu nhỏ người lại rồi cả hai hiện

nguyên hình. Hai thầy trò lấy vé xe buýt đi về phía Bờ Hồ. Ngồi trên một phương tiện

vận chuyển chậm chạp nhưng những cảnh lạ hai bền đường làm Cay quên cảm thấy sốt

ruột. Đến Bờ Hồ xuống xe, hai thầy trò hòa vào dòng người ngược xuôi. Cay hỏi ở đây

121

có nhiều người cao lớn, da trắng có vẻ không phải người Việt. Ngân đáp ở thủ đô, lúc nào

cũng có người nước ngoài đến dưới danh nghĩa du lịch hay công tác. Cay hỏi:

Trong số họ có ai là người Mỹ không?

Có. Nhưng em không phân biệt được bởi vì người Châu Âu, Châu Mỹ giống nhau

lắm.

Họ không còn sợ người Việt sao?

Tại sao lại sợ? Bây giờ hòa bình rồi, quá khứ thù địch nên quên đi để xây dựng

quan hệ hữu hảo.

Ta thấy có nhiều linh hồn người da trắng cao to mặc binh phục cũng đi lại trên

đường. Họ tỏ thái độ vui vẻ, hân hoan và đôi khi còn mạnh dạn bắt tay một số linh hồn

binh sĩ người Việt. Họ còn kể nhiều chuyện cho nhau nghe nữa.

Thầy Cay nhìn thấy linh hồn ư? Chúng em muốn nhìn thấy linh hồn người chết phải

đội chiếc mũ vô hình đang để ở Viện.

Rồi đây, sau khi học xong chương trình học bậc cao của người Lemuri, em cũng sẽ

nhìn thấy linh hồn trực tiếp chứ không cần dùng đến mũ vô hình.

Thời gian Hội nghị APEC và đón các đoàn nguyên thủ các nước đến thăm cũng trùng

với thời gian kỷ niệm ngày Nhà giáo, nên hai thầy trò còn bắt gặp trên đường nhiều người

chắc chắn phải là thầy cô giáo mới đèo bòng theo xe nhiều bó hoa đẹp rực rỡ.

Chỉ toàn là hoa! – Ngân phàn nàn – Cuộc sống thanh bần của nhà giáo đâu chỉ cần

hoa. Giá như thay vào đó một ít thứ gì ăn được thì hay biết mấy!

Em muốn thay hoa bằng thứ gì?

Tỷ dụ như hộp sữa hay bánh kẹo chẳng hạn.

Hộp sữa, bánh kẹo trông chúng như thế nào? – Cả đời, Cay đã bao giờ nhìn thấy

hộp sữa hay bánh kẹo là cái gì đâu – Hay là ta biến chúng thành trái cây vậy?

Được đấy! Nhưng để cho các thầy cô về đến nhà hẵng!

Hôm ấy, chắc chắn ai là thầy cô giáo ở Hà Nội đều không khỏi ngạc nhiên khi vừa

mới đặt các bó hoa lên bàn là thấy chúng biến mất và thay vào đó là những trái cây to

tướng và thơm ngon lạ lùng chưa bao giờ thấy có mặt trên thị trường. Chả là khi nói về

trái cây, Cay đâu có biết trái cây Việt Nam nó ra làm sao. Thế là Cay thế chỗ các bó hoa

bằng trái cây của hành tinh Lemuria. Không ai có thể giải thích hiện tượng lạ này và các

báo chí một lần nữa cho đó là trò chơi của ông Khốt.

Quen sống trong cảnh đơn giản, thanh bình, yên ả của quê hương mình, hình như Cay

không có thói tò mò của tuổi thanh xuân như những người chúng ta trên Trái Đất. Những

lần sau, ai rủ đi đâu, Cay cũng từ chối. Cay thích ở nhà xem tivi – xem truyền hình –, ưa

chuộng những phim hoạt hình của trẻ con và rất ghét những phim hình sự hoặc chiếu

cảnh chiến tranh đổ máu. Cay tỏ ý muốn ở nhà có một chiếc máy thu hình chiếu phim

hoạt hình cho hai bé Mai và Hay xem. Khi Cay không dạy nữa trở về Lemuria là ông

Khốt Ta Bít cũng biến khỏi Hà Nội. Nhưng một lần gặp Ngân trong phòng thí nghiệm,

tôi cảnh báo sau này học xong chương trình của người Lemuri, chớ có thay Cay làm Khốt

Ta Bít như vừa rồi. Ngân cười mỉm, mắt sáng long lanh. Tôi biết cô này sẽ không chịu

nghe tôi. Tôi cảnh báo với lời lẽ nặng hơn:

Em mà quậy kiểu Khốt Ta Bít, sẽ không ai lường trước hậu họa như thế nào đâu?

Hậu họa như thế nào ạ?

Lại như thế nào! Hãy chịu khó động não tí đi. Dẫu sao, chuyện làm này là không

tốt, có chủ tâm quấy rối sự yên lành của bàn dân thiên hạ. Làm điều ác, rồi em sẽ mất hết

tri thức và quyền lực.

122

Nghe đến đây, Ngân đâm ra sợ thực sự, không còn cái vẻ nhơn nhơn như trước. Đột

nhiên, Ngân ôm lấy tôi, hôn đánh chụt vào má và nói lời cảm ơn rồi bỏ đi. Tôi nhìn

quanh không thấy ai, yên tâm. Làm việc với Ngân bấy nhiêu năm ở trường rồi đến Viện,

tôi chưa bao giờ bị cám ơn theo kiểu ngọt ngào nhưng hơi quá đáng này. Tôi gọi Ngân

trở lại và hỏi:

Cám ơn em về cái hôn thân tình đôi lúc cũng cần thiết – không hiểu sao tôi nói trớ

đi như thể chữa thẹn giúp cho cô ấy – Hình như ngoài công việc ở Viện ra, em còn tham

gia công tác không quân?

Tôi biết chắc con gái nhạy cảm sẽ hiểu tôi muốn hỏi gì nếu không muốn bị cho là

sống sượng, thiếu tế nhị. Ở Hà Nội, từ lâu người ta hay ghép vào binh chủng không quân

những ý như người thanh niên còn độc thân là đang tham gia phòng không, không quân,

hay bánh bao không nhân là bánh bao không người lái,...

Không quân hay là không quần theo kiểu những chàng trai người Atlan? – Ngân

chế riễu tôi vì đã từng nhìn thấy tôi mặc bộ áo váy của người Atlan.

Bậy nào! Ở Myanmar, nam giới chẳng phải mặc váy sao?

Ngân ngâm nga:

Vâng, Tham gia binh chủng phong không, / Em chửa có chồng mà chẳng ai

thương.– Ngân trả lời mà như ứng khẩu thành thơ Anh hãy làm mối cho em đi!

Tôi đọc ngay thấy ý nghĩ trong đầu của Ngân: “Sao ngày xưa mình không chớp lấy

anh chàng này nhỉ, để vuột mất vào tay cô gái Atlan. Hay vì anh chàng quá nghiêm mà ta

sợ? Hay vì Duyên cũng có cảm tình với hắn nên ta e ngại làm đổ vỡ tình bạn gắn bó lâu

nay?”.

Tôi biết Ngân và Duyên là đôi bạn thân cùng quê tại Phùng, một thị trấn của tỉnh Hà

Tây. Người Phùng có giọng nói đặc biệt không phân ranh giới giữa dấu huyền và không

dấu. Ví dụ “người Phùng” thì phát âm là “ngươi Phung”. Cho nên lúc hai cô nàng mới

đến phòng thí nghiệm Vật lý, khi biết được quê quán của họ, tôi đã hỏi đùa tên thật hai cô

là Ngần, Duyền hay Ngân, Duyên. Trường hợp này không khác người Huế, khi nói

không phân biệt dấu huyền và dấu nặng. Vợ thầy Quý người Huế. Thế mà khi cô sinh đôi

hai gái, thầy Quý cắc cớ đặt tên một đứa là Huế và đứa kia là Huệ như thể nhằm trêu

chọc bà con họ ngoại.

Tôi đáp nhằm giải tỏa sự hối tiếc sâu thẳm trong lòng Ngân:

Rồi anh sẽ tìm cho em một đám. Thực tình, lấy nhau còn do duyên số.

Anh tìm thấy duyên số của anh với Sao ở đâu vậy?

Từ Tashi, ông Mun và sau này có cả thầy Hơn khi anh hỏi họ.

Tôi chợt nghĩ.. ai nhỉ? Người thích hợp với Ngân là ai? Một cô gái phải thừa nhận là

thông minh, sáng dạ, nhanh nhẹn và hay nghịch ngợm. Tôi chợt tìm thấy trong đầu Ngân

“Chẳng lẽ anh Kim muốn giới thiệu mình với thầy Cay?”. Tôi vùng bật cười, không còn

giữ ý tứ gì rằng là mình đã lục lọi bất hợp pháp trong đầu người khác:

Này, cô bé thân yêu, anh sẽ tìm cho em bất cứ ai nhưng tuyệt đối không phải là Cay

đâu đấy nhé!

Trong khi Ngân chưa hết đỏ mặt ngượng ngùng như vừa bị bắt quả tang, tôi hỏi tiếp

do ý nghĩ chợt đến trong đầu:

Em thấy Sao của anh có xinh không?

Ngân không trả lời thẳng mà hỏi lại tôi:

Thế em và Sao, ai xinh hơn?

123

Ừ, bằng nhau, nhưng mỗi người mỗi vẻ. Sao thì đẹp hiền hậu còn em thì “đẹp dễ

sợ”. – tôi dùng ngay cách nói của người Sài Gòn “dễ sợ” để cô nàng muốn hiểu thế nào

cũng được – Thế em công nhận vợ anh đẹp thực sự phải không? Anh sẽ tìm cho em một

người đẹp như Sao ấy nhưng là con trai, tất nhiên.

Tôi chấm dứt câu chuyện ngay tại đây, sợ mình đi quá đà. Vả lại, chuyện đẹp hay xấu

chưa phải là cái quyết định, như tôi đã nói, còn do duyên số. Không hiểu tại sao mình

không hề quan tâm đến các cô gái trong Viện nhỉ. Ngay khi Tashi trên con tàu vũ trụ báo

cho tôi biết là các cô rất để ý đến mình, mình vẫn thờ ơ. Bây giờ, tôi có cái cảm giác thân

thiết với Ngân, muốn Ngân gần gũi với mình hơn thông qua May. Tôi định khi mấy

người đến học thầy Hơn, tôi sẽ hỏi thầy về tương lai duyên nợ của May. Nếu phù hợp với

Ngân, tôi sẽ nhanh chóng ghép luôn.

Thế rồi khóa học do Cay phụ trách tổ chức tại Viện cũng đến hồi kết thúc. Trong buổi

tiệc tiễn đưa chỉ có trái cây nhưng không mấy ai buồn ngó tới. Trước mặt đông đủ mọi

người, học viên và không phải học viên, thầy An đứng lên nói lời cám ơn thầy Cay và

qua thầy Cay chuyển lòng biết ơn đến thủ lĩnh hành tinh Lemuria. Mọi người hỏi cảm

tưởng của Cay trong thời gian ở Trái Đất như thế nào. Cay nói:

Mấy ngày ở Viện cùng với mọi người chăm chỉ học tập là một kỷ niệm khó quên về

lòng mến khách của những con người ở đây. Tuy vậy, lúc nào Cay cũng có cảm giác

không được bình an, tâm hồn luôn bị xáo trộn, không yên. Cay thấy loài người trên hành

tinh này sống xô bồ, lúc nào hối hả, gấp gáp, dường như cố chạy đua với thời gian quá

ngắn ngủi và lắm rủi ro của cuộc đời mình chăng. Theo Cay, nếu có phát triển nền văn

minh vật chất thì nên theo hướng tích cực của người Atlan.

Những cấp học tiếp sau, Cay cho biết là, mọi người phải đến Lemuria, bởi vì thầy

Hơn già yếu không đến Trái Đất để dạy như Cay được. Mọi người cho rằng như vậy cũng

hay, vì có dịp du hành vũ trụ một chuyến và biết hành tinh người ta sống văn minh như

thế nào. Thầy An bảo Minh mang hai hộp giấy ra và nói:

Không mấy khi thầy Cay có dịp đến Việt Nam để tổ chức lớp học, nhân buổi chia

tay, Viện có ý muốn tặng thầy một màn hình kèm bộ đọc đĩa CD (Computer Disk – đĩa

máy tính) cùng với một số đĩa ca múa nhạc, đĩa phim hoạt hình và đĩa phim truyện giả

tưởng để cả nhà xem giải trí. Khi đem các thứ này về đến nhà, Kim và thầy Cay có thể

nhân bản và khuếch đại để toàn thể cư dân hành tinh mỗi gia đình một bộ xem chơi.

Mọi người cùng đến bắt tay Cay ra chiều bịn rịn và hẹn tái ngộ khi cả lớp đến hành

tinh Lemuria tiếp tục học dưới sự chỉ dẫn của thầy Hơn.

Sau lớp học này, tôi còn tổ chức một lớp học nữa dành cho những người còn lại của

Viện. Tôi có bàn với thầy An là có nên mở rộng thêm đối tượng, mời thử một vài người

bên bộ Công an, biết đâu chừng sẽ có hiệu quả tốt cho đất nước. Thầy An đăm chiêu suy

nghĩ một lát nhưng cuối cùng không dám quyết, hẹn một dịp khác. Sau này, thầy có thổ

lộ với tôi rằng mình không nên cực đoan cứ nghĩ một chiều nếu gieo hạt tốt sẽ cho ra kết

quả tốt. Cần phải thật thận trọng trong vấn đề đào tạo, nhất là khi ta chấp nhận một

chương trình chưa hề có trên Trái Đất này.

Do Nhà nước khuyến khích tư nhân kinh doanh, sau khi bàn bạc nhất trí, Viện chúng

tôi xin giấy phép mở một bệnh viện tư với mục tiêu là không vụ lợi, dành trị bệnh cho

người nghèo và cả những người giàu nhưng mắc bệnh hiểm nghèo, nói chung là những

bệnh nhân dính đến chữ nghèo. Có người hỏi đùa, người mắc bệnh nghèo tình nghĩa,

bệnh viện có nhận không? Thầy An trả lời nghiêm chỉnh, bảo sẽ nhận và bảo đảm chắc

chắn khỏi bệnh mà không tốn kém gì. Sau khi điều trị xong, họ sẽ giàu lên, giàu tình

nghĩa, giàu nhân ái vị tha. Sau khi xây dựng cơ ngơi xong, chúng tôi sẽ thu nhận những ai

124

biết chữa bệnh mà không cần đến dao kéo, thuốc men. Thực ra, chúng tôi không dám cực

đoan mà phủ nhận hết những ưu việt của nền y học hiện đại đang được trang bị những

máy móc tối tân và những món thuốc đặc trị. Bệnh viện hoàn toàn dư khả năng bỏ tiền

trang bị và mua những món đó, phục vụ chữa trị không mất tiền cho người nghèo. Những

người phục vụ bệnh viện vẫn được trả lương đàng hoàng hàng tháng, đủ cho gia đình họ

sống dư dả.

Trên đường trở lại Lemuria để đưa Cay về, tôi có ghé lại hành tinh Atlantis để chở

May sang học lớp mở đầu của thầy Cay. Tôi đến chào thủ lĩnh người Lemuri và chuyển

lời cảm ơn của thầy An đến thủ lĩnh. Tôi xin phép lớp được tiếp tục theo kế hoạch dưới

sự dẫn dắt của thầy Hơn. Tôi còn nói thêm rằng, sau khi học hết chương trình đào tạo của

người Lemuri, chắc chắn chúng tôi sẽ áp dụng rất hiệu quả tri thức và quyền năng phục

vụ đắc lực cho dân, cho nước Việt Nam trong nhiều lĩnh vực quan trọng và nhạy cảm.

Tôi nghĩ tiếp mà không dám nói ra lời rằng không hiểu người Lemuri đã áp dụng được gì

những điều do chương trình giáo dục mang lại để góp phần xây dựng đời sống tốt đẹp

cho chính mình. Thủ lĩnh nhìn tôi một lúc như để nghiền ngẫm điều gì, sau đó mới nói:

Ta rất mừng là cháu đã tìm thấy lợi ích chương trình giáo dục của người Lemuri khi

áp dụng vào hoàn cảnh của quê hương mình. Tuy nhiên, kết quả còn ở phía trước, bây giờ

mà nói e hơi sớm. Ta cũng đồng ý với suy nghĩ của cháu rằng người Lemuri chưa áp

dụng những điều đã học để giúp ích nâng cao đời sống của chính mình. Cũng có đấy

nhưng không nhiều lắm. Ta không giận cháu vì những ý nghĩ đó. Có lẽ, ta sẽ đem điều

này bàn thêm với các ông nghị trong chương trình nghị sự của Hội đồng tối cao nay mai.

Thế người Atlan sẽ áp dụng được gì với chương trình học của người Lemuri?

Thưa thủ lĩnh, cháu không được rõ. Sao, vợ cháu, đã học xong chương trình nhưng

chưa phát biểu điều gì. Còn May, anh của Sao, mới bắt đầu học nên chưa thể có ý kiến.

Cháu trộm nghĩ, chưa chắc người Atlan vận dụng được hết sức mạnh của học vấn Lemuri

như chúng cháu. Bởi vì họ đã đạt đỉnh cao của đời sống văn minh nên không còn những

vấn đề gay gắt về nhiều lĩnh vực do cuộc sống đòi hỏi như ở Việt Nam nói riêng và cả

Trái Đất nói chung.

Tôi lại bay trở về Trái Đất tổ chức chuyến đi cho năm người của lớp học và hai mươi

người của đoàn Chèo và Ca trù sang biểu diễn. Lần này, trong buổi diễn tập tổng kết của

đoàn tại khuôn viên Viện, tôi thuê người quay toàn bộ buổi diễn vào đĩa CD nhằm nhân

bản và cung cấp cho hành tinh Lemuria.

Tới chuyến bay sau, tôi chở đoàn năm người của lớp học. Cách di chuyển áp dụng hệt

như cho các đoàn nghệ thuật, nghĩa là thu nhỏ mọi người, cho ở trong căn nhà hàng mã,

cho con tàu và mọi người tắm trong dòng thác năng lượng vũ trụ để mọi người quên

chuyện ăn uống, mở nhạc ru cho mọi người ngủ say trong suốt chuyến bay. Đến khi tàu

đáp xuống Lemuria, tôi nhờ Cay mang căn nhà rồi cùng bay về phía nhà thầy Hơn. Trước

đó, Cay mượn của bé Mai một thùng đồ chơi cỡ hơi lớn một chút, bên trong chia thành ba

ngăn có lót vải để làm phòng ngủ cho hai vợ chồng thầy An, cho mẹ tôi và Ngân và ngăn

cuối nhỏ hơn cho Minh. Cái gọi là căn phòng này đem đặt tại nhà thầy Hơn, chứa đủ cho

năm người ở vóc dáng vốn có.

Sau khi được mời ra khỏi căn nhà hàng mã, tôi khuếch đại mọi người cho đến khi đạt

được vóc dáng cũ rồi đưa mọi người vào chào thầy Hơn. Tôi nói trước với mọi người là

thầy Hơn năm nay tròn 1215 tuổi, cho nên từ người học trò già nhất là mẹ tôi cho đến trẻ

nhất là Minh, khi thưa gửi với thầy, mọi người cứ gọi thầy xưng con thoải mái. Thầy Hơn

ân cần hỏi thăm sức khoẻ chúng tôi qua chuyến hành trình. Thầy nói sơ qua chương trình

học và cách học. Bởi vì thời điểm chúng tôi đến nhà thầy là buổi sáng mà mỗi buổi chỉ

125

cần học một giờ nên thầy bảo tổ chức học ngay. Tôi e ngại hỏi cô Lan và mẹ tôi có thấy

mệt không, hai người bảo hoàn toàn khoẻ khoắn như vừa qua một giấc ngủ sâu, nên có

thể học ngay được. Lần này, lớp đông đúc và học viên già trẻ đủ cả, học tập một cách

chăm chú nên thầy vui lắm.

Sau buổi học, Cay đưa May cùng hai nhỏ Mai và Hay đến thăm chúng tôi. Để tiện

việc nói năng trò chuyện hai bên có thể hiểu nhau, tôi cho hai bé mượn mỗi người một

máy thông dịch, còn Cay và May luôn thủ sẵn máy nên không cần. Tôi nhờ Cay tự thu

nhỏ mình cùng hai bé cho đến khi bằng chúng tôi để dễ bề nói chuyện. Thầy Hơn cũng tự

thu nhỏ mình như vậy.

Thế là mười một con người nhỏ bé của đủ ba chủng Lemuri, Atlan và Aryen ngồi

chuyện vãn với nhau rôm rả. Người nhà khổng lồ của thầy Hơn đem ra một đĩa trái cây

cũng khổng lồ chiêu đãi mọi người. Năm người từ Trái Đất mới lên kể cả hai bé đã bị thu

nhỏ cùng ồ lên vì thấy trái cây quá lớn. Hay chạy vào bên trong lặc lè mang ra một con

dao phay to tướng nói là để bổ nhỏ trái cây ra mới ăn được. Thật ra, con dao chỉ nhỏ và

dài bằng bàn tay của em thôi nhưng vì em bị thu nhỏ nên phải chịu sức nặng của con dao

dài một mét. Tôi giới thiệu cho thầy Hơn biết ai là thầy An, là mẹ tôi và Ngân, Minh. Tôi

lại nhắc Ngân chú ý người còn lại là May, anh của Sao và nhìn xem có phải anh chàng

đẹp không kém Sao là mấy. Ngân bây giờ mới nhớ con người đã từng tham gia cùng học

thầy Cay tại Viện nhưng lúc nào cũng ủ rũ như con gà rù, phát ghét. Bây giờ trông anh

chàng tươi tắn lắm. Ngay từ đầu, tôi đã ngồi ngay cạnh thầy Hơn. Tôi ghé tai hỏi thầm

thầy là chú ý giùm con, hai người: gái là Ngân và trai là May, trong tương lai có gì đó

ràng buộc họ với nhau không. Thầy mỉm cười gật đầu và cũng bảo nhỏ với tôi, thầy nhìn

thấy tương lai hai người rất rõ. Theo thầy, cặp này cũng xứng đôi lắm. Cay đưa mắt về

phía tôi, trao đổi bằng ý nghĩ:

Đúng là “ghét của nào trời trao của ấy”.

Cay đã dùng một câu nói của người Việt Nam rất phù hợp hoàn cảnh của May lúc

này. Phải nói là trước đây không lâu, May rất dị ứng, đúng hơn là, ghét người Trái Đất vì

cái chết của bố mẹ. Bây giờ thì khác rồi. Trong tương lai gần, May sẽ kết duyên cùng một

cô gái của Trái Đất là Ngân.

Đêm đầu tiên, Ngân ngủ chung buồng với mẹ tôi. Tôi biết Ngân mồ côi mẹ từ khi

mới biết đi lẫm chẫm. Mẹ Ngân mất vì bạo bệnh. Trong lúc cả nhà than khóc thì con bé

cứ tỉnh bơ, không hề biết rằng mình bị một mất mát vô cùng to lớn không có gì bù đắp

nổi. Lớn lên, nỗi khát khao tình mẫu tử cứ theo Ngân như hình với bóng. Ngân xin phép

mẹ tôi được gọi bà là mẹ và cứ thực tình thổ lộ rằng lẽ ra Ngân phải là con dâu của mẹ

chứ không phải là Sao. Chỉ vì tôi nghiêm quá, Ngân sợ. Với lại, phận làm gái không ai

dám tỏ tình trước, nhỡ không được gì thì không thể trốn vào đâu để giấu cái mặt dày. Mẹ

chỉ mình tôi là trai, nên sự thiếu con gái giống như căn bệnh mạn tính, nên nghe Ngân đề

nghị, mẹ đồng ý ngay. Mẹ an ủi, việc lương duyên là do số chứ không phải cứ muốn là

được. Thằng Kim, trông ngoài mặt nghiêm vậy chứ mỗi lần về nhà trông như con nít, lớn

rồi mà cứ đòi ngủ chung giường với mẹ, dúi đầu vào ngực mẹ và đôi khi còn sờ cả vú mẹ

như hồi còn nhỏ. Ngân rúc đầu vào ngực mẹ tôi, cười rúc rích, bảo rằng bây giờ anh Kim

chuyển sang hướng khác rồi, sau đó lăn ra ngủ ngon lành.

Sáng hôm sau, chờ giờ học của lớp kết thúc, tôi bay đến thăm mẹ. Người tôi gặp đầu

tiên là Ngân. Mắt sáng long lanh, Ngân cứ nhìn tôi cười mỉm. Tôi thấy lạ, thử lục lọi...

Tôi biết ngay có chuyện gì rồi. Phải kéo Ngân ra ngoài thôi. Tôi bảo Ngân theo tôi ra

phía sau nhà thầy Hơn để chiêm ngưỡng khu vườn trái cây trĩu quả của thầy, đồng thời

gặng hỏi:

126

Đêm qua, mẹ anh nói cho em biết điều gì về anh phải không?

Ngân chối:

Đâu có! Em chỉ đề nghị mẹ nhận em làm con gái trong nhà và mẹ đồng ý, thế thôi.

Còn gì nữa?

Không còn gì!

Này, liệu hồn đấy! Cố mà giữ mồm giữ miệng.

Rồi tôi xuống giọng, chấp nhận thỏa hiệp:

Này, hôn một lần nữa đi rồi im lặng, đừng có mà đem anh ra làm cái bung xung.

Tôi định nói chơi thôi, nhưng không ngờ Ngân làm thật. Ngân ôm chặt lấy tôi, lần

này áp nụ hôn lên đôi môi, đắm đuối, mắt lim dim, cố tận hưởng cái hạnh phúc mong

manh đã để vuột mất. Tôi gỡ tay, đẩy cô nàng ra:

Thôi đủ rồi. Đây là lần cuối.

Hình như con gái một khi đã hiểu mình hiểu người rồi thì không còn biết giữ gìn ý tứ

là gì. Ngân tỏ ra không chịu thua:

Đã là anh em một nhà rồi mà, em thích hôn anh mình, có sao đâu! Sẽ còn nhiều lần

nữa, chừng nào em chưa lấy chồng.

Đừng có mà...

Không hiểu sao, khi Ngân ôm hôn tôi, tôi cứ có cảm giác đó là Sao. Tôi cho Ngân

biết:

Mỗi lần hôn anh, Sao cũng mãnh liệt như vậy. Nhưng đồng thời lúc đó, cơ thể cô ấy

tỏa ra một mùi thơm đầy nữ tính, rất quyến rũ mà dù có đi đâu, anh cũng không bao giờ

quên. Nó nói lên tình cảm thực của Sao. Lần hôn đầu tiên, tuy miệng nói là Sao chưa

nghĩ đến chuyện yêu anh, nhưng cái mùi ấy đã tố cáo cô nàng “Lạy ông tôi ở bụi này!”.

Thế em thì sao?

Em ấy hả? Anh cũng thích cái mùi thơm nữ tính của em dầu chỉ thoang thoảng,

nhưng nó lại tố cáo “Lạy anh, em ở bụi khác!”.

Ngân cười ngặt nghẹo và đấm đấm vào vai tôi mà không nói gì thêm. Sau này, khi đã

thành vợ chồng với May rồi, tôi hỏi Ngân mỗi lần May hôn, cơ thể có tỏa mùi thơm

quyến rũ không, đương nhiên là đầy nam tính. Ngân thừa nhận là có và rút ra kết luận đó

là đặc điểm diệu kỳ của người Atlan mà nếu không thấm sâu vào đời sống riêng của họ,

ta không bao giờ biết được. Đến đây tôi bỗng nhớ đến cái thú của hoàng đế Napoleon

mỗi khi rời chiến trận trở về đều cho người đi trước dặn bà hoàng Josephine là đừng có

tắm rửa, giữ nguyên “hương gây mùi nhớ”(1) đậm đặc để quân vương được nhâm nhi

hưởng trọn trong đêm đầu gặp lại vợ mình.

Tôi chợt nảy sáng kiến:

Ta rủ những người còn độc thân ở Viện đi tìm nửa người của mình ở các hành tinh

đi.

Anh bảo phải có duyên số mà!

Thầy Hơn bảo duyên số bao giờ cũng phải bắt đầu từ một cái nhân và các điều kiện.

Nhân gì?

Ví dụ, ban đầu mình để ý đến một người nào đó chẳng hạn. Rồi tự hỏi mình có chút

cảm tình gì với họ không. Còn người ấy có để ý lại mình không. Nhân sẽ dẫn đến quả nếu

có điều kiện. Người nào nhìn được về tương lai sẽ thấy cái quả. Giả dụ ta gợi cho Duyên

chú ý đến Cay hay Cay chú ý đến Duyên chẳng hạn...

(1) Trích từ hai câu thơ Kiều “Mành tương phân phất gió đàn /Hương gây mùi nhớ, trà khan giong tình”

127

Ngân cười rũ:

Ôi trời! Duyên làm sao chịu nổi!

Này, đừng có nghĩ bậy. Hãy nghiêm chỉnh một chút nào. Em không thấy cả lớp lần

đầu tiên ra mắt thầy Hơn, thầy cùng với Cay và hai bé bự đã thu mình nhỏ lại cho bằng

chúng mình đó sao. Sau khi học xong hai cấp do thầy Hơn dạy, em cũng sẽ có năng lực

tự thu cho mình nhỏ lại hay tự khuếch đại cho mình to cao được đấy.

Tôi thầm hỏi thầy Hơn ý nghĩ xe duyên của chúng tôi cho một người của Trái Đất và

một người Lemuri có đúng không. Thầy bảo cũng có thể nếu khi sống với nhau, một

người phải chịu khó thu nhỏ người lại hoặc khuếch đại để lớn bằng người kia, mặc dù sẽ

rất tốn nhiều năng lượng. Nhưng thầy không bảo đảm việc sinh con của hai người, điều

này nằm ngoài tư liệu sinh học của vũ trụ. Tôi bảo cho Ngân biết ý của thầy Hơn:

Hãy từ bỏ ý định kết duyên cho người Trái Đất và người Lemuri đi, mặc dù người

Lemuri rất đáng trân trọng và để cho ta mến yêu. Thầy Hơn bảo họ không sinh con được

đâu. Tốt nhất là ta hướng về người Atlan. Trong thời gian anh ở đấy, anh thấy người

Atlan khoẻ mạnh, thông minh, đẹp trai lẫn gái và điều tuyệt vời nhất là họ chỉ biết sống

trung thực và giàu lòng nhân ái. Cuộc sống không lành mạnh với những ý nghĩ và việc

làm không trong sáng bị cấm tuyệt đối ở hành tinh này.

Tôi chợt nhớ bộ màn hình và đầu đọc CD, món quà tặng của thầy An, hiện đang ở

nhà Cay. Tôi bay về, bảo Cay mở hộp giấy lôi ra bộ đầu đọc và tất cả các đĩa, đặt lên bàn,

khuếch đại chúng lên mười hai lần. Riêng màn hình, tôi chủ tâm mua loại lớn nhất của

công ty LG VN nhãn hiệu vừa mới tung ra bán, giá tương đương một viên kim cương hai

carat. Màn hình 102 in có kích thước là 1,22,2 m, độ phân giải lên tới 6,22 triệu pixel

hiển thị 1,07 tỷ màu, độ tương phản 3000:1, thời gian đáp ứng 2 miligiây. Riêng màn hình

sẽ được khuếch đại riêng, từ từ gấp một, hai rồi ba lần... sao cho hình vẫn còn rõ nét chứ

không bị rỗ. Tôi cắm phích vào các ổ điện của mái nhà rồi bật công tắc. Màn hình và bộ

đầu đọc sáng đèn. Tôi nhấn tiếp nút, chọn một đĩa ca nhạc cho vào chạy thử. Màn hình

nhoáng nhoàng một tích tắc rồi hình ảnh trở nên rõ nét với một cô ca sĩ xinh đẹp cất tiếng

hát. Thế là thành công rồi! Tôi bảo Cay nhân ra một bộ nữa, thu nhỏ như cũ, bỏ vào

thùng để hôm sau mang đến trình thủ lĩnh kế hoạch nhân bản, cung cấp cho mọi nhà dân

của năm mươi bang.

Chắc khỏi phải nói, các bạn cũng biết tôi bận bịu xoay trở như thế nào trong cùng

thời gian vừa tổ chức lớp học, vừa đưa các đoàn văn nghệ đi biểu diễn ở các hành tinh.

Con tàu do tôi lái cứ đi đi, về về như con thoi. Mọi phí tổn cho các chuyến biểu diễn quả

nhiều đó, nhưng với cái kho kim cương mà tôi sở hữu có thể nói là vô tận, thật không

thấm gì. Bất kỳ đoàn nào cũng không hề có ai phàn nàn về chuyện tiền nong bồi dưỡng.

Ngược lại, họ cho đó là dịp may hiếm có đối với họ, vừa được du hành vũ trụ, thăm thú

tìm hiểu nền văn minh của người ngoài hành tinh, vừa được nhiều tiền để tiêu xài thoải

mái suốt cả quãng đời còn lại. Tôi đã chủ tâm phù phép cho những hạt kim cương mà họ

nhận được cứ sinh sôi mãi, bù vào chỗ hao hụt theo kiểu “nồi cơm Thạch Sanh” ăn mãi

mà cơm không bao giờ hết. Nhưng tôi giao hẹn, họ phải tuân thủ một điều kiện tiên

quyết: luôn luôn sống trung thực, có lòng nhân ái và vị tha.

Xin mở công ty cổ phần kinh doanh không vụ lợi

Những sự việc lạ lùng xảy ra ở viện Vật lý trong thời gian ông Mun, nghị sĩ của hành

tinh Lemuria, lưu lại Việt Nam trong chuyến thăm Trái Đất cuối cùng cũng lọt ra ngoài,

kích thích phóng viên của một tờ báo nổi tiếng của nước ta hiện nay tò mò đến xin gặp

128

thầy An để phỏng vấn. Nếu sự việc là có thực, chắc chắn bài điều tra sẽ rất ăn khách và

số lượng báo ấn hành trong các ngày đến sẽ tăng lên nhiều lần.

Phóng viên chất vấn:

– Thưa thầy, em nghe nói đã từng có một người khổng lồ ở hành tinh khác đến thăm

Viện ta và biểu diễn một số trò rất hấp dẫn, điều này có thực không ạ? – nhà báo từ tốn và

nghi ngờ đặt câu hỏi.

Thầy An từ lâu đã nghĩ đến vấn đề này, sớm muộn gì cũng sẽ đến và bây giờ, thực sự

nó đã đến. Thầy cười, giả lả:

– Nhà báo lấy thông tin từ đâu thế? Nếu thực sự có điều đó, Viện chúng tôi sẽ rất nổi

tiếng mà không cần nhờ đến một dòng quảng cáo giới thiệu nào của báo chí về hoạt động

của Viện.

– Thưa thầy, em có nghe... Tuy nhiên, em phải có tư liệu để bài viết phản ánh đúng sự

thật.

– Sự thật là thế này – Thầy An đành phải nói lảng – Nhà báo biết những tiết mục của

các nhà ảo thuật rồi chứ? Chẳng hạn David Copperfield đã đi xuyên qua Vạn lý trường

thành của Trung quốc, làm biến mất tượng nữ thần Tự do ở Mỹ trước bao nhiêu cặp mắt

chăm chú dò xét của nhiều người,...

– Vâng, em có biết!

– Vậy thì, ở Viện chúng tôi cũng có người làm được một số trò ảo thuật đại loại như

thế. Làm trò nhân dịp những cuộc hội họp liên hoan cho thêm phần sôi động. Một người

biết nên nhiều người trong Viện chúng tôi cũng biết do được “truyền nghề”. Nếu chúng

tôi “thất nghiệp”, – thầy An cười mỉm – có thể sẽ thôi làm nghiên cứu mà chuyển sang

hoạt động văn hóa, xin lập một gánh xiếc để phục vụ bà con.

Nói rồi, thầy An bảo nhà báo hãy chú ý đến chiếc cốc nước đặt trước mặt trên bàn

tiếp khách. Một cốc bỗng biến thành hai, hai biến thành bốn, rồi thì ùn ùn xuất hiện trên

khắp mặt bàn toàn là cốc nước. Ngay tiếp theo, thầy dọn sạch hết chỉ để lại trên bàn một

chiếc cốc nước duy nhất. Sau đó thầy với tay vào khoảng không và lấy ra một chiếc bánh

quy. Thầy đưa cho nhà báo.

– Em ăn chiếc bánh này được không ạ? – Nhà báo nghi ngờ hỏi.

– Không nên – thầy An lắc đầu – Tôi sợ em bị đau bụng và không chịu trách nhiệm

về điều đó.

Tuy vậy, nhà báo không cần xin phép, điềm nhiên cầm chiếc bánh bỏ vào túi áo. Thầy

An mỉm cười:

– Đó là chiếc bánh ảo. Trong thời đại a còng này, chúng ta đang sống cuộc đời thực

và ảo đan xen nhau.

Nhà báo nghi ngờ liếc mắt nhìn vào túi áo và không thấy chiếc bánh đâu nữa, mặt đỏ

lên vì ngượng.

– Xin lỗi vì đã làm mất thì giờ của thầy. Em chào thầy ạ!

Nhà báo rút lui một cách chóng vánh trong khi thầy An đứng trân nhìn theo, thở hắt

ra như vừa trút xong một gánh nặng rắc rối không dễ gì tháo gỡ. Sau này, thầy nói với tôi

rằng, may mà nhà báo quên đề cập đến việc người khổng lồ của hành tinh khác đến thăm

Viện như lúc đầu mới gặp. Nếu bắt buộc, thầy cũng tự biến mình thành người khổng lồ

nhưng sau đó khó giải thích cách nào mà mình làm được.

Một hôm, thầy triệu tập mọi người trong Viện, có mời thêm mẹ tôi và cô Lan, vợ

thầy, bàn kế hoạch thành lập một Công ty quản lý một số bệnh viện, trường học và một

nhà máy thực phẩm. Dự định mở bệnh viện phục vụ người nghèo và nhà máy sản xuất

129

bánh dinh dưỡng theo kiểu Atlan đã có nhưng chưa bàn bạc cụ thể, còn mở trường học

phục vụ con em nghèo học giỏi thì đang phân vân bởi vì dính đến chuyện giáo dục hoàn

toàn không đơn giản chút nào. Thầy bày tỏ ý tưởng:

– Ngoài Viện nghiên cứu ra, để quản lý một số bệnh viện, nhà máy, chúng ta nên xin

Nhà nước thành lập Công ty lấy tên là Công ty cổ phần Hòa Bình. Bệnh viện, nhà máy và

trường học nếu có đều nên mang tên Hòa Bình. Ba miền Bắc, Trung, Nam sẽ có ba bệnh

viện mang tên Hòa Bình Bắc, Hòa Bình Trung và Hòa Bình Nam. Nhà máy sản xuất

bánh dinh dưỡng cũng mang tên Hòa Bình.

Khi thấy mọi người không ai có ý kiến gì, thầy tiếp tục:

– Thật ra cái tên không quan trọng. Điều thiết yếu là phải thực hiện như thế nào, nội

dung và một đội ngũ quản lý điều hành công việc. Sau khi Công ty và các cơ sở bên dưới

nó được Nhà nước duyệt cho phép, việc đầu tiên là lên kế hoạch cụ thể. Các công trình

xây dựng cố gắng hoàn thành trong thời gian càng ngắn càng tốt. Thầy và Kim sẽ bàn bạc

việc tìm mua địa điểm, thuê kiến trúc sư thiết kế và xây dựng nếu cần. Công việc tiếp

theo là đội ngũ điều hành. Chúng ta sẽ tuyển các bác sĩ, kỹ sư giỏi, ưu tiên những người

có kinh tế gia đình chật vật nhưng có tâm huyết và biết thương yêu đồng loại.

Khỏi phải nói những khó khăn và tốn kém thời gian như thế nào về những thủ tục mà

bất kỳ một nhà kinh doanh nào cũng phải trải qua tựa như cá muốn thành rồng thì phải

vượt vũ môn. Tôi chỉ xin kể ra đây một số công việc mà chúng tôi đã áp dụng vô cùng

hiệu quả nhờ những quyền năng mà chúng tôi học được từ người Lemuri.

Về những công trình xây dựng, sau khi duyệt qua các bản đồ án thiết kế, chúng tôi đề

nghị kiến trúc sư đắp thêm một mô hình không gian ba chiều với tỷ lệ thu nhỏ kích thước

bằng 1/10. Chúng tôi ra hiện trường dùng mắt san ủi mặt bằng, chuyển mô hình lên trên,

phóng to thành kích thước thật với những vật liệu xây dựng thật trong phạm vi tường rào

kín bao quanh để không ai nhìn thấy. Dự định là thế nhưng thực tế sau này sự việc diễn ra

khác hẳn. Trên cái ốc đảo của riêng mình, các công trình xây dựng của Viện sẽ hoàn toàn

khác biệt không thể tìm thấy ở nơi đâu trên Trái Đất này.

Để thực hiện nhiệm vụ tuyển người điều hành, thầy An phân công cô Lan và mẹ tôi

phụ trách. Nhờ có khả năng đọc được thông tin có sẵn trong đầu các ứng viên, chúng tôi

đã chọn được những người theo đúng tiêu chuẩn đề ra. Khi nói đến mức lương, chúng tôi

cho họ biết mỗi người sẽ được cấp một thẻ tín dụng tài khoản năm mươi triệu, chi tiêu

cho bản thân và gia đình mỗi tháng không được vượt quá số đó. Trường hợp cần số tiền

vượt quá, sẽ có thương lượng giữa cá nhân và Viện thông qua cô Lan.

Ngoài kiến thức học được ở trường, các nhân viên cần được bồi dưỡng thêm. Kế

hoạch bồi dưỡng kiến thức nâng cao là bắt buộc. Chặng đường này mới thực sự là khó

khăn đối với họ. Chúng tôi yêu cầu họ thề là sẽ giữ bí mật tuyệt đối mọi chuyện trong khi

học tập và hành nghề, trung thành với công ty, luôn giữ mình là người tốt, công dân tốt

và gia đình mình là gia đình tốt. Muốn học và làm việc có hiệu quả, họ phải từ bỏ ăn mặn

nghĩa là tự biến mình thành sư sãi bên ngoài nhà chùa. Lúc đầu, nhiều người phân vân

thấy tiếc cho đồng lương hậu hĩ mà đành bỏ phí. Nhưng chúng tôi khuyên họ sống thử

theo cách chúng tôi đề nghị: hoặc ăn bánh dinh dưỡng miễn phí sản xuất theo kiểu của

người Atlan hoặc hoàn toàn nhịn ăn sau khi chúng tôi cho họ tắm thường xuyên trong

dòng năng lượng vũ trụ. Tôi có thử dùng quyền năng của mình làm tê liệt khứu giác nhạy

cảm của những người ăn chay trường mỗi khi ngửi thấy mùi thức ăn chế biến từ thịt hoặc

cá để họ có thể hòa nhập được với bạn bè người thân mỗi khi cần tham gia những bữa

tiệc hay mâm cỗ. Hoàn toàn không có ai xin rút lui sau cuộc thử nghiệm này.

Về nhà máy bánh dinh dưỡng, chúng tôi dự định tuyển chọn hai kỹ sư ngành thực

130

phẩm: một kỹ sư công nghệ và một kỹ sư máy thiết bị. Hai người này sẽ được đào tạo lại,

sau khi chúng tôi đem về Trái Đất dây chuyền và công nghệ sản xuất hoàn toàn tự động

bánh và sữa dinh dưỡng của người Atlan. Họ còn có nhiệm vụ nghiên cứu khẩu vị của

người Việt Nam và thiết kế ít nhất bảy loại bánh khác nhau để người ăn không cảm thấy

đơn điệu và chán ngấy. Chỉ hai người này được đề bạt làm trưởng và phó giám đốc nhà

máy, và cũng duy nhất hai người điều hành nhà máy.

Các bác sĩ được đào tạo lại ở hành tinh Lemuria. Sau khi tốt nghiệp, các bác sĩ chủ

yếu chữa bệnh bằng quyền năng tâm linh của mình. Với các trường hợp cấp bách không

thể đừng, họ vẫn có thể dùng thuốc Tây y và các thiết bị khám và chữa bệnh của Tây y

theo kiến thức sẵn có. Bệnh nhân đến chữa ở các bệnh viện chúng tôi hoàn toàn không

tốn một xu nào kể cả các bữa ăn chay. Vì vậy, người ta bảo những bệnh viện của chúng

tôi là bệnh viện của người nghèo. Với những bệnh nhân có đời sống khá giả bị những

chứng nan y, chúng tôi có nhận chữa trị và yêu cầu họ thanh toán bằng tiền gửi đến các

cơ quan từ thiện.

Xin thú thật với độc giả là những việc làm tốt đẹp một cách lý tưởng trên đây mới còn

là dự kiến. Kết quả như thế nào phải qua một vài năm mới thấy rõ. Trong thời gian này,

chúng tôi phải dự tính trước những hậu quả mà công việc “kinh doanh” không giống ai

này sẽ mang lại và sẽ phải chật vật đối phó như thế nào. Ông bà ta có câu “Cây ngay

không sợ chết đứng”. Song dẫu có chết đứng như Từ Hải vẫn cứ là chết, có khác gì chết

nằm hoặc chết ngồi! Nhưng chúng tôi không ai muốn chết và không sợ chết. Bởi vì

chúng tôi sẽ và đang chuyển hướng nghiên cứu về một đối tượng mới: không phải vật lý

nữa mà là con người, là xã hội mới.

Sự xuất hiện bất ngờ của thầy Hơn và kế hoạch phát triển Viện

Sau khi hạ cánh kết thúc chuyến lưu diễn của đoàn nghệ thuật cuối cùng đến ba hành

tinh, tôi nhận được điện của Duyên nhắn về gặp thầy An gấp có chuyện rất cần. Trên

đường đi đến Viện cho đến lúc đứng ngay trước cánh cửa phòng thầy An, tôi vẫn chưa

đoán được chuyện gấp là gì. Tôi khẽ khàng gõ cửa, thầy An ra mở và tôi kịp nhận ra

trong phòng còn một người nữa. Người khách quay lại.

A, thầy Hơn! Con chào thầy – tôi mừng rỡ kêu lên, trong đầu đinh ninh có thể là

thầy đã đi nhờ tàu vũ trụ của Tashi đến đây.

Thầy Hơn biết tôi đang nghĩ gì, chỉ mỉm cười, nheo mắt một cách ranh mãnh mà chưa

trả lời. Thầy An lúc này cũng đã đạt quyền năng là tìm thấy thông tin trong đầu người

khác – ấy là tôi – nên đỡ lời:

Lúc đầu thầy cũng nghĩ như vậy và chạy nhanh ra sân trước, tìm con tàu vũ trụ của

P16 để mời ai đó có thể là Tashi hoặc Ushu vào chơi. Nhưng thầy thất vọng!

A, con đoán ra rồi! Không ai đưa thầy đến đây mà chính thầy tự đến có đúng

không? Bằng thuật phân thân!

Đúng! – Bấy giờ thầy Hơn mới lên tiếng Lâu nay ta hướng dẫn con thuật phân

thân nhưng bản thân ta chưa làm bao giờ ngoài phạm vi của hành tinh Lemuria. Bây giờ

ta đã toại nguyện. Ta đến đây đầu tiên là báo cho con biết một tin vui mà người đầu tiên

thông báo cho ta là ông Mun. Ta ngờ rằng ông Mun không muốn trao đổi với con thông

tin này vì chưa biết ý ta như thế nào. Trong thời gian bay lang thang vòng quanh núi

Kailash ở Tây Tạng cùng với con, con không biết chứ từ trong đầu, ông Mun đã đặt rất

nhiều câu hỏi với địa phương. Chuyện kim tự tháp Giza và tượng Nhân sư từ chối không

thèm trả lời thì ông Mun đã nói cho con biết. Nhưng có điều ông Mun không nói lại với

131

con là tại thánh địa, ông đã hỏi và được đáp lại rất nhiều. Trước khi ông cùng con lên

ngựa quay về, ông được nhắn báo giúp là ta – thầy của con và cũng duy nhất một người

của hành tinh Lemuria – đã được phép đến thăm vùng núi Kailash và đi sâu vào bên

trong thánh địa. Ta còn được phép mang theo một đệ tử. Đệ tử là ai, ta trước tiên nghĩ

đến con và ta tin con có duyên để được cái diễm phúc này và còn bởi vì con đã cùng ông

Mun đến đấy một lần, chắc chắn sẽ là người dẫn đường tốt nhất cho ta.

Nghe đến đây, tôi bàng hoàng cả người. Thầy An cũng ngạc nhiên không kém về câu

chuyện hệ trọng này. Tôi thưa khẽ với thầy Hơn:

Nhưng muốn vào được bên trong thánh địa, thầy cần phải biết ...

Thầy Hơn ngắt lời tôi:

Thầy biết con nói gì rồi. Hai câu thần chú! Ông Mun có nhắc ta và bảo ta sẽ được

thần linh mách bảo ngay khi chúng ta đứng trước đường dẫn vào Thung lũng Tử thần.

Tôi quay sang thầy An:

Việc này không nằm trong kế hoạch của Viện. Con xin phép thầy..

Thầy An xua tay:

Em yên tâm. Thầy coi đây là kế hoạch đột xuất của Viện. Vả lại, sau chuyến đi, em

về kể chuyện mắt thấy tai nghe như thế nào ở thánh địa, ta tin rằng đó sẽ là một câu

chuyện lý thú không dễ gì có được.

Thầy Hơn tiếp lời:

Cũng nhân dịp này, sau khi nghe thầy An nói qua hoạch định tương lai của Viện, ta

muốn bàn với thầy An và con về việc Viện nên chuẩn bị gì trước. Vì thì giờ không nhiều,

ta chỉ góp ý vắn tắt. Tham vọng thầy An nêu ra như thế là quá sức. Viện phải nhờ người

của ba hành tinh P16, Lemuria và Atlantis trợ giúp mới có thể hoàn thành. Thầy An và

con phải bay một chuyến đến thăm xã giao, xin thủ lĩnh của ba hành tinh giúp đỡ và trình

bày thật cụ thể mỗi hành tinh cần giúp cái gì. Ta đồng ý với thầy An là cơ sở hiện nay

quá chật chội và không giữ được bí mật, không phù hợp với sự phát triển và hoạt động

của Viện. Phải nhanh chóng tìm một địa điểm mới, đủ rộng và kín đáo, càng cách biệt với

cư dân càng tốt. Thôi, ta về đây. Thuật phân thân với khoảng cách quá xa như thế này

không kéo dài thời gian lâu được. Chào thầy An, chào con.

Chúng con xin chào thầy! – Thầy An và tôi đồng thanh.

Bóng của thầy Hơn tan biến trong phút chốc.

Tôi dè dặt thưa với thầy An:

Thưa thầy, em có được phép biết trước những dự định tương lai của thầy đối với

Viện không ạ?

À, có chứ! Ta đang định bàn với em ngay đây. Bàn tổng thể thôi, sau đó gỡ dần

từng bước một. Chắc em đã hiểu vị thế quan trọng của Viện ta như thế nào đối với quốc

gia trong khi chúng ta có điều kiện thuận lợi tiếp xúc với nền văn minh kiệt xuất của ba

hành tinh? Mỗi hành tinh có một đặc thù riêng và ta sẽ cố gắng khai thác tối đa những ưu

việt của đặc thù đó.

Đầu tiên là hành tinh Atlantis. Nó vừa là hành tinh bạn gần gũi và thân thiết của

chúng ta, vừa là quê hương thứ hai của em và Ngân. Khoa học và kỹ thuật của cư dân

Atlan vượt quá xa so với chúng ta. Thầy muốn cử người đến đó học lại từ đầu chương

trình giáo dục, sau đó từng người một sẽ đi sâu vào các lĩnh vực vật lý, y tế, xây dựng và

dinh dưỡng. Viện chúng ta sẽ giúp ngành hàng không Việt Nam chế tạo cho được những

máy bay siêu âm siêu nhẹ và không dùng năng lượng truyền thống gây ô nhiễm hiện nay

của Trái Đất để bay. Chúng ta sẽ xây dựng những tòa nhà xưởng tự thắp sáng và vận

hành các máy móc nội thất bằng năng lượng mặt trời. Chúng ta sẽ mở những xưởng sản

132

xuất bánh và sữa đầy đủ chất dinh dưỡng để phân phát cho những người nghèo. Chúng ta

sẽ xin mở trường dạy thử nghiệm con em từ trình độ thấp đến trình độ cao theo chương

trình và phương pháp giảng dạy hiện nay của hành tinh Atlantis nếu thuận lợi.

Thứ đến, hành tinh Lemuria sẽ giúp chúng ta đào tạo những cán bộ vừa có đạo đức,

vừa có quyền năng để hoạt động trong những lĩnh vực nhạy cảm của đất nước như chữa

bệnh, an ninh, quốc phòng.

Còn hành tinh P16 sẽ giúp chúng ta bảo đảm sự bí mật và an ninh của Viện nói riêng

và của quốc gia nói chung nếu có thể.

Bây giờ, em hãy báo cho May xin diện kiến thủ lĩnh hành tinh Atlantis, báo cho Tashi

xin gặp thủ lĩnh P16 và cuối cùng nhờ thầy Hơn đề đạt nguyện vọng của thầy trò ta với

thủ lĩnh của Lemuria. Em hãy chuẩn bị cùng thầy làm một chuyến du hành thăm viếng ba

hành tinh. Trên đường trở lại, ta sẽ rước thầy Hơn cùng về Trái Đất để thực hiện chuyến

thám hiểm thánh địa của người xưa.

Chuyến thăm ba hành tinh và những đề nghị giúp đỡ

Sáng hôm sau, thầy An và tôi chào từ biệt mọi người ở Viện, lên tàu vũ trụ bay thẳng

đến hành tinh P16. Do đã được báo trước, thủ lĩnh hành tinh cho Tashi lái một con tàu ra

đón dẫn đường. Sau khi chúng tôi đảo một vòng quanh hành tinh thám sát từ trên cao,

Tashi điện báo cho thầy An chú ý bên dưới và cho nhận xét. Thầy An nhìn ngắm hồi lâu,

bảo bên dưới chỉ là rừng cây rậm rạp như mọi nơi khác mà chúng ta đã bay qua. Tashi

thưa lại với thầy:

Không phải đâu ạ! Chúng ta đang bay trên địa phận sinh sống và làm việc của hai

trăm cư dân hành tinh. Cái cảnh quan rừng cây rậm rạp chỉ để che mắt những kẻ từ hành

tinh khác không mời mà đến. Mắt thường không nhìn thấy đã đành, mắt radar hay bất kỳ

một con tàu thăm dò lạ nào phóng những tia bức xạ bất kỳ xuống cũng bị cái cảnh quan

rừng cây rậm rạp đánh lạc hướng.

Thầy An cảm thấy ngạc nhiên và thích thú thực sự. Sau đó thầy rút ra một kết luận là

muốn giữ bí mật cơ sở nghiên cứu của Viện cùng với những thành quả mà Viện trưng

bày cất giấu, không có cách nào khác là áp dụng kỹ thuật đánh lạc hướng này. Đối với hệ

thống vệ tinh địa tĩnh của ta cũng như của nước ngoài, địa điểm mà Viện cư trú và làm

việc sẽ hoàn toàn không để lại một dấu vết nào.

Khi tôi lái con tàu theo sát Tashi hạ cánh xuống sân đỗ, thủ lĩnh hành tinh cùng một

số người đã đợi sẵn. Số người này nhìn qua thấy rất giống nhau nhưng tôi tin chắc trong

đó thể nào cũng có mặt Ushu và Oshi. Do học được quyền năng của người Lemuri, để

nhìn thấy loại người cùng vật chất vô hình của cư dân P16 và trao đổi với họ, tôi và thầy

An lần này không cần phải mang mũ có thiết bị thấu thị và thấu thính.

Bước vội ra khỏi con tàu, thầy An tiến nhanh lên trước, nghiêng mình chào thủ lĩnh,

sau đó chào những người còn lại. Do tôi đã dặn, thầy nhận ra ngay thủ lĩnh do ông đứng

chếch về phía trước một chút so với mọi người, đồng thời trên ngực trái sáng lấp lánh

một chiếc huy hiệu nhỏ tượng trưng cho quyền uy của thủ lĩnh hành tinh.

Qua cảm nhận bằng thần giao cách cảm, hai chúng tôi được thủ lĩnh mời vào nhà, nhờ

buồng thang máy đưa lên phòng khách. Quanh chiếc bàn rộng, bấy giờ chỉ có năm người

trong đó có hai chúng tôi và ba chủ nhà gồm thủ lĩnh, Ushu và Oshi. Sau lời chào hỏi xã

giao, thầy An đứng lên phát biểu:

Thưa thủ lĩnh và các bạn, trước khi đến đây, chúng tôi được ban lãnh đạo quốc gia

Việt Nam chuyển lời thăm hỏi đến thủ lĩnh và toàn thể cư dân hành tinh P16, chúc tình

133

hữu nghị giữa hai cư dân chúng ta đời đời bền vững. Được sự ủy nhiệm của ban lãnh đạo,

chúng tôi đang có kế hoạch xây dựng một cơ sở mới chuyên nghiên cứu, khai thác

những ưu việt của nền văn minh của P16. Có khá nhiều những biện pháp kỹ thuật mà sức

chúng tôi chưa làm được nếu không có sự giúp đỡ của hành tinh P16.

Thủ lĩnh P16 tiếp lời:

Thay mặt cư dân P16, tôi hứa sẵn sàng chia sẻ những kinh nghiệm và tiến bộ khoa

học kỹ thuật mà Việt Nam quan tâm. Những việc làm cụ thể, tôi sẽ giao trách nhiệm cho

các thành viên cư dân chúng tôi là Tashi, Ushu và Oshi nghiên cứu, thực hiện.

Vì thầy An lần đầu tiên đến đây nên thủ lĩnh có nhã ý cho thầy tham quan tìm hiểu

sinh hoạt và hoạt động nghiên cứu khoa học của mấy trăm con người trên hành tinh P16.

Ushu dẫn chúng tôi đi, còn thủ lĩnh ở lại bàn với Oshi việc gì đó. Trước khi từ biệt hành

tinh P16, thủ lĩnh nhận một hộp quà từ tay Oshi trao lại cho thầy An. Thủ lĩnh nói rằng

trong chuyến bay trở lại Trái Đất, thế nào chúng tôi cùng với thầy Hơn cũng sẽ ghé thăm

các hành tinh láng giềng trong cùng thái dương hệ. Vì các hành tinh này không thỏa mãn

điều kiện sống của con người nên ba bộ áo liền quần có thể bật mở tính năng tàng hình và

sẽ giúp chúng tôi thực hiện tốt đẹp ý định đó. Bộ quần áo sẽ ôm sát cơ thể từng người, tạo

một bầu không khí đầy đủ dưỡng khí như trên Trái Đất và đồng thời có thể điều chỉnh

nhiệt độ phù hợp cơ thể khác với môi trường khắc nghiệt bên ngoài. Đúng là một món

quà ngoài ước mơ. Thầy An tỏ ra vừa ngạc nhiên vừa thích thú. Ngạc nhiên vì người của

hành tinh này có khả năng nhận biết rõ hoạch định tương lai của người khác. Thích thú vì

món quà thể hiện mối tình nồng ấm và quan tâm sâu sắc giải quyết được khó khăn tất yếu

phải xảy đến nếu hoạch định không đủ điều kiện để thực hiện vì thiếu phương tiện.

Chúng tôi xúc động bày tỏ lòng biết ơn và nghiêng mình chào từ biệt thủ lĩnh cùng hai

bạn Ushu và Oshi.

Sau này khi đã về đến nhà, thầy An thú nhận với tôi là do nền khoa học kỹ thuật của

P16 chênh lệch với ta quá xa mà thầy không thể nắm bắt được đầy đủ những thành tựu

đạt được của họ. Tôi thưa với thầy rằng thời gian qua, ta cần gì thì họ nghiên cứu và hoàn

thành được ngay trong thời gian cực ngắn. Ta không thể biết hết những thành tựu khoa

học của họ. Nhìn bề ngoài, ta có cảm giác họ đang sống trong cảnh hoàn toàn thanh bình

và hình như mục đích và cũng là niềm vui duy nhất của đời sống cư dân P16 là nghiên

cứu khoa học và tìm hiểu vũ trụ. Tuy vậy, họ không hề có ý thu thập mọi sinh vật và

những tiêu bản mới lạ từ các hành tinh khác về làm một khu bảo tồn thiên nhiên muôn

màu muôn vẻ để mọi người thưởng lãm như con người Trái Đất ta đang làm. Điều này

chứng tỏ họ rất coi trọng sự bảo tồn cảnh quan tự nhiên của các hành tinh khác.

Sau chuyến thăm thành công hành tinh P16, chúng tôi hướng con tàu về phía hành

tinh Atlantis. Trong suốt hành trình tiếp theo này, hầu như thầy trò tôi không sao chợp

mắt. Thầy cho rằng sống giữa những nền văn minh siêu hành tinh, con người họ nhìn

thấy tương lai sao mà rõ ràng cụ thể đến từng chi tiết nhỏ như vậy. Còn tôi lại có tâm tư

riêng. Càng tiến gần đến Atlantis chừng nào, tôi càng nhớ Sao – vợ tôi – hiện giờ đang ở

trên đó cùng với vợ chồng May, Ngân. Cả ba người được thầy An giao nhiệm vụ tìm

hiểu, học tập để xây dựng cho Viện một nhà máy sản xuất bánh và sữa dinh dưỡng, góp

phần thực hiện chính sách xóa đói giảm nghèo của Nhà nước ta. Nhiệm vụ thứ hai là tìm

hiểu nội dung chương trình và phương pháp giáo dục công dân của hành tinh Atlantis từ

bé đến lớn, từ bậc cơ sở đến bậc đại học và trên đại học để sau này về Trái Đất xin mở

trường thí điểm đào tạo con người theo phong cách của người Atlan. Chúng tôi tin tưởng

chương trình giáo dục của họ hơn hẳn chương trình giáo dục của ta rất nhiều, chí ít cũng

là về phương diện khoa học kỹ thuật. Khi tàu chúng tôi hạ cánh, cả ba con người này đã

134

chờ sẵn tự bao giờ. May và Ngân mừng rỡ lao đến ôm thầy An, còn Sao ôm chặt lấy tôi

nói khẽ “Em nhớ anh lắm!”. Tôi cũng lặp lại ý đó, chỉ tráo đổi chủ ngữ và bổ ngữ và

không quên thêm sau chủ ngữ từ “cũng” để cho vợ yên lòng. May báo cáo với thầy An là

thủ lĩnh đồng ý tiếp chúng tôi vào sáng hôm sau. Trải qua một chặng bay dài, hai thầy trò

chúng tôi thấm mệt, cũng cần nghỉ ngơi cho lại sức. Để con tàu vũ trụ ở lại bãi đáp, tôi

mời thầy An, Sao và cả vợ chồng May – Ngân cùng bay về chung cư. Để không làm xôn

xao cư dân của hành tinh về hiện tượng lạ mà lâu nay hai anh em May và Sao cố giấu kín,

tôi phát cho mỗi người một chiếc áo tàng hình. Chúng tôi vừa bay vừa cố giữ im lặng cho

đến khi vào hẳn bên trong tòa nhà và khoát bỏ áo tàng hình, lộ diện trước buồng thang

máy. Do đã có chồng nên Sao được hành tinh cấp cho một phòng riêng. Tôi mời thầy An

về ở tạm với chúng tôi.

Đến bữa ăn tối, vợ chồng May-Ngân sang phòng chúng tôi cùng ăn cùng chuyện trò.

Vẫn là bữa ăn “đạm bạc” theo cách nhìn của người Trái Đất, hai phong bánh và một cốc

sữa, nhưng về mặt dinh dưỡng, nó đạt trình độ siêu cao. Tôi hỏi ba người tại sao phải ăn

uống trong khi mình có khả năng hấp thu năng lượng vũ trụ để sống. Sao bảo chế độ

cung cấp bữa ăn của hành tinh cho người dân đã đi vào tự động hóa có kiểm soát. Khi

không được báo trước như những lúc đi xa, đi công tác,... hệ thống kiểm soát dinh dưỡng

kiêm y tế sẽ cho việc từ chối bữa ăn là không bình thường, sẽ báo động và làm huyên náo

cả hành tinh. Vả lại, muốn hấp thu năng lượng vũ trụ, phải lệ thuộc vào con tàu chở mình

ra đó. Hành tinh Atlantis không muốn thực hiện kế hoạch đầy tốn kém và vất vả này.

May bảo hành tinh đang nghiên cứu tìm cách chế tạo thiết bị thu phát năng lượng vũ trụ

và nếu thành công sẽ trang bị cho mỗi hộ một chiếc. Lúc ấy, bao nhiêu con người của

hành tinh không phải xếp hàng chờ đợi để đến lượt mình được đưa ra vùng phát năng

lượng vũ trụ. Tôi hỏi Ngân:

Hiện tại, cảm giác trước bữa ăn hành tinh này của em như thế nào?

Ngân bảo:

Em thực sự thấy thích thú và hấp dẫn, không có cảm giác chán cái đơn điệu của bữa

ăn như anh tưởng.

Rồi Ngân phân tích:

Sở dĩ anh Kim bị cái ấn tượng không tốt đó chi phối bởi vì anh đã hấp thu thường

xuyên năng lượng vũ trụ, không có nhu cầu ăn để sống nên mới thế.

Tôi và thầy An nhìn nhau và cả hai cùng rút ra một kết luận mà lâu nay không ai nói

ra nhưng đều lo ngay ngáy cho cái món ăn đầy đủ chất dinh dưỡng sẽ đem lại nhiều yếu

tố tích cực cho cuộc sống do nó không những đáp ứng nhu cầu xóa đói mà còn vừa giảm

hoặc triệt tiêu được bệnh tật – nói theo quan điểm của phái chữa bệnh bằng thực dưỡng:

bệnh tật đi vào cơ thể ta đằng đường mồm. Chúng tôi sẽ không phải lo người nghèo chán

ngán mỗi lần nhìn thấy bánh và sữa dinh dưỡng do Viện sản xuất và cung cấp miễn phí.

Ngoài hai nhiệm vụ này ra, thầy An còn cho ba bạn biết trước kế hoạch xây dựng Viện

như thế nào trong tương lai và chuyến đi thăm xã giao ba hành tinh anh em này là bước

chuẩn bị không thể thiếu.

Đến giờ đi ngủ, thầy An vừa đặt mình nằm xuống giường thì một điệu nhạc nhẹ êm ái

và du dương tự động phát ra làm thầy ríu mắt ngay lập tức, bước vào giấc ngủ say không

còn biết trời đất trăng sao là gì. Riêng chúng tôi – Kim và Sao – biết tắt cái món tự động

đó nên có thể thức lâu bao nhiêu tùy ý, thậm chí cả đêm.

Sáng hôm sau, khi bước ra khỏi buồng thang máy đi ra ngoài, chúng tôi bắt gặp một

con tàu vũ trụ do hành tinh này chế tạo được thủ lĩnh phái đến đón chúng tôi. Dù nơi

chúng tôi ở cách khá xa nơi thủ lĩnh hành tinh làm việc – khoảng cách có thể so với độ

135

dài chim bay từ Việt Nam đến California (Hoa Kỳ) – nhưng con tàu vũ trụ chỉ cần không

đầy mươi giây sau đã đưa chúng tôi đến đó. Nhờ tay phi công báo trước khi hạ cánh, thủ

lĩnh hành tinh đã có mặt ngay tại sân dùng làm bãi đáp.

Thầy An và tôi đồng thanh:

Kính chào thủ lĩnh!

Chào hai vị khách quý từ Trái Đất xa xôi đến đây!

Nói rồi, thủ lĩnh mỉm cười ranh mãnh, cải chính ngay:

Thực tình chỉ có mỗi vị khách thôi! Còn vị trẻ kia đâu còn là khách mà đã là rể, là

công dân của chúng tôi rồi.

Nói đoạn, thủ lĩnh chìa tay mời chúng tôi vào tiền sảnh. Ở một góc phòng có kê chiếc

đi văng dài và đối diện qua chiếc bàn con có bình hoa khá đẹp với sắc màu sặc sỡ là một

chiếc ghế bọc nệm. Chúng tôi ngồi trên đi văng, còn thủ lĩnh ngồi ở phía đối diện với

chúng tôi. Ở hành tinh này, do thức ăn đồ uống rất đơn giản, có lẽ vì thế mà không có

kiểu chiêu đãi khách bằng những thực phẩm bánh, trái cây và thức uống nước khoáng,

rượu, bia như trên Trái Đất. Thầy An mở đầu:

Kính thưa thủ lĩnh! Chúng tôi đến đây trước là viếng thăm thủ lĩnh cùng hành tinh

hòa bình, văn minh và xinh đẹp này, sau đó muốn nhờ thủ lĩnh thông qua một số công

dân của hành tinh, giúp cư dân Việt Nam chúng tôi thực hiện một số kế hoạch trong

tương lai nhằm xóa đói nghèo, triệt tiêu bệnh tật cho người dân, áp dụng chương trình và

phương pháp giáo dục mới với nội dung khoa học kỹ thuật tiên tiến hiện đại để đào tạo

nên những mẫu người theo kiểu Atlantis. Đó là ba chương trình lớn: một là xây dựng một

nhà máy chế biến thực phẩm bánh và sữa dinh dưỡng, hai là xây dựng thí điểm một

trường học đào tạo con người nắm bắt được khoa học kỹ thuật tiên tiến của người Atlan,

ba là xây dựng một số công trình nhà ở và nơi làm việc tận dụng tối đa năng lượng mặt

trời cùng với hệ thống tự động kiểm soát toàn diện, thiết kế chế tạo một vài máy bay dân

dụng dùng nguyên lý phản hấp dẫn, chỉ dùng năng lượng sạch không gây ô nhiễm môi

trường.

Nghe chăm chú thầy An trình bày những yêu cầu, thủ lĩnh mỉm cười thoải mái và gật

đầu đồng ý. Hình như những điều thầy An nêu ra, đối với nền văn minh vượt trội của

hành tinh này, chúng không là gì đáng bận tâm! Thủ lĩnh hứa sẽ chỉ thị thêm một số

chuyên gia của hành tinh, ngoài hai anh em May và Sao, bắt tay vào thực hiện các yêu

cầu của chúng tôi. Ngoài ra, thủ lĩnh còn gợi ý những thành tựu mới nhất của hành tinh

Atlantis, nếu có thể áp dụng được cho Trái Đất, thủ lĩnh sẵn sàng chuyển giao mà không

đòi hỏi một điều kiện gì.

Thật là thành công ngoài sự mong đợi! Chúng tôi vui sướng lần lượt nghiêng mình

chào từ biệt thủ lĩnh. Buổi gặp mặt diễn ra và kết thúc chóng vánh đến bất ngờ. Nhưng

thủ lĩnh còn làm một việc bất ngờ hơn là bảo chúng tôi hãy nán đợi trong giây lát. Thủ

lĩnh vào phía trong, cùng với người phục vụ mang ra một chiếc mũ vô hình, một chiếc áo

tàng hình và một hộp đựng gì đó, trao cho thầy An và nói:

Nhân dịp này, hành tinh chúng tôi có một món quà tặng hai khách quý. Đây là chiếc

mũ thấu thị và thấu thính có công năng hệt chiếc mũ mà bạn Kim đã tặng ta trong dịp yết

kiến đầu tiên cùng với Sao, vợ chưa cưới. Nó cũng vô hình bởi vì hành tinh này đã tìm

được loại vật liệu tuy không giống như trên hành tinh P16 nhưng nó khúc xạ ánh sáng về

phía góc khuất, ở bên trái của tia tới bất kỳ nào làm cho chiếc mũ tàng hình trước mắt

mọi người, kể cả sóng radar và các tia tầm nhiệt. Ngoài ra, May, anh vợ của Kim gợi ý

nên gắn thêm một công năng nữa là khi đội, đối với người sống đứng cách xa ta hai mét,

mũ có thể giúp ta nhận ra người ấy đang nghĩ gì. Nó còn biết co giãn sao cho vừa khít

136

đầu của bất cứ người nào đội nó. Món quà thứ hai là chiếc áo tàng hình, làm bằng vật liệu

như của chiếc mũ. Món quà thứ ba là hộp lưu trữ năng lượng vũ trụ có công năng giống

bình tích điện quang học lấy từ ánh nắng mặt trời. Con người muốn tắm năng lượng vũ

trụ có thể thực hiện tại nhà với chiếc hộp này mà không cần phải đi xa. Thật tình, sau khi

tắm năng lượng vũ trụ, con người không cần ăn uống gì vẫn sống bình thường như bạn

Kim đây. Tuy nhiên, thay đổi một tập quán ăn để sống đã bắt rễ sâu vào tập quán sinh

hoạt của người dân từ thế hệ này sang thế hệ khác khó một sớm một chiều thay đổi được.

Ta nghĩ nếu người Trái Đất có nó, hiệu suất khai thác nó sẽ lớn hơn rất nhiều so với khi

áp dụng cho cư dân hành tinh này.

Chúng tôi vui sướng đón nhận ba món quà khá đặc biệt này, đồng thanh nói lời cảm

ơn và một lần nữa xin chào tạm biệt.

Quả là không hổ danh một hành tinh đã đạt đến nền văn minh tuyệt đỉnh. Họ có thể

nhanh chóng nắm bắt những thành tựu khoa học nào mà hành tinh khác đã có. Trong

thâm tâm, chúng tôi cùng có ý nghĩ rằng nhờ học chương trình của người Lemuri, chúng

tôi mới đạt được trình độ như ngày nay, không cần dùng đến loại mũ thần diệu đó nữa.

Nhưng bình tích trữ năng lượng thì rất hữu dụng cho nhiều người ở Viện và những học

viên sau này được đào tạo theo chương trình của người Lemuri. Với chiếc mũ, thầy An

sau này bỏ hẳn ý định xin lập trường đào tạo cảnh sát hình sự, nhằm khi về đến đất liền sẽ

nhân ra nhiều bản, thầy An trao ngay chiếc mũ cho ông bộ trưởng bộ Công an và nó được

sử dụng khá hiệu quả trong việc phá những trọng án, nhất là những vụ gián điệp ngầm.

Sau khi cho con tàu vũ trụ bay vòng quanh hành tinh một vòng để thầy An ngắm nhìn

toàn bộ cảnh quan từ trên cao, tay phi công hạ cánh đỗ lại chỗ cũ trước mặt chung cư của

chúng tôi. Ngay trong lúc quay về, tôi có báo cho hai anh em May, Sao và Ngân biết nên

lúc này cả ba người đều có mặt để đưa tiễn hai thầy trò tôi lên đường thăm hành tinh

Lemuria. Tôi bảo mọi người không cần mất thì giờ đưa tiễn lần nữa. Tôi trao cho thầy An

chiếc áo tàng hình và cùng thầy bay về phía bãi đáp. Con tàu của chúng tôi từ từ hạ

xuống và tự động mở toang ô cửa bên dưới đáy để cho thầy trò chúng tôi chui vào.

Để đỡ mất sức, tôi chuyển sang chế độ lái tự động cho con tàu và đề nghị thầy An

cùng chợp mắt trong suốt chặng bay. Trước khi đi nằm, tôi với tay bật công tắc cho tiếng

nhạc Việt Nam với âm hưởng dân ca có đượm chút buồn man mác nhằm đưa giấc ngủ

đến nhẹ nhàng với chúng tôi. Còn gần nửa giờ nữa mới đến hành tinh Lemuria nhưng con

tàu đã bật còi hú rít cảnh báo sớm. Hình ảnh hành tinh này hiện rõ to dần trên màn hình.

Chúng tôi choàng dậy và đồng thời cùng nghe tiếng Cay vang lên trong tai. Tàu vũ trụ

của chúng tôi sẽ hạ xuống bãi đáp vào buổi hoàng hôn của hành tinh nên Cay cùng hai

nhỏ Mai và Hay sẽ đón chúng tôi về nhà nghỉ ngơi, còn thủ lĩnh mời chúng tôi sáng hôm

sau đến gặp. Khi chúng tôi vừa ra khỏi khoang tàu, hai nhỏ Mai, Hay chạy ào đến ôm lấy

tôi, nói cười ríu rít, còn Cay đến bắt tay thầy An theo cái kiểu xã giao của người Trái Đất

mà Cay đã học được. Đương nhiên sự việc này chỉ được diễn ra sau khi hai thầy trò

chúng tôi gồng mình lên cho cao bằng người Lemuri. Hai nhỏ em của Cay chưa đủ tuổi

học bay nên Cay thu nhỏ chúng lại, bỏ vào hai túi áo rồi rủ chúng tôi cùng bay về nhà.

Hai ông bà bố mẹ Cay đã đứng ở bậc cửa tự khi nào, tỏ ra hoan hỉ khi chúng tôi cùng đáp

xuống sân nhà. Một số người hàng xóm cũng đến chào hỏi chúng tôi, bởi vì từ lâu, họ đã

biết chúng tôi là ai. Trong nhà, đèn điện bật sáng trưng. Trên chiếc bàn tròn bằng gỗ thiên

nhiên bày sẵn một mâm trái cây đầy ắp cùng với mấy chiếc cốc khổng lồ đựng nước trái

cây. Hình như cả nhà cố ý chờ chúng tôi về đến để cùng ăn tối cho vui. Hai bé Mai và

Hay chiếm hai vị trí bên trái và bên phải cạnh tôi. Còn ông chủ nhà ngồi cạnh thầy An.

Không khách sáo, chúng tôi – tôi và thầy An – tuy không đói nhưng cũng ngồi vừa nhâm

137

nhi vừa hàn huyên trò chuyện cùng gia đình cho vui. Bà mẹ hỏi chúng tôi lần này đến

hành tinh có việc gì? Tôi thưa với mẹ là có một số việc phải nhờ thủ lĩnh hành tinh giúp

đỡ, trong đó việc mời thầy Hơn và Cay đến Trái Đất làm việc một thời gian là chắc chắn.

Mai nói chen vào:

Giá như con được theo anh Cay đến Trái Đất một lần để xem quê hương của anh

Kim như thế nào!

Tôi biết Cay sẽ lập tức trừng mắt trấn áp cô em gái tội nghiệp nên vội đáp ngay:

Em ạ, rồi sẽ có lúc, nhưng bây giờ thì chưa thể. Cho anh thì giờ để nghĩ cách.

Sau bữa ăn, hai thầy trò tôi phải thu nhỏ người lại cho đúng kích thước bẩm sinh của

mình và chọn căn phòng nhà giấy đồ chơi của bé Mai để ngủ. Từ căn phòng tiện nghi

hiện đại của hành tinh Atlantis về đến đây ngủ nghỉ trong căn nhà giấy, tôi có cái cảm

giác như vừa từ thành phố về chơi ở nông thôn của Trái Đất. Cái cảm giác khác biệt duy

nhất so với Trái Đất là ở cả hai hành tinh này, sự yên bình và không khí trong lành phải

nói là đạt đến mức độ tuyệt đối.

Sáng hôm sau, hai thầy trò tôi chào tạm biệt cả nhà, cùng Cay bay đến nhà thầy Hơn.

Chả là tối hôm trước, thầy Hơn đã nhắn gọi tôi phải ghé nhà thầy để rồi thầy sẽ cùng đi

gặp thủ lĩnh lo cho kế hoạch sắp đến. Ông Mun khi biết chúng tôi đã đến hành tinh

Lemuria, cũng gửi lời chào mừng hỏi thăm.

Khi từ trên cao nhác thấy căn nhà gỗ đơn sơ ẩn dưới vườn cây cối um tùm sum suê

trĩu quả quen thuộc, chúng tôi đã thấy thầy Hơn đứng trên bực cửa từ lúc nào rồi. Thầy

vui mừng nắm tay tất cả chúng tôi tha thiết như những người thân lâu ngày mới gặp.

Chúng tôi ngồi quanh thành vòng tròn ngay trên sàn nhà bằng gỗ bóng lộn nghe thầy Hơn

hướng dẫn và bàn bạc xem sẽ đề nghị những gì với thủ lĩnh. Thầy An thưa với thầy rằng

kế hoạch sắp đến của Viện là tìm một địa điểm mới để xây dựng lại Viện, cơ sở vật chất

đầy đủ hơn, to đẹp hơn, đồng thời cạnh nó là một ngôi trường đào tạo đội ngũ cán bộ theo

nội dung và phong cách của người Lemuri chuyên chữa bệnh miễn phí cho người nghèo,

một chung cư cho cán bộ công nhân viên và học viên của Viện, một nhà máy sản xuất

bánh và nước dinh dưỡng đủ đáp ứng cho số hộ đói của cả nước, một bãi đáp cho một số

máy bay chuyên dụng, hai công trình sau được thiết kế và chế tạo theo kỹ thuật của người

Atlan. Thầy Hơn đặt vấn đề:

Vậy thì người Lemuri sẽ giúp đỡ gì trong việc xây dựng các công trình này?

Thưa thầy – thầy An đáp – chúng con sẽ đề nghị thủ lĩnh cử thầy và Cay sang Trái

Đất giúp chúng con một lần. Thầy, Cay và chúng con – những môn sinh đã được thầy chỉ

giáo – sẽ dùng quyền năng để chuẩn bị mặt bằng, xây dựng cơ sở, thu nhỏ, phóng to,

nhân bản các máy móc, thiết bị và công trình xây dựng. Thầy, Cay và chúng con còn

tham gia tuyển sinh, đào tạo vài khóa cán bộ cho Viện theo chương trình của người

Lemuri. Kế hoạch này sẽ bắt đầu thực hiện trước chuyến đi thăm thánh địa Shamballa

của thầy và Kim.

Thầy An kết thúc:

Đại thể là như vậy. Nhưng kế hoạch cụ thể, việc gì làm trước việc gì làm sau, ai sẽ

chịu trách nhiệm công việc gì, chúng ta sẽ bàn thêm sau này.

Thế rồi, chúng tôi – thầy Hơn, thầy An, Cay và tôi – cùng bay đến lãnh địa của thủ

lĩnh hành tinh cách nhà thầy Hơn không xa. Thủ lĩnh đã được thầy Hơn báo trước, bước

ra sân niềm nở tiếp đón chúng tôi. Thủ lĩnh mời mọi người ngồi vào chiếc bàn lớn, còn

mình tự ngồi ngay đầu bàn. Bên phải thủ lĩnh là thầy Hơn và Cay, bên trái là thầy An và

tôi. Người phục vụ mang ra một đĩa trái cây đầy ắp cùng với nước dinh dưỡng cũng ép từ

trái cây. Không phải là món ăn tiếp đãi xã giao mà đúng là đã đến thời khắc của bữa ăn

138

trưa. Không chút khách khí, thân mật theo kiểu gia đình, thủ lĩnh mời chúng tôi vừa ăn

vừa bàn chuyện. Thủ lĩnh lên tiếng trước:

Vừa rồi trước lúc đến đây, mọi người cùng ngồi bàn chuyện ở nhà thầy Hơn, ta sử

dụng năng lực thấu thính nên đã biết hết nội dung yêu cầu của hai vị khách từ Trái Đất

muốn gì. Vậy nên, mọi người không cần phải nói lại. Ta chấp nhận tất cả và muốn thầy

Hơn và Cay đến Trái Đất phụ giúp họ một thời gian. Ý thầy Hơn và Cay như thế nào?

Thưa thủ lĩnh, tôi xin thực hiện nhiệm vụ thủ lĩnh giao – thầy Hơn trả lời.

Thưa thủ lĩnh, cháu xin tuân lệnh thủ lĩnh – Cay trả lời.

Thầy Hơn bỗng nhiên im lặng trầm ngâm. Trong đầu, thầy tự hỏi có nên nhân dịp này

báo cáo thủ lĩnh về chuyện được đặc phái đến thăm thánh địa Shamballa trên Trái Đất,

nơi mà ông Mun và Kim chỉ biết đứng bên ngoài chiêm ngưỡng chứ không được phép

vào. Đặc ân này không phải người nào trên hành tinh Lemuria cũng có được. Ôi, thánh

địa Shamballa, nơi ghi dấu ấn lịch sử mà trong đó những tầng lớp ưu tú nhất, đạo đức

nhất của hai chủng người Lemuri và Atlan đã đến ẩn náu trước Ngày Tận thế của Trái

Đất trong trận Đại hồng thủy và Trái Đất đổi cực. Trải qua một thời kỳ dài đằng đẵng

mấy chục vạn năm bề mặt Trái Đất chìm trong đêm tối, không một sinh vật nào có thể

sống nổi vì thiếu ánh sáng và dưỡng khí. Bây giờ không hiểu hậu duệ của họ đang sống

ra sao, lý do gì ngăn cản họ trở lên mặt đất để chung sống với chủng người Aryen? Mọi

suy nghĩ của những người bên cạnh trong đó có thầy Hơn đương nhiên không thể vượt ra

ngoài tầm kiểm soát của thủ lĩnh. Ông nhìn thầy Hơn và nói:

Ta biết ông đang nghĩ gì! Ta sẵn lòng cho phép ông thực hiện đặc ân ấy ngay dù

việc này không nằm trong khoảng thời gian thực hiện kế hoạch giúp những con người

Aryen của Trái Đất thời hiện tại này. Ta sẽ chờ đợi và chắc chắn sẽ rất thú vị khi toàn thể

cư dân hành tinh chúng ta được nghe ông tường thuật những bí ẩn về một thế giới ngầm

của Trái Đất, cái thế giới có liên quan đến bà con họ hàng chúng ta và của cả cư dân hành

tinh Atlantis láng giềng hiện nay.

Sự việc diễn ra làm chúng tôi – thầy An và tôi – tuy đã biết nhưng không khỏi giật

mình. Sống ở cái thế giới của nền văn minh Lemuri này, chỉ một ý nghĩ nho nhỏ vừa xuất

hiện trong đầu là người khác biết ngay. Theo cái logic hiện nay của loài người trên Trái

Đất chúng ta, sống như vậy là hoàn toàn mất hết tự do, bởi vì mỗi cá nhân luôn luôn bị

kiểm soát chặt chẽ ngay từ trong ý nghĩ.

Vấn đề chính thế là được thông qua chóng vánh. Thủ lĩnh trở nên thoải mái linh hoạt

hơn khi phát biểu thêm cảm nghĩ của ông về sự lặp lại của lịch sử. Ngày xưa còn chung

sống trên Trái Đất, tiền bối người Lemuri đã là thầy dẫn dắt tiền bối người Atlan. Bây giờ

đây, tuy không sống chung trên một cái nôi mà ở trên hai hành tinh khác nhau, hậu duệ

người Atlan vẫn lại tìm đến học hậu duệ người Lemuri. Ấy là thủ lĩnh ám chỉ hai trường

hợp May và Sao. Ngoài ra còn chủng người mới Aryen tuy sống xa xôi cách trở cũng tìm

đến Lemuria để học hỏi. Tuy nhiên ngày nay có khác ngày xưa chút ít. Phải công tâm

thừa nhận rằng nhiều cái thầy cần phải học lại từ trò, ví như áp dụng những thành tựu

khoa học kỹ thuật tiên tiến để đem lại ánh sáng nhân tạo cho hành tinh.

Tôi nhanh nhảu thưa với thủ lĩnh rằng quả đúng như vậy. Trên Trái Đất hiện nay,

công nghệ thông tin phát triển ào ạt, tạo nên những máy tính làm các phép tính nhanh hơn

tia chớp. Thông tin được tải lên mạng và mạng trở thành thư viện, thành nơi giao lưu của

toàn thể mọi người trên khắp toàn cầu. Những người già trong đó có rất nhiều đã từng và

đang là thầy phải học lại, không thể không học hỏi từ lớp trẻ đáng tuổi con cháu và học

trò của mình. Thủ lĩnh chỉ mỉm cười gật đầu, không hề tỏ vẻ gì là trách cứ tính bồng bột

nông nổi của tôi.

139

Mọi người cùng đứng lên chào từ biệt thủ lĩnh. Thầy Hơn bay về nhà mình chuẩn bị

hành lý, sau đó ghé sang nhà Cay, cùng với chúng tôi chào tạm biệt mọi người và cùng

bay ra bãi đáp. Tôi bảo với Cay rằng, tôi sẽ nhờ Tashi ghé đưa Cay đến Trái Đất để cùng

thầy Hơn giúp chúng tôi xây dựng các công trình. Trong lúc tôi và thầy An thu nhỏ người

cho bằng thật thì giống như trường hợp của ông Mun và Cay trước đây, thầy Hơn cũng

phải thu nhỏ mình lại cho vừa khoảng không gian bên trong con tàu. Trước khi rời hẳn

khỏi hành tinh, như thường lệ, tôi phải cho tàu đến vùng phát năng lượng để nạp thêm

năng lượng, đồng thời cả ba chúng tôi cũng được tắm trong dòng suối năng lượng đó giữ

cho cơ thể được khỏe mạnh bình thường mặc dù không ăn uống gì trong quãng thời gian

dài của hành trình. Khi con tàu nhấp nháy ánh đèn xanh báo hiệu năng lượng đã được nạp

đầy, tôi cho con tàu bốc lên cao và chuyển sang chế độ lái tự động. Đồng thời tôi đề nghị

hai thầy lên giường nằm ngủ để dưỡng sức. Tôi cũng không quên cài đặt chế độ báo thức

khi con tàu bắt đầu đi vào vùng ảnh hưởng của Thái dương hệ.

Ghé thăm các hành tinh láng giềng

Kế hoạch của chúng tôi lần này là trên đường về có ghé thăm một số hành tinh

láng giềng và cuối cùng là Mặt Trăng, vệ tinh của Trái Đất. Hành tinh chúng tôi ghé thăm

đầu tiên là sao Hỏa.

Khi còi tàu hú rít và đèn đỏ nhấp nháy báo hiệu con tàu đang đi vào vùng Thái dương

hệ, chúng tôi choàng dậy và tôi xác định phương vị lái tàu hướng về phía sao Hỏa. Tôi có

biết kế hoạch thám hiểm ngôi sao này của Trái Đất từ những năm 60 của thế kỷ trước,

trong đó Liên Xô phóng hai con tàu Korable 4 và Korable 5, NASA phóng Mariner 2 và

Mariner 3 nhưng đều không thành công. Đến tháng 5 năm 1971, ba phi thuyền Mars 2,

Mars 3 của Liên Xô và Mariner 9 của Hoa Kỳ đã vào vùng ảnh hưởng của sao Hỏa và

biến thành các vệ tinh nhân tạo của sao này. Vì chúng nhỏ quá nên từ con tàu của mình,

chúng tôi không thể nhận ra chúng. Đến tháng 9 năm 1975, Hoa Kỳ cho Viking 1 và

Viking 2 đưa được hai máy thám hiểm nhỏ xíu xuống bề mặt sao Hỏa. Và gần đây nhất,

tháng 1 năm 2004, NASA gửi hai robot là Spirit và Opportunity dạng xe sáu bánh xuống

thám hiểm ở hai phần đất đối diện của ngôi sao này.

Xuyên qua những đám mây khổng lồ rất dày màu vàng, tôi cho tàu bay vòng quanh

hành tinh. Bề mặt sao Hỏa là một sự pha trộn giữa các dãy núi và các đồng bằng rộng

lớn. Các đồng bằng tại bắc bán cầu phủ dày một lớp bụi oxit sắt, trong khi đó, các cao

nguyên tại nam bán cầu thì đầy các hố lởm chởm. Hai cực của sao Hỏa được che giấu

bằng một lớp băng đá do nước và thán khí đông cứng tạo nên. Tại xích đạo, là một vùng

đầy núi lửa không còn hoạt động. Ở đây, sừng sững một ngọn núi khá cao khoảng 27 km

mà các nhà thiên văn chúng ta đặt tên là Olympus Mons bên cạnh những ngọn núi thấp

hơn có tên là Ascraeus Mons, Pavonis Mons và Arsia Mons. Ngoài ra, sao Hỏa còn có

một thung lũng khổng lồ mà chúng ta đặt tên là Valles Mariners dài 4000 km, rộng 250

km và sâu 7 km. Khi tàu bay trong vùng tối của hành tinh, chúng tôi nhìn thấy rõ hai mặt

trăng của nó giống hệt hai củ khoai tây, Phobos (có nghĩa là “sợ hãi”) quay nhanh hơn ở

vòng trong và Deimos (có nghĩa là “kinh hoàng”) quay chậm hơn ở vòng ngoài. Không

hiểu sao người Trái Đất đặt tên cho hai vệ tinh này như vậy, chắc là để cho xứng với tên

Mars (một vị thần Chiến tranh) của Hy Lạp mà người Việt ta gọi là sao Hỏa.

Theo số liệu của các nhà thiên văn, sao Hỏa giống Trái Đất nhiều điểm như nó có bốn

mùa rõ rệt, hai cực có băng đá, bầu khí quyển có mây, gió, bão cát và một ngày dài 24,7

giờ (Trái Đất một ngày dài 24,0 giờ). Trong lúc bay lang thang thám sát bên trên hành

140

tinh, thỉnh thoảng gió lốc xoáy mạnh, thổi bùng lên các đợt bão bụi. Bụi có màu vàng và

đỏ làm bầu trời ban ngày màu đỏ, nhưng cũng chính bụi này gây ra hiện tượng khác với

Trái Đất bầu trời ban ngày màu xanh lam, còn bình minh và hoàng hôn màu đỏ. Đứng

trên sao Hỏa ngước nhìn lên, lúc nào ta cũng thấy có vòng hào quang xanh quanh Mặt

Trời. Chúng tôi bật công tắc tìm các thông số cơ bản của hành tinh trên màn hình: đường

kính 3475 km bằng 0,27 lần Trái Đất, gia tốc trọng trường 3,7 m/s2 (Trái Đất 9,8 m/s2 có

nghĩa là nếu trên Trái Đất, ta cảm thấy sức nặng của một vật 10 kg thì trên hành tinh này,

sức nặng chỉ còn 3,8 kg), một năm có 687 ngày (Trái Đất 365,2 ngày), nằm cách Mặt

Trời 227,9.106 km (Trái Đất 149,6.106 km), nhiệt độ trung bình 65oC (Trái Đất 15oC),

áp suất tại bề mặt 0,7-0,9 kPa (Trái Đất 100 kPa). Bầu khí quyển rất loãng, mật độ tương

đương tầng cao 30 km của Trái Đất, gồm có: khí CO2 95,32%, N2 2,7%, Ar 1,6%,

O2 0,13%, CO 0,04%, H2O 0,03% (Trái Đất N2 77%, O2 21%, Ar 1%, CO2

và H2O không đáng kể).

Đã đến lúc chọn địa điểm để hạ cánh. Theo gợi ý của thầy An, tôi cho tàu bay là là

tìm đến nơi có các công trình kiến trúc nhân tạo. À, đây rồi. Một pho tượng đồ sộ hình

mặt người có đủ giác quan đang ngửa lên nhìn trời. Tượng tạc trên một bệ cực lớn hình

chữ nhật, khuôn mặt khắc rõ mũi và đôi mắt đối xứng hai bên, phía dưới là cái miệng hơi

mở. Qua máy đo của con tàu, chúng tôi biết tượng đá mặt người có chiều dài tính từ đỉnh

đầu đến cuối cằm là 2,6 km, rộng đến 2,3 km. Với khuôn mặt như vậy, mỗi con mắt rộng

khoảng xấp xỉ 300 m. Tôi cho tàu đến đứng yên trên cặp mắt, giảm độ cao để nhìn cho rõ

hơn. Thật đáng ngạc nhiên! Trong mắt có đủ nhãn cầu và đồng tử. Hố mắt dường như có

khoảng hở tựa miệng hang để ta có thể đi sâu vào bên trong. Phía dưới mỗi con mắt được

khắc những chi tiết trông hệt giọt nước mắt. Điều này có ý nghĩa gì nếu không phải là lời

cảnh báo của cổ nhân từng sống trên sao Hỏa cho loài người đang sống trên những hành

tinh láng giềng về một họa diệt vong nào đó?

Thầy An sau một hồi lục tìm trong óc, cung cấp thêm một thông tin đắt giá:

Năm 1989, một nhà thiên văn Thụy Sỹ đã tiết lộ cho giới báo chí rằng Đá mặt

người trên sao Hỏa đích thị là một sự cảnh báo. Bên trong nó có đặt một máy phát hình

vô tuyến. Máy đã hướng về Trái Đất phát đi những lời cảnh báo đáng lo ngại. Kèm theo

là hình ảnh của hàng chục vạn người bị chết trên đường phố, dường như muốn báo rằng

sao Hỏa đang phải hứng chịu một trận hỏa hoạn khủng khiếp, khiến toàn thể cư dân gục

chết bởi đói và khát. Nhà thiên văn này nói rằng có 50 nhà khoa học từ các nơi trên thế

giới đã đến xem đoạn băng xúc động lòng người ấy.

Nằm ở vị trí cách tượng Đá mặt người khoảng 16 km theo hướng Tây Nam là những

kiến trúc trong đó có dạng kim tự tháp và những dạng khác. Cạnh của mỗi kim tự tháp

dài gấp 10 lần kim tự tháp Ai Cập nên thể tích của nó lớn gấp 1000 lần. Kim tự tháp sao

Hỏa giống kim tự tháp Ai Cập ở chỗ đều được xây dựng quay mặt về hướng chính Bắc.

Tất cả các công trình kiến trúc này nằm ngay ngắn phía trước tượng Đá mặt người. Ngoài

ra còn có những di tích hoang phế tựa như thành lũy của một đô thị cổ đại, mỗi mặt dài

tới 2 km dựng đứng thành hình chữ V. Rõ ràng là trong lịch sử của sao Hỏa, đã từng có

hoạt động của những sinh vật có trí tuệ cao. Vậy thì những sinh vật có trí tuệ này có phải

người bản địa hay là từ thế giới bên ngoài sao Hỏa đến? Tôi đem vấn đề này hỏi thầy

Hơn. Sau một hồi ngẫm nghĩ, thầy trả lời rằng do người sao Hỏa tạo ra. Họ đạt được trình

độ khoa học kỹ thuật cao, đã chế được những con tàu vũ trụ và từng ghé thăm Trái Đất ở

những thời kỳ trước khi Trái Đất chế tạo được máy bay.

Tôi thắc mắc vậy thì cớ gì hành tinh này trở thành hành tinh chết, người sao Hỏa bị

diệt vong? Thầy An trả lời:

141

Các thành viên trong nhóm đặc biệt chuyên nghiên cứu Đá mặt người sao Hỏa

thuộc NASA cho rằng sự diệt vong của người sao Hỏa đúng là do một tai nạn khủng

khiếp nào đó. Tai nạn ấy rất có thể xuất phát từ sự kiện tầng ozon bị phá hoại, tương tự

việc tầng ozon bị thủng lỗ ở Nam cực của Trái Đất chúng ta hiện nay. Tầng ozon hễ bị

phá hoại, tia tử ngoại đến từ Mặt Trời sẽ trực tiếp chiếu lên bề mặt hành tinh, con người

sẽ bị ung thư da, mau chóng dẫn đến tử vong. Điều đáng sợ hơn nữa là đồng thời tia tử

ngoại phân giải nước thành oxy và hydro. Phần hydro nhẹ sẽ bay vào không gian vũ trụ.

Hiện tượng cứ thế kéo dài, nước sẽ cạn dần rồi khô đi. Oxy để lại nhiều khiến cho đất đai

bị chua dần, tạo nên lớp bụi oxyt sắt làm mặt đất trở thành màu đỏ. Một lời cảnh báo: nếu

loài người trên Trái Đất hiện nay không lập tức ngừng ngay việc phóng khí thải vào

không trung tạo hiệu ứng nhà kính, cứ tiếp tục mở rộng lỗ thủng của tầng ozon thì chẳng

bao lâu nữa, chúng ta cũng sẽ đi theo số phận thảm khốc của sao Hỏa.

Thầy Hơn thì cho rằng loài người trên sao Hỏa lúc ấy đã đạt tới

một nền văn minh cao. Họ đã chế tạo được những con tàu vũ trụ bay trong không gian

ngoài Thái dương hệ. Khi hành tinh lâm nạn, họ không thể trở về đành tìm những hành

tinh xanh khác để định cư, trong đó có Trái Đất. Thầy biết hiện nay ở trong một cánh

rừng nguyên thủy của miền Đông Zair, có một bộ tộc thiểu số sinh sống. Họ tự xưng là

hậu duệ của những người sao Hỏa bất hạnh ấy. Dáng người không cao lắm, da ngăm đen

nhưng đặc biệt lòng mắt trắng dã, không đen, nâu hoặc xanh như người Trái Đất. Họ nói

bằng tiếng Anh khá trôi chảy rằng vào năm 1829, trên sao Hỏa đã xảy ra trận dịch khủng

khiếp. Để trốn thoát nạn dịch chết người đó, hai mươi lăm con người đã cưỡi phi thuyền

lánh nạn ở Trái Đất. Trải qua 160 năm đến nay vẫn có người còn sống, nhưng dân số bộ

lạc đã tăng lên gấp đôi. Họ thích trang trí dụng cụ nội thất bằng hình tròn hay khối cầu.

Do đột ngột cắt đứt khỏi nền văn minh cội nguồn và cũng vì không dám tiếp xúc với đám

người Trái Đất đang còn lạc hậu và có lẽ khá hiếu chiến, họ đành giấu mặt, sống trong

cảnh thiếu thốn và cuối cùng lạc hậu hơn cả người bản địa bên cạnh di tích hào hùng của

tổ tiên là con tàu vũ trụ hình bán nguyệt màu trắng bạc đang gỉ sét nham nhở.

Trong lúc này, bỗng nhìn về phía xa, chúng tôi thấy rất rõ nhiều con tàu vũ trụ hình

tam giác đậu trên mặt đất. Một số bắt đầu di chuyển rồi đột ngột bốc lên cao, mất hút ở

chân trời. Hóa ra, viếng thăm hành tinh này đâu phải chỉ có chúng tôi. Khá chắc chắn là

đã, đang và sẽ còn nhiều con tàu vũ trụ với nhiều kiểu dáng khác nhau ra ra vào vào của

những con người ở hành tinh khác có trình độ văn minh cao thường xuyên ghé thăm nơi

đây vì nhiều mục đích không thể biết được.

Tôi đặt câu hỏi tiếp theo là liệu có nên cho con tàu đáp xuống hay không? Điều kiện

sống trên sao Hỏa không thuận lợi, điều này chứng tỏ khá hùng hồn là chúng tôi không

được nhìn thấy những con người hay sinh vật có trí thông minh nhưng không giống

người (?) từ trong con tàu vũ trụ hình tam giác bước ra. Nhưng chúng tôi đã được trang bị

bộ quần áo bảo vệ do thủ lĩnh P16 ban tặng. Chúng tôi có thể thám hiểm chui vào hang

hốc mắt của tượng Đá mặt người và vào cửa các kim tự tháp. Trong khi thầy An trù trừ

không dám quyết thì thầy Hơn phản ứng ngay. Thầy cho rằng:

Xông vào nhà người ta khi không được phép thì không nên làm. Đừng nghĩ rằng

trên một hành tinh bị cho là “chết” này, mọi thứ đều vô chủ. Trong thời gian thám sát từ

trên cao, ta đã gửi tín hiệu xuống hỏi nhưng không được trả lời.

Thưa thầy – tôi sốt ruột hỏi lại thầy Hơn – nếu hành tinh không có chủ chắc chắn

thầy sẽ không được ai trả lời!

Không hẳn vậy! Họ có mặt tại đây. Ta biết họ đã nhận tín hiệu của ta nhưng họ

không trả lời, có nghĩa là họ từ chối.

142

Thưa thầy, con vẫn chưa thông. Trên Trái Đất, người ta quan niệm rằng im lặng có

nghĩa là đồng ý.

Ôi, Trái Đất các người thật đáng xấu hổ Lần này thầy Hơn nổi khùng thực sự và

thầy nhìn thẳng vào mắt tôi Con đã chóng quên chuyện ông Mun cùng con khi đứng

trước kim tự tháp Kheops và tượng Nhân sư rồi sao? Ông Mun đã hỏi và họ không thèm

trả lời. Thôi được, thầy hỏi con điều này. Giả sử con đang ở trong nhà, có người đến gõ

cửa. Con bận gì đó chưa trả lời được hay không muốn trả lời. Con muốn người lạ đẩy cửa

xông vào hay lẳng lặng bỏ đi? Người tự tiện đẩy cửa xông vào chắc chắn là kẻ gian, chí ít

cũng không phải người lịch sự. Ta không muốn chúng ta trở thành kẻ gian hay lũ người

kém lịch sự trong nền văn minh cao của liên hành tinh này.

Tôi nhìn sang thầy An, tiếc rẻ cho cơ hội ngàn vàng cả đời khó có lần lặp lại mà bất

kỳ người nào trên Trái Đất có diễm phúc cũng ước mơ được một lần đặt chân xông xáo

tìm tòi trên sao Hỏa. Thầy Hơn biết tôi nghĩ gì, không bằng lời nói mà hướng cho tôi nghĩ

đến những con thiêu thân bất chấp hiểm nguy lao vào ánh đèn cho đến khi gục chết.

Tôi lì lợm vẫn chưa chịu thua. Tôi nhìn sang thầy An hỏi bằng ý nghĩ chứ không phải

bằng lời nói.

Hay là chúng ta trở về quá khứ của hành tinh Đỏ này, bởi vì con tàu vũ trụ của

người P16 có đầy đủ khá năng bay ngược thời gian?

Hỏi thầy An bằng ý nghĩ đâu có giấu được thầy Hơn. Thầy Hơn trả lời ngay:

Dẫu vậy, con cũng không thể đáp xuống hành tinh này!

Trong khi thầy Hơn nói, tôi đã kịp bật cần gạt về quá khứ, chọn thời gian một cách hú

họa. Con tàu rung nhẹ. Khác hẳn quang cảnh quạnh hiu vừa rồi, trên bề mặt hành tinh đỏ

hiện lên rất rõ một cảnh tượng hãi hùng: những thây người chồng chất đây đó rải rác

khắp nơi bên cạnh một số người trang phục trùm kín cách ly kiểu y tế chạy đi chạy lại

lăng xăng, tay cầm vòi phun khí diệt trùng và vòi phun lửa. Tôi cho tàu bay vòng quanh.

Đến bất kỳ nơi đâu cũng đều gặp cảnh tang tóc. Người còn sống hay đang ngắc ngoải thì

khóc than. Lửa và khói ngập trời. Không khí đặc quánh. Lửa khói từ những căn nhà,

vườn cây bắt đầu lan tỏa ra những cánh đồng, những rừng rậm quét sạch mùa màng và

mọi sinh vật trên đường đi của chúng. Đây có lẽ là một trận dịch dữ dội lan tràn toàn cầu

và kết cục là không chừa một ai. Ngoài con tàu vô hình của chúng tôi, khá nhiều những

con tàu vũ trụ hữu hình khác đang quần đảo bất lực bên trên. Gió nổi lên dữ dội và bắt

đầu những cơn bão tố làm chao đảo mọi thứ trên mặt đất và trong không gian. Khởi đầu

ngày tận thế của những cư dân trên sao Hỏa là đây chăng? Con tàu của chúng tôi bị rung

lắc khá mạnh. Chắc chắn không thể đổ bộ lên sao Hỏa đang trong tình trạng này được

nếu không muốn rước họa vào thân. Thầy Hơn quả là sáng suốt. Đành vĩnh biệt những

con người xấu số bên dưới, tôi vội gạt cần gạt cho con tàu trở về thì hiện tại.

Qua mạng, về sao Hỏa hiện nay, tôi được biết người Nga có ý định đến năm 2025 sẽ

đưa người lên. Còn NASA Cơ quan quản lý hàng không và không gian Mỹ có kế

hoạch đưa người lên sao Hỏa như sau: thời gian cuối năm 2028 đầu năm 2029, đưa trước

đồ dùng và nhà ở lên sao Hỏa, đến tháng 2 năm 2031 cho người khởi hành lên sao Hỏa

trong 30 tháng trên con tàu nặng bốn trăm tấn. Ôi lâu quá! Ngay bây giờ, năm 2008 có

hai người Việt Nam và một người Lemuri đang ở trên sao Hỏa đây rồi nhưng ngặt nỗi

không dám đặt dấu chân bởi thầy Hơn không đồng ý. Spirit tìm thấy khoáng chất

geothite, Opportunity phát hiện một mỏ lớn hematite, thế còn chúng tôi thì tìm được gì

trên sao Hỏa? Không có gì cả ngoài những bức ảnh. Nhưng chắc chắn ngay những bức

ảnh chúng tôi chụp được cũng đang có trong hàng ngàn bức ảnh ở kho lưu trữ của NASA

do Spirit và Opportunity gửi về. Nếu chúng tôi công bố người Việt Nam đã có mặt sớm

143

trên hành tinh đỏ này với chứng cứ là những bức ảnh, chắc chắn họ sẽ cười vào mũi

chúng tôi, gọi chúng tôi là kẻ mắc bệnh hoang tưởng hay bậc thầy “chôm chỉa”. Tốt nhất

là quên đi chuyện này, sống để bụng, chết mang theo.

Thế rồi, chúng tôi lại lên đường hướng về phía sao Kim.

Nằm gần Mặt Trời, sao Kim đứng sau sao Thủy. Có thể nói Trái Đất và sao Kim có

kích thước và khối lượng xấp xỉ nhau. Đường kính sao Kim bằng 12104 km thì Trái Đất

là 12756 km tức bằng 0,95 lần Trái Đất. Sao Kim nặng 4,87 tỷ tỷ tấn so Trái Đất cũng

khoảng 5,97 tỷ tỷ tấn tức bằng 0,875 lần Trái Đất. Nhiệt độ trung bình trên bề mặt sao

Kim là 460oC thì Trái Đất là 15 oC. Sở dĩ nhiệt độ sao Kim cao là do hiệu ứng nhà kính.

Lượng khí CO2 đun nóng các đại dương, làm nước đại dương biến mất và hành tinh tiếp

tục bị đun nóng. Sao Kim là một hành tinh kỳ lạ nhất trong Thái dương hệ. Cùng với sao

Thiên vương và sao Diêm vương, nó quay ngược chiều quay của các hành tinh còn lại.

Thời gian tự quay quanh mình cũng dài bằng thời gian nó quay hết một vòng quanh Mặt

Trời, tức là một ngày dài bằng một năm.

Con tàu chúng tôi mỗi lúc một tiến gần đến hành tinh này. Trên màn hình hiện rõ dần

một khối cầu khổng lồ che giấu dung nhan trong lớp vỏ mây dày. Thầy An trầm ngâm:

Chúng ta khó có điều kiện thám sát hành tinh này. Nhiệt độ của nó rất lớn, lên tới

470oC, không cho phép một giọt nước nào tồn tại trên bề mặt nung đỏ, chứa đầy những

vũng thiếc và chì nóng chảy nằm trên nền đá nham thạch đông cứng từ các núi lửa phun

ra. Bầu khí quyển dày đặc thán khí và khí acid sulfuric, rất nặng làm cho sao Kim chịu

một áp suất lớn hơn chín mươi lần Trái Đất, tương tự áp suất ở độ sâu 900 mét dưới đáy

biển có thể bóp bẹp bất cứ chiếc tàu ngầm bình thường nào.

Tôi gọi điện hỏi Tashi con tàu do P16 chế tạo chịu được áp suất và nhiệt độ bao

nhiêu, liệu có khả năng “xông nhà” sao Kim không. Tashi trả lời ngay là chúng tôi hãy

yên tâm, con tàu vũ trụ của P16 có thể chịu áp suất hàng nghìn lần áp suất khí quyển Trái

Đất và còn nhiệt độ thì hàng nghìn độ. Thế là tôi yên tâm cho tàu hạ độ cao, bay xuyên

qua lớp mây dày có chứa acid sulfuric đang vần vũ hệt như trong cơn bão táp. Màn hình

hiện lên những thông số của không khí sao Kim: khí carbonic - 96% và khí nitơ - 3%.

Với bầu không khí hoàn toàn không có oxy này, chúng tôi chắc chắn sẽ bị chết ngạt!

Tôi cho tàu bay quanh hành tinh để quan sát. Cảnh tượng bất ngờ hiện ra bên dưới.

Rải rác trên toàn hành tinh, khá nhiều thành phố bỏ hoang phế, các công trình xây dựng

chủ yếu là những kim tự tháp. Không có dấu hiệu gì là có sự sống. Tôi hỏi thầy Hơn liệu

có người sao Kim đang tồn tại ở bên dưới các kim tự tháp, trong các công trình ngầm

dưới mặt đất không? Thầy trầm ngâm một lúc rồi lắc đầu. Một hành tinh xanh đã từng có

đông đúc con người sinh sống, chứng cứ là những thành phố, những con đường,... nhưng

rồi có khả năng rất lớn là do hiệu ứng nhà kính mà toàn bộ loài người ở đây rơi vào thảm

cảnh diệt vong để lại dấu tích đau buồn như ngày nay. Sống dưới cùng mái nhà, nếu nước

nào cũng chỉ chăm lo phát triển kinh tế, phá hoại môi trường, sản sinh nhiều thán khí như

ở Trái Đất chúng ta hiện nay, không khéo chúng ta lại đi theo vết xe đổ của hành tinh

láng giềng này.

Lần này, không cần hỏi thầy Hơn rằng có nên đổ bộ xuống sao Kim để thám sát kỹ

hơn, tôi nhìn thầy An và nói rằng đã đến lúc từ biệt hành tinh anh em bất hạnh này. Giả

sử có đổ bộ đi nữa, làm sao chúng tôi chịu được nhiệt độ bỏng rát dưới mỗi bước chân?

Nhưng đồng thời lúc này trong tôi xuất hiện ý nghĩ lặp lại cho con tàu trở về quá khứ.

Hình như thầy Hơn đang theo dõi sát ý nghĩ của tôi. Nhìn đồng hồ chỉ báo năng lượng

còn ở mức thấp, tôi e lần này cũng sẽ tiêu tốn nhiều năng lượng nhất định ảnh hưởng xấu

144

đến chuyến thăm Mặt Trăng, tôi đành bỏ ngay ý định. Tôi cho con tàu bốc lên cao, vượt

qua tầng mây dày đặc đang vần vũ đầy sấm và tia chớp, thoát ra ngoài.

Qua mạng, tôi được biết vào năm 1961, vệ tinh Venera 1 của Liên Xô lần đầu tiên

bay cách sao Kim 100 nghìn kilomet nhưng không quan sát được gì và cũng mất liên lạc

với trung tâm điều hành vì hệ thống cảm ứng định vị bị nhiệt độ cao tàn phá. Người Mỹ

thành công hơn chút ít với Mariner 2 một năm sau đó, đo được sóng điện từ gây nhiệt và

khẳng định sao Kim không có từ trường. Venera 2 bốc cháy trước khi lại gần sao Kim và

Venera 3 vào năm 1966 là sứ giả đầu tiên tiếp cận bề mặt hành tinh bão táp này, song

ngay lập tức bị phá hủy hoàn toàn. Tiếp theo Venera 5, Venera 6 lại bị áp suất bóp nát ở

độ cao 18 nghìn mét, Venera 7 năm 1970 đổ bộ được lên bề mặt hành tinh cung cấp cho

loài người dung nhan thật, cùng các dữ liệu chính xác về nhiệt độ và áp suất. Venera 8

năm 1972 lại đến thăm sao Kim, hoàn thiện thêm các dữ liệu. Về việc này, Liên Xô kiên

trì cho đến Venera 16 vào năm 1982 mới vẽ được bản đồ địa lý hoàn chỉnh của sao Kim.

Cơ quan Vũ trụ Châu Âu ESA phóng tàu Venus Express vào năm 2006 để thám hiểm

nghiên cứu khí quyển và bề mặt sao Kim trong hai ngày (ngày sao Kim gần bằng 500

ngày Trái Đất). Cơ quan vũ trụ Nhật JAXA dự định phóng vệ tinh Planet C vào năm

2008. Người Nga cũng dự định tiếp nối thành tựu đã đạt được, sẽ phóng một loạt tàu

Venera D vào thập kỷ tới.

Cũng như lần trước, trong tay chúng tôi chỉ có độc những tấm ảnh do con tàu tự động

chụp, ngoài ra không còn một vật chứng nào khác để chứng minh rằng có hai người Việt

Nam và một người Lemuri trước hết thảy mọi cư dân trên Trái Đất thời đương đại đã đến

chiêm ngưỡng tận mắt quang cảnh của hành tinh láng giềng gần gũi sao Kim , bay

vòng quanh là là trên mặt đất trong cái nóng kinh khủng và sức ép chết người mà vẫn giữ

được toàn thân trở về!

Về sao Thủy thì không có gì đáng xem, vả lại năng lượng dự trữ của tàu vũ trụ không

nhiều, trên đường về Trái Đất, tôi lái con tàu ghé thăm Mặt Trăng theo dự định. Mặt

Trăng là vệ tinh tự nhiên duy nhất của Trái Đất, cách Trái Đất non 400 nghìn km, có

đường kính hơn 3,4 nghìn km. Từ Trái Đất, chúng ta luôn luôn chỉ nhìn thấy một nửa của

nó, nửa kia ẩn giấu phía sau, có nghĩa là Mặt Trăng luôn quay một mặt về phía Trái Đất.

Mặt Trăng có bầu khí quyển cực mỏng chứa nhiều heli, neon, hydro và argon, còn lại rất

ít khí metan, amoni và carbon dioxid. Do gần như không có bầu khí quyển, Mặt Trăng

không có các hiện tượng như gió, bão hay sự xói mòn bề mặt. Các vị trí trên bề mặt hầu

như giữ được trạng thái nguyên thủy cho đến khi bị một thiên thạch bắn phá tạo thành

một “vết sẹo” lõm tròn trịa. Nhiệt độ bề mặt hướng về phía Mặt Trời cao nhất là 120oC,

mặt khuất thấp nhất là 235oC, trung bình là 25oC. Áp suất khí quyển 3.1013 kPa, gần

như là chân không so với áp suất bề mặt Trái Đất 100 kPa, gia tốc trọng trường 1,6 m/s2

so với Trái Đất 9,8 m/s2. Tôi cho con tàu vũ trụ bay vòng quanh Mặt Trăng ở độ cao vừa

phải, thám sát cả mặt tối lẫn mặt sáng của nó. Thật không khác gì sao Hỏa mà còn hơn cả

sao Hỏa, không gian trên Mặt Trăng lặng lẽ, im ắng một cách tuyệt đối. Đó là một thế

giới hoang vắng, lạnh lẽo khô cằn, mặt đất chỉ toàn là hang hố lổn nhổn. Khá nhiều dãy

núi hình vòng cung, trên đó có những dấu vết cải tạo nhân tạo. Có ngọn núi vòng cung để

lộ một góc vuông với mỗi cạnh dài đến 25 km, bên trên mặt đất và tường thành với

những dấu vết sửa chữa rất rõ. Một ngọn núi vòng cung khác có viền ngoài bằng phẳng

trơn bóng rất cân đối, trong đó có những hình hình học, những đường phân chia giống

như được ai đó kẻ ra. Ở một vùng trũng rộng lớn tựa như bình nguyên, chúng tôi nhìn

thấy khá nhiều kim tự tháp lớn nhỏ giống những kim tự tháp ở Ai Cập. Ở một vùng trũng,

chúng tôi phát hiện nhiều nóc nhà vòm tròn khổng lồ với màu trắng chói chang, đường

145

kính ít nhất cũng tới 3 km. Chúng tôi ngờ rằng công trình nhân tạo khổng lồ này chắc

chắn thuộc chủ nhân là những người ở hành tinh văn minh khác đến. Muốn sống và làm

việc thoải mái trên một vệ tinh chết như thế này, cách duy nhất là xây dựng một khoảng

không gian cách biệt có đủ không khí để thở và đủ nước để uống. Sau mấy nhà vòm là

những con tàu vũ trụ, chúng xếp hàng ngay ngắn ở một bên của miệng núi lửa. Rõ ràng là

người ngoài hành tinh đã đến trước ta và đang dùng Mặt Trăng làm trạm trung chuyển

hoặc làm đài quan sát hoạt động của người Trái Đất. Chắc chắn, trong khi thực hiện sứ

mệnh hạ cánh xuống Mặt Trăng của chương trình Apollo 11, Amstrong và Aldrin đã mục

kích và sững sờ trước những gì mà chúng tôi đang thấy. Rồi đến Apollo 15, Scott đặt

chân lên Mặt Trăng và lần này một tiếng còi dài tải theo những dấu giọng lặp đi lặp lại

nhiều lần nhưng người Trái Đất chúng ta không hiểu và chưa giải mã được. Tính ra từ

năm 1968 đến năm 1972, NASA đã phóng các phi thuyền Apollo 7 cho đến phi thuyền

Apollo 17 chở 24 phi hành gia đến Mặt Trăng và cho 12 người đi bộ trên đó. Đến đây, tôi

bỗng nhớ có một Apollo nào đó (hình như Apollo 13) bị trục trặc bất ngờ không đến

được Mặt Trăng. Apollo này có nhiệm vụ đặt một thiết bị gây nổ hạt nhân nhằm cho

người trên Trái Đất dựa vào chấn động truyền dẫn để thăm dò địa chất trên Mặt Trăng.

Tôi tin sự trục trặc này không hề ngẫu nhiên chút nào mà rất có thể bị những người ngoài

hành tinh đang ở trên Mặt Trăng can thiệp vô hiệu hóa. May thay, ngày 13 tháng 5 năm

1972, một khối thiên thạch cực lớn va vào Mặt Trăng tương đương với quả bom 200 tấn

TNT. Cơ hội trời cho này đã giúp người Trái Đất đo được bề dày vỏ Mặt Trăng ít nhất

cũng 45 km lớn gấp đôi bề dày trung bình của mọi lục địa hiện hữu trên Trái Đất.

Nhiều nhà khoa học cho rằng khi Trái Đất mới ra đời, nó không có vệ tinh và quay rất

nhanh, một ngày đêm chỉ mất vài tiếng đồng hồ. Thông thường các vệ tinh thiên nhiên

nhỏ hơn rất nhiều lần hành tinh mẹ của nó. Nhưng Mặt Trăng của chúng ta chỉ nhỏ hơn

Trái Đất có bốn lần. Với lại, thầy An góp thêm bên dưới lớp bụi phủ dày trên bề mặt

là lớp nham thạch khá rắn có hàm lượng nhiều nguyên tố dùng rất tốt cho vỏ máy bay và

tàu vũ trụ bởi nó vừa dai bền, vừa nhẹ, chống ma sát rất tốt. Bởi vì, thành phần chính là

những kim loại lý tưởng chịu nhiệt cao, chịu mài mòn cao, bền cao với hàm lượng phong

phú những nguyên tố như crom, zircon, titan. Như vậy, phải có nhiệt độ siêu cao cỡ bốn

nghìn độ mới làm cho nham thạch này nóng chảy được. Nham thạch do núi lửa tạo ra trên

Trái Đất thì không được như vậy nên mới có giả thuyết cho rằng Mặt Trăng là một thiên

thạch đi lang thang và bị Trái Đất bắt lấy. Từ khi thiên thạch này quay quanh, Trái Đất

quay chậm dần lại cho đến như ngày nay, một ngày đêm phải dài đến hai mươi bốn tiếng

đồng hồ.

Thầy An bổ sung thêm rằng trên Mặt Trăng còn có thứ quý hơn gấp bội là chất đồng

vị heli-3, thứ mà Trái Đất rất hiếm. Một ngày đêm của Mặt Trăng tương đương với một

tháng của Trái Đất nên Mặt Trăng đón nhận ánh Mặt Trời trong suốt 15 ngày liên tiếp.

Heli-3 tới Mặt Trăng qua gió Mặt Trời và hiện có trữ lượng lớn tới 500 triệu tấn. Chỉ cần

100 tấn heli-3 là đã có thể cung cấp năng lượng cần thiết cho toàn thể loài người sống

trên Trái Đất trong vòng một năm. Năng lượng thu được từ heli-3 phải nhờ phản ứng

nhiệt hạch của nó với deuteri, một đồng vị nặng của hydro, diễn ra ở nhiệt độ rất cao và

vô hại với sinh thái.

Tôi hỏi thầy Hơn:

Thưa thầy, lần này ta có thể đổ bộ xuống thăm dò Mặt Trăng được không ạ?

Được – thầy Hơn trả lời ngay không chút chần chừ.

Tại sao ạ?

Bởi vì Mặt Trăng được xem như là của Trái Đất!

146

Họ sẵn lòng chứ ạ!

Đúng!

Tôi lấy từ ngăn kéo ra ba bộ quần áo du hành do P16 tặng và phát cho mỗi người một

bộ. Nó vừa khít cơ thể mỗi người khi mặc vào. Nó hơi phồng to lên chút ít khi chúng tôi

vừa bước ra khỏi con tàu. Cảnh giác cao độ vẫn hơn, chúng tôi cứ giữ nguyên chế độ tàng

hình cho con tàu. Các bộ phận của bộ quần áo bắt đầu làm việc. Trong tiếng kêu ro ro nhè

nhẹ, tôi có cảm tưởng như đang có một luồng hơi mát dịu lan khắp cơ thể. Trong khi

miếng băng cảm biến chứa đèn LED chỉ nhiệt độ bên ngoài là 115oC thì nhiệt độ bên

trong quần áo vẫn giữ được 25 oC. Do gia tốc trọng trường khá bé nên mỗi bước đi của

chúng tôi trở thành bước nhảy nhẹ nhàng bay bổng. Tôi có cảm giác là chỉ cần co chân

nhún nhẹ một cái là có thể nhảy lên cao đến hàng mấy chục mét một cách dễ dàng. Thầy

Hơn không quan tâm đến chuyện ấy. Thầy dùng chân phải gạt mạnh lớp bụi trên mặt đất

để lộ ra phần nham thạch màu xám xịt cứng chắc. Đoạn thầy chụm ba ngón giữa của bàn

tay phải phóng tia lửa điện khoét một vòng tròn và giật lên được một khối đá hình lăng

trụ nặng cỡ 1 kg. Tôi và thầy An cũng bắt chước làm theo và cũng rút được hai khối lăng

trụ nhưng nhỏ và ngắn hơn. Thầy Hơn bảo:

Món này sẽ rất có ích cho các con đây. Các con hãy nhờ người Atlan luyện nó thành

kim loại tấm để làm vỏ cho máy bay siêu thanh.

Tôi hơi ngỡ ngàng, trong đầu có ý nghi ngờ con số quá ít ỏi. Thầy Hơn biết ngay, bảo

với tôi rằng:

Con quên rồi sao? Ta sẽ dùng phép nhân bản để làm tăng lượng quặng này lên chứ!

Tôi bật ra sáng kiến:

Thật ra, không cần nhiều quặng đâu thầy ạ! Ta sẽ nhờ làm chiếc máy bay nhỏ xíu

dạng mô hình với lượng quặng ít ỏi này rồi dùng phép phóng đại …

Thế cũng được – thầy Hơn thừa nhận.

Chúng tôi ba người hàng một nối đuôi nhau nhẹ nhàng tiến lên phía trước. Cái cảm

giác bay bổng do trọng trường thấp của Mặt Trăng thể hiện rất rõ. Bụi bị xới tung bên

dưới sau mỗi bước chân nhưng vì không có gió nên chỉ bay là là sát đất hút theo gót chân

của mỗi người. Thầy Hơn đề nghị:

Đi chậm lắm. Ta bay thôi!

Bay về phía nhà vòm – thầy An đề nghị.

Ba thầy trò chúng tôi nhấc mình lên khỏi mặt đất. Hình như do khí quyển loãng, lại

không có gió và áp suất gần như chân không nên chúng tôi bay khá nhanh. Chẳng mấy

chốc đã đến khu vực nhà vòm. Vừa hạ mình xuống mặt đất, đã thấy hai “con người“

trong bộ quần áo du hành vũ trụ mở cửa bước ra. Họ nhìn chúng tôi chờ đợi, không có vẻ

gì là thân thiện hoặc ngược lại. Thầy An lên tiếng trước:

Chào hai bạn! Chúng tôi là người của Trái Đất, trên chuyến bay trở về nhà đã ghé

lại thăm Mặt Trăng.

Chào các bạn! Một trong hai người lên tiếng đáp lại Chúng tôi là người của

hành tinh Atlantis đã đến đây từ khá lâu.

Thật quá bất ngờ, tôi vui sướng reo lên:

A, người anh em! Chính chúng tôi vừa từ hành tinh Atlantis trở về đến đây sau khi

ghé thăm sao Hỏa và sao Kim.

Người thứ hai cũng mừng rỡ như tôi, vồn vã đưa tay:

Xin mời, mời vào trong. Chúng ta sẽ hàn huyên trong nhà tiện hơn.

147

Theo chân chủ nhà, qua hai lớp cửa cách ly mở khép tự động, ba thầy trò chúng tôi lọt

vào một không gian mênh mông tựa như của một hành tinh xanh. Những khu trồng cây,

những vườn hoa, những bể nước có vòi phun liên tục. Chúng tôi cùng bước lên băng

chuyền giống hệt trên hành tinh Atlantis để hướng đến những dãy nhà ở phía xa. Năm

người không ai bảo ai, tự cởi bộ quần áo du hành để sống thoải mái trong môi trường

nhân tạo phù hợp. Sau khi đã yên vị trong một căn phòng giống như để dùng làm phòng

khách, từ mặt bàn hiện ra đột ngột năm chiếc khay đựng các phong bánh và năm cốc sữa

trắng: bữa ăn truyền thống và bất biến của người Atlan. Một trong hai vị chủ nhà chìa tay

mời chúng tôi:

Đã đến giờ ăn trưa, xin mời chư vị. Chúng ta vừa ăn vừa nói chuyện.

Thầy An giới thiệu:

Sau khi thăm hành tinh P16, chúng tôi có ghé qua hành tinh Atlantis và Lemuria rồi

trở về đây. Thầy Hơn đây là người Lemuri vốn cao lớn nhưng tự mình làm nhỏ lại để có

thể bay trong con tàu vũ trụ chật chội. Tôi và bạn Kim đây là người Trái Đất. Riêng Kim

vừa làm rể của hành tinh các bạn được gần một năm.

Xin chúc mừng bạn Kim. Thứ lỗi vì tính tò mò: các vị mỗi người đã tự bay đến đây

bằng phương tiện gì vậy?

Chúng tôi đã dùng con tàu vũ trụ. Nhìn thấy chúng tôi tự bay từ xa đến mà không

thấy con tàu ở đâu, chắc các bạn lạ lắm? Chúng tôi để tàu ở cách đây không xa, nhưng nó

vô hình nên các bạn không nhìn thấy. Còn chúng tôi tự thân bay đến đây do quyền năng

học được ở người Lemuri.

Thật là một điều lạ bây giờ chúng tôi mới biết dẫu rằng hành tinh chúng tôi và hành

tinh Lemuria là láng giềng lâu đời của nhau.

Tôi sốt ruột lên tiếng:

Chúng tôi cũng xin thứ lỗi vì tính tò mò: có thể cho chúng tôi biết các bạn hành tinh

Atlantis “xây căn cứ” trên vệ tinh của Trái Đất nhằm mục đích gì vậy?

Không giấu gì các bạn: từ khi hai vợ chồng phi hành gia của chúng tôi bị tên lửa

Trái Đất bắn rơi, thủ lĩnh cấm ngặt chúng tôi bay quanh Trái Đất để thám sát. Vì người

Trái Đất hiện thời chưa đủ trình độ khoa học kỹ thuật để lên sống lâu dài trên Mặt Trăng

nên cách tốt nhất là chúng tôi lập trạm quan sát ở đây. Hoàn toàn không vì ý đồ xâm lược

Trái Đất, điều này phản lại đạo đức và nền văn minh liên hành tinh, mà vì mục đích

nghiên cứu khoa học.

Các bạn nghiên cứu gì ở Trái Đất?

Các bạn thử nghĩ xem: đối với một hành tinh mà cư dân đạt đến nền văn minh cao,

đời sống vật chất hoàn toàn đầy đủ, con người không bệnh tật, ốm đau, mọi người chung

sống hòa bình thì việc cần làm còn lại là gì nếu không phải là chu du tìm hiểu vũ trụ, tìm

hiểu các nền văn minh khác, kết giao bạn bè, học tập lẫn nhau? Trái Đất có vị trí đặc biệt

đối với chúng tôi là theo lịch sử, nó là cái nôi mà những vị tiền bối của người trên hành

tinh Atlantis ngày nay đã từng sinh sống ở đó. Cho đến bây giờ, chúng tôi vẫn không hiểu

vì sao lại có ngày tận thế trên Trái Đất, toàn bộ lục địa Atlantis to lớn của tiền bối chúng

tôi bị nhấn chìm. Nhóm chúng tôi đã tìm hiểu nguyên nhân diệt vong của những cư dân

trên sao Hỏa và sao Kim, biết chắc chắn đã từng có sự sống trên đó do những phế tích

xây dựng còn lại. Chúng tôi e rằng có nhiều nguyên nhân trong đó nguyên nhân chủ quan

chiếm khả năng rất lớn: sự tự diệt vong do chiến tranh hoặc do phát triển công nghiệp ào

ạt ảnh hưởng trầm trọng đến sự cân bằng sinh thái!

Người Atlan kia phát biểu:

148

Nhìn về Trái Đất, qua những điều trông thấy, chúng tôi e rằng cư dân ở đây muốn

lặp lại vết xe đổ của các hành tinh láng giềng gần gũi: sao Hỏa và sao Kim.

Thầy Hơn phát biểu chắc nịch:

Người Atlan trên Trái Đất trước đây bị diệt vong là do chiến tranh! Họ đã có nền

khoa học kỹ thuật cao hơn Trái Đất hiện nay và chính những vũ khí hiện đại, có sức công

phá lớn vừa tiêu diệt đối phương cũng vừa kích thích hành tinh này bột phát nhiều núi lửa

lớn, tạo nên những đợt sóng thần mạnh nhấn chìm hầu hết các lục địa thấp.

Tôi không nghi ngờ gì về ý kiến của thầy Hơn. Có điều từ nay cho đến khi loài người

Trái Đất bị diệt vong lần tiếp theo, thời gian có còn lâu không. Nếu người Trái Đất biết

chủ động thì ngày tận thế có thể xảy ra mà cũng có thể không!

Tôi bỗng nhớ đến một tin khá giật gân đã được đăng báo:

Mới đây, trên Trái Đất, người ta đang lo một khả năng bất ngờ khác do con người

tạo nên một lỗ đen vũ trụ giữa đất nước Thụy Sĩ nhỏ bé thanh bình có khả năng nuốt

chửng Trái Đất, thậm chí cả vũ trụ nữa. Các nhà vật lý ở phòng thí nghiệm Large Hadron

Collider đang có kế hoạch sử dụng máy gia tốc các hạt proton đến năng lượng 14 ngàn tỷ

electron vôn tạo ra sự va đập giữa chúng ở điều kiện giống như thời điểm một phần nghìn

tỷ giây sau vụ nổ Big Bang. Tiến sỹ Walter Wagner cho rằng các nhà vật lý này không

lường đúng hậu quả của công việc mình làm, có nguy cơ tạo ra một lỗ đen. Ngoài ra có

thể đồng thời còn phát sinh “vật chất lạ” khiến hành tinh chúng ta co rúm ró thành một

thứ vật chất đặc sệt. Nguy cơ ngày tận thế là đây chăng?

Thầy Hơn thận trọng:

Ta nghi ngờ điều này. Mỗi con người là một tiểu vũ trụ, người ta vẫn quan niệm

thế. Thế nhưng cái vũ trụ nhỏ bé kia làm sao ảnh hưởng đến toàn thể vũ trụ khổng lồ

được? Ta chỉ đồng ý là công việc lãng nhách này nếu có thể cũng chỉ tiêu diệt được Trái

Đất là nhiều lắm đó!

Thầy An tiếp lời:

Không đến nỗi như vậy đâu! Không có lỗ đen nào do ta tạo ra lại có thể nuốt chửng

Trái Đất. Đơn giản bởi trong thiên nhiên tồn tại định luật bảo toàn năng lượng. Nếu có

tạo được một ít năng lượng đen hay lỗ đen trên máy gia tốc thì nó cũng sẽ vô cùng ít ỏi

không đủ sức mạnh tác động đến Trái Đất, huống chi phải mất mấy năm nữa mới làm

được điều này. Các nhà vật lý nói rằng họ đã tới gần thời điểm xảy ra Big Bang và tiến

sát đến việc làm ra vụ nổ đó. Nhưng thật ra, sẽ không có vụ nổ nào được tạo ra, không có

lỗ đen nào được hình thành cả. Chỉ có thông qua việc đo đạc để loài người hiểu được

nhiều tính chất của vật chất đen, năng lượng đen.

Những người bạn ở hành tinh Atlantis chỉ lắng nghe mà không bàn tán gì. Tôi ướm

hỏi hai người bạn tình hình thực tế trước mắt:

Mặt Trăng có đủ nguồn vật chất để các bạn tạo nên không khí để thở, nước để uống

và sinh hoạt?

Nói chung là đủ. Thạch quyển Mặt Trăng chứa đến 43% oxy, 21% silic, 10% nhôm,

9% sắt, 9% calci, 5% magiê và 2% titan. Còn bầu khí quyển Mặt Trăng khá giàu heli

(25%), neon (25%), hydro (23%) và argon (20%). Nếu có thiếu chút ít những nguyên tố

khác, chúng tôi mang chúng từ... Trái Đất.

Chẳng phải các bạn vừa nói thủ lĩnh Atlantis đã cấm rồi sao?

Ấy là nói cách đây mấy năm. Bây giờ, chúng tôi đã nghiên cứu sản xuất được vật

liệu làm vỏ con tàu vũ trụ có khả năng bẻ ngoặt về phía khuất mọi loại tia đập vào nó như

ánh sáng Mặt Trời, tia radar, tia hồng ngoại, tia tử ngoại, v.v. Không có tia phản xạ, mọi

con mắt và radar của người Trái Đất trở nên mù!

149

Các bạn đến vùng nào của Trái Đất?

Nơi lý tưởng là hai cực của Trái Đất. Không khí ở đấy trong lành và nước thì rất

tinh khiết. Với lại tại đó, không ai dòm ngó và ngăn cản chúng tôi. Điều mà chúng tôi lo

lắng nhất là xung quanh Trái Đất hiện nay không thể đếm xuể có bao nhiêu rác rưởi cùng

với vô số vệ tinh đang bay quanh. Nếu lái tàu không khéo dễ sinh va chạm và tác hại

không thua gì bị tên lửa bắn.

Đúng thế! – Thầy An phát biểu – Hiện tại có khoảng 40 nghìn vệ tinh nhân tạo

đang bay quanh Trái Đất với vận tốc 3,07 km/giây và ở tầng cao 35 880 km. Rác vũ trụ

phát sinh từ các vụ bắn phá vệ tinh không còn hoạt động hay các vệ tinh bị hỏng cũng

bay ở độ cao xấp xỉ như thế. Các bạn khi đến độ cao đó, chỉ cần chú ý một chút là tránh

được nguy hiểm. Con tàu của chúng tôi do P16 chế tạo tự động tránh được các cuộc va

chạm.

Tôi tò mò:

Các bạn có biết nham thạch Mặt Trăng chứa nhiều heli-3 nếu qua phản ứng nhiệt

hạch có thể cung cấp nguồn năng lượng lớn không?

Chúng tôi có biết. Nhưng ở đây, nguồn ánh sáng Mặt Trời cung cấp đủ nhu cầu về

năng lượng cho chúng tôi rồi, không phải nhọc công.

Thầy An phát biểu:

Hiện nay, nhiều nước trên Trái Đất đang ráo riết chuẩn bị đưa người lên khai thác

Mặt Trăng. Người Nga, người Trung quốc, người Nhật, người Ấn Độ đều có kế hoạch

thăm dò Mặt Trăng. Riêng người Mỹ có kế hoạch đưa một, hai nhà du hành trở lại vào

năm 2019, sau đó sẽ xây dựng căn cứ nghiên cứu khoa học và thiên văn, khai thác tài

nguyên, xây dựng trạm phát điện truyền năng lượng về Trái Đất, dùng Mặt Trăng làm căn

cứ để đưa người lên sao Hỏa và tiến sâu vào vũ trụ. Không biết điều gì sẽ xảy ra nếu có

sự tranh chấp giữa họ, người Trái Đất với các bạn?

Chúng tôi sẽ rút lui, chuyển đi nơi khác, tránh xa sự đối đầu dẫu rằng chắc chắn

phần thắng thuộc về phía chúng tôi nếu có sự tranh chấp. Thủ lĩnh hành tinh Atlantis đã

dặn trước chúng tôi như vậy. Chúng tôi không muốn chiến tranh và chiếm hữu cái không

phải của mình. Điều này ngược với đạo đức và văn minh liên hành tinh!

Nghe đến đây, chúng tôi – tôi và thầy An – thở phào nhẹ nhõm. Nhưng tôi chưa

buông tha, gặng hỏi thêm:

Ngoài các bạn người của hành tinh Atlantis ra, còn có ai hiện diện trên vệ tinh này

không? Họ có tranh chấp với người Trái Đất không?

Còn nhiều nhà du hành của những hành tinh văn minh khác. Nhưng phần đông họ

chỉ đến, dừng nghỉ rồi đi chứ không lập căn cứ như chúng tôi. Các con tàu vũ trụ đang

xếp nằm ngay ngắn bên cạnh núi lửa đã tắt mà các bạn nhìn thấy trước khi bước vào đây

là của họ đấy. Đôi khi, có những con tàu khổng lồ đường kính ước chừng 20 km cũng có

ghé vệ tinh này. Nó bay vòng quanh nhanh chóng với tốc độ không dưới 200 km/s quan

sát chớp nhoáng rồi biến mất dạng trong khoảng không vũ trụ.

Sau khi thăm qua các cơ sở thí nghiệm trong nhà vòm, chúng tôi chào từ biệt hai bạn

người Atlan rồi vội vã lên tàu trở lại Trái Đất ngay. Trên đường về, để giết thì giờ, tôi đề

nghị với thầy An:

Thưa thầy, thầy có muốn chúng ta ghé thăm thiên thạch Apophis không ạ?

Em quên rồi sao, mãi đến năm 2029, thiên thạch này mới đến gần Trái Đất kia mà!

Ta cho con tàu vượt thời gian! – vừa nói tôi vừa quay cần gạt thời gian của con tàu

về tương lai.

150

Con tàu rung nhẹ và tôi bắt đầu tìm kiếm. Đây rồi, trông thiên thạch này giống củ

khoai tây như hình ảnh mà báo chí đã đưa tin, đường kính bé chừng 320 m chẳng đáng là

bao. Thế nhưng nếu nó va vào Trái Đất với tốc độ kinh hoàng 19200 km/giờ thì sức tàn

phá của nó lên đến 880 triệu tấn TNT tương đương 67692 quả bom nguyên tử đã ném

xuống Hiroshima. Tôi thưa với thầy An:

Thưa thầy, chính hắn đây! Con tàu vũ trụ của chúng ta đang ở thì tương lai tức vào

năm 2025. Thiên thạch nếu không được xử lý, đến năm 2029 sẽ vượt qua tầm cao của các

vệ tinh tiếp cận Trái Đất ở độ cao 32500 km. Chỉ cần thiên thạch này va chạm với một

vệ tinh nào đó thì trong vòng quay của quỹ đạo lần sau vào năm 2036, nó sẽ va vào Trái

Đất với xác suất 1/450.

Thầy An trầm ngâm:

Tiếc rằng chúng ta không thể can thiệp.

Rồi như vừa lục lọi được ở đâu trong trí nhớ, thầy nói thêm:

Trung tâm Du hành Vũ trụ Marshall của NASA đã đề nghị một dự án trong đó dùng

một con tàu vũ trụ phóng từ Trái Đất bằng tên lửa thế hệ mới Ares V. Khi tiếp cận thiên

thạch, tàu sẽ lần lượt phóng 6 tên lửa đánh chặn cách nhau 1 giờ. Mỗi tên lửa có gài đầu

đạn hạt nhân B83 một megaton tương đương 1 triệu tấn TNT, kích nổ gần bề mặt thiên

thạch làm nó bay chệch hướng. Kế hoạch dự kiến thực hiện sớm hơn thời gian thiên

thạch bay gần Trái Đất.

Không có khả năng làm điều gì được, tôi gạt cần thời gian cho con tàu về lại thì hiện

tại. Không hiểu đầu óc tôi mê muội thế nào, tôi gạt cần thời gian tiếp tục về tương lai.

Thầy An lúc này đang quan sát bầu trời bên ngoài qua cửa sổ. Bỗng thầy kêu lên:

Ơ kìa, mới qua mấy ngày thôi mà sao địa hình Trái Đất thay đổi nhanh chóng thế

này?

Thầy bảo sao ạ?

Tôi cùng nhìn theo thầy An, nhận thấy rõ rệt diện tích các đại dương trở nên rộng lớn

hơn trước. Một số nước như Hà Lan mất dạng trên bản đồ Châu Âu. Miền duyên hải của

các Châu lục cũng bị nhấn chìm trong nước. Bản đồ Việt Nam teo tóp không còn dáng vẻ

đẹp đẽ của chữ S như ngày xưa do mất hẳn một số tỉnh như Bến Tre, Trà Vinh, Sóc

Trăng, Bạc Liêu, Cà Mau và một phần tỉnh Kiên Giang. Các quần đảo của Kiên Giang

chìm sâu dưới mặt biển. Các tỉnh miền Trung cũng bị nước biển lấn sâu làm cho chiếc

đòn gánh của Việt Nam đã gầy lại càng gầy hơn. Thầy An bảo tôi kiểm tra ngay mặt

đồng hồ thời gian. Năm 2185! Chúng tôi nhìn nhau thở phào nhẹ nhõm. Tôi gạt cần thời

gian về năm hiện tại nhưng lòng cảm thấy xót xa vì một tương lai ảm đạm tất yếu sẽ tới

do hiệu ứng nhà kính mà nước biển của Trái Đất đã dâng cao.

Dời Viện ra một hòn đảo biệt lập

Trên đường trở về, tôi nhân thùng dự trữ năng lượng do thủ lĩnh hành tinh Atlantis

tặng thành nhiều bản nhằm nạp đầy năng lượng trong thời gian tôi cho tàu treo lơ lửng

trên vùng phát năng lượng của Việt Nam một giờ. Sau đó, trước khi về Viện, tôi lái tàu

cho bay là là trên quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa. Tôi chỉ cho thầy An và thầy Hơn

thấy những hòn đảo có cắm cờ lạ, không phải cờ của nước mình. Chúng tuy thuộc chủ

quyền của Việt Nam nhưng đang bị các nước xâm chiếm. Tôi thưa với thầy Hơn rằng,

hiện tại, đây là điều nhức nhối mà Việt Nam đành phải chịu đựng vì không muốn dùng vũ

lực để thu hồi. Thầy An cho rằng về quân sự, ta đang thua kém họ, nhất là với các nước

có tiềm năng quân sự mạnh. Tôi mạnh bạo hỏi thầy Hơn:

151

Thưa thầy, có cách gì thu hồi êm thấm không ạ?

Thầy lục lọi trong đầu tôi và can ngăn:

Ta cấm con định làm điều gì ác, gây nên cảnh giết chóc, chết người! Điều này đi

ngược lại với đạo lý người Lemuri.

Thưa thầy, nhưng đây lại là việc cố tình vi phạm chủ quyền của một đất nước?

Thầy An nhìn tôi lắc đầu, cố gắng không suy nghĩ gì để tránh cho thầy Hơn một lần

nữa phê phán, hay biết đâu đấy, lại nổi cơn lôi đình mắng lũ người Trái Đất như lần

trước. Tuy nhiên, có lẽ để hòa giải sự đối đầu giữa tôi và thầy Hơn, hai con người hoàn

toàn ở hai thế giới khác nhau về mọi phương diện, thầy phát biểu:

Ở hành tinh Lemuria, đâu có khái niệm về đất nước và chủ quyền.

Không hiểu tự bao giờ tôi trở nên ngang bướng lạ lùng, tìm cách làm theo ý mình cho

được khi biết suy nghĩ của mình là đúng. Sau này, nhân lúc mọi người đang nghỉ ngơi, tôi

đã một mình lái tàu bay qua quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Từ trên cao, tôi “ếm bùa”

làm cho những địa điểm nào hễ có cắm cờ nước ngoài là cứ chầm chậm tụt dần tụt dần

xuống sâu dưới mặt nước hàng mấy chục mét nhưng đủ lâu để những người lính ở bên

trên có đủ thời gian đào thoát. Làm điều này sẽ tránh được lời trách cứ của thầy Hơn, tôi

không phạm điều ác mà vẫn phụng sự được tổ quốc. Sự cố sụt lún của một số đảo trên hai

quần đảo này có vẻ như một hiện tượng tự nhiên, nếu có ai trong chúng ta bị đau đầu thì

đó là mấy nhà địa chất!

Tôi lái tàu ngược về Sơn Tây. Trong mấy ngày qua, mọi người dân thành phố này

mà không chỉ có thế , toàn tỉnh Hà Tây đều xôn xao và rất vui mừng về tin sắp được

nhập với thủ đô Hà Nội, cùng với huyện Mê Linh của tỉnh Vĩnh Phúc và bốn xã của

huyện Lương Sơn tỉnh Hòa Bình để hình thành nên thủ đô Hà Nội mới. Khi đó, diện tích

của Hà Nội sẽ lên hơn ba lần diện tích hiện nay, dân số tăng gần sáu triệu tức gần gấp đôi

dân số hiện hữu. Tháng 5 năm 2006, Quốc hội khóa XII đã xem xét thông qua phương án

mở rộng này.

Do thầy An điện báo trước nên khi con tàu vừa hạ cánh, mọi người đang làm việc

trong Viện ào ra chào đón chúng tôi. Bây giờ đây, do có quyền năng đã rèn luyện được,

nhiều người trong Viện không cần mang mũ thấu thị vẫn nhìn thấy con tàu và nói chuyện

thoải mái với thầy Hơn.

Chúng con chào thầy ạ! – Mọi người hướng về thầy Hơn khi thầy vừa bước ra khỏi

khoang, đồng thanh chào.

Chào các con! – thầy Hơn đáp lại.

Sau đó mọi người mới lần lượt chào, bắt tay thầy An và tôi. Trong số những người có

mặt ở Viện, có cả cô Lan – vợ thầy An – và mẹ tôi. Tôi ôm chặt mẹ tôi và nói nhỏ:

Sao gửi lời chào mẹ và bảo nhớ mẹ lắm!

Mẹ hỏi lại tôi:

Có thật không?

Tôi trả lời mẹ rằng:

Mẹ yên tâm. Người Atlan không biết nói dối kiểu người Trái Đất đâu ạ!

Mẹ âu yếm phát vào lưng tôi mấy cái.

Thầy An tuyên bố với mọi người là thầy và tôi sẽ nghỉ mấy hôm trước khi có cuộc

gặp mặt toàn thể nhân viên của Viện. Thầy nhờ tôi đưa thầy Hơn về khách sạn cùng nghỉ

với gia đình – tức là tôi và mẹ tôi, còn Sao đang ở trên hành tinh Atlantis – và nhờ tôi

chăm sóc thầy. Tôi trao cho thầy và mẹ tôi mỗi người một chiếc áo tàng hình và mời

cùng bay về khách sạn. Thầy Hơn lần này từ chối, bảo thầy có thể biến đi và theo chân

chúng tôi đến tận khách sạn mà không cần đến áo tàng hình. Đó là kết quả của mức rèn

152

luyện cao đạt được mới đây của các ông nghị trên hành tinh Lemuria. Chúng tôi hy vọng

sẽ được học thầy một lần nữa trong chương trình nâng cao sắp tới.

Khi đã về đến khách sạn, tôi kể hết những chuyện đã xảy ra trong chuyến du hành

đến ba hành tinh anh em, sau đó là hai hành tinh láng giềng và vệ tinh Mặt Trăng. Mẹ tôi

thực sự ngạc nhiên khi biết có nhiều con tàu vũ trụ của người ở hành tinh khác đang

viếng thăm thường xuyên sao Hỏa và Mặt Trăng. Tôi còn cho mẹ biết kế hoạch sắp tới

của Viện. Viện sẽ dời sang một địa điểm khác để mở rộng công việc nghiên cứu và giữ

được bí mật tuyệt đối cho những thành quả. Mẹ và cô Lan, vợ thầy An có thể sẽ được

phân công quản lý các bệnh viện chữa trị miễn phí cho người nghèo theo nền y học hiện

đại của người Atlan kết hợp với y học Đông phương, đánh thức tiềm năng của bản thân

nguời bệnh.

Vì Viện của chúng tôi được đăng ký là viện nghiên cứu tư nhân nên việc thuê mướn

ai làm việc là tùy Viện, trong đó có nhiều cán bộ Nhà nước đã bước sang tuổi hưu. Nhà

nước không can thiệp vào hoạt động nghiên cứu và kinh doanh của Viện. Với tiền lương

được lĩnh, mỗi thành viên của Viện sống suốt đời dư dật, không phải lo lắng gì. Cái ăn

không phải lo, nhất là những người đã tự nguyện học tập để có tri thức và quyền năng

như người Lemuri. Nhưng, trong gia đình mình, thầy An không muốn hai nhỏ Vang và

Giang nhịn ăn như mọi người vì thấy chúng còn bé quá và không muốn chúng sống cách

biệt, xa lạ trong đám bạn tuổi thiếu niên của chúng.

Do đã điện báo nhờ Tashi giúp chúng tôi đưa Cay về Trái Đất, nên ngay trong ngày

chúng tôi vừa có mặt tại Viện thì Cay cũng vừa về đến. Thầy Hơn và Cay ban ngày tuy

được bố trí ở khách sạn nhưng ban đêm phải về Viện để ngủ nghỉ và lấy lại sức theo kiểu

của ông Mun trước đây. Công việc trước mắt là tìm địa điểm xây dựng cơ sở mới cho

Viện. Do đó, việc viếng thăm thánh địa Shamballa của thầy Hơn và tôi đành để lại sau.

Qua báo chí, chúng tôi biết từ năm 2007, tỉnh Kiên Giang được phép của Chính phủ

và bộ Quốc phòng cho thuê một số đảo để làm du lịch. Tôi gợi ý với thầy An rằng địa

điểm hiện tại của Viện ở Sơn Tây quá chất hẹp, e rằng khó phát triển về sau, nhất là khi

thực hiện những công trình nghiên cứu cần giữ bí mật tuyệt đối. Để tránh sự dòm ngó của

những kẻ tò mò, tốt nhất Viện nên tìm đến địa điểm mới, càng cách biệt với vùng dân cư

càng tốt. Trước khi đến gặp Ủy ban nhân dân tỉnh Kiên Giang, tôi lái tàu cùng với thầy

An làm một chuyến thám sát các hòn đảo mà tỉnh này công bố cho thuê. Phải thừa nhận

rằng cảnh quan của hầu hết các hòn đảo này khá đẹp và hữu tình. Kiên Giang có 146 đảo

cả thảy, trong đó 140 đảo có tên nằm trên vùng biển từ Hà Tiên đến Thổ Ngân, Phú

Quốc. Năm quần đảo là Nam Du, An Thới, Thổ Ngân, Bà Lụa và Hải Tặc với nhiều bãi

biển khá đẹp. Quần đảo Thới An được nhiều nhà đầu tư quan tâm nhất. Quần đảo Bà Lụa

huyện Kiên Lương, quần đảo Hải Tặc thuộc thị xã Hà Tiên đã được rất nhiều nhà đầu tư

thuê và một tập đoàn Mỹ muốn mở ở đây một sòng bạc quốc tế. Quần đảo Thổ Ngân nằm

chỉ cách thành phố Rạch Giá khoảng 200 km. Tuy nhiên, thầy An không muốn sống cùng

với những nhà đầu tư, bảo tôi lái tàu ra xa hơn, hướng về phía Nam và cuối cùng tìm

được một hòn đảo nhỏ không tên và không thuộc năm quần đảo trên. Nói là nhỏ khi ta so

nó với các hòn đảo khác, nhưng diện tích rộng rãi thừa sức để chúng tôi xây dựng nhiều

công trình ngoài cơ sở Viện. Tôi cho tàu bay vút lên cao để có tầm nhìn bao quát cả một

vùng rộng lớn của năm quần đảo, tất nhiên có cả hòn đảo vô danh mà thầy An chọn rồi

bấm máy ảnh chụp. Sau này, khi gặp Ủy ban nhân dân tỉnh Kiên Giang để thuê đảo, trình

bày bản đồ toàn cảnh tự chụp, họ lấy làm lạ khi biết chúng tôi đã phát hiện một hòn đảo

mới, đồng ý cho thuê và cho phép chúng tôi tự mình đặt tên. Thầy An suy nghĩ giây lát

và nói lên tên đảo: Đao không tên. Tôi đồng ý với thầy An cái tên lạ lùng ấy. Nó không

153

tên bởi vì chúng tôi muốn giấu biệt tung tích của nó trên bản đồ và ngay các vệ tinh địa

tĩnh cũng sẽ không thể nào phát hiện ra.

Có thể nói khí hậu miền Nam luôn ấm áp, không bị cái lạnh khắc nghiệt ở miền Bắc

mỗi khi mùa đông về. Với lại, xung quanh là biển, không khí ở đảo luôn trong lành và

yên tĩnh. Sau khi ký hợp đồng thuê dài hạn, Viện chúng tôi đã tổ chức một cuộc cắm trại

dã ngoại trên đảo để bàn kế hoạch xây dựng trong tương lai.

Thầy An mời Tashi ở lại Trái Đất giúp Viện một thời gian. Cho nên tôi cùng với

Tashi huy động mấy chuyến bay để đưa thầy Hơn, Cay và toàn bộ các nhân viên của

Viện trong đó có cả cô Lan và mẹ tôi nhưng ở dạng thu nhỏ đồng loạt ra thăm đảo. Chỉ

cần mấy chiếc lều bạt để cắm trại nghỉ ngơi và tắm biển chứ việc ăn uống không phải lo

bởi vì mọi người đều được nạp năng lượng vũ trụ trước khi ra đảo. Xung quanh đảo là

rặng đá ngầm và dải san hô rộng kéo dài mãi ra xa tít tắp làm cho việc đi thuyền để lên

đảo là bất khả thi. Vẫn có bãi tắm với cát trắng mịn, sạch sẽ tinh khôi. Trên đảo, cây cối

rậm rạp, nguyên sơ. Điều lạ lùng là có nhiều hồ nước ngọt tự nhiên. Nhiều vùng bằng

phẳng rất thích hợp cho các công trình xây dựng sau này như nơi làm việc của Viện, nhà

máy sản xuất bánh và sữa, chung cư, sân chơi và bãi đỗ cho các máy bay và tàu vũ trụ.

Kế hoạch của chúng tôi là dành địa điểm cũ của Viện ở Sơn Tây để xây dựng bệnh

viện phục vụ miễn phí người nghèo gọi là bệnh viện số 1. Chúng tôi sẽ tiếp tục mua đất

để xây bệnh viện số 2 ở Đà Nẵng và bệnh viện số 3 ở Cần Thơ. Các bệnh viện này được

trang bị máy móc hiện đại để chẩn đoán bệnh nhưng khi chữa bệnh thì không dùng thuốc.

Mỗi bệnh viện trang bị 200 giường và bên cạnh còn xây thêm nhà nghỉ cho thân nhân.

Việc ăn ở chữa bệnh và chăm sóc người bệnh cùng với thân nhân hoàn toàn miễn phí.

Đối với những gia đình quá nghèo, chúng tôi còn cấp tiền tàu xe. Công việc cấp cứu sử

dụng máy bay trực thăng có tổ lái và bác sĩ hộ lý đi kèm. Như vậy là để cho các bệnh

viện hoạt động có hiệu quả, chúng tôi phải tuyển khá nhiều kỹ sư phụ trách thiết bị y tế

và một đội ngũ những bác sĩ đông y và hộ lý được đào tạo bài bản.

Ngay từ sáng sớm, chúng tôi cùng ra thực địa, dùng bản đồ đã định vị sẵn cho các

công trình. Công việc đầu tiên của chúng tôi là san nền. Thầy Hơn bảo Cay cùng hết thảy

môn sinh của thầy ngồi xuống đất theo kiểu ngồi thiền, cùng vận dụng quyền năng dọn

sạch sẽ cây cối và san thành bình địa thay vì phải dùng máy ủi đất như mọi công trình

xây dựng thông thường đã làm. Sau đó theo lệnh thầy Hơn, mọi người một lần nữa lại

dùng quyền năng nén chặt nền của các thửa đất đã được san bằng làm cho chúng trở nên

cứng như đá.

Công việc tiếp theo là xây dựng các công trình. Các tòa nhà dùng làm văn phòng và

phòng thí nghiệm của Viện, nhà ở cho cán bộ công nhân viên, nhà máy sản xuất bánh và

sữa dinh dưỡng sẽ được thiết kế theo mẫu của người Atlan và chế tạo tại hành tinh

Atlantis. Thầy An quay sang Tashi hỏi một câu mà mọi người có mặt hôm đó cảm thấy

rất bất ngờ:

Tashi này, liệu hành tinh P16 có thể giúp chúng tôi một con tàu vũ trụ mang tất cả

những công trình đã được chế tạo trên hành tinh Atlantis về đây không?

Một con tàu vũ trụ chứa được căn nhà của Viện, một chung cư, một nhà máy sản xuất

bánh ư? Phải là con tàu vũ trụ khổng lồ đường kính dài đến mấy trăm mét và cao mấy

chục mét! Trong khi Tashi chưa trả lời, tôi nêu sáng kiến:

Thưa thầy – tôi hướng về thầy An – chúng ta hãy khuếch đại con tàu vũ trụ hiện có

để sử dụng được không ạ?

Khuếch đại bao nhiêu lần? – có tiếng ai đó hỏi – Một trăm, hai trăm, năm trăm hay

một ngàn?

154

Tashi bây giờ mới lên tiếng:

Kế hoạch khuếch đại con tàu của Kim không ổn đâu! Nếu con tàu lớn lên gấp bao

nhiêu lần thì năng lượng vũ trụ nó cần cũng sẽ lớn lên gấp bấy nhiêu lần. Liệu chúng ta

có đủ thời gian và lòng kiên nhẫn để nạp năng lượng cho nó không?

Cay góp ý:

Đừng khuếch đại con tàu mà nên thu nhỏ các công trình xây dựng lại để dễ di

chuyển.

Thầy Hơn phát biểu:

Sức chúng ta không thể thu nhỏ các công trình tùy ý được. Phải dung hòa hai công

việc lại với nhau, vừa thu nhỏ từng công trình vừa phải sử dụng con tàu vũ trụ lớn.

Tashi lên tiếng:

Hành tinh P16 có sẵn con tàu vũ trụ khá lớn đủ sức chứa một công trình xây dựng

thu nhỏ. Hiện chúng tôi có nhiều chiếc như vậy.

Thầy An thở ra, nhẹ nhõm:

Khó khăn này thế là giải quyết được rồi. Chúng tôi nhờ Tashi về thưa lại với thủ

lĩnh cho phép chúng tôi mượn bốn con tàu vũ trụ lớn đó cùng người lái đến hành tinh

Atlantis chở về đây ba công trình xây dựng và một chiếc máy bay siêu thanh. Đồng thời,

P16 hãy giúp chúng tôi kỹ thuật ẩn giấu hòn đảo này, không cho bất cứ máy bay hay làn

sóng nào nhìn thấy diện mạo thực của nó ngoài cảnh quan biển nước mênh mông cùng

với rặng san hô ngầm mà chúng tôi đã quay chụp hình vào băng.

Thế rồi, Tashi lại giúp chúng tôi trở về lãnh địa cũ tại Sơn Tây. Do công việc gấp rút

và không ai cần đến thời gian nghỉ ngơi, tại đây, chúng tôi bốn người gồm thầy An, thầy

Hơn, Cay và tôi lại chào tạm biệt mọi người một lần nữa để lên tàu trở lại hành tinh

Atlantis.

Để chuẩn bị cho công việc nặng nhọc sắp tới ở hành tinh Atlantis, sau khi cho hai con

tàu tắm nguồn năng lượng vũ trụ để mọi người phục hồi lại sức lực và không phải ăn

trong suốt cuộc hành trình, tôi và Tashi chuyển hai tàu sang chế độ lái tự động và đề nghị

mọi người đi ngủ. Thời khắc bây giờ ở hành tinh Atlantis là ban đêm. Bãi đáp tối mịt, soi

tỏ mờ mờ do ánh sáng đường từ đằng xa. Tuy vậy, do đã được tôi báo trước, khi hai con

tàu vừa hạ xuống, các bạn May, Sao và Ngân đã đứng sẵn chào đón chúng tôi.

Chúng con chào thầy! – Ba bạn đang ở hành tinh này lên tiếng khi thấy thầy Hơn

xuất hiện đầu tiên bên dưới khoang tàu.

Chào thầy Cay!

Chào thầy An!

Tôi là người ra cuối cùng cùng với Tashi.

Chào anh Tashi!

Tôi không bận tâm lắng nghe xem có ai chào hỏi mình không, chỉ biết rằng sau đó

như tia chớp, Sao lao đến ôm chặt lấy tôi.

Tashi cất tiếng chào mọi người và lên con tàu của mình để tiếp tục cuộc hành trình về

hành tinh P16. Tôi đề nghị mọi người cùng bay về tòa nhà chung cư cho nhanh.

Sau khi yên vị quanh chiếc bàn rộng cùng với bảy chiếc ghế tự động trồi lên từ giữa

căn phòng ở của May, thầy An lên tiếng:

Hôm nay, thầy Hơn, thầy Cay, thầy và Kim đến đây để tiếp nhận ba công trình xây

dựng và một chiếc máy bay dân dụng mà các em đã tận lực cùng các bạn ở hành tinh này

hoàn thành.

May cung kính:

155

Thưa thầy, vâng ạ. Những gì thầy đặt hàng, thủ lĩnh hành tinh đã chỉ thị cho chúng

em hoàn thành tốt và đúng thời hạn. Em sẽ báo cho thủ lĩnh biết để ngày mai, thủ lĩnh sẽ

đến chào các thầy và bàn giao công trình. Nhân tiện, thủ lĩnh cũng muốn tò mò nhìn xem

chúng ta sẽ chuyển mấy thứ đồ sộ này về Trái Đất bằng cách nào. Chắc là thú vị lắm đây!

Thầy An cười:

Đúng vậy! Các em còn sẽ thấy thú vị hơn nếu được cùng chúng ta, những người

của Viện dưới sự chỉ đạo giúp sức của thầy Hơn và thầy Cay đã hợp lực dùng ánh mắt

san ủi chuẩn bị mặt bằng sẵn cho các công trình đó như thế nào.

Ngân bộp chộp:

Vậy a thầy? Lúc nào thì chúng con được trở về hòn đảo đang xây dựng cơ sở mới

của Viện?

Nhiệm vụ của Ngân và Sao là học quản lý kỹ thuật và vận hành nhà máy sản xuất

bánh và sữa dinh dưỡng để về hướng dẫn lại cho người được Viện phân công sau này.

Còn May sẽ nắm bắt kỹ thuật và vận hành máy bay siêu thanh do hành tinh chuyển giao.

Chúng em đã hoàn thành nhiệm vụ được giao rồi ạ! – May thay mặt hai bạn Ngân

và Sao trả lời.

Thế thì tốt! Lần này, ba em sẽ đi nhờ trên các tàu lớn của P16 cùng về luôn thể.

Thầy An bố trí kế hoạch ngày mai như sau. Cả đoàn tham quan các công trình xây

dựng và có nhận xét góp ý để sau khi chuyển tất cả về Trái Đất, sẽ điều chỉnh bổ sung.

Ngày sau đó sẽ làm lễ bàn giao, có mặt thủ lĩnh của hành tinh. Đồng thời cũng trong

ngày, bấy giờ đã hiện diện bốn con tàu vũ trụ của P16, mọi người sẽ chứng kiến cảnh thu

nhỏ các công trình và chuyển chúng vào các con tàu này. Sau cuộc bàn luận, Cay ở lại

nghỉ trong phòng khách của May, còn thầy Hơn thì về phòng khách của căn hộ chúng tôi.

Trong khi Cay đưa thầy Hơn đi cùng với Ngân và Sao, còn mỗi mình tôi với May, tôi

đánh bạo hỏi May:

Anh May này, từ khi Ngân về đây sống với anh, mọi việc ổn chứ?

Kim định hỏi về chuyện riêng thầm kín của chúng mình chăng?

Vâng. Kim chỉ sợ con gái Trái Đất có điều gì không ổn với con trai Atlan.

À, có điều mình không hiểu là sao mỗi lần chúng mình sống với nhau, Ngân hay

rên rỉ thật lạ! Cô ấy đau đớn lắm chăng?

Không phải thế đâu, mà là ngược lại. Giống như khi thích thú, người ta có khi cười

to, có khi cười mỉm không thành tiếng. May cứ yên tâm đi.

Tôi ra cửa trở về phòng mình thì cũng vừa gặp Cay và Ngân bước ra. Tôi nắm tay

Ngân giữ lại, nói thầm vào tai là không nên rên rỉ thành tiếng mỗi khi ngủ cùng May kẻo

hắn ta lo lắng. Ngân ngượng ngùng đấm mạnh vào vai tôi mà không nói gì.

Nhờ có điệu nhạc ru nhân tạo của hành tinh, thầy Hơn và Cay vừa đặt mình nằm

xuống đã chìm sâu vào giấc ngủ ngon lành cho đến sáng. Cũng đã từng đến thăm hành

tinh Atlantis, thầy Hơn và Cay không còn bỡ ngỡ như buổi ban đầu về sinh hoạt của

nguời Atlan. Tuy không đói nhưng mọi người khách vẫn cứ phải chén sạch mấy phong

bánh và cốc sữa của người Atlan và đều thật lòng thừa nhận rằng chúng thơm ngon. Khi

bước ra khỏi căn nhà, May đưa tay chỉ cho mọi người thấy trên một bãi đất tương đối

rộng ba công trình xây dựng tựa như các bản sao của các công trình tương tự có sẵn trên

hành tinh này. Đầu tiên là văn phòng kiêm phòng thí nghiệm của Viện, sau đó là một

chung cư, một nhà máy và ở bãi đất trống phía sau nữa là một chiếc máy bay siêu thanh

to cỡ Boeing 767. Khi đưa khách vào thăm từng công trình, May lần lượt ra lệnh cho các

trang bị nội thất như bàn, ghế, tủ, giường, màn hình, v.v.. từ sàn nhà hoặc từ các bức

tường hiện ra. Nhà máy thì bên trong lắp sẵn dây chuyền các thiết bị tự động, chỉ cần

156

bấm nút là việc vận hành sản xuất được thực hiện. Đến bên chiếc máy bay, May bảo

chúng có đặc điểm là bay nhanh, bay êm không có tiếng động nhờ động cơ hoạt động

theo nguyên lý phản hấp dẫn, dùng năng lượng mặt trời và năng lượng vũ trụ, có thể bay

vượt xa tốc độ âm thanh và có chế độ bật tắt tính năng tàng hình. Nói đoạn, May leo lên

một chiếc máy bay và khởi động cho chúng tôi xem. Không hề phát ra một tiếng động

nào, máy bay tự nhấc bổng lên cao khoảng năm trăm mét, bay nhanh về phía trước, lùi

nhanh về phía sau, rồi mất tăm trong tầm mắt của mọi người. Sau đó mấy giây, mọi

người bỗng nhìn thấy chiếc máy bay đang đậu ở chỗ cũ và May mở cửa bước ra.

Khỏi phải nói, chúng tôi những người của Viện, kể cả thầy Hơn và Cay đều sung

sướng và khoan khoái đến mức nào. Theo phong cách của người Trái Đất, chúng tôi ôm

chầm lấy nhau và nói lên lời hân hoan chúc mừng làm cho thầy Hơn và Cay đều không

khỏi ngỡ ngàng.

Sáng ngày hôm sau, sau bữa điểm tâm, hai tin dồn dập đến cùng một lúc. May báo,

thủ lĩnh hành tinh đang trên đường bay đến gặp chúng tôi. Còn Tashi thì báo tin cho tôi

biết khoảng chừng vài phút nữa, các con tàu vũ trụ của P16 sẽ đổ bộ xuống bãi đáp.

Chúng tôi chỉnh lại quần áo, chạy vội dọc theo hành lang, vào buồng thang máy và ra

khỏi nhà. Vội vàng là thế nhưng ngay trong sân của chung cư đã đậu sẵn con tàu của thủ

lĩnh tự khi nào. Thủ lĩnh bước vội ra khỏi con tàu và đến bắt tay chào hỏi chúng tôi. Tôi

đưa tay giới thiệu từng người một cho thủ lĩnh biết: thầy Hơn, thầy An, Cay và các bạn

còn lại. May bước ra trước chào thủ lĩnh và báo cáo:

Thưa thủ lĩnh, những công trình thủ lĩnh giao chúng tôi đã hoàn thành. Bây giờ đã

đến lúc thủ lĩnh trao chúng lại cho những người bạn của chúng ta trên Trái Đất.

Thủ lĩnh gật đầu ra chiều vừa ý rồi quay sang thầy An:

Các bạn thấy đó, cư dân chúng tôi đã hoàn thành các công việc mà thủ lĩnh đã giao

phó. Bây giờ nhân danh thủ lĩnh hành tinh Atlantis, tôi trao các công trình viện trợ hữu

nghị này lại cho các bạn – vừa nói, thủ lĩnh vừa đưa tay chỉ các công trình nằm ở phía xa

– để các bạn mang chúng về Trái Đất. Tôi rất tò mò muốn nhìn thấy ngay các bạn sẽ

chuyển chúng đi như thế nào đây!

Thầy An lên tiếng:

Thưa thủ lĩnh, tôi thay mặt những người Việt Nam nói riêng và của Trái Đất nói

chung rất cảm ơn sự ưu ái và nhiệt tình giúp đỡ của thủ lĩnh và toàn thể cư dân của hành

tinh Atlantis. Chắc chắn những món quà quý báu này sẽ phát huy hiệu quả rất lớn đối với

chúng tôi trong thời gian tới. Công việc bây giờ là phải tìm cách chuyển chúng đi. Chúng

tôi đang nhờ sự giúp sức của nền văn minh P16 và nền văn minh Lemuri. Thủ lĩnh hành

tinh P16 đã phái đến đây bốn con tàu vũ trụ lớn để chở ba công trình cùng với chiếc máy

bay của người Atlan quà tặng cho chúng tôi. Tuy nhiên chúng tôi phải thu nhỏ các công

trình lại mới đủ chỗ để chở.

Nói rồi thầy phân công: thầy An, tôi, thầy Hơn ở lại làm nhiệm vụ thu nhỏ và chuyển

đi, còn Cay, May, Ngân và Sao bay đến bãi đáp làm nhiệm vụ đón nhận và chuyển mỗi

thứ vào bên trong con tàu vũ trụ lớn. Trước con mắt ngạc nhiên của thủ lĩnh cùng nhiều

người Atlan đến chúng kiến, Cay, May, Ngân và Sao lần lượt bốc người lên cao và bay

đi. Cùng lúc đó, tôi, thầy An và thầy Hơn phóng tia mắt nhìn về ba công trình và chiếc

máy bay để thu nhỏ dần chúng lại rồi ngước mắt bốc chúng lên cao lần lượt phóng chúng

bay về phía bãi đáp. Tại đây, Cay, May, Ngân và Sao đưa mắt chuyển mỗi công trình vào

bên trong một con tàu lớn.

Chờ cho Cay, May, Ngân và Sao quay trở về, chúng tôi cùng cúi mình chào thủ lĩnh

và đưa tay chào tạm biệt những người dân Atlan đến chứng kiến. Thủ lĩnh nhìn chúng tôi

157

với ánh mắt vừa thân tình vừa khâm phục. Cũng không còn giữ ý tứ hay bí mật như trước

đây, bảy người chúng tôi bốc mình lên cao và bay đi, trước những con mắt chưa hết ngỡ

ngàng của các cư dân Atlantis.

Tôi thu xếp thầy Hơn và Sao bay cùng với tôi, thầy An và Cay bay cùng Tashi trong

hai con tàu vũ trụ nhỏ. Còn May và Ngân chọn lên một con tàu lớn nào đó. Để bảo đảm

năng lượng cho các con tàu bay xa và tải trọng lớn, tôi điện cho mọi phi công dẫn họ đến

vùng phát năng lượng của hành tinh Atlantis để cùng tích trữ năng lượng.

Khi sáu con tàu đáp được xuống hòn đảo Không tên thì trời Việt Nam đang buổi bình

minh. Do đã ngủ lấy sức trong suốt chuyến du hành, vừa xuống đến mặt đất, chúng tôi

bắt tay vào việc ngay. Lần này, chỉ cần bốn người là thầy Hơn, thầy An, Cay và tôi cũng

đủ sức chuyển ba công trình và chiếc máy bay ra khỏi các con tàu vũ trụ lớn, đặt tạm

chúng vẫn dưới dạng thu nhỏ ở rìa ngoài các bãi đất trống đã được san ủi. Tashi gọi tôi

mang băng ghi hình cảnh quan của biển sẽ được thay thế cho cảnh quan thật của đảo rồi

cùng bay lên đứng yên bên trên hòn đảo. Tashi thao tác in hình cảnh quan đó vào không

gian bao trùm hòn đảo và bảo tôi nhìn xuống hỏi công việc đạt yêu cầu hay chưa. Tôi trả

lời rằng kỹ thuật ẩn giấu của người hành tinh P16 không thể chê vào đâu được. Tashi lưu

ý cho tôi biết tọa độ của đảo đang hiện trên màn hình của con tàu và phải cất vào bộ nhớ

của con tàu để sau này có thể lệnh cho tàu tự động đổ bộ lên đảo. Sau đó, chúng tôi cho

con tàu hạ xuống bay vòng quanh đảo ở độ cao mấp mé mặt biển. Tashi lại thao tác in

hình cảnh quan của một rặng san hồ chìm mấp mé mặt nước khá rộng, nhằm hóa trang

không cho một tàu thuyền nào nhận biết thực sự nơi đây hiện hữu hòn đảo của chúng tôi.

Xong, Tashi cho tàu nâng độ cao rồi đổ bộ lên đảo.

Tôi báo cáo cho thầy An biết, Tashi vừa giúp ẩn giấu cảnh quan thật của hòn đảo này

rất hoàn hảo. Trước mặt bốn phi hành gia lái các con tàu lớn cùng với Tashi, thầy An nói

lên lời cảm ơn và nhờ Tashi cũng chuyển lời cảm ơn về sự giúp đỡ vừa qua đến thủ lĩnh.

Chờ cho năm con tàu vũ trụ của P16 khuất dạng ở chân trời, thầy An phát biểu:

Chúng ta còn một công trình phụ cần hoàn thành trước khi đưa các công trình chính

về đúng vị trí.

Công trình phụ nào ạ? – có một ai đó thắc mắc lên tiếng hỏi.

Chẳng nhẽ các bạn quên rằng nơi chúng ta sống và làm việc cứ để ở dạng hoang sơ

như thế này sao? Phải có sân chơi, vườn hoa, bãi cỏ, những bể phun nước, những con

đường lát nhựa cùng với dãy đèn soi sáng ban đêm.

Nói đến đây, thầy nhìn thầy Hơn và Cay:

Đến những hạng mục này, chúng ta dùng thuật sao chép có được không ạ? Chỉ có

sao chép những cảnh đang có ở đất liền, chúng ta mới nhanh chóng sở hữu một hòn đảo

xinh đẹp và thơ mộng được!

Thầy Hơn cười:

Được thôi, điều này chúng ta cùng làm và không hề khó khăn chút nào! Tuy nhiên,

phải cho thầy nhìn thấy tận mắt những công trình phụ đẹp đẽ ấy ở đất liền nó như thế nào

đã chứ!

Thầy An quay sang tôi:

Kim à, em hãy chở thầy Hơn về Hà Nội thăm thú một chuyến. Nhân tiện, em chở

luôn ra đảo mấy trăm mét ống nhựa dùng để nối các cỗ máy lọc nước biển, nước thải và

dẫn nước ngọt vào cơ sở văn phòng Viện và chung cư, nước biển vào nhà máy.

Vì công việc cấp bách và để tránh những rủi ro bất ngờ không lường trước được nếu

bỏ tàu đi bộ, tôi cho con tàu bay là là trên không phận Hà Nội. Tôi chỉ cho thầy Hơn thấy

158

đâu là sân chơi, đâu là vườn hoa, bãi cỏ, bể phun nước, đường lát nhựa, dãy đèn đường

soi sáng ban đêm. Thế rồi, ghé về Sơn Tây mang theo mấy trăm mét đường ống bằng

nhựa mua sẵn đã được thu nhỏ, tôi quay tàu trở về đảo ngay.

Khi hai thầy trò chúng tôi bước ra khỏi con tàu, tôi đã thấy thầy An đang đứng tự lúc

nào bên cạnh một chiếc bàn to có trải sẵn bản đồ thiết kế mặt bằng đảo. Chờ thầy Hơn

đến gần, thầy chỉ tay lên bản đồ và nói:

Đây là những con đường trải nhựa với hai bên lề có dãy đèn soi sáng ban đêm dự

kiến sẽ được lắp đặt.

Thầy Hơn nhìn vào bản đồ rồi ngước nhìn vào thực địa thì lập tức lần lượt xuất hiện

ngay trước mắt mọi người những con đường trải nhựa với hai bên lề có dãy đèn đường

soi sáng ban đêm nguyên mẫu của Hà Nội hệt như ai đó vừa bê nguyên si đặt ngay lên

đảo. Mọi người vỗ tay hoan hô, vui mừng thực sự. Những lần sau không cần chờ đợi lâu,

khi thầy An thuyết minh những công trình phụ khác đến đâu thì hiện ngay tức khắc công

trình ấy trên đảo. Chẳng mấy chốc, những công trình phụ trên đảo đã được “xây dựng”

xong.

Tiếp theo, không cần thầy An phải nhắc, chúng tôi cùng lúc với thầy Hơn và Cay

dùng quyền năng bê các công trình chính còn đang ở dạng thu nhỏ đặt vào đúng vị trí sao

cho hai mặt quay theo hướng đông-tây để đón nhận tối đa ánh nắng mặt trời. Chiếc máy

bay thì nằm đúng bãi đáp của nó. Sau đó, chúng tôi phóng các công trình và chiếc máy

bay to lên bằng thật.

Công việc còn lại là của May, Ngân và Sao và tất nhiên, tôi cũng cũng ghé vai phụ

giúp thêm. Đó là phóng to bằng thật các ống nhựa, lắp vào đường dẫn có sẵn của các

công trình và nối chúng đến các cỗ máy xử lý. Từ các cỗ máy ấy, đường ống lại chạy ra

biển. Sau khi đã lắp xong, chúng tôi dùng quyền năng lần lượt chôn chúng chìm dưới mặt

đất khoảng nửa mét.

Đã đến giờ nghỉ trưa. Trong khi tất cả mọi người tập trung đông đủ trong phòng họp

của Viện, các đèn tường đồng loạt bật sáng và bầu không khí mát rượi do máy điều hòa

tự động phát ra tức thì. Cửa lớn bỗng nhiên mở toang để cho hàng loạt các khay đựng

bánh và bình sữa lần lượt bay vào, đáp chễm chệ lên mặt bàn trước mặt từng người một.

Ngân qua hệ thống truyền thanh đặt chìm trong bức tường nói to lời mời thầy Hơn, thầy

An, Cay cùng mọi thành viên của Viện hãy dùng bữa ăn trưa đạm bạc. Nhìn quang cảnh

lạ mắt này và nghe Ngân mời mọc, mọi người trong phòng cùng lúc cười ồ hớn hở, vui

như mở hội. Trong lúc này, May, Ngân và Sao vẫn phải làm việc. Các bạn kiểm tra lại tất

cả các công trình, khởi động cho nhà máy tự động sản xuất và chuẩn bị biểu diễn lái máy

bay siêu thanh.

Trong lúc ăn, tôi quay sang thầy Hơn:

Thưa thầy, chúng con có thể học phép thuật sao chép như thầy vừa làm không ạ?

Trước đây, khi nghị sĩ Mun đến thăm Trái Đất, để dễ bề di chuyển, ông ấy đã dùng phép

sao chép biến mình giống hệt thầy An?

Đúng thế! – thầy Hơn đáp – Chỉ những người có học vấn cao trình độ nghị sĩ mới

biết thuật sao chép. Tuy nhiên, các con không cần chờ đến khi làm nghị sĩ hành tinh

Lemuria mới được học Mọi người nghe đến đây đều cười ồ cả lên Đầu buổi chiều,

ngay tại đây ta sẽ dạy các con, kể cả với Cay, phép thuật sao chép ấy.

Nghe thầy Hơn nói, ai nấy đều rất hào hứng, sôi nổi bàn tán. Thầy An cũng nhắn gọi

May, Sao và Ngân đầu giờ chiều có mặt trong phòng họp của Viện để được thầy Hơn

truyền dạy.

159

Đúng hai giờ chiều, thầy An mời tất cả mọi người đứng dậy bước ra khỏi ghế. Thế là

toàn bộ hai dãy ghế cùng với chiếc bàn dài tự động tụt ngay xuống sàn nhà không để lại

một dấu vết gì. Mọi người còn chưa hết ngạc nhiên thì toàn bộ sàn nhà bằng vật liệu kim

loại của hành tinh Atlantis biến ngay thành sàn gỗ với nhiều vân hoa khá đẹp giống hệt

sàn nhà của thầy Hơn. Cũng vừa lúc đó, ba bạn May, Sao và Ngân cùng bước vào phòng.

Mọi người, hiểu ngay tác phẩm sao chép này là của thầy Hơn và ý thầy muốn diễn lại

cảnh học tập của mọi người y hệt trên hành tinh Lemuria. Không ai bảo ai, mọi người tự

động ngồi xếp bằng thành vòng tròn bao quanh thầy Hơn. Buổi học diễn ra không quá

một tiếng. Như thường lệ, thầy Hơn nhắc mọi người rằng càng có nhiều quyền năng, ta

càng phải thận trọng hơn, không phải lúc nào cũng có thể đem ra phô diễn gây xáo động

xã hội.

Thầy An một lần nữa, đứng lên mời thầy Hơn, Cay và hết thảy mọi người của Viện

đang có mặt tại đảo đi kiểm tra lần lượt các công trình. Đầu tiên là văn phòng và phòng

thí nghiệm của Viện. Ngoài trang bị nội thất cần thiết, văn phòng và phòng thí nghiệm

hoàn toàn trống rỗng.

Sẽ có kế hoạch chuyển toàn bộ những dụng cụ văn phòng và các thiết bị thí nghiệm

của cơ sở cũ tại Sơn Tây về đây – thầy An tuyên bố.

Sau đó, đến các phòng ở của cán bộ nhân viên được trang bị đầy đủ cho từng căn hộ

hệt như trên hành tinh Atlantis với những thiết bị nội thất hoạt động tự động và chịu điều

khiển theo ý nghĩ của người. Đến công trình tiếp theo là nhà máy sản xuất bánh và sữa.

Khi chúng tôi bước vào, không gian im ắng hoàn toàn vắng tiếng máy hoạt động nhưng ở

cuối dây chuyền, những phong bánh gói kỹ và những bình sữa trắng đục liên tục xuất

xưởng. Ra khỏi nhà máy sản xuất bánh, công trình cần chiêm ngưỡng cuối cùng là chiếc

máy bay siêu thanh. May cúi chào mọi người, mở cửa bước vào buồng lái và khởi động

máy. Không cần đường băng, máy bay tự bốc mình lên cao êm ru. May cho máy bay tiến,

lùi, rẽ trái, rẽ phải một cách chớp nhoáng rồi bất ngờ biến mất tăm. Trong khi mọi người

đang ngỡ ngàng thì tại vị trí cũ ngay trên mặt đất, máy bay hiện hình và May mở cửa

bước ra, một lần nữa chào mọi người. Không ai bảo ai, tất cả những người của Viện đứng

quan sát ở bãi đáp đều vỗ tay nhiệt liệt hoan hô. Về chiếc máy bay này, thầy An bước ra

trước tuyên bố với mọi người:

Viện ta tuy đã có con tàu vũ trụ do Kim lái, nhưng vì nó nhỏ quá khó chở được

nhiều người nên tôi quyết định giữ lại cho Viện chiếc máy bay lớn này.

Cuộc kiểm tra các công trình của Viện coi như hoàn tất. Trời ngả về chiều và buổi tối

sau đó sẽ tới. Tôi chợt chột dạ và nêu ý kiến với thầy An:

Thưa thầy, em đoan chắc rằng những dãy đèn đường do thầy Hơn sao chép từ Hà

Nội không thể sáng được.

Tại sao? – thầy An ngạc nhiên hỏi lại.

Có dây dẫn từ bóng đèn xuống đấy nhưng đảo ta đâu có hệ thống đường dây điện

thông thường như ở đất liền cơ!

Thầy An quay vội sang May:

May, em hãy biến dãy đèn đường trên đảo thành dãy đèn đường hệt như trên hành

tinh Atlantis đi nào! Thầy An biết rằng đèn đường trên hành tinh Atlantis sử dụng năng

lượng mặt trời và hoạt động độc lập, không hề có đường dây dẫn nào như ở ta.

Thưa vâng.

May ngước nhìn và lia ánh mắt lên toàn bộ các dãy đèn đường của đảo. Hầu như

trong chớp nhoáng, những dãy đèn lạ mắt theo mẫu của hành tinh Atlantis lần lượt thay

thế và đồng loạt bật sáng, soi tỏ các con đường nhựa trải dài nối liền các công trình. Cũng

160

vào thời điểm đó, bức tường của các công trình xây dựng như văn phòng Viện, trường

học, nhà ở cũng đồng loạt bật sáng làm cho toàn bộ hòn đảo Không tên trở nên rực rỡ

lung linh. Tuy nhiên, trước sân Viện, hồ nước vẫn chưa hoạt động và không gian ở đây tù

mù không đèn đóm. Tương tự tình trạng của dãy đèn đường, bơm nước cho vòi phun

không thể khởi động vì không có điện. Tôi lại bảo Ngân:

Em hãy tiếp tục sao chép hồ phun nước và những trụ đèn thắp sáng xung quanh

theo kiểu mẫu trên hành tinh Atlantis.

Vâng.

Ngân vừa dứt lời, một hồ phun nước khác đã thay hồ phun nước cũ và những tia nước

bắt đầu phụt lên cao trong ánh hào quang của các trụ đèn tỏa sáng rực rỡ nhiều màu sắc.

Sau đó không cần nhắc, ai cũng muốn thử phép thuật mình vừa học được. Lần lượt

xuất hiện những vườn hoa sặc sỡ, những bãi cỏ xanh óng mượt, những cây liễu rủ mọc

quanh hồ, sân tập thể dục dụng cụ, sân bóng chuyền, sân quần vợt. Bãi đáp đã được ai đó

láng một lớp bê tông bằng phẳng và chắc chắn.

Cay nói với thầy An rằng ngay bây giờ Cay xin tặng Viện một vườn cây ăn quả giống

lấy từ hành tinh Lemuria tọa lạc trên khoảng đất trống kéo dài từ bãi đáp của chiếc máy

bay và con tàu vũ trụ ra đến tận biển. Cay còn dặn thêm:

Những giống cây ăn quả này cần sự đối xử bình đẳng với con

người. Khi cây ra quả và quả đã chín, con người không cần hái mà chỉ ngỏ lời xin là quả

sẽ tự rụng xuống, đáp nhẹ nhàng vào giỏ hay túi xách, thậm chí đậu lơ lửng trước mặt để

ta đưa tay bắt lấy. Nếu ai đó có ý đồ hái trộm hay chọc phá, cây sẽ phản ứng bằng cách

làm biến mất sạch toàn bộ quả trên cây hoặc bản thân cây ấy cũng có thể tự biến đi.

Phải thừa nhận rằng trái cây của hành tinh Lemuria về chất lượng không chê vào đâu

được, vừa thơm ngon vừa bổ dưỡng, đã nuôi sống người Lemuri suốt cả cuộc đời.

Bên cạnh vườn cây Lemuri, ai đó còn sao chép thêm một vườn cây dừa giống Bến

Tre, một vườn cây thốt nốt giống An Giang rồi tiếp đến lần lượt ra đời vườn xoài, vườn

măng cụt, vườn sakê, vườn mít tố nữ, vườn cây vú sữa. Muốn có vườn trái vải nhưng

đành chịu vì loại cây không phù hợp với khí hậu miền Nam. Có ai đó đề nghị thêm vườn

sầu riêng nhưng tôi cực lực phản đối vì cái mùi không phải ai cũng thưởng thức nổi. Có

người ví quả sầu riêng có mùi địa ngục nhưng vị thiên đàng! Nếu ai muốn ăn sầu riêng,

hãy vào đất liền mà mua, chứ trồng nó ở đây thì không. Sau đó, tôi nhờ thầy Hơn “sao

chép hồn” của vườn cây Lemuri vào những vườn cây Việt Nam này để cây ở đây cũng

biết suy nghĩ đối phó và được đối xử bình đẳng.

Đã có vườn cây thì phải có chim chóc sinh sống làm tổ và ríu rít suốt ngày cho vui.

Tôi vận dụng quyền năng điều chuyển một số chim ở đất liền ra đầu tiên là chim sâu, sau

đó chim sẻ và một số chim khác chỉ ăn sâu bọ mà không phá hại trái cây.

Vườn hoa, bãi cỏ, vườn cây lại đòi hỏi phải có hệ thống tưới tiêu phục vụ. Thế là ai

đó đã sao chép mạng lưới hoàn chỉnh các đường ống cấp nước và thoát nước chìm dưới

mặt đất trên toàn đảo, chỉ nhô lên bên trên các vòi phun xoay quanh luân chuyển. Nguồn

nước tưới chính là nước thải đã được xử lý sạch sẽ, không ảnh hưởng xấu đến cây trồng.

Tôi đề nghị với thầy An là sau vài hôm chuyển dịch xong các thứ cần thiết từ cơ sở cũ

của Viện ở Sơn Tây ra đảo, hoàn chỉnh cảnh quan của đảo trong đó tái tạo các bãi biển

xung quanh đảo, biến những bờ đất gồ ghề nham nhở thành những dải cát trắng tinh sạch

sẽ, cải tạo lại rừng cây và các ao hồ thiên nhiên đã có mặt trên đảo tự bao giờ sao cho thật

đẹp đẽ, thơ mộng và hấp dẫn. Ngoài ra, quanh đảo sẽ phải xây dựng một hệ thống phòng

thủ với nhiều camera ghi hình ảnh cùng tiếng động suốt ngày đêm, sẵn sàng báo cho toàn

đảo biết khi có hiện tượng khả nghi. Bằng kỹ thuật hóa trang của hành tinh P16, ngoài

161

không phận của đảo, trên mặt biển, những tàu bè dù quen hay lạ khi đến gần đảo sẽ chỉ

thấy nổi lên giữa biển những rặng san hô chìm mấp mé mặt nước, rộng gấp nhiều lần

diện tích của đảo. Đường vào đảo duy nhất là đường hàng không.

Sau đó, chúng tôi chuẩn bị cải tạo cơ sở cũ của Viện tại Sơn Tây thành một bệnh viện

Đông Tây y kết hợp với khoảng 200 giường bệnh và chung cư cho cán bộ và người nhà

thăm nuôi của bệnh nhân. Còn hai bệnh viện nữa công suất tương đương đặt tại Đà Nẵng

và Cần Thơ, chúng tôi sẽ tính sau. Bởi vì bệnh viện nằm trong địa phương của người dân,

chúng tôi không thể áp dụng quyền năng mà phải thuê kiến trúc sư thiết kế và nhà thầu

xây dựng như cách làm bình thường của một bệnh viện mới. Thời gian hoàn thành là hai

năm cho một bệnh viện. Phương pháp Đông y được khai thác triệt để. Mọi phương thức

chữa bệnh không dùng thuốc được ưu tiên áp dụng. Những người làm việc cho bệnh viện

được tuyển dạng hợp đồng có thời hạn với mức lương cao trả qua tài khoản.

Về thức ăn đồ uống của cán bộ nhân viên, bệnh nhân và người thăm nuôi, chúng tôi

cung cấp miễn phí nếu họ tự nguyện sử dụng bánh và sữa dinh dưỡng do Viện sản xuất.

Để tránh sự nhàm chán và đơn điệu, Sao và Ngân đã thiết kế mười bốn chủng loại bánh

và sữa có mùi vị khác nhau dùng trong bảy ngày. Bữa ăn sáng và trưa là chính, còn bữa

ăn chiều mọi người có thể tự túc hay nhận mang về từ bệnh viện.

Trong ngày khai trương cơ sở mới của Viện, thầy An chủ trương không mời ai. Ý

thầy muốn giữ cho cơ sở mới của Viện càng ít người biết càng tốt.

Du lịch Nam Phi và tìm mối tiêu thụ kim cương

Nói về việc trả lương, nguồn chi tiêu của Viện lâu nay vẫn trông cậy vào công cuộc

khai thác kim cương ở những hành tinh xanh mà các bạn P16 phát hiện giúp và báo cho

biết. Việc trả lương bằng kim cương càng về sau càng bộc lộ nhiều nhiêu khê bất tiện cho

người nhận lương. Chúng tôi theo tình hình mới, áp dụng cách trả lương thông qua thẻ tài

khoản mà Nhà nước và nhiều cơ quan xí nghiệp đang thực hiện. Chúng tôi cũng phải mở

tài khoản cho Viện và tìm cách bán số kim cương có được để có tiền nhập vào tài khoản.

Vấn đề đặt ra cho Viện là nên bán kim cương dạng thô hay xây dựng xưởng mài cắt để có

dạng trang sức. Theo gợi ý của một tiến sĩ thạch học, xuất khẩu dạng thô thì thu tiền được

nhanh hơn là tổ chức xưởng chế tác. Nhưng việc xin phép xuất khẩu kim cương thô hay

mở xưởng mài cắt đều không hề đơn giản chút nào. Phải xuất trình giấy phép khai thác,

địa điểm khai thác, sản lượng hằng năm, những cái này Viện chúng tôi không hề có. Nếu

không khai thác kim cương trong nước thì làm sao có kim cương để mài cắt hay xuất

khẩu, bởi vậy phải trình giấy phép nhập khẩu. Cái này, Viện cũng không có nốt. Qua

mạng, chúng tôi được biết trên Trái Đất mỗi năm lượng kim cương thiên nhiên qua khai

thác khoảng 26 tấn với tổng giá trị 9 tỷ USD. Còn kim cương nhân tạo sản lượng hàng

năm khoảng 100 tấn dạng bụi, vụn, chủ yếu phục vụ công nghiệp. Khoảng 49% kim

cương thiên nhiên được khai thác tại Trung Phi và Nam Phi. Sau đó đến các nước như

Canada, Ấn Độ, Nga, Brasil, Úc. Hầu hết các nước có khai thác kim cương thiên nhiên

thường xuất bán cho hãng De Beers có cơ sở chế tác tại Kimberley Nam Phi. Việt Nam

cho đến nay chưa có mỏ kim cương hoặc có thể có nhưng chưa tìm thấy. Tôi gợi ý cho

thầy An rằng là thầy nên có một chuyến du lịch sang Nam Phi, nhân đó chào bán kim

cương luôn thể. Giá cả thị trường có sẵn trên mạng. Tôi đơn cử một ví dụ sau đây: kim

cương cỡ 0,5 carat giá 1500 USD, cỡ 1,0 carat giá 6500 USD, cỡ 1,5 carat giá 12750

USD, cỡ 2,0 carat giá 26000 USD, cỡ 3,0 carat giá 51000 USD và cỡ 5,0 carat giá

115000 USD.

162

Tôi gợi ý với thầy rằng trong chuyến đi thăm dò để bán kim cương này, thầy nên đưa

cô Lan đi cùng theo tua du lịch của Lotus travel xuất phát từ thành phố Hồ Chí Minh kéo

dài trong 8 ngày.

Thầy An và cô Lan, hai vợ chồng đi du lịch là chuyện thường tình nên ít ai chú ý.

Nam Phi có nhiều điểm tham quan nổi tiếng như Johannesburg, Sun City, Cape Town,

thành phố Pretoria, công viên quốc gia Pilanesberg, đi xe cáp lên đỉnh Table Mountain

(Núi Bàn), khu bảo tồn Mũi Hảo vọng...Nam Phi có ba thủ đô: Cape Town là thủ đô lập

pháp, Pretoria – thủ đô hành pháp và Bloemfontein – thủ đô tư pháp. Thành phố lớn nhất

là Johannesburg.

Nam Phi rộng gấp bốn lần Việt Nam nhưng dân số chỉ xấp xỉ một nửa dân số Việt

Nam. Đó là một quốc gia đa sắc tộc với mười một ngôn ngữ chính thống, bao gồm cộng

đồng người da trắng, người Ấn Độ, người lai. Người da đen Nam Phi chiếm gần 80%.

Nam Phi có những vùng khai thác vàng nổi tiếng như Free State,.. còn Kimberley

được mệnh danh là thủ đô kim cương của thế giới, lừng danh ngay từ thế kỷ thứ 19.

Lotus Travel thiết kế tua du lịch Nam Phi xuất phát từ thành phố Hồ Chí Minh như

sau:

Ngày thứ 1: TP. Hồ Chi Minh – Kuala Lumpur – Johannesburg. Từ sân bay Tân Sơn

Nhất, đáp chuyến bay của hãng hàng không Malaysia đi Kuala Lumpur. Đến sân bay

Kuala Lumpur, chuyển chuyến bay đi Johannesburg.

Ngày thứ 2: Johannesburg – Pretoria – Sun City. Máy bay hạ cánh tại sân bay

Johannesburg. Xe và hướng dẫn viên địa phương đón khách về trung tâm thành phố.

Tham quan một vòng thành phố này, sau đó đi Pretoria thăm tượng đài Voortrekker, được

coi là một biểu tượng của Nam Phi, Quảng trường Nhà Thờ, Tòa nhà Công đoàn rồi tiến

về Sun City, nhận phòng khách sạn bốn sao.

Ngày thứ 3: Sun City hay là Thành phố Mặt Trời, tham quan công viên quốc gia

Pilanesberg trên loại xe đặc chủng để có dịp ngắm năm loài thú nổi tiếng của rừng Châu

Phi đang sinh hoạt trong điều kiện tự nhiên là tê giác, bò rừng, voi, sư tử và hà mã. Tham

quan làng văn hóa Lesedi. Sun City còn được mệnh danh là Las Vegas ở Châu Phi.

Ngày thứ 4: Trơ vê Johannesburg. Trên đường, tham quan khu mỏ vàng và khu vui

chơi giải trí Gold Reef, mua sắm ở chợ trời Bruma.

Ngày thứ 5: Johannesburg – Cape Town. Đáp máy bay đi Cape Town. Tại đây, khách

được tham quan trại đà điểu, khu Mã Lai, tòa nhà Nghị viện, tòa Thị chính, lâu đài Hảo

Vọng. Đi cáp treo lên Núi Bàn (Table Mountain). Nghỉ đêm tại Cape Town.

Ngày thứ 6: Tại Cape Town. Tham quan Vịnh Hout. Đi tàu ra đảo Hải Cẩu ngắm nhìn

các chú hải cẩu phơi mình trong nắng ấm. Thưởng thức các loại rượu nho nổi tiếng của

nhà máy rượu Groot Constatia Winery. Ăn trưa tại nhà hàng Fish Hoek Galley nổi tiếng

với món tôm hùm. Tham quan bãi biển Boulder để xem các chú chim cánh cụt vui đùa.

Đến Cap Point để chụp ảnh với Mũi Hảo Vọng nổi tiếng.

Ngày thứ 7: Từ Cape Town đáp máy bay trở về Kuala Lumpur có dừng chân ở

Johannesburg.

Ngày thứ 8: Từ Kuala Lumpur trở về thành phố Hồ Chí Minh.

Đứng hàng thứ hai trong một trăm nước có nhiều khách sạn, Nam Phi là nước chiếm

năm trong mười khách sạn hàng đầu thế giới. Thành phố Gauteng thuộc Johannesburg ở

độ cao 1830 mét so với mặt nước biển có viện bảo tàng tiền sử của người Châu Phi,

những quán rượu và hộp đêm mang đặc trưng Nam Phi, những sòng bạc lớn, những khu

chợ trời sầm uất và đặc biệt có một con phố nhỏ, phố Vilakagi ở Soweto, nơi cư ngụ của

163

hai nhân vật được giải thưởng hòa bình là cựu tổng thống Nelson Mandela và mục sư

Desmond Tutu.

Lăn bánh trên xa lộ từ Johannesburg đi về hướng Tây Bắc khoảng hai giờ, du khách

sẽ đến Sun City (thành phố Mặt Trời). Ở đây có sòng bạc lớn, khu vui chơi Walt Disney,

bốn khách sạn, hai sân golf. Cách đó mười phút đi xe là công viên quốc gia Pilanesberg.

Đây là khu bảo tồn hệ thống động thực vật khá phong phú. Tại đó, khách du lịch sẽ được

chứng kiến những chú tê giác lững thững gặm lá rừng, những chú hươu cao cổ, những

chú voi, trâu rừng, lợn lòi lang thang kiếm ăn mà không sợ các tay săn bắn đe dọa. Khi đi

thăm, mọi người phải ngồi trên chiếc xe đặc dụng kiểu nhà binh chở lính, cao ngất nghểu

đề phòng gặp hổ, báo, sư tử, hà mã.

Mũi Hảo Vọng (Cape of Good Hope) nằm cách thành phố cảng Cape Town khoảng

48 km về hướng Tây Nam. Tại đây, du khách có thể nhìn thấy một lúc cả hai bờ Đại Tây

dương và Ấn Độ dương ngập tràn nắng và gió biển, nhìn những chú chim mòng bay rồi

đậu dày đặc cả một eo biển, còn trên bờ thì những chú đà điểu hoang dã điềm nhiên tha

thẩn kiếm ăn chẳng hề biết sợ người là gì. Mũi Hảo Vọng do nhà thám hiểm Bartolomeo

Dias phát hiện năm 1488 theo lệnh của vua Bồ Đào Nha Juan II mở con đường biển nối

liền Châu Âu với Tây Á. Ngày nay, Cape Town với mũi Hảo Vọng mỗi năm thu hút hơn

năm triệu du khách.

Gần Cape Town còn có Mũi Điểm (Cape Point) và Núi Bàn (Table Mountain). Trên

đỉnh cao nhất của Mũi Điểm là ngọn hải đăng. Núi Bàn, ở độ cao 1000 mét so với mặt

nước biển, là một tảng đá đen khổng lồ hình thành cách nay 500 triệu năm, mặt phẳng

như cái bàn, khi mây kéo đến bao phủ trông như tấm khăn trắng phủ lên bàn ăn. Du

khách muốn tự leo lên Núi Bàn phải mất 180 phút, còn muốn nhanh thì ngồi xe cáp có

sức chở vài chục người, xoay vòng 360 độ cho mọi người quan sát cảnh quan.

Xung quanh Cape Town là khu vực hơn 100 nghìn hecta chuyên trồng nho làm ra đủ

các loại rượu vang. Lò rượu vang lớn nhất tại đây là Buitenverwachting, tiếng Hà Lan có

nghĩa là Vượt hơn ca mong đợi. Du khách tha hồ nếm thử nhưng không mua cũng được.

Ngày nay, Nam Phi xếp hạng 9 trong 10 nước xuất khẩu nhiều rượu vang nhất thế giới.

Trong ngày thứ 2 của tua du lịch, thầy An gọi điện thoại về tòa đại sứ quán Việt Nam

tại số 87 đường Brooks, quận Brooklyn, thành phố Pretoria, tự xưng là viện trưởng viện

Vật lý nhân chuyến du lịch Nam Phi xin đến thăm đại sứ Trần Duy Thi vào sáng chủ nhật

đầu tháng tới. Vì đề tài có dính đến việc kinh doanh kim cương nên thầy còn nhờ đại sứ

thông báo mời giúp Việt kiều tên là Tuấn, nhà thiết kế đồ trang sức và cũng là chủ xưởng

chế tác, chủ cửa hàng bán đồ kim hoàn ở thành phố Port Elizabeth, phía đông Nam Phi

đến bàn bạc luôn. Ông đại sứ chấp nhận cuộc gặp và ghi vào kế hoạch.

Sau khi về nước, đúng ngày hẹn thầy An cùng với tôi lên chiếc “chuyên cơ của Viện”

do May lái, bay thẳng đến Pretoria thủ đô Nam Phi trong dạng tàng hình. May chọn bãi

đất trống trước tòa đại sứ Việt Nam hạ cánh. Tôi cùng thầy An khoác áo tàng hình bước

ra khỏi máy bay, tìm đến một chỗ khuất để lộ nguyên hình. Trong khi đó, May ở lại trong

khoang lái, cho máy bay bốc lên cao khoảng năm trăm mét rồi đứng nguyên ở đó. Chúng

tôi vào cổng, báo bảo vệ biết đã có lời hẹn cùng đại sứ Thi. Sau cú điện thoại từ ngoài

cổng, hai người đàn ông từ trong nhà bước ra, đứng trên thềm chờ chúng tôi. Thầy An và

tôi bắt tay và lần lượt giới thiệu từng người cho nhau biết. Đại sứ Thi cho biết người đàn

ông trẻ chính là Tuấn. Tuấn sinh năm 1975 trong một gia đình có công ty kinh doanh

vàng bạc ở Hà Nội. Anh sang lập nghiệp ở đây đã ba năm và đã đưa cả vợ con sang định

cư, đưa cả kỹ thuật viên, thợ kim hoàn trong nước sang với ý đồ mở trường đào tạo nghề

cho người sở tại.

164

Sau khi mọi người nhấp chén trà quê hương Thái Nguyên còn nóng hổi, thầy An ngỏ

lời trước:

Thưa đại sứ, hằng năm viện Vật lý chúng tôi khai thác được kha khá kim cương và

muốn bán dạng thô sang Nam Phi, có thể là trực tiếp cho hãng De Beers. Đại sứ biết đấy,

Việt Nam không có hoặc là chưa tìm thấy mỏ kim cương. Còn kim cương chúng tôi khai

thác ở những địa điểm ngoài đất nước Việt Nam, nhưng cũng không thuộc bất cứ lãnh thổ

nào trên Trái Đất. Vì vậy, chúng tôi không có bất kỳ một giấy tờ nào liên quan đến việc

nhập khẩu cũng như xuất khẩu kim cương của hải quan Việt Nam. Liệu hãng De Beers có

thuận mua kim cương gọi là “không rõ nguồn gốc” của chúng tôi hay không?

Đại sứ Thi nhìn Tuấn và cả hai trầm ngâm không biết nên góp ý như thế nào. Trong

lúc đó, thầy An nói tiếp:

Để biết rõ nguồn gốc của số kim cương đó, chúng tôi muốn mời đại sứ và phu nhân

cùng anh Tuấn đây về thăm Viện chúng tôi một chuyến có được không ạ?

...?

Chúng tôi bảo đảm đại sứ và anh Tuấn có thể đi và về ngay trong ngày hôm nay

trên chuyến chuyên cơ đặc biệt của chúng tôi.

Chuyên cơ nào? – đại sứ Thi ngỡ ngàng tỏ ý nghi ngờ.

Rồi đại sứ và anh Tuấn sẽ thấy.

Do chưa rõ thế nào, đại sứ không muốn cho vợ đi nên tỏ lời cảm ơn và hẹn dịp khác,

còn mình và Tuấn đồng ý đi ngay. Tôi đề nghị mọi người cùng ra khỏi đại sứ quán. Đại

sứ Thi báo cho bảo vệ biết ông đưa ba vị khách ra nhà hàng để bàn công việc. Khi đi đến

chỗ vắng, tôi quàng cho mọi người chiếc áo tàng hình, gọi điện cho May hạ cánh. Tôi dắt

hai người dò dẫm bước vào khoang hành khách của chuyên cơ. May cho máy bay bốc lên

cao và vút bay về Việt Nam.

Khi hai vị khách yên vị trên ghế, tôi từ tốn:

Thưa anh Thi và anh Tuấn, đây là chuyên cơ riêng của Viện chúng tôi. Nó to cỡ

chiếc Boeing 767. Nó thuộc hệ máy bay siêu thanh, dùng động cơ phản hấp dẫn và có

chức năng đặc biệt là tàng hình. Bởi vậy các anh không thể nhìn thấy nó cho đến khi

bước vào khoang. Nó lên xuống thẳng đứng nên không cần đường băng. Trong thời gian

ở trên không phận Nam Phi và trước tòa đại sứ, chúng tôi phải bật máy bay sang chế độ

tàng hình để giữ bí mật bởi vì chúng tôi biết mình đã xâm phạm đất nước người ta không

phải phép. Bốn chiếc áo tàng hình mà chúng ta quàng lên người cũng được sử dụng vì

mục đích đó.

Không đầy mươi phút sau, chuyên cơ hạ cánh xuống đảo, đậu ngay trước sân Viện,

tắt chế độ tàng hình. Khi mọi người bước ra, thầy An chìa tay mời đại sứ Thi và Tuấn đi

vào phòng khách của Viện. Giở bản đồ địa lý Việt Nam, thầy An chỉ một chấm nhỏ trên

biển ngoài khơi tỉnh Kiên Giang và giới thiệu đảo Không tên, nơi Viện chúng tôi đang

thường trú.

Thầy An nói tiếp:

Đây là một cơ sở nghiên cứu bí mật đã được Nhà nước cho phép. Sở dĩ gọi bí mật

là vì chúng tôi có quan hệ rất chặt chẽ với những người ngoài hành tinh, được họ giúp đỡ

rất nhiều về kỹ thuật.

Chúng tôi mời hai vị khách đi tham quan nơi ở cán bộ nhân viên của Viện, nhà máy

chế biến thực phẩm dinh dưỡng. Sau đó, thầy trao cho mỗi người một chiếc mũ thấu thị

và giới thiệu:

Trên bãi đáp, ngoài chuyên cơ mà chúng ta vừa bay từ Nam Phi về, còn có con tàu

vũ trụ vô hình mà mắt thường không thể nhìn thấy. Những con tàu này do thủ lĩnh hành

165

tinh P16 tặng cho viện chúng tôi. Đảo của chúng tôi hoàn toàn tách biệt với bên ngoài, từ

trên không hoặc từ mặt biển, không ai hoặc một thiết bị nào phát hiện được.

Sau đó, thầy An mời mọi người về phòng ở của thầy. Khi cửa phòng tự động mở và

mọi người bước hẳn vào bên trong, từ sàn nhà trồi lên chiếc bàn rộng cùng năm chiếc

ghế. Cô Lan từ bên trong bước ra chào mọi người. Năm chiếc khay cùng với bánh và sữa

đột ngột hiện ra. Tôi giới thiệu với hai vị khách:

Chúng tôi sống ở căn nhà này theo đúng nếp sống của người hành tinh Atlantis.

Thủ lĩnh của hành tinh này đã viện trợ cho chúng tôi ba công trình xây dựng và một

chuyên cơ. Đã đến bữa ăn trưa, chúng tôi mời đại sứ và anh Tuấn hãy nếm thử món ăn

trông có vẻ đạm bạc nhưng đầy đủ chất dinh dưỡng của người Atlan.

Trong lúc hai vị khách ăn và uống một cách từ tốn với vẻ tò mò nhiều hơn là vì đói,

thầy An tiếp lời:

Việc Viện chúng tôi có kim cương là cũng nhờ các bạn người ngoài hành tinh.

Chúng tôi không khai thác kim cương trên Trái Đất mà là trên vũ trụ, ở những hành tinh

xanh, nơi đó người bản địa không biết kim cương dùng để làm gì. Thời gian vừa qua,

chúng tôi bán kim cương lai rai ở trong nước lấy tiền trả lương cho cán bộ, nhưng bây giờ

khi cơ ngơi đã phát triển, cần nhiều tiền hơn nên phải tính đến chuyện xuất khẩu. Anh

Thi và anh Tuấn có cách gì gỡ rối giúp chúng tôi không?

Đến lúc này, khi đã vỡ lẽ mọi chuyện, đại sứ Thi mới hỏi Tuấn:

Tuấn có cách gì giúp các anh ở đây tiêu thụ lượng kim cương có thể không nhỏ này

không? – nói đoạn đại sứ Thi quay sang hỏi thầy An – Mỗi năm các anh định bán mấy

lần và mỗi lần khoảng bao nhiêu?

Thầy An trả lời trước:

– Mỗi năm chúng tôi có thể bán bốn lần, mỗi lần khoảng dăm ba trăm cân. Đa phần

là hạt kim cương cỡ lớn, ngoài ra còn có nhiều kim cương đen.

Tuấn trả lời:

Bản thân công ty của tôi có thể mua một ít, nhưng với số lượng lớn hàng trăm triệu

đô la, chắc phải hỏi hãng De Beers.

Đại sứ Thi ca ngợi:

Kim cương đen quý và hiếm, đắt hơn kim cương thường nhiều lần, tìm thấy rất ít từ

Brasil và Trung Phi.

Tôi hỏi:

Liệu hãng De Beers có đòi hỏi thủ tục gì nhiêu khê không? Ví dụ chứng từ nguồn

gốc của kim cương, các giấy phép xuất khẩu của Việt Nam?

Tuấn trả lời:

Có đấy! Thậm chí có những nước không được phép xuất khẩu, như Angola chẳng

hạn và hãng De Beers sẽ không bao giờ mua kim cương của những nước này. Họ muốn

làm giàu chính đáng chứ không muốn “đi đêm”.

Tôi gặng hỏi tiếp:

Anh Tuấn có mang theo người một loại chứng từ gì liên quan đến việc mua bán kim

cương không?

Tuấn trả lời ngay:

Có đây! Khi anh Thi báo cho biết có viện trưởng một viện nghiên cứu Việt Nam

sang Nam Phi để hỏi ý kiến về kim cương, tôi đã chuẩn bị, không biết nó có giúp ích

được gì cho các anh trong việc này không?

Nói đoạn, Tuấn đưa ra trải lên mặt bàn các giấy tờ có liên quan đến việc mua kim

cương thô và bán đồ trang sức bằng kim cương. Trong số giấy tờ đó, tôi chú ý nhất đến

166

một giấy phép nhập khẩu kim cương thô do hải quan Nam Phi cấp cho công ty của Tuấn

với số lượng chừng vài kilogam.

Tôi gặng hỏi tiếp:

Với hãng De Beers, anh có mua kim cương thô của họ không?

Có.

Thế nếu anh bán kim cương thô cho họ, họ có mua không?

Theo giá thị trường với điều kiện chứng từ đầy đủ, hợp luật pháp Nam Phi và luật

pháp quốc tế.

Vừa rồi, anh mua kim cương thô từ tập đoàn Alrosa của Nga, bây giờ anh đem nó

bán lại cho De Beers theo giá mua của hãng này, liệu De Beers có chấp nhận mua không?

Đương nhiên rồi, nhưng với điều kiện là công ty tôi phải có lãi!

Bây giờ tôi mới giở phép thuật của tôi ra:

Anh Tuấn ơi, anh xem kỹ lại đi. Giấy phép nhập khẩu kim cương của anh từ tập

đoàn Alrosa với số lượng đâu có ít? Hàng mấy trăm kilogam cơ đấy!

Một công ty cỏn con như công ty của Tuấn làm gì có đủ mấy tỷ đô la để có thể nhập

lượng kim cương lớn như vậy! Đại sứ Thi và Tuấn trao qua trao lại tờ giấy phép nhập

khẩu do Nam Phi cấp cho Tuấn, mắt hai người cứ hoa lên. Bấy giờ thầy An mới tươi

cười:

Vừa rồi chúng tôi dùng quyền năng học được từ người hành tinh Lemuri để có

trong tay bất kỳ một loại giấy tờ hợp pháp nào. Đó là phép thuật chứ không phải ảo thuật.

Phép thuật tạo nên cái thực, còn ảo thuật không có được như thế. Bây giờ tôi đề nghị anh

Thi và anh Tuấn giúp chúng tôi theo phương án này có được không? Mỗi lần muốn bán

cho hãng De Beers, chúng tôi điện sang cho các anh biết. Anh Tuấn liên hệ với hãng, báo

số lượng, định giá, hẹn ngày và địa điểm giao hàng. Chúng tôi cho tàu vũ trụ vô hình như

hai anh đã nhìn thấy chúng qua mũ thấu thị, chở kim cương thô sang Nam Phi. Tàu vũ trụ

sẽ đón anh Tuấn tại Port Elisabeth và cùng đưa hàng đi giao và nhận tiền qua tài khoản.

Giấy biên nhận bán do hãng De Beers cung cấp được in làm ba bản: anh Thi giữ một, anh

Tuấn giữ một và chúng tôi giữ một. Trong số tiền bán được, anh Tuấn trích nhập vào tài

khoản chúng tôi 85%, anh giữ 10% và nhập vào tài khoản anh Thi 5%.

Tôi thấy hai vị khách trao đổi thầm với nhau. Lục lọi trong đầu hai người, tôi không

tìm thấy một ác ý nào. Đại sứ Thi thay mặt khách phát biểu:

Thưa các anh, tôi nhận thấy đề nghị của viện trưởng An là hợp tình hợp lý. Dẫu sao

thì Tuấn cũng sẽ đứng mũi chịu sào tại Nam Phi khá nhiều. Còn tôi thú thật trong thâm

tâm, không hề muốn dính vào chuyện mua bán này.

Tôi vừa để trấn an đại sứ, vừa cảnh báo trước với Tuấn:

Anh Tuấn à, anh cố gắng giữ bí mật giúp chúng tôi việc này, nhất là với đại sứ. Nếu

có gì không ổn, gọi điện báo ngay cho chúng tôi, chúng tôi sẽ tìm cách gỡ rối. Tờ chứng

cho phép nhập khẩu kim cương thô của chính quyền Nam Phi, tôi đã phù phép vào đấy.

Anh muốn thay đổi số lượng kim cương và ngày tháng năm cấp giấy phép, anh cứ việc

nhìn vào nó và lẩm nhẩm ý muốn của mình. Nào anh thử thực hành ngay bây giờ xem.

Tuấn làm theo lời tôi và tỏ vẻ vô cùng ngạc nhiên và thích thú. Tuấn trao ngay tờ giấy

phép cho đại sứ Thi xem. Tôi lại cảnh báo:

Này anh Tuấn, cái gì cũng có giới hạn của nó. Anh tuyệt đối không được lạm dụng.

Vâng.

Hình như anh chàng này có vẻ bắt đầu sợ.

Chúng tôi cùng đứng lên. Thầy An ngỏ lời cuối cùng:

167

Viện chúng tôi rất cảm ơn sự giúp đỡ của hai anh. Mong có dịp đón đại sứ cùng phu

nhân về đây thăm chơi một chuyến, nhất là vào dịp nghỉ phép. Lần này, bạn Kim đây sẽ

đưa hai anh trở về trong con tàu vũ trụ vô hình.

Sau cái bắt tay từ biệt với thầy An, hai vị khách được tôi trao cho chiếc mũ thấu thị và

cùng đi ra bãi đáp. Chúng tôi chui vào khoang con tàu vũ trụ của Viện. Tôi cho tàu bốc

lên cao và bay vút về phía Tây hướng tới Pretoria. Không đầy vài mươi giây sau, tàu đổ

bộ xuống một bãi cỏ khuất tầm mắt của tòa đại sứ Việt Nam. Nhìn quanh không thấy ai,

tôi đỡ hai người ra khỏi tàu và cùng trở về đại sứ quán. Đại sứ Thi dẫn tôi và Tuấn vào

phòng riêng của mình, bắt tay từ biệt tôi và Tuấn. Tôi hỏi Tuấn từ Port Elisabeth đến

Pretoria bằng gì. Tuấn bảo bằng ô tô riêng. Tôi bảo:

Tôi sẽ chở anh cùng với chiếc ô tô về nhà cho nhanh.

Tuấn ngạc nhiên:

Con tàu bé tí chật chội thế kia làm sao mang nổi chiếc ô tô?

Hẵng xem.

Tôi và Tuấn cúi chào đại sứ Thi lần nữa, hẹn ngày gặp lại rồi cùng bước ra ngoài.

Tuấn chỉ cho tôi chiếc ô tô con xinh xắn hai chỗ ngồi sơn màu đỏ chói đang đậu bên lề

đường gần bãi cỏ trong khuôn viên của đại sứ quán. Tôi leo lên ô tô chỉ hướng cho Tuấn

lái qua cổng đại sứ quán, đến thẳng bãi cỏ vừa rồi. Sau đó Tuấn thấy rõ chiếc ô tô của

mình đột nhiên bị thu nhỏ lại bằng cỡ chiếc va li và bay vút vào bên trong con tàu. Tôi

kéo vội Tuấn lên tàu, ngồi truớc bàn điều khiển, đóng cửa khoang sau đó bay vút về

hướng Port Elisabeth. Không đầy mấy giây sau, tôi nói lời từ biệt, thả Tuấn xuống cùng

chiếc ô tô phóng đại bằng thật rồi bay hướng về nhà.

Thế là chúng tôi giải quyết êm đẹp vấn đề tài chính. Nói là “xuất lậu” kim cương

cũng được, nhưng thật tình chúng tôi không cảm thấy xấu hổ áy náy vì Viện đâu có khai

thác chúng từ lòng đất nước Việt Nam? Đó là “của Trời cho”. Nhờ vậy trong tài khoản

của Viện, tiền bạc đủ nhiều để trang trải mọi chi phí.

Lại nói về chuyện kim cương. Có một lần, thấy Viện chúng tôi chú trọng việc khai

thác kim cương, Tashi báo cho tôi biết có cả một ngôi sao toàn là kim cương đường kính

khoảng 1500 km mà người Trái Đất đặt tên là Lucy trong chòm sao Nhân Mã cách Trái

Đất năm mươi năm ánh sáng. Nó là một ngôi sao lùn trắng, có lõi nóng còn sót lại sau khi

sử dụng hết nhiên liệu hạt nhân và chết, cấu tạo phần lớn từ carbon. Các nhà thiên văn

Trái Đất bảo năm tỷ năm nữa, Mặt Trời của chúng ta cũng sẽ biến thành sao lùn trắng rồi

chờ hai tỷ năm sau nữa sẽ hóa thành viên kim cương khổng lồ. Chờ đến mấy tỷ năm để

nhìn thấy Mặt Trời biến thành viên kim cương e rằng là chuyện viển vông nhưng ngay

bây giờ, Tashi sẵn sàng đưa tôi đến sao Lucy nếu tôi muốn chiêm ngưỡng. Trời đất! Kim

cương ở dạng bụi hay hạt nhỏ thì còn có giá trị chứ nó to tổ bố như thế phỏng có ích gì,

khai thác làm sao và dùng nó để làm gì mới được chú? Nhưng tôi lại nghĩ không khéo sắp

tới sẽ có người dám rao bán hẳn hoi viên kim cương khổng lồ này, vì đất trên Mặt Trăng

cũng đã có người rao bán và có nhiều người đặt mua rồi.

Viếng thăm thánh địa của người xưa

Do thầy An cho tôi được toàn quyền, tôi bàn với thầy Hơn kế hoạch đi thăm thánh địa

Shamballa. Không giống chuyến đi trước đây cùng với ông Mun, “nhọc nhằn mà chẳng

nên cơm cháo gì! ”, tôi đề nghị thầy Hơn thu nhỏ người lại cùng bay trong con tàu vũ trụ

vô hình, vừa nhanh chóng mà cũng vừa để giữ sức. Khi bay trên không phận Trái Đất, tôi

chọn cho tàu tốc độ cỡ âm thanh để có thời gian chiêm ngưỡng những cảnh lạ bên dưới

168

mà thầy Hơn lần đầu đặt chân tới đây. Theo thầy, sông biển núi rừng của Trái Đất không

khác của hành tinh Lemuria là mấy, trừ những tòa nhà san sát túm tụm trong cùng khu

vực thành phố. Xe cộ đi lại nườm nượp bên dưới nhìn chóng cả mặt. Bên trên, thỉnh

thoảng vài ba chiếc máy bay chậm chạp phóng qua.

Về lịch sử, khác với các nước trên toàn lục địa Châu Á bị người phương Tây nhòm

ngó và thực dân hóa hàng mấy thế kỷ nay, cho đến giữa thế kỷ 20, vùng đất Tây Tạng

hiểm trở khí hậu khắc nghiệt này vẫn còn im lìm, nếu có thu hút chỉ được một số ít nhà

thám hiểm phương Tây. Sau thắng lợi của cuộc nội chiến với Quốc dân đảng năm 1949,

quân đội của Mao Trạch Đông thừa thắng chiếm luôn Tây Tạng và đất nước cổ xưa này

bị sáp nhập vào Trung Quốc từ năm 1950. Cuộc nổi dậy bất thành năm 1959 khiến vị Đạt

Lai Lạt Ma thứ 14 phải bỏ Tây Tạng vượt núi sang lập chính phủ lưu vong ở Dharamsala

của Ấn Độ. Trong cuộc đại cách mạng văn hóa của Trung Quốc, Tây Tạng không thoát

khỏi ảnh hưởng tiêu cực: nhiều tu viện bị phá, nhiều dân thường bị giết.

Chúng tôi đến Tây Tạng, khu vực của thánh địa vào buổi trưa. Những ngày này, ở thủ

phủ Lhasa đang xảy ra bạo động đòi độc lập và dân chủ cho Tây Tạng. Cả ngàn tu sĩ đã

liên tục nổi dậy ở nhiều nơi bất chấp đàn áp, bắt bớ. Khoảng 500 vị sư tại tu viện

Drepung đã tuần hành ở thủ phủ Lhasa. Cùng ngày, 400 vị sư khác ở tu viện Lutsang

thuộc tỉnh Thanh Hải cùng đồng thanh lên tiếng yêu cầu chính quyền cho Đức Đạt Lai

Lạt Ma hồi hương. Khoảng 100 nhà sư khác ở Myera tỉnh Cam Túc cũng hòa nhập biểu

tình phản đối chính quyền. Theo giới quan sát quốc tế, đây là cuộc biểu tình sôi động lớn

nhất của Tây Tạng kể từ năm 1989. Đức Đạt Lai Lạt Ma tuyên bố muốn giữ lòng từ bi,

không bạo động, theo thuyết Trung Đạo của Bồ Tát Long Thọ. Lúc này đây, chính quyền

tuyên bố tạm ngừng cấp giấy thông hành cho du khách nước ngoài nên nếu cứ nhẩn nha

xin phép như lần trước đi cùng ông Mun thì kế hoạch của thầy trò tôi chắc chắn bị thất

bại.

Tôi hỏi thầy Hơn, triển vọng của đất nước huyền bí này có sáng sủa được không trong

lúc tương quan lực lượng của đôi bên chênh nhau một trời một vực như hiện nay.

Con quên rồi sao? Tình hình trước đây nếu chỉ xét đơn thuần tương quan lực lượng

của hai bên, Việt Nam làm sao giành được chiến thắng khi đương đầu với hai cường quốc

để xây dựng một nước độc lập như ngày nay?

Tôi đã học môn chính trị nát sách mà cũng không tự nghĩ ra được điều này để đến nỗi

thầy Hơn phải nhắc lại. Nhưng đó là chuyện của người ta. Chuyện của mình sát sườn bây

giờ là loay hoay tìm một chỗ đậu thuận tiện thì nhận ra mảnh đất trống cỏ cây lúp xúp

gần ngay cạnh đền thờ Milarepa. Tôi đưa thầy Hơn vào dừng chân tạm nghỉ ngơi và thăm

lại vị tu sĩ dạo nào. Nhác thấy tôi, ông nhận ra ngay. Trong lúc bày chén pha trà đãi

khách, ông hỏi thăm ông Mun. Tôi trả lời là ông Mun hiện rất khỏe. Tôi giới thiệu thầy

Hơn, người đồng hương với ông Mun lần này được tôi tháp tùng. Mục đích chuyến đi của

chúng tôi là viếng thăm thánh địa. Vị tu sĩ nhìn thầy Hơn, tỏ vẻ cung kính và đoán thầy

thuộc loại người cao đạo cỡ như ông Mun chứ không phải bậc tầm thường. Ấy là thầy trò

tôi đang lục lọi trong đầu óc ông ấy xem ông nghĩ gì mới được biết như thế. Bỗng vị tu sĩ

hỏi chúng tôi:

Lần này, các vị có muốn thử sức nhấc hòn đá do Milarepa tạc cách đây hơn nghìn

năm không?

Tôi nhìn thầy Hơn. Thầy gật đầu, ngồi lại ngay ngắn rồi nhìn chăm chắm vào hòn đá.

Một hòn đá tảng được gọt đẽo công phu cao khoảng tám mét, dày khoảng bốn mét có sức

nặng ba trăm tấn lâu nay vẫn cắm rễ sâu trong đất bỗng nhiên rùng mình và từ từ nhấc

169

bổng lên cách mặt đất khoảng hai mét. Nó đứng yên đó trong khoảnh khắc rồi lại từ từ hạ

xuống. Vị tu sĩ đến thẳng trước mặt thầy Hơn chắp tay xá và nói:

Trong đời tôi và suốt quãng thời gian trụ trì ở đây, lần đầu tiên tôi gặp chân nhân có

quyền năng và sức mạnh ghê gớm như ngài. Tôi xin bái phục ngài và xin báo ngài biết

rằng ngài có quyền đẩy cửa động phía sau bàn thờ để sang thế giới bên kia.

Thầy Hơn không tỏ ra vẻ gì là mất sức, nét mặt vẫn bình thản, hỏi lại:

Ta có được phép đưa cả đệ tử sang bên kia không?

Dạ xin lỗi, điều này không được ạ! Anh bạn trẻ đây muốn theo ngài sang cũng phải

tìm cách nhấc hòn đá lên dù cách mặt đất vài ba tấc cũng được.

Tôi nói với thầy Hơn:

Xin phép thầy cứ cho con thử ạ!

Thầy Hơn nhìn sang tôi không nói gì nhưng thầm bảo rằng tôi xem ra chưa đủ sức.

Tôi với một chút tự tin, ngồi lại ngay ngắn, xếp bằng cẩn thận theo lối kiết già và trừng

mắt nhìn vào hòn đá. Tôi lắc đầu qua lại và hòn đá nhúc nhích. Tiếp tục thành quả, tôi

ngước mắt lên, nhưng dẫu cố gắng cách nào nó vẫn không nhấc lên được dù là chút đỉnh.

Người tôi mệt nhoài, mồ hôi vã ra như tắm. Thầy Hơn lại nhìn tôi mỉm cười độ lượng.

Hệt như trọng tài sau một cuộc đấu, vị tu sĩ trịnh trọng tuyên bố:

Thưa ngài, chỉ mình ngài được sang bên kia thôi. Còn vị đệ tử này phải ở lại.

Thầy Hơn cười bảo:

Chúng tôi đi đâu dù một bước cũng phải có cả hai người. Xin cảm ơn lòng tốt của

tu sĩ. Thật tình, chúng tôi đã được phép sang bên kia, cả hai, nhưng không phải bằng lối

này. Anh bạn của tôi còn trẻ, học chưa đến nơi đến chốn, sức mạnh chưa đủ nên không

thể nhấc hòn đá lên là lẽ đương nhiên.

Một lần nữa, tôi và thầy Hơn cảm ơn thịnh tình và lòng mến khách của vị tu sĩ và

chào từ biệt. Chúng tôi đi xuống núi, không muốn cho vị tu sĩ trông thấy, đến một góc

khuất cất mình bay lên. Tôi bay trước dẫn đường, làm một vòng xung quanh để chiêm

ngưỡng lại núi Kailash hùng vĩ, sau đó bay thẳng đến đứng trước Thung lũng Tử thần.

Bên phải chúng tôi là rặng núi được gọi là Tấm Gương Tử vương Iama, chiếu thẳng vào

Thung lũng Tử thần.

Tôi dè dặt hỏi thầy Hơn:

Thưa thầy, thầy đã được biết hai câu thần chú chưa ạ?

Tự trong lòng, bỗng nhiên tôi cảm thấy lo lắng. Bây giờ mà thầy Hơn chưa biết gì đến

câu thần chú thì sẽ ra sao đây. Trong lúc ấy, thầy Hơn đứng yên bất động như trời trồng,

mắt nhắm nghiền và mồm thì lẩm nhẩm những gì tôi nghe không rõ. Bỗng thầy Hơn mở

mắt, nhìn tôi và bảo:

Bây giờ, thầy đọc gì thì con đọc theo nhé!

Đoạn, thầy nắm lấy tay tôi đi sâu vào đường dẫn đến Thung lũng Tử thần và đọc vừa

đủ để tôi nghe thấy:

Úm ba la hdas la ma yin hdas!

Úm ba la hdas la ma yin hdas! – tôi lặp lại.

Trong đầu, thầy báo cho tôi hay, câu thần chú này vô hiệu hóa tác dụng làm suy kiệt

cơ thể của Tấm Gương Tử vương. Thầy dắt tôi đi thẳng vào trong, đến dừng lại một lúc

giữa hai con chó đá bốn mắt, lốm đốm màu hung. Bỗng nhiên, trong đầu tôi xuất hiện lần

lượt như một bộ phim quay chậm tất cả những hình ảnh từ lúc tôi lẫm chẫm biết đi cho

đến khi khôn lớn, những công việc đã làm, những kinh nghiệm đã từng trải, những ưu

điểm đã đạt được và những khuyết điểm đã phạm phải. Tôi cảm nhận rõ rệt niềm vui

sướng do những ưu điểm đem lại và nỗi khổ tâm do khuyết điểm mình đã phạm. Đúng là

170

một cuộc sám hối. Sau đó, dường như được tắm trong một suối nguồn ánh sáng thanh

khiết, tôi cảm nhận rõ tâm hồn mình được gột sạch, trở nên trong sáng và thanh thản lạ

thường.

Tiếng thầy Hơn lại vẳng bên tai:

Úm ba la gnod pa dan ci gnas!

Úm ba la gnod pa dan ci gnas! – tôi lặp lại.

Trong đầu, thầy lại báo cho tôi hay, câu thần chú này gọi cửa hang hãy mở. Quả

nhiên, sau đó không lâu, tảng đá phẳng nằm chắn cửa hang từ từ kéo sang một bên đủ chỗ

cho hai thầy trò tôi lách qua.

Một đường hầm rộng hơi thiếu ánh sáng, dài hun hút đổ dốc.

Hai thầy trò chúng tôi cứ men theo các bậc đá mà đi xuống, đi xuống mãi. Phải mất

hai giờ đồng hồ chứ không ít. Cuối cùng, một vùng đất bằng phẳng cỏ mọc xanh rờn hiện

ra trước mặt. Một bầu không khí mát lạnh tràn ngập cùng với ánh sáng chói lòa là ấn

tượng đầu tiên mà hai thầy trò chúng tôi cùng cảm nhận.

Chúng tôi lại men theo con đường đá rải sỏi, bằng phẳng, rộng và sạch, hai bên lề

trồng nhiều loài hoa muôn sắc và hương thơm ngào ngạt. Bên trái con đường là một con

sông hiền hòa trong vắt, nước chảy lững lờ. Bên phải cách chúng tôi khoảng mươi mét là

một dãy dài núi đá nhân tạo đầy hang hốc được sắp xếp thứ tự như kiểu nhà trọ tập thể

của một khu phố nghèo. Tất cả các hang đều có tấm đá chắn kín phía trước, ngăn tầm mắt

tò mò của du khách muốn biết những thứ gì đang ẩn náu phía sau.

Đi mãi quãng xa, chúng tôi mới gặp được một người trung niên nhỏ nhắn mặc bộ

quần áo tu sĩ theo kiểu Tây Tạng không hiểu từ đâu hiện ra. Ông này tự giới thiệu có

nhiệm vụ bề trên giao là đón tiếp hai vị khách đặc biệt từ trên mặt đất xuống. Ông không

giấu vẻ tự hào được giao trọng trách và tỏ vẻ cung kính trước mặt chúng tôi hết mực.

Thầy Hơn hỏi:

Xin tu sĩ cho biết đây là đâu và việc chúng tôi được vinh hạnh đến thăm có một ý

nghĩa sâu xa nào không?

Vị tu sĩ từ tốn trả lời:

Đây là một hang động rộng lớn nằm bên dưới dãy núi Hymalaya hùng vĩ cao nhất

trên lục địa Trái Đất, được gọi là thánh địa Shamballa. Nó có từ bao giờ tôi không được

rõ. Trước khi tôi được phép vào đây, nó đã hiện hữu. Tôi vốn là một tu sĩ người Tây

Tạng, được bề trên chỉ định vào sống và tiếp tục tu hành ở đây.

Thưa tu sĩ, – tôi hỏi – từ cửa hang vào đây, chúng tôi nhìn thấy rất nhiều hang động

khoét vào bên trong dãy núi ngầm ở cạnh lối đi. Những hang động đó là nơi tu hành hay

để làm gì vậy?

Nơi tu hành của chúng tôi ở phía trong kia. Nó rộng lớn, nhiều chùa cao, to và tráng

lệ lắm cơ. Còn các hang ấy, hàng nghìn chiếc chứ không ít dùng để chứa các xômachi.

Xin hỏi, xômachi là gì vậy?

Đó là những vị yogi được bề trên cho phép qua cửa hang đi vào đây để ngồi im theo

kiểu thiền, tĩnh tâm ở mức cao rồi chìm sâu vào giấc ngủ ngồi kéo dài vô hạn. Khi đó, cơ

thể họ dần dần cứng như đá, tựa như xác ướp nhưng không phải xác ướp bởi vì cơ thể ấy

còn sống mặc dù không ăn uống gì.

Tôi đánh bạo:

Chúng tôi vào xem có được không?

Được chứ ạ! Xin hai vị chờ cho một lát để tôi đi lấy đèn.

Nói đoạn, vị tu sĩ hối hả chạy đi, biến vào một góc khuất nào đó rồi đi ra với hai cây

nến trắng, trao cho thầy Hơn một chiếc và tôi một chiếc. Trông như nến nhưng nhìn kỹ

171

không phải nến. Thân nến làm bằng một chất nhựa trắng, đầu nến là bóng đèn trông khá

giống đèn LED của chúng ta quen dùng trên mặt đất. Tuy nhỏ nhưng sau khi bấm nút,

bóng đèn tỏa ánh sáng trắng chói mắt. Đèn soi sáng cả một vùng rộng mặc dù hiện tại thế

giới ngầm này đang giữa ban ngày. Đến trước một cửa hang, miệng lẩm nhẩm điều gì đó,

vị tu sĩ đưa tay đẩy nhẹ tấm đá chắn sang một bên. Nhìn tấm đá vừa cao vừa rộng, tôi ước

lượng nó nặng cỡ mấy trăm cân chứ không ít. Vị tu sĩ chìa tay mời thầy Hơn và tôi, bước

đi trước dẫn đường. Một hành lang nhân tạo hẹp đủ cho một người đi nhưng xây dựng

đẹp và công phu. Đến trước một cánh cửa, vị tu sĩ lại lẩm nhẩm và cánh cửa phòng tự

động kéo sang một bên. Cả ba chúng tôi bước hẳn vào bên trong. Phòng khá lạnh, kiến

trúc nhân tạo, tường ốp đá và không hề có một trang trí gì. Không khí trong phòng khá

khô, được điều hòa lưu thông không ngừng. Bày ra trước mắt chúng tôi là quang cảnh

những pho tượng đủ mọi dáng vẻ. Mỗi pho tượng ngồi theo kiểu kiết già trên một bệ đá.

Đây chính là những xômachi như vị tu sĩ đã mô tả. Tôi đưa đèn đến sát mặt từng người.

Những cặp mắt hé mở cho thấy rõ lòng đen nhưng hoàn toàn bất động. Tôi thử chạm tay

vào một xômachi. Khá lạnh và tôi có cảm nhận như chạm vào một bức tượng đá. Nhìn

bao quát, tôi đếm được tất cả là hai mươi xômachi.

Không còn gì để xem, vị tu sĩ ra dấu mời chúng tôi ra ngoài. Cánh cửa phòng nặng nề

tự động kéo khép kín trở lại. Vị tu sĩ bảo rằng, dọc hai bên trái và phải của hành lang là

các phòng tương tự dành cho các xômachi. Trong dãy núi này, có hàng chục hành lang

như thế. Tôi tò mò hỏi:

Thưa tu sĩ, khi còn ở trên mặt đất, ông có biết trong nhiều hang động của dãy

Hymalaya, cũng có những xômachi như thế này không?

Vâng, có. Tôi quen nhiều người được bề trên giao cho trông nom hang động

xômachi.

Ông đã vào thăm viếng những hang động ấy chưa?

Chưa lần nào, bởi vì tôi không đuợc phép. Nhưng qua các người bạn trông nom

hang động, tôi được biết những xômachi ở đó hoàn toàn giống hệt những xômachi ở đây.

Điều khác biệt duy nhất...

Nhưng lẽ nào ông không thử cùng đi với một trong số những người trông nom hang

động để xem cho biết?

Quả tình tôi không dám liều mạng. Những người bạn giữ hang động bảo rằng,

ngoài họ ra, bất kỳ một người lạ nào xông trái phép vào hang động của xômachi đều bị

“hớp hồn”. Họ sẽ mất sinh lực nhanh chóng và đột quỵ ngay tức khắc.

Nhưng những hang động dưới này thì không?

Vâng, đúng thế. Đó là khác biệt duy nhất!

Tôi còn được biết, ngoài xômachi ra, linh hồn của họ cũng đang quanh quẩn trong

hang?

Đến lúc này, thầy Hơn lên tiếng:

Khi vừa bước vào căn phòng của các xômachi, ta đã nhìn thấy họ, những linh hồn

ấy! Chỉ vì quyền năng của con không thường trực nên con không trông thấy họ như ta đã

trông thấy đó thôi.

Họ có nói gì với thầy không?

Họ chào chúng ta với thái độ...có vẻ không mấy thiện cảm.

Tôi quay sang vị tu sĩ:

Ông có trông thấy linh hồn của các xômachi không?

Không! Tôi không trông thấy.

172

Sau khi biết tôi và thầy Hơn có khả năng nhìn thấy linh hồn của các xômachi, vị tu sĩ

tỏ ra cung kính và niềm nở hơn trước. Đến bây giờ, ông mới cảm nhận rõ thế nào là vị

khách đặc biệt mà ông có nhiệm vụ tiếp đón. Ông mời chúng tôi rời các hang động tiếp

tục đi sâu vào trong. Trong lúc vị tu sĩ đi trước dẫn đường, thầy Hơn nói khẽ chỉ vừa đủ

tôi nghe:

Những linh hồn quanh quẩn bên cạnh các xômachi ấy, họ còn nói.. thầy Hơn

bỗng ngập ngừng như e ngại điều gì.

Sao ạ?

Này lũ mặt đất các người, bao giờ mới thôi trò chia rẽ, hận thù, gây hấn, chiến

tranh chém giết lẫn nhau? Lại còn phá phách điên cuồng môi trường sống!

Thế thầy trả lời họ thế nào?

Ta đâu phải người Trái Đất mà trả lời họ! Người trả lời họ chính là con.

Thầy ạ, con nghĩ ta phải quay lại gặp họ một lần nữa. Tất nhiên, ngay bây giờ thì

chưa!

Tùy con.

Đi sâu vào bên trong, xen lẫn với rừng cây rậm rạp um tùm là các tu viện xây dựng

nhìn vẻ ngoài theo kiến trúc cổ của người Tây Tạng. Đạo của tu sĩ ở đây không giống đạo

Phật. Họ không gõ mõ tụng kinh mà chỉ ngồi thiền, chiêm nghiệm lẽ sống con người và

quy luật của vũ trụ. Có hai vị tu sĩ còn trẻ cỡ tuổi thiếu niên bước ra chào đón chúng tôi

và mời vào thiền viện. Họ đem ra một mâm bánh và trái cây cùng với sữa chua gọi là thết

đãi khách vào đúng bữa ăn trưa. Vị tu sĩ mời hai thầy trò chúng tôi:

Mời nhị vị tạm dùng bữa chay đạm bạc của chúng tôi. Ở dưới này, chúng tôi không

được phép chăn nuôi gia súc dù chỉ để lấy sữa hay vận chuyển. Bánh làm bằng bột mì và

sữa từ bột đậu nành ủ chua. Chúng tôi sở hữu duy nhất một cánh đồng gieo lúa mì và

trồng đậu nành. Cày xới, gieo trồng và chế biến toàn dùng sức người. Trái cây đủ dùng,

hái từ rừng hoang dã.

Tôi lôi từ trong túi ra mấy phong bánh và mấy chai sữa:

Khi đi hành hương, chúng tôi có mang theo một ít lương khô, xin mời tu sĩ dùng

thử.

Thầy Hơn nhìn tôi nháy mắt ranh mãnh, cũng lôi từ trong túi ra mấy thứ trái cây và

mấy chai nước trái cây của hành tinh Lemuria nhưng ở dạng thu nhỏ:

Tôi thì quen ăn chay bằng trái cây và nước trái cây.

Ba chúng tôi nhìn nhau và cùng cười ồ. Tôi tuy không đói nhưng cũng nhấm nháp thử

món bánh bao bằng bột mì, trái cây và sữa ủ chua của chủ nhà. Thành thực mà nói, chúng

không hấp dẫn cho lắm, nếu ăn để mà sống thì được chứ nếu chủ trương sống để mà ăn

thì những thứ này không ổn.

Tôi nói với tu sĩ:

Thưa ông, món trái cây và nước trái cây là món ăn thường xuyên và cả đời của

người Lemuri, còn bánh và sữa là món ăn suốt đời của người Atlan. Chúng đều là thứ

chay cả nên tu sĩ đừng ngại.

Đương nhiên là vị tu sĩ nọ không hề khách khí, đưa tay nhón lấy mỗi thứ một ít nhâm

nhi và gật đầu thành thực khen ngon. Đến lúc này, vị tu sĩ mới lộ ra cho chúng tôi biết rõ

hơn nhiệm vụ đón tiếp khách quý của ông. Bề trên bảo hai vị khách sẽ đến một là người

Lemuri cao lớn và một là người Atlan thấp bé hơn. Nói đoạn ông chỉ vào thầy Hơn:

Tôi đoán ông là người Lemuri, thế nhưng vóc dáng ông sao nhỏ bé? – rồi tu sĩ quay

sang tôi – Còn anh là người Atlan?

173

Tôi cười:

Vâng, đúng vậy. Thầy tôi đây vốn là người Lemuri cao lớn...

Vừa nói, tôi vừa đưa mắt nhìn thầy Hơn, trong đầu thầm đề nghị thầy hãy tự khuếch

đại mình cho bằng thật. Ngước mắt nhìn lên trần tu viện thấy nó còn thấp quá, thầy Hơn

bước hẳn ra sân, tự mình từ từ to ra và cao dần lên đến mười tám mét. Tôi nói với tu sĩ:

Với vóc dáng thực như thế này, làm sao thầy tôi chui qua cửa hang và đi lại tự

nhiên trong này?

Trong khi vị tu sĩ còn bỡ ngỡ, thầy Hơn thu nhỏ mình lại và trở về chỗ ngồi. Thầy nói

với tu sĩ:

Đệ tử của tôi đây cùng với một đạo sĩ người Lemuri từng đến Tây Tạng chiêm

ngưỡng núi Kailash và các công trình ở đấy nhưng không được phép vào.

Vị tu sĩ bấy giờ mới nói:

Bây giờ tôi đưa nhị vị đến yết kiến bề trên của chúng tôi.

Tu sĩ dẫn chúng tôi vào sâu bên trong hơn. Những con đường len lỏi trong rừng đều

rải sỏi. Hai bên lề đường, những cột đèn có bóng tròn tự động bật sáng về đêm. Tôi thắc

mắc hỏi tu sĩ:

Ở đây, có nhà máy điện cung cấp năng lượng và ánh sáng?

Không hề. Chúng tôi được cung cấp những bình dự trữ năng lượng đủ dùng trong

một năm.

Ở dưới mặt đất như thế này, không có Mặt Trời mọc và lặn, làm sao phân biệt ngày

đêm và năm tháng?

Chúng tôi có mặt trời nhân tạo và đồng hồ điều khiển mặt trời sáng và tối để phân

biệt ngày, đêm.

Chẳng mấy chốc, chúng tôi đứng trước một tòa tu viện to lớn khác thường và được

xây dựng nguy nga tráng lệ như một cung điện. Đến đây, vị tu sĩ cúi đầu chào từ biệt

chúng tôi.

Thưa tu sĩ, ông không vào sao? – tôi ngạc nhiên đặt câu hỏi.

Xin lỗi, tôi không được phép. Tôi nhận lệnh đón và đưa nhị vị đến đây là xong. Xin

chào hai vị.

Nói rồi, vị tu sĩ hối hả đi khỏi, khuất dạng ở một nơi nào đó. Bấy giờ mới có hai tiểu

đồng to lớn cỡ các em bé người Lemuri ra gặp chúng tôi, chào hỏi và chìa tay mời vào.

Nhìn thấy bậc tam cấp cao như bức tường thành, thầy Hơn và tôi nhìn nhau lắc đầu. Chắc

chắn không thể bước lên được, chúng tôi đành nhấc mình bay lên và hạ xuống ngay hành

lang phía trước. Hai em bé lại ngoắc tay mời chúng tôi đi sâu vào bên trong. Tôi nói thầm

với thầy Hơn:

Tiếp tục bay thôi!

Ừ, thì bay!

Chúng tôi lại nhấc mình phóng đuổi theo hai em bé tựa như đang tham gia trò chơi

đuổi bắt của trẻ con. Cuối tiền sảnh, ngồi sẵn trong một chiếc ghế có tay vịn là một người

đàn ông to lớn. Thầy Hơn nhủ thầm nhưng tôi vẫn cảm nhận được:

Chúng ta gặp một thủ lĩnh người Lemuri rồi. Phải tự mình khuếch đại mới có thể

nói chuyện với nhau được!

Với thầy Hơn, trở về dáng vóc cũ thì khỏe quá rồi, còn tôi ắt hẳn sẽ mệt lắm đây.

Nhưng không còn cách nào khác. Nhập gia phải tùy tục, giống như trong thời gian chúng

tôi đã từng sống trên hành tinh Lemuria ấy thôi.

174

Vị đạo sư đứng lên rời khỏi ghế đến trước chúng tôi. Cả ba người, chủ và khách, chắp

tay cùng cúi đầu chào.

Kính chào thủ lĩnh ạ! – tôi lên tiếng trước

Không dám! Hãy gọi tôi là đạo sư. Tôi chỉ cai quản một vùng nhỏ bao gồm hơn

chục tu viện này thôi. Cả các hang của những xômachi...

Đoạn đạo sư ngước nhìn lên:

Cám ơn hai vị đã đến thăm lãnh địa của chúng tôi. Ta rất vui vì gặp lại người đồng

chủng, ông là người Lemuri có đúng không? – đạo sư hướng ánh mắt về phía thầy Hơn.

Vâng! – thầy Hơn cung kính trả lời.

Khi hai tiểu đồng vào báo tu sĩ đã dẫn hai vị khách nhỏ bé đến, ta ngỡ nhầm người

và đang lo lắng. Hóa ra không phải. Thực sự là chúng ta có duyên gặp nhau.

Nói rồi, đạo sư mời chúng tôi đến ngồi ở một chiếc bàn rộng lớn trong góc tiền sảnh.

Tiểu đồng mang ra bình trà và ba chiếc tách, rót nước mời khách.

Vẫn đạo sư nói:

Cách đây không lâu, có tin báo là một đạo sĩ to lớn cùng đi với một đệ tử nhỏ bé

đến thăm viếng thánh địa, đã bay vòng quanh núi Kailash. Ông này đặt nhiều câu hỏi tìm

hiểu bí ẩn của thánh địa. Chúng tôi, bao gồm cả những lực lượng vô hình canh giữ, cảm

nhận tấm lòng thành kính của ông nhưng không thể trả lời đầy đủ trong phút chốc mà ngỏ

ý hẹn dịp khác nhiều thời gian hơn nếu ông nhận lời mời đến thăm thánh địa của chúng

tôi.

Ông ấy tên Mun, đang là nghị sĩ cai quản một bang của hành tinh chúng tôi – thầy

Hơn trả lời.

Ông ấy có xưng danh như thế. Nhưng ông ấy từ chối, nói lời cảm ơn và hỏi xin thay

một người khác có được không? Chúng tôi trả lời là được, hẹn gặp và bây giờ chúng ta

đang gặp nhau đây!

Thầy Hơn chỉ vào tôi giới thiệu:

Còn con người nhỏ bé cùng đi với ông Mun hôm nọ chính là người này đây, học trò

của tôi, vốn là người trên mặt đất. Do cơ duyên mà hai thầy trò chúng tôi gắn bó nhau.

Người học trò đặc biệt này đã học hỏi được khá nhiều ở hành tinh chúng tôi nên đạt được

huyền năng, tri thức và thấm nhuần cả đạo lý của người Lemuri.

Ta xin chúc mừng hai thầy trò.

Tôi lễ phép:

Thưa đạo sư, quả là vinh hạnh cho chúng tôi được phép đến

chiêm ngưỡng thánh địa mà ngài đang quản lý. Bất kỳ người nào trên mặt đất dẫu mong

ước cũng khó lòng đạt ý nguyện.

Như ta vừa nói, ở không gian ngầm dưới mặt đất này, ta chỉ cai quản một phần nhỏ

thôi, phụ trách phần tâm linh cho người tiền bối. Chỉ mình ta là người Lemuri, còn những

đạo sĩ, tu sĩ ở đây đều là người trên mặt đất được phái xuống. Họ không được phép gặp

trực tiếp ta. Còn khi ta muốn gặp họ, ta phải cải trang thành người nhỏ bé thông thường

như trên mặt đất.

Ngừng một lúc, đạo sư nói tiếp:

Bên dưới này, còn có hai khu vực rộng lớn khác do hai thủ lĩnh cai quản. Khu vực

phía Tây ngay bên dưới sa mạc Sahara do người Lemuri sinh sống. Khu vực phía Đông

bên dưới sa mạc Gobi do người Atlan trấn giữ. Chúng tôi sống hòa hiếu với nhau và tự

đặt ra bổn phận giúp đỡ nhau hữu hảo và vô điều kiện.

Tôi lên tiếng:

175

Thưa đạo sư, trên mặt đất, các tu sĩ người Nepal, người Ấn Độ, người Tây Tạng gọi

nơi đây là thánh địa, điều này có ý nghĩa gì ạ?

Đấy là cách gọi để tỏ lòng sùng kính của các vị ấy. Thực sự, các đạo sĩ của chúng

tôi vẫn lên trên ấy, bằng cách này hay cách khác, truyền dạy cho họ tri thức và quyền

năng do tiền bối của chúng tôi để lại.

Thưa đạo sư, còn những xômachi? Những yoga, những vị đạo sĩ ngồi thiền hằng

ngày để chiêm nghiệm ý nghĩa của cuộc đời và những quy luật của vũ trụ chưa đủ sao,

cần gì phải tự “ướp xác mình”?

Nhìn thẳng vào tôi, đạo sư trả lời:

Ngươi nhầm rồi, họ đâu có ướp xác! Những xômachi nguyên là những đạo sĩ thỉnh

nguyện và do ta đồng ý chỉ định đã tự hóa thân: cơ thể trở nên đông cứng, không sống

theo kiểu bình thường như ăn, uống, làm việc, nghỉ ngơi giải trí nhưng cũng không phải

đã chết. Họ có thể giữ nguyên hình trạng cơ thể như thế hàng trăm, hàng ngàn thậm chí

hàng triệu năm.

Thưa đạo sư, cháu không hiểu làm thế nhằm mục đích gì ạ?

Người thừa biết cuộc đời bình thường của một con người trên mặt đất hiện nay khá

ngắn, ít có người vượt quá một trăm năm. Nhưng cốt lõi sâu xa ở đây là loài người trên

mặt đất đang có xu hướng tự đưa mình đến chỗ diệt vong qua cách ứng xử tàn bạo với

nhau và đối xử thô bạo với thiên nhiên. Như một định mệnh, họ sẽ chịu nhiều hậu quả!

Ai sẽ sống sót sau mỗi hậu quả giống như trận đại hồng thủy đã từng nhấn chìm lục địa

Atlantis, khi mà bầu trời tăm tối do nhiều núi lửa phun trào kéo dài hàng chục, hàng trăm

năm giết chết hầu hết những sinh vật hiện hữu trên mặt đất?

Lúc đó, thánh địa có bảo đảm mạng sống cho mọi người ở dưới này không ạ?

Hoàn toàn có thể. Chính lúc đó, các xômachi sẽ sống lại đúng lúc để tiếp tục nền

văn minh nhân loại. Họ có đủ giới tính, tuổi phần lớn trong khoảng dưới ba mươi đối với

nữ và không quá bốn mươi đối với nam để có thể sinh đẻ bảo lưu nòi giống. Tuy nhiên

cũng có những đạo sĩ già hơn, nhiều tri thức và quyền năng tự nguyện biến mình thành

xômachi.

Thưa đạo sư, trên mặt đất vẫn lưu truyền học thuyết Darwin cho rằng các sinh vật

phải bắt đầu từ một đơn bào, sau hàng triệu triệu năm mới có được con người thông tuệ

như ngày nay.

Ta không rõ. Điều này có thể đúng với một hành tinh xanh vừa mới ra đời nếu hiểu

thuần túy theo nghĩa sinh học. Còn Trái Đất này hình thành từ bốn tỷ sáu trăm nghìn năm

trước, đã trải qua bao nhiêu thời kỳ có con người. Đâu cần thiết phải bắt đầu từ một đơn

bào!

Nói đoạn, đạo sư quay vào trong vỗ tay gọi hai tiểu đồng ra dặn:

Hai con vào trong gọi điện báo đến thủ lĩnh vùng cư dân Atlan là ta đang tiếp hai vị

khách. Nhờ thủ lĩnh phái người đến đây đón họ.

Quay sang chúng tôi, đạo sư ân cần nói như xin lỗi:

Nhị vị biết đấy, hình như chúng ta không có nhiều thời gian? Hãy đến thăm cư dân

Atlan và nhị vị sẽ được nghe trình bày tỉ mỉ cuộc sống chung bên dưới mặt đất của nơi

này.

Đạo sư và chúng tôi cùng đứng lên, đi ra trước tiền sảnh. Ngay bên dưới, trong bãi

sân cỏ xanh rộng lớn trước cung điện, một chiếc máy bay nhỏ nhắn cùng với phi công

bên cạnh đứng đợi từ lúc nào. Chúng tôi cùng cúi đầu chắp tay chào từ biệt đạo sư, tự thu

nhỏ mình lại như lúc ban đầu rồi cùng bay về phía người đón. Ồ, nhìn dáng dấp, tầm

176

thước và nhất là khuôn mặt, sao con người này giống May đến lạ. Viên phi công nhìn

chúng tôi như nhìn những người xa lạ, gật đầu chào, sau đó chìa tay mời chúng tôi leo

cầu thang bước vào ca bin. Chiếc máy bay sáng ánh bạc nhỏ nhắn chỉ vừa đủ cho hai

khách, không kể buồng lái. Viên phi công lên sau, bấm nút cho hai mảnh mui trần trong

suốt nhô lên từ hai thành máy bay khép lại. Máy bay đột nhiên bốc thẳng lên cao và bay

vút đi. Qua chiếc vòm trong suốt, chúng tôi tha hồ ngắm cảnh quan bên dưới. Đất đai bên

dưới hầu hết là khô cằn. Nhiều khu rừng cây rậm chủ yếu là cây ăn trái. Khá nhiều hồ

nước trong vắt nhưng dáng vẻ cho thấy chúng hoàn toàn nhân tạo. Đến vùng dân cư, nhà

cửa không nhiều. Nhiều tòa nhà không cao lắm, lấp lánh ánh mặt trời, trông na ná như

những tòa nhà trên hành tinh Atlantis. Một tòa nhà vòm giống hệt xưởng thực phẩm của

người Atlan. Xen giữa các căn nhà là những con đường rải sỏi, những vườn hoa và dãy

cột đèn đường gắn những chùm bóng tròn trắng.

Máy bay bay êm ru không hề nghe tiếng động và hạ cánh xuống bãi cỏ xanh tọa lạc

trước một tòa nhà trông khá đẹp đẽ và nguy nga. Một tốp người ăn mặc lịch sự ra đón

chúng tôi, đi đầu - tôi đoán - là thủ lĩnh. Quả vậy, khi tôi và thầy Hơn bước ra khỏi máy

bay, người đi đầu bước lên trước cúi chào và chỉ vào mình tự xưng là thủ lĩnh của cư dân

Atlan. Thái độ không hề quan cách và nói năng cử chỉ rất thân mật. Thủ lĩnh mời chúng

tôi vào nhà, mời đến ngồi vào bàn, sai người rót nước chiêu đãi.

Thủ lĩnh lên tiếng:

Xin chào nhị vị. Thay mặt cư dân Atlantis, tôi rất hân hạnh được nhị vị đến thăm.

Rất hiếm có những trường hợp đón khách như thế này.

Thầy Hơn cũng lên tiếng:

Chúng tôi cũng rất vinh hạnh được phép đến thăm thánh địa, một thế giới rộng lớn

bên dưới bề mặt Trái Đất mà không ai nghĩ rằng nó lại hiện hữu.

Thủ lĩnh chợt quay sang người bên cạnh:

Hãy gọi viên phi công vào đây gặp ta.

Rồi quay sang chúng tôi:

Một bất ngờ có liên quan đến nhị vị.

Không lâu sau đó, người lái máy bay không còn trong trang phục phi công nữa đã ở

ngay bên cạnh chúng tôi. Thủ lĩnh nháy mắt ranh mãnh:

Nếu con người này do chúng tôi mượn tạm từ mặt đất đến đây thì ba người quen

nhau chứ?

Còn ai vào đây nữa nếu không phải là May! Chưa vội quan tâm đến cách mượn người

của thủ lĩnh như thế nào, ba chúng tôi ôm chầm lấy nhau, vỗ lưng lẫn nhau theo phong

cách chào mừng thân mật của người trên Trái Đất. Chờ cho không khí vui mừng bất ngờ

lắng xuống, thủ lĩnh mới ôn tồn nói:

Sẽ có khá nhiều điều mà hai vị sẽ hỏi. Nhưng ta đã giao nhiệm vụ cho May sau

phần tiếp đón sẽ là người đại diện trả lời mọi thắc mắc của hai vị. Chỉ ngay tại đây thôi!

Nếu May trở lại mặt đất, con người này sẽ không còn nhớ một tí gì cả.

Nói đoạn, thủ lĩnh quay sang May:

May, ngươi hãy đưa hai vị về phòng khách nghỉ ngơi và ăn uống. Tối nay, chúng ta

lại gặp nhau tại đây.

Chúng tôi cúi đầu chào thủ lĩnh và theo May đi ra. May dẫn chúng tôi đến một căn

nhà nhỏ, được sử dụng làm phòng khách. Cấu trúc xây dựng nơi đây giống hệt như

những căn phòng ở trên hành tinh Atlantis. Mọi sinh hoạt hoàn toàn tự động ở mức kỹ

thuật siêu cao. Thức ăn vẫn là những phong bánh và sữa dinh dưỡng. Nếu muốn tìm hiểu

177

nền văn minh đương đại của hành tinh Atlantis, có lẽ xuống đây là thấy, đâu cần phải bay

đi xa.

Trong lúc ngồi nhâm nhi phong bánh, May nói:

Trái Đất thật ra hoàn toàn rỗng về mặt vật lý và ở chính giữa Trái Đất quả thực là

có một mặt trời. Đường kính mặt trời là 600 dặm tức là 965,4 km. Bề dày vỏ Trái Đất là

800 dặm hay là 1448,1 km. Ở giữa lớp vỏ này là đường trung tâm của lực hấp dẫn. Người

ở mặt trong lớp vỏ có thể đứng trên bề mặt trong của vỏ Trái Đất như chúng ta đứng ở bề

mặt ngoài của vỏ Trái Đất. Số người chạy trốn cuộc hủy diệt hạt nhân cách nay 12 nghìn

năm là 25 nghìn người, nay đã phát triển thành 25 triệu người.Trong vùng rỗng này, họ

tiến hóa khá cao. Họ là anh em của chúng ta và họ khá thân thiện. Thế giới ngầm dưới

mặt Trái Đất này có hơn 120 thành phố, trong đó thành phố trung tâm là Shamballa. Tại

đây, có một khu vực tổ chức theo nhu cầu của những đạo sĩ trên mặt đất, lo chăm sóc mặt

tinh thần, đi sâu vào triết thuyết và tâm linh. Đạo sư là người Lemuri, kể cả vợ con gia

đình đạo sư. Hai chú tiểu đồng là con của đạo sư. Đạo sư có nhiều tri thức và quyền năng

trình độ tương đương với các nghị sĩ bậc thầy chúng ta như thầy Hơn, ông Mun. Thủ lĩnh

cư dân ở dưới lòng đất biệt phái đạo sư làm việc tại khu này và chỉ có khu này liên hệ

thường xuyên với các đạo sư trên bề mặt Trái Đất qua ngả Tây Tạng.

Sau một lúc trầm ngâm, May kể tiếp:

Xưa kia, gần đến ngày Trái Đất rơi vào cảnh tối tăm như sống trong địa ngục trần

gian, những người Lemuri và Atlan có nền văn minh cao khi thoát qua được các cửa ở hai

cực bắc và nam để xuống đây thì yêu cầu của cuộc sống trước mắt được đặt ra. Hai vấn

đề đặc biệt cần phải giải quyết cho thỏa đáng và hợp lý trong thế giới ngầm này là năng

lượng và môi trường sống. Không thể lấy năng lượng từ Mặt Trời nhất là khi Trái Đất rơi

đúng vào thời kỳ hủy diệt, bầu trời đen nghịt những mây và khói, không khí tràn ngập khí

carbonic và khí sulphur. Phải có một Mặt Trời riêng. Nó vốn là một tinh thể mà cư dân

ở đây dùng con tàu vũ trụ mang vào trong lòng đất từ một hành tinh khác và nó

cháy sáng lâu đến một triệu năm. Nước có sẵn khá dồi dào trong lòng đất dẫu cho trên

bề mặt khô cằn là một thuận lợi đồng thời cũng là một ân huệ. Dùng nước và điện để sản

sinh oxy, tạo bầu không khí nhân tạo để thở. Vấn đề còn lại là môi trường. Con người vận

động sinh sống cũng đồng thời sản sinh khí carbonic. Các rừng cây rậm rạp bên dưới này

vừa tạo cân bằng sinh thái qua hấp thu khí carbonic vừa điều hòa nhiệt độ môi trường.

Những khí độc hại khác sẽ được những máy lọc cực lớn hút, lọc và thải ra môi trường

bên trên mặt đất qua tầng cát dày của sa mạc nên không hề ảnh hưởng đến những con

người sống trên bề mặt Trái Đất. Ở dưới này, cư dân quan tâm và hạn chế nghiêm ngặt

những hoạt động tiêu tốn nhiều năng lượng và thải loại khí độc hại gây ô nhiễm môi

trường.

Tôi tò mò hỏi May:

Anh xuống đây đuợc bao lâu rồi?

Một ngày.

Một ngày thôi ư? Sao mà anh biết nhiều thế?

Mình được thủ lĩnh truyền dạy. Vả lại, vùng cư dân Atlan sinh sống dưới này đâu

có gì phức tạp. Trên hành tinh chúng mình, cuộc sống phức tạp hơn nhiều. Bởi vậy, vốn

là người Atlan, chỉ liếc nhìn qua, mình đã nắm được mọi thứ ở dưới này.

Đến lượt thầy Hơn hỏi May, vì tò mò nhiều hơn:

Khi con đang lái máy bay, thầy thử dò tìm trong đầu con mong sao nhận được câu

trả lời con chính là May có phải không, nhưng không thể. Đầu óc con đang trống rỗng!

178

Quả thật như thế. Xuống đây tự nhiên đầu óc con trở nên trống

rỗng. Nhìn thấy rõ thầy và Kim, nhưng con đâu có nhận ra.

Con bị bắt cóc xuống đây trong tình huống như thế nào?

Đang khi bước đi trên con đường dẫn ra bãi đáp của máy bay và tàu vũ trụ, tự nhiên

đầu con xây xẩm. Một luồng gió lốc cuốn hút lấy con và đặt con xuống đây. Một người

Atlan đến dẫn con đi gặp thủ lĩnh. Ôi, sao vị thủ lĩnh này giống thủ lĩnh đương chức của

hành tinh mình đến thế. Đấy là nói hình hài ông ấy dưới cái nhìn của mắt con hiện nay.

Thầy và Kim có nhận ra điều đó không?

Không.

Thế mà con cứ thấy giống. Thủ lĩnh nói lời xin lỗi, bảo là trưng dụng tạm con một

thời gian và nhờ con lái máy bay đi đón hai vị khách từ trên mặt đất xuống thăm. Đầu óc

con không được tỉnh táo. Đón là đón vậy thôi chứ con chưa bao giờ nghĩ đó là thầy và

Kim. Cho đến khi thủ lĩnh nói đã mượn tạm con từ mặt đất xuống thì con tỉnh ra. Đến lúc

ấy, việc nhận ra thầy và Kim đâu có khó khăn gì.

Thầy Hơn an ủi:

Tốt rồi! Hiếm có dịp nào chúng ta cả ba con người đại diện cho ba chủng người xưa

kia có cùng một cái nôi là Trái Đất lại gặp nhau ở thánh địa. Nơi này đã được bảo tồn qua

bao nhiêu biến cố xảy ra trên bề mặt hành tinh.

May lộ ra một ý:

Thủ lĩnh có một lúc để lộ cho con biết là dưới này định mời hai vị khách một người

Lemuri và một người Atlan nên lẽ ra người đi cùng thầy là con hoặc em Sao chứ không

phải Kim đâu. Nhưng thầy đã chọn Kim. Không hiểu việc này có gây rắc rối gì cho thầy

và Kim trong lúc đi xuống dưới này không?

Tôi chợt nhớ ra thái độ linh hồn của các xômachi khi đối diện với thầy Hơn. Thầy

Hơn cũng nhận ra ý nghĩ của tôi và đáp:

Có đấy, nhưng chuyện này chưa kết thúc. Thầy sẽ cho con biết mọi sự kiện đã xảy

ra ở đây sau khi con trở lại đảo. Cho đến bây giờ thầy vẫn không hối tiếc vì đã đưa Kim

đi cùng thầy. Một khi đã cho thầy cái quyền chọn đệ tử cùng đi, thầy nghĩ rằng chọn Kim

là tốt nhất và những người dưới này phải chấp nhận thôi. Kim, con hãy yên tâm.

Đã đến giờ, mời thầy và Kim đi gặp lại thủ lĩnh.

Cả ba chúng tôi men theo con đường cũ trở lại cung điện của thủ lĩnh. Đèn hai bên

đường đồng loạt bật sáng trưng. May bảo rằng lúc đầu cũng hơi ngạc nhiên là sao nơi này

tuy cách rất xa hành tinh Atlantis nhưng sinh hoạt văn minh không thua kém Atlantis.

Hầu như mọi thành tựu kỹ thuật mà Atlantis đang có ở đây cũng có. Tuy nhiên May phải

thừa nhận rằng để tạo được một môi trường sống phù hợp cho con người ở dưới mặt đất

hoàn toàn không bị lệ thuộc diễn biến tốt xấu trên mặt đất là khó vô cùng. Dẫu có bao

nhiêu bom hạt nhân nổ trên mặt đất, dẫu cho một trận đại hồng thủy mới tiêu diệt sạch

sành sanh mọi sinh linh trên mặt đất, dẫu cho Trái Đất trở nên tăm tối vì không có ánh

sáng Mặt Trời bởi đám mây dày đặc khí độc hại thì những gì hiện hữu ở đây hoàn toàn

được bảo đảm không hề chịu ảnh hưởng.

Không mấy chốc, chúng tôi đến trước cung điện. Thủ lĩnh người Atlan đứng sẵn

trước tiền sảnh vẫy chào chúng tôi. Sau đó, ông dẫn chúng tôi vào một căn phòng rộng

tựa như một rạp hát, có sân khấu và những dãy ghế bọc nệm đặt san sát từng hàng một.

Sức chứa khoảng hai trăm người. Phía sau sân khấu là một màn hình rộng. Thủ lĩnh mời

chúng tôi ngồi xuống ghế và đứng lên nói:

179

Thưa các vị khách quý! Không mấy khi được các vị xuống thăm, một lần nữa thay

mặt cư dân Atlan, tôi chúc các vị có một chuyến đi tốt đẹp. Để các vị hình dung được

phần nào cuộc sống của cư dân Atlan ở dưới này, tôi sẽ cho chiếu những hình ảnh sinh

hoạt hằng ngày của chúng tôi.

Khi thủ lĩnh nói đến đây, màn hình bật sáng: một số chung cư, một nhà máy và rất

nhiều công viên xinh đẹp với muôn loài hoa sặc sỡ hiện lên dưới ánh nắng chói chang

của mặt trời nhân tạo. Cảnh làm việc trong các văn phòng và công xưởng. Cảnh học tập

của các học sinh ngay tại phòng ở. Cảnh vui chơi cắm trại của người dân vào những kỳ

nghỉ. Điều đặc biệt đập vào mắt chúng tôi là người Atlan dưới này rất đẹp, vóc dáng khá

cân đối và chỉ mặc toàn đồ trắng.

Cư dân Atlan ở đây không nhiều và chúng tôi hạn chế sinh đẻ – Thủ lĩnh nói tiếp –

Số giờ vui chơi của chúng tôi nhiều hơn số giờ làm việc. Công việc sản xuất thực phẩm

và quần áo hoàn toàn tự động. Chúng tôi có những con tàu vũ trụ thường xuyên bay ra

khỏi Trái Đất du hành nhiều nơi. Tôi đôi khi còn viếng thăm hành tinh Atlantis.

Nghe đến đây, chúng tôi mới vỡ lẽ là làm sao mà cuộc sống cư dân Atlan dưới này lại

giống hệt cuộc sống cư dân của hành tinh Atlantis. May bảo rằng trên hành tinh của

mình, chưa bao giờ May và các bạn được nghe thủ lĩnh của mình nói đến một số cư dân

đồng hương đang sinh sống ở trong lòng Trái Đất.

Thủ lĩnh nói tiếp:

Điều đặc biệt trong cuộc sống của chúng tôi là nhờ các vệ tinh địa tĩnh đang quay

quanh Trái Đất, chúng tôi có thể tìm hiểu mọi sự kiện đang xảy ra ở bất kỳ nơi nào trên

mặt đất. Nơi nóng bỏng nhất hiện nay trên ấy ư? Phải chăng là Iraq và Syria?

Trên màn hình hiện ra lần lượt những vùng đất của Iraq và sau đó là của Syria.

Những vùng đất khô cằn thỉnh thoảng mới có vài bụi cây đơn độc và thường xuyên bị

khói lửa chiến tranh tàn phá. Đặc biệt tiếng nổ của đạn bom đây đó nghe âm vang khá rõ.

Cảnh tang tóc: những thây người máu me vung vãi bên cạnh những xác ô tô bẹp dúm

cháy đen. Những thân nhân kẻ tử nạn vật vã than khóc khôn nguôi.

Các vị khách quý đến từ đâu? – Tiếng thủ lĩnh tiếp tục – Từ Việt Nam, một quốc

gia của vùng Đông Nam Châu Á chăng?

Thủ lĩnh hỏi nhưng hình như đã được trả lời qua suy nghĩ của chúng tôi, không cần

chúng tôi nói ra thành lời. Bản đồ địa lý của Việt Nam bỗng hiện ra trên màn hình, lúc

đầu nhỏ, dần dần được phóng to lên. Nhìn kỹ vào vùng biển Kiên Giang, tôi không sao

tìm ra hòn đảo Không tên nằm ở đâu. Thủ lĩnh nhận biết điều này, nhìn chúng tôi mỉm

cười:

Các bạn giấu hòn đảo của mình khá lắm, vệ tinh địa tĩnh các nước kể cả Vinasat của

các bạn cũng không nhìn thấy!

Tiếp sau đó là phần giải trí với chương trình văn nghệ của Việt Nam. May thổ lộ:

Thưa thủ lĩnh, hành tinh Atlantis không được cái may mắn xem thường xuyên các

chương trình văn nghệ của Trái Đất như cư dân dưới này. Vừa rồi, bạn Kim đây có tổ

chức nhiều đoàn văn công Việt Nam bay đến hành tinh Atlantis và hành tinh Lemuria để

phục vụ cư dân mấy đêm liền cho các bang.

Thủ lĩnh trả lời:

Ta có nghe thủ lĩnh hành tinh Atlantis nói. Đó là văn nghệ sống. Giá như chúng ta

dưới này cũng được thưởng thức những buổi biểu diễn trực tiếp thì hay biết bao!

Không để lỡ mất cơ hội gây cảm tình với những người đang canh giữ thánh địa bên

dưới mặt đất này, tôi vội thưa:

180

Thưa thủ lĩnh, chúng tôi xin sẵn sàng tổ chức những đoàn văn công xuống đây phục

vụ thủ lĩnh, phục vụ cư dân Atlan ạ. Tuy nhiên...

Ta rất cảm ơn. Nhưng còn có điều kiện gì chăng? Chúng ta phải trả chi phí như thế

nào?

Không phải chi phí gì đâu ạ! Được phục vụ những người canh giữ thánh địa dưới

này, đó là vinh dự lớn lao cho những người đang sống trên mặt đất.

Ta hiểu. Nhưng ngươi và các đoàn văn công sẽ xuống đây biểu diễn đâu có thay

mặt toàn thể cư dân trên mặt đất?

Thưa vâng. Chúng tôi chỉ đại diện cho cư dân Việt Nam luôn yêu chuộng hòa bình,

phản đối chiến tranh xâm lược. Thế còn vấn đề đi lại như thế nào ạ?

Có hai cách tùy ngươi chọn. Một là đi qua cửa hang của Thung lũng Tử thần, lúc đó

ta sẽ nhờ đạo sư báo cho biết hai câu thần chú. Hai là đi xuống dưới này theo kiểu của

anh bạn May đây.

Còn cách liên lạc với nhau về thời gian và nơi chốn?

Chúng ta sẽ thông tin cho nhau theo kiểu mà ngươi và thầy Hơn đây hay làm. Được

chứ?

Vâng, được ạ!

Qua những cái mà thủ lĩnh cho chúng tôi xem trên màn hình, có thể nói nhất cử nhất

động của những người trên bề mặt Trái Đất không thể giấu nổi con mắt thăm dò thường

ngày của những cư dân Atlan nơi đây.

Tôi muốn hiểu thêm khoảng không gian sống ở bên dưới này nên hỏi tiếp:

Thưa thủ lĩnh, thủ lĩnh có biết chiều cao vùng trời bên dưới này là bao nhiêu không

ạ?

Có chứ! Khoảng 4426 km.

Còn bề dày của lớp vỏ Trái Đất bên trên là bao nhiêu. Liệu nó có đủ sức chịu đựng

những trận động đất mà không bị sập?

Các bạn yên trí, chúng tôi đã thử đo bề dày đó từ rất lâu. Nó dày khoảng 1448 km.

Để có ánh sáng chiếu rọi tạo nên ban ngày, cần bao nhiêu mặt trời nhân tạo?

Một mặt trời là đủ. Mặt trời này có tuổi thọ đến triệu năm.

Độ cao của mặt trời?

4426 km.

Mặt trời nhân tạo làm bằng gì?

Chúng là quả cầu thủy tinh phản ứng nhiệt hạch lạnh và không phóng xạ, được điều

khiển tự động cường độ sáng ban ngày và ban đêm.

Thế giới dưới này có mưa bão sấm chớp?

Hoàn toàn không. Vì không mưa nên chúng tôi thiết lập một chế độ tưới tiêu hoàn

toàn tự động và theo chương trình bảo đảm cho cây cối hoa màu luôn luôn tươi tốt.

Xin lỗi thủ lĩnh, có bao giờ những cư dân thế giới bên dưới mặt đất này dự liệu khả

năng bị xóa sổ như Trái Đất đã từng xóa sổ bao nhiêu sinh mạng sống bên trên mặt đất?

Với nét mặt không hề thay đổi, thủ lĩnh trả lời chắc nịch:

Không hề, dẫu cho Trái Đất có số phận giống như sao Hỏa và sao Kim hiện nay.

Thưa thủ lĩnh, xin được phép một câu hỏi cuối: việc bạn May được “tạm mượn”

xuống đây, thủ lĩnh đã áp dụng phương thức như thế nào ạ?

Thủ lĩnh bật cười, thoải mái:

Kỹ thuật mở cổng thời gian. Trên mặt đất, đôi khi cổng thời gian tự mở thu hút

nhiều người, nhiều sinh vật làm họ bỗng nhiên biến mất, sau đó cổng thời gian trả lại

181

những người, những sinh vật đó về một vị trí khác trong không gian cũ ở một thời điểm

khác. Người chúng tôi đã đạt được kỹ thuật chủ động mở cổng thời gian, đưa bạn May từ

đảo Không tên về đây, sau đó sẽ trả lại tại vị trí cũ của đảo khi khép cổng thời gian. Thời

gian mấy ngày của bạn May ở đây sẽ tương đương với một giây vắng mặt trên đảo Không

tên.

Thầy Hơn góp lời:

Người Lemuri cũng có thể đưa May từ đảo Không tên xuống đây và sau đó trả May

về chỗ cũ, nhưng bằng quyền năng.

Lời thầy Hơn nói làm tôi liên tưởng đến thuật phân thân. Thầy biết ngay tôi nghĩ gì

nên bảo:

Không phải thuật phân thân, kể cả thuật sao chép mà là thuật di dời. Di dời chỉ làm

được trong phạm vi hẹp, trong khu vực hành tinh hay trên dưới mặt đất. Tự mình di dời

hay di dời người khác. Tuy nhiên, thuật di dời phải tuân thủ luật chủ quyền. Giả sử thủ

lĩnh Atlan hoặc thủ lĩnh Lemuri cho phép thầy xuống đây thăm viếng, thầy có thể tự di

dời mà không phải cùng với con vất vả trèo đèo lội suối, đọc thần chú để được phép vào

hang như vừa rồi.

Ông Hơn nói đúng đấy! Nguời Lemuri ở dưới này cũng có khả năng di dời người

như chúng tôi, nhưng theo cách khác.

Đã đến giờ đi nghỉ. Thủ lĩnh chào tạm biệt chúng tôi, nhờ May đưa chúng tôi trở lại

nhà khách ngủ đêm và sáng hôm sau dùng máy bay chở chúng tôi tiếp tục cuộc hành

trình, đến thăm vùng cư dân Lemuri.

Máy bay hướng về phía tây, chẳng mấy chốc đến một vùng đồng bằng trù phú. Nói

trù phú không có nghĩa là bát ngát những cánh đồng lúa mì hay lúa nước, đông đúc

những đàn gia súc như trâu, bò, cừu, dê như cảnh quan quen thuộc trên mặt đất mà trù

phú ở chỗ nhiều thảm cỏ xanh đầy hoa xen lẫn với những vườn cây trĩu quả. Sau đó, May

cho máy bay hạ cánh xuống thảm cỏ rộng trước một tòa lâu đài khá lớn và cũng khá đẹp.

Biết người Lemuri vốn cao to nên chúng tôi, tôi và May, phải gồng mình lên cho được

cao to giống như cư dân ở đây sau khi ra khỏi máy bay.

Do thủ lĩnh người Atlan báo trước, hai con người to cao hối hả ra đón và dẫn chúng

tôi bước lên các bậc thềm cao để vào tiền sảnh. Tại đây, một người to cao khác dáng bệ

vệ tươi cười chào chúng tôi.

Chào thủ lĩnh ạ! – Chúng tôi đồng thanh nói to.

Chào các vị khách. Thật hân hạnh được các vị từ mặt đất xuống thăm.

Bỗng thủ lĩnh vỗ tay lên trán, đính chính:

A, không phải từ mặt đất của hành tinh này mà là từ hành tinh Lemuria và hành tinh

Atlantis anh em, có đúng không?

Thưa đúng!

Nhưng đúng có một phần thôi ạ! – May lên tiếng – Bạn Kim đây chính là người của

mặt đất hành tinh này xuống thăm.

Vị thủ lĩnh tươi cười thân mật:

– Ta biết! Ta tôn trọng lựa chọn của ông Hơn. Vả lại, có thể xem Kim một nửa thuộc

về người Atlan được chứ?

– Thưa được ạ! – May trả lời.

Tôi chống chế:

– Thưa thủ lĩnh, thật ra bạn May chỉ còn một nửa là người Atlan, nửa kia đã là người

của Trái Đất rồi ạ!

Lần này, thủ lĩnh cười to hơn:

182

– Thật đến thú vị về tính hài hước của hai bạn trẻ đây. Nào, mời... mời ông Hơn và

các bạn ngồi.

Chúng tôi đến đây đúng vào buổi trưa nên thủ lĩnh đã cho người dọn trái cây và nước

trái ép ra chiêu đãi. Thật giống y như cảnh sống trên hành tinh Lemuria. Tôi thủ thỉ với

thầy Hơn:

– Đến đây, con thực sự có cảm giác như đang ở hành tinh của thầy!

Thầy Hơn gật đầu đồng tình. Trong lúc ăn uống, thủ lĩnh thổ lộ:

– Tôi vừa mới đến thăm thủ lĩnh hành tinh Lemuria!

Tôi tò mò:

– Thưa, thủ lĩnh đi bằng cách nào ạ?

– Ta có thể đi nhờ tàu vũ trụ của người Atlan dưới này nhưng không muốn làm phiền

họ. Vả lại, đi bằng tàu vũ trụ hơi lâu. Chi bằng dùng thuật phân thân.

– Thưa, thủ lĩnh có thường xuyên viếng thăm hành tinh Lemuria?

– Khá thường xuyên. Đôi khi thủ lĩnh hành tinh Lemuria cũng đến đây chơi.

– Bằng tàu vũ trụ ạ?

– Không. Cũng bằng thuật phân thân. Chuyến đi vừa rồi lên Lemuria, ngoài thủ lĩnh,

ta còn gặp ông Mun. Ông ấy có xin lỗi ta bởi không nhận lời mời vì quá bận công việc

của bang. Nhưng ta nói không hề gì, đã có người đi thay ông là được rồi. Vả lại, thầy

Hơn đây với ta có xa lạ gì, có đúng không?

Thầy Hơn ngắc ngứ:

– Thưa... vâng!

Sau này, trong chuyến trở về, thầy Hơn nói thật với tôi rằng là thầy chẳng nhớ có lần

nào gặp vị thủ lĩnh này tại hành tinh của mình. Hình như tại lãnh địa của ông ấy, ông chơi

trò ú tim để kiểm tra trí nhớ của đối phương.

Thủ lĩnh người Lemuri trong thế giới ngầm này nói tiếp:

– Dân số chúng tôi ở đây không nhiều. Điều đặc biệt là quan hệ giữa chúng tôi và

người Atlan dưới này rất khăng khít gắn bó với nhau. Những thành quả về khoa học kỹ

thuật phục vụ đời sống, bảo vệ nghiêm ngặt môi trường dưới này đều được chia sẻ cùng

thụ hưởng. Ví dụ rõ nhất là mặt trời nhân tạo, sau đó là các công trình xây dựng dân

dụng. So với cư dân trên hành tinh Lemuria thì dân chúng tôi sống sướng hơn nhiều. Sau

đây khi đi tham quan các nơi của vùng cư dân này, các bạn sẽ thấy những căn nhà ở hoàn

toàn tự động và điều khiển theo chương trình. Năng lượng sử dụng là năng lượng sạch.

Thưa thủ lĩnh, bản sắc cuộc sống tâm linh của người dân Lemuri nơi đây thế nào?

Có còn giữ những nét căn bản của người Lemuri xa xưa và của người Lemuri trên hành

tinh anh em không?

Còn! Vẫn phải giữ gìn nghiêm ngặt. Chính thủ lĩnh cư dân Atlan dưới này cũng

chịu khó học hỏi ở chúng tôi nên có tri thức và quyền năng khá vững vàng.

Còn người dân Atlan có học hỏi người Lemuri như thủ lĩnh của họ không?

Có. Đấy là điều bắt buộc.

Thế cư dân Lemuri có học hỏi người Atlan không?

Ta cũng bắt buộc dân ta cai quản phải học hỏi khoa học kỹ thuật của người Atlan.

Tôi chỉ vào May và thưa với thủ lĩnh:

Chính bạn May đây, người của hành tinh Atlantis cũng đã và đang thọ giáo thầy

Hơn, người Lemuri, đó ạ!

Thủ lĩnh lần này lại nhìn xoáy vào tôi:

183

Còn anh bạn trẻ, chính bạn có công rất lớn trong việc giúp đỡ cải thiện cuộc sống

cư dân trên hành tinh Lemuria và trước đó còn làm cầu nối để cho cư dân hai hành tinh

láng giềng bắt tay quan hệ hữu hảo, xóa bỏ những hiểu nhầm đáng tiếc.

Tôi thanh minh:

Thật ra, không có gì to tát lắm đâu ạ! Chẳng qua là vì chúng cháu muốn đền ơn đáp

nghĩa công lao dạy dỗ của thầy Cay, thầy Hơn và sự nhiệt tình của thủ lĩnh hành tinh

Lemuria đó thôi.

Sau cuộc trao đổi, thủ lĩnh tự mình đưa chúng tôi đi thăm thú một lượt các nơi sinh

sống của cư dân mình. Khác với cảnh quan sống của hành tinh Lemuria, ở đây, xen lẫn

với cánh đồng cỏ rộng, những vườn cây ăn trái sum suê là những biệt thự xây dựng

không phải bằng gạch, đá hay gỗ mà bằng một thứ kim loại màu ánh bạc như nhôm.

Năng lượng ánh sáng mặt trời nhân tạo đủ mạnh để cho người dưới này tận dụng được

quang năng. Thủ lĩnh bảo rằng, người dân Lemuri ở đây sống trong những căn biệt thự do

người Atlan xây dựng và tặng lại.

Khi đi vào một căn hộ, tôi bỗng nhận thấy những người trong nhà hoàn toàn giống hệt

bố, mẹ và ba anh em Cay, Mai và Hay. Tuy nhiên những người này nhìn chúng tôi bằng

ánh mắt xa lạ tuy vẫn giữ được sự nhiệt tình niềm nở pha lẫn cung kính đối với khách

viếng thăm được cùng đi với thủ lĩnh. Tôi thầm hỏi thầy Hơn bằng ý nghĩ. Thầy bảo đây

là trò chơi sao chép của thủ lĩnh. Chúng tôi nhìn thủ lĩnh cười òa, làm những người chủ

nhà này chẳng hiểu ra làm sao.

Về phong cách ăn uống, qua ba lần được chiêu đãi, tôi nêu thắc mắc với thủ lĩnh:

Thưa thủ lĩnh, cháu thấy món ăn nhân tạo của người Atlan khá bổ dưỡng, tại sao

mọi cư dân dưới này không được thủ lĩnh Atlan “bao trọn gói” mà tự mình xoay xở theo

cách ăn của mình?

À, chuyện này trông thế mà không đơn giản! Người trên mặt đất cũng thế thôi, mỗi

dân tộc có cách ăn uống riêng. Đặc biệt khu vực do đạo sư quản lý, đạo sư ăn uống theo

kiểu người Lemuri, nhưng những đạo sĩ, tu sĩ thì ăn uống những thứ mà ta, xin lỗi, không

ngửi được. Cái mùi sữa chua của họ, nhất là món chao chùa, sao mà nặng mùi thế!

Tôi nhìn May:

Giá mà anh được nếm quả sầu riêng của vùng miền Nam Việt Nam. Khi chưa biết

ăn thì cảm thấy không mùi nào nặng vượt mùi của nó. Nhưng một khi đã biết ăn, người ta

mê nó như.. điếu đổ!

May nhìn tôi ngạc nhiên:

Điếu đổ..là gì mà người ta mê nó đến thế? Một cô gái đẹp tuyệt trần chăng?

Không phải! Nó là cái ống hút của người nghiện thuốc lào, gọi là điếu cày. Sau khi

rít xong một liều thuốc lào, người hút đê mê đến mức gục ngã giống hình tượng cái ống

điếu đổ.

May lắc đầu:

Người Việt Nam đến khó hiểu!

Không còn gì để thăm thú, chúng tôi chào từ biệt thủ lĩnh và theo May đến chỗ máy

bay đậu. Phải thu nhỏ người lại mới vừa chỗ ngồi trên máy bay, đương nhiên. Thật ra, chỉ

mình thầy Hơn mới phải thu nhỏ người, còn tôi và May trở lại dạng người cũ. May lái

thẳng hướng Đông trở lại lãnh địa của người Atlan. Hình như May báo trước, hoặc có thể

do tự cảm nhận, thủ lĩnh Atlan đã có mặt từ bao giờ ngay tại nơi máy bay đậu. Chờ cho

ba chúng tôi bước ra khỏi máy bay, thủ lĩnh đưa mắt thu nhỏ máy bay và phóng tia mắt

chuyển nó mất hút về nơi lưu giữ.

Chúng tôi đến cúi đầu chào từ biệt thủ lĩnh. Thủ lĩnh bảo May

184

hãy chào từ biệt thầy Hơn và tôi rồi bước ra xa, sau đó tạo một luồng gió xoáy cuốn lấy

hút mạnh con người May lên cao và làm biến mất dạng ngay trước mắt chúng tôi. Thủ

lĩnh đã mở lại cổng thời gian.

Chúng tôi, lần này chỉ còn thầy Hơn và tôi, lại cúi đầu chào tạm biệt thủ lĩnh một lần

nữa. Thủ lĩnh nói lời cuối cùng:

Chúc nhị vị thượng lộ bình an!

Chúng tôi quay người, trở lại con đường cũ. Bỗng ở một ngóc ngách nào không rõ, vị

tu sĩ hôm trước lại xuất hiện. Chúng tôi chào nhau. Vị tu sĩ bảo với chúng tôi rằng ông có

nhiệm vụ đưa chúng tôi trở về cho đến tận cửa hang mới gọi là làm hết trách nhiệm. Tôi

ngỏ ý:

Thưa tu sĩ, chúng tôi muốn trở lại thăm và từ biệt các xômachi lần nữa được không

ạ?

Được chứ ạ! Xin sẵn lòng. Đạo sư có nhắc tôi là hãy làm vừa lòng các vị khách.

Vị tu sĩ rút ra từ chiếc túi áo thụng hai cây nến điện, trao cho thầy Hơn và tôi mỗi

người một chiếc. Đến đúng cửa hang lần trước, vị tu sĩ vừa lẩm nhẩm điều gì trong

miệng, vừa đưa tay đẩy nhẹ nhàng tấm cửa bằng đá nặng nề sang một bên. Lại dẫn chúng

tôi đến đúng phòng các xômachi lần trước. Cánh cửa phòng tự động mở. Thầy Hơn và tôi

đều nghe nhiều tiếng chào từ trong vọng ra khào khào, không hề giống tiếng người cõi

dương.

Rất hân hạnh được nhị vị đến thăm lại chúng tôi.

Thầy Hơn không nói thành lời, chỉ gửi đi bằng ý nghĩ:

Xin chào chư vị. Chúng tôi được bề trên của thánh địa mời xuống thăm viếng vì

mục đích thân thiện giao hảo chứ không có ý gì khác. Chúng tôi đã yết kiến đạo sư, thăm

hỏi thủ lĩnh hai lãnh địa người Atlan và người Lemuri. Bây giờ trên đường trở về mặt đất,

chúng tôi đến thăm chư vị một lần nữa để chào từ biệt.

Rất hân hạnh, rất hân hạnh.

Chúng tôi đến đứng sát bên những xômachi, chỉ thấy không khí hơi lành lạnh, ngoài

ra không có cảm nhận gì khác thường.

Tôi mạnh dạn nói thành lời:

Đây là thầy tôi, người Lemuri, còn tôi là người trên mặt đất. Thầy còn một đệ tử

người Atlan, nhưng trong lần thăm viếng này, thầy chọn tôi đi theo. Tôi chỉ là một cá

nhân nhỏ bé trong số hơn bảy tỷ người trên Trái Đất nên không thể gánh chịu trách nhiệm

cho mọi hành vi của nhiều nhóm người có quan điểm sống khác nhau một trời một vực

trên bề mặt hành tinh này. Cũng như chư vị, chúng tôi rất lo lắng cho số phân của nhân

loại đang sống trong bầu không khí đầy hằn thù và một môi trường thiên nhiên ô nhiễm.

Chúng tôi hiểu điều đó – Những giọng nói âm âm lại dội lên – Chúng tôi không thể

trách cứ hai vị.

Tôi nhìn thầy Hơn với ý nghĩ mời thầy đặt câu hỏi. Thầy lắc đầu bảo thầy không

thuộc hành tinh này nên không thắc mắc gì. Đã đến lúc từ biệt những xômachi thân thiện

này. Chúng tôi cúi đầu chào và bước lui ra. Vị tu sĩ lần này dẫn chúng tôi ra tận cửa hang

của Thung lũng Tử thần. Ông đọc thần chú cho cửa hang mở ra rồi cúi đầu cung kính

chào từ biệt chúng tôi nhưng không quên nhắc thầy trò tôi còn phải đọc thêm câu thần

chú thứ hai loại bỏ ảnh hưởng của tia bức xạ chết người của Tấm gương Thời gian.

Thầy Hơn rủ tôi nhấc mình bay lên đến bãi cỏ gần tu viện Milarepa. Con tàu của

chúng tôi đang lơ lửng trên không. Tôi lệnh cho nó từ từ đáp xuống. Hai thầy trò không

mấy chốc đã có mặt trên đảo Không tên. Trong số những người ra đón, có thầy An, cô

Lan, mẹ tôi, May, Ngân và Sao. Mọi người bây giờ đã sắp xếp cuộc sống ổn định trên

185

đảo. Nếu không chê bữa ăn đơn điệu của người Atlan thì có thể nói đảo Không tên của

chúng tôi quả là cõi Bồng Lai. Không khí ban mai và về đêm trong lành, mát mẻ. Mọi

người thỏa sức tắm biển sáng và chiều, dạo chơi quanh đảo. Ban ngày trời đầy ánh nắng

và điều dễ chịu nhất là hoàn toàn không tiếng xe cộ ầm ĩ suốt ngày như ở thành phố trước

kia. Chỉ có lúc nào cũng bị nghe tiếng sóng vỗ, nhưng trong căn phòng kín được điều hòa

nhiệt độ, tiếng sóng không hề ảnh hưởng đến giấc ngủ mọi người. Khi tôi nói đến tiếng

sóng liên tục ngày đêm, thầy Hơn ngẫm nghĩ một lúc sau đó bảo mọi người cùng ngồi

xuống quanh thầy. Theo điều khiển của thầy, chúng tôi đều tập trung vào ý nghĩ chế ngự

tiếng sóng, lúc đầu nghe to sau nhỏ dần rồi mất hẳn. Thầy bảo chúng ta đã cùng tạo lập

một vành đai vô hình nhưng chắn được tiếng sóng. Tiếng sóng khi đi vào đảo đều bị vành

đai bật ngược trở lại. Sau này có những lần đảo đón khách phương xa đến, vị khách nào

cũng đều ngạc nhiên là ở đảo này, chỉ thấy sóng vỗ mà không nghe tiếng sóng, không

gian im ắng lạ lùng tựa như đây không phải là một hòn đảo ngoài biển.

Sáng hôm sau, theo lệnh triệu tập của thầy An, toàn thể mọi người trong Viện đều tập

trung lên phòng họp để nghe tôi báo cáo về chuyến thăm thánh địa Shamballa. Khi tôi nói

đến việc gặp gỡ trực tiếp các xômachi, mọi người rất ngạc nhiên. Bởi vì nó là xác ướp

nhưng lại không phải xác ướp. Linh hồn xác ướp vẫn hiện hữu và chuyện trò với tôi và

thầy Hơn thoải mái mặc dù lúc đầu, hai bên còn chưa hiểu nhau. Khi tôi nói việc đưa đón

tôi và thầy Hơn đi thăm các vùng cư dân Atlan và cư dân Lemuri sinh sống là do chính

May thì mọi người còn ngạc nhiên hơn nữa. Mọi con mắt đổ dồn vào May:

Có thực như thế không May?

Đâu có! May chưa bao giờ xuống thăm thánh địa. Chỉ có Kim và thầy Hơn, ai cũng

biết điều này mà!

Tôi phì cười:

Đúng là May không đi thăm thánh địa mà bị bắt cóc. Thủ lĩnh người Atlan bảo May

khi về đến nhà sẽ không nhớ điều gì.

Đối với mọi người trong Viện nhất là với Ngân, May chưa hề mất tích bao giờ dẫu là

vài phút. Tôi nói May mất tích không đến vài phút mà chỉ một giây thôi. Một giây này

tương đương với thời gian mấy ngày bên dưới thánh địa. Chính thủ lĩnh cư dân Atlan của

thánh địa có trình độ mở cổng thời gian. Khác với thủ lĩnh hành tinh Atlantis, thủ lĩnh cư

dân Atlan ở đây có học người Lemuri nên có nhiều quyền năng như người Lemuri. Tôi

nhìn qua thầy Hơn, bằng ý nghĩ chứ không nói ra lời đề nghị thầy phục hồi trí nhớ cho

May. Thầy gật đầu và sau đó một tích tắc, May như người đang mê chợt tỉnh, đồng ý

thừa nhận mình có xuống thánh địa và bây giờ nhớ lại được mọi chi tiết cụ thể. Sau đó,

như một sự gợi ý, May bỗng có ý nghĩ khi trở về hành tinh Atlantis, sẽ tìm cách thuyết

phục thủ lĩnh của mình chịu khó học hỏi người Lemuri để có nhiều quyền năng như thủ

lĩnh người Atlan dưới thánh địa. May quay sang thầy Hơn:

Nếu con thuyết phục thủ lĩnh hành tinh Atlantis chịu thọ giáo thầy, thầy có nhận

không?

Thầy Hơn ôn tồn:

Tốt quá đi chứ! Ta sẵn lòng nhận nếu được thủ lĩnh của ta giao trách nhiệm.

Con nghĩ rằng cả thủ lĩnh các bang cũng nên đi học.

Phải đấy! Học càng đông càng vui.

Đấy là mẫu đối thoại giữa hai thầy trò của hai hành tinh láng giềng sau khi có sáng

kiến của May. Lần này, tôi khích thầy Hơn:

186

Thầy ơi, ở thánh địa, người Lemuri bị thủ lĩnh buộc phải học hỏi người Atlan. Thế

trên hành tinh Lemuria, thủ lĩnh mình có bao giờ nghĩ rằng nên cho dân mình học hỏi

người Atlan.

Chờ ta một lúc – thầy Hơn trở nên đăm chiêu – ta biết cho đến bây giờ, thủ lĩnh của

ta không có ý muốn học hỏi người Atlan.

Tôi dấn thêm, hơi có ý chọc tức:

Tại sao ạ?

Hình như thầy Hơn bắt đầu nổi cáu:

Con cứ đi mà hỏi thủ lĩnh!

Nhưng thầy lấy lại điềm tĩnh ngay, giọng ôn tồn:

Thú thật với con, từ khi đi thăm thánh địa về, ta cứ phân vân mãi về mối quan hệ

giữa cư dân của hai hành tinh trên ấy. Dưới này, cũng là hai cư dân y hệt nhưng họ sống

khăng khít với nhau đến lạ lùng!

Tôi quay sang thầy An:

Giá mà mọi người chúng ta cũng đều được học người Lemuri như cư dân Atlan ở

bên trong thánh địa. Giá mà ta có thủ lĩnh như người Atlan để bắt buộc chí ít những vị

công bộc của nhân dân sau khi học người Lemuri có năng lực kiểm soát lẫn nhau ngay

trong ý nghĩ để không một cán bộ nào dám làm điều xằng bậy thì dân ta được nhờ cậy

biết bao!

Thầy An lắc đầu lặng im! Tôi dò xem trong đầu thầy đang nghĩ gì.

Chuyện viễn tưởng!

Thầy nghĩ như thế đấy nhưng không muốn nói ra. Tôi lảng sang chuyện khác:

Thưa thầy, nhân chuyến thăm của em và thầy Hơn, thủ lĩnh Atlan ngỏ ý muốn được

chúng ta tổ chức những đoàn văn công xuống phục vụ như chúng ta đã từng phục vụ cư

dân ba hành tinh anh em. Thầy thấy thế nào, có nên chăng?

Thầy nghĩ là ta nên đáp ứng nguyện vọng của ông ấy. Con lại phải bận rộn một

phen!

Lần này sẽ đơn giản hơn lần trước nhiều đấy ạ! Cư dân mỗi khu vực chừng vài trăm

nên ta chỉ cần biểu diễn trong hai đêm là xong. Nhờ thủ lĩnh Atlan mở cổng thời gian mà

việc đi về sẽ dễ dàng, nhanh chóng.

Lại những chuyến thăm thánh địa qua cổng thời gian

Nhân dịp này, tôi được biết bộ Y tế của ta có mời một đoàn chuyên gia giải phẫu mắt

năm người của Nga sang ta truyền đạt kinh nghiệm và tập huấn cho những bác sĩ chuyên

khoa Mắt nước ta. Trưởng đoàn là nhà bác học giải phẫu mắt nổi tiếng Ersnt Muldashev.

Tôi vui mừng báo ngay tin này cho bà Hoàng Giang, người đã từng dịch các tác phẩm

nghiên cứu về văn hóa phương Đông, chủ yếu là hoạt động tâm linh của các đạo sĩ Nepal,

Ấn Độ và Tây Tạng. Ông Muldashev mô tả các chuyến đi công tác chuyên môn của đoàn

kết hợp tìm hiểu việc xây dựng các kim tự tháp và những bức tượng khổng lồ của người

xưa, viếng thăm hang động lưu giữ các xômachi và chòm núi Kailash ở Tây Tạng, nơi

được gọi là thánh địa Shamballa. Ông giám đốc nhà xuất bản Thế Giới cùng với bà

Hoàng Giang và tôi, theo cuộc hẹn một tối đã đến khách sạn nơi đoàn chuyên gia giải

phẫu mắt ở. Sau vài lời xã giao, ông giám đốc trao cho ông Muldashev các tác phẩm đã

dịch sang tiếng Việt kèm theo phong bì mấy chục triệu đồng Việt Nam gọi là nhuận bút

tượng trưng cho quyền tác giả. Ông còn ngỏ lời xin lỗi vì không có điều kiện xin phép tác

giả trước. Ông Muldashev chỉ tỏ thái độ vui mừng và nói lời cảm ơn vì các bạn Việt Nam

187

đã quan tâm đến các tác phẩm thuộc về tay trái của mình và đã dịch sang tiếng Việt phục

vụ bạn đọc Việt Nam. Ông giám đốc giới thiệu bà Hoàng Giang chính là người dịch các

tác phẩm đó, rồi cáo từ xin phép về trước vì một cuộc hẹn khác.

Đến lượt bà Hoàng Giang bắt tay ông Muldashev và giới thiệu tôi với ông ấy:

Đây là ông Kim, tiến sĩ Vật lý đang công tác ở một viện nghiên cứu có tên là viện

Vật lý.

Tôi hướng về ông, ngỏ lời:

Tôi không làm việc trong lĩnh vực giải phẫu mắt nhưng nghe danh ông đã lâu về

các cuộc truy tìm cội nguồn văn hóa của người phương Đông qua năm tác phẩm của ông

đã được dịch.

Sau đó, tôi chuyển sang hỏi ông đến bây giờ có còn ước vọng tìm hiểu kỹ hơn về

những xômachi và những gì bên trong thánh địa Shamballa không.

Với thái độ cởi mở, ông Muldashev nói ngay:

Vâng, không chỉ riêng tôi mà cả những cộng sự chí cốt đây

vẫn còn đang ấp ủ hy vọng tìm hiểu kỹ hơn về những điều anh đã nói. Tôi đã hai lần chết

hụt vì cái thói tọc mạch này.

Đọc qua các tác phẩm của ông, tôi có biết điều ấy. Tôi đến đây với mục đích để

cảm ơn ông và cũng muốn đề nghị ông cùng đoàn sắp xếp thời gian để cùng vào bên

trong, hành hương thánh địa một chuyến. Lần này, trong đoàn có cả bà Hoàng Giang và

tôi. Liệu có được chăng?

Ông Muldashev hoàn toàn bất ngờ và hết sức bối rối vì ngạc nhiên:

Anh và bà Hoàng Giang đây... có khả năng đưa đoàn chúng tôi vào thăm thánh địa

ư? Chúng ta nào đã biết được hai câu thần chú đâu kia chứ?

Vâng, nếu cần đến hai câu thần chú! Nhưng như thế, chúng ta sẽ mất rất nhiều thời

gian để làm thủ tục du lịch xuất nhập cảnh và thời gian cho chuyến đi dài trong điều kiện

mùa đông khắc nghiệt hiện nay. Tôi e rằng chúng ta không có thời gian.

Đúng thế! Quả thật đoàn chúng tôi không có kế hoạch và dự kiến cho chuyến đi

thăm thánh địa. Thời gian ở Việt Nam của đoàn dày kín những công việc, không có lúc

nào rỗi.

Tôi hỏi:

Dù có bận bịu thế nào chăng nữa, ngày chủ nhật đoàn vẫn được nghỉ chứ ạ?

Chúng tôi làm việc cả ngày chủ nhật – một người nào đó trong đoàn lên tiếng.

Lần này, tôi mạnh dạn đề nghị:

Thế thì chúng ta đi ngay bây giờ vậy!

Nói rồi, tôi xin phép đi ra hành lang khách sạn một lúc. Tôi điện xin phép thủ lĩnh

Atlan cho chúng tôi một đoàn năm người Nga, tôi và một phụ nữ Việt đến thánh địa

viếng thăm trước, sau đó sẽ tổ chức đưa các đoàn văn công tiếp sau. Thủ lĩnh đồng ý.

Trong lúc này, cả đoàn lao xao bàn tán, quá bất ngờ về đề nghị của tôi. Có người còn nói

lời chế giễu cho đề nghị của tôi là viển vông. Tôi không bận tâm cải chính mà nói lời trấn

an:

Xin mọi người bình tĩnh. Tôi bảo đảm sau chuyến đi thì ngay đêm nay, mọi người

sẽ có mặt đông đủ ở khách sạn, nghỉ ngơi đầy đủ để ngày mai vẫn làm việc bình thường.

Xin mời mọi người hãy đội chiếc mũ đặc biệt vô hình này trong khi thăm thú thánh địa

để tiện tiếp xúc trò chuyện với người bản địa.

Nói rồi, tôi chuyển cho mỗi người một chiếc mũ do tôi nhân bản, loại mũ do thủ lĩnh

hành tinh Atlantis tặng trước đây.

Tôi giải thích thêm:

188

Đội mũ này, mọi người sẽ được nói chuyện tự do không cần phiên dịch, thậm chí

nói chuyện bằng ý nghĩ và đồng thời nhìn thấy cả linh hồn của các xômachi.

Sau đó tôi thầm gọi điện cho thủ lĩnh Atlan, báo rằng chúng tôi đã sẵn sàng. Thế rồi,

một luồng gió tự nhiên thổi nhè nhẹ vào cửa sổ và rồi đột ngột cuốn xoáy rất mạnh lấy

chúng tôi bốc lên cao. Cả bảy người hầu như không có một cảm giác gì cho đến khi tất cả

đều đứng ngay ở một vị trí tôi đã từng trải qua: sân trước tiền sảnh cung điện của thủ lĩnh

Atlan. Trời ở đây đang là ban đêm với ánh sáng bàng bạc như ánh trăng rằm. Trong lúc

mọi người còn đang bàng hoàng không biết mình đang ở đâu, tôi nói to:

Xin giới thiệu với mọi người, đây là thánh địa Shamballa. Chúng ta đang đứng

trước dinh của thủ lĩnh người Atlan. Thánh địa rộng lớn nằm bên dưới dãy Hymalaya

hùng vĩ kéo dài sang phía Đông đến sa mạc Gôbi và sang phía Tây đến sa mạc Sahara.

Có một người nào đó rời khỏi trụ đèn trong sân tiến về phía chúng tôi. Khi người ấy

đến gần, tôi mới nhận ra đó là May và mừng rỡ ôm chầm lấy cậu ta. Khác với lần trước,

lần này cậu ta tỉnh táo hoàn toàn, thừa nhận mình mấy phút trước đây lại bị bắt cóc một

lần nữa. Tôi đưa May đến gần những người trong đoàn:

Xin giới thiệu đây là May, nhân viên của Viện chúng tôi. May là anh vợ của tôi,

gốc người Atlan. May có nhiệm vụ đưa đón khách.

Người Atlan ở đâu ạ? – có tiếng một phụ nữ trong đoàn thắc mắc.

Đó là hậu duệ những người của lục địa Atlantis bị trận đại hồng thủy nhấn chìm xảy

ra trên Trái Đất chúng ta cách đây mấy chục vạn năm

May nói mình có nhiệm vụ đưa mọi người đến nghỉ tạm tại nhà khách của thủ lĩnh,

cho khách ăn nhẹ và ngủ đêm tại đây để sáng mai lấy lại sức diện kiến thủ lĩnh. Một phụ

nữ đi trong đoàn của Muldashev nói thầm gì với bà Hoàng Giang. Bà thuật lại cho tôi biết

đoàn khá lo lắng việc nghỉ đêm và thăm thú ở đây tuy khá thú vị, ngoài sự mong đợi

nhưng lại phá vỡ kế hoạch làm việc đã định trước với đoàn giải phẫu mắt Việt Nam. Tôi

trấn an:

Thưa các anh chị, tôi xin bảo đảm rằng thời gian mấy ngày chúng ta thăm thú nơi

đây chỉ dài khoảng vài giây trên mặt đất.

Trong khi mọi người đã ngồi vào bàn của nhà khách, nhấm nháp phong bánh và cốc

sữa dinh dưỡng, May giới thiệu:

Giống như trên hành tinh Atlantis chúng tôi, đây là bữa ăn suốt đời của cư dân

Atlan trong thánh địa. Bánh và sữa hoàn toàn nhân tạo, đầy đủ chất dinh dưỡng cần thiết

cho cơ thể người, được sản xuất tự động, không từ nguyên liệu thiên nhiên như tinh bột,

thịt gia súc giết mổ. Có lẽ nhờ đó mà cư dân sống dưới này hoàn toàn khỏe mạnh và tuổi

thọ kéo dài nhiều trăm năm.

Lại có một hành tinh tên là Atlantis kia ư? – tiếng một người nào đó trong đoàn ông

Muldashev thắc mắc.

Vâng, có đấy ạ! Hành tinh này cách xa Trái Đất 41 năm ánh sáng. Đó là quê hương

tôi.

Hóa ra anh là người ngoài hành tinh này? – giọng hỏi ngỡ ngàng của một phụ nữ

trong đoàn ông Muldashev.

May trả lời điềm tĩnh:

Vâng! Tôi đang đi đi về về từ Trái Đất đến hành tinh ấy thường xuyên. Giống như

cư dân trên hành tinh Atlantis chúng tôi, cư dân ở đây có một nền khoa học kỹ thuật vượt

trội so với khoa học kỹ thuật hiện nay trên Trái Đất. Toàn bộ cảnh quan bên dưới này

hoàn toàn nhân tạo nhưng đáp ứng trọn vẹn mọi nhu cầu sinh hoạt và đời sống của cư

dân.

189

Tôi tiếp lời giải thích cho toàn đoàn rõ:

Không gian thánh địa dưới này hiện chia làm 120 khu vực hay còn gọi là thành phố.

Ta sẽ đi thăm một khu cư trú của người Lemuri và một khu của người Atlan. Mỗi khu do

một thủ lĩnh cai quản. Bên cạnh có một khu đặc biệt dành cho các đạo sĩ trên mặt đất

xuống đây tu hành khoảng chừng năm mươi người do một đạo sư chăn dắt. Muldashev,

ông vẫn còn nhớ những điều mà bà Blavatskaia viết trong cuốn Theosophy chứ? Chính

hai chủng người Lemuri và Atlan trên mặt đất xưa kia bị diệt vong ngày nay họ vẫn còn

hiện diện trong thánh địa này. Họ không muốn ai người trên mặt đất tò mò xuống đây tìm

hiểu là vì sẽ làm xao động cuộc sống yên bình của họ. Cả đoàn còn nhớ ông Muldashev

suýt bỏ mạng vì tò mò muốn nhìn xem tận mắt các xômachi trong một hang động ở Tây

Tạng? Dưới này có nhiều hang động xômachi giống hệt như vậy và cả đoàn sẽ được phép

chiêm ngưỡng tùy thích mà không sợ ảnh hưởng đến sức khỏe. Tuy nhiên, phải được đạo

sư cho phép. Nhưng điều này nằm trong kế hoạch ngày mai. Xin mời mọi người hãy đi

nghỉ.

Nhìn lại nhà khách, tôi có cảm giác như nó vừa mới được nới rộng thêm. Khác với

lần trước đây tôi và thầy Hơn đến ở, lần này nó có hai phòng: phòng nữ kê ba chiếc

giường cho ba nữ, còn phòng nam kê năm chiếc giường cho năm nam kể cả May. Không

khí mát dịu và sực nức mùi thơm của hoa đồng cỏ nội. Khi mọi người vừa đặt mình nằm

xuống, một điệu nhạc du dương mang giai điệu dân ca Nga và dân ca Việt tự động phát ra

ru mọi người chìm vào giấc ngủ sâu lắng. Tôi tự nhủ thầm kịp trước khi hai mắt ríu lại vì

cơn buồn ngủ ập đến:

Thánh thật! Ở nơi gọi là thánh địa này, điều phi thường gì cũng có thể xảy ra!

Sáng hôm sau, mọi người bị đánh thức bởi tiếng chuông réo gọi rít róng. Ở bờ tường

đối diện với mấy chiếc giường thòi ra các bồn vòi rửa mặt cùng với thuốc, bàn chải đánh

răng và khăn lau, đủ cho mỗi khách một chiếc. Sau đó là chiếc bàn tròn với mấy chiếc

ghế tự động trồi lên giữa sàn nhà cùng với những khay bánh và cốc sữa. May tất bật qua

lại giữa hai phòng nam nữ, mời mọi người ăn sáng.

Tôi nói với bà Hoàng Giang:

Trong thời gian sống trên hành tinh Atlantis, chuyện ăn ngủ sinh hoạt của tôi giống

y hệt ở đây.

Bà thắc mắc:

Thế còn chuyện vệ sinh thì phải làm sao?

À quên, May ơi! Hãy bày mọi người cách gọi buồng vệ sinh.

May nói to:

Đơn giản thôi. Các vị ai muốn đi vệ sinh cứ nghĩ trong đầu mình đang cần buồng vệ

sinh.

May nói vừa dứt lời, lẻ tẻ có một số buồng vệ sinh chợt mở cũng ngay tại bức tường

gần bên các bồn rửa mặt. Trong buồng vệ sinh, không khí mát mẻ và sực mùi nước hoa.

Ai vừa ra khỏi, buồng vệ sinh khép kín tức thì làm ta khó nhận ra nó đã từng hiện diện

nơi đây.

Khi mọi người ăn uống xong vừa đứng lên, các bàn ghế tự động tụt ngay xuống, khép

kín mặt sàn. May mời mọi người đi diện kiến thủ lĩnh, đến nơi mà mọi người đã xuất

hiện tối hôm qua. Không khí ban mai dưới này mát lành và yên tĩnh. Cây cối hai bên

đường rậm rạp xanh tốt. Râm ran nhiều tiếng chim hót líu lo. Khá nhiều vườn hoa với

những sắc màu rực rỡ. Mặt trời luôn ở trên đỉnh đầu tỏa ra thứ ánh nắng dịu của ban mai.

Thủ lĩnh từ trên thềm cao đã đưa tay thân mật vẫy chào chúng tôi. Chúng tôi lần lượt

bước lên và đến bắt tay thủ lĩnh theo cách chào của cư dân trên mặt đất. Thủ lĩnh đã quen

190

với điều này nên không tỏ ra một chút bỡ ngỡ. May hướng dẫn khách đi sâu vào trong,

đến phòng tiếp khách của thủ lĩnh. Khi mọi người an tọa, thủ lĩnh lên tiếng trước:

Cư dân chúng tôi rất hân hạnh được tiếp đón các vị khách từ mặt đất xuống thăm

thánh địa.

Tôi đứng lên giới thiệu từng người trong đoàn. Ông Muldashev cùng với những

người trong đoàn của ông lộ rõ sự xúc động mãnh liệt. Tôi giới thiệu bà Hoàng Giang,

người đã dịch những tác phẩm của ông Muldashev nên biết rất rõ những gì mà ông

Muldashev đã làm. Ông Muldashev phát biểu:

Thật là điều bất ngờ đang xảy ra trong đời tôi. Khi tôi bắt đầu mất hết hy vọng về

công việc tìm hiểu thánh địa thì lại được bạn Kim đây tạo điều kiện.

Thủ lĩnh tiếp lời:

Khi bạn Kim nêu đề nghị cho phép đoàn của ông Muldashev xuống thăm thánh địa,

tôi biết ngay rằng chấp nhận sẽ là một việc làm có ý nghĩa. Bằng uy tín của mình, tôi đã

thuyết phục thủ lĩnh người Lemuri và khó nhất là đạo sư cai quản vùng sinh sống và tu

luyện của các đạo sĩ. Tuy nhiên các vị ấy đã vui lòng chấp nhận đề nghị của tôi.

Nói đoạn, thủ lĩnh mời mọi người nhìn lên màn hình rộng trên tường của phòng tiếp

khách. Tựa như trên mặt đất khi chúng ta ngồi trước màn hình máy tính, gõ website

earth.google.com, trên màn hình rộng của thủ lĩnh hiện lên dải đất Việt Nam nhìn từ xa

cùng với điệu nhạc dân gian Việt Nam. Thủ lĩnh hỏi:

Đây phải chăng là mảnh đất quê hương của Kim và bà Hoàng Giang?

Vâng, đúng thế!

Sau đó trên màn hình lại hiện lên nước Nga rộng lớn trải dài suốt phần bắc bán cầu

của Châu Âu và Châu Á kèm theo nhạc điệu của các bài dân ca Nga.

Đây lại là quê hương các vị trong đoàn của ngài Muldashev?

Vâng – mấy người trong đoàn người Nga đồng thanh.

Thủ lĩnh nói tiếp:

Tuy ở dưới này nhưng chúng tôi có thể biết rõ mọi sự kiện xảy ra trên mặt đất

thông qua các vệ tinh địa tĩnh. Chúng tôi còn thu và lưu trữ được những chương trình do

các đài phát thanh và phát hình của bất kỳ quốc gia nào trên Trái Đất nên cập nhật được

tình hình chính trị, kinh tế, quân sự của toàn thể cư dân trên mặt đất. Vì thế, chúng tôi rất

lo ngại điều tệ hại có tầm ảnh hưởng lớn đến sự tồn vong của nhân loại trên hành tinh

này.

Ông Muldashev lên tiếng:

Chúng tôi, những nhà khoa học chân chính, đều có lòng yêu hòa bình, đoàn kết mọi

dân tộc và luôn đấu tranh cho sự an sinh và hạnh phúc của nhân loại. Chúng tôi phản đối

cuộc chạy đua vũ trang của các nước mạnh trên mặt đất hiện nay và các cuộc chiến tranh

phi nghĩa chỉ đem lại sự chết chóc man rợ. Chúng tôi cũng phản đối sự phát triển công

nghiệp ồ ạt bất chấp môi trường sống đang có nguy cơ bị đe dọa vì hiệu ứng nhà kính.

Khí hậu Trái Đất mấy năm nay trở nên bất thường do xuất hiện ngày càng dày những cơn

bão tố dữ dội và những trận lụt tàn phá mùa màng gây nên nạn đói và chết chóc.

Thủ lĩnh giới thiệu tiếp những hình ảnh về cuộc sống, làm việc và vui chơi của cư dân

Atlan trong thánh địa. Những căn hộ riêng biệt với vườn cây bao quanh. Đặc biệt nam

giới Atlan nơi đây không hề mặc váy như nam giới trên hành tinh Atlantis. Sau đó, thủ

lĩnh đứng lên nhờ May dẫn đoàn đến thánh đường yết kiến và đàm đạo với đạo sư.

Tôi cho đoàn biết đạo sư vốn người Lemuri, vóc người rất to cao nên muốn nói

chuyện với nhau thuận lợi, hoặc đạo sư phải thu nhỏ người lại hoặc chúng ta phải tự

khuếch đại mình lên sao cho chiều cao xấp xỉ mười tám mét. Trong lúc mọi người trong

191

đoàn bối rối không biết xử lý bằng cách nào, tôi đi sát bên cạnh May, thầm bảo hãy cùng

chuẩn bị tinh thần và quyền năng. Tuy nhiên khi đến trước dinh đạo sư, điều làm tôi ngỡ

ngàng là khác với lần tôi cùng thầy Hơn đến đây, dinh đạo sư bỗng nhỏ bé khác thường.

Từ trong đi ra là đạo sư cùng với hai tiểu đồng nhỏ nhắn cỡ người Trái Đất. Tôi thở phào

nhẹ nhõm vì biết đạo sư đã gỡ rối cho chúng tôi. Đạo sư thân mật vẫy tay và tươi cười

mời chúng tôi bước lên. Khi tất cả mọi người đã đứng trước tiền sảnh, đạo sư nghiêng

mình chắp tay chào và không ai bảo ai, chúng tôi cùng đáp lễ chắp tay chào lại theo đúng

kiểu cách của đạo sư.

Hai tiểu đồng dẫn chúng tôi đến ngồi bên bàn và rót nước trà mời. Đạo sư lên tiếng

trước:

Rất hân hạnh được các người trên mặt đất xuống thăm thánh địa. Xin cho hỏi, ai là

ngài Muldashev?

Ông Muldashev đứng dậy áp bàn tay phải lên ngực gật đầu tự giới thiệu.

Vẫn tiếng nói của đạo sư:

Khi thủ lĩnh Atlan đề nghị, ta biết ông ấy nghĩ rằng ta là người khó tính nhất trong

việc cho phép các người xuống đây thăm thánh địa. Bởi vì, có đúng vậy không ngài

Muldashev, chính ngài suýt mất mạng vì tính tò mò muốn chiêm ngưỡng thánh địa mặc

dù biết rõ rằng mình không được phép vào? Trước đó, ngài còn một phen hút chết do

muốn nhìn tận mắt những xômachi đang được lưu giữ trong một hang động của người

Tây Tạng?

Thưa vâng – ông Muldashev từ tốn thú nhận.

Nhưng không phải ta khó tính! Từ lâu ta biết ngài và mấy người cùng đi thực sự có

lòng thành kính và ngưỡng mộ thánh địa như thế nào! Thế nhưng, những đạo sư Tây

Tạng lại không hề muốn người phương Tây tò mò đến đây với đầu óc kinh doanh. Họ

cực lực phản đối các vị nhưng có phần mủi lòng trước ý chí của ngài Muldashev đây. Họ

đã giảm bớt hiệu năng giết chóc của bộ phận canh giữ các xômachi và canh giữ cửa hang

Thung lũng Tử thần. Họ không nỡ giết ông chết hẳn nhưng đã làm ông suy kiệt thay cho

lời cảnh báo đó!

Tôi liếc nhìn sang ông Muldashev và mấy người cùng đi. Họ lắng nghe, nuốt từng lời

của đạo sư với vẻ mặt bối rối thực sự.

Một khi đã xuống được đây rồi – vẫn tiếng nói của đạo sư –, các vị đã là khách quý

của chúng tôi nên sẽ được tự do thăm thú mà không phải lo lắng điều gì.

Tôi nghe rõ tiếng thở phào của nhiều người.

Sau đây, các vị sẽ có người dẫn đi thăm một tu viện và một hang lưu giữ các

xômachi. Xin mời!

Nói rồi, đạo sư đứng lên kết thúc cuộc tiếp kiến. Hai tiểu đồng từ phía sau bước ra

dẫn mọi người đi về phía hành lang và cúi thấp đầu chào tiễn biệt. Khi đoàn chúng tôi

bước xuống khỏi bậc thềm cuối cùng thì không biết từ ngóc ngách nào, vị tu sĩ tôi đã gặp

hôm nọ bước ra. Ông cung kính cúi đầu chào chúng tôi và ra hiệu bảo hãy đi theo ông.

Cũng men theo các con đường rải sỏi với hai bên là những cột đèn bóng hình cầu màu

trắng. Cuối đường là tu viện. Vẫn là căn nhà nhìn vẻ ngoài theo kiến trúc cổ của người

Tây Tạng đơn sơ, nhưng bên trong là những chiếc bàn thấp kê thành dãy cùng làm bằng

thứ kim loại sáng màu ánh bạc như các bức tường. Có đến mấy chục tu sĩ đang ngồi đọc

sách im lặng và chăm chú. Khi thấy chúng tôi bước vào, tất cả họ đều đứng dậy cúi đầu

chào kính cẩn rồi kéo nhau đi vào phía bên trong. Lập tức các bàn tụt ngay xuống sàn và

mấy cuốn sách cũng biến đi đâu mất, làm cho căn phòng trống trải chỉ có đoàn khách

đứng tần ngần ngạc nhiên.

192

Vị tu sĩ lại mời chúng tôi tiếp tục đi, lần này hướng về phía dãy núi nhân tạo có đục

chìm các hang lưu giữ những xômachi. Lại lẩm nhẩm trong miệng như đang đọc câu thần

chú, vị tu sĩ nhẹ tay đẩy tấm đá chèn cửa sang một bên để lộ ra một hành lang hẹp. Phát

cho mỗi người một cây nến điện, tu sĩ bước vào trước và đưa tay mời mọi người đi theo.

Có nhiều căn phòng ở hai bên lối đi. Đến trước một căn phòng có vẻ như không hề chọn

trước, tu sĩ kéo rộng cánh cửa và mời mọi người bước vào. Dưới ánh sáng chói lòa của

các ngọn nến, mọi người trong đoàn nhìn thấy rõ từng chi tiết nhỏ của những hình người

có mặc đầy đủ quần áo nhưng đang ngồi bất động theo kiểu kiết già được gọi tên là

xômachi. Nhờ có chiếc mũ đặc biệt, họ còn nhìn thấy có cả những bóng hình mỏng

manh: đó là linh hồn của các xômachi.

Xin kính chào các vị khách xuống thăm – tiếng các linh hồn vang vọng nghe âm âm

không giống tiếng của người đang sống.

Xin chào các xômachi – tiếng ông Muldashev thay mặt đoàn đáp lại.

Không khí trong phòng mát lạnh, có phần hơi khô. Lần này thì không chỉ ông

Muldashev mà là cả đoàn năm người của ông tha hồ nhìn ngắm. Họ tò mò khẽ chạm cả

vào người các xômachi. Họ chăm chú nhìn vào các cặp mắt hé mở của các xômachi để

khẳng định một lần nữa đây chưa phải là những xác chêt đúng nghĩa mà chỉ là tạm chết

để rồi đến một lúc đó họ có thể đồng loạt hoặc lần lượt từng người sống lại. Cả đoàn của

ông Muldashev còn xác nhận thêm là khác với xômachi trong hang trên núi Tây Tạng

nghe được mô tả là có ba chủng người Lemuri, Atlan và Aryen và ông Muldashev chỉ

được nhìn thoáng qua trong tâm trạng mệt mỏi và khủng hoảng, thì phòng này chỉ có độc

một chủng người Aryen đang hiện diện trên mặt đất.

Tôi biết ông Muldashev đang nghĩ gì nhưng chưa tiện hỏi nên mạnh bạo hỏi vị tu sĩ

thay ông:

Thưa tu sĩ, ngoài phòng này trong những phòng khác có phòng nào còn lưu giữ các

xômachi dáng người to cao?

Có đấy, có đấy – các linh hồn lao xao trả lời.

Vị tu sĩ không có khả năng nghe các linh hồn nói như chúng tôi nên vẫn trả lời dù

chúng tôi đã được biết.

Thưa có! Những xômachi to cao nên căn phòng cũng phải rộng và lớn hơn nhiều.

Nếu các vị vào đấy, sẽ phải bắc thang leo lên mới nhìn rõ họ được.

Thấy tình hình diễn biến có chiều hướng thân thiện và thuận lợi, ông Muldashev trao

đổi trước với tôi là muốn nêu lên những thắc mắc mà ông đang ấp ủ trong lòng từ lâu. Tôi

nói với vị tu sĩ, xin hỏi trực tiếp các linh hồn và mời ông đội một chiếc mũ mà tôi trao

cho để cùng nghe.

Ông Muldashev từ tốn:

Thưa các vị, chúng tôi có thể hỏi một số điều được chăng?

Xin sẵn lòng!

Việc một số người tự nguyện xuống đây và tự mình thoát tục biến thành những

xômachi có ý nghĩa gì?

Thoát tục và biến thành xômachi không phải ai muốn cũng được. Phải được phép

của bề trên.

Bề trên là ai?

Chúng tôi nghĩ là đạo sư.

Nhưng nhằm mục đích gì?

193

Các vị có nghĩ rằng, nếu Trái Đất này bị hủy diệt do bất cứ nguyên nhân nào, con

người hay thiên nhiên, thì ai sẽ là lớp người được đặc ân tiếp tục sinh sôi và phát triển

thay thế?

Thế còn những linh hồn bất tử?

Những linh hồn bất tử ư? Họ có đến hàng triệu triệu nhưng nếu không có một cơ

thể người để thâm nhập thành một cơ thể sống thì làm gì được? Những xômachi chúng

tôi được bảo tồn lâu dài và là một cơ thể ở tư thế sẵn sàng. Đến một lúc nào đó bề trên ra

lệnh, xômachi cùng với linh hồn của chính mình biến ngay thành những cơ thể sống và

xuất hiện trên bề mặt Trái Đất này.

Xin thứ lỗi! Từ nay cho đến ngày tận thế của nhân loại trên Trái Đất này, thời gian

còn xa lắm! Chư vị linh hồn đang canh giữ phần cơ thể bất động nhưng vẫn còn sống của

mình có cảm thấy sốt ruột chăng?

Đối với chúng tôi là những linh hồn, không có khái niệm về thời gian! Chúng tôi có

thể trải mình xuyên suốt thế kỷ. Quá khứ, hiện tại và tương lai diễn ra chỉ trong chốc lát.

Theo tôi được biết qua các đạo sĩ ở Ấn Độ và Tây Tạng, xômachi còn có rất nhiều ở

một số hang động trên mặt đất trong dãy núi Hymalaya. Họ còn bảo rằng xômachi chịu

đựng được hoàn cảnh khắc nghiệt nên hiện diện cả dưới biển các đại dương và trong bể

cát sa mạc.

Chúng tôi thực sự không rõ điều này! Không có gì bảo đảm các xômachi ở đó, trên

mặt đất, không bị hủy hoại một khi Trái Đất bị xáo động bởi những núi lửa, những trận

đại hồng thủy, những cuồng phong với bầu trời dày đặc mây đen vừa chứa nhiều khí độc,

vừa che chắn ánh sáng Mặt Trời làm cho không một sinh vật nào sống được.

Ông Muldashev nhìn tôi gật đầu và nói lời cuối cùng:

Tôi và những người trong đoàn này rất vinh hạnh được viếng thăm thánh địa và rất

cảm động được các vị ở đây đón tiếp niềm nở và thân tình. Chúng tôi sẽ giữ mãi trong

tim mình kỷ niệm đẹp và nhớ đời này. Chúc các vị giữ vững niềm tin. Xin cảm tạ và chào

từ biệt.

Muldashev kính cẩn cúi đầu chào các xômachi và chúng tôi cùng làm theo ông. Linh

hồn các xômachi đồng thanh:

Không dám! Xin đa tạ, xin đa tạ.

Nhìn thấy quang cảnh này, vị tu sĩ cũng cảm động không kém gì chúng tôi. Khi đoàn

chúng tôi đã ra khỏi cửa hành lang rồi, trao trả hết các cây nến cầm tay nhưng vị tu sĩ cứ

ấp a ấp úng không nói nên lời. Tôi thử lục lọi trong đầu ông ta xem ông nghĩ gì. Ồ, té ra

ông rất muốn giữ lại cái mũ thần diệu, nghe được linh hồn các xômachi nói chuyện

nhưng rất ngại ngỏ lời xin tôi:

Ôi giá mà ta có được cái mũ thần kỳ này, ta sẽ nói chuyện với các linh hồn xômachi

suốt cả ngày và họ cần gì sẽ giúp đỡ họ được ngay!

Đúng là một vị tu sĩ có trách nhiệm. Chắc chắn cái mũ sẽ là một kỷ niệm nhớ đời đối

với người dẫn đường này nên tôi nói luôn trước khi chia tay để cùng May đưa đoàn đi

thăm khu vực của người Lemuri.

Thưa tu sĩ, đối với tôi hai lần được ông giúp đỡ tận tình, tôi rất cảm kích tấm lòng

thành và mến khách của ông. Tôi xin ông hãy nhận cho món quà kỷ niệm là chiếc mũ vô

hình mà ông đang đội để ông dùng nó có thêm điều kiện chăm sóc các xômachi được tốt

hơn.

Vị tu sĩ xúc động thực sự, lúng túng nắm chặt tay tôi, nói lời cảm ơn. Một lần nữa, cả

đoàn cùng cúi đầu chào từ biệt vị tu sĩ. Tôi đi nhanh đến gần May hỏi nhỏ:

194

Lúc trước chỉ có mình và thầy Hơn. Bây giờ những bảy người, anh tính đưa mọi

người đi thăm xứ sở của người Lemuri sao đây?

Kim yên trí, thủ lĩnh Atlan dự tính trước cả rồi, không phải lo.

Quả đúng như thế, đi một lúc, chúng tôi nhìn thấy một chiếc máy bay cỡ nhỏ chở

được mười người đang đậu trước sân dinh thủ lĩnh. Tôi mở cửa khoang, mời mọi người,

còn May nhanh chóng chui vào buồng lái. May cho máy bay bốc thẳng lên rồi bay vút về

chân trời phía Tây. Ngồi nghỉ trong mấy phút bay, tôi chợt nhớ đến vóc dáng cao to hàng

mấy chục mét của người Lemuri. Nỗi lo lại đến giống như trường hợp đoàn yết kiến đạo

sư. Một mình đạo sư với hai chú nhóc tì thu nhỏ lại thì dễ, nhưng ở đây, làm sao mà thủ

lĩnh người Lemuri chịu thu nhỏ toàn thể hơn mấy trăm cư dân của mình chỉ vì mục đích

tiếp đón đoàn khách nhỏ con không quá mười người trên mặt đất đến thăm. Khi đoàn của

ông Muldashev cùng bà Hoàng Giang bước hẳn ra khỏi khoang máy bay, tôi chưa cho họ

đi vội mà đến bàn với May:

Hai chúng mình liệu có đủ sức để vừa khuếch đại bản thân lại vừa khuếch đại cả

những vị khách mới để có thể dẫn nhau ra mắt thủ lĩnh người Lemuri nơi này?

May trả lời một cách tin tưởng:

Mình nghĩ nhất định được! Chúng ta hãy hợp lực!

Tôi một lần nữa đem lại cho các vị khách điều bất ngờ:

Chúng ta không thể giữ vóc dáng nhỏ con này đến thăm xứ sở của những người

Lemuri khổng lồ cao mười tám mét. Phải tự phóng đại mình lên thôi!

Nói xong, tôi và May tập trung ánh mắt chăm chăm nhìn vào họ.

Cùng một lúc với hai chúng tôi, người nào trong đoàn cũng thấy cơ thể mình bỗng nhiên

cứ to và cao dần lên gấp mười mấy lần, sau đó dừng lại. Quang cảnh xung quanh mà họ

vừa nhìn thấy cũng cứ nhỏ và thấp dần. Máy bay đang đậu trông tựa như đồ chơi trẻ con.

Mọi người lao xao cười nói râm ran. Tôi mời mọi người nhanh chóng theo May và dừng

lại khi đến trước tiền sảnh của một dinh thự to lớn. Thủ lĩnh người Lemuri hiện ra trước

cửa tươi cười cúi chào chúng tôi và chìa tay mời. Tám con người khổng lồ giả hiệu này

hấp tấp bước qua các bậc tam cấp cao như bức tường thành để đi lên. Mấy người phục vụ

dẫn chúng tôi đến ngồi quanh một chiếc bàn vừa mới nhô lên khỏi sàn nhà và bưng ra

một đĩa tú hụ trái cây đủ loại và các cốc vại cao ước chừng một mét chứa đầy nước trái

cây. Thủ lĩnh chìa tay mời:

Đã đến giờ rồi, nhân tiện mời chư vị khách quý dùng bữa ăn đạm bạc của cư dân

chúng tôi.

Nhìn đĩa trái cây và cốc nước được mời mà bảo ăn no, các vị khách nhất là những

người Nga chớp chớp mắt ra vẻ không tin tưởng lắm. Tôi bắt gặp được ý nghĩ của ông

Muldashev:

Những con voi ở đây chỉ ăn trái cây để sống không khác gì cá voi ở biển chỉ biết

lọc nước nuốt tép.

Tôi nhìn ông gật đầu tỏ ý cảm thông nhưng cũng ngầm bảo hãy cứ ăn rồi sẽ biết. Đã

quá quen chuyện này, May và tôi ăn uống tự nhiên không hề khách khí. Bà Hoàng Giang

nếm trước người Nga rồi khẳng định với họ:

Trái cây tuyệt vời! Mời các bạn tự nhiên.

Hai cô gái Nga nghe nói vội chộp lấy mỗi người một trái vừa ăn vừa tấm tắc khen

ngon. Tôi cảnh báo mọi người rằng đừng ăn nhiều theo khả năng của người khổng lồ kẻo

sắp tới thu nhỏ người lại, mọi người chắc chắn sẽ mang lặc lè cái bụng bự mà khó trở về

mặt đất. Mọi người phì cười.

195

Không chờ cho bữa ăn kết thúc, tôi tranh thủ thời gian trong lúc ăn uống đứng lên

hướng về thủ lĩnh:

Thưa thủ lĩnh, thay mặt đoàn những người từ mặt đất được cái đặc ân xuống thăm

thánh địa, chúng tôi xin tỏ lòng biết ơn hai thủ lĩnh và đạo sư. Tôi mạn phép xin giới

thiệu bạn May đây như thủ lĩnh đã biết, tuy là người Atlan nhưng ở tận một hành tinh xa

xôi được đến thăm thánh địa lần này là lần thứ hai, tôi và bà Hoàng Giang đây là người

Việt Nam, còn ông Muldashev và các cộng sự là người Nga chuyên về giải phẫu mắt nổi

tiếng trên Trái Đất.

Thủ lĩnh hỏi:

Xin lỗi ngài Muldashev, có phải chính ngài đã mạo hiểm không quản ngại hy sinh

thân mình tìm gặp các xômachi trong một hang núi của Tây Tạng và đến tận trước cửa

hang của Thung lũng Tử thần?

Ông Muldashev cung kính trả lời:

Thưa thủ lĩnh, chính tôi đây!

Lần này thì không cần mạo hiểm nữa! – thủ lĩnh tiếp lời.

Vâng. Lần này, được hai thủ lĩnh và đạo sư cho phép, không phải mạo hiểm nữa!

Không chỉ mình tôi mà cả những cộng sự thân thiết của tôi cũng được cái diễm phúc và

vinh dự đến thăm thánh địa. Có lẽ suốt quãng đời còn lại, chúng tôi sẽ nhớ mãi kỷ niệm

này. Được sự đồng ý của đạo sư, chúng tôi đã đến thăm một phòng lưu giữ các xômachi.

Chúng tôi tiếp xúc, nhìn tận mắt mọi chi tiết và còn trò chuyện cùng linh hồn của các

xômachi. Họ có thái độ rất chân tình, cởi mở và mến khách. Tôi đã đem những thắc mắc

từng ấp ủ trong lòng từ lâu để hỏi và họ đã vui vẻ trả lời mà không từ chối điều gì! Hoàn

toàn khác hẳn với các xômachi trên đặt đất!

Thủ lĩnh cười ồ:

Đúng thế! Khi đã xuống được đến đây, các bạn trở thành những khách quý. Còn

trên mặt đất, các bạn thuộc loại khách không mời mà đến. Hai loại khách được nhận sự

tiếp đón khác nhau là lẽ đương nhiên. Tôi biết người Việt Nam của bạn Kim và bà Hoàng

Giang đây có câu “Hữu duyên thiên lý năng tương ngộ”. Dẫu xa xôi cách trở nhưng nếu

có duyên chúng ta vẫn có thể gặp nhau!

Tôi nghĩ thầm trong đầu:

Duyên gì nếu không được các thủ lĩnh và nhất là đạo sư cho phép!

Không thể giấu được ý nghĩ với hết thảy mọi người bởi ai cũng đang đội chiếc mũ

thần kỳ, nhất là đối với thủ lĩnh. Ông nhìn tôi và nói:

Anh bạn đừng nghi ngờ đạo sư khó tính! Trước đây thì có thế thật, nhưng sau khi

đã gặp các người, ông ấy thay đổi hẳn thái độ.

Bà Hoàng Giang ghé sát tai tôi hỏi thầm:

Sao thủ lĩnh biết được người Việt Nam mình nói câu “Hữu duyên thiên lý năng

tương ngộ”? Một câu chữ Hán không phải ai cũng biết.

Bởi vì câu này có sẵn trong đầu chúng mình nên ông ấy mới truy tìm được theo như

cách ta tra cứu sách ở thư viện. Tất cả những ai ở dưới thánh địa này trừ các vị tu sĩ trẻ,

đều đọc được ý nghĩ của người khác, truy tìm được những thông tin trong cái thư viện

khổng lồ là vũ trụ. Vì vậy, họ nhận biết được những gì đã xảy ra trong quá khứ, đang xảy

ra trong hiện tại và sẽ xảy ra trong tương lai.

Bà Hoàng Giang trầm ngâm:

Thật nguy hiểm khi phải sống trong một xã hội mà mọi người đều nhận biết hết ý

nghĩ của nhau!

Tôi nói thành lời để phản bác lại bà:

196

Ôi, thưa chị, ngược lại. Trong một xã hội như thế, chỉ có người thực sự tốt mới

sống được. Còn những kẻ ác độc, gian manh sẽ không có đất dung thân. Một xã hội lý

tưởng quá đi chứ!

Có ai đó trong đoàn của ông Muldashev suy nghĩ:

Một xã hội viễn tưởng thì có!

Tôi đáp lại nhưng không nói ra lời:

Nhưng xã hội ấy đang hiện diện nơi đây và cả trên một hành tinh xa xôi của người

Lemuri.

Thủ lĩnh đứng lên mời mọi người đi thăm nơi sinh sống của cư dân Lemuri. Vẫn

những căn nhà y hệt các căn nhà của người Atlan nhưng cao to hơn nhiều mới dung nạp

nổi những cơ thể khổng lồ của người dân nơi đây. Nội thất trang bị hoàn toàn tự động.

Cũng hoàn toàn không có kiểu ở tập thể trong một chung cư như trên mặt đất chúng ta.

Phải nói đúng tên mỗi căn hộ là một vila có vườn cây bao quanh, chu cấp thực phẩm là

trái cây quanh năm cho mọi người. Về kiểu quần áo, mọi người sống trong thánh địa đều

sử dụng vải thô màu trắng kể cả các vị tu sĩ, đạo sĩ và do người Atlan cung cấp. Đến nhà

nào, đoàn chúng tôi cũng được chủ nhà mang trái cây ra chiêu đãi khách. Nhưng chúng

tôi chỉ cảm ơn mà không ăn.

Trời ngã về chiều từ lúc nào. Đã đến lúc chia tay, chúng tôi cùng nghiêng mình cung

kính chào từ biệt thủ lĩnh. Ông chúc chúng tôi câu thượng lộ bình an. Tôi cứ thắc mắc

mãi trong đầu là thủ lĩnh có biết chúng tôi đã vào và sẽ ra khỏi thánh đường bằng con

đường đặc biệt hay không. Chúng tôi có đi theo con đường gian nan của đồi núi Tây Tạng

đâu mà gọi là thượng lộ!

Đoàn đến bãi đáp có chiếc máy bay “đồ chơi” đang đậu. Giá lúc này mà có ai đó

trong đoàn nghịch ngợm nắm tay giáng cho máy bay một quả đấm, máy bay ắt hẳn sẽ bẹp

dúm ngay. May nắm bắt được ý nghĩ của tôi, sinh ra cảnh giác, ngăn không cho mọi

người lại gần máy bay, sau đó cùng tôi tập trung quyền năng. Tám con người mang vóc

dáng “khổng lồ tạm” trở nên thấp và bé dần lại cho đến kích thước ban đầu. Tôi đưa mọi

người vào khoang, trong lúc May leo lên buồng lái. Máy bay lần nữa bốc thẳng lên cao

rồi bay vút trực chỉ phương Đông. Đến trước dinh thủ lĩnh Atlan, May cho máy bay dừng

lại, hạ thấp độ cao nhanh chóng đậu lên bãi cỏ. Như đã chờ sẵn từ lâu, khi mọi người đã

ra khỏi máy bay, thủ lĩnh đứng trước tiền sảnh đưa mắt nâng chiếc máy bay lên cao rồi

phóng vút về phía sau mất dạng. Sau đó thủ lĩnh vẫy tay chào chúng tôi, nói to lời tạm

biệt. Chúng tôi cũng nói to đáp lại. May không kịp chào chia tay chúng tôi, vội vã đến vị

trí gần cột đèn thì bị một luồng gió mạnh hút bốc lên cao biến mất. Tôi dồn mọi người

còn lại cho đứng sát vào nhau bảo chuẩn bị. Và rồi lần này một luồng gió xoắn mạnh gấp

bội xoắn lấy chúng tôi và cũng bốc nhanh lên cao.

Luồng gió mạnh đã đẩy chúng tôi qua cửa sổ và đặt từng người một nhẹ nhàng vào vị

trí trước đây mà chúng tôi đã từng ngồi trò chuyện với nhau trong phòng khách sạn. Lịch

treo trên tường vẫn là ngày cũ. Đồng hồ trên tường vẫn chỉ giờ phút cũ. Sự sai khác thời

gian thật khó lòng nhận biết vì đơn vị của nó là giây. Tôi hỏi to:

Mọi người có nhớ điều gì đã xảy ra tích tắc trong vài giây?

Mọi người lắc đầu, cặp mắt đờ đẫn như người đang để hồn vía phiêu lãng nơi đâu. Họ

chưa được tỉnh táo hẳn. Tôi phải dùng ánh mắt nhìn ông Muldashev, bà Hoàng Giang rồi

lần lượt những người còn lại. Bấy giờ, họ mới từ từ nhớ lại. Có người sờ lên đầu và chạm

phải chiếc mũ vô hình. Ông Muldashev phát biểu trước:

197

Tôi nhớ ra rồi. Chúng ta vừa đi thăm thánh địa Shamballa, trong đó có những hang

động lưu giữ những xômachi, có khu vực người Atlan nhỏ nhắn như chúng ta và người

Lemuri to cao sinh sống.

Dưới ánh đèn nến sáng chói, chúng ta còn quan sát rõ nét các xômachi và nói

chuyện thoải mái với những linh hồn của họ tiếng một ai đó trong đoàn bổ sung.

Rồi nhiều tiếng nói, bàn tán râm ran. Tôi đến gần bà Hoàng Giang nói nhỏ:

Đã đến lúc chia tay, chị có về cùng không?

Vâng, ta cùng về.

Bà Hoàng Giang đến bắt tay ông Muldashev và lần lượt tiếp đến bốn người còn lại,

nói lời tạm biệt. Tôi thì không quen bắt tay, chỉ cúi đầu chào. Bỗng có tiếng người hỏi:

Còn mấy cái mũ, chúng tôi xin trả lại anh Kim.

Tôi ngập ngừng:

À không! Không cần đâu. Nhân cuộc du ngoạn đặc biệt này, tôi xin tặng nó cho các

anh chị gọi là chút quà kỷ niệm. Đội nó, nhìn thấy được linh hồn và trò chuyện với linh

hồn, biết được người ta đang nghĩ gì nếu họ đứng gần bên ta chẳng phải là điều thú vị

lắm sao?

Đương nhiên là không ai nỡ từ chối món quà đắt giá này, kể cả bà Hoàng Giang. Tôi

cùng bà vào buồng thang máy, bấm nút cho hạ xuống tầng trệt, mở cửa bước ra ngoài. Bà

định gọi taxi nhưng tôi ngăn lại:

Đừng gọi taxi, để tôi bay đưa chị về!

Không chờ bà có đồng ý hay không, tôi đưa ánh mắt thu nhỏ bà lại bằng con búp bê

cỡ điếu thuốc lá, nhón lấy bỏ vào túi áo ngực, xong nhìn trước sau không thấy có ai, tôi

rút áo tàng hình choàng lên người, cất mình bay lên. Không rõ bà đứng trong túi áo bên

cạnh trái tim tôi có nghe tiếng đập thình thình như trống vỗ của nó hay không, tôi không

tiện hỏi. Do đã đến chỗ bà một lần nên chẳng mấy chốc, tôi đã hạ xuống đứng ngay trước

ngõ 47, phố Võng Thị, quận Tây Hồ. Tôi phải thận trọng lắm mới nhón lấy bà lần này mà

không làm bà bị đau, bỏ xuống đất rồi ngay lập tức lia ánh mắt. Chờ bà Hoàng Giang kịp

lớn lên bằng thật, tôi nói vội:

Thôi xin chào chị, em về đây! Hẹn có ngày gặp lại.

Chỉ kịp nói tiếng cảm ơn, bà đã thấy tôi biến mất tăm. Ấy là khi tôi đã quàng vào

người chiếc áo tàng hình, bay đến chỗ con tàu vũ trụ đang lơ lửng trên không, gọi nó hạ

xuống rồi leo lên, lái thẳng về hòn đảo Không tên.

Tôi chuẩn bị tiếp cho chuyến biểu diễn tại thánh địa của đoàn dân ca quan họ Bắc

Ninh. Lần này, sau cú điện thoại đồng ý hẹn gặp, tôi đích thân đến nhà ở đường 18 thành

phố Bắc Ninh mời bà Thúy Cải làm trưởng đoàn. Như những người thân lâu ngày gặp lại,

bà Thúy Cải mừng rỡ vồn vã hỏi thăm tôi:

Cậu em dạo này có khỏe không? Công việc tất bật lắm nhỉ?

Vâng, cảm ơn chị, nhờ nhịn không ăn gì mà em rất khỏe! Còn chị thì vẫn giữ cái

vóc dáng yêu kiều nghệ sĩ đó, không thấy già đi tý nào!

Ồi! Rõ khéo nịnh! Em nhịn ăn để chữa bệnh theo phương pháp Oshawa chăng?

Em đã nói trong chuyến đi trước, em thường xuyên tắm trong nguồn năng lượng vũ

trụ nên không bao giờ bị đói, người vẫn khỏe mạnh bình thường, chị quên rồi sao?

À chị nhớ rồi! Chị cũng đã từng nhịn ăn mấy ngày trên tàu vũ trụ như em. Rõ thật

hay, nếu mọi người nhịn được như em, mấy ông quan tỉnh đang thu hẹp diện tích nông

nghiệp để kinh doanh sân golf sẽ rất yên lòng, không sợ bị ai phê phán. Có khi Việt Nam

198

mình được ghi vào Guinness là nước đứng đầu thế giới về số sân golf tính trên đầu người

cũng nên. Mà này, lần này đến thăm chị không thôi hay còn có việc gì?

Còn việc gì chen được vào đây ngoài chuyện mời chị tổ chức giúp cho một đoàn

dân ca quan họ đi biểu diễn. Lần này chị làm trưởng đoàn luôn.

Em sẽ cho chị bay đi đâu đây?

Không bay đi đâu cả mà chui xuống lòng đất!

Cậu thật khéo đùa!

Rồi chị sẽ thấy em nói thật theo đúng nghĩa đen. Bao giờ thì gom đủ người rồi

luyện tập để có thể biểu diễn được?

Đoàn chị vừa mới đi biểu diễn xong. Ngay ngày mai hay ngày kia đi ngay vẫn

được.

Hay quá! Thế nhưng chị phải chọn một địa điểm nào đó ở đây, thuê người xây dựng

ngay một sân khấu ngoài trời với đầy đủ phông màn, loa đèn, nhạc cụ. Diễn viên trang

điểm sẵn như sắp sửa biểu diễn. Nhạc công ngồi vào vị trí của mình. Lúc em đến là

chúng ta đi luôn. Cả đoàn chỉ chừng 15 người thôi, được không?

Suy nghĩ giây lát, bà Thúy Cải ấn định:

Được! Bốn giờ chiều ngày kia, em đến đây là mọi việc sẵn sàng, chị cho đoàn biểu

diễn tổng duyệt ngay.

Tốt, chào chị. Em phải biến về ngay để kịp chuẩn bị cho chuyến đi.

Nói biến tức là tôi biến thật. Tôi quàng tấm áo tàng hình, cất mình lên cao đến bãi

đáp, gọi tàu vũ trụ xuống và lái về. Hôm sau, tôi xin phép thầy An nghỉ ngơi một ngày

cho lại sức. Ngày hôm sau nữa, bốn giờ kém mười lăm chiều, tôi lái tàu vũ trụ đến Bắc

Ninh. Tìm bãi đáp quen thuộc, tôi cho tàu đỗ xuống. Quàng áo tàng hình, tôi cất mình lên

cao bay lang thang trên bầu trời thành phố tìm địa điểm mà bà Thúy Cải chuẩn bị bộ sậu

để tổng duyệt. À, đây rồi! Một sân khấu ngoài trời dựng sẵn trên một bãi cỏ hẹp chỉ vừa

đủ chỗ cho khoảng vài chục khán giả ngồi xổm trên mặt đất thưởng thức. Giống như bất

kỳ ở đâu, có sân khấu dựng sẵn là trẻ con ở đấy xúm đen xúm đỏ bu quanh, háo hức đợi

chờ. Nhằm lúc mọi người không chú ý, tôi hiện hình ngay bên cạnh bà Thúy Cải.

Chào chị!

Bà quay lại, thoáng giật mình, nhưng trấn tĩnh được ngay vì biết rằng với tôi, việc

thoắt ẩn thoắt hiện là chuyện bình thường.

Chị đã chuẩn bị xong. Bây giờ chị cho biểu diễn nhé?

Khoan đã! Em phải nói trước để chị biết điều này. Địa điểm mà chúng ta sắp biểu

diễn là thánh địa Shamballa. Đó là một thế giới ngầm bên dưới mặt đất mà đường đi vào

chính thống là vùng núi Tây Tạng. Có hai chủng người đang sinh sống dưới ấy là Atlan

và Lemuri. Em nói thế chắc chị nhớ ra rồi chứ? Trước đây chúng ta đã từng biểu diễn

cũng cho hai chủng người này xem nhưng họ ở mãi tận hai hành tinh xa tít, ta phải bay

mấy ngày mới tới. Còn bây giờ, họ ở ngay bên ta mà lâu nay ta đâu có biết. Mỗi chủng

dưới này ở đấy chỉ có khoảng vài trăm người. Bởi vậy chúng ta chỉ cần biểu diễn trong

hai tối là xong. Muốn đến thánh địa Shamballa, chúng ta phải sang Trung Quốc, ngược

lên Tây Tạng. Đi theo đường này nhiêu khê và vất vả lắm. Chúng ta sẽ đến đó theo cách

của thủ lĩnh Atlan, nhanh chóng hơn. Bây giờ, chị hãy gọi tất cả mọi người có mặt dồn

hết lên sân khấu giúp em đi.

Bà Thúy Cải chụm hai bàn tay làm loa gọi to:

Nào hết thảy mọi người hãy bước lên sân khấu để nghe bạn Kim đây nói trước về

chuyến đi.

199

Trong lúc đó, tôi điện báo cho thủ lĩnh Atlan chuẩn bị mở cổng thời gian. Tôi hỏi:

Thưa thủ lĩnh, có tất cả 16 người cùng một sân khấu ngoài trời. Liệu chuyển đi một

lúc có được chăng?

Được. Sau hai phút nữa.

Tôi vội vàng xua các em bé đi ra xa rồi nhảy ngay lên sân khấu. Chưa kịp nói gì với

mọi người thì một luồng gió xoáy hút mạnh cuốn tất cả người và sân khấu lên không

trung để lại mảnh đất trống trước các cặp mắt ngỡ ngàng của mấy em bé.

Hầu như hết thảy mọi người đều lịm đi trong lúc di chuyển. Chỉ khi bừng mắt dậy

mới thấy sân khấu cùng với mọi người tọa lạc trên một bãi cỏ rộng trước một dinh thự

nguy nga tráng lệ. Cũng như hai lần trước, lần này May ở xó xỉnh nào không rõ lò dò

đến. Lại bị thủ lĩnh mượn nữa rồi. Tôi lần lượt đến từng người trong đoàn quàng vào cổ

họ chiếc máy phiên dịch mà Oshi đã tặng trước đây để mọi người dùng trong suốt thời

gian biểu diễn. Bỗng tôi nghe rõ tiếng thủ lĩnh:

Trong đoàn, có hai diễn viên nhí mà Kim không tính sao?

Tôi vội đến bên bà Thúy Cải:

Trong đoàn lần này có cả diễn viên nhí sao?

Đâu có! Toàn người lớn cả.

Tôi kéo bà vào bên trong kiểm tra, phát hiện hai cô cậu bé xinh

xắn trạc năm, sáu tuổi đang núp sau cánh gà. Hóa ra, trên mặt đất trong lúc tôi xua đuổi

các cu cậu ra xa thì hai cháu này đã lẻn vào đứng sau sân khấu tự lúc nào chẳng ai để ý.

Trong lúc bà Thúy Cải giận dữ định trách móc thì tôi ngăn lại:

Thôi chị ạ. Đã “đến đây thì ơ lại đây”, trong câu ca quan họ chẳng phải có đoạn này

là gì! Âu là chúng có cái duyên được viếng thăm thánh địa! Thế hai cháu tên là gì?

Anh con trai mạnh dạn trả lời:

Cháu là cu Tào, còn đây là cái Mỵ, em cháu đấy ạ.

Thủ lĩnh người Atlan từ trong dinh bước xuống gặp chúng tôi. Tôi đứng ra giới thiệu

chủ khách:

Thưa thủ lĩnh, đây là nhạc công và diễn viên đoàn dân ca quan họ Bắc Ninh do bà

Thúy Cải làm trưởng đoàn. Còn đây là thủ lĩnh của khu vực người Atlan sinh sống. Thế

giới này thuộc thánh địa Shamballa rộng lớn nằm bên dưới mặt đất phía Đông đến sa mạc

Gobi và phía Tây đến sa mạc Sahara. Chúng ta sở dĩ xuống được đây nhanh chóng là nhờ

thủ lĩnh mở cánh cổng thời gian.

Thủ lĩnh đến bắt tay bà Thúy Cải và lần lượt đến các thành viên trong đoàn. Sau đó,

thủ lĩnh đưa mắt nhìn tôi:

Còn hai diễn viên nhí đâu?

Bà Thúy Cải dắt hai em bé ra nhanh trí trả lời:

Thưa đây ạ! Nhưng các cháu phải mười mấy năm sau mới được phép biểu diễn ạ.

Thủ lĩnh âu yếm xoa đầu hai cháu:

Ông chúc các cháu sau này sẽ là những diễn viên giỏi!

Chúng cháu cảm ơn ông ạ!

Tôi đưa mắt nhìn bà Thúy Cải tỏ ý tự hào con em Bắc Ninh chúng ta không hổ danh

là dân quan họ, ăn nói đối đáp trôi chảy.

Tôi lại hỏi thủ lĩnh:

Thưa thủ lĩnh, vị trí sân khấu tại ngay đây có hợp không ạ?

Có. Ý ta muốn mọi người đến đây xem biểu diễn.

Tôi đưa mắt nhìn ra khoảng trống trước sân khấu.

200

Thế mọi người ngồi vào đâu?

Hãy xem đây!

Vừa trả lời tôi, thủ lĩnh vừa đưa mắt chuyển từng dãy từng dãy ghế không rõ từ đâu

đến xếp ngay ngắn phía trước sân khấu. Tôi nhẩm ước lượng với số dãy ghế này, hai trăm

con người ngồi dư sức. Tôi quay sang May:

Về năng lượng điện cho đèn, loa và các máy tăng âm, May lo giúp chúng mình.

Đó là nhiệm vụ của mình mà, Kim hãy yên tâm.

Thủ lĩnh nói to:

Mời chị trưởng đoàn, mời tất cả mọi người hãy vào dinh nghỉ ngơi và đúng sáu giờ

đêm, chúng ta bắt đầu cuộc biểu diễn.

May dẫn chúng tôi bước lên các bậc tam cấp, vào phòng tiếp khách của dinh. Trong

căn phòng trống trải, từ sàn bỗng trồi lên một chiếc bàn dài cùng hai mươi chiếc ghế. Thủ

lĩnh đến ngồi ở đầu bàn và đưa tay mời mọi người ngồi xung quanh. Khi hai bé ngồi vào

chỗ của mình, hai chiếc ghế tự động nâng cao hơn một chút ngang tầm với của các cháu.

Trước mặt mỗi người, từ mặt bàn như một phép mầu của ảo thuật, hiện ra một chiếc khay

đựng hai phong bánh và một cốc sữa. Thủ lĩnh ân cần:

Đã đến giờ ăn chiều, xin mời các vị khách dùng bữa.

Chờ cho thủ lĩnh, sau đó đến tôi và May ăn trước, mọi người trong đoàn mới sẽ sàng

cầm lấy bánh. Quen phong cách ở nhà, hai em bé không quên nói khẽ mời ông, các cô

các chú trước khi ăn. May ăn uống vội vàng rồi xin phép ra trước. Đèn phía trước tiền

sảnh bỗng đồng loạt bật sáng trưng và có tiếng thử loa rèng rẹc.

Nhiều tiếng người cười nói xôn xao.

Mọi người ăn xong vừa đứng lên bỗng giật mình thấy các khay, cốc hoàn toàn biến

mất. Bàn và ghế cũng bắt đầu tụt xuống, lắp kín mặt sàn. Khi chúng tôi bước ra, đã thấy

đông nghẹt người ngồi im phăng phắc. Toàn những bộ quần áo trắng, không thấy lẫn một

màu nào khác. Đạo sư lần này có dẫn theo cả vợ cùng hai con đều ở dạng thu nhỏ cùng

các vị đạo sĩ, tu sĩ cũng có mặt và được xếp ngồi ở dãy ghế đầu.

Thủ lĩnh dẫn bà Thúy Cải bước ra trước sân khấu, đưa tay chào mọi người và giới

thiệu đoàn dân ca quan họ Bắc Ninh của Việt Nam tối nay sẽ biểu diễn phục vụ cư dân

vùng phía Đông của thánh địa. Thủ lĩnh nói to:

Về những chương trình biểu diễn nghệ thuật trên mặt đất, lâu nay chúng ta chỉ xem

qua hình ảnh thu được từ các vệ tinh. Bắt đầu từ hôm nay, chúng ta sẽ được thưởng thức

chương trình do những con người thực xuống đây biểu diễn. Bạn Kim đây là người tổ

chức, còn bà Thúy Cải đây là trưởng đoàn biểu diễn.

Nói xong, thủ lĩnh nhường lời cho bà Thúy Cải, xuống ngồi ở chiếc ghế trống trên

hàng ghế đầu. Còn tôi rút ra sau cánh gà, canh chừng mọi người biểu diễn. Bà Thúy Cải

cúi chào mọi người, giới thiệu sơ qua vài nét hoạt động của đoàn trên mặt đất, sau đó

tuyên bố chương trình biểu diễn bắt đầu. Một cô diễn viên trẻ bước nhanh ra phía trước

giới thiệu tiết mục đầu tiên.

Trong vòng hai tiếng đồng hồ, chúng tôi cố gắng hoàn thành tất cả những tiết mục dự

kiến. Ở đây, sau mỗi tiết mục, người ta không vỗ tay hoan hô mà chỉ im lặng chắp hai

bàn tay đưa lên cao tỏ ý tán thưởng. Như thường lệ, kết thúc buổi biểu diễn là bài “Người

ơi người ơ đừng vê”. Tình cảm dào dạt của người nghe dường như đến đây đạt đến đỉnh

cao, nên không ai bảo ai, tất cả khán giả đều đồng loạt đứng dậy, chắp tay đưa cao lên

đỉnh đầu. Cả đoàn, ca sĩ cùng với nhạc công đều ra đứng hết trên sân khấu, cúi đầu chào

từ biệt lần cuối. Thủ lĩnh sau khi bắt tay chào đạo sư, đến sát sân khấu nói lời cảm ơn về

buổi biểu diễn với bà Thúy Cải, sau đó bảo May dẫn đoàn về nhà khách nghỉ.

201

Nhà khách so với lần thứ hai tôi đã ở bây giờ rộng lớn hơn nhiều đủ sức chứa hai

mươi con người. Khách nam có tôi, May, hai nhạc công, sáu diễn viên và bé Tào. Khách

nữ có trưởng đoàn, sáu diễn viên và bé Mỵ. Tôi ngăn mọi người lại chưa cho vào nhà vội

và phổ biến:

Ở đây mọi thiết bị nội thất hoàn toàn tự động. Khi cần đến, cứ thầm gọi ắt nó sẽ

hiện ra. Khi dùng xong, nó tự biến đi.

May dẫn các khách nữ đến nhận phòng. Còn tôi thì dẫn khách nam. Khi cửa mở,

phòng nào cũng trống trơn. May bảo tôi hãy cho mọi người ăn tối trước khi nghỉ. Tôi

thầm gọi bữa ăn. Tức thì một chiếc bàn tròn và mười chiếc ghế từ sàn nhà trồi lên mang

theo mười chiếc khay đựng bánh và mười cốc sữa. Ở bên phòng nữ, tôi nghĩ là chuyện

tương tự cũng đang xảy ra. Tôi mời mọi người ngồi vào bàn ăn. May báo cho tôi biết

May đang cùng ăn với đám khách nữ. Trong số diễn viên nữ, có một cô tò mò hỏi May:

Anh tên là gì?

May.

Anh là người ở đây?

Không. Tôi từ mặt đất xuống, chỉ trước đoàn có mấy phút.

Chúng em thấy anh khá giống người ở đây.

Tôi cũng là người Atlan mà!

Ủa, người Atlan bị trận đại hồng thủy nhấn chìm cách đây mấy chục vạn năm, sao

còn người Atlan trên mặt đất?

Quả thực, tôi đang ở một hành tinh cách xa Trái Đất 41 năm ánh sáng. Tôi đến Trái

Đất làm việc cho Viện nghiên cứu cùng chỗ với Kim.

Mặc dù tôi ở bên phòng nam nhưng vẫn theo dõi được cuộc đối thoại giữa May vớ

các cô diễn viên tò mò. Tôi bước sang phòng nữ, chỉ vào May:

Xin giới thiệu với mọi người, Viện chúng tôi có một chàng rể người ngoài hành

tinh là chàng May đây.

May cũng không vừa, đập lại tôi:

Còn bạn Kim đây đang là rể của hành tinh Atlantis chúng tôi.

Nghe điều lạ, mọi người hỏi dồn:

Anh Kim ơi, các cô người Atlan có đẹp không?

Tuyệt đẹp. Đẹp không còn chỗ chê – tôi trả lời.

Anh May ơi, anh thấy các cô gái Việt Nam thế nào?

May thành thực:

Khá là đẹp như các cô đây. Các bạn tôi ở nhà rất muốn lấy các cô gái ở Trái Đất

làm vợ.

Tiếng hai cô diễn viên:

Em xung phong ngay.

Em rất sẵn sàng.

Tôi quay sang bà Thúy Cải nửa đùa nửa thật:

Chị cho phép chúng em làm mai mối cho nhau nhé?

Không ngờ bà Thúy Cải nghiêm khắc:

Này, muốn làm dâu người Atlan, các cô phải về ly dị chồng mình đi đã!

Bị lật tẩy, các cô diễn viên này đỏ mặt vì ngượng. Tôi nói vội để xí xóa:

Thật tình, làm rể hay làm dâu nhà người không dễ dàng gì, nhất là ở những nơi xa

lạ, có cuộc sống khác hẳn cuộc sống quen thuộc ở quê hương. Có nhiều ca sĩ sau khi lấy

chồng Việt kiều đã bỏ nghề mặc dù trước đó, họ khá nổi tiếng.

202

Tôi ứng khẩu đọc hai câu thơ thuộc thể loại ca dao:

Bao giờ con sáo sang sông,

Đã đi theo chồng là bo cuộc chơi!

Cái nghề một khi đã vận vào mình thành cái nghiệp đâu có dễ một sớm một chiều mà bỏ

đi được, có đúng thế không, hả chị? – tôi quay sang hỏi bà Thúy Cải.

Bà trả lời tôi nhưng đồng thời cũng nói với các cô em út:

Anh Kim đây nói đúng đấy! Hãy suốt đời vì quan họ, cho đến lúc nhắm mắt.

Trước khi trở lại phòng nam, tôi dặn dò thay May:

Ở đây có đầy đủ tiện nghi cho sinh hoạt bình thường của một du khách. Nhìn qua,

ta không thấy gì nhưng khi nêu thầm ước muốn của mình, nhà khách sẽ đáp ứng tất cả.

Mỗi người có riêng một tủ quần áo, một phòng vệ sinh và buồng tắm kể cả bàn trang

điểm nếu là phụ nữ, bồn rửa mặt đánh răng, tất cả được thiết kế âm tường. Khi muốn

ngủ, hãy gọi đến chiếc giường riêng của mình với đầy đủ nệm, gối. Không khí được điều

hòa, vừa đủ mát, thuận lợi cho sức khỏe. Đến giờ ngủ, sẽ có nhạc ru nổi lên và đầu buổi

sáng hay đầu buổi chiều đều có chuông báo thức.

Trở lại phòng khách nam, tôi cũng phổ biến hệt như thế cho mọi người.

Tôi điện hỏi đạo sư có cho phép đoàn văn công đến thăm các xômachi không. Và để

làm yên lòng đạo sư, không muốn đưa ông ta vào thế ép buộc mặc dù ông có quyền cho

phép hay từ chối, tôi nói thêm:

Việc đi thăm các xômachi quả thực không có trong chương trình của đoàn lần này.

Nhưng nếu đạo sư có lòng ưu ái...

Câu nói bỏ lửng này quả có tác dụng. Đạo sư đồng ý ngay nhưng thòng theo một điều

cấm kỵ “Không được chụp ảnh”.

Sáng hôm sau, tôi phổ biến kế hoạch đi tham quan của đoàn trong buổi sáng. Tôi giải

thích trước để mọi người khỏi bỡ ngỡ:

Dưới thánh địa này, có một khu vực dành riêng cho các xômachi. Họ ngồi ở tư thế

thiền, luôn luôn giam mình trong phòng tối, trông như những xác ướp, nhưng không phải

xác ướp vì họ vẫn còn sống. Họ không ăn uống gì, cứ giữ nguyên tình trạng cơ thể lâu

hàng ngàn, hàng vạn thậm chí hàng triệu năm mà không bị phân hủy. Ở một số hang

động trên mặt đất vùng núi Tây Tạng cũng có lưu giữ những xômachi như thế nhưng

người bình thường không bao giờ được vào. Nếu ai tự tiện vào sẽ bị suy kiệt sinh lực

nhanh chóng và chết ngay tức khắc.

Sau khi mọi người ăn sáng xong, bước ra cửa thì mọi thứ trong phòng khách biến mất

sạch. Vị tu sĩ hôm nào không biết từ đâu lò dò đến. Khi gặp lại tôi, ông rất mừng và báo

cho biết theo lệnh đạo sư, ông có nhiệm vụ hướng dẫn mọi người đến thăm các xômachi.

Ông nhắc lại ai có máy ảnh hay điện thoại di động nên để lại nhà, dưới này những

phương tiện ấy không được phép sử dụng.

Tôi chuyển cho bà Thúy Cải chiếc mũ thấu thị và thấu thính, tức mũ cho phép ta nhìn

thấy được linh hồn và nghe linh hồn nói. Còn tu sĩ thì phát cho mỗi người một cây nến

điện cầm tay và đề nghị chia ra hai nhóm người bằng nhau.

Qua khỏi cửa hành lang và vào bên trong, tu sĩ mở cửa một lúc hai phòng cho hai

nhóm tha hồ nhìn ngắm. Có người mạnh dạn sờ vào cơ thể bất động của xômachi và rụt

tay ngay vì cảm giác ớn lạnh. Tôi và bà Thúy Cải nhìn thấy các linh hồn ra đón tận cửa

và tỏ lòng hoan hỉ khen buổi biểu diễn đêm qua thật tuỵệt vời và sẽ nhớ mãi kỷ niệm này.

Bà Thúy Cải ngỏ lời cảm ơn và cũng nói lại với họ rằng bà rất xúc động được phép đến

thăm các xômachi, cái may mắn này không phải ai trên mặt đất cũng dễ có được.

203

Rồi cũng đến lúc chia tay với các xômachi. Trên đường trở về, chúng tôi cảm ơn vị tu

sĩ và chào từ biệt. Tôi nói với bà Thúy Cải:

May cho chị, lần gặp này chị gặp toàn những linh hồn thân thiện. Lần gặp đầu tiên

của em ấy à, họ toàn nói móc nói cạnh, nghe chói tai không chịu được!

Họ nói gì?

Này lũ mặt đất các người, bao giờ mới thôi trò chia rẽ, hận thù, gây hấn chém giết

lẫn nhau? Lại còn phá phách điên cuồng môi trường sống!

Họ ở dưới này không chịu yên phận mình sao còn lo toan chuyện người trên mặt

đất?

Thế chị không hiểu những người đang sống yên lành với gia đình vợ con trên mặt

đất bỗng dưng tự nguyện xuống đây biến mình thành xômachi, tự giam hãm mình trong

ngục tối là nhằm mục đích gì sao?

Không! Chị quả thực không hiểu.

Đó là một sự hy sinh cao cả mà không phải ai muốn cũng được. Họ đã bị lựa chọn

sàng lọc khá nghiêm ngặt. Để một khi nhân loại trên Trái Đất chịu tiếp một ngày tận thế

mới, dù cho là do nguyên nhân nào chăng nữa, thì sau mấy trăm năm, bầu khí quyển trở

lại trong lành như xưa, chẳng lẽ con người phải bắt đầu trở lại từ đầu là con amip đơn

bào, trải qua loài lưỡng cư, rồi thành vượn rồi thành người man dã trước khi là người văn

minh như hiện giờ sao. Lâu quá, theo con đường tiến hóa của Darwin, phải cần đến triệu

triệu năm. Muốn nhanh chóng có những con người trưởng thành và vốn sẵn thông minh,

chính những xômachi thực hiện nhiệm vụ đó. Họ sẽ sống lại và với linh hồn hiện hữu

luôn ở cạnh mình, họ nhanh chóng trở thành những con người thực sự có thể sinh con đẻ

cái phát triển thành những cộng đồng đông đúc, tiếp nối nền văn minh của nhân loại

trước đây.

Xômachi có đủ cả nam nữ sao?

Vâng, cần thiết phải như thế.

Trong lúc này, May dẫn đoàn đi đến bãi trống trước sân dinh thủ lĩnh và mọi người

vô cùng ngạc nhiên không hiểu vì sao sân khấu bỗng nhiên biến mất. May giải đáp cho

mọi người hiểu là trong lúc chúng ta đang nghỉ ngơi thì chính thủ lĩnh đã di chuyển sân

khấu đi trước, đến khu vực của người Lemuri. Còn mọi người sẽ đáp máy bay đi sau.

Kìa, chiếc máy bay thủ lĩnh đã điều sẵn đến đây – May đưa tay trỏ cho mọi người

thấy.

Tôi dẫn đoàn chui vào khoang, còn May leo lên buồng lái khởi động máy. Máy bay

cất thẳng lên cao, sau đó bay nhanh về hướng Tây. Cũng như với đoàn của ông

Muldashev, khi máy bay hạ cánh và mọi nguời bước hết ra khỏi khoang tàu, tôi thông

báo:

Tương tự như trên hành tinh Lemuria, người Lemuri dưới này cao lớn khác thường.

Nếu chúng ta nhỏ con biểu diễn trên sân khấu, người Lemuri nhìn thấy sẽ tưởng đó là

những con rối búp bê nhỏ tí. Nào mọi người hãy đứng yên, chúng ta cùng phát triển cao

to lên nhé!

Vừa nói, tôi vừa hiệp lực cùng May khuếch đại mọi người kể cả bản thân cho to, cho

cao lên ước chừng cỡ mười tám mét. Tào và Mỵ cũng to cao nhưng chỉ hạn chế bằng cỡ

trẻ con của người Lemuri. Khỏi phải kể tâm trạng của mọi người lúc bấy giờ như thế nào.

Chỉ trong một thời gian ngắn, ai cũng nhìn thấy cảnh vật xung quanh trở nên bé tí. May

nhanh chóng dẫn cả đoàn đến trước dinh thủ lĩnh. Thủ lĩnh ra tận nơi vẫy tay chào và mời

mọi người vào phòng khách. Mọi người bắt gặp trở lại trang trí nội thất của người Atlan

nhưng tất cả đều to và cao hợp với vóc dáng của người Lemuri. Điều khác duy nhất ở đây

204

là bữa ăn chiều đưa ra đãi khách không phải bánh và sữa mà là trái cây cùng với nước

quả ép. Tôi giới thiệu đây là bữa ăn suốt đời của người Lemuri. Nó đầy đủ chất bổ dưỡng

để nuôi sống con người. Đến lúc này, mọi người ăn uống rất tự nhiên và đều tấm tắc khen

ngon.

Buổi biểu diễn tối nay diễn ra trong tâm trạng háo hức đợi chờ của người Lemuri và

được chào đón nhiệt liệt trong suốt hai giờ đồng hồ. Kết quả thành công thấy rõ. Khi thủ

lĩnh người Lemuri bước lên sân khấu nói lời cảm ơn và chia tay thì mọi người dân tham

dự đều đứng lên và đồng thanh cùng nói lời cảm ơn và tạm biệt giống như thủ lĩnh. Chủ

và khách đưa tiễn nhau trong không khí bịn rịn thân tình.

May báo cho chúng tôi biết đoàn không có kế hoạch ở lại nhà khách của người

Lemuri mà phải bay về lại chỗ cũ để trở về mặt đất ngay trong đêm. Máy bay trang bị

nhiều đèn nên sáng rực trong đêm. Tôi và May thu nhỏ mọi người về vóc dáng cũ rồi đưa

nhau vào khoang máy bay. Trong khi bay, tôi thu hết những thiết bị phiên dịch đã cho

mọi người mượn. Khi chúng tôi đỗ xuống bãi cỏ trước sân dinh thủ lĩnh người Atlan thì

đã thấy sân khấu được trả về chỗ cũ tự lúc nào. May bắt tay tôi rồi chào từ biệt mọi

người. Trong khi đó, chiếc máy bay tự động bay vút lên biến mất.

Tôi hối hả giục mọi người dồn hết lên sân khấu cho kịp giờ về. Tôi điện thưa với thủ

lĩnh là chúng tôi đã sẵn sàng. Bỗng một luồng gió mạnh xoáy lấy chúng tôi, bốc thẳng lên

không. Trong giây phút ngắn ngủi ấy, chúng tôi lịm đi và khi mở mắt đã thấy mình đứng

ở đúng vị trí cũ trên sân khấu và thời gian vẫn là bốn giờ chiều.

Mấy cu cậu nhóc vừa bị xua ra xa giờ quay hết trở lại, chờ xem biểu diễn. Sự việc

biến mất và hiện lại của cả đoàn cùng với sân khấu vì chỉ diễn ra có vài giây nên các em

tưởng mình hoa mắt trông nhầm. Tôi rút trong túi ra một xấp giấy bạc mười ngàn vừa

trao cho bà Thúy Cải vừa nói:

Buổi biễu diễn hôm nay vì thiếu người nên hoãn lại. Bác trưởng đoàn đây sẽ đền

công chờ đợi nhiệt tình của các cháu mỗi người mười ngàn để mua kẹo có được không?

Cháu nào đồng ý thì đưa tay ra.

Đương nhiên chẳng cháu nào từ chối cái ân huệ hiếm có này. Chúng tôi phát hết cho

khoảng hơn mười cháu, đến Tào và Mỵ thì hai cô cậu này lắc đầu một mực từ chối. Tôi

hỏi tại sao, cái Mỵ thay anh trả lời:

Chúng cháu đã được xem hai lần buổi diễn, lại được thăm thú cảnh lạ dưới thánh

đường, được ăn những thứ ngon và lạ, may mắn hơn các bạn ấy nhiều mà còn nhận tiền

nữa là không đúng chút nào!

Tôi thầm khen hai cháu con nhà ai mà ngoan quá! Sau đó, tôi trao cho bà Thúy Cải

một chiếc túi vải đựng kim cương, mỗi hạt nặng chừng hai carat. Tôi nói phần chị hai

viên và còn lại mỗi người một viên. Cũng giống như lần trước, viên này dùng hết, sẽ có

viên khác thế chỗ cho đến cuối đời mỗi người. Nói rồi, một lần nữa, tôi nói lời cảm ơn và

chào từ biệt mọi người.

Không cần giấu mình, tôi khoác tấm áo tàng hình lên người, biến mất tăm trước mắt

mọi người nhưng chưa vội đi. Để tò mò nghe thử mọi người nói gì. Các cô diễn viên

gặng hỏi bà Thúy Cải:

Thưa cô, anh Kim là phù thủy hay sao ấy?

Ừ. Một tay phù thủy có hạng.

Này, đừng có mà nói xấu người khác!

Tôi bỏ áo để lộ nguyên hình rồi sau đó ngay lập tức khoác ngay áo vào. Mọi người

không một ai ngạc nhiên hay sợ hãi bởi họ đã quá quen những cảnh lạ lùng diễn ra dưới

thánh địa.

205

Đến khi bà Thúy Cải công bố tiền công của mỗi người, mọi người reo òa lên thể hiện

niềm vui bất ngờ ngoài sự mong đợi. Lúc ấy tôi mới cất mình bay lên, đến bãi đáp của

con tàu, gọi nó xuống và bước vào cầm lái xuôi về Nam.

Sau đó, tôi còn tổ chức những đoàn biểu diễn khác nữa xuống phục vụ thánh đường.

Không hiểu thực tình hay xã giao, đoàn nào cũng được khen ngợi cổ vũ nhiệt liệt. Tôi tin

là họ nhiệt tình thực sự chứ không hề xã giao, bởi vì từ lâu những cư dân sống ở dưới

thánh đường này an hưởng thái bình và những kiểu người xấu đang hiện hữu nhan nhản

trên mặt đất không hề có cơ may tồn tại ở đấy.

Một thành công nghiên cứu ngoài mong đợi

Sau khi cuộc sống của mọi người tương đối ổn định, thầy An triệu tập toàn thể cán bộ

nhân viên của Viện, trong đó có cả cô Lan và mẹ tôi, bàn kế hoạch xây dựng và kinh

doanh thêm một số ngành nghề khác. Đầu tiên là xây dựng bệnh viện cho người nghèo.

Mọi người đều nhất trí, nhưng do không lường được những khó khăn gì có thể xảy đến

nên bàn nhau chỉ mở thí điểm một bệnh viện trước đã. Bệnh viện ấy sẽ đặt ngay tại cơ sở

cũ của Viện ở thành phố Sơn Tây. Công việc tiếp theo là xin xây dựng trường học thí

điểm dạy các học sinh từ cấp thấp đến cấp cao theo chương trình giáo dục của người

Atlan hay của người Lemuri. Bao nhiêu trường, mỗi trường mấy lớp, thu nhận con em

như thế nào, đặt ở đâu, đụng đến giáo dục là vấn đề nhạy cảm của xã hội ta hiện nay, ai

cũng thấy khó quá, có lẽ sức ta không kham nổi. Khá nhiều ý kiến bàn lùi và cuối cùng

mọi người nhất trí không đưa vào kế hoạch xin mở trường nữa.

Khi mọi người định giải tán bỗng cô Lan đặt lên bàn tờ báo Tuổi trẻ ra ngày Chủ nhật

27-4-2008 có đưa tin khá hấp dẫn: Một tô chưc mang tên “Người dân vì sự đối xử đạo

đưc với súc vât” (PETA) tru sơ tại Mỹ phát động cuộc thi sáng tạo với giai thương 1

triêu đô tinh đến ngày 30-6-2012 cho ai tìm ra quy trình san xuất thịt tươi “đúng nghĩa”

bằng phương pháp vô tinh từ tế bào mâm. Hà Lan là nước đâu tiên hương ưng với ngân

sách chinh phủ duyêt cho chi tiêu nghiên cưu lên đến 5 triêu USD. Thịt tươi san xuất

không qua giết mô từ những gia súc con sống sẽ góp phân cưu vãn Trái Đất đang bị cạn

kiêt tài nguyên và môi trường đang bị phá hoại vì kỹ nghê chế biến nông san. Cô đặt vần

đề: nên chăng là Viện ta phối hợp với hành tinh Atlantis nghiên cứu đề tài này. Nếu thành

công, ta có thể xây dựng một nhà máy chế biến thịt tươi các loại hoàn toàn theo kiểu của

người Atlan để kinh doanh bán trong nước và xuất khẩu. Điều này có ý nghĩa to lớn là

giảm bớt điều ác mà con người ngày nay đang phạm phải đối với gia súc. Nó rất phù hợp

với mục tiêu hoạt động nghiên cứu của Viện và chắc chắn sẽ mang lại hiệu quả lớn cho

đất nước. Thầy An lục tìm thông tin trên mạng và bổ sung:

Theo thống kê, Trái Đất chúng ta chỉ trong năm 1999, khi dân số là 6 tỷ nhưng đã

giết 9,7 tỷ con gia súc để phục vụ bữa ăn. Trong số thú bị giết, có 41,8 triệu con bê, 115

triệu con heo, 4,4 triệu con cừu, 303,7 triệu gà tây, 8,8 tỷ gà giò để nướng, 459 triệu gà

mái và 25 triệu con vịt. Thật đúng là một cuộc sát sinh khổng lồ ghê tởm.

Mới nghe qua, ai cũng giật mình và cho rằng đề tài này rất thú vị. Nếu phối hợp với

hành tinh Atlantis, thành công sẽ nằm trong tầm tay là cái chắc. Khi thầy An đề nghị biểu

quyết thì mọi người đều nhất trí.

Như vậy, kế hoạch còn lại là phải thực hiện hai mục tiêu đề ra: công nghệ sản xuất

thịt tươi và xây dựng bệnh viện cho người nghèo.

Đề tài quy trình sản xuất thịt tươi, từ nghiên cứu đến sản xuất, đối với Viện chúng tôi

nhờ có sự trợ giúp của hành tinh Atlantis, sẽ chắc chắn thành công trong thời gian ngắn.

206

Chúng tôi sẽ xây dựng một nhà máy có nhiều dây chuyền tự động ngay trên hành tinh

Atlantis sau đó đưa về một địa điểm nào đó chưa định trước, có thể hoặc không, ngay

trên đảo Không tên. Việc trước mắt là cử cán bộ lên hành tinh Atlantis đề nghị thủ lĩnh

chấp nhận đề tài phối hợp và bắt tay thực hiện. Ở Trái Đất, chúng tôi sẽ tìm mua tế bào

mầm chủ yếu từ nhau thai của bò, heo, gà, vịt, sau đó trữ đông và mang theo lên. Thầy

An phân công Quang và Duyên lo việc này.

Việc đến các cơ sở chăn nuôi để xin nhau thai không mấy khó khăn. Trong khi chờ

đợi các đoàn biểu diễn chuẩn bị, tôi lái tàu vũ trụ đưa Quang và Duyên cùng với các bình

trữ đông nhau thai lên hành tinh Atlantis. Mọi thủ tục xin phép thủ lĩnh hành tinh, thủ

lĩnh bang cùng với việc tổ chức nhóm nghiên cứu người Atlan diễn ra hoàn toàn suôn sẻ

chóng vánh.

Chỉ trong thời gian khá ngắn không đầy một tháng, tin vui về sự thành công của đề tài

nghiên cứu được báo về. Một xưởng sản xuất nhỏ kiểu thí điểm được xây dựng cùng với

phòng thí nghiệm gien. Từ tế bào mầm, chúng tôi nghiên cứu chỉ sử dụng gien tạo thịt

nạc và gien tạo sữa. Bốn dây chuyền chính trong xưởng nhằm sản xuất: thịt nạc bò, sữa

bò, thịt nạc heo và thịt gà. Trong môi trường chất dinh dưỡng phù hợp, các tế bào mầm

phát triển tạo thịt có thớ như thịt thiên nhiên. Giải thưởng 1 triệu USD của PETA hoàn

toàn nằm trong tầm tay của Viện chúng tôi.

Ngày đưa toàn bộ một xưởng sản xuất thịt nhân tạo trên hành tinh Atlantis về đảo

Không tên cũng long trọng không kém so với lần trước. Tuy nhiên, lần này chúng tôi chỉ

nhờ Tashi lái cho một con tàu vũ trụ đủ lớn để chứa xưởng sản xuất đã thu nhỏ đến kích

thước hợp lý và việc di chuyển lên xuống là do tôi, thầy An, May, Ngân và Sao phụ trách

chứ không làm phiền thầy Hơn và Cay. Trên đảo, đất trống còn nhiều. Chúng tôi đặt

xưởng sản xuất thịt nhân tạo bên cạnh xưởng sản xuất bánh và sữa dinh dưỡng.

Ngày khánh thành sản xuất thử, thầy An đánh công văn mời ông bộ trưởng bộ Công

thương, các vị lãnh đạo và kỹ sư công ty Vissan và xí nghiệp giết mổ gia cầm Sơn Tây.

Tôi không quên mời bà Hoàng Giang và bà Thúy Cải nhân dịp này ra thăm đảo của

chúng tôi. May lái máy bay ra Hà Nội và Sơn Tây đón đoàn của bộ Công thương và của

nhà máy giết mổ gia cầm Sơn Tây, sau đó vào thành phố Hồ Chí Minh đón đoàn của

Vissan và Dielac. Tôi dùng tàu vũ trụ đón riêng hai bà chị. Ngoài ra, thông qua lãnh sự

quán Hoa Kỳ tại thành phố Hồ Chí minh, thầy An còn mời đại diện của PETA đến chứng

kiến thành quả. Việc đi về của vị đại diện này do tôi phụ trách.

Trước khi giới thiệu xưởng sản xuất thịt và sữa nhân tạo, thầy An mời các vị khách đi

rảo quanh hòn đảo để xem cảnh quan nơi Viện chúng tôi sống và làm việc. Khi đến vườn

cây ăn trái do Cay tặng, tôi giới thiệu cho mọi người biết các cây cho trái to và thơm

ngon khác thường là do lấy giống từ hành tinh khác về. Chúng đầy đủ chất bổ dưỡng đến

nỗi người của hành tinh này chỉ ăn trái cây và uống nước ép từ quả suốt đời mà sống thọ

và không bệnh tật. Chúng tôi cũng giới thiệu cho khách về trang trí nội thất hoàn toàn tự

động theo mẫu chung cư của người Atlan. Sau đó chúng tôi còn cho khách xem qua nhà

máy sản xuất bánh và sữa dinh dưỡng. Các vị khách cũng được nếm thử sản phẩm và

cùng gật đầu khen ngon. Phải nói thêm, tất cả những cái này đã quá quen thuộc với bà

Hoàng Giang và bà Thúy Cải.

Đến lượt giới thiệu xưởng sản xuất thịt nhân tạo. Quy trình sản xuất ở đây cũng hoàn

toàn khép kín và tự động hóa cao. Các vị khách chỉ nhìn được đầu ra của sản phẩm. Đó là

những khuôn nhựa dài bốn tấc, rộng ba tấc và cao ba tấc chứa đầy thịt nạc có thớ. Một

dây chuyền khác cho ra những bình sữa trắng đầy.

207

Bên một cái bếp đốt bằng cồn khô cùng với chiếc chảo chứa sẵn dầu, mẹ tôi thái từng

miếng thịt mỏng đưa lên rán và dùng kẹp gắp cho vào đĩa mời quan khách nếm thử. Ở

cách đấy không xa, trên mặt một cái bàn thấp, cô Lan rót sẵn vào cốc có đường thứ nước

sữa tươi vừa được ra lò để quan khách uống thử. Ai cũng tấm tắt khen ngon và hoàn toàn

nhất trí rằng những mẫu thịt và sữa này có thể thay thế tuyệt đối thịt và sữa thiên nhiên.

Tuy nhiên trước đó, chúng tôi cũng thận trọng cho mẫu đi thử nghiệm để có số liệu

chứng minh thịt và sữa nhân tạo hoàn toàn có đầy đủ hàm lượng các chất dinh dưỡng cần

thiết kể cả các chất vi lượng y hệt thịt và sữa tự nhiên.

Một “lò sát sinh” hoàn toàn vắng tiếng rên la của các con thú bị giết cùng những máu

me và lông, móng nhưng ùn ùn phía cuối dây chuyền là những thịt nạc và sữa hoàn toàn

sạch và an toàn đóng gói sẵn, phải chăng đó một xưởng sản xuất thực phẩm lý tưởng và

đầy tính nhân đạo?

Chúng tôi tổ chức bữa ăn trưa cho khách với nguyên liệu chính là thịt bò. Cô Lan và

mẹ tôi làm đầu bếp chính, có Duyên phụ giúp. Rau mua ở chợ Sài Gòn về rửa sạch và

dùng máy sục khí ozon bảo đảm an toàn. Bánh phở tìm loại không chứa hàn the và chất

tẩy trắng tinopal. Bữa tiệc chủ yếu là phở bò tái, ragu bò ăn với bánh mì, bíp tết ăn với

rau xà lát và cà chua. Thấy An ngồi tiếp khách nhưng viện cớ ăn chay nên không tham

gia. Mọi người trong Viện cũng thế. May và Sao thì tránh xa bữa tiệc bởi không chịu nổi

mùi tanh. Riêng tôi ngồi bên hai bà chị cứ điềm nhiên ăn ngon lành mà không phải chịu

đựng một sự phản ứng nào của cơ thể.

Ngay sau đó, trước sự có mặt của ông bộ trưởng bộ Công thương, đại diện PETA

công bố quyết định thừa nhận Viện Vật lý của chúng tôi đã hoàn thành được đề tài nghiên

cứu và trao giải là tấm bằng chứng nhận kèm một triệu đô la tượng trưng. Tiếp theo,

chúng tôi một bên là viện Vật lý và bên kia là công ty Vissan và công ty giết mổ gia cầm

Sơn Tây đã ký kết hợp đồng chìa khóa trao tay xây dựng hai nhà máy sản xuất hoàn toàn

tự động thịt bò, thịt heo cho Vissan và thịt gà, thịt vịt cho Sơn Tây. Từ lúc có nhà máy

sản xuất thịt nhân tạo, những công ty này chấm dứt mua trâu, bò, lợn, gà và khuyến cáo

nông dân hãy chuyên tâm sản xuất lương thực, tránh những tai họa đã và đang xảy ra làm

đau đầu nhiều người như bệnh bò điên, bệnh lở mồm long móng, dịch heo tai xanh, virus

H5N1. Còn những nhà môi trường học thì thoát khỏi mối lo sử dụng thịt và sữa của

những con thú bị biến đổi gien.

Xưởng sản xuất thịt và sữa nhân tạo ở đảo Không tên, chúng tôi vẫn giữ chứ không

bán đi. Phòng thí nghiệm được coi trọng và lấy thêm nhiều cử nhân hoặc kỹ sư sinh học

làm việc. Đối với tế bào gốc của bò, ngoài việc sử dụng để làm ra thịt, sữa, chúng tôi còn

sản xuất ra da phục vụ cho ngành giày da.

Riêng bò, đặc biệt có giống bò Kobe. Kobe là một thành phố vừa là trung tâm hành

chính vừa là một cảng biển của Nhật nằm trên đảo Honshu. Bò Kobe nổi tiếng đắt nhất

thế giới bởi đặc điểm thịt nạc lẫn đều những đường gân mỡ chạy dài bên trong, rất mềm

và ăn rất ngon. Nghề nuôi loại bò này cũng lắm công phu. Bò được ăn bắp (ngô), uống

bia và mát xa hằng ngày với rượu sake. Giá bán loại thịt này tại Việt Nam hiện tại là hơn

2 triệu đồng/kg. Nhà hàng Nishimura, khách sạn Omni Saigon đang bán một loại lẩu giấy

có tên là Kaminabe giá 35 USD trong đó có thịt bò Kobe kèm đậu hũ, nấm Enoki và

Shitake, mì Udon, rau,... uống cùng rượu sake. Khi Viện chúng tôi sản xuất được loại thịt

bò này, chắc chắn nhà hàng Nishimura sẽ là khách hàng ruột của chúng tôi và người Việt

chúng ta sẽ được thưởng thức món ăn đặc biệt này của Nhật sản xuất ngay tại Việt Nam

với giá phải chăng.

208

Về gia cầm các loại như gà, vịt, ngoài việc sản xuất thịt còn có trứng. Với ngỗng,

chúng tôi sản xuất ra gan phục vụ ngành chế biến patê.

Viện chúng tôi còn xây dựng dây chuyền sản xuất sữa bò bán cho các công ty

Vinamilk, nhà máy Dielac. Dùng tế bào gốc lấy từ nhau thai các em bé sinh ở bệnh viện

Từ Dũ, chúng tôi đã nghiên cứu thành công và sản xuất được loại sữa đặc biệt giống hệt

sữa người và được ngành y tế rất hoan nghênh. Loại sữa này, Vinamilk đặt tên là

Mommilk, còn Dielac đặt tên là Babylac, ý nói loại sữa này là từ các bà mẹ chứ không

phải từ bò mẹ và dùng cho bé chứ không phải cho bê. Từ nay, những bà mẹ thiếu sữa hay

các em bé mồ côi từ khi mới lọt lòng sẽ không phải uống sữa bò nữa, thứ sữa mà bò tiết

ra nhằm mục đích nuôi bê đâu phải để nuôi người.

Viện chúng tôi còn phát triển rộng hơn, sản xuất thịt của các thú rừng bán khá rẻ

ngang bằng giá với thú nhà để bảo vệ các động vật hoang dã. Những nhà hàng đặc sản

nườm nượp đến đặt hàng, chúng tôi sản xuất không kịp bán.

Còn một đề tài mà trong tương lai gần, chúng tôi sẽ nghiên cứu tiếp: sản xuất thịt cá,

trứng cá và thịt các loại thủy hải sản khác. Vấn đề đặt ra là tìm tế bào gốc của chúng và

lấy ra như thế nào, nuôi cấy làm sao. Mục tiêu cuối cùng và cao cả của Viện chúng tôi là

đem lại cho loài người trên Trái Đất này một phương tiện tạo ra những sản phẩm gốc

động vật thông dụng mà không phải sát sinh. Nhiều lúc tôi tự hỏi, nếu chúng tôi không

sát sinh mà vẫn có thịt, có cá thì các nhà tu hành có nhất thiết phải ăn chay nữa không.

Bởi vì việc ăn chay vốn xuất phát từ tình thương những con thú bị loài người ra tay giết

hại không thương tiếc. Tuy nhiên, việc ăn chay thực chất là kiêng thịt cá chứ đâu phải

không sát sinh. Vẫn phải giết thực vật lấy nó làm thực phẩm nuôi sống mình. Đừng nghĩ

thực vật là vô tri, không sợ chết, không la hét trước khi bị nhổ, bị cắt. Có điều chúng ta

không đủ giác quan để nhận biết những thông tin do thực vật phát ra mà thôi. Chỉ có ăn

uống theo kiểu người Lemuri hay người Atlan thì mới hoàn toàn không phạm tội sát sinh.

Hoặc là nhịn ăn hẳn như tôi đây, bởi nhờ năng lượng vũ trụ hấp thu được mà tôi sống

đàng hoàng không bị lệ thuộc vào chuyện ăn uống nhiêu khê mất nhiều thì giờ bàn cãi.

Bán nhà máy và bán công nghệ sản xuất, trong hợp đồng, Viện chúng tôi không nhận

tiền ngay một lúc mà chuyển chiết khấu 0,1% lợi nhuận của công ty vào tài khoản của

Viện chúng tôi trong vòng mười năm. Sau sự kiện hai công ty mua công trình của Viện

chúng tôi, 64 tỉnh thành trong nước ùn ùn cử người đến Viện chúng tôi xin mua nhà máy

và mua công nghệ. Chúng tôi đáp ứng hết thảy mọi yêu cầu của các tỉnh. Việt Nam bỗng

dưng chỉ trong vài năm đã không những đủ thịt và sữa dùng trong nước mà còn xuất khẩu

ra ngoài, cạnh tranh với cả Mỹ là quốc gia lâu nay vẫn ở tốp dẫn đầu các nước xuất khẩu

thịt.

Bé Mai và bé Hay viếng thăm Trái Đất

Người lớn phàm đã hứa là phải giữ lời, nhất là với các em bé dẫu có phải khó khăn

đến mấy. Chuyện tôi hứa với bé Mai ở hành tinh Lemuria sẽ sắp xếp cho em viếng thăm

Trái Đất, trong lúc tôi đã đi đi về về nhiều lần từ Trái Đất đến hành tinh này, gặp em

thường xuyên mà không thực hiện lời hứa thì chẳng phải người lớn.

Có thể nói, công việc tôi đang làm ở viện Vật lý dạo này đã ổn định và đi vào nề nếp,

không cảm thấy bấn như dạo trước. Vì vậy, tôi có thời gian để thực hiện lời hứa. Tuy

nhiên tôi phải xin phép trước tiên bố mẹ của Cay. Cay là người bạn thân thiết của tôi từ

khi tôi đặt chân đến hành tinh Lemuria và là người giúp đỡ tôi nhiều nhất. Cay bằng tuổi

tôi, là anh cả trong gia đình gồm bố mẹ và hai đứa em gái tên Mai và trai tên Hay. Gia

209

đình Cay từ lâu xem tôi như con cái trong nhà và hai đứa nhỏ xem tôi như là người anh

ruột thân thiết và không hề nghiêm khắc chút nào. Những khi Cay trách mắng chúng thì

tôi lại bênh vực chúng, bênh nhưng có lý có tình chứ không phải nuông chiều. Thứ nữa,

tôi phải xin phép thầy An, viện trưởng, bởi vì tự dưng rước hai em bé ở một hành tinh

khác về ở chơi với mình thật không đơn giản chút nào. Những lần đón tiếp ông Mun rồi

đến Cay và cuối cùng là thầy Hơn, mọi người ở Viện chúng tôi đã nếm mùi vất vả tất bật

như thế nào. Bởi vì người Lemuri to con và cao lớn đến hàng mươi mét, còn hai em bé,

nói là bé nhưng bé bự, to cao cũng cỡ năm bảy mét chứ đâu có ít.

Nhân có một lớp bồi dưỡng tri thức và quyền năng cho các nhân viên mới của Viện,

tôi lái tàu vũ trụ đến hành tinh Lemuria đón thầy Cay. Nhân thể tôi xin phép bố mẹ Cay

đưa hai bé Mai và Hay viếng thăm Trái Đất một chuyến. Tôi nêu vấn đề ngay khi vừa

ngồi vào bàn ăn ngày đầu tiên đến hành tinh Lemuria:

Thưa hai bác, nhân dịp đón Cay về Trái Đất giảng cho một lớp mới, cháu xin phép

hai bác cho hai em Mai và Hay đi cùng để cho biết đó biết đây.

Mai được dịp nói to:

Hoan hô anh Kim!

Cay trừng mắt nhìn em:

Này, đừng có mà phiền nhiễu!

Tôi nói vội:

Không đâu! Chả là mấy lần trước, bé Mai ao ước được đến thăm các bạn ở Trái Đất

một chuyến, cháu hứa nhưng bận quá chưa thực hiện được. Lần này có Cay đi cùng, chắc

chắn ngoài giờ dạy có thể chăm sóc trông chừng hai em, hai bác khỏi phải lo lắng gì!

Ông đưa mắt hỏi bà:

Bà thấy thế nào, cho chúng nó đi chơi một chuyến chứ?

Bà trả lời giọng lạc hẳn đi như muốn khóc:

Chúng nó đi cả, nhà vắng tiếng trẻ con, tôi nhớ chúng lắm. Thằng Cay lớn rồi đi

bao lâu cũng được, nhưng đằng này hai đứa còn bé quá!

Bằng giọng dịu dàng, ông an ủi:

Đành là thế! Nhưng chúng đi chốc lát rồi lại về thôi mà! Chúng nó sẽ bi bô kể lắm

chuyện lạ tha hồ mà nghe.

Bà cười gượng, hỏi hai con:

Bé Mai, bé Hay đi xa không nhớ nhà, nhớ bố mẹ sao?

Bé Mai nhũn nhặn:

Con sẽ cố gắng như anh Cay, không nhớ nhà!

Bé Hay giọng ỉu xìu, trả lời có vẻ như tự an ủi mình:

Con nhớ...nhưng có chị Mai chơi cùng, chắc không sao đâu!

Bà nói lời quyết định cuối cùng như một mệnh lệnh:

Ta và ông ấy giao cho hai anh phải chú ý hai đứa nhỏ, đừng để chuyện gì đáng tiếc

xảy ra đó!

Vâng ạ! – tôi trả lời thay Cay.

Thế là chiều hôm ấy, sau khi ghé thăm thầy Hơn, tôi và Cay đưa hai bé đi cùng lên

tàu vũ trụ do tôi lái bay thẳng về Trái Đất. Đương nhiên trước đó, Cay phải tự mình cùng

với hai em làm nhỏ lại mới chui lọt được vào trong khoang tàu. Tôi cũng không quên cho

tàu bất động lơ lửng trên vùng phát năng lượng vũ trụ của hành tinh, cho mọi người được

“tắm” để giữ sức suốt cả hành trình mấy ngày không ăn uống, không vệ sinh. Hai em bé

tò mò nhìn ngắm cảnh vật xung quanh qua cửa sổ con tàu nhưng rồi khi tàu rời khỏi thái

210

dương hệ của mình, cả không gian vũ trụ bao quanh tối đen không còn nhìn thấy gì nữa,

hai bé phát chán. Tôi khuyên mọi người đi ngủ và bật chế độ lái tự động. Bốn chiếc

giường từ trong thành tàu mở ra cùng với tiếng nhạc ru du dương mê hoặc làm mọi người

ríu mắt không sao cưỡng lại được giấc ngủ chợt đến. Đó là những bản nhạc ru tôi chép

được từ hành tinh Atlantis.

Chỉ khi con tàu bay vào vùng ảnh hưởng của thái dương hệ của Trái Đất, tiếng còi hú

rít đánh thức chúng tôi. Trẻ con thường ngủ say nhưng lần này, hai bé choàng ngay dậy,

mặt mày tỉnh rụi. Tôi chỉ cho hai bé thấy trên màn hình của tàu hình ảnh Mặt Trời cùng

những hành tinh quay xung quanh, trong đó sao Thổ rồi đến sao Mộc. Sao Mộc lớn nhất

trong các hành tinh ở đây. Còn sao Thổ có vành đai nhiều vòng màu sáng rực khá đẹp.

Trái Đất, nơi mà chúng ta sẽ bay đến hiện còn nhỏ xíu. Hai bé ngắm nhìn cảnh tượng

trông thấy lần đầu trong đời không chớp mắt. Hay thành thực đề nghị:

Anh Kim cho tàu đỗ xuống sao Thổ đi anh. Ngôi sao này đẹp quá!

Đâu có được! – tôi trả lời – Ngôi sao này toàn là khí không hà! Khi cho tàu đỗ

xuống, nó sẽ chìm trong khối khí hydro và heli và chúng mình sẽ chết ngạt ngay tức

khắc. Vả lại ở đó nhiệt độ âm 130 độ rất lạnh, bốn anh em sẽ bị chết cóng và đóng thành

băng cứng như đá.

Mặt hai bé tiu nghỉu trông thật thảm hại. Ai ngờ vũ trụ trông đẹp thế nhưng lại chết

người. Đó là chưa kể những tia bức xạ không thể nhìn thấy nhưng đầy rẫy khắp nơi, là sát

thủ đáng gờm mà con người phải tìm cách tự bảo vệ trong khi du hành không gian.

Trái Đất hiện rõ dần và to dần trên màn hình. Màu của nó khá đẹp. Này nhé: các đại

dương có màu xanh thẫm, những rừng rậm có màu xanh lá cây đậm, xen lẫn với màu nâu

hay vàng nhạt của những vùng đồi núi sa mạc. Tôi chỉ cho hai em thấy dải đất hình chữ S

của Việt Nam và ở đáy chữ S có một hòn đảo mà sắp đến chúng ta sẽ hạ cánh. Bé Mai

hỏi:

Hòn đảo ấy ở chỗ nào hở anh Kim?

Nó nhỏ lắm khi nhìn từ trên cao nhưng đã được che giấu kỹ nên ta không thể nhìn

thấy.

Tôi nói chưa dứt câu, con tàu đã tự động nhẹ nhàng đỗ xuống bãi đáp. Do đã điện báo

trước, những ai hiện có mặt ở Viện đều ra đón chúng tôi. Gặp lại những người cũ từng

đến nhà mình trên hành tinh Lemuria như thầy An, cô Lan, mẹ tôi, Ngân, Duyên, hai bé

mừng lắm. Hai bé ríu rít:

Chào thầy, chào các cô, chào các chị ạ!

Mọi người đều chào lại hai em. Cô Lan hỏi:

Hai con đi có mệt lắm không?

Không ạ! – Bé Mai thay cả em đáp lời – Chúng con được anh Kim cho tắm năng

lượng nên rất khỏe ạ.

Tôi xin hỏi ngay một câu. Trong khi đọc đến đây, có bạn nào thắc mắc tại sao hai bé

Mai và Hay học tiếng Việt lúc nào mà nói năng đối đáp sõi thế? Không đâu. Hai bé vẫn

nói tiếng mình, tiếng của người Lemuri nhưng tôi và mọi người ở Viện đã có năng lực

nắm bắt được ý nghĩ của hai bé nên hiểu được hết những điều các bé nói. Còn khi chúng

tôi nói là nhờ có năng lực truyền thông tin nên các em hiểu ngay ý nghĩ của mình. Lời nói

của hai bên ở đây chỉ như tiếng sóng vỗ, tiếng gió thổi hay tiếng suối reo mà không cần

mang nội dung. Thế nếu ngay lúc này có những bạn câm điếc thì các bạn ấy có nghe cuộc

đối thoại giữa những người lành lặn không? Có chứ! Những bạn ấy vẫn nghe được và

chính điều này nếu có điều kiện, Viện chúng tôi có thể mở một trường tiểu học dạy chung

các bạn lành lặn với các bạn bị khuyết tật như mù và câm điếc mà không cần mở trường

211

chuyên thường mang tên Nguyễn Đình Chiểu. Trong thực tế hiện nay, đã có trường

chuyên dạy cho người mù bằng chữ Braille và trường chuyên dạy cho người câm điếc tuy

dùng chữ bình thường nhưng khi nói với nhau phải bằng quy ước ở các ngón của hai bàn

tay.

Trở lại chuyện của hai bé người Lemuri. Mẹ tôi xin phép dắt hai bé vào chung cư và

bố trí cho ở cùng phòng với mẹ. Mẹ dặn hai bé đủ mọi điều cần thiết trong sinh hoạt như

cất bọc quần áo ở đâu, đánh răng rửa mặt và tắm ra làm sao, đi vệ sinh như thế nào.

Cô nói để các con hiểu và làm theo nhé! Muốn cất quần áo, hãy thầm gọi tủ “Tủ ơi

hãy mở ra”. Nào, bé Mai, con gọi đi!

Bé Mai nói ngay:

Tủ ơi, hãy mở ra!

Thế là ở bức tường đối diện, chiếc tủ từ bên trong thòi ra. Không cần chờ đợi, bé Hay

vơ vội bọc quần áo của mình và của chị lặc lè mang đem cất vào tủ. Rõ dáng đàn ông

chính hiệu! Xong việc, chiếc tủ rụt lại, biến mất tăm trong tường trước cặp mắt ngỡ

ngàng của hai bé.

Mẹ tôi lại bảo:

Muốn rửa mặt, đánh răng, hãy nói “Tôi muốn rửa mặt, tôi muốn đánh răng”

Hay nói ngay:

Tôi muốn rửa mặt...

Tức thì cái bồn rửa mặt giấu kỹ trong tường hiện ra. Đến lúc này, không cần mẹ tôi

bày thêm, hai chị em lần lượt gọi:

Tôi muốn đi vệ sinh.

Phòng vệ sinh từ bức tường nhô ra.

Tôi muốn đi tắm.

Buồng tắm lại từ bức tường hiện ra.

Mẹ tôi dẫn hai bé vào buồng tắm và cũng dặn:

Nơi đây có vòi sen nóng và lạnh. Muốn tắm, hãy bảo “Xin cho nước ấm”, hai vòi sẽ

hòa chung nước cho ra nước ấm. Khăn tắm, xà phòng thơm đầy đủ. Quần áo mặc trong

nhà cũng sẵn. Quần áo bẩn mang ra ngoài nhờ máy giặt tự động giặt sạch và sấy khô.

Nếu con muốn ăn? – Hay tò mò hỏi.

Thì các con cứ bảo “Tôi muốn ăn”.

Hay thực hiện ngay lệnh muốn ăn.

Lập tức một chiếc bàn cùng ba chiếc ghế từ sàn nhà trồi lên. Trên bàn hiện ra ba

khay, mỗi khay đựng hai phong bánh cùng một cốc sữa trắng. Tuy nhiên, trong phòng nổi

lên còi báo động rối rít. Mẹ tôi vội nói to:

Chúng tôi chưa muốn ăn.

Bàn ghế tụt ngay xuống sàn đồng thời các khay bánh và sữa cũng biến mất. Bấy giờ,

tiếng còi mới im. Mẹ tôi bảo:

Mới ba giờ chiều, đã đến giờ ăn đâu. Ta gọi bậy là căn phòng hú rít tự động phản

đối đó.

Hai bé chưng hửng, không dám tiếp tục trò chơi mới lạ nữa.

Mẹ tôi được thầy An phân công chăm sóc hai bé, dẫn chúng thăm thú mọi nơi trên

đảo. Sáng ra biển tắm, hai bé tha hồ vẫy vùng sóng nước. Hay thắc mắc :

Sao biển mặn quá! Ai cho muối vào đây nhỉ?

Mẹ tôi hỏi:

Thế trên hành tinh Lemuria, con chưa bao giờ được tắm biển ư?

212

Chưa ạ! Nhà con không gần biển. Với lại, từ nhỏ đến lớn, con chỉ biết tắm sông

thôi. Nước sông trên con nhạt mà trong vắt, uống rất ngon và đã khát. Ở Trái Đất, chỉ có

biển chứ không có sông sao, thưa cô.

Có chứ. Nhiều lắm nhưng chúng nằm trong đất liền. Cô đoan chắc rằng nước biển

trên hành tinh Lemuria cũng mặn như ở đây.

Mai nhắc lại thắc mắc của cậu em bởi vì tự mình không trả lời được:

Thế sao nước biển lại mặn hở cô?

Nước sông cũng có muối nhưng vì quá ít nên ta uống không thấy mặn. Nước sông

hàng ngày đổ ra biển, nước biển bốc hơi nhưng muối thì đọng lại, tích tụ lâu ngày nhiều

dần lên. Trải qua hàng triệu năm, lượng muối trở nên quá nhiều làm cho nước biển có vị

mặn.

Mẹ tôi còn nói thêm:

Ở trong đất liền có một hồ nước lớn tên gọi là Biển Chết. Nó nằm giữa biên giới

Israel, Palestine và Jordan. Muối trong biển nhiều gấp 9 lần lượng muối ở các biển khác.

Nước bốc hơi làm biển ngày càng cạn kiệt. Chỉ mỗi sông Jordan chảy vào cung cấp nước

cho biển nhưng mỗi năm một ít đi. Người ta e rằng cuối thế kỷ 21 này, biển sẽ khô để lộ

ra khoảng 110 tỷ tấn muối đủ cho 40 tỷ người dùng trong 2 nghìn năm. Do quá mặn nên

tôm cá biển không sống được. Cũng do lượng muối trong biển cao nên hiện nay, sức đẩy

lên của nước rất lớn. Lỡ có người sảy chân rơi xuống biển cũng không chết chìm. Du

khách thường đến đây tắm nước biển để chữa một số bệnh như phong thấp, co thắt cơ,

bệnh về da rất có hiệu quả. Điều thú vị là dù có biết bơi hay không, cứ nằm xuống thì

được nước nâng ta nổi bồng bềnh trên sóng, nằm ngửa che dù đọc sách báo thoải mái.

Bé Mai phán một câu kết:

Ở Trái Đất, có lắm điều thú vị thật!

Khi tôi nói lại nhận xét này cho Cay, Cay bảo:

Rồi hẵng xem, chừng nào chúng nó vào thăm đất liền, sẽ biết Trái Đất “thú vị” đến

cỡ nào!

Nhưng đâu cần chờ cho đến khi vào đất liền. Ngay tối hôm ấy, xem tivi, hai bé nhận

ra ngay là mình nhầm.

Buổi chiều, mẹ tôi không cho chúng tắm biển mà cả ba cô cháu chỉ nằm dài trên bãi

cát trắng và sạch tinh tươm của đảo để ngắm trời mây.

Nhớ lại câu chuyện Biển Chết khi sáng, bé Mai đề nghị:

Anh Kim đưa chúng con đến Biển Chết chơi, được không ạ?

Không được đâu!

Tại sao?

Vì ở đấy đang có chiến tranh.

Chiến tranh là gì ạ?

Là cảnh nhiều người bắn giết lẫn nhau, máu đổ và một số người chết.

Eo ôi, khiếp quá!

Trong khi nhìn trời, bé Hay hỏi:

Ở Trái Đất, luôn luôn cứ trời xanh mây trắng thế sao cô?

Không hẳn. Đôi lúc vẫn có mưa chứ. Ở vùng này, hễ vào mùa mưa là mưa sẽ tầm tã

suốt ngày. Cứ ngồi nhà mà nhìn trời mù mịt mưa chứ không đi chơi đâu được. Thế trên

hành tinh Lemuria, trời có mưa không?

Có chứ ạ! – Bé Mai đáp – Cũng mưa mù trời, trẻ con không đi chơi đã đành nhưng

được cái tắm mưa rất thích.

213

Trong ngày, mẹ tôi dẫn hai bé thăm bãi đáp có máy bay siêu thanh và con tàu vũ trụ,

thăm nhà máy sản xuất bánh và sữa, thăm vườn cây ăn quả do anh Cay tặng. Nhìn thấy

vườn cây giống hệt như ở nhà mình, Hay nói to:

Hãy cho Hay mấy quả đi! Những quả chín mọng ấy.

Tức thì từ trên cây, hai quả chín mọng màu đỏ rơi nhẹ nhàng xuống ngang đến tầm

mắt của hai bé thì dừng lại, lơ lửng trên không. Hai chị em mỗi đứa đưa hai tay chộp lấy

một quả và nói lời cảm ơn. Hàng cây rung rinh ra chiều chấp nhận mặc dù lúc này trời

đang lặng gió. Nhìn cái cảnh trẻ con Lemuri đối xử với cây trái giống lấy từ hành tinh

Lemuria mà mẹ tôi thấy xúc động. Trái Đất có câu “Ăn quả nhớ kẻ trồng cây” thì người

Lemuri lại nói “Ăn quả nhớ ơn cây”, xem cây như một thực thể bình đẳng hoàn toàn với

người.

Buổi tối, trong bữa ăn chiều, khi chúng tôi ăn bánh và uống sữa theo phong cách của

người Atlan thì ba anh em Cay, Mai và Hay chỉ ăn trái cây. Trái cây do Cay hái. Nước

trái cây đem ra từ tủ lạnh là do mẹ tôi biết ý, đã dùng máy ép chuẩn bị từ trước nhưng ép

từ trái cây Việt Nam. Khi uống đến nước trái cây, ba anh em khen thơm và ngon. Buổi

tối, cả nhà gồm mẹ tôi, tôi và ba anh em ngồi quây quần trước bức tường trong nhà để

xem tivi và nghe tin tức. Cay bảo hai em:

Những hình ảnh mà các em nhìn thấy là cảnh thực đang xảy ra trên Trái Đất. Rồi

các em sẽ thấy Trái Đất chẳng thú vị chút nào đâu!

Quả đúng như thế thật. Cảnh lũ lụt tàn phá Myanmar để lộ bao nhiêu thây người nổi

lều bều trên mặt nước. Động đất làm đổ vỡ các căn nhà, chôn vùi bao nhiêu con người ở

Tứ Xuyên Trung Quốc trong đống gạch đá đổ nát. Nhìn thấy cận cảnh những em bé mồ

côi đang sợ hãi và đói khát, hai bé người Lemuri run lên. Rồi thì, ở Iraq và Afghanistan,

chiến tranh đổ máu diễn ra hằng ngày, người dân than khóc vì mất mát và đau thương.

Hai bé chưa hề nhìn thấy những cảnh ấy trở nên sợ hãi thực sự. Mẹ tôi tắt chương trình

và chuyển vội sang kênh văn nghệ thiếu nhi. Nhưng hai cô cậu không còn hứng thú, ngáp

dài. Mẹ tôi bảo:

Suốt ngày chỉ rong chơi quanh vùng mà không ngủ trưa, bây giờ đi ngủ được rồi.

Nào hai giường cho các bé!

Mẹ tôi ra lệnh và hai chiếc giường nệm đầy đủ chăn gối trắng tinh từ sàn nhà trồi lên.

Tôi nói thêm:

Hãy khoan! Hai em vào phòng vệ sinh đã rồi mới được ngủ.

Trẻ con không bị mót tiểu trong lúc ngủ sẽ bảo đảm an toàn cho giường nệm, bởi nếu

không, căn nhà sẽ hú còi báo động, phiền lắm! Tôi chợt cảm thấy sống trong căn nhà tự

động chưa hẳn đã là điều hay. Nhiều khi bị bó buộc đến bực cả mình, lúc nào cũng có

cảm giác mình bị soi mói, dò xét. Cay từ bên ngoài bước vào, ngăn lại:

Không! Hãy để ba anh em tôi ngủ ngoài trời.

Chuyện ngủ ngoài trời của ông Mun và Cay trước đây tại Sơn Tây, chúng tôi chẳng lạ

lùng gì. Mẹ tôi gật đầu đồng ý. Tức thì dùng thuật sao chép, Cay tạo ra ba chiếc giường

đầy đủ chăn, gối ngay tại sân bóng đá của Viện. Sau đó, Cay tự khuếch đại mình, hai em

và ba chiếc giường rộng và dài ra vừa đủ cho mỗi người nằm. Cay còn tạo ra một chiếc

vòm trong suốt che chắn bên trên, phòng khi trời bất ngờ đổ mưa. Vòm xua được muỗi và

sâu bọ có cánh khác. Mọi người cũ của Viện quá quen cái cảnh này, duy chỉ mấy nhân

viên mới thì thấy lạ cho cái cách ngủ ngoài trời của ba anh em người khổng lồ.

Hôm sau, mới sáu giờ sáng, tôi đã thấy ba anh em trong dạng nhỏ con dắt díu nhau

trở vào chung cư. Cay bảo phải thu nhỏ chúng lại kẻo quen thói ở nhà sáng sớm đã chạy

nhảy tung tăng giẫm bẹp hết các công trình ở đây. Tôi hỏi Cay:

214

Thế mấy chiếc giường, Cay cất ở đâu?

Chuyện vặt! Đã biết sao chép thì cũng phải biết biến chúng đi chứ! Kim làm được

chuyện này mà.

Quên đi mất. Tôi hỏi cho có chuyện chứ tôi đâu có thua Cay. Ban đêm nếu muốn, tôi

có thể sao chép thêm một chiếc giường nữa, làm cho nó dài và rộng thêm ra. Đồng thời

tôi biến mình thành người cao lớn như Cay rồi cùng ngủ chung dưới một mái vòm như ba

anh em nhà họ, đâu có khó gì!

Sáng hôm nay, tôi có nhiệm vụ đưa hai bé vào thăm đất liền. Vì May đang ở hành

tinh của mình nên tôi tự lái máy bay ở chế độ tàng hình. Tìm đến một vườn hoa rộng ở

trung tâm thành phố Hồ Chí Minh, tôi bảo đỗ xuống rồi quàng áo tàng hình vào người và

vào hai em, chúng tôi bước ra khỏi khoang. Ba anh em kéo nhau đi một lúc đến chỗ vắng,

tôi thu hết các áo cho vào túi và cùng hiện nguyên hình. Nhìn thấy cảnh lạ mắt nhưng hai

cô cậu vẫn chạy nhảy tung tăng khá vô tư. Xe buýt, xe máy chạy ào ào trên đường phố

làm hai bé choáng ngợp. Hình như không quen với không khí ô nhiễm của thành phố, hai

bé cảm thấy mệt mỏi. Đưa nhau vào siêu thị, hai bé bị tôi dắt đi ngơ ngác vì không hiểu

người ta đang làm gì mà chen nhau đông đúc. Tôi mua mấy phong bánh sôcôla và mấy

thỏi kẹo su rồi vội vàng đi ra. Đi loanh quanh trên các đường phố, nhìn thấy trường học

có các em bé cỡ tuổi mình quàng khăn đỏ tung tăng trong giờ ra chơi, bé Hay thắc mắc:

Các bạn đang làm gì trong ấy hở anh Kim?

Các bạn đang học. Hiện tại, các bạn nghỉ giải lao giữa buổi.

Đang nói, chợt nhìn thấy có mấy em nhỏ ăn mặc luộm thuộm bẩn thỉu chị lớn cõng

em nhỏ ngửa tay xin tiền, bé Mai thắc mắc:

Sao mấy bạn này không đi học mà ngửa tay làm gì thế?

Mấy bạn này nghèo, thiếu ăn, không đủ tiền học phải đi ăn xin.

Ăn xin là gì anh Kim.

Là xin người ta cho tiền để mua thức ăn.

Tiền là gì?

Tôi rút từ túi ra mấy tờ giấy bạc, chìa ra cho hai bé xem. Lúc đó, các em bé nhếch

nhác bu lại. Tôi phân phát đủ, mỗi em mười ngàn đồng và kéo vội hai bé lánh xa. Bé Hay

vừa đi vừa ngoái lại nhìn các em bé ăn xin, còn bé Mai thì lầu bầu trong miệng:

Ở Lemuria, không có cảnh này. Bọn trẻ con chúng em đứa nào cũng no đủ, không

phải đi ăn xin.

Tôi cứng họng, không biết giải thích như thế nào để các em thông cảm. Dọc hè phố,

nhiều hàng bán trái cây bày la liệt tràn ra cả lối đi. Bé Mai lại thắc mắc:

Người ta bày trái cây ra để làm gì? Đã đến giờ ăn đâu, anh Kim.

Người ta bày trái cây để bán.

Bán là gì?

Người nào ở nhà không có vườn trái cây, phải dùng tiền như anh có trong túi đây

đem ra để đổi. Anh đưa tiền cho người ta gọi là mua, người ta lấy tiền rồi chuyển trái cây

cho anh gọi là bán.

Nói rồi, tôi mua một chùm vải. Hai bé theo dõi tôi móc túi đưa tiền ra như thế nào và

người bán lấy chùm vải bỏ vào bịch nhựa chuyển cho tôi ra làm sao. Tôi ngắt từ chùm vải

ra đưa cho mỗi bé một trái. Bé Hay hỏi:

Không xin phép cây mà được ăn trái sao?

Nhưng ở đây nào có cây đâu để xin phép. Người hái trái đã xin phép cây từ vườn

rồi. Hai em yên tâm, cứ ăn đi.

215

Tôi phải nói thế theo cái kiểu hành động và suy nghĩ trên hành tinh Lemuria kẻo hai

bé không chịu ăn. Tôi nhón lấy một quả bóc vỏ rồi ăn cùi làm mẫu. Hai bé nhìn tôi và

làm theo. Bé Mai nhận xét:

Trái này ngon đó, nhưng không bằng trái cây trên hành tinh chúng em.

Đi dạo chán, mỏi chân, tôi đề nghị quay về. Hai bé không có tính tò mò như con

người Trái Đất chúng ta nên gật đầu, đồng ý. Nhìn ra xung quanh thấy vắng vẻ, tôi quàng

vội lên người và lên hai bé chiếc áo tàng hình, gọi máy bay đang ở chế độ tàng hình bay

đến và đỗ xuống đất. Tôi kéo hai bé vào khoang và cho máy bay bốc lên, bay thẳng về

đảo Không tên.

Về đến nhà, trong bữa ăn chiều, hai bé bi bô kể lại chuyến đi vào đất liền cho anh Cay

nghe. Cay hỏi:

Thế hai đứa có thích vào ở hẳn trong đất liền không?

Không! Ở đây thích hơn.

Tại sao?

Mai trả lời:

Em không thích ở đất liền có nhiều bé không được đi học mà phải đi ăn xin.

Cay quay sang tôi:

Ăn xin là thế nào, Kim?

Tôi lại phải giải thích cho người ngoài hành tinh này ăn xin là thế nào. Cay bứt rứt:

Sao thủ lĩnh nước Việt Nam cho phép xảy ra cái cảnh ấy?

Mẹ tôi phải giải thích:

Những nhà lãnh đạo đất nước Việt Nam không muốn cảnh ấy xảy ra, nhưng chưa

khắc phục được.

Mai bật ra ý tưởng và nêu lên:

Anh Kim ơi, Viện ta nên mở trường dạy học và đưa các bạn ăn xin ấy về đây nuôi

để các bạn ấy vừa không bị đói vừa được học hành.

Tôi nhìn mẹ tôi:

Ý này hay đó mẹ! Lâu nay thầy An chần chừ do việc mở trường nhiêu khê phức

tạp. Bây giờ mọi công việc của Viện đã đi vào nề nếp và ổn định rồi, ta nêu lại việc xin

mở trường xem thế nào.

Chợt nhớ mình đã vào siêu thị nhưng không mua gì ngoài mấy thanh sôcôla và kẹo

su, tôi bày chúng lên trên bàn sau bữa ăn. Mẹ tôi bóc thanh sôcôla và thỏi kẹo su chia cho

Cay và hai bé. Sau khi nếm thử sôcôla, Cay nhận xét:

Loại bánh này ngon đấy, gần giống bánh của người Atlan.

Hay nói thêm:

Nó hơi đắng nhưng em ăn được.

Tôi hỏi:

Thế kẹo su thì sao?

Mai trả lời:

Ngọt, thơm nhưng dai quá!

Tôi cảnh báo:

Này, ba anh em, chỉ nhai thôi chứ không được nuốt.

Tại sao? – Cay thắc mắc.

Mẹ tôi phì cười:

Phần dai là su, không ăn được. Phải nhổ đi thôi.

Cay phê phán:

216

Làm ra kẹo chỉ ăn được có một nửa, nửa còn lại phải bỏ đi, phí quá!

Tôi nháy mắt:

Không phí tí nào! Hãy xem đây.

Vừa nói, tôi vừa dùng lưỡi đẩy phần su ra ngoài môi và thổi phồng. Một chiếc bong

bóng lúc đầu nhỏ, sau cứ to dần to dần đến lúc không chịu được sức hơi ép nổ một tiếng

“bum” trước cặp mắt ngạc nhiên của hai bé.

Cay không chịu thua, hỏi:

Để làm gì thế?

Đây là món kẹo vừa ăn vừa chơi của trẻ con và thanh thiếu niên Trái Đất.

Hay hỏi:

Em làm ra bóng được chứ?

Dễ lắm. Cả anh Cay và hai chị em đều làm được.

Thế rồi Cay quên bẵng mình đang là người lớn và với hai em, ba con người ngoài

hành tinh cố thổi cho ra chiếc bong bóng. Tôi nói với Cay:

Ta đem sôcôla và kẹo su về rồi nhân bản nhiều nhiều biếu mỗi nhà một ít, nhất là

trẻ con gọi là quà Trái Đất nơi bé Mai và bé Hay đã đến thăm.

Tôi để cho hai bé vui chơi thỏa thích một tuần trong điều kiện sống hiện đại của

người Atlan trên hòn đảo Không tên rồi mới đưa chúng về nhà.

Gặp lại người bạn vong niên

Một hôm, thầy An nhận được một cú điện thoại lạ, tự xưng là bạn vong niên lâu ngày

chưa gặp mặt tên là Hữu, giáo sư, tiến sĩ sinh học vừa được nghỉ hưu, muốn đến thăm

chơi. Ai chứ giáo sư Hữu thầy An có lạ gì! Bạn học từ hồi còn phổ thông, người đồng

hương, nổi tiếng là học sinh luôn đứng đầu lớp về mọi môn học, nhưng xuất sắc nhất là

môn sinh học. Còn thầy An cũng là học sinh giỏi nhưng lại nổi trội về môn vật lý. Chính

sự nổi trội ấy đã đẩy hai người bạn sau này chia tay nhau khi lên đại học và đầu quân vào

hai ngành ưa thích, thầy An vào ngành vật lý và giáo sư Hữu vào ngành sinh học. Do trí

thông minh sẵn có, hai người đều cùng vươn lên đứng trong hàng ngũ những nhà khoa

học đầu đàn.

Sau khi thăm hỏi xã giao về gia cảnh lẫn nhau, thầy An không nói rõ địa chỉ cho giáo

sư Hữu mà ngược lại mời vợ chồng giáo sư vào ngày nghỉ cuối tuần đến chơi. Thầy An

sẽ đích thân đến đón và địa điểm là quảng trường trung tâm lúc 9 giờ tối thứ Bảy. Thầy

An còn giao hẹn trước là không cần chuẩn bị gì và có gì lạ thì đừng quan tâm, sau này

mọi điều sẽ sáng tỏ. Điều này làm giáo sư Hữu hơi khó chịu một chút, nhưng tình cảm

gắn bó lâu đời lấn át mọi nỗi tự ái và khiến ông nóng lòng chờ đợi. Ông cũng không hề

nghĩ rằng chính sau cuộc thăm viếng này, cuộc đời mình cùng cả gia đình ông sẽ chuyển

sang một ngả rẽ khác hẳn.

Giáo sư Hữu công tác ở trường đại học Nông nghiệp Hà Nội. Chức vụ hành chính là

trưởng khoa sinh học. Ông được mời ở lại tiếp tục làm công tác nghiên cứu nhưng không

còn trong vai trò lãnh đạo, đương nhiên. Những nhà khoa học về hưu từ năm 60 tuổi, nói

chung thân thể còn khỏe mạnh, trí óc vẫn còn minh mẫn và kinh nghiệm sống và làm việc

thì khỏi phải nói. Chính cái kinh nghiệm này mách bảo ông rằng ông không thể độc lập

nghiên cứu theo ý mình một khi đã rời bỏ cương vị lãnh đạo. Nhưng trước mắt, cứ từ giã

trường đi đã rồi sau đó sẽ tính. Chợt nhớ đến thầy An, giáo sư Hữu bèn lục tìm trên mạng

mới biết được số điện thoại di động của thầy An mà gọi tới.

217

Đúng 9 giờ đêm hôm ấy, trong lúc hai vợ chồng giáo sư Hữu đang đứng ngơ ngác tại

điểm hẹn thì thầy An bỗng đâu xuất hiện đến bắt tay chào vợ chồng ông, nói lời xin lỗi và

trùm lên mỗi người một tấm áo choàng kín, nắm lấy tay ông bạn cùng bà vợ dung dăng

dúng dẻ đưa đi một đọan, mời bước lên các bậc thang mà chỉ chân khách cảm nhận chứ

mắt thì không nhìn thấy gì, rồi được mời ngồi xuống ghế nệm. Đến lúc thầy An xin lại

mấy tấm áo choàng, hai vị khách mới nhận thấy mình đang ngồi trong một chiếc máy bay

cỡ lớn. Thế rồi, máy bay lặng lẽ bốc thẳng lên cao, vụt bay đi không hề phát ra tiếng rú rít

nào. Không tới năm phút, máy bay đột ngột dừng lại và hạ cánh thẳng xuống đất. Cửa

khoang bật mở, thầy An mời khách bước xuống và đưa về một tòa nhà chung cư, lên cầu

thang đi vào một gian phòng trống. Từ sàn nhà, một chiếc bàn tròn cùng ba chiếc ghế tự

động trồi lên. Thầy An đưa tay mời ngồi và rồi trước các cặp mắt ngỡ ngàng của vợ

chồng giáo sư Hữu, từ mặt bàn hiện lên ba chiếc khay đựng ba phong bánh cùng với ba

cốc sữa tươi.

Thầy An nhìn hai vợ chồng ông bạn và nói trước:

Đây là bữa ăn bình thường của mọi người trong Viện chúng tôi. Bánh và sữa hoàn

toàn nhân tạo và đầy đủ các dưỡng chất cùng những vitamin cần thiết. Chúng tôi không

cần đến gạo, rau, thịt, cá.

Thấy lạ, tuy không đói nhưng hai vị khách cầm lấy bánh, sữa ăn uống không chút

khách sáo.

Thầy An nói tiếp:

Anh Hữu à, trong điện thoại, tôi đã nói trước là anh đừng ngạc nhiên vì những việc

xảy ra vừa rồi. Áo choàng quàng lên mọi người là áo tàng hình, còn máy bay lúc đón anh

chị cũng đang ở chế độ tàng hình nhằm cho dân chúng ở khu trung tâm Hà Nội lúc bấy

giờ không ai nhìn thấy. Nơi đây là một hòn đảo cách biệt thuộc hải phận tỉnh Kiên Giang

mà viện chúng tôi thuê dài hạn. Không có một phương tiện vận chuyển nào đến được đảo

này ngoài chiếc chuyên cơ và các con tàu vũ trụ của chúng tôi.

Lúc bấy giờ, giáo sư Hữu mới tò mò:

Xin lỗi anh, viện có tên gọi viện Vật lý mà tôi tra cứu được trên mạng có tên anh là

viện trưởng phải chăng là đây và nó có một sứ mạng đặc biệt bí mật khi còn sở hữu cả

một chuyên cơ?

Thầy An từ tốn trả lời:

Đúng vậy. Viện chúng tôi nghiên cứu toàn những đề tài không giống ai. Nó độc lập

với Nhà nước, không đăng ký đề tài với Nhà nước, không nhận lĩnh trợ cấp của Nhà

nước. Có thể xem nó là một viện nghiên cứu tư nhân. Nhưng nghĩa vụ đóng thuế cho Nhà

nước, chúng tôi thực hiện đầy đủ và nghiêm túc.

Viện của anh có nghiên cứu những đề tài về sinh học không?

Có đấy. Giá như anh đồng ý về đây hợp tác với chúng tôi!

Sau đó thầy An nói ngay:

Nhưng anh chưa cần trả lời vội. Tối nay, anh chị hãy nghỉ ngơi trong phòng khách

này. Cả ngày mai, chúng ta đi tham quan, vui chơi tắm biển và sẽ quyết định trước khi trở

lại Hà Nội.

Sau đó, thầy An gọi tôi vào nhờ hướng dẫn cách sử dụng tất cả các tiện nghi của

phòng và chào tạm biệt vợ chồng giáo sư Hữu. Sau câu chào khách, tôi nói to cốt cho

khách nghe ra lệnh cho giường ngủ hiện ra với đầy đủ chăn, gối sau đó cho biến đi. Đến

bên cạnh tường, tôi cũng ra lệnh cho bồn rửa mặt hiện ra với đầy đủ khăn mặt, xà phòng,

thuốc đánh răng cùng bàn chải mới, gương, lược. Rồi đến tủ đựng quần áo, phòng tắm

riêng cho mỗi người cùng phòng vệ sinh. Tôi giới thiệu tất cả tiện nghi đều ẩn bên trong

218

tường và sẽ hiện ra sau lời gọi thầm ra lệnh. Vật dụng nào dùng xong sẽ tự động biến đi.

Giáo sư Hữu tỏ ra thích thú thực sự với tiện nghị tự động của phòng khách. Trước khi

chào tạm biệt chúc hai ông bà ngủ ngon, tôi giới thiệu thêm bức tường phòng còn là một

màn hình cực lớn của máy thu hình. Chỉ cần thầm ra lệnh, các hình ảnh cùng những kênh

truyền hình sẽ hiện ra. Muốn ngồi xem, hãy ra lệnh cho ghế từ sàn nhà trồi lên.

Sau đó, tôi bước ra cửa, biết chắc rằng với điệu nhạc ru ma quái của hành tinh

Atlantis, hai ông bà sẽ đánh một giấc ngủ sâu không còn biết trời đất trăng sao là gì.

Sáng hôm sau, sau nhạc điệu báo thức nổi lên mấy phút, thầy An điện báo cho tôi đến

phòng khách mời vợ chồng giáo sư Hữu sang phòng thầy ăn sáng. Thầy bảo tôi dẫn Sao

cùng đi. Hình như thầy An dặn trước, cô Lan chuẩn bị cho mỗi người một bát phở bò

nghi ngút khói cùng một đĩa rau thơm đầy ắp khá hấp dẫn. Sáng nay, rõ ràng là thầy An,

cô Lan và tôi vì khách mà phá giới. Còn Sao ngồi tiếp khách, nhất quyết chỉ ăn bánh và

uống sữa. Trong lúc ăn, thầy An giới thiệu với khách:

Thường mọi người trong viện chúng tôi không ăn sáng bằng phở mà chỉ có bánh và

sữa nhân tạo. Vì có khách nên ba chúng tôi phá giới một hôm. Anh Hữu, chị nhà yên trí,

chúng tôi không buộc ai phải ăn chay. Chỉ là thói quen thôi. Ngay thịt bò, chúng tôi tự

tạo, hoàn toàn giống hệt thịt bò thiên nhiên, có điều không do chăn nuôi và giết mổ. Từ tế

bào gốc, nhóm sinh học của viện chúng tôi đã tạo ra thịt của nhiều loài súc vật, kể cả cá,

trứng và sữa người.

Giáo sư Hữu càng nghe thầy An nói, càng tỏ ra thích thú và hứng khởi đặc biệt.

Dường như những thành tựu sinh học này đánh trúng tim gan ông, khơi dậy niềm mơ ước

bấy lâu mà ông chưa làm được.

Thầy An đưa tay chỉ vào tôi và Sao, giới thiệu với khách:

Đây là Kim, tiến sĩ vật lý, cán bộ nghiên cứu của viện. Chính anh chàng đặc biệt

này đã làm đảo lộn cuộc sống của mọi thành viên trong viện và phương hướng cũng như

thành quả nghiên cứu của chúng tôi từ sau khi thiết kế và chế tạo thành công chiếc mũ

thấu thị và thấu thính áp dụng trong các lĩnh vực có liên quan đến yêu cầu tiếp xúc với

linh hồn.

Trước ánh mắt ngạc nhiên của vợ chồng giáo sư Hữu, thầy An phải nói rõ:

Anh và chị nhà đừng nên nghi ngờ sự kiện sau khi chết đi, con người còn có linh

hồn hay không. Điều này đã được thực tế chứng minh, thông qua thành tựu của các nhà

ngoại cảm tìm thấy hài cốt của hơn bảy nghìn liệt sĩ trong vòng mấy chục năm qua cho

đến hôm nay thông qua những cuộc trao đổi với các linh hồn. Mọi người trong viện

chúng tôi do tập luyện nên cũng có năng lực nhìn thấy và trò chuyện cùng các linh hồn

như những nhà ngoại cảm thực thụ. Hiện chúng tôi đang giữ tại đây những bộ mũ đó và

anh chị có thể dùng thử trong một dịp thuận tiện.

Ngừng một chút, thầy An nói tiếp:

Chúng tôi đã dùng bộ mũ thấu thị và thấu thính để điều tra hình sự, để tìm hiểu một

số chứng nhân lịch sử và giúp các đội tìm kiếm hài cốt liệt sĩ mà không phải nhờ đến nhà

ngoại cảm. Thông qua sự mách bảo của các linh hồn, chúng tôi hoàn toàn thành công.

Rồi cũng chính nhờ bộ mũ đặc biệt này, chúng tôi làm quen được với người ngoài hành

tinh. Đầu tiên là giống người vô hình, sinh sản theo kiểu vô tính nhưng có nền văn minh

tuyệt đỉnh. Sau đó, chúng tôi tiếp xúc với hai hành tinh người hữu hình mà tổ tiên xa xưa

của họ có nguồn gốc Trái Đất, đều có nền văn minh hơn hẳn nền văn minh của chúng ta

hiện nay. Cô Sao ngồi đây, vợ Kim, chính là người của hành tinh Atlantis, đang là thành

viên của viện chúng tôi.

219

Hết ngạc nhiên này tiếp đến ngạc nhiên khác, hai vợ chồng giáo sư Hữu cứ ngơ ngơ

ngẩn ngẩn như người mất hồn. Hình như ông bà muốn hỏi thêm rất nhiều điều, nhưng rồi

cuối cùng chẳng biết nên hỏi điều gì.

Sau bữa điểm tâm sáng, thầy An giao nhiệm vụ cho tôi và Sao dẫn khách đi tham

quan một vòng quanh đảo. Tôi giới thiệu các công trình nhà ở, trường học, xưởng sản

xuất theo kỹ thuật xây dựng và phong cách của người Atlan, đồng hương của Sao, những

vườn cây ăn trái trĩu quả do người của hành tinh Lemuria giúp đỡ, con tàu vũ trụ do

chủng người vô hình của hành tinh P16 trao tặng. Khi đến gần vườn cây Lemuri, tôi nói

to xin cây một vài quả chín để đãi khách. Tức thì từ trên cây, bốn quả chín mọng lần lượt

rơi xuống và đến đúng tầm tay của từng người thì dừng lại. Mấy người khách mới đến

vừa ngạc nhiên vừa thích thú, đưa tay bắt lấy, cắn ăn thử và gật đầu khen ngon. Sao thay

mặt mọi người nói lời cảm ơn. Sao nói thêm:

Vườn cây ăn trái này nguyên phục vụ người Lemuri to lớn nên trái cũng rất to lớn.

Trái cây mà chúng ta vừa nếm có thể to hơn thế nhiều lần.

Nói rồi, Sao nhìn lên cây gọi to:

Cây hãy cho chúng tôi một trái cho người Lemuri ăn.

Tức thì một quả chín mọng to gấp đôi quả dưa hấu từ từ rơi xuống và treo lơ lửng

trước mặt chúng tôi. Cô Phượng, vợ thầy Hữu, vội vàng đỡ lấy, nhưng không lường trước

sức nặng nên để cho nó chạm đất. Trong tích tắc, trái cây biến mất. Trước cặp mắt ngỡ

ngàng của vợ chồng giáo sư Hữu, tôi phải giải thích:

Ở vườn cây của đảo này, bất kỳ một quả chín rũ hay một lá cây cành cây héo khô

nào khi rụng xuống đất cũng đều biến ngay vào lòng đất làm phân bón cây. Vỏ cây, hạt

cây đổ xuống đất cũng biến đi như vậy.

Khi đến bãi đậu, tôi giới thiệu đây là bãi đáp của con tàu vũ trụ. Hai vị khách chỉ nhìn

thấy chiếc chuyên cơ to lớn nên thắc mắc là con tàu vũ trụ để ở đâu. Tôi trả lời là chúng

vô hình, muốn nhìn thấy phải có mũ thấu thị. Tôi nói với Sao:

Em hãy chuyển mũ ra cho khách.

Sao dùng ánh mắt điều khiển cho hai chiếc mũ từ trong nhà bay ra. Khi chúng vừa

đến đúng tầm tay, tôi đón lấy và đội vào đầu hai người. Lúc đó hai vị khách mới nhìn

thấy xếp bên cạnh chiếc chuyên cơ là một con tàu vũ trụ nhỏ.

Hòn đảo này tên là gì? – Giáo sư Hữu hỏi.

Viện không đặt tên cho nó, nên cứ gọi nó là hòn đảo Không tên. Nó không có mặt

trên bản đồ quốc gia hiện nay bởi được giấu kỹ bằng kỹ thuật ngụy trang của người hành

tinh P16. Từ trên không trung hoặc từ mặt biển, không ai có thể trông thấy đảo này, dẫu

bằng các phương tiện radar hay vệ tinh địa tĩnh. Trên bãi đỗ, viện đang sở hữu một

chuyên cơ to cỡ một máy bay A320 do hành tinh Atlantis tặng, một con tàu vũ trụ do

hành tinh P16 tặng.

Buổi trưa đến giờ ăn, cô Lan chuẩn bị một bữa cơm đặc biệt có thịt thú rừng và cá

ngừ đại dương để thết đãi khách. Rau ở đảo có đủ loại và hoàn toàn sạch. Trái cây là

những thứ đặc biệt chỉ có ở đảo này hái từ vườn cây của người Lemuri. Thầy An một lần

nữa thanh minh rằng thịt thú rừng và cá ngừ đại dương hoàn toàn nhân tạo, sản xuất từ tế

bào gốc chứ không hề săn bắt giết hại. Phong cách sống trên hòn đảo này đã giúp chúng

tôi hoàn toàn khỏe mạnh, không hề biết ốm đau là gì.

Khỏi phải nghi ngờ, cơ sở và các công trình của viện chúng tôi đã cuốn hút và mê

hoặc giáo sư Hữu như thế nào. Ông đồng ý hợp tác với chúng tôi trong quãng đời còn lại

với điều kiện cho phép ông tự ý nghiên cứu những đề tài mà ông thích thú. Thầy An

220

đương nhiên đồng ý và còn ngỏ lời mời bà Phượng, vợ giáo sư Hữu nguyên là bác sĩ sản

khoa đã về hưu một năm nay cùng trở lại làm việc cho Viện. Giáo sư Hữu hứa :

Hai vợ chồng chúng tôi sẽ đến ở hẳn trên đảo, còn một cháu trai (hai ông bà hiếm

muộn chỉ có một con) vẫn ở nhà cũ, cố gắng học hết chương trình phổ thông rồi sẽ theo

bố mẹ ra đảo.

Thầy An ngỏ ý:

Cháu nên theo anh chị chuyển hẳn về đây luôn mà không cần đăng ký thi lên đại

học. Chúng tôi sẽ giúp đỡ cháu học lên cao theo chương trình giáo dục của người Atlan.

Giáo sư Hữu xin cho một tuần thu xếp chuyện gia đình, sau đó hai vợ chồng dời hẳn

ra đảo ở và làm việc.

Chương trình nghiên cứu của giáo sư Hữu

Người mang tên Hữu nhưng lại thích nghiên cứu những cái “vô”. Sinh sản vô tính

được giới nghiên cứu thực vật thực hiện thành công từ lâu. Nhưng động vật vô tính thì

chỉ mới đây. Cừu sinh sản bằng vô tính, chó cưng tạo nên cũng bằng vô tính. Thế người

sinh sản bằng vô tính thì bị thế giới phản bác kịch liệt. Giáo sư Hữu muốn làm cái điều

mà thế giới đang phản bác. Bởi vậy, việc của ông nếu tiến hành ở đảo này một cách lặng

lẽ thì đố ai biết được để mà phản bác. Thầy An đồng ý trang bị cho giáo sư Hữu một

phòng thí nghiệm riêng cùng với đầy đủ tiện nghi cần thiết, dù đắt mấy cũng không từ

chối. Những nhà sinh học trẻ về viện trước, cũng sẽ hợp tác với giáo sư Hữu.

Hiện giờ, rất nhiều gia đình vợ chồng hiếm muộn đến tuổi quá già không thể cho

trứng và tinh trùng để tạo phôi trong ống nghiệm thì đành chịu bó tay. Giáo sư Hữu muốn

giúp đỡ đối tượng này. Không chọn trứng và tinh trùng theo cách thông thường, ông lấy

tế bào của người chồng và người vợ, ghép lại thành một cái phôi và nuôi trong ống

nghiệm. Sau đó cấy phôi vào dạ con. Trong nghiên cứu, người thực hiện thử nghiệm,

nhất là những thử nghiệm trên cơ thể người đôi khi lại chính là bản thân người nghiên

cứu. Giáo sư Hữu dùng tế bào của mình và của vợ tạo thành phôi nuôi trong ống nghiệm.

Trong buổi báo cáo sơ bộ thành công của đề tài nghiên cứu trước toàn thể nhân viên

của Viện, giáo sư Hữu nói:

Đối tượng nghiên cứu của nhóm sinh học là phôi tạo bào thai trong ống nghiệm

hoàn toàn không dùng tinh trùng của người chồng và trứng của người vợ. Thành công

của nghiên cứu sẽ giúp cho những gia đình hiếm muộn nhưng vẫn có con với giới tính

theo ý muốn. Gia đình tôi có thể được xem là hiếm muộn vì mới được một mụn con trai.

Muốn có thêm con gái nhưng vợ tôi quá tuổi cho trứng. Phôi chúng tôi nuôi trong ống

nghiệm đang phát triển tốt. Đến lúc phôi chín muồi, chúng tôi sẽ đưa nó vào tử cung bà

nhà tôi.

Giáo sư Hữu nói chưa dứt lời, Ngân, với tính khí khá bộc trực đứng lên xin phát biểu:

Cháu cực lực phản đối ý định đưa bác gái vào thí nghiệm sinh nở. Bác đâu còn ở

tuổi mang nặng đẻ đau, nên rất dễ xảy ra sự cố đáng tiếc. Điều này, bác gái chắc chắn biết

còn rõ hơn mọi người. Xin viện thuê người mang thai.

Những người ngồi nghe bỗng xôn xao. Phần lớn là ý kiến đồng tình, nhưng cũng có

người phân vân. Duyên xin phát biểu:

Việc thuê người mang thai không phải là điều gì mới trên thế giới và mức độ tốn

kém Viện ta chịu được. Tuy nhiên phải đề phòng trường hợp người mang thai đến ngày

sinh bỗng thay đổi thái độ, muốn đứa bé mang nặng đẻ đau là con mình nên bỏ trốn.

221

Phá bỏ hợp đồng đẻ thuê hiện nay ở nước ta chưa được coi là phạm pháp để có thể

đưa ra tòa. Nhưng Viện ta có thể ngăn ngừa trường hợp này bằng cách đưa người mang

thai ra đảo để bồi dưỡng và tiện theo dõi – một người nào đó có ý kiến.

Ý này hay đấy – nhiều người tán thành.

May, chồng của Ngân bấy giờ mới đứng lên xin phát biểu:

Sao lại phải nhờ người mang nặng đẻ đau? Trên hành tinh chúng tôi, cái cảnh này

từ lâu đã không còn. Chúng tôi đã nghiên cứu thành công và áp dụng đại trà máy dạ con

nuôi bào thai từ lúc mới tượng hình theo chế độ dinh dưỡng đặc biệt phù hợp với quy luật

phát triển tự nhiên. Chúng ta có thể đưa máy này về Viện và chỉ một bước nghiên cứu

nhỏ dùng chất dinh dưỡng nuôi bào thai phù hợp với người Việt Nam là xong.

Thầy An đứng lên phát biểu như để kết luận:

Hay quá! Viện giao nhiệm vụ xin máy dạ con của hành tinh Atlantis cho May và

Ngân, được không? Còn chế độ dinh dưỡng cho bào thai thì bản thân bác gái là bác sĩ sản

khoa sẽ đảm trách.

Sống ở hòn đảo này, cứ mỗi ngày qua đi, vợ chồng giáo sư Hữu lại phát hiện thêm

một điều mới lạ. Cái máy dạ con thần kỳ sẽ giúp cho nhóm sinh học của ông tha hồ sáng

tạo ra những em bé vô tính. Nhưng lần này chưa phải lúc. Giáo sư Hữu đứng lên phát

biểu:

Chiếc máy dạ con chắc chắn sẽ chắp cánh cho nhiều ước mơ của nhóm sinh học.

Em bé chúng tôi tạo ra lần này là hữu tính. Nhưng còn nhiều trường hợp buộc phải tạo ra

những em bé vô tính như người chồng bị nhiễm chất độc da cam không thể cho tế bào,

còn người vợ thì bình thường, những phụ nữ chết chồng hoặc không chồng nhưng muốn

có con. Tất cả sẽ được toại nguyện khi đề tài nghiên cứu của nhóm sinh học thành công.

Không cần giáo sư Hữu nói, mọi người trong Viện không một ai nghi ngờ về sự thành

công trong tương lai gần của nhóm sinh học về công trình nghiên cứu tạo ra người vô

tính. Còn tôi thì nghĩ xa hơn rằng rồi đây, Viện sẽ sản xuất hàng loạt máy dạ con cùng

với chất dinh dưỡng bào thai cung cấp cho các bệnh viện phụ sản. Những phụ nữ nào bị

bệnh tim mạch hay sức khỏe bình thường nhưng không muốn mang nặng đẻ đau sẽ đến

những bệnh viện này để “sinh con”. Xa hơn nữa, nếu Nhà nước ban hành lệnh cấm phụ

nữ sinh con theo phương pháp tự nhiên để bảo đảm chủ trương sinh đẻ có kế hoạch thì

dân số trong nước sẽ tiến đến ổn định và hình tam giác phân bố độ tuổi của người dân sẽ

đạt tối ưu.

Một hôm hai vợ chồng giáo sư Hữu xin thầy An cho đi vào đất liền tìm hiểu một số

gia đình có con cái sinh ra đều dị dạng do chất độc da cam. Ông lấy tế bào của người

chồng và người vợ về cho nhóm sinh học nghiên cứu. Trước khi từ biệt gia đình, giáo sư

Hữu hứa là sẽ giúp họ có con không bị dị dạng. Gia đình rất cảm ơn và nguyện vọng là có

một đứa con trai.

Lại con trai! – Giáo sư Hữu lẩm bẩm.

Ông biết rằng do ý muốn sinh con trai mà hiện nay, hai nước đông dân nhất thế giới

là Trung Quốc và Ấn Độ đang thiếu 96 triệu nữ để cân bằng tỷ lệ dân số. Còn riêng khu

vực Đông Á so với tỷ lệ sinh trung bình của thế giới là 107 trai/100 gái thì tỷ lệ ấy là 119

trai/100 gái. Ngoài việc giúp người ta có con, nhưng nếu thỏa mãn cả ý thích sinh con

trai, ông sẽ phạm tội góp phần làm cho tình trạng mất cân bằng nam/nữ. Nếu năm 2000,

Việt Nam đạt tỷ lệ nam/nữ là 106/100 (sát mức cân bằng là 105/100) đến năm 2010 tăng

lên 110,6/100 và các năm sau tiếp tục vượt ngưỡng 115/100 thì đến năm 2035, 10% nam

giới nước ta sẽ ế vợ là cái chắc!

222

Muốn có con trai, nếu nhiễm sắc thể Y của người chồng đã bị nhuốm chất độc da cam

thì không thể nếu không lấy tế bào của một nam giới lành mạnh khác thay vào. Trường

hợp này vẫn là sinh sản hữu tính. Còn yêu cầu không nhất thiết là con trai mà có thể là

con gái, chỉ cần tế bào của người vợ lành lặn không bị ảnh hưởng của chất độc da cam,

khi đó sinh sản là vô tính. Cháu bé gái sẽ hoàn toàn giống người mẹ.

Về chuyện làm thế nào để sinh con trai, có người cắc cớ hỏi thầy Hữu:

Cháu được biết Trung tâm quốc gia giống thủy sản nước ngọt Nam bộ đã vi phẫu

chuyển đổi giới tính tạo ra những con tôm cái giả để những con tôm mẹ này chỉ sinh ra

toàn trứng đực. Ta có thể áp dụng kỹ thuật này cho con người được không?

Bậy nào! Tôm là tôm, người là người chứ sao nhầm lẫn được hai giống loài có và

không có xương sống?

Rồi ông hài hước:

Giá như ta biến được tôm thành người, ta sẽ giàu to do xuất khẩu được nhiều con

trai sang Trung Quốc.

Bà mẹ có thể không mang nặng đẻ đau, nhưng đứa con không hề là con nuôi bởi nó

mang gien của chính mình và của chồng mình hẳn hoi. Toàn thể nhân viên trong Viện

chúng tôi khi nghe đề án của giáo sư Hữu trình bày đều cho rằng việc sinh sản vô tinh

này không vi phạm đạo đức một chút nào. Từ đó, việc sinh con có giới tính theo ý muốn

cũng không khó do thông qua việc ghép nhiễm sắc thể tạo phôi của hai người, X+X ra

con gái và Y+X sẽ cho ra con trai.

Công trình nghiên cứu của giáo sư Hữu đạt thành công nhanh chóng và mỹ mãn. Gia

đình ông sau đó một năm có thêm một thành viên mới, một bé gái xinh đẹp sinh sản hữu

tính, vẫn kế thừa đầy đủ gien của bố và mẹ.

Trong một buổi gặp mặt hẹp do May đề nghị gồm có thầy An, giáo sư Hữu, tôi và

May, May thành thật thổ lộ:

Thưa thầy An, thầy Hữu, cháu đã suy nghĩ rất lâu mới dám nói lên điều này, mong

hai thầy, nhất là thầy Hữu, tha lỗi cho. Những công trình của nhóm sinh học đã làm được

và đang nghiên cứu thật ra ở hành tinh của cháu, người ta đã làm xong từ lâu. Cháu đã

không dám phát biểu công khai trước toàn thể mọi người trong Viện vì điều này khá tế

nhị và dễ làm nản lòng mọi người, nhất là nhóm sinh học. Hành tinh chúng cháu có thể

chuyển giao bất kỳ công nghệ nào thuộc về sinh học nói riêng và các ngành khác nói

chung mà người Trái Đất chưa làm được cho Viện chúng ta. Sau đó, nhóm sinh học hãy

phối hợp cùng hành tinh chúng cháu nghiên cứu những đề tài mới mẻ hơn mà người Trái

Đất cần. Cháu lấy ví dụ. Ở Viện ta, Kim và Sao cũng như cháu và Ngân lấy nhau đã lâu

nhưng mãi vẫn chưa có con. Đâu phải chúng cháu lên kế hoạch hoặc ngại sinh đẻ mà vì

gien hai chủng người Atlan và Aryen có dị biệt. Hãy tạo nên gien tổng hợp để sinh được

con có cần nghiên cứu hay không?

Giáo sư Hữu hơi ngớ ra một chút, chưa định nói gì thì thầy An phát biểu:

May nói đúng! Chúng ta có hai hành tinh bạn vượt hẳn chúng ta về khoa học kỹ

thuật. Chúng ta muốn nghiên cứu, tốt nhất nên học hỏi họ. Từ lâu, tôi đã có nghĩ đến

chuyện này nhưng đang ưu tiên học hỏi người Lemuri nên Viện chưa tổ chức học người

Atlan và người P16. Nền văn minh của hai hành tinh này được xây dựng trên cơ sở chắc

chắn là khác chúng ta. Mỗi khoa chuyên ngành đều có những tiên đề từ đó họ bước dần

lên những nấc thang cao hơn. Tôi lấy ví dụ: ngành vật lý Trái Đất cho đến nay vẫn cho

rằng tốc độ ánh sáng theo tuyên bố của Einstein là giới hạn cuối cùng không thể vượt

qua. Thế thì làm thế nào tạo ra được những con tàu vũ trụ vượt khoảng không gian nghìn

trùng? Hawking cho rằng phải tìm những "lỗ giun" và các con tàu vũ trụ phải chui theo

223

nó thì mới khắc phục được tốc độ hơn 300 ngàn cây số / giây. Thật không thể hiểu nổi

khi chúng ta đang sử dụng những con tàu vũ trụ do P16 tặng, chế tạo như thế nào mà

vượt được tốc độ ánh sáng? Chẳng lẽ vừa rồi, các con tàu vũ trụ ấy bay theo lỗ giun

chăng? Trên hành tinh chúng ta, có người cho thuyết tiến hóa của Darwin là ngây ngô khi

tin rằng loài người là một chi nhánh của cùng một thủy tổ với loài khỉ. Muốn có điều đó,

tức là từ loài đơn bào biến thành loài thủy sinh, tiến sang loài lưỡng cư vừa sống trên cạn

vừa sống dưới nước, rồi loài có vú sống trên cạn, loài vượn, loài vượn người rồi cuối

cùng loài người, thời gian cần đến hàng tỷ năm chứ không thể nhanh chóng được.

Giáo sư Hữu dè dặt đề nghị Viện cho nhóm sinh học họp nhau bàn, xu hướng là sẽ

ngừng hoạt động và chỉ hoạt động lại sau khi hoàn thành khóa học của thầy Hơn, sau đó

xin đi học lại từ đầu chương trình giáo dục của người Atlan.

Nỗi ưu tư của giáo sư Hữu

Một hôm trong bữa ăn cùng ngồi chung ở văn phòng Viện, giáo sư Hữu nêu câu hỏi

với thầy An:

Anh An này, Viện ta có chi bộ Đảng không? Tôi và nhà tôi đang là đảng viên xin

nộp giới thiệu của đảng bộ địa phương trong đất liền để được sinh họat trong chi bộ của

viện.

Thầy An mỉm cười:

Viện chúng tôi có tôi, nhà tôi, chị Thanh mẹ cháu Kim nguyên là đảng viên. Nhưng

thú thật với anh, đã lâu lắm rồi, chúng tôi không tổ chức sinh hoạt đảng. Xin anh đừng

vội phê phán. Thật tình, chúng tôi thấy không cần thiết. Ở Viện này, ai ai cũng một lòng

một dạ làm việc hết mình, cùng một nguyên tắc nữa là sống trung thực, không có ý nghĩ

xấu và không làm điều ác. Chúng tôi được đào tạo lại theo nền học vấn của người Lemuri

và một khi đã có nhiều quyền năng thì phải tuyệt đối trung thực và thương yêu mọi

người, làm việc hết mình vì nước vì dân. Chẳng phải chúng tôi đang sống và làm việc

theo mục tiêu và ý nguyện của một đảng viên cộng sản thực thụ là gì? Từ lâu, người của

Viện chúng tôi đã được biết rằng ở trên những hành tinh văn minh xa xôi, loài người tuy

là đã đạt đến nền khoa học kỹ thuật phức tạp nhưng lại có cuộc sống khá đơn giản. Họ

quản lý xã hội đâu cần đến những đảng phái với chủ thuyết rối rắm.

Ngừng một phút, thầy An nói tiếp:

Tôi đang sắp xếp kế họach để đến một lúc thuận tiện, anh và chị cũng sẽ đến hành

tinh Lemuria một chuyến theo học những tri thức và quyền năng của cư dân ở đây như

mọi người chúng tôi đã từng trải qua. Điều này vừa có tính bắt buộc nhưng cũng có tính

tự nguyện. Anh chị đã từng thấy rồi đó. Bất cứ ai trong Viện cũng đều làm được nhiều

điều mà những người bình thường ở đất liền không bao giờ làm được. Như chúng tôi có

thể nhấc mình bay lên để di chuyển, có thể tự mình phóng to hay thu nhỏ cơ thể, có thể

điều chuyển đồ vật từ nơi này sang nơi khác bằng ánh mắt, có thể thấy những vật vô hình

như các con tàu vũ trụ của người hành tinh P16 tặng,...Những quyền năng đó có được là

do học ở người Lemuri.

Rồi cũng vào một buổi ăn trưa, vừa ăn vừa chuyện trò trong đó có vợ chồng thầy An,

vợ chồng giáo sư Hữu, tôi và Sao. Giáo sư Hữu nhìn thầy An và trầm ngâm:

Phuxich, một nhà lãnh tụ Tiệp Khắc từng cảnh báo: “Hỡi nhân loại, hãy cảnh giác!” (1) Chẳng lẽ chúng ta chỉ quan tâm đến điều này thời chiến trước năm 1975, còn thời bình,

(1) Cả câu là: “Nhân loại hỡi! Tôi yêu tất cả mọi người. Hãy cảnh giác”. Julius Fucik (1903-1943)

224

chúng ta thực sự sao nhãng rồi chăng? Trước đây, địch phá ta về quân sự, còn ngày nay,

ta đang xây dựng cuộc sống ấm no cho dân tộc, ai cấm chúng phá ta về kinh tế? Kinh tế

trì trệ, nhiều công trình xây dựng chậm trễ, nhiều vụ gian lận, những vụ phá hoại môi

trường được làm ngơ hay phạt nhẹ. Người ta đổ lỗi cho cơ chế, cho sự yếu kém trong

lãnh đạo. Nếu yếu kém thì tự từ nhiệm hay hãy cách chức. Nếu cố tình phá hoại đất nước

thì phải vạch mặt chỉ tên. Sáng thức dậy, đón nhận bản tin các báo, toàn gặp những

chuyện tiêu cực, hối lộ, tham những, băng hoại đạo đức, thật đến chán! Tuy không còn

chiến tranh, nhưng lòng dân vẫn chưa yên.

Thầy An hỏi khéo:

Tuy ra hẳn đảo sống và làm việc, anh vẫn còn vương vấn chuyện đất liền sao?

Sao lại không vương vấn, anh hỏi lạ! Anh quên đảo và đất liền chỉ là một thôi ư?

Thế anh có sáng kiến gì?

Chẳng sáng kiến gì to tát! Chỉ là ưu tư sốt ruột về những chuyện bê bối của đất

nước. Tôi biết mọi người trong Viện ta đều đã học qua khoa học kỹ thuật tiên tiến của

người Atlan, quyền năng vô biên của người Lemuri, chẳng lẽ chúng ta bó tay sao?

Rồi anh chị và mọi người còn lại sẽ được đi học.

Đương nhiên rồi! Nhưng chúng ta hãy góp phần gỡ rối cho đất nước. Xây dựng đất

nước thật khó, nhưng phá hoại đất nước sao mà dễ dàng thế! Chỉ cần đổ lỗi cho cơ chế,

cho trình độ cán bộ yếu kém rồi xuê xoa cho nhau, thế là hòa cả làng sao? Chúng ta cứ tự

hào là đang xây dựng một đất nước xã hội chủ nghĩa công bằng và văn minh. Sự công

bằng đang nằm quá xa tầm với. Còn cái văn minh của thể chế, ta đang thiếu một thứ văn

hóa cơ bản của người lãnh đạo: văn hóa từ nhiệm! Tôi e rằng kích thích phát triển kinh tế

bằng cách khuyến khích lòng tham của con người tất yếu sẽ dẫn đến sự cách biệt ngày

càng xa đời sống kẻ giàu và người nghèo hệt như trong xã hội tư bản mà trong giáo dục

thời chiến, chúng ta đã từng phê phán gay gắt. Phúc lợi của xã hội ta càng về sau chỉ có

người nhiều tiền mới được hưởng dễ dàng, ở bất kỳ lĩnh vực nào cũng đều nhận thấy rất

rõ.

Thầy An gợi ý thầy Hữu:

Anh muốn hiểu gốc rễ sâu xa tình hình bê bối của đất nước ta hiện nay là do đâu thì

hãy chăm vào mạng. Nhiều nhà trí thức trong và ngoài nước đã lên tiếng gay gắt và đừng

nghĩ rằng họ bị xúi giục và phản động muốn chống phá đất nước ta, dân tộc ta. Chẳng

nhẽ đã mang danh trí thức mà không có một nhận thức đúng đắn của riêng mình sao lại

phải nghe theo lời xúi bẩy của ai. Hãy đọc kỹ những bài phát biểu của họ. Rất có trí tuệ.

Và nếu tầng lớp lãnh đạo nhân danh công lý “cả vú lấp miệng em”, đẩy tất cả những

người trí thức phát biểu chân thành và hoàn toàn xây dựng về phía kẻ thù địch thì tình

hình đất nước còn thê thảm hơn nữa. Sau khi không còn kẻ thù bên ngoài, bây giờ chế độ

ta quay lại tìm kẻ thù bên trong mà không suy nghĩ nguồn gốc sâu xa của tình hình thê

thảm của đất nước là do đâu thì làm sao dẫn lối đưa đất nước ta đi theo con đường đúng

đắn?

Tôi nhìn thầy An:

Thưa thầy, chúng ta từng có ý nghĩ đào tạo người phục vụ lĩnh vực trị an bằng cách

gửi họ sang hành tinh Lemuri để học các quyền năng. Có thể không cần học cả, chỉ cần

biết đọc ý nghĩ của người khác là làm được khối việc.

Thật thế sao? – giáo sư Hữu ngạc nhiên hỏi – Nhưng sao các anh không tiến hành?

Thầy An trầm ngâm:

Làm chuyện này giống như trao cho người ta một con dao hai lưỡi.

Tôi thưa:

225

Em nghĩ rằng ở hành tinh Lemuria, con người thuần khiết, không có ai tâm địa đen

tối nên việc học hành không có ràng buộc điều kiện gì. Nhưng đối với người Trái Đất ta

lại khác. Từ mấy năm nay, em đã thử nghiệm thành công việc trả công cho các nghệ sĩ

bằng kim cương. Chỉ với một viên kim cương, họ sẽ sống suốt đời không thiếu thốn về

vật chất. Nhưng kèm theo điều kiện là họ phải tu thân tích đức làm người tốt. Một hành

động xấu sẽ xóa biến lập tức tài sản đó.

Cô Lan góp lời:

Đúng đấy! Việc học và đạt quyền năng phải có điều kiện. Ở Trái Đất và trên đất

nước ta, chỉ người tốt, có lòng nhân ái và trung thành với đất nước mới giữ được quyền

năng mãi mãi.

Vẫn chưa muốn chuyển đề tài, giáo sư Hữu cố nói thêm :

Anh An biết đấy, tuy ra đây sống và làm việc nhưng tôi có rời chiếc máy tính bao

giờ đâu. Ơn trời, tôi vẫn có thể nối mạng không dây được bằng một thẻ 3G. Tôi không

muốn bị "cầm tù" trên hòn đảo Không tên này.

Thầy An vừa cười vừa tỏ vẻ ngạc nhiên:

Không lẽ Viện chúng tôi giam hãm không cho anh tự do?

Đâu có! Tôi vẫn được tự do đấy chứ, nhưng tự do theo kiểu ếch ngồi đáy giếng. Ra

đây, tôi ngạc nhiên một đều là mọi người không ai làm việc bằng máy tính để bàn hoặc

máy tính xách tay.

Anh nhầm rồi. Ở đây, chúng tôi không cần đến máy tính để bàn hoặc máy tính xách

tay. Chúng cổ lỗ đối với nền văn minh Atlantis. Chúng tôi dùng cả bức tường trong mỗi

gian phòng làm màn hình rộng cho tivi và cho cả máy tính. Còn có một gian phòng nhỏ

làm nhiệm vụ của một server đáp ứng cho mọi màn hình nối mạng.

Giáo sư Hữu ngỡ ngàng:

Xin lỗi, tôi chưa tìm hiểu kỹ nên mới nói oan cho Viện. Tuy nhiên, tôi lưu ý mọi

người ở đây là nên thường xuyên vào mạng để tìm xem đất nước đang như thế nào và

đang cần gì đến chúng ta.

Anh hãy gợi ý cho chúng tôi biết những cái gì theo anh là cần thiết trước mắt cho

đất nước?

Thú thật với anh là nhiều thứ cần thiết quá mà chúng ta khó lòng làm xuể. Riêng

đội ngũ khoa học của đất liền bị những nhà trí thức Việt kiều kêu nhiều lắm. Họ cho rằng

đất nước mình quản lý đội ngũ khoa học không tốt. Danh nhiều hơn là thực. Với 6600

giáo sư và phó giáo sư cộng với 6250 tiến sĩ, đáng lẽ Việt Nam phải công bố khoảng ít

nhất 6000 bài báo khoa học. Nhưng hiện nay, mỗi năm, ta chỉ công bố được chỉ khoảng

1000 bài. Con số này thấp nhất so với các nước khác trong vùng Đông Nam Á và chỉ

bằng 1/5 Thái Lan và 1/10 Singapore.

Thầy An từ tốn:

Tôi nghĩ anh có thể giải thích được điều này. Dẫu viện ta có đóng góp một số bài

báo hay một số công trình thì cũng không xoay chuyển được tình trạng thực của đất nước

ta hiện nay. Giả sử ta làm điều này: mời một nhà khoa học giỏi nhất thế giới đạt giải

Nobel chẳng hạn đến nước ta và nói với ông ta rằng là hãy sáng tạo và cho chúng tôi một

công trình mới, chắc gì ông ấy làm được nếu chỉ với cái đầu và hai bàn tay trắng?

Thế còn vấn đề quản lý thì sao? Nhật chỉ cần 35 năm sau cuộc chiến thất bại trong

Chiến tranh thế giới thứ 2, còn ta đến năm 2010 cũng bằng thời gian đó liệu có bằng Nhật

về mặt kinh tế và khoa học kỹ thuật vào năm 1980?

Đến đây, thầy An im lặng không nói gì. Tôi nghĩ về chuyện của đất nước quá phức

tạp, còn ta là một tập thể nhỏ bé sao có thể làm được gì. Chọn một hòn đảo không tên để

226

định cư, có nghĩa là tập thể viện chúng tôi đã tự mình loại ra khỏi cuộc sống chung của

đất nước chẳng khác việc đi tu ở ẩn? Trái Đất này, hành tinh mà nhiều người tự hào là

văn minh, lúc nào cũng sợ người ở hành tinh khác đến xâm lấn mà không nghĩ rằng chính

mình đã tự xấm lấn mình, tự tạo nên những cuộc chiến tranh đẫm máu với vô vàn lý do

khiên cưỡng. Nhiều nước đa đảng thì liên miên tranh giành nhau trên sân khấu chính

trường, còn nước độc đảng thì sa vào độc đoán chuyên quyền, lòng người dần dần bất an

bởi một thiểu số cầm cân nảy mực tìm cách tạo cho mình những đặc quyền, đặc lợi. Càng

nghĩ, tôi càng thấy những người sống ở các hành tinh bạn như P16, Lemuria, Atlantis sao

họ hạnh phúc quá! Ở đấy đâu có chiến tranh chết chóc, người xấu, kẻ hèn, người giàu, kẻ

nghèo, người áp bức và kẻ bị áp bức? Họ đâu cần đảng này đảng nọ với những khẩu hiệu

to tát, những kế hoạch vĩ đại, những lý tưởng cao siêu để mê hoặc lòng người? Đừng nói

nhiều, hãy làm đi và thước đo chất lượng của một thể chế chính là chất lượng sống toàn

diện của người dân cả về vật chất lẫn tinh thần.

Nhận học viên mới

Ý kiến của giáo sư Hữu đã tác động đến thầy An, khiến thầy quyết định mở rộng

thành phần học viên bồi dưỡng kiến thức của người Lemuri. Thầy phân công tôi liên hệ

xin phép thủ lĩnh hành tinh Lemuria chấp nhận một khóa học nâng cao và một khóa học

cho những người mới, còn thầy đi gặp ông bộ trưởng bộ Công an trình bày ý định viện

muốn đóng góp thêm vào sự nghiệp bảo vệ an ninh Tổ quốc. Thầy xin Bộ cử cho mười

người đã có nghiệp vụ điều tra hình sự, có tư cách đạo đức tốt, trung thành với Tổ quốc

với nhân dân, chịu tự nguyện hiến dâng cả cuộc đời mình cho đất nước. Về mặt vật chất,

Viện xin bảo đảm cuộc sống sung túc cho bản thân và cho cả gia đình người được cử đi

học mặc dù sau khi học xong, những người này không hề làm việc cho Viện. Thấy mục

đích việc làm của Viện là tốt đẹp nên bộ trưởng đồng ý ngay.

Thầy An điện cho ông bộ trưởng lệnh cho mười học viên tập trung có mặt tại quảng

trường Ba Đình theo ngày định trước vào đúng 10 giờ đêm. Như mọi khi, May lái máy

bay tàng hình đến đón. Sau khi chuyển cho mỗi học viên một mũ thấu thị và một áo

choàng tàng hình, mọi người mới chợt nhận ra chiếc máy bay to lớn cỡ chiếc A320 đang

đậu giữa sân. Việc làm này thoát khỏi cái nhìn tò mò của nhiều người Hà Nội đang lang

thang quanh đấy. May dẫn mọi người bước lên máy bay. Máy bay bốc lên cao và không

đầy mấy phút sau đã dừng lại, đáp thẳng xuống bãi đậu của đảo Không tên.

Thầy An và rất nhiều người trong Viện ra đón tiếp ân cần và niềm nở. Thầy mời các

học viên vào phòng khách. Trưởng nhóm trình cho thầy An danh sách các học viên.

Mười người trong đó một nửa là nam một nửa là nữ. Tất cả đều cấp bậc đại úy trở lên,

còn trẻ măng chưa lập gia đình. Một bữa ăn tối thịnh soạn bày ra do cô Lan và Duyên

chuẩn bị từ khi nào: phở bò và rau thơm các loại. Khi mọi người ăn xong, cô Lan hỏi

cảm tưởng món ăn thế nào, mọi người gật đầu khen ngon. Lúc đó, cô mới bảo thịt bò

hoàn toàn nhân tạo, do nhà máy của Viện sản xuất, không phải giết bò lấy thịt như ở đất

liền.

Tôi được thầy An phân công dẫn mọi người về phòng nghỉ ở ký túc xá, mỗi người

một phòng riêng. Như mọi khi đối với khách, tôi hướng dẫn họ cách gọi tủ đựng quần áo,

buồng tắm, buồng vệ sinh, bồn rửa mặt đánh răng, giường ngủ, cách bật màn hình để xem

tivi hoặc vào mạng, cách gọi ghế ngồi để xem, phổ biến giờ đi ngủ và giờ thức dậy đều

có chuông báo. Khỏi phải nói, không ai là không cảm thấy ngạc nhiên thích thú. Sáng

hôm sau, sau hồi chuông báo thức, chờ cho mọi người tập thể dục đánh răng rửa mặt

227

xong, tôi mời chín học viên đến phòng của lớp trưởng hướng dẫn cách gọi bàn và ghế trồi

lên từ nền nhà và gọi bữa điểm tâm. Nếu không có sự chuẩn bị đặc biệt, bữa điểm tâm

cũng như các bữa ăn trưa và bữa ăn chiều chỉ là khay bánh và cốc sữa cho mỗi người. Tôi

giải thích đây là chế độ ăn giống nhau của mọi người ở viện, hoàn toàn nhân tạo, ít nhưng

đầy đủ chất bổ dưỡng nên không bao giờ bị đói. Đến trưa và chiều, mỗi người ở phòng

mình hãy tự mình gọi bàn, ghế, gọi bữa ăn cho mình, gọi giường để nghỉ, gọi tivi để xem.

Ở đây, có thể gọi điện thoại về nhà được không anh? – một giọng nữ hỏi.

Được. Nhưng xin đừng nói gì đến chuyện học hành. Trong phạm vi đảo, hãy nói

muốn gọi điện, tức thì màn hình trên tường hiện ra, muốn gặp ai nói tên, hình ảnh người

ấy sẽ hiện lên và có thể trao đổi trò chuyện với nhau. Tất cả mọi người đến sống ở đây,

sau khi đăng ký, họ tên và hình ảnh đều được lưu lại trong danh bạ điện thoại của đảo.

Sáng hôm sau, thầy An mời toàn thể học viên qua điện thoại nội bộ đến phòng khách

họp. Thầy phổ biến nhiệm vụ học tập kiến thức của một hành tinh xa xôi có tên là

Lemuri, học cái gì và về làm nhiệm vụ gì. Đến lúc bấy giờ, toàn thể mười người mới biết

nhiệm vụ đặc biệt mà bộ Công an giao cho nhưng không nói cụ thể khi còn ở đất liền.

Lần này, thầy An chủ trương không đưa người đến hành tinh Lemuria học như mọi khi

mà mời thầy Cay và thầy Hơn đến dạy ngay tại viện. Điều này giải quyết được nghịch

cảnh là học viên quá nhỏ bé mà phải sống trong một môi trường toàn những người khổng

lồ nên xảy ra lắm điều bất tiện. Còn tôi đằng nào cũng phải liên hệ xin phép thủ lĩnh hành

tinh Lemuria và rồi việc mời thầy Cay và thầy Hơn lần này cũng giống như những lần

trước, hai thầy vừa đi công cán do thủ lĩnh hành tinh điều động, lại vừa được dịp sang

Trái Đất nghĩ dưỡng. Thầy Cay sẽ dạy cho đám học viên mới, còn thầy Hơn dạy chúng

tôi, những học viên cũ, những kiến thức nâng cao mà các nghị sĩ đã nghiên cứu sáng tạo

thêm được trong thời gian gần đây.

Lần này, thầy An giao cho May nhiệm vụ đi đón thầy Cay và thầy Hơn. Cũng trong

thời gian chờ đợi này, thầy An giao cho tôi hướng dẫn và theo dõi sát phản ứng của các

học viên. Thầy và tôi tự cho phép mình thường xuyên lục lọi trong đầu mỗi học viên xem

họ suy nghĩ gì, có tự nguyện học tập và làm nhiệm vụ đặc biệt cho đất nước hay không.

Thầy còn cho họ biết rằng theo thỏa thuận giữa Viện và bộ Công an, từ nay cho đến cuối

đời, mỗi học viên được Viện chu cấp lương đầy đủ hằng tháng với mức ban đầu là 20

triệu đồng qua tài khoản. Thầy cho lập danh sách, địa chỉ và cấp thẻ tài khoản trong thời

gian học tập, người nhà của học viên sẽ được sử dụng, rút tiền chi tiêu trong gia đình.

Điều kiện tiên quyết để được như vậy là học viên phải luôn luôn là người tốt, tự nguyện

phục vụ hết mình cho đất nước. Khi nghe tin này, khỏi phải nói, cả mười học viên đều

hoan hỉ hết sức và cùng hứa với thầy rằng sẽ chăm chú học tập và toàn tâm toàn ý phục

vụ đất nước, cố gắng hoàn thành nhiệm vụ được giao.

Hướng dẫn tham quan các cơ sở của Viện và quang cảnh của đảo, thầy An giao trách

nhiệm cho Sao. Trước khi Sao đưa họ đi, thầy giới thiệu Sao là người ngoài hành tinh,

hiện vừa là nhân viên vừa là con dâu của Viện. Lúc bấy giờ, mười học viên công an mới

chăm chú nhìn ngắm cô gái người ngoài hành tinh này, nhưng không tìm thấy một điểm

gì khác với cô gái Việt Nam. Các học viên nữ trở nên quan tâm và thân mật với Sao hơn.

Trước tiên, Sao dẫn cả lớp đi xem những cái hữu hình như nơi hội họp và làm việc,

các phòng thí nghiệm, các nhà máy sản xuất bánh, thịt, cá, sữa nhân tạo theo hình mẫu

của hành tinh Atlantis, quê hương của Sao, vườn cây ăn quả lấy giống từ hành tinh

Lemuria. Khi đến trước các cây ăn quả của hành tinh Lemuria, Sao ngỏ lời xin rụng

xuống cho mỗi người một trái. Tức thì mười trái chín mọng, thơm ngát từ từ rơi xuống và

dừng lại lửng lơ trước mặt mỗi người. Sao bảo họ hãy nhận lấy và đừng quên nói lời cảm

228

ơn. Sao nhắc mọi người nên quen dần với những loại trái cây này, bởi vì trong khi học ở

đảo, thức ăn duy nhất là phong bánh và cốc sữa, nếu ai thèm trái cây thì hãy ra đây xin

mà không cần phải trèo hái. Trái cây của hành tinh rất bổ dưỡng, ăn được no lâu, tương

tự bánh và sữa nhân tạo của hành tinh Atlantis mà Viện hiện nay đang sản xuất và sử

dụng hằng ngày trong Viện. Ngoài ra, bánh và sữa kể cả thịt, cá nhân tạo còn được viện

cung cấp thường xuyên cho các tỉnh trong đất liền để giúp đỡ người nghèo.

Một nữ học viên ngỏ ý hỏi Sao:

Thưa chị, Viện có sẵn thịt cá nhân tạo, chúng em xin được ăn cơm bình thường như

trong đất liền có được không ạ?

Sao thành thật trả lời:

Chị nghĩ là được và điều này phải có ý kiến của viện trưởng. Nhưng theo chị, các

em nên cố gắng ăn thức ăn tinh khiết, bổ dưỡng trong thời gian ở đảo để việc học do thầy

người Lemuri dạy chóng đạt hiệu quả. Nếu các em đến hành tinh Lemuria học, suốt thời

gian ở đó chỉ được ăn trái cây thôi đấy.

Khi Sao nêu ý kiến đề nghị học viên được ăn thịt cá, thầy An bác ngay. Thầy muốn ai

đã ra đảo đều phải sinh hoạt như người ở đảo. Nhập gia phải tùy tục.

Hôm sau, trước khi đi, Sao đưa cho mỗi người một chiếc mũ trong suốt đội lên đầu để

nhìn thấy những vật vô hình như con tàu vũ trụ và một máy bay lớn có thể vừa vô hình

vừa hữu hình.

Rồi mọi người sẽ được học quyền năng có thể nhìn thấy mọi thứ vô hình ở đây mà

không cần đội mũ.

Để đạt được điều đó, có mất nhiều thời gian không chị?

Đương nhiên là phải mất nhiều thời gian rồi. Bởi vậy, chúng ta phải cố gắng và chỉ

tập trung học tập mà không phải lo nghĩ điều gì khác.

Nhân chuyến tham quan, Sao cũng trả lời các bạn học viên ý kiến phản đối ăn thịt cá

của thầy An:

Thầy An, viện trưởng, nhắn với mọi người trong lớp rằng hãy tuân thủ kỷ luật và

sinh hoạt ở đây. Các bạn sẽ không cảm thấy thèm những thức ăn quen thuộc ở đất liền

trong thời gian học tập ở đảo. Thức ăn ở đảo tuy đơn điệu đó, nhưng hoàn toàn bổ dưỡng

và thanh khiết giúp cho việc học tập đạt hiệu quả nhanh.

Ngừng lại một lát, Sao thổ lộ thêm:

Thật ra, mọi người một khi đã ra sống ở đây, không cần ăn uống vẫn sống.

Mọi người trố mắt ngạc nhiên:

Thế là thế nào ạ?

Trước đây, mọi người sống ở đảo thường xuyên được Viện chở bằng máy bay đến

một vùng đặc biệt ngoài biển khơi để “tắm năng lượng” nhờ đó có thể nhịn ăn cả tuần mà

không thấy đói khát và cơ thể hoàn toàn thanh khiết. Việc học tập nhờ đó tiến bộ rất

nhanh. Bây giờ, do được viện trợ của hành tinh Atlantis, Viện trang bị đầy đủ cho mỗi

phòng ở, phòng làm việc một máy thu phát năng lượng Nhờ vậy, không ai buộc phải bay

ra ngoài biển để “tắm” năng lượng nữa mà việc tắm năng lượng xảy ra hằng ngày một

cách không tự giác. Từ khi ấy đến nay, mọi người ở đảo không một ai bị đau ốm như

người trong đất liền.

Sau khi Sao nói, không một ai tỏ vẻ khó chịu và sẵn sàng theo đúng tập tục sinh hoạt

của đảo.

Một tuần sau đó, May đưa thầy Cay đáp xuống đảo Không tên. Mọi người ào ra đón,

tay bắt mặt mừng như những người thân lâu ngày mới gặp nhau. Thầy Cay chuyển lời

229

thăm hỏi của ông Mun đến mọi thành viên của viện, còn thầy Hơn thì báo là đã nhận kế

hoạch do thủ lĩnh phân công và khi Cay về thì thầy sẽ sang. Tôi hỏi Cay:

Khi Cay đi, hai nhỏ Mai và Hay có đòi đi không?

Tất nhiên rồi, chúng có đòi đi nhưng bố mẹ đâu có cho. Bố mẹ mình bảo anh Cay đi

làm nhiệm vụ, còn hai con đi chơi chỉ làm anh Kim bận rộn thêm. Mà Trái Đất hiện nay

đâu có an toàn đối với trẻ con, đúng không?

Tôi cảm thấy xấu hổ vì nhận định không được tốt đẹp mấy của người ngoài hành tinh

dẫu là bạn quen thân, về lối sống của người Trái Đất nói chung và của người Việt Nam

nói riêng.

Lớp học bắt đầu ngay với mười người bên bộ Công an và hai vợ chồng giáo sư Hữu

cùng một số cán bộ mới của Viện. Nhân dịp này, tôi có một sáng kiến đề nghị với vợ

chồng thầy An và vợ chồng giáo sư Hữu:

Theo cháu nghĩ, nhân có lớp học người Lemuri này, thầy An nên cho hai em Giang,

Vang và thầy Hữu nên cho em Bình tham dự luôn.

Bình là con trai giáo sư Hữu, cùng tuổi với Giang là con gái đầu của thầy An. Cô Lan

nói ngay:

Các cháu đang học chương trình phổ thông đã xong đâu, sao lại ra đây để theo học

được?

Tôi phân tích:

Cháu xin thưa là, trước sau gì các em cũng không tiếp tục học lên theo chương trình

của nước ta hiện nay mà sẽ sang hành tinh Atlantis học, có đúng không? Đó là tương lai

của các em mà chúng ta đã hoạch định từ trước. Vậy hà cớ gì chúng ta không mạnh dạn

nhân dịp này chấm dứt luôn việc học ở đất liền hiện nay mà sớm theo học lớp thầy Cay

trước, sau đó theo tiếp lớp thầy Hơn rồi hẳn sang hành tinh Atlantis có phải hợp lý hơn

không? Vả lại, hai thầy cô đâu có muốn các em xa gia đình đằng đẵng mấy năm trời

trong đất liền, trong lòng lúc nào cũng phập phồng lo âu?

Nghe tôi phân tích có lý có tình, hai gia đình thầy An và giáo sư Hữu chịu ngay. Thế

là họ được trở lại sum họp một nhà, vui thật là vui. Các em trong ngày định cư tại đảo,

tâm sự với Sao là chúng quá hạnh phúc vì được gần gia đình và được sống sướng như

tiên ở trong cảnh quan giống như bồng lai. Sao cảnh báo:

Nhưng một thời gian nữa, các em lại phải đi học xa nhà ở mãi hành tinh Atlantis

của chị đấy!

Chúng em có biết. Ở hành tinh của chị, cuộc sống nghe nói còn hơn cả ở đây?

Hẳn rồi, cuộc sống vật chất khỏi phải nói. Còn chương trình ở đó nặng hơn ở Trái

Đất rất nhiều vì khoa học kỹ thuật đã tiến rất xa. Tuy vậy các em khỏi lo bởi phương

pháp giảng dạy tiên tiến sẽ giúp các em tiếp thu nhẹ nhàng và thoải mái. Ở hành tinh chị,

học sinh chơi nhiều hơn học đấy!

Nhưng tại sao không cho chúng em đi ngay sang hành tinh Atlantis mà còn ở đây

theo học lớp của người Lemuri? – Giang thắc mắc.

Đến lúc này, tôi phải trả lời thay Sao:

Các em chưa biết học người Lemuri hay như thế nào đâu. Chỉ một thời gian ngắn,

các em sẽ thấy thú vị không thể tả. Học người Lemuri để có được những quyền năng cần

thiết, sau này chúng sẽ giúp các em học chương trình của người Atlan hiệu quả nhanh

chóng gấp bội. Trong thời gian lưu lại ở đây, các em sẽ thấy mọi người trong viện đôi lúc

cần, sẽ sử dụng những quyền năng ấy.

Tôi và Sao có thể chứng minh điều mình nói ngay tức khắc cho bọn trẻ thấy, nhưng

chúng tôi không vội. Quỹ thời gian của chúng còn nhiều lắm.

230

Tuy được phân một phòng riêng đầy đủ tiện nghi nhưng Cay vẫn theo nếp cũ, ban

ngày thì tự thu nhỏ người cho bằng người Trái Đất để tiện việc giảng dạy, hướng dẫn

thực hành nhưng ban đêm trở lại kích cỡ vốn có của người Lemuri, tự tạo cho mình một

không gian riêng vô hình ở sân bay, ngủ và trực tiếp hấp thu năng lượng vũ trụ.

Gặp lại người xưa và những lời tâm sự xuyên thế kỷ

Trong một chuyến về đất liền để chuyển tiền từ tài khoản của viện sang tài khoản của

những gia đình có con em đang làm việc ở đảo Không tên kể cả những cộng tác viên của

Viện, tôi gặp lại ba bóng dáng quen thuộc của những người bạn đã quá cố: Tân, Lan và

Hoa. Tân là bạn, vừa đồng môn vừa đồng hương, không may bị nhồi máu cơ tim chết đột

ngột làm cho công trình nghiên cứu chung bị chậm lại. Còn Lan và Hoa là hai bạn gái

học từ hồi phổ thông không may chết vì tai nạn giao thông trong chuyến về quê nghỉ Hè.

Trở thành người của thế giới bên kia, các bạn trông vẫn cứ trẻ trung như hồi nào, dường

như thời gian trở thành vô nghĩa đối với họ. Tôi lên tiếng trước:

Chào các bạn thân mến! Lâu lắm, chúng ta mới gặp nhau. Cuộc gặp gỡ này là vô

tình hay hữu ý đây?

Lan tranh nói trước:

Với chúng em, mọi chuyện xảy ra không có gì là vô tình cả!

Sau đó là Hoa:

Anh Kim vẫn khỏe chứ? Một con người trong trần thế không ăn uống gì mà vẫn tồn

tại, thật đáng kinh ngạc.

Chính là mình đang học cách "sống" của các bạn đấy thôi. Năng lượng hấp thu từ

vũ trụ hoàn toàn tinh khiết.

Đến bây giờ Tân mới phát biểu:

Chúng mình rất muốn đến thăm hòn đảo Không tên của các bạn nhưng không tài

nào vào được. Phương tiện chống "ngoại xâm nhập" của đảo áp dụng cho người trần cũng

có tác dụng với những người âm chúng mình.

Tôi ngạc nhiên:

Thật thế ư? Thế mà mình quên mất là kể từ ngày Viện chuyển ra sống và làm việc ở

đảo, chưa lần nào mình và mọi người nhìn thấy những người lạ dạng linh hồn. Nhân dịp

này, mình sẽ đưa các bạn bằng máy bay ra thăm đảo một chuyến. Chắc thầy An và mẹ

mình vui lắm đây. Mình cũng xin báo cho các bạn biết, do học được quyền năng của

người Lemuri, phần lớn mọi người trên đảo đều có thể nhìn rõ các bạn và nghe các bạn

nói mà không cần thiết bị nghe nhìn do chúng ta đã chế tạo trước đây.

Tôi vẫn để máy bay ở dạng tàng hình nhưng nó chỉ che mắt được người khác chứ ba

bạn thì không. Sau khi mọi người yên chỗ, tôi cho máy bay bốc thẳng lên cao và lướt

nhanh về hướng Nam. Trên đường bay, tôi báo tin cho thầy An về việc Viện sẽ đón ba

khách quen đến thăm. Tôi không nói cụ thể là ai để tạo sự bất ngờ thú vị cho mọi người.

Trong khi bay,Tân hỏi tôi:

Từ Hà Nội theo đường chim bay đến đảo Không tên bao xa?

Khoảng 1286 kilomet.

Nếu được phép thâm nhập đảo, chúng mình chỉ cần 44 giây.

Tôi hơi ngạc nhiên:

Thế sao?

Lan trả lời thay Tân:

231

Bởi vì các linh hồn như chúng em có thể di chuyển nhanh chóng với tốc độ 1750

km trong 1 phút tức là hơn 29 km trong 1 giây.

Tôi nghĩ trong đầu:

Tốc độ này tuy có nhanh hơn tốc độ âm thanh nhưng vẫn còn chậm so với tốc độ

ánh sáng và tốc độ của tàu vũ trụ chúng tôi rất nhiều.

Không đầy một phút sau, máy bay đã hạ cánh thẳng xuống bãi đáp.

Ra đón ba bạn quá cố, có thầy An, mẹ tôi và Sao. Vừa ra khỏi máy bay, Tân thân thiết

ôm lấy mẹ tôi, còn Lan và Hoa ôm lấy Sao. Sau đó, ba bạn cùng nghiêng mình chào thầy

An. Ngay lúc ấy, con tàu vũ trụ do May lái cũng vừa đáp xuống. Bước ra khỏi con tàu là

một phụ nữ xinh xắn quen thuộc. Thầy An vội đến bắt tay. Cuộc hội ngộ bất ngờ này là

do sự sắp xếp của thầy An đây, tôi nghĩ thầm trong bụng. Nó bất ngờ ngay cả đối với tôi.

Sau thầy An, đến lượt tôi tiến đến nắm tay chị như những người thân lâu ngày mới gặp

lại. Tôi tranh nói trước:

Ôi, lâu lắm mới gặp lại chị, con người đa đoan lắm việc. Trông chị vẫn còn giữ

được phong độ trẻ trung và xinh đẹp như cách đây mười năm!

Chị không tỏ ra e dè khách khí mà trả lời thẳng một cách rất thân tình:

Thôi đi, đừng có mà nịnh. Chắc nhờ mánh này mà anh Kim chài được cô gái xinh

đẹp mãi từ một hành tinh xa xôi về đấy hẳn?

Tôi kéo Sao đến gần và giới thiệu:

Cô gái ấy đây!

Sao nhỏ nhẹ:

Em chào chị.

Thật thế sao?

Chị tiến đến nắm tay Sao:

Chị chào em. Thật là một cuộc tình vượt không gian.

Lúc bấy giờ, ba bạn Tân, Lan và Hoa cũng nhận ra người quen cũ bước đến bắt tay:

Chúng em chào chị Bích Hằng. Chị có khỏe không? Lâu nay chúng em vẫn luôn

nhớ đến chị. Chị là nhân vật nổi tiếng trong thế giới người âm lắm đó! Hàng mấy nghìn

người âm đã mang ơn chị.

Bích Hằng khiêm tốn:

Nhiệm vụ thôi mà em. May mắn Trời cho chị năng lực, còn sống ngày nào thì chị

còn có nghĩa vụ phải đền ơn đáp nghĩa ngày ấy, những người đã hy sinh tuổi thanh xuân

cho đất nước.

Ngân nói chen vào:

Thế giới người âm rất công bằng và sòng phẳng. Nhưng trong thế giới người trần,

chị Bích Hằng vừa nổi tiếng lại cũng vừa lắm điều thị phi đấy ạ!

Tôi ngạc nhiên hỏi:

Ngân tìm đâu ra những thông tin ấy?

Thì cứ chịu khó lên mạng sẽ đọc được hết những điều mà người ta cho là chị Bích

Hằng làm!

Ví dụ?

Này nhé ngay mới đây thôi, trước khi Hà Nội mở lễ hội kỷ niệm nghìn năm Lý

Thái Tổ tuyên bố dời đô, chị Bích Hằng dự đoán các cây cầu Bãi Cháy, cầu Thăng Long

hay cầu Long Biên sẽ bị sập. Ngoài ra, vị đại tướng nổi tiếng thế giới của Việt Nam ngày

nay sẽ từ trần vào dịp này. Chị Bích Hằng đã bị công an bắt giữ ngay sau khi có những

phát ngôn gây sốc.

232

Bây giờ đại lễ đã qua rồi, ta có thấy gì đâu?

Đúng thế! Trò chuyện với VTC News ngay từ trước, chị đã khẳng định chị chưa

bao giờ đưa ra lời phán như thế. Chị chỉ có một công việc duy nhất là đi tìm mộ và đối

tượng chính là mộ chưa xác định của những người đã khuất. Có phải thế không chị?

Hình như chán ngấy chuyện này lắm rồi, chị Bích Hằng trả lời ngắn gọn:

Vâng, mọi người hãy tin tưởng Bích Hằng mãi mãi không bao giờ là người xấu,

phát ngôn bừa bãi.

Thầy An cũng góp chuyện:

Với cư dân mạng, Bích Hằng được nhiều người ca ngợi nhưng cũng đồng thời bị

một số người cho là lừa bịp. Họ đâu có chịu tin vào kết quả thực tế mà các nhà ngoại cảm

đã làm được cho đất nước này.

Tân góp lời:

Con người, không giống các loài động vật khác, là có cuộc sống tâm linh. Khi còn

sống trên trần gian, nhiều người cho rằng một khi thân xác mất đi thì sẽ không còn gì. Họ

thật cạn nghĩ.

Để chấm dứt câu chuyện, thầy An đưa tay mời mọi người vào hội trường của Viện.

Tôi không ngờ mọi người đã có mặt đông đủ ở đây như vậy, kể cả thầy Cay. Mười

bạn học viên do bộ Công an cử sang và hai vợ chồng thầy Hữu được trang bị sẵn mũ thấu

thị và thấu thính bởi vì những người này chưa có khả năng nhìn thấy linh hồn và nghe

được linh hồn nói. Có ai đó vỗ tay hoan nghênh và thế là tất cả mọi người làm theo hệt

như trong một cuộc đón tiếp khách quan trọng.

Thầy An đứng ra chỉ tay vào người phụ nữ ngồi bên:

Tôi xin giới thiệu với mọi người, người phụ nữ xinh đẹp này là Phan thị Bich Hằng

mà hầu như cả nước ai cũng biết tuy có thể nhiều người ở đây chưa một lần gặp mặt. Chị

là chứng nhân trong buổi bảo vệ luận án tiến sĩ của Kim mà thành quả là các bộ mũ thấu

thị và thấu thính các học viên ngành công an và vợ chồng thầy Hữu đang đội, nó giúp ta

nhìn thấy người cõi âm và nghe được tiếng người cõi âm nói. Trong buổi bảo vệ năm ấy,

chúng tôi gọi tên chị là Bích nhằm giữ tính bí mật của đề tài khi công bố.

Mọi người vỗ tay rào rào. Chị Bích Hằng đứng lên chắp tay chào và cảm ơn mọi

người.

Thầy An quay sang chỉ ba bạn ngồi cạnh tôi và Sao:

Còn đây là ba bạn vong niên đã quá cố của Kim. Tân là nghiên cứu sinh cùng làm

đề tài với Kim, công việc sắp thành thì độ ngột ra đi vì nhồi máu cơ tim. Còn Lan và Hoa

là hai bạn gái cùng học phổ thông với Kim mất do tai nạn giao thông. Chính ba bạn này

tuy ở thế giới bên kia nhưng đã góp phần rất lớn cho đề tài nghiên cứu chóng thành công

và được đưa vào sử dụng trong thực tế.

Lại tiếng vỗ tay rào rào. Ba linh hồn cùng đứng lên khiêm tốn chào mọi người. Các

học viên và vợ chồng thầy Hữu ngồi tham dự buổi tiếp mà cứ có cảm giác như trong mơ,

thỉnh thoảng bỏ mũ ra rồi lại đội mũ vào chăm chăm nhìn vào ba chiếc ghế trống để thẩm

định chắc chắn là vẫn có người ngồi đấy.

Thầy An nói tiếp:

Chúng tôi ngày nay không cần đến mũ mà vẫn nhìn thấy, trao đổi trò chuyện được

với linh hồn là nhờ quyền năng học được ở người Lemuri.

Sau đó, thầy quay sang người đang ngồi cạnh thầy giới thiệu với chị Bích Hằng và ba

bạn quá cố:

Còn đây là thầy Cay, người của hành tinh Lemuria đang ở đây giúp các học viên

học hành theo chương trình giáo dục cơ sở của người Lemuri.

233

Lại vỗ tay rào rào. Do quan sát hai lần giới thiệu trước, đến lượt mình Cay cũng đứng

lên chào mọi người theo phong cách của người Trái Đất.

Tôi ngồi bên, nói khẽ với chị Bích Hằng:

Cay và Kim cùng tuổi đó chị. Người Lemuri vốn có chiều cao khoảng mười tám

mét, nhưng ở đây Cay phải tự thu nhỏ mình lại cho bằng vóc dáng của người Trái Đất để

tiện làm việc.

Thật thế sao?

Chỉ cần chị ở đây chơi qua đêm nay, chị sẽ thấy. Chị đừng lo, lúc nào cần, chỉ một

nhoáng thôi là chị có mặt ngay tại nơi làm việc.

Sau đó, thầy An đề nghị mọi người giải tán trở về công việc của mình nhưng giữ lại

tôi, mẹ tôi, vợ chồng thầy Hữu, mười học viên công an. Do có chị Bích Hằng, thầy An

muốn chiêu đãi mọi người cùng với chị bữa ăn quen thuộc của đất liền: cơm, rau củ các

loại, các món xào nấu thịt thú rừng và lẩu cá biển. Sao, May và Cay nói lời cảm ơn và từ

chối khéo lời mời của chúng tôi.

Do chúng tôi áp dụng các phép thuật của người Lemuri, việc chuẩn bị bữa ăn thực

hiện rất nhanh. Tôi cho chị Bích Hằng biết:

Nơi đây hoàn toàn cách biệt với đất liền, nhưng mọi thứ vẫn đầy đủ, muốn gì có

nấy. Thịt, cá không phải do giết mổ, săn bắt mà là món nhân tạo sản xuất với lượng lớn

thường xuyên cung cấp cho đất liền. Bảo đảm chất lượng dinh dưỡng và hương vị đầy đủ

như thịt cá thiên nhiên. Còn các loại sữa được Viện cung cấp rất rẻ cho đất liền với giá

gần như cho chứ không bắt chẹt như mấy đại gia độc quyền kinh doanh sữa hiện nay với

cái giá cao ngất trời, chiếm kỷ lục về giá sữa của thế giới. Đặc biệt, chúng tôi sản xuất

được sữa mẹ nhân tạo, tức là có đầy đủ thành phần dinh dưỡng và chất kháng sinh đặc

hữu không khác sữa mẹ thực, nhằm cung cấp cho các bệnh viện, nhà trẻ, cô nhi viện và

cả dưỡng lão đường.

Chị Bích Hằng ngỏ ý muốn tham quan các nơi sản xuất và cảnh quan toàn đảo. Tôi

nói:

Đương nhiên rồi! Mấy khi chị sắp xếp được công việc để ra đây. Sao sẽ đưa chị và

ba bạn Tân, Lan, Hoa đi thăm quanh đảo.

Trong bữa ăn, thầy An nêu đề nghị với chị Bích Hằng:

Được biết công việc của cô nhiều nhưng đời sống vật chất không được dư dả cho

lắm nên Viện chúng tôi muốn mời Bích Hằng đưa cả gia đình ra đảo ở, được không? Sẽ

không phải lo cái ăn, cái mặc, việc học hành của con cái. Cuộc sống chắc chắn sẽ tươm

tất hơn ở đất liền rất nhiều. Công việc của Bích Hằng vẫn như cũ. Những khi muốn đi

đâu sẽ có người đưa đón bằng phương tiện máy bay hay tàu vũ trụ của Viện. Đến bất cứ

chỗ nào, chỉ cần mấy giây. Và không lo chuyện ngồi lâu đau cột sống!

Xin cảm ơn thầy đã quan tâm đến em. Cho em thời gian suy nghĩ chứ không thể trả

lời ngay được vì việc này dính nhiều đến cơ quan và nhất là ông xã và con cái nhà em.

Tất nhiên. Vả lại chuyện này đâu có cấp bách, chúng ta còn nhiều thời gian kia mà!

Đêm hôm ấy, chúng tôi đưa chị Bích Hằng cùng các bạn Tân, Lan, Hoa nhận phòng

nghỉ, hướng dẫn sử dụng mọi thiết bị tân tiến và tự động. Mặc dù biết ba bạn đã quá cố

không giống và có nhu cầu như những người đang sống, nhưng chúng tôi không muốn

phân biệt đối xử. Tân được phân một phòng riêng và Lan, Hoa chung một phòng. Ba bạn

vẫn vui vẻ nhận phòng mà không có ý kiến gì. Sau đó, tôi đề nghị tất cả nán lại phòng

của chị Bích Hằng, ngồi vào bàn ôn lại chuyện năm xưa. Thành phần như cũ gồm có chị

Bích Hằng, tôi, Ngân, Duyên, linh hồn ba bạn Tân, Lan, Hoa, ngoài ra còn thêm Sao và

May. Tôi thầm ra lệnh cho một chiếc bàn tròn cùng chín chiếc ghế trồi lên khỏi sàn trước

234

các cặp mắt ngạc nhiên của những người mới đến lần đầu. Đưa tay mời mọi người yên vị,

tôi nói:

Mới đấy mà đã hơn mười năm rồi, chị Bích Hằng nhỉ!

Vâng chị Bích Hằng trầm ngâm Bao nhiêu là sự việc đã xảy ra, nhất là các bạn

với cơ ngơi hoành tráng như thế này, mình không bao giờ ngờ. Có một điều thật lạ: sao

bấy nhiêu năm mà các bạn và cả thầy An đâu có già đi? Bí quyết sống trẻ mãi không già

của các bạn là gì vậy?

Ngân bộp chộp:

Do chúng em nhịn ăn đấy chị ạ!

??...

Tôi đỡ lời:

Nhịn ăn thì chóng già, chóng chết chứ đâu phải trẻ khỏe mãi. Điều chủ yếu là mọi

người ở Viện đều đồng lòng không ăn uống theo kiểu bình thường như mọi người trên

Trái Đất này mà hấp thụ năng lượng tinh khiết trong đó có năng lượng vũ trụ.

Duyên góp lời:

Chúng em từ lâu hầu như "không ăn" gì. Lúc đầu là anh Kim, sau đó đến thầy An,

cô Lan, cô Thanh rồi đến chúng em. May và Sao còn thỉnh thoảng ăn tý chút bánh dinh

dưỡng. Lúc nào chiêu đãi khách từ đất liền ra, anh Kim và thầy An mới trở lại cách ăn

thường tình. Nơi đây, ai chưa quen nhịn thì có bánh dinh dưỡng và thức uống là sữa nhân

tạo của người Atlan, đôi khi thay đổi món là ăn trái cây theo kiểu của người Lemuri.

Ngân giải thích rõ thêm:

Hấp thu thứ hoàn toàn tinh khiết như năng lượng vũ trụ sẽ làm con người trẻ mãi và

không bị bệnh tật gì. Người đời có câu "Bệnh tật vào cơ thể bằng đường mồm" thật rất

đúng. Giá như chị Bích Hằng đến đây sống với bọn em, bảo đảm chị sẽ khỏe và trẻ

mãi, chắc chắn sẽ sống thọ như người Atlan hoặc người Lemuri.

Người Atlan và người Lemuri sống được bao lâu?

Từ mấy trăm đến vài ngàn năm.

Nhân có Tân, Lan, Hoa ở đây, cũng như lần trước, tôi tò mò muốn tìm hiểu tiếp

những chuyện của người âm. Tôi nhìn Tân và hỏi:

Người âm thì sống được bao lâu?

Sao và May ngơ ngác, còn Ngân và Duyên thì cười rộ:

Anh Kim khéo hỏi! Linh hồn mà còn chết một lần nữa sao?

Các bạn chưa biết đấy thôi. Mình từng đọc một cuốn sách thuộc loại truyện kinh dị

của người Tàu. Sách nói rằng người chết đi thành ma, ma chết một lần nữa thành mị.

Tân trả lời ngay:

Các nhà văn lắm tưởng tượng! Hù dọa người trần chưa đủ, họ còn hù dọa cả người

âm. Có thể nói linh hồn là vĩnh cửu nên đâu có tuổi, còn xác phàm là tạm bợ nên sống

với thời gian hạn chế. Điều kiện sống không tốt, người sống không lành mạnh thì cơ thể

lắm bệnh tật, tiếp nhận nhiều rủi ro dẫn đến tuổi thọ thấp là lẽ đương nhiên. Số mệnh

chẳng qua là cái "quả" bị định đoạt bởi cái "nhân" mà nên. Tiên tri là biết trước cái quả

trong lúc cái nhân đang diễn ra trong một quá trình lâu dài và phức tạp.

Luật nhân quả có hiệu lực đối với cả một đất nước không?

Có chứ! Mặc dù dân chúng không muốn nhưng nếu lãnh đạo một đất nước làm

những điều xấu xa độc ác cho người dân hay cho một đất nước khác thì cả đất nước này

cũng sẽ lãnh đủ hậu quả. Mỗi con người là một tiểu vũ trụ. Mỗi đất nước gồm nhiều tiểu

vũ trụ cộng lại. Nếu chúng ta tin rằng vũ trụ mà chúng ta đang sống bị chi phối bởi những

235

quy luật trong đó có luật nhân quả thì một đất nước sao có thể tránh khỏi tác động của

một quy luật nào đó của vũ trụ?

Duyên hỏi:

Nghe nói sang thế kỷ 21, luật cõi âm có một số điều thay đổi, có đúng không?

Mọi người đều cười. Tôi hỏi lại:

Duyên lấy thông tin từ đâu ra thế?

Từ "Tài liệu thực nghiệm khoa học tâm linh" ghi lại các cuộc phỏng vấn linh hồn

người thân do ba cơ quan phối hợp tổ chức tại Hà Nội là Hội Liên hiệp Khoa học Công

nghệ Tin học ứng dụng (UIA), Viện Khoa học Hình sự bộ Công an và Trung tâm Văn

hóa Kỹ thuật Truyền thông Việt Nam.

Tân trả lời:

Đúng thế. Ngày nay, nhờ khả năng ngoại cảm của nhiều người mà cuộc sống cõi

âm xích gần với cuộc sống cõi dương nhiều hơn. Người sống trên trần gian nên tìm hiểu

kỹ điều luật của cõi âm và làm theo những điều luật đó.

Có những điều luật nào được cho là trái khoáy so với cuộc sống cõi trần?

Không đâu. Cõi âm luôn thay đổi theo “thời thế”. Đến thế kỷ khoa học kỹ thuật,

người trần tiến bộ văn minh, theo luật, người âm phải tiến bộ nhanh hơn, mạnh mẽ hơn

mới giúp người trần được.

Ví dụ?

Tân trả lời:

Trước năm 2000, có một số thầy pháp, thầy cúng có khả năng yểm bùa và có tác

dụng ở một số việc. Từ sau năm 2000 thì “bùa chú” không còn có tác dụng nữa. Ngày

nay, luật thiên đình cho phép người tứ đại về trần giúp con cháu, không cần thầy pháp,

thầy cúng.

Lan nói tiếp:

Chiêm tinh, xem sao giải hạn không còn “linh ứng” nữa vì thời tiết thay đổi không

chuẩn xác như xưa. Tính tử vi theo giờ, ngày, tháng năm sinh không chuẩn xác.

Hoa cũng nói:

Từ năm 2000 trở đi, luật nhân quả có thay đổi. Ai làm sai người đó chịu, bố làm sai

bố chịu, con làm sai, con chịu, con cái không mắc nợ ân oán của bố mẹ.

Bích Hằng nãy giờ chỉ nghe, bây giờ mới lên tiếng:

Mình đã từng gặp nhiều linh hồn, đôi lúc tò mò có hỏi họ những điều tương tự. Họ

đã trả lời như ba bạn Tân, Lan và Hoa. À có điều này mình muốn hỏi các bạn đang sống.

Trên hội trường hồi sáng, chỉ có vợ chồng thầy Hữu cùng với mười bạn bên ngành Công

an là đội mũ thấu thị thấu thính, còn những người khác kể cả các bạn người ngoài hành

tinh đã có khả năng nhìn thấy các linh hồn sao?

Ngân nhanh nhẩu:

Có đấy chị ạ! Mọi người cũ của Viện chúng em do từng học văn hóa của người

Lemuri nên có khả năng nhìn thấy linh hồn và nghe linh hồn nói như chị và các nhà ngoại

cảm khác.

Duyên tiếp lời:

Không những thế, chúng em còn có nhiều khả năng khác nữa như có thể phân thân

một biến thành hai người giống hệt nhau, có thể tự thu nhỏ người lại hay phóng to người

lên, có thể tự nhấc bổng mình và bay đi bay lại được.

Trong lúc Duyên nói, mấy người còn lại gồm tôi, Sao, Ngân, May tự biến thành hai,

tự thu người thành nhỏ xíu rồi lại tự khuếch đại mình lên cao đến tận nóc phòng rồi sau

236

đó trở lại dáng người bình thường và bay lòng vòng trong phòng trong chốc lát. Chị Bích

Hằng nhìn hết người này đến người khác diễn trò vừa ngạc nhiên vừa thích thú.

Duyên vẫn chưa ngừng nói:

Chúng em còn có khả năng nhận biết người ngồi đối diện với mình đang nghĩ gì.

Có phải chị đang nghĩ trong đầu mà không định nói ra là mọi người ở đây đang làm trò

ảo thuật, có đúng không?

Chị Bích Hằng gật đầu mỉm cười thừa nhận. Nãy giờ im lặng, bây giờ Sao mới lên

tiếng:

Không phải ảo thuật đâu chị ạ mà chúng em làm thật đấy. Lúc đầu chỉ có một mình

anh Kim biết làm, em và anh May bảo anh Kim làm trò ảo thuật để lòe thiên hạ làm anh

Kim tự ái, có phải không anh Kim?

Tôi cười gật đầu:

Bọn tôi còn có thể làm xuất hiện một số đồ vật, ví dụ..

Tôi vừa nói vừa làm hiện ra trên mặt bàn trước mỗi người một hạt kim cương to

khoảng 2 carat.

Thật hay giả đây? Bích Hằng nghi ngờ hỏi.

Thật trăm phần trăm!

Nói đoạn tôi cho tất cả các hạt kim cương biến hết chỉ trừ viên trước mặt chị Hằng.

Thật tình, tôi chỉ mượn các hạt kim cương từ trong kho của Viện ra để trình diễn

chơi chứ không hề biến không thành có. Trong thời gian ngắn vừa qua, tuy ngồi đây

nhưng tôi đã gửi thông tin ngỏ lời xin ý kiến thầy An muốn Viện tặng cho chị một viên

kim cương làm quà gọi là kỷ niệm những ngày đầu tiên hợp tác trong công trình chế tạo

máy thấu thị và thấu thính. Thầy An đã đồng ý. Luôn thể, tôi vừa nói vừa cho xuất hiện

tiếp một hộp giấy nhỏ lót đệm nhung màu đỏ bên cạnh viên kim cương có cả hộp đựng

kèm theo một giấy chứng nhận quyền sở hữu hợp pháp và một giấy kiểm định chất lượng

do Phòng Kiểm định đá quý số 110, phố Tuệ Tĩnh, quận Hai Bà Trưng Hà Nội có khuôn

dấu và chữ ký xác nhận của GS. TSKH Phan Trường Thị.

Chị Bích Hằng cảm động nói lời cảm ơn.

Tôi tiếp tục gợi ý chị Bích Hằng:

Nếu chị chấp nhận lời mời của thầy An ra đây sống với bọn em, chị sẽ được học

những lớp do các thầy người Lemuri dạy. Hiện nay, Cay đang dạy lớp cơ bản cho vợ

chồng thầy Hữu, mấy vị bên bộ Công an và các cháu Giang, Vang, Bình. Mỗi buổi chỉ

mất một giờ thôi, điều này chắc chắn không ảnh hưởng đến công việc của chị đang làm.

Sau đó, mọi người sẽ được thầy Hơn dạy tiếp chương trình nâng cao, tại đây hoặc tại

hành tinh Lemuria còn tùy thuộc thầy Hơn, khi đó ta sẽ lại bàn tiếp kế hoạch làm việc của

chị.

Chị Bích Hằng một lần nữa lại nói lời cảm ơn và hứa suy nghĩ sau khi về đất liền. Lúc

này đã là 10 giờ đêm. Trước đó mấy phút, tôi có gửi thông tin đến Cay hiện đang nằm

trong cái tổ kén trong suốt và vô hình của mình ở ngoài bãi đáp của các con tàu. Tôi đề

nghị Cay hãy bước ra khỏi tổ kén, ngồi thiền một lúc trên sân bóng chuyền để mọi người

mới đến được diễm phúc chiêm ngưỡng một con người Lemuri trưởng thành to cao vĩ đại

là như thế nào. Cay đồng ý sẵn sàng làm theo yêu cầu của tôi. Sau đó, tôi lưu ý mấy vị

khách mời hãy bước lại gần của số nhìn ra sân bóng. Dưới ánh trăng sáng vằng vặc, Cay

ngồi đấy im lìm như một bức tượng cao bằng tòa nhà ba tầng, vai quàng một dải lụa trắng

theo kiểu của dân tộc mình. Hình ảnh ấy chỉ hiển hiện có đúng một phút, sau đó biến đi

như tan hòa vào ánh trăng.

237

Sáng hôm sau, tôi báo cho mấy vị khách biết trong tủ quần áo có sẵn bộ đồ tắm. Buổi

sáng sớm nên tắm biển vì bãi biển ở đây rất sạch, cát trắng một màu tinh khôi không hề

lẫn chút rác rến nào, còn nước thì trong xanh sâu cả mét vẫn nhìn thấy đáy. Cảnh quang

đẹp hơn bất kỳ bãi biển nào trên thế giới này. Chương trình gồm có tắm biển, đi tham

quan, sau đó về ăn sáng.

Ra đến bãi biển, mọi người cởi bỏ bộ quần áo ngoài rồi nhào xuống nước. Tân, Lan,

Hoa cũng làm theo nhưng để nguyên cả quần áo. Khác với người cõi trần, các linh hồn

đâu có sợ ướt và chết đuối. Vẫy vùng chán, họ nằm nổi lềnh bềnh trên mặt biển gợn sóng

như những chiếc phao. Duyên đưa sáng kiến mọi người cùng thi bơi xem ai nhanh nhất.

Chị Bích Hằng được mời làm trọng tài. Chị vừa gật đầu đã có ngay một chiếc còi đâu đó

trên trời bay đến đậu ngay trên môi chị làm chị giật bắn cả mình. Ngân cười:

Xin lỗi chị, em vừa chuyển còi từ trong nhà ra đấy!

Chị Bích Hằng hơi ngượng, sau trấn tĩnh lại:

Mời mọi người chuẩn bị. Toe.....

Chẳng mấy chốc, Sao đã bứt lên trước bỏ lại đằng sau May, Ngân, Duyên và tôi. Tôi

chẳng dại tốn sức, tham gia cho vui thôi. Nhưng kìa, ba bạn Tân, Lan, Hoa tuy xuất phát

sau nhưng như những mũi tên, các bạn cứ lướt nhẹ trên mặt sóng và rồi đuổi kịp và vượt

qua Sao một đoạn xa.

Khi lên bờ tổng kết thứ tự trước sau, May giới thiệu em mình:

Sao là quán quân giải bơi lội trên hành tinh chúng em đó.

Rồi May nhìn chị Bích Hằng nói đùa:

Có Sao ở đây bảo hiểm, chị Bích Hằng yên tâm tắm biển thoải mái.

Sao nói ngay:

Là trước kia thôi, bây giờ mọi người đâu có cần đến em. Bấy nhiêu con người ở đây

chỉ cần lia ánh mắt là nhấc bổng một người nào đó đuối sức ra khỏi nước dễ như trở bàn

tay.

Thật vậy sao? - chị Bích Hằng ngạc nhiên.

Vâng Ngân trả lời Do chúng em đã học được quyền năng của các thầy người

Lemuri đấy chị ạ. Nếu chị được học, mai kia chị cũng sẽ làm được những điều đó.

Tôi bảo mọi người, trừ ba bạn quá cố, ngồi quanh thành một vòng tròn và mời chị

Bích Hằng ngồi vào giữa. Chị có vẻ ngạc nhiên không hiểu để làm gì nhưng cứ làm theo.

Tôi nói:

Mọi người hãy tự làm nóng mình lên cho bộ đồ tắm khô đi, đồng thời tập trung

"sấy" giúp chị Bích Hằng với.

Tôi vừa nói xong, hơi nước từ mỗi người và từ chị Bích Hằng từ từ tỏa ra, tụ lại thành

một đám mây nhỏ bốc lên mù mịt. Nhờ sáng kiến này của tôi mà cuộc tham quan bắt đầu

được ngay, mọi người đỡ phải mất thời gian quay về nhà để thay quần áo khô. Ở trên

đảo, tất cả những vật vô hình như các con tàu vũ trụ, chị Bích Hằng đều thấy được hết

nên không cần phải chuyển mũ thấu thị ra. Như bất cứ đoàn tham quan nào, thú vị nhất là

khi họ đến vườn cây ăn quả do Cay tặng. Vườn cây rất sạch, không hề có rác rưởi, cành

lá um tùm tạo nên bóng mát như trên các cánh rừng, không ai nghĩ đấy là những cây cho

trái quanh năm. Ngân nói to chủ yếu là cho các vị khách:

Ai muốn ăn trái hãy nói nên lời "Xin cây cho tôi một quả"

Tôi nghe rõ có mấy người này lên tiếng: Ngân, Sao, sau đó là chị Bích Hằng và ba

bạn quá cố. Tức thì có sáu quả tỏa mùi thơm ngào ngạt chín mọng màu đỏ tía từ lùm cây

rậm nhẹ nhàng rơi xuống và treo lửng lơ trước mặt những người yêu cầu. Ngân, Sao bắt

lấy trước, sau đó đến lượt những người còn lại. Sao nhắc nhở:

238

Mọi người hãy cảm ơn cây.

Xin cảm ơn cây tiếng nhiều người thốt lên cùng một lúc.

Bấy giờ, tôi mới bảo:

Trái cây ở đây tuyệt đối sạch và an toàn, ăn ngay mà không cần rửa đâu.

Chị Bích Hằng chầm chậm vừa nhâm nhi vừa thích thú:

Giá như có anh Tuấn nhà mình cùng hai cu Tiến và Chung ở đây, chắc các vị cũng

sẽ thích lắm!

Bằng ý nghĩ, Sao thầm bảo với Ngân là không ăn, để dành làm quà cho chị Bích

Hằng mang về nhà. Ba bạn Tân, Lan, Hoa cũng đâu có ăn theo phong cách của người trần

nên cuối cùng còn năm quả. Sao đưa mắt điều khiển chúng bay tất về phòng của chị Bích

Hằng. Duyên nói thêm:

Vườn cây là của người Lemuri nên chúng cho trái to lắm mới đáp ứng tầm ăn của

chủng người khổng lồ đó.

Chị Bích Hằng nhìn Duyên có vẻ ngạc nhiên.

Em thử cho chị thấy nhé. Xin cây cho một quả để người Lemuri ăn.

Từ trên cao, một trái cây vừa chín mọng vừa thơm ngát rất to hạ dần xuống rồi treo lơ

lửng trước mặt giữa Duyên và chị Bích Hằng. Chị Bích Hằng nhanh nhẹn giơ hai tay đỡ

lấy. Giống như bà Phượng trước đây, không lường được sức nặng gần đến trăm ký nên

chị để trái cây chạm đất. Tức thì trái cây biến mất trước sự ngạc nhiên tột độ của các vị

khách. Chị Bích Hằng thầm nghĩ:

Hệt như trái ma vậy!

Biết được chị Hằng nghĩ gì, tôi cười và bật mí:

Không phải trái ma đâu chị. Trên hòn đảo này, có một luật lệ hay nói theo kiểu tâm

linh là lời nguyền cũng được: tất cả những thứ gốc thực vật như cành, lá, rác rưởi, trái cây

khi rơi xuống đất đều biến đi thành phân bón hết. Bởi vậy, hòn đảo mới giữ được

sạch sẽ như thế kia.

Ai tạo ra "luật lệ" đó? - chị Bích Hằng hỏi.

Ngân trả lời:

"Luật lệ" hay nói đúng hơn là quyền năng là do Viện chúng em tạo ra.

Tôi chợt nghe trong đầu lời nhắn về của thầy An:

Chúng ta sắp đón khách từ hành tinh P16.

Tôi báo cho chị Bích Hằng:

Lát nữa, chị sẽ được gặp một dạng người vô hình khác, còn đang sống hẳn hoi chứ

không phải đã quá cố như các bạn Tân, Lan, Hoa. Thầy An vừa báo cho Kim biết.

Bích Hằng thắc mắc:

Bằng cách nào? Ở đây đâu có điện thoại di động?

Đúng là không có điện thoại di động. Ở đảo này, mọi người của Viện đều không

cần điện thoại di động mà vẫn có thể liên lạc nhau qua ý nghĩ. Điều này cũng do kết quả

rèn luyện học tập từ người Lemuri.

Khi chúng tôi quay về thì bữa ăn sáng đã sẵn sàng. Bữa chiêu đãi khách quý do cô

Lan chủ trì gồm có phở thịt nai cùng với rau thơm, trái cây tráng miệng hái từ vườn cây

do Cay tặng và sữa mẹ dành cho bé sơ sinh. Đương nhiên tất cả đều là nhân tạo. Tuy vậy,

tính cố chấp vẫn không cho Cay, Sao và May tham gia. Các bạn ấy về phòng, tự gọi lấy

món khoái khẩu của mình. Linh hồn của ba người bạn thân cũng được mời tham dự, có

phần sẵn trên bàn trước ba chiếc ghế "trống". Tuy không thưởng thức các món như những

239

người đang sống, nhưng ba bạn vẫn phát biểu khen ngon, khen thực tình chứ không

khách sáo, lấy lòng.

Sau đó, thầy An điện triệu tập mọi thành viên của Viện đến phòng họp phổ biến công

việc. Khi tôi đưa chị Bích Hằng cùng ba bạn quá cố đến đó thì thầy An cũng vừa đưa một

vị khách của hành tinh P16 từ văn phòng của thầy ra. Cho đến bây giờ, tôi vẫn không sao

phân biệt nổi bóng vị khách ấy là ai. Ngay lúc đó, dường như biết được sự bối rối của tôi,

vị khách tiến đến tự giới thiệu:

Chào Kim, mình là Tashi đây! Mình đến Trái Đất có chút việc do thủ lĩnh giao. Lát

nữa mình sẽ nói tất cả cho mọi người trong viện đều nghe một thể.

Tôi bắt chặt tay Tashi và thổ lộ:

Mình rất nhớ bạn, Ushu, Oshi cùng các bạn của hành tinh P16.

Tôi quay sang giới thiệu bằng lời:

Đây là chị Bích Hằng, nhà ngoại cảm cũng đồng thời là người bạn thân thiết từ lâu

của Viện. Còn đây là Tashi, chị có nhìn thấy không?

Có chị Bích Hằng trả lời Xin chào anh Tashi. Rất hân hạnh được gặp anh.

Thế rồi chúng tôi cùng ngồi vào bàn. Cạnh thầy An, bên phải là Tashi, còn bên trái là

Cay. Chị Bích Hằng chọn chỗ ngồi sát Ngân và Duyên. Tôi đoán thế nào chị cũng sẽ hỏi

hai cô về những nhân vật đặc biệt đang là khách của Viện. Trừ ba bạn Tân, Lan, Hoa,

những người mới đến Viện như vợ chồng thầy Hữu, các bạn ở bộ Công an kể cả chị Bích

Hằng đều được chúng tôi cho mượn mũ thấu thị và thấu thính để nhìn thấy và nghe rõ khi

các vị khách đặc biệt là Tashi và Cay phát biểu ý kiến.

Sau lời giới thiệu theo thường lệ, thầy An đưa tay mời Tashi. Tashi đứng lên:

Tôi là Tashi, người của hành tinh P16 xin chào các bạn. Thủ lĩnh có nhờ tôi chuyển

lời hỏi thăm đến thầy An cùng các bạn làm việc của Viện. Tôi đến đây với nhiệm vụ

chuyển giao cho Viện quà tặng của thủ lĩnh là một con tàu vũ trụ mới lớn gấp nhiều lần

các con tàu vũ trụ xưa kia Viện đã được tặng. Nó chứa được nhiều con tàu vũ trụ nhỏ này

và chứa được vài khổ người Lemuri như bạn Cay đây.

Có tiếng vỗ tay rào rào hoan hỷ. Nhiều người cùng quay sang nhìn tôi:

Sướng nhé! Từ nay về sau, mỗi lần đi đâu, không được phép thu nhỏ mọi người

bằng con chuột nhắt nữa đấy!

Ý họ ám chỉ mỗi lần di chuyển nhiều người cùng lúc để đi đến các hành tinh, tôi buộc

phải thu nhỏ họ và nhốt tất cả vào cái lồng dạng nhà bằng giấy. Tashi nói tiếp:

Với trình độ khoa học kỹ thuật cao hiện nay, P16 đã chế tạo được bộ thu năng

lượng yếu trong vũ trụ và cho phép những con tàu vũ trụ bé cũng như lớn bay dài ngày

mà không cần vất vả tìm kiếm những hành tinh xanh để nạp năng lượng mạnh nữa. Tôi

có mang theo đây hai bộ thu năng lượng mới để thay thế các bộ thu năng lượng cũ. Việc

tháo cũ lắp mới hoàn toàn đơn giản, các bạn ở đây có thể tự làm được.

Lại vỗ tay rào rào. Thầy An đứng lên phát biểu:

Tôi rất cảm động khi nghe được tin báo về món quà bất ngờ và quý giá này. Thay

mặt toàn thể nhân viên của viện, tôi nhờ Tashi chuyển lời cảm ơn chân thành và sâu sắc

của tôi đến thủ lĩnh.

Trong khi thầy An nói, chị Bích Hằng quay sang Ngân hỏi nhỏ:

Tashi là dạng người gì mà tựa như từ chất dẻo nặn ra vậy? Không tai, không mắt,

không mũi, không mồm thì làm sao có thể nghe, nhìn, thở, ăn và nói?

Ngân giải thích:

Nó như thế đấy chị ạ! Họ hấp thu năng lượng vũ trụ để sống nên đâu cần mồm để

ăn, cần mũi để thở. Họ trao đổi với nhau và với chúng ta bằng ý nghĩ chứ đâu bằng lời.

240

Họ nghe được, nhìn được có lẽ qua …da.

Nhưng Tashi không mặc quần áo gì sao? Rồi cái của ấy cũng không nốt lấy gì để

sinh sản?

Duyên mỉm cười lên tiếng:

Chị thử nghĩ xem họ cần mặc quần áo làm gì cơ chứ một khi cơ thể họ hoàn toàn

giống hệt nhau, không hề có một chút khiếm khuyết hoặc một cái gì đó có tính gợi cảm

như chúng ta để che đậy? Nếu quần áo dùng để bảo vệ cơ thể chống lại sự khắc nghiệt

của thời tiết thì cơ thể họ đủ sức tự bảo vệ rồi đâu cần đến quần áo nữa.

Chị hiểu rồi. Nhưng còn cái "của nợ"?

Họ không cần cái ấy bởi họ sinh sản vô tính.

Thế là sao?

Họ tạo phôi từ tế bào của người già và nuôi nó lớn lên thành một con người thực

thụ trong lồng ấp nhân tạo. Nhờ vậy, con người truyền kiếp vẫn giữ được những kiến

thức tích lũy của người tiền bối mà không cần phải học lại từ đầu như con cái chúng ta.

Ngân nói thêm:

Vì vậy, chủng người ở hành tinh P16 thông minh lắm chị ạ. Họ vượt khá xa loại

người Trái Đất chúng ta về mặt trí tuệ. Dân số họ chỉ có vài trăm, ít thôi nhưng họ sống

hòa bình và không bao giờ tàn phá môi trường thiên nhiên.

Chị Bích Hằng trầm ngâm:

Giá như chị được cái diễm phúc ghé thăm hành tinh ấy!

Điều này đâu có khó. Khi ra đây sống và làm việc với chúng em, chị cứ nêu nguyện

vọng với thầy An và anh Kim là được ngay thôi. Chị còn có thể được thăm cả hành tinh

Atlantis của Sao và May, hành tinh Lemuria của anh Cay và thầy Hơn nữa đấy.

Trong lúc ấy, tiếp sau phần thông báo của Tashi, thầy An đứng lên:

Tôi nhận được một thông tin quan trọng từ thầy Hơn vừa mới ngay đây.

Nắm lấy bàn tay của Cay, thầy nói tiếp:

Hành tinh Lemuria có tin vui: thủ lĩnh bang của Cay vừa bước qua tuổi về hưu. Thủ

lĩnh hành tinh thông cáo người thay thế sẽ là Cay và Cay phải về gấp để nhận nhiệm vụ

mới. Chắc chắn là Cay cũng đã nhận được lệnh của thủ lĩnh rồi chứ?

Cay gật đầu xác nhận.

Thầy Hơn còn nói ở viện này khá nhiều người như tôi, cô Lan, cô Thanh tức là

mẹ tôi , Kim và các em Ngân, Duyên, Sao, May có đủ trình độ để làm thầy giáo đứng

lớp cơ bản thay Cay. Bởi vậy, dẫu Cay có trở về đột ngột thì kế hoạch đào tạo của Viện

vẫn cứ tiến hành bình thường.

Nhiều tiếng lao xao:

Vâng. Chúng tôi xin chúc mừng thầy Cay!

Hoan hô thầy Cay lên chức thủ lĩnh bang!

Thầy An nói tiếp:

Thay vì chờ Cay hoàn thành kế hoạch giảng dạy trở về thì thầy Hơn sẽ sang, nhưng

lần này thầy đến Việt Nam ngay để mở lớp bồi dưỡng nâng cao. Đồng thời, thầy giao cho

tôi thay Cay vừa đứng lớp cơ bản vừa tham dự lớp nâng cao của thầy.

Thế là buổi họp mặt sáng chủ nhật biến thành buổi chia tay giữa Viện với Cay, với

Tashi và các khách mời là chị Bích Hằng, Tân, Lan, Hoa. Do việc ăn uống của chủ lẫn

khách đều đơn giản nên từ lâu, Viện không tổ chức những bữa ăn liên hoan thịnh soạn

nhiều món như ở đất liền. Nhằm giúp Cay giữ nguyên vóc dáng to lớn vốn có trong suốt

hành trình trở về, thầy An cho sử dụng ngay con tàu vũ trụ mới, nhờ Tashi vừa lái vừa

241

hướng dẫn tập lái cho May. Trên tàu, còn có con tàu vũ trụ nhỏ do Tashi mang theo để từ

hành tinh Lemuria trở về hành tinh P16. May có trách nhiệm đưa Cay đi và đón thầy Hơn

về. Còn tôi đưa chị Bích Hằng, các bạn Tân, Lan, Hoa trở lại đất liền trên chiếc máy bay

tàng hình. Ngân và Duyên không quên chuẩn bị lỉnh kỉnh nhiều món quà tặng cho chị

Bích Hằng như trái cây Lemuria, bánh dinh dưỡng của người Atlan, một ít cá, thịt và sữa

nhân tạo.

Khi máy bay vừa thoát ra khỏi vùng trời của đảo Không tên, ba bạn Tân, Lan, Hoa

cùng nói lời cảm ơn và tạm biệt với chị Bích Hằng và tôi. Tôi vội ngăn lại:

Hãy gượm. Cho mình thông báo một tin vui. Khi được biết ba bạn Tân, Lan, Hoa

không thể tự ý xâm nhập đảo Không tên, tối hôm qua thầy An có mời Thổ công đến

phòng thầy làm việc và cùng nhất trí xem linh hồn ba bạn là người nhà, được phép ra

thăm đảo bất cứ lúc nào.

Hoan hô thầy An! Lan thay mặt cả ba linh hồn ngỏ lời Anh Kim chuyển lời

chúng mình đến cảm ơn thầy An rất nhiều nhé!

Sau đó, ba bạn nhẹ nhàng bước ra khỏi máy bay từ trên cao. Còn lại chị Bích Hằng

phải mấy phút sau, tôi mới cho máy bay treo lơ lửng bất động bên trên quảng trường Ba

Đình khoảng hai trăm mét. Tôi hỏi:

Từ đây về đến nhà, chị đi bằng cách nào?

Xe ôm.

Thôi, chị chịu khó nằm trong túi áo, Kim sẽ đưa chị về nhà cho nhanh.

Nói rồi, không chờ chị Bích Hằng có đồng ý hay không, tôi vỗ vai thu nhỏ chị lại

bằng điếu thuốc lá rồi nhẹ nhàng nhón lấy cùng với túi quà, bỏ lọt vào túi áo sơ mi.

Khoác vội thêm chiếc áo tàng hình, tôi mở cửa máy bay và phóng vù ra ngoài, định

hướng bay về quận Hai Bà Trưng. Từ trên cao đảo mắt quan sát, tôi mới thấy mình có

quyết định đúng. Xe cộ đủ loại bên dưới trông như đàn kiến lẫn mấy con bọ chen nhau là

các xe buýt làm nhiều đoạn đường kẹt cứng. Phố Hương Viên đây rồi. Tôi tìm chỗ vắng

hạ xuống, nhón lấy "điếu thuốc lá biết cựa quậy" đặt ra đất rồi phù phép cho chị trở lại

vóc dáng ban đầu. Không hiện hình, trước lúc quay đi, tôi gửi lời chào:

Tạm biệt chị Bích Hằng nhé. Mong sớm gặp lại.

Chị Bích Hằng đâu có biết rằng lần này là lần đầu tiên cũng là

lần cuối cùng chị bị "cưỡng ép" thu nhỏ mà không được hỏi ý kiến.

Thầy Hơn đến Việt Nam mở lớp học

Mấy ngày sau, May đưa thầy Hơn từ hành tinh Lemuria về. Hầu như tất cả mọi người

có mặt trên đảo Không tên hôm ấy đều ra sân bay đón thầy. Khỏi phải nói niềm hân hoan

rạng rỡ của chủ và khách như thế nào. Khi chỉ còn thầy An, thầy Hơn và tôi trong văn

phòng của viện trưởng, thầy Hơn nói vui:

Lần đi này, thầy được chở bằng con tàu vũ trụ lớn nên không phải tốn sức thu nhỏ

người lại như mọi khi. Còn May thì giống như con hến biết cầm lái ấy. Suốt hành trình

bay, nó chẳng nói được nửa lời. Chỉ khi nào thầy hỏi chuyện, nó mới nói. Bởi vậy, hầu

như suốt thời gian bay, thầy chỉ có mỗi việc ngồi thiền và ngủ.

Thầy An và tôi cùng cười. Tôi đáp lại lời thầy Hơn:

Ở viện này, chỉ có mình con là biết cách cù cho anh chàng này mở miệng thao thao

bất tuyệt thôi thầy ạ.

Đoạn thầy Hơn vào việc nghiêm chỉnh:

242

Đến Trái Đất lần này, ngoài chuyện dạy chương trình nâng cao, thầy sẽ bàn giao

luôn việc hướng dẫn học theo chương trình của người Lemuri cho các con. Thầy nhận

thấy đến bây giờ, các con là những học viên trong khóa đầu tiên của Viện đã có đủ năng

lực truyền đạt lại những điều đã lĩnh hội được. Tuy nhiên, lần này thầy thay đổi kế hoạch

một chút. Lúc đầu thầy bảo một trong các con là An, Kim, Lan, Thanh, Ngân và Duyên

đều hội đủ năng lực để truyền đạt lại những kiến thức cơ bản đã học được từ Cay cho lớp

học viên mới, còn thầy chỉ phụ trách lớp nâng cao. Nhưng thầy muốn ở đây lâu hơn một

chút, cũng có thể dành ít thời gian thăm thú đất nước Việt Nam nữa nên thầy quyết định

kiêm luôn phụ trách lớp cơ bản. Buổi sáng thầy dạy lớp cơ bản, buổi chiều thầy dạy lớp

nâng cao.

Nghe thầy Hơn nói, thầy An và tôi thở phào nhẹ nhõm, có cảm giác như trút được

một gánh nặng. Thầy An vội đáp:

Chúng con rất vui mừng được thầy lãnh trách nhiệm gấp đôi. Khi biết được tin này,

chắc các học viên mới sẽ thích thú lắm.

Trong lúc này, tôi có trách nhiệm tổ chức lớp, lên danh sách các học viên và theo

thường lệ bao giờ cũng có cuộc gặp gỡ đầu tiên giữa thầy và trò. Đối với lớp cơ bản, cuộc

gặp này rất quan trọng, học viên có thể bị thải loại nếu không đạt yêu cầu sau khi bị kiểm

soát ý nghĩ.

Sau đó hai hôm, thầy Hơn có cuộc hội ý với thầy An, thầy Hữu và tôi. Khi đã hiện

diện đủ, thầy Hơn nói ngay:

Tất cả các học viên lớp cơ bản đều tốt, không có vấn đề gì đáng ngại. Tuy nhiên,

thầy còn nhìn thấy trước là số các học viên từ bộ Công an gửi sang sẽ có một tương lai

khá đẹp. Nếu có điều kiện thuận lợi, họ sẽ có công lớn trong việc xây dựng đất nước các

con sau này. Bởi vậy, các con cần có kế hoạch đào tạo họ lâu dài hơn bằng cách gửi họ

học tiếp ở hành tinh Atlantis để họ tiếp thu những thành tựu khoa học kỹ thuật mà hiện

tại không những Việt Nam mà cả Trái Đất cũng chưa đạt được. Trong số mười người đó,

thầy còn nhận biết có hai người được đất liền giao thêm nhiệm vụ theo dõi hoạt động của

viện các con. Nhưng các con yên tâm, thầy sẽ có cách làm cho các bạn ấy chỉ có ý nghĩ

duy nhất tốt đẹp về các con mà thôi. Riêng Hữu, thầy khuyên con hãy sớm từ bỏ những ý

nghĩ tiêu cực và không mấy tin tưởng vào tương lai của đất nước. Bất kỳ đất nước nào

trên hành tinh này cũng vậy thôi, cái tốt, cái xấu, người thiện, người ác lúc nào cũng song

hành bên nhau. Nhưng cuối cùng cái tốt, người thiện bao giờ cũng thắng thế. Con cũng

nên từ bỏ những ưu tư thường trực ra khỏi đầu con, bởi vì trong tương lai tất cả mọi

người ở đây sau khi học xong lớp nâng cao sẽ biết rõ tâm tư suy nghĩ của nhau, không ai

có thể giấu nhau điều gì.

Thầy Hơn đề nghị hôm sau, Viện bắt đầu mở lớp ngay. Thời gian đầu, thầy phụ trách

lớp cơ bản trước. Còn chúng tôi ai có điều kiện thì tham gia phụ hướng dẫn thực hành.

Tôi thưa với thầy rằng chúng con có hứa thu xếp cho gia đình chị Bích Hằng ra đảo ở hẳn

và tham dự lớp. Thầy chưa trả lời vội mà đăm chiêu một lúc rồi mới nói:

Thầy nhận thấy gia đình cháu ấy không có duyên với chúng ta đâu! Số phận cháu

ấy phải mãi mãi gắn với đất liền vì còn nặng nợ với tổ quốc, với dân tộc. Thế giới chúng

ta, nơi chúng ta đang sống, việc chúng ta đang làm, với cháu ấy chỉ là ảo ảnh. Chúng mơ

hồ viển vông còn hơn cõi âm mà cháu ấy đang hằng ngày đối mặt, tiếp xúc. Ngay khi dời

cơ sở Viện từ đất liền ra đây, chính các con đã tự cô lập mình, biến không gian mà các

con dày công xây dựng nên một cơ ngơi hoành tráng như ngày nay trở thành không gian

ảo. Nhân đây, thầy cũng báo cho các con biết trong một tương lai không xa, đất nước

này, hành tinh này sẽ diễn ra những biến động lớn lao, thời cuộc sẽ đổi thay nhiều. Rồi

243

mọi người sẽ quên bẵng chúng ta trong đó có cả mười học viên do bộ Công an vừa mới

gửi tới.

So với thời chúng tôi đưa nhau đến hành tinh Lemuria học cơ bản, không gian của

đảo Không tên hiện nay mát mẻ và yên tịnh không hề thua kém. Điều kiện sống cho học

viên còn có phần vượt trội. Hội trường rộng rãi, thoáng đãng dành cho các buổi học lý

thuyết. Còn giờ thực hành thì kéo nhau ra ngoài trời, Viện có đủ những bãi cỏ rộng mênh

mông cho học viên tha hồ bay lượn. Các động tác tự nâng mình bay là là trên không, tự

phóng to hay thu nhỏ, tự nhân bản bản thân hay đồ vật,... thực hiện trong lúc ngồi thiền

nên không hề có chuyện gây ồn ào náo nhiệt như trong những buổi tập thể lực các loại ở

trong đất liền.

Sau đó là luyện mắt và luyện tai sao cho mắt nhìn thấy được những dạng vô hình như

các con tàu vũ trụ, như các linh hồn, tai nghe được những tiếng vô thinh như là suy nghĩ

của muôn loài hoặc như tiếng các linh hồn nói.

Và cuối cùng của đợt tập luyện cơ bản là tập nhịn ăn, nhịn uống. Thật ra, nhịn ăn

uống là nói theo kiểu thông thường thay việc hấp thu một dạng năng lượng thô thiển kém

hiệu suất bằng một dạng năng lượng khác vô hình nhưng vô cùng tinh khiết và hiệu năng

cao. Lúc trước, mỗi lần luyện tập tiết mục này, chúng tôi phải dùng con tàu vũ trụ chở

đến nguồn năng lượng dồi dào và đậm đặc ở biển Đông. Nhưng giờ đây, nhờ hành tinh

Atlantis cung cấp cho những bộ máy tự động thu phát năng lượng đặt rải rác khắp nơi

trên đảo Không tên nên việc tập luyện của các học viên mới muôn phần thuận lợi và dễ

dàng.

Trong đợt học nâng cao lần này, thầy Hơn hướng dẫn chúng tôi có thể di dời được

những vật thể từ xa, khả năng tự biến mình hoặc làm các vật khác biến đi và hiện ra dưới

dạng bất kỳ, cơ thể có khả năng thích nghi với mọi điều kiện sống khắc nghiệt về nhiệt

độ, áp suất, nhịn thở bao lâu cũng được để có thể sau này du hành vào không gian dưới

nước. Cuối cùng là tập thể nhiều người hợp lại điều khiển được những hiện tượng của

thiên nhiên như gió, mưa, bão, lũ,...Chính những khả năng này đã giúp chúng tôi trong

khi du hành vũ trụ, khám phá được nhiều điều mới lạ nếu sau này chúng tôi có rời bỏ tổ

quốc, đến định cư ở một hành tinh khác.

Chuyển địa điểm của Viện lần cuối

Sau khi dạy xong lớp nâng cao, thầy Hơn muốn gặp toàn thể mọi người để bàn

chuyện tương lai của Viện. Sau một hồi tư lự, thầy Hơn khẽ khàng nói:

Theo như thầy biết trước, nước Việt Nam các cháu sắp sửa bước vào một giai đoạn

khó khăn. Áp lực bên ngoài khá lớn một khi tình hình biển Đông ngày càng đi vào thế

giằng co căng thẳng. Định mệnh đã đặt đất nước các cháu, dân tộc các cháu trước một sứ

mệnh lịch sử nặng nề còn gấp nhiều lần thời kỳ nhà Trần chống quân Nguyên xâm lược.

Như những sự kiện lịch sử trong quá khứ đã chứng tỏ, đất nước các cháu, dân tộc các

cháu rồi cuối cùng cũng giành chiến thắng nhưng phải trả một cái giá rất đắt. Từ nay,

vùng biển Đông nói chung và vùng biển phía Nam sẽ không còn yên tĩnh.

Không hẹn mà nên, thầy An cũng góp thêm lời:

Đấy là chưa kể, hiểm họa thiên nhiên cũng đang đe dọa chúng ta. Do biến đổi khí

hậu, băng tan nhiều ở hai vùng cực đang nâng dần mực nước biển toàn cầu lên nhấn chìm

nhiều vùng trũng của các lục địa. Vào năm 2100, mực nước biển sẽ dâng 1 m, làm cho

khoảng 10% dân số thế giới bị ảnh hưởng trực tiếp, khoảng 90% diện tích trồng lúa đồng

bằng sông Cửu Long bị ngập hoàn toàn, 4,4% lãnh thổ Việt Nam bị ngập vĩnh viễn, đồng

244

nghĩa với khoảng 20% xã trên cả nước, 9 200 km đường bộ bị xóa sổ... Ở khu vực từ Cà

Mau cho đến Kiên Giang, mực nước biển có thể dâng tối đa đến hơn 1 mét. Khi đó, đảo

Không tên của chúng ta chắn chắn sẽ bị xóa sổ.

Thầy Hơn tiếp tục:

Vì những lẽ đó, chắc chắn Viện các cháu phải dời đi một lần nữa. Cần phải chủ

động trước, không để “nước đến chân mới nhảy”.

Tôi đặt dấu hỏi:

Ta lại đi đâu bây giờ? Về trở lại đất liền có lẽ không tiện. Bởi vì cái không tiện này

mà Viện ta mới phải ra đây.

Đến lúc này, May nói một cách ngập ngừng không được tin tưởng cho lắm:

Cháu ...đề nghị Viện ta nên dời lên hành tinh Lemuria hoặc Atlantis ...

Thầy An nói như than vãn:

Như thế có khác gì chúng ta làm một cuộc ly hương.

Tôi nhìn thầy Hơn:

Thầy ơi, thầy có ý kiến gì về tương lai của Viện chúng con?

Im lặng một lúc. Cuối cùng thầy Hơn ngập ngừng:

Các con đành phải ly hương thôi. Tốt nhất là dời Viện lên một trong hai hảnh tinh

mà May đề nghị. Nếu các con còn nặng nợ với quê hương, không ly hương hẳn mà sẽ đi

đi về về. Trái Đất phát triển theo hướng khoa học kỹ thuật, các con còn cần học tập và

nhờ người Atlan giúp đỡ nhiều lắm, tốt nhất nên dời lên Atlantis.

Được thể, May mạnh dạn dấn tới:

Cháu sẽ liên hệ xin thủ lĩnh hành tinh Atlantis chấp nhận cho viện ta một hòn đảo

nào đó tương tự như hòn đảo Không tên này. Cháu tin là thủ lĩnh chúng cháu sẽ vui lòng

sẵn sàng chấp nhận cho chúng ta dời lên.

Một hồi lâu giữ im lặng, không chịu được nữa, Ngân đưa tay rụt rè phát biểu:

Xin mạn phép thầy Hơn, thầy An và các anh chị, cháu trộm nghĩ và có đôi lời về

việc này. Lần dời Viện này là lần thứ hai mà chắc cũng là lần cuối cùng. Dời Viện lên

Atlantis hay Lemuria đều là ly hương. Thật có nhất thiết như vậy không? Nếu ta không

sống được trên mặt đất thì ta thử ... dời xuống lòng đất xem sao.

Tôi bỗng nghĩ ngay là Ngân có ý muốn xin định cư dưới lòng đất, nơi cách đây không

lâu, tôi đã dẫn đoàn tham quan của ông Muldashev và các đoàn nghệ thuật như dân ca

quan họ, ca nhạc nhẹ, ca nhạc giao hưởng, v.v...Nhưng tôi thực sự ngỡ ngàng khi Ngân

trình bày:

Vừa rồi, từ trên mạng cháu có tải xuống một thông điệp từ những người anh em của

chúng ta hiện đang sống trong lòng đất. Bằng thần giao cách cảm, những người dưới lòng

đất đã thông qua nữ văn sĩ người Mỹ tên là Suzanne Mattes thông báo cho chúng ta biết Trái Đất chúng ta đang ở, kể cả các hành tinh của Thái Dương hệ này, đều hoàn toàn

rỗng ruột. Họ xưng là những người thuộc chủng Lemuri và Atlan xa xưa đã xuống lòng

đất qua ngả Bắc cực và Nam cực cách nay mười hai ngàn năm. Họ trốn chạy một cuộc

diệt chủng khủng khiếp có quy mô toàn cầu bằng năng lượng hạt nhân do nhà cầm quyền

Atlantis gây nên.

Tôi nghi ngờ hỏi:

Có thể cách đây không lâu, anh cùng với May đã xuống đến lòng đất ấy phục vụ

đoàn tham quan và các đoàn nghệ thuật chăng?

Em nghĩ là rất có thể. Thành phố thủ đô trong lòng đất được gọi là Shamballa. Nó

nằm ngay trung tâm của hành tinh. Các ánh sáng phát ra từ phía cực Bắc và cực Nam mà

245

chúng ta nhìn thấy trên bầu trời vào ban đêm thực sự là ánh sáng của mặt trời từ trong lỗ

hổng của Trái Đất phát ra. Có hơn 120 thành phố ngầm ở phía trong lớp vỏ Trái Đất.

Tôi nhìn May và hỏi:

Mình nhớ lần xuống thăm thánh địa cùng với thầy Hơn, thủ lĩnh vùng Atlan có mô

tả chi tiết vùng trời bên dưới lòng đất, May còn nhớ không?

Mình không còn nhớ gì hết.

Trong khi ấy, Ngân chìa ra một tập giấy khổ A4 in sẵn với tựa đề “Thông điệp từ

những người anh em trong lòng đất” do Suzanne Mattes viết, đã dịch sang tiếng Việt dày

42 trang. Ngân chia sẻ tóm tắt từ nội dung của bức thông điệp ấy.

“Trái Đất chúng ta thực sự rỗng ruột về mặt vật lý. Bề dày trung bình của lớp vỏ Trái

Đất là 800 dặm(1). Ở giữa lớp vỏ này là một vành trung tâm của lực hấp dẫn nên người ở

bên trong đứng trên bề mặt trong của Trái Đất giống như ta đứng trên bề mặt ngoài của

Trái Đất. Ở trung tâm Trái Đất là một mặt trời nhân tạo đường kính 600 dặm(2).

Những người sống dưới lòng đất hầu hết giống chúng ta đang sống trên bề mặt. Họ đã

chuyển xuống định cư dưới lòng đất cách nay 12 nghìn năm, dân số từ mấy nghìn người

nay đã lên đến 25 triệu.

Họ đã chuyển sang thực đơn có thịt cá sang thực đơn chay chỉ toàn rau, củ, trái cây và

nhờ có khí hậu trong lành nên tuổi thọ của họ khá cao, từ mấy trăm tuổi cho đến hàng

nghìn tuổi.

Họ sống với nền khoa học kỹ thuật cao của người trên lục địa Atlantis trước khi Trái

Đất gặp tai nạn diệt vong. Hiện nay, họ phát triển theo chiều hướng tâm linh, có nhiều

quyền năng mà chỉ một số hiếm trên bề mặt Trái Đất mới có được. Họ có thể tự mình

chuyển sang sống ở chiều không gian thứ năm và chúng ta không thể nhìn thấy họ bởi vì

chúng ta đang sống ở chiều không gian thứ ba.

Họ hứa sẵn sàng chia sẻ kinh nghiệm về khoa học kỹ thuật cho chúng ta nhằm khắc

phục nạn ô nhiễm môi sinh đang diễn ra ngày càng trầm trọng và lan rộng trên bề mặt

Trái Đất, về nâng cao tuổi thọ và giải quyết vấn đề năng lượng sạch.

Cuối cùng, họ cũng sẵn sàng chấp nhận một cách hạn chế, có chọn lọc những ai trong

số cư dân trên này xuống sinh sống dưới lòng đất.”

Sau khi nghe Ngân nói, mọi người đều ngỡ ngàng kể cả thầy Hơn. Tôi có kế hoạch sẽ

photo ra nhiều bản từ bản gốc để tất cả mọi người trong Viện đều được đọc. Trầm lắng

một lúc lâu, thầy An mới phát biểu:

Đúng là một gợi ý quý báu mà chúng ta cần ưu tiên quan tâm. Mọi người thấy thế

nào? Chúng ta có nên chuyển xuống sống với những người anh em trong lòng đất không?

Trừ thầy Hơn và thầy An, ai cũng thầm thì trao đổi riêng ý kiến của mình. Tôi xin

phát biểu trước:

Thưa thầy An, thầy Hữu và mọi người. Theo ý cháu, Viện chúng ta nên chuyển

xuống đó là thích hợp. Cháu và bạn May đã xuống dưới đó nhiều lần. Quả thực, nơi đó là

bồng lai tiên cảnh của loài người chúng ta.

May tiếp lời:

Nếu định xuống đó, cháu đề nghị chúng ta nên chọn khu vực của người Atlan sinh

sống.

Nhiều người khác cũng đều tỏ vẻ đồng tình. Riêng Quang thì xin Viện cho cô vợ

chưa cưới hiện đang công tác ở Liên đoàn địa chất trong đất liền cùng đi. Đương nhiên là

(1) 800 dăm tương đương với 1448 km; (2) 600 dăm tương đương với 985,4 km

246

thầy An đồng ý ngay. Thế là số người của Viện xin định cư là 19 người, trong đó có 9

nam, 10 nữ và 4 trẻ em, kể cả vợ chồng tiến sĩ sinh học Huỳnh và Lý mà lâu nay tôi chưa

nói tới. Thầy An đề nghị tôi liên hệ với thủ lĩnh người Atlan xin cho thầy cùng tôi xuống

gặp bàn bạc trước. Khi tôi điện xuống xin gặp, tuy không hỏi về việc gì nhưng thủ lĩnh đã

đoán biết và đồng ý. Hai thầy trò đi xuống lòng đất theo cách như cũ là nhờ thủ lĩnh mở

cổng thời gian. Và buổi sáng hôm sau, trong chốc lát, họ đã có mặt tại địa điểm quen

thuộc như trước. Lần này, tôi còn không ngờ May lại bị thủ lĩnh điều đột xuất và có mặt

sớm hơn chúng tôi. Ba thầy trò họ ôm nhau mừng rỡ. Nhìn quanh không thấy máy bay

đâu, tôi hỏi May:

Lần này, thủ lĩnh không cho máy bay đón sao?

May thành thật trả lời:

Đã đi nhờ vả còn bắt người ta đón tiếp như khách quý nữa sao? Chúng ta tự bay

được mà, sao phải lệ thuộc vào máy bay.

Thế là chúng tôi cất mình bay lên và May bay trước dẫn đường. Đến địa điểm cũ, tôi

không thấy tòa nhà cao đẹp như trước nên hỏi May:

Lần này, May có nhầm không đấy? Tòa nhà cao đẹp của thủ lĩnh đâu rồi?

May lại lặp lại câu nói vừa rồi, chỉ khác chút ít:

Đã đi nhờ người ta còn bắt người ta đón tiếp trong nhà cao cửa đẹp. Kia rồi, thủ

lĩnh đã ra đón chúng ta.

May đưa tay về phía một người đàn ông đang xăm xăm bước tới trong bộ y phục

trắng bằng vải gai. Ông chính là thủ lĩnh và nhìn tôi mỉm cười:

Bạn Kim thấy lạ lắm sao? Ở dưới này, mọi người hay bày trò ảo ảnh mua vui. Tại

đây, trên mảnh đất trống này đã từng có một tòa nhà tráng lệ theo kiểu căn nhà thủ lĩnh

bang trên hành tinh Atlantis để cho mọi người trên bề mặt Trái Đất tưởng tượng đây là

lãnh địa của hành tinh Atlantis. Kể cả ở khu vực thủ lĩnh người Lemuri, ông ấy cũng bày

trò chơi ảo ảnh ấy. Khi gặp những người trong một gia đình hoàn toàn giống gia đình của

Cay, bạn Kim không nhận ra trò chơi ảo ảnh lộ liễu của ông ấy sao?

Tôi gật đầu hổ thẹn chấp nhận. Thế rồi, thủ lĩnh mời ba chúng tôi vào một căn nhà

nhỏ hình bán cầu úp đơn giản làm toàn bằng tinh thể óng ánh nhưng khá đẹp và đầy đủ

tiện nghi bên trong. Sau khi chúng tôi ngồi yên vị, thủ lĩnh nói:

Ta đã biết trước các vị xuống đây làm gì rồi. Thay mặt thủ lĩnh của toàn liên bang,

ta chấp nhận các vị xuống đây định cư. Các vị chọn khu nào tùy ý nhưng ta khuyên nên ở

tại đây vì chúng ta đã quen biết nhau. Cái “duyên” này, ta đã đoán biết từ trước, tức là từ

khi Kim và ông Hơn xuống đây lần đầu tiên. Sao lần này, các vị không mời ông Hơn

cùng đi?

Thầy An đáp:

Dạ, việc riêng của Viện, chúng tôi không muốn làm phiền thầy Hơn ạ.

Cũng đúng thôi. Khu vực chúng tôi đủ rộng để nhận thêm một số gia đình trên bề

mặt đất xuống ở. Viện có bao nhiêu người nhỉ?

Tôi đáp:

Dạ, thưa thủ lĩnh, Viện chúng cháu có bảy gia đình với tổng số 19 người ạ. Chín

nam và mười nữ trong đó có bốn trẻ em hai trai hai gái.

Thủ lĩnh bày tỏ:

Lần này ta cố tình không điều máy bay đến đón các vị. Và rồi các vị tự mình bay

đến đây chứng tỏ đã đạt trình độ tâm năng cao. Điều này sẽ giúp mọi người của Viện dễ

dàng hòa nhập với cuộc sống cư dân dưới này. Trừ các em bé, các vị sẽ được học hỏi

thêm để đạt trình độ tâm năng cao hơn, đủ bản lĩnh nhận lãnh trách nhiệm nặng nề mà thủ

247

lĩnh toàn liên bang sau này sẽ giao phó. Đó cũng là trách nhiệm trả nợ cho quê hương xứ

sở trên bề mặt đất đã sinh ra và nuôi dưỡng các vị.

Chúng tôi đồng thanh:

Vâng ạ.

May tiếp lời:

Dạ thưa, thủ lĩnh lại giúp chúng cháu xuống đây bằng cách mở cổng thời gian chứ

ạ? Viện chúng cháu còn đang sở hữu một máy bay chuyên cơ lớn cùng hai con tàu vũ trụ,

một nhỏ và một khá lớn mang được nhiều người.

Đồng ý, ta sẽ giúp các người xuống đây nhanh chóng qua cổng thời gian khi nào

bạn Kim đây điện báo cho ta biết. Còn máy bay và tàu vũ trụ, các vị hãy xin phép Adama

lái xuống qua một trong hai cổng ở cực Bắc hoặc cực Nam.

Thế rồi, chúng tôi xin phép thủ lĩnh trở về mặt đất qua cổng thời gian. Sau khi giao

May trách nhiệm lái tàu vũ trụ đưa thầy Hơn trở về hành tinh Lemuria, chúng tôi tổ chức

một buổi họp toàn thể bàn việc chuẩn bị cho cuộc di tản lớn. Cơ ngơi của Viện ở đảo

Không tên, chúng tôi vẫn giữ lại để mọi người đi đi về về để giải quyết những công việc

đang làm cho đến chừng nào mực nước biển dâng cao nhấn chìm hoàn toàn đảo và không

thể ở được nữa. Mười người ở bộ Công an gửi đi học kỹ thuật ở hành tinh Atlantis sau

khi tốt nghiệp cũng sẽ trở về cơ ngơi của Viện ở đảo rồi sau đó tùy theo nguyện vọng, họ

có thể về lại đất liền giúp nước hoặc theo chúng tôi xuống sống và làm việc ở dưới lòng

đất. Đó là chuyện tương lai của mấy mươi năm về sau.

HẾT